TRỊ LIỆU THEO HUYỀN MÔN

(ESOTERIC HEALING)

 

QUYỂN  IV

TRONG BỘ

LUẬN VỀ BẢY CUNG

(A TREATISE ON THE SEVEN RAYS)

 

ALICE A. BAILEY

 

LUCIS PUBLISHING COMPANY

NEW YORK

LUCIS PRESS  LTD

London

 

MMX

 

MỤC LỤC

                                                                                  Trang  (Anh ngữ)

Các Nhận Xét Dẫn Nhập.... 1

 

PHẦN MỘT

Các Nguyên Nhân Căn Bản Của Bệnh Tật    9

Chương I .- Các Nguyên Nhân Tâm Lư Của Bệnh Tật........................................... 24

1. Các Nguyên Nhân Xuất Phát Trong Bản Chất Cảm Dục................................ 33

   A. Xúc Cảm Thiếu Kiểm Soát Và Bất Thường       38

   B. Dục Vọng, Bị  Ức Chế Hay Phóng Túng      53

   C. Các Bệnh Tật Do Lo Âu Và Bực Bội       67

2.  Các Nguyên Nhân Xuất Phát Từ Thể Dĩ Thái    71

   A. Sự Bế Tắc   ...................  76

   B. Thiếu Sự Điều Hợp Và Phối Kết        79

   C. Các Bí Huyệt Bị Kích Thích Quá Độ       80

3.  Các Nguyên Nhân Xuất Phát Trong Thể Trí       88

   A. Các Thái Độ Trí Tuệ Sai Lầm       89

   B. Sư Cuồng Tín Trong Trí Tuệ

       Sự Thống Trị Của Các H́nh Tư Tưởng        91

   C. Chủ Nghĩa Lư Tưởng  Bất Như Ư     95

       Nghệ Thuật Chữa Trị Thiêng Liêng        99

       Các Qui Luật Mở Đầu Cho Việc Xạ Trị        103

       Ba Định Luật Chính Về Sức Khỏe    105

       Tổng Kết Các Nguyên Nhân Của Bệnh Tật ................................................. 112

4. Các Bệnh Do Cuộc Đời Của Người Đệ Tử     114

   A. Các Bệnh Của Nhà Thần Bí        115

   B. Các Bệnh Của Người Đệ Tử 120

        Các Bí Huyệt Và Hệ Thống Tuyến  140

        Bảy Bí Huyệt Chính ... 144

        Cơ Thể - Sắc Tướng Cơi Hiện Tượng    163

        Bảy Bí Huyệt Chính (Tiếp Theo)      168

        Thể Dĩ Thái, Hệ Thần Kinh Và Hệ Nội Tiết, Các Hiệu Quả

 Tạo Ra Trong Các Vùng Đặc Biệt     199

       Các Hiệu Quả Kém Kích Thích Và Quá Kích Thích Của

Các Bí Huyệt ........................ 207

Chương II .-  Nguyên Nhân Xuất Phát Từ Cuộc Sống Tập Thể ....................... 221

1. Bệnh Của Nhân Loi, Kế Thừa Từ Quá Khứ ................................................. 226

   A.  Bệnh Hoa Liễu Và Bệnh Giang Mai     228

   B. Bệnh Lao  ..................... 232

   C. Bệnh Ung Thư   .......... 237

2. Bệnh Nảy Sinh Do T́nh Trạng Che Lấp Hành Tinh ....................................... 242

3. Bệnh Do Chủng Tộc Và Quốc Gia 249

Chương III .- Trách Nhiệm Nghiệp Quả Chúng Ta................................................. 259

1. Trách Nhiệm Nghiệp Quả  Của Cá Nhân      289

2. Các Nguyên Nhân Nghiệp Quả  Thuộc Bảy Cung................................................. 292

Chương  IV.- Một Vài Vấn Đáp     306

 

PHẦN   HAI

Các Đ̣i Hỏi Căn Bản Cần Cho Việc Chữa Trị    380

Chương  V .- Tiến Tŕnh Phục Hồi      424

1. Bản Chất Sự Chết   .......... 437

    Nỗi Sợ Chết  ..................... 440

    Định Nghĩa Sự Chết ....... 442

    Mục Đích Sự Chết  .......... 445

    Thuật Từ Trần .................. 453

2. Tác Động Phục Hồi ......... 460

    Yếu Tố Chống Lại Linh Hồn Triệt Thoái   464

    Hai Lư Do Chính Cho Việc Hỏa Táng 470

    Tŕnh Tự Sự Việc Lúc Từ Trần   472

3. Hai Vấn Đề Trọng Đại  ... 478

Chương  VI .- Thuật Thải Hồi 486

    Các Hoạt Động Ngay Sau Khi Từ Trần      490

    Kinh Nghiệm Devachan  496

    Mười Định Luật Chữa Trị    499

Chương  VII .- Tiến Tŕnh  Hội Nhập       505

     Ư Nghĩa Của Hội Nhập . 508

     Trạng Thái Trí Tuệ Của Linh Hồn 510

     Thải Hồi H́nh Tư Tưởng Của Phàm Ngă      515

                                            

 

PHẦN   BA

Các Định Luật Chữa Trị Căn Bản       521

Chương VIII .- Liệt Kê Và Áp Dụng Các Định Luật Và Qui Tắc............................. 532

Định Luật I .......................... 538

Định Luật II  ....................... 543

Qui Tắc  Một  ...................... 550

Định Luật III  ...................... 558

Định Luật IV ....................... 564

Qui Tắc  Hai  ....................... 577

Định Luật V ........................ 582

Qui Tắc  Ba  ......................... 602

Định Luật VI  ...................... 607

Định Luật VII  .................... 614

Qui Tắc  Bốn  ...................... 630

Định Luật VIII  ................... 633

Qui Tắc  Năm ..................... 642

Định Luật IX ....................... 660

Qui Tắc  Sáu ........................ 672          

Định Luật X  ....................... 678

Chương   IX .- Bảy Cách Chữa Trị      693

   Các Năng Lượng Thuộc Bảy Cung        695

   Cung Của Nhà Chữa Trị Và Của Bệnh Nhân 698

   Bảy Phương Pháp Chữa Trị        705

Mục Lục ................................ 712

                              

                                   


 

Đại Khấn Nguyện

 

Từ điểm Linh Quang trong Thiên Trí

Cầu xin ánh sáng tràn ngập trí người

Cầu xin Linh Quang giáng xuống Dương Trần

 

Từ điểm Bác Ái trong Thiên Tâm

Cầu xin bác ái tràn ngập tâm người

Mong sao Đấng Christ trở lại Trần Gian

 

Từ trung tâm mà Thiên Ư được thấu triệt

Mong cho Thiên Ư dẫn dắt tiểu chí con người

Thiên Ư mà Chân Sư biết rơ và phụng hành.

 

Từ trung tâm chúng ta gọi là nhân loại

Cầu xin Thiên Cơ, Bác Ái và Linh Quang khởi động

Mong cho Thiên Cơ đóng kín tà môn

 

Cầu xin Linh Quang, Bác Ái và Quyền Năng

phục hồi Thiên Cơ ở chốn Trần Hoàn

 

Khấn nguyện trên không thuộc về bất cứ người nào hoặc nhóm nào, mà thuộc về tất cả nhân loại. Vẻ đẹp và sức mạnh của Bài Khấn Nguyện này nằm trong tính chất giản dị của nó, và trong việc nó biểu lộ một vài chân lư trụ cột mà tất cả mọi người, theo lẽ tự nhiên và b́nh thường đều chấp nhận – chân lư về sự hiện hữu của một Đấng Thông Tuệ cơ bản, Đấng mà chúng ta gán cho danh xưng một cách mơ hồ là Thượng Đế (God). Chân lư này chủ trương rằng đàng sau mọi vẻ bên ngoài, có một mănh lực thúc đẩy của vũ trụ là T́nh Thương; chân lư này cho rằng có một Đấng Cao Cả đă đến cơi trần mà người theo Thiên Chúa giáo gọi là Đấng Christ, và là hiện thân của t́nh thương đó để cho chúng ta có thể hiểu được; chân lư đó cho rằng cả t́nh thương lẫn sự thông tuệ đều là các thành quả của Thiên Ư; và sau rốt, cái chân lư tự nó hiển nhiên cho rằng chỉ do chính nhân loại mà Thiên Cơ mới có thể được khởi động”.

 

                                                                      Alice  A.  Bailey


Trích lời phát biểu của Chân Sư Tây Tạng

Xuất bản vào tháng 8 – 1934

Nói rằng tôi là một đệ tử người Tây Tạng thuộc một tŕnh độ nào đó th́ cũng đúng, tuy nhiên, nếu tôi nói thế th́ các bạn chẳng hiểu được bao nhiêu, bởi v́ tất cả đều là các đệ tử, từ người t́m đạo khiêm tốn nhất trở lên cho đến chính Đức Christ và các Đấng Cao Cả hơn Ngài. Tôi khoác một thân xác hồng trần giống như mọi người, và sống trên vùng biên giới Tây Tạng. Nói theo quan điểm ngoại môn th́ thỉnh thoảng tôi có điều khiển một nhóm nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng, khi các bổn phận khác của tôi được rảnh rỗi. Chính v́ thế mà người ta mới nói rằng tôi là một tu viện trưởng của Tu viện Lạt Ma giáo đặc biệt đó. Tất cả những người đệ tử chân chính đều tham gia trong công tác của Thánh Đoàn, và những người nào kết hợp với tôi trong công tác này đều biết tôi dưới một danh xưng và một chức vụ khác. A. A. B. biết tôi là ai và biết đến hai danh xưng của tôi.

Tôi là một huynh đệ của các bạn, là người đă đi hơi xa trên Thánh Đạo hơn một đạo sinh b́nh thường, và do đó phải gánh vác các trách nhiệm nặng nề hơn. Tôi là kẻ đă chiến đấu và phấn đấu để vươn lên một mức độ giác ngộ, cao hơn mức của người t́m đạo đang đọc tác phẩm này. Do đó, tôi phải làm người truyền đạt ánh sáng với bất cứ giá nào. Tôi không phải là một người luống tuổi như số tuổi mà người ta cho là phải có trong các Chân Sư, tuy nhiên, tôi không non nớt hay thiếu kinh nghiệm. Công tác của tôi là dạy dỗ và truyền bá tri thức về Minh Triết vĩnh cửu ở bất cứ nơi nào có sự đáp ứng, và tôi đă làm việc này trong nhiều năm qua. Khi nào có dịp, tôi cũng t́m cách giúp Chân Sư M. và Chân Sư K.H. v́ từ lâu tôi đă thân cận với các Ngài và liên kết với công việc của các Ngài. Nói tất cả những điều trên đây là tôi đă nói nhiều với các bạn rồi. Tuy nhiên, đồng thời tôi không nói với bạn điều ǵ khiến bạn phải tuân theo tôi một cách mù quáng, và có sự tôn sùng dại dột mà kẻ t́m đạo nhiều xúc cảm đem hiến dâng cho vị Đạo Sư và Chân Sư, là Đấng mà y chưa thể tiếp xúc được. Ngày nào y chưa biến đổi được sự tôn sùng bằng t́nh cảm thành việc phụng sự vô kỷ cho nhân loại – chớ không phải cho Chân Sư – th́ ngày đó, y vẫn chưa có được sự giao tiếp tốt đẹp nói trên.

Các sách mà tôi viết, được đưa ra, nhưng không đ̣i hỏi các bạn phải chấp nhận, chúng có thể đúng hoặc không đúng, thực hay không thực và hữu ích hay vô ích. Tôi để cho các bạn xác nhận chân lư của chúng bằng cách thực hành đúng đắn và bằng cách vận dụng trực giác. Cả tôi lẫn A.A.B. đều không hề quan tâm chút nào đến việc xem chúng là các tác phẩm được truyền linh hứng, hoặc lời đồn đại rằng đó là những tác phẩm của một trong các Chân Sư. Nếu các sách này tŕnh bày Chân lư đúng tŕnh tự, kế tiếp theo những chân lư đă được đưa ra trong việc giáo huấn thế gian, nếu những huấn điều trong đó có thể nâng cao đạo tâm và ư chí phụng sự, từ cơi t́nh cảm đến cơi trí (là cơi làm việc của các Chân Sư) th́ các sách này đă đạt được mục đích. Nếu giáo huấn trong sách có thể gợi được sự đáp ứng nơi thể trí đă khai ngộ của người phụng sự ở thế gian, và giúp cho trực giác y lóe sáng, th́ lúc bấy giờ, y mới nên chấp nhận giáo huấn đó. Ngoài ra, không c̣n cách nào khác. Nếu các phát biểu này vẫn đúng khi được chứng minh đến mức rốt ráo, hay tỏ ra là đúng khi được trắc nghiệm bằng Định Luật Tương Ứng, th́ bấy giờ, chúng mới quả là tốt đẹp. Nếu không được như thế th́ đạo sinh đừng nên chấp nhận các điều ấy làm chi.

 


1

 
CÁC NHẬN XÉT DẪN NHẬP

(INTRODUCTORY REMARKS)

 

Toàn bộ chủ đề trị liệu đă có từ thời xa xưa, và bao giờ cũng là chủ đề khảo cứu và thực nghiệm. Tuy nhiên, đối với việc vận dụng đúng mănh lực và khả năng chữa trị, th́ sự hiểu biết c̣n ở giai đoạn phôi thai; sau rốt, chỉ măi đến thời đại và thế hệ này, mới có thể truyền đạt các định luật chữa trị bằng từ lực, và nêu ra các nguyên nhân của bệnh tật – xuất phát từ ba nội thể – hiện đang tàn phá cơ thể con người, gây ra đau khổ bất tận và báo trước cho con người vượt qua cổng dẫn đến thế giới có sự sống vô h́nh. Chỉ đến ngày hôm nay con người mới ở mức tiến hóa tâm thức mà con người có thể bắt đầu nhận thức được sức mạnh của các thế giới nội tâm, và môn tâm lư học mới mẻ và rộng lớn là câu trả lời của con người cho sự quan tâm ngày càng tăng này. Các tiến tŕnh hiệu chỉnh, thải hồi và chữa trị đang thu hút tâm trí của tất cả những người biết suy tư, cũng như của tất cả những ai đang đau khổ. Chúng ta có nhiều điều phải làm và do đó mà về phần các bạn, tôi đ̣i hỏi nên kiên nhẫn.

Khi tiến vào lănh vực chữa trị, tức là người ta tiến vào một thế giới có nhiều hiểu biết huyền bí và có vô số kết luận, và người ta đối diện với các trần thuyết của các bậc tài trí, qua các thời đại, những vị này đă t́m cách chữa trị và trợ giúp. Biết bao lư do của bệnh tật đă là đề tài nghiên cứu và suy đoán bất tận, và nhiều suy diễn rơ rệt đă được đưa ra về việc chữa trị các bệnh đó. Cũng có nhiều đề xuất về các phương pháp, các kỹ thuật, công thức, phương thuốc, nhưng cách vận dụng khác nhau và nhiều lư thuyết. Tất cả những thứ đó đă làm cho trí óc đầy ắp các ư kiến – một số đúng, một số sai – khiến cho trí rất khó thu nạp các ư tưởng mới và khiến cho nhà nghiên cứu khó đồng hóa những ǵ mà từ trước đến giờ chưa biết tới.

2

 
Những người t́m ṭi đă bị thiệt tḥi rất nhiều khi không chịu buông bỏ những ǵ mà hạ trí ưa thích. Khi họ thực sự thành công trong việc hoàn toàn mở trí và sẵn sàng chấp nhận các lư thuyết và giả thuyết mới, th́ họ mới khám phá ra rằng các chân lư cổ xưa được thiết tha ǵn giữ, thực ra vẫn không mất đi, mà chỉ chuyển xuống vị trí đúng của nó trong một hệ thống rộng lớn hơn.

Tất cả các vị điểm đạo đồ của Minh Triết Vô Thủy đều đương nhiên là những nhà trị liệu, mặc dù không phải tất cả đều có thể chữa trị thể xác. Lư do là v́ tất cả các linh hồn nào đă đạt được bất cứ mức độ khai phóng thực sự nào đó, cũng đều là kẻ truyền đạt năng lượng tinh thần. Điều này đương nhiên tác động đến trạng thái nào đó của cơ thể vốn được dùng bởi các linh hồn mà họ tiếp xúc. Trong các giáo huấn này, khi tôi dùng từ ngữ “cơ cấu” (“mechanism”) tức là tôi đề cập đến các trạng thái khác nhau của khí cụ – tức là cơ thể hay bản chất h́nh hài – mà mọi linh hồn đều t́m cách biểu lộ qua đó. Do đó, tôi nói đến:

1. Nhục thân là toàn bộ các cơ quan tạo thành nó; các cơ quan này có các chức năng khác nhau, giúp cho linh hồn tự biểu lộ trên cơi trần hay cơi bên ngoài, như là một thành phần của một cơ quan lớn hơn, và bao gồm nhiều hơn. Thể xác là bộ máy đáp ứng của con người tâm linh bên trong và giúp cho thực thể tâm linh đó giao tiếp với bộ máy đáp ứng của Hành Tinh Thượng Đế, là Đấng mà ta sống, hoạt động và hiện tồn trong Ngài.

3

 
2. Thể dĩ thái ([1]) có mục tiêu chính yếu duy nhất là làm sinh động và tiếp sinh lực cho nhục thân, và nhờ đó mà kết hợp nó vào thể năng lượng của Địa Cầu và của Thái dương hệ. Đó là một mạng lưới với các ḍng năng lượng, các tuyến lực và ánh sáng. Nó tạo thành một phần của hệ thống lưới năng lượng rộng lớn đang ẩn dưới một h́nh hài dù lớn hay nhỏ (tiểu thiên địa hoặc đại thiên địa). Dọc theo các tuyến năng lượng này, có các vũ trụ lực tuôn chảy, giống như máu chảy qua các tĩnh mạch và động mạch. Việc luân lưu liên miên, cá biệt luôn luôn – trong con người, trong hành tinh và trong thái dương hệ – của sinh lực qua các thể dĩ thái của mọi h́nh hài, là nền tảng của mọi sự sống biểu lộ, và là biểu hiện của tính bất phân ly chính yếu của mọi sự sống.

3. Thể cảm dục (đôi khi được gọi là thể t́nh cảm) là hiệu quả của sự tương tác của dục vọng, và sự đáp ứng có tri giác vào bản ngă ở trung tâm và hiệu quả đó – trong thể đó – được trải qua dưới h́nh thức xúc cảm, như là đau khổ và khoái lạc, và các cặp đối hợp khác. 90% nguyên nhân của các bệnh tật thể xác và đau đớn xác thân đều nằm trong hai thể này, tức là thể dĩ thái và thể cảm dục.

4. Thể trí (mental body) hay là thể gồm phần lớn chất liệu của trí tuệ (chitta) mà một con người riêng biệt có thể sử dụng và gây ấn tượng. Thể đó là cơ cấu thứ tư trong loạt các cơ cấu có sẵn cho linh hồn sử dụng. Đồng thời đừng quên rằng bốn cơ cấu này hợp thành một cơ cấu duy nhất. 5% trong số các bệnh tật hiện nay bắt nguồn trong thể hay trạng thái ư thức này. Ở đây, tôi xin nêu rơ một chân lư là một số trường phái trị liệu luôn luôn lặp đi lặp lại rằng thể trí là nguyên nhân của mọi đau yếu, nhưng cho đến nay, điều đó không đúng. Khoảng một triệu năm nữa, khi sự tập trung chú tâm của con người được chuyển từ bản chất t́nh cảm sang trí tuệ, khi mà con người về cơ bản, thiên về trí, giống như ngày nay về cơ bản họ thiên về t́nh cảm, bấy giờ phải t́m nguyên nhân của bệnh tật trong lănh vực trí tuệ. Trừ vài trường hợp hiếm có, ngày nay chúng ta phải t́m nguyên nhân bệnh tật trong t́nh trạng thiếu sinh lực, hoặc t́nh trạng bị kích thích quá độ, trong lănh vực xúc cảm, dục vọng (bị đè nén hay quá buông thả), trong các tính khí, các kiềm chế hoặc biểu lộ của các khát vọng thâm căn cố đế, các kích thích, các vui thích ngấm ngầm và nhiều xung lực ẩn tàng bắt nguồn từ cuộc sống đầy ham muốn của phàm nhân.

4

 
Trước nhất, sự thôi thúc để tồn tại và chiếm hữu đă và đang kiến tạo bộ máy đáp ứng bằng vật chất ở bên ngoài, và ngày nay, đang có thôi thúc tạo nên một cơ cấu vốn được kiến tạo chủ yếu cho các mục đích ở cơi trần, nhưng dùng cho các mục tiêu thuộc về nội tâm hơn. Điều này lại tạo ra t́nh trạng bất an và chỉ khi nào con người hiểu được rằng bên trong lớp vỏ vật chất bọc ở bên ngoài, vẫn có các thể khác được dùng cho các mục tiêu đáp ứng tinh tế hơn, th́ chừng ấy, chúng ta sẽ thấy có sự hiệu chỉnh từ từ về sức khỏe của xác thân. Sau này, chúng ta sẽ bàn đến các thể tinh anh này nhiều hơn.

Tất nhiên ở đây, bạn sẽ hỏi: Kế hoạch chung mà tôi sẽ t́m cách noi theo khi tôi hướng dẫn các bạn theo các định luật chữa trị là ǵ? (Các định luật này đang hướng dẫn các điểm đạo đồ, và phải dần dần thay thế cho các phương pháp thiên về vật chất nhiều hơn của thuật chữa trị hiện nay). Tất nhiên, bạn cũng muốn biết xem kỹ thuật đặc biệt nào mà bạn – với tư cách là nhà trị liệu – phải học cách sử dụng, vừa cho chính bạn, vừa cho bệnh nhân. Tôi sẽ phác họa vắn tắt giáo huấn mà tôi sẽ cố gắng truyền đạt và nêu ra nơi mà bạn phải chú trọng, khi bạn bắt đầu nghiên cứu chủ đề này.

 Trước hết, tôi sẽ cố gắng đề cập đến các nguyên nhân của bệnh, v́ đạo sinh huyền học bao giờ cũng phải bắt đầu trong thế giới căn nguyên chứ không phải trong thế giới hậu quả.

Thứ hai là tôi sẽ đi vào chi tiết bảy cách chữa trị đang chi phối “việc phục hồi” (gọi theo thuật ngữ huyền học) được các điểm đạo đồ trên thế gian thực hành. Các cách này xác định những kỹ thuật cần được sử dụng. Các bạn sẽ thấy rằng các phương pháp và các kỹ thuật này bị chi phối bởi các cung (về điều này, tôi đă viết trong bộ Luận Về Bảy Cung, quyển I và II).

5

 
Thế nên, kẻ chữa trị phải xem xét không những cung của chính y, mà c̣n phải xét đến cung của người bệnh nữa. Do đó, có các kỹ thuật của bảy Cung và các kỹ thuật này cần được giải rơ trước khi chúng có thể được áp dụng một cách sáng suốt.

Thứ ba là tôi sẽ nhấn mạnh vào cách trị liệu bằng tâm lư, và vào nhu cầu ứng xử với bệnh nhân trong đời sống nội tâm của y, v́ định luật căn bản ẩn dưới mọi cách trị liệu theo huyền môn như sau:


ĐỊNH LUẬT   I

Mọi bệnh tật đều là kết quả của sự sống bị ức chế của linh hồn, và điều đó đúng với tất cả mọi h́nh hài trong mọi giới. Thuật của nhà chữa trị bao gồm trong việc phóng rải năng lượng của linh hồn, sao cho sự sống của linh hồn có thể tuôn đổ qua tập hợp các cơ cấu đang tạo ra bất cứ h́nh hài đặc biệt nào.

Thật là lư thú mà ghi nhận rằng sự cố gắng của nhà khoa học để phóng thích năng lượng của nguyên tử, có cùng bản chất chung như công việc của nhà huyền bí học, khi người này cố gắng phóng rải năng lượng của linh hồn. Bản chất của thuật trị liệu chân chính c̣n ẩn giấu trong việc phóng rải năng lượng này (release).

Thứ tư là chúng ta sẽ xem xét thể xác, các bệnh tật và đau ốm của thể xác, nhưng chỉ sau khi chúng ta đă nghiên cứu phần của con người ẩn sau và đang bao quanh nhục thân. Với cách đó, chúng ta sẽ làm việc từ thế giới của các nguyên nhân bên trong, cho đến thế giới của các diễn biến bên ngoài. Chúng ta sẽ thấy rằng tất cả những ǵ có liên hệ đến sức khỏe con người, đều xuất phát từ:

1. Toàn bộ các lực, các cảm giác, các ước vọng và các diễn tiến bất thường của thể trí, vốn tiêu biểu cho ba thể tinh anh, và định đoạt sự sống lẫn kinh nghiệm của thể xác.

6

 
2. Hậu quả trên xác thân, đối với t́nh trạng của nhân loại nói chung. Con người là một bộ phận không thể thiếu của nhân loại, một cơ cấu ở trong một cơ cấu vĩ đại hơn. Các t́nh trạng hiện có trong tổng thể sẽ được phản ánh trong bản ngă của cá thể, và nhiều bệnh tật mà con người hứng chịu ngày nay, đều là hậu quả tác động lên con người ở t́nh trạng hiện có trong giới thứ tư trong thiên nhiên nói chung. Đối với các điều này, y không có trách nhiệm ǵ hết.

3. Hậu quả trên thể xác của sự sống hành tinh vốn là biểu lộ của sự sống của Hành Tinh Thượng Đế. Ngài là một Thực Thể Thông Linh đang tiến hóa. Các hàm ư này phần lớn đều vượt ngoài phạm vi hiểu biết của chúng ta, nhưng các hiệu quả th́ ta có thể thấy rơ.

Trước tiên, tôi không quan tâm đến việc huấn luyện các cá nhân để làm cho họ trở thành những nhà chữa trị hữu hiệu hơn. Tôi chỉ nhắm vào việc trị liệu tập thể, và đó là công tác đang được h́nh thành, làm cho tôi quan tâm vào lúc này. Tuy nhiên, không một nhóm người nào có thể hành động thống nhất nếu họ không yêu thương và phụng sự lẫn nhau. Năng lượng chữa trị của Thánh Đoàn không thể tuôn đổ qua nhóm, nếu có bất hài ḥa và chỉ trích. Do đó, công việc đầu tiên của bất cứ nhóm chữa trị nào là tự họ tạo t́nh thương và làm việc, hướng về sự hợp nhất và cảm thông trong nhóm.

Ở đây, tôi xin nêu ra rằng cần có sự nhẫn nại khi nhóm chữa trị hợp nhất và hào quang của các thành viên trong nhóm nên ḥa hợp lại. Cần tốn chút ít th́ giờ để mọi người học cách làm việc cùng nhau trong sự cảm thôngvô ngă hoàn toàn, đồng thời trong khi làm việc, họ đạt được sự nhất tâm. Sự nhất tâm này sẽ tạo được sự nhịp nhàng cần thiết cho cả nhóm, một sự nhịp nhàng cộng với sự hợp nhất, mạnh mẽ đến nỗi công việc có thể trở nên đồng bộ bên trong nhóm. Kẻ t́m đạo và các đạo sinh khi làm việc theo các đường lối này phải tự luyện tập để suy tư như một nhóm, và để mang lại cho nhóm (không chút luyến tiếc hay do dự) cái hay nhất vốn có nơi họ, và cũng là kết quả của việc thiền định của họ về các vấn đề này.

7

 
Tôi cũng có thể thêm rằng các giáo huấn này phải càng súc tích càng tốt. Tôi sẽ phải cố gắng đưa nhiều chân lư và kiến thức vào một đoạn ngắn để làm cho mỗi câu văn gợi được một số ư tưởng đích thực, và đem ánh sáng thực tế chiếu rọi vào các vấn đề mà một nhóm chữa trị phải đối phó. Những điều tôi phải nói sẽ gồm hai phần:

1. Chúng ta sẽ bàn đến việc trị liệu và giáo huấn chung, liên quan đến việc tôi truyền đạt các định luật, các kỹ thuật và các phương pháp.

2. Chúng ta sẽ xem xét về phần người chữa trị, và làm cách nào y có được thuật chữa trị hoàn thiện.

Có đúng chăng điều kiện tất yếu đầu tiên của tất cả mọi nhà chữa trị là tạo được sự giao cảm với bệnh nhân, để cho nhà chữa trị có thể hiểu rơ về t́nh trạng bất an, và tạo được sự tín nhiệm của người bệnh?

Tôi trao cho các bạn hai thuật ngữ, nó tiêu biểu cho các đ̣i hỏi của tất cả những nhà chữa trị chân chính mà bạn phải hoạt động theo chiều hướng đó. Đó là Từ Điện và Bức Xạ. Một người chữa trị phải có từ điện vượt trên mọi sự, y phải thu hút về phía y

a. Sức mạnh của chính linh hồn y; điều này liên quan đến sự chỉnh hợp qua sự thiền định của riêng y.

b. Những người mà y có thể trợ giúp, điều này liên quan đến thái độ phá ngă chấp.

c. Các năng lượng mà khi cần làm cho phát lộ sẽ kích thích cho người bệnh có được hoạt động mong muốn. Điều này liên quan đến kiến thức huyền linh và một thể trí lăo luyện.

Người chữa trị cũng phải hiểu làm cách nào để phát xạ, v́ sự phát xạ của linh hồn sẽ kích thích hoạt động linh hồn của người bệnh và tiến tŕnh chữa trị sẽ được khởi động. Sự phát xạ của thể trí y sẽ soi sáng thể trí của bệnh nhân, và làm tập trung ư chí của người bệnh. Sự phát xạ của thể cảm dục của y – nếu được kiểm soát và có tính vị tha – sẽ đặt một sự nhịp nhàng lên tâm trạng lo âu của thể t́nh cảm bệnh nhân, như thế giúp cho người bệnh có được hành động đúng đắn, trong khi phát xạ của thể sinh lực y, tác động qua bí huyệt lá lách, sẽ giúp sắp xếp thể sinh lực của người bệnh, như thế làm cho công việc chữa trị được dễ dàng. Do đó, người chữa trị có bổn phận phải làm cho chính ḿnh có hiệu năng, bởi v́ hiệu quả trên bệnh nhân sẽ tùy thuộc nơi hiệu năng ấy. Khi một người trị liệu dùng từ điện tác động và phát ra sức mạnh của linh hồn y cho người bệnh, th́ bệnh nhân đó có thể đạt mục tiêu mong muốn một cách dễ dàng hơn. Mục tiêu có thể là được chữa lành hoàn toàn, hay là có thể tạo được một trạng thái trí tuệ giúp người bệnh sống với chính ḿnh, và với căn bệnh của ḿnh mà không bị cản trở bởi các giới hạn nghiệp quả của xác thân. Hoặc là có thể giúp cho bệnh nhân đạt được việc thoát xác thích hợp (với niềm hoan hỉ, thoải mái) nhờ cửa tử mà đạt được sức khỏe hoàn toàn.

8

 
 

 



9

 
PHẦN MỘT

 

CÁC NGUYÊN NHÂN CĂN BẢN CỦA BỆNH TẬT

 

Đây là vấn đề mà mọi thực hành y học qua các thời đă từng đấu tranh. Trong thời đại cơ khí hiện nay, chúng ta đă đi lệch ra xa so với bề mặt của các sự vật, và tách khỏi quan điểm có phần đúng của các thế kỷ trước, quan điểm này đă truy nguyên bệnh tật từ các “tâm trạng bất an” (“evil humours”) được nuôi dưỡng và nung nấu trong đời sống nội tâm của người bệnh. Với sự tiến bộ của tri thức trong mọi phương diện, chúng ta hiện đang ở bề ngoài của sự vật (xin lưu ư là tôi không dùng từ “nông cạn” – “superficial”–) và đă đến lúc tri thức có thể tái nhập vào lănh vực nội tâm và tự chuyển hóa thành minh triết. Ngày nay các bậc trí giả lỗi lạc nhất trong giới y học và các giới liên hệ đă bắt đầu thừa nhận rằng phải t́m các nguyên nhân của bệnh tật trong các thái độ bên trong và tiềm ẩn của trí tuệ, của bản chất t́nh cảm và trong cuộc sống với biểu hiện t́nh dục phóng túng hoặc bị ức chế.

Từ lúc bắt đầu nghiên cứu, tôi muốn nêu ra nguyên nhân tối hậu của bệnh tật, dù tôi đă biết rơ, nhưng các bạn vẫn chưa thể hiểu được. Nguyên nhân này ẩn sau lịch sử của quá khứ xa xăm của hành tinh chúng ta, ẩn trong quá tŕnh phát triển (hiểu về mặt huyền học) của Đức Hành Tinh Thượng Đế và nó bắt nguồn từ những ǵ phần lớn được gọi là “tà lực vũ trụ”. Đây là một nhóm từ hoàn toàn vô nghĩa, nhưng nó mô tả theo lối tượng trưng một t́nh trạng ư thức của một vài vị “Thượng Đế chưa toàn hảo”. Căn cứ vào tiền đề mở đầu rằng chính Thượng Đế đang hoạt động hướng đến sự hoàn thiện vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, điều đó có thể được suy ra rằng đối với chính các vị Thiên Đế và đối với Thượng Đế (dưới h́nh thức Sự Sống của thái dương hệ) vẫn có thể tồn tại một số giới hạn, và hăy c̣n một số lănh vực hay trạng thái tâm thức vẫn c̣n chờ được quán triệt. Các giới hạn và các bất toàn tương đối này có thể tạo nên các hiệu quả rơ rệt trong các thể biểu lộ của các Ngài – tức là các hành tinh khác nhau dưới các biểu hiện của các Đấng Cao Cả, c̣n thái dương hệ như là biểu hiện của một Đấng Cao Cả. Cũng căn cứ giả thuyết rằng các ngoại thể này của Đấng Thánh linh, tức các hành tinh, là các h́nh thể qua đó một số Thượng Đế tự biểu lộ, có thể có một suy diễn đúng và hợp lư rằng mọi sự sống và h́nh hài bên trong các thể này tất nhiên có thể cũng chịu các giới hạn và các bất toàn, nảy sinh từ các lănh vực tâm thức chưa được chinh phục và các trạng thái ư thức cho đến giờ chưa được hiểu rơ bởi các Thượng Đế đă lâm phàm dưới dạng hành tinh và thái dương. Căn cứ định đề cho rằng mỗi h́nh hài là một phần của một h́nh hài c̣n vĩ đại hơn, và rằng chúng ta thực sự đang “sống, hoạt động và hiện tồn” trong cơ thể của Thượng Đế (theo cách nói của Thánh Paul), th́ chúng ta với tư cách là các phần nguyên vẹn của giới thứ tư trong thiên nhiên, chúng ta cũng phải chia sẻ giới hạn chung và bất toàn chung này.

10

 
Những ǵ vượt quá tiền đề tổng quát này đều ở ngoài khả năng hiểu biết và diễn tả của chúng ta, v́ nói chung, trí tuệ của người t́m đạo và người đệ tử bậc trung chưa đủ để hiểu. Các thuật ngữ như “tà lực vũ trụ, bất toàn thiêng liêng, lănh vực giới hạn của tâm thức, sự tự do của tinh thần thuần túy, trí tuệ thiêng liêng” được bàn tán rất tùy tiện bởi các tư tưởng gia thần bí và huyền linh của thời nay: Ư nghĩa thực của các từ đó là ǵ? Nhiều trường phái chữa trị đă xác định sự hoàn thiện thiêng liêng tối hậu, và tŕnh bày rơ rệt các tin tưởng của họ rằng nhân loại thực sự thoát khỏi các bệnh tật thông thường của xác thân, có phải chăng đó không phải là các câu nói rỗng tuếch, biểu hiện cho một lư tưởng và thường dựa vào ham muốn ích kỷ? Phải chăng đó không phải là các câu nói hoàn toàn vô nghĩa trong các hàm ư thần bí của chúng? Biết làm sao hơn khi chỉ có người đến mức hoàn thiện mới thực sự hiểu được thế nào là thiên tính?

11

 
Tốt hơn là chúng ta nên thừa nhận rằng con người chưa có thể hiểu được các nguyên nhân sâu xa của những ǵ có thể thấy hiện ra trong cuộc tiến hóa của sự sống h́nh hài. Thật là không khôn ngoan khi đối diện với vấn đề và các sự thật như chúng hiện hữu, theo hiểu biết hiện nay của chúng ta và hiểu rằng chỉ khi nào con người có thể nhập vào thiên trí một cách sáng suốt hơn là thể trí kém cỏi của loài vật, lúc ấy mới có thể biết được c̣n có các bậc Trí Tuệ vĩ đại hơn, đang hoạt động trong các giới khác cao hơn trong thiên nhiên, chắc chắn các vị này sẽ thấy sự sống một cách xác thực hơn, và đúng hơn cái thấy của nhân loại. Có thể mục tiêu tiến hóa (như đă được con người phác họa và nhấn mạnh) xét cho cùng, chỉ là một phần nhỏ của một mục tiêu lớn hơn, mà v́ với sự hiểu biết hữu hạn, con người không thể hiểu thấu. Toàn thể chủ đích đang ẩn tàng trong Thiên Trí có thể là rất khác với những ǵ mà con người có thể nhận thức được ngày nay; c̣n điều ác và điều thiện vũ trụ, khi được rút xuống c̣n tên gọi, có thể mất hoàn toàn ư nghĩa của chúng, và chỉ được nh́n thấy qua huyễn cảm và huyễn tưởng mà con người đang bao quanh mọi vật. Các bậc trí giả lỗi lạc nhất của thời nay chỉ vừa mới bắt đầu thấy được những tia sáng lờ mờ đầu tiên đang xuyên qua huyễn cảm này, và trước hết đang giúp con người khám phá sự thực của huyễn tưởng. Qua ánh sáng chiếu ra đó, chân lư sau đây có thể lộ ra cho ai có thái độ mong đợi và có trí rộng mở: chính Thượng Đế đang trên đường tiến đến sự hoàn thiện. Các hàm ư của phát biểu này c̣n nhiều.

12

 
Khi bàn về các nguyên nhân của bệnh tật, chúng ta sẽ đứng trên quan điểm rằng nguyên nhân căn bản sau rốt và thuộc vũ trụ của bệnh tật vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, và chỉ khi nào Thiên Quốc được hiển lộ trên cơi trần, th́ chúng ta mới thực sự biết được phần nào về các bệnh tật đang lan tràn trên hành tinh chúng ta trong cả bốn giới trong thiên nhiên. Tuy nhiên có thể đưa ra một vài phát biểu căn bản, cuối cùng là đúng theo ư nghĩa đại thiên địa, và cũng được chứng minh là đúng khi ta đem liên hệ chúng với tiểu thiên địa một cách sáng suốt.

1. Mọi bệnh tật (và đây là một điều nhàm chán) phát sinh do sự thiếu hài ḥa – sự bất hài ḥa xảy ra giữa khía cạnh h́nh thể với sự sống. Những ǵ ḥa giải h́nh hài và sự sống, hay nói đúng hơn, những ǵ là kết quả của sự hợp nhất có chủ đích này chúng ta gọi là linh hồn, tức bản ngă, tức lĩnh vực có liên quan đến nhân loại, c̣n ở các giới dưới nhân loại th́ được gọi là nguyên khí phối kết (integrating principle). Bệnh tật xuất hiện khi thiếu sự chỉnh hợp giữa các yếu tố khác nhau này, tức linh hồn và h́nh hài, sự sống và biểu hiện của sự sống, các thực tại nội tâm và ngoại cảnh. Tất nhiên, tinh thần và vật chất th́ không liên hệ với nhau một cách cởi mở. Đây là một cách diễn dịch Định Luật I, và toàn thể chủ đề này được dự kiến để tŕnh bày định luật đó.

2. Sự thiếu hài ḥa này tạo ra cái mà chúng ta gọi là bệnh tật, xảy ra khắp cả bốn giới của thiên nhiên và gây nên các t́nh trạng tạo ra đau đớn (khi mà khả năng cảm thụ trở nên tinh nhạy và phát triển) và ở khắp nơi đều có sự tắt nghẽn, hư hoại và tử vong. Hăy suy gẫm kỹ các từ này: Thiếu Hài Ḥa, Bệnh Hoạn, Đau Đớn, Tắc Nghẽn, Hư Hoại, Tử Vong, bởi v́ chúng đang diễn tả t́nh trạng chung hiện đang chi phối sự sống hữu thức của mọi h́nh hài về mặt đại thiên địa lẫn tiểu thiên địa. Chúng không phải là các nguyên nhân.

3. Tuy nhiên, mọi t́nh trạng này có thể được xem là có hiệu quả thanh lọc, và phải được nhân loại xem như thế nếu họ có thái độ đúng đắn đối với bệnh tật. Đây là điều mà kẻ chữa trị cuồng tín và người thực hành triệt để một ư tưởng thường hay quên (ư tưởng này được họ hiểu một cách hạn hẹp, và trong hầu hết các trường hợp chỉ là một phần của một ư tưởng vĩ đại hơn).

13

 
4. Các phương pháp chữa trị và các kỹ thuật làm giảm nhẹ đều được dùng riêng cho nhân loại, và là kết quả của hoạt động trí tuệ của con người. Chúng báo hiệu tiềm năng của con người giống như đấng sáng tạo và là kẻ đang tiến đến tự do. Chúng cho biết năng lực phân biện của con người để nhận thức sự hoàn thiện, để thấy được mục tiêu, do đó để hoạt động hướng về sự giải thoát tối hậu. Sự sai lầm hiện nay của con người cốt ở chỗ:

a. Không thấy được các công dụng đích thực của sự đau đớn.

b. Phẫn uất trước đau khổ.

c. Hiểu sai về định luật bất đối kháng.

d. Nhấn mạnh quá nhiều vào bản chất của h́nh hài.

e. Thái độ của con người đối với sự chết và cảm nhận của con người khi sự sống biến mất, vượt khỏi tầm mắt qua phương tiện h́nh hài và hậu quả là h́nh hài tan ră, báo hiệu thảm họa.

5. Khi tư tưởng con người đảo ngược lại các ư tưởng thông thường về bệnh tật, và chấp nhận bệnh tật như là một thực kiện trong thiên nhiên, th́ con người sẽ bắt đầu hoạt động theo định luật giải thoát, với ư tưởng đúng và không đưa tới sự đối kháng nữa. Ngày nay, do quyền năng của tư tưởng đă được điều khiển, và do sự đối kháng mạnh mẽ của con người đối với bệnh tật, nên con người chỉ có khuynh hướng kích hoạt nỗi khó khăn. Khi con người tái định hướng (reorients) tư tưởng của y đối với chân lư và linh hồn, th́ các ốm đau ở cơi trần sẽ bắt đầu tan biến. Điều này sẽ trở nên sáng tỏ khi chúng ta nghiên cứu phương pháp trừ bệnh tận gốc về sau này. Bệnh tật vẫn c̣n, các h́nh hài trong tất cả mọi giới đều đầy dẫy bất hài ḥa, không chỉnh hợp với sự sống nội tâm. Bệnh tật, sự hư hoại và khuynh hướng tan ră đang có ở khắp mọi nơi. Tôi chọn các từ này một cách thận trọng.

14

 
6. Do đó, bệnh tật không phải là kết quả của tư tưởng sai lầm của con người. Nó đă có từ lâu trong nhiều h́nh thái của sự sống trước khi gia đ́nh nhân loại xuất hiện trên địa cầu. Nếu bạn t́m cách diễn tả bằng lời, và nếu bạn muốn nói trong các giới hạn của trí người, th́ bạn có thể nói với một mức chính xác: Thượng Đế, Đức Hành Tinh Thượng Đế đă phạm suy tư sai lầm. Tuy nhiên, bạn sẽ không diễn đạt hết sự thật, mà chỉ là một phần rất nhỏ của nguyên nhân, v́ nó hiện ra với thể trí yếu kém, hạn hẹp của bạn, qua trung gian của ảo cảm và ảo tưởng chung của thế gian.

7. Theo một quan điểm th́ bệnh tật là một tiến tŕnh giải thoát, và là kẻ thù của những ǵ tĩnh tại (static) và kết tinh. Đừng nghĩ rằng câu nói đó có nghĩa là bệnh tật nên được hoan nghênh, và rằng diễn tŕnh chết đáng được ưa thích. Nếu nghĩ thế, th́ người ta sẽ nuôi dưỡng bệnh tật và sẽ thúc đẩy việc tự tử. May thay cho nhân loại, toàn thể khuynh hướng của sự sống đều chống lại bệnh tật, và phản ứng của sự sống h́nh hài đối với tư tưởng con người đă nuôi dưỡng việc sợ chết. Điều này quả đúng như thế, bởi v́ bản năng sinh tồn và duy tŕ sự toàn vẹn của h́nh hài là một nguyên tắc thiết yếu trong vật chất, và khuynh hướng tự làm cho bất diệt của sự sống bên trong h́nh hài, là một trong các khả năng thiên phú trọng đại nhất của chúng ta, khả năng này sẽ c̣n măi. Tuy nhiên, trong gia đ́nh nhân loại, sau cùng bản năng nói trên phải nhường chỗ cho việc dùng sự chết làm tiến tŕnh gạt bỏ có sắp xếp để bảo toàn sức mạnh, và mang lại cho linh hồn một khí cụ biểu lộ hoàn hảo hơn. Nói chung, nhân loại chưa sẵn sàng để có tự do hành động này. Tuy nhiên, hiện nay các đệ tử và những người t́m đạo trên thế gian sẽ bắt đầu hiểu được các nguyên lư mới mẻ này của sự sống. Ngày nào chính Đức Thượng Đế c̣n muốn lâm phàm trong thể biểu lộ của Ngài – tức là một hành tinh hay một thái dương hệ – th́ bản năng tự bảo tồn vẫn c̣n chi phối mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất; giữa sự sống với sắc tướng. Bằng diễn đạt trên, tôi đă nêu ra cho các bạn một ẩn ngữ về một trong các nguyên nhân căn bản của bệnh tật, nó cho thấy tại sao có cuộc chiến đấu bất tận giữa tinh thần đang bị giam nhốt, với h́nh hài giữ nhiệm vụ giam nhốt. Phương pháp của cuộc chiến này là sử dụng tính chất bẩm sinh đang tự biểu hiện dưới h́nh thức thôi thúc để bảo tồn, và thôi thúc để tồn tại vĩnh viễn – cả dưới h́nh thức hiện tại lẫn các chủng loại.

15

 
8. Định luật nhân quả – ở Đông phương gọi là Karma – đang chi phối mọi điều này. Thực ra, karma phải được xem là hậu quả (trong sự sống h́nh hài của hành tinh chúng ta) của các nguyên nhân ăn sâu và ẩn tàng trong Thiên Trí. Thực ra, các nguyên nhân mà chúng ta có thể ḍ ra liên quan tới bệnh tật và tử vong chỉ là sự thể hiện của một vài nguyên tắc căn bản đang chi phối – ai dám nói đúng hay sai? – sự sống của Thượng Đế trong h́nh hài, các nguyên nhân đó, con người vẫn không thể hiểu được, cho đến khi họ đạt được điểm đạo cao, được tượng trưng bằng sự Biến Thân (Transfiguration). Suốt trong các nghiên cứu này, chúng ta sẽ chỉ bàn đến các nguyên nhân phụ thuộc và các hiệu quả của chúng, đến các kết quả thuộc cơi hiện tượng của các hiệu quả bên trong vốn bắt nguồn từ các nguyên nhân quá sâu xa, so với hiểu biết của chúng ta. Cần chấp nhận và hiểu rơ điều này. Đây là điều mà người tiến bộ nhất có thể làm, với bộ máy trí tuệ hiện nay của y. Khi mà trực giác ít tác động, c̣n trí năo ít khi được soi sáng, tại sao con người lại ngạo mạn mong hiểu được mọi điều? Họ nên cố gắng phát triển trực giác của ḿnh và đạt đến giác ngộ. Bấy giờ sự thông hiểu mới có thể đến với y. Y sẽ có quyền đạt được hiểu biết thiêng liêng. Tuy nhiên, nhận thức nói trên cũng đủ cho công việc của chúng ta và sẽ giúp chúng ta đưa ra các luật lệ và nguyên tắc, sẽ chỉ lối cho nhân loại có thể thoát ra khỏi ư thức của h́nh hài, và nhờ đó mà khỏi bị chi phối bởi sự chết và các t́nh trạng liên quan với bệnh tật, đang chi phối sự biểu lộ của hành tinh chúng ta.

Chúng ta sẽ chia việc nghiên cứu các nguyên nhân bệnh tật của chúng ta thành ba phần, loại bỏ khỏi việc t́m kiếm chân lư của chúng ta cái ước muốn hoàn toàn có thể hiểu được nhưng cũng vô bổ, đó là muốn hiểu được Thiên trí.

  I. Các nguyên nhân tâm lư.

 II. Các nguyên nhân xuất phát từ cuộc sống tập thể.

III. Các trách nhiệm nghiệp quả của chúng ta, tức là các nguyên nhân thuộc về nghiệp quả.

16

 
Trong mọi điều này, với tất cả khả năng hiện tại, chúng ta sẽ chỉ nhận được một ư tưởng tổng quát về sự hiện hữu của bệnh tật trong nhân loại và cũng gặp một phần nào trong giới động vật. Khi đă hiểu rơ được ư tưởng tổng quát này rồi, chúng ta sẽ có một hiểu biết rơ ràng hơn về vấn đề bệnh tật, và bấy giờ có thể tiếp tục xem xét các phương pháp giúp chúng ta có thể xử lư các hậu quả bất hảo bằng một thuận lợi to tát hơn. Các nhà nghiên cứu thuật chữa trị cũng nên nhớ rằng có ba cách chữa trị và tất cả ba phương cách này đều có vị trí và giá trị của chúng – tùy theo tŕnh độ tiến hóa của đối tượng được chữa trị.

Cách thứ nhất, áp dụng các loại thuốc giảm đau và các phương pháp cải thiện để từ từ chữa trị bệnh tật, và loại trừ các t́nh trạng bất hảo; chúng củng cố sức sống của h́nh hài và bảo dưỡng sinh lực để cho bệnh tật có thể bị loại đi. Tiêu biểu nhất cho các phương pháp này, là trường phái đối chứng trị liệu (allopathic), và trường phái đồng chứng trị liệu (homeopathic), các phái nắn xương và nắn cột sống cùng các trường phái trị liệu khác. Họ đă làm được nhiều công việc có tính xây dựng rất hữu ích, và nhân loại phải chịu ơn nặng của họ về các chú tâm khôn ngoan, khéo léo và bất vị kỷ của các thầy thuốc. Lúc nào họ cũng lo đối phó với các t́nh trạng cấp bách và các hậu quả nguy hiểm, của các nguyên nhân không lộ ra bên ngoài. Theo các phương pháp này, bệnh nhân ở trong tay của một phần tử bên ngoài, nên phải thụ động, yên lặng và tiêu cực.

17

 
Cách thứ hai là công việc và các phương pháp của nhà tâm lư học hiện đại, họ t́m cách đối phó với các t́nh trạng bên trong và loại bỏ cách hành xử sai lạc của thể trí, các ức chế, các chứng loạn tâm thần và các phức cảm, vốn mang lại các trạng thái bệnh hoạn bên ngoài, các t́nh trạng ốm yếu, các tai biến thần kinh và trí tuệ. Theo phương pháp này, bệnh nhân được dạy cách hợp tác tới mức tối đa với nhà tâm lư học, để cho người bệnh có thể đạt mức hiểu biết đích thực về chính ḿnh, nhờ đó học cách diệt trừ các t́nh trạng dồn ép bên trong vốn chịu trách nhiệm cho các kết quả bên ngoài. Bệnh nhân được huấn luyện để trở nên tích cực và linh hoạt, và đây là một bước tiến đúng hướng rất quan trọng. Khuynh hướng phối hợp tâm lư trị liệu với việc điều trị thể chất bên ngoài là có cơ sở và đúng đắn.

Cách thứ ba tức là phương pháp cao nhất và mới mẻ nhất. Đó là phương pháp đưa linh hồn của chính bệnh nhân vào hoạt động tích cực. Việc chữa trị thực sự trong tương lai được tiến hành khi sự sống của linh hồn có thể lưu chuyển không bị ngăn trở khắp mọi hướng của phàm ngă. Bấy giờ sự sống đó có thể mang lại sinh lực cho h́nh hài bằng sức mạnh của nó và cũng có thể loại ra các t́nh trạng bế tắc và chướng ngại vốn là nguồn cội của nhiều thứ bệnh tật.

 Trong vấn đề này, chúng ta có nhiều điều cần suy gẫm. Nếu chúng ta đi thật chậm về cách áp dụng thực hành các kỹ thuật và các phương pháp, đó là v́ tôi muốn đặt một nền tảng vững chắc cho những ǵ tôi sẽ truyền đạt sau này.

                   HUẤN LUYỆN NGƯỜI CHỮA TRỊ

   Đối với việc huấn luyện nhà chữa trị, thỉnh thoảng tôi sẽ đưa ra sáu qui luật đang chi phối (hay sẽ chi phối) hoạt động của người chữa trị. Các bạn hăy nhớ hai từ mà trước đây tôi có đưa ra. Chúng tóm tắt câu chuyện của nhà trị liệu, đó là Từ Điện và Bức Xạ. Hai phương pháp này có những hiệu quả khác nhau, như chúng ta sẽ thấy.

QUI LUẬT MỘT

Người chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn, tim, óc và hai tay của y. Nhờ thế, y có thể tuôn đổ sức mạnh chữa trị trọng yếu lên người bệnh. Đây là công tác dùng từ điện (magnetic work). Nó chữa được bệnh, hoặc có thể làm tăng thêm cái được gọi là t́nh trạng tệ hại, tùy sự hiểu biết của người chữa trị.

18

 
Kẻ chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn, óc, tim và sự phát tán hào quang của y. Nhờ thế sự hiện diện của y có thể làm tăng sự sống linh hồn bệnh nhân. Đây là công tác dùng bức xạ (the work of radiation). Hai bàn tay không cần đến. Linh hồn hiển lộ sức mạnh của nó. Linh hồn bệnh nhân đáp ứng qua sự đáp ứng bằng hào quang của y đối với bức xạ của hào quang người chữa trị, tràn ngập với năng lượng của linh hồn.

Khi xem xét các nguyên nhân của bệnh tật, tôi thấy cần phải nói đôi lời liên quan với cáct́nh trạng – bên ngoài và bên trong. Đối với kẻ suy tư hời hợt, th́ dường như nhiều bệnh tật và nhiều nguyên nhân tử vong đều do các t́nh trạng của hoàn cảnh chung quanh, là điều mà y không hề chịu trách nhiệm. Các t́nh trạng này xếp loại hoàn toàn từ các biến cố thuần túy bên ngoài, cho đến các khuynh hướng di truyền. Chúng có thể được liệt kê như sau:

1. Các tai nạn: có thể do sự chểnh mảng của con người, do các biến cố chung, do sự bất cẩn của kẻ khác và các hậu quả của tranh chấp, như trong các cuộc băi công hoặc chiến tranh. Tai nạn cũng có thể xảy ra do sự tấn công của loài vật hoặc loài rắn, do ngộ độc bất ngờ và nhiều nguyên nhân khác nữa.

2. Các bệnh truyền nhiễm xảy đến cho con người từ bên ngoài, chớ không do t́nh trạng máu huyết riêng của người ấy. Các lây nhiễm như thế rất nhiều, được gọi là các bệnh truyền nhiễm và thường thấy như là các bệnh dịch. Các bệnh này có thể xảy đến cho một người trong khi thi hành nhiệm vụ, qua sự tiếp xúc hằng ngày của y, hay là do t́nh trạng bệnh tật lan rộng trong vùng của y.

3. Bệnh do suy dinh dưỡng, đặc biệt xảy ra ở trẻ em. T́nh trạng suy dinh dưỡng này đưa đến bệnh hoạn cho cơ thể, giảm sức đề kháng và sinh lực và làm cho “năng lực chống bệnh” của con người trở nên vô hiệu, đưa đến chết yểu.

19

 
4. Sự di truyền. Như bạn đă biết rơ, một vài h́nh thức yếu đuối do di truyền, hoặc chúng khiến cho một người dễ mắc phải một số bệnh và tất nhiên là tử vong, hoặc là gây ra nơi y các t́nh trạng làm cho sức sống của y yếu dần; cũng có các khuynh hướng tạo ra một h́nh thức thèm khát rất nguy hại, đưa đến các thói quen bất hảo, hạ thấp đạo đức và nguy hại cho ư chí của con người, làm cho y mất khả năng chống lại các bẩm chất này. Y bị chúng hoàn toàn chi phối, và phải gánh chịu hậu quả của các thói quen như thế, đó là bệnh tật và tử vong.

Bốn loại bệnh và các nguyên nhân tử vong này giải thích cho đa số những ǵ mà chúng ta thấy xảy ra chung quanh ta trong kiếp sống của con người. Tuy vậy chúng không được sắp một cách dứt khoát vào bất cứ nguyên nhân tâm lư nào của bệnh tật và chỉ sẽ được xem xét rất vắn tắt, dưới mục bàn về sự sống tập thể và các nguyên nhân dễ làm mắc bệnh. Các bệnh dễ lây nhiễm cũng được bàn đến nơi đây, nhưng các t́nh trạng xảy ra như là do tai nạn xe hơi hay xe hỏa chẳng hạn, đều không được xem xét dưới mục các nguyên nhân gây ra bệnh tật. Rất đúng là công việc của nhà chữa trị có liên quan đến các trường hợp này, nhưng công việc phải làm hơi khác với công việc được hoàn thành khi đối phó với các bệnh bắt nguồn từ một thể tinh anh nào đó, hay là trong các kết quả của các bệnh tập thể v..v.. Bệnh tật phát sinh do thiếu dinh dưỡng và do cách nuôi nấng sai lầm trong cuộc sống và nền văn minh hiện đại, sẽ không được xét đến ở đây. Đối với các bệnh này, cá nhân đứa trẻ không có trách nhiệm ǵ cả. Tôi đang bàn đến các bệnh tật xuất phát từ các t́nh trạng sai lầm bên trong. Thực tế, th́ đứa trẻ không có trách nhiệm ǵ đối với các điều kiện sinh sống của nó, trừ phi bạn thừa nhận nghiệp quả như là một yếu tố tiền định, nó có năng lực tạo ra các hiệu chỉnh bắt nguồn từ quá khứ, và ảnh hưởng đến hiện tại. Tôi sẽ bàn đến điều này đầy đủ hơn ở điểm thứ ba nói về các trách nhiệm nghiệp quả. Ở đây, tôi chỉ muốn gợi ư rằng toàn thể vấn đề bệnh tật có thể được bàn đến theo khía cạnh karma, c̣n giá trị của nó rơ ràng và không c̣n nghi ngờ ǵ

20

 
nữa, đă có giáo huấn đúng về đề tài trừu tượng này từ lúc nó được đưa ra ở phương Tây. Tuy nhiên, chân lư về nghiệp quả lại đến với chúng ta từ phương Đông, đă bị nhà thần học Đông phương làm cho lệch lạc nhiều giống như giáo lư về sự Chuộc Tội và về Đức Mẹ Đồng Trinh, đă bị diễn dịch và giảng dạy sai bởi nhà thần học Tây phương. Chân lư đích thực không giống bao nhiêu với cách tŕnh bày hiện nay của chúng ta. Do đó tôi đă gặp trở ngại rất lớn khi đem bàn vấn đề bệnh tật theo khía cạnh nghiệp quả. Tôi rất khó truyền đạt cho các bạn bất cứ điều ǵ về chân lư đích thực, do các định kiến về Luật Nhân Quả cổ xưa vốn có sẵn trong trí bạn. Khi tôi nói với bạn rằng triết lư về Thuyết Tiến Hóa Đột Biến và các thuyết hiện đại, nói về tác dụng của một chất xúc tác trên hai chất, – khi hai chất này được cho tiếp xúc với nhau dưới hiệu quả của chất xúc tác, sẽ tạo ra một chất thứ ba khác hẳn – trong đó có chứa nhiều Chân lư về Karma, th́ liệu bạn có hiểu chăng? Tôi nghi ngờ điều đó. Khi tôi nói với bạn rằng việc nhấn mạnh vào luật Karma khi nó giải thích các bất công bề ngoài, và luôn luôn nhấn mạnh đến sự xuất hiện của bệnh tật và ốm đau, đó chỉ là tŕnh bày một phần về Chân lư căn bản của vũ trụ th́ trí bạn có trở nên sáng tỏ phần nào chăng? Khi tôi nêu ra rằng luật Karma, nếu được hiểu đúng và vận dụng đúng, th́ nó có thể đem lại những ǵ tạo ra hạnh phúc, lành mạnh và thoát khỏi đau đớn một cách dễ dàng, hơn là đem lại đau khổ với chuỗi hậu quả của nó, th́ bạn thấy có thể hiểu được ư nghĩa của những ǵ mà tôi đang nói chăng?

Hiện nay, thế giới huyễn cảm quá mạnh mẽ, c̣n ảo tưởng của con người cũng mạnh và sống động, đến nỗi chúng ta không thấy được ư nghĩa thực sự của các định luật căn bản này.

21

 
Định luật Karma không phải là Luật Thưởng Phạt như người ta thường phỏng đoán khi đọc các sách đang lưu hành về đề tài này; đó chỉ là một khía cạnh tác động của luật Karma thôi. Luật Nhân Quả không nên hiểu như hiện nay chúng ta đang hiểu nó. Để minh họa, có một định luật gọi là Luật Hấp Dẫn mà từ lâu nó đă tự áp đặt lên trí óc con người. Định luật đó hiện hữu, nhưng nó chỉ là một khía cạnh của một định luật lớn hơn, và như chúng ta biết, sức mạnh của nó có thể tương đối bị hóa giải, bởi v́ mỗi lần mà chúng ta thấy một chiếc phi cơ bay vút qua đầu, chúng ta thấy một minh chứng của sự hóa giải định luật này bằng phương tiện cơ khí, nó cho thấy rằng con người có thể vượt qua định luật này một cách dễ dàng. Nếu hiểu được điều đó, người ta cũng thấy rằng họ đang học kỹ thuật cổ xưa mà năng lực khinh thân là một trong các bài tập mở đầu đơn giản nhất và dễ dàng nhất.

Luật Hậu Quả (Law of Consequences) không phải là việc đă được sắp đặt và không thể tránh khỏi như sự ức đoán của tư tưởng hiện đại, nó liên quan đến các Định Luật Tư Tưởng c̣n chặt chẽ nhiều hơn là người ta đă tưởng; khoa học về trí tuệ đă và đang ṃ mẫm hướng về việc t́m hiểu Luật này. Sự định hướng và các mục tiêu của khoa này đều đúng, tốt đẹp và có triển vọng đạt nhiều kết quả. Tuy nhiên, hiện nay các kết luận và các cách làm việc của khoa học này lại đầy những lầm lỗi đáng tiếc và hầu hết đều đi sai đường.

Tôi đă đề cập đến việc hiểu sai Luật Karma v́ tôi lo lắng muốn thấy các bạn bắt đầu nghiên cứu các Định luật chữa trị này bằng một trí óc phóng khoáng và cởi mở càng nhiều càng tốt, v́ biết rằng sự hiểu biết của bạn về các luật này bị giới hạn bởi:

1. Các thần học cổ xưa, với các quan điểm sai lầm, méo mó và thiếu sinh động. Việc giảng dạy thần học hầu hết đều sai lầm, nhưng than ôi lại thường được chấp nhận.

22

 
2. Tư tưởng của thế gian, bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi yếu tố dục vọng và có rất ít tư tưởng chân chính trong đó. Con người lư giải các định luật được nhận thức một cách mơ hồ này bằng các thuật ngữ có tính dứt khoát và theo quan điểm kém cỏi của họ. Thí dụ như ư tưởng về sự thưởng phạt lan tràn khắp nhiều giáo huấn về Karma, bởi v́ con người t́m một giải thích đáng tin cậy về các sự việc như chúng xuất hiện, rồi chính con người lại thích đưa ra những sự thưởng phạt. Tuy nhiên, nói chung, có nhiều Karma tốt, hơn là Karma xấu trong giai đoạn hiện nay dầu có thể là bạn không nghĩ như thế.

3. Ảo tưởng và huyễn cảm trên thế giới đang ngăn chận người b́nh thường và người vô minh không để họ thấy được sự sống đích thực. Thậm chí người tiến hóa và các đệ tử cũng chỉ mới bắt đầu thoáng thấy được một phần nào về thực tại huy hoàng.

4. Các tâm trí chưa được kiểm soát, cùng các tế bào năo chưa được giải khai (unreleased) và chưa được khơi hoạt, cũng làm cho con người không hiểu được đúng. Con người thường không nhận ra sự kiện này. Cho đến nay, bộ máy nhận thức của con người vẫn chưa thích hợp. Điểm này cần được nhấn mạnh.

5. Các đặc tính của quốc gia và chủng tộc cùng với những tính khí và định kiến có sẵn. Các yếu tố này cũng khiến người ta không đánh giá đúng được các thực tại này.

Ở đây, tôi đă nêu ra đủ lư do để cho bạn thấy rằng không nên dại dột mà cho là ḿnh đă hiểu được các định luật này, v́ đó là các định luật mà bạn đang ḍ dẫm để t́m hiểu. Trong tư tưởng con người, không có sự thiếu hiểu biết nào lớn hơn sự thiếu hiểu biết các định luật liên quan đến bệnh tật và tử vong.

Do đó, ngay từ đầu các bạn cần hiểu rằng, trong mọi điều mà tôi phải nói ra dưới đề mục “Các Nguyên Nhân Tâm Lư của Bệnh Tật”, tôi không bàn đến các bệnh hay các khuynh hướng nhiễm bệnh phát xuất từ hoàn cảnh, chung quanh người bệnh, hay là bàn tới các bệnh chứng rơ rệt về mặt thể chất do cha mẹ truyền lại – mà các bậc cha mẹ này có lẽ đă nhận lại từ ông bà – và truyền cho con cái họ.

23

 
Tôi muốn nói rằng các bệnh di truyền này hiện nay thực sự ít hơn là người ta tưởng. Trong số các bệnh này, gia đ́nh nhân loại có khuynh hướng mắc bệnh lao, giang mai và ung thư nhất. Họ bị di truyền và cũng có thể bị nhiễm bệnh do sự tiếp xúc. Tôi sẽ bàn đến các bệnh này trong đề mục chính thứ hai nói về các bệnh xuất phát từ tập thể.

 

 


24

 
CHƯƠNG  I

 

CÁC NGUYÊN NHÂN TÂM LƯ CỦA BỆNH TẬT

 

Điểm mà tôi muốn bàn đến ở đây trước khi tiếp tục đi xa hơn, đó là tôi sẽ t́m cách tránh mọi khía cạnh chuyên môn càng xa càng tốt. Chủ đề của chúng ta là xem xét bệnh tật và các h́nh thức của nó theo phương diện huyền bí, t́m cách làm sáng tỏ vấn đề và các nguyên nhân chính của các bệnh ấy, và nêu ra các luật tổng quát mà người chữa trị phải vận dụng và sáu qui luật mà y phải ghi sâu vào trí ḿnh – y phải tuân theo các qui luật đó bằng giới luật và sự hiểu biết.

Bạn nên lưu ư rằng tôi sẽ liệt kê các nguyên nhân tâm lư dưới bốn đề mục:

1. Các nguyên nhân xuất phát từ bản chất xúc cảm – t́nh cảm.

2.Các nguyên nhân bắt nguồn trong thể dĩ thái.

3.Các nguyên nhân do tư tưởng sai lầm.

4.Các bệnh đặc thù và các rối loạn tâm lư của các đệ tử.

25

 
Có lẽ các bạn để ư thấy rằng tôi đặt các bệnh của thể dĩ thái vào hàng thứ hai chứ không phải hàng đầu. Lư do của việc này là v́ các bệnh tật tập thể đă gắn chặt vào nhân loại, trước tiên tác động qua thể dĩ thái và t́m cách biểu lộ xuyên qua thể dĩ thái của mọi h́nh hài. Nhưng tôi đă đặt chúng vào hàng thứ hai, dù rằng xét cho cùng, chúng nhiều nhất do sự kiện là từ trước đến nay, nhân loại không thể đối phó với toàn thể các bệnh này.

Việc tiếp cận phải được thực hiện qua các cá nhân, và riêng mỗi người đều phải xua khỏi thể cảm dục hay thể t́nh cảm của họ, các t́nh trạng khiến cho họ dễ vướng bệnh. Hiện nay, nhân loại đang an trụ vào thể cảm dục. Bản chất xúc động xúc cảm đang hoàn toàn mạnh thế trong quần chúng. Điều này đưa đến một thể dĩ thái tương đối thụ động, thể này phải điều hợp với toàn bộ chất dĩ thái của hành tinh. Chất này nằm ở dưới mọi h́nh hài, nó chỉ là một phương tiện chuyển di và truyền đạt sinh năng cho nhục thân bên ngoài. Năng lượng lan ra khắp chất dĩ thái này, thoát khỏi mọi kiềm chế của con người cá biệt, và con người hoàn toàn không biết được nó, v́ con người tập trung chú tâm vào thể cảm dục. Nhiều điều can hệ đến các t́nh trạng thể chất của cá nhân có thể được suy diễn từ trạng thái tâm thức của thể cảm dục. Tuy nhiên, chúng ta phải loại trừ các bệnh do tập thể vốn dĩ đă lan tràn trong khắp nhân loại từ cơi của dĩ thái lực làm cho con người bị suy kiệt hay quá bị kích thích theo một lối nào đó, hoặc là ở trong một t́nh trạng đương nhiên đưa đến tử vong. Có thể nói một cách khái quát căn bản rằng hiện nay, sự rối loạn về thể chất của con người có tâm điểm ở thể t́nh cảm, và rằng hiện thể biểu lộ đó là một tác nhân nổi bật nhất đưa đến sức khỏe suy kém của cá nhân, cũng như các bệnh tập thể và việc lan tràn của bất cứ bệnh dịch nào đó trong quần chúng đều bắt nguồn từ một t́nh trạng nào đó trong chất dĩ thái của hành tinh. Các bệnh này vốn dĩ chung cho quốc gia, chủng tộc và cả hành tinh nữa, chúng t́m cách thâm nhập vào một cá nhân xuyên qua thể dĩ thái của y, nhưng đó không phải là những bệnh riêng của cá nhân. Về sau, tôi sẽ bàn thêm điều này. Hôm nay tôi chỉ nêu ra những điểm tổng quát thôi.

Tôi cũng xin nêu ra rằng các bệnh tật của quần chúng, của người dân thông thường, của giới trí thức và của các đệ tử trên thế gian, có thể và nhất định là khác nhau rất nhiều – không khác bao nhiêu trong cách biểu lộ của chúng, mà khác ở lănh vực biểu lộ. Đây là điểm khó hiểu nhất đối với nhà chữa trị bậc trung khi muốn nhận ra; đối với người này, không dễ ǵ hoặc có thể hiểu được các phân biệt này và đánh giá mức độ tiến hóa mà một người có thể đạt đến. Một số bệnh tật cần phải được đối phó từ cơi trí, và nhà trị liệu phải dùng đến thể trí của ḿnh; với nhiều bệnh khác, cần tập trung năng lượng cảm dục làm phương tiện trị liệu; và trong các trường hợp khác nữa, kẻ chữa trị chỉ nên t́m cách truyền chuyển năng lượng prana đến thể dĩ thái của người bệnh, xuyên qua chính thể dĩ thái của y. Có bao nhiêu nhà chữa trị thực sự biết tập trung tâm thức hoặc sinh lực trong bệnh nhân, mà họ đang chữa trị? Có bao nhiêu người hiểu được về loại chữa trị nào có thể và cần áp dụng vào một đệ tử? Chẳng hạn người ta rất ít khi hiểu được rằng không một đệ tử nào có thể đặt chính ḿnh vào trong tay của nhà trị liệu bằng từ điện bậc trung hoặc là người trị liệu bằng bức xạ, hoặc chuyên gia tâm lư học thuộc bất cứ loại nào. Một đệ tử không dám đặt chính ḿnh trong các phát xạ hào quang của bất luận kẻ chữa trị t́nh cờ nào, cũng không tự đặt ḿnh dưới sức mạnh của một nhà tâm lư học chỉ biết lư thuyết suông và thiếu kinh nghiệm, dù cho người ấy có xuất chúng thế nào đi nữa. Tuy nhiên, vị đệ tử có thể đặt chính ḿnh vào sự khôn khéo của một y sĩ hoặc nhà giải phẫu ở cơi trần, v́, theo y, xác thân chỉ là một người máy. Do đó, y có thể lợi dụng các phương tiện hồng trần để hưởng lợi. Nhiều thất bại của các phương pháp chữa trị hiện được dùng đều do nhà chữa trị không thể:

26

 
1. Đo lường mức độ cơn bệnh, định vị trí cơ bản của nó, biết nó nằm trong và phát ra từ thể nào là chính.

2. Biết được tŕnh độ tiến hóa của bệnh nhân, và do đó, trước hết y phải t́m kiếm nguồn gốc của bệnh.

3. Phân biệt được bệnh nào do các t́nh trạng nội tâm của bệnh nhân, hay do các khuynh hướng di truyền, hoặc là do tập thể chung quanh lây nhiễm.

27

 
4. Biết được bệnh nên trị:

   a. Bằng đối chứng trị liệu hay đồng chứng trị liệu, v́ cả hai phương pháp này đều có thể được dùng trong một số trường hợp, hay là phải dùng những phương tiện nào khác với kỹ xảo và khoa học hiện đại.

  b. Bằng bức xạ hay truyền từ điện, hoặc cả hai.

  c. Bằng cách điều chỉnh đúng tâm lư bên trong của bệnh nhân, nhờ sự hiểu biết sâu xa của người chữa trị.

  d. Bằng cách kêu gọi sức mạnh của linh hồn chính bệnh nhân, một điều không thể được, trừ với người tiến hóa cao.

  e. Nhờ các phương tiện huyền bí rơ rệt, như là tạo thành một tam giác trị liệu gồm

 

                            

 


Phương pháp này liên quan tới nhiều tri thức và người chữa trị phải đạt được tŕnh độ phát triển tâm linh cao, việc đó cũng đ̣i hỏi khả năng liên kết của người chữa trị với Chân Sư và nhóm của Chân Sư, cộng với quyền cầu xin năng lượng của nhóm để giúp bệnh nhân – một điều cho đến nay ít khi được chấp thuận.

Trước nhất, tôi xin nêu ra rằng mục đích và ư định của tôi không phải là viết ra một bộ luận về y học. Do đó tôi sẽ không bàn đến khoa giải phẫu cơ thể, tôi cũng sẽ không bàn đến các triệu chứng của bệnh tật, trừ phi hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôi không định đi sâu vào chi tiết các triệu chứng hay xem xét nhiều bệnh tật với các tên gọi dài ḍng mà hiện nay người ta dùng để phân biệt; mọi chi tiết như thế, bạn có thể thu thập được trong các sách giáo khoa thông thường, nếu bạn muốn, và bạn có thể đem chúng ra để nghiên cứu nếu cần. Tôi thấy rằng đó là việc riêng của mỗi người, và không đặc biệt thích hợp với cuộc nghiên cứu này. Chúng ta sẽ bắt đầu với tiền đề cho rằng vốn có bệnh tật; bệnh tật đó là hậu quả của các nguyên nhân bên trong. Con người đă đạt được hiểu biết nhiều về hiệu quả của các nguyên nhân này khi họ tạo ra các thay đổi ở lớp vỏ ngoài của con người, như khoa học đă làm trong việc t́m hiểu về ngoại thể (outer garment) của Thượng Đế, tức là thế giới của bản chất thuộc cơi hiện tượng.

28

 
Việc cải thiện, làm thuyên giảm và chữa lành bệnh tật của y học và giải phẫu học đă tỏ ra vượt ngoài mọi bàn căi có thể gây tranh luận. Các phương pháp được dùng, như là giải phẫu sinh thể loài vật, đúng là có tạo ra đau đớn cho con vật. Mặc cho mọi điều này, nhân loại vẫn chịu ơn y học rất nhiều, và việc phụng sự mà y học đem lại cho nhân loại, chắc chắn hóa giải được phần lớn đau khổ. Đành rằng con người không biết đúng hết mọi điều. Đành rằng có một số ít y sĩ và nhà giải phẫu (ít hơn so với bất cứ giới nào khác) v́ tư lợi và không được tin cậy v́ mánh khóe của họ, quả vậy; đành rằng họ đă hiểu biết đủ để sẵn sàng chấp nhận rằng c̣n rất nhiều điều hơn nữa mà họ cần phải biết. Tuy nhiên điều cũng đúng là có một nhóm người cao cả, tốt lành, có tinh thần hy sinh trong gia đ́nh nhân loại. Xin đừng quên điều này.

Tôi bàn đến khía cạnh chủ quan của con người và đến các nguyên nhân thứ yếu bắt nguồn từ trong các nội thể của con người và ở khía cạnh bên trong của chính bản thể. Như tôi đă giải thích ở trên, các nguyên nhân sơ khởi chính yếu đều không thể hiểu được đối với bạn. Chúng vượt ngoài khả năng của hạ trí. Tôi t́m cách làm sáng tỏ những ǵ mà con người có thể làm để tự ḿnh ngày càng thoát khỏi tích nghiệp (accumulation) của quá khứ, cả đối với cá nhân lẫn tập thể, và nhờ làm thế mới thanh tẩy thể xác của ḿnh khỏi các mầm bệnh. Tuy nhiên, cần nhớ rằng nhiều bệnh có bản chất tập thể, và tất nhiên có sẵn trong chính nhân loại. Người nào t́nh cờ đi qua các khu rừng cũng đều có thể thấy rằng giới côn trùng đang tàn phá và hủy diệt giới thực vật, cũng thế, các mầm bệnh – thuộc cá nhân và tập thể – ngày nay đang tàn phá và hủy diệt giới nhân loại. Chúng là các tác nhân hủy diệt và đang hoàn thành một chức vụ và bổn phận rơ rệt trong thiên cơ vĩ đại hiện nay.

29

 
Định mệnh của con người là tử vong, v́ mọi người đều phải chết khi có mệnh lệnh của chính linh hồn ḿnh. Khi con người đă đạt đến một tŕnh độ tiến hóa cao, với sự lựa chọn ngày giờ một cách cẩn thận và rơ rệt, y sẽ tách khỏi xác thân của ḿnh một cách tỉnh thức. Thể xác sẽ bị bỏ lại trong im lặng, v́ thiếu linh hồn, thiếu ánh sáng, nhưng lành lặn và nguyên vẹn. Sau đó, nó sẽ tan ră theo tiến tŕnh tự nhiên, và các nguyên tử cấu tạo của nó sẽ quay về với “cái kho có các đồng loại đang chờ”, cho đến khi chúng lại được cần dùng cho các linh hồn lâm phàm. Một lần nữa, ở khía cạnh bên trong của sự sống, tiến tŕnh được lặp lại. Tuy nhiên, có nhiều người đă biết cách triệt thoái khỏi thể cảm dục mà không phải chịu “va chạm trong sương mù” (“impact in the fog”), là lối mô tả tượng trưng cái chết của con người trên cơi cảm dục. Sau đó, con người tiếp tục triệt thoái lên cơi trí và bỏ lại cái xác cảm dục của y trương lên như sương mù và tăng thêm mật độ (density) của nó.

Do đó, tôi xin nói rằng việc tôi tránh dùng các thuật ngữ chuyên về y học sẽ được cân nhắc kỹ, dù rằng, chúng ta sẽ thường đề cập đến thể xác và đến các bệnh tật mà nó thường mắc phải.

Thứ hai là, hôm nay tôi t́m cách truyền đạt cho bạn thêm các Định Luật Chữa Trị khác, cũng như đưa thêm các Qui Luật cho người chữa trị. Hăy nghiên cứu kỹ các điều này.

ĐỊNH LUẬT  II

30

 
Bệnh tật là sản phẩm của và lệ thuộc vào ba ảnh hưởng. Thứ nhất là quá khứ của một người, trong đó y trả giá cho các lỗi lầm cũ. Thứ hai là sự kế thừa của người ấy, trong đó y chia sớt với tất cả nhân loại các ḍng năng lượng bị ô nhiễm vốn có cội nguồn ở tập thể. Thứ ba là y chia sớt với tất cả mọi h́nh hài thiên nhiên những ǵ mà Đấng Cai Quản Sự Sống đặt để trên thể của Ngài. Ba ảnh hưởng này được gọi là “Định Luật Cổ của việc San Sẻ Sai Trái”. Một ngày nào đó Luật này phải thay thế cho Luật mới về Điều Thiện Cổ Xưa Chế Ngự, nằm đàng sau tất cả những ǵ mà Thượng Đế đă làm. Định Luật này phải được đưa vào hoạt động bởi ư chí tinh thần của Con người.

Hỡi huynh đệ, định luật là ǵ? Đó là sự đặt để ư chí và mục đích của những ǵ vô cùng vĩ đại (vào cả cái kém quan trọng lẫn cái quan trọng hơn). Do đó mà định luật vượt ngoài tầm hiểu biết của con người. Một ngày nào đó, con người phải tri ra rằng mọi định luật của thiên nhiên đều có các đối phần tâm linh cao của chúng, và chúng ta sẽ nghiên cứu các đối phần này một cách vắn tắt thôi. Hiện nay, các định luật của chúng ta đều chỉ là các định luật thứ yếu. Chúng là các định luật của sự sống tập thể và chúng chi phối các giới của thiên nhiên và t́m cách biểu lộ (đối với giới nhân loại) qua trung gian của thể trí, của bản chất cảm dục và qua phương tiện của cơi trần. Trong bộ luận ngắn này tôi không định làm sáng tỏ các định luật nguyên thủy. Tôi chỉ phát biểu chúng và trong tương lai (tùy vào một vài yếu tố chưa được phát triển) tôi mới có thể bàn về chúng.

Trong bộ luận này, phần thứ ba của nó được bàn đến các định luật chữa trị căn bản. Các định luật này không liên quan đến các định luật nói trên, mà chỉ liên quan đến các khía cạnh thực hành của thuật trị liệu.

Qui luật thứ hai dành cho nhà chữa trị như sau:

QUI LUẬT HAI

Kẻ chữa trị phải đạt được sự tinh khiết về từ điện nhờ sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt được phóng quang (radiance) có tính chất xua tan vốn tự biểu lộ trong mỗi người khi y đă liên kết được các trung tâm lực trong đầu. Khi từ trường này được thiết lập, bức xạ cũng phát ra.

31

 
Ư nghĩa của qui luật này sẽ trở nên sáng tỏ phần nào đối với đạo sinh huyền học tiến hóa. Như các bạn biết từ trường được thiết lập khi rung động mănh liệt của trung tâm lực ở trước tuyến yên, và trung tâm lực ở chung quanh và ở trên tuyến tùng quả tiến vào phạm vi hoạt động của nhau. Điểm duy nhất có thể gây tranh luận liên quan đến qui luật trên (mà chúng ta sẽ phải xem xét sau này) là làm thế nào và bằng cách nào để đạt sự tinh khiết từ điện và làm sao cho hai trung tâm lực trong đầu có thể cùng nhau hợp thành một từ trường duy nhất. Về sau, trong phần kết luận, vốn được dự kiến để được thực hành triệt để, tôi sẽ đề cập đến hai điểm này.

Một trong các sự kiện sẽ hiện ra rơ rệt trong các nghiên cứu của chúng ta, đó là sự kiện ít khi bệnh tật có nguồn gốc ở cá nhân, trừ phi con người lăng phí cuộc đời ḿnh và lạm dụng rơ rệt thể xác của ḿnh (qua rượu chè hoặc trụy lạc). Chúng ta cũng thấy rằng phần lớn các bệnh tật xảy ra trên thế giới ngày nay hầu hết đều có nguồn gốc tập thể, bị di truyền, là hậu quả của lây nhiễm hoặc do thiếu dinh dưỡng. Nguyên nhân nêu sau cùng trước tiên là một tác tệ của nền văn minh này; đó là hậu quả của việc không ăn khớp về kinh tế hoặc là thực phẩm hư hỏng. Như trước kia tôi có nêu ra, các nguyên nhân sau của bệnh tật trước tiên không phải là hậu quả của các mănh lực tinh anh bên trong, mà là sự tuôn đổ vào thể dĩ thái của các năng lượng từ chính cơi trần và từ thế giới bên ngoài của các lực.

32

 
Các huấn sư huyền bí học ít quan tâm đến các mănh lực ngoại lai này vốn bắt nguồn từ cơi trần và tác động vào các nội thể. Có các năng lượng vật chất và các ḍng thần lực thâm nhập vào các thể dĩ thái của mọi h́nh hài, cũng như ảo tưởng của thế gian và khí độc (miasmas) của cơi cảm dục thường có các nguyên nhân của chúng trong các t́nh trạng của cơi trần. Các năng lượng thâm nhập vào các trung tâm lực của con người từ các phân cảnh tinh anh, vẫn thường được nói đến trong các sách huyền bí, nhưng các lực đang t́m cách nhập vào các trung tâm lực từ cơi của sự sống hồng trần th́ ít khi được nhận thức hay bàn đến. Đây là một ư tưởng khá mới mẻ mà tôi nêu ra cho các bạn xem xét.

Tôi đă yêu cầu A. A. B. thêm vào đây một bảng tóm tắt về một số điểm mà tôi đă nêu ra dưới tiêu đề: Bệnh tật là ǵ? Tôi gợi ư như sau:

1. Mọi bệnh tật là sự thiếu hài ḥa, thiếu chỉnh hợp và thiếu kiềm chế.

a. Bệnh tật nằm trong cả bốn giới của thiên nhiên.

b. Bệnh tật có hiệu quả thanh lọc.

c. Có những phương pháp chữa trị nhất định được dùng riêng cho nhân loại và có nguồn gốc ở thể trí.

2. Bệnh tật là một thực kiện trong thiên nhiên.

a. Thái độ đối kháng bệnh tật chỉ làm cho nó thêm mạnh mẽ.

b. Bệnh tật không phải là kết quả của tư tưởng sai lầm của con người.

3. Bệnh tật là một tiến tŕnh giải thoát và là kẻ thù của những ǵ tĩnh tại.

4. Định Luật Nhân Quả chi phối bệnh tật giống như nó đang chi phối mọi biểu lộ khác.

Chúng ta cũng thấy rằng việc chữa trị xảy ra theo ba cách:

1. Bằng cách áp dụng các phương pháp của nhiều trường phái y học, giải phẫu và các nhóm liên hệ.

2. Bằng cách sử dụng tâm lư học.

3. Bằng sự hoạt động của linh hồn.

Tôi cũng đă phát biểu rằng có ba nguyên nhân chính của bệnh tật: các nguyên nhân có bản chất tâm lư, các nguyên nhân kế thừa do sự tiếp xúc tập thể và các nguyên nhân thuộc nghiệp quả. Tuy nhiên, nên nhớ rằng các nguyên nhân này chỉ là các nguyên nhân phụ thuộc, và bây giờ, chúng ta sẽ bàn đến nguyên nhân đầu tiên.

33

 
I. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TRONG

BẢN CHẤT CẢM DỤC

Trong quyển “Luận Về Huyền Linh Thuật”, lần đầu tiên tôi đưa ra cho thế gian sự hiểu biết về bản chất và cách kiểm soát thể cảm dục. Thực ra sách này là quyển đầu tiên từng được cống hiến cho quần chúng về đề tài này. Trong quá khứ, nhiều điều đă được đưa ra về đề tài thể xác và cách chăm sóc nó, cả theo khoa học bên ngoài lẫn theo huyền bí học. Nhiều điều trong đó th́ đúng, c̣n một số chỉ là ảo tưởng. Nó là ảo tưởng v́ được dựa trên các tiền đề sai lầm. Các nhà huyền bí học hiện đại đă bàn về vấn đề thể dĩ thái, và điều này cũng đúng một phần và sai một phần, nhưng nói chung là đúng xét theo quan điểm huyền môn hơn là về mặt công truyền. Ở đây, tôi có thể làm bạn ngạc nhiên khi nói cho bạn biết rằng quyển “Luận về Huyền Linh Thuật” dù chính xác ở chừng mực nào đó, nhưng tất nhiên là nó bị giới hạn và v́ những giới hạn này, nên nó cũng phần nào không chính xác. Phát biểu trên đây có làm cho bạn ngạc nhiên không? Nên nhớ rằng, làm sao nó có thể hoàn toàn đúng được khi chúng tôi xét các giới hạn của năng lực hiểu biết của bạn? Tôi không thể truyền đạt chân lư cho bạn, v́ không có đủ thuật ngữ mà cũng không có việc chuẩn bị kiến thức đầy đủ về phần bạn. Điều này làm cho công việc của tôi trở thành khó khăn. Giáo huấn về trị liệu này cũng là giáo huấn khó nhất mà tôi đảm nhận, v́ hai lư do: Trước nhất (bản chất thực sự của) nhóm từ “các thể tinh anh” th́ có hơi vô nghĩa, phải không? Chúng không phải là các thể giống như thể xác. Chúng có thể được xem như các trung tâm lực hoặc các nơi dự trữ những loại thần lực đặc biệt, gắn liền vào mỗi cá nhân, có các lối vào và các lối ra riêng của chúng. Chúng là tập hợp của các nguyên tử, rung động ở vận tốc cao và bị nhuốm những màu sắc nào đó (tùy theo một vài trường phái huyền môn). Chúng phát ra một âm điệu (tone) nào đó, và có các tŕnh độ tiến hóa khác nhau. Theo những phái khác, th́ chúng là các trạng thái tâm thức và một số xem chúng như được tạo ra giống con người. Hỡi huynh đệ, c̣n định nghĩa của bạn là ǵ?

34

 
Đối với đa số nhân loại, thể cảm dục là yếu tố quyết định chính cần được xem xét. Nó là nguyên nhân nổi bật của t́nh trạng sức khỏe kém cỏi. Lư do là nó có một hiệu quả mạnh mẽ và ảnh hưởng đến thể sinh lực (thể dĩ thái). Thể xác là một người máy của bất cứ nội thể nào mạnh nhất. Khi bạn nhớ rằng thể sinh lực là nơi tiếp nhận các ḍng năng lượng, và thực ra nó được cấu tạo và được h́nh thành bởi các ḍng năng lượng đó, và nhớ rằng thể xác được đưa vào hoạt động nhờ các ḍng năng lượng ấy, th́ rơ ràng là ḍng năng lượng nào mạnh nhất sẽ kiểm soát được tác động của thể xác trên cơi trần. Tuy nhiên, có hai ḍng năng lượng phải được xem xét khi nghiên cứu các yếu tố đưa đến các hoạt động ở cơi trần. Về chỗ này tôi xin nhắc bạn rằng bệnh tật là một hoạt động của cơi trần.

1. Chính ḍng sinh lực nằm ở (anchored) tim, định đoạt sức sống (vitality) của con người, năng lực làm việc của y và kỳ hạn sống của y.

2. Ḍng năng lượng chiếm ưu thế xuất phát từ các thể cảm dục, thể trí hoặc thể của linh hồn (soul bodies). Các thể này kiểm soát sự biểu lộ của con người trên cơi trần.

Với quần chúng khắp thế gian và với những người mà chúng ta gọi là quần chúng kém suy tư, các yếu tố chế ngự là ḍng sinh lực và ḍng năng lượng cảm dục. Đây có thể là những người kém khả năng hay khả năng trung b́nh.

Với quần chúng biết suy tư, các yếu tố chế ngự là hai ḍng năng lượng này, cộng với một ḍng năng lượng trí tuệ đang liên tục đi vào ngày càng tăng.

35

 
Với giới trí thức trên thế giới và người t́m đạo (những kẻ đang sẵn sàng, hay đă bước vào con đường dự bị), chúng ta thấy ba ḍng năng lượng trên đạt đến một điểm thăng bằng, và như thế, tạo ra một phàm ngă hội nhập hay phối kết. Trong số này cũng có những nhà thần bí trên thế giới và những người phụng sự có óc sáng tạo, họ biết được linh hứng, và giao tiếp tâm linh là dấu hiệu của năng lượng linh hồn đang bắt đầu đi vào.

Trong các đệ tử ở thế gian, chúng ta thấy có một nhóm người nam và nữ đang ở dưới sự chi phối của năng lượng linh hồn, trong khi đó th́ ba ḍng năng lượng kia đang ngày càng phụ thuộc vào loại kiểm soát cao hơn này.

Cần nên nhớ rằng có hai loại năng lượng khác cần được kể ra khi xét đến người thông minh.

1. Năng lượng được tạo thành với các mănh lực pha trộn và ḥa hợp của một phàm ngă phối kết.

2. Năng lượng của chính cơi trần, sau cùng được người t́m đạo hoặc vị đệ tử đồng nhất hóa và hoàn toàn bị vô hiệu hóa đến nỗi rốt cuộc nó tạo ra một trong các yếu tố chính để giải phóng các bí huyệt.

Sau rốt, đến lúc vị điểm đạo đồ chỉ dùng ba loại năng lượng trong khi tự biểu lộ trong kiếp luân hồi: năng lượng của chính sự sống, năng lượng âm của phàm ngă và năng lượng dương của linh hồn. Như thế, vị ấy là một biểu hiện hữu thức của ba trạng thái của Tam Vị Nhất Thể (Trinity).

Một số điều cần được thiết lập dưới h́nh thức các sự kiện huyền linh trong ư thức của nhà trị liệu trước khi y có thể hành động một cách hữu ích.

36

 
1. Trước tiên, không có ǵ khác ngoài năng lượng, và năng lượng này tự biểu lộ thành nhiều loại năng lượng khác nhau. Vũ trụ được tạo thành bằng các loại năng lượng này. Các thể hay các hiện thể biểu lộ của con người cũng được cấu tạo bằng các đơn vị năng lượng mà không có ngoại lệ nào. Các đơn vị này chúng ta gọi là các nguyên tử, và các đơn vị nguyên tử này được gom lại với nhau thành h́nh dạng một cơ thể nhờ lực kết hợp của các năng lượng mạnh mẽ hơn.

2. Điểm tập trung năng lượng chính ở trong con người là tụ điểm của linh hồn. Tuy nhiên, từ trước đến giờ, mănh lực đóng vai tṛ kết hợp và phối kết của nó, vẫn trội hơn mănh lực đặc trưng của nó. Trong các giai đoạn trước kia của cuộc tiến hóa con người, chính trạng thái kết hợp mới biểu lộ. Về sau, khi bộ máy đáp ứng của con người, hay các thể, trở nên phát triển hơn, th́ trạng thái phẩm tính của linh hồn mới bắt đầu ngày càng biểu lộ.

3. Nh́n từ phương diện nội tâm, nơi mà thời gian không hiện hữu, th́ con người biểu lộ như một hiện tượng hay biến đổi và đáng kinh ngạc như kính vạn hoa. Cái được gọi là các thể, hay đúng hơn, là tập hợp các đơn vị nguyên tử, phai mờ và biến mất, hay là lóe lên trở lại thành biểu lộ. Các ḍng màu sắc qua rồi trở lại; chúng xoắn hay đan vào nhau. Bấy giờ, một vài chỗ sẽ đột nhiên tăng thêm độ sáng của chúng và tỏa chiếu rực rỡ; hoặc là lần nữa chúng có thể tắt đi và hiện tượng trong một vài vùng sẽ bị mất màu sắc và có vẻ không tồn tại. Nhưng luôn luôn có một nguồn sáng vẫn c̣n, đang linh trợ, từ đó, một ḍng ánh sáng tuôn đổ vào con người của cơi hiện tượng; có thể thấy ánh sáng này tự gắn liền vào hai vị trí chính so với cái nhân đặc bên trong của con người vật chất. Hai điểm liên kết này nằm ở trong đầu và trong tim. Ở đó cũng có thể thấy bảy đĩa sáng khác, lúc đầu mờ nhạt, nhưng ngày càng chói sáng, chúng là chứng cớ ban đầu của bảy trung tâm lực.

37

 
 

 

 

 

 

 


4. Các trung tâm lực này tạo nên các trạng thái phẩm tính và các trạng thái ư thức, chức năng của chúng là tô màu cái bề ngoài hay ngoại hiện của con người và dùng nó làm một bộ máy đáp ứng. Trong diễn tŕnh tiến hóa, chúng khai mở theo ba cách.

a. Loại khai mở xảy ra khi một đứa trẻ ở cơi trần trở thành một người lớn. Vào lúc nó được 21 tuổi, các trung tâm lực sẽ b́nh thường đạt đến cùng tính chất biểu hiện như chúng đă đạt đến khi y qua đời trong kiếp trước. Lúc bấy giờ, con người tiếp tục sống ở mức mà y đă rời bỏ trước kia.

b. Khơi hoạt các trung tâm lực nhờ kinh nghiệm sống. Đôi khi chỉ một trung tâm lực có thể được khơi hoạt trong một kiếp sống nào đó; đôi khi nhiều trung tâm lực được thúc đẩy vào tâm thức hoạt động to tát hơn.

c. Sau cùng, các trung tâm này được khơi hoạt qua tiến tŕnh điểm đạo. Dĩ nhiên, điều này chỉ xảy ra khi con người đă ở trên Thánh Đạo một cách hữu thức.

38

 
5. Các trung tâm lực định đoạt tŕnh độ tiến hóa của con người chừng nào con người c̣n biểu lộ ở cơi hiện tượng. Chúng tác động trực tiếp vào thể xác qua trung gian của hệ thống tuyến nội tiết. Điểm này cần được ghi nhớ, bởi v́ nhà chữa trị theo huyền môn trong tương lai sẽ tiếp cận với bệnh nhân của ḿnh bằng tri thức này. Lúc bấy giờ y sẽ hoạt động qua các trung tâm lực và các tuyến nào đang chi phối vùng bị bệnh hay đang đau ốm của cơ thể. Tuy nhiên, chưa đến lúc có thể làm việc đó, v́ sự vô minh của con người hăy c̣n nhiều. Việc kích thích quá mức các bí huyệt, và tất nhiên là các tuyến, có thể dễ dàng xảy ra, và t́nh trạng bệnh cũng có thể bị kích thích và tăng thêm, thay v́ được làm tiêu tán hay chữa lành.

 

A. XÚC CẢM THIẾU KIỂM SOÁT VÀ BẤT THƯỜNG

     Căn cứ vào các sự kiện căn bản này, người ta có thể thấy được tại sao các thái độ cảm xúc sai lầm, và một t́nh trạng kém sức khỏe chung của thể cảm dục phải là các yếu tố chủ động tạo ra đau yếu, bệnh tật. Điều này cũng do sự kiện là thể sinh lực hay thể dĩ thái của đa số nhân loại đều bị chi phối trước tiên và lôi cuốn vào hoạt động qua tác động của thể cảm dục. Sự khích động trong thể đó, bất luận hoạt động dữ dội nào do tính khí căng thẳng, lo âu quá đỗi hay là phiền muộn kéo dài sẽ tuôn đổ một luồng năng lượng cảm dục vào trong và qua huyệt đan điền, sẽ khích động bí huyệt đó và đưa nó vào một t́nh trạng xáo trộn mạnh. Sau đó, tác động này ảnh hưởng đến bao tử, tụy tạng, ống dẫn mật và bàng quang. Ít người (tôi xin hỏi ai được miễn trừ ở thời buổi đặc biệt này của lịch sử thế giới) thoát khỏi chứng khó tiêu, thoát khỏi t́nh trạng khó chịu ở dạ dày hay thoát khỏi các xáo trộn liên quan đến túi mật.

39

 
Khuynh hướng thích chỉ trích, ghét bỏ và thù hận do chỉ trích, hoặc mặc cảm tự tôn, đều tạo ra nhiều chất chua mà đa số người bị đau v́ đó. Nhân tiện, tôi xin thêm rằng ở đây, tôi chỉ khái quát hóa thôi. Rất nhiều người thường có mặc cảm tự ty liên quan đến chính họ, nhưng lại có mặc cảm tự tôn đối với người khác ! Các hậu quả liên quan đến dạ dày ở cơi trần, đều có ràng buộc chặt chẽ vào trạng thái ham muốn của thể xác, nó t́m cách biểu lộ trong việc ăn uống những ǵ được ưa thích, sau đó đưa đến các bệnh về mật mà rất nhiều người đang có khuynh hướng mắc phải.

Tôi đưa ra các minh họa trên để chứng minh hậu quả của các thái độ sai lầm thường thấy đối với cuộc sống và con người, mà ngày nay là đặc trưng cho nhân loại, và tạo ra các t́nh trạng nói ở trên.

Các ốm đau do chỉ trích, do sự thù ghét, và do tính ưa phê phán lẫn nhau (thường thường là tàn nhẫn) tác động từ bí huyệt cổ họng đến đan điền. Liên hệ hỗ tương này tồn tại giữa các bí huyệt là liên hệ chưa bao giờ được người ta xem xét một cách thích đáng. Các trung tâm lực trong thể dĩ thái chuyển nhiều loại năng lượng giữa chúng, và một số lớn năng lượng được truyền từ bí huyệt này đến bí huyệt khác thuộc loại bất hảo, lưu chuyển từ các huyệt dưới cách mô đến các huyệt trên cách mô.

Thể xác (gồm thể dĩ thái và nhục thể) có thể được mô tả như một ngôi nhà có hai máy điện thoại – một mang đến năng lượng từ bên ngoài nhà, cái kia có bản chất là điện thoại trong nhà, từ pḥng này sang pḥng khác. Đối với người nghĩ tưởng sơ sài, sự tương tự hiện ra càng chính xác hơn. Trong mọi ngôi nhà tân tiến đều có ánh sáng, nước, khí đốt và giao dịch điện thoại. Ánh sáng tượng trưng cho linh hồn; nước tượng trưng cho xúc cảm; giao dịch điện thoại tượng trưng cho trí với sự truyền đạt kiến thức lẫn nhau, c̣n khí đốt tượng trưng cho chất dĩ thái.

40

 
Điều đáng lưu ư và đáng buồn là hiện nay những ǵ từ một ngôi nhà bậc trung đưa ra lại là rác rưởi không ai ưa thích – điều đó tương ứng với những ǵ ích kỷ, buồn chán và sự đ̣i hỏi để thỏa măn các nhu cầu và ham muốn cá nhân.

Do đó, bạn có thể thấy lư do tại sao tôi rất nhấn mạnh vào việc cần có đức tính không gây tổn hại nơi tất cả các bạn, v́ đó là phương pháp khoa học tuyệt diệu nhất nói về mặt huyền bí, để tẩy sạch ngôi nhà và thanh lọc các bí huyệt. Thực hành đức vô tổn hại sẽ khai thông các vận hà bị tắc nghẽn và giúp cho các năng lượng cao siêu đi vào.

Trong thời kỳ đặc biệt này, các nguyên nhân về t́nh cảm của bệnh tật và các thái độ tâm trí tạo ra sự khó chịu trong thể xác là những điều thường thấy nhất. Khi các điều ấy tồn tại trong một thời gian dài và được chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, th́ chúng sẽ tạo ra các trạng thái trầm trọng hơn đối với t́nh trạng được nói ở trên, từ đó có thể phát sinh các bệnh trầm trọng và hiểm nghèo, thí dụ như cần phải cắt bỏ túi mật, hay có thể cần các cuộc giải phẫu để chữa các bệnh loét bao tử kinh niên. Các bệnh khác th́ phát sinh do thường chạy theo thị hiếu của bản chất dục vọng, dù cho các bệnh tính dục lại đến dưới một chủng loại khác. Do lư do trên, có thể thấy là đáng mong muốn biết bao nếu nhà chữa trị chân chính phối hợp nơi chính ḿnh không chỉ một mức độ kiến thức huyền môn, mà (ngày nào y chưa trở nên một điểm đạo đồ) c̣n biết qua về tâm lư học, về công việc của nhà chữa trị bằng từ điện và cũng phải là một y sĩ hay một nhà giải phẫu thành thạo.

41

 
Nhiều cách chữa trị hiện nay được thực hiện một cách tệ hại, nếu không muốn nói là vô ích, v́ ba điều kiện kể trên đều thiếu. Đa số các bác sĩ, nhất là các vị được gọi là bác sĩ đa khoa, là các nhà tâm lư học giỏi và họ cũng có một hiểu biết vững chắc về các triệu chứng, về giải phẫu học và các phạm vi trị liệu, vốn thường thiếu sót nơi nhà chữa trị siêu h́nh bậc trung. Tuy nhiên, họ hoàn toàn không biết về một lănh vực hiểu biết rộng lớn – có liên quan đến năng lượng, nó gặp và gây xung đột bên trong cơ thể con người. Họ cũng không biết đến các mănh lực mà họ có thể phát động nếu một số chân lư huyền học được chấp nhận đúng lúc. Trước khi mà họ tác động với thể dĩ thái và nghiên cứu môn học về các bí huyệt, th́ họ có thể tiến bộ rất ít. Nhà trị liệu theo huyền môn biết nhiều về các mănh lực và năng lượng bên trong con người, và có hiểu biết ít nhiều về các nguyên nhân căn bản của các bệnh bên ngoài, nhưng đáng tiếc y không biết ǵ về cơ cấu của con người và y không hiểu được hai điều:

Thứ nhất, đôi khi bệnh tật là sự thể hiện của các t́nh trạng bất hảo ở bên trong. Khi các t́nh trạng này xảy ra ở trên cơ thể con người, th́ bấy giờ, người ta mới có thể biết được để đối phó và trừ khử. Cũng cần nhớ rằng đôi khi sự thể hiện và thải trừ đó có thể đưa đến cái chết của cơ thể. Tuy nhiên, linh hồn vẫn tiếp tục sống. Một kiếp sống ngắn ngủi không có giá trị bao nhiêu trong chu kỳ dài của linh hồn, và được coi là rất đáng sống nếu một giai đoạn sức khỏe kém (cho dù rốt cuộc phải chết) đưa tới việc tẩy sạch các t́nh trạng sai lầm trong t́nh cảm và trí tuệ.

Thứ hai, bệnh tật đôi khi gắn liền và là một phần của tiến tŕnh triệt thoái của linh hồn ra khỏi trú sở của nó. Điều này, chúng ta gọi là sự chết, nó có thể xảy đến một cách mau lẹ và bất ngờ khi linh hồn triệt thoái một cách đột ngột ra khỏi thể xác của nó. Hoặc là sự chết có thể trải rộng trong suốt một thời gian dài, và linh hồn có thể mất nhiều tháng hay nhiều năm để thoát ra khỏi thể xác một cách từ từ và chậm răi khiến cho thể xác phải chết dần chết ṃn.

Tuy nhiên, nhiều nhà chữa trị lại chưa có đủ kiến thức để có thể xử lư các vấn đề này một cách khôn ngoan. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng:

42

 
1. Bệnh tật là một diễn tŕnh thanh lọc, được tiến hành để tạo ra sự biểu lộ tinh khiết hơn, hương vị của sự sống, ảnh hưởng, và sự hữu dụng cho linh hồn. Trong trường hợp này, bệnh có thể được chữa lành.

2. Bệnh tật có thể là một diễn tŕnh tuần tự và chậm chạp của sự chết, và như vậy giải phóng linh hồn. Lúc đó sẽ không thể chữa được, dù rằng các biện pháp giảm đau và cải thiện đều cần thiết và chắc chắn nên được sử dụng. Tuổi thọ có thể được kéo dài, nhưng việc chữa trị lâu dài và rốt ráo th́ không thể được. Nhà chữa trị tâm thần bậc trung không thể hiểu được điều này. Họ sợ chết, trong khi đó sự chết lại là một người bạn tốt.

3. Bệnh tật có thể là sự kêu gọi bất ngờ và cuối cùng để xác thân từ bỏ linh hồn, để cho linh hồn rảnh rang lo công việc phụng sự khác.

Trong tất cả các trường hợp này, mọi việc chữa trị có thể đều nên được làm, theo quan điểm y khoa và khoa giải phẫu hiện đại, và các khoa học có liên quan khác hiện có rất nhiều. Cũng có nhiều điều có thể được làm theo khía cạnh chữa trị về tâm thần, và tinh thần được trợ giúp của khoa tâm lư học. Một ngày nào đó phải có sự hợp tác trong các lănh vực khác nhau này và tổng hợp các cố gắng của các khoa đó.

Trước đây tôi có nêu ra rằng thể cảm dục là nhân tố kích động quan trọng nhất trong các kiếp sống của đa số nhân loại. Điều này do bởi sự kiện sau:

1. Đó là thể mà phần đông con người ngày nay đang tập trung tâm thức của họ vào đó.

2. Hiện nay; đó là thể phát triển nhất trong số các thể, do đó nó nhận được phần lớn năng lượng sống khi năng lượng này tuôn đổ xuống từ linh hồn, và nó cũng nhận được năng lượng của ḍng ư thức.

43

 
3. Có thể nói là nó hướng ra ngoài hay hướng về cơi kinh nghiệm hồng trần. Trong trường hợp người t́m đạo, sự định hướng đó đôi khi thay đổi và tạm thời hướng vào trong. Cũng như các bí huyệt trong con người, tức là các “hoa sen của sự sống”, được mô tả là quay xuống dưới, c̣n cuống th́ hướng lên nơi người chưa phát triển; nhưng ở người đă phát triển th́ các hoa sen này lại quay lên; cũng thế, t́nh trạng trong thể cảm dục tương đồng với điều này. Trong trường hợp của người tiến hóa cao, của điểm đạo đồ hoặc Chân Sư, th́ thể cảm dục luôn luôn hướng về linh hồn. Nơi thần bí gia, người t́m đạo và đệ tử, tiến tŕnh chuyển hướng rơ rệt của các lực được tiếp diễn, và do đó mà tạo ra một sự xáo trộn tạm thời.

4. Thể cảm dục của con người là thể được phát triển gần đây nhất (theo thứ tự thời gian th́ thể xác và thể dĩ thái là hai thể được phát triển trước) cho nên thể cảm dục vẫn là thể sống động và mạnh mẽ hơn hết. Nó đạt tới tột đỉnh phát triển vào cuối thời Atlantis và sức mạnh của nó vẫn c̣n lớn, tạo thành sức mạnh của quần chúng, tầm quan trọng và sức tập trung của quần chúng. Mănh lực này cũng được tăng thêm bằng năng lượng xuất phát từ giới động vật, giới này có tŕnh độ phát triển hoàn toàn thuộc thể cảm dục.

44

 
Ở đây, tôi xin nhắc các bạn nhớ rằng việc sử dụng từ ngữ “thể” (“body”) là hết sức sai lầm và không thích hợp. Từ ngữ này tạo ra trong tâm thức cái ư tưởng về một h́nh thể rơ rệt và một dạng thức đặc biệt. Thể cảm dục là một tập hợp các mănh lực, tác động qua tâm thức dưới h́nh thức các dục vọng, các xung lực, các khát vọng, các ước muốn, các quyết tâm, các khuyến khích và các dự tính, như thế đặt căn bản cho nhiều chân lư thuộc các giáo huấn của tâm lư học hiện đại. Các nhà tâm lư học đă khám phá (hay nói đúng hơn là đă phát triển) bản chất của một số mănh lực này, và thực ra cách dùng thuật ngữ của họ trong vấn đề này thường hay có tính cách huyền bí, và chính xác hơn các dụng ngữ của các nhà huyền bí học chính thống và nhà nghiên cứu minh triết thiêng liêng.

Có lẽ sẽ có ích cho bạn nếu tôi làm hai việc. Trước hết đưa cho bạn chi tiết chuyên môn nào liên hệ đến cách hoạt động của các lực từ cơi cảm dục vào trong thể xác, rồi kế đó cho bạn biết các hậu quả của tác động đó dưới dạng bệnh tật và nhiều sự xáo trộn khác nhau mà con người có khuynh hướng mắc phải do họ sử dụng các mănh lực ấy một cách sai lầm. Vào lúc này, chúng tôi chưa bàn đến cách chữa trị chúng. Ở đây, tôi chỉ nêu ra cơ cấu của sự kiện để sau này chúng ta có thể dựa vào đó mà có các kết luận. Về điểm này, chúng ta sẽ chỉ xem xét một người b́nh thường thôi. Các khó khăn của bậc đệ tử sẽ được bàn đến ở phần I, tiết 4.

Trước đây, tôi đă nêu ra rằng ba nhóm bệnh chính yếu của quần chúng là:

1. Bệnh lao.

2. Các bệnh xă hội, thường được gọi là các bệnh hoa liễu và giang mai.

3. Bệnh ung thư.

Thêm vào đó, chúng ta phải kể hai nhóm bệnh khác đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến những người hơi trên mức trung b́nh, và những kẻ mà tŕnh độ thông minh chung cao hơn tŕnh độ của quần chúng. Trường hợp này cũng bao gồm những người t́m đạo trên thế gian.

4. Các bệnh tim, nhưng không phải chứng suy tim (heart failure).

5. Các bệnh thần kinh, rất thường gặp vào lúc này.

Năm nhóm bệnh này và các tế phân khác nhau của chúng, đang chịu trách nhiệm cho đa số các bệnh xác thân đang đánh vào nhân loại. Hiểu đúng các nguyên nhân chiếm ưu thế của chúng sẽ là trợ giúp rơ rệt cho y học sau này. Vào lúc đầy ngờ vực này, không biết bao nhiêu điều sẽ được chấp nhận.

45

 
Ở đây, tôi xin nêu ra rằng, như bạn biết rơ, trong thể xác có các phần tương ứng với bảy trung tâm lực nằm trong thể dĩ thái và được thể cảm dục bảo dưỡng. Các phần tương ứng này chúng ta gọi là các tuyến nội tiết. Các tuyến này là các hiệu quả hay là các bằng chứng của các trung tâm lực nói trên, và đến lượt chúng, khởi xướng các nguyên nhân gây nên các hiệu quả nhỏ hơn trong thể xác. Ở đây chúng tôi thấy nên liệt kê một số sự việc mà chúng tôi đă biết để giúp các bạn hiểu rơ thêm.

 Bí huyệt       Tuyến     Các cơ quan    Loại thần     Nguồn    Thể

                                       trong thể xác         lực              cội    

1. Đầu .. …Tùng quả… Thượng năo…  Ư chí….    Atma … .Linh

                                             Mắt phải.     tinh thần.   Monad      hồn

Brahma-                                                    Tổng hợp.  Xuyên       thể.

randra                                                        Năng             qua         Bảo

Hoa Sen                                                      động.        linh hồn.    ngọc 

1000 cánh                                                                        Ư chí         trong   

                                                                                                        Hoa sen.

Nhà huyền linh học. Điểm đạo đồ. Thánh Sư

Vượt trội sau cuộc điểm đạo thứ ba.

 2. Bí huyệt… Tuyến …. Hạ năo……… Mănh lực …Tất cả … Hiện

      giữa           yên          Mắt trái.            linh hồn.        các          thể

   hai mắt.                          Mũi.                   Bác ái.            cánh      bồ đề.

   Bí                                    Thần                 Từ điển.       của hoa    Linh

   huyệt                            kinh hệ.              Ánh sáng.        sen       hồn

   ấn                                                             Trực giác.       Chơn       thể.

   đường.                                                     Nhăn               ngă.    Thượng

                                                                     thông.                               trí.

Người t́m đạo. Đệ tử. Nhà thần bí.

Vượt trội sau cuộc điểm đạo thứ hai.

3. Tim……  Tuyến……… Tim……… Sinh lực…Các  ....Thượng

                          ức            Hệ tuần                            cánh       trí.

                    (thymus)        hoàn.                                hoa        Linh

Anahata                            Máu.        Tập thể thức.  bác ái.     hồn thể.

                                   Thần kinh phế vị.

Tất cả các hạng người có khuynh hướng tinh thần.

Vượt trội sau kỳ điểm đạo thứ nhất.

Bí huyệt       Tuyến     Các cơ quan    Loại thần     Nguồn    Thể

                                       trong thể xác         lực              cội    

4. Trung …. Tuyến ……. Bộ máy …. Năng lượng ... Các …. Thể

   tâm lực       giáp              hô hấp.        Sáng tạo.    cánh hoa    hạ

   cổ họng.      trạng.         Thực quản.   Âm thanh.  kiến thức.  trí.

                                                                   Ngă thức. 

Các nghệ sĩ sáng tạo. Tất cả nhân loại tiến bộ. Giới trí thức.

 

5. Đan  ….… Tụy ……. Bao tử ……  Lực cảm dục…Các trung .. Thể

    điền.           tạng.         Gan.                                          tâm lực      cảm

                                        Túi mật.            Xúc cảm.          ở thể          dục.

                                         Hệ thần            Dục vọng.        cảm dục.

                                         Kinh.                 Xúc giác.

Hạng trung nhân (Average man).

Người thông thường (Ordinary people).

6. Bí huyệt …Tuyến… Cơ quan ….  Sinh Lực…  Cơi trần…  Thể

Xương cùng.  sinh        sinh dục.       Lực của                          dĩ thái.

                         dục .                             cơi trần.

                                                            Năng lượng

                                                               sự sống.

                                                              Sức sống

                                                              động vật.

Hạng người tŕnh độ thấp gần với thú.

7. Chót xương … Tuyến … Thận…..   Năng lượng ….. Đức Mẹ

        sống.            Thượng       Cột             Ư chí.                Thế giới.

   Mulahara            thận.       xương        Sự sống

                                                  sống.        đại đồng.

                                                                    Kundalini

46

 
Bảng liệt kê này chỉ là đại cương, và giống như bảng liệt kê các nguyên khí và các tương ứng của chúng đă được H. P. B. đưa ra trong quyển III của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, cách diễn giải nó sẽ tùy theo quan điểm của người nghiên cứu. Chúng ta sẽ sử dụng nó về sau, thêm vào nhiều cột hơn nữa và nhiều tương ứng hơn nữa. Trong mọi khảo sát này, những ǵ chúng tôi phải nói sẽ bao hàm sự tổng hợp theo sau của cơ cấu đàng sau nó:

1. Linh hồn.

2. Các thể tinh anh của trí tuệ và các xúc cảm vốn chỉ là các trung tâm năng lượng định tính.

3. Thể sinh lực với bảy bí huyệt chính của nó.

4. Hệ thống tuyến nội tiết, vốn là hiệu quả của bảy bí huyệt và là yếu tố kiềm chế quyết định trong thể xác con người.

5. Hệ thần kinh gồm ba phân hóa.

6. Ḍng máu.

Tất cả các cơ quan phụ thuộc của con người đều là các hậu quả, chúng không phải là các nguyên nhân tiền định. Các tuyến là các nguyên nhân quyết định trong con người, chúng làm cho con người theo đúng bản chất của người ấy. Chúng là các ngoại hiện của các loại thần lực đang tuôn đổ qua các bí huyệt dĩ thái, từ các thế giới hiện tồn tinh anh. Chúng biểu hiện tŕnh độ tiến hóa mà con người đă đạt được; chúng được sinh động và linh hoạt, hay không sinh động và kém linh hoạt đều tùy theo t́nh trạng của các bí huyệt. Chúng biểu lộ sinh lực đầy đủ, quá mức hay là khiếm khuyết, tùy theo t́nh trạng của các xoáy lực dĩ thái.

Lại nữa, tiến tŕnh kiểm soát có thể được ấn định xuyên qua hệ thần kinh; sự quản trị phối hợp chặt chẽ của hệ thần kinh, năo bộ và ḍng máu (dưới h́nh thức phương tiện chở nguyên khí sự sống) chi phối các hoạt động của con người hữu thức, tiềm thức, ngă thức và sau cùng là siêu thức. Hiện nay ba bí huyệt đang kiềm chế đa số con người là:

47

 
1. Bí huyệt ấn đường.

2. Bí huyệt đan điền.

3. Bí huyệt ở xương cùng.

Cuối cùng, khi con người “trở thành chính ḿnh”, (đây là nhóm từ nội môn có vẻ nghịch lư), th́ các bí huyệt cần kiểm soát sẽ là:

1. Bí huyệt đầu, brahmarandra.

2. Bí huyệt tim.

3. Bí huyệt chót xương sống.

Từ đây trở về sau, tầm quan trọng sẽ được đặt vào một nhóm ba bí huyệt thay đổi liên tục, và mỗi người sẽ khác với đồng loại ḿnh về chỗ nhấn mạnh, về t́nh trạng của các bí huyệt, về các hạch tuyến tương ứng trong thể xác, và do đó mà khác ở các bệnh tật, các ức chế và các khó khăn mà thể xác của y phải kế thừa. Chính v́ mối liên hệ này mà chúng ta thấy hiển nhiên là công việc của vị y sĩ và của nhà tâm lư học rốt cuộc phải phối hợp với nhau. Ba khía cạnh quan trọng nhất của mọi chẩn đoán là:

1. Về mặt tâm lư, hay là đánh giá các nội thể của con người theo góc độ phát triển của chúng, theo mức hội nhập của chúng và sự phối kết chung của phàm ngă, khi các trạng thái tinh anh này của con người tự biểu hiện trong tâm thức.

2. Công việc của nhà nội tiết học, khi y hành xử với các tuyến nội tiết, xem chúng như là các trạm năng lượng, nhờ đó, năng lượng – năng động và giác ngộ – từ các bí huyệt có thể tuôn đổ qua đó.

48

 
3. Nhà y sĩ, là người xem xét các kết luận của hai chuyên gia nói trên, chẩn đoán bệnh tật và chữa trị nó phối hợp với hai chẩn đoán kia.

Ba vị này có thể nhờ sự trợ giúp thêm của các nhà chuyên môn và chuyên gia trong phép trị liệu bằng điện, thuật nắn xương và nắn cột sống. Tuy nhiên, chính nhờ sự phối hợp kiến thức của thầy thuốc, nhà tâm lư học và nhà nội tiết học, mà ngành y khoa có thể tăng thêm hữu ích và tiến vào kỷ nguyên mới được trang bị để trị liệu cho những người sẽ dần dần khoác lấy những loại thể xác mới và những cơ cấu xác thân thay đổi. Cho đến nay, việc áp dụng điện để trị bệnh con người vẫn c̣n là một khoa học ấu trĩ, nhưng nó có các mầm mống của những kỹ thuật và phương pháp chữa trị mới. Việc nắn cột sống là tốt và cần thiết, nhưng cộng với phương pháp nắn xương sẽ trở thành một kỹ thuật phụ trợ rơ rệt vào ba kỹ thuật trên. Công việc của các nhà nắn cột sống và của các nhà nắn xương là hai nửa của một việc duy nhất, đó là điều mà những người đang thực hành các phương pháp này ít nhận ra. Các nhà nắn cột sống cần một sự tập luyện cẩn thận và lâu dài hơn, và cần có tŕnh độ hiểu biết chuyên môn cao hơn.

Y khoa đang từ từ tiến vào mức hữu dụng mới. Một khi nguyên nhân của bệnh tật được chuyển ra khỏi một cơ quan hay hệ thống cơ thể, đi vào một lănh vực tinh anh và sinh động hơn, th́ bấy giờ, chúng ta sẽ thấy được các thay đổi căn bản và cần thiết, dẫn đến sự đơn giản hóa, chứ không phải đến phức tạp và khó khăn lớn hơn.

Từ các nhận xét trên, người ta thấy rằng bệnh tật xuất hiện trong thể xác từ thế giới không thấy được, và do việc sử dụng hay lạm dụng các sức mạnh tinh anh trên các nội cảnh giới. Tuy nhiên, phải nhớ rằng các bệnh tật – khi nó tự lộ ra trong con người – có thể thường được xem là do các nguyên nhân sau đây, và các nhà nghiên cứu nên thận trọng ghi nhớ khi nghiên cứu về các vấn đề này:

49

 
1. Bệnh của cá nhân, do bởi các t́nh trạng bên trong cơ thể của chính người ấy, do t́nh trạng trí tuệ hay là do trạng thái t́nh cảm, chúng có thể tạo ra các bệnh nặng. Điều này được kế thừa từ quá khứ.

2. Bệnh tật vốn có trong nhân loại nói chung. Có một số bệnh mà mọi người đều có khuynh hướng mắc phải, các mầm bệnh này tiềm ẩn trong các thể xác của đa số con người, chỉ chờ có được những điều kiện sắp đặt trước để hiện ra. Chúng có thể được xem như là các bệnh tập thể.

3. Điều khá kỳ lạ là có những bệnh do ngẫu nhiên, thí dụ như các bệnh mà con người mắc phải khi y không chống nổi một bệnh truyền nhiễm nào đó.

4. Có những bệnh có sẵn trong đất đai. Cho đến nay, các bệnh này ít được người ta biết tới. Tuy thế, đất đai của địa cầu chúng ta đă quá cũ và bị tiêm nhiễm các mầm bệnh, gây tổn hại cho giới thực vật, động vật và giới nhân loại, trong mỗi giới, chúng hiện ra một cách khác nhau, tuy nhiên, căn bản đều do các nguyên nhân giống nhau.

5. Có những bệnh vốn là các khó khăn của thần bí học. Đây là các bệnh và ốm đau đặc biệt đang tác động vào các đệ tử và người t́m đạo của thế gian. Trong mọi trường hợp, các bệnh này đều có thể được truy nguyên do sự tuôn đổ năng lượng qua các bí huyệt không được trang bị thích hợp, hay là phát triển thích hợp để vận dụng sức mạnh.

Trên đây là các điều khái quát mà có lẽ bạn thấy hữu ích.

Phương pháp mà nhờ đó các lực cảm dục (như chúng ta biết, vốn là các mănh lực sự sống có tính quyết định nổi bật đối với đa số con người vào lúc này) thể hiện thành biểu lộ là một vấn đề tương đối đơn giản. Như bạn biết, trong thể cảm dục, có các tương ứng của bảy bí huyệt trong thể dĩ thái. Về bản thể, các bí huyệt này là bảy điểm tập trung thần lực chính, và mỗi điểm lại biểu lộ một trong bảy loại năng lượng cung. Trước hết, tôi xin nói rơ các bí huyệt nào biểu lộ bảy loại cung này.

50

 
Bí huyệt                Cung        Tính chất          Nguồn gốc

1. B. H. đỉnh đầu            1       Ư chí thiêng liêng.   Cơi Chân Thần

2. B. H. ấn đường           7            Tổ chức.               Cơi Niết Bàn.

                                                      Điều khiển.                 

3. B. H. Tim                     2         Bác ái-Minh triết.       Cơi Bồ đề.

                                                   T́nh thương tập thể.

4. B. H. cổ họng              5           Tính sáng tạo.               Cơi trí.

5. B.H. Đan điền             6       Cảm xúc – Dục vọng.   Cơi cảm dục.      

6. B.H. sinh dục              3                Sinh sản .                  Cơi dĩ thái.

7. B.H. chót                      4         Hài ḥa. Hợp nhất           Cơi trần.

Xương sống                                 qua xung khắc.

Ghi chú: Trong giới thứ tư, tức là giới nhân loại, chính năng lượng của cung 4 kết hợp với cung 1 sau rốt sẽ đem lại sự tổng hợp. Có một liên hệ chặt chẽ giữa bí huyệt cao nhất (bí huyệt đỉnh đầu) với bí huyệt ở chót xương sống. Như vậy loại năng lượng thứ tư này tự biểu lộ khi hợp với loại thứ nhất, bởi v́ chúng ta vẫn c̣n trụ vào tâm thức của thời Atlantis và nền văn minh đó theo thứ tự là nền văn minh thứ tư. Phần lớn công việc được làm trong nền văn minh thứ năm của chúng ta, giống dân Aryan hiện nay, khi hợp tác với nguyên khí thứ 5, nguyên khí trí tuệ, sẽ chuyển vào một tŕnh độ tâm thức cao siêu hơn. Điều này sẽ tạo ra sự hài ḥa của mọi bí huyệt, nhờ tác động của ư chí, được áp dụng về mặt trí tuệ một cách sáng suốt với mục đích tạo ra sự hài ḥa. Điểm này biện minh cho sự suy tư của chúng ta.

Trên cơi cảm dục, người ta cũng thấy trong mỗi thể cảm dục có bảy tụ điểm tương ứng mà năng lượng có thể nhập vào đó, rồi mới phóng chiếu vào các bí huyệt sinh động trong thể dĩ thái hồng trần thành bảy loại thần lực khác nhau.

Các loại thần lực này tạo ra cả hai hiệu quả xấu và tốt, tùy theo tính chất của nhục thể thụ động.

Các loại thần lực này khác nhau tùy theo loại cung hay loại thần lực, và có lẽ các bạn thấy thú vị, nếu ở đây, tôi nêu ra các hiệu quả xấu và tốt và các bệnh tương ứng.

51

 
Lực cảm dục   Bí huyệt    Khía cạnh        Bệnh            Khía

                                                     xấu                               cạnh tốt

Cung 1.               Đầu         Thương thân        Ung            Hy sinh.

Ư chí hay                                 xót phận.            thư.

quyền năng.                             Cái tôi                               Hiến dâng

                                                   bi thảm .                               cái Tôi.

Cung 2.               Tim           Tự ái/ Ích kỷ        Đau         Bác ái của

Bác ái –                                    Phàm ngă           tim.          Linh hồn.

Minh triết.                                                           Đau     T́nh thương

                                                                            Bao tử .       tập thể.

Cung 3.           Sinh dục          Tính dục             Các    T́nh thương

Hoạt động.                         quá hoạt động.      bệnh    của cha mẹ.

                                                                             xă hội.   Sự sống tập    

                                                                                                   thể.

Cung 4.               Ấn                  Ích kỷ.             Mất trí.     Thần bí

Hài ḥa.           đường.          Giáo điều                                học.

                                                 độc đoán. 

 Cung 5.          Cổ họng.         Tâm linh        Biến dưỡng  Sáng tạo.

Kiến thức.                                học thấp.         sai lầm.    Nhạy cảm.

                                                                            Vài loại         Linh       

                                                                            ung thư.        hứng.

Cung 6.          Đan điền.          Đa cảm.             Bệnh         Đạo tâm.

Sùng tín.                                                             thần kinh.     Đúng

                                                                         Viêm dạ dày.  phương

                                                                            Bệnh gan.      hướng.

Cung 7.            Chót                  Tư lợi .            Đau tim.        Huyền

Tổ chức.      xương sống.          Thuần               Bướu.             linh

                                                      ích kỷ.                                    thuật.

                                                  Hắc thuật.

52

 
Xin nhớ rằng khi nghiên cứu, bảng liệt kê này chỉ có tính cách khái quát và chỉ liệt kê được một phần trong các loại bệnh tật có thể là kết quả của ḍng năng lượng lưu nhập. Bảng này chỉ có mục đích gợi ư; sự phức tạp của cơ thể con người và sự phức tạp của năng lượng cung, đă khiến cho chúng ta không thể đưa ra được các qui tắc dứt khoát và cứng nhắc nào. Các lực của cung biểu hiện một cách khác hẳn tùy theo loại cung và tùy tŕnh độ tiến hóa. Do đó, ở đây không có sự mâu thuẫn nào đối với các bảng biểu trước. Nếu bạn nhớ rằng, về cơ bản, mỗi người là biểu hiện của năm mănh lực cung:

1.Cung linh hồn.

2.Cung phàm ngă.

3.Cung chi phối thể trí.       

4.Cung chi phối thể cảm dục.

5.Cung của bản chất vật chất

th́ điều trở nên hiển nhiên là đối với người bậc trung cần phải kê ra hai bảng biểu như thế.

1. Cần có sự phân giải tích cực về các mănh lực cảm dục khi chúng biểu hiện cho phàm ngă.

2. Phân tích các mănh lực của linh hồn khi chúng được biểu hiện một cách yếu ớt. Một phân tích tiêu cực liên hệ tới những ǵ không tồn tại trong vận cụ và có thể là không đáng kể ở đây.

Cũng cần có sự phân tích các lực, tác động vào thể xác từ cơi cảm dục; vốn được nhận trực tiếp từ linh hồn và do đó là sự phối hợp sức mạnh của linh hồn cộng với loại năng lượng cảm dục cao nhất. Điều này sẽ có bản chất của một phân tích tổng hợp và sẽ chỉ xảy ra trong trường hợp của một đệ tử hay một điểm đạo đồ. Do đó, rốt cuộc, đối với mỗi người, bạn sẽ có:

53

 
1. Một phân tích tích cực về các lực của phàm ngă, trước tiên của lực cảm dục, v́ đó là mănh lực vượt trội đang tuôn đổ vào các bí huyệt dĩ thái.

2. Một phân tích tiêu cực về các trạng thái của năng lượng linh hồn, vốn chưa hiện ra.

3. Một phân tích tổng hợp, dựa vào cả hai phân tích trên, nhưng cũng kết hợp với ghi nhận về biểu hiện tích cực của linh hồn.

Trong các bảng liệt kê và các phát biểu này, tôi đă truyền đạt cho bạn nhiều điều cần suy gẫm.

B. Dục vọng bị ức chế hoặc lan tràn.

Ở đây, sẽ là hữu ích cho các bạn nếu tôi làm sáng tỏ rằng một trong các điều trước tiên mà một môn sinh phải ghi nhớ, đó là – đối với đa số nhân loại, tuyệt đại đa số – các ảnh hưởng và các xung lực xuất phát từ cơi cảm dục là một yếu tố tiền định trong mọi vấn đề liên hệ đến chính cá nhân đó, ngoài những t́nh trạng mà y không thể tránh khỏi (được áp đặt vào y do môi trường chung quanh y và trong giai đoạn mà y đang sống). Cơi cảm dục là một trung tâm của mănh lực đang tỏa ra mạnh mẽ, về căn bản, nó đang có hiệu quả chi phối, bởi v́ tŕnh độ tâm thức cá nhân của đa số nhân loại đều ở cơi đó. Con người bị tác động bởi sức thôi thúc của dục vọng ở mức độ cao hoặc thấp. Dĩ nhiên, đây là một điều rất tổng quát, v́ t́nh trạng căn bản đó đang trở nên thay đổi liên tục bởi những sức thôi thúc xuất phát từ cơi trí. Điều này tất nhiên làm phức tạp thêm cho vấn đề. Các ảnh hưởng xuất phát từ linh hồn, hiện cũng đang được mọi người ngày càng thấu hiểu – khiến cho nỗi khó khăn của người tiến hóa cao c̣n thêm phức tạp hơn nữa. “Vấn đề phiền phức này” (tôi tạm gọi như thế) là một “điều khó hiểu” cho một môn sinh muốn t́m hiểu về t́nh trạng thể chất của riêng y, hay là t́nh trạng thể chất của người mà y đang t́m cách giúp đỡ.

54

 
Nhân đây, tôi xin đưa ra cho các bạn một định luật thứ ba đang chi phối thuật chữa trị thiêng liêng.

ĐỊNH LUẬT  III

Bệnh tật là hậu quả của việc tập trung căn bản năng lượng sự sống của con người. Từ cơi mà các năng lượng này được tập trung, những t́nh trạng có tính quyết định này tiếp diễn, tạo ra sức khỏe kém cỏi, và do đó, thể hiện dưới h́nh thức bệnh tật, hoặc dưới h́nh thức không có bệnh tật.

Do đó, bạn thấy rơ là sự thay đổi chú tâm bên trong (thái độ trí tuệ) của bệnh nhân có thể và sẽ tạo ra, hoặc là thực sự không có các bệnh thể xác, hoặc là tăng thêm các phản ứng vốn tạo ra sự khó chịu, bệnh tật hoặc tử vong.

Trong ba định luật mà tôi trao ra cho bạn, và giờ bạn đang nghiên cứu, hiển nhiên là các sự kiện sau đây sẽ xuất hiện. Các sự kiện này tạo thành nền tảng cho bạn truy cứu:

1. Bệnh tật là hậu quả của sự ngăn chận ḍng chảy tự do của sự sống linh hồn.

2. Bệnh tật là sản phẩm hoặc là kết quả của ba ảnh hưởng:

a. Lầm lỗi xưa, xuất phát từ chuyện đă qua của kẻ có liên hệ.

b. Các vết nhơ trong nhân loại, bị kế thừa v́ con người là một thành viên của gia đ́nh nhân loại.

c. Tà lực của hành tinh, áp đặt vào mọi h́nh hài trên địa cầu bởi t́nh trạng căn bản và bởi thời gian.

3. Bệnh tật bị chi phối bởi các mănh lực xuất phát từ cơi mà tâm thức con người được tập trung chủ yếu trên cơi đó.

Cùng với các phát biểu trên, nên thêm vào một sự kiện đă được nhắc đến, đó là:

55

 
4. Có năm nhóm bệnh chính với các bệnh liên hệ và các bệnh phụ thuộc.

a. Bệnh lao

b. Bệnh giang mai

c. Bệnh ung thư

d. Bệnh tim

e. Bệnh thần kinh

Tôi không phân chia những điều mà tôi phải nói, thành các bệnh thuộc các cơ quan và các bệnh thuộc về chức năng. Ở đây, tôi cũng không đề cập tới các bệnh do truyền nhiễm hoặc do tai nạn. Tôi chỉ đề cập đến các mầm bệnh căn bản hoặc là các khuynh hướng dễ mắc bệnh vốn là cái di sản không lành mạnh của nhân loại nói chung, và chỉ đề cập đến các khó khăn có liên quan đến các giai đoạn phát triển tiến hóa vốn là đặc trưng của các giai đoạn tiến hóa cao hơn trên Thánh Đạo. Do đó, chúng ta sẽ thấy rằng người nào nhập thế cũng đều đang kế thừa các khuynh hướng dễ mắc bệnh, xuất phát:

1. Từ chính quá khứ của người ấy, tức là quả của các nhân phát khởi trong các lần luân hồi trước.

2. Từ di sản chủng tộc chung của nhân loại.

3. Từ t́nh trạng của sự sống hành tinh. Các nguyên nhân sau này nâng toàn bộ vấn đề ra khỏi hiểu biết thông thường của người bậc trung.

Con người cũng có khuynh hướng dễ mắc bệnh nếu con người thành công (do kết quả của lịch sử tiến hóa lâu dài), trong việc khơi hoạt được các bí huyệt trên cách mô theo một lối nào đó dù là nhẹ nhàng. Trong một chu kỳ lâu dài của nhiều kiếp sống, lúc mà điều đó xảy ra, y trở nên lệ thuộc vào các bệnh liên quan đến tim hay đến hệ thần kinh với nhiều nhánh nhóc khác nhau của nó. Thường thường, một người tiến hóa, như là một người t́m đạo hoặc một đệ tử, có thể tự thoát khỏi các bệnh di truyền, nhưng sẽ không chống nỗi bệnh tim, các chứng rối loạn thần kinh, mất thăng bằng trí tuệ và quá bị kích thích. Đôi khi chúng được phân loại như là “bệnh của những Nhà Thần Bí”.

56

 
Tôi xin nói rơ rằng tôi không định đi vào lĩnh vực thảo luận về sinh lư học, để thảo luận chi tiết về các triệu chứng của bệnh tật, hay bàn đến các thương tổn, các t́nh trạng bệnh lư, và các chi tiết gây đau khổ kèm theo sự suy nhược của bất luận một cơ thể con người nào. Tôi không định viết một bộ luận về giải phẫu học hay về các khoa học khác phát triển lên từ việc nghiên cứu cơ cấu của con người, chúng liên hệ với cấu tạo và cấu trúc, các cơ quan, các dây thần kinh, mô năo và các hệ thống liên hệ hỗ tương hợp thành bộ máy phức tạp tức là cơ thể con người.

Về mặt khoa học công truyền, tôi gặp hai trở ngại sau đây:

1. Toàn bộ vấn đề đă được đề cập đến một cách tuyệt diệu trong nhiều sách y khoa và giải phẫu học. Có ít điều mà tôi có thể đưa thêm vào để giúp ích cho cuộc thảo luận loại đó.

2. Trừ một số ít người, c̣n đa số độc giả đều không thành thạo về cấu trúc và cấu tạo của cơ thể con người; các chi tiết về bệnh lư học, mô tả về bệnh và các triệu chứng khó chịu khác của sự suy yếu của con người, đều là cách lư giải không thích hợp cho một người nam hay nữ bậc trung. Một chút tri thức theo các đường lối này lại có thể là điều nguy hiểm.

Trước tiên, tôi t́m cách bàn đến các nguyên nhân, đến các nguồn gốc bên trong của bệnh tật và bàn đến các trạng thái ư thức (không chỉ nói các trạng thái trí tuệ) vốn tạo ra sự vận hành sai và rốt cuộc gây nên các t́nh trạng tệ hại.

Do đó, nhà chữa trị cần biết hai điều:

57

 
Thứ nhất, y phải biết sự khó khăn nằm bên trên hay dưới cách mô; muốn thế, nhất định là y phải có các kiến thức huyền linh, cũng như các hiểu biết về khoa tâm lư.

Thứ hai, y phải hiểu rơ về những ǵ đang được bệnh nhân chú trọng. Hiểu được điều này, y mới chẩn đoán được điều thứ nhất.

Phát biểu này đưa chúng ta đến phát biểu về qui luật thứ ba dành cho các nhà trị liệu.

QUI LUẬT  BA

Nhà trị liệu hăy tự luyện tập để biết tŕnh độ tư tưởng bên trong hay là ước muốn của kẻ đang t́m sự giúp đỡ của ḿnh. Bằng cách đó y có thể biết nguồn cội mà từ đó bệnh tật phát xuất. Y nên liên kết nguyên nhân và hậu quả và biết được điểm chính xác mà nhờ đó có thể chữa được bệnh.

Tôi muốn các bạn hăy lưu ư đến mấy lời cuối và muốn nhấn mạnh với bạn sự kiện rằng trước tiên bệnh tật là một cố gắng thuộc về phần thể xác để t́m cách làm giảm bớt và thoát khỏi những áp lực bên trong, do các ức chế bên trong và sự kiềm hăm ngấm ngầm. Trước tiên, theo quan điểm của huyền bí học, mọi bệnh thuộc xác thân đều là hậu quả của:

1. Kích thích sai lầm hay là quá bị kích thích hoặc là sự kích thích được đặt sai vị trí và sự căng thẳng bên trong ở một phần nào đó của cơ thể.

2. Các ức chế, khao khát trong tâm linh và các mănh lực bên trong tích tụ làm ngưng đọng ḍng thần lực của sự sống.

Do đó, bạn sẽ thấy rằng (trong lănh vực sức khỏe) mọi nỗi khó khăn đều tự chúng giải quyết bằng cách sử dụng đúng và vận dụng đúng thần lực, để làm cho ḍng năng lượng được thông suốt.

58

 
Tất nhiên sẽ nảy sinh câu hỏi: Từ đâu xuất phát các bệnh do kế thừa này? Có thể nào t́m đến cội nguồn của chúng không? Vấn đề của quá khứ và các hậu quả hiện nay của quá khứ đó th́ quá rộng lớn không thể xem xét hết được, cũng không có phát biểu nào liên quan đến t́nh trạng đó mà có thể giúp ích nhân loại được. Tuy nhiên, tôi có thể đưa ra một khái quát và thậm chí có thể truyền đạt một ít kiến thức cho bạn.

Trong số ba bệnh tật chính truyền lại từ quá khứ, có thể nói rằng bệnh giang mai hay thường được gọi là bệnh xă hội, là dấu vết c̣n lại của việc quá nuông chiều dục vọng vào thời Lemuria. Chúng có cội nguồn cổ xưa đến nỗi chính đất đai bị tràn ngập các mầm bệnh này – một sự kiện mà khoa học hiện đại hoàn toàn không biết được. Qua nhiều thời đại, con người đă chịu đau khổ v́ các nhóm bệnh truyền nhiễm này. Họ đă chết đi và được chôn cất tới hàng triệu, nên đă làm cho địa cầu thêm ô nhiễm. Vào thời Lemuria, thần lực sự sống được tập trung vào thể xác, vào sự phát triển của nó, vào công dụng và sự kiềm chế nó và cũng cốt làm cho nó được sống lâu hay sinh sản. Chính là vào thời Lemuria mà các bệnh liên quan đến sự lạm dụng sự sống tính dục đă bắt đầu. Theo một ư nghĩa đặc biệt, đó là điều tai hại chủ yếu đầu tiên, các truyền thuyết cổ xưa và các ẩn ngữ liên quan đến vấn đề này đều được t́m thấy trong khắp các di tích và các bút kư cổ xưa. Hậu quả này vốn có bằng chứng, nhưng đă bị diễn dịch sai lầm rất nhiều, và chỉ khi nào con người có thể hiểu các di tích một cách chính xác hơn và diễn dịch đúng hơn, bấy giờ họ mới hiểu ra mọi lẽ, bởi v́ họ sẽ thấy rơ hơn các nguyên nhân tiềm ẩn.

Bệnh ung thư được truyền lại cho người thời nay do nhân loại của thời Atlantis, và tai họa của bệnh này là nhân tố chính đă tàn hại cư dân của Atlantis xưa kia. Căn cội của tệ trạng này đă ăn sâu vào bản chất cảm dục và gắn chặt vào thể cảm dục. Ung thư là một phần kết quả của một phản ứng đối với các bệnh liên hệ với đời sống t́nh dục đă trở nên lan tràn vào cuối thời Lemuria và đầu thời Atlantis. Con người vào các thời kỳ ấy khi thấy các tệ hại khủng khiếp và sự lan rộng của chứng bệnh đă sinh sôi nẩy nở trong cuộc sống sung túc thời Lemuria, là kết quả của cuộc sống tính dục bừa băi ở mọi mặt, v́ bản năng tự tồn họ đă đè nén ḍng lưu chuyển tự nhiên của dục vọng (tức là ḍng sự sống khi nó tự biểu hiện qua các trung tâm sinh sản và sinh hóa) và sự đè nén này vào đúng lúc đă tạo ra các tác hại khác. Trước nhất ung thư là bệnh do sự ức chế, cũng như các bệnh giang mai là các bệnh do việc biểu hiện thái quá và lạm dụng một khía cạnh của cơ thể con người.

59

 
Ngày nay, do bệnh này đă phát triển trong những thời gian quá lâu, và do bởi vô số các thế hệ con người đă qua đời trên quả đất, mà “các mầm bệnh” (do kẻ ít suy tư gọi) của các bệnh ung thư kinh khiếp được t́m thấy trong chính đất đai mà chúng ta đang sống, cảm nhiễm giới thực vật cũng như gia đ́nh nhân loại. Tương tự, bệnh giang mai của con người cũng được t́m thấy trong giới khoáng chất.

Bệnh lao vốn đă lây lan dữ dội vào một giai đoạn nào đó trong thời Atlantis, tuy nhiên, phần lớn nó đă xuất phát trong chủng tộc Aryan chúng ta và là bệnh mà chúng ta đang truyền lại cho giới cầm thú và cùng chia sẻ với chúng. Điều này đang bắt đầu được nhận ra. Tuy nhiên, liên hệ giữa con người và con thú (đặc biệt là gia súc) vốn mật thiết đến nỗi ngày nay thực sự chúng cũng chia sớt mọi sự đau ốm của con người, dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, đôi khi có thể nhận ra, đôi khi th́ không. Điều kỳ lạ là nguyên nhân của hiểm họa này lại được t́m thấy trong việc chuyển trọng điểm sinh hoạt ra khỏi bản chất t́nh cảm đi vào trọng điểm của bản chất trí tuệ, tạo ra sự thiếu thốn tạm thời của bản chất t́nh cảm. Nó phần lớn là một bệnh làm cho kiệt sức. C̣n bệnh ung thư cũng do thời trước đă có việc chuyển thần lực sự sống từ thể xác vào trong bản chất t́nh cảm, làm cho sự sống tế bào phát triển quá độ, do quá bị kích thích. Tôi biết các bạn khó hiểu được các phát biểu này. Tôi chỉ có thể đưa ra cho bạn các ẩn ngữ mà không chứng minh. Chỉ có các khám phá sau này mới có thể chứng minh được sự thật của các điều tôi đă gợi ư. Chúng ta hăy liệt kê ra đây các kết luận của chúng ta:

60

 
Bệnh            Giống dân     Thể         Giới             Cơ quan

Giang mai           Lemurian       Xác      Khoáng chất       Cơ quan

                                                                                                sinh dục.

                                                                                                Bí huyệt

                                                                                                 sinh dục.

  Ung thư            Atlantean    Cảm dục     Thực vật          Bí huyệt

                                                                                                đan điền.

   Lao                      Aryan           Trí             Động vật         Bộ máy

                                                                                                  Hô hấp.

                                                                                                 Bí huyệt

                                                                                                 cổ họng.

Khi nhắc đến các bí huyệt ở trên, tôi đang nhắc đến trung tâm để phân phối sinh lực, nơi có trọng điểm của quần chúng. Do điều nói trên, chúng ta có thể thấy rơ rằng cần phải căn cứ vào trọng điểm nào để chữa lành bệnh. Chúng ta đă biết được cách chữa lành bệnh lao rồi, bởi v́ đó là một bệnh nảy sinh trong thời gian gần đây nhất, và do đó là bệnh ít ăn sâu nhất trong số ba bệnh chính yếu mà con người hiện nay bị kế thừa. Khi dùng trí thông minh nghiên cứu vấn đề, người ta đă khám phá ra rằng ánh nắng mặt trời và thức ăn bổ dưỡng có thể chữa lành hay ít ra cũng ngăn chận được bệnh này. Trong lănh vực huyền linh, có một điều tương ứng lư thú, đó là giống như ánh sáng của linh hồn tuôn rải vào trong thể trí, có thể được dùng để giải quyết bất cứ vấn đề khó khăn nào, th́ ánh sáng mặt trời và các tia có tính pḥng bệnh của nó có thể xua đi được các triệu chứng khủng khiếp của bệnh lao.

61

 
Tương tự như vậy, khi nhân loại phát triển được khả năng kiềm chế t́nh cảm đúng mức th́ chúng ta sẽ thấy hiện tượng ung thư biến mất dần. Tôi nói kiềm chế t́nh cảm đúng mức; dùng mănh lực của ư chí để ức chế và đè nén các xung lực của dục vọng th́ không phải là kiềm chế đúng. Cũng là lư thú khi ghi nhớ rằng dù cho cả hai phái nam và nữ, đều đau khổ v́ bệnh ung thư, nhưng nguyên nhân tổng quát th́ không giống nhau, dù rằng nguyên nhân căn bản (tức là phản ứng do sự biểu lộ quá độ của đời sống tính dục qua sự vun bồi bản chất dục vọng) th́ vẫn giống nhau. Phái nữ, do các nguy cơ mà họ gặp phải trong thời kỳ sinh nở, do việc chuyển trọng điểm sự sống đến khía cạnh tính dục của sự sống, họ đă chống lại h́nh thức biểu lộ sự sống đó ở một mức độ rộng lớn (như người Atlanteans đă làm), và chính v́ theo đường lối tính dục này mà đa số các ức chế của họ đă xảy ra. Họ không đau khổ quá nhiều do sự ức chế tổng quát của biểu lộ t́nh cảm – dục vọng và cảm xúc. Phái nam mới đau khổ do ức chế vừa kể, và họ có một truyền thống hay một khuynh hướng rơ rệt là kiềm chế t́nh cảm mạnh mẽ trong cách ứng xử với sự sống hơn phái nữ. Nam giới không đ̣i hỏi hoặc có được sự chế ngự tính dục rơ rệt như thế. Do đó, lĩnh vực chung của khuynh hướng sự sống bị ức chế của họ th́ rộng lớn, và bởi vậy mà (nếu thống kê có thể tin được) có nhiều người nam bị ung thư hơn là nữ, dù rằng đó là một bệnh ghê gớm mà tất cả mọi người đều khiếp sợ.

Trong cái bí mật của sự chuyển hóa đúng, có ẩn cách chữa trị ung thư, và điều này rốt cuộc sẽ được hiểu rơ. Tôi đang sử dụng nhóm từ này không những về mặt biểu tượng, mà c̣n về mặt kỹ thuật và khoa học nữa. Về sau, điều này lại sẽ được nhận thấy. Trong cái bí ẩn của cách sống theo tiết điệu đúng và trong việc nhấn mạnh đúng tỷ lệ vào mọi giai đoạn của sự sống sẽ đến (và đang nhanh chóng đến) sự miễn nhiễm hoàn toàn với bệnh lao sẽ xảy ra. Với cái bí mật về hiểu đúng thời gian và chu kỳ và về sáng tạo sinh sản theo chu kỳ, nhân loại sẽ ra khỏi các tác hại của các bệnh xă hội.

Do đó, bạn sẽ thấy rơ là sau cùng các bệnh giang mai sẽ biến mất, cũng như chúng đă tàn hại nhân loại trước nhất. Bệnh lao đang tan biến. Hiện nay, các chuyên gia đang chú ư đến việc chữa trị ung thư.

62

 
Tôi xin thêm một hoặc hai phê phán có tính tổng quát hay nói đúng hơn là hiện đang được quan tâm. Như tôi đă nói, các mầm bệnh nói trên (mà nhân loại đang có khuynh hướng mắc phải) đều có trong đất đai, và sở dĩ chúng có trong đất phần lớn là do người ta đă chôn vào đất hàng triệu xác chết qua nhiều thời đại. Nhờ áp dụng cách hỏa táng ngày càng nhiều, t́nh trạng ô nhiễm này sẽ dần dần được cải thiện. Bằng cách đó, sự ô nhiễm sẽ lần hồi tiêu tan hết. Do đó điều rất đáng mong muốn là chúng ta nên cố gắng truyền bá cách dùng phương pháp này càng nhiều càng tốt để xử lư các thể xác đă bị các linh hồn từ trần thải bỏ. Khi đất đai ngày càng trở nên ít bị ô nhiễm và khi sự tiếp xúc với linh hồn được thiết lập, chúng ta có thể hy vọng thấy số người mắc phải các ô nhiễm do kế thừa sẽ ngày một giảm đi. Kỳ lạ là việc dùng muối thoải mái như tắm biển lại có hiệu quả rơ rệt cho sức khỏe của thể xác. Nước biển t́nh cờ được hấp thụ qua da và miệng, có hiệu quả pḥng bệnh rất đáng kể.

63

 
Ngày nay, một trong các vấn đề chính đối với nhà tâm lư học và ở mức kém hơn đối với nhà y học là việc tăng t́nh trạng đồng phái luyến ái trong cả hai phái nữ và nam. Các luận cứ chỉ có lư ở bề ngoài được nêu ra để chứng minh rằng sự phát triển bất thường này (với hậu quả là quan tâm vào khuynh hướng bệnh hoạn này) là bởi sự kiện nhân loại đang từ từ phát triển thành lưỡng tính, và trong tương lai, sẽ xuất hiện những người nam hay nữ lưỡng phái. Điều này lại vẫn không đúng. Đồng tính luyến ái là cái mà nếu muốn, chúng ta có thể gọi đó là “thức ăn thừa” (“left over”) do các thái quá tính dục của thời Lemuria, một vết nhơ bị kế thừa, nếu bạn thích gọi thế. Các chân ngă đă biệt ngă hóa và đă lâm phàm trong thời kỳ dài đó chính là những kẻ mà ngày nay đang biểu lộ các khuynh hướng đồng phái tính. Vào thời đó, sự thèm khát tính dục cấp thiết đến nỗi các diễn tŕnh phối hợp b́nh thường của con người không làm thỏa măn được ước muốn vô độ của những người phát triển đương thời. Sức mạnh của linh hồn, đang tuôn đổ vào qua các tiến tŕnh biệt ngă hóa, dùng kích thích các bí huyệt thấp nhất. Do đó, các phương pháp ngăn cấm đă được áp dụng. Những người đă thực hành các phương pháp đó, ngày nay có một số lớn đang luân hồi, và các thói quen xưa vẫn c̣n quá mạnh đối với họ. Hiện nay, họ đă đi khá xa trên đường tiến hóa, nên việc chữa trị xảy ra dễ dàng vào lúc này – nếu họ chọn điều đó. Họ có thể chuyển xung lực tính dục đến bí huyệt cổ họng một cách tương đối dễ dàng, và như thế, họ trở nên sáng tạo theo ư nghĩa cao hơn, bằng cách dùng các năng lượng đă cảm nhận được và luân chuyển chúng theo những đường lối kiến tạo đúng đắn. Nhiều người trong số họ đang bắt đầu tự động làm điều này. Tuy nhiên, người ta biết rơ là, trong số các hạng được gọi là nghệ sĩ, t́nh trạng đồng phái tính rất thường xảy ra. Tôi nói rằng “được gọi”, bởi v́ người nghệ sĩ sáng tạo chân chính không phải là nạn nhân của các thói quen tệ hại sẵn có từ xưa này.

Ở đây, có thể nêu ra rằng có ba loại đồng phái luyến ái:

1. Có loại là kết quả của các thói quen tệ hại xưa. Đây là nguyên nhân chính ngày nay, và nó cho thấy:

a. Người đó được biệt ngă hóa trên hành tinh này, v́ những người đă biệt ngă hóa trên dăy nguyệt cầu, đều không dễ mắc phải các tính chất nguy hại này.

b. Các Chân ngă thời Lemuria mắc phải sự thỏa măn dục vọng theo lối này đều đă đạt được tŕnh độ tiến hóa tương đối cao.

c. Đó là hậu quả của việc nghiên cứu ma thuật tính dục (sex magic), cộng với sự thôi thúc tính dục thường xuyên của thể xác không được thỏa măn.

2. Đồng tính luyến ái mô phỏng: một số người thuộc mọi tầng lớp đă bắt chước các kẻ sành sỏi hơn của họ (tôi tạm dùng một từ ngữ nghịch thường như thế) và v́ thế mà đă phát triển những thói quen phối hợp tính dục tệ hại, mà đáng ra họ không vướng vào. Đây là một trong các lư do thường thấy ngày nay, trong nhiều người nam cũng như nữ và được dựa trên một sự tưởng tượng quá linh hoạt, cộng với thể chất mạnh hay bản chất tính dục mạnh mẽ và một sự hiếu kỳ dâm ô. Điều này tôi nói với tính cách khuyên bảo. Hạng này có nhiều trong những người đồng phái luyến ái nam lẫn nữ (sodomites and lesbians).

3. Một vài trường hợp hiếm có, rất hiếm có, đó là ái nam ái nữ (hermaphroditism). Những người này kết hợp trong chính họ cả hai khía cạnh của đời sống tính dục và phải đối phó với vấn đề rất hiện thực này. Đó là một vấn đề đang tăng mạnh do sự vô minh của nhân loại, do con người từ khước đối phó với các sự thật, do sự luyện tập và dạy dỗ sai lầm từ thời c̣n trẻ và do sự hiểu biết sai lầm đă lan rộng.

64

 
Các trường hợp này chỉ là thiểu số ở mọi nơi, và đối với dân số thế giới, họ vẫn không đáng kể. Tuy rằng sự hiện hữu của họ là mối quan tâm thực sự cho y giới, khiến cho những người có ḷng nhân đạo và các nhà tâm lư học nhiều hiểu biết hết sức xót thương và động ḷng trắc ẩn. Họ đang gặp phải một t́nh thế khó khăn.

Tôi đă bàn đến phần nào chi tiết của vấn đề này, v́ đối với bạn, biết được các sự kiện và các chi tiết như thế cũng là điều hữu ích. Nó dùng để soi sáng vấn đề mà một số lớn người được kêu gọi để đối phó. Các nhà tâm lư học, các nhà phụng sự xă hội, các y sĩ, và tất cả những ai quan tâm đến việc giáo dục tập thể, đều thường xuyên đối mặt với vấn đề này, và người ta cũng phải biết cách xem xét và phân biệt được các loại, để làm sáng tỏ vấn đề ([2]).

Các bạn sẽ thấy trong các giáo huấn này nhiều ẩn ngữ, dù cho chúng không thể được phân loại rơ rệt như các giáo huấn về trị liệu, tuy nhiên, chúng cũng thuộc về loại đó, v́ chúng sẽ giúp cho độc giả hiểu rơ vấn đề hơn.

Từ những điều trên, bạn cũng sẽ ghi nhận được bằng cách nào mà chúng ta có thể cho rằng tệ trạng này có căn cội ở trong thể cảm dục hay là thể t́nh cảm, tức là thể của cảm giác. Chính v́ lư do đó mà tôi đă kết luận như thế. Nếu có thể phân loại các khó khăn, bệnh tật và đau ốm thường thấy này theo các xung lực đầu tiên của chúng, th́ đó hẳn là một cuộc thực nghiệm lư thú trong việc phân tích. Rất ít có loại bệnh nào trong số đó bắt nguồn từ thể trí, mặc dù Khoa học Công giáo hoặc Khoa học Tâm thần tất cả đều có thể nói ngược lại. Có lẽ đúng hơn, tôi nên nói rằng chúng không căn cứ vào tư tưởng sai lầm của con người, cho dù tất cả các tệ hại có thể bị tư tưởng sai lầm làm cho trầm trọng thêm và mạnh thêm. Nhiều bệnh, hay có lẽ đa số các đau khổ mà kẻ trung nhân đang hứng chịu, đều có các nguyên nhân dựa trên thể cảm dục, hay là dựa trên một sự ham muốn rơ rệt nào đó. Một ước muốn được đưa ra là ước muốn t́m cách biểu lộ dưới một h́nh thức hoạt động nào đó. Trong số này, đồng tính luyến ái là ước muốn được xác định rơ ràng nhất. C̣n những bệnh khác mà nhân loại chịu kế thừa, th́ đôi khi không dễ ǵ mà định rơ được. Người nam hoặc nữ là nạn nhân, nhưng nguyên nhân gây ra bệnh tật hay khó khăn đó – về mặt thể chất hay tâm lư – lại nằm trong quá khứ xa xăm mà nạn nhân (với sự hiểu biết có hạn của y) không thể nào khám phá ra, cũng như y không thể nào truy được nhân đang tạo ra quả. Tất cả những ǵ mà y có thể xác định được với mọi xác suất, ấy là dục vọng là xung lực mở đầu. Những ǵ mà nhân loại đang trải qua ngày nay và những ǵ mà họ đang chịu đựng đều là kết quả của quá khứ lâu dài của họ và quá khứ đó bao gồm các tập quán lâu đời, đă thành thâm căn cố đế. Tất nhiên, các tập quán đó là kết quả của một trong hai yếu tố sau đây:

65

 
1. Dục vọng, đang chế ngự và kiểm soát hành động, hoặc là

2. Sự kiềm chế của trí tuệ, thay thế dục vọng bằng hoạt động có sắp đặt, mà trong nhiều trường hợp hoạt động đó đi ngược lại với dục vọng đă được xác định và được cảm nhận một cách b́nh thường.

Do các điều nói trên, bạn sẽ thấy rằng tôi mong muốn các bạn hiểu rơ tầm quan trọng của thể cảm xúc và năng lực của nó làm phát khởi các nguyên nhân phụ mà trong kiếp sống này, chúng đang biểu hiện thành bệnh tật.

66

 
Bởi thế, bạn nên chú ư đến tầm quan trọng mà tôi đă đặt vào thể cảm dục như là tác nhân gây ra các t́nh trạng sai lầm trong thể xác, và việc cần thiết là hiểu biết về thể cảm dục và kiềm chế được nó về phần bệnh nhân, nếu muốn thực sự vượt qua được bệnh tật. Bạn hiểu được chăng nếu tôi nói rằng thực sự vượt qua được bệnh tật có thể là hàm ư chấp nhận lối thoát bằng Đường Lối Tử Vong, nếu nó đến một cách b́nh thường, hoặc là lành bệnh nếu các nguyên nhân vốn là các xung lực phát khởi bị cạn kiệt? Hăy suy gẫm kỹ điều này.

Trong tất cả những điều nói trên, cho dầu những điều mà tôi đă nói về sự đồng tính luyến ái, tôi cũng đều xét đến hoặc là dục vọng buông thả, hoặc là bị ức chế, tuy nhiên, tôi chỉ xem xét nó một cách khái quát và theo những nét chính thôi. Bạn có hiểu lầm chăng nếu tôi nói với bạn rằng khi dục vọng bị ức chế (đó là trường hợp của nhiều người t́m đạo ngày nay) th́ tất cả các loại bệnh – như ung thư, tụ huyết ở phổi và một số bệnh gan – cũng như bệnh lao ghê gớm đều có thể xảy ra? Các bệnh do ức chế th́ nhiều và trầm trọng. Cần lưu ư rằng khi dục vọng buông thả, thiếu kiềm chế và không có sự ức chế, th́ các bệnh như là giang mai, đồng tính luyến ái, các bệnh viêm và sốt có thể xảy ra. Các loại bệnh đều tùy theo khí chất, c̣n khí chất lại tùy thuộc vào tính chất của cung. Con người thuộc các cung khác nhau đều có khuynh hướng mắc phải một số bệnh nào đó. Các nhà tâm lư học rất hữu lư khi họ chia con người thành hai kiểu mẫu chính – hạng người hướng nội và hạng người hướng ngoại. Hai hạng người này đều có các tính chất bệnh tật riêng của họ, chúng biểu lộ dưới h́nh thức sức khỏe kém do sự biểu hiện quá mức hoặc ức chế.

Chúng ta đă xem xét điểm thứ hai trong việc chữa trị bệnh tật xuất phát từ bản chất cảm dục. Điểm thứ nhất, chúng ta đă bàn đến các xúc cảm không được kiểm soát.

67

 
Tôi muốn nhắc các bạn về tiền đề của chúng ta, đó là chúng ta chỉ xem xét các bệnh mà những người tiến hóa trong nhân loại, tức là người t́m đạo và các đệ tử thuộc mọi cấp đang có khuynh hướng mắc phải. Trong bộ luận ngắn này, chúng ta sẽ không bàn đến toàn bộ các bệnh đang tác động vào toàn thể nhân loại nói chung hay qua các thời đại. Người t́m đạo càng tiến hóa th́ rất có thể bệnh mà y mắc phải sẽ lộ rơ và mạnh mẽ, v́ có sự tuôn vào ít hoặc nhiều sức kích động của linh hồn.

Thêm vào năm nhóm bệnh tật chính mà tôi đă đề cập đến trước đây và chỉ ra mối liên quan với chúng trong cơ thể người, là một nhóm triệu chứng được nói đến một cách kém chính xác bằng các thuật ngữ: sốt nóng, u bướu, vùng bị sung huyết, cộng với sự suy nhược tổng quát, và sự tự nhiễm độc có trong rất nhiều triệu chứng. Tôi xin nhắc bạn nhớ kỹ điều này và luôn luôn hiểu rằng ở đây tôi chỉ nói khái quát thôi, thế nhưng điều khái quát này lại là căn bản và do đó rất quan trọng.

C. Các bệnh do lo âu và bực bội.

Loại bệnh thứ ba xuất phát trong thể t́nh cảm hay thể cảm dục được tổng hợp về mặt huyền bí dưới danh xưng: bệnh do bực bội. Các bệnh này là các chất độc ngấm ngầm ẩn núp đàng sau các triệu chứng của bệnh.

Có thể nói rằng tất cả mọi bệnh đều được bao gồm trong hai định nghĩa theo quan điểm huyền linh học:

1. Bệnh tật vốn là kết quả của sự tự nhiễm độc (auto -intoxication). Các bệnh này thông thường nhất.

2. Bệnh tật là kết quả của sự bực bội (irritation). Các bệnh này rất thường thấy trong số các đệ tử.

68

 
Ngày nay chúng ta nghe nói nhiều về sự tự nhiễm độc và đă có nhiều cố gắng để chữa trị bệnh này bằng chế độ ăn uống kiêng cữ, và điều chỉnh cuộc sống bằng tên gọi sống có tiết độ. Tất cả các điều này đều tốt lành và có ích, nhưng không phải là cách chữa trị căn bản như những người bênh vực cách đó muốn dẫn dắt chúng ta tin theo. T́nh trạng bực bội là một bệnh có căn bản thuộc tâm lư và có cội nguồn trong việc mạnh hơn của thể cảm dục, nên tạo ra các hậu quả bất thường trong thần kinh hệ. Đó là một bệnh về tư lợi (self-interest), do tính tự phụ và do sự tự măn. Một lần nữa, tôi muốn các bạn hăy suy gẫm kỹ các thuật ngữ này, v́ ba trạng thái bực bội này chỉ là phát hiện chung. Do đó, chúng ta sẽ bàn đến sự bực bội, tức “ t́nh trạng hiểm nghèo” (“imperil”), theo các vị tiêu biểu của cung một, như là Chân Sư M. đă gọi.

Chúng ta gần như hoàn thành tiết thứ nhất dưới chủ đề Các Nguyên Nhân Tâm Lư của Bệnh Tật, và đă xem xét các vấn đề xuất phát từ hoạt động quá mức và các t́nh trạng sai lầm của thể cảm dục, tuy rất vắn tắt, nhưng tôi tin rằng nó đă gợi ư cho bạn rất nhiều. Tất cả những ǵ tôi có thể làm trong bộ luận ngắn này là khái quát hóa thôi, bởi v́ đa số các phát biểu mà tôi nêu ra, trong bất cứ trường hợp nào cũng đều mới mẻ và có tính cách mạng (theo quan điểm y học chính thống) đến nỗi, ngay cả cấu trúc nội tại đầu tiên này của các ư tưởng và lối tŕnh bày chân lư có phần nào mới mẻ này cũng phải cần có thời gian mới gây ảnh hưởng được nơi những người có khả năng suy tư trong nhân loại. Kế đó, nếu được những người đă mở trí trong họ chấp nhận như là các giả thuyết, th́ cũng phải mất một thời gian dài để có đủ các t́m ṭi đưa đến các kết luận rơ ràng làm cho các ư tưởng này được thừa nhận và sử dụng trong đại chúng. Nói như thế tôi không hề có ư muốn chỉ trích giới y khoa. Hạng thầy thuốc ham tiền và hạng lang băm đều hiếm có. Dĩ nhiên là họ có thật, cũng như trong mỗi ngành nghề đều có những kẻ thối nát và những kẻ bất hảo vậy. Nơi nào lại không có những người này? Những người có trí óc, cố chấp th́ rất nhiều; nhưng ở đâu người ta lại không thấy có họ? Những kẻ tiền phong theo các đường lối tư tưởng mới và những kẻ đă thấu hiểu được một vài quan niệm của Kỷ Nguyên Mới, lại thường có trí óc khép kín, và họ không thấy ǵ ngoài các đường lối mới, các cách thức và phương pháp mới, họ vứt bỏ tất cả những cái cũ xưa, v́ thế mà chịu mất mát nhiều. Giới y học đă đạt một trong các kỷ lục lớn lao nhất, tốt đẹp nhất trên thế giới, về mục đích và phạm vi hoạt động, và đă phát triển được một vài phẩm tính cao cả nhất của linh hồn; đó là sự tự hy sinh, ḷng từ ái và đức phụng sự. Nhưng các phương cách và kỹ thuật của Kỷ Nguyên Mới đều khó hiểu. Nhiều lề lối xưa cũ phải được loại bỏ và người ta cần phải hy sinh rất nhiều trước khi vận dụng được thuật chữa trị mới này.

69

 
Măi khi sự thật về các thể tinh anh được nhận ra một cách thích đáng bởi các nhà tư tưởng trên thế giới, và sự hiện hữu của chúng được xác minh nhờ khoa tâm lư học đúng đắn và chân chính, và nhờ sự phát triển của khả năng nhăn thông th́ việc truy nguyên các nguyên nhân của bệnh tật đến các thể tinh anh tương đối vô nghĩa. Phản ứng tốt nhất mà nhà y sĩ mở trí bậc nhất có thể (tôi nói có thể chứ không nói sẽ) tạo ra hoặc chấp nhận đó là thái độ tâm lư, tức trạng thái trí tuệ , và t́nh trạng t́nh cảm của người bệnh, nhất định hoặc là giúp ích, hoặc là cản trở. Nhiều người đă thừa nhận điều đó. Chính việc đó cũng nhiều rồi.

Do đó, thí dụ khi tôi nói rằng ung thư bắt nguồn từ trong t́nh trạng cảm dục và bắt đầu phát triển vào thời Atlantis, th́ điều đó chẳng có ư nghĩa bao nhiêu đối với hạng trung nhân ngày nay. Hạng người đó không hiểu được rằng đa số con người thời nay đều có tâm thức của thời Atlantis.

Tôi muốn đề cập vắn tắt đến nguyên nhân thông thường nhất trong số các nguyên nhân của bệnh: đó là lo lắng và bực bội. Hiện nay, các nguyên nhân này đang có nhiều hơn bao giờ hết, v́ các lư do sau đây:

1. T́nh h́nh thế giới, các khó khăn và sự bất trắc (uncertainty) nhiều đến nỗi hiện nay ít có ai trên thế giới tránh khỏi. Mọi người, dù ít hay nhiều đều liên quan đến t́nh trạng của hành tinh.

2. Sự tương giao giữa con người đă tăng lên rất nhiều và con người thường sống nhiều trong những tập thể – lớn hoặc nhỏ – đến nỗi họ không tránh khỏi tạo ảnh hưởng lên nhau, mà trước kia chưa từng có. Câu “Nếu một thành viên đau khổ, th́ tất cả các thành viên đau khổ theo y” là một phát biểu về một chân lư, tuy cổ nhưng lại mới khi áp dụng và ngày nay mới nhận thức được lần đầu.

70

 
3. Sự nhạy cảm của bộ máy con người cũng ngày càng tăng đến mức con người “điều hợp” các t́nh trạng cảm xúc và các thái độ tâm trí của nhau theo cách mới mẻ và mănh liệt hơn.

Các quan tâm và lo lắng thu hút riêng của họ lại được cộng thêm vào các quan tâm lo lắng của bạn bè họ với kẻ mà họ có dịp tiếp xúc.

4. Về mặt viễn cảm (telepathically) và cũng với một ư thức về tiên đoán được phát triển, con người đưa thêm nỗi khó khăn vốn thuộc về người khác, hoặc vào nhóm tư tưởng gia nào khác và của con người vào các khó khăn có thể xảy ra. Không chắc rằng chúng sẽ xảy ra.

Các vấn đề này sẽ chứng tỏ cho bạn thấy con người phải gặp khó khăn mănh liệt như thế nào khi đương đầu với sự sống. Dĩ nhiên là các vấn đề âu lo và bực dọc (được Chân Sư Morya gọi là “t́nh trạng hiểm nghèo”) xảy ra nhiều và phải được xem xét. Tại sao các khó khăn này của thể cảm dục lại “hiểm nghèo” và nghiêm trọng đến như thế? Âu lo và bực dọc (Worry and irritation) đều nguy hiểm v́:

1. Chúng làm sút giảm sinh lực của con người đến mức làm cho y trở nên dễ nhiễm bệnh. Hiểm họa cảm cúm bắt nguồn từ sự sợ sệt và lo lắng, và khi mà thế giới quen với việc không bị ảnh hưởng bởi t́nh trạng “lo sợ” (“fearfull”) hiện tại, th́ chúng ta sẽ thấy bệnh này tan biến.

2. Theo quan điểm cảm dục, th́ lo âu, sợ sệt cực kỳ lây nhiễm đến nỗi chúng hạ thấp một cách đặc biệt không khí cảm dục, và v́ thế mà khiến cho con người khó hít thở một cách thoải mái – theo ư nghĩa cảm dục.

3. Bởi v́ các t́nh trạng sợ sệt, lo âu và bực dọc trong thể cảm dục ngày nay đang lan rộng đến nỗi chúng có thể được xem là bệnh dịch (epidemic), hiểu theo ư nghĩa hành tinh.

71

 
4. Bởi v́ sự bực dọc (ở đây, tôi không nói đến sự lo lắng) tạo hậu quả khích động (khích động này rất khó chịu đựng) và đưa đến nhiều khó khăn. Thật là lư thú khi ghi nhận rằng một vài h́nh thức của bệnh đau mắt đều do t́nh trạng này gây nên.

5. Do lo lắng và bực dọc, linh thị chân chính bị ngăn chận. Chúng đóng kín tầm mắt. Người nào là nạn nhân của các t́nh trạng này, th́ không thấy ǵ ngoài cái nguyên nhân đă gây nên các bệnh tật của y và bị ch́m đắm vào sự tự thương thân xót phận, quan tâm đến riêng ḿnh, hay là ở trong một t́nh trạng tập trung tiêu cực, đến nỗi tầm mắt của y bị thu hẹp và gây chướng ngại cho nhóm của y. Nên nhớ rằng có ích kỷ của nhóm, cũng như có ích kỷ của cá nhân.

Tôi đă kể ra đầy đủ các lư do đối với hậu quả của Lo âu và Bực dọc để chứng tỏ cho bạn thấy sự khó khăn rộng lớn như thế nào. Vào lúc này không có ích lợi ǵ nhiều mà nói đến cách chữa trị. Người ta không bảo với một bệnh nhân bị cảm cúm (khi y đang vật lộn với cơn đau) rằng “Không hề ǵ đâu. Đừng để ư đến nó. Hăy chỗi dậy và bắt tay vào công việc của bạn đi”. Thật là vô ích mà nói với con người ngày nay rằng “Đừng hăi sợ ǵ cả. Hăy ĺa bỏ nỗi lo âu. Mọi sự sẽ tốt đẹp”. Họ sẽ không tin vào bạn đâu, chỉ v́ – và may thay, v́ điều đó không đúng. Có nhiều việc không được tốt đẹp, và nhân loại cùng với cuộc sống hành tinh đều không được êm xuôi. Điều này, Thánh Đoàn đă biết rơ và đang làm việc để cải thiện t́nh trạng. Khi các thống khổ của “cơn sốt hành tinh” trôi qua (và người bệnh sẽ không chết đi), th́ bấy giờ có thể tiến hành nghiên cứu và tạo những cố gắng có thể ngăn ngừa sự tái diễn.

Hiện nay, tất cả những ǵ có thể làm được là giữ cho người bệnh yên tĩnh và cũng giữ cho cơn sốt lắng dịu. Đây là công việc của Đoàn Thể Mới Phụng Sự Thế Gian và những người có thiện chí sáng suốt. Họ rất đông đảo.

2. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TỪ DĨ THÁI THỂ.

72

 
Các bạn nên nhớ rằng, ở đây, tôi không bàn đến các nguyên nhân (đang tạo ra các hậu quả trong thể xác) xuất phát trong thể trí hay trong thể cảm dục. Tất nhiên là chúng truyền qua thể dĩ thái. Thể dĩ thái là một nơi truyền mọi năng lượng cho thể xác và mọi loại lực truyền qua nó đến các bộ phận khác nhau của thể xác, tạo ra các kết quả xấu và tốt, các kết quả tiêu cực hoặc tích cực, tùy trường hợp. Đây là một sự thật mà chúng ta chấp nhận. Ở đây, tôi đang xét về bệnh tật, các vấn đề và các khó khăn thuộc thể xác xuất phát từ trong chính thể dĩ thái và thể hiện trong các mối liên hệ với xác thân. Các điều này rất phổ biến và thường thấy. Điều chính– yếu là làm sao bạn giữ cho hai đường lối hoạt động bằng thần lực này riêng biệt rơ ràng trong trí bạn. Cả hai đều đi qua và từ thể dĩ thái nhập vào thể xác, nhưng chỉ có một là bắt nguồn ở trong thể dĩ thái hay là liên quan tới các khó khăn có nguồn gốc dĩ thái.

Thể dĩ thái là một thể hoàn toàn được tạo thành bằng các tuyến lực và các điểm mà các tuyến lực này giao nhau, và (khi cắt ngang) như vậy, tạo thành các trung tâm năng lượng. Nơi nào có nhiều tuyến lực như thế giao nhau, ta có một trung tâm năng lượng lớn hơn, và nơi mà các ḍng năng lượng lớn gặp và giao nhau, như ở trong đầu và trên xương sống, th́ ta có bảy bí huyệt chính. Các nhà huyền bí học biết được có bảy bí huyệt như thế, cộng với 21 bí huyệt nhỏ hơn và 49 cái c̣n nhỏ hơn nữa. Tuy nhiên, vào lúc này, chúng ta sẽ tự giới hạn vào thể dĩ thái nói chung và vào bảy trung tâm lực chính. Tuy nhiên, có lẽ các bạn thích thú khi được biết vị trí của 21 bí huyệt thứ yếu. Chúng có thể được định vị ở các điểm sau:

Có hai bí huyệt ở trước hai tai, gần sát với giao điểm của các xương hàm.

Có hai bí huyệt ngay phía trên hai vú.

Có một cái ở nơi mà các xương ngực gặp nhau sát với tuyến giáp trạng. Cái này cùng với hai bí huyệt ở vú, tạo thành một tam giác lực.

Có hai bí huyệt, mỗi cái ở trong ḷng bàn tay.

73

 
Có hai cái, mỗi cái ở ḷng bàn chân.

Có hai cái ở ngay sau hai mắt.

Cũng có hai cái nối tiếp với tuyến sinh dục.

Có một cái sát với lá gan.

Có một cái liên kết với bao tử; do đó nó có liên quan với huyệt đan điền, nhưng không đồng nhất với đan điền.

Có hai cái nối kết với lá lách. Hai cái này trong thực tế hợp thành một bí huyệt duy nhất, nhưng bí huyệt đó được tạo thành bởi hai cái chồng lên nhau.

Có hai cái – mỗi cái ở phía sau mỗi đầu gối.

Có một bí huyệt mạnh mẽ liên kết chặt chẽ với thần kinh phế vị. Đây là bí huyệt mạnh nhất và được một vài trường phái huyền linh học xem như là một bí huyệt chính; nó không nằm trong cột xương sống, nhưng không cách xa tuyến ức (thymus, sản xuất tế bào lympho T. ND).

Có một bí huyệt nằm sát với đan điền, và liên kết nó với bí huyệt ở chót xương sống, như vậy tạo thành một tam giác gồm bí huyệt sinh dục, đan điền, và bí huyệt ở chót xương sống.

Hai tam giác được đề cập đến trong biểu liệt kê này có tầm quan trọng thực sự. Một cái nằm trên, c̣n cái kia nằm dưới cách mô.

Dĩ nhiên, rơ ràng là nơi nào có ḍng thần lực thông suốt qua dĩ thái thể, nhập vào nhục thân, th́ khả năng xảy ra là nơi đó ít bị bệnh tật hay đau ốm. Tuy nhiên, có thể có khuynh hướng ngày càng tăng đối với các khó khăn sinh ra do sự kích thích quá độ, hậu quả của nó là hệ thần kinh quá hoạt động, với mọi vấn đề kèm theo. Các mănh lực này – đang t́m lối vào hiện thể trọng trược – là các phóng phát từ ba hướng (tôi xin tạm dùng một từ như thế):

74

 
1. Từ các hiện thể của phàm ngă – thể cảm dục và thể hạ trí.

2. Từ linh hồn, nếu đă lập được sự tiếp xúc, dù nhận biết được hay không.

3. Từ thế giới chung quanh mà các hiện thể của linh hồn và của phàm ngă đă đóng vai tṛ “các cửa vào” thế giới đó. Nhân tiện, trong phần cuối câu này, tôi muốn các bạn hăy chú ư đến một mối liên hệ có thể có giữa “các cửa vào” này với câu “cửa điểm đạo”.

Trong trường hợp mà các bí huyệt này – qua đó, luồng năng lượng đang tuôn vào từ các nguồn cung cấp nói trên – c̣n im ĺm, chưa được khơi hoạt, hay chỉ hoạt động một phần hoặc là quá chậm chạp (xét về nhịp rung động của chúng), th́ bấy giờ, bạn sẽ gặp một t́nh trạng tắc nghẽn. T́nh trạng này sẽ tạo nên sự tắc nghẽn trong thể dĩ thái, mà các hậu quả sau đó là hoạt động của thể xác bị nhiều khó khăn. Một trong các khó khăn thông thường nhất là sung huyết (congestion) ở phổi mà trong thực tế, vốn do các nguyên nhân nói trên, cộng với t́nh trạng sung huyết bên trong thể dĩ thái, dù rằng, về mặt ngoại môn, người ta có thể truy được một số nguyên nhân thuộc thể chất rơ rệt. Chính việc nhập lại của nguyên nhân hiện rơ bên ngoài và nguyên nhân đích thực bên trong chịu trách nhiệm cho sự bộc phát của cơn bệnh. Khi hai t́nh trạng này được liên kết với nhau, th́ thể xác bị chướng ngại và thể dĩ thái lâm vào một t́nh trạng bất hảo, bấy giờ, đương sự sẽ bị bệnh, đau ốm hay một loại suy nhược nào đó. Mọi sự tắc nghẽn bên ngoài đều có thể luôn luôn được truy từ hai nguyên nhân này – một nguyên nhân bên trong và một nguyên nhân bên ngoài.

Trong các trường hợp này, điều lư thú là nguyên nhân bên ngoài không phải là hậu quả của nguyên nhân bên trong của cá nhân ấy. Do đó, bạn nên lưu ư rằng không phải mọi bệnh tật của một cá nhân đều hoàn toàn có nguồn gốc bên trong hay thuộc tâm lư, mà đôi khi, chúng bắt nguồn từ cả bên ngoài lẫn bên trong. Đó là sự phức tạp của vấn đề.

75

 
Phát biểu trên mở ra toàn bộ vấn đề về hoạt động của bảy bí huyệt trong thể dĩ thái. Các bí huyệt này có thể được xem như c̣n im ĺm hay chưa được khơi hoạt, hoặc chỉ mới được khơi hoạt một cách yếu ớt, hoặc là đang tác động một cách b́nh thường, nghĩa là một số năng lượng tạo nên h́nh thể của bí huyệt ấy đang hoạt động một cách nhịp nhàng, và do đó, dễ tiếp nhận năng lượng đi vào, trong khi những bí huyệt khác vẫn hoàn toàn bất động và không đáp ứng. Có những bí huyệt khác lại hoạt động đầy đủ và do đó, có sức thu hút mạnh mẽ đối với bất cứ các lực lưu nhập nào; c̣n các bí huyệt khác nữa th́ chỉ linh hoạt một phần. Với đa số con người, các bí huyệt dưới cách mô linh hoạt hơn các bí huyệt trên cách mô (ở đây tôi đang đề cập đến bảy bí huyệt chính, chứ không đề cập đến 21 bí huyệt phụ). Đối với người t́m đạo, các bí huyệt dưới cách mô đều linh hoạt, c̣n các bí huyệt ở tim và cổ họng th́ đang từ từ hoạt động, trong khi ở trường hợp của các đệ tử, th́ huyệt ấn đường cộng với các huyệt phía dưới nó trong cơ thể, đều đang được khơi hoạt nhanh chóng. Trong điểm đạo đồ, bí huyệt đầu đang đi vào hoạt động, nhờ đó mà nó đưa tất cả các bí huyệt vào sự nhịp nhàng phối hợp thực sự. Mỗi bệnh nhân hay là mỗi người ở vào cung nào đó, nên ứng đáp một cách khác nhau; yếu tố thời gian cũng khác nhau; lối khai mở cũng thay đổi, và sự ứng đáp với các lực lưu nhập cũng hơi khác.

Tất cả vấn đề này chúng ta sẽ xem xét thật đúng khi chúng ta bàn đến chương IX, tức chương liên quan đến bảy cách trị liệu. Ở đây, tôi chỉ nhắc đến vấn đề này để đặt nền móng cho những ǵ phải được xem xét sau này, và nhờ đó mà chứng tỏ cho các bạn thấy rằng toàn thể mối liên hệ giữa thể dĩ thái với thể xác đều liên quan đến vấn đề chữa trị như thế nào. Thế nên, điều quan trọng là trước khi chữa trị thực sự, nhà trị liệu nên biết tŕnh độ tiến hóa của bệnh nhân, và cũng nên biết loại cung của cả phàm ngă lẫn chân ngă người ấy. Nếu thêm vào đó, bạn có một số kiến thức về các khuynh hướng và các chỉ dẫn thuộc chiêm tinh học, th́ việc chẩn đoán càng chính xác hơn nhiều. Ch́a khóa của mọi thành công (hoặc là nhờ chữa lành bệnh ở thể xác, hoặc là qua sự tử vong) đều nằm trong sự hiểu biết t́nh trạng của các bí huyệt trong thể dĩ thái. Các bí huyệt này xác định mức rung động của cơ thể và sự đáp ứng chung của thể xác. Thậm chí, chúng c̣n chi phối các hoạt động và sự chính xác của bản năng, mối liên hệ của bản năng với sự sống ở ngoại cảnh và “sự toàn vẹn” cùng là sự lành mạnh tổng quát của hệ thần kinh giao cảm.

76

 
      A. T̀NH TRẠNG TẮC NGHẼN

Nhiều khó khăn thực sự có thể được truy nguyên do sự tắc nghẽn, hay do sự thiếu hoạt động thông suốt của các lực. Trong mối liên hệ này có thể nêu ra rằng thể dĩ thái là một cơ nguyên cho việc nhập và xuất.

Do đó mà có một liên quan mật thiết lạ lùng giữa nó và các cơ quan như là phổi, bao tử và thận. Khi được hiểu đúng, biểu tượng học tŕnh bày ở đây sẽ có khuynh hướng cho thấy có một liên hệ bí ẩn sâu xa nằm giữa:

1. Trí óc và phổi. Tiến tŕnh hít thở với các giai đoạn hít vào, tạm nghỉ và thở ra, đều diễn ra liên quan với cả hai trạng thái thần lực của trí óc và xác thân.

2. Bản chất dục vọng và bao tử. Ở đây lại là diễn tŕnh thu vào, đồng hóa và thải ra.

3. Chính thể dĩ thái và thận, cùng với các diễn tŕnh được vạch rơ, trong cả hai trường hợp hấp thụ, chế hóa và chuyển giao.

77

 
Không có biểu tượng nào tương đối chính xác đối với toàn thể tiến tŕnh sáng tạo như là cơ thể của con người.

Do đó, t́nh trạng tắc nghẽn trong thể dĩ thái đang tạo ra nhiều tai hại trong thể xác, có thể tồn tại ở điểm nhập vào từ thể cảm dục hay là từ cơi cảm dục (hăy chú ư đến cách diễn tả và sự dị biệt) hay là ở điểm thoát ra, có liên quan với bí huyệt mà loại lực dĩ thái đặc biệt đi vào dễ dàng nhất và lưu chuyển qua đó dễ dàng nhất. Nơi nào không có sự hoạt động thông suốt giữa thể dĩ thái với thể cảm dục, bạn sẽ gặp đau yếu. Nơi nào không có sự hoạt động thông suốt giữa thể dĩ thái với thể xác, bao gồm cả các trung khu thần kinh và hệ thống tuyến nội tiết, th́ bạn cũng sẽ gặp bất an. Đừng bao giờ quên sự liên hệ chặt chẽ giữa bảy bí huyệt chính với bảy tuyến chính của thể xác. Hai hệ thống tạo thành một bộ phận quản trị ăn khớp nhau, với các tuyến và chức năng của chúng được xác định bởi t́nh trạng của các bí huyệt dĩ thái. Đến phiên các bí huyệt dĩ thái này lại chịu sự chi phối bởi tŕnh độ tiến hóa và kinh nghiệm thu lượm được của linh hồn lâm phàm, bởi sự an trụ đặc biệt của linh hồn đang lâm phàm, và bởi các cung (cung phàm ngă và cung linh hồn) của đương sự. Đừng quên rằng năm trạng thái của con người (khi y hoạt động trong ba cơi thấp) được định đoạt bởi một số mănh lực của cung. Đó là cung linh hồn, cung phàm ngă và cung của thể trí, thể cảm dục và thể xác. Trong Kỷ Nguyên Mới sắp đến, tất cả các điều nói trên sẽ được khám phá và cứu xét một cách rơ rệt, và sự hiểu biết này giúp nhà trị liệu thấy được t́nh trạng có thể có của các bí huyệt, thứ tự khai mở của chúng, một hoặc nhiều nốt căn bản riêng tư của chúng. Môn y học mới sẽ được xây dựng một cách rơ rệt dựa vào khoa học về các bí huyệt, mọi sự chẩn đoán và có thể chữa trị, đều sẽ được dựa trên sự hiểu biết này. Nhà nội tiết học chỉ mới bắt đầu thoáng thấy các khả năng này, và nhiều điều mà hiện họ đang xem xét, đều có trong đó các mầm của chân lư tương lai. “Việc làm quân b́nh hệ thống” và liên quan của các tuyến với ḍng máu, cũng như với tính t́nh và nhiều loại bẩm chất khác nhau, được xem như có giá trị thực sự và đáng theo đuổi. Tuy nhiên, c̣n phải khám phá rất nhiều điều trước khi người ta có thể làm việc với các tuyến một cách thực sự an toàn, khiến chúng trở thành một vấn đề chính được chú ư (một ngày nào đó sẽ gặp trường hợp này trong mọi h́nh thức đau ốm).

78

 
Khắp bộ luận ngắn này, tôi sẽ đưa ra nhiều ẩn ngữ sẽ giúp cho nhà khảo cứu đă mở trí t́m đúng hướng. Trước khi chuyển qua xem xét liên hệ của thể dĩ thái dưới h́nh thức một đơn vị, đối với thể xác, tôi muốn nêu ra rằng tôi đặt các phức tạp của sự tắc nghẽn trước tiên dựa vào danh sách các bệnh xuất phát trong thể dĩ thái, bởi v́ chính vào lúc này – có thể trong một vài thế kỷ – sự tắc nghẽn là nguyên nhân chính của nỗi khó khăn đối với đa số nhân loại, hay là của những kẻ mà về mặt huyền bí, chúng ta gọi là những người “thuộc bí huyệt sinh dục đan điền” (“solar sacral” people). Điều này một phần do bởi các thói quen đè nén và ức chế, mà nhân loại nói chung đă phát triển qua nhiều thời đại. Chính sự tắc nghẽn này ở điểm vào hoặc ra trong thể dĩ thái, chịu trách nhiệm cho sự cản trở ḍng chảy thông suốt của sinh lực, với các hậu quả là con người nhanh chóng mắc bệnh. Thế nên, bạn sẽ thấy các bài tập thở được ấn định một cách thận trọng như thế nào, với các kết quả tinh tế của chúng là tái tổ chức và điều chỉnh lại các thể tinh anh (đặc biệt là thể dĩ thái và thể cảm dục) sẽ trở nên ngày càng được sử dụng phổ thông hơn. Ngày nay, sự quan tâm của nhiều người đến phép tập thở chứng tỏ rằng về mặt bên trong người ta đă thừa nhận sự kiện này dù họ vẫn chưa biết được đầy đủ về các phương pháp và các hiệu quả.

 Một điều khác mà tôi muốn kêu gọi các bạn lưu ư là các điểm tắc nghẽn có thể nằm, hoặc là trong bí huyệt thể cảm dục, hoặc là trong thể dĩ thái, và nhà chữa trị sẽ phải nghiên cứu t́nh trạng này.

79

 
B. THIẾU SỰ PHỐI KẾT VÀ HỘI NHẬP

Bây giờ, chúng ta xem qua về điểm khó khăn thứ hai nằm trong thể dĩ thái, mà trong bảng liệt kê, chúng ta gọi là thiếu phối kết, hoặc hội nhập (coordination or integration). Điều này hiện nay cực kỳ phổ biến và chịu trách nhiệm cho một số lớn bệnh tật. Dĩ thái thể là h́nh thể “vững chắc” bên trong, mà dựa vào đó thể xác được xây nên hay tạo ra. Đó là cái giàn bên trong nằm bên dưới mọi bộ phận của toàn thể con người bên ngoài; đó là cái khung chống đỡ toàn thể; chính dựa vào cái khung đó mà h́nh thể bên ngoài được sao chép lại, và đó là mạng lưới các nadis (vô cùng phức tạp), tạo nên đối phần hay là trạng thái kép của toàn thể hệ thần kinh, nó tạo thành một phần thật là quan trọng của cơ cấu con người. Thế nên rơ ràng là cùng với ḍng máu, thể dĩ thái là công cụ của sinh lực. Do đó, nếu có sự yếu ớt trong liên hệ giữa cấu trúc bên trong này với h́nh hài bên ngoài, th́ ngay lập tức bạn thấy rơ là nỗi khó khăn thực sự chắc chắn sẽ xảy ra.

Sự khó khăn này có ba h́nh thức:

1. H́nh hài vật chất dưới trạng thái dày đặc của nó được kết nối quá lỏng lẻo với thể dĩ thái hay đối phần dĩ thái. Điều này đưa đến t́nh trạng bị mất sinh khí và suy nhược, làm cho con người dễ mắc bệnh hay sức khỏe suy kém.

2. Sự liên kết kém cỏi trong một số chiều hướng hay trạng thái của thiết bị. Qua một số điểm tập trung hay các bí huyệt, sinh lực không thể lưu chuyển một cách thích hợp, và do đó bạn có sự yếu ớt rơ rệt ở một bộ phận nào đó của thể xác. Thí dụ, yếu đuối (impotence) là một khó khăn thuộc loại đó, khuynh hướng viêm thanh quản là một khó khăn khác, để nói đến hai sự xáo trộn khác nhau rất nhiều.

80

 
3. Về căn bản, sự liên kết cũng có thể lỏng lẻo và kém cỏi, đến nỗi linh hồn rất ít kiểm soát hiện thể dùng để biểu lộ ra ngoài của nó, nên sự ám ảnh (obsession) hay sự chiếm đoạt (possession) dễ xảy ra.

Đây là một thí dụ điển h́nh nhất của các khó khăn gắn liền với t́nh trạng này. C̣n các thí dụ khác là một số h́nh thức ngất xỉu hay là mất ư thức và “động kinh” (“petit mal”).

Hiển nhiên, đúng là cũng có các t́nh trạng ngược lại, khi thể dĩ thái kết chặt hay ḥa nhập chặt chẽ với phàm ngă – dù là nó có bản chất tiến hóa cao hay chỉ là một dĩ thái thể thông thường – đến nỗi mọi phần của thể xác đều ở trong t́nh trạng bị kích thích thường xuyên, cố gắng đột ngột, với hậu quả là hoạt động trong thần kinh hệ mà – nếu không được điều chỉnh đúng đắn – có thể đưa đến rất nhiều tai hại. Đây là điều mà tôi bàn đến trong đề mục thứ ba “Kích thích quá mức các bí huyệt”. Liên kết quá lỏng lẻo hay quá chặt chẽ đều đưa tới sự rối loạn, dù rằng loại khó khăn thứ nhất th́ thường là trầm trọng hơn các loại khác. Ở đây, tôi đă tŕnh bày đủ để chứng minh rằng việc nghiên cứu thể dĩ thái có thể là lư thú và quan trọng như thế nào. Toàn thể chủ đề trị liệu được “ràng buộc” (sử dụng một nhóm từ mới mẻ mà tôi thấy khó dùng) với sự phát triển, khai mở và kiểm soát bảy bí huyệt chính.

 

C. CÁC BÍ HUYỆT BỊ KÍCH THÍCH QUÁ ĐỘ

81

 
Có nhiều điều mà tôi có thể thêm vào những ǵ tôi đă nói về nguyên nhân của bệnh xuất phát trong thể dĩ thái, nhưng trong phần II (khi bàn đến tiết nói về một số nhu cầu căn bản) tôi sẽ nói rơ hơn về chủ đề này. Đối với nhục thể, th́ sự tắc nghẽn, thiếu ḥa nhập và các bí huyệt quá bị kích thích, hiển nhiên là các nguyên nhân căn bản, đối với nhục thân, nhưng chính chúng lại là các hiệu quả thường xảy ra của các nguyên nhân tế nhị hơn, ẩn tàng trong sự sống của thể cảm dục và thể trí, và trong trường hợp quá bị kích thích, đôi khi lại là kết quả của các tiếp xúc với linh hồn. Theo dự kiến th́ thể dĩ thái phản ứng một cách b́nh thường với mọi t́nh trạng xảy ra trong các thể tinh anh. Về cơ bản, nó là một tác nhân truyền đạt (transmitter), chứ không phải là tác nhân phát khởi (originator), chỉ v́ các hạn chế của người quan sát khiến y gán các nguyên nhân của đau ốm thể xác cho thể dĩ thái. Nó là nơi thanh toán (clearing house) cho mọi thần lực đến với thể xác, miễn là tŕnh độ tiến hóa đă đưa các bí huyệt khác nhau đến một t́nh trạng mà trong đó chúng dễ tiếp nhận đối với bất cứ loại thần lực đặc biệt nào. Nói về mặt huyền bí, các bí huyệt có thể ở vào một trong năm t́nh trạng hay trạng thái tồn tại. Các trạng thái này có thể được mô tả bằng các thuật ngữ sau đây:

1. Khép chặt, tĩnh lặng và đóng kín, tuy nhiên có các dấu hiệu của sự sống c̣n im ĺm và tràn đầy tính tŕ trệ.

2. Mở rộng, không bị phong kín và nhuốm màu yếu ớt, sự sống đang mạch động (pulsates).

3. Tăng tốc, sống động, linh hoạt theo hai hướng; hai cánh cửa nhỏ được mở rộng.

4. Tỏa chiếu và vươn ra với nốt rung động theo mọi bí huyệt liên hệ.

5. Trở nên ḥa nhập và mỗi bí huyệt hoạt động nhịp nhàng với bí huyệt khác. Sinh lực tuôn chảy qua mọi cơi. Thế giới trở nên mở rộng.

82

 
Liên quan với năm giai đoạn này – trong đó thể dĩ thái mở rộng và trở thành mạch sống tối cần (the vital livingness) của mọi biểu lộ trên cơi trần – là năm giống dân của con người, bắt đầu bằng giống dân Lemuria, năm cơi biểu lộ của nhân loại và siêu nhân loại, năm giai đoạn tâm thức và những lối phân nhóm khác theo số năm mà bạn gặp trong triết học nội môn. Nhân đây, có thể là hữu ích và lư thú mà nêu ra rằng ngôi sao năm cánh không những chỉ là dấu hiệu và biểu tượng của điểm đạo, và sau cùng của con người hoàn thiện, mà nó c̣n là biểu tượng căn bản của thể dĩ thái và của năm bí huyệt đang chi phối con người hoàn thiện – đó là hai bí huyệt đầu, bí huyệt tim, bí huyệt cổ họng và bí huyệt ở chót xương sống. Khi nào các bí huyệt này được khơi hoạt đầy đủ và hoạt động nhịp nhàng với nhau, th́ các bộ năm khác nhau mà tôi đă đề cập ở trên, sẽ tạo thành một phần toàn vẹn của tâm thức của con người hoàn thiện.

Dù cho mảng thông tin đặc biệt này không liên quan rơ rệt tới Khoa Chữa Trị, tuy nhiên toàn bộ vấn đề có liên quan tới năng lượng, và năng lượng, dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác đều liên quan tới các nhân và quả của bệnh tật, bởi v́, bệnh tật là hiệu quả bất đắc dĩ của năng lượng theo đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là nguyên tử.

Cần nên nhớ rằng dĩ thái thể của con người là một phần nguyên vẹn của dĩ thái thể của Hành Tinh Thượng Đế, và do đó nó có liên quan tới mọi h́nh hài nằm bên trong dĩ thái thể đó ở bất cứ giới nào và ở tất cả các giới trong thiên nhiên. Đó là thành phần của chất liệu của vũ trụ, được phối kết với chất liệu của hành tinh, và do đó nó cung cấp nền tảng khoa học cho sự hợp nhất.

83

 
Thực ra, nếu bạn có hỏi tôi rằng, những ǵ nằm sau mọi bệnh tật, mọi thất bại, sai lầm, và thiếu biểu lộ thiêng liêng trong ba cơi thấp, th́ tôi sẽ nói đó là tính chia rẽ, nó tạo ra các khó khăn chính lộ ra trong thể dĩ thái, cộng với sự bất lực của ngoại thể hữu h́nh không đáp ứng được một cách thích hợp với các xung lực tinh vi ở bên trong. Đây là nguyên nhân (nguyên nhân thứ yếu, như tôi đă nêu ra ở trên) của phần lớn các bệnh tật. Dĩ thái thể của hành tinh chưa truyền chuyển và luân lưu một cách thông suốt các lực đang t́m cách đi vào tâm thức và sự biểu lộ của con người trên cơi trần. Các mănh lực này xuất phát từ chính bên trong con người, khi y hoạt động trên các mức độ tâm thức tinh vi và xuất phát từ linh hồn. Chúng cũng đến từ các nhóm được kết hợp và tiếp xúc, từ sự sống hành tinh và sau rốt, suy cho cùng th́ chúng đến từ toàn thể vũ trụ. Khi được khơi hoạt đầy đủ và được vận dụng một cách hữu thức và khoa học, mỗi bí huyệt đều có thể dùng như một cánh cửa mở rộng, qua đó tri thức về những ǵ nằm ngoài sự sống cá nhân con người có thể đi vào. Về căn bản, thể dĩ thái là bộ máy đáp ứng quan trọng nhất của con người, không những nó giúp cho năm giác quan vận hành đúng đắn, và do thế mà cung cấp năm điểm tiếp xúc chính với thế giới hữu h́nh, mà nó cũng c̣n giúp cho con người ghi nhận được một cách bén nhạy các cơi giới tinh anh, và, khi được linh hồn tiếp cho năng lượng và kiểm soát, th́ nó cũng giúp các lănh vực tinh thần mở rộng ra.

Dĩ thái thể là một nơi tiếp nhận mạnh mẽ các ấn tượng, vốn được truyền đến tâm thức con người nhờ các bí huyệt đă được khơi hoạt. Thí dụ, chỉ có được nhăn thông thực sự, khi nào khơi hoạt được huyệt đan điền (dưới rốn lối một tấc – ND) hoặc huyệt ấn đường (giữa hai mày). Các ấn tượng và thông tin được truyền đạt này trở thành tác nhân kích thích nhờ đó hoạt động hữu thức được khởi xướng. Có nhiều thuật ngữ được dùng để diễn tả các lực này và các hậu quả thúc đẩy của chúng: đó là các xung lực, tác nhân kích thích, ảnh hưởng, tiềm lực, dục vọng, đạo tâm và nhiều thuật ngữ như thế, vốn chỉ đồng nghĩa với lực hoặc năng lượng và v́ thế truyền đạt cùng một ư tưởng tổng quát. Tất cả các từ này đều chỉ các h́nh thức hoạt động của dĩ thái thể, nhưng chỉ khi nào thể xác ghi nhận chúng và tác động dưới ấn tượng của chúng. Toàn bộ chủ đề lực thúc đẩy là một chủ đề rất lôi cuốn.

84

 
Tuy nhiên, v́ sự rộng lớn của vấn đề cho nên nhân loại chỉ có thể từ từ hiểu được t́nh trạng và dần dần nhận thức được rằng con người chủ yếu (nhờ dĩ thái thể của y) là một thành phần nguyên vẹn của một Tổng Thể vĩ đại và đầy sức sống; sớm muộn ǵ y cũng sẽ học được rằng nhờ các diễn tŕnh tiến hóa mà y có thể hy vọng ghi nhận được mọi lănh vực khác nhau của biểu lộ thiêng liêng. Chỉ khi nào thể dĩ thái khởi sự hoạt động dưới ảnh hưởng và qua “các lực tạo ấn tượng” của linh hồn, trí tuệ, và tạm thời của cảm dục thể, th́ con người mới có thể trở nên biết được mọi thế giới, mọi hiện tượng và mọi trạng thái tâm thức, và như thế đạt được sự toàn tri vốn là quyền thừa kế của tất cả các Con của Thượng Đế.

Tuy nhiên, trong thời kỳ mà trạng thái hiện tồn này đang ở trong tiến tŕnh thành tựu, th́ sự thiếu phát triển, việc không thể ghi nhận, công việc sinh động là khơi hoạt và tổ chức các bí huyệt khác nhau, rồi sau đó liên kết chúng với nhau một cách chính xác, sẽ tạo ra nhiều khó khăn. Chính t́nh trạng này vốn là nguồn gốc hiệu quả của các khó khăn, mà khi t́nh trạng ấy được đưa vào thể xác, sẽ tạo ra nhiều loại bệnh tật khác nhau, nhiều sự căng thẳng và những tắc nghẽn, việc quá kích thích của các bí huyệt ở một phần của thể dĩ thái và sự phát triển yếu kém của chúng ở một phần khác, thêm vào với sự khai mở không đồng đều và thế thăng bằng sai lạc giữa các bí huyệt.

Trong khảo cứu của y học hiện đại, người ta nói nhiều về sự “thiếu cân bằng” của các tuyến nội tiết, và nhiều khó khăn ở thể xác được quy cho việc thiếu thăng bằng thường xuyên này. Nhưng đàng sau t́nh trạng này của hệ thống tuyến nội tiết, có ẩn sự thiếu cân bằng cơ bản của chính các bí huyệt. Chỉ khi nào có sự hiểu biết đúng đắn về lực, hiểu được sự tiếp nhận và vận dụng sau đó của nó, th́ bấy giờ mới đạt được sự thăng bằng đúng, và hệ thống tuyến nội tiết của con người mới kiểm soát con người hồng trần theo đúng cách đă định.

Hiện nay, cần phải nghiên cứu nhiều về các vấn đề sau:

1. Vấn đề nhận thần lực một cách đúng đắn qua bí huyệt thích hợp. Một ví dụ của việc này là kiểm soát đúng bí huyệt đan điền như là bí huyệt trong đó sự bén nhạy của thể cảm dục có thể được ghi nhận và vận dụng một cách thích hợp.

85

 
2. Vấn đề về mối liên hệ đúng của một bí huyệt đặc biệt với tuyến liên quan của nó, cho phép hoạt động thông suốt của lực đang tuôn đổ qua bí huyệt, đến tuyến tương ứng kết hợp với nó, nhờ vậy mà chi phối kích thích tố đặc biệt của tuyến đó, và sau rốt chi phối ḍng máu. Nếu bạn hiểu rơ được tŕnh tự giao tiếp này, th́ bạn sẽ hiểu rơ hơn ư nghĩa huyền bí của các lời trong Kinh Cựu Ước nói rằng “máu là sự sống”. Chính sinh lực xuất phát từ thể dĩ thái, tác động vào ḍng máu, xuyên qua bí huyệt có đáp ứng với một trong bảy loại thần lực đặc biệt và tuyến liên hệ của nó. Do đó, rơ ràng là có một liên hệ chặt chẽ giữa:

a. Dĩ thái thể với cương vị là một tác nhân truyền đạt toàn bộ năng lượng và thần lực.

b. Hệ thống tuyến nội tiết mà các tuyến khác nhau của nó thực ra là sự ngoại hiện hay là cụ thể hóa của các bí huyệt chính và phụ.

c. Tim là trung tâm của sự sống, cũng như bộ óc là trung tâm của tâm thức. Từ tim, ḍng máu luân chuyển và được kiểm soát. Nhờ đó mà ba hệ thống lớn này được liên hệ với nhau.

d. Toàn thể hệ thống tuyến liên hệ với hệ thần kinh nhờ mạng lưới các dây thần kinh và các “nadis” đang ẩn dưới mạng lưới này. Các nadis này là những tuyến sinh lực (threads of life force), đang nằm dưới mọi bộ phận của cơ thể, và đặc biệt của hệ thần kinh dưới mọi trạng thái của nó.

86

 
Một vấn đề khác có thể được thêm vào các vấn đề và các liên hệ này. Đây là sự liên hệ hỗ tương vốn dĩ phải được thiết lập giữa tất cả các bí huyệt, giúp cho thần lực hoạt động thông suốt, theo đúng nhịp điệu, khắp cả thể xác.

Do đó, bạn có một số hệ thống lớn quản trị phối hợp đang kiểm soát hay không kiểm soát được thể xác.

Khi nào thiếu sự kiểm soát đó là do không lập được các liên giao đúng đắn bên trong cơ thể, hay là thiếu sự phát triển. Các nhóm quản trị phối hợp này là:

1. Nhóm thuộc thể dĩ thái, tác động trước tiên qua bảy bí huyệt chính của nó, nhưng cũng qua nhiều bí huyệt khác nữa.

2. Nhóm hệ thống tuyến nội tiết, tác động trước tiên qua bảy nhóm tuyến chính, nhưng cũng qua các tuyến ít quan trọng khác.

3. Nhóm hệ thần kinh (hệ giao cảm và hệ năo tủy) với tầm quan trọng đặc biệt nơi thần kinh phế vị, với hiệu quả của nó trên tim và do đó mà có ảnh hưởng đến ḍng máu.

Tất cả các điểm này phải được xem xét và liên kết trong bất cứ hệ thống trị liệu theo huyền môn nào, và xét cho cùng th́ vấn đề kỹ thuật được bao hàm trong đó lại ít phức tạp hơn là hệ thống rộng lớn được xây dựng bởi y học và giải phẫu học chính thống. Chính v́ thiếu sự phối hợp của ba hệ thống này mà thuật chữa trị, vào lúc này không đạt được tất cả những ǵ nó mong mỏi. Nó đă giúp ích rất nhiều, nhưng c̣n phải tiến thêm một bước nữa, trên cơi dĩ thái trước khi manh mối đích thực đối với bệnh tật và cách chữa trị được xác minh.

87

 
Thí dụ, sự thiếu sinh lực và các t́nh trạng dưới b́nh thường thường thấy, chứng tỏ sự thiếu năng động của dĩ thái thể và sự thiếu sinh khí trong thể đó. Các kết quả của tính tŕ trệ này của thể sinh lực có thể thuộc về cả hai mặt thể chất và tâm lư, bởi v́ các tuyến trong thể xác sẽ không tác động một cách b́nh thường, và như được biết rơ, chúng chi phối sự biểu hiện của thể xác con người cũng như các trạng thái t́nh cảm và trí tuệ của y tới chừng mức mà các trạng thái đó có thể hay không thể t́m cách biểu lộ qua thể xác. Các tuyến ấy không chi phối được con người nội tâm, hay là các trạng thái tâm thức của con người ấy, nhưng chúng lại có thể và chắc chắn ngăn trở các trạng thái bên trong đó, đang t́m cách biểu lộ ra ngoài. Trong trường hợp trái lại, một thể dĩ thái quá mạnh và các bí huyệt của nó quá bị kích thích, có thể cũng đặt một căng thẳng quá lớn trên hệ thần kinh, và hậu quả là tạo ra sự rối loạn thần kinh rơ rệt, đau nửa đầu, mất thăng bằng trí tuệ và t́nh cảm, rồi, trong một vài trường hợp, đưa đến sự điên cuồng.

Tôi đă nói hơi chi tiết một chút về vấn đề này, bởi v́ sự liên hệ của thể dĩ thái với thể xác và tính dễ tiếp nhận của nó đối với các năng lượng bên trong chi phối con người một cách dứt khoát. Chúng ta lúc nào cũng cần phải ghi nhớ điều này khi nghiên cứu các nguyên nhân của bệnh tật xuất phát trong hạ trí hoặc do sự hoạt động của linh hồn trong cuộc đời của đệ tử, hay là khi chúng ta nghiên cứu các tiến tŕnh được chuẩn bị cho cuộc điểm đạo. Dĩ thái thể phải luôn luôn và lúc nào cũng đóng vai tṛ tác nhân truyền đạt các năng lượng bên trong cho cơi bên ngoài, c̣n thể xác th́ phải học cách đáp ứng và nhận biết những ǵ được truyền đạt. Hiệu năng của việc truyền chuyển và hậu quả là hoạt động của thể xác luôn luôn tùy thuộc vào các bí huyệt, đến lượt các bí huyệt lại chi phối các tuyến; sau đó, các tuyến này mới định đoạt bản tính và ư thức được biểu lộ của con người. Nếu các bí huyệt được khơi hoạt và dễ tiếp thu, th́ sẽ có một bộ máy thể chất đáp ứng được với các thần lực đang lưu chuyển qua. Nếu các bí huyệt c̣n yên ngủ, và như thế có thể truyền đạt được chút ít thần lực thôi, th́ bộ máy thể chất cũng trở thành chậm chạp và thiếu đáp ứng.

88

 
Nếu các bí huyệt dưới cách mô được khơi hoạt c̣n các bí huyệt trên cách mô vẫn chưa, th́ ư thức của con người sẽ được tập trung vào bản chất động vật và bản chất xúc cảm, và nhiều bệnh về thể xác của y cũng nằm dưới cách mô. Do đó, bạn sẽ thấy toàn thể vấn đề này rắc rối và phức tạp như thế nào – phức tạp đến nỗi nó chỉ được hiểu đúng khi nào con người lấy lại được quyền năng đă mất để “thấy được ánh sáng” của thể dĩ thái và của bảy bí huyệt chính của nó, và, nhờ xúc giác phát triển trong bàn tay và ngón tay, để xác minh tốc độ rung động trong các bí huyệt khác nhau. Khi nào người ta sử dụng được cả hai phương tiện hiểu biết nói trên, th́ toàn bộ vấn đề dĩ thái thể sẽ chiếm một tầm quan trọng mới mẻ và sẽ được hiểu một cách đúng đắn.

3. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TRONG HẠ TRÍ.

Tôi đă bắt đầu phần nghiên cứu này với các nguyên nhân xuất phát trong thể cảm dục và thể dĩ thái, bởi v́ đó là các nguồn gốc chính của bệnh hoạn, do sự kiện là đa số nhân loại đều đang trụ vào thể cảm dục, cũng như đa số các h́nh hài trong giới động vật đều đang trụ vào thể dĩ thái. Các lực đang tuôn đổ vào giới động vật phần lớn là xuất phát từ các phân cảnh dĩ thái, và từ các mức độ hồng trần trọng trược của sự sống. Tuy nhiên, các động vật cấp cao nhờ sự phát triển do chúng tiếp xúc với con người, đang trở nên dễ bị ảnh hưởng với các lực xuất phát từ cơi cảm dục, và nhờ thế mà chúng phát triển được các hoạt động và các phản ứng không hoàn toàn thuộc về bản năng.

Ngày nay, do sự phát triển trí tuệ trong giống dân Aryan, một số khó khăn có thể nảy sinh trong thể xác. Về cơ bản, nguồn gốc của chúng không phải ở thể trí, mà trước tiên do sự kiện thể trí là tác nhân truyền đạt năng lượng linh hồn (khi được linh hoạt và được chỉnh hợp đúng), và năng lượng linh hồn này, đang tuôn đổ vào thể xác, có thể tạo ra một vài t́nh trạng quá kích thích và các khó khăn liên quan với thần kinh hệ. Tuy nhiên, chính năng lượng được truyền đạt này mới tạo ra các bệnh tật, chứ không phải do yếu tố xuất phát từ chính thể trí. Tôi sẽ nói thêm một ít chi tiết về vấn đề này ở phần sau.

89

 
A. CÁC THÁI ĐỘ TRÍ TUỆ SAI LẦM

Trước tiên, tôi xin bàn đến tiền đề căn bản rằng bệnh tật và khả năng mắc bệnh của thể xác không phải là kết quả của tư tưởng sai lầm. Rất có thể chúng không phải là kết quả của tư tưởng chút nào cả, hoặc là chúng được tạo nên do không theo đúng các định luật căn bản đang chi phối Thiên Trí. Một trường hợp lư thú của thất bại này là việc con người không tuân theo Định Luật Căn Bản về Tiết Điệu, vốn đang chi phối mọi tiến tŕnh của thiên nhiên, và con người là một thành phần của thiên nhiên. Chính v́ không thể hoạt động theo Định Luật Chu Kỳ mà chúng ta có thể truy ra nhiều khó khăn có sẵn trong việc sử dụng và lạm dụng sự thôi thúc của tính dục. Thay v́ con người được chi phối bằng sự biểu lộ theo chu kỳ của xung lực tính dục, để nhờ đó sự sống con người được cai quản bởi một nhịp điệu rơ rệt, th́ vào lúc này, lại không có sự việc như thế, trừ ra trong các chu kỳ mà phái nữ đang trải qua, và người ta cũng ít quan tâm đến các chu kỳ đó. Tuy nhiên, phái nam không bị chi phối bởi bất cứ chu kỳ nào như thế, và họ cũng đă vi phạm cái tiết điệu mà cơ thể người nữ nên phụ thuộc vào, và nếu hiểu đúng, th́ tiết điệu này sẽ định đoạt cách áp dụng quan hệ tính dục, dĩ nhiên nó cũng bao gồm luôn xung lực tính dục của phái nam. Sự thất bại v́ không thể sống theo Định Luật Chu Kỳ và không thể làm cho các thèm muốn tuân thủ theo sự kiểm soát của luật chu kỳ, là một trong các nguyên do chính của bệnh tật, và v́ các định luật này được ban cấp h́nh hài trên cơi trí, nên người ta có thể nói một cách hợp lư rằng việc vi phạm các luật ấy có một căn bản trí tuệ. Trường hợp này có thể xảy ra nếu nhân loại làm việc bằng trí, nhưng không có việc đó. Chính trong thế giới hiện đại ngày nay đang bắt đầu có sự vi phạm rộng lớn các định luật trí tuệ này, đặc biệt là Định Luật Chu Kỳ, định luật này định đoạt các trào lưu/ thủy triều (tides), kiểm soát các biến cố trên thế giới và cũng sẽ chi phối cá nhân, và như thế, thiết lập các thói quen cho cuộc sống tiết điệu – tức là một trong các động cơ chính đưa đến sức khỏe tráng kiện.

90

 
Do việc vi phạm Luật Tiết Điệu, con người đă làm xáo trộn các thần lực, mà nếu được sử dụng đúng, sẽ mang lại cho thể xác một t́nh trạng khỏe mạnh tuyệt hảo. Do sự vi phạm đó, con người đă đặt nền móng cho sự suy nhược tổng quát và các khuynh hướng cơ cấu sẵn có này, khiến cho con người chịu sức khỏe kém cỏi, giúp cho mầm bệnh và vi khuẩn xâm nhập vào hệ thống cơ thể, tạo ra các dạng bệnh ác tính ở bên ngoài. Khi con người có lại sự hiểu biết để sử dụng đúng th́ giờ (th́ giờ định đoạt Luật Tiết Điệu trên cơi trần) và có thể ấn định các chu kỳ thích hợp cho các biểu lộ khác nhau của sinh lực trên cơi trần, th́ bấy giờ những ǵ trước kia là một thói quen do bản năng, sẽ trở thành cách dùng sáng suốt của tương lai. Điều này sẽ tạo thành một khoa học hoàn toàn mới, và nhịp điệu của các tiến tŕnh tự nhiên và việc thiết lập, theo thói quen, các chu kỳ đúng của hoạt động thể xác, sẽ mang lại một kỷ nguyên mới của sức khỏe và của các t́nh trạng xác thân lành mạnh cho toàn thể nhân loại. Tôi đă dùng từ ngữ “thiết lập” (“establishing”), v́ khi sự tập trung chú tâm của nhân loại chuyển vào lănh vực có giá trị cao hơn, th́ thể xác sẽ được lợi ích rất nhiều và sức khỏe khang kiện – nhờ cách sống đúng tiết điệu, cộng với tư duy đúng đắn và sự tiếp xúc với linh hồn – sẽ được tạo lập một cách lâu bền.

Do đó có rất ít bệnh tật mà xác thân kế thừa lại có căn bản nơi thể trí. Thật rất khó xác định được các bệnh ấy là ǵ. Có hai lư do cho việc không thể tŕnh bày bằng thống kê:

1. Sự thật là nhân loại tương đối rất ít người an trụ vào thể trí và do đó rất ít suy tư.

2. Sự thật rằng đa số bệnh tật đều thuộc thể dĩ thái hoặc thể cảm dục.

Một yếu tố khác tạo ra sự khó khăn này đó là sự suy tư và các phản ứng t́nh cảm của con người đều có liên quan mật thiết với nhau đến nỗi ở giai đoạn tiến hóa này, không dễ ǵ mà tách rời cảm giác với tư tưởng, hay nói rằng những bệnh thế này hay thế kia xuất phát trong thể cảm dục hoặc thể trí, hoặc nói rằng một số bệnh là do bởi t́nh cảm sai quấy và một số bệnh khác là do tư tưởng sai lầm. Nói chung, trong toàn thể nhân loại ngày nay trên thế giới, kẻ biết suy tư th́ tương đối ít. Số c̣n lại bận tâm tới t́nh cảm, với các nhận thức do giác quan, và với nhiều khía cạnh khác nhau của tính dễ xúc cảm như là tính dễ bực tức, băn khoăn, lo âu quá độ, khao khát hướng về một mục tiêu mong muốn nào đó, ngă ḷng, cùng với sự sống đầy ấn tượng mạnh của các giác quan và của ư thức “cái tôi là trung tâm”. Ít người sống trong thế giới tư tưởng và số người sống trong thế giới thực tại c̣n ít hơn nữa. Khi họ sống như thế th́ tất nhiên là mức trung b́nh của sức khỏe sẽ tốt hơn, bởi v́ có sự hợp nhất hữu hiệu hơn, kết quả là sinh lực hoạt động thông suốt, đến khắp các hiện thể biểu lộ.

91

 
B. SỰ CUỒNG TÍN TRÍ TUỆ.

SỰ VƯỢT TRỘI CỦA CÁC H̀NH TƯ TƯỞNG

Ở đây, tôi xin nêu ra rằng nhiều bệnh tật và khó khăn xuất phát từ những ǵ mà tôi gọi là các thái độ trí tuệ sai lầm, các cuồng tín, các chủ nghĩa lư tưởng bị thất bại và các hy vọng bị ngăn cản, đều thuộc vào ba loại, và khi nghiên cứu các loại này, bạn sẽ thấy rằng xét cho cùng th́ chúng không hề có cội nguồn nào ở thể trí cả, mà chủ yếu là kết quả của tính đa cảm đang xâm nhập vào.

1. Các bệnh gắn liền với hoạt động và công việc bị áp đặt ở cơi trần, đang t́m kiếm động lực thôi thúc của chúng trong các t́nh trạng trí tuệ nói trên. Thí dụ, chúng đưa đến hoạt động mănh liệt và sự làm việc quá sức, do quyết tâm không để thất bại, mà quyết thực hiện công việc theo kế hoạch. Thường th́ kết quả là sự suy nhược hệ thần kinh; kết quả này có thể tránh được nếu t́nh trạng trí tuệ được thay đổi và đạt được nhịp điệu đúng ở cơi trần. Nhưng chính công việc có bản chất vật chất mới tạo ra bệnh tật, hơn là t́nh trạng trí tuệ.

92

 
2. Các bệnh xảy ra do t́nh trạng chống đối đang nhuốm màu mọi cuộc sống và sự biểu lộ của các phản ứng t́nh cảm mănh liệt. Các phản ứng này có thể dựa trên sự nhận thức trí tuệ về Thiên cơ, chẳng hạn cộng với sự thừa nhận rằng các kế hoạch đó không thể hiện được, thường là do sự thiếu khả năng của các dụng cụ hồng trần. Nhưng nguyên do căn bản của bệnh tật là sự nổi loạn về t́nh cảm, và do đó không phải là t́nh trạng trí tuệ. Sự cay đắng, ghê tởm, căm thù và một cảm giác thất vọng có thể và ắt phải tạo ra nhiều t́nh trạng độc hại thường thấy, một trạng thái nhiễm độc chung và sức khỏe kém cỏi mà nhiều người thường mắc phải. Cái nh́n của họ rộng lớn hơn là sự thành đạt của họ, và điều này gây ra nỗi đau khổ về t́nh cảm. Cách chữa trị cho t́nh trạng này nằm trong một từ đơn giản là chấp nhận. Đây không phải là một trạng thái tiêu cực, cam chịu một cuộc sống phục tùng thiếu linh hoạt, mà là một sự chấp nhận tích cực (trong tư tưởng và trong biểu hiện thực tế) một t́nh trạng mà hiện tại dường như không thể tránh được. Sự chấp nhận này dẫn đến việc tránh khỏi phí th́ giờ khi cố làm những việc không thể làm, và đưa tới nỗ lực đúng đắn để xúc tiến những ǵ có thể làm được.

3. Các khó khăn này xảy ra do thể xác không đủ tư cách cho các đ̣i hỏi của đời sống tư tưởng của cá nhân. Thường thường các khó khăn này tự nhiên là một phần của di sản vật chất, và khi trường hợp này xảy ra th́ thông thường cũng không có ǵ nhiều phải làm, dù cho hoài băo có hiện thực và bền bĩ, một số lớn công việc có thể được hoàn thành để cải thiện t́nh trạng và đặt nền móng cho hoạt động có hiệu quả hơn trong một chu kỳ sống khác.

93

 
Tất nhiên, ở đây tôi sẽ bàn càng ngắn càng tốt đến vấn đề chữa trị bằng trí và bàn đến giáo huấn cho rằng mọi bệnh tật đều là sản phẩm của tư tưởng sai lầm. Bạn đang bắt đầu làm việc, và tôi muốn có sự suy tư rơ ràng về điểm này. Hai vấn đề mà tôi đă đưa ra có liên hệ chặt chẽ với nhau. Chúng ta có thể diễn tả chúng dưới h́nh thức hai câu hỏi:

1. Có phải bệnh tật là kết quả của tư tưởng chăng?

2. Năng lực của tư tưởng có thể tạo ra các hiệu quả chữa trị hay không khi được một cá nhân hoặc một nhóm vận dụng?

Như tôi có nói với bạn, do sự kiện nhiều bệnh tật tiềm ẩn trong chính chất liệu của chính hành tinh, hiển nhiên là tư tưởng con người không có trách nhiệm về bệnh tật. Việc đó xảy ra trước khi nhân loại đến hành tinh. Có loại bệnh trong giới khoáng chất, trong giới thực vật và cũng có trong giới động vật nữa, thậm chí trong t́nh trạng hoang dă và trong nơi ở tự nhiên của chúng, không bị con người làm lây nhiễm. Do đó con người không thể chịu trách nhiệm về việc này, cũng không phải là kết quả của suy tư sai lầm của con người. Nó không đưa ra giải đáp cho câu hỏi rằng việc đó phải do tư duy sai lầm của Hành Tinh Thượng Đế hoặc là của Thái Dương Thượng Đế. Đây chỉ là cách lấp lửng vấn đề và là một lối lẩn tránh vấn đề.

Ở đây, tôi muốn nhắc các bạn về hai định nghĩa của nguyên nhân gây bệnh mà tôi đă nêu ra trước đây. Xin các bạn hăy cẩn thận lưu ư:

1. “Mọi bệnh tật là kết quả của sự sống linh hồn bị ức chế. Điều này đúng cho mọi h́nh hài trong mọi giới”.

2. “Bệnh tật là sản phẩm của và tùy thuộc vào ba ảnh hưởng. Thứ nhứt là quá khứ của một người, trong đó y trả giá cho lỗi lầm trước kia. Thứ hai là sự kế thừa của y, trong đó y chia sớt với nhân loại về các ḍng năng lượng bị ô nhiễm vốn có nguồn gốc tập thể. Thứ ba là y chia sớt với mọi h́nh hài trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chúa Sự Sống đặt ra cho các h́nh hài này. Ba ảnh hưởng này được gọi là Định Luật Cổ Xưa về sự chia sớt Điều ác. Một ngày nào đó nó phải nhường chỗ cho định luật mới là “Định Luật về Điều Thiện Cổ Xưa Chi Phối”. Định luật này sẽ được linh hoạt nhờ ư chí tinh thần của con người”.

94

 
Nếu phân tích bốn nguyên nhân của bệnh tật được nêu ra ở đây, bạn sẽ ghi nhận rằng sau rốt bệnh tật sẽ bị chế ngự bằng sự khai phóng linh hồn trong mọi h́nh hài, và việc này sẽ được thực hiện bằng cách vận dụng linh hoạt ư chí tinh thần của con người. Chúng ta có thể diễn tả điều này theo lối khác, và nói rằng khi năng lượng linh hồn và việc sử dụng đúng ư chí (trong cá nhân, nó là phản ánh và là tác nhân của năng lượng ư chí của linh hồn) được phóng rải và được điều khiển đúng bởi trí tuệ, th́ bấy giờ bệnh tật có thể được đối trị và rốt cuộc bị trừ khử. Thế nên, chính là nhờ đặt năng lượng cao hơn và nhịp điệu cao hơn lên các mănh lực thấp mà bệnh tật có thể được kiềm chế. Do đó, bệnh hoạn là kết quả trong xác thân của sự thất bại, v́ không mang lại được các năng lượng và các nhịp điệu cao, và đến lượt nó, sự thất bại này lại tùy thuộc tŕnh độ tiến hóa.

Chính nhận thức mơ hồ về sự thất bại này và việc hiểu rơ các sự kiện nói trên đă làm cho rất nhiều nhóm tin vào việc chữa trị bệnh tật bằng năng lực của tư tưởng, họ quy sự xuất hiện của bệnh tật cho việc suy tư sai lầm. Tuy nhiên trong thực tế, một ngày nào đó, nhân loại phải học biết rằng chỉ có tâm thức cao của linh hồn, tác động qua trí tuệ, sau cùng mới có thể giải quyết được vấn đề khó khăn này.

95

 
Bởi thế, chúng ta không thể xác quyết rằng, theo qui luật chung, bệnh tật có bất cứ liên hệ nào với tư tưởng. Bệnh tật chỉ là việc dùng sai các lực của cơi dĩ thái, cảm dục và hồng trần. Đa số nhân loại đều bất lực, không thể làm ǵ được, chẳng hạn như, các lực vốn tạo ra thể xác, đang đi ngang qua, và đang tác động vào thể xác đó, đều được truyền lại từ một quá khứ rất xa xăm, là thành phần tạo nên môi trường chung quanh và tạo nên sự sống tập thể mà họ ḥa nhập và chia sớt với mọi huynh đệ của họ. Chất lực (force-matter) đó bị làm méo mó v́ các kết quả của những nhịp điệu sai lầm thời xưa, các lực bị dùng sai và các tính chất bị kế thừa. Khi được biểu lộ nhờ sự suy tư đúng, năng lượng linh hồn có thể chữa các bệnh mà con người có khuynh hướng mắc phải. Chính v́ không thể suy tư, ghi nhận và biểu lộ được các trạng thái tâm thức cao mới đưa đến các nhịp điệu sai lầm. Bởi vậy, tôi lặp lại rằng bệnh tật không phải là kết quả của tư tưởng.

C. CHỦ NGHĨA LƯ TƯỞNG BỊ NGĂN CẢN

Tuy nhiên, có một số bệnh xuất hiện trong thể xác và thực sự là bắt nguồn từ các hoạt động (vốn là kết quả của việc suy tưởng đặc biệt) bị nhuốm màu và bị qui định bởi cuộc sống t́nh cảm của cá nhân, cuộc sống t́nh cảm này là cội nguồn bổ ích của bệnh và của các nhịp điệu sai lầm đă ăn sâu. Do đó, chính ưu thế của lực cảm dục mới thực sự tạo ra bệnh tật ở thể xác, chứ không phải của năng lượng trí tuệ. Ở đây, tôi không đề cập đến các bệnh tật của hệ thần kinh và của bộ óc, vốn là kết quả của sự kích thích quá độ và của sự tác động của năng lượng (thường là từ trí tuệ và linh hồn) vào một khí cụ không thích hợp để sử dụng năng lượng đó. Chúng ta sẽ xem xét các bệnh này về sau. Tôi chỉ đề cập đến tŕnh tự các diễn biến sau đây trong cuộc sống tâm lư và các hoạt động là các hậu quả tiếp theo:

Bệnh tật là một h́nh thức của hoạt động.

1. Hoạt động và năng lượng trí tuệ (nhờ sức mạnh của tư tưởng), tạo nên sự ghi nhận về kế hoạch, các chủ nghĩa lư tưởng và các tham vọng.

2. Năng lượng này, phối hợp với năng lượng cảm dục, trở nên bị chế ngự và bị chi phối bởi các phản ứng cảm dục thuộc loại bất hảo, như là sự lo lắng về công việc không hoàn thành, không thể hiện được các kế hoạch v..v.. Bởi thế, cuộc sống trở thành đắng cay.

3. Bấy giờ, bệnh tật mới xuất hiện trong thể xác, tùy theo các khuynh hướng dắt dẫn của cơ thể và các suy nhược bẩm sinh, di truyền.

96

 
Bạn cần lưu ư rằng trong thực tế, thể trí và quyền năng của tư tưởng, không bao giờ là nguyên nhân của bệnh tật. Bệnh tật xảy ra do tư tưởng nguyên thủy bị xóa sạch và giảm xuống cấp độ của tính dễ xúc cảm (emotionalism). Khi sự hạ giảm này và sự kiềm chế sau rốt của lực cảm dục không xảy ra và tư tưởng vẫn rơ ràng và không bị ảnh hưởng trên cơi trí, th́ có thể có loại bệnh tật khác, v́ tư tưởng không được “chuyển thành” hành động hữu hiệu ở cơi trần. Sự thất bại này không những tạo ra sự nứt rạn trong phàm ngă (nhà tâm lư học thực hành biết rất rơ) mà c̣n cắt đứt một ḍng năng lượng rất cần thiết. Hậu quả là thể xác bị mất sinh khí và hứng chịu một sức khỏe tồi tệ. Khi tư tưởng có thể được chuyển qua bộ óc hồng trần và ở đó trở thành một phương tiện điều khiển sinh lực, bạn thường có một t́nh trạng sức khỏe tốt và điều này được chứng minh là đúng dù cho tư tưởng của cá nhân là tốt hay xấu, được thúc đẩy đúng hay định hướng sai. Đó chỉ là kết quả của sự hội nhập, bởi v́ những vị thánh và những kẻ tội lỗi, những kẻ ích kỷ và những người bất vị kỷ cũng như tất cả mọi hạng người, đều có thể đạt được sự hội nhập và một đời sống được tư tưởng hướng dẫn.

Câu hỏi thứ hai được đặt ra là liệu một cá nhân hoặc là một nhóm có thể chữa trị bằng quyền năng tư tưởng không?

97

 
Chắc chắn là nói chung một cá nhân và một nhóm đều có thể chữa trị, và tư tưởng có thể góp phần mạnh mẽ của nó trong tiến tŕnh chữa trị, nhưng không phải chỉ có một ḿnh tư tưởng mà thôi. Tư tưởng có thể là tác nhân hướng dẫn các lực c̣n các năng lượng vốn có thể phá tan và xua đuổi bệnh tật, nhưng tiến tŕnh này phải được trợ giúp bằng năng lực h́nh dung, bằng khả năng tác động với các mănh lực đặc biệt được cho là nên theo, bằng sự thông hiểu về các cung và các loại năng lượng của cung đó, cũng như bằng khả năng sử dụng chất liệu ánh sáng (light substance) như thường được gọi. Phải thêm vào các lực này khả năng giao cảm với bệnh nhân, cộng với ḷng yêu thương. Thực ra, khi các điều kiện này được đáp ứng, th́ việc vận dụng khả năng suy tưởng quá nhiều và vận dụng trí tuệ quá mạnh có thể chặn đứng và cản trở công việc chữa trị. Tư tưởng phải chi phối động cơ ban đầu, đem trí tuệ của nhà trị liệu gánh vác vấn đề chữa trị để t́m hiểu bản chất của bệnh nhân; nhưng một khi tư tưởng đă giúp vào sự tập trung chú tâm của người chữa trị và nhóm chữa trị, nó phải trở nên một tác nhân vững vàng nhưng điều khiển từ trong tiềm thức và không có ǵ hơn nữa.

Khi nào có thể th́ việc chữa trị được hoàn thành bằng việc sử dụng năng lượng được chỉ dẫn đúng hướng và bằng việc h́nh dung một cách tỉ mỉ; t́nh thương cũng đóng một vai tṛ quan trọng, cũng như vai tṛ mà trí tuệ đóng trong giai đoạn đầu. Có lẽ tôi nên nói rằng ḷng bác ái là một trong các năng lượng mạnh mẽ nhất trong tất cả các năng lượng đă được sử dụng.

Tôi đă đưa bạn chú ư đến hai câu hỏi này, bởi v́ tôi muốn cho trí bạn thông suốt các vấn đề này trước khi bạn bắt đầu bất cứ công tác chữa trị tập thể nào.

98

 
Tư tưởng không thể chữa trị bệnh tật, cũng không thể gây ra bệnh tật. Tư tưởng phải được vận dụng trong các tiến tŕnh, nhưng nó không phải là tác nhân duy nhất hoặc quan trọng nhất. Chính ở điểm này mà nhiều nhóm và nhà trị liệu đi lạc đường. Thể trí có thể điều khiển năng lượng, và đến phiên năng lượng này có thể gây ra sự kích thích quá độ ở bộ óc và nơi các tế bào cơ thể và thế là gây ra bệnh thần kinh và một đôi khi bệnh năo, nhưng chính thể trí và việc suy tư, tự chính nó, không thể tạo ra bệnh tật và rối loạn trong xác thân. Khi nhân loại học được cách suy tư rơ ràng và dứt khoát, và khi các định luật về tư tưởng bắt đầu chi phối tâm thức nhân loại, th́ bệnh tật – như chúng ta biết hiện nay – sẽ được giảm bớt phần lớn và ngày càng có nhiều người đạt được sự hội nhập. Nơi nào có sự hội nhập, th́ nơi đó có sự hoạt động thông suốt của lực và năng lượng khắp thể xác. Tuy nhiên, các vấn đề kích thích sẽ ngày một nhiều hơn, với sự nhạy cảm tăng lên của thể xác và con người ngày càng tập trung tâm thức của ḿnh trong bản chất trí tuệ. Điều này sẽ tiếp tục cho đến khi con người học được cách làm thế nào để vận dụng được các năng lượng cao và nhận thấy cần có một cuộc sống nhịp nhàng và chú ư đến Định Luật Chu Kỳ.

Trong việc chữa trị, một số qui tắc nên được người chữa trị nắm vững và tuân theo. Tôi đă đưa ra ba qui tắc quan trọng. Chúng cũng chỉ được đưa ra vắn tắt như sau, và tôi chia qui tắc 1 thành các phần nhỏ để cho rơ ràng.

1. a- Nhà chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn của y, tim, óc và hai bàn tay của y. Như thế, y có thể tuôn đổ sinh lực với quyền năng chữa trị vào bệnh nhân. Đây là công tác từ điển.

    b- Nhà chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn y, óc, tim và bức xạ hào quang của y. Như thế, sự hiện hữu của y có thể cung cấp cho sự sống linh hồn của bệnh nhân. Đây là công tác bức xạ. Hai bàn tay không cần đến. Linh hồn phô bày quyền năng của nó.

2. Nhà chữa trị phải đạt được sự tinh khiết về từ điển, nhờ sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt cho được sự chói lọi có tính cách xua đuổi đó, chính nó biểu lộ trong mỗi người một khi mà y đă liên kết được các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này đă được thiết lập, bấy giờ bức xạ (radiance) mới phát ra.

3. Nhà chữa trị hăy tự luyện tập để biết giai đoạn bên trong của tư tưởng hoặc của ước muốn của kẻ t́m sự giúp đỡ của y. Nhờ đó, y có thể biết được cội nguồn từ đó bệnh tật xuất phát. Nhà chữa trị hăy liên kết nguyên nhân và hậu quả và biết được mức độ chính xác nhờ đó sự thuyên giảm phải đến.

Ở đây tôi muốn nêu ra một qui luật khác cho các bạn, với tư cách là một nhóm để hợp thành bốn qui luật chính:

QUI LUẬT BỐN

Nhà chữa trị và nhóm chữa trị phải giữ lại ư chí. Không phải dùng ư chí, mà là dùng t́nh thương.

99

 
Qui Luật cuối cùng này rất quan trọng. Ư chí được tập trung của bất cứ cá nhân nào và ư chí có hướng dẫn của một nhóm hợp nhất không nên dùng đến bao giờ. Tự do ư chí của cá nhân người bệnh đừng bao giờ để bị lệ thuộc vào tác động của một nhóm hoặc của một cá nhân được tập trung mạnh mẽ. Đó là một phương pháp quá nguy hiểm không được phép làm. Năng lượng ư chí (đặc biệt là năng lượng của một số người đồng thời tác động trên các thể tinh anh và thể xác của bệnh nhân) có thể làm cho bệnh thêm trầm trọng thay v́ chữa lành. Nó có thể kích thích chính căn bệnh đến mức độ nguy hiểm, và phá vỡ, thay v́ hợp tác với các lực chữa trị của thiên nhiên, và thậm chí rốt cuộc có thể giết chết bệnh nhân bằng cách làm tăng cơn bệnh đến nỗi sức đề kháng b́nh thường của người bệnh có thể trở nên vô hiệu. Do đó, tôi muốn đ̣i hỏi bạn trong bất luận công tác chữa trị tập thể nào, phải giữ cho ư chí (và ngay cả sự ước muốn mănh liệt) đ́nh chỉ. Chỉ những điểm đạo đồ ở cấp cao mới được phép chữa trị bằng sức mạnh của ư chí, được tập trung vào Quyền Lực Từ, và sở dĩ làm được điều này chỉ v́ các vị này có thể trắc nghiệm năng lực của bệnh nhân, mức căng thẳng của bệnh, và cũng biết có nên dùng ư chí của linh hồn để chữa bệnh đó hay là không.

Trong tiết này, chúng ta đă nhắc đến nhiều khía cạnh quan trọng, và cần phải được bạn nghiên cứu cẩn thận. Trong tiết mục tới, chúng ta sẽ xét đến các vấn đề đặc biệt của hạng đệ tử. Để chuẩn bị cho tiết này, yêu cầu các bạn hăy chú ư nghiên cứu giáo huấn mà tôi đă nêu ra trước đây về các bệnh của nhà thần bí. (Trong “Luận Về Bảy Cung”, quyển II, trang 520 – 625).

Nhiều điều đă nói đến ở đó, tôi không cần lặp lại, mà nên nhập vào các huấn điều của chúng ta về trị liệu. Tôi đề nghị các bạn hăy đọc chúng để biết ít nhiều về chính các vấn đề, cả về lư thuyết lẫn theo hiểu biết của chính bạn. Cơ lẽ bạn sẽ biết được một vài khó khăn trong số này, bằng chính kinh nghiệm riêng của bạn, ít ra cũng ở một mức độ nào đó.

 

THUẬT CHỮA TRỊ THIÊNG LIÊNG

100

 
Trong bộ luận này tôi không định bàn đến bệnh lư học, với các hệ thống của nó và các chỉ dẫn ác hại của các hệ thống đó. Các chỉ dẫn này có đầy dẫy trong bất cứ luận đề y học và sách y khoa thông thường nào. Hỡi các huynh đệ, tôi không huấn luyện y sĩ hay có thẩm quyền y học, tôi cũng không có th́ giờ để miệt mài với các kỹ thuật. Những ǵ mà tôi bàn đến là để nêu ra một vài ư kiến cho thế gian về các nguyên nhân xác thực và huyền bí của bệnh tật và các cội nguồn ẩn tàng của chúng và bàn đến việc chữa trị, như nó được Thánh Đoàn xúc tiến và chuẩn nhận.

Thực ra, công việc là vận dụng năng lượng một cách sáng suốt, áp dụng với t́nh thương và khoa học. Tất cả những ǵ mà tôi nói với bạn là kết quả của kinh nghiệm. Việc chữa trị như thế thuộc về hai loại:

1. Trong cách chữa trị bằng từ điển, nhà chữa trị hay nhóm chữa trị làm hai điều:

a. Y thu hút vào trung tâm chữa trị loại năng lượng vốn dĩ sẽ làm mất tác dụng của bệnh.

Đây tất nhiên là một vấn đề rộng lớn và có một ư nghĩa khoa học sâu xa. Một vài loại thần lực của cung có thể được dùng với một vài loại bệnh, đ̣i hỏi phải dùng một số bí huyệt đặc biệt để phân phối. Các loại thần lực của cung này sẽ được xem xét và vạch ra khi chúng ta đến chương có tiêu đề “Bảy Cách Chữa Trị” (trang 693).

b. Người chữa trị thu hút vào chính y và hấp thu các mănh lực vốn tạo ra bệnh, tách nó ra khỏi người bệnh.

Diễn tiến sau này cần có sự đề pḥng cẩn thận của nhà trị liệu để tránh mọi lây nhiễm của bệnh, sao cho các mănh lực đó không thể t́m được một chỗ nào trong cơ thể người chữa trị. Cũng phải có việc cung cấp năng lượng mới cho bệnh nhân để thế chỗ cho năng lượng đă bị tách ra. Diễn tiến này tạo ra một sự tương tác rơ rệt giữa nhà chữa trị và bệnh nhân. Tất nhiên là có một số nguy hiểm thực sự trong việc chữa trị theo huyền môn này, và v́ lư do đó, các nhà chữa trị khi được huấn luyện sẽ ghi nhớ rằng họ sẽ làm việc như một nhóm chứ không phải như các cá nhân. Việc lưu chuyển thông suốt thần lực sẽ tạo ra sức khỏe tráng kiện trong cá nhân hoặc nhóm.

101

 
Việc lưu chuyển thông suốt thần lực giữa người trị liệu hay nhóm trị liệu với bệnh nhân có thể chữa lành bệnh, miễn là số phận chữa lành của bệnh nhân đă được an bài, và có thể có sự hợp tác của bệnh nhân, dù cho điều này không thực sự cần thiết. Nó làm cho dễ dàng và có kết quả nhanh chóng hơn trong nhiều trường hợp. Trong các trường hợp khác, sự lo âu của bệnh nhân có thể làm cho các kết quả mong muốn không có được.

2. Trong việc chữa trị bằng bức xạ, tiến tŕnh đơn giản hơn và an toàn hơn, v́ nhà trị liệu chỉ việc gom góp sức mạnh vào chính ḿnh, và lúc bấy giờ phóng phát nó vào người bệnh dưới h́nh thức một ḍng năng lượng bức xạ đang tuôn ra. Ḍng năng lượng này sẽ được hướng đến bí huyệt gần nhất đối với vị trí của bệnh.

Trong công tác này; không có sự rủi ro đối với nhà chữa trị, nhưng nếu yếu tố ư chí đi vào tư tưởng của y, hay là ḍng năng lượng được phóng ra quá mạnh, có thể nguy hiểm đối với bệnh nhân. Tác động của thần lực đang được tỏa ra trên bệnh nhân không những có thể tạo ra sự căng thẳng thần kinh, mà c̣n có thể làm cho bệnh trầm trọng thêm và việc tăng thêm sức mạnh của nó bằng cách kích thích các nguyên tử và các tế bào có liên quan trong hoạt động của lực chịu trách nhiệm về bệnh tật. V́ lư do này, những kẻ mới vào nghề chữa trị phải tránh bất cứ sự tập trung nào trên chính chỗ bệnh hay là khu vực trong xác thân có dính dáng tới, và cẩn thận giữ cho tất cả mọi tư tưởng tạm thời đ́nh chỉ, một khi mà công tác sơ khởi đă được làm, v́ năng lượng bao giờ cũng đi theo tư tưởng và đi đến nơi nào mà tư tưởng được tập trung.

102

 
Nhà trị liệu phải xác định được hiệu quả của những ǵ mà họ đang thử và sức mạnh của công tác tập thể có kết hợp của họ, và của thần lực mà họ có thể vận dụng. Họ cũng phải t́m ra năng lực của họ để giữ cho ư chí ở hậu cảnh, và gởi bức xạ chữa trị đi vào ḍng năng lượng bác ái. Luôn luôn ghi nhớ rằng bác ái là năng lượng, và đó chính là một chất liệu có thật như là vật chất trọng trược. Chất liệu đó có thể được dùng để xua đuổi mô bị bệnh và cung cấp chất thay thế lành mạnh thay cho chất bệnh hoạn, chất bệnh hoạn sẽ bị loại ra.

Do đó, trong chu kỳ hoạt động thứ nhất, họ sẽ thử nghiệm phương pháp bức xạ. Nó đơn giản hơn và dễ khống chế hơn nhiều. Về sau, họ có thể thực nghiệm với phương pháp chữa trị bằng từ điện.

Bây giờ, bạn sẽ thấy mục đích của các qui tắc có liên hệ đến cách chữa trị mà trước kia tôi đă nêu ra trong loạt giáo huấn này. Bạn sẽ hiểu được tại sao, trong công tác bức xạ này, diễn tŕnh liên kết sẽ bao gồm linh hồn, bộ óc và toàn thể hào quang hay là từ trường hoạt động của cá nhân hoặc của nhóm. Thể trí không được kể đến hoặc dính líu vào đó, c̣n bộ óc tác động một ḿnh như là tụ điểm của bác ái, và lực chữa trị phải được phóng vào trong ḍng năng lượng đang phát ra từ bí huyệt ấn đường.

Do đó, nhà chữa trị sẽ giữ cho mọi sức mạnh được tập trung trong đầu và sự chú tâm của y cũng được tập trung vào đó. Tim sẽ được tự động bao hàm trong đó, v́ lần đầu tiên y sẽ dùng năng lượng bác ái một cách toàn bộ.

103

 
Bây giờ, chúng ta hăy kê ra các qui tắc mà theo đó mọi nhóm chữa trị phải làm. Ở đây, tôi xin thêm rằng không phải luôn luôn cần hoặc có thể gặp và làm việc chung với nhau trong việc thành lập nhóm. Công việc này có thể được tiến hành một cách có hiệu quả và một cách mạnh mẽ, nếu các thành viên làm việc như một nhóm bên trong (chủ quan); lúc bấy giờ, mỗi thành viên sẽ tuân theo các giáo huấn mỗi ngày và y như thể y đang làm việc trong nhóm của y dưới h́nh thức hữu h́nh. Khoen nối thực sự này được mang lại bằng sự tưởng tượng của chính y như là có sự hiện diện của các huynh đệ y. Nếu chúng được đáp ứng như là một nhóm trên cơi trần, thật là khó mà ngăn chận sự tiêu hao thần lực qua sự bàn căi, qua các lời pha tṛ thông thường trong lúc hội họp, và qua sự tương tác vật chất giữa các phàm ngă. Điều không thể tránh khỏi là có quá nhiều cuộc nói chuyện và công việc được làm mà không có hiệu quả thích hợp. Theo quan điểm trần gian, họ làm việc một ḿnh; theo quan điểm chân chính nội môn, họ làm việc trong sự hợp tác chặt chẽ nhất.

Đây là các qui luật thứ nhứt mà tôi muốn môn sinh nên quán triệt:

CÁC QUI LUẬT MỞ ĐẦU CHO VIỆC TRỊ LIỆU BẰNG BỨC XẠ

1. Sau khi tạo được sự chỉnh hợp hữu thức và mau lẹ cho riêng bạn, bằng tác động của ư chí, bạn hăy liên kết như một linh hồn với nhiều linh hồn của các huynh đệ thuộc nhóm của bạn. Kế đó, liên kết với các thể trí của họ, và sau đó với các bản chất t́nh cảm của họ. Hăy làm điều này bằng cách sử dụng sự tưởng tượng, do hiểu được rằng năng lượng theo sau tư tưởng và rằng tiến tŕnh liên kết không thể tránh khỏi nếu được làm đúng. Bấy giờ, bạn có thể tác động như một nhóm. Kế đó, quên đi sự liên hệ của nhóm và tập trung vào công việc phải làm.

2. Kế đó, trong chính bạn, hăy liên kết linh hồn với bộ óc và gom chung lại các mănh lực của bác ái vốn có trong hào quang của bạn, và tập trung chính bạn và tất cả những ǵ mà bạn phải đưa ra bên trong đầu, h́nh dung chính bạn như một trung tâm năng lượng tỏa chiếu hay là một điểm sáng chói lọi. Ánh sáng này là để phóng ra trên bệnh nhân qua bí huyệt ấn đường giữa hai mắt.

3. Sau đó, đọc thần chú sau đây của nhóm:

“Với sự tinh khiết của động lực, được gợi ra bằng một ḷng bác ái, chúng tôi hiến dâng chính chúng tôi cho công tác chữa trị này. Chúng tôi làm việc này với tư cách một nhóm và cho người mà chúng tôi t́m cách chữa trị”.

104

 
Khi làm việc đó, bạn hăy h́nh dung tiến tŕnh liên kết đang nối tiếp. Hăy xem nó như là các tuyến hoạt động của chất liệu ánh sáng sinh động, liên kết bạn với các huynh đệ của bạn ở một mặt và với bệnh nhân ở mặt khác. Cảm nhận các tuyến này đang xuất phát từ bạn tới bí huyệt tim của nhóm và tới bệnh nhân. Nhưng công việc bao giờ cũng đi từ bí huyệt ấn đường cho đến khi được huấn luyện để làm một cách khác hơn. Theo cách này, bí huyệt ấn đường và bí huyệt ở tim của tất cả mọi người có dính líu sẽ được liên kết chặt chẽ với nhau. Bạn sẽ thấy giá trị của việc h́nh dung xuất hiện ở đây. Thực ra, đó là sự ngoại hiện bằng dĩ thái của sức tưởng tượng sáng tạo. Hăy suy đoán về câu cuối cùng này.

4. Kế đó, hăy dùng tư tưởng, tư tưởng có hướng dẫn, trong một lúc ngắn ngủi và nghĩ đến kẻ mà bạn t́m cách chữa trị, liên kết với y, và tập trung sự chú tâm của bạn về y sao cho y trở thành một thực tại trong tâm thức bạn và liên kết với bạn. Khi bạn biết được nỗi khó khăn vật chất là ǵ, bấy giờ chỉ việc nhắc nó lại trong trí và rồi xua nó đi. Bấy giờ hăy quên đi các chi tiết của công việc, như là nhóm, chính bạn và nỗi khó khăn của bệnh nhân, và tập trung vào loại thần lực mà bạn sắp vận dụng, trong trường hợp này và đối với hiện tại, vốn là thần lực của cung hai, thần lực bác ái. Những ǵ mà tôi nêu ra ở đây là một mô phỏng theo phương pháp chữa trị của cung hai, được sắp xếp cho những kẻ mới bắt đầu.

105

 
5. Cảm thấy một ḷng bác ái sâu xa đang tuôn đổ vào bạn. Lưu tâm đến điều đó như là ánh sáng có thật mà bạn có thể và sẽ vận dụng. Kế đó, hăy gửi nó ra như là một ḍng ánh sáng tỏa chiếu từ huyệt ấn đường và điều khiển nó nhờ hai bàn tay của bạn đến bệnh nhân. Khi làm điều này, hăy giữ hai bàn tay trước mắt, ḷng bàn tay hướng ra ngoài, các lưng bàn tay kế cận với mắt và cách xa mặt chừng 6 inches (15cm24). Theo cách này, ḍng năng lượng đang tuôn ra từ bí huyệt ấn đường, trở nên chia hai và tuôn đổ qua hai bàn tay. Cứ như thế mà được hướng về phía bệnh nhân. H́nh dung nó như đang tuôn ra và cảm thấy người bệnh đang thu nhận nó. Khi làm điều này, bạn hăy nói to lên bằng một giọng trầm:

“Cầu xin ḷng bác ái của Linh Hồn Duy Nhất, tập trung vào nhóm này, tỏa chiếu lên bạn, hỡi huynh đệ, và thấm nhuần mọi phần của cơ thể bạn – chữa trị, xoa dịu, làm cho mạnh lên, và làm tiêu tán tất cả những ǵ đang ngăn cản việc phụng sự và sức khỏe tráng kiện”.

Thốt ra lời đó một cách chậm chạp và một cách thong thả, tin tưởng vào các kết quả. Nên biết rằng không có sức mạnh tư tưởng hay sức mạnh ư chí nào nhập vào ḍng năng lượng chữa trị, mà chỉ có ḷng bác ái được tập trung đang tỏa chiếu. Việc vận dụng năng lực h́nh dung và sức tưởng tượng sáng tạo, cộng với một nhận thức về ḷng bác ái sâu xa và vững chắc, sẽ giữ thể trí và ư chí ở t́nh trạng ngưng đọng.

Tôi xin nhấn mạnh về nhu cầu cấp thiết đối với sự im lặng hoàn toàn và sự dè dặt lời nói trong sự tương quan với mọi công tác chữa trị. Đừng bao giờ để cho người nào mà bạn đang thực hành cách này biết được điều đó, và đừng bao giờ nhắc cho người nào về các danh tính của những kẻ mà bạn đang t́m cách trợ giúp. Đừng bao giờ nói đến bệnh nhân đang được chữa trị cho dù ở trong chính các bạn. Nếu qui luật im lặng căn bản này không được giữ đúng, điều đó sẽ chứng tỏ rằng bạn chưa sẵn sàng cho công tác này và sẽ làm gián đoạn nó. Huấn thị này c̣n quan trọng hơn là bạn hiểu; v́ lời nói và việc bàn bạc không những chỉ có khuynh hướng làm lệch đi và làm phân tán thần lực, mà c̣n vi phạm một qui luật căn bản mà tất cả các nhà trị liệu được tập luyện để giữ và ngay cả giới y khoa trên cơi trần cũng noi theo cùng cách thức chung.

BA ĐỊNH LUẬT CHÍNH VỀ SỨC KHỎE

Có ba định luật chính về sức khỏe và bảy định luật phụ. Các định luật này được thể hiện trong ba cơi thấp, vốn là những ǵ có liên hệ đến bạn trong lúc này. Trong mọi giáo huấn được đưa ra trong tương lai trước mắt, tầm quan trọng chính sau rốt sẽ được đặt vào kỹ thuật về thể dĩ thái, v́ đó là giai đoạn tiến tới kế tiếp. Ba định luật chính yếu là:

106

 
1- Định luật kiểm soát ư chí muốn sống, một biểu hiện của Ngôi Một Thượng Đế, tức ư chí hay quyền năng .

2-                 Định luật kiểm soát sự b́nh đẳng của chu kỳ, một biểu hiện của Ngôi Hai của Thượng Đế, tức là bác ái hay minh triết.

3- Định luật kiểm soát sự kết tinh, một biểu hiện của Ngôi Ba của Thượng Đế, tức trạng thái hoạt động hay trạng thái căn bản .

Cả ba định luật chính này chi phối các yếu tố hay các định luật tự biểu lộ qua ba phân chia chính của con người .

1. Trạng thái ư chí biểu lộ qua các cơ quan hô hấp. Một trạng thái biểu lộ khác của nó là khả năng ngủ. Trong cả hai biểu lộ này, bạn có một sự lặp lại hay một tương đồng trong tiểu thiên địa của chu kỳ biểu lộ và ngơi nghỉ của Thượng Đế.

2. Trạng thái bác ái tự biểu lộ nhờ tim, hệ tuần hoàn và hệ thần kinh. Về nhiều mặt, đây là điều quan trọng nhất cho bạn t́m hiểu, v́ nó kiểm soát một cách tuyệt đối thể dĩ thái và cách đồng hóa prana hay sinh khí của nó. Prana này tác động qua cả hai ḍng máu và thần kinh, v́ sinh lực (life force) sử dụng ḍng máu và sức mạnh tâm linh tác động qua hệ thần kinh. Cả hai bộ phận này của cơ thể là các bộ phận vốn gây phần lớn bệnh tật vào lúc này và thậm chí sẽ nhiều hơn trong tương lai. Nhân loại học hỏi qua đau khổ và chỉ có nhu cầu cấp thiết mới thúc đẩy con người t́m cách giải quyết và giảm thiểu. Theo quan điểm chữa trị hiện nay, con người lại tạo thành một bộ ba nhỏ hơn rất quan trọng:

107

 
a) Nhục thân, là cái mà khoa học và y học biết đến nhiều.

b) Thể dĩ thái, vốn là lănh vực nỗ lực kế tiếp để kinh nghiệm và để khám phá.

c) Thể cảm dục, đồng thời với thể dĩ thái, là đối tượng kế tiếp cho việc chế ngự của khoa học. Khoa tâm lư học sẽ hoạt động ở đây.

3.Trạng thái hoạt động, vốn biểu lộ trước tiên qua các cơ quan đồng hóa và thải trừ. Ở đây tôi t́m cách nhấn mạnh một điều. Giống như thái dương hệ của chúng ta đang phát triển trạng thái bác ái, tức là trạng thái thứ hai, và giống như con người đang an trụ vào thể cảm dục, vốn là phản ánh của trạng thái thứ 2 đó, cũng thế, bộ phận thứ hai trong số ba bộ phận được nhắc đến ở trên của cơ thể người, tức dĩ thái thể, là quan trọng nhất. Cho đến nay, nó đă là chỗ truyền đạt chính yếu của năng lượng cảm dục cho thể xác. Nay điều này đang trong tiến tŕnh thay đổi.

108

 
Toàn bộ khuynh hướng của y khoa hiện nay sẽ được thức tỉnh trước các sự kiện cụ thể về nhục thân và hướng về việc nghiên cứu việc tiếp sinh khí và sự lưu thông, v́ cả hai có liên quan chặt chẽ với nhau. Ngày nay, hệ thần kinh được kiểm soát phần lớn từ thể cảm dục, xuyên qua thể dĩ thái, và căn bản của mọi bệnh thần kinh ẩn tàng trong thể t́nh cảm, nơi mà vào lúc này, nhân loại được an trụ vào. Hệ tuần hoàn của thể xác được kiểm soát phần lớn từ thể dĩ thái. Khi nào bạn có một thể dĩ thái không vận hành thích đáng và không truyền prana đầy đủ, và khi bạn có một thể cảm dục không được kiểm soát thích đáng, bạn sẽ có trong hai thể này cội nguồn của đa số bệnh tật và các t́nh trạng thần kinh và trí tuệ tăng gia hằng năm. Tác động phản xạ của sự lưu thông không tương xứng trên bộ óc hồng trần (lại do dĩ thái thể) đưa đến sự căng thẳng trí tuệ và sự suy sụp sau cùng. Do điểm đó, bạn có thể thấy sự quan trọng của thể dĩ thái.

Trạng thái thứ nhất, mà sự biểu lộ và lănh vực kiểm soát của nó là các cơ quan hô hấp và khả năng ngủ, khi không vận hành thích hợp, sẽ gây ra tử vong, mất trí và một số bệnh về năo bộ .

Trạng thái thứ ba, khi không vận hành thích hợp sẽ gây ra đau bao tử, các chứng đau ruột và các bệnh khác nữa nằm ở dưới huyệt đan điền trong bụng dưới.

Do đó, bạn sẽ thấy, sau rốt y học phải làm sao t́m giải pháp bằng cách đơn giản hóa các phương pháp và quay trở lại từ sự phức tạp của thuốc men và mổ xẻ, đến một sự hiểu biết về cách sử dụng đúng các năng lượng đang tuôn đổ từ con người nội tâm, xuyên qua dĩ thái thể đến thể xác.

Các gợi ư sau đây có thể hữu ích:

1. Bằng sự phát triển thiện chí, vốn là ư muốn của dự tính và động lực tốt lành, sẽ đưa đến việc chữa trị các bệnh của bộ máy hô hấp, phổi và cổ họng, làm ổn định các tế bào năo bộ, chữa các bệnh mất trí và ám ảnh, đạt đến sự thăng bằng, nhịp nhàng. Sự trường thọ sẽ theo sau, v́ cái chết sẽ xảy ra khi nào linh hồn nhận thức được là công việc đă hoàn thành và cần sự an nghỉ. Điều đó sẽ chỉ xảy ra sau này vào các giai đoạn lâu dài và riêng rẽ, và sẽ được ư chí con người kiểm soát. Y sẽ ngừng thở khi nào y đă chấm dứt công việc, và lúc bấy giờ sẽ gửi các nguyên tử của thể xác y vào trạng thái pralaya (ngơi nghỉ). Đó là sự ngủ của thể xác, chấm dứt chu kỳ biểu lộ và ư nghĩa huyền bí của điều này chưa được thấu hiểu.

109

 
2. Bằng sự thấu hiểu các định luật về sức sống (vitality) và trong câu này có bao hàm các định luật đang cai quản prana, bức xạ và từ điển – sẽ tiến đến việc chữa trị các bệnh trong máu, của động mạch và tĩnh mạch, một số bệnh thần kinh, thiếu sinh lực, lăo–suy, sự tuần hoàn kém cỏi và các bệnh tương tự. Điều này cũng sẽ tạo ra kết quả trong việc kéo dài đời sống. Các định luật về điện năng cũng sẽ được hiểu rơ hơn trong mối liên hệ này.

1. Bằng sự hiểu biết các phương pháp đúng để đồng hóa và thải trừ sẽ tiến đến việc chữa trị các bệnh có liên quan đến các mô của cơ thể, bao tử và ruột cùng với các cơ quan sinh sản của nam và nữ. Và một ngày nào đó người ta sẽ hiểu được rằng các bệnh sau này chỉ là một hệ thống đồng hóa và thải hồi khác, lần này được tập trung trong trạng thái nữ hay đàn bà, v́ cần nhớ rằng đây là hệ thống thứ nh́ hay hệ thống bác ái. Thứ tự như sau:

a) Hệ thống thứ nhất (Thái dương hệ 1) thuộc dương.

b) Hệ thống hiện tại, (Thái dương hệ 2), thuộc âm.

c) Hệ thống thứ 3 sẽ là lưỡng phái.

Cho dù huyền giai tiến hóa của nhân loại thuộc nam hay dương, tuy vậy điều đó không bảo đảm rằng tất cả những ǵ có trong thái dương hệ hiện tại cũng là dương hết. Sự thực là năng lực âm hay trạng thái nữ chi phối cho dù các bạn không nhận ra được điều này. Tôi xin chứng minh điều này và đưa ra một vài chỉ dẫn bằng các con số của giả thuyết này:

1. Trong Thái dương hệ thứ nhất có một sự tiến hóa chiếm ưu thế và gồm có 100 000 triệu chân thần (100 tỉ)

2. Trong thái dương hệ hiện tại, tức thứ hai có hai cuộc tiến hóa chiếm ưu thế, đó là sự tiến hóa của con người và thiên thần; – như đă nói trước kia – có 60 tỉ chân thần con người. Thêm vào đó là cuộc tiến hóa âm tính của các thiên thần, gồm có 140 tỉ, và tất nhiên, bạn có 200 tỉ. Điều này minh giải phát biểu của tôi liên quan tới việc đây là một thái dương hệ thuộc âm tính.

110

 
3. Trong thái dương hệ ba, tổng số trong cơ tiến hóa sẽ cần đến 300 tỉ mà một vị Thượng Đế Ba Ngôi cần có để đạt mức hoàn thiện.

Sự bàn bạc của chúng ta tất nhiên chỉ là sơ sài, v́ tất cả những ǵ tôi cố gắng làm ở đây là đưa ra các chỉ dẫn về các đường lối mà theo đó thuật chữa trị mới sau rốt phải đạt tới, và đưa ra một vài ẩn ngữ sẽ vạch đường lối đưa tới nguyên nhân của các bệnh thường thấy, và nhờ thế giúp cho kẻ sáng suốt phủ nhận các hậu quả. Sự vắn tắt và hệ thống truyền đạt kiến thức nhờ các ẩn ngữ rất thiết yếu về mặt huyền linh và sẽ là cách duy nhất để bàn đến vấn đề tương đối nguy hiểm này cho đến lúc mà một sự huấn luyện vững chăi về y học, giải phẫu và thần kinh học có bản chất chuyên môn được phối hợp với một sự hiểu biết tâm lư học cũng vững chắc như thế, cộng với một mức độ linh thị tâm linh. Một y sĩ và nhà giải phẫu lư tưởng cũng là một nhà siêu h́nh học; nhiều khó khăn và lúng túng hiện nay có thể bị quy cho sự thiếu phối hợp này. Nhà chữa trị siêu h́nh ngày nay bị thu hút bởi những ǵ không thuộc về thể xác, đến nỗi y trở thành ít có lợi cho người bệnh, người đau yếu và người bị thương hơn là nhà y sĩ thực hành. Nhà siêu h́nh học bậc trung, dù y có tự gọi bằng nhăn hiệu ǵ đi nữa, là người có đầu óc khép kín; y qúa nhấn mạnh vào các khả năng thiêng liêng mà không đếm xỉa đến các khả năng thuộc về hữu h́nh hay là vật chất. Việc chữa trị hoàn toàn tinh thần sẽ có thể có tính cách thiêng liêng sau rốt, nhưng về phương diện vật chất, điều này không thể xảy ra vào những lúc rơ rệt nào đó trong thời gian và không gian, và với con người ở các tŕnh độ khác nhau rất nhiều trên nấc thang tiến hóa. Việc chọn đúng lúc và một hiểu biết vững vàng về sự tác động của định luật Nghiệp Quả, cộng thêm với một mức độ rộng lớn về nhận thức trực giác th́ rất thiết yếu cho thuật chữa trị tinh thần cao siêu. Về việc này, phải thêm sự nhận thức rằng bản chất h́nh hài và thể xác không nhất thiết là các lư do chủ yếu hay là rất quan trọng mà một số lớn người có thể nghĩ.

111

 
Nhiều kẻ tôn sùng và nhiều nhà trị liệu khác, thường có lập trường rằng chính v́ có tầm quan trọng chủ yếu mà thể xác phải được làm cho khỏi bệnh tật và thoát khỏi các tiến tŕnh tử vong. Tuy nhiên, có thể là đáng ưa thích (và thường là như thế) rằng bệnh tật được phép tác động và sự chết mở ra cánh cửa để cho linh hồn thoát khỏi ngục tù. Đến một lúc không tránh khỏi đối với mọi sinh linh lâm phàm khi mà linh hồn cần thoát khỏi xác thân và thoát khỏi sự sống sắc tướng, và tạo hóa có các đường lối khôn ngoan riêng của ḿnh để làm điều này. Bệnh tật và tử vong phải được nh́n nhận như là các yếu tố giải thoát khi nào chúng xảy đến dưới h́nh thức kết quả của việc tính đúng thời điểm của linh hồn. Người nghiên cứu cần phải hiểu rằng h́nh hài vật chất là một tập hợp các nguyên tử, được kiến tạo thành các cơ quan và sau cùng thành một thể cố kết mạch lạc, và rằng, thể này được giữ chung với nhau bằng ư chí của linh hồn. Triệt thoái ư chí đó lên trên cơi riêng của nó hay là (như được diễn tả về mặt huyền bí) "hăy để cho con mắt của linh hồn quay sang một hướng khác", và trong chu kỳ hiện nay, bệnh tật và tử vong tất nhiên sẽ xảy đến. Đây không phải là sự sai lầm của trí tuệ hay là việc không nhận thức được thiên tính hay là không chống nỗi sai trái. Thực ra đó là sự tách rời (resolution) của phàm ngă thành các phần cấu tạo và tinh hoa căn bản. Về thực chất, bệnh tật là một khía cạnh của tử vong. Đó là tiến tŕnh mà nhờ đó bản chất vật chất và h́nh hài cụ thể, tự chuẩn bị cho việc tách ra khỏi linh hồn.

112

 
Tuy nhiên, phải nhớ rằng nơi nào có bệnh tật hay sự bất an hay đau ốm mà không liên quan đến sự tan ră cuối cùng, từ đó, các nguyên nhân được t́m thấy trong nhiều yếu tố; chúng có thể được t́m thấy ở vùng chung quanh, v́ một số bệnh do môi trường và có tính chất lây lan; trong việc điều hợp của cá nhân vào các luồng độc hại xuất phát từ sự ganh ghét của thế gian, hay là từ các phức cảm tâm lư mà chúng ta đă bàn đến một số và trong các bệnh (tôi tạm gọi như thế) vốn có tính cách bẩm sinh đối với chất liệu mà con người đă chọn để tạo nên thể xác, biệt lập với nó và tách nó ra khỏi chất liệu biểu lộ chung, và như vậy, tạo thành một loại vật chất vốn được giao cho nhiệm vụ tạo ra sự ngoại hiện của thực tại bên trong. Do đó, điều này tạo thành một trạng thái duy nhất và đặc thù của chất liệu phổ thông, được làm hoàn thiện đến một mức độ nào đó trong thái dương hệ trước và tất nhiên là ở một cấp đẳng cao hơn là chất liệu đang rung động một cách sáng tạo đối với tiếng gọi của ba giới dưới nhân loại trong thiên nhiên.

TỔNG KẾT CÁC NGUYÊN NHÂN BỆNH TẬT

Trong mọi khảo sát của huyền môn về bệnh tật, cần phải thừa nhận như là tuyên bố căn bản rằng mọi bệnh tật đều là kết quả của việc dùng sai thần lực trong một kiếp sống trước hoặc kiếp này. Đây là căn bản. Liên quan tới việc này, tôi xin nhắc bạn một vài phát biểu mà trước đây tôi có đưa ra về vấn đề này.

1.  90% các nguyên nhân của bệnh đều nằm trong các thể dĩ thái và thể cảm dục. Việc sử dụng sai lầm năng lượng trí tuệ và dục vọng bị lạm dụng là các nhân tố tối quan trọng, tuy nhiên, với đa số con người vẫn c̣n ở vào tŕnh độ tâm thức của thời Atlantis, chỉ có năm phần trăm các bệnh thường thấy là do các nguyên nhân ở trí. Tỷ lệ thay đổi với sự phát triển của nhân loại và tŕnh độ tiến hóa. Do đó, bệnh tật là sự biểu hiện ra bên ngoài của các t́nh trạng bên trong, ngoài ư muốn – của thể sinh lực, thể t́nh cảm và thể trí.

2. Mọi việc có liên quan đến sức khỏe của con người có thể được tiếp cận theo ba khía cạnh:

113

 
a. Khía cạnh của cuộc sống phàm ngă… Về khía cạnh đó chúng ta đang học hỏi.

b. Khía cạnh nhân loại nói chung… điều này đang bắt đầu được hiểu rơ.

c. Khía cạnh sự sống hành tinh …chúng ta chỉ biết ít về điều này.

3. Mọi bệnh tật đều do bởi sự thiếu hài ḥa giữa h́nh hài với sự sống, giữa linh hồn với phàm ngă; sự thiếu hài ḥa này xảy ra khắp các giới trong thiên nhiên.

4. Đa số bệnh tật đều có:

  a. Cội nguồn trong nhóm.

  b. Kết quả của việc cảm nhiễm.

  c. Sự thiếu dinh dưỡng, hiểu về mặt vật chất, mặt chủ quan và mặt huyền môn.

5. Bệnh tật đối với quần chúng, đối với người dân bậc trung, đối với giới trí thức và đối với đệ tử đều cách nhau rất xa và có các lănh vực biểu lộ khác nhau.

a. Ba nhóm bệnh tật chính đối với hai hạng đầu là:

– Bệnh lao.

– Các bệnh về xă hội.

– Ung thư.

b. Hai bệnh chính yếu đối với giới trí thức và đối với đệ tử là:

– Đau tim.

– Các bệnh thần kinh.

6. Bệnh tật là một sự thực trong thiên nhiên. Khi điều này được thừa nhận, con người sẽ bắt đầu làm việc với Định Luật Giải Thoát, với tư tưởng đúng đắn, đưa đến thái độ đúng, định hướng đúng và với nguyên tắc không đối kháng. Về sự không đối kháng này, việc sẵn sàng chết quá mạnh vốn rất thường là một đặc điểm của giai đoạn cuối ngay trước cái chết là biểu lộ thấp nhất. Chính sự không đối kháng chi phối sự hôn mê về mặt tâm lư.

114

 
7. Luật Nhân Quả hay Luật Karma, chi phối mọi bệnh tật. Điều này bao hàm nghiệp quả của cá nhân, của nhóm, của quốc gia và của toàn thể nhân loại.

Nếu bạn tạm dừng ở điểm này và xem lại những ǵ tôi đă nhắc lại, và nếu bạn nghiên cứu lại và suy tư về bốn định luật và bốn qui luật này, bạn sẽ có được cơ sở cần thiết để dựa vào đó tiến hành các nghiên cứu sau này của chúng ta, bắt đầu bằng các bệnh gắn liền với cuộc sống của đệ tử. Một số trong các bệnh này, tôi đă có bàn tới trong quyển thứ II của bộ "Luận về Bảy Cung" (trang 520 –625). Trong đó cách tiếp cận chủ yếu là theo khía cạnh huyền bí, trong lúc đó, ở nơi đây, tôi sẽ đề cập đến các vấn đề của đệ tử nhập môn.

4. CÁC BỆNH DO SỰ SỐNG CỦA ĐỆ TỬ.

Trước đây, tôi có nói với bạn rằng bệnh tật xuất phát từ bốn nguyên nhân sau:

1. Đó là hậu quả của việc ngăn chận sự sống thông suốt của linh hồn.

2. Do bởi ba ảnh hưởng hoặc các nguồn lây nhiễm:

  a. Các lỗi lầm cũ, được gọi là tội lỗi và lầm lạc của cá nhân liên hệ, phạm phải trong kiếp này, hoặc kiếp trước.

  b. Các dấu vết và khuynh hướng dễ mắc bệnh (tố bẩm) của con người phải chịu chung với mọi phần c̣n lại của nhân loại.

  c. Tà lực của hành tinh liên quan đến tŕnh độ thành đạt của Hành Tinh Thượng Đế và bị chi phối bởi Karma hành tinh.

3. Bị chi phối bởi các lực xuất phát từ cơi mà tâm thức của con người trụ vào đó trước tiên.

115

 
4. Năm loại bệnh chính, với các hiệu quả kèm theo và phụ thuộc của chúng, có thể và chắc chắn là tạo ra các hậu quả mà đệ tử có liên hệ đến; y không được miễn trừ cho đến sau cuộc điểm đạo thứ ba.

    A. CÁC BỆNH CỦA NHÀ THẦN BÍ.

Tuy nhiên, bậc đệ tử ít khi mắc bệnh lao (trừ khi bị nghiệp quả chi phối), y cũng không có khuynh hướng mắc phải các bệnh xă hội, trừ khi chúng có thể tác động lên y về mặt vật chất qua cuộc sống xả thân phụng sự của y. Sự lây nhiễm có thể tác động vào y nhưng không nghiêm trọng lắm. Y cũng có thể là nạn nhân của bệnh ung thư, nhưng y có thể mắc bệnh tim và rối loạn thần kinh loại này hoặc loại khác. Nhà thần bí chân thực dễ nhượng bộ hơn cho các t́nh trạng thuần túy tâm lư, liên quan đến phàm ngă hội nhập, và do đó, gắn liền với bản chất của y được tập trung phần lớn trên cơi cảm dục. Bậc đệ tử c̣n dễ mắc các khó khăn trí tuệ và mắc các bệnh có liên quan tới năng lượng và do sự hợp nhất – hoặc là đă hoàn tất, hoặc là đang tiếp diễn – của linh hồn và phàm ngă.

Nguyên nhân thứ nhất mà tôi đă liệt kê trước đây trong bộ luận này được tổng kết bằng phát biểu rằng bệnh tật là hậu quả của việc tắc nghẽn sự sống thông suốt và việc năng lượng đang tuôn đổ vào của linh hồn. T́nh trạng tắc nghẽn này do nhà thần bí tạo ra, khi y không chống nỗi với các h́nh tư tưởng của chính y, được tạo ra liên tục để đáp ứng với đạo tâm đang tăng lên của y. Các h́nh tư tưởng này trở nên các tường ngăn cách giữa y với sự sống tự do của linh hồn, và ngăn chận sự tiếp xúc của y và có ảnh hưởng đến ḍng chảy vào của năng lượng linh hồn.

Đệ tử đảo ngược toàn bộ t́nh trạng và trở thành nạn nhân (trước khi được điểm đạo lần thứ ba) cho ḍng chảy vào khủng khiếp của năng lượng linh hồn – năng lượng của Ngôi Hai – đang đến với y từ:

116

 
a. Linh hồn của riêng y, nơi mà trung tâm dung hợp năng lượng đang diễn ra một cách nhanh chóng.

b. Nhóm hay là Đạo viện của y, mà với tư cách là một đệ tử nhập môn, y có liên kết với nó.

c. Sư phụ của y, Đấng mà y có mối liên hệ tinh thần với Ngài, và y bao giờ cũng cảm nhận được ảnh hưởng rung động của Ngài.

d. Thánh Đoàn, mà năng lượng của nơi này có thể đến được với y nhờ cả ba yếu tố trên.

Tất cả các ḍng năng lượng này có một hiệu quả rơ rệt trên các bí huyệt của đệ tử, tùy theo cung của y và sự an trụ đặc biệt của y trong kiếp sống này. V́ mỗi bí huyệt có liên hệ đến tuyến này hay tuyến khác, và đến phiên chúng, các tuyến này chi phối ḍng máu, và cũng có một hiệu quả đặc thù trên cấu trúc của cơ thể nằm trong phạm vi ảnh hưởng rung động của chúng (nghĩa là bao tử, sát với huyệt đan điền, và tim, sát với bí huyệt tim v.v..) bạn sẽ thấy tại sao có thể xảy ra việc các bệnh chính yếu mà một đệ tử có thể mắc phải (vốn là độc nhất và giới hạn trước tiên vào nhân loại đă tiến hóa) lại là hậu quả của việc quá bị kích thích, hay là ḍng năng lượng đi vào một bí huyệt đặc biệt tạo ra bệnh quá mức và có tính cách cục bộ.

Đối với các t́nh trạng này, nhà thần bí không có khuynh hướng như thế, trừ phi y đang nhanh chóng trở nên nhà thần bí hay là nhà huyền linh học thực hành. Đây là một chu kỳ chuyển tiếp rơ rệt giữa thái độ thần bí với lập trường rơ rệt hơn đó mà nhà huyền linh học đảm trách. Do đó, tôi sẽ không bàn đến các bệnh mà nhà thần bí phải kế thừa, trừ phi tôi xin nêu ra một sự kiện lư thú:

Nhà thần bí (mystic) bao giờ cũng hiểu biết về nhị nguyên tính. Y là kẻ t́m kiếm ánh sáng, linh hồn, vật thân yêu, t́m kiếm một điều nào đó cao hơn là cái mà y cảm thấy như đang hiện hữu và như là cái vốn có thể được t́m ra. Y nỗ lực sau khi thừa nhận có đấng thiêng liêng và bởi đấng thiêng liêng; y là kẻ noi theo linh thị, một đệ tử của Đức Christ, và điều này chi phối suy tư và đạo tâm của y. Y là một kẻ sùng tín và là kẻ yêu cái không thể đạt được theo bề ngoài – Cái Khác (Other) hơn là chính y.

117

 
Chỉ khi nào trở nên nhà huyền linh học, lúc ấy, nhà thần bí mới học được rằng lúc nào cũng có một từ lực lôi cuốn y, và nhị nguyên tính đang nhuốm màu cuộc sống và các tư tưởng của y, nó đem lại động lực cho tất cả những ǵ mà y t́m cách để làm, là Chân Ngă của y, Thực Tại Duy Nhất. Lúc bấy giờ, y nhận ra rằng sự đồng hóa và nhập hóa / huyền đồng với thực tại duy nhất đó giúp cho lưỡng nguyên tính được chuyển hóa thành nhất nguyên, và chiều hướng t́m kiếm phải được biến đổi thành nỗ lực để trở thành những ǵ mà về thực chất, y là – một Con của Thượng Đế, hợp nhất với tất cả các Con của Thượng Đế. Nhờ đạt được điều đó, y thấy chính ḿnh hợp nhất với Đấng Duy Nhất mà trong Ngài chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn.

Kế tiếp, tôi xin nêu ra rằng biểu lộ thấp nhất của t́nh trạng thần bí và hợp nhất với những ǵ mà chúng ta đang trở nên ngày càng quen thuộc, là cái được gọi là "đa nhân cách" ("split personality"); khi t́nh trạng này xảy ra, phàm ngă cá nhân tự biểu lộ nhờ một t́nh trạng lưỡng nguyên căn bản và hai nhân vật tự biểu lộ, một cách biểu kiến, thay v́ linh hồn – phàm ngă hợp nhất. Tất nhiên, điều này tạo ra một t́nh trạng tâm lư nguy hiểm và là t́nh trạng nó biện hộ cho việc vận dụng khoa học có lăo luyện.

Đó là sự thiếu thốn ở mức độ lớn vào lúc này, v́ rất ít các nhà tâm lư học lăo luyện và các chuyên gia tâm thần nhận thức được sự thật về linh hồn. Tôi nhắc đến điều này, v́ ngày nay nó có giá trị, và sẽ trở nên ngày càng tăng trong các năm sau này, khi điều đó sẽ được cần tới để truy ra và hiểu được các tương đồng đang có trong tâm thức con người đến các lănh vực hiểu biết rộng lớn chưa được thăm ḍ. Đa nhân cách và nhà thần bí là hai trạng thái của một tổng thể – một trạng thái th́ đúng, và theo đường lối khai mở tinh thần cao siêu, c̣n trạng thái kia vốn là một phản ảnh và một sự méo mó của tŕnh độ phát triển đó, nó đi trước tŕnh độ của nhà huyền linh học có luyện tập. Có nhiều t́nh trạng thường thấy trong nhân loại vào lúc này, nó có thể tùy thuộc cùng một lập luận và là một trong các cách chữa trị, vốn sẽ được thực hiện sau này là việc khám phá các tương ứng cao so với các khó khăn và các bệnh tật thấp, và việc nhận thức được rằng chúng chỉ là các méo mó của một thực tại lớn lao. Điều này đưa tới sự chuyển di chú tâm của một người được sự chăm sóc của nhà chữa trị tới trạng thái cao đă được nhận thức đó.

118

 
Toàn bộ Khoa Học Hội Nhập (Science of Integration) có liên quan tới vấn đề này. Nếu được hiểu đúng, khoa học này sẽ mở ra một lănh vực hoàn toàn mới để tiếp cận bằng tâm lư với bệnh tật, hoặc là về mặt sinh lư hay về mặt thần kinh. Một mở đầu nho nhỏ đă được tạo ra theo đường lối này bởi các nhà tâm lư học và các nhà mô phạm mở trí về tâm linh. Phương pháp giúp đỡ con người về phương diện tâm lư dứt khoát là theo các đường lối mới này, và có thể được diễn tả như sau: nhà tâm lư học bậc trung dùng phương pháp (khi ứng xử với các trường hợp về thần kinh, với các trường hợp ở ranh giới, và với người có khuynh hướng bệnh thần kinh) để khám phá các phức cảm sâu kín, các vết thương, các khích động cũ hoặc các lo sợ ẩn sau kinh nghiệm của hiện tại và tạo ra con người có bản chất như hiện tại. Thường thường các yếu tố quyết định này có thể được truy nguyên đến tiềm thức bằng tiến tŕnh khơi lại quá khứ, xem xét môi trường hiện tại, tính toán đến sự di truyền và nghiên cứu các hiệu quả của giáo dục – hoặc là theo lư thuyết, hoặc là dựa trên chính sự sống. Lúc bấy giờ, yếu tố vốn là cản trở chính, và nó đă đưa con người vào một vấn đề tâm lư, được mang lên (với sự trợ giúp của y, nếu có thể) trên mặt của tâm thức y, lúc bấy giờ được giải thích một cách sáng suốt và liên kết với t́nh trạng hiện có, và con người tất nhiên là được mang lại hiểu biết về phàm ngă của y, các vấn đề của phàm ngă và cơ hội sắp xảy đến của nó.

119

 
Tuy nhiên, kỹ thuật tâm linh th́ hoàn toàn khác hẳn. Vấn đề phàm ngă và tiến tŕnh đào sâu vào tiềm thức chưa được biết, bởi v́ các điều kiện ngoài ư muốn được xem như là kết quả của việc thiếu sự tiếp xúc của linh hồn và kiểm soát của linh hồn. Bệnh nhân (tôi tạm gọi như thế) được dạy rằng hăy dùng mắt, và tất nhiên là sự chú tâm của y, tách rời khỏi chính y, cảm giác của y, phức cảm của y và các định kiến cùng các tư tưởng không được ưa thích của y, và tập trung chúng vào linh hồn, Thực Tại Thiêng Liêng bên trong h́nh hài, và tâm thức Christ. Điều này có thể được gọi là tiến tŕnh dùng sự chú tâm mới mẻ, mănh liệt để thay thế một cách khoa học cho những ǵ mà từ trước đến nay vẫn nắm diễn trường, nó khơi hoạt một yếu tố hợp tác mà năng lượng của yếu tố này lướt qua sự sống thấp của phàm ngă, và mang đi các khuynh hướng tâm linh sai lầm, các phức cảm bất đắc dĩ, đưa đến các tiếp cận sai lầm với sự sống. Sau rốt, điều này hoán cải sự sống trí tuệ hay tư tưởng để cho con người được định đoạt bằng tư duy đúng dưới sự thúc đẩy hoặc soi sáng của linh hồn. Điều này tạo ra "sức đẩy mănh liệt của một t́nh thương mới"; các ư tưởng cố định cổ xưa, các trầm cảm/chán nản và đau khổ xưa, các dục vọng đang ngăn cản và gây bất lợi trước kia – tất cả các điều này biến mất và con người trở nên thung dung với tư cách một linh hồn và chủ nhân của các tiến tŕnh sự sống của ḿnh.

Tôi đă bàn về hai t́nh trạng này một cách chi tiết, bởi v́ về thực chất, có một định luật khác liên hệ với việc chữa trị cần được hiểu rơ trước khi chúng ta tiếp tục đi xa hơn. Sự bàn căi về tâm thần phân liệt, các vấn đề của nhà thần bí và phương pháp mới để tiếp cận với bệnh tật (theo khía cạnh linh hồn và lănh vực của các nguyên nhân, thay v́ theo khía cạnh phàm ngă và lănh vực của hiệu quả) có thể làm sáng tỏ định luật này trong trí các bạn và ít nhất nêu ra sự hữu lư của nó và áp dụng có giá trị của nó cho nhu cầu con người.

ĐỊNH LUẬT IV

120

 
Bệnh tật, cả về mặt thể xác lẫn tâm lư, có cội nguồn của nó trong thiện, mỹ và chân. Đó chỉ là một phản ảnh méo mó của các khả năng thiêng liêng. Linh hồn bị ngăn trở, đang t́m cách biểu lộ đầy đủ một vài đặc điểm thiêng liêng hay thực tại tinh thần nội tâm, tạo ra bên trong chất liệu của các thể của nó một điểm ma sát. Đôi mắt của phàm ngă tập trung trên điểm này, và điều này đưa tới bệnh tật.

Nghệ thuật của nhà trị liệu có liên hệ đến việc ngước đôi mắt đang chăm chú nh́n xuống, lên linh hồn, nhà Trị Liệu bên trong h́nh hài. Con mắt tinh thần hay mắt thứ ba bấy giờ hướng về sức mạnh chữa trị và mọi sự đều tốt lành.

B. CÁC BỆNH CỦA BẬC ĐỆ TỬ.

Chúng tôi sẽ chia những ǵ mà chúng tôi phải nói về các bệnh của đệ tử thành hai phần: các vấn đề riêng biệt của mọi đệ tử và các khó khăn gắn liền với sự tiếp xúc của linh hồn.

Ở đây, chúng ta cần nhớ rằng tất cả các đệ tử đều dễ mắc các bệnh chủ yếu. Họ đang cố gắng đồng nhất với tất cả nhân loại, do đó điều này bao hàm tất cả các bệnh mà thể xác kế thừa. Tuy nhiên, đệ tử không thể chống nỗi nhược điểm của con người thông thường, và nên nhớ rằng các bệnh về tim và thần kinh tạo thành vấn đề chính của họ. Về điều đó có thể nêu ra rằng các đệ tử thuộc vào hai nhóm chính: những kẻ sinh hoạt trên cách mô và do đó có khuynh hướng mắc bệnh tim, tuyến giáp trạng và cổ họng, và những kẻ ở trong diễn tŕnh biến đổi các năng lượng của các bí huyệt dưới cách mô vào các bí huyệt trên cách mô. Đa số các bí huyệt này hiện nay đang chuyển các năng lượng của huyệt đan điền vào bí huyệt tim, và nỗi thống khổ của thế gian đang hết sức thúc đẩy tiến tŕnh. Các bệnh về bao tử, gan và đường hô hấp đi kèm theo chuyển biến này.

1. Các vấn đề đặc biệt của đệ tử.

121

 
Như bạn biết, các vấn đề đặc biệt này, riêng đối với những kẻ đă tự nâng cao tâm thức ra khỏi sự sống của phàm ngă vào sự sống của linh hồn. Trước tiên, chúng có liên quan tới năng lượng, ḍng lưu nhập của nó, sự đồng hóa hoặc không đồng hóa của nó, và việc sử dụng có hướng dẫn đúng của nó. Các bệnh khác mà mọi thể xác bị kế thừa vào lúc này trong sự tiến hóa của con người (v́ phải nhớ rằng bệnh tật thay đổi tùy theo tŕnh độ tiến hóa và cũng xuất hiện theo chu kỳ), và đối với các đệ tử nào có thể và chắc chắn không chống nỗi, th́ không bàn đến ở đây; cần nói rằng ba bệnh chính của nhân loại được nhắc đến ở đây, đă gây ra sự mất mát của các đệ tử, đặc biệt trong việc mang lại sự giải thoát của linh hồn khỏi hiện thể của nó. Tuy nhiên – cho dù có thể ít khi xuất hiện – trong các trường hợp này, chúng bị kiềm chế khỏi các mức độ của linh hồn, và sự ra đi được dự trù xảy ra theo kết quả của quyết định của linh hồn, chứ không theo kết quả của hiệu quả bệnh tật. Lư do mà ba bệnh chủ yếu này – vốn bẩm sinh đối với sự sống hành tinh trong đó chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn – có được mănh lực trên các đệ tử, là v́ các đệ tử đó chính là bộ phận không thể thiếu của sự sống hành tinh, và trong các giai đoạn trước kia của nhận thức của họ về sự hợp nhất này, họ có khuynh hướng thành một miếng mồi sẵn sàng cho bệnh tật. Đây là một sự kiện mà ít ai biết và hiểu được, trừ việc giải thích lư do tại sao các đệ tử và người tiến hóa dễ mắc các bệnh này.

Chúng ta có thể chia các vấn đề này ra làm bốn loại:

1. Các loại có liên quan tới ḍng máu hay với khía cạnh sự sống, v́ "máu là sự sống". Các loại này có các hiệu quả đặc thù trên tim, nhưng thường thường, chỉ có bản chất chức năng. Bệnh về cơ cấu (organic disease) của tim xuất phát từ các nguyên nhân c̣n sâu xa hơn nữa.

2. Các loại vốn là hiệu quả trực tiếp của năng lượng, đang tác động vào và qua hệ thần kinh, xuyên qua bộ óc được hướng dẫn.

3. Các loại có liên quan với hệ hô hấp và có một nguồn cội huyền linh.

122

 
4. Các loại đặc biệt do tính thụ cảm hoặc không thụ cảm, do sự tác động hoặc không tác động và do ảnh hưởng của bí huyệt. Tất nhiên, các loại này thuộc về bảy nhóm, tác động vào bảy vùng chính yếu của cơ thể. Đối với đệ tử bậc trung, trước khi có sự kiềm chế hoàn toàn của linh hồn và sự hướng dẫn của Chân Thần, tác nhân điều khiển chính, qua bộ óc, là thần kinh phế vị, dọc theo đó các năng lượng (đang đi vào qua bí huyệt đầu) được phân phối đến phần c̣n lại của cơ thể. Một khoa học rơ rệt về các bí huyệt và sự liên quan của chúng đối với hỏa xà đă được thiết lập bởi một số trường phái huyền bí có uy thế ở Đông phương. Trong đó, có nhiều điều đúng, nhưng cũng có nhiều điều sai.

Tôi đă phân biệt giữa các vấn đề với các phản ứng xác thân và bệnh tật, bởi v́ sự lưu nhập, phân phối và điều khiển năng lượng không nhất thiết tạo ra bệnh tật. Tuy nhiên, luôn luôn, trong thời kỳ mới tu trước khi điểm đạo, chúng rơ ràng là tạo ra các khó khăn và các vấn đề loại này hay loại khác,  hoặc là trong ư thức của đệ tử, hoặc là trong mối liên hệ của y với những kẻ chung quanh y. Do đó, môi trường quanh y bị ảnh hưởng và tất nhiên là do phản ứng hỗ tương của riêng y.

123

 
Về điều này, cần nên nhớ rằng , mọi đệ tử đều là các trung tâm năng lượng trong cơ thể nhân loại và đang trong tiến tŕnh trở thành các điểm năng lượng được tập trung, được hướng dẫn. Chức năng và hoạt động của họ luôn luôn và tất nhiên là tạo ra các tác dụng, các kết quả, các khơi hoạt, các găy vỡ và các tái định hướng trong các kiếp sống của những kẻ chung quanh họ. Trong các giai đoạn ban đầu, họ tạo ra điều này một cách hữu thức, và do đó thường thường, các kết quả nơi những kẻ mà họ tiếp xúc đều không đáng ao ước, cũng như năng lượng không được điều khiển một cách khôn ngoan, bị lệch lạc hay là không được giữ lại. Chủ đích sáng suốt phải nằm sau mọi hướng năng lượng sáng suốt. Sau này, khi họ biết được một cách hữu thức để tồn tại và trở nên các trung tâm phát ra sức mạnh chữa trị, được điều khiển một cách hữu thức, năng lượng làm linh hoạt này và bấy giờ được truyền ra, được sử dụng một cách xây dựng hơn theo cả hai đường lối tâm lư và vật chất. Tuy nhiên trong bất cứ trường hợp nào, đệ tử cũng trở thành một ảnh hưởng có hiệu quả và không bao giờ có thể là điều mà về mặt huyền bí được gọi là "bị bỏ qua trong vị trí của nó và tác động không đáng kể lên các linh hồn khác". Ảnh hưởng của y, bức xạ và năng lượng mạnh mẽ của y, chắc chắn sẽ tạo ra các vấn đề và các khó khăn cho y; các điều này được dựa trên các liên giao của nhân loại mà y đă tạo ra về mặt nghiệp quả và các phản ứng của những kẻ mà y tiếp xúc hoặc là v́ điều tốt, hoặc là v́ điều xấu.

Về thực chất, ảnh hưởng của một đệ tử của Thánh Đoàn, căn bản là tốt và thuộc trạng thái tâm linh; ở bề ngoài và với các hiệu quả bên ngoài của nó – đặc biệt lănh vực liên quan đến đệ tử – các t́nh trạng khó khăn, các nứt rạn bề ngoài và việc xảy ra lỗi lầm cũng như các đức hạnh về phần của những kẻ bị tác động tạo ra bề ngoài của chúng, và thường kéo dài trong nhiều kiếp sống, cho đến khi một người chịu ảnh hưởng như thế trở thành điều được gọi là "được ḥa giải về mặt huyền linh đối với năng lượng đang phát ra". Hăy suy gẫm về điều đó. Sự hiệu chỉnh phải xảy đến từ phía những kẻ bị ảnh hưởng, chứ không phải từ phía đệ tử.

Bây giờ, chúng ta hăy xét bốn vấn đề theo khía cạnh tâm lư, chớ không phải khía cạnh vật chất:

a. Các vấn đề xuất phát từ bí huyệt tim đă được khơi hoạt của đệ tử có lẽ là thông thường nhất và thường thường thuộc về một vài trong số các khó khăn nhất phải xử lư. Các vấn đề này được dựa trên các liên quan sống động và sự tương tác của năng lượng t́nh thương với các sức mạnh của dục vọng. Trong các giai đoạn đầu, mănh lực t́nh thương đang tuôn vào này tạo nên các tiếp xúc của phàm ngă vốn thay đổi hướng giữa các giai đoạn sùng tín cuồng nhiệt và sự căm thù tột bực về phía người bị ảnh hưởng bởi năng lượng của đệ tử. Điều này tạo ra sự xáo trộn thường xuyên trong cuộc đời của đệ tử, cho đến khi y đă trở nên hiệu chỉnh được các kết quả của sự phân phối năng lượng của y, và cũng thường làm gián đoạn các liên hệ và các dung ḥa thường thấy. Khi đệ tử đủ quan trọng để trở thành trung tâm tổ chức của một nhóm, hoặc ở trong một vị thế để bắt đầu tạo thành, về mặt huyền bí, đạo viện riêng của y (trước khi nhận được một trong các cuộc điểm đạo chính) bấy giờ, nỗi khó khăn có thể trở nên rất thực và xáo trộn nhất. Tuy nhiên, có ít điều mà đệ tử có thể làm được, trừ việc cố gắng điều chỉnh lại năng lượng t́nh thương đang tuôn ra. Về căn bản, vấn đề c̣n lại là vấn đề của kẻ chịu ảnh hưởng; các hiệu chỉnh, như tôi có nhấn mạnh ở trên, phải được làm theo phương diện khác, với đệ tử sẵn sàng để hợp tác khi có dấu hiệu đầu tiên của một sự tự nguyện để nhận thức mối liên lạc và ư định hợp tác trong việc phụng sự tập thể. Đây là một điểm mà cả hai bên – đệ tử và người phản ứng với ảnh hưởng của y – cần phải xem xét. Đệ tử phải sẵn sàng; bên đáp ứng thường là triệt thoái hay tiến gần tùy theo sự cấp thiết của linh hồn hay của phàm ngă y – có lẽ là phàm ngă trong các giai đoạn ban đầu. Tuy nhiên, sau rốt, y trụ lại với đệ tử trong sự hiểu biết hợp tác đầy đủ, và thời gian cố gắng khó khăn chấm dứt.

124

 
Theo tôi, không thể đi vào chi tiết rơ ràng khi xem xét các vấn đề này liên quan tới tim và năng lượng sống của đệ tử. Chúng được kiềm chế bởi cung của y, cuộc điểm đạo mà y đang được chuẩn bị và tính chất, t́nh trạng tiến hóa và cung của những kẻ được ảnh hưởng.

Cũng có các khó khăn và các vấn đề có bản chất tinh anh hơn xuất phát từ cùng một nguyên nhân, nhưng không bị khu biệt trong một vài tương quan nhân loại rơ rệt. Một vị đệ tử phụng sự; y viết và nói; các lời lẽ và ảnh hưởng của y thấm nhập vào đa số con người, đánh thức họ vào hoạt động nào đó – thường thường là tốt và có tính chất tinh thần, đôi khi bất hảo, thù hận và nguy hiểm. Do đó, y phải đối phó không những chỉ với chính các phản ứng của y đối với công việc mà y đang làm, mà c̣n, theo một ư nghĩa tổng quát và đặc thù, đối phó với quần chúng mà y đang bắt đầu có ảnh hưởng đến. Đây không phải là điều dễ làm, đặc biệt là đối với một người làm việc cho Thiên Cơ mà thiếu kinh nghiệm. Y dao động giữa cơi trí, nơi mà y cố gắng hoạt động một cách b́nh thường, với cơi cảm dục, nơi mà đa số con người đang an trụ vào và điều này đưa y vào lănh vực ảo cảm và tất nhiên là nguy hiểm. Y dành hết tâm thức hướng đến những kẻ mà y đang t́m cách giúp đỡ, nhưng đôi khi với tư cách linh hồn (và bấy giờ y thường quá kích thích thính giả của y), và đôi khi với tư cách phàm ngă (và lúc đó, y nuôi dưỡng và nâng cao các phản ứng của phàm ngă của họ).

125

 
Theo thời gian qua, y học cách – nhờ các khó khăn xảy ra, bởi sự tiếp cận cần thiết của tâm hồn – trụ vững ở trung tâm, phát ra âm điệu, đưa ra thông điệp của y, phân phối năng lượng bác ái có hướng dẫn và tạo ảnh hưởng lên những kẻ chung quanh ḿnh, nhưng y vẫn vô ngă, một tác lực điều khiển duy nhất và một linh hồn cảm thông. Tính vô ngă (impersonality) này (vốn có thể được định nghĩa như một sự thu hồi năng lượng phàm ngă) tạo ra các vấn đề riêng của nó, như mọi đệ tử đều biết rơ; tuy nhiên, không có ǵ mà họ có thể làm về việc đó, trừ việc chờ cho thời gian dẫn dắt kẻ khác tiến đến việc hiểu biết rơ ràng về ư nghĩa và hàm ư huyền bí của các tương quan đúng đắn của con người. Vấn đề những kẻ phụng sự với các cá nhân và với các nhóm, về căn bản có liên quan với năng lượng của bí huyệt tim, và với lực làm linh hoạt của sự sống lồng bên trong của nó. Về vấn đề này và các phản ứng của nó đối với đệ tử, một số khó khăn về vật chất rơ rệt lại có khuynh hướng xảy ra và tôi sẽ bàn đến các điều này một cách vắn tắt.

Cũng cần nêu ra rằng các khó khăn về sự nhịp nhàng đều có thể xảy đến, và các vấn đề có liên quan đến cuộc sống theo chu kỳ của đệ tử. Về mặt huyền bí, tim và máu có liên quan với nhau, c̣n về mặt biểu tượng, chúng xác định sự sống mạch động của linh hồn đang biểu lộ trên cơi trần trong sự hướng ngoại và sự sống kép đang triệt thoái của t́nh trạng đệ tử, mỗi giai đoạn lại có các vấn đề riêng của nó. Khi đệ tử đă chế ngự được nhịp điệu của sự sống bên ngoài và bên trong của y, và đă sắp đặt các phản ứng của y sao cho y rút được ư nghĩa cao xa nhất từ các phản ứng đó mà không bị chúng chi phối, bấy giờ y bước vào cuộc sống tương đối đơn giản của

126

 
đệ tử điểm đạo. Câu đó có làm cho bạn ngạc nhiên không? Bạn cần nhớ rằng đệ tử điểm đạo, sau cuộc điểm đạo thứ hai, đă tự thoát khỏi các phức cảm và sự kiềm chế t́nh cảm và thể cảm dục. Huyễn cảm không thể áp đảo y được nữa. Y có thể trụ lại một cách vững vàng bất kể những ǵ mà y có thể làm và cảm nhận. Y hiểu được rằng t́nh trạng chu kỳ có liên quan tới các cặp đối hợp và là một phần của biểu lộ sự sống đối với chính sự hiện tồn. Trong tiến tŕnh học hỏi điều này, y trải qua các khó khăn to tát. Với tư cách là một linh hồn, y bắt buộc chính ḿnh phải chịu một sự sống hướng ngoại, với ảnh hưởng từ điện và tính hướng ngoại. Y có thể theo điều đó một cách trực tiếp với một cuộc sống rút vào nội tâm, bề ngoài thiếu quan tâm vào các liên hệ của y và môi trường xung quanh và với một biểu lộ cực kỳ nội quan, hướng nội. Giữa hai thái cực này, y có thể lúng túng một cách thảm hại – đôi khi trong nhiều kiếp sống – cho đến khi y học được cách phối trộn cả hai biểu lộ. Lúc bấy giờ, cuộc sống hai mặt của đệ tử nhập môn, trong các tŕnh độ và giai đoạn khác nhau, trở nên sáng tỏ hơn đối với y, y biết được những ǵ y đang làm. Một cách thường xuyên và có hệ thống, cả hướng ngoại lẫn hướng nội, phụng sự trong thế gian và sống cuộc đời trầm tư, đều có vai tṛ hữu dụng của chúng.

127

 
Nhiều khó khăn về tâm lư hiện ra trong khi tiến tŕnh này được chế ngự, đưa đến nứt rạn tâm lư, cả bề sâu lẫn bề mặt. Mục tiêu của mọi phát triển là sự hội nhập – hội nhập với tư cách một phàm ngă, hội nhập với linh hồn, hội nhập vào Thánh Đoàn, hội nhập với Tổng Thể (the Whole), cho đến khi sự hợp nhất và sự huyền đồng hoàn hảo được đạt đến. Để quán triệt khoa học về sự hội nhập này (mà mục tiêu căn bản của nó là đồng nhất với Thực Tại Duy Nhất), đệ tử tiến từ sự hợp nhất này đến sự hợp nhất khác, tạo ra lỗi lầm thường đưa đến sự mất hết can đảm, đồng nhất hóa chính ḿnh với những ǵ bất hảo, cho đến khi, với tư cách linh hồn – phàm ngă (soul-personality) y không thừa nhận các liên hệ trước kia; y chịu mọi thiệt tḥi không biết bao nhiêu lần về sự sôi nổi không đúng chỗ, đạo tâm bị thiên lệch, hậu quả có tính cách áp đảo của huyễn cảm, và nhiều t́nh trạng xáo trộn về tâm lư và thể chất vốn dĩ phải xảy ra trong khi các nứt rạn được chữa trị, sự đồng nhứt hóa đúng đắn được thành đạt và sự định hướng đúng chỗ được thiết lập.

Trong khi tiến tŕnh căn bản không thể tránh được và tất yếu này xảy ra, th́ một việc rơ rệt diễn tiến trong thể dĩ thái. Đệ tử đang học cách nâng cao các năng lượng gom lại từ các bí huyệt thấp, vào huyệt đan điền, và từ bí huyệt đó đi vào bí huyệt tim, như vậy đem lại sự tái tập trung năng lượng trên cách mô, thay v́ đặt vào tầm quan trọng bên dưới. Điều này thường đưa đến các phiền phức sâu xa, bởi v́ – theo quan điểm phàm ngă – huyệt đan điền là bí huyệt mạnh mẽ nhất, là nơi trao đổi các lực của phàm ngă. Đó là tiến tŕnh phá ngă chấp (decentralisation) và "nâng" tâm thức thấp lên tâm thức cao, nó tạo ra các khó khăn chính mà đệ tử phải lệ thuộc. Chính tiến tŕnh này cũng đang diễn ra trên thế gian nói chung ngày nay, gây ra t́nh trạng rối loạn tồi tệ đối với các sự việc, văn hóa và văn minh của nhân loại. Điểm tập trung toàn bộ ư thức của nhân loại đang được thay đổi; cuộc sống ích kỷ (đặc điểm của con người hướng vào dục vọng của ḿnh, và tất nhiên hướng vào huyệt đan điền) đang thế chỗ cho sự sống phá ngă chấp của người không vị kỷ (tập trung vào Bản ngă hay linh hồn), biết được các liên quan và trách nhiệm của y đối với Tổng Thể chứ không phải đối với từng phần. Việc siêu chuyển cuộc sống thấp thành cuộc sống cao là một trong các thời khắc bí ẩn nhất đối với cá nhân và đối với nhân loại. Một khi đệ tử cá biệt và cũng là nhân loại, tượng trưng cho đệ tử trên thế giới, đă quán triệt được tiến tŕnh chuyển di về phương diện này, chúng ta sẽ thấy được tŕnh tự mới về việc phụng sự cá nhân và phụng sự thế gian được thiết lập, và do đó, triển vọng của một tŕnh tự mới được chờ đợi.

128

 
Trong số các tiến tŕnh này, sự lưu thông của ḍng máu là biểu tượng, và manh mối đối với việc thiết lập trật tự thế giới ẩn trong biểu tượng kư này – sự lưu chuyển thông suốt của tất cả những ǵ cần cho mọi phần của cơ cấu vĩ đại của nhân loại. Máu là sự sống và sự trao đổi lẫn nhau thông suốt, phân chia không bị ràng buộc, vận chuyển thông suốt tất cả những ǵ cần cho cách sống đúng đắn của nhân loại sẽ đặc trưng cho thế giới sắp đến. Ngày nay các t́nh trạng này không có nữa, thể xác nhân loại bị bệnh và sự sống bên trong của nó bị phá vỡ. Thay v́ có sự lưu chuyển thông suốt giữa các phần của trạng thái sự sống, lại có sự tách ra, các vận hà bị tắc nghẽn, ngưng trệ, ứ đọng. Lúc này, cần có cơn khủng hoảng ghê gớm để đánh thức nhân loại trước t́nh trạng bệnh tật của họ, trước phạm vi của tà lực mà bây giờ, được khám phá là rất lớn lao, và các bệnh về "máu của nhân loại" (hiểu một cách tượng trưng) tệ hại đến nỗi chỉ các biện pháp quyết liệt nhất – đau đớn, thống khổ, tuyệt vọng, khủng khiếp – mới có thể đủ để lập ra cách chữa trị.

129

 
Các nhà trị liệu cần phải nhớ rơ điều này và ghi trong trí rằng các đệ tử và tất cả những người lương thiện và người t́m đạo đều dự phần vào bệnh tật chung này của nhân loại; nhân loại phải chịu tổn thương về mặt tâm linh hoặc vật chất, hoặc cả hai mặt. Bệnh tật có cội nguồn xưa, và do thói quen tạo ra từ lâu và chắc chắn là có ảnh hưởng tới thể hồng trần của linh hồn. Việc thoát khỏi ảnh hưởng đối với bệnh tật của con người, không hề là chỉ dẫn về sự vượt trội của tinh thần. Đó chỉ có thể là dấu hiệu của điều mà một trong các Chân Sư đă gọi là "vực thẳm của ích kỷ tâm linh và sự tự măn". Một vị đă được điểm đạo lần 3 có thể giữ cho chính ḿnh khỏi bệnh, nhưng đó chỉ v́ người đă hoàn toàn thoát khỏi huyễn cảm, và không một khía cạnh nào của cuộc sống phàm ngă có được mănh lực đối với người. Tất cả các loại cung đều cũng chịu lệ thuộc vào các vấn đề đặc biệt này. Tuy nhiên, cung bảy dễ bị ảnh hưởng với các rắc rối, các khó khăn và các bệnh gắn liền với ḍng máu hơn là bất cứ loại cung nào khác. Lư do là v́ đây là cung có liên quan tới sự biểu hiện và biểu lộ của sự sống trên cơi trần và liên quan với việc tạo ra liên hệ giữa tinh thần với vật chất thành h́nh hài sắc tướng. Do đó, ngày nay, liên quan tới việc đó, với mục đích t́m cách tạo ra một trật tự mới, với sự lưu chuyển thông suốt và tất nhiên với một sự tự do có dự tính của nhân loại thoát khỏi bệnh tật và các vấn đề của quá khứ. Điều này rất lư thú cần ghi nhớ và các môn sinh sẽ thấy rằng nó có ích vào lúc này, nếu họ muốn hợp tác một cách thông minh với các diễn biến của thời đại, để thu thập và nghiên cứu tất cả những ǵ mà tôi đă viết về cung bảy, tức cung trật tự, nghi lễ và huyền thuật.

b. Bệnh của hệ thần kinh – do ḍng năng lượng đến khắp các phần của cơ thể, được hướng dẫn, hoặc là bởi phàm ngă, một khía cạnh nào đó của phàm ngă, hoặc là bởi linh hồn, xuyên qua bộ óc, th́ nhiều và trở nên tỏ tường, khi đệ tử sắp được điểm đạo hay trở nên một điểm đạo đồ. Không kể đến bệnh về sinh lư, mà t́nh trạng này tạo ra, có nhiều t́nh trạng khác xảy đến do bởi luồng thần lực đi vào này. Thí dụ, đệ tử trở nên quá bị kích thích, và v́ đó, quá hoạt động; y trở nên mất thăng bằng, và khi nhắc đến điều này, tôi không đề cập đến sự thiếu cân bằng trí tuệ (dù rằng điều đó có thể xảy ra) mà là nói đến sự quá phát triển và quá biểu lộ ở một vài phần của bản chất y. Y có thể trở nên vượt hiệu năng quá mức do một bí huyệt nào đó quá hoạt động, hay là thiếu tổ chức và bất động. V́ lẽ đó, y bị lệ thuộc vào sự mất cân bằng của hệ thống tuyến, với mọi khó khăn kèm theo của nó. Việc quá bị kích thích hay là thiếu phát triển, nơi mà các bí huyệt có liên hệ đến, tác động một cách b́nh thường vào các tuyến, rồi đến lượt các tuyến này lại tạo ra các khó khăn về tính chất, mà tất nhiên, đến phiên chúng, sẽ tạo ra các vấn đề thuộc về hoàn cảnh cũng như sự cản trở của phàm ngă.

130

 
Bấy giờ, đó là một ṿng luẩn quẩn, và tất cả đều do sự chỉ đạo thần lực sai lầm, và ḍng thần lực đi vào từ một nơi này hay nơi khác của các hiện thể của phàm ngă, đến bí huyệt liên hệ của nó (nghĩa là sức mạnh cảm dục và mối liên hệ của nó với huyệt đan điền), và bấy giờ, nảy sinh ra các vấn đề về sức khỏe, về đặc tính và về ảnh hưởng. Hoạt động quá phóng phát (over-radiotory) qua một số bí huyệt, thu hút sự chú tâm, và đệ tử trở thành nạn nhân của việc thành đạt riêng của y. Tôi sẽ bàn đến các điều này một cách rộng răi hơn khi tôi đề cập đến các bệnh xuất phát từ bốn loại.

Các khó khăn này thuộc về một loại thông thường nhất, nhưng chắc chắn có ảnh hưởng trước tiên trên các đệ tử thuộc cung hai và cung sáu. V́ cung hai là cung kiến tạo, và do đó có liên hệ chủ yếu với biểu lộ bên ngoài và với việc vận dụng của mọi bí huyệt; cung sáu, bởi v́ trước tiên đó là cung của nhất tâm – một sự nhất tâm vốn có thể được thể hiện dưới h́nh thức cuồng tín tệ hại nhất hoặc là sự tận tụy vị tha nhất. Tất cả mọi cung đều có cùng các vấn đề như nhau, không cần phải nói, nhưng cung hai liên quan phần lớn với hoạt động của linh hồn qua tất cả các huyệt (các huyệt ở trên và dưới cách mô) nhưng với bí huyệt tim được xem như là bí huyệt đầu tiên cần chú ư. Cung sáu có một liên hệ chặt chẽ với huyệt đan điền v́ là nơi trao đổi và là chỗ tái định hướng sinh lực trong phàm ngă. Nên luôn luôn ghi nhớ điều này.

131

 
c. Các vấn đề liên quan với hệ hô hấp, tất cả đều liên quan với tim, và do đó, liên quan với sự thiết lập nhịp điệu đúng và tiếp xúc đúng với môi trường xung quanh. Việc hít vào sinh khí, việc chia xẻ không khí với tất cả những người khác, cho thấy cả hai bí huyệt riêng biệt của sự sống lẫn sự tham dự vào sự sống chung của tất cả. Đối với các vấn đề này về cuộc sống cá nhân hay cuộc sống riêng biệt và về điều ngược lại của nó, Thánh Ngữ OM, có liên quan một cách mật thiết. Có thể nói bằng những lời lẽ của một quyển cẩm nang huyền linh về chữa trị, được đưa ra cho các đệ tử đă tiến hóa rằng:

"Kẻ nào sống dưới âm thanh của thánh ngữ AUM, kẻ ấy biết được chính ḿnh. Kẻ nào sống mà trỗi lên thánh ngữ OM, kẻ ấy biết được huynh đệ ḿnh. Kẻ nào biết được LINH ÂM (SOUND), kẻ ấy biết được tất cả".

Kế đó, bằng ngôn ngữ ẩn dụ và biểu tượng của vị điểm đạo đồ, cẩm nang huyền linh tiếp tục:

"Linh khí của sự sống trở thành nguyên nhân của sự chết đối với kẻ sống trong một ma h́nh (shell). Y tồn tại nhưng y không hiện hữu; bấy giờ linh khí rời khỏi và chuyển động theo h́nh xoắn ốc đến tổng thể.

"Kẻ nào phát ra thánh ngữ OM, kẻ ấy không phải chỉ biết có riêng ḿnh. Y biết hơi thở là prana, sự sống, lưu chất nối liền. Các bệnh của sự sống là bệnh của y, bởi v́ các bệnh đó là số mệnh của con người – không sinh ra trong ma h́nh, v́ ma h́nh không tồn tại.

"Kẻ nào là Linh Âm (Sound) và phát ra Linh Âm, kẻ ấy không biết đến bệnh tật, không biết đến bàn tay tử thần".

Trong vài lời trên, toàn thể vấn đề về nhóm thứ ba của các nan đề và các bệnh tật đă được tổng kết. Chúng liên hệ với sự lưu chuyển của năng lượng linh hồn, vốn là năng lượng bác ái, và chúng không có liên quan đến sự lưu chuyển của tinh hoa sự sống. Hai năng lượng căn bản này, khi chúng tác động lên các lực của phàm ngă, chúng mang lại phần lớn các nan đề mà nhân loại phải kế thừa. Đó là thiếu bác ái, thiếu linh động, không gióng lên được một cách chính xác nốt của linh hồn và của cung, và thất bại trong việc truyền đạt. Bí nhiệm của việc cấu tạo một vận hà thuần khiết (dùng cách nói thần bí chớ không dùng cách nói huyền linh), được xét trong nhóm thứ nhất của các nan đề và việc thiết lập sự liên giao đúng đắn bằng cách phát ra đúng nốt thu hút của linh hồn, được xét đến trong hai nhóm sau cùng.

132

 
Nhóm khó khăn thứ ba này, tức các nan đề và các bệnh tật, dĩ nhiên là các khó khăn của con người trên tất cả các cung, trừ ra người thuộc cung 1 có thiên hướng dứt khoát đối với các khó khăn đặc biệt này. Đồng thời, khi họ vận dụng đúng các sức mạnh tiềm tàng của ḿnh, họ có thể khắc phục bằng cách dùng đúng Thánh Ngữ OM, và sau rốt đúng Linh Âm, th́ các nan đề ngẫu nhiên và các khó khăn dễ dàng được vượt qua nhiều hơn là những người ở trên các cung khác. Ở đây, các bạn có một tham khảo về Linh Từ Thất Truyền của Hội Tam Điểm và về Linh Âm của Danh Xưng Cấm Kỵ (the SOUND of the Ineffable Name).

Âm của AUM, âm của OM, và chính Linh Âm, tất cả đều liên hệ tới rung động và các hiệu quả dị biệt và đa dạng của chúng. Bí nhiệm của Định Luật Rung Động ngày càng được tiết lộ khi con người học được cách phát ra Linh Từ (Word) theo ba trạng thái của nó. Các đạo sinh nên cân nhắc kỹ về sự phân biệt giữa hơi thở (breath) với âm thanh (sound), giữa tiến tŕnh thở với tiến tŕnh tạo ra hoạt động rung động. Chúng có liên hệ nhưng lại riêng biệt với nhau. Một đàng có liên quan với Thời Gian, c̣n đàng kia liên quan với Không Gian và (theo cách diễn tả của Cổ Luận) "âm thanh, cái cuối cùng và tuy thế âm thanh mở đầu, liên quan đến những ǵ không phải là Thời Gian cũng không phải là Không Gian; nó nằm bên ngoài Vạn Hữu biểu lộ, Cội Nguồn của tất cả những ǵ hiện tồn và chưa hiện tồn" (tức là thái hư – nothing – A.A.B.)

V́ lư do này, các đệ tử trên cung 4 thường có thể phát triển bằng năng lực trực giác, cách hiểu biết về Thánh ngữ OM. Cung hài ḥa qua xung khắc này (xung khắc của các cặp đối hợp) tất nhiên có liên quan với việc dẫn tới hoạt động rung động đó, vốn sẽ đưa đến hợp nhất, hài ḥa, đến các tương quan đúng và đến sự phóng thích trực giác.

133

 
d. Các vấn đề gắn liền với hoạt động hoặc không hoạt động của các bí huyệt có lẽ là quan trọng nhất theo quan điểm bệnh tật, bởi v́ các bí huyệt chi phối hệ thống tuyến, c̣n các tuyến có liên quan trực tiếp với ḍng máu và chúng cũng chi phối các vùng chính và trọng yếu nhất trong cơ thể người; chúng có hiệu quả cả về mặt sinh lư lẫn tâm lư trên phàm ngă và các tiếp xúc, các tương quan bên trong và bên ngoài. Phản ứng trước nhất là về thể xác, nhưng các hậu quả phần lớn là về mặt tâm lư, và do đó, chính nhóm thứ tư này mà tôi sẽ chủ yếu bàn rộng thêm, liên quan với các bệnh của các đệ tử và đưa ra một vài chỉ dẫn rơ rệt về các bí huyệt. Điều này sẽ nêu ra rơ hơn ở một nơi khác các nguyên nhân của nhiều bệnh của nhân loại và các khó khăn thể chất.

Trước khi tiếp tục điểm kế tiếp, nên cố gắng hiểu rơ hơn một chút các Định Luật Chữa trị và các Qui Luật được đưa ra xa như thế và được lặp lại ở đây để làm cho dễ dàng các nỗ lực của các bạn.

ĐỊNH LUẬT  I

Mọi bệnh tật là hệ quả của sự sống linh hồn bị ức chế, và điều này đúng với tất cả mọi h́nh hài trong tất cả các giới. Tài khéo léo của nhà chữa trị cốt ở chỗ khai phóng linh hồn sao cho sự sống của linh hồn có thể tuôn đổ qua toàn bộ các cơ quan đang cấu tạo bất cứ h́nh hài đặc biệt nào.

ĐỊNH LUẬT  II

Bệnh tật là sản phẩm của và lệ thuộc vào ba ảnh hưởng: thứ nhất, quá khứ của một người, y phải trả giá cho lỗi lầm cũ; thứ hai, sự kế thừa của y, trong đó y chia sẻ với tất cả nhân loại các ḍng năng lượng bị ô nhiễm vốn có nguồn gốc tập thể; thứ ba, y chia phần với tất cả các h́nh hài, trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chưởng Quản Sự Sống đặt để trên cơ thể của Ngài. Ba ảnh hưởng này được gọi là "Định Luật Cổ Chia Sẻ Tà Lực". Định luật này vào một ngày nào đó, phải nhường chỗ cho "Định Luật Thiện Hảo Cổ, Chiếm Ưu Thế" mới mẻ hơn, vốn ẩn đàng sau tất cả những ǵ mà Thượng Đế đă tạo ra. Định Luật này phải được đưa vào hoạt động bằng ư chí tinh thần của con người.

ĐỊNH LUẬT  III

134

 
Bệnh tật là một hệ quả của việc tập trung cơ bản năng lượng sự sống của con người. Từ cơi mà các năng lượng này được tập trung, tiếp diễn những t́nh trạng có tính quyết định vốn tạo ra t́nh trạng sức khỏe tệ hại, và do đó, thể hiện dưới h́nh thức bệnh hoặc là dưới h́nh thức vô bệnh.

ĐỊNH LUẬT  IV

Bệnh tật, cả về mặt vật chất lẫn tâm linh, có cội nguồn trong thiện, mỹ và chân. Bệnh tật chỉ là một phản ảnh méo mó của các tiềm năng thiêng liêng. Linh hồn bị ngăn trở, đang t́m cách biểu lộ đầy đủ một tính chất thiêng liêng nào đó hoặc thực tại tinh thần bên trong, tạo ra bên trong chất liệu của các thể của nó một điểm va chạm. Đôi mắt của phàm ngă được tập trung trên điểm này và việc đó đưa đến bệnh tật. Kỹ năng của nhà trị liệu là quan tâm đến việc ngước đôi mắt chăm chú ngó xuống, nh́n lên linh hồn, tức là Nhà Trị Liệu bên trong h́nh hài. Mắt tinh thần hay mắt thứ ba lúc đó hướng dẫn sức mạnh trị liệu, và mọi sự đều tốt đẹp.

QUI LUẬT  MỘT

Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, trái tim, bộ óc và hai bàn tay của ḿnh. Nhờ thế, y có thể tuôn đổ sức mạnh chữa trị thiết yếu lên người bệnh. Đây là công tác từ điện. Nó chữa lành bệnh tật, hoặc làm tăng t́nh trạng tệ hại, tùy theo sự hiểu biết của nhà trị liệu.

Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, bộ óc, tim và bức xạ hào quang của ḿnh. Như thế, sự hiện diện của y có thể nuôi dưỡng sự sống linh hồn của người bệnh. Đây là công tác bức xạ. Không cần đến hai bàn tay. Linh hồn phô bày sức mạnh của nó. Linh hồn của người bệnh đáp ứng lại qua sự đáp ứng với hào quang của y, đến bức xạ của hào quang nhà trị liệu, tràn ngập với năng lượng linh hồn.

QUI LUẬT  HAI

Nhà trị liệu phải đạt được sự tinh khiết về từ điện, nhờ sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt được loại bức xạ xua đuổi, bức xạ này tự biểu lộ trong mỗi người khi y liên kết các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này được thiết lập, bức xạ cũng phát ra.

  QUI LUẬT  BA

135

 
Nhà trị liệu nên tự luyện tập để biết được tŕnh độ tư tưởng bên trong hoặc là ước muốn của kẻ đang mưu t́m sự giúp đỡ của y. Nhờ đó, y có thể biết được cội nguồn của bệnh tật. Y nên liên kết nhân và quả, và biết được mức độ chính xác để nhờ đó mới trợ giúp được.

QUI LUẬT  BỐN

Nhà chữa trị và nhóm chữa trị phải kiềm chế ư chí. Không phải dùng ư chí mà dùng t́nh thương.

2. Các khó khăn gắn liền với sự tiếp xúc Linh Hồn.

Hôm nay, chúng ta bắt đầu nghiên cứu về các khó khăn, các bệnh tật và các bệnh về tâm lư (thần kinh và trí tuệ) của người t́m đạo và của các đệ tử trên thế gian. Chúng ta sẽ khảo cứu các điều này một cách rơ rệt theo góc độ của bảy bí huyệt, cũng như xem xét các kết quả của các sức mạnh và các năng lượng (tôi dùng các lời lẽ phân biệt này một cách cố ư) đang tuôn đổ qua chúng. Nhiều điều mà tôi sắp nói, sẽ được mở ra cho vấn đề theo quan điểm y học chính thống, tuy nhiên, đồng thời, y khoa chính thống đă từ từ bị lôi cuốn hướng về quan điểm huyền bí. Tôi sẽ không cố gắng liên kết thái độ huyền bí để chữa trị, các đề xuất và các phương pháp của nó đối với các trường phái chữa trị hiện đại. Trong bất luận trường hợp nào, cả hai đang dần dần tiến đến gần nhau. Các giáo huấn này có dụng ư dành cho người đọc ở thế tục, họ sẽ hiểu được rơ ràng hơn về luận đề của tôi nếu nó tương đối ít có các thuật ngữ chuyên môn, và các quan điểm về lư thuyết của y khoa. Chúng sẽ chỉ đem lại sự rối rắm, và cố gắng của tôi là đưa ra một bức tranh tổng quát về các nguyên nhân nằm bên dưới của các bệnh thể xác bên ngoài. Tôi t́m cách tŕnh bày một vài khía cạnh trị liệu theo huyền môn mà nhân loại hiện nay đang sẵn sàng, xin nhắc các bạn nhớ rằng việc tŕnh bày tất nhiên là không đầy đủ và chỉ có một phần, và v́ lư do đó, có thể dường như không chính xác và là thách đố cho những kẻ luôn t́m lối thoát cho sự cả tin của con người. Tuy nhiên, điều đó không có liên quan tới tôi. Thời gian sẽ chứng minh sự chính xác cho các phát biểu của tôi.

136

 
Ngành y học mới sẽ bàn đến các yếu tố mà ngày nay được nhận biết một cách lờ mờ và tuy nhiên, không dẫn đến bất cứ mối liên quan thật sự hay có thật nào đối với con người và thể xác của y. Lư thuyết căn bản mà dựa vào đó huấn điều y học mới sẽ dựa vào, có thể được tóm tắt đầy đủ nhất bằng phát biểu rằng trong thực tế không có ǵ trừ ra năng lượng, cần được xem xét, và các mănh lực vốn đề kháng lại hay có sức đồng hóa thuộc các dạng năng lượng cao hoặc khác nhau. Do đó, tôi xin bắt đầu bằng cách nêu ra cho bạn một Định Luật mới để thêm vào bốn định luật đă được truyền đạt. Các định luật trước đă có trong thiên nhiên với các mệnh đề trừu tượng, và trừ phi có liên quan với định luật thứ năm này sẽ vẫn hơi mơ hồ và vô nghĩa.

ĐỊNH LUẬT  V

Không có ǵ ngoài năng lượng, v́ Thượng Đế là sự sống. Hai năng lượng đáp ứng trong con người, c̣n năm năng lượng khác hiện hữu. Đối với mỗi năng lượng có một điểm tiếp xúc trung ương. Sự xung đột giữa các năng lượng này với các lực và giữa chính các lực với nhau tạo ra các bệnh về thể xác của con người. Sự xung đột của năng lượng thứ nhất và năng lượng thứ hai kéo dài nhiều thời đại cho đến khi đỉnh núi được đạt tới – đỉnh núi lớn thứ nhất. Cuộc chiến giữa các sức mạnh tạo ra mọi bệnh tật, mọi ốm đau và thống khổ cho thể xác, vốn t́m sự giải thoát trong cái chết. Hai, năm và như thế là bảy, cộng với những ǵ mà chúng tạo ra, nắm giữ bí mật. Đây là Định Luật Chữa Trị thứ năm bên trong thế giới sắc tướng.

Định luật này có thể được phân tích thành một vài phát biểu căn bản có thể được kể ra như sau:

1. Chúng ta sống trong một thế giới năng lượng và chính chúng ta là một thành phần tạo thành của các năng lượng đó.

2. Thể xác là sự phối hợp của hai năng lượng và bảy thần lực.

3. Năng lượng thứ nhất là năng lượng của linh hồn, tức năng lượng của cung. Đó là chủ thể tạo ra sự xung đột khi năng lượng linh hồn t́m cách kiềm chế các thần lực.

137

 
4. Năng lượng thứ nh́ là năng lượng của phàm ngă tam phân – tức cung phàm ngă v́ nó đối kháng lại với năng lượng cao.

5. Các thần lực là các năng lượng khác hay là các tiềm lực của cung, đang kiềm chế bảy bí huyệt và bị chế ngự hoặc là bởi năng lượng của phàm ngă, hoặc là bởi năng lượng của linh hồn.

6. Do đó, hai sự xung đột tiếp diễn giữa hai năng lượng chính và giữa các năng lượng khác, được tập trung qua bảy bí huyệt.

7. Chính sự tương tác của các năng lượng này mới tạo ra sức khỏe tốt hoặc xấu.

Có nhiều giáo huấn được đưa ra liên quan đến sự đấu tranh lâu đời giữa phàm ngă với linh hồn, nhưng điều đó luôn luôn được tŕnh bày bằng ngôn ngữ chỉ sự tiếp cận của tinh thần, của huyền bí học và của tôn giáo hoặc cái nào khác trong các thuật ngữ chỉ phản ứng của cá tính, chỉ đạo tâm trừu tượng và chỉ sự thanh khiết hay là không thanh khiết. Tôi sẽ không bàn đến các điều này. Chủ đề của tôi là các hậu quả của sự xung đột này trong thể xác. Do đó, tôi muốn tự hạn chế chỉ vào các vấn đề sinh lư và tâm lư, gắn liền với sự đấu tranh, mà nói chung, tạo ra khó khăn cho tất cả đệ tử. Có thể thừa nhận rằng:

A. Mọi bệnh tật và khó khăn vật chất là do bởi một hay nhiều trong số ba sự việc hay t́nh trạng sau:

1. Tiếp xúc với linh hồn tiến hóa, như vậy tạo ra việc bồi bổ sinh khí cho mọi bí huyệt theo nhịp điệu được định đoạt tùy theo cung của linh hồn. Tất nhiên, điều này tạo ra sự chấn động và sự căng thẳng trong thể xác.

2. Sự sống và sự tập trung của phàm ngă, nó đang cố gắng để chối bỏ sự kiềm chế của linh hồn, và được biểu lộ ở mức độ lớn qua hoạt động của bí huyệt cổ họng (mở đường cho hoạt động của tuyến giáp trạng) và của các bí huyệt dưới cách mô.

138

 
3. Một chu kỳ trong kiếp sống của người t́m đạo mà trong đó, sự kiềm chế của phàm ngă bắt đầu yếu đi và khi đó trọng điểm và hoạt động hợp lư di chuyển vào các bí huyệt trên cách mô – lại tạo nên phiền toái và thích nghi lại.

B. Một số mục tiêu tự hiện ra cho người t́m đạo vào các giai đoạn khác nhau, và mỗi giai đoạn có liên quan với sự tiến hóa, nhưng đồng thời một vài khó khăn kèm theo.

1. Mục tiêu trước mắt điểm đạo đồ là có được mọi bí huyệt trong thể dĩ thái đáp ứng với năng lượng cung của linh hồn và với mọi năng lượng của bảy cung khác phụ thuộc vào nó. Tiến tŕnh kích thích, hiệu chỉnh và đạt đến sự kiềm chế được thiết lập tiếp tục cho đến sau cuộc điểm đạo thứ ba. Lúc bấy giờ khi cuộc điểm đạo đó xảy ra, thể xác có được một tầm cỡ và tính chất hoàn toàn khác, các Qui Luật và Định luật về sức khỏe không c̣n áp dụng được nữa.

2. Mục tiêu trước mắt đệ tử là xúc tiến việc kiểm soát của các bí huyệt trong cơ thể, xuyên qua linh hồn, nhờ sự kích thích, gạt bỏ và làm ổn định sau rốt. Điều này tất nhiên tạo ra khó khăn, và sự bồi bổ sinh khí hay là truyền linh hứng (hoặc là bằng các lời lẽ thích đáng), hoặc là sự thiếu thốn hay bất toàn của chúng, tác động vào các cơ quan trong cơ thể bên trong vùng xung quanh các bí huyệt và tác động đến mọi chất liệu xung quanh các bí huyệt.

139

 
3. Mục tiêu trước mắt người t́m đạo hoặc đệ tử dự bị là chuyển thần lực từ bí huyệt dưới cách mô, xuyên qua huyệt đan điền, đến các bí huyệt trên cách mô. Năng lượng của bí huyệt ở chót xương sống phải được chuyển lên đầu; năng lượng của bí huyệt xương mông phải được đem lên bí huyệt cổ họng, trong khi năng lượng của huyệt đan điền phải được chuyển lên tim. Điều này được làm để đáp ứng với "sức hút" từ điện của linh hồn khi nó bắt đầu chế ngự cung phàm ngă. Đó là một tiến tŕnh lâu dài và đau khổ gồm nhiều kiếp sống và hậu quả là mang lại nhiều bệnh về thể xác.

4. Mục tiêu trước mắt người b́nh thường (chịu ảnh hưởng một cách vô tâm) là đáp ứng đầy đủ với sức mạnh của phàm ngă, tập trung trước tiên ở trung điểm, tức đan điền, và kế đó, phối hợp các thần lực này một cách vững chăi và một cách sáng suốt, sao cho một phàm ngă hợp nhất sau rốt được đem ra cho linh hồn kiềm chế và sử dụng.

5. Mục tiêu trước mắt người sơ khai hoặc người chưa phát triển (lại chịu ảnh hưởng một cách vô tâm) là sống một cuộc sống đầy thú tính và đầy t́nh cảm, nhờ đó thu lượm được kinh nghiệm để phát triển, để tiếp xúc và sau rốt để hiểu biết. Nhờ cách này mà bộ máy đáp ứng của linh hồn trong ba cơi thấp được kiến tạo.

Tôi cũng xin kêu gọi sự chú tâm đến ư tưởng mà tôi đă đưa vào ở đây, đó là về bản chất, các mục tiêu tự chúng có một hiệu quả trên những ǵ mà con người đang nỗ lực. Đây là một ư tưởng biện hộ cho việc xem xét cẩn thận.

Các điều khái quát này sẽ chỉ hữu ích nếu bạn nhớ rằng chúng là các điều khái quát. Không một người t́m đạo ở bất cứ tŕnh độ nào hoàn toàn cắt đứt nỗ lực của ḿnh cho đến sau cuộc điểm đạo thứ ba, y cũng không hoàn toàn bị đặc thù hóa trong kiếp sống và nỗ lực của y. Nhân loại đang ở mọi tŕnh độ phát triển có thể tưởng tượng được, và nhiều người ở các tŕnh độ này thuộc về hạng giữa so với năm tŕnh độ được nhắc ở trên. Tất cả các tŕnh độ này đều phối hợp và trộn lẫn vào nhau và thường tạo ra một diễn trường dữ đội và gây bối rối cho tư tưởng và hoạt động. Chỉ có trong cuộc đời của một cá nhân chưa phát triển mà người ta mới thấy được sự đơn giản rơ rệt. Ở quăng giữa – từ giai đoạn ấu trĩ của giống dân hay của con người, đến giai đoạn ở trạng thái giải thoát khỏi cuộc sống phàm ngă – không có ǵ cả trừ ra sự phức tạp, sự gối lên của các trạng thái tâm thức, nỗi khó khăn, bệnh tật, các vấn đề tâm lư, ốm đau và chết chóc.

140

 
Điều này hiển nhiên phải là như thế, khi phần lớn năng lượng và thần lực vốn dĩ tạo ra con người và tạo thành hoàn cảnh của y có liên quan với nhau. Trong thực tế, mọi con người, giống như một xoáy nước nhỏ trong đại dương Sinh Linh mà trong đó y sống và hoạt động – không ngừng chuyển động cho đến lúc mà linh hồn "thở trên mặt nước" (tức là các thần lực) và Thiên Thần Bản Lai Diện Mục giáng vào xoáy nước. Bấy giờ, tất cả trở nên phẳng lặng. Mặt nước bị khuấy động bởi nhịp sống, rồi sau đó bị khuấy động dữ dội do sự giáng xuống của Thiên Thần, đáp ứng với mănh lực chữa trị của Thiên Thần và được biến đổi "thành một cái ao yên tĩnh mà những người nhỏ bé có thể đi vào và t́m được sự chữa trị mà họ cần". Cổ Luận giảng như thế.

CÁC BÍ HUYỆT VÀ HỆ THỐNG TUYẾN

Do đó, điều hiển nhiên đối với bạn là bệnh tật (khi không có nguồn cội từ tập thể, hay là kết quả của nghiệp quả hành tinh hay là dựa trên sự ngẫu nhiên) bắt nguồn từ sự hoạt động hoặc không hoạt động của các bí huyệt. Đây là một phát biểu về một chân lư căn bản, được đưa ra theo cách đơn giản nhất. Như các bạn biết, các bí huyệt chi phối hệ thống nội tiết, rồi đến phiên nó, hệ thống này kiềm chế bảy vùng chính yếu trên thể xác và chịu trách nhiệm đối với việc vận hành chính xác của toàn cơ thể, tạo ra các hiệu quả về mặt sinh lư lẫn tâm lư.

Sự quan trọng của hệ thống tuyến này không nên được đánh giá quá cao. Đó là một bản sao thu nhỏ của cấu tạo thất phân của vũ trụ và là phương tiện biểu lộ và là vận cụ giao tiếp đối với thần lực của bảy cung, bảy Tinh Quân trước Thiên Ṭa. Bấy giờ, y học và các phương pháp chữa trị của nền văn minh sau này, sẽ được kiến tạo chung quanh chân lư chưa được thừa nhận này.

141

 
Các tuyến tạo thành một hệ thống liên lạc lớn trong cơ thể; chúng đưa mọi phần của thể xác, liên hệ lại với nhau; chúng cũng nối liền con người với thể dĩ thái – cả về mặt cá nhân lẫn hành tinh – và cũng giống như ḍng máu, tức tác nhân vận chuyển nguyên khí sự sống đến mọi phần của cơ thể. Tất nhiên là có bốn tác nhân phân phối chính nằm trong thể xác. Chúng hoàn toàn nằm bên trong chính chúng, tất cả đều góp phần vào cả sự sống chức năng lẫn sự sống hữu cơ của cơ thể, tất cả đều có liên hệ hỗ tương chặt chẽ, và tất cả đều tạo ra các kết quả sinh lư lẫn tâm lư, tùy theo sức mạnh của chúng, sự đáp ứng của bí huyệt với luồng thần lực cao đang đi vào, tŕnh độ tiến hóa đă đạt được và biểu lộ thông suốt, hay là ngược lại, của năng lượng đang đi vào. Bốn tác nhân phân phối năng lượng này là:

1. Chính thể dĩ thái. Thể này, với vô số các tuyến lực và năng lượng, các năng lượng đang đi vào và đi ra, sự đáp ứng của nó với các tác động năng lượng xuất phát từ chung quanh, cũng như từ con người tâm linh bên trong và các thể tinh anh, ẩn dưới toàn bộ xác thân. Trong đó, có bảy bí huyệt có vai tṛ như các tụ điểm tiếp nhận và phân phối; chúng là nơi tiếp nhận bảy loại năng lượng và chúng phân phối bảy năng lượng này qua toàn bộ hệ thống nhỏ bé của con người.

2. Hệ thần kinh và hệ thống quản trị ăn khớp của nó. Đây là một mạng lưới năng lượng và thần lực tương đối rơ ràng; chúng vốn là ngoại hiện của mạng lưới năng động, thiết yếu bên trong của thể dĩ thái và hàng triệu nadis hay là nguyên mẫu của các thần kinh nằm bên dưới thể xác quan trọng hơn. Các dây thần kinh và các bí huyệt sinh lực (plexi) cùng nhiều nhánh nhóc của chúng là các trạng thái âm của các năng lượng dương vốn chi phối hay là đang cố gắng chi phối con người.

142

 
3. Hệ thống nội tiết. Đây là biểu lộ hữu h́nh và bên ngoài đối với hoạt động của thể sinh lực và bảy bí huyệt của nó. Bảy bí huyệt đều nằm trong cùng một vùng với bảy tuyến chính yếu, và, theo giáo huấn nội môn, mỗi bí huyệt cung cấp sức mạnh và sự sống của tuyến tương ứng, mà thực ra, chính là sự ngoại hiện của nó.

     Các Bí huyệt                                     Các tuyến

Bí huyệt đầu    ………………            Tuyến tùng quả

Bí huyệt ấn đường   ………………   Tuyến yên

Bí huyệt cổ họng    …………………  Tuyến giáp trạng

Bí huyệt tim        ……………………  Tuyến ức (thymus)

Bí huyệt đan điền   …………………. Tụy tạng

Bí huyệt xương mông  ……………..  Tuyến sinh dục

Bí huyệt chót xương sống  ……….    Tuyến thượng thận

Ba hệ thống này liên kết chặt chẽ với nhau và tạo thành một hệ thống quản trị ăn khớp gồm các năng lượng và thần lực, chủ yếu có tính sinh động, khích động, năng động và sáng tạo. Về căn bản, chúng tùy thuộc lẫn nhau và toàn bộ sức khỏe bên trong của cơ cấu xác thân đều tùy thuộc vào chúng. Trước tiên, chúng đáp ứng với thể này hoặc thể khác trong số các thể (t́nh cảm hoặc trí tuệ), kế đó với phàm ngă hợp nhất và cung của phàm ngă, và sau cùng với cung của linh hồn khi linh hồn bắt đầu đảm nhận việc kiềm chế. Trong thực tế, chúng chịu trách nhiệm đối với việc tạo ra thể xác, và – sau khi ra đời – chúng chi phối tính chất tâm lư của nó, và đến phiên nó, tạo ra con người vật chất đang phát triển. Chúng là các tác nhân đối với ba trạng thái thiêng liêng của mọi biểu lộ: sự sống – tính chất – sắc tướng.

4. Ḍng máu. Đây là tác nhân chuyên chở của nguyên khí sự sống và của các năng lượng và thần lực phối hợp của ba hệ thống trên. Đây sẽ là một ư kiến có phần mới lạ đối với chính thống. Mối liên quan của hệ tuần hoàn của máu đối với hệ thần kinh, cho đến nay, không được phát triển thích đáng trong y học hiện đại. Tuy nhiên, có nhiều điều đă được làm để liên kết hệ thống tuyến với máu.

143

 
Chỉ khi nào bốn hệ thống liên hệ hỗ tương này được xem như một tổng thể hợp nhất và như là bốn trạng thái của một hệ thống lưu thông thiết yếu duy nhất, th́ bấy giờ, chân lư mới hiện ra. Chỉ khi nào chúng được thừa nhận là bốn tác nhân phân phối chính của các cung phối hợp của con người cá biệt, bấy giờ, bản chất thực sự của hiện tượng vật chất mới được hiểu rơ. Ở đây, cần lưu ư rằng:

1. Theo khía cạnh tuần hoàn, thể dĩ thái bị Nguyệt Cầu chi phối, v́ nó che phủ Vulcan.

2. Hệ thần kinh do Venus cai quản.

3. Hệ thống nội tiết bị Saturn chi phối.

4. Ḍng máu bị Neptune chi phối.

Trong thực tế bốn hệ thống này là biểu lộ của bốn trạng thái vật chất trong biểu lộ thấp nhất hay là biểu lộ thuần vật chất. Có các trạng thái biểu lộ khác của chất liệu căn bản, nhưng đây là bốn trạng thái quan trọng nhất.

Mỗi một trong các trạng thái này đều chủ yếu là có hai mặt và mỗi nhị bộ (duality) tương ứng với cung của linh hồn hay cung của phàm ngă. Do đó, mỗi cái vừa dương lẫn âm; mỗi cái có thể được mô tả như là một đơn vị của kháng lực và của năng lượng mănh liệt; mỗi cái là một phối hợp của một số trạng thái vật chất và chất liệu nguyên thủy – vật chất (matter) ở trạng thái tương đối tĩnh tại, c̣n chất liệu nguyên thủy (substance) là tác nhân tương đối dễ thay đổi hay là được phú cho đặc tính. Sự tương tác của chúng, mối liên quan và chức năng phối hợp của chúng là biểu lộ của Nguyên Khí Sự Sống Duy Nhất, và khi chúng đă đạt tới một tŕnh độ phối hợp toàn hảo hay là tổng hợp hay là hoạt động phối kết, lúc bấy giờ mới xuất hiện cái gọi là "sự sống phong phú hơn" mà Đức Christ đă nói đến và cho đến nay chúng ta không biết ǵ về điều đó cả. Bốn trạng thái của vật chất cũng tạo ra sự tương ứng đối với bốn thuộc tính thiêng liêng cũng như đối với ba trạng thái thiêng liêng.

144

 
Sự tương đồng của thuyết nhị nguyên căn bản của mọi biểu lộ cũng được duy tŕ, như vậy tạo ra chín cửa điểm đạo – ba, bốn và hai. Tuy nhiên, sự tương đồng này đối với tiến tŕnh khai mở th́ ở chiều hướng ngược lại, v́ đó là sự khai mở vào Ngôi Ba, Ngôi Sáng Tạo, khía cạnh vật chất và thế giới của hoạt động sáng suốt. Đó không phải là cuộc khai mở ở khía cạnh thứ hai hay khía cạnh linh hồn, như trường hợp xảy ra với các cuộc điểm đạo của Thánh Đoàn mà đệ tử đang chuẩn bị. Đó là sự khai mở của linh hồn vào kinh nghiệm lâm phàm ở cơi trần, vào cuộc sống cơi trần và vào thuật để tác động với tư cách con người. Cánh cửa dẫn vào kinh nghiệm này là "Cánh cửa Bắc Giải" ("Gate of Cancer"). Cuộc khai mở vào Thiên giới được tiến nhập vào qua "Cánh cửa Ma kết". Bốn thuộc tính và ba trạng thái của vật chất này, cộng với hoạt động song đôi của chúng, là sự tương ứng với bốn trạng thái của phàm ngă và Tam Thượng Thể Tinh Thần và mối liên hệ linh hoạt song hành của chúng. Trong phát biểu này có ẩn chiếc ch́a khóa đưa đến giải thoát.

BẢY BÍ HUYỆT CHÍNH

Ở đây, sẽ là hữu ích nếu chúng ta xem xét trong một chốc, bản chất của chính các bí huyệt, tóm tắt sơ lược giáo huấn đă được nêu ra trong các sách khác của tôi, và v́ thế tŕnh bày một bức tranh sáng sủa về thể năng lượng (energy body) nằm dưới nhục thân.

Có nhiều tụ điểm thần lực bên trong thể xác, nhưng chúng ta sẽ chỉ bàn đến bảy cái chính đang kiềm chế tất cả những cái c̣n lại ở mức độ này hay mức độ khác. Bằng cách đó chúng ta sẽ không bị lầm lẫn. Chúng ta sẽ xem xét năm bí huyệt nằm trên cột xương sống và hai bí huyệt ở trong đầu.

1. Bí huyệt đầu. Bí huyệt này nằm ở đúng đỉnh đầu. Nó thường được gọi là "hoa sen ngàn cánh" hay là Brahmarandra.

145

 
  a. Nó tương ứng với mặt trời tinh thần trung ương.

  b. Nó hoạt động sau kỳ điểm đạo thứ ba và là cơ quan phân phối năng lượng Chân thần, trạng thái ư chí của thánh linh.

  c. Nó có liên quan đến phàm ngă tam phân bằng giác tuyến mà các đệ tử và các điểm đạo đồ ở trong tiến tŕnh kiến tạo, và đạt đến sự hữu dụng đầy đủ chỉ sau khi có sự phá hủy linh hồn thể vào cuộc điểm đạo thứ tư.

  d. Đó là trung tâm Shamballa trong thể xác và phương tiện của Từ Phụ hay của Ngôi Thiêng Liêng thứ nhứt.

  e. Nó ghi nhận Thiên Ư, tương ứng với "lửa điện" của thái dương hệ và có tính năng động.

  f. Ngoại hiện ở cơi trần trọng trược của nó là tuyến tùng quả trong đầu. Điều này vẫn tác động trong thời thơ ấu và cho tới khi ư-chí-hiện-tồn đă được thiết lập đầy đủ để cho kẻ luân hồi được bám chặt vững vàng khi lâm phàm trong thân xác. Trong các giai đoạn cuối cùng của biểu lộ thiêng liêng trong con người, nó lại đi vào hoạt động và trở thành hữu ích với tư cách là phương tiện để hoàn thành năng lượng ư chí của Đấng thiêng liêng đă được thiết lập trên cơi trần.

  g. Nó là cơ quan tổng hợp, bởi v́, sau kỳ điểm đạo thứ ba và trước khi linh hồn thể bị hủy diệt, nó gom vào chính nó các năng lượng của tất cả ba trạng thái của sự sống biểu lộ. Về phần con người, điều này có nghĩa là các năng lượng của Tam Thượng Thể Tinh thần, của hoa sen Chân ngă tam phân và của phàm ngă tam phân, như thế, tạo thành chín của khai mở. Thế nên, các năng lượng đồng bộ và được tập trung trong, chung quanh và trên đầu, rất là đẹp đẽ và tỏa chiếu rộng, cộng với hiệu quả năng động. Chúng dùng để liên kết điểm đạo đồ với mọi phần của sự sống hành tinh, với Đại Hội Đồng ở Shamballa và với Đức Ngọc Đế, Đấng Điểm Đạo cuối cùng – qua Đức Phật, và một trong ba vị Hoạt Động Phật. Phật Thích Ca, theo một ư nghĩa đặc thù nhất, liên kết điểm đạo đồ với Ngôi Hai của Thượng Đế – ngôi bác ái – và do đó với Thánh Đoàn; các Hoạt động Phật liên kết đạo đồ với Ngôi Ba của Thượng Đế, ngôi của hoạt động thông tuệ. Thế nên, năng lượng của ư chí của tâm thức và của óc sáng tạo gặp nhau trong điểm đạo đồ, tạo ra sự tổng hợp của các trạng thái thiêng liêng.

146

 
  h. Đây chỉ là một trong bảy bí huyệt mà vào lúc hoàn toàn giải thoát vẫn giữ được vị thế hoa sen đảo ngược, cuống sen (thực ra là antahkarana) đạt tới "cơi Trời thứ bảy" như vậy nối liền điểm đạo đồ với trung tâm hành tinh chủ yếu thứ nhứt, Shamballa. Tất cả các trung tâm khác khởi đầu bằng cách đảo ngược, với tất cả các cánh hoa xoay xuống về phía đáy xương sống; trong diễn tŕnh tiến hóa các cánh của chúng dần dần khai mở và kế đó từ từ hướng lên "tiến về phía đỉnh của cái que", như cách gọi trong Cổ Luận. Trên đây là một mảnh chi tiết có chút ít giá trị, trừ phi tới một chừng mức mà nó nêu ra một chân lư, hoàn thành một bức tranh và đem đến cho đạo sinh một ư tưởng tượng trưng về những ǵ chủ yếu là một tác nhân phân phối năng lượng ư chí của Thượng Đế.

147

 
2. Bí Huyệt ấn đường. Đây là bí huyệt giữa hai mày và nằm trong vùng đầu ngay trên hai mắt, nơi mà nó "tác động như một b́nh phong đối với vẻ mỹ lệ rực rỡ và huy hoàng của con người tâm linh".

  a. Nó tương ứng với mặt trời vật chất và là biểu hiện của phàm ngă, phối kết và đang tác động – trước tiên với tư cách đệ tử và sau rốt với tư cách điểm đạo đồ. Đây là con người đích thực hay là cái mạng che mặt.

  b. Nó đạt được hoạt động đầy đủ vào lúc cuộc điểm đạo thứ ba xảy ra. Tôi xin nhắc các bạn rằng cuộc điểm đạo này được Thánh Đoàn xem như là cuộc điểm đạo chính thứ nhứt, một điều mà trước kia tôi có truyền đạt. Đó là cơ quan để phân phối năng lượng của Ngôi Ba – năng lượng của sự thông tuệ linh hoạt.

  c. Nó có liên quan tới phàm ngă bằng sinh mệnh tuyến sáng tạo, và do đó có liên quan chặt chẽ với bí huyệt cổ họng (trung tâm của hoạt động sáng tạo), cũng như bí huyệt ở đầu có liên quan với bí huyệt ở chót xương sống. Một tương tác linh hoạt, khi được thiết lập giữa bí huyệt ấn đường và bí huyệt cổ họng, sẽ tạo ra một cuộc sống sáng tạo và một biểu hiện Thiên ư về phía điểm đạo đồ. Cũng giống như thế, sự tương tác linh hoạt giữa bí huyệt ở đầu và bí huyệt ở chót xương sống, tạo ra sự biểu lộ của thiên ư. Các mănh lực của bí huyệt ấn đường và bí huyệt cổ họng, khi phối hợp nhau, tạo ra biểu lộ cao nhất của "lửa do ma sát", cũng như các năng lượng của bí huyệt ở đầu và bí huyệt căn bản tạo ra "lửa điện" của cá nhân mà, khi tự biểu lộ đầy đủ, chúng ta gọi là luồng xà hỏa (kundalini fire).

148

 
  d. Đó là bí huyệt mà qua đó, Huyền Giai sáng tạo thứ tư t́m cách biểu lộ trên cơi riêng của nó, và nơi đây, cũng Huyền giai này và giới thứ tư trong thiên nhiên, tức gia đ́nh nhân loại, được phối hợp và ḥa lẫn nhau. Bí huyệt ở đầu có liên quan với Chân thần và phàm ngă. Bí huyệt ấn đường có liên kết Tam Thượng Thể Tinh thần (biểu lộ của Chân Thần trong các thế giới vô sắc tướng) với phàm ngă. Hăy suy gẫm về phát biểu này, bởi v́ ở đây – trong biểu tượng kư về bí huyệt ở đầu, xét về mặt vật chất – bạn có h́nh ảnh của ư chí tinh thần, tức Atma, và bác ái-tinh thần, tức buddhi. Việc giảng dạy về vị trí của hai mắt trong phát triển của biểu hiện hữu thức, tiến tới Thiên ư một cách sáng tạo, cũng xảy ra ở đây.

Mắt thứ ba……….. bí huyệt ở đầu……….. Ư chí.  Atma

Mắt của Từ Phụ. Chân Thần.                      SHAMBALLA

Trạng thái thứ nhứt của ư chí hay quyền năng và mục tiêu.

Liên quan tới tùng quả tuyến.

Mắt phải…….. bí huyệt ấn đường........ Bác ái.Bồ Đề (Buddhi)

Mắt của Ngôi Con, Linh hồn.                    Thánh Đoàn.

Trạng thái hai của bác ái minh triết.

Liên quan tới tuyến yên.

Mắt  trái……… bí huyệt cổ họng.. ….. Hoạt động thông tuệ.

Mắt của Mẹ, phàm ngă.                                 Nhân loại

Trạng thái thông tuệ thứ ba.

Liên  quan tới tuyến thuộc động mạch cổ.

Khi cả ba mắt này đều tác động, và tất cả ba đều "thấy" cùng một lúc, bấy giờ, bạn sẽ nh́n thấu suốt vào Thiên ư (điểm đạo đồ), hoặc có linh thị trực giác của cơi (đệ tử), và có chiều hướng tâm linh của hoạt động sáng tạo (Thánh sư).

149

 
 e. Bí huyệt ấn đường ghi nhận hay tập trung ư định để sáng tạo. Đó không phải là cơ quan sáng tạo theo cùng ư nghĩa giống như bí huyệt cổ họng, mà nó thể hiện ư tưởng nằm sau tính sáng tạo linh hoạt, tác động theo sau của sự sáng tạo, sau rốt tạo ra h́nh thức lư tưởng đối với ư tưởng.

 f. Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của nó là tuyến yên; hai thùy của tuyến này tương ứng với hai cánh hoa đa dạng của bí huyệt ấn đường. Nó biểu lộ sự tưởng tượng và ước muốn dưới hai dạng cao nhất và đây là các yếu tố năng động nằm sau mọi sáng tạo.

g. Do đó, nó là cơ quan hướng về lư tưởng và – thật là kỳ lạ – nó có liên hệ chặt chẽ với cung 6, cũng như bí huyệt đầu về thực chất liên quan với cung 1. Cung 6 có liên quan đặc biệt với cung 3 và ngôi ba của thiên tính, cũng như đối với cung hai và ngôi hai. Nó phối hợp, bám chặt và biểu lộ. Đây là một sự kiện mà từ trước đến giờ tôi không nhấn mạnh trong các tác phẩm khác của tôi. Bí huyệt ấn đường là điểm ở trong đầu, nơi mà bản chất song đôi của biểu lộ trong ba cơi thấp được tượng trưng. Nó ḥa lẫn các năng lượng sáng tạo của cổ họng và các năng lượng được siêu hóa của dục vọng hay là bác ái chân chính của tâm.

150

 
h. Bí huyệt này chỉ có hai cánh hoa thực sự, không phải là hoa sen đích thực theo cùng ư nghĩa như các bí huyệt khác. Các cánh của nó gồm có 96 cánh nhỏ hơn hay các đơn vị của lực (48 + 48 = 96) nhưng các cánh này không khoác lấy h́nh đóa hoa của các hoa sen khác. Chúng trải ra giống như các cánh của một phi cơ đối với bên phải và bên trái của đầu, và được tượng trưng bằng đường bên phải và đường bên trái của con đường vật chất và con đường tinh thần. Do đó, về mặt biểu tượng, chúng tạo thành hai cánh của Thập giá mà con người bị đóng đinh trên đó – hai ḍng năng lượng hay ánh sáng được đặt ngang qua ḍng sự sống tuôn xuống từ Chân Thần đến chót xương sống và đi qua đầu.

Ư tưởng về sự tương đối là ư tưởng luôn luôn phải được ghi nhớ khi đạo sinh t́m hiểu về các bí huyệt, về mặt trong có liên quan tới dĩ thái thể, đồng thời lại liên kết các thể tinh anh với các trạng thái ư thức vốn đồng nghĩa với trạng thái hiện tồn và biểu lộ, với các năng lượng của cung, với các t́nh huống chung quanh, với ba hiện thể theo chu kỳ (như H.P.B. gọi phàm ngă, linh hồn tam phân và Tam Thượng Thể Tinh Thần), với Shamballa và với toàn thể các Sự Sống biểu lộ. Đề tài rất là phức tạp, nhưng, khi đệ tử hoặc điểm đạo đồ đang sinh hoạt trong ba cơi thấp và các năng lượng khác nhau của toàn bộ con người bị "mắc cạn" trong con người ràng buộc cơi trần, lúc bấy giờ, t́nh trạng sẽ trở nên sáng tỏ hơn. Tôi dùng thành ngữ "mắc cạn" ("grounded") theo ư nghĩa đích thực và chính xác của nó, chứ không phải như là cách mô tả một người đă loại bỏ thể xác của ḿnh như nhà giáng ma học dùng thuật ngữ đó. Một số nhận thức trong thời gian và không gian có thể xảy ra; một số hiệu quả có thể được ghi nhận, một số ảnh hưởng của cung có vẻ trội hơn các ảnh hưởng khác; một vài "kiểu mẫu thực thể" xuất hiện; một biểu lộ của một Đấng tinh thần ở một mức độ kinh nghiệm hữu thức nào đó hiện ra một cách rơ rệt và bấy giờ có thể được chẩn đoán về mặt tinh thần. Các trạng thái và các thuộc tính của nó, các lực và năng lượng của nó, có thể được xác định vào thời điểm đó và cho một biểu lộ đặc thù được tạo ra của đời sống. Điều này cần được ghi nhớ và các tư tưởng của đạo sinh đừng nên lang thang quá xa, mà phải được tập trung vào dáng vẻ bề ngoài của con người (chính y hay là ai khác) và vào tính chất đang lộ ra. Khi kẻ nghiên cứu là một đệ tử hay là một điểm đạo đồ, y sẽ cũng có thể nghiên cứu khía cạnh của sự sống.

151

 
Tuy nhiên, khảo cứu của chúng ta hơi khác, v́ chúng ta sẽ cố gắng khám phá các bệnh tật và các khó khăn gắn liền với việc kích thích năng lượng hoặc thiếu sự kích thích của các bí huyệt, và nhờ thế đi đến một số hiệu quả mà năng lượng này tuôn vào và xung khắc với các sức mạnh sẽ tạo ra.

3. Bí huyệt cổ họng. Bí huyệt này nằm ở phía sau cổ, đến chỗ kéo dài của hành tủy, như vậy liên can tới tuyến động mạch cổ và hướng xuống xương bả vai. Đó là một bí huyệt đă phát triển đầy đủ và rất mạnh mẽ ở nơi con người b́nh thường. Điều lư thú cần ghi nhận trong mối liên hệ này là:

  a. Bí huyệt cổ họng do hành tinh Saturn chi phối, cũng như hai bí huyệt đầu lần lượt được chi phối bởi hành tinh Uranus (chi phối bí huyệt đầu) và Mercury (chi phối bí huyệt ấn đường). Đây là chỉ xét về đệ tử; t́nh trạng chi phối này thay đổi sau kỳ điểm đạo thứ ba hay là trước kỳ điểm đạo thứ nhất. Cả ba hành tinh này tạo thành một tam giác thần lực lư thú nhất và trong bộ ba theo sau và mối liên quan hỗ tương tất yếu của chúng, các bạn có – lại chỉ trong trường hợp các đệ tử – một câu chuyện hoặc biểu tượng vẽ vời gây kinh ngạc nhất của sự khai mở cửu phân:

1. Bí huyệt đầu

    Bí huyệt ấn đường.

    Bí huyệt cổ họng.

2. Mắt thứ ba.

    Mắt phải.

    Mắt trái.

3. Tuyến tùng quả

    Tuyến yên

   Tuyến động mạch cổ

152

 
Như vậy tŕnh bày cơ nguyên mà qua đó Tam Thượng Thể Tinh thần, linh hồn và phàm ngă tác động. Bí quyết để hiểu đúng tiến tŕnh "nằm trong liên quan của ba hành tinh Uranus, Mercury và Saturn, khi chúng tuôn đổ năng lượng của chúng qua chín "điểm tiếp xúc tinh thần" trên cơi trần vào trong "phạm vi nền tảng của ánh sáng và quyền năng vốn là con người trong thời gian và không gian".

    b. Bí huyệt này có liên quan đến cuộc điểm đạo thứ nhất và phát triển hoạt động vĩ đại, khi mức kinh nghiệm đó được đạt đến như nó đă được đạt đến bởi đa số nhân loại, vào lúc này, họ là người t́m đạo và các đệ tử dự bị của thế gian. (Đừng quên rằng nói về mặt chuyên môn, cuộc điểm đạo chủ yếu đầu tiên theo quan điểm Thánh Đoàn là cuộc điểm đạo thứ ba. Cuộc điểm đạo thứ nhất được các Chân Sư xem như là sự kết nạp tượng trưng vào Thánh đạo. Nó được nhân loại gọi là cuộc điểm đạo, bởi v́ vào thời Lemuria, đó là cuộc điểm đạo 1, hàm ư là bước vào việc kiềm chế thể xác hoàn toàn). Đó là cơ quan để phân phối năng lượng sáng tạo, năng lượng của ngôi ba bởi các linh hồn ở trên tŕnh độ tiến hóa. Có ba bí huyệt trong con người có liên quan tới và sự biểu lộ chính yếu của cung ba hay Ngôi Ba ở một số tŕnh độ phát triển khác nhau trên Thánh đạo:

1. Bí huyệt xương cùng đối với người chưa tiến hóa và người b́nh thường.

2. Bí huyệt cổ họng đối với người t́m đạo và đệ tử dự bị.

3. Bí huyệt ấn đường đối với các đệ tử và các điểm đạo đồ.

153

 
Ở đây, bạn lại có một bộ ba năng lượng vĩ đại chứa các tiềm lực vĩ đại ngày nay, do sự việc biểu lộ của trạng thái thông tuệ linh hoạt thứ ba đă đạt đến các đỉnh cao như thế nhờ sự phát triển và tâm thức nhân loại.

  c. Nó được liên kết với phàm ngă bằng tuyến sáng tạo, với linh hồn bằng giác tuyến và với Chân Thần bằng stutratma hay sinh mệnh tuyến (life thread). Nó không liên quan tới bất cứ trạng thái nào trong số các trạng thái thiêng liêng bởi antakarana, bởi v́ tuyến đó vốn nối liền Chân Thần với phàm ngă một cách trực tiếp (và sau rốt không tùy thuộc vào linh hồn), chỉ bám chặt vào biểu lộ của sự sống Chân Thần trong đầu, nơi bí huyệt đầu. Bấy giờ tâm thức trực tiếp được thiết lập giữa Chân Thần với phàm ngă và một bộ hai vĩ đại xuất hiện. Sự sống, tâm thức và h́nh hài lúc bấy giờ đều được tập trung một cách sáng tạo và một cách linh hoạt trong đầu và hoạt động của chúng được điều khiển từ đầu, xuyên qua hai bí huyệt đầu. Bí huyệt ấn đường chỉ đi vào hoạt động sáng tạo khi antakarana được kiến tạo. Trong các giai đoạn ban sơ, chính bí huyệt cổ họng, vốn là tác nhân sáng tạo, và trong thời kỳ sơ khai nhất, bí huyệt xương mông được linh hoạt. Tuy nhiên, bạn có một điều lư thú cần ghi nhớ. Việc kiến tạo antakarana chỉ có thể xảy ra thực sự khi nào cuộc sống sáng tạo của người t́m đạo chuyển từ bí huyệt xương cùng vào bí huyệt cổ họng và trở nên có thực và tiêu biểu. Về cái "cầu" liên lạc này, chính cái mũi là biểu tượng, v́ nó nối liền với đầu – chỉ một ḿnh và cô lập – với thân ḿnh, có hai phần, gồm những ǵ nằm trên cách mô và những ǵ nằm dưới cách mô – biểu tượng của linh hồn và phàm ngă hợp nhất, phối hợp và ḥa lẫn làm một. Đầu là biểu tượng của cái mà Patanjali mô tả như là trạng thái "hợp nhất cô lập" ("isolated unity").

  d. Đó là bí huyệt mà qua đó trạng thái thông tuệ của nhân loại tập trung một cách sáng tạo. Do đó, nhờ bí huyệt này mà năng lượng sáng tạo của trung tâm lớn của hành tinh được gọi là Nhân Loại tuôn tràn qua. Ba trung tâm hành tinh chính là Shamballa, Thánh Đoàn và Nhân Loại. Khi đạt tới sự hoàn hảo, năng lượng Shamballa gồm ư chí, quyền năng và Thiên ư sẽ tuôn đổ một cách thông suốt qua bí huyệt đầu, các năng lượng bác ái-minh triết của Thánh Đoàn sẽ tuôn đổ qua bí huyệt tim, c̣n năng lượng của nhân loại sẽ tập trung qua bí huyệt cổ họng, với bí huyệt ấn đường, tác động như là phương tiện của cả ba cái kia. Lúc bấy giờ sẽ xảy ra một hoạt động mới mẻ về phần nhân loại. Đó là nhiệm vụ nối liền ba giới trên nhân loại với ba giới dưới nhân loại, và như thế, lập nên các cơi trời mới và cơi trần mới. Lúc bấy giờ nhân loại sẽ đạt đến đỉnh của mục tiêu tiến hóa của ḿnh trên địa cầu này.

154

 
  e. Bí huyệt cổ họng, một cách đặc biệt, là cơ quan của Linh Từ sáng tạo. Nó ghi nhận ư định hay mục tiêu sáng tạo của linh hồn, được truyền đạt cho nó bằng ḍng năng lượng đi vào từ bí huyệt ấn đường. Sự phối hợp của hai năng lượng xảy ra như thế sẽ đưa tới một số kiểu mẫu hoạt động sáng tạo. Đây là sự tương ứng cao hơn đối với tính sáng tạo của bí huyệt xương cùng. Trong bí huyệt đó, các năng lượng sáng tạo âm và dương được biểu hiện trong các cơ thể nam và nữ riêng biệt và đưa tới mối liên hệ trong tác động sáng tạo, được đảm nhận một cách hữu thức, dù rằng cho đến nay không có nhiều mục tiêu rơ rệt.

  f. Thể hiện ra ngoài bằng vật chất trọng trược của bí huyệt này là tuyến giáp trạng. Tuyến này được xem như có tầm quan trọng tối thượng cho t́nh trạng khỏe mạnh của kẻ thường nhân ngày nay. Mục đích của nó là bảo vệ sức khỏe, quân b́nh hóa sự thăng bằng của cơ thể trong một số khía cạnh quan trọng của bản chất hồng trần, và nó tượng trưng cho Ngôi Ba, Ngôi Thông Tuệ, và có chất liệu thấm nhuần bằng trí tuệ. Trong thực tế, nó có liên hệ với Ngôi Thánh Thần hay là trạng thái thiêng liêng thứ ba khi biểu lộ, "phù tŕ" (như Thánh Kinh diễn tả), Đức Mẹ Mary Đồng Trinh. Các tuyến phó giáp trạng (parathyroids) là biểu tượng của Mary và Joseph và sự liên giao mà chúng nắm giữ đối với Ngôi Thánh Thần đang phù tŕ (overshadowing). Cuối cùng, nó sẽ được xác định rằng có một liên hệ sinh lư chặt chẽ xảy ra giữa tuyến giáp trạng với tuyến tùng quả, giữa các tuyến phó giáp trạng với hai thùy của tuyến yên, như vậy, đem lại một hệ thống liên kết duy nhất cho toàn thể vùng cổ họng và đầu.

155

 
  g. Giống như đầu tượng trưng cho bản chất lưỡng nguyên chủ yếu của Thượng Đế biểu lộ, cũng thế bí huyệt cổ họng tượng trưng cho bản chất tam phân của biểu lộ thiêng liêng. Bản chất lưỡng phân xuất hiện, phối hợp và trộn lẫn trong đầu trong mối tương quan giữa hai bí huyệt và hai phản ảnh hồng trần trọng trược của chúng. Ba năng lượng vĩ đại vốn tác động trong hoạt động sáng tạo thiêng liêng được hợp nhất trong hoạt động bằng sự biểu lộ đầy đủ của năng lượng đang tuôn đổ qua bí huyệt cổ họng, qua bộ máy phát âm và hai lá phổi. Trong mối liên hệ này bạn có: Sự Sống hay Linh Khí (Breath), Thánh Ngữ hay Linh hồn, và bí huyệt cổ họng của Chất Liệu Nguyên Thủy đang hoạt động.

  h. Hoa sen này của cổ họng, trong các giai đoạn đầu của cuộc tiến hóa, bị đảo ngược xuống, và các cánh của nó đạt đến hai vai và bao hàm hai lá phổi hay là các phần của chúng. Trong chu kỳ sống của linh hồn, nó tự đảo ngược một cách chậm chạp và các cánh của nó bấy giờ hướng về hai tai và gồm tủy sống kéo dài và tuyến động mạch cổ. Tuyến này có liên hệ chặt chẽ với tuyến giáp trạng hơn là hai tuyến khác trong đầu.

156

 
Như thế, điều hiển nhiên đối với bạn là làm thế nào toàn thể các vùng của cơ thể vật chất có thể đi vào vận hành linh hoạt và chính xác, có thể được bồi bổ sinh khí và được giữ ở t́nh trạng tốt và chính xác bằng hoạt động dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác của bí huyệt gần nhất với vùng của cơ thể đang được xem xét. Điều cũng hiển nhiên đối với bạn là sự khiếm khuyết và bệnh tật có thể là do sự không hoạt động của một bí huyệt.

4. Bí huyệt tim. Bí huyệt này nằm ở giữa hai bả vai và – trong thời đại này – là bí huyệt đang nhận được sự chú tâm nhiều nhất từ những Đấng có trách nhiệm về việc khai mở tâm thức nhân loại. Hỡi huynh đệ, có thể nói thật rằng sự khai mở nhanh chóng của hoa sen này là một trong các lư do giải thích tại sao chiến tranh thế giới không thể tránh khỏi. Theo một ư nghĩa khác, đó là một biến cố cần thiết (căn cứ vào tính ích kỷ mù quáng của đa số nhân loại) bởi v́ cần phế bỏ đi mọi h́nh thức cũ kỹ của cách cai trị, của tôn giáo và của đẳng cấp xă hội đă được cô đọng. Nhân loại ngày nay đă đạt đến một tŕnh độ hiểu biết tập thể và tương tác tập thể bằng một loại tâm linh sâu sắc, và các h́nh thức mới được đ̣i hỏi mà qua đó tinh thần mới mẻ này có thể tác động một cách thích hợp hơn.

  a. Bí huyệt tim tương ứng với "tâm của mặt trời" và do đó với cội nguồn tâm linh của ánh sáng và t́nh thương.

157

 
  b. Nó được khơi hoạt sau kỳ điểm đạo thứ hai. Lần điểm đạo đó đánh dấu sự hoàn thành tiến tŕnh mà nhờ đó bản chất xúc cảm (với tính chất dục vọng nổi bật của nó) được đặt dưới sự kiềm chế của linh hồn, và dục vọng của phàm ngă được chuyển hóa thành t́nh thương. Đó là cơ quan để phân phối năng lượng của Thánh Đoàn, tuôn đổ qua linh hồn vào bí huyệt tim của mọi kẻ t́m đạo, đệ tử và điểm đạo đồ; bằng cách này, năng lượng đó được làm cho khả dụng và đem lại hai kết quả:

1. Hoán cải nhân loại qua t́nh thương

2. Liên hệ được thiết lập một cách vững chăi giữa một nhân loại đang phát triển nhanh chóng với Thánh Đoàn. Bằng cách này, hai trung tâm vĩ đại của hành tinh – Thánh Đoàn và Nhân Loại – được đưa vào tiếp xúc và liên giao chặt chẽ.

Theo lời Thánh Kinh: "T́nh thương của Thượng Đế được rải khắp nơi" trong tâm nhân loại, c̣n năng lực bức xạ, có sức thu hút và đang biến đổi của nó th́ rất thiết yếu cho việc xây dựng lại thế gian và cho sự thiết lập trật tự mới trên thế giới. Về sự khai mở bí huyệt tim, và về mối liên giao sáng suốt của nhân loại với Thánh Đoàn, với sự đáp ứng tất nhiên của con người đối với năng lượng t́nh thương vào lúc này, mọi đệ tử được đ̣i hỏi phải suy tư và nghiền ngẫm, v́ "con người nghĩ trong ḷng như thế nào, th́ y trở nên như thế ấy". Việc suy tưởng trong ḷng chỉ có thể xảy ra đích thực khi năng lực trí tuệ được phát triển thích hợp và đă đạt đến một tŕnh độ khai mở khá cao. Cảm nghĩ (feeling) trong tâm thường bị lầm lộn với suy tư (thinking). Khả năng suy tư trong tâm là kết quả của tiến tŕnh chuyển hóa dục vọng thành t́nh thương trong nhiệm vụ nâng cao sức mạnh của huyệt đan điền vào bí huyệt tim. Việc suy tưởng trong tâm cũng là một trong các chỉ dẫn rằng trạng thái cao của bí huyệt tim, hoa sen 12 cánh được t́m thấy ở chính trung tâm của hoa sen ngàn cánh, đă đạt đến một mức độ hoạt động thực sự. Việc suy tư, với tư cách là kết quả của cảm nghĩ đúng đắn, lúc bây giờ được thay thế bằng sự nhạy cảm cá nhân. Nó cũng mang lại cho chúng ta các chỉ dẫn yếu ớt đầu tiên, của trạng thái hiện tồn vốn là đặc trưng của Chân Thần và vốn không thể được gọi là tâm thức – theo như chúng ta hiểu về thuật ngữ này.

158

 
     c. Bí huyệt tim trở nên có liên quan thiết yếu với phàm ngă khi tiến tŕnh chỉnh hợp với linh hồn được am hiểu. Tiến tŕnh này ngày nay được giảng dạy trong mọi trường phái huyền bí mới mẻ hơn và có uy tín hơn, và đă được nhấn mạnh trong Trường Arcane từ thuở ban đầu; chính cách đó (phân biệt bằng định hướng, định trí và tham thiền đúng) nó nối liền phàm ngă với linh hồn và như thế với Thánh Đoàn. Mối giao tiếp với Thánh Đoàn tự động xảy ra khi sự chỉnh hợp này tiếp diễn và sự tiếp xúc trực tiếp của linh hồn nhờ đó được thiết lập. Phàm ngă thức được thay thế bằng tập thể thức, và ḍng năng lượng đi vào của Thánh Đoàn noi theo như một hậu quả tự nhiên, v́ mọi linh hồn chỉ là các trạng thái của Thánh Đoàn. Chính mối liên giao được thiết lập này, với sự tương tác tiếp theo sau của nó (về từ điện và về bức xạ, đưa tới sự hủy diệt sau cùng của linh hồn thể khi mối liên lạc đạt tới tŕnh độ cao nhứt của sự nhận thức mạnh hơn.

  d. Do đó, trong thể xác, Thánh Đoàn tác động qua bí huyệt đó; nó cũng là tác nhân hoạt động của linh hồn. Ở đây, khi dùng từ ngữ "linh hồn", không những tôi đề cập đến linh hồn cá biệt của con người mà cũng nói đến linh hồn của Hành Tinh Thượng Đế nữa, cả hai là kết quả của sự phối hợp của tinh thần và vật chất của trạng thái Cha và trạng thái Mẹ. Đây là một bí nhiệm lớn mà chỉ có cuộc điểm đạo mới có thể tiết lộ được.

  e. Bí huyệt tim biểu lộ năng lượng bác ái. Ở đây; có thể nói rằng, sau cùng, khi antakarana đă được kiến tạo, ba trạng thể của Tam Thượng Thể Tinh thần, mỗi trạng thể sẽ t́m thấy một điểm tiếp xúc bên trong cơ cấu dĩ thái của điểm đạo đồ đang hoạt động trên cơi trần. Vị điểm đạo đồ giờ đây là một dung hợp của linh hồn và phàm ngă mà qua đó, sự sống tràn đầy của Chân Thần có thể tuôn đổ xuống.

159

 
1. Bí huyệt đầu trở nên điểm tiếp xúc cho ư chí tinh thần tức Atma.

2. Bí huyệt tim trở nên tác nhân cho ḷng bác ái tinh thần, tức Buddhi.

3. Bí huyệt cổ họng trở thành biểu hiện của Toàn Linh Trí, tức Manas.

Trong công tác của điểm đạo đồ, khi y thể hiện Thiên ư theo Thiên Cơ, bí huyệt ấn đường trở thành tác nhân hướng dẫn hay là nơi phân phối các năng lượng được phối hợp của Chân Ngă. Bí huyệt tim tương ứng với "lửa thái dương" bên trong thái dương hệ và có tính chất từ điện và tính chất phát xạ trong hoạt động. Đó là cơ quan của năng lượng vốn đem lại tính chất bao quát.

160

 
  f. Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của nó là tuyến ức. Hiện nay, tuyến này chưa được biết đến nhiều, dù là nhiều điều cần được học hỏi khi kẻ nghiên cứu chấp nhận và thử nghiệm với các giả thuyết mà khoa huyền linh học đưa ra, và khi bí huyệt tim phát triển và tuyến ức được trở lại với hoạt động của người trưởng thành. Đến nay, trường hợp này chưa xảy ra. Bản chất của chất tiết ra của tuyến đó vẫn chưa được xác minh, c̣n các hiệu ứng của tuyến này đă được biết rơ theo khía cạnh tâm lư hơn là theo khía cạnh vật chất. Tâm lư học hiện đại, khi được kết hợp với y học, sẽ nhận thức ra rằng tuyến này khi quá năng động, sẽ tạo ra người tắc trách và phi luân lư. Khi nhân loại biết rơ bản chất của trách nhiệm, chúng ta sẽ có các dấu hiệu đầu tiên về sự chỉnh hợp của linh hồn, về phá ngă chấp (personality decentralisation) và về tập thể thức, và kế đó – song song với sự phát triển này – chúng ta sẽ thấy tuyến ức trở nên hoạt động chính xác. Hiện nay, sự mất quân b́nh chung của hệ thống nội tiết làm cản trở sự an toàn và sự vận hành đầy đủ của tuyến ức trong người trưởng thành. Cho đến nay, có một liên hệ chưa được hiểu rơ hiện hữu giữa tuyến tùng quả và tuyến ức, cũng như giữa cả hai tuyến này với bí huyệt ở chót xương sống. Khi Tam Thượng Thể Tinh Thần trở nên hoạt động qua trung gian phàm ngă, cả ba bí huyệt này và ba ngoại hiện của chúng sẽ tác động trong sự tổng hợp, chi phối và điều khiển toàn thể con người. Khi tuyến tùng quả quay trở lại với sự vận hành đầy đủ ở người trưởng thành (v́ đây không phải là trường hợp của người trưởng thành) ư-chí-hành-thiện thiêng liêng sẽ tự biểu lộ và thiên ư được đạt thành; tương tự như thế, khi tuyến ức trở nên linh hoạt ở người trưởng thành, thiện chí sẽ trở nên rơ ràng và thiên cơ sẽ bắt đầu được thể hiện. Đây là giai đoạn đầu tiên hướng về t́nh thương, các tương quan đúng của con người và sự yên b́nh. Thiện chí này đă xuất hiện trong thế giới ngày nay, cho thấy bí huyệt tim đang đi vào hoạt động, và chứng tỏ rằng bí huyệt tim ở trong đầu đang bắt đầu khai mở như là kết quả của hoạt động đang tăng trưởng của bí huyệt tim trên xương sống.

161

 
  g. Đó là cơ quan phối hợp, cũng như bí huyệt đầu là cơ quan tổng hợp. Khi bí huyệt tim trở nên hoạt động, người t́m đạo cá biệt từ từ bị lôi cuốn vào một liên hệ ngày càng chặt chẽ hơn với linh hồn của y, và lúc bấy giờ, hai sự mở rộng tâm thức xảy ra và được y diễn dịch như là các biến cố:

1. Y được lôi cuốn đến Đạo Viện của một trong các Chân Sư, tùy theo cung linh hồn của y, và trở nên một đệ tử nhập môn theo ư nghĩa chuyên môn. Chính Chân Sư là bí huyệt tim của Đạo Viện và bây giờ, Ngài có thể vươn đến đệ tử của Ngài xuyên qua linh hồn, bởi v́ đệ tử đó, nhờ chỉnh hợp và tiếp xúc, đă để cho tâm của ḿnh giao tiếp chặt chẽ với linh hồn. Bấy giờ, y trở nên đáp ứng với tâm của mọi vật, mà đối với nhân loại hiện tại là Thánh Đoàn.

2. Y được lôi cuốn vào quan hệ phụng sự chặt chẽ với nhân loại. Ư thức trách nhiệm tăng thêm của y do bởi hoạt động của bí huyệt tim, đưa y đến phụng sự và hành động. Sau rốt, y cũng trở nên trung tâm của một nhóm hoặc của một tổ chức – lúc đầu nhỏ, nhưng trở nên rộng khắp khi năng lực tinh thần của y phát triển và y cảm nghĩ bằng các thuật ngữ của nhóm và của nhân loại. Về phía y, hai liên hệ này có tính hỗ tương. Như thế, trạng thái bác ái của Thượng Đế trở nên linh hoạt trong ba cơi thấp, và t́nh thương được giữ chặt trên địa cầu và thay thế cho cảm xúc, cho dục vọng và khía cạnh vật chất của cảm giác. Hăy nhớ câu này.

  h. Trong các giai đoạn khai mở ban đầu của cả cá nhân lẫn nhân loại, hoa sen có tâm đảo ngược với 12 cánh hướng về phía huyệt đan điền. Vào thời Atlantis, bí huyệt cuối cùng này đă đảo ngược và các cánh của nó bây giờ hướng lên bí huyệt kế tiếp trên xương sống, bí huyệt tim, nhờ bởi các năng lượng tăng lên dần dần từ huyệt đan điền, bí huyệt này đang t́m cách để thoát khỏi "sự giam cầm của các vùng thấp" nhờ một tiến tŕnh chuyển hóa.

162

 
Kết quả là bí huyệt tim đang bắt đầu từ từ khai mở và cũng tự đảo ngược. Sự đảo ngược của các "trung tâm hoa sen" luôn luôn xảy ra như là kết quả của tác động kép – đẩy từ phía dưới và kéo từ phía trên.

Sự đảo ngược của hoa sen ở tim và sự khai mở hướng lên trên của nó là do các yếu tố sau:

1. Sức mạnh ngày càng tăng với sự tiến gần của Thánh Đoàn.

2. Tiếp xúc với linh hồn đang được thiết lập một cách nhanh chóng.

3. Sự đáp ứng của hoa sen ở tim đang khai mở đối với sức lôi cuốn của Đạo Viện Thánh Sư.

4. Các năng lượng được chuyển hóa từ dưới cách mô dâng lên, xuyên qua huyệt đan điền, để đáp ứng với "sức lôi cuốn" tinh thần.

5. Hiểu biết ngày càng tăng của con người về bản chất của t́nh thương.

C̣n có các yếu tố khác nữa, nhưng đây là các yếu tố mà bạn sẽ dễ hiểu nhất nếu bạn xem chúng như là biểu tượng chứ không theo nghĩa đen. Cho đến năm 1400 của Công Nguyên, liên hệ giữa huyệt đan điền với bí huyệt tim có thể được diễn tả bằng h́nh ảnh sau đây: (trang 184)

Phản ảnh của Tam Thượng Thể Tinh Thần trong phàm ngă được đầy đủ khi bí huyệt ấn đường hoàn toàn ở dưới sự kiềm chế của linh hồn. Trong sơ đồ này không có sự cố gắng minh họa đúng con số các cánh trong mỗi hoa sen (xem h́nh).

Sau rốt, vào lúc kết thúc căn chủng tới, bạn sẽ có sự biểu lộ đầy đủ t́nh thương và các hoa sen trên xương sống sẽ xuất hiện – tất cả là năm cái – chỉ khác ở con số cánh hoa trong mỗi cái.

Cuối cùng, vào lúc kết thúc đại chu kỳ thế giới khi tất cả các hoa sen đều tự đảo ngược, tất cả sẽ được khai mở và tiêu biểu cho các vận hà thông suốt cho việc nhập vào và truyền chuyển của ba năng lượng thiêng liêng chính yếu và bốn thần lực thứ yếu.

                                   

Đối với chuyển động thường xuyên này của các bí huyệt và đối với luồng năng lượng đi vào thường xuyên, chúng ta có thể truy nguyên nhiều bất tiện của nhân loại trong các thể khác nhau của nó; đó là việc các bí huyệt không có khả năng đáp ứng hay khai mở, mà trong nhiều trường hợp, tạo ra bệnh hoạn  và khó khăn; đó là sự khai mở thiếu thăng bằng của các bí huyệt, sự phát triển của chúng bị ngăn chận và sự thiếu ứng đáp của chúng sẽ tạo ra nhiều vấn đề trong các trường hợp khác; chính sự khai mở sớm của chúng và việc quá hoạt động của chúng mà trong các trường hợp khác sẽ đem lại nguy cơ; đó là sự không thích hợp của bộ máy vật chất với việc khai mở bên trong, khai mở này gây ra rất nhiều khó khăn. Như thế, bạn lại thấy sự phức tạp của vấn đề. Giai đoạn lư thuyết là giai đoạn đơn giản, trừ phi tới một chừng mức mà nó khơi động các mănh lực mà sau rốt đưa tới khó khăn. Giai đoạn phản ứng để đáp ứng và để hiệu chỉnh với lư thuyết, cũng tạo nên một chu kỳ cực kỳ khó khăn và phức tạp, bởi v́ nó dẫn đến một chu kỳ thực nghiệm và kinh nghiệm, trong đó đệ tử học hỏi nhiều và đau khổ cũng nhiều. Kế đó, với kinh nghiệm thu lượm được, giai đoạn biểu lộ tinh thần xảy đến, việc thoát khỏi nguy hiểm, thoát khỏi khó khăn và thoát khỏi bệnh tật xảy ra. Sự đơn giản được phục hồi.

163

 
THỂ XÁC, SẮC TƯỚNG CƠI HIỆN TƯỢNG.

Không cần viết nhiều về điều này ở đây, v́ bản chất của h́nh hài và khía cạnh sắc tướng đă là các đối tượng t́m kiếm và là vấn đề của tư tưởng và bàn căi của người biết suy tư trong nhiều thế kỷ. Nhiều điều mà con người đạt đến, căn bản là đúng. Đôi khi kẻ khảo cứu hiện đại sẽ thừa nhận Định Luật Tương Đồng như là nền tảng của các tiền đề và các nhận thức của y, đó là thuyết của Hermess, "Trên sao dưới vậy", có thể đưa ra nhiều tia sáng vào các vấn đề hiện nay. Các định đề sau đây có thể dùng để làm sáng tỏ:

1. Con người, trong bản chất h́nh hài của nó, là một tổng thể, một sự hợp nhất.

2. Tổng thể được chia thành nhiều phần và nhiều cơ thể.

3. Tuy nhiên, nhiều phần nhỏ này hoạt động theo cách thống nhất, và h́nh hài là một toàn thể có liên hệ với nhau.

4. Mỗi một trong các phần của nó khác nhau về h́nh thức và chức năng, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào nhau.

5. Mỗi phần và mỗi cơ thể, đến phiên nó, lại gồm nhiều phân tử, tế bào và nguyên tử, và các thành phần này được giữ chung với nhau dưới h́nh thức cơ thể bằng sự sống của tổng thể.

6. Tổng thể được gọi là con người, được chia một cách sơ lược thành năm phần, một số phần quan trọng nhiều hơn các phần khác; nhưng tất cả đều bổ túc cho cơ thể sinh động mà chúng ta gọi là con người.

  a. Đầu

  b. Thân trên, hay phần nằm trên cách mô

  c. Thân dưới, hay phần nằm dưới cách mô

  d. Tay

  e. Chân

164

 
7. Các cơ quan này được dùng vào các mục đích khác nhau, và sự tiện lợi của toàn thể tùy thuộc vào sự vận hành đúng và hiệu chỉnh thích hợp của chúng.

8. Mỗi một trong các cơ quan này đều có sự sống riêng của nó, vốn là toàn thể sự sống của cấu trúc nguyên tử và cũng được làm cho linh hoạt bởi sự sống hợp nhất của tổng thể, được điều khiển từ đầu bởi ư chí sáng suốt hay năng lượng của con người tinh thần.

9. Phần quan trọng của cơ thể là ba phần, đầu, thân trên và thân dưới. Con người có thể hoạt động và sống mà không cần tay và chân.

10. Mỗi một trong ba phần này cũng gồm ba phần theo khía cạnh vật chất, tạo ra sự tương đồng của ba phần của bản chất con người và chín phần của sự sống Chân Thần hoàn thiện. Có các cơ quan khác, nhưng các cơ quan này được kể ra là các cơ quan có một ư nghĩa huyền bí có giá trị nhiều hơn các phần khác.

  a. Trong đầu là:

1. Năm năo thất hay những ǵ mà chúng ta có thể gọi là bộ óc với vai tṛ là một cơ quan hợp nhất.

2. Ba tuyến là tuyến động mạch cổ, tuyến tùng quả và tuyến yên.

3. Hai mắt.

  b. Trong thân trên là:

1. Cổ họng

2. Phổi

3. Tim

  c. Trong thân dưới là:

1. Lá lách

2. Bao tử

3. Cơ quan sinh dục.

11. Toàn cơ thể cũng có ba phần:

165

 
  a. Da và cấu trúc xương.

  b. Mạch máu hay hệ tuần hoàn

  c. Hệ thần kinh tam phân

12. Mỗi một trong các bộ ba này tương ứng với ba phần của bản chất con người:

  a. Bản chất thể xác: da và cấu tạo xương, tương đồng với nhục thân và thể dĩ thái của con người.

  b. Bản chất của linh hồn: Các mạch máu và hệ tuần hoàn là sự tương đồng đối với mọi linh hồn đang tỏa ra, đang xâm nhập vào mọi phần của thái dương hệ, v́ máu đi vào mọi phần của cơ thể.

  c. Bản chất của Tinh thần: Hệ thần kinh, khi nó truyền năng lượng và tác động khắp con người là sự tương ứng với năng lượng của tinh thần.

13. Trong đầu, chúng ta có sự tương đồng với trạng thái tinh thần, ư chí  hướng dẫn, Chân Thần, Đấng Duy Nhất.

  a. Bộ óc với năm năo thất của nó là sự tương tự với h́nh hài thể xác, mà tinh thần làm cho linh hoạt khi giao tiếp với con người, toàn thể năm phần vốn là phương tiện mà qua đó tinh thần trên cơi trần phải tự biểu lộ.

  b. Ba tuyến trong đầu có liên quan chặt chẽ với linh hồn hay là bản chất thông linh (cao và thấp).

  c. Hai mắt là các tương ứng trên cơi trần với Chân Thần, chính là ư chí và bác ái-minh triết, hay là atma-buddhi, theo thuật ngữ huyền học.

14. Trong thân trên, chúng ta có một tương đồng đối với bản chất tam phân của linh hồn.

  a. Cổ họng, tương ứng với khía cạnh sáng tạo thứ ba hay là bản chất của cơ thể, sự thông tuệ linh hoạt của linh hồn.

166

 
  b. Tim, bác ái- minh triết của linh hồn, nguyên khí Bồ đề hay nguyên khí Christ.

  c. Hai phổi là sự tương đồng cho hơi thở của sự sống, là phần tương ứng với tinh thần.

15. Trong thân dưới, chúng ta lại có những hệ thống tam phân này.

  a. Các cơ quan sinh dục, khía cạnh sáng tạo, chủ thể nắn tạo cơ thể.

  b. Bao tử, với vai tṛ là biểu lộ vật chất của huyệt đan điền, là cái tương đồng với bản chất linh hồn.

  c. Lá lách, chỗ đón nhận năng lượng và do đó là biểu lộ ở cơi trần của bí huyệt đang nhận năng lượng này, là sự tương đồng đối với tinh thần đang mang năng lượng.

Tôi hiểu rơ các danh từ chuyên môn mà tôi đă đưa ra ở đây và nỗi khó khăn cùng là sự vô dụng bề ngoài của chúng. Người ta có thể hỏi: tại sao cần phải quá tỉ mỉ trong việc kể ra các chi tiết về thể xác, về tâm lư và về hệ thống của một bản chất thuần túy lư thuyết, khi mà, bằng một tác động của ư chí và của sức mạnh thiêng liêng, và bằng việc dùng một số Quyền Lực Từ, th́ việc chữa trị có thể hoàn tất được? Các ư tưởng này về cơ bản th́ đúng, nhưng lại dựa trên một sự hiểu lầm về thời gian và không gian. Nếu tất cả mọi nhà chữa trị đều là các Thánh Sư Minh Triết, nếu tất cả họ đều có nhăn thông, nếu họ hiểu Luật karma và cách thể hiện của Luật ấy trong cuộc đời của bệnh nhân, nếu họ có sự hợp tác đầy đủ của bệnh nhân và nếu họ có năng lực để bổ túc vào mọi đ̣i hỏi nêu trên, cách dùng một số Linh từ và Mantrams (thần chú), lúc bấy giờ sự hiểu biết có tính cách lư thuyết mới thực sự không cần. Nhưng các đ̣i hỏi này lại không có và không thể được đáp ứng. Theo thông lệ, các nhà chữa trị không có quyền năng nào trong số các quyền năng này. Những ǵ họ thường chữa trị (dù là không thường như họ nghĩ họ làm) là đúng, nhưng khi thành công, họ đă cố làm được một trong các điều sau đây:

167

 
Chữa lành bệnh nhân khi số mệnh và định mệnh của người ấy muốn như vậy, và do đó, linh hồn y thu hút hiện thể của nó (con người hồng trần) vào hào quang bức xạ của nhà chữa trị hoặc nhóm chữa trị. Có thể xảy ra việc đó là người bệnh muốn phục hồi trong bất luận trường hợp nào mà diễn tŕnh được thúc đẩy bởi sự cố gắng ứng dụng và sự chú tâm cộng thêm với đức tin.

Xen vào với cách sắp xếp trực tiếp về đời sống bệnh nhân và như thế, hoăn lại một số tiến tŕnh học hỏi tâm linh vốn dĩ cần thiết. Đây chính là năng khiếu đă bị quên lăng. Vấn đề thật là quá phức tạp không thể bàn đến ở đây, nhưng tôi có thể làm cho nó sáng tỏ hơn phần nào khi chúng ta bàn đến tiết cuối cùng.

Do đó, (cho đến khi có được sự hiểu biết đầy đủ) th́ điều cực kỳ tất yếu chính là cấu trúc của quyền năng và sức sống, cùng với mạng lưới năng lượng và thần lực vốn tạo ra cơ thể con người phải được nghiên cứu. Việc hiểu rơ bằng trí tuệ các tiến tŕnh chữa trị là cần thiết; c̣n các lư do làm cho chúng có vẻ khó khăn và phức tạp, không cần thiết và phí th́ giờ, th́ như sau:

168

 
Sự bất lực của ngay cả trí óc mở mang nhất của con người để hiểu các chủ đề và các vấn đề nói chung. Yếu tố tổng hợp cho đến nay vẫn c̣n thiếu. Hiện nay, việc giảng dạy và các tiến tŕnh có liên quan phải được thấu triệt từng bước, từng chi tiết, từng giáo huấn, từng áp dụng. Nhưng tương lai hứa hẹn sáng sủa, và năng lực của mắt người để hoạt động tổng hợp, thí dụ để nắm bắt một phong cảnh ở độ lớn và những nét nổi bật của nó và để làm điều này một cách đồng bộ với một cái nh́n thoáng qua là sự bảo đảm về kỹ thuật tương lai của nhân loại. Một cái nh́n bằng trí đă tỏ ngộ, một sự phóng phát t́nh thương vĩ đại, và người chữa trị hoặc nhóm chữa trị sẽ biết chữa trị cách nào, để giúp vào nỗ lực của bệnh nhân – một tiến tŕnh chậm chạp hơn nhiều – hay là để cố tránh chữa trị.

Sự thiếu năng động của người nam hoặc nữ bậc trung, họ chống đối lại cố gắng cần có để khắc phục khía cạnh kỹ thuật của việc chữa trị. Thật là dễ dàng hơn nhiều khi nhờ vào sự thiêng liêng (thực ra, sự thiêng liêng này vốn tiềm tàng chứ không lộ ra) và "hăy để cho Thượng Đế làm việc đó". Thật là dễ dàng hơn nhiều khi nhận thức ḷng bác ái và việc tuôn đổ ḷng bác ái, hơn là nắm vững các tiến tŕnh mà bởi đó bác ái có thể được làm cho có hiệu quả – hay là bản chất của những ǵ phải chịu ảnh hưởng.

Đây là các điểm đ̣i hỏi phải có sự chú tâm và xem xét cẩn thận. Chúng đáng được suy gẫm. Sức mạnh tổng hợp của trí tuệ, được ḷng bác ái chân chính trợ giúp, một ngày nào đó sẽ là khí cụ của mọi nhà chữa trị chân chính. Đồng thời, v́ lư do tương lai và để giúp cho việc diễn giải về nghệ thuật chữa trị sắp đến – dựa trên hiểu biết về năng lượng, cách lưu nhập và lưu thông của nó – bộ luận này sẽ bàn sơ lược về khía cạnh lư thuyết. Sau rốt, các sự kiện được đưa ra là các sự kiện có thật và là món quà thực sự, với tư cách là các xúc cảm mà nhà trị liệu bậc trung gọi là t́nh thương.

      BẢY BÍ HUYỆT CHÍNH (Tiếp theo)

169

 
Bây giờ, chúng ta hăy tiếp tục xem xét về các bí huyệt. Chúng ta đă bàn đến bốn bí huyệt trên cách mô – ba bí huyệt mà qua đó Tam Thượng Thể Tinh thần sau rốt phải tác động, và bí huyệt tổng hợp, bí huyệt ấn đường, sau cùng biểu hiện phàm ngă hội nhập và trở nên tác nhân trực tiếp của linh hồn. Hiện nay, chúng ta có ba bí huyệt nữa cần phải xem xét, tất cả đều nằm dưới cách mô – bí huyệt đan điền, bí huyệt xương cùng và bí huyệt ở chót xương sống. Quan trọng nhất đối với tất cả những người t́m đạo vào lúc này là huyệt đan điền; huyệt linh hoạt nhất – nói chung – trong con người với tư cách là một tổng thể, vẫn là huyệt xương cùng; huyệt im ĺm nhất trong cơ thể (theo khía cạnh con người tinh thần) là huyệt căn bản.

5. Huyệt đan điền (Solar plexus centre). Huyệt này nằm ngay dưới xương bả vai trong xương sống và đang cực kỳ linh hoạt. Vào thời Atlantis, nó đem lại một tŕnh độ phát triển cao, cũng như vào thời Aryan, bí huyệt cổ họng được khơi hoạt nhanh chóng. Huyệt này đặc biệt liên hệ tới hai huyệt khác: bí huyệt tim và bí huyệt ấn đường, và, vào lúc này, chúng tạo thành một tam giác năng lượng kỳ thú trong cơ thể người và là huyệt đang nhận nhiều chú tâm từ Thánh Đoàn. Có một ḍng năng lượng tuôn xuống từ huyệt ấn đường đến bí huyệt tim từ linh hồn, theo chừng mức mà người t́m đạo tiếp xúc được với linh hồn của ḿnh. Điều này đưa tới ba việc:

– Kích thích của bí huyệt tim.

– Phản ứng đáp lại từ bí huyệt tim vốn gây ra một kích thích của bí huyệt ấn đường và sau rốt tạo ra nhận thức về tập thể thức của phàm ngă.

– Đáp ứng của bí huyệt tim trong đầu.

170

 
Tuy nhiên, mọi điều này được làm cho dễ dàng bởi diễn biến tiến bộ của huyệt đan điền trong người t́m đạo, vốn có hiệu quả riêng của nó trên tim và hiệu quả hỗ tương trên bí huyệt ấn đường. Tất nhiên, có hai tam giác quan trọng cần xem xét:

 

 

 

 

 

Về mặt chiêm tinh, cũng có một khoa học về các Tam giác, thế nên, sau này sẽ phát triển một môn học về các tam giác liên hệ tới hệ thống nhân loại. Nhưng, chưa đến lúc. Đôi lúc, tôi chỉ đưa ra các chỉ dẫn của một khoa học như thế mà trực giác của các đệ tử có thể tham gia được.

  a. Huyệt đan điền là một phản ảnh trong phàm ngă của "tâm mặt trời", giống như bí huyệt tim. Đó là yếu tố trung tâm trong sự sống của phàm ngă đối với tất cả nhân loại dưới cấp bậc của đệ tử dự bị. Ở tŕnh độ đó thể trí bắt đầu tác động rơ rệt tuy hăy c̣n yếu ớt. Đó là lối thoát – nếu một từ như thế có thể dùng được – của thể cảm dục vào thế giới bên ngoài, và là dụng cụ mà qua đó năng lượng cảm dục tuôn chảy. Đó là cơ quan của dục vọng. Nó tối quan trọng trong cuộc đời của một người trung b́nh, và việc kiềm chế nó là một mục tiêu thiết yếu đối với người t́m đạo. Y phải chuyển hóa dục vọng thành đạo tâm.

171

 
  b. Vào thời Atlantis, huyệt đan điền đă hoạt động đầy đủ, trong thời kỳ mà giống dân lớn thứ hai đang phát triển. Các huyệt thấp này không có liên hệ một cách đặc biệt với các cuộc điểm đạo như là các huyệt ở trên cách mô, v́ chúng là các huyệt của phàm ngă và phải ở dưới sự kiểm soát đầy đủ của linh hồn khi các cuộc điểm đạo ở một tŕnh độ nào đó xảy ra.

  c. Huyệt đan điền là nơi thanh toán lớn đối với mọi năng lượng dưới cách mô. Điều này liên quan tới ba huyệt chính và các huyệt phụ đă được kể ra trên trang 72 (Anh văn– ND). Liên quan của huyệt này với cơi cảm dục rất nhạy bén (dùng một từ đặc biệt nhưng diễn tả nhiều nhất). Đó là nơi nhận mọi phản ứng t́nh cảm, các xung lực dục vọng và các năng lượng, và, bởi v́ nhân loại ngày nay đang trở nên linh hoạt theo ư nghĩa tập thể và bao quát nhiều hơn từ trước đến giờ trong lịch sử nhân loại, t́nh trạng trở nên nghiêm trọng và cực kỳ khó khăn. Con người, qua cá nhân và cũng qua huyệt đan điền tập thể, bị lệ thuộc vào một sức ép hầu như không thể chịu đựng được. Các cuộc thử thách điểm đạo là như thế đó ! Ở đây, tôi không định bàn đến các tiến tŕnh thu hút năng lượng thấp, cách tập trung chúng vào đan điền và nơi đó chuyển hóa chúng, thanh luyện chúng, đến mức độ có thể chuyển vào bí huyệt tim. Nhiều điều trong số đó có liên quan đến việc luyện tập được đưa ra cho các đệ tử nhập môn, trước cuộc điểm đạo thứ hai. Đó là một vấn đề quá phức tạp không thể bàn đến, cũng như mang theo với nó một số nguy hiểm đặc biệt đối với những kẻ chưa sẵn sàng cho tiến tŕnh; tuy nhiên, đó là một điểm mà – dưới sự cố gắng linh động – hầu như tiến tới một cách tự động. Như thế, đan điền là huyệt phân cách nhất trong số tất cả các huyệt (ngoại trừ huyệt ấn đường trong trường hợp của người thuộc tả đạo) bởi v́ nó đứng ở trung điểm, giữa huyệt cổ họng và bí huyệt tim – trên cách mô – và bí huyệt xương cùng và các bí huyệt căn bản, dưới cách mô. Đây là một cân nhắc rất quan trọng.

172

 
  d. Đan điền là huyệt ở trong thể dĩ thái, nhờ đó nhân loại (người thường, người chưa được khai ngộ) sống, hoạt động và hiện tồn. Nhân loại bị chi phối bởi ước muốn – ước muốn tốt lành, ước muốn ích kỷ, ước muốn sai lầm và ước muốn tinh thần. Đó là bí huyệt mà qua đó hầu hết các năng lượng lưu chuyển làm cho con người tiến bộ v́ y có tham vọng, ích kỷ v́ các ước muốn cá nhân của con người đều quan trọng, và hay thay đổi v́ lẽ được an trụ về mặt cảm dục. Nhờ nó mà "ánh sáng rực rỡ phát sinh trong thời Atlantis" được tuôn vào, và ánh sáng cảm dục được tiếp xúc. Đó là bí huyệt mà hầu hết các phương tiện tác động qua đó và những kẻ có nhăn thông hoạt động nhờ đó. Về sau, những kẻ này sẽ học cách tác động như là những kẻ trung gian, một cách hữu thức và một cách sáng suốt, bằng cách dùng các năng lực của họ; họ sẽ có được tri giác rơ rệt và tri giác này sẽ thay thế cho nhăn thông. Lúc bấy giờ, họ sẽ an trụ vào huyệt ấn đường. V́ vậy cho nên đó là một bí huyệt xáo trộn nhất trong cơ thể và là một nguyên nhân cơ bản của đa số các bệnh bao tử và các rối loạn liên hệ tới gan. Toàn thể vùng nằm ngay dưới cách mô thường xuyên ở trạng thái xáo trộn, nơi mà kẻ thường nhân có liên quan đến; điều này do bởi các nguyên nhân riêng và nguyên nhân chung.

Ở đây, thật là lư thú mà ghi nhớ rằng cũng như huyệt ấn đường (tổng hợp các sức mạnh phàm ngă, khi được phát triển cao độ) là một tác nhân hướng dẫn và phân phối lớn, cũng thế, huyệt đan điền (tổng hợp của các năng lượng phàm ngă đă phát triển của thường nhân, có trước tiến tŕnh hợp nhất), là một trung tâm gom góp, qui tụ tất cả các năng lượng thấp và sau rốt là một tụ điểm cho phương hướng và sự phân phối các năng lượng tổng hợp này – trao lại cho chúng các bí huyệt có khả năng tiếp nhận cao của chúng:

1. Các năng lượng của huyệt đan điền chính nó phải được hướng vào bí huyệt tim.

173

 
2. Các năng lượng của bí huyệt xương cùng phải được chuyển vào bí huyệt cổ họng.

3. Các năng lượng của bí huyệt ở chót xương sống phải được chuyển vào bí huyệt đầu. Sau cuộc điểm đạo thứ ba, các năng lượng cơ bản này được nâng lên, kiềm chế hay là phân phối bằng một tác động của ư chí của Tam Thượng Thể Tinh Thần. Bấy giờ "ánh sáng phát sinh vào thời Lemuria" (ánh sáng của bí huyệt xương cùng), và "ánh sáng phát sinh vào thời Atlantis" (ánh sáng của huyệt đan điền) sẽ tàn tạ, và hai bí huyệt này sẽ đơn thuần là nơi tiếp nhận các năng lượng tinh thần từ trên cao. Chúng sẽ không có ánh sáng trực tiếp, cố hữu của riêng chúng; ánh sáng mà chúng sẽ truyền đi sẽ đến với chúng từ các nguồn tổng hợp trên các cơi dĩ thái.

Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của bí huyệt này là tụy tạng, với một ngoại hiện phụ ở trong bao tử. Trong mối liên hệ với huyệt đan điền, có một liên hệ kỳ thú vốn được tượng trưng cả trong h́nh thức và trong hàm ư. Các bạn có:

                             

174

 
Ở đây lại nảy sinh chủ đề về bí huyệt của sức mạnh tinh thần (v́ lực cảm dục về bản chất là sức mạnh tinh thần) và ba biểu hiện của nó. Tất cả ba ngoại hiện trọng trược này được cung cấp và bảo dưỡng bằng thần lực và năng lượng của huyệt đan điền. Ở đây, tôi xin nêu ra một sự kiện rất quan trọng cho những kẻ có hứng thú trong việc nghiên cứu y học theo khía cạnh huyền bí: khi được đánh giá một cách đúng đắn, nó sẽ đưa đến việc hiểu biết về thuật chữa trị. Kiềm chế huyệt đan điền và tiếp nhận và phóng rải đúng lúc các năng lượng được tập trung trong bí huyệt đó, sẽ mang lại một sự thanh lọc chủ yếu, một sự tăng cường mạnh mẽ và một che chở thiết yếu đối với ba cơ quan rất quan trọng nằm trong lĩnh vực của bộ máy hồng trần của con người.

Như tôi đă nêu ra trước kia, bí huyệt này là một cơ quan tổng hợp và qui tụ vào chính nó mọi năng lượng thấp ở một mức độ nào đó trong phát triển cao siêu của con người. Sự thật, đó là một khí cụ (khi được hiểu đúng và điều khiển đúng) sẽ giúp vào việc hội nhập của sự sống phàm ngă. Vấn đề chính của người đă phát triển cao nhưng chưa có khuynh hướng tinh thần là vấn đề dục vọng. Các mục tiêu của y là ǵ? Các mục đích của y được hướng đến ǵ? Bản chất các hoài băo đă được hiểu rơ của y là ǵ? Y mong mỏi những ǵ? Tùy theo bản chất của các sức mạnh và các năng lượng mà cuộc sống tư tưởng của y mang lại cho huyệt đan điền, thế nên, quyết tâm của y để tiến tới theo con đường ánh sáng, để giữ vững mức duy ngă, hay để chọn đường lối thấp vốn sẽ dẫn đến việc giũ sạch ánh sáng của linh hồn.

Như chúng ta đă thấy, các cánh hoa của huyệt đan điền hướng lên đến bí huyệt tim. Trong thực tế, điều này có nghĩa là năng lượng xúc cảm, dục vọng và tham vọng (mà toàn thể nhân loại đều có) đang nỗ lực hướng về con đường cao cả.

175

 
Ở đây, cần ghi nhớ rằng việc chuyển di năng lượng ở huyệt đan điền tự nó là bổn phận của tất cả những người t́m đạo tiến vào Con Đường Đệ Tử vào thời điểm đặc biệt này, cộng với sự khơi hoạt từ từ của bí huyệt tim. Các thành viên đầu tiên của gia đ́nh nhân loại muốn trở nên có tập thể thức, dĩ nhiên là những người t́m đạo và các đệ tử, và những người này dẫn đầu cho nhân loại c̣n lại. Họ đạt được điều này bằng áp lực của chính sự sống và của hoàn cảnh chung quanh, chứ không phải bằng việc noi theo các qui luật đă đặt ra hay lối thiền định đặc biệt nào. Sau này, trước khi có một cuộc điểm đạo chủ yếu nào đó, các qui luật và các biện pháp như thế có thể được áp dụng để mang lại cho điểm đạo đồ sự kiềm chế hữu thức và tức khắc khắp thể cảm dục và tụ điểm của nó để tiến vào thể xác, huyệt đan điền, và lần nữa, vào lúc mà các sự chuyển di chính yếu được thực hiện một cách hữu thức. Trong các chuyển di này có ba loại có tầm quan trọng hàng đầu:

1. Từ ba bí huyệt dưới cách mô đi vào tim, cổ họng và bí huyệt ấn đường.

2. Từ hai bí huyệt trên cách mô – bí huyệt tim và bí huyệt cổ họng – vào bí huyệt ấn đường và hoa sen ngh́n cánh ở trên đầu.

3. Từ bí huyệt ấn đường vào bí huyệt đầu, có nghĩa là sự hợp nhất hoàn toàn của mọi năng lượng khắp toàn bộ thể dĩ thái, vào tụ điểm trung ương duy nhất để phân phối – dưới sự kiểm soát trực tiếp của Tam Thượng Thể Tinh Thần.

Các tiến tŕnh liên quan đến ba kinh nghiệm lớn này (mỗi kinh nghiệm được đi trước bằng nhiều thử thách và thực nghiệm) dĩ nhiên là đặt một căng thẳng trên thể xác và là nguyên nhân của nhiều trong số các bệnh mà các đệ tử phải kế thừa.

176

 
Thí dụ, điều hiển nhiên đối với bạn là sự chuyển di của mọi năng lượng tích tụ trong huyệt đan điền đi vào bí huyệt tim sẽ gây ra khó khăn rất thường có bản chất trầm trọng; đây là lư do giải thích tại sao ngày nay rất nhiều người tiến hóa, lại chết v́ bệnh tim. Trong chu kỳ dài của sự sống và kinh nghiệm của linh hồn, đây chỉ là một thời gian tương đối nhỏ; trong chu kỳ ngắn của đời sống cá biệt của đệ tử, đó là một khó khăn lớn và thường là bi thảm. Tương tự, việc chuyển di năng lượng của năm bí huyệt trên xương sống vào các bí huyệt đầu sẽ mang theo nó các vấn đề riêng của nó. Việc kích thích huyệt ấn đường bằng sự tập trung các năng lượng này có thể đưa đến các vấn đề tâm lư tai hại. Một người có thể trở thành một người cực kỳ ích kỷ (ego-maniac) tạm thời (tất cả chỉ là tạm thời trong cuộc sống trường cửu của linh hồn !) và trở thành một quái vật của loài người như Hitler và những kẻ khác cùng loại như ông ta mặc dầu ở mức độ thấp hơn; có thể cũng có các t́nh trạng động kinh dữ dội, hay là thị lực có thể bị tác động và người ấy trở nên mù ḷa. Tất cả các điểm này biện minh cho ư tưởng cẩn thận.

6. Bí huyệt xương cùng. Bí huyệt này nằm ở phần dưới vùng thắt lưng và là một bí huyệt rất mạnh, đang kiểm soát đời sống tính dục. Một trong các điều lư thú về bí huyệt này đó là nó vẫn luôn luôn là một bí huyệt mạnh cho đến khi hai phần ba nhân loại được điểm đạo, v́ tiến tŕnh sinh sản phải tiếp tục và vẫn hoạt động để cung cấp thể xác cho các linh hồn mới đến. Nhưng khi nhân loại tiến hóa, bí huyệt này sẽ được kiềm chế và các hoạt động của họ sẽ được xúc tiến một cách sáng suốt do hiểu biết sâu rộng và do các tiếp xúc cao siêu hơn và tinh tế hơn, chứ không phải do dục vọng không giới hạn và thiếu kiềm chế, như trường hợp hiện nay. Tôi không thể quảng diễn thêm về vấn đề này v́ chủ đề quá rộng lớn. Tuy nhiên, tôi có thể làm cho bạn chú ư những ǵ tôi đă viết và gợi ư rằng kẻ nào đó với sự quan tâm và theo thời gian sẽ gom góp tất cả những điều tôi đă nói trong tất cả các sách của tôi liên quan đến vấn đề phái tính để cho một tập sách nhỏ về đề tài này có thể được biên soạn.

  a. Bí huyệt xương cùng tương ứng với mặt trời hồng trần, tức nguồn sinh lực và là tác nhân ban phát sự sống trên hành tinh ta.

177

 
  b. Cách h́nh tượng hóa của bí huyệt xương cùng có liên quan trước tiên với thai kỳ trước khi sinh, và sự hiểu biết đúng về nó có thể được truy nguyên và khai triển rộng ra toàn thể câu chuyện về sự hoài thai, về sự kiến tạo h́nh hài và dù đó là h́nh hài vật chất của một người, dạng thức của một ư tưởng, một hệ thống được tạo ra chung quanh một chân lư trung ương, dạng thức của một hành tinh hay của một thái dương hệ. Có lẽ trên mọi điều khác, bí huyệt mà nhờ đó các mănh lực của Vô Ngă sau rốt phải tự biểu lộ, và toàn bộ vấn đề nhị nguyên phải được giải quyết. Giải pháp và cách giải thích biểu tượng phải xuất phát từ lănh vực trí tuệ, nhờ đó việc kiềm chế phản ứng xác thân và dồn hết th́ giờ vào các mục tiêu chớ không phải với dục vọng. Hăy suy gẫm về điều này. Khi đă hiểu rơ như vậy, bấy giờ, chúng ta sẽ đạt tới tŕnh độ mà sự chuyển di lớn sẽ có thể xảy ra vào bí huyệt sáng tạo cao hơn, tức bí huyệt cổ họng.

  c. Do đó, bí huyệt xương cùng có liên quan chặt chẽ với vật chất, và có một ḍng năng lượng giữa ba điểm trong phần dưới của cơ thể:

1. Lá lách, cơ quan của prana hay là của sự sống vật chất, xuất phát từ thái dương.

2. Bí huyệt xương cùng, tác nhân sắp xếp hướng về sự sinh sản vật chất.

3. Bí huyệt ở chót xương sống mà (cho đến khi trạng thái ư chí xuất phát trong con người) nuôi dưỡng nguyên khí ban phát sự sống,ư-chí-muốn-sống, đến khắp các phần của cơ thể.

Các điểm này tạo ra một tam giác lực vĩ đại, liên quan đến vật chất, đến chất liệu nguyên thủy, tạo h́nh, sáng tạo, sức sống và sự bền vững trong h́nh hài. Tam giác này là phản ánh của một tam giác c̣n cao hơn, gồm có:

1. Bí huyệt cổ họng, tương ứng với bí huyệt xương cùng.

178

 
2. Tuyến yên, tương ứng với bí huyệt lá lách.

3. Tuyến tùng quả tương ứng với bí huyệt căn bản.

Trong sự liên quan của hai tam giác này có ẩn manh mối đối với bản năng tự bảo toàn, sự tồn tại của các thể tinh anh sau khi chết, và nguyên khí bất tử được đặt trong linh hồn và tác động khi sự tự bảo toàn và sự sống c̣n không c̣n chế ngự nữa. Điều này tạo thành một bộ ba về ư tưởng, cần phải nghiên cứu một cách thật cẩn thận và – tôi tạm diễn tả như thế – đem lại bí quyết cho hoạt động tâm linh.

  d. Cuối cùng, bí huyệt xương cùng cũng liên kết với bí huyệt ấn đường. Cả hai cùng tạo thành một nhị nguyên hoạt động vốn tạo ra tính chất tinh anh mà chúng ta gọi là phẩm cách (personality). Có một lănh vực t́m ṭi rộng lớn trong chủ đề phẩm cách với vai tṛ một tổng thể phối kết và trong tính chất của phàm ngă, vốn là hương vị, ảnh hưởng, hiệu quả và bức xạ của phàm ngă. Tôi nêu ra các ư tưởng này cho các đạo sinh, hy vọng rằng một số điều t́m kiếm có thể noi theo vốn sẽ liên kết vấn đề các bí huyệt với các sự kiện được nhận thức về sự kết hợp, hội nhập và các hiệu quả của chúng trong việc tạo ra sự vĩ đại.

Đối với các bạn nào có nghiên cứu Giáo Lư Bí Nhiệm, có nhiều điều cần khai mở liên quan tới mối liên hệ của các "Nguyệt Tinh Quân", tức Barishad Pitris, đối với Thái Dương Thiên Thần. Lănh vực tác động của Nguyệt tinh quân là bí huyệt xương cùng; lănh vực hoạt động của Thái Dương Thiên Thần là bí huyệt cổ họng.

179

 
  e. Bí huyệt xương cùng thể hiện năng lượng thuộc Ngôi Ba của Thượng Đế, cũng như bí huyệt đan điền thể hiện năng lượng Ngôi Hai và bí huyệt căn bản thể hiện năng lượng Ngôi Một. Ở đây, bạn lại có các bí huyệt thấp đang phản chiếu là bí huyệt cổ họng, tim và đầu và như thế bổ sung cho biểu lộ cao và thấp của Ba Ngôi thiêng liêng trong con người. Vào thời Lemuria cổ xưa, bí huyệt này được khơi hoạt và hoạt động đầy đủ trong giống dân thứ nhất; năng lượng của nó là năng lượng của Chúa Thánh Thần, đang che chở chất liệu nguyên trạng (virgin substance). Ở đây, chúng ta lại cũng thấy một phản ảnh thiêng liêng khác như sau:

                           

   

 

 

 

 


Sau cùng, trong Lưỡng Tính Thiêng Liêng (xuất hiện sau này) bạn sẽ có một phối hợp khác:

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Hỡi huynh đệ, bạn lại sẽ chú ư làm thế nào mà khoa học về các tam giác đang chế ngự cấu trúc con người dưới mọi trạng thái của nó, cũng như cấu trúc của thái dương hệ. Điều này đang được mong đợi.

180

 
  f. Ngoại hiện của thể xác trọng trược của bí huyệt này nằm trong các tuyến sinh dục, các cơ quan sinh sản của con người – khi xét chúng như là đơn vị căn bản, dù là tạm thời tách biệt trong biểu lộ lưỡng phân hiện tại của con người. Cần phải nhớ rằng sự phân ly này nuôi dưỡng xung lực mạnh mẽ hướng về sự dung hợp, và sự thôi thúc để phối hợp này, chúng ta gọi là dục tính. Thực ra, dục tính là bản năng hướng về sự hợp nhất: trước nhất là hợp nhất thể xác. Đó là nguyên lư bẩm sinh (dù cho có nhiều hiểu sai) của thần bí học, vốn là danh xưng mà chúng ta gán cho sự thôi thúc để hợp nhất với thiêng liêng. Giống như mọi cái khác mà người kém phát triển đă tiếp xúc, chúng ta đă làm sai lệch méo mó thiên ư và coi thường sự thúc đẩy vô h́nh đối với ước muốn vật chất. Chúng ta đă đảo ngược chiều hướng của năng lượng ở bí huyệt xương cùng đưa đến bản chất thú tính quá phát triển và các chức năng của nhân loại bậc trung.

Có nhiều điều cần thiết mà tôi có thể thêm vào ở trên, nhưng đề tài đ̣i hỏi nhiều phân tích cẩn thận, làm sáng tỏ và diễn tả mà thời gian không cho phép, nếu không, sự thăng bằng được tạo ra của bộ luận này sẽ không c̣n nữa.

181

 
Cũng có một ít điều mà tôi có thể nói liên quan đến bí huyệt chót xương sống. Tuy nhiên, trước hết, tôi đề cập đến chi tiết nào có kết quả hay có thể được, tôi muốn nêu ra sơ đồ trên trang 162 (Anh văn – ND) mô tả tŕnh độ tiến hóa của một đệ tử chứ không phải của một điểm đạo đồ đă tiến hóa cao. Nó cũng không mô tả một người tầm thường bậc trung. Điều này được nêu ra do sự kiện là phản ảnh của bí huyệt tim trong đầu đang xoay lên để đáp ứng với hoạt động tăng lên của chính bí huyệt tim, và rằng định nghĩa của bí huyệt ấn đường th́ rơ ràng và chính xác, chứng tỏ một phàm ngă hội nhập, phối kết. Do đó, đây không phải là sơ đồ các bí huyệt của người b́nh thường hay chưa phát triển. Đối với các sơ đồ như thế, không thể làm ǵ nhiều hơn là đưa ra một số điểm hoàn thiện, nhưng cần nhớ rằng các điểm hoàn thiện này không phải là các thành tựu không thay đổi mà mỗi một thành tựu đó đă được đi trước bằng các giai đoạn và thời kỳ hoạt động vốn tạo ra các kết quả luôn thay đổi và là các trạng thái không ổn định của các bí huyệt; đến lượt chúng, các trạng thái này được nối tiếp bằng các chu kỳ hoạt động khác, với thay đổi và với việc phóng rải năng lượng đă được đổi mới. Hậu quả của các nguyên nhân ẩn sâu trong chính chúng trở thành các lư do, v́ trong chu kỳ biểu lộ, không có ǵ tĩnh tại hoặc cố định hoặc sau rốt được xác định cả. Đây là một điểm cực kỳ quan trọng. Do đó, đừng nên để bị đánh lừa bởi những thời điểm thành đạt bề ngoài. Chúng chỉ là các mở đầu để thay đổi, v́ đó là Định Luật Tồn Tại.

7. Bí huyệt ở chót xương sống. Trên mọi huyệt khác, bí huyệt này được kiềm chế và chi phối bởi Luật Tồn Tại đă nói trên, và được thiết lập nơi nào mà tinh thần và vật chất gặp nhau và nơi nào mà vật chất, tức Mary Đồng Trinh – ở dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, tức năng lượng của thể dĩ thái – được biến đổi "thành Thiên Đường", nơi đó (theo cách nói của Cơ Đốc giáo) "được đặt ngồi bên cạnh Con của Bà trong nhà của Cha".

Bí huyệt này nằm ở ngay chót xương sống, và nâng đỡ mọi bí huyệt khác. Vào lúc này, nó tương đối yên lặng, v́ nó chỉ được khơi hoạt để hoạt động đầy đủ bằng một tác động của ư chí được điểm đạo đồ hướng dẫn và điều khiển. Nó chỉ được đáp ứng với trạng thái ư chí và ư-chí-hiện-tồn đang lâm phàm là yếu tố mà hiện đang kiềm chế sự sống của nó và tạo ra các hiệu quả của nó khi nó nuôi dưỡng và điều khiển nguyên khí sự sống trong vật chất và h́nh hài. Đúng như chúng ta được dạy rằng nguyên khí sự sống "ngự trong tim", cũng thế, ư-chí-hiện-tồn nằm ở chót xương sống. Có nhiều câu chuyện vô bổ và nguy hiểm liên quan đến bí huyệt này, và toàn thể vấn đề về "xà hỏa" đă tỏ ra là một câu chuyện hứng thú và lôi cuốn bởi các nhà huyền linh học giả mạo trên thế gian. Nhà huyền linh học chân chính được dạy không nên động chạm ǵ đến xà hỏa đó – theo sự hiểu biết thông thường. Tôi không thể làm ǵ hơn là đưa ra một số sự kiện khá rơ ràng cho bạn và tuy nhiên, đồng thời tôi cũng phải kiềm chế không nêu ra các cách thức và phương pháp khơi hoạt sự hoạt động của bí huyệt này, v́ có sự cực kỳ nguy hiểm liên can đến bất kỳ việc khai mở sớm nào về bí huyệt căn bản ấy. Điều tốt nhất tôi có thể làm là đưa ra một loạt diễn đạt có thể hiểu được theo đúng đường lối bởi những kẻ hiểu biết (và những người này cho đến nay hăy c̣n ít và cách xa nhau) vốn dĩ sẽ giúp cho việc suy tư của những kẻ đang được huấn luyện và đem lại cho họ một h́nh ảnh đầy đủ hơn phần nào, nhưng sẽ bảo vệ kẻ thiếu hiểu biết tránh được tai họa. Tôi sẽ nêu các điều này ra càng rơ ràng và vắn tắt càng tốt, nhưng về mặt thực hành, tôi sẽ không giải thích ǵ hết.

182

 
1. Bí huyệt căn bản này là điểm mà theo định luật tiến hóa, tinh thần và vật chất gặp nhau và sự sống được liên kết với h́nh hài.

2. Do đó, bí huyệt mà lưỡng nguyên chính của Đấng thiêng liêng biểu lộ – con người hoặc Hành Tinh Thượng Đế – đáp ứng và tạo ra h́nh hài.

3. Bản thể của Đấng thiêng liêng này chỉ được tiết lộ khi Ngôi Hai đă hoàn thành công việc, nhờ phương tiện của Ngôi Ba, nhưng dưới ư chí hướng dẫn của Ngôi Một.

4. Đó là bí huyệt mà "con rắn của Chúa" trải qua hai biến h́nh:

  a. Con rắn vật chất nằm cuộn tṛn.

  b. Con rắn này được biến đổi thành rắn minh triết.

  c. Con rắn minh triết được chuyển sang và trở thành "con rồng ánh sáng sinh động".

5. Cả ba giai đoạn này được bảo dưỡng bằng sự sống và năng lượng đang tuôn xuống qua khắp chiều dài của cột xương sống, xuyên qua sự tương ứng dĩ thái của dây sống lưng, và – trong thời gian và không gian – sự tuôn đổ này (cộng với sự sống đang dâng lên đồng thời) tạo ra:

183

 
  a. Sự khơi hoạt một cách từ từ và có thứ tự của các bí huyệt, tùy theo các loại cung.

  b. Sự đảo ngược các bí huyệt sao cho tâm thức của con người nội tâm trở nên thích ứng với môi trường của y.

  c. Sự tổng hợp của các năng lượng sự sống của mọi bí huyệt, và sự thích hợp với các nhu cầu của điểm đạo đồ và việc phụng sự của Thánh Đoàn và của nhân loại.

6. Cột xương sống (theo quan điểm của huyền bí học) chứa một tuyến tam phân. Đây là ngoại hiện của antahkarana, gồm có giác tuyến đích thực (antahkarana proper), linh tuyến (sutrama) hay sinh mệnh tuyến (life thread) và sáng tạo tuyến (creative thread). Do đó, tuyến tam phân này bên trong cột xương sống gồm có ba tuyến năng lượng vốn được chuyển vào cho chính cả ba bằng chất liệu của phần bên trong của cột sống, một "con đường tiếp cận có ba phần và con đường triệt thoái cũng có ba phần". Theo thuật ngữ Ấn giáo, các tuyến này được gọi là ida, pingalasushumna, và chúng cùng hợp thành con đường sự sống đối với con người cá biệt và được đánh thức vào hoạt động tuần tự tùy theo loại cung và tŕnh độ tiến hóa. Tuyến sushumna không được sử dụng một cách chính xác và an toàn cho tới khi antahkarana được kiến tạo để cho Chân Thần và Phàm Ngă nhờ đó được nối liền, cho dù chỉ bằng một đường mảnh mai nhất. Lúc bấy giờ Chân Thần, tức Cha, tức trạng thái ư chí, mới có thể đạt tới phàm ngă một cách trực tiếp và có thể khơi hoạt bí huyệt căn bản, và cùng với nó phối hợp, hợp nhất và khơi dậy ba luồng lửa.

184

 
7. Một trong ba tuyến này là tuyến mà theo đó năng lượng, vốn nuôi dưỡng vật chất được tuôn đổ vào. Một tuyến khác có liên hệ với tuyến tâm thức và sự khai mở nhạy cảm về tâm linh. Tuyến thứ ba là tuyến thuần túy tinh thần. Như vậy, trong mọi h́nh hài c̣n sống, công việc của Cha, của Mẹ và của Con được xúc tiến. Sự sống - tâm thức - h́nh tướng (form) và sự sống - tính chất - sắc tướng (appearance) được phối hợp và bộ máy đáp ứng của con người thiêng liêng trở nên hoàn thiện, khiến cho y tiếp xúc và nhận thức trạng thái thiêng liêng chính yếu trong các giới của thiên nhiên, trong hành tinh và sau rốt trong thái dương hệ.

 

 

 

 

 

 


Đừng nên lầm lẫn mà đặt các lĩnh vực đan vào nhau này của năng lượng sinh động ở bên phải hoặc bên trái của dây sống lưng. Luôn luôn có một chuyển động, một tương tác và một sự đảo ngược diễn ra. Tôi chỉ có thể phác họa bản chất của một biểu tượng vốn chỉ rơ ra tuyến đặc biệt thuộc ba năng lượng của Tam Thượng Thể thiêng liêng. Tôi không nêu ra sự kiện về vị trí hoặc nơi chốn, v́ chính sự xuất hiện và sự khu biệt của quan niệm chính đă tạo ra rất nhiều nguy hiểm. Môn sinh được điểm đạo t́m cách hiểu mối liên quan của ba năng lượng căn bản, ba tuyến lửa sinh động, mối liên hệ của chúng và sự liên hệ hỗ tương cùng với sự an trụ tuần tự. Y không t́m cách thu hẹp giáo huấn xuống đến các điểm, các đường và vị trí, măi cho tới lúc mà các thuật ngữ này ít có ư nghĩa đối với y và y c̣n biết nhiều hơn thế nữa.

185

 
8. Ba con đường của sự sống này là các vận hà đối với lửa điện, lửa thái dương và lửa do ma sát, và được liên kết trong việc sử dụng chúng với ba giai đoạn của con đường tiến hóa: con đường tiến hóa trong vật chất ở các giai đoạn trước; Con Đường Dự Bị và các giai đoạn đầu của Con Đường Đệ Tử cho tới lần điểm đạo thứ ba; và chính Con Đường Điểm Đạo.

9. Về Luồng Xà Hỏa, có rất nhiều điều được nói và viết đến ở Đông Phương và ngày càng nhiều ở Tây phương, thực ra là sự kết hợp của ba lửa này, nó được tập trung do tác động của ư chí giác ngộ, dưới sự thúc đẩy của t́nh thương trong bí huyệt căn bản. Luồng hỏa hợp nhất này lúc bấy giờ được khơi dậy nhờ dùng Quyền Lực Từ (do ư chí của Chân Thần phát ra) và do quyền lực hợp nhất của linh hồn và phàm ngă, hợp nhất và sống động. Kẻ nào có thể làm điều này với tâm thức đầy đủ, như vậy kẻ ấy là một điểm đạo đồ ở trên mức điểm đạo thứ ba. Vị ấy, và chỉ một ḿnh vị ấy mới có thể đưa luồng hỏa tam phân này từ chót xương sống đến bí huyệt đầu một cách an toàn.

186

 
10. Thường thường, theo sự diễn dịch của nhà huyền bí học kém hiểu biết trong nhiều nhóm huyền linh khác nhau, xà hỏa phải được "đi lên", và khi nó đi lên, tất cả các bí huyệt lúc bấy giờ sẽ hoạt động, và các vận hà nằm khắp cột xương sống sẽ được quét sạch mọi chướng ngại. Đây là một khái quát hóa nguy hiểm và một đảo ngược sự thật. Xà hỏa sẽ được đi lên và mang lên đến trời (heaven) khi tất cả bí huyệt được khơi hoạt và các vận hà trên xương sống không bị ngăn trở. Việc thải bỏ mọi chướng ngại là kết quả của sự sinh động của các bí huyệt cá biệt, mà nhờ sức mạnh sự sống của chúng, chính chúng có hiệu quả trong việc phá hủy mọi chướng ngại và ngăn trở. Chúng có thể "thiêu rụi" tất cả những ǵ ngăn trở sự phát xạ (radiation) của chúng. Những ǵ thường xảy ra trong các trường hợp ngẫu nhiên (vốn gây ra quá nhiều tai hại), đó là người t́m đạo, do tính hiếu kỳ thiếu hiểu biết của y và do một cố gắng của trí tuệ (không phải của ư chí tinh thần, mà thuần là biểu lộ của ư chí phàm ngă), thành công trong việc khơi dậy cái thấp nhất trong ba luồng hỏa, tức là lửa của vật chất, lửa do ma sát; điều này tạo ra việc đốt cháy sớm và tiêu hủy mạng lưới dĩ thái trong dĩ thái thể. Các đĩa tṛn hay lưới này nằm ở giữa mỗi hai bí huyệt trên xương sống và cũng ở trong đầu. Chúng thường bị tiêu tan khi sự tinh khiết của sự sống, giới luật của t́nh cảm và sự phát triển của ư chí tinh thần sẽ được tiến hành.

                                  

 

                                  

 

                                  

 

                                  

 

                                  


Có tất cả bốn lưới như thế. Khi phàm ngă tứ phân (fourfold personality) được phát triển cao độ và huyệt ấn đường được khơi hoạt, bấy giờ, một cách chậm chạp và từ từ, một cách b́nh thường và tự động, các lưới này biến mất. Các lưới ở đầu có phẩm chất cao hơn nhiều và chia đôi sọ theo chiều ngang và chiều dọc. Như thế, chúng tượng trưng cho Thập Giá mà Con của Thượng Đế bị đóng đinh trên đó.

187

 
11. Ba vận hà trên xương sống hoàn toàn đáp ứng với ba huyệt chính:

a. Bí huyệt đan điền, tạo ra sức thúc đẩy của dục vọng và nuôi dưỡng sự sống thể xác và thôi thúc sự sáng tạo.

b. Bí huyệt tim, tạo ra xung lực để yêu thương và để tiếp xúc hữu thức với bất luận khu vực rộng lớn nào của biểu lộ thiêng liêng.

c. Bí huyệt đầu, tạo ra xung lực mạnh mẽ của ư chí muốn sống (will to live).

Tôi không nêu ra vận hà nào đáp ứng với bí huyệt nào, trừ trường hợp vận hà sushumna vốn chỉ đáp ứng với năng lượng của bí huyệt đầu và ư chí được hướng dẫn, tập trung trong hoa sen ngàn cánh. Điều này có thể được nói ra một cách an toàn, v́ cho đến nay, ư chí tinh thần chưa phát triển trong những kẻ t́m cách khơi dậy xà hỏa. Khi xà hỏa đi lên, họ sẽ biết những ǵ mà họ có thể làm một cách an toàn.

12. Ba bí huyệt trong đầu cũng có liên hệ đến ba vận hà:

  a. Vùng tủy sống kéo dài (bí huyệt tủy sống) và tuyến động mạch cổ.

  b. Bí huyệt ấn đường và tuyến yên.

  c. Hoa sen ngàn cánh và tuyến tùng quả.

Các đạo sinh sẽ thấy điều đó là lư thú khi liên kết các bộ ba này với ba cung chính:

188

 
  a. Cung 1, ư chí hay quyền lực

  b. Cung 2, bác ái - minh triết

  c.  Cung 3, thông tuệ –linh hoạt,

và cũng đối với ba giống dân được phú cho năng lực để khai mở mầm giống của ba khía cạnh thiêng liêng: Lemuria, Atlantis và giống dân Aryan. Các giống dân này có thể được liên kết, với tư cách là mầm giống, đối với hai giống dân cuối cùng vốn sẽ phối hợp và tổng hợp tất cả các sức mạnh, tính chất, các thành đạt và các mục tiêu vào sự sống hoàn hảo của hành tinh.

Một tổng hợp khác cũng có thể xảy ra và cũng quan trọng:

  a. Con đường tiến hóa…… các bí huyệt dưới cách mô.

  b. Con đường Đệ tử …….. các bí huyệt trên cách mô.

  c. Con đường điểm đạo … các bí huyệt trong đầu.

Các nhóm và các bộ ba này được liên kết trong thời gian và không gian vào ba dây sống lưng.

13. Cũng c̣n có – lại mối liên hệ đối với tất cả các điểm tổng hợp trên trong cơ thể – một điểm tuyệt đích của sự phối hợp hoàn hảo. Tôi nêu ra mỗi một trong các điểm này theo tŕnh tự công tác phối hợp của chúng:

  a. Bí huyệt đan điền, phối hợp các bí huyệt dưới cách mô.

  b. Bí huyệt ấn đường, phối hợp các bí huyệt cả trên và dưới cách mô.

  c. Bí huyệt chót xương sống, phối hợp tất cả sáu bí huyệt.

  d. Hoa sen ngàn cánh trên đầu, phối hợp tất cả bảy năng lượng.

189

 
Về tất cả những điều nói trên, nên ghi nhớ rằng chúng ta hoàn toàn đang bàn về các sức mạnh và năng lượng, đang tác động qua thể dĩ thái; rằng chúng ta đang bàn đến thế giới thứ ba của các nguyên nhân, vốn có trách nhiệm cho thế giới hữu cơ của biểu lộ trọng trược ở cơi trần. Biểu lộ hồng trần này chính nó tùy thuộc vào ảnh hưởng của thế giới thứ hai của sự sống hữu thức, mà đến phiên nó chịu trách nhiệm trong thời gian và không gian đối với thế giới năng động có mục đích và có Hiện tồn.

Bí quyết cho cuộc sống hoàn măn của linh hồn ẩn dưới các lời của tôi, nhưng linh hồn chọn cuộc sống hiến dâng và trí tuệ giác ngộ để hưởng được lợi ích nhờ tri thức được truyền đạt và để thấy được đàng sau h́nh thức của lời nói, tư tưởng ṇng cốt vốn đem cho nó sự sống và – nói về mặt huyền linh – hơi ấm sinh ra.

Hăy ghi nhớ rơ ràng các quan niệm về sự kích thích hay thiếu kích thích, về sự tương tác hay về sự phân ly, sự im ĺm hay hoạt động, v́ trong các bộ hai này có ẩn các nguyên nhân về sức khỏe hay về bệnh tật.

THỂ DĨ THÁI, HỆ THẦN KINH VÀ HỆ NỘI TIẾT

Những ǵ tôi phải nói ở đây được căn cứ trên một số ghi nhận trong các trang trước trong đó tôi có nêu ra rằng:

1. Chính thể dĩ thái

2. Hệ thần kinh

3. Hệ thống nội tiết

"có liên hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành một hệ thống quản trị ăn khớp gồm các năng lượng và các lực mà về bản chất là sinh động, khích động, năng động và sáng tạo… Toàn bộ sức khỏe bên trong của cơ thể đều tùy thuộc vào chúng". Đối với ba điểm này, bây giờ, tôi thêm vào ḍng máu với vai tṛ là phương tiện chuyên chở khắp cơ thể của

1. Nguyên Khí Sự Sống,

2. Các năng lượng kết hợp của ba hệ thống trên,

190

 
và nêu ra rằng sự phối hợp lớn của các mănh lực mà chúng ta gọi là các cặp đối hợp hay là các lưỡng nguyên chính yếu, chi phối các nguyên nhân nằm đàng sau của sức khỏe và bệnh tật. Khi nói ra các điều này là tôi đang nỗ lực để làm cho toàn thể vấn đề trở thành đơn giản tối đa. Khi làm như thế, một số chân lư mất đi, nhưng điều cốt yếu là một vài điểm khái quát rộng răi được đạo sinh hiểu rơ trước khi y bắt đầu nghiên cứu các ngoại lệ và để bàn đến những chi tiết vụn vặt, và chi tiết về các khuyết điểm thể xác hay các đối nghịch của chúng.

Điều đă trở thành quá hiển nhiên với các đạo sinh huyền linh học là thể dĩ thái qui định, kiềm chế và định đoạt biểu lộ sự sống của cá nhân lâm phàm. C̣n điều hiển nhiên thứ yếu là thể dĩ thái này là tác nhân vận chuyển các sức mạnh của phàm ngă, nhờ vào các bí huyệt và bằng cách ấy, khích động thể xác đi vào hoạt động. Các mănh lực này đi qua các bí huyệt, là các mănh lực của phàm ngă hợp nhất nói chung, hay chỉ là các mănh lực của thể cảm dục hoặc thể t́nh cảm và thể trí; chúng cũng truyền sức mạnh của cung phàm ngă hay là năng lượng của cung linh hồn, tùy theo tŕnh độ tiến hóa mà con người đạt được. Do đó, thể xác không phải là một nguyên khí. Nó bị điều khiển chớ không điều khiển – một điểm thường hay bị bỏ quên. Nó là một nạn nhân của cuộc sống phàm ngă hay là biểu hiện thắng lợi của năng lượng linh hồn. Chính và lư do này mà khoa tâm lư học, trong hai thế kỷ tới sẽ chế ngự y học hiện đại, trừ ra các loại bệnh mà chúng ta sẽ bàn đến trong tiết tới – các bệnh xuất phát từ đời sống tập thể như là bệnh lao, hoa liễu, ung thư. Cho đến khi nhân loại trở nên có ư thức tập thể một cách rơ rệt hơn (một điều mà cho đến nay hăy c̣n xa vời) không thể áp dụngcác điều khái quát về tâm lư một cách rộng răi cho các bệnh riêng biệt đối với hành tinh ta. Tuy nhiên, chúng ta có thể xét việc nghiên cứu các khó khăn tương tự xuất phát trong từng cá nhân; các khó khăn này được căn cứ trên sự xung đột của các cặp đối hợp và dựa vào sự thiếu hài ḥa được t́m thấy trong ba hệ thống điều khiển ăn khớp chính yếu.

191

 
Do đó bạn có ba hệ thống để chuyên chở trong trí bạn, và một phương tiện chuyên chở hay truyền đạt, cộng với sự thật huyền linh căn bản rằng một vài năng lượng đối nghịch lớn, hoạt động bên trong cơ thể, tạo ra cái mà chúng ta gọi là bệnh. Đối với các yếu tố trên, tôi xin thêm một tương quan cần có khác. Tôi xin nhắc bạn rằng chúng ta có liên quan với các h́nh thức sự sống, và tất cả các h́nh thức này đều có sức sáng tạo trong chính chúng, và có thể tạo ra một cách mạnh mẽ nhiều h́nh hài hơn hoặc có thể cung cấp các môi trường trong đó các h́nh hài này có thể linh hoạt. Xin ghi nhận cách diễn tả một chân lư căn bản này. Nền tảng của mọi giáo huấn huyền môn về sự biểu lộ là nền tảng mà lực kiến tạo hiện hữu, và phát biểu này là chính xác dù cho bạn liên kết với Sự Sống của một thái dương hệ hay chỉ với tâm thức của thể mà trong đó con người đang hoạt động và sống – theo các đường lối lành mạnh hoặc không lành mạnh; chúng ta đang bàn đến cơ thể thế giới (the world body) trong đó một con người đang sống. Nhờ bởi điều này, chúng ta đi đến chỗ ngược lại với một định luật thiên nhiên lớn khác có thể được diễn tả đơn giản như sau:

ĐỊNH LUẬT VI

Khi các năng lượng kiến tạo của linh hồn trở nên linh hoạt trong cơ thể, bấy giờ mới có được sức khỏe, sự tương tác hoàn toàn và hoạt động đúng đắn. Khi các vị kiến tạo là các Nguyệt Tinh Quân và những ai làm việc dưới sự kiềm chế của Nguyệt cầu và theo lệnh phàm ngă, bấy giờ sẽ có bệnh hoạn, sức khỏe kém cỏi và chết chóc.

192

 
Đây là một qui luật đơn giản mà sâu xa, nó đem lại manh mối cho các nguyên nhân của bệnh tật và lư do để tạo nên bất tử; điều đó cần được hiểu thật rơ ràng và khả năng hiểu trong thời gian một vài năm, bấy giờ sẽ thay thế cho các hệ thống duy tâm nhưng thật ra thiếu lành mạnh và thiếu xác thực mà chúng ta gán cho danh xưng là Hợp Nhất, Khoa Học Tinh thần và Khoa Học Cơ Đốc. Các hệ thống này tŕnh bày dưới h́nh thức trực tiếp các khả năng có thể minh chứng được về giai đoạn giải thoát cuối cùng khỏi các hạn chế của thiên nhiên và vật chất, mà ngày nay đang kiềm chế mọi h́nh hài sắc tướng; họ không biết yếu tố thời gian và bỏ sót diễn tŕnh tiến hóa cũng như tŕnh độ phát triển của kẻ có liên hệ; lập trường của họ được dựa vào sự mơ tưởng và vào ước muốn tự nhiên của hạng người trung b́nh về tiện nghi và sự hài ḥa vật chất, và nói phớt qua cái ích kỷ tự nhiên về cách tŕnh bày chân lư của họ với quan niệm rằng mọi sự đều đi đến vinh quang cuối cùng của Thượng Đế. Chắc chắn là bệnh tật và các giới hạn vật chất thuộc bất cứ loại nào cũng sẽ biến mất, nhưng điều này sẽ chỉ xảy ra khi linh hồn có các kiềm chế cá nhân và phàm ngă trở thành chẳng khác ǵ một người máy của linh hồn, như xác thân vào lúc này là người máy của bản chất t́nh cảm, của trí tuệ và thỉnh thoảng (chỉ rất ít khi đối với đa số con người) của linh hồn.

Chỉ khi nào linh hồn một cách thực tâm và với sự hợp tác của phàm ngă, kiến tạo được Thánh điện của xác thân, và lúc đó giữ cho nó tràn ngập ánh sáng, th́ bệnh tật sẽ biến mất. Tuy nhiên, sự kiến tạo này là một tiến tŕnh khoa học, và trong các giai đoạn đầu của con đường đệ tử (vốn là thời kỳ mà linh hồn bắt đầu hiểu được vận cụ của nó, tức phàm ngă), điều này, tất nhiên đưa đến xung đột, làm tăng thêm căng thẳng và thường thường làm cho bệnh tật và sự thiếu hài ḥa trầm trọng thêm. Sự thiếu hài ḥa và bệnh tật này đưa đến nhiều rối loạn cần thiết và do đó dẫn tới các hậu quả bất đắc dĩ. Các hậu quả này sẽ bị khắc phục – trong sự dàn xếp tạm thời để hiệu chỉnh – chỉ khi nào chúng được ghi nhận và tự biểu hiện, sẽ có nhiều đau khổ về mặt vật chất và tâm lư và tất cả các khó khăn lớn và nhỏ mà con người dường như kế thừa.

193

 
Ở nhân loại chưa tiến hóa, sự xung đột (theo khía cạnh tâm thức), thực tế không có; bạn có ít tính mẫn cảm đối với các bệnh tinh tế xuất phát từ ba hệ thống ăn khớp nhưng đồng thời có một đáp ứng to tát hơn nhiều đối với ba bệnh bẩm sinh, đối với các bệnh hay lây và đối với các bệnh dịch lớn đang lan ra khắp các quốc gia và các vùng rộng lớn của hành tinh. Khi nhân loại phát triển, bệnh tật trở nên cá biệt hơn (tôi tạm diễn tả điều đó bằng cách này) và không có liên quan rơ ràng đến t́nh trạng của nhiều người hay của quần chúng. Chúng xuất phát trong chính từng người và mặc dù chúng có thể được liên kết với các bệnh của quần chúng, chúng lại dựa trên các nguyên nhân cá biệt.

Khi một người tách ra khỏi quần chúng và bước trên đường dự bị và như thế trở nên một ứng viên đệ tử, lúc bấy giờ, các bệnh của thể xác và sự mất hài ḥa của toàn thể hệ thống gồm ba phần của y, cộng với ḍng chuyển vận, tạo thành vấn đề hữu thức và là vấn đề mà người t́m đạo phải chính ḿnh giải quyết – như vậy lộ ra cho y nhu cầu kiến tạo hữu thức và có tính cách sáng tạo.

Chính ở điểm này mà thuyết luân hồi trở nên có giá trị tối cao; đệ tử bắt đầu thiết lập các t́nh trạng này, sáng tạo các h́nh hài và kiến tạo các hiện thể mà, trong kiếp sống khác, sẽ tỏ ra thích hợp hơn cho sự kiềm chế của linh hồn và các khí cụ thích hợp hơn để tiến hành các qui tŕnh toàn hảo mà linh hồn cần đến. Tôi xin nêu ra rằng bậc đệ tử không nhắm vào thể xác bất cứ lúc nào, hoặc bắt đầu bằng bất cứ chú tâm vật chất nào để đạt tới việc loại bỏ bệnh tật hay sự thiếu hài ḥa. Đệ tử nên bắt đầu với tâm lư học mà linh hồn dạy ra và bắt đầu với các nguyên nhân đang tạo ra hiệu quả trên cơi trần. Đó là một tiến tŕnh chậm chạp, nhưng vững bền. Nhiều tự kỷ ám thị mạnh mẽ của các hệ thống liên kết với Khoa Học Công Giáo và Hợp Nhất, chỉ nhất thời trong hiệu quả của chúng và dựa trên một tiến tŕnh kiềm chế có khoa học, cộng với một sự từ khước thừa nhận các yếu tố hiện có. Chúng không căn cứ vào chân lư. Trong một kiếp sống sau này, t́nh trạng đè nén sẽ lại xuất hiện với sức mạnh lớn hơn bao giờ hết, và sẽ tiếp tục xảy ra như thế cho tới khi mà cuộc sống đó hoàn toàn không được biết và tầm quan trọng của sự sống được đặt trên sự tiếp xúc của linh hồn và biểu hiện của sự sống được hướng ngoại trở thành việc phụng sự cho những người khác.

194

 
Liên quan với bệnh thể xác và sự liên hệ của nó với các bí huyệt (được xem như là các tụ điểm cho các năng lượng đến từ nguồn cội này hay nguồn cội khác) có thể là hữu ích nếu một số điều khái quát được nêu ra ở đây, nên nhớ rằng đối với tất cả những điều này có thể có các ngoại lệ, đặc biệt là trong trường hợp khỏe mạnh hay không khỏe mạnh của đệ tử.

1. Mỗi một trong bảy bí huyệt chính chế ngự hoặc điều khiển – theo khía cạnh vật chất, cũng như theo khía cạnh linh hồn và của nguyên khí sự sống – vùng thể xác mà trong đó có nhiều trung tâm năng lượng nhỏ và bí huyệt sinh lực có thể nằm trong đó.

2. Ba sự phân chia lớn, căn bản và đang biểu hiện của thiên tính được t́m thấy một cách tượng trưng trong mỗi bí huyệt là:

  a. Nguyên khí sự sống, trạng thái thứ nhất, tự lộ ra khi toàn bộ bí huyệt được khai mở hay thức tỉnh về mặt huyền bí. Hiện nay, mọi thời gian đều tiềm tàng, nhưng đó không phải là yếu tố năng động tạo ra sự kích thích của Chân Thần cho đến cuối đại chu kỳ tiến hóa.

  b. Tính chất hay khía cạnh linh hồn dần dần bộc lộ ra trong tiến tŕnh khai mở tiến hóa, và, trong thời gian và không gian tạo ra hiệu quả rơ rệt mà bí huyệt có được đối với hoàn cảnh của nó. Tính chất này tùy thuộc vào cung (hoặc là của phàm ngă, hoặc là của linh hồn) vốn là cội nguồn của năng lượng đang đi đến, hoặc là tùy thuộc vào cung đang chi phối thể cảm dục trong trường hợp kẻ kém tiến hóa; nó cũng tùy thuộc vào tŕnh độ tiến hóa và vào ảnh hưởng bức xạ của các bí huyệt khác.

195

 
  c. Sự xuất hiện trong dĩ thái thể một bí huyệt đă hay đang phát triển chỉ rơ vị trí của con người trên thang tiến hóa, các liên kết về chủng tộc, và mục tiêu hữu thức của y; mục tiêu này có thể hoàn toàn thay đổi, từ trọng điểm về đời sống tính dục và hoạt động tất nhiên của bí huyệt xương cùng, đến mục tiêu của điểm đạo đồ, đưa bí huyệt đầu đến hoạt động. Tất cả các điều này tạo ra một hậu quả tất nhiên trên hệ thống chung quanh, chất liệu và các h́nh hài có tổ chức bên trong phạm vi ảnh hưởng của bí huyệt. Vùng ảnh hưởng này thay đổi tùy theo hoạt động của bí huyệt, và điều này tùy thuộc vào tŕnh độ phát triển mà cá nhân đă đạt được và loại năng lượng trội hơn mà cá nhân đáp ứng lại.

3. Năng lượng đang đến được chuyển hóa bên trong bí huyệt thành sức mạnh. Điều này cần đến một tiến tŕnh biến phân thành các năng lượng cấp hai của năng lượng nguyên thủy đă nói đến, và là một diễn biến tự động; tốc độ của tiến tŕnh chuyển hóa, cường độ của việc thu nạp các lực kết thành và hoạt động bức xạ theo sau (tạo ra các kết quả chi phối trên nhục thân) đều tùy thuộc vào phạm vi của việc khai mở bí huyệt đặc biệt có liên quan, và trạng thái đă khơi hoạt hay chưa khơi hoạt của nó.

196

 
4. Các lực hướng ra ngoài từ một bí huyệt tác động trên đối phần dĩ thái của toàn thể mạng lưới thần kinh phức tạp đang tạo thành hệ thần kinh. Các đối phần này với các tương ứng bên trong đồng nhất được gọi là "nadis" theo Triết lư Ấn giáo; chúng tạo thành một mạng lưới phức tạp và mở rộng nhất của các năng lượng uyển chuyển vốn là hệ thống hữu h́nh, ở bên trong và song song với hệ thống của các thần kinh trong cơ thể, mà hệ thống sau này thực ra là một ngoại hiện của kiểu mẫu các năng lượng bên trong. Cho đến nay, trong Anh ngữ, hay trong bất cứ ngôn ngữ Âu Châu nào không có từ ngữ nào tương ứng với từ ngữ "nadi", lư do là v́ sự hiện hữu của hệ thống bên trong này, cho đến nay vẫn chưa được nhận ra, và chỉ có ư niệm duy vật về các dây thần kinh như là một hệ thống được tạo nên để đáp ứng với môi trường hữu h́nh vẫn chế ngự ở phương Tây. Ư niệm về các thần kinh này hiện là kết quả vật chất trọng trược của bộ máy đáp ứng bén nhạy bên trong mà khoa học Tây phương hiện đại vẫn chưa biết và chưa xác định được. Khi có được nhận thức phù hợp với chất tinh anh này (bao gồm các tuyến năng lượng) ẩn dưới các dây thần kinh hiện ra rơ rệt hơn, chúng ta sẽ tiến gần hơn đến toàn bộ vấn đề sức khỏe và bệnh tật, và thế giới nguyên nhân sẽ là thế giới gần gũi hơn. Mạng lưới nadis này tạo thành một kiểu mẫu sự sống rơ rệt, nó thay đổi tùy theo cung phàm ngă.

5. Do đó, các nadis (tuyến lực) xác định bản chất và đặc tính của thần kinh hệ cùng với mạng lưới mở rộng của các dây thần kinh và các đám rối (plexi) đang bao phủ toàn bộ thể xác. Các nadis và tất nhiên là mạng lưới các dây thần kinh, có liên quan trước tiên với hai khía cạnh của vận cụ hồng trần của con người – bảy bí huyệt chính trong thể dĩ thái (một thể có thực đang ẩn dưới nhục thân), và cột xương sống với đầu. Phải luôn luôn nhớ rằng thể dĩ thái là một thể hồng trần, dù là được tạo thành bằng vật chất (material) tinh anh hơn vật chất mà chúng ta có thể thấy và sờ được. Nó được làm bằng chất liệu (substance) hay bằng những ǵ vốn đang "đứng dưới" ("substand") hay ở dưới (underlies) mọi phần và mọi cấu tử của nhục thân. Đây là một điểm mà sau này sẽ nhận được sự chú tâm của những nhà chữa trị và những nhà y học giác ngộ trong Kỷ Nguyên Mới. Khi sự liên hệ hiện có giữa các nadis và các dây thần kinh và mối liên hệ kết hợp đối với các bí huyệt và cột xương sống được hiểu rơ, chúng ta sẽ thấy một cuộc cách mạng vĩ đại trong các phương pháp y học và tâm thần. Kinh nghiệm sẽ có khuynh hướng chứng minh rằng sự tương tác giữa cả hai – nadis và dây thần kinh – được tạo ra càng chặt chẽ, th́ sự kiềm chế bệnh tật cũng được tiến hành nhanh hơn.

197

 
6. Các nadis trong thể hồng trần tương ứng với khía cạnh sự sống hay khía cạnh tinh thần; các dây thần kinh th́ tương ứng với khía cạnh linh hồn hay khía cạnh phẩm chất. Những ǵ biểu lộ như là ngoại hiện hợp nhất của chúng là hệ thống nội tiết, vốn phù hợp với khía cạnh h́nh hài hay khía cạnh vật chất. Cả ba – nadis, hệ thần kinh và các tuyến – là các tương ứng vật chất với ba trạng thái thiêng liêng. Về mặt huyền bí, chúng đáp ứng với ba trạng thái này và chúng tạo ra những ǵ đúng y với con người trên cơi trần. Chính ba nhóm này, được chi phối (xuyên qua bảy bí huyệt như chúng ta đă thấy trước kia) bằng thể cảm dục hoặc thể trí, hay là bởi phàm ngă hợp nhất, hay là bởi linh hồn đang bắt đầu sử dụng phàm ngă như là nơi truyền đạt và chuyển hóa năng lượng, và – vào lúc kết thúc Con Đường Đệ Tử – bởi Chân Thần, xuyên qua antahkarana, sử dụng con đường được bản ngă tạo ra đó như là một vận hà trực tiếp để thông thương với bảy bí huyệt và từ đó đến ba hệ thống của nadis, thần kinh và các tuyến.

7. Ba hệ thống chính yếu này trong con người, biểu lộ qua thể xác, t́nh huống hay trạng thái phát triển của các bí huyệt. Sự sống, tính chất và năng lượng mà chúng tiêu biểu, được chuyển đến mọi phần của thể xác qua ḍng máu. Điều này, khoa học hiện đại đă đang nhận ra như một sự thực, bằng cách nói rằng ḍng máu chuyển đi một vài yếu tố đă được các tuyến phóng thích ra. Tuy nhiên, khoa học không nhận biết sự thực về mối liên hệ của các tuyến với các bí huyệt, với các hệ thống trung gian của nadis và các thần kinh. Tiến triển lớn kế tiếp trong y học sẽ là nhận ra sự thực về dĩ thái thể, chất hồng trần đang ẩn dưới vật chất trọng trược.

198

 
8. Khi các bí huyệt được khơi hoạt khắp thể xác, lúc bấy giờ sẽ có được một hệ thần kinh có điện thế cao đáp ứng với sự liên quan trực tiếp với năng lượng do các nadis mang lại. Kết quả của việc ấy sẽ là một hệ thống nội tiết cân bằng. Sinh lực và sự sống đang tuôn đổ qua khắp cơ thể, lúc bấy giờ, sẽ mạnh đến nỗi mà thể xác sẽ kháng lại bệnh tật một cách tự động, hoặc là nội tại, di truyền, hoặc là có nguồn gốc tập thể. Bằng các lời này, tôi diễn tả cho các bạn một sự có thể xảy ra trong tương lai, nhưng không phải xảy ra liền tức khắc. Một ngày nào đó, con người sẽ có ba hệ thống được phối hợp hoàn hảo, đáp ứng về mặt tâm linh với kiểu mẫu nội tại của các tuyến lực và các bí huyệt, và kết hợp một cách hữu thức với linh hồn, và sau đó, – xuyên qua antahkarana – với nguyên khí Sự Sống (Life principle).

9. Ngày nay, v́ có sự phát triển không đồng đều, một số bí huyệt chưa được khơi hoạt, các bí huyệt khác quá bị kích thích, và với các bí huyệt dưới cách mô quá hoạt động, tất nhiên, các bạn có nhiều vùng của thể xác nơi mà các tuyến lực (nadis) c̣n ở trạng thái phôi thai, các vùng khác nữa, nơi mà chúng được truyền năng lượng cao, nhưng ḍng lưu thông của chúng bị chận đứng lại v́ một bí huyệt nào đó dọc theo tuyến hoạt động của chúng vẫn chưa được khơi hoạt, hay là – nếu đă khơi hoạt – vẫn không phóng phát (non - radiatory). Các điều kiện không đồng đều này tạo ra các hiệu quả mạnh mẽ trên hệ thần kinh và trên các tuyến, đưa đến việc quá bị kích thích trong một số trường hợp, ở t́nh trạng dưới b́nh thường trong các trường hợp khác, thiếu sinh lực, quá hoạt động và các phản ứng ngoài ư muốn khác mà tất nhiên sẽ tạo ra bệnh tật. Các bệnh như thế, hoặc là xuất phát từ trong chính thể xác như là kết quả của các khuynh hướng có sẵn (hay tôi nên nói là có tính cách địa phương), hoặc là do di truyền, hoặc là do các tố bẩm, hiện hữu trong mô của cơ thể; hoặc là chúng hiện ra như là kết quả của sự phóng phát hay là không phóng phát của các bí huyệt, vốn đang tác động qua các nadis; chúng cũng có thể hiện ra như là kết quả của các va chạm hay là tiếp xúc bên ngoài (như là các bệnh truyền nhiễm và bệnh dịch). Do bởi thiếu phát triển của các bí huyệt của con người, nên không thể kháng lại được các chứng bệnh này.

199

 
10. Tổng kết: bệnh tật, tức sự bất lực/ khiếm khuyết của thể xác thuộc bất cứ loại nào (dĩ nhiên trừ trường hợp bệnh tật do tai nạn và đối với một số phạm vi, đối với các t́nh trạng của hành tinh, kể cả các bệnh dịch có bản chất độc hại đặc biệt mà chiến tranh thường tạo ra) và nhiều khía cạnh khác nữa của t́nh trạng sức khỏe kém cỏi có thể được truy nguyên trực tiếp đến t́nh trạng của các bí huyệt, v́ chúng xác định sự hoạt động hoặc không hoạt động của các nadis; đến phiên chúng, các nadis này tác động vào hệ thần kinh, gây cho hệ thống nội tiết cái mà chính trong con người cá biệt và ḍng máu chịu trách nhiệm cho t́nh trạng này đi tới mọi phần của cơ thể.

199

 
CÁC HIỆU QUẢ XẢY RA TRONG CÁC VÙNG ĐẶC THÙ

Bây giờ, chúng ta hăy xét một vài hiệu quả của các sự kiện nói trên và hậu quả của chúng trên các vùng mà các bí huyệt chi phối, và trong đó bệnh tật xuất hiện.

Điều rơ rệt đối với các bạn là khi năng lượng tuôn đổ qua các bí huyệt, xuyên qua các tuyến năng lượng (nadis) và các dây thần kinh, tác động mạnh mẽ vào hệ thống tuyến và ḍng máu, các vùng của cơ thể trở thành có liên quan và đáp ứng một cách thiết yếu. Dĩ nhiên, vùng này bao gồm đầu, cổ họng và thân trên. Thế là năng lượng được gởi đi, xâm nhập vào mọi phần của thể xác, đến mọi cơ quan, mọi tế bào và nguyên tử. Chính tác động của tính chất năng lượng trên cơ thể gây ra, kích thích, loại bỏ hoặc làm giảm bớt bệnh tật.

Ở đây, tôi không đề cập đến ba bệnh chính yếu có tính cách bẩm sinh (tôi tạm gọi như thế) – ung thư, giang mai và bệnh lao. Ở sau, tôi sẽ bàn đến các bệnh này, bởi v́ chúng thuộc về phạm vi hành tinh, có trong vật chất mà mọi h́nh hài được tạo thành và có trách nhiệm để tạo ra một số đông các bệnh thứ yếu mà đôi khi được nhận thấy như là sát nhập vào nhưng thường được biết không phải thế.

200

 
Các bệnh này được gọi một cách không đúng lắm là bệnh tâm thần (mental diseases) và có liên quan tới năo bộ, mà cho đến nay được hiểu rất ít. Trong căn chủng vừa rồi, căn chủng Atlantis, có rất ít bệnh tâm thần; bản chất thể trí lúc bấy giờ là yên tịnh và ít kích thích, được truyền đi qua các cơi phụ của cơi trí, xuyên qua bí huyệt đầu đến tùng quả tuyến và năo bộ. Có rất ít bệnh về mắt và không có các bệnh về mũi v́ bí huyệt ấn đường chưa được khơi hoạt và mắt thứ ba nhanh chóng trở nên không hoạt động. Bí huyệt ấn đường là cơ quan của phàm ngă hội nhập, vận cụ để điều khiển và có liên quan chặt chẽ với tuyến tùng quả và hai mắt, cũng như với tất cả các vùng trước của đầu. Vào thời Atlantis, sự hội nhập của phàm ngă không được biết đến nhiều ngoại trừ trường hợp các đệ tử và điểm đạo đồ, lúc bấy giờ luôn luôn là mục tiêu của điểm đạo đồ và dấu hiệu thành đạt của vị này là sự hội nhập ba phần này. Ngày nay, mục tiêu là tiến tới một hợp nhất c̣n cao hơn nữa – hợp nhất của linh hồn với phàm ngă. Nói theo thuật ngữ về năng lượng, điều này liên quan sự thành lập, hoạt động và sự tương tác đă được nhắc đến của các tam giác lực sau đây:

  I - 1. Linh hồn, tức con người tâm linh trên cơi riêng của nó.

        2. Phàm ngă, con người tam phân hội nhập trong ba cơi thấp.

       3. Bí huyệt đầu.

 II - 1. Bí huyệt đầu, điểm dung hợp thứ hai.

       2. Bí huyệt ấn đường, điểm dung hợp thứ nhất.

       3.  Bí huyệt trong tủy sống kéo dài, kiểm soát xương sống.

III - 1. Tuyến tùng quả, ngoại hiện của bí huyệt đầu.

       2.Tuyến yên, liên quan đến bí huyệt ấn đường.

       3. Tuyến động mạch cổ, ngoại hiện của bí huyệt đầu thứ ba.

Tất cả các bộ ba này nằm trong phạm vi của đầu, tạo ra cơ chế mà qua đó:

1. Linh hồn kiềm chế khí cụ của nó, tức phàm ngă.

2. Phàm ngă điều khiển các hoạt động của thể xác.

201

 
Cột xương sống (về mặt huyền bí là các vận hà ida, pingala và sushumna), hai mắt và toàn thể năo bộ đều dễ tiếp thu, bị kích thích bởi, hay là không tiếp thu với các năng lượng trong đầu. Trong trường hợp sau, toàn bộ khu vực ở trạng thái tĩnh, nói về mặt tinh thần, và tụ điểm của năng lượng ở nơi khác.

Sự khiếm khuyết này hay là sự kích thích, nếu thiếu quân b́nh hay nếu dùng sai, sẽ tạo ra một số loại bệnh tật rơ rệt, thường thường có bản chất sinh lư cũng như tâm lư, và trong thời Aryan của chúng ta, chúng ta sẽ thấy số bệnh thuộc năo bộ đang tăng thêm (sự mất quân b́nh trí óc thường xuyên tăng thêm), và các bệnh về mắt, cho đến khi bản chất của các bí huyệt và loại thần lực đang đến và sự điều ḥa của chúng được nhận biết và nghiên cứu một cách cẩn thận và khoa học. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ thấy khoa học về sự điều ḥa năng lượng sẽ phát triển v́ nó chi phối con người. Trong lúc này, có nhiều khó khăn khắp nơi và có nhiều bệnh tâm trí, các t́nh trạng kích thích thần kinh, điên loạn, và có lẽ ngay cả nhiều sự mất quân b́nh về tuyến thường thấy đang trên đà bành trướng. Ngày nay, ở phương Tây, người ta ít biết về các phương pháp kiềm chế hoặc chữa trị, c̣n ở phương Đông, nơi có một ít hiểu biết, lại không có thực hành do tính hờ hững hiện có ở đó.

Cột xương sống trước tiên được dự liệu làm vận hà, nhờ đó, việc truyền năng lượng của các bí huyệt và việc phân phối năng lượng cho các vùng chung quanh của cơ thể được tiến hành bởi phàm ngă hội nhập sáng suốt, hành động dưới sự điều khiển hữu thức của linh hồn. Ở đây, tôi không nói đến cấu tạo xương của cột xương sống, mà nói đến dây sống, đối phần huyền bí của nó và nói đến các thần kinh xuất phát từ xương sống. Ngày nay, không có sự kiềm chế năng lượng được sắp xếp, điều khiển về mặt huyền bí, ngoại trừ trong trường hợp những kẻ có được tâm thức của điểm đạo đồ và một vài đệ tử đă tiến hóa. Có các ức chế, tắc nghẽn, những vùng chưa được khơi hoạt, thiếu sinh khí, thiếu sự tuôn chảy thông suốt và tất nhiên là thiếu sự phát triển bên trong toàn thể con người; nếu không có quá nhiều sự kích thích, rung động quá nhanh, sự khơi hoạt quá sớm của các bí huyệt, dẫn đến việc hoạt động quá mức của các nguyên tử và các tế bào bị chi phối bởi bất cứ bí huyệt đặc biệt nào. Tất cả các t́nh trạng này cùng với nhiều t́nh trạng khác không được ghi nhận, tác động vào hệ thần kinh, điều khiển các tuyến và tạo ra khó khăn và bệnh hoạn về mặt tâm lư dưới h́nh thức này hoặc h́nh thức khác. Các bạn có sơ đồ của cột xương sống và đầu sau đây, tuy đon giản, nhưng đủ gợi ư và tượng trưng, khi nh́n cả hai theo khía cạnh của các bí huyệt và các tuyến:

202

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 


Bí huyệt cổ họng …                       Tuyến giáp trạng

 

 

 


Bí huyệt tim …                                Tuyến ức                Tim

 

 

 


Huyệt đan điền …                          Tụy tạng

 

 

 


Bí huyệt xương cùng …                 Tuyến sinh dục

 

 

 


Bí huyệt ở chót  …                          Tuyến

xương sống                                 thượng thận

 

203

 
Các bạn nên chú ư rằng lá lách không được kể trong sơ đồ này. Chức năng của nó là một chức năng đặc biệt, vốn là bí huyệt của sinh lực liên quan với sinh lực hành tinh và bức xạ từ mặt trời. Nó không được kiểm soát bằng bất cứ cách nào từ cột xương sống. Cần phải nhớ rằng sơ đồ này chỉ là một cố gắng để liên kết cách diễn tả các bí huyệt bằng h́nh ảnh, các tuyến mà chúng chi phối và các cơ quan đang chịu ảnh hưởng của cả hai. Không có dụng tâm tạo một h́nh ảnh xác thực của bất luận các liên hệ sinh lư của cơ quan nào.

Bí huyệt ở chót xương sống có một chức năng duy nhất. Chính là với chất liệu của cơ thể, với mô vật chất và với mọi chất liệu không bao hàm trong các cơ quan đă được nói đến ở trên, cội nguồn của sự sống. Trong con người hoàn thiện, hai bí huyệt (bí huyệt cao nhất ở đầu và bí huyệt căn bản) tượng trưng cho lưỡng nguyên vĩ đại là tinh thần và vật chất, và bấy giờ, chúng kiềm chế và chi phối, trong trạng thái ḥa hợp hoàn hảo, toàn bộ chiều hướng của hiện thể của linh hồn. Sau rốt, bạn sẽ có trạng thái tinh thần của chính biểu lộ của con người một cách hoàn hảo qua Chân Thần và phàm ngă kết hợp (xảy ra bằng một sự phối hợp chủ yếu lớn lao thứ ba). Lúc bấy giờ, con người vật chất đáp ứng với cả hai xuyên qua bí huyệt đầu (Chân Thần) và bí huyệt căn bản (phàm ngă được tinh thần truyền năng lượng). Cả hai bí huyệt này bây giờ sẽ được liên giao hoàn toàn, biểu lộ bản chất đầy đủ của Chân Nhân.

204

 
Điều chủ yếu là những nhà chữa trị tâm linh nên có một cách rơ ràng trong trí họ h́nh ảnh của các khu vực trong cơ thể vốn được chi phối bởi bí huyệt đầu và các bí huyệt khác, bởi v́ bên trong các vùng này là các cơ quan khác nhau, chúng phản ứng lại với bệnh. Sự khỏe mạnh của các cơ quan này phần lớn tùy thuộc vào các bí huyệt v́ chúng chi phối các tuyến và v́ năng lượng được phân phối khắp cơ thể. Một ḍng năng lượng đầy đủ và quân b́nh từ bí huyệt vào vùng mà nó kiểm soát, đưa đến sự đối kháng thường được gọi là bệnh tật; nơi nào thiếu sự phát triển và có t́nh trạng thiếu quân b́nh, nơi nào mà các bí huyệt có liên quan đến, nơi đó sẽ không có sức mạnh đối kháng. Tiến tŕnh chữa trị trong Kỷ Nguyên Mới sẽ khởi đầu bằng công tác được hoạch định một cách rơ rệt với các bí huyệt, và khuynh hướng tổng quát của thuật chữa trị lúc bấy giờ sẽ là – như bạn có thể thấy một cách dễ dàng – pḥng bệnh một cách tự nhiên hơn là chữa bệnh. Toàn bộ tầm quan trọng sẽ ở trên các bí huyệt mang năng lượng, các luồng năng lượng và phương hướng của năng lượng đối với các cơ quan trong phạm vi ảnh hưởng của bất luận bí huyệt đặc biệt nào. Do nghiên cứu các tuyến (một nghiên cứu nhiều vào thời kỳ trứng nước của nó, cho rằng nó khó xứng đáng với từ ngữ "c̣n phôi thai") nhiều điều sẽ được biết rơ về sau này về tương quan của chúng đối với các bí huyệt và nhiều công tác thực nghiệm sẽ được thi hành. Theo quan điểm của nhà huyền bí học – kẻ đă thừa nhận sự thực về các bí huyệt – th́ các tuyến vượt trội nhất, là nhân tố quyết định chính liên quan tới sức khỏe tổng quát của một cá nhân; không những chúng báo hiệu sự phát triển tâm lư c̣n hơn là ngày nay người ta hiểu, mà chúng c̣n có (v́ c̣n bị y khoa khoa chính thống nghi ngờ) một hiệu quả mạnh mẽ nhất trên toàn bộ hệ thống cơ quan; ảnh hưởng của chúng, xuyên qua ḍng máu, đi đến mọi phần của cơ thể và đến tứ chi. Các tuyến là kết quả của hoạt động của các bí huyệt; chúng là kết quả của các nguyên nhân được sắp xếp bên trong vào lúc đầu, lúc cuối và mọi lúc, và chính là nhờ các bí huyệt và các tuyến liên hệ của chúng mà linh hồn tạo được bộ máy trên cơi trần mà chúng ta gọi là con người hồng trần.

205

 
Do đó, nhóm các yếu tố liên hệ mà chúng ta bàn đến, phải được nghiên cứu cẩn thận và phải được bất luận nhà chữa trị thực hành nào hiểu rơ, v́ sau rốt, y sẽ phải hoạt động qua chính các bí huyệt của y trong mối liên quan với bệnh nhân mà y đang nỗ lực chữa trị. Tất nhiên, y phải nhớ ba yếu tố: các bí huyệt, các tuyến liên hệ và nhóm các cơ quan nhờ đó hai phần này chịu trách nhiệm. Trong bảy vùng của cơ thể, chúng ta bị chi phối bởi bảy bí huyệt chính các tuyến liên hệ của chúng, bộ ba căn bản của biểu lộ lại xuất hiện:

1. Sự sống hay tinh thần …… trung tâm năng lượng

2. Linh hồn hay phẩm tính … tuyến

3. Sắc tướng hay vật chất … các cơ quan trong bất cứ vùng đặc biệt nào bị bất luận bí huyệt nào chi phối.

Điều này đưa chúng ta đến một định luật khác mà nhà chữa trị phải luôn luôn ghi nhớ:

ĐỊNH LUẬT  VII

Khi sự sống hay năng lượng tuôn chảy không bị ngăn trở và qua đúng hướng đến chỗ phóng hiện của nó (tuyến liên hệ), lúc bấy giờ h́nh hài đáp ứng và sức khỏe kém cỏi liền tan biến.

Đây là một định luật chữa trị căn bản và có liên quan tới sự khéo léo thực sự để liên kết năng lượng tinh thần với sự sống sắc tướng, và sức khỏe cùng với sinh lực của các cơ quan tùy thuộc vào đó. Do đó, chúng ta đi đến qui luật kế tiếp mà nhà trị liệu phải quán triệt. Điều này được diễn tả một cách rơ rệt và các nhóm từ dùng để truyền đạt giáo huấn phải được hiểu rơ và áp dụng một cách sáng suốt.

QUI LUẬT NĂM

Nhà trị liệu hăy tập trung năng lượng cần thiết bên trong bí huyệt cần thiết.

Hăy để cho bí huyệt đó phù hợp với bí huyệt cần thiết.

Hăy để cho cả hai ăn khớp nhau và cùng tăng thêm sức mạnh.

Như thế, h́nh hài đang chờ đợi sẽ được thăng bằng trong công việc của nó.

Như thế cái thứ hai và cái thứ nhất ở đúng hướng, sẽ có tác dụng chữa trị.

206

 
Do đó, điều hiển nhiên đối với bạn là các nhà trị liệu hiện nay (ở đây tôi không nhắc đến giới y khoa mà nói đến số lớn trong nhiều trường phái tư tưởng) tuy vậy, không trở lại với yếu tố căn bản, mặc dù mọi cuộc nói chuyện của họ liên quan đến t́nh thương vốn là mănh lực chữa trị. Trong thực tế, chúng được nhấn mạnh và liên hệ đến động lực đang thúc đẩy nhà chữa trị vận dụng thuật chữa trị của ḿnh. Chúng có liên quan đến phương tiện mà nhờ đó có thể tiếp xúc với bệnh nhân cần được chữa trị. Tiếp xúc đó lúc nào cũng phải được thiết lập dựa trên Ḷng Bác Ái – có tính cách mới mẻ, thúc ép và vô kỷ. Nhưng một khi mối liên hệ đó được thiết lập, nhà chữa trị phải hiểu rơ sự kiện là, bao lâu mà y c̣n liên hệ đến, y phải làm việc một cách khoa học; y phải áp dụng sự hiểu biết, và – sau khi chẩn đoán đúng, sau các phương pháp chữa trị hiện đại đúng đắn, sau lương tri đúng, nó bao hàm cái tốt nhất mà y học đă được thử thách có thể mang lại – lúc bấy giờ, y phải bắt đầu hành động qua bí huyệt của riêng y, để cho nó tiếp xúc với bí huyệt trong người bệnh đang chi phối vùng suy yếu hay là cơ quan bị bệnh.

Khi y làm như thế, năng lượng mà ư định bác ái và sự hiểu biết khéo léo đă được rút ra và mang lại, th́ không được phép (trong tiến tŕnh chữa trị) để kích thích hay ảnh hưởng đến các tuyến liên hệ của chính người chữa trị, hoặc tạo ra tác động trong vùng liên hệ của thể xác riêng y. Nhà chữa trị phải biết cách ly chính ḿnh với năng lượng phải được dùng nhân danh người bệnh. Y phối hợp nó với năng lượng của bí huyệt bệnh nhân đang chi phối vùng bị bệnh; tuyến có liên kết bây giờ được mang lại năng lượng gấp đôi (hoặc giảm bớt khi có thể và tùy sự chẩn đoán) và ḍng máu phóng rải vào mô bị bệnh những ǵ cần để chữa trị hay là ngăn ngừa sự tăng trưởng của bệnh.

207

 
Trong phần giáo huấn này, tôi đă đưa ra cho bạn nhiều điều cần suy gẫm. Tôi đă nhấn mạnh một khía cạnh của khoa chữa trị theo huyền môn mà trước kia chưa được sự chú ư của các nhà nghiên cứu. Tôi muốn các bạn hiểu được bức họa tổng quát và có được các nét diễn tiến rơ rệt; tôi muốn giúp bạn nghiên cứu sự liên hệ giữa nhà chữa trị và bệnh nhân khi y vượt ra khỏi giai đoạn chỉ yêu thương và đưa ra t́nh thương hay là ra khỏi việc nh́n thấy bệnh nhân dưới ánh sáng của t́nh thương, và nối tiếp công tác khoa học để tăng thêm năng lượng tinh thần của chính bệnh nhân. Như vậy, người bệnh giúp cho y thực hiện cách chữa trị riêng của ḿnh một cách hữu ư hay vô tâm.

Do đó, bạn sẽ có nhà chữa trị, bệnh nhân và nơi chứa năng lượng tinh thần, cộng với tiến tŕnh khoa học để đem cả ba vào một liên hệ chữa trị chặt chẽ. Điều này được tạo ra xuyên qua bí huyệt liên hệ trong vận cụ của bệnh nhân, bí huyệt tương ứng trong vận cụ của nhà chữa trị, và chiều hướng (bằng một tác động của ư chí nhà chữa trị hoặc của nhóm chữa trị) của các ḍng kết hợp của năng lượng đặc thù cần có đối với vùng bị bệnh. Điều này thường được tạo ra xuyên qua tuyến liên hệ, dù không phải luôn luôn như thế.

Hăy suy tưởng về các điều này và xem xét, nếu có thể, sự đơn giản của tiến tŕnh được dựa trên ư định bác ái, nó cách ly vùng đặc biệt trong đó bệnh tật đang xảy ra, nó tự đồng hóa với trung tâm năng lượng tinh thần trong người bệnh, và lúc bấy giờ áp đặt và điều khiển các năng lượng đă được phối hợp và ḥa lẫn.

CÁC HIỆU QUẢ CỦA VIỆC KÉM KÍCH THÍCH

VÀ QUÁ KÍCH THÍCH CỦA CÁC BÍ HUYỆT

208

 
Thỉnh thoảng, chúng ta đă khảo sát các bí huyệt và liên quan giữa chúng với nhục thể. Chúng ta cũng đă ghi nhận các vùng vốn bị chi phối bởi các bí huyệt này và công việc trung gian của các tuyến nội tiết. Chúng ta đă thấy rằng hai nguyên nhân chính mở đường cho bệnh thể xác, xuất phát từ bên trong cơ cấu vật chất, ít chịu kích thích hay là quá kích thích của các bí huyệt. Như các bạn nhớ lại, cũng có ba loại bệnh vốn có sẵn trong chính vật chất, và do đó tạo ra thiên hướng căn bản bên trong cơ thể con người: ung thư, giang mai và lao. Vào lúc này, chúng ta không bàn đến ba loại bệnh này. Nhưng về mặt căn bản, t́nh trạng các bí huyệt tạo ra mọi khó khăn, cho phép thâm nhập vào các lây nhiễm và các mầm bệnh vốn có thể không gây bệnh trong trường hợp khác, tạo ra các t́nh huống mà các bệnh tật có sẵn trong phàm nhân có thể được thúc đẩy, và làm cho các khuynh hướng bất đắc dĩ trở thành mạnh mẽ. Tất nhiên, chúng ta có thể đưa ra tiền đề (điều mà giới y học sau này sẽ chấp nhận một cách toàn bộ) rằng bệnh tật vốn tự sinh ra (tôi tạm dùng một nhóm từ kỳ lạ và không thích hợp như thế) và vốn không phải là kết quả của sự lây nhiễm hay của các tai nạn, được tạo ra do sự thất bại, sự giới hạn, sự khiếm khuyết hoặc sự quá trớn và bởi sự quá phát triển hay là kém phát triển của hệ thống tuyến nội tiết. Hệ thống nội tiết này, xuyên qua các kích thích tố, tác động vào mọi phần của cơ quan vật chất xuyên qua ḍng máu – và do đó, có thể được cho là đúng khi các tuyến nội tiết hoàn toàn được thăng bằng và tác động một cách chính xác, sẽ không có nơi nào bị bệnh trong cơ thể. Ḍng máu, lúc bấy giờ cũng sẽ được giữ trong một t́nh trạng hoàn hảo. Manh mối để có được sức khỏe thể chất hoàn hảo như đă được một Thánh sư minh triết diễn tả, tất nhiên có thể được truy nguyên trực tiếp đến việc kiểm soát đầy đủ các bí huyệt của Ngài đối với trạng thái thăng bằng của việc tiếp nhận và phân phối năng lượng, và đến kết quả mà chúng tạo ra trên toàn bộ hệ thống tuyến nội tiết. Bằng cách này, mọi vùng của cơ thể được cung cấp một cách thích hợp bằng các thần lực cần thiết, và như vậy được giữ ở t́nh trạng hoàn hảo.

Tiến đến nửa đường giữa các bí huyệt với các tuyến nội tiết tương ứng và tác động như là tác nhân phân phối năng lượng, là hệ thần kinh. Tuy nhiên ở đây cũng thường gặp khó khăn. Đó là thiếu luồng năng lượng thích hợp; năng lượng được phân phối bằng các phương tiện của nó đến cơ thể xuyên qua các bí huyệt được phân phối không đồng đều; một số bí huyệt được cung ứng quá mức, các bí huyệt khác nhận một số lượng không thích hợp; một vài bí huyệt vẫn chưa được khơi hoạt, và do đó, không có tính tiếp nhận; các bí huyệt khác nữa phát triển sớm và chuyển quá nhiều thần lực vào các vùng mà chúng chi phối. Theo y học huyền bí và theo sự diễn dịch có tính triết lư của nó (cuối cùng chỉ là áp dụng có hiệu quả và thực tiễn về các sự kiện đă biết) chính trạng thái năo tủy đang điều khiển và chi phối toàn bộ hệ thần kinh, v́ chính nhờ trạng thái này và qua lực gây tác động của nó mà các bí huyệt hoạt động và có ảnh hưởng đến bộ máy của xác thân, cung cấp cho cơ thể sinh năng cần thiết; như vậy, sau rốt thông qua 7 bí huyệt, hệ thần kinh trở nên đáp ứng với 7 năng lượng chính hay là thần lực của 7 cung.

209

 
Không ở trong một người nào, ngoại trừ một Thánh Sư, mà tất cả các bí huyệt được khơi hoạt thích đáng và hoạt động một cách thăng bằng, chúng cũng không được liên kết một cách thích đáng nhờ bức xạ mạnh mẽ; không ở trong một người nào mà hệ thần kinh đáp ứng một cách chính xác với các bí huyệt. Có hai lư do về việc này, cả hai đều có liên quan tới hệ năo tủy:

1. Bí huyệt đầu chưa được khơi hoạt hay là chỉ phát triển một cách chậm chạp, khi đệ tử tự đặt ḿnh vào việc tập luyện.

2. Luồng năng lượng thông qua đầu đến các bí huyệt trên xương sống vốn không đồng đều, do sự kiện là ḍng năng lượng đi vào không đồng đều, và rằng do mạng lưới dĩ thái – giữa các bí huyệt – cho đến nay chỉ cho phép rất ít năng lượng tuôn chảy qua tất cả các huyệt.

Cần nên nhớ rằng, trong giai đoạn mở đầu, sự sống của các bí huyệt được tạo ra trên sự sống vốn có của chính các cơ quan, với sự tập trung sự sống phát tán ra để được thành lập trong bí huyệt ở chót xương sống. Đây là một điểm thường hay bị các nhà thần bí học bỏ quên. Bí huyệt căn bản này là bí huyệt mà qua đó sự sống của chính vật chất tác động; đây là sự sống hay năng lượng của Ngôi Thánh thần, tức Ngôi Ba. Nhờ chính sự sống đó mà mỗi nguyên tử trong cơ thể được nuôi dưỡng. Diễn tŕnh làm linh hoạt vật chất này của sắc tướng cơi trần được khởi đầu trong thời kỳ tiền sinh. C̣n sau khi sinh, loại thần lực này được trợ giúp và được đi song song bởi luồng prana hành tinh đi vào hay là sinh năng (vital energy) từ chính sự sống hành tinh, xuyên qua lá lách. Đây là cơ quan liên kết chính yếu giữa sự sống có sẵn của chính vật chất, khi hiện hữu trong tiểu thiên địa và sự sống có sẵn trong hành tinh.

210

 
Khi sự tiến hóa tiếp diễn, dần dần có thêm vào thần lực cố hữu này một ḍng năng lượng "đủ phẩm chất" ("qualified") chảy vào, vốn là biểu lộ của trạng thái tâm thức của thiên tính, và nêu ra cho nhà thần bí học trạng thái ư thức của con người và cũng là loại cung của linh hồn y. Ḍng thần lực chảy vào này xuất phát từ Ngôi Hai thiêng liêng, từ linh hồn hay Đức Christ nội tâm. Do đó có thể phát biểu liên quan tới hai bí huyệt ở đầu như sau:

1. Bí huyệt ấn đường hay bí huyệt phàm ngă, tập trung giữa hai chân mày và chi phối tuyến yên, có liên hệ với toàn bộ sự sống của cơ cấu tam phân hội nhập. Qua cơ cấu này, tâm thức tất phải tự biểu lộ và các thể xác, thể t́nh cảm và thể trí biểu lộ tŕnh độ tiến hóa của nó.

2. Bí huyệt đầu (trong triết lư Ấn giáo gọi là hoa sen ngàn cánh) chi phối tuyến tùng quả và liên kết với sự sống của linh hồn, và – sau kỳ điểm đạo thứ ba – liên kết với sự sống của Chân Thần; nó truyền đến các bí huyệt năng lượng của ba loại thực thể tinh thần chủ yếu mà ba thần lực của phàm ngă là các phản ánh hay đối phần hồng trần của nó.

211

 
Sau này, năng lượng từ trạng thái tinh thần, tức Ngôi Một hay Ngôi Cha, sẽ trở nên hữu dụng và sẽ tuôn đổ xuống qua bí huyệt đầu đến bí huyệt ấn đường, phối hợp năng lượng của phàm ngă với năng lượng của linh hồn. Kế đó bằng một tác động của ư chí, nó được hướng xuống cột xương sống, xuyên qua bí huyệt hành tủy, bí huyệt này đang chi phối tuyến động mạch cổ. Khi nó chuyển xuống cột xương sống, nó đem lại sinh khí cho hai trạng thái của các bí huyệt; khi nó đi đến bí huyệt căn bản, nó phối hợp với năng lượng tiềm tàng của chính vật chất, và do đó, bạn có sự hợp nhất của tất cả ba năng lượng thiêng liêng và sự biểu lộ trong con người của ba trạng thái thiêng liêng. Các năng lượng được phối hợp này bấy giờ đổ xô đến vận hà trung ương trong cột xương sống, và trạng thái thứ ba hay trạng thái tiếp nhận cao nhất của các bí huyệt được truyền năng lượng. Như vậy, tất cả các bí huyệt được biểu hiện đầy đủ; tất cả các giới hạn bị phá hủy; mọi phần của cơ thể được mang lại sinh lực và sự hoàn thiện vật chất được tạo ra, cộng thêm với sự hoạt động đầy đủ của tâm thức đă giác ngộ và cũng của trạng thái sự sống.

Lúc bấy giờ, hệ thần kinh nằm dưới sự kiềm chế hoàn toàn của chân ngă, c̣n ḍng máu được tinh lọc và trở thành một vận hà thông suốt và thích hợp cho việc lưu thông của những ǵ mà các tuyến mang năng lượng phóng ra. Đây là ư nghĩa huyền bí của các lời trong Thánh Kinh: "Máu là sự sống", và cũng của các lời "được cứu bằng máu của Đức Christ". Không phải bằng máu của Đức Christ chết cách đây 2000 năm trên Thập giá ở Palestine mà con người được cứu, mà là bởi sức sống (livingness) của máu của những kẻ mà nơi họ sự sống Christ và tâm thức Christ và phẩm đức của Đấng Christ được minh chứng và biểu lộ một cách hoàn hảo. Lúc bấy giờ khi bản chất của Đức Christ nội tại tự biểu lộ một cách đầy đủ, không g̣ bó và một cách tự động và thông qua phàm ngă, ba loại lửa của tiến tŕnh sáng tạo – lửa vật chất, lửa của linh hồn và lửa điện của Tinh Thần – được phối hợp, và bấy giờ có một biểu lộ đầy đủ trên cơi trần của kiếp sống vật chất, của sự sống t́nh cảm và sự sống trí tuệ, và cũng của sự sống tinh thần của một Đứa Con đang lâm phàm của Thượng Đế, một Christ.

212

 
Chính ở tŕnh độ hiểu biết này mà rất nhiều người đáng tôn kính đi lạc đường, đặc biệt là trong các phong trào Khoa học tâm thần, trong phong trào hợp nhất và trong Khoa học Công giáo. Thay v́ tập trung nỗ lực của họ để đạt cuộc sống thanh khiết của Đức Christ trong đời sống hằng ngày, và hành động với tư cách những người phụng sự hiến dâng của huynh đệ họ và với tư cách các vận hà cho t́nh thương, và chỉ biết đến tâm thức của tổng thể, họ lại tập trung vào việc xác định một sự hoàn thiện tương lai – bằng tinh thần và bằng lời nói – để có được sức khỏe tráng kiện và tiện nghi vật chất. Họ xem việc đó như là quyền lợi và bổn phận của họ phải đạt được bằng sự xác tín, và quên đi công việc khó nhọc cần để mang lại trong chính họ các t́nh trạng vốn sẽ tạo ra Đấng Christ biểu hiện thiêng liêng hiện nay. Họ cần ghi nhớ rằng sức khỏe tráng kiện sẽ trở nên b́nh thường và có tính minh giải nếu ư thức bên trong trở nên vô tổn hại (và đa số những kẻ này đều phạm tội có một tinh thần phê phán cao) nếu họ phá được ngă chấp trong ba cơi thấp, và nếu họ được "trụ vào cơi trời, nhờ đó giúp cho Con của Nhân loại ở cơi Trời vốn là Con của Thượng Đế sống cuộc sống Thiên Đường khi c̣n xa cách với cơi Trời"– như một nhà thần bí Cơ Đốc thời cổ từ lâu bị quên lăng, thường nói. Các lời của Ngài đă được Thánh Sư M. ghi nhớ – và nhờ vậy gợi lại sự chú tâm của tôi.

Một trường phái tư tưởng khác tự dán nhăn một cách dối trá giả làm những nhà huyền linh học, cũng sai lầm như vậy. Họ tác động hay đúng hơn, tự cho là tác động được với các bí huyệt, chỉ may cho họ là thiên nhiên thường bảo vệ họ chống lại chính họ. Họ quyết tâm nỗ lực để đem sinh lực cho các bí huyệt, để thiêu rụi mạng lưới bảo vệ, và để khơi dậy các lửa vật chất trước khi lửa tinh thần được phối hợp với lửa của linh hồn. Bấy giờ, họ trở thành nạn nhân cho sự kích thích sớm của các lửa vật chất trước khi sự quân b́nh của các lực có thể xảy ra. Bệnh hoạn, điên cuồng và nhiều t́nh trạng loạn thần kinh thêm vào các t́nh trạng bệnh lư trầm trọng lúc đó sẽ xảy ra. Một số tuyến trở nên quá hoạt động; các tuyến khác bị bỏ sót và toàn thể hệ thống tuyến và hệ thần kinh phụ thuộc lâm vào t́nh trạng mất quân b́nh hoàn toàn.

213

 
Đệ tử cần phải học cách tập trung sự chú tâm của họ vào thực tại và vào các yếu tố có tầm quan trọng tinh thần hàng đầu. Khi họ làm điều này, các năng lượng trong đầu, việc sử dụng đúng khu vực xương sống với các "bí huyệt xâu thành chuỗi" và việc khơi hoạt bí huyệt căn bản và sự phối hợp tất nhiên của nó với các năng lượng cao sẽ là một diễn biến tự động và hoàn toàn an toàn.

Nhịp điệu theo thứ tự của hệ thống tuyến và việc vận dụng thông suốt, an toàn của hệ thần kinh được kiềm chế bấy giờ có thể xảy ra; các năng lượng được đưa ra từ bí huyệt, xuyên qua các nadis, sẽ được liên kết một cách an toàn và mang lại tác động tổng hợp bên trong cơ thể, c̣n đệ tử sẽ trải qua không những chỉ một tâm thức khơi hoạt đầy đủ và một bộ óc bao giờ cũng tiếp thu một cách sáng suốt, mà c̣n một sự sống tâm linh luôn luôn tuôn vào. Lúc bấy giờ, sẽ có sự cân bằng hoàn hảo và sức khỏe hoàn hảo vốn biểu thị đặc điểm của một Thánh Sư Minh Triết.

214

 
Sự hiểu biết liên quan đến các tuyến nội tiết, cho đến nay, vẫn c̣n ở t́nh trạng phôi thai. Nhiều điều được biết về các tuyến liên hệ với bí huyệt xương cùng và về tuyến giáp trạng, nhưng cho đến nay, một cách tự nhiên, giới y khoa không thừa nhận rằng chúng là hiệu quả của hoạt động hay bất động của các bí huyệt, hay thừa nhận rằng có một đường lối ít bị đối kháng nhất giữa bí huyệt xương cùng với bí huyệt cổ họng. Một số điều được biết (không nhiều) về tuyến yên, nhưng sự cực kỳ quan trọng của nó khi nó có ảnh hưởng tới đáp ứng tâm lư của con người th́ không được biết đầy đủ. Nói đúng ra, không có điều ǵ được biết về tuyến tùng quả hoặc tuyến thymus (ức) và bởi v́ không phải bí huyệt đầu, cũng không phải bí huyệt tim được khơi hoạt nơi người chưa phát triển, hay ngay cả trong người b́nh thường. Đành rằng một sự phong phú đáng kể về kiến thức liên quan đến bí huyệt xương cùng (như là cội nguồn sáng tạo vật chất), và các hậu quả chi phối của tuyến giáp trạng do bởi sự kiện là cả hai bí huyệt này được khơi hoạt trong một người b́nh thường, và khi sự vận hành được thích hợp và sự tương tác cần thiết được thiết lập, bấy giờ bạn có được một người có nhu cầu tính dục cao, y cũng là một nghệ sĩ sáng tạo theo đường lối nghệ thuật nào đó. Điều này rất thường thấy, như bạn đă biết. Khi bí huyệt ấn đường và ngoại hiện của nó, tức tuyến yên, cũng linh hoạt, và mối liên hệ giữa ba bí huyệt – sinh dục, cổ họng và ấn đường – được khơi hoạt và đang bắt đầu tác động, và mối liên hệ hữu thức rơ rệt được thiết lập giữa nó với các bí huyệt khác (tùy cung, tùy mục đích hữu ư và có luyện tập), bấy giờ bạn sẽ có nhà thần bí thực tiễn, người nhân đạo và nhà huyền linh học.

Người nghiên cứu nên nhớ rằng cả hai khuynh hướng năng lượng lên và xuống bên trong toàn bộ cấu trúc của các bí huyệt nơi mà người t́m đạo và đệ tử có liên hệ:

1. Khuynh hướng đi lên .. tạo ra chuyển hóa. Từ bí huyệt xương cùng đến bí huyệt cổ họng. Sáng tạo vật chất được chuyển hóa thành sáng tạo nghệ thuật.

Từ huyệt đan điền đến bí huyệt tim. Ư thức t́nh cảm cá nhân được chuyển hóa thành ư thức tập thể.

Từ bí huyệt chót xương sống đến bí huyệt đầu. Sức mạnh vật chất được chuyển hóa thành năng lượng tinh thần.

Từ bất cứ hay là tất cả của năm bí huyệt ở xương sống đến bí huyệt ấn đường. Sự sống thiếu phối kết được chuyển hóa thành sự hội nhập của phàm ngă.

Từ sáu bí huyệt liên quan đến bí huyệt đầu cao nhất. Hoạt động phàm ngă được chuyển hóa thành cách sống tinh thần.

215

 
Đây là một khái quát hóa rộng lớn và tiến tŕnh không được xúc tiến bằng bất cứ kiểu cách liên tục hoặc là êm xuôi và theo tŕnh tự như bảng biểu ở trên có thể gợi ra. Tiến tŕnh có liên quan này trải rộng khắp nhiều kiếp sống với sự chuyển hóa vô t́nh trong các giai đoạn trước, và theo kết quả của kinh nghiệm đắng cay và của nỗ lực hữu thức trong các giai đoạn sau và trở nên tăng lên mạnh mẽ và có hiệu quả khi các giai đoạn khác nhau trên Thánh Đạo được người t́m đạo bước lên. Năm cung mà một đệ tử phải tác động đến (hai cung chính đang chi phối và ba cung phụ) có một hiệu quả tích cực rơ rệt; các hiệu chỉnh nghiệp quả đem lại cơ hội hoặc ngăn trở, c̣n các phức tạp của toàn thể diễn tŕnh (trong kinh nghiệm tương đối giới hạn của đệ tử) th́ rất mơ hồ, trong khi trong diễn tŕnh mà tất cả những ǵ y có thể làm là hiểu được nét khái quát như đă nêu ra ở đây, chứ không đặt quá nhiều chú tâm vào chi tiết có thật ngay trước mắt.

2. Khuynh hướng đi xuống… tạo ra sự biến đổi.

Một khi bí huyệt đầu được khơi hoạt và đệ tử hoạt động một cách hữu thức trong công tác điều khiển năng lượng đến các bí huyệt, và nhờ đó, chi phối được sự sống phàm ngă của ḿnh, có một công việc khoa học để đem lại năng lượng cho các bí huyệt với một nhịp điệu an bài nào đó vốn được định trở lại bởi các cung, bởi t́nh huống và bởi karma; thế nên, mọi năng lượng của thể xác đều được xoay chuyển vào ngay chính hoạt động tinh thần. Ở đây, chúng ta không thể bàn đến tiến tŕnh có liên quan, ngoài việc nêu ra rằng khuynh hướng đi xuống này có thể được đại khái xem như là thuộc vào ba giai đoạn:

1. Giai đoạn đem lại năng lượng cho sự sống sáng tạo, xuyên qua bí huyệt cổ họng, như thế đem lại:

  a. Bí huyệt đầu và bí huyệt cổ họng.

  b. Cả hai bí huyệt này và bí huyệt xương cùng,

  c. Cả ba bí huyệt này, một cách hữu thức và đồng thời, vào mối liên hệ hữu thức.

216

 
Khi được thiết lập thích đáng, mối liên quan này sẽ giải quyết vấn đề tính dục của cá nhân, và không dùng đến hoặc sự ức chế, hoặc sự cấm chỉ, mà chỉ bằng cách áp dụng sự kiềm chế đúng lúc, khiến cho đệ tử đồng thời sáng tạo theo ư nghĩa trần tục và do đó có ích cho huynh đệ của y.

2. Giai đoạn đem lại năng lượng cho sự sống hữu thức với mối liên hệ xuyên qua bí huyệt đầu, như thế, đưa:

  a. Bí huyệt đầu và bí huyệt tim,

  b. Hai bí huyệt này và huyệt đan điền,

  c. Một cách đồng thời và hữu thức, đưa cả ba bí huyệt này vào sự hợp tác chặt chẽ.

Điều này giúp tạo nên các tương giao đúng đắn giữa con người, các mối tương giao đúng đắn của nhóm và các tương giao đúng đắn về tinh thần và suốt toàn bộ biểu lộ sự sống của con người. Cũng như giai đoạn điều chỉnh sự sống sáng tạo có một hiệu quả tối quan trọng trên thể xác, cũng thế, giai đoạn này tác động rất mạnh mẽ lên thể cảm dục; các phản ứng t́nh cảm được biến đổi thành đạo tâm và phụng sự; t́nh thương ích kỷ có tính cách cá nhân được biến đổi thành t́nh thương tập thể, lúc bấy giờ, thiên tính chi phối đời sống.

3.Thời kỳ đem lại năng lượng cho toàn bộ con người, xuyên qua bí huyệt căn bản, như vậy, đưa:

  a. Bí huyệt đầu và bí huyệt căn bản,

  b. Cả hai bí huyệt này và bí huyệt ấn đường,

  c. Một cách đồng thời và hữu thức, đưa cả ba bí huyệt này vào biểu lộ nhịp nhàng và có phối kết. Đây là giai đoạn cuối cùng rất quan trọng và chỉ xảy ra một cách đầy đủ vào lúc điểm đạo thứ ba, cuộc điểm đạo Biến Thân (Hiển Biến).

Do đó, bạn có thể thấy, ba từ ngữ quan trọng như thế nào khi truyền đạt mục đích của việc khai mở có tính khoa học và hướng đi đúng của các bí huyệt:

     Biến tố                           Biến đổi                   Biến Thân

(Transmutation)        (Transformation)     (Transfiguration)

217

 
Tiến tŕnh này xảy ra một cách khéo léo và an toàn suốt một thời gian dài và – trở lại chủ đề của chúng ta về sức khỏe và bệnh tật – khi được hoàn thành, sẽ đem lại sức khỏe hoàn hảo; trong thời gian chuyển tiếp, tiến tŕnh hiệu chỉnh và thay đổi, điều trái ngược thường xảy ra. Sự nguy hiểm liên quan đến một số lớn các bệnh thể chất có thể được truy nguyên đến t́nh trạng của các bí huyệt, đến sự tương tác hoặc là thiếu sự tương tác của chúng, đến một t́nh trạng kém phát triển, chưa được khơi hoạt và lờ đờ, và đến một sự quá khích động hoặc một hoạt động thiếu thăng bằng. Nếu một bí huyệt được khơi hoạt sớm, nó thường gây thiệt hại cho các bí huyệt khác. Sức khỏe tráng kiện của người bán khai hoặc của người nông phu hay dân quê không giỏi dắn và kém thông minh (một trạng thái tồn tại trôi qua nhanh chóng khi sự phát triển trí tuệ và diễn tŕnh tiến hóa đạt hiệu quả), phần lớn là do bởi trạng thái im ĺm của hầu hết mọi bí huyệt ngoại trừ huyệt xương cùng. Sự kiện họ dễ trở thành con mồi cho bệnh truyền nhiễm có thể cũng được truy nguyên đến cùng sự thụ động như thế. Khi bản chất t́nh cảm trở nên phát triển và thể trí bắt đầu tác động, các bí huyệt lúc bấy giờ trở nên linh hoạt hơn. Bệnh tật dứt khoát là sẽ xảy ra sau đó, phần lớn bởi v́ các t́nh trạng tâm lư bắt đầu xuất hiện. Con người không c̣n chỉ là động vật nữa. Sự hao ṃn của cuộc sống t́nh cảm (yếu tố chính khiến phải chịu sức khỏe kém) tràn ngập phàm ngă với năng lượng được điều khiển kém cỏi (hay tôi nên nói là chỉ dẫn sai?) Huyệt đan điền lúc bấy giờ, trở nên linh hoạt quá đáng và sự hoạt động này thuộc vào bốn giai đoạn:

1. Giai đoạn khơi hoạt của nó, khi cảm dục thể dần dần trở nên mạnh mẽ hơn.

218

 
2. Giai đoạn sức mạnh của nó, đối với các sinh linh, khi mà chính bí huyệt đang chi phối trong thể dĩ thái hay thể sinh lực, và con người tất nhiên là hoàn toàn bị chi phối bởi cuộc sống cảm dục của ḿnh.

3. Giai đoạn mà huyệt đan điền trở thành nơi trao đổi đối với mọi bí huyệt (chính và phụ) dưới cách mô.

4. Giai đoạn mà các năng lượng của huyệt đan điền được đưa lên bí huyệt tim.

Tạm thời, tất cả các giai đoạn này đem lại các bệnh cho thể xác của riêng họ.

Bạn nên chú ư rằng, ngoài một số điều khái quát ra, tôi không muốn nói tới các bệnh đặc thù đối với các huyệt đặc thù. Tôi đă nêu ra rằng các vùng bị chi phối bởi các bí huyệt và bị chi phối một cách mạnh mẽ nhiều hơn là bạn có bất luận phương tiện nào để xác minh; tôi đă nói rằng về mặt căn bản, các tuyến nội tiết – với tư cách là các ngoại hiện của các bí huyệt – đều là các yếu tố xác định trong sức khỏe của xác thân, và nơi nào có sự mất thăng bằng, sự quá phát triển hoặc kém phát triển, bạn sẽ có bất an (trouble). Tôi đă gợi ư rằng, trong Kỷ Nguyên Mới, giới y học sẽ bàn đến ngày càng nhiều lư thuyết về hướng năng lượng và sự liên quan của nó với các tuyến nội tiết, và rằng điều đó sẽ thừa nhận ít nhất về mặt giả thuyết và cho mục đích thực nghiệm, rằng lư thuyết về cái trung tâm năng lượng có thể là đúng và trước tiên, chúng là các yếu tố chi phối, tác động qua các tuyến nội tiết mà đến phiên chúng, bảo vệ cơ thể, tạo ra sự đối kháng cần thiết, giữ cho ḍng máu được cung cấp với các cơ bản cho sức khỏe và – khi được liên kết đúng đắn – sẽ tạo ra biểu lộ thăng bằng của Chân nhân khắp toàn bộ thể xác – thăng bằng về mặt sinh lư và tâm lư. Khi t́nh huống mong ước này không xảy ra, lúc bấy giờ, do mối liên giao sai lầm và sự phát triển không đúng và thiếu quân b́nh, các tuyến nội tiết không hoạt động thỏa đáng; chúng không thể bảo vệ cơ thể khỏi bệnh tật và không thể tuôn đổ vào ḍng máu những ǵ mà thể xác cần đến. Do sự thiếu thích ứng của chúng, cơ thể không thể chống lại sự cảm nhiễm, nên lâm vào một t́nh trạng sức khỏe kém cỏi thường xuyên, và không thể đối phó với bệnh tật đến từ bên ngoài hoặc tiềm tàng bên trong cơ thể; sự yếu đuối này thường tạo ra bệnh nặng.

219

 
Y học trong thế kỷ tới sẽ được kiến tạo chung quanh một vài tiền đề chính:

1. Y học pḥng ngừa sẽ là mục tiêu, tạo ra nỗ lực để giữ cơ thể ở trật tự quân b́nh thích hợp.

2. Hệ thống vệ sinh tuyệt hảo và việc cung ứng các điều kiện có lợi cho sức khỏe sẽ được xem như là cốt yếu.

3. Việc cung cấp các chất hóa học đúng cho thể xác sẽ được nghiên cứu – môn hóa học vốn c̣n ấu trĩ dù là nó đang trở nên một đứa trẻ đang phát triển.

4. Việc t́m hiểu các định luật về sinh lực sẽ được xem như quan trọng hàng đầu, và về điều này, ngày nay tầm quan trọng về sinh tố và ảnh hưởng của mặt trời là các chỉ dẫn bổ ích.

5. Hơn mọi điểm khác, việc sử dụng thể trí sẽ được xét đến như là một nhân tố quan trọng chủ yếu; thể trí sẽ được xem như là có ảnh hưởng hàng đầu đối với các bí huyệt, v́ con người sẽ được dạy để tác động trên các bí huyệt của họ qua sức mạnh của thể trí, và như vậy tạo ra một phản ứng đúng nơi hệ nội tiết. Tất nhiên điều này sẽ liên quan đến việc hướng tư tưởng đến đúng một bí huyệt, hoặc rút sự chú ư ra khỏi một bí huyệt với hiệu quả tất nhiên trên hệ thống tuyến. Tất cả sẽ được dựa trên định luật huyền linh: "Năng lượng theo sau tư tưởng".

220

 
Do sự việc là các đệ tử có một phát triển năng lực trí tuệ lớn hơn là người bậc trung, và cũng do sự kiện rằng loại cung dễ xác minh hơn, tất nhiên liên quan đến sự định đoạt chính xác hơn về t́nh trạng của hệ thống tuyến, các đệ tử sẽ lần đầu tiên hợp tác với giới y học và để chứng minh sự liên quan của các bí huyệt với các tuyến, và do đó với cơ thể nói chung. Nhờ định trí và tham thiền đúng, được xúc tiến trong bí huyệt đầu, và được hướng về phía này hay phía khác của các bí huyệt, các đệ tử sẽ chứng minh các thay đổi rơ rệt trong các tuyến nội tiết, đến nỗi giới y học sẽ bị thuyết phục về sự quan trọng và sự hiện hữu thực sự của các bí huyệt và năng lượng của chúng, và cũng có thể kiểm soát các cơ quan của thể xác nhờ sức mạnh của tư tưởng. Tất cả mọi điều này đều thuộc về tương lai. Tôi chỉ nêu ra đường lối và đưa ra một kỹ thuật trong tương lai, nhờ đó bệnh tật sẽ bị khắc phục. Các trường phái tư tưởng trí tuệ khác nhau, Phong Trào Hợp Nhất và Khoa Học Cơ Đốc đă có các yêu sách kỳ lạ và không tưởng trong lối tiếp cận rơ ràng là phản khoa học của họ. Nhưng họ đă nắm giữ ít nhất là một sợi chỉ trong tiến tŕnh to tát về việc hiệu chỉnh đúng đối với sự sống và đối với các liên hệ đúng đắn. Họ có ước mơ và cái nh́n xa rộng (vision); họ thiếu nhận thức và lư trí thông thường, lại không biết ǵ về diễn tŕnh tiến hóa.

Khoa sinh lư học và sức mạnh tâm lư, cộng với sự hợp tác của đệ tử có luyện tập với y sĩ lăo luyện (đặc biệt với nhà nội tiết học đă mở trí) sau rốt sẽ thành công trong việc giải quyết nhiều bệnh của con người và sẽ mang lại việc chữa trị đa số các bệnh mà hiện giờ đang gây khó khăn cho nhân loại.

Như thế, chúng ta đă khảo cứu một vài mục đích của tiết đầu tiên: Các Nguyên Nhân Tâm Lư của bệnh tật. Chúng ta đă đưa ư kiến từ các nguyên nhân bên trong và tinh tế hơn nhiều của bệnh tật đối với yếu tố vật chất chính yếu đang chi phối, tức các tuyến nội tiết. Bây giờ, chúng ta có thể xem xét vắn tắt một vài nguyên nhân huyền linh xa hơn và bàn đến các nguyên nhân xuất phát từ cuộc sống tập thể của nhân loại, và từ các trách nhiệm nghiệp quả của nhân loại. Ở đây, chúng ta sẽ đi vào lănh vực của kiến thức huyền linh và thông tin huyền bí, và điều này sẽ khó chấp nhận hơn đối với các nhà tư tưởng chính thống.

 

ef


221

 
CHƯƠNG   II

 

CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT

TỪ CUỘC SỐNG TẬP THỂ

 

Khi xét đến bệnh tật và các nguyên nhân căn bản của nó, chúng ta đă đặc biệt bàn đến các nguyên nhân có liên quan đến giống dân Aryan và nhân loại hiện nay; các nguyên nhân này phần lớn có cội nguồn ở thể cảm dục và có thể được mô tả như là có bản chất của thời Atlantis. Chúng ta cũng đă xem xét vắn tắt về các bệnh khác nhau xuất phát từ cơi trí; chính xác hơn các bệnh này của giống dân Aryan và cũng dính líu đến các bệnh mà đệ tử có khuynh hướng mắc phải. Các bệnh truyền nhiễm và các bệnh vốn có căn bản trong chất liệu hành tinh, có một hiệu ứng mạnh mẽ trên các giống dân này (vẫn c̣n ở trong số chúng ta) vốn là bệnh xưa nhất trên hành tinh ta, và vốn có liên quan tới các giống dân Lemuria đă tàn tạ nhanh chóng; Sắc Dân Da Đen đặc biệt có khuynh hướng mắc các bệnh dịch truyền nhiễm.

Trong bộ luận này, tôi không cố thử bàn về mặt bệnh lư đối với bất cứ bệnh nào được nói đến, tôi cũng không để ư đến sinh lư học của bệnh nhân. Điều đó hoàn toàn nằm ngoài lănh vực hiểu biết của tôi. Tuy nhiên, tôi thử nêu ra cội nguồn của một số bệnh, để kêu gọi sự chú tâm đến mức tối quan trọng của hệ thống tuyến và để liên kết một cách thật đúng đắn và khôn ngoan, một vài trong số các lư thuyết Đông phương liên quan đến các bí huyệt và minh triết Tây phương. Sau này, tôi sẽ nêu ra một số t́nh trạng căn bản của con người vốn dĩ phải được thay đổi nếu việc chữa trị thực sự được áp dụng một cách chính xác và bấy giờ, tôi hy vọng đưa ra một vài phương pháp mà nhờ đó, các nhà chữa trị có thể hoàn thành công tác vốn sẽ phù hợp với các dữ kiện của trường hợp và sẽ trợ giúp trong tiến tŕnh phục hồi.

222

 
Ngày nay, vấn đề bệnh tật tăng lên mạnh mẽ, do sự việc là trong giống dân Aryan này – mà hiện giờ đang chi phối hành tinh, có sự xuất lộ đích thực đầu tiên hướng ra ngoài trên cơi trần do sự tổng hợp căn bản của nhân loại sẽ – dưới h́nh thức hoàn hảo hơn của nó – có ư nghĩa rất đặc sắc của căn chủng chính kế tiếp, căn chủng thứ sáu. Hôn nhân trong ḍng họ giữa các quốc gia và các giống dân, sự pha trộn huyết thống trong nhiều thế kỷ – do sự di dân, du lịch, giáo dục và hợp nhất trí tuệ – đă đưa đến việc không có được các kiểu chủng tộc thuần túy thực sự ngày nay. Nếu xét đến lịch sử dài đăng đẳng của con người th́ càng chắc chắn hơn, đây là trường hợp mà kẻ giác ngộ nhất nghĩ tới. Không một chướng ngại nào có thể ngăn trở sự giao phối được cả, và con người, vào thời nay, có trong ḿnh họ mọi ḍng giống và huyết thống của mọi chủng tộc, và điều này (do kết quả của thế chiến 1914–1945) sẽ là trường hợp ngày càng tăng. Sự phát triển này rơ ràng là một phần của thiên cơ, bất luận không được ưa thích ra sao đối với những kẻ lư tưởng hóa sự tinh khiết của mối liên hệ hoặc việc áp dụng thiên cơ đó khắc khe ra sao vào lúc này. Có cái ǵ đó được dự trù xảy ra và điều đó không thể tránh được. Việc thôi thúc để kết đôi đặc biệt trở nên mạnh mẽ khi con người tách ra khỏi các khung cảnh quen thuộc và trải qua sự mới lạ của việc cô độc hoàn toàn, khi các sự ức chế b́nh thường và các tục lệ được đặt ra bởi các liên hệ gia đ́nh và các tiêu chuẩn quốc gia được tách ra, khi mối nguy hiểm của sự chết được đương đầu thường xuyên, và giá trị lớn áp đảo được các giá trị nhỏ, và các thái độ dựa trên tập tục thông thường, và khi cơ thể vật chất được luyện tập và thúc đẩy bằng lối trị liệu có khoa học, và việc bảo dưỡng đầy đủ đem lại hiệu quả cao về mặt thể chất. Tôi đang nói đến hiệu quả về vật chất chớ không phải hiệu quả về trí tuệ, hiệu quả trí tuệ có thể hay không thể song hành với hiệu quả vật chất.

223

 
Do đó các bản năng thú tính mạnh lên; các bí huyệt dưới cách mô trở thành bị kích hoạt một cách đặc biệt; các nhu cầu t́nh cảm mang lại sinh khí rất nhiều cho huyệt đan điền, c̣n bí huyệt ở chót xương sống làm tăng hoạt động của các tuyến thượng thận khi ư chí của con người được huy động để vượt qua nguy hiểm; ư-chí -muốn-sống với phần phụ thuộc của nó là ư-muốn-được-thường-tồn (will-to-perpetuate) và sống trong tuổi thanh xuân, được nuôi dưỡng một cách mạnh mẽ. Với vai tṛ là một bổ sung chính của nỗ lực lớn, cũng nên thêm vào việc này ư chí của chính Thiên Nhiên đang tác động (theo một số luật thiêng liêng) để hóa giải nỗi thiệt tḥi của sự sống và các tổn thất do chiến tranh bằng một luồng sinh khí mới mẻ đi vào h́nh hài, như vậy, duy tŕ ṇi giống con người, cung cấp các thể cho trào lưu chân ngă kế tiếp và như vậy làm tăng con người trên địa cầu.

Khi nói đến điều này, tôi chỉ t́m cách giải thích hiện tượng vốn có thể được ghi nhận vào mọi lúc khi chiến tranh xảy ra và trong thế chiến, nó có thể được ghi nhận ở một mức độ rộng lớn. Các đạo quân của thế giới có ở khắp nơi và trải rộng khắp mọi xứ; sự di trú của nhân loại là một yếu tố phổ cập, cả về khía cạnh nhu cầu quân sự, lẫn cảnh ngộ của người dân thường, tức là những kẻ thấy chính ḿnh ở vào con đường của chiến tranh. Phong trào này của hàng triệu người ở khắp nơi là một trong các yếu tố tối thượng sẽ chi phối nền văn minh mới và tầm quan trọng của nó được dựa trên sự kiện là trong thời gian hai mươi lăm năm, cả nam lẫn nữ sẽ là một chủng tộc lai mà cha mẹ của chủng tộc này sẽ thuộc về mọi quốc gia có thể tưởng tượng được. Những người cha da trắng sẽ có mối liên quan vật chất với phụ nữ thuộc mọi nguồn gốc Á châu hoặc Phi châu, như vậy, tạo ra sự pha trộn huyết thống mà – nếu được nhận thức và vận dụng, phát triển đúng, từ khía cạnh giáo dục và với sự hiểu biết – sẽ biểu lộ bản chất của căn chủng thứ 6 ở giai đoạn phôi thai, và sẽ thật sự là Nhân Loại mà không có sự ngăn cách nào về chủng tộc hoặc quốc gia với không có cái gọi là huyết thống thuần chủng và các đẳng cấp đặc thù, và với một ư nghĩa mới mẻ, hùng tráng của sự sống, bởi v́ việc truyền lại ḍng dơi mạnh mẽ hơn với kẻ yếu đuối hoặc các kiểu mẫu bị kiệt quệ và của

224

 
các ḍng giống chủng tộc mới mẻ hơn với cái cũ hơn và phát triển hơn. Tôi không ủng hộ cho cách mà điều này đang được tạo ra. Nó có thể xảy ra mà không có chiến tranh và nhờ một sự tin chắc rằng tất cả mọi người đều như nhau, và con người, cùng với sự pha trộn các chủng tộc sẽ giải quyết được nhiều vấn đề. Tuy nhiên, chiến tranh đă hối thúc diễn tŕnh và các chiến sĩ của mọi đạo quân trên thế giới đều đang có các liên quan thể xác với phụ nữ thuộc mọi chủng tộc, mọi nền văn minh và mọi sắc thái. Dù được xem là đúng hay sai đi nữa, điều này phải tùy vào qui tắc luân lư và tŕnh độ của kẻ quan sát, tạo ra một t́nh trạng hoàn toàn mới mẻ, mà thế giới tương lai sẽ phải đối phó với t́nh trạng này. Điều đó tất nhiên sẽ làm sụp đổ các thành kiến quốc gia và các bức tường chủng tộc – cái trước tạo ra nhiều hiệu quả hơn cái sau trong các giai đoạn mở đầu. Hiển nhiên là một nhân loại đồng nhất hơn sẽ xuất hiện trong các thay đổi của một trăm năm sắp tới. Nhiều phong thái và nhiều phản ứng theo thông thường mà ngày nay đang chế ngự sẽ biến mất, và các kiểu mẫu cùng các tính chất và đặc điểm mà nhờ đó chúng ta có được cho đến nay, chưa bao giờ xuất hiện từ trước đến giờ trên một mức độ rộng lớn.

Dù cho những kẻ bảo thủ và những kẻ được gọi là "đạo đức" một cách cứng nhắc chán ghét, biến cố toàn cầu này không có liên quan ǵ đến trường hợp đó. Điều đó đă xảy ra và đang xảy ra hằng ngày và sẽ mang lại, về phương diện vật chất các thay đổi rộng lớn. Các liên hệ giữa chủng tộc và được phối hợp này luôn luôn xảy ra ở một mức độ nhỏ và cá biệt; hiện nay, chúng đang xảy ra ở một mức độ rộng lớn. Đối với các kết quả này, cần phải được chuẩn bị đúng mức.

Như các bạn đă biết, có một vài bệnh đang vượt trội về số lượng trên thế giới ngày nay. Đó là:

1. Đủ loại bệnh tim, đặc biệt tác động vào nhân loại tiến hóa.

225

 
2. Bệnh điên

3. Ung thư rất thường thấy trong mọi hạng người ngày nay.

4. Các bệnh xă hội – bệnh giang mai trong thiên nhiên.

5. Bệnh lao.

Dưới h́nh thức tinh anh và huyền bí, các bệnh này là do hai nguyên nhân căn bản sau: một nguyên nhân là sự tương tác chặt chẽ giữa con người sống với các điều kiện hiện tại và đông đảo con người hợp thành các đô thị và thành phố; nguyên nhân kia là tuổi của đất mà con người sống trên đó (một sự kiện ít được nhận biết hay xem xét) v́ nó ăn sâu với các mầm mống và cặn bă gắn liền với các thời đại đă qua. Sự miễn nhiễm của con người là một vấn đề đáng ngạc nhiên, có thể bạn chỉ mới hiểu nó; con người chống lại và thường xuyên cũng như luôn luôn loại bỏ mọi loại bệnh tật – các bệnh vốn là kết quả của việc tiếp xúc với những kẻ khác, những bệnh vốn thường thấy trong chính bầu khí quyển vào mọi thời, những bệnh tiềm tàng bên trong chính cơ thể và những bệnh bị kế thừa, và đối với bệnh đó, con người luôn luôn có khuynh hướng mắc phải. Cuộc đấu tranh v́ sức khỏe của con người vẫn không ngừng nghỉ và không kết thúc, được xếp thành nhiều loại, từ sự mệt mỏi thông thường và sự mệt nhọc (cộng với khuynh hướng chung là cảm lạnh) đến bệnh nặng, chấm dứt bằng cái chết.

226

 
Đối với nhà quan sát lăo luyện của huyền môn, có thể là nhân loại – nói chung – đang phần nào bước trong bóng tối dày đặc đang nhận ch́m nhân loại, và một vài nơi có liên quan đến một vùng của cơ thể của mọi người. Một trong các mục tiêu của Kỷ Nguyên Mới sẽ là "soi sáng bóng tối này và đưa con người đi vào t́nh trạng thích hợp của sức khỏe đích thực". Cũng bóng tối này thâm nhập vào giới khoáng chất, ảnh hưởng đến giới thực vật và cũng liên quan đến giới động vật. Đó là một trong các nguyên do chính của tất cả những ǵ có thể được xét dưới danh xưng "tội lỗi" mà có thể làm cho bạn ngạc nhiên. Đó cũng là hạt giống tốt của tội ác. Đây là một sự kiện từng được chấp nhận, xem xét một cách thích hợp và bàn đến dựa trên lư trí, lành mạnh, sáng suốt và thiên về tinh thần; nó sẽ đ̣i hỏi mọi yếu tố cần ghi nhớ để nâng con người ra khỏi bóng tối của bệnh tật, vào t́nh trạng sức khỏe được ổn cố và rạng rỡ. Một vài Chân Sư đang giải quyết vấn đề này trong mối liên hệ với các giới khác trong thiên nhiên, v́ sẽ không có sự vượt thoát thật sự nào đối với con người trong khi môi trường của y vẫn c̣n ở dưới bóng của bệnh tật.

Phần nhiều những ǵ mà tôi có thể nói với bạn về mối liên hệ này sẽ có vẻ tưởng tượng và sẽ gây ra sự chế giễu đùa cợt của nhà khoa học sắt đá. Các lư thuyết mà nhân loại đưa ra về cội nguồn của bệnh tật và việc nhận thức về vi khuẩn , về mầm bệnh và các cơ cấu xâm nhập tương tự đều đúng phần lớn, nhưng điều này chỉ đúng như thế nếu bạn nhớ rằng thực ra, chúng là hậu quả của các nhân mà nhà t́m ṭi không đá động tới và c̣n ẩn tàng trong chính lịch sử của chính hành tinh, và cũng trong lịch sử của con người của quá khứ – mà rất ít người được biết hay thực tế không được biết tới. Ở đây chỉ là sự ước đoán, phỏng chừng.

1. CÁC BỆNH CỦA NHÂN LOẠI, KẾ THỪA TỪ QUÁ KHỨ

     Theo khảo cứu ngày nay, lịch sử đi lùi chỉ một ít và mặc dù sử gia và nhà khoa học giác ngộ có thể nới rộng lịch sử của nhân loại đến nhiều triệu năm, không một ai biết về các giống dân đă sống cách đây nhiều triệu năm; không ai biết ǵ về nền văn minh đă phồn thịnh vào đầu thời Atlantis cách đây 12 triệu năm; không ai biết được chút xíu nào về nền văn minh cổ Lemuria, vốn dĩ đi lùi trở lại hơn 15 triệu năm; vẫn c̣n ít ai biết về giai đoạn tranh tối, tranh sáng có cách đây 21 triệu năm khi con người vừa mới làm người, và khi họ c̣n liên hệ mật thiết với giới động vật mà chúng ta gọi họ bằng danh xưng vụng về là "người thú" ("animal – man").

227

 
Trong giai đoạn rộng lớn giữa lúc ấy và hiện nay, vô số người đă sống, yêu thương và học hỏi kinh nghiệm; các thể  xác của họ đă nhập thành cát bụi của địa cầu và mỗi người đă đóng góp một cái ǵ mà họ đă thu thập được trong kinh nghiệm sống – tuy nhiên, có một cái ǵ đó khác với những ǵ mà họ đóng góp cho sự sống của linh hồn trên cơi riêng của nó. Điều được đóng góp này đă biến đổi theo cách nào đó thành các nguyên tử và tế bào của thể xác, và cái được thu thập đó chẳng chóng th́ chầy, được phóng thích trở lại vào trong đất của hành tinh. Mỗi linh hồn, khi triệt thoái khỏi xác thân, đă đến địa cầu nhiều lần liên tiếp, và nhiều triệu linh hồn hiện nay đang ở đây, đặc biệt là những linh hồn hiện hữu vào cuối thời Atlantis, và do đó, họ là tinh hoa và sản phẩm cao nhất của giống dân có nhiều t́nh cảm đó. Họ đem theo với họ các tố bẩm (predispositions, bản chất dễ mắc bệnh) và các khuynh hướng bẩm sinh mà lịch sử đă qua của họ đă phú cho họ.

Do đó, cần ghi nhớ rằng các xác thân mà hiện nay con người khoác lấy, được kiến tạo bằng vật chất rất cổ xưa, và chất liệu được dùng đó đă bị nhiễm bệnh hay bị chi phối bởi lịch sử của quá khứ. Phải đưa thêm hai ư khác vào ư tưởng này: thứ nhất, các linh hồn mới đến tự thu hút loại vật chất mà họ phải kiến tạo các thể bên ngoài của họ, và điều này sẽ được đáp ứng đối với khía cạnh nào đó của các bản chất tinh anh hơn của họ. Thí dụ, nếu ước muốn vật chất chi phối họ, chất liệu của thể xác họ sẽ được đáp ứng phần lớn với thôi thúc đặc biệt đó. Thứ hai, mỗi thể xác mang theo bên trong nó các mầm mống trừng phạt tất yếu, nếu các chức năng của nó bị dùng sai. Tội lỗi lớn lao đầu tiên ở thời Lemuria có bản chất là tính dục và phần lớn không chỉ do các khuynh hướng cố hữu, mà c̣n do mật độ dân số quá nhiều của nền văn minh thời ấy và do sự liên quan chặt chẽ đối với giới động vật. Nguồn gốc của các bệnh giang mai truy nguyên từ các thời này.

228

 
Có một ư tưởng tốt đẹp trong trí của người vô minh, đó là các giống dân nguyên thủy đều thoát khỏi loại ô nhiễm đó, c̣n nhiều bệnh tính dục và hậu quả của chúng đều hầu hết là các bệnh của t́nh trạng văn minh. Không phải như thế theo khía cạnh nhăn quang huyền bí. Hiểu biết chính xác bác bỏ điều đó. Trong thời ấu trĩ của nhân loại, có sự hỗn giao lớn, t́nh trạng hỗn tạp tính dục và hàng loạt các đồi trụy xảy ra, và trong ngôn ngữ của một số sách cổ nhất thuộc Văn Khố của các Thánh sư, chúng ta đọc thấy: "Địa cầu chịu tổn thất lớn và đất đai bị ô nhiễm và không tinh khiết, trở lại với địa cầu; như vậy, sự sống tệ hại tiến nhập vào t́nh trạng tinh khiết cổ sơ của bà mẹ xưa. Ở sâu trong ḷng đất có ẩn tàng tà lực, thỉnh thoảng lộ ra trong h́nh hài, chỉ có lửa và đau khổ mới có thể thanh tẩy bà mẹ của tà lực mà các con của bà đă mang lại cho bà".

Giống dân Lemuria hầu như đă tự hủy diệt ḿnh, do bởi việc lạm dụng bí huyệt xương cùng, mà vào lúc đó là huyệt linh hoạt nhất và quan trọng nhất. Vào thời Atlantis, chính huyệt đan điền mới là mục tiêu quan yếu nhất của "luồng hỏa đi vào". Như tôi đă có nói ở nơi nào đó, công việc của Thánh Đoàn vào thời Lemuria là giảng dạy cho nhân loại c̣n ấu trĩ hiểu được bản chất, tầm quan trọng và ư nghĩa của thể xác, cũng như trong giống dân kế tiếp, t́nh cảm được bảo dưỡng và là mục tiêu chú tâm chính yếu, c̣n trong giống dân của chúng ta, chính thể trí bị lệ thuộc vào sự kích thích. Điểm đạo đồ thời Lemuria là kẻ đă hoàn toàn chế ngự được việc kiềm chế thể xác, và Hatha-yoga, lúc bấy giờ là sự thực hành tâm linh nổi bật. Theo thời gian, môn này được Laya-yoga thay thế, chính Laya-yoga đă đưa mọi bí huyệt trong thể dĩ thái (trừ bí huyệt cổ họng và bí huyệt đầu) đi vào hoạt động. Đây không phải là loại hoạt động đang có hiện nay, bởi v́, nên nhớ rằng, vào thời ấy Chân Sư chưa có được sự phát triển hay là sự hiểu biết của các Chân Sư ngày nay, các ngoại lệ duy nhất là các Ngài đến từ các hệ thống và bầu hành tinh khác để giúp đỡ người thú và nhân loại sơ khai.

A. CÁC BỆNH HOA LIỄU VÀ GIANG MAI

229

 
Song song với mọi hoạt động của Thánh Đoàn (luôn luôn xảy ra trường hợp này và là trường hợp ngày nay) là hoạt động của các tà lực. Các hậu quả của chúng xảy ra qua bí huyệt xương cùng, và như vậy t́nh trạng tệ hại nhất xảy đến làm suy yếu sức chịu đựng của cơ thể người, vốn làm tăng mạnh thêm các đ̣i hỏi của bản chất tính dục do sự kích thích của bí huyệt xương cùng, xảy đến một cách giả tạo bởi Tà Môn (Black Lodge) và nó đă tạo ra nhiều liên minh nguy hại và các liên hệ xấu xa lan rộng.

Một định luật vĩ đại mới của thiên nhiên lúc bấy giờ do Đức Hành Tinh Thượng Đế đặt ra, đă bị diễn đạt (rất là thiếu sót) bằng các từ "Linh hồn đă phạm tội, nó sẽ diệt vong". Định luật này có thể được diễn đạt rơ ràng hơn bằng cách nói "Kẻ nào lạm dụng những ǵ mà ḿnh đă tạo ra, kẻ ấy sẽ chứng kiến nó sụp đổ do các sức mạnh trong chính nó".

Theo nhiều thế kỷ trôi qua, và giống dân Lemuria quy phục các xung lực tà của phàm ngă, dần dần loại bệnh hoa liễu có trước tiên đă xuất hiện, sau rốt toàn thể nhân loại bị lây bệnh đó và tàn tạ đi, thiên nhiên chịu tổn thất lớn và rút ra được một cái giá không thể lay chuyển của nó. Ở đây bạn có thể thắc mắc làm thế nào mà các cư dân đầu tiên này của hành tinh chúng ta có thể chịu trách nhiệm v́ không có tội lỗi khi mà không có ư thức trách nhiệm và không cố ư để làm sai. Vào thời đó, Thánh Đoàn đă có các phương pháp giảng dạy riêng cho con người c̣n ấu trĩ này, cũng như đứa bé nhỏ nhất ngày nay có thể được dạy để cố nhịn một vài thói quen của thể xác. Nhân loại lúc bấy giờ biết rơ những ǵ tệ hại, bởi v́ các chứng cớ của tệ hại đó rất rơ về mặt vật chất và hoàn toàn nhận thức được dễ dàng. H́nh phạt là điều hiển nhiên và các kết quả đến tức thời; các Huấn Sư của nhân loại đă đảm bảo chắc chắn rằng nhân và quả được nhanh chóng ghi nhận.

Lúc đó cũng xuất hiện các khuynh hướng đầu tiên hướng về hôn nhân, như để phân biệt với t́nh trạng t́nh dục bừa băi; việc thành lập các đơn vị gia đ́nh đă trở nên vấn đề được chú ư, và là mục tiêu đối với những người tiến hóa cao nhất. Đây là một trong các nhiệm vụ đầu tiên mà Thánh Đoàn đảm nhận, và là cố gắng đầu tiên hướng về bất luận h́nh thức hoạt động tập thể nào, truyền đạt bài học đầu tiên về tinh thần trách nhiệm. Đơn vị gia đ́nh không ổn định như ngày nay, nhưng ngay cả sự chiếm hữu tương đối ngắn của nó đă là một bước tiến kỳ diệu. Sự phân chia của đơn vị gia đ́nh và sự phát triển ư thức trách nhiệm đă tiến tới vững vàng cho đến khi nó đạt được tột đỉnh trong hệ thống hôn nhân hiện tại của chúng ta, và sự nhấn mạnh của chúng ta ở phương Tây về sự đơn hôn; điều đó đă đưa tới mối hănh diện của Tây phương trong các khuynh hướng và các phổ hệ gia đ́nh, sự chú tâm của chúng ta vào các khoa phổ hệ và các mối liên quan, và sự khiếp sợ hoàn toàn của nhà tư tưởng Tây phương về các bệnh hoa liễu khi chúng tác động vào gia đ́nh và con cháu của họ.

230

 
Tuy nhiên, có hai điều lư thú nhất đang xảy ra ngày nay. Trên một mức độ rộng lớn, đơn vị gia đ́nh đang bị găy vỡ, do các may rủi của chiến tranh, và – ở một mức độ nhỏ hơn – do các quan điểm hiện đại ngày càng nhiều liên quan đến hôn nhân và ly dị. Thứ hai là các cách chữa trị rơ rệt và nhanh chóng đối với các bệnh về tính dục đang được khám phá, và các điều này có thể có khuynh hướng làm cho con người liều lĩnh hơn. Tuy nhiên, khi trở nên hoàn thiện, rốt cuộc là chúng sẽ che chở cho nhân loại và sẽ hoàn lại cho đất đai các thể xác sau khi chết, thoát khỏi tai họa vốn đă làm lây nhiễm địa cầu trong không biết bao nhiêu thời đại. Như vậy, sẽ mang lại sự thanh lọc từ từ cho đất đai. Tăng gia việc thực hành hỏa táng cũng sẽ giúp vào tiến tŕnh thanh lọc này. Thiêu hủy nhờ lửa và sức nóng cao độ được tạo ra bằng cách dùng các phương pháp quân sự cũng có tính cách trợ giúp, và trong một triệu năm sắp tới, chúng ta sẽ thấy bệnh giang mai (truyền lại từ thời Lemuria) biến mất cả trong nhân loại lẫn trong đất đai của hành tinh.

231

 
Theo các kỷ nguyên qua, nhân loại tiến vào giai đoạn phát triển thời Atlantis. Cách kiểm soát hữu thức của thể xác rơi xuống dưới ngưỡng tâm thức; kết quả là, thể dĩ thái trở nên mạnh hơn (một sự kiện thường không được nghĩ đến) và thể xác phản ứng ngày càng giống như một người máy đối với ấn tượng và phương hướng của một bản chất dục vọng đang phát triển đều đặn. Dục vọng đă trở thành một điều ǵ nhiều hơn là chỉ đáp ứng với các thôi thúc thú tính vật chất và đáp ứng với các bản năng nguyên thủy, nhưng được hướng đến các đối tượng và các mục tiêu bên ngoài đối với cơ thể, về phía các tài sản vật chất và về phía những ǵ mà (khi được nh́n thấy và thèm thuồng) có thể được chiếm hữu. Cũng như các tội lỗi lớn vào thời Lemuria (nếu chúng có thể được gọi là tội lỗi theo bất cứ ư nghĩa đích thực nào bởi v́ trí tuệ của nhân loại c̣n thấp thường là do lạm dụng tính dục, thế nên, tội lỗi lớn của con người thời Atlantis là trộm cắp, lan rộng khắp nơi. Các mầm giống của sự xâm lược và của tính hám lợi cá nhân đă bắt đầu tự biểu lộ, lên đến cực điểm trong kỳ đại chiến (như có nhắc đến trong Giáo Lư Bí Nhiệm) giữa các Tinh Quân Bạch Diện với các Tinh Quân Hắc Diện. Để giành được cái mà họ thèm khát và cảm thấy cần, những người tiến hóa cao nhất của giống dân đó bắt đầu thực hành ma thuật. Tôi không thể phác thảo cho bạn bản chất và các thực hành ma thuật thời Atlantis với sự kiềm chế của thuật đó đối với các tinh linh (elementals) và đối với các h́nh thức sự sống mà hiện nay đă được rút trở lại và nhân loại không thể tiếp xúc được. Tôi cũng không thể chỉ cho bạn các phương pháp đặc biệt được dùng để thu lượm những ǵ được ưa thích, các Quyền Lực Từ được sử dụng và các nghi lễ được hoạch định một cách cẩn thận mà những kẻ t́m cách tự làm phong phú đă theo đuổi và chiếm hữu những ǵ mà họ muốn có, bất kỳ thiệt hại ra sao cho kẻ khác. Ma thuật này là sự bắt chước sai hướng của Huyền linh thuật được sử dụng rất công khai vào thời đó, trước khi có trận chiến dữ dội giữa các Quang Minh Lực và các Tà Lực. Ma thuật thuộc loại đúng đắn th́ rất quen thuộc đối với người Atlantis, và được các Thành Viên trong Thánh Đoàn sử dụng, các Đấng này được giao phó cho việc dẫn dắt nhân loại và các Ngài đang chiến đấu với tà lực lan tràn ở nơi cao. Cùng loại tà lực đó lại sẵn sàng gây sự và bị những người có thiện chí chống trả, dưới sự hướng dẫn của Thánh Đoàn. Vào thời Atlantis, sự xa hoa đạt tới tột đỉnh, mà với nền văn minh quá khoa trương của chúng ta, chúng ta không biết ǵ hết và không bao giờ đạt tới được. Một vài dấu vết mờ nhạt về việc đó đă đến với chúng ta do các truyền thuyết và từ thời Cổ Ai Cập, do các khám phá của khảo cổ học và các thần thoại cổ xưa. Có một sự tái diễn mối nguy hại thuần túy thời Atlantis và nguy cơ vào những ngày suy đồi của Đế Quốc La Mă. Sự sống trở nên bị ô nhiễm bởi khí độc của sự hoàn toàn ích kỷ và chính các con suối của sự sống cũng trở nên bị ô nhiễm. Nhiều người chỉ sống để hưởng thụ xa hoa cực điểm và có của cải vật chất quá thừa thăi. Họ bị phủ kín bởi dục vọng và bị phiền hà bởi giấc mơ không bao giờ chết mà muốn sống măi măi, tóm thu được ngày càng nhiều tất cả những ǵ mà họ ước muốn.

232

 
B. BỆNH LAO (Tuberculosis)

Chính ở trong t́nh trạng này mà chúng ta t́m được cội nguồn bệnh lao. Nó bắt nguồn nơi các cơ quan mà con người thở và sống, và được đặt ra – như là một h́nh phạt – bởi Thánh Đoàn. Các Thánh Sư ban bố một luật mới cho giống dân Atlantis khi mà thói xấu của dân Lemuria và tính tham lam của dân Atlantis đến mức độ thô bạo nhất. Luật này có thể được diễn dịch như sau: "Kẻ nào chỉ sống v́ của cải vật chất, hy sinh mọi đức hạnh để lấy những ǵ không thể trường tồn, kẻ ấy sẽ chết trong khi sống, sẽ thấy sinh khí (breath) mất dần nơi y, và tuy thế, không chịu nghĩ đến cái chết cho đến khi có sự triệu hồi".

233

 
Ngày nay, chúng ta khó mà đánh giá hay hiểu được trạng thái tâm thức của dân Atlantis. Không hề có tiến bộ trí tuệ nào cả, ngoại trừ trong số các vị lănh đạo của nhân loại; chỉ có dục vọng lan tràn, thô bạo, không thể thỏa măn được. Hành động này của Thánh Đoàn đă mở ra hai lối thoát và đă đặt nhân loại trước hai vấn đề mà từ trước đến nay vẫn chưa hiểu được. Thứ nhất là thái độ tâm lư và trạng thái tâm thức có thể và chắc chắn đưa tới các t́nh trạng sinh lư, cả hai đều tốt lẫn xấu. Thứ hai là lần đầu tiên, con người đối diện với sự nhận thức về hiện tượng của sự chết – cái chết mà chính họ làm cho xảy ra bằng một cách thức mới chớ không chỉ bằng phương tiện vật chất. Điều này đă bị bi thảm hóa đối với họ theo một vài cách thức khách quan rơ rệt, v́ cho đến nay, quần chúng không đáp ứng với việc giảng dạy bằng lời nói, mà chỉ đáp ứng với các biến cố thấy được. Do đó, khi họ thấy một người tàn bạo và tham lam bắt đầu chịu đau đớn do một bệnh tệ hại mà dường như xuất phát từ trong chính người đó, và – trong lúc đau khổ – bám chặt vào ḷng khát sống của ḿnh (như kẻ bị bệnh lao ngày nay đă làm) họ đương đầu với một khía cạnh hay h́nh thức khác của luật nguyên thủy (được đặt ra vào thời Lemuria), với phát biểu: "Linh hồn nào phạm tội, nó sẽ tử vong". Cái chết từ lâu đă được chấp nhận mà không bị chất vấn như là số phận của mọi vật sống, nhưng nay, lần đầu tiên, mối liên hệ trí tuệ giữa hành động cá nhân với cái chết đă được hiểu rơ – cho đến nay chỉ bằng cách lờ mờ và yếu ớt – và một giai đoạn tiến tới trọng đại được tạo ra trong tâm thức nhân loại. Bản năng không dùng được trong t́nh trạng này.

Hỡi huynh đệ, cái chết là một di sản lớn và chung; mọi h́nh hài đều chịu tử vong, v́ đó là luật của sự sống, quả là nghịch lư. Thời cơ đă đến khi nhân loại có thể được dạy bài học, đó là cái chết có thể hoặc là kết thúc một chu kỳ và là một sự đáp ứng tự động đối với Đại Luật Chu Kỳ, luật này luôn luôn thiết lập cái mới và kết thúc cái cũ, hoặc là nó có thể được tạo ra do sự lạm dụng xác thân, do năng lượng bị dùng sai, và do hành động cố ư của chính con người. Kẻ nào cố t́nh phạm tội và kẻ nào sai lầm về mặt tâm lư trong các thái độ và các hành động do sai sót đó của ḿnh, kẻ ấy phạm tội tự tử thực sự giống như kẻ cố t́nh bắn vào đầu ḿnh. Điều này ít khi được hiểu rơ, nhưng sự thực sẽ trở nên ngày càng hiển nhiên hơn.

234

 
Huấn lệnh của Thánh Kinh nhắc nhở rằng con cái sẽ bị trừng phạt v́ tội lỗi của ông cha, là một phát biểu theo nghĩa đen, liên quan đến sự kế thừa bệnh tật của nhân loại từ thời Lemuria và Atlantis. Bệnh hoa liễu và bệnh lao thường thấy bành trướng trong nửa đầu của giống dân Aryan, chính chúng ta hiện nay cũng thuộc về giống dân đó, và ngày nay, chúng không những chỉ tác động vào các cơ quan sinh sản hoặc là hai phổi (như chúng đă tác động vào các giai đoạn đầu khi chúng xuất hiện) nhưng hiện nay, đă liên quan tới ḍng máu và tất nhiên là toàn bộ cơ quan của con người.

Nhiều điều đă được thực hiện trong 50 năm qua để đưa bệnh lao lan tràn thời Atlantis vào sự kiềm chế bằng cách sống đơn giản, thức ăn trong sạch dồi dào, không khí trong lành. Sau cùng, nhiều điều đă được thực hiện để kiềm chế các bệnh giang mai, và cả hai bệnh này, sau rốt sẽ bị xóa sổ, không những chỉ bằng sự chữa trị lành mạnh và các khám phá của y khoa mà c̣n v́ nhân loại – khi nhân loại trở nên an trụ vào thể trí nhiều hơn – sẽ tự đối phó với vấn đề theo khía cạnh lương tri, sẽ quyết định rằng các tội lỗi vật chất đ̣i hỏi h́nh phạt quá nặng nề, và rằng việc sở hữu những ǵ mà bạn không kiếm được hay cần đến, và tất nhiên không chính đáng là của bạn, đều không đáng làm.

235

 
Chính là quanh các ư tưởng căn bản này mà trận thế chiến (1914 – 1945) xảy ra. Chúng ta gọi việc chiếm hữu bất hợp pháp đất đai, lănh thổ, tài nguyên và tài sản của dân tộc khác là sự xâm lược, nhưng cùng nguyên tắc, đây là điều cũng giống như cướp giựt, trộm cắp, cưỡng đoạt. Ngày nay, các tệ trạng này không những chỉ là các tội ác và lầm lỗi của cá nhân, mà có thể là các đặc điểm của quốc gia; trận thế chiến đă gây ra toàn thể vấn đề đối với mặt ngoài của tâm thức nhân loại, và cuộc đấu tranh của dân Atlantis cổ đang được tiến hành một cách cay đắng, với điều chắc chắn là lần này, Thánh Đoàn sẽ thắng. Trường hợp này không xảy ra trong cuộc xung đột trước kia. Lúc bấy giờ, cuộc chiến kết thúc nhờ sự can thiệp của chính Hành Tinh Thượng Đế, và rằng, nền văn minh cổ sẽ rơi vào vực thẳm, bị ch́m đắm trong nước – biểu tượng của sự tinh khiết, hệ thống vệ sinh và tính phổ quát do đó thích hợp như là một kết thúc đối với những ǵ mà một Thánh Sư đă gọi là "một nhân loại bị hướng về bệnh lao". Chết đuối và chết bằng các phương tiện vật chất mờ ám mà tôi không được tự do mô tả, cả hai đều đă được thử thách trong nỗ lực để cứu giúp nhân loại. Ngày nay, chết v́ lửa là kỹ thuật được dùng, và nó hứa hẹn sẽ thành công. Trái ngược với các cuộc khủng hoảng lớn lao thời Lemuria và Atlantis, hiện nay, nhân loại có trí tuệ linh hoạt hơn nhiều, các nguyên nhân của đau ốm đă được nhận ra, các động lực được nhận thấy một cách rơ ràng hơn, ư-chí-hành-thiện và muốn thay đổi các t́nh trạng tệ hại trong quá khứ lại mạnh hơn bất cứ lúc nào từ trước đến giờ. Những ǵ đang bắt đầu biểu lộ hiện nay trong ư thức quần chúng là một cái ǵ hoàn toàn tốt và mới mẻ.

236

 
Các lư do bên trong được đưa ra để giải thích sự xuất hiện của hai bệnh cổ xưa nhất của nhân loại, có thể thấy được rơ ràng đối với người không biết huyền bí học, v́ có thể nhưng không chắc chắn và có bản chất như là hoang tưởng và quá tổng quát. Điều này không thể giúp ích ǵ cả. Cả hai nhóm bệnh này có cội nguồn cực kỳ cổ xưa đến nỗi tôi đă gọi là chúng có sẵn trong chính sự sống của hành tinh và di sản của toàn nhân loại, v́ tóm lại, việc vi phạm một số luật sẽ đưa tới các bệnh này. Nếu tôi quan tâm để làm như thế, tôi có thể đưa bạn lùi lại xa hơn vào lănh vực của tà lực vũ trụ khi nó thịnh hành trong thái dương hệ chúng ta và tác động vào Hành Tinh Thượng Đế, Đấng vẫn c̣n được liệt kê trong số "các Thượng Đế chưa toàn hảo"("the imperfect Gods"). H́nh thức bên ngoài của hành tinh mà qua đó Ngài tự biểu lộ, được thấm nhuần ở một độ sâu nào đó với các hạt giống và các mầm mống của hai bệnh này. Tuy nhiên, khi sự miễn nhiễm được tạo ra, khi các phương pháp chữa trị đă phát triển, khi y khoa pḥng ngừa xuất hiện, và khi chính con người đạt đến chỗ tăng tiến, trí tuệ và linh hồn kiềm chế được phàm ngă và bản chất dục vọng, th́ các h́nh thức đau khổ này của con người sẽ biến mất, và (dù cho khoa thống kê có thể nói ǵ đi nữa), chúng đang tan biến trong đám các vùng đă được kiềm chế của gia đ́nh nhân loại. Khi sự sống của Thượng Đế (tự biểu lộ như thiên tính cá nhân và thiên tính vũ trụ) rung động nhịp nhàng mạnh mẽ hơn qua các giới của thiên nhiên, cả hai h́nh phạt của hành động sai trái này tất nhiên không cần đến nữa và sẽ biến mất v́ ba lư do:

1. Việc định hướng của nhân loại về phía ánh sáng đang từ từ thay đổi và "ánh sáng xua tan mọi tệ trạng". Ánh sáng của tri thức và việc nhận biết các nguyên nhân sẽ mang lại các t́nh trạng đă được hoạch định một cách thận trọng này sẽ làm cho bệnh giang mai và bệnh lao trở thành những sự việc của quá khứ.

2. Các bí huyệt dưới cách mô sẽ tùy thuộc vào tiến tŕnh thanh lọc, nâng cao; sự sống của các bí huyệt xương cùng sẽ được kiềm chế và năng lượng thường được tập trung ở đó sẽ được vận dụng trong cách sống sáng tạo, nhờ bí huyệt cổ họng. Huyệt đan điền sẽ nâng năng lượng của nó lên tim, khuynh hướng ích kỷ của con người lúc bấy giờ sẽ tàn tạ.

3. Việc chữa trị đầy đủ, được khoa học thực thi, sẽ làm cho sự lây nhiễm tan biến dần.

237

 
Một lư do khác sẽ đưa tới việc ngưng lại các thực hành và cách sinh hoạt, và ước vọng vốn giải thích cho các bệnh này, cho đến nay, là một điều ít được nhận biết; nó được Đức Christ nhắc đến khi Ngài nói về thời kỳ mà không có một bí mật ǵ có thể được giữ kín, và khi mọi bí mật sẽ được công bố rộng răi. Việc tăng tiến ghi nhận viễn cảm và các quyền năng tâm thông như là nhăn thông, nhĩ thông, sau rốt sẽ có khuynh hướng giúp nhân loại tách rời tội lỗi. Các quyền năng mà nhờ đó các Thánh Sư và các điểm đạo đồ cao cấp có thể xác định trạng thái tâm thông và t́nh trạng vật chất, tính chất và tâm thức của nhân loại, đă đang bắt đầu tự biểu lộ trong nhân loại tiến hóa. Con người sẽ phạm tội, vướng vào các hành vi sai trái và làm thỏa măn dục vọng quá đáng, nhưng bạn bè họ sẽ nhận thấy, và không điều ǵ mà họ làm sẽ c̣n được giữ bí mật nữa. Một người hoặc một nhóm nào đó sẽ biết đến các khuynh hướng trong đời sống của một người, và ngay các việc trong đó y làm thỏa măn đ̣i hỏi nào đó của phàm ngă y, và sự kiện về khả năng này sẽ tác động như là một cản trở lớn – một cản trở c̣n lớn hơn là bạn có thể tưởng tượng. Con người thực sự là kẻ trông nom của huynh đệ ḿnh (brother's keeper) và sự trông giữ sẽ khoác lấy h́nh thức của hiểu biết và của "tẩy chay và chuẩn nhận" – như ngày nay người ta thường gọi về vấn đề trừng phạt các quốc gia. Tôi muốn bạn cân nhắc về hai cách trị liệu sai lầm này. Chúng sẽ được áp dụng một cách thực tiễn và tự động như là một vấn đề tao nhă, cảm giác đúng đắn và ư định hữu ích của các cá nhân và các nhóm đối với các cá nhân và các nhóm khác, và theo cách này, tội lỗi và khuynh hướng đối với hành động sai trái, sẽ dần dần bị dập tắt. Người ta sẽ hiểu rơ rằng mọi tội ác được dựa trên một số h́nh thức bệnh hoạn, hay là dựa trên sự thiếu hoạt động hay là quá hoạt động của các tuyến, đến phiên các tuyến lại dựa trên sự phát triển hay là kém phát triển của một số bí huyệt này hay bí huyệt khác. Một dư luận quần chúng đă giác ngộ – có hiểu biết về cấu tạo của con người và hiểu rơ về Đại Luật Nhân quả – sẽ đối phó với việc phạm tội qua phương tiện y học, t́nh trạng môi trường xung quanh thích hợp, và các h́nh phạt của sự tẩy chay và chuẩn nhận. Tôi không có th́ giờ để bàn rộng về các vấn đề này, mà các gợi ư này sẽ cung cấp cho bạn tài liệu để suy tưởng.

C.   UNG THƯ (Cancer)

Bây giờ, chúng ta xem xét đến loại bệnh ngày càng tăng một cách nhanh chóng và bệnh điển h́nh thời Atlantis mà chúng ta gọi là ung thư. Chúng tôi đă nói đến một bệnh căn bản lan rộng liên quan tới thể xác; chúng tôi đă bàn qua một bệnh khác vốn là sản phẩm của bản chất dục vọng. Trong chu kỳ hiện nay của chúng ta, chu kỳ Aryan, ung thư rơ ràng là kết quả của sự hoạt động của hạ trí và của sự kích thích thể dĩ thái mà thể trí có thể mang lại. Đó là một bệnh chính yếu liên quan tới sự kích thích chừng nào mà quần chúng Aryan c̣n có liên hệ đến, giống như bệnh tim cũng là một bệnh do kích thích, đang tác động rất rộng lớn lên các mẫu người tiến hóa của nhân loại, những kẻ mà – do sự thu hút trong công việc và do sự lănh đạo – thường thường hy sinh cuộc sống của họ và gánh hậu quả tai hại về năng lượng bị lạm dụng và quá tập trung bởi các h́nh thức phát triển khác nhau của bệnh tim cấp tính.

238

 
Các đệ tử và các điểm đạo đồ cũng có khuynh hướng mắc bệnh này do khơi hoạt bí huyệt tim vào hoạt động mănh liệt. Trong một trường hợp, năng lượng của sự sống đang tuôn đổ qua bí huyệt tim được sử dụng, vượt quá sức chịu đựng của con người trong công việc hằng ngày. Mặt khác, bí huyệt tim khai mở, và sự căng thẳng tác động vào tim quá mạnh, làm cho bệnh tim xảy ra. Nguyên nhân thứ ba của bệnh tim là do bởi sự đi lên sớm hoặc được hoạch định một cách thận trọng của năng lượng thuộc huyệt đan điền, đến tim, như vậy tạo ra một sự căng thẳng bất ngờ lên tim.

Dĩ nhiên, tôi đang bàn đến các khái quát rộng lớn. Sau này, bằng chứng sẽ dùng để chứng minh các loại hoạt động vốn sẽ gây ra khó khăn tương ứng bên trong tim. Bệnh tim sẽ tăng lên mạnh mẽ khi chúng ta đi vào căn chủng mới, đặc biệt là trong thời gian chuyển tiếp khi mà sự thật về các bí huyệt được thừa nhận cùng với bản chất và các tính chất của chúng, và tất nhiên, chúng trở thành mục tiêu chú tâm được dạy ra. Năng lượng theo sau tư tưởng, và sự tập trung trí óc vào các bí huyệt, tất nhiên sẽ tạo ra việc quá kích thích tất cả các bí huyệt, mặc dầu có sự chăm sóc và Môn Học về các Bí Huyệt được phát triển một cách thận trọng. Đó là một điều không thể tránh khỏi, do sự khai mở về thần kinh không đồng đều của con người. Sau này, việc kích thích đó sẽ được điều chỉnh và kiềm chế, c̣n tim sẽ chỉ lệ thuộc vào một trạng thái căng thẳng chung, cùng với mọi bí huyệt khác.

239

 
Ung thư là một bệnh có liên quan rơ rệt nhất đến các bí huyệt, và người ta sẽ thấy rằng bí huyệt ở trong vùng có ung thư th́ quá hoạt động, với sự tăng gia rơ rệt năng lượng đang tuôn đổ qua chất liệu cơ thể có liên hệ. Năng lượng này và sự quá kích thích của một bí huyệt có thể là không chỉ do sự hoạt động của bí huyệt và phát xạ tất nhiên của nó, mà c̣n có sự ức chế do thể trí đặt ra trên bất cứ hoạt động nào của một bí huyệt đặc thù. Điều này gây ra một tắc nghẽn năng lượng, và chúng ta lại có sự sáng tạo của năng lượng được tập trung quá nhiều vào trong bất cứ vùng đặc biệt nào.

Một trong các cội nguồn chính của ung thư có liên quan tới bí huyệt xương cùng, và do đó liên quan tới cơ quan sinh dục, đă được ngăn chận bằng ư hướng tốt của sự sống tính dục và của mọi tư tưởng liên quan tới sự sống tính dục của những người t́m đạo bị hướng dẫn sai lầm. Họ là những kẻ t́m kiếm sự dạy dỗ – ở tu viện và sống độc thân – của thời Trung Cổ, cách làm dễ nhất. Vào thời đó, những người đức hạnh dạy rằng dục tính là xấu xa và đồi bại, một điều không nên ghi nhớ và là một cội nguồn mạnh mẽ của đau yếu. Thay v́ được kiềm chế và chuyển hóa thành hoạt động sáng tạo, các phản ứng b́nh thường lại bị đè nén một cách mạnh mẽ và mọi tư tưởng liên quan đến sự sống tính dục đều bị khước từ biểu lộ. Tuy nhiên, năng lượng cứ đi theo hướng của tư tưởng, kết quả là loại năng lượng từ điện đặc biệt đó thu hút một số lớn tế bào và nguyên tử vào chính nó; nơi đó, người ta thấy được cội nguồn của các bướu, sự tăng trưởng và các bệnh ung thư rất thường thấy ngày nay.

240

 
Cũng vậy, có thể nói về sự ức chế mạnh mẽ mà người t́m đạo đặt vào mọi phản ứng t́nh cảm và xúc động. Trong nỗ lực của họ để kiềm chế thể cảm dục, những người này nhờ đến một tiến tŕnh ức chế và ngăn chận trực tiếp. Sự ngăn chận đó làm cho huyệt đan điền thành một b́nh lớn chứa năng lượng được giữ lại triệt để. Sự chuyển hóa các xúc cảm thành đạo tâm, bác ái và sự kiềm chế có định hướng không xảy ra, và sự tồn tại của nguồn lực sinh động này, đem lại ung thư bao tử, ung thư gan và đôi khi toàn bộ vùng bụng dưới. Tôi chỉ nhắc đến các nguyên nhân này (sự quá hoạt động của một bí huyệt và sự giữ lại năng lượng không cho biểu lộ ra và bị ức chế) như là nguồn hậu quả của bệnh ung thư.

Chúng ta trở lại từng trường hợp, như các bạn có thể thấy, đối với sự kiện về sự hiện hữu của các bí huyệt và các hiệu quả về sinh lư của chúng. Rất nhiều sự nhấn mạnh được đưa ra về các tính chất và các đặc điểm mà con người sẽ phát triển, khi các bí huyệt được cấu tạo và định hướng một cách thích hợp để các hiệu quả của năng lượng mà chúng tiếp nhận và phân phối vào cơ thể được giám sát một cách đầy đủ. Hai yếu tố liên quan tới các bí huyệt và ḍng máu, do đó biện minh cho việc lặp lại và việc chú tâm:

1. Ḍng máu là phương tiện của hệ thống tuyến, v́ đến phiên nó, nó là hậu quả của các bí huyệt. Ḍng máu mang đến cho mọi phần của cơ thể các yếu tố chính mà chúng ta biết rất ít, và nó có trách nhiệm để tạo ra bản chất con người về mặt tâm lư, và như thế, về mặt vật chất, kiểm soát được khí cụ của người đó.

2. Ḍng máu cũng là sự sống và mang đến khắp các cơ quan một trạng thái năng lượng mà các bí huyệt dự trữ, các bí huyệt này không có liên hệ trực tiếp với hệ thống tuyến nội tiết. Nhờ sự phát xạ của nó, nó thâm nhập vào ḍng máu và vào mọi động mạch, tĩnh mạch và mao mạch bên trong khu vực mà bí huyệt đang xét đến, đă kiểm soát được. Năng lượng thấu nhập này của chính sự sống, được tập trung và được định tính, có thể hoặc là bằng cách truyền sức sống, hoặc là dành cho cái chết.

241

 
Mọi bệnh tật – trừ những bệnh do tai nạn, các vết thương do sự lây nhiễm và các bệnh dịch – sau cùng, có thể được truy nguyên ở t́nh trạng nào đó của các bí huyệt, và do đó, đến năng lượng đang tuôn đổ mănh liệt, đến năng lượng quá hoạt động và bị định hướng sai hoặc là không đầy đủ và thiếu hoàn toàn hoặc là được giữ lại, thay v́ được dùng và chuyển hóa vào trung tâm năng lượng tương ứng cao hơn. Bí nhiệm của máu vẫn c̣n cần được giải rơ và sẽ nhận được sự chú tâm ngày càng nhiều theo thời gian qua. Chứng thiếu máu (anemias) ngày nay rất thường xảy ra cũng là do sự thái quá của năng lượng.

Tôi chỉ có thể đưa ra các chỉ dẫn tổng quát, tŕnh bày các nguyên nhân, và sau đó, để cho những kẻ t́m ṭi sáng suốt cái nhiệm vụ nghiên cứu các hậu quả , sau khi chấp nhận như là một giả thuyết có thể chấp nhận các đề xuất mà tôi đă đưa ra. Việc nghiên cứu thích đáng về các tuyến nội tiết (và sau đó, về toàn thể cấu trúc của các tuyến của cơ thể) và của ḍng máu, sẽ xác minh chúng như là nguồn gốc cao nhất của khó khăn về vật chất. Tất nhiên, dù chậm chạp và nhờ nhẫn nại, các nhà khảo cứu cũng sẽ bắt buộc quay lại các bí huyệt và sẽ đi đến chỗ bao gồm trong các tính toán của họ một hệ thống thần kinh bên trong (toàn bộ hệ thống nadis bên trong đang nằm dưới các dây thần kinh khắp cơ thể) và sẽ chứng minh rằng các yếu tố này có trách nhiệm đối với đa số bệnh tật cùng nhiều bệnh phụ thuộc và che khuất các bệnh đang gây họa cho nhân loại. Tuy nhiên, những kẻ t́m ṭi đă mở trí, bắt đầu bằng cách chấp nhận sự thật về các bí huyệt, xem chúng như là có thể có và sau rốt có thể minh chứng, họ sẽ giúp cho sự tiến bộ được nhanh hơn nhiều. Lúc bấy giờ, bệnh tật sẽ chịu sự kiềm chế, bằng một hệ thống Laya yoga (tức khoa học về các bí huyệt) vốn dĩ là h́nh thức thăng hoa của Laya yoga vào thời Atlantis. Lúc bấy giờ, đạo sinh tiến hóa sẽ kiềm chế các bí huyệt bằng sức mạnh của tư tưởng. Trong khoa yoga sau này, nhờ sự tham thiền và chỉnh hợp cùng với sự thực hành đúng cách, các bí huyệt sẽ được đặt dưới sự kiềm chế trực tiếp của linh hồn – một điều rất khác với sự kiềm chế các bí huyệt bằng thể trí và là một điều mà đa số nhân loại chưa sẵn sàng. Đối với điều này, Môn học về sự Hô Hấp sẽ được thêm vào – không phải là cách tập thở như đă được dạy ra ngày nay với các kết quả thường là nguy hiểm, mà là nhịp thở được thể trí đặt ra, nhờ đó linh hồn có thể tác động và sẽ không đ̣i hỏi điều ǵ hơn là cách thở của xác thân theo nhịp điệu đơn giản để tái tổ chức các thể tinh anh và đưa các bí huyệt vào hoạt động có thứ tự, tùy theo cung và tŕnh độ tiến hóa.

242

 
Tôi không bàn về bệnh lư học của các bệnh này. Điều đó đă được y học thông thường xem xét kỹ lưỡng và bàn đến rồi. Trong phần này, tôi chỉ t́m cách nhấn mạnh về các nguyên nhân bên trong và các hậu quả bên ngoài. Cả hai phải được liên kết với nhau. Hoạt động – quá trớn hoặc không thích hợp – của các bí huyệt là nguyên nhân bên trong, nhưng phần c̣n lại vẫn chưa được biết rơ, trừ các nhà huyền bí học. Các nguyên nhân (nguyên nhân lộ ra ngoài chính là kết quả của một nguyên nhân đích thực bên trong) được mở đầu bằng chính con người vật chất, hoặc là trong kiếp sống này, hoặc là trong một kiếp trước – một điểm mà chúng ta sẽ bàn đến sau này.

Ở trên, tôi đă nêu cho các bạn nhiều điều cần xem xét, và khi bạn cân nhắc, suy tư, khi bạn nghiên cứu các trường hợp và các kiểu mẫu, khi bạn xem xét các đặc điểm và các tính chất của những ǵ mà bạn biết và những ǵ xảy ra dưới một h́nh thức bệnh tật nào đó, ánh sáng sẽ đến.

Chỉ cần nêu ra các nguồn gốc chính của bệnh tật, chứ không cần xem kỹ chúng, cho dẫu vấn đề cũng quá bí hiểm đối với một trí thông minh bậc trung, điều đó thúc đẩy tôi bàn về điều thứ hai:

2. BỆNH TẬT XUẤT PHÁT TỪ CÁC T̀NH TRẠNG MƠ HỒ CỦA HÀNH TINH

243

 
Hiển nhiên là tôi không thể bàn rộng về vấn đề này, v́ ngay cả không thể đưa ra một chỉ dẫn nhỏ nhất mà ngày nay có thể đưa đến bất cứ t́nh trạng chứng thực nào. Những ǵ tôi nói sẽ cần đến sự tin tưởng, và tùy thuộc vào những ǵ tôi tin là được nhận biết như là sự xác đáng và tính trung thực đă được chứng minh của tôi. Tôi sẽ và chỉ có thể nói ít thôi – chỉ đủ để nêu ra một nguyên nhân hữu ích của bệnh tật và là nguyên nhân của thời kỳ to tát đến nỗi có sẵn trong sự sống của chính hành tinh. Các bệnh này không có cội nguồn bên trong hoặc cội nguồn tinh tế nào; chúng không phải là kết quả của các trạng huống t́nh cảm, hoặc của các tiến tŕnh trí tuệ ngoài ư muốn. Chúng không có bản chất tâm lư, và do đó không thể được truy nguyên đến bất cứ hoạt động nào của các bí huyệt. Chúng phát xuất từ trong chính sự sống của hành tinh và từ trạng thái sự sống của nó, chúng có một hậu quả xuất phát trực tiếp trên các nguyên tử cá biệt mà nhục thể được tạo thành. Đây là một điểm quan trọng cần nhớ. Cội nguồn của bất cứ bệnh tật có bản chất này đều được gây ra bởi chính hành tinh, do đó, trước tiên là do bởi một tác động bên ngoài của một số phóng phát rung động, đến từ bề mặt của hành tinh, ăn sâu vào trong hành tinh, và tác động đến nhục thể. Các bức xạ này khơi dậy các đơn vị năng lượng mà toàn thể tạo thành chất nguyên tử của cơ thể; chúng không có liên quan bằng bất cứ cách nào với ḍng máu hay với hệ thần kinh. Tất nhiên, chúng không thể được ḍ ra hay cô lập được, bởi v́ ngày nay, con người có tổ chức và có sự phối kết cao đến nỗi các tác động bên ngoài này gợi ra tức khắc một sự đáp ứng từ hệ thần kinh; hiện nay, nhà y học hiện đại không thể phân biệt được giữa các bệnh xuất phát từ bên trong nội cơ cấu của riêng người bệnh – thấy được hoặc không thể thấy được – và các bệnh có bản chất của các kích thích từ bên ngoài, tạo ra các hiệu quả tức khắc trên cơ quan nhạy cảm của cơ thể con người. Ở đây, tôi không đề cập đến các nỗi khó khăn do lây nhiễm hoặc truyền nhiễm.

244

 
Có lẽ một điểm mà tôi có thể nhấn mạnh do sự hữu ích đó là chính v́ hiệu quả mơ hồ này của hành tinh (mơ hồ đối với chúng ta vào lúc này) trên thể xác vốn là nguyên nhân chủ yếu của tử vong nếu xét về bản chất h́nh hài thuần động vật, hoặc là các h́nh thức của sự sống hiện hữu trong giới động vật và giới thực vật, và với một mức độ bé nhỏ và chậm chạp hơn trong giới khoáng chất. Về phần nhân loại, cái chết ngày càng tăng lên do bởi mục đích đă định (planned intent) và sự triệt thoái đă được sắp đặt của linh hồn dưới sự thôi thúc của mục đích riêng đă được đề ra. Điều này đúng ở một mức độ nào đó với tất cả những kẻ c̣n trong ṿng sinh tử, trừ những kẻ ở mức thông minh thấp kém đến nỗi linh hồn gần như ít làm ǵ nhiều hơn là phương tiện che chở/ linh trợ.

Trong số tất cả chúng sinh hữu tử, dù đă phát triển cao hay không, các giai đoạn tan ră sau đó, xảy ra sau sự triệt thoái hữu thức của linh hồn (có chủ ư về phần linh hồn và trở nên càng có chủ ư về phía kẻ đang hấp hối) đă xảy đến bằng năng lực ban cho cái chết của chính sự sống hành tinh.

Trong trường hợp các giới dưới nhân loại trong thiên nhiên, cái chết chính là kết quả trực tiếp của hoạt động qui nguyên của hành tinh. Ư tưởng duy nhất về sự vận hành của nó mà tôi có thể đưa ra cho bạn đó là linh hồn của mọi h́nh thức sự sống phi nhân loại, là một khía cạnh vốn có của vật chất mà chính hành tinh được tạo thành. Linh hồn này có thể được triệt thoái theo các chu kỳ, tuy chưa được khoa học xác minh, nhưng trong cách hành động của nó, đă có sự xác định và chắc chắn – không kể đến các tai biến lớn của hành tinh hay là tác động trực tiếp của giới thứ tư trong thiên nhiên. Quyền năng có sẵn này của hành tinh đưa tới cái chết của một động vật, và – trong một phạm vi tiến hóa lớn lao hơn – đưa tới sự tận diệt của một chủng loại; vào đúng lúc, nó cũng đưa đến cái chết của các h́nh hài của giới thực vật, và cũng là một trong các nguyên nhân đưa tới chu kỳ mùa thu trong năm, tạo ra "sự tàn úa, sự vàng lá", hiện tượng mất màu xanh tươi trong cây cỏ và các biểu lộ theo chu kỳ này cho thấy không những chỉ một ḿnh cái chết, ở một mức độ tạm thời và thoáng qua, mà c̣n có việc ngưng hoàn toàn sức sống bên trong h́nh hài. "Thời kỳ hủy diệt" là các biểu lộ theo chu kỳ của "trạng thái hủy diệt" bên trong chính hành tinh. Tất nhiên là các vấn đề khó khăn này sẽ khó hiểu đối với bạn.

245

 
Hoạt động phóng phát này của sự sống hành tinh có tính tuần hoàn trong thiên nhiên và hiện tại vĩnh cửu, có liên quan chặt chẽ với ảnh hưởng của cung 1. Chính trạng thái đó của Cung Ư chí hay Quyền Lực tạo ra sự tan ră của h́nh hài, sự hư hoại và tan ră của thể xác, cho đến khi nó hoàn toàn được hóa nhập trở lại vào chất liệu của hành tinh. Việc vận dụng trí tưởng tượng có tập trung sẽ giúp các bạn khám phá ra tác động này của thiên tính có thể cực kỳ có ích biết bao.

Cái chết đă hiện hữu trên hành tinh chúng ta từ thời rất xa xưa; các h́nh hài đă đến và đi; cái chết đă xảy đến cho thảo mộc, động vật và các h́nh hài của con người trong không biết bao nhiêu là kỷ nguyên, tuy thế, hành tinh chúng ta không phải là một nhà mồ, mặc dù hành tinh này có vẻ như thế, nhưng vẫn là một điều tốt đẹp, ngay cả con người cũng không làm cho hư hoại được. Tiến tŕnh chết chóc và tan ră, cùng là phân hủy của h́nh hài, tiếp diễn vào mọi lúc mà không tạo ra sự lây nhiễm hay là làm biến dạng bề mặt địa cầu. Các kết quả của phân hủy đều có hiệu quả tốt lành. Hăy suy gẫm về hoạt động có lợi này và về cái đẹp đẽ của Thiên Cơ đối với sự chết và sự tan biến.

Với con người, cái chết đảm nhận hai khía cạnh hoạt động; linh hồn con người khác với linh hồn trong các h́nh hài không phải nhân loại, trong h́nh hài đó, chính linh hồn – trên cơi riêng của nó – là một biểu lộ đầy đủ và là một biểu lộ có hiệu quả của Ba Ngôi thiêng liêng; nó định đoạt trong ṿng một số giới hạn – được dựa trên các điều kiện về thời gian và sự cần thiết của không gian – tiến nhập vào h́nh hài con người và rời khỏi đó. Khi việc rời bỏ này xảy đến và linh hồn đă rút giác tuyến ra khỏi bộ óc và rút sinh mệnh tuyến của nó ra khỏi tim, một số tiến tŕnh sự sống vẫn c̣n tồn tại; tuy nhiên, bây giờ chúng ở dưới ảnh hưởng của sự sống hành tinh, và đối với các tiến tŕnh này, tinh linh hồng trần (toàn thể các nguyên tử sinh động của phàm ngă) trở nên đáp ứng. Tôi muốn các bạn chú ư đến sự nghịch thường huyền bí mà cái chết là kết quả của các tiến tŕnh sinh động. Cái chết, hay là năng lượng tạo ra trong cái chết tỏa ra từ hành tinh, đưa tới sự gián đoạn hoàn toàn của cơ thể và thu nhỏ nó thành các nguyên tố thiết yếu – chất hóa học và chất khoáng, cộng với một số chất vô cơ, vốn dễ được thu hút vào đất đai của chính hành tinh. Do đó, với vai tṛ là kết quả hoạt động của linh hồn, cái chết tạo ra sự triệt thoái khỏi xác thân của "thể ánh sáng và của các thể tinh anh", dành h́nh hài trọng trược và các bộ phận cấu thành của nó cho các tiến tŕnh tốt lành của sự kiềm chế hành tinh. Hoạt động hai mặt này tạo ra cái chết – như chúng ta biết nó theo khía cạnh con người.

246

 
Ở đây, cần nêu ra rằng, năng lực này của Hành Tinh Thượng Đế để rút ra tinh túy/bản thể sự sống có sẵn trong mỗi nguyên tử, tạo ra những ǵ có thể gọi là sự hư hoại trong cấu trúc của h́nh hài ở bất cứ điểm nào mà từ đó tinh túy sự sống này được phát ra. Sau rốt, điều này sẽ mang lại các t́nh trạng trở thành rơ rệt trước mắt; như vậy, bệnh tật và "khuynh hướng tử vong" trở thành có thể nhận ra được. Do đó, sự tàn tạ của một cái hoa, chết chóc v́ tuổi già ở một động vật hoặc thực vật, và nhiều bệnh tật của con người, tất cả đều xảy ra do sự lôi kéo của sức sống mạnh mẽ của hành tinh, nói về mặt huyền bí; đây là một khía cạnh của những ǵ được gọi một cách sai lầm là Định Luật Hấp Dẫn. Định luật này – lại nói về mặt huyền bí – là một khía cạnh của Định Luật Phản Bổn Hoàn Nguyên (Law of Return), nó chi phối mối liên hệ của một đơn vị sự sống trong h́nh hài đối với cội nguồn xuất phát của nó. "Ngươi là cát bụi; ngươi sẽ trở về với cát bụi" là một phát biểu của định luật huyền linh. Trong sự tiến hóa kỳ lạ của các từ ngữ – như bất cứ quyển từ điển đặc sắc nào sẽ nêu ra – từ ngữ "cát bụi" ("dust") xuất phát từ hai nguồn gốc, một có nghĩa là "gió" ("wind") c̣n nguồn gốc kia có nghĩa là "tách ra thành mảnh" ("falling to pieces"). Hàm ư của hai nghĩa này sẽ rơ rệt và sự nối tiếp các ư tưởng bị ngăn chận lại. Cùng với sự triệt thoái của gió hay hơi thở, việc tách ra thành mảnh vụn xảy ra và đây là một phát biểu đích thực và có ư nghĩa. Cũng như sự sống vĩ đại thu hút sự sống nhỏ bé; việc biến mất của những ǵ mà sự sống đă làm linh hoạt sẽ xảy ra; điều này đúng cho mọi h́nh hài trong các giới dưới nhân loại, khi chúng đáp ứng với lực kéo hay giật lại của sự sống hành tinh; điều đó cũng đúng với h́nh hài con người khi nó phản ứng lại tiếng gọi của linh hồn để hoàn lại nguyên khí sự sống của nó cho linh hồn, xuyên qua sutratma, và trở lại dưới h́nh thức tâm thức cho cội nguồn biểu lộ của nó.

247

 
Trong tiến tŕnh và sự tương tác này, h́nh hài biểu lộ các kết quả của bản thể, hoặc là chủ thể nhận luồng sự sống từ hành tinh, hoặc là với tư cách là người phóng rải sự sống đó, theo định luật chu kỳ, vào kho dự trữ chung chứa năng lượng linh hoạt của nó. Hai phản ứng này tùy thuộc vào sức khỏe hoặc là bệnh tật của h́nh hài trong các giai đoạn và các trạng thái đáp ứng khác nhau và dưới tác động của yếu tố đóng góp và chi phối khác. Có ba giai đoạn chính trong chu kỳ sống của mọi h́nh hài dưới nhân loại và cũng trong h́nh hài con người khi linh hồn chỉ là một mănh lực che chở/ linh trợ chứ không phải là một năng lượng hội nhập:

1. Giai đoạn lưu nhập, của sinh khí và của phát triển.

2. Giai đoạn đối kháng, trong đó h́nh hài bảo tồn sự toàn vẹn của riêng nó trong một chu kỳ tạm thời, được xác định bằng thứ loại và môi trường của nó, như vậy chống lại một cách thành công bất cứ "lực hút" nào của sự sống đang bao bọc vạn vật và bất cứ sự tái hóa nhập nào của sinh khí của nó.

248

 
3. Giai đoạn tỏa ra trong đó lực hút của sự sống vĩ đại hơn của hành tinh, lôi cuốn và hấp thu sự sống yếu kém hơn. Tiến tŕnh làm yếu này là một phần của luật chu kỳ mà một ngạn ngữ cổ có ám chỉ đến trong câu "Kiếp sống của một người là 70 năm". Khi mức trung b́nh của một chu kỳ tổng quát diễn ra một cách b́nh thường, một điểm gây yếu trong mô xác thân chắc chắn và dần dần sẽ nổi lên. Bệnh tật hay là sự hư hoại ở một phần nào đó trong h́nh hài thường xảy ra, và cái chết sẽ xảy đến. Độ dài của các chu kỳ và nguyên nhân định đoạt của chúng là một bí mật sâu xa và đặc biệt liên quan đến các giới khác nhau trong thiên nhiên và liên quan đến các loài, các kiểu và các h́nh hài bên trong toàn bộ các tiến tŕnh sống. Cho đến nay, chỉ có các Thánh Sư và các vị được điểm đạo mới biết được các chu kỳ này. Những vị này được giao cho nhiệm vụ thúc đẩy diễn tŕnh tiến hóa bên trong các giới dưới nhân loại, c̣n đối với các thiên thần, nhiệm vụ của các Ngài là kiểm soát tiến tŕnh.

Như bạn đă rơ, sự phân biệt lớn lao giữa giới nhân loại trong ba cơi thấp với các giới khác trong thiên nhiên là yếu tố tự do ư chí. Sau rốt, trong vấn đề tử vong, tự do ư chí này có liên hệ rơ rệt với linh hồn; ư chí của linh hồn được noi theo, hoặc là một cách hữu thức, hoặc là một cách vô thức khi nào có liên hệ đến quyết định từ bỏ sự sống, và ư tưởng này mang nhiều hàm ư mà các môn sinh cần nên cân nhắc kỹ. Bây giờ, chúng ta đến một điểm khái quát chủ yếu khác về bệnh tật và tử vong có liên quan đến nhân loại:

ĐỊNH LUẬT  VIII

 Bệnh tật và tử vong là kết quả của hai mănh lực linh hoạt. Một lực là ư chí của linh hồn, nó nói với khí cụ của ḿnh: Ta thu hồi tinh hoa trở lại. Lực kia là sức mạnh từ điện của Sự Sống hành tinh; sự sống đó nói với sự sống bên trong cấu trúc nguyên tử: Giờ phút tái hóa nhập đă đến. Hăy trở lại cùng ta. Thế nên, dưới luật chu kỳ, rơ ràng là mọi h́nh hài đều tác động.

Ở đây, nói đến sự tan ră thông thường của h́nh hài vào lúc kết thúc chu kỳ luân hồi. Như chúng ta biết rơ, chu kỳ này được xác định trong trường hợp con người bằng các yếu tố tâm lư chính yếu, yếu tố đó có thể hối thúc hoặc kéo dài "giờ kết thúc", nhưng chỉ đến một mức độ nào thôi. Phán quyết của linh hồn và mệnh lệnh của Sự Sống hành tinh là các yếu tố quyết định sau cùng, ngoại trừ trong trường hợp chiến tranh, tai nạn, tự tử hoặc dịch bệnh.

249

 
Mănh lực thu hút mà hành tinh được giao phó rất là to tát trong ṿng một số giới hạn; thí dụ, chính các giới hạn này thúc đẩy dịch bệnh như là hậu quả của chiến tranh. Các dịch bệnh như thế có hậu quả nghiêm trọng cho nhân loại sau khi chu kỳ chiến tranh kết thúc, và sau khi bệnh dịch sau đó tự tàn lụi. Nhân loại, đặc biệt là ở Đông Âu, chưa hoàn toàn phục hồi từ các bệnh dịch, gắn liền với phần đầu của trận thế chiến, khi phần thứ hai xảy ra. Các hậu quả về tâm lư hăy c̣n tiếp tục; các vết thương và các hậu quả của giai đoạn 2 của thế chiến đó sẽ vẫn c̣n trong ṿng 50 năm, cho dù – nhờ kiến thức khoa học lớn lao hơn của con người – yếu tố bệnh dịch có thể vẫn c̣n gây kinh ngạc trong nhiều biên giới. Tuy nhiên, điều này vẫn c̣n không chắc chắn. Chỉ có thời gian mới chứng minh được nhân loại thành công như thế nào trong việc hóa giải các h́nh phạt mà thiên nhiên bị xúc phạm có khuynh hướng đ̣i hỏi.

Nhiều điều tốt lành sẽ xảy đến nhờ tăng gia thói quen hỏa táng các xác chết; khi tập quán này trở nên phổ biến, chúng ta sẽ thấy bệnh tật bị giảm đến tối thiểu, đưa tới sự trường thọ và sinh lực tăng thêm. Yếu tố đối kháng hay là tiến tŕnh mà nhờ đó một h́nh hài tự làm cho ḿnh miễn nhiễm, hay là không đáp ứng với sức lôi cuốn của hành tinh và sức thôi thúc hướng tới việc tái thu hút cần phải tiêu phí nhiều năng lượng. Khi sự sống tăng gia tiềm lực bên trong h́nh hài và ít phản ứng với các yếu tố truyền bệnh, th́ linh hồn bên trong h́nh hài sẽ có ảnh hưởng nhiều hơn, biểu lộ đẹp đẽ hơn nhiều và phụng sự hữu hiệu hơn.

Một ngày nào đó, điều này sẽ trở nên đúng trong mọi giới của thiên nhiên, và như vậy, chúng ta sẽ có một sự huy hoàng vững bền chiếu ra trong cái vinh quang tột đỉnh của Sự Sống Thượng Đế.

3. CÁC BỆNH CỦA CHỦNG TỘC VÀ CỦA QUỐC GIA.

250

 
Điều hiển nhiên đối với bạn là hiện nay tôi quan tâm phần lớn đến các yếu tố báo trước, vốn là kết quả của lịch sử đă qua của nhân loại, hơn là đưa ra cho bạn một bản mô tả đặc biệt và chi tiết về các bệnh tật có liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau. Thực ra điều này không thể làm được do sự trùng lắp và sự song hành đang xảy ra trong mỗi bộ môn của sự sống thiên nhiên. Vượt trên mọi sự việc khác, tôi t́m cách làm sáng tỏ những ǵ cần phải làm theo đường lối chữa trị pḥng ngừa, và những ǵ sẽ được hoàn thành trong nhiệm vụ khó khăn là hóa giải các t́nh trạng thường thấy trên địa cầu, như là hậu quả của việc lạm dụng các năng lực thiên nhiên trong quá khứ. Do đó, cần phải tiến hành chữa trị các t́nh trạng này, mà hiện đang lan tràn khắp nơi trên hành tinh chúng ta, và tất nhiên là tôi sẽ không nhấn mạnh về tính đặc thù và cá biệt. Tôi cũng đang đặt nền móng cho việc bàn về chủ đề kế tiếp của chúng ta – mối liên hệ của Luật Karma đối với bệnh tật, chết chóc và đối với nhân loại nói chung.

Khi xem xét đến các bệnh thuộc chủng tộc và quốc gia, tôi không định nêu ra rằng bệnh lao là một bệnh riêng biệt của giai cấp trung lưu trong mọi quốc gia, tiểu đường là một bệnh chính yếu trong các dân tộc ăn lúa gạo trên thế giới, c̣n bệnh ung thư đang lan tràn trong nước Anh, trong khi bệnh tim là nguyên nhân hàng đầu gây ra chết chóc ở Mỹ. Các khái quát hóa như thế vừa đúng vừa sai theo như thống kê học cho biết, và không có lợi ǵ mà bàn vào chi tiết các vấn đề này. Các khó khăn này sẽ được hóa giải đúng lúc nhờ sự hiểu biết tăng tiến, nhờ việc chẩn đoán bệnh tật bằng trực giác, và nhờ công tŕnh tuyệt diệu của y học tân tiến và chuyên môn, cộng với sự hiểu biết chính đáng hơn về các điều kiện sinh sống đúng cách.

Tôi muốn đưa ra các điều khái quát c̣n rộng hơn nữa, chúng sẽ cho thấy nguyên nhân và sẽ không nhấn mạnh về các hậu quả của các nguyên nhân này. Do đó, tôi xin nêu ra rằng:

251

 
1. Đất đai của chính hành tinh là một nguyên nhân chính của bệnh tật và sự lây nhiễm. Trong không biết bao nhiêu thời đại, xác người, xác thú đă được chôn vùi trong đất; đất ấy tất nhiên bị tiêm nhiễm các mầm bệnh; và mầm bệnh này ở dưới h́nh thức tinh tế hơn là được ước đoán. Các mầm bệnh cổ xưa đă biết hay chưa biết, đều được t́m thấy trong các lớp đất và tầng đất ngay bên dưới; các lớp đất này có thể vẫn c̣n tạo ra các bệnh độc hại nếu có điều kiện thích hợp. Tôi xin nói rằng Tạo Hóa không bao giờ định rằng xác chết phải được chôn trong đất. Động vật chết đi và xác chúng trở về với cát bụi, nhưng sự quay về được thanh lọc nhờ tia nắng mặt trời, và nhờ các cơn gió nhẹ thổi vào và phân tán ra. Mặt trời có thể gây nên cái chết, cũng như sự sống, các mầm bệnh và vi khuẩn độc hại nhất không thể giữ được tiềm lực của chúng nếu bị phơi ra dưới sức nóng khô khan của tia sáng mặt trời. Sự ẩm ướt và tối tăm nuôi dưỡng bệnh tật v́ bệnh tật tỏa ra và được nuôi dưỡng bằng các xác chết. Khi nào mọi nước trên khắp thế giới áp dụng luật lệ là các xác chết phải "chịu hỏa thiêu", và khi mà luật lệ này đă trở thành một thói quen phổ cập và bền vững, lúc bấy giờ chúng ta sẽ thấy bệnh tật giảm đi rất nhiều và thế giới sẽ được lành mạnh hơn.

2. T́nh trạng tâm lư của một chủng tộc hay một quốc gia, như chúng ta đă thấy, đang tạo ra khuynh hướng mắc bệnh và giảm sức đối kháng với các nguyên nhân của bệnh; điều đó có thể tạo ra khả năng thu hút sự lây nhiễm tệ hại một cách dễ dàng. Về điểm này, tôi không cần bàn rộng thêm nữa.

252

 
3. Các điều kiện sinh hoạt trong nhiều vùng đất cũng nuôi dưỡng bệnh tật và sức khỏe kém. Chỗ ở tối tăm và đông đúc, chỗ ở dưới mặt đất, ăn uống thiếu thốn, dinh dưỡng sai lầm, các thói quen tệ hại của cuộc sống và đủ thứ bệnh nghề nghiệp – tất cả đều góp phần của chúng vào t́nh trạng sức khỏe kém cỏi chung của nhân loại. Các t́nh trạng này được nhận biết một cách rộng răi và nhiều điều đă được làm để hóa giải chúng, nhưng nhiều điều vẫn c̣n phải làm. Một trong các hậu quả tốt của trận thế chiến sẽ là thúc đẩy các thay đổi cần thiết, cần kiến tạo lại và nuôi dưỡng một cách khoa học lớp người trẻ của nhân loại. Các bệnh về xác thân trong một nước thay đổi tùy theo các nghề đă được sắp xếp trước của người dân; các bệnh của một giống dân theo nông nghiệp sẽ khác nhiều với các bệnh của một giống dân có tŕnh độ kỹ nghệ cao; các khuynh hướng mắc bệnh thể chất của một thủy thủ, thay đổi rất nhiều so với các khuynh hướng mắc bệnh của một công nhân xí nghiệp ở một trong các thành phố lớn của chúng ta. Các điều chỉ dẫn này được nhắc lại trừ phi công nhân trong nhiều thành thị và vùng đất đă nhàm chán. Một số bệnh chỉ xuất hiện ở địa phương, một số khác dường như có các hiệu quả chung của chúng; một số bệnh đang dần dần tàn lụi, và các bệnh mới đang xuất hiện; một số h́nh thức bệnh tật luôn luôn tác động vào chúng ta; một số khác dường như xuất hiện có chu kỳ; một số là bệnh địa phương, trong khi nhiều bệnh khác có tính truyền nhiễm.

Làm thế nào mà một chuỗi bệnh và các h́nh thức bệnh xác thân xuất hiện? Tại sao mà một số chủng tộc có khuynh hướng hứng chịu một bệnh thể xác, trong khi các chủng tộc khác lại chống được với bệnh đó? Các t́nh trạng khí hậu tạo ra một vài bệnh điển h́nh vẫn có tính cách địa phương, chớ không thấy có ở nơi nào khác trên thế giới. Ung thư, lao, giang mai, viêm màng năo, viêm phổi và bệnh tim cũng như bệnh tràng nhạc (thuật ngữ này dùng theo nghĩa xưa để chỉ một vài h́nh thức bệnh ngoài da), đang lan tràn khắp thế giới, tiêu diệt hàng triệu người, cho dù các bệnh này có thể được truy nguyên đến một số giai đoạn lớn trong nhân loại, ngày nay, chúng có hậu quả chung. Manh mối của điều này có thể thấy được nếu người nghiên cứu nhớ rằng dù cho thời kỳ của giống dân Atlantis cách đây nhiều ngàn năm, một số lớn nhân loại hiện nay về căn bản có tâm thức thời Atlantis và do đó, có khuynh hướng mắc các bệnh của nền văn minh đó.

253

 
Nếu sự duyệt xét đầy đủ về sức khỏe của thế giới được đảm trách và tŕnh bày cho quần chúng biết suy tư – được chọn trong các t́nh trạng b́nh thường chớ không phải trong thời chiến – vấn đề nêu lên là không biết có được 100.000 người có sức khỏe hoàn hảo trong số nhiều tỉ người đang ở trên địa cầu hiện nay không? Tôi nghĩ rằng không. Nếu bệnh tật thực sự không có, tuy thế, t́nh trạng của răng, thính giác và thị giác thường có nhiều điều chưa đạt; các khuynh hướng bị kế thừa và các tố bẩm linh hoạt, gây nên sự quan tâm lớn, và đối với mọi người, điều này phải được thêm vào nỗi khó khăn tâm lư, các bệnh về tâm trí và t́nh trạng bất an rơ rệt của năo bộ. Tất cả các điều này đưa ra một h́nh ảnh làm kinh hoàng. Y học ngày nay đang chiến đấu chống lại các bệnh mà nó phát hiện; các nhà khoa học đang t́m cách làm giảm nhẹ và chữa trị và dành các phương pháp lành mạnh và bền vững để nhổ tận gốc; các nhà nghiên cứu đang t́m kiếm các mầm bệnh tiềm tàng và các nhà chuyên môn về sức khỏe đang t́m các cách mới để đối phó với sự tấn công của bệnh tật. Cải thiện điều kiện vệ sinh, cưỡng bách trồng trái, kiểm tra thường xuyên, các luật lệ về thức ăn tinh khiết, các nhu cầu hợp pháp và các t́nh trạng cư trú khả quan hơn, tất cả đều được đưa vào trận chiến này nhờ những kẻ có ḷng nhân đạo thấy xa hiểu rộng. Tuy nhiên, bệnh hoạn vẫn đang lan tràn, cần có nhiều bệnh viện hơn và tốc độ tử vong tăng vọt lên.

Để giúp vào việc thực hành này, Khoa Tâm Thần học, Trường Phái Tư Tưởng Mới, Khoa Học Hợp Nhất và Khoa Học Cơ Đốc cống hiến nhiều sự trợ giúp, và một cách hoàn toàn thành thật, t́m cách đem lại sức mạnh cho trí óc để ghi nhớ vấn đề. Vào giai đoạn hiện nay, các cơ quan và các nhóm này phần lớn là ở trong tay những kẻ cuồng tín và kẻ sùng tín, những người thiếu thông minh; họ không chịu thỏa thuận và dường như không nhận thức được rằng kiến thức chồng chất được do y học và do những kẻ làm việc một cách khoa học với cơ thể con người – như thể họ được Thượng Đế phú cho – cho đến nay vẫn là một lư tưởng chưa được chấp nhận. Sau này, các chân lư mà các nhóm này bênh vực, sẽ được bổ sung vào công việc của nhà tâm lư học và nhà y học; khi điều này đă được thực hiện, chúng ta sẽ thấy một sự cải thiện lớn lao. Khi mà công việc của nhà y sĩ và nhà giải phẫu có liên quan tới thể xác được nhận ra là thiết yếu và tốt lành, khi mà sự phân tích và các kết luận của nhà tâm lư học bổ sung cho công việc của họ, và khi mà năng lực của tư tưởng đúng cũng đến như một sự trợ giúp, lúc bấy giờ và chỉ có lúc bấy giờ, chúng ta mới tiến vào một kỷ nguyên mới của hạnh phúc.

254

 
Đối với các loại bệnh tật khác nhau, cũng phải thêm vào một nhóm bệnh tật chung vốn có hiệu quả chặt chẽ về mặt tinh thần – đó là các nhức đầu, các bệnh điên, các ám ảnh, các đổ vỡ về tinh thần, các thác loạn, ảo giác. Đối với các phương tiện chữa trị khác nhau đă được nhắc ở trên, cần nên thêm vào công việc mà các Thành Viên của Thánh Đoàn và các đệ tử của các Ngài đảm nhận; công việc đó nắm giữ sức mạnh và sự hiểu biết về linh hồn, cộng với minh triết của các nhóm chữa trị khác, để tạo ra sức khỏe trong con người, để trút vào nơi an dưỡng của chúng ta, để rủ sạch cho nhân loại các bệnh căn bản, chứng loạn trí và ám ảnh, và để ngăn chận tội lỗi. Sau rốt, điều này được mang lại nhờ sự phối kết đúng lúc của toàn thể con người, nhờ hiều biết đúng về bản chất của năng lượng và nhờ đánh giá chính xác về hệ thống nội tiết, các tuyến của nó và các liên quan tế nhị của các tuyến đó.

Ngày nay, có ít nhiều công tác kết hợp chặt chẽ được thực hiện với sự thỏa thuận của bốn nhóm:

1. Các y sĩ và các nhà giải phẫu – chính thống và theo lư thuyết.

2. Các nhà tâm lư học, thần kinh học và nhà tâm thần học.

3. Các nhà trị liệu tinh thần và các nhà Tân Tư Tưởng, cộng với các nhà Tư Tưởng Hợp Nhất và Các Nhà Khoa Học Cơ Đốc.

4. Các đệ tử lăo luyện và những kẻ làm việc với linh hồn nhân loại.

Khi bốn nhóm này được liên kết chặt chẽ và có thể làm việc chung với nhau để giải thoát con người khỏi bệnh tật, bấy giờ, chúng ta sẽ tiến tới sự hiểu biết về cái kỳ diệu đích thực của con người. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có các bệnh viện mà trong đó bốn giai đoạn chữa trị sẽ diễn tiến bên cạnh nhau với sự hợp tác đầy đủ nhất. Không một nhóm nào có thể hoàn thành nhiệm vụ mà không có các nhóm khác, tất cả đều tùy thuộc nhau.

255

 
Chính việc các nhóm này không nhận ra được cái hay trong các nhóm khác – đang cố gắng đem lại khỏe mạnh thể chất cho con người – khiến tôi hầu như không thể giảng dạy đặc biệt hơn và bàn đến trực tiếp hơn về các vấn đề này. Bạn có ư kiến nào về bức tường tư tưởng đối kháng và ngôn từ chống đối mà một ư kiến mới mẻ hay tiên phong phải phá vỡ hay không? Bạn có bao giờ xem xét nghiêm chỉnh các h́nh tư tưởng được tập hợp và cô đọng mà mọi ư tưởng mới (và tôi sẽ gọi chúng là các đề xuất của Thánh Đoàn) phải đấu tranh với chúng hay không? Bạn có đánh giá được gánh nặng oằn vai của các quyết định cổ xưa đă có sẵn cần phải được thúc đẩy trước khi Thánh Đoàn có thể tạo nên một quan niệm mới và cần thiết để thâm nhập vào tâm thức của dân chúng bậc trung biết suy tư (hay tôi nên nói là thiếu suy tư?). Lănh vực y học là một lănh vực khó hoạt động nhất, v́ vấn đề rất là sâu rộng và nỗi e ngại khi phải đi sâu vào các phản ứng của những kẻ phải được tiếp cận. Hố ngăn cách giữa cái cũ đă ăn sâu với cái mới có nhu cầu về mặt tinh thần, cần có nhiều nhịp cầu dài và thận trọng. Kỳ lạ thay một số lớn khó khăn lại được các trường phái tư tưởng mới mẻ hơn cổ vũ. Y học chính thống th́ chậm chạp và chậm chạp một cách hữu lư, trong việc thừa nhận các kỹ thuật và các phương pháp mới; đôi khi y học đó lại quá chậm chạp, nhưng trường hợp của cách chữa trị hay chẩn đoán mới phải được chứng minh hữu lư và chứng minh bằng thống kê trước khi điều đó có thể được đưa vào trong chương tŕnh giảng dạy và phương pháp y khoa; các rủi ro cho con người th́ quá to tát, c̣n thầy thuốc nhân đạo và tài ba sẽ không dùng bệnh nhân của ḿnh làm đối tượng thử nghiệm. Tuy nhiên trong ṿng vài thập niên qua, y học đă tiến bằng những bước nhảy vọt, khoa điện học và trị liệu bằng ánh sáng (light therapy), cùng nhiều kỹ thuật và phương pháp hiện đại khác đă được bổ túc bằng các môn khác mà y học thấy là có lợi cho ḿnh. Các đ̣i hỏi của điều không thể hiểu được và cách chữa trị mơ hồ – nếu các danh từ lạ kỳ như thế có thể dùng được – được nhận ra ngày càng nhiều và được biết đến khi đóng một vai tṛ chính thống đă được nhận ra trong các đường lối khảo cứu mới mẻ về bệnh tật.

256

 
Phương pháp của các trường phái trí tuệ và tôn thờ trí tuệ, như họ đă tự gọi một cách sai lầm, đă không diễn tiến một cách hữu ích như thế. Đây phần lớn là lỗi lầm của họ. Các Trường phái Tư Tưởng như là Khoa Học Tâm Thần, Tân Tư Tưởng, Hợp Nhất, Khoa Học Cơ Đốc, Thuật Nắn Cột Sống, các nỗ lực của các nhà Trị Liệu theo Thiên Nhiên (Naturopaths) và nhiều Trường phái khác nữa, làm tổn thương đại cục của họ, do các yêu sách to lớn mà họ tạo ra, và do các công kích không ngừng của họ vào y học chính thống và các con đường khác có mức hữu ích đă được chứng minh, và vào sự hiểu biết (thu lượm được qua nhiều thế kỷ thực nghiệm) của các trường phái học thuật của y học và giải phẫu học. Họ quên rằng nhiều điều trong số các đ̣i hỏi của họ, muốn được thành công (và họ thường không thể bác bỏ được) có thể được sắp xếp theo đề mục chung của việc chữa trị bằng đức tin, và điều này có thể được thực thi một cách chính xác hay không chính xác. Các cách chữa trị như thế đă được các nhà tư tưởng theo lư thuyết nhận biết từ lâu và được biết là có thực. Các tôn sùng này, thực ra vốn là những kẻ bảo quản các chân lư cần thiết, cần hơn mọi thứ khác để thay đổi cách tiếp cận của họ và để học hỏi bản chất tinh thần của sự thỏa hiệp trong thời kỳ tiến hóa. Các ư tưởng của họ không thể đưa đến sự hữu ích đầy đủ và mong muốn, tách rời tri thức đă được Thượng Đế ban ra, mà y học qua các thời đại đă tích lũy được; họ cũng cần giữ bản ghi chép về nhiều thất bại của họ, cũng như các thành công mà họ lớn tiếng công bố. Ở đây, tôi muốn nêu ra rằng các thành công này chẳng có cách nào nhiều như các thành công của y học chính thống và của công việc lợi ích mà các bệnh viện chúng ta đă làm – mặc dù có thất bại và thường là sự ngớ ngẩn rơ rệt –phần lớn cải thiện được đau đớn và bệnh hoạn của đa số con người. Các tôn thờ này đă bỏ sót t́nh trạng, hay có khi nhận biết được, rằng trong trường hợp đau ốm cực độ hay tai nạn, về mặt thể chất, bệnh nhân cũng không thể khẳng định hoặc đ̣i hỏi việc chữa trị thiêng liêng và tùy thuộc vào công việc của nhà chữa trị nào đó, vị này hành động mà không hiểu biết về karma của người bệnh. Nhiều thứ trong cách chữa trị của họ (và đây cũng là trường hợp của y học chính thống) là thuốc men, v́ lẽ giờ kết thúc của người bệnh chưa đến, nên người bệnh sẽ được phục hồi trong bất luận trường hợp nào, dù y thường được phục hồi mau lẹ hơn nhiều nhờ cách chữa trị của y sĩ tài giỏi.

257

 
Trong các trường hợp tai nạn trầm trọng, lúc người bị thương chảy máu, kẻ thờ phụng (dù cho sự tôn thờ của y có thể được gọi là ǵ đi nữa) sẽ tất nhiên dùng các phương pháp y học chính thống; thí dụ, y sẽ dùng cái ga-rô (tourniquet), và chọn các cách mà y học chính thống đang dùng, hơn là đứng bên cạnh để nh́n người bị thương chết đi v́ không dùng các phương pháp này. Khi y đối diện với cái chết, y sẽ thường quay lại với các phương pháp trợ giúp đă được thử thách, được chứng minh, và thường là sẽ gọi đến một y sĩ, hơn là chịu trách nhiệm về tội sát nhân.

Tất cả các điều trên được nói đến không phải với tinh thần dèm pha, mà là với một nỗ lực để chứng minh rằng nhiều trường phái tư tưởng – chính thống, lư thuyết suông, cổ xưa, vật chất hoặc tinh thần, mới mẻ, tiên phong hoặc về tâm thần – đều tùy thuộc nhau; chúng cần được gom chung lại với nhau thành một khoa chữa trị vĩ đại duy nhất. Đây sẽ là một khoa học để chữa trị cho toàn thể con người và phát huy mọi phương tiện – vật chất, t́nh cảm, trí tuệ và tinh thần – mà nhân loại có thể có được. Y học chính thống đang mở rộng sự hợp tác hơn nữa với các tôn thờ mới mẻ hơn là những tân tín đồ của khoa kiểm soát bệnh tật bằng tâm thần; tuy nhiên, họ không thể để cho các bệnh nhân của họ trở thành những con bọ thí nghiệm (đó có phải là thuật ngữ được dùng trong các trường hợp này không hỡi huynh đệ?) v́ sự toại nguyện của kẻ tôn thờ tiên phong và việc chứng minh các lư thuyết của y – dù đúng như thế nào khi được dùng kết hợp với những ǵ đă được chứng minh. Cách trung gian để thỏa hiệp và để hợp tác hỗ tương bao giờ cũng là cách khôn ngoan nhất, và đây là một bài học mà ngày nay cần đến rất nhiều trong mọi địa hạt suy tư của con người.

258

 
Bây giờ, chúng ta sẽ tiếp tục bàn đến tiết thứ ba và là tiết cuối cùng vể các ư tưởng chung quanh các nguyên nhân căn bản của bệnh tật. Chủ đề karma đă ít được xét đến, và tôi sẽ bàn đến chủ đề đó một cách rộng răi hơn khi có dịp.

 

 

                               


259

 
CHƯƠNG   III

CÁC TRÁCH NHIỆM NGHIỆP QUẢ CỦA CHÚNG TA

ef

NHẬN XÉT DẪN NHẬP

Bây giờ chúng ta đi đến giai đoạn kết luận về cách tiếp cận của chúng ta đối với vấn đề bệnh tật. Trong phần kế tiếp, chúng ta sẽ bàn đến các thái độ và tính t́nh của người bệnh, xem xét cung của y và cũng xét đến trạng thái trí tuệ của nhà chữa trị; tất cả các điểm này đều rất quan trọng khi người ta xét đến thuật chữa trị tinh vi. Tuy nhiên, điều chủ yếu là sức khỏe kém cỏi, bệnh cấp tính, và chính cái chết đều có vị trí của chúng trong toàn bộ bức tranh. Một lâm phàm đặc biệt không phải là một biến cố đơn độc trong sự sống của linh hồn, mà là một phần và một khía cạnh của chuỗi kinh nghiệm đă được định sẵn để đưa đến mục tiêu rơ rệt, duy nhất – mục tiêu của việc tự do chọn lựa và cố ư quay ra khỏi vật chất để tiến đến tinh thần và sự giải thoát cuối cùng.

260

 
Có nhiều điều được nói đến trong số các nhà huyền bí học (đặc biệt là trong cách tŕnh bày theo Đông phương về Con Đường Đến Thực Tại) liên quan đến sự giải thoát. Mục tiêu trước mắt kẻ sơ cơ là giải thoát, tự do, giải phóng. Nh́n chung, điều này là chủ âm của chính sự sống. Ư niệm chung là một sự chuyển di ra khỏi lănh vực của vị kỷ thuần túy và của giải thoát cá nhân thành một cái ǵ rộng lớn và quan trọng hơn nhiều. Khái niệm giải thoát này ẩn đằng sau việc sử dụng hiện nay của từ ngữ "tự do", nhưng khôn khéo hơn nhiều, tốt đẹp và sâu sắc hơn theo hàm ư của nó. Trong trí của nhiều người, th́ tự do là thoát khỏi sự áp đặt về luật lệ của bất cứ ai, tự do làm theo ư ḿnh, suy tưởng theo sự định đoạt của ḿnh và sống theo ư ḿnh. Điều này sẽ được như thế, miễn là các ước muốn, chọn lựa, các tư tưởng và dục vọng của ta đều không nhiễm ích kỷ và được hiến dâng cho lợi ích của mọi người. Cho đến nay điều này rất ít khi được như thế.

Sự giải thoát c̣n nhiều hơn mọi điều này; đó là thoát khỏi quá khứ, tự do tiến tới theo một số đường lối định trước (do linh hồn định trước), tự do biểu lộ mọi tính thiêng liêng mà người ta có được với tư cách một cá nhân, hoặc cái mà một quốc gia có thể đưa ra cho thế giới.

Trong lịch sử của hai ngàn năm qua, có bốn biến cố tượng trưng lớn lao, chúng tuần tự hiện ra (cho những ai có mắt biết nh́n, có tai biết nghe và có trí biết t́m hiểu) chủ đề về sự giải thoát (liberation) – chứ không phải chỉ có tự do (liberty).

1. Cuộc đời của chính Đức Christ. Lần đầu tiên Ngài tŕnh bày ư tưởng về sự hy sinh của cá nhân, được đưa ra một cách thực tâm và có cân nhắc cho việc phụng sự toàn thể. Có các Đấng Cứu Trợ Thế Gian khác, nhưng các kết quả có liên quan không được mô tả rơ rệt lắm, bởi v́ trí óc của con người không sẵn sàng để hiểu hết các hàm ư. Phụng sự là chủ âm của sự giải thoát. Đức Christ là Đấng Phụng Sự lư tưởng.

2. Kư kết Hiến Chương Magna. Tài liệu này được kư kết ở Runnymede, dưới triều vua John, vào ngày 15–6–1215 sau T.C. Ở đây, ư tưởng về sự giải phóng khỏi uy quyền được tŕnh bày bằng sự nhấn mạnh về tự do cá nhân và các quyền của cá nhân. Sự tăng trưởng và phát triển ư tưởng căn bản này, tức là khái niệm trí tuệ và nhận thức được đưa ra thuộc vào bốn đoạn hay chương:

  a. Kư kết Hiến Chương Magna, nhấn mạnh về sự tự do cá nhân.

261

 
  b. Thành lập nước Cộng Ḥa Pháp với việc nhấn mạnh về tự do của con người.

  c. Tuyên Ngôn Độc Lập và Dự Luật về Nhân Quyền quyết định chính sách quốc gia.

  d. Hiến Chương Đại Tây Dương và Bốn Quyền Tự Do đưa toàn thể vấn đề vào lănh vực quốc tế, và bảo đảm cho người nam và nữ ở mọi nơi trên thế giới, quyền tự do để phát triển thực tại thiêng liêng trong chính họ.

Lư tưởng dần dần trở nên rơ rệt, để cho ngày nay đa số con người ở mọi nơi biết được những ǵ là điều cơ bản của hạnh phúc.

3. Giải Phóng Nô Lệ. Ư tưởng tinh thần về tự do của con người, đă trở nên lư tưởng được nhận ra, trở nên một ước muốn cần thiết và một biến cố tượng trưng vĩ đại xảy ra – các nô lệ được giải phóng. Giống như mọi việc mà con người đang có vai tṛ trong đó, sự hoàn hảo không thể có được. Người da đen không được tự do trong mảnh đất tự do này và Châu Mỹ sẽ phải thanh tẩy về mặt này; để đặt nó vào các lời lẽ rơ ràng, chính xác, nước Mỹ phải xem xét rằng Hiến Pháp và Dự Luật Nhân Quyền là các thực kiện chớ không phải là ảo tưởng. Chỉ có như thế th́ sự tác động không thể tránh khỏi của Luật Karma (vốn là chủ đề hiện nay của chúng ta) mới được đền bù. Người Da Đen là người Mỹ, cũng như những người Anh Mới và tất cả những chủng tộc khác, vốn không phải là thổ dân trong xứ này và Hiến pháp cũng là Hiến pháp của họ. Cho đến nay, các đặc quyền mà Hiến Pháp đưa ra đều bị những kẻ vốn là nô lệ của tính ích kỷ và sợ sệt, từ chối.

4. Giải Phóng Nhân Loại nhờ Liên Hiệp Quốc.

Chúng ta đang tham dự vào một biến cố rất huy hoàng và có tính cách tượng trưng, và đang chứng kiến biến cố đó tiếp diễn. Việc giải phóng cá nhân đă tiếp diễn nhờ sự giải phóng tượng trưng của một bộ phận nhân loại (dấu vết c̣n lại của hai giống dân đầu tiên là Lemuria và Atlantis) đối với sự giải phóng của nhiều triệu con người, bị nô lệ cho các tà lực bởi hàng triệu huynh đệ của họ. Lư tưởng đă được thể hiện thành một cố gắng thực tiễn khắp thế giới trên cơi trần và đă đ̣i hỏi sự hy sinh của khắp thế giới. Nó liên quan đến toàn thể ba cơi tiến hóa của con người, và v́ lư do này, Đức Christ bây giờ có thể hướng các thần lực của Ngài vào giúp con người để giải thoát cho nhân loại.

262

 
Do đó, điều ǵ đă thực sự xảy ra trong các sự sống của cá nhân, trong sự sống của quốc gia và trong sự sống của nhân loại? Một biện pháp phi thường để đánh giá đúng tà kiến cổ xưa nhất, để hóa giải một cách hữu thức Luật Nhân Quả nhờ một nhận thức về các nguyên nhân trong các lănh vực cá nhân, quốc gia và quốc tế, vốn đă tạo ra các hậu quả mà ngày nay nhân loại đang hứng chịu.

Luật Karma ngày nay là một sự kiện vĩ đại và không thể chối căi trong ư thức nhân loại ở khắp nơi. Họ không thể gọi luật ấy bằng danh xưng đó, nhưng họ biết rất rơ rằng trong tất cả các biến cố ngày nay, các quốc gia đang gặt những ǵ mà họ đă gieo. Định luật vĩ đại này – có thời là một lư thuyết – hiện nay là một sự kiện đă được chứng minh và là một yếu tố đă được hiểu rơ trong tư duy của con người. Câu hỏi "Tại sao?" rất thường được nêu ra trong yếu tố nhân quả một cách chắc chắn không thay đổi. Các quan niệm về di truyền và về môi trường xung quanh là các nỗ lực để giải thích các t́nh trạng hiện tại của con người; các tính chất, các đặc điểm về chủng tộc, các khí chất của quốc gia và các lư tưởng đă chứng tỏ sự thật về một số thế giới nguyên nhân đang khai mở. Các t́nh trạng lịch sử, các liên hệ giữa các quốc gia, các cấm kỵ trong xă hội, các xác tín của tôn giáo và các khuynh hướng, tất cả đều có thể truy nguyên đến các nguyên nhân khởi đầu – một vài trong số các nguyên nhân đó thuộc loại cổ xưa nhất. Mọi việc đang xảy ra trong thế giới ngày nay và đang tác động một cách rất mạnh mẽ lên nhân loại – những chuyện tốt đẹp và chuyện khiếp sợ, các cách sống và nền văn minh, văn hóa, các thành kiến và các ưa thích, thành tựu khoa học và biểu cảm nghệ thuật, và nhiều cách thức mà nhân loại khắp hành tinh đang tô điểm cho cuộc sống – đều là các khía cạnh của các hiệu quả, đă bắt đầu ở một nơi nào đó, trên một mức độ nào đó, vào một thời kỳ nào đó, bởi con người, cả cá nhân lẫn quần chúng.

263

 
Do đó, karma là cái mà Con Người – vị Thiên Đế mà chúng ta sống trong Ngài, nhân loại nói chung, nhân loại trong các nhóm như các quốc gia và con người cá biệt – đă thiết lập, xúc tiến, đă tán đồng, bỏ đi không làm hoặc đă làm đúng qua các thời kỳ, cho đến ngày nay. Hiện giờ, mùa gặt đă đến và nhân loại đang gặt những ǵ họ đă gieo, chuẩn bị cho một luống cày mới trong mùa xuân của Kỷ Nguyên Mới, việc gieo trồng các hạt giống mới (chúng ta hăy cầu nguyện và hy vọng) sẽ tạo ra một mùa gặt thành công hơn.

Chứng cớ nổi bật nhất của Luật Nhân Quả là chủng tộc Do Thái. Mọi quốc gia đều có minh chứng về định luật này, nhưng tôi chọn dân Do Thái, v́ lịch sử của họ được người ta biết rơ, tương lai và vận mệnh của họ là các chủ đề của toàn thế giới, liên quan đến nhiều người. Dân Do Thái luôn luôn có một ư nghĩa tượng trưng; họ tóm tắt trong chính họ – với tư cách một quốc gia qua các thời đại – các hố sâu của sai trái con người và các đỉnh cao của thiên tính nhân loại. Như đă được kể lại trong Kinh Cựu Ước, lịch sử gây hấn của họ vốn ngang bằng với sự thành tựu của dân Đức ngày nay; tuy nhiên Đức Christ là một người Do Thái, và chính chủng tộc Hebrew đă tạo ra Ngài. Đừng bao giờ quên điều này. Dân Do Thái là kẻ xâm lược vĩ đại; họ bóc lột dân Ai Cập và họ chiếm Đất Hứa (Promised Land) bằng mũi gươm, không dung tha cho đàn ông, đàn bà, trẻ con. Lịch sử tôn giáo của họ đă được xây dựng chung quanh một Jehovah duy vật, khư khư giữ của, tham ăn, tán đồng và khuyến khích sự xâm lược. Lịch sử của họ tượng trưng cho lịch sử của mọi kẻ xâm lược, chính họ viện lư vào niềm tin rằng họ đang tiến hành thiên ư (divine purpose) giành giựt tài sản của con người bằng một tinh thần tự vệ và t́m kiếm một lư do nào đó, thích hợp cho họ để bào chữa cho sự độc ác bất công đối với hành vi của họ. Đất Palestine bị dân Do Thái chiếm bởi v́ đó là "một vùng đất đầy hoa với sữa và mật ong" và khẳng định hành động của họ là theo mệnh lệnh thiêng liêng. Sau này, khoa biểu tượng nhận được nhiều lư thú nhất. Họ chia thành hai nửa: người Israelites với Tổng Hành Dinh ở Samaria và người Jews (nghĩa là hai hay ba bộ lạc đặc biệt trong số 12 bộ lạc) ở chung quanh Jerusalem. Thuyết Nhị Nguyên (Dualism) thấm đượm các đức tin tôn giáo của họ; họ được rèn luyện bởi dân Sadducees hoặc người Pharisees, và cả hai nhóm này đang thường xuyên xung đột. Đức Christ đă đến với tư cách là một thành viên của chủng tộc Do Thái và họ đă chối bỏ Ngài.

264

 
Theo thực tế và theo tượng trưng, ngày nay, thiên luật đang tác động và dân Do Thái đang trả giá cho tất cả những ǵ họ đă làm trong quá khứ. Họ đang chứng tỏ các hiệu quả có ảnh hưởng sâu rộng của Thiên Luật. Theo thực tiễn và theo biểu tượng, chúng thay thế cho văn hóa và văn minh. Theo thực tiễn và theo biểu tượng, họ nhân loại; theo thực tiễn và theo biểu tượng, họ giữ lập trường như họ đă chọn từ bao giờ đối với việc chia rẽ. Họ đă tự xem như người được tuyển chọn và có một ư thức bẩm sinh về số phận cao cả đó, quên mất vai tṛ tượng trưng của họ và chính Nhân Loại là kẻ được chọn chứ không phải là một phần nhỏ và kém quan trọng của nhân loại. Về thực tiễn và biểu tượng, họ ao ước sự hợp nhất và hợp tác, tuy nhiên, không biết hợp tác như thế nào; về mặt thực tiễn và biểu tượng, họ là "Kẻ Hành Hương Vĩnh Cửu"; họ là nhân loại đang lang thang qua các mê lộ của ba cơi tiến hóa của nhân loại, và nh́n bằng đôi mắt khát khao về miền đất hứa; về mặt thực tiễn và biểu tượng, họ tương tự như đa số con người, không chịu t́m hiểu mục đích tinh thần ẩn dưới mọi hiện tượng vật chất, bác bỏ Đức Christ nội tâm (như là cách đây nhiều thế kỷ họ đă làm đối với Đức Christ trong ṿng các giới hạn của họ) bám chặt lợi ích vật chất và kiên quyết bác bỏ các sự việc tinh thần. Họ đ̣i hỏi điều được gọi là phục hồi vùng Palestine, giành đất đó ra khỏi những kẻ đă cư ngụ ở đó từ nhiều thế kỷ; và bằng sự nhấn mạnh liên tục vào sự sở hữu vật chất mà họ không nh́n thấy cách giải quyết đúng thực, lần nữa, về mặt biểu tượng và thực tiễn, vốn là những ǵ mà họ phải được đồng hóa vào mọi quốc gia và ḥa hợp với mọi chủng tộc, như vậy, chứng tỏ sự nhận thức về Nhân Loại Duy Nhất.

265

 
Thật là lư thú mà ghi nhận rằng người Do Thái đă sống ở miền Nam Palestine và thành phố chính của họ là Jerusalem, đă thành công trong việc thi hành điều này và đă ḥa nhập với và được đồng hóa bởi người Anh, người Ḥa Lan, người Pháp, theo cách thức mà những người Israelites, bị người Samaria cai trị, chẳng bao giờ làm cả. Tôi nhắc lại điều này để cho bạn xem xét.

Do đó, nếu giống dân Do Thái nhớ lại vận mệnh tượng trưng cao cả của họ, và nếu phần c̣n lại của nhân loại muốn thấy chính họ trong dân tộc Do Thái, và nếu cả hai nhóm muốn nhấn mạnh sự kiện về ḍng giống nhân loại và ngưng nghĩ tưởng về chính họ bằng các thuật ngữ về các quốc gia và chủng tộc, th́ Karma của nhân loại sẽ thay đổi tận gốc rễ từ karma báo phục của hiện tại, đến karma thưởng phạt tốt lành của tương lai.

266

 
Hăy xem xét vấn đề này theo nhăn quang rộng răi (nh́n lui lại về phương diện lịch sử, cũng như nh́n tới phía trước một cách đầy hy vọng); vấn đề là chính người Do Thái phải đóng góp một cách rộng răi hơn. Tuy nhiên, họ không bao giờ đối phó một cách thẳng thắn và thành thật (với tư cách là một chủng tộc) với vấn đề tại sao nhiều quốc gia, từ thời Ai Cập, đă không ưa cũng như không cần đến họ. Suốt nhiều thế kỷ, việc đó vẫn luôn luôn giống nhau. Tuy nhiên, phải có một số lư do, có sẵn trong chính dân chúng, khi có phản ứng rất rộng răi và phổ quát. Cách tiếp cận của họ đối với vấn đề đầy khủng khiếp của họ là vấn đề khẩn khoản, hay oán trách buồn phiền hay là thất vọng. Nhu cầu của họ đối với các quốc gia phi Do Thái (Gentile nations) là đặt đúng vấn đề, và nhiều người không phải là Do Thái đă thử làm điều đó. Tuy nhiên, cho đến nay, chính người Do Thái đă đương đầu với t́nh h́nh và thừa nhận rằng đối với họ, có thể có sự thể hiện của khía cạnh báo phục của Luật Nhân Quả, và cho đến khi họ nỗ lực để xác định những ǵ có ở trong họ, với tư cách là một giống dân, mở đầu vận mệnh thảm khốc xa xưa của họ, vấn đề căn bản của thế giới này sẽ vẫn như là nó đă có từ thời vô thủy. Những ǵ có bên trong nhân loại, th́ có trong con người vĩ đại, thánh thiện, công bằng và thiên về tinh thần, đó là một chân lư không thể sửa đổi được. Một điều khái quát th́ không bao giờ diễn tả chân lư đầy đủ được. Nhưng, xét về vấn đề người Do Thái trong thời gian và không gian, trong lịch sử và hiện tại, các điểm mà tôi đă đưa ra, sẽ được dân Do Thái xem xét một cách đầy đủ.

Những ǵ mà tôi đă nói không có cách nào làm giảm nhẹ tội lỗi của những kẻ cố lạm dụng dân Do Thái. Bạn có câu tục ngữ "hai đen không tạo được một trắng" không? Cách cư xử của các quốc gia đối với dân Do Thái (Jews) lên đến cực điểm hung bạo vào khoảng phần tư thứ hai của thế kỷ XX, không biện minh ǵ cả. Thiên luật tất nhiên phải tác động. Dù cho nhiều việc đă xảy ra đối với dân Do Thái đă xuất phát từ trong lịch sử đă qua của họ và trong thái độ chia rẽ rơ rệt của họ và tính không thể đồng hóa , và trong việc nhấn mạnh vào lợi ích vật chất của họ, tuy các tác nhân đă mang lại karma xấu cho họ, cũng gánh chịu khía cạnh báo phục của cùng một luật; hiện nay, t́nh thế đă mang lấy h́nh thức một ṿng lẩn quẩn của sai lầm và hành động sai trái, của việc đền đáp và báo thù, và v́ lư do đó, phải đến lúc mà toàn thể các quốc gia sẽ thảo luận về vấn đề này, và toàn thể các quốc gia ấy sẽ hợp tác để mang lại một kết thúc về các thái độ sai lầm ở cả hai phía. Mọi karma có bản chất xấu đều được giải quyết bằng sự tŕnh bày về một ư chí được thừa nhận, một t́nh thương có tính hợp tác, một nh́n nhận thành thật về tinh thần trách nhiệm, và một sự hiệu chỉnh khéo léo về hoạt động chung hợp nhất để mang lại tốt lành cho nhân loại nói chung, chớ không chỉ sự tốt lành cho một quốc gia, một dân tộc hay một giống dân riêng biệt.

267

 
Vấn đề Do Thái sẽ không được giải quyết bằng việc chiếm hữu Palestine, bằng sự kiện cáo, đ̣i hỏi và bằng việc vận dụng tài chính. Điều đó chỉ là việc kéo dài lầm lỗi cũ và việc sở hữu vật chất. Vấn đề sẽ được giải quyết bằng sự tự nguyện của người Do Thái để phù hợp với nền văn minh, với bối cảnh văn hóa và các tiêu chuẩn sinh hoạt của quốc gia, mà do sự sinh sản và sự giáo dục – dân Do Thái được liên kết với, và nhờ đó họ sẽ được đồng hóa. Điều đó sẽ xảy đến nhờ sự từ bỏ ḷng tự kiêu về chủng tộc và về ư niệm tuyển chọn; điều đó sẽ xảy đến nhờ việc từ bỏ các giáo điều và các tập quán đă quá cổ xưa và đang tạo ra các điểm bực bội luôn xảy ra đối với ma trận (matrix) mà người Do Thái thấy ḿnh vướng trong ấy; điều đó sẽ xảy đến khi tính ích kỷ trong các liên hệ công việc và các khuynh hướng vận dụng rơ rệt của người Hebrew, đă được trao đổi v́ sự vô kỷ nhiều hơn và các h́nh thức hoạt động thành thật nhất.

Do các cung và tŕnh độ phát triển của ḿnh, người Do Thái nổi bật về tính sáng tạo và về mỹ thuật. Điều này, họ phải nhận ra, chớ không t́m cách – như hiện nay họ đang làm – chế ngự trong mọi lănh vực để giành lấy mọi cơ may của dân tộc khác, và như thế mưu lợi cho riêng ḿnh và dân tộc ḿnh bằng cách gây thiệt hại cho người khác. Việc thoát khỏi t́nh trạng hiện nay sẽ xảy đến khi người Do Thái quên rằng ḿnh là một người Do Thái và trong tận thâm tâm ḿnh trở nên là một người Ư, một người Mỹ, người Anh, người Đức hay một người Ba Lan. Hiện nay, điều này không phải như thế. Vấn đề Do Thái sẽ được giải quyết bằng hôn nhân khác chủng tộc và tôn giáo (intermarrige); c̣n vấn đề người da đen th́ không phải như thế. Điều này sẽ hàm ư là có sự nhân nhượng và thỏa hiệp về phía người Do Thái chính thống, không phải nhân nhượng theo thời cơ, mà là nhân nhượng v́ xác tín.

268

 
Tôi cũng xin nêu ra rằng cũng như Kinh Kabbalah và kinh Talmud (Pháp Điển Do Thái) là các đường lối phụ để tiến đến chân lư nội môn, và phương pháp của các kinh đó thiên về vật chất (biểu hiện nhiều cho công tác huyền thuật để liên kết một mức vật chất với chất liệu của một mức khác), cũng thế Cựu Ước rơ ràng là một Thánh Kinh thứ yếu, và về mặt tinh thần, không đứng trong hàng ngũ với kinh Bhagavad–Gita, các Kinh cổ của Đông phương và Kinh Tân Ước. Nó nhấn mạnh về vật chất và hiệu quả của nó là ghi ấn tượng một Jehovad thuần vật chất vào tâm thức thế gian. Chủ đề tổng quát của Cựu Ước là phục hồi biểu hiện cao nhất của minh triết thiêng liêng trong thái dương hệ thứ nhất; thái dương hệ đó tượng trưng cho công tác sáng tạo của Ngôi Ba của Thượng Đế – ngôi của thông tuệ linh hoạt tự biểu lộ qua vật chất. Trong thái dương hệ này, thế giới sáng tạo được dự trù là biểu hiện của Ngôi Hai, về t́nh thương của Thượng Đế. Người Do Thái không bao giờ hiểu được điều này, v́ t́nh thương được diễn tả trong Cựu Ước là t́nh thương chia rẽ, ích kỷ của Jehovah cho từng đơn vị riêng biệt trong giới thứ tư, tức là giới nhân loại. Thánh Paul tóm tắt thái độ mà nhân loại nên có bằng các lời: "Không có người Do Thái, cũng không có người phi Do Thái". Karma xấu của người Do Thái ngày nay được dự trù là để chấm dứt sự cô lập của họ, đưa họ đến mức từ bỏ các mục tiêu vật chất, từ bỏ một quốc tịch vốn có khuynh hướng hơi ăn bám trong ranh giới của các quốc gia khác, và để biểu lộ ḷng bác ái bao quát, thay v́ một bất hạnh phân cách.

268

 
C̣n thái độ của người phi Do Thái là ǵ? Điều tuyệt đối cần thiết là các quốc gia gặp gỡ người Do Thái hơn nửa đường khi người này đạt đến mức thay đổi – một cách chậm chạp và từ từ – quyền chính thống về quốc tịch của ḿnh. Điều cần yếu là họ ngưng sợ hăi và khủng bố, hết oán hờn và không đặt ra các bức tường ngăn cản sự hợp tác. Thái độ bài Do Thái đang tăng trên thế giới, không thể bào chữa được theo cái nh́n của Thượng Đế và con người. Ở đây, tôi không nhắc đến các sự hung ác đáng kinh tởm của người dân Đức bị ám ảnh. Sau đó có ẩn lịch sử của các mối liên hệ của thời Atlantis mà tôi không cần đi sâu vào, bởi v́ tôi không thể chứng minh cho bạn sự thật về các phát biểu của tôi. Tôi nhắc đến lịch sử của hai ngàn năm qua và đến cách cư xử hằng ngày của người phi Do Thái ở khắp nơi. Phải có một nỗ lực rơ

269

 
rệt về phần các công dân ở mọi xứ để đồng hóa người Do Thái, để tạo hôn nhân dị chủng với họ và để không xem họ như là các bức tường ngăn cách, các tập quán cổ xưa của tư tưởng và các mối liên hệ xấu thời trước. Con người ở khắp nơi phải xem điều đó như là một vết nhơ trên toàn thể quốc gia của họ, nếu có xuất hiện trong biên giới của họ cặp đối lập cũ – Do Thái và phi Do Thái. Không có người Do Thái mà cũng không có người phi Do Thái; chỉ có nhân loại. Cuộc thế chiến (1914 – 1945) nên được xem như đă mang lại một kết thúc việc thù địch xưa giữa người Do Thái và phi Do Thái, và giữa hai nhóm mà hiện nay có cơ may để làm phát sinh một cơ hội sống mới mẻ hơn, hạnh phúc hơn và một liên hệ hợp tác chân thật trên cả hai phía. Tiến tŕnh đồng hóa sẽ chậm lại, v́ t́nh trạng ngày tháng cổ xưa đến nỗi các thói quen tư duy, các thái độ thông thường và các thói quen chia rẽ đă được thiết lập rơ ràng, khó mà vượt qua được. Nhưng các thay đổi cần thiết có thể được tạo ra nếu thiện chí hướng dẫn lời nói, việc tŕnh bày bằng cách viết và cách sống chung với nhau. Thánh Đoàn không thấy có sự phân biệt nào. Vị Lănh Đạo của Thánh Đoàn, dù cho vào lúc này, không ở trong thân xác người Do Thái, cũng đă đạt được mục tiêu tinh thần cao nhất cho nhân loại trong khi ở trong thân xác Do Thái. Thánh Đoàn cũng đang đưa vào các thể xác Do Thái một số vị đệ tử, họ sẽ làm việc với chủ đích hoàn toàn lúc t́nh thế thay đổi. Ngày nay, có một số ít người Do Thái không suy tưởng bằng các thuật ngữ của người Do Thái; họ không bận tâm với vấn đề Do Thái, loại bỏ mọi bất đồng, và họ đang nỗ lực để ḥa nhập mọi người thành một nhân loại duy nhất, như vậy lấp được lỗ hổng.

Một lần nữa, tôi nói rằng các Thánh sư minh triết không phân biệt người Do Thái hay phi Do Thái, mà chỉ có các linh hồn và các con của Thượng Đế.

270

 
Khi bàn đến vấn đề nghiệp quả như là một yếu tố – có tính cách quyết định và kéo dài về cả hai phía bệnh tật và sức khỏe – một trong các phê phán mà cách tiếp cận của tôi tùy thuộc vào, đó là tôi không bàn quá nhiều vào các điều khái quát, và tôi không nêu ra sự phân tích đặc biệt và chi tiết nào về các bệnh riêng biệt, đặc biệt là về các bệnh căn bản lớn lao mà ngày nay gây ra mất mát cho nhân loại như thế và về căn bản không được kiềm chế. Tôi không bàn đến các triệu chứng của chúng hoặc cách chữa trị chúng, và tôi không nêu ra một kỹ thuật nào để nhờ đó chúng có thể được vận dụng. Điều này tôi cảm thấy là một sự chỉ trích mà tôi sẽ bàn đến, để cho bạn có thể tiếp tục sự nghiên cứu của bạn mà không có sự hiểu lầm. Đây là một điểm thích hợp để chận đứng và đáp ứng với sự tranh căi này. Tất nhiên, Karma là một chủ đề tổng quát chớ không đặc thù; tuy nhiên, nó không được quảng đại quần chúng chấp nhận theo ư nghĩa huyền môn. Cần phải xem xét theo những đường lối rộng lớn cho đến khi mà Luật Nhân Quả được thừa nhận như là một yếu tố chi phối chính trong ư thức con người, không những trên một qui mô rộng lớn, mà c̣n liên quan với các kiếp sống cá nhân. Tuy nhiên quần chúng nói chung đều không biết đến luật này.

Hiển nhiên là đối với bạn, tôi hoàn toàn không cần bàn đến khía cạnh triệu chứng của bệnh tật và bàn đến các sự kiện mà y học chính thống đă có thể xác minh. Trong một thời gian, chúng ta đă xem xét các nguyên nhân của những bệnh như thế, và tôi dự định bàn đến các phương pháp chữa trị theo huyền môn – khi mà các cách chữa trị như thế có thể chấp nhận được đúng theo Luật Karma, và khi mà nhà chữa trị sẵn sàng làm việc theo cách của huyền môn. Tôi đă thử minh giải cho bạn nguyên nhân căn bản có liên hệ tới năng lượng, tới việc quá thừa hay quá thiếu năng lượng đi qua các bí huyệt. Ở đây, có ẩn hai yếu tố chính trong việc tạo ra bệnh. Điều chủ yếu là những ai trong các bạn thấy lư thú trong việc nghiên cứu và chữa trị bệnh tật nên thừa nhận điều này, và đặt điều đó làm căn bản cho cách tiếp cận của bạn. Tôi đă nêu ra rằng y học và việc trị liệu bằng thuốc men trong tương lai sẽ bắt đầu bằng sự kiện này, và xem chúng như là yếu tố quyết định hàng đầu. Tôi không từ bỏ bản chất thực sự của khám phá y học. Tôi t́m cách xúc tiến vấn đề theo quan điểm đó, và không phải chủ trương của tôi là không biết đến các khám phá khôn ngoan của y học hiện đại, tôi cũng không ở về phía những kẻ chê bai và không thừa nhận các khám phá của y học hiện đại. Điều này, tôi đă nhấn mạnh trước kia. Tôi muốn nêu ra khuynh hướng t́m ṭi y học về sau, khuynh hướng đó sẽ là t́m kiếm vị trí của bệnh tật trong lĩnh vực sinh lực (theo như các nhà sưu khảo chính thống đă gọi), và những ǵ mà chúng ta phải xem như thuộc về lĩnh vực của thể dĩ thái. Ở đây, tôi xin đưa ra một phát biểu thực tiễn có thể xem như Qui Luật kế tiếp trong bộ luận này:

271

 
QUI LUẬT   6

Việc chẩn đoán bệnh cẩn thận, dựa trên các triệu chứng bên ngoài đă được xác minh, sẽ được đơn giản hóa đến mức mà khi cơ quan liên hệ đă được biết rơ và nhờ thế mà được cô lập, bí huyệt trong thể dĩ thái vốn có liên quan chặt chẽ nhất với cơ quan đó, sẽ tuân theo các phương pháp chữa trị theo huyền môn, dẫu cho các phương pháp thông thường, có cải thiện; các phương pháp dùng thuốc men hoặc giải phẫu sẽ vẫn được dùng.

Đây là chỗ mà nhà thờ phụng cuồng tín hay là kẻ chữa trị hiện đại rất thường lạc lối. Cách tiếp cận xưa của y học, với cách t́m ṭi thiên về vật chất của nó, và cách chẩn đoán thành công hoặc thất bại của nó, sẽ vẫn c̣n cần đến cho đến lúc mà các y sĩ và các nhà giải phẫu có được khả năng nhăn thông, nhận thức trực giác và thị kiến tâm linh, và cũng cho tới lúc mà họ đă vạch ra được một kỹ thuật để vận dụng năng lượng có liên quan tới bệnh nhân. Một ngày nào đó, điều này sẽ được bổ túc bằng sự diễn giải chính xác theo chiêm tinh học, việc nhận biết trực tiếp về các loại cung, và kế đó việc áp dụng các kỹ thuật chữa trị đúng đắn, theo sự đ̣i hỏi của cung đang chi phối biểu hiện sự sống của bệnh nhân, cộng thêm với tŕnh độ tiến hóa của y.

272

 
Tôi đă gây bất lợi lớn khi t́m cách đặt nền móng cho cách tiếp cận mới với y học. Tôi đă gây trở ngại bằng các công bố lư tưởng của các nhà tiên phong trong lănh vực mới đối với việc chữa trị theo thiên nhiên, bằng thiên nhiên liệu pháp và bằng các giả thuyết của Khoa Học Cơ Đốc và các Trường Phái Hợp Nhất. Tất cả những ǵ mà tôi có thể làm (nếu bạn rút kinh nghiệm nhờ sự tŕnh bày của tôi) là đề ra một số giả định rộng răi và tổng quát sẽ chi phối các nhà y học trong tương lai. Nhưng trong giai đoạn tạm thời giữa kỷ nguyên cũ và mới, con người sẽ lang thang trong đám sương mù của suy đoán; một xung đột lớn sẽ xảy ra giữa các trường phái theo chính thống với các nhà suy đoán và các nhà điều nghiên các ư tưởng mới và tạm thời "Bát Chánh đạo" của Đức Phật sẽ bị lăng quên.

Ngày nay, trong y khoa có một t́nh trạng song hành được t́m thấy trong lĩnh vực tôn giáo. Cách tiếp cận xưa đủ cho quần chúng và thường thành công cả trong khía cạnh cải thiện lẫn pḥng ngừa và trong tiến tŕnh chẩn đoán của nó. Đây là tất cả những ǵ có thể có được vào lúc này. Cũng giống như vậy, cách tŕnh bày cổ xưa của tôn giáo đủ để hướng dẫn quần chúng kém suy tư, theo một số đường lối rộng lớn của cách sống có kiềm chế, và duy tŕ một cách rơ rệt trong ư thức của hạng thường nhân một số sự kiện tinh thần không thể bàn căi được. Cả trong việc hướng dẫn và bảo vệ quần chúng về bản chất tinh thần của họ lẫn trong việc hướng dẫn và bảo vệ các thể xác của họ, các bác sĩ và các vị tư tế có thể được chia thành nhiều nhóm khác nhau – một số trung thành với các kỹ thuật cổ xưa đă được chứng minh, một số người theo lập trường chính thống đến nỗi họ không chịu t́m ṭi những ǵ mới lạ và chưa được chứng minh, c̣n một số theo chủ nghĩa lư tưởng, hay suy đoán và cuồng tín đến nỗi họ lao tới và tiến vào một thế giới thực nghiệm ức đoán vốn có thể hay không thể mang lại cho họ chiếc ch́a khóa đi đến y học của tương lai mà chắc chắn là sẽ đặt bệnh nhân của họ vào loại mà bạn gọi là "con bọ thí nghiệm".

273

 
Lănh vực ức đoán chắc chắn nhất và kém cỏi nhất trong thực hành y học là lĩnh vực có liên hệ với sự giảm bệnh nhờ mổ xẻ cho bệnh nhân. Nó được đặt nền tảng trên sự hiểu biết chắc chắn về giải phẫu học, việc chẩn đoán nó theo nhu cầu có thể được kiểm soát một cách sáng suốt, và việc thực hành nó (khi nào ở trong tay của một nhà giải phẫu tài ba và nổi tiếng) có thể và nhất định thường tạo ra việc chữa lành hay kéo dài đời sống thực sự. Tuy nhiên ngay cả trong lănh vực đó, người ta cũng ít biết về các kết quả của một cuộc giải phẫu như nó có thể tác động vào thể dĩ thái và (tất nhiên) vào hệ thần kinh qua hệ thống trung gian gồm các "nadis" hay là đối phần dĩ thái của các dây thần kinh. Tôi muốn nêu ví dụ về việc cắt bỏ removal một số cơ quan. Các kết quả rơ rệt hẳn phải lộ ra và một giai đoạn hiệu chỉnh khó khăn tất nhiên phải xảy ra bên trong bộ máy tinh vi của người bệnh. Khu vực cơ thể đă nhận được cách điều trị bằng giải phẫu và đặc biệt là bí huyệt có liên hệ mật thiết nhất với nó phải chịu tác động, v́ ḍng năng lượng tuần hoàn, xuất phát từ bí huyệt, sẽ thấy chính nó bị "nối tắt" ("short circuited"), nếu tôi có thể sử dụng một nhóm từ như thế.

Cho đến nay, ḍng năng lượng này đă chạy qua vùng chú tâm giải phẫu, phải chuyển đường đi của nó đến mọi phần của cơ thể, xuyên qua các "nadis". Như các bạn biết các nadis này nằm bên dưới và cung cấp năng lượng cần cho hệ thần kinh. Các vận hà cũ dành cho ḍng năng lượng sẽ bị dời chuyển, do kết quả của các biện pháp đang dùng, lớn hoặc nhỏ. Các vận hà mới hay các tuyến thần lực, bắc cầu qua vùng "bị cắt đứt", sẽ phải được thiết lập và việc hiệu chỉnh căn bản sẽ phải được tạo ra bên trong cơ cấu sinh động của người bệnh. Thực tế cho đến nay không ai biết ǵ cả về các tuyến này. Ngay đến trong lănh vực t́m ṭi tiến bộ cũng không hề biết tới.

Nền y học mới không thể được diễn giải một cách khoa học, hay là được tŕnh bày một cách sáng suốt cho đến khi mà sự thật về thể dĩ thái được công nhận và sự hiện hữu của nó, với vai tṛ là cơ cấu cung cấp năng lượng và với vai tṛ là trạng thái sống động của h́nh hài bên ngoài, được hiểu một cách rộng răi. Lúc bấy giờ, sự thay đổi chú tâm của y học sẽ tách ra khỏi các hiệu quả vật chất hữu h́nh ở bên ngoài, và đi vào các nguyên nhân bên trong, v́ các hiệu quả đó được t́m thấy trong các bí huyệt và các lănh vực hoạt động liên hệ của chúng.

274

 
Bên trong các vùng mà bệnh xuất hiện, một vài sự kiện huyền bí liên quan đến chủ đề tổng quát đă được tôi đặt ra:

1. Bệnh tật, với nguyên nhân trực tiếp của nó, có thể được truy nguyên đến thể dĩ thái cá nhân khi nỗi khó khăn thuần ở địa phương, hay là đến thể dĩ thái của hành tinh (đặc biệt là thể dĩ thái của giới thứ tư trong thiên nhiên) nơi nào có liên quan đến dịch bệnh, hoặc là đến từ t́nh trạng như là chiến tranh, khi tác động rộng lớn lên đa số nhân loại.

2. Từ trước đến nay, thể dĩ thái đă không được xem như một sự kiện có thật theo quan điểm của y học chính thống, mặc dù có một khuynh hướng hiện đại tiến tới việc nhấn mạnh về sức sống (vitality), về các tính chất sinh lực (vital qualities) trong thức ăn và đưa ra các sản phẩm có sinh tố để tăng cường sự đáp ứng sinh lực. Đây là chỉ dẫn đầu tiên của một nhu cầu chưa được hiểu rơ để gia tăng tiềm lực của thể sinh lực.

3. Chính t́nh trạng của thể dĩ thái khiến phải chịu lệ thuộc vào bệnh hoặc che chở khỏi bệnh, làm cho con người đối kháng với ảnh hưởng làm hư hoại hoặc các yếu tố truyền nhiễm, hoặc là không làm được như thế v́ sự yếu ớt sẵn có của thể dĩ thái.

4. Chính thể dĩ thái là cơ cấu của sự sống linh hoạt, chứa prana, và "chống chịu bên dưới" ("sub-stand") hay là ẩn dưới khí cụ bên ngoài quen thuộc của hệ thần kinh, đang cung cấp và thúc đẩy mọi phần của cơ thể vật chất. Mối liên quan hiện có giữa các bí huyệt, các nadis (tuyến lực) và toàn bộ hệ thần kinh bao gồm lănh vực của nền y học mới và vạch ra lănh vực t́m ṭi chủ yếu mới mẻ.

5. Trong thiên nhiên, các nguyên nhân chính của mọi bệnh tật gồm có hai loại:

275

 
  a. Trước nhất, chúng nằm trong việc kích thích hay không kích thích của các bí huyệt. Điều này chỉ có hàm ư là sự quá hoạt động hay kém hoạt động của bất luận bí huyệt nào trong bất luận phần nào của cơ thể. Nơi nào mà ḍng năng lượng xứng hợp với nhu cầu của thể xác ở bất cứ tŕnh độ phát triển đặc biệt nào, lúc bấy giờ, ở đó sẽ tương đối không có bệnh.

  b. Thứ hai là chúng nằm trong tác dụng nghiệp quả của ba bệnh thuộc hành tinh: Ung thư, Lao, Hoa Liễu. Một ngày nào đó, y học sẽ hiểu được rằng ẩn đàng sau mọi bệnh tật đơn thuần (không kể các hậu quả của tai nạn hoặc chiến tranh) nằm dưới ba khuynh hướng chính này trong cơ thể người. Đây là một phát biểu cơ bản và quan trọng.

6. Thể dĩ thái là một tụ điểm cho tất cả mọi năng lượng bên trong cơ thể, và do đó, năng lượng được truyền đi sẽ không phải là năng lượng hoàn toàn sinh động hoặc chỉ là prana hành tinh, mà sẽ được phẩm định bằng các lực đến từ bộ máy cảm dục, từ thể trí hay là từ linh hồn thể. Các "phẩm chất của lực này", khi chúng chỉ rơ karma của cá nhân, rốt cuộc, lại là các sức mạnh chi phối chủ yếu. Chúng cho biết tŕnh độ phát triển của cá nhân và các khu vực kiềm chế trong phàm ngă của y. Do đó chúng chỉ rơ t́nh trạng karma của y. Điều này nâng toàn thể vấn đề y học vào lănh vực tâm lư và thừa nhận toàn bộ vấn đề về ảnh hưởng nghiệp quả, và về các loại cung.

7. Các yếu tố chi phối này làm cho thể dĩ thái có bản chất thực của nó trong bất cứ lần luân hồi nào. Đến lượt chúng, các yếu tố này là kết quả của các hoạt động được khai mở và hoàn thành trong các lần luân hồi trước, và như thế, tạo thành nợ nghiệp quả của bệnh nhân hoặc là thoát khỏi nghiệp quả của y.

276

 
8. Các năng lượng căn bản đang tuôn đổ vào thể dĩ thái và chi phối thể xác, sẽ thuộc vào hai loại chính: năng lượng cung của linh hồn và năng lượng cung của phàm ngă, được phẩm định bằng ba lực nhỏ hơn hay là các cung của bản chất trí tuệ, thể cảm dục và thể xác. Do đó, năng lượng căn bản này bao hàm năm năng lượng vốn có trong thể dĩ thái mà một y sĩ tương lai sẽ phải xem xét đến.

277

 
9. Việc chẩn đoán, dựa trên sự nhận thức về các yếu tố bên trong này, thực ra không phải là vấn đề rắc rối và phức tạp mà ngày nay chúng hiện ra đối với kẻ nghiên cứu các lư thuyết huyền linh tiến bộ. Sau rốt, các nhà y học trong Kỷ Nguyên Mới sẽ biết đầy đủ để liên kết các mănh lực cung khác nhau này vào các bí huyệt thích hợp của họ; nhờ thế, họ sẽ biết loại mănh lực nào chịu trách nhiệm cho các t́nh trạng – tốt hay xấu – trong bất cứ khu vực đặc thù nào của cơ thể. Một ngày nào đó, khi nhiều sưu tầm và t́m kiếm hơn được xúc tiến, y học sẽ được xây dựng dựa vào sự thật về thể sinh lực và các năng lượng cấu tạo của nó. Lúc bấy giờ, người ta sẽ khám phá ra rằng khoa học này sẽ đơn giản hơn và ít phức tạp hơn là y học hiện đại. Ngày nay, y khoa đă đạt đến một mức độ phức tạp đến nỗi rất cần đến các nhà chuyên môn để có thể đối phó với một khu vực của cơ thể và với hiệu quả của nó trên toàn bộ thể xác. Vị bác sĩ đa khoa bậc trung không thể đương đầu với khối kiến thức đầy chi tiết được thu thập hiện nay về thể xác, các hệ thống khác nhau của nó, sự tương tác của chúng và các hiệu quả của chúng trên nhiều cơ quan đang cấu tạo toàn bộ con người. Khoa giải phẫu sẽ c̣n bận tâm với các nhu cầu giải phẫu của cơ thể con người. Chẳng bao lâu nữa, y học sẽ chuyển sự chú tâm vào thể dĩ thái và các hệ thống năng lượng gắn liền với sự tuần hoàn máu, các mối liên hệ chặt chẽ của nó và sự thông thương giữa bảy bí huyệt, giữa chính các bí huyệt với các vùng mà chúng kiểm soát. Điều này sẽ đánh dấu một tiến bộ vượt bực trong cách tiếp cận khôn ngoan và hữu ích; nó sẽ tạo nên một sự đơn giản hóa căn bản; nó sẽ đưa đến các phương cách chữa trị chính xác hơn, đặc biệt là khi nhăn thông được phát triển và được khoa học hiểu rơ và được người ta biết đến một cách rộng răi như là một giác quan thông thường.

277

 
10. Khi chiêm tinh học chân chính đáng được tin cậy và được phát triển thành một khoa học có uy tín, các biểu đồ của linh hồn và của phàm ngă có thể được liên kết với nhau; lúc bấy giờ, thể dĩ thái sẽ được rà soát lại bằng các kết luận đúng đắn của chiêm tinh học, người thầy thuốc nhờ đó có được một nền tảng chắn chắn hơn ngày nay nhiều. Chiêm tinh học của thời trước quan tâm đến sự sống của phàm ngă; chiêm tinh học của tương lai sẽ chỉ rơ mục đích của linh hồn và sẽ cách mạng hóa toàn bộ y học (trong số các sự việc khác). Tuy nhiên, nó phải được nhấc ra khỏi tay của những kẻ quan tâm đến chiêm tinh học để tiên tri, ra khỏi tay của hàng ngàn người vào lúc này đang phí nhiều th́ giờ "lấy" số tử vi (t́m cách diễn giải các kết luận thường thường là sai lầm của họ) và đặt trong tay của các nhà toán học thành thạo, và trong tay của những kẻ đă cống hiến nhiều giờ vào việc luyện tập khoa học theo các đường lối chiêm tinh học như hiện nay đă được đưa ra để huấn luyện một y sĩ, một nhà hóa học hay một nhà sinh vật học đáng kính trọng.

11. Các khám phá về chiêm tinh học này, không những chỉ liên quan tới phàm ngă và các biểu đồ của linh hồn, mà c̣n sẽ thâm nhập vào lănh vực của y học, đặc biệt là liên hệ với thể dĩ thái. Ngày nay, bất luận việc t́m ṭi về chiêm tinh nào được thực hành trong lănh vực y học, cũng liên quan tới bệnh về thể xác bên trong xác thân. Trong tương lai, sự t́m ṭi đó sẽ tập chú vào t́nh trạng của thể dĩ thái. Đây là một phát triển mới mẻ và sắp xảy ra trong việc t́m ṭi về chiêm tinh học.

278

 
Một khó khăn khác mà tôi phải đối phó (khi tôi t́m cách giới thiệu cho bạn nền y học sau này) đó là tôi suy tưởng bằng các thuật ngữ chỉ chu kỳ, c̣n các bạn nghĩ đến bằng các thuật ngữ của một vài năm ngắn ngủi. Trong thực tế, những ǵ tôi đang cố gắng làm là để nêu ra các đường lối mà theo đó sự t́m ṭi y khoa sẽ hướng đến trong hai trăm năm tới. Nỗ lực của cách tiếp cận hiện nay là làm thế nào để chữa trị con người ở nhiều nơi; đây là một phản ứng tự nhiên và những nhà tư tưởng tiến bộ t́m cách để có thể làm điều đó vào lúc này nhờ cái được gọi là cách chữa trị theo huyền môn và tinh thần. Tuy nhiên, người ta biết rất ít về cấu tạo của thể sinh lực và về mặt thực hành, không có bối cảnh t́m ṭi trong lănh vực này. Y học hiện đại có nguồn gốc rất cổ xưa. Qua nhiều thế kỷ, nó đă tăng trưởng và phát triển đến độ kỹ xảo hiện nay, sự t́m ṭi hiện nay, các kỹ thuật hiện đại và các phương pháp chữa trị hiện đại đă thành công một cách đáng ngạc nhiên. Điều này thường bị quên trong việc đặt tầm quan trọng của người theo các môn phái mới chưa được thử thách về thất bại của việc chữa trị, mà họ cho là các phương pháp sai lầm v́ không thừa nhận các giới hạn của nghiệp quả. Thành công của y học hiện đại ngày nay th́ lớn lao đến đỗi hàng triệu người được cứu sống, những kẻ đó vào thời trước và với khả năng kém khoa học, thường chịu tử vong. Với sự khéo léo và kiến thức đă phát triển này, và với khuynh hướng này trong việc săn sóc bộ máy xác thân, ngày nay, người ta thấy một vấn đề chính trên thế giới – vấn đề dân số quá đông của hành tinh đưa đến đời sống hợp quần của nhân loại và vấn đề kinh tế theo sau – chỉ ghi nhận một trong các khó khăn ngẫu nhiên của thành công này. Việc ǵn giữ sự sống "thiếu tự nhiên" ("unnatural") là nguyên nhân của nhiều đau khổ và là một cội nguồn do hậu quả của chiến tranh, trái ngược với định ư nghiệp quả của Hành Tinh Thượng Đế.

279

 
Ở đây, tôi không bàn đến vấn đề rộng lớn này. Tôi chỉ có thể nêu ra thôi. Điều đó sẽ được giải quyết khi nỗi lo sợ cái chết biến mất và khi nhân loại biết được ư nghĩa của thời gian và hàm ư của các chu kỳ. Điều đó sẽ được đơn giản hóa khi các khám phá đúng thực về chiêm tinh học xảy ra, khi con người biết được giờ rời bỏ cơi ngoài này của ḿnh, và nắm vững được kỹ thuật "triệt thoái" và các phương pháp tách chính ḿnh một cách hữu thức ra khỏi ngục tù xác thân. Nhưng nhiều điều t́m kiếm phải xảy ra trước tiên. Tuy nhiên, sự thật là vấn đề được chấp nhận và sự suy đoán và t́m kiếm đó đang thịnh hành, chỉ rơ rằng đă đến lúc – về mặt nghiệp quả và theo quan điểm tiến hóa của con người – cần phải nghiên cứu về thể dĩ thái, về các cung đang chi phối sự biểu lộ của nó trong không gian và về chiêm tinh học đang chi phối sự biểu lộ của nó trong thời gian.

Chính v́ lư do này mà thế giới ngày nay đầy dẫy các nhóm nổi loạn chống lại y học chính thống – phản đối một cách sai lầm, bởi v́ trong sự nhiệt thành cuồng tín của họ đối với cách tiếp cận đặc biệt của họ với vấn đề chữa trị, họ không cần biết các khía cạnh lợi ích của y học đă phát triển. Như vậy, họ cố gạt bỏ sự đóng góp của bao thời đại cho kiến thức của con người về cơ thể con người, các liên giao của nó và cách chăm sóc, chữa trị và giữ ǵn cơ thể đó; họ không hưởng được lợi từ minh triết của quá khứ nhưng lại thích du hành trên biển để t́m kiếm một tinh thần cách mạng, đầy thiên kiến và không được trang bị đầy đủ về nhiệm vụ có trong tay.

Thiên nhiên liệu pháp có nhiều loại, các giáo sư với các phương pháp chữa trị bằng điện hoặc ánh sáng và màu sắc, các chuyên gia dinh dưỡng với các cách chữa trị không thể sai lầm được đối với mọi bệnh tật, nhiều người thực hành các hệ thống xây dựng trên cách chẩn đoán của Abrams, và nhiều kẻ tán thành các phương pháp nắn xương, cũng như nhiều hệ thống chữa trị khác vốn hoàn toàn tách ĺa khỏi y khoa, nhưng đang đảm nhận để mang lại các chữa trị, là mọi biểu thị các xu hướng mới mẻ và đầy hy vọng; tuy nhiên, chúng có bản chất cực kỳ thực nghiệm và được tán thành một cách rất cuồng tín, rất riêng biệt so với mọi phương pháp trợ giúp chữa trị đă được biết (ngoại trừ chính họ), đối kháng một

280

 
cách rất mănh liệt với mọi t́m ṭi của quá khứ, và miễn cưỡng hợp tác với y học chính thống đến đổi trong nhiều trường hợp, chúng tạo ra một nguy hiểm rơ rệt và thực sự đối với quần chúng. Chính phần lớn cách tiếp cận đầy lỗi lầm của riêng họ chịu trách nhiệm cho việc này; sự thiếu hiểu biết rơ rệt của họ về bản chất của cơ thể người, sự công kích của họ về các thực hành y học hiện có (cho dẫu với giá trị đă được thừa nhận) và sự tin tưởng lệch lạc của họ về tính không thể sai lầm của các kỹ thuật thực nghiệm của họ, đă làm cho họ chịu sự công kích của các nhà y học chính thống cứng nhắc và của những người theo trào lưu chính thống bên trong ṿng giới hạn của nền y học lư thuyết. Tuy nhiên, bên trong các hàng ngũ y học, có nhiều người giác ngộ, họ muốn vui vẻ hợp tác nếu các sùng bái nhỏ nhặt và ầm ĩ có thể từ bỏ đặc quyền của họ và sẽ tự nguyện hợp tác và thừa nhận những ǵ mà bản năng thiêng liêng trong con người qua các thời đại đă dạy liên quan tới việc chữa trị cơ thể con người. Chính là nhờ sự cộng tác của các trường phái thực nghiệm mới mẻ và các phương pháp cổ xưa hơn đă chứng minh rằng nền y học tương lai sẽ được phát triển. Giá trị của tất cả nhiều nhóm – tốt lành và vừa phải – nằm trong sự kiện là các nhóm ấy vạch ra các khuynh hướng mới và chỉ ra các đường lối mà theo đó y học tương lai có thể tự làm cho phong phú thêm và trở nên thích ứng hiệu quả hơn với nhu cầu con người. Cho đến nay, các nhóm đó có quá nhiều thực nghiệm đáng được tin cậy và chưa được chứng minh về phương diện khoa học. Đó là các nhóm tiền phong và có một đóng góp thực sự trong việc thực hành, nhưng điều này sẽ chỉ có thể xảy ra nếu các nhóm đó không chịu tự tách ra khỏi quá khứ và tự nguyện thỏa hiệp trong hiện tại. Y học lư thuyết là kết quả của các tặng phẩm được Thượng Đế ban cho đối với trí tuệ con người; đó là một biểu lộ thiêng liêng đă được chứng minh và là một sức mạnh tốt lành nhất trên thế gian, dù cho có sự yếu ớt của con người, việc khai thác có tính cách thương mại và nhiều lỗi lầm. Về tôn giáo cũng giống như vậy. Cả hai môn học lớn này phải loại ra các vị thế phản tác dụng và theo trào lưu chính thống, và bấy giờ tiếp diễn với một thể trí cởi mở thành các cách thức mới mẻ tiến đến thiên tính và tiến đến phúc lợi vật chất.

281

 
Do đó, có thể nói rằng sự đóng góp chủ yếu mà tôi đưa ra vào lúc này là để nêu ra các nguyên nhân của bệnh và t́nh trạng sức khỏe kém cỏi mà y học chính thống không nhận thấy, có liên hệ với các hậu quả của các nguyên nhân tế nhị này khi chúng tác động trong thể xác và hệ thần kinh. Tôi không bàn đến (như trước đây tôi đă báo trước cho bạn) các triệu chứng của bệnh, đến cách chẩn đoán theo y học, hay là bàn đến các hệ thống của các phương tiện vật chất được áp dụng để mang lại sự chữa trị hay là để cải thiện t́nh trạng. Các điều này tiến kịp với khả năng đang tăng trưởng của con người để khám phá và để nhận biết.

Tôi xin lặp lại rằng tôi đang đặt nền tảng cho việc tiếp cận với chủ đề thể xác trong t́nh trạng khỏe mạnh, c̣n bệnh tật có liên hệ trước tiên tới thể dĩ thái. Sau rốt; điều này sẽ dẫn đến việc tích lũy kiến thức liên quan đến năng lượng, các điểm tập trung và phân phối năng lượng của nó trong thể dĩ thái, sẽ ngang bằng với những ǵ đă thu lượm được trong lĩnh vực hiểu biết vật chất chính xác, và hiểu biết chính xác đó là một sự thực.

282

 
Việc nghiên cứu bệnh do kế thừa cho thấy một nhận thức lờ mờ về món nợ nghiệp quả và các khuynh hướng nghiệp quả của con người. Tuy nhiên, có sai lầm khi tin rằng các khuynh hướng này nằm trong các mầm của sự sống và của vật chất, được tập hợp lại vào lúc thụ thai, và do đó người cha hoặc người mẹ chịu trách nhiệm về sự truyền thụ này. Đây không phải là trường hợp đó. Theo quan điểm của linh hồn, đối tượng đang luân hồi đă chọn lựa cha mẹ của ḿnh một cách dứt khoát và hữu ư, về những ǵ mà cha mẹ đó có thể góp phần vào việc nắn tạo thể xác của y trong khi luân hồi. Do đó, thể sinh lực phải có bản chất như thế nào để cho con người có khuynh hướng hứng chịu một kiểu mẫu đặc thù cho việc cảm nhiễm hoặc cho bệnh tật; thể xác có bản chất như thế nào để cho cách làm dễ nhất của nó là cho phép xuất hiện và kiểm soát những ǵ mà thể sinh lực có thể đem lại; trong công việc sáng tạo và trong thể sinh lực của ḿnh, linh hồn đang lâm phàm tạo ra một thể trạng đặc biệt mà cha mẹ đă chọn để đóng góp vào một khuynh hướng rơ rệt. Do đó, con người không chống lại được một vài loại bệnh. Điều này được định rơ bởi karma của con người.

Các đạo sinh huyền bí học biết rơ rằng thể xác chỉ là một người máy, đáp ứng với và được kích hoạt bằng một thể năng lượng tinh anh hơn vốn là một biểu lộ đích thực của tŕnh độ tiến hóa. Tŕnh độ tiến hóa này có thể là tŕnh độ kiềm chế phàm ngă, qua thể này hoặc thể khác của nó, hoặc của sự kiềm chế do linh hồn. Đó là các sự kiện mà giới y học phải hiểu rơ, và khi điều đó xảy ra, th́ một bước tiến vĩ đại sẽ được thực hiện. Các đạo sinh huyền học sẵn sàng nhận thức rằng thể xác tự động đáp ứng với ấn tượng t́nh cảm, trí tuệ hoặc linh hồn. Tuy nhiên, thể dĩ thái đan kết với thể xác chặt chẽ đến nỗi nó hầu như không thể tách ra làm hai phần có ư thức được; điều này sẽ không được chứng minh hay có thể được chứng minh chừng nào mà môn học về năng lượng dĩ thái và sự phát triển nhận thức nhăn thông chứng minh là đúng những ǵ tôi nói. Câu này cần được lặp lại.

283

 
Nhờ sự nghiên cứu về hệ thần kinh và nhận thức về sức mạnh của tư tưởng trên thể xác, y học đang nhanh chóng tiến đúng hướng. Trong sự liên hệ với thể xác, khi khoa học thừa nhận rằng "năng lượng theo sau tư tưởng", và lúc bấy giờ bắt đầu thực nghiệm với ư niệm về các ḍng tư tưởng (như chúng được gọi một cách sai lầm) được hướng đến một vài vùng của thể dĩ thái – nơi mà các nhà huyền bí học thừa nhận sự hiện hữu của các điểm năng lượng hay là các bí huyệt – lúc bấy giờ, nhiều điều sẽ được khám phá ra. Khoa học Cơ Đốc đă có một quan niệm lành mạnh trong khái niệm căn bản nguyên thủy của nó là xem thể trí như là một yếu tố hiện tồn thường xuyên; việc quá nhấn mạnh vào thể trí, việc tŕnh bày có tính cách lư tưởng của nó về bản chất con người, t́nh trạng mong chờ của nó về khả năng của con người để chứng tỏ ngày nay và ngay bây giờ như là đứa con biểu lộ đầy đủ của Thượng Đế (không cần các phát triển trung gian hoặc thiết yếu), và lập trường mâu thuẫn của nó để vận dụng năng lượng của trí óc cho các nhu cầu vật chất chính yếu, đă hoàn toàn phủ nhận các giáo điều căn bản của nó. Nói cách khác, Con Người có thể thường bị đánh lừa. Nếu Khoa học Cơ Đốc đă làm tṛn ư định ban đầu của nhóm điểm đạo đồ, nhóm này đă t́m cách đặt ảnh hưởng lên nhân loại qua phương tiện của nhóm, và nếu nhóm đă triển khai ư tưởng một cách chính xác rằng năng lượng theo sau tư tưởng, th́ y học có thể được lợi rất nhiều.

Cách tŕnh bày vừa quá cao, vừa quá thấp và một cơ may lớn đă biến mất. Theo quan điểm của Thánh Đoàn, Khoa Học Cơ Đốc đă thất bại, và sự hữu dụng của nó đă bị chối bỏ phần lớn.

Các nhà chữa trị và các nhóm chữa trị cho đến nay hoạt động với một bất lợi lớn; nhưng bây giờ, họ có thể bắt đầu làm việc, và công việc của họ có bản chất hai mặt:

1. Nhờ sức mạnh của tư tưởng có hướng dẫn, họ có thể tuôn đổ năng lượng vào bí huyệt nào vốn là yếu tố quyết định trong khu vực đó của thể xác nơi có bệnh. Thí dụ, nếu người bệnh mắc một chứng bệnh như loét bao tử, việc kích thích huyệt đan điền có thể chữa lành được, miễn là công việc được làm thuần về mặt trí tuệ và miễn là các kết quả mong đợi đều thuần về vật chất. Nói cách khác, bản chất t́nh cảm sẽ chia phần trong việc kích thích, và nỗi khó khăn thực sự sẽ xuất hiện.

284

 
2. Họ có thể kích thích một bí huyệt cao hơn là bí huyệt đang chi phối một khu vực đặc biệt, và như vậy – nhờ sự tăng cường của các bí huyệt cao hơn – làm giảm hạ sinh lực của bí huyệt thấp. Thí dụ, nếu có bệnh hoặc đau ốm liên hệ với các cơ quan sinh sản (thí dụ như bệnh của tuyến tiền liệt), lúc bấy giờ bí huyệt cổ họng cần nhận được sự chú tâm. Chính bí huyệt đó sau rốt phải là nơi chứa năng lượng của trạng thái sáng tạo thấp hay là tương ứng thấp. Điều này được gọi là "kỹ thuật triệt thoái của lửa"; bằng cách đó, trong một vài trường hợp, cái mà bạn gọi là sự quá kích thích hay là viêm nhiễm ở những nơi khác, có thể được chận đứng.

Cả hai cách sử dụng năng lượng và kiềm chế tư tưởng này tạo thành nền tảng huyền bí cho hai phương pháp cơ bản được dùng trong năng lượng có hướng dẫn trong các khu vực bị bệnh. Trong một trường hợp, chúng tạo ra việc tăng cường sức sống của bí huyệt liên hệ, với một hiệu quả rơ rệt tất nhiên trên vùng bị bệnh; hoặc là chúng làm giảm hạ ḍng thần lực đi vào trong trường hợp khác, và như vậy làm yếu đi tính chất của bệnh. Do đó, hiển nhiên là nhiều điều phải được biết rơ về các hiệu quả của hai kỹ thuật căn bản và khác nhau này trước khi nhà chữa trị dám hành động. Nói cách khác, y có thể làm tăng rối loạn trong vùng bị bệnh và thậm chí (điều này cũng thường xảy ra) c̣n gây chết chóc cho người bệnh nữa.

Có một điểm khác mà tôi muốn t́m cách nhấn mạnh. Trong mọi phương pháp chữa trị có bản chất của huyền môn, điều chủ yếu là các thực hành y khoa lành mạnh thuộc loại chính thống đi kèm theo các cách trợ giúp tinh vi. Chính trong việc phối hợp khôn ngoan của hai cách tiếp cận, và trong công cuộc hợp tác của nhà y học chính thống và của nhà chữa trị hoặc nhóm chữa trị theo huyền môn, mà kết quả lành mạnh nhất sẽ được tạo ra.

285

 
Do đó, các môn sinh đang nỗ lực chữa trị sẽ cần hiểu được hai điều: bản chất của bệnh, theo sự chẩn đoán của một y sĩ lành nghề và bí huyệt đang chi phối vùng bị bệnh. Kế hoạch an toàn nhất đối với môn sinh chữa trị bậc trung hoặc là đối với nhóm chữa trị là làm việc với sự hợp tác của một vài bác sĩ giỏi và liên kết với bí huyệt đang chi phối vùng bị bệnh. Trong công tác chữa trị, các điểm đạo đồ đối phó với sự tương ứng cao hơn của bí huyệt đang chi phối, luôn luôn tác động qua các bí huyệt tương ứng về t́nh cảm và trí tuệ. Điều này không thể xảy ra và cũng không thể chấp nhận được đối với nhóm chữa trị thông thường. Các bí huyệt liên hệ được xét đến càng cao, th́ các kết quả càng mạnh và do đó, càng cần phải thận trọng hơn.

Toàn thể tiến tŕnh thuộc về hoặc là hoạt động kích thích, hoặc là năng lượng đang triệt thoái, để làm linh hoạt hơn bí huyệt có liên kết, và như vậy rút sự chú tâm ra khỏi bí huyệt đang chi phối khu vực hoặc là cơ quan bị bệnh, hay là để làm thăng bằng các năng lượng đang tuôn đổ giữa hai bí huyệt, và như vậy, tạo ra một sự tương tác từ từ và đồng đều. Người tân đệ tử càng nghiên cứu vấn đề chữa trị này, th́ sự phức tạp càng hiện ra, cho đến lúc mà y có thể cộng tác với một y sĩ nào có được nội nhăn thông và có thể thấy được các bí huyệt, hay là với các bệnh nhân, là kẻ biết được trong chính ḿnh số mệnh của riêng ḿnh và có thể hợp tác với một số nhóm có được kiến thức huyền học tin cậy được, để có thể xác định được cung của người bệnh và biết được tối thiểu bản chất về thiên hướng của y hay là “sức khỏe kém" ("indisposition") của y nhờ tham khảo biểu đồ lúc y ra đời.

Do đó, cân nhắc đến mọi điều này, bạn có thể yêu cầu, nếu có thể được, xác định công tác chữa trị sao cho sẽ được hiệu quả, lành mạnh, đúng đắn và chấp nhận được. Các rủi ro của việc quá kích thích hay là thiếu kích thích dường như quá lớn; sự hiểu biết của nhà chữa trị dường như quá ít oi không thể thực nghiệm được, c̣n karma của bệnh nhân tất nhiên là (đối với nhà chữa trị bậc trung) chưa xác minh được.

Về việc này, tôi muốn đáp lại rằng mọi việc có tính chất tiền phong và thực nghiệm đều luôn luôn có rủi ro đặc biệt riêng của nó. Nhiều việc có các tổn thất về khoa học, và đặc biệt về y học, vào những ngày đầu của y học và giải phẫu hiện đại. Nhưng điều này không bao giờ ngăn cản kẻ nghiên cứu chân thật hoặc làm chậm lại sự tăng gia kiến thức; trong những ngày tiên phong thuộc lănh vực chữa trị theo huyền môn, phải tỏ ra can đảm cũng như phải chấp nhận rủi ro. Sự che chở của luật pháp khắc khe và quan điểm con người, sẽ thuộc về những ǵ mà bệnh nhân sẽ ở trong tay của một y sĩ đáng tin, về việc chẩn đoán và chăm sóc y học trong thời gian mà nhà chữa bệnh theo huyền môn cố gắng để được sự trợ giúp thiết thực.

286

 
Do đó, công việc của nhà chữa trị và của nhóm chữa trị sẽ được bổ túc bằng việc săn sóc của y học chính thống. Các kết quả sẽ phải được xem xét một cách cẩn thận và ghi nhớ về cả hai mặt. Bất luận một nhóm nào được thành lập để chữa trị, cũng sẽ làm việc theo một số đường lối đă định, và đây là một ít điều mà tôi muốn gợi ra như là thiết yếu để thành công trong giai đoạn chuyển tiếp này:

1. Người bệnh phải được chữa trị (hoặc được giúp đỡ nếu việc chữa trị không thể làm được) sẽ luôn luôn ở trong tay của một bác sĩ giỏi và tận tâm, nếu không, nên đi hỏi ư kiến một người khác.

2. Bản chất của bệnh tật sẽ được nhóm biết tới và sẽ được xác định bằng sự chẩn đoán của y học chính thống một cách cẩn thận.

3. Tuổi tác của bệnh nhân, ngày sinh của người bệnh và một số chi tiết liên quan đến các hoàn cảnh của y, cũng cần nên biết để có được một điểm tập trung sự chú tâm, và một vùng từ lực sẽ được kiến tạo chung quanh bệnh nhân để thu hút năng lượng do tư tưởng hướng dẫn của nhóm.

4. Người chữa trị hoặc nhóm chữa trị nên có một hiểu biết chung về bản chất và giải phẫu học của cơ thể, vị trí của các cơ quan khác nhau trong cơ thể, sự bố trí và bản chất của các bí huyệt đang chi phối một vùng hay nhiều vùng bị bệnh. Các giản đồ nêu ra chi tiết này nên được nghiên cứu.

287

 
5. Khả năng tưởng tượng và sức mạnh của sự h́nh dung sẽ được nhấn mạnh trong một nhóm chữa trị, và khả năng sẽ được phát triển để đưa các ḍng năng lượng đến người bệnh và đến vùng có bệnh trong cơ thể bệnh nhân.

6. Người chữa trị hoặc nhóm chữa trị phải nhớ rằng không phải y chỉ làm việc với năng lượng tinh thần. Y, v́ chính y

  a. Tạo ra một tư tưởng có sức mạnh chữa trị,

  b. Điểm tập trung sự chú tâm được tạo ra đó sẽ trở nên tác nhân điều khiển đối với sức mạnh chữa trị hay prana.

  c. Prana này không có bản chất trí tuệ, cũng không có bản chất cảm dục. Nó thuần là vật chất của hành tinh hay tinh hoa sống động, và với chính vật chất đó mà thể sinh lực của hành tinh được tạo ra.

  d. Nhà chữa trị hoặc nhóm chữa trị chiếm hữu càng nhiều chất liệu này càng tốt, và nhờ sức mạnh của tư tưởng hợp nhất của họ mà họ hướng chất liệu đó đến và xuyên qua bí huyệt liên hệ. Công tác chữa trị là sự lưu chuyển, và đừng nên quên điều này. Năng lượng prana (được hướng dẫn bằng tư tưởng) không được gửi đến bí huyệt và được chất chứa nơi đó. Nó được chuyển qua bí huyệt, trước tiên đến cơ quan liên hệ hay là đến vùng gặp khó khăn, và kế đó được gửi đến toàn bộ cơ thể. Nó có thể được xem như là một hệ thống đánh động (system of flushing), có hiệu quả thanh lọc và kích thích.

Có thể là chỉ trong thời kỳ thực nghiệm mở đầu này và tác động theo các đường lối này để đưa ra một vài qui luật đơn giản. Nhờ các kết quả đă đạt được, kinh nghiệm sẽ đến và nhóm chữa trị sẽ dần dần học được cách tác động như thế nào, khi nào thay đổi các phương pháp của nó và những ǵ cần được chú tâm.

288

 
Từ lúc bắt đầu công việc theo đường lối này các điều ghi nhận cần được giữ lại. Bệnh nhân sẽ thường xuyên hợp tác theo khía cạnh công việc này. Ngày tháng, các hiện tượng ngẫu nhiên, các thay đổi tốt hay xấu hơn cần được ghi nhận theo các chi tiết có thể liên quan tới t́nh trạng chung của người bệnh. V́ lư do này, tôi khuyến cáo rằng trong các giai đoạn đầu của công tác này, việc trị liệu nên cố chỉ liên hệ tới những kẻ được biết rơ đối với các thành viên hay những kẻ được đặt vào trong tay của nhóm chữa trị bởi các y sĩ hay bởi những kẻ sẵn sàng có được chi tiết đầy đủ.

Người đau yếu đến nỗi không mong sống được, người mắc các bệnh không có cơ phục hồi cuối cùng, sẽ không được nhận vào nhóm chữa trị, trừ phi có các kết quả cải thiện trong trí. Không một tân đệ tử nào biết đầy đủ về karma để hành động với ḷng xác tín là đem lại sức khỏe hoặc là đem lại giải thoát bằng cái chết. Tuy nhiên, nếu một bệnh nhân trở nên suy yếu trong khi cả nhóm đang ứng phó với trường hợp của y, y sẽ không bị bỏ rơi, nhưng một kỹ thuật rơ rệt và khác lạ lúc bấy giờ có thể được dùng để đem lại thoải mái cho con đường đến cửa tử. Trong tiết kế tiếp, tôi dự kiến nói đến karma của sự chết.

Nếu bạn ghi nhớ rằng công việc có liên quan đến thể dĩ thái (với vai tṛ là một khí cụ của sinh lực) ngày nay chỉ được biết rất ít, cũng như khoa y học hiện đại được người ta biết đến vào năm 1200 sau TC, bạn sẽ can đảm hành động mà không nhụt chí và không mong đợi quá mức mà ngày nay, mong đợi đó đang gây trở ngại cho tân đệ tử. Cố tâm nắm lấy công việc mà cho đến nay chưa có ai thực sự biết ǵ về các bí huyệt, các khu vực năng lượng trong cơ thể và chiều hướng của tư tưởng; cũng nên hiểu rằng bạn đang tham gia vào một dự án t́m ṭi vĩ đại. Không có ǵ, đúng là không có ǵ đă được làm liên quan đến y học và khoa học về các bí huyệt trong bất luận cách thực hành nào, dù cho một số sách nói về liên quan của các bí huyệt với sự t́m ṭi và trang bị về tâm lư và tuyến hay hệ thống nội tiết đă đóng vai tṛ thử nghiệm với vấn đề. Lănh vực t́m kiếm mà tôi đề ra cho bạn là một lănh vực hoàn toàn mới mẻ. Những ai trong các bạn tiến vào lănh vực đó có thể không thấy các kết quả của những ǵ mà bạn đang cố gắng làm. Sự thiếu nhẫn nại của bạn và sự nóng nẩy trợ giúp có thể gây trở ngại cho bạn; sự vô minh của bạn có thể khiến bạn tạo ra lỗi lầm. Nhưng, hăy tiến tới, hăy kiên nhẫn; ǵn giữ cẩn thận và duy tŕ mọi sự giao tiếp. Lúc bấy giờ chắc chắn sẽ có kết quả.

289

 
Ï

Ï             Ï

1. MÓN NỢ NGHIỆP QUẢ CỦA CÁ NHÂN

Chúng ta đă nghiên cứu (có lẽ không hiểu rơ được các hàm ư của nó) điểm thứ nhất của chúng ta dưới đề mục này. Điều này liên quan đến các món nợ nghiệp quả của cá nhân, xuất phát từ các hiện thể bên trong và từ phàm ngă nói chung.

Khi chúng ta bàn về các nguyên nhân tâm lư của bệnh tật lúc chúng xuất phát trong các thể tinh anh trong ba cơi thấp hay từ sự nhất tâm (tension) của đệ tử khi người này nỗ lực bước lên Thánh Đạo, thực ra chúng ta hoàn toàn có liên quan với karma hay là quả của các nhân bên trong của các sự kiện, vận cụ và các hoàn cảnh trên cơi trần. Chúng ta đă thấy làm thế nào mà xuyên qua thể dĩ thái, các nội thể chi phối sự biểu lộ bên ngoài của con người, và bệnh tật hoặc sức khỏe đó phần lớn tùy thuộc vào các nội thể ấy. Chúng là nguyên nhân thuộc nghiệp quả trực tiếp của cách sống ở cơi trần. Nếu lúc bấy giờ, ư tưởng được mở rộng để bao gồm các lần luân hồi trước – khi gặp trường hợp không thể tránh khỏi – lúc bấy giờ, chúng ta đi đến kết luận rằng t́nh trạng của các nội thể này, và các giới hạn và sự phong phú của chúng; các sai sót và ưu thế của chúng, các khuynh hướng tâm linh và tâm lư chung của chúng, được kế thừa từ các kiếp sống trước, và do đó, chịu trách nhiệm cho t́nh trạng hiện tại ở cơi trần. Tất nhiên, chúng ta chỉ đẩy các nguyên nhân của các t́nh trạng hiện nay lùi xa hơn nữa, và chúng ta có thể – nếu chúng ta muốn như thế – tiến vào lănh vực rắc rối và chi tiết đến nỗi không một điều ǵ hữu ích có thể xảy ra. Toàn bộ vấn đề t́m lại các kiếp đă qua là vấn đề khả năng vô hạn, và khi tôi dùng từ "vô hạn" ("infinite") này là ngay tức khắc tôi đă đặt toàn thể vấn đề ra ngoài tầm kiểm soát của thể trí hữu hạn. Lúc bấy giờ chúng ta bàn đến một điều không thể vận dụng được một cách hợp lư.

290

 
Đối với nhân loại c̣n ấu trĩ và đối với cá nhân chưa phát triển, karma là một vấn đề tập thể. Con người là một thành viên của một nhóm mà không có bất luận tư tưởng nào đối với các hàm ư và các trách nhiệm được kế thừa. Sau này, khi tiến tŕnh thoát kiếp thú trở nên có hiệu quả hơn về tính chất và mục tiêu, và có khí chất rơ rệt hơn, th́ karma cũng trở nên riêng tư và chắc chắn hơn, con người ở vào một vị thế có thể tạo ra hay thanh toán nhiều nhân và quả hơn. Phàm ngă không hoàn toàn được khai mở và hội nhập, con người vẫn liên quan tới sự sống tập thể và các quan hệ hỗ tương trở nên rộng lớn hơn. Sau này, phàm ngă trở nên kẻ sáng tạo hữu ư đối với các nguyên nhân riêng của nó và là kẻ tham gia có ư thức vào các hậu quả. Trên Thánh Đạo, karma của nhóm được chọn, của cá nhân và của những kẻ mà con người chọn liên kết qua sự hợp nhất của mục tiêu tinh thần có liên quan tới y, và một yếu tố khác được thêm vào các loại trách nhiệm nghiệp quả có trước. Măi về sau này, karma trong ba cơi thấp được đáp ứng, vượt qua và vô hiệu hóa. Đồng thời, karma liên quan với việc khai mở các nguyên nhân qua việc phụng sự thế gian, cộng thêm những ǵ mà cá nhân đă kinh qua, và y chia phần trách nhiệm nghiệp quả của chính Thánh Đoàn. Tất cả các giai đoạn này là:

1. Karma sơ đẳng của nhóm – của con người nguyên thủy.

2. Karma cá nhân của con người đang phát triển ngă thức,

3. Karma liên quan tới cuộc đời của đệ tử,

4. Karma thuộc Thánh Đoàn,

291

 
phải được cộng thêm vào Karma báo phục đă biết rơ mà đệ tử đă quen thuộc; cũng cần phải thêm vào đó karma quốc gia và chủng tộc, cộng với Karma về giáo dục mà mọi đệ tử đều mang trên chính họ khi họ mong ước nhập vào Huyền Viện (Ashram) để chuẩn bị điểm đạo.

Cũng có Karma Ân thưởng (Reward) tương phản với Karma Báo Phục, đây là loại Karma thường bị bỏ quên, nhưng là loại mà người ta sẽ biết rơ hơn trong chu kỳ thế giới sắp tới. Nhân loại đă thanh toán được nhiều karma xấu, c̣n karma dựa trên các nguyên nhân sau này để được điểm đạo sẽ không sinh ra các hậu quả khốc hại như là karma của quá khứ. Không phải tất cả karma đều xấu, bất chấp những ǵ mà con người nghĩ. Nhiều loại trong số đó tất nhiên là có tính cách trừng phạt và gây đau khổ, do sự vô minh và tŕnh độ phát triển thấp của con người. Khi nào việc phân phối karma trở nên bén nhạy và khủng khiếp, như kinh nghiệm đáng sợ của thế giới hiện nay, điều đó chỉ rơ rằng nhân loại đă đạt tới một tŕnh độ mà các hậu quả có thể được đưa ra trên một qui mô rộng lớn và công bằng. Rất ít đau khổ dính liền với karma khi nào có sự vô minh, đưa đến việc tắc trách và hoàn toàn thiếu suy nghĩ và được gắn liền với các sự việc mà chỉ có đôi chút ư thức xác thực về tội lỗi. Có thể có các t́nh trạng thiếu hạnh phúc và các trường hợp đau khổ, nhưng khả năng đáp ứng với các t́nh trạng đau khổ tương xứng như thế th́ thiếu sót; có ít phản ứng trí tuệ đối với các tiến tŕnh phân phối nghiệp quả. Điều này cần được ghi nhớ. Tuy thế, giống dân Aryan ngày nay phát triển trí tuệ ở mức độ rộng lớn đến nỗi karma thật khủng khiếp và gây khổ sở, có thể tự biểu lộ qua các t́nh h́nh thế giới. Đồng thời nỗi thống khổ rộng lớn hiện nay cho thấy phạm vi và mức thành công của việc khai mở nơi con người là một dấu hiệu đầy hy vọng và hứa hẹn nhất. Trong ư tưởng này, bạn có được manh mối chỉ rơ tại sao những kẻ phụng sự tốt lành và thánh thiện của nhân loại – trong chu kỳ thế giới này – đang mang một gánh nặng như thế về bệnh tật do nghiệp quả.

292

 
Tất nhiên, trong phạm vi của bộ luận này hoàn toàn không thể bàn về vấn đề karma một cách đầy đủ hơn khi nó tạo ra nhiều loại tai họa nơi con người, kể cả bệnh tật – chỉ là một trong các biểu lộ của nó. Chủ đề th́ quá rộng lớn và quá phức tạp và hiệu quả của nó phân tán quá rộng. Tất cả những ǵ người ta có thể làm là đưa ra sự kiện rằng các hành động đă qua và các phản ứng đă được tạo nên trong các kiếp sống trước, có một sự nhịp nhàng về nghiệp quả đến nỗi ngày nay mọi khía cạnh của phàm ngă đều có liên quan tới. Trong số các hiệu quả thông thường và phổ cập nhất, và hiệu quả mà trong đó Luật Phân Phối vĩ đại có hiệu lực, là hiệu quả về bệnh tật. Đây là một điểm mà các nhà chữa trị và các nhà siêu h́nh học, tạm gọi như thế, cần nên xem xét hết sức cẩn thận.

Ï

Ï             Ï

 

2. CÁC NGUYÊN NHÂN THUỘC VỀ BẢY CUNG CỦA KARMA

Các nguyên nhân này mang theo nguyên nhân của mọi khó khăn của con người, gồm cả sức khỏe kém và bệnh tật – thuộc cá nhân, quốc gia và chủng tộc – lùi lại đến tận cội nguồn của chính sự sáng tạo. Karma biểu hiện trong các ḍng năng lượng này và chất liệu nguyên thủy đang tuôn đổ vào và qua thế giới được sáng tạo bao gồm cả ba cơi thấp, nơi mà các Nguyệt tinh quân và các tinh hoa tinh linh thuộc mọi dạng đang hoạt động. Karma nguyên thủy này (tôi tạm gọi như thế) góp phần vào sự tồn tại của bệnh tật. Chúng ta đă được học trong các cổ thư mà các Thánh sư có đề cập tới, rằng thế giới được kiến tạo bằng chất liệu vốn đă nhiễm karma của thái dương hệ trước.

293

 
Điều hiển nhiên đối với các bạn là các luồng thần lực này, xuất phát từ các Đấng Chủ Quản của Bảy cung, nên đă nhuốm màu và "bị hư hoại" ("tainted") – nếu tôi được phép dùng một lời lẽ như thế – bởi các giới hạn của cùng các Đấng Cao Cả này. Các Ngài là các Thiên Đế (Gods), theo quan điểm của chúng ta, nhưng trong thực tế, là các Thiên Đế đang h́nh thành, cho dù gần với Thượng Đế của thái dương hệ nhiều hơn là con người tiến hóa nhất gần gũi với Hành Tinh Thượng Đế. Các Ngài là các vị "Thiên Đế chưa toàn hảo" ("imperfect Gods") được nói đến trong Giáo Lư Bí Nhiệm và là các Hành Tinh Thượng Đế của các hành tinh thánh thiện và chưa thánh thiện. Nếu các Đấng làm linh hoạt vĩ đại của các hành tinh trong Thái Dương hệ chúng ta đều chưa toàn hảo, hậu quả của sự chưa toàn hảo này tất nhiên phải có ảnh hưởng lên các sáng tạo thuộc hành tinh của các Ngài, và như thế, đưa đến một t́nh trạng nghiệp quả mà qua đó con người cá biệt tuyệt đối không kiềm chế, nhưng trong ṿng những ǵ mà y hoạt động và đóng góp. Hiển nhiên là tôi không thể làm sáng tỏ chủ đề này. Những ǵ mà tôi có thể làm hay được phép làm là nêu ra cho bạn bảy đoạn kinh từ một trong các quyển sách cổ nhất trên thế gian. Quyển sách ấy bàn đến bảy nguyên nhân bất toàn của cung trong các biểu lộ hành tinh của chúng ta. Nên thêm vào các đoạn kinh này (nếu có thể) các đoạn kinh truyền đạt ư nghĩa của các khuyết điểm xuất phát từ các t́nh trạng thiên văn và tạo ra các hậu quả có bản chất hành tinh và do đó, liên quan đến lá số tử vi của Hành Tinh Thượng Đế riêng biệt của chúng ta. Nhưng các điều này đều quá khó hiểu, phức tạp và có ảnh hưởng sâu rộng trong chủ đề của chúng, có thể được khảo cứu và xem xét chỉ khi nào nhân loại đă đạt đến một giai đoạn phát triển trực giác đến nỗi con người có thể "đánh giá các nguyên nhân và hậu quả như là toàn bộ các tiến tŕnh và có thể thấy cả hai cái bắt đầu và kết thúc trong một chớp lóe của thời gian trong không gian". Bằng các lời này, Chân Sư Serapis có lần đă tổng kết vấn đề khi nỗ lực để huấn luyện một nhóm các đệ tử được điểm đạo bằng phương cách tiếp cận các vấn đề bao la này.

294

 
Quyển "Thiên Thư về Karma" ("Book of Karma") có chứa các đoạn sau, và các đoạn kinh này có thể được dùng như một dẫn nhập vào các vấn đề bàn đến các nguyên nhân của Bảy Cung về sự thiếu hài ḥa và bệnh tật. Đối với người t́m đạo có trực giác, một vài ư nghĩa sẽ hiện ra, nhưng bao giờ y cũng phải nhớ rằng tất cả những ǵ mà tôi đang cố làm là để đưa vào các từ ngữ – thiếu thỏa đáng và hoàn toàn không thích hợp – các đoạn kinh liên quan đến các yếu tố chi phối trong vận cụ của các Đấng Cao Cả mà sức sống (life force) của các Ngài (mà chúng ta gọi là năng lượng) tạo ra tất cả những ǵ hiện hữu, tức là các màu sắc và các h́nh dạng, mọi biểu lộ bên trong các thế giới và đưa thêm giới hạn về lực của nó vào vận cụ của mọi con người đơn độc. Mọi người chiếm dụng năng lượng này theo mức độ nhu cầu của ḿnh, và nhu cầu của y là dấu hiệu phát triển của y. Các đoạn kinh mà tôi đă chọn, được trích ra từ "Thiên Thư về các Bất Toàn" ("The Book of Imperfections), Phần 14:

294

 
"Bảy sự Bất Toàn phát ra và làm hư hoại vật chất từ lănh vực cao nhất đến lănh vực thấp nhất. Bảy sự bất toàn kế tiếp nhau, và hai cái – những ǵ nguyên vẹn, lành lặn và những ǵ được biết như là tiểu tiết và không lành mạnh theo ư nghĩa khủng khiếp – gặp gỡ trên cơi giới của sự sống hồng trần (cơi dĩ thái – A. A. B.)

"Và họ chiến đấu ở đó, ném vào cuộc xung đột tất cả những ǵ mà họ đă và có được, tất cả những ǵ được nh́n thấy và tất cả những ǵ không thấy được bên trong cái ṿng tam phân (Ba cơi thấp – A. A. B.).

"Bảy sự bất toàn thấu nhập vào bảy giống dân của nhân loại, mỗi cái ở vào vị trí riêng của chúng; chúng nhuốm màu bảy mức độ trong mỗi giống dân. (Bảy bí huyệt của hành tinh, đang truyền năng lượng bất toàn. A.A.B.).

"Bảy sự toàn hảo lượn lờ trên mỗi giống dân, trên mỗi người trong mỗi giống dân và trên mỗi điểm bên trong từng người.

"Và như thế, sự xung đột tăng từ ngoài cùng đến trong cùng, từ Đấng vĩ đại nhất đến cái thấp kém nhất. Bảy cái bất toàn. Bảy tổng thể hoàn hảo; bảy cách để xua đuổi bóng tối của bất toàn và lộ ra ánh sáng lạnh lẽo trong suốt, ánh sáng trắng của điện của tổng thể hoàn hảo".

295

 
Hỡi huynh đệ, tất cả những ǵ mà bạn có thể lĩnh hội từ đoạn trên, là một ư niệm của cuộc xung đột triền miên của bảy năng lượng lớn, chúng biểu lộ như là các cặp đối nhau (dualities) và chúng tạo ra khi bám chặt bên trong một thể (dù là thể của một hành tinh, một con người hoặc một nguyên tử) một khu vực hoặc chu kỳ thống khổ, như người ta thường gọi; thống khổ này tạo ra sự thôi thúc tiến hóa và chính nó là nguyên nhân biểu lộ, trong khi hậu quả của nó (vốn là karma) là sự giải thoát tối hậu của sự hoàn hảo và thánh thiện. Các điều này không dễ hiểu chút nào. Cần phải nhớ rằng bảy sự bất toàn được liên kết với bản chất thất phân của Đấng mà trong Ngài chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn, và chính bảy năng lượng bất toàn này nắm giữ trong chính chúng ư-chí-hành-thiện (will-to-good) hoàn hảo, mà sau rốt, mạnh mẽ hơn là ư-muốn-gây-tổn-hại (will-to-harm).

Các năng lượng này tuôn đổ qua bảy bí huyệt của cơ thể hành tinh và là – ở chừng mức có liên quan đến chúng ta – bảy năng lượng của cung. Liên quan với ư-muốn-gây-tổn-hại, vốn có thể và tất nhiên là biểu lộ dưới h́nh thức bệnh tật trong cả 4 giới của thiên nhiên, bạn hiểu được lư do tại sao tôi khuyến cáo việc phát triển đức vô tổn hại trong các đạo sinh huyền học, những người mà tôi lănh trách nhiệm. Đó là tác nhân chính cho sự hóa giải karma. Ở đây, tôi sẽ nêu ra cho các bạn Định Luật IX, và như vậy, bổ túc cho một nhóm các định luật mà khi được noi theo, người ta sẽ thấy là thiết yếu cho việc chữa trị bệnh tật và duy tŕ sức khỏe.

ĐỊNH LUẬT   IX

Sự hoàn thiện đẩy sự bất toàn lên trên mặt. Luôn luôn cái thiện xua cái ác ra khỏi h́nh hài con người theo thời gian và không gian. Phương pháp được Đấng Hoàn Thiện sử dụng và những ǵ được Điều Thiện vận dụng là sự vô tổn hại. Đây không phải là tính tiêu cực, mà là sự thăng bằng hoàn hảo, một quan điểm hoàn hảo và sự hiểu biết thánh thiện.

Các bạn nên chú ư rằng những ǵ tôi đă nói đến trong mối liên hệ này, sẽ chuyển toàn bộ vấn đề bệnh tật vào một thế giới căn nguyên xa xăm – một thế giới mà cho đến nay con người không thể thâm nhập vào. Chính v́ lư do này mà tôi đă dành rất nhiều th́ giờ để xét về các nguyên nhân của bệnh tật; hơn một nửa những ǵ tôi phải nói được t́m thấy trong phần đầu này về bàn bạc của chúng ta. Chúng ta gần như kết thúc vấn đề này, và đối phó với những ǵ mà nhiều người sẽ xem như là phần hữu ích hơn và thực tiễn hơn của giáo huấn liên quan đến vấn đề này. Tôi không bao giờ có ư định bàn đến vấn đề bệnh lư học của bệnh tật hoặc các triệu chứng của nhiều h́nh thức sức khỏe kém cỏi đang làm phiền nhiễu nhân loại. Phần chính là tôi t́m cách nhấn mạnh về các lư do bên trong (chủ quan) đối với đa số các bệnh đang tấn công cơ thể con người. Tuy nhiên, mục tiêu của tôi th́ lành mạnh. Việc con người quá nhấn mạnh vào bệnh tật đang gây bối rối cho linh hồn, v́ điều đó đặt kẻ vô thường luôn luôn thay đổi bản chất h́nh hài vào một t́nh trạng nổi bật không đúng chỗ, trong khi mà – theo quan điểm của linh hồn – sự thăng trầm của thể xác chỉ có tầm quan trọng chừng nào mà chúng đóng góp vào cho sự phong phú của kinh nghiệm linh hồn.

296

 
Nhân tố có tầm quan trọng là các nguyên nhân, được con người phát khởi từ kiếp sống này tới kiếp sống khác; các nguyên nhân này thể hiện ra bằng sự xuất hiện của bệnh tật, bằng việc lộ ra của một hậu quả thảm hại nào đó theo hoàn cảnh, theo biến cố và theo sự chi phối chung của lần luân hồi đặc biệt nào đó. Chính là với các nguyên nhân này mà con người phải học cách đối phó để nhận ra chúng và để lần ra năng lượng đang chi phối đối với các hậu quả thích hợp, lúc bấy giờ, trước tiên là bàn đến việc làm tiêu tan nguyên nhân bằng sự đối ngược của ư chí có luyện tập. Karma không phải là diễn biến không thể tránh khỏi, không thể thoát được và tệ hại. Nó có thể được hóa giải, nhưng sự hóa giải này đặc biệt ở nơi nào có liên hệ đến bệnh tật, sẽ gồm trong bốn đường lối hoạt động:

1. Xác định bản chất của nguyên nhân và khu vực trong tâm thức nơi mà nó xuất phát.

2. Phát triển các tính chất vốn là đối cực của nguyên nhân có ảnh hưởng.

3. Thực hành sự vô tổn hại nhằm mục đích ngăn chận sự biểu lộ của nguyên nhân và chận trước bất cứ diễn tiến thêm nữa của t́nh trạng không may.

297

 
4. Chọn những giai đoạn cần thiết ở cơi trần để tạo ra các t́nh trạng mà linh hồn mong muốn. Các giai đoạn này sẽ gồm:

  a. Sự tuân phục của trí tuệ và chấp nhận sự thật về hậu quả – trong trường hợp mà chúng ta đang xét có liên quan với karma – tức bệnh tật.

  b. Hành động khôn khéo theo các đường lối của thủ tục y học chính thống.

  c. Tham gia của nhóm chữa trị hoặc nhà chữa trị để trợ giúp trong việc chữa trị tinh thần bên trong.

  d. Tầm nh́n rơ rệt về kết quả. Điều này có thể đưa đến việc chuẩn bị cho một cuộc sống hữu ích hơn ở cơi trần, hoặc chuẩn bị cho sự chuyển tiếp lớn lao gọi là sự chết.

Nhưng đằng sau mọi suy tư khôn ngoan và hoạt động sáng suốt phải là việc chấp nhận sự hiện hữu của một số t́nh trạng chung, nó thể hiện ra như là sức khỏe kém của thể xác trong chu kỳ thế giới này, không những chỉ cho giới nhân loại, mà c̣n cho ba giới dưới nhân loại nữa. Luật Bất Toàn tồn tại v́ các Đấng Thực Tại Vĩ Đại (có trong mọi thế giới hiện tượng) cũng ở trong tiến tŕnh phát triển và khai mở tiến hóa. Do đó, cho đến khi các Ngài, với tư cách là các Đấng Tinh Thần đă phát triển được "sự kiềm chế siêu phàm"– như người ta thường gọi – đối với chất liệu của sắc tướng cơi hiện tượng của các Ngài, các sắc tướng này sẽ không đạt tới hoàn thiện thiêng liêng. Bệnh tật chỉ là một h́nh thức bất toàn tạm thời, c̣n sự chết chỉ là một phương pháp để tái tập trung năng lượng, trước tiên đối với một hoạt động lũy tiến, từ từ tiến tới và luôn luôn hướng về sự hoàn thiện.

298

 
Hiểu được bảy đoạn kinh mà hiện giờ tôi định trao cho bạn, sau rốt sẽ đưa đến việc cô lập bảy nguyên nhân tâm lư của bệnh tật, có sẵn trong chất liệu của mọi h́nh hài trong chu kỳ thế giới này, bởi v́ mọi h́nh hài đều được truyền bằng năng lượng sự sống của "Các Thượng Đế chưa toàn hảo". Theo các Kinh Thánh của thế gian, chúng ta được dạy đó là bảy Tinh Quân "trước Thiên Ṭa"; điều này có nghĩa là các Ngài chưa đạt tới vị thế trèo lên Thiên Ṭa (Throne), nói một cách tượng trưng, do sự kiện là các Ngài chưa đạt được biểu lộ thiêng liêng hoàn hảo. Các vị Chủ Quản Bảy Cung này đều cao cả và tiến hóa nhiều trong thang tinh thần hơn là các Đấng Cao Cả đang hợp thành Hội Đồng của Đấng Chưởng Quản Địa Cầu ở Shamballa. Các Ngài là các Đấng Tiêu Biểu của bảy Năng Lượng cung đang truyền sức sống cho bảy Hành tinh thánh thiện nhưng vẫn c̣n chưa phát triển về mặt thiêng liêng như các Ngài. Vấn đề nhân loại đối với sự bất toàn th́ rất phức tạp, không những do sự kiện là bảy Năng Lượng đang đem lại sức sống đều bị "pha trộn v́ sự bất toàn", mà c̣n bởi sự kiện là chính Đấng Chưởng Quản Địa Cầu từ góc độ của một Thái Dương Thượng Đế chẳng hạn, hăy c̣n cách xa sự hoàn thiện. Đây là lư do giải thích tại sao hành tinh của chúng ta, Địa cầu, chưa phải là một hành tinh thánh thiện. Chúng ta được biết rằng Đức Sanat Kumara (Ngọc Đế) là vị tù nhân thiêng liêng của hành tinh này, vẫn giữ ở đây cho đến khi "kẻ hành hương mệt mỏi cuối cùng  t́m ra con đường trở về nguồn cội". Đây là karma nặng nề của Ngài, trong khi nó lại là một biểu hiện của ước muốn và niềm vui của Ngài. Những kẻ "hành hương mệt mỏi" là các nguyên tử (của con người hay thực thể nào khác) trong cơ thể Ngài, và họ bị pha trộn với sự bất toàn v́ các bất toàn của Ngài; việc "chữa trị" hoàn toàn cho họ sẽ đặt ra hạn kỳ cho sự giải thoát của Ngài.

Do đó, hăy nhớ rằng các đoạn Kinh – cả thảy là 7 đoạn – hiện nay được đưa ra, nêu rơ tính chất của các năng lượng đang tuôn xuống và các dấu vết mà các năng lượng này mang lại và khêu gợi cho mọi h́nh hài đang được truyền sinh lực bởi sự sống của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta.

CÁC NGUYÊN NHÂN THUỘC BẢY CUNG CỦA SỰ BẤT HÀI H̉A VÀ BỆNH TẬT.

299

 
I. "Đấng Cao Cả tự đặt cho ḿnh noi theo con đường mà chỉ một ḿnh Ngài đă chọn. Ngài không dung túng một sự cản trở nào. Ngài tôi luyện các lộ tŕnh của Ngài. Từ cơi này đến cơi khác, sự tôi luyện này tiếp diễn; nó tăng trưởng và cứng cáp lại. Ư chí của Ngài được sắp đặt giống như pha lê, chói sáng, ḍn và cứng. Quyền năng để kết tinh là quyền năng của Ngài. Không những đem lại ư-chí-muốn-sống, mà c̣n đem lại ư-chí-muốn-chết nữa. Cái chết là món quà của Ngài đối với sự sống. Sự truyền vào và sự khuếch tán không làm cho Ngài hài ḷng. Ngài yêu thích và t́m kiếm ư niệm trừu tượng".

Chừng nào mà chúng ta có thể hiểu được ư nghĩa của đoạn Kinh này có liên quan đến chủ đề bệnh tật của chúng ta, sự bất toàn của năng lượng thiêng liêng này tạo ra một thái độ đặc thù tự biểu lộ trong sức mạnh để kết tinh, để trui luyện, để đem lại sự tiêu hao và gây nên tiến tŕnh trừu xuất vĩ đại mà chúng ta gọi là sự chết. Các kết quả khác là nhiều tiến tŕnh kết tinh tiếp diễn trong h́nh hài xác thân, mọi diễn tiến hao ṃn và thời kỳ xưa cũ.

II. "Đấng Cao Cả tuôn đổ sự sống của Ngài khắp mọi phần và mọi khía cạnh biểu lộ. Từ trung tâm đến ngoại vi và từ ngoại vi đến trung tâm; Ngài thúc đẩy, đem lại sự phong phú cho đời sống, cấp năng lượng cho mọi h́nh hài của chính Ngài, gây ra thừa thăi chuyển động, mở rộng vô hạn, tăng trưởng dồi dào và nhanh nhẹn thái quá. Ngài không biết những ǵ Ngài cần, bởi v́ Ngài cần tất cả, ước muốn tất cả, thu hút tất cả và đem lại cho tất cả quá nhiều".

300

 
Sự bất toàn của năng lượng vĩ đại này cùng với việc kiến tạo nó, đem lại sinh lực và sức mạnh kết hợp, đă và đang là sức mạnh đối với sự quá kích thích, để tạo ra sự phát triển, để chồng chất chung với nhau, để kiến tạo thật nhiều h́nh hài, để thu hút quá nhiều nguyên tử và để mang lại các t́nh trạng đưa tới những ǵ được gọi là (về mặt huyền bí) "sự ngột ngạt của đời sống" – một h́nh thức khác của sự tàn tạ, nhưng sự tàn tạ vào lúc này dưới h́nh thức kết quả của sinh lực quá mức, tác động đến ḍng máu, tạo ra cấu trúc (building) bên trong các h́nh hài đă được kiến tạo và thường tạo ra một thể dĩ thái quá mạnh đối với h́nh hài vật chất bên ngoài. Các hậu quả khác chẳng hạn, là sự xuất hiện các bướu, ung thư, các khối u (growths) và việc quá phát triển các trạng thể của cơ thể, các cơ quan quá lớn và các phần cơ thể dư thừa.

III. "Đấng Cao Cả gom góp lại khắp nơi. Ngài lựa chọn và Ngài ném bỏ. Ngài từ chối năng lực này và thu nhận năng lực kia. Ngài không có mục đích nào được liên kết với sáu mục đích cùa sáu vị huynh đệ Ngài. Ngài thủ đắc một h́nh hài và không ưa thích nó nữa, ném nó đi và chọn một h́nh hài khác. Ngài không có một điểm hoặc một kế hoạch nào được thiết lập, mà chỉ sống trong huyễn cảm và rất ưa thích nó. Ngài dập tắt cả hai điều tốt và xấu, mặc dầu vận dụng cả hai. Ở một hướng, người ta có thể thấy quá thừa thăi, c̣n ở hướng khác lại thiếu thốn. Cả hai thái cực này chế ngự sự chọn lựa chất sống của Ngài, Ngài ném chung với nhau những ǵ không thích hợp nhau, bấy giờ, thấy được kết cục là nỗi ân hận và sự lừa dối. Kiểu mẫu th́ Ngài đă làm, nhưng mục tiêu không thích hợp. Ngài đă từ bỏ trong thất vọng".

301

 
Hiệu quả chính yếu của sự "điều khiển" và vận dụng bất toàn này, như người ta đă gọi, phần lớn đều có bản chất cảm dục, tất nhiên tạo ra sức khỏe thể chất kém cỏi và các hiệu quả ngoài ư muốn mà chúng ta đă nghiên cứu trong bộ luận này. Chính v́ năng lượng của cung ba này là năng lượng của chính chất liệu mà các sự bất toàn của nó biểu lộ quá nhiều trong khuynh hướng mắc bệnh của con người. Huyễn cảm do việc sử dụng quá độ năng lượng của cung 3 này vào các mục tiêu ích kỷ, cá nhân, và biểu lộ trước tiên trên cơi thứ 6 hay cơi cảm dục. Theo kết quả của việc vận dụng dục vọng và việc điều khiển bừa băi cho sự thỏa măn của nó theo các đường lối vật chất, bạn có các bệnh như là đau bao tử, đau ruột và các chứng rối loạn bao tử khác đang tàn phá con người văn minh – nhiều hơn là các giống dân bán khai. Một số rối loạn về trí năo cũng là hậu quả và sinh lực thấp kém.

IV. ”Đấng Cao Cả chiến đấu và đi vào cuộc chiến. Tất cả những ǵ mà Ngài gặp gỡ đă hiện ra cho Ngài một đối tượng để phô bày quyền năng. Bên trong cái thứ tư, Ngài thấy có một chiến trường và bắt đầu chú tâm chiến đấu. Ngài đă thấy được cái đúng, biết được cái sai và dao động giữa cả hai, chống lại cái đầu rồi chống lại cái sau, nhưng thiếu mất mọi thời gian mà trung điểm nơi có cuộc chiến mà không ai biết. Nơi đó, có sự hài ḥa, thoải mái, ngơi nghỉ và im lặng b́nh thản. Ngài làm yếu đi mọi h́nh hài vốn tận dụng sức mạnh và quyền năng của Ngài. Tuy nhiên, lúc nào Ngài cũng t́m kiếm sự mỹ lệ; ḍ t́m sự dễ chịu và mong mỏi sự yên b́nh. Sự thất vọng xảy đến cho Ngài trong các lộ tŕnh của Ngài; và với sự thất vọng, ư-chí-muốn-sống không thể tồn tại. Tuy nhiên, lúc nào sự hấp dẫn cũng ở đó".

Ở đây, chúng ta có một chỉ dẫn rơ rệt về lư do tại sao nhân loại (giới thứ tư trong thiên nhiên) lại nhanh chóng và dễ dàng chịu khuất phục bệnh tật đến như thế. Các xung đột mà nhân loại thường xuyên gặp phải, cả trong h́nh thức tập thể lẫn cá nhân – cho đến khi được hiểu rơ và sử dụng như một cách để thành công và tiến bộ – đều đưa đến một t́nh trạng luôn mất sinh lực. Nơi nào có sự mất sinh lực, th́ sự đối kháng với bệnh tật sẽ kém và gần như mọi h́nh thức sức khỏe kém cỏi và đau yếu xác thân dễ xảy ra. Việc tản mạn năng lượng thường đưa đến việc giảm bớt sức đề kháng này. Kết quả là bạn bị suy nhược, phản ứng nhanh và bất lợi đối với bệnh bẩm sinh trong chính hành tinh, và nhanh chóng mắc phải sự lây nhiễm và các bệnh truyền nhiễm. Chính năng lượng này đang ẩn dưới những ǵ mà chúng ta gọi là bệnh dịch, và bệnh cúm (influenza) là một trong các biểu hiện chính của nó.

302

 
V. "Đấng Cao Cả vượt trên sự phẫn nộ và tự tách Ngài ra. Ngài lướt một bên các tính chất lưỡng nguyên lớn và trước tiên thấy được môi trường đa tạp. Ngài tạo ra sự phân chia ở mọi mặt. Ngài tác động với tư tưởng mạnh mẽ cho hành động riêng rẽ. Ngài thiết lập các chướng ngại một cách vui vẻ. Ngài không dung thứ sự hiểu biết; Ngài không biết đến sự hợp nhất, v́ Ngài lạnh lùng, nghiêm khắc, khổ hạnh và măi măi độc ác. Ngài đứng giữa trung tâm dịu dàng, từ ái của mọi sinh linh và sân ngoài của người đang sống, đang đau yếu. Tuy nhiên, Ngài không đứng ở điểm giữa và Ngài không làm ǵ đủ để chữa lành chỗ thủng. Ngài khơi rộng mọi khe nứt, dựng lên các bức tường và t́m cách làm cho các lỗ hổng rộng ra".

Quả là điều vô cùng khó khăn khi mô tả bản chất của sự bất toàn về năng lượng của Đấng Chủ Quản cung 5. Trong hoạt động của năng lượng này – vốn biểu lộ trước tiên trên cơi thứ 5 hay cơi trí – sau rốt người ta sẽ thấy cội nguồn của nhiều rối loạn tâm lư và bệnh thần kinh. Sự phân chia (cleavage) là đặc điểm nổi bật – phân chia bên trong cá nhân, hoặc là giữa cá nhân với nhóm của y làm cho y chống lại xă hội. Tôi đă bàn đến điều này trong một phần trước đây của bộ luận này và không cần bàn rộng thêm về các khó khăn ở đây (trong "Tâm Lư học Huyền Bí" quyển II của bộ Luận Về Bảy Cung). Các kết quả khác là một số h́nh thức mất trí, các tổn thương năo và các lỗ hổng trong mối liên quan của xác thân với các thể tinh anh, vẫn lộ ra như là sự đần độn và các bệnh về tâm lư. Một h́nh thức bệnh hoạn khác xuất hiện như là kết quả của sức mạnh cung 5 này là chứng thiên đầu thống (migraine) tạo ra do sự thiếu liên hệ giữa năng lượng chung quanh tuyến tùng quả (tuyến này giống h́nh quả thông –ND) và năng lượng chung quanh tuyến yên (tuyến này giống h́nh yên ngựa – ND).

303

 
VI. "Đấng Cao Cả yêu thương chính Ngài trong các h́nh hài khác và trong mọi h́nh hài. Về mọi mặt, Ngài thấy các đối tượng sùng tín Ngài và bao giờ các đối tượng này cũng tỏ ra là chính Ngài. Bao giờ Ngài cũng tuôn đổ chính Ngài vào các đối tượng khác này, đ̣i hỏi sự đáp ứng và không bao giờ nhận được đáp ứng đó. Chắc chắn và với sự chắc chắn các đường nét của các h́nh hài rất khả ái đă mất đi, trở nên lu mờ và tan biến. Các đối tượng t́nh thương của Ngài tàn lụi từ từ. Chỉ có thế giới của h́nh bóng, của sương mù và sa mù c̣n lại. Và khi Ngài đă xem xét chính Ngài, Ngài phán: Vị Chúa Huyền Cảm, tôi là Cái Đó, và Thiên Thần Hoang Mang. Không có ǵ sáng tỏ đối với tôi. Tuy nhiên, tôi ưa thích tất cả những ǵ dường như sai lầm ! Tôi biết rằng bác ái là đúng và là tinh thần của vũ trụ. Vậy th́, sai lầm là ǵ?"

Điều khá lư thú, chính là tiềm năng của sức mạnh cung 6 này (khi nó nuôi dưỡng dục vọng) vốn chịu trách nhiệm cho nhiều bệnh tật và ốm đau của nhân loại, vốn dựa vào sự lạm dụng nhiệm vụ và chức năng của tính dục. Dục vọng, hoang mang, yếu đuối, đồi trụy và phát triển một chiều về tính dục và các thỏa măn khác nảy sinh ra do sự lạm dụng năng lượng này. Sự hoang mang nảy sinh từ dục vọng đưa đến một đ̣i hỏi thỏa măn mạnh mẽ và việc chọn các giai đoạn này – một số th́ đúng c̣n một số th́ sai – đưa tới sự thỏa măn. Các kết quả bao trùm một lănh vực rộng lớn, mọi đường lối, từ sự độc ác do bạo dâm và sự dâm đăng, đến các hôn nhân được dựa trên ước muốn vật chất, và các t́nh trạng dẫn đến nhiều h́nh thức bệnh hoạn về tính dục. Một manh mối đưa đến toàn bộ vấn đề của thế giới này nằm trong các lời của một kinh sách cổ nói rằng "Sự bất toàn của Đấng Chủ Quản Cung thứ Sáu đă mở cửa cho hôn nhân sai sót giữa các cực".

VII. "Đấng Cao Cả gom vào chính Ngài các mănh lực và xác nhận sự chú tâm của Ngài để sáng tạo. Ngài sáng tạo những ǵ ở bên ngoài có thể thấy được. Ngài thấy các tạo vật của Ngài và không ưa thích các tạo vật đó, và thế là thu hồi sự chú tâm của Ngài lại; lúc bấy giờ các tạo vật mà Ngài đă tạo ra đều tàn tạ và biến mất. Ngài không có sự thành công bền bĩ và không thấy ǵ trừ sự thất bại khi Ngài đă đi qua con đường ngoài của sự sống. Ngài không hiểu nhu cầu của các h́nh hài. Đối với một số h́nh hài, Ngài đă ban ra một số lượng quá lớn sự sống, đối với một số khác th́ lại quá ít, và thế là cả hai loại đều tàn tạ và không phô bày được sự mỹ lệ của Đấng đă mang lại cho chúng sự sống, trừ thất bại khi đem lại cho chúng sự hiểu biết. Bấy giờ, Ngài không biết rằng ḷng bác ái duy tŕ sự sống".

304

 
Các hiệu quả của sức mạnh cung này rất là đặc biệt và sẽ thịnh hành hơn là từ trước đến giờ rất nhiều, v́ cung này hiện đang phát huy sức mạnh. Chính năng lượng này chịu trách nhiệm phần lớn đối với các bệnh truyền nhiễm. Chủ âm của công việc của cung 7 là cung mang lại sự sống và vật chất trên cơi trần. Tuy nhiên khi xét theo khía cạnh bất toàn, đây là việc đồng thời mang lại (nếu bạn có thể hiểu được các hàm ư) Sự Sống vĩ đại, các sự sống nhỏ hơn và sức sống rộng lớn của tiến tŕnh sáng tạo. Điều này được tượng trưng bằng sự tạp hôn và sự tương tác chuyển động không ngừng của mọi sự sống bên trong mọi sinh linh.

Do đó, kết quả là sự hoạt động của mọi mầm mống và vi khuẩn bên trong môi trường sẽ nuôi dưỡng chúng hiệu quả nhất.

Đây là các ư niệm trừu tượng và khó hiểu, nhưng nếu chúng được nghiền ngẫm, và suy nghiệm sâu xa, chúng sẽ mang lại hiểu biết. Mọi bệnh hoạn và sức khỏe yếu kém đều là kết quả của sự hoạt động hoặc bất động của năng lượng này hay năng lượng khác trong số bảy loại năng lượng khi chúng tác động trên cơ thể người. Mọi bệnh tật xác thân xuất hiện do bởi tác động của các năng lượng chưa hoàn hảo này khi chúng tạo ra ảnh hưởng trên, đi vào và vượt qua các bí huyệt trong cơ thể. Tất cả đều tùy thuộc vào t́nh trạng của bảy bí huyệt trong con người. Qua bảy bí huyệt này, các năng lượng không thiên lệch tác động, mang lại sự sống, bệnh tật hoặc sự chết, khơi động các bất toàn trong cơ thể hoặc mang lại sự chữa trị cho cơ thể. Xét về con người, tất cả đều tùy thuộc vào t́nh trạng xác thân, tuổi của linh hồn và các khả năng nghiệp quả.

305

 
Tôi xin bạn đừng hiểu sai ư nghĩa của từ ngữ "chưa hoàn hảo" ("imperfection") mà tôi đă dùng rất thường khi nói đến các Đấng Cao Cả, các Ngài biểu lộ một mức thánh thiện (divinity) mà con người không thể đạt tới được vào bất cứ lúc nào trên hành tinh đặc biệt này. Bạn nên nhớ rằng thái dương hệ này là thái dương hệ thứ hai, và rằng trong thái dương hệ thứ nhất, tầm quan trọng được đặt trên tính vật chất sáng suốt (intelligent materiality); mục tiêu của vị điểm đạo đồ cao nhất là để đạt tới kiềm chế hoàn toàn vật chất, để khai mở nguyên khí trí tuệ và để chứng minh một thuyết duy vật rơ ràng. Trong các vô lượng thời quá xa xăm này có ghi dấu sự thành đạt, trong khi đó trong thái dương hệ này, nó ghi dấu sự thất bại đối với nhân loại. Thái dương hệ này kể cả mọi hành tinh đi kèm với địa cầu chúng ta có một mục tiêu khác và trạng thái thiêng liêng thứ hai, trạng thái bác ái, phải được biểu lộ và biểu lộ qua môi trường vật chất được thấm nhuần bằng các phẩm tính đă phát triển trong thái dương hệ thứ nhất. Những ǵ hoàn hảo vào lúc đó th́ nay không phải như thế nữa. Do đó, các Đấng Cao Cả vốn là toàn thể những ǵ hiện có đang tác động qua và trong vật chất, vốn đă nhuốm màu hay bị trộn lẫn với những ǵ phải bị bỏ lại sau và không tùy thuộc vào một sự khai mở thêm nào nữa.

Đây là các bất toàn mà chúng ta đang xem xét – bảy trạng thái của tính vật chất thông tuệ; chính ở đây mà bệnh tật chiếm chỗ và biểu lộ. Chúng ta được dạy rằng thể xác không phải là một nguyên khí; trong thái dương hệ vừa qua nó đă là nguyên khí. Trong thái dương hệ này, các nguyên khí đều khác nhau và chính trong sự va chạm giữa những ǵ đang hiện hữu và những ǵ sẽ có (những ǵ sẽ–hiện–tồn), mà trên cơi trần, chúng ta có các nguyên nhân của bệnh tật và tử vong. Hăy suy gẫm các vấn đề này và nhớ rằng bạn phải xem xét sự việc trên một mức độ rộng lớn hơn, càng rộng lớn càng tốt, nếu có một hiểu biết đích thực về một số các nguyên nhân của bệnh tật và ốm đau của xác thân.

 

 


306

 
CHƯƠNG  IV

 

MỘT VÀI VẤN ĐÁP

 

Đa số các câu hỏi do tân đệ tử nêu ra, lẽ ra không cần hỏi, nếu y có kiên nhẫn nhiều hơn và hiểu rơ hơn những ǵ y đang học hỏi. Những kẻ sơ cơ cần chờ sự phát triển nơi chính họ và mở rộng tâm thức của họ một cách b́nh thường theo sự giáo huấn. Tuy nhiên, vị đạo sư có thể yêu cầu đặt các câu hỏi v́ các lư do:

 1. V́ khi nào có liên hệ đến một nhóm và các thành viên rất sáng suốt, qua các câu hỏi của họ mà họ có thể tiến bộ nhiều trong việc học hỏi để biết và hiểu được lẫn nhau. Các đường liên giao có thể được thiết lập, sẽ liên kết họ cùng nhau một cách chặt chẽ hơn.

2. V́ qua các câu hỏi, chính vị đạo sư có thể có được liên giao chặt chẽ hơn với quan điểm của môn sinh. Thí dụ như chính tôi và quan điểm của Tây phương về thuật chữa trị.

Cuối cùng, đừng nên quên rằng tôi là một người Đông phương, và đó là bối cảnh và việc huấn luyện của tôi. Tôi có thể biết rơ về thuật chữa trị hơn là bạn, và biết về các năng lượng đang tạo nên cơ thể con người, nhưng quan điểm của bạn, các thuật ngữ của bạn và các thái độ trí tuệ của bạn vẫn c̣n hơi xa lạ đối với tôi. Các câu hỏi của bạn sẽ giúp tôi hiểu xuất thân của bạn và các giới hạn của bạn, nhờ thế, tôi có thể giúp các bạn với sự sáng suốt nhiều hơn.

307

 
3. V́ việc nêu câu hỏi sáng suốt là phương pháp của huyền môn để tập trung trí tuệ, để tổng hợp sự hiểu biết và để biết được lănh vực thẩm tra và có thể mở rộng tâm thức.

Về bản chất của sự tắc nghẽn (Congestion)

Làm sao tôi có thể định nghĩa sự tắc nghẽn cho bạn khi mà sự hiểu biết về lực và năng lượng và mối liên quan của chúng với nhau trong cơ thể con người, cho đến nay vẫn là một nghiên cứu c̣n phôi thai? Nói rằng tắc nghẽn là sức mạnh bị đông lại, là nói sai – nói rằng đó là năng lượng không sinh động th́ chẳng có ư nghĩa bao nhiêu; nói rằng đó là rung động bất thường hoặc không nhịp nhàng, th́ cũng khó làm rơ nghĩa. Vấn đề của tôi là thiếu các từ và các thuật ngữ chính xác để đưa bạn đến chân lư huyền môn.

Có lẽ sự tắc nghẽn được định nghĩa rơ ràng nhất là sự ngăn chận (arresting) ḍng chảy thông suốt của thần lực qua nhiều bí huyệt hay một bí huyệt và khắp cơ thể. Sự tắc nghẽn xảy ra dưới hai h́nh thức:

1. Sự tắc nghẽn tạo ra hiệu quả trong chính bí huyệt và do đó, tất nhiên, trên các tuyến. Nó bị ức chế, hoặc là khi nó tuôn đổ vào bí huyệt (khi nó không tác động đến tuyến ngoại trừ theo một ư nghĩa tiêu cực) hoặc là khi nó rời khỏi bí huyệt đó (khi ảnh hưởng của nó sẽ tích cực theo cách này hay cách khác). Khi sự khó khăn xảy ra lúc nó tuôn đổ vào bí huyệt, bấy giờ năng lượng được thu hồi về cội nguồn nguyên thủy của nó – hoặc là thể cảm dục, hoặc là thể trí – bạn sẽ có sự ức chế về tâm lư. Không có sức thôi thúc từ bên trong đến chỗ mà tuyến liên hệ có thể đáp ứng. Khi sự khó khăn ở nơi lối thoát vào thể xác, bạn sẽ không có luồng sức mạnh thông suốt nào, tuyến có liên quan với bí huyệt sẽ bị ảnh hưởng một cách rơ rệt và hoặc là quá bị kích thích bởi ḍng chảy không nhịp nhàng, hoặc là kém bồi dưỡng. Đến phiên ḍng chảy này lại tác động vào sự bài tiết của tuyến và sau đó là ḍng máu.

308

 
2. T́nh trạng tắc nghẽn đó xảy ra khi năng lượng hay là sinh lực lưu thông khắp thể xác, và khi lưu thông như thế, nó sẽ t́m được ở đó một vài h́nh thức khiếm khuyết, nhiều chỗ có bệnh và các vùng mà ḍng chảy của nó bị ngăn trở hay là lưu chuyển quá nhanh. Ḍng năng lượng có thể bị ngăn chận trong một vài khu vực và có thể cũng nuôi dưỡng các khu bị bệnh trong cơ thể, hoặc có thể cũng chữa trị và tẩy sạch chúng. Sự tắc nghẽn tạm thời có thể đem lại lợi ích cũng như đem lại mănh lực ác hại. Điều này có làm cho bạn kinh ngạc không?

Lần nữa, tôi phải lặp lại rằng vấn đề mà chúng ta đang bàn đến rộng lớn biết là bao, và tất cả các giáo huấn trước kia và các câu trả lời mà tôi đưa ra cho các câu hỏi chỉ dùng để chứng tỏ vấn đề khó hiểu như thế nào. Nhưng nếu bạn nhẫn nại và quyết tâm học hỏi bằng cách hấp thụ nhiều hơn là bằng phân tích, sau này, bạn sẽ khám phá ra rằng bạn biết rất nhiều – bằng trực giác và bằng phân biện.

Xác minh vị trí tắc nghẽn

Có ba cách nhờ đó nhà chữa trị có thể xác minh sự hiện diện và vị trí tắc nghẽn, và bất cứ h́nh thức nào khác của bệnh tật tạo ra khó khăn bên ngoài.

1. Trước tiên, việc có nhăn thông sẽ giúp nhà chữa trị thấy được bằng mắt nơi nào có sự khó khăn. H́nh thức chẩn đoán này không phải luôn luôn chính xác và có thể bị "nhuốm màu" bằng các t́nh trạng hiện có nơi chính nhà chữa trị.

2. Có một h́nh thức nhận biết trực tiếp, một tiến tŕnh "hiểu biết rơ rệt", vốn là một khả năng của linh hồn và không thể thất bại được, một khi người ta đă được luyện tập đúng cách để vận dụng nó. Đó là việc phối hợp cách nhận thức trí tuệ và tâm linh, và là tri thức rơ rệt hoặc là một trực giác, nếu bạn thích gọi thế,giúp cho nhà chữa trị đặt tay đúng vào vị trí bệnh và biết được nguyên nhân, hiệu quả và mục tiêu của nó.

309

 
3. Cũng có một phương pháp vật chất nữa, được dựa trên sự nhạy cảm của phàm ngă giúp cho nhà trị liệu ghi nhận trong cơ thể của chính ḿnh cùng một khó khăn mà bệnh nhân đang có. Đây là "sự chuyển di huyền bí" ("occult transference") và chỉ sẽ được sử dụng bởi những kẻ nào biết cách thu hút và phân tán. Trong trường hợp này, nhà chữa trị cũng có thể cảm nhận được nguyên nhân của bệnh nhờ sự tuôn đổ năng lượng vào đối phần dĩ thái của bệnh tật ở cơi trần, hay là một tính cực kỳ dễ xúc cảm hay đáp ứng nhạy bén trong đối phần cảm dục.

Hai nguyên nhân tắc nghẽn

Tôi xin đưa ra một hay hai phát biểu rơ ràng và kế đó giải thích. Thứ nhất, chỉ một ḿnh t́nh trạng bên trong không thể gây nên sự tắc nghẽn bên ngoài. Linh hồn đă tự sắp xếp để tự biểu lộ qua phương tiện của một xác thân vốn có một số thiên hướng (predispositions) nào đó.

Thứ nh́, tính chất bên trong là một yếu tố nguyên nhân khi có sự hợp tác với các khuynh hướng được kế thừa của thể xác; do đó, mọi tắc nghẽn không thể tránh khỏi v́ sự sống bên trong định đoạt t́nh trạng, c̣n thể xác được sắp xếp trước cho một số bệnh tật. Đây là ư muốn của linh hồn. Tôi có thể nêu ra rằng vào giai đoạn này của cơ tiến hóa nhân loại, có phải t́nh trạng bên trong nào cũng đúng hay chăng?

Thứ ba, chỉ một t́nh trạng bên ngoài không thôi, không thể là yếu tố nguyên nhân. Nếu tôi đúng trong các tiền đề chính của tôi (và điều này sẽ được khoa học mới mẻ sắp tới chứng minh), bấy giờ các quan sát của giới y học sẽ cần để hiệu chỉnh lại các sự kiện. Yếu tố nguyên nhân hiện ra trong việc đáp ứng với các yếu tố bên trong và yếu tố hiện hữu bên ngoài.

310

 
Tôi xin giải thích rơ ràng hơn một ít, v́ sự lầm lẫn có thể xảy ra do ư tưởng rằng bệnh tật là kết quả của hai nguyên nhân – một nguyên nhân bên trong và một nguyên nhân bên ngoài. T́nh trạng bên trong là nguyên nhân mở đầu. Một số yếu tố tâm lư, đưa đến việc sử dụng sai năng lượng, phát động các khuynh hướng bên trong rồi chúng t́m cách thoát ra, với tư cách là các yếu tố quyết định quan trọng trên cơi trần. Ở đó, chúng tiếp xúc với thể xác hoặc là sự biểu hiện vốn có một số bẩm chất, một số nhược điểm được kế thừa, một vài khiếm khuyết nơi các tuyến – tất cả các yếu tố đó đều là một phần của thiết bị cần có, nhờ đó linh hồn quyết định rằng một số bài học cần thiết nào đó phải được quán triệt. Mối liên quan được thiết lập giữa các lực bên ngoài và bên trong là nguyên nhân căn bản (tự biểu lộ thành hai nguyên nhân) vốn tạo ra một h́nh thức bệnh hoạn nào đó. Lần nữa, các khía cạnh tiêu cực và tích cực được liên kết để tạo ra yếu tố thứ ba: biểu lộ của một h́nh thức bệnh hoạn nào đó.

Nếu bạn nói đến các t́nh trạng vật chất hoàn hảo, tôi biết không có t́nh trạng nào như thế hoặc không có thể xác hay môi trường vật chất nào mà một thuật ngữ như thế có thể được áp dụng. Cả hai phải là t́nh trạng và nguyên nhân tâm lư bên trong, vốn là thực tại bên trong (ở một mức độ rất nhỏ) và t́nh trạng vật chất bên ngoài biểu hiện dưới h́nh thức yếu đuối hoặc dưới h́nh thức bất toàn. Đến phiên chúng, các điều này lại là một khuynh hướng từ một kiếp sống trước, một bẩm chất, một thương tổn di truyền hoặc là một khó khăn tiềm tàng, dựa trên các lợi lộc hoặc hành động sai trái của kiếp sống trước. Đưa hai yếu tố quyết định chính yếu này lại chung với nhau, và – theo thiên luật – tất nhiên bạn sẽ có một số biểu lộ thấy được nào đó của ốm đau hay khó khăn ở thể xác; điều này có thể trầm trọng hay tương đối không quan trọng; nó có thể nguy hiểm cho sự sống hay có thể chỉ tạm thời đem lại khó chịu. Không phải chỉ có một t́nh trạng bên ngoài là thích hợp để tạo ra bệnh, mà nỗi khó khăn là y học hiện đại chưa chấp nhận giả thuyết về nguyên nhân ẩn tàng, trừ các nguyên nhân bề ngoài như là nỗi bận tâm và quá lo âu có thể làm trầm trọng thêm cho bệnh tim hiện nay. Tuy nhiên, việc đó không cho phép các yếu tố này truy nguyên đến một kiếp sống trước. Trong trường hợp các bệnh truyền nhiễm, nguyên nhân bên trong có cội nguồn từ tập thể, và do đó có một hiệu quả tập thể bên ngoài, và là một biểu hiện karma của nhóm. Khó khăn về vật chất tất nhiên là lớn.

311

 
Như các bạn nhận thấy, phải có hai nhân tố hiện hữu, và hai nhân tố này khi được liên kết và kích hoạt, sẽ làm cho bệnh tật xuất hiện. Nên nhớ rằng vấn đề chọn thể xác của một linh hồn và kiểu hiện thể mà trong đó một vài loại bài học có thể được học, và một vài kinh nghiệm giáo huấn được quán triệt, là một chủ đề ít được biết đến. Khi đề cập đến điều này, tôi muốn nhắc các bạn rằng bệnh tật thường là một cách giải tỏa, và sau cùng đem lại lợi ích bằng các hiệu quả của nó. Chính việc thể hiện thành biểu lộ của một yếu tố bất hảo bên trong, và khi các nguyên nhân bên trong và bên ngoài được đưa ra ánh sáng bạch nhật, th́ chúng có thể được vận dụng, hiểu biết và thường tan biến và kết thúc qua nỗi cay đắng của bệnh tật và đau khổ. Nhưng đây là một châm ngôn khó áp dụng.

VỀ MỘT VÀI LOẠI BỆNH

Viêm khớp (arthritis) và tiểu đường là hai bệnh có nguồn cội trong thể cảm dục, nhưng nếu tôi có thể đặt nó một cách không thỏa đáng, th́ viêm khớp trước tiên có tích cách khách quan hơn là tiểu đường, nguyên là kết quả của sự thỏa măn ham muốn xác thân v́ nó tự biểu lộ qua thức ăn hoặc trong kiếp này, hoặc trong kiếp trước. Sẽ có ít hoặc là không có viêm khớp nếu nhân loại ăn uống một cách đúng đắn và hiểu được các giá trị và hiệu quả thích hợp của thức ăn. Tiểu đường th́ rơ rệt hơn, là kết quả của các dục vọng sai lầm bên trong chứ nhất định không phải là kết quả của các dục vọng sai lầm bên ngoài. Các bệnh này có thể xuất phát trong kiếp sống này như tôi đă nói ở trên, hay là được kế thừa từ một kiếp trước. Trong trường hợp sau, linh hồn đang luân hồi, chọn một gia đ́nh để đầu thai, gia đ́nh đó sẽ mang lại cho linh hồn ấy một thể xác có khuynh hướng hay là có bẩm chất tự nhiên dễ mắc bệnh này.

312

 
Nơi đây có tàng ẩn một lănh vực t́m ṭi rộng lớn, phải tách ra các loại vốn dễ trở thành mồi cho một số bệnh tập thể.

Giang mai và viêm khớp thuộc về loại bệnh mà phần lớn được dựa vào sự thỏa măn dục vọng xác thân. Ung thư và tiểu đường th́ rơ rệt hơn, thuộc về loại bệnh có liên quan đến các ước muốn t́nh cảm bên trong và kiếp sống mơ ước bị kiềm hăm mạnh mẽ của nhiều người. Các bệnh truyền nhiễm như là bệnh sởi và sốt ban đỏ, đậu mùa hay bệnh tả th́, lư thú thay, rơ ràng là các bệnh tập thể và được liên kết rơ rệt với bản chất trí tuệ. Điều này làm cho bạn ngạc nhiên, nhưng sự thực là như thế đấy.

Một môn sinh có sự hiểu biết sâu sắc về các nguyên nhân huyền linh học có thể cho rằng khi con người thay đổi điểm chú tâm của họ từ bản chất hồng trần, đến bản chất t́nh cảm, hoặc từ bản chất t́nh cảm đến bản chất trí tuệ, th́ họ có thể trở nên mắc phải các bệnh cũ xưa, như là giang mai và ung thư, mà giống dân Lemuria đă mắc phải. Không phải như thế đâu.

313

 
Tôi xin nhắc các bạn rằng con người không mắc phải các bệnh này v́ họ đă tạo ra một sự thay đổi trong tâm thức, mà là do lạm dụng một vài quyền năng đă được Thượng Đế ban cho. Sự thay đổi trong việc nhận thức và bệnh tật th́ không có liên hệ xa xôi với nhau. Cũng thế, tôi xin nhắc các bạn nhớ rằng, ngày nay, con người là một phối hợp của ba trạng thái năng lượng mà chúng ta gọi là xác thân, t́nh cảm và trí tuệ, vốn thuộc thời Lemuria và Atlantis và các trạng thái tâm thức của thời Aryan. Ngày nay, rất hiếm có người nào thuộc một loại thuần túy, nghĩa là có ưu thế và mặt nay hay mặt khác. Họ thường trộn lẫn cả ba với nhau. Bạn sẽ gặp khó khăn khi t́m một người hay một bệnh nhân "thay đổi sự chú tâm của y từ xác thân đến t́nh cảm". Người ấy sẽ hoặc là thuộc về t́nh cảm hoặc trí tuệ, và vào các lúc ngắn, và theo quan điểm sinh lư học thuần túy, sẽ thuộc về xác thân. Ranh giới rơ ràng nhất là ở trường hợp các môn đồ đang nỗ lực một cách rơ rệt và thực tâm cố chuyển di sự chú tâm của họ lên cơi trí. Tuy nhiên, họ sống nhiều hơn trong một vùng mà chúng ta gọi là trí cảm (kama-manasic), có nghĩa là gồm cả cảm dục và trí tuệ. Đó là một mức độ tâm thức trung gian. Do đó, chỉ có các điều khái quát rộng lớn là có thể xảy ra. Khái quát đến nỗi các t́nh trạng bệnh giang mai thường có cội nguồn ở xác thân hơn là ung thư. Các ranh giới rơ rệt đều không thể có được, và bạn phải luôn luôn nhớ rằng một số bệnh có thể hiện ra trong một lần luân hồi đặc biệt vốn có cội nguồn trong một quá khứ rất xa xăm; các mầm mống của t́nh trạng đó vẫn c̣n tiềm tàng trong nguyên tử thường tồn qua nhiều thời đại. Chúng không thể ăn sâu vào lề thói hằng ngày hoặc tính chất của cuộc sống hiện tại một chút nào. Một cách bất ngờ chúng ập vào cuộc sống và tác động vào kiếp hiện tại, và một cách ngẫu nhiên, đưa đến cơ may để giải thoát.

Cơn sốt (fever)

314

 
Sốt là một chỉ dẫn đơn giản của sự đau ốm và là một cách cơ bản để thanh lọc và thải trừ. Đó là một dụng cụ chỉ thị, chứ tự nó không phải là một bệnh. Hăy suy gẫm về điều này và áp dụng nó trên mọi cơi, v́ cơn sốt ở cơi trần có các đối phần của nó ở cơi cảm dục và cơi trí. Đó là năng lượng quá đáng đang thiêu đốt, và, trong lúc thiêu đốt, nó làm giảm nhẹ và chữa trị (hoặc là do sự khuất phục của mầm bệnh hoặc là nhóm các năng lượng đă tạo ra nó, hay là bằng sức mạnh giải phóng của cái chết). Khi có thể và khi thể xác đủ mạnh để chịu đựng sự căng thẳng, thật ra cũng tốt khi để cho cơn sốt kéo dài trong một thời gian, v́ đó là sự chữa trị của thiên nhiên đối với một vài t́nh trạng bất đắc dĩ. Các cơn sốt không những chỉ báo động cho sự hiện diện của những ǵ gây nên tai họa, mà c̣n có giá trị trị liệu rơ rệt trong chính chúng nữa. Nhưng cần phải xem xét và cân nhắc cẩn thận – sự cân nhắc dựa vào các năng lượng của xác thân. Trong khi cơn sốt lan tràn, cơ thể được làm cho tương đối vô hiệu và các hoạt động b́nh thường của nó đều bị ảnh hưởng. Về việc chữa trị và trị liệu đúng các cơn sốt, giới y học chính thống đă biết được nhiều điều, và sự hiểu biết này sẽ đầy đủ cho tới khi các nguyên nhân của sốt được hiểu rơ hơn và các y sĩ sẽ có thể hành động với nhân chứ không phải với quả.

T́nh trạng quá dễ xúc cảm là một tương ứng tinh anh của cơn sốt thể xác và chỉ cho thấy một mầm mống của dục vọng đang lan ra cần phải được xét đến trước khi cơn sốt có thể dịu đi. Một thể trí quá hoạt động vốn kém điều ḥa, rất bận rộn nhưng không có hiệu quả để hoàn thành là sự tương ứng về trí tuệ.

Chữa trị ung thư (Cancer).

Trong tất cả các bệnh có bản chất ác tính, có một cốt lơi sinh động hay một điểm năng lượng sống động đang thu hút, một cách chậm chạp hoặc mau lẹ, tùy theo trường hợp, sinh lực trong con người. Trong các giai đoạn đầu của các bệnh như ung thư, cái lơi sinh động không được nhận ra cho đến khi t́nh trạng ác tính xảy ra mạnh đến nỗi rất khó để làm điều ǵ trợ giúp. Tuy thế, việc chữa trị chỉ có thể được trong t́nh trạng phát triển sớm này, và lúc bấy giờ, việc chữa trị có thể tiến hành, nhưng lại chỉ khi nào ư chí của bệnh nhân được kêu gọi đến. Trong các trường hợp ung thư, chỉ có thể làm được một ít trừ phi có sự hợp tác sáng suốt của bệnh nhân, v́ phương pháp duy nhất (mà tôi có thể nói chi tiết sau này) là phối hợp ư chí được hướng dẫn của bệnh nhân và của nhóm chữa trị chung với nhau thành một đơn vị sức mạnh đang tác động. Khi làm được điều này, bấy giờ năng lượng được gọi đến và được tập trung sẽ đi theo tư tưởng, theo định luật cổ xưa, và kích thích vùng quanh chỗ ung thư (nghĩa là mô lành mạnh) đến nỗi việc thu hút mô yếu ớt bị bệnh bằng mô mạnh hơn có thể xảy ra. Nếu năng lượng được điều khiển đến chính chỗ ung thư, t́nh trạng ung thư sẽ được kích thích và nỗi khó khăn tăng thêm nhiều hơn. Do đó, việc chữa trị ung thư trong các giai đoạn sơ khởi gồm hai phần:

315

 
1. Kích thích mô lành mạnh

2. Tạo mô mới để thay thế cho mô bị bệnh, mô này dần dần bị thu hút và đẩy ra.

Ung thư luôn luôn xuất hiện trước khi có sự chuyển hóa sức mạnh t́nh cảm, lư do là có một vài đệ tử (và do đó vẫn c̣n ít hơn đa số con người thông thường) có t́nh cảm rất là biến đổi. T́nh trạng không bị ảnh hưởng bởi xúc cảm th́ ít khi thấy – ở giai đoạn hiện nay của lịch sử thế giới – đến nỗi người ta có thể nói rằng nó không tồn tại.

Không một người hội nhập và hoạt động một cách tích cực nào lại có khuynh hướng mắc bệnh ung thư, hay bất cứ bệnh nào thuộc loại cảm xúc. Y có khuynh hướng mắc bệnh tim nhiều hơn. Một cuộc sống hoạt động đầy đủ sẽ ngăn cản bệnh tật như ung thư, nhưng không phải luôn luôn như vậy. Khi các mănh lực của sự sống di chuyển chậm hơn, khi trở nên luống tuổi, th́ ung thư thường xuất hiện, chứng tỏ luận cứ đầu tiên của tôi là đúng. Vào các thời kỳ như thế, lúc mà ung thư là tác nhân hủy hoại và gây chết chóc lớn vào hàng thứ hai (và nếu tôi hữu lư khi cho rằng ung thư là một bệnh của hành tinh), lúc bấy giờ, hầu hết người nào cũng đều có thể mắc bệnh đó. Sợ sệt là một yếu tố có ảnh hưởng to tát. Thiếu năng động và đa cảm cũng giống như vậy.

Mất trí sớm (dementia praecox).

Mất trí sớm (dementia praecox) là ǵ? Có phải hiện tượng đó là do truyền thống tập thể của gia đ́nh không? Có manh mối nào trong sự kiện là trước tiên nó tự biểu lộ sớm trong thời thơ ấu chăng? Bác sĩ đa khoa có lư không khi xếp bệnh đó vào trường hợp vô hy vọng? Các môn sinh và các nhà chữa trị thường nêu ra các câu hỏi trên và các câu hỏi tương tự như thế.

316

 
Các h́nh thức bệnh xác thân này xuất hiện dưới tên chung là điên loạn, vốn rắc rối hơn là người ta thường hiểu. Theo quan điểm của nhà huyền bí học, chúng thuộc vào các loại tương đối đơn giản sau đây:

1. Có những loại mà nỗi khó khăn là do sự sứt mẻ của mô năo. Các bệnh này rơ ràng là xuất phát từ bệnh giang mai nhiều hơn người ta thường thừa nhận, và tôi xin nhắc các bạn rằng, nói về mặt huyền bí, đó là trường hợp tự nhiên, v́ các cơ quan sinh dục vật chất là tương ứng thấp hơn của mối liên hệ âm dương có trong bộ óc giữa hai bí huyệt đầu với tuyến yên và tuyến tùng quả.

2. Có những loại mà nỗi khó khăn là do việc quá bị kích thích của các tế bào năo bằng một số h́nh thức năng lượng vượt quá sự cân bằng với các h́nh thức khác và tạo ra một số h́nh thức điên loạn trầm trọng.

3. Có những loại không có khó khăn thể chất thực sự nào, không có các thương tổn hay các mô bị bệnh nào, mà chỉ có một liên hệ lỏng lẻo giữa thể dĩ thái với nhục thân. Lúc bấy giờ, sự ám ảnh hay chiếm hữu có thể xảy ra. Các trường hợp như thế rất thường (tôi có thể nói là thường thường) được nhà tâm thần học chính thống và vị y sĩ xem như là các h́nh thức điên loạn; tuy nhiên, chúng không phải thực sự như vậy. Nếu người bị đau có thể được đặt trở lại "có quyền sở hữu của chính ḿnh" theo sự hiểu biết của một vài nhà tâm thần học, và điều này hoàn toàn có thể xảy ra, bấy giờ, bệnh sẽ chấm dứt. Có một khuynh hướng rơ rệt trong số các nhà tâm thần học có vẻ tiến bộ nhất ngày nay, để đưa các trường hợp này vào giả thuyết mà tôi đă đặt ra, và đó là một sự cải thiện rơ rệt.

317

 
4. Có những loại mà trong đó một vài h́nh thức di truyền của sự mất thăng bằng tâm trí xảy ra. Các h́nh thức mất quân b́nh này là do các biến cố trong các kiếp sống khác và có bản chất của sự trừng phạt hay là karma báo phục. Để tạo ra điều này, linh hồn cân nhắc chọn một thể xác, h́nh hài đó sẽ có trong đó một số sắc thái do di truyền, mà các Nghiệp Quả Tinh Quân đưa vào đó khi linh hồn không thể chế ngự được hiện thể của ḿnh – như là trường hợp của kẻ chưa tiến hóa; hay là với chủ tâm và định ư, khi thể xác có thể được đặt dưới sự điều khiển của linh hồn, v́ đă tiến hóa cao. Tôi không liệt kê ra đây các h́nh thức điên cuồng hoặc mất quân b́nh khác này theo các tên khác nhau, v́ chủ đề đó quá phức tạp và thường có một vài yếu tố do bẩm chất, và thường là chỉ có các chỉ dẫn về đau yếu mà không bao giờ xảy ra điều ǵ trầm trọng. Tôi chỉ nêu ra các thứ loại và dành cho nhà nghiên cứu nhiệm vụ cuối cùng là liệt kê các triệu chứng và quy đúng nguyên nhân, sau nhiều công tŕnh thực nghiệm. Thời kỳ đó chỉ vừa mới đến.

5. Có những người mà thể trí bất động và tĩnh tại quá mức, và kiềm chế bộ óc vô lư đến nỗi dường như chỉ có một quan điểm duy nhất, một thái độ duy nhất đối với cuộc sống, chứ không có sự co dăn và khả năng hiệu chỉnh. Những kẻ như thế có thể chịu đau khổ chẳng hạn do cái được gọi là định kiến, hoặc họ có thể hoàn toàn là nạn nhân của một tư tưởng ám ảnh nào đó của thể trí. Các ám ảnh trí tuệ như thế có thể thuộc về mọi mặt, từ một cuồng tín nhẹ đến chứng cuồng giáo (religious mania), với các tính chất ác dâm đi kèm, tính tàn bạo và t́nh trạng ốm yếu chung.

Chứng điên sớm xảy ra ở các nhóm 1 và 4 và thường là sự pha trộn các yếu tố được mô tả của cả hai loại. Nó được kế thừa trong mỗi trường hợp, và, nếu không hiện ra về mặt thể chất như thế, th́ bấy giờ, nó được dựa trên các t́nh trạng cảm dục bị kế thừa, mà đến phiên chúng, lại giúp vào việc quyết định t́nh trạng thể chất. Nó có cội nguồn ở bệnh giang mai (thường mang sang từ một kiếp sống khác), và trong kiếp sống đặc biệt này, hoàn toàn không thể chữa trị được.

318

 
 Căn bản tính dục của nó được chứng tỏ bằng sự kiện là nó tự biểu lộ sớm vào lúc thơ ấu. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể được trợ giúp phần lớn trong các giai đoạn đầu, nếu các triệu chứng được nhận đúng, và đời sống tư tưởng của y được hướng dẫn và hiệu quả mạnh mẽ của các quan tâm mới được dùng đến. Một động cơ thúc đẩy về tinh thần và các quan tâm giống như thế đôi khi có thể làm chậm sự phát triển cơn bệnh; khi xảy ra trường hợp này và vấn đề được xử lư từ đầu kiếp sống về trước, th́ những cực điểm tệ hại nhất có thể bị xóa bỏ. Đối với mức độ mà bệnh nhân cố gắng một cách sáng suốt để tự giúp ḿnh, và cũng được bảo vệ bằng sự săn sóc sáng suốt của y sĩ, y có thể hóa giải một phần lớn cơn bệnh, và đặc biệt chừng nào mà việc lặp lại của nó trong một kiếp sống trước có liên hệ đến.

Về bản chất, nhiều điều trong số các vấn đề này có ràng buộc với quá khứ và cho tới khi các định luật chi phối việc tái sinh được đưa ra cho thế gian, ngay cả tôi cũng khó mà giải thích các tiến tŕnh đang chi phối sự kế thừa về mặt vật chất, các hậu quả về mặt nghiệp quả và những ǵ được gọi là karma bù trừ. Việc nhận thức về các h́nh thức bệnh tật tinh anh hơn và sự trợ giúp của nhà tâm lư học trong việc hợp tác với y học chính thống (mà chắc chắn là có được vị thế riêng của nó, chẳng hạn như trong việc điều hành các hiệu chỉnh của các tuyến), cộng thêm với việc giữ vệ sinh đúng mức từ ấu thơ trở đi, sẽ thành đạt được nhiều điều và từ từ dập tắt các bệnh về trí năo, mà ngày nay có rất nhiều và đang gây nhiều thống khổ.

Chết để tránh đau (euthanasia)

Một số nhà nghiên cứu bận tâm về cố gắng sắp xếp để hợp pháp hóa việc chết để tránh đau, và băn khoăn về việc đặt sức mạnh của sự sống và cái chết trong tay của thầy thuốc. Đồng thời, họ biết rằng việc đó cũng liên quan với yếu tố nhân đạo, trong trường hợp không ngưng được sự đau đớn kéo dài. Về việc này, tôi xin nói:

Việc nghiên cứu cách thực hành được đưa ra về t́nh trạng chết tránh đau sẽ không thành vấn đề nữa khi đạt được sự liên tục của tâm thức (nó phủ nhận sự chết). Điều đó có nghĩa là do sự phát triển của nhân loại, sẽ đến lúc linh hồn biết rằng kỳ hạn của kiếp sống hồng trần đă hết, và sẽ tự chuẩn bị để triệt thoái ra khỏi h́nh hài với đầy đủ ư thức. Linh hồn sẽ biết rằng việc phụng sự của h́nh hài không c̣n cần thiết nữa và h́nh hài phải bị vứt bỏ. Linh hồn sẽ biết rằng ư thức hiểu biết của nó đang được tập trung trong bản chất trí tuệ, vẫn đủ mạnh và đủ sinh lực để đưa nó vượt qua tiến tŕnh và giai đoạn triệt thoái. Khi ư thức đó đă phát triển trong con người và tiến tŕnh xảy ra được nhận biết bởi giới y khoa và những kẻ nghiên cứu khoa học về cơ cấu con người, bấy giờ, toàn bộ thái độ đối với sự chết, và các diễn tiến của nó có liên quan đến sự đau đớn, sẽ được thay đổi về mặt vật chất. Lúc bấy giờ, người nào đến thời kỳ chết, đều có thể có sẵn cho chính ḿnh một vài phương pháp thoát ra mà theo quan điểm của người b́nh thường, có thể được xem như có liên quan tới việc chết tránh đau. Các cách triệt thoái sẽ được nghiên cứu và áp dụng khi cái chết gần kề và tiến tŕnh sẽ được xem như sự rút ra của linh hồn giống như một tiến tŕnh giải phóng và giải thoát. Thời kỳ đó không c̣n xa như bạn nghĩ đâu.

319

 
Ngày nay, các nguy hiểm trầm trọng đang chờ đợi tiến tŕnh thúc đẩy sự triệt thoái và sự bảo vệ hợp pháp, sẽ cần sự tính toán thật cẩn thận, và thậm chí lúc bấy giờ các vấn đề nghiêm trọng có thể xảy ra. Nhưng một hối thúc nào đó đối với các tiến tŕnh chết hợp lệ phải được thực hiện. Tuy nhiên, trước hết, vào lúc này, ư-chí-muốn-chết của bệnh nhân không được dựa trên sự hiểu biết và sự an trụ vào thể trí, hay là dựa trên sự liên tục tâm thức đă có, mà dựa trên các phản ứng t́nh cảm và sự do dự v́ đau đớn và v́ sợ hăi.

Tuy nhiên, khi nào có cơn đau khủng khiếp và tuyệt nhiên không có hy vọng về sự trợ giúp thực sự hay là về sự phục hồi, và khi mà bệnh nhân sẵn sàng (hay là nếu quá đau yếu, gia đ́nh sẵn sàng) lúc bấy giờ, dưới sự bảo vệ thích đáng, một điều ǵ đó cần nên làm. Nhưng việc sắp xếp thời gian để ra đi này sẽ không được dựa vào cảm xúc và dựa vào sự thương xót, mà là dựa vào các khoa học tinh thần và dựa vào sự hiểu biết đúng đắn về các khả năng tinh thần của sự chết.

320

 
Về các mầm bệnh (On germs)

Quả là các lời thiếu thỏa đáng biết bao để đáp ứng với nhu cầu chân lư. Chúng tôi dùng từ ngữ "mầm bệnh" để chỉ cội nguồn của một bệnh nào đó hoặc là cội nguồn của một số h́nh thức. Chúng tôi nói đến một mầm hay hạt giống của sự sống; chúng tôi đề cập tới mầm của một ư tưởng; chúng tôi nêu ra rằng mức năng lượng không thể nhận ra đó sẽ tạo ra kết quả sau này dưới một loại h́nh thức biểu lộ nào đó. Có thể là một h́nh tư tưởng, một con người hoặc một bệnh, tuy nhiên, cùng một từ ngữ cũng chỉ đủ cả ba. Tôi đă thường bảo các bạn rằng tất cả đều là năng lượng và không có ǵ khác nữa. Một mầm bệnh là một điểm năng lượng có bên trong nó một số tiềm năng sống động, tạo nên một vài hiệu quả trên trường năng lượng xung quanh và tạo ra một số h́nh thức biểu lộ có thể nhận biết được trên cơi trần. Nhưng cuối cùng, tất cả những ǵ được đề cập đến là một h́nh thức năng lượng linh hoạt nào đó hợp thành một phần của năng lượng có sẵn trên, trong và chung quanh địa cầu.

Liên quan với bệnh tật, một mầm bệnh vẫn c̣n là một điểm năng lượng, nhưng nó có thể được xem như năng lượng không vận hành một cách chính xác liên quan với h́nh thức đặc biệt, h́nh thức này trở nên dễ bị tác động với hoạt động của nó hoặc biết được sự hiện hữu của nó.

Mầm bệnh là hậu quả đầu tiên của một cội nguồn ban sơ. Một số ít tạo thành một phần của tà lực hành tinh, hàm ư là chúng có cội nguồn thâm căn cố đế và thuộc trí tuệ, và là cội nguồn có tầm mức quan trọng đến nỗi trí óc hữu hạn của con người chưa thể hiểu được chúng. Thí dụ, các nguyên nhân như thế có thể có các hậu quả y như là sự sùng tín mănh liệt, nhiệt thành sôi nổi đối với một ư tưởng hoặc một người, hoặc là chúng có thể thể hiện ra như một cơn sốt, vừa dữ dội vừa nóng bỏng trong thể xác, và đối với cơn sốt này, tùy theo các triệu chứng của nó, một danh xưng chuyên môn sẽ được giới y học đưa ra. Nguyên nhân xuất phát th́ như nhau, c̣n các tác động trong phàm ngă sẽ khác nhau tùy theo sự tập trung chú tâm, hoặc là nơi nào có đặt tầm quan trọng của sự sống. Hăy suy tư về điều này v́ tôi đă đưa ra một ẩn ngôn ở đây về tầm quan trọng thực sự.

321

 
Khi tôi dùng các từ "tập trung sự chú tâm", tôi không nói đến bất kỳ thái độ tinh thần nào hoặc đến một thể trí biết chú tâm, mà là nói đến sự tác động của sinh lực theo bất cứ hướng đă định nào, bất cứ vị trí nào và bất cứ khía cạnh nào của xác thân con người, nơi mà sinh năng (life energy) được hướng đến. Các mầm bệnh là các cơ thể sống (living organisms) lớn hoặc nhỏ. Chúng t́m cách đi vào bộ máy con người qua môi trường sinh lực mà, đến lượt nó, dùng tim và ḍng máu như là tác nhân phân phối của nó. Cũng giống như vậy, năng lượng của ư thức dùng hệ thần kinh và bộ óc như là môi giới phân phối của nó. Nơi nào có sự yếu ớt bẩm sinh hoặc do kế thừa, nơi đó sinh lực không được tập trung một cách thích hợp, và sẽ có một h́nh thức tắc nghẽn nào đó, hoặc một h́nh thức phát triển bị đ́nh trệ nào đó, hoặc một h́nh thức dễ mắc bệnh nào đó. Khi trường hợp này xảy ra, mầm bệnh có thể t́m được một vị trí màu mỡ, nơi đó mới lộ ra hoạt động ác tính của chúng. Khi sinh khí trở nên dồi dào, c̣n sinh lực lưu chuyển thông thoáng và không bị ngăn trở, lúc bấy giờ, sẽ không có các bẩm chất này, mầm bệnh không thể t́m được trú sở và sẽ không xảy ra nguy cơ cảm nhiễm.

Thí dụ bệnh sốt ban đỏ (scarlet fever) vốn hay lây, nhưng không phải tất cả những người tiếp xúc với bệnh này đều bị mắc bệnh. Khả năng để thoát khỏi sự cảm nhiễm và miễn nhiễm đối với các bệnh truyền nhiễm phần lớn là vấn đề sinh lực (có lẽ sinh lực trong các vùng đặc biệt của cơ thể nơi tập trung chú tâm và trọng điểm của sinh lực). Điều đó cũng có thể được dựa trên sự hoạt động của các huyết cầu, vốn dùng để giữ cho ḍng máu ở t́nh trạng tốt.

322

 
Trọng tâm và trọng điểm này cũng giống nhau xét về con vật, v́ đó không phải là tiêu điểm của thể trí, mà là của năng lượng sự sống bên trong xác thân. Khi hiện hữu và có tính tích cực, nó sẽ che chở. Khi tiêu cực và yếu ớt, nó để cho thể xác (con người và con thú) chịu các nguy hại v́ cảm nhiễm.

Tôi không thể giải thích điều này một cách đầy đủ hơn, v́ vấn đề cội nguồn và phương pháp vẫn c̣n là một vấn đề không giải quyết được chừng nào mà con người vẫn c̣n được trang bị với cách tiếp cận bằng trí hiện tại và phản ứng bằng t́nh cảm đối với sự đau đớn, bệnh tật và chừng nào mà y c̣n đặt trọng tâm quá cao vào sự sống của h́nh hài. Khi ư thức rơ rệt hơn về sự cân xứng đă phát triển, và con người bắt đầu cảm nghĩ bằng các thuật ngữ về linh hồn, mục tiêu và vận mệnh, th́ lúc bấy giờ, như chúng ta biết, bệnh tật sẽ thuộc vào hai loại chính:

1. Các bệnh tạo ra sự thanh lọc và cần có một thời kỳ phục hồi và ngơi nghỉ cho cơ thể, chuẩn bị cho sự sống tiếp tục trên cơi trần.

2. Các bệnh tạo ra sự triệt thoái hay sự trừu xuất của linh hồn dưới hai trạng thái – sống động và hữu thức.

Về sự tiêm chủng (On inoculations)

"Theo quan điểm huyền linh hoặc huyền bí học, vị trí hay giá trị của sự tiêm chủng là ǵ?" Câu hỏi này thường ở trong trí của nhà chữa trị khi họ đặt thêm câu hỏi vốn là căn bản thực sự của mọi quan tâm của họ: "Việc tiêm chủng có ảnh hưởng đến các thể tinh anh hay không? Bằng cách nào?"

323

 
Không hề có chuẩn mực hoặc giá trị huyền bí nào trong việc tiêm chủng hơn là chuẩn mực hoặc giá trị huyền bí trong việc chích dưới da. Toàn bộ vấn đề liên quan đến huyết thanh và tiêm chủng đă được cường điệu quá lố bởi những kẻ gọi là nhà nghiên cứu huyền học. Hiện tại, cơ thể con người là nơi chứa một số lượng lớn chất liệu, xuất hiện đột ngột từ bên ngoài, đi vào bên trong cơ thể đến nỗi toàn bộ vấn đề mang một ư nghĩa rộng lớn hơn, tuy thế, kém quan trọng hơn là người ta nghĩ. Đó là điều nghịch lư mà tôi tŕnh bày với các bạn. Thức ăn sai lầm đủ loại, việc hít thở khói suốt nhiều thế kỷ, thở không khí nhiễm trược, uống mọi thứ thuốc hoàn, thuốc viên, thuộc mọi loại có được, lục lọi giới thực vật và khoáng vật để t́m ra thành phần của chúng, và chích vào các khoáng chất, thuốc và huyết thanh, đôi khi người ta vẫn c̣n ngạc nhiên trước các năng lực đồng hóa đáng kể của cơ thể người.

Tuy nhiên, với tất cả thẳng thắn, tôi xin nhắc các bạn rằng, xét về mặt sức khỏe xác thân của con người, các phương pháp và kỹ thuật này của Tây phương đă có kết quả trong việc tạo ra một chủng tộc mạnh khỏe hơn ở Đông phương trong việc kéo dài sự sống con người rất rơ rệt và trong việc loại trừ nhiều tai họa tệ hại của thể xác vốn thường gây hại cho con người. Về điểm này, tôi, một người Đông phương phải thừa nhận. Như vậy, tôi đă nói ra t́nh trạng này để mở rộng quan điểm của bạn từ đặc thù đến tổng thể.

Về liên quan giữa bệnh tật với tiêm chủng, tôi xin nhắc bạn rằng có ba nhóm bệnh không riêng biệt cho con người mà là bẩm sinh trong chính hành tinh. Các bệnh này được thấy trong các h́nh thức rộng lớn khác nhau, thuộc mọi giới trong thiên nhiên. Ba họ hay nhóm bệnh này là:

1.Nhóm lớn về bệnh ung thư

2.Nhóm bệnh giang mai

3.Nhóm bệnh lao.

324

 
Hầu hết các bài bác của các bác sĩ đối với các khuynh hướng huyền bí đều dựa một cách vô tâm vào cảm nhận rằng nên có các phương pháp cao hơn để kiểm soát bệnh tật trong con người hơn là chích vào người chất liệu lấy ra từ cơ thể của con vật. Đó là điều chắc chắn nhất và chính xác rơ rệt nhất, và một ngày nào đó điều ấy sẽ được chứng minh. Một phản ứng khác về phần con người là phản ứng về cảm giác ghê tởm, lại không được nhận biết một cách rộng răi. Việc cung cấp thuốc chủng và các chất khác làm cho con vật đau đớn, cần phải được bài bác quyết liệt. Hiệu quả trên các nội thể (inner bodies) gần như là không và ít hơn chính các bệnh tật nhiều. Trong tương lai, ở đây có tồn tại một vấn đề rất lư thú. T́nh trạng bệnh tật trong cơ thể con người có vượt qua và ảnh hưởng đến các nội thể về mặt cấu trúc xa đến đâu? Đó là một câu hỏi mà tôi không định giải đáp. Việc kiểm soát bệnh tật hiện nay đang được y học hiện đại vận dụng trước tiên theo ba cách: nhờ khoa vệ sinh, nhờ y khoa pḥng ngừa và nhờ sự tiêm chủng. Đây là các tương ứng thấp với các phương pháp hoạt động xuất phát từ cơi cảm dục, từ các phân cảnh dĩ thái và từ chính địa cầu.

Khoa vệ sinh, việc dùng nước và sự hiểu biết về thủy liệu pháp (hydrotherapy) ngày càng tăng, là sự đột hiện (precipita -tion) trên địa cầu của một số hoạt động bên trong, ở cơi cảm dục với một bản chất rơ rệt. Theo quan điểm của người t́m đạo, các phương pháp này được gọi là sự thanh lọc.

Khoa pḥng ngừa (cả bệnh tật lẫn sự chết) là sự đột hiện ở cơi trần của một vài cách trên cơi dĩ thái nơi mà các sức mạnh được sử dụng một cách chính xác và một số tác lực (agency) tàn phá được kiềm chế và ngăn chận khỏi đi đến chỗ hủy diệt.

Khoa tiêm chủng có nguồn gốc hoàn toàn vật chất và chỉ liên quan đến cơ thể động vật. Môn này sẽ được thay thế một cách mau chóng bằng một kỹ thuật cao hơn, nhưng chưa đến lúc.

325

 
Về các tuyến (On glands)

"Có thể nào nhờ một vài kiểu tham thiền để kích hoạt hoặc thùy sau hoặc thùy trước của tuyến yên khi đó có gây tác động bất lợi nào hay không? Liệu sự tham thiền được phác thảo để hội nhập phàm ngă có tự động điều chỉnh bệnh tật và mang lại hoạt động thích hợp cho tuyến yên hay không? Liệu cách này cũng sẽ hiệu chỉnh và làm thăng bằng hoạt động của các tuyến quan trọng khác hay không?"

Ở đây, bạn có một vài câu hỏi nhưng toàn bộ vấn đề th́ quá rộng lớn để vận dụng thích hợp trong thời gian và các giới hạn hiện có.

Tuy nhiên, tôi muốn nói một cách vắn tắt rằng việc kích thích một trong hai thùy của tuyến yên, cũng như việc kích thích bất cứ tuyến nào bằng tham thiền mà tân đệ tử cố làm, đều là một việc rất nguy hiểm. Việc đó có thể làm được, nhưng không phải là cách làm thích hợp, trừ phi ở dưới sự xem xét thành thạo của vài kẻ hiểu biết nhiều hơn bạn và của kẻ có thể thấy được nhiều hơn bạn. Các tuyến là kết quả của sự hoạt động hay không hoạt động của các bí huyệt hay luân xa (chakras) trong cơ thể và đi song song với sự phát triển của các luân xa. Sự phát triển này tùy thuộc vào cung và tŕnh độ tiến hóa. Vấn đề này quá rộng lớn và khó hiểu, nên tôi đề nghị tất cả các bạn nhớ rằng việc hằng trụ (constant dwelling) vào yếu tố vật chất phải thuộc về vận cụ của phàm ngă, chớ không phải là cách của đệ tử. Như bạn hiểu, phải nhắm vào sự hội nhập của phàm ngă và nhắm vào mục tiêu trở thành một vận hà thuần túy cho linh hồn. Hội nhập như thế là thành quả đạt được một cách b́nh thường của:

1.Kiến tạo tính chất.

2.Tiếp xúc với linh hồn qua tham thiền.

3.

326

 
Biểu lộ của sự sống qua việc phụng sự.

Thực hành ba điều này, qua nhiều năm dài, tất nhiên sẽ tạo ra các kết quả mong muốn, khi xét về thiết bị của tuyến và bao giờ mà toàn thể cơ cấu có thể chịu đựng được sức ép của các đ̣i hỏi của linh hồn, như chúng phải được đáp ứng trong mỗi kiếp sống riêng biệt.

Về thể sinh lực (On vital body)

"Các yếu tố chính nào có thể được tuân thủ để tạo được một thể sinh lực thật tráng kiện? Người có một thể sinh lực hơi yếu, có thể nào làm cho nó mạnh lên hay không? Có phải cái thường được gọi là thể sinh lực yếu đuối không thể đồng thời là một thể sinh lực tráng kiện, sự yếu đuối biểu lộ trong việc không có sức bền và chậm phục hồi sau cơn mệt nhọc hay không?"

Câu hỏi này thật rơ ràng và có thể được trả lời một cách ngắn gọn. Thực ra, hay nói một cách khác, cần phải bàn bạc nhiều về vấn đề thể sinh lực, và đó là vấn đề quá rộng lớn, không thể bàn ở đây, và các ẩn ư cũng quá nhiều. Tôi đă trao cho các bạn nhiều điều trong các sách khác nhau do tôi viết ra.

Khi bạn nói thể sinh lực yếu ớt, tôi coi như là bạn ám chỉ một thể được kết hợp thiếu chặt chẽ với thể xác và nối nhau lỏng lẻo, do đó, chống đỡ yếu cho h́nh hài bên ngoài, v́ chính sự phối kết chặt chẽ của thể dĩ thái với xác thân là nguyên nhân của tất cả sức bền (sức chịu đựng/staying power) của nó. Bạn có lư khi tin rằng người ta có thể hoàn toàn khỏe mạnh nhưng lại có ít chống được với mệt mỏi.

Các yếu tố chính để lập lại hay kiềm chế thể dĩ thái hữu hiệu hơn là:

1.Ánh nắng mặt trời.

2.Chế độ ăn uống thận trọng, chú trọng vào chất đạm và sinh tố.

3.Tránh mệt mỏi và lo lắng.

327

 
Ngược lại với mọi điều trên, vào lúc này, khí hậu, t́nh trạng thế giới, hoàn cảnh và nền văn minh chúng ta cản trở và do đó, cá nhân phải cam chịu một t́nh trạng các sự việc đang nằm ngoài sự kiềm chế riêng của ḿnh.

Một cuộc sống b́nh thường, lành mạnh, có điều độ, là cách tốt nhất để tạo ra mức độ sinh lực hoàn hảo hơn. Tôi cho đây là điều mà bạn muốn nói. Tuy thế bạn cần nhớ rằng khi nào mà thể dĩ thái bị thiếu sinh lực và t́nh trạng như là tái lập việc kiểm soát sinh lực có vẻ khó làm hay không thể làm được, th́ lúc đó người ta mới hiểu rơ các giới hạn của nghiệp quả và sẵn sàng để phục tùng chúng và để mặc cho các sự việc tự chúng diễn tiến. Kiếp sống đặc biệt này không phải là kiếp sống duy nhất. Do đó, thường thường trong bất cứ lần luân hồi đặc biệt nào, các t́nh trạng cũng không thể thay đổi được và được kéo dài bằng sự chống lại và đối kháng bên trong. Đệ tử phải học bài học nối tiếp, như sự biểu hiện đang có, bất chấp và không v́ hoàn cảnh nào cả.

Về prana (Sinh khí)

Bạn có thể khám phá nhiều điều về bản chất của prana nếu bạn dùng các sách mà bạn đang có và sẽ có. Trong quyển "Luận về Lửa Càn Khôn" của tôi và trong quyển "Ánh Sáng Linh Hồn" của A. A. B. toàn bộ vấn đề đă được xét đến.[3]

Chỉ cần nói rằng:

1. Không có ǵ đang biểu lộ trừ năng lượng, đang chiếm giữ h́nh hài, đang vận dụng và kích hoạt h́nh hài rồi làm tan ră h́nh hài.

328

 
2. Năng lượng này được chia ra thành 3 loại thường được gọi là hiện tượng điện, trong Giáo Lư Bí Nhiệm, và trong Luận Về Lửa Càn Khôn, được gọi là lửa do ma sát, lửa thái dương và lửa điện.

3. Prana là tên gọi dùng chỉ năng lượng được rút ra trên cơi trần từ trạng thái dĩ thái của mọi sự sống ở thế giới hiện tượng. Trạng thái dĩ thái đó của năng lượng thiêng liêng là một tổng hợp các năng lượng. Thí dụ, nếu năng lượng mà trong đó lúc nguyên thủy, một cá nhân sống, hoạt động và có điểm hội tụ của bản thể của ḿnh, hầu hết về mặt cảm dục, bấy giờ, cách biểu lộ năng lượng chính trong vận cụ của y sẽ là năng lượng bén nhạy với cơi cảm dục. Trong suốt thời gian đó y sẽ phản ứng lại với năng lượng hồng trần hay prana và với năng lượng cảm dục hoặc là nhiều mănh lực t́nh cảm hữu cảm thức. Các năng lượng này thể hiện nhiều nhất qua lá lách, huyệt đan điền và cổ họng, và tác động theo nhiều cách khác nhau vào lá lách, bao tử và tuyến giáp trạng của xác thân.

4. Khi được một cá nhân biểu lộ, cái lư thú trong hai loại năng lượng này dựa trên sự kiện chúng là hai năng lượng mà chính y thường bị cuốn hút trong đó, và y đáp ứng với năng lượng đó một cách rất dễ dàng và b́nh thường.

329

 
5. Ḍng năng lượng được dùng trong việc chữa trị sẽ là tổng hợp các năng lượng mà nhà chữa trị vận dụng một cách b́nh thường với loại năng lượng đang chiếm ưu thế đó, mà đối với y, vốn là năng lượng cao nhất của sự sống y. Nhà chữa trị bậc trung sáng suốt, thường thường chỉ là một kẻ truyền chuyển chính prana, vốn là năng lượng của hành tinh. Năng lượng này phối hợp với năng lượng dĩ thái hồng trần của người bệnh, đi qua cơ thể người chữa trị. Các năng lượng này kích thích người bệnh một cách đầy đủ để cho y có thể loại bỏ chứng bệnh đang gây suy yếu. Một số nhà chữa trị có thể tác động với loại thần lực đó và với năng lượng t́nh cảm được phối hợp và do đó tạo ra hoạt động, không những trong thể xác người bệnh, mà c̣n trong thể cảm dục của y nữa. Điều này đưa tới các khó khăn trầm trọng mà đôi khi và thường thường gây trở ngại cho việc chữa trị thể xác đích thực v́ sự rối loạn cảm dục đă tạo ra. Ở đây, tôi không thể bàn rộng về vấn đề này và không có th́ giờ để minh giải nhiều hơn vào lúc này. Các nhà trị bệnh tâm thần (các nhà chữa trị tâm thần chân chính thật ra rất hiếm có) phối hợp năng lượng linh hồn với hai mănh lực được nói đến ở trên, và việc này tạo ra sự tổng hợp các lực của phàm ngă. Khi được đưa vào một cách sáng suốt, việc tổng hợp này mang lại việc chữa trị cho con người nhờ việc tạo ra cấu trúc và chỉnh hợp rơ rệt.

Chữa trị bằng linh hồn thay thế cho ba phương pháp nói trên, và gây nên việc tuôn vào và qua cơ thể của bệnh nhân bằng năng lượng linh hồn thuần túy. Chính Đức Christ đă làm việc theo cách này, nhưng ngày nay có ít người hành động theo lối đó. Tuy nhiên, việc đó phải được xem là một mục tiêu trước mắt các bạn.

Việc chữa trị thể xác bằng prana rất là thông dụng. Thường thường nó có hiệu quả tạm thời, nhưng nó liên quan và chỉ liên quan với quả, chớ không bao giờ dính dáng đến nhân. Do đó, bệnh có thể được làm cho dịu đi, nhưng không bao giờ được chữa lành. Về mặt trí tuệ, năng lực chữa trị đang tăng lên và tương đối tạo ra các hiệu quả lâu dài. Nhưng việc chữa trị về mặt cảm dục th́ hiếm và rất ít khi thành công. Tiềm năng của bản chất cảm dục của nhà chữa trị và cũng là của bệnh nhân và t́nh trạng kém điều ḥa thường xuyên của nó th́ quá lớn nên công việc khó đạt hiệu quả, do sự an trụ của nhân loại vào lúc này và do sự thiếu cân bằng và kiềm chế t́nh cảm đúng đắn.

Về các thể của người Đông phương và Tây phương

Câu hỏi cũng thường nằm trong trí của một số nhà chữa trị, dù là có một dị biệt trong các nguyên nhân của bệnh và các hậu quả như đă được cảm nhận trong các thể của người Đông phương hoặc Tây phương. Về các nhân và quả này, tôi xin nói:

330

 
Nhân loại là một và như nhau trên khắp thế gian, các thể ở Đông và Tây phương đều có khuynh hướng mắc bệnh như nhau và biểu lộ các triệu chứng giống nhau; mọi đau đớn do bệnh lao, do ung thư và các vết nhơ về tính dục; tất cả mọi người đều thường chết v́ sưng phổi và cảm cúm. Nhờ điều kiện vệ sinh và các phương pháp chữa trị khác được xúc tiến trên một mức độ rộng lớn, các bệnh cổ xưa (kế thừa từ thời cổ Atlantis) như là dịch hạch và bệnh tả, đang từ từ bị tiêu diệt. Chúng vẫn c̣n xảy ra ở Phương Đông do sức mạnh các nền văn minh cổ, thiếu thức ăn, thiếu vệ sinh và dân số đông đúc. Chúng cũng là các bệnh của khí hậu và biến mất trong không khí lạnh hơn của phương Bắc. Một số bệnh là kết quả của chế độ ăn uống sai lầm, áp dụng qua vô số thế kỷ.

Một trong các lư do chính đối với sự dị biệt bên ngoài (nếu có bất cứ dị biệt nào) có thể cũng ở trong chỗ số tuổi lớn hơn của các giống dân ở Đông phương. Các bệnh của tuổi già, các bệnh của tuổi trẻ hoặc tuổi trung niên đều có các biến thái của chúng, các dân tộc Châu Á th́ rất già. Ḍng giống cơ thể đang hao ṃn nhanh chóng. Tuy thế, người Nhật không để lộ dấu vết nào của tuổi già đó. Người Ấn Độ th́ già hơn người Âu nhiều, nhưng ḍng giống Trung Hoa và Nhật Bản vẫn c̣n già hơn, tuy họ không để lộ một dấu hiệu nào của tuổi già suy yếu như thế. Lư do của điều này là ở chỗ thể cảm dục rất khác nhau như đă thấy trong giống dân Aryan hoặc Atlantis. Toàn bộ vấn đề khó mà lường được.

Tuy nhiên, tôi có thể trả lời câu hỏi của bạn rất vắn tắt bằng cách nói rằng không có sự dị biệt nào trong các nguyên nhân căn bản của bệnh tật ở Phương Đông và Phương Tây. Các nguyên nhân đó đều chung cho toàn thể gia đ́nh nhân loại.

Về hệ thần kinh

Trong cách hiểu biết đúng về mối liên hệ của thể dĩ thái hay thể sinh lực (với các bí huyệt lớn và nhỏ và mạng lưới nadis của nó) đối với hệ thần kinh của cơ thể người, hai khía cạnh lớn về hoạt động của linh hồn có thể được hiểu rơ.

331

 
Thứ nhất, trạng thái đó của sự sống linh hồn giúp cho linh hồn thúc đẩy và đưa bộ máy vật chất, tức là xác thân, vào luân hồi và hoạt động, nhờ hoạt động phấn khích của cái mà chúng ta gọi là Sự Sống.

Thứ hai, trạng thái đó của sự sống linh hồn vốn giữ cho thể xác được tráng kiện nhờ hoạt động thông suốt của các ḍng prana. Trên đây là một cố gắng diễn tả một chân lư vĩ đại bằng một cách càng đơn giản càng tốt. Ư nghĩa đích thực của phát biểu trên, tiêu biểu cho giai đoạn lớn kế tiếp thuộc lănh vực tâm lư đích thực và lănh vực chữa trị. Toàn bộ vấn đề vô cùng lư thú. Một số trong đó tôi đă bàn đến trong bộ "Luận Về Huyền Linh Thuật" (trang 18 – 50), bạn sẽ thấy bộ đó có giá trị để nghiên cứu vấn đề được phác họa ở đây.

T́nh trạng chung về mối liên hệ này có thể được phác họa vắn tắt như sau:

Con người là sự kết hợp của nhiều loại thần lực khác nhau. Có loại lực hay năng lượng của chính vật chất, mà toàn bộ của nó có thể được xem như là trạng thái năng lượng của các tế bào hay các nguyên tử của cơ thể. Theo hàm ư thường dùng của nó, từ ngữ "tế bào" ("cell") tự nó gợi ư một sự sống bị giam nhốt, c̣n đối với nhà huyền bí học, th́ sự sống và năng lượng là các từ đồng nghĩa. Đây là Ngôi Ba của Thượng Đế, tự biểu lộ trong nhân loại. Cũng có năng lượng kép mà linh hồn biểu hiện hay truyền chuyển; điều này có thể cũng giống như hai ḍng năng lượng, chúng phối hợp và trộn lẫn lại để tạo thành một ḍng duy nhất khi tách khỏi cơ thể, và chia thành hai khi đi vào vật chất và h́nh hài. Chúng mang lại cho vật chất hay là cho các sự sống của khối tế bào, đóng góp về phẩm tính – ư thức và sự sống tinh khiết. Cũng có thể nói rằng:

332

 
  a. Ḍng năng lượng sự sống (life energy) t́m lối vào tim, quả tim vật chất, và ở đó (xuyên qua nguyên tử thường tồn xác thân) nó đem lại năng lượng cố kết cho toàn bộ xác thân, bằng cách dùng ḍng máu như là phương tiện chính và là vận hà tiếp xúc chính của nó, và sự thông thương giữa nhà máy điện trung ương này của sự sống và vùng ngoại biên. Như chúng ta đă biết rơ, máu là sự sống. Hoạt động của sự sống này là yếu tố, nó gom góp chung lại và nắm giữ trong h́nh hài mọi nguyên tử sinh động và mọi tế bào sống của xác thân. Khi sinh mệnh tuyến đó được linh hồn thu hồi lại vào lúc chết, các nguyên tử sinh động tách ra, thể xác rời ra và sự tan ră xảy đến, với sự sống của nguyên tử quay trở lại nơi chứa năng lượng, vào ḷng của vật chất sinh động từ nơi mà chúng xuất phát.

  b. Ḍng năng lượng, vốn truyền đạt tính chất thông tuệ của linh hồn, cộng với bác ái - minh triết, và tạo nên những ǵ mà chúng ta hiểu như là tâm thức, với các năng lực giao tiếp của nó, để cảm nhận và để suy luận, mới xâm nhập đến tận bộ óc vật chất. Nơi đó, trạng thái thứ hai này tự tập trung hay tự bám chặt trong vùng tuyến tùng quả. Từ đó, trong bất luận tiềm lực đang tăng gia nào, khi các tiến tŕnh luân hồi và kinh nghiệm được theo đuổi, th́ linh hồn bắt đầu kiềm chế, khích động thành hoạt động có chí hướng và điều dụng thể xác. Hăy nhớ rằng đối với linh hồn, thể xác chỉ là bộ máy đáp ứng trên cơi trần và là một phương tiện biểu lộ.

Cũng có thể nêu ra như một phát biểu cần thiết thứ ba rằng, linh hồn tuôn đổ năng lượng được hướng dẫn một cách hữu thức vào nhục thân qua trung gian thể dĩ thái hay thể sinh lực. Dụng cụ này bao gồm:

1. Bảy huyệt chính và 49 huyệt phụ. Các huyệt lớn nằm trong đầu và trên cột xương sống. Các huyệt nhỏ nằm rải rác khắp cơ thể.

2. Mạng lưới dĩ thái vốn bao gồm các ḍng năng lượng, nối mọi bí huyệt thành 2 hệ thống – một chính và một phụ – và từ các bí huyệt này tỏa ra khắp cơ thể.

333

 
3. Các nadis là các tuyến năng lượng vô cùng nhỏ, hay là các đường lực (force fibres) tỏa ra từ mọi phần của mạng lưới và ẩn dưới mọi phần của hệ thần kinh tam phân. Chúng có đến hàng triệu và tạo ra bộ máy đáp ứng nhạy cảm mà nhờ đó chúng ta hoạt động và bộ máy của 5 giác quan là một trong các ngoại hiện của nó.

Trạm năng lực có kiểm soát này sẽ rất thay đổi tùy theo tŕnh độ tiến hóa đă đạt được:

1. Nhân loại cấp thấp dùng huyệt đan điền theo mức độ mà năng lượng cơ bản tạm thời nằm ở đó. Nơi đó, người ta cũng thấy một hoạt động nhẹ nhàng trong huyệt ấn đường.

2. Nhân loại bậc trung hoạt động một phần qua bí huyệt đan điền, nhưng phần lớn qua huyệt ấn đường và huyệt cổ họng.

3. Nhân loại bậc cao, tức giới trí thức và những người t́m đạo trên thế gian, dùng bí huyệt đầu, cộng với huyệt ấn đường, cổ họng, tim và đan điền.

Sau cùng có thể nói rằng bộ máy xác thân vốn là kết quả trực tiếp của hoạt động bên trong của các bí huyệt, mạng lưới và nadis chính là tim, hệ thống nội tiết và năo bộ. Thêm vào kế hoạch tổng quát này, được vạch ra một cách rất khái quát ở trên, mọi nền y học cổ (đặc biệt là Tây Tạng, Trung Hoa và Ấn Độ), với khoa học Tây phương hiện đại của chúng ta, rất là thích hợp. Tương quan của các kỹ thuật Tây phương và Đông phương vẫn c̣n được tạo ra và nhờ đó sẽ thu được nhiều lợi ích. Tôi không thể bàn rộng việc này thêm nữa, nhưng bao điều nói trên cũng đủ để chứng minh rằng các phương pháp mà bạn có thể khám phá trong sách vở của bạn (nhiều vô kể) có thể tất cả đều có liên quan với kế hoạch chung về các diễn tiến năng lượng trong cơ thể con người.

334

 
Về chế độ ăn uống (On diet)

Không một chế độ ăn uống được đặt ra nào có thể hoàn toàn đúng cho một nhóm người thuộc các cung khác nhau, có cá tính và trang cụ khác nhau và ở các lứa tuổi khác nhau. Các cá nhân thuộc mỗi một trong những người nói trên đều không giống nhau ở một số điểm. Với tư cách cá nhân, họ cần t́m ra những ǵ họ cần đến, bằng cách nào mà các nhu cầu cơ thể họ có thể được đáp ứng thích hợp nhất, và loại vật chất nào có thể giúp họ phụng sự hữu hiệu nhất. Mỗi người phải t́m ra điều này cho chính ḿnh. Không có một chế độ ăn uống tập thể nào cả. Không cần bắt buộc loại bỏ thịt hay là bắt buộc ăn chay nghiêm nhặt. Có các giai đoạn của kiếp sống và đôi khi toàn bộ các lần luân hồi, lúc đó người t́m đạo tự đặt ḿnh vào giới luật về ăn uống, cũng như có thể có những giai đoạn khác hay toàn bộ một kiếp sống mà trong đó tạm thời bắt buộc sống độc thân nghiêm nhặt. Nhưng có những chu kỳ sống và các lần đầu thai khác mà sự chú tâm của đệ tử và việc phụng sự của y nằm trong các hướng khác. Có những lần đầu thai sau này lúc mà không có một ư tưởng cố định nào về thể xác, và một người hành động không bận tâm vể sự phức tạp của chế độ ăn kiêng và sống mà không tập trung vào sự sống sắc tướng, ăn loại thức ăn nào sẵn có và nhờ thức ăn đó, y có thể giữ cho sự sống của y có hiệu năng nhiều nhất. Khi chuẩn bị cho một số cuộc điểm đạo, một chế độ ăn chay trong quá khứ đă được xét thấy là cần yếu. Nhưng không phải luôn luôn xảy ra trường hợp này, và nhiều đệ tử vội vă tự xem ḿnh như là đang chuẩn bị cho điểm đạo.

Về lá lách (On the spleen)

Lá lách là tác nhân quan trọng nhất của sinh lực (life force), nhưng chính sinh lực có sẵn trong chính vật chất, không tùy thuộc vào h́nh hài. Do đó, nó có liên quan chặt chẽ với thể vật chất của hành tinh. Đó là ngoại hiện của một bí huyệt rất quan trọng.

335

 
Có ba bí huyệt trong cơ thể (với các ngoại hiện được kết hợp) về căn bản rất thiết yếu đối với sự sống.

1. Bí huyệt tim và chính quả tim. Ở các nơi này, nguyên khí sự sống (trạng thái Tinh Thần) được an vị. Sự sống và Tinh thần là một.

2. Bí huyệt đầu và năo bộ là nơi mà nguyên khí của ư thức (trạng thái Linh hồn) được định vị (located).

3. Bí huyệt chứa prana (pranic centre) và lá lách, trong đó có sự sống của chính vật chất (trạng thái Vật Chất).

Như H.P.B. có nêu ra, các bạn phải nhớ rằng nhục thân không phải là một nguyên khí. Chính là chất liệu nguyên tử vốn được giữ trong h́nh hài bằng chất dĩ thái, mới ở dưới sự kiểm soát của linh hồn. Nó đáp ứng một cách tự động và phản ứng với ngoại giới bằng các va chạm và các xung lực bên trong, nhưng không có sự sống mở đầu của riêng nó. Nó bao gồm các đơn vị năng lượng, như là tất cả những thể khác trong thiên nhiên và có sự sống cá biệt của riêng nó; tụ điểm của nó đối với sự phân phối năng lượng cho kiếp sống này là lá lách.

Trong lá lách, sự sống tiêu cực (âm) của vật chất và năng lượng sinh động của thể dĩ thái tích cực (dương) được nhập lại với nhau, và bấy giờ, như người ta thường gọi, một "tia sáng" được tạo ra giữa các nội thể sinh động của con người (qua môi trường của thể dĩ thái) với cơi trần. Đó là một phản ảnh trên nấc thấp nhất của thang tiến hóa, đối với con người và đáp ứng với mối liên quan của linh hồn với thể xác, hay là – trên một ṿng xoắn cao hơn – của tinh thần và vật chất.

Về thần kinh phế vị (On Vagus Nerve)

336

 
Có hai bí huyệt mạnh mẽ có liên quan đến thần kinh phế vị: bí huyệt tim và bí huyệt chót xương sống. Khi ở dưới sự kiềm chế của linh hồn th́ hai huyệt này hoạt động thông qua bí huyệt đầu (bramarandra) làm cho hỏa xà đi lên. Khi xảy ra, bí huyệt này sẽ đưa toàn bộ hệ thần kinh vào một h́nh thức đặc biệt của hoạt động và ứng đáp nhịp nhàng, và chính nhờ sự kích thích và kiềm chế của phế vị thần kinh mà việc này được hoàn thành. Không phải thần kinh phế vị là công cụ trong việc làm cho hỏa xà đi lên, mà là t́nh trạng ngược lại. Khi bí huyệt đầu, tim và huyệt chót xương sống có sức thu hút và có mối tương giao mạnh mẽ, chúng sẽ tạo ra một tác động phóng phát, lúc bấy giờ, chúng ảnh hưởng đến thần kinh phế vị và các luồng hỏa của cơ thể hợp nhất và đi lên, tạo ra sự thanh lọc và "mở tung mọi cánh cửa".

Về nhăn quang (On the eye)

Có một trường phái gồm các lư thuyết gia khoa học đang làm việc dựa trên lư thuyết rằng mắt là yếu tố có tính minh giải trong cơ thể người và là qui luật hay ch́a khóa đưa đến sự hiểu biết đúng đắn. Họ đă chứng minh được nhiều điều liên quan đến các khả năng giải thích của mắt có liên quan với bệnh tật. Họ đang đi đúng đường. Tuy thế, môn học mà họ đang nghiên cứu, cho đến nay, hăy c̣n phôi thai đến nỗi các kết luận của họ không được chứng minh đầy đủ, cũng như không được tin cậy hoàn toàn.

Trong một tương lai gần, khi sự sống hành tinh của chúng ta có phần b́nh lặng hơn, toàn bộ vấn đề Linh Thị (Vision) và việc ghi nhận bằng mắt về các nội giới, sẽ nhận được một sức thôi thúc lớn lao, và các t́nh trạng, – cho đến nay, chưa được mơ tưởng đến – sẽ được tiết lộ. Con người sẽ đi vào một cách sống mới và một kỷ nguyên hiểu biết cao hơn. Việc giảng dạy liên quan đến tṛng đen của mắt (iris, mống mắt) là một chỉ dẫn của việc này.

337

 
Tại sao không nghiên cứu kỹ về mắt một chút và ghi nhận các tương quan huyền bí của nó với thế giới được sáng tạo và với toàn bộ vấn đề ánh sáng? Mắt và linh hồn được liên kết chặt chẽ và – nói theo ngôn ngữ huyền học – mắt bên phải là đại diện cho linh hồn và do đó là trung gian của thể bồ đề (buddhi), trong khi đó mắt trái đại diện cho phàm ngă và là trung gian của hạ trí cụ thể. Các bạn sẽ nhận thấy điều đó là lư thú khi đọc thấy trong Giáo Lư Bí Nhiệm và các sách khác (kể cả sách của tôi) về đề tài này; người ta bắt buộc phải kết luận rằng đây là một lănh vực t́m kiếm mà cho đến nay vẫn chưa được mở ra và giáo huấn sẽ biện minh cho việc nghiên cứu cẩn thận v́ lợi ích của tập thể, nếu không v́ lư do nào khác.

Về các nguyên nhân tâm lư của bệnh tật

Có phải "các nguyên nhân tâm lư của bệnh tật" là ghi nhận trong óc các triệu chứng trước khi phản xạ vào các phần khác của cơ thể không? Một câu trong "Ánh Sáng của Linh hồn" rất có liên quan ở đây:

"Thí dụ, bộ óc là "cái bóng" hay là cơ quan bên ngoài của trí tuệ, và kẻ t́m ṭi sẽ thấy rằng các tích chứa trong xoang năo đều có một tương ứng với các trạng thái của cơ cấu con người trên cơi trí".

Nên nhớ rằng mănh lực của sự sống tác động qua tim, sử dụng ḍng máu, trong khi trạng thái ư thức tác động qua năo bộ, sử dụng hệ thần kinh. Đây là điểm đầu tiên và quan trọng nhất phải hiểu rơ.

Các nguyên nhân tâm lư của bệnh tật ghi nhận trong năo bộ hay là (nếu thuộc một loại rất thấp kém) trong huyệt đan điền. Tuy nhiên, chúng không lộ ra như các triệu chứng của bệnh trong những vị trí mà chúng ghi nhận như thế. Chúng là các năng lượng hay sức mạnh mà – khi tiếp xúc với các năng lượng của cơ thể – sẽ tạo ra như là kết quả (chứ không phải trước điểm này) các t́nh trạng mà chúng ta gán cho tên gọi là bệnh hoạn. Các nguyên nhân tâm lư và các h́nh thức năng lượng, tác động qua các huyệt thích ứng trong cơ thể, và đến phiên chúng, các huyệt này chi phối hệ thống tuyến. Chất tiết hay kích thích tố, được tạo ra dưới sự kích thích huyền bí, t́m cách đi vào máu và kết quả của mọi tương tác này có thể hoặc là có được sức khỏe tráng kiện như nó lộ ra dưới h́nh thức các nguyên nhân tâm lư lành mạnh, hay là sức khỏe kém cỏi, khi nó biểu lộ ngược lại.

338

 
Đó là mối liên quan nội tại giữa các năng lượng tinh anh, đang tác động qua một số bí huyệt, cộng thêm hệ thống tuyến liên hệ, với sự liên quan của nó với ḍng máu, tạo thành khả năng vừa gây bệnh vừa chữa trị. Nhưng nhận thức này vẫn c̣n thiếu về mặt lư thuyết. Nhiều điều về tâm lư học có sẵn được hiểu rơ, nhưng vẫn có một lỗ hổng giữa thể xác và thể dĩ thái, và sự hiểu biết ít oi về thể dĩ thái, tuy thế, vẫn phù hợp về mặt lư thuyết. Tuy nhiên, không có sự hiểu biết thực sự nào về mối liên hệ giữa nội tâm và ngoại thể, xuyên qua thể dĩ thái. Việc nghiên cứu các tuyến đă trợ giúp được phần nào, nhưng y học phải tiến một bước xa hơn và liên kết hệ thống tuyến với các bí huyệt bên trong.

Về trạng thái ưu sầu (Melancholia)

Các vấn đề về chứng ưu sầu rất khó nhận ra, và do nguyên nhân khác nhau rất nhiều. Tôi sẽ liệt kê chúng ra đây và bảng liệt kê có thể giúp ích cho bạn vào một lúc nào đó.

1. Một cảm giác chán năn, một cuộc sống đầy ước vọng bị ngăn trở, hoặc là một nhận thức về sự thất bại căn bản trong cuộc sống.

2. Một ư thức về kịch tính và một ước muốn trông đợi rất quan trọng vào giai đoạn nhỏ của cuộc sống một người. Điều này có thể thường hoàn toàn không được hiểu rơ, và thật ra có cội nguồn ở trong tiềm thức, hoặc có thể là một thói quen hoặc thái độ được vun trồng một cách cẩn thận.

3. Một t́nh trạng mất sinh lực, phần lớn thuộc bản chất dĩ thái, nó cướp đi sự sống của mọi thú vui và ước muốn, và luôn luôn có một cảm giác về sự phù phiếm. Nhiều phụ nữ trải qua kỳ tắt kinh (menopause) mới có kinh nghiệm này.

339

 
4. Một số h́nh thức suy nhược nào đó trong các tế bào nằm trong một vùng riêng biệt của năo bộ.

5. Dựa trên việc sợ bệnh điên và sợ cái chết – một nỗi e sợ vô căn cứ không bao giờ thể hiện, nhưng lại tạo thành một định kiến, khiến cho con người trở thành nạn nhân của một h́nh tư tưởng phát triển rơ rệt.

6. Do sự quá nhạy cảm mà trở nên điều hợp với nỗi đau đớn và khổ sở của nhiều người trên thế gian. Các đệ tử có thể tạm thời bị điều này đánh bại.

7. T́nh trạng này rất ít khi xảy ra bằng bất luận h́nh thức ám ảnh nào như là "một thực thể bị ràng buộc vào cơi trần hoặc một người giống như ma cà rồng sống". Rất ít trường hợp như thế đă được biết, nhưng chúng quá hiếm hoi, không thể được xem như là một yếu tố.

8. Đôi khi một người bị lôi cuốn vào trạng thái ưu sầu hàng loạt, như có thể gặp trong các viện điều dưỡng hoặc bệnh viện tâm thần. Thực ra, t́nh trạng đó không liên quan ǵ với y, nhưng v́ nhạy cảm, y tự đồng hóa với những kẻ đang đau khổ v́ chứng ưu sầu nặng.

9. T́nh trạng ưu sầu, dưới h́nh thức triệu chứng của bệnh (không phải bệnh năo) cũng thường xảy ra và sẽ hết đi khi chữa trị thích đáng.

Một người có thể chịu đau khổ do sự phối hợp các nguyên nhân như thế, thí dụ, chúng ta hăy kể đến sự phối hợp các nguyên nhân trong các số 1, 2, 6.

Về chu kỳ trăng tṛn và chứng loạn tinh thần

340

 
Một trong các bộ môn của y học huyền môn trong tương lai sẽ có liên hệ với luật chu kỳ của mặt trăng và mặt trời. Bấy giờ, điều đó sẽ được chứng minh như là sự thật, những ǵ luôn luôn bị nghi ngờ và bây giờ thường được nhận ra, đó là chu kỳ trăng tṛn có một hiệu quả rơ rệt trên người mất thăng bằng, trên t́nh trạng mộng mị và thường thường các t́nh trạng hết sức bi thảm, các t́nh trạng loạn thần kinh và kích dục rất thường xảy ra vào lúc này.

Sự gia tăng dữ dội t́nh trạng điên rồ và mất quân b́nh ngày nay là do ba nguyên nhân chính:

1. Thời kỳ chuyển tiếp hiện nay tạo ra một va chạm giữa các mănh lực cung Bảo B́nh và cung Song Ngư đă đưa tới t́nh trạng làm cho người nhạy cảm chịu rất nhiều khó khăn khi muốn sống một cách b́nh thường. Diễn tả ư tưởng bằng biểu tượng: hầu hết nhân loại, sau khi đă quen sống trên mặt đất, bây giờ phải thích ứng để sống trong nước. Tôi đang nói theo quan điểm sắc tướng.

2. Sự kích hoạt mạnh mẽ tinh thần và trí tuệ mà ngày nay đang được áp dụng đối với quần chúng do Thánh Đoàn của hành tinh. Chủ đích là chấm dứt các cách sống cũ xưa, tạo ra các h́nh thức mới qua tiến tŕnh hiệu chỉnh, và như vậy, đem lại một văn minh mới dựa trên một văn hóa thiên về nội tâm hơn. Các bạn nên suy gẫm câu cuối cùng này.

3. Việc tuôn đổ nhiều ánh sáng hơn từ cơi cảm dục (hiện chưa được nhận biết) và cùng lúc có sự tăng gia rất nhiều sự giác ngộ b́nh thường trên cơi trần. Điều này tạo ra sự quá nhạy cảm. Công việc được thực hiện do việc thường dùng ánh sáng điện và sự sáng chói chung mà nhân loại hiện nay đang sống trong đó, sẽ gây ra mất mát cho nhân loại cho đến khi cơ thể con người tự điều chỉnh được với ánh sáng. Hăy nhớ rằng việc sử dụng ánh sáng chung này chưa đầy 100 năm và là một hiệu quả huyền bí có các kết quả sâu rộng.

341

 
Tôi nhắc đến ba điều này bởi v́ chúng chịu trách nhiệm cho nhiều người có bẩm chất nhạy cảm thuộc loại bất thường. Các môn sinh huyền học biết rơ rằng vào lúc trăng tṛn, một số giao tiếp cao dễ xảy ra hơn vào các lúc khác, nhưng hỡi huynh đệ, ở đây vẫn c̣n ẩn nhiều khó khăn.

Vào lúc trăng tṛn (suốt thời gian năm ngày), mặt trăng và hành tinh (trái đất – ND) là hai nơi nhận nhiều ánh sáng phản chiếu từ mặt trời hơn bất cứ lúc nào khác. Về việc này có một nguyên nhân chủ quan. Tôi chỉ có thể giải thích điều đó cho bạn bằng một biểu tượng, biểu tượng này có thể truyền đạt chân lư cho bạn, nếu không, nó có thể hành động như người mù. Nói về mặt tượng trưng, chu kỳ thiền định mănh liệt nhất của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta lại đến vào kỳ trăng tṛn mỗi tháng; giống như bạn thiền định hằng ngày, th́ ở nơi cao thâm, Ngài cũng có điểm tiếp xúc theo chu kỳ của Ngài. Điều này tạo ra việc tuôn đổ ánh sáng chói lọi và việc thấu nhập năng lượng cả trong lẫn ngoài. Do đó, đối với mọi đạo sinh chân chính, công việc của họ trên cơi trí trở nên dễ dàng hơn. Lúc bấy giờ, họ có thể thiền định một cách thành công hơn và chứng ngộ dễ hơn nhiều. Chắc chắn họ dự phần trong thành tựu của Đấng Chưởng Quản Shamballa.

Như bạn biết, nguyệt cầu là một cái vỏ, một h́nh hài cổ xưa mà qua đó Hành Tinh Thượng Đế có lúc mưu t́m biểu lộ. Về mặt vật chất, nguyệt cầu đang chậm chạp tan ră, nhưng về mặt cảm dục cho đến nay vẫn chưa tan, và do đó vẫn c̣n liên kết chặt chẽ với thể cảm dục của Hành Tinh Thượng Đế, như vậy là liên kết với thể cảm dục của tất cả mọi người. Tất nhiên là ảnh hưởng của nó mạnh hơn vào lúc trăng tṛn lên tất cả những ai mất quân b́nh (unbalanced). Sự thiếu quân b́nh này vốn có thật sau rốt sẽ được nhận ra giữa thể cảm dục, thể dĩ thái và thể xác.

342

 
Người t́m đạo và người thiên về trí tuệ rơ rệt, có thể có lợi nhờ các chu kỳ trăng tṛn này. Những kẻ bất b́nh thường rơ rệt, kẻ cực kỳ thiên về tinh cảm và thường bị lôi cuốn bởi dục vọng thiếu kiểm soát, đều bị cản trở, quá bị khích động và đảo lộn về mặt tâm linh bởi cùng các chu kỳ này. Màn ảo tưởng được chiếu sáng vào lúc đó với hậu quả là tạo ra ảo giác, các linh thị cảm dục, các thôi thúc tâm linh và các diễn dịch sai lệch về sự sống đối với việc quá nhấn mạnh vào các khía cạnh của sự sống mà chúng ta gọi là các sợ hăi (phobias), t́nh trạng mất trí (lunacy) v..v…

Ở đây, tôi xin đưa ra một gợi ư mà tôi không thể chứng minh cho bạn, nhưng tương lai sẽ cụ thể hóa. Các bệnh chính yếu được gọi là tâm thần, ít khi có tác động ǵ với chính thể trí. Đó là:

1. Các bệnh của năo bộ

2. Các rối loạn của huyệt đan điền

3. Các ưu thế về cảm dục

4. Nhăn thông và nhĩ thông quá sớm

5. Ám ảnh

6. Thiếu trí nhớ

7. Vô tâm / mất linh hồn (soullessness)

Dĩ nhiên, đây là một khái quát hóa rộng lớn và không có liên quan tới loại bệnh liên hệ đến cả thể trí lẫn năo bộ. Các bệnh của nhà thần bí cũng thuộc một loại khác. Dĩ nhiên các bệnh này cũng liên quan đến năo bộ, chứng tỏ sự mất thăng bằng ở thể trí; tạo ra đủ loại bệnh tim và nhiều khuynh hướng loạn thần kinh khác nhau mà các vị thánh trên thế gian thường mắc phải.

Tuy nhiên, có một điều mà tôi sẽ nói thêm để khuyến khích các bạn. Với tư cách nhân loại nói chung, được cai quản bởi Tinh Quân Thái Dương (Solar Lord), Thần Thái Dương (Sun God), Linh hồn, lúc bấy giờ các chu kỳ của mặt trăng sẽ dần dần mất hậu quả gây hại của chúng, và sẽ tàn tạ theo đủ loại bệnh thần kinh và tâm trí mà ngày nay rất thường thấy. Tuy nhiên, thời điểm đó chưa đến. Tôi không dễ dàng đưa ra nhiều chi tiết hơn liên quan tới nguyệt cầu và các tuần trăng của nó, v́ đó là một trong các bí mật chính chỉ được tiết lộ vào cuộc điểm đạo thứ ba.

343

 
VỀ SỰ PHÂN PHỐI THẦN LỰC; SỰ TRUYỀN MÁU

Thay v́ có hai, bạn lại có nhiều câu hỏi. Tôi xin nêu các câu hỏi đó ra để bạn sẽ thấy những ǵ tôi muốn nói đến và có câu giải đáp rơ ràng. Nhiều trong số các câu hỏi này được suy diễn chứ không được đặt ra rơ ràng, nhưng nếu tôi bàn đến chúng, th́ chúng phải được đặt dưới h́nh thức câu hỏi, cho dẫu lúc bấy giờ đề tài rộng lớn đến nỗi sẽ không đủ th́ giờ bàn đến.

1. Làm thế nào để cho việc phân phối thần lực được điều ḥa hơn để đem lại lợi ích cho mọi người?

2. Bạn có thể trao cho chúng tôi nhiều khuyến cáo đặc biệt hơn và nêu cho chúng tôi một vài phương pháp huyền bí, thích hợp cho giai đoạn phát triển của chúng ta liên quan đến vấn đề phân phối thần lực này hay không?

3. Sự thật về việc truyền máu .. có bất cứ tương ứng nào trong tiến tŕnh truyền các năng lượng tinh anh trên các cơi bên trong hay không?

4. Có những cách đặc biệt nào, ngoài những ǵ mà chúng ta đă cố làm, nhờ đó những ai trong chúng ta thuộc cung hai, có thể truyền một cách hữu hiệu hơn tính chất bác ái của chúng ta vào các huynh đệ trên cung Một và ngược lại hay chăng?

5. Có liên hệ hỗ tương và hợp tác ǵ trong các thực thể của cung và đặc biệt giữa các thực thể thuộc cung một và cung hai?

6. Tấm gương về sự hợp tác chặt chẽ và t́nh thân hữu giữa Chân Sư M. và Chân Sư K.H có trở thành sự trợ giúp thực tiễn và nguồn cảm hứng cho chúng ta hay không?

Do các điều trên, bạn sẽ thấy không thể làm cách nào mà bàn đến phạm vi rộng lớn của các đề tài được. Tuy nhiên, tôi sẽ trao cho bạn các câu trả lời ngắn gọn nhất về một số trong các chủ đề đó, hay là nêu ra đường lối mà theo đó, bạn có thể đưa ra ư kiến.

344

 
1. Việc phân phối hài ḥa thần lực, thay đổi theo cách sắp xếp của nó và tất nhiên theo hiệu ứng bên ngoài của nó, không những chỉ theo loại cung, mà c̣n theo tuổi của linh hồn và t́nh trạng cá nhân trên Thánh Đạo. Có một dị biệt trong cách sắp xếp này nơi các thể tinh anh của đệ tử dự bị và của đệ tử nhập môn, của người đệ tử đă được thu nhận và đối với mỗi đẳng cấp trên đường điểm đạo. Sắp xếp này diễn ra theo ba cách hay tùy thuộc vào ba h́nh thức của các ảnh hưởng đang phát triển.

  a. Qua sự sống có đạo tâm, như đă được ghi trong ư thức của năo bộ hồng trần.

  b. Qua khơi hoạt ngẫu nhiên của các bí huyệt và lũy tiến đúng dạng h́nh học của chúng. Điều này, tôi đă đề cập tới trong một số sách của tôi, nhưng c̣n nhiều điều nữa không thể đưa ra v́ đó là một trong các bí mật của cuộc điểm đạo thứ nhất. Việc tái sắp xếp và tái hiệu chỉnh nối tiếp trong toàn bộ giai đoạn của Thánh đạo, hiểu theo mặt chuyên môn.

  c. Qua việc phá ngă chấp (decentralisation) của toàn bộ sự sống hữu thức bên trong. Người phụng sự trở thành:

* Kẻ hướng ngoại thần bí (mystical extrovert).

* "Kẻ đang bước ra khỏi trung tâm".

* "Kẻ sống dựa vào ngoại vi trái tim".

* "Kẻ lượn lờ trên hoa sen chính yếu".

* "Kẻ biết trông xa, y thấy được từ xa tuy vẫn sống trong h́nh hài của tất cả những ǵ hiện hữu".

Việc nghiên cứu các giai đoạn mô tả này có thể mang lại cho bạn manh mối về việc phân phối năng lượng một cách đúng đắn.

2.Câu hỏi thứ hai được giải đáp một phần trong phát biểu ngắn nêu trên. Tôi đang làm những ǵ mà tôi có thể làm được trong các giáo huấn riêng của tôi ("Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới", quyển I và II) đối với tất cả các bạn để mang lại hai điều:

a. Tẩy sạch môi trường của sự sống phàm ngă để cho các năng lượng cao có thể hoạt động thông thoáng hơn.

345

 
b. Mang lại các t́nh trạng và các định hướng vốn sẽ tạo ra hài ḥa bên trong một cách tất nhiên và đồng đều, với các liên hệ hài ḥa bên ngoài. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc các bạn rằng hài ḥa bên trong của một huynh đệ trong một nhóm không thể thích hợp để tạo ra hài ḥa trong huynh đệ khác hoặc trong nhóm khác.

3. Việc truyền máu tượng trưng cho hai điều: thứ nhất, máu là sự sống, và thứ hai, chỉ có một Sự Sống Duy Nhất thấm nhuần mọi h́nh hài, và do đó có thể truyền theo đúng điều kiện. Đó cũng là một tác động tổng hợp của phụng sự. Hăy suy gẫm về điều này.

4. Câu hỏi của bạn mang lại cho tôi một cơ may để nêu ra rằng thậm chí một sự hiểu biết và việc quan tâm đến các loại cung (chẳng hạn như được tiêu biểu trong một nhóm) có thể tự nó đưa đến một thái độ phân cách tế nhị. Không có sự cần thiết nào cho bất kỳ đứa Con nào của Thượng Đế đang lâm phàm trên cơi trần hay là trong ba cơi thấp để "truyền" tính chất thuộc cung của y vào huynh đệ y. Các tính chất thuộc cung này được chia sẻ bởi tất cả những ǵ giống nhau và linh hồn riêng của huynh đệ – tuyệt nhiên không khác với một linh hồn khác – sẽ tạo nên chuyển hóa cần thiết hoặc là truyền vào sự sống phàm ngă. Người ta có thể làm cho tiến tŕnh trở nên dễ dàng bằng việc cung cấp các điều kiện hài ḥa và tịch lặng mà trong đó một huynh đệ phải đối phó càng ít có thái độ trái ngược càng tốt, và khi mà sự tương tác của t́nh thương có thể tạo ra một kích thích có hiệu quả. Nhưng đây không phải là sự truyền chuyển. Điều ǵ có trong bạn th́ đều có trong vạn hữu, và tính chất bác ái (trên tất cả những tính chất khác) là đặc điểm vượt trội của tất cả các cung.

5. Vấn đề này không những chỉ là một trong các bí mật của các huyền bí học, mà c̣n có một bản chất quá rộng lớn trong các hàm ư của nó và là một vấn đề quá phức tạp nên tôi không thể bàn đến nơi đây.

6. Mối quan hệ của hai Đức Thầy mà bạn nhắc đến, có thể được nghiên cứu bằng hai cách:

346

 
  a. Nhờ việc xem xét mối liên quan đang tác động có hiệu quả hiện có giữa các nhóm môn đồ đang làm việc dưới sự hướng dẫn của các Ngài.

  b. Nhờ việc nghiên cứu những người (và họ rất đông) có phàm ngă thuộc cung 1 và Chơn ngă thuộc cung 2, hoặc trái lại.

Sau rốt, hỡi huynh đệ, chúng ta mang lại việc phân phối đúng thần lực, đưa đến các liên hệ hài ḥa khi chúng ta t́m cách sống một cách vị tha. Đối với đệ tử dự bị điều này có nghĩa là một hoạt động vị tha bắt buộc phải có trên cơi trần. Đối với đệ tử nhập môn, điều đó liên quan tới một kiếp sống thoát khỏi mọi ích kỷ, mọi t́nh cảm duy ngă (self-centered -emotion) và trong số các điều này, than thân trách phận và sự tự bi thảm hóa (self-dramatisation) là các thí dụ nổi bật; đối với điểm đạo đồ, điều đó có nghĩa là một thái độ tinh thần để tránh tư tưởng ích kỷ, và tránh việc bi thảm hóa trong cảm nghĩ của chân ngă.

Về sự đau đớn (on suffering)

Cuối cùng, sự đau đớn chỉ xảy ra khi linh hồn đồng nhất hóa với xác thân, hay đúng hơn, khi trạng thái tinh thần của linh hồn (trong thể xác) bị đồng nhất hóa với sinh hồn (animal soul) đang làm linh hoạt và đem lại sinh khí cho h́nh hài và tạo nên sự sống tạm thời của h́nh hài. Trong trạng thái vô thức, sinh hồn biết được khổ sở và đau đớn, những người nuôi bệnh nhân đều biết rơ được điều này, nhưng không có khổ sở đích thực hoặc buồn phiền (distress) đích thực, bởi v́ Chân nhân, hồn tinh thần (spiritual soul) đă bị xua khỏi hoặc là do sự đau đớn quá độ (như là trong trạng thái vô thức thực sự) hoặc là do thuốc mê.

347

 
Đau khổ của linh hồn khi phàm ngă lạc đường chỉ là một cách nói tượng trưng. Không hề có đau khổ hoặc đau đớn thực sự nào, và thường thường linh hồn không biết đến sự việc xảy ra, v́ rung động không đủ cao để nhập vào cơi cao nơi mà linh hồn an ngự. Tuy nhiên, nơi nào có sự hiểu biết như thế, tôi tạm diễn tả như vậy, th́ linh hồn trải qua cảm giác cơ hội đă mất, và do đó có cảm giác thất vọng, nhưng không nhiều lắm, v́ sự kiên nhẫn của linh hồn, cũng như của Thánh Đoàn th́ vô giới hạn. V́ chúng tôi nói một cách tượng trưng và nói rằng linh hồn đau khổ, bạn đừng nên diễn dịch điều đó bằng thuật ngữ thông thường.

Đau khổ của Đức Christ hoặc của Hành Tinh Thượng Đế hoặc của chính Thượng Đế, không thể được hiểu bằng các thuật ngữ chỉ dùng cho phản ứng của phàm ngă. Chúng tôi dùng các từ, nhưng các từ đó thật sự hàm ư là "đồng nhất hóa tách rời và cô lập". Điều đó có gợi ư chút nào cho bạn không, hỡi huynh đệ?

Đồng nhất hóa (identification) sai lầm là nguyên nhân của đau khổ và đưa đến đau đớn, phiền muộn và đủ thứ hậu quả. Đồng nhất hóa đúng đưa đến sự cảm thông và hiểu rơ về các thái độ tâm lư của kẻ đau khổ, nhưng không đưa đến đau khổ hoặc phiền muộn thực sự như chúng ta thường hiểu.

Về năng lượng của hành tinh

348

 
Toàn bộ năng lượng vẫn như nhau chừng nào mà hành tinh c̣n tồn tại với các h́nh thức và biểu lộ sự sống của nó. Đó là phần của nơi dự trữ năng lượng vĩ đại. Chính việc sử dụng và hiệu quả của năng lượng này, khi nó được đánh giá bằng một h́nh thức hay các h́nh thức thuộc một loại nào đó mà chúng ta ghi nhận như là nó được thu hút từ vị trí riêng của nó đến vị trí mà b́nh thường nó sẽ không bị tác động. Ở đó, nó tạo ra các t́nh trạng và gây ra các khó khăn có liên quan chặt chẽ với karma và vận mệnh của một người. Có một năng lượng triệt thoái vĩ đại mà chúng ta gọi là Sự Chết, mà ảnh hưởng của nó vào một lúc nhất định, tỏ ra mạnh hơn là các ảnh hưởng hợp nhất của các nguyên tử và tế bào của xác thân. Nó tạo ra khuynh hướng triệt thoái và sau cùng rút ra năng lượng linh hồn, nhân dịp các mănh lực này trong tiến tŕnh thải bỏ một hiện thể trên cơi này hoặc cơi khác. Có thể nói rằng các hạt giống tử vong (mầm của sự chết) tiềm tàng trong hành tinh và trong các h́nh hài. Khi nào đủ mạnh để được nhận ra, chúng ta gọi chúng là các mầm bệnh (germs), nhưng điều này bao hàm một giai đoạn rơ rệt của hầu hết bằng chứng hữu h́nh. Khi nào quá mạnh, chúng tạo ra một bệnh ác tính và đưa đến cái chết; khi hiệu quả yếu ớt hơn, ta gọi chúng là bệnh và lưu ư hiệu quả thanh lọc của chúng. Các lây nhiễm này (như chúng thường được gọi, dù dứt khoát không bằng tên tốt) chỉ khác thường khi toàn thể các năng lượng mà chúng ta gọi là con người được đưa vào tiếp xúc với các ảnh hưởng lây nhiễm này hoặc các loại năng lượng cũ, và phản ứng hay sự đáp ứng trở nên tệ hại, theo khía cạnh tiện lợi của xác thân.

Về sự chuyển hóa dục vọng

Một điểm cần được ghi nhớ là dục vọng chi phối và kiểm soát hành động khi sức sống (life force) được tập trung vào bản chất dục vọng, v́ nó hầu hết có nơi đa số con người. Nhưng sự kiềm chế thể trí có sắp xếp chỉ có thể xảy ra khi nào sự sống được tập trung trên cơi trí. Khi trường hợp này xảy ra, dục vọng sẽ không cần kiềm chế, bởi v́ sức mạnh của sự chú tâm được tập trung sẽ là ở một nơi khác và tất nhiên sẽ không có dục vọng mănh liệt nào phải kiềm chế. Sự kiềm chế là một nỗ lực do con người tập trung vào thể cảm dục để mang lại trạng thái ư chí của trí tuệ. Nhưng ít khi con người làm được điều này. Dục vọng có thể biến mất nhờ nỗ lực mạnh mẽ mà con người đang làm để đạt đến đôi chút tâm thức cơi trí, nhưng thực ra, không có sự kiềm chế nào xảy ra, cũng không có ư chí nào được kêu gọi đến. Khi kiếp sống của một người tiếp diễn và được trí tuệ kiểm soát từ các phân cảnh trí tuệ, lúc bấy giờ, sự chuyển hóa tất phải xảy ra; sự chuyển hóa (mà nhờ đó bản chất cảm dục được thay đổi và biến chuyển), có thể có bản chất tinh thần hay chỉ có bản chất tiện lợi. Dục vọng có thể được chuyển hóa thành khát vọng tinh thần, hay là thành một thái độ phù hợp với ư chí của trí tuệ đang biểu hiện nó. Do đó, cần phải phân tích cẩn thận về động cơ thúc đẩy và về các mục tiêu.

349

 
Về nghiệp quả (On Karma)

Tôi đă gợi ư với bạn rằng toàn bộ vấn đề karma, cho đến nay, được hiểu không đầy đủ. Có một Định Luật vĩ đại về Nhân và Quả, nhưng khía cạnh đặc biệt duy nhất của nó chưa bao giờ được nhấn mạnh, và sự hiểu biết của nhân loại về vấn đề karma c̣n rất sơ lược. Karma luôn luôn được diễn tả bằng các tên gọi qui về tai họa, và các hậu quả đau khổ, về sai lầm, về h́nh phạt và về các biến cố tai hại, cả cho cá nhân lẫn cho tập thể. Tuy nhiên, đó là cái đẹp của bản chất con người, và nhiều điều được thực hiện lại có tính chất tế nhị, vị tha và hướng về hạnh phúc, đến nỗi cái xấu xa thường được hóa giải bằng cái tốt lành. Ở đâu cũng có nhiều karma tốt với một sức mạnh (theo cùng một Định Luật) bằng với những ǵ được xem như là karma xấu, đó là điều mà ít người có thể hiểu được. Luôn luôn để ư chút ít về vấn đề này. Karma tốt khơi hoạt các mănh lực vốn có thể thể hiện ra dưới h́nh thức năng lượng chữa trị trong bất cứ trường hợp đặc biệt nào. Nhà chữa trị có thể luôn luôn trông cậy vào các năng lượng đem lại tốt lành này, chúng vẫn được t́m kiếm và đang hoạt động. Đây là mấu chốt thứ nhất của tôi. Hăy suy gẫm về nó.

Karma là một yếu tố quyết định, nhưng trừ phi nhà chữa trị là một đạo đồ tiến hóa và nhờ thế có thể hoạt động một cách hiệu quả và sáng suốt trên các phân cảnh nguyên nhân nơi mà linh hồn ngự trị, đối với y khó mà quyết định xem trường hợp đặc biệt nào sẽ nhượng bộ việc chữa trị hay không. Do đó, nhà chữa trị hoặc vị đệ tử thực hành có được trong trí ḿnh năng lực chữa trị (có thể được hay là không) và nghiệp quả tốt của bệnh nhân, và tiếp tục áp dụng tất cả những ǵ có thể trợ giúp được. Đây là quan điểm mấu chốt thứ hai của tôi.

350

 
Điểm mấu chốt thứ ba của tôi là gợi ra cho bạn và cho tất cả những ai tham dự vào thuật chữa trị, đó là nhiều điều trong cái được gọi là tai họa, liên quan đến bệnh tật và tử vong (đặc biệt là tử vong) nằm trong một thái độ sai lầm đối với sự chết và đối với việc đánh giá quá cao phúc lợi của sự sống sắc tướng. Sự giải thoát của một linh hồn qua bệnh tật và chết chóc không nhất thiết là một điều bất hạnh. Một thái độ mới, tốt đẹp hơn đối với hiện tượng chết là cần yếu, có thể có được và gần kề. Tôi không cần bàn rộng điều này ở đây. Nhưng tôi phải t́m cách đưa ra cho bạn một quan điểm mới về vấn đề bệnh tật và tử vong.

Bạn có lấy làm ngạc nhiên không nếu tôi nói rằng theo Thiên Luật th́ hoàn toàn có thể "can thiệp vào nghiệp quả"? Các Định Luật lớn có thể được siêu việt và thường hay có trong quá khứ và ngày càng tăng trong tương lai. Định Luật Trọng Lực thường bị hóa giải và bị vượt qua hằng ngày khi một chiếc phi cơ cất cánh. Sức mạnh của đức tin có thể làm khởi động các năng lượng cao, và các năng lượng cao này có thể làm vô hiệu hoặc làm tŕ hoăn bệnh hoạn. Toàn bộ vấn đề về đức tin, ư nghĩa và năng lực thiết yếu của nó được hiểu rất ít giống như Luật Karma. Đây là một vấn đề trọng đại và tôi không thể bàn rộng hơn. Nhưng tôi đă nói đủ để đưa cho bạn chất liệu suy gẫm.

Về việc kéo dài tuổi thọ trong thế kỷ qua nhờ thành tựu của khoa học, tôi xin nêu ra rằng các kỹ thuật đúng và các khả năng của hoạt động có tổ chức của linh hồn luôn luôn được nhắc lại, và biểu lộ một cách sai lầm trên cơi trần bằng các hoạt động khoa học trước kia, vốn có động lực đúng đắn, nhưng chỉ là một biểu tượng, trên lănh vực bên ngoài của sự sống, của hoạt động sắp đến và thường là hoạt động mai sau của linh hồn. Sau rốt, tuổi thọ sẽ bị rút ngắn hoặc kéo dài tùy ư bởi các linh hồn biết phụng sự một cách thực tâm và sử dụng cơ thể như là dụng cụ mà nhờ đó Thiên Cơ được phụng hành. Ngày nay, các kiếp sống thường được duy tŕ trong h́nh hài – cả trong tuổi già lẫn lúc ấu thơ – điều đó có thể hoàn toàn được cho phép. Chúng không đáp ứng mục tiêu hữu ích nào cả, mà c̣n tạo ra nhiều đau khổ cho các h́nh hài mà thiên nhiên (mặc cho chính nó) không được sử dụng lâu dài và sẽ tàn lụi. Hăy chú ư lời này. Do quá nhấn mạnh vào giá trị của sự sống sắc tướng và do nỗi lo sợ chung về cái chết – sự chuyển tiếp lớn lao mà tất cả chúng ta phải gặp – và do sự không chắc chắn của chúng ta về sự thật của việc bất tử, và cũng do sự gắn chặt của chúng ta với h́nh hài, chúng ta chận lại các tiến tŕnh tự nhiên và giữ chặt sự sống, vốn đang phấn đấu để được thoát ra, bị trói chặt vào các thể hoàn toàn không thích hợp với mục tiêu của linh hồn. Xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi không có ư nói rằng việc đó có thể khuyến khích hành động tự tử. Nhưng tôi nói rơ và nhấn mạnh rằng Luật Karma thường bị đặt sang một bên khi h́nh hài được duy tŕ trong biểu lộ có mạch lạc, biểu lộ này nên được tách ra, v́ h́nh hài đó không c̣n dùng cho mục tiêu hữu ích nào nữa. Trong đa số các trường hợp, sự duy tŕ này bị thúc ép do nhóm của chủ thể, chớ không phải bởi chính chủ thể – thường thường một người tàn tật vô tâm, một người già có bộ máy tiếp xúc và đáp ứng không hoàn hảo, hoặc một trẻ sơ sinh không được b́nh thường. Các trường hợp này là các thí dụ rơ ràng về sự hóa giải của Luật Karma.

351

 
Nhờ sự chỉnh hợp, linh hồn tiến tới việc sử dụng th́ giờ một cách đúng đắn; hay đúng hơn, bộ óc, vốn là yếu tố nhận biết thời gian duy nhất trong con người, không c̣n là thuộc tính nổi bật. Thể trí, với vai tṛ là phương tiện của linh hồn (tâm thức linh hồn bao gồm quá khứ, hiện tại và tương lai), xét đoán sự sống và kinh nghiệm theo đúng thực tế của nó. Do đó, cái chết được nhắc đến như là một giai đoạn và như là một điểm chuyển tiếp trong một loạt chuyển tiếp rộng lớn. Khi thái độ này của linh hồn được hiểu rơ, th́ toàn bộ cách sống của chúng ta, và nhân đó, sự hấp hối, được biến đổi hoàn toàn.

352

 
Tuy nhiên, tóm lại, và chỉ ở bề ngoài chứ không thực sự phủ nhận tất cả những ǵ mà tôi đă nói ở trên, tôi xin lặp lại rằng kẻ chữa trị phải hết sức cố gắng. Trong đa số trường hợp, không có khả năng nhăn thông và có ư thức về thời gian và dưới ảnh hưởng của karma, y sẽ hành động hết sức ḿnh theo các đường lối luyện tập riêng của y và phù hợp với các giáo huấn được đưa ra trong bộ luận về chữa trị này. Tôi nhắc cho bạn hiểu rằng mục tiêu trước mắt bất cứ nhà chữa trị nào vào lúc này và ở thời điểm đă định này trong việc mở mang tiến hóa của nhân loại là cần thiết, khi hỏi như thế là giúp vào việc mang lại sức khỏe cho xác thân và kinh nghiệm chống đỡ của nó trong cuộc sống. Bạn cũng cần hiểu rằng nhiều điều được tin tưởng, chấp nhận và được các nhà siêu h́nh học ngày nay giảng dạy, đều dựa trên các tiền đề sai lầm, như là bản chất của vật chất, sự cân bằng thời gian, giá trị của sự sống h́nh hài và nỗi sợ chết. Hăy t́m cách loại các thái độ này ra khỏi ư thức của bạn, rồi bạn sẽ đi đến một viễn cảnh xác thực hơn về thuật chữa trị.

Sau này, trong một vài năm nữa, có lẽ chúng ta có thể bắt đầu bàn đến các trường hợp đặc biệt này. Tuy thế, vào lúc này, tôi t́m cách làm cho bạn giữ đúng các điều khái quát lớn và giữ các định luật và các đề xuất căn bản, chớ không che phủ các vấn đề với các sự việc thuần ở cơi trần, tạm bợ hoặc lâu dài hoặc bằng sự tử vong và vận mệnh.

Tuy nhiên, đừng bao giờ từ chối một yêu cầu trợ giúp thực sự nào. Đừng làm ngơ trước nỗi khó khăn hoặc về vật chất, tinh thần hoặc về tâm lư. Nhưng tôi muốn nhắc bạn chú ư đến sự kiện là thành công trong việc chữa trị không hẳn luôn luôn có nghĩa là thoát khỏi bệnh tật và cái thường được gọi là chữa trị thể xác của bệnh nhân. Nếu thành công về mặt vật chất, th́ điều đó chỉ có thể dính líu đến việc hoăn lại kế hoạch của linh hồn đối với con người. Sự thành công có thể có nghĩa là chữa lại các thái độ sai lầm bên trong, các đường lối lầm lạc của tư tưởng và đồng thời để cho thể xác vẫn y nguyên. Điều đó có thể có nghĩa là đặt người bệnh (nhờ sự dạy dỗ khôn khéo và sự kiên nhẫn) liên giao chặt chẽ với linh hồn của y, và kết quả là tái định hướng sự sống vào các chân lư vĩnh cửu. Điều đó có thể gồm trong việc chuẩn bị thích đáng của một người cho mục tiêu độc đáo mà chúng ta gọi là Sự Chết, và như vậy làm giảm nỗi đau đớn bằng cách này.

353

 
Sau rốt, toàn bộ khoa chữa trị sẽ thay đổi và ngày càng đi vào lănh vực y học pḥng ngừa và điều chỉnh tâm lư của cá nhân bên trong nhóm của y và cung cấp các điều kiện sinh hoạt thích hợp, chế độ ăn uống và cư trú hợp với mọi người. Tuy nhiên, việc đó cần nhiều th́ giờ, và trong khi nhân loại đang trên đường tiến đến các cách sống mới mẻ hơn, với các hiệu quả là sức khỏe được cải thiện hơn và hiểu biết chính xác hơn các định luật về sức khỏe, tất cả những ai hiện hữu trong cơi đời như là các trung tâm thu hút, tùy theo ánh sáng có nơi họ, phải tiếp tục làm việc với con người để giúp đỡ họ, chữa trị cho họ và để giúp họ tạo ra các hiệu chỉnh cần thiết. Không ǵ có thể làm đ́nh trệ việc phụng sự của bạn theo đường lối này, ngay cả việc không hiểu rơ về sự giới hạn và vô minh. Làm tất cả điều ǵ mà bạn có thể làm để khuyến khích và để cảm thông, vạch ra các thái độ không thích đáng, để chấm dứt cách sống sai lầm và thay đổi cách diễn đạt tâm lư kém cỏi chừng nào mà bạn c̣n gặp chúng và với hết khả năng của bạn. Tuy nhiên, nên nhớ rằng cách hay nhất của bạn có thể là c̣n thiếu sót nhiều so với các khả năng tương lai của bạn, và hăy luôn luôn sẵn sàng để thay đổi quan điểm khi một cách thức cao hơn và hay hơn được đưa đến cho bạn.

Trên mọi điều khác trong cuộc sống, hăy đem lại cho tất cả những ai đang t́m sự trợ giúp của bạn, cách thương yêu đầy đủ nhất, v́ t́nh thương giúp tháo gỡ, t́nh thương hiệu chỉnh và diễn dịch, và t́nh thương hàn gắn trên cả ba cơi.

Về các bệnh tập thể

354

 
Sau rốt, đa số bất hạnh của cơ thể đều bắt nguồn nơi đáp ứng nào đó với hoạt động tập thể. Chúng ta cần phải hiểu rơ sự kiện rằng nhóm từ "sự sống và hoạt động tập thể" phải bao gồm không những sự di truyền từ quá khứ, hay là các khuynh hướng kế thừa từ tập thể, mà c̣n có thể đưa ra các tiếp xúc hiện tại trên thế giới, vốn làm yếu đi hoặc làm tăng thêm đối kháng nhiều hơn là người ta thường có thể tin tưởng. Một trong các nguyên nhân của ung thư, vốn không thường thấy trước kia và trong những thời kỳ rỗi răi hơn của sự sống nhân loại – v́ lúc bấy giờ, bản năng Hợp Đoàn không được mạnh mẽ như ngày nay – là do bởi sự kích thích ngày càng tăng của cơ thể. Sự kích thích này được tạo ra do sự tiếp xúc chặt chẽ của chúng ta trong các cuộc sống hằng ngày với nhau qua cuộc sống tập trung của tập thể, đặc biệt là nơi các trung tâm thành thị. Nếu các tế bào là các cơ thể (organism) sống động (chúng vốn như thế), chúng sẽ đáp ứng với sự sống tập thể, đáp ứng với sự phóng phát và tỏa ra của tế bào tập trung. Ḍng năng lượng không đổi này tuôn đổ từ toàn thể tế bào xác thân trong nhân loại tập trung, có thể tạo ra nơi một vài mẫu người sự quá kích thích ở một phần nào đó của kết cấu tế bào xác thân. Điều này thường xảy ra ở nơi có nhược điểm trong thể dĩ thái hay thể sinh lực, nó có nghĩa rằng các bảo vệ tế bào bị suy kém và kết quả xảy ra là thường có ung thư hay là t́nh trạng ung thư tổng quát. Đây là nguyên nhân căn bản, mặc dù việc t́m kiếm hiện nay bị bận rộn với các nguyên nhân và hậu quả phụ của t́nh trạng yếu kém trong thể dĩ thái. Sau này tôi sẽ xét vấn đề này kỹ hơn. Điều hiển nhiên đối với bạn là khi chúng ta bắt đầu bàn đến thể sinh lực và xem xét thể đó bằng sự hiểu biết và kiến thức rộng răi hơn, chúng ta sẽ có thể đối phó với các bệnh như ung thư một cách hữu hiệu hơn.

Dùng trí và khả năng tưởng tượng để phát triển tập thể thức

Khi một thành viên của một nhóm, như là nhóm chữa trị, nói đến sự phát triển tập thể thức, tức là y nói đến nhóm huynh đệ đặc biệt của y, và đến nhóm của y với cương vị là một đơn vị gồm nhiều linh hồn. Đừng quên rằng một đơn vị như thế trong chính nó là một ư niệm riêng biệt theo quan điểm của một tổng thể vĩ đại hơn, nhưng nó phụng sự một mục tiêu hữu ích trong việc huấn luyện các thành viên của nhóm để suy tư bằng các thuật ngữ rộng răi hơn. Nó dùng như là một bàn đạp để tách khỏi ư thức của phàm ngă đơn độc.

355

 
Nếu bạn có thể thực sự cảm nhận, suy tư và hành động như là một đơn vị đầy đủ – nhiều phàm ngă và một linh hồn – bấy giờ sẽ tương đối dễ dàng để mở rộng ư niệm tới một sự bao gồm lớn hơn để mở rộng chân trời của bạn, và như thế trở nên bao hàm trong một ư nghĩa rộng hơn nhiều.

Việc vận dụng trí óc cho mục tiêu này liên quan đến một xu hướng học hỏi cách phân biệt giữa phân tích với chỉ trích. Đây là một việc khó khăn và hầu như không thể học được đối với nhiều người. Các dấu vết giác ngộ về vấn đề này sẽ tự lộ ra nếu nhóm kiên tŕ với mọi nhiệt t́nh. Với tư cách là một nhóm, các hội viên phải học cách đáp ứng với cùng các ư tưởng về tinh thần, trí tuệ và con người, và như vậy – với vai tṛ là "đơn vị viễn cảm" – chuyển thành việc huấn luyện hợp nhất của tư tưởng. Với tư cách là một nhóm, họ bận tâm với cùng các việc mà linh hồn của nhóm đă nêu ra, chứ không bởi một cá nhân trong nhóm như trường hợp thường hay xảy ra. Với cương vị là một nhóm, họ phải học cách giữ cho thể trí kiên định trong ánh sáng – thể trí của nhóm chứ không phải các thể trí cá biệt của họ.

Khi dùng trí tưởng tượng vào mục đích này, bạn phải vun trồng năng lực không chú ư đến h́nh thức bề ngoài và tập trung vào các tuyến ánh sáng bên trong đang nối huynh đệ với huynh đệ, nhóm với nhóm, và giới với giới thành biểu lộ Sự Sống của chính Thượng Đế. Chính việc dùng trí tưởng tượng có sáng tạo mới tạo ra thể dĩ thái hợp nhất của nhóm và giúp cho bạn thấy thể sinh lực và ánh sáng này dưới một h́nh thức hoàn hảo và dưới biểu lộ duy nhất của thông minh, ư chí và mục tiêu của nhóm – nhưng không phải là ư chí hoặc mục đích của một hoặc nhiều thể trí có ưu thế trong nhóm. Như thế, các thể trí này có thể thể hiện ra trên cơi trần trong biểu hiện đúng. Tuy thế, khi các thành viên của nhóm bị bận rộn nhiều với các ư tưởng riêng của họ, kế hoạch của họ, các vấn đề của họ và làm thế nào họ có thể sử dụng bất cứ ánh sáng và tri thức nào có thể nhận được, họ phủ nhận bất cứ khả năng vận dụng nào có tính sáng tạo như thế đối với trí tưởng tượng hợp nhất.Để hoàn toàn gạt bỏ điều này, cần tốn nhiều vun trồng cẩn thận và tự nhượng bộ đối với linh hồn.

356

 
Về năng lượng chữa trị (On Healing energy)

Đôi lúc, những kẻ sơ cơ nêu ra câu hỏi: "Chúng ta có cách nào phân biệt giữa năng lượng chữa trị mà linh hồn và phàm ngă đă biểu lộ hay chăng? Chúng ta có thể có một hiểu biết nào đó về phía mà ḷng bác ái phải đóng góp trong thuật chữa trị hay không?" Tôi có thể trả lời một cách vắn tắt.

Khi chúng ta bắt đầu công việc theo nhóm với các cá nhân mà chúng ta sẽ t́m cách trợ giúp, lúc bấy giờ chúng ta sẽ học cách vận dụng các loại năng lượng khác nhau theo nhu cầu của cá nhân cần được chữa trị. Năng lượng đó sẽ được dùng vào mục đích thật sự của nhóm nếu tất cả các bạn muốn học hỏi những ǵ mà Rama Prasad đă nói đến trong sách của ông "Các Lực Tinh Anh của Thiên nhiên" và của Patanjali trong "Ánh Sáng của Linh Hồn" về vấn đề prana mà chúng ta làm việc với nó và trong nó; bạn sẽ quen thuộc phần nào với vấn đề.

Đặc biệt, để trả lời câu hỏi: một đạo đồ hay ngay cả một người có nhăn thông bậc thấp, có thể dễ dàng phân biệt giữa các năng lượng chữa trị của linh hồn với năng lượng chữa trị của phàm ngă, mà người t́m đạo thông minh bậc trung, cho đến nay, chưa thể làm được. Điểm đạo đồ biết được cội nguồn từ đó bất cứ loại năng lượng chữa trị nào có thể đến. Y cảm nhận được rung động của nó và có thể đi theo nó đến nguồn xuất phát bằng một nỗ lực của ư chí, được trực giác hướng dẫn. Người có nhăn thông có thể thấy được bí huyệt mà từ đó năng lượng chữa trị có thể tuôn đổ, và bấy giờ chỉ ra loại và tính chất của lực được phóng ra. Mọi năng lượng đều đến từ linh hồn trong trường hợp thứ yếu, nhưng theo ư nghĩa ban đầu, mọi năng lượng chỉ là sự sống, tác động dưới sự điều khiển thuộc một loại nào đó.

Về phần vai tṛ mà t́nh thương đóng góp trong tiến tŕnh chữa trị: T́nh Thương là sự biểu lộ của sự sống của chính Thượng Đế; t́nh thương là mănh lực kết hợp nó làm cho mọi vật được toàn vẹn (tôi muốn bạn suy tưởng về nhóm từ này), và t́nh thương là tất cả những ǵ hiện hữu. Đặc điểm chính của cách phân biệt giữa năng lượng của linh hồn và sức mạnh của phàm ngă, khi áp dụng vào việc chữa trị, nằm trong lănh vực thực hành và biểu lộ của t́nh thương. Sức mạnh của phàm ngă thuộc về t́nh cảm, đầy cảm giác, và – khi được dùng – phàm ngă bao giờ cũng tự nhận như là nhà chữa trị và là trung tâm gây ấn tượng của sân khấu có hai diễn viên là kẻ chữa trị và bệnh nhân. Năng lượng linh hồn tác động một cách vô thức và được sử dụng bởi những ai tiếp xúc được với linh hồn của họ và bởi vậy họ đă phá được ngă chấp; chính họ "ở ngoài sân khấu", nếu tôi có thể dùng cách diễn tả đó, và họ hoàn toàn bị bận tâm với t́nh thương của nhóm, hoạt động của nhóm và mục đích của nhóm.

357

 
Vậy tại sao điều đó lại cực kỳ khó khăn, nếu không nói là hoàn toàn không thể được, v́ kẻ muốn trở thành nhà chữa trị nhiệt thành phải làm việc chung với nhau như là một nhóm, với khoa chữa trị thiêng liêng? Bởi v́, với tư cách các cá nhân và với tư cách là một nhóm, họ hầu hết là cá nhân trong các mối liên quan cá nhân và liên quan giữa các nhóm. Điều này có thể tự biểu lộ trong việc chỉ trích nhau gay gắt, hay là chỉ trích chính ḿnh; bằng một sự chắc chắn không lay chuyển của sự thẳng thắn cá nhân và sự phán đoán khôn ngoan, nó không cho phép kẻ nắm giữ điều đó thấy rằng có lẽ có một ngẫu nhiên mà ư nghĩ họ không đúng như họ đă tưởng; điều đó có thể tự nó lộ ra bằng một sự măn nguyện sâu xa vượt quá các tiếp xúc chủ quan cá nhân. Bất cứ cái nào hay là mọi ngăn trở nói trên đều có thể hiện hữu và biến biểu lộ tập thể thành biểu lộ cá nhân, nó phủ nhận công việc kiến tạo và bất cứ cố gắng nào cũng chỉ làm mạnh thêm các phản ứng của cá nhân và phần lớn (và ngược lại) sẽ ảnh hưởng đến phàm ngă của những kẻ mà họ có thể t́m cách trợ giúp.

358

 
Lúc bấy giờ, làm thế nào chúng có thể tiến hành được? Tôi xin nêu ra rằng bất luận thành viên của nhóm nào, với tư cách là cá nhân, tránh được các nhược điểm nói trên của phàm ngă và tránh được các thái độ này, tuy nhiên, biết được (và hân hoan một cách đúng chỗ) rằng y tham dự vào với tư cách là một thành viên của nhóm, với tính chất của nhóm. Đó là một trong các khó khăn có thể xảy ra thuộc công tác tập thể. Để tham dự vào và tuy thế thoát khỏi bệnh tật; để nhận biết được rằng các thành đạt hoặc thất bại của các thành viên của nhóm hoàn toàn là công việc riêng của họ; để chia sớt và tuy thế không bị chi phối bởi các tư tưởng và ư kiến mạnh mẽ của các thành viên có thế lực hơn trong nhóm bao giờ cũng là điều cần lưu tâm. Tôi nêu điểm này ra v́ trong Kỷ Nguyên sắp tới, lúc mà công tác tập thể được phát triển phần lớn, sẽ là điều hữu ích mà hiểu được các t́nh trạng và các vấn đề của tập thể, và lúc bấy giờ để tiến hành công tác của nhóm chung với nhau với những ai là thành viên của bạn để làm việc với bạn. Lúc bấy giờ, bạn sẽ vượt trội hơn và khôn khéo hơn đối với các kinh nghiệm đă qua, và hợp nhất với tư cách là một nhóm qua sự đau khổ và các giới hạn được chia sẻ, và khả năng có được v́ thất bại được đáp ứng đúng mức.

Thế nên, hăy để cho t́nh thương chân chính, yên tĩnh, nhẫn nhục, không chỉ trích và kiên định trở thành mục tiêu của bạn và tính chất của cuộc sống tập thể của bạn. Lúc bấy giờ, khi có một công tác dứt khoát phải làm, bạn sẽ hoạt động như là một đơn vị với tim và óc là một.

Về sự chữa trị tức thời

Việc chữa trị tức thời có thể thuộc nhiều loại khác nhau. Chúng ta có thể kể ra sau đây nhiều điều có thể giải thích cho sự việc:

359

 
1. Chữa trị vốn là kết quả của thực hành rơ rệt, hữu ư hoặc vô t́nh về Hatha Yoga. Điều này được tạo ra bởi việc phóng ra từ điện hoàn toàn hồng trần, mà khi nhập thêm vào phần từ điện thân thể khả dụng có sẵn của người bệnh bên trong chính thể xác của y, đủ để đem lại chữa trị trực tiếp. Từ điện trong thể xác người bệnh, thay v́ đi ra và tuôn ra ngoài, lại đảo ngược và quay vào trong để góp vào nguồn dự trữ thần lực của xác thân được duy tŕ ở t́nh trạng không thay đổi bên trong thể xác. Các hạng người càng thấp kém th́ chữa trị theo cách này càng hợp. Liên quan giữa bệnh nhân và nhà chữa trị cũng tương tự như thế. Trường hợp nêu trên là một thí dụ minh họa thích đáng. Việc chữa trị dễ xảy ra hơn bởi vị "pháp sư" ("sheik") có liên hệ bởi vết thương (một vết cắn nơi tay – A.A.B.) bị cố ư gây ra, và trước khi gây ra nó, người bệnh (nếu tôi có thể gọi y như thế) nắm giữ lực đang rời khỏi ở t́nh trạng đ́nh chỉ bằng một tác động của ư chí, như vậy tạo ra một nguồn chứa năng lượng sẵn có để bổ sung năng lượng của pháp sư, mà đến phiên nó được phóng ra bằng một thần chú. Rơ ràng đây không phải là cách chữa trị tinh thần.

2. Cũng có h́nh thức chữa trị có thể là tạm thời, bởi v́ bệnh tật phần lớn thuộc tâm lư và giống như ảo giác. Lúc bấy giờ, nhà chữa trị ở vị thế cho phép bệnh nhân gạt bỏ ảo giác và thế là được giải thoát. Ư chí của nhà chữa trị, khi được đưa thêm vào ư chí của bệnh nhân, sẽ giúp vào việc đánh tan ảo tưởng và h́nh tư tưởng lôi cuốn, lúc bấy giờ, bệnh nhân được giải thoát. Đây là cách chữa trị tâm lư và là một minh họa duy nhất về điều đó.

3. Kế tiếp có một loại chữa trị, nó xảy ra theo hai cách, và đây là chữa trị tinh thần đích thực:

  a. Khi bệnh nhân có một tiếp xúc đột ngột và thường không đoán trước với linh hồn của ḿnh, trong đó năng lượng linh hồn lớn và mạnh đến nỗi nó lan qua các thể và dứt khoát là tạo ra các hiệu quả. Như vậy, việc chữa trị xảy ra trong một số hiện thể này hay hiện thể khác và thường là trong thể xác. T́nh trạng xác thân hay bệnh của thể xác rất thường vẫn giữ sự chú ư không bị phân tán của tâm thức của người có liên quan, và linh hồn tuôn đổ qua điểm chú tâm có tập trung đó. Đối với nhiều người trong các bạn, trong ư tưởng này có ẩn một ám chỉ rơ rệt.

360

 
  b. Khi nghiệp quả xấu về xác thân của người bệnh đă cạn, th́ vào thời kỳ đặc biệt này, vận mệnh của y sẽ không c̣n bệnh thuộc cơi trần nữa. Lúc bấy giờ nhà chữa trị có thể bắt đầu gánh vác công việc, nếu y có tinh thần và đầy minh triết, có đủ năng lượng tinh thần để bảo đảm việc chữa trị. Tôi tin các bạn sẽ t́m được các câu trả lời gợi ư này. Hăy ngẫm nghĩ kỹ về các hàm ư.

Về việc dùng h́nh ảnh của Đấng Cao Cả

Ở đây, chúng ta đề cập đến một điểm có ích lợi đích thực. Việc sử dụng h́nh ảnh (image) của Đấng Cao Cả thường là tối quan trọng, nhưng – và ở đây, đó là điều mà tôi t́m cách nhấn mạnh – đó phải là h́nh ảnh đến một ḿnh nhờ trung gian của sự phát triển tâm thức Christ trong cuộc sống riêng của người ấy và nhờ việc đạt tới địa vị đệ tử hữu thức. Ở giai đoạn đặc biệt đó, khi một người được liên kết rơ rệt với một Đức Thầy và nhóm của Ngài, lúc bấy giờ, một cách tự động và với tư cách cá nhân, y liên kết với Thầy của mọi Đức Thầy. Lúc bấy giờ, xuyên qua linh hồn của riêng y và linh hồn của nhóm đặc thù của y, y sử dụng được thần lực của Đức Maitreya Buddha. Bạn hăy nghĩ xem tại sao không có một h́nh ảnh thánh thiện và chân thực nào của Đấng Giáng Phúc (The Blessed One), mà chỉ có một vài suy vấn do những kẻ sùng tín của giáo hội nguyên thủy, chớ không phải do những kẻ đă biết Ngài. Lư do thật là rơ rệt. Không có h́nh ảnh chính xác nào của Ngài, bởi v́ h́nh đó phải nằm trong tim ta chớ không phải trên bức vẽ. Chúng ta đạt tới chỗ biết được Ngài, bởi v́ Ngài là chúng ta, cũng như chúng ta là Ngài. Bạn có hiểu được những ǵ mà tôi nói không? Ngài là Đấng chữa trị và Đấng Cứu Thế. Ngài hành động bởi v́ Ngài là linh hồn hiện thân của mọi Thực Tại. Ngài hành động ngày hôm nay, cũng như Ngài đă hành động ở Palestine cách đây 2.000 năm qua các nhóm. Ở đó, Ngài tác động qua ba vị đệ tử yêu quí, qua 12 tông đồ, qua 70 người được tuyển chọn và năm trăm kẻ có quan tâm. Hăy suy cứu về sự kiện này, v́ ít được nhấn mạnh. Hiện nay, Ngài làm việc qua các Chân sư của Ngài và các nhóm của các Chân Sư, và do đó các nỗ lực của Ngài càng mạnh thêm lên. Ngài có thể và sẽ hoạt động qua mọi nhóm chừng nào mà tự họ thích ứng với việc phụng sự đă được sắp xếp, đối với sự phân phối t́nh thương và đi vào chỉnh hợp hữu thức với tiềm năng lớn hơn của các nhóm nội môn.

361

 
Các bạn sẽ thấy (có lẽ hơi sớm) rằng các nhóm chữa trị sẽ sử dụng các thần chú thuộc một loại rơ rệt và trong các linh từ đó danh xưng của Đấng Giáng Phúc sẽ hiện ra. Nhưng linh từ cho sự tái lâm của Ngài vẫn chưa được dùng. Thế giới vẫn chưa sẵn sàng đón nhận sức mạnh sẽ được phóng ra. Ngày nay, phải chăng có một linh từ thường được nói đến: "V́ Đức Christ và cho vinh quang của Danh Ngài"? Nhưng các lời này phải được thốt ra với t́nh thương và sẽ ở sau các lời nói, nếu không, chúng chỉ là một biểu tượng trống rỗng và một cái chủm chọe âm vang. Đừng nên quên điều đó.

Về Đức Christ

Một số người t́m đạo và các môn đồ có thể trải qua một hồi niệm hầu như không thay đổi về Đức Christ, đó là do tính nhạy cảm của họ tăng lên đối với các nội cảnh giới và đặc biệt do sự kiện có rất nhiều chất liệu trong thể cảm dục của người t́m đạo tiến hóa được rút ra từ (và do đó nhạy cảm với) cơi phụ cao nhất của cơi cảm dục. Cũng chính do sự kiện Đức Maitreya cùng với các phụng sự viên của Ngài đang tiến đến cơi trần gần hơn bất cứ lúc nào. Lần đầu tiên, sự tập trung chú tâm của Ngài vào năm 1936 chủ yếu trên cơi phụ thứ nhất của cơi cảm dục. V́ thế, sự đáp ứng chính xác và tức khắc cho sự nhạy cảm đối với năng lượng của Ngài lộ ra ở đó. Ngài đang tiến gần hơn đến tư tưởng và hoạt động của Ngài. Nếu con người của thế gian đáp ứng với cơ hội hiện nay, các sức mạnh và sự chú tâm của Ngài có thể vào sâu hơn và có ưu thế trên các mức độ dĩ thái với tất cả những ǵ được hàm chứa trong một t́nh trạng như thế.

Điều này, nhiều người cảm nhận từ bên trong và biết được, và do đó, cơ may của họ và cơ may của các bạn để tạo nên một vận hà ngày càng mạnh đối với thần lực này thật là lớn lao.

362

 
Nên nhớ rằng công việc mà v́ đó Ngài tái lâm và Thánh Đoàn tham dự vào đó, được cam kết là để giúp đỡ Ngài trong "việc chữa trị các quốc gia" như đă được diễn tả trong Thánh Kinh. Đây là một phát biểu chân thực về sự kiện sắp xảy ra. Việc chữa trị này sẽ xảy ra nếu những kẻ có thiện chí ở khắp nơi đạt đến cơ may của họ; nếu công việc của Đức Christ và của những kẻ trợ giúp của Ngài đưa tới chú tâm rơ rệt hơn của quảng đại quần chúng và nếu có một sự thư giăn bên trong ở thế giới của những người sẽ được hoạt động với các thiên thần. Chính sự sẵn sàng và đáp ứng của họ đối với việc tiến gần đến Đức Christ mà nhiều người phụng sự có tinh thần hiến dâng được nhận ra từ bên trong, và điều đó đă phần nào gây bối rối cho họ. Các thiên thần chỉ có thể được cảm thấy và nhận thấy; cho đến nay, các Ngài không thể được nhân loại tiến đến gần qua trung gian /phương tiện (medium) thế giới tư tưởng và việc sử dụng bộ máy tư tưởng trong con người. Không có một nguy hiểm nào liên can vào đối với người phụng sự nếu y bắt đầu biết đến các sức mạnh thiên thần này và các hoạt động của thiên thần, xuyên qua Đức Christ và qua sự đáp ứng của họ đối với công việc và sự xuất lộ sắp tới của Ngài.

Về nhóm từ "Đức Mẹ Thế Gian"

Có nhiều cách khác nhau mà nhóm từ này có thể được dùng, để ám chỉ một số các việc khác nhau. Nó có thể có nghĩa:

1. Trạng thái âm trong biểu lộ, được tượng trưng cho chúng ta ở nhiều tôn giáo trên thế gian dưới h́nh thức mẹ đồng trinh và trong Cơ Đốc Giáo là Trinh Nữ Mary. Chính bản thể (substance) đó giúp cho Thượng Đế biểu lộ.

2. Chính Thiên Nhiên, mẹ của mọi h́nh hài.

3. Mặt Trăng cũng vậy vốn là biểu tượng của sự sống sinh sản, sáng tạo, sự sống này khai sinh ra các h́nh hài và do đó là biểu tượng của bản chất h́nh hài.

363

 
4. Việc tập trung mănh lực âm trong thiên nhiên nơi một cá nhân dưới h́nh hài nữ bấy giờ được gọi là "Đức Mẹ Thế Gian" ("World Mother"). Một cá nhân như thế không bao giờ hiện hữu trong cuộc sống đặc biệt của hành tinh chúng ta, dù cho các Đấng Hóa thân của một thái dương hệ trước, tự biểu lộ qua sự sống hành tinh, luôn luôn khoác lấy h́nh hài này. Nhưng không phải trong thái dương hệ này. Truyền thống của các xuất lộ như thế thuần là biểu tượng, được kế thừa từ thái dương hệ trước, từ đó chúng ta hưởng được chất liệu của tất cả những ǵ mà mọi h́nh hài biểu lộ được tạo ra. Biểu tượng kư này đă sụp đổ từ thời xa xưa của thời Mẫu Hệ, vốn đă có một tôn giáo kêu gọi các phương cách cũ của thái dương hệ trước và trong đó thời Lilith tượng trưng cho Đức Mẹ Thế Gian, cho đến khi bà Eve chiếm chỗ của Đức Mẹ Thế gian.

Nhận thức về sự vô nghĩa

Xét về công việc của nhà chữa trị với các bệnh nhân ở ngưỡng cửa sự chết, nhà chữa trị có thể trải qua một nhận thức về sự vô nghĩa. Có thể nào biết được đúng điều ǵ mà y có thể làm không? Y có nên tiếp tục cố gắng của ḿnh để giúp linh hồn mới được giải thoát tiến vào ánh sáng hay không? Mặc cho tất cả mọi kiến thức của y (và y có thể có nhiều) và mặc dầu sự mong muốn khát khao của y để giúp kẻ từ trần, nơi đó dường như không có ǵ để làm ngoại trừ việc bước sang một bên, với nhận thức hoàn toàn vô nghĩa, trong khi kẻ được mến mộ vượt qua cánh cửa dẫn đến ǵ, hỡi huynh đệ? Chúng ta có thể đi đến cánh cửa, nhưng cho đến nay, dường như chúng ta không thể đi xa hơn nữa. Cho dù đức tin ăn sâu trong sự kiên tŕ của linh hồn bất tử tỏ ra không thỏa đáng, và chỉ dùng để an ủi nhà chữa trị đang phụng sự về mặt cá nhân, nhưng không đủ để tiết lộ cho y những ǵ giúp y có thể hiến dâng.

Như tôi mong đợi, có một vài điều tôi có thể nói ra vào thời điểm có ư nghĩa này, v́ sự thiên khải sắp đến. Thiên khải đó tất yếu và chắc chắn xảy ra, và các câu hỏi như thế sẽ không được nêu ra từ 200 năm nay. Đối với sự kiện đang hiện rơ này, sự nhạy cảm đang tăng lên của nhân loại đối với các khía cạnh tế nhị hơn của cuộc sống và số lớn điều nghiên được xúc tiến theo mọi khía cạnh là sự bảo đảm ở cơi trần. Chân lư vĩ đại này và sự bảo đảm của nó được giữ vững trước mắt chúng ta trong câu chuyện "sự phục sinh vinh quang của Đức Christ" và sự tái lâm sau khi chết đi của Ngài, và trong nghi thức mạnh mẽ nhưng ít được hiểu đến của đẳng cấp tối thượng của Hội Tam Điểm nơi mà Thánh sư được nhắc đến.

364

 
Vào lúc "bước vào ánh sáng" sự trợ giúp phần lớn tùy thuộc vào hai sự việc: thứ nhất, tầm quan trọng của sự giao tiếp chặt chẽ giữa người hấp hối với người canh bệnh nhân, và phân cảnh mà trên đó sự giao tiếp mạnh nhất. Thứ hai, tùy vào năng lực của kẻ canh thức để cắt đứt và tách chính y ra khỏi các cảm giác của riêng y, và tự đồng nhất hóa nhờ một tác động của ư chí hoàn toàn vô kỷ với người đang hấp hối. Không một điều nào thực sự xảy ra khi sự ràng buộc giữa cả hai thuần về t́nh cảm hay dựa trên sự liên hệ ở cơi trần. Sự giao tiếp phải sâu xa hơn và mạnh mẽ hơn thế. Phải là sự giao tiếp cá nhân trên mọi cơi. Nơi nào có sự giao tiếp thực sự của linh hồn và phàm ngă, nơi đó có ít vấn đề lôi thôi. Nhưng điều này rất khó thấy. Tuy nhiên, ở đây tôi đem đến cho bạn một vài ám chỉ.

Cũng nên có diễn tiến tư tưởng càng ít rơ rệt càng tốt về phần kẻ canh thức. Tất cả những ǵ được đ̣i hỏi và có thể có được hiện nay chỉ là làm cho kẻ hấp hối tiến tới trên ḍng t́nh thương bao giờ cũng sâu thẳm. Nhờ sức mạnh của trí tưởng tượng sáng tạo, chứ không phải nhờ các quan niệm tinh thần (bất luận cao như thế nào), kẻ hấp hối phải được giúp để tách ra khỏi cái vỏ ngoài mà y đă gắn chặt vào và y đă làm việc cật lực trong kiếp sống. Điều này liên quan đến một hành vi hoàn toàn quên ḿnh, mà cho đến nay, ít người có khả năng đạt được. Đa số con người đều bị lôi cuốn v́ sợ hăi hay bởi một ước muốn mạnh mẽ để giữ người thân thích trở lại hay là bị làm lệch mục tiêu của họ bằng các hoạt động liên quan đến việc làm dịu đau và giảm thống khổ, họ cũng bị mất tinh thần do quá thiếu hiểu biết về "kỹ thuật chết" khi đối phó với trường hợp khẩn cấp. Họ thấy rằng chính họ không thể thấy được những ǵ ở bên kia cửa tử và bị lôi cuốn bởi tính bấp bênh của thể trí vốn là một phần của đại ảo tưởng. Theo như chúng tôi biết, không có một sự tiếp xúc chắc chắn nào trong tiến tŕnh hấp hối này. Tất cả đều không chắc chắn và gây bối rối. Nhưng không bao lâu nữa, điều này sẽ chấm dứt và con người sẽ biết cũng như thấy.

365

 
Về phần những kẻ đă bước vào ánh sáng, kẻ mà bạn muốn trợ giúp, hăy theo dơi họ với t́nh thương của bạn, nên nhớ rằng họ cũng vẫn là người đó, trừ bức màn giới hạn bên ngoài của thể xác. Hăy phụng sự họ nhưng đừng t́m cách để họ phục vụ cho nhu cầu của bạn. Hăy đến với họ, nhưng đừng làm ǵ để họ xoay lưng lại bạn.

Chính đời sống hồng trần là nơi chuộc tội (purgatory), c̣n kinh nghiệm sống là ngôi trường có kỷ luật nghiêm minh. Chúng ta đừng sợ cái chết hay là những ǵ nằm bên kia cửa tử. Đệ tử khôn ngoan nỗ lực trong lănh vực phụng sự, nhưng nh́n về tương lai một cách kiên định cho đến lúc mở ra "ánh sáng mát lạnh, trong suốt" vào nơi mà một ngày nào đó y sẽ tiến vào và thế là kết thúc giai đoạn kích động tranh chấp và đau khổ của cuộc sống trần gian. Nhưng có các thời kỳ khác của kinh nghiệm sống khi mà cảm giác về sự vô ích và sự thất bại t́nh cờ xảy đến với người phụng sự trong thế giới ngày nay.

Theo góc nh́n của một đệ tử, chúng ta có thể chia con người thông minh thành ba nhóm, đồng thời loại ra trong tư tưởng chúng ta gánh nặng của quần chúng thiếu suy tư, họ biểu lộ ước muốn, nhưng cho đến nay họ không có kinh nghiệm nào về sự vô dụng hay là sự thất bại. Họ ước muốn và được thỏa măn, hoặc là họ ước muốn và bị cản trở, hoặc ghen ghét, hoặc giận dữ với những kẻ có mặt để có được những ǵ họ cần và kêu gọi đến sự sống giác quan. Ba nhóm đó là:

366

 
1. Các phàm ngă đă phối kết và sáng suốt, họ có tham vọng và đang quyết tâm tiến tới, tuy nhiên, họ gặp thất bại. Thất bại này hoặc do bởi các t́nh trạng thế giới quá đanh thép đối với họ, hoặc do bởi sự áp đặt lên họ của các linh hồn đang quán sát của chính họ, chúng ném ra chướng ngại về hướng của họ để đưa họ đến ánh sáng.

2. Những kẻ thiên về thần bí và những kẻ có tầm nh́n xa, được định hướng đúng nhưng chưa được kiến tạo trong giàn giáo tinh thần, giúp cho họ thể hiện đúng đắn cái thấy của họ nhờ các quá tŕnh tư tưởng đúng đắn. Ngày nay, số người đó rất đông đảo và trường hợp của họ không phải là trường hợp dễ dàng.

3. Các đệ tử và những người t́m đạo đang cố gắng hoạt động trong môi trường của thế gian, tuy nhiên, qua giới hạn nghiệp quả, qua việc áp dụng sai lầm thiên luật, hay là một yếu kém căn bản nào đó của phàm ngă, họ không bao giờ đạt được mục tiêu của họ trong kiếp sống này, và thế là bị cuốn đi bởi một cảm nhận vô nghĩa áp đảo.

Hơn nữa, ba nhóm này, có vai tṛ như là đối cực (opposite pole) đối với quần chúng đang phấn đấu, là các đệ tử đang thực hiện hội nhập của thế gian, họ đang thành đạt và họ quá bận rộn và cũng quá chú tâm khi phí nhiều th́ giờ vào kẻ thấp kém đồng cảm hay là vào lỗi lầm và thất bại.

Do đó, nhờ khôn ngoan đặt kẻ cần bạn trợ giúp vào một trong số ba loại nêu trên (để cho trí của bạn có thể chuyển qua một loại cao hơn) bạn sẽ có thể giúp họ một cách sáng suốt hơn.

367

 
Một phạm vi rộng lớn của phức cảm tự ty mà ngày nay đang có ảnh hưởng đến rất nhiều người, rơ rệt nhất là do phản ứng của họ đối với các ảnh hưởng tinh thần đang tuôn đổ vào. Họ biết rằng chính họ quan trọng hơn các thành đạt của họ; họ hiểu được thiên tính của họ một cách vô thức và thầm lặng, nhưng sự hạn chế của môi trường và các trở ngại của phàm ngă, cho đến nay vẫn quá to tát đối với sự đáp ứng đúng cho cơ may và cho thực tại. Hăy xem xét các linh hồn này và giúp đỡ họ bằng sự hiểu biết đúng và bằng sự đánh giá và sự hợp tác, và như vậy xua tan ảo tưởng của việc không hoàn thành đang ám ảnh bước chân của họ.

Nhưng thói thích phô trương và các ảo giác làm suy nhược thần kinh phải được chữa trị trước tiên nhờ cố gắng cá nhân, nhờ phá ngă chấp, chuyển di sự chú tâm và sự vô kỷ. Tuy nhiên, một đôi khi các khuynh hướng suy nhược thần kinh có thể tăng thay v́ giảm, đó là sự căng thẳng mà con người ngày nay đang là nạn nhân của nó. T́nh h́nh thế giới hiện nay bắt buộc con người t́m lối thoát và quay lại với năng lực chữa trị của chính sự tưởng tượng sáng tạo của chính con người. Sự giải thoát xảy đến do chấp nhận kịch tính của toàn thể chứ không phải của một phần và do măi bận bịu với việc sáng tạo trên cơi trần.

Sau này các phương pháp huấn luyện sẽ được dùng đến và đă bước vào giai đoạn sơ bộ nhờ công tŕnh của các nhà tâm lư học trên thế giới.

Về các song hành khoa học

Dường như các nhà nghiên cứu cho là chúng tôi, các huấn sư ở nội giới, có đọc hết mọi sách đă được viết ra, đặc biệt là những sách tiêu biểu cho các chân lư tiến bộ và mới mẻ, và cho rằng chúng tôi cũng liên lạc với cá nhân của những người phân phát kiến thức mới trên thế gian. Không hẳn như vậy đâu. Làm sao tôi có thể giải thích cho bạn t́nh trạng thực sự của các sự việc? Tôi nghĩ, đó chỉ là tượng trưng.

368

 
Khi chúng tôi lục lọi khắp thế giới của trí năng và đưa tư tưởng chúng tôi, từ các điểm của tri thức linh hoạt, đến nơi đó, chúng ta có thể bắt đầu biết được các vùng ánh sáng (theo cách hiểu của chúng tôi) đang tỏa chiếu trên cơi trần. Các vùng đó báo hiệu ánh sáng đang tỏa chiếu của một người phụng sự trong lĩnh vực nào đó, của một đệ tử hay của một thành viên của Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian. Thí dụ, tôi biết rằng các vùng như thế nằm ở (về phần nước Mỹ) Baltimore, Chicago, Cleveland và Rochester. Nhờ một cách chiếu sáng cá biệt, ánh sáng đó báo cho tôi biết rằng có một trung tâm, nơi đó các tri thức mới liên quan đến cơ thể con người được t́m ra. Tôi biết rằng có những vùng ánh sáng khác hiện hữu trên khắp thế gian. Công việc của tôi và công việc của tất cả các huấn sư trong giai đoạn chuyển tiếp này là cổ vũ những người đó, và làm cho trí năo của họ được phong phú bằng nhiều ư tưởng. Mọi lư thuyết mà họ lập ra trong việc t́m ṭi chân lư của họ, mọi sách vở mà họ viết và mọi kết luận mà họ đạt tới, chúng tôi không được biết. Họ phải chịu trách nhiệm của họ và thất bại hoặc thành công trong việc đạt tới chân lư do chính nỗ lực riêng của họ.

Cách đây nhiều năm, H.P.B. có tiên đoán công việc hiện đang được làm, khi bà nói đến sự thừa nhận sau cùng cần được chấp nhận bởi khoa học, đối với một Đấng Thiêng Liêng toàn hiện có ở khắp nơi (bà cũng nói với chúng ta chất dĩ thái của không gian là một thực thể) và rằng cái bí nhiệm của điện, khi được giải đáp, sẽ nắm giữ cho chúng ta cách giải quyết các vấn đề quan trọng nhất của chúng ta. Nhiều lư thuyết của khoa học hiện đại được đưa ra trong bộ "Luận Về Lửa Càn Khôn", dù cho các nhà khoa học đă chưa đi đủ xa để nhận biết sự kiện này; nơi đó bản chất điện của con người được đặt ra. Bạn sẽ thấy quả là lư thú và hữu ích khi t́m ra những hướng đi như thế. Tuy nhiên, khoa học không đưa ra được vị trí nào về mănh lực điện của linh hồn mà ngày càng tăng gia tiềm lực. Một số ít nhà khoa học thuộc số những kẻ tiến bộ nhất đang bắt đầu làm việc này. Bước kế tiếp trước mắt đối với khoa học là việc phát hiện ra linh hồn, một phát hiện sẽ làm thay đổi hoàn toàn, dù không phủ nhận đa số các lư thuyết của họ.

369

 
Từng môn sinh riêng biệt có thể giúp vào việc này nếu họ chọn một vài định đề căn bản của một khoa học gia mà các t́m kiếm của người này đă lôi cuốn được họ, và cố gắng để khám phá trong các sách của tôi, chẳng hạn, hay là trong Giáo Lư Bí Nhiệm các đoạn mà sẽ đưa ra ánh sáng của huyền học dựa vào những ǵ mà y nói, hoặc những ǵ có thể phủ nhận giả thuyết của y. Lúc bấy giờ, họ sẽ phát triển và vận dụng trí phân tích như là một yếu tố nối liền giữa thế giới của khoa học con người và các khoa học huyền linh.

Về các ions [4]  và các bức xạ

Các nhà khoa học có phát biểu rằng không khí chúng ta thở chứa các hạt có mang điện dương hoặc được tích điện âm, và họ có thể tạo ra không khí mang điện do nhân tạo; rằng ngay cả một ngọn lửa để hở trong một ḷ sưởi cũng ion hóa không khí; rằng với bộ máy thích hợp, người ta có thể hoặc là rút ra các ions âm hoặc ion dương, và rằng các bệnh nhân phơi ra với các ions mang điện dương đă nhận thấy các cảm giác mệt mỏi, chóng mặt và nhức đầu, trong khi đó, nếu phơi ra dưới các ions tích điện âm, th́ người ta có cảm giác khoan khoái; rằng các ions dương làm tăng huyết áp và thường tạo ra sự khó chịu, c̣n các ions âm làm hạ huyết áp và mang lại một cảm giác dễ chịu, thơ thới (relaxation).

Vấn đề nảy sinh là không biết bức xạ của người chữa trị có gây ra ion hóa không khí bao quanh người bệnh hay không? Để trả lời cho câu hỏi trên một cách chính xác, tôi xin nêu ra rằng cần phải có hai sự việc: khai mở một trong các bí ẩn mà nhân loại vẫn chưa sẵn sàng đón nhận, và đồng thời đưa ra câu trả lời hoàn toàn không thể giải thích được cho bạn, v́ không có thuật ngữ nào thích hợp cho chân lư tiềm tàng này. Trong chân lư này có thể hiện toàn bộ câu chuyện về lưỡng nguyên, vốn là câu chuyện về sự liên hệ của các trạng thái âm và dương của diễn tŕnh sinh hoạt. Tuy nhiên, tôi có thể nêu ra một vài điều:

370

 
1. Các ions âm và dương mà các nhà khoa học nói đến có bản chất là dĩ thái và do đó thuộc về cơi trần. Các cấu tử vô h́nh này của vật chất chỉ có thể được truy ra nhờ các hiệu quả của chúng và nhờ sự can thiệp đến các hoạt động của chúng, là các cấu tử đang chuyển động một cách nhanh chóng liên quan với nhau và đồng thời chính chúng chịu tác động bởi một yếu tố kiềm chế lớn hơn, giữ cho chúng chuyển động như thế.

2. Liên quan với bệnh tật, người bệnh chỉ có thể được trợ giúp thực sự khi bức xạ dương của nhà chữa trị thắng được t́nh trạng âm của bệnh nhân.

3. Bức xạ của nhà chữa trị phải ngấm vào và khắc phục được sự đề kháng của cơn bệnh của bệnh nhân – không phải bức xạ của bệnh nhân tức là kẻ mà về mặt trí tuệ và t́nh cảm, có thể là âm đối với nhà chữa trị, và do đó ở một vị thế cần được giúp đỡ. Việc chữa trị tiến hành được nhờ bức xạ mạnh hơn của nhà chữa trị. Lúc bấy giờ từ điện của nhà chữa trị đi vào hoạt động, và với ư định rơ rệt, người đó có thể rút ra và phân tán các nguyên tử của vật chất nguyên là trung tâm và cội nguồn của khổ đau của bệnh nhân. Một ám chỉ được đưa ra ở đây về một trong các cách xua tan bệnh ở cơi trần trong tương lai. Sức mạnh để hướng các luồng từ điện phát ra từ một cội nguồn bên ngoài thể xác vẫn chưa được hiểu rơ, nhưng nó sẽ tiêu biểu cho một trong các cách chữa trị mới mẻ.

371

 
Do đó bức xạ chữa trị đương nhiên tác động vào bầu không khí chung quanh người bệnh. Tuy nhiên, cho đến nay bức xạ đó vẫn không đồng đều và không được điều động vào đúng chỗ. Một số người phóng ra từ điện xác thân hay từ điện động vật; một số khác từ thể cảm dục hay thể trí; c̣n một số khác nữa phát ra năng lượng của phàm ngă hội nhập đầy đủ. Một ít người phát ra từ điện của linh hồn, năng lượng thu hút chính dưới mọi h́nh thức. Trong tương lai, nhà chữa trị chân chính phải tác động qua bức xạ của toàn thể phàm ngă hoặc của linh hồn. Tôi nói "hoặc là" một cách thận trọng, v́ cho đến nay có một ít người có thể hoạt động với năng lượng linh hồn, nhưng nhiều người có thể hoạt động với tư cách là các phàm ngă hội nhập nếu họ thích như thế. Và khi một người đă đạt tới quyền năng để phóng phát này, th́ điều ǵ sẽ xảy ra với người bệnh? Làm thế nào mà y được đưa tới một t́nh trạng mà y sẽ đáp ứng một cách chính xác với bức xạ từ điện? Nếu y thuộc loại cảm dục như là hiện đang có rất nhiều, y sẽ có thể đáp ứng với từ điện của một nhà chữa trị tâm thần được chăng? Y có thể được trợ giúp bởi bức xạ của một nhà chữa trị như thế hay không nếu chính y là một người được hợp nhất đầy đủ? Nếu bạn nói với tôi rằng Đức Christ đă chữa trị tất cả mọi loại bệnh, ở đây tôi xin gợi ư rằng tôi không bàn trong bộ sách ngắn ngủi này các định luật chữa trị như chúng được Chân Sư minh triết hoặc điểm đạo đồ vận dụng. Ngược lại, quyển sách của tôi sẽ là một nỗ lực vô ích. Tôi đang viết cho những người chú tâm t́m đạo và cho những ai có thể chữa trị ở một mức độ nào đó dưới mức độ của linh hồn, nhưng cho đến nay không ai biết làm việc đó ra sao. Về sau, mọi điều này sẽ được làm sáng tỏ đầy đủ hơn.                                 

Về sự rung động (On vibration)

Một số môn sinh thỉnh cầu tôi định nghĩa từ ngữ "rung động" là ǵ, và tŕnh bày một cách chính xác một rung động là ǵ. Nếu tôi bảo với bạn rằng rung động là một ảo tưởng (illusion) cũng như một nhận thức bằng giác quan được linh hồn nhận biết, th́ bạn có hiểu được không (bị giới hạn như tất cả mọi người đang bị bằng các phản ứng của một loạt các hiện thể tất cả đều là các khí cụ của tri giác)? Nếu tôi nói với bạn rằng phản ứng rung động là do chúng ta có một cơ cấu đáp ứng với va chạm (impact), th́ tôi đang trả lời cho câu hỏi của bạn một phần nào, nhưng nếu điều này đúng, th́ nó có ư nghĩa ǵ đối với bạn, và lúc nào xảy ra va chạm đó? Nếu tôi trao cho bạn một định nghĩa khoa học (mà bạn có thể t́m thấy trong bất luận một quyển sách giáo khoa đặc sắc nào về ánh sáng, màu sắc hoặc âm thanh), ấy là tôi đang làm công việc mà chính bạn có thể làm, và do đó, tôi không có th́ giờ. Trong các sách của tôi có vài định nghĩa về rung động, hoặc là bởi sự suy diễn, hoặc là được định nghĩa, và bạn có thể t́m ṭi các điều này và suy tư về chúng. Ở đây, nếu tôi giải thích cho bạn liên quan giữa Ngă với Phi Ngă, giữa tri thức (awareness) tức cái được biết với đối tượng nhận thức, th́ tôi đang tạo nên một nền móng mà khi nghiên cứu cẩn thận về kinh Gita, bạn mới hiểu được.

372

 
Hăy để sự mộc mạc làm người dẫn đường của bạn và t́nh thương nhất tâm làm mục tiêu chính của bạn. Hăy chọn một lănh vực phụng sự nào có các giới hạn rơ rệt của nó (v́ mọi đệ tử đều bị hạn chế và không thể bao gồm phạm vi hành tinh trong các ư tưởng của họ) và – về mặt tinh thần và vật chất – hoạt động bên trong các giới hạn này. Việc hoàn tất một bổn phận tự ấn định nào đó bên trong lĩnh vực giới hạn nghiệp quả thuộc về môi trường mà vận mệnh của bạn đă an bài cho bạn, là tất cả những ǵ được đ̣i hỏi nơi bạn. Vào lúc này, bạn thực sự thành đạt được điều ǵ? Hăy để cho việc phụng sự của bạn nằm bên trong lănh vực tiếp xúc, nơi mà bạn tự t́m thấy ḿnh chứ không vươn tới toàn bộ hành tinh. Phải chăng có bất cứ một nhiệm vụ nào to tát hơn hoặc quan trọng hơn để làm tṛn bổn phận của bạn và đưa nó đến hoàn thành khi nào bạn hiện hữu và với những kẻ đồng tâm được lựa chọn của bạn?

Hăy tin nơi tôi khi tôi đoan chắc với bạn rằng tôi không t́m cách trốn tránh trả lời bất cứ câu hỏi nào, nhưng nếu tôi có thể làm cho bạn nhận biết sự cần thiết về "giới hạn tâm linh" (như đă được gọi về mặt huyền bí khi xác định quá tŕnh phát triển của một đệ tử trong ṿng các giới hạn về bổn phận của y) và làm cho bạn chú tâm đến việc cần phải đạt mục tiêu mà bạn đă tự đặt ra cho bạn khi bạn bắt đầu hành động, tôi sẽ giúp bạn nhiều hơn nếu tôi định nghĩa sự rung động hay nêu ra cho bạn một cách chính xác bao nhiêu tiến bộ, nhờ tiến tŕnh ǵ mà bạn hay những kẻ khác đă làm.

Về các trường phái chữa trị sau này

Các trường phái chữa trị này không được phát triển trong tương lai gần, không xảy ra trước khi chấm dứt thế kỷ này.[5]  Chỉ có công tác chuẩn bị hiện đang được tiến hành, c̣n phạm vi hoạt động được sắp xếp – cho các khai mở sau này. Các sự việc không tiến triển nhanh như thế. Phải có một sự tổng hợp đang phát triển về các kỹ thuật của các trường phái như thế, bao gồm:

1.Các hiệu chỉnh và chữa trị về mặt tâm lư.

2.Chữa trị bằng từ điện.

3.

373

 
Các kỹ thuật hay nhất trong các kỹ thuật đối chứng liệu pháp và đồng chứng liệu pháp mà chúng ta không nên phí phạm.

4.Chữa trị bằng phẫu thuật với các h́nh thức hiện đại của khoa đó.

5.Chữa trị bằng điện.

6.Chữa trị bằng nước (water-therapy).

7.Chữa trị bằng màu sắc, âm thanh và bức xạ.

8.Y học pḥng ngừa.

9.Các thực hành chủ yếu của thuật nắn xương và thuật nắn cột sống.

10.Thần kinh học và bệnh học tâm thần.

11.Chữa trị các ám ảnh và các bệnh tâm thần,

12.Săn sóc mắt và tai,

13.Trau dồi tiếng nói, vốn là một phương tiện chữa trị rơ rệt.

14.Chữa trị bằng tâm trí và bằng niềm tin.

15.Sự chỉnh hợp và tiếp xúc của linh hồn.

và nhiều tiến tŕnh và phương cách khác vốn tùy thuộc vào thuật chữa trị. Một vài trong số các trường phái cổ xưa hơn, như là đối chứng liệu pháp, cần đến một tiến tŕnh thải trừ để đi đến sự đóng góp thiết yếu và chân thực mà họ phải mang lại. Những trường phái khác thuộc loại hiện đại và thử thực nghiệm phải được đưa lên khỏi tầm tay của những kẻ cuồng tín, v́ cho đến khi mà sự cuồng tín cùng với sự mù quáng của nó, và việc thiếu sự tổng hợp sáng suốt bị tàn lụi (v́ điều đó tất phải xảy ra khi cung 6 thoái lui và Kỷ Nguyên Song Ngư kết thúc), các trường phái mới không thể tồn tại như chúng đáng lẽ tồn tại; phải có một sự hiểu biết sâu sắc hơn về cái thiện hảo căn bản ẩn dưới mọi trường phái, và một hiểu biết rơ rệt hơn về các nguyên lư đang ẩn dưới thuật chữa trị chân chính, trước khi mà các trường phái, được đề cập đến trong "Thư về Tham Thiền Huyền Linh" có thể xuất lộ. Như trường hợp xảy ra ngày nay, khi một nhà trị liệu hoặc trường phái nào đó, đặt toàn bộ tầm quan trọng vào một số thuốc trị bách bệnh có cầu chứng và xem thường tất cả các hệ thống tiết thực hoặc phương pháp khác, điều đó sẽ không thể xảy ra khi thiết lập các trường phái chân chính.

374

 
Giai đoạn tới, khi mà chúng ta sẽ chuyển qua một chu kỳ mà chúng ta sẽ thu thập kết quả của các thời đại; trong đó, chúng ta sẽ gạn lọc (tôi tạm diễn tả như thế) chất kem ra khỏi chất sữa theo kinh nghiệm của con người; và lúc bấy giờ với những ǵ tuyệt diệu nhất mà quá khứ có thể ban cho chúng ta, chúng ta sẽ mở ra các kế hoạch hoạt động mới mẻ để thúc đẩy nhân loại tiến tới.

Trong các kế hoạch hoạt động mới này, thuật chữa trị sẽ đi trước, v́ nó thiết yếu nhất.

Chúng ta sẽ thấy rằng công việc đang thu hút sự chú tâm của chúng ta sẽ thuộc vào ba loại; các loại này sẽ thể hiện ra theo tŕnh tự chứ không phải cùng một lúc.

1. Việc luyện tập theo các nguyên tắc của thuật chữa trị, v́ chúng ta

a.Đặt nền tảng cho sự mở rộng sau này trong Kỷ Nguyên mới.

b.T́m cách bảo tồn những ǵ tốt đẹp và hữu ích trong việc chuyển tầm quan trọng từ con người bên ngoài đến thể dĩ thái và thể sinh lực tinh anh hơn.

c. Nghiên cứu bộ luận về cách chữa trị mới này để đáp ứng với một phạm vi mà sau này sẽ trở nên hữu dụng thực sự.

2. Sau này, khi một nhóm có thể hoạt động chung với nhau một cách vô tư với tư cách là một đơn vị và với sự tương tác đích thực của t́nh thương, một nhóm như thế lúc bấy giờ có thể bắt đầu thực hiện một việc chữa trị rơ rệt nào đó; thí dụ, lấy một trường hợp về bệnh thể chất thường xảy ra, về sự ám ảnh hay là về khó khăn tinh thần và – thực hành dưới sự điều khiển của linh hồn hoặc một đệ tử được điểm đạo nào đó và phù hợp với giáo huấn được phác thảo trong bộ luận này – t́m cách chữa trị và trợ giúp. Việc nghiên cứu về cách từ trần cũng là để lôi cuốn sự chú tâm của bạn và sau đó, sự chú tâm của thế gian, nói chung.

375

 
3. Sau rốt sẽ tới việc thành lập các nhóm phụ, cần được dạy dỗ và phát triển bởi các thành viên của các nhóm chữa trị tiên phong, dưới sự hướng dẫn của linh hồn, hoặc dưới sự hướng dẫn của một đệ tử được điểm đạo nào đó. Các nhóm phụ thuộc này sẽ hoạt động dưới sự điều khiển của nhóm để chữa trị con người. Tuy nhiên điều này sẽ không xảy ra trong một vài năm nữa, và không xảy ra cho tới khi nhóm điểm đạo (hoặc nhiều nhóm) có thể hoạt động với một mức độ thành công, và các thành viên của nhóm có một hiểu biết sáng suốt về kỹ thuật và các nguyên tắc liên quan tới việc chữa trị. Các phát triển bên ngoài của việc chữa trị trong Kỷ Nguyên Mới sẽ vượt lên trên tất cả.

Không một môn phái hiện có nào ngày nay sẽ được duy tŕ. Tất cả đều biểu hiện cho một chân lư, nguyên lư hoặc ư tưởng hữu ích nào đó. Tôi muốn nêu ra rằng một nhóm tổng hợp vẫn sẽ là một thực thể riêng biệt và tách rời, và không một nhóm nào như thế là mục tiêu của chúng ta cả, . Chính việc tổng hợp sự sống và sự hiểu biết mới là đáng kể chứ không phải sự tổng hợp của con người. Chúng ta hăy hy vọng sau rốt sẽ có hàng trăm và hàng ngàn nhóm trên khắp thế giới, sẽ thể hiện cách chữa trị mới này, họ sẽ được ràng buộc với nhau nhờ sự hiểu biết chung và mục đích chung của họ, nhưng tất cả sẽ thể hiện điều này một cách hiệu quả nhất theo khả năng của họ, trong lănh vực đặc biệt của riêng họ, bằng cách riêng của họ, và theo thuật ngữ đặc biệt của riêng họ. Đó là sự hợp nhất của sự sống bên trong có liên quan tới các huấn sư trên khía cạnh bên trong của đời sống, và việc tạo ra một mạng lưới các nhà chữa trị chân chính trên khắp thế giới.

Hiện nay, một khởi đầu mới mẻ đang h́nh thành. Chúng ta sẽ và chắc chắn thừa hưởng được sự kỳ diệu của các kiến thức đă nhận được từ quá khứ, và việc sử dụng nhiều điều trong kiến thức đó sẽ c̣n tồn tại; tất cả những ǵ cần là loại ra cái không được ưa thích và các diễn dịch do việc hiểu sai các sự kiện đă biết và kiến thức áp dụng sai, cũng như chấm dứt sở thích ích kỷ, khai thác tài chính và tham lam tài chính. Khoa giải phẫu hiện đại, các phương pháp vệ sinh hiện đại và ngành y học hiện đại đều đầy dẫy cái kỳ diệu và hữu ích.

376

 
Thư gửi một nhà khoa học

Bạn thân mến,

Sáng nay tôi có được vài phút thư thả, sau khi đọc cho A.A.B. viết, tôi sẽ cố gắng đưa thêm một ít ánh sáng vào các câu hỏi mà bạn đă nêu. Như bạn sẽ ghi nhận, tôi không nói rằng tôi sẽ trả lời các câu hỏi. Các khám phá của khoa học cho đến nay không đủ để đáp ứng các tiên đoán mà tôi đă đưa ra trong bộ Luận Về 7 Cung. Vào cuối thế kỷ này và khi t́nh h́nh thế giới đă sáng tỏ và giai đoạn xây dựng lại dần dần đến chỗ kết thúc, các khám phá sẽ được thực hiện, chúng sẽ tiết lộ một số sức mạnh về điện từ trước đến giờ chưa được nhận biết. Tôi không biết ngôn từ nào khác nữa để dùng chỉ các tia điện (electrical rays) này, các tia đó sẽ lộ diện và dẫn đến khả năng vượt ngoài ước mơ của các nhà khảo cứu ngày nay. Trong thế kỷ tới, khoa điện học trong tương lai sẽ khác nhiều, cũng như cách dùng điện hiện nay khác với cái hiểu biết của nhà khoa học thời nữ hoàng Victoria (1837 – 1901).

377

 
Về thắc mắc của bạn liên quan đến nhiếp ảnh, chính thuật này liên quan tới các linh hồn quá cố. Tôi xin nhắc bạn rằng việc t́m hiểu về tiến tŕnh này sẽ đến từ một nghiên cứu về cách chụp h́nh các h́nh tư tưởng. Phần đầu được thực hiện liên quan đến điều này do một nhà khoa học vĩ đại Pháp, ông d'Arsonval, ở Paris. A.A.B. có thể kể cho bạn một số điều về chuyện này nếu bạn không biết rơ. Ánh sáng về vấn đề đó sẽ đến qua câu chuyện này, qua việc hoàn thành các âm bản tiếp nhận và độ nhạy của chúng tăng lên nhiều và nhờ việc liên kết điện với cách chụp ảnh. Bạn có thể cho là điều đó hầu như không thể làm được các âm bản (plates) có độ nhạy lớn hơn là các âm bản đang được dùng trong các pḥng thí nghiệm trang bị hiện đại nhất. Nhưng không phải thế đâu. Theo đường lối chụp - h́nh - tư - tưởng này và thiết bị điện, giải pháp sẽ tới. Chính tư tưởng của những người ở phía bên kia và năng lực phóng ra các h́nh tư tưởng của chính họ, cộng với việc cung cấp âm bản nhạy bén thích hợp hay tương đương với chúng, sẽ đánh dấu một kỷ nguyên mới về cái được gọi là "chụp h́nh vong linh"("spirit photography"). Con người thường bận tâm với dụng cụ hữu h́nh ở phía này của bức màn, đến nỗi họ quên đi cái yếu tố của những ǵ phải được đóng góp từ phía bên kia của những người đă qua đời.

Công việc sẽ được thực hiện từ đó, với sự trợ giúp vật chất mà cho đến nay không được cung cấp trong lĩnh vực khoa học bên ngoài.

Để tạo ra điều này, sự cộng tác của một đồng tử hữu ư, không phải là một đồng tử xuất thần, mà là một người nào đó có được nhăn thông và nhĩ thông thực sự) sẽ được cần đến. Có nhiều người như thế đang phát triển trong đám con trẻ ngày nay, và thế hệ sắp tới sau chúng sẽ cung cấp nhiều hơn nữa. Bức màn phân cách sẽ tan biến qua bằng chứng của hàng ngàn người có thể thấy được hiện tượng và nghe được âm thanh đang nằm bên ngoài phạm vi nhận biết được.

Bạn nói rằng các vong linh (spirits) cho rằng họ không thể chịu đựng được luồng điện. Điều đó hàm ư rằng họ không thể hứng chịu được ḍng điện như nó đang được đặt sát vào hiện giờ. Đây là một thí dụ của các phát biểu thiếu chính xác được truyền đi bởi các đồng tử thiếu hiểu biết hoặc bởi những người ở bên kia cửa tử, họ không hiểu biết nhiều về các định luật điện hơn là họ có thể có được khi c̣n ở trong thể xác. Không có ǵ khác ngoài điện lực (electricity) đang biểu lộ, cái "bí nhiệm của điện" được H.P.B. nói đến trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm. Mọi vật trong Thiên Nhiên, đều có bản chất là điện; chính sự sống là điện, nhưng tất cả những cái mà chúng ta đă tiếp xúc và vận dụng ngày nay là những ǵ chỉ là vật chất, nó liên quan với và có sẵn trong chất hồng trần và chất dĩ thái của mọi h́nh hài.

378

 
Cần nên nhớ rằng cái gọi là "các vong linh" đều đang hoạt động trong thể cảm dục ảo, trong khi các "spirits" tiến hóa chỉ hoạt động như thể trí và do đó có thể chỉ tiếp xúc được bằng trí chứ không bằng cách nào khác. Không bao giờ có thể chụp h́nh thể trí, chỉ có thể cảm dục mới nhạy cảm để chụp ảnh. Con người khi c̣n sống càng có dục vọng và ham muốn thô trược chừng nào, th́ càng dễ được chụp ảnh sau khi qua đời (nếu có ai đó muốn thu h́nh y !); c̣n người càng tiến hóa th́ càng khó chụp h́nh hơn.

Về việc sử dụng radio như là phương tiện liên lạc với "thế giới tinh thần", các khí cụ về điện hiện nay có rung động quá chậm chạp (tôi tạm dùng một thuật ngữ kém khoa học như thế) không thể làm được việc này. Nếu các "vong linh" thể cảm dục tiến gần các dụng cụ đó, họ thường có phản ứng gây rối loạn. Tuy nhiên dấu hiệu thứ nhất về sự sống sau khi chết theo cách sao cho nó có thể được ghi nhận trên cơi trần sẽ xuất hiện qua radio, bởi v́ âm thanh luôn luôn đi trước h́nh ảnh. Hăy suy gẫm về điều này. Tuy nhiên, không một loại radio nào hiện có, lại đủ nhạy để mang được sóng âm thanh từ cơi cảm dục.

379

 
Do đó, các khám phá khoa học tương lai sẽ nắm giữ bí mật. Về phần tôi, đây không phải là sự lẩn tránh, mà là một phát biểu đơn thuần về sự thật. Khám phá về điện chỉ mới ở giai đoạn mở đầu, và tất cả những ǵ mà chúng ta có chỉ là mở đầu cho khám phá thực sự. Sự huyền diệu của radio đối với con người ở thế kỷ 18 là hoàn toàn không thể tin được. Các khám phá và phát triển ở phía trước trong thế kỷ 21 cũng sẽ không thể tin được đối với con người ở thế kỷ này. Một khám phá lớn liên quan tới việc sử dụng ánh sáng bằng sức mạnh và phương tiện điều khiển của tư tưởng sẽ xảy đến vào lúc kết thúc thế kỷ này hay là lúc bắt đầu thế kỷ tới. Hai nhóm trẻ con – một đang sống ở Mỹ và một ở Ấn Độ – sẽ tính ra một công thức theo các đường lối khoa học, chúng sẽ lấp đầy một số trong các lỗ hổng hiện nay có trong thang rung động của ánh sáng, xảy ra từ các tia và các làn sóng có tần số cao như hiện nay bạn đă biết. Điều này sẽ cần đến các dụng cụ mà cho đến nay không ai mơ tưởng đến nhưng hoàn toàn có thể có được. Chúng sẽ nhạy bén đến nỗi chúng sẽ được khởi động bằng sức mạnh của mắt người theo hướng tập trung của tư tưởng. Từ đó mối liên giao có thật với thế giới tinh thần mới có thể có được. Tôi không thể làm ǵ nhiều hơn là đưa cho bạn đầu mối.

Tôi cũng bị trở ngại do sự hoàn toàn không hiểu biết của A. A. B. về các vấn đề liên quan đến các thuật ngữ và kiến thức về điện. Không một tư tưởng mầm mống nào trong trí của bà về những ǵ tôi có thể làm hay là từ đó tôi có thể mở rộng ư tưởng. Bà có thể giải thích những ǵ tôi muốn nói nếu bạn yêu cầu bà giải thích. Nhưng cho dù bà có được sự huấn luyện như bạn có, tôi cũng không thể giải thích một cách rơ ràng, v́ trước tiên, phải khám phá, và khám phá này sẽ cách mạng hóa mọi ư tưởng hiện nay, ngay cả trong khi xuất phát các ư tưởng đó. Một bộ luận thông thường về điện chẳng hạn như được các kỹ sư điện nghiên cứu, sẽ hoàn toàn không thể hiểu được ngay cả với người có học thức cao nhất cách đây 200 năm, hoặc ngay cả 100 năm đi nữa, t́nh thế hiện nay cũng giống như vậy. Trong khi ấy, công việc về chụp ảnh tư tưởng cũng như là một hành động mở đầu cho khoa học sắp tới, v́ nhờ việc đó, và việc phát triển từ từ các cách ghi nhạy bén hơn để ghi và thu lại các hiện tượng tinh vi, mà ư tưởng mới và các khả năng mới sẽ đến. Liệu có ư nghĩa ǵ chăng đối với bạn, khi tôi nói rằng điện và chụp ảnh có liên hệ chặt chẽ với nhau, bởi v́ con người có cội nguồn và bản chất là điện? Điều này phải được chứng minh trên cơi trần nhờ sự trợ giúp của các máy móc tinh nhạy cần thiết.

 

Tháng 2 – 1944


 

380

 
PHẦN HAI

 

NHU CU CĂN BN V CHA TR

 

Nay, chúng ta sang mt đoạn mi trong thảo luận v các Cung và Bnh tt. V bn cht, đoạn này có phm vi thc tin nhiu hơn là đoạn có tính cht suy đoán cao siêu (suy đoán cho tt c các bn) mà chúng ta va kết thúc. Nhiu điu mà tôi nói ra đó vi bn, đi vi bn, có bn cht ca chân lư đáng ng (dùng thut ng “đáng ng – questionable” theo nghĩa thc s ca nó; nghĩa là, các câu hi thôi thúc). Đi vi người có trc giác nht trong các bn, đó là mt gi thuyết “có th chính xác” nht. đây, tôi mun đ̣i hi bn ghi nhn cách din đt này v́ nó có v nghch thường. Bn không có cách trc tiếp đ biết nó có th chính xác ti mc nào. Mt s ln bí mt ca s sng và của cách sống s sáng t khi người t́m đo trên thế gii ngày càng bt đu hot đng hu thc trong lĩnh vc nguyên nhân. Không có nghi vấn nào trong Thánh Đoàn, ngoi tr v các đ tài có đ cp ti bn cht không th tiên đoán ca các phn ng con người. Ngay c liên quan ti các hot đng tht thường ca nhân loi, các Chân Sư thường có th đánh giá /đo lường (gauge) nhng ǵ s xy ra, nhưng v mt huyn bí, các Ngài t chi “xem xét v các năng lượng được gii phóng trên cơi sinh hot hng trn, v́ e ngi các sức mạnh trái ngược (counter-energies), xut phát t Trung Tâm nơi mà Các Ngài đt trú sở, có th chi b chân lư v t do ư chí ca con người”. đây tôi dn chng mt trong các Đc Thy, phát biu mt hi ngh được triu tp năm 1725.

381

 
Nhng ǵ tôi nói vi bn trong phần trước, theo tôi, là mt chân lư chc chn và đă được chng minh thc s. Đi vi bn, nó có th là mt gi thuyết thích hợp hoc là mt giải thích đáng ng và không th chp nhn đối với các nguyên nhân ca bnh tt n bên dưới.

Đng sau nhân loi có mt quá kh rt c xưa tri dài, trong đó cái gi là ti li và lm lạc, hành vi sai trái và các thái đ không đúng đă chng cht mt karma rt nng n, mà (may thay cho nhân loi!) đang nhanh chóng được loi b vào lúc này. S quan tâm rt nhiu vào bnh tt đang l ra ngày nay, vic tp trung ca mi ngun y hc và gii phu v́ các lc lượng chiến đu – (các tài nguyên cn được huy đng sau này trong vic tr giúp các cư dân văn minh ca các x b tàn phá trong c hai bán cu) – vic nghiên cu rng răi được xúc tiến trong các bnh vin và các trung tâm nghiên cu, và các khám phá nhanh chóng ca khoa hc, cng vi mt khuynh hướng vng vàng hướng v mt đơn gin hóa rt cn thiết, chng bao lâu na s mang li các thay đi quan trng trong vic tiếp cn bnh tt. Các điu này s dn đến vic xóa đi nhiu bnh bị kế tha đáng s.

Ngun hng cm và ḍng lưu nhp ca kiến thc huyn môn, xuyên qua các đ t và đim đo đ trên thế gii, s mang li nhiu thay đi trong k thut. S thiên khi sp ti ca các đnh lut v sc khe mi m tuy rt đơn gin, và vic pha trn tt s xy đến đối với y hc chính thng, tâm lư hc và các phương pháp cha tr tâm linh, s to ra mt tiếp cn hoàn toàn mi cho toàn b vn đ; vic s dng la ngày càng nhiu như mt phương tin thanh lc (c trong mi liên h vi đt ca hành tinh, ln vi cơ th con người) s to ra nhiu vn đ. V vic này, k thut gây ra st như là phương tin cha tr mt vài h́nh thc bnh và phương pháp (thường được to hóa dùng đến) bắt các khu đt rng chịu nh hưởng ca la, s được trin khai thành môn hc mi và hu ích nht. Tuy nhiên, vic này s đến sau. Tôi ch nêu ra các khuynh hướng mơ h trong chiu hướng đó.

382

 
Trong mi lĩnh vc ca tri thc, con người đng đim tt đnh; điu này được đem li do vic khai m nhanh chóng tâm thc con người, vic đó m đu cho phát trin hiu biết ln lao và mt tm nh́n xa vào các nguyên nhân chi phi vn chu trách nhim cho nhiu điu mà ngày nay gây phin toái cho th xác con người.

Hc vn mi và kiến thc sp đến s xut hin theo kết qu ca trc giác khai m, ca s hin din trên cơi trn ca rt nhiu linh hn đă tiến hóa và phát trin, và vic Thánh Đoàn và nhân loi tiến vào mt liên h mt thiết hơn. Vic pha trn (t t xy ra) của năng lượng thuộc hai trung tâm hành tinh này s mang li các thay đi và khai m quan trng, và điu này không ch trong các quan năng nhn thc ca con người, mà cũng c̣n trong các cơ cu vt cht na. S có mt tr lc ln hơn nhiu đi vi các bnh bm sinh và kế tha, và mt năng lc thc s đ kháng vi các cm nhim, điu này s loi ra nhiu đau kh. Viêc h gim tng s Karma nhân loi qua kinh nghim ca chiến tranh hành tinh (1914–1945) s giúp cho các linh hn đang t́m cách luân hi, to ra các th không nhim các khuynh hướng đưa đến các phát trin bnh hon. Các Đc Thy hoàn toàn thoát khi bnh tt v́ Các Ngài đă hoàn toàn vượt qua Karma ca ba cơi thp và được gii thoát.

383

 
Năng lc – đă phát trin trong năm mươi năm qua – đ đương đu vi bnh lao hành tinh s, khi m rng vào các vùng dân cư đông đúc ca phương Đông và đến các khu vc đang chu đau kh t trước đến gi do s quan tâm không thích đáng v thuc men, loi tr bnh lao hoàn toàn. Bnh giang mai đang được đưa vào kim soát nhanh chóng qua vic dùng các thuc mi được khám phá, mc du các thuc này được các Đc Thy xem như ch có tác dng ci thin và có kết qu hi ht trong thi gian và không gian. Các bnh này s t t và b hy dit toàn b khi nhân loi chuyn di tâm thc lên cơi trí và ra khi lĩnh vc t́nh cm và tính dc vi phn ng phn x t nhiên trên th xác t đng đáp ng. Loi bnh ln th ba ca hành tinh, tc ung thư, cho đến nay, v cơ bn chưa được kim soát, và hin nay cách duy nht có th cha tr tương đi đơn gin là gii phu. Cách nga xy ra ung thư và bn cht nguyên nhân ca nó vn c̣n chưa hiu rơ, toàn b lĩnh vc phn ln là suy lun và vn ph thuc vào vic t́m ṭi có gii hn. Nhiu m vt, nhim trùng và mt tm mc rng các bnh th cht liên h sau rt có th được truy nguyên đến mt trong s ba bnh căn bn này. Đến lượt, chúng được liên kết vói vic chc chn dùng sai năng lượng ca ba cung chính. Có th nói rng:

1. Các bnh hoa liu là do vic lm dng năng lượng cung ba, cung ca năng lượng sáng to, thông tu ca chính vt cht.

2. Bnh lao là kết qu ca vic lm dng năng lượng cung hai.

3. Ung thư là mt phn ng huyn bí và tinh tế đi vi năng lượng ca cung mt, ư-mun-linh-hot (will – to – live), vn là mt trong các trng thái ca cung này. Do đó, nó th hin trong tính cht quá năng đng (over activity) và s tăng trưởng ca các tế bào xác thân mà ư-chí-mun-sng ca chúng tr nên có tính hy dit đi vi cơ quan mà trong đó chúng n náu.

đây tôi ch nêu ra cho bn mt n ngôn và nó không có tm hu ích rng ln vào lúc này. Mt s ln nghiên cu huyn môn vn c̣n din ra bi gii y khoa theo các đường li này, nhưng điu này s ch có th xy ra khi Môn hc v Các Cung được hiu rơ hơn và khi bng chng bênh vc s hin hu ca năm năng lượng căn bn trong mi con người (năng lượng ca năm cung đang chi phi con người) có th được xác đnh. Mt ngày nào đó, con người s hc cách xác đnh loi cung ca h mt cách d dàng và các cung chi phi phàm ngă tam phân ca h.

384

 
Theo mi đường li hiu biết m rng ca con người, cơ may cho nhng ǵ mi m thâm nhp vào và chi phi, đang tr nên ngày càng rơ rt. Cánh ca phiêu lưu (bng kh năng nhn thc cao nht ca nó) rng m, và tuy vy, không có ǵ đă tng thành công trong vic chn đng nhân loi không vượt qua được cánh ca đó. Qua bao k nguyên, con người đă vượt qua cng ca nó và đă tiến vào các lĩnh vc mi và phong phú hơn ca t́m kiếm, ca khám phá và ca áp dng thc tin theo sau.

Ngày nay, cánh ca đang m s đón nhn con người vào thế gii ư nghĩa – mt thế gii vn là pḥng ngoài đi vi thế gii nguyên nhân. Hu qu (Effect); Ư nghĩa (Meaning); Nguyên Nhân (Cause). Trong ba t này bn có bí quyết cho vic phát trin tâm thc con người. Đa s con người ngày nay đang sng trong thế gii hu qu, và không có mt ư tưởng nào rng h là các hu qu. Mt s ít hin gi đang bt đu sng trong thế gii ư nghĩa, trong khi các đ t và nhng người đang hot đng trong thế gii ca Thánh Đoàn đang biết hoc đang tr nên dn dn biết, các nguyên nhân vn to ra các hu qu mà ư nghĩa tiết l. Chính v́ lư do này mà gi đây chúng ta có th bt đu xem xét các nhu cu căn bn mà con người phi đáp ng, trước khi y có th tiến ti theo con đường giác ng tương lai. Vic giác ng này s tt nhiên hu như xóa sch mi s hăi cái chết, và s bàn đến vn đ mà t lâu đă đưa nhân loi vào các h sâu ca tht vng và s st. Tôi cũng nhc đến các thái đ cn có mà nhng k đang mưu t́m vic cha tr, vic khc phc bnh tt và vic cha lành các bnh xác thân, phi nhn ra, đng thi h phi đương đu vi chúng, chính yếu là theo các đường li trí tu. Các nhu cu này s gi ra s lưu tâm trí tu ca c người ph trách cha tr, ln bnh nhân. H cũng có liên quan vi con người nói chung.

385

 
Người ta thường hay phng đoán rng điu kin tiên quyết quan trng nht đi vi thut cha tr là đc tin. Nhưng không phi thế. Đc tin có ít liên quan vi thut cha tr. Cha tr tùy thuc vào mt vài yếu t ti quan trng và cơ bn mà đc tin không can d vào chút nào. C gng ca bnh nhân đ đt ti đc tin thường là mt thit hi ln cho vic không b nh hưởng bi các khó khăn vn nm gia y và vic cha tr đy đ. Bi thế khi Đc Christ thường nhn mnh vào đc tin (hay đúng hơn vào tính cht vn được din dch dưới h́nh thc đc tin trong các Thánh Thư Tây Phương), tht ra, Ngài ám ch vic tha nhn đnh lut, đến mt nhn thc trước hết v Karma, và đến mt hiu biết v vn mnh thiêng liêng. Nếu hiu rơ, điu này s đưa đến mt thái đ mi đi vi Thượng Đế va đi vi hoàn cnh. Các điu tiên quyết mà tôi mun nhn mnh, có th được k như sau:

1. Nhn thc v Đi Lut Nhân Qu, nếu có th. Điu này không phi luôn luôn xy ra khi bàn đến toàn b người chưa giác ng.

2. Chn đoán chính xác v bnh tt bi mt thy thuc thành tho, và sau đó bi mt người có nhăn thông tinh thn (spiritual clairvoyant) khi năng lc đó được phát trin bi nhà cha tr là đ t đim đo.

3. Tin tưởng vào lut Karma nhăn tin. Vi ư đó, tôi mun nói đến năng lc v phía bnh nhân, hoc ca nhà cha tr biết được đâu là s mnh ca bnh nhân cn được cha tr, nói khác đi, cn được giúp đ to ra mt chuyn tiếp ln.

4. Sn sàng nhn ra rng vic cha tr có th gp tn hi và v căn bn không thích hp theo quan đim ca linh hn. Con người đôi khi được cha tr bng sc mnh ca người cha tr, khi đó không phi vn mnh ca h đ tiếp tc cách sng linh hot cơi trn.

5. S hp tác linh hot ca người cha tr và bnh nhân – mt hp tác được da vào cm thông ln nhau.

6. S chp nhn được đnh đot v phía bnh nhân, đ chp nhn bt c cái ǵ có th là Ư chí được th hin ca linh hn. Điu đó có th được gi là mt biu l ca s đim nhiên thiêng liêng (divine indifference).

386

 
7. Mt n lc v phía nhà tr liu ln bnh nhân đ th hin tính vô tn hi hoàn toàn. Giá tr ca vic này s báo đáp cho tư tưởng cn mn. V cơ bn điu này có liên quan đến mi liên h ca hai bên đi vi người cng tác ca h.

8. Mt n lc v phía bnh nhân (tr phi quá đau yếu) đ hiu chnh và đt đúng ch các trng thái này ca thiên nhiên, và các tính cht này vn có th đi kháng vi tri giác tinh thn đúng đn. Đây là mt trong các ư nghĩa n giu trong câu, tc là “công tác phc hi”, mc du không phi là ư nghĩa quan trng nht.

9. Vic loi b có cân nhc các tính cht, các đường li tư tưởng và các ham mun vn có th ngăn chn ḍng chy vào ca mănh lc thiêng liêng – mt mănh lc có th giúp linh hn hi nhp mt cách cht ch hơn vi th xác trong ba cơi thp và khai m mt biu l s sng mi m, hoc là có th hi nhp linh hn vi ci ngun xut phát ca nó và khi xướng s sng mi trên các phân cnh linh hn. Do đó điu này có nh hưởng đến liên h ca bnh nhân vi linh hn ca y.

10. Năng lc ca nhà tr liu ln bnh nhân hi nhp vào nhóm linh hn mà h liên kết bên trong, đ hi nhp trong các trường hp khác c phàm ngă ln linh hn, và, nếu h mc phát trin cn có, th́ c hai hi nhp cht ch hơn vào nhóm thuc Huyn Môn Vin ca Đc Thy.

387

 
Mười điều cn yếu này có th dường như đơn gin, nhưng chng đơn gin chút nào. V bên ngoài, chúng có th dường như liên quan ti tính cht, đc tính và năng lc; v căn bn, chúng dính líu ti mi liên h gia linh hn vi xác thân, và liên quan ti s hi nhp hoc s tru xut (tách ra). Mc tiêu bên dưới chúng trong bt c trường hp nào là lp nên mt liên giao gia nhà tr liu hoc nhóm tr liu vi bnh nhân, tc là k đang nhn s quan tâm khoa hc ca tác nhân tr liu – tp th hoc cá nhân.

Mt trong các s vic đu tiên mà bt c người tr liu nào s phi làm, s là vch ra mt đường nét đơn gin v hun th vn s chi phi thái đ ca người cn được cha tr. Các hun th này cn phi đơn gin, v́ nơi thc s có bnh đi vi bnh nhân th́ không th to ra n lc vt cht đơn gin nht đ tiến hành bt lun cách thay đi nào. Điu này thường b quên.

Có mt hoc hai điu mà tôi mun nói rơ và đến lượt bn cũng phi nói rơ vi bnh nhân.

1. Cha tr không phi là đm bo. Bnh nhân phi hiu rng vic kéo dài s sng trong xác thân không phi là mc tiêu cao nht nên làm. Có th là như thế nếu vic phng s được làm cho có ư nghĩa thc s, nếu các bn phn vn được tiến hành, và nếu các bài hc khác vn phi được hc. Tuy nhiên, cuc sng ca xác thân không phi là cái chí thin (summum bonum) ca cuc sng. Thoát khi các gii hn ca xác thân mi thc s là mi phúc li. Bnh nhân phi hc cách nhn biết và chp nhn Lut Karma.

2. Không cn lo s. Mt trong các mc tiêu đu tiên ca người cha tr s là giúp bnh nhân đt được mt vin cnh hnh phúc, lành mnh, hy vng cho tương lai ca ḿnh – bt lun đu ǵ mà tương lai đó có th mang li.

388

 
Điu cũng s hin nhiên là trước mt bn có n cơ hi mang li mt thái đ mi cho toàn b vn đ bnh tt, cha tr, và dy cho con người có mt ư thc v s tương xng tt đp hơn, và an tâm hơn liên quan ti bnh tt và sc khe.

Điu cũng s rơ ràng đi vi bn là thut ng “phc hi” (“restitution”) liên quan đến k xo cao siêu đ hi phc cho bnh nhân nào cn phi đi mt vi s sng – s sng trong xác thân và trên cơi trn, hay là s liên tc ca s sng trên các phân cnh khác, không nh́n thy đi vi k thường nhân và được xem như khó hiu và không th xác đnh được. Vic phc hi cũng có th liên quan đến vic chn chnh các sai lm ca bnh nhân trước khi nhn nhng ǵ mà y s xem như cách ng x thành công, nhưng nó liên quan trước tiên đến hiu qu ca nhóm cha tr, khi ln đu tiên nhóm đó lp được s tiếp xúc vi người cn cha tr. Đng quên điu này. Đôi khi, khi Karma ca bnh nhân cho thy điu đó, ư-chí-mun-sng phi được phc hi cho y. Trong các trường hp khác, vic loi b ni s (s sng hoc s chết) phi được dn d, đem li cho nó vic phc hi can đm; vic phc hi mt thái đ qu quyết trong mi trường hp có th là tính cht cn thiết, mang theo vi nó vic phc hi tính cht sn sàng đón nhn, vi s hiu biết và hân hoan bt c cái ǵ mà tương lai có th mang li. Nó cũng có th dính líu đến vic phc hi các liên h hài ḥa vi môi trường ca bnh nhân, vi gia đ́nh và bn bè, kết qu tt nhiên ca các hiu chnh chính xác mi m, mt s xut hin ca tinh thn bác ái và s ph nhn ca nhng ǵ có th là tư duy sai lm đă ăn sâu.

389

 
Do đó, điu hin nhiên đi vi bn là qui tŕnh noi theo th tc cha tr ch là mt giai đon ca công vic phi làm, và rng liên h gia nhà cha tr vi bnh nhân, v cơ bn là mt liên h v giáo dc. Đó phi là mt loi giáo dc được tôi luyn bng t́nh trng vt cht ca người bnh. Khi làm vic theo các đường li này, bn s thy là s cn thiết khi có được các phân tích t m v công vic cn làm đi vi các phc hi mà người bnh phi được chun b đ thi hành, đ làm d dàng ḍng chy vào ca lc cha tr. Y phi được dn d đ “lau sch tm bng” (tôi tm dùng mt câu có tính tượng trưng như thế) nếu vic cha tr được thành công theo Lut Karma.

Giai đon ca vic chun b này tht không d. Vi người bnh là k có th bnh nng, điu đó không th thc hin được. Tt c các nhà ph trách cha tr đu nhn ra rng khi làm vic vi nhng người có tư tưởng thiên v tinh thn và nhng người mà các kiếp sng ca h có mt thi gian dài da vào n lc đúng đn và thc hành đúng “tr li cho Caesar nhng ǵ ca Caesar và tr li cho Chúa nhng ǵ thuc v Chúa”, lúc đó vic cha tr s được gia tc rt nhiu, hay là, mt khác, lúc đó công vic san phng con đường thông qua cánh ca t vong s được làm cho đơn gin rt nhiu. Sau rt, cái chết t nó là mt công vic phc hi. Nó liên quan đến vic hoàn tr li cht liu cho ba cơi vt cht, và làm vic đó mt cách t nguyn và hân hoan; nó cũng liên quan đến vic phc hi/tái lp (restoration) ca nhân hn vào linh hn t đó nó xut phát, và làm điu này trong ni hân hoan ca vic tái thu hút/tái hóa nhp. Tt c các bn phi hc cách xem s chết như mt tác đng phc hi; khi bn có th làm được điu này, th́ nó s khoác ly ánh sáng mi và ư nghĩa thc s, đng thi tr nên mt phn toàn vn – được nhn ra và mong mun ca mt tiến tŕnh sinh hot liên tc.

390

 
Nếu tôi được hi nói ra nhim v chính ca mi nhóm cha tr là ǵ, ging như Thánh Đoàn t́m cách đ thy hot đng trong tương lai, tôi s nói đó là đ chun b con người cho nhng ǵ mà chúng ta s xem như khía cnh ca s chết và như vy đem li cho nhng ǵ được khiếp s là k thù ca nhân loi, mt ư nghĩa mi và hnh phúc hơn. Bn s thy rng nếu bn làm vic theo các đường li tư tưởng được ch dn này, th́ toàn b ch đ s chết s thường xuyên tr li, và rng kết qu ca vic này s là các thái đ mi đi vi s chết và s khc sâu mt hy vng hnh phúc nơi mà biến c không th tránh khi và quen thuc nht đó xy ra. Các nhóm cha tr phi chun b đi phó vi t́nh trng căn bn này ca mi k đang sng, và mt phn ln công vic ca h s là làm sáng t nguyên tc t vong. Chúng ta được dy, linh hn phi tr v vi Đng sinh ra nó. Cho ti nay, nhng ǵ đă là mt hoàn tr bt buc và gây khiếp s, là điu vn to ra s hăi và đưa con người khp nơi đến s đ̣i hi cha tr cho th xác, quá nhn mnh vào s quan trng ca nó và khiến cho h xem vic kéo dài kiếp sng trn gian như là nhân t quan trng nht trong các kiếp sng ca h. Trong chu kỳ ti đây, các thái đ sai lm này phi kết thúc. Cái chết s tr thành mt din biến b́nh thường và được coi là điu đương nhiên – b́nh thường như tiến tŕnh sinh ra, mc du gi ra ít đau đn và s hăi. B́nh lun này ca tôi có bn cht ca mt tiên tri và nên được xem xét vi tính cách như thế.

Do đó tôi mun yêu cu bn vic đu tiên là bt c nhóm cha tr nào t́m cách làm vic theo các đường li mi cũng phi (như mt n lc tiên khi) t́m cách hiu mt điu ǵ đó v yếu t t vong, vn được gán cho tên gi “tiến tŕnh phc hi vĩ đi” hay là “s hi phc ln”. Nó liên quan đến k năng đưa xác thân tr li ci ngun ca các yếu t cu to ca nó và hoàn tr linh hn v ci ngun ca bn th thiết yếu ca nó mt cách sáng sut, chính xác và đúng lúc. Tôi đang din đt điu này vi s thn trng v́ tôi mun bn cân nhc tht thn trng và mt cách hp lư cái gi là bí him ca s chết. Đó là mt bí him đi vi con người, nhưng không phi bí him đi vi các đ t và các bc thc gi minh triết.

391

 
Các nhóm cha tr và các nhà tr liu cá nhân có lúc s thy điu đó cn thiết đ giáp mt vi bnh nhân ca h vi s tht về chết chóc. Mt trong các công vic ca các đ t trong Huyn Vin ca tôi và trong Huyn Vin ca Đc Thy K.H. là xen ch đ t vong trong cuc đàm thoi vi các nhà t́m ṭi chân lư khác, vào các suy tư ca h và vào các bàn bc ca h vi nhau, đc bit là vi nhng người t́m cách cha tr. S không d dàng và đng nên làm theo cách vi vă, mà đó là mt vn đ vn không th và đng nên né tránh. Nhóm cha tr tiến hành t mt Huyn Vin, không đt tm quan trng vào vic cha tr xác thân, mà vào vic điều chỉnh thời gian (timing) và da vào các chu kỳ ca công vic, hoc ca cách sinh hot cơi trn, và các chu kỳ phc hi hoặc là chết chóc cơi trn.

Toàn b tiết mc này mà hin chúng ta đang đt hết tâm trí vào đó, được gi là Các Đ̣i Hi Căn Bn, thc ra có liên quan đến các din tiến t trn, đến các t́nh trng ca thế gii vt cht hay là ba cơi thp ca công cuc luân hi. Vic hoàn tr (restitution) th xác vào kho cha chung ca vt cht, hoc là vào vic phng s trong thế gii bên ngoài ca cách sng hng ngày cơi trn, vic phc hi (restoration) linh hn vào ci ngun ca nó, linh hn trên cơi riêng ca nó, hay là – đo ngược – đi vi trách nhim đy đ trong th xác, được bàn đến trong đim đu tiên này. Vic loi b (elimination) nguyên khí s sng và trng thái tâm thc được bàn đến trong đim th hai, và ch đ không phi là ch đ v kiến to cá tính, như mt s người có th ước đoán. Tôi đ cp đến đc tính và các tính cht cá nhân trong các nhn xét m đu ca tôi trong tiết đon này, bi v́ mi hiu biết đích thc v các nguyên tc căn bn ca chết và sng đu được làm cho d dàng bng hành đng đúng, da vào tư duy đúng, vn dn ti kết qu là kiến to tính t́nh đúng. Tuy nhiên, tôi không t́m cách m rng v các đ̣i hi cơ bn này. Như tôi t́m cách xem xét đây, các tiến tŕnh hi nhp liên quan đến s hi nhp ca linh hn vào th xác có ba phn, nếu Karma đnh đot như thế, hoc là vào gii linh hn, nếu Karma phán quyết rng nhng ǵ mà chúng ta gi là s chết nm đng trước con người.

Do đó, trong tiết mc th hai này, chúng ta xem xét vn đ s chết hoc là thut t trn. Đây là mt điu mà tt c nhng người m nng tt phi đi din, c̣n nhng người đang mnh khe nên t chun b qua vic suy tư chính xác, và d liu trước hp lư. Thái đ bi quan ca đa s con người trước vn đ t vong và vic h t chi xem xét nó khi c̣n khe mnh, là mt điu phi được sa đi và thay đi mt cách có cân nhc. Đng Christ tả cho các đ t ca

392

 
Ngài thấy thái đ đúng khi Ngài đ cp đến s tái lâm ca Ngài và cái chết trc tiếp do tay các k thù ca Ngài; Ngài qu trách h khi h t ra đau kh, nhc h rng Ngài sp đến vi Cha ca Ngài. V́ là mt đim đo đ cao cp, nói v mt huyn bí, Ngài ám ch rng Ngài đang “tr v vi Chân Thn”. Người thông thường và người dưới cp đim đo th ba th́ “tr v vi linh hn”. Ni s hăi và tính cht không lành mnh mà vn đ t vong thường gi ra, và vic bt đc dĩ đi din vi nó vi s hiu biết do vic con người chú trng vào xác thân và phương tin mà chính h đng nht hóa vi nó; điu đó cũng căn c vào ni s c hu v s cô đc và mt s quen thuc. Tuy nhiên, s cô đc xy đến sau cái chết, khi con người thy chính ḿnh không có xác thân, là không đáng ǵ so vi s cô đc lúc ra đi. Vào lúc sinh ra, linh hn thy chính ḿnh trong môi trường mi và đm ḿnh trong mt th mà lúc đu hoàn toàn bt lc đ săn sóc cho chính ḿnh, hoc là đ lp s giao tiếp sáng sut vi các điu kin chung quanh trong mt thi gian dài. Con người bước vào luân hi mà không nh li v tung tích hoc là ư nghĩa đi vi y, v nhóm các linh hn trong các th xác mà y thy chính ḿnh có mi liên h. S cô đc này ch biến mt t t khi y to các tiếp xúc vi phàm ngă ca riêng y, khám phá ra nhng người thích hp vi y, và sau rt tp hp li chung quanh y nhng người mà y gi là bn bè ca y. Sau khi chết điu này không phi như thế, v́ con người t́m thy bên phía bên kia ca bc màn nhng người mà y biết và h đă liên kết vi y trong kiếp sng cơi trn, và y không bao gi cô đc mt ḿnh theo như con người hiu t ng cô đc. Y cũng biết được nhng người vn c̣n trong các th hng trn. Y có th thy được h, y có th điu hp (tune in) vi các xúc cm ca h, và cũng điu hp vi tư duy ca h, v́ b óc xác thân không c̣n hin hu, không c̣n tác đng như mt vt cn tr na. Ước ǵ con người biết được nhiu hơn, vic sinh ra s là kinh nghim mà h thường s hăi, và không có cái chết, v́ vic sinh ra khiến cho linh hn trong ngc tù đích thc, c̣n cái chết ca th xác ch là bước đu tiến đến s gii thoát.

393

 
Mt ni s khác khiến cho nhân loi xem cái chết như mt tai ha là ni s mà giáo điu thn hc đă khc sâu, đc bit là người theo thuyết chính thng ca Tin Lành và Giáo Hi Thiên Chúa La Mă – đó là s đa ngc, vic bt chu các h́nh pht, thường là không tương xng vi các li lm trong kiếp sng và các kinh hoàng do mt Thượng Đế hay ni gin bt phi chu. Trước các s hăi này, con người được dy rng y s phi tuân phc, và không có cách nào thoát khi chúng, tr vic qua vic chuc ti thay (vicarious atonement). Như bn biết rơ, không có mt Thượng Đế hay ni gin, không có đa ngc và không có vic chuc ti thay. Ch có mt nguyên lư bác ái vĩ đi làm linh hot toàn th vũ tr; có Sự Hiện Diện (Presence) ca Đng Christ ch cho nhân loi v thc trng ca linh hn, và chúng ta được cu giúp bng ngun sng ca linh hn đó, c̣n đa ngc duy nht là chính cơi trn, nơi mà chúng ta hc cách đ tiến hành/th hin s cu ri riêng ca chúng ta, được thúc đy bng nguyên lư bác ái và ánh sáng, và ngoài ra, được dn khi/kích hoạt bng gương sáng ca Đng Christ và s thôi thúc bên trong ca chính linh hn chúng ta. Giáo lư liên quan ti đa ngc này là tàn dư ca ch ngot tai hi vn được đưa ra do cách tư duy ca Giáo Hi Thiên Chúa trong thi Trung C và do giáo hun sai lm trong kinh Cu Ước liên quan đến Jehovah, V Thn b tc ca dân Do Thái. Jehovah không phi là Thượng Đế, Hành Tinh Thượng Đế, Tâm Bác Ái Hng Hu mà Đc Christ nói đến. Khi các ư tưởng sai lm này tiêu tan, th́ ư nim v đa ngc s b xóa khi kư c con người và v trí ca nó s được thay thế bng vic hiu thiên lut, hiu biết này giúp cho mi người th hin vic cu ri riêng ca ḿnh trên cơi trn, nó đưa con người sa cha các sai lm mà y có th phm phi trong các kiếp sng ca ḿnh trên cơi trn, và sau rt giúp y “ty sch tm bng ca chính y”.

394

 
đây tôi không t́m cách áp đt lên bn mt tranh căi v thn hc nào c. Tôi ch nêu ra rng ni s chết hin nay phi được thay bng mt hiu biết sáng sut v thc ti và bng s thay thế cho mt ư nim v s liên tc, nó s vô hiu hóa s xáo trn, và nhn mnh ư tưởng v mt s sng duy nht và mt Thc Th hu thc duy nht trong nhiu th đang tri qua kinh nghim.

Có th nói rng, đ tóm tt phát biu chung ca tôi rng ni khiếp s cái chết được da vào vic yêu thích sc tướng – h́nh hài ca riêng chúng ta, h́nh hài ca nhng người mà chúng ta yêu thích và h́nh hài ca cnh vt và môi trường quen thuc ca chúng ta. Tuy nhiên loi yêu thương này đi ngược vi mi giáo hun ca chúng ta liên quan đến các thc ti tâm linh. Hy vng ca tương lai và hy vng ca s gii thoát ca chúng ta ra khi cái s vô căn c này, nm trong vic di chuyn chú tâm ca chúng ta sang s kin v linh hn vĩnh cu và sang s cn thiết cho linh hn đó sinh hot v mt tinh thn, mt cách xây dng và mt cách thiêng liêng bên trong các hin th vt cht. Ư nim này li nhp chung vào ư tưởng v s phc hi. Do đó các ư nim sai lm b lăng quên; ư tưởng v s loi tr cũng đi vào đ cho vic tp trung đúng mc được đt đến. S hi nhp cn được xem xét sao cho vic hp thu vào s sng ca linh hn s chiếm ch ca vic hp thu vào s sng ca th xác. Phin năo, cô đc, bt hnh, suy tàn, mt mát – mi điu này là các ư tưởng cần phi biến đi khi phn ng chung đi vi s tht v cái chết cũng tan biến. Khi con người hc cách sng mt cách hiu biết với tư cách linh hn, khi con người cũng hc cách t tp trung trên các phân cnh linh hn, và bt đu xem h́nh hài hoc các h́nh hài như ch là nhng cách biu l (s sng – ND), th́ mi ư nghĩ phin mun xưa v cái chết s t t tan biến, mt tiếp cn mi và lc quan hơn đến kinh nghim to tát đó s chiếm ch ca chúng.

Bn cn đ ư đến các t ng khác nhau mà tôi đă chn khi xem xét các đ̣i hi căn bn đă được chn dành cho các ư nghĩa đc bit đc thù ca chúng:

395

 
1. Công đon Phc Hi (Work of Restitution) có nghĩa là vic quay tr li ca h́nh hài về kho cha căn bn ca vt cht; hoc đi vi linh hn, th́ năng lượng tinh thn thiêng liêng, tr v ci ngun ca nó – hoc là trên các phân cnh linh hn hay Chân Thn, tùy mc tiến hóa. Vic phc hi này ch yếu là công vic ca nhân hn (human soul) bên trong th xác và liên quan c bí huyt tim ln bí huyt đu.

2. Thut Loi B (Art of Elimination). Vic này liên quan đến hai hot đng ca con người tâm linh bên trong; nghĩa là vic loi b mi kim chế ca phàm ngă tam phân và tiến tŕnh tái tp trung chính ḿnh trên các phân cnh (levels) c th ca cơi trí như mt đim sáng ta chiếu. Điu này trước tiên liên quan vi nhân hn.

3. Tiến tŕnh Hi nhp (Integration). Các tiến tŕnh này liên quan ti công vic ca con người tâm linh đă gii thoát khi người này ḥa hp vi linh hn (đi hn, oversoul) trên các phân cnh cao ca cơi trí. Tiu phn (part) quay v vi tng th, lúc đó con người mi hiu được ư nghĩa đích thc các li ca Đc Krishna:”Dù ta khp toàn b vũ tr này bng mt mu ca chính ta, ta vn c̣n li”. Vn là mt mu nh đang tri qua kinh nghim hu thc, con người cũng đă ta khp vũ tr bé nh ca sc tướng trong ba cơi thp, vn c̣n li. Con người biết chính ḿnh là mt phn ca tng th.

C ba tiến tŕnh này đu là T Vong.

396

 
Điu s là hin nhiên đi vi bn là khi nhân loi đt đến cách nh́n này đi vi s kin t vong hay là thut t trn, th́ toàn b thái đ ca nhân loi s tri qua s thay đi có li. Theo thi gian qua, điu này s đi song song bng mt t l gia con người trên các mc đ vin cm. Con người s ngày càng phát trin trí tu và nhân loi s ngày càng tp trung vào các phân cnh trí tu. Tương giao vin cm này s tr nên mt hin tượng chung và thông dng, mà giáng ma hc (spiri -tualism) hin đi là bo đm ca nó, mc dù s lch lc (và là lch lc rt nng) ch yếu da vào nim tin do mơ ước ca nhân loi, vi rt ít vin cm đích thc nm trong đó. Ngày nay, vin cm xy ra gia đng t (trong hoc ngoài lúc xut thn) vi thân nhân hoc bè bn t trn, ch không xy ra gia người đă qua kinh nghim gii thoát ca s chết vi người c̣n trong h́nh hài. Điu này cn ghi nh. Trong thi gian chuyn tiếp, lúc mà th trí không có được vin cm b́nh thường, có th có (dù rt ít khi) vic chen vào ca trng thái đng t da vào nhăn thông và nhĩ thông, mà không da vào xut thn. Điu này s cn có tiếp xúc xuyên qua mt bên th ba, và s hoàn toàn cơi cm dc; v́ vy tiếp xúc đó s đy huyn cm và sai lm. Tuy nhiên đó s là mt bước tiến ti t các thành tu ca giai đon đng t hin ti, vn ch không biết đến người đă chết và mang li cho người truy t́m nhng ǵ mà đng t (medium) đc được trong hào quang ca y – kh năng nh li ca y v dáng v cá nhân, các hi tưởng có ư nghĩa được d tr trong tâm thc ca người truy t́m và nim tin do mơ ước v li khuyên được đ̣i hi, v́ người truy t́m tin rng khi con người đă chết y phi tr nên khôn ngoan hơn trước kia. Khi đng t đôi lúc thành công trong vic thiết lp giao tiếp thc s, chính v́ người truy t́m và người chết đu thuc mu người thiên v trí, do đó có mt tương giao vin cm thc s gia h mà đng t ngăn chn.

 Nhân loi đang tiến ti, đang phát trin và đang tr nên ngày càng thiên v trí. Liên h gia người chết vi người sng phi và s trên các phân cnh trí tu trước khi có tiến tŕnh hi nhp; s gián đon thc s s đến khi nhân hn được tái hóa nhp (reabsorbed) vào đi hn (oversoul), trước khi luân hi tr li. Tuy nhiên, s tht v s giao tiếp cho đến lúc đó s hoàn toàn hy dit ni s chết. Trong trường hp các đ t đang th giáo trong Huyn Môn Vin ca Đc Thy, ngay c tiến tŕnh hi nhp này cũng không to được cn tr nào. Trong các trang ti, tôi s đưa ra mt s giáo hun v nhng ǵ được gi là thut t trn và như thế bàn rng nhng ǵ tôi đă nói trong Lun V Huyn Linh Thut.

397

 
Thái độ hiện nay đối với cái chết

Tôi có trách nhim nêu ra vi bn các tiến tŕnh t trn và xem xét đy đ hơn đôi chút yếu t t vong – kinh nghim quen thuc nht (ch cần b óc xác thân vẫn có th nh li và hiu kinh nghim đó) trong đi sng ca thc th luân hi hay linh hn. Tôi xin đưa ra mt vài luận gii v thái đ ca con người đi vi kinh nghim “phc hi”. Đây là mt t huyn môn đc bit, được dùng phn ln bi các đ t đim đo khi nói v cái chết. Thái đ ni bt gắn liền vi cái chết là thái đ s hăi. Hin nay, ni s hăi này được da trên s không chc chn của trí óc về s tht của sự bt t. Ngoi tr s kin được chng minh ca mt h́nh thc nào đó ca sự sống c̣n, được thiết lp bi các nhóm sưu kho tâm linh, s bt t hay cuc sng thường tn ca nhng ǵ mà chúng ta thường hàm ư khi nói đến “Cái Tôi”, cho đến nay vn nm trong lĩnh vc nim tin do mơ ước hay ca đc tin. Đc tin này có th được thiết lp da vào các tiền đ Thiên Chúa giáo, v s xác tín tôn giáo căn c trên cách lư lun vn đ và da vào s tiếp cn khoa hc hơn, nó bin minh rng nhu cu v kinh tế đ̣i hi rng nhng ǵ mà t lâu đang tiến hóa, và nhng ǵ là kết qu cao nhất ca din tŕnh tiến hóa không th b mt đi. Tht lư thú mà ghi nhn rng không có bng chng nào trên hành tinh chúng ta v bt c sn phm tiến hóa cao siêu nào hơn là sn phm ca gii nhân loi; thm chí đi vi người suy tư duy vt, tính cht đc nht ca con người được t́m thy trong các giai đon tâm thc khác nhau ca y, và trong kh năng ca con người đ đưa ra cho vic t́m kiếm mi giai đon ca tâm thc, t giai đon ca người dă man tht hc, qua mi giai đon trung gian ca hiu qu v trí tu, đến tận nhng người suy tư tiến hóa nht và các siêu tài, có kh năng sáng to, khám phá khoa hc và có linh giác (spiritual perception).

Khi din t điu đó thật đơn gin th́ câu hi mà đ tài s chết gi lên là: Đâu là cái “Ngă”, tc s hu ch đang chiếm th xác, khi th đó b t b và tan ră? Xét cho cùng, có mt s hu ch đang chiếm ng hay không?

398

 
Lch s nhân loi ghi nhn s t́m ṭi không ngng là đm bo v vn đ này. S t́m ṭi này dn đến kết qu ngày nay nhiu hi đoàn bn tâm đến vic c gng chng minh tính cht bt t, và c xâm nhp vào các thành lũy này ca tinh thn mà b ngoài làm nơi n náu cho “Cái Tôi” đó, là din viên trên cơi trn và t trước đến gi đă làm ri trí người t́m ṭi nhit thành nht. Thúc đy ca ni s nm đàng sau s t́m kiếm tuyt vng này; đó là mt s tht bt hnh mà đa s con người (không k đến mt vài nhà khoa hc giác ng và các nhà sưu kho sáng sut tương t) đang lao vào các k thut đáng ng thông thường ca pḥng cu đng, thuc loi cm dc, d b thuyết phc và cũng ch sn sàng chp nhn như bng chng cái mà nhà t́m kiếm sáng sut hơn mun t b tc th́.

đây tôi xin đưa ra lp trường ca tôi rơ ràng đi vi phong trào giáng ma rng ln, vn đă làm rt nhiu trong quá kh đ chng minh s tht v s sng c̣n, và nó cũng đă, trong vài giai đon ca nó, làm rt nhiu điu đ đánh lc hướng và la gt nhân loi. Dưới tên gọi chung này, tôi cũng phân biệt các nhóm sưu kho tâm linh khác nhau và không kể mi công vic khoa hc chân thc. Không ai trong các nhóm này, cho đến nay, đă chng minh được trường hp ca h. Cái bí mt và cái di dt ca bui cu đng của thường nhân và công vic ca các đng t, tuy thế cũng đă chng minh s hin hu ca mt yếu t không gii thích được; các pḥng thí nghim ca các nhà t́m ṭi khoa hc hu như không chng minh được điu đó. Đi vi mi trường hp xut hin có th chp nhn được mt cách rơ rt ca mt người thoát xác, có hàng ngàn trường hp có th được gii thích da vào các lĩnh vc c tin, tương giao vin cm (vi kẻ mất người thân, mà không phi vi bt c người qua đi nào), vic thy các h́nh tư tưởng ca người có nhăn thông và vic nghe được tiếng nói ca người có nhĩ thông và cũng do s la bp. Đ ư rng tôi nói đến “s xut hin có th chp nhn được” ca mt vong linh tr li. Có đ bng chng đ bin minh cho s tin tưởng vào s tn ti (survival) và đ chng t bn cht thc s ca nó. Da vào các nn tng ca hin tượng tiếp xúc không gii thích được vi người chết theo gi thuyết đă được ghi nhn, t́m ṭi và chng minh, và da vào tính cht ca nhiu người đă là nhân chng cho s thc v các hin tượng này, chúng ta có th xác nhn rng mt cái ǵ đó tiếp tc sng sau khi có “s hoàn tr” (“restitution”) xác thân vt cht vào kho cha vt cht vĩnh cu. Chính da trên tin đ này mà chúng ta bàn tiếp.

399

 
Ngày nay hin tượng t vong đang tr nên ngày càng quen thuc. Trn thế chiến đă đưa hàng triu người, c nam ln n, – thường dân và nhng người trong các ngành khác nhau ca quân lc thuc mi quc gia – vào trong thế gii không quen biết đó, thế gii này nhn tt c nhng người vt b xác thân. Vào lúc đó, bt chp các t́nh trạng s chết xưa đă ăn sâu, có s xut hin trong tâm thc ca nhân loi cái nhn thc rng có nhiu điu t hi hơn là cái chết; con người phi đi đến ch nhn ra rng s đói ăn, khuyết tt, luôn luôn bt lc v th cht, bt lc v tinh thn do hu qu ca chiến tranh và căng thng ca chiến tranh, vic quan sát v đau đn và thng kh vn không th được làm khuây kha, tht ra c̣n t hơn là cái chết. Cũng vy nhiu người biết và tin tưởng (v́ đó là cái vinh quang ca tinh thn con người) rng vic t b các giá tr mà con người đă tranh đu và nm xung v́ chúng qua các thi đi, và vn được cho là thiết yếu cho s sng ca tinh thn t do ca con người, có ư nghĩa to tát hơn là din tŕnh s chết. Thái đ này, tc đc đim ca nhng người bén nhy và suy tư đúng vào lúc này, hin nay đang xut hin mc đ rng ln. Điu này hàm ư là s tha nhn, bên cnh ca ni s t xưa, ca mt hy vng không th chế ng v các t́nh hung tt đp hơn phi được t́m thy nơi khác, và điu này không nht thiết là suy tư do mơ ước, mà là mt ch dn v tri thc ch quan tim n, t t xut hin ra mt ngoài. Mt điu ǵ đó theo đúng đường như là kết qu ca thng kh và suy tư ca con người; điu này ngày nay đă được nhn ra; s kin này s được chng minh sau này. Trái ngược vi s tin tưởng bên trong và nhn thc ch quan này là các thói quen suy tưởng xưa cũ, thái đ phát trin theo vt cht ca ngày nay, ni s b la gt, và s đi kháng ca c nhà khoa hc, ln người theo tôn giáo hay m đo. Hng trước thng thng t chi tin vào nhng ǵ vn c̣n chưa được chng minh và dường như cũng không d b tác đng v́ bng chng, trong khi các nhóm tôn giáo và các t chc không có tin tưởng nào vào bt c cách tŕnh bày chân lư nào mà h không din gii bng các thut ng riêng ca h. Điu này đt ra mt tm quan trng không đúng vào đc tin và như thế làm mt tác dng mi t́m kiếm nhit thành. Vic t́m ra s thật về tính bt t s đến t con người; kế đó sau rt điu đó s được chp nhn bi các giáo phái và được khoa hc minh chng, nhưng điu này chỉ sau khi hu qu ca chiến tranh trôi qua, và cuc xáo trn trên hành tinh đă lng du.

400

 
Không cn nói, vn đ t vong được đt nn móng trên vic yêu s sng, vn là bn năng sâu xa nht trong bn cht con người. Vic qu quyết rng không có ǵ mt đi theo thiên lut là mt nhn thc khoa hc; s kiên tŕ vĩnh cu dưới h́nh thc này hoc h́nh thc khác được xem là mt chân lư đi đng. Trong đám hn tp ca các lư thuyết, có ba gii pháp được đưa ra; các gii pháp này đu được tt c nhng người có suy tư biết rơ. Đó là:

1. Gii pháp hoàn toàn vt cht, nó mc nhiên công nhn kinh nghim và biu l ca s sng hu thc, bao lâu mà h́nh hài vt cht hu h́nh hin hu và tn ti, nhưng nó cũng ch trương rng sau khi chết, và tiếp theo là s tan ră ca th xác không c̣n con người có ư thc, có hot đng, t nhn biết nào na. Ư thc v “Cái Tôi”, tc là s hiu biết ca mt phàm ngă tương phn vi mi phàm ngă khác, tan biến cùng vi s biến mt ca h́nh hài; phàm ngă được tin tưởng ch là toàn b ca tâm thc ca các tế bào trong xác thân. Lư thuyết này h thp con người xung cùng trng thái như bt c các h́nh thức nào khác trong ba gii khác trong thiên nhiên; nó được da vào tính cht không bén nhy ca nhân loi bc trung đi vi s sng, được rút ra t mt hin th hu h́nh; nó không biết đến mi bng chng đi vi s trái ngược, và cho rng v́ chúng ta không th thy (v b ngoài) và chng minh (mt cách c th) tính bn vng ca “Cái Tôi” hay là thc th bt t sau cái chết, như vy nó không tn ti. Thuyết này không được hu thun bi rt nhiu người như nó đă được hu thun trong nhiu năm trước, đc bit trong k nguyên duy vt ca n hoàng Victoria.

401

 
2. Lư thuyết v s bt t có điu kin. Thuyết này vn c̣n được tuân theo bi mt s người theo thuyết chính thng (fundamentalist) và các trường phái tư tưởng thn hc hp ḥi và cũng được tin theo bi mt thiu s người trí thc, ch yếu là nhng người có khuynh hướng ích k. Thuyết đó cho là ch có nhng người đt đến giai đon đc bit ca hiu biết tâm linh, hoc người chp nhn mt nhóm đc thù các tuyên ngôn thn hc, mi có th nhn được món quà bt t ca con người. Người trí thc cao đôi khi cũng tranh căi rng món quà tt đnh đi vói nhân loi là mt th trí phát trin và được vun trng, và rng nhng ai s hu được món quà này cũng được phú cho s kiên tŕ măi măi. Mt trường phái bác b nhng ai mà h xem là nhng người chng đi v tâm linh hoc là tiêu cc đi vi s áp đt các xác tín thn hc đc bit ca h, hoc là đi vi s hy dit hoàn toàn ging như trong gii pháp vt cht, hoc là đưa đến mt tiến tŕnh trng pht đi đi, như vy đng thi bin h cho mt h́nh thc bt t. Do s nhân ái có sn trong tâm nhân loi, rt ít người có tính cht thù hn hoc thiếu suy xét đ đ xem cách tŕnh bày này như có th tha nhn được, và dĩ nhiên trong s nhng người này, chúng ta phi sp người kém suy tư, tc là người thoát khi trách nhim tinh thn đi vào mt tin tưởng mù quáng trong các tuyên ngôn thn hc. Cách lư gii ca Thiên Chúa giáo, như đă được đưa ra bi các trường phái và người theo thuyết chính thng, t ra không đng vng khi được đ tŕnh trước lp lun rơ ràng; trong s các lun c vn ph nhn tính chính xác ca nó, có n s kin rng Thiên Chúa giáo tha nhn mt tương lai lâu dài, nhưng không có quá kh; đó cũng là mt tương lai hoàn toàn tùy thuc vào các hot đng ca giai đon sng hin ti này và không h tính đến các đim tách phân và các d bit giúp phân bit nhân loi. Ch có th bin h được da trên lư thuyết v mt Thượng Đế nhân h́nh mà ư chí ca Ngài – khi nó th hin ra trong thc tế – đem li mt hin ti mà không có mt quá kh nào ch có tương lai thôi; s bt công ca điu này được nhn biết khp nơi, nhưng ư chí không th hiu được ca Thượng Đế đng nên đt nghi vn. Hàng triu người vn c̣n gi tin tưởng này, nhưng nó không c̣n được duy tŕ mnh m như cách đây mt trăm năm.

402

 
3. Thuyết luân hi, rt quen thuc vi mi đc gi ca tôi, đang tr nên ngày càng ph cp Tây phương; thuyết này luôn luôn được chp nhn (mc du có nhiu thêm tht và din dch l bch) Đông phương. Giáo lư này đă b làm lch lc nhiu, cũng như các giáo hun ca Đc Christ, hoc Đc Pht, hoc Đc Shri Krishna bi nhng nhà thn hc thin cn và tâm trí có gii hn. Các s kin căn bn có ngun gc tâm linh, đi vi vic giáng xung vào vt cht, đi vi vic thăng lên qua phương tin các ln luân hi liên tc trong h́nh hài cho đến khi các h́nh hài này tr thành các biu l hoàn ho ca tâm thc tâm linh ni ti, và ca mt lot các ln khai m vào lúc kết thúc chu kỳ luân hi, đang được sn sàng chp nhn hơn và được công nhn nhiu hơn là trước đây.

403

 
Đó là các gii pháp chính cho các vn đ về sự bt t và v s tiếp tc tn ti ca linh hn con người. Các gii pháp đó nhm vào vic gii đáp nghi vn muôn đi ca tâm con người như là T Đâu, Ti Sao, Ti Đâu và Nơi Nào? Ch có gii pháp cui cùng trong các gii pháp được đ ra này mi đưa ra mt đáp án hu lư thc s cho mi vấn đề. Vic chp nhn gii pháp đó đă b tŕ hoăn, v́ k t thi bà H.P.Blavatsky, người đưa ra chân lư c xưa này cho thế gii hin đi trong phn tư cui cùng ca thế k mười chín, nó đă được tŕnh bày mt cách thiếu khôn ngoan; nó đă b làm cho bt li do s kin rng các chng tc Đông Phương đă luôn luôn nm gi nó, và – theo quan đim Tây Phương – h là người ngoi đo, và người ngoi đo “trong s mù quáng ca h, h cúi đu trước g và đá”, dn chng mt trong các thánh ca ca người theo chính thng thuyết ca bn. Tht là kỳ l biết bao khi hiu được rng đi vi con người t các x Đông Phương, người m đo Phương Tây cũng làm thế, và có th được thy trên các đu gi ca h trước bàn th Cơ Đc giáo mang tượng ca Đng Christ, ca Trinh N Mary và ca các tông đ.

Các nhà huyn linh hc ca thế gii, qua các Hi Theosophy và cái gi là các đoàn th huyn bí khác, đă làm hi rt nhiu cách tŕnh bày chân lư liên quan đến luân hi qua các chi tiết không cn thiết, không quan trng, thiếu chính xác và thun là suy lun mà h đưa ra dưới h́nh thc các chân lư liên quan đến các din tiến ca s chết và các t́nh hung ca con người sau khi chết. Các chi tiết này phn ln tùy thuc vào nhăn thông ca các nhà tâm thông li lc trong hi Theosophy. Tuy nhiên, trong các Kinh Thánh ca thế gii, các chi tiết này không được nêu ra, và H.P.B. trong b Giáo Lư Bí Nhim không nói đến ǵ c. Mt trường hp ca vic c gng không chính xác và thiếu sáng sut, đó là đưa ra ánh sáng v thuyết luân hi có th thy được trong các gii hn v thi gian được đt ra trên các nhân hn đă quá c gia các ln luân hi trên cơi trn vi vic tr li tái sinh trên cơi trn – rt nhiu năm vng mt được đưa ra, tùy thuc vào s tui ca linh hn quá c và v trí ca linh hn đó trên thang tiến hóa. Chúng ta được dy rng nếu linh hn rt tiến hóa, th́ s vng mt cơi trn li được kéo dài và ngược li. Nhng linh hn tiến hóa và nhng người có năng lc trí tu phát trin nhanh th́ tr li vi mc đ nhanh hơn nhiu, do s đáp ng bén nhy ca h vi sc lôi cun ca các nghĩa v, các li ích và các trách nhim đă được to ra trên cơi trn. Con người thường d quên rng thi gian là chui ca các biến c và ca

404

 
các trng thái tâm thc theo s ghi nhn ca b óc xác tht. Nơi nào không có b óc hng trn, th́ nhng ǵ mà nhân loi hiu theo ư nghĩa thi gian s không c̣n na. Vic ly đi các chướng ngi ca h́nh hài, tng giai đon mt, s đưa ti nhn thc ngày càng tăng v Hin Ti Vĩnh Hng. Trong trường hp nhng người đă vượt qua cánh ca t vong và h vn c̣n tiếp tc suy tưởng bng các thut ng v thi gian, đó là do huyn cm và do s dai bn ca h́nh tư tưởng mnh m. H́nh tư tưởng đó là du hiu ca vic an tr vào cơi cm dc; đây là cơi mà các nhà trước tác Minh Triết Thiêng Liêng hàng đu và các nhà tâm thông đă làm việc và h cũng đt nn tng các tác phm ca h trên cơi đó. H hoàn toàn chân tht trong nhng ǵ mà h nói, nhưng li quên nhn ra bn cht hăo huyn ca mi phát hin da vào nhăn thông cm dc. Vic nhn ra yếu t thi gian rơ ràng và vic luôn luôn nhn mnh vào yếu t thi gian, là đc đim ca tt c nhng người tiến hóa cao đang lâm phàm và ca nhng người mà h trí c th ca h có năng lc mnh m. Trái li, tr con và các dân tc u trĩ và nhng người tiến hóa cao mà trí tru tượng ca h đang hot đng (qua phương tin din dch ca h trí) thường không có ư thc v thi gian. Đim đo đ dùng yếu t thi gian trong các liên h ca ḿnh và các giao tiếp vi nhng người đang sng trên cơi trn, nhưng b tách bit trong chính ḿnh vi mi nhn thc v điu đó nơi khác trong vũ tr.

405

 
Do đó, vic dùng thut ng “bt t” hàm ư vô thi gian và dy rng tính cht vô thi gian (timelessness) này hin hu đi vi nhng ǵ không th hư hoi hoc b chi phi bi thi gian. Đây là mt phát biu cn xem xét cn thn. Con người luân hi mà không có s thôi thúc nào v thi gian. Con người lâm phàm dưới s đ̣i hi (demands) ca trách nhim nghip qu, dưới s lôi cun ca nhng ǵ mà y, vi tư cách linh hn, đă khi xướng, và v́ nhu cu được cm nhn phi làm tṛn các nghĩa v đă được giao phó; y cũng lâm phàm do mt ư thc trách nhim và đ đáp ng vi các nhu cu mà mt ln phm lut trước đây chi phi các liên quan đúng đn ca con người đă áp đt lên y. Khi các đ̣i hi này, các hoàn cnh bt buc ca linh hn, các kinh nghim và trách nhim đă được đáp ng được hết, con người vĩnh vin đi vào “ánh sáng trong mát ca t́nh thương và s sng” và không c̣n cn (chng nào mà chính y c̣n liên quan đến) giai đon p với kinh nghim ca linh hn trên cơi trn. Y thoát khi các áp đt ca karma trong ba cơi thp, nhưng vn c̣n dưới s thúc đy ca qui lut tt yếu ca karma nó rút ra t y cái lng (ounce) cui cùng có th có ca công vic mà y v thế làm cho các áp đt này vn c̣n dưới Lut Trách Nhim Nghip Qu. Do đó, bn có ba trng thái ca Lut Karma, khi nó tác đng vào nguyên tc tái sinh:

1. Lut Trách Nhim Nghip Qu (Law of Karmic Liability) chi phi s sng trong ba cơi thp ca cơ tiến hóa nhân loi, và nó kết thúc hoàn toàn vào cuc đim đo th tư.

2. Lut Tt Yếu Nghip Qu (Law of Karmic Necessity). Lut này chi phi đi sng ca đ t tiến hóa và đim đo đ t lúc đim đo ln hai, cho đến mt cuc đim đo nào đó cao hơn đim đo th tư; các cuc đim đo này giúp cho y chuyn qua Con Đường Tiến Hóa Cao Siêu.

3. Lut Chuyn Hóa Nghip Qu (Law of Karmic Transformation), mt giai đon bí n chi phi các tiến tŕnh được tri qua trên Con Đường Cao Siêu. Các tiến tŕnh này làm cho đim đo đ thích hp đ giúp vượt qua cơi hng trn vũ tr hoàn toàn và hot đng trên cơi trí vũ tr. Nó liên quan đến vic gii thoát ca các Đng ging như Sanat Kumara và các Đng Ph Tá ca Ngài trong Hi Đng Huyn Linh Shamballa, ra khi s áp đt ca dc vng vũ tr vn biu l trên cơi hng trn vũ tr ca chúng ta dưới h́nh thc ư chí tinh thn. Điu này nên là mt ư tưởng lôi cun đi vi bn. Tuy nhiên, quả là có ít điu mà tôi có th nói v đ tài này. Tri thc có liên quan chưa thuc v tôi.

406

 
Bây gi chuyn sang mt khía cnh khác ca ch đ chúng ta. Nói theo nghĩa rng, có ba giai đon chết chính.

Trước tiên, luôn luôn có s tái din s kin v cái chết ca xác thân. Điu này quen thuc vi tt c mi chúng ta qua s rt thường xuyên ca nó, nhưng chúng ta có th hiu được nó. Nhn thc này s nhanh chóng loi b ni s chết hin ti.

Kế đến có “cái chết th hai” được nói đến trong Thánh Kinh, trong chu kỳ hành tinh này, được kết hp vi cái chết ca mi kim chế cm dc trên con người. Theo nghĩa rng, cái chết th hai này được hoàn tt vào cuc đim đo th tư, khi mà ngay c đo tâm tinh thn cũng chết đi v́ không c̣n cn na. Ư chí ca đim đo đ bây gi tr nên c đnh và vng chc, và s nhy bén ca th cm dc không c̣n cn na.

Có mt đi ng khác thường đi vi kinh nghim này da vào mt mc đ kém hơn nhiu trong cái chết ca mi xúc cm cm dc, vn xy ra cho người t́m đo cá bit vào lúc đim đo th hai. Lúc đó chính là mt giai đon hoàn ho và được ghi nhn thc s. Gia cuc đim đo hai và ba, đ t phi chng t s liên tc ca vic không đáp ng vi cm dc tính (astralism) và đa cm tính (emotionalism). Cái chết th hai mà đây tôi bàn đến, có liên quan đến cái chết hay s biến mt ca th nguyên nhân (causal body) vào lúc đim đo th tư; cái chết này đánh du s hoàn tt ca vic kiến to antahkarana và thiết lp s liên tc trc tiếp, không b ngăn tr ca mi liên h gia Chân Thn vi phàm ngă.

407

 
Cái chết th ba xy ra khi đim đo đ b li đàng sau ngài, cui cùng và không có trin vng quay li, mi liên h vi cơi hng trn vũ tr. Tt nhiên, cái chết này đàng trước xa đi vi tt c trong Thánh Đoàn và hin nay ch có th xy ra và có th chp nhn đi vi vài Đng trong Huyn Linh Ni Đin Shamballa. Tuy nhiên, nó không phi là mt tiến tŕnh mà Đc Sanat Kumara s tri qua. Ngài đă tri qua “biến đi” này (“transformation”) cách đây nhiu vô lượng thi, trong đi tai biến đă m ra K Nguyên Lemuria và được dn ti bi kinh nghim vũ tr ca Ngài và nhu cu cho ḍng lưu nhp ca năng lượng t các Đng Cao C ngoi hành tinh (extra-planetary Beings).

Tôi đă đưa ra các tóm tt ngn này đ m rng tm hiu biết chung ca bn v điu mà các Chân Sư gi là “kéo dài cái chết trong không gian” (“extension of death in space”). Tuy nhiên, trong các trang sau đây, chúng ta s t gii hn vào ch đ cái chết ca xác thân và ca các th tinh anh trong ba cơi thp; chúng ta cũng s bàn đến các tiến tŕnh mang li s tái hóa nhp (reabsorption) ca nhân hn (human soul) vào trong hn tinh thn (spiritual soul, hn thiêng) trên cơi riêng ca nó, tc cơi thượng trí; chúng ta s xem xét s tái đng hóa (reassimilation) ca vt cht và s chiếm dng (appropriation) vt cht đ luân hi tr li.

Do đó, chúng ta s xem xét ba tiến tŕnh chính mà tôi nhc đến trước; các tiến tŕnh này bao gm ba giai đon và sau rt dn đến các tiến tŕnh khác theo Lut Tái Sinh. Đó là:

1. Tiến tŕnh hoàn tr (restitution, phc hồi), chi phi giai đon trit thoái ca linh hn (tc nhân hn – ND) ra khi cơi trn và ra khi hai trng th thuc cơi hin tượng ca linh hn, đó là nhc thân và th dĩ thái. Tiến tŕnh này liên quan vi Thut T Trn.

2. Tiến Tŕnh Loi Tr (Elimination, gt b). Tiến tŕnh chi phi giai đon sinh hot ca nhân hn sau khi chết và lúc trong hai cơi tiến hóa khác ca nhân loi (cơi cm dc và h trí –ND). Nó liên quan đến vic linh hn (nhân hn–ND) loi b th trí-cm (astral-mental body), đ cho linh hn “sn sàng thung dung, không c̣n b ràng buc trong ch riêng ca ḿnh”.

3. Tiến tŕnh Hi Nhp (Integration), liên quan đến giai đon trong đó linh hn thoát xác li bt đu có ư thc chính ḿnh là Thiên Thn Bn Lai Din Mc và được tái hóa nhp vào thế gii Linh hn, như vy tiến vào t́nh trng phn tĩnh (state of reflection). Sau đó, dưới tác đng ca Lut Trách Nhim Nghip Qu hay Tt Yếu, linh hn li t chun b đ giáng nhp vào h́nh hài ln na.

408

 
Lĩnh vc kinh nghim (trong đó là s chết, như người b́nh thường hiu) là ba cơi tiến hóa ca con người – cơi trn, cơi t́nh cm và dc vng, và cơi h trí. Xét cho cùng th́ đây là cơi kép (twofold), theo khía cnh s chết, nên có câu “cái chết th hai”. Trước đây tôi dùng tp ng này đ ch cái chết hay là s hy dit th nguyên nhân, mà t trước đến gi hn tinh thn (hn thiêng) đă hot đng trong đó. Tuy nhiên, nó có th được dùng sát nghĩa hơn và có th ch giai đon hai ca tiến tŕnh chết trong ba cơi thp. Do đó, nó ch liên quan đến h́nh hài và được liên kết vi các hin th biu l vn nm dưới các phân cnh vô sc tướng ca cơi hng trn vũ tr. Các phân cnh sc tướng này (như bn biết rơ v́ tri thc này ch là khái nim m đu ca lư thuyết huyn môn) là các phân cnh mà h trí c th hot đng trên đó, bn cht xúc cm phn ng vi cái gi là cơi cm dc và cơi trn kép. Th xác gm có nhc thân và th dĩ thái. Do đó, khi xem xét cái chết ca mt người, chúng ta phi dùng thut ng “chết” liên quan đến hai giai đon mà nó hot đng trong đó:

Giai đon mt: cái chết ca th dĩ thái hng trn (physical-etheric body). Giai đon này (phare) gm hai tiu kỳ (stages):

a. Tiu kỳ mà trong đó các nguyên t to thành nhc thân được hoàn li ci ngun xut phát ca chúng. Ci ngun này là toàn b cht liu ca hành tinh, to thành nhc thân ca Đc Hành Tinh Thượng Đế (planetary Life).

b. Tiu kỳ mà trong đó th dĩ thái, gm tp hp các lc, hoàn li các lc này cho kho cha năng lượng chung. Hai giai đon này (phase – đáng l là stages (?)–ND) nm trong Tiến Tŕnh Hoàn Tr.

409

 
Giai đon hai: “Loi b” (“rejection”) (như thường được gi) các hin th trí cm (mental-emotional vehicles). Thc ra, các hin th này hp thành mt th duy nht; v th này, các nhà nghiên cu Minh Triết Thiêng Liêng thu ban đu (rt chính xác) gi bng danh xưng “kama-manasic body” tc là hin th ca dc vng - trí tu (vehicle of desire-mind). mt nơi khác tôi có nói rng không có th ǵ như là cơi cm dc hoc th cm dc c. Ging như th xác được làm bng vt cht vn không được xem là mt nguyên khí, cũng thế, th cm dc – chng nào mà bn cht trí tu c̣n liên quan ti – cũng thuc cùng loi. Đây là vn đ khó hiu cho bn, v́ dc vng và t́nh cm rt hin thc và rt quan trng mt cách đáng kinh ngc. Nhưng –nói theo nghĩa đen– theo khía cnh ca cơi trí, th cm dc là mt “hư cu ca trí tưởng tượng”, nó không phi là mt nguyên khí. Tuy nhiên vic đ xô vn dng trí tưởng tượng trong vic giúp sc cho dc vng, đă to nên mt thế gii huyn tưởng, tc thế gii ca cơi cm dc. Trong khi lâm phàm cơi trn, và khi mt người không trên Con Đường Đ T, th́ cơi cm dc rt hin thc, vi mt sc sng và mt s sng hoàn toàn riêng ca nó. Sau ln chết th nht (cái chết ca xác thân) nó vn cũng c̣n thc. Nhưng sc mnh ca nó t t tàn t; con người trí tu bt đu nhn ra trng thái tâm thc thc s ca chính ḿnh (dù đă phát trin hoc chưa phát trin), và cái chết th hai bt đu có th và xy ra. Giai đon này nm trong Tiến Tŕnh Loi B.

410

 
Khi hai giai đon này ca Thut T Trn trôi qua, linh hn thoát xác không c̣n b ràng buc vào s kim chế ca vt cht na; nó được thanh luyn (tm thi bng giai đon Hoàn Tr và Loi B) khi mi nhim trược (contamination) ca vt cht. Điu này được đt đến, không qua bt c hot đng nào ca linh hn trong h́nh hài, tc nhân hn, mà là theo kết qu ca hot đng ca linh hn trên cơi riêng (tc hn tinh thn–ND) tách ra mt phn ca chính nó, mà chúng ta gi là nhân hn. Trước tiên chính công vic ca hn đang ng linh (overshadowing soul – tc hn tinh thn – ND) thc hin điu này; vic đó không được tiến hành bng linh hn trong phàm ngă (tc nhân hn – ND). Nhân hn trong giai đon này ch đáp ng vi sc thu hút (pull) hay là lc hút ca hn tinh thn (spiritual soul, hn thiêng) khi nó – vi ư đnh có cân nhc – kéo nhân hn ra khi các lp v đang giam gi ca nó. Sau đó, khi din tŕnh tiến hóa tiếp tc và linh hn ngày càng kim chế được phàm ngă, nó s tr thành linh hn bên trong các lp v giam nht vn s gây ra – mt cách hu ư và có đnh tâm – các giai đon ca s chết. Trong các tiu kỳ (stages) trước kia, vic thoát ra này s ch xy ra vi s tr giúp ca hn thiêng đang ng linh. Sau đó, khi con người đang sng trong cơi trn vi cương v linh hn, chính y s – vi s liên tc đy đ ca tâm thc – tiến hành các tiến tŕnh tách (abstraction), và lúc đó s (vi mc tiêu có đnh hướng) ”tiến lên ch mà t đó y xut phát”. Đây là s phn tnh (reflection) trong ba cơi thp ca s thăng lên thiêng liêng ca Đa Con hoàn thin ca Thượng Đế. Mt vài thông tin mà tôi đă đưa ra v vn đ t vong trong các tác phm khác ca tôi, có th hu ích khi thêm vào đây. Tôi có mc đích rơ rt khi đưa ra vic này. Lúc này, cái chết đu đang quanh bn; nhu cu ca tinh thn con người có được ánh sáng v vn đ này đă lên đến đim ngot ca sc mnh; nó đang gi ra s đáp ng thế nào cũng xy ra t phía Thánh Đoàn. Chính hy vng ca tôi là các đo sinh s làm mt điu ǵ đó tht quan trng đ giúp đem li ánh sáng cho các tiến tŕnh s chết mà nhân loi ngày nay đang cn.

V S T VONG

Trích đon t các tác phm khác

411

 
“Ti sao có mănh lc mù quáng này? Ti sao có s chết? Ti sao có s hy dit h́nh hài? Ti sao có s chi b sc mnh cm gi? Ti sao có s chết, hi Đa Con Oai Hùng ca Thượng Đế?”

Câu tr li đến mt cách yếu t: “Tôi nm gi ch́a khóa ca s sng và cái chết. Tôi buc cht và ni lng tr li. Tôi là K Hy Dit”.                             Lun v By Cung, q. I, t. 63.

Ư đnh ca Đng Ch Qun Cung Mt là đng sau các Trng Thái thiêng liêng khác, và khi các Ngài đă đt mc tiêu ca các Ngài, th́ phá v các h́nh hài mà các Ngài đă to ra.

Ngài là k kim soát tn kch s chết trong mi gii – mt s hy dit các h́nh hài vn mang li vic phóng thích mănh lc và cho phép “nhp vào ánh sáng qua cánh cổng tử vong”.

                                     Trang 64

  a. “Gi li bàn tay cho đến khi thi cơ đến. Lúc by gi hăy ban ra món quà ca s chết, hi Người M Cánh Ca”.

                                                  Trang 65

  b. “Tách ri chiếc áo ra khi Nhng Cái đang n sau nhiu nếp gp ca nó. Hăy ly ra các Lp V che đy. Hăy đ cho Chúa được nh́n thy. Hăy đem Đc Christ ra khi Thp Giá”.                                                                                   Trang 69                                                            

Bước đu tiên hướng v vic c th hóa s kin v linh hn là thiết lp s tht v s tn ti, mc du điu này có th không nht thiết chng minh s tht v s bt t… Nhng ǵ vượt qua din tŕnh s chết và nhng ǵ tn ti sau khi xác thân tan ră, dn dn đang được chng minh. Nếu điu đó không din ra như thế, lúc by gi chúng ta tr thành nn nhân ca mt o giác tp th, lúc đó óc năo và trí tu ca hàng ngàn người tr thành không đúng và b la phnh, bnh hon và b lch lc. Mt s điên r tp th ln lao như thế c̣n khó tin hơn là vic la chn mt tâm thc m rng.

Trang 98– 99

412

 
Vic phát trin nhăn thông dĩ thái (etheric vision) và s người có nhĩ thông và nhăn thông tăng lên nhiu, đang dn dn hé l s hin hu ca cơi cm dc và đi phn dĩ thái ca cơi trn. Ngày càng có nhiu người đang tr nên biết được lĩnh vc bên trong này: h thy được người đang đi chung quanh nhng k hoc được gi là “chết”, hoc người đang ng, b li cái v bng xác thân.                                   Trang 98.

  b. Hai trăm năm ti đây s chng kiến s xóa b cái chết, v́ lúc by gi, chúng ta hiu được s chuyn tiếp ln lao đó và s thiết lp s hin hu ca linh hn. Linh hn s được biết như là mt thc th, dưới h́nh thc xung lc thúc đy và trung tâm tinh thn đàng sau mi h́nh hài biu l… Tính bt t ch yếu ca chúng ta s được chng minh và được hiu là mt s thc trong thiên nhiên.                                      Trang 96.

Trong vài năm ti, s tht v kiên tŕ và v s vĩnh cu ca s sng s tiến ra khi lĩnh vc hoài nghi, đi vào lĩnh vc chc chn… S không có mt nghi vn nào trong bt c tâm trí người nào, mà s vt b ca th xác s đ li mt người vn c̣n là mt thc th sinh đng hu thc. Y s được biết là tiếp tc măi măi s sng ca ḿnh trong mt lĩnh vc nm đàng sau xác thân. Y s được biết là hăy c̣n tn ti, tnh táo và hiu biết. Điu này s được mang li bng:

  a. Vic phát trin mt năng lc bên trong con mt xác tht ca con người …s tiết l th dĩ thái… con người s được thy là đang chiếm c th đó.

  b. Vic tăng s người có được năng lc s dng “con mt th ba được khơi hot” s minh gii tính bt t, v́ h s d dàng thy được con người đă vt b th dĩ thái cũng như th xác ca ḿnh.

413

 
  c. Mt khám phá trong lĩnh vc chp h́nh s chng minh s sng c̣n măi (survival).

  d. Qua vic dùng máy thu thanh ca nhng người đă qua đi, sau rt vic liên lc s được thiết lp và được biến đi thành mt khoa hc tht s.

  e. Sau rt, con người s được điu chnh cho đến mt nhn thc và đến mt tiếp xúc s giúp y hiu được thc cht (see through), nó s tiết l bn cht ca chiu đo th tư, và s ḥa ln thế gii bên trong (ch quan) và bên ngoài (khách quan) chung vi nhau thành mt thế gii mi. Cái chết s mt đi ni kinh khng ca nó và cái s đc bit đó s kết thúc.                                                                                   Trang 183

Bn phi luôn luôn nh rng tâm thc vn như nhau dù cho đang luân hi trong xác thân hoc không luân hi, và phát trin đó có th được tiến hành thm chí vi s thoi mái nhiu hơn là khi b gii hn và b chi phi bi tâm thc năo b.                        Đường Đo Trong K Nguyên Mi q. I, tr 81.

Lut Hy Sinh và T Vong là yếu t chi phi trên cơi trn. Vic hy dit h́nh hài đ cho s sng đang phát trin có th tiến ti, là mt trong các phương pháp căn bn trong tiến hóa.    

              Lun V La Càn Khôn, tr. 569

  a. Lut Phân Ră (Law of Disintegration) là mt khía cnh ca Lut T Vong. Đây là đnh lut chi phi s hy dit h́nh hài đ cho s sng ni ti có th ta chiếu đy đ… Lut này làm tan v h́nh hài, c̣n Lut Hút kéo tr li ci ngun đu tiên, cht liu ca các h́nh hài này.                              Trang 580

414

 
  b. Lut T Vong chi phi trong ba cơi thp.             Tr. 596

  c. Lut Hy Sinh là Lut T Vong trong các th tinh anh, trong khi nhng ǵ mà chúng ta gi là s chết li là điu tương đng trong th xác.                                              Trang 596                             

  d. Lut T Vong và Hy Sinh chi phi s phân ră t t ca các h́nh hài c th và s hy sinh ca chúng cho s sng đang phát trin… .                                                          Trang 596                                 

  e. Khi mi đơn v hoc tế bào trong cơ th ca Hành Tinh Thượng Đế đă thành đt, Ngài cũng được gii thoát/ phóng thích (set free) khi biu l trng trược và chết v mt hng trn.                                                                                   Trang 509                                                                 

Tiến tŕnh T Vong như sau theo huyn môn:

a. Giai đon th nht là trit thoái sinh lc (life force) trong th dĩ thái ra khi nhc thân, hu qu là “rơi vào hư hoi” và tr nên “phân tán các yếu t”. Con người c th (objective man) m nht đi và không c̣n được thy bng con mt xác thân na, mc du vn c̣n trong th dĩ thái ca người y. Khi nhăn thông dĩ thái được phát trin, ư tưởng v cái chết s mang ly các t l rt khác nhau. Khi mt người có th được thy đang hot đng trong th dĩ thái hng trn ca ḿnh bi đa s nhân loi, th́ vic buông rơi th trng trược s được xem như vic gii thoát.

b. Giai đon th hai là s trit thoái sinh lc ra khi th dĩ thái và vic mt sinh khí ca nó… .

415

 
c. Giai đon th ba là s trit thoái sinh lc ra khi th cm dc hay th t́nh cm, đ nó tan ră theo cách tương t c̣n s sng được tp trung nơi khác. Nó đă dành được s tăng sinh khí qua cuc sng cơi trn và gia tăng sc thái qua kinh nghim t́nh cm.

d. Giai đon cui đi vi nhân loi là vic trit thoái khi th trí. Sau bn ln trit thoái này, sinh lc được tp trung vào linh hn hoàn toàn… .                                 Trang 735 – 737.

Lut Hút phá v h́nh hài và kéo v các ci ngun ban sơ, vt cht ca các h́nh hài này, trước khi kiến to li chúng ln na. Trên con đường tiến hóa, các hiu qu ca Lut này được biết rơ không nhng trong vic hy dit các th b thi b, mà c̣n trong vic phá v các h́nh hài mà các lư tưởng ln được th nhp trong đó… . Sau rt vn vt gián đon dưới Lut này.

 Các tác đng ca lut này rơ rt hơn đi vi trí tu ca người b́nh thường trong các biu l ca nó vào lúc này trên cơi trn. Chúng ta có th theo du s liên h gia cơi Niết Bàn (cơi tinh thn) vi cơi trn – biu l trên cơi thp dưới h́nh thc Lut Hy Sinh và T Vong– nhưng hu qu ca nó có th cũng được thy trên tt c năm cơi. Đó là đnh lut vn hy dit lp v cui cùng, lp v này tách ra khi linh hn hoàn thin.                                                                                        Tr 581 

Khi “ư chí mun sng” biến mt, lúc đó “Các Con Tt Yếu” (“Sons of Necessity”) ngưng biu l ra ngoi cnh….Khi Ch Th Tư Duy trên cơi riêng ca nó rút s chú ư ca nó ra khi h thng bé nh ca nó trong ba cơi thp và tp hp trong chính nó mi thn lc ca nó, lúc by gi cuc sng cơi trn kết thúc và tt c quay tr li trong ư thc th nguyên nhân.

416

 
…Điu này biu hin trên cơi trn trong s trit thoái ra khi đnh đu ca th dĩ thái ta chiếu và hu qu là s phân hy ca thân xác. Khung sườn không c̣n na và nhc thân tan ra tng mnh.                                                              Trang 85                                                    

a. Thc ra, th dĩ thái là mt mng lưới cha các vn hà mnh mai, vn là các thành phn ca mt si dây mnh mai bn li – mt phn ca dây này là mt xích t đin ni lin th xác vi th cm dc và b găy hay v ra sau khi th dĩ thái trit thoái ra khi nhc thân vào lúc t trn. (Xem Ecc. XII.  6 ) 

 Trang 98.

b. Sau này “các phương pháp rơ rt đ chng minh s tht rng s sng vn tn ti sau cái chết ca nhc thân s được tin theo và mng lưới dĩ thái s được nhn ra như là mt yếu t có thc”.                                                      Trang 429                                                        

S chết là “s khi đu hay vic tiến vào mt t́nh trng gii thoát”.                             Lun V By Cung, q. I, trang 197

  S chết và Th Dĩ Thái

417

 
Không phi mc đích ca chúng ta là đưa ra các S Kin đ thm tra bng khoa hc, hoc ngay c nêu ra cách thc cho giai đon tiến ti kế tiếp dành cho các nhà sưu kho khoa hc; mà chúng ta làm thế ch v́ t́nh c và hoàn toàn ph thuc. Nhng ǵ chúng ta t́m kiếm, ch yếu là đ đưa ra các ch dn v s phát trin và tương ng ca ba tng th vn làm cho thái dương h có được bn cht ca nó – hin th mà mt Thc Th vĩ đi ca vũ tr, Đc Thái Dương Thượng Đế, biu l s thông tu linh hot vi mc đích biu l hoàn toàn khía cnh bác ái ca bn th Ngài. Đng sau phác tho này có n mt mc tiêu v sau c̣n bí n hơn, n tàng trong Ư Chí Tâm Thc (Will Conciousness) ca Đng Ti Cao, mà tt phi s được l ra sau này khi mc tiêu hin ti được đt đến. S luân phiên hai mt ca biu l ngoi cnh và n vào ni cnh, tc ngoi linh khí theo chu kỳ, được theo sau bng ni linh khí (in-breathing) ca tt c nhng ǵ đă được xúc tiến qua tiến hóa, được lng trong h thng mt trong các rung đng cơ bn ca vũ tr, và ch âm ca Thc Th vũ tr đó mà chúng ta là cơ th ca Ngài. Qu tim đang đánh nhp ca Thượng Đế (tôi tm din t mt cách không chính xác như thế) là ci ngun ca mi tiến hóa theo chu kỳ, và do đó tm quan trng gn lin vi trng thái phát trin được gi là “tâm” hay “trng thái bác ái” và cái lư thú chính là được đánh thc bi vic nghiên cu v nhp điu. Điu này đúng, không nhng v mt vũ tr và đi vũ tr, mà cũng c̣n đúng trong vic kho cu v con người. Nm bên dưới mi nhn thc hng trn gn lin vi s nhp nhàng, rung đng, các chu kỳ và nhp tim (heart-beat), có n các tương đng ni ti ca chúng – bác ái, cm giác, cm xúc, dc vng, hài ḥa, tng hp và tŕnh t được an bài– và sau các tương đng này có ci ngun ca vn vt, s đng nht ca Đng Ti Cao, Ngài biu l chính Ngài như thế đó.

Do đó, vic nghiên cu v pralaya, hay là s trit thoái ca s sng ra khi th dĩ thái, s ging nhau, dù cho người ta nghiên cu s trit thoái ca th dĩ thái con người, s trit thoái ca th dĩ thái hành tinh, hoc là s trit thoái ca th dĩ thái ca thái dương h. Hiu ng đu ging nhau và các kết qu đu tương t.

Kết qu ca s trit thoái này là ǵ, hay đúng hơn, điu ǵ gây nên cái mà chúng ta gi là s chết tc là pralaya? Khi chúng ta theo dơi cht ch cách ch dn trong b Lun này, chúng ta s tiếp tc phương pháp phân loi ca chúng ta. S trit thoái th dĩ thái con người, hành tinh và mt thái dương h do các nguyên nhân sau:

418

 
  a. Chm dt ham mun. Vic này s là kết qu ca mi din tŕnh tiến hóa. Theo Thiên Lut, cái chết thc s xy ra do vic đt đến mc tiêu, và v́ vy do vic chm dt khát vng (aspiration). Khi chu kỳ được hoàn tt đưa đến kết thúc ca nó, điu này s din ra đích thc vi con người cá bit, vi Hành Tinh Thượng Đế và vi chính Thượng Đế .

  b. Bng vic ngưng t t và gim đi nhp điu theo chu kỳ, rung đng thích hp được đt đến và công vic được hoàn thành. Khi rung đng hoc âm điu được cm nhn hoàn toàn hoc được ngân lên, nó to ra ( đim tng hp vi các rung đng khác) s v nát hoàn toàn ca h́nh hài.

Như chúng ta biết, chuyn đng được tiêu biu bng ba tính cht: tŕ tr / tĩnh tại (inertia), hot đng (mobility) và nhp nhàng (rhythm).

Ba tính cht này được tri qua mt cách chính xác theo tŕnh t trên và đ̣i hỏi mt giai đon hot đng chm, ni tiếp bng mt hot đng thái quá. Giai đon trung gian này t́nh c to ra (khi t́m kiếm âm điu và tc đ đích thc) các chu kỳ hn đn vi thc nghim, kinh nghim và hiu biết. Theo sau hai mc đ chuyn đng này (vn là đc đim ca nguyên t, Con Người, ca Hành Tinh Thượng Đế hoc tp th và ca Thượng Đế hay là Toàn Th) đến mt giai đon nhp nhàng và n c, trong đó đim quân b́nh được đt ti. Bng sc mnh làm quân b́nh các cp đi hp, và như thế to ra quân b́nh, pralaya là tŕnh t tt phi xy ra.

  c. Bng cách ct đt th xác ra khi th tinh anh trên các ni cnh gii, qua vic tiêu hy mng lưới. Điu này có ba hu qu:

419

 
Th nht. S sng vn đă làm linh hot th xác (c nhc thân ln th dĩ thái) s sng đó có đim khi đu ca nó trong nguyên t thường tn, ri t đó “tràn ngp khp cái đng (the moving) và cái bt đng (the unmoving)” (trong Thượng Đế, Hành Tinh Thượng Đế và con người, cũng như trong nguyên t ca vt cht), được trit thoái hoàn toàn vào trong nguyên t trên cơi tru xut (plane of abstraction). “Cơi tru xut” này là mt cơi đa dng tùy theo các thc th có liên quan:

  a. Đi vi nguyên t thường tn hng trn, đó là phân cnh nguyên t.

  b. Đi vi con người, đó là th nguyên nhân.

  c. Đi vi Hành Tinh Thượng Đế, đó là cơi th nh́ ca s sng Chân Thn, trú cnh (habitat) ca Ngài.

  d. Đi vi Thượng Đế, chính là cơi Adi.

Tt c các cơi này đánh du các đim dành cho s tiêu tán (disappearance) ca cái đơn nht vào trong pralaya. đây, chúng ta cn nh rng luôn luôn chính là pralaya khi xét t bên dưới. T cái nh́n cao siêu, chính nó chng kiến cái tinh anh luôn luôn làm lu m (overshadowing) cái trng trược, khi không c̣n biu l ra bên ngoài, pralaya ch là phn bên trong (subjectivity, phn ni tâm), và không phi cái “vn là không”, mà ch v́ cái đó vn thuc huyn bí (esoteric).

Th hai. Th dĩ thái ca mt con người, mt Hành Tinh Thượng Đế và mt Thái Dương Thượng Đế, b tiêu tán, tr nên không được an tr (non-polarised) đi vi ch th ca nó, và do đó cho phép thoát đi. Nói cách khác, nó không c̣n ci ngun thu hút na, cũng như không c̣n là mt đim có t lc thc s. Nó tr nên không t lc (non-magnetic), và Đnh Lut Hút vĩ đi không c̣n kim chế nó; như thế, s tan ră là t́nh trng theo sau ca h́nh hài. Chân Ngă không c̣n b thu hút bi h́nh hài ca nó trên cơi trn na, và tiếp tc hít vào (inbreath), rút li s sng ca nó ra khi lp v. Chu kỳ đi đến kết thúc, kinh nghim đă được to ra, mc tiêu (mt mc tiêu tương đi t s sng này đến s sng khác, t ln luân hi này đến ln luân hi khác) đă được đt đến, và không c̣n ǵ na đ ước mun; Chân Ngă hay là thc th suy tư, do đó mt hết chú tâm vào sc tướng và chuyn s chú ư vào ni tâm. S an tr (polarisation) thay đi, và cui cùng th xác b b rơi.

420

 
Trong chu kỳ ln hơn ca Ngài (tng hp hay là tp hp ca các chu kỳ nh hơn ca các tế bào trong cơ th Ngài), Hành Tinh Thượng Đế cũng theo đui cùng tiến tŕnh. Ngài không c̣n b thu hút xung dưới hoc ra ngoài na, mà chuyn hết chú tâm ca Ngài vào trong; Ngài gom vào trong toàn b các s sng nh bé hơn trong cơ th Ngài, tc hành tinh, và ct đt s liên h. S thu hút bên ngoài chm dt, vn vt b thu hút v trung tâm thay v́ phân tán ra ngoi vi cơ th Ngài.

Trong thái dương h, Thái Dương Thượng Đế cũng theo đui cùng tiến tŕnh như thế. T chn tru xut cao thâm ca Ngài, Ngài không c̣n b thu hút bi th biu l ca Ngài na. Ngài rút li s chú ư ca Ngài và các pairs of opposites, tc tinh thn và vt cht ca hin th, tách ra (dissociate). Vi s tách ra này, thái dương h, tc “Đa Con Tt Yếu”, hay Con ca ham mun, ngưng hin tn, và vượt ra ngoài cuc sng biu l. [6]

Th ba. Sau rt, s tách ra này dn đến vic phân tán các nguyên t ca th dĩ thái vào t́nh trng ban đu ca chúng. S sng bên trong, tc là tng hp ca ư chí và bác ái đang khoác h́nh thc linh hot, b rút ra. T́nh trng cng tác b tan ră. Kế đó h́nh hài tan v; t lc vn đă gi nó dưới dng kết hp không c̣n hin hu na, s tan biến tr nên hoàn tt. Vt cht vn c̣n, nhưng h́nh hài không tồn tại na.

Công vic ca Thượng Đế Ngôi Hai chm dt, vic lâm phàm thiêng liêng ca Ngôi Con kết thúc. Nhưng năng lc hoc tính cht c hu ca vt cht cũng c̣n, và vào lúc kết thúc ca mi giai đon biu l, vt cht (mc du được phân phi tr li vào h́nh thc ban sơ ca nó) là vt cht sáng sut linh hot cng thêm vi vic tăng thêm tính cht biu hin ra ngoi cnh, tính cht phát x tăng lên và hot đng tim tàng mà nó đt được nh kinh nghim cũng tăng lên. Chúng ta hăy minh ha: Vt cht ca thái dương h, khi chưa biến phân, là vt cht thông tu linh hot, và đó là tt c nhng ǵ có th được xác đnh v nó. Vt cht thông tu linh hot này là vt cht được đnh tính bi mt kinh nghim trước kia, và được tô màu bi mt ln hóa nhp (incarnation) trước kia. Gi đây vt cht này trng thái sắc tướng (in form), thái dương h không trng thái qui nguyên mà ở trạng thái biu l ra ngoi cnh (in objectivity) – trạng thái biu l ngoi cnh này nhm vào vic đưa thêm mt tính cht khác vào kho cha ca Thượng Đế (logoic content, thiên kh), kho bác ái và minh triết. Do đó, vào kỳ qui nguyên thái dương sp ti, lúc kết thúc mt trăm năm ca Brahma, vt cht ca thái dương h s được tô đim bng thông tu linh hot và bằng bác ái tích cc. Theo sát nghĩa, điu này hàm ư rng tp hp vt cht nguyên t ca thái dương hệ, sau rt s rung đng theo mt ch âm khác hơn là nó đă rung đng vào lúc bt đu biu l.

421

 
Chúng ta có th suy din điu này liên quan vi Hành Tinh Thượng Đế và tng con người, v́ s tương đng vn đúng. Chúng ta có s tương ng trên mt mc đ nh nơi s kin là mi giai đon sng ca con người có thể thấy mt người có mt th xác phát trin hơn vi s đáp ng ln hơn, điu hp vi mt ch đim cao hơn, vi s thanh luyn thích hp hơn và rung đng theo mt mc đ khác. Trong ba ư tưởng này có n nhiu kiến thc, nếu chúng được nghiên cu thn trng và trin khai hp lư.

  d. Bng s chuyn hóa màu tím thành màu lam. Điu này không th nói thêm. Chúng tôi ch đưa ra ư tưởng, và đ vic th hin cho các nhà nghiên cu mà karma ca h cho phép và h có đ trc giác.

422

 
  e. Bng vic trit thoái ca s sng, h́nh tướng s t t tan ră. Phn x t nhiên (reflex action) đây gây s chú ư, v́ các Đng Kiến To vĩ đi và các Thiên Thn vn là các v tha hành linh hot trong chu kỳ biu l, các Ngài gi cho h́nh hài dng kết hp, chuyn hóa, áp dng và luân chuyn các phóng phát prana, cũng như làm mt s thu hút ca chúng đi vi vt cht ca h́nh hài và chuyn s chú tâm ca các Ngài qua nơi khác. Trên con đường ca ngoi linh khí (dù là con người, hành tinh hoc Thượng Đế), các devas kiến to này (trên cùng mt Cung như đơn v đang mun biu l, hoc đang trên Cung b túc) đu b thu hút bi ư chí và ước mun ca Ngài và đang hoàn thành nhim v kiến to ca các Ngài. Trên con đường ca ni linh khí (dù là con người, hành tinh hoc Thượng Đế) các Ngài không c̣n b thu hút na, và h́nh hài bt đu tan ră. Các Ngài rút li s chú tâm ca các Ngài, c̣n các Lc (cũng là các thc th) h là các tác nhân hy dit, tiến hành công vic cn thiết ca các Ngài, đó là phá v h́nh hài; các Ngài phát tán nó – như nó được din t v mt huyn bí – theo “bn lung gió ca Bu Tri” hay là cho các vùng theo bn hơi th – mt s tách ri và phân phi t phân. đây có đưa ra mt n ngôn, cn nghiên cu cn thn.

Mc du không có các h́nh nh nào đă được v ra v các cnh vào lúc lâm chung, cũng không có s thoát ra mang kch tính nào ca th dĩ thái đang thoi thóp t trung tâm trong đu, như có th được báo trước, tuy nhiên mt s các qui luật và mc tiêu chi phi s trit thoái này đă được ghi nhn. Chúng ta đă thy làm thế nào mc tiêu ca mi s sng (dù thuc con người, hành tinh hoc Thượng Đế) phi là vic thc hin và xúc tiến mt mc tiêu nht đnh. Mc tiêu này là s phát trin ca mt h́nh hài thích hp hơn cho vic s dng ca tinh thn; và khi mc tiêu này đt được, lúc đó ch th ni tâm chuyn s chú tâm ca ḿnh đi nơi khác, và h́nh hài tan ră, v́ đă phng s cho nhu cu ca ḿnh. Đây không phi là trường hp luôn luôn xy ra vi mi kiếp sng con người, ngay c cũng không trong chu kỳ hành tinh. Bí mt ca nguyt cu là bí mt v s tht bi. Khi được hiu rơ, bí mt này dn đến mt kiếp sng xng đáng và đưa ra mt mc đích xng đáng cho n lc cao nht ca chúng ta. Khi khía cnh s tht này được hiu biết rng răi, như nó s xy ra khi nhân loi có đ sáng sut, lúc by gi s tiến hóa chc chn s tiếp din, và các thất bi s không nhiu.  

                    Lun V La Càn Khôn, trang 128 – 133

423

 
Mi s ct đt các khoen ni đu to ra các phn ng dữ dội. Tuy nhiên ước ǵ bn có th hiu được điu đó, vic ct đt các khoen ni bên ngoài ca cơi trn là ct đt ít t hi nht và tm b nht ca tt c mi biến c như thế. Chính cái chết là mt phn ca đi o tưởng và ch có v́ các bc màn che mà chúng ta đă gom li chung quanh chính chúng ta. Mi người trong chúng ta, vi cương v là nhng người hot đng trong lĩnh vc o cm (lĩnh vc mi m mà nhân loi phi hc cách hot đng mt cách hu thc trong đó) đă được biu dương và tin tưởng. Cái chết đến vi mi người, nhưng đi vi các đ t s không có mt huyn cm thường thy và mt thng kh nào. Tôi xin nói vi bn đng nh́n li quá kh. Huyn cm và thng kh nm trong hướng đó. Đó là hướng thông thường và là cách làm d nht đi vi đa s. Nhưng đó không phi là cách dành cho bn. Đng trông cy vào s thiên khi hoc là vào tin nghi hăo huyn được to ra ca nhng người đang do d trên đường phân chia gia cái hu h́nh vi cái vô h́nh. Ln na, đó không phi là cách dành cho bn. Bn không phi là mt đ t chu đng đau kh và đau kh v́ mt mát đang lo lng nh́n vào bc màn phân cách, và hy vng vào mt vài du hiu phi tri qua, nó s thuyết phc bn rng mi s đu tt đp…..

Hăy vươn ti các đnh cao ca linh hn, nh t́m kiếm s thy được chóp đnh ca an b́nh và đ cao đó ca hân hoan nơi mà linh hn bn đang đng vng, ri nh́n vào thế gii ca người sng – mt thế gii ba mặt trong đó mi người– lâm phàm hay không – đu hin hu. Hăy t́m nơi đó nhng ǵ mà linh hn bn có th và s nhn biết. Các huyn cm ca ni đau riêng ca bn, o giác ca quá kh, quan đim ca con người bao gi cũng lch lc. Ch có linh hn đng vng hoàn toàn tách khi o tưởng và ch có linh hn mi thy các s vt theo đúng thc tướng ca chúng. Do đó, đnh núi đưa đến linh hn.

        Đường Đo Trong K Nguyên Mi, quyn I, tr 463.

 

 


424

 
CHƯƠNG V

 

TIN TR̀NH HOÀN TR

 

Ch đ s chết mà chúng ta hin đang xem xét, phi được chúng ta tiếp cn vi tinh thn thuc trng thái b́nh thường và vi s thm tra khoa hc nhiu như chúng ta có th vn dng. Phc cm s st ca nhân loi t́m được đim xâm nhp ca nó vào tâm thc con người qua tác đng t trn; không được sng, là ni s căn bn, và li chính là hin tượng thông thường nht trên hành tinh. Hăy nh điu đó. Tác đng t trn là thói quen chung ln lao vn chi phi toàn b s sng hành tinh chúng ta, nhưng ch trong gia đ́nh nhân loi, và mt cách yếu t, rt yếu, trong gii đng vt là phn ng đi vi ni s xy ra. Tr phi bn có th thy được cơi gii dĩ thái như các Đng khía cnh ni môn ca kinh nghim sng và thy được nó, bn s thy (din ra không ngng và không mt tm ngưng nào) tác đng phc hi vĩ đi ca hành tinh. Bn s chng kiến được mt hot đng ln lao tiếp din bên trong cơi dĩ thái, trong đó linh hn thế gii (anima mundi), linh hn con vt và linh hn con người luôn luôn phc hi cht liu ca mi h́nh hài vt cht cho kho cha vĩ đi ca cht liu ch yếu. Cht liu ch yếu này là mt cht thun nht ti quan trng, có hướng dn, cũng nhiu như linh hn thế gii (world soul) mà người ta nghe nhiu v nó. S tương tác này ca nguyên lư s chết vi nguyên lư s sng to ra hot đng sáng to cơ bn. Lc thôi thúc có ch đo này là Thiên Trí, ca Hành Tinh Thượng Đế khi Ngài đeo đui các mc tiêu thiêng liêng ca Ngài, mang theo vi Ngài trong tiến tŕnh này mi phương tin mà qua đó Ngài biu l.

425

 
Ni s chết ca con người được to ra trước tiên v́ sự định hướng ca gii linh hn, tc gii th năm trong thiên nhiên, (cho ti khi tương đi mun trong chu kỳ thế gii) đă đang hướng ti biu l h́nh hài và hướng ti nhu cầu t́m kiếm kinh nghim qua vt cht để sau rt kim soát nó tùy thích. T l các linh hn ca nhng người được đnh hướng ra xa biu l trong ba cơi thp tương đi nh, tương xng vi tng s linh hn cn đến kinh nghim trong ba cơi thp, đến ni, cho đến khi chu kỳ hoc k nguyên mà chúng ta gi là kỷ nguyên Cơ Đc, có th nói rng cái chết ng tr trong chiến thng. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta đang vào thi trước khi thy s thay đi hoàn toàn trong t́nh trng này, nh bi s kin là nhân loi – mt mc đ ln hơn nhiu so vi trước kia – đang đt được mt s đnh hướng cn thiết; các giá tr cao và s sng ca linh hn, khi được tiến nhp vào qua s quyết tâm ca th trí trong trng thái cao và thp ca nó, đang bt đu kim soát. Điu này tt s mang li mt thái đ mi v cái chết, nó s được xem như mt tiến tŕnh t nhiên và đáng ao ước, được tri qua theo chu kỳ. Sau rt, con người s hiu được ư nghĩa các li ca Đc Christ khi Ngài nói: “Hăy tr li cho Caesar nhng ǵ ca Caesar, và tr li cho Chúa nhng ǵ ca Chúa”. Trong s kin mà các li này được tht ra, Ngài ám ch tác đng phc hi ln lao mà chúng ta gi là s chết. Hăy trm tư v câu chuyn đó và hiu được biu tượng ca linh hn, cha bên trong đi hn, ging như cá trong nước, và gi mt đng tin kim loi, tượng trưng cho vt cht.

Trong mt trong các tác phm c, có các li l tượng trưng sau đây:

426

 
Cha nói vi Con: Hăy tiến ti và thu nhn cho chính con nhng ǵ không phi là chính con và nhng ǵ không phi ca chính con, mà là ca Ta. Hăy xem nó như ca riêng con và t́m nguyên nhân s xut hin ca nó. Hăy đ nó có vẻ là chính con. Nhờ vy khám phá ra thế gii ca o cm, thế gii ca o tưởng ăn sâu, thế gii ca gian di. Kế đó hăy hc rng ngươi đă ly nhng ǵ không phi là mc tiêu ca n lc linh hn.

Và khi thi đim đó đến trong mi chu kỳ vi s xut hin ca phnh la và ca đánh cp, lúc đó mt tiếng nói s được nghe thy. Hăy tuân theo tiếng đó. Đó là tiếng ca nhng ǵ bên trong chính ngươi, nó nghe được tiếng ca Ta, mt tiếng không nghe được bi nhng người thích đánh cp. Trt t s được ban ra tr li và ln na: “Hăy hoàn tr ca ci b đánh cp. Hăy nhn biết rng chúng không được dành cho ngươi”. Vào các thi khong ln hơn, tiếng nói đó li s đến: “Hăy hoàn tr nhng ca ci đă vay mượn; hăy tr li món n ca ngươi”.

Và lúc đó, khi mi bài hc đă được hc xong, mt ln na tiếng nói s ct lên: “Hăy vui v hoàn li nhng ǵ nguyên là ca Ta, ca ngươi và gi đây là ca chúng ta. Ngươi không c̣n cn đến h́nh hài na. Hăy thung dung t ti”.

Hàm ư ca các li trên đă rơ.

Hai ư tưởng ch yếu s giúp làm sáng t vn đ t vong mà chúng ta đang bn tâm hin nay: Th nht, lưỡng nguyên lun vĩ đi bao gi cũng có trong biu l. Mi mt trong nh nguyên tính đu có biu l riêng ca nó, được cai qun bi các đnh lut riêng ca nó và mưu t́m các mc đích riêng ca nó. Nhưng – trong thi gian và không gian – chúng dung hp các quan tâm ca chúng cho li ích ca c hai và cùng to ra cái b ngoài hp nht. Tinh thn-vt cht, s sng-sc tướng, năng lượng-mănh lc – mi nh nguyên đu có trng thái xut phát ca chúng; mi mt trong chúng đu có liên h vi nhau; mi cặp có mt mc tiêu h tương tm thi, và như thế bng s liên kết cht ch, to ra được luồng chy vĩnh cu, s lên xung theo chu kỳ ca s sng trong khi biu l. Trong tiến tŕnh ca mi liên h này gia Cha-Tinh Thn và M-Vt Cht, đa con xut hin, và trong giai đon thơ u xy ra các tiến tŕnh sng bên trong hào quang ca m, tr nên đng nht hóa vi m, tuy nhiên luôn luôn t́m cách thoát khi s thng tr ca bà. Khi đến tui trưởng thành, vn đ mnh m thêm, sc “kéo” ca cha bt đu chm chp xóa b thái đ chiếm hu ca m, cho đến khi cui cùng, s nm gi ca vt cht hay là ca m, đi vi con ca bà (linh hn) sau rt b v tan. Đa Con, Chúa hài đng (Christ-child), thoát khi s bo h và đôi tay dính cht ca m, đến vi s hiu biết ca Cha. Tôi đang nói vi bn bng các biu tượng.

427

 
Th hai: Mi tiến tŕnh lâm phàm, ca s sng trong h́nh hài và ca s hoàn tr (bng s hot đng ca nguyên lư t vong), ca vt cht cho vt cht, và linh hn cho linh hn, được xúc tiến dưới Đnh Lut Hút ph quát vĩ đi. Bn có th h́nh dung thi gian khi tiến tŕnh s chết được nhn biết rơ ràng và được con người chào đón, có th được con người mô t bng câu đơn gin: “Thi đim đă đến khi lc hút ca linh hn tôi đ̣i hi rng tôi t b và hoàn tr th xác tôi vào nơi mà t đó nó xut phát phi không?” Hăy tưởng tượng s thay đi trong tâm thc con người khi s chết đến phi được xem như mt hành đng t b h́nh hài có ư thc và đơn gin, tm thi được chn cho hai mc tiêu đc bit:

  a. Dành s kim soát trong ba cơi thp

  b. Đem li cơ hi cho vt cht ca h́nh hài đă “b đánh cp hoc vay mượn hoc chiếm hu mt cách công bng” tùy theo giai đon tiến hóa, đ đt ti mt đim hoàn thin cao siêu qua tác đng vào vt cht ca s sng, xuyên qua linh hn.

428

 
Đây là các ư tưởng có ư nghĩa. Chúng đă được din t trước đây, nhưng đă b loi b như là cách suy tưởng tượng trưng, có tính cách an i hoc là như nim tin do mơ ước. Tôi tŕnh bày các ư tưởng đó cho bn nhưthc kin trong thiên nhiên, như là không th trn tránh trong thc tế, và như là k thut và din tŕnh quen thuc ging như các hot đng này (có bản chất nhp nhàng và theo chu kỳ) vn chi phi đi sng ca k trung b́nh – thc và ng, ăn và ung và nhng vic đnh kỳ mà con người quen làm.

Tôi đă bàn v ch đ s chết trong “Lun V Huyn Linh Thut”, trong đó tp trung trước tiên váo các tiến tŕnh chết cơi trn và làm thế theo quan đim ca k bàng quan hoc k quan sát. Nơi đó tôi t́m cách nêu ra thái đ nên có ca k bàng quan. đây, tôi xin tŕnh bày mt bc tranh hơi khác, nêu ra nhng ǵ mà linh hn tách ra được hay biết. Nếu điu này dính dáng đến vic lp li nhng ǵ mà bn đă biết, tuy thế có vài lp li cơ bn và các tŕnh bày mà tôi mun đưa ra. Tôi xin lit kê chúng vn tt. Bn nên xem chúng như là căn bn và đích thc.

1. Thi đim cho vic ra đi ca linh hn lâm phàm đă đến. Trong quá kh, linh hn đă:

  a- Chiếm hu mt thân xác vi mt năng lc nào đó thích hp vi các yêu cu và tui ca linh hn đó.

  b- Kích hot thân xác đó qua trung gian ca th dĩ thái, như vy phn khích nó vào hot đng s sng trong thi gian có kỳ hn, được sp xếp ca linh hn đi vi công cuc hot đng cơi trn.

2. Hai ḍng năng lượng chính đi vào th xác và to ra hot đng ca nó, tính cht và kiu biu l ca nó, cng vi n tượng mà nó to lên ngoi cnh/ môi trường ca nó.

429

 
  a- Ḍng s sng năng đng. Ḍng này được bám cht vào tim. Ḍng năng lượng năng đng này nhp vào th xác, xuyên qua đu và đi xung tim, nơi mà nó được tp trung trong chu kỳ. Mt ḍng năng lượng chung nh hơn hay là prana, phân bit vi sinh lc được bit ngă hóa, nhp vào th xác, xuyên qua lá lách. Sau đó nó lên tim đ kết hp vi ḍng sinh lc ln hơn và quan trng hơn. Ḍng sinh lc này kích hot và gi cho th xác hi nhp t́nh trng mch lc cht ch. Ḍng năng lượng prana đem sinh lc cho các nguyên t và các tế bào cá bit to thành th xác.

  b- Ḍng tâm thc cá bit. Ḍng này bám cht trong đu, là mt trng thái ca linh hn, biu l loi tâm thc mà đến phiên nó cho thy mc tiến hóa đă đt được. Ḍng năng lượng này cũng hot đng liên quan đến mt lung thn lc phàm ngă; và lc này được tiêu biu bi dc vng (kh năng tri giác cơi t́nh cm hay cm dc) và nhp vào th xác, xuyên qua bí huyt đan đin. Lc này liên kết con người vi toàn b cơi cm dc, và do đó vi thế gii o cm. Vi người kém phát trin và vi mu người b́nh thường, huyt đan đin là nơi tp trung tâm thc và năng lượng được biu l bng đim tp trung tâm thc trong đu mà không có s nhn biết nào bt c đâu. Chính v́ lư do này mà (vào lúc t trn) linh hn ĺa xác xuyên qua đan đin ch không qua đu. Trong trường hp người phát trin, mu người m trí, giác tuyến s trit thoái ra khi xác xuyên qua đu.

3. Hn khóm ca mi h́nh hài trong gii đng vt – theo Đnh Lut Hút – trit thoái (rút) nguyên khí s sng ra khi bt c h́nh hài vt cht đc thù nào xuyên qua đan đin vn là năo b ca đng vt b́nh thường. Đng vt phát trin cao và đng vt được thun hóa đang bt đu s dng năo b mt mc đ nhiu hoc ít, nhưng nguyên khí s sng và trng thái cm thc (sentient aspect), tc là đng vt thc (animal consciousness), vn rút ra xuyên qua đan đin. Do đó, trong mi giai đon ca din tŕnh tiến hóa, bn có mt vài tam giác năng lượng lư thú.

430

 
  a- Trong trường hp ca đng vt và ca con người (con người ít gp hơn là con vt), ca người đn đn và mt s người (h dường như được sinh ra mà không có đim tp trung tâm thc cá nhân), b ba sau đây rt quan trng:

Hn khóm - Huyt đan đin - Huyt lá lách hay huyt sinh lc.

  b- cp thp hơn, tuy nhiên con người được bit ngă hóa và vi mu người t́nh cm b́nh thường, b ba sau đây phi được ghi nhn:

Linh hn – Bí huyt đu – Bí huyt đan đin.

 c- Đi vi người tiến hóa cao và đi vi người trên Con Đường Đ T, bn có tam giác sau đây linh hot lúc t trn:

Linh hn – Bí huyt đu – Bí huyt n đường

Liên quan vi các b ba này, có mt liên h kép vi nguyên khí s sng:

 a. Tim trong đó được tp trung s sng ca linh hn trong h́nh hài.

 b. Lá lách, qua đó tinh hoa s sng vũ tr hay prana thường xuyên và nhp nhàng đi qua.

431

 
Dĩ nhiên, toàn b vn đ rt khó hiu, và đi vi nhng ai cho đến nay c̣n trên mc đ hoàn toàn ca con người, không th kim chng được. Tuy nhiên, vic chp nhn ba đim trên theo gi thuyết ngày nay, s giúp làm sáng t tâm trí bn liên quan đến toàn b ch đ hoàn tr này mà chúng ta đang bn tâm đến.

4. Đim kế tiếp không cn chng minh, v́ thường thường nó được chp nhn. Chính cái ham mun chi phi tiến tŕnh t vong, v́ nó cũng chi phi các din tŕnh ca kinh nghim sng. Chúng tôi luôn luôn nói rng khi thiếu ư-chí-mun-sng, kết qu không tránh khi là cái chết. Ư-chí-mun-sng này, dù nó là tính bn bĩ ca xác thân, hot đng như mt thc th cơ bn hoc như là ư đnh có đnh hướng ca linh hn, là mt khía cnh ca dc vng, hay đúng hơn nó là mt phn ng ca ư chí tinh thn trên cơi trn . Do đó, có mt liên h gn bó gia:

 a. Linh hn trên cơi riêng ca nó

 b. Th cm dc

 c. Bí huyt đan đin.

T trước đến gi, mi liên h này nhn được ít s chú ư liên quan đến thut t trn. Tuy nhiên, điu đó bin minh cho s suy tư cn thn.

Bn hăy chú ư rng đây tôi đang bàn đến ch đ s chết v́ s hin hu ca nó được cm nhn qua bnh hon hoc qua tui già. Tôi không nhc đến cái chết khi nó xy đến qua chiến tranh hoc tai nn, do ám sát hoc do t t. Các nguyên nhân này ca s chết, và các nguyên nhân khác, xy đến dưới mt tiến tŕnh chi phi hoàn toàn khác, ngay c khi chúng không th dính líu đến karma mt người hoc s mnh riêng bit ca người y, như trong trường hp chiến tranh. Lúc đó rt đông người b giết. Vic này không có liên quan ǵ vi Lut Nhân Qu dưới h́nh thc mt yếu t trong quá tŕnh phát trin linh hn ca bt lun cá nhân nào. Đó không phi là mt tác đng hoàn tr, được sp xếp bi mt linh hn đc bit khi nó th hin vn mnh cá bit ca nó. Qua tiến tŕnh hy dit ca chiến tranh, s chết dưới ư đnh ch đo theo chu kỳ ca Hành Tinh Thượng Đế, th hin qua Hi Đng Huyn Linh Shamballa. Các Đng Cao C nơi đây đang

432

 
điu khin các din tŕnh thế gii, biết rng mt thi kỳ đă đến khi mi liên h gia tà lc hành tinh vi các Quang Minh Lc hay là ca Thin Lc đă đt đến mt đim “đi kháng bùng n” (như nó được gi). Điu này phi được đ cho t do nếu mc tiêu thiêng liêng được th hin không b gi li. Do đó, vic bùng n được phép xy ra; tuy nhiên lúc nào cũng có mt yếu t kim chế hin ra, cho dù con người không hiu được. V́ các Đng Cao C này (các Ngài đang th hin Thiên Ư) không h đng nht hóa vi s sng sc tướng, tt nhiên các Ngài ch có mt hiu biết v s tương đi quan trng ca s sng trong h́nh hài; đi vi các Ngài, s hy dit ca h́nh hài không phi là cái chết theo nghĩa mà chúng ta hiu, mà ch là và đc nht là một tiến tŕnh gii thoát. Đó là cái thy gii hn ca nhng ai đng nht hóa vi h́nh hài đă t lâu duy tŕ s s chết. Chu kỳ chúng ta đang sng hin nay đă chng kiến s hy dit Ln Lao nht ca h́nh hài con người trong toàn b Lch S ca hành tinh chúng ta. Không có s hy dit con người. Tôi mun bn ghi nhn phát biu này. V́ có s hy dit hàng lot này, nhân loi đă to ra mt tiến b rt nhanh hướng v mt thái đ b́nh thn hơn liên quan vi cái chết. Điu này chưa rơ ràng –nhưng trong thi gian vài năm– thái đ mi s bt đu tr nên rơ rt, ni s chết s bt đu tan biến trên thế gii. Phn ln điu này cũng s do s nhy cm ca b máy đáp ng ca nhân loi tăng lên, dn đến mt ch ngot ni tâm hay là đến mt đnh hướng mi cho tâm trí nhân loi, vi các kết qu không th nói trước.

432

 
V cơ bn, căn ci ca mi chiến tranh là ư thc chia r. Ch nghĩa cá nhân căn bn này hay s tha nhn to được va ư ca chính sách bit lp đưa đến mi nguyên nhân ph ca chiến tranh: tham lam, to ra thm ha v kinh tế; hn thù to ra tranh chp quc gia và quc tế; tàn ác to ra đau kh và t vong. Do đó, căn ci ca cái chết đă ăn sâu; đó là s hy dit ca chu kỳ chia r vi tư cách mt cá nhân trên cơi trn mà chúng ta gi là s chết theo ư nghĩa thông thường; tt nhiên s chết là mt tiến tŕnh nht quán (at-one-ment). Có th bn ch thy thêm mt ít vào vt cht, bn cn hc thêm rng cái chết gii thoát s sng đă bit ngă hóa vào mt cuc sng ít b g̣ bó và giam hăm, và sau rt– khi tiến tŕnh chết đă được áp dng thc tin cho tt c ba hin th trong ba cơi thp – vào trong cuc sng ca mi người. Đây là mt đim phúc lc không th din t.

433

 
Đnh Lut Hút chi phi tiến tŕnh chết như nó chi phi mi tiến tŕnh khác đang biu l. Chính nguyên khí c kết, dưới s hi nhp thăng bng ca toàn b cơ th, mi gi cho nó toàn vn, làm n đnh s nhp nhàng ca nó và các tiến tŕnh s sng có chu kỳ ca nó và liên kết các phn khác nhau ca nó vi nhau. Đó là nguyên khí kết hp chính bên trong mi h́nh hài, v́ đó là biu hin đu tiên (trong linh hn) ca trng thái th nht ca Thượng Đế, trng thái ư chí. Phát biu này có th làm bn ngc nhiên, v́ bn đă quen xem Đnh Lut Hút như mt biu hin ca trng thái th hai, tc bác ái-minh triết. Nguyên khí thu hút này được thy trong mi h́nh hài, t h́nh hài cc nh ca nguyên t đến h́nh hài ln, Đa cu, qua đó Hành Tinh Thượng Đế ca chúng ta biu l chính Ngài. Nhưng nếu đó là nguyên khí c kết và nguyên nhân ca hi nhp, đó cũng là phương tin mà nh đó “s hoàn tr” xy ra và nh đó nhân hn được tái hóa nhp theo đnh kỳ vào trong hn đang ng linh. Trng thái này ca Lc Hút, cho đến nay, đă nhn được ít chú ư. Lư do ch nó có liên quan đến biu l cao ca Lut đó, và do đó có liên quan ti trng thái Ư Chí ca Thượng Đế, v́ đó cũng là trng thái Ư Chí ca Chân Thn. Ch khi huyn lc Shamballa tiếp tc vi công vic trc tiếp hơn ca nó trong chu kỳ sp đến và con người bt đu phân bin (theo như chúng phi và s) gia s cng đu (self-will) vi ư chí tinh thn (spiritual-will), gia s quyết đnh, ư đnh, kế hoch, vi s an tr c đnh (fixed polarisation), th́ s sáng t s đến. Đnh lut Hút (như mi đnh lut khác đang biu l) có ba giai đon hoc trng thái, mi giai đon liên quan ti ba trng thái thiêng liêng:

434

 
1. Nó liên quan vi s sng và sc tướng, tinh thn và vt cht – trng thái th ba.

2. Nó chi phi tiến tŕnh hi nhp c kết vn to ra các h́nh tướng – trng thái th hai.

3. Nó mang li s thiếu cân bng vn to ra kết qu trong tác đng tan ră, như vy vượt qua h́nh hài – nh hưởng đến con người – đưa đến ba giai đon mà chúng ta đt tên là:

 a. Hoàn tr, kết qu là làm tan ră xác thân và tr li các nguyên t, các nguyên t và tế bào ca nó cho ci ngun nguyên thy ca chúng.

 b. Loi b, dính líu vi cùng tiến tŕnh căn bn có liên quan đến các lc vn đă to thành th cm dc và th trí.

 c. Hóa nhp (absorption), tc là cách mà nh đó nhân hn được hi nhp vào ci ngun nguyên thy ca nó, tc là hn đang ng linh, hay hn thế gii (universal soul). Đây là mt biu hin ca trng thái th nht (Ngôi Mt).

435

 
Khi được hiu đúng, tt c các giai đon này minh ha hoc là minh chng cho sc mnh duy nht ca Đnh Lut Hút và liên h ca nó vi Lut Tng Hp đang chi phi trng thái thiêng liêng th nht. Sau rt, s hi nhp to ra s tng hp. Nhiu s hi nhp theo chu kỳ vn được tiến hành trong chu kỳ sinh hot vĩ đi ca mt linh hn đang lâm phàm, đưa đến s tng hp sau cùng ca tinh thn và linh hn, vn là mc tiêu ca din tŕnh tiến hóa đi vi nhân loi. Sau kỳ đim đo th ba, điu này đưa đến kết qu trong vic gii thoát hoàn toàn ca con người khi “lc kéo” ca vt cht trong ba cơi thp và trong năng lc tt nhiên ca nó, vi s hiu biết đy đ, vn dng được Đnh Lut Hút trong các giai đon khác nhau ca nó khi mà din tŕnh sáng to có liên quan. Lúc by gi, các giai đon khác s được chế ng sau. Mt đim phi được ghi nh. Cách nói “cát bi tr v vi cát bi” rt quen thuc trong các nghi l tng táng ca phương Tây, nhc đến tác đng hoàn tr này và ng ư s quay v ca các yếu t ca xác thân vi kho cha cht liu đu tiên, và ca cht liu ca h́nh hài đy sc sng vào kho cha dĩ thái chung. Các thut ng “tinh thn s quay v vi Chúa, Đng sinh ra nó” là mt cách nói lch lc v s hóa nhp (absorption, thu hút) ca linh hn bi đi hn (universal soul). Tuy nhiên, các nghi thc/th tc thông thường quên nhn mnh rng chính linh hn đă bit ngă hóa trong tiến tŕnh tái hóa nhp, bng mt tác đng ca ư chí tâm linh, nó tiến hành và sp đt s hoàn tr đó. Tây phương người ta quên rng “lnh hoàn tr” đă được đưa ra vi tn sut ln sut các thi kỳ bi mi linh hn bên trong mt h́nh hài vt cht. Khi làm thế mt cách kiên tŕ và mt cách tt yếu, trng thái thiêng liêng th nht – Chân Thn trên cơi riêng –đang siết cht quyn kim soát trên th biu l ca nó, xuyên qua h́nh ảnh ca nó – tc linh hn. Như thế trng thái ư chí tác đng ngày càng nhiu, cho đến khi, trên con đường đ t, quyết tâm thiêng liêng dn ti mc phát trin cao nht ca nó, và trên Con đường Đim Đo, ư chí bt đu hot đng tích cc. Điều đáng ghi nh rng, chính trong vic đưa ra có cân nhc hun lnh ca linh hn trên cơi riêng ca nó, đi vi cái bóng ca nó trong ba cơi thp, mà linh hn hc cách biu l trng thái th nht và cao nht ca Thượng Đế, và điu này, trước tiên và trong mt thi kỳ rt dài, duy nht qua tiến tŕnh t vong.

436

 
Cái khó khăn hin nay là ch tương đi ít người có ư thc v linh hn, và tt nhiên đa s con người vn chưa hiu biết v “các hun lnh huyn bí” ca chính linh hn h. Khi nhân loi tr nên có ư thc v linh hn (và điu này s là mt trong các kết qu ca ni thng kh ca chiến tranh hin nay), cái chết s được nh́n thy như là mt tiến tŕnh “có sp xếp”, được din ra vi ư thc đy đ và vi hiu biết v mc tiêu theo chu kỳ. Dĩ nhiên, điu này s kết thúc ni s đang lan tràn hin nay và cũng s chn đng khuynh hướng t t, ngày càng l rơ trong các thi khó khăn này. Ti giết người thc ra được da vào s kin rng nó can thip vào mc tiêu ca linh hn, ch không thc s da vào vic giết mt thân xác con người đc bit nào. Điu đó cũng gii thích ti sao chiến tranh không phi là giết người như nhiu người cung tín có thin chí đă nghĩ. Đó là hy dit h́nh hài vi mc đích có ích (nếu người ta có th xem xét k mc tiêu thiêng liêng) ca Hành Tinh Thượng Đế. Tuy nhiên, chính các đng lc ca nhng k khi xướng chiến tranh trên cơi trn mi làm cho chúng tr thành xu xa. Nếu chiến tranh không xy ra, th́ Đc Hành Tinh Thượng Đế, qua cái mà chúng ta gi là “tác đng ca Thượng Đế” triu hi các linh hn con người mc đ ln phù hp vi ư đnh bác ái ca Ngài. Khi nhng người tà vy khi xướng chiến tranh, Ngài đưa cái thin ra khi cái ác.

Do đó, bn có th thy ti sao huyn bí hc nhn mnh vào lut chu kỳ và ti sao có s quan tâm ngày càng tăng vào Khoa Hc Biu L Theo Chu Kỳ. Cái chết xut hin thường thường là vô mc đích; đó là v́ ư đnh ca linh hn không được biết rơ; s phát trin đă qua, qua tiến tŕnh luân hi, vn c̣n là mt vn đ bí mt; các tính di truyn và các môi trường đu không được biết, và s nhn thc v tiếng nói ca linh hn thường thường chưa được phát trin. Tuy nhiên, đây là các vn đ sp sa được nhn ra; s thiên khi đang sp din ra, và tôi đang đt nn móng cho vic đó.

Tôi đang băn khoăn cho bn không biết bn có hiu rơ giáo hun mà tôi đă đưa ra, trước khi chúng ta tiếp tc nói đến nhng ǵ có tính cách gii thích hoc mi m. Hăy nghiên cu vi s thn trng sao cho ch đ s chết có th hin ra chc chn hơn và rơ ràng hơn trong trí bn. Hăy t́m cách đt đến mt quan đim mi v vn đ và xem xét đnh lut, mc đích và cái đp đ ca ư đnh nơi nhng ǵ mà t trước đến gi đă là mt khng khiếp và là mt ni s chính.

437

 
Sau này tôi s n lc đưa ra cho bn mt thoáng nh́n v tiến tŕnh chết theo ghi nhn ca linh hn, khi đm trách tác đng hoàn tr. Đi vi bn, nhng ǵ tôi nói có th dường như có tính cách suy đoán hoc gi thuyết; trong bt c trường hp nào, nó cũng s là mt phát biu mà ít có ai trong các bn s vào v thế đ chng minh s chính xác. Nhưng, hi huynh đ, chc chn nó có th rơ ràng và lành mnh hơn, vng chc hơn và đp đ hơn là cái ti tăm và hy vng ti t hin nay, và cái suy đoán vô vng và thường là tht vng đang ph xung mi giường lâm chung vào lúc này.

1. Bản chất Sự Chết

Trích t các tác phm khác

Cái tng th phi được thy là quan trng hơn là cái tng phn, và điu này không như mt gic mơ, mt linh th, mt lư thuyết, mt din biến ca nim tin do mơ ước, mt gi thuyết hoc mt thôi thúc. Nó được nhn thc như là mt quy lut tt yếu có sn và như là thường thy. Nó ng ư cái chết, nhưng là cái chết v́ s tuyt ho, v́ hân hoan, v́ tinh thn trong hành đng, v́ s hoàn thin ca mi điu lành.

Lun v By Cung,q V

Nếu chúng ta có th hiu được nó, th́ cái chết ch là mt trong các hot đng thành tho nht ca chúng ta. Chúng ta đă chết bao nhiêu ln ri, và s chết nhiu ln na. V thc cht, chết là mt vn đ tâm thc. Chúng ta có ư thc v mt thi đim trên cơi thi đim sau đó, chúng ta trit thoái vào mt cơi khác và có ư thc linh hot đó. Chng nào mà tâm thc chúng ta c̣n được đng nht hóa vi khía cnh h́nh hài, th́ cái chết s dành cho chúng ta ni s c xưa ca nó. Ngay khi chúng ta biết được chính chúng ta là linh hn, và thy rng chúng ta có kh năng tp trung tâm thc, hay là ư thc ca chúng ta vào trong bt c h́nh hài nào hay là trên bt c cơi nào tùy ư, hoc là theo bt c hướng nào trong h́nh hài ca Thượng Đế, th́ chúng ta s không c̣n biết cái chết na.

                         Lun v Huyn Linh Thut, trang 494.

438

 
Do đó, hăy suy gm v lư thuyết tách ra (abstraction) này. Nó bao gm mi tiến tŕnh s sng và s gi ra cho bn cái bí mt lư thú bt dit v S Chết vn là li vào s sng.

                                     Lun v By Cung, quyn V

Trong Qui Lut này, có hai ư tưởng chính, c hai đu có liên quan vi trng thái thiêng liêng th nht: ư tưởng v S Chết và bn cht ca Ư Chí. Trong thế k ti, cái chết và ư chí tt nhiên s được nhn ra là có ư nghĩa mi đi vi nhân loi và nhiu ư tưởng c xưa s biến mt. Cái chết đi vi người suy tư bc trung là mt đim nguy kch gây tai họa. Chính vic ngưng và chm dt tt c nhng ǵ được ưa thích, tt c nhng ǵ quen thuc và mong mun; đó là vic đâm sm vào cái không biết, vào cái không chc chn, kết thúc đt ngt mi kế hoch và d tính. Bt lun nim tin đích thc đt vào các giá tr tinh thn có th nhiu như thế nào đi na, bt lun s vin lư ca th trí liên quan đến s bt t có th rơ ràng đến thế nào đi na, bt lun bng chng v s tiếp tc tn ti và cuc sng vĩnh hng có thuyết phc đến thế nào đi na, vn c̣n có mt nghi vn, mt nhn thc v vic có th có mt cu cánh hoàn ho và mt điu không có hoàn toàn, và vic kết thúc mi hot đng, mi phn ng ca tâm, ca mi tư tưởng, t́nh cm, dc vng, đo tâm và các ư đnh vn tp trung chung quanh ct lơi trung ương ca bn th con người. S mong mi và s quyết tâm tn ti và ư thc v s liên tc vn c̣n đó, thm chí đi vi tín đ kiên tâm nht, da vào kh năng, da vào nn tng không vng chc và da vào chng tích ca nhng k khác – thc ra nhng người này không bao gi tr li đ cho biết s thc. Trng đim ca mi ư tưởng v vn đ này liên quan đến “Cái Ngă” chính yếu (central “I”) hay là s toàn vn ca Thượng Đế.

439

 
Trong Qui Lut này, bn nên chú ư rng trng đim thay đi t “Cái Ngă” đến các thành phn cu to vn hp thành cái v ngoài ca Cái Ngă (Self), và đây là mt đim đáng ghi nhn. Thông tin được trao cho đ t là đ xóa tan cái v ngoài này, và hoàn li các s sng nh hơn cho cái kho cha chung ca cht sng. Đi dương ca Bn Th không được nói ti nơi đâu c. đây ư tưởng thn trng s chng minh rng din tiến tách ra đă đnh đot này, mà s sng tp th làm cho có hiu qu trong trường hp ca cá nhân, là mt trong các lư l vng chc nht cho s tht v s liên tc và cho cá nhân, tc s kiên tŕ có th đng nht hóa được. Hăy ghi nhn các li này. S tp trung hot đng thay đi t th linh hot đến thc th linh hot bên trong th đó, người làm ch được hoàn cnh ca ḿnh, người điu khin các s hu ca ḿnh và k vn là chính hơi th, đang gi các s sng vào kho cha cht liu hay là thu chúng li tùy ư đ tiếp tc li mi liên h ca chúng vi y.         Lun V By Cung, quyn V

Th nht, K Hành Hương Vĩnh Cu, bng t do ư chí và ư mun riêng ca ḿnh, “mt cách bí n” chn cái chết và khoác ly mt th hoc mt lot các th đ nâng cao các s sng ca phàm ngă mà y đă th nhp vào, trong khi làm như thế, chính y “đă chết” theo ư nghĩa mà, đi vi mt linh hn t do, cái chết và vic khoác ly mt h́nh hài và hu qu là s ch́m đm ca s sng trong h́nh hài, là các thut ng đng nghĩa.

Th hai, khi làm như thế, linh hn tóm tt li trên mt mc đ nh, nhng ǵ mà Thái Dương Thượng Đế và Hành Tinh Thượng Đế cũng đă làm và đang làm. Các Đng Cao C đến dưới qui lut ca các đnh lut này ca linh hn trong thi kỳ biu l, cho dù các Ngài không b chi phi hay kim soát bi các đnh lut ca thế gii t nhiên theo cách chúng ta gi. Tâm thc ca các Ngài vn không nhp hóa vào vi thế gii hin tượng, mc du tâm thc ca chúng ta đng hóa vào vi thế gii đó cho đến khi mà chúng ta đến dưới qui lut ca các đnh lut cao siêu hơn. Bng “cái chết” huyn bí ca các Đng Cao C này, các s sng th yếu mi có th sng và được cng hiến cơ may.          Lun v By Cung, q. V

440

 
Ngày nay, các lc ca s chết có khp nơi, nhưng đó là cái chết ca t do, cái chết ca ngôn t t do, cái chết ca t do trong hành đng con người, cái chết ca chân lư và ca các giá tr thiêng liêng cao c. Đây là nhng yếu t thiết yếu trong s sng ca nhân loi. Cái chết ca h́nh hài vt cht là mt nhân t không đáng k liên quan đến các nhân t này được chnh li d dàng qua các din tŕnh tái sinh và cơ hi mi… Vic hy dit h́nh hài trong cuc chiến vn ít quan trng đi vi nhng ai biết rng luân hi là mt đnh lut căn bn ca thiên nhiên và tht ra không có cái chết.

                                          Thông đip tháng 6 – 1940

Cho đến nay bn nói rng ch có các tin tưởng v s bt t ch không có bng chng nào chc chn c. Trong quá tŕnh tích lũy bng chng, trong các tin tưởng bên trong ca tâm con người, bng s kin v nim tin vào s kiên tŕ vĩnh cu dưới h́nh thc mt ư tưởng trong trí con người, có n du hiu chc chn. Nhng du hiu đó s b thay thế bi s xác tín và tri thc trước khi mt trăm năm khác trôi qua, v́ mt biến c s xy ra và mt thiên khi được đưa ra cho nhân loi, vn s chuyn hy vng thành chc chn và tin tưởng thành tri thc. Đng thi hăy để cho mt thái đ mi đi vi cái chết cn được vun trng, và mt khoa hc mi v cái chết được m ra. Hăy đ cho nó không c̣n là mt điu mà chúng ta không th kim soát và nó t phi đánh bi chúng ta, và chúng ta hăy bt đu kim soát s qua đi ca chúng ta đi vi mt bên kia, và hiu đôi điu v k thut chuyn tiếp.

                          Lun v Huyn Linh Thut, trang 500

441

 
Tt c nhng ǵ mà tôi yêu cu là mt s tiếp cn hp lư vi cái chết, tt c nhng ǵ tôi t́m cách làm là đưa ra gi ư rng khi ni đau đă làm kit sc và t́nh trng yếu đui xy đến, người hp hi nên được đ cho chun b chính ḿnh, cho dù b ngoài không hay biết, v́ s chuyn tiếp ln đó. Đng quên rng vic đó chiếm sc khe và mt nh hưởng mnh m lên b máy thn kinh s to ra đau đn. Không th nào tưởng tượng có mt lúc khi mà tác đng hp hi s tr thành mt thành công rt ráo cho s sng chăng? Không th nào h́nh dung được thi đim khi mà các thi gi qua vào lúc lâm chung có th nào ch là mt khúc m đu huy hoàng cho mt s thoát ra có ư thc chăng? Khi gp s kin con người phi tách ra, cái tr ngi ca lp v vt cht có th xy ra đi vi y và nhng người chung quanh y phi chăng là mc đích cui cùng được hân hoan và mong mi t lâu? Có th nào bn không h́nh dung ra được lúc mà, thay v́ là khóc lóc, hăi s và không chu nhn cái không th tránh khi, k hp hi và các bn ca y phi chăng s đng ư vi nhau v thi đim và không có ǵ ngoài hnh phúc s đc trưng cho vic ra đi? Phi chăng ư tưởng su đau không nên có trong trí ca nhng k c̣n li, c̣n phút lâm chung s được xem như các cơ hi hnh phúc hơn là lúc sinh ra và lúc kết hôn? Trước đây rt lâu tôi nói vi bn rng, điu này sn tượng sâu sc đi vi người sáng sut trong nhân loi, và dn dn đi vi tt c mi người.    Lun V Huyn Linh Thut, trang 499

441

 
đây, điu lư thú nên ghi nhn là cái chết b chi phi bi Nguyên Lư Gii Thoát, ch không phi bi Nguyên Lư Giới Hn. Cái chết ch được nhn thc như là mt yếu t được bàn ti bng các s sng hu ngă thc và ch b ng nhn bi con người, h là nhng người b o cm nht và b đánh la vi các tt c các kiếp sng được th hin.

                         Lun v Huyn Linh Thut, trang 534

Khi bn cht ca Vic Phng S chân chính được hiu rơ, người ta s thy rng đó là mt trng thái ca năng lượng thiêng liêng vn luôn luôn tác đng dưới khía cnh hy dit, v́ nó hy dit các h́nh hài đ phóng thích. Phng S là mt biu l ca Nguyên Lư Gii Thoát (Principle of Liberation) s chết và phng s to thành hai khía cnh ca nguyên lư này. Vic phng s s cu vt, gii thoát và phóng thích tâm thc b giam nht trên các mc đ khác nhau. Cũng các cách din đt trên có th dùng cho s t vong. Nhưng ngoi tr vic phng s có th được đem li do mt hiu biết bng trc giác v mi s kin đang xét, được lư gii sáng sut và được áp dng vi mt tinh thn bác ái trên cơi trn, nó s không làm tṛn nhim v ca nó mt cách thích đáng.   

442

 
   Lun v Huyn Linh Thut, t. 537

Sợ Chết (Fear of Death)

Vic s chết là do:

  a. Cái khng khiếp ca các tiến tŕnh ging ra khi ln cui trong đng tác ca chính s chết.

  b. Ni kinh khng v cái không biết và cái không th mô t được.

  c. Nghi ng v tính bt t cui cùng.

  d. Bun kh trước vic ĺa b nhng người thân sau hoc là b b li sau.

  e. Các phn ng xưa kia đi vi nhng ln chết d di trong quá kh, đang nm sâu trong tâm thc.

  f. C bám vào s sng h́nh tướng, v́ trước tiên đng nht hóa vi nó trong tâm thc.

  g. Giáo lư sai lm xưa kia v Thiên đàng và Đa ngc, c hai đu không d chu theo kỳ vng đi vi mt s loi.                       Lun v Huyn Linh Thut, trang 300

443

 
Theo thi gian qua và trước khi kết thúc thế k ti, sau rt cái chết s b xem như không tn ti trong ư thc như hin nay nó đang được hiu. S liên tc tâm thc s được phát trin rng răi và nhiu người tiến hóa cao s đng thi hot đng trong hai thế gii, đến ni cái s xưa kia s mt đi và s liên giao gia cơi cm dc vi cơi trn s được thiết lp vng chc, và kim soát khoa hc đến ni công vic ca các đng t xut thn s kết thúc mt cách hp lư và đ lượng. Trng thái đng ct xut thn thường thy và các hin h́nh dưới s kim soát và các hướng dn viên n Đ ch là các lch lc v giao tiếp gia hai cơi, ging như các đi bi tính dc và các lch lc ca mi liên h và giao tiếp gia phái tính. đây tôi không nói đến công vic ca các nhà nhăn thông, bt lun đáng thương đến đâu, cũng như không chiếm hu th xác ca các thc th có tm c cao, nhưng vi các hin tượng không d chu ca các bui hin h́nh, ca ngoi cht (ectoplasm) và công vic thiếu sáng sut mù quáng mà nhng người thoái hóa thi Atlantis c và các linh hn c̣n ràng buc vào cơi trn, th lănh và người hướng dn n Đ bc trung đă to ra. Nơi h, không có ǵ đ hc hi c, và tt hơn hết là tránh xa.

Vic ng tr ca ni s chết hu như chm dt, không bao lâu chúng ta s tiến vào mt thi kỳ hiu biết, và chc chn là hiu biết đó s ct đt nn tng ca mi s hăi ca chúng ta. Khi bàn đến ni s chết, có ít điu cn làm, tr vic nâng toàn b ch đ lên mt mc khoa hc hơn và – trong ư thc khoa hc này – dy cho con người cách chết. Có mt k thut t trn ngay khi c̣n sng, nhưng k thut này đă tht tung rt nhiu Tây Phương, và hu như mt hết, ngoi tr trong mt vài trung tâm ca các Bc Trí Gi Đông Phương. Nhiu điu v vic này có l có th được bàn đến sau này, c̣n ư tưởng v vic tiếp cn cn thiết vi đ tài này có th tr vào trong trí ca các nhà nghiên cu đc thy sách này, và có l khi h kho cu, đc và ngm nghĩ, tài liu lư thú s xut hin trên đường hc hi ca h, tài liu đó có th dn dn được tp hp li và được n hành.     

     Lun V Huyn Linh Thut, trang 301 – 302

Ni s chết và nn ḷng gây ra cho con người Tng Qu Báo trong k nguyên và chu kỳ này. C hai đu cho thy phn ng cm th đi vi các yếu t tâm lư như là can đm. Chúng phi được đáp ng bng s toàn tri (omniscience) ca linh hn, tác đng qua th trí – không phi bng s toàn năng (omnipotence) ca linh hn. Trong đon này, người ta thy mt n ngôn huyn bí. Lun V Huyn Linh Thut, trang 309

Bn năng t bo toàn có các căn ci ca nó trong ni s chết c hu; qua s hin hu ca ni s này, nhân loi đă chiến đu vi thói quen ca ḿnh đưa đến mc tui th và s nhn ni hin nay.         Lun V Huyn Linh Thut, trang 626

Định nghĩa sự chết

Chính s chết là mt phn ca Đi Hăo Huyn, và ch hin hu v́ các bc màn mà chúng ta đă gom li quanh chính chúng ta.                                        Lun V By Cung , quyn  V

Nhưng con người hay quên rng, mi đêm, trong lúc ng, chúng ta chết đi vi cơi trn, nhưng sng và hot đng nơi khác. Con người quên rng h đă đt được s d dàng trong vic ri b xác thân; v́ cho đến nay, h không th đem li vào ư thc b óc hồng trần hi c v cái đă qua và khong cách tiếp theo ca s sng linh đng, h không liên kết được chết và ng. Sau rt, chết ch là khong cách dài trong kiếp sng hot đng cơi trn; người ta ch “đi ra ngoài” trong mt giai đon dài. Nhưng tiến tŕnh ng mi ngày và tiến tŕnh chết đôi lúc th́ ging nhau, vi mt d bit là trong lúc ng, tuyến t lc hay ḍng năng lượng mà theo đó các lung sinh lc được gi nguyên vn, và to thành con đường tr v vi cơ th. Trong cái chết, tuyến sinh lc này b đt hay găy. Khi điu này xy ra, thc th hu thc không th quay v vi nhc thân, cơ th đó, thiếu nguyên khí kết ni, nên tan ră.

                            Lun V Huyn Linh Thut t. 494

Tiến tŕnh tách ra (như bn có th thy) liên quan vi trng thái sng, được to ra bi một tác đng ca ư chí tinh thn, và s to ra “nguyên khí phc hi vn n giu trong công vic ca Đng Hy Dit”, theo cách din t ca mt châm ngôn huyn môn. Biu l thp nht ca nguyên khí này được nh́n thy trong din tiến ca cái mà chúng ta gi là S Chết – thc ra vn là mt cách rút ra ca nguyên khí s sng được làm linh hot bng tâm thc, ra khi các th trong ba cơi thp.

445

 
Như vy, s tng hp vĩ đi xut hin, c̣n s hy dit, cái chết và s tan ră thc ra không là ǵ c tr các tiến tŕnh s sng. S rút ra là ch dn ca din tŕnh, s tiến trin và phát trin. Chính khía cnh này ca Đnh Lut S Sng (hay là Đnh Lut Tng Hp như nó thường được gi trong vài hàm ư rng hơn) mà các đim đo đ đc bit bàn đến.

                                                 Luận v By Cung q V

S sng được tiếp cn theo quan đim ca Người Quan Sát, ch không theo quan đim ca người tham d trong thc nghim và kinh nghim hin nay trong ba cơi thp (hng trn-t́nh cm -h trí)… nếu h là các đ t được đim đo, h càng lúc càng không chú ư đến các hot đng, và các phn ng ca phàm ngă ca h, v́ mt vài trng thái ca phàm ngă hin nay được điu chnh và được thanh luyn đến ni chúng b rơi xung dưới ngưỡng ca tâm thc và đă nhp vào thế gii ca bn năng; do đó không có hiu biết ǵ v chúng nhiu hơn là mt người đang ng biết v hot đng nhp nhàng ca th xác ca ḿnh trong lúc ng. Đây là mt chân lư sâu xa và phn ln không được biết đến. Nó được liên kết vi toàn b tiến tŕnh s chết, và có th được xem như mt trong các lư gii v s chết; nó nm gi manh mi đi vi các ngôn t huyn bí “ngun cha s sng”(“the reservoir of life”). S chết thc ra là vic không hay biết v nhng ǵ có th đang din ra dưới h́nh thc này hoc h́nh thc khác, nhưng dưới mt h́nh thc mà thc th tinh thn hoàn toàn không hay biết. Ngun cha s sng là ch ca s chết, và đây là bài hc th nht mà đ t đang hc…

                                              Lun V By Cung,  q.  V

Các mục đích của Tử Vong

446

 
Qua cái chết, mt tiến tŕnh chuc li ln lao được xúc tiến; trong “s rơi ca mt cái lá” và đưa đến qu là s đng nht hóa ca nó vi đt nơi nó rơi xung, chúng ta có mt minh ha nh v tiến tŕnh to ln và trường cu ca vic chuc li (at-one-ing) qua vic tr thành và chết đi theo kết qu ca vic biến dch.    Lun V By Cung, quyn II, trang 173.

Tôi nói v s chết vi tư cách mt người biết được vn đ theo kinh nghim thế gii bên ngoài và biu l ca s sng bên trong: “Không có S Chết. Như bn biết, có s nhp vào s sng sung măn hơn. Có s t do thoát khi các cn tr ca nhc th. Din tiến ra khi gây nhiu kinh s không xy ra, ngoi tr trong các trường hp chết d di và bt ng, và lúc đó ch có các khó chu thc s là mt cm giác tc thi, và có tính áp đo ca cái nguy him và hy dit sp xy ra, và mt điu ǵ đó rt gn vi mt cơn đin git. Không thêm ǵ na. Đi vi người kém tiến hóa, cái chết theo nghĩa đen là mt gic ng và mt s quên đi, v́ th trí không đ tnh thc đ phn ng, c̣n kho cha ca kư c th́ đến gi thc s trng rng. Đi vi người tt b́nh thường, chết là mt tiếp tc ca din tiến sinh đng trong tâm thc ca y, và mt tiến hành các quan tâm và các khuynh hướng ca s sng. Tâm thc và ư thc hiu biết ca y cũng y như vy, không thay đi. Y không cm nhn được nhiu sai bit, chú ư k, và thường không hay biết rng y đă tri qua giai đon t trn. Vi người ích k, xu xa và đc ác, vi người phm ti và đi vi mt s ít người ch sng theo khía cnh vt cht, đưa đến kết thúc là gp t́nh trng mà chúng ta gi là “ly trn”(“earth-bound”). Mt xích mà h đă rèn vi cơi trn và khuynh hướng v phía cơi trn ca mi dc vng ca h, bt h vn li sát cơi trn và cui cùng gn cht h vào môi trường cơi trn. H tuyt vng t́m cách và bng mi cách có th có, cố tiếp xúc li vi cơi trn và tái nhp vào đó. Trong vài trường hp, t́nh thương cá nhân to tát đi vi nhng người b b li sau hoc là vic chưa làm tṛn mt nhim v đă được biết và cp bách, duy tŕ cái tt lành và đp đ trong mt t́nh hung hơi ging. Đi vi người t́m đo, chết là tc khc nhp vào mt lĩnh vc phng s và biu l mà y rt quen thuc và y tc khc nhn ra như không có ǵ mi m. Trong các gi ng, y đă phát trin mt lĩnh vc phng s tích cc và mt lĩnh vc hc hi. Gi đây, y ch hot đng trong lĩnh vc đó trong toàn b hai mươi bn gi (nói bng các thut ng ch thi gian trn thế) thay v́ ch có vài gi theo thông l ca gic ng cơi trn.                Lun V Huyn Linh Thut, trang 300 – 301

447

 
Theo thiên lut, cái chết thc s xy ra bng vic đt đến mc tiêu, và do đó ngưng hết hoài băo. Th dĩ thái ca mt người, mt Hành Tinh Thượng Đế và mt Thái Dương Thượng Đế, tan ră, tr nên không c̣n tp trung (non-polarised) v phía ch th ca nó na, và thế là đ cho thoát ra. Nói khác đi, không c̣n mt ngun thu hút na, cũng không có mt đim tp trung t lc. Nó tr nên vô t lc và Đnh Lut Hút vĩ đi không c̣n kim chế nó na; do đó, s tan ră là t́nh trng tiếp theo sau ca h́nh hài.     

 Lun V La Càn Khôn, tr 129 – 130

“Thiên Lut đ̣i hi có s thu nhp ca nhng ǵ có th tiến hành mt thay đi”.

Hăy nh li nhng ǵ mà tôi đă đưa ra nơi khác, điu hin nhiên là những ǵ phi t́m li vào là cái thiết yếu được tp trung vn s, khi được khi đng trong mt cá nhân, mt tp th, mt quc gia, mt gii trong thiên nhiên (mt trung tâm hành tinh) và trong hành tinh nói chung, nghĩa là đng thi trong mi trung tâm hành tinh, s gây nên mt náo đng, mt mc đ thay đi, mt chuyn đng và mt đng lc thúc đy mi m, mt s xut hin và mt tru xut tiếp theo sau. Các thay đi xy ra trong các trung tâm khi cái chết ca xác thân xy ra mà chưa bao gi được quan sát hoc ghi li; tuy nhiên chúng rơ ràng hin hu trước con mt ca đim đo đ và t ra lư thú và đem li hiu biết. Chính vic nhn thc t́nh trng các bí huyt đă giúp cho đim đo đ biết –khi nào vic cha tr nên tiến hành – dù cho vic cha tr xác thân có được phép hay không. Bng cách xem xét, y có th thy liu yếu t ư chí ca tru xut, mà tôi đă nhc đến, có đang hin hu mt cách linh hot hay không. Cùng mt tiến tŕnh có th được thy đang xy ra trong các t chc và các nn văn minh mà trong đó khía cnh h́nh hài đang b hy dit đ cho s sng có th được tách ra, và sau đó li kiến to cho chính nó mt h́nh hài thích hp hơn. Chính là cùng theo các tiến tŕnh khai m ln này, vn không nhng ch là các tiến tŕnh m rng tâm thc mà là được bt r trong cái chết hoc tiến tŕnh trit thoái, đưa đến vic phc sinh và thăng thiên.

448

 
Nhng ǵ dn ti thay đi là vic phóng ra (dùng cách din đt hoàn toàn không thích hp) năng lượng ư chí có điu khin và có tp trung. Vic này có tính cht thu hút đến ni nó kéo v chính nó s sng ca các bí huyt, đưa ti s tan ră ca h́nh hài tr vic phóng thích (release) s sng. Cái chết đến vi cá nhân theo nghĩa thông thường ca t ng khi ư-chí-mun-sng trong mt xác thân không c̣n, và ư-mun-thu-hi (will-to-abstract, ư-mun-tách-ra) xy đến. Chúng ta gi đó là s chết. Trong trường hp chết v́ chiến trn chng hn, lúc đó không phi là trường hp ư-chí-trit-thoái ca cá nhân, mà là mt tham gia b bt buc vào mt s tách ra tp th. T chn riêng ca nó, linh hn ca tng người nhn ra vic kết thúc chu kỳ lâm phàm và triu hi s sng ca nó. Nó làm vic này qua vic phóng ra năng lượng ư chí đ mnh đ mang li thay đi… Đc Christ có nói đến vic tách ra này có liên h ti trung tâm hành tinh ln th ba, tc nhân loi, khi Ngài phán (và Ngài nói vi tư cách Đng Đi Din Thánh Đoàn, tc trung tâm hành tinh th hai, mà mi nhân loi đt được đim đo đu “trit thoái” vào đó v mt huyn bí) “Nếu được thăng lên, Ta s kéo mi người đến vi Ta”. Mt cách din đt khác cho cách nói này ca Ngài s được phán ra vào cui k nguyên khi Đc Chưởng Qun Đa Cu s phán t Shamballa (trung tâm hành tinh th hai), s tách nguyên khí s sng (life principle) ra khi Thánh Đoàn, lúc đó mi s sng và tâm thc s được tp trung vào bí huyt đu ca hành tinh – Hi Đng Huyn Linh Shamballa.

449

 
“Thiên Lut phán quyết rng các thay đi được to ra như thế s loi b h́nh hài, đưa tính cht ra ánh sáng và nhn mnh vào s sng”.

đây, ba khía cnh ln – h́nh hài, tính cht và s sng– được đưa vào liên h và mc đ ca mc tiêu tiến hóa, được nh́n thy dưới ánh sáng đích thc ca nó – S Sng. Hăy ghi nhn cách din t này. H́nh hài hay sc tướng, v́ đă đáp ng mc tiêu ca nó, lin biến mt. Cái chết ca h́nh hài xy ra. Tính cht (quality), tc thuc tính thiêng liêng chính đang phát trin trong hành tinh này, tr nên thng thế, “biết được chính nó”– theo cách din t ca các kinh sách c. Nó được đng nht hóa và tr thành cá bit, nhưng nó không có h́nh hài đem ra áp dng, ngoi tr h́nh hài ca tng th ln mà nó có v trí ca nó trong đó. Không h́nh hài ln không tính cht (không th xác ln không tâm thc) nào là cao nht trong trng thái hin tn mi, ch có trng thái s sng, tc tinh thn trên cơi riêng ca nó, tr thành yếu t chiếm ưu thế. Mt ít ánh sáng m yếu v ư nghĩa ca điu này có th đến nếu bn nh rng by cơi ca chúng ta ch là by cơi ph ca cơi hng trn vũ tr. Tiến tŕnh nhy cm đang phát trin trong cơ tiến hóa tht phân này phi được tri qua đ giúp đim đo đ hot đng trên cơi cm dc vũ tr, khi được trit thoái hay được tru xut sau các cuc đim đo cao. Đim đo đ được tách ra khi s sng hành tinh ca chúng ta nói chung. Yếu t duy nht có th ngăn cn điu này, và điu đó có th là cam kết ca Ngài đ tm thi phng s bên trong ṿng hn đnh ca hành tinh. Các v trong Thánh Đoàn là nhng v t cam kết vi vic này, các Ngài đă bt đu có tâm thc B Đ và con đường đi xung ca các Ngài (hiu theo huyn bí hc) là t K Hành Hương Vĩnh Cu, Đc Chưởng Qun Đa Cu, kế đến Đc Pht và ri Đc Christ. Qua s chn la t do, các Ngài vn đng nht hóa vi “tính cht được nh́n thy bên trong ánh sáng” và đi vi kỳ hn ca vic phng s được đáp tr mt cách t do ca các Ngài. Làm vic vi khía cnh tâm thc đ sau đó nhn mnh vào khía cnh s sng….                                                         Lun V By Cung q. V

450

 
Mười tám ngn la phi m dn; các s sng th yếu (tiêu biu cho nguyên khí ca h́nh hài, ca dc vng và ca tư tưởng, toàn th ca tính sáng to, được da vào t́nh thương thu hút) phi quay v vi ngun cha s sng và không ǵ b b li tr ra nhng ǵ làm cho chúng hin hu, cái ư chí chính yếu vn được biết do các hiu qu ca bc x hay hơi th ca nó.

S phân tán, cái chết hoc tan ră này, thc ra là mt hiu qu ln được to ra bi mt Nguyên Nhân chính yếu và do đó có hun lnh: “H phi mang li điu này bng cách kêu gi Ư Chí”… Đ t phi t́m ra nhóm ca ḿnh trong Huyn Vin ca Chân Sư và chế ng S Chết vi quyết tâm và hiu biết đy đ – k thù truyn kiếp ca S Sng. Y phát hin rng cái chết ch là mt hiu qu được to ra bi s sng và bi ư chí hu thc ca ḿnh, và là mt cách mà nh đó y điu khin vt cht và kim chế vt cht. Điu này tr nên có th thc s xy ra, v́ nh đă phát trin hiu biết v hai trng thái thiêng liêng –hot đng sáng to và t́nh thương– bây gi y đă tp trung trong trng thái cao nht và biết được chính ḿnh là Ư Chí, S Sng, T Ph, Chân Thn, Đng Duy Nht.

               Lun v By Cung q. V

451

 
Cuc biến đng ln trong mi gii ca thiên nhiên đă nêu lên đc đim ca ngày và thế h hôm nay, mt hy dit kinh hoàng mi h́nh hài ca s sng thiêng và trong mi gii đă là âm điu (note) ni bt ca s biến đng này. Nn văn minh hin đi ca chúng ta đă nhn mt cú đánh chí t mà nó s không bao gi hi phc li được, mà mt ngày nào nó s được nhn biết như là “tác đng gii thoát”(“blow of release”) và như là du hiu cho nhng ǵ hay hơn, mi m và thích hp cho tinh thn đang tiến hóa đ giúp nó xut hin. Các năng lượng ln đang thu nhp, và các lc gi ra chúng đă đáp ng trong s xung đt, nói mt cách bóng dáng, vn đă nâng cao gii khoáng cht vào các bu tri và đă đem xung la t bu tri. Tôi đang nói vi bn thc tế ch không ch bng biu tượng. Các th ca nam, n và tr con, cùng thú vt, b hy dit; các h́nh hài ca gii thc vt và các mănh lc ca gii khoáng cht b tan ră, b phân tán, b phá hy. S sng c kết ca mi h́nh hài trong hành tinh đă tm thi được làm cho ri rc. Ging như mt li tiên tri c đă dy: “Không mt Linh Âm hp nht đích thc nào phát ra t h́nh hài đến h́nh hài, t s sng đến s sng. Ch có tiếng kêu đau thương, mt nhu cu phc hi và mt thnh nguyn đ gim thng kh, tuyt vng và c gng vô hiu phát ra t đây đến Đó”.

Mi biến đng này ca “đt” ca thế gian – v tinh thn, tâm lư và th cht – mi ri lon này ca h́nh hài và ca mi đường biên quen thuc ca s sng hành tinh chúng ta, phi xy ra trước khi có th xy đến s xut hin ca thánh đoàn trong tâm thc qun chúng; mi điu này phi làm công vic ca nó da vào linh hn con người trước khi K Nguyên Mi có th đến, mang theo nó vic Phc Hi các Bí Pháp và vic phc hi ca con người trên Đa Cu. C hai hài ḥa cùng nhau. Đy là mt trong các đim chính mà tôi đang t́m cách thc thi. S phá v, tan ră và các t́nh trng hn đn hoàn toàn kéo dài trong năm trăm năm qua trong tt c các gii ca thiên nhiên, cui cùng đă to ra li thoát ca chúng vào các t́nh trng vt cht song hành. Đim này tt lành và đáng mong mun; nó đánh du giai đon m đu cho vic kiến to mt thế gii hoàn ho hơn và vic to nên các h́nh thc s sng thích hp hơn và vi các tư thái chính xác hơn ca con người, cng thêm vic đnh hướng lành mnh hơn đến thc ti. Cái tuyt ho chưa hin hu.

452

 
Mi vic được nhanh chóng phơi bày ra – cái tt và cái xu, cái ưa thích và cái không ưa thích, cái quá kh và tương lai (v́ c hai ch là mt); lưỡi cày ca Thượng Đế hu như làm xong công vic ca nó; lưỡi gươm ca tinh thn chia ct cái quá kh t hi ra khi cái tương lai chói li và c hai được xem như góp phn vào Thiên Nhăn (Eye of God); nn văn minh vt cht ca chúng ta s được xem như được thay thế nhanh chóng bng mt văn hóa tinh thn hơn; các t chc giáo hi ca chúng ta vi các thn hc có gii hn và ti tăm ca nó, chng bao lâu s b thay thế bi Thánh Đoàn vi giáo hun đang xut hin ca nó – minh bch, xác thc, xut phát t trc giác và không vơ đoán (nondogmatic).               

                                                  Lun V By Cung q. V

Khao khát mănh lit cuc sng hu t́nh tc là mê đm (attachment). Điu này có sn trong mi h́nh hài, đang t tn ti (selfperpetuating) và ngay đến người rt minh triết cũng biết nó.

Khi S Sng hay Tinh Thn t trit thoái, th́ v mt huyn linh h́nh hài chết đi. Khi s suy tưởng ca ego hay là Chân Ngă bn bu vào cơi riêng ca nó, th́ không h có năng lượng tuôn ra ngoài hướng v vt cht ca ba cơi thp, thế là không h có vic kiến to h́nh hài, và không s mê đm h́nh hài nào có th xy ra. Điu này phù hp vi phương châm huyn bí, đó là “năng lượng theo sau tư tưởng”, và cũng phù hp vi giáo lư cho rng th (body) ca nguyên khí Christ (th B Đ) ch bt đu được phi kết khi các xung lc thp tàn t… Mê đm vào h́nh tướng hoc s thu hút ca h́nh tướng vào Tinh Thn là đi xung lc tiến hóa giáng h. Chán ghét h́nh tướng và do đó s tan ră ca h́nh tướng là đi xung lc tiến hóa thăng thượng.

                      Ánh Sáng ca Linh Hn, trang 137 – 138

453

 
Khi nhân, tc dc vng, đă to ra qu ca nó, tc phàm ngă hay khía cnh sc tướng ca con người, th́ by gi, chng nào mà ư-chí-mun-sng c̣n tn ti, chng đó sc tướng s vn c̣n. Nó được gi cho biu l nh sinh lc trí tu. Điu này đă được minh chng nhiu ln trong niên giám y hc, v́ người ta đă chng minh rng chng nào mà quyết tâm mun sng vn tn ti, chng đó kỳ gian kh hu ca kiếp sng cơi trn c̣n kéo dài. Nhưng vào lúc mà ư-chí-mun-sng được thu hi, hoc s quan tâm ca ch th trong h́nh hài không c̣n được tp trung vào biu l phàm ngă na, th́ s chết mi xy ra và s tan ră ca h́nh-trí-tu, tc th xác, mi xy ra.                  Ánh Sáng Ca Linh Hn, trang 397

Có hai đường tiến hóa chính, mt đường liên quan đến vt cht và sc tướng, c̣n mt liên quan ti linh hn, trng thái tâm thc, ch th suy tưởng đang biu l. Đi vi mi đường li này, no tiến hóa đu khác nhau, và mi đường đu theo hành tŕnh ca nó. Như đă được ghi nhn, trong mt thi kỳ dài, linh hn t đng nht hóa vi khía cnh h́nh hài và n lc đi theo “Con Đường T Vong”, v́ l con đường ti tăm li rt thc đi vi ch th suy tưởng. V sau, nh kiên tŕ n lc, s đng nht hóa này chm dt; lúc đó linh hn mi biết được chính ḿnh và biết đến con đường riêng ca ḿnh, tc là dharma (thiên trách), và lúc đó mi đi theo con đường ánh sáng và s sng. Tuy nhiên, nên nh rng, vi c hai trng thái, con đường riêng ca chúng vn là con đường đúng, và các thôi thúc n trong th xác hoc trong th cm dc t chúng đu không có ǵ sai trái. Chúng tr nên sai trái theo vài khía cnh nào đó khi b xuyên tc không cho s dng đúng, và chính nhn đnh này đă làm cho v đ t trong Sách ca Job kêu lên và bo: “Tôi đă làm lch lc nhng ǵ công chính”. Hai li phát trin tách ra và riêng bit, mi người t́m đo phi hc thuc điu này.

                     Ánh Sáng ca Linh Hn, trang 402 – 403

Thuật từ trần

454

 
Đnh v tim, linh hn chính là nguyên khí s sng, nguyên khí t quyết, ht nhân trung ương ca năng lượng dương/tích cc, nh đó mi nguyên t ca xác thân được gi đúng v trí ca chúng và ph thuc vào “ư-mun-tn-ti” ca linh hn. Nguyên khí s sng này s dng ḍng máu như là cách biu l và như là phương tin kim chế ca nó, và qua s liên lc cht ch ca h thng ni tiết đi vi ḍng máu, chúng ta có hai trng thái ca hot đng: linh hn được đưa li vi nhau đ giúp cho con người tr thành mt thc th linh hot, hu thc và hot đng do linh hn chi phi, và th hin mc tiêu ca linh hn trong mi hot đng ca sinh hot hng ngày.

Do đó, cái chết theo nghĩa đen là s trit thoái ra khi tim và đu hai ḍng năng lượng, kết qu là mt ư thc hoàn toàn và s tan ră hoàn toàn ca xác thân. Chết khác vi ng ch c hai ḍng năng lượng đu trit thoái. Khi ng, ch có tuyến năng lượng đang bám cht vào óc được trit thoái, và khi điu này xy ra, con người không c̣n ư thc na. Do điu đó, chúng tôi mun nói rng tâm thc hay ư thc hiu biết ca người này được tp trung nơi khác. Chú tâm ca y không c̣n được hướng đến các s vt hu h́nh cơi trn, mà được chuyn vào mt thế gii hin tn khác và được tp trung vào mt b máy hay là cơ cu khác. Khi chết, c hai tuyến đu được trit thoái, hay là được hp làm mt trong sinh mnh tuyến (life thread). Sinh lc không c̣n đi vào qua ḍng máu và tim không c̣n hot đng, ging như óc không c̣n ghi nhn và như thế s im lng dn đến. Ngôi nhà b b trng. Hot đng ngưng li, ngoi tr loi hot đng gây ngc nhiên và cp bách vn là đc quyn ca chính vt cht, và vn t biu l trong tiến tŕnh phân hy. Do đó, theo mt vài khía cnh, tiến tŕnh đó nêu ra s hp nht ca con người vi mi th thuc v vt cht; nó chng minh rng con người là mt phn ca chính thiên nhiên, và do thiên nhiên chúng ta hiu rng th xác ca S Sng duy nht mà trong Ngài “chúng ta sng, hot đng và hin tn”. Trong ba t ng này –sng, hot đng và hin tn– chúng ta có toàn b lch s. Hin tn (being) là hiu biết, ngă thc và t biu hin (self- expression), đu và óc ca con người là các biu tượng bên ngoài ca điu này. S Sng (living) là năng lượng, dc vng trong h́nh tướng, s c kết và s bám cht vào mt ư tưởng, tim và máu là các biu tượng ca điu này. Hot đng (moving) cho thy s hp nht và đáp ng ca thc th hin tn, hiu biết, sinh đng vào trong hot đng ph quát, bao t, ty tng và gan là các biu tượng ca điu này.

455

 
Cũng cn lưu ư rng, v́ l đó, cái chết xy ra dưới s ch đo ca Chân Ngă, cho dù con người có th không hay biết v s ch đo đó. Tiến tŕnh t đng din ra vi đa s người, v́ (khi linh hn rút li s chú ư ca nó) th́ phn ng không tránh khi trên cơi trn là cái chết, do s rút ra ca hai tuyến s sng và năng lượng lư trí, hoc là do s rút ra ca tuyến năng lượng vn được phm đnh bng tính cht trí tu, đ li ḍng s sng vn c̣n hot đng qua tim, mà không h có hiu biết sáng sut (có l đây là t́nh trng đi sng thc vt? ND). Linh hn đang vướng bn nơi khác và bn tâm trên cơi riêng ca ḿnh vi các vic riêng ca ḿnh.

                  Lun V Huyn Linh Thut, tr 496–497

Trước khi tiếp tc đ tài này vi chi tiết đy đ hơn, tôi mun nói đến “mng lưới trong năo” (web in the brain”), mng lưới này c̣n nguyên đi vi đa s người, nhưng li không tn ti đi vi người sáng sut đă được khai ng.

Như bn biết, trong cơ th người, chúng ta có mt th sinh lc (vital body) tri dài bên dưới vn là đi phn ca xác thân, th này ln hơn th xác, và chúng ta gi là th dĩ thái (etheric body or double). Đó là mt th mang năng lượng (energy body) và được to thành bng các trung tâm lc và các nadis hay là các tuyến lc (force threads). Các phn này n bên dưới hay là các đi phn ca b máy thn kinh – gm các dây và hch thn kinh. hai ch trong cơ th người có các l thoát, tôi tm dùng mt nhóm t vng v như thế. Mt khe h nm trong huyt đan đin, c̣n khe kia nm trong năo đnh đu. C hai được che ch bng mt mng được đan li cht ch bng cht dĩ thái, bao gm các tao dây đan vào nhau cha năng lượng s sng.

456

 
Trong tiến tŕnh chết, áp sut ca năng lượng s sng đp vào mng lưới, cui cùng to ra mt l thng hay khe h. Nh khe h đó mà sinh lc s sng tuôn đ khi sc mnh ca nh hưởng tách ra ca linh hn tăng lên. Trong trường hp ca thú vt, tr con và ca người nam ln n, h hoàn toàn tr vào (polanised) th xác và th cm dc, li thoát ra là huyt đan đin, và chính mng lưới đó b đâm thng, như vy đ cho thoát ra ngoài. Trong trường hp ca mu người thiên v trí tu, ca các thành phn nhân loi tiến hóa cao, chính mng lưới đnh đu trong vùng thóp (fontanelle) b nt v, như thế đó là ch thoát ca người suy tư lư lun.

Do đó, trong din tiến t trn, đây là hai li thoát chính: huyt đan đin đi vi người an tr vào th cm dc, người có khuynh hướng v vt cht, và do đó thuc đi đa s nhân loi, và bí huyt đầu đi vi người an tr vào trí tu và người có đnh hướng v tâm linh. Đây là yếu t th nht và quan trng nht cn nh, và s d dàng nhn thy làm thế nào mà xu thế ca mt chiu hướng s sng và tiêu đim chú ư ca s sng đnh đot cách thoát ra (ca linh hn–ND) lúc t trn. Cũng có th nhn thy rng mt n lc đ kim soát đi sng t́nh cm và bn cht t́nh cm, và đnh hướng bn ngă con người vào thế gii trí tu và vào các s vic tâm linh, có mt tác dng rt quan trng vào các khía cnh hin tượng ca din biến t trn.

Nếu nhà nghiên cu biết suy tư minh bch, điu s hin nhiên vi y là có mt li thoát liên quan đến người có khuynh hướng tâm linh và tiến hóa cao, trong khi li ra kia liên quan đến người tiến hóa thp, ít khi h tiến hóa hơn tŕnh đ con thú. Vy th́ điu ǵ xy ra đi vi người bc trung. Mt li ra th ba hin nay đang tm thi được dùng; ngay bên dưới đim cao nht ca tim, mt lưới dĩ thái khác được t́m thy đang bao bc mt ch thoát. Do đó, chúng ta có t́nh hung sau:

1. Li thoát đu được dùng bi người thuc loi thiên v trí tu, bi các đ t và các đim đo đ trên thế gii.

457

 
2. Li thoát tim, được dùng bi người nhân hu, có ho ư, h là công dân tt, huynh đ thông minh và k hot đng nhân ái.

3. Li thoát trong vùng huyt đan đin, được dùng bi người có bn cht thú tính mnh.

Đây là đim mu cht đu tiên trong thông tin mi m vn s t t tr nên hiu biết thông thường phương Tây trong thế k ti (thế k XXI–ND). Nhiu điu trong s đó đă được biết bi nhng k có suy tư phương Đông và có bn cht ca mt bước đu hướng v mt hiu biết sáng sut v din biến t trn.                Lun V Huyn Linh Thut, trang 500

Liên quan ti k thut t trn, vào lúc này tôi ch có th đưa ra mt hoc hai gi ư. đây tôi không bàn đến thái đ ca người theo dơi chăm sóc bnh nhân, tôi ch bàn đến các đim mu cht, vn s giúp cho vic ĺa trn ca linh hn chuyn tiếp được d dàng hơn.

Trước nht, hăy đ cho pḥng người bnh được tĩnh lng. Dĩ nhiên, đây là trường hp thường thy. Cn nh rng người hp hi có th thường trng thái vô thc. Hin tượng vô thc này ch b ngoài mà không có thc. Khong chín trăm trong s mt ngàn trường hp vn có s hiu biết ca b óc, vi ư thc đy đ v các vic xy ra, nhưng có s hoàn toàn tê lit ca ư mun biu l và hoàn toàn bt lc đ phát ra năng lượng, nó s báo hiu c̣n sng. Khi s im lng và s hiu biết ng tr trong pḥng bnh nhân, linh hn sp ra đi có th sáng sut làm ch khí c ca ḿnh cho đến phút cui cùng, và có th chun b đúng lúc.

458

 
Sau này, khi hiu biết thêm v màu sc, th́ ch có ánh sáng màu cam mi được đt trong pḥng người bnh đang hp hi, và các ánh sáng này s ch được lp đt vi nghi thc đúng, khi chc chn không có kh năng phc hi. Màu cam giúp tp trung trong đu, cũng như màu đ kích thích huyt đan đin, c̣n màu lá cây có hiu ng rơ rt lên tim và các lung sinh khí (life streams).

Mt vài loi nhc s được dùng khi hiu nhiu liên h vi âm thanh, nhưng cho đến nay không có âm nhc nào s làm d dàng cho công vic ca linh hn khi rút chính nó ra khi cơ th, mc du mt vài âm điu trên đàn organ được thy là có hiu qu. Vào đúng lúc t trn, nếu nt riêng ca mt người được gióng lên, nó s kết hp c hai ḍng năng lượng, và cui cùng ct đt sinh mnh tuyến, nhưng cho đến nay, vic hiu biết v điu này quá nguy him không th truyn đt, ch có th được trao truyn sau này. Tôi xin nêu ra tương lai và các đường li mà vic kho cu huyn môn trong mai sau s din tiến theo đó.

Người ta cũng s thy rng sc ép trên mt vài trung tâm thn kinh và trên mt vài đng mch s làm d dàng cho công vic, và môn hc t trn này được bo qun Tây Tng như nhiu nhà nghiên cu đu biết. Sc ép lên trên tĩnh mch c và trên mt s thn kinh ln trong vùng đu và trên mt đim đc bit trong hành ty s được thy là có ích và có hiu qu. Mt khoa hc rơ rt v cái chết tt nhiên s được son tho t m, nhưng ch khi nào s tht v linh hn được nhn biết và liên h ca nó vi th xác đă được chng minh bng khoa hc.

459

 
Các câu chú cũng s được dùng và dt khoát đưa vào tâm thc người hp hi do nhng người chung quanh y, hoc được vn dng có ch ư và v mt tinh thn bi chính y. Đc Christ đă chng minh công dng ca chúng khi Ngài kêu to: “Hi Cha, Con xin giao tinh thn ca Con vào tay Cha”. Và chúng ta có mt thí d khác trong các li: “Hi Chúa, gi đây cu xin Ngài đ cho k tôi t ca Ngài ra đi an b́nh”. Vic thường xuyên dùng Linh T, xướng lên khe kh hay là theo mt âm điu đc bit (k hp hi s được thy đáp ng vi âm đó), sau này có th to thành mt phn ca nghi thc ca s chuyn tiếp, được kèm theo bng vic xc du, như được duy tŕ trong Giáo Hi Thiên Chúa. Vic Xc Du Thánh lúc lâm chung có mt căn bn huyn linh, khoa hc. Đnh đu người hp hi cũng s quay v hướng Đông, chân và tay nên được bt tréo. Ch có g đàn hương (sandal wood) nên được đt trong pḥng, không được đt nhang bt c loi nào, v́ g đàn hương là hương trm thuc Cung Mt, tc Cung Hy Dit, c̣n linh hn đang trong tiến tŕnh hy dit trú s ca ḿnh.                                    Lun V Huyn Linh Thut, trang 505

Nếu có mt yếu t mà nhng người t́m đo nhn biết, đó là cn gii thoát chính ḿnh khi Đi Hăo Huyn. Arjuna biết được điu này, nhưng không chng ni tht vng. Tuy thế, trong lúc đó, Krishna không làm y tht vng, mà đ ra trong Kinh Gita qui lut đơn gin mà nh đó s nn ḷng và nghi ng có th được vượt qua. Các qui lut đó có th được tóm gn như sau:

a. Nên biết chính người là Đng bt t.

b. Kim chế trí ngươi, v́ qua cái trí đó có th nhn biết Đng bt t.

c. Nên biết rng h́nh hài ch là bc màn che giu cái huy hoàng ca Thượng Đế.

d. Hiu được rng S Sng Duy Nht tràn ngp mi h́nh hài, thế nên không h có t vong, không h có thng kh, không h có chia ly.

e. Do đó hăy tách chính ngươi ra khi khía cnh h́nh hài và đến vi Ta, nh thế an trú nơi có Linh Quang và S Sng. Thế là hăo huyn chm dt.   

 Lun v Huyn Linh Thut, tr 308

460

 
Mt Đc Thy nhn biết ư nghĩa ca mi h́nh hài giam nht; kế đó Ngài bt đu kim soát và vn dng thiên lut trên cơi phù hp vi h́nh hài. Kế đó Ngài t b h́nh hài và vt b nó v́ các h́nh hài khác và cao hơn. Như thế, Ngài đă luôn luôn tiến b bng s hy sinh và t vong ca h́nh hài. Luôn luôn nó được nhn ra như đang giam nht, luôn luôn nó phi được hy sinh và chết đi đ cho s sng bên trong có th luôn luôn lướt nhanh và tiến lên. Con đường phc hi bao hàm thp giá h́nh và t vong, ri kế đó dn ti đnh núi nơi mà S Thăng Thiên (Ascension) diễn ra.

Thư v Tham Thin Huyn Linh  t. 261

Tác Động Phục Hồi

Khi xem xét tâm thc ca linh hn sp ra đi (chú ư câu đó) khi nó đm trách tác đng phc hi, ln na, tôi mun nói rng tôi đang bàn đến ch đ vn không có bng chng vt cht hu h́nh. Đôi khi con người li được đưa v cuc sng cơi trn khi đúng thi đim có s phc hi đy đ cơi trn. Điu này ch có th làm được chng nào mà thc th hu thc vn c̣n chiếm th dĩ thái, dù vic tách ra ca nhc thân có liên quan đến mi ư đnh và mc tiêu đă được hoàn tt. Dù cho th dĩ thái thâm nhp toàn b xác thân, nó li ln hơn là xác thân đó nhiu, c̣n th cm dc và bn cht trí tu có th vn c̣n tr vào th dĩ thái ngay c xác thân đă chết – vic ngưng mi hot đng ca tim và vic tp trung ca t đim dĩ thái căn bn trong vùng đu hoc tim, hoc đan đin – đă có hiu qu và vic trit thoái đă din ra trôi chy.

461

 
Trước tiên, các lc dĩ thái được rút vào phn m rng chung quanh ca ṿng hn đnh dĩ thái, trước khi có s tan ră cui cùng, s tan ră đó đ cho con người t do đóng vai tṛ là mt nhân hn, bên trong ṿng gii hn ca th cm dc ca ḿnh. đây bn có mt trng thái hơi mi m ca din tŕnh t trn. S trit thoái ca th dĩ thái ra khi ch ca nhc thân thường được mc nhiên công nhn và đưa ra. Nhưng cho dù điu đó có được hoàn tt, cái chết vn chưa hoàn toàn; nó vn c̣n ch hot đng th hai ca ư chí ca linh hn. Hot đng th hai này s có kết qu trong mi lc dĩ thái đang tan vào mt ci ngun xut phát, vn là kho cha chung ca các lc. Đng quên rng th dĩ thái không có s sng riêng bit ca chính nó. Nó ch là mt pha trn ca tt c các lc và năng lượng vn làm linh hot th xác và thúc đy th xác vào hot đng trong chu kỳ sng bên ngoài. Cũng nên nh rng năm bí huyt trên xương sng không trong th xác, mà nm mt vài đim riêng bit trong cht dĩ thái song song. Ngay trong trường hp ca người kém phát trin, và hơn na trong trường hp ca người b́nh thường, ít nht chúng cũng cách xa xương sng ca th xác đến hai inch (5,08cm). Ba bí huyt đu cũng bên ngoài nhc thân. Vic nh li điu này s làm d dàng cho vic t́m hiu ca bn v phát biu cho rng xác thân thc cht b b trng khi cái chết được đm nhim bi các thm quyn quán sát, tuy nhiên, nếu như con người không được phép chết thc s. Tôi cũng xin nhc bn nh rng điu này cũng đúng đi vi nhiu bí huyt nh cũng như các bí huyt chính mà chúng ta rt quen thuc.

462

 
Bí huyt cui trong các bí huyt nh “tàn t vào hư không” đ b tan ră thành toàn b cht dĩ thái, là hai bí huyt có liên quan cht ch vi và trong vùng phi. Chính trên hai bí huyt này mà linh hn tác đng nếu được gi v đi vào nhc thân v́ lư do nào đó. Chính khi chúng xoay s vic quay v hay là đi vào hot đng mi mà linh khí s sng (breath of life) tr li vi h́nh hài vt cht b b trng. Đó là mt nhn thc vô h́nh v điu đang to ra nguyên nhân thôi thúc ca tiến tŕnh thường được tiến hành trong tt c các trường hp chết đui hoc ngt th. Khi mt người chết v́ bnh, và th xác tt nhiên là yếu t, các bài tp phc hi như thế không th dùng được và không nên dùng. Trong các trường hp chết đt ngt do tai nn, t t, ám sát, đau tim đt xut, hoc do din biến ca chiến tranh, cú va chm mnh đến ni din tiến có phn chm răi ca vic trit thoái ca linh hn b hoàn toàn hóa gii, c̣n vic b trng ca th xác và vic tan ră hoàn toàn ca th dĩ thái gn như đng thi. Trong các trường hp thông thường chết v́ bnh tt, vic trit thoái chm li, và (khi khi u ác tính ca bnh không gây nên hư hi quá ln ca cơ quan vt cht có liên quan) có th có s quay v trong mt thi kỳ ngn hoc dài. Điu này thường xy ra, nht là khi ư-chí-mun-sng c̣n mnh, hoc nhim v s sng cho đến nay chưa được hoàn thành và không kết thúc tht đúng.

463

 
Có mt đim khác mà tôi mun nhc ti và nó có liên quan đến s xung đt không ngừng xy ra gia các cp sóng đôi ca nhc thân và th dĩ thái. Tinh linh hng trn (vn là tên được đt cho s sng hi nhp ca th xác) và linh hn, khi nó t́m cách trit thoái và làm tan ră toàn b các năng lượng phi hp ca th dĩ thái, li gp xung đt d di, nên tiến tŕnh thường d di và kéo dài; chính trn chiến này vn được tiến hành trong thi kỳ dài hoc ngn ca cơn hôn mê, nó là đc trưng cho nhiu trường hp lâm chung. Nói v mt huyn bí, hôn mê có hai loi: có loi “hôn mê v́ chiến đu” (“coma of battle”) đi trước cái chết thc s; có loi “hôn mê đ phc hi” xy ra khi linh hn đă trit thoái tuyến hay là trng thái tâm thc, mà không trit thoái sinh mnh tuyến (life thread) trong mt nỗ lực mang li cho tinh linh hng trn th́ gi đ ly li sc bám cht (grip) ca nó vào cơ th và nh thế phc hi li sc khe. Cho đến nay, khoa hc hin đi không phân bit được gia hai trng thái hôn mê này. Sau này khi nhăn thông dĩ thái hoc nhăn thông cm dc tr nên ph cp hơn, tính cht ca hôn mê đang ph biến s được biết rơ, và các yếu t hy vng hoc tht vng s không c̣n kim chế na. Các bn bè và các h hàng ca người bt tnh s biết chính xác phi chăng h đang trông thấy mt s trit thoái ln, và cui cùng ra khi ln luân hi hin nay hoc ch chng kiến mt tiến tŕnh phc hi. Trong trường hp sau, linh hn vn gi li nh hưởng ca nó trên th xác, xuyên qua các trung tâm lc, nhưng vn duy tŕ tm thi mi tiến tŕnh đem vào năng lượng. Các ngoi l cho vic duy tŕ này là bí huyt tim, lá lách và hai bí huyt nh tiếp cn vi b máy hô hp. Các bí huyt này s vn đem sinh lc b́nh thường, cho dù các hot đng ca chúng phn nào b yếu đi; và nhờ chúng mà s kim soát được duy tŕ. Khi ư đnh ca linh hn là chết thc s, lúc by gi s kim chế (control over) lá lách xy ra trước tiên; kế đó, s kim chế hai bí huyt nh tiếp theo, cui cùng s kim chế bí huyt tim đt ngt xy ra và con người t trn.

Đon trên sẽ mang li cho bn mt s ư tưởng v nhiu đim liên quan vi cái chết vn c̣n phi được y hc chính thng khám phá, và chúng s được tiết l khi nhân loi ngày càng đt được s nhy cm.

Tôi đ̣i hi bn nh rng trong mi xem xét hin nay, chúng ta đang bàn đến các phn ng và các hot đng ca linh hn, nó đang cân nhc thu hồi trng thái lâm phàm ca nó v́ mt chu kỳ sng đă kết thúc. Kỳ hn ca chu kỳ sng đó có th dài hoc ngn, tùy theo các mc tiêu có liên quan; nó có th ch gm mt vài năm rt ngn ngi hoc mt thế k. Trước by tui, sc sng/kh năng sinh tn (vitality) ca tinh linh hng trn là yếu t đnh đot phn ln. Lúc đó linh hn tr vào th dĩ thái, nhưng không vn dng đy đ mi bí huyt, nó ch có s kim chế nh nhàng tng chp và mt hot đng thúc đẩy nh nhàng bc đng – đ đ duy tŕ tâm thc, đem sinh lc cho các qui tŕnh vt cht khác nhau, và khi đu vic biu l đc đim và tính khí. Các qui tŕnh này tr nên ngày càng rơ rt cho đến hai mươi mt tui, khi chúng n đnh thành cái mà chúng ta gi là phàm ngă. Trong trường hp các đ t, vic gi cht ca linh hn vào các bí huyệt dĩ thái s tr nên mnh m hơn t ngay lúc bt đu cuc sng hng trn. Lúc lên mười bn tui, tính cht và bn cht ca linh hn lâm phàm, và thi kỳ gn đúng hay là kinh nghim ca nó được đnh đot, tinh linh hồng trần, cm dc và trí tu đu dưới s kim soát, và linh hn, tc con người tâm linh bên trong, sn sàng đnh đot các xu hướng và các chn la trong kiếp sng.

464

 
Trong trường hp ca người thường, khi cái chết được d kiến, đu tranh gia tinh linh hng trn vi linh hn là mt yếu t riêng bit; v mt huyn linh được gi là “khi hành Lemuria” (“Lemurian departure”); trong trường hp người b́nh thường, khi vic tp trung s sng trong bn cht dc vng, s xung đt xy ra gia tinh linh cm dc vi linh hn, và điu này được gán cho danh xưng “cái chết ca người thi Atlantis”; khi nào có liên quan đến đ t, s tranh chp s thun trí tu hơn và thường được tp trung quanh ư-chí-phng-s và vic đnh đot đ hoàn thành mt khía cnh đc bit ca Thiên Cơ và ư-chí-quay-v (will-to-return) vi toàn b lc lượng hướng v trung tâm Huyn Vin. Trong trường hp các đim đo đ, không h có tranh chp mà ch có s trit thoái hu thc và thong th. Điu khá kỳ l, nếu có s tranh chp, th́ đó s là gia hai mănh lc tinh linh lúc đó c̣n lại trong phàm ngă: tinh linh hồng trần và s sng h trí. Không h có tinh linh cm dc trong vn c ca mt đim đo đ cao cp. Dc vng đă hoàn toàn b siêu vit xét v bn cht ca riêng cá nhân.

CÁC YU T ĐI ĐU VI S TRIT THOÁI CA LINH HN

Do đó, trong cái chết ca th xác và trong tác đng phc hi, linh hn đang trit thoái phi đi phó vi các yếu t sau đây:

1. Tinh linh hồng trần, tc s sng hi nhp và phi kết ca th xác, bao gi cũng t́m cách gi chung vi nhau dưới các lc hút ca mi thành phn ca nó và s tương tác ln nhau ca chúng. Lc này tác đng qua mt s các huyt th yếu.

465

 
2. Hin th dĩ thái, vn có mt s sng phi kết mnh m ca riêng nó, biu l qua by bí huyt chính, các bí huyt này phn ng dưới năng lượng thôi thúc ca cm dc, h trí và ca linh hn. Nó cũng tác đng qua vài huyt nh vn không được dành đ đáp ng vi trng thái đó ca vn c ca con người mà H.P.B. cho là không phi mt nguyên khí – cơ cu nhc thân.

Do đó, các bí huyt nh được thy nm trong hai nhóm: các nhóm đáp ng vi s sng ca vt cht trng trược, đáp ng vi trng thái m, và chúng rơ ràng là trên cung tiến hóa giáng h; các nhóm này là di sn t thái dương h trước trong đó toàn b con người được kim soát xuyên qua các huyt nh này, vi ch có rt ít các huyt ln báo hiu l m trong trường hp ca các đim đo đ và các đ t tiến hóa ca thi đó. Th hai, các bí huyt vn đáp ng vi các năng lượng đt ti chúng xuyên qua các huyt chính; lúc đó các huyt này đến dưới s kim soát ca th cm dc và b máy trí tu. Tt nhiên, bn s thy ti sao, ở trước trong B Lun này, tôi đưa tham kho theo sau cho các huyt nh. Tuy thế, có th là có li cho bn khi k ra hai mươi mt huyt nh nm đâu. Chúng có th nm các đim sau:

1. Hai huyt đàng trước hai tai, sát vi xương quai hàm.

2. Hai huyt ngay trên hai vú.

3. Mt huyt ni tiếp vi xương ngc, sát vi tuyến giáp trng. Huyt này vi hai huyt vú, to thành mt tam giác lc.

4. Hai huyt, mi huyt trong ḷng bàn tay.

5. Hai huyt, mi cái trong ḷng bàn chân.

6. Hai huyệt nằm ngay sau hai mắt.

7. Cũng có hai huyệt, liên hệ với tuyến sinh dục.

466

 
8. Một huyệt sát cạnh gan.

9. Một huyệt, liên quan với bao tử; do đó nó liên quan vi huyt đan đin, nhưng không đng nht vi huyt này.

10. Hai huyt liên thông vi lá lách. Thc ra, các huyt này hp thành mt trung tâm lc, nhưng mt trung tâm lc như thế được hp bi hai huyt được chng cái này lên cái kia.

11. Hai huyt, mi huyt sau mi đu gi.

12. Có mt trung tâm mnh nm sát cnh vi thn kinh phế v. Đây là huyt mnh nht và mt vài trường phái huyn linh hc xem như là huyt chính; nó không trong ct sng, nhưng không xa tuyến c nhiu.

13. Một huyệt nằm sát với đan điền, và liên kết với huyt chót xương sng, như vy to thành tam giác gm huyt xương cùng, đan đin và huyt chót xương sng.

Hai tam giác nói đến trong bng lit kê thc quan trng. Mt trên và mt dưới cơ hoành.

467

 
Ln na, din tŕnh chết có th được xem như hot đng kép và là hot đng trước tiên có liên quan đến th dĩ thái. Trước tiên có s tp hp và s thu hi cht dĩ thái, đ cho nó không c̣n xuyên thu vào cơ cu nhc thân na, s dày đc (densification, mt t tôi chn có cân nhc) tiếp theo sau ca nó trong vùng đó ca th dĩ thái vn luôn luôn b bao quanh mà không xâm nhp vào nhc thân. S vic này đôi lúc được gi sai là hào quang sc khe, và nó có th được chp h́nh d thành công trong din biến chết hơn là bt c lúc nào khác, nh bi s tích lũy các lc b thu hi đ vài inch bên ngoài xác thân hu h́nh. Chính đim này trong kinh nghim ca linh hn rút ra mà “t ng s chết” được nói đến, và chính là trước khi có s din đt này ca ngôn t này mà mt s quay v vi người c̣n sng cơi trn có th xy ra, và các lc dĩ thái được rút ra có th li xâm nhp vào cơ th. Mi liên h vi tt c các lc rút ra, cho đến thi đim này, được gi li xuyên qua bí huyt đu, hoc bí huyt tim, hoc huyt đan đin, cũng như xuyên qua hai huyt nh ngc.

Trong sut thi gian này, ư thc ca người hp hi được tp trung trong th t́nh cm (tc cm dc) hoc là th trí, tùy tŕnh đ tiến hóa. Y không trng thái vô thc như k bàng quan suy đoán, mà là biết đy đ bên trong chính ḿnh v nhng ǵ đang xy ra. Nếu y tp trung mnh m vào s sng cơi trn, và nếu đó là cái ham mun vượt tri mà y biết đến nhiu nht, th́ by gi y có th làm mnh thêm s xung đt. Lúc đó, bn s có tinh linh hồng trần tranh chp mănh lit đ̣i tn ti, bn cht dc vng đu tranh đ làm chm li tiến tŕnh chết, c̣n linh hn, nhm vào vic rút ra và hoàn tr. Điu này có th thường to cơ hi cho tranh chp vn hoàn toàn bên ngoài đi vi nhng k bàng quan. Khi nhân loi tiến bộ và phát trin, cuc đu tranh tay ba này s tr nên ít hơn nhiu; ham mun đi vi s sng hng trn s không có v thu hút na, và hot đng ca th cm dc s hết đi.

468

 
Tôi mun bn có th có được mt bc tranh (xét v mt biu tượng) ca mt người đang lâm phàm đy đ và có ci r trong giai đon kinh nghim ca ḿnh, và v mt người đang rút ra khi kinh nghim đó. Vic đó có hàm ư vic lp li trên mt qui mô nh v các din biến hành tinh to tát ca tiến hóa giáng h và tiến hóa thăng thượng; nó liên quan đến các hot đng vn to ra mt tp trung (focussing) hay là an tr (polarisation) vào mt trong hai hướng; nó ging vi nhng ǵ có th được xem như mt tiến tŕnh tuôn đ s sng và ánh sáng vào mt cái bn/vi (vessel) trên cơi trn, hay là mt s tăng cường phát x ca s sng và ánh sáng đó vi mt bn cht mnh đến ni dưới sc mnh kêu gi ca linh hn, c hai đu rút ra và gom li vào trung tâm ca s sng và ánh sáng nơi mà chúng đến lúc đu. đây tôi đă trao cho bn (có th bn nhn biết điu đó) mt đnh nghĩa v đim đo, mà là mt trong mt cách din đt hơi bt thường. Có l mt vài hàng t Cm Nang T Vong vn phi được t́m thy trong văn kh ca Thánh Đoàn s chng gii cho bn, và có th giúp bn có được mt trin vng mi v cái chết. Cm nang này cha nhng ǵ được gi là “các cách thc đi trước Pralaya”. Các cách thc này bàn đến mi cái chết hay là các tiến tŕnh tru xut (tách ra), bao gm cái chết ca mi h́nh hài, dù là cái chết ca mt con kiến, mt con người hoc mt hành tinh. Các công thc ch liên quan đến hai trng thái ca s sng và ánh sáng – cái th nht b chi phi bi Linh Âm (Sound); cái th hai b chi phi bi Linh T (Word). Tài liu mà tôi có trong trí liên quan đến ánh sáng, c̣n Linh T vn tách nó ra khi h́nh hài, hoc tp trung nó bên trong h́nh hài.

468

 
“Hi Đ T, hăy ghi nh rng bên trong lĩnh vc đă biết không có ǵ tr ra ánh sáng đáp ng vi Linh T. Nên biết rng ánh sáng đó giáng xung và tp trung vào chính nó; nên biết rng t đim tp trung đă chn ca nó, nó soi sáng lănh vc riêng ca nó, cũng nên biết rng ánh sáng đó đi lên và đ li trong bóng ti nhng ǵ mà nó – trong thi gian và không gian – soi sáng. S đi xung và đi lên này con người gi là s sng, s hin tn và s chết; Chúng Ta, Nhng Người bước trên Con Đường Sáng gi điu này là cái chết, kinh nghim và s sng.

Ánh sáng đi xung, t nó bám cht vào cơi sc tướng tm b. By si ch mà nó treo bên ngoài và by tia sáng đp nhp theo các si ch này. Hai mươi mt si ch nh hơn ta ra t đó, to ra bn mươi chín la ta sáng và cháy rc. Trên cơi ca s sng biu l, ngôn t phát ra: Xem kia! Mt người được sinh ra.

469

 
Khi s sng tiếp din, tính cht ca ánh sáng xut hin; nó có th lu m và u ám, hoc rc r, sáng chói và chiếu rng. Thế là các đim sáng bên trong Ngn La Thiêng (Flame) qua li; chúng đến ri đi. Con người gi đó là s sng; h gi cái đó là s hin tn đích thc. Như vy h t la di chính ḿnh, tuy phng s mc tiêu ca linh hn h và làm cho thích hp vào Thiên Cơ vĩ đi hơn.

Và kế đó mt Linh T phát ra. Đim ánh sáng giáng xung, ta chiếu thăng lên, đáp ng vi âm điu kêu gi được nghe thy mơ h, b thu hút vào ci ngun xut phát ca nó. Con người gi điu này là s chết c̣n linh hn gi đây là s sng.

Linh T gi li ánh sáng trong s sng; Linh T rút li ánh sáng, và ch Cái Đó (That) c̣n li, nó là chính Linh T. Linh T đó là Linh Quang. Linh Quang đó là S Sng, và S Sng là Thượng Đế”.

S biu l ca th dĩ thái trong thi gian và không gian có trong nó cái mà v mt huyn bí được gi là “hai thi đim ta chiếu”. Th nht, đây là thi đim trước khi có s lâm phàm trong xác thân, khi ánh sáng đi xung (mang theo s sng) được tp trung bng hết sc mnh ca nó chung quanh th xác và lp nên mt liên giao vi ánh sáng bên trong ca chính vt cht, nm trong mi nguyên t ca vt cht. Ánh sáng tp trung này s được thy t tp trung trong by vùng ca ṿng-gii-hn ca nó, như vy to ra by trung tâm chính vn s kim soát biu l ca nó và s sng ca nó trên cơi bên ngoài, nói v mt huyn bí. Đây là thi đim ta chiếu ln lao; nó hu như mt đim ánh sáng đang nhp nhàng, bùng lên thành ngn la, và dường như bên trong ngn La đó, by đim ánh sáng được tăng cường đă h́nh thành. Đây là mt cao đim trong kinh nghim đ chn Luân hi và đi trước vic sinh ra th xác bng mt thi khong rt ngn. Chính đó là cái đưa ti gi sinh. Theo cái thy ca người có nhăn thông, giai đon kế ca tiến tŕnh là giai đon thu nhp, trong đó “by tr thành hai mươi mt và kế đó thành đa tp”; cht ánh sáng (light substance), tc trng thái năng lượng ca linh hn, bt đu tràn ngp th xác và công vic sáng to ca th dĩ thái hay th sinh lc được hoàn tt. Nhn biết đu tiên v điu này trên cơi trn là “âm thanh” phát ra ca tr sơ sinh. Nó là tt đnh ca din tŕnh. Tác đng sáng to ca linh hn gi đây hoàn tt; mt ánh sáng mi ta chiếu trong ch ti tăm.

470

 
Thi đim ta chiếu th hai xy ra ngược vi tiến tŕnh này và báo trước giai đon hoàn tr và s tách ra cui cùng ca năng lượng ni ti, ca chính nó bi linh hn. Cái nhà ngc bng xác tht b tan ră bng vic trit thoái ca ánh sáng và s sng. 49 La bên trong cơ cu xác thân tàn đi; sc nóng và ánh sáng ca chúng được cun hút vào hai mươi mt đim ánh sáng nh hơn; đến phiên chúng các đim sáng này được thu hút bi by trung tâm năng lượng chính. Kế đó “Linh T Phn Hi”được phát ra và khía cnh tâm thc, bn cht tính cht, ánh sáng và năng lượng ca con người lâm phàm, được thu hi vào th dĩ thái. Nguyên khí s sng cũng rút ra khi tim. Tiếp theo mt ánh sáng đin tinh khiết lóe lên sáng rc, và sau cùng “th ánh sáng” (“body of light”) phá v mi tiếp xúc vi nhc thân, tp trung trong mt giai đon ngn trong th sinh lc, và kế đó biến mt. Tác đng phc hi được hoàn tt. Toàn b tiến tŕnh ca vic tp trung các yếu t tinh thn trong th dĩ thái, vi s tách ra theo sau và s tan ră tiếp theo ca th dĩ thái s được hi thúc phn ln bng vic dùng ha táng thay cho chôn ct.

Hai Lư Do Chính Nên Dùng Hỏa Táng

Nói v mt huyn linh, vic ha táng là cn thiết v́ hai lư do chính. Nó thúc đy vic phóng thích các th tinh anh (vn c̣n bao ph linh hn) ra khi th dĩ thái, nh thế mang li s gii thoát trong vài gi thay v́ vài ngày; nó cũng là mt phương tin rt cn đ mang li s thanh lc cho cơi cm dc và đ ngăn chn khuynh hướng “chuyn đng hướng xung” ca dc vng vn cn tr rt nhiu linh hn đang lâm phàm. Nó có th không t́m thy đim tp trung nào, v́ v thc cht la xua tan trng thái to h́nh (form-making aspect) ca dc vng và là mt biu hin chính ca Thượng Đế mà cơi cm dc không có liên h thc s nào vi nó, hoàn toàn được to ra bi nhân hn (human soul) ch không phi bi hn thiêng (divine soul). “Thượng Đế chúng ta là mt ngn la hay thiêu rụi” là phát biu trong Thánh Kinh, có liên quan vi trng thái thiêng liêng th nht, trng thái hy dit, gii phóng s sng. “Thượng Đế là t́nh thương” ng ư trng thái th hai và din t Thượng Đế như là s sng lâm phàm. “Thượng Đế là mt Thượng Đế ganh t” là mt din đt nêu ra Thượng Đế dưới h́nh thc sc tướng, b gii hn và hn chế, duy ngă (self-centered) ch không hướng ngoi. Linh Âm hy dit; Linh T thu hút; Ngôn T bit ngă hóa !

471

 
Lúc t trn, ngôn t (speech) nh dn v́ Linh T (Word) ngân lên và s hoàn tr được tăng thêm sc mnh; sau đó, Linh T không c̣n được nghe na v́ Linh Âm (Sound) phá hy hoc thu hút nó, và lúc đó có s hoàn toàn loi b tt c nhng ǵ quy ry Linh Âm. Lúc đó, im lng cht đến và chính Linh Âm không c̣n được nghe na; s an b́nh hoàn toàn theo sau tác đng hp nht cui cùng. Đây là cách nói huyn bí, mô t toàn b tiến tŕnh s chết.

Điu quan trng cn đ ư chính là dưới Đnh Lut Hút cơ bn mà Thut T Trn được tiến hành, và chính trng thái bác ái, tc trng thái th hai ca Thượng Đế, mà s thu hút din ra. Tôi không xét đến các trường hp chết đt ngt. Có lúc hot đng là kết qu ca tác nhân phá hy, tc là trng thái thiêng liêng th nht. Có lúc t́nh trng li khác hn; cái tt yếu v nghip qu có th không b liên ly chút nào, c̣n các lư do qui đnh ca tp th và ca t́nh trng ti tăm ln lao có th n sau s vic như thế. Thế nên, ti tăm là ch đ lúc này mà tôi s không c làm sáng t. Bn không biết nhiu v Đnh Lut Karma, v s dính líu Karma ca nhóm, hoc v các liên h và các bn phn được thiết lp trong các tin kiếp. Thí d, khi tôi nói rng vào dp “linh hn có th ri b cánh ca che ch đang m đ cho các lc t vong li có th tiến vào, không h có mt đim tp trung nào đàng sau cánh ca” đ “nhanh chóng hơn xóa b các h́nh pht đă qua đúng lúc”, bn có th thy toàn b vn đ này có th ti tăm ra sao.

472

 
Trong tt c nhng ǵ mà tôi đang viết ra đây, tôi ch bàn đến các din tŕnh t trn b́nh thường – t trn v́ hu qu ca bnh tt, tui già hoc ư mun bt buc ca linh hn, nó đă hoàn tt mt chu kỳ kinh nghim được phác tho và đang vn dng các vn hà b́nh thường đ đt các mc tiêu được d trù. Trong các trường hp này, cái chết là b́nh thường, và nhân loi cn hiu điu này vi s nhn ni, cm thông và hy vng to tát hơn.

Dưới Đnh Lut Hút, vào cui chu kỳ sng và vi ư đnh có cân nhc, linh hn vn dng lc hút ca nó cách nào đ hóa gii lc hút có sn trong chính vt cht. Đây là mt minh đnh v nguyên nhân căn bn ca cái chết. Không h có s tiếp xúc nào vi linh hn được thiết lp hu ư, v́ trong trường hp ca đa s con người hin nay, cái chết xy đến như mt biến c đi trước không mong đi hoc bun ru. Tuy nhiên, đó là mt hot đng đích thc ca linh hn. Đây là ư nim tinh thn ln đu tiên cn được nêu ra khi ni s chết được dit tr. S chết được xúc tiến dưới Đnh Lut Hút, và ch yếu là s tách dn dn và một cách khoa hc th sinh lc ra khi nhc thân, sau rt đưa đến vic loi b mi tiếp xúc ca linh hn trong ba cơi thp.

Tŕnh Tự Các Sự Việc Lúc Chết

473

 
Tôi nhn thy rng điu tt nht tôi có th làm đ minh gii ch đ này rơ hơn, là mô t tŕnh t các s vic xy ra vào phút lâm chung, xin nhc bn rng có ba đim tách ra cui cùng: đu, đi vi đ t và đim đo đ và cũng đi vi người tiến hóa đă m trí; tim đi vi người t́m đo, người có thin chí, và đi vi mi người đă đt được mc hi nhp phàm ngă và đang c gng làm tṛn, bng hết kh năng ca h, đnh lut bác ái; cui cùng là đan đin đi vi người kém phát trin và người an tr vào th t́nh cm. Mi điu tôi có th làm là lit kê các giai đon ca din biến, đ cho bn chp nhn chúng như mt gi thuyết thú v và kh hu, ch chng thc; tin vào chúng vô điu kin, bi v́ bn đă tin vào hiu biết ca tôi, hoc bác b chúng như là hoang tưởng, không th kim chng và không có ǵ là quan trng. Tôi đ ngh cái th nht trong ba cái, v́ nó s cho phép bn duy tŕ nguyên vn th trí ca bn, nó s báo hiu mt th trí rng m, đng thi nó s che ch cho bn khi s c tin và khi trí óc hp ḥi. Thế th́ ba giai đon này là:

1. Linh hn phát ra mt “lnh trit thoái” t cơi riêng ca nó, lp tc mt din biến bên trong và phn ng bên trong được khơi dy trong con người trên cơi trn.

 a/ Mt s biến c sinh lư hc xy ra khu vc bnh, có liên quan vi tim và cũng nh hưởng ti ba h thng ln vn chi phi rt mnh con người xác tht: ḍng máu, h thn kinh vi các biu hin khác nhau ca nó và h thng ni tiết. Tôi s không bàn đến các tác đng này. Bnh lư hc v s chết được biết rơ và đă nhn được nhiu nghiên cu v mt công truyn. Nhiu điu vn c̣n cn được khám phá và sau này s được t́m ra. Trước tiên, tôi quan tâm đến các phn ng bên trong, mà xét cho cùng, s mang li khuynh hướng bnh lư hc đưa đến t vong.

474

 
 b/ Mt rung đng chy dc theo các nadis. Như bn biết, nadis là các đi phn bng cht dĩ thái ca toàn b h thn kinh, và chúng nm dưới mi dây thn kinh đơn đc trong toàn b xác thân. Chúng là các tác nhân ưu tú ca các xung lc có hướng dn ca linh hn, phn ng vi hot đng rung đng phát ra t đi phn dĩ thái ca b óc. Chúng đáp ng vi Lnh ch huy (directing Word), phn ng vi “sc thu hút” (“pull”) ca linh hn và kế đó t chc chính chúng cho vic tách ra.

 c/ Ḍng máu tr nên b tác đng theo mt cách huyn linh đc bit. Chúng ta được dy, “máu là s sng”. V mt bên trong, nó b thay đi theo kết qu ca hai giai đon trước, nhưng trước tiên theo kết qu mt hot đng mà t trước đến gi không được khoa hc hin đi khám phá ra, v́ h thng tuyến chu trách nhim cho vic đó. Khi đáp ng tiếng gi ca s chết, các tuyến đưa vào ḍng máu mt cht mà đến phiên nó, cht này tác đng vào tim. đó, sinh mnh tuyến đang bám cht, và cht này trong máu được xem như là “liên quan đến s chết” (“death dealing”) và là mt trong các nguyên nhân căn bn ca hôn mê và mt ư thc. Nó gi ra mt tác đng phn x trong năo. Cht này và tác đng ca nó s được đt nghi vn, cho đến nay, bi y hc chính thng, nhưng s hin hu ca nó sau này s được nhn ra.

 d/ Mt chn đng tâm linh nh được to ra, nó có hiu qu làm lng ra hoc b găy mi liên quan gia các nadis vi h thn kinh; nh đó th dĩ thái tách ri khi nhc thân ca nó, mc du vn c̣n xâm nhp mi phn ca nhc thân.

2. Thường có mt tm ngng đim này vi mt thi gian ngn hoc dài. Điu này được cho phép đ tiến hành tiến tŕnh ni lng mt cách suông s và không đau đn càng tt. Vic ni lng các nadis bt đu đôi mt. Tiến tŕnh tách ri này thường hin ra trong vic thư giăn (relaxation) và không s hăi mà k hp hi rt thường cho thy; h đ l mt t́nh trng an b́nh, và mt s sn sàng ra đi, cng vi mt bt lc đ đưa ra mt c gng tinh thn. Dường như k hp hi, vn c̣n duy tŕ tâm thc ca y, gom góp các vn liếng ca ḿnh li vi nhau cho ln rút ra cui cùng. Đây là giai đon mà –ni s chết dt khoát mt ln được tách ra khi trí nhân loi – bn bè và quyến thuc ca người qua đi nên “t chc l hi” cho y và nên vui mng vi y v́ y t b xác thân. Hin nay, điu này không th xy ra. S đau bun ng tr, và giai đon trôi qua không được nhn biết và không được vn dng, như nó s hin ra mt ngày nào đó.

475

 
3. Kế đến, th dĩ thái được sp xếp, được tháo lng khi mi liên h thn kinh qua tác đng ca các nadis, bt đu t tp chính nó chung li vi nhau cho ln khi hành cui cùng. Nó rút ra khi các đim tn cùng, hướng v “li thoát” cn đến và t tp trung trong vùng quanh li thoát đó cho ln “kéo ra” cui cùng ca linh hn đang ch đo. Tt c đu tiến hành theo Đnh Lut Hút đến tn đim này – t lc, ư chí thu hút ca linh hn. By gi, mt “lc kéo” khác được cm nhn. Nhc thân, toàn b các cơ quan, các tế bào và các nguyên t, được t t phóng thích khi sc mnh kết hp ca th sinh lc bng tác đng ca các nadis; nó bt đu đáp ng vi sc thu hút ca chính vt cht. Sc này được gi là lc hút “hng trn” (“earth”pull) và được vn dng (exerted) bi loi thc th huyn bí mà chúng ta gi là “chơn linh ca đa cu” (“spirit of the earth”); thc th này đang trên cung giáng h tiến hóa, và so vi hành tinh chúng ta, cũng ging như tinh linh hồng trần (xem li đnh nghĩa trang 245 và 464) đi vi th xác con người. Sc mnh ca s sng cơi trn này ch yếu là s sng và ánh sáng ca vt cht nguyên t (atomic substance) – vt cht mà mi h́nh hài được to thành vi nó. Cht liu ca mi h́nh hài được hoàn tr vào kho cha này ca s sng vt cht và giáng h tiến hóa. S hoàn tr cht liu b trưng dng ca h́nh hài do linh hn chiếm gi trong chu kỳ sng, ct là hoàn li cho “Caesar” này ca thế gii tiến hóa giáng h nhng ǵ ca “Caesar”, trong khi linh hn hoàn li cho Thượng Đế, Đng đă phân phát vt cht đó.

476

 
Do đó, rơ ràng là mt din biến thu hút hai mt giai đon này đang din ra:

a/ Th sinh lc được chun b đ thoát ra.

b/ Th xác đang đáp ng vi s tan ră.

Có th thêm rng mt hot đng th ba cũng đang xy ra. Đó là hot đng ca con người hu thc, đang rút li ư thc ca ḿnh, mt cách kiên đnh và t t, vào th cm dc và h trí, chun b cho vic hoàn toàn tách ra ca th dĩ thái khi đến đúng lúc. Con người tr nên ngày càng ít gn bó vi cơi trn và càng thêm rút li vào trong chính ḿnh. Trong trường hp ca người tiến hóa, din tŕnh này được đm trách mt cách hu thc, và con người gi li các quan tâm thiết yếu và s hiu biết ca ḿnh v s liên h vi nhng k khác ngay c trong khi không c̣n bám cht vào s sng hng trn. Trong lúc tui già, s tách ra này có th được ghi nhn d hơn trong cái chết v́ bnh, và thường thường linh hn hay con người sng đng bên trong có th được nhn thy mt đi vic bám cht vào cơi trn, và đó là cái thc ti không có tht ca ḿnh.

4. Li thêm mt tm ngh tiếp theo. Đây là đim mà tinh linh hồng trần đôi khi ly li nh hưởng ca nó đi vi th dĩ thái, nếu điu đó được linh hn cho là thích hp, nếu cái chết không phi là mt phn ca kế hoch bên trong, hoc là nếu tinh linh hồng trần c̣n mnh m đến ni nó có th kéo dài tiến tŕnh t trn. S sng tinh linh đôi khi s tiến hành mt cuc chiến kéo dài nhiu ngày và nhiu tun. Tuy nhiên, khi cái chết là không tránh khi, vic tm dng đim này s cc kỳ ngn, đôi khi ch trong vài giây. Tinh linh hồng trần đă mt đi nh hưởng ca nó, th dĩ thái ch “cái git mnh” (“tug”) cui cùng t linh hn, tác đng theo Đnh Lut Hút.

477

 
5. Th dĩ thái nhô ra khi nhc thân theo các giai đon t t đim thoát đă chn. Khi s nhô ra này hoàn tt, by gi th sinh lc khoác ly đường nét mơ h ca h́nh hài mà nó tng cp năng lượng, và điu này din ra dưới nh hưởng ca h́nh tư tưởng ca chính nó mà con người đă to nên trong nhiu năm. H́nh tư tưởng này tn ti trong trường hp ca mi người, và phi được hy dit trước khi giai đon loi b th hai được hoàn tt ln cui. Chúng ta s nói đến điu này sau. Dù đă thoát khi ngc tù thân xác, th dĩ thái vn chưa thoát khi nh hưởng ca nó. Hăy c̣n có liên giao yếu t gia c hai, và liên giao này gi cho con người tâm linh vn c̣n gn gi vi xác thân va b b trng. Điu đó gii thích ti sao nhng người có nhăn thông thường cho là thy th dĩ thái lượn l chung quanh giường người chết hoc quan tài. Vn c̣n xâm nhp vào th dĩ thái là các năng lượng sáp nhp mà chúng ta gi là th cm dc và th h trí, c̣n trung tâm có mt đim sáng, nó ch dn s hin hu ca linh hn.

6. Th dĩ thái dn dn b phân tán khi năng lượng to thành nó được t chc li và được rút ra, ch đ li cht sinh khí (pranic substance) vn được đng nht hóa vi th dĩ thái ca chính hành tinh. Như trước đây tôi có nói, tiến tŕnh phân tán này được tr giúp phn ln nh s ha táng. Trong trường hp ca người kém phát trin, th dĩ thái có th nn ná (linger, la cà) trong thi gian dài vùng lân cn ca cái v (shell, ma h́nh) đang tan ră bên ngoài, v́ sc kéo ca linh hn không mnh và trng thái vt cht c̣n hin hu. Khi gp người tiến hóa, do đó đă có s tách bit trong tư duy ca y t lúc cơi trn, s tan ră ca th sinh lc có th cc kỳ nhanh chóng. Khi s tan ră được hoàn thành, tiến tŕnh hoàn tr được viên măn; con người được t do, ít nht cũng tm thi, thoát được mi phn ng đi vi sc thu hút ca cht hng trn (physical matter); y trong các th tinh anh ca ḿnh, sn sàng cho tác đng ln mà chúng ta mnh danh là “Thut Thi Hi” (“Art of Elimination”).

478

 
Mt ư tưởng hin ra khi chúng ta kết thúc vic nghiên cu c̣n thiếu sót này v cái chết ca xác thân dưới hai trng thái ca nó: chính tư tưởng là s toàn vn ca con người ni tâm. Y vn là chính ḿnh. Y không thay đi và không b hn chế; y là mt tác nhân (agent) t do, xét v cơi trn, và hin gi ch đáp ng vi ba yếu t gây nh hưởng:

1. Tính cht ca vn c t́nh cm tinh anh ca y.

2. T́nh trng tâm trí mà y thường sng trong đó.

3. Tiếng nói ca linh hn, thường không quen thuc, nhưng đôi khi được biết rơ và yêu thương.

Cá tính không mt đi; cùng con người vn hin hu trên hành tinh. Ch nhng ǵ đă biến mt vn là mt phn nguyên vn ca sc tướng hu h́nh ca hành tinh chúng ta. Nhng ǵ được ưa thích hoc ghét b, vn đă hu dng cho nhân loi hoc mt n nghip qu đă tng phng s nhân loi, hoc là mt thành viên thiếu hiu năng ca nó, vn tn ti, vn tiếp xúc vi các tiến tŕnh đnh tính và trí tu ca cuc sng, và s măi măi vn c̣n – v mt cá nhân, được phm đnh bng loi cung, mt phn ca gii linh hn và mt đim đo đ cao cp trong nghi thc riêng ca nó.

3. Hai Vấn Đề Hệ Trọng

479

 
Trong các trang trước, tôi đă t́m cách đưa ra mt cái nh́n thu đáo vào bn cht thc ca cái mà chúng ta gi là s chết. Chết là s rút ra, mt cách hu thc hoc vô thc, ca thc th sinh đng bên trong khi cái v bên ngoài ca nó, tc cái tương ng sinh đng bên trong ca nó, và sau rt, đó là vic t b mt hoc nhiu th tinh anh, tùy tŕnh đ tiến hóa ca con người. Tôi cũng đă t́m cách chng minh tính cht b́nh thường ca tiến tŕnh quen thuc này. Ni hăi hùng đi kèm cái chết trên chiến trường hoc bi tai nn, là ch chn đng p ti trong khu vc ca th dĩ thái; tt yếu đưa đến vic sp xếp li nhanh chóng các lc cu to ca nó và đưa li vào t chc, bt ng và không mong đi, các b phn cu thành ca nó đ đáp ng vi tác đng rơ rt bt buc phi chn ca con người trong th trí-cm ca y. Tác đng này không liên quan đến vic đt con người bên trong vào li trong th dĩ thái, mà cn vic tiến đến cùng nhau ca các trng thái tan ră ca th đó theo Đnh Lut Hút, đ s tan ră cui cùng và hoàn toàn ca nó có th xy ra.

Trước khi nói đến ch đ ca chúng ta (Thut Thi Hi), tôi mun gii đáp hai câu hi mà theo tôi dường như rt quan trng; chúng thường được các nhà nghiên cu sáng sut và đng đn đt ra.

480

 
Thc ra, câu hi th nht là biu hin ca s tht vng trong lot các giáo hun này. Nó có th được tŕnh bày như sau: Ti sao Hun Sư Tây Tng không nói v các bnh rơ rt hoc cơ bn và bàn đến bnh lư hc ca chúng, đưa ra cách cha tr hoc gi ư cha tr, nêu ra các nguyên nhân trc tiếp ca chúng và nêu ra chi tiết các din tiến hi phc? Hi huynh đ, v́ v mt k thut, có ít điu mà tôi có th thêm vào nhng ǵ đă được y khoa xác đnh liên quan đến các triu chng, v trí và các khuynh hướng chung mà các t́nh trng nhim bnh xy ra. Vic quan sát, thc nghim, kho sát, sai lm, thành công và tht bi đă mang li cho con người ngày nay mt hiu biết rng răi và dt khoát là chính xác ca các trng thái và hiu qu bên ngoài ca bnh tt. Thi gian và s quan sát được tp luyn thường xuyên, rơ ràng cũng nêu ra cách cha tr hoc các din tiến ci thin hoc các bin pháp pḥng nga (như tiêm nga đu mùa), và các bin pháp này, sau nhiu năm, đă t ra hu ích. Vic t́m kiếm, thc nghim và các phương tin tăng tiến đu đn mà khoa hc cung ng đang đưa thêm vào năng lc ca con người đ tr giúp, đôi khi đ cha tr, đ ci thin thường xuyên và làm gim các phn ng đau đn. Y khoa và khéo léo ca gii phu hc đă tiến rt nhanh – rt nhiu đến đi nhng ǵ được biết ngày nay và hiu được phn nào, có bn cht quá rng và quá rc ri các khía cnh khoa hc và tr liu ca nó đến ni chúng đă to nên các chuyên gia – nhng người này tp trung vào lĩnh vc đc bit, và do đó h ch đi phó vi mt s t́nh trng đau m, nh đó đt được nhiu khéo léo, hiu biết và luôn luôn thành công. Mi điu này đu tt lành, mc cho nhng người lp d và người có cách cha tr nóng ny có th d ngh, hoc ngay c nhng người không c̣n dùng ngh y khoa và thích h́nh thc cúng bái nào đó, hoc các tiếp cn mi m vi vn đ sc khe.

480

 
Lư do khiến các tiếp cn mi m này tn ti, là v́ y khoa đă to được tiến b đến ni gi đây nó đt đến các gii hn ca lĩnh vc thun vt cht, và gi đây sp xy ra vic tiến vào lĩnh vc vô h́nh, và như vy đi đến gn hơn vi thế gii nguyên nhân. Chính v́ lư do này mà tôi đă không phí thi gian vi các chi tiết ca bnh, vi vic lit kê hoc xem xét các bnh đc thù, các triu chng hoc cách cha tr chúng, v́ vic đó được bao gm đy đ trong các sách giáo khoa hin có; chúng cũng có th được thy trong nhiu giai đon khác nhau trong các bnh vin ln ca chúng ta.

Tuy nhiên, tôi có bàn đến các nguyên nhân tim n ca bnh – như là lao, giang mai và ung thư– có sn trong con người cá bit, trong nhân loi nói chung và cũng trong hành tinh chúng ta. Tôi đă vch ra các căn bn tâm lư hc ca bnh và đă nêu ra mt lĩnh vc mi v mt thc hành, trong đó bnh tt – đc bit, trong các giai đon đu – có th được nghiên cu.

481

 
Khi nn tng tâm lư hc ca bnh có th được hiu rơ và bn cht thc s ca nó được y sĩ chính thng, nhà gii phu, tâm lư gia và tu sĩ tha nhn, lúc đó tt c s làm vic cùng nhau trong lĩnh vc hiu biết đang phát trin này, và nhng ǵ mà ngày nay được gi mt cách mơ h là “y hc pḥng nga” s tiến vào ch ca chính nó. Tôi thích đnh nghĩa giai đon này là y hc thc dng v́ cơ cu ca các phương pháp này, nh đó bnh tt s được tránh khi, và cách phát trin các k thut này, nh đó vic hun luyn tâm lư chính xác s được dy ra – t lúc tr tr đi – và nh nhn mnh con người tâm linh bên trong, các t́nh hung này s b ph nhn và các thói quen mà ngày nay tt nhiên đưa đến sc khe kém, dt khoát tránh được bnh v triu chng và sau rt là cái chết.

Trong phát biu trên, tôi không h nhc đến xác nhn hoc suy đoán ca khoa hc như là Khoa Hc Cơ Đc hoc là các trường phái tư tưởng vn truy nguyên mi bnh tt đến sc mnh ca tư tưởng. Tôi quan tâm đến nhu cu trước mt ca vic hun luyn tâm lư hc chính xác, da vào hiu biết v cu to ca con người, da vào môn hc v by cung (các lc đang chi phi con người và làm cho con người có được sc thái riêng ca ḿnh) và da vào chiêm tinh hc ni môn. Tôi đang bàn đến vic áp dng các tri thc mà t trước đến gi được xem như đc thù và thuc ni môn, chúng đang t t xut hin dưới s xem xét chung, và chúng đă to ra s tiến b ln trong hai mươi lăm năm qua. Tôi không quan tâm đến vic hy b cách tr liu y khoa, cũng không bn tâm đến vic hu thun cho các cách cha tr mi –tt c các cách đó đu vn c̣n giai đon thc nghim và tt c đu đóng góp phn nào cho y khoa nói chung; nh s đóng góp có kết hp này, mà s có được mt tiếp cn y hc uyn chuyn hơn và phong phú hơn đi vi bnh nhân.

482

 
H́nh nh mà tôi đă phác ha v bi cnh tâm lư ca mi bnh tt s tr nên dài khi v ra. Cùng lúc, s đóng góp ca y khoa rt cn thiết. Du có li lm, chn đoán thiếu sót và nhiu sai sót, nhân loi không th hành đng mà không có các bác sĩ, nhà gii phu và bnh vin ca ḿnh. H đu vô cùng cn thiết và c̣n cn trong nhiu thế k na. Trong phát biu này không h có lư do đ nn ḷng. Nhân loi không th được đưa vào mt t́nh trng sc khe thân xác hoàn ho ngay tc khc, dù s luyn tp v tâm lư đúng t u thơ s làm được nhiu điu trong ṿng vài thp niên na. Các t́nh trng sai lm đă phát trin t lâu. Nn y hc hin đi phi tr nên ci m nhiu hơn, sn sàng hơn đ hu thun (sau khi có chng c chuyên môn đúng) nhng ǵ mi m, có bn cht canh tân và khác thường. Các tường ngăn được dng lên bi y hc chuyên hóa, phi được h xung, và các trường phái mi phi được t́m kiếm, hun luyn, t́m ṭi, và sau cùng được bao gm trong các hàng ngũ chính thng. Các phái mi, như là các phái liên quan đến đin-tr-liu, phái nn ct sng (chiropractic), chuyên gia dinh dưỡng, h tuyên b là cha mi bnh qua thc phm thích hp, và nht là cha bnh theo phép dưỡng sinh lp d (eccentric naturopaths), cng vi nhiu nghi thc cúng bái và các phái khác na, đng nên t tin mt cách ngo mn rng h có được toàn b câu chuyn, rng phương pháp ca h là phương pháp duy nht, hoc chính h có được mt thuc cha bách bnh (cure-all) đc nht và chc chn.

Các nhóm này, đc bit là nhng người nn ct sng, rơ ràng đă làm hi đi cc ca h và làm suy yếu n lc ca h bng s bo đm được rao to ca h (mt lĩnh vc vn chưa có thc nghim) và bng vic luôn luôn công kích y hc chính thng. Đến phiên nó, y hc chính thng đă t gii hn chính ḿnh do không nhn biết được nhng ǵ hay và đúng trong các trường phái mi; nó gây đi kháng bng tiếng hô hào đ̣i công nhn ca h, và do vic thiếu các phương pháp khoa hc ca h. Cái hoài vng ca y hc chính thng là bo v qung đi qun chúng. H cn phi làm điu này đ tránh các tai ha mà nhng k cung tín và các phương pháp chưa được th nghim s mang li, nhưng h đă đi quá xa mt này. Trường phái tư tưởng mà tôi đă bo tr trong các giáo hun này cũng s được th thách và điu này s chiếm thi gian dài. Tuy nhiên, các hu qu tâm lư và trí tu ca cuc thế chiến s thúc đy rt nhiu s nhn thc v nn tng tâm lư hc đi vi bnh tt và các xáo trn khác; do đó, y hc hin đi đi din vi cơ may chính ca nó.

483

 
Mt s kết hp ca y khoa chân chính (như đă được sn xut bi con người, qua các thi đi dưới s cm hng ca bn th thiêng liêng ca con người) v các khía cnh tr liu mi như đă được gii thích bi nhiu trường phái tư tưởng đang xut hin, có thc hành và thc nghim, nhn thc v các năng lượng đang chi phi con người, tác đng qua by trung tâm lc trong th sinh lc ca y, và vi các nh hưởng chiêm tinh hc cũng chi phi con người, xuyên qua con người ni tâm, sau rt s to ra phương pháp y khoa mi s gi cho con người có sc khe lành mnh, s ngăn chn bnh tt trong các giai đon đu ca nó, và sau rt s khi xướng ra chu kỳ trong các s vic con người, trong đó bnh tt và sc khe kém s là các ngoi l ch không phi là qui lut, như là trường hp ngày nay, và khi đó s chết s được xem như mt hnh phúc và s gii thoát được đnh trước, ch không phi như trường hp ngày nay, là mt k thù gây khiếp s.

Câu hi th hai dt khoát có liên quan đến các din tiến t trn. Câu hi được đt ra: Thái đ ca Chân Sư đi vi s ha táng là ǵ, và dưới các điu kin ǵ vic ha táng nên được noi theo? Tht là mt điu may mn và hnh phúc khi s ha táng ngày càng tr nên qui lut. Không c̣n bao lâu na, vic chôn trong đt s trái vi pháp lut, c̣n vic ha táng s được cưỡng chế, và điu này như là bin pháp cho sc khe và v sinh. Các đa đim có hi cho sc khe, thông linh, gi là nghĩa đa, sau rt s biến mt, ging như vic th phng t tiên đang trôi qua c phương Đông – vi vic th cúng t tiên – và phương Tây – cũng vi vic tôn th đa v kế tha (hereditary position).

484

 
Nh vic dùng la, mi h́nh tướng đu tiêu tan; th hng trn con người b tiêu hy càng mau, nh hưởng ca nó trên linh hn đang trit thoái càng b đt v mau. Rt nhiu điu vô nghĩa được thut li trong văn liu minh triết thiêng liêng thông thường v s cân bng thi gian liên quan vi s hy dit tun t các th tinh anh. Tuy nhiên, cn nên nói rng lúc mà cái chết thc s được khoa hc n đnh (bi y sĩ chân chính chu trách nhim) và đă xác đnh rng không mt tia s sng nào c̣n li trong xác thân, by gi có th thi hành ha táng. Cái chết hoàn toàn và thc s này xy ra khi giác tuyến và sinh mnh tuyến hoàn toàn rút ra khi đu và tim. Đng thi, s tôn kính và thái đ không vi vàng, có v trí đúng ca chúng trong din tiến. Gia đ́nh người chết cn vài gi trong lúc đó điu chnh chính h vi s kin v s biến mt sp đến ca h́nh sc ngoài và thường được yêu thích; vic chăm sóc đúng lúc cũng phi được dành cho các th tc mà quc gia hoc chính quyn đ̣i hi. Yếu t thi gian ch yếu có liên quan đến nhng người b b li sau, đến người sng ch không phi người chết. Vic khng đnh rng th dĩ thái đng nên vi đưa vào la ha thiêu, và vic tin rng th đó phi được đ cho trôi dt đây đó trong mt giai đon n đnh vài ngày, cũng không h có nn tng đích thc nào c. Không có vic cn tŕ hoăn đi vi th dĩ thái. Khi con người bên trong rút ra khi xác thân ca ḿnh, th́ cùng lúc y cũng b đi/ri khi th dĩ thái. Đúng là th dĩ thái quen la cà li trong mt thi gian trên “vùng phân thân” khi th xác được mai táng, và nó thường tn ti cho đến khi s tan ră hoàn toàn ca nhc thân xy ra. Tiến tŕnh ướp xác như được thc hành Ai Cp, và ướp hương liu, như được thc hành phương Tây, hng chu trách nhim cho vic làm tn ti th dĩ thái, đôi khi đến nhiu thế k. Đc bit khi xy ra trường hp khi xác ướp hoc người được ướp hương liu thuc hng có cá tính xu xa trong kiếp sng; th dĩ thái đang lượn l, lúc đó thường “b ám nhp” (“possessed”) bi mt thc th xu xa hoc mt tà lc. Đây là trường hp ca các tn công và các tai ha thường theo sát bước chân ca nhng k khai qut các c m và cư dân các ngôi m đó, tc các xác ướp c, và đưa chúng cùng các vt s hu ca chúng ra ánh sáng. Khi nào có lut ha táng, không nhng ch có hy dit tc khc nhc thân, và phc hi nó vào kho cht liu, mà th sinh lc cũng tc khc tan ră, các lc ca th đó được cun sch bi lung ha, đi vào kho cha năng lượng sinh đng. Bao gi nó cũng là mt phn không th tách ri ca kho cha đó, hoc dưới t́nh trng sc tướng, hoc dưới t́nh trng vô sc tướng. Sau cái chết và ha táng, các lc này vn tn ti, nhưng được hp thu vào tng th tương t. Hăy ngm nghĩ v câu nói này, v́ nó s mang li cho bn manh mi đi vi công vic sáng to ca tinh thn con người. Nếu s tŕ hoăn là cn thiết do t́nh cm gia đ́nh, hoc s đ̣i hi ca chính quyn, vic ha thiêu nên theo sau cái chết trong ṿng ba mươi sáu gi; khi nào không có lư do đ tŕ hoăn, vic ha thiêu có th được din ra trong mười hai gi. Tuy nhiên, hăy khôn ngoan ch mười hai tiếng đng h đ chc chn là chết thc s.

 

 

485

 
 



486

 
CHƯƠNG VI

 

THUT LOI B

 

Đ tiếp tc li ḍng giáo hun ca chúng ta, gi đây chúng ta s xem xét hot đng ca con người tâm linh bên trong, con người này đă tách ra khi th xác và th dĩ thái ca ḿnh, gi đây đang bên trong cái v ca th tinh anh – mt th làm bng cht cm dc hay cht t́nh cm, và bng cht trí. Do vic an tr mnh m vào th t́nh cm ca người b́nh thường, cái ư tưởng đă ăn sâu rng, sau khi chết thc s, trước tiên con người rút vào th cm dc ca ḿnh, và ri sau đó vào th h trí. Nhưng thc ra không phi như vy. Mt th được cu to chủ yếu bng cht cm dc là nn tng ca ư tưởng này. Cho đến nay, ít người phát trin đến mc cái hin th mà h thy chính ḿnh trong đó sau khi chết, phn ln làm bng cht trí. Ch có đ t và đim đo đ, tc là k hu như sng trong th trí ca ḿnh, mi thy chính ḿnh, sau khi chết, tc khc trên cơi trí. C̣n hu hết con người phát hin chính ḿnh trên cơi cm dc, khoác trong mt lp v bng cht cm dc (astral matter) và phải chịu vào mt giai đon loi b bên trong lĩnh vc huyn tưởng ca cơi cm dc.

Như trước đây tôi có nói vi bn, cơi cm dc không có thc, mà là mt sáng to hăo huyn ca gia đ́nh nhân loi. Tuy nhiên, t gi tr đi (qua s tht bi ca các tà lc và s tht bi thm hi mà bên Hc Đo hng chu), cơi cm dc t t tr thành mt to vật đang chết, và trong giai đon cui cùng ca lch s nhân loi (trong căn chng th by) nó s không c̣n hin hu. Đây không phi là trường hp ngày nay. Cht t́nh cm vn to thành cơi cm dc,vn c̣n được gom li thành các h́nh hài hăo huyn và vn to thành mt tường ngăn trên con đường ca linh hn t́m ti siêu thoát. Nó vn c̣n “giam cm” nhiu người ĺa trn trong khi phn ng chính ca h đi vi s sng là phn ng ca ham mun, ca nim tin do mơ ước và ca cm th v t́nh cm. Đây vn c̣n là đi đa s. Cơi cm dc xut hin vào thi Atlantis; lúc đó trng thái ư thc trí tu thc s chưa có, mc dù “các con ca trí tu” đă có v trí ca chúng trên cái mà ngày nay là các mc đ cao ca cơi đó. Nguyên t thường tn trí tu cũng hu như yên lng trong mi h́nh hài con người, và tt nhiên không có “sc lôi cun” thu hút t cơi trí, như trường hp ngày nay. Nhiu người vn trong tâm thc thi Atlantis, và khi h chuyn ra trng thái tâm thc hng trn và vt b th xác nh phân ca h, h phi đi din vi vn đ loi b th cm dc, nhưng h có ít điu cn làm đ gii thoát chính h ra khi bt lun ngc tù trí tu nào ca linh hn. Đây là nhng người kém phát trin và b́nh thường, sau khi loi b th cm dc, h có ít chuyn khác đ làm; không có th trí nào đ kéo h vào hi nhp trí tu, v́ không có mt sc mnh tp trung v mt trí tu nào; cho đến nay, linh hn (đây là hồn thiệng – ND) trên các phân cnh trí tu cao, “trong trng thái thin đnh sâu xa” và hoàn toàn không biết cái bóng ca nó (shadow) trong ba cơi thp.

487

 
Do đó, thut loi b thuc vào ba loi:

1. Khi thc hành bi nhng người có tính cht và cu to thun cm dc. Chúng ta gi đây là người “có bn cht cm dc” (“kamic” people).

488

 
2. Khi được thc hành bi nhng người quân b́nh, h là các phàm ngă hi nhp và h được gi là các “cá nhân trí cm” (“kama-manasic” individuals).

3. Khi được thc hành bi người tiến hóa và các đ t thuc mi cp mà phn ln h thiên v trí tu trong “tiêu đim sng” (“living focus”) ca h. Đây là nhng người được gi là các ch th “trí tu” (“manasic” subject).

Cùng các qui lut căn bn kim soát h, nhưng trng đim khác nhau trong mi trường hp. Tôi mun bn ghi nh rng nơi nào không có b óc hng trn và khi nào trí óc kém phát trin, con người ni tâm thc s thy chính ḿnh b ph kín trong mt cái v bng cht cm dc và trong mt thi gian dài b ch́m đm vào trong cái mà chúng ta gi là cơi cm dc. Người trí cm có cái được gi là “t do ca đi sng song đôi” và thy chính ḿnh s hu được mt h́nh thc kép vn cho phép y tiếp xúc tùy ư vi các phân cnh cao ca cơi cm dc và các phân cnh (cơi ph) thp ca cơi h trí. Tôi li xin nhc bn rng không h có b óc hng trn đ ghi nhn các tiếp xúc này. Hiu biết ca tiếp xúc là tùy thuc vào hot đng t nhiên ca con người ni tâm và trng thái hiu biết và đánh giá đc bit ca y. Người thiên v trí tu có mt th trí m nht vi mt mt đ thưa tht vn tương xng vi t́nh trng không b nh hưởng ca dc vng và t́nh cm.

C ba mu người này đu dùng mt tiến tŕnh loi b có bn cht tương t, nhưng dùng mt k thut khác hn trong din tŕnh. Đ minh gii, có th nói rng:

1. Người cm dc loi b th cm dc ca ḿnh bng cách làm tiêu hao, và b trng nó xuyên qua tương ng cm dc vi huyt đan đin. S tiêu hao này được mang li v́ mi ham mun bên trong và t́nh cm có sn trong giai đon này được liên kết vi bn cht con vt và vi xác thân – c hai hin gi đu không tn ti.

2. Người trí cm dùng hai phương pháp. Điu này thường t nhiên như thế, v́ trước tiên y loi b th cm dc ca ḿnh, ri kế đó th h trí.

489

 
   a/ Y loi b th cm dc bng cách tăng ham mun cho đi sng trí tu. Y dn dn rút ra và đu đn đi vào th trí, c̣n th cm dc “b đi” v mt huyn bí sau cùng biến mt. Điu này thường xy ra mt cách vô thc và có th cn thi gian khá lâu. Tuy nhiên khi nào con người trên mc trung b́nh, và sp tr thành người thiên v trí tu, s biến mt xy ra đt ngt và mt cách tích cc, con người tr nên t ti trong th trí ca ḿnh. Vic này xy ra mt cách hu ư và nhanh chóng.

   b/ Y phá v th h trí (mental body) bng tác đng ca ư chí con người, và cũng v́ linh hn đang bt đu t t nhn biết cái bóng ca ḿnh. Do đó con người bên trong (inner man) được hút v phía linh hn (soul), mc dù ch c̣n mt cách hơi yếu. Din tŕnh này tương đi mau và tùy vào mc đ nh hưởng ca thượng trí (manasic influence).

3. Người thiên v trí tuệ (manasic man), hin đang tp trung trong th h trí ca y, cũng có hai vic cn hoàn thành:

   a/ Làm tan ră và gii thoát ḿnh khi bt c cn bă cm dc nào có th làm đi màu th h trí đc m ca y. Cái được gi là th cm dc gi đây thc s không c̣n na như là yếu t biu l. Y làm điu này bng cách nh vào ánh sáng ngày càng tăng t phía linh hn. giai đon này chính ánh sáng linh hn mi làm tan được cht cm dc, cũng như nó s là ánh sáng kết hp ca linh hn con người (nói chung) mà sau cùng s làm tan cơi cm dc – li được gi thế.

   b/ Hy dit th h trí nh dùng mt s Quyn Lc T. Các Linh T này được truyn th cho các đ t xuyên qua Huyn Vin ca Đc Thy của đ t. Chúng mang li sc mnh linh hn đến mt tm mc được làm tri lên rt nhiu, và tt nhiên to ra mt s m rng tâm thc trong th h trí, đến ni h trí b phá v và không c̣n to ra mt tường ngăn, đi vi con người bên trong na. Gi đây y có th t́nh trng mt đa con trí tu t do, bên trong Huyn Vin Đc Thy ca y và “s không c̣n đi ra ngoài na”.

490

 
Các Hoạt Động Ngay Sau Khi Chết

Ngay sau khi chết, đc bit là nếu ha táng, con người, trong th trí cm ca ḿnh, biết nhn thc và tnh táo chẳng khác ǵ  đi vi chung quanh ḿnh, như khi y c̣n sng trên cơi trn. Cách din t này tha nhn s t do đi vi phm vi hiu biết và quan sát so vi mt t do tương t phi được cho phép đi vi nhng người trên cơi trn. Không phi mi người đu nhn thc hoc cùng có ư thc v các hoàn cnh hoc kinh nghim ngay. Tuy nhiên, v́ đa s con người đu có ư thc v t́nh cm nhiu hơn là có ư thc v mt vt cht và sng cho mt phm vi ln được tp trung trong th cm dc ca h, con người hoàn toàn quen vi trng thái tâm thc mà y thy chính ḿnh trong đó. Đng quên rng v thc cht mt cơi là mt trng thái tâm thc ch không phi mt v trí (locality) như rt nhiu nhà huyn bí hc vn nghĩ. Nó được nhn thc bi phn ng tp trung ca người có ngă thc –luôn luôn và biết rơ v chính ḿnh– người này có kh năng cm th vi cái đc thù ca môi trường ca ḿnh và đi vi các ham mun hướng ngoi ca ḿnh, hoc là (xét trường hp người tiến hóa, hot đng trên các phân cnh tiến b hơn ca cơi cm dc) có kh năng cm th đi vi t́nh thương và hoài băo hướng ngoi; con người b thu hút vào nhng ǵ thu hút s chú tâm ca ḿnh và có liên quan đến nguyên khí dc vng (kamic principle) trong kinh nghim lâm phàm ca ḿnh. Tôi li xin nhc bn rng hin nay không h có b óc hng trn nào đáp ng vi các nh hưởng phát sinh bi con người ni tâm, và cũng đáp ng vi phái tính, v́ v mt hng trn nó được hiu là không tn ti. Các nhà giáng ma thường nh k điu này và rt hiu rơ s di dt, cũng như s không th ca các cuc kết hp tinh thn này mà mt vài trường phái tư tưởng trong phong trào ging dy và thc hành. Trong th cm dc ca ḿnh, con người hin gi thoát khi hoàn toàn các xung lc thú tính mà trên cơi trn, đu b́nh thường ln đúng đn, nhưng gi đây không h có ư nghĩa đi vi y trong th cm dc ca y.

491

 
Do đó, ly trường hp người thông thường, các phn ng và hot đng đu tiên ca y là ǵ sau s hoàn tr th xác vào kho cha cht liu chung? Tôi xin k vài phn ng này:

1. Y hoàn toàn biết v chính ḿnh. Điu này cn đến s sáng sut v nhn thc mà k trung b́nh không nhn biết trong khi c̣n lâm phàm cơi trn.

2. Thi gian (vn là s ni tiếp các biến c theo s ghi nhn ca b óc xác tht) hin gi không c̣n tn ti theo cách chúng ta hiu thut ng đó, và – khi con người chuyn chú tâm ca ḿnh vào bn ngă t́nh cm được xác đnh rơ ràng hơn – đưa đến kết qu là bao gi cũng có mt cơ hi/ thi đim tiếp xúc trc tiếp vi linh hn. Điu này do bi s tht là ngay c trong trường hp ca người vô minh và kém hiu biết nht, thi đim hoàn toàn hoàn tr không trôi đi trong s không đ ư ca linh hn. Nó có mt hiu qu rơ rt trên linh hn, mt điu ǵ đó ging như lc kéo mnh si dây chuông, tôi tm dùng mt li so sánh đơn gin như thế. Linh hn đáp ng trong phút giây ngn ngi, và bn cht ca s đáp ng din ra cách nào mà con người đang tr trong th cm dc ca ḿnh, hay đúng hơn trong th trí cm ca ḿnh, thy được kinh nghim ca ln luân hi trước tri ra trước mt y ging như mt tm bn đ. Y ghi nhn mt ư thc vô thi gian.

492

 
3. Theo kết qu ca vic nhn biết các kinh nghim này, con người tách ba yếu t chính đang chi phi trong kiếp sng đă qua, và chúng cũng nm gi các mu cht cho ln luân hi sp ti ca y, mà y s trin khai trong ln kế. Mi cái khác b b quên, và mi kinh nghim nh m nhạt khi kư c ca y, không đ li ǵ trong tâm thc y, tr ra cái mà v mt huyn bí được gi là “ba ht ging hay mm mng ca tương lai”. Ba mm mng này đc bit có liên quan vi vi t thường tn hng trn và cm dc, và như thế to ra năm lc vn s to ra các h́nh tướng xut hin sau này. Có th nói rng:

 a/ Mm mng Mt sau này đnh đot bn cht ca hoàn cnh vt cht mà con người quay li s t́m thy v trí ca ḿnh. Nó có liên quan ti tính cht ca hoàn cnh tương lai và như thế chi phi lănh vc tiếp xúc cn có.

  b/ Mm mng Hai đnh đot tính cht ca th dĩ thái vi tư cách mt hin th qua đó các mănh lc ca cung có th tiếp xúc vi nhc thân. Nó đnh gii hn cho cu trúc dĩ thái hay là sinh vơng (vital web) mà các năng lượng nhp vào s luân lưu dc theo đó, và được đc bit liên kết vi mt trong by bí huyt vn s là bí huyt linh hot và sng đng nht trong ln luân hi ti.

 c/ Mm mng Ba mang li bí quuyết cho th cm dc mà con người s được an tr trong đó trong ln luân hi ti. Đng quên rng đây tôi đang bàn ti người b́nh thường, ch không bàn đến người tiến hóa, đ t, hoc đim đo đ. Chính mm mng này – qua các lc mà nó thu hút – đưa con người tr li vào mi liên kết vi nhng người mà trước đây y đă yêu thương hoc vi người mà y đă có tiếp xúc cht ch. Nó có th được chp nhn như là s tht mà ư kiến tp th chi phi v mt bên trong mi cuc luân hi, và con người tái luân hi đó được đưa vào luân hi không nhng do ước mun riêng ca y v kinh nghim cơi trn, mà c̣n dưới xung lc tp th và hp vi karma tp th cũng như hp vi karma ca riêng y. Đây là mt đim vn cn nhn ra ư nghĩa đc bit hơn. Mt khi điu này được nm vng và hiu rơ, rt nhiu ni s sinh ra bi ư tưởng v s chết s biến mt. Bn thân và người yêu thương s vn c̣n là bn thân và người yêu thương, v́ mi liên h đă được thiết lp cht ch qua nhiu ln luân hi và – như C Lun din t:

493

 
“Các mm mng xác đnh s nhn biết này không phi đc nht cho tôi và bn, mà c̣n cho tp th na; bên trong tp th, chúng liên kết vi nhau trong thi gian và không gian. Ch có trong ba cơi thp, các mm mng được liên kết này mi t́m thy s sng thc s ca chúng. Khi linh hn nhn ra linh hn và trong ch gp g bên trong tiếng gi ca Chân Sư, các mm mng này s biến mt”.

Do đó, điu hin nhiên là cn thiết biết bao nhiêu phi hun luyn tr con nhn biết và rút kinh nghim, v vic này mt khi hc được, s làm d dàng rt nhiu cho hot đng trên cơi cm dc sau khi chết.

Nh đă hoàn tt “vic cách ly kinh nghim” này, lúc đó con người s t́m cách và t đng t́m thy nhng người mà nh hưởng ca mm mng th ba này ch rơ khi có được mt phn không đi trong kinh nghim tp th mà y là mt thành phn trong đó, hu thc hoc vô thc. Khi mi liên h được lp li (nếu nhng người t́m kiếm chưa loi b th xác), con người hành đng ging y như c̣n trên cơi trn trong nhóm các bn thân ca y và tùy theo tính t́nh cùng tŕnh đ tiến hóa ca y. Nếu nhng người này gn gũi vi y nht và là k mà y yêu thương sâu xa hoc thù hn, vn c̣n đang đu thai cơi trn, y cũng s t́m ra h và –va lúc khi y li đu thai trên trn– y s vn là người láng ging ca h, hiu được các hot đng ca h, dù (tr phi tiến hóa cao) h s không biết đến y. Tôi không th đưa ra chi tiết nào v s trao đi ln nhau hoc v các cách tiếp xúc. Mi người mi khác, mi tính t́nh đu có ch đc đáo mc đ khác nhau. Tôi ch t́m cách minh gii mt vài đường li cư x căn bn mà con người theo đui trước các tác đng loi b.

494

 
Bn hot đng này bao gm các giai đon khác nhau – theo quan đim ca “nhng người sng bên dưới”, mc du không có thi gian nhn biết v phía con người trên cơi cm dc. Dn dà s quyến rũ và huyn tưởng (thuc loi cao hoc thp) mt dn, con người tiến nhp vào giai đon mà y hay biết –v́ th trí bây gi nhy bén hơn và chi phi nhiu hơn– nên y sn sàng cho ln chết th hai và cho toàn b vic loi b th cm dc hay là th trí cm.

Mt trong các điu cn nh đây là khi vic hoàn tr th xác dưới hai trng thái ca nó xy ra, con người bên trong, như tôi có nói trước kia, vn có ư thc đy đ. B óc vt cht và xoáy lc dĩ thái (hu hết có phn xáo trn trong trường hp ca đa s con người) không c̣n hin hu na. Đây là hai yếu t đă dn dt cho các nhà nghiên cu tin rng các kinh nghim ca con người trên các mt bên trong ca ba cơi thp là các kinh nghim ca mt s trôi dt mơ h, ca kinh nghim bán-ư-thc, hoc cho thy mt s sng lp đi lp li, tr trường hp ca người rt tiến hóa, hoc các đ t và đim đo đ. Nhưng không phi trường hp này. Mt người các mt bên trong (inner planes) không phi ch biết v chính ḿnh như mt cá nhân – vi các kế hoch, s sng và các s vic ca riêng ḿnh – như y trên cơi trn, mà y cũng biết được trong cùng mt cách thc v các trng thái tâm thc bao quanh. Y có th b cám d bi s sng cm dc hoc l thuc vào n tượng vin cm ca các lung tư tưởng khác nhau phát xut t cơi trí, mà y c̣n biết rơ v chính ḿnh và v trí tu ca y (hoc là ca mc đ s sng trí tu đă phát trin) bng mt cách mnh m hơn nhiu, hơn c khi y phi hành đng qua phương tin b óc hng trn, khi s tp chú ca tâm thc y là tp chú ca người t́m đo, nhưng được bám cht vào b óc. Kinh nghim ca y phong phú hơn nhiu và đy đ hơn là y tng biết khi c̣n lâm phàm. Nếu bn xem xét đôi chút v điu này, bn s nhn ra rng, điu này tt phi như thế.

495

 
Do đó, có th cho rng Thut Loi Tr được thc hành mt cách dt khoát hơn và hiu qu hơn là vic hoàn tr (restitution) th xác. Mt đim khác cũng phi được xem xét. Trên khía cnh bên trong, con người biết rng Lut Luân Hi chi phi tiến tŕnh kinh nghim ca cuc sng hng trn, và kế đó h nhn thc rng, trước khi có s loi b th cm dc, th trí cm hoc th trí, h ch đi qua giai đon chuyn tiếp gia các ln luân hi và tt nhiên h đi mt vi hai kinh nghim ln:

1. Mt thi khong (dài hoc ngn tùy theo mc tiến hóa đă đt được) khi vic tiếp xúc s được to ra vi linh hn hoc vi thái dương thiên thn (solar angel).

2. Sau s tiếp xúc đó, mt s thay đi thái đ tương đi d di đi vi s sng hng trn xy ra, đưa đến cái được gi là “din tŕnh đi xung và kêu gi”, trong đó con người:

 a/ Chun b cho vic lâm phàm hng trn tr li.

 b/ Gióng lên nt đích thc ca chính ḿnh vào cht liu ca ba cơi thp.

 c/ Làm sinh đng li nguyên t thường tn, chúng to thành mt tam giác lc bên trong linh hn th.

 d/ Gom li cht cn thiết đ to ra các th biu l sau này.

 e/ Tô đim các th đó bng các tính cht và đc đim mà y đă thu lượm được qua kinh nghim s sng.

 f/ Trên cơi dĩ thái, sp xếp cht liu ca th sinh lc ca ḿnh sao cho by bí huyt h́nh thành và có th thành nơi nhn các ni lc.

496

 
 g/ Cân nhc chn la nhng người s cung cp cho y lp v nhc thân cn thiết, và kế đó ch lúc luân hi. Các đo sinh huyn môn cn nh rơ rng ch có cha m ban cho nhc thân. H đóng góp không ǵ khác tr mt cơ th có tính cht và bn cht đc bit, cơ th này s cung cp hin th tiếp xúc cn thiết vi hoàn cnh do linh hn lâm phàm đ̣i hi. Cha m cũng có th cung cp mt phương tin liên giao tp th, nơi mà kinh nghim linh hn lâu dài và mi liên h tp th thc s đă được thiết lp. Hai thi đim có tính quyết đnh này được đi din mt cách hu thc bi con người thoát xác và y biết rng cái mà y đang làm bên trong các gii hn được sp xếp bi mc đ tiến hóa ca y.

Kinh Nghiệm Devachan

Tôi cũng mun nêu ra rng công vic hu thc này đi vi thut loi b, và vic hiu biết tiến tŕnh và mc tiêu, trong thc tế to thành trng thái tâm thc vn được gi là devachan (thiên đường tm) bi nhà nghiên cu Minh Triết Thiêng Liêng chính thng (orthodox theosophist). Có rt nhiu hiu sai v kinh nghim này. Ư tưởng chung là, sau tiến tŕnh thoát ra khi th cm dc và th h trí, con người nhp vào mt loi trng thái mơ mng (dream state) trong đó y li tri qua kinh nghim (reexperiences) và tái cu xét (reconsiders) các biến c đă qua dưới ánh sáng ca tương lai, và tri qua mt loi thi kỳ an ngh, mt th tiến tŕnh tiêu hóa (digestive process) chun b đ tri qua cuc tái sinh. Ư tưởng hơi sai lm này đă xut hin v́ khái nim thi gian vn c̣n chi phi cách tŕnh bày chân lư ca khoa minh triết thiêng liêng. Tuy nhiên, nếu hiu rơ rng thi gian không được nhn biết, nếu không có kinh nghim cơi trn, th́ toàn b ư nim v devachan s sáng t. T lúc hoàn toàn tách ra khi nhc thân và th dĩ thái, và khi tiến tŕnh loi b được tiến hành, con người biết được quá kh và hin ti; khi s loi b được hoàn tt và thi đim tiếp xúc vi linh hn xy ra, và th trí đang trong tiến tŕnh hy dit, con người lp tc bt đu biết được tương lai v́ tiên đoán là mt k năng ca linh hn thc (soul consciousness) và trong k năng đó, con người tm thi chia s. Do đó, quá kh, hin ti và tương lai được xem như mt; vic nhn biết v Hin Ti Vĩnh Cu dn dn phát trin t ln luân hi này đến ln luân hi khác và trong tiến tŕnh tái sinh liên tc. Điu này to thành mt trng thái tâm thc (đc đim ca trng thái b́nh thường ca người tiến hóa) vn có th được gi là trng thái devachan.

497

 
Tôi không đnh đi sâu vào chi tiết k thut ca tiến tŕnh loi b. Nhân loi rt nhiu giai đon khác nhau –nm gia ba giai đon đă phác ha– thế nên không th xác đnh rơ ràng được. Vic tiêu hao tương đi d hiu; th cm dc tàn t v́ không có s lôi cun/ mi gi (call) t cht hng trn, gi ra ham mun, không h có ǵ c đ nuôi sng hin th này. Th cm dc xut hin do tác đng h tương gia cơi trn, vn không phi là mt nguyên khí, vi nguyên khí ca dc vng; trong tiến tŕnh tiếp nhn luân hi, nguyên khí này được vn dng vi ư đnh tích cc ca linh hn trong th trí đ đo ngược s lôi cun, và lúc by gi, vt cht đáp ng vi tiếng gi ca con người lâm phàm. Sau tiến tŕnh tiêu hao dài, con người nng v cm dc tr nên t do bên trong th trí c̣n phôi thai, và giai đon s sng bán-trí-tu này rt ngn và được kết thúc bng cách linh hn bt ng “hướng con mt vào k đang ch”, và bng sc mnh ca mănh lc có đnh hướng, lp tc tái đnh hướng con người thiên v cm dc vào con đường hướng xung tái sinh. Con người trí cm thc hành mt tiến tŕnh triệt thoái và đáp ng vi “lc hút” ca mt th trí đang phát trin nhanh chóng. Vic trit thoái tr nên ngày càng nhanh và tích cc cho đến khi nó đt đến t́nh trng mà đ t d b –dưới s tiếp xúc vi linh hn ngày càng tăng– phá v th trí cm, ging như mt đơn v, bng mt tác đng ca ư chí trí tu do linh hn thc hin. Bn cn ghi nhn rng kinh nghim “devachan” tt nhiên s ngn hơn liên quan đến đa s hơn là liên quan đến thiu s người thiên v cm dc, bi v́ k thut devachan đ duyt xét và nhn biết v các hàm ư ca kinh nghim đang t t kim soát con người trên cơi trn đ cho y truy ra tm quan trng ca ư nghĩa và luôn luôn hc được qua kinh nghim trong khi luân hi. Như vy bn cũng s hiu rng s liên tc tâm thc cũng đang t t phát trin và vic hiu biết v con người bên trong bt đu th hin trên cơi trn, qua trung gian b óc xác tht trước tiên, và kế đó mt cách đc lp vi cu trúc vt cht đó. đây tôi đă truyn đt mt n ngôn rơ rt v mt vn đ vn s nhn được chú ư rng răi trong hai trăm năm na. (n bn đu tiên ca sách này là năm 1953 –ND).

498

 
Như chúng ta thy người thiên v trí, tc phàm ngă hi nhp, hot đng theo hai cách mà tt nhiên tùy thuc vào mc hi nhp đă đt được. Mc hi nhp này s thuc hai loi:

1. Loi phàm ngă hi nhp tp trung trong trí và đt được mt quan h thân hu luôn luôn tăng lên vi linh hn.

2. Đ t có phàm ngă hi nhp hin đang nhanh chóng hi nhp vào và được linh hn thu hút.

499

 
Trong giai đon phát trin trí óc này và giai đon kim chế trí năo (da trên s kin tâm thc con người hin nay dt khoát được tp trung và luôn luôn tp trung vào th trí, các tiến tŕnh phá hy th cm dc trước kia qua vic làm tiêu hao và bng “s ph nhn mnh m” được xúc tiến trong khi lâm phàm cơi trn. Con người lâm phàm không chu đ dc vng chế ng; nhng ǵ c̣n li ca th cm dc hay đánh la, gi đây b chế ng bi th trí, c̣n các thôi thúc hướng v vic làm tha măn ham mun đu b t chi vi s cân nhc đy đ và hu thc, hoc là v́ tham vng ích k và các ư đnh thuc trí tu ca phàm ngă hi nhp, hoc theo linh hng ca ư đnh linh hn bt th trí tuân theo các mc tiêu ca nó. Khi mc đ tiến hóa này được đt ti, th́ con người có th đánh tan các tàn tích c̣n li cui cùng ca mi dc vng bng s giác ng. Trong các giai đon đu ca s sng thun trí tu, điu này được làm nh s giác ng mà s hiu biết mang li và có dính líu phn ln vi ánh sáng t nhiên ca cht trí. Sau này, khi linh hn và trí tu lp được liên h cht ch, ánh sáng linh hn s thúc đy và b sung cho tiến tŕnh. Gi đây đ t dùng các phương pháp huyn linh hơn, nhưng đây tôi không th bàn rng v các phương pháp này. Vic hy dit h trí không c̣n được mang li bng sc mnh hy dit ca ánh sáng ca chính nó, mà được thúc đy bng mt vài âm thanh, phát ra t cơi ca ư chí tinh thn; các âm thanh này được các đ t nhn biết và được phép s dng chúng dưới h́nh thc ngôn t thích hp ca chúng được trao ra cho y bi mt đim đo đ cao cp nào đó bên trong Huyn Môn Vin hoc là bi chính Chân Sư, vào khong kết thúc chu kỳ luân hi.

Mười Định Luật Chữa Trị

Bây gi tôi xin nêu ra vài đnh đ mà chúng ta s cn xét đến trong nghiên cu ca chúng ta Phn Ba khi chúng ta đ cp ti các Đnh Lut Cha Tr Căn Bn. Tôi đă trao cho bn các Đnh Lut và Qui Lut này, nhưng bây gi tôi t́m cách đi sâu vào chi tiết.

500

 
Chúng ta đă kho cu khá chi tiết các tiến tŕnh cp bách xy ra khi nguyên khí s sng trit thoái hoc b rút ra khi xác thân. Da vào mc tiến hóa, có mt s phân bit trong hai tiến tŕnh này. Chúng ta đă truy nguyên s trit thoái ca nguyên khí s sng, cng vi tâm thc, ra khi các th tinh anh trong ba cơi thp, và gi đây đă đt đến mc mà chúng ta không c̣n bàn đến người b́nh thường hoc người kém phát trin na. Chúng ta s bàn đến hot đng hu thc ca linh hn liên quan đến khía cnh sc tướng ca nó.

Vi người kém phát trin hoc người b́nh thường, linh hn đóng mt vai tṛ rt nh trong tiến tŕnh chết, vượt ngoài s đóng góp ca mt đnh đot đơn gin ca linh hn vào cui chu kỳ ca s sng lâm phàm, trước khi có mt s quay li lần nữa vi cơi trn. Các “mm t vong” đang có sn trong bn cht h́nh hài và hin ra dưới h́nh thc bnh hoc dưới h́nh thc suy nhược (dùng t ng đó theo nghĩa chuyên môn ca nó ch không theo nghĩa thông thường), c̣n linh hn theo đui các quan tâm riêng ca nó trên cơi riêng ca nó cho đến lúc mà din tŕnh tiến hóa đă mang li mt t́nh hung mà trong đó s hi nhp tc là s liên giao cht ch (close relation) gia linh hn vi h́nh tướng tr nên có tht đến ni linh hn huyn đng vô cùng sâu xa vi biu hin đang hin l ca nó. Có th nói rng khi đt ti giai đon này, ln đu tiên, linh hn mi thc s lâm phàm; đó mi thc là “đi vào biu l”, và toàn b bn cht linh hn nh đó được tham gia. Đây là mt đim ít được nhn mnh hoc hiu rơ.

501

 
Trong các tin kiếp ca linh hn nhp th và đi vi đa s các chu kỳ ca kinh nghim sng, linh hn rt ít quan tâm đến nhng ǵ đang din ra. S hoán đi cht liu mà mi h́nh hài được to ra t đó, tiến hành theo tiến tŕnh t nhiên và “karma ca vt cht” là lc chi phi m đu; vic này được tiếp ni trong thi gian do karma được sinh ra bng s dung hp ca linh hn và h́nh hài, dù (trong các giai đon trước) rt ít trách nhim do linh hn to ra. Cái đang din ra trong lp v linh hn tam phân tt nhiên là kết qu ca các khuynh hướng có sn ca chính vt cht. Tuy nhiên, theo thi gian qua và hết ln luân hi này đến ln luân hi khác, hiu qu ca tính cht linh hn ni ti dn dn khêu gi lương tâm –và qua trung gian ca lương tâm, vn là ng dng ca ư thc phân bin, được phát trin khi th trí ngày càng đm trách vic kim soát – mt s khơi hot và sau cùng mt tâm thc thc tnh được khơi hot. Vic này l ra trong trường hp đu vi tư cách là ư thc trách nhim, chính ư thc này dn dn to nên mt s đng nht hóa ngày càng tăng ca linh hn vi hin th ca nó, tc phàm ngă tam phân. Lúc đó các th tr nên ngày càng được thanh luyn; các mm t vong và bnh tt không c̣n mnh lm; đ bén nhy đi vi nhn thc ca linh hn bên trong tăng lên, cho đến lúc mà đ t được đim đo t trn, bng mt tác đng ca ư mun tâm linh ca ḿnh, hoc bng cách đáp ng vi karma tp th hoc đáp ng vi karma quc gia hoc hành tinh.

V thc cht, bnh tt và t vong đu là các t́nh trng có sn trong vt cht; chng nào mà con người c̣n đng nht hóa chính ḿnh vi khía cnh h́nh hài, chng đó y c̣n b chi phi bi Đnh Lut Phân Hy. Đây là Lut căn bn và t nhiên chi phi s sng ca sc tướng trong mi gii ca thiên nhiên. Khi đ t hoc đim đo đ đng nht hóa chính ḿnh vi linh hn và khi antahkarana được kiến to bng nguyên khí s sng, lúc đó đ t vượt ra ngoài s kim chế ca đnh lut đi đng, t nhiên này và vn dng hoc vt b th xác tùy ư – theo đ̣i hi ca ư mun tâm linh hoc do nhn thc v các nhu cu ca Thánh Đoàn hoc các mc tiêu ca Shamballa.

Gi đây, chúng ta phát biu mt Lut mi vn được thay cho Lut T Vong, và vn ch được nói đến cho nhng ai vào các giai đon sau ca Con Đường Đ T, và các giai đon trên Con Đường Đim Đo.

ĐNH LUT  X

 Hi đ t, hăy lng nghe tiếng gi xut phát t Con đến M, và hăy tuân theo. Linh T phát ra t h́nh hài đó đă phng s mc tiêu ca nó. Nguyên khí trí tu (nguyên khí th năm A.B.B) lúc đó t sp xếp, và lúc đó lp li Linh T. H́nh hài đang ch s đáp ng và b đi. Linh hn tr nên t ti.

502

 
Hi Đng Thăng Thiên, hăy đáp ng vi tiếng gi đến trong lĩnh vc nhim v; hăy nhn ra tiếng gi phát xut t Huyn Vin hay t Huyn Linh Ni Đin nơi mà chính Đng ca S Sng đang ch Linh Âm phát ra. Linh hn ln sc tướng đu phi t b nguyên khí s sng và như thế đ cho Chân Thn tr nên t ti. Linh hn đáp ng. Kế đó h́nh hài làm v s mch lc. Gi đây s sng được phóng thích, làm ch tính cht ca tri thc hu thc và kết qu ca mi kinh nghim. Đây là món quà ca linh hn vi h́nh hài kết hp.

Tôi mun minh gii trong trí bn s phân bit gia bnh tt vi t vong y như người thường đă tri qua, và mt vài din tŕnh tan ră hu thc tương ng như đă được thc hành bi đ t hoc đim đo đ tiến hóa. Các tiến tŕnh sau này bao hàm mt k thut phát trin t t, trong đó (trong các giai đon đu) đ t vn là nn nhân ca các khuynh hướng to ra bnh tt ca h́nh hài, như ca mi h́nh hài trong thiên nhiên. Khuynh hướng này to ra cái chết tiếp theo, qua các giai đon bnh được điu chnh và cái chết an b́nh theo sau đó, vào các giai đon khác khi mà cái chết xy ra bi tác đng ca ư chí – thi gian và cách thc được linh hn đnh đot và được ghi nh rơ ràng trong óc. Đau đn được thy rơ trong c hai trường hp nhưng trên Con Đường Đim Đo, đau đn phn ln được làm tiêu tan, không phi v́ đim đo đ c gng tránh đau, mà v́ s nhy cm ca h́nh hài đi vi các tiếp xúc không mong mun biến mt và cùng vi nó, cái đau cũng biến mt. Đau (pain) là k bo v ca h́nh hài và là tác nhân che ch (protector) ca vt cht; nó cnh báo nguy him; nó ch ra vài giai đon rơ rt trong din tŕnh tiến hóa; nó được liên kết vi nguyên khí mà nh đó linh hn đng nht hóa chính nó vi vt cht. Khi s đng nht hóa chm dt, đau kh, bnh hon, cũng như cái chết mt nh hưởng ca nó đi vi đ t; linh hn không c̣n l thuc vào các đ̣i hi ca chúng na, và con người tr nên t do, v́ bnh tt và t vong là các tính cht có sn trong h́nh hài và l thuc vào s thnh suy ca s sng sc tướng.

503

 
Đi vi con người, t vong chính xác là cái ging như là s phóng thích ca nguyên t; vic khám phá khoa hc vĩ đi v vic phóng thích năng lượng nguyên t đă chng minh s kin này. Nhân ca nguyên t b tách làm hai. (Cách din t này không đúng v mt khoa hc). Trong kinh nghim sng ca nguyên t, biến c này phóng thích mt ánh sáng ln lao, và mt sc mnh vĩ đi; trên cơi cm dc, hin tượng chết có mt hiu qu có phn tương t và có mt trùng hp cht ch trong hin tượng đó to ra bng s phóng thích năng lượng nguyên t. Trong mi gii ca thiên nhiên, mi cái chết đu có mt mc đ nào đó hiu ng này; nó phá v và hy dit h́nh hài thiết yếu và như thế dùng cho mc tiêu kiến to; kết qu này phn ln thuc cơi cm dc hoc thông linh và dùng đ xua tan mt s huyn cm đang bao bc. Vic hy dit hàng lot h́nh hài vn đă được tiến hành trong mt s năm chiến tranh va qua, đă to ra các thay đi thế gii hin tượng trên cơi cm dc, và đă phá v mt s ln huyn cm hin có trên thế gii và điu này rt tuyt ho. Các s vic này s dn ti kết qu có ít đi kháng vi ḍng lưu nhp ca loi năng lượng mi; nó s to d dàng cho s xut hin các ư tưởng lng trong các nhn thc cn có; các khái nim mi gi đây s được nhn ra, và vic chúng xut hin vào lĩnh vc tư duy ca con người s tùy thuc vào vic qui ra công thc đi vi “các tuyến hay vn hà mi cho n tượng” nh đó trí óc con người có th tr nên nhy bén vi các kế hoch ca Thánh Đoàn và vi các mc tiêu ca Shamballa.

504

 
Tuy thế, điu này ch là nhân tin thôi. Đ xut ca tôi s dùng đ ch cho bn mt vài trong các liên h gia cái chết vi hot đng kiến to, và s hu ích rng răi ca cái chết dưới h́nh thc mt tiến tŕnh đ tái thiết. Nó s gi cho bn ư tưởng rng Đnh Lut T Vong vĩ đi này – v́ nó chi phi vt cht trong ba cơi thp – là mt s kin đem li li ích và có tính hiu chnh. Không cn qung din đnh lut này, tôi xin nhc bn rng Lut T Vong này đang chi phi mnh m trong ba cơi tiến hóa ca con người, chính là mt phn nh ca mc tiêu vũ tr đang chi phi cơi dĩ thái vũ tr ca thái dương h chúng ta, cơi cm dc vũ tr và cơi trí vũ tr. Năng lượng liên quan đến cái chết ta ra dưới h́nh thc mt biu hin ca nguyên khí s sng ca S Sng vĩ đi đang bc cha c by h thng hành tinh mà trong chính Các Ngài biu hin S Sng ca thái dương h chúng ta. Trong tư duy ca chúng ta và trong n lc ca chúng ta đ t́m hiu, chúng ta tiến vào lĩnh vc tru tượng hóa thun túy, đó là lúc đ kêu gi mt s tm dng và rút tâm trí chúng ta li vi nhng cách sng hành tinh thc tin hơn và đi ti các đnh lut chi phi gii th tư trong thiên nhiên, tc gii nhân loi.

Hin nay chúng ta đang vào mt v thế (sau khi c gng đ tranh lun t cái ph quát ti cái đc thù, mà bao gi cũng theo cách huyn linh) đ cp đến Phn Ba, đim cui cùng bàn đến các Đ̣i Hi Căn Bn, và bây gi phi xem xét cách dùng nguyên tc t vong ca đ t hoc đim đo đ. Tôi mun bn chú ư cách din t ca tôi v khái nim này. Khái nim này được bàn đến dưới tiêu đ Các Tiến Tŕnh Hi Nhp.

 

 


505

 
CHƯƠNG  VII

 

CÁC TIN TR̀NH HI NHP

 

Khi xem xét tiến tŕnh này mt cách sáng sut nh vn dng s kin như linh hn đă dùng nh hot đng hu thc trong ba cơi thp, chúng ta s thy tht là hu ích khi xem xét vic đó dưới hai đ mc chính:

Th nht: Các tiến tŕnh nh đó chu kỳ luân hi được đưa ti kết thúc qua s hi nhp hoàn toàn ca linh hn và phàm ngă. Chúng ta s tiến gn đến đ mc này theo ba quan đim:

Ư nghĩa ca s hi nhp.

Trng thái trí tu ca linh hn.

Loi b h́nh tư tưởng ca phàm ngă.

Th hai: Các kết qu ca vic này:

Bên trong Huyn Môn Vin (Ashram) ca Chân Sư đối với bc đ t.

Bng cách thc mà nh đó v đ t đă thoát xác gi đây có th to ra mt th đ tiếp xúc vi cơi trn, và đ phng s trong ba cơi thp – ln này không dưới Lut Tt Yếu mà dưới Lut Phng S như đim đo đ hiu.

506

 
Gi đây bn s hiu được rng chúng ta đă bàn đến s tht v cái chết như nó đă tác đng vào xác thân (mt biến c quen thuc nht) và cũng là lp v cm dc hoc cht trí – các tp hp năng lượng có nh hưởng này mà chúng ta không quen thuc bên ngoài vi nó lm, nhưng ngay đến tâm lư hc cũng tha nhn là có và chúng ta tin nó phi tan ră hay biến mt theo cái chết ca xác thân. Tuy nhiên, nhng ǵ đến vi bn có phi là khía cnh ch yếu ca s chết mà cui cùng con người bn tâm đến là cái chết ca phàm ngă hay chăng? đây tôi không nói đến bng các thut ng tru tượng, như mi nhà huyn bí hc đang làm khi h hot đng vi s chi b mt hoc các tính cht vn tiêu biu cho phàm ngă. H nói đến “tiêu dit hết” tính cht này hoc tính cht n, đến vic đè nén hoàn toàn “phàm ngă” và các câu nói tương t. đây tôi đang nói đến, theo nghĩa đen, s hy dit, s tan ră, phân hy, gii tán hoc phân tán cui cùng ca cái phàm ngă được yêu thương và biết rơ.

Cn nh rng s sng ca mt phàm ngă có th chia thành các giai đon sau:

1. Vic cu to nó chm chp và t t qua mt thi gian dài. Trong nhiu chu kỳ luân hi, mt người không phi là mt phàm ngă. Y ch là mt thành viên ca mt đám đông (mass).

2. S đng nht hóa hu thc ca linh hn vi phàm ngă trong giai đon này gn như không có. Trng thái ca linh hn vn b n giu bên trong các lp v, trong mt thi gian dài, b chi phi bi s sng ca các lp v này, ch làm cho s hin hu ca nó được cm nhn qua nhng ǵ được gi là “tiếng nói ca lương tâm”. Tuy nhiên, theo thi gian qua, s sng linh hot sáng sut ca con người dn dn được nâng cao và được phi kết bng năng lượng đang tuôn chy t các cánh hoa kiến thc ca hoa sen chân ngă, hoc là t bn cht nhy bén sáng sut ca linh hn trên cơi riêng ca nó. Sau rt điu này to ra s hi nhp ca ba lp v/th thp thành mt tng th đang tác đng. Lúc by gi con người, mi là mt phàm ngă (personality).

507

 
3. S sng phàm ngă ca cá nhân được phi kết hin ti tiếp tc tn ti trong mt s ln kiếp sng, và cũng có th chia thành ba giai đon.

  a/ Giai đon ca mt s sng phàm ngă năng đng có ưu thế, v căn bn được chi phi bi loi cung ca nó, có bn cht ích k và rt có tính cht cá nhân.

  b/ Mt giai đon chuyn tiếp trong đó mt xung khc ni lên d di gia phàm ngă vi linh hn. Linh hn bt đu t́m cách thoát ra khi s sng sc tướng và tuy thế – xét cho cùng– phàm ngă tùy thuc vào nguyên khí s sng được linh hn ban cho. Nói cách khác, s xung đt gia cung linh hn vi cung phàm ngă bt đu và cuc chiến din ra gia hai trng thái năng lượng có tp trung. Cuc xung đt này kết thúc vào cuc đim đo th ba.

 c/ S kim chế ca linh hn là giai đon cui cùng, đưa đến cái chết và s hy dit ca phàm ngă. Cái chết này bt đu khi phàm ngă, tc K Chn Ngơ (Dweller on the Threshold), đng trước Thiên Thn Bn Lai Din Mc. Ánh sáng ca Thái dương Thiên Thn lúc by gi phá tan ánh sáng vt cht.

Giai đon “kim chế” (“control”) được chi phi bi s đng nht hóa hoàn toàn ca phàm ngă vi linh hn; đây là mt đo ngược ca s đng nht hóa trước kia ca linh hn vi phàm ngă. Đây cũng là nhng ǵ mà chúng ta ám ch khi nói đến s hi nhp ca c hai; gi đây hai ch c̣n là mt. Thánh Paul có nói đến giai đon này khi Ngài nhc đến (trong thư gi cho Ephesians) Đc Christ to ra “trong s hai, mt người mi” (“out of two, one new man”). Trước tiên đó là kỳ (phase) trong s các giai đon (stages) ca Con Đường D B (lúc mà công vic bt đu mt cách đy hiu biết) và vic xúc tiến con đường đó đến ch hoàn tt trên Con Đường Đ T. Đó là giai đon ca người phng s thc tin và thành công; đó là giai đon mà trong đó toàn b tiêu đim/trung tâm chú ư (focus) và năng sut (output) ca s sng con người được cng hiến cho vic hoàn thành ư đnh ca Thánh Đoàn. Con người bt đu làm vic trên và t các mc đ không bao gm trong ba cơi ca cơ tiến hóa thông thường, nhưng tuy vy li có các kết qu ca chúng và các mc tiêu được d tính ca chúng trong ṿng ba cơi này.

508

 
Ư NGHĨA CA HI NHP

Trng đim mà đa s các hun sư và người t́m đo đt ra, được da vào s hi nhp ca phàm ngă và s đnh hướng chính xác ca nó hướng v thế gii có các giá tr tâm linh. Nên nh rng đây là mt giai đon có trước và đúng thế. S hi nhp ca th trí, bn cht t́nh cm và b óc là đc đim chính ca tt c nhng người tiến hóa – t, rt t, thánh thin và rt thánh thin, tuy nhiên không có du hiu nào ca đi sng tâm linh, và thường hoàn toàn ngược li. “Mt Hitler” hay là mt người đy tham vng, vi mt đi sng quá v k hoc đi sng được đnh hướng v mt bo ác, là mt nhân vt, vi mi sc mnh ca th trí ca hn được dành cho các mc đích tà vy, vi bn cht t́nh cm được cu to cách nào mà nó không cho ra mt chướng ngi nào đ đy mnh các ư đnh ích k và vi mt b óc dũng mănh, năng n, d tiếp nhn vi các kế hoch và các phương pháp ca hai hin th, thi hành lnh ca phàm ngă.

Tôi mun nêu ra rng đa s con người không phi là các phàm ngă (personalities), cho dù h có th nói v các phàm ngă ca h mt cách lưu loát đến đâu. Chng hn, mc tiêu ban đu trước mt đa s người t́m đo và các đo sinh, trước tiên là hi nhp con người tam phân h đng, sao cho chúng có th tr thành các phàm ngă hot đng, trước khi tr thành các linh hn hot đng; công vic được dành cho mc tiêu to ra mt trng tâm ca phàm ngă hu thc, trong khi tránh chu kỳ ca các lâm phàm trong đó phàm ngă được dành cho các mc đích thp và ích k. Các đo sinh vn là nhng k tiến hóa hơn, được dành cho mc tiêu to ra mt hi nhp c̣n cao hơn ca linh hn và phàm ngă, dn đến s hi nhp cui cùng vn đem li trng thái cao nht trong tt c, tc là hi nhp ca s sng Chân Thn.

509

 
Trên thế gii ngày nay, có nhiu phàm ngă hi nhp tht s. V́ l linh hn và phàm ngă đu hi nhp, các phàm ngă này có th bước lên Con Đường Đ T Nhp Môn. Đây là mt phát trin có trin vng nht, nếu bn có th nhn ra các hàm ư và ư nghĩa ca nó, c̣n câu hi ny sinh v vic làm thế nào nhng người, cho đến nay ch trong tiến tŕnh tái đnh hướng, có th phát trin mt s hi nhp phàm ngă thích hp. H s không bao gi làm điu này nếu h t đánh giá quá cao hoc t đánh giá quá thp. Nhiu người quen xem chính ḿnh như các phàm ngă v́ tính ương ngnh t nhiên ca h, hoc v́ h là các đo sinh huyn linh hc. H quên rng mt đo sinh huyn môn là người đang t́m kiếm nhng ǵ c̣n n giu –trong trường hp ca h, v nhng ǵ n giu, tuyến hi nhp (integrating thread) s giúp h pha trn ba th li và nh thế mi thc s xng vi danh xưng phàm ngă (hay nhân vật). Mt s nhng người đó không th tr thành các phàm ngă trong kiếp sng này, nhưng h có th phát trin khái nim trí tu vi năng lc và bn cht ca nó; h cn nh rng “trong ḷng nghĩ thế nào, th́ con người tr nên thế y”. Không nên phí thi gian, mà mt din biến rt cn thiết và là din biến mà qua đó mi Thành Viên ca Thánh Đoàn đă vượt qua.

Vic nghiên cu và thin đnh phi hp là các nhân t mà mi người t́m đo nên dùng nếu h t́m cách to ra s hi nhp cn có này và mt cuc sng phng s tiếp theo sau. Như vy người t́m đo có th th c tŕnh đ hi nhp ca ḿnh ln tm mc ca tính cht phng s được to ra bi s hi nhp này. Nếu nhng người t́m đo mun nghiên cu s sng hng trn ca h vi s thn trng, h s khám phá rng hoc là h đang t đng làm vic đáp ng vi các ư tưởng theo thông l cơi trn v thin chí hay v ng x t tế, hoc là h đang làm vic bng t́nh cm v́ h thích tr giúp, h thích được ưa thích, h thích làm nh ni đau kh (do s hn thù đi vi s khó chu, gây đau kh đưa đến cho h), h tin vào vic đi theo các bước chân ca Đc Christ, Đng đă c công làm điu lành, hoc v́ khuynh hướng đi sng ăn sâu t nhiên. Đây là mt phát trin đy trin vng và có tính cht chung cc.

510

 
Sau rt, nhng người t́m đo s t́m ra (khi các giai đon hi nhp ca th xác và th t́nh cm đă xong), rng có mt giai đon phng s sáng sut, được thúc đy trong trường hp th nht bi ḷng nhân t, kế đó bi s tin chc v tính cht thiết yếu ca nó, sau đó bng mt giai đon có tham vng tinh thn rơ rt, tiếp theo bng mt s noi theo và tuân thủ tm gương ca Thánh Đoàn và sau rt bng s hot đng ca tính cht ca bác ái thun túy. T́nh thương thun khiết này t biểu l ngày càng nhiu khi s hi nhp cao hơn ca linh hn vi phàm ngă din ra. Mi giai đon d đnh và chuyên môn này đu đúng v trí riêng ca chúng, cũng như chng nào mà chúng c̣n có giá tr dy d, và trong khi các giai đon cao kế tiếp vn c̣n mơ h và u ám. Chúng tr nên sai lm khi chúng được duy tŕ và xúc tiến khi giai đon kế tiếp được thy rơ nhưng không được noi theo. Hăy cân nhc v điu này. Nó có giá tr cho bn khi hiu được ư nghĩa thc s ca các giai đon hi nhp khác nhau này, được xúc tiến – như chúng đang din ra – theo Lut tiến hóa.

Tt c các giai đon trên con đường hi nhp đu dn đến giai đon tt đnh trong đó phàm ngă – giàu v kinh nghim, mnh m khi biu l, được tái đnh hướng và có nhit tâm – ch tr thành tác nhân trung gian ca s sng linh hn gia Thánh Đoàn vi Nhân Loi. Ln na, hăy cân phân v điu này.

Trạng Thái Trí Tuệ Của Linh Hồn

511

 
Và trong khi tt c các giai đon ln nh này và các nhn thc đu xy ra trong s sng ca phàm ngă, th́ thái đ ca linh hn là ǵ trên cơi riêng ca nó? Vic xem xét v điu này trước tiên bao hàm mt nhn thc v ba trng thái ca trí tu được t́m thy da vào cái mà chúng ta gi là cơi trí:

1. H trí c th, nguyên là thái đ ca tư tưởng được đưa ra bi khía cnh rt bé ca linh hn, nó được “ghi xung” lúc bt đu cuc biu l thi đim thoát kiếp thú (indivi–dualisation). Trong chu kỳ dài ca các ln luân hi, h trí tr nên ngày càng nhy cm vi Đại Ngă đang ng linh ca nó. Đại Ngă ng linh này nói vi trạng thái lâm phàm ca nó: “Dù đă thm nhun toàn b vũ tr này bng mt mnh ca chính ta, ta vn tn ti”. Sc thu hút ca “Đại Ngă tn ti” đang ng linh đó là nhng ǵ đang kéo cái mnh nh tr li vi ci ngun nguyên thy ca nó.

2. Con ca Trí Tu, tc linh hn, sn phm ca tư tưởng ca Toàn Linh Trí, Ch Th suy tư, nhn thc, phân bin, phân tích tc là Thc Th tâm linh. Trng thái này ca S Sng Duy Nht được đc trưng bng trí tu thun túy, lư trí, t́nh thương thun khiết và ư chí thun khiết. “Đng Hy Sinh”, qua kinh nghim lâm phàm, s hi nhp và biu l, Ngài đm trách nhim v đ cu chuc vt cht và đ nâng vt cht vào Cơi Tri ! Đây là các chân lư quen thuc và các vô v c xưa, nhưng chúng ch yếu vn là lư thuyết, đi vi bn. Bn có th trc nghim bn cht lư thuyết ca chúng bng cách t hi: Tôi đang làm ǵ vi tư cách linh hn (nếu tôi hành đng vi tư cách linh hn), đ nâng khía cnh vt cht ca tôi, ba hin th ca tôi và cht liu mà t đó chúng được to ra, lên các cơi biu l cao hơn?

3. Thượng trí tru tượng, so vi linh hn, nó là cái mà trng thái thp nht ca linh hn, được lng trong các cánh hoa kiến thc, biu hin ra so vi trí c th. Trí tru tượng này là trng thái thp nht ca Tam Thượng Th Tinh Thn.

512

 
Khi s hi nhp này xy ra gia phàm ngă vi linh hn, lúc by gi linh hn – trong th và bn cht riêng ca nó và trên cơi riêng ca nó – có th bt đu chú ư đến mt hi nhp cao hơn, hay mi liên h gn bó mà sau rt nó phi mang li gia chính nó vi Tam Thượng Th Tinh Thn. Vic hoàn thành trên mt mc đ thp bao gi cũng d xy ra hơn hoàn thành mc cao. Không có s thành tựu thc s cao nào cho ti khi, dn dn, trng thái phn nh thp b chế ng, vn dng và nhn biết như là vn c đ mang li các hot đng c̣n cao hơn.

Trng thái trí tu ca linh hn trong các tiến tŕnh hi nhp thp có th được tóm lược vn tt như sau:

1. Tiến tŕnh th ơ hoàn toàn trong các giai đon trước ca chu kỳ luân hi. “Trng thái ăn sâu” ca nó (như nó thường được gi) th́ hoàn toàn thích hp vi công vic chm chp và t nht đ phát triển các th, nới rộng các đc đim ca chúng và chuc ly kinh nghim đng cay ca mù quáng và vô minh. Giai đon này dài nht, và trong khi nó din ra, linh hn vn tiến ti vi mi quan tâm vào s sng ca riêng nó trên mc đ kinh nghim riêng ca nó, da vào cung riêng ca nó, và dưới nh hưởng ca Chân Sư, Đng mà sau cùng s hướng dn việc suy tư (qua n tượng nhn được mt cách t nguyn) ca phàm ngă đang phát trin. Đng quên rng gii này hay tp hp này ca các linh hn là nhng ǵ mà người Thiên Chúa giáo gi là Thiên Gii, c̣n nhà huyn linh hc gi là Huyn Giai tinh thn ca hành tinh chúng ta. Cũng nên nh rng mc tiêu ca s sng tp hp ca nó là gi ra nhn thc trong tâm thc ca vic an tr tinh thn ca S Sng hành tinh.

513

 
2. Khi s tiến hóa tiếp tc, ba hin th – hin nay đă được to ra và phát trin –tr nên mnh, và rung đng ca chúng tr thành đ mnh đ thu hút mt mc đ chú ư t linh hn quá bn tâm. Phn ng đu tiên là s khó chu (irritation). Khó chu v mt huyn linh không phi là s gt gng (crossness), theo cách din t ca con người, mà là đáp ng vi s tiếp xúc – mt đáp ng vn không làm hài ḷng. Nói cách khác, đó là s tranh chp. Do đó bn s hiu rơ hơn ư nghĩa ca phát biu cho rng cái xing xích cui cùng mà Chân Sư ném ra là s khó chu. Phàm ngă không c̣n thu hút s chú tâm na; do đó tranh chp (friction) kết thúc, và không c̣n ǵ c̣n li tr mt vn hà thun túy mà năng lượng tinh thn có th tuôn qua đó. S khó chu, theo cách bn hiu, xy ra khi s bướng bnh, ḷng t trng, các ư tưởng và các kế hoch cá nhân ca bn b xâm phm bi nhng s vic như trên ca mt người khác. Không phi h́nh thc khó chu này mà Đc Thy ném b.

Phn ng th nh́ là phn ng ca mt tiến tŕnh thin đnh hoc là phát sinh ra lc, sau đó được dùng trong ba cơi thp đ nâng cao năng lượng linh hn bên trong h́nh hài và to ra lĩnh vc hiu biết, tràn ngp các h́nh tư tưởng mà sau đó phàm ngă mo him tiến vào. Do đó linh hn chun b cho vic tái đnh hướng ca riêng nó hướng v S Sng và biu hin ca nó trong ba cơi thp, ch không thu thập thêm kinh nghim sng.

3. Khi phàm ngă tr nên có ưu thế, th́ linh hn đưa mt yếu t mi vào trong s sng vi phn nh ca nó, tc linh hn đang lâm phàm. Yếu t này huy đng và tp trung năng lượng ca cung linh hn, và bng mt tác đng ca ư chí, đưa yếu t đó vào tiếp xúc trc tiếp vi cung phàm ngă. Điu này có mt tác đng phn x trên các cung ca con người tam phân h đng, kích thích chúng, khơi hot chúng và chi phi th dĩ thái sao cho các bí huyt, mà các cung phàm ngă đang tuôn đ qua đó, và bí huyt đu, vn đang đáp ng vi cung linh hn, có th tr nên linh hot hơn. Huyt n đường, mà phàm ngă tác đng qua đó, tăng cường hot đng ca nó và hai điu xy ra:

 a/ S sng phàm ngă tr nên ngày càng mnh và con người phát trin thành mt cá nhân mnh m.

 b/ Bí huyt đu bt đu phát huy nh hưởng lên bí huyt n đường và mt cách t t nh hưởng lên bí huyt chót xương sng. Tính ương ngnh phát trin cũng như mi tính cht khác.

514

 
4. Gi đây linh hn vướng vào điu mà các nhà huyn bí hc gi là “mt tiến tŕnh đo ngược”. Điu này to ra mt quan tâm ln trong phn nh ca nó trong ba cơi thp, by gi ba s vic xy ra:

 a/ H trí c th tr nên l thuc vào s giác ng t linh hn.

 b/ Năng lượng ca cung linh hn ngày càng tuôn đ vào phàm ngă, làm mnh thêm s xung đt ca nó.

 c/ Con đường ca con người chung quanh hoàng đo (zodiac) t Dương Cưu (Aries) xuyên qua Song Ngư (Pisces) đến Kim Ngưu (Taurus) b đo ngược và lúc đó y tiếp tc ngược chiu kim đng h.

Tt c các yếu t này đu to ra va chm d di trên Con Đường D B, nó tăng lên khi con người bước lên Con Đường Đ T. Mănh lc ca phàm ngă, vượt lên và đang có nh hưởng, là cái đang to ra hot đng nghip qu mnh m. Các biến c và các hoàn cnh chng cht nhanh chóng và mănh lit thành kinh nghim ca đ t. Môi trường ca y vi tính cht cao siêu nht có sn trong ba cơi thp; kinh nghim ca y dao đng gia các cc đoan, y thanh toán hết các trách nhim nghip qu và tr h́nh pht ca các li lm đă qua tht nhanh chóng.

Sut thi gian này, luân hồi này ni tiếp luân hồi khác, và din tŕnh chết chóc quen thuc, xy ra gia các chu kỳ kinh nghim tiếp din. C ba cái chết –thuc xác thân, cm dc và h trí– đu được tiến hành vi s khơi hot dn dn trng thái hiu biết, khi h trí phát trin; con người không c̣n b trôi dt đây đó na –như đang ng và không hay biết– ra khi th dĩ thái, th cm dc và h trí, mà mi th tr nên chng khác ǵ mt biến c xy ra như là cái chết xác thân.

Sau cùng đến lúc mà đ t t trn vi s cân nhc và tâm thc đy đủ, và vi hiu biết thc s t b các th khác nhau ca ḿnh. Linh hn t t đm nhn s kim soát, và lúc đó đ t gây ra cái chết qua mt tác đng ca ư chí linh hn và biết chính xác nhng ǵ y đang làm.

515

 
Loại Bỏ H́nh Tư Tưởng Của Phàm Ngă

Khi bàn v ch đ này (và điu đó ch có th được làm rt vn tt), cn ghi nh hai điu:

1. Qu tht chúng ta đang xem xét đc nht mt ư tưởng trong trí ca linh hn và liên quan đến s kin căn bn v o tưởng, vn đă kim soát toàn b chu kỳ luân hi, và như thế gi linh hn làm tù nhân cho h́nh hài. Đi vi linh hn, phàm ngă ng ư hai điu:

 a/ Năng lc ca linh hn đ đng nht hóa vi h́nh hài; trước tiên điu này được linh hn nhn biết khi phàm ngă bt đu phn ng vi mt mc đ hi nhp thc s.

 b/ Cơ may cho đim đo.

2. Rơ ràng là vic loi b h́nh tư tưởng ca phàm ngă, vn hoàn tt cuc đim đo th ba, là mt đim đo ln đi vi linh hn trên cơi riêng ca nó (tc hn thiêng– ND). V́ lư do này, cuc đim đo ba được xem như cuc đim đo chính th nht, v́ hai cuc đim đo trước có rt ít hiu qu trên linh hn và ch nh hưởng đến linh hn đang lâm phàm (tc nhân hn, hay thượng trí–ND), “mnh nh” (“fragment”) ca tng th.

Đây là các s kin ít được nhn biết và ít khi được nhn mnh trong bt c tài liu nào được xut bn t trước đến nay. Cho đến gi, tm quan trng đă da vào các cuc đim đo như chúng tác đng đến đ t trong ba cơi thp. Nhưng tôi đc bit bàn v các cuc đim đo khi chúng tác đng hoc không tác đng đến linh hn, đang che ch h́nh nh ca nó, tc phàm ngă, trong ba cơi thp. Do đó, nhng ǵ mà tôi nói đến, s có ít ư nghĩa đi vi đc gi bc trung.

516

 
Theo quan đim ca phàm ngă, xem chính nó như K Chn Ngơ, thái đ hoc trng thái trí tu đă được mô t không tương xng y như thái đ hoàn toàn xóa sch dưới ánh sáng ca linh hn; cái huy hoàng ca Bn Lai Din Mc, được chuyn hóa bi Thiên Thn, cách nào mà phàm ngă hoàn toàn biến mt, vi các đ̣i hi và hoài bảo ca nó. Không ǵ b b li tr cái v và dng c mà ánh sáng mt tri có th tuôn đ qua đ giúp cho nhân loi. Điu này đúng mt mc đ nào đó, nhưng xét cho cùng, ch là c gng ca con người đ din đt hiu qu chuyn hóa và hiu qu biến dung ca cuc đim đo th ba, vn không th được thc hin.

Khó hơn rt nhiu so vi cái c gng mà đây tôi đang to ra đ mô t thái đ và các phn ng ca linh hn, bn ngă duy nht, Đc Thy trong tâm, khi nó nhn ra s kin kỳ diu v s gii thoát ct yếu ca chính nó và hiu rng, ch mt ln thôi, hin nay nó không có kh năng đ đáp ng bng bt c cách nào vi các rung đng thp ca ba cơi thp, khi nó chuyn đt cho linh hn bng dng c tiếp xúc ca nó, tc dạng thức phàm ngă. Dạng thức đó hin gi không có kh năng chuyn hóa như thế.

Phn ng th nh́ ca linh hn, khi nhn thc này đă được tp trung và được tha nhn, là – nh có được t do – t do đó gi đây truyn đt các đ̣i hi riêng ca nó:

1. Cho mt cuc sng phng s trong ba cơi thp, rt quen thuc và hin nay hoàn toàn được siêu vit.

2. Mt ư thc che ch đi vi t́nh thương hướng ra ngoài, hướng v phía nhng ai, cho đến nay, đang mưu t́m gii thoát.

3. Nhn ra được tam giác ct yếu mà hin gi đă tr thành tâm đim ca s sng theo khái nim (conceptual life) ca linh hn:

 

 

 

 

517

 
Hin nay linh hn rung đng gia hai đim hay các cp đi hp và hành đng theo mt trung tâm kêu gi và đáp ng.

Không cái nào trong s các nhn thc nói trên có th được ghi nhn trong tâm thc năo b hay là trong trí ca mt phàm ngă giác ng. Theo lư thuyết, mt s h́nh nh mơ h ca các tim năng có sn có th được cm nhn, nhưng tâm thc không c̣n là tâm thc ca đ t phng s trong ba cơi thp, vn dng trí năo, các xúc cm và xác thân đ tiến hành theo lnh và ư đnh ca Thánh Đoàn đến hết kh năng. Năng lc đó mt đi theo cái chết ca ư thc phàm ngă. Ư thc đó gi đây là ư thc ca chính linh hn, không biết đến phân cách, linh hot theo bn năng, b ám nh v mt tâm linh bi các kế hoch ca Thiên Gii và hoàn toàn thoát khi s mê hoc hay là s kim soát yếu nht ca h́nh hài-vt cht; tuy nhiên, linh hn vn đáp ng vi và b ch́m đm trong năng lượng-vt cht và s tương ng cao ca nó vn đang tác đng trên các mc đ ca cơi hng trn vũ tr – cơi B Đ, Niết Bàn, Đi Niết Bàn và Ti Đi Niết Bàn.

Lúc đó, nhng ǵ phi xy ra nếu s sng ca linh hn là đ làm đy và hoàn tt, và hoàn toàn bao quát đến ni ba cơi thp hp thành mt phn ca lĩnh vc hiu biết và lĩnh vc phng s ca nó? Cách duy nht mà tôi minh gii cho bn là nhng ǵ mà linh hn phi làm sau chu kỳ đim đo th ba là tng kết nó theo hai cách:

Th nht: Gi đây linh hn tr thành k sáng to hu ư v́ trng thái th ba–phát trin và chế ng qua kinh nghim trong ba cơi thp trong chu kỳ dài ca các ln luân hi – đă đt đến mc hot đng hoàn ho. Din t v mt k thut: năng lượng ca các cánh hoa tri thc và năng lượng ca các cánh hoa bác ái hin gi được dung hp và ḥa ln đến ni hai trong các cánh hoa bên trong, đang bao bc bo ngc trong hoa sen, không c̣n tác đng như là các bc màn đi vi bo ngc đó na. đây, tôi đang nói theo cách tượng trưng. V́ biến c này, s chết hay loi b ca phàm ngă là hot đng đu tiên trong tn kch sáng to có ư thc và h́nh hài đu tiên được to ra bi linh hn là mt vt thay thế cho phàm ngă. Thế là mt dng c đ phng s trong ba cơi thp được to ra. Tuy nhiên, ln này đó là mt dng c không có s sng, không ham mun, không tham vng và không có năng lc tư tưởng ca riêng nó. Đó ch là mt lp v bng vt cht, được làm sinh đng bng s sng linh hn, nhưng đng thi, li đáp ng vi và thích hp vi thi kỳ, chng tc và các t́nh trng chung quanh mà trong đó linh hn sáng to chn đ làm vic. Hăy xem xét k câu nói này và chú trng các t “thích hp vi” (“suited to”).

518

 
Th hai: Lúc đó linh hn t chun b cho cuc đim đo th tư sp đến. V cơ bn đây là mt kinh nghim ca Chân Thn c̣n các kết qu – như bn biết – trong vic biến mt hoc là hy dit ca linh hn th và do đó lp mt liên giao trc tiếp gia Chân Thn trên cơi riêng ca nó (tc cơi Đi Niết Bàn – ND) vi phàm ngă mi được to ra, xuyên qua giác tuyến (antahkarana).

519

 
Hai đim này được trao cho bn ln đu tiên trong vic tun t đưa ra giáo lư huyn môn; tuy nhiên, các n ngôn chun b đường li cho hai s kin này. Kiến thc cũng đă được ph biến liên quan ti huyn h́nh (mayavirupa) qua đó Chân Sư làm vic và tiếp xúc vi ba cơi thp, và Ngài cũng cân nhc khi sáng to đ giúp cho các mc tiêu và các kế hoch ca Ngài. Đó là mt thay thế chc chn cho phàm ngă và ch có th được to ra khi phàm ngă già dn (được kiến to và phát trin trong khi luân hi) đă b loi b. Tôi thích dùng t “b loi b” (“eliminated”) hơn là “b hy dit” (“destroyed”). Cu trúc – Vào thi đim loi b – vn tn ti, nhưng cuc sng riêng r ca nó đă ra đi.

Nếu bn mun suy tư thu đáo v phát biu này, bn s thy rng mt hi nhp rt đy đ hin nay có th xy ra. S sng phàm ngă đă được sát nhp; h́nh tướng ca phàm ngă vn c̣n b b li, nhưng nó c̣n tn ti mà không có s sng đích thc nào ca chính nó. Điu này có nghĩa là gi đây nó có th tr thành nơi nhn năng lượng và lc mà đim đo đ hoc Chân Sư cn đến đ tiến hành công vic cu đ nhân loi. Các đo sinh s thy điu đó có giá tr đ nghiên cu ba “hin thân ca Đc Christ” như đă được ghi trong câu chuyn Phúc Âm:

1. Biến thân biến h́nh (transfigured appearance) ca Ngài trên Núi Hin Biến (Mount of Transfiguration). Giai đon đó mô t mt cách tượng trưng linh hn ta chiếu, và cũng mô t ba th b b trng ca phàm ngă, và cũng ám ch mt kiến to trong tương lai ca mt th biu l. Thánh Peter nói: “Chúa ôi, xin đ cho chúng con đây to nên ba túp lu” hay thánh đin.

2. Biến thân ca Ngài dưới h́nh thc chính chân lư (lặng thinh tuy hiện diện) trước vành móng nga (bar) hay ch x án ca Pilate – b chi b bi thế gii con người, nhưng được Thánh Đoàn nhn biết.

3. Các biến thân ta chiếu ca Ngài sau cuc đim đo phc sinh:

 a/ Liên quan ti n nhân m đá – tượng trưng cho s tiếp xúc ca Ngài vi Nhân Loi.

 b/ Liên quan ti hai đ t trên đường đến Emmaus –tượng trưng cho s tiếp xúc ca Ngài vi Thánh Đoàn.

 c/ Liên quan đến mười hai tông đ trong thượng pḥng – tượng trưng cho s tiếp xúc ca Ngài vi Huyn Linh Ni Đin ca Đng Chưởng Qun Đa Cầu Shamballa.

Như vy có th thy bn cht thc s ca các kết qu mà tôi nhc đến trước kia trong giáo hun này. Đ t nào đă loi b (theo nghĩa chuyên môn, cũng như theo nghĩa huyn bí) s kim soát ca phàm ngă, gi đây đang có “t do ca Huyn Vin”, như người ta gi; y có th hot đng tùy ư trong s các đ t và đim đ thân hu ca y. Nơi đó s không có ǵ trong rung đng s sng ca y hoc tính cht ca y vn có th làm xáo trn s nhp nhàng ca Huyn Vin; nơi đó s không có ǵ đ khơi dy “s can d tĩnh lng” (“calming intervention”) ca Chân Sư, như trường hp thường xy ra trong các giai đon trước ca con đường đ t; hin gi không ǵ có th can d vào các tiếp xúc cao này và các lĩnh vc nh hưởng mà t trước đến gi đă được niêm phong kín đi vi đ t v́ s xâm phm vào phàm ngă ca chính y.

520

 
 

 

 


 

 

 

 


521

 
PHẦN BA

 

CÁC ĐỊNH LUẬT CHỮA TRỊ CƠ BẢN

 

Chúng ta đă hoàn tất hai phần xét về thuật trị liệu. Chúng ta đă bàn phớt qua về các nguyên nhân của bệnh tật, và ghi nhận rằng nói chung bệnh tật đều phát xuất từ ba nguồn chính: trạng thái tâm lư của bệnh nhân, nợ nhân quả của y và những ǵ gánh chịu qua mối liên hệ tập thể thuộc chung quanh, thuộc quốc gia hoặc thuộc hành tinh. Kế đó, tôi đă bàn đến vài đ̣i hỏi cơ bản về t́nh huống và thái độ phải được lập nên giữa người chữa trị với bệnh nhân và sau cùng, tôi đă bàn đến vấn đề sự chết. Tôi đă xét khi nó tác động đến ba hiện thể tạm thời, nhấn mạnh đến bản chất thiêng liêng của nó và mục đích kiến tạo của nó. Giờ đây, chúng ta đi đến tiết xét qua về các Định luật chữa trị và các Qui Luật sẽ chi phối tiến tŕnh chữa trị.

522

 
Chúng ta đă thấy rằng có mười định luật và sáu qui luật. Định Luật thứ mười quá bí hiểm nên không thể giải thích nhiều được. Nó liên hệ đến nguyên khí sự sống, mà cho đến nay chúng ta không biết ǵ cả, và có liên quan đến mục tiêu của Chân Thần. Mọi giáo huấn huyền môn đều phát xuất trực tiếp từ Thánh Đoàn, đều chứa trong nó mầm mống sinh động của những ǵ sẽ theo sau. Thí dụ như trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, H.P.B. (dưới chỉ dẫn của tôi) đă thỉnh thoảng đề cập rất vắn tắt và khó hiểu đến giác tuyến (antahkarana). Như thế, bà đă lưu lại một hạt giống, mà khi phát triển đầy đủ, sẽ chỉ ra nhu cầu cho những ai – nhờ đạt được điểm đạo cao – có thể tiến vào Con Đường Tiến Hóa Cao Siêu. Do đó, trong định luật thứ mười này, tôi cũng lồng vào mầm mống cho việc tiếp cận đến vấn đề Sinh và Tử được đầy đủ hơn sau này

Ở đây, tôi xin nhắc các bạn rằng thực ra một định luật là hiệu quả của sự sống của một thực thể vĩ đại, khi thực thể ấy chứa đựng bao quanh một thực thể nhỏ hơn trong các tiến tŕnh sinh hoạt của ḿnh. Định luật ấy thể hiện mục đích được đề ra hoặc ư chí đă an bài của một sự sống đang bảo bọc, mà mục tiêu biểu lộ hoặc ư chí đă định của những ǵ được bảo bọc, hoàn toàn bất lực để chống lại. Hỡi huynh đệ, các bạn có thể tranh căi rằng phát biểu này phủ nhận tự do ư chí của từng cá nhân được chứa đựng hay bảo bọc như thế. Chắc chắn phát biểu trên hẳn là phản bác lại khía cạnh h́nh hài của biểu lộ – chẳng hạn khía cạnh mà một con người biết rơ nhất. V́ vậy, liên hệ giữa cái cao hay lớn hơn với cái thấp hay nhỏ hơn chắc chắn cũng sẽ chế ngự và cuối cùng sẽ vô hiệu hóa những định luật thứ yếu của bản chất h́nh tướng, tức những luật mà ngày nay được gọi là các định luật của tạo hóa.

Tuy nhiên, điều cũng thiết yếu là linh hồn bên trong mọi h́nh hài, đang chiến đấu với các h́nh hài này, và trong sự sống toàn vẹn của chính nó, bị chi phối bởi những định luật cao vốn là những định luật của chính bản thể nó. Nó tùy ư tuân theo những định luật này, không hề có một chút mong muốn làm ngược lại. Do đó, không có một vi phạm đáng kể nào đối với tự do ư chí của chủ thể; chỉ có sự đối kháng của cái mà chúng ta gọi là "phi ngă" ("not-self") hay là trạng thái vật chất. Đối kháng này có thể gọi là nguyên nhân căn bản của mọi bệnh tật.

Những ǵ chúng ta gọi là các Định Luật của Thiên Nhiên chính là giai đoạn /phương tiện (phase) cao nhất của sự sống thiêng liêng có thể xảy ra trong thái dương hệ thứ nhất. Ban sơ, chúng là những định luật cố hữu trong khía cạnh sự sống sắc tướng, do đó, trong chúng có sẵn mầm mống của tử vong. Các Định Luật của Linh Hồn, v́ chúng phụ thuộc và làm vô hiệu các Định Luật Thiên Nhiên, chính là các định luật cao nhất mà nhân loại (hiện là giới cao nhất trong thiên nhiên) có thể ứng đáp được, và các luật này – khi trở nên hoàn măn – sẽ kết thúc mục đích của thái dương hệ thứ nh́. Các luật của chính Sự Sống, cuối cùng sẽ thay thế cho các luật của Linh Hồn và sẽ hoàn toàn hóa giải và vô hiệu hóa các Luật Thiên Nhiên, các định luật này sẽ trở thành đặc thù của thái dương hệ thứ ba – tức sự biểu lộ cuối cùng của phàm ngă của Thái Dương Thượng Đế, qua trung gian của bảy vị Hành Tinh Thượng Đế, với các sắc tướng và các biểu lộ linh hồn thay đổi của các Ngài.

523

 
BA NHÓM ĐỊNH LUẬT

Thế nên, chúng ta có ba nhóm định luật cai quản sự biểu lộ của mục đích sinh hoạt trong thái dương hệ thứ nh́ này – một nhóm th́ đă phát triển xong, một nhóm đang phát triển, nhóm thứ ba c̣n tiềm tàng và tương đối yên lặng.

1. Các Định Luật của Thiên Nhiên – tức các luật riêng biệt của bản chất sắc tướng.

2. Các Định Luật của Linh Hồn – tức các luật hài ḥa đối với sự toàn vẹn tập thể.

3. Các Định Luật của Sự Sống – tức những luật năng động (dynamic laws) của chính Bản Thể.

Giờ đây, chúng ta sẽ bàn đến một vài khía cạnh của các Luật của Linh Hồn, bởi v́ chúng liên quan đến tính toàn vẹn và sự hoạt động của linh hồn trong h́nh hài. Hăy thật thận trọng ghi nhớ điều này. Bệnh tật là những ǵ làm hại sự toàn vẹn hoặc hài ḥa của bản chất h́nh hài mà con người tinh thần bên trong phải dùng để giao tiếp trong ba cơi thấp, tức là môi trường của y khi nhập thế. Do vậy, mười định luật mà chúng ta sẽ nghiên cứu có thể được xem như mười luật phụ của Định Luật Cơ Bản về sự Toàn Vẹn Cốt Yếu. Chúng tạo nên chín chi tiết hay khía cạnh của định luật duy nhất đó; bạn phải ghi nhớ điều này thật cẩn thận. Nhà chữa trị chân chính bao giờ cũng phải vận dụng các luật này.

524

 
Sáu qui luật chỉ bàn đến cách áp dụng sự toàn vẹn được nhận ra cho các t́nh huống và hoàn cảnh mà người trị liệu phải đối phó. Tính toàn vẹn cần đến sự tập trung, sự nhất tâm và sự biểu lộ (được nhận thức đồng thời được tạo nên một cách hữu ư và được vận dụng một cách năng động).

ĐỨC TÍNH CẦN CÓ ĐỐI VỚI NHÀ TRỊ LIỆU

Trong các định luật và qui luật mà tôi truyền đạt, một số đặc tính cần thiết của người trị liệu được nhắc đến và một số đ̣i hỏi cần thiết được nêu ra. Trước hết, chúng ta nên ghi nhận các điều nói trên v́ không những chúng tŕnh bày các đức tính và thái độ vốn thiết yếu cho việc thực hành thành công thuật trị liệu, mà chúng c̣n cho thấy tại sao – đến tận ngày nay – chưa có một bệnh nhân nào được bất cứ một trường phái y học hiện hành nào chữa trị một cách có hệ thống và thành công thực sự. Đă có trường hợp mà tôi có thể gọi là "sự chữa lành t́nh cờ" do sự thực là người bệnh chưa đến lúc phải từ trần, th́ y sẽ được chữa lành bằng cách nào đó. Việc trị liệu có ư thức, cẩn trọng với hiểu biết đầy đủ, chỉ xảy ra khi nhà trị liệu là một điểm đạo đồ cao cấp, mô phỏng theo cách sống và bản chất của Đức Christ.

Bây giờ, chúng ta hăy xem xét kỹ các đức tính và các thái độ đă nêu trên. Tôi sẽ kể ra và giải thích một cách vắn tắt.

1. Quyền năng tiếp xúc và hoạt động với tư cách một linh hồn. "Khéo léo của nhà trị liệu cốt ở chỗ giải tỏa linh hồn". Hăy suy tưởng trong giây lát quyền năng này bao hàm những ǵ. Nhà trị liệu không những có thể tiếp xúc ngay và có ư thức với linh hồn của chính ḿnh, mà c̣n nhờ sự giao tiếp bằng linh hồn đó, y có thể tiếp xúc một cách dễ dàng với linh hồn của bệnh nhân.

525

 
2. Quyền năng điều khiển ư chí tinh thần. Định luật nào đặc biệt liên hệ đến việc trị liệu phải được khơi hoạt bằng "ư chí tinh thần". Điều này tất phải là năng lực tiếp xúc được với Tam Thượng Thể Tinh Thần. Cho nên, giác tuyến phải ở trong tiến tŕnh kiến tạo ít nhiều.

3. Quyền năng thiết lập liên giao bằng viễn cảm. Nhà trị liệu phải "biết được tŕnh độ tư tưởng và ham muốn bên trong" của bệnh nhân.

4. Kẻ chữa trị phải có hiểu biết chính xác. Chúng ta hiểu rằng y phải "biết điểm chính xác qua đó việc giảm bệnh phải đến". Đây là điểm quan trọng nhất và là điểm mà những người được gọi là các nhà trị liệu trong các phong trào như Khoa học Cơ Đốc, Hợp Nhất và các phong trào khác đă hoàn toàn bỏ qua. Việc chữa trị không thể đến bằng sự xác tính mạnh mẽ thiên tính, hay bằng cách chỉ tuôn đổ t́nh thương và biểu lộ một thuyết mơ hồ. Nó chỉ đến nhờ quán triệt khoa học giao tiếp chính xác, với ấn tượng, với thỉnh nguyện cộng thêm việc thông hiểu về bộ máy tinh vi của thể dĩ thái.

5. Quyền năng đảo ngược, tái định hướng và "nâng cao" tâm thức của bệnh nhân. Nhà trị liệu phải "làm cho đôi mắt chăm chú nh́n xuống, ngước lên linh hồn". Đây là mắt của bệnh nhân. Câu này hàm ư sự giới hạn, bởi v́, nếu người bệnh chưa đến tŕnh độ tiến hóa khiến điều đó có thể thực hiện, và chưa tiến hóa đến mức có thể giao tiếp với chính linh hồn ḿnh, th́ việc làm của nhà trị liệu tất nhiên là vô ích. Cho nên phạm vi hoạt động của nhà trị liệu tinh thần chỉ giới hạn trong những bệnh nhân đă có đức tin. Tuy nhiên, đức tin là "bằng chứng của những ǵ chưa thấy được". Bằng chứng đó phần lớn c̣n thiếu trong đa số con người. Đức tin không phải là niềm tin do mơ ước hay là hy vọng được hoạch định. Nó là bằng chứng của một sự xác tín có nền tảng vững chắc.

6. Quyền năng điều khiển năng lượng của linh hồn đến nơi cần thiết. "Bấy giờ, con mắt thứ ba hay là con mắt tâm linh sẽ điều khiển sức mạnh trị liệu". Điều này đ̣i hỏi một kỹ năng khoa học về phần nhà chữa trị và cách hoạt động đúng của bộ máy đối với mănh lực được thu nhận và điều khiển trong đầu.

526

 
7. Quyền năng để biểu lộ từ điện thanh khiết và tia sáng cần thiết. "Nhà trị liệu phải có từ điện thanh khiết và có được bức xạ xua tan bệnh tật". Điều này cần đến nhiều giới luật cá nhân trong đời sống hằng ngày và thói quen sống thanh khiết (pure living). Sự thanh khiết đương nhiên và tự động được tạo ra trong bức xạ.

8. Quyền năng kiểm soát hoạt động của bộ máy trong đầu. Nhà trị liệu phải "liên kết được các trung tâm lực trong đầu". Nhà trị liệu chân chính đă thiết lập được một từ trường bên trong đầu y. Từ trường ấy tự xuất hiện hay tự biểu lộ qua một bức xạ rơ rệt có thể nhận biết được.

9. Quyền năng vận dụng các bí huyệt của chính y. Nhà trị liệu phải "tập trung năng lượng cần có vào trong bí huyệt đang cần đến”. Bí huyệt trong người bệnh nhân gần nơi có bệnh nhất phải được làm cho tiếp nhận năng lượng được phóng vào nó từ bí huyệt tương ứng trong cơ thể nhà trị liệu. Do đó bạn thấy rơ rằng nhà trị liệu chân chính cần đến biết bao tri thức và khả năng kiểm soát năng lượng.

10. Quyền năng vận dụng các phương pháp trị liệu cả ngoại môn lẫn nội môn. Nhà trị liệu sẽ dùng những "phương pháp trị liệu theo huyền môn, mặc dầu các phương pháp y học thông thường và giải phẫu sẽ không bị bỏ đi". Tôi đă luôn luôn nhấn mạnh đến tính chất thiên phú (God-given nature) của y khoa thực nghiệm – vốn là nhóm từ bổ nghĩa cho y khoa ngày nay và vẫn c̣n bổ nghĩa cho cách chữa trị siêu h́nh nhiều hơn. Không cần nhờ đến nhà trị liệu tinh thần trong trường hợp găy xương hay trong các bệnh mà y học chính thống đă biết cách chữa trị. Tuy nhiên, quyết tâm chung của bệnh nhân và t́nh trạng có thể được trợ giúp một cách thích đáng, trong cuộc giải phẫu sáng suốt và kiến thức y học được cải thiện đều được áp dụng. Điều này, nhà trị liệu siêu h́nh, như thường được gọi, thường không biết. Sau rốt, các nhà trị liệu sẽ được phân thành hai nhóm:

527

 
a. Các nhà trị liệu tinh thần lăo luyện.

b. Các nhà trị liệu có quyền năng ít phát triển, nhưng có đủ bức xạ và từ điện để trợ giúp trong quá tŕnh chữa trị thông thường. Những người này sẽ thường hoạt động theo hướng dẫn của nhà trị liệu tinh thần.

11. Quyền năng chữa trị bằng từ điện. "Theo cách này, nhà chữa trị có thể tuôn rải lực chữa trị đầy sinh lực cho bệnh nhân". Nhà trị liệu làm điều này qua việc phối hợp có khoa học khí cụ của ḿnh bằng cách dùng tay làm tác nhân điều khiển. Bằng cách này, bệnh có thể được chữa lành, thuyên giảm hoặc trở nên nặng hơn, thậm chí đến mức tử vong. Do vậy, trách nhiệm của nhà trị liệu thật hệ trọng.

12. Quyền năng chữa trị bằng bức xạ. "Theo cách này, sự có mặt của y đưa vào sức sống linh hồn cho bệnh nhân". Việc này lại được tạo ra nhờ một hệ thống phối kết, nhưng môi giới của bức xạ bấy giờ là hào quang (của nhà trị liệu – ND), chớ không phải là bàn tay.

13. Quyền năng thực hành đầy đủ đức vô tổn hại vào mọi lúc. "Phương pháp được Đấng Hoàn Thiện sử dụng … là đức vô tổn hại" ("harmlessness"). Chúng ta được dạy rằng đức tính này cần đến một biểu lộ thăng bằng tích cực, một quan điểm bao quát và cảm thông thiêng liêng. Có được bao nhiêu nhà trị liệu kết hợp được cả ba đức tính này, cũng như hành động bằng t́nh thương?

528

 
14. Khả năng kiềm chế ư muốn và làm việc qua t́nh thương. "Nhà trị liệu phải kiềm lại ư muốn của ḿnh". Đây là một trong những đức tính khó nhất phải phát triển, v́ ư muốn của nhà trị liệu thường quá mạnh mẽ trong quyết tâm chữa trị, đến nỗi nó làm cho cố gắng áp dụng tiến tŕnh trị liệu trở nên hoàn toàn vô hiệu. Theo khía cạnh trái ngược, thường thường ư muốn thiên về t́nh cảm và thần bí do xót thương bệnh nhân, làm vô hiệu mọi nỗ lực kềm giữ ư chí. Hỡi huynh đệ, hăy nhớ rằng ư chí tinh thần phải hiện hữu như một hồ năng lực sâu ẩn sau mọi sự biểu lộ năng lượng bác ái.

15. Sau cùng là khả năng vận dụng Định Luật Sự Sống. Ít điều có thể nói được về định luật này, v́ nó chỉ có thể được vận dụng bởi những người đă phát triển hoặc đang phát triển nhanh chóng tâm thức của Tam Thượng Thể Tinh Thần – cho đến nay điều này rất ít xảy ra.

Trong khi nghiên cứu các điều kiện cần yếu này, ta không nên năn ḷng. Nghiên cứu đó sẽ giúp đặt mục tiêu cần thiết cho mọi nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới. Nó cũng sẽ giải thích được tại sao các phương pháp trị liệu khác nhau được thực hành ngày nay trên khắp thế giới (đặc biệt là ở các nước Anh Mỹ) từ trước đến giờ đă thất bại rơ rệt, bất chấp các khẳng định của họ. Không một ai trong họ – nếu họ giữ lại các ghi chép được chứng nhận thích đáng, có độ chính xác theo khoa học (thực tế là không có người nào làm chuyện đó) – có thể ghi nhận nhiều hơn số phần trăm tối thiểu, các trường hợp chữa trị dựa vào cách trị liệu tinh thần thuần túy. Tỷ lệ lành bệnh chưa đến một trong một triệu lần "chữa trị". Nếu để tự nhiên hoặc để cho y khoa và khoa giải phẫu thông thường th́ dù sao đi nữa, vào đúng lúc, các cách chữa này cũng giúp cho b́nh phục.

Tuy nhiên, ngày nay, kích thích tinh thần trên thế giới lớn lao, và số người đáp ứng với kích thích đó đông đến nỗi không thể tránh khỏi có một số lớn người trong hàng nhân loại b́nh thường tiến tới trên Con Đường Đệ Tử. Trong năm trăm năm nữa, mức tiến này sẽ cung ứng được nhiều nhà trị liệu, họ sẽ đáp ứng đến mức nào đó các điều cần yếu mà tôi đă liệt kê ở trên.

529

 
Các triết lư được các hệ thống khác nhau tán đồng, như là Phong Trào Hợp Nhất (Unity) và Khoa Học Công Giáo (Christian Science) đều cơ bản là hợp lư, chúng đưa ra những nhàm chán cơ bản (song lại là những chân lư cốt yếu) ẩn dưới mọi điều tôi đă nói ở trên. Tuy nhiên, con người không được chữa lành bằng cách nói ra những điều vô vị, bằng xác quyết về Thượng Đế, hay bằng việc tŕnh bày về các lư thuyết trừu tượng. Con người sẽ được chữa trị khi đến đúng lúc, v́ năng lực của nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới biểu lộ trong chính y và trong đời sống hằng ngày của y phẩm đức của Thượng Đế (the quality of divinity) để có thể dùng phần tinh thần kêu gọi linh hồn của bệnh nhân, họ cũng có từ điện thanh khiết và nhờ mănh lực của một loại năng lượng đặc biệt phát ra để kích thích bệnh nhân tự chữa chính ḿnh – nhờ trung gian của bộ máy bên trong của chính ḿnh.

Nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới sẽ có khả năng tạo các giao tiếp sau đây, vừa dễ dàng, vừa thấu đáo:

1. Với linh hồn của chính y

2. Với linh hồn của bệnh nhân

3. Với loại năng lượng đặc biệt, thuộc về cung linh hồn hoặc cung phàm ngă của bệnh nhân.

4. Với bất cứ bí huyệt nào của chính y, y cần chúng để hoạt động như một phương tiện truyền năng lượng cần được đưa vào một khu vực được chi phối bởi một bí huyệt nào đó trong cơ thể bệnh nhân.

5. Với bí huyệt trong thể dĩ thái của bệnh nhân, bí huyệt này đang kiểm soát khu vực bị bệnh.

Như bạn thấy, khả năng này bao hàm rất nhiều kiến thức chuyên môn. Thêm vào đó, nhà trị liệu cũng phải có cái thấu suốt tinh thần, năng lực này giúp y trực nhận được "karma quan trọng nhất" ("karma of the moment"), nói theo huyền môn, và do thế mà biết được việc chữa trị có thể thực hiện được hay không. Đây là một h́nh thức hiểu biết mà hiện nay, không một nhà trị liệu nào trên thế giới có được, dầu người ta có khẳng định ǵ ǵ đi nữa. Tôi nhắc lại, đây không phải là lư do để nản ḷng.

530

 
Những ǵ thực sự cần thiết sẽ được tạo ra trong nhiều thập niên tới đây, đó là việc các đệ tử và những kẻ có định hướng thiêng liêng sẽ bước vào giới y học. Họ sẽ tự làm hoàn thiện bằng các kỹ thuật của y khoa chính thống, bằng các kiến thức công truyền về cơ thể học của thân xác, về các triệu chứng bệnh lư, cộng với những phương pháp trị liệu chính thống và các cách xử lư bệnh tật. Với kiến thức và hiểu biết chuyên môn này, họ sẽ đưa thêm vào một phần nào kiến thức của huyền môn, và trong khi thực hành chức năng, họ sẽ bắt đầu kết hợp cái khôn khéo bên ngoài lẫn minh triết của huyền môn mà họ có được. Lúc đầu, việc làm này chỉ thuần là thí nghiệm, nhưng nhờ kinh nghiệm thu được trong việc sử dụng cả hai lĩnh vực kiến thức mà một nền y khoa mới sẽ ra đời. Khoa này sẽ căn cứ vào hai nhân tố tối quan trọng được thừa nhận:

1. Khối kiến thức và sự hiểu biết về xác thân đă được tích lũy. Nó đă được các nhà khoa học gom góp qua các thời đại, phần lớn là đúng thật và được chứng minh.

2. Hiểu biết luôn luôn tăng lên về bản chất của thể dĩ thái, về các bí huyệt, về cách truyền chuyển và tuần hoàn của một vài năng lượng đă được kiểm soát.

Việc kết hợp hai khía cạnh chân lư này sẽ được thuận lợi rất nhiều nhờ sự nhạy cảm ngày càng tăng và hầu như tri giác nhăn thông của nhân loại đang phát triển. Một trong các kết quả nổi bật của cuộc thế chiến mới đây là một năng lực tăng gia phi thường về phản ứng thần kinh. Hiện nay, tính thụ cảm này của dây thần kinh hăy c̣n bất b́nh thường và có các hậu quả đáng buồn. Lư do là bộ máy thần kinh của một thường nhân (tôi muốn nói hệ thần kinh cộng với các nadis nằm bên dưới) chưa thích hợp với các đ̣i hỏi của nó. Tuy nhiên, thời gian sẽ điều chỉnh mọi việc.

531

 
Hiện nay, cả những nhà trị liệu siêu h́nh, lẫn những nhà y học chính thống đều có khuynh hướng bác bỏ lẫn nhau rất quyết liệt. Nói chung, các y sĩ chính thống th́ ít cực đoan và ít độc đoán hơn các nhà siêu h́nh hiện đại. Họ biết rất rơ các giới hạn của các thành quả y học hiện tại. C̣n kẻ được gọi là nhà trị liệu tinh thần hiện nay không thừa nhận một sự giới hạn nào cả, và điều này rơ ràng là một nhược điểm. Sẽ đến lúc, cả hai nhóm phải trở thành những người cộng tác với nhau, chứ không phải là những kẻ đối địch nhau. Cả hai nhóm đều có nhiều điều cần học hỏi lẫn nhau, cả hai phải nhận ra rằng các lănh vực tri thức đặc biệt mà mỗi nhóm đang ủng hộ/ đại diện, đều là một biểu lộ thiêng liêng, các nhóm đó cho thấy năng lực trí tuệ con người là t́m kiếm, ghi nhận, khám phá và diễn giải chân lư, để nhờ đó mà những người khác hưởng được lợi ích.

Tôi muốn nhắc cho bạn chú tâm vào sự thật rằng cả hai nhóm có nhiều việc cần làm, một bên tiến vào lĩnh vực tinh tế và vô h́nh (điều này đang ngày càng được thực hiện nhanh chóng). C̣n nhóm kia th́ phải đi xuống từ cái trừu tượng mơ hồ và cái khái quát không thực tiễn để học cách nhận ra các sự thực liên quan đến ngoại cảnh và hữu h́nh. Điều này, cho đến nay chưa được làm. Cái gọi là trị liệu siêu h́nh đang ch́m trong bóng tối của ngôn từ và những xác nhận rỗng tuếch.

Không ai nghi ngờ sự thành thực của đa số những người thuộc các trường phái tư tưởng này, động cơ thúc đẩy của họ hầu như cũng là thành thực và tốt lành. Trong cả hai nhóm đều có những kẻ bịp bợm, và cũng có một thiểu số – rất ít– những người v́ tư lợi và kẻ lợi dụng sự thiếu hiểu biết của con người. Trong số này, có cả những y sĩ và những nhà siêu h́nh học theo đường hướng thương mại; tuy nhiên, họ thuộc về thiểu số. Nhà sưu khảo thành tâm và kẻ nhân ái trong cả hai nhóm đều sẽ t́m được hy vọng tương lai của y học, đó là y học t́m cách đáp ứng được nhu cầu của nhân loại, một nhân loại đang ngày càng trở nên nhạy cảm và hướng về nội tâm.


532

 
CHƯƠNG VIII

 

LIỆT KÊ VÀ ÁP DỤNG CÁC ĐỊNH LUẬT VÀ QUI LUẬT

 

GHI CHÚ: Một số Qui luật (Rules) có liên hệ với một số Định Luật (Laws) và tôi sẽ xem xét liên hệ chính đáng của chúng. Tôi đă nhờ A. A. B. nêu ra đây 10 định luật, khi có một qui luật liên quan đến một định luật đặc biệt nào – th́ nêu qui luật đó theo với định luật đó. Các qui luật được đánh số trở lại và không theo thứ tự đưa ra trước đây.

ĐỊNH LUẬT  I

Mọi bệnh tật đều là hậu quả của sự sống linh hồn bị ức chế. Điều này đúng cho mọi h́nh hài trong mọi giới. Cái khéo léo của nhà trị liệu nằm trong việc tháo gỡ cho linh hồn, sao cho sự sống của linh hồn có thể tuôn chảy qua toàn bộ các cơ quan cấu thành bất luận h́nh hài đặc biệt nào.

ĐỊNH LUẬT  II

Bệnh tật là sản phẩm của và thuộc vào ba ảnh hưởng: một là quá khứ của bệnh nhân, trong đó y trả giá cho cái sai lầm cũ; hai là sự kế thừa của y, trong đó y phải chia sớt với toàn thể nhân loại những ḍng năng lượng bị ô nhiễm có nguồn gốc trong tập thể; ba là y phải chia sớt với mọi h́nh hài trong thiên nhiên, những ǵ mà Đấng Chủ Quản Sự Sống đặt để nơi cơ thể Ngài. Ba ảnh hưởng này được gọi là "Định Luật Cổ về Chia Sẻ Điều Ác". Một ngày nào đó, nó sẽ nhường chỗ cho luật mới, là "Định Luật Điều Thiện Cổ Xưa Đang Thống Ngự", định luật này đang nằm sau tất cả những ǵ Thượng Đế đă tạo ra. Định luật này phải nhờ ư chí tinh thần của con người làm cho linh hoạt.

533

 
QUI LUẬT MỘT

Nhà trị liệu hăy tự luyện tập để biết được giai đoạn bên trong của tư tưởng hoặc ham muốn của người đang t́m trợ giúp của y. Nhờ đó y có thể biết được cội nguồn từ đó bệnh xuất phát. Y hăy liên kết nhân với quả để biết điểm chính xác nhờ đó việc chữa trị sẽ đạt hiệu quả.

ĐỊNH LUẬT III

Bệnh tật là một hậu quả của việc tập trung sơ đẳng năng lượng sự sống của con người. Từ b́nh diện nơi mà các năng lượng này tập trung, diễn tiến các t́nh huống có tính định đoạt, chúng gây nên sức khỏe kém. V́ thế, các t́nh huống này diễn tiến thành bệnh hoặc thoát khỏi bệnh.

ĐỊNH LUẬT IV

Bệnh tật, cả về thể chất lẫn tâm lư, đều có nguồn gốc trong thiện, mỹ và chân. Nó chỉ là một h́nh ảnh méo mó của các tiềm năng thiêng liêng. Linh hồn bị ngăn trở đang t́m cách biểu lộ toàn vẹn tính chất thiêng liêng nào đó, hoặc thực tại tâm linh bên trong, tạo ra trong chất liệu của các thể/lớp vỏ của nó (sheaths), một điểm ma sát. Đôi mắt của phàm ngă tập chú vào điểm này, và việc đó đưa tới bệnh hoạn. Cái khéo của người chữa bệnh có liên quan đến việc làm cho đôi mắt chú mục nh́n xuống, ngước lên linh hồn, tức Người Chữa Trị đích thực trong h́nh hài. Bấy giờ, con mắt tâm linh hay mắt thứ ba mới hướng dẫn sức mạnh trị liệu và mọi sự đều tốt đẹp.

QUI LUẬT HAI

Nhà trị liệu phải đạt được sự thanh khiết về từ điện qua sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt được loại bức xạ xua đi bệnh hoạn. Bức xạ này tự biểu lộ trong người nào đă liên kết được các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này được thành lập, bức xạ này liền phát ra.

ĐỊNH LUẬT  V

534

 
Không có ǵ khác ngoài năng lượng, v́ Thượng Đế là Sự Sống. Hai loại năng lượng đáp ứng trong con người, c̣n năm năng lượng khác đang hiện hữu. Đối với mỗi loại năng lượng có một tâm điểm tiếp xúc. Sự xung khắc của các năng lượng này với các mănh lực, và sự xung khắc của giữa chính các mănh lực, tạo nên các bệnh ở thể xác của con người. Xung khắc giữa năng lượng thứ nhất và năng lượng thứ nh́ tồn tại qua nhiều thời đại, cho đến khi đạt tới tột đỉnh – đỉnh núi lớn thứ nhất. Trận chiến giữa các lực tạo nên mọi bệnh tật và đau đớn trong thể xác, vốn t́m cách giải tỏa bằng cái chết. Hai, năm như vậy là bảy, cộng với những ǵ chúng tạo nên, nắm giữ sự bí mật. Đây là Định Luật Chữa Trị thứ năm, trong thế giới sắc tướng.

QUI LUẬT BA

Để cho nhà trị liệu tập trung năng lượng cần thiết trong bí huyệt cần thiết. Để cho bí huyệt đó tương ứng với bí huyệt đang có nhu cầu. Hăy để cho cả hai trở nên đồng bộ và cùng tăng thêm lực. Nhờ thế mà h́nh thể đang chờ chữa trị sẽ được thăng bằng trong hoạt động của nó. Nhờ thế mà hai và một sẽ được chữa trị đúng hướng.

ĐỊNH LUẬT VI

Khi các năng lượng kiến tạo của linh hồn đang linh hoạt trong cơ thể, lúc đó, có được khỏe mạnh, sự tương tác hoàn toàn và hoạt động đúng đắn. Khi những vị kiến tạo là các nguyệt thần (lunar lords) và những ai làm việc dưới sự chi phối của mặt trăng và theo lệnh của phàm ngă, bấy giờ sẽ có bệnh hoạn, sức khỏe kém và tử vong.

ĐỊNH LUẬT  VII

Khi sự sống hoặc năng lượng lưu chuyển không bị cản trở và thông qua đúng hướng, đến chỗ phóng hiện của nó (tức là tuyến liên hệ), bấy giờ h́nh hài đáp ứng và sức khỏe kém biến mất.

QUI LUẬT BỐN

Dựa vào các triệu chứng bên ngoài đă biết rơ, việc chẩn đoán bệnh tật thận trọng sẽ được đơn giản hóa đến mức – mà khi đă biết và cô lập được cơ quan liên hệ, th́ bí huyệt trong thể dĩ thái vốn liên quan mật thiết nhất với nó sẽ tùy thuộc vào các phương pháp chữa trị theo huyền môn, mặc dầu các phương pháp cải thiện thông thường như dùng thuốc, hoặc giải phẫu sẽ vẫn được dùng.

ĐỊNH LUẬT  VIII

535

 
Bệnh tật và tử vong là các kết quả của hai mănh lực chủ động. Một là ư chí của linh hồn, lực này bảo với khí cụ của nó: "Ta thu hồi tinh hoa trở lại". Lực kia là lực thu hút của sự sống hành tinh. Lực này bảo với sự sống bên trong cơ cấu nguyên tử: "Đă đến thời điểm tái hấp thu. Hăy trở lại cùng ta". Tất cả mọi h́nh hài đều hoạt động theo luật chu kỳ như thế.

QUI LUẬT NĂM

Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, trái tim, bộ óc và đôi tay của ḿnh. Nhờ thế, y có thể tuôn ra lực chữa trị linh hoạt vào bệnh nhân. Đấy là công đoạn truyền từ điện. Nó chữa lành bệnh tật hoặc tăng thêm t́nh trạng tệ hại, tùy theo mức hiểu biết của nhà trị liệu.

Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, bộ óc, quả tim và bức xạ của hào quang. Nhờ thế, sự hiện hữu của y có thể đưa vào sức sống linh hồn cho bệnh nhân. Đây là công đoạn phóng quang. Không cần đến bàn tay. Linh hồn hiển lộ quyền năng của nó. Linh hồn của bệnh nhân đáp ứng qua sự đáp ứng của hào quang của y với bức xạ của hào quang người chữa trị, ngập tràn với năng lượng linh hồn.

ĐỊNH LUẬT  IX

Hoàn thiện thu hút bất hoàn thiện lên trên mặt. Chính xua tà ra khỏi h́nh hài con người trong thời gian và không gian. Phương pháp đó được Đấng Hoàn Thiện vận dụng và những ǵ được Chính Phái dùng đến là đức vô tổn hại. Đây không phải là tính chất tiêu cực, mà là sự thăng bằng hoàn hảo, một quan điểm đầy đủ và cảm thông thiêng liêng.

QUI LUẬT SÁU

Nhà trị liệu hoặc nhóm trị liệu phải ḱm lại ư chí. Phải sử dụng t́nh thương chứ không phải ư chí.

ĐỊNH LUẬT  X

Hỡi đệ tử, hăy lắng nghe tiếng gọi từ Con đi đến Mẹ và rồi hăy vâng theo. Linh từ được ban ra rằng h́nh hài đă đáp ứng mục đích của nó. Bấy giờ nguyên khí trí tuệ tự sắp xếp và rồi lặp lại Linh Từ ấy. H́nh hài đang chờ đợi liền ứng đáp và buông rơi. Linh hồn trở nên tự do.

536

 
Hỡi Đấng Giáng Lâm (Rising One) hăy đáp lại tiếng gọi đến từ lănh vực của thiên trách; hăy nhận ra tiếng gọi phát ra từ Đạo Viện hay từ Hội Đồng Huyền Linh; nơi mà chính Đấng Cai Quản Sự Sống đang chờ. Diệu Âm được ban ra. Cả linh hồn lẫn h́nh hài cùng phải từ bỏ nguyên khí sự sống, nhờ thế giúp Chân Thần được tự do. Linh hồn đáp lại. Bấy giờ h́nh hài phá vỡ sự mạch lạc. Giờ đây, sự sống được tự do, có được tính chất của sự hiểu biết hữu thức và thành quả của mọi kinh nghiệm. Đó là những món quà của linh hồn, kết hợp với h́nh hài.

Ghi chú: Định luật cuối cùng này là sự công bố một luật mới được dùng thay thế cho Luật Tử Vong. Nó chỉ liên quan đến những người đang ở giai đoạn sau của Con Đường Đệ Tử và các giai đoạn trên Con Đường Điểm Đạo.

ÁP DỤNG ĐỊNH LUẬT VÀ QUI LUẬT

Trong vài trang qua, tôi đă tận lực minh giải vấn đề bằng cách nêu lên một số điều thiết yếu của nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới – thậm chí dù có thể làm cho bạn hơi nản ḷng, – và tôi cũng nêu ra một vài giao tiếp mà y sẽ phải thực hiện ngay một cách dễ dàng khi cố gắng chữa trị. Tôi cũng đă lư giải cho bạn bản chất của định luật. Đó là bước đầu để nghiên cứu các định luật mà nhà trị liệu phải tuân theo, và các qui luật mà y sẽ tự động tuân hành theo trực giác. Chúng ta có thể xem xét các định luật và qui luật này liên quan với người chữa trị và cũng liên quan với nhau, v́ một vài qui luật có liên hệ mật thiết với một định luật đang chi phối nhà trị liệu.

Từ việc lư giải định luật như trên, rơ ràng là các bạn sẽ thấy rằng xét cho cùng th́ bệnh tật, tử vong, dối trá, sai trái và thất vọng đều có sẵn trong chính hành tinh, bởi v́ Đức Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta (như tôi đă có nói trong khi giúp H.P.B. viết bộ "Giáo Lư Bí Nhiệm") là "một vị Thượng Đế chưa hoàn thiện" ("imperfect God").

537

 
Sau cuộc khủng hoảng lớn của thế giới hiện tại, gắn liền với Đức Hành Tinh Thượng Đế chúng ta, khi Ngài tiến tới trên vũ trụ Đạo (cosmic Path), do đó Ngài đă nhận một cuộc điểm đạo vũ trụ, các bất toàn của Ngài giảm đi. Thống khổ và bệnh tật trên địa cầu sẽ ít hơn, khi các hiệu chỉnh cần thiết trên hành tinh được thực hiện. Chính các bạn sẽ không thấy điều này xảy ra, v́ các điều chỉnh trên một qui mô lớn như thế cần phải nhiều thế kỷ để thực thi. Thế nên, những ǵ tôi nói về cách chữa bệnh trong tương lai sẽ không có giá trị thực sự trong một thời gian dài sắp tới, nhưng lư thuyết và các chỉ dẫn về tiềm năng phải được xem xét và bàn bạc. Cũng trong một thời gian dài nữa, thực hành y khoa và kiến thức về giải phẫu sẽ đóng các vai tṛ hữu ích trong y học pḥng ngừa, các thực hành làm giảm đau và các tiến tŕnh chữa trị. Nhiều phương pháp chữa trị về tâm lư sẽ ngày càng được thêm vào đó để đi đôi với hai phương pháp trên. Công việc của các nhà trị liệu tinh thần cũng sẽ được đưa thêm vào đó. Bằng cách này, sự tiếp cận toàn diện với toàn thể con người sẽ dần dần phát triển, và ngày nay, những y sĩ có suy tư tiến bộ ở khắp nơi đều nhận ra được nhu cầu đó. Bằng cách đó và cũng nhờ phương pháp thử nghiệm và sai lầm nhiều điều sẽ được học hỏi.

538

 
Các tiến tŕnh trị liệu mà tôi phác họa và nêu ra qua các định luật và qui luật này đều cơ bản là mới mẻ. Chúng không dựa vào những quả quyết, như trong Khoa học Cơ Đốc và các nhóm trị liệu tâm thần khác. Chúng không được đặt vào những nguồn đă được xác nhận và vào những kết quả đang được xác nhận, bởi v́, những kết quả này sẽ chỉ có được khi nhân loại đă đạt đến một tiêu chuẩn hoàn thiện cao hơn tiêu chuẩn được thấy hiện nay, hoặc những ǵ có thể phát triển ngay trước mắt. Như tôi đă nói nhiều lần trong bộ luận này, về cơ bản, không có ǵ sai lầm trong các xác nhận đưa ra bởi các nhóm và các tổ chức liên quan đến người đă đạt tới chỗ biểu lộ được linh hồn và tới chỗ nhận thức được tâm thức Christ. Cái sai lầm là họ cho rằng người b́nh thường (hiển nhiên là không ở mức tiến hóa cao đó) lại có thể thực hiện các chữa trị huyền diệu này hoặc nơi chính ḿnh hoặc cho kẻ khác. Cho đến nay rất ít người đạt được tŕnh độ đó, trong các nhóm và các tổ chức này, nhà trị liệu làm được điều đó thật sự c̣n hiếm. Nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới sẽ nhận biết giới hạn, các hoàn cảnh chi phối, cộng với định mệnh. Nhận định này đưa tới việc phát triển bên trong y các năng lực truyền đạt tri thức. Về mặt tâm linh, y cũng biết rằng việc chữa trị thể xác không phải luôn luôn là thích hợp nhất về mặt tinh thần. Sự đánh giá quá cao và lo lắng băn khoăn nhiều đến sự sống sắc tướng, đến xác thân, không nên đặt vào hàng quan trọng chính yếu.

538

 
Nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới không hề và sẽ không làm việc trực tiếp với thân xác bao giờ v́ là nhà huyền bí học, y sẽ không xem thể xác như là một nguyên khí. Hầu như y hoàn toàn làm việc với thể dĩ thái và với các sinh năng, để cho các năng lượng đó tác động vào người máy của thân xác, theo chủ đích đă định. Bấy giờ, chúng sẽ tạo nên hiệu quả tùy theo sự ứng đáp của thân xác đó, nó sẽ bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Được điều khiển xuyên qua thể dĩ thái của bệnh nhân, hay phát ra từ thể đó, các năng lượng này có thể chữa lành nếu số mệnh của bệnh nhân cho phép, hoặc là, chúng có thể kích thích khu vực bị bệnh đến mức cơn bệnh trở nên trầm trọng và bệnh nhân sẽ qua đời. Điều này thường hay xảy ra dưới sự chăm sóc của những nhà trị liệu theo nghi thức, họ không biết đến các định luật trị liệu, mà các hoạt động của họ chỉ dựa vào một sự nhận thức về một vị thần đang hiện diện (dầu thường là không biểu hiện).

Trước khi hệ thống mà tôi đưa ra trở nên có hiệu quả, cần có được mức độ nhận thức tâm linh cao siêu và có sự thông hiểu trí tuệ. Tất cả những ǵ mà tôi đă đưa ra, phần lớn đều có tính cách tiên phong, cần nên nhớ điều này.

Bây giờ, chúng ta hăy nghiên cứu định luật Một, nó không có qui luật nào đi kèm hoặc có liên hệ với nó. Bởi v́ nó là một phát biểu cơ bản, nêu ra lư thuyết chính ẩn bên dưới mà nhà trị liệu sẽ làm việc theo đó.

ĐỊNH LUẬT I

Tất cả bệnh tật đều là hậu quả của sự sống linh hồn bị ức chế. Điều này đúng cho mọi h́nh hài trong mọi giới. Cái khéo của nhà trị liệu bao gồm trong việc tháo gỡ linh hồn sao cho sự sống của nó có thể tuôn chảy qua toàn bộ các cơ quan cấu thành bất cứ h́nh hài đặc biệt nào.

539

 
Định luật này cho thấy rằng do bởi phàm ngă tam phân không ở dưới sự kiềm chế của linh hồn y, cho nên bệnh tật mới có thể hủy diệt y. V́ lẽ ḍng năng lượng thông suốt tuôn ra từ linh hồn bị ức chế và giới hạn, nên bệnh tật mới có thể t́m được chỗ trong xác thân. Thể xác được cung ứng một cách thích hợp bằng năng lượng có tính phục hồi sáng tạo của Chân nhân, tức linh hồn trên cơi riêng của nó. Khi có ḍng lưu nhập hoàn toàn thông suốt từ linh hồn đến bảy bí huyệt đem lại sinh lực, bạn sẽ có sức khỏe hoàn hảo, mà vị điểm đạo mức thứ tư mới có được, ngoại trừ y đang ở trường hợp thanh toán karma giới luật, thực nghiệm hoặc karma đang phát khởi. Tuy nhiên, không kể đến các trường hợp trên hoặc các t́nh trạng của hành tinh, theo qui luật chung, một điểm đạo đồ cao cấp không cần đến người trị liệu nào cả, nơi vị này, không có ǵ cần chữa trị.

Khi đối diện với một bệnh nhân, biết được t́nh trạng bị ức chế mà bệnh của y là bằng chứng, th́ nhà trị liệu phải làm ǵ? Y có làm việc với linh hồn của bệnh nhân đúng theo định luật hay chăng? Y có t́m cách giúp cho linh hồn ấy (trên cơi riêng của nó) ảnh hưởng lên bệnh nhân một cách rơ rệt, có giúp trông nom việc chuyển năng lượng từ linh hồn đến thể trí, từ thể trí đến thể cảm dục, và từ thể cảm dục đến thể dĩ thái hay chăng? Chẳng tí nào cả. Trong những trường hợp bệnh thực sự trầm trọng, t́nh trạng của bệnh nhân thường nặng đến nỗi y không thể đáp ứng cần thiết, hoặc vô t́nh hoặc cố ư, với các chăm sóc tận t́nh như thế của nhà trị liệu. Bất cứ nỗ lực tinh thần nào cũng hoàn toàn vượt quá khả năng của người bệnh, cho nên y không thể hợp tác với cố gắng của linh hồn y để truyền chuyển năng lượng. Hoạt động của thể cảm dục của y thường được tập trung vào việc đưa ra ước muốn lớn lao, ấy là sống và khỏi bệnh, trừ khi cơn bệnh nguy kịch đến mức bệnh nhân bước vào giai đoạn chỉ c̣n phó mặc và ư-chí-muốn-sống đang nhanh chóng rời khỏi y. Thêm vào các khó khăn đó, c̣n có sự kiện là rất ít người hoàn toàn hội nhập đến mức họ có thể hoạt động như phàm nhơn toàn vẹn khi ứng đáp với kích thích của linh hồn. Họ thường hay trụ vào một trong ba hạ thể của họ và sự thực đó lại đưa tới một t́nh trạng hạn chế mạnh mẽ cho nhà trị liệu. Hơn nữa rất thường khi người bệnh quá bận tâm đến sự khó chịu và đau đớn trong nhục thân, đến nỗi các ấn tượng cao siêu vốn dĩ có thể đến từ thể trí hoặc linh hồn thể lại hoàn toàn không đến được. Lúc đó nhà trị liệu lăo luyện và hiểu biết phải làm ǵ?

540

 
Trước hết, y phải biết rằng thể dĩ thái là nhân tố quan trọng nhất và là hiện thể chính mà y phải xử lư. Do đó, y nên tập trung vào thể năng lượng đó. Điều này có liên can đến việc cần biết một số sự kiện, lúc đó mới tạo được một số điểm tiếp xúc hữu ích và có hiệu quả.

Sự kiện đầu tiên cần phải xác định là mănh lực mà linh hồn đă nắm giữ và vẫn c̣n nắm giữ phàm ngă của nó. Nhà trị liệu biết rằng v́ người bệnh vẫn c̣n sống, nên dứt khoát là linh hồn vẫn hiện hữu qua trung gian của bí huyệt đầu và bí huyệt tim của thể dĩ thái, nhờ vậy giữ chặt cả nguyên khí tâm thức lẫn nguyên khí sự sống. Nếu người bệnh bị hôn mê, th́ trong một số trường hợp, các khó khăn của nhà trị liệu tăng lên rất nhiều, dầu rằng trong một số trường hợp khác lại giảm đi. Nếu trong thể sinh lực, nguyên khí ư thức bị rút ra khỏi bí huyệt đầu, th́ lúc đó nhà trị liệu biết rằng cái chết có thể đến bất ngờ, và trong trường hợp này, cách hành xử của y rơ ràng hơn nhiều, đặc biệt là khi ở tim, ánh sáng của sự sống lu mờ đi. Nếu ư thức của bệnh nhân c̣n hiện hữu mạnh mẽ, y biết rằng vẫn c̣n có thể chữa trị, bấy giờ, với niềm tin vững chắc hơn, y có thể tiến hành những việc phải làm. Nói như thế là tôi đang đề cập đến người b́nh thường. Trong trường hợp các điểm đạo đồ, th́ có hơi khác, bởi v́ họ thường vẫn hoàn toàn tỉnh táo trong suốt diễn tŕnh chết.

541

 
Cho nên, bạn sẽ hiểu được nhu cầu cơ bản của nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới là phải hoặc là có nhăn thông hoặc là –tốt hơn – có tri giác đích thực với tính chất không sai lầm của nó. Việc đầu tiên của y là khảo sát hay là "quan sát theo huyền linh học" thể dĩ thái của bệnh nhân, nhờ thế đạt được hiểu biết sau đây:

1. Mănh lực mà linh hồn đặt ảnh hưởng lên thể dĩ thái của nó. Điều này được chỉ rơ nhờ điểm ánh sáng trong bí huyệt đầu và khu vực mà nó soi sáng.

2. T́nh trạng của bí huyệt dĩ thái đang chi phối hay cai quản khu vực có bệnh ở thể xác.

3. Liên hệ của các bí huyệt trên cách mô với các bí huyệt ở dưới, bởi v́ điều này sẽ đem cho y chỉ dẫn chung về mức tiến hóa của người cần được chữa trị.

Nhờ xác định được các điểm này bằng hết khả năng ḿnh, sau đó, theo đúng định luật về "sự sống linh hồn bị ức chế", nhờ năng lực của chính linh hồn ḿnh (hoạt động trên các phân cảnh cao của cơi trí và qua bí huyệt đầu của y), y t́m cách kích thích điểm của sự sống linh hồn trong thể dĩ thái của bệnh nhân. Nếu có thể, y sẽ làm điều đó với ư định thu hút một ḍng lưu nhập sung măn của năng lượng linh hồn bệnh nhân vào bí huyệt đầu, để cho sinh mệnh tuyến (life thread) có thể đưa nguồn sinh lực sung măn đến bí huyệt tim. Bằng cách này, "mạch sống" của chính bệnh nhân sẽ mang lại việc chữa trị mong muốn. Theo bề ngoài, y sẽ được chữa trị bằng bản chất của chính y, hay là bằng cách tự nhiên và b́nh thường của sức sống thích hợp, nhờ thế mà xua đi cơn bệnh.

Thế nên, khi nhà trị liệu nhận thức được và làm việc theo định luật này, các điểm giao tiếp sau đây nên được nhận biết và vận dụng:

1. Linh hồn của bệnh nhân được buộc chặt vào thể dĩ thái của người ấy.

542

 
2. Linh hồn của nhà trị liệu, bận với việc kích thích điểm tiếp xúc ấy của linh hồn, qua tam giác năng lượng sau đây:

                                 

 

 

 

Tam giác này liên kết thể sinh lực của nhà trị liệu với thể sinh lực của bệnh nhân, xuyên qua cả bí huyệt đầu lẫn bí huyệt tim của bệnh nhân, v́ nguyên khí sự sống được hội tụ ở đó, có liên quan chặt chẽ và chịu ảnh hưởng của bất cứ điều ǵ xảy ra.

3. Khi tam giác năng lượng này hoạt động suôn sẻ và mức độ đáp ứng đến từ bí huyệt đầu của bệnh nhân, khơi hoạt sự giao tiếp với linh hồn nhiều hơn và kết quả là tạo ra ḍng lưu nhập của năng lượng linh hồn vào bí huyệt đầu, rồi từ đó đến bí huyệt tim, kế đó – bằng tác động của ư chí và vận dụng thần chú cầu đảo– nhà trị liệu sẽ t́m cách vận dụng ḍng sinh lực ngày càng tăng này, qua bí huyệt tim, đến nơi bị bệnh, dùng bí huyệt đang chi phối vùng bị bệnh đó trong thể xác, bất luận bí huyệt đó là ǵ. Việc này phải được làm với mức thận trọng tối đa, để cho ḍng chảy không quá đột ngột, để khỏi v́ thế mà có hiệu quả hủy diệt. Trong trường hợp bệnh tim th́ phải đặc biệt thận trọng. Thí dụ như chứng tắc mạch (embolism) có thể gây tử vong, thường là do bệnh nhân biểu lộ ư-chí-muốn-sống (will-to-live) mănh liệt, gây nên một ḍng lưu nhập tràn ngập của nguyên khí sự sống. Ḍng này tác động vào tim quá đột ngột, làm ḍng máu vận chuyển đột ngột, thế là gây tắc mạch, gây ra tử vong. Tôi nói đến vấn đề này bằng các thuật ngữ hoàn toàn thiếu chuyên môn, tạo dịp cho những người chuyên chỉ trích. Tuy nhiên tôi làm thế để chuyển cho độc giả không chuyên nghiệp, một ư tưởng tổng quát về các nguy cơ có liên quan, nhờ thế, giúp cho kẻ quá nhiệt tâm phải thận trọng.

543

 
Định luật này gói ghém một số tiền đề cơ bản và có ít điều mà tôi có thể nói ra một cách có lợi v́ các ẩn ư của nó. Nhiều điều sẽ học được bằng cách chấp nhận các tiền đề này và vạch ra các ẩn ư của chúng. Những ǵ tôi đă nói c̣n rất ít so với những ǵ tôi có thể nói, nhưng ở đây, tôi đă trao cho người nghiên cứu một hiểu biết đơn giản và đầy đủ về một vài ư niệm thiết yếu và cơ bản. Bây giờ chúng ta chuyển qua xem xét định luật thứ hai và qui luật một.

ĐỊNH LUẬT  II

Bệnh tật là sản phẩm của và phụ thuộc vào ba ảnh hưởng: một là quá khứ của bệnh nhân, trong đó y trả giá cho sai lầm đă qua; hai là sự kế thừa của y, trong đó y chia phần với toàn thể nhân loại các ḍng năng lượng ô nhiễm có nguồn gốc tập thể; ba là y chia phần với mọi h́nh hài trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chưởng Quản Sự Sống đặt nơi cơ thể Ngài. Ba ảnh hưởng này được gọi là "Định luật Xưa về Phân Chia Điều Ác". Một ngày nào đó, nó sẽ nhường chỗ cho luật mới là "Định Luật Điều Thiện Thống Ngự", luật này nằm sau mọi tạo vật của Thượng Đế. Định luật này phải được ư chí tinh thần của con người làm cho linh hoạt.

Các phát biểu của định luật này bao quát nhất và thực ra, nó là tổng hợp của hai định luật, một định luật hiện đang chế ngự, c̣n luật kia, sau rốt sẽ chế ngự. Với mục đích minh giải và v́ nhiều người thường đọc một cách khinh suất, chúng ta hăy chia định luật này thành nhiều phát biểu khác nhau, để nhờ thế mà có được ư tưởng rơ ràng hơn về các ẩn ư của chúng:

1. Bệnh tật là sản phẩm của và phụ thuộc vào ba ảnh hưởng:

544

 
   a. Quá khứ của bệnh nhân, trong đó y trả giá cho sai lầm đă qua.

   b. Sự kế thừa của y, trong đó y chia phần với toàn thể nhân loại các ḍng năng lượng ô nhiễm có nguồn gốc tập thể.

   c. Y chia phần với mọi h́nh hài trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chưởng Quản Sự Sống đặt nơi cơ thể Ngài.

2. Ba loại năng lượng này được gọi là "Định luật xưa về việc chia điều ác".

3. "Định luật về Điều Thiện cổ xưa đang chế ngự" vốn nằm đàng sau mọi tạo vật của Thượng Đế.

4. Một ngày nào đó Định luật này sẽ thay thế cho "Định luật xưa về việc phân chia điều ác".

5. Nó sẽ được ư chí tinh thần của con người làm cho linh hoạt.

Định luật này đưa một người biết suy tư trở lại định luật karma căn bản, mà như bạn biết, không có việc trốn tránh. Nhà trị liệu hiện nay trong các nhóm và các tổ chức trị liệu đều coi nhẹ luật này. Chúng ta đă bàn đến ảnh hưởng và các nguyên nhân làm cho dễ mắc bệnh, v́ vậy không cần bổ sung thêm ở đây, trừ việc lưu ư rằng một trong những điều hữu ích nhất mà người bệnh và nhà chữa trị cần ghi nhớ, là loại bệnh tật có nguồn gốc ở quá khứ (quá khứ của một nhóm hoặc quá khứ một cá nhân) và nói cho cùng, có thể đó là một cách có lợi để thanh toán những món nợ xưa. Hiểu biết này giúp cho bệnh nhân có được một thái độ xây dựng sẵn sàng chấp nhận – đó không phải là một sự chấp nhận đưa đến không hành động, mà là một chấp nhận vốn tạo nên một ư thức trách nhiệm cho hành động đúng. Hành động đúng này sẽ đưa đến, hoặc là việc thanh toán đủ h́nh phạt qua tiến tŕnh chết mà ai cũng biết, hoặc là đưa tới những bước thành công dễ dẫn đến mạnh khỏe. Trong trường hợp nhà trị liệu, việc đó sẽ dẫn đến nhận thức về những mănh lực đang tác động qua bệnh nhân và sẵn sàng cho số mệnh được an bài phải xảy ra. Trong cả hai trường hợp, sự âu lo bồn chồn thường có sẽ không xen vào giữa ư định của nhà trị liệu và bệnh nhân, để có thể ngăn cản những diễn biến tốt đẹp.

545

 
Việc quan trọng thứ nh́ mà bệnh nhân cần nhớ, nếu t́nh trạng bệnh của y cho phép, đó là những ǵ mà y đang chịu đựng là vận mệnh và số phận của nhiều người, chứ không phải một ḿnh y. Cách hành xử đúng đối với sức khỏe kém là một nhân tố chính để đánh đổ sự chia rẽ, ư thức cô đơn và cô lập. Đó là lư do cho thấy tại sao các hậu quả của sức khỏe kém, khi được vận dụng đúng vị dịu ngọt của tính khí và mở rộng được thiện cảm. Thường th́ phải rất khó khăn mới học được sự chia sẻ và ư thức san sớt chung – đó lại là định luật.

Trong định luật này, chúng ta có được đầu mối của những ǵ mà sau rốt sẽ quét sạch bệnh tật ra khỏi địa cầu. Tôi xin nói đến nó thật đơn giản. Khi đa số cư dân trên địa cầu mau chóng hướng về sự lành thiện, về lẽ công chính, như Thánh Kinh diễn tả và khi phần lớn nhân loại hướng về thiện chí (biểu lộ chính thứ nh́ của ảnh hưởng và sự tiếp xúc với linh hồn trong kiếp sống của cá nhân và trong cuộc sống của nhân loại – biểu lộ thứ nhất là ư thức trách nhiệm), bấy giờ, sức khỏe kém sẽ vẫn c̣n, cho dù chỉ từ từ tan biến và cuối cùng không c̣n tồn tại nữa. Từ từ, rất từ từ, việc này đă xảy ra – chưa đến mức làm bệnh tật tan biến, nhưng nó đang mang lại một định hướng đúng hơn. Những ǵ thật sự có ư nghĩa đó là vận hà giao tiếp giữa cá nhân với linh hồn y và linh hồn nhân loại đang trở nên trực tiếp hơn và không bị cản trở. Sự chỉnh hợp đang diễn ra. Cho nên, một lần nữa, bạn có thể thấy lư do tầm quan trọng trong đời sống của nhà trị liệu, đó là phải chú trọng vào sự giao tiếp và chỉnh hợp, và đó là lư do có rất ít người thành công. Chỉ có ít nếu không nói là không có một giao tiếp nào trong số các nhà trị liệu ngày nay, và ít người hiểu biết trực tiếp về sự cần thiết, và không có một hiểu biết thực sự nào về các kỹ thuật cần noi theo.

546

 
Hiểu được điểm quan trọng này thật là sáng suốt, v́ nó làm tiêu tan nỗi thất vọng. Trong giai đoạn trước mắt mở ra Kỷ Nguyên Mới, bệnh tật sẽ không đột nhiên tan biến như có phép lạ. Nếu xảy ra điều đó, tức là hàm ư rằng luật karma không c̣n kiềm chế nữa, và đây không là trường hợp này.

Câu cuối cùng của định luật thứ hai này, mang lại chỉ dẫn căn bản về chu kỳ thời gian: Định luật Điều Thiện Thống Ngự sẽ được ư chí tinh thần của con người khơi hoạt. Điều này hàm ư ǵ? Nó có nghĩa là chỉ khi nào đa số nhân loại thực sự ở dưới sự chế ngự của Tam Thượng Thế Tinh Thần, đă kiến tạo được giác tuyến, và nhờ đó có thể vận dụng được ư chí tinh thần, lúc đó bệnh tật mới có thể bị xua tan và chỉ c̣n điều thiện chế ngự. Dĩ nhiên, đó sẽ là một tiến tŕnh tiệm tiến và trong những giai đoạn đầu hầu như không thể nhận thấy được. Lần nữa, tại sao xảy ra điều này? Bởi v́ sai trái, tội lỗi và bệnh tật chính là kết quả của đại tà thuyết chia rẽ, và v́ thù hận chứ không phải t́nh thương đang chế ngự. Đừng quên rằng người nào không yêu thương huynh đệ ḿnh, th́ đó là kẻ sát nhân – bởi v́ sát nhân bao giờ cũng là biểu tượng của thù hận. Cho đến nay, ư thức về tính đại đồng và tính đồng nhất hóa với vạn vật vẫn chưa có, ngoại trừ nơi những đệ tử tiến hóa và các điểm đạo đồ. Không nên lầm lẫn ư thức quần thể và sự biểu lộ bản năng hợp đoàn với ư thức về Tính Đơn Nhất, tính chất này đánh dấu con người định hướng đúng. Trong Kỷ Nguyên Mới giáo huấn về giác tuyến và sự cấu tạo của con người, chính yếu là đứng trên khía cạnh "ba thể theo chu kỳ" ("three periodical bodies") chứ không theo khía cạnh của phàm nhơn tam phân, đặc biệt là trong các trường cao cấp. Nhờ thế việc đặt một nền tảng vững chắc cho các trường bí giáo sẽ từ từ xuất hiện. Nhờ đó một triển vọng mới mẻ đối với nhân loại sẽ được đạt đến. Bản chất của ư chí tinh thần sẽ được giảng dạy tương phản với bản chất của ư chí vị kỷ của phàm nhân. Nhờ phương pháp đó mà những mănh lực mới mẻ, phi thường sẽ được giải khai (released) một cách an toàn vào đời sống hằng ngày.

547

 
Cho đến giờ, ngay cả các đệ tử, vẫn ít hiểu biết đến quyền năng siêu việt về ư chí của Tam Thượng Thể. Ở đây, có thể khẳng định rằng những nhà trị liệu nào có được tâm thức của Tam Thượng Thể và có thể vận dụng được mănh lực của sự sống và ư chí của Chân Thần, qua Tam Thượng Thể Tinh Thần, luôn luôn sẽ là nhà trị liệu thành công. Họ sẽ không c̣n tạo một lỗi lầm nào, v́ họ sẽ có tri thức tinh thần xác thực. Tri thức này sẽ giúp họ biết về năng lực chữa trị, nhờ sử dụng ư chí mà bấy giờ họ có thể làm việc một cách an toàn và với sức mạnh ở bí huyệt đầu của bệnh nhân. Tất nhiên là họ sẽ giới hạn các sức mạnh chữa trị của họ vào những người sinh hoạt tập trung ở bí huyệt đầu. Họ sẽ kích thích linh hồn được giữ chặt ở đó, vào hoạt động hữu hiệu, như vậy thúc đẩy việc chữa trị bằng chân ngă.

Từ mọi điều nói trên, bạn sẽ nhận thấy rằng khi được xem xét cẩn thận, th́ các định luật này tương đối đơn giản biết bao và chúng liên hệ với nhau một cách tuyệt vời biết bao. Quán triệt và thấu hiểu được một định luật, th́ dễ dàng hiểu được định luật kế tiếp.

548

 
Đừng quên rằng bí huyệt đầu là bí huyệt mà ư chí hoạt động qua đó. Và nhớ được điều này, bạn sẽ liên kết được kiến thức có được về Định Luật I mà tôi đă trao cho bạn trong phần đầu của giáo huấn này, với những ǵ tôi đă đưa ra cho bạn ở đây. Nếu những ai t́m cách chữa trị bằng tinh thần, ra sức nghiên cứu kỹ các định luật này, và nếu nhà trị liệu cố gắng sống đúng theo các qui luật, th́ một mô h́nh rơ rệt về trị liệu và một kỹ thuật đang xuất hiện sẽ h́nh thành trong trí y giúp tăng hiệu quả của việc phụng sự rất nhiều. Bạn cũng sẽ ghi nhận rằng, tôi không đưa ra các qui luật và định luật liên quan đến các bệnh đặc biệt. Tôi ngại việc này sẽ gây thất vọng lớn cho nhiều phụng sự viên nhiệt thành nhất. Họ rất muốn tôi nêu ra những ǵ cần làm, thí dụ như để trị ung thư gan hoặc sưng phổi, hoặc loét dạ dày, hoặc là những h́nh thái của bệnh tim. Tôi không định làm điều đó. Công việc của tôi c̣n có tính cách cơ bản hơn thế. Tôi quan tâm đến các nguyên nhân và quan tâm trước nhất đến thể dĩ thái, với vai tṛ là nơi phân phối năng lượng, hoặc là nơi giữ lại các năng lượng này khi được biến đổi thành lực; tôi bàn đến trạng thái tâm thức của nhà trị liệu, đến những lư thuyết mà y nên tuân theo; đến hiểu biết của y về sự tương quan của linh hồn với các hiện thể biểu lộ của nó (đặc biệt là với thể sinh lực, trong trường hợp trị liệu); và bàn đến hành động chi phối của các bí huyệt nằm trong mỗi vùng của cơ thể, hoặc phân phối năng lượng một cách thông suốt và duy tŕ thể xác ở t́nh trạng khỏe mạnh, hoặc – v́ kém phát triển và hoạt động bị ngăn trở – gây ra những t́nh trạng mà khi đó bệnh tật có thể xảy ra.

Cho nên, các bạn có thể thấy rằng tiến tŕnh chữa trị được đơn giản hóa đến mức nào khi chúng ta nhận ra được các nguyên nhân và hiểu rằng chúng có trách nhiệm cho hoạt động của xác thân ở ngoại giới. Nhà trị liệu phải luôn luôn nhớ tŕnh tự sau đây của các sự kiện:

1. Sự kiện về việc linh hồn đang tác động thông qua

2. Thể trí và thể cảm dục, các năng lượng mà chúng chi phối.

3. Thể dĩ thái, một xoáy năng lượng (a vortex of energies) được hội tụ nhờ nhiều bí huyệt cả chính lẫn phụ.

4. Bảy bí huyệt chính chi phối những vùng nhất định trong thân thể, xuyên qua

   a. Các nadis (tuyến năng lượng, tuyến lực)

   b. Các dây thần kinh

   c. Hệ thống tuyến nội tiết (endocrine system)

   d. Ḍng máu (blood stream)

Bốn nhóm gồm các trạng thái được qui định này của con người có liên quan đến sự sống và tâm thức hay là hai trạng thái chính của linh hồn khi nó đang biểu lộ trên cơi trần.

549

 
Tất nhiên là cho đến nay, y học chính thống đă giới hạn vào các triệu chứng bên ngoài và nguyên nhân hiển lộ gần nhất của chúng, do đó giới hạn vào các hậu quả chứ không phải vào các nguyên nhân thực sự. Cách chữa trị mà tôi quan tâm đến được hướng vào việc tái- tổ-chức và làm sinh động lại thể dĩ thái, với chủ đích nhận phía sau các chỉ dẫn ở h́nh hài bên ngoài, các t́nh huống sai lầm đối với thể năng lượng đó mà – nếu vận hành chính xác và ở trong t́nh trạng chỉnh hợp đúng – sẽ duy tŕ xác thân ở t́nh trạng hoàn hảo và giữ nó khỏi bệnh. V́ thế trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới cần có kiến thức cơ bản hơn và ít chi tiết hơn. Y đối phó với các khu vực chớ không đối phó với các cơ quan. Y quan tâm đến các năng lượng và các điểm phân phối chúng, chứ không bận tâm đến các chi tiết của thể xác, đến cấu trúc của các cơ quan và sự hoạt động sai lạc của chúng. Y sẽ xử lư với bảy bí huyệt trong thể dĩ thái, với các nadis mà (không kể đến sự phát xạ) nhờ đó chúng tác động đến và kích thích hệ thần kinh. Y sẽ theo dơi cẩn thận hệ thần kinh và ḍng máu, mà các bí huyệt tác động qua cách phát xạ lên trên và qua các kích thích tố nằm nơi đó. Tuy nhiên, điều chính yếu của mọi công việc của y sẽ là việc phân phối có định hướng và tâm điểm chú ư của y sẽ là các vận hà trong việc phân phối này – tức là toàn thể hệ thống các bí huyệt dĩ thái.

550

 
Tôi xin các bạn hăy suy tính đến mọi thông tin này với sự thận trọng cần mẫn. Nói theo huyền bí học th́ ch́a khóa để có được sức khỏe tráng kiện là sự chia sớt hay phân phối, cũng như đó là điều cốt yếu cho sự sung măn chung của nhân loại. Các bệnh liên quan đến kinh tế của nhân loại lại tương ứng chặt chẽ với cá nhân. Thiếu sự lưu thông thông suốt các nhu yếu của đời sống đến các điểm phân phối, nên các điểm phân phối này trở thành vô tích sự. Hướng phân phối có khuyết điểm, và chỉ khi nào nhờ sự hiểu biết sáng suốt ở khắp thế giới về nguyên tắc chia sớt của Kỷ Nguyên Mới, th́ chừng đó các căn bệnh của nhân loại mới được chữa lành. Chỉ nhờ việc phân phối năng lượng thích hợp mà các bệnh thuộc thể xác của riêng từng người cũng được chữa lành. Đó là một nền tảng (tôi muốn nói nguyên tắc căn bản) của toàn bộ việc trị liệu tinh thần. Xét cho cùng, cũng chính nguyên tắc này bao hàm một nhận thức rốt ráo và khoa học về thể dĩ thái của hành tinh, và tất nhiên là thể dĩ thái của con người.

Bây giờ, chúng ta xem xét đến qui luật một.

QUI LUẬT MỘT

Nhà trị liệu nên tự luyện tập để biết được diễn tiến bên trong của tư tưởng hoặc của ước muốn của người đang nhờ y giúp đỡ. Nhờ đó mà y có thể biết được cội nguồn từ đó bệnh phát xuất. Y hăy liên kết nhân và quả để biết được điểm chính xác nhờ đó làm giảm đi cơn bệnh.

Điều hiển nhiên là qui luật thứ nhất mà nhà trị liệu phải quán triệt tất phải là quan trọng. Các hàm ư của nó thật là cơ bản và thiết yếu, nếu muốn cho việc chữa trị có hiệu quả, hoặc là nếu nhà trị liệu không muốn phí th́ giờ để cố làm điều không thể làm. Có bốn huấn thị trong qui luật này:

1. Nhà trị liệu phải tự luyện tập để biết xem liệu người bệnh tập trung vào trí tuệ hay vào t́nh cảm.

2. Thế nên y có thể và phải xác định nền tảng tâm lư xáo trộn đang xảy ra.

3. Nhờ nhận ra được nguyên nhân ở dưới, bấy giờ y sẽ có thể xác định được vị trí của hiệu quả (tức chỗ bị bệnh).

4. Điều này sẽ giúp y biết được

   a. Vùng bị ảnh hưởng

   b. Bí huyệt trong thể dĩ thái đang chi phối vùng đó.

551

 
Các bạn cũng sẽ hiểu được lư do tôi bắt đầu phân tích bệnh tật và trị liệu bằng cách tŕnh bày các nguyên nhân tâm lư. Qui luật thứ nhất này có liên quan đến toàn bộ đoạn đó của giáo huấn, và như các bạn có thể thấy, nó vô cùng thực dụng.

Khi biết được mức an trụ của phàm ngă, th́ hai sự kiện chính xuất hiện: Điểm tiếp cận sẽ hoặc là qua bí huyệt đầu hoặc qua bí huyệt tim, nếu bệnh nhân tiến hóa cao, giả sử rằng nhà trị liệu có thể được cho là nhận biết điều đó do các chỉ dẫn về tánh t́nh và tính hiệu quả của cuộc sống bệnh nhân. Hoặc là sự tiếp cận có thể xảy ra qua bí huyệt cổ họng hoặc đan điền nếu bệnh nhân là một người thường và người tiến hóa trung b́nh. Nếu là người hoàn toàn chưa tiến hóa và ở tŕnh độ tương đối thấp, th́ điểm chính xác nhờ đó bệnh sẽ thuyên giảm là huyệt đan điền hoặc huyệt xương cùng. Điều lư thú cần ghi nhận là khi một người có tŕnh độ tiến hóa thấp đến nỗi muốn đến được thể dĩ thái phải qua huyệt xương cùng, th́ thường là y hết sức dễ chữa trị và sẽ ứng đáp mau chóng hơn với cái thường được gọi là "vận dụng thể dĩ thái" hơn sự đáp ứng của các hạng người khác. Lư do duy nhất của việc này là trí óc và t́nh cảm của y không gây trở ngại thực sự nào, và mọi năng lượng đang có đều có thể được hướng đến vùng bị bệnh mà không bị ngăn trở.

552

 
Nếu nhà trị liệu có nhăn thông, y có thể dễ dàng xác định được điểm đi vào của các mănh lực chữa trị, bởi v́ lúc đó "ánh sáng nhập vào" sẽ chói rạng nhất, ánh sáng của chính bí huyệt đó sẽ truyền đạt thông tin cần thiết. Nếu y là một nhà trị liệu rất tiến hóa, y sẽ không dùng bất cứ h́nh thức nào của tri giác tâm linh mà sẽ phản ứng ngay khi tiếp xúc với một ấn tượng đến từ bệnh nhân, mạnh đến nỗi nó không thể bị phủ nhận và có lẽ hoàn toàn chính xác và đáng tin cậy. Tuy nhiên, phải nhớ rằng cũng bởi tính cách toàn vẹn của linh hồn con người và cũng do sự kiện mỗi linh hồn có bản chất riêng là một Đức Thầy, cho nên luôn luôn sẽ có một tí sai lầm liên quan đến nhà trị liệu, cho dầu y là một nhà trị liệu được điểm đạo. Hiển nhiên đối với y có một điểm mà con người tinh thần (mà bệnh nhân chỉ là một phản ảnh của nó) đang chế ngự – ngoại trừ với tư cách một linh hồn có cùng căn bản với linh hồn của bệnh nhân – th́ y không thể và không dám đi xa hơn. Thí dụ như, có những t́nh trạng mà một đệ tử tiến hóa hoặc một điểm đạo đồ cấp cao (v́ mục đích định rơ nên để trống xác thân của ḿnh) có thể đang để cho những mănh lực của tan ră, của giới hạn và của hủy diệt, triệt hạ và hủy diệt h́nh hài vật chất bên ngoài của y. Khi xảy ra trường hợp đó, nhà trị liệu có thể không biết được định ư đó, tuy nhiên, y sẽ biết được sự đối kháng và sẽ bị buộc phải đ́nh chỉ các cố gắng chữa trị của ḿnh.

Khi bệnh nhân là mẫu người thuần túy trí năng, việc tiếp cận với tiến tŕnh trị liệu phải thông qua một bí huyệt cao hơn, tức bí huyệt đầu, th́ nhà trị liệu nên khôn ngoan để có được sự hợp tác hữu ư của bệnh nhân, sao cho hai ư chí của họ sẽ hoạt động hợp nhất. Điều này sẽ cần đến một liên hệ tích cực giữa hai người. Khi người bệnh không phát triển cao đến mức đó, th́ nhà trị liệu sẽ phải cố gắng tạo ra một tâm trạng chấp thuận đầy hy vọng trong người ấy. Trong trường hợp này, bản chất xúc cảm sẽ mạnh mẽ hơn trong mẫu người tiến hóa và công việc của nhà trị liệu tất nhiên là khó khăn hơn. Rất thường khi y sẽ phải chống chọi với lo âu, đủ loại phản ứng t́nh cảm, sợ hăi và các linh tính. Nhờ thế, trạng thái tâm lư của người bệnh sẽ dễ thay đổi, và nhà chữa trị sẽ có nhiều điều phải làm để giúp bệnh nhân giữ được một phản ứng t́nh cảm không thay đổi, trở nên thanh thản và b́nh tĩnh. Phải đạt được sự an tĩnh này nếu muốn cho các năng lượng trị liệu được chuyển một cách hiệu quả đến đúng bí huyệt và vùng chi phối của bí huyệt đó. Điều này có thể được mang lại bằng việc lập một tương giao hài ḥa giữa nhà trị liệu với bệnh nhân trước khi tiến đến bất cứ cách chữa trị nào. Các nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới cũng sẽ tạo ra nhóm khách quen riêng cho ḿnh giống như các thầy thuốc hiện nay đang làm, v́ thế họ học cách hiểu được thể trạng và tính khí của những người họ mời gọi trợ giúp. Họ sẽ rèn luyện cho những người đó một số tiến tŕnh và kỹ thuật trị liệu để chuẩn bị dùng sau này nếu cần. Tuy nhiên, thời điểm đó hăy c̣n xa.

553

 
Khi bệnh nhân là một người chưa phát triển và ở mức thấp trên thang tiến hóa, y sẽ được kiểm soát về mặt tâm lư bằng phàm ngă hiến dâng của người chữa trị và bằng việc áp đặt ư chí của người chữa trị lên thể dĩ thái của bệnh nhân. Đây không có nghĩa là áp đặt năng lượng của ư chí lên một người thụ động để nhờ đó mà bắt buộc bệnh nhân phải hành động, gây nguy hại cho tự do ư chí của bệnh nhân, dầu ở mức độ rất nhỏ. Nó có nghĩa là áp đặt uy thế của tri thức và sự ổn cố tinh thần vào bệnh nhân, nhờ đó mà truyền được niềm tin và sự tự nguyện tuân phục.

Ở đây, các bạn có những giai đoạn đầu tiên mà nhà trị liệu phải chọn có liên quan với bệnh nhân, với linh hồn và phàm ngă của bệnh nhân. Có ba giai đoạn:

1. Đạt được sự hợp tác của phàm ngă của người tiến hóa. Chỉ có phàm ngă mới cần chữa trị.

2. Mang lại cho phàm ngă của người b́nh thường một tâm trạng hài ḷng đầy hy vọng. Cho đến nay, bệnh nhân này chưa có khả năng hợp tác sáng suốt, nhưng có thể điều khiển chính ḿnh đến mức làm giảm chướng ngại ở phàm ngă xuống mức tối thiểu.

3. Đem lại sự tuân phục đầy tin tưởng vào ư kiến của nhà trị liệu. Đó là tất cả những ǵ mà một người kém tiến hóa có thể làm.

Hiển nhiên, các bạn thấy rằng các điều khái quát rộng lớn như trên th́ không bao gồm được hết mọi mẫu người và nhiều hạng người ở các tŕnh độ trung gian. Nhà trị liệu phải là người thật ḷng yêu thương đồng loại và cũng là một nhà tâm lư học lăo luyện; điều này có nghĩa là y sẽ phải hành động với tư cách một linh hồn, cũng như với một trí óc biết nhận thức.

554

 
Ở đây, nên lưu ư một điểm khác nữa. Một khó khăn mà nhà trị liệu sẽ phải đối phó với những mẫu người thuộc trí tuệ, đó là họ thường có khuynh hướng giữ mọi năng lượng đến từ linh hồn hoặc ở trong bí huyệt đầu, hoặc ít ra cũng giữ ở bên trên cách mô; điều này không có nghĩa là mọi vùng cơ thể ở dưới cách mô không thường được cung cấp năng lượng cần thiết mà là ở nơi đó sự hoạt động phần lớn là tự động và người đó không có thói quen cố tâm hướng năng lượng vào bí huyệt và vùng mà bí huyệt đó chi phối, nếu bí huyệt đó ở dưới cách mô. Có lẽ cần phải dạy y cách làm việc đó, nếu người ấy cố gắng cộng tác với nhà trị liệu và muốn được chữa lành. Khả năng tập trung trí tuệ và hoạt động của bí huyệt đầu của y sẽ giúp ích rất nhiều, miễn là y chấp nhận sự chỉ dẫn về thuật điều khiển năng lượng. Nếu người ấy không quá yếu hoặc không quá bận tâm đến việc giữ sự giao tiếp hữu ư với thể xác của ḿnh, th́ thường là y có thể làm được điều nói trên. Khi bệnh nhân không thể tập trung sự chú tâm của ḿnh, hoặc do đau đớn hay do thiếu hồng trần thức hoặc suy nhược trầm trọng, th́ nhà trị liệu phải làm việc trước nhất ở cấp độ linh hồn với linh hồn, và tin tưởng rằng liên hệ giữa linh hồn bệnh nhân với thể dĩ thái sẽ đủ để xúc tiến việc chữa trị nếu đó là số mệnh của người đó.

Khi nguồn gốc của bệnh nằm ở thể cảm dục, th́ công việc của nhà trị liệu không dễ dàng như trên. Bấy giờ, y phải làm việc, tập trung với tư cách là linh hồn ở bí huyệt đầu của y, nhưng điều khiển năng lượng cần thiết và kiểm soát bản chất t́nh cảm của bệnh nhân xuyên qua bí huyệt đan điền được định hướng chính xác của y. Ở đây, tôi đề cập đến bí huyệt đan điền của nhà trị liệu, đó là bí huyệt mà trong cuộc sống riêng của ḿnh, y không dùng nó làm tụ điểm để chú tâm theo qui luật chung. Nhà trị liệu đă đạt được khéo léo trong việc sử dụng mọi bí huyệt của ḿnh một cách tùy ư, xem chúng như các điểm phân phối năng lượng có định hướng. Tôi muốn bạn lưu ư, năng lượng định hướng này không được hướng vào việc chữa trị, mà là năng lượng linh hồn của nhà trị liệu được hướng đến việc đưa bí huyệt nào đó trong cơ thể bệnh nhân dưới sự kiểm soát v́ bệnh nhân biểu lộ tính dễ cảm xúc và để tái tổ chức nó thành trung tâm tiếp nhận các năng lượng trị liệu phóng phát từ linh hồn bệnh nhân – một vấn đề khác hẳn và là điều cần phải ghi nhớ cẩn thận.

555

 
Thế nên, nhà trị liệu sử dụng hai bí huyệt, nói theo thông thường là bí huyệt đầu của chính y c̣n bí huyệt kia trong chính ḿnh y, ứng với vùng bị bệnh và là bí huyệt đang kiểm soát của cơ thể bệnh nhân. Trong mọi cuộc chữa trị thành công đều phải tạo được một liên giao đồng cảm. Một Cổ thư trong Văn Khố của các Chân Sư có ghi: "Linh hồn ứng với linh hồn, cả hai là một; điểm ứng với điểm, chúng phải cùng chịu đau; vị trí ứng với vị trí, chúng cảm thấy liên kết, nhờ thế mà ḍng năng lượng kép dẫn đến kết quả chữa trị".

Một trong những khó khăn chính mà nhà trị liệu phải đối phó (đặc biệt là nếu y c̣n tương đối thiếu kinh nghiệm) là hậu quả của liên hệ đồng cảm được lập nên này. Thường xảy ra cái mà chúng ta có thể gọi là "sự chuyển di" ("transference"). Nhà trị liệu nhận hay tiếp quản t́nh trạng bệnh hay sự khó chịu, không có thực, mà chỉ có triệu chứng. Điều này có thể làm cho y suy yếu; hoặc ít nhất ngăn chận hoạt động thông suốt của tiến tŕnh chữa trị. Đó là một ảo cảm và là một ảo tưởng và do nhà trị liệu đă có được khả năng tự đồng hóa với bệnh nhân của ḿnh. Điều đó cũng dựa vào sự khát khao và rất mong muốn chữa lành. Người chữa trị đă thường bận tâm với nhu cầu của bệnh nhân và bị phân tán ra khỏi ư thức tích cực, đồng nhất hóa của chính ḿnh, đến nỗi vô t́nh y đă trở nên tiêu cực/ thụ động và tạm thời không được bảo vệ. Nếu nhà trị liệu thấy ḿnh có khuynh hướng đó, th́ cách chữa trị là làm việc thông qua bí huyệt tim cũng như bí huyệt đầu, nhờ thế mà giữ cho ḍng năng lượng tích cực của t́nh thương tuôn ra đều đặn đến bệnh nhân. Việc này sẽ ngăn cho y khỏi bị nhiễm bệnh, nhưng không cách ly y với người bệnh. Y có thể làm điều đó bằng cách hoạt động qua bí huyệt tim bên trong brahmarandra (tức là bí huyệt đầu) và tăng thêm sức mạnh cho việc trị liệu của y. Tuy nhiên, điều đó đ̣i hỏi phía nhà trị liệu phải có tŕnh độ phát triển cao. Nhà trị liệu tinh thần bậc trung sẽ phải liên kết bí huyệt đầu và bí huyệt tim bằng tác động rơ rệt của ư chí. Bấy giờ y sẽ nhận thấy rằng t́nh thương tuôn ra từ y đến bệnh nhân sẽ ngăn bất cứ sự trở về nào của các phóng xuất ngoài ư muốn từ bệnh nhân đang tuôn chảy về phía người chữa bệnh; v́ nếu có một ḍng chảy như thế, nó sẽ cản trở việc chữa trị cho bệnh nhân.

556

 
Như các bạn có thể thấy, nhà trị liệu nào đáp ứng với sức thôi thúc chữa trị bên trong, sẽ đối mặt với một tiến tŕnh rèn luyện rất gắt gao, trước khi trang cụ của y – phàm ngă, thể dĩ thái và các bí huyệt của nó – chịu tuân phục linh hồn đến mức mà chúng không gây trở ngại nào cho thuật trị liệu. V́ thế, chính y phải học:

1. Cách chỉnh hợp nhanh chóng giữa linh hồn, thể trí, bí huyệt đầu và bộ óc xác thân.

2. Cách vận dụng thể trí, được linh hồn soi sáng, trong việc chẩn đoán các nguyên nhân tâm lư của loại bệnh mà y định chữa trị.

3. Các phương pháp tạo sự liên giao đồng cảm với bệnh nhân.

4. Những cách tự bảo vệ khỏi bất cứ một sự chuyển di nào do sự liên giao ấy mang lại.

5. Tạo sự liên giao đúng đắn với bệnh nhân, hoặc là hợp tác, chấp nhận hoặc là sự kiểm soát tinh thần.

6. Chẩn đoán thân xác và xác định vị trí của vùng cần phải chữa trị, xuyên qua bí huyệt đang chi phối.

557

 
7. Khéo léo hợp tác với linh hồn của bệnh nhân sao cho thể dĩ thái của người ấy hội tụ được mọi năng lượng lưu nhập của linh hồn, để chữa lành vùng bị bệnh. Việc này bao gồm hoạt động trực tiếp của thể dĩ thái của nhà trị liệu, liên quan đến hoạt động đổi mới về phía thể dĩ thái của bệnh nhân.

8. Kỹ thuật thu hồi năng lực trị liệu của nhà trị liệu, khi năng lực của bệnh nhân đă đủ đảm trách công việc.

Tôi cảm thấy rằng ở đây tôi đă trao cho các bạn tất cả những ǵ bạn cần để nghiên cứu và cân nhắc trực tiếp. Tôi đă chỉ cho các bạn thấy rằng thuật điều trị không phải là một tiến tŕnh thần bí mơ hồ, hoặc niềm tin do mơ ước và các hảo ư đơn thuần. Tôi đă nêu ra rằng, trước hết, đ̣i hỏi phải thấu triệt kỹ năng giao tiếp với linh hồn; thường xuyên thực hành việc chỉnh hợp và phải thông hiểu Khoa Học về các Bí Huyệt, hay – nói cho sát nghĩa – là một h́nh thức hiện đại của Laya–Yoga. Trong tương lai, các nhà trị liệu sẽ phải trải qua nhiều năm huấn luyện kỹ càng, và điều này không gây ngạc nhiên, bởi v́ y khoa thông thường cũng cần nhiều năm học hỏi và làm việc cật lực. Nhiều nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới sẽ kết hợp những học hỏi và tri thức chính thống với thuật trị liệu tinh thần.

Khi những nhà trị liệu thành thạo, có khả năng lư giải, có hiểu biết đầy đủ và thực dụng về thể dĩ thái, với sự thông hiểu về các năng lượng đang tạo nên thể đó, hoặc loại năng lượng mà nó đang hoặc có thể truyền dẫn, thông hiểu về cấu tạo tinh anh của con người, về các phương pháp điều khiển năng lượng từ một điểm và vị trí này, đến một điểm khác, có thể làm việc với kiến thức y khoa đầy đủ hoặc là có sự cộng tác đầy đủ với nhà giải phẫu hoặc y sĩ chính thống, th́ bấy giờ, các thay đổi phi thường sẽ xảy ra. Một sự khai ngộ quan trọng sẽ đến với nhân loại.

Chúng ta phải chuẩn bị cho chính điều đó – không phải chủ yếu là chuẩn bị cho việc điều trị thân xác, mà cốt mở rộng tâm thức của nhân loại, mà nghiên cứu mới mẻ và huyền bí này sẽ mang lại.

558

 
Chúng ta đă bàn đến một số sự thực căn bản vốn thật thiết yếu mà các nhà trị liệu – đang cố gắng làm việc với lối điều trị nội môn mới mẻ – đều phải thấu triệt. Cho nên, những ǵ tôi đă nói ra thật là quan trọng. Mỗi điểm mà tôi đă nói, có thể dùng làm nền tảng cho một cuộc thảo luận kéo dài; tuy nhiên, trong bộ luận này, không thể làm điều đó được, v́ tôi chỉ t́m cách đưa ra chỉ dẫn cho những điều có thể xảy ra trong tương lai. Tôi cũng t́m cách thúc đẩy việc không tin vào cách tiếp cận hiện nay của giới siêu h́nh học về đề tài bệnh tật và cách chữa trị, và làm suy giảm (tôi tạm dùng cách diễn tả quyết liệt như thế) niềm tin của công chúng vào cái gọi là các cách trị liệu của Kỷ Nguyên Mới, vào các phương pháp của những nhà khoa học Thiên Chúa giáo, của Khoa Tâm Thần, và của những trường phái tư tưởng, bàn đến cách chữa bệnh theo góc độ xác nhận – xác nhận thiên tính của con người và tuyên bố rằng thiên tính ẩn tàng và bẩm sinh ấy bảo đảm việc lành bệnh của y. Như tôi đă thường nêu ra, tuyên bố này là một mê hoặc và là một lừa gạt.

Hôm nay, chúng ta bàn đến một định luật (nếu hiểu đúng), định luật này sẽ chứng tỏ rằng phương pháp của nhà siêu h́nh học thời nay đối với vấn đề này thiếu sót đến mức nào; và – dầu cho nó đặt giáo huấn của chúng ta về chữa trị trên một căn bản vững chắc – tŕ hoăn kỷ nguyên chữa trị theo huyền môn thực sự đến một thời điểm xa hơn nhiều. Định luật thứ ba này được tŕnh bày như sau:

ĐỊNH LUẬT III

Bệnh tật là một hậu quả của việc tập trung cơ bản các năng lượng của sự sống con người. Từ cảnh giới, nơi mà các năng lượng được tập trung, nảy sinh các t́nh trạng có tính định đoạt vốn tạo ra sức khỏe yếu kém. Thế nên, các t́nh trạng này thể hiện dưới h́nh thức bệnh hoặc dưới h́nh thức không bị ảnh hưởng của bệnh.

559

 
Định luật này cho thấy rằng một trong các quyết tâm căn bản mà nhà trị liệu phải đạt đến là quyết tâm về mức tâm thức mà từ đó năng lượng trội hơn trong thể dĩ thái phát ra. Ở đây, tôi xin nhắc các bạn nhớ rằng, trong Giáo Lư Bí Nhiệm, H.P.B. có nói rằng một cơi (plane) và một trạng thái tâm thức là những chữ đồng nghĩa và hoàn toàn có thể thay thế cho nhau. Trong toàn bộ tác phẩm của tôi, tôi không t́m cách nhấn mạnh đến mức độ vật chất hay chất liệu (một cơi như nó được gọi), mà chú trọng đến tâm thức vốn tự biểu lộ trong vùng bao quanh của chất liệu biết rơ đó.

Trong định luật cổ xưa này chúng ta được đoan chắc rằng bệnh tật là hiệu quả của việc tập trung căn bản năng lượng sự sống của con người. Năng lượng sự sống này không giống như năng lượng hay lực của tâm thức, mà tâm thức bao giờ cũng là yếu tố điều khiển trong mọi biểu lộ của sự sống tồn tại bên trong. Bởi v́, về cơ bản chỉ có năng lượng chính yếu duy nhất – tức năng lượng sự sống. Tâm thức của con người được hội tụ ở đâu, th́ năng lượng sự sống sẽ gom mănh lực của nó vào đó. Nếu tâm thức được hội tụ vào cơi trí hoặc vào cơi cảm dục, th́ năng lượng sự sống sẽ không tập trung quá mạnh và bám chặt vào bí huyệt tim (là bí huyệt mà nguyên khí sự sống nằm ở đó), mà chỉ một phần năng lượng sinh động của bí huyệt này sẽ t́m được lối đi vào thể xác, xuyên qua thể dĩ thái. Phần lớn năng lượng sẽ được giữ lại (dùng một từ không tương xứng) ở cơi mà tâm thức đang hoạt động nhiều nhất hoặc – nói cách khác – sự biểu lộ của năng lượng ấy sẽ bị qui định bởi trạng thái tâm thức, tương ứng với mức ư thức hay vị trí tiếp xúc với Tổng Thể thiêng liêng hay là tâm thức thiêng liêng mà mức tiến hóa của con người có thể làm được.

560

 
Cho nên, công việc của nhà trị liệu là t́m ra nơi tập trung của tâm thức. Việc này đưa chúng ta trở lại một điểm mà tôi đă đưa ra về người bệnh, đó là bệnh nhân thuộc mẫu người thiên về trí tuệ hoặc t́nh cảm và thật ra rất ít người có tâm thức thuần ở xác thân. Khi tâm thức được ổn định trong tâm thức của linh hồn, sẽ có ít bệnh hoạn xảy ra và những khó khăn ở thể xác người bệnh tiến hóa cao bấy giờ sẽ liên kết với tác động của năng lượng linh hồn vào một thể xác chưa sẵn sàng. Ở tŕnh độ đó, chỉ có một số bệnh chính yếu sẽ ảnh hưởng đến y thôi. Y sẽ không nhạy cảm với các đau ốm lặt vặt và những sự cảm nhiễm nhỏ nhặt thường xảy ra, làm cho cuộc sống của một thường nhân hay của một người kém tiến hóa rất nguy ngập và khó khăn. Y có thể bị bệnh tim, các bệnh thần kinh và những loại bệnh có ảnh hưởng đến phần trên của cơ thể và những vùng chịu sự kiểm soát của các bí huyệt trên cách mô. Tuy nhiên, y ít khi bị những bệnh do các bí huyệt nhỏ có nhiều trong thể dĩ thái, hoặc do các bí huyệt ở dưới cách mô, trừ khi (có thể thuộc trường hợp của một đệ tử rất tiến hóa) y đang có chủ tâm nhận lănh những t́nh trạng được gây nên do việc phụng sự người đời.

Cũng v́ hiện nay đa số nhân loại đang tập trung tâm thức vào cơi cảm dục (hay là trong thể cảm dục), manh mối của một trong những cội nguồn lớn nhất của bệnh tật trở nên lộ rơ. Khi tâm thức của nhân loại chuyển lên cơi trí – và việc này đang từ từ xảy ra – bấy giờ những loại bệnh thường thấy và đang phổ biến hiện nay sẽ tiêu tan và chỉ có những loại bệnh thuộc về trí hoặc bệnh của hàng đệ tử vẫn c̣n khuấy rối sự an tịnh của con người. Những bệnh này tôi đă bàn đến trong một quyển trước của bộ luận này. (Đó là "Luận Về Bảy Cung", quyển II, trang 520 – 625).

561

 
Khoa học về trí tuệ đă hữu lư khi thừa nhận rằng chính những t́nh cảm của con người (như đă được diễn tả trong sự mô phỏng kém cỏi của thực tại mà họ gọi là tư tưởng) chịu trách nhiệm cho nhiều bệnh hoạn. Họ hành động đúng khi cố gắng làm cho bệnh nhân thay đổi thái độ t́nh cảm của ḿnh và phản ứng với cuộc sống, với hoàn cảnh và con người theo một đường lối khác. Nhưng họ lại sai lầm, vô vọng khi tin rằng bấy nhiêu đó là đủ. V́ không biết mọi phương pháp khoa học liên quan đến thể dĩ thái nên họ không có được ǵ để liên kết bản chất xúc cảm với xác thân. Do thế, lập luận của họ có một chỗ hở, và một lỗi lầm hiển nhiên trong kỹ thuật của họ. Điều này làm cho hoạt động của họ thành vô bổ, ngoại trừ khía cạnh cá tính. Khi họ chữa trị có hiệu quả, đó là v́ dù sao chăng nữa bệnh nhân cũng có định mệnh được b́nh phục. Tuy nhiên, họ đă đáp ứng được mục đích hữu ích trong việc sửa đổi t́nh trạng cá tính trong đó y thường có nguy cơ bị bệnh. Không phải họ chữa được bệnh và khi khẳng định điều đó, th́ cả người trị liệu lẫn bệnh nhân đều bị lừa gạt. Mọi lừa gạt nào cũng đều nguy hại và gây chướng ngại.

Ở đây, có lẽ hữu ích nếu tôi nêu ra, theo đường lối rộng và tổng quát, một vài loại bệnh mà việc tập trung sinh lực vào cơi t́nh cảm chẳng hạn, có thể gây ra. Tôi sẽ chỉ liệt kê chúng mà thôi. Tôi sẽ không bàn đến chúng trong bất cứ chi tiết nào cả; v́, cho đến khi nhà trị liệu thời nay thừa nhận sự thực về thể dĩ thái, và làm việc một cách khoa học và sáng suốt với thể đó và kiểm soát các bí huyệt của nó, th́ bất cứ điều ǵ mà tôi có thể nói đến cũng trở thành vô ích. Vào lúc này, tôi đang cố gắng đề xướng một số đề nghị chuẩn nhận cơ bản – đó là sự thực về sự hiện hữu của thể dĩ thái.

1. Thường xuyên tự vấn, mọi h́nh thức đè nén/ bưng bít có tính cách bệnh hoạn và sự im lặng bị ép buộc quá quyết liệt khi có liên quan đến các xúc cảm căn bản, có thể đưa đến bệnh gan trầm trọng, dẫn đến các khó khăn thường thấy cho bao tử và đưa đến ung thư.

2. Khi những ác cảm và căm ghét sâu xa hiện hữu trong tâm thức, hoặc khi một người sống trong t́nh trạng luôn luôn khó chịu với một cá nhân hoặc một tập thể, hoặc là khi có cảm giác bị bạc đăi, th́ ḍng máu thực sự có thể bị ảnh hưởng; bấy giờ, con người sẽ dễ thụ cảm những sự truyền nhiễm liên tục, bị các đinh nhọt (boils), những vết loét liên tiếp (running sores) và bị đủ bệnh về máu, rơ ràng là có bản chất dễ nhiễm trùng.

3. Bản chất dễ cáu giận, luôn ở trạng thái rối rít, tâm trạng bẳn gắt, phản ứng giận dữ khi sự việc không diễn ra theo ư muốn, có thể đưa đến những sự bùng nổ tai hại vốn được chẩn đoán có thể là những bệnh về năo và điên tạm thời. Chúng có thể đưa đến những cơn nhức đầu liên tục, vốn làm xói ṃn thể chất và đưa tới t́nh trạng suy nhược không thể tránh khỏi.

562

 
4. Một cuộc sống tính dục không hài ḷng, hoặc một t́nh trạng mà trong đó một người độc thân đă không có sự biểu lộ b́nh thường của tiến tŕnh tự nhiên, và chung cho mọi người và do đó đối với họ, tính dục vẫn là một bí mật (đồng thời là một vấn đề tư tưởng bên trong luôn luôn không được ghi nhận) sẽ dẫn đến:

   a. Một t́nh trạng suy nhược nặng, với t́nh trạng sức khỏe kém tất nhiên và không tránh khỏi đi kèm theo mẫu người đó – thường được gọi thiếu tế nhị là bà cô/ gái già (old maid) hay đàn ông độc thân (bachelor). Không cần phải nói, có nhiều người không lập gia đ́nh như thế, họ vẫn sống một cách lành mạnh chứ không thuộc hạng người nói trên.

   b. Cố gắng thường xuyên để thu hút sự chú ư của người khác phái, cho đến mức nó trở thành một khuynh hướng dễ bị kích thích và thiếu lành mạnh nhất.

   c. Phát triển thói quen đồng phái tính hay các lệch lạc tính dục này làm sa đọa cuộc sống của nhiều người thông tuệ.

   d. Các khối u – ác tính hoặc lành tính – tấn công các cơ quan sinh sản và thường đưa đến trường hợp phải giải phẫu.

Các phát triển khác có thể xảy ra, nhưng tôi không định nói kỹ về chúng. Ở đây tôi đă nêu ra đủ để chứng minh cái nguy hại của một ư thức về cản trở và một chú ư bệnh hoạn vào tính dục (cho dù lúc đó không nhận ra). Việc đó cũng có thể tự biểu lộ trong một cuộc sống mơ mộng, cuộc sống này liên kết bộ óc, thể trí và cơ quan sinh sản một cách mật thiết với nhau, và chứng minh sự thực rằng ham muốn của thể cảm dục đang tạo nên ham muốn ở xác thân. Điều này chứng minh khẳng định của tôi rằng thể xác tự động ứng đáp với sự chi phối của thể cảm dục – cho dù nó không hay biết trong những giờ ngủ. Dĩ nhiên, như bạn biết, cách chữa trị là một cuộc sống đầy sáng tạo ở ngoại giới. Đặc biệt là một cuộc sống hữu ích cho đồng loại, chứ không chỉ là việc chuyển hóa sự thôi thúc tính dục thành một h́nh thức suy tư sáng tạo nào đó, vốn dĩ chỉ là suy tư mà không được h́nh thành ở ngoại giới của kiếp người.

563

 
 5. Thương thân trách phận, một phiền muộn rất thường thấy, đưa đến chứng khó tiêu nghiêm trọng, đến bệnh đường ruột, viêm họng sổ mũi và nhức đầu ở một người b́nh thường, c̣n ở người tiến hóa nhiều, nó đưa đến bệnh kinh niên ở cuống phổi, loét bao tử và những t́nh trạng đau yếu ở răng và tai.

Tôi có thể tiếp tục kể ra những trạng thái t́nh cảm khác, vốn tạo ra bệnh cho người gặp các t́nh trạng này, nhưng bao nhiêu đó cũng đủ đem lại cho nhà thực hành trị liệu manh mối cho một vài viễn cảnh có thể chịu trách nhiệm cho các bệnh ở thể xác mà y được mời gọi chữa trị. Như, tôi đă nêu rơ ở nơi khác, người chữa trị cũng phải ghi nhớ các t́nh trạng đă được truyền lại từ các tiền kiếp, hoặc là được phát triển như kết quả của tập thể chung quanh, tức là karma của quốc gia hoặc của địa cầu.

Không có qui luật nào liên quan đến định luật này, v́ chúng ta vẫn đang bàn đến cách xác định các nguyên nhân gây ra bệnh bên ngoài; các nguyên nhân này cần được hiểu rơ và chấp nhận như là những giả thuyết có giá trị, trước khi nhà chữa trị có thể xử lư một cách hiệu quả với t́nh huống.

Giờ đây, chúng ta đi đến chỗ xem xét một định luật mà ư nghĩa và khả năng xác định của nó bao quát đến nỗi nó có thể được xem như tŕnh bày lư do đối với mọi bệnh tật có bất cứ bản chất nào và ở bất cứ thời gian nào trong lịch sử sự sống của nhân loại hoặc của cá nhân. Ở đây, nó được tŕnh bày và được xem như là Định Luật IV, chỉ v́ cần cho các lập luận chính của ba định luật trước đă được chấp nhận, xem xét và nghiên cứu. Cũng bởi nó là định luật chính chi phối sự xuất hiện bệnh tật trong giới thứ tư trong thiên nhiên, tức là giới nhân loại. Về cơ bản, nó là một định luật liên quan với Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư. Rơ ràng nó được ấn định và được thừa nhận là một định luật đang chế ngự nhân loại nhiều nhất, bởi các vị điểm đạo đồ đang làm việc trong căn chủng thứ tư, tức là giống dân Atlantis. Cũng lạ là khi nhân loại có thể hoạt động bằng tâm thức của họ (được tập trung ở cơi thứ tư hay cơi bồ đề) th́ bệnh tật sẽ tiêu tan, và Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư sau rốt sẽ thoát khỏi sự giới hạn lớn lao ấy.

564

 
ĐỊNH LUẬT IV

Mọi bệnh tật cả thể chất lẫn tâm lư đều bắt nguồn từ thiện, mỹ và chân. Nó chỉ là một phản ảnh méo mó của các triển vọng /tiềm năng thiêng liêng. Linh hồn bị ngăn trở đang t́m cách biểu lộ đầy đủ một đặc tính thiêng liêng, hoặc một thực tại tinh thần bên trong nào đó, linh hồn tạo ra một điểm ma sát trong chất liệu của các lớp vỏ của nó. Đôi mắt của phàm ngă tập trung vào điểm đó và điều này đưa tới bệnh hoạn. Thuật khéo léo của nhà trị liệu liên quan đến việc làm cho đôi mắt tập chú nh́n xuống, ngước lên linh hồn, tức nhà trị liệu đích thực ở trong h́nh hài. Bấy giờ, con mắt thứ ba hay con mắt tinh thần liền điều khiển sức mạnh trị liệu và mọi sự đều an lành.

Định luật này mở đầu bằng phát biểu của một trong các nghịch lư của giáo lư huyền môn: đó là thiện và ác là một và là điều giống nhau, cho dù trái ngược, hoặc tạo ra các mặt đối nghịch của Thực Tại duy nhất.

565

 
Bởi v́ con người là một linh hồn và được định đoạt về mặt tâm linh để hành động với tư cách một linh hồn, cho nên một t́nh trạng bất đồng được tạo nên giữa linh hồn với phàm ngă; bất đồng này là một nguyên nhân chính (nếu không phải là nguyên nhân chính duy nhất) của mọi bệnh tật. Đây là một manh mối để hiểu được tập ngữ "lửa do ma sát", trạng thái thứ ba của "bản chất lửa", bản chất thiêng liêng của Thượng Đế, v́ "Thượng Đế của chúng ta là một ngọn lửa hay thiêu hủy". Chúng ta cũng được dạy rằng bản thể của Ngài được biểu lộ qua lửa điện, qua lửa thái dương và qua lửa do ma sát. Ba loại lửa này, đă được tôi nói đến rất nhiều trong "Luận Về Lửa Càn Khôn" và trước kia có gợi ư trong "Giáo Lư Bí Nhiệm".

Định luật này nói rơ rằng v́ con người vốn thiêng liêng, nên sức thôi thúc đến thiên tính tạo ra đối kháng trong các hiện thể biểu lộ. Tính đối kháng này sẽ tự khu biệt trong một vùng nào đó của xác thân và tạo nên một điểm cọ xát. Đến lượt điểm cọ xát này lại tạo nên một t́nh trạng hay một vùng viêm nhiễm. Cuối cùng, vùng viêm nhiễm ấy mới đưa đến bệnh tật loại này, hoặc loại khác. Ở đây, phải chăng các bạn có thể lại có một manh mối khác nữa – manh mối đưa đến vấn đề đă gây ra nhiều quan tâm trong thế giới siêu h́nh: Tại sao những người tiến hóa cao, những nhà lănh đạo tinh thần và những người hướng về cuộc sống tâm linh thường trải qua những trở ngại về thể xác đến thế? Có lẽ v́ họ đang ở tŕnh độ mà năng lượng của linh hồn đang tuôn đổ qua thể xác, gặp phải sự đề kháng từ thể đó thuộc loại mănh liệt tương ứng. Sự ma sát/ va chạm đó được tạo nên đột ngột đến nỗi hậu quả là bệnh mau chóng xuất hiện. Đối với các đệ tử đă được điểm đạo lần hai th́ điều này không c̣n đúng. Vấn đề sức khỏe kém của họ lại xảy ra theo lối khác. Chúng ta hăy lấy từng câu của định luật IV này và cố gắng phân tích phần nào ư nghĩa của nó:

1. Bệnh tật, cả thể chất lẫn tâm lư, đều có cội nguồn trong thiện, mỹ và chân. Đây chỉ là một phản ảnh méo mó của các tiềm năng thiêng liêng.

566

 
Tôi đă chứng minh rằng, về mặt căn bản, bệnh tật có bản chất thuộc về tâm lư. Tuy nhiên, có những bệnh vốn có sẵn trong sự đối kháng của nhục thân (chứ không chỉ ở các thể tinh anh) với sự va chạm của các năng lượng cao, hoặc bệnh tật sẵn có trong chất liệu của hành tinh hay là vật chất của chính địa cầu. Đừng nên quên rằng thể xác được chất liệu đó cấu thành. Câu đầu của định luật IV này cho chúng ta biết rằng ba khía cạnh của thiên tính gây ra bệnh tật. Điều này nghe có vẻ không thể nào xảy ra khi đọc qua câu đó; tuy nhiên, khi thận trọng nghiên cứu, sẽ phát hiện ra tính chính xác chủ yếu của nó. Làm sao điều thiện, điều mỹ và điều chân lại gây nên một loại bệnh tật nào đó? Chúng ta hăy xem.

a. Thiện (The Good) – Thiện là ǵ? Có phải nó biểu hiện cho ư-chí-hành-thiện không? Có phải ư-chí-hành-thiện này không và sẽ không thể hiện trên cơi trần trong cái mà chúng ta gọi là thiện chí nơi con người? Có thể nào, trong khi luôn t́m cách (trên cơi riêng của nó) thích nghi với Thiên Cơ (Thiên Cơ này có mục đích thể hiện ư-chí-hành-thiện thiêng liêng), linh hồn không thể cố gắng thúc đẩy biểu lộ tam phân của nó, tức là phàm ngă biểu lộ được thiện chí (goodwill) hay sao? Linh hồn không thể làm được điều này vào đúng giai đoạn khai mở tiến hóa và khi linh hồn trở nên linh hoạt và tác động hay sao? Tuy nhiên, cũng v́ sự đối kháng của bản chất h́nh hài cho đến nay chưa thỏa đáng cho biểu hiện thiêng liêng mong muốn, nên sự cọ xát liền sinh ra và đưa đến kết quả là bệnh tật. Tôi nghĩ rằng chỉ cần xem qua các câu hỏi trên, các bạn cũng thấy rơ được cách nào mà khuynh hướng về "điều thiện" của linh hồn lại có thể đưa đến sự đối kháng trên cơi trần để cho sự xáo trộn sinh ra như thế trong tâm thức con người có thể và nhất định là gây ra bệnh tật. Loại bệnh này là nguyên nhân của nhiều khó khăn nơi người tiến hóa, người t́m đạo và các đệ tử. Kế đó, sự ma sát này mới tạo nên một phản ứng phụ và đưa đến các trạng thái tâm lư mà chúng ta gọi là "trầm cảm, mặc cảm tự ti và cảm giác thất bại". Nguồn gốc đặc biệt này của bệnh tật, tức "thiện" là nguồn có ảnh hưởng trước nhất đến những hạng người có trí năng.

567

 
b. Mỹ (The Beautiful). Ở đây bạn có một từ chỉ rơ ham muốn của mọi người, đối với cái mà họ xem là mục tiêu đáng mong ước cho khuôn mẫu sống của họ, và mục tiêu họ chọn để phấn đấu. Theo góc độ của một trạng thái thiêng liêng, cái mỹ có liên quan đến phẩm tính của sự sống. Ở đây, tôi muốn nhắc bạn nhớ các định nghĩa mở đầu của chúng ta trong quyển I của bộ luận này, về các từ ngữ tinh thần-linh hồn-thể xác. Chúng ta đă định nghĩa chúng là sự sống - phẩm tính - h́nh tướng. Sự sống là năng lượng trong lúc biểu lộ của ư-chí-hành-thiện thiêng liêng. Phẩm tính (quality) là năng lượng lúc biểu lộ của linh hồn và năng lượng này hiện nay đang tác động rơ rệt nhất qua sự sống đầy ham muốn và quyết tâm của mọi người ở mọi tŕnh độ tiến hóa, muốn chiếm hữu, muốn làm chủ và hưởng thụ những ǵ mà họ cho là đẹp. Tùy tŕnh độ tiến hóa mà việc định nghĩa "cái đẹp" và phạm vi ham muốn của con người đều khác nhau rất nhiều. Tuy nhiên, tất cả đều tùy theo nhân sinh quan của người đang có ham muốn và tùy vị trí mà y đang đứng trên thang tiến hóa. Bất cứ lúc nào con người thấy ḿnh không thể đạt được cái mà y cho là "mỹ", th́ điều đó định đoạt khuynh hướng mắc bệnh của y, căn cứ vào sự xung đột bên trong tạo nên theo cách đó. Ở tŕnh độ phát triển hiện nay của nhân loại, đa số mọi người đang bị lôi cuốn vào những t́nh trạng bệnh hoạn do sự bất đồng xảy ra bởi nỗ lực của họ theo đuổi "cái đẹp" – một nỗ lực bị thôi thúc dưới h́nh thức một thôi thúc tiến hóa, bởi v́, họ là những linh hồn và đang ở dưới ảnh hưởng của những phẩm đức của ngôi thiêng liêng thứ hai.

568

 
c. Chân (The true). Người ta cho rằng chân hay là chân lư (truth) là biểu hiện thiêng liêng mà bất cứ người nào cũng có thể biểu lộ nhiều nhất ở tŕnh độ tiến hóa đặc biệt của ḿnh và ở bất cứ giai đoạn đă định nào trong quá tŕnh luân hồi của y. Biểu hiện của chân lư này hàm ư rằng đàng sau những ǵ mà y kiểm soát để biểu lộ, có nhiều điều mà y không thể chứng minh được. Linh hồn của y vẫn măi có ư thức về điều này. Việc thiếu khả năng để sống theo lư tưởng cao nhất mà – ở tŕnh độ riêng biệt của y – con người biết đến và nhận thức được, trong những khoảnh khắc sáng tỏ nhất và tuyệt diệu nhất, không tránh khỏi tạo nên một điểm xung khắc cho dù y vẫn c̣n chưa biết được điều đó. Một trong các biểu lộ chính của sự va chạm đặc biệt này và t́nh trạng bệnh hoạn mà nó mang lại là chứng phong thấp (rheumatism). Bệnh này ngày nay đang lan tràn và đă có từ nhiều thế kỷ trước. Theo quan điểm y học th́ không có nguyên do nào được định rơ hay là gán cho nó, dầu rằng, trong giới y khoa chính thống đă có nhiều suy đoán và kết luận. Trước hết, nó ảnh hưởng đến bộ xương. Thực ra, nó là hậu quả của sự bất lực của linh hồn không tạo được sự biểu lộ của "chân" trong con người, là khí cụ của linh hồn trong ba cơi thấp. Đến lượt con người, dầu ở vị trí thấp kém đến đâu trên thang tiến hóa, nó bao giờ cũng ư thức được cái không thể đạt được. Y luôn luôn cảm thấy có một sự thôi thúc tiến đến sự cải thiện. Các thôi thúc này không liên quan đến sự biểu lộ của ư-chí-hành-thiện hay là biểu lộ "cái mỹ" (dầu rằng ít nhiều ǵ y cũng có thể biết được chúng), nhưng, các thôi thúc này có liên hệ rơ rệt đến việc biểu lộ ở cơi trần của một cái ǵ gần gũi hơn với lư tưởng của con người khi y thấy được nó. Cho nên sự va chạm xảy ra và theo sau là một loại bệnh nào đó.

Thật là lư thú mà ghi nhận rằng sự thiếu khả năng để biểu lộ "cái chân" hay là "trở thành Chân Lư" là nguyên nhân thực sự của cái chết của những ai c̣n thấp hơn tŕnh độ đệ tử và chưa được điểm đạo lần thứ nhất. Linh hồn chán ngán v́ phản ứng lại với va chạm của khí cụ của nó nên quyết định chấm dứt cuộc thí nghiệm lần nhập thế đặc biệt đó. Cho nên sự chết xảy đến như là hậu quả mà sự va chạm sinh ra.

Khi nghiên cứu các ư tưởng này, chúng ta nên nhớ rằng:

569

 
a. Điều thiện chi phối con người, xuyên qua bí huyệt đầu và sự va chạm sinh ra do sự bất động của bí huyệt chót xương sống. Bí huyệt này kiểm soát sự biểu lộ trạng thái thiêng liêng thứ nhất nơi con người nhờ sự tương tác của nó với bí huyệt đầu. Sự tương tác này chỉ xảy ra khi con người đạt đến tŕnh độ đệ tử hoặc điểm đạo đồ.

b. Điều mỹ chi phối con người xuyên qua bí huyệt tim, sự va chạm xảy ra do bí huyệt đan điền thiếu khả năng ứng đáp. Do đó một t́nh trạng va chạm được tạo nên. Việc chấm dứt t́nh trạng này và khêu gợi sự ứng đáp đúng của đan điền sẽ đến khi các lực của huyệt đan điền được đưa lên và trộn lẫn với năng lượng của bí huyệt tim.

c. Điều chân với cương vị là một biểu lộ của Đấng thiêng liêng, có điểm tập trung của nó ở bí huyệt cổ họng. Việc phàm ngă không ứng đáp được và không thể biểu lộ điều chân là do mối liên hệ giữa bí huyệt sinh dục và bí huyệt cổ họng. Khi không có liên hệ này, sẽ tạo ra sự va chạm. Sẽ không có sự biểu lộ đích thực của "điều chân", nếu các mănh lực của bí huyệt sáng tạo ở dưới cách mô chưa được nâng lên đến bí huyệt sáng tạo ở cổ họng. Chừng đó, "Ngôi Lời" ("the Word"), về bản thể vốn là con người "sẽ lâm phàm" ("will be made flesh") và sự biểu lộ thực sự của linh hồn ở cơi trần sẽ được nhận ra.

2. Trong khi t́m cách biểu lộ đến mức hoàn măn một đặc tính thiêng liêng nào đó, hay một thực tại tinh thần nội tại nào đó, do bị ngăn trở, linh hồn tạo ra một điểm bất đồng trong chất liệu của các thể của nó.

570

 
Phần lớn câu này tôi đă nói đến ở trên rồi. Tuy nhiên, tôi muốn các bạn chú ư đến sự kiện được nhấn mạnh trong câu này là chính linh hồn chịu trách nhiệm v́ gây ra sự bất đồng. Khi phân tích câu trước, có sự nhấn mạnh được đặt vào phàm ngă do bởi nó không ứng đáp được mới tạo nên sự bất đồng và hậu quả là nảy sinh bệnh tật. Trong câu này, chúng ta không thể có được manh mối cho toàn bộ mục đích của đau đớn, khốn khổ, và thậm chí của chiến tranh chăng? Tôi muốn đưa ra điều đó để các bạn suy tư cẩn thận và nếu có thể nhờ đó mà được khai ngộ.

3. Đôi mắt của phàm nhân tập chú vào điểm đó, và việc này dẫn tới bệnh tật.

Ở đây, chúng ta có được gợi ư rất lư thú về phương tiện điều động thần lực. Ư nghĩa huyền bí của con mắt và bản chất của biểu tượng học về mắt ít được hiểu rơ. Điều nói đến ở đây thực ra không có dính dáng ǵ đến con mắt trong thể xác. Cách nói "đôi mắt của phàm ngă" ở đây chỉ sự chú ư tập trung của phàm ngă, phát xuất từ thể trí và thể cảm dục, thực chất vốn là đôi mắt của linh hồn đang nhập thế. Việc sử dụng hai cửa sổ hay mắt của linh hồn này đưa đến việc tập trung năng lượng (trong trường hợp này hoàn toàn là năng lượng của phàm ngă) vào trong thể dĩ thái. Kế đó, năng lượng này được hướng đến vùng bị bệnh, và v́ thế mà được đưa đến điểm bất đồng. Điểm bất đồng được duy tŕ và gia tăng bằng các lực được tập trung vào nó. Nói một cách khách quan, th́ người ta ít hiểu được rằng họ làm tăng sức mạnh của bệnh tật nhiều đến mức nào bằng cách luôn tưởng nghĩ đến nó và bằng cách chú ư đến vùng bị bệnh. Các năng lượng thuộc thể trí và thể cảm dục được mang lại, có liên quan tới vùng bị bệnh, và "đôi mắt của phàm ngă" là nhân tố mạnh mẽ trong việc duy tŕ bệnh tật.

571

 
Hơn nữa, các bạn thấy rằng câu này đă diễn tả một cách minh bạch rằng các t́nh trạng trong thể hạ trí và thể cảm dục đưa đến bệnh hoạn. Hoạt động của linh hồn và sự va chạm của năng lượng linh hồn thấu nhập vào thể xác, xuyên qua các thể tinh anh, và điểm bất đồng (hậu quả của sự đề kháng) được thấy trước tiên trong hạ trí, kế đó, nó được lặp lại c̣n mănh liệt hơn ở trong thể cảm dục và được phản dội vào thể xác. Các thể này tạo nên phàm ngă (đây là điều sơ đẳng của huyền linh học nhưng đôi khi bị quên đi), và tất nhiên, sự bất đồng xảy ra khắp nơi.

Có lẽ các bạn rất thích thú khi liên kết những ǵ tôi đă nói về đôi mắt trong các tác phẩm khác của tôi với điểm được nêu trên. Như các bạn đều biết rơ và trong "Giáo Lư Bí Nhiệm" cũng có nói rằng mắt bên phải là "mắt của buddhi", c̣n mắt bên trái là "mắt của manas". Khi liên quan với bồ đề th́ manas là thượng trí (higher mind) cuối cùng nó sẽ hiện ra cho con người. Ở kẻ thường nhân, trước khi được hoàn thiện, mắt bên phải chuyển năng lượng của thể cảm dục, khi nó quyết tâm hướng đến một mục tiêu chú ư, c̣n mắt bên trái th́ điều khiển năng lượng của hạ trí. Ở giữa hai mắt dùng để điều khiển này có bí huyệt ấn đường (giữa 2 mày). Bí huyệt này giống như con mắt thứ ba hay là tác nhân điều khiển dành cho các năng lượng được ḥa lẫn và dung hợp của phàm nhân. Được liên kết với con mắt thứ ba này khi nó thức động và bắt đầu hoạt động là cái mà chúng ta gọi là "con mắt của linh hồn". Đây là một điểm ở trong bí huyệt đỉnh đầu. Con mắt của linh hồn có thể và thực sự chuyển năng lượng đến huyệt ấn đường, chính nó là tác nhân (trước lần điểm đạo thứ tư) của năng lượng của Tam Thượng Thể Tinh Thần. Mối liên hệ huyền bí này chỉ được thiết lập khi linh hồn chế ngự được khí cụ của nó, tức phàm ngă, và đưa mọi hoạt động thấp kém ở cơi trần vào dưới sự chi phối của linh hồn.

Thế nên, ở người hoàn thiện, có các tác nhân phân phối năng lượng sau đây:

1. Con mắt của linh hồn … tác nhân của Tam Thượng Thể

                                                         Tinh Thần …. Ư chí.

2. Con mắt thứ ba ….. tác nhân của linh hồn …Bác ái

3. Con mắt phải… tác nhân phân phối năng lượng bồ đề.

4. Con mắt trái….. tác nhân chuyển năng lượng trí tuệ

                                 thuần túy.

572

 
5. Bí huyệt ấn đường… điểm hội tụ và điều khiển đối với

                                 mọi năng lượng trên.

Nơi đệ tử và người đang bắt đầu hoạt động với tư cách một linh hồn, các bạn sẽ có:

1. Mắt thứ ba……… nơi phân phối năng lượng linh hồn.

2. Mắt phải ……….. tác nhân cho năng lượng cảm dục.

3. Mắt trái………..…tác nhân cho năng lượng hạ trí.

4. Bí huyệt ấn đường … điểm hội tụ của ba loại năng lượng trên.

Nơi kẻ thường nhân, vị trí sẽ như sau:

1.Mắt phải …..…tác nhân cho năng lượng cảm dục.

2.Mắt trái ………tác nhân cho năng lượng trí tuệ.

3.Bí huyệt ấn đường …… nơi phân phối.

Khi kiến thức huyền bí tăng lên, toàn bộ môn học về phân phối năng lượng sẽ được lập ra liên quan đến mắt và chức năng có tính cách biểu tượng của chúng; và công dụng huyền bí của chúng sẽ được hiểu rơ. Chưa đến lúc xảy ra việc đó, mặc dầu đă biết rằng, sức mạnh của mắt người khi tập trung vào một người nào chẳng hạn, sẽ có năng lực thu hút sự chú ư của người đó. Tôi có thể trao cho bạn một gợi ư: dây thần kinh thị giác là một biểu tượng của giác tuyến (antahkarana), c̣n toàn thể cấu trúc của nhăn cầu là một trong những biểu tượng đẹp đẽ nhất của Thượng Đế Ba Ngôi và phàm ngă có ba thể.

4. Cái khéo léo của nhà trị liệu có liên quan đến việc nâng đôi mắt chăm chăm nh́n xuống, ngước nh́n lên linh hồn, tức nhà trị liệu đích thực ở trong h́nh hài.

573

 
Với hàm ư thấp nhất và rơ ràng nhất, th́ câu này chỉ nói rằng nhà trị liệu phải giúp bệnh nhân nh́n ra khỏi chính ḿnh, rằng y phải giúp người bệnh nâng cao và tái định hướng năng lượng được điều khiển, sao cho "điểm bất đồng" không c̣n là mục tiêu chú ư của bệnh nhân và đưa ra cho người ấy điều quan tâm mới. Việc này từ lâu đă được các nhà trị liệu cố gắng thực hành, tuy nhiên nó c̣n một ư nghĩa huyền bí hơn những ǵ họ đă biết, và đó là điều mà tôi thấy hơi khó giải thích.

Chúng ta đă thấy rằng điểm bất đồng (nguyên nhân của bệnh) đă được tạo nên, do thiện, mỹ và chân khi chúng va chạm với các mănh lực của phàm nhân. Chúng ta cũng đă thấy rằng đây là một định luật nền tảng và là định luật mà con người hiểu rằng ḿnh phải chấp nhận và phải làm việc với nó một cách thông minh. Cho nên, làm cách nào y có thể áp dụng định luật này và tạo nên những kết quả mà y đang nỗ lực thu đạt?

Các năng lượng đang tuôn xuống này của linh hồn đi vào thể xác, xuyên qua thể dĩ thái, và chịu trách nhiệm cho xáo trộn bất đồng mà hậu quả của nó là bệnh tật. Qua sinh mệnh tuyến (sutratma), chúng đă "đi xuống giao tiếp" qua sutratma và được trụ vào trong ba trung tâm chánh, tức là ba bí huyệt chính, như các bạn đă rơ. Tùy theo bản chất, cung, mức phát triển, nhược điểm và các giới hạn của mỗi người, từ các bí huyệt này, chúng được phân phối đến nhiều vùng khác nhau của xác thân; hoặc chúng gây nên những điểm bất đồng, hoặc chúng tự biểu lộ thành những phẩm tính thiêng liêng. Khi có sự bất đồng và do đó có bệnh tật; và nếu người bệnh may mắn có được một nhà trị liệu huyền linh lăo luyện (hoặc một điểm đạo đồ, hoặc một đệ tử tiến hóa) th́ các năng lượng này sẽ được đưa trở lại những điểm phân phối của chúng – hoặc có hay không có sự cộng tác của bệnh nhân – tức là ba bí huyệt cao, và việc này tùy theo loại năng lượng đang tạo nên xáo trộn. Không thể đưa chúng hoàn toàn ra khỏi cơ thể xuyên qua bí huyệt đầu, v́, nếu làm thế, bệnh nhân sẽ chết. Tuy nhiên, về mặt huyền linh, "từ điểm bất đồng, chúng có thể được đưa trở về điểm xuất phát, chứ không về đến nguồn cội của chúng", như một cuốn sách cổ về trị liệu có nói.

574

 
Năng lượng được đưa từ vùng nhiễm bệnh (từ ngữ này được dùng không thích hợp, nhưng chúng ta thiếu các từ đúng hơn để dùng cho các khoa mới mẻ này) đến điểm bất đồng; từ đó nó được đưa đến bí huyệt chi phối vùng ấy. Nhờ bí huyệt này mà năng lượng linh hồn mới nhập vào trong nhục thân. V́ thế mà nhà trị liệu đang làm việc một lượt với hai mặt của thể xác – tức là nhục thân và thể dĩ thái. Từ bí huyệt ấy, năng lượng liên hệ được gom lại và được hoàn về một trong ba bí huyệt chính. Nếu một trong ba bí huyệt cao này lại liên hệ đến vùng bị bệnh, th́ năng lượng được gom lại, đưa về bí huyệt đầu và giữ ở đó. Thế nên, chúng ta phải ghi nhớ rằng công việc của nhà trị liệu theo lối này gồm hai phần:

 1. Giai đoạn "nâng cao" hay "trục xuất" về mặt huyền linh. Giai đoạn này gồm hai tiểu giai đoạn (phases):

  a. Tiểu giai đoạn thu góp năng lượng

  b. Tiểu giai đoạn tái hội tụ nó vào trung tâm phân phối của nó.

2. Giai đoạn sau khi việc làm của nhà trị liệu đă được hoàn tất và bệnh nhân hoặc là được thuyên giảm, hoặc là việc trị liệu không thành công. Trong giai đoạn này, năng lượng đă được "xua ra" lại quay trở lại bí huyệt và vị trí có điểm bất đồng.

Hiển nhiên, bạn sẽ thấy rằng h́nh thức trị liệu này chỉ xảy ra với người được huấn luyện ở cấp cao, do đó tôi thấy không cần phải đi vào chi tiết về kỹ thuật này. Tuy nhiên, cũng là hữu ích khi thỉnh thoảng xem xét những mục tiêu xa.

Hiện nay, tất cả những ǵ có thể làm được liên quan đến phát biểu này là chuyển sự chú tâm của bệnh nhân (nếu y có thể đáp ứng với các gợi ư) hướng về linh hồn, và giúp cho người ấy, với sự hồn nhiên, giữ cho tâm thức của y càng gần với linh hồn càng hay. Việc làm này sẽ giúp khai thông các vận hà mà năng lượng có thể tuôn xuống và cũng theo các vận hà đó mà năng lượng có thể tự động được rút ra, bởi v́ năng lượng theo sau tư tưởng.

575

 
Xét cho cùng, trị liệu thực sự theo huyền môn là một vấn đề đơn giản, khi so với những chi tiết rắc rối và phức tạp liên quan đến bộ máy con người và các bệnh của bộ máy đó, mà nhà y sĩ thời nay phải đối phó. Nhà trị liệu tinh thần quan tâm đến vùng bị bệnh, đến bí huyệt dĩ thái đang chi phối vùng đó và phần tương ứng cao hơn của nó, và quan tâm đến ba ḍng năng lượng đến từ linh hồn, vốn chịu trách nhiệm về việc tạo ra một hoặc nhiều điểm bất đồng. Công việc c̣n lại của y liên quan đến việc sử dụng trí tưởng tượng sáng tạo, năng lực h́nh dung và sự hiểu biết do tư duy khoa học, dựa vào định luật phổ quát và căn bản là "năng lượng theo sau tư tưởng". Năng lực h́nh dung và tư duy khoa học này (khi liên quan đến việc chữa trị) không cần đến việc tạo h́nh tư tưởng. Nó chỉ cần đến khả năng vận chuyển và điều khiển các ḍng năng lượng.

5. Bấy giờ con mắt thứ ba điều khiển mănh lực trị liệu và mọi sự đều trôi chảy.

Con mắt thứ ba được đề cập đến ở đây là của nhà trị liệu chứ không phải của bệnh nhân bậc trung. Con mắt này, nhà trị liệu dùng phối hợp với con mắt của linh hồn. Trong trường hợp trị liệu cho một người rất tiến hóa, người này có thể hợp tác một cách có ư thức, lúc đó con mắt thứ ba của bệnh nhân cũng có thể linh hoạt, và nhờ đó mà hai ḍng năng lượng rất mạnh mẽ có điều khiển có thể xâm nhập vào vùng có điểm bất đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp thông thường, khi bệnh nhân không có chút kiến thức huyền môn nào, th́ nhà chữa trị làm tất cả mọi việc, và đây là điều thuận tiện. Sự hợp tác của người không kinh nghiệm và người dễ xúc cảm với bệnh của họ, đều không phải là hợp tác đích thực.

Vài ẩn ngữ được đưa ra trong phần phân tích các câu của định luật IV sẽ cung cấp nhiều chất liệu cho tư duy. Giờ đây, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét qui luật liên quan với định luật này.

576

 
Khi nghiên cứu các định luật và qui luật này, nên nhớ rằng các định luật được áp đặt cho nhà trị liệu và cung cấp những điều kiện không thể thay đổi mà y phải làm việc theo đó. Y không được và không thể lẩn tránh chúng. Tuy nhiên, các qui luật th́ y tự đặt lên chính ḿnh và chúng tạo thành các t́nh trạng mà y được khuyến cáo noi theo nếu y muốn thành công. Nhiều điều tùy thuộc vào sự thông hiểu của y về các qui luật và dựa vào năng lực của y để diễn giải chúng một cách chính xác. Chúng được diễn dịch và phỏng theo các qui luật cổ xưa, từ lúc được đặt ra đến giờ, chúng đă chi phối tất cả các nhà trị liệu huyền môn đang làm việc dưới linh hứng của Thánh Đoàn. Lúc bắt đầu được sử dụng chúng được đệ tŕnh và được các Đấng trong Thánh Đoàn thời đó chuẩn nhận – thời Lemuria cổ. Sau đó, chúng được diễn giải cách khác, theo cách diễn giải hiện đại. Ư nghĩa hiện nay của nó chỉ đến ngày nay mới trong tiến tŕnh xuất hiện. Có thể nói rằng:

1. Vào thời Lemuria, các qui luật này đă được các Đấng của Thánh Đoàn chấp nhận. Nếu không phải là một thành viên th́ bạn không thể xác định được chúng hay làm việc với chúng.

2. Vào thời Atlantis, chúng được hiển lộ đến mức các đệ tử chưa được điểm đạo hoặc chỉ được điểm đạo lần thứ nhất, đă dược truyền thụ và được phép sử dụng chúng. Chính lối diễn giải chúng ở thời Atlantis phần lớn đang tác động đến cách tiếp cận hiện nay để t́m hiểu chúng, nhưng chưa đủ thời cơ và đủ mẫu người phát triển trí tuệ hơn nữa.

3. Ngày nay, trong giống dân Aryan của chúng ta, có một ư nghĩa mới đang hiện ra. Tôi sẽ cố gắng truyền đạt ư nghĩa và lối diễn dịch mới đó. Qui luật I không lệ thuộc vào lối diễn giải mới này, bởi v́ các hàm ư của nó hiển nhiên là rất hiện đại. Thực ra, qui luật I này không có trong văn kiện cổ xưa lúc ban đầu, mà từ đó các qui luật quan trọng này được rút ra, mà tương đối rất hiện đại, được tŕnh bày vào đầu kỷ nguyên T.C. Đó là một qui luật rơ ràng và súc tích, hàm chứa những ǵ sẽ là bản chất của tư duy của nhà trị liệu.

577

 
1. Y phải hiểu loại tư tưởng nào đang chi phối bệnh nhân.

2. Y phải có khả năng hiểu thấu nguồn gốc của trở ngại – hoặc là hiểu được bối cảnh tâm lư của nó. Do đó, y phải dùng quyền năng của tư tưởng.

3. Y phải có khả năng liên kết nhân và quả. Tác nhân liên kết bao giờ cũng là trí.

Vào thời Lemuria và Atlantis thuở xưa, thể trí gần như là hoàn toàn bất động và chưa thực sự hoạt động chút nào. Chỉ trong giống dân hiện nay, bản chất trí tuệ của con người mới đang trở nên có ưu thế, do đó cách diễn giải mới mẻ và hiện đại về các qui luật này (dựa trên nguyên khí trí tuệ) hiện đang có giá trị và chúng ta sẽ tiếp tục bàn đến điều này.

QUI LUẬT HAI

Nhà trị liệu phải đạt được sự thanh khiết về từ điện qua sự thanh khiết của đời sống. Y phải có loại bức xạ xua bệnh. Bức xạ này tự biểu lộ trong kẻ nào biết liên kết các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này được thiết lập, bức xạ liền phát ra.

Người Đông phương đă từng nhấn mạnh về sự thanh khiết từ điện, nhưng họ hoàn toàn không biết ǵ đến sự thanh khiết của xác thân theo cái hiểu của người Tây phương. Người Tây phương đă chú trọng đến sự trong sạch bên ngoài của thể xác, nhưng họ không biết về sự thanh khiết từ điện. Sự thanh khiết này phần lớn được căn cứ (một cách hơi sai lầm, dầu không hoàn toàn sai lầm) vào hiệu quả của sự phát tán hào quang và vào sự thanh khiết hoặc không thanh khiết của nó. Trong qui luật này nhà trị liệu được khuyên:

1.Đạt sự thanh khiết từ điện qua sự thanh khiết của đời sống.

2.Đạt được loại bức xạ xua bệnh, nhờ liên kết các bí huyệt trong đầu.

3.

578

 
Lập một trường phát xạ qua việc dùng từ trường này. Kết quả: có được bức xạ (radiation).

Phần lư thú của qui luật này là liên kết hai h́nh thức có thể có của cách trị liệu tinh thần – tức là sự phát xạ và truyền từ điện – vào một hoạt động duy nhất. Nhà trị liệu chân chính tự động phối hợp cả hai cách trị liệu này và sử dụng chúng một cách đồng thời và tự động, bởi v́ y làm việc qua từ trường, được chứa trong phạm vi ảnh hưởng của ba bí huyệt đầu, hoặc trong tam giác được tạo thành bằng cách liên kết chúng như thế.

Vào thời Lemuria, nhà trị liệu đạt mục tiêu bằng cách dùng những giới luật nghiêm nhặt ở thể xác, nhờ thế mà đạt được sự trong sạch cần thiết. Như bạn biết, vào thuở đó, mục tiêu nỗ lực của Thánh Đoàn là dạy cho con người cổ sơ các công dụng và mục đích của thể xác và cách kiểm soát nó một cách thông minh. Thuở ấy, kẻ nào kiềm chế được thân xác và kiểm soát được nó như người thợ máy điều khiển cỗ máy, th́ được xem là một điểm đạo đồ. Ngày nay việc chế ngự phàm ngă mới làm con người thành điểm đạo đồ. Sống độc thân, thận trọng trong cách ăn uống và cách giữ xác thân tinh khiết, cùng với các cơ bản của Hatha Yoga (kiểm soát thân xác bằng phương pháp thể dục c̣n phôi thai – đầu tiên là kiểm soát bắp thịt). Cái gọi là sự thanh khiết đă hoạch đắc này, cho phép ḍng chảy thông suốt của các luồng prana từ nhà trị liệu đến bệnh nhân, xuyên qua bí huyệt xương cùng và bí huyệt cổ họng – nhà trị liệu về tâm linh hoạt động qua bí huyệt cổ họng; c̣n điểm tiếp nhận nơi bệnh nhân là bí huyệt xương cùng. Cả bí huyệt tim, lẫn bí huyệt đầu đều không được dùng. Xác định nó cho các mục tiêu của bạn, th́ Prana là sinh lực của hành tinh, là sự phát xạ sinh khí của địa cầu. Chính prana này được phân phối hay là truyền chuyển bởi một nhà trị liệu tự nhiên (tức là một người không được huấn luyện ǵ, không có được bao nhiêu kiến thức chính yếu, hoặc chỉ có rất ít, nếu không nói là không có định hướng tinh thần). Y trị liệu, nhưng không biết được cách hoạt động và lư do; Prana chỉ lưu chuyển qua y dưới dạng một ḍng sinh lực mạnh mẽ của động vật, thường là đi từ bí huyệt lá lách, chớ không từ bí huyệt nào trong bảy cái kia.

579

 
Ngày nay, các giới luật thể chất triệt để này thường được những người t́m đạo đầy thiện chí cố gắng thực hành. Họ sống độc thân, trai giới nghiêm nhặt, tập thư giăn và nhiều lối tập thể dục khác, với hy vọng kiểm soát được thân xác. Các h́nh thức giới luật này rất tốt cho người thấp kém và chưa phát triển, nhưng chúng không phải là những phương pháp nên dùng cho người có tŕnh độ trung b́nh hay người t́m đạo thực tiễn. Tập chú vào thân xác, chỉ giúp nâng cao sức mạnh của nó, nuôi dưỡng các thèm khát của nó và phơi bày ra với tâm thức những điều nên che đậy một cách an toàn ở dưới ngưỡng cửa của tâm thức. Người t́m đạo chân chính nên quan tâm đến sự kiểm soát t́nh cảm, chớ không phải là thân xác và cố gắng an trụ vào cơi trí, trước khi đạt được sự giao tiếp ổn định với linh hồn.

580

 
Vào thời Atlantis, việc chuyển sự chú tâm từ nhục thân sang thể t́nh cảm, đă bắt đầu được làm một cách chậm chạp. Vị điểm đạo đồ của thời ấy đă bắt đầu dạy môn đệ của ḿnh rằng thể xác thực ra chỉ là một người máy. Chính thể dục vọng và bản chất cùng tính chất của các dục vọng quen thuộc của chúng mới cần được xem xét nếu muốn đạt đến sự tinh khiết. Thế nên, chính trong giống dân này và lần đầu tiên từ lực cá nhân đă bắt đầu từ từ tự hiển lộ. Người Lemurian nguyên thủy và cổ sơ tuyệt nhiên không có từ lực theo cách chúng ta hiểu chữ đó, nhưng, vào thời Atlantis, một mức độ bức xạ từ lực nào đó đă tự lộ ra, dầu chưa đến mức mà ngày nay có thể có và thường có. Ṿng hào quang mờ nhạt đầu tiên có thể thấy được chung quanh đầu của những người Ắt lăng tiến hóa. Sự thanh khiết từ điện trở nên một mục tiêu có thể đạt được, nhưng nó tùy thuộc vào mức kiểm soát t́nh cảm và việc thanh lọc bản chất dục vọng. Việc làm này tự động tạo nên một mức độ thanh khiết trong nhục thân nhiều hơn những ǵ mà điểm đạo đồ thời Lemuria từng đạt được. Các bệnh của thể xác trở nên tinh vi hơn, phức tạp hơn, c̣n các bệnh tâm lư đầu tiên đă xuất hiện, và nhiều bệnh khác nhau rơ rệt là dựa vào xúc cảm. Ở phần đầu của bộ luận này, chúng ta đă bàn đến loại khó khăn này. Nhà trị liệu thời ấy đă làm việc qua bí huyệt đan điền và (nếu là điểm đạo đồ th́) qua bí huyệt tim. Vẫn chưa có từ trường hay khu vực năng lượng bên trong đầu.

Ngày nay, trong giống dân Aryan, sự thanh khiết từ điện không c̣n tùy thuộc vào các giới luật nơi xác thân. Với đại khối quần chúng, nó vẫn c̣n tùy thuộc các giới luật ở thể cảm dục. Tuy nhiên, ở trường hợp của nhà trị liệu thực sự trong Kỷ Nguyên Mới, th́ sự thanh khiết ấy tùy thuộc "khu vực từ lực được soi sáng bên trong đầu". Từ trường này cung ứng một trường hoạt động cho linh hồn, đang hoạt động qua các bí huyệt đầu và tự tập trung trong từ trường mà chúng bao bọc. Khi mọi năng lực của xác thân và sự chú tâm có điều khiển của nhà trị liệu đều được tập trung trong đầu, khi thể cảm dục yên lặng và thể trí trở nên linh hoạt như là nơi truyền năng lượng của linh hồn đến ba bí huyệt đầu, bấy giờ, bạn có được hiện tượng phóng quang, hay là sự phóng phát năng lượng, vốn là một lực mạnh mẽ để trị liệu. Phát quang này vốn mạnh mẽ, không mạnh lắm theo khía cạnh ánh sáng quen thuộc mà theo mức độ các tia phóng phát năng lượng linh hoạt của nó, chúng có thể đến với bệnh nhân và truyền năng lượng cho bí huyệt cần có.

Mọi bí huyệt trong cơ thể bệnh nhân đều có thể tiếp nhận năng lượng này chứ không riêng một bí huyệt nào, như trong hai loại trị liệu trước đây.

581

 
Khi nghiệp quả hay mô h́nh sự sống (life-pattern) của bệnh nhân cho phép, th́ các tia năng lượng này (phát ra từ trường trong đầu nhà trị liệu) sẽ trở thành cái gọi là "bức xạ xua bệnh". Chúng có thể xua tan các lực vốn tạo ra hoặc làm nặng thêm cơn bệnh. Khi bức xạ xua bệnh này không thể chữa lành được thân xác (do số mệnh của bệnh nhân), th́ nó có thể chuyển sang giải tán những phiền phức tinh vi hơn, như là sự sợ hăi, dưới nhiều h́nh thức, sự thiếu cân bằng ở thể t́nh cảm và một số phiền phức tâm lư, chúng làm tăng thêm khó khăn mà bệnh nhân đang đối phó.

Nhà trị liệu cần nên nhớ kỹ rằng, khi ba bí huyệt trong đầu được liên kết và nhờ đó từ trường được thiết lập và phát ra bức xạ, th́ bấy giờ, nhà trị liệu có thể dùng bí huyệt ấn đường làm tác nhân điều khiển đối với "bức xạ xua bệnh" này. Thật là lư thú khi ghi nhận hai bí huyệt chính trong đầu (tương ứng với Atma - Buddhi hay linh hồn) là bí huyệt đầu và bí huyệt hành tủy. Hai bí huyệt này tương ứng về mặt huyền bí với hai tác nhân phân phối: mắt phải và mắt trái, cũng như sự tương ứng của hai tuyến bên trong đầu: tuyến tùng quả và tuyến yên với đôi mắt vậy. Thế nên, trong đầu có ba tam giác, trong đó hai tam giác là chỗ phân phối năng lượng và tam giác thứ ba phân phối mănh lực.

 

 

 

 

 

 

 

 


582

 
Rốt cuộc, nhà trị liệu lăo luyện sẽ làm việc với các tam giác này và sử dụng chúng một cách hữu thức. C̣n rất lâu về sau này điều đó mới có thể thực hiện. Hiện tại th́ nhà trị liệu phải làm việc bằng cách h́nh dung và dùng năng lực tưởng tượng sáng tạo. Qua việc h́nh dung, y tưởng tượng ra liên quan của các tam giác đan vào nhau này. Y chồng cái này lên cái kia, bắt đầu với tam giác thứ nhất tức là y đang làm công việc rơ rệt là đặt vị trí một cách sáng tạo, kế đó, đưa sinh lực một cách sáng tạo và cuối cùng là điều khiển một cách sáng tạo. Trong ba từ ngữ: đặt vị trí, đưa sinh lực, điều khiển, bạn có các kết quả đưa ra về việc tuân thủ qui luật này giúp cho nhà trị liệu đạt được thành công. Sự chú tâm được đặt đúng chỗ, từ trường được đem lại sinh lực bằng tinh thần; bấy giờ, bức xạ sống động được sinh ra, được phân phối và hướng đến đúng chỗ nhờ trung gian của tam giác thứ ba. Tiến tŕnh này nghe ra có hơi rắc rối, nhưng sau một ít luyện tập, việc trị liệu bằng cách đặt vị trí đưa vào sinh lực và điều khiển, sẽ trở nên một sự thành tựu hầu như tự động và tức th́.

Giờ đây, chúng ta xem xét đến một định luật dài và có hơi phức tạp. Nó bao gồm rất nhiều lănh vực, đến nỗi khi đọc nó lần đầu, chúng ta thường dễ lầm lẫn.

ĐỊNH LUẬT  V

Không có ǵ khác ngoài năng lượng, v́ Thượng Đế là Sự Sống. Hai loại năng lượng đáp ứng trong con người, c̣n năm năng lượng khác đang hiện hữu. Đối với mỗi loại năng lượng có một tâm điểm tiếp xúc. Sự xung khắc của các năng lượng này với các mănh lực và sự xung khắc giữa chính các mănh lực tạo nên các bệnh ở thể xác con người. Xung khắc giữa năng lượng thứ nhất và năng lượng thứ hai kéo dài qua nhiều thời đại cho đến khi đạt tới tột đỉnh – tức là đỉnh núi lớn thứ nhất. Trận chiến giữa các lực tạo nên mọi bệnh tật và đau đớn trong xác thân, nó t́m cách giải tỏa bằng cái chết. Hai, năm, như vậy là bảy, cộng với những ǵ chúng tạo nên, nắm giữ cái bí ẩn. Đây là định luật chữa trị thứ năm trong thế giới sắc tướng.

583

 
Từ trước đến nay, nội dung/ chủ đề của định luật này không thể được đưa ra, chỉ v́, ngày nay, giáo huấn liên quan với Sự Sống (và sự sống dưới h́nh thức năng lượng) mới có thể được giảng dạy. Cũng như giáo huấn về 2 và 5 năng lượng gặp nhau trong con người, chỉ mới được tôi đưa ra lần đầu một cách chi tiết, dầu rằng trong Giáo Lư Bí Nhiệm có nhắc đến chúng. Đôi khi tôi tự nhủ ước chi trong các bạn có ai nhận thức được cái quan trọng mở ra kỷ nguyên của giáo huấn mà tôi đă đưa ra về bảy cung dưới h́nh thức các năng lượng biểu lộ. Trong các cuộc bàn thảo và suy tư của những người tiến hóa, bao giờ cũng có các suy đoán về bản thể của Tam Vị Nhất Thể thiêng liêng – và – điều đó đă có từ thuở Thánh Đoàn bắt đầu nhiệm vụ đời đời là ảnh hưởng và kích thích tâm trí nhân loại – nhưng, giáo huấn về bảy Tinh Quân trước Thiên Ṭa của Tam Vị Nhất Thể (Trinity) vẫn chưa phổ cập và chỉ có một vài tác giả, xưa hoặc nay, đề cập đến bản thể của các Đấng này. Giờ đây, với tất cả những ǵ tôi đă trao cho các bạn liên quan đến Bảy Cung và bảy Đấng Chủ Quản Cung, nhiều điều có thể được t́m ra. Bảy Đấng Cao Cả này có thể được thấy và hiểu như là các tinh hoa làm linh hoạt và các năng lượng linh hoạt trong tất cả những ǵ biểu lộ và hữu h́nh ở cơi trần, cũng như trên tất cả các cơi biểu lộ thiêng liêng. Khi nói điều này, tôi bao gồm không những cơi hồng trần vũ trụ (gồm bảy cơi của thái dương hệ chúng ta) mà cũng gồm luôn cả cơi cảm dục vũ trụ và cơi trí vũ trụ nữa.

584

 
Trong qui luật này, nhà trị liệu được mong sẽ chấp nhận một số ư tưởng căn bản, chúng sẽ giúp y mở rộng hiểu biết của y. Một số công lư phổ quát và tổng quát được đặt ra, chúng sẽ tạo nên một nền tảng vững vàng cho mọi việc sau này. Điểm chính cần nhớ là qui luật này hoàn toàn liên quan với cơi trần (gồm chất trọng trược và chất dĩ thái) và với các hậu quả mà sự xung khắc giữa các năng lượng và các lực tạo ra trong xác thân. Các lực là các năng lượng vốn bị hạn chế và bị cầm giữ bên trong một h́nh hài thuộc bất cứ loại nào – một cơ thể, một cơi, một cơ quan, một bí huyệt. Các năng lượng này là những ḍng năng lượng có điều khiển, vốn gây ra va chạm vào các lực đang bị cầm giữ này (xin tạm gọi như thế) từ trong một h́nh hài vĩ đại hơn hay bao quát hơn, từ một cơi tinh anh hơn, nhờ thế mà tiếp xúc với lực rung động thô hơn. Năng lượng th́ tinh anh hơn và mạnh mẽ hơn lực mà nó tác động vào hay giao tiếp. Lực th́ không mạnh mẽ bằng, nhưng lại được bám chặt. Trong hai chữ cuối này bạn có bí quyết cho vấn đề về liên quan của các năng lượng. Theo khía cạnh điểm giao tiếp bám chặt th́ năng lượng tự do ở chừng mực nào đó kém hiệu quả (trong một khu vực giới hạn) hơn là năng lượng đă được trụ vào đó. Về thực chất nó mạnh mẽ hơn, nhưng không hữu hiệu. Hăy suy gẫm điều này và tôi xin minh giải quan điểm của tôi. Trong cuộc sống của người t́m đạo, năng lượng của bí huyệt đan điền (do đă dùng lâu, đă được tập trung và thói quen) có hiệu quả mạnh mẽ trên đời sống người t́m đạo hơn là năng lượng của bí huyệt tim, năng lượng này chỉ chậm chạp, rất chậm đi vào hoạt động có hiệu quả. Nói rơ hơn: các năng lượng của phàm ngă vốn dĩ mạnh hơn nhiều trong việc chi phối cuộc sống của kẻ thường nhân hơn là năng lượng của linh hồn. Qua vô số thời đại, linh hồn đă cố gắng nắm bắt hữu hiệu điểm biểu lộ của nó, tức phàm ngă, nhưng đă thất bại cho đến giai đoạn rất muộn của chu kỳ nhập thế. Tuy thế, xét cho cùng th́ năng lượng của bí huyệt tim và năng lượng của linh hồn vô cùng mạnh hơn năng lượng của bí huyệt đan điền hoặc của phàm ngă. Tuy nhiên, qua vô số thời đại, năng lượng của bí huyệt tim và năng lượng của linh hồn đă thiếu những vận cụ ứng đáp được trong ba cơi thấp.

585

 
Mặt khác, điều này giản dị hóa vấn đề của nhà trị liệu, bởi v́, điều trước nhất y phải xác định là xem coi năng lượng linh hồn hay năng lượng phàm ngă đang chế ngự bệnh nhân. Đó là một vấn đề rất dễ khám phá. Khuynh hướng sống của bệnh nhân, cách sống hoặc cách phụng sự của người ấy, cá tính mà y để lộ, tất cả đều biểu thị cho các lực đang chi phối sự sống biểu lộ của y. Nếu bệnh nhân là người t́m đạo thực sự và đang lưu ư để bước lên Con Đường Đệ Tử, th́ y sẽ giúp vào việc phát hiện ra bằng sự thừa nhận thành thật. Tuy nhiên, nếu các lực phàm ngă của người bệnh không đáp ứng được với ảnh hưởng của linh hồn nhà trị liệu, th́ phàm ngă sẽ vẫn không ư thức được cơ may này và hoàn toàn không biết được sự tác động đó. V́ thế, nhà trị liệu có thể dễ dàng xác nhận các t́nh huống này.

Đây là một định luật lâu dài và chứa những phát biểu rất quan trọng. Muốn được bổ ích chúng ta cần nghiên cứu chúng thật cẩn thận để biết được ẩn ư và thực nghĩa của chúng. Hiểu biết này phải theo quan điểm của tâm thức vị điểm đạo đồ chớ không theo góc nh́n của hạng thường nhân hoặc người thiếu sáng suốt. Thế nên, chúng ta sẽ chọn riêng ra từng câu, và t́m hiểu ư nghĩa của nó. Trong định luật này có bảy xác quyết, nhiều ẩn ư của chúng quen thuộc với bạn ở ngoài đời. Tuy nhiên, có thể được giảng lại liên quan với thuật chữa trị.

1. Không có ǵ ngoài năng lượng, v́ Thượng Đế là Sự Sống.

Đây là một điều khái quát rộng lớn, có thể chuyển tải nhiều ư tưởng, đối với vị đạo đồ, nhưng đối với người suy tưởng bậc trung, chắc chắn nó không truyền đạt bao nhiêu ư nghĩa. Đối với người ấy, sự sống về thực chất và đơn giản chỉ hàm ư những ǵ làm cho h́nh hài biểu lộ, duy tŕ h́nh hài đó tồn tại và luôn luôn biểu dương sự hiện hữu của h́nh hài ấy bằng hoạt động thuộc loại này hoặc loại khác – một hoạt động vốn chứng tỏ sức sống (livingness) của nó. Tuy nhiên, chúng ta áp dụng từ ngữ sinh động (living) một cách sai lầm để chỉ khả năng của h́nh hài khi biểu lộ và thể hiện phẩm tính và bản chất của nó. Tuy nhiên, sức sống và phẩm tính lại tồn tại tách biệt vói h́nh hài và thường thể hiện chính yếu và hữu ích qua việc áp dụng Luật Tử Vong.

Sự thật về thiên tính và về cội nguồn thiêng liêng được chứng minh bằng sự thật của sự sống. Điều này thường bị bỏ sót và tầm quan trọng được đặt vào khái niệm rằng sự sống tạo ra (evokes) và bảo dưỡng một h́nh hài vốn giữ chặt tinh hoa sự sống (life-essence) và chứng minh sự thực về sự hiện hữu của nó.

586

 
Chính sự sống của Nguồn Cội Duy Nhất của mọi h́nh hài biểu lộ, tạo nên các liên quan và các phẩm tính cốt yếu, và dầu cho điều này đă không ngớt được xác nhận, Sự Sống đó vẫn c̣n là một khuôn sáo vô nghĩa. Tuy nhiên, khi con người bắt đầu nhận thức Thượng Đế dưới h́nh thức năng lượng, và chính họ là những trạng thái của năng lượng đó; khi họ bắt đầu làm việc một cách hữu thức với các năng lượng và nhận ra được sự phân biệt trong không gian và thời gian giữa các năng lượng và các lực; và sau đó, khi linh hồn bắt đầu hoạt động mạnh mẽ hơn, th́ sự thực về đời sống sẽ được nhận thức theo một lối mới và hầu như phi thường. Nên nhớ rằng linh hồn là năng lượng thứ cấp, nó chứng minh sự hiện hữu của năng lượng nguyên thủy và chịu trách nhiệm cho sự xuất hiện của dạng năng lượng thứ ba – hữu h́nh và biểu lộ ra ngoài. Cuối cùng, v́ h́nh hài mà linh hồn có thể thỉnh nguyện đến sự sống. Ở đây, có một manh mối cho chủ đề tổng quát của chúng ta.

Cho đến nay cơ cấu để đạt đến trạng thái sự sống – tức giác tuyến và tác nhân, tức ư chí tinh thần vẫn chưa được t́m hiểu theo bất cứ ư nghĩa hữu ích nào. Ngày nay, các ám chỉ đầu tiên mơ hồ về công dụng của giác tuyến và mục đích của nó liên quan với phàm ngă và Tam Thượng Thể Tinh Thần, đang được một ít đạo sinh trên thế giới nghiên cứu. Số người này sẽ ngày một đông thêm khi cả hai phàm ngă lẫn linh hồn lập được sự giao tiếp, ḥa nhập, và nhiều người được điểm đạo hơn. Do đó, mục đích đối với chính sự hiện hữu của giới thứ tư trong thiên nhiên (với vai tṛ tác nhân truyền chuyển cho các năng lượng tinh thần cao siêu cho ba giới thấp) sẽ bắt đầu hiện rơ, và trong việc h́nh thành nhóm, con người sẽ bắt đầu một cách tự giác công việc “cứu độ” – khỏi phải nói, theo nghĩa huyền bí– các sinh linh tập hợp thành nhóm này. Lần đầu tiên Đại THiên Địa với chủ đích và các động cơ thúc đẩy của nó sẽ bắt đầu tự phản chiếu trong giới nhân loại theo một lối mới và mạnh mẽ hơn. Đến lượt nhân loại này sẽ trở nên đại thiên địa chứa ba trạng thái thấp của chúng sinh có ư thức – tức là giới thú cầm, thảo mộc và giới khoáng vật.

587

 
Trọn cả vấn đề này là một bí nhiệm sâu sắc, nó vẫn như thế chỉ v́ giới thứ tư c̣n kém phát triển. Từ chủ đích ban đầu đă có một sự lệch hướng. Tuy nhiên, chức năng và lĩnh vực phụng sự của nhân loại chỉ có thể được nhận thức và thể hiện khi trạng thái cao nhất là trạng thái ư chí đă được đưa vào biểu lộ hữu thức trong nhân loại, qua việc kiến tạo và sử dụng giác tuyến. Trạng thái sự sống có thể lưu chuyển dọc theo cầu vồng nối liền, và chính điều này được Đức Christ nhắc đến, khi Ngài nói rằng Ngài đă đến, để cho trên thế gian có được “sự sống phong phú hơn”. Luôn luôn có sự sống, nhưng khi tâm thức Christ tỏa chiếu (như trường hợp hiện nay, dầu ở trên qui mô nhỏ) và khi số người biểu lộ được tâm thức này đă thực sự tăng lên, kết luận là giác tuyến được thiết lập vững vàng. Bấy giờ cầu vồng nối liền có thể được vượt qua, c̣n sự sống phong phú với một ư nghĩa mới mẻ và thúc đẩy, với ư thức thôi thúc mới cũng có thể tuôn đổ qua nhân loại đi vào các giới dưới nhân loại trong thiên nhiên. Đây là bằng chứng của bản chất thiêng liêng và là chứng tích nổi bật về nguồn cội thiêng liêng của con người và là hy vọng, hy vọng cứu rỗi, của thế gian.

Năng lượng và các mănh lực tạo ra tổng thể của chúng sinh vẫn hiện hữu. Đây là một chân lư căn bản hay một khuôn sáo khác mà dựa vào đó khoa huyền linh học được xây dựng, và thuật trị liệu phải nhận ra. Dù sao chăng nữa, không có điều ǵ khác trong biểu lộ thuộc loại nào. Bệnh tật chính là một h́nh thức của năng lượng sinh động, lộ ra thành các lực gây hủy diệt hoặc tạo ra chết chóc. Thế nên, nếu tiền đề căn bản của chúng ta là đúng, th́ bệnh tật cũng là một h́nh thức của biểu lộ thiêng liêng, v́, cái mà chúng ta hiểu là ác th́ cũng là mặt trái của cái mà chúng ta gọi là thiện. Chúng ta sẽ làm giảm giá trị vấn đề hoặc gây nên một ấn tượng sai lầm hay chăng nếu chúng ta xem cái ác (ít ra cũng về phương diện bệnh tật) là cái thiện bị đặt không đúng chỗ hay là bị điều chỉnh sai lầm? Các bạn có hiểu lầm hay chăng nếu tôi bảo rằng bệnh tật là năng lượng không tác động theo mong muốn hoặc không đúng theo kế hoạch? Các năng lượng đi vào được liên kết với các mănh lực và kết quả là tạo ra sức khỏe tốt, h́nh hài khỏe mạnh thích hợp và hoạt động linh hoạt. Tuy nhiên, cũng các năng lượng đi vào đó có thể được đưa vào liên kết với cùng các lực như trên, mà lại tạo nên một điểm bất đồng, gây ra một vùng bị bệnh, đau nhức và có thể đưa đến cái chết. Thực ra các năng lượng và lực này vẫn có cùng bản chất thiêng liêng như trước, nhưng mối liên hệ được thiết lập đă tạo ra vấn đề. Nếu câu này được nghiên cứu kỹ th́ rơ ràng là một định nghĩa như là định nghĩa nói trên có thể được dùng để bao gồm mọi h́nh thức khó khăn, để rồi sau rốt trở thành kẻ tạo ra t́nh trạng (hoặc tốt hoặc xấu) là trạng thái liên hệ. Phát biểu này vô cùng quan trọng trong mọi tư duy của bạn.

588

 
2. Hai ḍng năng lượng gặp nhau trong con người, nhưng hiện đang có năm ḍng khác. V́ mỗi ḍng năng lượng được nhận ra là một tâm điểm tiếp xúc.

Hai năng lượng gặp nhau trong con người là hai trạng thái của Chân Thần, của Đấng Duy Nhất đang biểu lộ. Thực ra Chân Thần biểu hiện dưới h́nh thức một lưỡng nguyên (duality). Nó tự biểu lộ dưới h́nh thức ư chí và bác ái như là atma-buddhi và hai năng lượng này khi được đưa vào liên hệ với điểm trí tuệ, tức là với trạng thái thứ ba của thiên tính, tạo nên linh hồn và kế đó là thế giới biểu lộ hữu h́nh. Bấy giờ, trên hành tinh có sự phát lộ ư chí, bác ái và trí tuệ hay thông tuệ, tức Atma-Buddhi- Manas.

589

 
Khi chính linh hồn bám chặt dưới h́nh thức tâm thức và sự sống trong con người, th́ con người đó góp thêm vào cái thứ ba vốn đang tiềm tàng hay hiện ra theo nghiệp quả trong mọi vật chất, tức là Manas hay trí tuệ. Trí tuệ này được kế thừa hay được giữ tan ḥa trong vật chất từ thái dương hệ trước. Trong thái dương hệ đó; trí tuệ đă được khai mở và đă được duy tŕ trong vật chất để tạo căn bản cho cuộc phát triển tiến hóa này, tức là thái dương hệ thứ nh́. Đừng quên rằng bảy cơi của thái dương hệ chúng ta hợp thành bảy cơi phụ của cơi hồng trần vũ trụ. Thế nên, tinh thần là vật chất ở mức biểu lộ cao nhất, c̣n vật chất là tinh thần ở mức biểu lộ thấp nhất. Sự sống tự phân hóa thành ư chí và bác ái, thành những năng lượng thúc đẩy lớn lao ẩn trong toàn bộ diễn tŕnh tiến hóa và thúc đẩy diễn tŕnh tiến hóa đến chỗ tất phải hoàn thành.

Với vai tṛ là những năng lượng, Atma-Buddhi tự bám chặt vào hiện thể của linh hồn, nơi hoa sen Chân Ngă. Hoạt động phối hợp của chúng khơi dậy sự đáp ứng từ chất liệu của cơi trí, lúc đó chất liệu này mới góp phần của riêng nó. Phản ứng của nó tạo ra cái mà chúng ta gọi là thượng trí, vốn có bản chất tinh anh mảnh mai của một phân thân đến nỗi nó phải bắt buộc liên kết chính nó với hai trạng thái cao hơn và trở nên một phần của Tam Thượng Thể Tinh Thần. Các xoáy lực được tạo nên dưới tác động của ư chí thiêng liêng, biểu hiện mục đích thiêng liêng và hợp nhất với Bản Thể (với vai tṛ là thực thể, chớ không phải là một tính chất) tạo ra hoa sen chơn ngă tức là vận cụ của “linh hồn đă huyền đồng”, được đưa vào biểu hiện bằng kết quả thứ ba của sự tác động của atma-buddhi vào ba cơi thấp. Trí cụ thể và trí tuệ của con người bắt đầu biểu lộ. Thế nên, có một sự giống nhau lạ lùng giữa ba trạng thái thiêng liêng đang biểu lộ với con người tinh thần ở cơi trí. Sự tương ứng như sau:

Chân thần  Trí trừu tượng

Linh hồn ..  Hoa sen chơn ngă

Phàm ngă .  Hạ trí hay trí cụ thể.

590

 
Cái trừu tượng mơ hồ tức Chân Thần, qua vô số thời kỳ dường như không chút ǵ liên hệ với linh hồn và phàm ngă. Cả hai đă và đang bận với việc thiết lập một sự ḥa hợp mật thiết hay là sự nhất quán, đúng lúc, và theo sức thôi thúc tiến hóa. Qua nhiều thời đại, trí trừu tượng vẫn c̣n là một cái ǵ không thể hiểu và ở ngoài những cách biểu lộ và suy tư của người thiên về trí cảm (tức là xúc cảm và hạ trí), và cuối cùng là linh hồn và trí cụ thể (hay là chủ thể làm sáng tỏ và tác nhân truyền giác ngộ). Nếu được cứu xét thích đáng, th́ các tương đồng này sẽ giúp đem lại nhiều giác ngộ.

Do đó, trong con người có hai năng lượng chính giữ chặt. Một cái không nhận thức được mà chúng ta gọi là Bản Lai Diện Mục (Presence), c̣n cái kia nhận thức được mà chúng ta gọi là Thiên Thần Bản Lai Diện Mục. Cả hai là linh hồn (thái dương thiên thần) và Chân Thần. Một cái thể nhập trong cung Chân Thần, c̣n cái kia trong cung linh hồn. Cả hai năng lượng này đều chi phối phàm nhân một cách sống động hay tế vi.

Năm năng lượng khác hiện có là cung của trí tuệ hay là lực chi phối của thể trí; cung của bản chất t́nh cảm và cung của thể xác cộng với cung thứ tư là cung của phàm ngă. Theo một bản văn xưa, th́ cung của thể xác “đang tiến lên hướng về sự kết hợp một cách huyền linh, trong khi đó, các cung kia đều đi xuống”. Cung phàm ngă là một hậu quả hay kết quả của chu kỳ rộng lớn của các lần luân hồi. Do đó chúng ta có:

1.Cung Chân thần

2.Cung linh hồn

3.Cung của thể trí (mind)

4.Cung của t́nh cảm (emotions)

5.Cung của xác thân

6.Cung của phàm nhân

7.Cung của hành tinh.

Cung của hành tinh luôn luôn là Cung Ba, Cung Thông Tuệ linh hoạt bởi v́ cung này chi phối địa cầu chúng ta, và có tiềm năng lớn, giúp con người có thể “xúc tiến công việc của ḿnh trong thế giới sinh hoạt vật chất của hành tinh”.

591

 
Ở nơi khác, chỉ do t́nh cờ tôi đă đề cập đến các cung này và không nói nhiều đến cung hành tinh. Tôi đă chú trọng đến việc phân tích các cung đang chi phối, theo một lối khác. Trong lối phân tích này chỉ có 5 cung là thật có ích cho con người. Đó là:

1. Cung linh hồn

2. Cung phàm ngă

3. Cung của trí tuệ

4. Cung của t́nh cảm

5. Cung của thể xác

Tuy nhiên, với việc tạo ra và phát triển giác tuyến, th́ cung Chân thần cũng phải theo đúng, và kế đó, cái vốn là đối cực của nó, tức “sức sống” của hành tinh, cung ba, sẽ phải được nhận ra. Ở đây, tôi đă truyền đạt cho bạn một điểm rất quan trọng. Tất cả những năng lượng này đều đóng vai tṛ linh hoạt trong chu kỳ sống của mỗi người, và nhà trị liệu không thể hoàn toàn không biết đến, dầu rằng hiện nay kiến thức đó có thể tương đối vô ích.

3. Sự xung khắc của các năng lượng này với các lực và giữa chính các lực với nhau, tạo ra các bệnh về xác thân của con người.

Ở đây bạn sẽ lưu ư rằng, theo định luật này th́ các bệnh tật được tạo ra bằng hai lối:

1) Do sự xung khắc của các năng lượng với các lực.

2) Do sự xung khắc của các mănh lực giữa chính chúng với nhau.

592

 
Hiển nhiên là cuộc đụng độ kép này chỉ xảy ra ở bề ngoài. Ở loại thứ nhất, sự xung đột xảy ra trong cuộc sống phàm nhân khi linh hồn dứt khoát chuyển sự chú ư của nó vào các hiện thể của nó và cố gắng kiểm soát chúng. Người nào càng quyết đặt phàm ngă của ḿnh vào sự kiềm chế của linh hồn, th́ sự xung đột càng mạnh mẽ, hậu quả là t́nh trạng xác thân càng phức tạp. Loại này gồm đa số các bệnh của các đệ tử và các nhà thần bí, phần lớn có bản chất thần kinh và thường có ảnh hưởng đến tim hoặc ḍng máu. Trong đa số trường hợp, chúng chỉ giới hạn vào vùng trên cách mô và do đó vào các vùng chịu sự chi phối của các bí huyệt đầu, cổ họng và tim. Một số những trường hợp có thể gọi là “trung gian” cũng được kể vào các bệnh. Tuy nhiên, những bệnh này được xác định do sự chuyển di năng lượng (dưới sự tác động của linh hồn) từ huyệt đan điền lên bí huyệt tim và “con đường” liên hệ chỉ là cách mô.

Loại thứ nhất này cũng gồm những phiền toái xảy ra khi năng lượng của thể t́nh cảm tác động vào các lực của thể dĩ thái, gây nên một sự xáo trộn t́nh cảm, v́ thế mà tạo ra sự khó khăn nghiêm trọng ở huyệt đan điền, đưa tới các xáo trộn ở dạ dày, ruột và gan. Các xáo trộn này đều là kết quả của sự xung khắc giữa năng lượng và các lực. Ở điểm này, tất cả những ǵ tôi có thể làm là chỉ ra loại khó khăn nào liên hệ đến loại xung khắc nào. Chủ đề này thật là không thích hợp để bàn đến một cách vắn tắt như tôi định làm ở đây.

593

 
Loại thứ nh́ liên quan đến sự xung khắc giữa lực với lực; nó liên can đến thể dĩ thái và các lực liên hệ là lực ở trong các bí huyệt lớn và nhỏ; liên quan tới sự liên hệ của chúng với nhau và phản ứng bên trong của chúng đối với sự tác động của các năng lượng đến từ bên ngoài thể dĩ thái. Các lực này và sự tương tác của chúng tạo nên các bệnh tật thông thường của con người, và chi phối các xáo trộn trong các cơ quan vật chất và các vùng của thể xác ở chung quanh các bí huyệt này. Thực ra chúng là các yếu tố chi phối chính đối với đại khối nhân loại trong vô lượng thời, măi cho đến khi linh hồn “lưu tâm” đến sự chiếm hữu để kiểm soát hoàn toàn các cơ cấu của nó trong ba cơi thấp. Những khó khăn thứ yếu này do sự tương tác giữa các bí huyệt, gồm ba loại, chúng ta nên lưu ư cẩn thận:

1. Sự tương tác giữa:

  a. Các bí huyệt ở trên cách mô, là bí huyệt đầu, cổ họng và tim, và thi thoảng là bí huyệt ấn đường.

  b. Các bí huyệt ở dưới cách mô và sự liên hệ của chúng với nhau.

2. Sự liên hệ của một số bí huyệt với nhau, xảy ra theo Định Luật Chuyển Hóa (Law of Transmutation), hay là tiến tŕnh nâng các mănh lực từ bí huyệt này lên bí huyệt khác.

  a. Từ bí huyệt xương cùng lên bí huyệt cổ họng.

  b. Từ bí huyệt đan điền lên bí huyệt tim.

  c. Từ bí huyệt chót xương sống lên bí huyệt đầu.

3. Sự tác động của “năng lượng” (lưu ư sự chính xác về kỹ thuật của cách diễn đạt của tôi) của các bí huyệt trên cách mô lên các bí huyệt dưới cách mô.

594

 
Đây là tiến tŕnh ngược lại với tiến tŕnh xảy ra khi các lực bên dưới cách mô được nâng lên đến các bí huyệt trên cách mô. Trong loại liên hệ thứ ba này bạn có việc thực hành thế mạnh của từ điện; c̣n trong tiến tŕnh kia, bạn có sự biểu lộ bức xạ. Ở một giai đoạn phát triển nào đó, hai tiến tŕnh này liên kết chặt chẽ với nhau.

Dưới tất cả các liên quan này đều có viễn cảnh của các khó khăn, dẫn đến một hiệu quả bất hảo nơi các cơ quan của thể xác trong vùng liên hệ. Trong những giai đoạn đầu của sự liên hệ giữa các bí huyệt ở trên cách mô với các bí huyệt ở dưới, con người thường hoàn toàn không biết đến những ǵ đang diễn tiến, lúc đó, y chỉ là nạn nhân của sự kích thích do bí huyệt phát ra năng lượng áp đặt vào bí huyệt nhận sự tác động của nó, hoặc y trở thành nạn nhân của suy nhược mất sinh khí (v́ thế tạo ra nhiều h́nh thức bệnh thể chất) khi các bí huyệt ấy đáp lại sự kích thích. Tất cả chỉ là vấn đề thăng bằng hay quân b́nh mà người sáng suốt và người t́m đạo phải cố gắng đạt cho được.

Bây giờ, chúng ta đến một phát biểu rất mơ hồ, và là phát biểu được cố ư đưa ra như thế:

4. Sự mâu thuẫn của ḍng năng lượng thứ nhất và ḍng thứ nh́ tồn tại qua nhiều thời đại, cho đến khi nào đạt được đỉnh núi – đó là đỉnh núi vĩ đại đầu tiên.

Câu này nói một cách mơ hồ (lại có chủ đích như thế) đến sự mâu thuẫn giữa các năng lượng trên cách mô – b́nh thường đến từ linh hồn trên cơi riêng của nó – với các lực ở dưới cách mô (cơ hoành). Đây là một xung khắc chính yếu và kéo dài. Nó bắt đầu khi bí huyệt đan điền trở nên trội và mạnh, tạo nên sự khủng hoảng như vào thời Atlantis. V́ đa số con người c̣n ở trong tâm thức thời Atlantis, phần lớn đang bị bản chất xúc cảm của họ chi phối, nên ngày nay, các khủng hoảng này mới xuất hiện. Cuối cùng và nói về mặt siêu h́nh th́ bí huyệt đan điền bắt đầu có một hiệu ứng phát xạ để đáp ứng với “tiếng gọi” từ lực của bí huyệt tim. Khi được điểm đạo lần thứ nhất, sự tương tác quan trọng đầu tiên được thiết lập giữa hai bí huyệt và hoạt động phối kết đầu tiên được thiết lập. Cổ luận diễn tả: “Giờ đây cái ở trên liên kết với cái ở dưới, nhưng cái ở dưới mất cá tính của nó khi nhập vào cái trên”. Người mẹ không c̣n trông coi v́ Chúa Hài Đồng (Christ Child) đă đảm nhận vị trí quan trọng. Linh hồn nắm quyền điều khiển và đưa người t́m đạo từ đỉnh núi này đến đỉnh núi khác.

5952

 
Ở cuộc điểm đạo thứ nhất và ngày càng tăng ở tất cả các cuộc điểm đạo, năng lượng được đưa vào cuộc xung khắc chính với các lực. Năng lượng của linh hồn lôi cuốn thể dĩ thái và mọi bí huyệt trở nên những “băi chiến trường”, với một bí huyệt được chú trọng nhiều hơn các bí huyệt khác. Bản chất của cuộc chiến không c̣n là “giữa các lực và lẫn nhau nữa”, mà bây giờ là giữa các năng lượng với các lực, và chính cuộc chiến này tạo nên t́nh trạng sắc bén của các thử thách cho cuộc điểm đạo. Chính cuộc chiến đấu này gây nên biết bao nhiêu bệnh thể chất trong số những người đă được hay đang chuẩn bị để được điểm đạo lần thứ nhất và thứ nh́. Và điều đó giải thích cho bệnh của các vị thánh !

Một khoa học lớn về các trung tâm lực, một ngày nào đó sẽ xuất hiện, khoa này sẽ làm sáng tỏ toàn thể vấn đề phức tạp này. Tuy nhiên, chưa đến lúc đó. Hiện giờ, nếu khoa này được dạy công khai, th́ kết quả sẽ là các tư tưởng của con người sẽ chuyển sang sự thực về các bí huyệt và các vùng mà những bí huyệt ấy kiểm soát, chứ không chuyển qua các năng lượng tuôn đổ qua chúng. Sẽ có một kích thích có hại và bất hảo, hoặc việc mất sinh lực của chất liệu của các bí huyệt, đưa đến hậu quả là bệnh tật trầm trọng. Định luật bao giờ cũng đúng là “năng lượng theo sau tư tưởng”, và năng lượng đó có thể là bức xạ hoặc từ lực, nhưng không được giữ nó lại ở trạng thái tĩnh ở trong một bí huyệt. Khoa học thực sự về các bí huyệt sẽ chỉ được phép lưu hành tự do, khi – và chỉ khi nào con người biết được ít nhất các nguyên tắc cơ bản về chiều hướng tư tưởng và cách kiểm soát những tác động của năng lượng.

5. Cuộc chiến giữa các lực tạo nên mọi bệnh tật, đau yếu và thống khổ trong xác thân; chúng t́m cách giải tỏa bằng sự chết.

596

 
Ở đây, nên lưu ư có một sự phân biệt lư thú. Khi xảy đến, cái chết là kết quả của hai sự việc:

1. Cuộc chiến giữa các lực, chứ không phải giữa năng lượng với các lực. Khu vực xung đột là thể dĩ thái và thể xác; không có năng lượng nào đến từ bên ngoài v́ con người quá đau yếu.

2. Mất ư-chí-muốn-sống. Người bệnh đă nhượng bộ, cuộc chiến bên trong đă quá nhiều đối với y, y không thể chịu đựng. Y không thể đưa vào năng lượng nào từ bên ngoài để chống lại các lực đang gây xung đột; y đă đạt đến điểm không c̣n muốn làm ǵ thêm nữa.

Hai giai đoạn này của tiến tŕnh hấp hối cho thấy vận số của bệnh nhân, và nhà trị liệu nên lưu ư ngay (khi thấy có các giai đoạn đó), lúc đó y nên dùng sự khéo léo của ḿnh giúp bệnh nhân từ trần và không cố gắng thực thi việc chữa trị nữa. Cánh cửa đi vào đối với các năng lượng ban sự sống đă bị niêm phong. Không một thứ ǵ có thể nhập vào để giúp nhà chữa trị, c̣n sự xung đột giữa các lực – có bản chất tổng quát hoặc bị giới hạn vào một sự xung đột quyết liệt ở một khu vực đặc biệt – tạo nên sự bất đồng/va chạm nhiều đến nỗi không c̣n hy vọng ǵ nữa, ngoại trừ cái chết. Qua câu này, có thể thấy rơ rằng, bệnh tật liên quan đến điểm ma sát (bất đồng), hoặc điểm có xáo trộn nghiêm trọng; mọi ốm đau đều có liên quan đến phản ứng chung của con người đối với vùng có xáo trộn và đến t́nh trạng ốm yếu do bệnh gây ra, trong khi đau đớn thể xác (bodily pain) liên quan đến sự khó chịu của vùng bị bệnh và chính là chỉ dẫn về bản chất của căn bệnh. Mọi ngôn từ dùng trong các định luật và qui luật này đều được chọn lựa rất cẩn thận và cho dù theo quan điểm của người diễn dịch th́ vẫn chưa thỏa đáng, nhưng không phải là rườm rà mà cốt diễn tả những ư nghĩa khác nhau.

6. Hai, năm, và kế đó là bảy, cộng với những ǵ chúng tạo nên, nắm giữ bí mật.

597

 
Liệt kê trên thực chất là một tập hợp những ǵ đă được đưa ra trước đây, ư nghĩa hời hợt nhất của nó và là ư nghĩa hữu dụng nhất cho nhà trị liệu, có thể được diễn đạt một cách đơn giản như sau:

Nhà trị liệu phải nhớ sự kiện về hai năng lượng chính vốn có trong mỗi người, đó là cung linh hồn và cung phàm ngă. Kế đó, y phải nhớ rằng cùng với hai cung này, y phải thêm vào ba cung chi phối tạo thành năm cung nói trên: Cung của thể trí, cung của thể t́nh cảm và cung của thể xác. Liệt kê này thường là đủ đối với tất cả những người thường hoặc người trung b́nh. Tuy nhiên nếu bệnh nhân là người rất tiến hóa, h́nh thức liệt kê khác sẽ được sử dụng. Sẽ cần thêm vào hai năng lượng nữa, lúc đó hai năng lượng sẽ hiện hữu với sức mạnh thực sự: cung của Chân thần và cung của hành tinh vốn là cung ba. Cung hành tinh này khi rất linh hoạt (như trường hợp với người rất tiến hóa và những người đă đạt được mức hội nhập cao và tổng quát) th́ nó có một hiệu quả mạnh mẽ. Prana của hành tinh đi vào mạnh mẽ theo cung hành tinh, và prana này có thể được dùng để chữa trị. Một lư do giải thích tại sao sức khỏe tổng quát của những người tiến hóa cao thường thường là tốt, đó là v́ năng lượng prana từ hành tinh đă lưu chuyển thông suốt xuyên qua cơ thể họ. Vị Chân Sư, đang làm việc qua một thể xác tương đối hoàn hảo, dựa vào chính năng lượng này để giữ cho nó được khang kiện. Đây là một mảng kiến thức có hơi mới mẻ và là kiến thức – khi nhận thức được – sẽ tỏ ra vừa đơn giản vừa hữu lư. Đối với nhà trị liệu, trong trường hợp này, “những ǵ mà chúng tạo nên”, có nghĩa là ngoại thể hữu h́nh. Có các ư nghĩa khác nữa, nhưng ở đây, chúng ta không cần bàn tới.

598

 
“Bí mật” được nhắc đến (trong phát biểu 6) là việc tiết lộ cách có thể giữ sức khỏe tráng kiện. Đó không phải là bí mật làm cách nào để chữa trị thân xác, khi có “đau yếu trong cơ thể”. Nhưng có một bí quyết để giữ sức khỏe tráng kiện mà những người trên ba lần điểm đạo đều biết. Nếu muốn họ có thể hoàn toàn sử dụng. Tuy nhiên, họ có thể không luôn chọn thế, trừ phi họ đang hoạt động với các phần khác của Thiên Cơ, không liên quan đến nhân loại. Nếu họ là những người đang chăm lo khai mở tâm thức trong con người và là những người phụng sự cho và ở trong giới nhân loại, họ có thể biết được bí quyết này, nhưng có thể đồng thời lại không chọn để hưởng lợi ích của nó, bởi v́ họ cảm thấy cần hoàn toàn ḥa ḿnh với nhân loại. V́ thế, họ chọn thực tâm chia sớt mọi kinh nghiệm của nhân loại và từ trần theo những lối chung cho phần nhân loại c̣n lại. Toàn bộ vấn đề ḥa ḿnh nằm đàng sau mọi biểu lộ. Chính sự ḥa ḿnh với hay là của tinh thần và vật chất mới là bí mật của sự xuất lộ thiêng liêng. Như các bạn đă rơ, một trong các nguyên nhân chính của bệnh tật là v́ người ta dễ dàng đồng hoá chính ḿnh với khía cạnh sắc tướng (tức là với nhiều mănh lực được thu hẹp – thu hẹp trong ṿng giới hạn của phàm ngă). Con người không quan tâm đến việc đồng nhất hóa chính ḿnh với chủ thể tạo ra h́nh hài, tức chân nhân và với các năng lượng mà y t́m cách hướng đến, mà – trong chu kỳ tiến hóa về sau – y nhất định phải hướng đến.

Ở đây cũng có một nghĩa huyền bí liên hệ đến bảy cung khi chúng tự hiển lộ trong giới nhân loại.Việc biết được bí ẩn này giúp cho một Chân Sư kiểm soát được bệnh dịch và các bệnh lan rộng. Hiện thời, các bạn không dính dáng ǵ đến bí ẩn này. Nhân đây xin nói, việc tương đối thoát khỏi các bệnh dịch và bệnh truyền nhiễm thường theo sau chiến tranh một phần là do Thánh Đoàn vận dụng kiến thức về bảy cung này, cùng với kiến thức khoa học của chính nhân loại.

599

 
Cũng liên quan đến vấn đề này (và tôi chỉ nói đến khía cạnh có lợi của nó, có hai Đấng trong Thánh Đoàn là Đức Mahachohan và Đấng Đại Diện của Ngài ở cung 7. Hiện nay các Ngài đang nắm giữ toàn thể bí nhiệm này và các Ngài được năm vị Chân Sư khác trợ giúp để áp dụng kiến thức đă đạt được. Năm Đức Thầy này đang làm việc chủ yếu với trường tiến hóa thiên thần. Như các bạn biết, đó là trường tiến hóa liên quan đến h́nh hài và trong trường hợp đặc biệt này, liên quan tới thiên thần chữa trị. Bảy Đấng này của Thánh Đoàn đến phiên các Ngài được sự trợ giúp của một trong các Hoạt Động Phật, và cũng được trợ giúp của vị đại diện của Tinh Quân Địa Cầu. Các Ngài lại hợp thành hai, năm rồi bảy – một liệt kê khác và là liệt kê mà khi nhập lại th́ bằng chín, chính là con số cuộc điểm đạo. Liên hệ số học này đưa con người đến mức y được “nhập vào lănh vực hoàn thiện và không c̣n biết đến những đau thương, thống khổ và nhờ thế mà trí y bị lệch khỏi cái bên dưới đến cái bên trên”.

Tôi đă đề cập đến mặt này của liên hệ nhân loại với vấn đề sức khỏe với mục đích chỉ cho bạn thấy các vấn đề mà chúng ta đang bàn thảo thật là tinh tế và huyền bí đến mức nào, và nhờ thế giúp cho cá nhân người bệnh có một ư thức cân đối, liên quan đến các bệnh cơ thể hay ngay cả sự chết của y cũng vậy.

7. Đây là định luật trị liệu thứ năm trong thế giới h́nh tướng.

   Định luật thứ 5 này đầu tiên liên quan với nguyên khí thứ năm tức nguyên khí trí tuệ hay Manas. Chính nguyên khí này làm cho con người đúng theo bản chất của y. Chính nguyên khí này làm cho y thành một tù nhân bên trong h́nh hài và trên địa cầu, v́ thế mà khiến y dễ bị tổn thương và dễ bị bệnh tấn công về mặt h́nh thể. Các điều này tạo thành một phần của tác động ngàn đời của điều ác chống lại điều thiện. Chính nguyên khí thứ năm này khi được Con của Trí Tuệ, tức là Con của Thượng Đế, chế ngự và sử dụng, sẽ giúp con người tinh thần tự giải thoát khỏi mọi loại h́nh tướng, do đó mà thoát khỏi bệnh tật và chết chóc.

600

 
Điều hiển nhiên là trong khi tự rèn luyện thuật điều trị, nhà trị liệu phải hiểu rơ ràng và không thiên vị một số sự kiện cực kỳ đơn giản, nhưng có tính cách huyền bí sau đây:

1. Việc trị liệu chỉ đơn thuần và chủ yếu là việc vận dụng các năng lượng.

2. Y phải thận trọng phân biệt các năng lượng với các mănh lực.

3. Nếu y mưu t́m thành công thực sự, y phải học cách đặt bệnh nhân càng chính xác càng tốt, đúng nấc thang tiến hóa.

4. Bắt buộc phải hiểu biết về các bí huyệt.

5. Chính y phải làm việc với tư cách một linh hồn, qua phàm ngă của y.

6. Liên hệ của y với người bệnh là một liên hệ về phàm nhân (trừ khi bệnh nhân tiến hóa cao).

7. Y phải xác định vị trí bí huyệt chi phối vùng có liên quan với điểm ma sát (điểm va chạm).

8. Cũng như tất cả những môn khác trong các môn học huyền bí, cả bệnh tật lẫn việc trị liệu đều là những khía cạnh của hệ thống “tương quan” vĩ đại, nó chi phối mọi biểu lộ.

601

 
Nếu nhà trị liệu chọn tám điểm trên để quán tưởng và trầm tư về chúng, th́ y sẽ đặt một nền tảng vững chắc cho mọi công việc cần làm. Chúng tương đối đơn giản đến nỗi hiển nhiên là bất cứ ai cũng có thể trở thành một nhà trị liệu, nếu y chọn thế và sẵn sàng tuân theo những điều cần thiết. Ư tưởng thông thường cho rằng một người “bẩm sinh” là nhà trị liệu, và v́ thế mà độc nhất, thực ra, điều đó chỉ cho thấy rằng đó là một trong những quan tâm chính có định hướng của y. Cho nên, v́ mối quan tâm này, y đă chú ư đến thuật trị liệu và v́ vậy hướng về việc tiếp xúc với bệnh nhân. Do tác động tất nhiên của định luật chi phối tư tưởng, y khám phá ra rằng năng lượng theo sau tư tưởng của y và tuôn chảy qua y để đến với bệnh nhân. Khi làm điều đó một cách thận trọng th́ việc chữa trị sẽ thường theo sau. Bất cứ người nam hoặc nữ nào – thật t́nh quan tâm đến và được thôi thúc bởi động cơ phụng sự – biết tưởng nghĩ và yêu thương, đều có thể làm kẻ chữa trị. Đă đến lúc con người hiểu được sự thật đó. Toàn thể tiến tŕnh chữa trị là định hướng tư tưởng. Nó liên quan đến việc định hướng các ḍng năng lượng hoặc tách ra các năng lượng đó; đây là một lối khác để nói về bức xạ và từ điện. Mọi điểm đạo đồ đều là nhà trị liệu, và điểm đạo đồ càng tiến hóa, th́ càng ít bận tâm đến các rắc rối của các bí huyệt và lực, năng lượng và hướng của năng lượng. Người ấy trị liệu một cách tự nhiên, như trường hợp của vị Điểm đạo đồ Peter. Chúng ta đọc thấy về Ngài: “cái bóng của Thánh Peter đi ngang qua cũng đủ chữa lành mọi người trong họ”.

602

 
Sự dị biệt chính được nhận thấy trong thời gian chuyển tiếp (một chuyển tiếp đến nhiều ngàn năm), giữa lối trị liệu nêu trên với công việc của nhà trị liệu kém tiến hóa hơn. Đó là những nhà trị liệu vốn là các y sĩ thành thạo và những nhà y học được thừa nhận, cũng như các nhà trị liệu tinh thần sẽ được thuận lợi rất nhiều hơn nhà trị liệu chưa được huấn luyện, bởi v́ cách chẩn bệnh của họ thường chính xác hơn và năng lực h́nh dung của họ cũng sẽ lớn hơn, do họ đă được huấn luyện để quen với cấu trúc của cơ thể và họ có nhiều hiểu biết về bệnh lư học. Cho nên, từ đây, cho đến rất lâu về sau này, nhà trị liệu tinh thần nên khôn ngoan mà cộng tác luôn luôn với một y sĩ thành thạo. Nhà trị liệu sẽ cung ứng kiến thức huyền linh cần thiết. Hầu như đă qua cái thời mà bất cứ một người nào tử tế, hảo tâm và có tri thức tinh thần đều được xem là nhà trị liệu. Bất cứ cách thực hành trị liệu nào cũng cần có trước nhiều năm nghiên cứu kỹ về bản chất của năng lượng, về các loại cung, về các bí huyệt. Tối thiểu cần đến ba năm cho việc đó. Khi nghiên cứu đó được thêm vào môn học của nhà y sĩ thành thạo, đă tốt nghiệp ở những trường y khoa nổi danh nhất của chúng ta, th́ lúc đó bạn sẽ có được một cách trị liệu cho cơ thể mới mẻ và hữu hiệu hơn nhiều so với ngày nay. Chừng ấy, kiến thức chính thống và huyền bí của nhà chữa trị, năng lực h́nh dung và khả năng định hướng tư tưởng của nhà trị liệu sẽ trở nên hiện thực và hữu hiệu về mặt thực hành.

Qui luật liên hệ với định luật V cho thấy rơ rằng cần phải có kiến thức huyền môn này, bởi v́ nó tŕnh bày rất rơ một số huấn thị cơ bản.

QUI LUẬT BA

Nhà trị liệu hăy tập trung năng lượng cần thiết bên trong bí huyệt cần thiết. Hăy để cho bí huyệt tương ứng với bí huyệt đang có như cầu. Hăy để cho cả hai được đồng bộ và cùng tăng thêm sức mạnh. Nhờ thế h́nh hài đang chờ sẽ trở nên thăng bằng trong hoạt động của nó. Nhờ thế mà hai và một, dưới sự định hướng đúng, sẽ được chữa trị.

Qui luật này đ̣i hỏi phải có hiểu biết về các bí huyệt, và như các bạn đă rơ, kiến thức này hăy c̣n phôi thai. Trong hầu hết các trường hợp, tất cả những điều cần biết là xác định vị trí của một bí huyệt. Tuy nhiên, đặc biệt là đối với những nhà trị liệu chưa thành thạo, th́ những hiểu biết trong sách này cũng đủ. Sự hiểu biết về cách cấu tạo, về t́nh trạng và khả năng đáp ứng của một bí huyệt với quá nhiều chi tiết sẽ gây bất lợi cho nhà trị liệu, v́ tư tưởng của y sẽ lệch sang chi tiết của h́nh hài và tách khỏi năng lượng và các chuyển vận của nó.

Ở đây qui luật đ̣i hỏi rằng do đă tự chỉnh hợp với linh hồn và “tiếp thu” năng lượng của linh hồn (nhờ đó làm cho chính ḿnh thành một vận hà cho mănh lực tinh thần), nhà trị liệu hướng năng lượng này vào vùng của chính bí huyệt của y vốn tương ứng với bí huyệt đang chi phối vùng có điểm va chạm nơi bệnh nhân. Thí dụ, nếu bệnh hoặc xáo trộn thể xác nằm nơi bao tử hoặc liên quan tới gan, th́ nhà trị liệu sẽ hướng năng lượng linh hồn của ḿnh vào huyệt đan điền, nằm trong phần dĩ thái của cột xương sống. Nếu bệnh nhân bị đau tim hoặc phổi, th́ nhà trị liệu sẽ dùng bí huyệt tim. C̣n với các bệnh ở phế quản, ở cổ họng, miệng hoặc tai th́ sử dụng bí huyệt cổ họng.

603

 
Thế nên, có hai điều trở nên quan trọng có liên hệ với chính nhà trị liệu.

1. Y phải biết tŕnh độ phát triển của chính ḿnh càng chính xác càng tốt; v́ điều đó sẽ cho y thấy rằng y có khả năng hay không để làm việc với một bí huyệt nào đó, hoặc với mọi bí huyệt. Muốn dùng bất cứ bí huyệt nào của ḿnh trong việc trị liệu, nhà trị liệu phải khơi hoạt chúng đến mức độ nào đó, và có thể tập trung năng lượng vào bất cứ bí huyệt nào y chọn – một cách hữu thức bằng quyền năng của tư tưởng, dưới sự tác động của ư chí. Điều này không có nghĩa là mọi bí huyệt đều được khơi hoạt và hoạt động thực sự. Tuy nhiên, nó sẽ có nghĩa là (nếu y muốn chữa trị cho tất cả) y không nên chỉ giới hạn vào việc dùng các bí huyệt dưới cơ hoành, mà tư tưởng có thể được hướng vào các bí huyệt cao, nhờ một nỗ lực của ư chí tinh thần. Nhiều người t́m đạo có thể làm điều này rất dễ dàng hơn là họ tưởng.

2. Khi chuyển năng lượng vào một bí huyệt nào đó trước khi hướng nó vào một bí huyệt trong cơ thể bệnh nhân, nhà trị liệu phải tránh nguy cơ để cho ḿnh bị kích thích quá độ. Đây là một điểm rất quan trọng. Rất nhiều bệnh và đau yếu xác thân của kẻ thường nhân đều ở hạ bộ, nên nhà trị liệu cần phải thường xuyên dùng bí huyệt đan điền. Việc này có thể đưa tới một t́nh trạng nghiêm trọng, đó là t́nh trạng quá xúc cảm và thậm chí t́nh trạng cảm dục tính (astralism) sắc bén về phía người chữa trị. Bấy giờ, y sẽ là nạn nhân của các hảo ư của ḿnh và của việc phụng sự tinh thần của ḿnh, v́ các hậu quả đều xấu như nhau. Năng lượng là một mănh lực vô tư và là một tác nhân hoàn toàn không thiên lệch. Ư định trong sạch, phụng sự vô tư lợi và thiện chí đều không phải là những che chở thực sự, dầu có các vô vị của nhà huyền linh học đa cảm. Thực ra sự hiện hữu của các t́nh trạng đáng mong muốn này chỉ tăng thêm khó khăn, v́ năng lượng linh hồn sẽ tuôn đổ vào với một lực lớn. Nhờ hiểu được những nguy cơ có liên quan, việc đánh giá sáng suốt về tính khả hữu và việc thông hiểu các biện pháp bảo vệ có khoa học và đúng kỹ thuật sẽ được đưa ra cho nhà trị liệu ở giai đoạn cuối của việc huấn luyện y. Hiện nay và v́ sự nguy hiểm lúc này không lớn lắm (do thiếu sức mạnh trong tư duy của con người và việc họ không có khả năng hướng dẫn tư tưởng)) nên biện pháp bảo vệ chính cốt ở khả năng của người chữa trị giữ tâm thức của y ổn định trong bí huyệt đầu, với “con mắt định hướng” quay về phía bí huyệt cần thiết. Điều này đ̣i hỏi một sức tập trung gấp đôi, và nhà trị liệu phải cố gắng để có khả năng làm điều đó.

604

 
Đây chính là điểm để nhà trị liệu phân biệt giữa phương pháp bức xạ và phương pháp truyền từ điện. Nhờ tập trung năng lượng linh hồn trong bí huyệt thích hợp, qua năng lực định hướng từ bí huyệt đầu (trung tâm của năng lượng linh hồn) và nhờ sức mạnh của tư tưởng, phương pháp dùng bức xạ kết thúc viên măn. Phương pháp dùng bức xạ này đi qua hai giai đoạn:

1.Giai đoạn linh hồn tỏa ra năng lượng vào bí huyệt đầu.

2.Giai đoạn nhà trị liệu điều khiển một tia của năng lượng ấy từ bí huyệt đầu đi vào “bí huyệt có nhu cầu”; nó được hội tụ và giữ ổn định ở đó.

Từ bí huyệt thích hợp này, giai đoạn đồng bộ với bí huyệt tương ứng trong cơ thể bệnh nhân được thiết lập. Nhà trị liệu tạo sự đồng bộ này không phải bằng cách phát một tia bức xạ vào bí huyệt đó, mà do dùng mănh lực của bí huyệt của ḿnh để khơi dậy sự ứng đáp từ bí huyệt của bệnh nhân; nó tác động như một thanh nam châm, đưa ra một tia rơ rệt từ bệnh nhân. Về mặt huyền bí, bức xạ ấy “làm sinh động” điểm va chạm trong khu vực bao quanh, và –nếu nhà trị liệu có nhăn thông– nhờ thế giúp y thấy được rơ ràng hơn trung tâm của xáo trộn, do đó đi đến việc chẩn đoán chính xác hơn. Thường thường nhà trị liệu tinh thần dựa vào việc chẩn đoán của thầy thuốc đang túc trực, nếu chính y không phải là y sĩ.

605

 
Giờ đây, một tương tác được thiết lập giữa nhà trị liệu và bệnh nhân trên các cấp độ dĩ thái. Năng lượng của hai bí huyệt đă được đồng bộ hóa của họ giờ đang trở nên mật thiết, đến lúc ấy nhà trị liệu phải quyết định xem nên chữa trị bằng phương pháp trục xuất hay là phương pháp kích hoạt. Cho nên y phải xác định xem coi bí huyệt của bệnh nhân có quá bị kích thích hay không, và xem coi số năng lượng dư có nên bị trục xuất hoặc tách ra, hoặc là xem coi có t́nh trạng thiếu sinh lực hay không và năng lượng của bí huyệt có liên quan cần thận trọng tăng thêm.

Tuy nhiên, ở đây có thể nêu ra một khả năng thứ ba xảy ra chậm hơn, nhưng trong mọi trường hợp th́ thực tế là nó đáng mong muốn hơn. Đó là việc đạt được sự quân b́nh của các năng lượng (giữa nhà trị liệu với bệnh nhân), nó sẽ giữ năng lượng ở trong khu vực có điểm ma sát và để cho căn bệnh tự nhiên được chữa lành. Điều này chỉ có thể xảy ra khi mối liên giao giữa bệnh nhân và nhà trị liệu được hoàn hảo. Bấy giờ nhiệm vụ duy nhất của nhà trị liệu là giữ vững t́nh thế, đem lại cho bệnh nhân niềm tin vào những năng lực sẵn có trong họ và khuyến khích giai đoạn kiên nhẫn chờ đợi. Bấy giờ, việc chữa trị sẽ kéo dài hơn và không có một ư thức hay giai đoạn va chạm tâm lư nào, là điều có thể xảy ra nếu có sự đột nhiên kích thích hoặc trục xuất triệt để được dùng đến.

Như bạn thấy, chúng ta đă ghi nhận ở đây ba phương pháp mà nhờ đó nhà trị liệu dùng mănh lực được tập trung bằng cách định hướng vào trong các bí huyệt của y:

1.                     

606

 
Để trục xuất năng lượng thừa trong một bí huyệt bị kích thích thái quá.

2.                      Để kích thích các bí huyệt của bệnh nhân theo những tiến tŕnh nhất định.

3.                      Để duy tŕ một trạng thái quân b́nh mà trong đó việc chữa trị b́nh thường có thể xảy ra.

                                Trong trường hợp thứ nhất, nhà trị liệu thận trọng tăng thêm sức mạnh của năng lượng chứa trong bí huyệt của y, sao cho nó trở nên có sức thu hút cực mạnh và tách ra việc cung cấp quá nhiều năng lượng trong bí huyệt của bệnh nhân. Trong trường hợp thứ nh́, nhà trị liệu phóng một tia năng lượng mạnh mẽ của riêng y vào bí huyệt tương ứng trong cơ thể bệnh nhân; đây là tác động của bức xạ và rất có hiệu quả. Trong trường hợp thứ ba, một sự tương tác được thiết lập để duy tŕ thế quân b́nh, và đẩy mạnh những hoạt động b́nh thường và ổn định trong bí huyệt chi phối vùng có xáo trộn.

Bạn cũng sẽ ghi nhận tại sao mọi tiến tŕnh này (và chúng tương đối đơn giản khi hiểu được) đều tùy thuộc vào quyết định của nhà trị liệu. Chính ở đây mà lầm lẫn có thể xảy ra, và người nào đang t́m cách làm việc theo những đường lối mà tôi đưa ra nên thận trọng, tiến hành chậm răi và cẩn thận đúng mức, cho dù việc trị liệu kém hiệu quả và không thành công. Thà không tạo được hiệu quả nào nơi bệnh nhân và t́nh trạng của họ, c̣n hơn là do mănh lực của sự quyết định thiếu khôn ngoan, tức là sức mạnh của tư tưởng và việc tập trung sự định hướng của con người, mà chúng ta làm cho bệnh nhân mau chết bằng cách th́nh ĺnh thu hồi năng lượng đang cần, hoặc bằng cách kích thích một bí huyệt đă quá bị kích thích và hoạt động quá độ.

607

 
Nói cho cùng th́ mục đích trong ba cách giúp bệnh nhân bằng cách làm việc trực tiếp với các bí huyệt liên hệ, là để mang lại một hoạt động lành mạnh và thăng bằng. Mục đích này ở trường hợp một người tiến hóa cao th́ dễ đạt được hơn là ở trường hợp một cá nhân mà nơi họ bí huyệt chưa linh hoạt b́nh thường và chưa thức động; và cái khó khăn thường là do tác động của một bí huyệt phụ nào có trong 21 bí huyệt phụ ở trong cơ thể, hơn là do một trong bảy bí huyệt chính. Trong những trường hợp này, giúp người bệnh bằng y khoa chính thống và giải phẫu th́ dễ dàng nhiều hơn bất cứ phương pháp trị liệu tinh thần nào. Chính v́ lư do đó mà chỉ đến nay, nhà trị liệu tinh thần mới trở nên quan trọng và công việc của y mới có thể được thực hiện phần nào. Đây là do việc nhân loại phát triển tinh thần mau chóng, khiến cho lần đầu tiên và ở một mức độ đáng kể, con người nhận được lợi ích của các định luật và qui luật này.

Trong câu chót của qui luật ba, ư nghĩa của hai và một, đó là năng lượng kết hợp nơi nhà trị liệu – năng lượng của linh hồn được hội tụ trong bí huyệt đầu và năng lượng của “bí huyệt cần thiết” cùng với năng lượng của bí huyệt đang chi phối điểm ma sát trong cơ thể bệnh nhân – chịu trách nhiệm cho việc chữa trị, miễn là chính vận số của bệnh nhân là được lành bệnh.

ĐỊNH LUẬT VI

Khi các năng lượng kiến tạo của linh hồn trở nên linh hoạt trong cơ thể, lúc đó có được sức khỏe, sự tương tác lành mạnh và hoạt động đúng đắn. Khi vị kiến tạo là các nguyệt thần và những kẻ làm việc dưới sự kiềm chế của mặt trăng và theo lệnh của phàm ngă, bấy giờ sẽ có bệnh tật, suy yếu và chết chóc.

Đây là một định luật đáng chú ư nhất, bởi v́ về cơ bản nó bàn đến các nguyên nhân. Trước hết các nguyên nhân mà một người b́nh thường chưa có chủ ư kiểm soát, và cũng v́ về mặt huyền bí, nó đưa ra một h́nh ảnh thu nhỏ hay về mặt tiểu thiên địa của t́nh trạng vũ trụ hoặc của t́nh trạng đại thiên địa. Nó bàn đến toàn bộ vấn đề sự ác hoặc là đau đớn và thống khổ (tức những bí nhiệm vĩ đại của hành tinh bé nhỏ của chúng ta) trong vài câu; nhưng, đó là những câu truyền đạt các hàm ư sâu rộng. Chính sự đơn giản của định luật thiên nhiên vĩ đại này lại che giấu những ư nghĩa sâu rộng của sự hoạt động b́nh thường của nó. Nó nói lên những điều sau đây một cách hoàn toàn đơn giản và tôi liệt kê chúng, v́ ngắt một đoạn văn thành những câu đơn giản và rơ ràng là cách rất hay để hiểu được nó.

608

 
1. Khi linh hồn kiểm soát được h́nh hài có liên quan th́ có sức khỏe.

 2. Linh hồn là nhà kiến tạo h́nh hài, mănh lực xây dựng khi biểu lộ.

3. Điều này đúng cho cả tiểu thiên địa lẫn đại thiên địa.

4. Kết quả là sự toàn vẹn, liên giao đúng và hoạt động đúng.

5. Khi linh hồn không ở trong sự kiểm soát, do đó mà các mănh lực của bản chất h́nh hài trở nên những yếu tố kiểm soát, bấy giờ, sức khỏe sẽ suy kém.

6. Các vị kiến tạo sắc tướng là các “nguyệt thần” (“lunar lords”) tức các tinh linh trí tuệ, cảm dục và hồng trần (về physical elementals, xin xem định nghĩa ở trang 245 – ND).

7. Toàn bộ ba loại tinh linh này làm thành phàm ngă.

8. Về mặt huyền bí, chúng chịu sự chi phối của mặt trăng, tức biểu tượng của sắc tướng, thường được gọi là “mẹ của h́nh hài”.

9. Bức xạ (emanation) đến từ mặt trăng có trong nó các mầm mống của tử vong và bệnh tật, bởi v́ mặt trăng là một “hành tinh chết”.

609

 
Như bạn sẽ ghi nhận tất cả định luật này đều trở lại nguồn gốc của năng lượng chính đang chi phối cơ thể. Dù linh hồn là nguồn cội của mọi sự sống và tâm thức, nhưng qua nhiều thời đại, tất cả những ǵ mà linh hồn làm là để giữ cho h́nh hài có sự sống và có ư thức; cho đến khi nó đạt mức tiến hóa trở thành một khí cụ thích hợp và hữu ích (và ngày càng hữu ích cho linh hồn, để dùng nó làm phương tiện biểu lộ và phụng sự. Bấy giờ, karma mới định đoạt bản chất và phẩm tính của thân xác. Thân xác ấy có thể được mạnh khỏe, bởi v́ nó đă không bị sử dụng sai trong một kiếp sống đặc biệt hay các kiếp sống đang chi phối một lần nhập thế đặc biệt; hoặc thân xác không khỏe mạnh v́ nó đang trả giá cho lỗi lầm. Sức khỏe tốt không nhất thiết tùy thuộc vào sự giao tiếp hữu thức với linh hồn. Sự giao tiếp đó có thể và chắc chắn tạo nên sức khỏe tốt, nhưng, trong đa số trường hợp của người thường, sức khỏe cũng tùy theo sự sống và các định ư của phàm nhân – trong hiện kiếp và trong các tiền kiếp. Chỉ đến khi ư chí của phàm nhân hướng về sự cải thiện tinh thần và một cuộc sống trong sạch, thanh cao hơn, bấy giờ, linh hồn mới có thể trợ giúp thực sự.

Định luật này cũng mang theo các ẩn ư về mối liên hệ căn bản khiến cho ba thể của con người trở nên một phần gắn bó của toàn thể đại thiên địa. Mọi h́nh hài trong mọi giới đều được các nguyệt thần kiến tạo dưới một sức thôi thúc phát ra từ Hành Tinh Thượng Đế, Đấng đang hoạt động hợp tác với Chơn Linh của Địa Cầu – tức là toàn thể các Nguyệt thần và của ba loại vật chất được phú cho năng lượng vốn được dùng để sáng tạo thể trí, thể t́nh cảm và thể xác. Liên hệ của Hành Tinh Thượng Đế với Chơn Linh Địa Cầu (tức liên hệ của một Đấng tiến hóa thăng thượng với một thực thể tiến hóa giáng hạ) là một phản ảnh trong ba cơi thấp (dù méo mó và dưới ảnh hưởng của ảo cảm) của liên hệ giữa linh hồn với tinh linh của phàm ngă. Thật vô cùng hữu ích cho nhà trị liệu, khi nhận thức rằng trong lúc đối phó với bệnh, thực ra y đang đối phó với các sinh linh tiến hóa giáng hạ và đang cố gắng làm việc với các tinh linh (elementals). Khuynh hướng tự nhiên của các sự sống tinh linh này (chúng đều ở trên cung tiến hóa giáng hạ) là ngăn chận và cản trở các nỗ lực của y và các cố gắng của linh hồn – đối với chúng – đó là con đường tiến hóa của chúng. Sau rốt, chính điều đó sẽ đưa chúng tiến tới trên cung tiến hóa thăng thượng.

610

 
Rồi đến lúc, linh hồn có thể đảm nhận việc kiểm soát có ư thức ở trong và toàn bộ h́nh hài, và cuối cùng có thể tạo ra một h́nh hài thích hợp với các nhu cầu tinh thần của nó. Linh hồn làm được điều đó, bởi v́ các tinh linh này vốn là tổng thể của tinh linh phàm ngă đă đạt được mức phát triển, nơi mà chúng sẵn sàng tiến lên trên đường phản bổn hoàn nguyên. Công việc của linh hồn không bao giờ là việc thuần vị kỷ, để có một phương tiện biểu lộ trong ba cơi thấp, như đôi khi một người suy tư hời hợt thiếu nghiêm cẩn có thể thấy. Điều đó hoàn toàn ngẫu nhiên theo khía cạnh linh hồn. Đó là một hoạt động cần thiết, nhưng nó cũng liên quan đến việc hy sinh để cứu vớt vật chất và thúc đẩy sự tiến hóa của vật chất. Cổ luận có nói: “Mẹ (chất liệu – vật chất) được cứu vớt nhờ sự giáng sinh của Con (Christ nội tâm, tức linh thức)”. Điều đó đúng đối với đại thiên địa cũng như đối với tiểu thiên địa.

Ở đây có chứa bí ẩn về sự đau khổ trên hành tinh và sự chết. Như các bạn biết, Đức Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta (xét chân lư theo khía cạnh đại thiên địa) là một trong “các Thượng Đế chưa hoàn thiện” mà bộ Giáo Lư Bí Nhiệm có nói đến, dầu mức hoàn thiện đó vượt khỏi hiểu biết của con người chúng ta – cái hiểu biết của một đơn vị ở một trong các giới hợp thành thể biểu lộ của Ngài. Vẫn chưa có quân b́nh thực sự giữa tinh thần với vật chất, dầu rằng điểm quân b́nh ấy hầu như đă đạt được. Các lực tiến hóa giáng hạ vẫn c̣n mạnh, c̣n các năng lượng tinh thần vẫn c̣n bị ngăn trở, tuy ít hơn so với buổi đầu trong nhân loại. Trong giống dân chính kế tiếp giống dân hiện nay, chúng ta sẽ thấy một điểm quân b́nh được đạt đến, vốn sẽ mở đầu cái gọi là thời đại hoàng kim. Khi đó điểm va chạm/ ma sát trên hành tinh sẽ ít đi nhiều và v́ thế mà cũng ít đi trong mỗi cá nhân; những vùng chướng ngại và những hoạt động vô ích sẽ chấm dứt. Có thể thấy điều này đang thể hiện ra trong cơ thể của một ngựi tiến hóa hoặc một điểm đạo đồ ở qui mô lớn, trong các chu kỳ dài của các lần luân hồi của họ. Theo qui luật chung, các tưong ứng đi song song vẫn đúng.

611

 
Định luật này cho chúng ta một h́nh ảnh gây kinh ngạc và cũng là một h́nh ảnh đầy triển vọng, đặc biệt là nếu ngựi ta xem xét một số sự kiện đang có trên thế giới ngày nay và so sánh chúng với những t́nh trạng cách đây mấy trăm năm. Hiện nay, ở đâu đâu, tâm thức của nhân loại cũng đang bừng tỉnh. Các giống dân kém phát triển nhất đang có được nền giáo dục có kết quả, tất nhiên là liên quan đến khám phá của trí tuệ. Thiện chí đang được thừa nhận là cần thiết cho việc phát triển thế giới, và con người đang nhận ra rằng “không ai sống cho riêng ḿnh” – hay là không có quốc gia nào sống cho riêng ḿnh. Họ đang ghi nhận sự thực là chỉ có lương tri và phần nào của minh triết mới đưa đến các t́nh huống tốt đẹp hơn cho mọi người ở khắp nơi. Đây là một thái độ mới và là một cách tiếp cận mới và đầy triển vọng. Con người đang học cách hiểu và cảm thông với nhau. Các quốc gia đang tiến đến những bang giao mật thiết hơn với nhau. Các chính khách của mọi quốc gia đang cùng nhau tranh đấu và tổ chức hội nghị hợp tác bàn về vấn đề cải thiện những điều kiện sống của con ngựi. Ở đâu cũng có tư tưởng, có đánh giá và có đấu tranh cho tự do và cho các giá trị đích thực. Mọi thứ đó là ǵ, nếu không phải là nỗ lực của linh hồn nhân loại để tiêu trừ bệnh tật, khôi phục sức khỏe cho vùng suy yếu và loại bỏ những điểm va chạm? Có phải đó là những ǵ mà con ngựi tinh thần vốn đang bị bệnh, t́m cách mang lại cho thể xác chính ḿnh và là những ǵ mà nhà trị liệu đang cố gắng giúp y thực hiện?

Khi làm điều đó, các “nguyệt thần” và những mănh lực của vật chất rốt cuộc phải nhường cho năng lượng của linh hồn và được hưởng lợi ích, dầu chúng là những mănh lực của tiểu thiên địa hoặc đại thiên địa.

Một trong những điều thường gây lúng túng cho các đạo sinh là câu nói thể xác không phải là một nguyên khí. H.P.B. trỉnh bày bằng cách nhấn mạnh sự thực này. Trừ kẻ nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng cuồng tín ra, người ta thường nghĩ rằng bà đă sai lầm, hoặc cố ư đánh lừa các đạo sinh. Một trong các điểm mà người ta hiểu rất ít là bản chất của một nguyên khí. Vậy mà, chỉ nhờ hiểu được một nguyên khí là ǵ, người ta mới có thể hiểu được phát biểu của bà là đẹp đẽ và chính xác đến thế nào. Xét cho cùng, nguyên khí là ǵ? Nói về mặt đại thiên địa, th́ một nguyên khí là những ǵ đang được phát triển trên mỗi cơi trong số bảy cơi của chúng ta – tức là bảy cơi phụ của cơi hồng trần vũ trụ. Chính mầm mống hay là hạt giống trên mỗi cơi phụ vốn tiêu biểu cho một trạng thái nào đó của tâm thức thiêng liêng đang khai mở; đó là những ǵ mà về mặt căn bản có liên quan với một h́nh thức cảm nhận nào đó; nó là cái mà các thể, khi chúng tiến hóa, có thể ứng đáp được. Một nguyên khí là một mầm mống của tri thức, đang mang mọi tiềm năng của tâm thức đầy đủ trên một mức độ hoạt động thiêng liêng đặc biệt nào đó. Chính nó giúp ta có thể hiểu được và đáp ứng hữu thức với hoàn cảnh chung quanh; chính nó hàm ư một hoạt động nhạy cảm “đang lộ ra” và theo tŕnh tự, có thể và tất nhiên đưa đến sự hiểu biết thiêng liêng.

612

 
Thể xác và ở một mức ít hơn nhiều, thể cảm dục, thể hạ trí, đều tự động hoạt động với tư cách là những khía cạnh của một bộ máy đáp ứng thiêng liêng của một cơ cấu giúp cho Hành Tinh Thưọng Đế và con ngựi tinh thần ghi nhận được sự đáp ứng hữu thức với những ǵ cần phải tiếp xúc, theo thiên cơ và qua trung gian của một cơ cấu. Hiện nay, xác thân là một thể duy nhất cho đến nay phát triển đầy đủ đến nỗi trong hệ thống hành tinh này của chúng ta, nó không có thêm phát triển tiến hóa nào nữa, trừ việc tới chừng mức mà con người tinh thần có thể ảnh hưởng đến nó – hầu hết hiệu quả đều được tạo nên trong thể dĩ thái chứ không phải trong nhục thân. Đây là một điểm ít người hiểu, nhưng có tầm quan trọng chính yếu.

Trong thái dưong hệ trước đây, nhục thân đă đạt đến điểm phát triển và quan tâm cao của nó (theo quan điểm quan tâm đến trí tuệ và hoạt động của Thánh Đoàn). Thuở đó, nó là mục tiêu thiêng liêng của toàn bộ diễn tŕnh tiến hóa. Nhân loại ngày nay không dễ ǵ hiểu được điều này. Tôi không thể hoặc không nên nêu rơ những giai đoạn tiến hóa mà bộ máy thiêng liêng này trải qua để chuẩn bị cho công việc cần được đảm nhiệm trong thái dương hệ hiện tại. Trong cuộc lâm phàm thiêng liêng của Đức Hành Tinh Thưọng Đế chúng ta qua phương tiện của hành tinh bé nhỏ này, tức Địa Cầu, th́ thể xác không phải là mục tiêu, mà chỉ là cái sẵn có và phải được chấp nhận; phải làm cho nó thích ứng và kết hợp vào trong cơ tiến hóa chung. Toàn bộ kế hoạch ấy liên quan tới tâm thức. Thể xác chỉ là (không hơn không kém) hiện thể của tâm thức ở cơi trần; c̣n trọng điểm chú ư là thể dĩ thái, dưới h́nh thức một biểu hiện của các hiện thể tinh anh và trạng thái tâm thức biểu hiện của chúng. Thể xác quan trọng là v́ nó phải chứa đựng và đáp ứng với mọi loại đáp ứng hữu thức, từ đáp ứng của hạng người thấp kém nhất, đến mức bao gồm tâm thức của một vị điểm đạo đồ cấp ba. Các thể và các h́nh hài của sự sống nội tại hữu thức trong ba giới dưới nhân loại cũng có vấn đề tương tự nhưng ít khó khăn hơn. Tuy nhiên, ở đây, tôi chỉ xét đến thể xác của con người, nó không phải là một nguyên khí, bởi v́ dầu sao đi nữa nó không phải là một mục tiêu. Nó không phải là một hạt giống hay mầm mống của bất cứ cái ǵ. Bất cứ thay đổi nào diễn ra trong thể xác cũng đều phụ thuộc vào mục tiêu đáp ứng hữu thức với sự khai mở của thiên tính đang xuất hiện. Tôi cảm thấy cần phải nhấn mạnh điều này, v́ trí óc con người hay lầm lẫn về vấn đề này.

613

 
Tóm lại, thể xác không phải là một nguyên khí; nó không phải là mục tiêu chú ư chính của người t́m đạo; nó tự động ứng đáp với tâm thức đang chậm chạp khai mở trong mọi giới của thiên nhiên; nó măi măi vẫn là cái được hoạch định chứ không phải là cái có sẵn ảnh hưởng của chính nó; nó không quan trọng trong diễn tiến tích cực, v́ nó là tác nhân thu nhận, chớ không khai mở hoạt động. Điều quan trọng là tâm thức đang khai mở, tức đáp ứng của con người tinh thần nội tại với cuộc sống, với các t́nh huống, các biến cố, và với hoàn cảnh. Thể xác đáp lại tâm thức ấy khi nào do lầm lẫn mà thể xác trở nên mục tiêu chú ư, th́ đó là dấu hiệu thoái hóa. Đây là lư do tại sao quá chú ư vào các giới luật thân xác, vào sự ăn chay, vào thực đơn và sự kiêng ăn, cũng như các cách hiện nay (gọi là) trị liệu tâm thần và thiêng liêng, đều bất đắc dĩ và không theo đúng với Thiên Cơ đă định. Thế nên, quan tâm quá mức và quá chú trọng vào thể xác sẽ có phản tác dụng, và giống như việc thờ con bê vàng của trẻ em Do Thái. Đó là việc quay về với những ǵ đă có lần quan trọng, nhưng ngày nay nên đặt vào địa vị thứ yếu và ở dưới ngưỡng cửa của tâm thức.

614

 
Tôi bàn điều này ở đây, bởi v́ trong định luật VII chúng ta sẽ phải chú ư đến sự thực về các tuyến nội tiết và chúng ta cần tiến đến vấn đề đó từ quan điểm đúng. Các tuyến nội tiết là phần hữu h́nh của thể xác, do đó, chúng là một phần của biểu lộ sáng tạo, vốn không được xem là một nguyên khí. Tuy nhiên, các tuyến ấy mạnh mẽ và hữu hiệu, không thể không biết đến. Điều cốt yếu là đạo sinh nên xem các tuyến này như là quả chớ không phải là nhân của những biến cố, diễn biến, và t́nh trạng trong cơ thể. Dầu các nạn nhân của thể xác có tin và nói thế nào, thể xác luôn luôn bị chi phối bởi những nguyên nhân bên trong; về bản chất, chính nó không bao giờ là một nguyên nhân. Trong thái dương hệ này và trên hành tinh chúng ta, nó có tính tự động và chịu ảnh hưởng của các nguyên nhân phát sinh trên các nội giới hoặc bởi tác động của linh hồn. Hăy ghi nhận tầm quan trọng của phát biểu này. Thể xác không có sự sống thực của chính nó, mà, trong chu kỳ này, nó chỉ đáp lại những sự thôi thúc phát ra từ nơi khác. Thành tựu và thành công của nó làm một người máy. Nếu bạn có thể hiểu được điều này một cách đầy đủ, th́ chúng ta có thể tiếp tục xem xét định luật VII và Qui luật bốn một cách an toàn.

ĐỊNH LUẬT VII

Khi sự sống hoặc năng lượng tuôn chảy không bị cản trở và xuyên qua đúng hướng đến chỗ phóng hiện của nó (tức là tuyến liên hệ), bấy giờ h́nh hài đáp ứng và t́nh trạng sức khỏe kém biến mất.

615

 
Một trong những yếu tố thú vị mà đạo sinh nên lưu ư là giáo lư về các trung gian, có rất nhiều và được xem như là có tầm quan trọng rất lớn trong mọi giáo huấn huyền môn. Nó đă được nhấn mạnh (dù là diễn dịch sai lạc) trong giáo lư liên quan đến Đức Christ. Thiên Chúa giáo đă tŕnh bày Ngài như là có vai tṛ giống như đấng ḥa giải giữa một Thượng Đế cau có với một nhân loại dốt nát, đáng thương. Việc đó chẳng chút nào là chủ đích của cuộc giáng lâm hoặc công việc của Ngài, nhưng, ở đây tôi không cần đi vào thực nghĩa của nó. Tôi đă bàn đến chủ đề đó ở nơi khác, liên quan đến nền Tôn giáo Mới trên Thế Gian (“Những Vấn Đề Của Nhân Loại”, chương VI; và “Sự Tái Lâm Của Đức Christ”, chương V).

Trong giáo huấn huyền môn cũng có dạy (điều đó liên quan mật thiết với giáo lư Cơ Đốc) rằng linh hồn là trung gian giữa Chân Thần với phàm nhân. Ư tưởng tương tự cũng được thấy trong nhiều cách tŕnh bày của các tôn giáo khác, chẳng hạn Đức Phật được xem là Đấng trung gian giữa Shamballa với Thánh Đoàn, Ngài đảm trách nhiệm vụ này mỗi năm một lần. Chính Thánh Đoàn cũng là trung gian giữa Shamballa với nhân loại. Cơi dĩ thái (với từ này tôi muốn nói đến các thể dĩ thái của cá nhân, của hành tinh và của vũ trụ) là trung gian giữa các cơi cao với nhục thân. Toàn thể hệ thống huyền môn hay khai mở huyền bí được dựa trên triết lư tuyệt diệu này, về sự tương thuộc, về một sự liên kết hữu thức có sắp xếp và có kế hoạch, và về sự truyền chuyển năng lượng từ một trạng thái biểu lộ thiêng liêng này đến trạng thái khác. Ở đâu đâu, trong vật nào cũng có sự luân lưu, truyền chuyển và những cách truyền năng lượng từ một h́nh thể này sang một h́nh thể khác và luôn luôn qua một cơ cấu thích hợp. Điều này đúng theo ư nghĩa tiến hóa giáng hạ, ư nghĩa tiến hóa thăng thượng, cũng như trong ư nghĩa tinh thần. Tất cả các vị điểm đạo đồ cao cấp đều biết rơ ư nghĩa tinh thần có hơi khác với hai ư nghĩa kia. Có thể viết ra toàn thể luận đề về các tác nhân truyền chuyển năng lượng, và cuối cùng, nó sẽ bao gồm giáo lư về các Đấng Hóa Thân.

616

 
Đấng Hóa Thân là một Đấng có sứ mệnh hay khả năng đặc biệt (ngoài một công tác tự đề xuất và một vận mệnh tiền định) để hoạt động với các năng lượng, được truyền chuyển xuyên qua thể dĩ thái của một hành tinh hay một thái dương hệ; tuy nhiên, đây là một bí mật sâu xa. Nó được biểu lộ một cách đặc biệt và liên quan với năng lượng vũ trụ, bởi Đức Christ, Đấng mà lần đầu tiên trong lịch sử hành tinh đă truyền năng lượng bác ái vũ trụ trực tiếp cho cơi trần của hành tinh chúng ta, và cũng đặc biệt chuyển cho giới thứ tư trong thiên nhiên, tức là giới nhân loại. Điều này sẽ cho các bạn thấy rằng, dầu năng lượng bác ái là trạng thái thứ nh́ của thiên tính, nhưng Đức Christ đă thể nhập và truyền chuyển bốn phẩm tính của trạng thái này cho nhân loại, tất nhiên, cho các giới khác trong thiên nhiên – nhân loại chỉ có thể hấp thu được bốn phẩm tính này. Chỉ có một trong bốn phẩm tính này cho đến nay bắt đầu tự biểu lộ – đó là phẩm tính về thiện chí. Sau này, ba phẩm tính kia sẽ được hiển lộ, và một có liên quan theo một ư nghĩa đặc biệt đến phẩm tính trị liệu bằng t́nh thương. Theo Kinh Thánh Tân Ước, Đức Christ đă gọi phẩm tính này là “thần đức” (“virtue”) (là một sự phiên dịch không được đúng lắm đối với từ ngữ được dùng ban đầu). Khi mănh lực chữa bệnh nơi Ngài bị mất đi, Đức Christ đă nói là “thần đức đă rời khỏi ta”.

Tôi kêu gọi bạn chú ư đến điều này, v́ chân lư này liên hệ trực tiếp với định luật VII. Chúng ta đă thấy liên quan đến mọi tiến tŕnh trị liệu, về mặt huyền môn, nhục thân được xem như chỉ là một người máy. Nó chỉ là nơi nhận năng lượng được chuyển đến.

617

 
Chúng ta đă thấy rằng thể dĩ thái ở trong hay “nằm dưới” mọi h́nh hài, chính nó là một cấu trúc để truyền chuyển các năng lượng đến từ một nguồn nào đó – nguồn đó trước tiên chính là điểm mà sự sống bên trong h́nh hài đặt trọng điểm căn bản của nó. Với kẻ trung b́nh th́ thường thường đây là thể cảm dục, từ đó năng lượng t́nh cảm phát ra và t́m được chỗ dựa, trước khi chuyển vào thể dĩ thái. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp, sẽ có năng lượng của trí tuệ pha lẫn vào nhiều hoặc ít. Về sau, năng lượng linh hồn được củng cố (tôi tạm dùng một từ như thế) bằng thể trí đă thanh luyện và được truyền qua phàm ngă, th́ nó sẽ chi phối thể dĩ thái và do đó mà kiểm soát được các hoạt động của thể xác.

Định luật này đưa chúng ta chú ư đến sự kiện là dưói tác động của các năng lượng bên trong, đến phiên nó, nhục thân tạo ra một “cấu trúc để truyền chuyển năng lượng và tự động lập lại hoạt động của thể dĩ thái. Đáp ứng với các năng lượng lưu nhập từ thể dĩ thái, qua bảy bí huyệt chính, nó tạo nên một cấu trúc gắn chặt vào nhục thân mà chúng ta gọi là “hệ thống tuyến nội tiết”. Đáp lại năng lượng lưu nhập từ thể dĩ thái, đến lượt các tuyến này tiết ra những ǵ được gọi là hormone mà các tuyến truyền thẳng vào ḍng máu.

618

 
Tôi không định quá đặt nặng về kỹ thuật khi xem xét vấn đề này, chớ không viết cho giới y khoa. Tôi viết cho các độc giả không chuyên môn, họ thành thật thừa nhận rằng cho đến nay họ biết về vấn đề này ít biết bao. Kẻ hành đạo có t́m ṭi về y học cũng biết không được nhiều về sự liên hệ của các tuyến nội tiết với ḍng máu và với toàn thể hoạt động sinh lư của con người. Họ biết rất ít về liên hệ giữa nhiều loại tuyến với nhau. Các tuyến này tạo nên một hệ thống quản trị ăn khớp vô cùng quan trọng, được bảy bí huyệt dĩ thái liên kết, phối hợp, làm sinh động và điều khiển. Đây là một yếu tố mà nhà khoa học chính thống dễ dàng bỏ qua trong lĩnh vực này; cho tới khi y nhận ra được những ǵ tạo nên các tuyến nội tiết th́ y sẽ vẫn hoàn toàn mù tịt về nguyên nhân và các hậu quả thực sự. Các tuyến này là các phóng hiện trực tiếp của bảy loại năng lượng đang lưu chuyển qua bảy bí huyệt dĩ thái. Chúng chi phối tất cả các khu vực của cơ thể. Trong cách sáng tạo của chúng, bạn có biểu hiện rơ rệt của bức xạ và hoạt động từ tính của mọi năng lượng, v́ chúng đều được tạo ra bởi bức xạ từ bảy bí huyệt, nhưng hiệu quả của chúng – cá biệt và kết hợp – đều có từ tính. Bức xạ tách các nguyên tử vật chất trọng trược và tập trung chúng trong vùng chính xác trong thể xác sao cho chúng có thể hành xử như các bộ phận phân phối vào ḍng máu, và do đó vào nhục thân dưới h́nh thức một trạng thái của năng lượng lưu nhập. Tôi muốn bạn lưu ư rằng chỉ có một trạng thái năng lượng được phân phối như thế – chính trạng thái đó tương ứng với trạng thái thứ ba của chất liệu thông tuệ linh hoạt. Hai trạng thái tiềm tàng kia được phân phối dưới dạng năng lượng thuần khiết, ảnh hưởng đến các vùng chứ không ảnh hưởng đến một tiêu điểm thu hẹp như thế.

Tôi băn khoăn về vấn đề các tuyến này và liên hệ của chúng với các bí huyệt cần được hiểu đúng. Toàn bộ vấn đề có liên quan chặt chẽ với thuật trị liệu. Một trong những hiệu quả của việc áp dụng năng lượng trị liệu (qua trung gian của bất cứ bí huyệt nào chi phối vùng có điểm ma sát) là kích thích tuyến liên hệ và hoạt động ngày càng tăng của nó. Xét cho cùng th́ các tuyến là các tác nhân trung gian giữa nhà trị liệu với bệnh nhân, giữa bí huyệt với nhục thân và giữa thể dĩ thái với bộ máy tự động của nó, tức là nhục thân tiếp nhận.

619

 
Tiếp tục xét về tác nhân trung gian truyền chuyển năng lượng của các bí huyệt vào ḍng máu, tôi xin nêu ra rằng các bí huyệt tác động qua hệ thống tuyến nội tiết này nhờ tác động trực tiếp qua một tia hoặc ḍng năng lượng, phát ra từ trung điểm bên trong bí huyệt. Nhờ trung gian này mà chúng chi phối và kiểm soát toàn bộ các vùng của cơ thể. Chúng làm điều đó nhờ những trạng thái của các bí huyệt mà chúng ta gọi theo biểu tượng là “các cánh hoa sen”. Ở ngay tâm điểm của hoa sen, mănh lực của sự sống được hội tụ, và khi nó đi ra ngoài để nhập vào tuyến liên hệ, th́ nó khoác thêm tính chất của năng lượng mà bí huyệt chịu trách nhiệm, bởi v́ mănh lực của sự sống về thực chất không bị giới hạn. Tia sáng của sự sống, nếu người ta có thể gọi nó như thế, ở tại tâm của mỗi bí huyệt, được đồng hóa với nguồn cội của nó là Chân thần, và khi tiếp xúc với các cánh hoa của nó, th́ nó có được một phẩm tính chính yếu bẩm sinh của năng lượng thu hút. Mọi năng lượng tỏa ra từ nguồn cội duy nhất trong thái dương hệ này, đều liên quan với năng lượng mà chúng ta gọi là Bác Ái, và năng lượng này có sức thu hút mạnh mẽ. Các cánh hoa sen và vùng năng lượng bao quanh tạo thành h́nh hoa sen, đều được phẩm định bằng một trong bảy loại năng lượng thứ yếu. Chúng tỏa ra từ bảy cung vốn phát sinh từ nguồn cội duy nhất với vai tṛ là các Đấng Đại Diện của Đấng Sáng Tạo Thiên H́nh.

Như các bạn biết, ở trong thái dương hệ có bảy hành tinh thánh thiện, vốn là nơi ǵn giữ hoặc biểu lộ bảy cung này, tức bảy phẩm đức của Đấng Thánh Linh. Trong hành tinh chúng ta, tức Địa Cầu (vốn chưa là một hành tinh thánh thiện) cũng có 7 trung tâm mà khi cơ tiến hóa nối tiếp sẽ trở nên những nơi tiếp nhận bảy phẩm đức của cung từ bảy hành tinh thánh thiện, như vậy tạo ra (bên trong ṿng hạn định thái dương) một hệ thống ăn khớp rộng lớn gồm nhiều năng lượng. Như bạn biết rơ, ba trong số các trung tâm này, tiêu biểu cho ba cung chính:

1. Shamballa ……..   Cung Quyền Lực hay chủ đích.

                                    Ngôi Một.

                                    Năng lượng ư chí.

2. Thánh Đoàn …… Cung Bác Ái – Minh triết.

                                    Ngôi Hai.

                                    Năng lượng bác ái .

3. Nhân loại   ….…  Cung Thông Tuệ Linh Hoạt.

                                   Ngôi Ba.

620

 
                                   Năng lượng trí tuệ hay tư tưởng.

Có bốn trung tâm khác, cùng với ba trung tâm trên hợp thành bảy trung tâm, hay là bảy tiêu điểm năng lượng của hành tinh, chi phối sự biểu hiện cơ thể của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta. Qua các tiêu điểm đó, và hoạt động từ mức độ riêng của Ngài trên một cơi vũ trụ và qua Phàm Ngă thiêng liêng của Ngài tức là Đức Sanat Kumara, tức là Đức Lord of the World xúc tiến các mục tiêu của Ngài trên hành tinh chúng ta.

Tương tự trong tiểu thiên địa, tức con người, cũng có các tương ứng với bảy trung tâm này. Trong đó cũng có 7 bí huyệt chính, và chúng là những nơi tiếp nhận năng lượng phát ra từ bảy trung tâm hành tinh, tức là những nơi ǵn giữ bảy trạng thái của mănh lực cung. Ở các giai đoạn ảnh hưởng khác nhau, bảy năng lượng này chi phối sự biểu lộ của con người trong ba cơi thấp, làm cho y lộ rơ bản chất của ḿnh; vào bất cứ lúc đă định nào trong khi luân hồi, và cho thấy tŕnh độ tiến hóa của y (do hiệu quả hoặc thiếu hiệu quả của chúng trên các bí huyệt).

Bên trong đầu của con người có hai bí huyệt như thế và năm bí huyệt kia ở trên cột xương sống. Cột xương sống này là biểu hiện hồng trần của sự chỉnh hợp cốt yếu, vốn là mục tiêu trước mắt của các liên hệ trực tiếp, được con người tinh thần xúc tiến trong tâm thức và được mang lại như là kết quả của tham thiền đúng cách.

621

 
Tham thiền là một kỹ thuật của thể trí, sau rốt tạo được sự liên giao không bị cản trở và chính xác, đây là một tên gọi khác chỉ sự chỉnh hợp. Do đó chính là việc thiết lập một vận hà trực tiếp, không chỉ giữa cội nguồn duy nhất, tức Chân Thần, với biểu lộ của nó, tức phàm ngă đă được thanh luyện và kiềm chế, mà cũng c̣n giữa bảy bí huyệt trong thể dĩ thái của con người. Có lẽ điều này làm bạn ngạc nhiên, v́ nó đặt những kết quả của tham thiền trên căn bản của các hiệu quả thể xác, hay đúng hơn là của thể dĩ thái, và bạn có thể xem đó là những kết quả thuộc giai đoạn rất thấp. Đó là do sự kiện bạn đặt nặng phản ứng trí tuệ của bạn đối với sự chỉnh hợp được tạo ra dựa vào sự thỏa đáng mà bạn thu được từ một chỉnh hợp như thế, trong đó bạn ghi nhận được một hoặc nhiều thế giới hiện tượng và dựa vào các quan niệm và ư tưởng mới, tất nhiên chúng gây ấn tượng lên trí bạn. Những kết quả đích thực (vừa thiêng liêng vừa đáng ao ước về mặt huyền bí) là sự chỉnh hợp chính xác, liên giao đúng và các vận hà thông suốt cho bảy loại năng lượng trong hệ thống tiểu thiên địa, nhờ đó mà cuối cùng mang lại biểu lộ đầy đủ của thiên tính. Tất cả bảy bí huyệt trong thể dĩ thái của Đức Christ đều được điều chỉnh đúng, được chỉnh hợp chính xác, được thức động thực sự, đang hoạt động và tiếp nhận một cách thích đáng cả bảy ḍng năng lượng đến từ bảy trung tâm hành tinh. V́ thế mà các bí huyệt này giúp Ngài giao tiếp một cách mật thiết và đầy ư thức với Đấng mà Ngài sống, hoạt động và hiện tồn trong Đấng đó. Kết quả về mặt sinh lư của việc hoàn toàn “phó thác huyền vi của bảy bí huyệt” (đôi khi được gọi như thế) đối với các năng lượng tinh thần đang đi vào, trong trật tự và nhịp điệu đúng của chúng, là sự xuất hiện trong cơ thể Đức Christ một hệ thống tuyến nội tiết hoàn hảo. Tất cả những tuyến của Ngài (cả chính lẫn phụ) đều đang hoạt động chính xác. Điều đó tạo nên “con người hoàn thiện” – thể xác hoàn hảo, t́nh cảm ổn định và trí tuệ được kiềm chế. Theo cách nói thời nay, th́ “khuôn mẫu hành xử” của Đức Christ – do sự hoàn hảo của hệ thống tuyến của Ngài như là hiệu quả của các bí huyệt được tiếp năng lượng và khơi hoạt đúng cách – làm cho Ngài thành một biểu hiện của sự hoàn thiện thiêng liêng cho toàn thế giới. Ngài là người đầu tiên của nhân loại chúng ta đạt đến tŕnh độ tiến hóa này, và là “Người Anh Cả trong đại gia đ́nh anh em”, như cách diễn tả của Thánh Paul. Các h́nh ảnh hiện nay về Đức Christ cho thấy sự hoàn toàn không chính xác của chính chúng, v́ chúng không mang bằng chứng về sự hoàn thiện nào của hệ thống tuyến. Chúng đầy vẻ yếu ớt và dịu dàng, mà nêu ra không bao nhiêu sức mạnh, quyền năng nhạy bén và sức sống động. Có triển vọng rằng v́ Ngài hiện hữu thế nào, th́ trong cơi đời này chúng ta cũng có thể hiện hữu thế ấy.

622

 
Đây là hy vọng nằm đằng sau việc hiểu đúng khoa học về các bí huyệt. Tính xác thực về các bí huyệt sẽ được chứng minh cho mọi người khi các bí huyệt dần dần được linh hồn kiểm soát, được tiếp năng lượng một cách khoa học và chính xác, được đưa đến một t́nh trạng “sống động” thực sự và bắt đầu chi phối toàn vùng cơ thể dưới sự chi phối của bí huyệt đó, và – giữa các bí huyệt – đưa mọi phần của thân thể đến dưới ảnh hưởng bức xạ và từ điện của các bí huyệt đó.

623

 
Chính các bí huyệt giữ cho cơ thể ḥa hợp với nhau và làm cho nó trở thành một tổng thể cố kết, được tiếp năng lượng và linh hoạt. Như các bạn biết, khi sự chết xảy ra, giác tuyến (consciousness thread) được rút ra khỏi bí huyệt đầu, c̣n sinh mệnh tuyến (life thread) được rút ra khỏi bí huyệt tim. Điều chưa được chú trọng là hai sự rút lui này có ảnh hưởng trên mọi bí huyệt trong cơ thể. Giác tuyến bám chặt trong bí huyệt đầu, phẩm định cho các cánh của hoa sen mà kinh sách Đông phương gọi là “hoa sen ngàn cánh”. Các cánh của hoa sen đó có liên quan và có ảnh hưởng rơ rệt đến phẩm tính (cả bức xạ lẫn từ lực) lên các cánh trong mọi bí huyệt chính khác trong thể dĩ thái. Bí huyệt đầu giữ chúng ở hoạt động có đủ phẩm tính, và khi tính đáp ứng hữu thức này được rút khỏi bí huyệt đầu, th́ một hiệu quả tức th́ được cảm nhận trong mọi cánh của mọi bí huyệt. Năng lượng đủ phẩm tính được thu hồi và rời cơ thể xuyên qua bí huyệt đầu. Cùng kỹ thuật tổng quát cũng đúng đối với sinh mệnh tuyến đang bám chặt vào bí huyệt tim, sau khi đi vào (bằng cách kết hợp với giác tuyến) và thông qua bí huyệt đầu. Bao giờ sinh mệnh tuyến c̣n bám chặt vào bí huyệt tim, th́ nó tiếp năng lượng và giữ cho mọi bí huyệt trong cơ thể đều sống động, phát ra các tuyến sự sống của nó vào một điểm ở ngay tâm hoa sen, tức là ở tâm của bí huyệt. Tâm này, đôi khi được gọi là “bảo ngọc trong hoa sen”, dầu rằng nhóm từ này được áp dụng thường hơn cho điểm trụ của Chân thần ở tâm của hoa sen Chân ngă trên cơi riêng của nó. Khi sự chết xảy ra và sinh mệnh tuyến được linh hồn tập trung và triệt thoái từ tim vào đầu và từ đó trở vào linh hồn thể (soul body), th́ nó mang theo sự sống của mỗi bí huyệt trong cơ thể. V́ thế, xác thân chết đi và tan ră, không hợp thành một tổng thể sống động, hữu thức và cố kết nữa.

Liên quan với các bí huyệt này và phản ứng trong sự hợp nhất chặt chẽ với chúng, là hệ thống nội tiết hay hệ thống tuyến, trong thời gian nhập thế, sự sống hay năng lượng lưu chuyển qua hệ thống này không bị cản trở và theo đúng hướng trong trường hợp người tiến hóa cao, hoặc là bị cản trở và được định hướng thiếu hoàn hảo trong trường hợp người b́nh thường hay là người kém phát triển. Nhờ hệ thống kiểm soát hạch tuyến này mà h́nh thể con người đáp ứng hoặc không đáp ứng được với các năng lượng của thế giới chung quanh.

Liên quan đến chủ đề trị liệu hiện tại của chúng ta, một người có thể đau yếu hoặc khỏe mạnh tùy theo t́nh trạng của các bí huyệt và sự phóng hiện của chúng, tức các tuyến. Bao giờ cũng phải nhớ rằng các bí huyệt là tác nhân trọng yếu ở cơi trần, mà qua đó linh hồn hoạt động, biểu lộ sự sống và phẩm tính, tùy tŕnh độ tiến hóa đă đạt được, hệ thống tuyến chỉ là một hiệu quả – tất yếu và không thể tránh – của các bí huyệt mà linh hồn đang tác động qua đó. Thế nên, các tuyến biểu lộ đầy đủ tŕnh độ tiến hóa của con người và tŕnh độ đó có trách nhiệm về các khuyết điểm, và các giới hạn hoặc về các ưu điểm và các hoàn thiện đă đạt được. Hạnh kiểm và cách hành xử của con người ở cơi trần đều do bản chất các tuyến của y chi phối, kiểm soát và định đoạt, và các tuyến này lại bị chi phối, kiểm soát và định đoạt bởi bản chất phẩm tính và sức sống động của các bí huyệt. Đến phiên chúng, các bí huyệt này bị chi phối, kiểm soát và định đoạt bởi linh hồn với hiệu quả ngày càng tăng theo sự tiến hóa. Trước khi được linh hồn kiểm soát, th́ chúng bị chi phối phẩm định và kiểm soát bởi thể cảm dục và sau đó bởi thể trí. Mục tiêu của chu kỳ tiến hóa là mang lại sự kiểm soát, chi phối và định đoạt của linh hồn. Ngày nay, con người đang ở trong đủ mọi giai đoạn phát triển có thể tưởng tượng được trong tiến tŕnh này.

624

 
Tôi biết rằng nhiều điều nói trên đă được biết rơ và có bản chất lặp lại. Tuy nhiên, tôi thấy cần lặp lại để có thể có được sự sáng tỏ mới mẻ trong tư duy của bạn.

Điều cũng sẽ hiển nhiên đối với bạn là quá tŕnh nghiệp quả trong bất cứ kiếp sống cá nhân nào, do đó đều phải thể hiện qua phương tiện các tuyến, chúng chi phối phản ứng của con người đối với hoàn cảnh, và các biến cố. Các Đấng Nghiệp Quả Tinh Quân đă ghi lại các kết quả của tất cả các tiền kiếp và của tất cả các hoạt động đă xảy ra trong các kiếp sống ấy. Luật nghiệp quả đang xảy ra trong sự cộng tác chặt chẽ với các Nguyệt Thần, là các thần kiến tạo và xây dựng nên các thể tạo ra phàm ngă. Về sau, luật này c̣n hoạt động trong sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa với mục tiêu của linh hồn. Tất nhiên, toàn thể vấn đề này vô cùng phức tạp và khó hiểu. Những ǵ tôi có thể làm là đưa ra một vài chỉ dẫn, thế thôi.

Nhà trị liệu phải làm việc với hệ thống các bí huyệt này và các hiệu quả lộ bên ngoài của chúng, tức các tuyến, đồng thời y phải xem xét thật cẩn thận. Thí dụ mọi kích thích mà y có thể truyền đến cho một bí huyệt trong cơ thể bệnh nhân, hoặc là mọi cách tách/rút năng lượng ra khỏi một bí huyệt, sẽ có một hiệu quả rơ rệt nhất trên tuyến có liên hệ, và v́ thế lên chất tiết (secretion) mà tuyến đó quen tuôn đổ vào máu.

Lại nữa, như bạn biết, bảy bí huyệt chính và các tuyến liên kết của chúng là:

1. Bí huyệt đầu     tuyến tùng quả

2. Bí huyệt ấn đường       tuyến yên

3. Bí huyệt cổ họng    tuyến giáp trạng

4. Bí huyệt tim      tuyến ức (thymus gland)

625

 
5. Bí huyệt đan điền        tụy tạng

6. Bí huyệt xương cùng tuyến sinh dục (gonads)

7. Bí huyệt chót xương sống      tuyến thượng thận.

Cũng có các bí huyệt khác và nhiều tuyến khác trong cơ thể, nhưng đây là bảy loại mà nhà trị liệu cần đến. Các tuyến phụ hay thứ yếu được chi phối bởi bí huyệt đang kiểm soát vùng có vị trí của chúng. Tuy nhiên, nhà trị liệu từ chối không làm phức tạp tư duy của ḿnh bằng nhiều chi tiết về hệ thống tuyến phụ và những phức tạp của các liên hệ thứ yếu bên trong. Danh sách trên cũng đưa ra các bí huyệt và các tuyến mà về căn bản ấn định t́nh trạng sức khỏe – tốt, vừa phải hoặc kém – và trang cụ tâm lư của mỗi người. Nhà nghiên cứu nên ghi nhớ rằng hiệu quả sơ khởi /cơ bản (primary) của sự hoạt động của các tuyến và chất tiết của chúng là về mặt tâm lư. T́nh cảm và tư tưởng của một người trên cơi trần là những ǵ mà hệ thống tuyến của y tạo ra cho y, và nhân đó những ǵ chúng tạo được nơi thân xác y, bởi v́ những cái đó thường do trạng thái tâm lư của y: về trí tuệ và t́nh cảm ấn định. Người b́nh thường duy ngă phần lớn chú trọng vào thể xác, y ít chú ư hoặc không chú ư ǵ đến sự quân b́nh hoặc thiếu thăng bằng của hệ nội tiết của y, hoặc tạo ra (tôi tạm dùng từ ngữ đó) theo góc độ định đoạt của hệ nội tiết đó, hiệu quả tâm lư của y lên trên bạn bè của ḿnh. Tôi không định phân tích về các tuyến khác nhau, để ư xem chúng đáp ứng ra sao với t́nh trạng được khơi hoạt hoặc chưa khơi hoạt của các bí huyệt, hoặc chúng hạn chế hay tiến hành sự đáp ứng của con người ra sao đối với môi trường của y, hoặc ấn định cách lư giải về sự sống, tính tiêu cực hoặc tích cực của các phản ứng hằng ngày của y trước các biến cố và hoàn cảnh. Có thể nói một cách mạnh mẽ rằng một người có bản chất thế nào đều là do các tuyến của y định đoạt, nhưng đến phiên chúng, các tuyến này chỉ là hậu quả của một số nguồn năng lượng mạnh mẽ. Một lần nữa, như bạn thấy, tôi lặp lại chân lư trọng yếu này.

626

 
Chính v́ lư do này mà sau rốt, y khoa sẽ t́m thấy chân lư (họ cũng đă đang cảm nhận nó) rằng về cơ bản không thể đổi được cá tính (personality) và trang cụ hồng trần (physical equipment) của con người qua cách xử lư/ trị liệu chính các tuyến.

Trong ba, bốn mươi năm, các nhà nội tiết học đă xem xét và khảo cứu vấn đề này, chỉ tạo được một ít tiến bộ thật sự theo chiều hướng đó. Một số điều đă được t́m ra. Một vài kết quả về sự hoạt động hoặc bất động của các tuyến đă được ghi nhận. Một vài mẫu người đă được nhận ra như minh họa cho tính tích cực hoặc tiêu cực của hạch tuyến. Các biện pháp cải thiện đă được áp dụng và hoạt động của một tuyến đă được kích thích hoặc làm chậm lại (với hậu quả tốt hoặc xấu) bằng nhiều phương pháp và các loại thuốc khác nhau. Ngoài điều đó ra, người ta chưa biết thêm bao nhiêu, và những bậc tài trí lỗi lạc nhất trong lănh vực đặc biệt này đều biết được sự thực là họ đang đối diện với một “vùng đất lạ”. T́nh trạng này sẽ vẫn c̣n cho tới khi y khoa hiện đại nhận ra rằng thế giới nguyên nhân (đối với các tuyến nội tiết) là thể dĩ thái với bảy bí huyệt của nó; lúc đó họ sẽ ghi nhận sự thực là mọi công việc liên quan đến các tuyến phải được chuyển ra khỏi bảy hậu quả hay phóng hiện của các bí huyệt lên trên chính các bí huyệt.

Thế nên, nhà trị liệu không chú ư đến tuyến liên hệ và chỉ bận tâm trực tiếp với bí huyệt đang chi phối “điểm ma sát” và kiểm soát vùng ở dưới ảnh hưởng của nó. Tất nhiên, vùng này gồm có tuyến mà bí huyệt ấy đă tạo nên, hợp thành hay là đột hiện và tiếp năng lượng.

627

 
Như định luật này cho biết, ư niệm trong trí của nhà trị liệu sẽ là một vận hà không bị cản trở hoặc là một lối đi thông suốt, theo đó sự sống mang lại sức khỏe có thể lưu chuyển từ “bí huyệt cần thiết” trong thể dĩ thái của nhà trị liệu đến với bí huyệt gắn bó chặt chẽ trong cơ thể bệnh nhân, từ đó mà nhập vào ḍng máu, qua tuyến liên hệ. Đừng quên chân lư muôn đời vẫn đúng rằng “máu là sự sống” – mặc dù cho đến nay vẫn không thể giải thích được các ẩn ư của chân lư đó theo quan điểm của nhà huyền bí học, cũng như theo quan điểm của y học.

Nhà trị liệu phải học cách làm việc với nguyên khí sự sống (life principle) chứ không phải với năng lượng mơ hồ nào đó, vốn được phát khởi bằng quyền năng tư tưởng hoặc bằng mănh lực t́nh thương như là trường hợp được đưa ra ngày nay bởi nhiều hệ thống trị liệu khác nhau trên thế giới mà nhân loại đă triển khai. Nguyên sinh khí này được tiếp xúc và phát động bằng cách khai thông một số vận hà dĩ thái bên trong cấu trúc dĩ thái nằm bên dưới mọi bộ phận của cơ thể bệnh nhân. Việc khai thông này không tạo ra bằng cách nghĩ đến sức khỏe hoặc bằng cách xác nhận thiên tính, hoặc bằng cách loại bỏ “sai lầm” trong cách tiếp cận bằng trí mà bằng phương pháp b́nh thường hơn nhiều, tức là điều khiển các ḍng năng lượng, đi qua một số bí huyệt, và nhờ thế mà ảnh hưởng đến một số tuyến ở vùng thể xác bị bệnh, và là trung tâm của xáo trộn, đau đớn, và thống khổ.

Vậy th́ tư tưởng hoặc suy tư chính xác tất nhiên là đúng. Nhà trị liệu phải suy tư rơ ràng trước khi y có thể mang lại các kết quả mong muốn. Tuy nhiên, năng lượng tuôn đổ vào cơ thể bệnh nhân không phải là năng lượng trí tuệ, mà là một trong bảy dạng năng lượng prana hay năng lượng của sự sống. Năng lượng này đi theo đường sức hay vận hà nó nối liền và liên kết mọi bí huyệt này với các tuyến. Đừng quên rằng, năng lượng này tạo nên một bộ máy quản trị ăn khớp của các hệ thống sau đây. Theo quan điểm của nhà huyền bí học, th́ các hệ thống này là biểu tượng của các tiến tŕnh vũ trụ vĩ đại:

1. Toàn bộ thể dĩ thái, với các vận hà và các tuyến năng lượng thông thương của nó, ẩn dưới mọi bộ phận của cơ thể con người.

628

 
2. Bảy bí huyệt liên hệ, mỗi bí huyệt có tính cách riêng biệt và giao tiếp với mỗi và mọi bí huyệt kia, xuyên qua các vi tuyến lực hay tuyến lực bằng dĩ thái.

3. Các nadis tức hệ thống các vận hà dĩ thái hơi trọng trược hay là tuyến lực nhỏ đang nằm dưới toàn bộ hệ thần kinh. Chúng nằm dưới mọi loại dây thần kinh và mọi mạng lưới thần kinh.

4. Chính thần kinh hệ, trải rộng phạm vi ảnh hưởng của nó khắp toàn bộ cơ thể con người.

5. Hệ nội tiết hay hệ thống tuyến.

6. Ḍng máu, nơi tiếp nhận các ḍng năng lượng linh hoạt từ hệ nội tiết, xuyên qua cái được gọi là hormone.

7. Tổng thể liên hệ chặt chẽ vốn là biểu lộ thiêng liêng của con người tinh thần trong bất cứ kiếp luân hồi nào, và ở bất cứ tŕnh độ tiến hóa nào.

Do đó, hai ḍng năng lượng lớn tràn ngập và làm sinh động toàn bộ tập hợp các hệ thống này: ḍng sinh lực và ḍng tâm thức. Một ḍng hoạt động qua hệ thần kinh (ḍng tâm thức), c̣n ḍng kia th́ qua ḍng máu. Thực ra, cả hai có liên quan và kết hợp chặt chẽ đến nỗi trong khi hoạt động, một người thường không dễ ǵ mà phân biệt giữa chúng.

629

 
Tuy nhiên, nhà trị liệu không làm việc với trạng thái tâm thức, y làm việc hoàn toàn với trạng thái sự sống. Nhà trị liệu toàn hảo (điều mà hiện nay chưa có) làm việc thông qua điểm khép chặt và niêm kín bên trong bí huyệt (chính là tâm của bí huyệt ấy). Ở đó, có tâm điểm của sự sống. Từ điểm này bên trong bí huyệt, sự sống tỏa ra đi vào các cánh hoa sen. Việc kết hợp sự sống ở trung tâm và tâm thức, sẵn có ở các cánh hoa, là nguồn cội của con người đang sống, hít thở, đang cảm nhận – theo quan điểm vật chất (hồng trần) – và nhà trị liệu phải nhận ra được điều này.

Đằng sau sự linh động và tâm thức này là Bản Thể (Being), tức con người tinh thần, tức diễn viên, tức kẻ cảm nhận ở nhiều tŕnh độ khác nhau, và kẻ suy tưởng. Tính đơn giản của phát biểu trên có phần nào gây hiểu lầm, v́ có các yếu tố và các liên hệ khác và các năng lượng khác phải xem xét. Tuy nhiên, về căn bản th́ phát biểu ấy đúng, và nhà trị liệu có thể hành động dựa vào chân lư ấy.

Thực là thú vị mà nêu ra rằng Đại Thỉnh Nguyện hiện đang được phổ biến trên thế giới được căn cứ vào cùng ư niệm căn bản này của các hệ thống vĩ đại đang chi phối toàn thể nhân loại. Các hệ thống ấy có thể được tiếp năng lượng nhờ ḍng năng lượng lưu nhập, mang lại sức sống mới và sức khỏe cho toàn cơ thể nhân loại, qua các trung tâm hành tinh của nguồn sống và tâm thức thiêng liêng.

Qui luật bốn kèm theo định luật VII cũng rất quan trọng, v́ nó cực kỳ đơn giản, và v́ nếu hiểu và noi theo, nó tạo thành một qui tắc bắc cầu giữa các phương pháp khách quan và chủ quan để giải quyết bệnh tật. Định luật mà chúng ta vừa xét cũng rất mực đơn giản và minh bạch, các ẩn ư của nó có liên hệ đến bản chất bên trong và h́nh hài bên ngoài. Người nghiên cứu đừng để bị lừa dối bởi tính đơn giản và bởi những phát biểu đơn sơ và bộc trực đó. Có một khuynh hướng xem giáo lư huyền bí như là tất phải trừu tượng quanh co, luôn luôn cần phải dùng “ư thức huyền bí” (theo bất cứ ư nghĩa nào) mới có thể lănh hội được. Tuy nhiên, giáo lư càng tiến bộ, th́ rất thường khi nó càng được diễn đạt đơn giản hơn. Tính chất bí hiểm có liên quan với thiếu hiểu biết của nhà nghiên cứu – chứ không do cách tŕnh bày của vị huấn sư. Qui luật này được tŕnh bày như sau:

630

 
QUI LUẬT BỐN

Dựa vào các triệu chứng bên ngoài đă biết rơ, việc chẩn đoán bệnh thận trọng sẽ được đơn giản hóa đến mức mà khi đă biết và cô lập được cơ quan liên hệ, th́ bí huyệt trong thể dĩ thái vốn liên quan mật thiết nhất với nó trong thể dĩ thái sẽ tùy thuộc vào các phương pháp chữa trị theo huyền môn, dầu các phương pháp cải thiện thông thường như dùng thuốc, hoặc giải phẫu sẽ vẫn được dùng.

Qui luật này không cần được minh giải bao nhiêu, v́ nó gồm các chỉ dẫn, vắn tắt, rơ ràng. Ta hăy liệt kê ra:

1. Cần phải thận trọng chẩn đoán căn bệnh dựa vào các triệu chứng bên ngoài đă biết rơ.

2. Cơ quan vốn là trung tâm xáo trộn phải được xác định. Cả hai hoạt động này có liên quan đến nhục thân.

3. Kế đến, phải chú ư đến bí huyệt trong thể dĩ thái gần nhất với vùng có xáo trộn.

4. Lúc đó mới dùng những phương pháp trị liệu theo huyền môn, nhắm vào việc kích thích bí huyệt liên hệ, hoặc là làm ngược lại.

5. Đồng thời, mọi phương pháp chính thống bên ngoài vẫn được dùng.

631

 
Đa số nhà gọi là trị liệu thời nay, thường lầm lạc về vấn đề chẩn đoán thận trọng này. Họ không có hiểu biết đầy đủ về thể xác, về bệnh lư học, về các triệu chứng chính và phụ, để xác định bản chất của khó khăn. Đó là do nhà trị liệu thông thường chưa được huấn luyện về y học, đồng thời y lại chưa có được khả năng tâm thông để đạt được cách chẩn đoán thực sự theo phương pháp huyền môn. V́ thế mà y rơi trở lại vào giả thuyết chung rằng bệnh nhân đang bệnh, rằng trung tâm của xáo trộn dường như đang ở trong vùng này hay vùng nọ của thân xác, rằng bệnh nhân than phiền về một số đau nhức, và rằng nếu bệnh nhân có thể được làm cho đủ an tĩnh, nếu y có thể hiểu (cùng với nhà trị liệu) sự thực về thiên tính của y – hỡi bạn, ai có thể làm điều đó? – và bấy giờ, nếu y tin vào nhà trị liệu, th́ chắc chắn là y có thể được chữa lành.

Điều rơ ràng thường được ghi nhận là việc thiếu hiểu biết của cả bệnh nhân lẫn nhà trị liệu. Điều đáng phàn nàn là sự phỏng đoán của nhà trị liệu rằng, nếu sau đó bệnh được chữa lành, là hoàn toàn do theo đúng các phương pháp trị liệu, trong khi, rất có thể người bệnh sẽ hồi phục trong bất cứ trường hợp nào.

Việc chữa lành có thể đă được thúc đẩy bằng yếu tố đức tin, và đức tin chỉ là sự hội tụ năng lượng của bệnh nhân phù hợp với lời khuyên của nhà trị liệu, và do đó có sự “bộc lộ” năng lượng đó nơi vùng bệnh, tuân theo định luật “năng lượng theo sau tư tưởng”. Sự “bùng nổ” (xin tạm dùng một từ ngữ mạnh mẽ như thế) của năng lượng đức tin nơi hai người có liên quan – nhà trị liệu và bệnh nhân – về mặt huyền bí, đôi khi tạo ra sự kích thích về năng lượng đủ để đưa tới chữa lành bệnh, nơi mà trong bất cứ trường hợp nào việc lành bệnh tất phải xảy ra. Đó chỉ là tiến tŕnh thúc đẩy nhanh mà thôi. Tuy nhiên, đây không phải là trị liệu theo huyền môn thực sự, và không có các phương pháp chữa trị theo huyền môn đích thực nào được dùng hoặc có liên quan đến. Về mặt tâm lư, cùng một sự việc có thể được thấy xảy ra trong trường hợp một người “được cải đạo”, theo lối nói của Trường Phái Chính Thống Thiên Chúa giáo. Đức tin của người thụ giáo, đức tin của nhà truyền bá Phúc Âm, cộng với đức tin của người tham dự (nếu có) có thể mang lại việc chữa trị bằng tâm lư theo lối giải tỏa những sự chia cách, hoặc là tạo nên một sự nhất quán, cho dù chỉ có tính tạm thời.

632

 
Bao giờ cũng phải nhớ rằng trong thế giới được sáng tạo này không có ǵ trừ ra năng lượng đang hoạt động, và rằng mọi tư tưởng đều hướng dẫn một số trạng thái của năng lượng đó, mặc dầu luôn luôn ở trong phạm vi ảnh hưởng của một năng lượng nào đó vĩ đại hơn, có tư duy và có điều khiển. Cả đức tin của nhà trị liệu lẫn đức tin của bệnh nhân đều là những điển h́nh của năng lượng đang hoạt động, và hiện nay, thường thường là những năng lượng duy nhất được dùng trong mọi trường hợp trị liệu. Y học chính thống cũng tác động với cùng các năng lượng đó, bổ sung các phương pháp chính thống của nó với sự tin tưởng của bệnh nhân vào thầy thuốc, và vào kiến thức khoa học của thầy thuốc.

Ở đây, tôi sẽ không bàn rộng thêm về lời khuyên dùng thuốc và những phương pháp giải phẫu khi nào có thể được. Tôi đă đề cập đến vấn đề này nhiều lần trong giáo huấn về trị liệu này. Điều thiết yếu là mọi người nên hiểu rằng các kiến thức đă được xác định của y học và giải phẫu hiện nay, cũng chính xác nhiều như một biểu hiện của kinh nghiệm thiêng liêng và hiểu biết như các phương pháp đầy hy vọng, tự tin nhưng vụng về của cái gọi là trị liệu thiêng liêng – nếu không nhiều hơn hiện tại. Dầu rằng nhiều phương pháp của y khoa chính thống vẫn c̣n có tính cách thí nghiệm, chúng không hẳn là các phương pháp của các nhà trị liệu thời nay, và nhiều kiến thức khoa học của họ đă được chứng minh và xác thực. Nên sử dụng và tin cậy vào kiến thức khoa học đó. Phối hợp trị liệu toàn hảo là sự phối hợp của thầy thuốc và nhà trị liệu tinh thần, mỗi người làm việc trong lĩnh vực của ḿnh và cùng tin cậy lẫn nhau. Hiện nay, chưa có được trường hợp đó. Không cần ǵ phải kêu gọi đến sự trợ giúp thiêng liêng để sắp lại xương mà nhà giải phẫu đủ trang bị để làm, hoặc là để thanh toán một bệnh truyền nhiễm mà thầy thuốc biết rành cách ứng phó. Nhà trị liệu có thể trợ giúp và có thể thúc đẩy tiến tŕnh chữa trị, tuy nhiên, một y sĩ chân chính cũng có thể thúc đẩy công việc của nhà trị liệu. Cả hai nhóm đều cần lẫn nhau.

633

 
Tôi biết rằng những điều tôi đă nói ở đây sẽ làm cho nhà trị liệu tinh thần cũng như vị y sĩ chân chính đều không hài ḷng. Tuy nhiên, đă đến lúc họ học cách thông hiểu lẫn nhau và làm việc bằng sự hợp tác. Nói cho cùng th́ nhà trị liệu tinh thần và các cách chữa trị tâm trí mới đều tương đối ít đóng góp, nếu so với việc làm và kiến thức của một y sĩ chân chính. Thế gian mang ơn rất nhiều đối với các bác sĩ và các nhà giải phẫu. C̣n món nợ đối với các nhà trị liệu tinh thần th́ hiển nhiên là không lớn như thế. Họ cũng thường làm hư hỏng đường trị liệu bằng sự gay gắt và luôn chỉ trích các y sĩ và thầy thuốc chân chính. Sự chắc chắn của hiểu biết và kinh nghiệm ngăn chận được thái độ tương tự trong nhóm chân chính cộng với nhận thức rằng ngay cả nhà trị liệu tinh thần cũng sẽ nhờ đến bác sĩ trong những lúc khẩn cấp.

Giờ đây, định luật và qui luật cần xem xét sẽ đưa chúng ta vào lănh vực thực sự trừu tượng; sẽ không dễ dàng để bạn hiểu được nhiều về những ǵ tôi có thể nói đến. Định luật VIII này đưa chúng ta trở về chính nguồn cội của mọi hiện tượng có liên hệ đến con người – đó là ư chí của linh hồn bất tử muốn đầu thai xuống thế hay là muốn từ giă cơi trần. Định luật đó cũng đ̣i hỏi phải xem xét đến yếu tố Ư Chí trong việc tạo ra bệnh tật, như là phương tiện trực tiếp để đưa tới việc triệt thoái ấy. Cho đến nay, ít có sự hiểu biết về Ư Chí đến nỗi rất khó giải thích.

ĐỊNH LUẬT VIII

Bệnh tật và tử vong là kết quả của hai mănh lực chủ động. Một là ư chí của linh hồn, lực này bảo với khí cụ của nó: “Ta thu hồi tinh hoa trở lại”. Lực kia là lực thu hút của sự sống hành tinh, lực này bảo với sự sống bên trong cơ cấu nguyên tử: “Đă đến giờ phút tái hấp thu. Hăy trở lại cùng ta”. Tất cả mọi h́nh hài đều hoạt động theo định luật chu kỳ như thế.

Hai trạng thái trong bản chất của Ư Chí thiêng liêng được huy động nơi nào có liên quan đến bệnh tật và tử vong; một là ư chí của linh hồn muốn chấm dứt cuộc luân hồi. C̣n trạng thái kia là ư chí của Chơn linh địa cầu (spirit of the earth) (là mănh lực căn bản của tinh linh) muốn thu hồi những chất liệu đă được phóng xuất và tạm thời bị cô lập mà chính linh hồn đă tận dụng hết trong chu kỳ nhập thế.

Yếu tố thời gian, yếu tố về sự tương tác giữa mức độ ư chí vốn là mức của linh hồn với ư chí luôn luôn hiện hữu lan rộng của Chơn linh tinh linh của vật chất có liên hệ cộng với liên hệ theo chu kỳ của chúng. Chúng ta sẽ cố gắng xem xét các yếu tố này.

634

 
Những ǵ mà tôi phải nói ra ở đây rất quan trọng và sẽ chiếu rọi ánh sáng mới lạ vào toàn bộ vấn đề bệnh tật. Trước hết tôi sẽ bàn đến phần sau của định luật, phần này liên quan đến “lực thu hút của sự sống hành tinh”, lực này báo với sự sống ở trong cấu trúc nguyên tử rằng: “Đă đến giờ phút tái hấp thu. Hăy trở lại cùng ta”.

Để hiểu rơ điều vừa nêu, tôi xin nhắc bạn rằng, con người là một thực thể tinh thần, đang nắm giữ hay làm linh hoạt (tôi thích dùng thuật ngữ huyền học này hơn) một nhục thân. Nhục thân này là một thành phần của cơ cấu chung của toàn bộ hành tinh, gồm các nguyên tử sống vốn ở dưới sự kiểm soát của sự sống của thực thể hành tinh và là thành phần của sự sống đó. Nhục thân này được đưa vào tự do tạm thời và được hướng dẫn bởi ư chí của linh hồn đang làm linh hoạt, nhưng đồng thời vẫn là thành phần cố hữu của tổng thể mọi chất liệu nguyên tử. Vận cụ hồng trần này có sự sống của riêng nó và có một mức độ trí khôn mà chúng ta gọi là bản năng của nó, c̣n các nhà huyền bí học th́ gọi đó là tinh linh hồng trần (physical elemental). Trong thời gian luân hồi, tinh linh hồng trần này là lực cố kết hay là phương tiện nhờ đó thể xác giữ được h́nh dáng đặc biệt của nó dưới sự tác động của nguồn sống dĩ thái. Sức sống đó ảnh hưởng đến mọi nguyên tử đang linh hoạt và đưa chúng liên kết lại với nhau. Thể xác là biểu tượng lớn (trong sự sống Duy Nhất) của nhiều thứ hợp thành nó. Nó là sự thực được minh chứng của tính cố kết bên trong, của hợp nhất, của tổng hợp và của mối liên hệ bên trong. Prana hành tinh hay hồng trần (dạng thấp nhất của năng lượng prana) là sự sống của toàn thể các nguyên tử (cấu thành tất cả các ngoại thể), khi chúng được đưa vào liên hệ với cấu trúc nguyên tử riêng biệt của nhục thân, của một linh hồn cá biệt đang làm linh hoạt trong bất cứ giới nào của thiên nhiên – đặc biệt là giới nhân loại là điểm mà chúng ta đang nghiên cứu.

635

 
Về điều này, những ǵ đúng cho cá thể hoặc cho con người, tức tiểu thiên địa, th́ cũng đúng cho một hành tinh, vốn là một tổng thể cố kết, giống như con người. Sự toàn vẹn này là do sự liên hệ của hai trạng thái của sự sống: sự sống của Hành Tinh Thượng Đế và sự sống của Chơn linh địa cầu, vốn là sự sống của toàn thể mọi nguyên tử hợp thành mọi h́nh hài. Nhục thân của con người phù hợp với toàn thể vật chất linh hoạt, với sự sống tinh linh, và do đó là biểu tượng của sự sống đó. Hai sự sống này, hoạt động trong tiểu thiên địa cũng như đại thiên địa, tạo nên năng lượng prana sống động, nó luân lưu khắp thể dĩ thái của mọi h́nh hài, nó tạo ra sự mạch lạc hoặc là sự liên kết tổng hợp, có thể được nhận ra khi trạng thái trọng trược nhất của dĩ thái thể được nh́n thấy, như vậy tạo nên hào quang sức khỏe nơi thực vật, cây cối, hải sinh vật, thú vật và con người. Có các năng lượng và mănh lực khác lưu chuyển và chi phối thể dĩ thái, nhưng ở đây, tôi chỉ đề cập đến trạng thái hồng trần thấp nhất. Trạng thái này biểu thị cho sự sống của tinh linh trên hành tinh chúng ta, tức là Chơn linh địa cầu, một sự sống thiêng liêng đang tiến trên cung giáng hạ tiến hóa của công cuộc biểu lộ.

Chơn linh địa cầu này duy tŕ ảnh hưởng của ḿnh dựa vào các cấu trúc nguyên tử của mọi h́nh hài được nắn tạo, kể cả thể xác của con người. Cuối cùng chơn linh gom chúng lại và tái hấp thu những thành phần thuộc sự sống của chơn linh vốn tạm thời bị tách ra khỏi chơn linh trong bất cứ kinh nghiệm nhập thể của bất cứ linh hồn nào, trong bất cứ giới nào trong thiên nhiên. Cần để ư là, các nguyên tử này thấm nhuần hoặc bị chi phối bởi hai yếu tố mà chỉ một ḿnh chơn linh địa cầu chịu trách nhiệm.

1. Yếu tố nghiệp quả của sự sống của tinh linh trên hành tinh. Đây là một loại nghiệp quả kết tụ trên đường tiến hóa giáng hạ, hoàn toàn khác với nghiệp quả của Đức Hành Tinh Thượng Đế, Ngài là một Đấng tinh thần trên cung tiến hóa thăng thượng. Do đó, karma tiến hóa giáng hạ này chi phối kinh nghiệm sống, theo khía cạnh thuần túy vật chất của mọi h́nh hài làm bằng chất liệu nguyên tử.

636

 
2. Yếu tố hạn chế. Ngoài karma đang mang đến kết quả ở cơi trần, ảnh hưởng đến mọi h́nh hài cơi trần gồm có tinh chất tinh linh này, thể xác của mọi sự sống trong tất cả các giới của thiên nhiên cũng chịu sự chi phối vào đúng thời điểm của ảnh hưởng theo chu kỳ của chơn linh hành tinh và theo tŕnh độ tiến hóa của vị này. Chơn linh (spirit) tiến hóa giáng hạ này chưa đạt mức hoàn thiện, mà đang tiến đến một mục tiêu đặc biệt, vốn sẽ được đạt đến khi ṿng cung tiến hóa thăng thượng để học hỏi kinh nghiệm được đạt tới. Việc đó hăy c̣n xa. Đức Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta, – tức Đấng thiêng liêng vĩ đại mà trong Ngài chúng ta đang sống, hoạt động và hiện tồn, cho đến nay là một trong “các Thượng Đế chưa hoàn thiện” – theo quan điểm của mục tiêu ấn định cho tất cả các Hành Tinh Thượng Đế. Thể biểu lộ của Ngài, tức hành tinh của chúng ta, tức là Địa Cầu, chưa là một hành tinh thánh thiện. Chơn linh địa cầu thậm chí c̣n rất xa với mức hoàn thiện tương đối mà một con người hữu thức biết đến.

Tŕnh độ tiến hóa của chơn linh/ tiểu thần địa cầu ảnh hưởng đến mọi nguyên tử trong cơ thể Ngài – cơ thể của một thực thể tiến hóa giáng hạ. Kết quả của sự bất toàn này vốn không phải là bất toàn của Hành Tinh Thượng Đế, mà là của tiểu thần địa cầu (spirit of the earth), tự biểu lộ trong sự hiện hữu của bệnh tật dưới mọi h́nh thức trong mọi giới của thiên nhiên. Các khoáng chất đang chịu lệ thuộc vào bệnh tật và phân hủy. Ngay đến “độ mỏi” (“fatigue”) của các kim loại cũng là một sự kiện khoa học được ghi nhận. Thảo mộc và thú vật đều phản ứng với bệnh tật trong cơ thể của chúng, c̣n bệnh tật và tử vong đều sẵn có trong các nguyên tử tạo ra mọi cơ quan. Con người cũng không tránh khỏi điều đó. Thế nên, như tôi thường nói với các bạn, bệnh tật không phải do sự suy tư sai lầm, hoặc là do việc không xác nhận được thiên tính. Nó sẵn có trong chính bản chất của h́nh hài, nó chứng tỏ các bất toàn mà tiểu thần địa cầu đang chịu đựng. Bệnh tật là cách hay nhất nhờ đó sự sống tinh linh này giữ được toàn vẹn và có thể tái ḥa nhập những ǵ thuộc về sự sống này, nhưng đă bị mang đi theo những chiều hướng khác, do mănh lực hút của sự sống của những ǵ làm linh hoạt mọi giới khác trong thiên nhiên trong một chu kỳ lâm phàm.

637

 
Điều này chắc chắn sẽ mang lại cho bạn một ư niệm mới về bệnh tật. Dưới sức thôi thúc của linh hồn và ư muốn luân hồi, con người tạo ra một h́nh hài gồm có những chất liệu vốn đă bị chi phối. Chất liệu ấy đă thấm nhuần các xung lực sự sống của tiểu thần địa cầu. Nhờ làm thế, con người đảm nhận trách nhiệm về dạng tinh linh đó, nhưng đồng thời, y tự hạn chế một cách rơ rệt do bản chất của các nguyên tử hợp thành h́nh thể ấy. Chất liệu nguyên tử mà tiểu thần địa cầu dùng để tự biểu lộ bao giờ cũng sẵn có trong nó “mầm mống trở về”, cho phép tái hóa nhập. Chất liệu này cũng bao gồm mọi cấp độ và phẩm tính của vật chất, từ loại vật chất thô trược nhất, cho đến loại tinh tế nhất, thí dụ như phẩm tính của chất liệu tạo thành sắc tướng của Đức Phật, hoặc có thể của Đức Christ. Đấng Chưởng Quản Địa Cầu, Đức Hành Tinh Thượng Đế, không thể t́m thấy chất được làm sinh động bởi tiểu thần địa cầu với tính chất và bản chất đủ tinh khiết. V́ thế, Ngài không thể hiện ra (materialise) hay là tạo một sắc tướng như Đức Phật hoặc Đức Christ có thể làm. Trong số các Đấng hợp thành Huyền Linh Điện ở Shamballa, ít có vị nào t́m được chất liệu cần thiết hoặc thích hợp, để nhờ đó mà hiện ra (appear); các Ngài không thể chọn một nhục thân, và phải hài ḷng với một thể dĩ thái.

Thế nên, có ba mẫu sự sống, ảnh hưởng đến sắc tướng trọng trược của một con người, trong suốt cuộc biểu lộ bị hạn chế hay là luân hồi của y:

638

 
1. Sự sống của chính con người tinh thần được truyền xuống từ Chơn thần, xuyên qua linh hồn, đối với phần lớn của sự sống biểu lộ.

2. Sự sống của toàn thể vốn là sự sống tinh linh của giới thứ tư trong thiên nhiên, tức giới nhân loại. Sự sống này (theo Định Luật Cô Lập hay Giới Hạn) hăy c̣n là một trạng thái của sự sống của tiểu thần địa cầu.

3. Toàn thể của sự sống vốn có trong chính chất liệu nguyên tử – chất liệu mà nhờ đó mọi h́nh hài được tạo thành. Đó là sự sống của tiểu thần địa cầu.

Ở đây, chúng ta không đề cập đến linh hồn trong một nguyên tử hoặc là linh hồn của bất cứ một h́nh hài lớn hay nhỏ nào. Chúng ta đang bàn riêng về sự sống tức là trạng thái thứ nhất. Trạng thái này tự biểu lộ dưới h́nh thức ư chí hiện tồn (will-to-be). Dù bao giờ cũng hiện hữu, ư chí đó chỉ linh hoạt trong sự sống h́nh hài, tức là giai đoạn biểu lộ sáng tạo. Chính ở đây mà yếu tố Ư Chí xuất hiện và liên hệ giữa ư chí, h́nh hài và luân hồi hiện ra.

639

 
Một trong những yếu tố chi phối luân hồi là sự hiện hữu của cái gọi là ư-muốn-linh-hoạt. Khi ư muốn đó xuất hiện và khi nó có uy lực trong con người, th́ con người sẽ bám chặt vào cơi trần. Khi ư muốn đó không c̣n mạnh nữa, hoặc bị triệt thoái, th́ con người chết. Về mặt kỹ thuật và mặt huyền bí, sự sống nơi xác thân được duy tŕ dưới xung lực của ư-chí-hiện-tồn mạnh mẽ của con người tinh thần đang nhập thể, dựa vào từ lực của sự sống hành tinh, có sẵn trong mọi nguyên tử của bản chất h́nh hài. Nhờ vào các nguyên tử này – được tách ra và giữ lại bởi Luật Hấp Dẫn trong h́nh hài – con người mới xuất hiện ở cơi trần. Từ lực này là biểu hiện của ư chí (tạm dùng từ ngữ đó để chỉ ư thức cố kết vốn phân biệt tiểu thần địa cầu) của thực thể hành tinh. Đó là sự phóng chiếu trạng thái tâm thức đặc thù của Ngài vào một h́nh hài riêng biệt được tạo ra, chiếm giữ, ẩn náu bởi một linh hồn, bởi một người đang sống.

639

 
Đă nhiều lần, tôi dùng cách diễn đạt “h́nh hài riêng biệt” (“isolated form”), v́ chính trạng thái cô lập đặc biệt này vốn chi phối thể xác của một người (hoặc của bất cứ một sinh thể nào, cũng vậy), làm cho nó tách ra, cố kết và tạm thời sống kiếp sống riêng của chính nó, để đáp ứng với sự áp đặt đối với sức sống của linh hồn đang hóa nhập. Tạm thời, lực hợp nhất của các nguyên tử cô lập và tách ra –đặc biệt là cấu trúc hành tinh của tiểu thần địa cầu – ở vào trạng thái đ́nh hoăn đối với phản ứng cá nhân đối với sự sống hành tinh. Chỉ có các tính chất từ lực cố kết vẫn tồn tại trong bất cứ h́nh thức hoạt động nào và cùng với ư-muốn-linh-hoạt của con người tinh thần hoặc của một thực thể có linh hồn nào. Việc này tạo ra một h́nh hài cố kết, được giữ chung lại bằng hai sức sống: sức sống của tiểu thần địa cầu và sức sống của con người tinh thần. Do đó mà hai trạng thái của sự sống và hai h́nh thức của ư chí hoặc mục tiêu được tập hợp lại – xin nói như vậy cho dễ hiểu. Trạng thái cao có bản chất tiến hóa thăng thượng, c̣n trạng thái thấp th́ có bản chất tiến hóa giáng hạ. Chính điều này tạo ra xung đột. Một loại năng lượng th́ tiến hóa thăng thượng. C̣n loại kia th́ tiến hóa giáng hạ. Chính hai mănh lực xung đột này làm xuất hiện vấn đề nhị nguyên – một nhị nguyên giữa cái cao và cái thấp ở nhiều giai đoạn biến thiên khác nhau. Giai đoạn cuối của cuộc xung đột được giải quyết, hay nói đúng hơn là được vạch ra khi Kẻ Chận ngơ/Tổng Quả và Thiên Thần Bản Lai Diện Mục đối mặt nhau. Chính trong biến cố chung cuộc này mà sức thu hút hoặc phân tranh (conflict) giữa sự sống giáng hạ tiến hóa với sự sống thăng thượng tiến hóa, giữa ư chí thu hút c̣n phôi thai của các mănh lực tinh linh (sẵn có trong các nguyên tử mà cả ba thể của phàm ngă được tạo thành) với ư chí của con người tinh thần sắp thoát khỏi sự kiềm chế thu hút của vật chất, đưa tới kết thúc.

640

 
Tiểu thần địa cầu có sự tương ứng của thần này với biểu lộ sáng tạo của con người tinh thần, tương ứng đó được thấy trong cách sống của phàm ngă sơ khai. Phàm nhơn sơ khai này có thể và thường là một lực c̣n phôi thai, hoàn toàn bị dục vọng chi phối, và không có sự hợp nhất thực sự nào của phàm ngă. Tuy nhiên, nó có thể là một yếu tố mạnh mẽ và rất có tổ chức, tạo nên cái gọi là một phàm ngă cấp cao, và là một khí cụ hữu hiệu cho con người tinh thần trong ba cơi tiến hóa của con người. Điều này được nối tiếp sau đó bằng các mâu thuẫn trên Con Đường Đệ Tử và Con Đường Điểm Đạo. Sau đó nguồn sống của con người tinh thần và ư muốn biểu lộ thiên tính của y sẽ chi phối đến mức mà cái chết của phàm ngă xảy ra. Việc này lên tới tột đỉnh vào cuộc điểm đạo thứ ba. Với kinh nghiệm đó, ư chí Chân thần sẽ xuất hiện với sức mạnh năng động đến nỗi ư chí của các sự sống sơ khai của phàm ngă tam phân trở nên hoàn toàn bị tiêu tan.

Tuy nhiên, (trở lại chủ đề chúng ta) chất liệu nguyên tử tẩm vào sự sống của tiểu thần địa cầu và vào lực truyền động của ư chí c̣n phôi thai của tiểu thần; biểu lộ dưới h́nh thức sức mạnh từ lực và luôn luôn phân tranh/mâu thuẫn bên trong thể biểu lộ của linh hồn đang linh hoạt, với sự sống của linh hồn.

Sự phân tranh hay ma sát/va chạm này là nguyên nhân chính của cái mà bạn gọi là bệnh tật. Bệnh tật là sự thiếu hài ḥa. Đó là khuyết điểm của lửa do ma sát; vùng bị bệnh là các vùng ma sát, trong đó chất liệu nguyên tử tạm thời khẳng định kiểu sinh hoạt (livingness) riêng của nó và đáp ứng (đôi khi đưa đến điểm chết) với lực hút từ điện của ư chí tiểu thần địa cầu. Nếu lực hút ấy đủ mạnh, th́ sự ma sát trong cấu trúc nguyên tử, nằm trong vùng của bí huyệt dĩ thái nào đó, sẽ có được bản chất khiến tính chất của bệnh tăng lên, sự sống của con người tinh thần bị triệt thoái nhanh hoặc chậm. Bấy giờ, ư muốn tồn tại, tức là ư chí hiện tồn thiêng liêng không mạnh bằng ư muốn được tái hấp thu – đó là ư muốn của các nguyên tử đang tạo ra thể xác. Do đó, nói theo nghĩa thông thường, con người từ trần.

641

 
Sự sống/đấng hành tinh bảo rằng: “Giờ phút tái hấp thu đă đến. Hăy trở lại cùng ta”. Hiện nay, thôi thúc quay về là nốt vượt trội trong chất liệu của các thể của nhân loại; nốt đó chịu trách nhiệm cho sức khỏe kém khắp nơi vốn phân biệt đa số con người. Khuynh hướng này đă vượt trội trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, thái độ đó đang dần dần thay đổi. Rốt cuộc, sẽ đến lúc mà các nguyên tử của các thể, tức là các sức mạnh tinh linh (elemental forces), sẽ được gởi trở lại theo con đường tái hấp thu, chỉ theo ư chí của con người tinh thần và để đáp lại theo mệnh lệnh rành mạch của người, chứ không đáp lại sức thu hút của tiểu thần địa cầu.

642

 
Cho tới nay, khi nghiên cứu các định luật và các qui luật, chúng ta đă thấy rằng, về căn bản, bệnh tật và tử vong đều do việc triệt thoái của sự sống thái dương (tức năng lượng của linh hồn, đôi khi được gọi là lửa thái dương) hoặc là ra khỏi một vùng riêng biệt nào của thể xác, hoặc ra khỏi toàn bộ thể xác. Sự kiện này nhắc nhở các đạo sinh về việc cần phân biệt giữa mănh lực hay sự sống của các “nguyệt thần” sẵn có trong mọi nguyên tử mà các cơ quan và h́nh hài được làm ra, với năng lượng của linh hồn đang thấu nhập vào toàn bộ cơ thể, như một yếu tố hội nhập. V́ thế, nói một cách tượng trưng, có lắm khi sự sống của các nguyệt thần lấn át đến nỗi sự sống của linh hồn bị áp đảo trong một vùng đặc biệt nào đó, hậu quả là sự sống thái dương rút ra, gây nên bệnh tật. Hoặc nói cách khác, ma sát / va chạm xảy ra khi các nguyệt thần không nhượng bộ, gây ra bệnh tật. Tuy nhiên, cái chết không chứng tỏ sự toàn thắng của các nguyệt thần, mà đúng hơn việc đó nằm dưới kế hoạch của linh hồn, và cũng v́ chu kỳ sinh hoạt đă hoàn tất, năng lượng của linh hồn hoàn toàn được triệt thoái, chỉ chừa lại các nguyệt thần. Cũng v́ trong hoạch định của linh hồn mà đôi khi các nguyệt thần tạm thời chiến thắng, dù sự chết không xảy ra. Sự hồi phục có nghĩa là năng lượng của linh hồn từ từ tái nhập, và sau đó kiểm soát các nguyệt thần. Trạng thái năng lượng này của linh hồn, không phải là trạng thái của các năng lượng vốn tiêu biểu và dẫn đến sự biểu hiện phẩm tính của linh hồn. Nó là năng lượng sự sống đến từ Chân Thần, đi qua linh hồn như là vận hà và phương tiện giao tiếp. Không cần phải nói, vận hà trực tiếp của nó là sutratma. Đó không phải là antahkarana, hay sáng tạo tuyến (creative thread) hay tuyến tâm thức (giác tuyến). Các tuyến này thường bị làm cho không hoạt động khi xảy ra bệnh nặng, và trạng thái sự sống trở nên yếu đi, hoặc nhanh, hoặc chậm tự triệt thoái.

642

 
V́ vậy, bạn có thể thấy tại sao chính những người thành công trong việc tạo antahkarana, tức đường cầu vồng giữa Chân Thần với phàm ngă, lại lập được sự giao tiếp (không tồn tại nơi kẻ b́nh thường) giữa Chân Thần, tức Cội Nguồn Sự Sống với phàm ngă – biểu lộ của Sự Sống đó ở ngoại giới. Bấy giờ Chân Thần chớ không phải linh hồn, chi phối các chu kỳ biểu lộ bên ngoài, lúc đó, điểm đạo đồ sẽ tùy ư từ trần và theo kế hoạch hay các nhu cầu của công việc. Dĩ nhiên điều này chỉ liên quan tới điểm đạo đồ cấp cao. Tôi cảm thấy các điểm này cũng lư thú và hữu ích cho bạn. Xuất phát từ mọi điều trên, một điểm khác nữa cho thấy tính chất bao gồm mọi vật của Sự Sống thiêng liêng, v́ các nguyệt thần là các trạng thái của Sự Sống đó, cũng nhiều như là năng lượng của linh hồn.

Chính v́ vậy, điều tối quan trọng là nên khuyến khích việc hỏa táng, chớ không dùng cách chôn cất như hiện nay. Việc hỏa táng giúp cho sự sống của các nguyệt thần quay về với kho chứa sự sống trung ương nhanh hơn bất cứ phương pháp nào khác, v́, “Thượng Đế của chúng ta là một ngọn lửa hay thiêu hủy”, và mọi thứ lửa đều có sự tương cầu với Linh Hỏa trung ương.

Bây giờ, chúng ta hăy nghiên cứu qui luật kèm theo Định Luật VIII.

QUI LUẬT NĂM

643

 
Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, quả tim, bộ óc và đôi tay của ḿnh. Nhờ thế y có thể tuôn ra lực chữa trị linh hoạt vào bệnh nhân. Đây là công đoạn truyền từ điện. Nó chữa lành bệnh tật, hoặc tăng thêm t́nh trạng tệ hại, tùy theo hiểu biết của nhà trị liệu.

Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, bộ óc, quả tim và bức xạ của hào quang. Nhờ thế, sự hiện hữu của y có thể đưa vào sức sống linh hồn cho bệnh nhân. Đây là công đoạn phóng quang. Không cần đến đôi bàn tay. Linh hồn hiển lộ quyền năng của nó. Linh hồn của người bệnh đáp ứng qua sự đáp ứng của hào quang của y với bức xạ của hào quang người chữa trị, tràn ngập với năng lượng linh hồn.

Chỉ ngẫu nhiên đọc qua qui luật này, cũng thấy rơ rằng ư nghĩa rất quan trọng đối với mọi công cuộc trị liệu thành công. Nó tóm tắt hai cách chữa trị, căn cứ vào hai khả năng của nhà trị liệu, dựa trên hai nhóm bề ngoài có liên quan trong phàm ngă của nhà trị liệu, và cho thấy hai mức tiến hóa khác nhau về phía nhà chữa trị. Việc phân tích qui luật này sẽ dẫn tới một ư tưởng c̣n lớn hơn về tầm quan trọng của nó, v́ không những nó chỉ rơ những đường lối mà nhà trị liệu phải tự rèn luyện theo đó, mà c̣n một số liên hệ bên trong phải có, các liên hệ này tùy tŕnh độ tiến hóa của nhà trị liệu. Lại nữa, trong một trường hợp th́ thể xác của bệnh nhân là mục tiêu trị liệu, trong khi ở trường hợp khác, chính linh hồn của bệnh nhân mới cảm nhận được hiệu quả của năng lượng trị liệu. Trong trường hợp thứ nhất, nhà trị liệu vận dụng prana, hay lưu chất sinh khí hành tinh, c̣n trong trường hợp kia th́ dùng năng lượng linh hồn.

644

 
Thế nên, dựa vào qui luật này, chúng ta có thể chia các nhà trị liệu thành hai nhóm: một nhóm dùng lưu chất sinh lực dĩ thái mà chúng ta gọi là prana. C̣n nhóm thứ hai làm việc ở một cấp độ cao hơn nhiều và dùng khả năng làm cho năng lượng linh hồn đi xuống cơ thể (đúng hơn là phàm ngă) của nhà trị liệu, và – từ bí huyệt cần thiết – phóng nó vào bí huyệt thích hợp trong cơ thể bệnh nhân, nhưng lần này nhờ sự kích thích hào quang của bệnh nhân, được kiểm soát bởi linh hồn người ấy. Hai loại năng lượng này có tính chất khác nhau rất nhiều, bởi v́ một đàng thuần là năng lượng của phàm ngă, đôi khi được gọi là từ điện động vật (animal magnetism), c̣n một đàng là năng lượng của linh hồn, liên quan đến loại công việc được gọi là sự phát xạ.

Ở đây, chúng ta nên lưu ư rằng, thực ra, nhà trị liệu có ba hạng:

1. Nhà trị liệu hoàn toàn làm việc qua từ điện và tập gánh vác sức sống chữa trị linh hoạt của thể dĩ thái hành tinh, khi thể này dùng thể dĩ thái của cá nhân y như một vận hà, để nhờ đó prana có thể tuôn vào thể sinh lực của bệnh nhân.

2. Nhà trị liệu làm việc ở tŕnh độ cao, và do đó tất nhiên là với hạng bệnh nhân cao hơn. Y sử dụng năng lượng của linh hồn đang ứng linh của chính y (overshadowing soul, có lẽ là divine soul – ND) kết hợp với năng lượng của linh hồn đă thoát kiếp thú của y (individualised soul, có lẽ là human soul –ND), nhờ đó mà phóng năng lượng vào linh hồn của bệnh nhân, xuyên qua hào quang của hai người.

3. Nhà trị liệu có thể dùng cả hai kỹ thuật và phạm vi giao tiếp lẫn khả năng hữu dụng của y lớn hơn hai hạng trên. Y có thể sử dụng năng lượng của linh hồn, hay mănh lực sinh khí đều dễ dàng như nhau, do đó y thành thạo cả hai kỹ thuật chi phối hai nhóm năng khiếu liên hệ. Nhà trị liệu hạng này ít có hơn hai hạng trên nhiều.

Hiện nay, trong thế giới tân tiến, không có một hệ thống chữa trị tinh thần đích thực nào dạy trở thành nhà trị liệu tương lai. Thay vào đó là một nỗ lực căn cứ vào toàn thể tiến tŕnh trị liệu cộng với các kỹ thuật được sử dụng, hoàn toàn dựa vào các cấp độ trí tuệ, dựa vào các hệ thống xác nhận, các cách cầu nguyện, kích thích ư-chí-muốn-sống của bệnh nhân, và đôi khi cũng dựa vào con đường từ điện hoặc con đường thôi miên liên quan đến thể dĩ thái. Các h́nh thức tư duy khác nhau dùng ở nội tâm được dạy ra, nhưng chưa thực sự có được công thức nào để chữa trị sáng suốt như mong muốn, chỉ có niềm tin mơ hồ của nhà trị liệu và của bệnh nhân, và một sự tự ám thị mù quáng về cái mà sự thừa nhận và xác nhận về thiên tính có thể tạo ra.

645

 
Tuy nhiên, cách trị liệu đích thực được dựa trên vài nguyên tắc rộng lớn, nó đ̣i hỏi một chấp nhận rơ ràng trong trí. Vậy mà, những phương pháp được sử dụng lại rơ ràng là thuộc về vật chất, dùng luồng dĩ thái và các bí huyệt trong thể dĩ thái, như đặt tay lên đầu để ban phúc và tạo các liên hệ vốn ảnh hưởng đến thể xác, và vốn không chút ǵ có tính chất trí tuệ và không cần được dành riêng và ghi nhớ trong trí của bệnh nhân. Thể dĩ thái có bản chất thuộc hồng trần, và điều này đừng nên quên và cần lặp lại luôn luôn. Như trước đây, chúng ta đă thấy, có ba nguyên lư căn bản, được nhà trị liệu tin tưởng và xác nhận. Y sẽ được giúp đỡ rất nhiều, nếu người bệnh cũng chấp nhận nó:

1. Thực ra không hề có sự phân cách. Thể dĩ thái của hành tinh là một tổng thể nguyên vẹn và không gián đoạn. Các thể dĩ thái của nhà trị liệu và bệnh nhân đều là những phần toàn vẹn ở trong thể dĩ thái ấy.

2. Có một liên hệ không thể bẻ găy (dầu có thể không hiểu rơ) giữa thể dĩ thái của nhà trị liệu với thể dĩ thái của bệnh nhân, mối liên hệ này có thể được dùng đến, một khi sự giao tiếp đă được đem lại, v́ có sự lưu chuyển rơ rệt của các năng lượng.

3. Các vận hà liên lạc có thể trở thành tác nhân truyền dẫn nhiều loại năng lượng khác nhau, do người chữa trị truyền đến bệnh nhân. Trong sự kiện này có tồn tại cả hy vọng lẫn nguy hiểm.

Có nhiều nguyên lư khác nữa, nhưng ba nguyên lư này là thiết yếu và có tính chất giải thích đối với qui luật trên. Do đó, phần lớn việc trị liệu đều tùy theo kiến thức, sự thông hiểu và năng lực nhận thức của nhà trị liệu. Cả hai cách trị liệu bằng từ điện và bức xạ chỉ gây nguy hiểm khi nhà trị liệu không thành thạo, số lượng prana được đưa vào hoặc số năng lượng của linh hồn được phân phối có thể gây chết chóc cũng như sự sống. Nhà trị liệu có thể đưa/nạp prana quá nhiều vào thể dĩ thái của y, rồi phóng nó một cách mănh liệt vào thể dĩ thái của bệnh nhân, đến nỗi y có thể gây hại nhiều hơn là lợi. Chỉ nhờ thực hành nhiều, nhà trị liệu mới có thể biết đúng số năng lượng cần phát ra. Muốn học được điều đó, y nên vận dụng năng lượng càng ít càng tốt, và khi thao tác khéo hơn, y sẽ tăng dần số năng lượng lên. Nói rộng và nói chung, (xin nhắc rằng mọi qui luật đều có ngoại lệ), nhà chữa trị bằng từ điện sẽ làm việc với người kém tiến hóa hơn là với nhà trị liệu tinh thần dùng bức xạ linh hồn, và y sẽ đối trị chủ yếu với các bệnh nằm dưới cách mô. Nhà trị liệu tinh thần làm việc chủ yếu với phần trên cơ thể, qua các bí huyệt trên cách mô và với bí huyệt đầu, nhờ đó mà kiểm soát mọi bí huyệt trong toàn thân. Việc làm của họ vô cùng tinh vi, tế nhị, và có ẩn những nguy cơ lớn lao hơn nhiều. Nhà trị liệu đích thực, nếu là điểm đạo đồ, sử dụng hai phương pháp đều dễ dàng như nhau.

646

 
Dầu không đặc biệt hữu ích cho bạn, nhưng cũng lư thú khi nêu ra hai hạng nhà trị liệu khác, đôi khi cũng có. Họ làm việc hoàn toàn khác vói một trong hai phương pháp nói trên. Đó là:

647

 
1. Một số nhà trị liệu – họa hoằn lắm –, đă lập được liên hệ với tiểu thần địa cầu, tức Thần Cai Quản (Ruler) mọi nguyệt thần. Dưới một số công thức và căn cứ vào một số thực hành, các nhà trị liệu này có thể thỉnh cầu sự trợ giúp của thần này, và –thật ra– yêu cầu/ chỉ huy việc đó. Tôi không khuyên bất cứ đạo sinh nào trầm tư quá nhiều theo đường lối này, hoặc cố thiết lập sự giao tiếp hay thỉnh cầu sự trợ giúp của thần. Chỉ có điểm đạo đồ cao cấp mới có thể giao tiếp một cách an toàn với Tinh Linh giáng hạ tiến hóa đầy sức mạnh này. Các thần ấy chỉ làm thế trong các trận dịch và các đại họa quốc tế như thế chiến, trong đó liên can đến thể xác của nhiều ngàn người. Người chưa tiến hóa cao mà cố lập mối liên hệ đó, th́ có lẽ chỉ thành công trong việc kích thích các nguyệt thần, với hệ thống bé nhỏ của chính y tệ hại đến độ phàm ngă của y được tiếp năng lượng quá mức, thậm chí đôi khi đưa đến cái chết.

647

 
2. Có những nhà trị liệu khác, không hiếm như trong nhóm trên nhưng tương đối hiếm, hoạt động kết hợp với thiên thần trị bệnh. Có những thiên thần như thế, các ngài có quyền năng ban sự sống. So với các nguyệt thần giáng hạ tiến hóa, th́ các ngài giống như các Đấng Cao Cả ở Shamballa so với chúng ta. Các thần này không đáng ngại cho nhân loại, nhưng không dễ ǵ tiếp xúc được, ngoại trừ ở một giai đoạn nào đó trên Thánh Đạo. Khi đó, nói theo lối tượng trưng, một cánh cửa hay là điểm giao tiếp hiện ra giữa hai trường tiến hóa, v́ các thiên thần không ở trên cung tiến hóa giáng hạ. Sự liên hệ được thiết lập qua sự tương cầu (affinity), nhưng điều này chỉ do các thiên thần tạo ra, chứ không do nhà trị liệu. Nếu nhà trị liệu tiến hóa cao th́ Đức Thầy của y có thể chỉ dẫn một thiên thần phụng sự đến giúp y. Chỉ các nhà trị liệu rất thanh khiết và có động lực hoàn toàn vô kỷ mới có thể thu hút các thiên thần này, và khi được thiên thần trợ giúp, sức mạnh trị liệu của họ sẽ lớn hơn nhiều, họ ít tạo lầm lẫn hơn. Thí dụ như họ không cố gắng chữa trị bệnh nhân nào không có khả năng lành bệnh. Tử thần (Angel of Death) (lần này tôi không nói theo lối biểu tượng mà nói đến một vị thần có thực) sẽ không cho phép thiên thần chữa trị cộng tác; các thần này chỉ được phép tiếp cận khi việc chữa trị được chỉ dẫn.

648

 
Bây giờ, chúng ta có thể chọn các câu trong qui luật này và nghiên cứu ư nghĩa của chúng, v́ chúng có nhiều nghĩa hơn là bề ngoài. Trong mỗi đoạn của qui luật này, câu thứ nhất khởi đầu bởi một huấn lệnh quan trọng cho nhà trị liệu:

Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, quả tim, bộ óc và hai tay của ḿnh. Nhờ thế, y có thể tuôn đổ lực chữa trị linh hoạt vào bệnh nhân.

Đây là kỹ thuật loại thấp nhất của nhà trị liệu tinh thần đích thực. V́ thế, nó bao gồm hai mặt của nhục thân: bộ óc và hai tay. Do đó, nhà trị liệu làm việc qua một tam giác và hai đường năng lượng. Có thể mô tả vị thế này bằng giản đồ sau đây:

 

 

 

Tam giác được hoàn thành, khi việc trị liệu đă xong, năng lượng được rút ra khỏi tay, trở lại năo bộ, và từ đó quay về với linh hồn nhờ tác động của ư chí. Khi (nhờ thực hành chỉnh hợp) nhà trị liệu đă liên kết với linh hồn ḿnh, th́ lúc đó, y đưa năng lượng xuống bí huyệt tim của ḿnh, rồi chuyển đến năo bộ, nơi mà nó hội tụ rơ rệt. Dùng bí huyệt ấn đường làm trung tâm phân phối, bấy giờ y dùng tay làm phương tiện để năng lượng được định hướng có thể đến vùng bị bệnh trong cơ thể bệnh nhân. Y chuyển năng lượng vào bí huyệt gần sát của bệnh nhân đang chi phối vùng bệnh, từ đó nó tỏa ra phần cơ thể chung quanh, đi vào cả trung tâm có xáo trộn, lẫn các giới hạn của vùng nguy hiểm.

649

 
Có hai cách dùng tay, và hai phương pháp mà y vận dụng:

1. Đặt đôi bàn tay. Phương pháp này được dùng khi nơi có bệnh được khoanh vùng chặt chẽ. Hai tay được đặt trên bí huyệt ở xương sống, hoặc ở đầu có thể chi phối vùng đó. Tay phải đặt vào bí huyệt trên xương sống, c̣n tay trái th́ đặt ở vùng bụng, ngực hoặc đầu, là nơi mà bệnh nhân nói có bệnh. Chúng được giữ ở vị trí đó bao lâu mà người chữa trị có thể giữ được tam giác linh hồn, tim, năo bộ hiện rơ trong tâm thức.

650

 
2. Dùng hoạt động của tay. Nhờ đă xác định nơi có bệnh và kế đó khoanh vùng bí huyệt cần thiết trên xương sống hoặc nơi đầu, nhà trị liệu tạo được sự lưu chuyển năng lượng (qua hoạt động của hai tay), qua bí huyệt trong cơ thể bệnh nhân đang chi phối vùng bệnh, từ đó hướng ra ngoài qua vùng bệnh, hướng về phía nhà trị liệu. Trước hết, y dùng tay phải, đặt trên cơ quan hay vùng bị bệnh một chốc, rồi từ từ rút tay lại. Y lại dùng bàn tay trái làm giống như trên. Các bạn nên lưu ư là, cả hai bàn tay đều được dùng một cách tích cực. Không bộ phận nào hay dạng thức nào trong thể xác hay các thể của nhà trị liệu được để cho tiêu cực, c̣n cái tưởng tượng rằng tay mặt thuộc dương, tay trái thuộc âm nên vứt đi. Nếu một tay thuộc âm, th́ nhà trị liệu có thể bị thu hút vào chính ḿnh các nguyên tử nhiễm bệnh mà khi chữa được bệnh, y đă lôi ra khỏi vùng bị bệnh. Các nguyên tử này không đáp ứng với tác động của hai tay y, qua trung gian của bí huyệt trong cơ thể bệnh nhân gần chỗ có rối loạn nhất, mà được thải ra qua vùng vốn đă đáp ứng với bệnh.

Trong trường hợp đầu, nhờ đặt hai tay, bàn tay được giữ yên, mà ḍng năng lượng giữa hai tay tới lui bên trong vùng bệnh. Bí huyệt ở trên xương sống được dùng trong suốt thời gian đó, và, hoạt động được thiết lập, khi thành công sẽ thiêu hủy và hấp thu các mănh lực gây bệnh và không xâm nhập vào cơ thể nhà trị liệu. Ở trường hợp thứ nh́, các mănh lực gây bệnh được rút ra bằng tác động của năng lượng chuyển qua tay, áp vào tay này sau tay kia theo một nhịp đều đặn. Các mănh lực ấy chuyển qua hai tay, nhưng không thể tự tập trung ở đó, v́ sự tập trung của năng lượng trị liệu trong hai tay.

Các nhà trị liệu thuộc cung hai, ba và năm, thường dùng cách đặt vào hai tay, tức là chữa trị bằng từ điện (magnetic healing). Cách gọi này áp dụng cho hành động trực tiếp là đặt hai tay lên cơ thể bệnh nhân, chứ không theo hành động của hai tay trong phương pháp thứ nh́, khi hai tay được nhúng vào thể dĩ thái của bệnh nhân, và rơ ràng làm việc trong chất dĩ thái. Các nhà trị liệu thuộc cung một, bốn và bảy dùng phương pháp “nhúng tay”(“hand immersion”) như đôi khi được gọi thế. Ít có nhà trị liệu thuộc cung sáu, và chỉ thành công khi họ tiến hóa cao. Bấy giờ họ sẽ dùng hai phương pháp thay đổi cho nhau.

651

 
Tất cả các nhà trị liệu tinh thần tiến hóa đều dùng cả hai tay. Tuy nhiên, nhà trị liệu được khuyên trước hết nên xác định cung của họ, kế đó tự trau giồi cho thành thạo cách chữa trị thích hợp nhất với cung ấy. Kế đó, khi có khả năng thích hợp, và có thể vận dụng dễ dàng và khéo léo, họ có thể tập thêm cách trị liệu vốn không thích hợp lắm với loại cung của họ. Người thuộc cung sáu được khuyên nên ngưng việc trị liệu, cho đến khi họ đạt đến giai đoạn điểm đạo (một cách hữu thức). Khi thông thạo cả hai cách trị liệu bằng từ điện, nhà trị liệu có thể luân phiên dùng cả hai, trong việc chữa trị, hoặc là y có thể dùng cách truyền từ điện trước, để tạo nên hoạt động thay đổi trong vùng có bệnh, rồi, cuối cùng dùng cách đặt tay.

Vào cuối giai đoạn trị liệu, cần “phong kín tam giác”. Cho đến giờ, năng lượng nhận vào tay qua bí huyệt ấn đường đến từ năo, được triệt thoái vào ấn đường, và từ đó được hướng đến linh hồn bằng tác động của ư chí. Mănh lực trị liệu thực sự “bị tắt” và chuyển hướng. Nó không c̣n được dùng nữa.

Trong suốt thời gian chữa bệnh, nhà trị liệu không nói chuyện. Y không phúc đáp và không dùng thần chú chữa trị nào. Tiến tŕnh được vạch ra ở đây là tiến tŕnh về hiệu quả của năng lượng, tức là sức mạnh của linh hồn (soul potency) tác động vào mănh lực. Đây là điểm cần nhấn mạnh. Công việc của nhà trị liệu là duy tŕ tư thế tập trung cực độ vào tam giác “đang hiện hữu bằng các tuyến năng lượng sinh động” (như nó được gọi) ở trong hào quang gồm bốn phần của chính y – hào quang sức khỏe, thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí. Y phải giữ tam giác này nguyên vẹn và ổn định trong suốt thời gian trị liệu. Linh hồn-quả tim-năo bộ, phải được liên kết bằng cách “chiếu sáng” đến độ một người có nhăn thông thực sự có thể thấy một tam giác chói sáng trong hào quang nhà chữa trị. Điểm cao nhất của tam giác (điểm của linh hồn) có thể không thấy trừ phi chính y tiến hóa cao, nhưng y có thể không thấy được các dấu hiệu của linh hồn trong năng lượng đang tuôn vào bí huyệt tim và từ tim đến năo bộ. Việc cần làm là giữ im lặng. Nhờ thế mà không thất thoát sức mạnh bất cứ lúc nào, v́ sức mạnh luôn bị mất đi do lời nói hoặc phúc đáp. Nếu người chữa trị phát ra âm thanh nào, th́ y không thể giữ cho tam giác đúng dạng h́nh học, và từ điện bị phân tán/dao động. Điều này đ̣i hỏi nhà trị liệu phải có tŕnh độ chỉnh hợp cao và định trí vững, đồng thời cũng nêu ra cho bạn một số đường lối mà nhà trị liệu nên đi theo.

652

 
Cách chữa trị này có thể “chữa lành hoặc tăng t́nh trạng tệ hại, tùy mức hiểu biết của nhà trị liệu”. Dầu rằng đây không phải là giai đoạn chữa trị cao nhất, tuy nhiên, trong vài phương diện, nó là giai đoạn có trách nhiệm nhất, v́, trong trường hợp chữa bằng bức xạ, linh hồn của bệnh nhân hoạt động hợp tác với nhà trị liệu, và bấy giờ, linh hồn ấy chịu trách nhiệm chính. Trong từ điện trị liệu, nhà trị liệu cần nên hợp tác chặt chẽ với bác sĩ hay nhà giải phẫu cùng chữa trị. Vị này sẽ cung cấp những kiến thức chuyên môn, nhờ thế giúp nhà trị liệu khỏi sai lầm. Khi cái chết đă thấy rơ, và “dấu hiệu của sự chết” được cả bác sĩ lẫn nhà trị liệu ghi nhận, th́ nhà trị liệu không cần phải ngưng công việc. Do tiếp tục, y có thể làm tăng bệnh trạng, tuy nhiên, giúp cho bệnh nhân mau từ trần một cách b́nh thường. Tục ngữ xưa nói: “C̣n sống c̣n hy vọng”(“c̣n nước c̣n tát”), về căn bản, không đúng trong mọi trường hợp. Sự sống có thể và thường được kéo dài, sau khi ư chí của linh hồn được hướng về việc triệt thoái của sự sống của linh hồn. Sự sống của các nguyên tử của các nguyệt thần có thể được khuyến khích trong thời gian dài, việc này làm phiền lụy rất nhiều cho con người tâm linh, v́ con người này biết được diễn tiến và ư định của linh hồn ḿnh. Cái được giữ sống c̣n là xác thân, nhưng sự chú ư của chân nhân không c̣n được tập trung vào đó nữa.

Đến một điểm không thể tránh khỏi, thí dụ trong trường hợp bệnh ác tính, lúc đó thầy thuốc biết rằng cái chết chỉ là vấn đề thời gian, và, nhà trị liệu tinh thần có thể học cách nhận ra cùng dấu hiệu đó. Bấy giờ, thay v́ sự im lặng hiện có, nhà trị liệu và bác sĩ sẽ dùng thời gian c̣n lại này để chuẩn bị một cách đúng đắn, hầu giúp cho linh hồn “triệt thoái được thuận lợi và thoải mái” (nếu khả năng của bệnh nhân cho phép). Gia đ́nh và bạn bè của người bệnh cũng sẽ góp phần chuẩn bị. Trong những giai đoạn đầu của tôn giáo mới thế giới, cách ứng xử này đối với sự chết sẽ được dạy ra. Một quan niệm hoàn toàn mới về sự chết, nhấn mạnh vào sự triệt thoái hữu thức sẽ được giảng dạy, dịch vụ an táng, hay nói đúng hơn là việc hỏa táng, sẽ là những sự kiện vui vẻ, bởi v́ trọng điểm của chúng sẽ dựa vào sự giải tỏa và quay về của linh hồn.

653

 
Tuy nhiên, nếu vận mệnh bệnh nhân cho thấy sẽ lành bệnh, nếu bất ngờ linh hồn có chủ định kéo dài kiếp sống để hoàn thành một nhiệm vụ nào đó, hoặc bệnh nhân rất tiến hóa về tâm linh nên Thánh Đoàn cần y phụng sự thêm một thời gian nữa th́ việc chữa trị bằng từ điện sẽ thành công.

Bây giờ, chúng ta hăy xét đến bức xạ trị liệu.

Chúng ta sẽ xét đến một hoàn cảnh khác hơn hoàn cảnh vừa xem. Trong bức xạ trị liệu (radiatory healing), dầu hữu ư hay vô t́nh, bệnh nhân vẫn làm việc và hợp tác với nhà trị liệu. Trong bức xạ trị liệu, tiền đề căn bản đó là ít ra, bệnh nhân cũng đă có được sự liên giao với linh hồn ḿnh đến một mức nào đó. Khi đă có được mối liên giao này, th́ nhà trị liệu biết rằng một đường tiếp xúc có thể được thiết lập, và sự chú tâm của linh hồn có thể được đánh thức nơi người đại diện của nó, tức con người ở cơi trần. Nhà trị liệu cũng biết rằng, mức thành công trong cách trị liệu bằng bức xạ, phần lớn tùy vào khả năng của chính linh hồn y, tạo được sự liên giao vững chắc với linh hồn bệnh nhân. Khi bệnh nhân tỉnh táo và có thể cộng tác th́ việc trị liệu được trợ giúp rất nhiều. Tùy theo khả năng của nhà trị liệu khi vận dụng sự chỉnh hợp, sự tiếp xúc được nhận ra sẽ mang tính chất của sự trợ giúp mà y có thể đem lại cho người đang cần sự trợ giúp của y. Khi bệnh nhân thiếu tỉnh táo, ngay cả điều đó cũng không đưa tới trở ngại đáng kể nào, miễn là nhà trị liệu có thể đưa linh hồn ḿnh và linh hồn bệnh nhân vào sự liên giao. Thực ra, trong vài trường hợp, việc không tỉnh táo của bệnh nhân có thể trở thành hữu ích, v́ sự trợ giúp quá sốt sắng, quá cường điệu và thiếu nhẫn nại, có thể làm mất hiệu lực công việc trị liệu của người chữa trị – cần điềm tĩnh, yên lặng và biết kiềm chế.

654

 
Tuy nhiên, một khi mối liên giao được thiết lập, th́ công việc của nhà trị liệu chủ yếu là chỉ giữ cho sự liên hệ ấy được ổn định. Không được để cho có sự can dự nào vào công việc mà linh hồn bệnh nhân đang làm, được khởi động nhờ sự trợ giúp của người trị bệnh. Chân Sư Jesus ở trên Thập giá không thể đáp ứng với bất cứ sự cứu giúp nào (dầu Ngài có muốn làm thế) bởi v́ linh hồn thể (soul body) của Ngài đă bị thiêu hủy – trường hợp này luôn luôn xảy ra ở cuộc điểm đạo thứ tư; không có ǵ để đáp ứng với sức kêu gọi của một người ở bên ngoài, dầu người này quan tâm hoặc thương xót. Với cương vị là một cao đồ, nơi Ngài, Chân thần thức đă được tạo lập vững chắc, lúc đó, Đức Jesus không thể sử dụng những quyền năng mà Ngài đang có để cứu xác thân Ngài. Đồng thời, cũng phải nhớ rằng Ngài không có ư muốn làm thế, v́ lúc đó Ngài đă có quyền năng sáng tạo một xác thân tùy ư muốn để đáp ứng các nhu cầu của Ngài (về sau, trong câu chuyện Phúc Âm có chứng minh). Lỗi lầm tế nhị và chủ quan của các tông đồ là họ không chú ư đến sự thỉnh nguyện hoạt động linh hoạt của Đức Thầy nhân danh chính Ngài, mà họ chỉ hoàn toàn bận tâm đến nỗi buồn khổ của chính họ. (Họ không biết rằng thậm chí không bao giờ Ngài có thể làm điều đó). Nếu họ có cố thỉnh cầu, th́ hẳn là nó không ích chi cho Ngài, nhưng có thể có ích cho họ. Họ có thể nhận được khải thị về tính bất tử của linh hồn, hẳn là nó có thể đă soi sáng họ rất nhiều và có thể đă tạo nên một Cơ Đốc giáo được xây dựng chung quanh một Đức Christ hằng sống, chứ không phải chung quanh một Đức Christ tử đạo.

655

 
Trong bức xạ trị liệu, “nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, năo bộ, quả tim và sự phát xạ của hào quang y”. Bạn nên lưu ư hai điểm liên quan đến giáo huấn đặc biệt này, vốn khác với giáo huấn được đưa ra trong trường hợp trị liệu bằng từ điện:

1. Thứ tự trong tam giác năng lượng được tạo ra có khác.

2. Phương tiện tiếp xúc rất tế vi và không thể thấy.

Năng lượng được phóng ra đi theo con đường tiếp xúc trực tiếp với năo bộ, và nhà trị liệu bắt đầu làm việc bằng một tam giác đóng kín chớ không mở ra, như trường hợp từ điện trị liệu. Tam giác được tạo nên th́ đơn giản, không có việc tiếp xúc vật chất và giải tỏa nào như trong từ điện trị liệu:

 

 

 

 


Năo bộ của nhà trị liệu có liên quan, nhưng không có tiếp xúc vật chất thuộc loại nào với bệnh nhân. Kết quả là một sự lưu chuyển liên tục của mănh lực từ linh hồn đến, rồi trở về linh hồn. Sự lưu chuyển này tất nhiên gây ra sự gia tăng và đem năng lượng cho phàm ngă tam phân của nhà trị liệu, và do đó cho phát xạ hào quang của y. Người có nhăn thông sẽ thấy hào quang của y nới rộng rất lớn, chuyển động mau lẹ, và được tiếp năng lượng bằng ánh sáng từ chính linh hồn của y, nhưng mọi bức xạ của nó được hướng về phía bệnh nhân. Bằng cách này, lực trị liệu của người chữa trị kích thích cả ba hiện thể của phàm ngă của bệnh nhân. Linh hồn của bệnh nhân được trợ giúp trong công việc mà nó phải làm. Tất nhiên, nhà trị liệu sẽ thấy cần đứng ở phía có xáo trộn của bệnh nhân, sao cho bức xạ của hào quang y có thể xâm nhập dễ dàng hơn. Đây là cách dễ làm nhất, nhưng không hiệu quả lắm. Khi sinh lực bệnh nhân c̣n mạnh, y nên nằm nghiêng, và nhà trị liệu nên đứng sau lưng bệnh nhân, để cho năng lượng tuôn qua, mà nhà chữa trị có thể dùng và vốn đang đem lại năng lượng mạnh mẽ cho hào quang nhà trị liệu với năng lượng linh hồn, có thể ảnh hưởng đến hào quang của bệnh nhân, và như vậy làm cho bức xạ chữa trị dễ đi vào một hoặc nhiều bí huyệt đang cần mà nhà chữa trị đang đưa ra. Khi bệnh nhân là người tiến hóa rất cao th́ nhà trị liệu nên đứng phía đầu người bệnh. Hiệu quả của cá nhân y lúc đó sẽ không nhiều lắm, nhưng không quan trọng, v́ việc đó không cần thiết. Linh hồn của bệnh nhân sẽ thích hợp với công việc. Tất cả những ǵ cần đến là hào quang của nhà trị liệu, ḥa hợp với hào quang của bệnh nhân, tạo nên một vùng hoạt động nhịp nhàng, yên tĩnh quanh bí huyệt đầu. Không cần tiếp xúc bằng tay, và nhà trị liệu không v́ bất cứ lư do ǵ mà chạm đến bệnh nhân.

656

 
T́nh huống được tóm tắt bằng những lời: “Như vậy, sự hiện hữu của y có thể làm tăng sức mạnh cho sự sống linh hồn của bệnh nhân. Đây là công đoạn phóng quang. Không cần đến đôi tay”.

657

 
Nói theo biểu tượng th́ gần như một xoáy năng lượng lớn được tạo ra do sự tiếp xúc của hai hào quang và do rung động cao của chúng. Nhờ vùng xoáy đó linh hồn bệnh nhân có thể hoạt động dễ dàng. Nếu có mặt nơi đó, một điểm đạo đồ sẽ thấy một ḍng năng lượng màu hoàng kim tuôn thẳng xuống, qua các thể mang năng lượng của phàm ngă người bệnh, đi vào bí huyệt gần nhất với vùng xáo trộn. Sự tiếp cận xảy ra qua bí huyệt đầu, thẳng đến vùng bệnh, hào quang của nhà trị liệu cũng được hướng đến điểm này. Phong thái về tâm trí bệnh nhân được củng cố, và gạn lọc, nhờ sự phóng phát trong trí của hào quang nhà trị liệu. Phản ứng t́nh cảm của người bệnh thường rất mạnh và cũng được giúp để đạt được thản nhiên và yên tĩnh. Thể dĩ thái và hào quang sức khỏe của bệnh nhân cũng chịu ảnh hưởng rơ rệt dựa vào các trạng thái tương ứng của hào quang nhà trị liệu.

657

 
Bức xạ trị liệu được thực hiện bằng cách ḥa lẫn hai hào quang, cả hai đều ứng đáp với sự tiếp xúc của linh hồn. Dưới sự chi phối của linh hồn, trạng thái linh hồn của cả hai người lúc đó được hướng về một vùng nào đó trong cơ thể bệnh nhân. Việc này tạo ra một tác động mạnh mẽ lên vùng bệnh, và bí huyệt trong cùng khu vực đó được tiếp năng lượng thật nhiều. Công việc của nhà trị liệu trong tiến tŕnh này là công việc cực kỳ im lặng. Nhờ đă giao tiếp được với linh hồn của ḿnh, y chỉ việc chờ đợi và không phải làm thêm việc ǵ nữa, trừ việc giữ sự chỉnh hợp bền vững với linh hồn và không để cho điều ǵ quấy rối các thể của phàm ngă. Khi đă giao tiếp với chính linh hồn của ḿnh, và kế đó vươn sang giao tiếp với linh hồn bệnh nhân, th́ công việc của y đă xong. Y có thể làm việc đó, v́ y hiểu rằng mọi linh hồn đều là một. Rốt cuộc, thuật trị liệu sẽ là một trong các yếu tố điển h́nh để chứng minh tính duy nhất của mọi linh hồn.

V́ thế, qui luật này kết thúc bằng các lời: “Khi linh hồn của bệnh nhân đáp ứng bằng sự đáp ứng của hào quang của y với bức xạ của hào quang nhà trị liệu, tràn ngập với năng lượng linh hồn”. Bởi vậy, đó là vấn đề năng lượng linh hồn của cả hai bên, gặp nhau trên cả ba mức độ của ư thức con người. “Linh hồn” ở đây được dùng ở số ít, bởi v́ sự hợp nhất đă đạt được (dù cho chỉ trong một chốc). Linh hồn của bệnh nhân nhận ra sự hợp nhất này bằng “tiến tŕnh gia tốc huyền bí” (“occult quickening”) của chính hào quang của y và bằng sự đáp ứng của nó với các bức xạ từ hào quang của nhà trị liệu đang nhập vào. Việc tràn ngập với năng lượng linh hồn này qua trung gian hào quang của các hào quang liên hệ, toàn bộ như là một nỗ lực duy nhất, hướng vào vùng có bệnh trong cơ thể bệnh nhân. Do đó, bạn có thể thấy rằng – dầu người bệnh tỉnh hay mê – công việc trị liệu đều có thể tiến hành và hoặc là chữa lành bệnh, hoặc là “làm linh hoạt các nguyên tử được hướng dẫn, bởi hướng của linh hồn đưa đến việc thoát xác”, theo cách gọi của Cổ Luận về sự từ trần.

658

 
Khi biết rơ vận số của bệnh nhân là từ trần, th́ kỹ thuật của nhà trị liệu có hơi thay đổi. Lúc đó, y chọn vị trí phía đầu bệnh nhân, từ điểm đó, y làm lệch mọi bức xạ của chính y đến trung tâm bệnh, tất nhiên, việc này làm gia tốc hoạt động rung động. Trong lúc đó, dầu c̣n tỉnh táo trong nhận thức của bộ óc, hay mê man dưới sự điều khiển của linh hồn, bệnh nhân cũng bắt đầu tiến tŕnh triệt thoái mọi tâm thức ra khỏi thân xác. Điều này giải thích tại sao rất nhiều người hôn mê trước khi chết. Khi bắt đầu có sự triệt thoái tâm thức này, th́ nhà trị liệu ngưng công việc. Y “phong bế” sự giao tiếp với linh hồn của y, và lại nắm lấy sự kiểm soát hào quang của ḿnh như là phương tiện biểu lộ tinh thần của chính ḿnh. Nó không c̣n là một khí cụ để trị liệu bằng bức xạ nữa, và để cho người bệnh một ḿnh tự động hoàn tất việc triệt thoái giác tuyến và sinh mệnh tuyến ra khỏi bí huyệt đầu và tim.

 Đây là một phác đồ chung về các tiến tŕnh được theo trong cách trị liệu bằng bức xạ và từ điện. Ở đây, tôi đă trao cho bạn khung ư tưởng, mà không có các chi tiết; nhiều điều có thể được suy diễn và đưa ra khi chúng ta nghiên cứu bảy cách chữa trị với các hàm ư về cung của chúng.

659

 
Giáo huấn này được đưa ra theo cách sao cho kẻ nghiên cứu sẽ phải t́m ṭi khắp các trang sách của nó và gom lại các sự kiện cần ích, nhờ đó mà đưa ra giai đoạn đầu của biện pháp trị liệu tinh thần. Nếu chính y không phải là nhà trị liệu tinh thần và sẵn sàng đoán được ẩn ư và phân biệt giữa biểu tượng với sự thực, th́ y sẽ bị lầm lạc, và công việc của y trở thành vô ích. Điều này có dụng ư, v́, thuật chữa trị khi được áp dụng một cách hoàn hảo theo các công thức chính xác – có thể trở thành nguy hiểm. Nên nhớ rằng, mặc dầu năng lượng là tư tưởng, theo một quan điểm cao hơn, năng lượng cũng là lửa. Toàn thể các kỹ thuật thủ tục và các công thức, sẽ phải được khám phá, tùy vào kinh nghiệm và các kết quả được ghi nhận trước khi việc chữa trị tinh thần đích thực có thể xảy ra. Theo thời gian, việc khảo cứu này được hoàn tất, nó sẽ trở thành vấn đề an toàn hơn là hiện nay.

Trong thời gian ấy, nhiều lợi ích có thể hoàn thành và một số lớn điều được học hỏi, nếu những ai quan tâm đọc, nghiên cứu, suy gẫm, cẩn thận thực nghiệm, và như vậy, họ sẽ dần dần xây dựng môn học rất cần thiết này trở nên một cộng tác trong y khoa của thời hiện đại.

Bây giờ, chúng ta hăy xem xét định luật IX.

Trong định luật IX và qui luật sáu, chúng ta sẽ bàn đến những nguyên tắc cơ bản, sao cho vấn đề của chúng ta sẽ được diễn giải thành giáo huấn theo cách súc tích, đến nỗi các chủ đề rộng lớn đó có thể được vận dụng vắn tắt, đồng thời lại có vẻ sáng tỏ và giản dị. Thực ra, định luật này là một định nghĩa của Luật Tiến Hóa, nhưng được đưa ra theo khía cạnh tinh thần. Hiểu theo thông thường th́ Luật Tiến Hóa liên quan đến sự tiến hóa của trạng thái sắc tướng, khi nó ngày càng trở nên xứng hợp để trở thành một tiêu biểu hay một biểu lộ của năng lượng linh hồn và về sau của năng lượng Chân Thần.

Định luật này có thể gọi là Luật Hoàn Thiện, có liên quan tới năng lượng bên trong, vốn chịu trách nhiệm cho cách hoạt động của Luật Tiến Hóa. Nó là trạng thái cao, hay là nguyên nhân quyết định của trạng thái thấp. Các Luật phụ thuộc vào Luật Hoàn Thiện, được tân đệ tử gọi một cách thiếu chính xác là những định luật tinh thần. Nhưng về các Luật này, y không hiểu bao nhiêu và hợp nhất chúng trong trí, dưới ư tưởng tổng quát rằng chúng là biểu hiện của trạng thái bác ái của Thượng Đế. Về thực chất, th́ điều đó là đúng theo khía cạnh tính chất, nếu cùng lúc người ta cũng nhận biết rằng trạng thái bác ái cốt yếu là lư trí thuần khiết, chứ không phải là một loại t́nh cảm xúc động tự biểu lộ qua những hành vi ân cần.

660

 
Qui luật kèm theo định luật này, nói về mối liên hệ giữa t́nh thương và ư chí, v́ thế mà rất quan trọng đối với điểm đạo đồ. Ở đây, tôi muốn nhắc nhở bạn rằng chỉ có điểm đạo đồ mới là nhà trị liệu đích thực. Bởi vậy chỉ có đệ tử được điểm đạo mới có thể thực sự thấu hiểu được hai định luật cuối (định luật IX và X). Tuy nhiên, các định luật đó, về mặt trí tuệ, rất là lư thú đối với người sơ cơ, nhà nghiên cứu và người t́m đạo; v́, ít ra về lư thuyết, y cũng có thể hiểu được một vài ư nghĩa của chúng, dầu y hoàn toàn chưa có thể “nắm được định luật” – tức là hiểu được về mặt tâm linh.

ĐỊNH LUẬT IX

Hoàn thiện thu hút bất hoàn thiện lên trên mặt. Chính xua tà ra khỏi h́nh hài con người trong thời gian và không gian. Phương pháp đó được Đấng Hoàn Thiện vận dụng và những ǵ được Chính Phái dùng đến là đức vô tổn hại. Đây không phải là tính chất tiêu cực, mà là sự thăng bằng hoàn hảo, là một quan điểm đầy đủ và cảm thông thiêng liêng.

Định luật này vô cùng đơn giản, và hàm ư chính xác những ǵ được diễn đạt. Nó có thể được diễn dịch theo hai lối:

1.Nó liên hệ đến sự phát triển tinh thần của con người qua phương tiện h́nh hài, c̣n cách thức hoặc định luật mà dựa vào đó vật chất ngấm ngầm nắm giữ – vật chất này đă ngập tràn bởi tính vị kỷ và bởi tất cả những ǵ được nhận biết là tệ hại – bị đẩy ra và con người không c̣n bị ràng buộc nữa.

2.Nó cũng có thể được diễn giải liên quan tới nhà trị liệu với bệnh nhân. Thường thường, hiệu quả của hoạt động và hiểu biết của nhà trị liệu chân chính là để phơi bày ra (dưới h́nh thức sắc bén) cái tệ hại (tức là bệnh tật) trong h́nh hài. Kết quả của việc này có thể, hoặc là loại ra bệnh tật và dành lại sức khỏe, hoặc là h́nh hài sẽ khuất phục để tăng thêm khó khăn và có thể bệnh nhân sẽ chết. V́ thế mà may mắn thay việc làm của nhà trị liệu bậc trung thường là vô hiệu khiến cho khả năng chết người ấy không thể xảy ra !

661

 
Phương pháp được sử dụng, theo Luật Hoàn Thiện, được gọi là “vô tổn hại hoàn toàn” (“perfect harmlessness”). Đức Christ, Đấng Hoàn Thiện bao giờ cũng sử dụng phương pháp đó. Đó không phải là tính vô tổn hại mà tôi rất thường đưa ra khi tôi nói đến những người t́m đạo, mà là đức vô tổn hại do con người tâm linh và mệnh số tự nhiên của y ấn định. Đó là sự không bận tâm đến hiệu quả hay kết quả dựa vào bản chất h́nh hài. Luôn luôn tôi nói với bạn rằng Thánh Đoàn chỉ làm việc với bản chất tinh thần hay là với linh hồn của nhân loại, và đối với các Chân Sư th́ các Ngài xem h́nh thể tương đối là không quan trọng. Con người tinh thần bao giờ cũng xem việc giải thoát ra khỏi ba hạ thể là thành tựu to nhất, miễn là việc đó đến với y theo thiên luật, theo kết quả của vận mệnh tinh thần của y và sự định đoạt của nghiệp quả. Điều đó không phải xảy ra như là một hành động độc đoán, hoặc như sự trốn lánh cuộc sống và các hậu quả của nó ở cơi trần, hoặc là do tự ḿnh đặt để. Trận đại chiến (1914 –1945) là một trường hợp nổi bật cho sự tác động khó hiểu này của Luật Hoàn Thiện (khó hiểu đối với quan điểm giới hạn của con người). Hàng triệu người thiệt mạng; thêm nhiều triệu người chịu đau khổ tàn khốc trong thể chất, và nhiều triệu người nữa đă (và vẫn đang) trải qua đau thương trong tâm trí, với lo âu, thấp thỏm và nghèo đói. Tuy nhiên, có hai kết quả chính có bản chất tâm linh, hoạt động theo Luật Hoàn Thiện:

1. Nhiều linh hồn được thoát ra khỏi nền văn minh thoái hóa và suy tàn – v́, theo quan điểm của Thánh Đoàn, đó là nền văn minh khoác lác của bạn – và sẽ tái sinh trong những thân xác tốt đẹp hơn với một nền văn minh và văn hóa thích hợp hơn cho các nhu cầu của con người tâm linh. Lư do chính giải thích có sự hủy diệt hoàn toàn các h́nh hài cũ kỹ ấy (thể xác, thể cảm dục và thể trí) chính là v́ chúng đă tạo thành một ngục tù hoàn hảo của linh hồn và làm tiêu tan mọi phát triển thực sự của đại khối con người.

662

 
2. Từ người giàu đến kẻ nghèo, từ người thông minh đến kẻ dốt nát, có một điều hiện đang được hiểu rơ, và sẽ ngày càng tác động tới sự suy tư của nhân loại, đó là: hạnh phúc và thành công không tùy thuộc vào những vật sở hữu hoặc dựa vào lợi ích vật chất. Ư tưởng đó là sự lầm lẫn của tổ chức lao động, khi tổ chức này tranh đấu và tạo ra nhiều tiền của hơn, để sống phong lưu hơn. Đó cũng là lỗi lầm của quần chúng khi họ phản kháng lại việc rút ngắn của ḍng chảy vào liên tục các của cải vật chất. Nhân loại đă vấp phải lầm lẫn đó trong vô vàn thời đại, và đă sai lầm nặng nề khi chú trọng vào những ǵ có ích cho h́nh hài. Đây là cái hay trong lập trường của nước Nga, khi nước này chống lại chủ nghĩa tư bản và nhấn mạnh vào giáo dục. Tuy nhiên, sự tàn nhẫn và độc ác của họ và (nhất là) sự đàn áp các quyền của cá nhân người dân đối với một số tự do thiết yếu, rốt cuộc có thể làm tiêu tan cái tốt đẹp, và hy vọng của chủ nghĩa lư tưởng ban đầu. Nước Nga th́ đúng trong chủ nghĩa lư tưởng của nước này, nhưng các phương pháp của nước đó th́ khủng khiếp và sai lầm về căn bản. Nước Mỹ và Anh th́ ở mức lưng chừng. Các nước này có được tầm nh́n đó, nhưng không biết cách nào để thể hiện và làm nó thành hiện thực, v́ họ không thích (điều này đúng) một chế độ độc đoán. Tinh thần tư bản và chủ nghĩa phát xít tiềm ẩn của Hoa Kỳ hiện nay đang là một mối đe dọa rơ rệt cho ḥa b́nh thế giới, các nhà tư bản đang ngăn chận các nỗ lực của những kẻ có thiện chí. Anh quốc hiện đang mất thế lực, tài chánh suy sụp, các chính sách đế quốc lỗi thời của họ hoàn toàn bị loại bỏ, c̣n nhân dân th́ chán nản. V́ thế mà Anh quốc bận lo chiến đấu để sống c̣n (và nước đó sẽ sống), đến nỗi có ít th́ giờ, sức chú tâm hoặc năng lực c̣n lại để làm cho tầm nh́n đó thành hiện thực.

663

 
Như bạn biết, luôn luôn có sự tương ứng giữa cá nhân với toàn thể thế giới con người. Chỉ v́ ngày nay, thực ra mỗi con người đều có một cái ǵ đó sai lệch nơi y về thể xác –đau mắt, tai, răng hay là bệnh nơi xác thân có bản chất nào đó – thế nên, nhân loại chịu ốm đau và chờ chữa trị. Việc chữa trị này sẽ được Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian và những người có thiện chí mang lại, được Thánh Đoàn trợ giúp và các năng lượng trị liệu sẽ được rút từ trung tâm hành tinh ấy. Sự bất toàn đă được đưa lên trên mặt; các sai trái cần loại ra, đều được mọi người biết đến, việc này xảy ra dưới ảnh hưởng của Luật Hoàn Thiện. Ở đây, tôi bàn đến t́nh trạng chung, hơn là sự liên hệ cá nhân giữa nhà trị liệu với người bệnh. Tôi làm thế v́ lư do giản dị là, chỉ có một điểm đạo đồ có kinh nghiệm và hiểu biết, mới có thể nắm vững được luật này và tuân theo qui luật này; và người như thế hăy c̣n rất ít trên thế giới ngày nay. Bệnh tật của nhân loại, là hậu quả của bao kỷ nguyên sống sai lầm, của mục tiêu ích kỷ và sự hám lợi, đă tạo ra cả khối bệnh về thể xác. Ngày nay, hàng triệu đứa trẻ ra đời, hoặc mắc bệnh bẩm sinh, hoặc là mang mầm bệnh trong người. Khi biết được cái tệ hại đă gây ra bệnh tật, và khi các bất toàn được đưa ra ngoài, để được chữa trị, hoặc là đẩy lùi về vùng riêng biệt của chúng, th́ bấy giờ – và chỉ bấy giờ – bệnh thể xác mới đến lúc chấm dứt hoặc là dễ dàng đầu hàng việc chữa trị.

Ở đây, khi xét vấn đề tổng quát về bất toàn và tệ hại, th́ chúng ta bàn đến các nguyên nhân (bậc điểm đạo bao giờ cũng phải làm như thế). Khi chính các nguyên nhân này được xóa bỏ, th́ các hậu quả cũng biến mất. Thế nên, lư thuyết tổng quát và các tiền đề của Khoa Học Thiên Chúa giáo và Phong Trào Hợp Nhất th́ đúng, nhưng hoàn toàn sai lầm trong các trọng điểm và các phương pháp của họ. Rốt cuộc mọi việc mà họ làm hiện nay đều tương đối vô ích, ngoại trừ chừng mức mà họ duy tŕ và tŕnh bày Định Luật Hoàn Thiện, cho dù họ làm điều đó một cách hỗn độn, c̣n giáo huấn của họ bị pha trộn bằng tính ích kỷ chung.

664

 
Bạn thường được dạy rằng có hai cách thành đạt, một là con đường tiến hóa lâu dài, khó nhọc phải mất bao thiên kỷ mới đạt được những kết quả tương đối nhỏ; hai là con đường tắt, gian khổ hơn, nhưng mau đưa đến điểm đạo. Trong nhiều kỷ nguyên, nó vẫn là nghi vấn (bạn có gọi đó là điểm cần thảo luận hay không?), phải chăng thế giới loài người nên chọn (tốt hơn là chọn) phương pháp chậm nhưng an toàn. Đó là một phương pháp mà sự bất toàn chỉ được loại ra rất chậm răi, con người chỉ cố gắng rất ít và không căng thẳng bao nhiêu. Đó là một cách mà cái tốt lành chỉ được từ từ nhận ra, c̣n sai trái chỉ bị loại ra chậm chạp, rất chậm. Theo hệ thống tiến hóa thông thường, ư-chí-hướng-thiện của Shamballa chỉ hiện ra yếu ớt, và ngay cả với tŕnh độ phát triển của con người, cũng phải mất nhiều thiên kỷ nữa mới có thể đạt đến được.

Tuy nhiên, đă xảy ra một sự việc mà ngay cả Thánh Đoàn cũng không đoán trước được. Trong hai trăm năm qua, toàn cảnh đă thay đổi. Số người thích hợp đă được điểm đạo và đă nhập vào các Đạo Viện của các Chân Sư. Nhờ quyết tâm của những người t́m đạo thành công ấy, và do hoạt động liên tục của họ, mà họ đă quyết định rằng cần phải đi theo con đường khó khăn và nhanh chóng. Từ đó, có ba yếu tố lộ rơ:

1. Yếu tố tiến bộ phi thường trong việc nâng cao tâm thức của hàng loạt nhân loại, lên các tŕnh độ trí tuệ cao siêu hơn. Bằng chứng của bước tiến này là sự phát triển giáo dục, các khám phá của khoa học, việc kiềm chế mức độ vật chất và không gian.

2. Yếu tố thống khổ trên khắp thế giới, những thảm trạng kinh tế, các cuộc thế chiến, các thiên tai, vô số biến cố và những vấn đề nan giải khiến cho sinh hoạt cá nhân, sinh hoạt quốc gia và sinh hoạt hành tinh trở nên quá nặng nhọc ngày nay. Không ai thoát khỏi, và không có sự tách biệt nào.

665

 
3. Yếu tố về sự tăng thêm hiểu biết liên quan đến Thánh Đoàn và nhất là về Thiên Cơ. Điều này đ̣i hỏi người t́m đạo và các đệ tử đang hoạt động tŕnh bày cho con người thấy được mục tiêu, cộng thêm việc phác họa các phương pháp tiến trên Thánh Đạo, nhờ đó mục tiêu này có thể đạt tới. Chỉ có các đạo sinh của Đạo Viện đảm đương công việc nói trên, c̣n các nhóm giáo hội khắp thế giới th́ chưa hề làm. Tất cả những ǵ mà các giáo hội ấy đă làm là bảo tồn trong tâm trí đại chúng sự thực về Thượng Đế Siêu Việt, trong khi lại không biết sự thực về Thượng Đế Nội Tại; đưa ra chứng cứ về sự hiện hữu của Đức Christ, trong khi lại bôi bác giáo huấn của Ngài, giảng dạy sự thật về sự bất tử, trong khi phớt lờ Định Luật Luân Hồi.

V́ thế nhân loại đang tiến nhanh trên Đường Hướng Thượng, và có hai việc có thể được xem là kết quả: thứ nhất, các bất toàn và sai trái (một đàng th́ tiềm tàng, c̣n đàng kia th́ linh hoạt, tuy vậy đang suy thoái), sẽ ngày càng hiện rơ đối với người sáng suốt; thứ nh́ là cách loại trừ chúng cũng sẽ được biết rơ.

Ở đây tôi không bàn đến bản chất của sự bất toàn, hoặc là mục đích của sai trái. Tôi có cần nêu ra cho bất cứ độc giả nào của tôi tại sao cả hai đều hiện hữu một cách không thể tránh khỏi chăng? Tôi có thể vạch rơ rằng sự bất toàn có sẵn trong chính bản chất của vật chất, và là một kế thừa từ thái dương hệ trước. Tôi có thể chỉ rằng sai trái xuất phát từ hệ cấp của các tà lực vốn là tương ứng về mặt vật chất so với Huyền Giai thiêng liêng. Điều này liên quan tới sự kiện rằng, mọi cơi của chúng ta, đều làm bằng vật chất của cơi hồng trần vũ trụ. Cũng có thể nói rằng, khi sự bất toàn của vật chất được hiểu rơ, và được điều chỉnh, khi sự quan tâm và chú trọng của nhân loại được chuyển ra khỏi các t́nh trạng vật chất, chừng ấy các Tà Lực sẽ không có ǵ trong ba cơi thấp (ba phân cảnh thấp của cơi hồng trần vũ trụ) để dựa vào đó mà tác động. Lúc đó, dù hiện hữu, tà lực vẫn sẽ không có ǵ để chúng có thể ảnh hưởng được, và không có cách nào để ảnh hưởng lên con người. Hiện nay, tôi không thể mong các bạn hiểu được ư nghĩa của các lời này. Tuy nhiên, chúng có liên quan đến những lời trong Đại Thỉnh Nguyện nói rằng “phong bế cánh cửa mà tà lực ẩn náu”. Có một cửa vào nẻo ác và vào tối tăm, cũng như có cánh cửa vào nơi thánh thiện và ánh sáng.

666

 
Đối với kẻ tận tụy tuân theo tà đạo th́ ma quỉ cũng giống như Kẻ Chận Ngơ (Tổng Quả Báo), đối với người t́m đạo trên đường tinh thần.

Công việc chính của Thánh Đoàn bao giờ cũng đứng giữa các Tà Lực với nhân loại, để đưa sự bất toàn ra ánh sáng sao cho tà đạo “không c̣n chỗ” hành động, và để cửa mở vào lănh vực tinh thần. Thánh Đoàn đă làm việc này với trợ giúp nhỏ của nhân loại. Giờ đây, t́nh h́nh này đă thay đổi, và thế chiến đă là biểu tượng và bảo đảm của sự thay đổi ấy. Trong thế chiến, các Lực Lượng của Chính Đạo, tức Liên Hiệp Quốc đă chiến đấu với các Tà Lực trên cơi trần và đă hoàn toàn đánh bại họ. Đối với cuộc chiến, có một ư nghĩa tinh thần lớn lao hơn mà con người chưa hiểu. Nó đánh dấu một bước ngoặt trên thế giới, nó đă định hướng nhân loại về điều thiện. Nó đă đẩy lùi các Tà Lực và đă minh giải (việc này mới mẻ và cần thiết) sự khác nhau thực sự giữa thiện và ác; và điều này không theo ư nghĩa thần học – như các nhà b́nh giải trong giáo hội tŕnh bày – mà xảy ra thực tế và rơ rệt. Điều đó được chứng minh bằng t́nh h́nh kinh tế thảm hại và bằng sự hám lợi của những viên chức quan trọng trong mọi nước. Nhờ sự phân biệt rơ rệt giữa thiện với ác, thế giới loài người đă thức tỉnh trước sự kiện bóc lột vật chất, trước việc thiếu tự do thực sự, trước các quyền mà cho đến nay không được đ̣i hỏi của cá nhân. Năng lực con người chống lại chế độ nô lệ trở nên thấy rơ ở khắp nơi. Việc những người tranh đấu cho tự do dùng những phương pháp sai lầm và thường cố lấy ác chống ác tuy hoàn toàn đúng, nhưng, đó chỉ là những kỹ thuật chuyển tiếp và trong giai đoạn tạm thời. Tạm thời theo quan điểm của Thánh Đoàn (dầu có thể là dài theo quan điểm của con người trong ba cơi thấp), nhưng ngày nay, nó không c̣n cần phải kéo dài nữa.

667

 
Trong hai trăm năm qua, sự tiến bộ của con người nhiều đến nỗi Đại Hội Đồng ở Shamballa đă buộc phải chú ư đến. Do kết quả của sự chú ư này của các Đấng Cao Cả chung quanh Đức Sanat Kumara và sự quan tâm của các Ngài vào các sự việc của nhân loại, có hai việc xảy ra:

1. Trạng thái ư chí của Thượng Đế đă tạo ra sự giao tiếp trực tiếp và rơ rệt đầu tiên với trí người. Sự tác động này là trực tiếp chớ không bị lệch đi – như trường hợp xảy ra từ trước đến giờ – đến với Thánh Đoàn, và từ đó đến nhân loại. Tùy theo mẫu người hoặc nhóm người ứng đáp hay phản ứng lại với sự giao tiếp này mà các kết quả cũng khác nhau: hoặc họ trở nên rất tốt hoặc cực xấu. Những người cao cả và thánh thiện đă xuất hiện và đưa ra các chân lư cần thiết cho Kỷ Nguyên Mới, trong các vị này có thể kể Lincoln, Roosevelt, Browning, Briand và rất nhiều nhân vật thứ yếu khác. Những người độc ác cũng xuất hiện như Hitler và nhóm người qui tụ quanh y, họ đă mang lại nhiều tàn hại trên thế gian.

2. Đồng thời, ư-chí-hướng-thiện đến từ Shamballa đă khơi dậy thiện chí tiềm tàng trong con người, khiến cho ngày nay và hơn một trăm năm qua, thiện chí của ḷng con người, sự ân cần trong hành động, tận tâm với kẻ khác và các hoạt động tập thể để thúc đẩy phúc lợi cho nhân loại, đă trải rộng khắp Địa Cầu.

668

 
Sự xuất lộ của bất toàn và nỗ lực có hoạch định của tà phái đă diễn ra song song bằng sự xuất hiện của Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian và bằng sự chuẩn bị mà Thánh Đoàn đang làm cho sự hiển lộ trên cơi trần. Hiện nay, Thánh Đoàn đang rất năng động. Các Đạo Viện của Thánh Đoàn đang đầy các điểm đạo đồ và các đệ tử; phạm vi ảnh hưởng hay từ trường của Thánh Đoàn đang thu hút nhiều ngàn người t́m đạo, hướng về Thánh Đoàn. Chiến tranh đă giáng một ngọn đ̣n chí tử vào tà phái vật chất và ảnh hưởng của chúng trong nhân loại đă yếu đi rất nhiều.

Đừng lầm lẫn tà phái với các hoạt động của đạo tặc và tội phạm. Tội phạm và đạo tặc là hậu quả của các bất toàn đang xuất hiện trong quần chúng. Họ là nạn nhân của sự vô minh, ngược đăi khi c̣n bé và việc hiểu sai về các liên giao chánh đáng của con người suốt bao thời. Cuối cùng, Luật Luân hồi sẽ dắt họ lên con đường thiện. Kẻ theo tà phái thực sự là kẻ t́m cách thúc ép việc quay về với đường lối cũ kỹ, xấu xa; họ cố giữ huynh đệ ḿnh trong t́nh trạng nô lệ theo lối nào đó; họ ngăn chận sự biểu hiện của một hoặc cả bốn Quyền Tự Do, họ thu đoạt của cải vật chất với sự thiệt tḥi của kẻ bị bóc lột, hoặc là người t́m cách giữ cho riêng ḿnh, để đạt sản vật của địa cầu, v́ thế họ khiến cho giá cả của các nhu yếu của đời sống quá cao đối với người nghèo. Những kẻ hành động, suy tính, và vạch kế hoạch như thế đều có trong mọi nước và thường vượt lên do sự giàu có và ảnh hưởng của họ. Tuy nhiên, họ phạm tội đi ngược chính đạo chứ không do vô minh. Các mục tiêu của họ thuộc về vật chất chớ không phải tinh thần. So với hàng triệu người khác, th́ họ tương đối ít, nhưng họ rất có thế lực. Họ rất thông minh, nhưng vô đạo đức. Chính qua họ mà các Tà Lực hoạt động, đẩy lùi sự tiến bộ, thúc đẩy nghèo đói, nuôi dưỡng thù hận và phân biệt giai cấp, nuôi dưỡng phân biệt chủng tộc cho mục đích riêng của họ, và giữ cho sự ngu dốt ngự trị. Tội lỗi của họ nặng nề và thật khó cho họ thay đổi, bởi v́ quyền lực và ư-muốn-quyền lực (v́ nó đi ngược với ư-chí-hướng-thiện) là một yếu tố nổi bật kiểm soát tất cả trong các cách sống của họ. Ngày nay, những người này đang hoạt động chống lại sự hợp nhất của Liên Hiệp Quốc, qua tham vọng của họ, quyết tâm của họ làm chủ các tài nguyên của địa cầu (như dầu mỏ, khoáng sản và lương thực) và như thế làm cho người dân yếu đuối với thức ăn không đầy đủ. Những người này có ở mọi nước, họ hoàn toàn biết nhau và cùng làm việc trong các tổ hợp lớn để khai thác tài nguyên của địa cầu, gây thiệt hại cho nhân loại.

669

 
Ngày nay, nước Nga (Russia) nổi bật v́ không có hạng người đó, cho nên, ở đây, tôi không nói đến nước rộng lớn đó như nhiều nước thù nghịch của nước Nga có thể phỏng đoán. Russia phạm các sai lầm lớn, nhưng đó là các sai lầm của một kẻ theo ư thức hệ cuồng tín, tức là của một kẻ đạo tặc, y phạm tội v́ thiếu hiểu biết, v́ chưa trưởng thành hoặc trong cơn giận trước các tệ hại mà y đang bị vây quanh. Đây là điều hoàn toàn khác với cái sai trái mà tôi đă bàn ở trên. Nó sẽ không kéo dài, bởi v́ nước Nga sẽ nhận ra, c̣n các nước khác th́ chưa học được bài học.

670

 
Tôi dùng minh họa trên để làm cho chủ đề của tôi sáng tỏ phần nào. Tuy nhiên, toàn bộ vấn đề tà phái th́ quá rộng lớn, nên không thể đem ra xem xét ở đây, cũng không khôn ngoan hay sáng suốt khi bàn về cội nguồn của tà vạy (chứ không phải về sự bất toàn), tức Tà Phái. Năng lượng theo sau tư tưởng, và lời được nói ra có thể được gợi lại mạnh mẽ. Cho nên, khi nào chưa là một thành viên của Thánh Đoàn, th́ điều khôn ngoan là tránh xem xét những thế lực mạnh ấy, chúng đủ tinh nhạy để dùng sự bất toàn tiềm tàng trong nhân loại, áp đặt tà lực rộng lớn của chiến tranh, với mọi hậu quả và ảnh hưởng rộng lớn của nó trên nhân loại. Tà Phái là vấn đề của Chính Phái, chứ không phải là vấn đề của nhân loại. Trong bao thiên kỷ, Thánh Đoàn đă đối phó với vấn đề này và hiện đang trong tiến tŕnh giải quyết nó. Tuy vậy, thực ra đó là mối quan tâm và vấn đề chính của Shamballa, v́ nó liên quan đến trạng thái ư chí, và chỉ có ư-chí-hướng- thiện mới đủ khả năng xóa tan và hủy diệt ư-muốn-làm-ác (will-to-evil). Thiện chí sẽ không đủ, dầu rằng tiếng kêu thỉnh nguyện và hợp nhất của những kẻ thiện chí trên khắp thế giới – phát ra ngày càng tăng qua Đại Khấn Nguyện – sẽ giúp “đóng kín tà môn”.

670

 
Chính đàng sau cánh cửa đó và liên quan đến các lực ẩn giấu nơi đó (và được huy động) mà Thánh Đoàn sẵn sàng hành động. Các phương pháp và cách thức mà dựa theo đó các Ngài bảo vệ nhân loại khỏi tà lực thúc đẩy và từ từ đẩy lùi tà lực, bạn sẽ không hiểu được nếu bạn chưa vượt qua được cánh cửa dẫn đến Con Đường Tiến Hóa cao siêu.

Tôi sẽ nói ǵ về đức vô tổn hại? Thật khó cho tôi khi bày tỏ hoặc chứng minh cho bạn thấy tính hữu hiệu của trạng thái cao, xoắn ốc (spiral) hoặc giai đoạn của tính vô tổn hại mà Thánh Đoàn đă vận dụng dưới sự chỉ đạo của Đấng Hoàn Thiện tức Đức Christ. Tính vô tổn hại mà tôi có nói đến trước đây, liên hệ đến những sự bất toàn mà nhân loại đang tranh đấu, và như bạn biết, khó mà áp dụng nó trong và dưới mọi trường hợp. Tính vô tổn hại mà tôi nhắc đến có liên hệ với bạn, nó không phải là một hoạt động tiêu cực, hoặc dịu dàng hoặc dễ chịu như rất nhiều người tin tưởng. Đó là một trạng thái trí tuệ, và là trạng thái vốn không hề làm tiêu tan hành động vững chắc hoặc ngay cả hành động quyết liệt. Nó liên quan đến nguyên động lực và dính líu đến sự định đoạt rằng động lực đàng sau mọi hoạt động là thiện chí. Động lực ấy có thể đưa đến hành động hoặc lời lẽ tích cực và, đôi khi không vừa ư, nhưng v́ đức vô tổn hại và thiện chí chi phối đường hướng trí tuệ th́ không ǵ có thể xảy ra trừ sự tốt lành.

671

 
Trên ṿng xoắn cao hơn, Thánh Đoàn cũng sử dụng đức vô tổn hại; nhưng nó liên quan đến ư-chí-hướng-thiện và liên quan đến việc vận dụng năng lượng mạnh mẽ của điện, dưới sự hướng dẫn của trực giác. Loại năng lượng này con người không bao giờ khơi hoạt được. Đó là năng lượng mà con người chưa thể vận dụng. Loại vô tổn hại này dựa vào sự hy sinh hoàn toàn, trong đó ư-chí-hy-sinh, ư-chí-hướng-thiện và ư-chí-quyền-lực (ba mặt của trạng thái ư chí, được biểu lộ qua Tam Thượng Thể đều tan ḥa thành năng lượng mạnh mẽ duy nhất, có bản chất tinh thần sâu xa. Năng lượng này là h́nh ảnh thu nhỏ của tính vô tổn hại hoàn toàn ở lĩnh vực liên quan với nhân loại và các giới kém hơn trong thiên nhiên, nhưng lại có hiệu ứng trục xuất và có tác động hủy diệt mạnh trong lănh vực liên quan với các Tà Lực.

Nghiên cứu kỹ theo hướng huyền bí về ba cám dỗ đối với Đức Christ, ta sẽ thấy ba dịp chính mà Đấng Hoàn Thiện biểu lộ đức vô tổn hại cao siêu này buộc quỷ sứ phải rút lui. Ba giai đoạn này có liên quan về mặt biểu tượng, nhưng bản chất lại xác thực. Ít người nghĩ nếu Đức Christ không phản ứng như Ngài đă làm, th́ hậu quả trên khắp thế giới qua nhiều thế kỷ sẽ như thế nào. Phỏng đoán th́ chẳng hữu ích bao nhiêu, nhưng có thể nói rằng toàn bộ diễn tŕnh lịch sử và cuộc tiến hóa của nhân loại đă thay đổi theo cách tàn khốc và tệ hại. Tuy nhiên, đức vô tổn hại mănh liệt là sự biểu lộ của ư-chí-hướng-thiện và sự biểu hiện của ư-chí-quyền-lực (bắt buộc tà lực rời khỏi Ngài) đă đánh dấu một bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc sống của Đức Christ.

Câu chuyện Phúc Âm (tổng kết năm cuộc điểm đạo) liên quan đến sự tiến bộ và thành công của Chân Sư Jesus. Câu chuyện về ba lần cám dỗ nêu ra việc nhận điểm đạo c̣n cao hơn, tức cuộc điểm đạo thứ sáu, của Đức Christ. Cuộc điểm đạo này giúp cho Ngài hoàn toàn chế ngự được tà lực, chứ không phải là chế ngự sự bất toàn. Chính v́ Ngài là “Đấng Hoàn Thiện”, nên Ngài có thể nhận cuộc điểm đạo này.

672

 
Tôi đă trao cho các bạn nhiều điều cần xem xét cẩn thận, và đă rọi một ít ánh sáng vào một cuộc điểm đạo, mà dĩ nhiên là ít người có thể hiểu. Tôi cũng kêu gọi bạn chú ư đến ba điều cần yếu căn bản để tiến đến cuộc điểm đạo này một cách thành công: đó là sự thăng bằng hoàn toàn, một cái nh́n đầy đủ, và cảm thông thiêng liêng. Các bạn hẳn sẽ lấy làm thú vị mà thấy rằng làm sao khi ba phẩm tính này được thể hiện, lại liên quan đến ba sự cám dỗ đó. Khi suy gẫm như thế, nhiều ánh sáng sẽ hiện ra về sự sống, bản thể và đặc tính của Đức Christ.

Dưới Định Luật Hoàn Thiện, chúng ta có được ch́a khóa về văn minh và chu kỳ tiến hóa mà Ngài đă khai mở – lư tưởng của nó không bị mất đi, dù việc áp dụng giáo huấn của Ngài đă bị các giáo hội và nhân loại thờ ơ. Bạn cũng nên chú ư rằng ở đỉnh của ngọn núi cao, có một cám dỗ. Từ độ cao ấy, cả thời gian và không gian đều hoàn toàn bị tịch diệt, v́ tầm nh́n của Đức Christ kéo dài từ quá khứ, qua hiện tại và đi vào tương lai. Trạng thái tri thức (awareness) này (tôi không thể gọi đó là tâm thức, c̣n awareness th́ hầu như là từ ngữ không chính xác, nó chỉ có được sau cuộc điểm đạo thứ năm; và biểu lộ đến mức cao ở cuộc điểm đạo thứ sáu.

Tôi muốn cùng bạn xem xét bản chất của ba điều cần thiết, được xem là cần yếu cho một cuộc điểm đạo nào đó, bởi v́ chúng nối liền Định Luật IX và Qui Luật Sáu. Qui luật này rơ ràng và vắn tắt, đến nỗi chỉ cần giải thích chút ít, nhấn mạnh về năng lượng nào phải dùng và năng lượng nào không được dùng.

QUI LUẬT SÁU

Nhà trị liệu hoặc nhóm trị liệu phải kiềm ư chí của ḿnh. Phải sử dụng t́nh thương chứ không phải ư chí.

Ba điều cần yếu căn bản này liên quan đến sự thành đạt trên nhiều cơi khác nhau, trong vũ trụ. Dầu rằng tôi đă bàn đến chúng liên quan đến việc tiếp cận cuộc điểm đạo thứ sáu – ở ṿng xoắn ốc thấp hơn – chúng có các tương ứng của chúng, do đó có áp dụng thực tiễn của đệ tử được điểm đạo, đặc biệt đệ tử được điểm đạo lần ba. Ta hăy xem xét chúng từng điểm một:

673

 
Thăng bằng hoàn toàn (Perfect Poise) báo hiệu việc hoàn toàn kiểm soát thể cảm dục, để vượt qua những xáo trộn t́nh cảm, hay ít nhất làm giảm xáo trộn đó đến mức tối thiểu trong cuộc sống của đệ tử. Trên ṿng xoắn cao hơn, nó cũng là dấu hiệu của năng lực hoạt động tùy ư trên các phân cảnh bồ đề, nhờ hoàn toàn thoát khỏi (và tất nhiên thăng bằng) mọi ảnh hưởng và xung lực thúc đẩy từ ba cơi thấp. Nếu suy tưởng sâu xa, th́ loại hay tính chất thăng bằng này bao hàm một trạng thái trừu tượng của thể trí. Không ǵ bị xem là bất toàn mà có thể tạo ra xáo trộn. Bạn có thể biết chắc rằng, nếu bạn hoàn toàn thoát khỏi mọi phản ứng xúc cảm, th́ sự sáng suốt của trí, và năng lực suy tư thấu suốt của bạn sẽ tăng lên phi thường, với tất cả những ǵ có liên quan tới.

Dĩ nhiên, sự thăng bằng hoàn toàn của đệ tử điểm đạo và của Chân Sư th́ khác nhau, v́, một bên th́ liên quan đến ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng của ba cơi thấp, c̣n bên kia th́ liên hệ đến sự thích ứng với tiết điệu của Tam thượng thể Tinh Thần; tuy nhiên, loại thăng bằng trước phải đi trước thành tựu về sau, đó là mối quan tâm của tôi về vấn đề này. Thăng bằng hoàn hảo này (mà độc giả sách này có thể đạt) được đạt đến bằng cách loại bỏ các lôi kéo, thôi thúc, thúc đẩy, các cuốn hút của bản chất cảm dục, và cũng nhờ thực hành điều mà trước đây tôi đă gọi là Sự Điềm Nhiên Thiêng Liêng (Divine Indifference).

Một quan điểm hoàn hảo (A completed Point of View). Trước hết, điều này tất nhiên là có liên quan đến cái nh́n toàn bộ của Chân Thần, do đó liên quan đến điểm đạo đồ cao cấp. Tuy nhiên, nó có thể được diễn giải ở một nấc thấp hơn trên thang tiến hóa và đề cập tới chức năng của linh hồn với tư cách chủ thể quan sát trong ba cơi thấp và bức tranh toàn diện hoàn hảo mà chủ thể quan sát đó từ từ đạt đến. Điều này được tạo ra bằng việc phát triển hai đức tính dứt bỏ và phân biện (detachment and discrimination). Hai đức tính này khi được biểu lộ trên con đường tiến hóa cao siêu, th́ trở thành sự trừu xuất và ư-chí-hướng-thiện.

674

 
Theo kinh nghiệm ở các phân cảnh linh hồn, th́ một quan điểm hoàn hảo báo hiệu việc lấy đi mọi chướng ngại và người đệ tử sẽ thoát khỏi đại tà thuyết chia rẽ. V́ thế, y tạo ra một vận hà thông suốt cho nguồn bác ái thuần khiết đi vào. Nh́n ở cùng cấp độ, sự thăng bằng hoàn toàn đă tẩy đi mọi chướng ngại và những yếu tố xúc cảm từ trước đến giờ đă ngăn lấp vận hà, nhờ đó mà mở đường cho chủ thể quan sát thấy được sự thực. Bấy giờ, đệ tử hoạt động với tư cách một vận hà thông suốt cho bác ái.

Sự Cảm Thông Thiêng liêng cũng được nghiên cứu theo hai quan điểm. Với tư cách một phẩm tính của linh hồn th́ nó cho thấy thể trí có thể được giữ ổn định trong ánh sáng và v́ thế mà có thể phản chiếu được lư trí thuần túy (tức là bác ái thuần khiết) nó phẩm định các phản ảnh của Con của Trí Tuệ, tức linh hồn trên cơi riêng của nó. Trên Con Đường cao siêu của Đức Thầy, nó liên hệ đến sự huyền đồng vốn thay cho tâm thức cá biệt. Mọi hố ngăn cách đều biến mất và điểm đạo đồ thấy được thực tướng của sự vật, Ngài biết được các nguyên nhân mà mọi hiện tượng đều là các hậu quả nhất thời của nó. Tất nhiên, điều này giúp Ngài hiểu được Thiên Ư (Purpose), v́ nó xuất phát từ Shamballa, giống như điểm đạo đồ cấp thấp hiểu được Thiên Cơ (Plan) do Thánh Đoàn đưa ra.

Cả ba thuộc tính thiêng liêng này, ở mức độ nào đó, đều thiết yếu cho phát triển của nhà trị liệu được điểm đạo. Y phải lo khai mở chúng như là một phần của trang cụ cần cho ḿnh. Y phải biết rằng mọi phản ứng có bản chất xúc cảm đều tạo một bức tường ngăn cách giữa ḍng chảy thông suốt của lực trị liệu với bệnh nhân, vách ngăn ấy là do y tạo nên, chứ không do bệnh nhân. Các xúc cảm của bệnh nhân không được ảnh hưởng đến nhà trị liệu và không được làm y xao lăng, ngoài sự tập trung mạnh mẽ cần cho công việc của y. Các xúc cảm này của bệnh nhân không được tạo một tường ngăn trong chính chúng đủ mạnh để làm lệch lực chữa trị.

675

 
Ít ra một quan điểm đầy đủ cũng liên quan đến cố gắng của đệ tử để nhập vào thế giới của các nguyên nhân, nhờ thế, biết được (nếu có thể) cái ǵ có trách nhiệm đối với bệnh của bệnh nhân. Điều này không liên quan đến việc đi vào tiền kiếp của bệnh nhân, cũng như không cần thiết dầu cho một số nhà trị liệu thời nay thường là dối trá, có thể đ̣i hỏi. Thường thường có đủ bằng chứng tâm lư hoặc các dấu hiệu về các khuynh hướng di truyền, cung cấp cho nhà trị liệu manh mối của bệnh nhân để y có thể có được một bức tranh tương đối đầy đủ về bệnh trạng. Hiển nhiên là sự “quán triệt” vào các nguyên nhân của xáo trộn này chỉ sẽ có được khi nào nhà trị liệu có đủ yêu thương; v́ có t́nh thương, y đạt được sự thăng bằng, khiến cho thế giới ảo tưởng và thế giới ảo cảm bị tiêu tán. Cảm thông thiêng liêng chỉ là việc áp dụng nguyên tắc bác ái thuần khiết (tức là lư trí thuần khiết) cho mọi người và cho mọi hoàn cảnh, thêm vào đó là sự diễn giải đúng các khó khăn đang có của bệnh nhân, hoặc là những nỗi khó khăn có thể có giữa bệnh nhân với nhà trị liệu.

Tôi xin thêm một yếu tố khác vào các điều kiện cần thiết này: đó là cần phải có vị bác sĩ, y sĩ hoặc nhà giải phẫu chịu trách nhiệm về thể xác bệnh nhân. Trong kỷ nguyên mới sắp đến, nhà trị liệu luôn luôn làm việc với sự trợ giúp khoa học của nhà y học thành thạo. Đây là một yếu tố đang gây bối rối cho nhà trị liệu có tŕnh độ trung b́nh ngày nay đang thuộc về một nhóm nào đó, hoặc đang thi thố một giai đoạn trị liệu không chính thống nào đó.

676

 
Do đó, điều hiển nhiên là làm thế nào ba điều kiện cần thiết thiêng liêng này (khi được đưa xuống cho đệ tử trong thế giới ngày nay sử dụng) vạch ra một hướng rèn luyện hay là giới luật tự giác mà mọi người đều nên tự áp dụng. Chỉ cần quán triệt ngay cả một số bước sơ khởi trong ba điều kiện trên, họ sẽ thấy họ có thể áp dụng được Qui Luật Sáu một cách dễ dàng.

“Kiềm giữ ư chí” nghĩa là ǵ? Trạng thái ư chí được xét đến ở đây không phải là ư-chí-hướng-thiện và biểu lộ thấp của nó là thiện chí (goodwill). Ư-chí-hướng-thiện (will-to-good) là định hướng vững vàng bất biến của bậc đệ tử điểm đạo, trong khi thiện chí có thể được xem là sự biểu lộ của nó trong việc phụng sự hằng ngày. Khi một điểm đạo đồ cấp cao biểu lộ ư-chí-hướng-thiện, th́ đó là một năng lượng mạnh mẽ có hiệu quả tập thể nổi bật. V́ lư do đó mà các điểm đạo đồ cấp cao ít khi bận tâm đến việc trị liệu của cá nhân. Công việc của các Ngài có ảnh hưởng lớn và quá quan trọng nên các Ngài không cho phép ḿnh làm thế. C̣n năng lượng ư chí thể hiện như là Ư Chí thiêng liêng, có thể trở thành có hậu quả hủy diệt trên một cá nhân. Bệnh nhân không thể nhận hay thu năng lượng ấy. Tuy nhiên, cần để cho thiện chí tác động toàn bộ thái độ và suy tư của đệ tử chữa bệnh.

677

 
Ư chí phải được kiềm giữ là ư chí của phàm ngă mà trong trường hợp của đệ tử điểm đạo thuộc loại rất cao. Nó cũng liên quan đến ư chí của linh hồn, phát ra từ các cánh hoa hy sinh trong hoa sen chân ngă. Mọi nhà trị liệu chân chính đều phải tạo nên một h́nh tư tưởng trị liệu, và dầu hữu ư hay vô t́nh, họ cũng làm việc qua đó. Chính h́nh tư tưởng này khỏi bị ư chí vận dụng quá mạnh, v́ (nếu nó không được kềm giữ, không bị hạ giảm, không được sửa đổi, hoặc nếu cần, loại bỏ hoàn toàn) th́ nó có thể không những hủy diệt h́nh tư tưởng do nhà trị liệu tạo ra, mà nó c̣n dựng một hàng rào giữa bệnh nhân với nhà trị liệu. Mối liên giao lúc đầu v́ thế bị tan vỡ. Chỉ Đức Christ mới có thể chữa trị bằng cách dùng ư chí, và thực ra Ngài rất ít khi trị liệu. Trong những trường hợp mà Ngài nói rằng đă làm điều đó, th́ lư do là Ngài muốn chứng minh khả năng trị liệu. Tuy nhiên, nếu quen thuộc câu chuyện Phúc Âm, các bạn sẽ nhận thấy rằng Ngài không truyền dạy thuật trị liệu cho các đệ tử. Điều này rất có ư nghĩa.

Ư chí phàm ngă của nhà trị liệu (bất luận có bản chất cao đến đâu), và nỗ lực đă định của y để chữa trị bệnh nhân, đă tạo nên một sự căng thẳng nơi y. Căng thẳng đó có thể làm cho ḍng năng lượng trị liệu bị lệch hướng. Khi có loại ư chí đó (thường có nơi nhà trị liệu thiếu kinh nghiệm, hoặc với nhà trị liệu chưa được điểm đạo) th́ nhà trị liệu thường thu hút nỗi khó khăn của bệnh nhân và sẽ trải qua những triệu chứng xáo trộn và đau đớn. Sự cương quyết cố giúp đỡ của y sẽ tác động như một thứ vũ khí dội ngược (boomerang), khiến y bị tổn thương, c̣n bệnh nhân th́ không được giúp đỡ thực sự.

V́ thế mà có lời khuyên phải dùng t́nh thương và ở đây cái khó khăn chính xuất hiện. Làm sao nhà trị liệu có thể sử dụng t́nh thương mà không vướng tính xúc cảm, tức tính chất thấp của nó, và đưa nó vượt qua trạng thái thuần khiết của nó để chữa trị cho bệnh nhân? Nhà trị liệu chỉ vun trồng ba điều kiện cần yếu, do đó phát triển chính ḿnh thành một vận hà thanh khiết. Y thường bận tâm với chính ḿnh, với lư giải về t́nh thương và với cương quyết chữa trị bệnh nhân, đến nỗi xao lăng các điều kiện cần yếu. Cả y lẫn người bệnh đang phí th́ giờ của nhau. Y không cần nghĩ ngợi hoặc âu lo về bản chất của t́nh thương thuần khiết, hoặc nhiệt liệt cố gắng để hiểu làm sao mà lư trí thuần khiết lại đồng nghĩa với t́nh thương thuần khiết, hoặc xem coi y có thể biểu lộ đủ t́nh thương để tiến hành chữa trị. Y hăy cứ suy gẫm về ba điều kiện cần yếu, đặc biệt là điều kiện đầu, và để cho y hoàn thành trong chính y cả ba điều thiết yếu này bằng hết khả năng của y và tùy tŕnh độ tiến hóa của y. Lúc đó, y mới trở thành một vận hà thuần khiết, và các chướng ngại đối với ḍng chảy vào của bác ái thuần khiết, sẽ tự động bị tẩy sạch, bởi v́, “nếu con người nghĩ trong ḷng như thế nào, th́ y trở nên như thế ấy”. Bấy giờ, t́nh thương thuần khiết sẽ tuôn đổ qua y mà không c̣n chướng ngại hoặc khó khăn, và bệnh nhân sẽ được chữa lành – nếu nghiệp quả cho phép.

678

 
Giờ đây, chúng ta hăy nghiên cứu định luật cuối cùng và huyền bí nhất trong các định luật mà tôi đă đưa ra. Trước đây tôi đă kêu gọi các bạn chú ư đến nó, và đă nói rơ rằng “định luật cuối này là cách diễn đạt của một luật mới, thay thế cho Luật Tử Vong. Luật này chỉ liên quan đến những người đang ở các giai đoạn sau của Con Đường Đệ Tử và các giai đoạn trên Con Đường Điểm Đạo”. Tôi muốn nói đến thời gian sau cuộc điểm đạo thứ nh́ và trước cuộc điểm đạo thứ ba. Định luật này không áp dụng được chừng nào mà bản chất xúc cảm c̣n có thể khuấy rối sự nhịp nhàng rơ rệt của phàm ngă, khi nó ứng đáp với tác động của năng lượng linh hồn, và sau đó với năng lượng Chân Thần. Do đó, những ǵ tôi có thể giải rơ cho các bạn th́ cũng không có bao nhiêu, về tác động đầy đủ của định luật này, nhưng tôi có thể nêu lên vài ư tưởng và tương ứng lư thú nhất. Chúng sẽ cổ vũ nơi bạn việc suy đoán có tính xây dựng. Tuy nhiên, tiêu biểu cho các sự kiện đă được chứng minh cho những người trong chúng tôi, vốn là các đệ tử được điểm đạo của Đức Christ hoặc của Đức Sanat Kumara.

ĐỊNH LUẬT  X

Hỡi đệ tử, hăy lắng nghe tiếng gọi từ Con đi đến Mẹ và rồi hăy vâng theo. Linh từ được ban ra rằng h́nh hài đă đáp ứng mục đích của nó. Bấy giờ, nguyên khí trí tuệ tự sắp xếp và lặp lại Linh Từ ấy. H́nh hài đang chờ đợi liền ứng đáp và buông rơi. Linh hồn trở nên tự do.

Hỡi Đấng Giáng Lâm, hăy đáp lại tiếng gọi đến từ lĩnh vực của thiên trách (obligation); hăy nhận biết tiếng gọi phát ra từ Đạo Viện hay từ Hội Đồng Huyền Linh nơi chính Đấng Cai Quản Sự Sống đang chờ. Diệu âm được ban ra. Cả linh hồn lẫn h́nh hài cùng phải từ bỏ nguyên khí sự sống; nhờ thế giúp Chân Thần được tự do. Linh hồn đáp lại. Bấy giờ; h́nh hài phá vỡ sự mạch lạc. Giờ đây, sự sống được tự do, có được tính chất của sự hiểu biết hữu thức và thành quả của mọi kinh nghiệm. Đó là những món quà của linh hồn, kết hợp với h́nh hài.

679

 
Định luật X này là kẻ tiên phong của nhiều định luật mới, về sự liên hệ giữa linh hồn với h́nh hài, hoặc là liên quan của tinh thần với vật chất. Nó được đưa ra đầu tiên v́ hai lư do:

1. Nó có thể được các đệ tử áp dụng, nhờ thế mà nó được chứng minh là có thực đối với đại chúng, và nhất là đối với thế giới khoa học.

2. Trong đa số bằng chứng và trong loại từ trần (ở giai đoạn này, được gọi là “sự thuyên chuyển”) sự thật về Thánh Đoàn và về Shamballa mới có thể được xác lập.

Có ba nguồn triệt thoái mà chúng ta gọi là “sự chết”, nếu chúng ta loại trừ tai nạn (có thể gắn liền với nghiệp quả của người khác), chiến tranh (bao gồm nghiệp quả hành tinh) và các thiên tai (hoàn toàn liên hệ đến thể biểu lộ của Đấng mà chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn trong Ngài).

680

 
Tôi xin tạm dừng lại ở ư tưởng này và minh giải phần nào cho bạn sự dị biệt giữa “Thượng Đế vô hiện” (“unknown God”), Ngài tự biểu lộ qua hành tinh nói chung, và Đấng Sanat Kumara ở chốn cao thâm, tức Shamballa. Đức Sanat Kumara trong chính Ngài là Chủ Thể Cơ bản (essential Identity) chịu trách nhiệm về các thế giới biểu lộ, nhưng quyền điều khiển năng lượng và lực của Ngài – do mức phát triển vũ trụ của Ngài – lớn đến nỗi Ngài cần toàn bộ hành tinh để biểu lộ qua đó tất cả những ǵ mà Ngài đang có. Do có đủ tâm thức của cơi cảm dục và của cơi trí vũ trụ, nên Ngài có thể –theo định luật vũ trụ – vận dụng các năng lượng và các lực để sáng tạo, để nâng đỡ và tận dụng cho các mục đích của Thiên Ư của Ngài, cho khắp hành tinh. Ngài làm linh hoạt hành tinh bằng sự sống của Ngài; Ngài nâng đỡ hành tinh và tất cả những ǵ có bên trong, hoặc ở trên hành tinh nhờ tính chất linh hồn của Ngài, mà Ngài truyền đạt cho mọi h́nh hài theo mức độ khác nhau. Ngài liên tục tạo nên những h́nh hài mới cần để “biểu lộ sự sống phong phú hơn” và “mục tiêu ngày càng tăng của ư chí Ngài” mà sự tiến bộ của các thời đại làm cho có thể xảy ra theo chu kỳ. Hiện nay, chúng ta sống trong một chu kỳ mà trong đó hoạt động mạnh mẽ của Ngài là vận dụng kỹ thuật hủy diệt thiêng liêng để giải phóng sự sống tinh thần và đồng thời, Ngài đang tạo nên cấu trúc văn minh mới vốn sẽ biểu lộ đầy đủ hơn, mức thành đạt tiến hóa của hành tinh và các giới trong thiên nhiên, để cuối cùng, đưa đến sự biểu lộ hoàn hảo sự sống và mục tiêu thiêng liêng của Ngài.

680

 
Có lẽ là khôn ngoan nếu chúng ta lư giải Định Luật X này hơi chi tiết khi có thể, để đi đến sự tổng hợp vốn có dụng ư truyền đạt: như thế, chúng ta sẽ có được nhận thức nào đó rằng chính cái chết là một thành phần của tiến tŕnh tổng hợp sáng tạo. Điều cần thiết là các ư tưởng mới đang được và một cách tiếp cận mới đối với toàn bộ vấn đề sự chết.

Hỡi đệ tử, hăy lắng nghe tiếng gọi xuất phát từ CON đi đến MẸ và hăy vâng lời.

Ngay cả khi, do ngữ cảnh, chúng ta hiểu rằng câu này bàn đến việc vứt bỏ thể xác, thật hữu ích khi nhớ rằng lối nói này c̣n nhiều hàm nghĩa hơn thế nữa. Có thể diễn giải nó hàm ư là toàn bộ sự liên hệ của linh hồn và phàm ngă, và liên quan sự tuân phục mau lẹ của Mẹ (phàm ngă) đối với Con (linh hồn). Nếu không có sự phục tùng mau lẹ này, liên quan đến việc nhận ra Tiếng Nói thông báo, th́ phàm ngă sẽ vẫn không nghe được tiếng gọi của linh hồn để từ bỏ xác thân. Không có sự đáp ứng quen thuộc nào xảy ra. Tôi muốn bạn hăy cân nhắc về các ẩn ư này.

681

 
Tôi biết, khi tôi chỉ ra rằng trạng thái Mẹ là trạng thái vật chất, c̣n linh hồn – trên cơi riêng của nó – là trạng thái Con, tức là tôi chỉ lặp lại. V́ thế, huấn thị này bàn về liên hệ của vật chất và linh hồn, như thế đặt nền tảng cho mọi mối liên hệ mà đệ tử phải học cách nhận ra. Ở đây không bắt buộc phải có sự tuân thủ, nó chỉ lệ thuộc vào tầm nghe. Kế đó sự tuân phục theo sau như là phát triển kế tiếp. Bạn ít khi nghĩ rằng đó là một diễn tiến dễ dàng. So với tiến tŕnh tuân thủ th́ sự phân biệt này thật là thú vị, bởi v́ diễn tŕnh học bằng cách nghe luôn luôn chậm và là một trong những tính chất hay trạng thái của giai đoạn định hướng. Học bằng cách thấy rơ ràng có liên quan với Con Đường Đệ Tử, và bất cứ ai muốn trở nên kẻ phụng sự đích thực và khôn ngoan, đều phải học cách phân biệt giữa người nghe và người thấy. Hiểu được sự khác nhau, sẽ đưa đến những thay đổi cơ bản trong kỹ thuật. Trong trường hợp này, bạn làm việc với những người rơ ràng là ở dưới ảnh hưởng và sự kềm chế của trạng thái Mẹ và kẻ cần được tập để thấy. C̣n trường hợp kia, bạn làm việc với những người đă nghe và đang phát triển sự tương ứng tâm linh của thị giác. V́ thế, họ rất dễ thụ cảm với linh thị.

Linh từ (Word) được đưa ra rằng h́nh hài đă đáp ứng được mục đích của nó.

682

 
Linh từ hay là “tuyên cáo tinh thần” này của linh hồn, có thể có hai mục đích: nó có thể gây nên sự chết hoặc là có thể nó chỉ dẫn đến sự triệt thoái của linh hồn ra khỏi khí cụ của nó tức phàm ngă tam phân. Kết quả là điều này có thể dẫn đến việc để lại h́nh hài không linh hoạt và không có chủ thể (dweller) trong xác thân. Khi việc này xảy ra, phàm ngă (tôi muốn nói con người bằng thể vật chất, thể cảm dục và thể hạ trí) sẽ tiếp tục hoạt động. Nếu phàm nhân ấy có phẩm tính ở tŕnh độ cao, th́ rất ít người nhận biết linh hồn vắng mặt. Điều này thường xảy ra trong tuổi già hoặc bệnh nặng, và có thể kéo dài trong nhiều năm. Điều này đôi khi cũng xảy ra ở lĩnh vực liên quan đến trẻ con, lúc đó, hoặc là đứa bé chết, hoặc nó trở nên đần độn v́ các hạ thể của phàm ngă không có thời gian rèn luyện. Một chút suy tư về “Linh Từ ban ra này” sẽ đưa ra nhiều ánh sáng về các trường hợp bị xem là rối mù/ khó hiểu và về các trạng thái tâm thức mà từ trước đến giờ tạo thành các vấn đề hầu như không thể giải thích.

682

 
Bấy giờ, nguyên khí trí tuệ liền tự sắp xếp, và tiếp đó lặp lại Linh Từ ấy. H́nh hài đang chờ liền ứng đáp và buông trôi.

Trong h́nh thức tử vong được bàn đến nơi đây, chính thể trí đóng vai tác nhân có thẩm quyền, truyền đến (là nơi giác tuyến tọa lạc) lệnh phải bỏ trống. Kế đó, con người ở trong xác thân mới truyền lệnh ấy đến tim (nơi mà sinh mệnh tuyến bám chặt). Kế đó, như các bạn đă biết, tiến tŕnh triệt thoái bắt đầu. Điều ǵ xảy ra trong các thời khắc phi thời gian này; trước cái chết, cho đến nay chưa ai biết, v́ không ai trở lại để nói với chúng ta. Nếu họ làm thế, câu hỏi được đặt ra: họ có đáng tin không? Có lẽ không ai tin họ cả.

Đoạn đầu của định luật X này bàn đến việc ra khỏi thân xác (tức là khía cạnh h́nh hài của phàm ngă tam phân) của người t́m đạo thông minh trung b́nh, xét định luật này theo một trong các tương ứng thấp nhất của nó. Tuy nhiên, dưới cùng Định Luật Tương Đồng, cái chết của mọi người, từ hạng thấp kém nhất trở lên, gồm cả những người t́m đạo, về cơ bản, được phân biệt bởi tiến tŕnh đồng nhất. Sự dị biệt chỉ có trong mức độ tâm thức được biểu lộ – tâm thức về tiến tŕnh và chủ đích. Trong mọi trường hợp, kết quả đều như nhau:

                Linh hồn được tự do.

683

 
Thời khắc tự do thực sự này có thể ngắn ngủi và chóng qua, như trong trường hợp của người kém phát triển, hoặc nó có thể kéo dài, tùy theo mức hữu ích của người có đạo tâm ở các nội cảnh giới. Tôi có bàn đến điều này ở trước, nên không cần lặp lại ở đây. Dần dần, khi các thôi thúc và các ảnh hưởng của ba phân cảnh thấp của tâm thức buông lỏng sự kiểm soát của chúng, th́ thời gian tách ra trở nên ngày càng dài, được đặc trưng bằng sự sáng tỏ tăng lên của tư tưởng và bằng nhận thức về bản thể chính yếu, và điều này ở trong các giai đoạn lũy tiến. Sự sáng tỏ và tiến bộ này có thể không được mang lại qua nhận thức hoặc lộ ra đầy đủ khi sự tái sinh lại xảy ra, các giới hạn do nhục thể áp đặt quá lớn. Tuy nhiên, mỗi kiếp sống, mức bén nhạy tăng dần lên, và cũng tăng thêm mức tích lũy kiến thức huyền môn, thuật ngữ “huyền môn” (“esoteric”) được dùng để chỉ tất cả những ǵ không liên quan đến sự sống h́nh hài thông thường, hoặc tâm thức trung b́nh của con người trong ba cơi thấp.

Nói chung, cách sống theo huyền môn (như nó đang diễn ra) gồm ba giai đoạn. Các giai đoạn này diễn tiến trong tâm thức của con người và đi song song với nhận thức và các khía cạnh thông thường của sự sống sắc tướng ở ba mức kinh nghiệm:

1. Giai đoạn tiếp nhận các quan niệm, các ư tưởng và các nguyên lư, nhờ đó mà dần dần củng cố được sự hiện hữu của thể trí trừu tượng.

2. Giai đoạn “tiếp nhận ánh sáng” hay giai đoạn mà linh giác (spiritual insight) được phát triển, khi linh thị được nh́n thấy và chấp nhận như là thực và khi mà trực giác hay là “tri giác của thể bồ đề” được khai mở. Nhờ đó, chúng ta xác định được sự có thật của Thánh Đoàn.

3. Giai đoạn trừu xuất (rút ra, abstraction), tức là giai đoạn hoàn toàn định hướng. Con đường nhập vào Đạo Viện đă được thông thoáng và đệ tử bắt đầu thiết lập giác tuyến giữa phàm ngă với Tam Thượng Thể Tinh Thần. Chính ở giai đoạn này mà bản chất của ư chí được nhận ra một cách lờ mờ mang theo với nhận thức của nó cái ẩn ư rằng có một “Trung tâm mà Thiên Ư được thấu triệt”.

684

 
Các nhà nghiên cứu thường nghĩ rằng cái chết chấm dứt mọi sự, trái lại, theo quan điểm về kết thúc, chúng ta đang bàn đến các giá trị vốn bền bĩ mà không có sự can dự nào, cũng như không thể có bất cứ ǵ giữ trong chính chúng những mầm mống bất tử. Tôi muốn các bạn hăy suy gẫm điều này và biết rằng những ǵ có giá trị tinh thần đích thực, đều bền bĩ trường tồn, bất tử và vĩnh cửu. Chỉ có những ǵ vô giá trị mới chết đi, và – theo cái nh́n của nhân loại – điều đó hàm ư các yếu tố này vốn chú trọng và khoác lấy tầm quan trọng xét về mặt h́nh hài. Nhưng, các giá trị này dựa vào nguyên tắc, chứ không dựa vào chi tiết của sắc tướng có trong chúng cái nguyên lư bất tử ấy, nó đưa con người từ “cánh cửa sinh tử, qua cánh cửa tri thức, đến cánh cửa mục đích” – nói theo cách diễn đạt của Cổ Luận.

Tôi đă cố gắng chỉ cho bạn thấy, bằng cách nào mà phần đầu của định luật X này có một áp dụng đơn giản cho nhân loại, cũng như một ẩn ư trừu tượng và sâu xa đối với nhà huyền bí học.

Đoạn cuối của định luật X này không thể được diễn dịch theo cùng cách trên. Nó chỉ liên quan đến sự “từ trần” hay là việc “loại bỏ các chướng ngại” của chính các đệ tử tiến hóa và các điểm đạo đồ. Điều này được thấy rơ nhờ dùng các từ “Hỡi Đấng Thăng Thiên” – một thuật ngữ dùng để chỉ những vị đă được điểm đạo lần bốn, do đó không c̣n giữ lại bất cứ trạng thái ǵ của bản chất h́nh hài, dầu đó là một thể siêu việt như là linh hồn trong hiện thể riêng của nó, tức là thể nguyên nhân (causal body), tức là hoa sen Chân ngă. Tuy nhiên, muốn đáp ứng với định luật này được dễ dàng, th́ trong những giai đoạn đầu của đường đạo, phải phát triển khả năng lắng nghe, ứng đáp và tuân thủ về mặt huyền linh và mở rộng chúng thành những kinh nghiệm tâm linh có tầm mức cao siêu.

Ở đây, chúng ta lại phải cứu xét các ngôn từ nếu muốn hiểu thực nghĩa của chúng.

685

 
Hỡi Đấng Thăng Thiên, hăy đáp lại tiếng gọi đến từ lănh vực của Thiên trách.

Lănh vực của thiên trách (obligation) là ǵ mà điểm đạo đồ cấp cao phải chú ư đến? Toàn bộ kinh nghiệm sống, từ lĩnh vực sinh tử, đến những giới hạn cao tột của các khả năng tinh thần, đều được bao gồm trong bốn từ ngữ, áp dụng vào các tŕnh độ tiến hóa khác nhau. Đó là: Bản Năng, Nhiệm Vụ, Thiên Chức, Thiên Trách; hiểu được các dị biệt này, sẽ giác ngộ và tất nhiên, hành động đúng.

1. Lĩnh vực bản năng (Sphere of instinct). Điều này liên quan đến việc hoàn thành các thiên trách dưới ảnh hưởng của bản năng thú vật đơn giản mà bất cứ ai cũng có trách nhiệm phải làm, dù khi đảm trách mà không hiểu được tại sao phải làm như thế. Một minh họa của việc này là bản năng chăm sóc của người mẹ đối với con cái, hoặc họ hàng bên chồng hoặc vợ. Vấn đề này, chúng ta không cần bàn chi tiết, v́ ít ra, những ai đă vượt qua lănh vực các thiên chức sơ đẳng theo bản năng, đều đă nhận thức và hiểu rơ. Đối với họ, không có tiếng gọi đặc biệt nào, mà thế giới bản năng của việc cho và nhận, cuối cùng lại nhường chỗ cho lănh vực trách nhiệm cao hơn.

686

 
2. Phạm vi bổn phận (Sphere of duty). Tiếng gọi đến từ phạm vi này phát ra từ lĩnh vực tâm thức vốn hoàn toàn thuộc về con người, chứ không chủ yếu thuộc về con vật như là lănh vực bản năng. Nó lôi cuốn mọi hạng người vào trường hoạt động của nó, và hết kiếp này sang kiếp khác, nó đ̣i hỏi phải hoàn thành chính xác bổn phận. “Làm bổn phận ḿnh” ít tán dương và ít tự hào về việc đó là bước đầu tiên hướng về việc khai mở nguyên tắc thiêng liêng mà chúng ta gọi là ư thức trách nhiệm, ư thức này –khi được khai mở– cho thấy sự kiềm chế của linh hồn ngày càng vững chắc. Hoàn thành bổn phận, ư thức trách nhiệm và ư muốn phụng sự là ba khía cạnh của cùng một sự việc: giai đoạn phôi thai của con đường đệ tử. Đây là lời khó nói ra cho những ai đang vướng vào công việc khó nhọc dường như vô vọng để làm tṛn bổn phận. Họ khó mà hiểu được rằng bổn phận ấy có vẻ cột họ vào một sự buồn chán, các bổn phận theo bề ngoài vô nghĩa và bạc bẽo của đời sống hằng ngày, nhưng lại là một tiến tŕnh khoa học để đưa họ đến các giai đoạn kinh nghiệm cao hơn, và cuối cùng, nhập vào Đạo Viện của Chân Sư.

3. Lănh vực Thiên chức (Sphere of Dharma). Đây là thành quả của hai giai đoạn trước. Đó là giai đoạn mà lần đầu tiên, đệ tử nhận biết rơ ràng vai tṛ của y trong toàn bộ diễn tiến các biến cố trên thế giới, và phần đóng góp không thể phủ nhận của y trong sự phát triển thế giới. Thiên chức là khía cạnh của nghiệp quả vốn đề cao bất cứ chu kỳ đặc biệt nào của thế giới và các sự sống của chúng sinh có liên quan trong cuộc biểu hiện ấy. Đệ tử bắt đầu thấy rằng nếu y gánh vác vai tṛ hay phần việc của y trong thiên trách định kỳ này và làm việc một cách cảm thông để hoàn thành công việc, như vậy, y bắt đầu hiểu được công tác tập thể (như các Chân Sư đă hiểu) và góp đúng phần của chính y để nhấc đi nghiệp quả thế gian đang thể hiện trong thiên chức định kỳ. Phụng sự theo bản năng, làm tṛn mọi bổn phận và góp phần trong thiên chức tập thể, tất cả đều ḥa hợp trong tâm thức y và trở thành một hành động phụng sự lớn lao, trung kiên và linh hoạt. Bấy giờ, y đang tiến tới trên Con Đường Đệ Tử và đă hoàn toàn vượt qua con đường dự bị. Ba khía cạnh hoạt động linh hoạt này là biểu lộ phôi thai trong cuộc đời của đệ tử với ba khía cạnh thiêng liêng:

a. Sinh hoạt theo bản năng ……….. áp dụng sáng suốt

b. Bổn phận ……… t́nh thương có trách nhiệm

687

 
c. Thiên chức …….. ư chí được biểu hiện qua Thiên Cơ

4. Lănh vực nghĩa vụ (Sphere of obligation). Nhờ học được bản chất của ba lănh vực hành động đúng khác nhau và – qua hoạt động của các lănh vực này– điểm đạo đồ đă khai mở các mặt thiêng liêng,giờ đây, bước vào lănh vực nghĩa vụ. Chỉ sau khi đă đạt được mức giải thoát đáng kể, người ta mới có thể nhập vào lănh vực này. Nó hướng dẫn các phản ứng của đệ tử điểm đạo trong hai giai đoạn của sự sống của y:

a. Trong Đạo Viện, bởi y chịu sự chi phối của Thiên cơ. Y nhận biết được Thiên cơ này khi thể hiện nghĩa vụ chính của ḿnh đối với sự sống. Tôi dùng từ ngữ “sự sống”(“life”) theo ư nghĩa huyền linh sâu xa nhất.

b. Ở Shamballa, nơi mà Thiên Ư đang hiển lộ của Đức Sanat Kumara (Thiên Cơ là sự thể hiện của Thiên Ư trong thời gian và không gian) bắt đầu hé lộ ẩn ư và thực nghĩa, tùy theo tŕnh độ tiến hóa và cách tiếp cận của y với Con Đường Tiến hóa cao siêu.

Ở Đạo Viện, sự sống của Tam Thượng Thể Tinh Thần dần dần thay thế cho sự sống của phàm ngă đă được linh hồn kiểm soát. Trong Đại Hội Đồng ở Shamballa, sự sống của Chân Thần thay thế mọi biểu lộ khác của Thực Tại cốt yếu. Tôi không thể nói nhiều hơn nữa.

Hăy nhận ra tiếng gọi nổi lên từ Đạo viện, hay từ Hội Đồng Huyền Linh, nơi mà chính Đấng Chúa của Sự Sống đang chờ.

688

 
Ở đây, chúng ta lại đối đầu với toàn bộ chủ đề tiến hóa ẩn bên dưới của Thỉnh Nguyện và Đáp ứng (Invocation and Evocation). Ở đây, chúng ta thấy hai trung tâm cao siêu của Sự Sống thiêng liêng đang không ngớt kêu gọi trung tâm thấp. Một trong các yếu tố chi phối toàn bộ diễn tŕnh tiến hóa tùy thuộc sự khéo léo của các Đấng Cao Cả trong việc kêu gọi sự đáp ứng từ giới nhân loại và dưới nhân loại hay là các sinh linh tập hợp trong ba cơi thấp của sự sống sắc tướng. Con người bận tâm đến những vấn đề của chính ḿnh, đến nỗi họ thường nghĩ rằng – sau cùng – những ǵ xảy ra, đều hoàn toàn do cách hành xử, cách sinh hoạt và các năng lực thỉnh nguyện của họ. Tuy nhiên, c̣n có một khía cạnh khác nữa, nó bao gồm sự khéo léo trong hành động, những trái tim thông cảm và ư chí thông suốt không hề bị ngăn ngại của cả Thánh Đoàn lẫn Shamballa.

Do đó, điều hiển nhiên đối với bạn bè đó là mọi đệ tử và điểm đạo đồ nên biết chính xác ḿnh đứng nơi đâu trên Thánh Đạo, tức mặt cuối cùng của thang tiến hóa, thật là thiết yếu biết bao. Bằng không, họ sẽ diễn dịch sai tiếng gọi và không nhận ra cội nguồn của âm thanh đang phát ra. Việc này xảy ra dễ dàng biết bao đối với mọi huấn sư tiến hóa của huyền linh học và huyền bí học, khi Ngài nhận thức dễ dàng người kém tiến hóa và những kẻ sơ cơ, diễn dịch những lời kêu gọi và thông điệp họ nhận được, đến với họ từ nguồn cội cao cả nào đó, trong khi mà rất có thể họ chỉ nghe được những ǵ phát ra từ tiềm thức của chính họ, từ linh hồn của chính họ, hoặc là từ một vị huấn sư nào đó (không phải Chân Sư) vị này đang cố gắng để trợ giúp họ.

Tuy nhiên, những tiếng gọi được đề cập đến ở đây, đến từ nguồn cội có thể cao nhất, và đừng nên lầm với tiếng nói thấp kém của những kẻ tầm thường.

Huyền Âm đang vang ra. (The SOUND goes forth)

689

 
     Ở đây tôi không định bàn đến âm thanh sáng tạo, trừ ra việc kêu gọi bạn chú ư sự kiện rằng nó được sáng tạo. Huyền Âm vốn là chỉ dẫn đầu tiên của hoạt động của Hành Tinh Thượng Đế, nó không phải là một từ (word), mà là một âm được dội lại đầy đủ, nắm giữ trong chính nó mọi âm khác, mọi hợp âm (chords) và một số cung bậc (được gọi là “âm nhạc của các bầu hành tinh”) và các nghịch âm (dissonances) mà cho đến nay chưa ai biết. “Đấng Thăng Thiên” phải học cách nhận ra Huyền Âm đó là phải ứng đáp với nó, không những bằng thính quan và các tương ướng cao của nó, mà c̣n qua một đáp ứng từ mọi thành phần và từ mọi phương diện của phàm ngă trong ba cơi thấp. Tôi cũng muốn nhắc các bạn nhớ rằng theo quan điểm của cuộc điểm đạo thứ tư, th́ ngay cả hiện thể của Chân Ngă, tức là linh hồn thể cũng bị xem và đối xử như là một thành phần của bản chất h́nh thể (form nature).

689

 
Dầu rằng vào lúc điểm đạo lần thứ tư xảy ra việc “tan ră Ngôi Đền Solomon”, các tính chất tạo ra ngôi đền đă được thu hút vào các hiện thể mà điểm đạo đồ đang dùng cho mọi giao tiếp của Ngài trong ba cơi thấp. Hiện giờ, về thực chất, Ngài là tinh hoa của toàn bộ các thể của Ngài, và – theo quan điểm và hiểu biết chuyên môn của Ngài – cần nhớ rằng toàn bộ cơi trí là một trong ba cơi tạo nên cơi hồng trần vũ trụ. Các nhà nghiên cứu thường quên điểm này, hầu như lúc nào họ cũng đặt linh hồn thể và nguyên tử thường tồn thể trí ở ngoài các giới hạn của h́nh thể và ở ngoài cái mà họ gọi là ba cơi thấp. Về mặt kỹ thuật và theo khía cạnh cao, th́ điều đó không đúng. Sự kiện này dứt khoát làm thay đổi và chi phối sự suy tư và việc làm của vị điểm đạo đồ cấp bốn và các cấp cao hơn. Nó cũng giải thích việc cần phải làm tan mất chân ngă.

Huyền Âm vang khắp bốn cơi phụ cao của cơi hồng trần vũ trụ. Các cơi phụ này là tương ứng cao siêu của bốn cơi phụ dĩ thái của cơi trần trong số ba cơi thấp – gồm ba cơi phụ trọng trược và bốn cơi phụ dĩ thái. Do đó, cần nhớ rằng tất cả các cơi mà chúng ta đă quá quen biết đều thuộc về cơi hồng trần vũ trụ, và nhớ rằng cơi mà chúng ta biết nhiều nhất là cơi trọng trược nhất trong bảy cơi, nơi đó, chúng ta có nhiều nỗ lực và khó khăn.

690

 
Do ”im lặng vốn là âm thanh, nốt vang dội của Shamballa” âm thanh tự hội tụ, hoặc là trong Tam Thượng Thể Tinh Thần, hoặc là trong Huyền Viện, tùy theo tŕnh độ của điểm đạo đồ và dù cho y thuộc hàng cao cấp trong phạm vi Huyền Viện, hoặc là c̣n cao hơn nữa trong các giới mà qua đó ánh sáng từ Hội Đồng Huyền Linh tỏa chiếu. Trong trường hợp đầu, chính bí huyệt tim đáp ứng với âm thanh và từ đó đến toàn cơ thể. Trong trường hợp thứ nh́, tâm thức được thay thế bằng một loại nhận thức tinh thần (spiritual recognition) c̣n cao siêu hơn nữa mà chúng ta gán cho danh xưng không thích hợp là sự đồng nhất hóa (identification). Khi âm thanh được ghi nhận nơi bí huyệt tim của điểm đạo đồ, th́ người đă khai mở được mọi loại tri thức có thể có, mà bản chất h́nh hài – linh hồn và thân xác có thể làm cho khả hữu. Khi bí huyệt đầu ghi nhận, th́ sự đồng nhất hóa đă tạo ra sự hợp nhất hoàn hảo biết bao với mọi biểu hiện tinh thần của sự sống, bấy giờ, thuật ngữ “more” (hàm ư tăng thêm – increased) tất phải nhường chỗ cho chữ “deep”, với nghĩa là xâm nhập (penetration). Hỡi huynh đệ, nói như thế, các bạn có hiểu được hết chăng?

Chính ở điểm này, lần đầu tiên, điểm đạo đồ đối diện với Bảy Con Đường, bởi v́ mỗi Con Đường tạo thành một cách xâm nhập vào các lănh vực nhận thức hoàn toàn ở ngoài hành tinh chúng ta. Để làm được điều đó, điểm đạo đồ phải thấu triệt Định Luật Biến Phân (Law of Differentiation) và phải hiểu được Bảy Con Đường bằng cách phân biệt bảy âm hợp thành Linh Âm duy nhất, tuy nhiên, nó không liên quan tới bảy âm, tạo thành Thánh ngữ AUM tam phân.

691

 
Cả linh hồn lẫn h́nh hài đều cùng phải từ bỏ nguyên khí sự sống, nhờ thế Chân Thần được tự tại. Linh hồn đáp ứng lại. Bấy giờ h́nh hài phá vỡ mối liên quan.

Ở đây, bạn có thể thấy tại sao tôi nhấn mạnh sự kiện điểm đạo đồ là nơi nhận một hoặc nhiều tính chất chính yếu mà h́nh hài lộ ra và phát triển, mà linh hồn đă hấp thu. Ở khúc quanh đặc biệt này, điểm đạo đồ trong Huyền Viện hoặc “trên đường vinh quang của Ngài tiến đến Thánh Địa, nơi ngự của Đấng Chúa Tễ” (tức Shamballa), sẽ tổng kết hoặc chứa đựng trong chính ḿnh mọi tốt lành thiết yếu vốn được chất chứa trong linh hồn trước khi nó tiêu tan vào cuộc điểm đạo thứ tư. Người là hiện thân trong chính ḿnh sự hiểu biết và minh triết của nhiều kỷ nguyên phấn đấu, và kiên tŕ nhẫn nại. Dù bám chặt vào linh hồn hoặc h́nh hài, cũng không c̣n thu đạt được ǵ thêm nữa. Người đă lấy tất cả những ǵ mà sự hiểu biết và minh triết phải cung hiến để rọi ánh sáng lên Định Luật Tâm Linh, đó là Luật Hy Sinh. Thật là thú vị khi ghi nhận ở điểm này, bằng cách nào linh hồn chỉ trở thành trung gian giữa phàm ngă với điểm đạo đồ cao cấp. Nhưng, giờ đây không có ǵ nữa để liên kết, để tường tŕnh hoặc truyền đạt, và – khi Huyền Âm vang dội – linh hồn không c̣n nữa, như chứng cớ của sự đáp ứng. Giờ đây, nó chỉ là một cái vỏ trống không, nhưng, chất liệu của nó thuộc đẳng cấp cao đến nỗi nó trở nên một thành phần rất cần thiết của cơi Bồ Đề và chức năng của nó ở đó giống như dĩ thái. Nguyên khí sự sống bị từ bỏ và quay về với kho dự trữ nguồn sống vũ trụ.

692

 
Tôi muốn các bạn lưu ư đến tầm quan trọng của hoạt động sắc tướng. Chính Sắc Tướng làm tan ră mối liên kết (h́nh hài thường bị khinh khi, bị xem nhẹ, gây cản trở lại hoàn thành tác động sau cùng), mang lại sự hoàn toàn giải thoát. “Nguyệt Thần” của phàm ngă đă đạt mục tiêu của ḿnh và các nguyên tố vốn tạo thành ba hạ thể của y (thể xác, thể cảm dục và hạ trí) cùng với nguyên khí sự sống, sẽ tạo ra chất liệu nguyên tử của thể biểu lộ đầu tiên của một linh hồn nào đó đang t́m cách nhập thế lần đầu. Điều này liên quan mật thiết đến vấn đề khó hiểu, đó là các nguyên tử thường tồn. Nó đánh dấu một thời điểm điểm hóa cao hơn cho Nguyệt Thần này khi thần giải tán mối liên kết và cắt đứt mọi liên hệ với linh hồn từ trước đến giờ, vẫn làm linh hoạt. Thần không chỉ là một h́nh bóng (Shadow) nữa, mà giờ đây đă có những phẩm tính giúp thần trở thành “cụ thể” (“substantial”) (theo nghĩa huyền bí) và là một nhân tố mới trong thời gian và không gian.

Các thuật ngữ c̣n lại của định luật này không cần giải thích và đánh dấu kết thúc thích hợp cho phần nghiên cứu này:

Giờ đây, sự sống được tự do, có được phẩm tính của sự hiểu biết hữu thức và thành quả của mọi kinh nghiệm. Đây là các tặng phẩm của linh hồn và h́nh hài được kết hợp.

 

 


693

 
CHƯƠNG IX

BẢY CÁCH TRỊ LIỆU

 

Bạn thấy rơ rằng cho dầu các kỹ thuật hoặc bảy cách trị liệu – v́ chúng liên quan đến năng lượng của bảy cung – nếu được truyền thụ cho bạn một cách chính xác, thực ra cũng khó t́m được nhà trị liệu nào có năng lực vận dụng chúng trong thời kỳ chuyển tiếp này trong các việc thế gian. Chúng ta đang ra khỏi một kỷ nguyên, để bước vào kỷ nguyên khác, và tất nhiên, điều đó tạo ra các khó khăn mà từ trước đến giờ, chưa được nhận ra. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử con người, nhân loại đủ thông minh để ghi nhận và hiểu được các hàm ư của diễn biến này, và đủ tiên kiến để có thể h́nh dung, tưởng tượng ra và đặt kế hoạch cho tương lai mới. Mặt khác, cung linh hồn của người t́m đạo bậc trung ít khi ở trạng thái kiềm chế đến mức nó có thể đem lại giác ngộ thích hợp và sức mạnh của cung. Ngày nào linh hồn chưa thống ngự, th́ những phương pháp và kỹ thuật này của cung (vốn định đoạt cách sử dụng và điều khiển các năng lượng cung)đều vô ích. Bạn đừng nên chán nản, mà chỉ giữ thái độ hy vọng, đặc biệt là với các đạo sinh và độc giả c̣n trẻ. Xét về mọi mặt, sự gián đoạn này giữa hy vọng và tiềm năng là quá thuận tiện.

694

 
Trong thế kỷ trước, có nhiều điều được đưa ra theo các đường lối ma thuật, đến nỗi nếu c̣n truyền dạy thêm vào lúc này th́ thật là thiếu khôn ngoan. Có quá nhiều thần chú (mantranrs) và các Quyền Lực Từ (Word of Power) đă được truyền dạy và việc sử dụng Thánh Ngữ OM đă lan tràn, đến đỗi việc đó có thể mang lại nhiều tai hại. Tuy nhiên, những tổn hại đó đă không xảy ra. Tŕnh độ tiến hóa tương đối thấp của người nghiên cứu và nhà thực nghiệm bậc trung đă bảo vệ họ, và những cố gắng của họ cũng không mang lại được bao nhiêu kết quả – dù tốt hay xấu. Thường có những cuộc trị liệu (ít ra cũng là những cuộc trị liệu tạm) phần lớn do tính mẫn cảm của bệnh nhân đối với sự ám thị và do sự tin tưởng của họ vào nhà trị liệu. Về mặt huyền bí, không có cuộc trị liệu nào trong số đó có thể được truy nguyên từ những phương pháp khoa học của huyền linh học. Bất chấp sự bảo vệ này, hay nói đúng hơn v́ có sự bảo vệ đó mà hiện nay, tôi không truyền đạt Linh Từ nào của cung, giống như điểm đạo đồ lăo luyện dùng đến khi chú tâm vào trị liệu. Phải sử dụng thành thạo ư chí tinh thần, đi kèm với các Linh từ này. Tuy nhiên, với người thường và với nhà trị liệu thông thường, th́ ngay cả trạng thái thấp nhất của ư chí cũng chưa phát triển và chỉ có sự bướng bỉnh, vốn được định đoạt bằng ham muốn ích kỷ, được biểu lộ mà thôi. Do đó, thật là phí th́ giờ khi tôi đưa ra giáo huấn theo các đường lối này.

Tôi thấy cần giải thích như thế, để cho không có sự mong mỏi quá đáng, rằng tôi sẽ truyền đạt các điều huyền bí trước đến giờ chưa được biết. Tôi chỉ t́m cách đặt nền tảng cho một cơ cấu hiểu biết tương lai. Khi việc đó trở nên an toàn, th́ mới là khôn ngoan và đúng lúc để truyền đạt các “Điểm tập hợp” những “Linh Từ tổ chức” (“organising Word”), các “Định Ư biểu lộ” (“expressed Intentions”) của nhà trị liệu huyền môn lăo luyện một cách chính xác. Tôi cũng t́m cách làm phát sinh nơi bạn mong mỏi t́m ṭi và khôn ngoan, vốn sẽ dùng số kiến thức nhỏ bé mà tôi có thể trao truyền và những lời lẽ tượng trưng mà tôi có thể nói ra, như thế chuẩn bị cho sự hiểu biết thấu đáo hơn về sau này. Đồng thời, có một số điều mà tôi có thể giảng dạy mà bạn sẽ thấy là hữu ích. Biết đâu những điều đó có thể làm tăng thêm khó khăn có thể nhận biết và h́nh dung, tuy nhiên, chúng có thể hữu ích khi đưa ra nền tảng cần phải bao gồm, trước khi nhà trị liệu đạt đến việc chữa trị chính xác và bền bĩ.

695

 
Phần này thật sự rất ngắn, so với phần c̣n lại của sách này. Nó chỉ gồm một loạt các phát biểu tóm tắt và cô đọng có thể dùng làm một cuốn sách giáo khoa cho nhà trị liệu, một sách tham khảo, để hướng dẫn những ǵ cần biết. Các phát biểu này gồm ba loại:

I.   Các năng lượng của Bảy Cung

II.   Cung của nhà trị liệu và của bệnh nhân

III.          Bảy kỹ thuật trị liệu.

Các phát biểu này sẽ hoàn tất cuốn IV của bộ “Luận Về Bảy Cung” và sẽ mang lại nhiều kiến thức cho đệ tử điểm đạo, và ngay cả một phần cho người t́m đạo sáng suốt; chúng sẽ giúp cho việc chữa trị hiệu quả hơn, cho dầu chỉ có công việc sơ khởi và các qui luật sơ đẳng được dạy ra. Khỏi phải nói thêm, nhà trị liệu phải tự hoàn thiện chính ḿnh trong hoạt động mở đầu này, và – khi y hành động– chính y (một ḿnh và tự lực) có thể thấu triệt được ư nghĩa sâu xa hơn của giai đoạn này của Minh Triết Ngàn Đời.

I. NĂNG LƯỢNG CỦA BẢY CUNG

 Mười lăm phát biểu

1. Bảy cung thể hiện và biểu lộ toàn thể các năng lượng đang luân lưu khắp h́nh hài của hành tinh chúng ta.

2. Các năng lượng của bảy cung này là bảy mănh lực vốn cùng hợp thành cung nguyên thủy Bác ái - Minh triết. Đó là cung hai của thái dương hệ chúng ta và là cung thống ngự trong mọi biểu lộ hành tinh trong thái dương hệ. Tất cả bảy cung đều là các cung phụ của cung vũ trụ vĩ đại này.

696

 
3. Dầu cho nhà trị liệu thuộc cung nào, y cũng phải luôn luôn làm việc thông qua cung phụ thứ nh́ của cung ấy – tức là cung bác ái - minh triết trong mỗi cung. Nhờ cung này, y lập nên liên kết với, hay liên hệ được với cung linh hồn đang chi phối và cung của phàm ngă. Cung hai có khả năng bao gồm tất cả.

4. Cung hai và cung phụ thứ nh́ trên tất cả các cung, chính chúng đều biểu lộ nhị phân. Nhà trị liệu phải học cách làm việc qua khía cạnh bác ái, chớ không qua khía cạnh minh triết. Việc này chiếm nhiều tập rèn mới thực hành được sự phân biệt tinh thần.

5. Những thể nào trong phàm ngă trên tuyến năng lượng 2–4–6, phải được nhà trị liệu vận dụng khi thực hành chữa trị. Nếu y không có vận cụ nào hay thể nào trên tuyến năng lượng căn bản này, th́ y không thể trị liệu. Điều này ít khi được nhận ra. Tuy nhiên ít khi t́m thấy một thiết bị nào lại hoàn toàn thiếu các lối ra của năng lượng cung hai.

6. Những nhà trị liệu nào ở cung hai, hay được trang bị một hiện thể có tiềm lực thuộc cung hai, đều thường là những nhà trị liệu lỗi lạc. Đấng Christ, Đấng tiêu biểu xác thực nhất của cung hai từng được biết đến trên địa cầu là Đấng vĩ đại nhất trong tất cả các Con của Thượng Đế có khả năng trị liệu.

7. Cung linh hồn chi phối và định đoạt kỹ thuật cần vận dụng. Cung trong các hiện thể của phàm ngă có liên hệ chặt chẽ nhất với cung hai (mà tất cả các cung phụ tác động như các vận hà cho nó) là cung mà năng lượng trị liệu phải tuôn tràn qua đó.

8. Cung phụ thứ nh́ của cung linh hồn định đoạt việc tiếp cận vấn đề chữa trị mà nhà trị liệu phải đối phó ngay trước mắt; năng lượng này được chuyển hóa thành lực trị liệu khi đi ngang qua hiện thể thích hợp của phàm ngă. Muốn được thích hợp, nó phải ở trên tuyến năng lượng 2–4–6.

697

 
9. Vận cụ/hiện thể (vehicle) thích hợp ấy có thể hoặc là thể trí, hoặc là thể t́nh cảm. Đối với đa số con người đang tập trung vào bản chất cảm dục, thông thường việc trị liệu sẽ thành công nhất, nếu vận hà truyền chuyển của nhà trị liệu cũng là thể đó.

10. V́ thế, một tam giác năng lượng được h́nh thành. Nó gồm có:

a. Năng lượng của linh hồn

b. Vận cụ thích hợp

c. Thể dĩ thái, xuyên qua bí huyệt tim hoặc bí huyệt đan điền.

11. Trong thể dĩ thái, một tam giác phụ được tạo thành để luân lưu năng lượng giữa:

a. Bí huyệt đầu, tức bí huyệt thu nhận.

b. Bí huyệt ấn đường, tức bí huyệt phân phối có điều khiển.

c. Bí huyệt biểu lộ năng lượng của cung linh hồn–theo lối ít trở ngại nhất – bất cứ cung nào trong số bảy cung.

12. Tam giác thứ yếu này được liên kết với tam giác nguyên thủy, nhờ một “ tác động cân nhắc thận trọng.” Đó là một phần của kỹ thuật mà tôi giữ kín.

13. Nhà trị liệu nào chân thành và có kinh nghiệm (v́ không có công thức huyền bí để nối kết hai tam giác) vẫn có thể làm được nhiều để mang lại một mối liên hệ nhất định, bằng một hành vi tin tưởng thận trọng và bằng việc đưa ra định tâm vững vàng của ḿnh.

14. Tam giác lớn là tam giác có ảnh hưởng đến nhà trị liệu, biến y thành một tác nhân chuyển đạt. Tam giác nhỏ là tam giác tạo ra hiệu quả nơi bệnh nhân – ở cơi trần, nhà trị liệu làm việc thông qua tam giác này.

15. Do đó, trước khi có hành động trị liệu rơ rệt, cách trị liệu phải gồm ba phần:

698

 
Giai đoạn một

a. Nhà trị liệu liên kết một cách hữu thức và rơ rệt với chính linh hồn ḿnh.

b. Kế đó, y quyết định phải dùng những hiện thể nào của phàm ngă. Quyết định này được căn cứ vào phản ứng của nó với các năng lượng, được vận chuyển theo tuyến 2 – 4 – 6.

c. Sau đó, bằng một tác động của ư chí, y sẽ liên kết năng lượng linh hồn xuyên qua hiện thể được ưa thích với bí huyệt thích hợp trong thể dĩ thái. Luôn luôn bí huyệt tim hoặc bí huyệt đan điền được chọn trước .

Giai đoạn hai

a. Kế đến, y sẽ lập tam giác phụ bằng cách tập trung chú tâm vào bí huyệt tiếp nhận, tức bí huyệt đầu.

b. Sau đó, qua sức mạnh của sự tưởng tượng sáng tạo, y sẽ liên kết bí huyệt đầu với bí huyệt giữa hai chân mày, và sẽ giữ năng lượng ở đó, bởi v́, nó là phương tiện để điều khiển.

c. Y sẽ cố gắng gom vào bí huyệt ấn đường này năng lượng của bí huyệt, trong thể dĩ thái y, có liên hệ đến cung linh hồn y.

Giai đoạn ba

Bấy giờ, với sự thận trọng, y mới liên kết hai tam giác. Làm xong việc này, tức là y đă sẵn sàng để trị liệu.

II - CUNG CỦA NHÀ TRỊ LIỆU VÀ CỦA BỆNH NHÂN

Điều hiển nhiên đối với độc giả hời hợt nhất, sự thay đổi hoặc đồng nhất giữa các cung của nhà trị liệu và bệnh nhân của y là một nhân tố quan trọng: nhiều yếu tố chi phối sẽ hiện ra. Cũng sẽ có sự tương phản giữa các cung linh hồn với các cung phàm ngă của cả đôi bên. Thế nên, có thể có những điều kiện, trong đó:

699

 
1. Các cung linh hồn th́ tương đồng, c̣n các cung phàm ngă th́ dị biệt.

2. Các cung phàm ngă giống nhau, nhưng các cung linh hồn lại không.

3. Các cung đều giống nhau trong cả hai trường hợp.

4. Không cung nào của linh hồn lẫn phàm ngă giống nhau.

5. Không biết rơ cung linh hồn, nhưng cung phàm ngă th́ lộ rơ. Dễ xác định cung phàm ngă, nhưng thường không có dấu hiệu nào về cung linh hồn. Việc này có thể xảy ra cho cả người trị bệnh lẫn bệnh nhân.

6. Không cung nào của đôi bên được biết.

Trong cuộc thảo luận này, tôi không đề cập ǵ đến cung của các thể xác, thể cảm dục và thể trí, dầu các cung ấy có một hiệu quả nhất định và đôi khi có tính quyết định, biết được th́ rất có ích.

700

 
Người trị liệu thành thạo, khi có được hiểu biết này, có thể dùng một kỹ thuật phụ dưới h́nh thức trợ giúp cho phương pháp căn bản, và dùng một hạ thể thích hợp (hoặc của chính y, hoặc của bệnh nhân) tuôn đổ qua đó một ḍng năng lượng trị liệu phụ, để tăng cường tác dụng của ḍng năng lượng chính. Việc đưa thêm ḍng năng lượng phụ này, hàm ư nhà trị liệu có kiến thức rất tiến bộ, hoặc phải được bệnh nhân cho biết thông tin chính xác. Như bạn có thể phỏng đoán, đây là điều hơi hiếm có. Nhờ nghiên cứu cẩn thận, nhờ tập hợp nhiều trường hợp tương đồng được biết, có thể xác định khá đúng bản chất hai cung chính. Tuy nhiên, cần có một điểm đạo đồ ở một tŕnh độ nào đó mới nhận biết và làm việc qua các cung của người có nhiều hạ thể. Nhờ đó, ở vào lợi thế phân phối lực trị liệu qua hai bí huyệt cùng một lúc. Tất nhiên, chúng ta sẽ không xét thêm mối liên hệ của các cung chi phối nhà trị liệu và bệnh nhân, theo quan điểm linh hồn và phàm ngă.

Tôi không thể chọn mỗi một trong các cung của cả nhà trị liệu lẫn bệnh nhân, rồi chỉ cho bạn kỹ thuật thích hợp. Điều này sẽ trở nên rơ ràng, nếu bạn xét một số lớn khó khăn xảy ra khi các cung của cả đôi bên được liên kết nhau. Trong quyển “Đường Đạo trong Kỷ Nguyên Mới” có nêu lên các cung của một số lớn đệ tử. Với tư cách bài tập thực nghiệm, bạn có thể chọn các cung khác nhau này, như đă nêu, rồi mỗi đệ tử này vào vai tṛ nhà trị liệu hoặc bệnh nhân, để xét xem phải sử dụng những bí huyệt nào trong trường hợp bệnh nào đó (mỗi bệnh nằm ở một chỗ khác nhau trong thân thể). Kế đó, cố gắng xác định nhà trị liệu nên khôn khéo theo phương pháp nào; tŕnh tự nào. Đồng thời, bạn nên nhớ hai điều: trước nhất, tất cả những người đó đều là thành viên của một Huyền Viện Cung Hai; thứ nữa, họ cũng là những người đệ tử, tất nhiên các cung của họ đều lộ rơ, trước nhà trị liệu – đó là sự trợ giúp rất lớn. Bạn cũng có thể quyết định xem năng lượng của cung nào nên được dùng trong tiến tŕnh trị liệu, qua bí huyệt nào trong chính bạn, với tư cách nhà trị liệu) và của đệ tử (bệnh nhân) – bạn sẽ làm việc và xét xem bạn nên dùng phương pháp phụ nào. Kế đó dùng cách tưởng tượng thực hiện việc trị liệu tưởng tượng, xem xét trong các thân hữu và bạn bè, có ai mà bạn tin là họ có điều kiện về cung tương tự, nếu họ đang đau ốm, hăy t́m cách giúp họ giống như cách bạn đă trợ giúp cho một bệnh nhân tưởng tượng. Sau đó, bạn hăy lưu ư xem những ǵ xảy ra. Tránh sử dụng kỹ thuật phụ bởi v́ đối với ba hạ thể, bạn dễ bị sai lầm hoàn toàn hơn là đối với hai cung chánh biểu lộ trong đời sống.

701

 
Có lẽ phần c̣n lại của vấn đề này có thể được minh giải bằng một số phát biểu. Chúng sẽ trở nên sáng tỏ hơn, khi khoa tâm lư học huyền môn trở nên một chủ đề giáo dục rơ rệt trong những thập niên sau này.

1. Nhà trị liệu nên biết rơ các cung của ḿnh, sau đó mới tiến hành điều trị trên cơ sở hiểu biết đó. Khi chưa có được hiểu biết đó, th́ đừng nên cố sức chữa trị.

2. Khi, v́ thiếu sự hiểu biết đó mà không thể tiến hành trị liệu, y nên tự giới hạn vào việc làm một vận hà đưa năng lượng bác ái đến bệnh nhân.

3. Trong đa số trường hợp, nhà trị liệu đều thấy dễ xác định các cung, hay ít nhất một cung của ḿnh, hơn là biết các cung của bệnh nhân.

Điều này có hai lư do:

 a. Sự kiện y đang t́m cách chữa trị và trợ giúp, cho thấy y đă khá tiến bộ trên đường tâm linh. Cần có tiến bộ đó để t́m đúng tính chất của cung. Nghiên cứu chút ít về chính ḿnh, về những cung có thể có, cũng đủ cho y thấy bản chất của các năng lượng đang chi phối y.

  b. Nếu bệnh nhân là người tiến hóa, th́ có thể người ấy không có ư nhờ y giúp, mà sẽ tự giải quyết vấn đề của chính ḿnh, qua linh hồn và qua Huyền Viện, nếu người ấy có liên hệ với một Huyền Viện nào. Nếu bệnh nhân kém tiến hóa, th́ cung của phàm ngă sẽ dễ xác định hơn cung linh hồn, và v́ thế sẽ là điểm giao tiếp.

702

 
4. Khi đă xác định thỏa đáng được nhiều cung hoặc một cung đang chi phối y, lúc đó, nhà trị liệu phải dùng trí, tức bộ máy tư duy để tự chuẩn bị cho cuộc trị liệu rất cẩn thận trong thời gian tối thiểu là năm giờ. Tôi không có ư nói rằng đó là năm giờ quán tưởng và kiểm soát liên tục thể trí, mà là thời gian suy tư tĩnh lặng. Trong thời gian đó, nếu có thể, nhà trị liệu nghiên cứu về các điều kiện của bệnh nhân để hiểu rơ:

 a. Vấn đề bệnh và bản chất đặc biệt của nó.

 b. Vị trí của nó trong thể xác.

 c. Bí huyệt liên hệ và (khi y là đệ tử đă được khai ngộ) với t́nh trạng của nó.

 d. Sự trầm trọng của bệnh và cơ may chữa lành.

 e. Người bệnh có nguy cơ từ trần hay chăng.

 f. T́nh trạng tâm lư của bệnh nhân.

 g. Các cung của bệnh nhân nếu thuận tiện. Các cung này, khi biết được, sẽ chi phối cách tiến hành trị liệu của y.

703

 
5. Chuẩn bị như thế, nhà trị liệu tập trung chú tâm đến cung của chính y. Khi y chỉ có sự hiểu biết tổng quát chứ không đặc thù về một hoặc nhiều cung của y, và cung của bệnh nhân, th́ y có thể tiếp tục, ước đoán rằng một người hay cả hai người thuộc về các tuyến năng lượng 1 – 3 – 5 – 7 hoặc 2 – 4– 6, và hành động dựa vào ước định tổng quát đó. Có được sự hiểu biết đặc biệt và thấu đáo th́ rất ích lợi, tuy nhiên, nếu không có hiểu biết đó, và các cung đặc biệt không được định rơ, th́ thường vẫn có thể xét xem khuynh hướng chung trong tính t́nh theo đường lối bác ái hoặc theo ư chí, rồi hành động tương ứng. Bấy giờ vấn đề là xem liên hệ giữa nhà trị liệu với bệnh nhân sẽ là theo phàm ngă với phàm ngă, theo linh hồn với linh hồn, hoặc là phàm ngă với linh hồn và ngược lại.

6. Khi có sự liên hệ giữa phàm nhân với phàm nhân (điều này thường xảy ra nhất), th́ năng lượng mà nhà trị liệu sẽ dùng đến hoàn toàn là prana của hành tinh. Hiệu quả của prana này sẽ là kích thích các tiến tŕnh tự nhiên của thể xác và (hợp tác với bản thể và thế là phù hợp với karma của bệnh nhân), củng cố thể xác của y đến mức người bệnh có thể loại bỏ bệnh tật, hoặc là có thể được trợ giúp để trực diện với sự tin tưởng các tiến tŕnh từ trần, và thoát xác để nhập vào các lănh vực hiện tồn tinh anh hơn, với sự thông hiểu sáng suốt và điềm tĩnh.

7. Khi có sự liên hệ giữa linh hồn của nhà trị liệu với phàm ngă của bệnh nhân, th́ nhà trị liệu sẽ hoạt động với năng lượng cung bằng cách tuôn đổ năng lượng cung của chính y, qua bí huyệt đang chi phối vùng bệnh. Khi cả hai linh hồn hoạt động hợp tác, có thể có sự phối hợp của hai năng lượng, hoặc là (khi có các cung giống nhau) có sự củng cố của một năng lượng duy nhất và thôi thúc rất nhiều việc chữa lành hoặc việc giải thể.

8. Nhà trị liệu bao giờ cũng phải nhớ rằng công việc của y là hoặc chữa lành bệnh – đúng theo luật karma– hoặc giúp vào tiến tŕnh giải thể, để nhờ đó mang lại một h́nh thức chữa trị cao hơn.

9.  Sẽ không xảy ra những việc chữa lành đột ngột và bệnh được ngăn chận một cách ấn tượng, trừ khi nhà trị liệu là một điểm đạo đồ cấp cao. Có thể làm việc với hiểu biết đầy đủ về các trường hợp và các điều kiện chi phối. Nếu các việc đó xảy ra, th́ do ba điều:

  a. Vận số của bệnh nhân mà cơ hội của y chưa đến.

  b. Sự chen vào của chính linh hồn bệnh nhân, bởi v́ xét cho cùng, th́ linh hồn là tác nhân của karma.

704

 
  c. Trợ giúp của nhà trị liệu; trợ giúp này tỏ ra đủ thích hợp giúp bệnh nhân có được niềm tin cần thiết và sức mạnh gia tăng, để mang lại sự chữa trị của chính người bệnh.

10. Không ai được giúp quay lại từ “cánh cửa tử vong”, nếu nghiệp quả họ cho thấy rằng thời giờ của ḿnh đă đến. Bấy giờ, chu kỳ sinh hoạt ở cơi trần chấm dứt, trừ phi người ấy là một phụng sự viên trong một Huyền Viện, một đệ tử ở một quả vị nào đó, mà công việc và sự hiện hữu của người đó vẫn c̣n cần ở cơi trần để hoàn tất công tác đă định của họ. Bấy giờ, Đức Thầy của Huyền Viện có thể đưa thêm kiến thức và năng lượng của Ngài cho nhà trị liệu, hoặc cho bệnh nhân, và tạm thời tŕ hoăn việc ra đi. Về việc này, có thể nhà trị liệu không tính đến hoặc bệnh nhân cũng thế, v́ họ không biết đầy đủ và chắc chắn các hoàn cảnh.

11. Nhà trị liệu phải thực hiện một số điều kiện cần yếu căn bản sau đây:

  a. Trong pḥng bệnh nhân, càng yên lặng hoàn toàn càng tốt.

  b. Có thể nói, càng ít người trong pḥng bệnh nhân là càng sáng suốt. Tư duy và các h́nh tư tưởng của những người hiện diện có thể gây xao lăng hoặc bị xao lăng, và do thế mà làm lệch các ḍng năng lượng trị liệu. Mặt khác, đôi khi chúng cũng giúp nhiều cho công việc của nhà trị liệu.

  c. Khi nào có thể, th́ bệnh nhân nên nằm ngữa, hoặc nằm nghiêng, để cho các bí huyệt trên cột xương sống quay về phía nhà trị liệu. Trong vài trường hợp (mà nhà trị liệu phải tự quyết định) người bệnh nên nằm theo cách nào, để cho nhà trị liệu có thể đặt hai tay ở phía trên vùng bệnh, mặc dầu không bao giờ y cần phải chạm đến cơ thể bệnh nhân.

705

 
12. Khi đă có được sự tĩnh lặng, an b́nh và thinh lặng rồi, nhà trị liệu mới tiến hành trị liệu với kỹ thuật thích hợp. Sự tĩnh lặng, an b́nh và thinh lặng nói trên không chỉ đối với các t́nh trạng của thân xác, mà c̣n đối với các trạng thái t́nh cảm và trí dục của nhà trị liệu, của bệnh nhân, cũng như của những người hiện diện. Điều này không phải lúc nào cũng dễ đạt được.

Khi nhà trị liệu không có được kỹ thuật thích hợp hay không hiểu được những công thức trị liệu ghi ở phần sau của sách này, th́ y có thể góp nhặt kỹ thuật và qui luật của riêng y, sau khi đă nghiên cứu kỹ càng các giáo huấn chữa trị này vốn có đủ những tài liệu và các gợi ư để giúp y làm việc đó.

III. BẢY KỸ THUẬT TRỊ LIỆU

Các kỹ thuật mà tôi sắp phải đưa ra dưới dạng bảy phát biểu tượng trưng cũ kỹ, hay bảy công thức, được góp lại từ cuốn “Các qui luật dành cho đệ tử được điểm đạo” (Book of Rules for Initiated Disciples). Tôi không dám đưa ra cách áp dụng thuần vật chất cho các kỹ thuật cung này, v́, việc đó quá nguy hiểm. Khi được hiểu và vận dụng đúng, các kỹ thuật ấy mang lại mănh lực khủng khiếp, và – trong bàn tay sai trái – có thể gây hại thực sự. Ở đây, tôi xin nhắc bạn rằng các môn đồ Hắc phái cũng chữa bệnh hoặc gây chết chóc, bệnh tật, và sử dụng những kỹ thuật tương tự. Chỉ khác có điều là họ chỉ có thể làm việc với các cung phàm ngă của cả nhà trị liệu lẫn bệnh nhân. V́ ở cơi trần họ mạnh mẽ hơn các Thành Viên của Thánh Đoàn, nên việc làm của họ thường rất hiệu quả. Nhà trị liệu tinh thần, bất cứ khi nào có thể, đều làm việc bằng các năng lượng của ánh sáng, nên ít khi có hiệu quả về mặt hồng trần.

706

 
Tuy nhiên, người của Hắc Phái, hoặc những nhà trị liệu làm việc dưới ảnh hưởng của Hắc Phái, đều hoàn toàn không thể tác động vào một bệnh nhân đă có định hướng tâm linh dầu ở mức tối thiểu, v́ thế mà đang ở dưới sự kiểm soát của linh hồn y. Họ cũng không thể hành động xuyên qua một nhà trị liệu đă có định hướng tâm linh. Nếu họ thử làm thế, th́ họ sẽ thấy chính họ bị chống đối bởi năng lượng đến từ Huyền Viện mà bệnh nhân hay nhà trị liệu đang hướng về đó, hoặc là gia nhập vào đó, dầu cho vị trí của y chỉ ở ngoại vi. Người thường, kém suy tư, th́ không hề có nguy cơ về sự can dự của “hắc phái”. Các lực lượng hắc phái không quan tâm đến người không quan trọng, mà chỉ chú ư đến kẻ có thế lực và ảnh hưởng, tức kẻ có thể đáp ứng mục tiêu của họ. Cũng như tà nghiệp của họ chỉ xảy ra vào lúc (hay chu tŕnh) mà con người đưa ra quyết định về việc hoặc là y sẽ tập trung vào sinh hoạt tinh thần, hoặc đứng yên một chỗ, hoặc là cố t́nh (điều này cực kỳ hiếm) quay sang con đường hoàn toàn ích kỷ. Con đường này dẫn tới Hắc Phái.

Vào phần đầu thế kỷ tới, một đệ tử nào đó sẽ đem các kỹ thuật hay những phát biểu huyền thuật này liên kết với việc trị liệu, để diễn dịch và minh giải chúng. Chúng có thể có ba ư nghĩa, nghĩa thấp nhất mà người nghiên cứu thời nay có thể thành công trong việc lư giải cho chính ḿnh, nếu y phản ánh thích hợp và sống tâm linh. Sau đây là bảy phát biểu:

BẢY PHÁT BIỂU

1. Kỹ thuật của cung một.

Mong cho huyền lực năng động ngự trị trong tâm các Đấng ở Shamballa đến trợ giúp tôi, bởi v́ tôi xứng đáng với sự trợ giúp đó. Xin huyền lực giáng hạ vào cái thứ ba, chuyển qua cái thứ năm và hội tụ nơi cái thứ bảy. Các lời này không hàm ư những ǵ diễn ra theo cái nh́n. Cái thứ ba, cái thứ năm và cái thứ bảy nằm trong cái thứ nhất và phát ra từ Mặt Trời Trung Ương của nguồn sống tâm linh. Bấy giờ, cái cao nhất mới được đánh thức trong người hiểu biết và trong người cần được điều trị, và như vậy cả hai là một. Đây là sự bí nhiệm sâu xa. Việc phối hợp mănh lực chữa trị tác động lên công việc mong muốn. Nó có thể đưa đến sự chết, tức là sự giải thoát trọng đại, và bằng cách đó mà tái lập cái thứ năm, cái thứ ba, cái thứ nhất, nhưng cái thứ bảy th́ không.

707

 
Năng lượng năng động này của cung một, thường được nhà trị liệu tinh thần thành thạo sử dụng, khi y thấy rơ rằng bệnh nhân đă đến lúc từ trần và sắp được thoát ra. Trong những trường hợp cung linh hồn của nhà trị liệu hoặc bệnh nhân là cung một, th́ sự áp dụng năng lượng cung một này phải chuyển từ bí huyệt đầu đến bí huyệt đầu, và từ đó chuyển đến vùng bệnh, và đến bí huyệt liên hợp với vùng đó. Khi đúng theo nghiệp quả, căn bệnh có thể chữa lành, th́ áp dụng này có thể tạm thời làm cho cơn bệnh nặng thêm. Đó là do năng lượng lưu nhập đang “trục xuất mănh liệt” chính mầm mống hay các cội rễ của bệnh tật. Nhiệt độ bệnh nhân có thể tăng, hoặc có thể bị suy sụp theo lối nào đó. Nhà trị liệu, bệnh nhân và thầy thuốc đang trông nom phải chuẩn bị cho việc này, và nên chọn các giai đoạn cần cho thể xác để cải thiện, các bước này do y khoa chính thống định đoạt, để hóa giải phản ứng thuần về thể xác. Khi cung linh hồn bệnh nhân không thuộc cung một, mà phàm ngă lại thuộc cung một, th́ nhà trị liệu phải hết sức cẩn thận, khi áp dụng năng lượng cung một, và nên tiến hành một cách thật chậm răi và tuần tự xuyên qua bí huyệt thuộc cung 1 – 3 – 5 – 7, ở gần vùng bệnh nhất, cho năng lượng đi qua bí huyệt đó và đến bí huyệt (bất cứ bí huyệt nào) ở tại vùng bệnh. Nếu bí huyệt đó lại thuộc các cung 3 – 5 – 7, th́ nhà trị liệu phải cẩn thận đặc biệt; nếu không, năng lượng mạnh mẽ của cung một sẽ hủy diệt chứ không chữa lành bệnh.

2. Kỹ thuật cung hai

708

 
Mong sao năng lượng trị liệu giáng hạ, mang theo hai tuyến năng lượng của sự sống và lực thu hút của nó. Mong sao từ lực sống động ấy triệt thoái và bổ túc những ǵ đang có trong cái thứ bảy, đem bốn và sáu đối lại ba và bảy, nhưng không động đến năm. Ḍng xoáy xoay ṿng và bao quát –giáng xuống vị trí– khuấy động, trừ khử, rồi cung ứng và thế là công việc làm xong.

Trái tim xoay tṛn; hai trái tim xoay tṛn như một. Cái mười hai ở trong hiện thể, cái mười hai bên trong đầu, và cái mười hai ở trên cơi nỗ lực của linh hồn, đang cố gắng cộng tác như một và thế là công việc làm xong. Hai năng lượng đạt mức hoàn măn và cả ba lại hợp thành mười hai, ứng đáp với mười hai cao cả hơn. Sự sống được biết đến và năm kéo dài.

Nếu phát biểu cổ xưa này được đọc dưới ánh sáng của bất cứ sự hiểu biết nào mà bạn có (có lẽ bạn có nhiều hơn bạn hiểu, đặc biệt kiến thức liên quan đến các bí huyệt, lư giải đầu tiên hay là dễ nhất sẽ xuất hiện.

3. Kỹ thuật cung ba

Nhà trị liệu đứng lên và tổ chức (weaves). Từ ba, năm và bảy, y gom những ǵ cần cho tâm của sự sống. Y gom chung các năng lượng lại và giúp chúng phụng sự cái thứ ba. Thế là y tạo xoáy lực mà kẻ đau ốm phải đi vào đó và cùng với nhà trị liệu. Tuy vậy, cả hai vẫn an b́nh và tĩnh tại. Thế là, vị thiên thần của Đấng Chúa Tễ phải giáng vào hồ nước và mang lại sự sống lành mạnh.

709

 
Ở đây, “hồ nước” có tính minh họa và có thể gây ra nhiều nghi vấn về ẩn ư của nó. Lư giải sơ đẳng của câu này thực sự liên quan đến nguyên nhân chính yếu và quan trọng của nhiều bệnh tật (như trước đây chúng ta đă thấy), bản chất t́nh cảm mà nó là công việc của ngôi/ trạng thái thứ ba của Thượng Đế cần được chế ngự. Hăy suy gẫm kỹ điều này, v́ bạn có thể được nhiều khai ngộ.

Kỹ thuật trị liệu kế tiếp th́ dài hơn và khó hiểu hơn rất nhiều. Trong đó, bạn sẽ không hiểu được bao nhiêu; về phần chủ đề của chúng ta th́ nó hoàn toàn liên quan đến chính con người và liên quan đến câu châm ngôn: “Con người, ngươi hăy tự biết ḿnh” .

4. Kỹ thuật cung bốn.

Nhà trị liệu biết bất hài ḥa nằm ở nơi đâu. Y cũng hiểu được quyền năng của âm thanh và âm phải được nghe thấy. Biết được âm điệu (note) mà nhóm lớn thứ tư phản ứng lại và liên kết nó với Số Chín Sáng Tạo vĩ đại, y xướng lên âm điệu giúp cho giải thoát, âm điệu này sẽ thu hút vào cái duy nhất. Y huấn luyện lỗ tai đang lắng nghe của người cần được chữa lành. Y cũng huấn luyện lỗ tai đang lắng nghe của người phải ra đi. Y biết được thể cách của âm thanh giúp chữa lành bệnh, và cũng biết được mệnh lệnh: Lên đường. Và thế là công việc được thi hành.

Kỹ thuật thứ tư này là kỹ thuật mà –v́ thiếu hiểu biết đích thực về cung– có thể hữu ích rộng lớn v́ cung bốn cai quản giới thứ tư trong thiên nhiên, giới nhân loại. Nhà trị liệu theo đường lối làm việc này, chính yếu là trị liệu bằng cách sử dụng âm thanh hay các âm thanh thích hợp (hiện nay, những nhà trị liệu như thế, thực ra chưa có, bởi v́ cung bốn chưa lâm phàm. Trong những giai đoạn đầu, khi kỹ thuật này xuất hiện, nhà trị liệu sẽ dùng âm nhạc ở mức độ lớn để chữa trị, hoặc để làm cho tiến tŕnh từ trần được dễ dàng. Tuy nhiên, đó sẽ là âm nhạc có họp âm duy nhất lặp lại liên tục, nó sẽ biểu hiện cho âm điệu của cung bốn và của giới nhân loại. Trị liệu bằng phương tiện âm thanh sẽ là một trong những khai mở về trị liệu đầu tiên cần được chú ư vào cuối thế kỷ tới. Việc truyền dạy thêm theo đường lối này cũng sẽ vô ích cho tới khi cung thứ tư lại nhập vào chu kỳ biểu lộ.

710

 
5. Kỹ thuật cung năm

Những ǵ đă truyền thụ, phải được đem sử dụng. Những ǵ xuất lộ ra trong cách được truyền dạy, phải có chỗ của nó trong kế hoạch của nhà trị liệu. Những ǵ c̣n ẩn giấu phải được t́m thấy, và từ số ba, tri thức trọng đại sẽ xuất lộ. Nhà trị liệu t́m kiếm những tri thức này. Nhà trị liệu thêm vào hai cái vốn như một. Thế là cái thứ năm phải đóng vai tṛ của nó, và năm phải hành động y như một. Các năng lượng đi xuống, vượt ngang qua và tan biến, để lại người có thể ứng đáp với karma chưa đến lúc tan ră, và mang theo chúng người nào không ứng đáp được theo cách đó, và v́ thế mà cũng phải tan biến.

Về cách trị liệu của cung năm, ư nghĩa dễ thấy và đơn giản, nhất là ở chỗ nhờ làm việc một cách khoa học và phần lớn trên cấp độ cụ thể, nhà trị liệu dùng mọi sự giúp đỡ để chữa trị, bắt đầu bằng sự chăm nom thể xác một cách thích hợp, rồi chuyển qua các cách trị liệu tinh tế hơn. Lần nữa, tôi xin nêu ra rằng sự giúp đỡ vật chất có thể được sử dụng một cách thiêng liêng như những phương pháp huyền bí hơn mà nhà trị liệu siêu h́nh hiện đại tin là có hiệu quả sâu xa hơn. Giống như mọi kiến thức tân tiến được phát triển ở cơi trần, qua phàm ngă của những người nam và nữ có hiểu biết sâu rộng và có siêu tài ở khắp nơi, đều hữu ích cho đệ tử và điểm đạo đồ, trong thời gian và không gian; các môn y học cũng hữu ích như thế. Đệ tử hoặc điểm đạo đồ cũng phải áp dụng đúng các khoa học khác nhau này, để mang lại những kết quả tinh thần; khi chữa trị, nhà trị liệu cũng phải áp dụng như thế.

711

 
Mọi công việc đều trở nên thiêng liêng khi được thúc đẩy đúng, khi được vận dụng với sự phân biện khôn ngoan, và sức mạnh linh hồn được đưa thêm vào kiến thức thu đạt được trong ba cơi thấp. Việc sử dụng tích cực một trong bảy ḍng năng lượng được thêm vào sự hiểu biết lành mạnh, và việc làm của vị y sĩ tân tiến, được nhà trị liệu trợ giúp (y đóng vai tṛ xúc tác), có thể tạo nên những huyền diệu, khi mà vận mệnh định như thế. Nhà trị liệu siêu h́nh làm việc một ḿnh trên các phân cảnh tinh anh, th́ cũng giống như người phụng sự tinh thần rất thường gặp thất bại khi làm hiện ra những tài sản cần có ở cơi trần. Điều này thường được tạo ra bởi một ư thức tự tôn tinh vi – dầu thường không được nhận ra – mà nhà trị liệu bậc trung và nhà huyền bí học xem vấn đề làm hiện ra sức khỏe vật chất, hoặc tiền bạc với ư thức đó. Hăy suy gẫm kỹ điều này và nhận ra rằng các phương pháp của cung năm được hoàn tất ở cơi trần. Ở cơi này, chúng thường mang lại sự xung đột và sau rốt tạo nên đột hiện vật chất có bản chất mong muốn. Về những ǵ tôi đă nói liên quan đến các kỹ thuật cung năm, tôi đă đưa ra nhiều ngụ ư và thông tin hơn bất cứ cung nào khác.

6. Kỹ thuật cung sáu

Nhà trị liệu khấn nguyện: mong sao quyền năng giáng xuống phân ly các ḍng nước. Y không bận tâm việc các ḍng nước ứng đáp ra sao. Chúng thường đem lại các lượn sóng dữ dội và những diễn biến kinh khủng ghê gớm. Kết thúc tốt đẹp. Xáo trộn sẽ chấm dứt khi giông tố hạ xuống, và năng lượng đă hoàn tất định mệnh được vạch ra của nó. Sức mạnh được thôi thúc nhập thẳng vào tim, và vào mọi vận hà, nadi, dây thần kinh và lá lách, sức mạnh này phải t́m ra một con đường và như vậy nó đối đầu với kẻ địch đă xâm nhập và đă quen sống ở đó. Việc đẩy ra không thương tiếc, đột ngột và hoàn toàn – được đảm nhận bởi người không thấy ǵ khác, ngoài sự vận hành hoàn hảo và không dung túng một can thiệp nào. Thế là sự vận hành hoàn hảo này mở được cửa vào cuộc sống vĩnh cửu, hoặc vào cuộc sống trần thế, thêm một ít lâu.

712

 
Khi nhà trị liệu thuộc cung sáu, th́ kỹ thuật này mạnh mẽ lạ lùng và đột ngột. Các kết quả quyết liệt, đầy đau đớn, nhưng lại chắc chắn – hoặc lành bệnh hoặc chết, thường là chết. Hiện nay, nhà chữa trị thuộc cung sáu ít khi giữ giới luật hoặc khôn khéo, do cung này đang ở cuối chu kỳ của nó. Khi cung 6 biểu lộ trở lại, nhân loại đă tiến xa trên Thánh Đạo và nhà trị liệu năng nỗ hiện nay quá tự tin, cuồng tín thuộc cung 6 sẽ không tái xuất hiện. Ngày nay, họ thuộc đa số, c̣n công việc của họ không có ǵ hay cả. Đó là những việc làm đầy hảo ư, nhưng kỹ thuật lại được áp dụng một cách thiếu hiểu biết và mục tiêu không chứng thực được sự tin chắc của nhà trị liệu, nên thường đưa đến sự lừa gạt bệnh nhân.

7. Kỹ thuật cung bảy

Năng lượng và lực phải đáp ứng lẫn nhau, như thế công việc mới hoàn thành. Màu sắc và âm thanh ở tŕnh tự đă an bài phải đáp ứng và ḥa hợp, nhờ thế công tác huyền thuật có thể tiến hành. Vật chất và tinh thần phải đáp ứng lẫn nhau, và khi đi qua bí huyệt của người đang cần trợ giúp, sẽ tạo được cái mới mẻ và tốt lành. Như thế, nhà trị liệu tiếp năng lượng cho sự sống đang suy yếu, đẩy sự sống lên, hoặc buộc chặt nó vào nơi c̣n thâm sâu hơn nữa của số mệnh. Cả bảy bí huyệt phải được sử dụng vào qua bảy bí huyệt các năng lượng chuyển qua nơi cần thiết, tạo nên con người mới, vốn đă hiện tồn và sẽ măi măi hiện tồn, hoặc ở đây hoặc ở đó.

713

 
Trong kỹ thuật này, bạn có manh mối cho tất cả, v́ công việc của nhà trị liệu cung bảy là tập hợp lại sự sống và chất liệu vốn sẽ chiếm chỗ của chất liệu đă bị nhiễm bệnh và đưa lại sự sống mới mẻ để giúp phục hồi. Vinh hạnh của sự sống nằm trong sự thành toàn và trong sự xuất lộ. Đây là nhiệm vụ chính yếu và là phần thưởng quan trọng nhất của mọi nhà trị liệu chân chính. Chính kỹ thuật thu hút và thay thế này sẽ mang lại một tŕnh độ biểu lộ khoa học tốt đẹp trong kỷ nguyên mới vào lúc mà cung bảy sẽ thống ngự hành tinh chúng ta, tạo ra những ǵ mới mẻ và cần thiết, đồng thời định đoạt văn hóa văn minh và khoa học sắp tới.

ef

Để kết luận tôi xin nói rơ lư do khiến tôi không đưa ra thêm nhiều chi tiết và không phân tích rơ cách diễn đạt bằng lời của các công thức trị liệu cổ xưa này. Không kể đến lư do được đưa ra trước đây, đó là con người chưa sẵn sàng để được truyền thụ các giáo huấn rơ ràng, trong lúc này, bất cứ điều ǵ mà tôi có thể nói dường như đối với bạn đều là trẻ con. Đó là ngôn từ lạ lùng, nó dường như mô tả phản ứng trước mắt có thể xảy ra. Chúng ta sắp sửa bước vào một kỷ nguyên mới trong việc phát triển khoa học, do sự khám phá cách giải phóng năng lượng nguyên tử. Ngay đến những nhà khoa học phụ trách khám phá cũng không có ư tưởng mơ hồ nhất về các hiệu quả sâu rộng của biến cố trọng đại đó. Theo khía cạnh chủ đề của chúng ta và chủ đề của sách này, một ngôn ngữ hoàn toàn mới, liên quan đến năng lượng và lực đă đang được đặt ra. Việc sử dụng khám phá đó trong cách đối phó với bệnh tật, sẽ được xem như đâu có kém phần kỳ diệu trong tương lai trước mắt, theo quan điểm huyền môn.

714

 
Việc khám phá ra cách giải phóng năng lượng nguyên tử đă xảy ra nhờ hoạt động của cung một, liên quan đến cung bảy đang xuất lộ, cũng tương tự với việc giải thoát của Chân Sư ở kỳ điểm đạo năm (khi cánh cửa nhà mồ mở tung ra) và tương đồng với sự từ trần, lúc mà linh hồn bị giam nhốt được giải thoát. Dưới ánh sáng của các chuyển biến khoa học trong tương lai, các kỹ thuật cổ xưa này sẽ trở nên sáng tỏ hơn; trong thời gian chờ đợi, bất cứ giải thích nào về “tầm quan trọng của năng lượng” (“energetic import”) đích thực của chúng sẽ là vô nghĩa. Thuật ngữ mới mẻ sắp đến sẽ rọi ánh sáng vào các công thức cổ xưa này, và đúng lúc bạn sẽ thấy bao nhiêu điều có thể được truyền đạt cho nhà chữa trị sáng suốt của thế hệ mới đó, bởi những ǵ mà theo bạn, dường như vừa gây thất vọng, không có công dụng hoặc ư nghĩa ǵ cả, vừa bí hiểm một cách không cần thiết.

Trong thời gian chuyển tiếp giữa quá khứ với những ǵ đang diễn tiến, ngay đến một Đức Thầy Minh Triết cũng không dễ ǵ nói ra hay giảng dạy; đặc biệt có liên quan đến chủ đề trị liệu. Thể xác chưa hề được đa số người thừa nhận là một đơn vị tích điện; bản chất của nó với tư cách năng lượng nguyên tử thuần túy chưa được nhận ra. Sự thực về thể năng lượng (energy body), tức thể dĩ thái, hiện nay chưa được nhận biết trong các giáo huấn của các trường y khoa hiện đại, mặc dầu sự kiện này đă được thảo luận. Bản chất dễ bùng nổ của năng lượng, khi tiếp xúc với lực, hay là sự bộc phát của linh hồn liên quan với vật chất, hoàn toàn chưa được biết hoặc c̣n bị che giấu trong ngôn ngữ thần bí. Rồi đến lúc mà các công thức khoa học mới và cách tiếp cận mới sẽ được đại chúng biết đến nhiều hơn (mà khám phá về giải phóng năng lượng nguyên tử đă mang lại); trở nên đề tài bàn bạc quen thuộc và được diễn đạt bằng ngôn ngữ quen dùng, th́ khoa trị liệu sắp đến mới không c̣n bị che giấu sau một lớp màn ngôn ngữ không thích hợp, và không c̣n ẩn giấu trong những lời lẽ không thích đáng nữa.

Như tôi vẫn thường nói với các bạn, sự việc này đang gây bất lợi cho mọi cuộc tŕnh bày chân lư mới. Chẳng hạn như, ngôn từ của một kỹ sư điện hoặc của một nhà họa kiểu xe hơi, hẳn nhiên là hoàn toàn vô nghĩa đối với người b́nh thường cách đây một thế kỷ. Bởi vậy, chính với các chủ đề mới và những khám phá quan trọng đang xảy ra, sau rốt sẽ ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực sinh hoạt nhân loại trong đó có Thuật Trị Liệu.

Bởi v́, mọi người đă biết được tôi là ai, nên tôi kư tên là Chân Sư Djwhal Khul.

 

                                                              Chân Sư Tây Tạng

                                                                  (The Tibetan)

 

 



 

 

 


TRỊ LIỆU THEO HUYỀN MÔN

 

(ESOTERIC HEALING)

 

 

QUYỂN  IV

TRONG BỘ

LUẬN VỀ BẢY CUNG

(A TREATISE ON THE SEVEN RAYS)

 

 

 

 

 

 

ALICE A. BAILEY

 

LUCIS PUBLISHING COMPANY

NEW YORK

LUCIS PRESS  LTD

London

 

MMX

 



[1] Dĩ thái: do chữ ether của Tây phương. Trung Hoa phiên âm cách đọc chữ ether theo âm Bắc Kinh là Yī tài, V.N. đọc lại là dĩ thái. Trong đó chữ “dĩ” có nghĩa: cho là, tưởng…; “thái” có nghĩa là lớn, trùm khắp. Sở dĩ nó được đặt tên như thế là v́ “theo cổ nhân đây là một lưu chất tinh anh, lấp đầy các khoảng không ở bên kia bầu khí quyển địa cầu”  (Trích Tự Điển La Rousse 1995).

    Theo Huyền học, ether là một tác nhân vật chất (material agent) mặc dầu từ trước đến giờ chưa được bộ máy nào ở cơi trần phát hiện.                                              (Trích Theosophical Glossary, 1971).

[2]  [“Vấn đề tính dục”, trang 268 – 307, trong bộ “Luận về 7 cung”, quyển I]

[3] Luận Về Lửa Càn Khôn… trang  77 – 116 (bản tiếng Anh _ND)

   Ánh Sáng Linh Hồn    trang 77, 217 – 225, 280 – 282, 328-330, 332 –nt.

[4] Ion: (đôi khi được dịch là ly tử) là một nguyên tử hoặc nhóm các nguyên tử đă mất đi một hoặc nhiều âm điện tử ( = cation, trở thành cation) hoặc lấy thêm một hay nhiều âm điện tử (electron) để trở thành anion (= anion). (Từ Điển Oxford 1994). Anion: ion mang điện tích âm. Cation: ion mang điện tích dương.

[5]  Quyển Esoteric Healing này được xuất bản lần thứ nhất năm 1953 (ND)

1. Trong đoạn trên, ta thấy khi tinh thần kết hợp với vật chất  th́ thái dương hệ mới biểu lộ, vậy nếu có thái dương hệ (và dĩ nhiên có chúng ta) tức là tinh thần đang hợp với vật chất, vậy “the pairs of opposites” nên hiểu là các cặp đối hợp. (ND).