Họp Thông Thiên Học ngày 5  tháng 8 năm 2017

http://thongthienhoc.net/sach/GiangLyAnhSangTDD.htm

[7:02:46 PM] Thuan Thi Do: Tuy nhiên, những lư do như thế không nên làm cho chúng ta trở nên hờ hững hay lănh đạm để mặc cho thời gian đi qua. Một trong những bổn phận của chúng ta, là làm cho đồng loại chúng ta từ bỏ thuyết bất động và dắt họ đi trên con đường phụng sự. Chỉ sự thành công nầy cũng đem lại cho đời một ích lợi chắc chắn. Quả thật, tất cả đều làm cho tốt đẹp hơn, nhưng chỉ khi nào chúng ta thật tâm cố gắng. Nếu con người, trong phần việc được giao phó mà không rán sức hành động, kết quả thu được phải kém hơn kết quả của nó phải có, bởi v́ kết quả nầy đáng lẽ phải tốt đẹp hơn. Khi chúng ta triệt để thi hành tất cả và chỉ khi đó, chúng ta mới có quyền nương dựa vào tư tưởng nầy: "Tôi đă làm tất cả những điều tôi có thể làm được; mặc dù tôi không thành công, tôi xin nghiêng ḿnh trước một quyền lực cao hơn quyền lực của tôi". Tôi dám cả quyết rằng điều ǵ đă làm trọn vẹn th́ thật không mất mát và rốt cuộc, mỗi người đều đạt được những điều thuận lợi cho y nhất. Dẫu cho huynh có đạt được một kết quả trong ngày hôm nay hay là trong một triệu năm nữa, việc đó không có ǵ quan trọng; nếu tư tưởng triết lư cao siêu nầy chỉ là một ảo tưởng thôi, chính đó là một ảo tưởng rất dũng mănh. Cảm thấy ảo tưởng ấy đối với tôi, có giá trị, tôi tưởng, đối với kẻ khác, cũng có giá trị như thế và nếu chúng ta có thể khuyên bảo họ nắm lấy cơ hội đầu tiên để tiến bước, chúng ta sẽ giúp ích cho họ thật lớn lao. Về lâu, điều đó có sự sai biệt như thế nào đối với Đức Thượng Đế, mà nơi Ngài tất cả đều di chuyển, tôi không biết rơ, nhưng chắc chắn Thiên Ư muốn cho chúng ta tiến bộ và nếu quả vậy Ngài cũng muốn cho sự tiến hóa của chúng ta được hoàn thành càng sớm càng tốt. Lẽ cố nhiên, chúng ta phải ăn ở thuận theo Thiên Ư bằng cách bước mau trên Đường Đạo, dắt đến sự hợp nhất với Ngài và bằng cách giúp đỡ kẻ khác cùng đi một đường với chúng ta. V́ thế, tôi không thấy tại sao có thể lănh đạm khi người ta bước vào Cửa Đạo (Nhập Lưu) trong thời kỳ nầy tại Thế Gian, hoặc trong kỳ gian của Dăy Hành Tinh hiện thời, hoặc người ta chờ đến Dăy Hành Tinh sau. Tôi sẽ hết sức cố gắng giúp đỡ đồng loại tôi bước vào Cửa Đạo tại Dăy Hành Tinh nầy.

Một sự thách thức khác, có lẽ sẽ được xác định xem chúng ta có bằng ḷng thi hành công tác nào đó thuộc về công tác của Ngài không? Xem chúng ta có bằng ḷng giúp đỡ những người cao thượng hơn hết cũng như những người thấp thỏi hơn hết không? Đối với Đức Thượng Đế, trong phạm vi của sự tiến bộ không có ǵ cao mà cũng không có ǵ thấp, dẫu rằng trong sự tiến bộ ấy, phần tử nầy của Cơ Tạo Hóa có thể tiến đến một điểm cao, c̣n phần tử khác tiến đến một điểm thấp. Điều đó cũng giống như một bánh xe quay : trong sự chuyển động nầy, có một phần nào của bánh xe đến gần đỉnh, nhưng trong lúc quay tṛn, toàn thể bánh xe đều tiến tới. Phận sự của chúng ta là trợ lực cho sự chuyển động tiến tới trước và thúc đẩy bất cứ phần tử nào của bánh xe. Sự sống ở tất cả mọi tŕnh độ là sự sống thiêng liêng. Ở nhiều giai đoạn, sự sống nầy phát triển hơn sự sống khác - sự phát triển trong con người hơn sự phát triển trong thú vật, sự phát triển trong thú vật hơn sự phát triển trong thảo mộc, sự phát triển trong thảo mộc hơn sự phát triển trong khoáng vật - nhưng, khắp mọi nơi, đều là sự sống thiêng liêng, và nếu chúng ta giúp đỡ cho sự tiến bộ của một trong những phần tử của nó là chúng ta hối thúc sự hoàn thành Thiên Cơ. Cái ǵ cao cả hơn hay thấp thỏi hơn, ấy là h́nh thể dùng để làm khuôn mẫu cho Sự Sống. H́nh thể giúp cho sự phát triển được lớn lao nhiều hay ít, nhưng Sự Sống vẫn là một. Quan điểm của Đức Thượng Đế khác hơn quan điểm của chúng ta nhiều, dĩ nhiên nó phải bao gồm một chút tư tưởng nầy: Kỳ thật, tất cả Sự Sống đều như nhau, ở phương diện nầy, không có ǵ cao hay thấp, v́ toàn thể đang chuyển động. Điều đó không làm trở ngại nhiều người mà Sự Sống phát triển hơn, có nhiều khả năng hơn để giúp đỡ, c̣n lắm kẻ khác chỉ có thể giúp đỡ một cách ít oi thôi. Huynh hăy nhớ kỹ điều nầy: Những người nhận thấy rằng việc làm của họ được thành tựu nhất, tốt đẹp nhất mà thường bị xem là thấp kém, dù sao chớ nên nản chí ngă ḷng, họ cũng thúc đẩy bánh xe ấy, họ cũng góp phần vào sự phát triển Sự Sống thiêng liêng ấy.
[7:17:23 PM] Thuan Thi Do: CHƯƠNG 4

QUI TẮC 2 – 4



2.- Hăy diệt ḷng tham sống.

Hăy kính trọng sự sống như những kẻ ham sống muốn vậy.

A.B. - Những điều khảo sát trước đây có liên quan đến một điểm nào đó của câu cách ngôn nầy và câu kế tiếp. Cũng những nguyên tắc chung ấy áp dụng cho sự diệt ḷng tham vọng (trừ phi những hoạt động của kẻ làm việc như y có ḷng tham vọng) cũng được đem áp dụng luôn cho cả hai câu trên đây. Vị Đệ Tử phải diệt ḷng ham muốn đời sống cá nhân riêng biệt, tất cả điều ǵ làm tăng trưởng tinh lực của bản ngă và nuông chiều điều ham muốn riêng tư của y. Niềm vui thích phát triển đời sống của y bằng cách không ngớt đưa vào những yếu tố bên ngoài nhiều hơn trước cũng chưa phải là đủ cho hạnh phúc của y.

Khắp cả Thế Gian, người ta thấy những người t́m kiếm một cách nồng nhiệt, một đời sống thung dung hơn, phong lưu hơn, họ chiếm đoạt nó bằng cách biểu lộ những dục vọng khác nhau, họ phấn đấu, họ tranh đua hầu hoạch đắc và tích trữ không ngớt những vật do sự tưởng tượng cuồng nhiệt và vô kỷ luật của họ đ̣i hỏi, đó là nguyên nhân của sự hỗn loạn vô biên về phương diện cá nhân và xă hội. Vị Đệ Tử chính ḿnh, phải diệt ḷng ham muốn nầy là sự tăng trưởng, khai triển đời sống cá nhân và chia rẽ. Y phải bước vào đời sống cao siêu và chỉ có một điều ham muốn mà thôi là có mặt ở khắp cả bốn phương trời trong Vũ Trụ nơi đó sự hiện diện của y có thể biểu hiện được sự sống duy nhất. Trong Vũ Trụ nầy có nhiều việc đáng làm. Khi mà tất cả ḷng ham muốn đời sống cá nhân và chia rẽ bị đàn áp, tất cả những sự ưa thích riêng tư bị tiêu tán những nhu cầu thời đại của nó mới qui định sự tuyển chọn con người tinh thần. Linh hồn siêu thoát làm việc bất cứ ở nơi nào cần đến sự giúp đỡ, nó chỉ nguyện ước có một điều là được làm một dụng cụ ở nơi nào nó hữu dụng. Đời sống của nó chỉ có giá trị và hữu ích là do theo Đời Sống Đại Đồng mà nó là một thành phần.

Con người khi đă mất ḷng ham sống, bây giờ gặp bước nguy cơ nh́n đời sống Thế Gian không c̣n giá trị nữa, v́ Y không c̣n tha thiết đến của cải mà cuộc đời đem cung hiến cho Y. Y có thể nh́n cơi đời nầy và đồng loại ḿnh một cách khinh bỉ. V́ tin chắc rằng ḿnh là bậc cao siêu, Y có thể xem rẻ kẻ khác, cho họ là điên dại, khi nói tới họ Y dùng lời lẽ nghiêm khắc, sau rốt Y xem những lư do của họ là điều đáng thương hại. Thái độ của Y, đối với họ, rất là tự nhiên nhưng đầy vẻ nguy hiểm và thật là xấu xa. Nó chứng tỏ rằng, nếu Y có thể nhận thức được Phi Ngă là thế đó th́ Y không hiểu Chơn Ngă là ǵ. Nếu một sự sống nào, dù không được tiến hóa mà làm cho Y sinh ḷng khinh bỉ, Y lại quên rằng sự biểu hiện nầy là thành phần của Đấng Tối Cao, v́ thế, bức thông điệp sau nầy, đối với Y, là cần thiết và khẩn cấp: Hăy kính trọng sự sống như những kẻ tham sống muốn vậy."

Y hỏi chúng tôi tại sao cần phải xem sự sống với ḷng tôn kính, chúng tôi đáp rằng: "Bởi v́ sự sống là thiêng liêng," ấy là giai đoạn công tác của Đức Thượng Đế và đối với Ngài, công tác ấy cũng rất quan trọng như giai đoạn cao siêu của nó hiện giờ là giai đoạn của người nầy. Khi dùng danh từ thấp và cao, chúng tôi tự đặt ḿnh vào phương diện tiến hóa của thời gian, sự thay đổi liên tiếp làm ra thời gian. Không phải Đức Thượng Đế nh́n xem vũ trụ Ngài như thế, đối với Ngài, không có cái nào lớn, không có cái nào nhỏ, không có cái nào ghét bỏ, không có cái nào mến yêu. Tất cả vạn vật đều tiến đến một khoảng đường nào đó ở trên con đường mà tất cả nhân loại phải đi qua hầu đạt cho được một mục đích chung. Một h́nh thể thô kệch cũng rất cần thiết cho Cơ tiến hóa như các h́nh thể được gọi là cao siêu. Vị Đệ Tử, v́ thế, cần phải tránh sự sai lầm là khinh bỉ một sự sống nào và cho nó không có ǵ quan trọng v́ viện cớ rằng nó tiêu biểu cho một tŕnh độ thấp thỏi của sự tiến hóa; tất cả vạn vật, ở vào vị trí đặc biệt của nó, đều tốt đẹp và hữu ích. Sự nh́n nhận Chân Lư căn bản nầy sinh ra bổn phận thương yêu đồng loại chúng ta, v́ họ thuộc về thành phần của Đời Sống Đại Đồng c̣n đang tiến hóa.

Ở vào tŕnh độ thấp, con người có lẽ thiếu lương tri, ham vật dục, biếng nhác, càng ít được người thương mến. Y không đủ sức hấp dẫn là do h́nh thể chớ không phải do Sự Sống. H́nh thể làm cho ta mù quáng. V́ lẽ chúng ta miệt thị người, v́ lẽ chúng ta quay mặt chỗ khác, điều đó tỏ ra chúng ta cao thượng hơn người, cho nên ḷng khinh bỉ do ở ư niệm của sự cao thượng sinh ra. Thật sự, nếu chúng ta cao hơn một người nào đó chỉ do ở tŕnh độ tiến hóa của h́nh thể mà thôi. Phần tinh hoa vốn vẫn in nhau. Những khả năng mở ra cho đồng loại chúng vẫn đồng giá trị với những khả năng của chúng ta và bắt đầu từ trung tâm điểm khi quan sát sẽ thấy: "Ta sao, người vậy." Người đă theo con Đường Đạo rồi, tập nh́n xem sự vật ngay ở trung tâm cũng như ở châu vi; v́ thế, y phải kính trọng Sự Sống và nhận biết rằng Đời Sống Đức Thượng Đế chỉ là một. H́nh thể là cái vỏ mà Đức Thượng Đế xét thấy cần thiết để cho Ngài biểu hiện trong đó một thời gian và nếu nó cũng khá tốt đẹp cho Đức Thượng Đế, nó cũng khá tốt đẹp cho chúng ta.
[7:17:45 PM] Thuan Thi Do: Vũ trụ cần phải tŕnh bày những h́nh thể thuộc về tất cả mọi tŕnh độ của sự tăng trưởng, không có một h́nh thể nào cao hay thấp; tất cả đều như nhau. Một sự sai biệt hiện ra là khi nào sự tiến hóa chính của chúng ta c̣n tiếp diễn, nó tiêu mất, lúc mà sự tiến hóa của chúng ta chấm dứt. Phải bỏ sự quan tâm của chúng ta về h́nh thể, phải để qua một bên tất cả điều ǵ có liên quan đến h́nh thể và kết quả của sự hành động, trước khi có thể kính trọng sự sống trong tất cả mọi biểu hiện của nó. Con người mà sự tiến hóa mới trải qua một giai đoạn, chưa trọn vẹn, c̣n bị nhốt ḿnh trong những h́nh thể bằng ḷng giúp đỡ những người thân cận với y, và đáng giúp đỡ. Y chưa sẵn sàng hỗ trợ những người tầm thường, hèn mọn hơn hết. Trái lại, kẻ nào giúp đỡ người bằng cách tự đặt ḿnh vào quan điểm của Đức Thượng Đế sẽ giúp đỡ tất cả mọi người. Bổn phận của Y là cứ thi hành mà không phân biệt người nào cả. Sự hoạt động của Y chính là sự hoạt động của Đức Thượng Đế. Y giúp đỡ những người mà Y gặp gỡ, dù họ cao thượng hay không. Y kính trọng Sự Sống ở ngay trung tâm của mỗi người. Y giúp đỡ nơi nào cần đến sự giúp đỡ. Y không để cho tự Y phải rối trí v́ Sự Sống không được hoàn toàn hiện diện ở trong con người. Biết rằng công tŕnh của Đức Thượng Đế tiếp diễn thế nào để khích lệ Sự Sống, Y chú tâm vào sự giúp đỡ cho Sự Sống được biểu hiện. Y tránh việc nói rằng: "Tôi thuộc về Bản ngă, c̣n ngoài ra không có ǵ hết." Y làm việc cho sự biểu hiện, kính trọng và thương yêu Sự Sống và như thế, không c̣n tỏ ra tánh khinh bỉ, sự sai lầm nầy khi dựng lên bức tường Bản Ngă chia rẽ,sẽ ngăn cản Sự Sống không cho phát triển nơi Y.

Có một sự sai biệt vô cùng rộng lớn giữa cách thức mà hai người quan sát Sự Sống, một mặt, một người là thường nhơn, và mặt khác, là kẻ sống trong cảnh TrườngTồn Bất Diệt. Người thứ hai thấy Sự Sống kèm theo tất cả những khả năng của nó, khả năng mà nó nhận thấy ngay từ bây giờ, dù chúng nó chưa được phát triển, bởi v́ nó sống trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt và khi Sự Sống được khảo sát dưới phương diện nầy, người ta thấy nó ở trong tất cả sự mỹ lệ của sự toàn thiện đă thực hiện được của nó. Khi Sự Sống tiến chưa đến một mức cao lắm, chúng ta chỉ thấy nó vào giai đoạn đặc biệt là ở trong thời gian chớ không phải ở trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt; v́ thế chúng ta không kính trọng Sự Sống đúng mức. Linh Hồn siêu thoát sống trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt nh́n thấy Sự Sống đúng như hiện trạng của nó, vừa khảo sát lại giai đoạn hiện tại, trong giờ phút đặc biệt mà Sự Sống tiến triển đến đó, Linh Hồn nầy không thể cảm giác một sự ghê tởm nào, v́ biết rằng giai đoạn đó là hoàn toàn thông thường thôi.

Cho nên, một người kia càng tiến bước lên cao, Y càng tỏ ra khoan dung với tất cả Sự Sống và ḷng từ ái của Y, đối với tất cả, càng rộng lớn, bởi v́ ḷng từ ái của Y gần với ḷng từ ái của Đức Thượng Đế. Trong khi diệt nơi tâm ḿnh sự ham sống nghĩa là sự ham muốn của Bản Ngă chia rẽ, vừa kính trọng Sự Sống như những kẻ ham sống muốn vậy, con người bắt đầu đạt được ư niệm của cảnh TrườngTồn Bất Diệt, nó giúp cho Y kính trọng Sự Sống, dù Sự Sống có biểu hiện cách nào đi nữa. Tất cả ḷng khinh bỉ, đối với kẻ thấp hơn Y, v́ thế, không c̣n . Y thấy mọi người ở vào vị trí của họ như là sự biểu hiện của Sự Sống Toàn Mỹ.
[8:03:24 PM] Phuc: file tri lieu huyen mon


http://thongthienhoc.net/sach/TriBenhTronghuyenmon.htm
[8:10:04 PM] Thuan Thi Do: Bây giờ câu thứ nhất trong Sáng Thế Kư sẽ được thuyết
minh là: “Chư Thần, Trời và Đất phát triển nơi Răsh (B’rash)
(2) tức Đầu. Như vậy, một khi mà chúng ta đă xác định được
ư nghĩa giống như vậy của trận Đại Hồng Thuỷ, th́ ư nghĩa
nội môn của Quạ cũng dễ hiểu thôi. Cho dù ẩn dụ biểu hiện
này có thể có biết bao nhiêu là ư nghĩa khác, nhưng ư nghĩa
chính của nó vẫn là một Chu kỳ mới và cuộc Tuần Hoàn mới
– cuộc Tuần Hoàn thứ Tư của chúng ta.(3) “Con Quạ” tức Etjh’orev
có cùng trị số như là “Đầu” và không quay về chiếc Bè
(Ark), trong khi mà chim Bồ câu lại quay về mang theo một
cành ô liu. Khi Noah tức con người mới của Giống dân mới
(có nguyên kiểu là Bàn Cổ Vaivasvata) chuẩn bị bỏ chiếc Bè,
Argha, tức Khuôn Viên của trần thế (terrestrial Nature), y
chính là biểu tượng của con người vô giới tính, bán thư bán
hùng, thuần tinh thần của ba Giống dân đầu tiên, chúng
không bao giờ c̣n tồn tại trên Địa Cầu nữa. Trong Thánh
kinh Kabalah, xét về mặt số lượng, Jehovah, Adam và Noah
1 Ch́a khoá giải bí nhiệm Hebrew Ai Cập trong Nguồn Gốc Kích
Thước, Phụ lục V, trang 249 (ấn bản 1875) [Xem chú thích bổ sung].
2 Baraush.
3 Bryant thật là chí lư khi cho rằng: “Đề cập tới Noah, Druid
Bardesin cho rằng khi Noah bước ra khỏi chiếc bè (một chu kỳ mới
ra đời) sau khi đă ở trong đó một năm và một ngày, tức là 364 +
1=365 ngày, ông được thần Neptune tán dương là ông đă sinh ra
từ nước của trận Đại Hồng Thuỷ; thế rồi, Neptune lại c̣n chúc
mừng Năm mới nữa. Xét về mặt nội môn, năm hay chu kỳ là giống
người mới do đàn bà sinh ra sau khi đă phân chia giới tính, đó là ư
nghĩa thứ yếu của ẩn dụ, ư nghĩa chủ yếu của nó là việc khởi đầu
của cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, tức là Sáng Tạo mới. ”
162
Giáo Lư Bí Nhiệm
300
đều là một. Vậy th́, trong điều kiện tốt nhất, chính Thượng
Đế đă giáng lâm nơi Ararat và sau này nơi Sinai, rồi từ đó
lâm phàm nơi con người (h́nh bóng của Ngài) thông qua tiến
tŕnh tự nhiên tức là tử cung của bà mẹ (trong Sáng Thế Kư, nó
có các biểu tượng là Chiếc Bè, Núi ‘Sinai’) v.v…. Ẩn dụ Do
Thái vừa có tính cách thiên văn, vừa có tính cách sinh lư, hơn
là có tính cách thần nhân đồng h́nh.
Đó chính là hố sâu phân cách các hệ thống của dân
Aryan và hệ thống của dân Semitic, mặc dù cả hai đều có
cùng một nền tảng. Một nhà thuyết minh Thánh kinh Kabalah
đă cho rằng:
Triết thuyết tôn giáo của dân Hebrew có một ư niệm căn bản
đó là, Thượng Đế bao trùm vạn vật và con người là h́nh bóng của
Ngài: con người, kể cả đàn bà [chẳng hạn như bán thư bán hùng]
h́nh học (cùng các con số và các kích thước có thể áp dụng vào
thiên văn học) đều được bao hàm trong các từ ngữ đàn ông, đàn
bà. Chúng ta sẽ loại trừ được dáng vẻ hỗn độn của một cách thức
như thế bằng cách chứng tỏ mối liên kết giữa người đàn ông và
người đàn bà với một hệ thống đặc thù gồm các số mục, kích thước
và h́nh học, bằng các thời kỳ thai nghén, chúng cung ứng mối liên
kết giữa các từ ngữ được sử dụng và các sự kiện được tŕnh bày,
cũng như là hoàn thiện cách thức được sử dụng.(1)
Người ta lư luận rằng nguyên nhân bản sơ thật là bất
khả tư nghị, “biểu tượng của biểu lộ đầu tiên có thể hiểu được
của nó chính là việc quan niệm ra một ṿng tṛn có đường
kính sao cho nó có thể gợi ra cùng một ư niệm về h́nh học,
tục sùng bái sinh thực khí và thiên văn học”. Điều này rốt
cuộc được áp dụng vào “ư nghĩa của các cơ quan sinh dục
[8:31:42 PM] Thuan Thi Do: của con người”. V́ thế, toàn bộ chu kỳ gồm các biến cố từ
thời Adam và các vị Tộc Trưởng măi xuống tới Noah đều chỉ
được áp dụng vào tục thờ cúng sinh thực khí và thiên văn
học, cái này điều tiết cái kia, chẳng hạn như các chu kỳ của
mặt trăng. Cũng v́ thế, sự khởi nguyên của họ bắt đầu sau khi
họ đă ra khỏi chiếc Bè và trận Đại Hồng Thuỷ đă chấm dứt,
nghĩa là vào lúc có Giống dân thứ Tư. C̣n đối với người
Ăryan th́ lại khác hẳn.
Nội môn Bí giáo Đông phương chưa bao giờ làm hạ giá
Đấng Thánh Linh Độc Tôn Vô Cực (the One Infinite Deity)
bao trùm vạn vật đến mức gán cho Ngài những chức năng
như vậy. Điều này được minh chứng qua việc trong Rig Veda
không hề có mặt Brahmă, c̣n Rudra và Vishnu giữ các địa vị
rất tầm thường; chỉ măi sau này, các Đấng trên mới trở thành
các Đại Thần Linh đầy quyền lực vô cực, vô biên trong các tín
ngưỡng ngoại môn. Nhưng cho dù cả ba Ngài có thể là
“Đấng Sáng Tạo” (“Creators”) đi chăng nữa th́ các Ngài
cũng không phải là các “Đấng Sáng Tạo” trực tiếp và các Tổ
Phụ của nhân loại c̣n giữ một địa vị thấp hơn nữa và được
gọi là các Prajăpatis, các Pitris, các Nguyệt Tinh Quân (Lunar
Ancestors) v.v…. nhưng không bao giờ được gọi là “Thần
Linh Độc Tôn Vô Cực Vô Biên”. Nội môn Bí giáo dạy rằng
phàm nhơn (physical man) chỉ được tạo ra trong h́nh bóng của
Đấng Thánh Linh (in the image of the Deity); tuy nhiên, Đấng
Thánh Linh này chỉ là các “Tiểu Thần” (the “minor Gods”). Chỉ
có CHƠN NGĂ (the HIGHER SELF), CHƠN NHƠN (EGO)
mới thiêng liêng, THÁNH THIỆN (GOD).
[8:51:36 PM] Thuan Thi Do: Kỳ tới học GLBN trang 302
[8:52:20 PM] Thuan Thi Do: bản tiếng Anh: trang Tiết 13 SEction 13; trang 445 hay 463 PDF



[9:04:07 PM] Thuan Thi Do: Những ǵ mà tôi đă nói không có cách nào làm giảm nhẹ tội lỗi của những kẻ cố lạm dụng dân Do Thái. Bạn có câu tục ngữ "hai đen không tạo được một trắng" không? Cách cư xử của các quốc gia đối với dân Do Thái (Jews) lên đến cực điểm hung bạo vào khoảng phần tư thứ hai của thế kỷ XX, không biện minh ǵ cả. Thiên luật tất nhiên phải tác động. Dù cho nhiều việc đă xảy ra đối với dân Do Thái đă xuất phát từ trong lịch sử đă qua của họ và trong thái độ chia rẽ rơ rệt của họ và tính không thể đồng hóa , và trong việc nhấn mạnh vào lợi ích vật chất của họ, tuy các tác nhân đă mang lại karma xấu cho họ, cũng gánh chịu khía cạnh báo phục của cùng một luật; hiện nay, t́nh thế đă mang lấy h́nh thức một ṿng lẩn quẩn của sai lầm và hành động sai trái, của việc đền đáp và báo thù, và v́ lư do đó, phải đến lúc mà toàn thể các quốc gia sẽ thảo luận về vấn đề này, và toàn thể các quốc gia ấy sẽ hợp tác để mang lại một kết thúc về các thái độ sai lầm ở cả hai phía. Mọi karma có bản chất xấu đều được giải quyết bằng sự tŕnh bày về một ư chí được thừa nhận, một t́nh thương có tính hợp tác, một nh́n nhận thành thật về tinh thần trách nhiệm, và một sự hiệu chỉnh khéo léo về hoạt động chung hợp nhất để mang lại tốt lành cho nhân loại nói chung, chớ không chỉ sự tốt lành cho một quốc gia, một dân tộc hay một giống dân riêng biệt.
267

Vấn đề Do Thái sẽ không được giải quyết bằng việc chiếm hữu Palestine, bằng sự kiện cáo, đ̣i hỏi và bằng việc vận dụng tài chính. Điều đó chỉ là việc kéo dài lầm lỗi cũ và việc sở hữu vật chất. Vấn đề sẽ được giải quyết bằng sự tự nguyện của người Do Thái để phù hợp với nền văn minh, với bối cảnh văn hóa và các tiêu chuẩn sinh hoạt của quốc gia, mà do sự sinh sản và sự giáo dục – dân Do Thái được liên kết với, và nhờ đó họ sẽ được đồng hóa. Điều đó sẽ xảy đến nhờ sự từ bỏ ḷng tự kiêu về chủng tộc và về ư niệm tuyển chọn; điều đó sẽ xảy đến nhờ việc từ bỏ các giáo điều và các tập quán đă quá cổ xưa và đang tạo ra các điểm bực bội luôn xảy ra đối với ma trận (matrix) mà người Do Thái thấy ḿnh vướng trong ấy; điều đó sẽ xảy đến khi tính ích kỷ trong các liên hệ công việc và các khuynh hướng vận dụng rơ rệt của người Hebrew, đă được trao đổi v́ sự vô kỷ nhiều hơn và các h́nh thức hoạt động thành thật nhất.
Do các cung và tŕnh độ phát triển của ḿnh, người Do Thái nổi bật về tính sáng tạo và về mỹ thuật. Điều này, họ phải nhận ra, chớ không t́m cách – như hiện nay họ đang làm – chế ngự trong mọi lănh vực để giành lấy mọi cơ may của dân tộc khác, và như thế mưu lợi cho riêng ḿnh và dân tộc ḿnh bằng cách gây thiệt hại cho người khác. Việc thoát khỏi t́nh trạng hiện nay sẽ xảy đến khi người Do Thái quên rằng ḿnh là một người Do Thái và trong tận thâm tâm ḿnh trở nên là một người Ư, một người Mỹ, người Anh, người Đức hay một người Ba Lan. Hiện nay, điều này không phải như thế. Vấn đề Do Thái sẽ được giải quyết bằng hôn nhân khác chủng tộc và tôn giáo (intermarrige); c̣n vấn đề người da đen th́ không phải như thế. Điều này sẽ hàm ư là có sự nhân nhượng và thỏa hiệp về phía người Do Thái chính thống, không phải nhân nhượng theo thời cơ, mà là nhân nhượng v́ xác tín.
[9:14:44 PM] Thuan Thi Do: Tôi cũng xin nêu ra rằng cũng như Kinh Kabbalah và kinh Talmud (Pháp Điển Do Thái) là các đường lối phụ để tiến đến chân lư nội môn, và phương pháp của các kinh đó thiên về vật chất (biểu hiện nhiều cho công tác huyền thuật để liên kết một mức vật chất với chất liệu của một mức khác), cũng thế Cựu Ước rơ ràng là một Thánh Kinh thứ yếu, và về mặt tinh thần, không đứng trong hàng ngũ với kinh Bhagavad–Gita, các Kinh cổ của Đông phương và Kinh Tân Ước. Nó nhấn mạnh về vật chất và hiệu quả của nó là ghi ấn tượng một Jehovad thuần vật chất vào tâm thức thế gian. Chủ đề tổng quát của Cựu Ước là phục hồi biểu hiện cao nhất của minh triết thiêng liêng trong thái dương hệ thứ nhất; thái dương hệ đó tượng trưng cho công tác sáng tạo của Ngôi Ba của Thượng Đế – ngôi của thông tuệ linh hoạt tự biểu lộ qua vật chất. Trong thái dương hệ này, thế giới sáng tạo được dự trù là biểu hiện của Ngôi Hai, về t́nh thương của Thượng Đế. Người Do Thái không bao giờ hiểu được điều này, v́ t́nh thương được diễn tả trong Cựu Ước là t́nh thương chia rẽ, ích kỷ của Jehovah cho từng đơn vị riêng biệt trong giới thứ tư, tức là giới nhân loại. Thánh Paul tóm tắt thái độ mà nhân loại nên có bằng các lời: "Không có người Do Thái, cũng không có người phi Do Thái". Karma xấu của người Do Thái ngày nay được dự trù là để chấm dứt sự cô lập của họ, đưa họ đến mức từ bỏ các mục tiêu vật chất, từ bỏ một quốc tịch vốn có khuynh hướng hơi ăn bám trong ranh giới của các quốc gia khác, và để biểu lộ ḷng bác ái bao quát, thay v́ một bất hạnh phân cách.
268

C̣n thái độ của người phi Do Thái là ǵ? Điều tuyệt đối cần thiết là các quốc gia gặp gỡ người Do Thái hơn nửa đường khi người này đạt đến mức thay đổi – một cách chậm chạp và từ từ – quyền chính thống về quốc tịch của ḿnh. Điều cần yếu là họ ngưng sợ hăi và khủng bố, hết oán hờn và không đặt ra các bức tường ngăn cản sự hợp tác. Thái độ bài Do Thái đang tăng trên thế giới, không thể bào chữa được theo cái nh́n của Thượng Đế và con người. Ở đây, tôi không nhắc đến các sự hung ác đáng kinh tởm của người dân Đức bị ám ảnh. Sau đó có ẩn lịch sử của các mối liên hệ của thời Atlantis mà tôi không cần đi sâu vào, bởi v́ tôi không thể chứng minh cho bạn sự thật về các phát biểu của tôi. Tôi nhắc đến lịch sử của hai ngàn năm qua và đến cách cư xử hằng ngày của người phi Do Thái ở khắp nơi. Phải có một nỗ lực rơ
269

rệt về phần các công dân ở mọi xứ để đồng hóa người Do Thái, để tạo hôn nhân dị chủng với họ và để không xem họ như là các bức tường ngăn cách, các tập quán cổ xưa của tư tưởng và các mối liên hệ xấu thời trước. Con người ở khắp nơi phải xem điều đó như là một vết nhơ trên toàn thể quốc gia của họ, nếu có xuất hiện trong biên giới của họ cặp đối lập cũ – Do Thái và phi Do Thái. Không có người Do Thái mà cũng không có người phi Do Thái; chỉ có nhân loại. Cuộc thế chiến (1914 – 1945) nên được xem như đă mang lại một kết thúc việc thù địch xưa giữa người Do Thái và phi Do Thái, và giữa hai nhóm mà hiện nay có cơ may để làm phát sinh một cơ hội sống mới mẻ hơn, hạnh phúc hơn và một liên hệ hợp tác chân thật trên cả hai phía. Tiến tŕnh đồng hóa sẽ chậm lại, v́ t́nh trạng ngày tháng cổ xưa đến nỗi các thói quen tư duy, các thái độ thông thường và các thói quen chia rẽ đă được thiết lập rơ ràng, khó mà vượt qua được. Nhưng các thay đổi cần thiết có thể được tạo ra nếu thiện chí hướng dẫn lời nói, việc tŕnh bày bằng cách viết và cách sống chung với nhau. Thánh Đoàn không thấy có sự phân biệt nào. Vị Lănh Đạo của Thánh Đoàn, dù cho vào lúc này, không ở trong thân xác người Do Thái, cũng đă đạt được mục tiêu tinh thần cao nhất cho nhân loại trong khi ở trong thân xác Do Thái. Thánh Đoàn cũng đang đưa vào các thể xác Do Thái một số vị đệ tử, họ sẽ làm việc với chủ đích hoàn toàn lúc t́nh thế thay đổi. Ngày nay, có một số ít người Do Thái không suy tưởng bằng các thuật ngữ của người Do Thái; họ không bận tâm với vấn đề Do Thái, loại bỏ mọi bất đồng, và họ đang nỗ lực để ḥa nhập mọi người thành một nhân loại duy nhất, như vậy lấp được lỗ hổng.
Một lần nữa, tôi nói rằng các Thánh sư minh triết không phân biệt người Do Thái hay phi Do Thái, mà chỉ có các linh hồn và các con của Thượng Đế.
270

Khi bàn đến vấn đề nghiệp quả như là một yếu tố – có tính cách quyết định và kéo dài về cả hai phía bệnh tật và sức khỏe – một trong các phê phán mà cách tiếp cận của tôi tùy thuộc vào, đó là tôi không bàn quá nhiều vào các điều khái quát, và tôi không nêu ra sự phân tích đặc biệt và chi tiết nào về các bệnh riêng biệt, đặc biệt là về các bệnh căn bản lớn lao mà ngày nay gây ra mất mát cho nhân loại như thế và về căn bản không được kiềm chế. Tôi không bàn đến các triệu chứng của chúng hoặc cách chữa trị chúng, và tôi không nêu ra một kỹ thuật nào để nhờ đó chúng có thể được vận dụng. Điều này tôi cảm thấy là một sự chỉ trích mà tôi sẽ bàn đến, để cho bạn có thể tiếp tục sự nghiên cứu của bạn mà không có sự hiểu lầm. Đây là một điểm thích hợp để chận đứng và đáp ứng với sự tranh căi này. Tất nhiên, Karma là một chủ đề tổng quát chớ không đặc thù; tuy nhiên, nó không được quảng đại quần chúng chấp nhận theo ư nghĩa huyền môn. Cần phải xem xét theo những đường lối rộng lớn cho đến khi mà Luật Nhân Quả được thừa nhận như là một yếu tố chi phối chính trong ư thức con người, không những trên một qui mô rộng lớn, mà c̣n liên quan với các kiếp sống cá nhân. Tuy nhiên quần chúng nói chung đều không biết đến luật này.
[9:16:26 PM] Thuan Thi Do:
Hiển nhiên là đối với bạn, tôi hoàn toàn không cần bàn đến khía cạnh triệu chứng của bệnh tật và bàn đến các sự kiện mà y học chính thống đă có thể xác minh. Trong một thời gian, chúng ta đă xem xét các nguyên nhân của những bệnh như thế, và tôi dự định bàn đến các phương pháp chữa trị theo huyền môn – khi mà các cách chữa trị như thế có thể chấp nhận được đúng theo Luật Karma, và khi mà nhà chữa trị sẵn sàng làm việc theo cách của huyền môn. Tôi đă thử minh giải cho bạn nguyên nhân căn bản có liên hệ tới năng lượng, tới việc quá thừa hay quá thiếu năng lượng đi qua các bí huyệt. Ở đây, có ẩn hai yếu tố chính trong việc tạo ra bệnh. Điều chủ yếu là những ai trong các bạn thấy lư thú trong việc nghiên cứu và chữa trị bệnh tật nên thừa nhận điều này, và đặt điều đó làm căn bản cho cách tiếp cận của bạn. Tôi đă nêu ra rằng y học và việc trị liệu bằng thuốc men trong tương lai sẽ bắt đầu bằng sự kiện này, và xem chúng như là yếu tố quyết định hàng đầu. Tôi không từ bỏ bản chất thực sự của khám phá y học. Tôi t́m cách xúc tiến vấn đề theo quan điểm đó, và không phải chủ trương của tôi là không biết đến các khám phá khôn ngoan của y học hiện đại, tôi cũng không ở về phía những kẻ chê bai và không thừa nhận các khám phá của y học hiện đại. Điều này, tôi đă nhấn mạnh trước kia. Tôi muốn nêu ra khuynh hướng t́m ṭi y học về sau, khuynh hướng đó sẽ là t́m kiếm vị trí của bệnh tật trong lĩnh vực sinh lực (theo như các nhà sưu khảo chính thống đă gọi), và những ǵ mà chúng ta phải xem như thuộc về lĩnh vực của thể dĩ thái. Ở đây, tôi xin đưa ra một phát biểu thực tiễn có thể xem như Qui Luật kế tiếp trong bộ luận này:
[9:43:31 PM] Thuan Thi Do: QUI LUẬT 6
Việc chẩn đoán bệnh cẩn thận, dựa trên các triệu chứng bên ngoài đă được xác minh, sẽ được đơn giản hóa đến mức mà khi cơ quan liên hệ đă được biết rơ và nhờ thế mà được cô lập, bí huyệt trong thể dĩ thái vốn có liên quan chặt chẽ nhất với cơ quan đó, sẽ tuân theo các phương pháp chữa trị theo huyền môn, dẫu cho các phương pháp thông thường, có cải thiện; các phương pháp dùng thuốc men hoặc giải phẫu sẽ vẫn được dùng.

Đây là chỗ mà nhà thờ phụng cuồng tín hay là kẻ chữa trị hiện đại rất thường lạc lối. Cách tiếp cận xưa của y học, với cách t́m ṭi thiên về vật chất của nó, và cách chẩn đoán thành công hoặc thất bại của nó, sẽ vẫn c̣n cần đến cho đến lúc mà các y sĩ và các nhà giải phẫu có được khả năng nhăn thông, nhận thức trực giác và thị kiến tâm linh, và cũng cho tới lúc mà họ đă vạch ra được một kỹ thuật để vận dụng năng lượng có liên quan tới bệnh nhân. Một ngày nào đó, điều này sẽ được bổ túc bằng sự diễn giải chính xác theo chiêm tinh học, việc nhận biết trực tiếp về các loại cung, và kế đó việc áp dụng các kỹ thuật chữa trị đúng đắn, theo sự đ̣i hỏi của cung đang chi phối biểu hiện sự sống của bệnh nhân, cộng thêm với tŕnh độ tiến hóa của y.
272

Tôi đă gây bất lợi lớn khi t́m cách đặt nền móng cho cách tiếp cận mới với y học. Tôi đă gây trở ngại bằng các công bố lư tưởng của các nhà tiên phong trong lănh vực mới đối với việc chữa trị theo thiên nhiên, bằng thiên nhiên liệu pháp và bằng các giả thuyết của Khoa Học Cơ Đốc và các Trường Phái Hợp Nhất. Tất cả những ǵ mà tôi có thể làm (nếu bạn rút kinh nghiệm nhờ sự tŕnh bày của tôi) là đề ra một số giả định rộng răi và tổng quát sẽ chi phối các nhà y học trong tương lai. Nhưng trong giai đoạn tạm thời giữa kỷ nguyên cũ và mới, con người sẽ lang thang trong đám sương mù của suy đoán; một xung đột lớn sẽ xảy ra giữa các trường phái theo chính thống với các nhà suy đoán và các nhà điều nghiên các ư tưởng mới và tạm thời "Bát Chánh đạo" của Đức Phật sẽ bị lăng quên.
Ngày nay, trong y khoa có một t́nh trạng song hành được t́m thấy trong lĩnh vực tôn giáo. Cách tiếp cận xưa đủ cho quần chúng và thường thành công cả trong khía cạnh cải thiện lẫn pḥng ngừa và trong tiến tŕnh chẩn đoán của nó. Đây là tất cả những ǵ có thể có được vào lúc này. Cũng giống như vậy, cách tŕnh bày cổ xưa của tôn giáo đủ để hướng dẫn quần chúng kém suy tư, theo một số đường lối rộng lớn của cách sống có kiềm chế, và duy tŕ một cách rơ rệt trong ư thức của hạng thường nhân một số sự kiện tinh thần không thể bàn căi được. Cả trong việc hướng dẫn và bảo vệ quần chúng về bản chất tinh thần của họ lẫn trong việc hướng dẫn và bảo vệ các thể xác của họ, các bác sĩ và các vị tư tế có thể được chia thành nhiều nhóm khác nhau – một số trung thành với các kỹ thuật cổ xưa đă được chứng minh, một số người theo lập trường chính thống đến nỗi họ không chịu t́m ṭi những ǵ mới lạ và chưa được chứng minh, c̣n một số theo chủ nghĩa lư tưởng, hay suy đoán và cuồng tín đến nỗi họ lao tới và tiến vào một thế giới thực nghiệm ức đoán vốn có thể hay không thể mang lại cho họ chiếc ch́a khóa đi đến y học của tương lai mà chắc chắn là sẽ đặt bệnh nhân của họ vào loại mà bạn gọi là "con bọ thí nghiệm".
273

Lănh vực ức đoán chắc chắn nhất và kém cỏi nhất trong thực hành y học là lĩnh vực có liên hệ với sự giảm bệnh nhờ mổ xẻ cho bệnh nhân. Nó được đặt nền tảng trên sự hiểu biết chắc chắn về giải phẫu học, việc chẩn đoán nó theo nhu cầu có thể được kiểm soát một cách sáng suốt, và việc thực hành nó (khi nào ở trong tay của một nhà giải phẫu tài ba và nổi tiếng) có thể và nhất định thường tạo ra việc chữa lành hay kéo dài đời sống thực sự. Tuy nhiên ngay cả trong lănh vực đó, người ta cũng ít biết về các kết quả của một cuộc giải phẫu như nó có thể tác động vào thể dĩ thái và (tất nhiên) vào hệ thần kinh qua hệ thống trung gian gồm các "nadis" hay là đối phần dĩ thái của các dây thần kinh. Tôi muốn nêu ví dụ về việc cắt bỏ removal một số cơ quan. Các kết quả rơ rệt hẳn phải lộ ra và một giai đoạn hiệu chỉnh khó khăn tất nhiên phải xảy ra bên trong bộ máy tinh vi của người bệnh. Khu vực cơ thể đă nhận được cách điều trị bằng giải phẫu và đặc biệt là bí huyệt có liên hệ mật thiết nhất với nó phải chịu tác động, v́ ḍng năng lượng tuần hoàn, xuất phát từ bí huyệt, sẽ thấy chính nó bị "nối tắt" ("short circuited"), nếu tôi có thể sử dụng một nhóm từ như thế.
Cho đến nay, ḍng năng lượng này đă chạy qua vùng chú tâm giải phẫu, phải chuyển đường đi của nó đến mọi phần của cơ thể, xuyên qua các "nadis". Như các bạn biết các nadis này nằm bên dưới và cung cấp năng lượng cần cho hệ thần kinh. Các vận hà cũ dành cho ḍng năng lượng sẽ bị dời chuyển, do kết quả của các biện pháp đang dùng, lớn hoặc nhỏ. Các vận hà mới hay các tuyến thần lực, bắc cầu qua vùng "bị cắt đứt", sẽ phải được thiết lập và việc hiệu chỉnh căn bản sẽ phải được tạo ra bên trong cơ cấu sinh động của người bệnh. Thực tế cho đến nay không ai biết ǵ cả về các tuyến này. Ngay đến trong lănh vực t́m ṭi tiến bộ cũng không hề biết tới.
Nền y học mới không thể được diễn giải một cách khoa học, hay là được tŕnh bày một cách sáng suốt cho đến khi mà sự thật về thể dĩ thái được công nhận và sự hiện hữu của nó, với vai tṛ là cơ cấu cung cấp năng lượng và với vai tṛ là trạng thái sống động của h́nh hài bên ngoài, được hiểu một cách rộng răi. Lúc bấy giờ, sự thay đổi chú tâm của y học sẽ tách ra khỏi các hiệu quả vật chất hữu h́nh ở bên ngoài, và đi vào các nguyên nhân bên trong, v́ các hiệu quả đó được t́m thấy trong các bí huyệt và các lănh vực hoạt động liên hệ của chúng.