TRỊ LIỆU THEO HUYỀN MÔN

(ESOTERIC HEALING)

 

QUYỂN  IV

TRONG BỘ

LUẬN VỀ BẢY CUNG

(A TREATISE ON THE SEVEN RAYS)

 

ALICE A. BAILEY

 

LUCIS PUBLISHING COMPANY

NEW YORK

LUCIS PRESS  LTD

London

 

MMX

 

MỤC LỤC

                                                                                  Trang  (Anh ngữ)

Các Nhận Xét Dẫn Nhập.... 1

 

PHẦN MỘT

Các Nguyên Nhân Căn Bản Của Bệnh Tật    9

Chương I .- Các Nguyên Nhân Tâm Lư Của Bệnh Tật........................................... 24

1. Các Nguyên Nhân Xuất Phát Trong Bản Chất Cảm Dục................................ 33

   A. Xúc Cảm Thiếu Kiểm Soát Và Bất Thường       38

   B. Dục Vọng, Bị  Ức Chế Hay Phóng Túng      53

   C. Các Bệnh Tật Do Lo Âu Và Bực Bội       67

2.  Các Nguyên Nhân Xuất Phát Từ Thể Dĩ Thái    71

   A. Sự Bế Tắc   ...................  76

   B. Thiếu Sự Điều Hợp Và Phối Kết        79

   C. Các Bí Huyệt Bị Kích Thích Quá Độ       80

3.  Các Nguyên Nhân Xuất Phát Trong Thể Trí       88

   A. Các Thái Độ Trí Tuệ Sai Lầm       89

   B. Sư Cuồng Tín Trong Trí Tuệ

       Sự Thống Trị Của Các H́nh Tư Tưởng        91

   C. Chủ Nghĩa Lư Tưởng  Bất Như Ư     95

       Nghệ Thuật Chữa Trị Thiêng Liêng        99

       Các Qui Luật Mở Đầu Cho Việc Xạ Trị        103

       Ba Định Luật Chính Về Sức Khỏe    105

       Tổng Kết Các Nguyên Nhân Của Bệnh Tật ................................................. 112

4. Các Bệnh Do Cuộc Đời Của Người Đệ Tử     114

   A. Các Bệnh Của Nhà Thần Bí        115

   B. Các Bệnh Của Người Đệ Tử 120

        Các Bí Huyệt Và Hệ Thống Tuyến  140

        Bảy Bí Huyệt Chính ... 144

        Cơ Thể - Sắc Tướng Cơi Hiện Tượng    163

        Bảy Bí Huyệt Chính (Tiếp Theo)      168

        Thể Dĩ Thái, Hệ Thần Kinh Và Hệ Nội Tiết, Các Hiệu Quả

 Tạo Ra Trong Các Vùng Đặc Biệt     199

       Các Hiệu Quả Kém Kích Thích Và Quá Kích Thích Của

Các Bí Huyệt ........................ 207

Chương II .-  Nguyên Nhân Xuất Phát Từ Cuộc Sống Tập Thể ....................... 221

1. Bệnh Của Nhân Loi, Kế Thừa Từ Quá Khứ ................................................. 226

   A.  Bệnh Hoa Liễu Và Bệnh Giang Mai     228

   B. Bệnh Lao  ..................... 232

   C. Bệnh Ung Thư   .......... 237

2. Bệnh Nảy Sinh Do T́nh Trạng Che Lấp Hành Tinh ....................................... 242

3. Bệnh Do Chủng Tộc Và Quốc Gia 249

Chương III .- Trách Nhiệm Nghiệp Quả Chúng Ta................................................. 259

1. Trách Nhiệm Nghiệp Quả  Của Cá Nhân      289

2. Các Nguyên Nhân Nghiệp Quả  Thuộc Bảy Cung................................................. 292

Chương  IV.- Một Vài Vấn Đáp     306

 

PHẦN   HAI

Các Đ̣i Hỏi Căn Bản Cần Cho Việc Chữa Trị    380

Chương  V .- Tiến Tŕnh Phục Hồi      424

1. Bản Chất Sự Chết   .......... 437

    Nỗi Sợ Chết  ..................... 440

    Định Nghĩa Sự Chết ....... 442

    Mục Đích Sự Chết  .......... 445

    Thuật Từ Trần .................. 453

2. Tác Động Phục Hồi ......... 460

    Yếu Tố Chống Lại Linh Hồn Triệt Thoái   464

    Hai Lư Do Chính Cho Việc Hỏa Táng 470

    Tŕnh Tự Sự Việc Lúc Từ Trần   472

3. Hai Vấn Đề Trọng Đại  ... 478

Chương  VI .- Thuật Thải Hồi 486

    Các Hoạt Động Ngay Sau Khi Từ Trần      490

    Kinh Nghiệm Devachan  496

    Mười Định Luật Chữa Trị    499

Chương  VII .- Tiến Tŕnh  Hội Nhập       505

     Ư Nghĩa Của Hội Nhập . 508

     Trạng Thái Trí Tuệ Của Linh Hồn 510

     Thải Hồi H́nh Tư Tưởng Của Phàm Ngă      515

                                            

 

PHẦN   BA

Các Định Luật Chữa Trị Căn Bản       521

Chương VIII .- Liệt Kê Và Áp Dụng Các Định Luật Và Qui Tắc............................. 532

Định Luật I .......................... 538

Định Luật II  ....................... 543

Qui Tắc  Một  ...................... 550

Định Luật III  ...................... 558

Định Luật IV ....................... 564

Qui Tắc  Hai  ....................... 577

Định Luật V ........................ 582

Qui Tắc  Ba  ......................... 602

Định Luật VI  ...................... 607

Định Luật VII  .................... 614

Qui Tắc  Bốn  ...................... 630

Định Luật VIII  ................... 633

Qui Tắc  Năm ..................... 642

Định Luật IX ....................... 660

Qui Tắc  Sáu ........................ 672          

Định Luật X  ....................... 678

Chương   IX .- Bảy Cách Chữa Trị      693

   Các Năng Lượng Thuộc Bảy Cung        695

   Cung Của Nhà Chữa Trị Và Của Bệnh Nhân 698

   Bảy Phương Pháp Chữa Trị        705

Mục Lục ................................ 712

                              

                                   


 

Đại Khấn Nguyện

 

Từ điểm Linh Quang trong Thiên Trí

Cầu xin ánh sáng tràn ngập trí người

Cầu xin Linh Quang giáng xuống Dương Trần

 

Từ điểm Bác Ái trong Thiên Tâm

Cầu xin bác ái tràn ngập tâm người

Mong sao Đấng Christ trở lại Trần Gian

 

Từ trung tâm mà Thiên Ư được thấu triệt

Mong cho Thiên Ư dẫn dắt tiểu chí con người

Thiên Ư mà Chân Sư biết rơ và phụng hành.

 

Từ trung tâm chúng ta gọi là nhân loại

Cầu xin Thiên Cơ, Bác Ái và Linh Quang khởi động

Mong cho Thiên Cơ đóng kín tà môn

 

Cầu xin Linh Quang, Bác Ái và Quyền Năng

phục hồi Thiên Cơ ở chốn Trần Hoàn

 

Khấn nguyện trên không thuộc về bất cứ người nào hoặc nhóm nào, mà thuộc về tất cả nhân loại. Vẻ đẹp và sức mạnh của Bài Khấn Nguyện này nằm trong tính chất giản dị của nó, và trong việc nó biểu lộ một vài chân lư trụ cột mà tất cả mọi người, theo lẽ tự nhiên và b́nh thường đều chấp nhận – chân lư về sự hiện hữu của một Đấng Thông Tuệ cơ bản, Đấng mà chúng ta gán cho danh xưng một cách mơ hồ là Thượng Đế (God). Chân lư này chủ trương rằng đàng sau mọi vẻ bên ngoài, có một mănh lực thúc đẩy của vũ trụ là T́nh Thương; chân lư này cho rằng có một Đấng Cao Cả đă đến cơi trần mà người theo Thiên Chúa giáo gọi là Đấng Christ, và là hiện thân của t́nh thương đó để cho chúng ta có thể hiểu được; chân lư đó cho rằng cả t́nh thương lẫn sự thông tuệ đều là các thành quả của Thiên Ư; và sau rốt, cái chân lư tự nó hiển nhiên cho rằng chỉ do chính nhân loại mà Thiên Cơ mới có thể được khởi động”.

 

                                                                      Alice  A.  Bailey


Trích lời phát biểu của Chân Sư Tây Tạng

Xuất bản vào tháng 8 – 1934

Nói rằng tôi là một đệ tử người Tây Tạng thuộc một tŕnh độ nào đó th́ cũng đúng, tuy nhiên, nếu tôi nói thế th́ các bạn chẳng hiểu được bao nhiêu, bởi v́ tất cả đều là các đệ tử, từ người t́m đạo khiêm tốn nhất trở lên cho đến chính Đức Christ và các Đấng Cao Cả hơn Ngài. Tôi khoác một thân xác hồng trần giống như mọi người, và sống trên vùng biên giới Tây Tạng. Nói theo quan điểm ngoại môn th́ thỉnh thoảng tôi có điều khiển một nhóm nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng, khi các bổn phận khác của tôi được rảnh rỗi. Chính v́ thế mà người ta mới nói rằng tôi là một tu viện trưởng của Tu viện Lạt Ma giáo đặc biệt đó. Tất cả những người đệ tử chân chính đều tham gia trong công tác của Thánh Đoàn, và những người nào kết hợp với tôi trong công tác này đều biết tôi dưới một danh xưng và một chức vụ khác. A. A. B. biết tôi là ai và biết đến hai danh xưng của tôi.

Tôi là một huynh đệ của các bạn, là người đă đi hơi xa trên Thánh Đạo hơn một đạo sinh b́nh thường, và do đó phải gánh vác các trách nhiệm nặng nề hơn. Tôi là kẻ đă chiến đấu và phấn đấu để vươn lên một mức độ giác ngộ, cao hơn mức của người t́m đạo đang đọc tác phẩm này. Do đó, tôi phải làm người truyền đạt ánh sáng với bất cứ giá nào. Tôi không phải là một người luống tuổi như số tuổi mà người ta cho là phải có trong các Chân Sư, tuy nhiên, tôi không non nớt hay thiếu kinh nghiệm. Công tác của tôi là dạy dỗ và truyền bá tri thức về Minh Triết vĩnh cửu ở bất cứ nơi nào có sự đáp ứng, và tôi đă làm việc này trong nhiều năm qua. Khi nào có dịp, tôi cũng t́m cách giúp Chân Sư M. và Chân Sư K.H. v́ từ lâu tôi đă thân cận với các Ngài và liên kết với công việc của các Ngài. Nói tất cả những điều trên đây là tôi đă nói nhiều với các bạn rồi. Tuy nhiên, đồng thời tôi không nói với bạn điều ǵ khiến bạn phải tuân theo tôi một cách mù quáng, và có sự tôn sùng dại dột mà kẻ t́m đạo nhiều xúc cảm đem hiến dâng cho vị Đạo Sư và Chân Sư, là Đấng mà y chưa thể tiếp xúc được. Ngày nào y chưa biến đổi được sự tôn sùng bằng t́nh cảm thành việc phụng sự vô kỷ cho nhân loại – chớ không phải cho Chân Sư – th́ ngày đó, y vẫn chưa có được sự giao tiếp tốt đẹp nói trên.

Các sách mà tôi viết, được đưa ra, nhưng không đ̣i hỏi các bạn phải chấp nhận, chúng có thể đúng hoặc không đúng, thực hay không thực và hữu ích hay vô ích. Tôi để cho các bạn xác nhận chân lư của chúng bằng cách thực hành đúng đắn và bằng cách vận dụng trực giác. Cả tôi lẫn A.A.B. đều không hề quan tâm chút nào đến việc xem chúng là các tác phẩm được truyền linh hứng, hoặc lời đồn đại rằng đó là những tác phẩm của một trong các Chân Sư. Nếu các sách này tŕnh bày Chân lư đúng tŕnh tự, kế tiếp theo những chân lư đă được đưa ra trong việc giáo huấn thế gian, nếu những huấn điều trong đó có thể nâng cao đạo tâm và ư chí phụng sự, từ cơi t́nh cảm đến cơi trí (là cơi làm việc của các Chân Sư) th́ các sách này đă đạt được mục đích. Nếu giáo huấn trong sách có thể gợi được sự đáp ứng nơi thể trí đă khai ngộ của người phụng sự ở thế gian, và giúp cho trực giác y lóe sáng, th́ lúc bấy giờ, y mới nên chấp nhận giáo huấn đó. Ngoài ra, không c̣n cách nào khác. Nếu các phát biểu này vẫn đúng khi được chứng minh đến mức rốt ráo, hay tỏ ra là đúng khi được trắc nghiệm bằng Định Luật Tương Ứng, th́ bấy giờ, chúng mới quả là tốt đẹp. Nếu không được như thế th́ đạo sinh đừng nên chấp nhận các điều ấy làm chi.

 


1

 
CÁC NHẬN XÉT DẪN NHẬP

(INTRODUCTORY REMARKS)

 

Toàn bộ chủ đề trị liệu đă có từ thời xa xưa, và bao giờ cũng là chủ đề khảo cứu và thực nghiệm. Tuy nhiên, đối với việc vận dụng đúng mănh lực và khả năng chữa trị, th́ sự hiểu biết c̣n ở giai đoạn phôi thai; sau rốt, chỉ măi đến thời đại và thế hệ này, mới có thể truyền đạt các định luật chữa trị bằng từ lực, và nêu ra các nguyên nhân của bệnh tật – xuất phát từ ba nội thể – hiện đang tàn phá cơ thể con người, gây ra đau khổ bất tận và báo trước cho con người vượt qua cổng dẫn đến thế giới có sự sống vô h́nh. Chỉ đến ngày hôm nay con người mới ở mức tiến hóa tâm thức mà con người có thể bắt đầu nhận thức được sức mạnh của các thế giới nội tâm, và môn tâm lư học mới mẻ và rộng lớn là câu trả lời của con người cho sự quan tâm ngày càng tăng này. Các tiến tŕnh hiệu chỉnh, thải hồi và chữa trị đang thu hút tâm trí của tất cả những người biết suy tư, cũng như của tất cả những ai đang đau khổ. Chúng ta có nhiều điều phải làm và do đó mà về phần các bạn, tôi đ̣i hỏi nên kiên nhẫn.

Khi tiến vào lănh vực chữa trị, tức là người ta tiến vào một thế giới có nhiều hiểu biết huyền bí và có vô số kết luận, và người ta đối diện với các trần thuyết của các bậc tài trí, qua các thời đại, những vị này đă t́m cách chữa trị và trợ giúp. Biết bao lư do của bệnh tật đă là đề tài nghiên cứu và suy đoán bất tận, và nhiều suy diễn rơ rệt đă được đưa ra về việc chữa trị các bệnh đó. Cũng có nhiều đề xuất về các phương pháp, các kỹ thuật, công thức, phương thuốc, nhưng cách vận dụng khác nhau và nhiều lư thuyết. Tất cả những thứ đó đă làm cho trí óc đầy ắp các ư kiến – một số đúng, một số sai – khiến cho trí rất khó thu nạp các ư tưởng mới và khiến cho nhà nghiên cứu khó đồng hóa những ǵ mà từ trước đến giờ chưa biết tới.

2

 
Những người t́m ṭi đă bị thiệt tḥi rất nhiều khi không chịu buông bỏ những ǵ mà hạ trí ưa thích. Khi họ thực sự thành công trong việc hoàn toàn mở trí và sẵn sàng chấp nhận các lư thuyết và giả thuyết mới, th́ họ mới khám phá ra rằng các chân lư cổ xưa được thiết tha ǵn giữ, thực ra vẫn không mất đi, mà chỉ chuyển xuống vị trí đúng của nó trong một hệ thống rộng lớn hơn.

Tất cả các vị điểm đạo đồ của Minh Triết Vô Thủy đều đương nhiên là những nhà trị liệu, mặc dù không phải tất cả đều có thể chữa trị thể xác. Lư do là v́ tất cả các linh hồn nào đă đạt được bất cứ mức độ khai phóng thực sự nào đó, cũng đều là kẻ truyền đạt năng lượng tinh thần. Điều này đương nhiên tác động đến trạng thái nào đó của cơ thể vốn được dùng bởi các linh hồn mà họ tiếp xúc. Trong các giáo huấn này, khi tôi dùng từ ngữ “cơ cấu” (“mechanism”) tức là tôi đề cập đến các trạng thái khác nhau của khí cụ – tức là cơ thể hay bản chất h́nh hài – mà mọi linh hồn đều t́m cách biểu lộ qua đó. Do đó, tôi nói đến:

1. Nhục thân là toàn bộ các cơ quan tạo thành nó; các cơ quan này có các chức năng khác nhau, giúp cho linh hồn tự biểu lộ trên cơi trần hay cơi bên ngoài, như là một thành phần của một cơ quan lớn hơn, và bao gồm nhiều hơn. Thể xác là bộ máy đáp ứng của con người tâm linh bên trong và giúp cho thực thể tâm linh đó giao tiếp với bộ máy đáp ứng của Hành Tinh Thượng Đế, là Đấng mà ta sống, hoạt động và hiện tồn trong Ngài.

3

 
2. Thể dĩ thái ([1]) có mục tiêu chính yếu duy nhất là làm sinh động và tiếp sinh lực cho nhục thân, và nhờ đó mà kết hợp nó vào thể năng lượng của Địa Cầu và của Thái dương hệ. Đó là một mạng lưới với các ḍng năng lượng, các tuyến lực và ánh sáng. Nó tạo thành một phần của hệ thống lưới năng lượng rộng lớn đang ẩn dưới một h́nh hài dù lớn hay nhỏ (tiểu thiên địa hoặc đại thiên địa). Dọc theo các tuyến năng lượng này, có các vũ trụ lực tuôn chảy, giống như máu chảy qua các tĩnh mạch và động mạch. Việc luân lưu liên miên, cá biệt luôn luôn – trong con người, trong hành tinh và trong thái dương hệ – của sinh lực qua các thể dĩ thái của mọi h́nh hài, là nền tảng của mọi sự sống biểu lộ, và là biểu hiện của tính bất phân ly chính yếu của mọi sự sống.

3. Thể cảm dục (đôi khi được gọi là thể t́nh cảm) là hiệu quả của sự tương tác của dục vọng, và sự đáp ứng có tri giác vào bản ngă ở trung tâm và hiệu quả đó – trong thể đó – được trải qua dưới h́nh thức xúc cảm, như là đau khổ và khoái lạc, và các cặp đối hợp khác. 90% nguyên nhân của các bệnh tật thể xác và đau đớn xác thân đều nằm trong hai thể này, tức là thể dĩ thái và thể cảm dục.

4. Thể trí (mental body) hay là thể gồm phần lớn chất liệu của trí tuệ (chitta) mà một con người riêng biệt có thể sử dụng và gây ấn tượng. Thể đó là cơ cấu thứ tư trong loạt các cơ cấu có sẵn cho linh hồn sử dụng. Đồng thời đừng quên rằng bốn cơ cấu này hợp thành một cơ cấu duy nhất. 5% trong số các bệnh tật hiện nay bắt nguồn trong thể hay trạng thái ư thức này. Ở đây, tôi xin nêu rơ một chân lư là một số trường phái trị liệu luôn luôn lặp đi lặp lại rằng thể trí là nguyên nhân của mọi đau yếu, nhưng cho đến nay, điều đó không đúng. Khoảng một triệu năm nữa, khi sự tập trung chú tâm của con người được chuyển từ bản chất t́nh cảm sang trí tuệ, khi mà con người về cơ bản, thiên về trí, giống như ngày nay về cơ bản họ thiên về t́nh cảm, bấy giờ phải t́m nguyên nhân của bệnh tật trong lănh vực trí tuệ. Trừ vài trường hợp hiếm có, ngày nay chúng ta phải t́m nguyên nhân bệnh tật trong t́nh trạng thiếu sinh lực, hoặc t́nh trạng bị kích thích quá độ, trong lănh vực xúc cảm, dục vọng (bị đè nén hay quá buông thả), trong các tính khí, các kiềm chế hoặc biểu lộ của các khát vọng thâm căn cố đế, các kích thích, các vui thích ngấm ngầm và nhiều xung lực ẩn tàng bắt nguồn từ cuộc sống đầy ham muốn của phàm nhân.

4

 
Trước nhất, sự thôi thúc để tồn tại và chiếm hữu đă và đang kiến tạo bộ máy đáp ứng bằng vật chất ở bên ngoài, và ngày nay, đang có thôi thúc tạo nên một cơ cấu vốn được kiến tạo chủ yếu cho các mục đích ở cơi trần, nhưng dùng cho các mục tiêu thuộc về nội tâm hơn. Điều này lại tạo ra t́nh trạng bất an và chỉ khi nào con người hiểu được rằng bên trong lớp vỏ vật chất bọc ở bên ngoài, vẫn có các thể khác được dùng cho các mục tiêu đáp ứng tinh tế hơn, th́ chừng ấy, chúng ta sẽ thấy có sự hiệu chỉnh từ từ về sức khỏe của xác thân. Sau này, chúng ta sẽ bàn đến các thể tinh anh này nhiều hơn.

Tất nhiên ở đây, bạn sẽ hỏi: Kế hoạch chung mà tôi sẽ t́m cách noi theo khi tôi hướng dẫn các bạn theo các định luật chữa trị là ǵ? (Các định luật này đang hướng dẫn các điểm đạo đồ, và phải dần dần thay thế cho các phương pháp thiên về vật chất nhiều hơn của thuật chữa trị hiện nay). Tất nhiên, bạn cũng muốn biết xem kỹ thuật đặc biệt nào mà bạn – với tư cách là nhà trị liệu – phải học cách sử dụng, vừa cho chính bạn, vừa cho bệnh nhân. Tôi sẽ phác họa vắn tắt giáo huấn mà tôi sẽ cố gắng truyền đạt và nêu ra nơi mà bạn phải chú trọng, khi bạn bắt đầu nghiên cứu chủ đề này.

 Trước hết, tôi sẽ cố gắng đề cập đến các nguyên nhân của bệnh, v́ đạo sinh huyền học bao giờ cũng phải bắt đầu trong thế giới căn nguyên chứ không phải trong thế giới hậu quả.

Thứ hai là tôi sẽ đi vào chi tiết bảy cách chữa trị đang chi phối “việc phục hồi” (gọi theo thuật ngữ huyền học) được các điểm đạo đồ trên thế gian thực hành. Các cách này xác định những kỹ thuật cần được sử dụng. Các bạn sẽ thấy rằng các phương pháp và các kỹ thuật này bị chi phối bởi các cung (về điều này, tôi đă viết trong bộ Luận Về Bảy Cung, quyển I và II).

5

 
Thế nên, kẻ chữa trị phải xem xét không những cung của chính y, mà c̣n phải xét đến cung của người bệnh nữa. Do đó, có các kỹ thuật của bảy Cung và các kỹ thuật này cần được giải rơ trước khi chúng có thể được áp dụng một cách sáng suốt.

Thứ ba là tôi sẽ nhấn mạnh vào cách trị liệu bằng tâm lư, và vào nhu cầu ứng xử với bệnh nhân trong đời sống nội tâm của y, v́ định luật căn bản ẩn dưới mọi cách trị liệu theo huyền môn như sau:


ĐỊNH LUẬT   I

Mọi bệnh tật đều là kết quả của sự sống bị ức chế của linh hồn, và điều đó đúng với tất cả mọi h́nh hài trong mọi giới. Thuật của nhà chữa trị bao gồm trong việc phóng rải năng lượng của linh hồn, sao cho sự sống của linh hồn có thể tuôn đổ qua tập hợp các cơ cấu đang tạo ra bất cứ h́nh hài đặc biệt nào.

Thật là lư thú mà ghi nhận rằng sự cố gắng của nhà khoa học để phóng thích năng lượng của nguyên tử, có cùng bản chất chung như công việc của nhà huyền bí học, khi người này cố gắng phóng rải năng lượng của linh hồn. Bản chất của thuật trị liệu chân chính c̣n ẩn giấu trong việc phóng rải năng lượng này (release).

Thứ tư là chúng ta sẽ xem xét thể xác, các bệnh tật và đau ốm của thể xác, nhưng chỉ sau khi chúng ta đă nghiên cứu phần của con người ẩn sau và đang bao quanh nhục thân. Với cách đó, chúng ta sẽ làm việc từ thế giới của các nguyên nhân bên trong, cho đến thế giới của các diễn biến bên ngoài. Chúng ta sẽ thấy rằng tất cả những ǵ có liên hệ đến sức khỏe con người, đều xuất phát từ:

1. Toàn bộ các lực, các cảm giác, các ước vọng và các diễn tiến bất thường của thể trí, vốn tiêu biểu cho ba thể tinh anh, và định đoạt sự sống lẫn kinh nghiệm của thể xác.

6

 
2. Hậu quả trên xác thân, đối với t́nh trạng của nhân loại nói chung. Con người là một bộ phận không thể thiếu của nhân loại, một cơ cấu ở trong một cơ cấu vĩ đại hơn. Các t́nh trạng hiện có trong tổng thể sẽ được phản ánh trong bản ngă của cá thể, và nhiều bệnh tật mà con người hứng chịu ngày nay, đều là hậu quả tác động lên con người ở t́nh trạng hiện có trong giới thứ tư trong thiên nhiên nói chung. Đối với các điều này, y không có trách nhiệm ǵ hết.

3. Hậu quả trên thể xác của sự sống hành tinh vốn là biểu lộ của sự sống của Hành Tinh Thượng Đế. Ngài là một Thực Thể Thông Linh đang tiến hóa. Các hàm ư này phần lớn đều vượt ngoài phạm vi hiểu biết của chúng ta, nhưng các hiệu quả th́ ta có thể thấy rơ.

Trước tiên, tôi không quan tâm đến việc huấn luyện các cá nhân để làm cho họ trở thành những nhà chữa trị hữu hiệu hơn. Tôi chỉ nhắm vào việc trị liệu tập thể, và đó là công tác đang được h́nh thành, làm cho tôi quan tâm vào lúc này. Tuy nhiên, không một nhóm người nào có thể hành động thống nhất nếu họ không yêu thương và phụng sự lẫn nhau. Năng lượng chữa trị của Thánh Đoàn không thể tuôn đổ qua nhóm, nếu có bất hài ḥa và chỉ trích. Do đó, công việc đầu tiên của bất cứ nhóm chữa trị nào là tự họ tạo t́nh thương và làm việc, hướng về sự hợp nhất và cảm thông trong nhóm.

Ở đây, tôi xin nêu ra rằng cần có sự nhẫn nại khi nhóm chữa trị hợp nhất và hào quang của các thành viên trong nhóm nên ḥa hợp lại. Cần tốn chút ít th́ giờ để mọi người học cách làm việc cùng nhau trong sự cảm thôngvô ngă hoàn toàn, đồng thời trong khi làm việc, họ đạt được sự nhất tâm. Sự nhất tâm này sẽ tạo được sự nhịp nhàng cần thiết cho cả nhóm, một sự nhịp nhàng cộng với sự hợp nhất, mạnh mẽ đến nỗi công việc có thể trở nên đồng bộ bên trong nhóm. Kẻ t́m đạo và các đạo sinh khi làm việc theo các đường lối này phải tự luyện tập để suy tư như một nhóm, và để mang lại cho nhóm (không chút luyến tiếc hay do dự) cái hay nhất vốn có nơi họ, và cũng là kết quả của việc thiền định của họ về các vấn đề này.

7

 
Tôi cũng có thể thêm rằng các giáo huấn này phải càng súc tích càng tốt. Tôi sẽ phải cố gắng đưa nhiều chân lư và kiến thức vào một đoạn ngắn để làm cho mỗi câu văn gợi được một số ư tưởng đích thực, và đem ánh sáng thực tế chiếu rọi vào các vấn đề mà một nhóm chữa trị phải đối phó. Những điều tôi phải nói sẽ gồm hai phần:

1. Chúng ta sẽ bàn đến việc trị liệu và giáo huấn chung, liên quan đến việc tôi truyền đạt các định luật, các kỹ thuật và các phương pháp.

2. Chúng ta sẽ xem xét về phần người chữa trị, và làm cách nào y có được thuật chữa trị hoàn thiện.

Có đúng chăng điều kiện tất yếu đầu tiên của tất cả mọi nhà chữa trị là tạo được sự giao cảm với bệnh nhân, để cho nhà chữa trị có thể hiểu rơ về t́nh trạng bất an, và tạo được sự tín nhiệm của người bệnh?

Tôi trao cho các bạn hai thuật ngữ, nó tiêu biểu cho các đ̣i hỏi của tất cả những nhà chữa trị chân chính mà bạn phải hoạt động theo chiều hướng đó. Đó là Từ Điện và Bức Xạ. Một người chữa trị phải có từ điện vượt trên mọi sự, y phải thu hút về phía y

a. Sức mạnh của chính linh hồn y; điều này liên quan đến sự chỉnh hợp qua sự thiền định của riêng y.

b. Những người mà y có thể trợ giúp, điều này liên quan đến thái độ phá ngă chấp.

c. Các năng lượng mà khi cần làm cho phát lộ sẽ kích thích cho người bệnh có được hoạt động mong muốn. Điều này liên quan đến kiến thức huyền linh và một thể trí lăo luyện.

Người chữa trị cũng phải hiểu làm cách nào để phát xạ, v́ sự phát xạ của linh hồn sẽ kích thích hoạt động linh hồn của người bệnh và tiến tŕnh chữa trị sẽ được khởi động. Sự phát xạ của thể trí y sẽ soi sáng thể trí của bệnh nhân, và làm tập trung ư chí của người bệnh. Sự phát xạ của thể cảm dục của y – nếu được kiểm soát và có tính vị tha – sẽ đặt một sự nhịp nhàng lên tâm trạng lo âu của thể t́nh cảm bệnh nhân, như thế giúp cho người bệnh có được hành động đúng đắn, trong khi phát xạ của thể sinh lực y, tác động qua bí huyệt lá lách, sẽ giúp sắp xếp thể sinh lực của người bệnh, như thế làm cho công việc chữa trị được dễ dàng. Do đó, người chữa trị có bổn phận phải làm cho chính ḿnh có hiệu năng, bởi v́ hiệu quả trên bệnh nhân sẽ tùy thuộc nơi hiệu năng ấy. Khi một người trị liệu dùng từ điện tác động và phát ra sức mạnh của linh hồn y cho người bệnh, th́ bệnh nhân đó có thể đạt mục tiêu mong muốn một cách dễ dàng hơn. Mục tiêu có thể là được chữa lành hoàn toàn, hay là có thể tạo được một trạng thái trí tuệ giúp người bệnh sống với chính ḿnh, và với căn bệnh của ḿnh mà không bị cản trở bởi các giới hạn nghiệp quả của xác thân. Hoặc là có thể giúp cho bệnh nhân đạt được việc thoát xác thích hợp (với niềm hoan hỉ, thoải mái) nhờ cửa tử mà đạt được sức khỏe hoàn toàn.

8

 
 

 



9

 
PHẦN MỘT

 

CÁC NGUYÊN NHÂN CĂN BẢN CỦA BỆNH TẬT

 

Đây là vấn đề mà mọi thực hành y học qua các thời đă từng đấu tranh. Trong thời đại cơ khí hiện nay, chúng ta đă đi lệch ra xa so với bề mặt của các sự vật, và tách khỏi quan điểm có phần đúng của các thế kỷ trước, quan điểm này đă truy nguyên bệnh tật từ các “tâm trạng bất an” (“evil humours”) được nuôi dưỡng và nung nấu trong đời sống nội tâm của người bệnh. Với sự tiến bộ của tri thức trong mọi phương diện, chúng ta hiện đang ở bề ngoài của sự vật (xin lưu ư là tôi không dùng từ “nông cạn” – “superficial”–) và đă đến lúc tri thức có thể tái nhập vào lănh vực nội tâm và tự chuyển hóa thành minh triết. Ngày nay các bậc trí giả lỗi lạc nhất trong giới y học và các giới liên hệ đă bắt đầu thừa nhận rằng phải t́m các nguyên nhân của bệnh tật trong các thái độ bên trong và tiềm ẩn của trí tuệ, của bản chất t́nh cảm và trong cuộc sống với biểu hiện t́nh dục phóng túng hoặc bị ức chế.

Từ lúc bắt đầu nghiên cứu, tôi muốn nêu ra nguyên nhân tối hậu của bệnh tật, dù tôi đă biết rơ, nhưng các bạn vẫn chưa thể hiểu được. Nguyên nhân này ẩn sau lịch sử của quá khứ xa xăm của hành tinh chúng ta, ẩn trong quá tŕnh phát triển (hiểu về mặt huyền học) của Đức Hành Tinh Thượng Đế và nó bắt nguồn từ những ǵ phần lớn được gọi là “tà lực vũ trụ”. Đây là một nhóm từ hoàn toàn vô nghĩa, nhưng nó mô tả theo lối tượng trưng một t́nh trạng ư thức của một vài vị “Thượng Đế chưa toàn hảo”. Căn cứ vào tiền đề mở đầu rằng chính Thượng Đế đang hoạt động hướng đến sự hoàn thiện vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, điều đó có thể được suy ra rằng đối với chính các vị Thiên Đế và đối với Thượng Đế (dưới h́nh thức Sự Sống của thái dương hệ) vẫn có thể tồn tại một số giới hạn, và hăy c̣n một số lănh vực hay trạng thái tâm thức vẫn c̣n chờ được quán triệt. Các giới hạn và các bất toàn tương đối này có thể tạo nên các hiệu quả rơ rệt trong các thể biểu lộ của các Ngài – tức là các hành tinh khác nhau dưới các biểu hiện của các Đấng Cao Cả, c̣n thái dương hệ như là biểu hiện của một Đấng Cao Cả. Cũng căn cứ giả thuyết rằng các ngoại thể này của Đấng Thánh linh, tức các hành tinh, là các h́nh thể qua đó một số Thượng Đế tự biểu lộ, có thể có một suy diễn đúng và hợp lư rằng mọi sự sống và h́nh hài bên trong các thể này tất nhiên có thể cũng chịu các giới hạn và các bất toàn, nảy sinh từ các lănh vực tâm thức chưa được chinh phục và các trạng thái ư thức cho đến giờ chưa được hiểu rơ bởi các Thượng Đế đă lâm phàm dưới dạng hành tinh và thái dương. Căn cứ định đề cho rằng mỗi h́nh hài là một phần của một h́nh hài c̣n vĩ đại hơn, và rằng chúng ta thực sự đang “sống, hoạt động và hiện tồn” trong cơ thể của Thượng Đế (theo cách nói của Thánh Paul), th́ chúng ta với tư cách là các phần nguyên vẹn của giới thứ tư trong thiên nhiên, chúng ta cũng phải chia sẻ giới hạn chung và bất toàn chung này.

10

 
Những ǵ vượt quá tiền đề tổng quát này đều ở ngoài khả năng hiểu biết và diễn tả của chúng ta, v́ nói chung, trí tuệ của người t́m đạo và người đệ tử bậc trung chưa đủ để hiểu. Các thuật ngữ như “tà lực vũ trụ, bất toàn thiêng liêng, lănh vực giới hạn của tâm thức, sự tự do của tinh thần thuần túy, trí tuệ thiêng liêng” được bàn tán rất tùy tiện bởi các tư tưởng gia thần bí và huyền linh của thời nay: Ư nghĩa thực của các từ đó là ǵ? Nhiều trường phái chữa trị đă xác định sự hoàn thiện thiêng liêng tối hậu, và tŕnh bày rơ rệt các tin tưởng của họ rằng nhân loại thực sự thoát khỏi các bệnh tật thông thường của xác thân, có phải chăng đó không phải là các câu nói rỗng tuếch, biểu hiện cho một lư tưởng và thường dựa vào ham muốn ích kỷ? Phải chăng đó không phải là các câu nói hoàn toàn vô nghĩa trong các hàm ư thần bí của chúng? Biết làm sao hơn khi chỉ có người đến mức hoàn thiện mới thực sự hiểu được thế nào là thiên tính?

11

 
Tốt hơn là chúng ta nên thừa nhận rằng con người chưa có thể hiểu được các nguyên nhân sâu xa của những ǵ có thể thấy hiện ra trong cuộc tiến hóa của sự sống h́nh hài. Thật là không khôn ngoan khi đối diện với vấn đề và các sự thật như chúng hiện hữu, theo hiểu biết hiện nay của chúng ta và hiểu rằng chỉ khi nào con người có thể nhập vào thiên trí một cách sáng suốt hơn là thể trí kém cỏi của loài vật, lúc ấy mới có thể biết được c̣n có các bậc Trí Tuệ vĩ đại hơn, đang hoạt động trong các giới khác cao hơn trong thiên nhiên, chắc chắn các vị này sẽ thấy sự sống một cách xác thực hơn, và đúng hơn cái thấy của nhân loại. Có thể mục tiêu tiến hóa (như đă được con người phác họa và nhấn mạnh) xét cho cùng, chỉ là một phần nhỏ của một mục tiêu lớn hơn, mà v́ với sự hiểu biết hữu hạn, con người không thể hiểu thấu. Toàn thể chủ đích đang ẩn tàng trong Thiên Trí có thể là rất khác với những ǵ mà con người có thể nhận thức được ngày nay; c̣n điều ác và điều thiện vũ trụ, khi được rút xuống c̣n tên gọi, có thể mất hoàn toàn ư nghĩa của chúng, và chỉ được nh́n thấy qua huyễn cảm và huyễn tưởng mà con người đang bao quanh mọi vật. Các bậc trí giả lỗi lạc nhất của thời nay chỉ vừa mới bắt đầu thấy được những tia sáng lờ mờ đầu tiên đang xuyên qua huyễn cảm này, và trước hết đang giúp con người khám phá sự thực của huyễn tưởng. Qua ánh sáng chiếu ra đó, chân lư sau đây có thể lộ ra cho ai có thái độ mong đợi và có trí rộng mở: chính Thượng Đế đang trên đường tiến đến sự hoàn thiện. Các hàm ư của phát biểu này c̣n nhiều.

12

 
Khi bàn về các nguyên nhân của bệnh tật, chúng ta sẽ đứng trên quan điểm rằng nguyên nhân căn bản sau rốt và thuộc vũ trụ của bệnh tật vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, và chỉ khi nào Thiên Quốc được hiển lộ trên cơi trần, th́ chúng ta mới thực sự biết được phần nào về các bệnh tật đang lan tràn trên hành tinh chúng ta trong cả bốn giới trong thiên nhiên. Tuy nhiên có thể đưa ra một vài phát biểu căn bản, cuối cùng là đúng theo ư nghĩa đại thiên địa, và cũng được chứng minh là đúng khi ta đem liên hệ chúng với tiểu thiên địa một cách sáng suốt.

1. Mọi bệnh tật (và đây là một điều nhàm chán) phát sinh do sự thiếu hài ḥa – sự bất hài ḥa xảy ra giữa khía cạnh h́nh thể với sự sống. Những ǵ ḥa giải h́nh hài và sự sống, hay nói đúng hơn, những ǵ là kết quả của sự hợp nhất có chủ đích này chúng ta gọi là linh hồn, tức bản ngă, tức lĩnh vực có liên quan đến nhân loại, c̣n ở các giới dưới nhân loại th́ được gọi là nguyên khí phối kết (integrating principle). Bệnh tật xuất hiện khi thiếu sự chỉnh hợp giữa các yếu tố khác nhau này, tức linh hồn và h́nh hài, sự sống và biểu hiện của sự sống, các thực tại nội tâm và ngoại cảnh. Tất nhiên, tinh thần và vật chất th́ không liên hệ với nhau một cách cởi mở. Đây là một cách diễn dịch Định Luật I, và toàn thể chủ đề này được dự kiến để tŕnh bày định luật đó.

2. Sự thiếu hài ḥa này tạo ra cái mà chúng ta gọi là bệnh tật, xảy ra khắp cả bốn giới của thiên nhiên và gây nên các t́nh trạng tạo ra đau đớn (khi mà khả năng cảm thụ trở nên tinh nhạy và phát triển) và ở khắp nơi đều có sự tắt nghẽn, hư hoại và tử vong. Hăy suy gẫm kỹ các từ này: Thiếu Hài Ḥa, Bệnh Hoạn, Đau Đớn, Tắc Nghẽn, Hư Hoại, Tử Vong, bởi v́ chúng đang diễn tả t́nh trạng chung hiện đang chi phối sự sống hữu thức của mọi h́nh hài về mặt đại thiên địa lẫn tiểu thiên địa. Chúng không phải là các nguyên nhân.

3. Tuy nhiên, mọi t́nh trạng này có thể được xem là có hiệu quả thanh lọc, và phải được nhân loại xem như thế nếu họ có thái độ đúng đắn đối với bệnh tật. Đây là điều mà kẻ chữa trị cuồng tín và người thực hành triệt để một ư tưởng thường hay quên (ư tưởng này được họ hiểu một cách hạn hẹp, và trong hầu hết các trường hợp chỉ là một phần của một ư tưởng vĩ đại hơn).

13

 
4. Các phương pháp chữa trị và các kỹ thuật làm giảm nhẹ đều được dùng riêng cho nhân loại, và là kết quả của hoạt động trí tuệ của con người. Chúng báo hiệu tiềm năng của con người giống như đấng sáng tạo và là kẻ đang tiến đến tự do. Chúng cho biết năng lực phân biện của con người để nhận thức sự hoàn thiện, để thấy được mục tiêu, do đó để hoạt động hướng về sự giải thoát tối hậu. Sự sai lầm hiện nay của con người cốt ở chỗ:

a. Không thấy được các công dụng đích thực của sự đau đớn.

b. Phẫn uất trước đau khổ.

c. Hiểu sai về định luật bất đối kháng.

d. Nhấn mạnh quá nhiều vào bản chất của h́nh hài.

e. Thái độ của con người đối với sự chết và cảm nhận của con người khi sự sống biến mất, vượt khỏi tầm mắt qua phương tiện h́nh hài và hậu quả là h́nh hài tan ră, báo hiệu thảm họa.

5. Khi tư tưởng con người đảo ngược lại các ư tưởng thông thường về bệnh tật, và chấp nhận bệnh tật như là một thực kiện trong thiên nhiên, th́ con người sẽ bắt đầu hoạt động theo định luật giải thoát, với ư tưởng đúng và không đưa tới sự đối kháng nữa. Ngày nay, do quyền năng của tư tưởng đă được điều khiển, và do sự đối kháng mạnh mẽ của con người đối với bệnh tật, nên con người chỉ có khuynh hướng kích hoạt nỗi khó khăn. Khi con người tái định hướng (reorients) tư tưởng của y đối với chân lư và linh hồn, th́ các ốm đau ở cơi trần sẽ bắt đầu tan biến. Điều này sẽ trở nên sáng tỏ khi chúng ta nghiên cứu phương pháp trừ bệnh tận gốc về sau này. Bệnh tật vẫn c̣n, các h́nh hài trong tất cả mọi giới đều đầy dẫy bất hài ḥa, không chỉnh hợp với sự sống nội tâm. Bệnh tật, sự hư hoại và khuynh hướng tan ră đang có ở khắp mọi nơi. Tôi chọn các từ này một cách thận trọng.

14

 
6. Do đó, bệnh tật không phải là kết quả của tư tưởng sai lầm của con người. Nó đă có từ lâu trong nhiều h́nh thái của sự sống trước khi gia đ́nh nhân loại xuất hiện trên địa cầu. Nếu bạn t́m cách diễn tả bằng lời, và nếu bạn muốn nói trong các giới hạn của trí người, th́ bạn có thể nói với một mức chính xác: Thượng Đế, Đức Hành Tinh Thượng Đế đă phạm suy tư sai lầm. Tuy nhiên, bạn sẽ không diễn đạt hết sự thật, mà chỉ là một phần rất nhỏ của nguyên nhân, v́ nó hiện ra với thể trí yếu kém, hạn hẹp của bạn, qua trung gian của ảo cảm và ảo tưởng chung của thế gian.

7. Theo một quan điểm th́ bệnh tật là một tiến tŕnh giải thoát, và là kẻ thù của những ǵ tĩnh tại (static) và kết tinh. Đừng nghĩ rằng câu nói đó có nghĩa là bệnh tật nên được hoan nghênh, và rằng diễn tŕnh chết đáng được ưa thích. Nếu nghĩ thế, th́ người ta sẽ nuôi dưỡng bệnh tật và sẽ thúc đẩy việc tự tử. May thay cho nhân loại, toàn thể khuynh hướng của sự sống đều chống lại bệnh tật, và phản ứng của sự sống h́nh hài đối với tư tưởng con người đă nuôi dưỡng việc sợ chết. Điều này quả đúng như thế, bởi v́ bản năng sinh tồn và duy tŕ sự toàn vẹn của h́nh hài là một nguyên tắc thiết yếu trong vật chất, và khuynh hướng tự làm cho bất diệt của sự sống bên trong h́nh hài, là một trong các khả năng thiên phú trọng đại nhất của chúng ta, khả năng này sẽ c̣n măi. Tuy nhiên, trong gia đ́nh nhân loại, sau cùng bản năng nói trên phải nhường chỗ cho việc dùng sự chết làm tiến tŕnh gạt bỏ có sắp xếp để bảo toàn sức mạnh, và mang lại cho linh hồn một khí cụ biểu lộ hoàn hảo hơn. Nói chung, nhân loại chưa sẵn sàng để có tự do hành động này. Tuy nhiên, hiện nay các đệ tử và những người t́m đạo trên thế gian sẽ bắt đầu hiểu được các nguyên lư mới mẻ này của sự sống. Ngày nào chính Đức Thượng Đế c̣n muốn lâm phàm trong thể biểu lộ của Ngài – tức là một hành tinh hay một thái dương hệ – th́ bản năng tự bảo tồn vẫn c̣n chi phối mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất; giữa sự sống với sắc tướng. Bằng diễn đạt trên, tôi đă nêu ra cho các bạn một ẩn ngữ về một trong các nguyên nhân căn bản của bệnh tật, nó cho thấy tại sao có cuộc chiến đấu bất tận giữa tinh thần đang bị giam nhốt, với h́nh hài giữ nhiệm vụ giam nhốt. Phương pháp của cuộc chiến này là sử dụng tính chất bẩm sinh đang tự biểu hiện dưới h́nh thức thôi thúc để bảo tồn, và thôi thúc để tồn tại vĩnh viễn – cả dưới h́nh thức hiện tại lẫn các chủng loại.

15

 
8. Định luật nhân quả – ở Đông phương gọi là Karma – đang chi phối mọi điều này. Thực ra, karma phải được xem là hậu quả (trong sự sống h́nh hài của hành tinh chúng ta) của các nguyên nhân ăn sâu và ẩn tàng trong Thiên Trí. Thực ra, các nguyên nhân mà chúng ta có thể ḍ ra liên quan tới bệnh tật và tử vong chỉ là sự thể hiện của một vài nguyên tắc căn bản đang chi phối – ai dám nói đúng hay sai? – sự sống của Thượng Đế trong h́nh hài, các nguyên nhân đó, con người vẫn không thể hiểu được, cho đến khi họ đạt được điểm đạo cao, được tượng trưng bằng sự Biến Thân (Transfiguration). Suốt trong các nghiên cứu này, chúng ta sẽ chỉ bàn đến các nguyên nhân phụ thuộc và các hiệu quả của chúng, đến các kết quả thuộc cơi hiện tượng của các hiệu quả bên trong vốn bắt nguồn từ các nguyên nhân quá sâu xa, so với hiểu biết của chúng ta. Cần chấp nhận và hiểu rơ điều này. Đây là điều mà người tiến bộ nhất có thể làm, với bộ máy trí tuệ hiện nay của y. Khi mà trực giác ít tác động, c̣n trí năo ít khi được soi sáng, tại sao con người lại ngạo mạn mong hiểu được mọi điều? Họ nên cố gắng phát triển trực giác của ḿnh và đạt đến giác ngộ. Bấy giờ sự thông hiểu mới có thể đến với y. Y sẽ có quyền đạt được hiểu biết thiêng liêng. Tuy nhiên, nhận thức nói trên cũng đủ cho công việc của chúng ta và sẽ giúp chúng ta đưa ra các luật lệ và nguyên tắc, sẽ chỉ lối cho nhân loại có thể thoát ra khỏi ư thức của h́nh hài, và nhờ đó mà khỏi bị chi phối bởi sự chết và các t́nh trạng liên quan với bệnh tật, đang chi phối sự biểu lộ của hành tinh chúng ta.

Chúng ta sẽ chia việc nghiên cứu các nguyên nhân bệnh tật của chúng ta thành ba phần, loại bỏ khỏi việc t́m kiếm chân lư của chúng ta cái ước muốn hoàn toàn có thể hiểu được nhưng cũng vô bổ, đó là muốn hiểu được Thiên trí.

  I. Các nguyên nhân tâm lư.

 II. Các nguyên nhân xuất phát từ cuộc sống tập thể.

III. Các trách nhiệm nghiệp quả của chúng ta, tức là các nguyên nhân thuộc về nghiệp quả.

16

 
Trong mọi điều này, với tất cả khả năng hiện tại, chúng ta sẽ chỉ nhận được một ư tưởng tổng quát về sự hiện hữu của bệnh tật trong nhân loại và cũng gặp một phần nào trong giới động vật. Khi đă hiểu rơ được ư tưởng tổng quát này rồi, chúng ta sẽ có một hiểu biết rơ ràng hơn về vấn đề bệnh tật, và bấy giờ có thể tiếp tục xem xét các phương pháp giúp chúng ta có thể xử lư các hậu quả bất hảo bằng một thuận lợi to tát hơn. Các nhà nghiên cứu thuật chữa trị cũng nên nhớ rằng có ba cách chữa trị và tất cả ba phương cách này đều có vị trí và giá trị của chúng – tùy theo tŕnh độ tiến hóa của đối tượng được chữa trị.

Cách thứ nhất, áp dụng các loại thuốc giảm đau và các phương pháp cải thiện để từ từ chữa trị bệnh tật, và loại trừ các t́nh trạng bất hảo; chúng củng cố sức sống của h́nh hài và bảo dưỡng sinh lực để cho bệnh tật có thể bị loại đi. Tiêu biểu nhất cho các phương pháp này, là trường phái đối chứng trị liệu (allopathic), và trường phái đồng chứng trị liệu (homeopathic), các phái nắn xương và nắn cột sống cùng các trường phái trị liệu khác. Họ đă làm được nhiều công việc có tính xây dựng rất hữu ích, và nhân loại phải chịu ơn nặng của họ về các chú tâm khôn ngoan, khéo léo và bất vị kỷ của các thầy thuốc. Lúc nào họ cũng lo đối phó với các t́nh trạng cấp bách và các hậu quả nguy hiểm, của các nguyên nhân không lộ ra bên ngoài. Theo các phương pháp này, bệnh nhân ở trong tay của một phần tử bên ngoài, nên phải thụ động, yên lặng và tiêu cực.

17

 
Cách thứ hai là công việc và các phương pháp của nhà tâm lư học hiện đại, họ t́m cách đối phó với các t́nh trạng bên trong và loại bỏ cách hành xử sai lạc của thể trí, các ức chế, các chứng loạn tâm thần và các phức cảm, vốn mang lại các trạng thái bệnh hoạn bên ngoài, các t́nh trạng ốm yếu, các tai biến thần kinh và trí tuệ. Theo phương pháp này, bệnh nhân được dạy cách hợp tác tới mức tối đa với nhà tâm lư học, để cho người bệnh có thể đạt mức hiểu biết đích thực về chính ḿnh, nhờ đó học cách diệt trừ các t́nh trạng dồn ép bên trong vốn chịu trách nhiệm cho các kết quả bên ngoài. Bệnh nhân được huấn luyện để trở nên tích cực và linh hoạt, và đây là một bước tiến đúng hướng rất quan trọng. Khuynh hướng phối hợp tâm lư trị liệu với việc điều trị thể chất bên ngoài là có cơ sở và đúng đắn.

Cách thứ ba tức là phương pháp cao nhất và mới mẻ nhất. Đó là phương pháp đưa linh hồn của chính bệnh nhân vào hoạt động tích cực. Việc chữa trị thực sự trong tương lai được tiến hành khi sự sống của linh hồn có thể lưu chuyển không bị ngăn trở khắp mọi hướng của phàm ngă. Bấy giờ sự sống đó có thể mang lại sinh lực cho h́nh hài bằng sức mạnh của nó và cũng có thể loại ra các t́nh trạng bế tắc và chướng ngại vốn là nguồn cội của nhiều thứ bệnh tật.

 Trong vấn đề này, chúng ta có nhiều điều cần suy gẫm. Nếu chúng ta đi thật chậm về cách áp dụng thực hành các kỹ thuật và các phương pháp, đó là v́ tôi muốn đặt một nền tảng vững chắc cho những ǵ tôi sẽ truyền đạt sau này.

                   HUẤN LUYỆN NGƯỜI CHỮA TRỊ

   Đối với việc huấn luyện nhà chữa trị, thỉnh thoảng tôi sẽ đưa ra sáu qui luật đang chi phối (hay sẽ chi phối) hoạt động của người chữa trị. Các bạn hăy nhớ hai từ mà trước đây tôi có đưa ra. Chúng tóm tắt câu chuyện của nhà trị liệu, đó là Từ Điện và Bức Xạ. Hai phương pháp này có những hiệu quả khác nhau, như chúng ta sẽ thấy.

QUI LUẬT MỘT

Người chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn, tim, óc và hai tay của y. Nhờ thế, y có thể tuôn đổ sức mạnh chữa trị trọng yếu lên người bệnh. Đây là công tác dùng từ điện (magnetic work). Nó chữa được bệnh, hoặc có thể làm tăng thêm cái được gọi là t́nh trạng tệ hại, tùy sự hiểu biết của người chữa trị.

18

 
Kẻ chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn, óc, tim và sự phát tán hào quang của y. Nhờ thế sự hiện diện của y có thể làm tăng sự sống linh hồn bệnh nhân. Đây là công tác dùng bức xạ (the work of radiation). Hai bàn tay không cần đến. Linh hồn hiển lộ sức mạnh của nó. Linh hồn bệnh nhân đáp ứng qua sự đáp ứng bằng hào quang của y đối với bức xạ của hào quang người chữa trị, tràn ngập với năng lượng của linh hồn.

Khi xem xét các nguyên nhân của bệnh tật, tôi thấy cần phải nói đôi lời liên quan với cáct́nh trạng – bên ngoài và bên trong. Đối với kẻ suy tư hời hợt, th́ dường như nhiều bệnh tật và nhiều nguyên nhân tử vong đều do các t́nh trạng của hoàn cảnh chung quanh, là điều mà y không hề chịu trách nhiệm. Các t́nh trạng này xếp loại hoàn toàn từ các biến cố thuần túy bên ngoài, cho đến các khuynh hướng di truyền. Chúng có thể được liệt kê như sau:

1. Các tai nạn: có thể do sự chểnh mảng của con người, do các biến cố chung, do sự bất cẩn của kẻ khác và các hậu quả của tranh chấp, như trong các cuộc băi công hoặc chiến tranh. Tai nạn cũng có thể xảy ra do sự tấn công của loài vật hoặc loài rắn, do ngộ độc bất ngờ và nhiều nguyên nhân khác nữa.

2. Các bệnh truyền nhiễm xảy đến cho con người từ bên ngoài, chớ không do t́nh trạng máu huyết riêng của người ấy. Các lây nhiễm như thế rất nhiều, được gọi là các bệnh truyền nhiễm và thường thấy như là các bệnh dịch. Các bệnh này có thể xảy đến cho một người trong khi thi hành nhiệm vụ, qua sự tiếp xúc hằng ngày của y, hay là do t́nh trạng bệnh tật lan rộng trong vùng của y.

3. Bệnh do suy dinh dưỡng, đặc biệt xảy ra ở trẻ em. T́nh trạng suy dinh dưỡng này đưa đến bệnh hoạn cho cơ thể, giảm sức đề kháng và sinh lực và làm cho “năng lực chống bệnh” của con người trở nên vô hiệu, đưa đến chết yểu.

19

 
4. Sự di truyền. Như bạn đă biết rơ, một vài h́nh thức yếu đuối do di truyền, hoặc chúng khiến cho một người dễ mắc phải một số bệnh và tất nhiên là tử vong, hoặc là gây ra nơi y các t́nh trạng làm cho sức sống của y yếu dần; cũng có các khuynh hướng tạo ra một h́nh thức thèm khát rất nguy hại, đưa đến các thói quen bất hảo, hạ thấp đạo đức và nguy hại cho ư chí của con người, làm cho y mất khả năng chống lại các bẩm chất này. Y bị chúng hoàn toàn chi phối, và phải gánh chịu hậu quả của các thói quen như thế, đó là bệnh tật và tử vong.

Bốn loại bệnh và các nguyên nhân tử vong này giải thích cho đa số những ǵ mà chúng ta thấy xảy ra chung quanh ta trong kiếp sống của con người. Tuy vậy chúng không được sắp một cách dứt khoát vào bất cứ nguyên nhân tâm lư nào của bệnh tật và chỉ sẽ được xem xét rất vắn tắt, dưới mục bàn về sự sống tập thể và các nguyên nhân dễ làm mắc bệnh. Các bệnh dễ lây nhiễm cũng được bàn đến nơi đây, nhưng các t́nh trạng xảy ra như là do tai nạn xe hơi hay xe hỏa chẳng hạn, đều không được xem xét dưới mục các nguyên nhân gây ra bệnh tật. Rất đúng là công việc của nhà chữa trị có liên quan đến các trường hợp này, nhưng công việc phải làm hơi khác với công việc được hoàn thành khi đối phó với các bệnh bắt nguồn từ một thể tinh anh nào đó, hay là trong các kết quả của các bệnh tập thể v..v.. Bệnh tật phát sinh do thiếu dinh dưỡng và do cách nuôi nấng sai lầm trong cuộc sống và nền văn minh hiện đại, sẽ không được xét đến ở đây. Đối với các bệnh này, cá nhân đứa trẻ không có trách nhiệm ǵ cả. Tôi đang bàn đến các bệnh tật xuất phát từ các t́nh trạng sai lầm bên trong. Thực tế, th́ đứa trẻ không có trách nhiệm ǵ đối với các điều kiện sinh sống của nó, trừ phi bạn thừa nhận nghiệp quả như là một yếu tố tiền định, nó có năng lực tạo ra các hiệu chỉnh bắt nguồn từ quá khứ, và ảnh hưởng đến hiện tại. Tôi sẽ bàn đến điều này đầy đủ hơn ở điểm thứ ba nói về các trách nhiệm nghiệp quả. Ở đây, tôi chỉ muốn gợi ư rằng toàn thể vấn đề bệnh tật có thể được bàn đến theo khía cạnh karma, c̣n giá trị của nó rơ ràng và không c̣n nghi ngờ ǵ

20

 
nữa, đă có giáo huấn đúng về đề tài trừu tượng này từ lúc nó được đưa ra ở phương Tây. Tuy nhiên, chân lư về nghiệp quả lại đến với chúng ta từ phương Đông, đă bị nhà thần học Đông phương làm cho lệch lạc nhiều giống như giáo lư về sự Chuộc Tội và về Đức Mẹ Đồng Trinh, đă bị diễn dịch và giảng dạy sai bởi nhà thần học Tây phương. Chân lư đích thực không giống bao nhiêu với cách tŕnh bày hiện nay của chúng ta. Do đó tôi đă gặp trở ngại rất lớn khi đem bàn vấn đề bệnh tật theo khía cạnh nghiệp quả. Tôi rất khó truyền đạt cho các bạn bất cứ điều ǵ về chân lư đích thực, do các định kiến về Luật Nhân Quả cổ xưa vốn có sẵn trong trí bạn. Khi tôi nói với bạn rằng triết lư về Thuyết Tiến Hóa Đột Biến và các thuyết hiện đại, nói về tác dụng của một chất xúc tác trên hai chất, – khi hai chất này được cho tiếp xúc với nhau dưới hiệu quả của chất xúc tác, sẽ tạo ra một chất thứ ba khác hẳn – trong đó có chứa nhiều Chân lư về Karma, th́ liệu bạn có hiểu chăng? Tôi nghi ngờ điều đó. Khi tôi nói với bạn rằng việc nhấn mạnh vào luật Karma khi nó giải thích các bất công bề ngoài, và luôn luôn nhấn mạnh đến sự xuất hiện của bệnh tật và ốm đau, đó chỉ là tŕnh bày một phần về Chân lư căn bản của vũ trụ th́ trí bạn có trở nên sáng tỏ phần nào chăng? Khi tôi nêu ra rằng luật Karma, nếu được hiểu đúng và vận dụng đúng, th́ nó có thể đem lại những ǵ tạo ra hạnh phúc, lành mạnh và thoát khỏi đau đớn một cách dễ dàng, hơn là đem lại đau khổ với chuỗi hậu quả của nó, th́ bạn thấy có thể hiểu được ư nghĩa của những ǵ mà tôi đang nói chăng?

Hiện nay, thế giới huyễn cảm quá mạnh mẽ, c̣n ảo tưởng của con người cũng mạnh và sống động, đến nỗi chúng ta không thấy được ư nghĩa thực sự của các định luật căn bản này.

21

 
Định luật Karma không phải là Luật Thưởng Phạt như người ta thường phỏng đoán khi đọc các sách đang lưu hành về đề tài này; đó chỉ là một khía cạnh tác động của luật Karma thôi. Luật Nhân Quả không nên hiểu như hiện nay chúng ta đang hiểu nó. Để minh họa, có một định luật gọi là Luật Hấp Dẫn mà từ lâu nó đă tự áp đặt lên trí óc con người. Định luật đó hiện hữu, nhưng nó chỉ là một khía cạnh của một định luật lớn hơn, và như chúng ta biết, sức mạnh của nó có thể tương đối bị hóa giải, bởi v́ mỗi lần mà chúng ta thấy một chiếc phi cơ bay vút qua đầu, chúng ta thấy một minh chứng của sự hóa giải định luật này bằng phương tiện cơ khí, nó cho thấy rằng con người có thể vượt qua định luật này một cách dễ dàng. Nếu hiểu được điều đó, người ta cũng thấy rằng họ đang học kỹ thuật cổ xưa mà năng lực khinh thân là một trong các bài tập mở đầu đơn giản nhất và dễ dàng nhất.

Luật Hậu Quả (Law of Consequences) không phải là việc đă được sắp đặt và không thể tránh khỏi như sự ức đoán của tư tưởng hiện đại, nó liên quan đến các Định Luật Tư Tưởng c̣n chặt chẽ nhiều hơn là người ta đă tưởng; khoa học về trí tuệ đă và đang ṃ mẫm hướng về việc t́m hiểu Luật này. Sự định hướng và các mục tiêu của khoa này đều đúng, tốt đẹp và có triển vọng đạt nhiều kết quả. Tuy nhiên, hiện nay các kết luận và các cách làm việc của khoa học này lại đầy những lầm lỗi đáng tiếc và hầu hết đều đi sai đường.

Tôi đă đề cập đến việc hiểu sai Luật Karma v́ tôi lo lắng muốn thấy các bạn bắt đầu nghiên cứu các Định luật chữa trị này bằng một trí óc phóng khoáng và cởi mở càng nhiều càng tốt, v́ biết rằng sự hiểu biết của bạn về các luật này bị giới hạn bởi:

1. Các thần học cổ xưa, với các quan điểm sai lầm, méo mó và thiếu sinh động. Việc giảng dạy thần học hầu hết đều sai lầm, nhưng than ôi lại thường được chấp nhận.

22

 
2. Tư tưởng của thế gian, bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi yếu tố dục vọng và có rất ít tư tưởng chân chính trong đó. Con người lư giải các định luật được nhận thức một cách mơ hồ này bằng các thuật ngữ có tính dứt khoát và theo quan điểm kém cỏi của họ. Thí dụ như ư tưởng về sự thưởng phạt lan tràn khắp nhiều giáo huấn về Karma, bởi v́ con người t́m một giải thích đáng tin cậy về các sự việc như chúng xuất hiện, rồi chính con người lại thích đưa ra những sự thưởng phạt. Tuy nhiên, nói chung, có nhiều Karma tốt, hơn là Karma xấu trong giai đoạn hiện nay dầu có thể là bạn không nghĩ như thế.

3. Ảo tưởng và huyễn cảm trên thế giới đang ngăn chận người b́nh thường và người vô minh không để họ thấy được sự sống đích thực. Thậm chí người tiến hóa và các đệ tử cũng chỉ mới bắt đầu thoáng thấy được một phần nào về thực tại huy hoàng.

4. Các tâm trí chưa được kiểm soát, cùng các tế bào năo chưa được giải khai (unreleased) và chưa được khơi hoạt, cũng làm cho con người không hiểu được đúng. Con người thường không nhận ra sự kiện này. Cho đến nay, bộ máy nhận thức của con người vẫn chưa thích hợp. Điểm này cần được nhấn mạnh.

5. Các đặc tính của quốc gia và chủng tộc cùng với những tính khí và định kiến có sẵn. Các yếu tố này cũng khiến người ta không đánh giá đúng được các thực tại này.

Ở đây, tôi đă nêu ra đủ lư do để cho bạn thấy rằng không nên dại dột mà cho là ḿnh đă hiểu được các định luật này, v́ đó là các định luật mà bạn đang ḍ dẫm để t́m hiểu. Trong tư tưởng con người, không có sự thiếu hiểu biết nào lớn hơn sự thiếu hiểu biết các định luật liên quan đến bệnh tật và tử vong.

Do đó, ngay từ đầu các bạn cần hiểu rằng, trong mọi điều mà tôi phải nói ra dưới đề mục “Các Nguyên Nhân Tâm Lư của Bệnh Tật”, tôi không bàn đến các bệnh hay các khuynh hướng nhiễm bệnh phát xuất từ hoàn cảnh, chung quanh người bệnh, hay là bàn tới các bệnh chứng rơ rệt về mặt thể chất do cha mẹ truyền lại – mà các bậc cha mẹ này có lẽ đă nhận lại từ ông bà – và truyền cho con cái họ.

23

 
Tôi muốn nói rằng các bệnh di truyền này hiện nay thực sự ít hơn là người ta tưởng. Trong số các bệnh này, gia đ́nh nhân loại có khuynh hướng mắc bệnh lao, giang mai và ung thư nhất. Họ bị di truyền và cũng có thể bị nhiễm bệnh do sự tiếp xúc. Tôi sẽ bàn đến các bệnh này trong đề mục chính thứ hai nói về các bệnh xuất phát từ tập thể.

 

 


24

 
CHƯƠNG  I

 

CÁC NGUYÊN NHÂN TÂM LƯ CỦA BỆNH TẬT

 

Điểm mà tôi muốn bàn đến ở đây trước khi tiếp tục đi xa hơn, đó là tôi sẽ t́m cách tránh mọi khía cạnh chuyên môn càng xa càng tốt. Chủ đề của chúng ta là xem xét bệnh tật và các h́nh thức của nó theo phương diện huyền bí, t́m cách làm sáng tỏ vấn đề và các nguyên nhân chính của các bệnh ấy, và nêu ra các luật tổng quát mà người chữa trị phải vận dụng và sáu qui luật mà y phải ghi sâu vào trí ḿnh – y phải tuân theo các qui luật đó bằng giới luật và sự hiểu biết.

Bạn nên lưu ư rằng tôi sẽ liệt kê các nguyên nhân tâm lư dưới bốn đề mục:

1. Các nguyên nhân xuất phát từ bản chất xúc cảm – t́nh cảm.

2.Các nguyên nhân bắt nguồn trong thể dĩ thái.

3.Các nguyên nhân do tư tưởng sai lầm.

4.Các bệnh đặc thù và các rối loạn tâm lư của các đệ tử.

25

 
Có lẽ các bạn để ư thấy rằng tôi đặt các bệnh của thể dĩ thái vào hàng thứ hai chứ không phải hàng đầu. Lư do của việc này là v́ các bệnh tật tập thể đă gắn chặt vào nhân loại, trước tiên tác động qua thể dĩ thái và t́m cách biểu lộ xuyên qua thể dĩ thái của mọi h́nh hài. Nhưng tôi đă đặt chúng vào hàng thứ hai, dù rằng xét cho cùng, chúng nhiều nhất do sự kiện là từ trước đến nay, nhân loại không thể đối phó với toàn thể các bệnh này.

Việc tiếp cận phải được thực hiện qua các cá nhân, và riêng mỗi người đều phải xua khỏi thể cảm dục hay thể t́nh cảm của họ, các t́nh trạng khiến cho họ dễ vướng bệnh. Hiện nay, nhân loại đang an trụ vào thể cảm dục. Bản chất xúc động xúc cảm đang hoàn toàn mạnh thế trong quần chúng. Điều này đưa đến một thể dĩ thái tương đối thụ động, thể này phải điều hợp với toàn bộ chất dĩ thái của hành tinh. Chất này nằm ở dưới mọi h́nh hài, nó chỉ là một phương tiện chuyển di và truyền đạt sinh năng cho nhục thân bên ngoài. Năng lượng lan ra khắp chất dĩ thái này, thoát khỏi mọi kiềm chế của con người cá biệt, và con người hoàn toàn không biết được nó, v́ con người tập trung chú tâm vào thể cảm dục. Nhiều điều can hệ đến các t́nh trạng thể chất của cá nhân có thể được suy diễn từ trạng thái tâm thức của thể cảm dục. Tuy nhiên, chúng ta phải loại trừ các bệnh do tập thể vốn dĩ đă lan tràn trong khắp nhân loại từ cơi của dĩ thái lực làm cho con người bị suy kiệt hay quá bị kích thích theo một lối nào đó, hoặc là ở trong một t́nh trạng đương nhiên đưa đến tử vong. Có thể nói một cách khái quát căn bản rằng hiện nay, sự rối loạn về thể chất của con người có tâm điểm ở thể t́nh cảm, và rằng hiện thể biểu lộ đó là một tác nhân nổi bật nhất đưa đến sức khỏe suy kém của cá nhân, cũng như các bệnh tập thể và việc lan tràn của bất cứ bệnh dịch nào đó trong quần chúng đều bắt nguồn từ một t́nh trạng nào đó trong chất dĩ thái của hành tinh. Các bệnh này vốn dĩ chung cho quốc gia, chủng tộc và cả hành tinh nữa, chúng t́m cách thâm nhập vào một cá nhân xuyên qua thể dĩ thái của y, nhưng đó không phải là những bệnh riêng của cá nhân. Về sau, tôi sẽ bàn thêm điều này. Hôm nay tôi chỉ nêu ra những điểm tổng quát thôi.

Tôi cũng xin nêu ra rằng các bệnh tật của quần chúng, của người dân thông thường, của giới trí thức và của các đệ tử trên thế gian, có thể và nhất định là khác nhau rất nhiều – không khác bao nhiêu trong cách biểu lộ của chúng, mà khác ở lănh vực biểu lộ. Đây là điểm khó hiểu nhất đối với nhà chữa trị bậc trung khi muốn nhận ra; đối với người này, không dễ ǵ hoặc có thể hiểu được các phân biệt này và đánh giá mức độ tiến hóa mà một người có thể đạt đến. Một số bệnh tật cần phải được đối phó từ cơi trí, và nhà trị liệu phải dùng đến thể trí của ḿnh; với nhiều bệnh khác, cần tập trung năng lượng cảm dục làm phương tiện trị liệu; và trong các trường hợp khác nữa, kẻ chữa trị chỉ nên t́m cách truyền chuyển năng lượng prana đến thể dĩ thái của người bệnh, xuyên qua chính thể dĩ thái của y. Có bao nhiêu nhà chữa trị thực sự biết tập trung tâm thức hoặc sinh lực trong bệnh nhân, mà họ đang chữa trị? Có bao nhiêu người hiểu được về loại chữa trị nào có thể và cần áp dụng vào một đệ tử? Chẳng hạn người ta rất ít khi hiểu được rằng không một đệ tử nào có thể đặt chính ḿnh vào trong tay của nhà trị liệu bằng từ điện bậc trung hoặc là người trị liệu bằng bức xạ, hoặc chuyên gia tâm lư học thuộc bất cứ loại nào. Một đệ tử không dám đặt chính ḿnh trong các phát xạ hào quang của bất luận kẻ chữa trị t́nh cờ nào, cũng không tự đặt ḿnh dưới sức mạnh của một nhà tâm lư học chỉ biết lư thuyết suông và thiếu kinh nghiệm, dù cho người ấy có xuất chúng thế nào đi nữa. Tuy nhiên, vị đệ tử có thể đặt chính ḿnh vào sự khôn khéo của một y sĩ hoặc nhà giải phẫu ở cơi trần, v́, theo y, xác thân chỉ là một người máy. Do đó, y có thể lợi dụng các phương tiện hồng trần để hưởng lợi. Nhiều thất bại của các phương pháp chữa trị hiện được dùng đều do nhà chữa trị không thể:

26

 
1. Đo lường mức độ cơn bệnh, định vị trí cơ bản của nó, biết nó nằm trong và phát ra từ thể nào là chính.

2. Biết được tŕnh độ tiến hóa của bệnh nhân, và do đó, trước hết y phải t́m kiếm nguồn gốc của bệnh.

3. Phân biệt được bệnh nào do các t́nh trạng nội tâm của bệnh nhân, hay do các khuynh hướng di truyền, hoặc là do tập thể chung quanh lây nhiễm.

27

 
4. Biết được bệnh nên trị:

   a. Bằng đối chứng trị liệu hay đồng chứng trị liệu, v́ cả hai phương pháp này đều có thể được dùng trong một số trường hợp, hay là phải dùng những phương tiện nào khác với kỹ xảo và khoa học hiện đại.

  b. Bằng bức xạ hay truyền từ điện, hoặc cả hai.

  c. Bằng cách điều chỉnh đúng tâm lư bên trong của bệnh nhân, nhờ sự hiểu biết sâu xa của người chữa trị.

  d. Bằng cách kêu gọi sức mạnh của linh hồn chính bệnh nhân, một điều không thể được, trừ với người tiến hóa cao.

  e. Nhờ các phương tiện huyền bí rơ rệt, như là tạo thành một tam giác trị liệu gồm

 

                            

 


Phương pháp này liên quan tới nhiều tri thức và người chữa trị phải đạt được tŕnh độ phát triển tâm linh cao, việc đó cũng đ̣i hỏi khả năng liên kết của người chữa trị với Chân Sư và nhóm của Chân Sư, cộng với quyền cầu xin năng lượng của nhóm để giúp bệnh nhân – một điều cho đến nay ít khi được chấp thuận.

Trước nhất, tôi xin nêu ra rằng mục đích và ư định của tôi không phải là viết ra một bộ luận về y học. Do đó tôi sẽ không bàn đến khoa giải phẫu cơ thể, tôi cũng sẽ không bàn đến các triệu chứng của bệnh tật, trừ phi hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôi không định đi sâu vào chi tiết các triệu chứng hay xem xét nhiều bệnh tật với các tên gọi dài ḍng mà hiện nay người ta dùng để phân biệt; mọi chi tiết như thế, bạn có thể thu thập được trong các sách giáo khoa thông thường, nếu bạn muốn, và bạn có thể đem chúng ra để nghiên cứu nếu cần. Tôi thấy rằng đó là việc riêng của mỗi người, và không đặc biệt thích hợp với cuộc nghiên cứu này. Chúng ta sẽ bắt đầu với tiền đề cho rằng vốn có bệnh tật; bệnh tật đó là hậu quả của các nguyên nhân bên trong. Con người đă đạt được hiểu biết nhiều về hiệu quả của các nguyên nhân này khi họ tạo ra các thay đổi ở lớp vỏ ngoài của con người, như khoa học đă làm trong việc t́m hiểu về ngoại thể (outer garment) của Thượng Đế, tức là thế giới của bản chất thuộc cơi hiện tượng.

28

 
Việc cải thiện, làm thuyên giảm và chữa lành bệnh tật của y học và giải phẫu học đă tỏ ra vượt ngoài mọi bàn căi có thể gây tranh luận. Các phương pháp được dùng, như là giải phẫu sinh thể loài vật, đúng là có tạo ra đau đớn cho con vật. Mặc cho mọi điều này, nhân loại vẫn chịu ơn y học rất nhiều, và việc phụng sự mà y học đem lại cho nhân loại, chắc chắn hóa giải được phần lớn đau khổ. Đành rằng con người không biết đúng hết mọi điều. Đành rằng có một số ít y sĩ và nhà giải phẫu (ít hơn so với bất cứ giới nào khác) v́ tư lợi và không được tin cậy v́ mánh khóe của họ, quả vậy; đành rằng họ đă hiểu biết đủ để sẵn sàng chấp nhận rằng c̣n rất nhiều điều hơn nữa mà họ cần phải biết. Tuy nhiên điều cũng đúng là có một nhóm người cao cả, tốt lành, có tinh thần hy sinh trong gia đ́nh nhân loại. Xin đừng quên điều này.

Tôi bàn đến khía cạnh chủ quan của con người và đến các nguyên nhân thứ yếu bắt nguồn từ trong các nội thể của con người và ở khía cạnh bên trong của chính bản thể. Như tôi đă giải thích ở trên, các nguyên nhân sơ khởi chính yếu đều không thể hiểu được đối với bạn. Chúng vượt ngoài khả năng của hạ trí. Tôi t́m cách làm sáng tỏ những ǵ mà con người có thể làm để tự ḿnh ngày càng thoát khỏi tích nghiệp (accumulation) của quá khứ, cả đối với cá nhân lẫn tập thể, và nhờ làm thế mới thanh tẩy thể xác của ḿnh khỏi các mầm bệnh. Tuy nhiên, cần nhớ rằng nhiều bệnh có bản chất tập thể, và tất nhiên có sẵn trong chính nhân loại. Người nào t́nh cờ đi qua các khu rừng cũng đều có thể thấy rằng giới côn trùng đang tàn phá và hủy diệt giới thực vật, cũng thế, các mầm bệnh – thuộc cá nhân và tập thể – ngày nay đang tàn phá và hủy diệt giới nhân loại. Chúng là các tác nhân hủy diệt và đang hoàn thành một chức vụ và bổn phận rơ rệt trong thiên cơ vĩ đại hiện nay.

29

 
Định mệnh của con người là tử vong, v́ mọi người đều phải chết khi có mệnh lệnh của chính linh hồn ḿnh. Khi con người đă đạt đến một tŕnh độ tiến hóa cao, với sự lựa chọn ngày giờ một cách cẩn thận và rơ rệt, y sẽ tách khỏi xác thân của ḿnh một cách tỉnh thức. Thể xác sẽ bị bỏ lại trong im lặng, v́ thiếu linh hồn, thiếu ánh sáng, nhưng lành lặn và nguyên vẹn. Sau đó, nó sẽ tan ră theo tiến tŕnh tự nhiên, và các nguyên tử cấu tạo của nó sẽ quay về với “cái kho có các đồng loại đang chờ”, cho đến khi chúng lại được cần dùng cho các linh hồn lâm phàm. Một lần nữa, ở khía cạnh bên trong của sự sống, tiến tŕnh được lặp lại. Tuy nhiên, có nhiều người đă biết cách triệt thoái khỏi thể cảm dục mà không phải chịu “va chạm trong sương mù” (“impact in the fog”), là lối mô tả tượng trưng cái chết của con người trên cơi cảm dục. Sau đó, con người tiếp tục triệt thoái lên cơi trí và bỏ lại cái xác cảm dục của y trương lên như sương mù và tăng thêm mật độ (density) của nó.

Do đó, tôi xin nói rằng việc tôi tránh dùng các thuật ngữ chuyên về y học sẽ được cân nhắc kỹ, dù rằng, chúng ta sẽ thường đề cập đến thể xác và đến các bệnh tật mà nó thường mắc phải.

Thứ hai là, hôm nay tôi t́m cách truyền đạt cho bạn thêm các Định Luật Chữa Trị khác, cũng như đưa thêm các Qui Luật cho người chữa trị. Hăy nghiên cứu kỹ các điều này.

ĐỊNH LUẬT  II

30

 
Bệnh tật là sản phẩm của và lệ thuộc vào ba ảnh hưởng. Thứ nhất là quá khứ của một người, trong đó y trả giá cho các lỗi lầm cũ. Thứ hai là sự kế thừa của người ấy, trong đó y chia sớt với tất cả nhân loại các ḍng năng lượng bị ô nhiễm vốn có cội nguồn ở tập thể. Thứ ba là y chia sớt với tất cả mọi h́nh hài thiên nhiên những ǵ mà Đấng Cai Quản Sự Sống đặt để trên thể của Ngài. Ba ảnh hưởng này được gọi là “Định Luật Cổ của việc San Sẻ Sai Trái”. Một ngày nào đó Luật này phải thay thế cho Luật mới về Điều Thiện Cổ Xưa Chế Ngự, nằm đàng sau tất cả những ǵ mà Thượng Đế đă làm. Định Luật này phải được đưa vào hoạt động bởi ư chí tinh thần của Con người.

Hỡi huynh đệ, định luật là ǵ? Đó là sự đặt để ư chí và mục đích của những ǵ vô cùng vĩ đại (vào cả cái kém quan trọng lẫn cái quan trọng hơn). Do đó mà định luật vượt ngoài tầm hiểu biết của con người. Một ngày nào đó, con người phải tri ra rằng mọi định luật của thiên nhiên đều có các đối phần tâm linh cao của chúng, và chúng ta sẽ nghiên cứu các đối phần này một cách vắn tắt thôi. Hiện nay, các định luật của chúng ta đều chỉ là các định luật thứ yếu. Chúng là các định luật của sự sống tập thể và chúng chi phối các giới của thiên nhiên và t́m cách biểu lộ (đối với giới nhân loại) qua trung gian của thể trí, của bản chất cảm dục và qua phương tiện của cơi trần. Trong bộ luận ngắn này tôi không định làm sáng tỏ các định luật nguyên thủy. Tôi chỉ phát biểu chúng và trong tương lai (tùy vào một vài yếu tố chưa được phát triển) tôi mới có thể bàn về chúng.

Trong bộ luận này, phần thứ ba của nó được bàn đến các định luật chữa trị căn bản. Các định luật này không liên quan đến các định luật nói trên, mà chỉ liên quan đến các khía cạnh thực hành của thuật trị liệu.

Qui luật thứ hai dành cho nhà chữa trị như sau:

QUI LUẬT HAI

Kẻ chữa trị phải đạt được sự tinh khiết về từ điện nhờ sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt được phóng quang (radiance) có tính chất xua tan vốn tự biểu lộ trong mỗi người khi y đă liên kết được các trung tâm lực trong đầu. Khi từ trường này được thiết lập, bức xạ cũng phát ra.

31

 
Ư nghĩa của qui luật này sẽ trở nên sáng tỏ phần nào đối với đạo sinh huyền học tiến hóa. Như các bạn biết từ trường được thiết lập khi rung động mănh liệt của trung tâm lực ở trước tuyến yên, và trung tâm lực ở chung quanh và ở trên tuyến tùng quả tiến vào phạm vi hoạt động của nhau. Điểm duy nhất có thể gây tranh luận liên quan đến qui luật trên (mà chúng ta sẽ phải xem xét sau này) là làm thế nào và bằng cách nào để đạt sự tinh khiết từ điện và làm sao cho hai trung tâm lực trong đầu có thể cùng nhau hợp thành một từ trường duy nhất. Về sau, trong phần kết luận, vốn được dự kiến để được thực hành triệt để, tôi sẽ đề cập đến hai điểm này.

Một trong các sự kiện sẽ hiện ra rơ rệt trong các nghiên cứu của chúng ta, đó là sự kiện ít khi bệnh tật có nguồn gốc ở cá nhân, trừ phi con người lăng phí cuộc đời ḿnh và lạm dụng rơ rệt thể xác của ḿnh (qua rượu chè hoặc trụy lạc). Chúng ta cũng thấy rằng phần lớn các bệnh tật xảy ra trên thế giới ngày nay hầu hết đều có nguồn gốc tập thể, bị di truyền, là hậu quả của lây nhiễm hoặc do thiếu dinh dưỡng. Nguyên nhân nêu sau cùng trước tiên là một tác tệ của nền văn minh này; đó là hậu quả của việc không ăn khớp về kinh tế hoặc là thực phẩm hư hỏng. Như trước kia tôi có nêu ra, các nguyên nhân sau của bệnh tật trước tiên không phải là hậu quả của các mănh lực tinh anh bên trong, mà là sự tuôn đổ vào thể dĩ thái của các năng lượng từ chính cơi trần và từ thế giới bên ngoài của các lực.

32

 
Các huấn sư huyền bí học ít quan tâm đến các mănh lực ngoại lai này vốn bắt nguồn từ cơi trần và tác động vào các nội thể. Có các năng lượng vật chất và các ḍng thần lực thâm nhập vào các thể dĩ thái của mọi h́nh hài, cũng như ảo tưởng của thế gian và khí độc (miasmas) của cơi cảm dục thường có các nguyên nhân của chúng trong các t́nh trạng của cơi trần. Các năng lượng thâm nhập vào các trung tâm lực của con người từ các phân cảnh tinh anh, vẫn thường được nói đến trong các sách huyền bí, nhưng các lực đang t́m cách nhập vào các trung tâm lực từ cơi của sự sống hồng trần th́ ít khi được nhận thức hay bàn đến. Đây là một ư tưởng khá mới mẻ mà tôi nêu ra cho các bạn xem xét.

Tôi đă yêu cầu A. A. B. thêm vào đây một bảng tóm tắt về một số điểm mà tôi đă nêu ra dưới tiêu đề: Bệnh tật là ǵ? Tôi gợi ư như sau:

1. Mọi bệnh tật là sự thiếu hài ḥa, thiếu chỉnh hợp và thiếu kiềm chế.

a. Bệnh tật nằm trong cả bốn giới của thiên nhiên.

b. Bệnh tật có hiệu quả thanh lọc.

c. Có những phương pháp chữa trị nhất định được dùng riêng cho nhân loại và có nguồn gốc ở thể trí.

2. Bệnh tật là một thực kiện trong thiên nhiên.

a. Thái độ đối kháng bệnh tật chỉ làm cho nó thêm mạnh mẽ.

b. Bệnh tật không phải là kết quả của tư tưởng sai lầm của con người.

3. Bệnh tật là một tiến tŕnh giải thoát và là kẻ thù của những ǵ tĩnh tại.

4. Định Luật Nhân Quả chi phối bệnh tật giống như nó đang chi phối mọi biểu lộ khác.

Chúng ta cũng thấy rằng việc chữa trị xảy ra theo ba cách:

1. Bằng cách áp dụng các phương pháp của nhiều trường phái y học, giải phẫu và các nhóm liên hệ.

2. Bằng cách sử dụng tâm lư học.

3. Bằng sự hoạt động của linh hồn.

Tôi cũng đă phát biểu rằng có ba nguyên nhân chính của bệnh tật: các nguyên nhân có bản chất tâm lư, các nguyên nhân kế thừa do sự tiếp xúc tập thể và các nguyên nhân thuộc nghiệp quả. Tuy nhiên, nên nhớ rằng các nguyên nhân này chỉ là các nguyên nhân phụ thuộc, và bây giờ, chúng ta sẽ bàn đến nguyên nhân đầu tiên.

33

 
I. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TRONG

BẢN CHẤT CẢM DỤC

Trong quyển “Luận Về Huyền Linh Thuật”, lần đầu tiên tôi đưa ra cho thế gian sự hiểu biết về bản chất và cách kiểm soát thể cảm dục. Thực ra sách này là quyển đầu tiên từng được cống hiến cho quần chúng về đề tài này. Trong quá khứ, nhiều điều đă được đưa ra về đề tài thể xác và cách chăm sóc nó, cả theo khoa học bên ngoài lẫn theo huyền bí học. Nhiều điều trong đó th́ đúng, c̣n một số chỉ là ảo tưởng. Nó là ảo tưởng v́ được dựa trên các tiền đề sai lầm. Các nhà huyền bí học hiện đại đă bàn về vấn đề thể dĩ thái, và điều này cũng đúng một phần và sai một phần, nhưng nói chung là đúng xét theo quan điểm huyền môn hơn là về mặt công truyền. Ở đây, tôi có thể làm bạn ngạc nhiên khi nói cho bạn biết rằng quyển “Luận về Huyền Linh Thuật” dù chính xác ở chừng mực nào đó, nhưng tất nhiên là nó bị giới hạn và v́ những giới hạn này, nên nó cũng phần nào không chính xác. Phát biểu trên đây có làm cho bạn ngạc nhiên không? Nên nhớ rằng, làm sao nó có thể hoàn toàn đúng được khi chúng tôi xét các giới hạn của năng lực hiểu biết của bạn? Tôi không thể truyền đạt chân lư cho bạn, v́ không có đủ thuật ngữ mà cũng không có việc chuẩn bị kiến thức đầy đủ về phần bạn. Điều này làm cho công việc của tôi trở thành khó khăn. Giáo huấn về trị liệu này cũng là giáo huấn khó nhất mà tôi đảm nhận, v́ hai lư do: Trước nhất (bản chất thực sự của) nhóm từ “các thể tinh anh” th́ có hơi vô nghĩa, phải không? Chúng không phải là các thể giống như thể xác. Chúng có thể được xem như các trung tâm lực hoặc các nơi dự trữ những loại thần lực đặc biệt, gắn liền vào mỗi cá nhân, có các lối vào và các lối ra riêng của chúng. Chúng là tập hợp của các nguyên tử, rung động ở vận tốc cao và bị nhuốm những màu sắc nào đó (tùy theo một vài trường phái huyền môn). Chúng phát ra một âm điệu (tone) nào đó, và có các tŕnh độ tiến hóa khác nhau. Theo những phái khác, th́ chúng là các trạng thái tâm thức và một số xem chúng như được tạo ra giống con người. Hỡi huynh đệ, c̣n định nghĩa của bạn là ǵ?

34

 
Đối với đa số nhân loại, thể cảm dục là yếu tố quyết định chính cần được xem xét. Nó là nguyên nhân nổi bật của t́nh trạng sức khỏe kém cỏi. Lư do là nó có một hiệu quả mạnh mẽ và ảnh hưởng đến thể sinh lực (thể dĩ thái). Thể xác là một người máy của bất cứ nội thể nào mạnh nhất. Khi bạn nhớ rằng thể sinh lực là nơi tiếp nhận các ḍng năng lượng, và thực ra nó được cấu tạo và được h́nh thành bởi các ḍng năng lượng đó, và nhớ rằng thể xác được đưa vào hoạt động nhờ các ḍng năng lượng ấy, th́ rơ ràng là ḍng năng lượng nào mạnh nhất sẽ kiểm soát được tác động của thể xác trên cơi trần. Tuy nhiên, có hai ḍng năng lượng phải được xem xét khi nghiên cứu các yếu tố đưa đến các hoạt động ở cơi trần. Về chỗ này tôi xin nhắc bạn rằng bệnh tật là một hoạt động của cơi trần.

1. Chính ḍng sinh lực nằm ở (anchored) tim, định đoạt sức sống (vitality) của con người, năng lực làm việc của y và kỳ hạn sống của y.

2. Ḍng năng lượng chiếm ưu thế xuất phát từ các thể cảm dục, thể trí hoặc thể của linh hồn (soul bodies). Các thể này kiểm soát sự biểu lộ của con người trên cơi trần.

Với quần chúng khắp thế gian và với những người mà chúng ta gọi là quần chúng kém suy tư, các yếu tố chế ngự là ḍng sinh lực và ḍng năng lượng cảm dục. Đây có thể là những người kém khả năng hay khả năng trung b́nh.

Với quần chúng biết suy tư, các yếu tố chế ngự là hai ḍng năng lượng này, cộng với một ḍng năng lượng trí tuệ đang liên tục đi vào ngày càng tăng.

35

 
Với giới trí thức trên thế giới và người t́m đạo (những kẻ đang sẵn sàng, hay đă bước vào con đường dự bị), chúng ta thấy ba ḍng năng lượng trên đạt đến một điểm thăng bằng, và như thế, tạo ra một phàm ngă hội nhập hay phối kết. Trong số này cũng có những nhà thần bí trên thế giới và những người phụng sự có óc sáng tạo, họ biết được linh hứng, và giao tiếp tâm linh là dấu hiệu của năng lượng linh hồn đang bắt đầu đi vào.

Trong các đệ tử ở thế gian, chúng ta thấy có một nhóm người nam và nữ đang ở dưới sự chi phối của năng lượng linh hồn, trong khi đó th́ ba ḍng năng lượng kia đang ngày càng phụ thuộc vào loại kiểm soát cao hơn này.

Cần nên nhớ rằng có hai loại năng lượng khác cần được kể ra khi xét đến người thông minh.

1. Năng lượng được tạo thành với các mănh lực pha trộn và ḥa hợp của một phàm ngă phối kết.

2. Năng lượng của chính cơi trần, sau cùng được người t́m đạo hoặc vị đệ tử đồng nhất hóa và hoàn toàn bị vô hiệu hóa đến nỗi rốt cuộc nó tạo ra một trong các yếu tố chính để giải phóng các bí huyệt.

Sau rốt, đến lúc vị điểm đạo đồ chỉ dùng ba loại năng lượng trong khi tự biểu lộ trong kiếp luân hồi: năng lượng của chính sự sống, năng lượng âm của phàm ngă và năng lượng dương của linh hồn. Như thế, vị ấy là một biểu hiện hữu thức của ba trạng thái của Tam Vị Nhất Thể (Trinity).

Một số điều cần được thiết lập dưới h́nh thức các sự kiện huyền linh trong ư thức của nhà trị liệu trước khi y có thể hành động một cách hữu ích.

36

 
1. Trước tiên, không có ǵ khác ngoài năng lượng, và năng lượng này tự biểu lộ thành nhiều loại năng lượng khác nhau. Vũ trụ được tạo thành bằng các loại năng lượng này. Các thể hay các hiện thể biểu lộ của con người cũng được cấu tạo bằng các đơn vị năng lượng mà không có ngoại lệ nào. Các đơn vị này chúng ta gọi là các nguyên tử, và các đơn vị nguyên tử này được gom lại với nhau thành h́nh dạng một cơ thể nhờ lực kết hợp của các năng lượng mạnh mẽ hơn.

2. Điểm tập trung năng lượng chính ở trong con người là tụ điểm của linh hồn. Tuy nhiên, từ trước đến giờ, mănh lực đóng vai tṛ kết hợp và phối kết của nó, vẫn trội hơn mănh lực đặc trưng của nó. Trong các giai đoạn trước kia của cuộc tiến hóa con người, chính trạng thái kết hợp mới biểu lộ. Về sau, khi bộ máy đáp ứng của con người, hay các thể, trở nên phát triển hơn, th́ trạng thái phẩm tính của linh hồn mới bắt đầu ngày càng biểu lộ.

3. Nh́n từ phương diện nội tâm, nơi mà thời gian không hiện hữu, th́ con người biểu lộ như một hiện tượng hay biến đổi và đáng kinh ngạc như kính vạn hoa. Cái được gọi là các thể, hay đúng hơn, là tập hợp các đơn vị nguyên tử, phai mờ và biến mất, hay là lóe lên trở lại thành biểu lộ. Các ḍng màu sắc qua rồi trở lại; chúng xoắn hay đan vào nhau. Bấy giờ, một vài chỗ sẽ đột nhiên tăng thêm độ sáng của chúng và tỏa chiếu rực rỡ; hoặc là lần nữa chúng có thể tắt đi và hiện tượng trong một vài vùng sẽ bị mất màu sắc và có vẻ không tồn tại. Nhưng luôn luôn có một nguồn sáng vẫn c̣n, đang linh trợ, từ đó, một ḍng ánh sáng tuôn đổ vào con người của cơi hiện tượng; có thể thấy ánh sáng này tự gắn liền vào hai vị trí chính so với cái nhân đặc bên trong của con người vật chất. Hai điểm liên kết này nằm ở trong đầu và trong tim. Ở đó cũng có thể thấy bảy đĩa sáng khác, lúc đầu mờ nhạt, nhưng ngày càng chói sáng, chúng là chứng cớ ban đầu của bảy trung tâm lực.

37

 
 

 

 

 

 

 


4. Các trung tâm lực này tạo nên các trạng thái phẩm tính và các trạng thái ư thức, chức năng của chúng là tô màu cái bề ngoài hay ngoại hiện của con người và dùng nó làm một bộ máy đáp ứng. Trong diễn tŕnh tiến hóa, chúng khai mở theo ba cách.

a. Loại khai mở xảy ra khi một đứa trẻ ở cơi trần trở thành một người lớn. Vào lúc nó được 21 tuổi, các trung tâm lực sẽ b́nh thường đạt đến cùng tính chất biểu hiện như chúng đă đạt đến khi y qua đời trong kiếp trước. Lúc bấy giờ, con người tiếp tục sống ở mức mà y đă rời bỏ trước kia.

b. Khơi hoạt các trung tâm lực nhờ kinh nghiệm sống. Đôi khi chỉ một trung tâm lực có thể được khơi hoạt trong một kiếp sống nào đó; đôi khi nhiều trung tâm lực được thúc đẩy vào tâm thức hoạt động to tát hơn.

c. Sau cùng, các trung tâm này được khơi hoạt qua tiến tŕnh điểm đạo. Dĩ nhiên, điều này chỉ xảy ra khi con người đă ở trên Thánh Đạo một cách hữu thức.

38

 
5. Các trung tâm lực định đoạt tŕnh độ tiến hóa của con người chừng nào con người c̣n biểu lộ ở cơi hiện tượng. Chúng tác động trực tiếp vào thể xác qua trung gian của hệ thống tuyến nội tiết. Điểm này cần được ghi nhớ, bởi v́ nhà chữa trị theo huyền môn trong tương lai sẽ tiếp cận với bệnh nhân của ḿnh bằng tri thức này. Lúc bấy giờ y sẽ hoạt động qua các trung tâm lực và các tuyến nào đang chi phối vùng bị bệnh hay đang đau ốm của cơ thể. Tuy nhiên, chưa đến lúc có thể làm việc đó, v́ sự vô minh của con người hăy c̣n nhiều. Việc kích thích quá mức các bí huyệt, và tất nhiên là các tuyến, có thể dễ dàng xảy ra, và t́nh trạng bệnh cũng có thể bị kích thích và tăng thêm, thay v́ được làm tiêu tán hay chữa lành.

 

A. XÚC CẢM THIẾU KIỂM SOÁT VÀ BẤT THƯỜNG

     Căn cứ vào các sự kiện căn bản này, người ta có thể thấy được tại sao các thái độ cảm xúc sai lầm, và một t́nh trạng kém sức khỏe chung của thể cảm dục phải là các yếu tố chủ động tạo ra đau yếu, bệnh tật. Điều này cũng do sự kiện là thể sinh lực hay thể dĩ thái của đa số nhân loại đều bị chi phối trước tiên và lôi cuốn vào hoạt động qua tác động của thể cảm dục. Sự khích động trong thể đó, bất luận hoạt động dữ dội nào do tính khí căng thẳng, lo âu quá đỗi hay là phiền muộn kéo dài sẽ tuôn đổ một luồng năng lượng cảm dục vào trong và qua huyệt đan điền, sẽ khích động bí huyệt đó và đưa nó vào một t́nh trạng xáo trộn mạnh. Sau đó, tác động này ảnh hưởng đến bao tử, tụy tạng, ống dẫn mật và bàng quang. Ít người (tôi xin hỏi ai được miễn trừ ở thời buổi đặc biệt này của lịch sử thế giới) thoát khỏi chứng khó tiêu, thoát khỏi t́nh trạng khó chịu ở dạ dày hay thoát khỏi các xáo trộn liên quan đến túi mật.

39

 
Khuynh hướng thích chỉ trích, ghét bỏ và thù hận do chỉ trích, hoặc mặc cảm tự tôn, đều tạo ra nhiều chất chua mà đa số người bị đau v́ đó. Nhân tiện, tôi xin thêm rằng ở đây, tôi chỉ khái quát hóa thôi. Rất nhiều người thường có mặc cảm tự ty liên quan đến chính họ, nhưng lại có mặc cảm tự tôn đối với người khác ! Các hậu quả liên quan đến dạ dày ở cơi trần, đều có ràng buộc chặt chẽ vào trạng thái ham muốn của thể xác, nó t́m cách biểu lộ trong việc ăn uống những ǵ được ưa thích, sau đó đưa đến các bệnh về mật mà rất nhiều người đang có khuynh hướng mắc phải.

Tôi đưa ra các minh họa trên để chứng minh hậu quả của các thái độ sai lầm thường thấy đối với cuộc sống và con người, mà ngày nay là đặc trưng cho nhân loại, và tạo ra các t́nh trạng nói ở trên.

Các ốm đau do chỉ trích, do sự thù ghét, và do tính ưa phê phán lẫn nhau (thường thường là tàn nhẫn) tác động từ bí huyệt cổ họng đến đan điền. Liên hệ hỗ tương này tồn tại giữa các bí huyệt là liên hệ chưa bao giờ được người ta xem xét một cách thích đáng. Các trung tâm lực trong thể dĩ thái chuyển nhiều loại năng lượng giữa chúng, và một số lớn năng lượng được truyền từ bí huyệt này đến bí huyệt khác thuộc loại bất hảo, lưu chuyển từ các huyệt dưới cách mô đến các huyệt trên cách mô.

Thể xác (gồm thể dĩ thái và nhục thể) có thể được mô tả như một ngôi nhà có hai máy điện thoại – một mang đến năng lượng từ bên ngoài nhà, cái kia có bản chất là điện thoại trong nhà, từ pḥng này sang pḥng khác. Đối với người nghĩ tưởng sơ sài, sự tương tự hiện ra càng chính xác hơn. Trong mọi ngôi nhà tân tiến đều có ánh sáng, nước, khí đốt và giao dịch điện thoại. Ánh sáng tượng trưng cho linh hồn; nước tượng trưng cho xúc cảm; giao dịch điện thoại tượng trưng cho trí với sự truyền đạt kiến thức lẫn nhau, c̣n khí đốt tượng trưng cho chất dĩ thái.

40

 
Điều đáng lưu ư và đáng buồn là hiện nay những ǵ từ một ngôi nhà bậc trung đưa ra lại là rác rưởi không ai ưa thích – điều đó tương ứng với những ǵ ích kỷ, buồn chán và sự đ̣i hỏi để thỏa măn các nhu cầu và ham muốn cá nhân.

Do đó, bạn có thể thấy lư do tại sao tôi rất nhấn mạnh vào việc cần có đức tính không gây tổn hại nơi tất cả các bạn, v́ đó là phương pháp khoa học tuyệt diệu nhất nói về mặt huyền bí, để tẩy sạch ngôi nhà và thanh lọc các bí huyệt. Thực hành đức vô tổn hại sẽ khai thông các vận hà bị tắc nghẽn và giúp cho các năng lượng cao siêu đi vào.

Trong thời kỳ đặc biệt này, các nguyên nhân về t́nh cảm của bệnh tật và các thái độ tâm trí tạo ra sự khó chịu trong thể xác là những điều thường thấy nhất. Khi các điều ấy tồn tại trong một thời gian dài và được chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, th́ chúng sẽ tạo ra các trạng thái trầm trọng hơn đối với t́nh trạng được nói ở trên, từ đó có thể phát sinh các bệnh trầm trọng và hiểm nghèo, thí dụ như cần phải cắt bỏ túi mật, hay có thể cần các cuộc giải phẫu để chữa các bệnh loét bao tử kinh niên. Các bệnh khác th́ phát sinh do thường chạy theo thị hiếu của bản chất dục vọng, dù cho các bệnh tính dục lại đến dưới một chủng loại khác. Do lư do trên, có thể thấy là đáng mong muốn biết bao nếu nhà chữa trị chân chính phối hợp nơi chính ḿnh không chỉ một mức độ kiến thức huyền môn, mà (ngày nào y chưa trở nên một điểm đạo đồ) c̣n biết qua về tâm lư học, về công việc của nhà chữa trị bằng từ điện và cũng phải là một y sĩ hay một nhà giải phẫu thành thạo.

41

 
Nhiều cách chữa trị hiện nay được thực hiện một cách tệ hại, nếu không muốn nói là vô ích, v́ ba điều kiện kể trên đều thiếu. Đa số các bác sĩ, nhất là các vị được gọi là bác sĩ đa khoa, là các nhà tâm lư học giỏi và họ cũng có một hiểu biết vững chắc về các triệu chứng, về giải phẫu học và các phạm vi trị liệu, vốn thường thiếu sót nơi nhà chữa trị siêu h́nh bậc trung. Tuy nhiên, họ hoàn toàn không biết về một lănh vực hiểu biết rộng lớn – có liên quan đến năng lượng, nó gặp và gây xung đột bên trong cơ thể con người. Họ cũng không biết đến các mănh lực mà họ có thể phát động nếu một số chân lư huyền học được chấp nhận đúng lúc. Trước khi mà họ tác động với thể dĩ thái và nghiên cứu môn học về các bí huyệt, th́ họ có thể tiến bộ rất ít. Nhà trị liệu theo huyền môn biết nhiều về các mănh lực và năng lượng bên trong con người, và có hiểu biết ít nhiều về các nguyên nhân căn bản của các bệnh bên ngoài, nhưng đáng tiếc y không biết ǵ về cơ cấu của con người và y không hiểu được hai điều:

Thứ nhất, đôi khi bệnh tật là sự thể hiện của các t́nh trạng bất hảo ở bên trong. Khi các t́nh trạng này xảy ra ở trên cơ thể con người, th́ bấy giờ, người ta mới có thể biết được để đối phó và trừ khử. Cũng cần nhớ rằng đôi khi sự thể hiện và thải trừ đó có thể đưa đến cái chết của cơ thể. Tuy nhiên, linh hồn vẫn tiếp tục sống. Một kiếp sống ngắn ngủi không có giá trị bao nhiêu trong chu kỳ dài của linh hồn, và được coi là rất đáng sống nếu một giai đoạn sức khỏe kém (cho dù rốt cuộc phải chết) đưa tới việc tẩy sạch các t́nh trạng sai lầm trong t́nh cảm và trí tuệ.

Thứ hai, bệnh tật đôi khi gắn liền và là một phần của tiến tŕnh triệt thoái của linh hồn ra khỏi trú sở của nó. Điều này, chúng ta gọi là sự chết, nó có thể xảy đến một cách mau lẹ và bất ngờ khi linh hồn triệt thoái một cách đột ngột ra khỏi thể xác của nó. Hoặc là sự chết có thể trải rộng trong suốt một thời gian dài, và linh hồn có thể mất nhiều tháng hay nhiều năm để thoát ra khỏi thể xác một cách từ từ và chậm răi khiến cho thể xác phải chết dần chết ṃn.

Tuy nhiên, nhiều nhà chữa trị lại chưa có đủ kiến thức để có thể xử lư các vấn đề này một cách khôn ngoan. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng:

42

 
1. Bệnh tật là một diễn tŕnh thanh lọc, được tiến hành để tạo ra sự biểu lộ tinh khiết hơn, hương vị của sự sống, ảnh hưởng, và sự hữu dụng cho linh hồn. Trong trường hợp này, bệnh có thể được chữa lành.

2. Bệnh tật có thể là một diễn tŕnh tuần tự và chậm chạp của sự chết, và như vậy giải phóng linh hồn. Lúc đó sẽ không thể chữa được, dù rằng các biện pháp giảm đau và cải thiện đều cần thiết và chắc chắn nên được sử dụng. Tuổi thọ có thể được kéo dài, nhưng việc chữa trị lâu dài và rốt ráo th́ không thể được. Nhà chữa trị tâm thần bậc trung không thể hiểu được điều này. Họ sợ chết, trong khi đó sự chết lại là một người bạn tốt.

3. Bệnh tật có thể là sự kêu gọi bất ngờ và cuối cùng để xác thân từ bỏ linh hồn, để cho linh hồn rảnh rang lo công việc phụng sự khác.

Trong tất cả các trường hợp này, mọi việc chữa trị có thể đều nên được làm, theo quan điểm y khoa và khoa giải phẫu hiện đại, và các khoa học có liên quan khác hiện có rất nhiều. Cũng có nhiều điều có thể được làm theo khía cạnh chữa trị về tâm thần, và tinh thần được trợ giúp của khoa tâm lư học. Một ngày nào đó phải có sự hợp tác trong các lănh vực khác nhau này và tổng hợp các cố gắng của các khoa đó.

Trước đây tôi có nêu ra rằng thể cảm dục là nhân tố kích động quan trọng nhất trong các kiếp sống của đa số nhân loại. Điều này do bởi sự kiện sau:

1. Đó là thể mà phần đông con người ngày nay đang tập trung tâm thức của họ vào đó.

2. Hiện nay; đó là thể phát triển nhất trong số các thể, do đó nó nhận được phần lớn năng lượng sống khi năng lượng này tuôn đổ xuống từ linh hồn, và nó cũng nhận được năng lượng của ḍng ư thức.

43

 
3. Có thể nói là nó hướng ra ngoài hay hướng về cơi kinh nghiệm hồng trần. Trong trường hợp người t́m đạo, sự định hướng đó đôi khi thay đổi và tạm thời hướng vào trong. Cũng như các bí huyệt trong con người, tức là các “hoa sen của sự sống”, được mô tả là quay xuống dưới, c̣n cuống th́ hướng lên nơi người chưa phát triển; nhưng ở người đă phát triển th́ các hoa sen này lại quay lên; cũng thế, t́nh trạng trong thể cảm dục tương đồng với điều này. Trong trường hợp của người tiến hóa cao, của điểm đạo đồ hoặc Chân Sư, th́ thể cảm dục luôn luôn hướng về linh hồn. Nơi thần bí gia, người t́m đạo và đệ tử, tiến tŕnh chuyển hướng rơ rệt của các lực được tiếp diễn, và do đó mà tạo ra một sự xáo trộn tạm thời.

4. Thể cảm dục của con người là thể được phát triển gần đây nhất (theo thứ tự thời gian th́ thể xác và thể dĩ thái là hai thể được phát triển trước) cho nên thể cảm dục vẫn là thể sống động và mạnh mẽ hơn hết. Nó đạt tới tột đỉnh phát triển vào cuối thời Atlantis và sức mạnh của nó vẫn c̣n lớn, tạo thành sức mạnh của quần chúng, tầm quan trọng và sức tập trung của quần chúng. Mănh lực này cũng được tăng thêm bằng năng lượng xuất phát từ giới động vật, giới này có tŕnh độ phát triển hoàn toàn thuộc thể cảm dục.

44

 
Ở đây, tôi xin nhắc các bạn nhớ rằng việc sử dụng từ ngữ “thể” (“body”) là hết sức sai lầm và không thích hợp. Từ ngữ này tạo ra trong tâm thức cái ư tưởng về một h́nh thể rơ rệt và một dạng thức đặc biệt. Thể cảm dục là một tập hợp các mănh lực, tác động qua tâm thức dưới h́nh thức các dục vọng, các xung lực, các khát vọng, các ước muốn, các quyết tâm, các khuyến khích và các dự tính, như thế đặt căn bản cho nhiều chân lư thuộc các giáo huấn của tâm lư học hiện đại. Các nhà tâm lư học đă khám phá (hay nói đúng hơn là đă phát triển) bản chất của một số mănh lực này, và thực ra cách dùng thuật ngữ của họ trong vấn đề này thường hay có tính cách huyền bí, và chính xác hơn các dụng ngữ của các nhà huyền bí học chính thống và nhà nghiên cứu minh triết thiêng liêng.

Có lẽ sẽ có ích cho bạn nếu tôi làm hai việc. Trước hết đưa cho bạn chi tiết chuyên môn nào liên hệ đến cách hoạt động của các lực từ cơi cảm dục vào trong thể xác, rồi kế đó cho bạn biết các hậu quả của tác động đó dưới dạng bệnh tật và nhiều sự xáo trộn khác nhau mà con người có khuynh hướng mắc phải do họ sử dụng các mănh lực ấy một cách sai lầm. Vào lúc này, chúng tôi chưa bàn đến cách chữa trị chúng. Ở đây, tôi chỉ nêu ra cơ cấu của sự kiện để sau này chúng ta có thể dựa vào đó mà có các kết luận. Về điểm này, chúng ta sẽ chỉ xem xét một người b́nh thường thôi. Các khó khăn của bậc đệ tử sẽ được bàn đến ở phần I, tiết 4.

Trước đây, tôi đă nêu ra rằng ba nhóm bệnh chính yếu của quần chúng là:

1. Bệnh lao.

2. Các bệnh xă hội, thường được gọi là các bệnh hoa liễu và giang mai.

3. Bệnh ung thư.

Thêm vào đó, chúng ta phải kể hai nhóm bệnh khác đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến những người hơi trên mức trung b́nh, và những kẻ mà tŕnh độ thông minh chung cao hơn tŕnh độ của quần chúng. Trường hợp này cũng bao gồm những người t́m đạo trên thế gian.

4. Các bệnh tim, nhưng không phải chứng suy tim (heart failure).

5. Các bệnh thần kinh, rất thường gặp vào lúc này.

Năm nhóm bệnh này và các tế phân khác nhau của chúng, đang chịu trách nhiệm cho đa số các bệnh xác thân đang đánh vào nhân loại. Hiểu đúng các nguyên nhân chiếm ưu thế của chúng sẽ là trợ giúp rơ rệt cho y học sau này. Vào lúc đầy ngờ vực này, không biết bao nhiêu điều sẽ được chấp nhận.

45

 
Ở đây, tôi xin nêu ra rằng, như bạn biết rơ, trong thể xác có các phần tương ứng với bảy trung tâm lực nằm trong thể dĩ thái và được thể cảm dục bảo dưỡng. Các phần tương ứng này chúng ta gọi là các tuyến nội tiết. Các tuyến này là các hiệu quả hay là các bằng chứng của các trung tâm lực nói trên, và đến lượt chúng, khởi xướng các nguyên nhân gây nên các hiệu quả nhỏ hơn trong thể xác. Ở đây chúng tôi thấy nên liệt kê một số sự việc mà chúng tôi đă biết để giúp các bạn hiểu rơ thêm.

 Bí huyệt       Tuyến     Các cơ quan    Loại thần     Nguồn    Thể

                                       trong thể xác         lực              cội    

1. Đầu .. …Tùng quả… Thượng năo…  Ư chí….    Atma … .Linh

                                             Mắt phải.     tinh thần.   Monad      hồn

Brahma-                                                    Tổng hợp.  Xuyên       thể.

randra                                                        Năng             qua         Bảo

Hoa Sen                                                      động.        linh hồn.    ngọc 

1000 cánh                                                                        Ư chí         trong   

                                                                                                        Hoa sen.

Nhà huyền linh học. Điểm đạo đồ. Thánh Sư

Vượt trội sau cuộc điểm đạo thứ ba.

 2. Bí huyệt… Tuyến …. Hạ năo……… Mănh lực …Tất cả … Hiện

      giữa           yên          Mắt trái.            linh hồn.        các          thể

   hai mắt.                          Mũi.                   Bác ái.            cánh      bồ đề.

   Bí                                    Thần                 Từ điển.       của hoa    Linh

   huyệt                            kinh hệ.              Ánh sáng.        sen       hồn

   ấn                                                             Trực giác.       Chơn       thể.

   đường.                                                     Nhăn               ngă.    Thượng

                                                                     thông.                               trí.

Người t́m đạo. Đệ tử. Nhà thần bí.

Vượt trội sau cuộc điểm đạo thứ hai.

3. Tim……  Tuyến……… Tim……… Sinh lực…Các  ....Thượng

                          ức            Hệ tuần                            cánh       trí.

                    (thymus)        hoàn.                                hoa        Linh

Anahata                            Máu.        Tập thể thức.  bác ái.     hồn thể.

                                   Thần kinh phế vị.

Tất cả các hạng người có khuynh hướng tinh thần.

Vượt trội sau kỳ điểm đạo thứ nhất.

Bí huyệt       Tuyến     Các cơ quan    Loại thần     Nguồn    Thể

                                       trong thể xác         lực              cội    

4. Trung …. Tuyến ……. Bộ máy …. Năng lượng ... Các …. Thể

   tâm lực       giáp              hô hấp.        Sáng tạo.    cánh hoa    hạ

   cổ họng.      trạng.         Thực quản.   Âm thanh.  kiến thức.  trí.

                                                                   Ngă thức. 

Các nghệ sĩ sáng tạo. Tất cả nhân loại tiến bộ. Giới trí thức.

 

5. Đan  ….… Tụy ……. Bao tử ……  Lực cảm dục…Các trung .. Thể

    điền.           tạng.         Gan.                                          tâm lực      cảm

                                        Túi mật.            Xúc cảm.          ở thể          dục.

                                         Hệ thần            Dục vọng.        cảm dục.

                                         Kinh.                 Xúc giác.

Hạng trung nhân (Average man).

Người thông thường (Ordinary people).

6. Bí huyệt …Tuyến… Cơ quan ….  Sinh Lực…  Cơi trần…  Thể

Xương cùng.  sinh        sinh dục.       Lực của                          dĩ thái.

                         dục .                             cơi trần.

                                                            Năng lượng

                                                               sự sống.

                                                              Sức sống

                                                              động vật.

Hạng người tŕnh độ thấp gần với thú.

7. Chót xương … Tuyến … Thận…..   Năng lượng ….. Đức Mẹ

        sống.            Thượng       Cột             Ư chí.                Thế giới.

   Mulahara            thận.       xương        Sự sống

                                                  sống.        đại đồng.

                                                                    Kundalini

46

 
Bảng liệt kê này chỉ là đại cương, và giống như bảng liệt kê các nguyên khí và các tương ứng của chúng đă được H. P. B. đưa ra trong quyển III của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, cách diễn giải nó sẽ tùy theo quan điểm của người nghiên cứu. Chúng ta sẽ sử dụng nó về sau, thêm vào nhiều cột hơn nữa và nhiều tương ứng hơn nữa. Trong mọi khảo sát này, những ǵ chúng tôi phải nói sẽ bao hàm sự tổng hợp theo sau của cơ cấu đàng sau nó:

1. Linh hồn.

2. Các thể tinh anh của trí tuệ và các xúc cảm vốn chỉ là các trung tâm năng lượng định tính.

3. Thể sinh lực với bảy bí huyệt chính của nó.

4. Hệ thống tuyến nội tiết, vốn là hiệu quả của bảy bí huyệt và là yếu tố kiềm chế quyết định trong thể xác con người.

5. Hệ thần kinh gồm ba phân hóa.

6. Ḍng máu.

Tất cả các cơ quan phụ thuộc của con người đều là các hậu quả, chúng không phải là các nguyên nhân tiền định. Các tuyến là các nguyên nhân quyết định trong con người, chúng làm cho con người theo đúng bản chất của người ấy. Chúng là các ngoại hiện của các loại thần lực đang tuôn đổ qua các bí huyệt dĩ thái, từ các thế giới hiện tồn tinh anh. Chúng biểu hiện tŕnh độ tiến hóa mà con người đă đạt được; chúng được sinh động và linh hoạt, hay không sinh động và kém linh hoạt đều tùy theo t́nh trạng của các bí huyệt. Chúng biểu lộ sinh lực đầy đủ, quá mức hay là khiếm khuyết, tùy theo t́nh trạng của các xoáy lực dĩ thái.

Lại nữa, tiến tŕnh kiểm soát có thể được ấn định xuyên qua hệ thần kinh; sự quản trị phối hợp chặt chẽ của hệ thần kinh, năo bộ và ḍng máu (dưới h́nh thức phương tiện chở nguyên khí sự sống) chi phối các hoạt động của con người hữu thức, tiềm thức, ngă thức và sau cùng là siêu thức. Hiện nay ba bí huyệt đang kiềm chế đa số con người là:

47

 
1. Bí huyệt ấn đường.

2. Bí huyệt đan điền.

3. Bí huyệt ở xương cùng.

Cuối cùng, khi con người “trở thành chính ḿnh”, (đây là nhóm từ nội môn có vẻ nghịch lư), th́ các bí huyệt cần kiểm soát sẽ là:

1. Bí huyệt đầu, brahmarandra.

2. Bí huyệt tim.

3. Bí huyệt chót xương sống.

Từ đây trở về sau, tầm quan trọng sẽ được đặt vào một nhóm ba bí huyệt thay đổi liên tục, và mỗi người sẽ khác với đồng loại ḿnh về chỗ nhấn mạnh, về t́nh trạng của các bí huyệt, về các hạch tuyến tương ứng trong thể xác, và do đó mà khác ở các bệnh tật, các ức chế và các khó khăn mà thể xác của y phải kế thừa. Chính v́ mối liên hệ này mà chúng ta thấy hiển nhiên là công việc của vị y sĩ và của nhà tâm lư học rốt cuộc phải phối hợp với nhau. Ba khía cạnh quan trọng nhất của mọi chẩn đoán là:

1. Về mặt tâm lư, hay là đánh giá các nội thể của con người theo góc độ phát triển của chúng, theo mức hội nhập của chúng và sự phối kết chung của phàm ngă, khi các trạng thái tinh anh này của con người tự biểu hiện trong tâm thức.

2. Công việc của nhà nội tiết học, khi y hành xử với các tuyến nội tiết, xem chúng như là các trạm năng lượng, nhờ đó, năng lượng – năng động và giác ngộ – từ các bí huyệt có thể tuôn đổ qua đó.

48

 
3. Nhà y sĩ, là người xem xét các kết luận của hai chuyên gia nói trên, chẩn đoán bệnh tật và chữa trị nó phối hợp với hai chẩn đoán kia.

Ba vị này có thể nhờ sự trợ giúp thêm của các nhà chuyên môn và chuyên gia trong phép trị liệu bằng điện, thuật nắn xương và nắn cột sống. Tuy nhiên, chính nhờ sự phối hợp kiến thức của thầy thuốc, nhà tâm lư học và nhà nội tiết học, mà ngành y khoa có thể tăng thêm hữu ích và tiến vào kỷ nguyên mới được trang bị để trị liệu cho những người sẽ dần dần khoác lấy những loại thể xác mới và những cơ cấu xác thân thay đổi. Cho đến nay, việc áp dụng điện để trị bệnh con người vẫn c̣n là một khoa học ấu trĩ, nhưng nó có các mầm mống của những kỹ thuật và phương pháp chữa trị mới. Việc nắn cột sống là tốt và cần thiết, nhưng cộng với phương pháp nắn xương sẽ trở thành một kỹ thuật phụ trợ rơ rệt vào ba kỹ thuật trên. Công việc của các nhà nắn cột sống và của các nhà nắn xương là hai nửa của một việc duy nhất, đó là điều mà những người đang thực hành các phương pháp này ít nhận ra. Các nhà nắn cột sống cần một sự tập luyện cẩn thận và lâu dài hơn, và cần có tŕnh độ hiểu biết chuyên môn cao hơn.

Y khoa đang từ từ tiến vào mức hữu dụng mới. Một khi nguyên nhân của bệnh tật được chuyển ra khỏi một cơ quan hay hệ thống cơ thể, đi vào một lănh vực tinh anh và sinh động hơn, th́ bấy giờ, chúng ta sẽ thấy được các thay đổi căn bản và cần thiết, dẫn đến sự đơn giản hóa, chứ không phải đến phức tạp và khó khăn lớn hơn.

Từ các nhận xét trên, người ta thấy rằng bệnh tật xuất hiện trong thể xác từ thế giới không thấy được, và do việc sử dụng hay lạm dụng các sức mạnh tinh anh trên các nội cảnh giới. Tuy nhiên, phải nhớ rằng các bệnh tật – khi nó tự lộ ra trong con người – có thể thường được xem là do các nguyên nhân sau đây, và các nhà nghiên cứu nên thận trọng ghi nhớ khi nghiên cứu về các vấn đề này:

49

 
1. Bệnh của cá nhân, do bởi các t́nh trạng bên trong cơ thể của chính người ấy, do t́nh trạng trí tuệ hay là do trạng thái t́nh cảm, chúng có thể tạo ra các bệnh nặng. Điều này được kế thừa từ quá khứ.

2. Bệnh tật vốn có trong nhân loại nói chung. Có một số bệnh mà mọi người đều có khuynh hướng mắc phải, các mầm bệnh này tiềm ẩn trong các thể xác của đa số con người, chỉ chờ có được những điều kiện sắp đặt trước để hiện ra. Chúng có thể được xem như là các bệnh tập thể.

3. Điều khá kỳ lạ là có những bệnh do ngẫu nhiên, thí dụ như các bệnh mà con người mắc phải khi y không chống nổi một bệnh truyền nhiễm nào đó.

4. Có những bệnh có sẵn trong đất đai. Cho đến nay, các bệnh này ít được người ta biết tới. Tuy thế, đất đai của địa cầu chúng ta đă quá cũ và bị tiêm nhiễm các mầm bệnh, gây tổn hại cho giới thực vật, động vật và giới nhân loại, trong mỗi giới, chúng hiện ra một cách khác nhau, tuy nhiên, căn bản đều do các nguyên nhân giống nhau.

5. Có những bệnh vốn là các khó khăn của thần bí học. Đây là các bệnh và ốm đau đặc biệt đang tác động vào các đệ tử và người t́m đạo của thế gian. Trong mọi trường hợp, các bệnh này đều có thể được truy nguyên do sự tuôn đổ năng lượng qua các bí huyệt không được trang bị thích hợp, hay là phát triển thích hợp để vận dụng sức mạnh.

Trên đây là các điều khái quát mà có lẽ bạn thấy hữu ích.

Phương pháp mà nhờ đó các lực cảm dục (như chúng ta biết, vốn là các mănh lực sự sống có tính quyết định nổi bật đối với đa số con người vào lúc này) thể hiện thành biểu lộ là một vấn đề tương đối đơn giản. Như bạn biết, trong thể cảm dục, có các tương ứng của bảy bí huyệt trong thể dĩ thái. Về bản thể, các bí huyệt này là bảy điểm tập trung thần lực chính, và mỗi điểm lại biểu lộ một trong bảy loại năng lượng cung. Trước hết, tôi xin nói rơ các bí huyệt nào biểu lộ bảy loại cung này.

50

 
Bí huyệt                Cung        Tính chất          Nguồn gốc

1. B. H. đỉnh đầu            1       Ư chí thiêng liêng.   Cơi Chân Thần

2. B. H. ấn đường           7            Tổ chức.               Cơi Niết Bàn.

                                                      Điều khiển.                 

3. B. H. Tim                     2         Bác ái-Minh triết.       Cơi Bồ đề.

                                                   T́nh thương tập thể.

4. B. H. cổ họng              5           Tính sáng tạo.               Cơi trí.

5. B.H. Đan điền             6       Cảm xúc – Dục vọng.   Cơi cảm dục.      

6. B.H. sinh dục              3                Sinh sản .                  Cơi dĩ thái.

7. B.H. chót                      4         Hài ḥa. Hợp nhất           Cơi trần.

Xương sống                                 qua xung khắc.

Ghi chú: Trong giới thứ tư, tức là giới nhân loại, chính năng lượng của cung 4 kết hợp với cung 1 sau rốt sẽ đem lại sự tổng hợp. Có một liên hệ chặt chẽ giữa bí huyệt cao nhất (bí huyệt đỉnh đầu) với bí huyệt ở chót xương sống. Như vậy loại năng lượng thứ tư này tự biểu lộ khi hợp với loại thứ nhất, bởi v́ chúng ta vẫn c̣n trụ vào tâm thức của thời Atlantis và nền văn minh đó theo thứ tự là nền văn minh thứ tư. Phần lớn công việc được làm trong nền văn minh thứ năm của chúng ta, giống dân Aryan hiện nay, khi hợp tác với nguyên khí thứ 5, nguyên khí trí tuệ, sẽ chuyển vào một tŕnh độ tâm thức cao siêu hơn. Điều này sẽ tạo ra sự hài ḥa của mọi bí huyệt, nhờ tác động của ư chí, được áp dụng về mặt trí tuệ một cách sáng suốt với mục đích tạo ra sự hài ḥa. Điểm này biện minh cho sự suy tư của chúng ta.

Trên cơi cảm dục, người ta cũng thấy trong mỗi thể cảm dục có bảy tụ điểm tương ứng mà năng lượng có thể nhập vào đó, rồi mới phóng chiếu vào các bí huyệt sinh động trong thể dĩ thái hồng trần thành bảy loại thần lực khác nhau.

Các loại thần lực này tạo ra cả hai hiệu quả xấu và tốt, tùy theo tính chất của nhục thể thụ động.

Các loại thần lực này khác nhau tùy theo loại cung hay loại thần lực, và có lẽ các bạn thấy thú vị, nếu ở đây, tôi nêu ra các hiệu quả xấu và tốt và các bệnh tương ứng.

51

 
Lực cảm dục   Bí huyệt    Khía cạnh        Bệnh            Khía

                                                     xấu                               cạnh tốt

Cung 1.               Đầu         Thương thân        Ung            Hy sinh.

Ư chí hay                                 xót phận.            thư.

quyền năng.                             Cái tôi                               Hiến dâng

                                                   bi thảm .                               cái Tôi.

Cung 2.               Tim           Tự ái/ Ích kỷ        Đau         Bác ái của

Bác ái –                                    Phàm ngă           tim.          Linh hồn.

Minh triết.                                                           Đau     T́nh thương

                                                                            Bao tử .       tập thể.

Cung 3.           Sinh dục          Tính dục             Các    T́nh thương

Hoạt động.                         quá hoạt động.      bệnh    của cha mẹ.

                                                                             xă hội.   Sự sống tập    

                                                                                                   thể.

Cung 4.               Ấn                  Ích kỷ.             Mất trí.     Thần bí

Hài ḥa.           đường.          Giáo điều                                học.

                                                 độc đoán. 

 Cung 5.          Cổ họng.         Tâm linh        Biến dưỡng  Sáng tạo.

Kiến thức.                                học thấp.         sai lầm.    Nhạy cảm.

                                                                            Vài loại         Linh       

                                                                            ung thư.        hứng.

Cung 6.          Đan điền.          Đa cảm.             Bệnh         Đạo tâm.

Sùng tín.                                                             thần kinh.     Đúng

                                                                         Viêm dạ dày.  phương

                                                                            Bệnh gan.      hướng.

Cung 7.            Chót                  Tư lợi .            Đau tim.        Huyền

Tổ chức.      xương sống.          Thuần               Bướu.             linh

                                                      ích kỷ.                                    thuật.

                                                  Hắc thuật.

52

 
Xin nhớ rằng khi nghiên cứu, bảng liệt kê này chỉ có tính cách khái quát và chỉ liệt kê được một phần trong các loại bệnh tật có thể là kết quả của ḍng năng lượng lưu nhập. Bảng này chỉ có mục đích gợi ư; sự phức tạp của cơ thể con người và sự phức tạp của năng lượng cung, đă khiến cho chúng ta không thể đưa ra được các qui tắc dứt khoát và cứng nhắc nào. Các lực của cung biểu hiện một cách khác hẳn tùy theo loại cung và tùy tŕnh độ tiến hóa. Do đó, ở đây không có sự mâu thuẫn nào đối với các bảng biểu trước. Nếu bạn nhớ rằng, về cơ bản, mỗi người là biểu hiện của năm mănh lực cung:

1.Cung linh hồn.

2.Cung phàm ngă.

3.Cung chi phối thể trí.       

4.Cung chi phối thể cảm dục.

5.Cung của bản chất vật chất

th́ điều trở nên hiển nhiên là đối với người bậc trung cần phải kê ra hai bảng biểu như thế.

1. Cần có sự phân giải tích cực về các mănh lực cảm dục khi chúng biểu hiện cho phàm ngă.

2. Phân tích các mănh lực của linh hồn khi chúng được biểu hiện một cách yếu ớt. Một phân tích tiêu cực liên hệ tới những ǵ không tồn tại trong vận cụ và có thể là không đáng kể ở đây.

Cũng cần có sự phân tích các lực, tác động vào thể xác từ cơi cảm dục; vốn được nhận trực tiếp từ linh hồn và do đó là sự phối hợp sức mạnh của linh hồn cộng với loại năng lượng cảm dục cao nhất. Điều này sẽ có bản chất của một phân tích tổng hợp và sẽ chỉ xảy ra trong trường hợp của một đệ tử hay một điểm đạo đồ. Do đó, rốt cuộc, đối với mỗi người, bạn sẽ có:

53

 
1. Một phân tích tích cực về các lực của phàm ngă, trước tiên của lực cảm dục, v́ đó là mănh lực vượt trội đang tuôn đổ vào các bí huyệt dĩ thái.

2. Một phân tích tiêu cực về các trạng thái của năng lượng linh hồn, vốn chưa hiện ra.

3. Một phân tích tổng hợp, dựa vào cả hai phân tích trên, nhưng cũng kết hợp với ghi nhận về biểu hiện tích cực của linh hồn.

Trong các bảng liệt kê và các phát biểu này, tôi đă truyền đạt cho bạn nhiều điều cần suy gẫm.

B. Dục vọng bị ức chế hoặc lan tràn.

Ở đây, sẽ là hữu ích cho các bạn nếu tôi làm sáng tỏ rằng một trong các điều trước tiên mà một môn sinh phải ghi nhớ, đó là – đối với đa số nhân loại, tuyệt đại đa số – các ảnh hưởng và các xung lực xuất phát từ cơi cảm dục là một yếu tố tiền định trong mọi vấn đề liên hệ đến chính cá nhân đó, ngoài những t́nh trạng mà y không thể tránh khỏi (được áp đặt vào y do môi trường chung quanh y và trong giai đoạn mà y đang sống). Cơi cảm dục là một trung tâm của mănh lực đang tỏa ra mạnh mẽ, về căn bản, nó đang có hiệu quả chi phối, bởi v́ tŕnh độ tâm thức cá nhân của đa số nhân loại đều ở cơi đó. Con người bị tác động bởi sức thôi thúc của dục vọng ở mức độ cao hoặc thấp. Dĩ nhiên, đây là một điều rất tổng quát, v́ t́nh trạng căn bản đó đang trở nên thay đổi liên tục bởi những sức thôi thúc xuất phát từ cơi trí. Điều này tất nhiên làm phức tạp thêm cho vấn đề. Các ảnh hưởng xuất phát từ linh hồn, hiện cũng đang được mọi người ngày càng thấu hiểu – khiến cho nỗi khó khăn của người tiến hóa cao c̣n thêm phức tạp hơn nữa. “Vấn đề phiền phức này” (tôi tạm gọi như thế) là một “điều khó hiểu” cho một môn sinh muốn t́m hiểu về t́nh trạng thể chất của riêng y, hay là t́nh trạng thể chất của người mà y đang t́m cách giúp đỡ.

54

 
Nhân đây, tôi xin đưa ra cho các bạn một định luật thứ ba đang chi phối thuật chữa trị thiêng liêng.

ĐỊNH LUẬT  III

Bệnh tật là hậu quả của việc tập trung căn bản năng lượng sự sống của con người. Từ cơi mà các năng lượng này được tập trung, những t́nh trạng có tính quyết định này tiếp diễn, tạo ra sức khỏe kém cỏi, và do đó, thể hiện dưới h́nh thức bệnh tật, hoặc dưới h́nh thức không có bệnh tật.

Do đó, bạn thấy rơ là sự thay đổi chú tâm bên trong (thái độ trí tuệ) của bệnh nhân có thể và sẽ tạo ra, hoặc là thực sự không có các bệnh thể xác, hoặc là tăng thêm các phản ứng vốn tạo ra sự khó chịu, bệnh tật hoặc tử vong.

Trong ba định luật mà tôi trao ra cho bạn, và giờ bạn đang nghiên cứu, hiển nhiên là các sự kiện sau đây sẽ xuất hiện. Các sự kiện này tạo thành nền tảng cho bạn truy cứu:

1. Bệnh tật là hậu quả của sự ngăn chận ḍng chảy tự do của sự sống linh hồn.

2. Bệnh tật là sản phẩm hoặc là kết quả của ba ảnh hưởng:

a. Lầm lỗi xưa, xuất phát từ chuyện đă qua của kẻ có liên hệ.

b. Các vết nhơ trong nhân loại, bị kế thừa v́ con người là một thành viên của gia đ́nh nhân loại.

c. Tà lực của hành tinh, áp đặt vào mọi h́nh hài trên địa cầu bởi t́nh trạng căn bản và bởi thời gian.

3. Bệnh tật bị chi phối bởi các mănh lực xuất phát từ cơi mà tâm thức con người được tập trung chủ yếu trên cơi đó.

Cùng với các phát biểu trên, nên thêm vào một sự kiện đă được nhắc đến, đó là:

55

 
4. Có năm nhóm bệnh chính với các bệnh liên hệ và các bệnh phụ thuộc.

a. Bệnh lao

b. Bệnh giang mai

c. Bệnh ung thư

d. Bệnh tim

e. Bệnh thần kinh

Tôi không phân chia những điều mà tôi phải nói, thành các bệnh thuộc các cơ quan và các bệnh thuộc về chức năng. Ở đây, tôi cũng không đề cập tới các bệnh do truyền nhiễm hoặc do tai nạn. Tôi chỉ đề cập đến các mầm bệnh căn bản hoặc là các khuynh hướng dễ mắc bệnh vốn là cái di sản không lành mạnh của nhân loại nói chung, và chỉ đề cập đến các khó khăn có liên quan đến các giai đoạn phát triển tiến hóa vốn là đặc trưng của các giai đoạn tiến hóa cao hơn trên Thánh Đạo. Do đó, chúng ta sẽ thấy rằng người nào nhập thế cũng đều đang kế thừa các khuynh hướng dễ mắc bệnh, xuất phát:

1. Từ chính quá khứ của người ấy, tức là quả của các nhân phát khởi trong các lần luân hồi trước.

2. Từ di sản chủng tộc chung của nhân loại.

3. Từ t́nh trạng của sự sống hành tinh. Các nguyên nhân sau này nâng toàn bộ vấn đề ra khỏi hiểu biết thông thường của người bậc trung.

Con người cũng có khuynh hướng dễ mắc bệnh nếu con người thành công (do kết quả của lịch sử tiến hóa lâu dài), trong việc khơi hoạt được các bí huyệt trên cách mô theo một lối nào đó dù là nhẹ nhàng. Trong một chu kỳ lâu dài của nhiều kiếp sống, lúc mà điều đó xảy ra, y trở nên lệ thuộc vào các bệnh liên quan đến tim hay đến hệ thần kinh với nhiều nhánh nhóc khác nhau của nó. Thường thường, một người tiến hóa, như là một người t́m đạo hoặc một đệ tử, có thể tự thoát khỏi các bệnh di truyền, nhưng sẽ không chống nỗi bệnh tim, các chứng rối loạn thần kinh, mất thăng bằng trí tuệ và quá bị kích thích. Đôi khi chúng được phân loại như là “bệnh của những Nhà Thần Bí”.

56

 
Tôi xin nói rơ rằng tôi không định đi vào lĩnh vực thảo luận về sinh lư học, để thảo luận chi tiết về các triệu chứng của bệnh tật, hay bàn đến các thương tổn, các t́nh trạng bệnh lư, và các chi tiết gây đau khổ kèm theo sự suy nhược của bất luận một cơ thể con người nào. Tôi không định viết một bộ luận về giải phẫu học hay về các khoa học khác phát triển lên từ việc nghiên cứu cơ cấu của con người, chúng liên hệ với cấu tạo và cấu trúc, các cơ quan, các dây thần kinh, mô năo và các hệ thống liên hệ hỗ tương hợp thành bộ máy phức tạp tức là cơ thể con người.

Về mặt khoa học công truyền, tôi gặp hai trở ngại sau đây:

1. Toàn bộ vấn đề đă được đề cập đến một cách tuyệt diệu trong nhiều sách y khoa và giải phẫu học. Có ít điều mà tôi có thể đưa thêm vào để giúp ích cho cuộc thảo luận loại đó.

2. Trừ một số ít người, c̣n đa số độc giả đều không thành thạo về cấu trúc và cấu tạo của cơ thể con người; các chi tiết về bệnh lư học, mô tả về bệnh và các triệu chứng khó chịu khác của sự suy yếu của con người, đều là cách lư giải không thích hợp cho một người nam hay nữ bậc trung. Một chút tri thức theo các đường lối này lại có thể là điều nguy hiểm.

Trước tiên, tôi t́m cách bàn đến các nguyên nhân, đến các nguồn gốc bên trong của bệnh tật và bàn đến các trạng thái ư thức (không chỉ nói các trạng thái trí tuệ) vốn tạo ra sự vận hành sai và rốt cuộc gây nên các t́nh trạng tệ hại.

Do đó, nhà chữa trị cần biết hai điều:

57

 
Thứ nhất, y phải biết sự khó khăn nằm bên trên hay dưới cách mô; muốn thế, nhất định là y phải có các kiến thức huyền linh, cũng như các hiểu biết về khoa tâm lư.

Thứ hai, y phải hiểu rơ về những ǵ đang được bệnh nhân chú trọng. Hiểu được điều này, y mới chẩn đoán được điều thứ nhất.

Phát biểu này đưa chúng ta đến phát biểu về qui luật thứ ba dành cho các nhà trị liệu.

QUI LUẬT  BA

Nhà trị liệu hăy tự luyện tập để biết tŕnh độ tư tưởng bên trong hay là ước muốn của kẻ đang t́m sự giúp đỡ của ḿnh. Bằng cách đó y có thể biết nguồn cội mà từ đó bệnh tật phát xuất. Y nên liên kết nguyên nhân và hậu quả và biết được điểm chính xác mà nhờ đó có thể chữa được bệnh.

Tôi muốn các bạn hăy lưu ư đến mấy lời cuối và muốn nhấn mạnh với bạn sự kiện rằng trước tiên bệnh tật là một cố gắng thuộc về phần thể xác để t́m cách làm giảm bớt và thoát khỏi những áp lực bên trong, do các ức chế bên trong và sự kiềm hăm ngấm ngầm. Trước tiên, theo quan điểm của huyền bí học, mọi bệnh thuộc xác thân đều là hậu quả của:

1. Kích thích sai lầm hay là quá bị kích thích hoặc là sự kích thích được đặt sai vị trí và sự căng thẳng bên trong ở một phần nào đó của cơ thể.

2. Các ức chế, khao khát trong tâm linh và các mănh lực bên trong tích tụ làm ngưng đọng ḍng thần lực của sự sống.

Do đó, bạn sẽ thấy rằng (trong lănh vực sức khỏe) mọi nỗi khó khăn đều tự chúng giải quyết bằng cách sử dụng đúng và vận dụng đúng thần lực, để làm cho ḍng năng lượng được thông suốt.

58

 
Tất nhiên sẽ nảy sinh câu hỏi: Từ đâu xuất phát các bệnh do kế thừa này? Có thể nào t́m đến cội nguồn của chúng không? Vấn đề của quá khứ và các hậu quả hiện nay của quá khứ đó th́ quá rộng lớn không thể xem xét hết được, cũng không có phát biểu nào liên quan đến t́nh trạng đó mà có thể giúp ích nhân loại được. Tuy nhiên, tôi có thể đưa ra một khái quát và thậm chí có thể truyền đạt một ít kiến thức cho bạn.

Trong số ba bệnh tật chính truyền lại từ quá khứ, có thể nói rằng bệnh giang mai hay thường được gọi là bệnh xă hội, là dấu vết c̣n lại của việc quá nuông chiều dục vọng vào thời Lemuria. Chúng có cội nguồn cổ xưa đến nỗi chính đất đai bị tràn ngập các mầm bệnh này – một sự kiện mà khoa học hiện đại hoàn toàn không biết được. Qua nhiều thời đại, con người đă chịu đau khổ v́ các nhóm bệnh truyền nhiễm này. Họ đă chết đi và được chôn cất tới hàng triệu, nên đă làm cho địa cầu thêm ô nhiễm. Vào thời Lemuria, thần lực sự sống được tập trung vào thể xác, vào sự phát triển của nó, vào công dụng và sự kiềm chế nó và cũng cốt làm cho nó được sống lâu hay sinh sản. Chính là vào thời Lemuria mà các bệnh liên quan đến sự lạm dụng sự sống tính dục đă bắt đầu. Theo một ư nghĩa đặc biệt, đó là điều tai hại chủ yếu đầu tiên, các truyền thuyết cổ xưa và các ẩn ngữ liên quan đến vấn đề này đều được t́m thấy trong khắp các di tích và các bút kư cổ xưa. Hậu quả này vốn có bằng chứng, nhưng đă bị diễn dịch sai lầm rất nhiều, và chỉ khi nào con người có thể hiểu các di tích một cách chính xác hơn và diễn dịch đúng hơn, bấy giờ họ mới hiểu ra mọi lẽ, bởi v́ họ sẽ thấy rơ hơn các nguyên nhân tiềm ẩn.

Bệnh ung thư được truyền lại cho người thời nay do nhân loại của thời Atlantis, và tai họa của bệnh này là nhân tố chính đă tàn hại cư dân của Atlantis xưa kia. Căn cội của tệ trạng này đă ăn sâu vào bản chất cảm dục và gắn chặt vào thể cảm dục. Ung thư là một phần kết quả của một phản ứng đối với các bệnh liên hệ với đời sống t́nh dục đă trở nên lan tràn vào cuối thời Lemuria và đầu thời Atlantis. Con người vào các thời kỳ ấy khi thấy các tệ hại khủng khiếp và sự lan rộng của chứng bệnh đă sinh sôi nẩy nở trong cuộc sống sung túc thời Lemuria, là kết quả của cuộc sống tính dục bừa băi ở mọi mặt, v́ bản năng tự tồn họ đă đè nén ḍng lưu chuyển tự nhiên của dục vọng (tức là ḍng sự sống khi nó tự biểu hiện qua các trung tâm sinh sản và sinh hóa) và sự đè nén này vào đúng lúc đă tạo ra các tác hại khác. Trước nhất ung thư là bệnh do sự ức chế, cũng như các bệnh giang mai là các bệnh do việc biểu hiện thái quá và lạm dụng một khía cạnh của cơ thể con người.

59

 
Ngày nay, do bệnh này đă phát triển trong những thời gian quá lâu, và do bởi vô số các thế hệ con người đă qua đời trên quả đất, mà “các mầm bệnh” (do kẻ ít suy tư gọi) của các bệnh ung thư kinh khiếp được t́m thấy trong chính đất đai mà chúng ta đang sống, cảm nhiễm giới thực vật cũng như gia đ́nh nhân loại. Tương tự, bệnh giang mai của con người cũng được t́m thấy trong giới khoáng chất.

Bệnh lao vốn đă lây lan dữ dội vào một giai đoạn nào đó trong thời Atlantis, tuy nhiên, phần lớn nó đă xuất phát trong chủng tộc Aryan chúng ta và là bệnh mà chúng ta đang truyền lại cho giới cầm thú và cùng chia sẻ với chúng. Điều này đang bắt đầu được nhận ra. Tuy nhiên, liên hệ giữa con người và con thú (đặc biệt là gia súc) vốn mật thiết đến nỗi ngày nay thực sự chúng cũng chia sớt mọi sự đau ốm của con người, dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, đôi khi có thể nhận ra, đôi khi th́ không. Điều kỳ lạ là nguyên nhân của hiểm họa này lại được t́m thấy trong việc chuyển trọng điểm sinh hoạt ra khỏi bản chất t́nh cảm đi vào trọng điểm của bản chất trí tuệ, tạo ra sự thiếu thốn tạm thời của bản chất t́nh cảm. Nó phần lớn là một bệnh làm cho kiệt sức. C̣n bệnh ung thư cũng do thời trước đă có việc chuyển thần lực sự sống từ thể xác vào trong bản chất t́nh cảm, làm cho sự sống tế bào phát triển quá độ, do quá bị kích thích. Tôi biết các bạn khó hiểu được các phát biểu này. Tôi chỉ có thể đưa ra cho bạn các ẩn ngữ mà không chứng minh. Chỉ có các khám phá sau này mới có thể chứng minh được sự thật của các điều tôi đă gợi ư. Chúng ta hăy liệt kê ra đây các kết luận của chúng ta:

60

 
Bệnh            Giống dân     Thể         Giới             Cơ quan

Giang mai           Lemurian       Xác      Khoáng chất       Cơ quan

                                                                                                sinh dục.

                                                                                                Bí huyệt

                                                                                                 sinh dục.

  Ung thư            Atlantean    Cảm dục     Thực vật          Bí huyệt

                                                                                                đan điền.

   Lao                      Aryan           Trí             Động vật         Bộ máy

                                                                                                  Hô hấp.

                                                                                                 Bí huyệt

                                                                                                 cổ họng.

Khi nhắc đến các bí huyệt ở trên, tôi đang nhắc đến trung tâm để phân phối sinh lực, nơi có trọng điểm của quần chúng. Do điều nói trên, chúng ta có thể thấy rơ rằng cần phải căn cứ vào trọng điểm nào để chữa lành bệnh. Chúng ta đă biết được cách chữa lành bệnh lao rồi, bởi v́ đó là một bệnh nảy sinh trong thời gian gần đây nhất, và do đó là bệnh ít ăn sâu nhất trong số ba bệnh chính yếu mà con người hiện nay bị kế thừa. Khi dùng trí thông minh nghiên cứu vấn đề, người ta đă khám phá ra rằng ánh nắng mặt trời và thức ăn bổ dưỡng có thể chữa lành hay ít ra cũng ngăn chận được bệnh này. Trong lănh vực huyền linh, có một điều tương ứng lư thú, đó là giống như ánh sáng của linh hồn tuôn rải vào trong thể trí, có thể được dùng để giải quyết bất cứ vấn đề khó khăn nào, th́ ánh sáng mặt trời và các tia có tính pḥng bệnh của nó có thể xua đi được các triệu chứng khủng khiếp của bệnh lao.

61

 
Tương tự như vậy, khi nhân loại phát triển được khả năng kiềm chế t́nh cảm đúng mức th́ chúng ta sẽ thấy hiện tượng ung thư biến mất dần. Tôi nói kiềm chế t́nh cảm đúng mức; dùng mănh lực của ư chí để ức chế và đè nén các xung lực của dục vọng th́ không phải là kiềm chế đúng. Cũng là lư thú khi ghi nhớ rằng dù cho cả hai phái nam và nữ, đều đau khổ v́ bệnh ung thư, nhưng nguyên nhân tổng quát th́ không giống nhau, dù rằng nguyên nhân căn bản (tức là phản ứng do sự biểu lộ quá độ của đời sống tính dục qua sự vun bồi bản chất dục vọng) th́ vẫn giống nhau. Phái nữ, do các nguy cơ mà họ gặp phải trong thời kỳ sinh nở, do việc chuyển trọng điểm sự sống đến khía cạnh tính dục của sự sống, họ đă chống lại h́nh thức biểu lộ sự sống đó ở một mức độ rộng lớn (như người Atlanteans đă làm), và chính v́ theo đường lối tính dục này mà đa số các ức chế của họ đă xảy ra. Họ không đau khổ quá nhiều do sự ức chế tổng quát của biểu lộ t́nh cảm – dục vọng và cảm xúc. Phái nam mới đau khổ do ức chế vừa kể, và họ có một truyền thống hay một khuynh hướng rơ rệt là kiềm chế t́nh cảm mạnh mẽ trong cách ứng xử với sự sống hơn phái nữ. Nam giới không đ̣i hỏi hoặc có được sự chế ngự tính dục rơ rệt như thế. Do đó, lĩnh vực chung của khuynh hướng sự sống bị ức chế của họ th́ rộng lớn, và bởi vậy mà (nếu thống kê có thể tin được) có nhiều người nam bị ung thư hơn là nữ, dù rằng đó là một bệnh ghê gớm mà tất cả mọi người đều khiếp sợ.

Trong cái bí mật của sự chuyển hóa đúng, có ẩn cách chữa trị ung thư, và điều này rốt cuộc sẽ được hiểu rơ. Tôi đang sử dụng nhóm từ này không những về mặt biểu tượng, mà c̣n về mặt kỹ thuật và khoa học nữa. Về sau, điều này lại sẽ được nhận thấy. Trong cái bí ẩn của cách sống theo tiết điệu đúng và trong việc nhấn mạnh đúng tỷ lệ vào mọi giai đoạn của sự sống sẽ đến (và đang nhanh chóng đến) sự miễn nhiễm hoàn toàn với bệnh lao sẽ xảy ra. Với cái bí mật về hiểu đúng thời gian và chu kỳ và về sáng tạo sinh sản theo chu kỳ, nhân loại sẽ ra khỏi các tác hại của các bệnh xă hội.

Do đó, bạn sẽ thấy rơ là sau cùng các bệnh giang mai sẽ biến mất, cũng như chúng đă tàn hại nhân loại trước nhất. Bệnh lao đang tan biến. Hiện nay, các chuyên gia đang chú ư đến việc chữa trị ung thư.

62

 
Tôi xin thêm một hoặc hai phê phán có tính tổng quát hay nói đúng hơn là hiện đang được quan tâm. Như tôi đă nói, các mầm bệnh nói trên (mà nhân loại đang có khuynh hướng mắc phải) đều có trong đất đai, và sở dĩ chúng có trong đất phần lớn là do người ta đă chôn vào đất hàng triệu xác chết qua nhiều thời đại. Nhờ áp dụng cách hỏa táng ngày càng nhiều, t́nh trạng ô nhiễm này sẽ dần dần được cải thiện. Bằng cách đó, sự ô nhiễm sẽ lần hồi tiêu tan hết. Do đó điều rất đáng mong muốn là chúng ta nên cố gắng truyền bá cách dùng phương pháp này càng nhiều càng tốt để xử lư các thể xác đă bị các linh hồn từ trần thải bỏ. Khi đất đai ngày càng trở nên ít bị ô nhiễm và khi sự tiếp xúc với linh hồn được thiết lập, chúng ta có thể hy vọng thấy số người mắc phải các ô nhiễm do kế thừa sẽ ngày một giảm đi. Kỳ lạ là việc dùng muối thoải mái như tắm biển lại có hiệu quả rơ rệt cho sức khỏe của thể xác. Nước biển t́nh cờ được hấp thụ qua da và miệng, có hiệu quả pḥng bệnh rất đáng kể.

63

 
Ngày nay, một trong các vấn đề chính đối với nhà tâm lư học và ở mức kém hơn đối với nhà y học là việc tăng t́nh trạng đồng phái luyến ái trong cả hai phái nữ và nam. Các luận cứ chỉ có lư ở bề ngoài được nêu ra để chứng minh rằng sự phát triển bất thường này (với hậu quả là quan tâm vào khuynh hướng bệnh hoạn này) là bởi sự kiện nhân loại đang từ từ phát triển thành lưỡng tính, và trong tương lai, sẽ xuất hiện những người nam hay nữ lưỡng phái. Điều này lại vẫn không đúng. Đồng tính luyến ái là cái mà nếu muốn, chúng ta có thể gọi đó là “thức ăn thừa” (“left over”) do các thái quá tính dục của thời Lemuria, một vết nhơ bị kế thừa, nếu bạn thích gọi thế. Các chân ngă đă biệt ngă hóa và đă lâm phàm trong thời kỳ dài đó chính là những kẻ mà ngày nay đang biểu lộ các khuynh hướng đồng phái tính. Vào thời đó, sự thèm khát tính dục cấp thiết đến nỗi các diễn tŕnh phối hợp b́nh thường của con người không làm thỏa măn được ước muốn vô độ của những người phát triển đương thời. Sức mạnh của linh hồn, đang tuôn đổ vào qua các tiến tŕnh biệt ngă hóa, dùng kích thích các bí huyệt thấp nhất. Do đó, các phương pháp ngăn cấm đă được áp dụng. Những người đă thực hành các phương pháp đó, ngày nay có một số lớn đang luân hồi, và các thói quen xưa vẫn c̣n quá mạnh đối với họ. Hiện nay, họ đă đi khá xa trên đường tiến hóa, nên việc chữa trị xảy ra dễ dàng vào lúc này – nếu họ chọn điều đó. Họ có thể chuyển xung lực tính dục đến bí huyệt cổ họng một cách tương đối dễ dàng, và như thế, họ trở nên sáng tạo theo ư nghĩa cao hơn, bằng cách dùng các năng lượng đă cảm nhận được và luân chuyển chúng theo những đường lối kiến tạo đúng đắn. Nhiều người trong số họ đang bắt đầu tự động làm điều này. Tuy nhiên, người ta biết rơ là, trong số các hạng được gọi là nghệ sĩ, t́nh trạng đồng phái tính rất thường xảy ra. Tôi nói rằng “được gọi”, bởi v́ người nghệ sĩ sáng tạo chân chính không phải là nạn nhân của các thói quen tệ hại sẵn có từ xưa này.

Ở đây, có thể nêu ra rằng có ba loại đồng phái luyến ái:

1. Có loại là kết quả của các thói quen tệ hại xưa. Đây là nguyên nhân chính ngày nay, và nó cho thấy:

a. Người đó được biệt ngă hóa trên hành tinh này, v́ những người đă biệt ngă hóa trên dăy nguyệt cầu, đều không dễ mắc phải các tính chất nguy hại này.

b. Các Chân ngă thời Lemuria mắc phải sự thỏa măn dục vọng theo lối này đều đă đạt được tŕnh độ tiến hóa tương đối cao.

c. Đó là hậu quả của việc nghiên cứu ma thuật tính dục (sex magic), cộng với sự thôi thúc tính dục thường xuyên của thể xác không được thỏa măn.

2. Đồng tính luyến ái mô phỏng: một số người thuộc mọi tầng lớp đă bắt chước các kẻ sành sỏi hơn của họ (tôi tạm dùng một từ ngữ nghịch thường như thế) và v́ thế mà đă phát triển những thói quen phối hợp tính dục tệ hại, mà đáng ra họ không vướng vào. Đây là một trong các lư do thường thấy ngày nay, trong nhiều người nam cũng như nữ và được dựa trên một sự tưởng tượng quá linh hoạt, cộng với thể chất mạnh hay bản chất tính dục mạnh mẽ và một sự hiếu kỳ dâm ô. Điều này tôi nói với tính cách khuyên bảo. Hạng này có nhiều trong những người đồng phái luyến ái nam lẫn nữ (sodomites and lesbians).

3. Một vài trường hợp hiếm có, rất hiếm có, đó là ái nam ái nữ (hermaphroditism). Những người này kết hợp trong chính họ cả hai khía cạnh của đời sống tính dục và phải đối phó với vấn đề rất hiện thực này. Đó là một vấn đề đang tăng mạnh do sự vô minh của nhân loại, do con người từ khước đối phó với các sự thật, do sự luyện tập và dạy dỗ sai lầm từ thời c̣n trẻ và do sự hiểu biết sai lầm đă lan rộng.

64

 
Các trường hợp này chỉ là thiểu số ở mọi nơi, và đối với dân số thế giới, họ vẫn không đáng kể. Tuy rằng sự hiện hữu của họ là mối quan tâm thực sự cho y giới, khiến cho những người có ḷng nhân đạo và các nhà tâm lư học nhiều hiểu biết hết sức xót thương và động ḷng trắc ẩn. Họ đang gặp phải một t́nh thế khó khăn.

Tôi đă bàn đến phần nào chi tiết của vấn đề này, v́ đối với bạn, biết được các sự kiện và các chi tiết như thế cũng là điều hữu ích. Nó dùng để soi sáng vấn đề mà một số lớn người được kêu gọi để đối phó. Các nhà tâm lư học, các nhà phụng sự xă hội, các y sĩ, và tất cả những ai quan tâm đến việc giáo dục tập thể, đều thường xuyên đối mặt với vấn đề này, và người ta cũng phải biết cách xem xét và phân biệt được các loại, để làm sáng tỏ vấn đề ([2]).

Các bạn sẽ thấy trong các giáo huấn này nhiều ẩn ngữ, dù cho chúng không thể được phân loại rơ rệt như các giáo huấn về trị liệu, tuy nhiên, chúng cũng thuộc về loại đó, v́ chúng sẽ giúp cho độc giả hiểu rơ vấn đề hơn.

Từ những điều trên, bạn cũng sẽ ghi nhận được bằng cách nào mà chúng ta có thể cho rằng tệ trạng này có căn cội ở trong thể cảm dục hay là thể t́nh cảm, tức là thể của cảm giác. Chính v́ lư do đó mà tôi đă kết luận như thế. Nếu có thể phân loại các khó khăn, bệnh tật và đau ốm thường thấy này theo các xung lực đầu tiên của chúng, th́ đó hẳn là một cuộc thực nghiệm lư thú trong việc phân tích. Rất ít có loại bệnh nào trong số đó bắt nguồn từ thể trí, mặc dù Khoa học Công giáo hoặc Khoa học Tâm thần tất cả đều có thể nói ngược lại. Có lẽ đúng hơn, tôi nên nói rằng chúng không căn cứ vào tư tưởng sai lầm của con người, cho dù tất cả các tệ hại có thể bị tư tưởng sai lầm làm cho trầm trọng thêm và mạnh thêm. Nhiều bệnh, hay có lẽ đa số các đau khổ mà kẻ trung nhân đang hứng chịu, đều có các nguyên nhân dựa trên thể cảm dục, hay là dựa trên một sự ham muốn rơ rệt nào đó. Một ước muốn được đưa ra là ước muốn t́m cách biểu lộ dưới một h́nh thức hoạt động nào đó. Trong số này, đồng tính luyến ái là ước muốn được xác định rơ ràng nhất. C̣n những bệnh khác mà nhân loại chịu kế thừa, th́ đôi khi không dễ ǵ mà định rơ được. Người nam hoặc nữ là nạn nhân, nhưng nguyên nhân gây ra bệnh tật hay khó khăn đó – về mặt thể chất hay tâm lư – lại nằm trong quá khứ xa xăm mà nạn nhân (với sự hiểu biết có hạn của y) không thể nào khám phá ra, cũng như y không thể nào truy được nhân đang tạo ra quả. Tất cả những ǵ mà y có thể xác định được với mọi xác suất, ấy là dục vọng là xung lực mở đầu. Những ǵ mà nhân loại đang trải qua ngày nay và những ǵ mà họ đang chịu đựng đều là kết quả của quá khứ lâu dài của họ và quá khứ đó bao gồm các tập quán lâu đời, đă thành thâm căn cố đế. Tất nhiên, các tập quán đó là kết quả của một trong hai yếu tố sau đây:

65

 
1. Dục vọng, đang chế ngự và kiểm soát hành động, hoặc là

2. Sự kiềm chế của trí tuệ, thay thế dục vọng bằng hoạt động có sắp đặt, mà trong nhiều trường hợp hoạt động đó đi ngược lại với dục vọng đă được xác định và được cảm nhận một cách b́nh thường.

Do các điều nói trên, bạn sẽ thấy rằng tôi mong muốn các bạn hiểu rơ tầm quan trọng của thể cảm xúc và năng lực của nó làm phát khởi các nguyên nhân phụ mà trong kiếp sống này, chúng đang biểu hiện thành bệnh tật.

66

 
Bởi thế, bạn nên chú ư đến tầm quan trọng mà tôi đă đặt vào thể cảm dục như là tác nhân gây ra các t́nh trạng sai lầm trong thể xác, và việc cần thiết là hiểu biết về thể cảm dục và kiềm chế được nó về phần bệnh nhân, nếu muốn thực sự vượt qua được bệnh tật. Bạn hiểu được chăng nếu tôi nói rằng thực sự vượt qua được bệnh tật có thể là hàm ư chấp nhận lối thoát bằng Đường Lối Tử Vong, nếu nó đến một cách b́nh thường, hoặc là lành bệnh nếu các nguyên nhân vốn là các xung lực phát khởi bị cạn kiệt? Hăy suy gẫm kỹ điều này.

Trong tất cả những điều nói trên, cho dầu những điều mà tôi đă nói về sự đồng tính luyến ái, tôi cũng đều xét đến hoặc là dục vọng buông thả, hoặc là bị ức chế, tuy nhiên, tôi chỉ xem xét nó một cách khái quát và theo những nét chính thôi. Bạn có hiểu lầm chăng nếu tôi nói với bạn rằng khi dục vọng bị ức chế (đó là trường hợp của nhiều người t́m đạo ngày nay) th́ tất cả các loại bệnh – như ung thư, tụ huyết ở phổi và một số bệnh gan – cũng như bệnh lao ghê gớm đều có thể xảy ra? Các bệnh do ức chế th́ nhiều và trầm trọng. Cần lưu ư rằng khi dục vọng buông thả, thiếu kiềm chế và không có sự ức chế, th́ các bệnh như là giang mai, đồng tính luyến ái, các bệnh viêm và sốt có thể xảy ra. Các loại bệnh đều tùy theo khí chất, c̣n khí chất lại tùy thuộc vào tính chất của cung. Con người thuộc các cung khác nhau đều có khuynh hướng mắc phải một số bệnh nào đó. Các nhà tâm lư học rất hữu lư khi họ chia con người thành hai kiểu mẫu chính – hạng người hướng nội và hạng người hướng ngoại. Hai hạng người này đều có các tính chất bệnh tật riêng của họ, chúng biểu lộ dưới h́nh thức sức khỏe kém do sự biểu hiện quá mức hoặc ức chế.

Chúng ta đă xem xét điểm thứ hai trong việc chữa trị bệnh tật xuất phát từ bản chất cảm dục. Điểm thứ nhất, chúng ta đă bàn đến các xúc cảm không được kiểm soát.

67

 
Tôi muốn nhắc các bạn về tiền đề của chúng ta, đó là chúng ta chỉ xem xét các bệnh mà những người tiến hóa trong nhân loại, tức là người t́m đạo và các đệ tử thuộc mọi cấp đang có khuynh hướng mắc phải. Trong bộ luận ngắn này, chúng ta sẽ không bàn đến toàn bộ các bệnh đang tác động vào toàn thể nhân loại nói chung hay qua các thời đại. Người t́m đạo càng tiến hóa th́ rất có thể bệnh mà y mắc phải sẽ lộ rơ và mạnh mẽ, v́ có sự tuôn vào ít hoặc nhiều sức kích động của linh hồn.

Thêm vào năm nhóm bệnh tật chính mà tôi đă đề cập đến trước đây và chỉ ra mối liên quan với chúng trong cơ thể người, là một nhóm triệu chứng được nói đến một cách kém chính xác bằng các thuật ngữ: sốt nóng, u bướu, vùng bị sung huyết, cộng với sự suy nhược tổng quát, và sự tự nhiễm độc có trong rất nhiều triệu chứng. Tôi xin nhắc bạn nhớ kỹ điều này và luôn luôn hiểu rằng ở đây tôi chỉ nói khái quát thôi, thế nhưng điều khái quát này lại là căn bản và do đó rất quan trọng.

C. Các bệnh do lo âu và bực bội.

Loại bệnh thứ ba xuất phát trong thể t́nh cảm hay thể cảm dục được tổng hợp về mặt huyền bí dưới danh xưng: bệnh do bực bội. Các bệnh này là các chất độc ngấm ngầm ẩn núp đàng sau các triệu chứng của bệnh.

Có thể nói rằng tất cả mọi bệnh đều được bao gồm trong hai định nghĩa theo quan điểm huyền linh học:

1. Bệnh tật vốn là kết quả của sự tự nhiễm độc (auto -intoxication). Các bệnh này thông thường nhất.

2. Bệnh tật là kết quả của sự bực bội (irritation). Các bệnh này rất thường thấy trong số các đệ tử.

68

 
Ngày nay chúng ta nghe nói nhiều về sự tự nhiễm độc và đă có nhiều cố gắng để chữa trị bệnh này bằng chế độ ăn uống kiêng cữ, và điều chỉnh cuộc sống bằng tên gọi sống có tiết độ. Tất cả các điều này đều tốt lành và có ích, nhưng không phải là cách chữa trị căn bản như những người bênh vực cách đó muốn dẫn dắt chúng ta tin theo. T́nh trạng bực bội là một bệnh có căn bản thuộc tâm lư và có cội nguồn trong việc mạnh hơn của thể cảm dục, nên tạo ra các hậu quả bất thường trong thần kinh hệ. Đó là một bệnh về tư lợi (self-interest), do tính tự phụ và do sự tự măn. Một lần nữa, tôi muốn các bạn hăy suy gẫm kỹ các thuật ngữ này, v́ ba trạng thái bực bội này chỉ là phát hiện chung. Do đó, chúng ta sẽ bàn đến sự bực bội, tức “ t́nh trạng hiểm nghèo” (“imperil”), theo các vị tiêu biểu của cung một, như là Chân Sư M. đă gọi.

Chúng ta gần như hoàn thành tiết thứ nhất dưới chủ đề Các Nguyên Nhân Tâm Lư của Bệnh Tật, và đă xem xét các vấn đề xuất phát từ hoạt động quá mức và các t́nh trạng sai lầm của thể cảm dục, tuy rất vắn tắt, nhưng tôi tin rằng nó đă gợi ư cho bạn rất nhiều. Tất cả những ǵ tôi có thể làm trong bộ luận ngắn này là khái quát hóa thôi, bởi v́ đa số các phát biểu mà tôi nêu ra, trong bất cứ trường hợp nào cũng đều mới mẻ và có tính cách mạng (theo quan điểm y học chính thống) đến nỗi, ngay cả cấu trúc nội tại đầu tiên này của các ư tưởng và lối tŕnh bày chân lư có phần nào mới mẻ này cũng phải cần có thời gian mới gây ảnh hưởng được nơi những người có khả năng suy tư trong nhân loại. Kế đó, nếu được những người đă mở trí trong họ chấp nhận như là các giả thuyết, th́ cũng phải mất một thời gian dài để có đủ các t́m ṭi đưa đến các kết luận rơ ràng làm cho các ư tưởng này được thừa nhận và sử dụng trong đại chúng. Nói như thế tôi không hề có ư muốn chỉ trích giới y khoa. Hạng thầy thuốc ham tiền và hạng lang băm đều hiếm có. Dĩ nhiên là họ có thật, cũng như trong mỗi ngành nghề đều có những kẻ thối nát và những kẻ bất hảo vậy. Nơi nào lại không có những người này? Những người có trí óc, cố chấp th́ rất nhiều; nhưng ở đâu người ta lại không thấy có họ? Những kẻ tiền phong theo các đường lối tư tưởng mới và những kẻ đă thấu hiểu được một vài quan niệm của Kỷ Nguyên Mới, lại thường có trí óc khép kín, và họ không thấy ǵ ngoài các đường lối mới, các cách thức và phương pháp mới, họ vứt bỏ tất cả những cái cũ xưa, v́ thế mà chịu mất mát nhiều. Giới y học đă đạt một trong các kỷ lục lớn lao nhất, tốt đẹp nhất trên thế giới, về mục đích và phạm vi hoạt động, và đă phát triển được một vài phẩm tính cao cả nhất của linh hồn; đó là sự tự hy sinh, ḷng từ ái và đức phụng sự. Nhưng các phương cách và kỹ thuật của Kỷ Nguyên Mới đều khó hiểu. Nhiều lề lối xưa cũ phải được loại bỏ và người ta cần phải hy sinh rất nhiều trước khi vận dụng được thuật chữa trị mới này.

69

 
Măi khi sự thật về các thể tinh anh được nhận ra một cách thích đáng bởi các nhà tư tưởng trên thế giới, và sự hiện hữu của chúng được xác minh nhờ khoa tâm lư học đúng đắn và chân chính, và nhờ sự phát triển của khả năng nhăn thông th́ việc truy nguyên các nguyên nhân của bệnh tật đến các thể tinh anh tương đối vô nghĩa. Phản ứng tốt nhất mà nhà y sĩ mở trí bậc nhất có thể (tôi nói có thể chứ không nói sẽ) tạo ra hoặc chấp nhận đó là thái độ tâm lư, tức trạng thái trí tuệ , và t́nh trạng t́nh cảm của người bệnh, nhất định hoặc là giúp ích, hoặc là cản trở. Nhiều người đă thừa nhận điều đó. Chính việc đó cũng nhiều rồi.

Do đó, thí dụ khi tôi nói rằng ung thư bắt nguồn từ trong t́nh trạng cảm dục và bắt đầu phát triển vào thời Atlantis, th́ điều đó chẳng có ư nghĩa bao nhiêu đối với hạng trung nhân ngày nay. Hạng người đó không hiểu được rằng đa số con người thời nay đều có tâm thức của thời Atlantis.

Tôi muốn đề cập vắn tắt đến nguyên nhân thông thường nhất trong số các nguyên nhân của bệnh: đó là lo lắng và bực bội. Hiện nay, các nguyên nhân này đang có nhiều hơn bao giờ hết, v́ các lư do sau đây:

1. T́nh h́nh thế giới, các khó khăn và sự bất trắc (uncertainty) nhiều đến nỗi hiện nay ít có ai trên thế giới tránh khỏi. Mọi người, dù ít hay nhiều đều liên quan đến t́nh trạng của hành tinh.

2. Sự tương giao giữa con người đă tăng lên rất nhiều và con người thường sống nhiều trong những tập thể – lớn hoặc nhỏ – đến nỗi họ không tránh khỏi tạo ảnh hưởng lên nhau, mà trước kia chưa từng có. Câu “Nếu một thành viên đau khổ, th́ tất cả các thành viên đau khổ theo y” là một phát biểu về một chân lư, tuy cổ nhưng lại mới khi áp dụng và ngày nay mới nhận thức được lần đầu.

70

 
3. Sự nhạy cảm của bộ máy con người cũng ngày càng tăng đến mức con người “điều hợp” các t́nh trạng cảm xúc và các thái độ tâm trí của nhau theo cách mới mẻ và mănh liệt hơn.

Các quan tâm và lo lắng thu hút riêng của họ lại được cộng thêm vào các quan tâm lo lắng của bạn bè họ với kẻ mà họ có dịp tiếp xúc.

4. Về mặt viễn cảm (telepathically) và cũng với một ư thức về tiên đoán được phát triển, con người đưa thêm nỗi khó khăn vốn thuộc về người khác, hoặc vào nhóm tư tưởng gia nào khác và của con người vào các khó khăn có thể xảy ra. Không chắc rằng chúng sẽ xảy ra.

Các vấn đề này sẽ chứng tỏ cho bạn thấy con người phải gặp khó khăn mănh liệt như thế nào khi đương đầu với sự sống. Dĩ nhiên là các vấn đề âu lo và bực dọc (được Chân Sư Morya gọi là “t́nh trạng hiểm nghèo”) xảy ra nhiều và phải được xem xét. Tại sao các khó khăn này của thể cảm dục lại “hiểm nghèo” và nghiêm trọng đến như thế? Âu lo và bực dọc (Worry and irritation) đều nguy hiểm v́:

1. Chúng làm sút giảm sinh lực của con người đến mức làm cho y trở nên dễ nhiễm bệnh. Hiểm họa cảm cúm bắt nguồn từ sự sợ sệt và lo lắng, và khi mà thế giới quen với việc không bị ảnh hưởng bởi t́nh trạng “lo sợ” (“fearfull”) hiện tại, th́ chúng ta sẽ thấy bệnh này tan biến.

2. Theo quan điểm cảm dục, th́ lo âu, sợ sệt cực kỳ lây nhiễm đến nỗi chúng hạ thấp một cách đặc biệt không khí cảm dục, và v́ thế mà khiến cho con người khó hít thở một cách thoải mái – theo ư nghĩa cảm dục.

3. Bởi v́ các t́nh trạng sợ sệt, lo âu và bực dọc trong thể cảm dục ngày nay đang lan rộng đến nỗi chúng có thể được xem là bệnh dịch (epidemic), hiểu theo ư nghĩa hành tinh.

71

 
4. Bởi v́ sự bực dọc (ở đây, tôi không nói đến sự lo lắng) tạo hậu quả khích động (khích động này rất khó chịu đựng) và đưa đến nhiều khó khăn. Thật là lư thú khi ghi nhận rằng một vài h́nh thức của bệnh đau mắt đều do t́nh trạng này gây nên.

5. Do lo lắng và bực dọc, linh thị chân chính bị ngăn chận. Chúng đóng kín tầm mắt. Người nào là nạn nhân của các t́nh trạng này, th́ không thấy ǵ ngoài cái nguyên nhân đă gây nên các bệnh tật của y và bị ch́m đắm vào sự tự thương thân xót phận, quan tâm đến riêng ḿnh, hay là ở trong một t́nh trạng tập trung tiêu cực, đến nỗi tầm mắt của y bị thu hẹp và gây chướng ngại cho nhóm của y. Nên nhớ rằng có ích kỷ của nhóm, cũng như có ích kỷ của cá nhân.

Tôi đă kể ra đầy đủ các lư do đối với hậu quả của Lo âu và Bực dọc để chứng tỏ cho bạn thấy sự khó khăn rộng lớn như thế nào. Vào lúc này không có ích lợi ǵ nhiều mà nói đến cách chữa trị. Người ta không bảo với một bệnh nhân bị cảm cúm (khi y đang vật lộn với cơn đau) rằng “Không hề ǵ đâu. Đừng để ư đến nó. Hăy chỗi dậy và bắt tay vào công việc của bạn đi”. Thật là vô ích mà nói với con người ngày nay rằng “Đừng hăi sợ ǵ cả. Hăy ĺa bỏ nỗi lo âu. Mọi sự sẽ tốt đẹp”. Họ sẽ không tin vào bạn đâu, chỉ v́ – và may thay, v́ điều đó không đúng. Có nhiều việc không được tốt đẹp, và nhân loại cùng với cuộc sống hành tinh đều không được êm xuôi. Điều này, Thánh Đoàn đă biết rơ và đang làm việc để cải thiện t́nh trạng. Khi các thống khổ của “cơn sốt hành tinh” trôi qua (và người bệnh sẽ không chết đi), th́ bấy giờ có thể tiến hành nghiên cứu và tạo những cố gắng có thể ngăn ngừa sự tái diễn.

Hiện nay, tất cả những ǵ có thể làm được là giữ cho người bệnh yên tĩnh và cũng giữ cho cơn sốt lắng dịu. Đây là công việc của Đoàn Thể Mới Phụng Sự Thế Gian và những người có thiện chí sáng suốt. Họ rất đông đảo.

2. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TỪ DĨ THÁI THỂ.

72

 
Các bạn nên nhớ rằng, ở đây, tôi không bàn đến các nguyên nhân (đang tạo ra các hậu quả trong thể xác) xuất phát trong thể trí hay trong thể cảm dục. Tất nhiên là chúng truyền qua thể dĩ thái. Thể dĩ thái là một nơi truyền mọi năng lượng cho thể xác và mọi loại lực truyền qua nó đến các bộ phận khác nhau của thể xác, tạo ra các kết quả xấu và tốt, các kết quả tiêu cực hoặc tích cực, tùy trường hợp. Đây là một sự thật mà chúng ta chấp nhận. Ở đây, tôi đang xét về bệnh tật, các vấn đề và các khó khăn thuộc thể xác xuất phát từ trong chính thể dĩ thái và thể hiện trong các mối liên hệ với xác thân. Các điều này rất phổ biến và thường thấy. Điều chính– yếu là làm sao bạn giữ cho hai đường lối hoạt động bằng thần lực này riêng biệt rơ ràng trong trí bạn. Cả hai đều đi qua và từ thể dĩ thái nhập vào thể xác, nhưng chỉ có một là bắt nguồn ở trong thể dĩ thái hay là liên quan tới các khó khăn có nguồn gốc dĩ thái.

Thể dĩ thái là một thể hoàn toàn được tạo thành bằng các tuyến lực và các điểm mà các tuyến lực này giao nhau, và (khi cắt ngang) như vậy, tạo thành các trung tâm năng lượng. Nơi nào có nhiều tuyến lực như thế giao nhau, ta có một trung tâm năng lượng lớn hơn, và nơi mà các ḍng năng lượng lớn gặp và giao nhau, như ở trong đầu và trên xương sống, th́ ta có bảy bí huyệt chính. Các nhà huyền bí học biết được có bảy bí huyệt như thế, cộng với 21 bí huyệt nhỏ hơn và 49 cái c̣n nhỏ hơn nữa. Tuy nhiên, vào lúc này, chúng ta sẽ tự giới hạn vào thể dĩ thái nói chung và vào bảy trung tâm lực chính. Tuy nhiên, có lẽ các bạn thích thú khi được biết vị trí của 21 bí huyệt thứ yếu. Chúng có thể được định vị ở các điểm sau:

Có hai bí huyệt ở trước hai tai, gần sát với giao điểm của các xương hàm.

Có hai bí huyệt ngay phía trên hai vú.

Có một cái ở nơi mà các xương ngực gặp nhau sát với tuyến giáp trạng. Cái này cùng với hai bí huyệt ở vú, tạo thành một tam giác lực.

Có hai bí huyệt, mỗi cái ở trong ḷng bàn tay.

73

 
Có hai cái, mỗi cái ở ḷng bàn chân.

Có hai cái ở ngay sau hai mắt.

Cũng có hai cái nối tiếp với tuyến sinh dục.

Có một cái sát với lá gan.

Có một cái liên kết với bao tử; do đó nó có liên quan với huyệt đan điền, nhưng không đồng nhất với đan điền.

Có hai cái nối kết với lá lách. Hai cái này trong thực tế hợp thành một bí huyệt duy nhất, nhưng bí huyệt đó được tạo thành bởi hai cái chồng lên nhau.

Có hai cái – mỗi cái ở phía sau mỗi đầu gối.

Có một bí huyệt mạnh mẽ liên kết chặt chẽ với thần kinh phế vị. Đây là bí huyệt mạnh nhất và được một vài trường phái huyền linh học xem như là một bí huyệt chính; nó không nằm trong cột xương sống, nhưng không cách xa tuyến ức (thymus, sản xuất tế bào lympho T. ND).

Có một bí huyệt nằm sát với đan điền, và liên kết nó với bí huyệt ở chót xương sống, như vậy tạo thành một tam giác gồm bí huyệt sinh dục, đan điền, và bí huyệt ở chót xương sống.

Hai tam giác được đề cập đến trong biểu liệt kê này có tầm quan trọng thực sự. Một cái nằm trên, c̣n cái kia nằm dưới cách mô.

Dĩ nhiên, rơ ràng là nơi nào có ḍng thần lực thông suốt qua dĩ thái thể, nhập vào nhục thân, th́ khả năng xảy ra là nơi đó ít bị bệnh tật hay đau ốm. Tuy nhiên, có thể có khuynh hướng ngày càng tăng đối với các khó khăn sinh ra do sự kích thích quá độ, hậu quả của nó là hệ thần kinh quá hoạt động, với mọi vấn đề kèm theo. Các mănh lực này – đang t́m lối vào hiện thể trọng trược – là các phóng phát từ ba hướng (tôi xin tạm dùng một từ như thế):

74

 
1. Từ các hiện thể của phàm ngă – thể cảm dục và thể hạ trí.

2. Từ linh hồn, nếu đă lập được sự tiếp xúc, dù nhận biết được hay không.

3. Từ thế giới chung quanh mà các hiện thể của linh hồn và của phàm ngă đă đóng vai tṛ “các cửa vào” thế giới đó. Nhân tiện, trong phần cuối câu này, tôi muốn các bạn hăy chú ư đến một mối liên hệ có thể có giữa “các cửa vào” này với câu “cửa điểm đạo”.

Trong trường hợp mà các bí huyệt này – qua đó, luồng năng lượng đang tuôn vào từ các nguồn cung cấp nói trên – c̣n im ĺm, chưa được khơi hoạt, hay chỉ hoạt động một phần hoặc là quá chậm chạp (xét về nhịp rung động của chúng), th́ bấy giờ, bạn sẽ gặp một t́nh trạng tắc nghẽn. T́nh trạng này sẽ tạo nên sự tắc nghẽn trong thể dĩ thái, mà các hậu quả sau đó là hoạt động của thể xác bị nhiều khó khăn. Một trong các khó khăn thông thường nhất là sung huyết (congestion) ở phổi mà trong thực tế, vốn do các nguyên nhân nói trên, cộng với t́nh trạng sung huyết bên trong thể dĩ thái, dù rằng, về mặt ngoại môn, người ta có thể truy được một số nguyên nhân thuộc thể chất rơ rệt. Chính việc nhập lại của nguyên nhân hiện rơ bên ngoài và nguyên nhân đích thực bên trong chịu trách nhiệm cho sự bộc phát của cơn bệnh. Khi hai t́nh trạng này được liên kết với nhau, th́ thể xác bị chướng ngại và thể dĩ thái lâm vào một t́nh trạng bất hảo, bấy giờ, đương sự sẽ bị bệnh, đau ốm hay một loại suy nhược nào đó. Mọi sự tắc nghẽn bên ngoài đều có thể luôn luôn được truy từ hai nguyên nhân này – một nguyên nhân bên trong và một nguyên nhân bên ngoài.

Trong các trường hợp này, điều lư thú là nguyên nhân bên ngoài không phải là hậu quả của nguyên nhân bên trong của cá nhân ấy. Do đó, bạn nên lưu ư rằng không phải mọi bệnh tật của một cá nhân đều hoàn toàn có nguồn gốc bên trong hay thuộc tâm lư, mà đôi khi, chúng bắt nguồn từ cả bên ngoài lẫn bên trong. Đó là sự phức tạp của vấn đề.

75

 
Phát biểu trên mở ra toàn bộ vấn đề về hoạt động của bảy bí huyệt trong thể dĩ thái. Các bí huyệt này có thể được xem như c̣n im ĺm hay chưa được khơi hoạt, hoặc chỉ mới được khơi hoạt một cách yếu ớt, hoặc là đang tác động một cách b́nh thường, nghĩa là một số năng lượng tạo nên h́nh thể của bí huyệt ấy đang hoạt động một cách nhịp nhàng, và do đó, dễ tiếp nhận năng lượng đi vào, trong khi những bí huyệt khác vẫn hoàn toàn bất động và không đáp ứng. Có những bí huyệt khác lại hoạt động đầy đủ và do đó, có sức thu hút mạnh mẽ đối với bất cứ các lực lưu nhập nào; c̣n các bí huyệt khác nữa th́ chỉ linh hoạt một phần. Với đa số con người, các bí huyệt dưới cách mô linh hoạt hơn các bí huyệt trên cách mô (ở đây tôi đang đề cập đến bảy bí huyệt chính, chứ không đề cập đến 21 bí huyệt phụ). Đối với người t́m đạo, các bí huyệt dưới cách mô đều linh hoạt, c̣n các bí huyệt ở tim và cổ họng th́ đang từ từ hoạt động, trong khi ở trường hợp của các đệ tử, th́ huyệt ấn đường cộng với các huyệt phía dưới nó trong cơ thể, đều đang được khơi hoạt nhanh chóng. Trong điểm đạo đồ, bí huyệt đầu đang đi vào hoạt động, nhờ đó mà nó đưa tất cả các bí huyệt vào sự nhịp nhàng phối hợp thực sự. Mỗi bệnh nhân hay là mỗi người ở vào cung nào đó, nên ứng đáp một cách khác nhau; yếu tố thời gian cũng khác nhau; lối khai mở cũng thay đổi, và sự ứng đáp với các lực lưu nhập cũng hơi khác.

Tất cả vấn đề này chúng ta sẽ xem xét thật đúng khi chúng ta bàn đến chương IX, tức chương liên quan đến bảy cách trị liệu. Ở đây, tôi chỉ nhắc đến vấn đề này để đặt nền móng cho những ǵ phải được xem xét sau này, và nhờ đó mà chứng tỏ cho các bạn thấy rằng toàn thể mối liên hệ giữa thể dĩ thái với thể xác đều liên quan đến vấn đề chữa trị như thế nào. Thế nên, điều quan trọng là trước khi chữa trị thực sự, nhà trị liệu nên biết tŕnh độ tiến hóa của bệnh nhân, và cũng nên biết loại cung của cả phàm ngă lẫn chân ngă người ấy. Nếu thêm vào đó, bạn có một số kiến thức về các khuynh hướng và các chỉ dẫn thuộc chiêm tinh học, th́ việc chẩn đoán càng chính xác hơn nhiều. Ch́a khóa của mọi thành công (hoặc là nhờ chữa lành bệnh ở thể xác, hoặc là qua sự tử vong) đều nằm trong sự hiểu biết t́nh trạng của các bí huyệt trong thể dĩ thái. Các bí huyệt này xác định mức rung động của cơ thể và sự đáp ứng chung của thể xác. Thậm chí, chúng c̣n chi phối các hoạt động và sự chính xác của bản năng, mối liên hệ của bản năng với sự sống ở ngoại cảnh và “sự toàn vẹn” cùng là sự lành mạnh tổng quát của hệ thần kinh giao cảm.

76

 
      A. T̀NH TRẠNG TẮC NGHẼN

Nhiều khó khăn thực sự có thể được truy nguyên do sự tắc nghẽn, hay do sự thiếu hoạt động thông suốt của các lực. Trong mối liên hệ này có thể nêu ra rằng thể dĩ thái là một cơ nguyên cho việc nhập và xuất.

Do đó mà có một liên quan mật thiết lạ lùng giữa nó và các cơ quan như là phổi, bao tử và thận. Khi được hiểu đúng, biểu tượng học tŕnh bày ở đây sẽ có khuynh hướng cho thấy có một liên hệ bí ẩn sâu xa nằm giữa:

1. Trí óc và phổi. Tiến tŕnh hít thở với các giai đoạn hít vào, tạm nghỉ và thở ra, đều diễn ra liên quan với cả hai trạng thái thần lực của trí óc và xác thân.

2. Bản chất dục vọng và bao tử. Ở đây lại là diễn tŕnh thu vào, đồng hóa và thải ra.

3. Chính thể dĩ thái và thận, cùng với các diễn tŕnh được vạch rơ, trong cả hai trường hợp hấp thụ, chế hóa và chuyển giao.

77

 
Không có biểu tượng nào tương đối chính xác đối với toàn thể tiến tŕnh sáng tạo như là cơ thể của con người.

Do đó, t́nh trạng tắc nghẽn trong thể dĩ thái đang tạo ra nhiều tai hại trong thể xác, có thể tồn tại ở điểm nhập vào từ thể cảm dục hay là từ cơi cảm dục (hăy chú ư đến cách diễn tả và sự dị biệt) hay là ở điểm thoát ra, có liên quan với bí huyệt mà loại lực dĩ thái đặc biệt đi vào dễ dàng nhất và lưu chuyển qua đó dễ dàng nhất. Nơi nào không có sự hoạt động thông suốt giữa thể dĩ thái với thể cảm dục, bạn sẽ gặp đau yếu. Nơi nào không có sự hoạt động thông suốt giữa thể dĩ thái với thể xác, bao gồm cả các trung khu thần kinh và hệ thống tuyến nội tiết, th́ bạn cũng sẽ gặp bất an. Đừng bao giờ quên sự liên hệ chặt chẽ giữa bảy bí huyệt chính với bảy tuyến chính của thể xác. Hai hệ thống tạo thành một bộ phận quản trị ăn khớp nhau, với các tuyến và chức năng của chúng được xác định bởi t́nh trạng của các bí huyệt dĩ thái. Đến phiên các bí huyệt dĩ thái này lại chịu sự chi phối bởi tŕnh độ tiến hóa và kinh nghiệm thu lượm được của linh hồn lâm phàm, bởi sự an trụ đặc biệt của linh hồn đang lâm phàm, và bởi các cung (cung phàm ngă và cung linh hồn) của đương sự. Đừng quên rằng năm trạng thái của con người (khi y hoạt động trong ba cơi thấp) được định đoạt bởi một số mănh lực của cung. Đó là cung linh hồn, cung phàm ngă và cung của thể trí, thể cảm dục và thể xác. Trong Kỷ Nguyên Mới sắp đến, tất cả các điều nói trên sẽ được khám phá và cứu xét một cách rơ rệt, và sự hiểu biết này giúp nhà trị liệu thấy được t́nh trạng có thể có của các bí huyệt, thứ tự khai mở của chúng, một hoặc nhiều nốt căn bản riêng tư của chúng. Môn y học mới sẽ được xây dựng một cách rơ rệt dựa vào khoa học về các bí huyệt, mọi sự chẩn đoán và có thể chữa trị, đều sẽ được dựa trên sự hiểu biết này. Nhà nội tiết học chỉ mới bắt đầu thoáng thấy các khả năng này, và nhiều điều mà hiện họ đang xem xét, đều có trong đó các mầm của chân lư tương lai. “Việc làm quân b́nh hệ thống” và liên quan của các tuyến với ḍng máu, cũng như với tính t́nh và nhiều loại bẩm chất khác nhau, được xem như có giá trị thực sự và đáng theo đuổi. Tuy nhiên, c̣n phải khám phá rất nhiều điều trước khi người ta có thể làm việc với các tuyến một cách thực sự an toàn, khiến chúng trở thành một vấn đề chính được chú ư (một ngày nào đó sẽ gặp trường hợp này trong mọi h́nh thức đau ốm).

78

 
Khắp bộ luận ngắn này, tôi sẽ đưa ra nhiều ẩn ngữ sẽ giúp cho nhà khảo cứu đă mở trí t́m đúng hướng. Trước khi chuyển qua xem xét liên hệ của thể dĩ thái dưới h́nh thức một đơn vị, đối với thể xác, tôi muốn nêu ra rằng tôi đặt các phức tạp của sự tắc nghẽn trước tiên dựa vào danh sách các bệnh xuất phát trong thể dĩ thái, bởi v́ chính vào lúc này – có thể trong một vài thế kỷ – sự tắc nghẽn là nguyên nhân chính của nỗi khó khăn đối với đa số nhân loại, hay là của những kẻ mà về mặt huyền bí, chúng ta gọi là những người “thuộc bí huyệt sinh dục đan điền” (“solar sacral” people). Điều này một phần do bởi các thói quen đè nén và ức chế, mà nhân loại nói chung đă phát triển qua nhiều thời đại. Chính sự tắc nghẽn này ở điểm vào hoặc ra trong thể dĩ thái, chịu trách nhiệm cho sự cản trở ḍng chảy thông suốt của sinh lực, với các hậu quả là con người nhanh chóng mắc bệnh. Thế nên, bạn sẽ thấy các bài tập thở được ấn định một cách thận trọng như thế nào, với các kết quả tinh tế của chúng là tái tổ chức và điều chỉnh lại các thể tinh anh (đặc biệt là thể dĩ thái và thể cảm dục) sẽ trở nên ngày càng được sử dụng phổ thông hơn. Ngày nay, sự quan tâm của nhiều người đến phép tập thở chứng tỏ rằng về mặt bên trong người ta đă thừa nhận sự kiện này dù họ vẫn chưa biết được đầy đủ về các phương pháp và các hiệu quả.

 Một điều khác mà tôi muốn kêu gọi các bạn lưu ư là các điểm tắc nghẽn có thể nằm, hoặc là trong bí huyệt thể cảm dục, hoặc là trong thể dĩ thái, và nhà chữa trị sẽ phải nghiên cứu t́nh trạng này.

79

 
B. THIẾU SỰ PHỐI KẾT VÀ HỘI NHẬP

Bây giờ, chúng ta xem qua về điểm khó khăn thứ hai nằm trong thể dĩ thái, mà trong bảng liệt kê, chúng ta gọi là thiếu phối kết, hoặc hội nhập (coordination or integration). Điều này hiện nay cực kỳ phổ biến và chịu trách nhiệm cho một số lớn bệnh tật. Dĩ thái thể là h́nh thể “vững chắc” bên trong, mà dựa vào đó thể xác được xây nên hay tạo ra. Đó là cái giàn bên trong nằm bên dưới mọi bộ phận của toàn thể con người bên ngoài; đó là cái khung chống đỡ toàn thể; chính dựa vào cái khung đó mà h́nh thể bên ngoài được sao chép lại, và đó là mạng lưới các nadis (vô cùng phức tạp), tạo nên đối phần hay là trạng thái kép của toàn thể hệ thần kinh, nó tạo thành một phần thật là quan trọng của cơ cấu con người. Thế nên rơ ràng là cùng với ḍng máu, thể dĩ thái là công cụ của sinh lực. Do đó, nếu có sự yếu ớt trong liên hệ giữa cấu trúc bên trong này với h́nh hài bên ngoài, th́ ngay lập tức bạn thấy rơ là nỗi khó khăn thực sự chắc chắn sẽ xảy ra.

Sự khó khăn này có ba h́nh thức:

1. H́nh hài vật chất dưới trạng thái dày đặc của nó được kết nối quá lỏng lẻo với thể dĩ thái hay đối phần dĩ thái. Điều này đưa đến t́nh trạng bị mất sinh khí và suy nhược, làm cho con người dễ mắc bệnh hay sức khỏe suy kém.

2. Sự liên kết kém cỏi trong một số chiều hướng hay trạng thái của thiết bị. Qua một số điểm tập trung hay các bí huyệt, sinh lực không thể lưu chuyển một cách thích hợp, và do đó bạn có sự yếu ớt rơ rệt ở một bộ phận nào đó của thể xác. Thí dụ, yếu đuối (impotence) là một khó khăn thuộc loại đó, khuynh hướng viêm thanh quản là một khó khăn khác, để nói đến hai sự xáo trộn khác nhau rất nhiều.

80

 
3. Về căn bản, sự liên kết cũng có thể lỏng lẻo và kém cỏi, đến nỗi linh hồn rất ít kiểm soát hiện thể dùng để biểu lộ ra ngoài của nó, nên sự ám ảnh (obsession) hay sự chiếm đoạt (possession) dễ xảy ra.

Đây là một thí dụ điển h́nh nhất của các khó khăn gắn liền với t́nh trạng này. C̣n các thí dụ khác là một số h́nh thức ngất xỉu hay là mất ư thức và “động kinh” (“petit mal”).

Hiển nhiên, đúng là cũng có các t́nh trạng ngược lại, khi thể dĩ thái kết chặt hay ḥa nhập chặt chẽ với phàm ngă – dù là nó có bản chất tiến hóa cao hay chỉ là một dĩ thái thể thông thường – đến nỗi mọi phần của thể xác đều ở trong t́nh trạng bị kích thích thường xuyên, cố gắng đột ngột, với hậu quả là hoạt động trong thần kinh hệ mà – nếu không được điều chỉnh đúng đắn – có thể đưa đến rất nhiều tai hại. Đây là điều mà tôi bàn đến trong đề mục thứ ba “Kích thích quá mức các bí huyệt”. Liên kết quá lỏng lẻo hay quá chặt chẽ đều đưa tới sự rối loạn, dù rằng loại khó khăn thứ nhất th́ thường là trầm trọng hơn các loại khác. Ở đây, tôi đă tŕnh bày đủ để chứng minh rằng việc nghiên cứu thể dĩ thái có thể là lư thú và quan trọng như thế nào. Toàn thể chủ đề trị liệu được “ràng buộc” (sử dụng một nhóm từ mới mẻ mà tôi thấy khó dùng) với sự phát triển, khai mở và kiểm soát bảy bí huyệt chính.

 

C. CÁC BÍ HUYỆT BỊ KÍCH THÍCH QUÁ ĐỘ

81

 
Có nhiều điều mà tôi có thể thêm vào những ǵ tôi đă nói về nguyên nhân của bệnh xuất phát trong thể dĩ thái, nhưng trong phần II (khi bàn đến tiết nói về một số nhu cầu căn bản) tôi sẽ nói rơ hơn về chủ đề này. Đối với nhục thể, th́ sự tắc nghẽn, thiếu ḥa nhập và các bí huyệt quá bị kích thích, hiển nhiên là các nguyên nhân căn bản, đối với nhục thân, nhưng chính chúng lại là các hiệu quả thường xảy ra của các nguyên nhân tế nhị hơn, ẩn tàng trong sự sống của thể cảm dục và thể trí, và trong trường hợp quá bị kích thích, đôi khi lại là kết quả của các tiếp xúc với linh hồn. Theo dự kiến th́ thể dĩ thái phản ứng một cách b́nh thường với mọi t́nh trạng xảy ra trong các thể tinh anh. Về cơ bản, nó là một tác nhân truyền đạt (transmitter), chứ không phải là tác nhân phát khởi (originator), chỉ v́ các hạn chế của người quan sát khiến y gán các nguyên nhân của đau ốm thể xác cho thể dĩ thái. Nó là nơi thanh toán (clearing house) cho mọi thần lực đến với thể xác, miễn là tŕnh độ tiến hóa đă đưa các bí huyệt khác nhau đến một t́nh trạng mà trong đó chúng dễ tiếp nhận đối với bất cứ loại thần lực đặc biệt nào. Nói về mặt huyền bí, các bí huyệt có thể ở vào một trong năm t́nh trạng hay trạng thái tồn tại. Các trạng thái này có thể được mô tả bằng các thuật ngữ sau đây:

1. Khép chặt, tĩnh lặng và đóng kín, tuy nhiên có các dấu hiệu của sự sống c̣n im ĺm và tràn đầy tính tŕ trệ.

2. Mở rộng, không bị phong kín và nhuốm màu yếu ớt, sự sống đang mạch động (pulsates).

3. Tăng tốc, sống động, linh hoạt theo hai hướng; hai cánh cửa nhỏ được mở rộng.

4. Tỏa chiếu và vươn ra với nốt rung động theo mọi bí huyệt liên hệ.

5. Trở nên ḥa nhập và mỗi bí huyệt hoạt động nhịp nhàng với bí huyệt khác. Sinh lực tuôn chảy qua mọi cơi. Thế giới trở nên mở rộng.

82

 
Liên quan với năm giai đoạn này – trong đó thể dĩ thái mở rộng và trở thành mạch sống tối cần (the vital livingness) của mọi biểu lộ trên cơi trần – là năm giống dân của con người, bắt đầu bằng giống dân Lemuria, năm cơi biểu lộ của nhân loại và siêu nhân loại, năm giai đoạn tâm thức và những lối phân nhóm khác theo số năm mà bạn gặp trong triết học nội môn. Nhân đây, có thể là hữu ích và lư thú mà nêu ra rằng ngôi sao năm cánh không những chỉ là dấu hiệu và biểu tượng của điểm đạo, và sau cùng của con người hoàn thiện, mà nó c̣n là biểu tượng căn bản của thể dĩ thái và của năm bí huyệt đang chi phối con người hoàn thiện – đó là hai bí huyệt đầu, bí huyệt tim, bí huyệt cổ họng và bí huyệt ở chót xương sống. Khi nào các bí huyệt này được khơi hoạt đầy đủ và hoạt động nhịp nhàng với nhau, th́ các bộ năm khác nhau mà tôi đă đề cập ở trên, sẽ tạo thành một phần toàn vẹn của tâm thức của con người hoàn thiện.

Dù cho mảng thông tin đặc biệt này không liên quan rơ rệt tới Khoa Chữa Trị, tuy nhiên toàn bộ vấn đề có liên quan tới năng lượng, và năng lượng, dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác đều liên quan tới các nhân và quả của bệnh tật, bởi v́, bệnh tật là hiệu quả bất đắc dĩ của năng lượng theo đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là nguyên tử.

Cần nên nhớ rằng dĩ thái thể của con người là một phần nguyên vẹn của dĩ thái thể của Hành Tinh Thượng Đế, và do đó nó có liên quan tới mọi h́nh hài nằm bên trong dĩ thái thể đó ở bất cứ giới nào và ở tất cả các giới trong thiên nhiên. Đó là thành phần của chất liệu của vũ trụ, được phối kết với chất liệu của hành tinh, và do đó nó cung cấp nền tảng khoa học cho sự hợp nhất.

83

 
Thực ra, nếu bạn có hỏi tôi rằng, những ǵ nằm sau mọi bệnh tật, mọi thất bại, sai lầm, và thiếu biểu lộ thiêng liêng trong ba cơi thấp, th́ tôi sẽ nói đó là tính chia rẽ, nó tạo ra các khó khăn chính lộ ra trong thể dĩ thái, cộng với sự bất lực của ngoại thể hữu h́nh không đáp ứng được một cách thích hợp với các xung lực tinh vi ở bên trong. Đây là nguyên nhân (nguyên nhân thứ yếu, như tôi đă nêu ra ở trên) của phần lớn các bệnh tật. Dĩ thái thể của hành tinh chưa truyền chuyển và luân lưu một cách thông suốt các lực đang t́m cách đi vào tâm thức và sự biểu lộ của con người trên cơi trần. Các mănh lực này xuất phát từ chính bên trong con người, khi y hoạt động trên các mức độ tâm thức tinh vi và xuất phát từ linh hồn. Chúng cũng đến từ các nhóm được kết hợp và tiếp xúc, từ sự sống hành tinh và sau rốt, suy cho cùng th́ chúng đến từ toàn thể vũ trụ. Khi được khơi hoạt đầy đủ và được vận dụng một cách hữu thức và khoa học, mỗi bí huyệt đều có thể dùng như một cánh cửa mở rộng, qua đó tri thức về những ǵ nằm ngoài sự sống cá nhân con người có thể đi vào. Về căn bản, thể dĩ thái là bộ máy đáp ứng quan trọng nhất của con người, không những nó giúp cho năm giác quan vận hành đúng đắn, và do thế mà cung cấp năm điểm tiếp xúc chính với thế giới hữu h́nh, mà nó cũng c̣n giúp cho con người ghi nhận được một cách bén nhạy các cơi giới tinh anh, và, khi được linh hồn tiếp cho năng lượng và kiểm soát, th́ nó cũng giúp các lănh vực tinh thần mở rộng ra.

Dĩ thái thể là một nơi tiếp nhận mạnh mẽ các ấn tượng, vốn được truyền đến tâm thức con người nhờ các bí huyệt đă được khơi hoạt. Thí dụ, chỉ có được nhăn thông thực sự, khi nào khơi hoạt được huyệt đan điền (dưới rốn lối một tấc – ND) hoặc huyệt ấn đường (giữa hai mày). Các ấn tượng và thông tin được truyền đạt này trở thành tác nhân kích thích nhờ đó hoạt động hữu thức được khởi xướng. Có nhiều thuật ngữ được dùng để diễn tả các lực này và các hậu quả thúc đẩy của chúng: đó là các xung lực, tác nhân kích thích, ảnh hưởng, tiềm lực, dục vọng, đạo tâm và nhiều thuật ngữ như thế, vốn chỉ đồng nghĩa với lực hoặc năng lượng và v́ thế truyền đạt cùng một ư tưởng tổng quát. Tất cả các từ này đều chỉ các h́nh thức hoạt động của dĩ thái thể, nhưng chỉ khi nào thể xác ghi nhận chúng và tác động dưới ấn tượng của chúng. Toàn bộ chủ đề lực thúc đẩy là một chủ đề rất lôi cuốn.

84

 
Tuy nhiên, v́ sự rộng lớn của vấn đề cho nên nhân loại chỉ có thể từ từ hiểu được t́nh trạng và dần dần nhận thức được rằng con người chủ yếu (nhờ dĩ thái thể của y) là một thành phần nguyên vẹn của một Tổng Thể vĩ đại và đầy sức sống; sớm muộn ǵ y cũng sẽ học được rằng nhờ các diễn tŕnh tiến hóa mà y có thể hy vọng ghi nhận được mọi lănh vực khác nhau của biểu lộ thiêng liêng. Chỉ khi nào thể dĩ thái khởi sự hoạt động dưới ảnh hưởng và qua “các lực tạo ấn tượng” của linh hồn, trí tuệ, và tạm thời của cảm dục thể, th́ con người mới có thể trở nên biết được mọi thế giới, mọi hiện tượng và mọi trạng thái tâm thức, và như thế đạt được sự toàn tri vốn là quyền thừa kế của tất cả các Con của Thượng Đế.

Tuy nhiên, trong thời kỳ mà trạng thái hiện tồn này đang ở trong tiến tŕnh thành tựu, th́ sự thiếu phát triển, việc không thể ghi nhận, công việc sinh động là khơi hoạt và tổ chức các bí huyệt khác nhau, rồi sau đó liên kết chúng với nhau một cách chính xác, sẽ tạo ra nhiều khó khăn. Chính t́nh trạng này vốn là nguồn gốc hiệu quả của các khó khăn, mà khi t́nh trạng ấy được đưa vào thể xác, sẽ tạo ra nhiều loại bệnh tật khác nhau, nhiều sự căng thẳng và những tắc nghẽn, việc quá kích thích của các bí huyệt ở một phần của thể dĩ thái và sự phát triển yếu kém của chúng ở một phần khác, thêm vào với sự khai mở không đồng đều và thế thăng bằng sai lạc giữa các bí huyệt.

Trong khảo cứu của y học hiện đại, người ta nói nhiều về sự “thiếu cân bằng” của các tuyến nội tiết, và nhiều khó khăn ở thể xác được quy cho việc thiếu thăng bằng thường xuyên này. Nhưng đàng sau t́nh trạng này của hệ thống tuyến nội tiết, có ẩn sự thiếu cân bằng cơ bản của chính các bí huyệt. Chỉ khi nào có sự hiểu biết đúng đắn về lực, hiểu được sự tiếp nhận và vận dụng sau đó của nó, th́ bấy giờ mới đạt được sự thăng bằng đúng, và hệ thống tuyến nội tiết của con người mới kiểm soát con người hồng trần theo đúng cách đă định.

Hiện nay, cần phải nghiên cứu nhiều về các vấn đề sau:

1. Vấn đề nhận thần lực một cách đúng đắn qua bí huyệt thích hợp. Một ví dụ của việc này là kiểm soát đúng bí huyệt đan điền như là bí huyệt trong đó sự bén nhạy của thể cảm dục có thể được ghi nhận và vận dụng một cách thích hợp.

85

 
2. Vấn đề về mối liên hệ đúng của một bí huyệt đặc biệt với tuyến liên quan của nó, cho phép hoạt động thông suốt của lực đang tuôn đổ qua bí huyệt, đến tuyến tương ứng kết hợp với nó, nhờ vậy mà chi phối kích thích tố đặc biệt của tuyến đó, và sau rốt chi phối ḍng máu. Nếu bạn hiểu rơ được tŕnh tự giao tiếp này, th́ bạn sẽ hiểu rơ hơn ư nghĩa huyền bí của các lời trong Kinh Cựu Ước nói rằng “máu là sự sống”. Chính sinh lực xuất phát từ thể dĩ thái, tác động vào ḍng máu, xuyên qua bí huyệt có đáp ứng với một trong bảy loại thần lực đặc biệt và tuyến liên hệ của nó. Do đó, rơ ràng là có một liên hệ chặt chẽ giữa:

a. Dĩ thái thể với cương vị là một tác nhân truyền đạt toàn bộ năng lượng và thần lực.

b. Hệ thống tuyến nội tiết mà các tuyến khác nhau của nó thực ra là sự ngoại hiện hay là cụ thể hóa của các bí huyệt chính và phụ.

c. Tim là trung tâm của sự sống, cũng như bộ óc là trung tâm của tâm thức. Từ tim, ḍng máu luân chuyển và được kiểm soát. Nhờ đó mà ba hệ thống lớn này được liên hệ với nhau.

d. Toàn thể hệ thống tuyến liên hệ với hệ thần kinh nhờ mạng lưới các dây thần kinh và các “nadis” đang ẩn dưới mạng lưới này. Các nadis này là những tuyến sinh lực (threads of life force), đang nằm dưới mọi bộ phận của cơ thể, và đặc biệt của hệ thần kinh dưới mọi trạng thái của nó.

86

 
Một vấn đề khác có thể được thêm vào các vấn đề và các liên hệ này. Đây là sự liên hệ hỗ tương vốn dĩ phải được thiết lập giữa tất cả các bí huyệt, giúp cho thần lực hoạt động thông suốt, theo đúng nhịp điệu, khắp cả thể xác.

Do đó, bạn có một số hệ thống lớn quản trị phối hợp đang kiểm soát hay không kiểm soát được thể xác.

Khi nào thiếu sự kiểm soát đó là do không lập được các liên giao đúng đắn bên trong cơ thể, hay là thiếu sự phát triển. Các nhóm quản trị phối hợp này là:

1. Nhóm thuộc thể dĩ thái, tác động trước tiên qua bảy bí huyệt chính của nó, nhưng cũng qua nhiều bí huyệt khác nữa.

2. Nhóm hệ thống tuyến nội tiết, tác động trước tiên qua bảy nhóm tuyến chính, nhưng cũng qua các tuyến ít quan trọng khác.

3. Nhóm hệ thần kinh (hệ giao cảm và hệ năo tủy) với tầm quan trọng đặc biệt nơi thần kinh phế vị, với hiệu quả của nó trên tim và do đó mà có ảnh hưởng đến ḍng máu.

Tất cả các điểm này phải được xem xét và liên kết trong bất cứ hệ thống trị liệu theo huyền môn nào, và xét cho cùng th́ vấn đề kỹ thuật được bao hàm trong đó lại ít phức tạp hơn là hệ thống rộng lớn được xây dựng bởi y học và giải phẫu học chính thống. Chính v́ thiếu sự phối hợp của ba hệ thống này mà thuật chữa trị, vào lúc này không đạt được tất cả những ǵ nó mong mỏi. Nó đă giúp ích rất nhiều, nhưng c̣n phải tiến thêm một bước nữa, trên cơi dĩ thái trước khi manh mối đích thực đối với bệnh tật và cách chữa trị được xác minh.

87

 
Thí dụ, sự thiếu sinh lực và các t́nh trạng dưới b́nh thường thường thấy, chứng tỏ sự thiếu năng động của dĩ thái thể và sự thiếu sinh khí trong thể đó. Các kết quả của tính tŕ trệ này của thể sinh lực có thể thuộc về cả hai mặt thể chất và tâm lư, bởi v́ các tuyến trong thể xác sẽ không tác động một cách b́nh thường, và như được biết rơ, chúng chi phối sự biểu hiện của thể xác con người cũng như các trạng thái t́nh cảm và trí tuệ của y tới chừng mức mà các trạng thái đó có thể hay không thể t́m cách biểu lộ qua thể xác. Các tuyến ấy không chi phối được con người nội tâm, hay là các trạng thái tâm thức của con người ấy, nhưng chúng lại có thể và chắc chắn ngăn trở các trạng thái bên trong đó, đang t́m cách biểu lộ ra ngoài. Trong trường hợp trái lại, một thể dĩ thái quá mạnh và các bí huyệt của nó quá bị kích thích, có thể cũng đặt một căng thẳng quá lớn trên hệ thần kinh, và hậu quả là tạo ra sự rối loạn thần kinh rơ rệt, đau nửa đầu, mất thăng bằng trí tuệ và t́nh cảm, rồi, trong một vài trường hợp, đưa đến sự điên cuồng.

Tôi đă nói hơi chi tiết một chút về vấn đề này, bởi v́ sự liên hệ của thể dĩ thái với thể xác và tính dễ tiếp nhận của nó đối với các năng lượng bên trong chi phối con người một cách dứt khoát. Chúng ta lúc nào cũng cần phải ghi nhớ điều này khi nghiên cứu các nguyên nhân của bệnh tật xuất phát trong hạ trí hoặc do sự hoạt động của linh hồn trong cuộc đời của đệ tử, hay là khi chúng ta nghiên cứu các tiến tŕnh được chuẩn bị cho cuộc điểm đạo. Dĩ thái thể phải luôn luôn và lúc nào cũng đóng vai tṛ tác nhân truyền đạt các năng lượng bên trong cho cơi bên ngoài, c̣n thể xác th́ phải học cách đáp ứng và nhận biết những ǵ được truyền đạt. Hiệu năng của việc truyền chuyển và hậu quả là hoạt động của thể xác luôn luôn tùy thuộc vào các bí huyệt, đến lượt các bí huyệt lại chi phối các tuyến; sau đó, các tuyến này mới định đoạt bản tính và ư thức được biểu lộ của con người. Nếu các bí huyệt được khơi hoạt và dễ tiếp thu, th́ sẽ có một bộ máy thể chất đáp ứng được với các thần lực đang lưu chuyển qua. Nếu các bí huyệt c̣n yên ngủ, và như thế có thể truyền đạt được chút ít thần lực thôi, th́ bộ máy thể chất cũng trở thành chậm chạp và thiếu đáp ứng.

88

 
Nếu các bí huyệt dưới cách mô được khơi hoạt c̣n các bí huyệt trên cách mô vẫn chưa, th́ ư thức của con người sẽ được tập trung vào bản chất động vật và bản chất xúc cảm, và nhiều bệnh về thể xác của y cũng nằm dưới cách mô. Do đó, bạn sẽ thấy toàn thể vấn đề này rắc rối và phức tạp như thế nào – phức tạp đến nỗi nó chỉ được hiểu đúng khi nào con người lấy lại được quyền năng đă mất để “thấy được ánh sáng” của thể dĩ thái và của bảy bí huyệt chính của nó, và, nhờ xúc giác phát triển trong bàn tay và ngón tay, để xác minh tốc độ rung động trong các bí huyệt khác nhau. Khi nào người ta sử dụng được cả hai phương tiện hiểu biết nói trên, th́ toàn bộ vấn đề dĩ thái thể sẽ chiếm một tầm quan trọng mới mẻ và sẽ được hiểu một cách đúng đắn.

3. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TRONG HẠ TRÍ.

Tôi đă bắt đầu phần nghiên cứu này với các nguyên nhân xuất phát trong thể cảm dục và thể dĩ thái, bởi v́ đó là các nguồn gốc chính của bệnh hoạn, do sự kiện là đa số nhân loại đều đang trụ vào thể cảm dục, cũng như đa số các h́nh hài trong giới động vật đều đang trụ vào thể dĩ thái. Các lực đang tuôn đổ vào giới động vật phần lớn là xuất phát từ các phân cảnh dĩ thái, và từ các mức độ hồng trần trọng trược của sự sống. Tuy nhiên, các động vật cấp cao nhờ sự phát triển do chúng tiếp xúc với con người, đang trở nên dễ bị ảnh hưởng với các lực xuất phát từ cơi cảm dục, và nhờ thế mà chúng phát triển được các hoạt động và các phản ứng không hoàn toàn thuộc về bản năng.

Ngày nay, do sự phát triển trí tuệ trong giống dân Aryan, một số khó khăn có thể nảy sinh trong thể xác. Về cơ bản, nguồn gốc của chúng không phải ở thể trí, mà trước tiên do sự kiện thể trí là tác nhân truyền đạt năng lượng linh hồn (khi được linh hoạt và được chỉnh hợp đúng), và năng lượng linh hồn này, đang tuôn đổ vào thể xác, có thể tạo ra một vài t́nh trạng quá kích thích và các khó khăn liên quan với thần kinh hệ. Tuy nhiên, chính năng lượng được truyền đạt này mới tạo ra các bệnh tật, chứ không phải do yếu tố xuất phát từ chính thể trí. Tôi sẽ nói thêm một ít chi tiết về vấn đề này ở phần sau.

89

 
A. CÁC THÁI ĐỘ TRÍ TUỆ SAI LẦM

Trước tiên, tôi xin bàn đến tiền đề căn bản rằng bệnh tật và khả năng mắc bệnh của thể xác không phải là kết quả của tư tưởng sai lầm. Rất có thể chúng không phải là kết quả của tư tưởng chút nào cả, hoặc là chúng được tạo nên do không theo đúng các định luật căn bản đang chi phối Thiên Trí. Một trường hợp lư thú của thất bại này là việc con người không tuân theo Định Luật Căn Bản về Tiết Điệu, vốn đang chi phối mọi tiến tŕnh của thiên nhiên, và con người là một thành phần của thiên nhiên. Chính v́ không thể hoạt động theo Định Luật Chu Kỳ mà chúng ta có thể truy ra nhiều khó khăn có sẵn trong việc sử dụng và lạm dụng sự thôi thúc của tính dục. Thay v́ con người được chi phối bằng sự biểu lộ theo chu kỳ của xung lực tính dục, để nhờ đó sự sống con người được cai quản bởi một nhịp điệu rơ rệt, th́ vào lúc này, lại không có sự việc như thế, trừ ra trong các chu kỳ mà phái nữ đang trải qua, và người ta cũng ít quan tâm đến các chu kỳ đó. Tuy nhiên, phái nam không bị chi phối bởi bất cứ chu kỳ nào như thế, và họ cũng đă vi phạm cái tiết điệu mà cơ thể người nữ nên phụ thuộc vào, và nếu hiểu đúng, th́ tiết điệu này sẽ định đoạt cách áp dụng quan hệ tính dục, dĩ nhiên nó cũng bao gồm luôn xung lực tính dục của phái nam. Sự thất bại v́ không thể sống theo Định Luật Chu Kỳ và không thể làm cho các thèm muốn tuân thủ theo sự kiểm soát của luật chu kỳ, là một trong các nguyên do chính của bệnh tật, và v́ các định luật này được ban cấp h́nh hài trên cơi trí, nên người ta có thể nói một cách hợp lư rằng việc vi phạm các luật ấy có một căn bản trí tuệ. Trường hợp này có thể xảy ra nếu nhân loại làm việc bằng trí, nhưng không có việc đó. Chính trong thế giới hiện đại ngày nay đang bắt đầu có sự vi phạm rộng lớn các định luật trí tuệ này, đặc biệt là Định Luật Chu Kỳ, định luật này định đoạt các trào lưu/ thủy triều (tides), kiểm soát các biến cố trên thế giới và cũng sẽ chi phối cá nhân, và như thế, thiết lập các thói quen cho cuộc sống tiết điệu – tức là một trong các động cơ chính đưa đến sức khỏe tráng kiện.

90

 
Do việc vi phạm Luật Tiết Điệu, con người đă làm xáo trộn các thần lực, mà nếu được sử dụng đúng, sẽ mang lại cho thể xác một t́nh trạng khỏe mạnh tuyệt hảo. Do sự vi phạm đó, con người đă đặt nền móng cho sự suy nhược tổng quát và các khuynh hướng cơ cấu sẵn có này, khiến cho con người chịu sức khỏe kém cỏi, giúp cho mầm bệnh và vi khuẩn xâm nhập vào hệ thống cơ thể, tạo ra các dạng bệnh ác tính ở bên ngoài. Khi con người có lại sự hiểu biết để sử dụng đúng th́ giờ (th́ giờ định đoạt Luật Tiết Điệu trên cơi trần) và có thể ấn định các chu kỳ thích hợp cho các biểu lộ khác nhau của sinh lực trên cơi trần, th́ bấy giờ những ǵ trước kia là một thói quen do bản năng, sẽ trở thành cách dùng sáng suốt của tương lai. Điều này sẽ tạo thành một khoa học hoàn toàn mới, và nhịp điệu của các tiến tŕnh tự nhiên và việc thiết lập, theo thói quen, các chu kỳ đúng của hoạt động thể xác, sẽ mang lại một kỷ nguyên mới của sức khỏe và của các t́nh trạng xác thân lành mạnh cho toàn thể nhân loại. Tôi đă dùng từ ngữ “thiết lập” (“establishing”), v́ khi sự tập trung chú tâm của nhân loại chuyển vào lănh vực có giá trị cao hơn, th́ thể xác sẽ được lợi ích rất nhiều và sức khỏe khang kiện – nhờ cách sống đúng tiết điệu, cộng với tư duy đúng đắn và sự tiếp xúc với linh hồn – sẽ được tạo lập một cách lâu bền.

Do đó có rất ít bệnh tật mà xác thân kế thừa lại có căn bản nơi thể trí. Thật rất khó xác định được các bệnh ấy là ǵ. Có hai lư do cho việc không thể tŕnh bày bằng thống kê:

1. Sự thật là nhân loại tương đối rất ít người an trụ vào thể trí và do đó rất ít suy tư.

2. Sự thật rằng đa số bệnh tật đều thuộc thể dĩ thái hoặc thể cảm dục.

Một yếu tố khác tạo ra sự khó khăn này đó là sự suy tư và các phản ứng t́nh cảm của con người đều có liên quan mật thiết với nhau đến nỗi ở giai đoạn tiến hóa này, không dễ ǵ mà tách rời cảm giác với tư tưởng, hay nói rằng những bệnh thế này hay thế kia xuất phát trong thể cảm dục hoặc thể trí, hoặc nói rằng một số bệnh là do bởi t́nh cảm sai quấy và một số bệnh khác là do tư tưởng sai lầm. Nói chung, trong toàn thể nhân loại ngày nay trên thế giới, kẻ biết suy tư th́ tương đối ít. Số c̣n lại bận tâm tới t́nh cảm, với các nhận thức do giác quan, và với nhiều khía cạnh khác nhau của tính dễ xúc cảm như là tính dễ bực tức, băn khoăn, lo âu quá độ, khao khát hướng về một mục tiêu mong muốn nào đó, ngă ḷng, cùng với sự sống đầy ấn tượng mạnh của các giác quan và của ư thức “cái tôi là trung tâm”. Ít người sống trong thế giới tư tưởng và số người sống trong thế giới thực tại c̣n ít hơn nữa. Khi họ sống như thế th́ tất nhiên là mức trung b́nh của sức khỏe sẽ tốt hơn, bởi v́ có sự hợp nhất hữu hiệu hơn, kết quả là sinh lực hoạt động thông suốt, đến khắp các hiện thể biểu lộ.

91

 
B. SỰ CUỒNG TÍN TRÍ TUỆ.

SỰ VƯỢT TRỘI CỦA CÁC H̀NH TƯ TƯỞNG

Ở đây, tôi xin nêu ra rằng nhiều bệnh tật và khó khăn xuất phát từ những ǵ mà tôi gọi là các thái độ trí tuệ sai lầm, các cuồng tín, các chủ nghĩa lư tưởng bị thất bại và các hy vọng bị ngăn cản, đều thuộc vào ba loại, và khi nghiên cứu các loại này, bạn sẽ thấy rằng xét cho cùng th́ chúng không hề có cội nguồn nào ở thể trí cả, mà chủ yếu là kết quả của tính đa cảm đang xâm nhập vào.

1. Các bệnh gắn liền với hoạt động và công việc bị áp đặt ở cơi trần, đang t́m kiếm động lực thôi thúc của chúng trong các t́nh trạng trí tuệ nói trên. Thí dụ, chúng đưa đến hoạt động mănh liệt và sự làm việc quá sức, do quyết tâm không để thất bại, mà quyết thực hiện công việc theo kế hoạch. Thường th́ kết quả là sự suy nhược hệ thần kinh; kết quả này có thể tránh được nếu t́nh trạng trí tuệ được thay đổi và đạt được nhịp điệu đúng ở cơi trần. Nhưng chính công việc có bản chất vật chất mới tạo ra bệnh tật, hơn là t́nh trạng trí tuệ.

92

 
2. Các bệnh xảy ra do t́nh trạng chống đối đang nhuốm màu mọi cuộc sống và sự biểu lộ của các phản ứng t́nh cảm mănh liệt. Các phản ứng này có thể dựa trên sự nhận thức trí tuệ về Thiên cơ, chẳng hạn cộng với sự thừa nhận rằng các kế hoạch đó không thể hiện được, thường là do sự thiếu khả năng của các dụng cụ hồng trần. Nhưng nguyên do căn bản của bệnh tật là sự nổi loạn về t́nh cảm, và do đó không phải là t́nh trạng trí tuệ. Sự cay đắng, ghê tởm, căm thù và một cảm giác thất vọng có thể và ắt phải tạo ra nhiều t́nh trạng độc hại thường thấy, một trạng thái nhiễm độc chung và sức khỏe kém cỏi mà nhiều người thường mắc phải. Cái nh́n của họ rộng lớn hơn là sự thành đạt của họ, và điều này gây ra nỗi đau khổ về t́nh cảm. Cách chữa trị cho t́nh trạng này nằm trong một từ đơn giản là chấp nhận. Đây không phải là một trạng thái tiêu cực, cam chịu một cuộc sống phục tùng thiếu linh hoạt, mà là một sự chấp nhận tích cực (trong tư tưởng và trong biểu hiện thực tế) một t́nh trạng mà hiện tại dường như không thể tránh được. Sự chấp nhận này dẫn đến việc tránh khỏi phí th́ giờ khi cố làm những việc không thể làm, và đưa tới nỗ lực đúng đắn để xúc tiến những ǵ có thể làm được.

3. Các khó khăn này xảy ra do thể xác không đủ tư cách cho các đ̣i hỏi của đời sống tư tưởng của cá nhân. Thường thường các khó khăn này tự nhiên là một phần của di sản vật chất, và khi trường hợp này xảy ra th́ thông thường cũng không có ǵ nhiều phải làm, dù cho hoài băo có hiện thực và bền bĩ, một số lớn công việc có thể được hoàn thành để cải thiện t́nh trạng và đặt nền móng cho hoạt động có hiệu quả hơn trong một chu kỳ sống khác.

93

 
Tất nhiên, ở đây tôi sẽ bàn càng ngắn càng tốt đến vấn đề chữa trị bằng trí và bàn đến giáo huấn cho rằng mọi bệnh tật đều là sản phẩm của tư tưởng sai lầm. Bạn đang bắt đầu làm việc, và tôi muốn có sự suy tư rơ ràng về điểm này. Hai vấn đề mà tôi đă đưa ra có liên hệ chặt chẽ với nhau. Chúng ta có thể diễn tả chúng dưới h́nh thức hai câu hỏi:

1. Có phải bệnh tật là kết quả của tư tưởng chăng?

2. Năng lực của tư tưởng có thể tạo ra các hiệu quả chữa trị hay không khi được một cá nhân hoặc một nhóm vận dụng?

Như tôi có nói với bạn, do sự kiện nhiều bệnh tật tiềm ẩn trong chính chất liệu của chính hành tinh, hiển nhiên là tư tưởng con người không có trách nhiệm về bệnh tật. Việc đó xảy ra trước khi nhân loại đến hành tinh. Có loại bệnh trong giới khoáng chất, trong giới thực vật và cũng có trong giới động vật nữa, thậm chí trong t́nh trạng hoang dă và trong nơi ở tự nhiên của chúng, không bị con người làm lây nhiễm. Do đó con người không thể chịu trách nhiệm về việc này, cũng không phải là kết quả của suy tư sai lầm của con người. Nó không đưa ra giải đáp cho câu hỏi rằng việc đó phải do tư duy sai lầm của Hành Tinh Thượng Đế hoặc là của Thái Dương Thượng Đế. Đây chỉ là cách lấp lửng vấn đề và là một lối lẩn tránh vấn đề.

Ở đây, tôi muốn nhắc các bạn về hai định nghĩa của nguyên nhân gây bệnh mà tôi đă nêu ra trước đây. Xin các bạn hăy cẩn thận lưu ư:

1. “Mọi bệnh tật là kết quả của sự sống linh hồn bị ức chế. Điều này đúng cho mọi h́nh hài trong mọi giới”.

2. “Bệnh tật là sản phẩm của và tùy thuộc vào ba ảnh hưởng. Thứ nhứt là quá khứ của một người, trong đó y trả giá cho lỗi lầm trước kia. Thứ hai là sự kế thừa của y, trong đó y chia sớt với nhân loại về các ḍng năng lượng bị ô nhiễm vốn có nguồn gốc tập thể. Thứ ba là y chia sớt với mọi h́nh hài trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chúa Sự Sống đặt ra cho các h́nh hài này. Ba ảnh hưởng này được gọi là Định Luật Cổ Xưa về sự chia sớt Điều ác. Một ngày nào đó nó phải nhường chỗ cho định luật mới là “Định Luật về Điều Thiện Cổ Xưa Chi Phối”. Định luật này sẽ được linh hoạt nhờ ư chí tinh thần của con người”.

94

 
Nếu phân tích bốn nguyên nhân của bệnh tật được nêu ra ở đây, bạn sẽ ghi nhận rằng sau rốt bệnh tật sẽ bị chế ngự bằng sự khai phóng linh hồn trong mọi h́nh hài, và việc này sẽ được thực hiện bằng cách vận dụng linh hoạt ư chí tinh thần của con người. Chúng ta có thể diễn tả điều này theo lối khác, và nói rằng khi năng lượng linh hồn và việc sử dụng đúng ư chí (trong cá nhân, nó là phản ánh và là tác nhân của năng lượng ư chí của linh hồn) được phóng rải và được điều khiển đúng bởi trí tuệ, th́ bấy giờ bệnh tật có thể được đối trị và rốt cuộc bị trừ khử. Thế nên, chính là nhờ đặt năng lượng cao hơn và nhịp điệu cao hơn lên các mănh lực thấp mà bệnh tật có thể được kiềm chế. Do đó, bệnh hoạn là kết quả trong xác thân của sự thất bại, v́ không mang lại được các năng lượng và các nhịp điệu cao, và đến lượt nó, sự thất bại này lại tùy thuộc tŕnh độ tiến hóa.

Chính nhận thức mơ hồ về sự thất bại này và việc hiểu rơ các sự kiện nói trên đă làm cho rất nhiều nhóm tin vào việc chữa trị bệnh tật bằng năng lực của tư tưởng, họ quy sự xuất hiện của bệnh tật cho việc suy tư sai lầm. Tuy nhiên trong thực tế, một ngày nào đó, nhân loại phải học biết rằng chỉ có tâm thức cao của linh hồn, tác động qua trí tuệ, sau cùng mới có thể giải quyết được vấn đề khó khăn này.

95

 
Bởi thế, chúng ta không thể xác quyết rằng, theo qui luật chung, bệnh tật có bất cứ liên hệ nào với tư tưởng. Bệnh tật chỉ là việc dùng sai các lực của cơi dĩ thái, cảm dục và hồng trần. Đa số nhân loại đều bất lực, không thể làm ǵ được, chẳng hạn như, các lực vốn tạo ra thể xác, đang đi ngang qua, và đang tác động vào thể xác đó, đều được truyền lại từ một quá khứ rất xa xăm, là thành phần tạo nên môi trường chung quanh và tạo nên sự sống tập thể mà họ ḥa nhập và chia sớt với mọi huynh đệ của họ. Chất lực (force-matter) đó bị làm méo mó v́ các kết quả của những nhịp điệu sai lầm thời xưa, các lực bị dùng sai và các tính chất bị kế thừa. Khi được biểu lộ nhờ sự suy tư đúng, năng lượng linh hồn có thể chữa các bệnh mà con người có khuynh hướng mắc phải. Chính v́ không thể suy tư, ghi nhận và biểu lộ được các trạng thái tâm thức cao mới đưa đến các nhịp điệu sai lầm. Bởi vậy, tôi lặp lại rằng bệnh tật không phải là kết quả của tư tưởng.

C. CHỦ NGHĨA LƯ TƯỞNG BỊ NGĂN CẢN

Tuy nhiên, có một số bệnh xuất hiện trong thể xác và thực sự là bắt nguồn từ các hoạt động (vốn là kết quả của việc suy tưởng đặc biệt) bị nhuốm màu và bị qui định bởi cuộc sống t́nh cảm của cá nhân, cuộc sống t́nh cảm này là cội nguồn bổ ích của bệnh và của các nhịp điệu sai lầm đă ăn sâu. Do đó, chính ưu thế của lực cảm dục mới thực sự tạo ra bệnh tật ở thể xác, chứ không phải của năng lượng trí tuệ. Ở đây, tôi không đề cập đến các bệnh tật của hệ thần kinh và của bộ óc, vốn là kết quả của sự kích thích quá độ và của sự tác động của năng lượng (thường là từ trí tuệ và linh hồn) vào một khí cụ không thích hợp để sử dụng năng lượng đó. Chúng ta sẽ xem xét các bệnh này về sau. Tôi chỉ đề cập đến tŕnh tự các diễn biến sau đây trong cuộc sống tâm lư và các hoạt động là các hậu quả tiếp theo:

Bệnh tật là một h́nh thức của hoạt động.

1. Hoạt động và năng lượng trí tuệ (nhờ sức mạnh của tư tưởng), tạo nên sự ghi nhận về kế hoạch, các chủ nghĩa lư tưởng và các tham vọng.

2. Năng lượng này, phối hợp với năng lượng cảm dục, trở nên bị chế ngự và bị chi phối bởi các phản ứng cảm dục thuộc loại bất hảo, như là sự lo lắng về công việc không hoàn thành, không thể hiện được các kế hoạch v..v.. Bởi thế, cuộc sống trở thành đắng cay.

3. Bấy giờ, bệnh tật mới xuất hiện trong thể xác, tùy theo các khuynh hướng dắt dẫn của cơ thể và các suy nhược bẩm sinh, di truyền.

96

 
Bạn cần lưu ư rằng trong thực tế, thể trí và quyền năng của tư tưởng, không bao giờ là nguyên nhân của bệnh tật. Bệnh tật xảy ra do tư tưởng nguyên thủy bị xóa sạch và giảm xuống cấp độ của tính dễ xúc cảm (emotionalism). Khi sự hạ giảm này và sự kiềm chế sau rốt của lực cảm dục không xảy ra và tư tưởng vẫn rơ ràng và không bị ảnh hưởng trên cơi trí, th́ có thể có loại bệnh tật khác, v́ tư tưởng không được “chuyển thành” hành động hữu hiệu ở cơi trần. Sự thất bại này không những tạo ra sự nứt rạn trong phàm ngă (nhà tâm lư học thực hành biết rất rơ) mà c̣n cắt đứt một ḍng năng lượng rất cần thiết. Hậu quả là thể xác bị mất sinh khí và hứng chịu một sức khỏe tồi tệ. Khi tư tưởng có thể được chuyển qua bộ óc hồng trần và ở đó trở thành một phương tiện điều khiển sinh lực, bạn thường có một t́nh trạng sức khỏe tốt và điều này được chứng minh là đúng dù cho tư tưởng của cá nhân là tốt hay xấu, được thúc đẩy đúng hay định hướng sai. Đó chỉ là kết quả của sự hội nhập, bởi v́ những vị thánh và những kẻ tội lỗi, những kẻ ích kỷ và những người bất vị kỷ cũng như tất cả mọi hạng người, đều có thể đạt được sự hội nhập và một đời sống được tư tưởng hướng dẫn.

Câu hỏi thứ hai được đặt ra là liệu một cá nhân hoặc là một nhóm có thể chữa trị bằng quyền năng tư tưởng không?

97

 
Chắc chắn là nói chung một cá nhân và một nhóm đều có thể chữa trị, và tư tưởng có thể góp phần mạnh mẽ của nó trong tiến tŕnh chữa trị, nhưng không phải chỉ có một ḿnh tư tưởng mà thôi. Tư tưởng có thể là tác nhân hướng dẫn các lực c̣n các năng lượng vốn có thể phá tan và xua đuổi bệnh tật, nhưng tiến tŕnh này phải được trợ giúp bằng năng lực h́nh dung, bằng khả năng tác động với các mănh lực đặc biệt được cho là nên theo, bằng sự thông hiểu về các cung và các loại năng lượng của cung đó, cũng như bằng khả năng sử dụng chất liệu ánh sáng (light substance) như thường được gọi. Phải thêm vào các lực này khả năng giao cảm với bệnh nhân, cộng với ḷng yêu thương. Thực ra, khi các điều kiện này được đáp ứng, th́ việc vận dụng khả năng suy tưởng quá nhiều và vận dụng trí tuệ quá mạnh có thể chặn đứng và cản trở công việc chữa trị. Tư tưởng phải chi phối động cơ ban đầu, đem trí tuệ của nhà trị liệu gánh vác vấn đề chữa trị để t́m hiểu bản chất của bệnh nhân; nhưng một khi tư tưởng đă giúp vào sự tập trung chú tâm của người chữa trị và nhóm chữa trị, nó phải trở nên một tác nhân vững vàng nhưng điều khiển từ trong tiềm thức và không có ǵ hơn nữa.

Khi nào có thể th́ việc chữa trị được hoàn thành bằng việc sử dụng năng lượng được chỉ dẫn đúng hướng và bằng việc h́nh dung một cách tỉ mỉ; t́nh thương cũng đóng một vai tṛ quan trọng, cũng như vai tṛ mà trí tuệ đóng trong giai đoạn đầu. Có lẽ tôi nên nói rằng ḷng bác ái là một trong các năng lượng mạnh mẽ nhất trong tất cả các năng lượng đă được sử dụng.

Tôi đă đưa bạn chú ư đến hai câu hỏi này, bởi v́ tôi muốn cho trí bạn thông suốt các vấn đề này trước khi bạn bắt đầu bất cứ công tác chữa trị tập thể nào.

98

 
Tư tưởng không thể chữa trị bệnh tật, cũng không thể gây ra bệnh tật. Tư tưởng phải được vận dụng trong các tiến tŕnh, nhưng nó không phải là tác nhân duy nhất hoặc quan trọng nhất. Chính ở điểm này mà nhiều nhóm và nhà trị liệu đi lạc đường. Thể trí có thể điều khiển năng lượng, và đến phiên năng lượng này có thể gây ra sự kích thích quá độ ở bộ óc và nơi các tế bào cơ thể và thế là gây ra bệnh thần kinh và một đôi khi bệnh năo, nhưng chính thể trí và việc suy tư, tự chính nó, không thể tạo ra bệnh tật và rối loạn trong xác thân. Khi nhân loại học được cách suy tư rơ ràng và dứt khoát, và khi các định luật về tư tưởng bắt đầu chi phối tâm thức nhân loại, th́ bệnh tật – như chúng ta biết hiện nay – sẽ được giảm bớt phần lớn và ngày càng có nhiều người đạt được sự hội nhập. Nơi nào có sự hội nhập, th́ nơi đó có sự hoạt động thông suốt của lực và năng lượng khắp thể xác. Tuy nhiên, các vấn đề kích thích sẽ ngày một nhiều hơn, với sự nhạy cảm tăng lên của thể xác và con người ngày càng tập trung tâm thức của ḿnh trong bản chất trí tuệ. Điều này sẽ tiếp tục cho đến khi con người học được cách làm thế nào để vận dụng được các năng lượng cao và nhận thấy cần có một cuộc sống nhịp nhàng và chú ư đến Định Luật Chu Kỳ.

Trong việc chữa trị, một số qui tắc nên được người chữa trị nắm vững và tuân theo. Tôi đă đưa ra ba qui tắc quan trọng. Chúng cũng chỉ được đưa ra vắn tắt như sau, và tôi chia qui tắc 1 thành các phần nhỏ để cho rơ ràng.

1. a- Nhà chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn của y, tim, óc và hai bàn tay của y. Như thế, y có thể tuôn đổ sinh lực với quyền năng chữa trị vào bệnh nhân. Đây là công tác từ điển.

    b- Nhà chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn y, óc, tim và bức xạ hào quang của y. Như thế, sự hiện hữu của y có thể cung cấp cho sự sống linh hồn của bệnh nhân. Đây là công tác bức xạ. Hai bàn tay không cần đến. Linh hồn phô bày quyền năng của nó.

2. Nhà chữa trị phải đạt được sự tinh khiết về từ điển, nhờ sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt cho được sự chói lọi có tính cách xua đuổi đó, chính nó biểu lộ trong mỗi người một khi mà y đă liên kết được các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này đă được thiết lập, bấy giờ bức xạ (radiance) mới phát ra.

3. Nhà chữa trị hăy tự luyện tập để biết giai đoạn bên trong của tư tưởng hoặc của ước muốn của kẻ t́m sự giúp đỡ của y. Nhờ đó, y có thể biết được cội nguồn từ đó bệnh tật xuất phát. Nhà chữa trị hăy liên kết nguyên nhân và hậu quả và biết được mức độ chính xác nhờ đó sự thuyên giảm phải đến.

Ở đây tôi muốn nêu ra một qui luật khác cho các bạn, với tư cách là một nhóm để hợp thành bốn qui luật chính:

QUI LUẬT BỐN

Nhà chữa trị và nhóm chữa trị phải giữ lại ư chí. Không phải dùng ư chí, mà là dùng t́nh thương.

99

 
Qui Luật cuối cùng này rất quan trọng. Ư chí được tập trung của bất cứ cá nhân nào và ư chí có hướng dẫn của một nhóm hợp nhất không nên dùng đến bao giờ. Tự do ư chí của cá nhân người bệnh đừng bao giờ để bị lệ thuộc vào tác động của một nhóm hoặc của một cá nhân được tập trung mạnh mẽ. Đó là một phương pháp quá nguy hiểm không được phép làm. Năng lượng ư chí (đặc biệt là năng lượng của một số người đồng thời tác động trên các thể tinh anh và thể xác của bệnh nhân) có thể làm cho bệnh thêm trầm trọng thay v́ chữa lành. Nó có thể kích thích chính căn bệnh đến mức độ nguy hiểm, và phá vỡ, thay v́ hợp tác với các lực chữa trị của thiên nhiên, và thậm chí rốt cuộc có thể giết chết bệnh nhân bằng cách làm tăng cơn bệnh đến nỗi sức đề kháng b́nh thường của người bệnh có thể trở nên vô hiệu. Do đó, tôi muốn đ̣i hỏi bạn trong bất luận công tác chữa trị tập thể nào, phải giữ cho ư chí (và ngay cả sự ước muốn mănh liệt) đ́nh chỉ. Chỉ những điểm đạo đồ ở cấp cao mới được phép chữa trị bằng sức mạnh của ư chí, được tập trung vào Quyền Lực Từ, và sở dĩ làm được điều này chỉ v́ các vị này có thể trắc nghiệm năng lực của bệnh nhân, mức căng thẳng của bệnh, và cũng biết có nên dùng ư chí của linh hồn để chữa bệnh đó hay là không.

Trong tiết này, chúng ta đă nhắc đến nhiều khía cạnh quan trọng, và cần phải được bạn nghiên cứu cẩn thận. Trong tiết mục tới, chúng ta sẽ xét đến các vấn đề đặc biệt của hạng đệ tử. Để chuẩn bị cho tiết này, yêu cầu các bạn hăy chú ư nghiên cứu giáo huấn mà tôi đă nêu ra trước đây về các bệnh của nhà thần bí. (Trong “Luận Về Bảy Cung”, quyển II, trang 520 – 625).

Nhiều điều đă nói đến ở đó, tôi không cần lặp lại, mà nên nhập vào các huấn điều của chúng ta về trị liệu. Tôi đề nghị các bạn hăy đọc chúng để biết ít nhiều về chính các vấn đề, cả về lư thuyết lẫn theo hiểu biết của chính bạn. Cơ lẽ bạn sẽ biết được một vài khó khăn trong số này, bằng chính kinh nghiệm riêng của bạn, ít ra cũng ở một mức độ nào đó.

 

THUẬT CHỮA TRỊ THIÊNG LIÊNG

100

 
Trong bộ luận này tôi không định bàn đến bệnh lư học, với các hệ thống của nó và các chỉ dẫn ác hại của các hệ thống đó. Các chỉ dẫn này có đầy dẫy trong bất cứ luận đề y học và sách y khoa thông thường nào. Hỡi các huynh đệ, tôi không huấn luyện y sĩ hay có thẩm quyền y học, tôi cũng không có th́ giờ để miệt mài với các kỹ thuật. Những ǵ mà tôi bàn đến là để nêu ra một vài ư kiến cho thế gian về các nguyên nhân xác thực và huyền bí của bệnh tật và các cội nguồn ẩn tàng của chúng và bàn đến việc chữa trị, như nó được Thánh Đoàn xúc tiến và chuẩn nhận.

Thực ra, công việc là vận dụng năng lượng một cách sáng suốt, áp dụng với t́nh thương và khoa học. Tất cả những ǵ mà tôi nói với bạn là kết quả của kinh nghiệm. Việc chữa trị như thế thuộc về hai loại:

1. Trong cách chữa trị bằng từ điển, nhà chữa trị hay nhóm chữa trị làm hai điều:

a. Y thu hút vào trung tâm chữa trị loại năng lượng vốn dĩ sẽ làm mất tác dụng của bệnh.

Đây tất nhiên là một vấn đề rộng lớn và có một ư nghĩa khoa học sâu xa. Một vài loại thần lực của cung có thể được dùng với một vài loại bệnh, đ̣i hỏi phải dùng một số bí huyệt đặc biệt để phân phối. Các loại thần lực của cung này sẽ được xem xét và vạch ra khi chúng ta đến chương có tiêu đề “Bảy Cách Chữa Trị” (trang 693).

b. Người chữa trị thu hút vào chính y và hấp thu các mănh lực vốn tạo ra bệnh, tách nó ra khỏi người bệnh.

Diễn tiến sau này cần có sự đề pḥng cẩn thận của nhà trị liệu để tránh mọi lây nhiễm của bệnh, sao cho các mănh lực đó không thể t́m được một chỗ nào trong cơ thể người chữa trị. Cũng phải có việc cung cấp năng lượng mới cho bệnh nhân để thế chỗ cho năng lượng đă bị tách ra. Diễn tiến này tạo ra một sự tương tác rơ rệt giữa nhà chữa trị và bệnh nhân. Tất nhiên là có một số nguy hiểm thực sự trong việc chữa trị theo huyền môn này, và v́ lư do đó, các nhà chữa trị khi được huấn luyện sẽ ghi nhớ rằng họ sẽ làm việc như một nhóm chứ không phải như các cá nhân. Việc lưu chuyển thông suốt thần lực sẽ tạo ra sức khỏe tráng kiện trong cá nhân hoặc nhóm.

101

 
Việc lưu chuyển thông suốt thần lực giữa người trị liệu hay nhóm trị liệu với bệnh nhân có thể chữa lành bệnh, miễn là số phận chữa lành của bệnh nhân đă được an bài, và có thể có sự hợp tác của bệnh nhân, dù cho điều này không thực sự cần thiết. Nó làm cho dễ dàng và có kết quả nhanh chóng hơn trong nhiều trường hợp. Trong các trường hợp khác, sự lo âu của bệnh nhân có thể làm cho các kết quả mong muốn không có được.

2. Trong việc chữa trị bằng bức xạ, tiến tŕnh đơn giản hơn và an toàn hơn, v́ nhà trị liệu chỉ việc gom góp sức mạnh vào chính ḿnh, và lúc bấy giờ phóng phát nó vào người bệnh dưới h́nh thức một ḍng năng lượng bức xạ đang tuôn ra. Ḍng năng lượng này sẽ được hướng đến bí huyệt gần nhất đối với vị trí của bệnh.

Trong công tác này; không có sự rủi ro đối với nhà chữa trị, nhưng nếu yếu tố ư chí đi vào tư tưởng của y, hay là ḍng năng lượng được phóng ra quá mạnh, có thể nguy hiểm đối với bệnh nhân. Tác động của thần lực đang được tỏa ra trên bệnh nhân không những có thể tạo ra sự căng thẳng thần kinh, mà c̣n có thể làm cho bệnh trầm trọng thêm và việc tăng thêm sức mạnh của nó bằng cách kích thích các nguyên tử và các tế bào có liên quan trong hoạt động của lực chịu trách nhiệm về bệnh tật. V́ lư do này, những kẻ mới vào nghề chữa trị phải tránh bất cứ sự tập trung nào trên chính chỗ bệnh hay là khu vực trong xác thân có dính dáng tới, và cẩn thận giữ cho tất cả mọi tư tưởng tạm thời đ́nh chỉ, một khi mà công tác sơ khởi đă được làm, v́ năng lượng bao giờ cũng đi theo tư tưởng và đi đến nơi nào mà tư tưởng được tập trung.

102

 
Nhà trị liệu phải xác định được hiệu quả của những ǵ mà họ đang thử và sức mạnh của công tác tập thể có kết hợp của họ, và của thần lực mà họ có thể vận dụng. Họ cũng phải t́m ra năng lực của họ để giữ cho ư chí ở hậu cảnh, và gởi bức xạ chữa trị đi vào ḍng năng lượng bác ái. Luôn luôn ghi nhớ rằng bác ái là năng lượng, và đó chính là một chất liệu có thật như là vật chất trọng trược. Chất liệu đó có thể được dùng để xua đuổi mô bị bệnh và cung cấp chất thay thế lành mạnh thay cho chất bệnh hoạn, chất bệnh hoạn sẽ bị loại ra.

Do đó, trong chu kỳ hoạt động thứ nhất, họ sẽ thử nghiệm phương pháp bức xạ. Nó đơn giản hơn và dễ khống chế hơn nhiều. Về sau, họ có thể thực nghiệm với phương pháp chữa trị bằng từ điện.

Bây giờ, bạn sẽ thấy mục đích của các qui tắc có liên hệ đến cách chữa trị mà trước kia tôi đă nêu ra trong loạt giáo huấn này. Bạn sẽ hiểu được tại sao, trong công tác bức xạ này, diễn tŕnh liên kết sẽ bao gồm linh hồn, bộ óc và toàn thể hào quang hay là từ trường hoạt động của cá nhân hoặc của nhóm. Thể trí không được kể đến hoặc dính líu vào đó, c̣n bộ óc tác động một ḿnh như là tụ điểm của bác ái, và lực chữa trị phải được phóng vào trong ḍng năng lượng đang phát ra từ bí huyệt ấn đường.

Do đó, nhà chữa trị sẽ giữ cho mọi sức mạnh được tập trung trong đầu và sự chú tâm của y cũng được tập trung vào đó. Tim sẽ được tự động bao hàm trong đó, v́ lần đầu tiên y sẽ dùng năng lượng bác ái một cách toàn bộ.

103

 
Bây giờ, chúng ta hăy kê ra các qui tắc mà theo đó mọi nhóm chữa trị phải làm. Ở đây, tôi xin thêm rằng không phải luôn luôn cần hoặc có thể gặp và làm việc chung với nhau trong việc thành lập nhóm. Công việc này có thể được tiến hành một cách có hiệu quả và một cách mạnh mẽ, nếu các thành viên làm việc như một nhóm bên trong (chủ quan); lúc bấy giờ, mỗi thành viên sẽ tuân theo các giáo huấn mỗi ngày và y như thể y đang làm việc trong nhóm của y dưới h́nh thức hữu h́nh. Khoen nối thực sự này được mang lại bằng sự tưởng tượng của chính y như là có sự hiện diện của các huynh đệ y. Nếu chúng được đáp ứng như là một nhóm trên cơi trần, thật là khó mà ngăn chận sự tiêu hao thần lực qua sự bàn căi, qua các lời pha tṛ thông thường trong lúc hội họp, và qua sự tương tác vật chất giữa các phàm ngă. Điều không thể tránh khỏi là có quá nhiều cuộc nói chuyện và công việc được làm mà không có hiệu quả thích hợp. Theo quan điểm trần gian, họ làm việc một ḿnh; theo quan điểm chân chính nội môn, họ làm việc trong sự hợp tác chặt chẽ nhất.

Đây là các qui luật thứ nhứt mà tôi muốn môn sinh nên quán triệt:

CÁC QUI LUẬT MỞ ĐẦU CHO VIỆC TRỊ LIỆU BẰNG BỨC XẠ

1. Sau khi tạo được sự chỉnh hợp hữu thức và mau lẹ cho riêng bạn, bằng tác động của ư chí, bạn hăy liên kết như một linh hồn với nhiều linh hồn của các huynh đệ thuộc nhóm của bạn. Kế đó, liên kết với các thể trí của họ, và sau đó với các bản chất t́nh cảm của họ. Hăy làm điều này bằng cách sử dụng sự tưởng tượng, do hiểu được rằng năng lượng theo sau tư tưởng và rằng tiến tŕnh liên kết không thể tránh khỏi nếu được làm đúng. Bấy giờ, bạn có thể tác động như một nhóm. Kế đó, quên đi sự liên hệ của nhóm và tập trung vào công việc phải làm.

2. Kế đó, trong chính bạn, hăy liên kết linh hồn với bộ óc và gom chung lại các mănh lực của bác ái vốn có trong hào quang của bạn, và tập trung chính bạn và tất cả những ǵ mà bạn phải đưa ra bên trong đầu, h́nh dung chính bạn như một trung tâm năng lượng tỏa chiếu hay là một điểm sáng chói lọi. Ánh sáng này là để phóng ra trên bệnh nhân qua bí huyệt ấn đường giữa hai mắt.

3. Sau đó, đọc thần chú sau đây của nhóm:

“Với sự tinh khiết của động lực, được gợi ra bằng một ḷng bác ái, chúng tôi hiến dâng chính chúng tôi cho công tác chữa trị này. Chúng tôi làm việc này với tư cách một nhóm và cho người mà chúng tôi t́m cách chữa trị”.

104

 
Khi làm việc đó, bạn hăy h́nh dung tiến tŕnh liên kết đang nối tiếp. Hăy xem nó như là các tuyến hoạt động của chất liệu ánh sáng sinh động, liên kết bạn với các huynh đệ của bạn ở một mặt và với bệnh nhân ở mặt khác. Cảm nhận các tuyến này đang xuất phát từ bạn tới bí huyệt tim của nhóm và tới bệnh nhân. Nhưng công việc bao giờ cũng đi từ bí huyệt ấn đường cho đến khi được huấn luyện để làm một cách khác hơn. Theo cách này, bí huyệt ấn đường và bí huyệt ở tim của tất cả mọi người có dính líu sẽ được liên kết chặt chẽ với nhau. Bạn sẽ thấy giá trị của việc h́nh dung xuất hiện ở đây. Thực ra, đó là sự ngoại hiện bằng dĩ thái của sức tưởng tượng sáng tạo. Hăy suy đoán về câu cuối cùng này.

4. Kế đó, hăy dùng tư tưởng, tư tưởng có hướng dẫn, trong một lúc ngắn ngủi và nghĩ đến kẻ mà bạn t́m cách chữa trị, liên kết với y, và tập trung sự chú tâm của bạn về y sao cho y trở thành một thực tại trong tâm thức bạn và liên kết với bạn. Khi bạn biết được nỗi khó khăn vật chất là ǵ, bấy giờ chỉ việc nhắc nó lại trong trí và rồi xua nó đi. Bấy giờ hăy quên đi các chi tiết của công việc, như là nhóm, chính bạn và nỗi khó khăn của bệnh nhân, và tập trung vào loại thần lực mà bạn sắp vận dụng, trong trường hợp này và đối với hiện tại, vốn là thần lực của cung hai, thần lực bác ái. Những ǵ mà tôi nêu ra ở đây là một mô phỏng theo phương pháp chữa trị của cung hai, được sắp xếp cho những kẻ mới bắt đầu.

105

 
5. Cảm thấy một ḷng bác ái sâu xa đang tuôn đổ vào bạn. Lưu tâm đến điều đó như là ánh sáng có thật mà bạn có thể và sẽ vận dụng. Kế đó, hăy gửi nó ra như là một ḍng ánh sáng tỏa chiếu từ huyệt ấn đường và điều khiển nó nhờ hai bàn tay của bạn đến bệnh nhân. Khi làm điều này, hăy giữ hai bàn tay trước mắt, ḷng bàn tay hướng ra ngoài, các lưng bàn tay kế cận với mắt và cách xa mặt chừng 6 inches (15cm24). Theo cách này, ḍng năng lượng đang tuôn ra từ bí huyệt ấn đường, trở nên chia hai và tuôn đổ qua hai bàn tay. Cứ như thế mà được hướng về phía bệnh nhân. H́nh dung nó như đang tuôn ra và cảm thấy người bệnh đang thu nhận nó. Khi làm điều này, bạn hăy nói to lên bằng một giọng trầm:

“Cầu xin ḷng bác ái của Linh Hồn Duy Nhất, tập trung vào nhóm này, tỏa chiếu lên bạn, hỡi huynh đệ, và thấm nhuần mọi phần của cơ thể bạn – chữa trị, xoa dịu, làm cho mạnh lên, và làm tiêu tán tất cả những ǵ đang ngăn cản việc phụng sự và sức khỏe tráng kiện”.

Thốt ra lời đó một cách chậm chạp và một cách thong thả, tin tưởng vào các kết quả. Nên biết rằng không có sức mạnh tư tưởng hay sức mạnh ư chí nào nhập vào ḍng năng lượng chữa trị, mà chỉ có ḷng bác ái được tập trung đang tỏa chiếu. Việc vận dụng năng lực h́nh dung và sức tưởng tượng sáng tạo, cộng với một nhận thức về ḷng bác ái sâu xa và vững chắc, sẽ giữ thể trí và ư chí ở t́nh trạng ngưng đọng.

Tôi xin nhấn mạnh về nhu cầu cấp thiết đối với sự im lặng hoàn toàn và sự dè dặt lời nói trong sự tương quan với mọi công tác chữa trị. Đừng bao giờ để cho người nào mà bạn đang thực hành cách này biết được điều đó, và đừng bao giờ nhắc cho người nào về các danh tính của những kẻ mà bạn đang t́m cách trợ giúp. Đừng bao giờ nói đến bệnh nhân đang được chữa trị cho dù ở trong chính các bạn. Nếu qui luật im lặng căn bản này không được giữ đúng, điều đó sẽ chứng tỏ rằng bạn chưa sẵn sàng cho công tác này và sẽ làm gián đoạn nó. Huấn thị này c̣n quan trọng hơn là bạn hiểu; v́ lời nói và việc bàn bạc không những chỉ có khuynh hướng làm lệch đi và làm phân tán thần lực, mà c̣n vi phạm một qui luật căn bản mà tất cả các nhà trị liệu được tập luyện để giữ và ngay cả giới y khoa trên cơi trần cũng noi theo cùng cách thức chung.

BA ĐỊNH LUẬT CHÍNH VỀ SỨC KHỎE

Có ba định luật chính về sức khỏe và bảy định luật phụ. Các định luật này được thể hiện trong ba cơi thấp, vốn là những ǵ có liên hệ đến bạn trong lúc này. Trong mọi giáo huấn được đưa ra trong tương lai trước mắt, tầm quan trọng chính sau rốt sẽ được đặt vào kỹ thuật về thể dĩ thái, v́ đó là giai đoạn tiến tới kế tiếp. Ba định luật chính yếu là:

106

 
1- Định luật kiểm soát ư chí muốn sống, một biểu hiện của Ngôi Một Thượng Đế, tức ư chí hay quyền năng .

2-                 Định luật kiểm soát sự b́nh đẳng của chu kỳ, một biểu hiện của Ngôi Hai của Thượng Đế, tức là bác ái hay minh triết.

3- Định luật kiểm soát sự kết tinh, một biểu hiện của Ngôi Ba của Thượng Đế, tức trạng thái hoạt động hay trạng thái căn bản .

Cả ba định luật chính này chi phối các yếu tố hay các định luật tự biểu lộ qua ba phân chia chính của con người .

1. Trạng thái ư chí biểu lộ qua các cơ quan hô hấp. Một trạng thái biểu lộ khác của nó là khả năng ngủ. Trong cả hai biểu lộ này, bạn có một sự lặp lại hay một tương đồng trong tiểu thiên địa của chu kỳ biểu lộ và ngơi nghỉ của Thượng Đế.

2. Trạng thái bác ái tự biểu lộ nhờ tim, hệ tuần hoàn và hệ thần kinh. Về nhiều mặt, đây là điều quan trọng nhất cho bạn t́m hiểu, v́ nó kiểm soát một cách tuyệt đối thể dĩ thái và cách đồng hóa prana hay sinh khí của nó. Prana này tác động qua cả hai ḍng máu và thần kinh, v́ sinh lực (life force) sử dụng ḍng máu và sức mạnh tâm linh tác động qua hệ thần kinh. Cả hai bộ phận này của cơ thể là các bộ phận vốn gây phần lớn bệnh tật vào lúc này và thậm chí sẽ nhiều hơn trong tương lai. Nhân loại học hỏi qua đau khổ và chỉ có nhu cầu cấp thiết mới thúc đẩy con người t́m cách giải quyết và giảm thiểu. Theo quan điểm chữa trị hiện nay, con người lại tạo thành một bộ ba nhỏ hơn rất quan trọng:

107

 
a) Nhục thân, là cái mà khoa học và y học biết đến nhiều.

b) Thể dĩ thái, vốn là lănh vực nỗ lực kế tiếp để kinh nghiệm và để khám phá.

c) Thể cảm dục, đồng thời với thể dĩ thái, là đối tượng kế tiếp cho việc chế ngự của khoa học. Khoa tâm lư học sẽ hoạt động ở đây.

3.Trạng thái hoạt động, vốn biểu lộ trước tiên qua các cơ quan đồng hóa và thải trừ. Ở đây tôi t́m cách nhấn mạnh một điều. Giống như thái dương hệ của chúng ta đang phát triển trạng thái bác ái, tức là trạng thái thứ hai, và giống như con người đang an trụ vào thể cảm dục, vốn là phản ánh của trạng thái thứ 2 đó, cũng thế, bộ phận thứ hai trong số ba bộ phận được nhắc đến ở trên của cơ thể người, tức dĩ thái thể, là quan trọng nhất. Cho đến nay, nó đă là chỗ truyền đạt chính yếu của năng lượng cảm dục cho thể xác. Nay điều này đang trong tiến tŕnh thay đổi.

108

 
Toàn bộ khuynh hướng của y khoa hiện nay sẽ được thức tỉnh trước các sự kiện cụ thể về nhục thân và hướng về việc nghiên cứu việc tiếp sinh khí và sự lưu thông, v́ cả hai có liên quan chặt chẽ với nhau. Ngày nay, hệ thần kinh được kiểm soát phần lớn từ thể cảm dục, xuyên qua thể dĩ thái, và căn bản của mọi bệnh thần kinh ẩn tàng trong thể t́nh cảm, nơi mà vào lúc này, nhân loại được an trụ vào. Hệ tuần hoàn của thể xác được kiểm soát phần lớn từ thể dĩ thái. Khi nào bạn có một thể dĩ thái không vận hành thích đáng và không truyền prana đầy đủ, và khi bạn có một thể cảm dục không được kiểm soát thích đáng, bạn sẽ có trong hai thể này cội nguồn của đa số bệnh tật và các t́nh trạng thần kinh và trí tuệ tăng gia hằng năm. Tác động phản xạ của sự lưu thông không tương xứng trên bộ óc hồng trần (lại do dĩ thái thể) đưa đến sự căng thẳng trí tuệ và sự suy sụp sau cùng. Do điểm đó, bạn có thể thấy sự quan trọng của thể dĩ thái.

Trạng thái thứ nhất, mà sự biểu lộ và lănh vực kiểm soát của nó là các cơ quan hô hấp và khả năng ngủ, khi không vận hành thích hợp, sẽ gây ra tử vong, mất trí và một số bệnh về năo bộ .

Trạng thái thứ ba, khi không vận hành thích hợp sẽ gây ra đau bao tử, các chứng đau ruột và các bệnh khác nữa nằm ở dưới huyệt đan điền trong bụng dưới.

Do đó, bạn sẽ thấy, sau rốt y học phải làm sao t́m giải pháp bằng cách đơn giản hóa các phương pháp và quay trở lại từ sự phức tạp của thuốc men và mổ xẻ, đến một sự hiểu biết về cách sử dụng đúng các năng lượng đang tuôn đổ từ con người nội tâm, xuyên qua dĩ thái thể đến thể xác.

Các gợi ư sau đây có thể hữu ích:

1. Bằng sự phát triển thiện chí, vốn là ư muốn của dự tính và động lực tốt lành, sẽ đưa đến việc chữa trị các bệnh của bộ máy hô hấp, phổi và cổ họng, làm ổn định các tế bào năo bộ, chữa các bệnh mất trí và ám ảnh, đạt đến sự thăng bằng, nhịp nhàng. Sự trường thọ sẽ theo sau, v́ cái chết sẽ xảy ra khi nào linh hồn nhận thức được là công việc đă hoàn thành và cần sự an nghỉ. Điều đó sẽ chỉ xảy ra sau này vào các giai đoạn lâu dài và riêng rẽ, và sẽ được ư chí con người kiểm soát. Y sẽ ngừng thở khi nào y đă chấm dứt công việc, và lúc bấy giờ sẽ gửi các nguyên tử của thể xác y vào trạng thái pralaya (ngơi nghỉ). Đó là sự ngủ của thể xác, chấm dứt chu kỳ biểu lộ và ư nghĩa huyền bí của điều này chưa được thấu hiểu.

109

 
2. Bằng sự thấu hiểu các định luật về sức sống (vitality) và trong câu này có bao hàm các định luật đang cai quản prana, bức xạ và từ điển – sẽ tiến đến việc chữa trị các bệnh trong máu, của động mạch và tĩnh mạch, một số bệnh thần kinh, thiếu sinh lực, lăo–suy, sự tuần hoàn kém cỏi và các bệnh tương tự. Điều này cũng sẽ tạo ra kết quả trong việc kéo dài đời sống. Các định luật về điện năng cũng sẽ được hiểu rơ hơn trong mối liên hệ này.

1. Bằng sự hiểu biết các phương pháp đúng để đồng hóa và thải trừ sẽ tiến đến việc chữa trị các bệnh có liên quan đến các mô của cơ thể, bao tử và ruột cùng với các cơ quan sinh sản của nam và nữ. Và một ngày nào đó người ta sẽ hiểu được rằng các bệnh sau này chỉ là một hệ thống đồng hóa và thải hồi khác, lần này được tập trung trong trạng thái nữ hay đàn bà, v́ cần nhớ rằng đây là hệ thống thứ nh́ hay hệ thống bác ái. Thứ tự như sau:

a) Hệ thống thứ nhất (Thái dương hệ 1) thuộc dương.

b) Hệ thống hiện tại, (Thái dương hệ 2), thuộc âm.

c) Hệ thống thứ 3 sẽ là lưỡng phái.

Cho dù huyền giai tiến hóa của nhân loại thuộc nam hay dương, tuy vậy điều đó không bảo đảm rằng tất cả những ǵ có trong thái dương hệ hiện tại cũng là dương hết. Sự thực là năng lực âm hay trạng thái nữ chi phối cho dù các bạn không nhận ra được điều này. Tôi xin chứng minh điều này và đưa ra một vài chỉ dẫn bằng các con số của giả thuyết này:

1. Trong Thái dương hệ thứ nhất có một sự tiến hóa chiếm ưu thế và gồm có 100 000 triệu chân thần (100 tỉ)

2. Trong thái dương hệ hiện tại, tức thứ hai có hai cuộc tiến hóa chiếm ưu thế, đó là sự tiến hóa của con người và thiên thần; – như đă nói trước kia – có 60 tỉ chân thần con người. Thêm vào đó là cuộc tiến hóa âm tính của các thiên thần, gồm có 140 tỉ, và tất nhiên, bạn có 200 tỉ. Điều này minh giải phát biểu của tôi liên quan tới việc đây là một thái dương hệ thuộc âm tính.

110

 
3. Trong thái dương hệ ba, tổng số trong cơ tiến hóa sẽ cần đến 300 tỉ mà một vị Thượng Đế Ba Ngôi cần có để đạt mức hoàn thiện.

Sự bàn bạc của chúng ta tất nhiên chỉ là sơ sài, v́ tất cả những ǵ tôi cố gắng làm ở đây là đưa ra các chỉ dẫn về các đường lối mà theo đó thuật chữa trị mới sau rốt phải đạt tới, và đưa ra một vài ẩn ngữ sẽ vạch đường lối đưa tới nguyên nhân của các bệnh thường thấy, và nhờ thế giúp cho kẻ sáng suốt phủ nhận các hậu quả. Sự vắn tắt và hệ thống truyền đạt kiến thức nhờ các ẩn ngữ rất thiết yếu về mặt huyền linh và sẽ là cách duy nhất để bàn đến vấn đề tương đối nguy hiểm này cho đến lúc mà một sự huấn luyện vững chăi về y học, giải phẫu và thần kinh học có bản chất chuyên môn được phối hợp với một sự hiểu biết tâm lư học cũng vững chắc như thế, cộng với một mức độ linh thị tâm linh. Một y sĩ và nhà giải phẫu lư tưởng cũng là một nhà siêu h́nh học; nhiều khó khăn và lúng túng hiện nay có thể bị quy cho sự thiếu phối hợp này. Nhà chữa trị siêu h́nh ngày nay bị thu hút bởi những ǵ không thuộc về thể xác, đến nỗi y trở thành ít có lợi cho người bệnh, người đau yếu và người bị thương hơn là nhà y sĩ thực hành. Nhà siêu h́nh học bậc trung, dù y có tự gọi bằng nhăn hiệu ǵ đi nữa, là người có đầu óc khép kín; y qúa nhấn mạnh vào các khả năng thiêng liêng mà không đếm xỉa đến các khả năng thuộc về hữu h́nh hay là vật chất. Việc chữa trị hoàn toàn tinh thần sẽ có thể có tính cách thiêng liêng sau rốt, nhưng về phương diện vật chất, điều này không thể xảy ra vào những lúc rơ rệt nào đó trong thời gian và không gian, và với con người ở các tŕnh độ khác nhau rất nhiều trên nấc thang tiến hóa. Việc chọn đúng lúc và một hiểu biết vững vàng về sự tác động của định luật Nghiệp Quả, cộng thêm với một mức độ rộng lớn về nhận thức trực giác th́ rất thiết yếu cho thuật chữa trị tinh thần cao siêu. Về việc này, phải thêm sự nhận thức rằng bản chất h́nh hài và thể xác không nhất thiết là các lư do chủ yếu hay là rất quan trọng mà một số lớn người có thể nghĩ.

111

 
Nhiều kẻ tôn sùng và nhiều nhà trị liệu khác, thường có lập trường rằng chính v́ có tầm quan trọng chủ yếu mà thể xác phải được làm cho khỏi bệnh tật và thoát khỏi các tiến tŕnh tử vong. Tuy nhiên, có thể là đáng ưa thích (và thường là như thế) rằng bệnh tật được phép tác động và sự chết mở ra cánh cửa để cho linh hồn thoát khỏi ngục tù. Đến một lúc không tránh khỏi đối với mọi sinh linh lâm phàm khi mà linh hồn cần thoát khỏi xác thân và thoát khỏi sự sống sắc tướng, và tạo hóa có các đường lối khôn ngoan riêng của ḿnh để làm điều này. Bệnh tật và tử vong phải được nh́n nhận như là các yếu tố giải thoát khi nào chúng xảy đến dưới h́nh thức kết quả của việc tính đúng thời điểm của linh hồn. Người nghiên cứu cần phải hiểu rằng h́nh hài vật chất là một tập hợp các nguyên tử, được kiến tạo thành các cơ quan và sau cùng thành một thể cố kết mạch lạc, và rằng, thể này được giữ chung với nhau bằng ư chí của linh hồn. Triệt thoái ư chí đó lên trên cơi riêng của nó hay là (như được diễn tả về mặt huyền bí) "hăy để cho con mắt của linh hồn quay sang một hướng khác", và trong chu kỳ hiện nay, bệnh tật và tử vong tất nhiên sẽ xảy đến. Đây không phải là sự sai lầm của trí tuệ hay là việc không nhận thức được thiên tính hay là không chống nỗi sai trái. Thực ra đó là sự tách rời (resolution) của phàm ngă thành các phần cấu tạo và tinh hoa căn bản. Về thực chất, bệnh tật là một khía cạnh của tử vong. Đó là tiến tŕnh mà nhờ đó bản chất vật chất và h́nh hài cụ thể, tự chuẩn bị cho việc tách ra khỏi linh hồn.

112

 
Tuy nhiên, phải nhớ rằng nơi nào có bệnh tật hay sự bất an hay đau ốm mà không liên quan đến sự tan ră cuối cùng, từ đó, các nguyên nhân được t́m thấy trong nhiều yếu tố; chúng có thể được t́m thấy ở vùng chung quanh, v́ một số bệnh do môi trường và có tính chất lây lan; trong việc điều hợp của cá nhân vào các luồng độc hại xuất phát từ sự ganh ghét của thế gian, hay là từ các phức cảm tâm lư mà chúng ta đă bàn đến một số và trong các bệnh (tôi tạm gọi như thế) vốn có tính cách bẩm sinh đối với chất liệu mà con người đă chọn để tạo nên thể xác, biệt lập với nó và tách nó ra khỏi chất liệu biểu lộ chung, và như vậy, tạo thành một loại vật chất vốn được giao cho nhiệm vụ tạo ra sự ngoại hiện của thực tại bên trong. Do đó, điều này tạo thành một trạng thái duy nhất và đặc thù của chất liệu phổ thông, được làm hoàn thiện đến một mức độ nào đó trong thái dương hệ trước và tất nhiên là ở một cấp đẳng cao hơn là chất liệu đang rung động một cách sáng tạo đối với tiếng gọi của ba giới dưới nhân loại trong thiên nhiên.

TỔNG KẾT CÁC NGUYÊN NHÂN BỆNH TẬT

Trong mọi khảo sát của huyền môn về bệnh tật, cần phải thừa nhận như là tuyên bố căn bản rằng mọi bệnh tật đều là kết quả của việc dùng sai thần lực trong một kiếp sống trước hoặc kiếp này. Đây là căn bản. Liên quan tới việc này, tôi xin nhắc bạn một vài phát biểu mà trước đây tôi có đưa ra về vấn đề này.

1.  90% các nguyên nhân của bệnh đều nằm trong các thể dĩ thái và thể cảm dục. Việc sử dụng sai lầm năng lượng trí tuệ và dục vọng bị lạm dụng là các nhân tố tối quan trọng, tuy nhiên, với đa số con người vẫn c̣n ở vào tŕnh độ tâm thức của thời Atlantis, chỉ có năm phần trăm các bệnh thường thấy là do các nguyên nhân ở trí. Tỷ lệ thay đổi với sự phát triển của nhân loại và tŕnh độ tiến hóa. Do đó, bệnh tật là sự biểu hiện ra bên ngoài của các t́nh trạng bên trong, ngoài ư muốn – của thể sinh lực, thể t́nh cảm và thể trí.

2. Mọi việc có liên quan đến sức khỏe của con người có thể được tiếp cận theo ba khía cạnh:

113

 
a. Khía cạnh của cuộc sống phàm ngă… Về khía cạnh đó chúng ta đang học hỏi.

b. Khía cạnh nhân loại nói chung… điều này đang bắt đầu được hiểu rơ.

c. Khía cạnh sự sống hành tinh …chúng ta chỉ biết ít về điều này.

3. Mọi bệnh tật đều do bởi sự thiếu hài ḥa giữa h́nh hài với sự sống, giữa linh hồn với phàm ngă; sự thiếu hài ḥa này xảy ra khắp các giới trong thiên nhiên.

4. Đa số bệnh tật đều có:

  a. Cội nguồn trong nhóm.

  b. Kết quả của việc cảm nhiễm.

  c. Sự thiếu dinh dưỡng, hiểu về mặt vật chất, mặt chủ quan và mặt huyền môn.

5. Bệnh tật đối với quần chúng, đối với người dân bậc trung, đối với giới trí thức và đối với đệ tử đều cách nhau rất xa và có các lănh vực biểu lộ khác nhau.

a. Ba nhóm bệnh tật chính đối với hai hạng đầu là:

– Bệnh lao.

– Các bệnh về xă hội.

– Ung thư.

b. Hai bệnh chính yếu đối với giới trí thức và đối với đệ tử là:

– Đau tim.

– Các bệnh thần kinh.

6. Bệnh tật là một sự thực trong thiên nhiên. Khi điều này được thừa nhận, con người sẽ bắt đầu làm việc với Định Luật Giải Thoát, với tư tưởng đúng đắn, đưa đến thái độ đúng, định hướng đúng và với nguyên tắc không đối kháng. Về sự không đối kháng này, việc sẵn sàng chết quá mạnh vốn rất thường là một đặc điểm của giai đoạn cuối ngay trước cái chết là biểu lộ thấp nhất. Chính sự không đối kháng chi phối sự hôn mê về mặt tâm lư.

114

 
7. Luật Nhân Quả hay Luật Karma, chi phối mọi bệnh tật. Điều này bao hàm nghiệp quả của cá nhân, của nhóm, của quốc gia và của toàn thể nhân loại.

Nếu bạn tạm dừng ở điểm này và xem lại những ǵ tôi đă nhắc lại, và nếu bạn nghiên cứu lại và suy tư về bốn định luật và bốn qui luật này, bạn sẽ có được cơ sở cần thiết để dựa vào đó tiến hành các nghiên cứu sau này của chúng ta, bắt đầu bằng các bệnh gắn liền với cuộc sống của đệ tử. Một số trong các bệnh này, tôi đă có bàn tới trong quyển thứ II của bộ "Luận về Bảy Cung" (trang 520 –625). Trong đó cách tiếp cận chủ yếu là theo khía cạnh huyền bí, trong lúc đó, ở nơi đây, tôi sẽ đề cập đến các vấn đề của đệ tử nhập môn.

4. CÁC BỆNH DO SỰ SỐNG CỦA ĐỆ TỬ.

Trước đây, tôi có nói với bạn rằng bệnh tật xuất phát từ bốn nguyên nhân sau:

1. Đó là hậu quả của việc ngăn chận sự sống thông suốt của linh hồn.

2. Do bởi ba ảnh hưởng hoặc các nguồn lây nhiễm:

  a. Các lỗi lầm cũ, được gọi là tội lỗi và lầm lạc của cá nhân liên hệ, phạm phải trong kiếp này, hoặc kiếp trước.

  b. Các dấu vết và khuynh hướng dễ mắc bệnh (tố bẩm) của con người phải chịu chung với mọi phần c̣n lại của nhân loại.

  c. Tà lực của hành tinh liên quan đến tŕnh độ thành đạt của Hành Tinh Thượng Đế và bị chi phối bởi Karma hành tinh.

3. Bị chi phối bởi các lực xuất phát từ cơi mà tâm thức của con người trụ vào đó trước tiên.

115

 
4. Năm loại bệnh chính, với các hiệu quả kèm theo và phụ thuộc của chúng, có thể và chắc chắn là tạo ra các hậu quả mà đệ tử có liên hệ đến; y không được miễn trừ cho đến sau cuộc điểm đạo thứ ba.

    A. CÁC BỆNH CỦA NHÀ THẦN BÍ.

Tuy nhiên, bậc đệ tử ít khi mắc bệnh lao (trừ khi bị nghiệp quả chi phối), y cũng không có khuynh hướng mắc phải các bệnh xă hội, trừ khi chúng có thể tác động lên y về mặt vật chất qua cuộc sống xả thân phụng sự của y. Sự lây nhiễm có thể tác động vào y nhưng không nghiêm trọng lắm. Y cũng có thể là nạn nhân của bệnh ung thư, nhưng y có thể mắc bệnh tim và rối loạn thần kinh loại này hoặc loại khác. Nhà thần bí chân thực dễ nhượng bộ hơn cho các t́nh trạng thuần túy tâm lư, liên quan đến phàm ngă hội nhập, và do đó, gắn liền với bản chất của y được tập trung phần lớn trên cơi cảm dục. Bậc đệ tử c̣n dễ mắc các khó khăn trí tuệ và mắc các bệnh có liên quan tới năng lượng và do sự hợp nhất – hoặc là đă hoàn tất, hoặc là đang tiếp diễn – của linh hồn và phàm ngă.

Nguyên nhân thứ nhất mà tôi đă liệt kê trước đây trong bộ luận này được tổng kết bằng phát biểu rằng bệnh tật là hậu quả của việc tắc nghẽn sự sống thông suốt và việc năng lượng đang tuôn đổ vào của linh hồn. T́nh trạng tắc nghẽn này do nhà thần bí tạo ra, khi y không chống nỗi với các h́nh tư tưởng của chính y, được tạo ra liên tục để đáp ứng với đạo tâm đang tăng lên của y. Các h́nh tư tưởng này trở nên các tường ngăn cách giữa y với sự sống tự do của linh hồn, và ngăn chận sự tiếp xúc của y và có ảnh hưởng đến ḍng chảy vào của năng lượng linh hồn.

Đệ tử đảo ngược toàn bộ t́nh trạng và trở thành nạn nhân (trước khi được điểm đạo lần thứ ba) cho ḍng chảy vào khủng khiếp của năng lượng linh hồn – năng lượng của Ngôi Hai – đang đến với y từ:

116

 
a. Linh hồn của riêng y, nơi mà trung tâm dung hợp năng lượng đang diễn ra một cách nhanh chóng.

b. Nhóm hay là Đạo viện của y, mà với tư cách là một đệ tử nhập môn, y có liên kết với nó.

c. Sư phụ của y, Đấng mà y có mối liên hệ tinh thần với Ngài, và y bao giờ cũng cảm nhận được ảnh hưởng rung động của Ngài.

d. Thánh Đoàn, mà năng lượng của nơi này có thể đến được với y nhờ cả ba yếu tố trên.

Tất cả các ḍng năng lượng này có một hiệu quả rơ rệt trên các bí huyệt của đệ tử, tùy theo cung của y và sự an trụ đặc biệt của y trong kiếp sống này. V́ mỗi bí huyệt có liên hệ đến tuyến này hay tuyến khác, và đến phiên chúng, các tuyến này chi phối ḍng máu, và cũng có một hiệu quả đặc thù trên cấu trúc của cơ thể nằm trong phạm vi ảnh hưởng rung động của chúng (nghĩa là bao tử, sát với huyệt đan điền, và tim, sát với bí huyệt tim v.v..) bạn sẽ thấy tại sao có thể xảy ra việc các bệnh chính yếu mà một đệ tử có thể mắc phải (vốn là độc nhất và giới hạn trước tiên vào nhân loại đă tiến hóa) lại là hậu quả của việc quá bị kích thích, hay là ḍng năng lượng đi vào một bí huyệt đặc biệt tạo ra bệnh quá mức và có tính cách cục bộ.

Đối với các t́nh trạng này, nhà thần bí không có khuynh hướng như thế, trừ phi y đang nhanh chóng trở nên nhà thần bí hay là nhà huyền linh học thực hành. Đây là một chu kỳ chuyển tiếp rơ rệt giữa thái độ thần bí với lập trường rơ rệt hơn đó mà nhà huyền linh học đảm trách. Do đó, tôi sẽ không bàn đến các bệnh mà nhà thần bí phải kế thừa, trừ phi tôi xin nêu ra một sự kiện lư thú:

Nhà thần bí (mystic) bao giờ cũng hiểu biết về nhị nguyên tính. Y là kẻ t́m kiếm ánh sáng, linh hồn, vật thân yêu, t́m kiếm một điều nào đó cao hơn là cái mà y cảm thấy như đang hiện hữu và như là cái vốn có thể được t́m ra. Y nỗ lực sau khi thừa nhận có đấng thiêng liêng và bởi đấng thiêng liêng; y là kẻ noi theo linh thị, một đệ tử của Đức Christ, và điều này chi phối suy tư và đạo tâm của y. Y là một kẻ sùng tín và là kẻ yêu cái không thể đạt được theo bề ngoài – Cái Khác (Other) hơn là chính y.

117

 
Chỉ khi nào trở nên nhà huyền linh học, lúc ấy, nhà thần bí mới học được rằng lúc nào cũng có một từ lực lôi cuốn y, và nhị nguyên tính đang nhuốm màu cuộc sống và các tư tưởng của y, nó đem lại động lực cho tất cả những ǵ mà y t́m cách để làm, là Chân Ngă của y, Thực Tại Duy Nhất. Lúc bấy giờ, y nhận ra rằng sự đồng hóa và nhập hóa / huyền đồng với thực tại duy nhất đó giúp cho lưỡng nguyên tính được chuyển hóa thành nhất nguyên, và chiều hướng t́m kiếm phải được biến đổi thành nỗ lực để trở thành những ǵ mà về thực chất, y là – một Con của Thượng Đế, hợp nhất với tất cả các Con của Thượng Đế. Nhờ đạt được điều đó, y thấy chính ḿnh hợp nhất với Đấng Duy Nhất mà trong Ngài chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn.

Kế tiếp, tôi xin nêu ra rằng biểu lộ thấp nhất của t́nh trạng thần bí và hợp nhất với những ǵ mà chúng ta đang trở nên ngày càng quen thuộc, là cái được gọi là "đa nhân cách" ("split personality"); khi t́nh trạng này xảy ra, phàm ngă cá nhân tự biểu lộ nhờ một t́nh trạng lưỡng nguyên căn bản và hai nhân vật tự biểu lộ, một cách biểu kiến, thay v́ linh hồn – phàm ngă hợp nhất. Tất nhiên, điều này tạo ra một t́nh trạng tâm lư nguy hiểm và là t́nh trạng nó biện hộ cho việc vận dụng khoa học có lăo luyện.

Đó là sự thiếu thốn ở mức độ lớn vào lúc này, v́ rất ít các nhà tâm lư học lăo luyện và các chuyên gia tâm thần nhận thức được sự thật về linh hồn. Tôi nhắc đến điều này, v́ ngày nay nó có giá trị, và sẽ trở nên ngày càng tăng trong các năm sau này, khi điều đó sẽ được cần tới để truy ra và hiểu được các tương đồng đang có trong tâm thức con người đến các lănh vực hiểu biết rộng lớn chưa được thăm ḍ. Đa nhân cách và nhà thần bí là hai trạng thái của một tổng thể – một trạng thái th́ đúng, và theo đường lối khai mở tinh thần cao siêu, c̣n trạng thái kia vốn là một phản ảnh và một sự méo mó của tŕnh độ phát triển đó, nó đi trước tŕnh độ của nhà huyền linh học có luyện tập. Có nhiều t́nh trạng thường thấy trong nhân loại vào lúc này, nó có thể tùy thuộc cùng một lập luận và là một trong các cách chữa trị, vốn sẽ được thực hiện sau này là việc khám phá các tương ứng cao so với các khó khăn và các bệnh tật thấp, và việc nhận thức được rằng chúng chỉ là các méo mó của một thực tại lớn lao. Điều này đưa tới sự chuyển di chú tâm của một người được sự chăm sóc của nhà chữa trị tới trạng thái cao đă được nhận thức đó.

118

 
Toàn bộ Khoa Học Hội Nhập (Science of Integration) có liên quan tới vấn đề này. Nếu được hiểu đúng, khoa học này sẽ mở ra một lănh vực hoàn toàn mới để tiếp cận bằng tâm lư với bệnh tật, hoặc là về mặt sinh lư hay về mặt thần kinh. Một mở đầu nho nhỏ đă được tạo ra theo đường lối này bởi các nhà tâm lư học và các nhà mô phạm mở trí về tâm linh. Phương pháp giúp đỡ con người về phương diện tâm lư dứt khoát là theo các đường lối mới này, và có thể được diễn tả như sau: nhà tâm lư học bậc trung dùng phương pháp (khi ứng xử với các trường hợp về thần kinh, với các trường hợp ở ranh giới, và với người có khuynh hướng bệnh thần kinh) để khám phá các phức cảm sâu kín, các vết thương, các khích động cũ hoặc các lo sợ ẩn sau kinh nghiệm của hiện tại và tạo ra con người có bản chất như hiện tại. Thường thường các yếu tố quyết định này có thể được truy nguyên đến tiềm thức bằng tiến tŕnh khơi lại quá khứ, xem xét môi trường hiện tại, tính toán đến sự di truyền và nghiên cứu các hiệu quả của giáo dục – hoặc là theo lư thuyết, hoặc là dựa trên chính sự sống. Lúc bấy giờ, yếu tố vốn là cản trở chính, và nó đă đưa con người vào một vấn đề tâm lư, được mang lên (với sự trợ giúp của y, nếu có thể) trên mặt của tâm thức y, lúc bấy giờ được giải thích một cách sáng suốt và liên kết với t́nh trạng hiện có, và con người tất nhiên là được mang lại hiểu biết về phàm ngă của y, các vấn đề của phàm ngă và cơ hội sắp xảy đến của nó.

119

 
Tuy nhiên, kỹ thuật tâm linh th́ hoàn toàn khác hẳn. Vấn đề phàm ngă và tiến tŕnh đào sâu vào tiềm thức chưa được biết, bởi v́ các điều kiện ngoài ư muốn được xem như là kết quả của việc thiếu sự tiếp xúc của linh hồn và kiểm soát của linh hồn. Bệnh nhân (tôi tạm gọi như thế) được dạy rằng hăy dùng mắt, và tất nhiên là sự chú tâm của y, tách rời khỏi chính y, cảm giác của y, phức cảm của y và các định kiến cùng các tư tưởng không được ưa thích của y, và tập trung chúng vào linh hồn, Thực Tại Thiêng Liêng bên trong h́nh hài, và tâm thức Christ. Điều này có thể được gọi là tiến tŕnh dùng sự chú tâm mới mẻ, mănh liệt để thay thế một cách khoa học cho những ǵ mà từ trước đến nay vẫn nắm diễn trường, nó khơi hoạt một yếu tố hợp tác mà năng lượng của yếu tố này lướt qua sự sống thấp của phàm ngă, và mang đi các khuynh hướng tâm linh sai lầm, các phức cảm bất đắc dĩ, đưa đến các tiếp cận sai lầm với sự sống. Sau rốt, điều này hoán cải sự sống trí tuệ hay tư tưởng để cho con người được định đoạt bằng tư duy đúng dưới sự thúc đẩy hoặc soi sáng của linh hồn. Điều này tạo ra "sức đẩy mănh liệt của một t́nh thương mới"; các ư tưởng cố định cổ xưa, các trầm cảm/chán nản và đau khổ xưa, các dục vọng đang ngăn cản và gây bất lợi trước kia – tất cả các điều này biến mất và con người trở nên thung dung với tư cách một linh hồn và chủ nhân của các tiến tŕnh sự sống của ḿnh.

Tôi đă bàn về hai t́nh trạng này một cách chi tiết, bởi v́ về thực chất, có một định luật khác liên hệ với việc chữa trị cần được hiểu rơ trước khi chúng ta tiếp tục đi xa hơn. Sự bàn căi về tâm thần phân liệt, các vấn đề của nhà thần bí và phương pháp mới để tiếp cận với bệnh tật (theo khía cạnh linh hồn và lănh vực của các nguyên nhân, thay v́ theo khía cạnh phàm ngă và lănh vực của hiệu quả) có thể làm sáng tỏ định luật này trong trí các bạn và ít nhất nêu ra sự hữu lư của nó và áp dụng có giá trị của nó cho nhu cầu con người.

ĐỊNH LUẬT IV

120

 
Bệnh tật, cả về mặt thể xác lẫn tâm lư, có cội nguồn của nó trong thiện, mỹ và chân. Đó chỉ là một phản ảnh méo mó của các khả năng thiêng liêng. Linh hồn bị ngăn trở, đang t́m cách biểu lộ đầy đủ một vài đặc điểm thiêng liêng hay thực tại tinh thần nội tâm, tạo ra bên trong chất liệu của các thể của nó một điểm ma sát. Đôi mắt của phàm ngă tập trung trên điểm này, và điều này đưa tới bệnh tật.

Nghệ thuật của nhà trị liệu có liên hệ đến việc ngước đôi mắt đang chăm chú nh́n xuống, lên linh hồn, nhà Trị Liệu bên trong h́nh hài. Con mắt tinh thần hay mắt thứ ba bấy giờ hướng về sức mạnh chữa trị và mọi sự đều tốt lành.

B. CÁC BỆNH CỦA BẬC ĐỆ TỬ.

Chúng tôi sẽ chia những ǵ mà chúng tôi phải nói về các bệnh của đệ tử thành hai phần: các vấn đề riêng biệt của mọi đệ tử và các khó khăn gắn liền với sự tiếp xúc của linh hồn.

Ở đây, chúng ta cần nhớ rằng tất cả các đệ tử đều dễ mắc các bệnh chủ yếu. Họ đang cố gắng đồng nhất với tất cả nhân loại, do đó điều này bao hàm tất cả các bệnh mà thể xác kế thừa. Tuy nhiên, đệ tử không thể chống nỗi nhược điểm của con người thông thường, và nên nhớ rằng các bệnh về tim và thần kinh tạo thành vấn đề chính của họ. Về điều đó có thể nêu ra rằng các đệ tử thuộc vào hai nhóm chính: những kẻ sinh hoạt trên cách mô và do đó có khuynh hướng mắc bệnh tim, tuyến giáp trạng và cổ họng, và những kẻ ở trong diễn tŕnh biến đổi các năng lượng của các bí huyệt dưới cách mô vào các bí huyệt trên cách mô. Đa số các bí huyệt này hiện nay đang chuyển các năng lượng của huyệt đan điền vào bí huyệt tim, và nỗi thống khổ của thế gian đang hết sức thúc đẩy tiến tŕnh. Các bệnh về bao tử, gan và đường hô hấp đi kèm theo chuyển biến này.

1. Các vấn đề đặc biệt của đệ tử.

121

 
Như bạn biết, các vấn đề đặc biệt này, riêng đối với những kẻ đă tự nâng cao tâm thức ra khỏi sự sống của phàm ngă vào sự sống của linh hồn. Trước tiên, chúng có liên quan tới năng lượng, ḍng lưu nhập của nó, sự đồng hóa hoặc không đồng hóa của nó, và việc sử dụng có hướng dẫn đúng của nó. Các bệnh khác mà mọi thể xác bị kế thừa vào lúc này trong sự tiến hóa của con người (v́ phải nhớ rằng bệnh tật thay đổi tùy theo tŕnh độ tiến hóa và cũng xuất hiện theo chu kỳ), và đối với các đệ tử nào có thể và chắc chắn không chống nỗi, th́ không bàn đến ở đây; cần nói rằng ba bệnh chính của nhân loại được nhắc đến ở đây, đă gây ra sự mất mát của các đệ tử, đặc biệt trong việc mang lại sự giải thoát của linh hồn khỏi hiện thể của nó. Tuy nhiên – cho dù có thể ít khi xuất hiện – trong các trường hợp này, chúng bị kiềm chế khỏi các mức độ của linh hồn, và sự ra đi được dự trù xảy ra theo kết quả của quyết định của linh hồn, chứ không theo kết quả của hiệu quả bệnh tật. Lư do mà ba bệnh chủ yếu này – vốn bẩm sinh đối với sự sống hành tinh trong đó chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn – có được mănh lực trên các đệ tử, là v́ các đệ tử đó chính là bộ phận không thể thiếu của sự sống hành tinh, và trong các giai đoạn trước kia của nhận thức của họ về sự hợp nhất này, họ có khuynh hướng thành một miếng mồi sẵn sàng cho bệnh tật. Đây là một sự kiện mà ít ai biết và hiểu được, trừ việc giải thích lư do tại sao các đệ tử và người tiến hóa dễ mắc các bệnh này.

Chúng ta có thể chia các vấn đề này ra làm bốn loại:

1. Các loại có liên quan tới ḍng máu hay với khía cạnh sự sống, v́ "máu là sự sống". Các loại này có các hiệu quả đặc thù trên tim, nhưng thường thường, chỉ có bản chất chức năng. Bệnh về cơ cấu (organic disease) của tim xuất phát từ các nguyên nhân c̣n sâu xa hơn nữa.

2. Các loại vốn là hiệu quả trực tiếp của năng lượng, đang tác động vào và qua hệ thần kinh, xuyên qua bộ óc được hướng dẫn.

3. Các loại có liên quan với hệ hô hấp và có một nguồn cội huyền linh.

122

 
4. Các loại đặc biệt do tính thụ cảm hoặc không thụ cảm, do sự tác động hoặc không tác động và do ảnh hưởng của bí huyệt. Tất nhiên, các loại này thuộc về bảy nhóm, tác động vào bảy vùng chính yếu của cơ thể. Đối với đệ tử bậc trung, trước khi có sự kiềm chế hoàn toàn của linh hồn và sự hướng dẫn của Chân Thần, tác nhân điều khiển chính, qua bộ óc, là thần kinh phế vị, dọc theo đó các năng lượng (đang đi vào qua bí huyệt đầu) được phân phối đến phần c̣n lại của cơ thể. Một khoa học rơ rệt về các bí huyệt và sự liên quan của chúng đối với hỏa xà đă được thiết lập bởi một số trường phái huyền bí có uy thế ở Đông phương. Trong đó, có nhiều điều đúng, nhưng cũng có nhiều điều sai.

Tôi đă phân biệt giữa các vấn đề với các phản ứng xác thân và bệnh tật, bởi v́ sự lưu nhập, phân phối và điều khiển năng lượng không nhất thiết tạo ra bệnh tật. Tuy nhiên, luôn luôn, trong thời kỳ mới tu trước khi điểm đạo, chúng rơ ràng là tạo ra các khó khăn và các vấn đề loại này hay loại khác,  hoặc là trong ư thức của đệ tử, hoặc là trong mối liên hệ của y với những kẻ chung quanh y. Do đó, môi trường quanh y bị ảnh hưởng và tất nhiên là do phản ứng hỗ tương của riêng y.

123

 
Về điều này, cần nên nhớ rằng , mọi đệ tử đều là các trung tâm năng lượng trong cơ thể nhân loại và đang trong tiến tŕnh trở thành các điểm năng lượng được tập trung, được hướng dẫn. Chức năng và hoạt động của họ luôn luôn và tất nhiên là tạo ra các tác dụng, các kết quả, các khơi hoạt, các găy vỡ và các tái định hướng trong các kiếp sống của những kẻ chung quanh họ. Trong các giai đoạn ban đầu, họ tạo ra điều này một cách hữu thức, và do đó thường thường, các kết quả nơi những kẻ mà họ tiếp xúc đều không đáng ao ước, cũng như năng lượng không được điều khiển một cách khôn ngoan, bị lệch lạc hay là không được giữ lại. Chủ đích sáng suốt phải nằm sau mọi hướng năng lượng sáng suốt. Sau này, khi họ biết được một cách hữu thức để tồn tại và trở nên các trung tâm phát ra sức mạnh chữa trị, được điều khiển một cách hữu thức, năng lượng làm linh hoạt này và bấy giờ được truyền ra, được sử dụng một cách xây dựng hơn theo cả hai đường lối tâm lư và vật chất. Tuy nhiên trong bất cứ trường hợp nào, đệ tử cũng trở thành một ảnh hưởng có hiệu quả và không bao giờ có thể là điều mà về mặt huyền bí được gọi là "bị bỏ qua trong vị trí của nó và tác động không đáng kể lên các linh hồn khác". Ảnh hưởng của y, bức xạ và năng lượng mạnh mẽ của y, chắc chắn sẽ tạo ra các vấn đề và các khó khăn cho y; các điều này được dựa trên các liên giao của nhân loại mà y đă tạo ra về mặt nghiệp quả và các phản ứng của những kẻ mà y tiếp xúc hoặc là v́ điều tốt, hoặc là v́ điều xấu.

Về thực chất, ảnh hưởng của một đệ tử của Thánh Đoàn, căn bản là tốt và thuộc trạng thái tâm linh; ở bề ngoài và với các hiệu quả bên ngoài của nó – đặc biệt lănh vực liên quan đến đệ tử – các t́nh trạng khó khăn, các nứt rạn bề ngoài và việc xảy ra lỗi lầm cũng như các đức hạnh về phần của những kẻ bị tác động tạo ra bề ngoài của chúng, và thường kéo dài trong nhiều kiếp sống, cho đến khi một người chịu ảnh hưởng như thế trở thành điều được gọi là "được ḥa giải về mặt huyền linh đối với năng lượng đang phát ra". Hăy suy gẫm về điều đó. Sự hiệu chỉnh phải xảy đến từ phía những kẻ bị ảnh hưởng, chứ không phải từ phía đệ tử.

Bây giờ, chúng ta hăy xét bốn vấn đề theo khía cạnh tâm lư, chớ không phải khía cạnh vật chất:

a. Các vấn đề xuất phát từ bí huyệt tim đă được khơi hoạt của đệ tử có lẽ là thông thường nhất và thường thường thuộc về một vài trong số các khó khăn nhất phải xử lư. Các vấn đề này được dựa trên các liên quan sống động và sự tương tác của năng lượng t́nh thương với các sức mạnh của dục vọng. Trong các giai đoạn đầu, mănh lực t́nh thương đang tuôn vào này tạo nên các tiếp xúc của phàm ngă vốn thay đổi hướng giữa các giai đoạn sùng tín cuồng nhiệt và sự căm thù tột bực về phía người bị ảnh hưởng bởi năng lượng của đệ tử. Điều này tạo ra sự xáo trộn thường xuyên trong cuộc đời của đệ tử, cho đến khi y đă trở nên hiệu chỉnh được các kết quả của sự phân phối năng lượng của y, và cũng thường làm gián đoạn các liên hệ và các dung ḥa thường thấy. Khi đệ tử đủ quan trọng để trở thành trung tâm tổ chức của một nhóm, hoặc ở trong một vị thế để bắt đầu tạo thành, về mặt huyền bí, đạo viện riêng của y (trước khi nhận được một trong các cuộc điểm đạo chính) bấy giờ, nỗi khó khăn có thể trở nên rất thực và xáo trộn nhất. Tuy nhiên, có ít điều mà đệ tử có thể làm được, trừ việc cố gắng điều chỉnh lại năng lượng t́nh thương đang tuôn ra. Về căn bản, vấn đề c̣n lại là vấn đề của kẻ chịu ảnh hưởng; các hiệu chỉnh, như tôi có nhấn mạnh ở trên, phải được làm theo phương diện khác, với đệ tử sẵn sàng để hợp tác khi có dấu hiệu đầu tiên của một sự tự nguyện để nhận thức mối liên lạc và ư định hợp tác trong việc phụng sự tập thể. Đây là một điểm mà cả hai bên – đệ tử và người phản ứng với ảnh hưởng của y – cần phải xem xét. Đệ tử phải sẵn sàng; bên đáp ứng thường là triệt thoái hay tiến gần tùy theo sự cấp thiết của linh hồn hay của phàm ngă y – có lẽ là phàm ngă trong các giai đoạn ban đầu. Tuy nhiên, sau rốt, y trụ lại với đệ tử trong sự hiểu biết hợp tác đầy đủ, và thời gian cố gắng khó khăn chấm dứt.

124

 
Theo tôi, không thể đi vào chi tiết rơ ràng khi xem xét các vấn đề này liên quan tới tim và năng lượng sống của đệ tử. Chúng được kiềm chế bởi cung của y, cuộc điểm đạo mà y đang được chuẩn bị và tính chất, t́nh trạng tiến hóa và cung của những kẻ được ảnh hưởng.

Cũng có các khó khăn và các vấn đề có bản chất tinh anh hơn xuất phát từ cùng một nguyên nhân, nhưng không bị khu biệt trong một vài tương quan nhân loại rơ rệt. Một vị đệ tử phụng sự; y viết và nói; các lời lẽ và ảnh hưởng của y thấm nhập vào đa số con người, đánh thức họ vào hoạt động nào đó – thường thường là tốt và có tính chất tinh thần, đôi khi bất hảo, thù hận và nguy hiểm. Do đó, y phải đối phó không những chỉ với chính các phản ứng của y đối với công việc mà y đang làm, mà c̣n, theo một ư nghĩa tổng quát và đặc thù, đối phó với quần chúng mà y đang bắt đầu có ảnh hưởng đến. Đây không phải là điều dễ làm, đặc biệt là đối với một người làm việc cho Thiên Cơ mà thiếu kinh nghiệm. Y dao động giữa cơi trí, nơi mà y cố gắng hoạt động một cách b́nh thường, với cơi cảm dục, nơi mà đa số con người đang an trụ vào và điều này đưa y vào lănh vực ảo cảm và tất nhiên là nguy hiểm. Y dành hết tâm thức hướng đến những kẻ mà y đang t́m cách giúp đỡ, nhưng đôi khi với tư cách linh hồn (và bấy giờ y thường quá kích thích thính giả của y), và đôi khi với tư cách phàm ngă (và lúc đó, y nuôi dưỡng và nâng cao các phản ứng của phàm ngă của họ).

125

 
Theo thời gian qua, y học cách – nhờ các khó khăn xảy ra, bởi sự tiếp cận cần thiết của tâm hồn – trụ vững ở trung tâm, phát ra âm điệu, đưa ra thông điệp của y, phân phối năng lượng bác ái có hướng dẫn và tạo ảnh hưởng lên những kẻ chung quanh ḿnh, nhưng y vẫn vô ngă, một tác lực điều khiển duy nhất và một linh hồn cảm thông. Tính vô ngă (impersonality) này (vốn có thể được định nghĩa như một sự thu hồi năng lượng phàm ngă) tạo ra các vấn đề riêng của nó, như mọi đệ tử đều biết rơ; tuy nhiên, không có ǵ mà họ có thể làm về việc đó, trừ việc chờ cho thời gian dẫn dắt kẻ khác tiến đến việc hiểu biết rơ ràng về ư nghĩa và hàm ư huyền bí của các tương quan đúng đắn của con người. Vấn đề những kẻ phụng sự với các cá nhân và với các nhóm, về căn bản có liên quan với năng lượng của bí huyệt tim, và với lực làm linh hoạt của sự sống lồng bên trong của nó. Về vấn đề này và các phản ứng của nó đối với đệ tử, một số khó khăn về vật chất rơ rệt lại có khuynh hướng xảy ra và tôi sẽ bàn đến các điều này một cách vắn tắt.

Cũng cần nêu ra rằng các khó khăn về sự nhịp nhàng đều có thể xảy đến, và các vấn đề có liên quan đến cuộc sống theo chu kỳ của đệ tử. Về mặt huyền bí, tim và máu có liên quan với nhau, c̣n về mặt biểu tượng, chúng xác định sự sống mạch động của linh hồn đang biểu lộ trên cơi trần trong sự hướng ngoại và sự sống kép đang triệt thoái của t́nh trạng đệ tử, mỗi giai đoạn lại có các vấn đề riêng của nó. Khi đệ tử đă chế ngự được nhịp điệu của sự sống bên ngoài và bên trong của y, và đă sắp đặt các phản ứng của y sao cho y rút được ư nghĩa cao xa nhất từ các phản ứng đó mà không bị chúng chi phối, bấy giờ y bước vào cuộc sống tương đối đơn giản của

126

 
đệ tử điểm đạo. Câu đó có làm cho bạn ngạc nhiên không? Bạn cần nhớ rằng đệ tử điểm đạo, sau cuộc điểm đạo thứ hai, đă tự thoát khỏi các phức cảm và sự kiềm chế t́nh cảm và thể cảm dục. Huyễn cảm không thể áp đảo y được nữa. Y có thể trụ lại một cách vững vàng bất kể những ǵ mà y có thể làm và cảm nhận. Y hiểu được rằng t́nh trạng chu kỳ có liên quan tới các cặp đối hợp và là một phần của biểu lộ sự sống đối với chính sự hiện tồn. Trong tiến tŕnh học hỏi điều này, y trải qua các khó khăn to tát. Với tư cách là một linh hồn, y bắt buộc chính ḿnh phải chịu một sự sống hướng ngoại, với ảnh hưởng từ điện và tính hướng ngoại. Y có thể theo điều đó một cách trực tiếp với một cuộc sống rút vào nội tâm, bề ngoài thiếu quan tâm vào các liên hệ của y và môi trường xung quanh và với một biểu lộ cực kỳ nội quan, hướng nội. Giữa hai thái cực này, y có thể lúng túng một cách thảm hại – đôi khi trong nhiều kiếp sống – cho đến khi y học được cách phối trộn cả hai biểu lộ. Lúc bấy giờ, cuộc sống hai mặt của đệ tử nhập môn, trong các tŕnh độ và giai đoạn khác nhau, trở nên sáng tỏ hơn đối với y, y biết được những ǵ y đang làm. Một cách thường xuyên và có hệ thống, cả hướng ngoại lẫn hướng nội, phụng sự trong thế gian và sống cuộc đời trầm tư, đều có vai tṛ hữu dụng của chúng.

127

 
Nhiều khó khăn về tâm lư hiện ra trong khi tiến tŕnh này được chế ngự, đưa đến nứt rạn tâm lư, cả bề sâu lẫn bề mặt. Mục tiêu của mọi phát triển là sự hội nhập – hội nhập với tư cách một phàm ngă, hội nhập với linh hồn, hội nhập vào Thánh Đoàn, hội nhập với Tổng Thể (the Whole), cho đến khi sự hợp nhất và sự huyền đồng hoàn hảo được đạt đến. Để quán triệt khoa học về sự hội nhập này (mà mục tiêu căn bản của nó là đồng nhất với Thực Tại Duy Nhất), đệ tử tiến từ sự hợp nhất này đến sự hợp nhất khác, tạo ra lỗi lầm thường đưa đến sự mất hết can đảm, đồng nhất hóa chính ḿnh với những ǵ bất hảo, cho đến khi, với tư cách linh hồn – phàm ngă (soul-personality) y không thừa nhận các liên hệ trước kia; y chịu mọi thiệt tḥi không biết bao nhiêu lần về sự sôi nổi không đúng chỗ, đạo tâm bị thiên lệch, hậu quả có tính cách áp đảo của huyễn cảm, và nhiều t́nh trạng xáo trộn về tâm lư và thể chất vốn dĩ phải xảy ra trong khi các nứt rạn được chữa trị, sự đồng nhứt hóa đúng đắn được thành đạt và sự định hướng đúng chỗ được thiết lập.

Trong khi tiến tŕnh căn bản không thể tránh được và tất yếu này xảy ra, th́ một việc rơ rệt diễn tiến trong thể dĩ thái. Đệ tử đang học cách nâng cao các năng lượng gom lại từ các bí huyệt thấp, vào huyệt đan điền, và từ bí huyệt đó đi vào bí huyệt tim, như vậy đem lại sự tái tập trung năng lượng trên cách mô, thay v́ đặt vào tầm quan trọng bên dưới. Điều này thường đưa đến các phiền phức sâu xa, bởi v́ – theo quan điểm phàm ngă – huyệt đan điền là bí huyệt mạnh mẽ nhất, là nơi trao đổi các lực của phàm ngă. Đó là tiến tŕnh phá ngă chấp (decentralisation) và "nâng" tâm thức thấp lên tâm thức cao, nó tạo ra các khó khăn chính mà đệ tử phải lệ thuộc. Chính tiến tŕnh này cũng đang diễn ra trên thế gian nói chung ngày nay, gây ra t́nh trạng rối loạn tồi tệ đối với các sự việc, văn hóa và văn minh của nhân loại. Điểm tập trung toàn bộ ư thức của nhân loại đang được thay đổi; cuộc sống ích kỷ (đặc điểm của con người hướng vào dục vọng của ḿnh, và tất nhiên hướng vào huyệt đan điền) đang thế chỗ cho sự sống phá ngă chấp của người không vị kỷ (tập trung vào Bản ngă hay linh hồn), biết được các liên quan và trách nhiệm của y đối với Tổng Thể chứ không phải đối với từng phần. Việc siêu chuyển cuộc sống thấp thành cuộc sống cao là một trong các thời khắc bí ẩn nhất đối với cá nhân và đối với nhân loại. Một khi đệ tử cá biệt và cũng là nhân loại, tượng trưng cho đệ tử trên thế giới, đă quán triệt được tiến tŕnh chuyển di về phương diện này, chúng ta sẽ thấy được tŕnh tự mới về việc phụng sự cá nhân và phụng sự thế gian được thiết lập, và do đó, triển vọng của một tŕnh tự mới được chờ đợi.

128

 
Trong số các tiến tŕnh này, sự lưu thông của ḍng máu là biểu tượng, và manh mối đối với việc thiết lập trật tự thế giới ẩn trong biểu tượng kư này – sự lưu chuyển thông suốt của tất cả những ǵ cần cho mọi phần của cơ cấu vĩ đại của nhân loại. Máu là sự sống và sự trao đổi lẫn nhau thông suốt, phân chia không bị ràng buộc, vận chuyển thông suốt tất cả những ǵ cần cho cách sống đúng đắn của nhân loại sẽ đặc trưng cho thế giới sắp đến. Ngày nay các t́nh trạng này không có nữa, thể xác nhân loại bị bệnh và sự sống bên trong của nó bị phá vỡ. Thay v́ có sự lưu chuyển thông suốt giữa các phần của trạng thái sự sống, lại có sự tách ra, các vận hà bị tắc nghẽn, ngưng trệ, ứ đọng. Lúc này, cần có cơn khủng hoảng ghê gớm để đánh thức nhân loại trước t́nh trạng bệnh tật của họ, trước phạm vi của tà lực mà bây giờ, được khám phá là rất lớn lao, và các bệnh về "máu của nhân loại" (hiểu một cách tượng trưng) tệ hại đến nỗi chỉ các biện pháp quyết liệt nhất – đau đớn, thống khổ, tuyệt vọng, khủng khiếp – mới có thể đủ để lập ra cách chữa trị.

129

 
Các nhà trị liệu cần phải nhớ rơ điều này và ghi trong trí rằng các đệ tử và tất cả những người lương thiện và người t́m đạo đều dự phần vào bệnh tật chung này của nhân loại; nhân loại phải chịu tổn thương về mặt tâm linh hoặc vật chất, hoặc cả hai mặt. Bệnh tật có cội nguồn xưa, và do thói quen tạo ra từ lâu và chắc chắn là có ảnh hưởng tới thể hồng trần của linh hồn. Việc thoát khỏi ảnh hưởng đối với bệnh tật của con người, không hề là chỉ dẫn về sự vượt trội của tinh thần. Đó chỉ có thể là dấu hiệu của điều mà một trong các Chân Sư đă gọi là "vực thẳm của ích kỷ tâm linh và sự tự măn". Một vị đă được điểm đạo lần 3 có thể giữ cho chính ḿnh khỏi bệnh, nhưng đó chỉ v́ người đă hoàn toàn thoát khỏi huyễn cảm, và không một khía cạnh nào của cuộc sống phàm ngă có được mănh lực đối với người. Tất cả các loại cung đều cũng chịu lệ thuộc vào các vấn đề đặc biệt này. Tuy nhiên, cung bảy dễ bị ảnh hưởng với các rắc rối, các khó khăn và các bệnh gắn liền với ḍng máu hơn là bất cứ loại cung nào khác. Lư do là v́ đây là cung có liên quan tới sự biểu hiện và biểu lộ của sự sống trên cơi trần và liên quan với việc tạo ra liên hệ giữa tinh thần với vật chất thành h́nh hài sắc tướng. Do đó, ngày nay, liên quan tới việc đó, với mục đích t́m cách tạo ra một trật tự mới, với sự lưu chuyển thông suốt và tất nhiên với một sự tự do có dự tính của nhân loại thoát khỏi bệnh tật và các vấn đề của quá khứ. Điều này rất lư thú cần ghi nhớ và các môn sinh sẽ thấy rằng nó có ích vào lúc này, nếu họ muốn hợp tác một cách thông minh với các diễn biến của thời đại, để thu thập và nghiên cứu tất cả những ǵ mà tôi đă viết về cung bảy, tức cung trật tự, nghi lễ và huyền thuật.

b. Bệnh của hệ thần kinh – do ḍng năng lượng đến khắp các phần của cơ thể, được hướng dẫn, hoặc là bởi phàm ngă, một khía cạnh nào đó của phàm ngă, hoặc là bởi linh hồn, xuyên qua bộ óc, th́ nhiều và trở nên tỏ tường, khi đệ tử sắp được điểm đạo hay trở nên một điểm đạo đồ. Không kể đến bệnh về sinh lư, mà t́nh trạng này tạo ra, có nhiều t́nh trạng khác xảy đến do bởi luồng thần lực đi vào này. Thí dụ, đệ tử trở nên quá bị kích thích, và v́ đó, quá hoạt động; y trở nên mất thăng bằng, và khi nhắc đến điều này, tôi không đề cập đến sự thiếu cân bằng trí tuệ (dù rằng điều đó có thể xảy ra) mà là nói đến sự quá phát triển và quá biểu lộ ở một vài phần của bản chất y. Y có thể trở nên vượt hiệu năng quá mức do một bí huyệt nào đó quá hoạt động, hay là thiếu tổ chức và bất động. V́ lẽ đó, y bị lệ thuộc vào sự mất cân bằng của hệ thống tuyến, với mọi khó khăn kèm theo của nó. Việc quá bị kích thích hay là thiếu phát triển, nơi mà các bí huyệt có liên hệ đến, tác động một cách b́nh thường vào các tuyến, rồi đến lượt các tuyến này lại tạo ra các khó khăn về tính chất, mà tất nhiên, đến phiên chúng, sẽ tạo ra các vấn đề thuộc về hoàn cảnh cũng như sự cản trở của phàm ngă.

130

 
Bấy giờ, đó là một ṿng luẩn quẩn, và tất cả đều do sự chỉ đạo thần lực sai lầm, và ḍng thần lực đi vào từ một nơi này hay nơi khác của các hiện thể của phàm ngă, đến bí huyệt liên hệ của nó (nghĩa là sức mạnh cảm dục và mối liên hệ của nó với huyệt đan điền), và bấy giờ, nảy sinh ra các vấn đề về sức khỏe, về đặc tính và về ảnh hưởng. Hoạt động quá phóng phát (over-radiotory) qua một số bí huyệt, thu hút sự chú tâm, và đệ tử trở thành nạn nhân của việc thành đạt riêng của y. Tôi sẽ bàn đến các điều này một cách rộng răi hơn khi tôi đề cập đến các bệnh xuất phát từ bốn loại.

Các khó khăn này thuộc về một loại thông thường nhất, nhưng chắc chắn có ảnh hưởng trước tiên trên các đệ tử thuộc cung hai và cung sáu. V́ cung hai là cung kiến tạo, và do đó có liên hệ chủ yếu với biểu lộ bên ngoài và với việc vận dụng của mọi bí huyệt; cung sáu, bởi v́ trước tiên đó là cung của nhất tâm – một sự nhất tâm vốn có thể được thể hiện dưới h́nh thức cuồng tín tệ hại nhất hoặc là sự tận tụy vị tha nhất. Tất cả mọi cung đều có cùng các vấn đề như nhau, không cần phải nói, nhưng cung hai liên quan phần lớn với hoạt động của linh hồn qua tất cả các huyệt (các huyệt ở trên và dưới cách mô) nhưng với bí huyệt tim được xem như là bí huyệt đầu tiên cần chú ư. Cung sáu có một liên hệ chặt chẽ với huyệt đan điền v́ là nơi trao đổi và là chỗ tái định hướng sinh lực trong phàm ngă. Nên luôn luôn ghi nhớ điều này.

131

 
c. Các vấn đề liên quan với hệ hô hấp, tất cả đều liên quan với tim, và do đó, liên quan với sự thiết lập nhịp điệu đúng và tiếp xúc đúng với môi trường xung quanh. Việc hít vào sinh khí, việc chia xẻ không khí với tất cả những người khác, cho thấy cả hai bí huyệt riêng biệt của sự sống lẫn sự tham dự vào sự sống chung của tất cả. Đối với các vấn đề này về cuộc sống cá nhân hay cuộc sống riêng biệt và về điều ngược lại của nó, Thánh Ngữ OM, có liên quan một cách mật thiết. Có thể nói bằng những lời lẽ của một quyển cẩm nang huyền linh về chữa trị, được đưa ra cho các đệ tử đă tiến hóa rằng:

"Kẻ nào sống dưới âm thanh của thánh ngữ AUM, kẻ ấy biết được chính ḿnh. Kẻ nào sống mà trỗi lên thánh ngữ OM, kẻ ấy biết được huynh đệ ḿnh. Kẻ nào biết được LINH ÂM (SOUND), kẻ ấy biết được tất cả".

Kế đó, bằng ngôn ngữ ẩn dụ và biểu tượng của vị điểm đạo đồ, cẩm nang huyền linh tiếp tục:

"Linh khí của sự sống trở thành nguyên nhân của sự chết đối với kẻ sống trong một ma h́nh (shell). Y tồn tại nhưng y không hiện hữu; bấy giờ linh khí rời khỏi và chuyển động theo h́nh xoắn ốc đến tổng thể.

"Kẻ nào phát ra thánh ngữ OM, kẻ ấy không phải chỉ biết có riêng ḿnh. Y biết hơi thở là prana, sự sống, lưu chất nối liền. Các bệnh của sự sống là bệnh của y, bởi v́ các bệnh đó là số mệnh của con người – không sinh ra trong ma h́nh, v́ ma h́nh không tồn tại.

"Kẻ nào là Linh Âm (Sound) và phát ra Linh Âm, kẻ ấy không biết đến bệnh tật, không biết đến bàn tay tử thần".

Trong vài lời trên, toàn thể vấn đề về nhóm thứ ba của các nan đề và các bệnh tật đă được tổng kết. Chúng liên hệ với sự lưu chuyển của năng lượng linh hồn, vốn là năng lượng bác ái, và chúng không có liên quan đến sự lưu chuyển của tinh hoa sự sống. Hai năng lượng căn bản này, khi chúng tác động lên các lực của phàm ngă, chúng mang lại phần lớn các nan đề mà nhân loại phải kế thừa. Đó là thiếu bác ái, thiếu linh động, không gióng lên được một cách chính xác nốt của linh hồn và của cung, và thất bại trong việc truyền đạt. Bí nhiệm của việc cấu tạo một vận hà thuần khiết (dùng cách nói thần bí chớ không dùng cách nói huyền linh), được xét trong nhóm thứ nhất của các nan đề và việc thiết lập sự liên giao đúng đắn bằng cách phát ra đúng nốt thu hút của linh hồn, được xét đến trong hai nhóm sau cùng.

132

 
Nhóm khó khăn thứ ba này, tức các nan đề và các bệnh tật, dĩ nhiên là các khó khăn của con người trên tất cả các cung, trừ ra người thuộc cung 1 có thiên hướng dứt khoát đối với các khó khăn đặc biệt này. Đồng thời, khi họ vận dụng đúng các sức mạnh tiềm tàng của ḿnh, họ có thể khắc phục bằng cách dùng đúng Thánh Ngữ OM, và sau rốt đúng Linh Âm, th́ các nan đề ngẫu nhiên và các khó khăn dễ dàng được vượt qua nhiều hơn là những người ở trên các cung khác. Ở đây, các bạn có một tham khảo về Linh Từ Thất Truyền của Hội Tam Điểm và về Linh Âm của Danh Xưng Cấm Kỵ (the SOUND of the Ineffable Name).

Âm của AUM, âm của OM, và chính Linh Âm, tất cả đều liên hệ tới rung động và các hiệu quả dị biệt và đa dạng của chúng. Bí nhiệm của Định Luật Rung Động ngày càng được tiết lộ khi con người học được cách phát ra Linh Từ (Word) theo ba trạng thái của nó. Các đạo sinh nên cân nhắc kỹ về sự phân biệt giữa hơi thở (breath) với âm thanh (sound), giữa tiến tŕnh thở với tiến tŕnh tạo ra hoạt động rung động. Chúng có liên hệ nhưng lại riêng biệt với nhau. Một đàng có liên quan với Thời Gian, c̣n đàng kia liên quan với Không Gian và (theo cách diễn tả của Cổ Luận) "âm thanh, cái cuối cùng và tuy thế âm thanh mở đầu, liên quan đến những ǵ không phải là Thời Gian cũng không phải là Không Gian; nó nằm bên ngoài Vạn Hữu biểu lộ, Cội Nguồn của tất cả những ǵ hiện tồn và chưa hiện tồn" (tức là thái hư – nothing – A.A.B.)

V́ lư do này, các đệ tử trên cung 4 thường có thể phát triển bằng năng lực trực giác, cách hiểu biết về Thánh ngữ OM. Cung hài ḥa qua xung khắc này (xung khắc của các cặp đối hợp) tất nhiên có liên quan với việc dẫn tới hoạt động rung động đó, vốn sẽ đưa đến hợp nhất, hài ḥa, đến các tương quan đúng và đến sự phóng thích trực giác.

133

 
d. Các vấn đề gắn liền với hoạt động hoặc không hoạt động của các bí huyệt có lẽ là quan trọng nhất theo quan điểm bệnh tật, bởi v́ các bí huyệt chi phối hệ thống tuyến, c̣n các tuyến có liên quan trực tiếp với ḍng máu và chúng cũng chi phối các vùng chính và trọng yếu nhất trong cơ thể người; chúng có hiệu quả cả về mặt sinh lư lẫn tâm lư trên phàm ngă và các tiếp xúc, các tương quan bên trong và bên ngoài. Phản ứng trước nhất là về thể xác, nhưng các hậu quả phần lớn là về mặt tâm lư, và do đó, chính nhóm thứ tư này mà tôi sẽ chủ yếu bàn rộng thêm, liên quan với các bệnh của các đệ tử và đưa ra một vài chỉ dẫn rơ rệt về các bí huyệt. Điều này sẽ nêu ra rơ hơn ở một nơi khác các nguyên nhân của nhiều bệnh của nhân loại và các khó khăn thể chất.

Trước khi tiếp tục điểm kế tiếp, nên cố gắng hiểu rơ hơn một chút các Định Luật Chữa trị và các Qui Luật được đưa ra xa như thế và được lặp lại ở đây để làm cho dễ dàng các nỗ lực của các bạn.

ĐỊNH LUẬT  I

Mọi bệnh tật là hệ quả của sự sống linh hồn bị ức chế, và điều này đúng với tất cả mọi h́nh hài trong tất cả các giới. Tài khéo léo của nhà chữa trị cốt ở chỗ khai phóng linh hồn sao cho sự sống của linh hồn có thể tuôn đổ qua toàn bộ các cơ quan đang cấu tạo bất cứ h́nh hài đặc biệt nào.

ĐỊNH LUẬT  II

Bệnh tật là sản phẩm của và lệ thuộc vào ba ảnh hưởng: thứ nhất, quá khứ của một người, y phải trả giá cho lỗi lầm cũ; thứ hai, sự kế thừa của y, trong đó y chia sẻ với tất cả nhân loại các ḍng năng lượng bị ô nhiễm vốn có nguồn gốc tập thể; thứ ba, y chia phần với tất cả các h́nh hài, trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chưởng Quản Sự Sống đặt để trên cơ thể của Ngài. Ba ảnh hưởng này được gọi là "Định Luật Cổ Chia Sẻ Tà Lực". Định luật này vào một ngày nào đó, phải nhường chỗ cho "Định Luật Thiện Hảo Cổ, Chiếm Ưu Thế" mới mẻ hơn, vốn ẩn đàng sau tất cả những ǵ mà Thượng Đế đă tạo ra. Định Luật này phải được đưa vào hoạt động bằng ư chí tinh thần của con người.

ĐỊNH LUẬT  III

134

 
Bệnh tật là một hệ quả của việc tập trung cơ bản năng lượng sự sống của con người. Từ cơi mà các năng lượng này được tập trung, tiếp diễn những t́nh trạng có tính quyết định vốn tạo ra t́nh trạng sức khỏe tệ hại, và do đó, thể hiện dưới h́nh thức bệnh hoặc là dưới h́nh thức vô bệnh.

ĐỊNH LUẬT  IV

Bệnh tật, cả về mặt vật chất lẫn tâm linh, có cội nguồn trong thiện, mỹ và chân. Bệnh tật chỉ là một phản ảnh méo mó của các tiềm năng thiêng liêng. Linh hồn bị ngăn trở, đang t́m cách biểu lộ đầy đủ một tính chất thiêng liêng nào đó hoặc thực tại tinh thần bên trong, tạo ra bên trong chất liệu của các thể của nó một điểm va chạm. Đôi mắt của phàm ngă được tập trung trên điểm này và việc đó đưa đến bệnh tật. Kỹ năng của nhà trị liệu là quan tâm đến việc ngước đôi mắt chăm chú ngó xuống, nh́n lên linh hồn, tức là Nhà Trị Liệu bên trong h́nh hài. Mắt tinh thần hay mắt thứ ba lúc đó hướng dẫn sức mạnh trị liệu, và mọi sự đều tốt đẹp.

QUI LUẬT  MỘT

Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, trái tim, bộ óc và hai bàn tay của ḿnh. Nhờ thế, y có thể tuôn đổ sức mạnh chữa trị thiết yếu lên người bệnh. Đây là công tác từ điện. Nó chữa lành bệnh tật, hoặc làm tăng t́nh trạng tệ hại, tùy theo sự hiểu biết của nhà trị liệu.

Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, bộ óc, tim và bức xạ hào quang của ḿnh. Như thế, sự hiện diện của y có thể nuôi dưỡng sự sống linh hồn của người bệnh. Đây là công tác bức xạ. Không cần đến hai bàn tay. Linh hồn phô bày sức mạnh của nó. Linh hồn của người bệnh đáp ứng lại qua sự đáp ứng với hào quang của y, đến bức xạ của hào quang nhà trị liệu, tràn ngập với năng lượng linh hồn.

QUI LUẬT  HAI

Nhà trị liệu phải đạt được sự tinh khiết về từ điện, nhờ sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt được loại bức xạ xua đuổi, bức xạ này tự biểu lộ trong mỗi người khi y liên kết các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này được thiết lập, bức xạ cũng phát ra.

  QUI LUẬT  BA

135

 
Nhà trị liệu nên tự luyện tập để biết được tŕnh độ tư tưởng bên trong hoặc là ước muốn của kẻ đang mưu t́m sự giúp đỡ của y. Nhờ đó, y có thể biết được cội nguồn của bệnh tật. Y nên liên kết nhân và quả, và biết được mức độ chính xác để nhờ đó mới trợ giúp được.

QUI LUẬT  BỐN

Nhà chữa trị và nhóm chữa trị phải kiềm chế ư chí. Không phải dùng ư chí mà dùng t́nh thương.

2. Các khó khăn gắn liền với sự tiếp xúc Linh Hồn.

Hôm nay, chúng ta bắt đầu nghiên cứu về các khó khăn, các bệnh tật và các bệnh về tâm lư (thần kinh và trí tuệ) của người t́m đạo và của các đệ tử trên thế gian. Chúng ta sẽ khảo cứu các điều này một cách rơ rệt theo góc độ của bảy bí huyệt, cũng như xem xét các kết quả của các sức mạnh và các năng lượng (tôi dùng các lời lẽ phân biệt này một cách cố ư) đang tuôn đổ qua chúng. Nhiều điều mà tôi sắp nói, sẽ được mở ra cho vấn đề theo quan điểm y học chính thống, tuy nhiên, đồng thời, y khoa chính thống đă từ từ bị lôi cuốn hướng về quan điểm huyền bí. Tôi sẽ không cố gắng liên kết thái độ huyền bí để chữa trị, các đề xuất và các phương pháp của nó đối với các trường phái chữa trị hiện đại. Trong bất luận trường hợp nào, cả hai đang dần dần tiến đến gần nhau. Các giáo huấn này có dụng ư dành cho người đọc ở thế tục, họ sẽ hiểu được rơ ràng hơn về luận đề của tôi nếu nó tương đối ít có các thuật ngữ chuyên môn, và các quan điểm về lư thuyết của y khoa. Chúng sẽ chỉ đem lại sự rối rắm, và cố gắng của tôi là đưa ra một bức tranh tổng quát về các nguyên nhân nằm bên dưới của các bệnh thể xác bên ngoài. Tôi t́m cách tŕnh bày một vài khía cạnh trị liệu theo huyền môn mà nhân loại hiện nay đang sẵn sàng, xin nhắc các bạn nhớ rằng việc tŕnh bày tất nhiên là không đầy đủ và chỉ có một phần, và v́ lư do đó, có thể dường như không chính xác và là thách đố cho những kẻ luôn t́m lối thoát cho sự cả tin của con người. Tuy nhiên, điều đó không có liên quan tới tôi. Thời gian sẽ chứng minh sự chính xác cho các phát biểu của tôi.

136

 
Ngành y học mới sẽ bàn đến các yếu tố mà ngày nay được nhận biết một cách lờ mờ và tuy nhiên, không dẫn đến bất cứ mối liên quan thật sự hay có thật nào đối với con người và thể xác của y. Lư thuyết căn bản mà dựa vào đó huấn điều y học mới sẽ dựa vào, có thể được tóm tắt đầy đủ nhất bằng phát biểu rằng trong thực tế không có ǵ trừ ra năng lượng, cần được xem xét, và các mănh lực vốn đề kháng lại hay có sức đồng hóa thuộc các dạng năng lượng cao hoặc khác nhau. Do đó, tôi xin bắt đầu bằng cách nêu ra cho bạn một Định Luật mới để thêm vào bốn định luật đă được truyền đạt. Các định luật trước đă có trong thiên nhiên với các mệnh đề trừu tượng, và trừ phi có liên quan với định luật thứ năm này sẽ vẫn hơi mơ hồ và vô nghĩa.

ĐỊNH LUẬT  V

Không có ǵ ngoài năng lượng, v́ Thượng Đế là sự sống. Hai năng lượng đáp ứng trong con người, c̣n năm năng lượng khác hiện hữu. Đối với mỗi năng lượng có một điểm tiếp xúc trung ương. Sự xung đột giữa các năng lượng này với các lực và giữa chính các lực với nhau tạo ra các bệnh về thể xác của con người. Sự xung đột của năng lượng thứ nhất và năng lượng thứ hai kéo dài nhiều thời đại cho đến khi đỉnh núi được đạt tới – đỉnh núi lớn thứ nhất. Cuộc chiến giữa các sức mạnh tạo ra mọi bệnh tật, mọi ốm đau và thống khổ cho thể xác, vốn t́m sự giải thoát trong cái chết. Hai, năm và như thế là bảy, cộng với những ǵ mà chúng tạo ra, nắm giữ bí mật. Đây là Định Luật Chữa Trị thứ năm bên trong thế giới sắc tướng.

Định luật này có thể được phân tích thành một vài phát biểu căn bản có thể được kể ra như sau:

1. Chúng ta sống trong một thế giới năng lượng và chính chúng ta là một thành phần tạo thành của các năng lượng đó.

2. Thể xác là sự phối hợp của hai năng lượng và bảy thần lực.

3. Năng lượng thứ nhất là năng lượng của linh hồn, tức năng lượng của cung. Đó là chủ thể tạo ra sự xung đột khi năng lượng linh hồn t́m cách kiềm chế các thần lực.

137

 
4. Năng lượng thứ nh́ là năng lượng của phàm ngă tam phân – tức cung phàm ngă v́ nó đối kháng lại với năng lượng cao.

5. Các thần lực là các năng lượng khác hay là các tiềm lực của cung, đang kiềm chế bảy bí huyệt và bị chế ngự hoặc là bởi năng lượng của phàm ngă, hoặc là bởi năng lượng của linh hồn.

6. Do đó, hai sự xung đột tiếp diễn giữa hai năng lượng chính và giữa các năng lượng khác, được tập trung qua bảy bí huyệt.

7. Chính sự tương tác của các năng lượng này mới tạo ra sức khỏe tốt hoặc xấu.

Có nhiều giáo huấn được đưa ra liên quan đến sự đấu tranh lâu đời giữa phàm ngă với linh hồn, nhưng điều đó luôn luôn được tŕnh bày bằng ngôn ngữ chỉ sự tiếp cận của tinh thần, của huyền bí học và của tôn giáo hoặc cái nào khác trong các thuật ngữ chỉ phản ứng của cá tính, chỉ đạo tâm trừu tượng và chỉ sự thanh khiết hay là không thanh khiết. Tôi sẽ không bàn đến các điều này. Chủ đề của tôi là các hậu quả của sự xung đột này trong thể xác. Do đó, tôi muốn tự hạn chế chỉ vào các vấn đề sinh lư và tâm lư, gắn liền với sự đấu tranh, mà nói chung, tạo ra khó khăn cho tất cả đệ tử. Có thể thừa nhận rằng:

A. Mọi bệnh tật và khó khăn vật chất là do bởi một hay nhiều trong số ba sự việc hay t́nh trạng sau:

1. Tiếp xúc với linh hồn tiến hóa, như vậy tạo ra việc bồi bổ sinh khí cho mọi bí huyệt theo nhịp điệu được định đoạt tùy theo cung của linh hồn. Tất nhiên, điều này tạo ra sự chấn động và sự căng thẳng trong thể xác.

2. Sự sống và sự tập trung của phàm ngă, nó đang cố gắng để chối bỏ sự kiềm chế của linh hồn, và được biểu lộ ở mức độ lớn qua hoạt động của bí huyệt cổ họng (mở đường cho hoạt động của tuyến giáp trạng) và của các bí huyệt dưới cách mô.

138

 
3. Một chu kỳ trong kiếp sống của người t́m đạo mà trong đó, sự kiềm chế của phàm ngă bắt đầu yếu đi và khi đó trọng điểm và hoạt động hợp lư di chuyển vào các bí huyệt trên cách mô – lại tạo nên phiền toái và thích nghi lại.

B. Một số mục tiêu tự hiện ra cho người t́m đạo vào các giai đoạn khác nhau, và mỗi giai đoạn có liên quan với sự tiến hóa, nhưng đồng thời một vài khó khăn kèm theo.

1. Mục tiêu trước mắt điểm đạo đồ là có được mọi bí huyệt trong thể dĩ thái đáp ứng với năng lượng cung của linh hồn và với mọi năng lượng của bảy cung khác phụ thuộc vào nó. Tiến tŕnh kích thích, hiệu chỉnh và đạt đến sự kiềm chế được thiết lập tiếp tục cho đến sau cuộc điểm đạo thứ ba. Lúc bấy giờ khi cuộc điểm đạo đó xảy ra, thể xác có được một tầm cỡ và tính chất hoàn toàn khác, các Qui Luật và Định luật về sức khỏe không c̣n áp dụng được nữa.

2. Mục tiêu trước mắt đệ tử là xúc tiến việc kiểm soát của các bí huyệt trong cơ thể, xuyên qua linh hồn, nhờ sự kích thích, gạt bỏ và làm ổn định sau rốt. Điều này tất nhiên tạo ra khó khăn, và sự bồi bổ sinh khí hay là truyền linh hứng (hoặc là bằng các lời lẽ thích đáng), hoặc là sự thiếu thốn hay bất toàn của chúng, tác động vào các cơ quan trong cơ thể bên trong vùng xung quanh các bí huyệt và tác động đến mọi chất liệu xung quanh các bí huyệt.

139

 
3. Mục tiêu trước mắt người t́m đạo hoặc đệ tử dự bị là chuyển thần lực từ bí huyệt dưới cách mô, xuyên qua huyệt đan điền, đến các bí huyệt trên cách mô. Năng lượng của bí huyệt ở chót xương sống phải được chuyển lên đầu; năng lượng của bí huyệt xương mông phải được đem lên bí huyệt cổ họng, trong khi năng lượng của huyệt đan điền phải được chuyển lên tim. Điều này được làm để đáp ứng với "sức hút" từ điện của linh hồn khi nó bắt đầu chế ngự cung phàm ngă. Đó là một tiến tŕnh lâu dài và đau khổ gồm nhiều kiếp sống và hậu quả là mang lại nhiều bệnh về thể xác.

4. Mục tiêu trước mắt người b́nh thường (chịu ảnh hưởng một cách vô tâm) là đáp ứng đầy đủ với sức mạnh của phàm ngă, tập trung trước tiên ở trung điểm, tức đan điền, và kế đó, phối hợp các thần lực này một cách vững chăi và một cách sáng suốt, sao cho một phàm ngă hợp nhất sau rốt được đem ra cho linh hồn kiềm chế và sử dụng.

5. Mục tiêu trước mắt người sơ khai hoặc người chưa phát triển (lại chịu ảnh hưởng một cách vô tâm) là sống một cuộc sống đầy thú tính và đầy t́nh cảm, nhờ đó thu lượm được kinh nghiệm để phát triển, để tiếp xúc và sau rốt để hiểu biết. Nhờ cách này mà bộ máy đáp ứng của linh hồn trong ba cơi thấp được kiến tạo.

Tôi cũng xin kêu gọi sự chú tâm đến ư tưởng mà tôi đă đưa vào ở đây, đó là về bản chất, các mục tiêu tự chúng có một hiệu quả trên những ǵ mà con người đang nỗ lực. Đây là một ư tưởng biện hộ cho việc xem xét cẩn thận.

Các điều khái quát này sẽ chỉ hữu ích nếu bạn nhớ rằng chúng là các điều khái quát. Không một người t́m đạo ở bất cứ tŕnh độ nào hoàn toàn cắt đứt nỗ lực của ḿnh cho đến sau cuộc điểm đạo thứ ba, y cũng không hoàn toàn bị đặc thù hóa trong kiếp sống và nỗ lực của y. Nhân loại đang ở mọi tŕnh độ phát triển có thể tưởng tượng được, và nhiều người ở các tŕnh độ này thuộc về hạng giữa so với năm tŕnh độ được nhắc ở trên. Tất cả các tŕnh độ này đều phối hợp và trộn lẫn vào nhau và thường tạo ra một diễn trường dữ đội và gây bối rối cho tư tưởng và hoạt động. Chỉ có trong cuộc đời của một cá nhân chưa phát triển mà người ta mới thấy được sự đơn giản rơ rệt. Ở quăng giữa – từ giai đoạn ấu trĩ của giống dân hay của con người, đến giai đoạn ở trạng thái giải thoát khỏi cuộc sống phàm ngă – không có ǵ cả trừ ra sự phức tạp, sự gối lên của các trạng thái tâm thức, nỗi khó khăn, bệnh tật, các vấn đề tâm lư, ốm đau và chết chóc.

140

 
Điều này hiển nhiên phải là như thế, khi phần lớn năng lượng và thần lực vốn dĩ tạo ra con người và tạo thành hoàn cảnh của y có liên quan với nhau. Trong thực tế, mọi con người, giống như một xoáy nước nhỏ trong đại dương Sinh Linh mà trong đó y sống và hoạt động – không ngừng chuyển động cho đến lúc mà linh hồn "thở trên mặt nước" (tức là các thần lực) và Thiên Thần Bản Lai Diện Mục giáng vào xoáy nước. Bấy giờ, tất cả trở nên phẳng lặng. Mặt nước bị khuấy động bởi nhịp sống, rồi sau đó bị khuấy động dữ dội do sự giáng xuống của Thiên Thần, đáp ứng với mănh lực chữa trị của Thiên Thần và được biến đổi "thành một cái ao yên tĩnh mà những người nhỏ bé có thể đi vào và t́m được sự chữa trị mà họ cần". Cổ Luận giảng như thế.

CÁC BÍ HUYỆT VÀ HỆ THỐNG TUYẾN

Do đó, điều hiển nhiên đối với bạn là bệnh tật (khi không có nguồn cội từ tập thể, hay là kết quả của nghiệp quả hành tinh hay là dựa trên sự ngẫu nhiên) bắt nguồn từ sự hoạt động hoặc không hoạt động của các bí huyệt. Đây là một phát biểu về một chân lư căn bản, được đưa ra theo cách đơn giản nhất. Như các bạn biết, các bí huyệt chi phối hệ thống nội tiết, rồi đến phiên nó, hệ thống này kiềm chế bảy vùng chính yếu trên thể xác và chịu trách nhiệm đối với việc vận hành chính xác của toàn cơ thể, tạo ra các hiệu quả về mặt sinh lư lẫn tâm lư.

Sự quan trọng của hệ thống tuyến này không nên được đánh giá quá cao. Đó là một bản sao thu nhỏ của cấu tạo thất phân của vũ trụ và là phương tiện biểu lộ và là vận cụ giao tiếp đối với thần lực của bảy cung, bảy Tinh Quân trước Thiên Ṭa. Bấy giờ, y học và các phương pháp chữa trị của nền văn minh sau này, sẽ được kiến tạo chung quanh chân lư chưa được thừa nhận này.

141

 
Các tuyến tạo thành một hệ thống liên lạc lớn trong cơ thể; chúng đưa mọi phần của thể xác, liên hệ lại với nhau; chúng cũng nối liền con người với thể dĩ thái – cả về mặt cá nhân lẫn hành tinh – và cũng giống như ḍng máu, tức tác nhân vận chuyển nguyên khí sự sống đến mọi phần của cơ thể. Tất nhiên là có bốn tác nhân phân phối chính nằm trong thể xác. Chúng hoàn toàn nằm bên trong chính chúng, tất cả đều góp phần vào cả sự sống chức năng lẫn sự sống hữu cơ của cơ thể, tất cả đều có liên hệ hỗ tương chặt chẽ, và tất cả đều tạo ra các kết quả sinh lư lẫn tâm lư, tùy theo sức mạnh của chúng, sự đáp ứng của bí huyệt với luồng thần lực cao đang đi vào, tŕnh độ tiến hóa đă đạt được và biểu lộ thông suốt, hay là ngược lại, của năng lượng đang đi vào. Bốn tác nhân phân phối năng lượng này là:

1. Chính thể dĩ thái. Thể này, với vô số các tuyến lực và năng lượng, các năng lượng đang đi vào và đi ra, sự đáp ứng của nó với các tác động năng lượng xuất phát từ chung quanh, cũng như từ con người tâm linh bên trong và các thể tinh anh, ẩn dưới toàn bộ xác thân. Trong đó, có bảy bí huyệt có vai tṛ như các tụ điểm tiếp nhận và phân phối; chúng là nơi tiếp nhận bảy loại năng lượng và chúng phân phối bảy năng lượng này qua toàn bộ hệ thống nhỏ bé của con người.

2. Hệ thần kinh và hệ thống quản trị ăn khớp của nó. Đây là một mạng lưới năng lượng và thần lực tương đối rơ ràng; chúng vốn là ngoại hiện của mạng lưới năng động, thiết yếu bên trong của thể dĩ thái và hàng triệu nadis hay là nguyên mẫu của các thần kinh nằm bên dưới thể xác quan trọng hơn. Các dây thần kinh và các bí huyệt sinh lực (plexi) cùng nhiều nhánh nhóc của chúng là các trạng thái âm của các năng lượng dương vốn chi phối hay là đang cố gắng chi phối con người.

142

 
3. Hệ thống nội tiết. Đây là biểu lộ hữu h́nh và bên ngoài đối với hoạt động của thể sinh lực và bảy bí huyệt của nó. Bảy bí huyệt đều nằm trong cùng một vùng với bảy tuyến chính yếu, và, theo giáo huấn nội môn, mỗi bí huyệt cung cấp sức mạnh và sự sống của tuyến tương ứng, mà thực ra, chính là sự ngoại hiện của nó.

     Các Bí huyệt                                     Các tuyến

Bí huyệt đầu    ………………            Tuyến tùng quả

Bí huyệt ấn đường   ………………   Tuyến yên

Bí huyệt cổ họng    …………………  Tuyến giáp trạng

Bí huyệt tim        ……………………  Tuyến ức (thymus)

Bí huyệt đan điền   …………………. Tụy tạng

Bí huyệt xương mông  ……………..  Tuyến sinh dục

Bí huyệt chót xương sống  ……….    Tuyến thượng thận

Ba hệ thống này liên kết chặt chẽ với nhau và tạo thành một hệ thống quản trị ăn khớp gồm các năng lượng và thần lực, chủ yếu có tính sinh động, khích động, năng động và sáng tạo. Về căn bản, chúng tùy thuộc lẫn nhau và toàn bộ sức khỏe bên trong của cơ cấu xác thân đều tùy thuộc vào chúng. Trước tiên, chúng đáp ứng với thể này hoặc thể khác trong số các thể (t́nh cảm hoặc trí tuệ), kế đó với phàm ngă hợp nhất và cung của phàm ngă, và sau cùng với cung của linh hồn khi linh hồn bắt đầu đảm nhận việc kiềm chế. Trong thực tế, chúng chịu trách nhiệm đối với việc tạo ra thể xác, và – sau khi ra đời – chúng chi phối tính chất tâm lư của nó, và đến phiên nó, tạo ra con người vật chất đang phát triển. Chúng là các tác nhân đối với ba trạng thái thiêng liêng của mọi biểu lộ: sự sống – tính chất – sắc tướng.

4. Ḍng máu. Đây là tác nhân chuyên chở của nguyên khí sự sống và của các năng lượng và thần lực phối hợp của ba hệ thống trên. Đây sẽ là một ư kiến có phần mới lạ đối với chính thống. Mối liên quan của hệ tuần hoàn của máu đối với hệ thần kinh, cho đến nay, không được phát triển thích đáng trong y học hiện đại. Tuy nhiên, có nhiều điều đă được làm để liên kết hệ thống tuyến với máu.

143

 
Chỉ khi nào bốn hệ thống liên hệ hỗ tương này được xem như một tổng thể hợp nhất và như là bốn trạng thái của một hệ thống lưu thông thiết yếu duy nhất, th́ bấy giờ, chân lư mới hiện ra. Chỉ khi nào chúng được thừa nhận là bốn tác nhân phân phối chính của các cung phối hợp của con người cá biệt, bấy giờ, bản chất thực sự của hiện tượng vật chất mới được hiểu rơ. Ở đây, cần lưu ư rằng:

1. Theo khía cạnh tuần hoàn, thể dĩ thái bị Nguyệt Cầu chi phối, v́ nó che phủ Vulcan.

2. Hệ thần kinh do Venus cai quản.

3. Hệ thống nội tiết bị Saturn chi phối.

4. Ḍng máu bị Neptune chi phối.

Trong thực tế bốn hệ thống này là biểu lộ của bốn trạng thái vật chất trong biểu lộ thấp nhất hay là biểu lộ thuần vật chất. Có các trạng thái biểu lộ khác của chất liệu căn bản, nhưng đây là bốn trạng thái quan trọng nhất.

Mỗi một trong các trạng thái này đều chủ yếu là có hai mặt và mỗi nhị bộ (duality) tương ứng với cung của linh hồn hay cung của phàm ngă. Do đó, mỗi cái vừa dương lẫn âm; mỗi cái có thể được mô tả như là một đơn vị của kháng lực và của năng lượng mănh liệt; mỗi cái là một phối hợp của một số trạng thái vật chất và chất liệu nguyên thủy – vật chất (matter) ở trạng thái tương đối tĩnh tại, c̣n chất liệu nguyên thủy (substance) là tác nhân tương đối dễ thay đổi hay là được phú cho đặc tính. Sự tương tác của chúng, mối liên quan và chức năng phối hợp của chúng là biểu lộ của Nguyên Khí Sự Sống Duy Nhất, và khi chúng đă đạt tới một tŕnh độ phối hợp toàn hảo hay là tổng hợp hay là hoạt động phối kết, lúc bấy giờ mới xuất hiện cái gọi là "sự sống phong phú hơn" mà Đức Christ đă nói đến và cho đến nay chúng ta không biết ǵ về điều đó cả. Bốn trạng thái của vật chất cũng tạo ra sự tương ứng đối với bốn thuộc tính thiêng liêng cũng như đối với ba trạng thái thiêng liêng.

144

 
Sự tương đồng của thuyết nhị nguyên căn bản của mọi biểu lộ cũng được duy tŕ, như vậy tạo ra chín cửa điểm đạo – ba, bốn và hai. Tuy nhiên, sự tương đồng này đối với tiến tŕnh khai mở th́ ở chiều hướng ngược lại, v́ đó là sự khai mở vào Ngôi Ba, Ngôi Sáng Tạo, khía cạnh vật chất và thế giới của hoạt động sáng suốt. Đó không phải là cuộc khai mở ở khía cạnh thứ hai hay khía cạnh linh hồn, như trường hợp xảy ra với các cuộc điểm đạo của Thánh Đoàn mà đệ tử đang chuẩn bị. Đó là sự khai mở của linh hồn vào kinh nghiệm lâm phàm ở cơi trần, vào cuộc sống cơi trần và vào thuật để tác động với tư cách con người. Cánh cửa dẫn vào kinh nghiệm này là "Cánh cửa Bắc Giải" ("Gate of Cancer"). Cuộc khai mở vào Thiên giới được tiến nhập vào qua "Cánh cửa Ma kết". Bốn thuộc tính và ba trạng thái của vật chất này, cộng với hoạt động song đôi của chúng, là sự tương ứng với bốn trạng thái của phàm ngă và Tam Thượng Thể Tinh Thần và mối liên hệ linh hoạt song hành của chúng. Trong phát biểu này có ẩn chiếc ch́a khóa đưa đến giải thoát.

BẢY BÍ HUYỆT CHÍNH

Ở đây, sẽ là hữu ích nếu chúng ta xem xét trong một chốc, bản chất của chính các bí huyệt, tóm tắt sơ lược giáo huấn đă được nêu ra trong các sách khác của tôi, và v́ thế tŕnh bày một bức tranh sáng sủa về thể năng lượng (energy body) nằm dưới nhục thân.

Có nhiều tụ điểm thần lực bên trong thể xác, nhưng chúng ta sẽ chỉ bàn đến bảy cái chính đang kiềm chế tất cả những cái c̣n lại ở mức độ này hay mức độ khác. Bằng cách đó chúng ta sẽ không bị lầm lẫn. Chúng ta sẽ xem xét năm bí huyệt nằm trên cột xương sống và hai bí huyệt ở trong đầu.

1. Bí huyệt đầu. Bí huyệt này nằm ở đúng đỉnh đầu. Nó thường được gọi là "hoa sen ngàn cánh" hay là Brahmarandra.

145

 
  a. Nó tương ứng với mặt trời tinh thần trung ương.

  b. Nó hoạt động sau kỳ điểm đạo thứ ba và là cơ quan phân phối năng lượng Chân thần, trạng thái ư chí của thánh linh.

  c. Nó có liên quan đến phàm ngă tam phân bằng giác tuyến mà các đệ tử và các điểm đạo đồ ở trong tiến tŕnh kiến tạo, và đạt đến sự hữu dụng đầy đủ chỉ sau khi có sự phá hủy linh hồn thể vào cuộc điểm đạo thứ tư.

  d. Đó là trung tâm Shamballa trong thể xác và phương tiện của Từ Phụ hay của Ngôi Thiêng Liêng thứ nhứt.

  e. Nó ghi nhận Thiên Ư, tương ứng với "lửa điện" của thái dương hệ và có tính năng động.

  f. Ngoại hiện ở cơi trần trọng trược của nó là tuyến tùng quả trong đầu. Điều này vẫn tác động trong thời thơ ấu và cho tới khi ư-chí-hiện-tồn đă được thiết lập đầy đủ để cho kẻ luân hồi được bám chặt vững vàng khi lâm phàm trong thân xác. Trong các giai đoạn cuối cùng của biểu lộ thiêng liêng trong con người, nó lại đi vào hoạt động và trở thành hữu ích với tư cách là phương tiện để hoàn thành năng lượng ư chí của Đấng thiêng liêng đă được thiết lập trên cơi trần.

  g. Nó là cơ quan tổng hợp, bởi v́, sau kỳ điểm đạo thứ ba và trước khi linh hồn thể bị hủy diệt, nó gom vào chính nó các năng lượng của tất cả ba trạng thái của sự sống biểu lộ. Về phần con người, điều này có nghĩa là các năng lượng của Tam Thượng Thể Tinh thần, của hoa sen Chân ngă tam phân và của phàm ngă tam phân, như thế, tạo thành chín của khai mở. Thế nên, các năng lượng đồng bộ và được tập trung trong, chung quanh và trên đầu, rất là đẹp đẽ và tỏa chiếu rộng, cộng với hiệu quả năng động. Chúng dùng để liên kết điểm đạo đồ với mọi phần của sự sống hành tinh, với Đại Hội Đồng ở Shamballa và với Đức Ngọc Đế, Đấng Điểm Đạo cuối cùng – qua Đức Phật, và một trong ba vị Hoạt Động Phật. Phật Thích Ca, theo một ư nghĩa đặc thù nhất, liên kết điểm đạo đồ với Ngôi Hai của Thượng Đế – ngôi bác ái – và do đó với Thánh Đoàn; các Hoạt động Phật liên kết đạo đồ với Ngôi Ba của Thượng Đế, ngôi của hoạt động thông tuệ. Thế nên, năng lượng của ư chí của tâm thức và của óc sáng tạo gặp nhau trong điểm đạo đồ, tạo ra sự tổng hợp của các trạng thái thiêng liêng.

146

 
  h. Đây chỉ là một trong bảy bí huyệt mà vào lúc hoàn toàn giải thoát vẫn giữ được vị thế hoa sen đảo ngược, cuống sen (thực ra là antahkarana) đạt tới "cơi Trời thứ bảy" như vậy nối liền điểm đạo đồ với trung tâm hành tinh chủ yếu thứ nhứt, Shamballa. Tất cả các trung tâm khác khởi đầu bằng cách đảo ngược, với tất cả các cánh hoa xoay xuống về phía đáy xương sống; trong diễn tŕnh tiến hóa các cánh của chúng dần dần khai mở và kế đó từ từ hướng lên "tiến về phía đỉnh của cái que", như cách gọi trong Cổ Luận. Trên đây là một mảnh chi tiết có chút ít giá trị, trừ phi tới một chừng mức mà nó nêu ra một chân lư, hoàn thành một bức tranh và đem đến cho đạo sinh một ư tưởng tượng trưng về những ǵ chủ yếu là một tác nhân phân phối năng lượng ư chí của Thượng Đế.

147

 
2. Bí Huyệt ấn đường. Đây là bí huyệt giữa hai mày và nằm trong vùng đầu ngay trên hai mắt, nơi mà nó "tác động như một b́nh phong đối với vẻ mỹ lệ rực rỡ và huy hoàng của con người tâm linh".

  a. Nó tương ứng với mặt trời vật chất và là biểu hiện của phàm ngă, phối kết và đang tác động – trước tiên với tư cách đệ tử và sau rốt với tư cách điểm đạo đồ. Đây là con người đích thực hay là cái mạng che mặt.

  b. Nó đạt được hoạt động đầy đủ vào lúc cuộc điểm đạo thứ ba xảy ra. Tôi xin nhắc các bạn rằng cuộc điểm đạo này được Thánh Đoàn xem như là cuộc điểm đạo chính thứ nhứt, một điều mà trước kia tôi có truyền đạt. Đó là cơ quan để phân phối năng lượng của Ngôi Ba – năng lượng của sự thông tuệ linh hoạt.

  c. Nó có liên quan tới phàm ngă bằng sinh mệnh tuyến sáng tạo, và do đó có liên quan chặt chẽ với bí huyệt cổ họng (trung tâm của hoạt động sáng tạo), cũng như bí huyệt ở đầu có liên quan với bí huyệt ở chót xương sống. Một tương tác linh hoạt, khi được thiết lập giữa bí huyệt ấn đường và bí huyệt cổ họng, sẽ tạo ra một cuộc sống sáng tạo và một biểu hiện Thiên ư về phía điểm đạo đồ. Cũng giống như thế, sự tương tác linh hoạt giữa bí huyệt ở đầu và bí huyệt ở chót xương sống, tạo ra sự biểu lộ của thiên ư. Các mănh lực của bí huyệt ấn đường và bí huyệt cổ họng, khi phối hợp nhau, tạo ra biểu lộ cao nhất của "lửa do ma sát", cũng như các năng lượng của bí huyệt ở đầu và bí huyệt căn bản tạo ra "lửa điện" của cá nhân mà, khi tự biểu lộ đầy đủ, chúng ta gọi là luồng xà hỏa (kundalini fire).

148

 
  d. Đó là bí huyệt mà qua đó, Huyền Giai sáng tạo thứ tư t́m cách biểu lộ trên cơi riêng của nó, và nơi đây, cũng Huyền giai này và giới thứ tư trong thiên nhiên, tức gia đ́nh nhân loại, được phối hợp và ḥa lẫn nhau. Bí huyệt ở đầu có liên quan với Chân thần và phàm ngă. Bí huyệt ấn đường có liên kết Tam Thượng Thể Tinh thần (biểu lộ của Chân Thần trong các thế giới vô sắc tướng) với phàm ngă. Hăy suy gẫm về phát biểu này, bởi v́ ở đây – trong biểu tượng kư về bí huyệt ở đầu, xét về mặt vật chất – bạn có h́nh ảnh của ư chí tinh thần, tức Atma, và bác ái-tinh thần, tức buddhi. Việc giảng dạy về vị trí của hai mắt trong phát triển của biểu hiện hữu thức, tiến tới Thiên ư một cách sáng tạo, cũng xảy ra ở đây.

Mắt thứ ba……….. bí huyệt ở đầu……….. Ư chí.  Atma

Mắt của Từ Phụ. Chân Thần.                      SHAMBALLA

Trạng thái thứ nhứt của ư chí hay quyền năng và mục tiêu.

Liên quan tới tùng quả tuyến.

Mắt phải…….. bí huyệt ấn đường........ Bác ái.Bồ Đề (Buddhi)

Mắt của Ngôi Con, Linh hồn.                    Thánh Đoàn.

Trạng thái hai của bác ái minh triết.

Liên quan tới tuyến yên.

Mắt  trái……… bí huyệt cổ họng.. ….. Hoạt động thông tuệ.

Mắt của Mẹ, phàm ngă.                                 Nhân loại

Trạng thái thông tuệ thứ ba.

Liên  quan tới tuyến thuộc động mạch cổ.

Khi cả ba mắt này đều tác động, và tất cả ba đều "thấy" cùng một lúc, bấy giờ, bạn sẽ nh́n thấu suốt vào Thiên ư (điểm đạo đồ), hoặc có linh thị trực giác của cơi (đệ tử), và có chiều hướng tâm linh của hoạt động sáng tạo (Thánh sư).

149

 
 e. Bí huyệt ấn đường ghi nhận hay tập trung ư định để sáng tạo. Đó không phải là cơ quan sáng tạo theo cùng ư nghĩa giống như bí huyệt cổ họng, mà nó thể hiện ư tưởng nằm sau tính sáng tạo linh hoạt, tác động theo sau của sự sáng tạo, sau rốt tạo ra h́nh thức lư tưởng đối với ư tưởng.

 f. Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của nó là tuyến yên; hai thùy của tuyến này tương ứng với hai cánh hoa đa dạng của bí huyệt ấn đường. Nó biểu lộ sự tưởng tượng và ước muốn dưới hai dạng cao nhất và đây là các yếu tố năng động nằm sau mọi sáng tạo.

g. Do đó, nó là cơ quan hướng về lư tưởng và – thật là kỳ lạ – nó có liên hệ chặt chẽ với cung 6, cũng như bí huyệt đầu về thực chất liên quan với cung 1. Cung 6 có liên quan đặc biệt với cung 3 và ngôi ba của thiên tính, cũng như đối với cung hai và ngôi hai. Nó phối hợp, bám chặt và biểu lộ. Đây là một sự kiện mà từ trước đến giờ tôi không nhấn mạnh trong các tác phẩm khác của tôi. Bí huyệt ấn đường là điểm ở trong đầu, nơi mà bản chất song đôi của biểu lộ trong ba cơi thấp được tượng trưng. Nó ḥa lẫn các năng lượng sáng tạo của cổ họng và các năng lượng được siêu hóa của dục vọng hay là bác ái chân chính của tâm.

150

 
h. Bí huyệt này chỉ có hai cánh hoa thực sự, không phải là hoa sen đích thực theo cùng ư nghĩa như các bí huyệt khác. Các cánh của nó gồm có 96 cánh nhỏ hơn hay các đơn vị của lực (48 + 48 = 96) nhưng các cánh này không khoác lấy h́nh đóa hoa của các hoa sen khác. Chúng trải ra giống như các cánh của một phi cơ đối với bên phải và bên trái của đầu, và được tượng trưng bằng đường bên phải và đường bên trái của con đường vật chất và con đường tinh thần. Do đó, về mặt biểu tượng, chúng tạo thành hai cánh của Thập giá mà con người bị đóng đinh trên đó – hai ḍng năng lượng hay ánh sáng được đặt ngang qua ḍng sự sống tuôn xuống từ Chân Thần đến chót xương sống và đi qua đầu.

Ư tưởng về sự tương đối là ư tưởng luôn luôn phải được ghi nhớ khi đạo sinh t́m hiểu về các bí huyệt, về mặt trong có liên quan tới dĩ thái thể, đồng thời lại liên kết các thể tinh anh với các trạng thái ư thức vốn đồng nghĩa với trạng thái hiện tồn và biểu lộ, với các năng lượng của cung, với các t́nh huống chung quanh, với ba hiện thể theo chu kỳ (như H.P.B. gọi phàm ngă, linh hồn tam phân và Tam Thượng Thể Tinh Thần), với Shamballa và với toàn thể các Sự Sống biểu lộ. Đề tài rất là phức tạp, nhưng, khi đệ tử hoặc điểm đạo đồ đang sinh hoạt trong ba cơi thấp và các năng lượng khác nhau của toàn bộ con người bị "mắc cạn" trong con người ràng buộc cơi trần, lúc bấy giờ, t́nh trạng sẽ trở nên sáng tỏ hơn. Tôi dùng thành ngữ "mắc cạn" ("grounded") theo ư nghĩa đích thực và chính xác của nó, chứ không phải như là cách mô tả một người đă loại bỏ thể xác của ḿnh như nhà giáng ma học dùng thuật ngữ đó. Một số nhận thức trong thời gian và không gian có thể xảy ra; một số hiệu quả có thể được ghi nhận, một số ảnh hưởng của cung có vẻ trội hơn các ảnh hưởng khác; một vài "kiểu mẫu thực thể" xuất hiện; một biểu lộ của một Đấng tinh thần ở một mức độ kinh nghiệm hữu thức nào đó hiện ra một cách rơ rệt và bấy giờ có thể được chẩn đoán về mặt tinh thần. Các trạng thái và các thuộc tính của nó, các lực và năng lượng của nó, có thể được xác định vào thời điểm đó và cho một biểu lộ đặc thù được tạo ra của đời sống. Điều này cần được ghi nhớ và các tư tưởng của đạo sinh đừng nên lang thang quá xa, mà phải được tập trung vào dáng vẻ bề ngoài của con người (chính y hay là ai khác) và vào tính chất đang lộ ra. Khi kẻ nghiên cứu là một đệ tử hay là một điểm đạo đồ, y sẽ cũng có thể nghiên cứu khía cạnh của sự sống.

151

 
Tuy nhiên, khảo cứu của chúng ta hơi khác, v́ chúng ta sẽ cố gắng khám phá các bệnh tật và các khó khăn gắn liền với việc kích thích năng lượng hoặc thiếu sự kích thích của các bí huyệt, và nhờ thế đi đến một số hiệu quả mà năng lượng này tuôn vào và xung khắc với các sức mạnh sẽ tạo ra.

3. Bí huyệt cổ họng. Bí huyệt này nằm ở phía sau cổ, đến chỗ kéo dài của hành tủy, như vậy liên can tới tuyến động mạch cổ và hướng xuống xương bả vai. Đó là một bí huyệt đă phát triển đầy đủ và rất mạnh mẽ ở nơi con người b́nh thường. Điều lư thú cần ghi nhận trong mối liên hệ này là:

  a. Bí huyệt cổ họng do hành tinh Saturn chi phối, cũng như hai bí huyệt đầu lần lượt được chi phối bởi hành tinh Uranus (chi phối bí huyệt đầu) và Mercury (chi phối bí huyệt ấn đường). Đây là chỉ xét về đệ tử; t́nh trạng chi phối này thay đổi sau kỳ điểm đạo thứ ba hay là trước kỳ điểm đạo thứ nhất. Cả ba hành tinh này tạo thành một tam giác thần lực lư thú nhất và trong bộ ba theo sau và mối liên quan hỗ tương tất yếu của chúng, các bạn có – lại chỉ trong trường hợp các đệ tử – một câu chuyện hoặc biểu tượng vẽ vời gây kinh ngạc nhất của sự khai mở cửu phân:

1. Bí huyệt đầu

    Bí huyệt ấn đường.

    Bí huyệt cổ họng.

2. Mắt thứ ba.

    Mắt phải.

    Mắt trái.

3. Tuyến tùng quả

    Tuyến yên

   Tuyến động mạch cổ

152

 
Như vậy tŕnh bày cơ nguyên mà qua đó Tam Thượng Thể Tinh thần, linh hồn và phàm ngă tác động. Bí quyết để hiểu đúng tiến tŕnh "nằm trong liên quan của ba hành tinh Uranus, Mercury và Saturn, khi chúng tuôn đổ năng lượng của chúng qua chín "điểm tiếp xúc tinh thần" trên cơi trần vào trong "phạm vi nền tảng của ánh sáng và quyền năng vốn là con người trong thời gian và không gian".

    b. Bí huyệt này có liên quan đến cuộc điểm đạo thứ nhất và phát triển hoạt động vĩ đại, khi mức kinh nghiệm đó được đạt đến như nó đă được đạt đến bởi đa số nhân loại, vào lúc này, họ là người t́m đạo và các đệ tử dự bị của thế gian. (Đừng quên rằng nói về mặt chuyên môn, cuộc điểm đạo chủ yếu đầu tiên theo quan điểm Thánh Đoàn là cuộc điểm đạo thứ ba. Cuộc điểm đạo thứ nhất được các Chân Sư xem như là sự kết nạp tượng trưng vào Thánh đạo. Nó được nhân loại gọi là cuộc điểm đạo, bởi v́ vào thời Lemuria, đó là cuộc điểm đạo 1, hàm ư là bước vào việc kiềm chế thể xác hoàn toàn). Đó là cơ quan để phân phối năng lượng sáng tạo, năng lượng của ngôi ba bởi các linh hồn ở trên tŕnh độ tiến hóa. Có ba bí huyệt trong con người có liên quan tới và sự biểu lộ chính yếu của cung ba hay Ngôi Ba ở một số tŕnh độ phát triển khác nhau trên Thánh đạo:

1. Bí huyệt xương cùng đối với người chưa tiến hóa và người b́nh thường.

2. Bí huyệt cổ họng đối với người t́m đạo và đệ tử dự bị.

3. Bí huyệt ấn đường đối với các đệ tử và các điểm đạo đồ.

153

 
Ở đây, bạn lại có một bộ ba năng lượng vĩ đại chứa các tiềm lực vĩ đại ngày nay, do sự việc biểu lộ của trạng thái thông tuệ linh hoạt thứ ba đă đạt đến các đỉnh cao như thế nhờ sự phát triển và tâm thức nhân loại.

  c. Nó được liên kết với phàm ngă bằng tuyến sáng tạo, với linh hồn bằng giác tuyến và với Chân Thần bằng stutratma hay sinh mệnh tuyến (life thread). Nó không liên quan tới bất cứ trạng thái nào trong số các trạng thái thiêng liêng bởi antakarana, bởi v́ tuyến đó vốn nối liền Chân Thần với phàm ngă một cách trực tiếp (và sau rốt không tùy thuộc vào linh hồn), chỉ bám chặt vào biểu lộ của sự sống Chân Thần trong đầu, nơi bí huyệt đầu. Bấy giờ tâm thức trực tiếp được thiết lập giữa Chân Thần với phàm ngă và một bộ hai vĩ đại xuất hiện. Sự sống, tâm thức và h́nh hài lúc bấy giờ đều được tập trung một cách sáng tạo và một cách linh hoạt trong đầu và hoạt động của chúng được điều khiển từ đầu, xuyên qua hai bí huyệt đầu. Bí huyệt ấn đường chỉ đi vào hoạt động sáng tạo khi antakarana được kiến tạo. Trong các giai đoạn ban sơ, chính bí huyệt cổ họng, vốn là tác nhân sáng tạo, và trong thời kỳ sơ khai nhất, bí huyệt xương mông được linh hoạt. Tuy nhiên, bạn có một điều lư thú cần ghi nhớ. Việc kiến tạo antakarana chỉ có thể xảy ra thực sự khi nào cuộc sống sáng tạo của người t́m đạo chuyển từ bí huyệt xương cùng vào bí huyệt cổ họng và trở nên có thực và tiêu biểu. Về cái "cầu" liên lạc này, chính cái mũi là biểu tượng, v́ nó nối liền với đầu – chỉ một ḿnh và cô lập – với thân ḿnh, có hai phần, gồm những ǵ nằm trên cách mô và những ǵ nằm dưới cách mô – biểu tượng của linh hồn và phàm ngă hợp nhất, phối hợp và ḥa lẫn làm một. Đầu là biểu tượng của cái mà Patanjali mô tả như là trạng thái "hợp nhất cô lập" ("isolated unity").

  d. Đó là bí huyệt mà qua đó trạng thái thông tuệ của nhân loại tập trung một cách sáng tạo. Do đó, nhờ bí huyệt này mà năng lượng sáng tạo của trung tâm lớn của hành tinh được gọi là Nhân Loại tuôn tràn qua. Ba trung tâm hành tinh chính là Shamballa, Thánh Đoàn và Nhân Loại. Khi đạt tới sự hoàn hảo, năng lượng Shamballa gồm ư chí, quyền năng và Thiên ư sẽ tuôn đổ một cách thông suốt qua bí huyệt đầu, các năng lượng bác ái-minh triết của Thánh Đoàn sẽ tuôn đổ qua bí huyệt tim, c̣n năng lượng của nhân loại sẽ tập trung qua bí huyệt cổ họng, với bí huyệt ấn đường, tác động như là phương tiện của cả ba cái kia. Lúc bấy giờ sẽ xảy ra một hoạt động mới mẻ về phần nhân loại. Đó là nhiệm vụ nối liền ba giới trên nhân loại với ba giới dưới nhân loại, và như thế, lập nên các cơi trời mới và cơi trần mới. Lúc bấy giờ nhân loại sẽ đạt đến đỉnh của mục tiêu tiến hóa của ḿnh trên địa cầu này.

154

 
  e. Bí huyệt cổ họng, một cách đặc biệt, là cơ quan của Linh Từ sáng tạo. Nó ghi nhận ư định hay mục tiêu sáng tạo của linh hồn, được truyền đạt cho nó bằng ḍng năng lượng đi vào từ bí huyệt ấn đường. Sự phối hợp của hai năng lượng xảy ra như thế sẽ đưa tới một số kiểu mẫu hoạt động sáng tạo. Đây là sự tương ứng cao hơn đối với tính sáng tạo của bí huyệt xương cùng. Trong bí huyệt đó, các năng lượng sáng tạo âm và dương được biểu hiện trong các cơ thể nam và nữ riêng biệt và đưa tới mối liên hệ trong tác động sáng tạo, được đảm nhận một cách hữu thức, dù rằng cho đến nay không có nhiều mục tiêu rơ rệt.

  f. Thể hiện ra ngoài bằng vật chất trọng trược của bí huyệt này là tuyến giáp trạng. Tuyến này được xem như có tầm quan trọng tối thượng cho t́nh trạng khỏe mạnh của kẻ thường nhân ngày nay. Mục đích của nó là bảo vệ sức khỏe, quân b́nh hóa sự thăng bằng của cơ thể trong một số khía cạnh quan trọng của bản chất hồng trần, và nó tượng trưng cho Ngôi Ba, Ngôi Thông Tuệ, và có chất liệu thấm nhuần bằng trí tuệ. Trong thực tế, nó có liên hệ với Ngôi Thánh Thần hay là trạng thái thiêng liêng thứ ba khi biểu lộ, "phù tŕ" (như Thánh Kinh diễn tả), Đức Mẹ Mary Đồng Trinh. Các tuyến phó giáp trạng (parathyroids) là biểu tượng của Mary và Joseph và sự liên giao mà chúng nắm giữ đối với Ngôi Thánh Thần đang phù tŕ (overshadowing). Cuối cùng, nó sẽ được xác định rằng có một liên hệ sinh lư chặt chẽ xảy ra giữa tuyến giáp trạng với tuyến tùng quả, giữa các tuyến phó giáp trạng với hai thùy của tuyến yên, như vậy, đem lại một hệ thống liên kết duy nhất cho toàn thể vùng cổ họng và đầu.

155

 
  g. Giống như đầu tượng trưng cho bản chất lưỡng nguyên chủ yếu của Thượng Đế biểu lộ, cũng thế bí huyệt cổ họng tượng trưng cho bản chất tam phân của biểu lộ thiêng liêng. Bản chất lưỡng phân xuất hiện, phối hợp và trộn lẫn trong đầu trong mối tương quan giữa hai bí huyệt và hai phản ảnh hồng trần trọng trược của chúng. Ba năng lượng vĩ đại vốn tác động trong hoạt động sáng tạo thiêng liêng được hợp nhất trong hoạt động bằng sự biểu lộ đầy đủ của năng lượng đang tuôn đổ qua bí huyệt cổ họng, qua bộ máy phát âm và hai lá phổi. Trong mối liên hệ này bạn có: Sự Sống hay Linh Khí (Breath), Thánh Ngữ hay Linh hồn, và bí huyệt cổ họng của Chất Liệu Nguyên Thủy đang hoạt động.

  h. Hoa sen này của cổ họng, trong các giai đoạn đầu của cuộc tiến hóa, bị đảo ngược xuống, và các cánh của nó đạt đến hai vai và bao hàm hai lá phổi hay là các phần của chúng. Trong chu kỳ sống của linh hồn, nó tự đảo ngược một cách chậm chạp và các cánh của nó bấy giờ hướng về hai tai và gồm tủy sống kéo dài và tuyến động mạch cổ. Tuyến này có liên hệ chặt chẽ với tuyến giáp trạng hơn là hai tuyến khác trong đầu.

156

 
Như thế, điều hiển nhiên đối với bạn là làm thế nào toàn thể các vùng của cơ thể vật chất có thể đi vào vận hành linh hoạt và chính xác, có thể được bồi bổ sinh khí và được giữ ở t́nh trạng tốt và chính xác bằng hoạt động dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác của bí huyệt gần nhất với vùng của cơ thể đang được xem xét. Điều cũng hiển nhiên đối với bạn là sự khiếm khuyết và bệnh tật có thể là do sự không hoạt động của một bí huyệt.

4. Bí huyệt tim. Bí huyệt này nằm ở giữa hai bả vai và – trong thời đại này – là bí huyệt đang nhận được sự chú tâm nhiều nhất từ những Đấng có trách nhiệm về việc khai mở tâm thức nhân loại. Hỡi huynh đệ, có thể nói thật rằng sự khai mở nhanh chóng của hoa sen này là một trong các lư do giải thích tại sao chiến tranh thế giới không thể tránh khỏi. Theo một ư nghĩa khác, đó là một biến cố cần thiết (căn cứ vào tính ích kỷ mù quáng của đa số nhân loại) bởi v́ cần phế bỏ đi mọi h́nh thức cũ kỹ của cách cai trị, của tôn giáo và của đẳng cấp xă hội đă được cô đọng. Nhân loại ngày nay đă đạt đến một tŕnh độ hiểu biết tập thể và tương tác tập thể bằng một loại tâm linh sâu sắc, và các h́nh thức mới được đ̣i hỏi mà qua đó tinh thần mới mẻ này có thể tác động một cách thích hợp hơn.

  a. Bí huyệt tim tương ứng với "tâm của mặt trời" và do đó với cội nguồn tâm linh của ánh sáng và t́nh thương.

157

 
  b. Nó được khơi hoạt sau kỳ điểm đạo thứ hai. Lần điểm đạo đó đánh dấu sự hoàn thành tiến tŕnh mà nhờ đó bản chất xúc cảm (với tính chất dục vọng nổi bật của nó) được đặt dưới sự kiềm chế của linh hồn, và dục vọng của phàm ngă được chuyển hóa thành t́nh thương. Đó là cơ quan để phân phối năng lượng của Thánh Đoàn, tuôn đổ qua linh hồn vào bí huyệt tim của mọi kẻ t́m đạo, đệ tử và điểm đạo đồ; bằng cách này, năng lượng đó được làm cho khả dụng và đem lại hai kết quả:

1. Hoán cải nhân loại qua t́nh thương

2. Liên hệ được thiết lập một cách vững chăi giữa một nhân loại đang phát triển nhanh chóng với Thánh Đoàn. Bằng cách này, hai trung tâm vĩ đại của hành tinh – Thánh Đoàn và Nhân Loại – được đưa vào tiếp xúc và liên giao chặt chẽ.

Theo lời Thánh Kinh: "T́nh thương của Thượng Đế được rải khắp nơi" trong tâm nhân loại, c̣n năng lực bức xạ, có sức thu hút và đang biến đổi của nó th́ rất thiết yếu cho việc xây dựng lại thế gian và cho sự thiết lập trật tự mới trên thế giới. Về sự khai mở bí huyệt tim, và về mối liên giao sáng suốt của nhân loại với Thánh Đoàn, với sự đáp ứng tất nhiên của con người đối với năng lượng t́nh thương vào lúc này, mọi đệ tử được đ̣i hỏi phải suy tư và nghiền ngẫm, v́ "con người nghĩ trong ḷng như thế nào, th́ y trở nên như thế ấy". Việc suy tưởng trong ḷng chỉ có thể xảy ra đích thực khi năng lực trí tuệ được phát triển thích hợp và đă đạt đến một tŕnh độ khai mở khá cao. Cảm nghĩ (feeling) trong tâm thường bị lầm lộn với suy tư (thinking). Khả năng suy tư trong tâm là kết quả của tiến tŕnh chuyển hóa dục vọng thành t́nh thương trong nhiệm vụ nâng cao sức mạnh của huyệt đan điền vào bí huyệt tim. Việc suy tưởng trong tâm cũng là một trong các chỉ dẫn rằng trạng thái cao của bí huyệt tim, hoa sen 12 cánh được t́m thấy ở chính trung tâm của hoa sen ngàn cánh, đă đạt đến một mức độ hoạt động thực sự. Việc suy tư, với tư cách là kết quả của cảm nghĩ đúng đắn, lúc bây giờ được thay thế bằng sự nhạy cảm cá nhân. Nó cũng mang lại cho chúng ta các chỉ dẫn yếu ớt đầu tiên, của trạng thái hiện tồn vốn là đặc trưng của Chân Thần và vốn không thể được gọi là tâm thức – theo như chúng ta hiểu về thuật ngữ này.

158

 
     c. Bí huyệt tim trở nên có liên quan thiết yếu với phàm ngă khi tiến tŕnh chỉnh hợp với linh hồn được am hiểu. Tiến tŕnh này ngày nay được giảng dạy trong mọi trường phái huyền bí mới mẻ hơn và có uy tín hơn, và đă được nhấn mạnh trong Trường Arcane từ thuở ban đầu; chính cách đó (phân biệt bằng định hướng, định trí và tham thiền đúng) nó nối liền phàm ngă với linh hồn và như thế với Thánh Đoàn. Mối giao tiếp với Thánh Đoàn tự động xảy ra khi sự chỉnh hợp này tiếp diễn và sự tiếp xúc trực tiếp của linh hồn nhờ đó được thiết lập. Phàm ngă thức được thay thế bằng tập thể thức, và ḍng năng lượng đi vào của Thánh Đoàn noi theo như một hậu quả tự nhiên, v́ mọi linh hồn chỉ là các trạng thái của Thánh Đoàn. Chính mối liên giao được thiết lập này, với sự tương tác tiếp theo sau của nó (về từ điện và về bức xạ, đưa tới sự hủy diệt sau cùng của linh hồn thể khi mối liên lạc đạt tới tŕnh độ cao nhứt của sự nhận thức mạnh hơn.

  d. Do đó, trong thể xác, Thánh Đoàn tác động qua bí huyệt đó; nó cũng là tác nhân hoạt động của linh hồn. Ở đây, khi dùng từ ngữ "linh hồn", không những tôi đề cập đến linh hồn cá biệt của con người mà cũng nói đến linh hồn của Hành Tinh Thượng Đế nữa, cả hai là kết quả của sự phối hợp của tinh thần và vật chất của trạng thái Cha và trạng thái Mẹ. Đây là một bí nhiệm lớn mà chỉ có cuộc điểm đạo mới có thể tiết lộ được.

  e. Bí huyệt tim biểu lộ năng lượng bác ái. Ở đây; có thể nói rằng, sau cùng, khi antakarana đă được kiến tạo, ba trạng thể của Tam Thượng Thể Tinh thần, mỗi trạng thể sẽ t́m thấy một điểm tiếp xúc bên trong cơ cấu dĩ thái của điểm đạo đồ đang hoạt động trên cơi trần. Vị điểm đạo đồ giờ đây là một dung hợp của linh hồn và phàm ngă mà qua đó, sự sống tràn đầy của Chân Thần có thể tuôn đổ xuống.

159

 
1. Bí huyệt đầu trở nên điểm tiếp xúc cho ư chí tinh thần tức Atma.

2. Bí huyệt tim trở nên tác nhân cho ḷng bác ái tinh thần, tức Buddhi.

3. Bí huyệt cổ họng trở thành biểu hiện của Toàn Linh Trí, tức Manas.

Trong công tác của điểm đạo đồ, khi y thể hiện Thiên ư theo Thiên Cơ, bí huyệt ấn đường trở thành tác nhân hướng dẫn hay là nơi phân phối các năng lượng được phối hợp của Chân Ngă. Bí huyệt tim tương ứng với "lửa thái dương" bên trong thái dương hệ và có tính chất từ điện và tính chất phát xạ trong hoạt động. Đó là cơ quan của năng lượng vốn đem lại tính chất bao quát.

160

 
  f. Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của nó là tuyến ức. Hiện nay, tuyến này chưa được biết đến nhiều, dù là nhiều điều cần được học hỏi khi kẻ nghiên cứu chấp nhận và thử nghiệm với các giả thuyết mà khoa huyền linh học đưa ra, và khi bí huyệt tim phát triển và tuyến ức được trở lại với hoạt động của người trưởng thành. Đến nay, trường hợp này chưa xảy ra. Bản chất của chất tiết ra của tuyến đó vẫn chưa được xác minh, c̣n các hiệu ứng của tuyến này đă được biết rơ theo khía cạnh tâm lư hơn là theo khía cạnh vật chất. Tâm lư học hiện đại, khi được kết hợp với y học, sẽ nhận thức ra rằng tuyến này khi quá năng động, sẽ tạo ra người tắc trách và phi luân lư. Khi nhân loại biết rơ bản chất của trách nhiệm, chúng ta sẽ có các dấu hiệu đầu tiên về sự chỉnh hợp của linh hồn, về phá ngă chấp (personality decentralisation) và về tập thể thức, và kế đó – song song với sự phát triển này – chúng ta sẽ thấy tuyến ức trở nên hoạt động chính xác. Hiện nay, sự mất quân b́nh chung của hệ thống nội tiết làm cản trở sự an toàn và sự vận hành đầy đủ của tuyến ức trong người trưởng thành. Cho đến nay, có một liên hệ chưa được hiểu rơ hiện hữu giữa tuyến tùng quả và tuyến ức, cũng như giữa cả hai tuyến này với bí huyệt ở chót xương sống. Khi Tam Thượng Thể Tinh Thần trở nên hoạt động qua trung gian phàm ngă, cả ba bí huyệt này và ba ngoại hiện của chúng sẽ tác động trong sự tổng hợp, chi phối và điều khiển toàn thể con người. Khi tuyến tùng quả quay trở lại với sự vận hành đầy đủ ở người trưởng thành (v́ đây không phải là trường hợp của người trưởng thành) ư-chí-hành-thiện thiêng liêng sẽ tự biểu lộ và thiên ư được đạt thành; tương tự như thế, khi tuyến ức trở nên linh hoạt ở người trưởng thành, thiện chí sẽ trở nên rơ ràng và thiên cơ sẽ bắt đầu được thể hiện. Đây là giai đoạn đầu tiên hướng về t́nh thương, các tương quan đúng của con người và sự yên b́nh. Thiện chí này đă xuất hiện trong thế giới ngày nay, cho thấy bí huyệt tim đang đi vào hoạt động, và chứng tỏ rằng bí huyệt tim ở trong đầu đang bắt đầu khai mở như là kết quả của hoạt động đang tăng trưởng của bí huyệt tim trên xương sống.

161

 
  g. Đó là cơ quan phối hợp, cũng như bí huyệt đầu là cơ quan tổng hợp. Khi bí huyệt tim trở nên hoạt động, người t́m đạo cá biệt từ từ bị lôi cuốn vào một liên hệ ngày càng chặt chẽ hơn với linh hồn của y, và lúc bấy giờ, hai sự mở rộng tâm thức xảy ra và được y diễn dịch như là các biến cố:

1. Y được lôi cuốn đến Đạo Viện của một trong các Chân Sư, tùy theo cung linh hồn của y, và trở nên một đệ tử nhập môn theo ư nghĩa chuyên môn. Chính Chân Sư là bí huyệt tim của Đạo Viện và bây giờ, Ngài có thể vươn đến đệ tử của Ngài xuyên qua linh hồn, bởi v́ đệ tử đó, nhờ chỉnh hợp và tiếp xúc, đă để cho tâm của ḿnh giao tiếp chặt chẽ với linh hồn. Bấy giờ, y trở nên đáp ứng với tâm của mọi vật, mà đối với nhân loại hiện tại là Thánh Đoàn.

2. Y được lôi cuốn vào quan hệ phụng sự chặt chẽ với nhân loại. Ư thức trách nhiệm tăng thêm của y do bởi hoạt động của bí huyệt tim, đưa y đến phụng sự và hành động. Sau rốt, y cũng trở nên trung tâm của một nhóm hoặc của một tổ chức – lúc đầu nhỏ, nhưng trở nên rộng khắp khi năng lực tinh thần của y phát triển và y cảm nghĩ bằng các thuật ngữ của nhóm và của nhân loại. Về phía y, hai liên hệ này có tính hỗ tương. Như thế, trạng thái bác ái của Thượng Đế trở nên linh hoạt trong ba cơi thấp, và t́nh thương được giữ chặt trên địa cầu và thay thế cho cảm xúc, cho dục vọng và khía cạnh vật chất của cảm giác. Hăy nhớ câu này.

  h. Trong các giai đoạn khai mở ban đầu của cả cá nhân lẫn nhân loại, hoa sen có tâm đảo ngược với 12 cánh hướng về phía huyệt đan điền. Vào thời Atlantis, bí huyệt cuối cùng này đă đảo ngược và các cánh của nó bây giờ hướng lên bí huyệt kế tiếp trên xương sống, bí huyệt tim, nhờ bởi các năng lượng tăng lên dần dần từ huyệt đan điền, bí huyệt này đang t́m cách để thoát khỏi "sự giam cầm của các vùng thấp" nhờ một tiến tŕnh chuyển hóa.

162

 
Kết quả là bí huyệt tim đang bắt đầu từ từ khai mở và cũng tự đảo ngược. Sự đảo ngược của các "trung tâm hoa sen" luôn luôn xảy ra như là kết quả của tác động kép – đẩy từ phía dưới và kéo từ phía trên.

Sự đảo ngược của hoa sen ở tim và sự khai mở hướng lên trên của nó là do các yếu tố sau:

1. Sức mạnh ngày càng tăng với sự tiến gần của Thánh Đoàn.

2. Tiếp xúc với linh hồn đang được thiết lập một cách nhanh chóng.

3. Sự đáp ứng của hoa sen ở tim đang khai mở đối với sức lôi cuốn của Đạo Viện Thánh Sư.

4. Các năng lượng được chuyển hóa từ dưới cách mô dâng lên, xuyên qua huyệt đan điền, để đáp ứng với "sức lôi cuốn" tinh thần.

5. Hiểu biết ngày càng tăng của con người về bản chất của t́nh thương.

C̣n có các yếu tố khác nữa, nhưng đây là các yếu tố mà bạn sẽ dễ hiểu nhất nếu bạn xem chúng như là biểu tượng chứ không theo nghĩa đen. Cho đến năm 1400 của Công Nguyên, liên hệ giữa huyệt đan điền với bí huyệt tim có thể được diễn tả bằng h́nh ảnh sau đây: (trang 184)

Phản ảnh của Tam Thượng Thể Tinh Thần trong phàm ngă được đầy đủ khi bí huyệt ấn đường hoàn toàn ở dưới sự kiềm chế của linh hồn. Trong sơ đồ này không có sự cố gắng minh họa đúng con số các cánh trong mỗi hoa sen (xem h́nh).

Sau rốt, vào lúc kết thúc căn chủng tới, bạn sẽ có sự biểu lộ đầy đủ t́nh thương và các hoa sen trên xương sống sẽ xuất hiện – tất cả là năm cái – chỉ khác ở con số cánh hoa trong mỗi cái.

Cuối cùng, vào lúc kết thúc đại chu kỳ thế giới khi tất cả các hoa sen đều tự đảo ngược, tất cả sẽ được khai mở và tiêu biểu cho các vận hà thông suốt cho việc nhập vào và truyền chuyển của ba năng lượng thiêng liêng chính yếu và bốn thần lực thứ yếu.

                                   

Đối với chuyển động thường xuyên này của các bí huyệt và đối với luồng năng lượng đi vào thường xuyên, chúng ta có thể truy nguyên nhiều bất tiện của nhân loại trong các thể khác nhau của nó; đó là việc các bí huyệt không có khả năng đáp ứng hay khai mở, mà trong nhiều trường hợp, tạo ra bệnh hoạn  và khó khăn; đó là sự khai mở thiếu thăng bằng của các bí huyệt, sự phát triển của chúng bị ngăn chận và sự thiếu ứng đáp của chúng sẽ tạo ra nhiều vấn đề trong các trường hợp khác; chính sự khai mở sớm của chúng và việc quá hoạt động của chúng mà trong các trường hợp khác sẽ đem lại nguy cơ; đó là sự không thích hợp của bộ máy vật chất với việc khai mở bên trong, khai mở này gây ra rất nhiều khó khăn. Như thế, bạn lại thấy sự phức tạp của vấn đề. Giai đoạn lư thuyết là giai đoạn đơn giản, trừ phi tới một chừng mức mà nó khơi động các mănh lực mà sau rốt đưa tới khó khăn. Giai đoạn phản ứng để đáp ứng và để hiệu chỉnh với lư thuyết, cũng tạo nên một chu kỳ cực kỳ khó khăn và phức tạp, bởi v́ nó dẫn đến một chu kỳ thực nghiệm và kinh nghiệm, trong đó đệ tử học hỏi nhiều và đau khổ cũng nhiều. Kế đó, với kinh nghiệm thu lượm được, giai đoạn biểu lộ tinh thần xảy đến, việc thoát khỏi nguy hiểm, thoát khỏi khó khăn và thoát khỏi bệnh tật xảy ra. Sự đơn giản được phục hồi.

163

 
THỂ XÁC, SẮC TƯỚNG CƠI HIỆN TƯỢNG.

Không cần viết nhiều về điều này ở đây, v́ bản chất của h́nh hài và khía cạnh sắc tướng đă là các đối tượng t́m kiếm và là vấn đề của tư tưởng và bàn căi của người biết suy tư trong nhiều thế kỷ. Nhiều điều mà con người đạt đến, căn bản là đúng. Đôi khi kẻ khảo cứu hiện đại sẽ thừa nhận Định Luật Tương Đồng như là nền tảng của các tiền đề và các nhận thức của y, đó là thuyết của Hermess, "Trên sao dưới vậy", có thể đưa ra nhiều tia sáng vào các vấn đề hiện nay. Các định đề sau đây có thể dùng để làm sáng tỏ:

1. Con người, trong bản chất h́nh hài của nó, là một tổng thể, một sự hợp nhất.

2. Tổng thể được chia thành nhiều phần và nhiều cơ thể.

3. Tuy nhiên, nhiều phần nhỏ này hoạt động theo cách thống nhất, và h́nh hài là một toàn thể có liên hệ với nhau.

4. Mỗi một trong các phần của nó khác nhau về h́nh thức và chức năng, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào nhau.

5. Mỗi phần và mỗi cơ thể, đến phiên nó, lại gồm nhiều phân tử, tế bào và nguyên tử, và các thành phần này được giữ chung với nhau dưới h́nh thức cơ thể bằng sự sống của tổng thể.

6. Tổng thể được gọi là con người, được chia một cách sơ lược thành năm phần, một số phần quan trọng nhiều hơn các phần khác; nhưng tất cả đều bổ túc cho cơ thể sinh động mà chúng ta gọi là con người.

  a. Đầu

  b. Thân trên, hay phần nằm trên cách mô

  c. Thân dưới, hay phần nằm dưới cách mô

  d. Tay

  e. Chân

164

 
7. Các cơ quan này được dùng vào các mục đích khác nhau, và sự tiện lợi của toàn thể tùy thuộc vào sự vận hành đúng và hiệu chỉnh thích hợp của chúng.

8. Mỗi một trong các cơ quan này đều có sự sống riêng của nó, vốn là toàn thể sự sống của cấu trúc nguyên tử và cũng được làm cho linh hoạt bởi sự sống hợp nhất của tổng thể, được điều khiển từ đầu bởi ư chí sáng suốt hay năng lượng của con người tinh thần.

9. Phần quan trọng của cơ thể là ba phần, đầu, thân trên và thân dưới. Con người có thể hoạt động và sống mà không cần tay và chân.

10. Mỗi một trong ba phần này cũng gồm ba phần theo khía cạnh vật chất, tạo ra sự tương đồng của ba phần của bản chất con người và chín phần của sự sống Chân Thần hoàn thiện. Có các cơ quan khác, nhưng các cơ quan này được kể ra là các cơ quan có một ư nghĩa huyền bí có giá trị nhiều hơn các phần khác.

  a. Trong đầu là:

1. Năm năo thất hay những ǵ mà chúng ta có thể gọi là bộ óc với vai tṛ là một cơ quan hợp nhất.

2. Ba tuyến là tuyến động mạch cổ, tuyến tùng quả và tuyến yên.

3. Hai mắt.

  b. Trong thân trên là:

1. Cổ họng

2. Phổi

3. Tim

  c. Trong thân dưới là:

1. Lá lách

2. Bao tử

3. Cơ quan sinh dục.

11. Toàn cơ thể cũng có ba phần:

165

 
  a. Da và cấu trúc xương.

  b. Mạch máu hay hệ tuần hoàn

  c. Hệ thần kinh tam phân

12. Mỗi một trong các bộ ba này tương ứng với ba phần của bản chất con người:

  a. Bản chất thể xác: da và cấu tạo xương, tương đồng với nhục thân và thể dĩ thái của con người.

  b. Bản chất của linh hồn: Các mạch máu và hệ tuần hoàn là sự tương đồng đối với mọi linh hồn đang tỏa ra, đang xâm nhập vào mọi phần của thái dương hệ, v́ máu đi vào mọi phần của cơ thể.

  c. Bản chất của Tinh thần: Hệ thần kinh, khi nó truyền năng lượng và tác động khắp con người là sự tương ứng với năng lượng của tinh thần.

13. Trong đầu, chúng ta có sự tương đồng với trạng thái tinh thần, ư chí  hướng dẫn, Chân Thần, Đấng Duy Nhất.

  a. Bộ óc với năm năo thất của nó là sự tương tự với h́nh hài thể xác, mà tinh thần làm cho linh hoạt khi giao tiếp với con người, toàn thể năm phần vốn là phương tiện mà qua đó tinh thần trên cơi trần phải tự biểu lộ.

  b. Ba tuyến trong đầu có liên quan chặt chẽ với linh hồn hay là bản chất thông linh (cao và thấp).

  c. Hai mắt là các tương ứng trên cơi trần với Chân Thần, chính là ư chí và bác ái-minh triết, hay là atma-buddhi, theo thuật ngữ huyền học.

14. Trong thân trên, chúng ta có một tương đồng đối với bản chất tam phân của linh hồn.

  a. Cổ họng, tương ứng với khía cạnh sáng tạo thứ ba hay là bản chất của cơ thể, sự thông tuệ linh hoạt của linh hồn.

166

 
  b. Tim, bác ái- minh triết của linh hồn, nguyên khí Bồ đề hay nguyên khí Christ.

  c. Hai phổi là sự tương đồng cho hơi thở của sự sống, là phần tương ứng với tinh thần.

15. Trong thân dưới, chúng ta lại có những hệ thống tam phân này.

  a. Các cơ quan sinh dục, khía cạnh sáng tạo, chủ thể nắn tạo cơ thể.

  b. Bao tử, với vai tṛ là biểu lộ vật chất của huyệt đan điền, là cái tương đồng với bản chất linh hồn.

  c. Lá lách, chỗ đón nhận năng lượng và do đó là biểu lộ ở cơi trần của bí huyệt đang nhận năng lượng này, là sự tương đồng đối với tinh thần đang mang năng lượng.

Tôi hiểu rơ các danh từ chuyên môn mà tôi đă đưa ra ở đây và nỗi khó khăn cùng là sự vô dụng bề ngoài của chúng. Người ta có thể hỏi: tại sao cần phải quá tỉ mỉ trong việc kể ra các chi tiết về thể xác, về tâm lư và về hệ thống của một bản chất thuần túy lư thuyết, khi mà, bằng một tác động của ư chí và của sức mạnh thiêng liêng, và bằng việc dùng một số Quyền Lực Từ, th́ việc chữa trị có thể hoàn tất được? Các ư tưởng này về cơ bản th́ đúng, nhưng lại dựa trên một sự hiểu lầm về thời gian và không gian. Nếu tất cả mọi nhà chữa trị đều là các Thánh Sư Minh Triết, nếu tất cả họ đều có nhăn thông, nếu họ hiểu Luật karma và cách thể hiện của Luật ấy trong cuộc đời của bệnh nhân, nếu họ có sự hợp tác đầy đủ của bệnh nhân và nếu họ có năng lực để bổ túc vào mọi đ̣i hỏi nêu trên, cách dùng một số Linh từ và Mantrams (thần chú), lúc bấy giờ sự hiểu biết có tính cách lư thuyết mới thực sự không cần. Nhưng các đ̣i hỏi này lại không có và không thể được đáp ứng. Theo thông lệ, các nhà chữa trị không có quyền năng nào trong số các quyền năng này. Những ǵ họ thường chữa trị (dù là không thường như họ nghĩ họ làm) là đúng, nhưng khi thành công, họ đă cố làm được một trong các điều sau đây:

167

 
Chữa lành bệnh nhân khi số mệnh và định mệnh của người ấy muốn như vậy, và do đó, linh hồn y thu hút hiện thể của nó (con người hồng trần) vào hào quang bức xạ của nhà chữa trị hoặc nhóm chữa trị. Có thể xảy ra việc đó là người bệnh muốn phục hồi trong bất luận trường hợp nào mà diễn tŕnh được thúc đẩy bởi sự cố gắng ứng dụng và sự chú tâm cộng thêm với đức tin.

Xen vào với cách sắp xếp trực tiếp về đời sống bệnh nhân và như thế, hoăn lại một số tiến tŕnh học hỏi tâm linh vốn dĩ cần thiết. Đây chính là năng khiếu đă bị quên lăng. Vấn đề thật là quá phức tạp không thể bàn đến ở đây, nhưng tôi có thể làm cho nó sáng tỏ hơn phần nào khi chúng ta bàn đến tiết cuối cùng.

Do đó, (cho đến khi có được sự hiểu biết đầy đủ) th́ điều cực kỳ tất yếu chính là cấu trúc của quyền năng và sức sống, cùng với mạng lưới năng lượng và thần lực vốn tạo ra cơ thể con người phải được nghiên cứu. Việc hiểu rơ bằng trí tuệ các tiến tŕnh chữa trị là cần thiết; c̣n các lư do làm cho chúng có vẻ khó khăn và phức tạp, không cần thiết và phí th́ giờ, th́ như sau:

168

 
Sự bất lực của ngay cả trí óc mở mang nhất của con người để hiểu các chủ đề và các vấn đề nói chung. Yếu tố tổng hợp cho đến nay vẫn c̣n thiếu. Hiện nay, việc giảng dạy và các tiến tŕnh có liên quan phải được thấu triệt từng bước, từng chi tiết, từng giáo huấn, từng áp dụng. Nhưng tương lai hứa hẹn sáng sủa, và năng lực của mắt người để hoạt động tổng hợp, thí dụ để nắm bắt một phong cảnh ở độ lớn và những nét nổi bật của nó và để làm điều này một cách đồng bộ với một cái nh́n thoáng qua là sự bảo đảm về kỹ thuật tương lai của nhân loại. Một cái nh́n bằng trí đă tỏ ngộ, một sự phóng phát t́nh thương vĩ đại, và người chữa trị hoặc nhóm chữa trị sẽ biết chữa trị cách nào, để giúp vào nỗ lực của bệnh nhân – một tiến tŕnh chậm chạp hơn nhiều – hay là để cố tránh chữa trị.

Sự thiếu năng động của người nam hoặc nữ bậc trung, họ chống đối lại cố gắng cần có để khắc phục khía cạnh kỹ thuật của việc chữa trị. Thật là dễ dàng hơn nhiều khi nhờ vào sự thiêng liêng (thực ra, sự thiêng liêng này vốn tiềm tàng chứ không lộ ra) và "hăy để cho Thượng Đế làm việc đó". Thật là dễ dàng hơn nhiều khi nhận thức ḷng bác ái và việc tuôn đổ ḷng bác ái, hơn là nắm vững các tiến tŕnh mà bởi đó bác ái có thể được làm cho có hiệu quả – hay là bản chất của những ǵ phải chịu ảnh hưởng.

Đây là các điểm đ̣i hỏi phải có sự chú tâm và xem xét cẩn thận. Chúng đáng được suy gẫm. Sức mạnh tổng hợp của trí tuệ, được ḷng bác ái chân chính trợ giúp, một ngày nào đó sẽ là khí cụ của mọi nhà chữa trị chân chính. Đồng thời, v́ lư do tương lai và để giúp cho việc diễn giải về nghệ thuật chữa trị sắp đến – dựa trên hiểu biết về năng lượng, cách lưu nhập và lưu thông của nó – bộ luận này sẽ bàn sơ lược về khía cạnh lư thuyết. Sau rốt, các sự kiện được đưa ra là các sự kiện có thật và là món quà thực sự, với tư cách là các xúc cảm mà nhà trị liệu bậc trung gọi là t́nh thương.

      BẢY BÍ HUYỆT CHÍNH (Tiếp theo)

169

 
Bây giờ, chúng ta hăy tiếp tục xem xét về các bí huyệt. Chúng ta đă bàn đến bốn bí huyệt trên cách mô – ba bí huyệt mà qua đó Tam Thượng Thể Tinh thần sau rốt phải tác động, và bí huyệt tổng hợp, bí huyệt ấn đường, sau cùng biểu hiện phàm ngă hội nhập và trở nên tác nhân trực tiếp của linh hồn. Hiện nay, chúng ta có ba bí huyệt nữa cần phải xem xét, tất cả đều nằm dưới cách mô – bí huyệt đan điền, bí huyệt xương cùng và bí huyệt ở chót xương sống. Quan trọng nhất đối với tất cả những người t́m đạo vào lúc này là huyệt đan điền; huyệt linh hoạt nhất – nói chung – trong con người với tư cách là một tổng thể, vẫn là huyệt xương cùng; huyệt im ĺm nhất trong cơ thể (theo khía cạnh con người tinh thần) là huyệt căn bản.

5. Huyệt đan điền (Solar plexus centre). Huyệt này nằm ngay dưới xương bả vai trong xương sống và đang cực kỳ linh hoạt. Vào thời Atlantis, nó đem lại một tŕnh độ phát triển cao, cũng như vào thời Aryan, bí huyệt cổ họng được khơi hoạt nhanh chóng. Huyệt này đặc biệt liên hệ tới hai huyệt khác: bí huyệt tim và bí huyệt ấn đường, và, vào lúc này, chúng tạo thành một tam giác năng lượng kỳ thú trong cơ thể người và là huyệt đang nhận nhiều chú tâm từ Thánh Đoàn. Có một ḍng năng lượng tuôn xuống từ huyệt ấn đường đến bí huyệt tim từ linh hồn, theo chừng mức mà người t́m đạo tiếp xúc được với linh hồn của ḿnh. Điều này đưa tới ba việc:

– Kích thích của bí huyệt tim.

– Phản ứng đáp lại từ bí huyệt tim vốn gây ra một kích thích của bí huyệt ấn đường và sau rốt tạo ra nhận thức về tập thể thức của phàm ngă.

– Đáp ứng của bí huyệt tim trong đầu.

170

 
Tuy nhiên, mọi điều này được làm cho dễ dàng bởi diễn biến tiến bộ của huyệt đan điền trong người t́m đạo, vốn có hiệu quả riêng của nó trên tim và hiệu quả hỗ tương trên bí huyệt ấn đường. Tất nhiên, có hai tam giác quan trọng cần xem xét:

 

 

 

 

 

Về mặt chiêm tinh, cũng có một khoa học về các Tam giác, thế nên, sau này sẽ phát triển một môn học về các tam giác liên hệ tới hệ thống nhân loại. Nhưng, chưa đến lúc. Đôi lúc, tôi chỉ đưa ra các chỉ dẫn của một khoa học như thế mà trực giác của các đệ tử có thể tham gia được.

  a. Huyệt đan điền là một phản ảnh trong phàm ngă của "tâm mặt trời", giống như bí huyệt tim. Đó là yếu tố trung tâm trong sự sống của phàm ngă đối với tất cả nhân loại dưới cấp bậc của đệ tử dự bị. Ở tŕnh độ đó thể trí bắt đầu tác động rơ rệt tuy hăy c̣n yếu ớt. Đó là lối thoát – nếu một từ như thế có thể dùng được – của thể cảm dục vào thế giới bên ngoài, và là dụng cụ mà qua đó năng lượng cảm dục tuôn chảy. Đó là cơ quan của dục vọng. Nó tối quan trọng trong cuộc đời của một người trung b́nh, và việc kiềm chế nó là một mục tiêu thiết yếu đối với người t́m đạo. Y phải chuyển hóa dục vọng thành đạo tâm.

171

 
  b. Vào thời Atlantis, huyệt đan điền đă hoạt động đầy đủ, trong thời kỳ mà giống dân lớn thứ hai đang phát triển. Các huyệt thấp này không có liên hệ một cách đặc biệt với các cuộc điểm đạo như là các huyệt ở trên cách mô, v́ chúng là các huyệt của phàm ngă và phải ở dưới sự kiểm soát đầy đủ của linh hồn khi các cuộc điểm đạo ở một tŕnh độ nào đó xảy ra.

  c. Huyệt đan điền là nơi thanh toán lớn đối với mọi năng lượng dưới cách mô. Điều này liên quan tới ba huyệt chính và các huyệt phụ đă được kể ra trên trang 72 (Anh văn– ND). Liên quan của huyệt này với cơi cảm dục rất nhạy bén (dùng một từ đặc biệt nhưng diễn tả nhiều nhất). Đó là nơi nhận mọi phản ứng t́nh cảm, các xung lực dục vọng và các năng lượng, và, bởi v́ nhân loại ngày nay đang trở nên linh hoạt theo ư nghĩa tập thể và bao quát nhiều hơn từ trước đến giờ trong lịch sử nhân loại, t́nh trạng trở nên nghiêm trọng và cực kỳ khó khăn. Con người, qua cá nhân và cũng qua huyệt đan điền tập thể, bị lệ thuộc vào một sức ép hầu như không thể chịu đựng được. Các cuộc thử thách điểm đạo là như thế đó ! Ở đây, tôi không định bàn đến các tiến tŕnh thu hút năng lượng thấp, cách tập trung chúng vào đan điền và nơi đó chuyển hóa chúng, thanh luyện chúng, đến mức độ có thể chuyển vào bí huyệt tim. Nhiều điều trong số đó có liên quan đến việc luyện tập được đưa ra cho các đệ tử nhập môn, trước cuộc điểm đạo thứ hai. Đó là một vấn đề quá phức tạp không thể bàn đến, cũng như mang theo với nó một số nguy hiểm đặc biệt đối với những kẻ chưa sẵn sàng cho tiến tŕnh; tuy nhiên, đó là một điểm mà – dưới sự cố gắng linh động – hầu như tiến tới một cách tự động. Như thế, đan điền là huyệt phân cách nhất trong số tất cả các huyệt (ngoại trừ huyệt ấn đường trong trường hợp của người thuộc tả đạo) bởi v́ nó đứng ở trung điểm, giữa huyệt cổ họng và bí huyệt tim – trên cách mô – và bí huyệt xương cùng và các bí huyệt căn bản, dưới cách mô. Đây là một cân nhắc rất quan trọng.

172

 
  d. Đan điền là huyệt ở trong thể dĩ thái, nhờ đó nhân loại (người thường, người chưa được khai ngộ) sống, hoạt động và hiện tồn. Nhân loại bị chi phối bởi ước muốn – ước muốn tốt lành, ước muốn ích kỷ, ước muốn sai lầm và ước muốn tinh thần. Đó là bí huyệt mà qua đó hầu hết các năng lượng lưu chuyển làm cho con người tiến bộ v́ y có tham vọng, ích kỷ v́ các ước muốn cá nhân của con người đều quan trọng, và hay thay đổi v́ lẽ được an trụ về mặt cảm dục. Nhờ nó mà "ánh sáng rực rỡ phát sinh trong thời Atlantis" được tuôn vào, và ánh sáng cảm dục được tiếp xúc. Đó là bí huyệt mà hầu hết các phương tiện tác động qua đó và những kẻ có nhăn thông hoạt động nhờ đó. Về sau, những kẻ này sẽ học cách tác động như là những kẻ trung gian, một cách hữu thức và một cách sáng suốt, bằng cách dùng các năng lực của họ; họ sẽ có được tri giác rơ rệt và tri giác này sẽ thay thế cho nhăn thông. Lúc bấy giờ, họ sẽ an trụ vào huyệt ấn đường. V́ vậy cho nên đó là một bí huyệt xáo trộn nhất trong cơ thể và là một nguyên nhân cơ bản của đa số các bệnh bao tử và các rối loạn liên hệ tới gan. Toàn thể vùng nằm ngay dưới cách mô thường xuyên ở trạng thái xáo trộn, nơi mà kẻ thường nhân có liên quan đến; điều này do bởi các nguyên nhân riêng và nguyên nhân chung.

Ở đây, thật là lư thú mà ghi nhớ rằng cũng như huyệt ấn đường (tổng hợp các sức mạnh phàm ngă, khi được phát triển cao độ) là một tác nhân hướng dẫn và phân phối lớn, cũng thế, huyệt đan điền (tổng hợp của các năng lượng phàm ngă đă phát triển của thường nhân, có trước tiến tŕnh hợp nhất), là một trung tâm gom góp, qui tụ tất cả các năng lượng thấp và sau rốt là một tụ điểm cho phương hướng và sự phân phối các năng lượng tổng hợp này – trao lại cho chúng các bí huyệt có khả năng tiếp nhận cao của chúng:

1. Các năng lượng của huyệt đan điền chính nó phải được hướng vào bí huyệt tim.

173

 
2. Các năng lượng của bí huyệt xương cùng phải được chuyển vào bí huyệt cổ họng.

3. Các năng lượng của bí huyệt ở chót xương sống phải được chuyển vào bí huyệt đầu. Sau cuộc điểm đạo thứ ba, các năng lượng cơ bản này được nâng lên, kiềm chế hay là phân phối bằng một tác động của ư chí của Tam Thượng Thể Tinh Thần. Bấy giờ "ánh sáng phát sinh vào thời Lemuria" (ánh sáng của bí huyệt xương cùng), và "ánh sáng phát sinh vào thời Atlantis" (ánh sáng của huyệt đan điền) sẽ tàn tạ, và hai bí huyệt này sẽ đơn thuần là nơi tiếp nhận các năng lượng tinh thần từ trên cao. Chúng sẽ không có ánh sáng trực tiếp, cố hữu của riêng chúng; ánh sáng mà chúng sẽ truyền đi sẽ đến với chúng từ các nguồn tổng hợp trên các cơi dĩ thái.

Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của bí huyệt này là tụy tạng, với một ngoại hiện phụ ở trong bao tử. Trong mối liên hệ với huyệt đan điền, có một liên hệ kỳ thú vốn được tượng trưng cả trong h́nh thức và trong hàm ư. Các bạn có:

                             

174

 
Ở đây lại nảy sinh chủ đề về bí huyệt của sức mạnh tinh thần (v́ lực cảm dục về bản chất là sức mạnh tinh thần) và ba biểu hiện của nó. Tất cả ba ngoại hiện trọng trược này được cung cấp và bảo dưỡng bằng thần lực và năng lượng của huyệt đan điền. Ở đây, tôi xin nêu ra một sự kiện rất quan trọng cho những kẻ có hứng thú trong việc nghiên cứu y học theo khía cạnh huyền bí: khi được đánh giá một cách đúng đắn, nó sẽ đưa đến việc hiểu biết về thuật chữa trị. Kiềm chế huyệt đan điền và tiếp nhận và phóng rải đúng lúc các năng lượng được tập trung trong bí huyệt đó, sẽ mang lại một sự thanh lọc chủ yếu, một sự tăng cường mạnh mẽ và một che chở thiết yếu đối với ba cơ quan rất quan trọng nằm trong lĩnh vực của bộ máy hồng trần của con người.

Như tôi đă nêu ra trước kia, bí huyệt này là một cơ quan tổng hợp và qui tụ vào chính nó mọi năng lượng thấp ở một mức độ nào đó trong phát triển cao siêu của con người. Sự thật, đó là một khí cụ (khi được hiểu đúng và điều khiển đúng) sẽ giúp vào việc hội nhập của sự sống phàm ngă. Vấn đề chính của người đă phát triển cao nhưng chưa có khuynh hướng tinh thần là vấn đề dục vọng. Các mục tiêu của y là ǵ? Các mục đích của y được hướng đến ǵ? Bản chất các hoài băo đă được hiểu rơ của y là ǵ? Y mong mỏi những ǵ? Tùy theo bản chất của các sức mạnh và các năng lượng mà cuộc sống tư tưởng của y mang lại cho huyệt đan điền, thế nên, quyết tâm của y để tiến tới theo con đường ánh sáng, để giữ vững mức duy ngă, hay để chọn đường lối thấp vốn sẽ dẫn đến việc giũ sạch ánh sáng của linh hồn.

Như chúng ta đă thấy, các cánh hoa của huyệt đan điền hướng lên đến bí huyệt tim. Trong thực tế, điều này có nghĩa là năng lượng xúc cảm, dục vọng và tham vọng (mà toàn thể nhân loại đều có) đang nỗ lực hướng về con đường cao cả.

175

 
Ở đây, cần ghi nhớ rằng việc chuyển di năng lượng ở huyệt đan điền tự nó là bổn phận của tất cả những người t́m đạo tiến vào Con Đường Đệ Tử vào thời điểm đặc biệt này, cộng với sự khơi hoạt từ từ của bí huyệt tim. Các thành viên đầu tiên của gia đ́nh nhân loại muốn trở nên có tập thể thức, dĩ nhiên là những người t́m đạo và các đệ tử, và những người này dẫn đầu cho nhân loại c̣n lại. Họ đạt được điều này bằng áp lực của chính sự sống và của hoàn cảnh chung quanh, chứ không phải bằng việc noi theo các qui luật đă đặt ra hay lối thiền định đặc biệt nào. Sau này, trước khi có một cuộc điểm đạo chủ yếu nào đó, các qui luật và các biện pháp như thế có thể được áp dụng để mang lại cho điểm đạo đồ sự kiềm chế hữu thức và tức khắc khắp thể cảm dục và tụ điểm của nó để tiến vào thể xác, huyệt đan điền, và lần nữa, vào lúc mà các sự chuyển di chính yếu được thực hiện một cách hữu thức. Trong các chuyển di này có ba loại có tầm quan trọng hàng đầu:

1. Từ ba bí huyệt dưới cách mô đi vào tim, cổ họng và bí huyệt ấn đường.

2. Từ hai bí huyệt trên cách mô – bí huyệt tim và bí huyệt cổ họng – vào bí huyệt ấn đường và hoa sen ngh́n cánh ở trên đầu.

3. Từ bí huyệt ấn đường vào bí huyệt đầu, có nghĩa là sự hợp nhất hoàn toàn của mọi năng lượng khắp toàn bộ thể dĩ thái, vào tụ điểm trung ương duy nhất để phân phối – dưới sự kiểm soát trực tiếp của Tam Thượng Thể Tinh Thần.

Các tiến tŕnh liên quan đến ba kinh nghiệm lớn này (mỗi kinh nghiệm được đi trước bằng nhiều thử thách và thực nghiệm) dĩ nhiên là đặt một căng thẳng trên thể xác và là nguyên nhân của nhiều trong số các bệnh mà các đệ tử phải kế thừa.

176

 
Thí dụ, điều hiển nhiên đối với bạn là sự chuyển di của mọi năng lượng tích tụ trong huyệt đan điền đi vào bí huyệt tim sẽ gây ra khó khăn rất thường có bản chất trầm trọng; đây là lư do giải thích tại sao ngày nay rất nhiều người tiến hóa, lại chết v́ bệnh tim. Trong chu kỳ dài của sự sống và kinh nghiệm của linh hồn, đây chỉ là một thời gian tương đối nhỏ; trong chu kỳ ngắn của đời sống cá biệt của đệ tử, đó là một khó khăn lớn và thường là bi thảm. Tương tự, việc chuyển di năng lượng của năm bí huyệt trên xương sống vào các bí huyệt đầu sẽ mang theo nó các vấn đề riêng của nó. Việc kích thích huyệt ấn đường bằng sự tập trung các năng lượng này có thể đưa đến các vấn đề tâm lư tai hại. Một người có thể trở thành một người cực kỳ ích kỷ (ego-maniac) tạm thời (tất cả chỉ là tạm thời trong cuộc sống trường cửu của linh hồn !) và trở thành một quái vật của loài người như Hitler và những kẻ khác cùng loại như ông ta mặc dầu ở mức độ thấp hơn; có thể cũng có các t́nh trạng động kinh dữ dội, hay là thị lực có thể bị tác động và người ấy trở nên mù ḷa. Tất cả các điểm này biện minh cho ư tưởng cẩn thận.

6. Bí huyệt xương cùng. Bí huyệt này nằm ở phần dưới vùng thắt lưng và là một bí huyệt rất mạnh, đang kiểm soát đời sống tính dục. Một trong các điều lư thú về bí huyệt này đó là nó vẫn luôn luôn là một bí huyệt mạnh cho đến khi hai phần ba nhân loại được điểm đạo, v́ tiến tŕnh sinh sản phải tiếp tục và vẫn hoạt động để cung cấp thể xác cho các linh hồn mới đến. Nhưng khi nhân loại tiến hóa, bí huyệt này sẽ được kiềm chế và các hoạt động của họ sẽ được xúc tiến một cách sáng suốt do hiểu biết sâu rộng và do các tiếp xúc cao siêu hơn và tinh tế hơn, chứ không phải do dục vọng không giới hạn và thiếu kiềm chế, như trường hợp hiện nay. Tôi không thể quảng diễn thêm về vấn đề này v́ chủ đề quá rộng lớn. Tuy nhiên, tôi có thể làm cho bạn chú ư những ǵ tôi đă viết và gợi ư rằng kẻ nào đó với sự quan tâm và theo thời gian sẽ gom góp tất cả những điều tôi đă nói trong tất cả các sách của tôi liên quan đến vấn đề phái tính để cho một tập sách nhỏ về đề tài này có thể được biên soạn.

  a. Bí huyệt xương cùng tương ứng với mặt trời hồng trần, tức nguồn sinh lực và là tác nhân ban phát sự sống trên hành tinh ta.

177

 
  b. Cách h́nh tượng hóa của bí huyệt xương cùng có liên quan trước tiên với thai kỳ trước khi sinh, và sự hiểu biết đúng về nó có thể được truy nguyên và khai triển rộng ra toàn thể câu chuyện về sự hoài thai, về sự kiến tạo h́nh hài và dù đó là h́nh hài vật chất của một người, dạng thức của một ư tưởng, một hệ thống được tạo ra chung quanh một chân lư trung ương, dạng thức của một hành tinh hay của một thái dương hệ. Có lẽ trên mọi điều khác, bí huyệt mà nhờ đó các mănh lực của Vô Ngă sau rốt phải tự biểu lộ, và toàn bộ vấn đề nhị nguyên phải được giải quyết. Giải pháp và cách giải thích biểu tượng phải xuất phát từ lănh vực trí tuệ, nhờ đó việc kiềm chế phản ứng xác thân và dồn hết th́ giờ vào các mục tiêu chớ không phải với dục vọng. Hăy suy gẫm về điều này. Khi đă hiểu rơ như vậy, bấy giờ, chúng ta sẽ đạt tới tŕnh độ mà sự chuyển di lớn sẽ có thể xảy ra vào bí huyệt sáng tạo cao hơn, tức bí huyệt cổ họng.

  c. Do đó, bí huyệt xương cùng có liên quan chặt chẽ với vật chất, và có một ḍng năng lượng giữa ba điểm trong phần dưới của cơ thể:

1. Lá lách, cơ quan của prana hay là của sự sống vật chất, xuất phát từ thái dương.

2. Bí huyệt xương cùng, tác nhân sắp xếp hướng về sự sinh sản vật chất.

3. Bí huyệt ở chót xương sống mà (cho đến khi trạng thái ư chí xuất phát trong con người) nuôi dưỡng nguyên khí ban phát sự sống,ư-chí-muốn-sống, đến khắp các phần của cơ thể.

Các điểm này tạo ra một tam giác lực vĩ đại, liên quan đến vật chất, đến chất liệu nguyên thủy, tạo h́nh, sáng tạo, sức sống và sự bền vững trong h́nh hài. Tam giác này là phản ánh của một tam giác c̣n cao hơn, gồm có:

1. Bí huyệt cổ họng, tương ứng với bí huyệt xương cùng.

178

 
2. Tuyến yên, tương ứng với bí huyệt lá lách.

3. Tuyến tùng quả tương ứng với bí huyệt căn bản.

Trong sự liên quan của hai tam giác này có ẩn manh mối đối với bản năng tự bảo toàn, sự tồn tại của các thể tinh anh sau khi chết, và nguyên khí bất tử được đặt trong linh hồn và tác động khi sự tự bảo toàn và sự sống c̣n không c̣n chế ngự nữa. Điều này tạo thành một bộ ba về ư tưởng, cần phải nghiên cứu một cách thật cẩn thận và – tôi tạm diễn tả như thế – đem lại bí quyết cho hoạt động tâm linh.

  d. Cuối cùng, bí huyệt xương cùng cũng liên kết với bí huyệt ấn đường. Cả hai cùng tạo thành một nhị nguyên hoạt động vốn tạo ra tính chất tinh anh mà chúng ta gọi là phẩm cách (personality). Có một lănh vực t́m ṭi rộng lớn trong chủ đề phẩm cách với vai tṛ một tổng thể phối kết và trong tính chất của phàm ngă, vốn là hương vị, ảnh hưởng, hiệu quả và bức xạ của phàm ngă. Tôi nêu ra các ư tưởng này cho các đạo sinh, hy vọng rằng một số điều t́m kiếm có thể noi theo vốn sẽ liên kết vấn đề các bí huyệt với các sự kiện được nhận thức về sự kết hợp, hội nhập và các hiệu quả của chúng trong việc tạo ra sự vĩ đại.

Đối với các bạn nào có nghiên cứu Giáo Lư Bí Nhiệm, có nhiều điều cần khai mở liên quan tới mối liên hệ của các "Nguyệt Tinh Quân", tức Barishad Pitris, đối với Thái Dương Thiên Thần. Lănh vực tác động của Nguyệt tinh quân là bí huyệt xương cùng; lănh vực hoạt động của Thái Dương Thiên Thần là bí huyệt cổ họng.

179

 
  e. Bí huyệt xương cùng thể hiện năng lượng thuộc Ngôi Ba của Thượng Đế, cũng như bí huyệt đan điền thể hiện năng lượng Ngôi Hai và bí huyệt căn bản thể hiện năng lượng Ngôi Một. Ở đây, bạn lại có các bí huyệt thấp đang phản chiếu là bí huyệt cổ họng, tim và đầu và như thế bổ sung cho biểu lộ cao và thấp của Ba Ngôi thiêng liêng trong con người. Vào thời Lemuria cổ xưa, bí huyệt này được khơi hoạt và hoạt động đầy đủ trong giống dân thứ nhất; năng lượng của nó là năng lượng của Chúa Thánh Thần, đang che chở chất liệu nguyên trạng (virgin substance). Ở đây, chúng ta lại cũng thấy một phản ảnh thiêng liêng khác như sau:

                           

   

 

 

 

 


Sau cùng, trong Lưỡng Tính Thiêng Liêng (xuất hiện sau này) bạn sẽ có một phối hợp khác:

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Hỡi huynh đệ, bạn lại sẽ chú ư làm thế nào mà khoa học về các tam giác đang chế ngự cấu trúc con người dưới mọi trạng thái của nó, cũng như cấu trúc của thái dương hệ. Điều này đang được mong đợi.

180

 
  f. Ngoại hiện của thể xác trọng trược của bí huyệt này nằm trong các tuyến sinh dục, các cơ quan sinh sản của con người – khi xét chúng như là đơn vị căn bản, dù là tạm thời tách biệt trong biểu lộ lưỡng phân hiện tại của con người. Cần phải nhớ rằng sự phân ly này nuôi dưỡng xung lực mạnh mẽ hướng về sự dung hợp, và sự thôi thúc để phối hợp này, chúng ta gọi là dục tính. Thực ra, dục tính là bản năng hướng về sự hợp nhất: trước nhất là hợp nhất thể xác. Đó là nguyên lư bẩm sinh (dù cho có nhiều hiểu sai) của thần bí học, vốn là danh xưng mà chúng ta gán cho sự thôi thúc để hợp nhất với thiêng liêng. Giống như mọi cái khác mà người kém phát triển đă tiếp xúc, chúng ta đă làm sai lệch méo mó thiên ư và coi thường sự thúc đẩy vô h́nh đối với ước muốn vật chất. Chúng ta đă đảo ngược chiều hướng của năng lượng ở bí huyệt xương cùng đưa đến bản chất thú tính quá phát triển và các chức năng của nhân loại bậc trung.

Có nhiều điều cần thiết mà tôi có thể thêm vào ở trên, nhưng đề tài đ̣i hỏi nhiều phân tích cẩn thận, làm sáng tỏ và diễn tả mà thời gian không cho phép, nếu không, sự thăng bằng được tạo ra của bộ luận này sẽ không c̣n nữa.

181

 
Cũng có một ít điều mà tôi có thể nói liên quan đến bí huyệt chót xương sống. Tuy nhiên, trước hết, tôi đề cập đến chi tiết nào có kết quả hay có thể được, tôi muốn nêu ra sơ đồ trên trang 162 (Anh văn – ND) mô tả tŕnh độ tiến hóa của một đệ tử chứ không phải của một điểm đạo đồ đă tiến hóa cao. Nó cũng không mô tả một người tầm thường bậc trung. Điều này được nêu ra do sự kiện là phản ảnh của bí huyệt tim trong đầu đang xoay lên để đáp ứng với hoạt động tăng lên của chính bí huyệt tim, và rằng định nghĩa của bí huyệt ấn đường th́ rơ ràng và chính xác, chứng tỏ một phàm ngă hội nhập, phối kết. Do đó, đây không phải là sơ đồ các bí huyệt của người b́nh thường hay chưa phát triển. Đối với các sơ đồ như thế, không thể làm ǵ nhiều hơn là đưa ra một số điểm hoàn thiện, nhưng cần nhớ rằng các điểm hoàn thiện này không phải là các thành tựu không thay đổi mà mỗi một thành tựu đó đă được đi trước bằng các giai đoạn và thời kỳ hoạt động vốn tạo ra các kết quả luôn thay đổi và là các trạng thái không ổn định của các bí huyệt; đến lượt chúng, các trạng thái này được nối tiếp bằng các chu kỳ hoạt động khác, với thay đổi và với việc phóng rải năng lượng đă được đổi mới. Hậu quả của các nguyên nhân ẩn sâu trong chính chúng trở thành các lư do, v́ trong chu kỳ biểu lộ, không có ǵ tĩnh tại hoặc cố định hoặc sau rốt được xác định cả. Đây là một điểm cực kỳ quan trọng. Do đó, đừng nên để bị đánh lừa bởi những thời điểm thành đạt bề ngoài. Chúng chỉ là các mở đầu để thay đổi, v́ đó là Định Luật Tồn Tại.

7. Bí huyệt ở chót xương sống. Trên mọi huyệt khác, bí huyệt này được kiềm chế và chi phối bởi Luật Tồn Tại đă nói trên, và được thiết lập nơi nào mà tinh thần và vật chất gặp nhau và nơi nào mà vật chất, tức Mary Đồng Trinh – ở dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, tức năng lượng của thể dĩ thái – được biến đổi "thành Thiên Đường", nơi đó (theo cách nói của Cơ Đốc giáo) "được đặt ngồi bên cạnh Con của Bà trong nhà của Cha".

Bí huyệt này nằm ở ngay chót xương sống, và nâng đỡ mọi bí huyệt khác. Vào lúc này, nó tương đối yên lặng, v́ nó chỉ được khơi hoạt để hoạt động đầy đủ bằng một tác động của ư chí được điểm đạo đồ hướng dẫn và điều khiển. Nó chỉ được đáp ứng với trạng thái ư chí và ư-chí-hiện-tồn đang lâm phàm là yếu tố mà hiện đang kiềm chế sự sống của nó và tạo ra các hiệu quả của nó khi nó nuôi dưỡng và điều khiển nguyên khí sự sống trong vật chất và h́nh hài. Đúng như chúng ta được dạy rằng nguyên khí sự sống "ngự trong tim", cũng thế, ư-chí-hiện-tồn nằm ở chót xương sống. Có nhiều câu chuyện vô bổ và nguy hiểm liên quan đến bí huyệt này, và toàn thể vấn đề về "xà hỏa" đă tỏ ra là một câu chuyện hứng thú và lôi cuốn bởi các nhà huyền linh học giả mạo trên thế gian. Nhà huyền linh học chân chính được dạy không nên động chạm ǵ đến xà hỏa đó – theo sự hiểu biết thông thường. Tôi không thể làm ǵ hơn là đưa ra một số sự kiện khá rơ ràng cho bạn và tuy nhiên, đồng thời tôi cũng phải kiềm chế không nêu ra các cách thức và phương pháp khơi hoạt sự hoạt động của bí huyệt này, v́ có sự cực kỳ nguy hiểm liên can đến bất kỳ việc khai mở sớm nào về bí huyệt căn bản ấy. Điều tốt nhất tôi có thể làm là đưa ra một loạt diễn đạt có thể hiểu được theo đúng đường lối bởi những kẻ hiểu biết (và những người này cho đến nay hăy c̣n ít và cách xa nhau) vốn dĩ sẽ giúp cho việc suy tư của những kẻ đang được huấn luyện và đem lại cho họ một h́nh ảnh đầy đủ hơn phần nào, nhưng sẽ bảo vệ kẻ thiếu hiểu biết tránh được tai họa. Tôi sẽ nêu các điều này ra càng rơ ràng và vắn tắt càng tốt, nhưng về mặt thực hành, tôi sẽ không giải thích ǵ hết.

182

 
1. Bí huyệt căn bản này là điểm mà theo định luật tiến hóa, tinh thần và vật chất gặp nhau và sự sống được liên kết với h́nh hài.

2. Do đó, bí huyệt mà lưỡng nguyên chính của Đấng thiêng liêng biểu lộ – con người hoặc Hành Tinh Thượng Đế – đáp ứng và tạo ra h́nh hài.

3. Bản thể của Đấng thiêng liêng này chỉ được tiết lộ khi Ngôi Hai đă hoàn thành công việc, nhờ phương tiện của Ngôi Ba, nhưng dưới ư chí hướng dẫn của Ngôi Một.

4. Đó là bí huyệt mà "con rắn của Chúa" trải qua hai biến h́nh:

  a. Con rắn vật chất nằm cuộn tṛn.

  b. Con rắn này được biến đổi thành rắn minh triết.

  c. Con rắn minh triết được chuyển sang và trở thành "con rồng ánh sáng sinh động".

5. Cả ba giai đoạn này được bảo dưỡng bằng sự sống và năng lượng đang tuôn xuống qua khắp chiều dài của cột xương sống, xuyên qua sự tương ứng dĩ thái của dây sống lưng, và – trong thời gian và không gian – sự tuôn đổ này (cộng với sự sống đang dâng lên đồng thời) tạo ra:

183

 
  a. Sự khơi hoạt một cách từ từ và có thứ tự của các bí huyệt, tùy theo các loại cung.

  b. Sự đảo ngược các bí huyệt sao cho tâm thức của con người nội tâm trở nên thích ứng với môi trường của y.

  c. Sự tổng hợp của các năng lượng sự sống của mọi bí huyệt, và sự thích hợp với các nhu cầu của điểm đạo đồ và việc phụng sự của Thánh Đoàn và của nhân loại.

6. Cột xương sống (theo quan điểm của huyền bí học) chứa một tuyến tam phân. Đây là ngoại hiện của antahkarana, gồm có giác tuyến đích thực (antahkarana proper), linh tuyến (sutrama) hay sinh mệnh tuyến (life thread) và sáng tạo tuyến (creative thread). Do đó, tuyến tam phân này bên trong cột xương sống gồm có ba tuyến năng lượng vốn được chuyển vào cho chính cả ba bằng chất liệu của phần bên trong của cột sống, một "con đường tiếp cận có ba phần và con đường triệt thoái cũng có ba phần". Theo thuật ngữ Ấn giáo, các tuyến này được gọi là ida, pingalasushumna, và chúng cùng hợp thành con đường sự sống đối với con người cá biệt và được đánh thức vào hoạt động tuần tự tùy theo loại cung và tŕnh độ tiến hóa. Tuyến sushumna không được sử dụng một cách chính xác và an toàn cho tới khi antahkarana được kiến tạo để cho Chân Thần và Phàm Ngă nhờ đó được nối liền, cho dù chỉ bằng một đường mảnh mai nhất. Lúc bấy giờ Chân Thần, tức Cha, tức trạng thái ư chí, mới có thể đạt tới phàm ngă một cách trực tiếp và có thể khơi hoạt bí huyệt căn bản, và cùng với nó phối hợp, hợp nhất và khơi dậy ba luồng lửa.

184

 
7. Một trong ba tuyến này là tuyến mà theo đó năng lượng, vốn nuôi dưỡng vật chất được tuôn đổ vào. Một tuyến khác có liên hệ với tuyến tâm thức và sự khai mở nhạy cảm về tâm linh. Tuyến thứ ba là tuyến thuần túy tinh thần. Như vậy, trong mọi h́nh hài c̣n sống, công việc của Cha, của Mẹ và của Con được xúc tiến. Sự sống - tâm thức - h́nh tướng (form) và sự sống - tính chất - sắc tướng (appearance) được phối hợp và bộ máy đáp ứng của con người thiêng liêng trở nên hoàn thiện, khiến cho y tiếp xúc và nhận thức trạng thái thiêng liêng chính yếu trong các giới của thiên nhiên, trong hành tinh và sau rốt trong thái dương hệ.

 

 

 

 

 

 


Đừng nên lầm lẫn mà đặt các lĩnh vực đan vào nhau này của năng lượng sinh động ở bên phải hoặc bên trái của dây sống lưng. Luôn luôn có một chuyển động, một tương tác và một sự đảo ngược diễn ra. Tôi chỉ có thể phác họa bản chất của một biểu tượng vốn chỉ rơ ra tuyến đặc biệt thuộc ba năng lượng của Tam Thượng Thể thiêng liêng. Tôi không nêu ra sự kiện về vị trí hoặc nơi chốn, v́ chính sự xuất hiện và sự khu biệt của quan niệm chính đă tạo ra rất nhiều nguy hiểm. Môn sinh được điểm đạo t́m cách hiểu mối liên quan của ba năng lượng căn bản, ba tuyến lửa sinh động, mối liên hệ của chúng và sự liên hệ hỗ tương cùng với sự an trụ tuần tự. Y không t́m cách thu hẹp giáo huấn xuống đến các điểm, các đường và vị trí, măi cho tới lúc mà các thuật ngữ này ít có ư nghĩa đối với y và y c̣n biết nhiều hơn thế nữa.

185

 
8. Ba con đường của sự sống này là các vận hà đối với lửa điện, lửa thái dương và lửa do ma sát, và được liên kết trong việc sử dụng chúng với ba giai đoạn của con đường tiến hóa: con đường tiến hóa trong vật chất ở các giai đoạn trước; Con Đường Dự Bị và các giai đoạn đầu của Con Đường Đệ Tử cho tới lần điểm đạo thứ ba; và chính Con Đường Điểm Đạo.

9. Về Luồng Xà Hỏa, có rất nhiều điều được nói và viết đến ở Đông Phương và ngày càng nhiều ở Tây phương, thực ra là sự kết hợp của ba lửa này, nó được tập trung do tác động của ư chí giác ngộ, dưới sự thúc đẩy của t́nh thương trong bí huyệt căn bản. Luồng hỏa hợp nhất này lúc bấy giờ được khơi dậy nhờ dùng Quyền Lực Từ (do ư chí của Chân Thần phát ra) và do quyền lực hợp nhất của linh hồn và phàm ngă, hợp nhất và sống động. Kẻ nào có thể làm điều này với tâm thức đầy đủ, như vậy kẻ ấy là một điểm đạo đồ ở trên mức điểm đạo thứ ba. Vị ấy, và chỉ một ḿnh vị ấy mới có thể đưa luồng hỏa tam phân này từ chót xương sống đến bí huyệt đầu một cách an toàn.

186

 
10. Thường thường, theo sự diễn dịch của nhà huyền bí học kém hiểu biết trong nhiều nhóm huyền linh khác nhau, xà hỏa phải được "đi lên", và khi nó đi lên, tất cả các bí huyệt lúc bấy giờ sẽ hoạt động, và các vận hà nằm khắp cột xương sống sẽ được quét sạch mọi chướng ngại. Đây là một khái quát hóa nguy hiểm và một đảo ngược sự thật. Xà hỏa sẽ được đi lên và mang lên đến trời (heaven) khi tất cả bí huyệt được khơi hoạt và các vận hà trên xương sống không bị ngăn trở. Việc thải bỏ mọi chướng ngại là kết quả của sự sinh động của các bí huyệt cá biệt, mà nhờ sức mạnh sự sống của chúng, chính chúng có hiệu quả trong việc phá hủy mọi chướng ngại và ngăn trở. Chúng có thể "thiêu rụi" tất cả những ǵ ngăn trở sự phát xạ (radiation) của chúng. Những ǵ thường xảy ra trong các trường hợp ngẫu nhiên (vốn gây ra quá nhiều tai hại), đó là người t́m đạo, do tính hiếu kỳ thiếu hiểu biết của y và do một cố gắng của trí tuệ (không phải của ư chí tinh thần, mà thuần là biểu lộ của ư chí phàm ngă), thành công trong việc khơi dậy cái thấp nhất trong ba luồng hỏa, tức là lửa của vật chất, lửa do ma sát; điều này tạo ra việc đốt cháy sớm và tiêu hủy mạng lưới dĩ thái trong dĩ thái thể. Các đĩa tṛn hay lưới này nằm ở giữa mỗi hai bí huyệt trên xương sống và cũng ở trong đầu. Chúng thường bị tiêu tan khi sự tinh khiết của sự sống, giới luật của t́nh cảm và sự phát triển của ư chí tinh thần sẽ được tiến hành.

                                  

 

                                  

 

                                  

 

                                  

 

                                  


Có tất cả bốn lưới như thế. Khi phàm ngă tứ phân (fourfold personality) được phát triển cao độ và huyệt ấn đường được khơi hoạt, bấy giờ, một cách chậm chạp và từ từ, một cách b́nh thường và tự động, các lưới này biến mất. Các lưới ở đầu có phẩm chất cao hơn nhiều và chia đôi sọ theo chiều ngang và chiều dọc. Như thế, chúng tượng trưng cho Thập Giá mà Con của Thượng Đế bị đóng đinh trên đó.

187

 
11. Ba vận hà trên xương sống hoàn toàn đáp ứng với ba huyệt chính:

a. Bí huyệt đan điền, tạo ra sức thúc đẩy của dục vọng và nuôi dưỡng sự sống thể xác và thôi thúc sự sáng tạo.

b. Bí huyệt tim, tạo ra xung lực để yêu thương và để tiếp xúc hữu thức với bất luận khu vực rộng lớn nào của biểu lộ thiêng liêng.

c. Bí huyệt đầu, tạo ra xung lực mạnh mẽ của ư chí muốn sống (will to live).

Tôi không nêu ra vận hà nào đáp ứng với bí huyệt nào, trừ trường hợp vận hà sushumna vốn chỉ đáp ứng với năng lượng của bí huyệt đầu và ư chí được hướng dẫn, tập trung trong hoa sen ngàn cánh. Điều này có thể được nói ra một cách an toàn, v́ cho đến nay, ư chí tinh thần chưa phát triển trong những kẻ t́m cách khơi dậy xà hỏa. Khi xà hỏa đi lên, họ sẽ biết những ǵ mà họ có thể làm một cách an toàn.

12. Ba bí huyệt trong đầu cũng có liên hệ đến ba vận hà:

  a. Vùng tủy sống kéo dài (bí huyệt tủy sống) và tuyến động mạch cổ.

  b. Bí huyệt ấn đường và tuyến yên.

  c. Hoa sen ngàn cánh và tuyến tùng quả.

Các đạo sinh sẽ thấy điều đó là lư thú khi liên kết các bộ ba này với ba cung chính:

188

 
  a. Cung 1, ư chí hay quyền lực

  b. Cung 2, bác ái - minh triết

  c.  Cung 3, thông tuệ –linh hoạt,

và cũng đối với ba giống dân được phú cho năng lực để khai mở mầm giống của ba khía cạnh thiêng liêng: Lemuria, Atlantis và giống dân Aryan. Các giống dân này có thể được liên kết, với tư cách là mầm giống, đối với hai giống dân cuối cùng vốn sẽ phối hợp và tổng hợp tất cả các sức mạnh, tính chất, các thành đạt và các mục tiêu vào sự sống hoàn hảo của hành tinh.

Một tổng hợp khác cũng có thể xảy ra và cũng quan trọng:

  a. Con đường tiến hóa…… các bí huyệt dưới cách mô.

  b. Con đường Đệ tử …….. các bí huyệt trên cách mô.

  c. Con đường điểm đạo … các bí huyệt trong đầu.

Các nhóm và các bộ ba này được liên kết trong thời gian và không gian vào ba dây sống lưng.

13. Cũng c̣n có – lại mối liên hệ đối với tất cả các điểm tổng hợp trên trong cơ thể – một điểm tuyệt đích của sự phối hợp hoàn hảo. Tôi nêu ra mỗi một trong các điểm này theo tŕnh tự công tác phối hợp của chúng:

  a. Bí huyệt đan điền, phối hợp các bí huyệt dưới cách mô.

  b. Bí huyệt ấn đường, phối hợp các bí huyệt cả trên và dưới cách mô.

  c. Bí huyệt chót xương sống, phối hợp tất cả sáu bí huyệt.

  d. Hoa sen ngàn cánh trên đầu, phối hợp tất cả bảy năng lượng.

189

 
Về tất cả những điều nói trên, nên ghi nhớ rằng chúng ta hoàn toàn đang bàn về các sức mạnh và năng lượng, đang tác động qua thể dĩ thái; rằng chúng ta đang bàn đến thế giới thứ ba của các nguyên nhân, vốn có trách nhiệm cho thế giới hữu cơ của biểu lộ trọng trược ở cơi trần. Biểu lộ hồng trần này chính nó tùy thuộc vào ảnh hưởng của thế giới thứ hai của sự sống hữu thức, mà đến phiên nó chịu trách nhiệm trong thời gian và không gian đối với thế giới năng động có mục đích và có Hiện tồn.

Bí quyết cho cuộc sống hoàn măn của linh hồn ẩn dưới các lời của tôi, nhưng linh hồn chọn cuộc sống hiến dâng và trí tuệ giác ngộ để hưởng được lợi ích nhờ tri thức được truyền đạt và để thấy được đàng sau h́nh thức của lời nói, tư tưởng ṇng cốt vốn đem cho nó sự sống và – nói về mặt huyền linh – hơi ấm sinh ra.

Hăy ghi nhớ rơ ràng các quan niệm về sự kích thích hay thiếu kích thích, về sự tương tác hay về sự phân ly, sự im ĺm hay hoạt động, v́ trong các bộ hai này có ẩn các nguyên nhân về sức khỏe hay về bệnh tật.

THỂ DĨ THÁI, HỆ THẦN KINH VÀ HỆ NỘI TIẾT

Những ǵ tôi phải nói ở đây được căn cứ trên một số ghi nhận trong các trang trước trong đó tôi có nêu ra rằng:

1. Chính thể dĩ thái

2. Hệ thần kinh

3. Hệ thống nội tiết

"có liên hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành một hệ thống quản trị ăn khớp gồm các năng lượng và các lực mà về bản chất là sinh động, khích động, năng động và sáng tạo… Toàn bộ sức khỏe bên trong của cơ thể đều tùy thuộc vào chúng". Đối với ba điểm này, bây giờ, tôi thêm vào ḍng máu với vai tṛ là phương tiện chuyên chở khắp cơ thể của

1. Nguyên Khí Sự Sống,

2. Các năng lượng kết hợp của ba hệ thống trên,

190

 
và nêu ra rằng sự phối hợp lớn của các mănh lực mà chúng ta gọi là các cặp đối hợp hay là các lưỡng nguyên chính yếu, chi phối các nguyên nhân nằm đàng sau của sức khỏe và bệnh tật. Khi nói ra các điều này là tôi đang nỗ lực để làm cho toàn thể vấn đề trở thành đơn giản tối đa. Khi làm như thế, một số chân lư mất đi, nhưng điều cốt yếu là một vài điểm khái quát rộng răi được đạo sinh hiểu rơ trước khi y bắt đầu nghiên cứu các ngoại lệ và để bàn đến những chi tiết vụn vặt, và chi tiết về các khuyết điểm thể xác hay các đối nghịch của chúng.

Điều đă trở thành quá hiển nhiên với các đạo sinh huyền linh học là thể dĩ thái qui định, kiềm chế và định đoạt biểu lộ sự sống của cá nhân lâm phàm. C̣n điều hiển nhiên thứ yếu là thể dĩ thái này là tác nhân vận chuyển các sức mạnh của phàm ngă, nhờ vào các bí huyệt và bằng cách ấy, khích động thể xác đi vào hoạt động. Các mănh lực này đi qua các bí huyệt, là các mănh lực của phàm ngă hợp nhất nói chung, hay chỉ là các mănh lực của thể cảm dục hoặc thể t́nh cảm và thể trí; chúng cũng truyền sức mạnh của cung phàm ngă hay là năng lượng của cung linh hồn, tùy theo tŕnh độ tiến hóa mà con người đạt được. Do đó, thể xác không phải là một nguyên khí. Nó bị điều khiển chớ không điều khiển – một điểm thường hay bị bỏ quên. Nó là một nạn nhân của cuộc sống phàm ngă hay là biểu hiện thắng lợi của năng lượng linh hồn. Chính và lư do này mà khoa tâm lư học, trong hai thế kỷ tới sẽ chế ngự y học hiện đại, trừ ra các loại bệnh mà chúng ta sẽ bàn đến trong tiết tới – các bệnh xuất phát từ đời sống tập thể như là bệnh lao, hoa liễu, ung thư. Cho đến khi nhân loại trở nên có ư thức tập thể một cách rơ rệt hơn (một điều mà cho đến nay hăy c̣n xa vời) không thể áp dụngcác điều khái quát về tâm lư một cách rộng răi cho các bệnh riêng biệt đối với hành tinh ta. Tuy nhiên, chúng ta có thể xét việc nghiên cứu các khó khăn tương tự xuất phát trong từng cá nhân; các khó khăn này được căn cứ trên sự xung đột của các cặp đối hợp và dựa vào sự thiếu hài ḥa được t́m thấy trong ba hệ thống điều khiển ăn khớp chính yếu.

191

 
Do đó bạn có ba hệ thống để chuyên chở trong trí bạn, và một phương tiện chuyên chở hay truyền đạt, cộng với sự thật huyền linh căn bản rằng một vài năng lượng đối nghịch lớn, hoạt động bên trong cơ thể, tạo ra cái mà chúng ta gọi là bệnh. Đối với các yếu tố trên, tôi xin thêm một tương quan cần có khác. Tôi xin nhắc bạn rằng chúng ta có liên quan với các h́nh thức sự sống, và tất cả các h́nh thức này đều có sức sáng tạo trong chính chúng, và có thể tạo ra một cách mạnh mẽ nhiều h́nh hài hơn hoặc có thể cung cấp các môi trường trong đó các h́nh hài này có thể linh hoạt. Xin ghi nhận cách diễn tả một chân lư căn bản này. Nền tảng của mọi giáo huấn huyền môn về sự biểu lộ là nền tảng mà lực kiến tạo hiện hữu, và phát biểu này là chính xác dù cho bạn liên kết với Sự Sống của một thái dương hệ hay chỉ với tâm thức của thể mà trong đó con người đang hoạt động và sống – theo các đường lối lành mạnh hoặc không lành mạnh; chúng ta đang bàn đến cơ thể thế giới (the world body) trong đó một con người đang sống. Nhờ bởi điều này, chúng ta đi đến chỗ ngược lại với một định luật thiên nhiên lớn khác có thể được diễn tả đơn giản như sau:

ĐỊNH LUẬT VI

Khi các năng lượng kiến tạo của linh hồn trở nên linh hoạt trong cơ thể, bấy giờ mới có được sức khỏe, sự tương tác hoàn toàn và hoạt động đúng đắn. Khi các vị kiến tạo là các Nguyệt Tinh Quân và những ai làm việc dưới sự kiềm chế của Nguyệt cầu và theo lệnh phàm ngă, bấy giờ sẽ có bệnh hoạn, sức khỏe kém cỏi và chết chóc.

192

 
Đây là một qui luật đơn giản mà sâu xa, nó đem lại manh mối cho các nguyên nhân của bệnh tật và lư do để tạo nên bất tử; điều đó cần được hiểu thật rơ ràng và khả năng hiểu trong thời gian một vài năm, bấy giờ sẽ thay thế cho các hệ thống duy tâm nhưng thật ra thiếu lành mạnh và thiếu xác thực mà chúng ta gán cho danh xưng là Hợp Nhất, Khoa Học Tinh thần và Khoa Học Cơ Đốc. Các hệ thống này tŕnh bày dưới h́nh thức trực tiếp các khả năng có thể minh chứng được về giai đoạn giải thoát cuối cùng khỏi các hạn chế của thiên nhiên và vật chất, mà ngày nay đang kiềm chế mọi h́nh hài sắc tướng; họ không biết yếu tố thời gian và bỏ sót diễn tŕnh tiến hóa cũng như tŕnh độ phát triển của kẻ có liên hệ; lập trường của họ được dựa vào sự mơ tưởng và vào ước muốn tự nhiên của hạng người trung b́nh về tiện nghi và sự hài ḥa vật chất, và nói phớt qua cái ích kỷ tự nhiên về cách tŕnh bày chân lư của họ với quan niệm rằng mọi sự đều đi đến vinh quang cuối cùng của Thượng Đế. Chắc chắn là bệnh tật và các giới hạn vật chất thuộc bất cứ loại nào cũng sẽ biến mất, nhưng điều này sẽ chỉ xảy ra khi linh hồn có các kiềm chế cá nhân và phàm ngă trở thành chẳng khác ǵ một người máy của linh hồn, như xác thân vào lúc này là người máy của bản chất t́nh cảm, của trí tuệ và thỉnh thoảng (chỉ rất ít khi đối với đa số con người) của linh hồn.

Chỉ khi nào linh hồn một cách thực tâm và với sự hợp tác của phàm ngă, kiến tạo được Thánh điện của xác thân, và lúc đó giữ cho nó tràn ngập ánh sáng, th́ bệnh tật sẽ biến mất. Tuy nhiên, sự kiến tạo này là một tiến tŕnh khoa học, và trong các giai đoạn đầu của con đường đệ tử (vốn là thời kỳ mà linh hồn bắt đầu hiểu được vận cụ của nó, tức phàm ngă), điều này, tất nhiên đưa đến xung đột, làm tăng thêm căng thẳng và thường thường làm cho bệnh tật và sự thiếu hài ḥa trầm trọng thêm. Sự thiếu hài ḥa và bệnh tật này đưa đến nhiều rối loạn cần thiết và do đó dẫn tới các hậu quả bất đắc dĩ. Các hậu quả này sẽ bị khắc phục – trong sự dàn xếp tạm thời để hiệu chỉnh – chỉ khi nào chúng được ghi nhận và tự biểu hiện, sẽ có nhiều đau khổ về mặt vật chất và tâm lư và tất cả các khó khăn lớn và nhỏ mà con người dường như kế thừa.

193

 
Ở nhân loại chưa tiến hóa, sự xung đột (theo khía cạnh tâm thức), thực tế không có; bạn có ít tính mẫn cảm đối với các bệnh tinh tế xuất phát từ ba hệ thống ăn khớp nhưng đồng thời có một đáp ứng to tát hơn nhiều đối với ba bệnh bẩm sinh, đối với các bệnh hay lây và đối với các bệnh dịch lớn đang lan ra khắp các quốc gia và các vùng rộng lớn của hành tinh. Khi nhân loại phát triển, bệnh tật trở nên cá biệt hơn (tôi tạm diễn tả điều đó bằng cách này) và không có liên quan rơ ràng đến t́nh trạng của nhiều người hay của quần chúng. Chúng xuất phát trong chính từng người và mặc dù chúng có thể được liên kết với các bệnh của quần chúng, chúng lại dựa trên các nguyên nhân cá biệt.

Khi một người tách ra khỏi quần chúng và bước trên đường dự bị và như thế trở nên một ứng viên đệ tử, lúc bấy giờ, các bệnh của thể xác và sự mất hài ḥa của toàn thể hệ thống gồm ba phần của y, cộng với ḍng chuyển vận, tạo thành vấn đề hữu thức và là vấn đề mà người t́m đạo phải chính ḿnh giải quyết – như vậy lộ ra cho y nhu cầu kiến tạo hữu thức và có tính cách sáng tạo.

Chính ở điểm này mà thuyết luân hồi trở nên có giá trị tối cao; đệ tử bắt đầu thiết lập các t́nh trạng này, sáng tạo các h́nh hài và kiến tạo các hiện thể mà, trong kiếp sống khác, sẽ tỏ ra thích hợp hơn cho sự kiềm chế của linh hồn và các khí cụ thích hợp hơn để tiến hành các qui tŕnh toàn hảo mà linh hồn cần đến. Tôi xin nêu ra rằng bậc đệ tử không nhắm vào thể xác bất cứ lúc nào, hoặc bắt đầu bằng bất cứ chú tâm vật chất nào để đạt tới việc loại bỏ bệnh tật hay sự thiếu hài ḥa. Đệ tử nên bắt đầu với tâm lư học mà linh hồn dạy ra và bắt đầu với các nguyên nhân đang tạo ra hiệu quả trên cơi trần. Đó là một tiến tŕnh chậm chạp, nhưng vững bền. Nhiều tự kỷ ám thị mạnh mẽ của các hệ thống liên kết với Khoa Học Công Giáo và Hợp Nhất, chỉ nhất thời trong hiệu quả của chúng và dựa trên một tiến tŕnh kiềm chế có khoa học, cộng với một sự từ khước thừa nhận các yếu tố hiện có. Chúng không căn cứ vào chân lư. Trong một kiếp sống sau này, t́nh trạng đè nén sẽ lại xuất hiện với sức mạnh lớn hơn bao giờ hết, và sẽ tiếp tục xảy ra như thế cho tới khi mà cuộc sống đó hoàn toàn không được biết và tầm quan trọng của sự sống được đặt trên sự tiếp xúc của linh hồn và biểu hiện của sự sống được hướng ngoại trở thành việc phụng sự cho những người khác.

194

 
Liên quan với bệnh thể xác và sự liên hệ của nó với các bí huyệt (được xem như là các tụ điểm cho các năng lượng đến từ nguồn cội này hay nguồn cội khác) có thể là hữu ích nếu một số điều khái quát được nêu ra ở đây, nên nhớ rằng đối với tất cả những điều này có thể có các ngoại lệ, đặc biệt là trong trường hợp khỏe mạnh hay không khỏe mạnh của đệ tử.

1. Mỗi một trong bảy bí huyệt chính chế ngự hoặc điều khiển – theo khía cạnh vật chất, cũng như theo khía cạnh linh hồn và của nguyên khí sự sống – vùng thể xác mà trong đó có nhiều trung tâm năng lượng nhỏ và bí huyệt sinh lực có thể nằm trong đó.

2. Ba sự phân chia lớn, căn bản và đang biểu hiện của thiên tính được t́m thấy một cách tượng trưng trong mỗi bí huyệt là:

  a. Nguyên khí sự sống, trạng thái thứ nhất, tự lộ ra khi toàn bộ bí huyệt được khai mở hay thức tỉnh về mặt huyền bí. Hiện nay, mọi thời gian đều tiềm tàng, nhưng đó không phải là yếu tố năng động tạo ra sự kích thích của Chân Thần cho đến cuối đại chu kỳ tiến hóa.

  b. Tính chất hay khía cạnh linh hồn dần dần bộc lộ ra trong tiến tŕnh khai mở tiến hóa, và, trong thời gian và không gian tạo ra hiệu quả rơ rệt mà bí huyệt có được đối với hoàn cảnh của nó. Tính chất này tùy thuộc vào cung (hoặc là của phàm ngă, hoặc là của linh hồn) vốn là cội nguồn của năng lượng đang đi đến, hoặc là tùy thuộc vào cung đang chi phối thể cảm dục trong trường hợp kẻ kém tiến hóa; nó cũng tùy thuộc vào tŕnh độ tiến hóa và vào ảnh hưởng bức xạ của các bí huyệt khác.

195

 
  c. Sự xuất hiện trong dĩ thái thể một bí huyệt đă hay đang phát triển chỉ rơ vị trí của con người trên thang tiến hóa, các liên kết về chủng tộc, và mục tiêu hữu thức của y; mục tiêu này có thể hoàn toàn thay đổi, từ trọng điểm về đời sống tính dục và hoạt động tất nhiên của bí huyệt xương cùng, đến mục tiêu của điểm đạo đồ, đưa bí huyệt đầu đến hoạt động. Tất cả các điều này tạo ra một hậu quả tất nhiên trên hệ thống chung quanh, chất liệu và các h́nh hài có tổ chức bên trong phạm vi ảnh hưởng của bí huyệt. Vùng ảnh hưởng này thay đổi tùy theo hoạt động của bí huyệt, và điều này tùy thuộc vào tŕnh độ phát triển mà cá nhân đă đạt được và loại năng lượng trội hơn mà cá nhân đáp ứng lại.

3. Năng lượng đang đến được chuyển hóa bên trong bí huyệt thành sức mạnh. Điều này cần đến một tiến tŕnh biến phân thành các năng lượng cấp hai của năng lượng nguyên thủy đă nói đến, và là một diễn biến tự động; tốc độ của tiến tŕnh chuyển hóa, cường độ của việc thu nạp các lực kết thành và hoạt động bức xạ theo sau (tạo ra các kết quả chi phối trên nhục thân) đều tùy thuộc vào phạm vi của việc khai mở bí huyệt đặc biệt có liên quan, và trạng thái đă khơi hoạt hay chưa khơi hoạt của nó.

196

 
4. Các lực hướng ra ngoài từ một bí huyệt tác động trên đối phần dĩ thái của toàn thể mạng lưới thần kinh phức tạp đang tạo thành hệ thần kinh. Các đối phần này với các tương ứng bên trong đồng nhất được gọi là "nadis" theo Triết lư Ấn giáo; chúng tạo thành một mạng lưới phức tạp và mở rộng nhất của các năng lượng uyển chuyển vốn là hệ thống hữu h́nh, ở bên trong và song song với hệ thống của các thần kinh trong cơ thể, mà hệ thống sau này thực ra là một ngoại hiện của kiểu mẫu các năng lượng bên trong. Cho đến nay, trong Anh ngữ, hay trong bất cứ ngôn ngữ Âu Châu nào không có từ ngữ nào tương ứng với từ ngữ "nadi", lư do là v́ sự hiện hữu của hệ thống bên trong này, cho đến nay vẫn chưa được nhận ra, và chỉ có ư niệm duy vật về các dây thần kinh như là một hệ thống được tạo nên để đáp ứng với môi trường hữu h́nh vẫn chế ngự ở phương Tây. Ư niệm về các thần kinh này hiện là kết quả vật chất trọng trược của bộ máy đáp ứng bén nhạy bên trong mà khoa học Tây phương hiện đại vẫn chưa biết và chưa xác định được. Khi có được nhận thức phù hợp với chất tinh anh này (bao gồm các tuyến năng lượng) ẩn dưới các dây thần kinh hiện ra rơ rệt hơn, chúng ta sẽ tiến gần hơn đến toàn bộ vấn đề sức khỏe và bệnh tật, và thế giới nguyên nhân sẽ là thế giới gần gũi hơn. Mạng lưới nadis này tạo thành một kiểu mẫu sự sống rơ rệt, nó thay đổi tùy theo cung phàm ngă.

5. Do đó, các nadis (tuyến lực) xác định bản chất và đặc tính của thần kinh hệ cùng với mạng lưới mở rộng của các dây thần kinh và các đám rối (plexi) đang bao phủ toàn bộ thể xác. Các nadis và tất nhiên là mạng lưới các dây thần kinh, có liên quan trước tiên với hai khía cạnh của vận cụ hồng trần của con người – bảy bí huyệt chính trong thể dĩ thái (một thể có thực đang ẩn dưới nhục thân), và cột xương sống với đầu. Phải luôn luôn nhớ rằng thể dĩ thái là một thể hồng trần, dù là được tạo thành bằng vật chất (material) tinh anh hơn vật chất mà chúng ta có thể thấy và sờ được. Nó được làm bằng chất liệu (substance) hay bằng những ǵ vốn đang "đứng dưới" ("substand") hay ở dưới (underlies) mọi phần và mọi cấu tử của nhục thân. Đây là một điểm mà sau này sẽ nhận được sự chú tâm của những nhà chữa trị và những nhà y học giác ngộ trong Kỷ Nguyên Mới. Khi sự liên hệ hiện có giữa các nadis và các dây thần kinh và mối liên hệ kết hợp đối với các bí huyệt và cột xương sống được hiểu rơ, chúng ta sẽ thấy một cuộc cách mạng vĩ đại trong các phương pháp y học và tâm thần. Kinh nghiệm sẽ có khuynh hướng chứng minh rằng sự tương tác giữa cả hai – nadis và dây thần kinh – được tạo ra càng chặt chẽ, th́ sự kiềm chế bệnh tật cũng được tiến hành nhanh hơn.

197

 
6. Các nadis trong thể hồng trần tương ứng với khía cạnh sự sống hay khía cạnh tinh thần; các dây thần kinh th́ tương ứng với khía cạnh linh hồn hay khía cạnh phẩm chất. Những ǵ biểu lộ như là ngoại hiện hợp nhất của chúng là hệ thống nội tiết, vốn phù hợp với khía cạnh h́nh hài hay khía cạnh vật chất. Cả ba – nadis, hệ thần kinh và các tuyến – là các tương ứng vật chất với ba trạng thái thiêng liêng. Về mặt huyền bí, chúng đáp ứng với ba trạng thái này và chúng tạo ra những ǵ đúng y với con người trên cơi trần. Chính ba nhóm này, được chi phối (xuyên qua bảy bí huyệt như chúng ta đă thấy trước kia) bằng thể cảm dục hoặc thể trí, hay là bởi phàm ngă hợp nhất, hay là bởi linh hồn đang bắt đầu sử dụng phàm ngă như là nơi truyền đạt và chuyển hóa năng lượng, và – vào lúc kết thúc Con Đường Đệ Tử – bởi Chân Thần, xuyên qua antahkarana, sử dụng con đường được bản ngă tạo ra đó như là một vận hà trực tiếp để thông thương với bảy bí huyệt và từ đó đến ba hệ thống của nadis, thần kinh và các tuyến.

7. Ba hệ thống chính yếu này trong con người, biểu lộ qua thể xác, t́nh huống hay trạng thái phát triển của các bí huyệt. Sự sống, tính chất và năng lượng mà chúng tiêu biểu, được chuyển đến mọi phần của thể xác qua ḍng máu. Điều này, khoa học hiện đại đă đang nhận ra như một sự thực, bằng cách nói rằng ḍng máu chuyển đi một vài yếu tố đă được các tuyến phóng thích ra. Tuy nhiên, khoa học không nhận biết sự thực về mối liên hệ của các tuyến với các bí huyệt, với các hệ thống trung gian của nadis và các thần kinh. Tiến triển lớn kế tiếp trong y học sẽ là nhận ra sự thực về dĩ thái thể, chất hồng trần đang ẩn dưới vật chất trọng trược.

198

 
8. Khi các bí huyệt được khơi hoạt khắp thể xác, lúc bấy giờ sẽ có được một hệ thần kinh có điện thế cao đáp ứng với sự liên quan trực tiếp với năng lượng do các nadis mang lại. Kết quả của việc ấy sẽ là một hệ thống nội tiết cân bằng. Sinh lực và sự sống đang tuôn đổ qua khắp cơ thể, lúc bấy giờ, sẽ mạnh đến nỗi mà thể xác sẽ kháng lại bệnh tật một cách tự động, hoặc là nội tại, di truyền, hoặc là có nguồn gốc tập thể. Bằng các lời này, tôi diễn tả cho các bạn một sự có thể xảy ra trong tương lai, nhưng không phải xảy ra liền tức khắc. Một ngày nào đó, con người sẽ có ba hệ thống được phối hợp hoàn hảo, đáp ứng về mặt tâm linh với kiểu mẫu nội tại của các tuyến lực và các bí huyệt, và kết hợp một cách hữu thức với linh hồn, và sau đó, – xuyên qua antahkarana – với nguyên khí Sự Sống (Life principle).

9. Ngày nay, v́ có sự phát triển không đồng đều, một số bí huyệt chưa được khơi hoạt, các bí huyệt khác quá bị kích thích, và với các bí huyệt dưới cách mô quá hoạt động, tất nhiên, các bạn có nhiều vùng của thể xác nơi mà các tuyến lực (nadis) c̣n ở trạng thái phôi thai, các vùng khác nữa, nơi mà chúng được truyền năng lượng cao, nhưng ḍng lưu thông của chúng bị chận đứng lại v́ một bí huyệt nào đó dọc theo tuyến hoạt động của chúng vẫn chưa được khơi hoạt, hay là – nếu đă khơi hoạt – vẫn không phóng phát (non - radiatory). Các điều kiện không đồng đều này tạo ra các hiệu quả mạnh mẽ trên hệ thần kinh và trên các tuyến, đưa đến việc quá bị kích thích trong một số trường hợp, ở t́nh trạng dưới b́nh thường trong các trường hợp khác, thiếu sinh lực, quá hoạt động và các phản ứng ngoài ư muốn khác mà tất nhiên sẽ tạo ra bệnh tật. Các bệnh như thế, hoặc là xuất phát từ trong chính thể xác như là kết quả của các khuynh hướng có sẵn (hay tôi nên nói là có tính cách địa phương), hoặc là do di truyền, hoặc là do các tố bẩm, hiện hữu trong mô của cơ thể; hoặc là chúng hiện ra như là kết quả của sự phóng phát hay là không phóng phát của các bí huyệt, vốn đang tác động qua các nadis; chúng cũng có thể hiện ra như là kết quả của các va chạm hay là tiếp xúc bên ngoài (như là các bệnh truyền nhiễm và bệnh dịch). Do bởi thiếu phát triển của các bí huyệt của con người, nên không thể kháng lại được các chứng bệnh này.

199

 
10. Tổng kết: bệnh tật, tức sự bất lực/ khiếm khuyết của thể xác thuộc bất cứ loại nào (dĩ nhiên trừ trường hợp bệnh tật do tai nạn và đối với một số phạm vi, đối với các t́nh trạng của hành tinh, kể cả các bệnh dịch có bản chất độc hại đặc biệt mà chiến tranh thường tạo ra) và nhiều khía cạnh khác nữa của t́nh trạng sức khỏe kém cỏi có thể được truy nguyên trực tiếp đến t́nh trạng của các bí huyệt, v́ chúng xác định sự hoạt động hoặc không hoạt động của các nadis; đến phiên chúng, các nadis này tác động vào hệ thần kinh, gây cho hệ thống nội tiết cái mà chính trong con người cá biệt và ḍng máu chịu trách nhiệm cho t́nh trạng này đi tới mọi phần của cơ thể.

199

 
CÁC HIỆU QUẢ XẢY RA TRONG CÁC VÙNG ĐẶC THÙ

Bây giờ, chúng ta hăy xét một vài hiệu quả của các sự kiện nói trên và hậu quả của chúng trên các vùng mà các bí huyệt chi phối, và trong đó bệnh tật xuất hiện.

Điều rơ rệt đối với các bạn là khi năng lượng tuôn đổ qua các bí huyệt, xuyên qua các tuyến năng lượng (nadis) và các dây thần kinh, tác động mạnh mẽ vào hệ thống tuyến và ḍng máu, các vùng của cơ thể trở thành có liên quan và đáp ứng một cách thiết yếu. Dĩ nhiên, vùng này bao gồm đầu, cổ họng và thân trên. Thế là năng lượng được gởi đi, xâm nhập vào mọi phần của thể xác, đến mọi cơ quan, mọi tế bào và nguyên tử. Chính tác động của tính chất năng lượng trên cơ thể gây ra, kích thích, loại bỏ hoặc làm giảm bớt bệnh tật.

Ở đây, tôi không đề cập đến ba bệnh chính yếu có tính cách bẩm sinh (tôi tạm gọi như thế) – ung thư, giang mai và bệnh lao. Ở sau, tôi sẽ bàn đến các bệnh này, bởi v́ chúng thuộc về phạm vi hành tinh, có trong vật chất mà mọi h́nh hài được tạo thành và có trách nhiệm để tạo ra một số đông các bệnh thứ yếu mà đôi khi được nhận thấy như là sát nhập vào nhưng thường được biết không phải thế.

200

 
Các bệnh này được gọi một cách không đúng lắm là bệnh tâm thần (mental diseases) và có liên quan tới năo bộ, mà cho đến nay được hiểu rất ít. Trong căn chủng vừa rồi, căn chủng Atlantis, có rất ít bệnh tâm thần; bản chất thể trí lúc bấy giờ là yên tịnh và ít kích thích, được truyền đi qua các cơi phụ của cơi trí, xuyên qua bí huyệt đầu đến tùng quả tuyến và năo bộ. Có rất ít bệnh về mắt và không có các bệnh về mũi v́ bí huyệt ấn đường chưa được khơi hoạt và mắt thứ ba nhanh chóng trở nên không hoạt động. Bí huyệt ấn đường là cơ quan của phàm ngă hội nhập, vận cụ để điều khiển và có liên quan chặt chẽ với tuyến tùng quả và hai mắt, cũng như với tất cả các vùng trước của đầu. Vào thời Atlantis, sự hội nhập của phàm ngă không được biết đến nhiều ngoại trừ trường hợp các đệ tử và điểm đạo đồ, lúc bấy giờ luôn luôn là mục tiêu của điểm đạo đồ và dấu hiệu thành đạt của vị này là sự hội nhập ba phần này. Ngày nay, mục tiêu là tiến tới một hợp nhất c̣n cao hơn nữa – hợp nhất của linh hồn với phàm ngă. Nói theo thuật ngữ về năng lượng, điều này liên quan sự thành lập, hoạt động và sự tương tác đă được nhắc đến của các tam giác lực sau đây:

  I - 1. Linh hồn, tức con người tâm linh trên cơi riêng của nó.

        2. Phàm ngă, con người tam phân hội nhập trong ba cơi thấp.

       3. Bí huyệt đầu.

 II - 1. Bí huyệt đầu, điểm dung hợp thứ hai.

       2. Bí huyệt ấn đường, điểm dung hợp thứ nhất.

       3.  Bí huyệt trong tủy sống kéo dài, kiểm soát xương sống.

III - 1. Tuyến tùng quả, ngoại hiện của bí huyệt đầu.

       2.Tuyến yên, liên quan đến bí huyệt ấn đường.

       3. Tuyến động mạch cổ, ngoại hiện của bí huyệt đầu thứ ba.

Tất cả các bộ ba này nằm trong phạm vi của đầu, tạo ra cơ chế mà qua đó:

1. Linh hồn kiềm chế khí cụ của nó, tức phàm ngă.

2. Phàm ngă điều khiển các hoạt động của thể xác.

201

 
Cột xương sống (về mặt huyền bí là các vận hà ida, pingala và sushumna), hai mắt và toàn thể năo bộ đều dễ tiếp thu, bị kích thích bởi, hay là không tiếp thu với các năng lượng trong đầu. Trong trường hợp sau, toàn bộ khu vực ở trạng thái tĩnh, nói về mặt tinh thần, và tụ điểm của năng lượng ở nơi khác.

Sự khiếm khuyết này hay là sự kích thích, nếu thiếu quân b́nh hay nếu dùng sai, sẽ tạo ra một số loại bệnh tật rơ rệt, thường thường có bản chất sinh lư cũng như tâm lư, và trong thời Aryan của chúng ta, chúng ta sẽ thấy số bệnh thuộc năo bộ đang tăng thêm (sự mất quân b́nh trí óc thường xuyên tăng thêm), và các bệnh về mắt, cho đến khi bản chất của các bí huyệt và loại thần lực đang đến và sự điều ḥa của chúng được nhận biết và nghiên cứu một cách cẩn thận và khoa học. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ thấy khoa học về sự điều ḥa năng lượng sẽ phát triển v́ nó chi phối con người. Trong lúc này, có nhiều khó khăn khắp nơi và có nhiều bệnh tâm trí, các t́nh trạng kích thích thần kinh, điên loạn, và có lẽ ngay cả nhiều sự mất quân b́nh về tuyến thường thấy đang trên đà bành trướng. Ngày nay, ở phương Tây, người ta ít biết về các phương pháp kiềm chế hoặc chữa trị, c̣n ở phương Đông, nơi có một ít hiểu biết, lại không có thực hành do tính hờ hững hiện có ở đó.

Cột xương sống trước tiên được dự liệu làm vận hà, nhờ đó, việc truyền năng lượng của các bí huyệt và việc phân phối năng lượng cho các vùng chung quanh của cơ thể được tiến hành bởi phàm ngă hội nhập sáng suốt, hành động dưới sự điều khiển hữu thức của linh hồn. Ở đây, tôi không nói đến cấu tạo xương của cột xương sống, mà nói đến dây sống, đối phần huyền bí của nó và nói đến các thần kinh xuất phát từ xương sống. Ngày nay, không có sự kiềm chế năng lượng được sắp xếp, điều khiển về mặt huyền bí, ngoại trừ trong trường hợp những kẻ có được tâm thức của điểm đạo đồ và một vài đệ tử đă tiến hóa. Có các ức chế, tắc nghẽn, những vùng chưa được khơi hoạt, thiếu sinh khí, thiếu sự tuôn chảy thông suốt và tất nhiên là thiếu sự phát triển bên trong toàn thể con người; nếu không có quá nhiều sự kích thích, rung động quá nhanh, sự khơi hoạt quá sớm của các bí huyệt, dẫn đến việc hoạt động quá mức của các nguyên tử và các tế bào bị chi phối bởi bất cứ bí huyệt đặc biệt nào. Tất cả các t́nh trạng này cùng với nhiều t́nh trạng khác không được ghi nhận, tác động vào hệ thần kinh, điều khiển các tuyến và tạo ra khó khăn và bệnh hoạn về mặt tâm lư dưới h́nh thức này hoặc h́nh thức khác. Các bạn có sơ đồ của cột xương sống và đầu sau đây, tuy đon giản, nhưng đủ gợi ư và tượng trưng, khi nh́n cả hai theo khía cạnh của các bí huyệt và các tuyến:

202

 
 

 

 

 

 

 

 

 

 


Bí huyệt cổ họng …                       Tuyến giáp trạng

 

 

 


Bí huyệt tim …                                Tuyến ức                Tim

 

 

 


Huyệt đan điền …                          Tụy tạng

 

 

 


Bí huyệt xương cùng …                 Tuyến sinh dục

 

 

 


Bí huyệt ở chót  …                          Tuyến

xương sống                                 thượng thận

 

203

 
Các bạn nên chú ư rằng lá lách không được kể trong sơ đồ này. Chức năng của nó là một chức năng đặc biệt, vốn là bí huyệt của sinh lực liên quan với sinh lực hành tinh và bức xạ từ mặt trời. Nó không được kiểm soát bằng bất cứ cách nào từ cột xương sống. Cần phải nhớ rằng sơ đồ này chỉ là một cố gắng để liên kết cách diễn tả các bí huyệt bằng h́nh ảnh, các tuyến mà chúng chi phối và các cơ quan đang chịu ảnh hưởng của cả hai. Không có dụng tâm tạo một h́nh ảnh xác thực của bất luận các liên hệ sinh lư của cơ quan nào.

Bí huyệt ở chót xương sống có một chức năng duy nhất. Chính là với chất liệu của cơ thể, với mô vật chất và với mọi chất liệu không bao hàm trong các cơ quan đă được nói đến ở trên, cội nguồn của sự sống. Trong con người hoàn thiện, hai bí huyệt (bí huyệt cao nhất ở đầu và bí huyệt căn bản) tượng trưng cho lưỡng nguyên vĩ đại là tinh thần và vật chất, và bấy giờ, chúng kiềm chế và chi phối, trong trạng thái ḥa hợp hoàn hảo, toàn bộ chiều hướng của hiện thể của linh hồn. Sau rốt, bạn sẽ có trạng thái tinh thần của chính biểu lộ của con người một cách hoàn hảo qua Chân Thần và phàm ngă kết hợp (xảy ra bằng một sự phối hợp chủ yếu lớn lao thứ ba). Lúc bấy giờ, con người vật chất đáp ứng với cả hai xuyên qua bí huyệt đầu (Chân Thần) và bí huyệt căn bản (phàm ngă được tinh thần truyền năng lượng). Cả hai bí huyệt này bây giờ sẽ được liên giao hoàn toàn, biểu lộ bản chất đầy đủ của Chân Nhân.

204

 
Điều chủ yếu là những nhà chữa trị tâm linh nên có một cách rơ ràng trong trí họ h́nh ảnh của các khu vực trong cơ thể vốn được chi phối bởi bí huyệt đầu và các bí huyệt khác, bởi v́ bên trong các vùng này là các cơ quan khác nhau, chúng phản ứng lại với bệnh. Sự khỏe mạnh của các cơ quan này phần lớn tùy thuộc vào các bí huyệt v́ chúng chi phối các tuyến và v́ năng lượng được phân phối khắp cơ thể. Một ḍng năng lượng đầy đủ và quân b́nh từ bí huyệt vào vùng mà nó kiểm soát, đưa đến sự đối kháng thường được gọi là bệnh tật; nơi nào thiếu sự phát triển và có t́nh trạng thiếu quân b́nh, nơi nào mà các bí huyệt có liên quan đến, nơi đó sẽ không có sức mạnh đối kháng. Tiến tŕnh chữa trị trong Kỷ Nguyên Mới sẽ khởi đầu bằng công tác được hoạch định một cách rơ rệt với các bí huyệt, và khuynh hướng tổng quát của thuật chữa trị lúc bấy giờ sẽ là – như bạn có thể thấy một cách dễ dàng – pḥng bệnh một cách tự nhiên hơn là chữa bệnh. Toàn bộ tầm quan trọng sẽ ở trên các bí huyệt mang năng lượng, các luồng năng lượng và phương hướng của năng lượng đối với các cơ quan trong phạm vi ảnh hưởng của bất luận bí huyệt đặc biệt nào. Do nghiên cứu các tuyến (một nghiên cứu nhiều vào thời kỳ trứng nước của nó, cho rằng nó khó xứng đáng với từ ngữ "c̣n phôi thai") nhiều điều sẽ được biết rơ về sau này về tương quan của chúng đối với các bí huyệt và nhiều công tác thực nghiệm sẽ được thi hành. Theo quan điểm của nhà huyền bí học – kẻ đă thừa nhận sự thực về các bí huyệt – th́ các tuyến vượt trội nhất, là nhân tố quyết định chính liên quan tới sức khỏe tổng quát của một cá nhân; không những chúng báo hiệu sự phát triển tâm lư c̣n hơn là ngày nay người ta hiểu, mà chúng c̣n có (v́ c̣n bị y khoa khoa chính thống nghi ngờ) một hiệu quả mạnh mẽ nhất trên toàn bộ hệ thống cơ quan; ảnh hưởng của chúng, xuyên qua ḍng máu, đi đến mọi phần của cơ thể và đến tứ chi. Các tuyến là kết quả của hoạt động của các bí huyệt; chúng là kết quả của các nguyên nhân được sắp xếp bên trong vào lúc đầu, lúc cuối và mọi lúc, và chính là nhờ các bí huyệt và các tuyến liên hệ của chúng mà linh hồn tạo được bộ máy trên cơi trần mà chúng ta gọi là con người hồng trần.

205

 
Do đó, nhóm các yếu tố liên hệ mà chúng ta bàn đến, phải được nghiên cứu cẩn thận và phải được bất luận nhà chữa trị thực hành nào hiểu rơ, v́ sau rốt, y sẽ phải hoạt động qua chính các bí huyệt của y trong mối liên quan với bệnh nhân mà y đang nỗ lực chữa trị. Tất nhiên, y phải nhớ ba yếu tố: các bí huyệt, các tuyến liên hệ và nhóm các cơ quan nhờ đó hai phần này chịu trách nhiệm. Trong bảy vùng của cơ thể, chúng ta bị chi phối bởi bảy bí huyệt chính các tuyến liên hệ của chúng, bộ ba căn bản của biểu lộ lại xuất hiện:

1. Sự sống hay tinh thần …… trung tâm năng lượng

2. Linh hồn hay phẩm tính … tuyến

3. Sắc tướng hay vật chất … các cơ quan trong bất cứ vùng đặc biệt nào bị bất luận bí huyệt nào chi phối.

Điều này đưa chúng ta đến một định luật khác mà nhà chữa trị phải luôn luôn ghi nhớ:

ĐỊNH LUẬT  VII

Khi sự sống hay năng lượng tuôn chảy không bị ngăn trở và qua đúng hướng đến chỗ phóng hiện của nó (tuyến liên hệ), lúc bấy giờ h́nh hài đáp ứng và sức khỏe kém cỏi liền tan biến.

Đây là một định luật chữa trị căn bản và có liên quan tới sự khéo léo thực sự để liên kết năng lượng tinh thần với sự sống sắc tướng, và sức khỏe cùng với sinh lực của các cơ quan tùy thuộc vào đó. Do đó, chúng ta đi đến qui luật kế tiếp mà nhà trị liệu phải quán triệt. Điều này được diễn tả một cách rơ rệt và các nhóm từ dùng để truyền đạt giáo huấn phải được hiểu rơ và áp dụng một cách sáng suốt.

QUI LUẬT NĂM

Nhà trị liệu hăy tập trung năng lượng cần thiết bên trong bí huyệt cần thiết.

Hăy để cho bí huyệt đó phù hợp với bí huyệt cần thiết.

Hăy để cho cả hai ăn khớp nhau và cùng tăng thêm sức mạnh.

Như thế, h́nh hài đang chờ đợi sẽ được thăng bằng trong công việc của nó.

Như thế cái thứ hai và cái thứ nhất ở đúng hướng, sẽ có tác dụng chữa trị.

206

 
Do đó, điều hiển nhiên đối với bạn là các nhà trị liệu hiện nay (ở đây tôi không nhắc đến giới y khoa mà nói đến số lớn trong nhiều trường phái tư tưởng) tuy vậy, không trở lại với yếu tố căn bản, mặc dù mọi cuộc nói chuyện của họ liên quan đến t́nh thương vốn là mănh lực chữa trị. Trong thực tế, chúng được nhấn mạnh và liên hệ đến động lực đang thúc đẩy nhà chữa trị vận dụng thuật chữa trị của ḿnh. Chúng có liên quan đến phương tiện mà nhờ đó có thể tiếp xúc với bệnh nhân cần được chữa trị. Tiếp xúc đó lúc nào cũng phải được thiết lập dựa trên Ḷng Bác Ái – có tính cách mới mẻ, thúc ép và vô kỷ. Nhưng một khi mối liên hệ đó được thiết lập, nhà chữa trị phải hiểu rơ sự kiện là, bao lâu mà y c̣n liên hệ đến, y phải làm việc một cách khoa học; y phải áp dụng sự hiểu biết, và – sau khi chẩn đoán đúng, sau các phương pháp chữa trị hiện đại đúng đắn, sau lương tri đúng, nó bao hàm cái tốt nhất mà y học đă được thử thách có thể mang lại – lúc bấy giờ, y phải bắt đầu hành động qua bí huyệt của riêng y, để cho nó tiếp xúc với bí huyệt trong người bệnh đang chi phối vùng suy yếu hay là cơ quan bị bệnh.

Khi y làm như thế, năng lượng mà ư định bác ái và sự hiểu biết khéo léo đă được rút ra và mang lại, th́ không được phép (trong tiến tŕnh chữa trị) để kích thích hay ảnh hưởng đến các tuyến liên hệ của chính người chữa trị, hoặc tạo ra tác động trong vùng liên hệ của thể xác riêng y. Nhà chữa trị phải biết cách ly chính ḿnh với năng lượng phải được dùng nhân danh người bệnh. Y phối hợp nó với năng lượng của bí huyệt bệnh nhân đang chi phối vùng bị bệnh; tuyến có liên kết bây giờ được mang lại năng lượng gấp đôi (hoặc giảm bớt khi có thể và tùy sự chẩn đoán) và ḍng máu phóng rải vào mô bị bệnh những ǵ cần để chữa trị hay là ngăn ngừa sự tăng trưởng của bệnh.

207

 
Trong phần giáo huấn này, tôi đă đưa ra cho bạn nhiều điều cần suy gẫm. Tôi đă nhấn mạnh một khía cạnh của khoa chữa trị theo huyền môn mà trước kia chưa được sự chú ư của các nhà nghiên cứu. Tôi muốn các bạn hiểu được bức họa tổng quát và có được các nét diễn tiến rơ rệt; tôi muốn giúp bạn nghiên cứu sự liên hệ giữa nhà chữa trị và bệnh nhân khi y vượt ra khỏi giai đoạn chỉ yêu thương và đưa ra t́nh thương hay là ra khỏi việc nh́n thấy bệnh nhân dưới ánh sáng của t́nh thương, và nối tiếp công tác khoa học để tăng thêm năng lượng tinh thần của chính bệnh nhân. Như vậy, người bệnh giúp cho y thực hiện cách chữa trị riêng của ḿnh một cách hữu ư hay vô tâm.

Do đó, bạn sẽ có nhà chữa trị, bệnh nhân và nơi chứa năng lượng tinh thần, cộng với tiến tŕnh khoa học để đem cả ba vào một liên hệ chữa trị chặt chẽ. Điều này được tạo ra xuyên qua bí huyệt liên hệ trong vận cụ của bệnh nhân, bí huyệt tương ứng trong vận cụ của nhà chữa trị, và chiều hướng (bằng một tác động của ư chí nhà chữa trị hoặc của nhóm chữa trị) của các ḍng kết hợp của năng lượng đặc thù cần có đối với vùng bị bệnh. Điều này thường được tạo ra xuyên qua tuyến liên hệ, dù không phải luôn luôn như thế.

Hăy suy tưởng về các điều này và xem xét, nếu có thể, sự đơn giản của tiến tŕnh được dựa trên ư định bác ái, nó cách ly vùng đặc biệt trong đó bệnh tật đang xảy ra, nó tự đồng hóa với trung tâm năng lượng tinh thần trong người bệnh, và lúc bấy giờ áp đặt và điều khiển các năng lượng đă được phối hợp và ḥa lẫn.

CÁC HIỆU QUẢ CỦA VIỆC KÉM KÍCH THÍCH

VÀ QUÁ KÍCH THÍCH CỦA CÁC BÍ HUYỆT

208

 
Thỉnh thoảng, chúng ta đă khảo sát các bí huyệt và liên quan giữa chúng với nhục thể. Chúng ta cũng đă ghi nhận các vùng vốn bị chi phối bởi các bí huyệt này và công việc trung gian của các tuyến nội tiết. Chúng ta đă thấy rằng hai nguyên nhân chính mở đường cho bệnh thể xác, xuất phát từ bên trong cơ cấu vật chất, ít chịu kích thích hay là quá kích thích của các bí huyệt. Như các bạn nhớ lại, cũng có ba loại bệnh vốn có sẵn trong chính vật chất, và do đó tạo ra thiên hướng căn bản bên trong cơ thể con người: ung thư, giang mai và lao. Vào lúc này, chúng ta không bàn đến ba loại bệnh này. Nhưng về mặt căn bản, t́nh trạng các bí huyệt tạo ra mọi khó khăn, cho phép thâm nhập vào các lây nhiễm và các mầm bệnh vốn có thể không gây bệnh trong trường hợp khác, tạo ra các t́nh huống mà các bệnh tật có sẵn trong phàm nhân có thể được thúc đẩy, và làm cho các khuynh hướng bất đắc dĩ trở thành mạnh mẽ. Tất nhiên, chúng ta có thể đưa ra tiền đề (điều mà giới y học sau này sẽ chấp nhận một cách toàn bộ) rằng bệnh tật vốn tự sinh ra (tôi tạm dùng một nhóm từ kỳ lạ và không thích hợp như thế) và vốn không phải là kết quả của sự lây nhiễm hay của các tai nạn, được tạo ra do sự thất bại, sự giới hạn, sự khiếm khuyết hoặc sự quá trớn và bởi sự quá phát triển hay là kém phát triển của hệ thống tuyến nội tiết. Hệ thống nội tiết này, xuyên qua các kích thích tố, tác động vào mọi phần của cơ quan vật chất xuyên qua ḍng máu – và do đó, có thể được cho là đúng khi các tuyến nội tiết hoàn toàn được thăng bằng và tác động một cách chính xác, sẽ không có nơi nào bị bệnh trong cơ thể. Ḍng máu, lúc bấy giờ cũng sẽ được giữ trong một t́nh trạng hoàn hảo. Manh mối để có được sức khỏe thể chất hoàn hảo như đă được một Thánh sư minh triết diễn tả, tất nhiên có thể được truy nguyên trực tiếp đến việc kiểm soát đầy đủ các bí huyệt của Ngài đối với trạng thái thăng bằng của việc tiếp nhận và phân phối năng lượng, và đến kết quả mà chúng tạo ra trên toàn bộ hệ thống tuyến nội tiết. Bằng cách này, mọi vùng của cơ thể được cung cấp một cách thích hợp bằng các thần lực cần thiết, và như vậy được giữ ở t́nh trạng hoàn hảo.

Tiến đến nửa đường giữa các bí huyệt với các tuyến nội tiết tương ứng và tác động như là tác nhân phân phối năng lượng, là hệ thần kinh. Tuy nhiên ở đây cũng thường gặp khó khăn. Đó là thiếu luồng năng lượng thích hợp; năng lượng được phân phối bằng các phương tiện của nó đến cơ thể xuyên qua các bí huyệt được phân phối không đồng đều; một số bí huyệt được cung ứng quá mức, các bí huyệt khác nhận một số lượng không thích hợp; một vài bí huyệt vẫn chưa được khơi hoạt, và do đó, không có tính tiếp nhận; các bí huyệt khác nữa phát triển sớm và chuyển quá nhiều thần lực vào các vùng mà chúng chi phối. Theo y học huyền bí và theo sự diễn dịch có tính triết lư của nó (cuối cùng chỉ là áp dụng có hiệu quả và thực tiễn về các sự kiện đă biết) chính trạng thái năo tủy đang điều khiển và chi phối toàn bộ hệ thần kinh, v́ chính nhờ trạng thái này và qua lực gây tác động của nó mà các bí huyệt hoạt động và có ảnh hưởng đến bộ máy của xác thân, cung cấp cho cơ thể sinh năng cần thiết; như vậy, sau rốt thông qua 7 bí huyệt, hệ thần kinh trở nên đáp ứng với 7 năng lượng chính hay là thần lực của 7 cung.

209

 
Không ở trong một người nào, ngoại trừ một Thánh Sư, mà tất cả các bí huyệt được khơi hoạt thích đáng và hoạt động một cách thăng bằng, chúng cũng không được liên kết một cách thích đáng nhờ bức xạ mạnh mẽ; không ở trong một người nào mà hệ thần kinh đáp ứng một cách chính xác với các bí huyệt. Có hai lư do về việc này, cả hai đều có liên quan tới hệ năo tủy:

1. Bí huyệt đầu chưa được khơi hoạt hay là chỉ phát triển một cách chậm chạp, khi đệ tử tự đặt ḿnh vào việc tập luyện.

2. Luồng năng lượng thông qua đầu đến các bí huyệt trên xương sống vốn không đồng đều, do sự kiện là ḍng năng lượng đi vào không đồng đều, và rằng do mạng lưới dĩ thái – giữa các bí huyệt – cho đến nay chỉ cho phép rất ít năng lượng tuôn chảy qua tất cả các huyệt.

Cần nên nhớ rằng, trong giai đoạn mở đầu, sự sống của các bí huyệt được tạo ra trên sự sống vốn có của chính các cơ quan, với sự tập trung sự sống phát tán ra để được thành lập trong bí huyệt ở chót xương sống. Đây là một điểm thường hay bị các nhà thần bí học bỏ quên. Bí huyệt căn bản này là bí huyệt mà qua đó sự sống của chính vật chất tác động; đây là sự sống hay năng lượng của Ngôi Thánh thần, tức Ngôi Ba. Nhờ chính sự sống đó mà mỗi nguyên tử trong cơ thể được nuôi dưỡng. Diễn tŕnh làm linh hoạt vật chất này của sắc tướng cơi trần được khởi đầu trong thời kỳ tiền sinh. C̣n sau khi sinh, loại thần lực này được trợ giúp và được đi song song bởi luồng prana hành tinh đi vào hay là sinh năng (vital energy) từ chính sự sống hành tinh, xuyên qua lá lách. Đây là cơ quan liên kết chính yếu giữa sự sống có sẵn của chính vật chất, khi hiện hữu trong tiểu thiên địa và sự sống có sẵn trong hành tinh.

210

 
Khi sự tiến hóa tiếp diễn, dần dần có thêm vào thần lực cố hữu này một ḍng năng lượng "đủ phẩm chất" ("qualified") chảy vào, vốn là biểu lộ của trạng thái tâm thức của thiên tính, và nêu ra cho nhà thần bí học trạng thái ư thức của con người và cũng là loại cung của linh hồn y. Ḍng thần lực chảy vào này xuất phát từ Ngôi Hai thiêng liêng, từ linh hồn hay Đức Christ nội tâm. Do đó có thể phát biểu liên quan tới hai bí huyệt ở đầu như sau:

1. Bí huyệt ấn đường hay bí huyệt phàm ngă, tập trung giữa hai chân mày và chi phối tuyến yên, có liên hệ với toàn bộ sự sống của cơ cấu tam phân hội nhập. Qua cơ cấu này, tâm thức tất phải tự biểu lộ và các thể xác, thể t́nh cảm và thể trí biểu lộ tŕnh độ tiến hóa của nó.

2. Bí huyệt đầu (trong triết lư Ấn giáo gọi là hoa sen ngàn cánh) chi phối tuyến tùng quả và liên kết với sự sống của linh hồn, và – sau kỳ điểm đạo thứ ba – liên kết với sự sống của Chân Thần; nó truyền đến các bí huyệt năng lượng của ba loại thực thể tinh thần chủ yếu mà ba thần lực của phàm ngă là các phản ánh hay đối phần hồng trần của nó.

211

 
Sau này, năng lượng từ trạng thái tinh thần, tức Ngôi Một hay Ngôi Cha, sẽ trở nên hữu dụng và sẽ tuôn đổ xuống qua bí huyệt đầu đến bí huyệt ấn đường, phối hợp năng lượng của phàm ngă với năng lượng của linh hồn. Kế đó bằng một tác động của ư chí, nó được hướng xuống cột xương sống, xuyên qua bí huyệt hành tủy, bí huyệt này đang chi phối tuyến động mạch cổ. Khi nó chuyển xuống cột xương sống, nó đem lại sinh khí cho hai trạng thái của các bí huyệt; khi nó đi đến bí huyệt căn bản, nó phối hợp với năng l