TRỊ LIỆU THEO HUYỀN MÔN
(ESOTERIC HEALING)
QUYỂN IV
TRONG BỘ
LUẬN VỀ BẢY CUNG
(A TREATISE ON THE SEVEN RAYS)
ALICE A. BAILEY
LUCIS PUBLISHING COMPANY
NEW YORK
LUCIS PRESS LTD
London
MMX
MỤC LỤC
Trang (Anh ngữ)
Các Nhận Xét Dẫn Nhập.... 1
PHẦN MỘT
Các Nguyên Nhân Căn Bản Của Bệnh Tật 9
Chương I .- Các Nguyên Nhân Tâm Lư Của Bệnh Tật........................................... 24
1. Các Nguyên Nhân Xuất Phát Trong Bản Chất Cảm Dục................................ 33
A. Xúc Cảm Thiếu Kiểm Soát Và Bất Thường 38
B. Dục Vọng, Bị Ức Chế Hay Phóng Túng 53
C. Các Bệnh Tật Do Lo Âu Và Bực Bội 67
2. Các Nguyên Nhân Xuất Phát Từ Thể Dĩ Thái 71
A. Sự Bế Tắc ................... 76
B. Thiếu Sự Điều Hợp Và Phối Kết 79
C. Các Bí Huyệt Bị Kích Thích Quá Độ 80
3. Các Nguyên Nhân Xuất Phát Trong Thể Trí 88
A. Các Thái Độ Trí Tuệ Sai Lầm 89
B. Sư Cuồng Tín Trong Trí Tuệ
Sự Thống Trị Của Các H́nh Tư Tưởng 91
C. Chủ Nghĩa Lư Tưởng Bất Như Ư 95
Nghệ Thuật Chữa Trị Thiêng Liêng 99
Các Qui Luật Mở Đầu Cho Việc Xạ Trị 103
Ba Định Luật Chính Về Sức Khỏe 105
Tổng Kết Các Nguyên Nhân Của Bệnh Tật ................................................. 112
4. Các Bệnh Do Cuộc Đời Của Người Đệ Tử 114
A. Các Bệnh Của Nhà Thần Bí 115
B. Các Bệnh Của Người Đệ Tử 120
Các Bí Huyệt Và Hệ Thống Tuyến 140
Bảy Bí Huyệt Chính ... 144
Cơ Thể - Sắc Tướng Cơi Hiện Tượng 163
Bảy Bí Huyệt Chính (Tiếp Theo) 168
Thể Dĩ Thái, Hệ Thần Kinh Và Hệ Nội Tiết, Các Hiệu Quả
Tạo Ra Trong Các Vùng Đặc Biệt 199
Các Hiệu Quả Kém Kích Thích Và Quá Kích Thích Của
Các Bí Huyệt ........................ 207
Chương II .- Nguyên Nhân Xuất Phát Từ Cuộc Sống Tập Thể ....................... 221
1. Bệnh Của Nhân Loại, Kế Thừa Từ Quá Khứ ................................................. 226
A. Bệnh Hoa Liễu Và Bệnh Giang Mai 228
B. Bệnh Lao ..................... 232
C. Bệnh Ung Thư .......... 237
2. Bệnh Nảy Sinh Do T́nh Trạng Che Lấp Hành Tinh ....................................... 242
3. Bệnh Do Chủng Tộc Và Quốc Gia 249
Chương III .- Trách Nhiệm Nghiệp Quả Chúng Ta................................................. 259
1. Trách Nhiệm Nghiệp Quả Của Cá Nhân 289
2. Các Nguyên Nhân Nghiệp Quả Thuộc Bảy Cung................................................. 292
Chương IV.- Một Vài Vấn Đáp 306
PHẦN HAI
Các Đ̣i Hỏi Căn Bản Cần Cho Việc Chữa Trị 380
Chương V .- Tiến Tŕnh Phục Hồi 424
1. Bản Chất Sự Chết .......... 437
Nỗi Sợ Chết ..................... 440
Định Nghĩa Sự Chết ....... 442
Mục Đích Sự Chết .......... 445
Thuật Từ Trần .................. 453
2. Tác Động Phục Hồi ......... 460
Yếu Tố Chống Lại Linh Hồn Triệt Thoái 464
Hai Lư Do Chính Cho Việc Hỏa Táng 470
Tŕnh Tự Sự Việc Lúc Từ Trần 472
3. Hai Vấn Đề Trọng Đại ... 478
Chương VI .- Thuật Thải Hồi 486
Các Hoạt Động Ngay Sau Khi Từ Trần 490
Kinh Nghiệm Devachan 496
Mười Định Luật Chữa Trị 499
Chương VII .- Tiến Tŕnh Hội Nhập 505
Ư Nghĩa Của Hội Nhập . 508
Trạng Thái Trí Tuệ Của Linh Hồn 510
Thải Hồi H́nh Tư Tưởng Của Phàm Ngă 515
PHẦN BA
Các Định Luật Chữa Trị Căn Bản 521
Chương VIII .- Liệt Kê Và Áp Dụng Các Định Luật Và Qui Tắc............................. 532
Định Luật I .......................... 538
Định Luật II ....................... 543
Qui Tắc Một ...................... 550
Định Luật III ...................... 558
Định Luật IV ....................... 564
Qui Tắc Hai ....................... 577
Định Luật V ........................ 582
Qui Tắc Ba ......................... 602
Định Luật VI ...................... 607
Định Luật VII .................... 614
Qui Tắc Bốn ...................... 630
Định Luật VIII ................... 633
Qui Tắc Năm ..................... 642
Định Luật IX ....................... 660
Qui Tắc Sáu ........................ 672
Định Luật X ....................... 678
Chương IX .- Bảy Cách Chữa Trị 693
Các Năng Lượng Thuộc Bảy Cung 695
Cung Của Nhà Chữa Trị Và Của Bệnh Nhân 698
Bảy Phương Pháp Chữa Trị 705
Mục Lục ................................ 712
Đại Khấn Nguyện
Từ điểm Linh Quang trong Thiên Trí
Cầu xin ánh sáng tràn ngập trí người
Cầu xin Linh Quang giáng xuống Dương Trần
Từ điểm Bác Ái trong Thiên Tâm
Cầu xin bác ái tràn ngập tâm người
Mong sao Đấng Christ trở lại Trần Gian
Từ trung tâm mà Thiên Ư được thấu triệt
Mong cho Thiên Ư dẫn dắt tiểu chí con người
Thiên Ư mà Chân Sư biết rơ và phụng hành.
Từ trung tâm chúng ta gọi là nhân loại
Cầu xin Thiên Cơ, Bác Ái và Linh Quang khởi động
Mong cho Thiên Cơ đóng kín tà môn
Cầu xin Linh Quang, Bác Ái và Quyền Năng
phục hồi Thiên Cơ ở chốn Trần Hoàn
Khấn nguyện trên không thuộc về bất cứ người nào hoặc nhóm nào, mà thuộc về tất cả nhân loại. Vẻ đẹp và sức mạnh của Bài Khấn Nguyện này nằm trong tính chất giản dị của nó, và trong việc nó biểu lộ một vài chân lư trụ cột mà tất cả mọi người, theo lẽ tự nhiên và b́nh thường đều chấp nhận – chân lư về sự hiện hữu của một Đấng Thông Tuệ cơ bản, Đấng mà chúng ta gán cho danh xưng một cách mơ hồ là Thượng Đế (God). Chân lư này chủ trương rằng đàng sau mọi vẻ bên ngoài, có một mănh lực thúc đẩy của vũ trụ là T́nh Thương; chân lư này cho rằng có một Đấng Cao Cả đă đến cơi trần mà người theo Thiên Chúa giáo gọi là Đấng Christ, và là hiện thân của t́nh thương đó để cho chúng ta có thể hiểu được; chân lư đó cho rằng cả t́nh thương lẫn sự thông tuệ đều là các thành quả của Thiên Ư; và sau rốt, cái chân lư tự nó hiển nhiên cho rằng chỉ do chính nhân loại mà Thiên Cơ mới có thể được khởi động”.
Alice A. Bailey
Trích lời phát biểu của Chân Sư Tây Tạng
Xuất bản vào tháng 8 – 1934
Nói rằng tôi là một đệ tử người Tây Tạng thuộc một tŕnh độ nào đó th́ cũng đúng, tuy nhiên, nếu tôi nói thế th́ các bạn chẳng hiểu được bao nhiêu, bởi v́ tất cả đều là các đệ tử, từ người t́m đạo khiêm tốn nhất trở lên cho đến chính Đức Christ và các Đấng Cao Cả hơn Ngài. Tôi khoác một thân xác hồng trần giống như mọi người, và sống trên vùng biên giới Tây Tạng. Nói theo quan điểm ngoại môn th́ thỉnh thoảng tôi có điều khiển một nhóm nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng, khi các bổn phận khác của tôi được rảnh rỗi. Chính v́ thế mà người ta mới nói rằng tôi là một tu viện trưởng của Tu viện Lạt Ma giáo đặc biệt đó. Tất cả những người đệ tử chân chính đều tham gia trong công tác của Thánh Đoàn, và những người nào kết hợp với tôi trong công tác này đều biết tôi dưới một danh xưng và một chức vụ khác. A. A. B. biết tôi là ai và biết đến hai danh xưng của tôi.
Tôi là một huynh đệ của các bạn, là người đă đi hơi xa trên Thánh Đạo hơn một đạo sinh b́nh thường, và do đó phải gánh vác các trách nhiệm nặng nề hơn. Tôi là kẻ đă chiến đấu và phấn đấu để vươn lên một mức độ giác ngộ, cao hơn mức của người t́m đạo đang đọc tác phẩm này. Do đó, tôi phải làm người truyền đạt ánh sáng với bất cứ giá nào. Tôi không phải là một người luống tuổi như số tuổi mà người ta cho là phải có trong các Chân Sư, tuy nhiên, tôi không non nớt hay thiếu kinh nghiệm. Công tác của tôi là dạy dỗ và truyền bá tri thức về Minh Triết vĩnh cửu ở bất cứ nơi nào có sự đáp ứng, và tôi đă làm việc này trong nhiều năm qua. Khi nào có dịp, tôi cũng t́m cách giúp Chân Sư M. và Chân Sư K.H. v́ từ lâu tôi đă thân cận với các Ngài và liên kết với công việc của các Ngài. Nói tất cả những điều trên đây là tôi đă nói nhiều với các bạn rồi. Tuy nhiên, đồng thời tôi không nói với bạn điều ǵ khiến bạn phải tuân theo tôi một cách mù quáng, và có sự tôn sùng dại dột mà kẻ t́m đạo nhiều xúc cảm đem hiến dâng cho vị Đạo Sư và Chân Sư, là Đấng mà y chưa thể tiếp xúc được. Ngày nào y chưa biến đổi được sự tôn sùng bằng t́nh cảm thành việc phụng sự vô kỷ cho nhân loại – chớ không phải cho Chân Sư – th́ ngày đó, y vẫn chưa có được sự giao tiếp tốt đẹp nói trên.
Các sách mà tôi viết, được đưa ra, nhưng không đ̣i hỏi các bạn phải chấp nhận, chúng có thể đúng hoặc không đúng, thực hay không thực và hữu ích hay vô ích. Tôi để cho các bạn xác nhận chân lư của chúng bằng cách thực hành đúng đắn và bằng cách vận dụng trực giác. Cả tôi lẫn A.A.B. đều không hề quan tâm chút nào đến việc xem chúng là các tác phẩm được truyền linh hứng, hoặc lời đồn đại rằng đó là những tác phẩm của một trong các Chân Sư. Nếu các sách này tŕnh bày Chân lư đúng tŕnh tự, kế tiếp theo những chân lư đă được đưa ra trong việc giáo huấn thế gian, nếu những huấn điều trong đó có thể nâng cao đạo tâm và ư chí phụng sự, từ cơi t́nh cảm đến cơi trí (là cơi làm việc của các Chân Sư) th́ các sách này đă đạt được mục đích. Nếu giáo huấn trong sách có thể gợi được sự đáp ứng nơi thể trí đă khai ngộ của người phụng sự ở thế gian, và giúp cho trực giác y lóe sáng, th́ lúc bấy giờ, y mới nên chấp nhận giáo huấn đó. Ngoài ra, không c̣n cách nào khác. Nếu các phát biểu này vẫn đúng khi được chứng minh đến mức rốt ráo, hay tỏ ra là đúng khi được trắc nghiệm bằng Định Luật Tương Ứng, th́ bấy giờ, chúng mới quả là tốt đẹp. Nếu không được như thế th́ đạo sinh đừng nên chấp nhận các điều ấy làm chi.
1
CÁC NHẬN XÉT DẪN NHẬP
(INTRODUCTORY REMARKS)
Toàn bộ chủ đề trị liệu đă có từ thời xa xưa, và bao giờ cũng là chủ đề khảo cứu và thực nghiệm. Tuy nhiên, đối với việc vận dụng đúng mănh lực và khả năng chữa trị, th́ sự hiểu biết c̣n ở giai đoạn phôi thai; sau rốt, chỉ măi đến thời đại và thế hệ này, mới có thể truyền đạt các định luật chữa trị bằng từ lực, và nêu ra các nguyên nhân của bệnh tật – xuất phát từ ba nội thể – hiện đang tàn phá cơ thể con người, gây ra đau khổ bất tận và báo trước cho con người vượt qua cổng dẫn đến thế giới có sự sống vô h́nh. Chỉ đến ngày hôm nay con người mới ở mức tiến hóa tâm thức mà con người có thể bắt đầu nhận thức được sức mạnh của các thế giới nội tâm, và môn tâm lư học mới mẻ và rộng lớn là câu trả lời của con người cho sự quan tâm ngày càng tăng này. Các tiến tŕnh hiệu chỉnh, thải hồi và chữa trị đang thu hút tâm trí của tất cả những người biết suy tư, cũng như của tất cả những ai đang đau khổ. Chúng ta có nhiều điều phải làm và do đó mà về phần các bạn, tôi đ̣i hỏi nên kiên nhẫn.
Khi tiến vào lănh vực chữa trị, tức là người ta tiến vào một thế giới có nhiều hiểu biết huyền bí và có vô số kết luận, và người ta đối diện với các trần thuyết của các bậc tài trí, qua các thời đại, những vị này đă t́m cách chữa trị và trợ giúp. Biết bao lư do của bệnh tật đă là đề tài nghiên cứu và suy đoán bất tận, và nhiều suy diễn rơ rệt đă được đưa ra về việc chữa trị các bệnh đó. Cũng có nhiều đề xuất về các phương pháp, các kỹ thuật, công thức, phương thuốc, nhưng cách vận dụng khác nhau và nhiều lư thuyết. Tất cả những thứ đó đă làm cho trí óc đầy ắp các ư kiến – một số đúng, một số sai – khiến cho trí rất khó thu nạp các ư tưởng mới và khiến cho nhà nghiên cứu khó đồng hóa những ǵ mà từ trước đến giờ chưa biết tới.
2
Những
người t́m ṭi đă bị thiệt tḥi rất
nhiều khi không chịu buông bỏ những ǵ mà hạ trí
ưa thích. Khi họ thực sự thành công trong việc
hoàn toàn mở trí và sẵn sàng chấp nhận các lư
thuyết và giả thuyết mới, th́ họ mới khám
phá ra rằng các chân lư cổ xưa được
thiết tha ǵn giữ, thực ra vẫn không mất đi,
mà chỉ chuyển xuống vị trí đúng của nó trong
một hệ thống rộng lớn hơn.
Tất cả các vị điểm đạo đồ của Minh Triết Vô Thủy đều đương nhiên là những nhà trị liệu, mặc dù không phải tất cả đều có thể chữa trị thể xác. Lư do là v́ tất cả các linh hồn nào đă đạt được bất cứ mức độ khai phóng thực sự nào đó, cũng đều là kẻ truyền đạt năng lượng tinh thần. Điều này đương nhiên tác động đến trạng thái nào đó của cơ thể vốn được dùng bởi các linh hồn mà họ tiếp xúc. Trong các giáo huấn này, khi tôi dùng từ ngữ “cơ cấu” (“mechanism”) tức là tôi đề cập đến các trạng thái khác nhau của khí cụ – tức là cơ thể hay bản chất h́nh hài – mà mọi linh hồn đều t́m cách biểu lộ qua đó. Do đó, tôi nói đến:
1. Nhục thân là toàn bộ các cơ quan tạo thành nó; các cơ quan này có các chức năng khác nhau, giúp cho linh hồn tự biểu lộ trên cơi trần hay cơi bên ngoài, như là một thành phần của một cơ quan lớn hơn, và bao gồm nhiều hơn. Thể xác là bộ máy đáp ứng của con người tâm linh bên trong và giúp cho thực thể tâm linh đó giao tiếp với bộ máy đáp ứng của Hành Tinh Thượng Đế, là Đấng mà ta sống, hoạt động và hiện tồn trong Ngài.
3
2. Thể
dĩ thái ([1])
có mục tiêu chính yếu duy nhất là làm sinh động và
tiếp sinh lực cho nhục thân, và nhờ đó mà
kết hợp nó vào thể năng lượng của
Địa Cầu và của Thái dương hệ. Đó là
một mạng lưới với các ḍng năng
lượng, các tuyến lực và ánh sáng. Nó tạo thành
một phần của hệ thống lưới năng
lượng rộng lớn đang ẩn dưới một
h́nh hài dù lớn hay nhỏ (tiểu thiên địa hoặc
đại thiên địa). Dọc theo các tuyến năng
lượng này, có các vũ trụ lực tuôn chảy,
giống như máu chảy qua các tĩnh mạch và
động mạch. Việc luân lưu liên miên, cá biệt
luôn luôn – trong con người, trong hành tinh và trong thái
dương hệ – của sinh lực qua các thể dĩ
thái của mọi h́nh hài, là nền tảng của mọi
sự sống biểu lộ, và là biểu hiện của
tính bất phân ly chính yếu của mọi sự sống.
3. Thể cảm dục (đôi khi được gọi là thể t́nh cảm) là hiệu quả của sự tương tác của dục vọng, và sự đáp ứng có tri giác vào bản ngă ở trung tâm và hiệu quả đó – trong thể đó – được trải qua dưới h́nh thức xúc cảm, như là đau khổ và khoái lạc, và các cặp đối hợp khác. 90% nguyên nhân của các bệnh tật thể xác và đau đớn xác thân đều nằm trong hai thể này, tức là thể dĩ thái và thể cảm dục.
4. Thể trí (mental body) hay là thể gồm phần lớn chất liệu của trí tuệ (chitta) mà một con người riêng biệt có thể sử dụng và gây ấn tượng. Thể đó là cơ cấu thứ tư trong loạt các cơ cấu có sẵn cho linh hồn sử dụng. Đồng thời đừng quên rằng bốn cơ cấu này hợp thành một cơ cấu duy nhất. 5% trong số các bệnh tật hiện nay bắt nguồn trong thể hay trạng thái ư thức này. Ở đây, tôi xin nêu rơ một chân lư là một số trường phái trị liệu luôn luôn lặp đi lặp lại rằng thể trí là nguyên nhân của mọi đau yếu, nhưng cho đến nay, điều đó không đúng. Khoảng một triệu năm nữa, khi sự tập trung chú tâm của con người được chuyển từ bản chất t́nh cảm sang trí tuệ, khi mà con người về cơ bản, thiên về trí, giống như ngày nay về cơ bản họ thiên về t́nh cảm, bấy giờ phải t́m nguyên nhân của bệnh tật trong lănh vực trí tuệ. Trừ vài trường hợp hiếm có, ngày nay chúng ta phải t́m nguyên nhân bệnh tật trong t́nh trạng thiếu sinh lực, hoặc t́nh trạng bị kích thích quá độ, trong lănh vực xúc cảm, dục vọng (bị đè nén hay quá buông thả), trong các tính khí, các kiềm chế hoặc biểu lộ của các khát vọng thâm căn cố đế, các kích thích, các vui thích ngấm ngầm và nhiều xung lực ẩn tàng bắt nguồn từ cuộc sống đầy ham muốn của phàm nhân.
4
Trước
nhất, sự thôi thúc để tồn tại và chiếm
hữu đă và đang kiến tạo bộ máy đáp
ứng bằng vật chất ở bên ngoài, và ngày nay,
đang có thôi thúc tạo nên một cơ cấu vốn
được kiến tạo chủ yếu cho các mục
đích ở cơi trần, nhưng dùng cho các mục tiêu
thuộc về nội tâm hơn. Điều này lại
tạo ra t́nh trạng bất an và chỉ khi nào con
người hiểu được rằng bên trong lớp
vỏ vật chất bọc ở bên ngoài, vẫn có các
thể khác được dùng cho các mục tiêu đáp
ứng tinh tế hơn, th́ chừng ấy, chúng ta sẽ
thấy có sự hiệu chỉnh từ từ về
sức khỏe của xác thân. Sau này, chúng ta sẽ bàn
đến các thể tinh anh này nhiều hơn.
Tất nhiên ở đây, bạn sẽ hỏi: Kế hoạch chung mà tôi sẽ t́m cách noi theo khi tôi hướng dẫn các bạn theo các định luật chữa trị là ǵ? (Các định luật này đang hướng dẫn các điểm đạo đồ, và phải dần dần thay thế cho các phương pháp thiên về vật chất nhiều hơn của thuật chữa trị hiện nay). Tất nhiên, bạn cũng muốn biết xem kỹ thuật đặc biệt nào mà bạn – với tư cách là nhà trị liệu – phải học cách sử dụng, vừa cho chính bạn, vừa cho bệnh nhân. Tôi sẽ phác họa vắn tắt giáo huấn mà tôi sẽ cố gắng truyền đạt và nêu ra nơi mà bạn phải chú trọng, khi bạn bắt đầu nghiên cứu chủ đề này.
Trước hết, tôi sẽ cố gắng đề cập đến các nguyên nhân của bệnh, v́ đạo sinh huyền học bao giờ cũng phải bắt đầu trong thế giới căn nguyên chứ không phải trong thế giới hậu quả.
Thứ hai là tôi sẽ đi vào chi tiết bảy cách chữa trị đang chi phối “việc phục hồi” (gọi theo thuật ngữ huyền học) được các điểm đạo đồ trên thế gian thực hành. Các cách này xác định những kỹ thuật cần được sử dụng. Các bạn sẽ thấy rằng các phương pháp và các kỹ thuật này bị chi phối bởi các cung (về điều này, tôi đă viết trong bộ Luận Về Bảy Cung, quyển I và II).
5
Thế
nên, kẻ chữa trị phải xem xét không những cung
của chính y, mà c̣n phải xét đến cung của
người bệnh nữa. Do đó, có các kỹ thuật
của bảy Cung và các kỹ thuật này cần
được giải rơ trước khi chúng có thể
được áp dụng một cách sáng suốt.
Thứ ba là tôi sẽ nhấn mạnh vào cách trị liệu bằng tâm lư, và vào nhu cầu ứng xử với bệnh nhân trong đời sống nội tâm của y, v́ định luật căn bản ẩn dưới mọi cách trị liệu theo huyền môn như sau:
ĐỊNH LUẬT I
Mọi bệnh tật đều là kết quả của sự sống bị ức chế của linh hồn, và điều đó đúng với tất cả mọi h́nh hài trong mọi giới. Thuật của nhà chữa trị bao gồm trong việc phóng rải năng lượng của linh hồn, sao cho sự sống của linh hồn có thể tuôn đổ qua tập hợp các cơ cấu đang tạo ra bất cứ h́nh hài đặc biệt nào.
Thật là lư thú mà ghi nhận rằng sự cố gắng của nhà khoa học để phóng thích năng lượng của nguyên tử, có cùng bản chất chung như công việc của nhà huyền bí học, khi người này cố gắng phóng rải năng lượng của linh hồn. Bản chất của thuật trị liệu chân chính c̣n ẩn giấu trong việc phóng rải năng lượng này (release).
Thứ tư là chúng ta sẽ xem xét thể xác, các bệnh tật và đau ốm của thể xác, nhưng chỉ sau khi chúng ta đă nghiên cứu phần của con người ẩn sau và đang bao quanh nhục thân. Với cách đó, chúng ta sẽ làm việc từ thế giới của các nguyên nhân bên trong, cho đến thế giới của các diễn biến bên ngoài. Chúng ta sẽ thấy rằng tất cả những ǵ có liên hệ đến sức khỏe con người, đều xuất phát từ:
1. Toàn bộ các lực, các cảm giác, các ước vọng và các diễn tiến bất thường của thể trí, vốn tiêu biểu cho ba thể tinh anh, và định đoạt sự sống lẫn kinh nghiệm của thể xác.
6
2.
Hậu quả trên xác thân, đối với t́nh trạng
của nhân loại nói chung. Con người là một bộ
phận không thể thiếu của nhân loại, một
cơ cấu ở trong một cơ cấu vĩ
đại hơn. Các t́nh trạng hiện có trong tổng
thể sẽ được phản ánh trong bản ngă
của cá thể, và nhiều bệnh tật mà con
người hứng chịu ngày nay, đều là hậu
quả tác động lên con người ở t́nh trạng
hiện có trong giới thứ tư trong thiên nhiên nói chung.
Đối với các điều này, y không có trách nhiệm
ǵ hết.
3. Hậu quả trên thể xác của sự sống hành tinh vốn là biểu lộ của sự sống của Hành Tinh Thượng Đế. Ngài là một Thực Thể Thông Linh đang tiến hóa. Các hàm ư này phần lớn đều vượt ngoài phạm vi hiểu biết của chúng ta, nhưng các hiệu quả th́ ta có thể thấy rơ.
Trước tiên, tôi không quan tâm đến việc huấn luyện các cá nhân để làm cho họ trở thành những nhà chữa trị hữu hiệu hơn. Tôi chỉ nhắm vào việc trị liệu tập thể, và đó là công tác đang được h́nh thành, làm cho tôi quan tâm vào lúc này. Tuy nhiên, không một nhóm người nào có thể hành động thống nhất nếu họ không yêu thương và phụng sự lẫn nhau. Năng lượng chữa trị của Thánh Đoàn không thể tuôn đổ qua nhóm, nếu có bất hài ḥa và chỉ trích. Do đó, công việc đầu tiên của bất cứ nhóm chữa trị nào là tự họ tạo t́nh thương và làm việc, hướng về sự hợp nhất và cảm thông trong nhóm.
Ở đây, tôi xin nêu ra rằng cần có sự nhẫn nại khi nhóm chữa trị hợp nhất và hào quang của các thành viên trong nhóm nên ḥa hợp lại. Cần tốn chút ít th́ giờ để mọi người học cách làm việc cùng nhau trong sự cảm thông và vô ngă hoàn toàn, đồng thời trong khi làm việc, họ đạt được sự nhất tâm. Sự nhất tâm này sẽ tạo được sự nhịp nhàng cần thiết cho cả nhóm, một sự nhịp nhàng cộng với sự hợp nhất, mạnh mẽ đến nỗi công việc có thể trở nên đồng bộ bên trong nhóm. Kẻ t́m đạo và các đạo sinh khi làm việc theo các đường lối này phải tự luyện tập để suy tư như một nhóm, và để mang lại cho nhóm (không chút luyến tiếc hay do dự) cái hay nhất vốn có nơi họ, và cũng là kết quả của việc thiền định của họ về các vấn đề này.
7
Tôi
cũng có thể thêm rằng các giáo huấn này phải càng
súc tích càng tốt. Tôi sẽ phải cố gắng
đưa nhiều chân lư và kiến thức vào một
đoạn ngắn để làm cho mỗi câu văn
gợi được một số ư tưởng đích
thực, và đem ánh sáng thực tế chiếu rọi vào
các vấn đề mà một nhóm chữa trị phải
đối phó. Những điều tôi phải nói sẽ
gồm hai phần:
1. Chúng ta sẽ bàn đến việc trị liệu và giáo huấn chung, liên quan đến việc tôi truyền đạt các định luật, các kỹ thuật và các phương pháp.
2. Chúng ta sẽ xem xét về phần người chữa trị, và làm cách nào y có được thuật chữa trị hoàn thiện.
Có đúng chăng điều kiện tất yếu đầu tiên của tất cả mọi nhà chữa trị là tạo được sự giao cảm với bệnh nhân, để cho nhà chữa trị có thể hiểu rơ về t́nh trạng bất an, và tạo được sự tín nhiệm của người bệnh?
Tôi trao cho các bạn hai thuật ngữ, nó tiêu biểu cho các đ̣i hỏi của tất cả những nhà chữa trị chân chính mà bạn phải hoạt động theo chiều hướng đó. Đó là Từ Điện và Bức Xạ. Một người chữa trị phải có từ điện vượt trên mọi sự, y phải thu hút về phía y
a. Sức mạnh của chính linh hồn y; điều này liên quan đến sự chỉnh hợp qua sự thiền định của riêng y.
b. Những người mà y có thể trợ giúp, điều này liên quan đến thái độ phá ngă chấp.
c. Các năng lượng mà khi cần làm cho phát lộ sẽ kích thích cho người bệnh có được hoạt động mong muốn. Điều này liên quan đến kiến thức huyền linh và một thể trí lăo luyện.
Người chữa trị cũng phải hiểu làm cách nào để phát xạ, v́ sự phát xạ của linh hồn sẽ kích thích hoạt động linh hồn của người bệnh và tiến tŕnh chữa trị sẽ được khởi động. Sự phát xạ của thể trí y sẽ soi sáng thể trí của bệnh nhân, và làm tập trung ư chí của người bệnh. Sự phát xạ của thể cảm dục của y – nếu được kiểm soát và có tính vị tha – sẽ đặt một sự nhịp nhàng lên tâm trạng lo âu của thể t́nh cảm bệnh nhân, như thế giúp cho người bệnh có được hành động đúng đắn, trong khi phát xạ của thể sinh lực y, tác động qua bí huyệt lá lách, sẽ giúp sắp xếp thể sinh lực của người bệnh, như thế làm cho công việc chữa trị được dễ dàng. Do đó, người chữa trị có bổn phận phải làm cho chính ḿnh có hiệu năng, bởi v́ hiệu quả trên bệnh nhân sẽ tùy thuộc nơi hiệu năng ấy. Khi một người trị liệu dùng từ điện tác động và phát ra sức mạnh của linh hồn y cho người bệnh, th́ bệnh nhân đó có thể đạt mục tiêu mong muốn một cách dễ dàng hơn. Mục tiêu có thể là được chữa lành hoàn toàn, hay là có thể tạo được một trạng thái trí tuệ giúp người bệnh sống với chính ḿnh, và với căn bệnh của ḿnh mà không bị cản trở bởi các giới hạn nghiệp quả của xác thân. Hoặc là có thể giúp cho bệnh nhân đạt được việc thoát xác thích hợp (với niềm hoan hỉ, thoải mái) nhờ cửa tử mà đạt được sức khỏe hoàn toàn.
8
9
PHẦN MỘT
CÁC NGUYÊN NHÂN CĂN BẢN CỦA BỆNH TẬT
Đây là vấn đề mà mọi thực hành y học qua các thời đă từng đấu tranh. Trong thời đại cơ khí hiện nay, chúng ta đă đi lệch ra xa so với bề mặt của các sự vật, và tách khỏi quan điểm có phần đúng của các thế kỷ trước, quan điểm này đă truy nguyên bệnh tật từ các “tâm trạng bất an” (“evil humours”) được nuôi dưỡng và nung nấu trong đời sống nội tâm của người bệnh. Với sự tiến bộ của tri thức trong mọi phương diện, chúng ta hiện đang ở bề ngoài của sự vật (xin lưu ư là tôi không dùng từ “nông cạn” – “superficial”–) và đă đến lúc tri thức có thể tái nhập vào lănh vực nội tâm và tự chuyển hóa thành minh triết. Ngày nay các bậc trí giả lỗi lạc nhất trong giới y học và các giới liên hệ đă bắt đầu thừa nhận rằng phải t́m các nguyên nhân của bệnh tật trong các thái độ bên trong và tiềm ẩn của trí tuệ, của bản chất t́nh cảm và trong cuộc sống với biểu hiện t́nh dục phóng túng hoặc bị ức chế.
Từ lúc bắt đầu nghiên cứu, tôi muốn nêu ra nguyên nhân tối hậu của bệnh tật, dù tôi đă biết rơ, nhưng các bạn vẫn chưa thể hiểu được. Nguyên nhân này ẩn sau lịch sử của quá khứ xa xăm của hành tinh chúng ta, ẩn trong quá tŕnh phát triển (hiểu về mặt huyền học) của Đức Hành Tinh Thượng Đế và nó bắt nguồn từ những ǵ phần lớn được gọi là “tà lực vũ trụ”. Đây là một nhóm từ hoàn toàn vô nghĩa, nhưng nó mô tả theo lối tượng trưng một t́nh trạng ư thức của một vài vị “Thượng Đế chưa toàn hảo”. Căn cứ vào tiền đề mở đầu rằng chính Thượng Đế đang hoạt động hướng đến sự hoàn thiện vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta, điều đó có thể được suy ra rằng đối với chính các vị Thiên Đế và đối với Thượng Đế (dưới h́nh thức Sự Sống của thái dương hệ) vẫn có thể tồn tại một số giới hạn, và hăy c̣n một số lănh vực hay trạng thái tâm thức vẫn c̣n chờ được quán triệt. Các giới hạn và các bất toàn tương đối này có thể tạo nên các hiệu quả rơ rệt trong các thể biểu lộ của các Ngài – tức là các hành tinh khác nhau dưới các biểu hiện của các Đấng Cao Cả, c̣n thái dương hệ như là biểu hiện của một Đấng Cao Cả. Cũng căn cứ giả thuyết rằng các ngoại thể này của Đấng Thánh linh, tức các hành tinh, là các h́nh thể qua đó một số Thượng Đế tự biểu lộ, có thể có một suy diễn đúng và hợp lư rằng mọi sự sống và h́nh hài bên trong các thể này tất nhiên có thể cũng chịu các giới hạn và các bất toàn, nảy sinh từ các lănh vực tâm thức chưa được chinh phục và các trạng thái ư thức cho đến giờ chưa được hiểu rơ bởi các Thượng Đế đă lâm phàm dưới dạng hành tinh và thái dương. Căn cứ định đề cho rằng mỗi h́nh hài là một phần của một h́nh hài c̣n vĩ đại hơn, và rằng chúng ta thực sự đang “sống, hoạt động và hiện tồn” trong cơ thể của Thượng Đế (theo cách nói của Thánh Paul), th́ chúng ta với tư cách là các phần nguyên vẹn của giới thứ tư trong thiên nhiên, chúng ta cũng phải chia sẻ giới hạn chung và bất toàn chung này.
10
Những
ǵ vượt quá tiền đề tổng quát này
đều ở ngoài khả năng hiểu biết và
diễn tả của chúng ta, v́ nói chung, trí tuệ của
người t́m đạo và người đệ tử
bậc trung chưa đủ để hiểu. Các
thuật ngữ như “tà lực vũ trụ, bất toàn
thiêng liêng, lănh vực giới hạn của tâm thức,
sự tự do của tinh thần thuần túy, trí tuệ
thiêng liêng” được bàn tán rất tùy tiện bởi
các tư tưởng gia thần bí và huyền linh của
thời nay: Ư nghĩa thực của các từ đó là ǵ?
Nhiều trường phái chữa trị đă xác
định sự hoàn thiện thiêng liêng tối hậu, và
tŕnh bày rơ rệt các tin tưởng của họ rằng
nhân loại thực sự thoát khỏi các bệnh tật
thông thường của xác thân, có phải chăng đó
không phải là các câu nói rỗng tuếch, biểu hiện
cho một lư tưởng và thường dựa vào ham
muốn ích kỷ? Phải chăng đó không phải là các
câu nói hoàn toàn vô nghĩa trong các hàm ư thần bí của chúng?
Biết làm sao hơn khi chỉ có người đến
mức hoàn thiện mới thực sự hiểu
được thế nào là thiên tính?
11
Tốt
hơn là chúng ta nên thừa nhận rằng con người
chưa có thể hiểu được các nguyên nhân sâu xa
của những ǵ có thể thấy hiện ra trong cuộc
tiến hóa của sự sống h́nh hài. Thật là không khôn
ngoan khi đối diện với vấn đề và các
sự thật như chúng hiện hữu, theo hiểu
biết hiện nay của chúng ta và hiểu rằng chỉ
khi nào con người có thể nhập vào thiên trí một
cách sáng suốt hơn là thể trí kém cỏi của loài
vật, lúc ấy mới có thể biết được
c̣n có các bậc Trí Tuệ vĩ đại hơn, đang
hoạt động trong các giới khác cao hơn trong thiên
nhiên, chắc chắn các vị này sẽ thấy sự
sống một cách xác thực hơn, và đúng hơn cái
thấy của nhân loại. Có thể mục tiêu tiến
hóa (như đă được con người phác họa
và nhấn mạnh) xét cho cùng, chỉ là một phần
nhỏ của một mục tiêu lớn hơn, mà v́
với sự hiểu biết hữu hạn, con
người không thể hiểu thấu. Toàn thể
chủ đích đang ẩn tàng trong Thiên Trí có thể là
rất khác với những ǵ mà con người có thể
nhận thức được ngày nay; c̣n điều ác và
điều thiện vũ trụ, khi được rút
xuống c̣n tên gọi, có thể mất hoàn toàn ư nghĩa
của chúng, và chỉ được nh́n thấy qua
huyễn cảm và huyễn tưởng mà con người
đang bao quanh mọi vật. Các bậc trí giả lỗi
lạc nhất của thời nay chỉ vừa mới
bắt đầu thấy được những tia sáng
lờ mờ đầu tiên đang xuyên qua huyễn cảm
này, và trước hết đang giúp con người khám phá
sự thực của huyễn tưởng. Qua ánh sáng
chiếu ra đó, chân lư sau đây có thể lộ ra cho ai có
thái độ mong đợi và có trí rộng mở: chính
Thượng Đế đang trên đường tiến
đến sự hoàn thiện. Các hàm ư của phát
biểu này c̣n nhiều.
12
Khi bàn
về các nguyên nhân của bệnh tật, chúng ta sẽ
đứng trên quan điểm rằng nguyên nhân căn
bản sau rốt và thuộc vũ trụ của bệnh
tật vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng
ta, và chỉ khi nào Thiên Quốc được hiển
lộ trên cơi trần, th́ chúng ta mới thực sự
biết được phần nào về các bệnh
tật đang lan tràn trên hành tinh chúng ta trong cả bốn
giới trong thiên nhiên. Tuy nhiên có thể đưa ra một
vài phát biểu căn bản, cuối cùng là đúng theo ư
nghĩa đại thiên địa, và cũng
được chứng minh là đúng khi ta đem liên
hệ chúng với tiểu thiên địa một cách sáng
suốt.
1. Mọi bệnh tật (và đây là một điều nhàm chán) phát sinh do sự thiếu hài ḥa – sự bất hài ḥa xảy ra giữa khía cạnh h́nh thể với sự sống. Những ǵ ḥa giải h́nh hài và sự sống, hay nói đúng hơn, những ǵ là kết quả của sự hợp nhất có chủ đích này chúng ta gọi là linh hồn, tức bản ngă, tức lĩnh vực có liên quan đến nhân loại, c̣n ở các giới dưới nhân loại th́ được gọi là nguyên khí phối kết (integrating principle). Bệnh tật xuất hiện khi thiếu sự chỉnh hợp giữa các yếu tố khác nhau này, tức linh hồn và h́nh hài, sự sống và biểu hiện của sự sống, các thực tại nội tâm và ngoại cảnh. Tất nhiên, tinh thần và vật chất th́ không liên hệ với nhau một cách cởi mở. Đây là một cách diễn dịch Định Luật I, và toàn thể chủ đề này được dự kiến để tŕnh bày định luật đó.
2. Sự thiếu hài ḥa này tạo ra cái mà chúng ta gọi là bệnh tật, xảy ra khắp cả bốn giới của thiên nhiên và gây nên các t́nh trạng tạo ra đau đớn (khi mà khả năng cảm thụ trở nên tinh nhạy và phát triển) và ở khắp nơi đều có sự tắt nghẽn, hư hoại và tử vong. Hăy suy gẫm kỹ các từ này: Thiếu Hài Ḥa, Bệnh Hoạn, Đau Đớn, Tắc Nghẽn, Hư Hoại, Tử Vong, bởi v́ chúng đang diễn tả t́nh trạng chung hiện đang chi phối sự sống hữu thức của mọi h́nh hài về mặt đại thiên địa lẫn tiểu thiên địa. Chúng không phải là các nguyên nhân.
3. Tuy nhiên, mọi t́nh trạng này có thể được xem là có hiệu quả thanh lọc, và phải được nhân loại xem như thế nếu họ có thái độ đúng đắn đối với bệnh tật. Đây là điều mà kẻ chữa trị cuồng tín và người thực hành triệt để một ư tưởng thường hay quên (ư tưởng này được họ hiểu một cách hạn hẹp, và trong hầu hết các trường hợp chỉ là một phần của một ư tưởng vĩ đại hơn).
13
4. Các
phương pháp chữa trị và các kỹ thuật làm
giảm nhẹ đều được dùng riêng cho nhân
loại, và là kết quả của hoạt động trí
tuệ của con người. Chúng báo hiệu tiềm
năng của con người giống như đấng
sáng tạo và là kẻ đang tiến đến tự do.
Chúng cho biết năng lực phân biện của con
người để nhận thức sự hoàn thiện,
để thấy được mục tiêu, do đó
để hoạt động hướng về sự
giải thoát tối hậu. Sự sai lầm hiện nay
của con người cốt ở chỗ:
a. Không thấy được các công dụng đích thực của sự đau đớn.
b. Phẫn uất trước đau khổ.
c. Hiểu sai về định luật bất đối kháng.
d. Nhấn mạnh quá nhiều vào bản chất của h́nh hài.
e. Thái độ của con người đối với sự chết và cảm nhận của con người khi sự sống biến mất, vượt khỏi tầm mắt qua phương tiện h́nh hài và hậu quả là h́nh hài tan ră, báo hiệu thảm họa.
5. Khi tư tưởng con người đảo ngược lại các ư tưởng thông thường về bệnh tật, và chấp nhận bệnh tật như là một thực kiện trong thiên nhiên, th́ con người sẽ bắt đầu hoạt động theo định luật giải thoát, với ư tưởng đúng và không đưa tới sự đối kháng nữa. Ngày nay, do quyền năng của tư tưởng đă được điều khiển, và do sự đối kháng mạnh mẽ của con người đối với bệnh tật, nên con người chỉ có khuynh hướng kích hoạt nỗi khó khăn. Khi con người tái định hướng (reorients) tư tưởng của y đối với chân lư và linh hồn, th́ các ốm đau ở cơi trần sẽ bắt đầu tan biến. Điều này sẽ trở nên sáng tỏ khi chúng ta nghiên cứu phương pháp trừ bệnh tận gốc về sau này. Bệnh tật vẫn c̣n, các h́nh hài trong tất cả mọi giới đều đầy dẫy bất hài ḥa, không chỉnh hợp với sự sống nội tâm. Bệnh tật, sự hư hoại và khuynh hướng tan ră đang có ở khắp mọi nơi. Tôi chọn các từ này một cách thận trọng.
14
6. Do
đó, bệnh tật không phải là kết quả của
tư tưởng sai lầm của con người. Nó
đă có từ lâu trong nhiều h́nh thái của sự
sống trước khi gia đ́nh nhân loại xuất
hiện trên địa cầu. Nếu bạn t́m cách
diễn tả bằng lời, và nếu bạn muốn nói
trong các giới hạn của trí người, th́ bạn có
thể nói với một mức chính xác: Thượng
Đế, Đức Hành Tinh Thượng Đế đă
phạm suy tư sai lầm. Tuy nhiên, bạn sẽ không
diễn đạt hết sự thật, mà chỉ là một
phần rất nhỏ của nguyên nhân, v́ nó hiện ra
với thể trí yếu kém, hạn hẹp của bạn,
qua trung gian của ảo cảm và ảo tưởng chung
của thế gian.
7. Theo một quan điểm th́ bệnh tật là một tiến tŕnh giải thoát, và là kẻ thù của những ǵ tĩnh tại (static) và kết tinh. Đừng nghĩ rằng câu nói đó có nghĩa là bệnh tật nên được hoan nghênh, và rằng diễn tŕnh chết đáng được ưa thích. Nếu nghĩ thế, th́ người ta sẽ nuôi dưỡng bệnh tật và sẽ thúc đẩy việc tự tử. May thay cho nhân loại, toàn thể khuynh hướng của sự sống đều chống lại bệnh tật, và phản ứng của sự sống h́nh hài đối với tư tưởng con người đă nuôi dưỡng việc sợ chết. Điều này quả đúng như thế, bởi v́ bản năng sinh tồn và duy tŕ sự toàn vẹn của h́nh hài là một nguyên tắc thiết yếu trong vật chất, và khuynh hướng tự làm cho bất diệt của sự sống bên trong h́nh hài, là một trong các khả năng thiên phú trọng đại nhất của chúng ta, khả năng này sẽ c̣n măi. Tuy nhiên, trong gia đ́nh nhân loại, sau cùng bản năng nói trên phải nhường chỗ cho việc dùng sự chết làm tiến tŕnh gạt bỏ có sắp xếp để bảo toàn sức mạnh, và mang lại cho linh hồn một khí cụ biểu lộ hoàn hảo hơn. Nói chung, nhân loại chưa sẵn sàng để có tự do hành động này. Tuy nhiên, hiện nay các đệ tử và những người t́m đạo trên thế gian sẽ bắt đầu hiểu được các nguyên lư mới mẻ này của sự sống. Ngày nào chính Đức Thượng Đế c̣n muốn lâm phàm trong thể biểu lộ của Ngài – tức là một hành tinh hay một thái dương hệ – th́ bản năng tự bảo tồn vẫn c̣n chi phối mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất; giữa sự sống với sắc tướng. Bằng diễn đạt trên, tôi đă nêu ra cho các bạn một ẩn ngữ về một trong các nguyên nhân căn bản của bệnh tật, nó cho thấy tại sao có cuộc chiến đấu bất tận giữa tinh thần đang bị giam nhốt, với h́nh hài giữ nhiệm vụ giam nhốt. Phương pháp của cuộc chiến này là sử dụng tính chất bẩm sinh đang tự biểu hiện dưới h́nh thức thôi thúc để bảo tồn, và thôi thúc để tồn tại vĩnh viễn – cả dưới h́nh thức hiện tại lẫn các chủng loại.
15
8.
Định luật nhân quả – ở Đông phương
gọi là Karma – đang chi phối mọi điều này.
Thực ra, karma phải được xem là hậu quả
(trong sự sống h́nh hài của hành tinh chúng ta) của các
nguyên nhân ăn sâu và ẩn tàng trong Thiên Trí. Thực ra, các
nguyên nhân mà chúng ta có thể ḍ ra liên quan tới bệnh
tật và tử vong chỉ là sự thể hiện của
một vài nguyên tắc căn bản đang chi phối – ai
dám nói đúng hay sai? – sự sống của Thượng
Đế trong h́nh hài, các nguyên nhân đó, con người
vẫn không thể hiểu được, cho đến
khi họ đạt được điểm đạo
cao, được tượng trưng bằng sự
Biến Thân (Transfiguration). Suốt trong các nghiên cứu này,
chúng ta sẽ chỉ bàn đến các nguyên nhân phụ
thuộc và các hiệu quả của chúng, đến các
kết quả thuộc cơi hiện tượng của các
hiệu quả bên trong vốn bắt nguồn từ các
nguyên nhân quá sâu xa, so với hiểu biết của chúng ta.
Cần chấp nhận và hiểu rơ điều này. Đây
là điều mà người tiến bộ nhất có
thể làm, với bộ máy trí tuệ hiện nay của y.
Khi mà trực giác ít tác động, c̣n trí năo ít khi
được soi sáng, tại sao con người lại
ngạo mạn mong hiểu được mọi
điều? Họ nên cố gắng phát triển trực
giác của ḿnh và đạt đến giác ngộ. Bấy
giờ sự thông hiểu mới có thể đến
với y. Y sẽ có quyền đạt được
hiểu biết thiêng liêng. Tuy nhiên, nhận thức nói trên
cũng đủ cho công việc của chúng ta và sẽ giúp
chúng ta đưa ra các luật lệ và nguyên tắc, sẽ
chỉ lối cho nhân loại có thể thoát ra khỏi ư
thức của h́nh hài, và nhờ đó mà khỏi bị chi
phối bởi sự chết và các t́nh trạng liên quan
với bệnh tật, đang chi phối sự biểu
lộ của hành tinh chúng ta.
Chúng ta sẽ chia việc nghiên cứu các nguyên nhân bệnh tật của chúng ta thành ba phần, loại bỏ khỏi việc t́m kiếm chân lư của chúng ta cái ước muốn hoàn toàn có thể hiểu được nhưng cũng vô bổ, đó là muốn hiểu được Thiên trí.
I. Các nguyên nhân tâm lư.
II. Các nguyên nhân xuất phát từ cuộc sống tập thể.
III. Các trách nhiệm nghiệp quả của chúng ta, tức là các nguyên nhân thuộc về nghiệp quả.
16
Trong
mọi điều này, với tất cả khả năng
hiện tại, chúng ta sẽ chỉ nhận
được một ư tưởng tổng quát về
sự hiện hữu của bệnh tật trong nhân
loại và cũng gặp một phần nào trong giới
động vật. Khi đă hiểu rơ được ư
tưởng tổng quát này rồi, chúng ta sẽ có một
hiểu biết rơ ràng hơn về vấn đề
bệnh tật, và bấy giờ có thể tiếp tục
xem xét các phương pháp giúp chúng ta có thể xử lư các
hậu quả bất hảo bằng một thuận
lợi to tát hơn. Các nhà nghiên cứu thuật chữa
trị cũng nên nhớ rằng có ba cách chữa trị và
tất cả ba phương cách này đều có vị trí và
giá trị của chúng – tùy theo tŕnh độ tiến hóa
của đối tượng được chữa
trị.
Cách thứ nhất, áp dụng các loại thuốc giảm đau và các phương pháp cải thiện để từ từ chữa trị bệnh tật, và loại trừ các t́nh trạng bất hảo; chúng củng cố sức sống của h́nh hài và bảo dưỡng sinh lực để cho bệnh tật có thể bị loại đi. Tiêu biểu nhất cho các phương pháp này, là trường phái đối chứng trị liệu (allopathic), và trường phái đồng chứng trị liệu (homeopathic), các phái nắn xương và nắn cột sống cùng các trường phái trị liệu khác. Họ đă làm được nhiều công việc có tính xây dựng rất hữu ích, và nhân loại phải chịu ơn nặng của họ về các chú tâm khôn ngoan, khéo léo và bất vị kỷ của các thầy thuốc. Lúc nào họ cũng lo đối phó với các t́nh trạng cấp bách và các hậu quả nguy hiểm, của các nguyên nhân không lộ ra bên ngoài. Theo các phương pháp này, bệnh nhân ở trong tay của một phần tử bên ngoài, nên phải thụ động, yên lặng và tiêu cực.
17
Cách
thứ hai là công việc và các phương pháp của nhà tâm
lư học hiện đại, họ t́m cách đối phó
với các t́nh trạng bên trong và loại bỏ cách hành
xử sai lạc của thể trí, các ức chế, các
chứng loạn tâm thần và các phức cảm, vốn
mang lại các trạng thái bệnh hoạn bên ngoài, các t́nh
trạng ốm yếu, các tai biến thần kinh và trí
tuệ. Theo phương pháp này, bệnh nhân được
dạy cách hợp tác tới mức tối đa với
nhà tâm lư học, để cho người bệnh có
thể đạt mức hiểu biết đích thực
về chính ḿnh, nhờ đó học cách diệt trừ các
t́nh trạng dồn ép bên trong vốn chịu trách nhiệm
cho các kết quả bên ngoài. Bệnh nhân được
huấn luyện để trở nên tích cực và linh
hoạt, và đây là một bước tiến đúng
hướng rất quan trọng. Khuynh hướng phối
hợp tâm lư trị liệu với việc điều
trị thể chất bên ngoài là có cơ sở và đúng
đắn.
Cách thứ ba tức là phương pháp cao nhất và mới mẻ nhất. Đó là phương pháp đưa linh hồn của chính bệnh nhân vào hoạt động tích cực. Việc chữa trị thực sự trong tương lai được tiến hành khi sự sống của linh hồn có thể lưu chuyển không bị ngăn trở khắp mọi hướng của phàm ngă. Bấy giờ sự sống đó có thể mang lại sinh lực cho h́nh hài bằng sức mạnh của nó và cũng có thể loại ra các t́nh trạng bế tắc và chướng ngại vốn là nguồn cội của nhiều thứ bệnh tật.
Trong vấn đề này, chúng ta có nhiều điều cần suy gẫm. Nếu chúng ta đi thật chậm về cách áp dụng thực hành các kỹ thuật và các phương pháp, đó là v́ tôi muốn đặt một nền tảng vững chắc cho những ǵ tôi sẽ truyền đạt sau này.
HUẤN LUYỆN NGƯỜI CHỮA TRỊ
Đối với việc huấn luyện nhà chữa trị, thỉnh thoảng tôi sẽ đưa ra sáu qui luật đang chi phối (hay sẽ chi phối) hoạt động của người chữa trị. Các bạn hăy nhớ hai từ mà trước đây tôi có đưa ra. Chúng tóm tắt câu chuyện của nhà trị liệu, đó là Từ Điện và Bức Xạ. Hai phương pháp này có những hiệu quả khác nhau, như chúng ta sẽ thấy.
QUI LUẬT MỘT
Người chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn, tim, óc và hai tay của y. Nhờ thế, y có thể tuôn đổ sức mạnh chữa trị trọng yếu lên người bệnh. Đây là công tác dùng từ điện (magnetic work). Nó chữa được bệnh, hoặc có thể làm tăng thêm cái được gọi là t́nh trạng tệ hại, tùy sự hiểu biết của người chữa trị.
18
Kẻ chữa trị phải
t́m cách liên kết linh hồn, óc, tim và sự phát tán hào quang
của y. Nhờ thế sự hiện diện của y có
thể làm tăng sự sống linh hồn bệnh nhân.
Đây là công tác dùng bức xạ (the work of radiation). Hai bàn
tay không cần đến. Linh hồn hiển lộ
sức mạnh của nó. Linh hồn bệnh nhân đáp
ứng qua sự đáp ứng bằng hào quang của y
đối với bức xạ của hào quang
người chữa trị, tràn ngập với năng
lượng của linh hồn.
Khi xem xét các nguyên nhân của bệnh tật, tôi thấy cần phải nói đôi lời liên quan với cáct́nh trạng – bên ngoài và bên trong. Đối với kẻ suy tư hời hợt, th́ dường như nhiều bệnh tật và nhiều nguyên nhân tử vong đều do các t́nh trạng của hoàn cảnh chung quanh, là điều mà y không hề chịu trách nhiệm. Các t́nh trạng này xếp loại hoàn toàn từ các biến cố thuần túy bên ngoài, cho đến các khuynh hướng di truyền. Chúng có thể được liệt kê như sau:
1. Các tai nạn: có thể do sự chểnh mảng của con người, do các biến cố chung, do sự bất cẩn của kẻ khác và các hậu quả của tranh chấp, như trong các cuộc băi công hoặc chiến tranh. Tai nạn cũng có thể xảy ra do sự tấn công của loài vật hoặc loài rắn, do ngộ độc bất ngờ và nhiều nguyên nhân khác nữa.
2. Các bệnh truyền nhiễm xảy đến cho con người từ bên ngoài, chớ không do t́nh trạng máu huyết riêng của người ấy. Các lây nhiễm như thế rất nhiều, được gọi là các bệnh truyền nhiễm và thường thấy như là các bệnh dịch. Các bệnh này có thể xảy đến cho một người trong khi thi hành nhiệm vụ, qua sự tiếp xúc hằng ngày của y, hay là do t́nh trạng bệnh tật lan rộng trong vùng của y.
3. Bệnh do suy dinh dưỡng, đặc biệt xảy ra ở trẻ em. T́nh trạng suy dinh dưỡng này đưa đến bệnh hoạn cho cơ thể, giảm sức đề kháng và sinh lực và làm cho “năng lực chống bệnh” của con người trở nên vô hiệu, đưa đến chết yểu.
19
4. Sự
di truyền. Như bạn đă biết rơ, một vài
h́nh thức yếu đuối do di truyền, hoặc chúng
khiến cho một người dễ mắc phải
một số bệnh và tất nhiên là tử vong, hoặc
là gây ra nơi y các t́nh trạng làm cho sức sống
của y yếu dần; cũng có các khuynh hướng
tạo ra một h́nh thức thèm khát rất nguy hại,
đưa đến các thói quen bất hảo, hạ
thấp đạo đức và nguy hại cho ư chí của
con người, làm cho y mất khả năng chống
lại các bẩm chất này. Y bị chúng hoàn toàn chi
phối, và phải gánh chịu hậu quả của các
thói quen như thế, đó là bệnh tật và tử vong.
Bốn loại
bệnh và các nguyên nhân tử vong này giải thích cho đa
số những ǵ mà chúng ta thấy xảy ra chung quanh ta
trong kiếp sống của con người. Tuy vậy chúng
không được sắp một cách dứt khoát vào
bất cứ nguyên nhân tâm lư nào của bệnh tật và
chỉ sẽ được xem xét rất vắn tắt,
dưới mục bàn về sự sống tập thể
và các nguyên nhân dễ làm mắc bệnh. Các bệnh dễ
lây nhiễm cũng được bàn đến nơi
đây, nhưng các t́nh trạng xảy ra như là do tai
nạn xe hơi hay xe hỏa chẳng hạn, đều
không được xem xét dưới mục các nguyên nhân
gây ra bệnh tật. Rất đúng là công việc của
nhà chữa trị có liên quan đến các trường
hợp này, nhưng công việc phải làm hơi khác với
công việc được hoàn thành khi đối phó
với các bệnh bắt nguồn từ một thể
tinh anh nào đó, hay là trong các kết quả của các
bệnh tập thể v..v.. Bệnh tật phát sinh do
thiếu dinh dưỡng và do cách nuôi nấng sai lầm
trong cuộc sống và nền văn minh hiện
đại, sẽ không được xét đến ở
đây. Đối với các bệnh này, cá nhân đứa
trẻ không có trách nhiệm ǵ cả. Tôi đang bàn
đến các bệnh tật xuất phát từ các t́nh
trạng sai lầm bên trong. Thực tế, th́ đứa
trẻ không có trách nhiệm ǵ đối với các
điều kiện sinh sống của nó, trừ phi
bạn thừa nhận nghiệp quả như là một
yếu tố tiền định, nó có năng lực
tạo ra các hiệu chỉnh bắt nguồn từ quá
khứ, và ảnh hưởng đến hiện tại.
Tôi sẽ bàn đến điều này đầy
đủ hơn ở điểm thứ ba nói về các
trách nhiệm nghiệp quả. Ở đây, tôi chỉ
muốn gợi ư rằng toàn thể vấn đề
bệnh tật có thể được bàn đến theo
khía cạnh karma, c̣n giá trị của nó rơ ràng và không c̣n nghi
ngờ ǵ
20
nữa,
đă có giáo huấn đúng về đề tài trừu
tượng này từ lúc nó được đưa ra
ở phương Tây. Tuy nhiên, chân lư về nghiệp
quả lại đến với chúng ta từ phương
Đông, đă bị nhà thần học Đông phương
làm cho lệch lạc nhiều giống như giáo lư về
sự Chuộc Tội và về Đức Mẹ
Đồng Trinh, đă bị diễn dịch và giảng
dạy sai bởi nhà thần học Tây phương. Chân lư
đích thực không giống bao nhiêu với cách tŕnh bày
hiện nay của chúng ta. Do đó tôi đă gặp trở
ngại rất lớn khi đem bàn vấn đề
bệnh tật theo khía cạnh nghiệp quả. Tôi rất
khó truyền đạt cho các bạn bất cứ
điều ǵ về chân lư đích thực, do các
định kiến về Luật Nhân Quả cổ xưa
vốn có sẵn trong trí bạn. Khi tôi nói với bạn
rằng triết lư về Thuyết Tiến Hóa Đột
Biến và các thuyết hiện đại, nói về tác
dụng của một chất xúc tác trên hai chất, – khi
hai chất này được cho tiếp xúc với nhau
dưới hiệu quả của chất xúc tác, sẽ
tạo ra một chất thứ ba khác hẳn – trong đó
có chứa nhiều Chân lư về Karma, th́ liệu bạn có
hiểu chăng? Tôi nghi ngờ điều đó. Khi tôi nói
với bạn rằng việc nhấn mạnh vào luật
Karma khi nó giải thích các bất công bề ngoài, và luôn luôn
nhấn mạnh đến sự xuất hiện của
bệnh tật và ốm đau, đó chỉ là tŕnh bày
một phần về Chân lư căn bản của vũ
trụ th́ trí bạn có trở nên sáng tỏ phần nào
chăng? Khi tôi nêu ra rằng luật Karma, nếu
được hiểu đúng và vận dụng đúng,
th́ nó có thể đem lại những ǵ tạo ra hạnh
phúc, lành mạnh và thoát khỏi đau đớn một
cách dễ dàng, hơn là đem lại đau khổ với
chuỗi hậu quả của nó, th́ bạn thấy có
thể hiểu được ư nghĩa của những ǵ
mà tôi đang nói chăng?
Hiện nay, thế giới huyễn cảm quá mạnh mẽ, c̣n ảo tưởng của con người cũng mạnh và sống động, đến nỗi chúng ta không thấy được ư nghĩa thực sự của các định luật căn bản này.
21
Định
luật Karma không phải là Luật Thưởng Phạt
như người ta thường phỏng đoán khi
đọc các sách đang lưu hành về đề tài này;
đó chỉ là một khía cạnh tác động của
luật Karma thôi. Luật Nhân Quả không nên hiểu như
hiện nay chúng ta đang hiểu nó. Để minh họa,
có một định luật gọi là Luật Hấp
Dẫn mà từ lâu nó đă tự áp đặt lên trí óc con người.
Định luật đó hiện hữu, nhưng nó
chỉ là một khía cạnh của một định
luật lớn hơn, và như chúng ta biết, sức
mạnh của nó có thể tương đối bị
hóa giải, bởi v́ mỗi lần mà chúng ta thấy
một chiếc phi cơ bay vút qua đầu, chúng ta
thấy một minh chứng của sự hóa giải
định luật này bằng phương tiện cơ
khí, nó cho thấy rằng con người có thể
vượt qua định luật này một cách dễ
dàng. Nếu hiểu được điều đó,
người ta cũng thấy rằng họ đang
học kỹ thuật cổ xưa mà năng lực khinh
thân là một trong các bài tập mở đầu đơn
giản nhất và dễ dàng nhất.
Luật Hậu Quả (Law of Consequences) không phải là việc đă được sắp đặt và không thể tránh khỏi như sự ức đoán của tư tưởng hiện đại, nó liên quan đến các Định Luật Tư Tưởng c̣n chặt chẽ nhiều hơn là người ta đă tưởng; khoa học về trí tuệ đă và đang ṃ mẫm hướng về việc t́m hiểu Luật này. Sự định hướng và các mục tiêu của khoa này đều đúng, tốt đẹp và có triển vọng đạt nhiều kết quả. Tuy nhiên, hiện nay các kết luận và các cách làm việc của khoa học này lại đầy những lầm lỗi đáng tiếc và hầu hết đều đi sai đường.
Tôi đă đề cập đến việc hiểu sai Luật Karma v́ tôi lo lắng muốn thấy các bạn bắt đầu nghiên cứu các Định luật chữa trị này bằng một trí óc phóng khoáng và cởi mở càng nhiều càng tốt, v́ biết rằng sự hiểu biết của bạn về các luật này bị giới hạn bởi:
1. Các thần học cổ xưa, với các quan điểm sai lầm, méo mó và thiếu sinh động. Việc giảng dạy thần học hầu hết đều sai lầm, nhưng than ôi lại thường được chấp nhận.
22
2.
Tư tưởng của thế gian, bị ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi yếu tố dục
vọng và có rất ít tư tưởng chân chính trong
đó. Con người lư giải các định luật
được nhận thức một cách mơ hồ này
bằng các thuật ngữ có tính dứt khoát và theo quan
điểm kém cỏi của họ. Thí dụ như ư
tưởng về sự thưởng phạt lan tràn
khắp nhiều giáo huấn về Karma, bởi v́ con
người t́m một giải thích đáng tin cậy
về các sự việc như chúng xuất hiện,
rồi chính con người lại thích đưa ra
những sự thưởng phạt. Tuy nhiên, nói chung, có
nhiều Karma tốt, hơn là Karma xấu trong giai
đoạn hiện nay dầu có thể là bạn không
nghĩ như thế.
3. Ảo tưởng và huyễn cảm trên thế giới đang ngăn chận người b́nh thường và người vô minh không để họ thấy được sự sống đích thực. Thậm chí người tiến hóa và các đệ tử cũng chỉ mới bắt đầu thoáng thấy được một phần nào về thực tại huy hoàng.
4. Các tâm trí chưa được kiểm soát, cùng các tế bào năo chưa được giải khai (unreleased) và chưa được khơi hoạt, cũng làm cho con người không hiểu được đúng. Con người thường không nhận ra sự kiện này. Cho đến nay, bộ máy nhận thức của con người vẫn chưa thích hợp. Điểm này cần được nhấn mạnh.
5. Các đặc tính của quốc gia và chủng tộc cùng với những tính khí và định kiến có sẵn. Các yếu tố này cũng khiến người ta không đánh giá đúng được các thực tại này.
Ở đây, tôi đă nêu ra đủ lư do để cho bạn thấy rằng không nên dại dột mà cho là ḿnh đă hiểu được các định luật này, v́ đó là các định luật mà bạn đang ḍ dẫm để t́m hiểu. Trong tư tưởng con người, không có sự thiếu hiểu biết nào lớn hơn sự thiếu hiểu biết các định luật liên quan đến bệnh tật và tử vong.
Do đó, ngay từ đầu các bạn cần hiểu rằng, trong mọi điều mà tôi phải nói ra dưới đề mục “Các Nguyên Nhân Tâm Lư của Bệnh Tật”, tôi không bàn đến các bệnh hay các khuynh hướng nhiễm bệnh phát xuất từ hoàn cảnh, chung quanh người bệnh, hay là bàn tới các bệnh chứng rơ rệt về mặt thể chất do cha mẹ truyền lại – mà các bậc cha mẹ này có lẽ đă nhận lại từ ông bà – và truyền cho con cái họ.
23
Tôi
muốn nói rằng các bệnh di truyền này hiện nay
thực sự ít hơn là người ta tưởng. Trong
số các bệnh này, gia đ́nh nhân loại có khuynh
hướng mắc bệnh lao, giang mai và ung thư nhất.
Họ bị di truyền và cũng có thể bị
nhiễm bệnh do sự tiếp xúc. Tôi sẽ bàn
đến các bệnh này trong đề mục chính thứ
hai nói về các bệnh xuất phát từ tập thể.
24
CHƯƠNG I
CÁC NGUYÊN NHÂN TÂM LƯ CỦA BỆNH TẬT
Điểm mà tôi muốn bàn đến ở đây trước khi tiếp tục đi xa hơn, đó là tôi sẽ t́m cách tránh mọi khía cạnh chuyên môn càng xa càng tốt. Chủ đề của chúng ta là xem xét bệnh tật và các h́nh thức của nó theo phương diện huyền bí, t́m cách làm sáng tỏ vấn đề và các nguyên nhân chính của các bệnh ấy, và nêu ra các luật tổng quát mà người chữa trị phải vận dụng và sáu qui luật mà y phải ghi sâu vào trí ḿnh – y phải tuân theo các qui luật đó bằng giới luật và sự hiểu biết.
Bạn nên lưu ư rằng tôi sẽ liệt kê các nguyên nhân tâm lư dưới bốn đề mục:
1. Các nguyên nhân xuất phát từ bản chất xúc cảm – t́nh cảm.
2.Các nguyên nhân bắt nguồn trong thể dĩ thái.
3.Các nguyên nhân do tư tưởng sai lầm.
4.Các bệnh đặc thù và các rối loạn tâm lư của các đệ tử.
25
Có
lẽ các bạn để ư thấy rằng tôi đặt
các bệnh của thể dĩ thái vào hàng thứ hai
chứ không phải hàng đầu. Lư do của việc này
là v́ các bệnh tật tập thể đă gắn chặt
vào nhân loại, trước tiên tác động qua thể
dĩ thái và t́m cách biểu lộ xuyên qua thể dĩ thái
của mọi h́nh hài. Nhưng tôi đă đặt chúng vào
hàng thứ hai, dù rằng xét cho cùng, chúng nhiều nhất do
sự kiện là từ trước đến nay, nhân
loại không thể đối phó với toàn thể các
bệnh này.
Việc tiếp cận phải được thực hiện qua các cá nhân, và riêng mỗi người đều phải xua khỏi thể cảm dục hay thể t́nh cảm của họ, các t́nh trạng khiến cho họ dễ vướng bệnh. Hiện nay, nhân loại đang an trụ vào thể cảm dục. Bản chất xúc động xúc cảm đang hoàn toàn mạnh thế trong quần chúng. Điều này đưa đến một thể dĩ thái tương đối thụ động, thể này phải điều hợp với toàn bộ chất dĩ thái của hành tinh. Chất này nằm ở dưới mọi h́nh hài, nó chỉ là một phương tiện chuyển di và truyền đạt sinh năng cho nhục thân bên ngoài. Năng lượng lan ra khắp chất dĩ thái này, thoát khỏi mọi kiềm chế của con người cá biệt, và con người hoàn toàn không biết được nó, v́ con người tập trung chú tâm vào thể cảm dục. Nhiều điều can hệ đến các t́nh trạng thể chất của cá nhân có thể được suy diễn từ trạng thái tâm thức của thể cảm dục. Tuy nhiên, chúng ta phải loại trừ các bệnh do tập thể vốn dĩ đă lan tràn trong khắp nhân loại từ cơi của dĩ thái lực làm cho con người bị suy kiệt hay quá bị kích thích theo một lối nào đó, hoặc là ở trong một t́nh trạng đương nhiên đưa đến tử vong. Có thể nói một cách khái quát căn bản rằng hiện nay, sự rối loạn về thể chất của con người có tâm điểm ở thể t́nh cảm, và rằng hiện thể biểu lộ đó là một tác nhân nổi bật nhất đưa đến sức khỏe suy kém của cá nhân, cũng như các bệnh tập thể và việc lan tràn của bất cứ bệnh dịch nào đó trong quần chúng đều bắt nguồn từ một t́nh trạng nào đó trong chất dĩ thái của hành tinh. Các bệnh này vốn dĩ chung cho quốc gia, chủng tộc và cả hành tinh nữa, chúng t́m cách thâm nhập vào một cá nhân xuyên qua thể dĩ thái của y, nhưng đó không phải là những bệnh riêng của cá nhân. Về sau, tôi sẽ bàn thêm điều này. Hôm nay tôi chỉ nêu ra những điểm tổng quát thôi.
Tôi cũng xin nêu ra rằng các bệnh tật của quần chúng, của người dân thông thường, của giới trí thức và của các đệ tử trên thế gian, có thể và nhất định là khác nhau rất nhiều – không khác bao nhiêu trong cách biểu lộ của chúng, mà khác ở lănh vực biểu lộ. Đây là điểm khó hiểu nhất đối với nhà chữa trị bậc trung khi muốn nhận ra; đối với người này, không dễ ǵ hoặc có thể hiểu được các phân biệt này và đánh giá mức độ tiến hóa mà một người có thể đạt đến. Một số bệnh tật cần phải được đối phó từ cơi trí, và nhà trị liệu phải dùng đến thể trí của ḿnh; với nhiều bệnh khác, cần tập trung năng lượng cảm dục làm phương tiện trị liệu; và trong các trường hợp khác nữa, kẻ chữa trị chỉ nên t́m cách truyền chuyển năng lượng prana đến thể dĩ thái của người bệnh, xuyên qua chính thể dĩ thái của y. Có bao nhiêu nhà chữa trị thực sự biết tập trung tâm thức hoặc sinh lực trong bệnh nhân, mà họ đang chữa trị? Có bao nhiêu người hiểu được về loại chữa trị nào có thể và cần áp dụng vào một đệ tử? Chẳng hạn người ta rất ít khi hiểu được rằng không một đệ tử nào có thể đặt chính ḿnh vào trong tay của nhà trị liệu bằng từ điện bậc trung hoặc là người trị liệu bằng bức xạ, hoặc chuyên gia tâm lư học thuộc bất cứ loại nào. Một đệ tử không dám đặt chính ḿnh trong các phát xạ hào quang của bất luận kẻ chữa trị t́nh cờ nào, cũng không tự đặt ḿnh dưới sức mạnh của một nhà tâm lư học chỉ biết lư thuyết suông và thiếu kinh nghiệm, dù cho người ấy có xuất chúng thế nào đi nữa. Tuy nhiên, vị đệ tử có thể đặt chính ḿnh vào sự khôn khéo của một y sĩ hoặc nhà giải phẫu ở cơi trần, v́, theo y, xác thân chỉ là một người máy. Do đó, y có thể lợi dụng các phương tiện hồng trần để hưởng lợi. Nhiều thất bại của các phương pháp chữa trị hiện được dùng đều do nhà chữa trị không thể:
26
1.
Đo lường mức độ cơn bệnh,
định vị trí cơ bản của nó, biết nó
nằm trong và phát ra từ thể nào là chính.
2. Biết được tŕnh độ tiến hóa của bệnh nhân, và do đó, trước hết y phải t́m kiếm nguồn gốc của bệnh.
3. Phân biệt được bệnh nào do các t́nh trạng nội tâm của bệnh nhân, hay do các khuynh hướng di truyền, hoặc là do tập thể chung quanh lây nhiễm.
27
4.
Biết được bệnh nên trị:
a. Bằng đối chứng trị liệu hay đồng chứng trị liệu, v́ cả hai phương pháp này đều có thể được dùng trong một số trường hợp, hay là phải dùng những phương tiện nào khác với kỹ xảo và khoa học hiện đại.
b. Bằng bức xạ hay truyền từ điện, hoặc cả hai.
c. Bằng cách điều chỉnh đúng tâm lư bên trong của bệnh nhân, nhờ sự hiểu biết sâu xa của người chữa trị.
d. Bằng cách kêu gọi sức mạnh của linh hồn chính bệnh nhân, một điều không thể được, trừ với người tiến hóa cao.
e. Nhờ các phương tiện huyền bí rơ rệt, như là tạo thành một tam giác trị liệu gồm
Phương pháp này liên quan tới nhiều tri thức và người chữa trị phải đạt được tŕnh độ phát triển tâm linh cao, việc đó cũng đ̣i hỏi khả năng liên kết của người chữa trị với Chân Sư và nhóm của Chân Sư, cộng với quyền cầu xin năng lượng của nhóm để giúp bệnh nhân – một điều cho đến nay ít khi được chấp thuận.
Trước nhất, tôi xin nêu ra rằng mục đích và ư định của tôi không phải là viết ra một bộ luận về y học. Do đó tôi sẽ không bàn đến khoa giải phẫu cơ thể, tôi cũng sẽ không bàn đến các triệu chứng của bệnh tật, trừ phi hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôi không định đi sâu vào chi tiết các triệu chứng hay xem xét nhiều bệnh tật với các tên gọi dài ḍng mà hiện nay người ta dùng để phân biệt; mọi chi tiết như thế, bạn có thể thu thập được trong các sách giáo khoa thông thường, nếu bạn muốn, và bạn có thể đem chúng ra để nghiên cứu nếu cần. Tôi thấy rằng đó là việc riêng của mỗi người, và không đặc biệt thích hợp với cuộc nghiên cứu này. Chúng ta sẽ bắt đầu với tiền đề cho rằng vốn có bệnh tật; bệnh tật đó là hậu quả của các nguyên nhân bên trong. Con người đă đạt được hiểu biết nhiều về hiệu quả của các nguyên nhân này khi họ tạo ra các thay đổi ở lớp vỏ ngoài của con người, như khoa học đă làm trong việc t́m hiểu về ngoại thể (outer garment) của Thượng Đế, tức là thế giới của bản chất thuộc cơi hiện tượng.
28
Việc
cải thiện, làm thuyên giảm và chữa lành bệnh
tật của y học và giải phẫu học đă
tỏ ra vượt ngoài mọi bàn căi có thể gây tranh
luận. Các phương pháp được dùng, như là
giải phẫu sinh thể loài vật, đúng là có tạo
ra đau đớn cho con vật. Mặc cho mọi
điều này, nhân loại vẫn chịu ơn y học
rất nhiều, và việc phụng sự mà y học
đem lại cho nhân loại, chắc chắn hóa giải được
phần lớn đau khổ. Đành rằng con
người không biết đúng hết mọi
điều. Đành rằng có một số ít y sĩ và nhà
giải phẫu (ít hơn so với bất cứ giới
nào khác) v́ tư lợi và không được tin cậy v́
mánh khóe của họ, quả vậy; đành rằng
họ đă hiểu biết đủ để sẵn
sàng chấp nhận rằng c̣n rất nhiều điều
hơn nữa mà họ cần phải biết. Tuy nhiên
điều cũng đúng là có một nhóm người cao
cả, tốt lành, có tinh thần hy sinh trong gia đ́nh nhân
loại. Xin đừng quên điều này.
Tôi bàn đến khía cạnh chủ quan của con người và đến các nguyên nhân thứ yếu bắt nguồn từ trong các nội thể của con người và ở khía cạnh bên trong của chính bản thể. Như tôi đă giải thích ở trên, các nguyên nhân sơ khởi chính yếu đều không thể hiểu được đối với bạn. Chúng vượt ngoài khả năng của hạ trí. Tôi t́m cách làm sáng tỏ những ǵ mà con người có thể làm để tự ḿnh ngày càng thoát khỏi tích nghiệp (accumulation) của quá khứ, cả đối với cá nhân lẫn tập thể, và nhờ làm thế mới thanh tẩy thể xác của ḿnh khỏi các mầm bệnh. Tuy nhiên, cần nhớ rằng nhiều bệnh có bản chất tập thể, và tất nhiên có sẵn trong chính nhân loại. Người nào t́nh cờ đi qua các khu rừng cũng đều có thể thấy rằng giới côn trùng đang tàn phá và hủy diệt giới thực vật, cũng thế, các mầm bệnh – thuộc cá nhân và tập thể – ngày nay đang tàn phá và hủy diệt giới nhân loại. Chúng là các tác nhân hủy diệt và đang hoàn thành một chức vụ và bổn phận rơ rệt trong thiên cơ vĩ đại hiện nay.
29
Định
mệnh của con người là tử vong, v́ mọi
người đều phải chết khi có mệnh
lệnh của chính linh hồn ḿnh. Khi con người
đă đạt đến một tŕnh độ tiến
hóa cao, với sự lựa chọn ngày giờ một cách
cẩn thận và rơ rệt, y sẽ tách khỏi xác thân
của ḿnh một cách tỉnh thức. Thể xác sẽ
bị bỏ lại trong im lặng, v́ thiếu linh hồn,
thiếu ánh sáng, nhưng lành lặn và nguyên vẹn. Sau
đó, nó sẽ tan ră theo tiến tŕnh tự nhiên, và các nguyên
tử cấu tạo của nó sẽ quay về với “cái
kho có các đồng loại đang chờ”, cho đến
khi chúng lại được cần dùng cho các linh hồn
lâm phàm. Một lần nữa, ở khía cạnh bên trong
của sự sống, tiến tŕnh được lặp
lại. Tuy nhiên, có nhiều người đă biết cách
triệt thoái khỏi thể cảm dục mà không phải
chịu “va chạm trong sương mù” (“impact in the fog”), là
lối mô tả tượng trưng cái chết của con
người trên cơi cảm dục. Sau đó, con
người tiếp tục triệt thoái lên cơi trí và bỏ
lại cái xác cảm dục của y trương lên như
sương mù và tăng thêm mật độ (density)
của nó.
Do đó, tôi xin nói rằng việc tôi tránh dùng các thuật ngữ chuyên về y học sẽ được cân nhắc kỹ, dù rằng, chúng ta sẽ thường đề cập đến thể xác và đến các bệnh tật mà nó thường mắc phải.
Thứ hai là, hôm nay tôi t́m cách truyền đạt cho bạn thêm các Định Luật Chữa Trị khác, cũng như đưa thêm các Qui Luật cho người chữa trị. Hăy nghiên cứu kỹ các điều này.
ĐỊNH LUẬT II
30
Bệnh tật là sản
phẩm của và lệ thuộc vào ba ảnh hưởng.
Thứ nhất là quá khứ của một người,
trong đó y trả giá cho các lỗi lầm cũ. Thứ
hai là sự kế thừa của người ấy, trong
đó y chia sớt với tất cả nhân loại các ḍng
năng lượng bị ô nhiễm vốn có cội
nguồn ở tập thể. Thứ ba là y chia sớt
với tất cả mọi h́nh hài thiên nhiên những ǵ mà
Đấng Cai Quản Sự Sống đặt để
trên thể của Ngài. Ba ảnh hưởng này
được gọi là “Định Luật Cổ
của việc San Sẻ Sai Trái”. Một ngày nào đó
Luật này phải thay thế cho Luật mới về
Điều Thiện Cổ Xưa Chế Ngự, nằm
đàng sau tất cả những ǵ mà Thượng
Đế đă làm. Định Luật này phải
được đưa vào hoạt động bởi ư
chí tinh thần của Con người.
Hỡi huynh đệ, định luật là ǵ? Đó là sự đặt để ư chí và mục đích của những ǵ vô cùng vĩ đại (vào cả cái kém quan trọng lẫn cái quan trọng hơn). Do đó mà định luật vượt ngoài tầm hiểu biết của con người. Một ngày nào đó, con người phải tri ra rằng mọi định luật của thiên nhiên đều có các đối phần tâm linh cao của chúng, và chúng ta sẽ nghiên cứu các đối phần này một cách vắn tắt thôi. Hiện nay, các định luật của chúng ta đều chỉ là các định luật thứ yếu. Chúng là các định luật của sự sống tập thể và chúng chi phối các giới của thiên nhiên và t́m cách biểu lộ (đối với giới nhân loại) qua trung gian của thể trí, của bản chất cảm dục và qua phương tiện của cơi trần. Trong bộ luận ngắn này tôi không định làm sáng tỏ các định luật nguyên thủy. Tôi chỉ phát biểu chúng và trong tương lai (tùy vào một vài yếu tố chưa được phát triển) tôi mới có thể bàn về chúng.
Trong bộ luận này, phần thứ ba của nó được bàn đến các định luật chữa trị căn bản. Các định luật này không liên quan đến các định luật nói trên, mà chỉ liên quan đến các khía cạnh thực hành của thuật trị liệu.
Qui luật thứ hai dành cho nhà chữa trị như sau:
QUI LUẬT HAI
Kẻ chữa trị phải đạt được sự tinh khiết về từ điện nhờ sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt được phóng quang (radiance) có tính chất xua tan vốn tự biểu lộ trong mỗi người khi y đă liên kết được các trung tâm lực trong đầu. Khi từ trường này được thiết lập, bức xạ cũng phát ra.
31
Ư
nghĩa của qui luật này sẽ trở nên sáng tỏ
phần nào đối với đạo sinh huyền
học tiến hóa. Như các bạn biết từ
trường được thiết lập khi rung
động mănh liệt của trung tâm lực ở
trước tuyến yên, và trung tâm lực ở chung quanh và
ở trên tuyến tùng quả tiến vào phạm vi hoạt
động của nhau. Điểm duy nhất có thể gây
tranh luận liên quan đến qui luật trên (mà chúng ta
sẽ phải xem xét sau này) là làm thế nào và bằng cách
nào để đạt sự tinh khiết từ
điện và làm sao cho hai trung tâm lực trong đầu có
thể cùng nhau hợp thành một từ trường duy
nhất. Về sau, trong phần kết luận, vốn
được dự kiến để được
thực hành triệt để, tôi sẽ đề cập
đến hai điểm này.
Một trong các sự kiện sẽ hiện ra rơ rệt trong các nghiên cứu của chúng ta, đó là sự kiện ít khi bệnh tật có nguồn gốc ở cá nhân, trừ phi con người lăng phí cuộc đời ḿnh và lạm dụng rơ rệt thể xác của ḿnh (qua rượu chè hoặc trụy lạc). Chúng ta cũng thấy rằng phần lớn các bệnh tật xảy ra trên thế giới ngày nay hầu hết đều có nguồn gốc tập thể, bị di truyền, là hậu quả của lây nhiễm hoặc do thiếu dinh dưỡng. Nguyên nhân nêu sau cùng trước tiên là một tác tệ của nền văn minh này; đó là hậu quả của việc không ăn khớp về kinh tế hoặc là thực phẩm hư hỏng. Như trước kia tôi có nêu ra, các nguyên nhân sau của bệnh tật trước tiên không phải là hậu quả của các mănh lực tinh anh bên trong, mà là sự tuôn đổ vào thể dĩ thái của các năng lượng từ chính cơi trần và từ thế giới bên ngoài của các lực.
32
Các
huấn sư huyền bí học ít quan tâm đến các mănh
lực ngoại lai này vốn bắt nguồn từ cơi
trần và tác động vào các nội thể. Có các năng
lượng vật chất và các ḍng thần lực thâm
nhập vào các thể dĩ thái của mọi h́nh hài,
cũng như ảo tưởng của thế gian và khí
độc (miasmas) của cơi cảm dục thường có
các nguyên nhân của chúng trong các t́nh trạng của cơi
trần. Các năng lượng thâm nhập vào các trung tâm
lực của con người từ các phân cảnh tinh anh,
vẫn thường được nói đến trong các
sách huyền bí, nhưng các lực đang t́m cách nhập vào
các trung tâm lực từ cơi của sự sống hồng
trần th́ ít khi được nhận thức hay bàn
đến. Đây là một ư tưởng khá mới mẻ
mà tôi nêu ra cho các bạn xem xét.
Tôi đă yêu cầu A. A. B. thêm vào đây một bảng tóm tắt về một số điểm mà tôi đă nêu ra dưới tiêu đề: Bệnh tật là ǵ? Tôi gợi ư như sau:
1. Mọi bệnh tật là sự thiếu hài ḥa, thiếu chỉnh hợp và thiếu kiềm chế.
a. Bệnh tật nằm trong cả bốn giới của thiên nhiên.
b. Bệnh tật có hiệu quả thanh lọc.
c. Có những phương pháp chữa trị nhất định được dùng riêng cho nhân loại và có nguồn gốc ở thể trí.
2. Bệnh tật là một thực kiện trong thiên nhiên.
a. Thái độ đối kháng bệnh tật chỉ làm cho nó thêm mạnh mẽ.
b. Bệnh tật không phải là kết quả của tư tưởng sai lầm của con người.
3. Bệnh tật là một tiến tŕnh giải thoát và là kẻ thù của những ǵ tĩnh tại.
4. Định Luật Nhân Quả chi phối bệnh tật giống như nó đang chi phối mọi biểu lộ khác.
Chúng ta cũng thấy rằng việc chữa trị xảy ra theo ba cách:
1. Bằng cách áp dụng các phương pháp của nhiều trường phái y học, giải phẫu và các nhóm liên hệ.
2. Bằng cách sử dụng tâm lư học.
3. Bằng sự hoạt động của linh hồn.
Tôi cũng đă phát biểu rằng có ba nguyên nhân chính của bệnh tật: các nguyên nhân có bản chất tâm lư, các nguyên nhân kế thừa do sự tiếp xúc tập thể và các nguyên nhân thuộc nghiệp quả. Tuy nhiên, nên nhớ rằng các nguyên nhân này chỉ là các nguyên nhân phụ thuộc, và bây giờ, chúng ta sẽ bàn đến nguyên nhân đầu tiên.
33
I. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TRONG
BẢN CHẤT CẢM DỤC
Trong quyển “Luận Về Huyền Linh Thuật”, lần đầu tiên tôi đưa ra cho thế gian sự hiểu biết về bản chất và cách kiểm soát thể cảm dục. Thực ra sách này là quyển đầu tiên từng được cống hiến cho quần chúng về đề tài này. Trong quá khứ, nhiều điều đă được đưa ra về đề tài thể xác và cách chăm sóc nó, cả theo khoa học bên ngoài lẫn theo huyền bí học. Nhiều điều trong đó th́ đúng, c̣n một số chỉ là ảo tưởng. Nó là ảo tưởng v́ được dựa trên các tiền đề sai lầm. Các nhà huyền bí học hiện đại đă bàn về vấn đề thể dĩ thái, và điều này cũng đúng một phần và sai một phần, nhưng nói chung là đúng xét theo quan điểm huyền môn hơn là về mặt công truyền. Ở đây, tôi có thể làm bạn ngạc nhiên khi nói cho bạn biết rằng quyển “Luận về Huyền Linh Thuật” dù chính xác ở chừng mực nào đó, nhưng tất nhiên là nó bị giới hạn và v́ những giới hạn này, nên nó cũng phần nào không chính xác. Phát biểu trên đây có làm cho bạn ngạc nhiên không? Nên nhớ rằng, làm sao nó có thể hoàn toàn đúng được khi chúng tôi xét các giới hạn của năng lực hiểu biết của bạn? Tôi không thể truyền đạt chân lư cho bạn, v́ không có đủ thuật ngữ mà cũng không có việc chuẩn bị kiến thức đầy đủ về phần bạn. Điều này làm cho công việc của tôi trở thành khó khăn. Giáo huấn về trị liệu này cũng là giáo huấn khó nhất mà tôi đảm nhận, v́ hai lư do: Trước nhất (bản chất thực sự của) nhóm từ “các thể tinh anh” th́ có hơi vô nghĩa, phải không? Chúng không phải là các thể giống như thể xác. Chúng có thể được xem như các trung tâm lực hoặc các nơi dự trữ những loại thần lực đặc biệt, gắn liền vào mỗi cá nhân, có các lối vào và các lối ra riêng của chúng. Chúng là tập hợp của các nguyên tử, rung động ở vận tốc cao và bị nhuốm những màu sắc nào đó (tùy theo một vài trường phái huyền môn). Chúng phát ra một âm điệu (tone) nào đó, và có các tŕnh độ tiến hóa khác nhau. Theo những phái khác, th́ chúng là các trạng thái tâm thức và một số xem chúng như được tạo ra giống con người. Hỡi huynh đệ, c̣n định nghĩa của bạn là ǵ?
34
Đối
với đa số nhân loại, thể cảm dục là
yếu tố quyết định chính cần
được xem xét. Nó là nguyên nhân nổi bật của
t́nh trạng sức khỏe kém cỏi. Lư do là nó có một
hiệu quả mạnh mẽ và ảnh hưởng
đến thể sinh lực (thể dĩ thái). Thể xác
là một người máy của bất cứ nội
thể nào mạnh nhất. Khi bạn nhớ rằng
thể sinh lực là nơi tiếp nhận các ḍng năng
lượng, và thực ra nó được cấu tạo
và được h́nh thành bởi các ḍng năng
lượng đó, và nhớ rằng thể xác
được đưa vào hoạt động nhờ các
ḍng năng lượng ấy, th́ rơ ràng là ḍng năng
lượng nào mạnh nhất sẽ kiểm soát
được tác động của thể xác trên cơi
trần. Tuy nhiên, có hai ḍng năng lượng phải
được xem xét khi nghiên cứu các yếu tố
đưa đến các hoạt động ở cơi
trần. Về chỗ này tôi xin nhắc bạn rằng
bệnh tật là một hoạt động của cơi
trần.
1. Chính ḍng sinh lực nằm ở (anchored) tim, định đoạt sức sống (vitality) của con người, năng lực làm việc của y và kỳ hạn sống của y.
2. Ḍng năng lượng chiếm ưu thế xuất phát từ các thể cảm dục, thể trí hoặc thể của linh hồn (soul bodies). Các thể này kiểm soát sự biểu lộ của con người trên cơi trần.
Với quần chúng khắp thế gian và với những người mà chúng ta gọi là quần chúng kém suy tư, các yếu tố chế ngự là ḍng sinh lực và ḍng năng lượng cảm dục. Đây có thể là những người kém khả năng hay khả năng trung b́nh.
Với quần chúng biết suy tư, các yếu tố chế ngự là hai ḍng năng lượng này, cộng với một ḍng năng lượng trí tuệ đang liên tục đi vào ngày càng tăng.
35
Với
giới trí thức trên thế giới và người t́m
đạo (những kẻ đang sẵn sàng, hay đă
bước vào con đường dự bị), chúng ta
thấy ba ḍng năng lượng trên đạt
đến một điểm thăng bằng, và như
thế, tạo ra một phàm ngă hội nhập hay phối
kết. Trong số này cũng có những nhà thần bí trên
thế giới và những người phụng sự có óc
sáng tạo, họ biết được linh hứng, và
giao tiếp tâm linh là dấu hiệu của năng
lượng linh hồn đang bắt đầu đi vào.
Trong các đệ tử ở thế gian, chúng ta thấy có một nhóm người nam và nữ đang ở dưới sự chi phối của năng lượng linh hồn, trong khi đó th́ ba ḍng năng lượng kia đang ngày càng phụ thuộc vào loại kiểm soát cao hơn này.
Cần nên nhớ rằng có hai loại năng lượng khác cần được kể ra khi xét đến người thông minh.
1. Năng lượng được tạo thành với các mănh lực pha trộn và ḥa hợp của một phàm ngă phối kết.
2. Năng lượng của chính cơi trần, sau cùng được người t́m đạo hoặc vị đệ tử đồng nhất hóa và hoàn toàn bị vô hiệu hóa đến nỗi rốt cuộc nó tạo ra một trong các yếu tố chính để giải phóng các bí huyệt.
Sau rốt, đến lúc vị điểm đạo đồ chỉ dùng ba loại năng lượng trong khi tự biểu lộ trong kiếp luân hồi: năng lượng của chính sự sống, năng lượng âm của phàm ngă và năng lượng dương của linh hồn. Như thế, vị ấy là một biểu hiện hữu thức của ba trạng thái của Tam Vị Nhất Thể (Trinity).
Một số điều cần được thiết lập dưới h́nh thức các sự kiện huyền linh trong ư thức của nhà trị liệu trước khi y có thể hành động một cách hữu ích.
36
1.
Trước tiên, không có ǵ khác ngoài năng lượng, và
năng lượng này tự biểu lộ thành nhiều
loại năng lượng khác nhau. Vũ trụ
được tạo thành bằng các loại năng
lượng này. Các thể hay các hiện thể biểu
lộ của con người cũng được
cấu tạo bằng các đơn vị năng
lượng mà không có ngoại lệ nào. Các đơn
vị này chúng ta gọi là các nguyên tử, và các đơn
vị nguyên tử này được gom lại với nhau
thành h́nh dạng một cơ thể nhờ lực kết
hợp của các năng lượng mạnh mẽ
hơn.
2. Điểm tập trung năng lượng chính ở trong con người là tụ điểm của linh hồn. Tuy nhiên, từ trước đến giờ, mănh lực đóng vai tṛ kết hợp và phối kết của nó, vẫn trội hơn mănh lực đặc trưng của nó. Trong các giai đoạn trước kia của cuộc tiến hóa con người, chính trạng thái kết hợp mới biểu lộ. Về sau, khi bộ máy đáp ứng của con người, hay các thể, trở nên phát triển hơn, th́ trạng thái phẩm tính của linh hồn mới bắt đầu ngày càng biểu lộ.
3. Nh́n từ phương diện nội tâm, nơi mà thời gian không hiện hữu, th́ con người biểu lộ như một hiện tượng hay biến đổi và đáng kinh ngạc như kính vạn hoa. Cái được gọi là các thể, hay đúng hơn, là tập hợp các đơn vị nguyên tử, phai mờ và biến mất, hay là lóe lên trở lại thành biểu lộ. Các ḍng màu sắc qua rồi trở lại; chúng xoắn hay đan vào nhau. Bấy giờ, một vài chỗ sẽ đột nhiên tăng thêm độ sáng của chúng và tỏa chiếu rực rỡ; hoặc là lần nữa chúng có thể tắt đi và hiện tượng trong một vài vùng sẽ bị mất màu sắc và có vẻ không tồn tại. Nhưng luôn luôn có một nguồn sáng vẫn c̣n, đang linh trợ, từ đó, một ḍng ánh sáng tuôn đổ vào con người của cơi hiện tượng; có thể thấy ánh sáng này tự gắn liền vào hai vị trí chính so với cái nhân đặc bên trong của con người vật chất. Hai điểm liên kết này nằm ở trong đầu và trong tim. Ở đó cũng có thể thấy bảy đĩa sáng khác, lúc đầu mờ nhạt, nhưng ngày càng chói sáng, chúng là chứng cớ ban đầu của bảy trung tâm lực.
37
4. Các trung tâm lực này tạo nên các trạng thái phẩm tính và các trạng thái ư thức, chức năng của chúng là tô màu cái bề ngoài hay ngoại hiện của con người và dùng nó làm một bộ máy đáp ứng. Trong diễn tŕnh tiến hóa, chúng khai mở theo ba cách.
a. Loại khai mở xảy ra khi một đứa trẻ ở cơi trần trở thành một người lớn. Vào lúc nó được 21 tuổi, các trung tâm lực sẽ b́nh thường đạt đến cùng tính chất biểu hiện như chúng đă đạt đến khi y qua đời trong kiếp trước. Lúc bấy giờ, con người tiếp tục sống ở mức mà y đă rời bỏ trước kia.
b. Khơi hoạt các trung tâm lực nhờ kinh nghiệm sống. Đôi khi chỉ một trung tâm lực có thể được khơi hoạt trong một kiếp sống nào đó; đôi khi nhiều trung tâm lực được thúc đẩy vào tâm thức hoạt động to tát hơn.
c. Sau cùng, các trung tâm này được khơi hoạt qua tiến tŕnh điểm đạo. Dĩ nhiên, điều này chỉ xảy ra khi con người đă ở trên Thánh Đạo một cách hữu thức.
38
5. Các
trung tâm lực định đoạt tŕnh độ
tiến hóa của con người chừng nào con
người c̣n biểu lộ ở cơi hiện tượng.
Chúng tác động trực tiếp vào thể xác qua trung
gian của hệ thống tuyến nội tiết.
Điểm này cần được ghi nhớ, bởi v́
nhà chữa trị theo huyền môn trong tương lai
sẽ tiếp cận với bệnh nhân của ḿnh
bằng tri thức này. Lúc bấy giờ y sẽ hoạt
động qua các trung tâm lực và các tuyến nào đang
chi phối vùng bị bệnh hay đang đau ốm
của cơ thể. Tuy nhiên, chưa đến lúc có
thể làm việc đó, v́ sự vô minh của con
người hăy c̣n nhiều. Việc kích thích quá mức các
bí huyệt, và tất nhiên là các tuyến, có thể dễ
dàng xảy ra, và t́nh trạng bệnh cũng có thể
bị kích thích và tăng thêm, thay v́ được làm tiêu
tán hay chữa lành.
A. XÚC CẢM THIẾU KIỂM SOÁT VÀ BẤT THƯỜNG
Căn cứ vào các sự kiện căn bản này, người ta có thể thấy được tại sao các thái độ cảm xúc sai lầm, và một t́nh trạng kém sức khỏe chung của thể cảm dục phải là các yếu tố chủ động tạo ra đau yếu, bệnh tật. Điều này cũng do sự kiện là thể sinh lực hay thể dĩ thái của đa số nhân loại đều bị chi phối trước tiên và lôi cuốn vào hoạt động qua tác động của thể cảm dục. Sự khích động trong thể đó, bất luận hoạt động dữ dội nào do tính khí căng thẳng, lo âu quá đỗi hay là phiền muộn kéo dài sẽ tuôn đổ một luồng năng lượng cảm dục vào trong và qua huyệt đan điền, sẽ khích động bí huyệt đó và đưa nó vào một t́nh trạng xáo trộn mạnh. Sau đó, tác động này ảnh hưởng đến bao tử, tụy tạng, ống dẫn mật và bàng quang. Ít người (tôi xin hỏi ai được miễn trừ ở thời buổi đặc biệt này của lịch sử thế giới) thoát khỏi chứng khó tiêu, thoát khỏi t́nh trạng khó chịu ở dạ dày hay thoát khỏi các xáo trộn liên quan đến túi mật.
39
Khuynh
hướng thích chỉ trích, ghét bỏ và thù hận do
chỉ trích, hoặc mặc cảm tự tôn, đều
tạo ra nhiều chất chua mà đa số người
bị đau v́ đó. Nhân tiện, tôi xin thêm rằng ở
đây, tôi chỉ khái quát hóa thôi. Rất nhiều
người thường có mặc cảm tự ty liên quan
đến chính họ, nhưng lại có mặc cảm
tự tôn đối với người khác ! Các hậu
quả liên quan đến dạ dày ở cơi trần,
đều có ràng buộc chặt chẽ vào trạng thái
ham muốn của thể xác, nó t́m cách biểu lộ
trong việc ăn uống những ǵ được ưa
thích, sau đó đưa đến các bệnh về
mật mà rất nhiều người đang có khuynh
hướng mắc phải.
Tôi đưa ra các minh họa trên để chứng minh hậu quả của các thái độ sai lầm thường thấy đối với cuộc sống và con người, mà ngày nay là đặc trưng cho nhân loại, và tạo ra các t́nh trạng nói ở trên.
Các ốm đau do chỉ trích, do sự thù ghét, và do tính ưa phê phán lẫn nhau (thường thường là tàn nhẫn) tác động từ bí huyệt cổ họng đến đan điền. Liên hệ hỗ tương này tồn tại giữa các bí huyệt là liên hệ chưa bao giờ được người ta xem xét một cách thích đáng. Các trung tâm lực trong thể dĩ thái chuyển nhiều loại năng lượng giữa chúng, và một số lớn năng lượng được truyền từ bí huyệt này đến bí huyệt khác thuộc loại bất hảo, lưu chuyển từ các huyệt dưới cách mô đến các huyệt trên cách mô.
Thể xác (gồm thể dĩ thái và nhục thể) có thể được mô tả như một ngôi nhà có hai máy điện thoại – một mang đến năng lượng từ bên ngoài nhà, cái kia có bản chất là điện thoại trong nhà, từ pḥng này sang pḥng khác. Đối với người nghĩ tưởng sơ sài, sự tương tự hiện ra càng chính xác hơn. Trong mọi ngôi nhà tân tiến đều có ánh sáng, nước, khí đốt và giao dịch điện thoại. Ánh sáng tượng trưng cho linh hồn; nước tượng trưng cho xúc cảm; giao dịch điện thoại tượng trưng cho trí với sự truyền đạt kiến thức lẫn nhau, c̣n khí đốt tượng trưng cho chất dĩ thái.
40
Điều
đáng lưu ư và đáng buồn là hiện nay những ǵ
từ một ngôi nhà bậc trung đưa ra lại là rác
rưởi không ai ưa thích – điều đó
tương ứng với những ǵ ích kỷ, buồn
chán và sự đ̣i hỏi để thỏa măn các nhu
cầu và ham muốn cá nhân.
Do đó, bạn có thể thấy lư do tại sao tôi rất nhấn mạnh vào việc cần có đức tính không gây tổn hại nơi tất cả các bạn, v́ đó là phương pháp khoa học tuyệt diệu nhất nói về mặt huyền bí, để tẩy sạch ngôi nhà và thanh lọc các bí huyệt. Thực hành đức vô tổn hại sẽ khai thông các vận hà bị tắc nghẽn và giúp cho các năng lượng cao siêu đi vào.
Trong thời kỳ đặc biệt này, các nguyên nhân về t́nh cảm của bệnh tật và các thái độ tâm trí tạo ra sự khó chịu trong thể xác là những điều thường thấy nhất. Khi các điều ấy tồn tại trong một thời gian dài và được chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, th́ chúng sẽ tạo ra các trạng thái trầm trọng hơn đối với t́nh trạng được nói ở trên, từ đó có thể phát sinh các bệnh trầm trọng và hiểm nghèo, thí dụ như cần phải cắt bỏ túi mật, hay có thể cần các cuộc giải phẫu để chữa các bệnh loét bao tử kinh niên. Các bệnh khác th́ phát sinh do thường chạy theo thị hiếu của bản chất dục vọng, dù cho các bệnh tính dục lại đến dưới một chủng loại khác. Do lư do trên, có thể thấy là đáng mong muốn biết bao nếu nhà chữa trị chân chính phối hợp nơi chính ḿnh không chỉ một mức độ kiến thức huyền môn, mà (ngày nào y chưa trở nên một điểm đạo đồ) c̣n biết qua về tâm lư học, về công việc của nhà chữa trị bằng từ điện và cũng phải là một y sĩ hay một nhà giải phẫu thành thạo.
41
Nhiều
cách chữa trị hiện nay được thực
hiện một cách tệ hại, nếu không muốn nói là
vô ích, v́ ba điều kiện kể trên đều
thiếu. Đa số các bác sĩ, nhất là các vị
được gọi là bác sĩ đa khoa, là các nhà tâm lư
học giỏi và họ cũng có một hiểu biết
vững chắc về các triệu chứng, về giải
phẫu học và các phạm vi trị liệu, vốn
thường thiếu sót nơi nhà chữa trị siêu h́nh
bậc trung. Tuy nhiên, họ hoàn toàn không biết về
một lănh vực hiểu biết rộng lớn – có liên
quan đến năng lượng, nó gặp và gây xung
đột bên trong cơ thể con người. Họ
cũng không biết đến các mănh lực mà họ có
thể phát động nếu một số chân lư huyền
học được chấp nhận đúng lúc.
Trước khi mà họ tác động với thể
dĩ thái và nghiên cứu môn học về các bí huyệt, th́
họ có thể tiến bộ rất ít. Nhà trị
liệu theo huyền môn biết nhiều về các mănh
lực và năng lượng bên trong con người, và có
hiểu biết ít nhiều về các nguyên nhân căn
bản của các bệnh bên ngoài, nhưng đáng tiếc y
không biết ǵ về cơ cấu của con người
và y không hiểu được hai điều:
Thứ nhất, đôi khi bệnh tật là sự thể hiện của các t́nh trạng bất hảo ở bên trong. Khi các t́nh trạng này xảy ra ở trên cơ thể con người, th́ bấy giờ, người ta mới có thể biết được để đối phó và trừ khử. Cũng cần nhớ rằng đôi khi sự thể hiện và thải trừ đó có thể đưa đến cái chết của cơ thể. Tuy nhiên, linh hồn vẫn tiếp tục sống. Một kiếp sống ngắn ngủi không có giá trị bao nhiêu trong chu kỳ dài của linh hồn, và được coi là rất đáng sống nếu một giai đoạn sức khỏe kém (cho dù rốt cuộc phải chết) đưa tới việc tẩy sạch các t́nh trạng sai lầm trong t́nh cảm và trí tuệ.
Thứ hai, bệnh tật đôi khi gắn liền và là một phần của tiến tŕnh triệt thoái của linh hồn ra khỏi trú sở của nó. Điều này, chúng ta gọi là sự chết, nó có thể xảy đến một cách mau lẹ và bất ngờ khi linh hồn triệt thoái một cách đột ngột ra khỏi thể xác của nó. Hoặc là sự chết có thể trải rộng trong suốt một thời gian dài, và linh hồn có thể mất nhiều tháng hay nhiều năm để thoát ra khỏi thể xác một cách từ từ và chậm răi khiến cho thể xác phải chết dần chết ṃn.
Tuy nhiên, nhiều nhà chữa trị lại chưa có đủ kiến thức để có thể xử lư các vấn đề này một cách khôn ngoan. Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng:
42
1.
Bệnh tật là một diễn tŕnh thanh lọc,
được tiến hành để tạo ra sự
biểu lộ tinh khiết hơn, hương vị
của sự sống, ảnh hưởng, và sự
hữu dụng cho linh hồn. Trong trường hợp này,
bệnh có thể được chữa lành.
2. Bệnh tật có thể là một diễn tŕnh tuần tự và chậm chạp của sự chết, và như vậy giải phóng linh hồn. Lúc đó sẽ không thể chữa được, dù rằng các biện pháp giảm đau và cải thiện đều cần thiết và chắc chắn nên được sử dụng. Tuổi thọ có thể được kéo dài, nhưng việc chữa trị lâu dài và rốt ráo th́ không thể được. Nhà chữa trị tâm thần bậc trung không thể hiểu được điều này. Họ sợ chết, trong khi đó sự chết lại là một người bạn tốt.
3. Bệnh tật có thể là sự kêu gọi bất ngờ và cuối cùng để xác thân từ bỏ linh hồn, để cho linh hồn rảnh rang lo công việc phụng sự khác.
Trong tất cả các trường hợp này, mọi việc chữa trị có thể đều nên được làm, theo quan điểm y khoa và khoa giải phẫu hiện đại, và các khoa học có liên quan khác hiện có rất nhiều. Cũng có nhiều điều có thể được làm theo khía cạnh chữa trị về tâm thần, và tinh thần được trợ giúp của khoa tâm lư học. Một ngày nào đó phải có sự hợp tác trong các lănh vực khác nhau này và tổng hợp các cố gắng của các khoa đó.
Trước đây tôi có nêu ra rằng thể cảm dục là nhân tố kích động quan trọng nhất trong các kiếp sống của đa số nhân loại. Điều này do bởi sự kiện sau:
1. Đó là thể mà phần đông con người ngày nay đang tập trung tâm thức của họ vào đó.
2. Hiện nay; đó là thể phát triển nhất trong số các thể, do đó nó nhận được phần lớn năng lượng sống khi năng lượng này tuôn đổ xuống từ linh hồn, và nó cũng nhận được năng lượng của ḍng ư thức.
43
3. Có
thể nói là nó hướng ra ngoài hay hướng về cơi
kinh nghiệm hồng trần. Trong trường hợp
người t́m đạo, sự định hướng
đó đôi khi thay đổi và tạm thời
hướng vào trong. Cũng như các bí huyệt trong con
người, tức là các “hoa sen của sự sống”,
được mô tả là quay xuống dưới, c̣n cuống
th́ hướng lên nơi người chưa phát triển;
nhưng ở người đă phát triển th́ các hoa sen
này lại quay lên; cũng thế, t́nh trạng trong thể
cảm dục tương đồng với điều
này. Trong trường hợp của người tiến
hóa cao, của điểm đạo đồ hoặc Chân
Sư, th́ thể cảm dục luôn luôn hướng về
linh hồn. Nơi thần bí gia, người t́m đạo
và đệ tử, tiến tŕnh chuyển hướng rơ rệt
của các lực được tiếp diễn, và do
đó mà tạo ra một sự xáo trộn tạm thời.
4. Thể cảm dục của con người là thể được phát triển gần đây nhất (theo thứ tự thời gian th́ thể xác và thể dĩ thái là hai thể được phát triển trước) cho nên thể cảm dục vẫn là thể sống động và mạnh mẽ hơn hết. Nó đạt tới tột đỉnh phát triển vào cuối thời Atlantis và sức mạnh của nó vẫn c̣n lớn, tạo thành sức mạnh của quần chúng, tầm quan trọng và sức tập trung của quần chúng. Mănh lực này cũng được tăng thêm bằng năng lượng xuất phát từ giới động vật, giới này có tŕnh độ phát triển hoàn toàn thuộc thể cảm dục.
44
Ở
đây, tôi xin nhắc các bạn nhớ rằng việc
sử dụng từ ngữ “thể” (“body”) là hết
sức sai lầm và không thích hợp. Từ ngữ này
tạo ra trong tâm thức cái ư tưởng về một
h́nh thể rơ rệt và một dạng thức đặc
biệt. Thể cảm dục là một tập hợp các
mănh lực, tác động qua tâm thức dưới h́nh
thức các dục vọng, các xung lực, các khát vọng,
các ước muốn, các quyết tâm, các khuyến khích và
các dự tính, như thế đặt căn bản cho
nhiều chân lư thuộc các giáo huấn của tâm lư học
hiện đại. Các nhà tâm lư học đă khám phá (hay nói
đúng hơn là đă phát triển) bản chất của
một số mănh lực này, và thực ra cách dùng thuật ngữ
của họ trong vấn đề này thường hay có
tính cách huyền bí, và chính xác hơn các dụng ngữ
của các nhà huyền bí học chính thống và nhà nghiên
cứu minh triết thiêng liêng.
Có lẽ sẽ có ích cho bạn nếu tôi làm hai việc. Trước hết đưa cho bạn chi tiết chuyên môn nào liên hệ đến cách hoạt động của các lực từ cơi cảm dục vào trong thể xác, rồi kế đó cho bạn biết các hậu quả của tác động đó dưới dạng bệnh tật và nhiều sự xáo trộn khác nhau mà con người có khuynh hướng mắc phải do họ sử dụng các mănh lực ấy một cách sai lầm. Vào lúc này, chúng tôi chưa bàn đến cách chữa trị chúng. Ở đây, tôi chỉ nêu ra cơ cấu của sự kiện để sau này chúng ta có thể dựa vào đó mà có các kết luận. Về điểm này, chúng ta sẽ chỉ xem xét một người b́nh thường thôi. Các khó khăn của bậc đệ tử sẽ được bàn đến ở phần I, tiết 4.
Trước đây, tôi đă nêu ra rằng ba nhóm bệnh chính yếu của quần chúng là:
1. Bệnh lao.
2. Các bệnh xă hội, thường được gọi là các bệnh hoa liễu và giang mai.
3. Bệnh ung thư.
Thêm vào đó, chúng ta phải kể hai nhóm bệnh khác đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến những người hơi trên mức trung b́nh, và những kẻ mà tŕnh độ thông minh chung cao hơn tŕnh độ của quần chúng. Trường hợp này cũng bao gồm những người t́m đạo trên thế gian.
4. Các bệnh tim, nhưng không phải chứng suy tim (heart failure).
5. Các bệnh thần kinh, rất thường gặp vào lúc này.
Năm nhóm bệnh này và các tế phân khác nhau của chúng, đang chịu trách nhiệm cho đa số các bệnh xác thân đang đánh vào nhân loại. Hiểu đúng các nguyên nhân chiếm ưu thế của chúng sẽ là trợ giúp rơ rệt cho y học sau này. Vào lúc đầy ngờ vực này, không biết bao nhiêu điều sẽ được chấp nhận.
45
Ở
đây, tôi xin nêu ra rằng, như bạn biết rơ, trong
thể xác có các phần tương ứng với bảy
trung tâm lực nằm trong thể dĩ thái và
được thể cảm dục bảo dưỡng.
Các phần tương ứng này chúng ta gọi là các
tuyến nội tiết. Các tuyến này là các hiệu
quả hay là các bằng chứng của các trung tâm lực
nói trên, và đến lượt chúng, khởi xướng
các nguyên nhân gây nên các hiệu quả nhỏ hơn trong
thể xác. Ở đây chúng tôi thấy nên liệt kê
một số sự việc mà chúng tôi đă biết
để giúp các bạn hiểu rơ thêm.
Bí huyệt Tuyến Các cơ quan Loại thần Nguồn Thể
trong thể xác lực cội
1. Đầu .. …Tùng quả… Thượng năo… Ư chí…. Atma … .Linh
Mắt phải. tinh thần. Monad hồn
Brahma- Tổng hợp. Xuyên thể.
randra Năng qua Bảo
Hoa Sen động. linh hồn. ngọc
1000 cánh Ư chí trong
Hoa sen.
Nhà huyền linh học. Điểm đạo đồ. Thánh Sư
Vượt trội sau cuộc điểm đạo thứ ba.
2. Bí huyệt… Tuyến …. Hạ năo……… Mănh lực …Tất cả … Hiện
giữa yên Mắt trái. linh hồn. các thể
hai mắt. Mũi. Bác ái. cánh bồ đề.
Bí Thần Từ điển. của hoa Linh
huyệt kinh hệ. Ánh sáng. sen hồn
ấn Trực giác. Chơn thể.
đường. Nhăn ngă. Thượng
thông. trí.
Người t́m đạo. Đệ tử. Nhà thần bí.
Vượt trội sau cuộc điểm đạo thứ hai.
3. Tim…… Tuyến……… Tim……… Sinh lực…Các ....Thượng
ức Hệ tuần cánh trí.
(thymus) hoàn. hoa Linh
Anahata Máu. Tập thể thức. bác ái. hồn thể.
Thần kinh phế vị.
Tất cả các hạng người có khuynh hướng tinh thần.
Vượt trội sau kỳ điểm đạo thứ nhất.
Bí huyệt Tuyến Các cơ quan Loại thần Nguồn Thể
trong thể xác lực cội
4. Trung …. Tuyến ……. Bộ máy …. Năng lượng ... Các …. Thể
tâm lực giáp hô hấp. Sáng tạo. cánh hoa hạ
cổ họng. trạng. Thực quản. Âm thanh. kiến thức. trí.
Ngă thức.
Các nghệ sĩ sáng tạo. Tất cả nhân loại tiến bộ. Giới trí thức.
5. Đan ….… Tụy ……. Bao tử …… Lực cảm dục…Các trung .. Thể
điền. tạng. Gan. tâm lực cảm
Túi mật. Xúc cảm. ở thể dục.
Hệ thần Dục vọng. cảm dục.
Kinh. Xúc giác.
Hạng trung nhân (Average man).
Người thông thường (Ordinary people).
6. Bí huyệt …Tuyến… Cơ quan …. Sinh Lực… Cơi trần… Thể
Xương cùng. sinh sinh dục. Lực của dĩ thái.
dục . cơi trần.
Năng lượng
sự sống.
Sức sống
động vật.
Hạng người tŕnh độ thấp gần với thú.
7. Chót xương … Tuyến … Thận….. Năng lượng ….. Đức Mẹ
sống. Thượng Cột Ư chí. Thế giới.
Mulahara thận. xương Sự sống
sống. đại đồng.
Kundalini
46
Bảng
liệt kê này chỉ là đại cương, và giống
như bảng liệt kê các nguyên khí và các tương
ứng của chúng đă được H. P. B. đưa
ra trong quyển III của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, cách
diễn giải nó sẽ tùy theo quan điểm của
người nghiên cứu. Chúng ta sẽ sử dụng nó
về sau, thêm vào nhiều cột hơn nữa và nhiều
tương ứng hơn nữa. Trong mọi khảo sát
này, những ǵ chúng tôi phải nói sẽ bao hàm sự
tổng hợp theo sau của cơ cấu đàng sau nó:
1. Linh hồn.
2. Các thể tinh anh của trí tuệ và các xúc cảm vốn chỉ là các trung tâm năng lượng định tính.
3. Thể sinh lực với bảy bí huyệt chính của nó.
4. Hệ thống tuyến nội tiết, vốn là hiệu quả của bảy bí huyệt và là yếu tố kiềm chế quyết định trong thể xác con người.
5. Hệ thần kinh gồm ba phân hóa.
6. Ḍng máu.
Tất cả các cơ quan phụ thuộc của con người đều là các hậu quả, chúng không phải là các nguyên nhân tiền định. Các tuyến là các nguyên nhân quyết định trong con người, chúng làm cho con người theo đúng bản chất của người ấy. Chúng là các ngoại hiện của các loại thần lực đang tuôn đổ qua các bí huyệt dĩ thái, từ các thế giới hiện tồn tinh anh. Chúng biểu hiện tŕnh độ tiến hóa mà con người đă đạt được; chúng được sinh động và linh hoạt, hay không sinh động và kém linh hoạt đều tùy theo t́nh trạng của các bí huyệt. Chúng biểu lộ sinh lực đầy đủ, quá mức hay là khiếm khuyết, tùy theo t́nh trạng của các xoáy lực dĩ thái.
Lại nữa, tiến tŕnh kiểm soát có thể được ấn định xuyên qua hệ thần kinh; sự quản trị phối hợp chặt chẽ của hệ thần kinh, năo bộ và ḍng máu (dưới h́nh thức phương tiện chở nguyên khí sự sống) chi phối các hoạt động của con người hữu thức, tiềm thức, ngă thức và sau cùng là siêu thức. Hiện nay ba bí huyệt đang kiềm chế đa số con người là:
47
1.
Bí huyệt ấn đường.
2. Bí huyệt đan điền.
3. Bí huyệt ở xương cùng.
Cuối cùng, khi con người “trở thành chính ḿnh”, (đây là nhóm từ nội môn có vẻ nghịch lư), th́ các bí huyệt cần kiểm soát sẽ là:
1. Bí huyệt đầu, brahmarandra.
2. Bí huyệt tim.
3. Bí huyệt chót xương sống.
Từ đây trở về sau, tầm quan trọng sẽ được đặt vào một nhóm ba bí huyệt thay đổi liên tục, và mỗi người sẽ khác với đồng loại ḿnh về chỗ nhấn mạnh, về t́nh trạng của các bí huyệt, về các hạch tuyến tương ứng trong thể xác, và do đó mà khác ở các bệnh tật, các ức chế và các khó khăn mà thể xác của y phải kế thừa. Chính v́ mối liên hệ này mà chúng ta thấy hiển nhiên là công việc của vị y sĩ và của nhà tâm lư học rốt cuộc phải phối hợp với nhau. Ba khía cạnh quan trọng nhất của mọi chẩn đoán là:
1. Về mặt tâm lư, hay là đánh giá các nội thể của con người theo góc độ phát triển của chúng, theo mức hội nhập của chúng và sự phối kết chung của phàm ngă, khi các trạng thái tinh anh này của con người tự biểu hiện trong tâm thức.
2. Công việc của nhà nội tiết học, khi y hành xử với các tuyến nội tiết, xem chúng như là các trạm năng lượng, nhờ đó, năng lượng – năng động và giác ngộ – từ các bí huyệt có thể tuôn đổ qua đó.
48
3. Nhà
y sĩ, là người xem xét các kết luận của
hai chuyên gia nói trên, chẩn đoán bệnh tật và
chữa trị nó phối hợp với hai chẩn đoán
kia.
Ba vị này có thể nhờ sự trợ giúp thêm của các nhà chuyên môn và chuyên gia trong phép trị liệu bằng điện, thuật nắn xương và nắn cột sống. Tuy nhiên, chính nhờ sự phối hợp kiến thức của thầy thuốc, nhà tâm lư học và nhà nội tiết học, mà ngành y khoa có thể tăng thêm hữu ích và tiến vào kỷ nguyên mới được trang bị để trị liệu cho những người sẽ dần dần khoác lấy những loại thể xác mới và những cơ cấu xác thân thay đổi. Cho đến nay, việc áp dụng điện để trị bệnh con người vẫn c̣n là một khoa học ấu trĩ, nhưng nó có các mầm mống của những kỹ thuật và phương pháp chữa trị mới. Việc nắn cột sống là tốt và cần thiết, nhưng cộng với phương pháp nắn xương sẽ trở thành một kỹ thuật phụ trợ rơ rệt vào ba kỹ thuật trên. Công việc của các nhà nắn cột sống và của các nhà nắn xương là hai nửa của một việc duy nhất, đó là điều mà những người đang thực hành các phương pháp này ít nhận ra. Các nhà nắn cột sống cần một sự tập luyện cẩn thận và lâu dài hơn, và cần có tŕnh độ hiểu biết chuyên môn cao hơn.
Y khoa đang từ từ tiến vào mức hữu dụng mới. Một khi nguyên nhân của bệnh tật được chuyển ra khỏi một cơ quan hay hệ thống cơ thể, đi vào một lănh vực tinh anh và sinh động hơn, th́ bấy giờ, chúng ta sẽ thấy được các thay đổi căn bản và cần thiết, dẫn đến sự đơn giản hóa, chứ không phải đến phức tạp và khó khăn lớn hơn.
Từ các nhận xét trên, người ta thấy rằng bệnh tật xuất hiện trong thể xác từ thế giới không thấy được, và do việc sử dụng hay lạm dụng các sức mạnh tinh anh trên các nội cảnh giới. Tuy nhiên, phải nhớ rằng các bệnh tật – khi nó tự lộ ra trong con người – có thể thường được xem là do các nguyên nhân sau đây, và các nhà nghiên cứu nên thận trọng ghi nhớ khi nghiên cứu về các vấn đề này:
49
1.
Bệnh của cá nhân, do bởi các t́nh trạng bên trong
cơ thể của chính người ấy, do t́nh
trạng trí tuệ hay là do trạng thái t́nh cảm, chúng có
thể tạo ra các bệnh nặng. Điều này
được kế thừa từ quá khứ.
2. Bệnh tật vốn có trong nhân loại nói chung. Có một số bệnh mà mọi người đều có khuynh hướng mắc phải, các mầm bệnh này tiềm ẩn trong các thể xác của đa số con người, chỉ chờ có được những điều kiện sắp đặt trước để hiện ra. Chúng có thể được xem như là các bệnh tập thể.
3. Điều khá kỳ lạ là có những bệnh do ngẫu nhiên, thí dụ như các bệnh mà con người mắc phải khi y không chống nổi một bệnh truyền nhiễm nào đó.
4. Có những bệnh có sẵn trong đất đai. Cho đến nay, các bệnh này ít được người ta biết tới. Tuy thế, đất đai của địa cầu chúng ta đă quá cũ và bị tiêm nhiễm các mầm bệnh, gây tổn hại cho giới thực vật, động vật và giới nhân loại, trong mỗi giới, chúng hiện ra một cách khác nhau, tuy nhiên, căn bản đều do các nguyên nhân giống nhau.
5. Có những bệnh vốn là các khó khăn của thần bí học. Đây là các bệnh và ốm đau đặc biệt đang tác động vào các đệ tử và người t́m đạo của thế gian. Trong mọi trường hợp, các bệnh này đều có thể được truy nguyên do sự tuôn đổ năng lượng qua các bí huyệt không được trang bị thích hợp, hay là phát triển thích hợp để vận dụng sức mạnh.
Trên đây là các điều khái quát mà có lẽ bạn thấy hữu ích.
Phương pháp mà nhờ đó các lực cảm dục (như chúng ta biết, vốn là các mănh lực sự sống có tính quyết định nổi bật đối với đa số con người vào lúc này) thể hiện thành biểu lộ là một vấn đề tương đối đơn giản. Như bạn biết, trong thể cảm dục, có các tương ứng của bảy bí huyệt trong thể dĩ thái. Về bản thể, các bí huyệt này là bảy điểm tập trung thần lực chính, và mỗi điểm lại biểu lộ một trong bảy loại năng lượng cung. Trước hết, tôi xin nói rơ các bí huyệt nào biểu lộ bảy loại cung này.
50
Bí
huyệt Cung Tính chất Nguồn
gốc
1. B. H. đỉnh đầu 1 Ư chí thiêng liêng. Cơi Chân Thần
2. B. H. ấn đường 7 Tổ chức. Cơi Niết Bàn.
Điều khiển.
3. B. H. Tim 2 Bác ái-Minh triết. Cơi Bồ đề.
T́nh thương tập thể.
4. B. H. cổ họng 5 Tính sáng tạo. Cơi trí.
5. B.H. Đan điền 6 Cảm xúc – Dục vọng. Cơi cảm dục.
6. B.H. sinh dục 3 Sinh sản . Cơi dĩ thái.
7. B.H. chót 4 Hài ḥa. Hợp nhất Cơi trần.
Xương sống qua xung khắc.
Ghi chú: Trong giới thứ tư, tức là giới nhân loại, chính năng lượng của cung 4 kết hợp với cung 1 sau rốt sẽ đem lại sự tổng hợp. Có một liên hệ chặt chẽ giữa bí huyệt cao nhất (bí huyệt đỉnh đầu) với bí huyệt ở chót xương sống. Như vậy loại năng lượng thứ tư này tự biểu lộ khi hợp với loại thứ nhất, bởi v́ chúng ta vẫn c̣n trụ vào tâm thức của thời Atlantis và nền văn minh đó theo thứ tự là nền văn minh thứ tư. Phần lớn công việc được làm trong nền văn minh thứ năm của chúng ta, giống dân Aryan hiện nay, khi hợp tác với nguyên khí thứ 5, nguyên khí trí tuệ, sẽ chuyển vào một tŕnh độ tâm thức cao siêu hơn. Điều này sẽ tạo ra sự hài ḥa của mọi bí huyệt, nhờ tác động của ư chí, được áp dụng về mặt trí tuệ một cách sáng suốt với mục đích tạo ra sự hài ḥa. Điểm này biện minh cho sự suy tư của chúng ta.
Trên cơi cảm dục, người ta cũng thấy trong mỗi thể cảm dục có bảy tụ điểm tương ứng mà năng lượng có thể nhập vào đó, rồi mới phóng chiếu vào các bí huyệt sinh động trong thể dĩ thái hồng trần thành bảy loại thần lực khác nhau.
Các loại thần lực này tạo ra cả hai hiệu quả xấu và tốt, tùy theo tính chất của nhục thể thụ động.
Các loại thần lực này khác nhau tùy theo loại cung hay loại thần lực, và có lẽ các bạn thấy thú vị, nếu ở đây, tôi nêu ra các hiệu quả xấu và tốt và các bệnh tương ứng.
51
Lực
cảm dục Bí huyệt Khía cạnh Bệnh Khía
xấu cạnh tốt
Cung 1. Đầu Thương thân Ung Hy sinh.
Ư chí hay xót phận. thư.
quyền năng. Cái tôi Hiến dâng
bi thảm . cái Tôi.
Cung 2. Tim Tự ái/ Ích kỷ Đau Bác ái của
Bác ái – Phàm ngă tim. Linh hồn.
Minh triết. Đau T́nh thương
Bao tử . tập thể.
Cung 3. Sinh dục Tính dục Các T́nh thương
Hoạt động. quá hoạt động. bệnh của cha mẹ.
xă hội. Sự sống tập
thể.
Cung 4. Ấn Ích kỷ. Mất trí. Thần bí
Hài ḥa. đường. Giáo điều học.
độc đoán.
Cung 5. Cổ họng. Tâm linh Biến dưỡng Sáng tạo.
Kiến thức. học thấp. sai lầm. Nhạy cảm.
Vài loại Linh
ung thư. hứng.
Cung 6. Đan điền. Đa cảm. Bệnh Đạo tâm.
Sùng tín. thần kinh. Đúng
Viêm dạ dày. phương
Bệnh gan. hướng.
Cung 7. Chót Tư lợi . Đau tim. Huyền
Tổ chức. xương sống. Thuần Bướu. linh
ích kỷ. thuật.
Hắc thuật.
52
Xin
nhớ rằng khi nghiên cứu, bảng liệt kê này
chỉ có tính cách khái quát và chỉ liệt kê
được một phần trong các loại bệnh
tật có thể là kết quả của ḍng năng lượng
lưu nhập. Bảng này chỉ có mục đích gợi
ư; sự phức tạp của cơ thể con
người và sự phức tạp của năng
lượng cung, đă khiến cho chúng ta không thể
đưa ra được các qui tắc dứt khoát và
cứng nhắc nào. Các lực của cung biểu hiện
một cách khác hẳn tùy theo loại cung và tùy tŕnh
độ tiến hóa. Do đó, ở đây không có sự
mâu thuẫn nào đối với các bảng biểu
trước. Nếu bạn nhớ rằng, về cơ bản,
mỗi người là biểu hiện của năm mănh
lực cung:
1.Cung linh hồn.
2.Cung phàm ngă.
3.Cung chi phối thể trí.
4.Cung chi phối thể cảm dục.
5.Cung của bản chất vật chất
th́ điều trở nên hiển nhiên là đối với người bậc trung cần phải kê ra hai bảng biểu như thế.
1. Cần có sự phân giải tích cực về các mănh lực cảm dục khi chúng biểu hiện cho phàm ngă.
2. Phân tích các mănh lực của linh hồn khi chúng được biểu hiện một cách yếu ớt. Một phân tích tiêu cực liên hệ tới những ǵ không tồn tại trong vận cụ và có thể là không đáng kể ở đây.
Cũng cần có sự phân tích các lực, tác động vào thể xác từ cơi cảm dục; vốn được nhận trực tiếp từ linh hồn và do đó là sự phối hợp sức mạnh của linh hồn cộng với loại năng lượng cảm dục cao nhất. Điều này sẽ có bản chất của một phân tích tổng hợp và sẽ chỉ xảy ra trong trường hợp của một đệ tử hay một điểm đạo đồ. Do đó, rốt cuộc, đối với mỗi người, bạn sẽ có:
53
1.
Một phân tích tích cực về các lực của phàm ngă,
trước tiên của lực cảm dục, v́ đó là
mănh lực vượt trội đang tuôn đổ vào các
bí huyệt dĩ thái.
2. Một phân tích tiêu cực về các trạng thái của năng lượng linh hồn, vốn chưa hiện ra.
3. Một phân tích tổng hợp, dựa vào cả hai phân tích trên, nhưng cũng kết hợp với ghi nhận về biểu hiện tích cực của linh hồn.
Trong các bảng liệt kê và các phát biểu này, tôi đă truyền đạt cho bạn nhiều điều cần suy gẫm.
B. Dục vọng bị ức chế hoặc lan tràn.
Ở đây, sẽ là hữu ích cho các bạn nếu tôi làm sáng tỏ rằng một trong các điều trước tiên mà một môn sinh phải ghi nhớ, đó là – đối với đa số nhân loại, tuyệt đại đa số – các ảnh hưởng và các xung lực xuất phát từ cơi cảm dục là một yếu tố tiền định trong mọi vấn đề liên hệ đến chính cá nhân đó, ngoài những t́nh trạng mà y không thể tránh khỏi (được áp đặt vào y do môi trường chung quanh y và trong giai đoạn mà y đang sống). Cơi cảm dục là một trung tâm của mănh lực đang tỏa ra mạnh mẽ, về căn bản, nó đang có hiệu quả chi phối, bởi v́ tŕnh độ tâm thức cá nhân của đa số nhân loại đều ở cơi đó. Con người bị tác động bởi sức thôi thúc của dục vọng ở mức độ cao hoặc thấp. Dĩ nhiên, đây là một điều rất tổng quát, v́ t́nh trạng căn bản đó đang trở nên thay đổi liên tục bởi những sức thôi thúc xuất phát từ cơi trí. Điều này tất nhiên làm phức tạp thêm cho vấn đề. Các ảnh hưởng xuất phát từ linh hồn, hiện cũng đang được mọi người ngày càng thấu hiểu – khiến cho nỗi khó khăn của người tiến hóa cao c̣n thêm phức tạp hơn nữa. “Vấn đề phiền phức này” (tôi tạm gọi như thế) là một “điều khó hiểu” cho một môn sinh muốn t́m hiểu về t́nh trạng thể chất của riêng y, hay là t́nh trạng thể chất của người mà y đang t́m cách giúp đỡ.
54
Nhân
đây, tôi xin đưa ra cho các bạn một định
luật thứ ba đang chi phối thuật chữa
trị thiêng liêng.
ĐỊNH LUẬT III
Bệnh tật là hậu quả của việc tập trung căn bản năng lượng sự sống của con người. Từ cơi mà các năng lượng này được tập trung, những t́nh trạng có tính quyết định này tiếp diễn, tạo ra sức khỏe kém cỏi, và do đó, thể hiện dưới h́nh thức bệnh tật, hoặc dưới h́nh thức không có bệnh tật.
Do đó, bạn thấy rơ là sự thay đổi chú tâm bên trong (thái độ trí tuệ) của bệnh nhân có thể và sẽ tạo ra, hoặc là thực sự không có các bệnh thể xác, hoặc là tăng thêm các phản ứng vốn tạo ra sự khó chịu, bệnh tật hoặc tử vong.
Trong ba định luật mà tôi trao ra cho bạn, và giờ bạn đang nghiên cứu, hiển nhiên là các sự kiện sau đây sẽ xuất hiện. Các sự kiện này tạo thành nền tảng cho bạn truy cứu:
1. Bệnh tật là hậu quả của sự ngăn chận ḍng chảy tự do của sự sống linh hồn.
2. Bệnh tật là sản phẩm hoặc là kết quả của ba ảnh hưởng:
a. Lầm lỗi xưa, xuất phát từ chuyện đă qua của kẻ có liên hệ.
b. Các vết nhơ trong nhân loại, bị kế thừa v́ con người là một thành viên của gia đ́nh nhân loại.
c. Tà lực của hành tinh, áp đặt vào mọi h́nh hài trên địa cầu bởi t́nh trạng căn bản và bởi thời gian.
3. Bệnh tật bị chi phối bởi các mănh lực xuất phát từ cơi mà tâm thức con người được tập trung chủ yếu trên cơi đó.
Cùng với các phát biểu trên, nên thêm vào một sự kiện đă được nhắc đến, đó là:
55
4. Có
năm nhóm bệnh chính với các bệnh liên hệ và các
bệnh phụ thuộc.
a. Bệnh lao
b. Bệnh giang mai
c. Bệnh ung thư
d. Bệnh tim
e. Bệnh thần kinh
Tôi không phân chia những điều mà tôi phải nói, thành các bệnh thuộc các cơ quan và các bệnh thuộc về chức năng. Ở đây, tôi cũng không đề cập tới các bệnh do truyền nhiễm hoặc do tai nạn. Tôi chỉ đề cập đến các mầm bệnh căn bản hoặc là các khuynh hướng dễ mắc bệnh vốn là cái di sản không lành mạnh của nhân loại nói chung, và chỉ đề cập đến các khó khăn có liên quan đến các giai đoạn phát triển tiến hóa vốn là đặc trưng của các giai đoạn tiến hóa cao hơn trên Thánh Đạo. Do đó, chúng ta sẽ thấy rằng người nào nhập thế cũng đều đang kế thừa các khuynh hướng dễ mắc bệnh, xuất phát:
1. Từ chính quá khứ của người ấy, tức là quả của các nhân phát khởi trong các lần luân hồi trước.
2. Từ di sản chủng tộc chung của nhân loại.
3. Từ t́nh trạng của sự sống hành tinh. Các nguyên nhân sau này nâng toàn bộ vấn đề ra khỏi hiểu biết thông thường của người bậc trung.
Con người cũng có khuynh hướng dễ mắc bệnh nếu con người thành công (do kết quả của lịch sử tiến hóa lâu dài), trong việc khơi hoạt được các bí huyệt trên cách mô theo một lối nào đó dù là nhẹ nhàng. Trong một chu kỳ lâu dài của nhiều kiếp sống, lúc mà điều đó xảy ra, y trở nên lệ thuộc vào các bệnh liên quan đến tim hay đến hệ thần kinh với nhiều nhánh nhóc khác nhau của nó. Thường thường, một người tiến hóa, như là một người t́m đạo hoặc một đệ tử, có thể tự thoát khỏi các bệnh di truyền, nhưng sẽ không chống nỗi bệnh tim, các chứng rối loạn thần kinh, mất thăng bằng trí tuệ và quá bị kích thích. Đôi khi chúng được phân loại như là “bệnh của những Nhà Thần Bí”.
56
Tôi
xin nói rơ rằng tôi không định đi vào lĩnh vực
thảo luận về sinh lư học, để thảo
luận chi tiết về các triệu chứng của
bệnh tật, hay bàn đến các thương tổn,
các t́nh trạng bệnh lư, và các chi tiết gây đau
khổ kèm theo sự suy nhược của bất luận
một cơ thể con người nào. Tôi không định
viết một bộ luận về giải phẫu học
hay về các khoa học khác phát triển lên từ việc
nghiên cứu cơ cấu của con người, chúng liên
hệ với cấu tạo và cấu trúc, các cơ quan, các
dây thần kinh, mô năo và các hệ thống liên hệ hỗ
tương hợp thành bộ máy phức tạp tức là
cơ thể con người.
Về mặt khoa học công truyền, tôi gặp hai trở ngại sau đây:
1. Toàn bộ vấn đề đă được đề cập đến một cách tuyệt diệu trong nhiều sách y khoa và giải phẫu học. Có ít điều mà tôi có thể đưa thêm vào để giúp ích cho cuộc thảo luận loại đó.
2. Trừ một số ít người, c̣n đa số độc giả đều không thành thạo về cấu trúc và cấu tạo của cơ thể con người; các chi tiết về bệnh lư học, mô tả về bệnh và các triệu chứng khó chịu khác của sự suy yếu của con người, đều là cách lư giải không thích hợp cho một người nam hay nữ bậc trung. Một chút tri thức theo các đường lối này lại có thể là điều nguy hiểm.
Trước tiên, tôi t́m cách bàn đến các nguyên nhân, đến các nguồn gốc bên trong của bệnh tật và bàn đến các trạng thái ư thức (không chỉ nói các trạng thái trí tuệ) vốn tạo ra sự vận hành sai và rốt cuộc gây nên các t́nh trạng tệ hại.
Do đó, nhà chữa trị cần biết hai điều:
57
Thứ
nhất, y phải biết sự khó khăn nằm bên trên
hay dưới cách mô; muốn thế, nhất định
là y phải có các kiến thức huyền linh, cũng
như các hiểu biết về khoa tâm lư.
Thứ hai, y phải hiểu rơ về những ǵ đang được bệnh nhân chú trọng. Hiểu được điều này, y mới chẩn đoán được điều thứ nhất.
Phát biểu này đưa chúng ta đến phát biểu về qui luật thứ ba dành cho các nhà trị liệu.
QUI LUẬT BA
Nhà trị liệu hăy tự luyện tập để biết tŕnh độ tư tưởng bên trong hay là ước muốn của kẻ đang t́m sự giúp đỡ của ḿnh. Bằng cách đó y có thể biết nguồn cội mà từ đó bệnh tật phát xuất. Y nên liên kết nguyên nhân và hậu quả và biết được điểm chính xác mà nhờ đó có thể chữa được bệnh.
Tôi muốn các bạn hăy lưu ư đến mấy lời cuối và muốn nhấn mạnh với bạn sự kiện rằng trước tiên bệnh tật là một cố gắng thuộc về phần thể xác để t́m cách làm giảm bớt và thoát khỏi những áp lực bên trong, do các ức chế bên trong và sự kiềm hăm ngấm ngầm. Trước tiên, theo quan điểm của huyền bí học, mọi bệnh thuộc xác thân đều là hậu quả của:
1. Kích thích sai lầm hay là quá bị kích thích hoặc là sự kích thích được đặt sai vị trí và sự căng thẳng bên trong ở một phần nào đó của cơ thể.
2. Các ức chế, khao khát trong tâm linh và các mănh lực bên trong tích tụ làm ngưng đọng ḍng thần lực của sự sống.
Do đó, bạn sẽ thấy rằng (trong lănh vực sức khỏe) mọi nỗi khó khăn đều tự chúng giải quyết bằng cách sử dụng đúng và vận dụng đúng thần lực, để làm cho ḍng năng lượng được thông suốt.
58
Tất
nhiên sẽ nảy sinh câu hỏi: Từ đâu xuất phát
các bệnh do kế thừa này? Có thể nào t́m đến
cội nguồn của chúng không? Vấn đề của
quá khứ và các hậu quả hiện nay của quá khứ
đó th́ quá rộng lớn không thể xem xét hết
được, cũng không có phát biểu nào liên quan
đến t́nh trạng đó mà có thể giúp ích nhân
loại được. Tuy nhiên, tôi có thể đưa ra
một khái quát và thậm chí có thể truyền đạt
một ít kiến thức cho bạn.
Trong số ba bệnh tật chính truyền lại từ quá khứ, có thể nói rằng bệnh giang mai hay thường được gọi là bệnh xă hội, là dấu vết c̣n lại của việc quá nuông chiều dục vọng vào thời Lemuria. Chúng có cội nguồn cổ xưa đến nỗi chính đất đai bị tràn ngập các mầm bệnh này – một sự kiện mà khoa học hiện đại hoàn toàn không biết được. Qua nhiều thời đại, con người đă chịu đau khổ v́ các nhóm bệnh truyền nhiễm này. Họ đă chết đi và được chôn cất tới hàng triệu, nên đă làm cho địa cầu thêm ô nhiễm. Vào thời Lemuria, thần lực sự sống được tập trung vào thể xác, vào sự phát triển của nó, vào công dụng và sự kiềm chế nó và cũng cốt làm cho nó được sống lâu hay sinh sản. Chính là vào thời Lemuria mà các bệnh liên quan đến sự lạm dụng sự sống tính dục đă bắt đầu. Theo một ư nghĩa đặc biệt, đó là điều tai hại chủ yếu đầu tiên, các truyền thuyết cổ xưa và các ẩn ngữ liên quan đến vấn đề này đều được t́m thấy trong khắp các di tích và các bút kư cổ xưa. Hậu quả này vốn có bằng chứng, nhưng đă bị diễn dịch sai lầm rất nhiều, và chỉ khi nào con người có thể hiểu các di tích một cách chính xác hơn và diễn dịch đúng hơn, bấy giờ họ mới hiểu ra mọi lẽ, bởi v́ họ sẽ thấy rơ hơn các nguyên nhân tiềm ẩn.
Bệnh ung thư được truyền lại cho người thời nay do nhân loại của thời Atlantis, và tai họa của bệnh này là nhân tố chính đă tàn hại cư dân của Atlantis xưa kia. Căn cội của tệ trạng này đă ăn sâu vào bản chất cảm dục và gắn chặt vào thể cảm dục. Ung thư là một phần kết quả của một phản ứng đối với các bệnh liên hệ với đời sống t́nh dục đă trở nên lan tràn vào cuối thời Lemuria và đầu thời Atlantis. Con người vào các thời kỳ ấy khi thấy các tệ hại khủng khiếp và sự lan rộng của chứng bệnh đă sinh sôi nẩy nở trong cuộc sống sung túc thời Lemuria, là kết quả của cuộc sống tính dục bừa băi ở mọi mặt, v́ bản năng tự tồn họ đă đè nén ḍng lưu chuyển tự nhiên của dục vọng (tức là ḍng sự sống khi nó tự biểu hiện qua các trung tâm sinh sản và sinh hóa) và sự đè nén này vào đúng lúc đă tạo ra các tác hại khác. Trước nhất ung thư là bệnh do sự ức chế, cũng như các bệnh giang mai là các bệnh do việc biểu hiện thái quá và lạm dụng một khía cạnh của cơ thể con người.
59
Ngày
nay, do bệnh này đă phát triển trong những thời
gian quá lâu, và do bởi vô số các thế hệ con
người đă qua đời trên quả đất, mà
“các mầm bệnh” (do kẻ ít suy tư gọi) của các
bệnh ung thư kinh khiếp được t́m thấy trong
chính đất đai mà chúng ta đang sống, cảm
nhiễm giới thực vật cũng như gia đ́nh
nhân loại. Tương tự, bệnh giang mai của con
người cũng được t́m thấy trong giới
khoáng chất.
Bệnh lao vốn đă lây lan dữ dội vào một giai đoạn nào đó trong thời Atlantis, tuy nhiên, phần lớn nó đă xuất phát trong chủng tộc Aryan chúng ta và là bệnh mà chúng ta đang truyền lại cho giới cầm thú và cùng chia sẻ với chúng. Điều này đang bắt đầu được nhận ra. Tuy nhiên, liên hệ giữa con người và con thú (đặc biệt là gia súc) vốn mật thiết đến nỗi ngày nay thực sự chúng cũng chia sớt mọi sự đau ốm của con người, dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, đôi khi có thể nhận ra, đôi khi th́ không. Điều kỳ lạ là nguyên nhân của hiểm họa này lại được t́m thấy trong việc chuyển trọng điểm sinh hoạt ra khỏi bản chất t́nh cảm đi vào trọng điểm của bản chất trí tuệ, tạo ra sự thiếu thốn tạm thời của bản chất t́nh cảm. Nó phần lớn là một bệnh làm cho kiệt sức. C̣n bệnh ung thư cũng do thời trước đă có việc chuyển thần lực sự sống từ thể xác vào trong bản chất t́nh cảm, làm cho sự sống tế bào phát triển quá độ, do quá bị kích thích. Tôi biết các bạn khó hiểu được các phát biểu này. Tôi chỉ có thể đưa ra cho bạn các ẩn ngữ mà không chứng minh. Chỉ có các khám phá sau này mới có thể chứng minh được sự thật của các điều tôi đă gợi ư. Chúng ta hăy liệt kê ra đây các kết luận của chúng ta:
60
Bệnh
Giống dân Thể Giới Cơ quan
Giang mai Lemurian Xác Khoáng chất Cơ quan
sinh dục.
Bí huyệt
sinh dục.
Ung thư Atlantean Cảm dục Thực vật Bí huyệt
đan điền.
Lao Aryan Trí Động vật Bộ máy
Hô hấp.
Bí huyệt
cổ họng.
Khi nhắc đến các bí huyệt ở trên, tôi đang nhắc đến trung tâm để phân phối sinh lực, nơi có trọng điểm của quần chúng. Do điều nói trên, chúng ta có thể thấy rơ rằng cần phải căn cứ vào trọng điểm nào để chữa lành bệnh. Chúng ta đă biết được cách chữa lành bệnh lao rồi, bởi v́ đó là một bệnh nảy sinh trong thời gian gần đây nhất, và do đó là bệnh ít ăn sâu nhất trong số ba bệnh chính yếu mà con người hiện nay bị kế thừa. Khi dùng trí thông minh nghiên cứu vấn đề, người ta đă khám phá ra rằng ánh nắng mặt trời và thức ăn bổ dưỡng có thể chữa lành hay ít ra cũng ngăn chận được bệnh này. Trong lănh vực huyền linh, có một điều tương ứng lư thú, đó là giống như ánh sáng của linh hồn tuôn rải vào trong thể trí, có thể được dùng để giải quyết bất cứ vấn đề khó khăn nào, th́ ánh sáng mặt trời và các tia có tính pḥng bệnh của nó có thể xua đi được các triệu chứng khủng khiếp của bệnh lao.
61
Tương
tự như vậy, khi nhân loại phát triển
được khả năng kiềm chế t́nh cảm
đúng mức th́ chúng ta sẽ thấy hiện
tượng ung thư biến mất dần. Tôi nói
kiềm chế t́nh cảm đúng mức; dùng mănh
lực của ư chí để ức chế và đè nén các
xung lực của dục vọng th́ không phải là
kiềm chế đúng. Cũng là lư thú khi ghi nhớ
rằng dù cho cả hai phái nam và nữ, đều đau khổ
v́ bệnh ung thư, nhưng nguyên nhân tổng quát th́
không giống nhau, dù rằng nguyên nhân căn bản
(tức là phản ứng do sự biểu lộ quá
độ của đời sống tính dục qua sự
vun bồi bản chất dục vọng) th́ vẫn
giống nhau. Phái nữ, do các nguy cơ mà họ gặp
phải trong thời kỳ sinh nở, do việc chuyển
trọng điểm sự sống đến khía cạnh
tính dục của sự sống, họ đă chống
lại h́nh thức biểu lộ sự sống đó
ở một mức độ rộng lớn (như
người Atlanteans đă làm), và chính v́ theo
đường lối tính dục này mà đa số các
ức chế của họ đă xảy ra. Họ không
đau khổ quá nhiều do sự ức chế tổng
quát của biểu lộ t́nh cảm – dục vọng và
cảm xúc. Phái nam mới đau khổ do ức chế
vừa kể, và họ có một truyền thống hay
một khuynh hướng rơ rệt là kiềm chế t́nh
cảm mạnh mẽ trong cách ứng xử với sự
sống hơn phái nữ. Nam giới không đ̣i hỏi
hoặc có được sự chế ngự tính dục
rơ rệt như thế. Do đó, lĩnh vực chung
của khuynh hướng sự sống bị ức
chế của họ th́ rộng lớn, và bởi vậy
mà (nếu thống kê có thể tin được) có
nhiều người nam bị ung thư hơn là nữ, dù
rằng đó là một bệnh ghê gớm mà tất cả
mọi người đều khiếp sợ.
Trong cái bí mật của sự chuyển hóa đúng, có ẩn cách chữa trị ung thư, và điều này rốt cuộc sẽ được hiểu rơ. Tôi đang sử dụng nhóm từ này không những về mặt biểu tượng, mà c̣n về mặt kỹ thuật và khoa học nữa. Về sau, điều này lại sẽ được nhận thấy. Trong cái bí ẩn của cách sống theo tiết điệu đúng và trong việc nhấn mạnh đúng tỷ lệ vào mọi giai đoạn của sự sống sẽ đến (và đang nhanh chóng đến) sự miễn nhiễm hoàn toàn với bệnh lao sẽ xảy ra. Với cái bí mật về hiểu đúng thời gian và chu kỳ và về sáng tạo sinh sản theo chu kỳ, nhân loại sẽ ra khỏi các tác hại của các bệnh xă hội.
Do đó, bạn sẽ thấy rơ là sau cùng các bệnh giang mai sẽ biến mất, cũng như chúng đă tàn hại nhân loại trước nhất. Bệnh lao đang tan biến. Hiện nay, các chuyên gia đang chú ư đến việc chữa trị ung thư.
62
Tôi xin
thêm một hoặc hai phê phán có tính tổng quát hay nói
đúng hơn là hiện đang được quan tâm. Như
tôi đă nói, các mầm bệnh nói trên (mà nhân loại
đang có khuynh hướng mắc phải) đều có
trong đất đai, và sở dĩ chúng có trong
đất phần lớn là do người ta đă chôn vào đất
hàng triệu xác chết qua nhiều thời đại.
Nhờ áp dụng cách hỏa táng ngày càng nhiều, t́nh
trạng ô nhiễm này sẽ dần dần được
cải thiện. Bằng cách đó, sự ô nhiễm sẽ
lần hồi tiêu tan hết. Do đó điều rất
đáng mong muốn là chúng ta nên cố gắng truyền bá
cách dùng phương pháp này càng nhiều càng tốt
để xử lư các thể xác đă bị các linh hồn
từ trần thải bỏ. Khi đất đai ngày càng
trở nên ít bị ô nhiễm và khi sự tiếp xúc
với linh hồn được thiết lập, chúng ta
có thể hy vọng thấy số người mắc
phải các ô nhiễm do kế thừa sẽ ngày một
giảm đi. Kỳ lạ là việc dùng muối thoải
mái như tắm biển lại có hiệu quả rơ
rệt cho sức khỏe của thể xác. Nước
biển t́nh cờ được hấp thụ qua da và
miệng, có hiệu quả pḥng bệnh rất đáng
kể.
63
Ngày nay,
một trong các vấn đề chính đối với nhà
tâm lư học và ở mức kém hơn đối với nhà
y học là việc tăng t́nh trạng đồng phái
luyến ái trong cả hai phái nữ và nam. Các luận cứ
chỉ có lư ở bề ngoài được nêu ra
để chứng minh rằng sự phát triển bất
thường này (với hậu quả là quan tâm vào khuynh hướng
bệnh hoạn này) là bởi sự kiện nhân loại
đang từ từ phát triển thành lưỡng tính, và
trong tương lai, sẽ xuất hiện những
người nam hay nữ lưỡng phái. Điều này
lại vẫn không đúng. Đồng tính luyến ái
là cái mà nếu muốn, chúng ta có thể gọi đó là
“thức ăn thừa” (“left over”) do các thái quá tính dục của
thời Lemuria, một vết nhơ bị kế thừa,
nếu bạn thích gọi thế. Các chân ngă đă biệt
ngă hóa và đă lâm phàm trong thời kỳ dài đó chính là
những kẻ mà ngày nay đang biểu lộ các khuynh
hướng đồng phái tính. Vào thời đó, sự
thèm khát tính dục cấp thiết đến nỗi các
diễn tŕnh phối hợp b́nh thường của con
người không làm thỏa măn được ước
muốn vô độ của những người phát
triển đương thời. Sức mạnh của
linh hồn, đang tuôn đổ vào qua các tiến tŕnh
biệt ngă hóa, dùng kích thích các bí huyệt thấp nhất.
Do đó, các phương pháp ngăn cấm đă
được áp dụng. Những người đă
thực hành các phương pháp đó, ngày nay có một
số lớn đang luân hồi, và các thói quen xưa
vẫn c̣n quá mạnh đối với họ. Hiện nay,
họ đă đi khá xa trên đường tiến hóa, nên việc
chữa trị xảy ra dễ dàng vào lúc này – nếu
họ chọn điều đó. Họ có thể chuyển
xung lực tính dục đến bí huyệt cổ họng
một cách tương đối dễ dàng, và như
thế, họ trở nên sáng tạo theo ư nghĩa cao
hơn, bằng cách dùng các năng lượng đă cảm
nhận được và luân chuyển chúng theo những
đường lối kiến tạo đúng đắn.
Nhiều người trong số họ đang bắt
đầu tự động làm điều này. Tuy nhiên,
người ta biết rơ là, trong số các hạng
được gọi là nghệ sĩ, t́nh trạng
đồng phái tính rất thường xảy ra. Tôi nói
rằng “được gọi”, bởi v́ người
nghệ sĩ sáng tạo chân chính không phải là
nạn nhân của các thói quen tệ hại sẵn có từ
xưa này.
Ở đây, có thể nêu ra rằng có ba loại đồng phái luyến ái:
1. Có loại là kết quả của các thói quen tệ hại xưa. Đây là nguyên nhân chính ngày nay, và nó cho thấy:
a. Người đó được biệt ngă hóa trên hành tinh này, v́ những người đă biệt ngă hóa trên dăy nguyệt cầu, đều không dễ mắc phải các tính chất nguy hại này.
b. Các Chân ngă thời Lemuria mắc phải sự thỏa măn dục vọng theo lối này đều đă đạt được tŕnh độ tiến hóa tương đối cao.
c. Đó là hậu quả của việc nghiên cứu ma thuật tính dục (sex magic), cộng với sự thôi thúc tính dục thường xuyên của thể xác không được thỏa măn.
2. Đồng tính luyến ái mô phỏng: một số người thuộc mọi tầng lớp đă bắt chước các kẻ sành sỏi hơn của họ (tôi tạm dùng một từ ngữ nghịch thường như thế) và v́ thế mà đă phát triển những thói quen phối hợp tính dục tệ hại, mà đáng ra họ không vướng vào. Đây là một trong các lư do thường thấy ngày nay, trong nhiều người nam cũng như nữ và được dựa trên một sự tưởng tượng quá linh hoạt, cộng với thể chất mạnh hay bản chất tính dục mạnh mẽ và một sự hiếu kỳ dâm ô. Điều này tôi nói với tính cách khuyên bảo. Hạng này có nhiều trong những người đồng phái luyến ái nam lẫn nữ (sodomites and lesbians).
3. Một vài trường hợp hiếm có, rất hiếm có, đó là ái nam ái nữ (hermaphroditism). Những người này kết hợp trong chính họ cả hai khía cạnh của đời sống tính dục và phải đối phó với vấn đề rất hiện thực này. Đó là một vấn đề đang tăng mạnh do sự vô minh của nhân loại, do con người từ khước đối phó với các sự thật, do sự luyện tập và dạy dỗ sai lầm từ thời c̣n trẻ và do sự hiểu biết sai lầm đă lan rộng.
64
Các
trường hợp này chỉ là thiểu số ở
mọi nơi, và đối với dân số thế
giới, họ vẫn không đáng kể. Tuy rằng
sự hiện hữu của họ là mối quan tâm
thực sự cho y giới, khiến cho những
người có ḷng nhân đạo và các nhà tâm lư học
nhiều hiểu biết hết sức xót thương và
động ḷng trắc ẩn. Họ đang gặp
phải một t́nh thế khó khăn.
Tôi đă bàn đến phần nào chi tiết của vấn đề này, v́ đối với bạn, biết được các sự kiện và các chi tiết như thế cũng là điều hữu ích. Nó dùng để soi sáng vấn đề mà một số lớn người được kêu gọi để đối phó. Các nhà tâm lư học, các nhà phụng sự xă hội, các y sĩ, và tất cả những ai quan tâm đến việc giáo dục tập thể, đều thường xuyên đối mặt với vấn đề này, và người ta cũng phải biết cách xem xét và phân biệt được các loại, để làm sáng tỏ vấn đề ([2]).
Các bạn sẽ thấy trong các giáo huấn này nhiều ẩn ngữ, dù cho chúng không thể được phân loại rơ rệt như các giáo huấn về trị liệu, tuy nhiên, chúng cũng thuộc về loại đó, v́ chúng sẽ giúp cho độc giả hiểu rơ vấn đề hơn.
Từ những điều trên, bạn cũng sẽ ghi nhận được bằng cách nào mà chúng ta có thể cho rằng tệ trạng này có căn cội ở trong thể cảm dục hay là thể t́nh cảm, tức là thể của cảm giác. Chính v́ lư do đó mà tôi đă kết luận như thế. Nếu có thể phân loại các khó khăn, bệnh tật và đau ốm thường thấy này theo các xung lực đầu tiên của chúng, th́ đó hẳn là một cuộc thực nghiệm lư thú trong việc phân tích. Rất ít có loại bệnh nào trong số đó bắt nguồn từ thể trí, mặc dù Khoa học Công giáo hoặc Khoa học Tâm thần tất cả đều có thể nói ngược lại. Có lẽ đúng hơn, tôi nên nói rằng chúng không căn cứ vào tư tưởng sai lầm của con người, cho dù tất cả các tệ hại có thể bị tư tưởng sai lầm làm cho trầm trọng thêm và mạnh thêm. Nhiều bệnh, hay có lẽ đa số các đau khổ mà kẻ trung nhân đang hứng chịu, đều có các nguyên nhân dựa trên thể cảm dục, hay là dựa trên một sự ham muốn rơ rệt nào đó. Một ước muốn được đưa ra là ước muốn t́m cách biểu lộ dưới một h́nh thức hoạt động nào đó. Trong số này, đồng tính luyến ái là ước muốn được xác định rơ ràng nhất. C̣n những bệnh khác mà nhân loại chịu kế thừa, th́ đôi khi không dễ ǵ mà định rơ được. Người nam hoặc nữ là nạn nhân, nhưng nguyên nhân gây ra bệnh tật hay khó khăn đó – về mặt thể chất hay tâm lư – lại nằm trong quá khứ xa xăm mà nạn nhân (với sự hiểu biết có hạn của y) không thể nào khám phá ra, cũng như y không thể nào truy được nhân đang tạo ra quả. Tất cả những ǵ mà y có thể xác định được với mọi xác suất, ấy là dục vọng là xung lực mở đầu. Những ǵ mà nhân loại đang trải qua ngày nay và những ǵ mà họ đang chịu đựng đều là kết quả của quá khứ lâu dài của họ và quá khứ đó bao gồm các tập quán lâu đời, đă thành thâm căn cố đế. Tất nhiên, các tập quán đó là kết quả của một trong hai yếu tố sau đây:
65
1.
Dục vọng, đang chế ngự và kiểm soát hành
động, hoặc là
2. Sự kiềm chế của trí tuệ, thay thế dục vọng bằng hoạt động có sắp đặt, mà trong nhiều trường hợp hoạt động đó đi ngược lại với dục vọng đă được xác định và được cảm nhận một cách b́nh thường.
Do các điều nói trên, bạn sẽ thấy rằng tôi mong muốn các bạn hiểu rơ tầm quan trọng của thể cảm xúc và năng lực của nó làm phát khởi các nguyên nhân phụ mà trong kiếp sống này, chúng đang biểu hiện thành bệnh tật.
66
Bởi
thế, bạn nên chú ư đến tầm quan trọng mà tôi
đă đặt vào thể cảm dục như là tác nhân
gây ra các t́nh trạng sai lầm trong thể xác, và việc
cần thiết là hiểu biết về thể cảm
dục và kiềm chế được nó về phần
bệnh nhân, nếu muốn thực sự vượt qua
được bệnh tật. Bạn hiểu
được chăng nếu tôi nói rằng thực
sự vượt qua được bệnh tật có thể
là hàm ư chấp nhận lối thoát bằng Đường
Lối Tử Vong, nếu nó đến một cách b́nh
thường, hoặc là lành bệnh nếu các nguyên nhân
vốn là các xung lực phát khởi bị cạn kiệt?
Hăy suy gẫm kỹ điều này.
Trong tất cả những điều nói trên, cho dầu những điều mà tôi đă nói về sự đồng tính luyến ái, tôi cũng đều xét đến hoặc là dục vọng buông thả, hoặc là bị ức chế, tuy nhiên, tôi chỉ xem xét nó một cách khái quát và theo những nét chính thôi. Bạn có hiểu lầm chăng nếu tôi nói với bạn rằng khi dục vọng bị ức chế (đó là trường hợp của nhiều người t́m đạo ngày nay) th́ tất cả các loại bệnh – như ung thư, tụ huyết ở phổi và một số bệnh gan – cũng như bệnh lao ghê gớm đều có thể xảy ra? Các bệnh do ức chế th́ nhiều và trầm trọng. Cần lưu ư rằng khi dục vọng buông thả, thiếu kiềm chế và không có sự ức chế, th́ các bệnh như là giang mai, đồng tính luyến ái, các bệnh viêm và sốt có thể xảy ra. Các loại bệnh đều tùy theo khí chất, c̣n khí chất lại tùy thuộc vào tính chất của cung. Con người thuộc các cung khác nhau đều có khuynh hướng mắc phải một số bệnh nào đó. Các nhà tâm lư học rất hữu lư khi họ chia con người thành hai kiểu mẫu chính – hạng người hướng nội và hạng người hướng ngoại. Hai hạng người này đều có các tính chất bệnh tật riêng của họ, chúng biểu lộ dưới h́nh thức sức khỏe kém do sự biểu hiện quá mức hoặc ức chế.
Chúng ta đă xem xét điểm thứ hai trong việc chữa trị bệnh tật xuất phát từ bản chất cảm dục. Điểm thứ nhất, chúng ta đă bàn đến các xúc cảm không được kiểm soát.
67
Tôi
muốn nhắc các bạn về tiền đề của
chúng ta, đó là chúng ta chỉ xem xét các bệnh mà những
người tiến hóa trong nhân loại, tức là
người t́m đạo và các đệ tử thuộc
mọi cấp đang có khuynh hướng mắc phải.
Trong bộ luận ngắn này, chúng ta sẽ không bàn
đến toàn bộ các bệnh đang tác động vào
toàn thể nhân loại nói chung hay qua các thời đại.
Người t́m đạo càng tiến hóa th́ rất có
thể bệnh mà y mắc phải sẽ lộ rơ và
mạnh mẽ, v́ có sự tuôn vào ít hoặc nhiều
sức kích động của linh hồn.
Thêm vào năm nhóm bệnh tật chính mà tôi đă đề cập đến trước đây và chỉ ra mối liên quan với chúng trong cơ thể người, là một nhóm triệu chứng được nói đến một cách kém chính xác bằng các thuật ngữ: sốt nóng, u bướu, vùng bị sung huyết, cộng với sự suy nhược tổng quát, và sự tự nhiễm độc có trong rất nhiều triệu chứng. Tôi xin nhắc bạn nhớ kỹ điều này và luôn luôn hiểu rằng ở đây tôi chỉ nói khái quát thôi, thế nhưng điều khái quát này lại là căn bản và do đó rất quan trọng.
C. Các bệnh do lo âu và bực bội.
Loại bệnh thứ ba xuất phát trong thể t́nh cảm hay thể cảm dục được tổng hợp về mặt huyền bí dưới danh xưng: bệnh do bực bội. Các bệnh này là các chất độc ngấm ngầm ẩn núp đàng sau các triệu chứng của bệnh.
Có thể nói rằng tất cả mọi bệnh đều được bao gồm trong hai định nghĩa theo quan điểm huyền linh học:
1. Bệnh tật vốn là kết quả của sự tự nhiễm độc (auto -intoxication). Các bệnh này thông thường nhất.
2. Bệnh tật là kết quả của sự bực bội (irritation). Các bệnh này rất thường thấy trong số các đệ tử.
68
Ngày nay
chúng ta nghe nói nhiều về sự tự nhiễm
độc và đă có nhiều cố gắng để chữa
trị bệnh này bằng chế độ ăn uống
kiêng cữ, và điều chỉnh cuộc sống bằng
tên gọi sống có tiết độ. Tất cả các
điều này đều tốt lành và có ích, nhưng không
phải là cách chữa trị căn bản như những
người bênh vực cách đó muốn dẫn dắt
chúng ta tin theo. T́nh trạng bực bội là một bệnh
có căn bản thuộc tâm lư và có cội nguồn trong
việc mạnh hơn của thể cảm dục, nên
tạo ra các hậu quả bất thường trong
thần kinh hệ. Đó là một bệnh về tư
lợi (self-interest), do tính tự phụ và do sự tự
măn. Một lần nữa, tôi muốn các bạn hăy suy
gẫm kỹ các thuật ngữ này, v́ ba trạng thái
bực bội này chỉ là phát hiện chung. Do đó, chúng
ta sẽ bàn đến sự bực bội, tức “ t́nh
trạng hiểm nghèo” (“imperil”), theo các vị tiêu biểu
của cung một, như là Chân Sư M. đă gọi.
Chúng ta gần như hoàn thành tiết thứ nhất dưới chủ đề Các Nguyên Nhân Tâm Lư của Bệnh Tật, và đă xem xét các vấn đề xuất phát từ hoạt động quá mức và các t́nh trạng sai lầm của thể cảm dục, tuy rất vắn tắt, nhưng tôi tin rằng nó đă gợi ư cho bạn rất nhiều. Tất cả những ǵ tôi có thể làm trong bộ luận ngắn này là khái quát hóa thôi, bởi v́ đa số các phát biểu mà tôi nêu ra, trong bất cứ trường hợp nào cũng đều mới mẻ và có tính cách mạng (theo quan điểm y học chính thống) đến nỗi, ngay cả cấu trúc nội tại đầu tiên này của các ư tưởng và lối tŕnh bày chân lư có phần nào mới mẻ này cũng phải cần có thời gian mới gây ảnh hưởng được nơi những người có khả năng suy tư trong nhân loại. Kế đó, nếu được những người đă mở trí trong họ chấp nhận như là các giả thuyết, th́ cũng phải mất một thời gian dài để có đủ các t́m ṭi đưa đến các kết luận rơ ràng làm cho các ư tưởng này được thừa nhận và sử dụng trong đại chúng. Nói như thế tôi không hề có ư muốn chỉ trích giới y khoa. Hạng thầy thuốc ham tiền và hạng lang băm đều hiếm có. Dĩ nhiên là họ có thật, cũng như trong mỗi ngành nghề đều có những kẻ thối nát và những kẻ bất hảo vậy. Nơi nào lại không có những người này? Những người có trí óc, cố chấp th́ rất nhiều; nhưng ở đâu người ta lại không thấy có họ? Những kẻ tiền phong theo các đường lối tư tưởng mới và những kẻ đă thấu hiểu được một vài quan niệm của Kỷ Nguyên Mới, lại thường có trí óc khép kín, và họ không thấy ǵ ngoài các đường lối mới, các cách thức và phương pháp mới, họ vứt bỏ tất cả những cái cũ xưa, v́ thế mà chịu mất mát nhiều. Giới y học đă đạt một trong các kỷ lục lớn lao nhất, tốt đẹp nhất trên thế giới, về mục đích và phạm vi hoạt động, và đă phát triển được một vài phẩm tính cao cả nhất của linh hồn; đó là sự tự hy sinh, ḷng từ ái và đức phụng sự. Nhưng các phương cách và kỹ thuật của Kỷ Nguyên Mới đều khó hiểu. Nhiều lề lối xưa cũ phải được loại bỏ và người ta cần phải hy sinh rất nhiều trước khi vận dụng được thuật chữa trị mới này.
69
Măi khi
sự thật về các thể tinh anh được
nhận ra một cách thích đáng bởi các nhà tư tưởng
trên thế giới, và sự hiện hữu của chúng
được xác minh nhờ khoa tâm lư học đúng
đắn và chân chính, và nhờ sự phát triển của
khả năng nhăn thông th́ việc truy nguyên các nguyên nhân
của bệnh tật đến các thể tinh anh
tương đối vô nghĩa. Phản ứng tốt
nhất mà nhà y sĩ mở trí bậc nhất có thể (tôi
nói có thể chứ không nói sẽ) tạo ra
hoặc chấp nhận đó là thái độ tâm lư,
tức trạng thái trí tuệ , và t́nh trạng t́nh cảm
của người bệnh, nhất định hoặc là
giúp ích, hoặc là cản trở. Nhiều người
đă thừa nhận điều đó. Chính việc đó
cũng nhiều rồi.
Do đó, thí dụ khi tôi nói rằng ung thư bắt nguồn từ trong t́nh trạng cảm dục và bắt đầu phát triển vào thời Atlantis, th́ điều đó chẳng có ư nghĩa bao nhiêu đối với hạng trung nhân ngày nay. Hạng người đó không hiểu được rằng đa số con người thời nay đều có tâm thức của thời Atlantis.
Tôi muốn đề cập vắn tắt đến nguyên nhân thông thường nhất trong số các nguyên nhân của bệnh: đó là lo lắng và bực bội. Hiện nay, các nguyên nhân này đang có nhiều hơn bao giờ hết, v́ các lư do sau đây:
1. T́nh h́nh thế giới, các khó khăn và sự bất trắc (uncertainty) nhiều đến nỗi hiện nay ít có ai trên thế giới tránh khỏi. Mọi người, dù ít hay nhiều đều liên quan đến t́nh trạng của hành tinh.
2. Sự tương giao giữa con người đă tăng lên rất nhiều và con người thường sống nhiều trong những tập thể – lớn hoặc nhỏ – đến nỗi họ không tránh khỏi tạo ảnh hưởng lên nhau, mà trước kia chưa từng có. Câu “Nếu một thành viên đau khổ, th́ tất cả các thành viên đau khổ theo y” là một phát biểu về một chân lư, tuy cổ nhưng lại mới khi áp dụng và ngày nay mới nhận thức được lần đầu.
70
3.
Sự nhạy cảm của bộ máy con người
cũng ngày càng tăng đến mức con người
“điều hợp” các t́nh trạng cảm xúc và các thái
độ tâm trí của nhau theo cách mới mẻ và mănh
liệt hơn.
Các quan tâm và lo lắng thu hút riêng của họ lại được cộng thêm vào các quan tâm lo lắng của bạn bè họ với kẻ mà họ có dịp tiếp xúc.
4. Về mặt viễn cảm (telepathically) và cũng với một ư thức về tiên đoán được phát triển, con người đưa thêm nỗi khó khăn vốn thuộc về người khác, hoặc vào nhóm tư tưởng gia nào khác và của con người vào các khó khăn có thể xảy ra. Không chắc rằng chúng sẽ xảy ra.
Các vấn đề này sẽ chứng tỏ cho bạn thấy con người phải gặp khó khăn mănh liệt như thế nào khi đương đầu với sự sống. Dĩ nhiên là các vấn đề âu lo và bực dọc (được Chân Sư Morya gọi là “t́nh trạng hiểm nghèo”) xảy ra nhiều và phải được xem xét. Tại sao các khó khăn này của thể cảm dục lại “hiểm nghèo” và nghiêm trọng đến như thế? Âu lo và bực dọc (Worry and irritation) đều nguy hiểm v́:
1. Chúng làm sút giảm sinh lực của con người đến mức làm cho y trở nên dễ nhiễm bệnh. Hiểm họa cảm cúm bắt nguồn từ sự sợ sệt và lo lắng, và khi mà thế giới quen với việc không bị ảnh hưởng bởi t́nh trạng “lo sợ” (“fearfull”) hiện tại, th́ chúng ta sẽ thấy bệnh này tan biến.
2. Theo quan điểm cảm dục, th́ lo âu, sợ sệt cực kỳ lây nhiễm đến nỗi chúng hạ thấp một cách đặc biệt không khí cảm dục, và v́ thế mà khiến cho con người khó hít thở một cách thoải mái – theo ư nghĩa cảm dục.
3. Bởi v́ các t́nh trạng sợ sệt, lo âu và bực dọc trong thể cảm dục ngày nay đang lan rộng đến nỗi chúng có thể được xem là bệnh dịch (epidemic), hiểu theo ư nghĩa hành tinh.
71
4.
Bởi v́ sự bực dọc (ở đây, tôi không nói
đến sự lo lắng) tạo hậu quả khích
động (khích động này rất khó chịu
đựng) và đưa đến nhiều khó khăn.
Thật là lư thú khi ghi nhận rằng một vài h́nh
thức của bệnh đau mắt đều do t́nh
trạng này gây nên.
5. Do lo lắng và bực dọc, linh thị chân chính bị ngăn chận. Chúng đóng kín tầm mắt. Người nào là nạn nhân của các t́nh trạng này, th́ không thấy ǵ ngoài cái nguyên nhân đă gây nên các bệnh tật của y và bị ch́m đắm vào sự tự thương thân xót phận, quan tâm đến riêng ḿnh, hay là ở trong một t́nh trạng tập trung tiêu cực, đến nỗi tầm mắt của y bị thu hẹp và gây chướng ngại cho nhóm của y. Nên nhớ rằng có ích kỷ của nhóm, cũng như có ích kỷ của cá nhân.
Tôi đă kể ra đầy đủ các lư do đối với hậu quả của Lo âu và Bực dọc để chứng tỏ cho bạn thấy sự khó khăn rộng lớn như thế nào. Vào lúc này không có ích lợi ǵ nhiều mà nói đến cách chữa trị. Người ta không bảo với một bệnh nhân bị cảm cúm (khi y đang vật lộn với cơn đau) rằng “Không hề ǵ đâu. Đừng để ư đến nó. Hăy chỗi dậy và bắt tay vào công việc của bạn đi”. Thật là vô ích mà nói với con người ngày nay rằng “Đừng hăi sợ ǵ cả. Hăy ĺa bỏ nỗi lo âu. Mọi sự sẽ tốt đẹp”. Họ sẽ không tin vào bạn đâu, chỉ v́ – và may thay, v́ điều đó không đúng. Có nhiều việc không được tốt đẹp, và nhân loại cùng với cuộc sống hành tinh đều không được êm xuôi. Điều này, Thánh Đoàn đă biết rơ và đang làm việc để cải thiện t́nh trạng. Khi các thống khổ của “cơn sốt hành tinh” trôi qua (và người bệnh sẽ không chết đi), th́ bấy giờ có thể tiến hành nghiên cứu và tạo những cố gắng có thể ngăn ngừa sự tái diễn.
Hiện nay, tất cả những ǵ có thể làm được là giữ cho người bệnh yên tĩnh và cũng giữ cho cơn sốt lắng dịu. Đây là công việc của Đoàn Thể Mới Phụng Sự Thế Gian và những người có thiện chí sáng suốt. Họ rất đông đảo.
2. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TỪ DĨ THÁI THỂ.
72
Các
bạn nên nhớ rằng, ở đây, tôi không bàn
đến các nguyên nhân (đang tạo ra các hậu quả
trong thể xác) xuất phát trong thể trí hay trong thể
cảm dục. Tất nhiên là chúng truyền qua thể
dĩ thái. Thể dĩ thái là một nơi truyền
mọi năng lượng cho thể xác và mọi loại
lực truyền qua nó đến các bộ phận khác nhau
của thể xác, tạo ra các kết quả xấu và
tốt, các kết quả tiêu cực hoặc tích cực, tùy
trường hợp. Đây là một sự thật mà chúng
ta chấp nhận. Ở đây, tôi đang xét về
bệnh tật, các vấn đề và các khó khăn
thuộc thể xác xuất phát từ trong chính thể
dĩ thái và thể hiện trong các mối liên hệ
với xác thân. Các điều này rất phổ biến và thường
thấy. Điều chính– yếu là làm sao bạn giữ cho
hai đường lối hoạt động bằng
thần lực này riêng biệt rơ ràng trong trí bạn. Cả
hai đều đi qua và từ thể dĩ thái nhập
vào thể xác, nhưng chỉ có một là bắt nguồn
ở trong thể dĩ thái hay là liên quan tới các khó
khăn có nguồn gốc dĩ thái.
Thể dĩ thái là một thể hoàn toàn được tạo thành bằng các tuyến lực và các điểm mà các tuyến lực này giao nhau, và (khi cắt ngang) như vậy, tạo thành các trung tâm năng lượng. Nơi nào có nhiều tuyến lực như thế giao nhau, ta có một trung tâm năng lượng lớn hơn, và nơi mà các ḍng năng lượng lớn gặp và giao nhau, như ở trong đầu và trên xương sống, th́ ta có bảy bí huyệt chính. Các nhà huyền bí học biết được có bảy bí huyệt như thế, cộng với 21 bí huyệt nhỏ hơn và 49 cái c̣n nhỏ hơn nữa. Tuy nhiên, vào lúc này, chúng ta sẽ tự giới hạn vào thể dĩ thái nói chung và vào bảy trung tâm lực chính. Tuy nhiên, có lẽ các bạn thích thú khi được biết vị trí của 21 bí huyệt thứ yếu. Chúng có thể được định vị ở các điểm sau:
Có hai bí huyệt ở trước hai tai, gần sát với giao điểm của các xương hàm.
Có hai bí huyệt ngay phía trên hai vú.
Có một cái ở nơi mà các xương ngực gặp nhau sát với tuyến giáp trạng. Cái này cùng với hai bí huyệt ở vú, tạo thành một tam giác lực.
Có hai bí huyệt, mỗi cái ở trong ḷng bàn tay.
73
Có hai
cái, mỗi cái ở ḷng bàn chân.
Có hai cái ở ngay sau hai mắt.
Cũng có hai cái nối tiếp với tuyến sinh dục.
Có một cái sát với lá gan.
Có một cái liên kết với bao tử; do đó nó có liên quan với huyệt đan điền, nhưng không đồng nhất với đan điền.
Có hai cái nối kết với lá lách. Hai cái này trong thực tế hợp thành một bí huyệt duy nhất, nhưng bí huyệt đó được tạo thành bởi hai cái chồng lên nhau.
Có hai cái – mỗi cái ở phía sau mỗi đầu gối.
Có một bí huyệt mạnh mẽ liên kết chặt chẽ với thần kinh phế vị. Đây là bí huyệt mạnh nhất và được một vài trường phái huyền linh học xem như là một bí huyệt chính; nó không nằm trong cột xương sống, nhưng không cách xa tuyến ức (thymus, sản xuất tế bào lympho T. ND).
Có một bí huyệt nằm sát với đan điền, và liên kết nó với bí huyệt ở chót xương sống, như vậy tạo thành một tam giác gồm bí huyệt sinh dục, đan điền, và bí huyệt ở chót xương sống.
Hai tam giác được đề cập đến trong biểu liệt kê này có tầm quan trọng thực sự. Một cái nằm trên, c̣n cái kia nằm dưới cách mô.
Dĩ nhiên, rơ ràng là nơi nào có ḍng thần lực thông suốt qua dĩ thái thể, nhập vào nhục thân, th́ khả năng xảy ra là nơi đó ít bị bệnh tật hay đau ốm. Tuy nhiên, có thể có khuynh hướng ngày càng tăng đối với các khó khăn sinh ra do sự kích thích quá độ, hậu quả của nó là hệ thần kinh quá hoạt động, với mọi vấn đề kèm theo. Các mănh lực này – đang t́m lối vào hiện thể trọng trược – là các phóng phát từ ba hướng (tôi xin tạm dùng một từ như thế):
74
1.
Từ các hiện thể của phàm ngă – thể cảm
dục và thể hạ trí.
2. Từ linh hồn, nếu đă lập được sự tiếp xúc, dù nhận biết được hay không.
3. Từ thế giới chung quanh mà các hiện thể của linh hồn và của phàm ngă đă đóng vai tṛ “các cửa vào” thế giới đó. Nhân tiện, trong phần cuối câu này, tôi muốn các bạn hăy chú ư đến một mối liên hệ có thể có giữa “các cửa vào” này với câu “cửa điểm đạo”.
Trong trường hợp mà các bí huyệt này – qua đó, luồng năng lượng đang tuôn vào từ các nguồn cung cấp nói trên – c̣n im ĺm, chưa được khơi hoạt, hay chỉ hoạt động một phần hoặc là quá chậm chạp (xét về nhịp rung động của chúng), th́ bấy giờ, bạn sẽ gặp một t́nh trạng tắc nghẽn. T́nh trạng này sẽ tạo nên sự tắc nghẽn trong thể dĩ thái, mà các hậu quả sau đó là hoạt động của thể xác bị nhiều khó khăn. Một trong các khó khăn thông thường nhất là sung huyết (congestion) ở phổi mà trong thực tế, vốn do các nguyên nhân nói trên, cộng với t́nh trạng sung huyết bên trong thể dĩ thái, dù rằng, về mặt ngoại môn, người ta có thể truy được một số nguyên nhân thuộc thể chất rơ rệt. Chính việc nhập lại của nguyên nhân hiện rơ bên ngoài và nguyên nhân đích thực bên trong chịu trách nhiệm cho sự bộc phát của cơn bệnh. Khi hai t́nh trạng này được liên kết với nhau, th́ thể xác bị chướng ngại và thể dĩ thái lâm vào một t́nh trạng bất hảo, bấy giờ, đương sự sẽ bị bệnh, đau ốm hay một loại suy nhược nào đó. Mọi sự tắc nghẽn bên ngoài đều có thể luôn luôn được truy từ hai nguyên nhân này – một nguyên nhân bên trong và một nguyên nhân bên ngoài.
Trong các trường hợp này, điều lư thú là nguyên nhân bên ngoài không phải là hậu quả của nguyên nhân bên trong của cá nhân ấy. Do đó, bạn nên lưu ư rằng không phải mọi bệnh tật của một cá nhân đều hoàn toàn có nguồn gốc bên trong hay thuộc tâm lư, mà đôi khi, chúng bắt nguồn từ cả bên ngoài lẫn bên trong. Đó là sự phức tạp của vấn đề.
75
Phát
biểu trên mở ra toàn bộ vấn đề về
hoạt động của bảy bí huyệt trong thể
dĩ thái. Các bí huyệt này có thể được xem
như c̣n im ĺm hay chưa được khơi hoạt,
hoặc chỉ mới được khơi hoạt
một cách yếu ớt, hoặc là đang tác động
một cách b́nh thường, nghĩa là một số
năng lượng tạo nên h́nh thể của bí
huyệt ấy đang hoạt động một cách
nhịp nhàng, và do đó, dễ tiếp nhận năng lượng
đi vào, trong khi những bí huyệt khác vẫn hoàn toàn
bất động và không đáp ứng. Có những bí
huyệt khác lại hoạt động đầy
đủ và do đó, có sức thu hút mạnh mẽ
đối với bất cứ các lực lưu nhập
nào; c̣n các bí huyệt khác nữa th́ chỉ linh hoạt
một phần. Với đa số con người, các bí
huyệt dưới cách mô linh hoạt hơn các bí huyệt
trên cách mô (ở đây tôi đang đề cập
đến bảy bí huyệt chính, chứ không đề
cập đến 21 bí huyệt phụ). Đối với
người t́m đạo, các bí huyệt dưới cách mô
đều linh hoạt, c̣n các bí huyệt ở tim và cổ
họng th́ đang từ từ hoạt động, trong
khi ở trường hợp của các đệ tử,
th́ huyệt ấn đường cộng với các
huyệt phía dưới nó trong cơ thể, đều
đang được khơi hoạt nhanh chóng. Trong
điểm đạo đồ, bí huyệt đầu
đang đi vào hoạt động, nhờ đó mà nó đưa
tất cả các bí huyệt vào sự nhịp nhàng phối
hợp thực sự. Mỗi bệnh nhân hay là mỗi
người ở vào cung nào đó, nên ứng đáp một
cách khác nhau; yếu tố thời gian cũng khác nhau;
lối khai mở cũng thay đổi, và sự ứng
đáp với các lực lưu nhập cũng hơi khác.
Tất cả vấn đề này chúng ta sẽ xem xét thật đúng khi chúng ta bàn đến chương IX, tức chương liên quan đến bảy cách trị liệu. Ở đây, tôi chỉ nhắc đến vấn đề này để đặt nền móng cho những ǵ phải được xem xét sau này, và nhờ đó mà chứng tỏ cho các bạn thấy rằng toàn thể mối liên hệ giữa thể dĩ thái với thể xác đều liên quan đến vấn đề chữa trị như thế nào. Thế nên, điều quan trọng là trước khi chữa trị thực sự, nhà trị liệu nên biết tŕnh độ tiến hóa của bệnh nhân, và cũng nên biết loại cung của cả phàm ngă lẫn chân ngă người ấy. Nếu thêm vào đó, bạn có một số kiến thức về các khuynh hướng và các chỉ dẫn thuộc chiêm tinh học, th́ việc chẩn đoán càng chính xác hơn nhiều. Ch́a khóa của mọi thành công (hoặc là nhờ chữa lành bệnh ở thể xác, hoặc là qua sự tử vong) đều nằm trong sự hiểu biết t́nh trạng của các bí huyệt trong thể dĩ thái. Các bí huyệt này xác định mức rung động của cơ thể và sự đáp ứng chung của thể xác. Thậm chí, chúng c̣n chi phối các hoạt động và sự chính xác của bản năng, mối liên hệ của bản năng với sự sống ở ngoại cảnh và “sự toàn vẹn” cùng là sự lành mạnh tổng quát của hệ thần kinh giao cảm.
76
A. T̀NH TRẠNG
TẮC NGHẼN
Nhiều khó khăn thực sự có thể được truy nguyên do sự tắc nghẽn, hay do sự thiếu hoạt động thông suốt của các lực. Trong mối liên hệ này có thể nêu ra rằng thể dĩ thái là một cơ nguyên cho việc nhập và xuất.
Do đó mà có một liên quan mật thiết lạ lùng giữa nó và các cơ quan như là phổi, bao tử và thận. Khi được hiểu đúng, biểu tượng học tŕnh bày ở đây sẽ có khuynh hướng cho thấy có một liên hệ bí ẩn sâu xa nằm giữa:
1. Trí óc và phổi. Tiến tŕnh hít thở với các giai đoạn hít vào, tạm nghỉ và thở ra, đều diễn ra liên quan với cả hai trạng thái thần lực của trí óc và xác thân.
2. Bản chất dục vọng và bao tử. Ở đây lại là diễn tŕnh thu vào, đồng hóa và thải ra.
3. Chính thể dĩ thái và thận, cùng với các diễn tŕnh được vạch rơ, trong cả hai trường hợp hấp thụ, chế hóa và chuyển giao.
77
Không có
biểu tượng nào tương đối chính xác
đối với toàn thể tiến tŕnh sáng tạo
như là cơ thể của con người.
Do đó, t́nh trạng tắc nghẽn trong thể dĩ thái đang tạo ra nhiều tai hại trong thể xác, có thể tồn tại ở điểm nhập vào từ thể cảm dục hay là từ cơi cảm dục (hăy chú ư đến cách diễn tả và sự dị biệt) hay là ở điểm thoát ra, có liên quan với bí huyệt mà loại lực dĩ thái đặc biệt đi vào dễ dàng nhất và lưu chuyển qua đó dễ dàng nhất. Nơi nào không có sự hoạt động thông suốt giữa thể dĩ thái với thể cảm dục, bạn sẽ gặp đau yếu. Nơi nào không có sự hoạt động thông suốt giữa thể dĩ thái với thể xác, bao gồm cả các trung khu thần kinh và hệ thống tuyến nội tiết, th́ bạn cũng sẽ gặp bất an. Đừng bao giờ quên sự liên hệ chặt chẽ giữa bảy bí huyệt chính với bảy tuyến chính của thể xác. Hai hệ thống tạo thành một bộ phận quản trị ăn khớp nhau, với các tuyến và chức năng của chúng được xác định bởi t́nh trạng của các bí huyệt dĩ thái. Đến phiên các bí huyệt dĩ thái này lại chịu sự chi phối bởi tŕnh độ tiến hóa và kinh nghiệm thu lượm được của linh hồn lâm phàm, bởi sự an trụ đặc biệt của linh hồn đang lâm phàm, và bởi các cung (cung phàm ngă và cung linh hồn) của đương sự. Đừng quên rằng năm trạng thái của con người (khi y hoạt động trong ba cơi thấp) được định đoạt bởi một số mănh lực của cung. Đó là cung linh hồn, cung phàm ngă và cung của thể trí, thể cảm dục và thể xác. Trong Kỷ Nguyên Mới sắp đến, tất cả các điều nói trên sẽ được khám phá và cứu xét một cách rơ rệt, và sự hiểu biết này giúp nhà trị liệu thấy được t́nh trạng có thể có của các bí huyệt, thứ tự khai mở của chúng, một hoặc nhiều nốt căn bản riêng tư của chúng. Môn y học mới sẽ được xây dựng một cách rơ rệt dựa vào khoa học về các bí huyệt, mọi sự chẩn đoán và có thể chữa trị, đều sẽ được dựa trên sự hiểu biết này. Nhà nội tiết học chỉ mới bắt đầu thoáng thấy các khả năng này, và nhiều điều mà hiện họ đang xem xét, đều có trong đó các mầm của chân lư tương lai. “Việc làm quân b́nh hệ thống” và liên quan của các tuyến với ḍng máu, cũng như với tính t́nh và nhiều loại bẩm chất khác nhau, được xem như có giá trị thực sự và đáng theo đuổi. Tuy nhiên, c̣n phải khám phá rất nhiều điều trước khi người ta có thể làm việc với các tuyến một cách thực sự an toàn, khiến chúng trở thành một vấn đề chính được chú ư (một ngày nào đó sẽ gặp trường hợp này trong mọi h́nh thức đau ốm).
78
Khắp
bộ luận ngắn này, tôi sẽ đưa ra nhiều
ẩn ngữ sẽ giúp cho nhà khảo cứu đă mở
trí t́m đúng hướng. Trước khi chuyển qua xem
xét liên hệ của thể dĩ thái dưới h́nh
thức một đơn vị, đối với thể
xác, tôi muốn nêu ra rằng tôi đặt các phức
tạp của sự tắc nghẽn trước tiên
dựa vào danh sách các bệnh xuất phát trong thể dĩ
thái, bởi v́ chính vào lúc này – có thể trong một vài
thế kỷ – sự tắc nghẽn là nguyên nhân chính
của nỗi khó khăn đối với đa số
nhân loại, hay là của những kẻ mà về mặt
huyền bí, chúng ta gọi là những người “thuộc
bí huyệt sinh dục đan điền” (“solar sacral” people).
Điều này một phần do bởi các thói quen đè nén
và ức chế, mà nhân loại nói chung đă phát triển
qua nhiều thời đại. Chính sự tắc nghẽn
này ở điểm vào hoặc ra trong thể dĩ thái,
chịu trách nhiệm cho sự cản trở ḍng chảy
thông suốt của sinh lực, với các hậu quả là
con người nhanh chóng mắc bệnh. Thế nên, bạn
sẽ thấy các bài tập thở được ấn
định một cách thận trọng như thế nào,
với các kết quả tinh tế của chúng là tái tổ
chức và điều chỉnh lại các thể tinh anh
(đặc biệt là thể dĩ thái và thể cảm dục)
sẽ trở nên ngày càng được sử dụng
phổ thông hơn. Ngày nay, sự quan tâm của nhiều
người đến phép tập thở chứng tỏ
rằng về mặt bên trong người ta đă thừa
nhận sự kiện này dù họ vẫn chưa biết
được đầy đủ về các phương
pháp và các hiệu quả.
Một điều khác mà tôi muốn kêu gọi các bạn lưu ư là các điểm tắc nghẽn có thể nằm, hoặc là trong bí huyệt thể cảm dục, hoặc là trong thể dĩ thái, và nhà chữa trị sẽ phải nghiên cứu t́nh trạng này.
79
B. THIẾU SỰ PHỐI
KẾT VÀ HỘI NHẬP
Bây giờ, chúng ta xem qua về điểm khó khăn thứ hai nằm trong thể dĩ thái, mà trong bảng liệt kê, chúng ta gọi là thiếu phối kết, hoặc hội nhập (coordination or integration). Điều này hiện nay cực kỳ phổ biến và chịu trách nhiệm cho một số lớn bệnh tật. Dĩ thái thể là h́nh thể “vững chắc” bên trong, mà dựa vào đó thể xác được xây nên hay tạo ra. Đó là cái giàn bên trong nằm bên dưới mọi bộ phận của toàn thể con người bên ngoài; đó là cái khung chống đỡ toàn thể; chính dựa vào cái khung đó mà h́nh thể bên ngoài được sao chép lại, và đó là mạng lưới các nadis (vô cùng phức tạp), tạo nên đối phần hay là trạng thái kép của toàn thể hệ thần kinh, nó tạo thành một phần thật là quan trọng của cơ cấu con người. Thế nên rơ ràng là cùng với ḍng máu, thể dĩ thái là công cụ của sinh lực. Do đó, nếu có sự yếu ớt trong liên hệ giữa cấu trúc bên trong này với h́nh hài bên ngoài, th́ ngay lập tức bạn thấy rơ là nỗi khó khăn thực sự chắc chắn sẽ xảy ra.
Sự khó khăn này có ba h́nh thức:
1. H́nh hài vật chất dưới trạng thái dày đặc của nó được kết nối quá lỏng lẻo với thể dĩ thái hay đối phần dĩ thái. Điều này đưa đến t́nh trạng bị mất sinh khí và suy nhược, làm cho con người dễ mắc bệnh hay sức khỏe suy kém.
2. Sự liên kết kém cỏi trong một số chiều hướng hay trạng thái của thiết bị. Qua một số điểm tập trung hay các bí huyệt, sinh lực không thể lưu chuyển một cách thích hợp, và do đó bạn có sự yếu ớt rơ rệt ở một bộ phận nào đó của thể xác. Thí dụ, yếu đuối (impotence) là một khó khăn thuộc loại đó, khuynh hướng viêm thanh quản là một khó khăn khác, để nói đến hai sự xáo trộn khác nhau rất nhiều.
80
3.
Về căn bản, sự liên kết cũng có thể
lỏng lẻo và kém cỏi, đến nỗi linh hồn
rất ít kiểm soát hiện thể dùng để biểu
lộ ra ngoài của nó, nên sự ám ảnh (obsession) hay
sự chiếm đoạt (possession) dễ xảy ra.
Đây là một thí dụ điển h́nh nhất của các khó khăn gắn liền với t́nh trạng này. C̣n các thí dụ khác là một số h́nh thức ngất xỉu hay là mất ư thức và “động kinh” (“petit mal”).
Hiển nhiên, đúng là cũng có các t́nh trạng ngược lại, khi thể dĩ thái kết chặt hay ḥa nhập chặt chẽ với phàm ngă – dù là nó có bản chất tiến hóa cao hay chỉ là một dĩ thái thể thông thường – đến nỗi mọi phần của thể xác đều ở trong t́nh trạng bị kích thích thường xuyên, cố gắng đột ngột, với hậu quả là hoạt động trong thần kinh hệ mà – nếu không được điều chỉnh đúng đắn – có thể đưa đến rất nhiều tai hại. Đây là điều mà tôi bàn đến trong đề mục thứ ba “Kích thích quá mức các bí huyệt”. Liên kết quá lỏng lẻo hay quá chặt chẽ đều đưa tới sự rối loạn, dù rằng loại khó khăn thứ nhất th́ thường là trầm trọng hơn các loại khác. Ở đây, tôi đă tŕnh bày đủ để chứng minh rằng việc nghiên cứu thể dĩ thái có thể là lư thú và quan trọng như thế nào. Toàn thể chủ đề trị liệu được “ràng buộc” (sử dụng một nhóm từ mới mẻ mà tôi thấy khó dùng) với sự phát triển, khai mở và kiểm soát bảy bí huyệt chính.
C. CÁC BÍ HUYỆT BỊ KÍCH THÍCH QUÁ ĐỘ
81
Có
nhiều điều mà tôi có thể thêm vào những ǵ tôi
đă nói về nguyên nhân của bệnh xuất phát trong
thể dĩ thái, nhưng trong phần II (khi bàn đến
tiết nói về một số nhu cầu căn bản)
tôi sẽ nói rơ hơn về chủ đề này.
Đối với nhục thể, th́ sự tắc
nghẽn, thiếu ḥa nhập và các bí huyệt quá bị kích
thích, hiển nhiên là các nguyên nhân căn bản, đối
với nhục thân, nhưng chính chúng lại là các hiệu
quả thường xảy ra của các nguyên nhân tế
nhị hơn, ẩn tàng trong sự sống của thể
cảm dục và thể trí, và trong trường hợp quá
bị kích thích, đôi khi lại là kết quả của
các tiếp xúc với linh hồn. Theo dự kiến th́
thể dĩ thái phản ứng một cách b́nh
thường với mọi t́nh trạng xảy ra trong các
thể tinh anh. Về cơ bản, nó là một tác nhân
truyền đạt (transmitter), chứ không phải là tác
nhân phát khởi (originator), chỉ v́ các hạn chế của
người quan sát khiến y gán các nguyên nhân của đau
ốm thể xác cho thể dĩ thái. Nó là nơi thanh toán
(clearing house) cho mọi thần lực đến với
thể xác, miễn là tŕnh độ tiến hóa đă
đưa các bí huyệt khác nhau đến một t́nh
trạng mà trong đó chúng dễ tiếp nhận đối
với bất cứ loại thần lực đặc
biệt nào. Nói về mặt huyền bí, các bí huyệt có
thể ở vào một trong năm t́nh trạng hay trạng
thái tồn tại. Các trạng thái này có thể
được mô tả bằng các thuật ngữ sau
đây:
1. Khép chặt, tĩnh lặng và đóng kín, tuy nhiên có các dấu hiệu của sự sống c̣n im ĺm và tràn đầy tính tŕ trệ.
2. Mở rộng, không bị phong kín và nhuốm màu yếu ớt, sự sống đang mạch động (pulsates).
3. Tăng tốc, sống động, linh hoạt theo hai hướng; hai cánh cửa nhỏ được mở rộng.
4. Tỏa chiếu và vươn ra với nốt rung động theo mọi bí huyệt liên hệ.
5. Trở nên ḥa nhập và mỗi bí huyệt hoạt động nhịp nhàng với bí huyệt khác. Sinh lực tuôn chảy qua mọi cơi. Thế giới trở nên mở rộng.
82
Liên quan
với năm giai đoạn này – trong đó thể dĩ
thái mở rộng và trở thành mạch sống tối
cần (the vital livingness) của mọi biểu
lộ trên cơi trần – là năm giống dân của con
người, bắt đầu bằng giống dân Lemuria,
năm cơi biểu lộ của nhân loại và siêu nhân
loại, năm giai đoạn tâm thức và những
lối phân nhóm khác theo số năm mà bạn gặp trong
triết học nội môn. Nhân đây, có thể là hữu
ích và lư thú mà nêu ra rằng ngôi sao năm cánh không những
chỉ là dấu hiệu và biểu tượng của
điểm đạo, và sau cùng của con người hoàn
thiện, mà nó c̣n là biểu tượng căn bản
của thể dĩ thái và của năm bí huyệt đang
chi phối con người hoàn thiện – đó là hai bí
huyệt đầu, bí huyệt tim, bí huyệt cổ
họng và bí huyệt ở chót xương sống. Khi nào
các bí huyệt này được khơi hoạt đầy
đủ và hoạt động nhịp nhàng với nhau,
th́ các bộ năm khác nhau mà tôi đă đề cập
ở trên, sẽ tạo thành một phần toàn vẹn
của tâm thức của con người hoàn thiện.
Dù cho mảng thông tin đặc biệt này không liên quan rơ rệt tới Khoa Chữa Trị, tuy nhiên toàn bộ vấn đề có liên quan tới năng lượng, và năng lượng, dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác đều liên quan tới các nhân và quả của bệnh tật, bởi v́, bệnh tật là hiệu quả bất đắc dĩ của năng lượng theo đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là nguyên tử.
Cần nên nhớ rằng dĩ thái thể của con người là một phần nguyên vẹn của dĩ thái thể của Hành Tinh Thượng Đế, và do đó nó có liên quan tới mọi h́nh hài nằm bên trong dĩ thái thể đó ở bất cứ giới nào và ở tất cả các giới trong thiên nhiên. Đó là thành phần của chất liệu của vũ trụ, được phối kết với chất liệu của hành tinh, và do đó nó cung cấp nền tảng khoa học cho sự hợp nhất.
83
Thực
ra, nếu bạn có hỏi tôi rằng, những ǵ nằm
sau mọi bệnh tật, mọi thất bại, sai
lầm, và thiếu biểu lộ thiêng liêng trong ba cơi
thấp, th́ tôi sẽ nói đó là tính chia rẽ, nó
tạo ra các khó khăn chính lộ ra trong thể dĩ thái,
cộng với sự bất lực của ngoại
thể hữu h́nh không đáp ứng được
một cách thích hợp với các xung lực tinh vi ở bên
trong. Đây là nguyên nhân (nguyên nhân thứ yếu, như tôi
đă nêu ra ở trên) của phần lớn các bệnh
tật. Dĩ thái thể của hành tinh chưa truyền
chuyển và luân lưu một cách thông suốt các lực
đang t́m cách đi vào tâm thức và sự biểu lộ
của con người trên cơi trần. Các mănh lực này
xuất phát từ chính bên trong con người, khi y hoạt
động trên các mức độ tâm thức tinh vi và
xuất phát từ linh hồn. Chúng cũng đến
từ các nhóm được kết hợp và tiếp xúc,
từ sự sống hành tinh và sau rốt, suy cho cùng th́ chúng
đến từ toàn thể vũ trụ. Khi
được khơi hoạt đầy đủ và
được vận dụng một cách hữu thức
và khoa học, mỗi bí huyệt đều có thể dùng
như một cánh cửa mở rộng, qua đó tri
thức về những ǵ nằm ngoài sự sống cá nhân
con người có thể đi vào. Về căn bản,
thể dĩ thái là bộ máy đáp ứng quan trọng
nhất của con người, không những nó giúp cho
năm giác quan vận hành đúng đắn, và do thế mà
cung cấp năm điểm tiếp xúc chính với
thế giới hữu h́nh, mà nó cũng c̣n giúp cho con
người ghi nhận được một cách bén
nhạy các cơi giới tinh anh, và, khi được linh
hồn tiếp cho năng lượng và kiểm soát, th́ nó
cũng giúp các lănh vực tinh thần mở rộng ra.
Dĩ thái thể là một nơi tiếp nhận mạnh mẽ các ấn tượng, vốn được truyền đến tâm thức con người nhờ các bí huyệt đă được khơi hoạt. Thí dụ, chỉ có được nhăn thông thực sự, khi nào khơi hoạt được huyệt đan điền (dưới rốn lối một tấc – ND) hoặc huyệt ấn đường (giữa hai mày). Các ấn tượng và thông tin được truyền đạt này trở thành tác nhân kích thích nhờ đó hoạt động hữu thức được khởi xướng. Có nhiều thuật ngữ được dùng để diễn tả các lực này và các hậu quả thúc đẩy của chúng: đó là các xung lực, tác nhân kích thích, ảnh hưởng, tiềm lực, dục vọng, đạo tâm và nhiều thuật ngữ như thế, vốn chỉ đồng nghĩa với lực hoặc năng lượng và v́ thế truyền đạt cùng một ư tưởng tổng quát. Tất cả các từ này đều chỉ các h́nh thức hoạt động của dĩ thái thể, nhưng chỉ khi nào thể xác ghi nhận chúng và tác động dưới ấn tượng của chúng. Toàn bộ chủ đề lực thúc đẩy là một chủ đề rất lôi cuốn.
84
Tuy
nhiên, v́ sự rộng lớn của vấn đề cho
nên nhân loại chỉ có thể từ từ hiểu
được t́nh trạng và dần dần nhận
thức được rằng con người chủ
yếu (nhờ dĩ thái thể của y) là một thành phần
nguyên vẹn của một Tổng Thể vĩ
đại và đầy sức sống; sớm muộn ǵ
y cũng sẽ học được rằng nhờ các
diễn tŕnh tiến hóa mà y có thể hy vọng ghi nhận
được mọi lănh vực khác nhau của biểu
lộ thiêng liêng. Chỉ khi nào thể dĩ thái khởi
sự hoạt động dưới ảnh hưởng
và qua “các lực tạo ấn tượng” của linh
hồn, trí tuệ, và tạm thời của cảm dục
thể, th́ con người mới có thể trở nên
biết được mọi thế giới, mọi
hiện tượng và mọi trạng thái tâm thức, và
như thế đạt được sự toàn tri
vốn là quyền thừa kế của tất cả các
Con của Thượng Đế.
Tuy nhiên, trong thời kỳ mà trạng thái hiện tồn này đang ở trong tiến tŕnh thành tựu, th́ sự thiếu phát triển, việc không thể ghi nhận, công việc sinh động là khơi hoạt và tổ chức các bí huyệt khác nhau, rồi sau đó liên kết chúng với nhau một cách chính xác, sẽ tạo ra nhiều khó khăn. Chính t́nh trạng này vốn là nguồn gốc hiệu quả của các khó khăn, mà khi t́nh trạng ấy được đưa vào thể xác, sẽ tạo ra nhiều loại bệnh tật khác nhau, nhiều sự căng thẳng và những tắc nghẽn, việc quá kích thích của các bí huyệt ở một phần của thể dĩ thái và sự phát triển yếu kém của chúng ở một phần khác, thêm vào với sự khai mở không đồng đều và thế thăng bằng sai lạc giữa các bí huyệt.
Trong khảo cứu của y học hiện đại, người ta nói nhiều về sự “thiếu cân bằng” của các tuyến nội tiết, và nhiều khó khăn ở thể xác được quy cho việc thiếu thăng bằng thường xuyên này. Nhưng đàng sau t́nh trạng này của hệ thống tuyến nội tiết, có ẩn sự thiếu cân bằng cơ bản của chính các bí huyệt. Chỉ khi nào có sự hiểu biết đúng đắn về lực, hiểu được sự tiếp nhận và vận dụng sau đó của nó, th́ bấy giờ mới đạt được sự thăng bằng đúng, và hệ thống tuyến nội tiết của con người mới kiểm soát con người hồng trần theo đúng cách đă định.
Hiện nay, cần phải nghiên cứu nhiều về các vấn đề sau:
1. Vấn đề nhận thần lực một cách đúng đắn qua bí huyệt thích hợp. Một ví dụ của việc này là kiểm soát đúng bí huyệt đan điền như là bí huyệt trong đó sự bén nhạy của thể cảm dục có thể được ghi nhận và vận dụng một cách thích hợp.
85
2.
Vấn đề về mối liên hệ đúng của
một bí huyệt đặc biệt với tuyến liên
quan của nó, cho phép hoạt động thông suốt
của lực đang tuôn đổ qua bí huyệt,
đến tuyến tương ứng kết hợp
với nó, nhờ vậy mà chi phối kích thích tố
đặc biệt của tuyến đó, và sau rốt chi
phối ḍng máu. Nếu bạn hiểu rơ được
tŕnh tự giao tiếp này, th́ bạn sẽ hiểu rơ
hơn ư nghĩa huyền bí của các lời trong Kinh
Cựu Ước nói rằng “máu là sự sống”. Chính sinh
lực xuất phát từ thể dĩ thái, tác động
vào ḍng máu, xuyên qua bí huyệt có đáp ứng với
một trong bảy loại thần lực đặc
biệt và tuyến liên hệ của nó. Do đó, rơ ràng là có
một liên hệ chặt chẽ giữa:
a. Dĩ thái thể với cương vị là một tác nhân truyền đạt toàn bộ năng lượng và thần lực.
b. Hệ thống tuyến nội tiết mà các tuyến khác nhau của nó thực ra là sự ngoại hiện hay là cụ thể hóa của các bí huyệt chính và phụ.
c. Tim là trung tâm của sự sống, cũng như bộ óc là trung tâm của tâm thức. Từ tim, ḍng máu luân chuyển và được kiểm soát. Nhờ đó mà ba hệ thống lớn này được liên hệ với nhau.
d. Toàn thể hệ thống tuyến liên hệ với hệ thần kinh nhờ mạng lưới các dây thần kinh và các “nadis” đang ẩn dưới mạng lưới này. Các nadis này là những tuyến sinh lực (threads of life force), đang nằm dưới mọi bộ phận của cơ thể, và đặc biệt của hệ thần kinh dưới mọi trạng thái của nó.
86
Một
vấn đề khác có thể được thêm vào các
vấn đề và các liên hệ này. Đây là sự liên
hệ hỗ tương vốn dĩ phải
được thiết lập giữa tất cả các bí
huyệt, giúp cho thần lực hoạt động thông
suốt, theo đúng nhịp điệu, khắp cả
thể xác.
Do đó, bạn có một số hệ thống lớn quản trị phối hợp đang kiểm soát hay không kiểm soát được thể xác.
Khi nào thiếu sự kiểm soát đó là do không lập được các liên giao đúng đắn bên trong cơ thể, hay là thiếu sự phát triển. Các nhóm quản trị phối hợp này là:
1. Nhóm thuộc thể dĩ thái, tác động trước tiên qua bảy bí huyệt chính của nó, nhưng cũng qua nhiều bí huyệt khác nữa.
2. Nhóm hệ thống tuyến nội tiết, tác động trước tiên qua bảy nhóm tuyến chính, nhưng cũng qua các tuyến ít quan trọng khác.
3. Nhóm hệ thần kinh (hệ giao cảm và hệ năo tủy) với tầm quan trọng đặc biệt nơi thần kinh phế vị, với hiệu quả của nó trên tim và do đó mà có ảnh hưởng đến ḍng máu.
Tất cả các điểm này phải được xem xét và liên kết trong bất cứ hệ thống trị liệu theo huyền môn nào, và xét cho cùng th́ vấn đề kỹ thuật được bao hàm trong đó lại ít phức tạp hơn là hệ thống rộng lớn được xây dựng bởi y học và giải phẫu học chính thống. Chính v́ thiếu sự phối hợp của ba hệ thống này mà thuật chữa trị, vào lúc này không đạt được tất cả những ǵ nó mong mỏi. Nó đă giúp ích rất nhiều, nhưng c̣n phải tiến thêm một bước nữa, trên cơi dĩ thái trước khi manh mối đích thực đối với bệnh tật và cách chữa trị được xác minh.
87
Thí
dụ, sự thiếu sinh lực và các t́nh trạng
dưới b́nh thường thường thấy,
chứng tỏ sự thiếu năng động của
dĩ thái thể và sự thiếu sinh khí trong thể
đó. Các kết quả của tính tŕ trệ này của
thể sinh lực có thể thuộc về cả hai
mặt thể chất và tâm lư, bởi v́ các tuyến trong
thể xác sẽ không tác động một cách b́nh
thường, và như được biết rơ, chúng chi
phối sự biểu hiện của thể xác con người
cũng như các trạng thái t́nh cảm và trí tuệ
của y tới chừng mức mà các trạng thái đó có
thể hay không thể t́m cách biểu lộ qua thể xác.
Các tuyến ấy không chi phối được con
người nội tâm, hay là các trạng thái tâm thức
của con người ấy, nhưng chúng lại có
thể và chắc chắn ngăn trở các trạng thái bên
trong đó, đang t́m cách biểu lộ ra ngoài. Trong
trường hợp trái lại, một thể dĩ thái
quá mạnh và các bí huyệt của nó quá bị kích thích, có
thể cũng đặt một căng thẳng quá
lớn trên hệ thần kinh, và hậu quả là tạo ra
sự rối loạn thần kinh rơ rệt, đau nửa
đầu, mất thăng bằng trí tuệ và t́nh
cảm, rồi, trong một vài trường hợp, đưa
đến sự điên cuồng.
Tôi đă nói hơi chi tiết một chút về vấn đề này, bởi v́ sự liên hệ của thể dĩ thái với thể xác và tính dễ tiếp nhận của nó đối với các năng lượng bên trong chi phối con người một cách dứt khoát. Chúng ta lúc nào cũng cần phải ghi nhớ điều này khi nghiên cứu các nguyên nhân của bệnh tật xuất phát trong hạ trí hoặc do sự hoạt động của linh hồn trong cuộc đời của đệ tử, hay là khi chúng ta nghiên cứu các tiến tŕnh được chuẩn bị cho cuộc điểm đạo. Dĩ thái thể phải luôn luôn và lúc nào cũng đóng vai tṛ tác nhân truyền đạt các năng lượng bên trong cho cơi bên ngoài, c̣n thể xác th́ phải học cách đáp ứng và nhận biết những ǵ được truyền đạt. Hiệu năng của việc truyền chuyển và hậu quả là hoạt động của thể xác luôn luôn tùy thuộc vào các bí huyệt, đến lượt các bí huyệt lại chi phối các tuyến; sau đó, các tuyến này mới định đoạt bản tính và ư thức được biểu lộ của con người. Nếu các bí huyệt được khơi hoạt và dễ tiếp thu, th́ sẽ có một bộ máy thể chất đáp ứng được với các thần lực đang lưu chuyển qua. Nếu các bí huyệt c̣n yên ngủ, và như thế có thể truyền đạt được chút ít thần lực thôi, th́ bộ máy thể chất cũng trở thành chậm chạp và thiếu đáp ứng.
88
Nếu
các bí huyệt dưới cách mô được khơi
hoạt c̣n các bí huyệt trên cách mô vẫn chưa, th́ ư
thức của con người sẽ được
tập trung vào bản chất động vật và bản
chất xúc cảm, và nhiều bệnh về thể xác
của y cũng nằm dưới cách mô. Do đó, bạn
sẽ thấy toàn thể vấn đề này rắc
rối và phức tạp như thế nào – phức tạp
đến nỗi nó chỉ được hiểu đúng
khi nào con người lấy lại được
quyền năng đă mất để “thấy
được ánh sáng” của thể dĩ thái và của
bảy bí huyệt chính của nó, và, nhờ xúc giác phát
triển trong bàn tay và ngón tay, để xác minh tốc
độ rung động trong các bí huyệt khác nhau. Khi nào
người ta sử dụng được cả hai
phương tiện hiểu biết nói trên, th́ toàn bộ
vấn đề dĩ thái thể sẽ chiếm một
tầm quan trọng mới mẻ và sẽ được
hiểu một cách đúng đắn.
3. CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT TRONG HẠ TRÍ.
Tôi đă bắt đầu phần nghiên cứu này với các nguyên nhân xuất phát trong thể cảm dục và thể dĩ thái, bởi v́ đó là các nguồn gốc chính của bệnh hoạn, do sự kiện là đa số nhân loại đều đang trụ vào thể cảm dục, cũng như đa số các h́nh hài trong giới động vật đều đang trụ vào thể dĩ thái. Các lực đang tuôn đổ vào giới động vật phần lớn là xuất phát từ các phân cảnh dĩ thái, và từ các mức độ hồng trần trọng trược của sự sống. Tuy nhiên, các động vật cấp cao nhờ sự phát triển do chúng tiếp xúc với con người, đang trở nên dễ bị ảnh hưởng với các lực xuất phát từ cơi cảm dục, và nhờ thế mà chúng phát triển được các hoạt động và các phản ứng không hoàn toàn thuộc về bản năng.
Ngày nay, do sự phát triển trí tuệ trong giống dân Aryan, một số khó khăn có thể nảy sinh trong thể xác. Về cơ bản, nguồn gốc của chúng không phải ở thể trí, mà trước tiên do sự kiện thể trí là tác nhân truyền đạt năng lượng linh hồn (khi được linh hoạt và được chỉnh hợp đúng), và năng lượng linh hồn này, đang tuôn đổ vào thể xác, có thể tạo ra một vài t́nh trạng quá kích thích và các khó khăn liên quan với thần kinh hệ. Tuy nhiên, chính năng lượng được truyền đạt này mới tạo ra các bệnh tật, chứ không phải do yếu tố xuất phát từ chính thể trí. Tôi sẽ nói thêm một ít chi tiết về vấn đề này ở phần sau.
89
A. CÁC THÁI ĐỘ TRÍ TUỆ
SAI LẦM
Trước tiên, tôi xin bàn đến tiền đề căn bản rằng bệnh tật và khả năng mắc bệnh của thể xác không phải là kết quả của tư tưởng sai lầm. Rất có thể chúng không phải là kết quả của tư tưởng chút nào cả, hoặc là chúng được tạo nên do không theo đúng các định luật căn bản đang chi phối Thiên Trí. Một trường hợp lư thú của thất bại này là việc con người không tuân theo Định Luật Căn Bản về Tiết Điệu, vốn đang chi phối mọi tiến tŕnh của thiên nhiên, và con người là một thành phần của thiên nhiên. Chính v́ không thể hoạt động theo Định Luật Chu Kỳ mà chúng ta có thể truy ra nhiều khó khăn có sẵn trong việc sử dụng và lạm dụng sự thôi thúc của tính dục. Thay v́ con người được chi phối bằng sự biểu lộ theo chu kỳ của xung lực tính dục, để nhờ đó sự sống con người được cai quản bởi một nhịp điệu rơ rệt, th́ vào lúc này, lại không có sự việc như thế, trừ ra trong các chu kỳ mà phái nữ đang trải qua, và người ta cũng ít quan tâm đến các chu kỳ đó. Tuy nhiên, phái nam không bị chi phối bởi bất cứ chu kỳ nào như thế, và họ cũng đă vi phạm cái tiết điệu mà cơ thể người nữ nên phụ thuộc vào, và nếu hiểu đúng, th́ tiết điệu này sẽ định đoạt cách áp dụng quan hệ tính dục, dĩ nhiên nó cũng bao gồm luôn xung lực tính dục của phái nam. Sự thất bại v́ không thể sống theo Định Luật Chu Kỳ và không thể làm cho các thèm muốn tuân thủ theo sự kiểm soát của luật chu kỳ, là một trong các nguyên do chính của bệnh tật, và v́ các định luật này được ban cấp h́nh hài trên cơi trí, nên người ta có thể nói một cách hợp lư rằng việc vi phạm các luật ấy có một căn bản trí tuệ. Trường hợp này có thể xảy ra nếu nhân loại làm việc bằng trí, nhưng không có việc đó. Chính trong thế giới hiện đại ngày nay đang bắt đầu có sự vi phạm rộng lớn các định luật trí tuệ này, đặc biệt là Định Luật Chu Kỳ, định luật này định đoạt các trào lưu/ thủy triều (tides), kiểm soát các biến cố trên thế giới và cũng sẽ chi phối cá nhân, và như thế, thiết lập các thói quen cho cuộc sống tiết điệu – tức là một trong các động cơ chính đưa đến sức khỏe tráng kiện.
90
Do
việc vi phạm Luật Tiết Điệu, con
người đă làm xáo trộn các thần lực, mà
nếu được sử dụng đúng, sẽ mang
lại cho thể xác một t́nh trạng khỏe mạnh
tuyệt hảo. Do sự vi phạm đó, con người
đă đặt nền móng cho sự suy nhược
tổng quát và các khuynh hướng cơ cấu sẵn có
này, khiến cho con người chịu sức khỏe kém
cỏi, giúp cho mầm bệnh và vi khuẩn xâm nhập vào
hệ thống cơ thể, tạo ra các dạng bệnh
ác tính ở bên ngoài. Khi con người có lại sự
hiểu biết để sử dụng đúng th́ giờ
(th́ giờ định đoạt Luật Tiết
Điệu trên cơi trần) và có thể ấn định
các chu kỳ thích hợp cho các biểu lộ khác nhau
của sinh lực trên cơi trần, th́ bấy giờ
những ǵ trước kia là một thói quen do bản
năng, sẽ trở thành cách dùng sáng suốt của tương
lai. Điều này sẽ tạo thành một khoa học hoàn
toàn mới, và nhịp điệu của các tiến tŕnh
tự nhiên và việc thiết lập, theo thói quen, các chu
kỳ đúng của hoạt động thể xác, sẽ
mang lại một kỷ nguyên mới của sức
khỏe và của các t́nh trạng xác thân lành mạnh cho toàn
thể nhân loại. Tôi đă dùng từ ngữ “thiết
lập” (“establishing”), v́ khi sự tập trung chú tâm của
nhân loại chuyển vào lănh vực có giá trị cao hơn,
th́ thể xác sẽ được lợi ích rất
nhiều và sức khỏe khang kiện – nhờ cách
sống đúng tiết điệu, cộng với tư
duy đúng đắn và sự tiếp xúc với linh
hồn – sẽ được tạo lập một cách
lâu bền.
Do đó có rất ít bệnh tật mà xác thân kế thừa lại có căn bản nơi thể trí. Thật rất khó xác định được các bệnh ấy là ǵ. Có hai lư do cho việc không thể tŕnh bày bằng thống kê:
1. Sự thật là nhân loại tương đối rất ít người an trụ vào thể trí và do đó rất ít suy tư.
2. Sự thật rằng đa số bệnh tật đều thuộc thể dĩ thái hoặc thể cảm dục.
Một yếu tố khác tạo ra sự khó khăn này đó là sự suy tư và các phản ứng t́nh cảm của con người đều có liên quan mật thiết với nhau đến nỗi ở giai đoạn tiến hóa này, không dễ ǵ mà tách rời cảm giác với tư tưởng, hay nói rằng những bệnh thế này hay thế kia xuất phát trong thể cảm dục hoặc thể trí, hoặc nói rằng một số bệnh là do bởi t́nh cảm sai quấy và một số bệnh khác là do tư tưởng sai lầm. Nói chung, trong toàn thể nhân loại ngày nay trên thế giới, kẻ biết suy tư th́ tương đối ít. Số c̣n lại bận tâm tới t́nh cảm, với các nhận thức do giác quan, và với nhiều khía cạnh khác nhau của tính dễ xúc cảm như là tính dễ bực tức, băn khoăn, lo âu quá độ, khao khát hướng về một mục tiêu mong muốn nào đó, ngă ḷng, cùng với sự sống đầy ấn tượng mạnh của các giác quan và của ư thức “cái tôi là trung tâm”. Ít người sống trong thế giới tư tưởng và số người sống trong thế giới thực tại c̣n ít hơn nữa. Khi họ sống như thế th́ tất nhiên là mức trung b́nh của sức khỏe sẽ tốt hơn, bởi v́ có sự hợp nhất hữu hiệu hơn, kết quả là sinh lực hoạt động thông suốt, đến khắp các hiện thể biểu lộ.
91
B. SỰ CUỒNG TÍN TRÍ
TUỆ.
SỰ VƯỢT TRỘI CỦA CÁC H̀NH TƯ TƯỞNG
Ở đây, tôi xin nêu ra rằng nhiều bệnh tật và khó khăn xuất phát từ những ǵ mà tôi gọi là các thái độ trí tuệ sai lầm, các cuồng tín, các chủ nghĩa lư tưởng bị thất bại và các hy vọng bị ngăn cản, đều thuộc vào ba loại, và khi nghiên cứu các loại này, bạn sẽ thấy rằng xét cho cùng th́ chúng không hề có cội nguồn nào ở thể trí cả, mà chủ yếu là kết quả của tính đa cảm đang xâm nhập vào.
1. Các bệnh gắn liền với hoạt động và công việc bị áp đặt ở cơi trần, đang t́m kiếm động lực thôi thúc của chúng trong các t́nh trạng trí tuệ nói trên. Thí dụ, chúng đưa đến hoạt động mănh liệt và sự làm việc quá sức, do quyết tâm không để thất bại, mà quyết thực hiện công việc theo kế hoạch. Thường th́ kết quả là sự suy nhược hệ thần kinh; kết quả này có thể tránh được nếu t́nh trạng trí tuệ được thay đổi và đạt được nhịp điệu đúng ở cơi trần. Nhưng chính công việc có bản chất vật chất mới tạo ra bệnh tật, hơn là t́nh trạng trí tuệ.
92
2. Các
bệnh xảy ra do t́nh trạng chống đối
đang nhuốm màu mọi cuộc sống và sự
biểu lộ của các phản ứng t́nh cảm mănh
liệt. Các phản ứng này có thể dựa trên sự
nhận thức trí tuệ về Thiên cơ, chẳng
hạn cộng với sự thừa nhận rằng các
kế hoạch đó không thể hiện được,
thường là do sự thiếu khả năng của các
dụng cụ hồng trần. Nhưng nguyên do căn
bản của bệnh tật là sự nổi loạn
về t́nh cảm, và do đó không phải là t́nh trạng trí
tuệ. Sự cay đắng, ghê tởm, căm thù và
một cảm giác thất vọng có thể và ắt
phải tạo ra nhiều t́nh trạng độc hại
thường thấy, một trạng thái nhiễm
độc chung và sức khỏe kém cỏi mà nhiều
người thường mắc phải. Cái nh́n của
họ rộng lớn hơn là sự thành đạt
của họ, và điều này gây ra nỗi đau khổ
về t́nh cảm. Cách chữa trị cho t́nh trạng này
nằm trong một từ đơn giản là chấp
nhận. Đây không phải là một trạng thái tiêu
cực, cam chịu một cuộc sống phục tùng
thiếu linh hoạt, mà là một sự chấp nhận
tích cực (trong tư tưởng và trong biểu hiện
thực tế) một t́nh trạng mà hiện tại dường
như không thể tránh được. Sự chấp
nhận này dẫn đến việc tránh khỏi phí th́
giờ khi cố làm những việc không thể làm, và
đưa tới nỗ lực đúng đắn
để xúc tiến những ǵ có thể làm
được.
3. Các khó khăn này xảy ra do thể xác không đủ tư cách cho các đ̣i hỏi của đời sống tư tưởng của cá nhân. Thường thường các khó khăn này tự nhiên là một phần của di sản vật chất, và khi trường hợp này xảy ra th́ thông thường cũng không có ǵ nhiều phải làm, dù cho hoài băo có hiện thực và bền bĩ, một số lớn công việc có thể được hoàn thành để cải thiện t́nh trạng và đặt nền móng cho hoạt động có hiệu quả hơn trong một chu kỳ sống khác.
93
Tất
nhiên, ở đây tôi sẽ bàn càng ngắn càng tốt
đến vấn đề chữa trị bằng trí và
bàn đến giáo huấn cho rằng mọi bệnh
tật đều là sản phẩm của tư
tưởng sai lầm. Bạn đang bắt đầu
làm việc, và tôi muốn có sự suy tư rơ ràng về
điểm này. Hai vấn đề mà tôi đă đưa
ra có liên hệ chặt chẽ với nhau. Chúng ta có thể
diễn tả chúng dưới h́nh thức hai câu hỏi:
1. Có phải bệnh tật là kết quả của tư tưởng chăng?
2. Năng lực của tư tưởng có thể tạo ra các hiệu quả chữa trị hay không khi được một cá nhân hoặc một nhóm vận dụng?
Như tôi có nói với bạn, do sự kiện nhiều bệnh tật tiềm ẩn trong chính chất liệu của chính hành tinh, hiển nhiên là tư tưởng con người không có trách nhiệm về bệnh tật. Việc đó xảy ra trước khi nhân loại đến hành tinh. Có loại bệnh trong giới khoáng chất, trong giới thực vật và cũng có trong giới động vật nữa, thậm chí trong t́nh trạng hoang dă và trong nơi ở tự nhiên của chúng, không bị con người làm lây nhiễm. Do đó con người không thể chịu trách nhiệm về việc này, cũng không phải là kết quả của suy tư sai lầm của con người. Nó không đưa ra giải đáp cho câu hỏi rằng việc đó phải do tư duy sai lầm của Hành Tinh Thượng Đế hoặc là của Thái Dương Thượng Đế. Đây chỉ là cách lấp lửng vấn đề và là một lối lẩn tránh vấn đề.
Ở đây, tôi muốn nhắc các bạn về hai định nghĩa của nguyên nhân gây bệnh mà tôi đă nêu ra trước đây. Xin các bạn hăy cẩn thận lưu ư:
1. “Mọi bệnh tật là kết quả của sự sống linh hồn bị ức chế. Điều này đúng cho mọi h́nh hài trong mọi giới”.
2. “Bệnh tật là sản phẩm của và tùy thuộc vào ba ảnh hưởng. Thứ nhứt là quá khứ của một người, trong đó y trả giá cho lỗi lầm trước kia. Thứ hai là sự kế thừa của y, trong đó y chia sớt với nhân loại về các ḍng năng lượng bị ô nhiễm vốn có nguồn gốc tập thể. Thứ ba là y chia sớt với mọi h́nh hài trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chúa Sự Sống đặt ra cho các h́nh hài này. Ba ảnh hưởng này được gọi là Định Luật Cổ Xưa về sự chia sớt Điều ác. Một ngày nào đó nó phải nhường chỗ cho định luật mới là “Định Luật về Điều Thiện Cổ Xưa Chi Phối”. Định luật này sẽ được linh hoạt nhờ ư chí tinh thần của con người”.
94
Nếu
phân tích bốn nguyên nhân của bệnh tật
được nêu ra ở đây, bạn sẽ ghi nhận
rằng sau rốt bệnh tật sẽ bị chế
ngự bằng sự khai phóng linh hồn trong mọi h́nh
hài, và việc này sẽ được thực hiện
bằng cách vận dụng linh hoạt ư chí tinh thần
của con người. Chúng ta có thể diễn tả
điều này theo lối khác, và nói rằng khi năng
lượng linh hồn và việc sử dụng đúng ư
chí (trong cá nhân, nó là phản ánh và là tác nhân của năng
lượng ư chí của linh hồn) được phóng
rải và được điều khiển đúng
bởi trí tuệ, th́ bấy giờ bệnh tật có
thể được đối trị và rốt cuộc
bị trừ khử. Thế nên, chính là nhờ đặt
năng lượng cao hơn và nhịp điệu cao
hơn lên các mănh lực thấp mà bệnh tật có thể
được kiềm chế. Do đó, bệnh hoạn là
kết quả trong xác thân của sự thất bại, v́
không mang lại được các năng lượng và các
nhịp điệu cao, và đến lượt nó, sự
thất bại này lại tùy thuộc tŕnh độ
tiến hóa.
Chính nhận thức mơ hồ về sự thất bại này và việc hiểu rơ các sự kiện nói trên đă làm cho rất nhiều nhóm tin vào việc chữa trị bệnh tật bằng năng lực của tư tưởng, họ quy sự xuất hiện của bệnh tật cho việc suy tư sai lầm. Tuy nhiên trong thực tế, một ngày nào đó, nhân loại phải học biết rằng chỉ có tâm thức cao của linh hồn, tác động qua trí tuệ, sau cùng mới có thể giải quyết được vấn đề khó khăn này.
95
Bởi
thế, chúng ta không thể xác quyết rằng, theo qui
luật chung, bệnh tật có bất cứ liên hệ nào
với tư tưởng. Bệnh tật chỉ là
việc dùng sai các lực của cơi dĩ thái, cảm
dục và hồng trần. Đa số nhân loại
đều bất lực, không thể làm ǵ
được, chẳng hạn như, các lực vốn
tạo ra thể xác, đang đi ngang qua, và đang tác
động vào thể xác đó, đều được
truyền lại từ một quá khứ rất xa xăm,
là thành phần tạo nên môi trường chung quanh và
tạo nên sự sống tập thể mà họ ḥa
nhập và chia sớt với mọi huynh đệ của
họ. Chất lực (force-matter) đó bị làm méo mó v́
các kết quả của những nhịp điệu sai
lầm thời xưa, các lực bị dùng sai và các tính
chất bị kế thừa. Khi được biểu
lộ nhờ sự suy tư đúng, năng lượng
linh hồn có thể chữa các bệnh mà con người
có khuynh hướng mắc phải. Chính v́ không thể suy
tư, ghi nhận và biểu lộ được các
trạng thái tâm thức cao mới đưa đến các
nhịp điệu sai lầm. Bởi vậy, tôi lặp
lại rằng bệnh tật không phải là kết
quả của tư tưởng.
C. CHỦ NGHĨA LƯ TƯỞNG BỊ NGĂN CẢN
Tuy nhiên, có một số bệnh xuất hiện trong thể xác và thực sự là bắt nguồn từ các hoạt động (vốn là kết quả của việc suy tưởng đặc biệt) bị nhuốm màu và bị qui định bởi cuộc sống t́nh cảm của cá nhân, cuộc sống t́nh cảm này là cội nguồn bổ ích của bệnh và của các nhịp điệu sai lầm đă ăn sâu. Do đó, chính ưu thế của lực cảm dục mới thực sự tạo ra bệnh tật ở thể xác, chứ không phải của năng lượng trí tuệ. Ở đây, tôi không đề cập đến các bệnh tật của hệ thần kinh và của bộ óc, vốn là kết quả của sự kích thích quá độ và của sự tác động của năng lượng (thường là từ trí tuệ và linh hồn) vào một khí cụ không thích hợp để sử dụng năng lượng đó. Chúng ta sẽ xem xét các bệnh này về sau. Tôi chỉ đề cập đến tŕnh tự các diễn biến sau đây trong cuộc sống tâm lư và các hoạt động là các hậu quả tiếp theo:
Bệnh tật là một h́nh thức của hoạt động.
1. Hoạt động và năng lượng trí tuệ (nhờ sức mạnh của tư tưởng), tạo nên sự ghi nhận về kế hoạch, các chủ nghĩa lư tưởng và các tham vọng.
2. Năng lượng này, phối hợp với năng lượng cảm dục, trở nên bị chế ngự và bị chi phối bởi các phản ứng cảm dục thuộc loại bất hảo, như là sự lo lắng về công việc không hoàn thành, không thể hiện được các kế hoạch v..v.. Bởi thế, cuộc sống trở thành đắng cay.
3. Bấy giờ, bệnh tật mới xuất hiện trong thể xác, tùy theo các khuynh hướng dắt dẫn của cơ thể và các suy nhược bẩm sinh, di truyền.
96
Bạn
cần lưu ư rằng trong thực tế, thể trí và
quyền năng của tư tưởng, không bao giờ
là nguyên nhân của bệnh tật. Bệnh tật xảy
ra do tư tưởng nguyên thủy bị xóa sạch và
giảm xuống cấp độ của tính dễ xúc cảm
(emotionalism). Khi sự hạ giảm này và sự kiềm
chế sau rốt của lực cảm dục không xảy
ra và tư tưởng vẫn rơ ràng và không bị ảnh
hưởng trên cơi trí, th́ có thể có loại bệnh
tật khác, v́ tư tưởng không được
“chuyển thành” hành động hữu hiệu ở cơi
trần. Sự thất bại này không những tạo ra
sự nứt rạn trong phàm ngă (nhà tâm lư học thực
hành biết rất rơ) mà c̣n cắt đứt một ḍng
năng lượng rất cần thiết. Hậu quả
là thể xác bị mất sinh khí và hứng chịu một
sức khỏe tồi tệ. Khi tư tưởng có
thể được chuyển qua bộ óc hồng
trần và ở đó trở thành một phương
tiện điều khiển sinh lực, bạn
thường có một t́nh trạng sức khỏe tốt
và điều này được chứng minh là đúng dù
cho tư tưởng của cá nhân là tốt hay xấu,
được thúc đẩy đúng hay định
hướng sai. Đó chỉ là kết quả của
sự hội nhập, bởi v́ những vị thánh và
những kẻ tội lỗi, những kẻ ích kỷ và
những người bất vị kỷ cũng như
tất cả mọi hạng người, đều có
thể đạt được sự hội nhập và
một đời sống được tư
tưởng hướng dẫn.
Câu hỏi thứ hai được đặt ra là liệu một cá nhân hoặc là một nhóm có thể chữa trị bằng quyền năng tư tưởng không?
97
Chắc
chắn là nói chung một cá nhân và một nhóm đều có
thể chữa trị, và tư tưởng có thể góp
phần mạnh mẽ của nó trong tiến tŕnh chữa
trị, nhưng không phải chỉ có một ḿnh tư
tưởng mà thôi. Tư tưởng có thể là tác nhân
hướng dẫn các lực c̣n các năng lượng
vốn có thể phá tan và xua đuổi bệnh tật,
nhưng tiến tŕnh này phải được trợ giúp
bằng năng lực h́nh dung, bằng khả năng tác
động với các mănh lực đặc biệt
được cho là nên theo, bằng sự thông hiểu
về các cung và các loại năng lượng của cung
đó, cũng như bằng khả năng sử dụng
chất liệu ánh sáng (light substance) như thường
được gọi. Phải thêm vào các lực này khả
năng giao cảm với bệnh nhân, cộng với ḷng
yêu thương. Thực ra, khi các điều kiện này
được đáp ứng, th́ việc vận dụng
khả năng suy tưởng quá nhiều và vận
dụng trí tuệ quá mạnh có thể chặn đứng
và cản trở công việc chữa trị. Tư
tưởng phải chi phối động cơ ban đầu,
đem trí tuệ của nhà trị liệu gánh vác vấn
đề chữa trị để t́m hiểu bản
chất của bệnh nhân; nhưng một khi tư
tưởng đă giúp vào sự tập trung chú tâm của
người chữa trị và nhóm chữa trị, nó
phải trở nên một tác nhân vững vàng nhưng
điều khiển từ trong tiềm thức và không có ǵ
hơn nữa.
Khi nào có thể th́ việc chữa trị được hoàn thành bằng việc sử dụng năng lượng được chỉ dẫn đúng hướng và bằng việc h́nh dung một cách tỉ mỉ; t́nh thương cũng đóng một vai tṛ quan trọng, cũng như vai tṛ mà trí tuệ đóng trong giai đoạn đầu. Có lẽ tôi nên nói rằng ḷng bác ái là một trong các năng lượng mạnh mẽ nhất trong tất cả các năng lượng đă được sử dụng.
Tôi đă đưa bạn chú ư đến hai câu hỏi này, bởi v́ tôi muốn cho trí bạn thông suốt các vấn đề này trước khi bạn bắt đầu bất cứ công tác chữa trị tập thể nào.
98
Tư
tưởng không thể chữa trị bệnh tật,
cũng không thể gây ra bệnh tật. Tư tưởng
phải được vận dụng trong các tiến
tŕnh, nhưng nó không phải là tác nhân duy nhất hoặc
quan trọng nhất. Chính ở điểm này mà nhiều
nhóm và nhà trị liệu đi lạc đường. Thể
trí có thể điều khiển năng lượng, và
đến phiên năng lượng này có thể gây ra
sự kích thích quá độ ở bộ óc và nơi các
tế bào cơ thể và thế là gây ra bệnh thần
kinh và một đôi khi bệnh năo, nhưng chính thể trí
và việc suy tư, tự chính nó, không thể tạo ra bệnh
tật và rối loạn trong xác thân. Khi nhân loại học
được cách suy tư rơ ràng và dứt khoát, và khi các
định luật về tư tưởng bắt
đầu chi phối tâm thức nhân loại, th́ bệnh
tật – như chúng ta biết hiện nay – sẽ
được giảm bớt phần lớn và ngày càng có
nhiều người đạt được sự
hội nhập. Nơi nào có sự hội nhập, th́
nơi đó có sự hoạt động thông suốt
của lực và năng lượng khắp thể xác. Tuy
nhiên, các vấn đề kích thích sẽ ngày một
nhiều hơn, với sự nhạy cảm tăng lên
của thể xác và con người ngày càng tập trung tâm
thức của ḿnh trong bản chất trí tuệ.
Điều này sẽ tiếp tục cho đến khi con
người học được cách làm thế nào
để vận dụng được các năng
lượng cao và nhận thấy cần có một cuộc
sống nhịp nhàng và chú ư đến Định Luật
Chu Kỳ.
Trong việc chữa trị, một số qui tắc nên được người chữa trị nắm vững và tuân theo. Tôi đă đưa ra ba qui tắc quan trọng. Chúng cũng chỉ được đưa ra vắn tắt như sau, và tôi chia qui tắc 1 thành các phần nhỏ để cho rơ ràng.
1. a- Nhà chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn của y, tim, óc và hai bàn tay của y. Như thế, y có thể tuôn đổ sinh lực với quyền năng chữa trị vào bệnh nhân. Đây là công tác từ điển.
b- Nhà chữa trị phải t́m cách liên kết linh hồn y, óc, tim và bức xạ hào quang của y. Như thế, sự hiện hữu của y có thể cung cấp cho sự sống linh hồn của bệnh nhân. Đây là công tác bức xạ. Hai bàn tay không cần đến. Linh hồn phô bày quyền năng của nó.
2. Nhà chữa trị phải đạt được sự tinh khiết về từ điển, nhờ sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt cho được sự chói lọi có tính cách xua đuổi đó, chính nó biểu lộ trong mỗi người một khi mà y đă liên kết được các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này đă được thiết lập, bấy giờ bức xạ (radiance) mới phát ra.
3. Nhà chữa trị hăy tự luyện tập để biết giai đoạn bên trong của tư tưởng hoặc của ước muốn của kẻ t́m sự giúp đỡ của y. Nhờ đó, y có thể biết được cội nguồn từ đó bệnh tật xuất phát. Nhà chữa trị hăy liên kết nguyên nhân và hậu quả và biết được mức độ chính xác nhờ đó sự thuyên giảm phải đến.
Ở đây tôi muốn nêu ra một qui luật khác cho các bạn, với tư cách là một nhóm để hợp thành bốn qui luật chính:
QUI LUẬT BỐN
Nhà chữa trị và nhóm chữa trị phải giữ lại ư chí. Không phải dùng ư chí, mà là dùng t́nh thương.
99
Qui
Luật cuối cùng này rất quan trọng. Ư chí
được tập trung của bất cứ cá nhân nào
và ư chí có hướng dẫn của một nhóm hợp
nhất không nên dùng đến bao giờ. Tự do ư chí
của cá nhân người bệnh đừng bao giờ
để bị lệ thuộc vào tác động của
một nhóm hoặc của một cá nhân được
tập trung mạnh mẽ. Đó là một phương pháp
quá nguy hiểm không được phép làm. Năng
lượng ư chí (đặc biệt là năng lượng
của một số người đồng thời tác
động trên các thể tinh anh và thể xác của
bệnh nhân) có thể làm cho bệnh thêm trầm trọng
thay v́ chữa lành. Nó có thể kích thích chính căn bệnh
đến mức độ nguy hiểm, và phá vỡ, thay
v́ hợp tác với các lực chữa trị của thiên
nhiên, và thậm chí rốt cuộc có thể giết
chết bệnh nhân bằng cách làm tăng cơn bệnh
đến nỗi sức đề kháng b́nh thường
của người bệnh có thể trở nên vô hiệu.
Do đó, tôi muốn đ̣i hỏi bạn trong bất
luận công tác chữa trị tập thể nào, phải
giữ cho ư chí (và ngay cả sự ước muốn mănh
liệt) đ́nh chỉ. Chỉ những điểm
đạo đồ ở cấp cao mới
được phép chữa trị bằng sức mạnh
của ư chí, được tập trung vào Quyền Lực
Từ, và sở dĩ làm được điều này
chỉ v́ các vị này có thể trắc nghiệm năng
lực của bệnh nhân, mức căng thẳng của
bệnh, và cũng biết có nên dùng ư chí của linh hồn
để chữa bệnh đó hay là không.
Trong tiết này, chúng ta đă nhắc đến nhiều khía cạnh quan trọng, và cần phải được bạn nghiên cứu cẩn thận. Trong tiết mục tới, chúng ta sẽ xét đến các vấn đề đặc biệt của hạng đệ tử. Để chuẩn bị cho tiết này, yêu cầu các bạn hăy chú ư nghiên cứu giáo huấn mà tôi đă nêu ra trước đây về các bệnh của nhà thần bí. (Trong “Luận Về Bảy Cung”, quyển II, trang 520 – 625).
Nhiều điều đă nói đến ở đó, tôi không cần lặp lại, mà nên nhập vào các huấn điều của chúng ta về trị liệu. Tôi đề nghị các bạn hăy đọc chúng để biết ít nhiều về chính các vấn đề, cả về lư thuyết lẫn theo hiểu biết của chính bạn. Cơ lẽ bạn sẽ biết được một vài khó khăn trong số này, bằng chính kinh nghiệm riêng của bạn, ít ra cũng ở một mức độ nào đó.
THUẬT CHỮA TRỊ THIÊNG LIÊNG
100
Trong
bộ luận này tôi không định bàn đến bệnh
lư học, với các hệ thống của nó và các chỉ
dẫn ác hại của các hệ thống đó. Các
chỉ dẫn này có đầy dẫy trong bất cứ
luận đề y học và sách y khoa thông thường
nào. Hỡi các huynh đệ, tôi không huấn luyện y
sĩ hay có thẩm quyền y học, tôi cũng không có th́
giờ để miệt mài với các kỹ thuật.
Những ǵ mà tôi bàn đến là để nêu ra một vài
ư kiến cho thế gian về các nguyên nhân xác thực và
huyền bí của bệnh tật và các cội nguồn
ẩn tàng của chúng và bàn đến việc chữa trị,
như nó được Thánh Đoàn xúc tiến và chuẩn
nhận.
Thực ra, công việc là vận dụng năng lượng một cách sáng suốt, áp dụng với t́nh thương và khoa học. Tất cả những ǵ mà tôi nói với bạn là kết quả của kinh nghiệm. Việc chữa trị như thế thuộc về hai loại:
1. Trong cách chữa trị bằng từ điển, nhà chữa trị hay nhóm chữa trị làm hai điều:
a. Y thu hút vào trung tâm chữa trị loại năng lượng vốn dĩ sẽ làm mất tác dụng của bệnh.
Đây tất nhiên là một vấn đề rộng lớn và có một ư nghĩa khoa học sâu xa. Một vài loại thần lực của cung có thể được dùng với một vài loại bệnh, đ̣i hỏi phải dùng một số bí huyệt đặc biệt để phân phối. Các loại thần lực của cung này sẽ được xem xét và vạch ra khi chúng ta đến chương có tiêu đề “Bảy Cách Chữa Trị” (trang 693).
b. Người chữa trị thu hút vào chính y và hấp thu các mănh lực vốn tạo ra bệnh, tách nó ra khỏi người bệnh.
Diễn tiến sau này cần có sự đề pḥng cẩn thận của nhà trị liệu để tránh mọi lây nhiễm của bệnh, sao cho các mănh lực đó không thể t́m được một chỗ nào trong cơ thể người chữa trị. Cũng phải có việc cung cấp năng lượng mới cho bệnh nhân để thế chỗ cho năng lượng đă bị tách ra. Diễn tiến này tạo ra một sự tương tác rơ rệt giữa nhà chữa trị và bệnh nhân. Tất nhiên là có một số nguy hiểm thực sự trong việc chữa trị theo huyền môn này, và v́ lư do đó, các nhà chữa trị khi được huấn luyện sẽ ghi nhớ rằng họ sẽ làm việc như một nhóm chứ không phải như các cá nhân. Việc lưu chuyển thông suốt thần lực sẽ tạo ra sức khỏe tráng kiện trong cá nhân hoặc nhóm.
101
Việc
lưu chuyển thông suốt thần lực giữa
người trị liệu hay nhóm trị liệu với
bệnh nhân có thể chữa lành bệnh, miễn là số
phận chữa lành của bệnh nhân đă
được an bài, và có thể có sự hợp tác
của bệnh nhân, dù cho điều này không thực sự
cần thiết. Nó làm cho dễ dàng và có kết quả nhanh
chóng hơn trong nhiều trường hợp. Trong các
trường hợp khác, sự lo âu của bệnh nhân có
thể làm cho các kết quả mong muốn không có
được.
2. Trong việc chữa trị bằng bức xạ, tiến tŕnh đơn giản hơn và an toàn hơn, v́ nhà trị liệu chỉ việc gom góp sức mạnh vào chính ḿnh, và lúc bấy giờ phóng phát nó vào người bệnh dưới h́nh thức một ḍng năng lượng bức xạ đang tuôn ra. Ḍng năng lượng này sẽ được hướng đến bí huyệt gần nhất đối với vị trí của bệnh.
Trong công tác này; không có sự rủi ro đối với nhà chữa trị, nhưng nếu yếu tố ư chí đi vào tư tưởng của y, hay là ḍng năng lượng được phóng ra quá mạnh, có thể nguy hiểm đối với bệnh nhân. Tác động của thần lực đang được tỏa ra trên bệnh nhân không những có thể tạo ra sự căng thẳng thần kinh, mà c̣n có thể làm cho bệnh trầm trọng thêm và việc tăng thêm sức mạnh của nó bằng cách kích thích các nguyên tử và các tế bào có liên quan trong hoạt động của lực chịu trách nhiệm về bệnh tật. V́ lư do này, những kẻ mới vào nghề chữa trị phải tránh bất cứ sự tập trung nào trên chính chỗ bệnh hay là khu vực trong xác thân có dính dáng tới, và cẩn thận giữ cho tất cả mọi tư tưởng tạm thời đ́nh chỉ, một khi mà công tác sơ khởi đă được làm, v́ năng lượng bao giờ cũng đi theo tư tưởng và đi đến nơi nào mà tư tưởng được tập trung.
102
Nhà
trị liệu phải xác định được
hiệu quả của những ǵ mà họ đang thử
và sức mạnh của công tác tập thể có kết
hợp của họ, và của thần lực mà họ có
thể vận dụng. Họ cũng phải t́m ra năng
lực của họ để giữ cho ư chí ở
hậu cảnh, và gởi bức xạ chữa trị
đi vào ḍng năng lượng bác ái. Luôn luôn ghi nhớ
rằng bác ái là năng lượng, và đó chính là một
chất liệu có thật như là vật chất
trọng trược. Chất liệu đó có thể
được dùng để xua đuổi mô bị
bệnh và cung cấp chất thay thế lành mạnh thay cho
chất bệnh hoạn, chất bệnh hoạn sẽ
bị loại ra.
Do đó, trong chu kỳ hoạt động thứ nhất, họ sẽ thử nghiệm phương pháp bức xạ. Nó đơn giản hơn và dễ khống chế hơn nhiều. Về sau, họ có thể thực nghiệm với phương pháp chữa trị bằng từ điện.
Bây giờ, bạn sẽ thấy mục đích của các qui tắc có liên hệ đến cách chữa trị mà trước kia tôi đă nêu ra trong loạt giáo huấn này. Bạn sẽ hiểu được tại sao, trong công tác bức xạ này, diễn tŕnh liên kết sẽ bao gồm linh hồn, bộ óc và toàn thể hào quang hay là từ trường hoạt động của cá nhân hoặc của nhóm. Thể trí không được kể đến hoặc dính líu vào đó, c̣n bộ óc tác động một ḿnh như là tụ điểm của bác ái, và lực chữa trị phải được phóng vào trong ḍng năng lượng đang phát ra từ bí huyệt ấn đường.
Do đó, nhà chữa trị sẽ giữ cho mọi sức mạnh được tập trung trong đầu và sự chú tâm của y cũng được tập trung vào đó. Tim sẽ được tự động bao hàm trong đó, v́ lần đầu tiên y sẽ dùng năng lượng bác ái một cách toàn bộ.
103
Bây
giờ, chúng ta hăy kê ra các qui tắc mà theo đó mọi nhóm
chữa trị phải làm. Ở đây, tôi xin thêm rằng
không phải luôn luôn cần hoặc có thể gặp và làm
việc chung với nhau trong việc thành lập nhóm. Công
việc này có thể được tiến hành một cách
có hiệu quả và một cách mạnh mẽ, nếu các
thành viên làm việc như một nhóm bên trong (chủ
quan); lúc bấy giờ, mỗi thành viên sẽ tuân theo các
giáo huấn mỗi ngày và y như thể y đang làm
việc trong nhóm của y dưới h́nh thức hữu
h́nh. Khoen nối thực sự này được mang
lại bằng sự tưởng tượng của chính
y như là có sự hiện diện của các huynh
đệ y. Nếu chúng được đáp ứng
như là một nhóm trên cơi trần, thật là khó mà ngăn
chận sự tiêu hao thần lực qua sự bàn căi, qua các
lời pha tṛ thông thường trong lúc hội họp, và qua
sự tương tác vật chất giữa các phàm ngă.
Điều không thể tránh khỏi là có quá nhiều
cuộc nói chuyện và công việc được làm mà
không có hiệu quả thích hợp. Theo quan điểm
trần gian, họ làm việc một ḿnh; theo quan
điểm chân chính nội môn, họ làm việc trong
sự hợp tác chặt chẽ nhất.
Đây là các qui luật thứ nhứt mà tôi muốn môn sinh nên quán triệt:
CÁC QUI LUẬT MỞ ĐẦU CHO VIỆC TRỊ LIỆU BẰNG BỨC XẠ
1. Sau khi tạo được sự chỉnh hợp hữu thức và mau lẹ cho riêng bạn, bằng tác động của ư chí, bạn hăy liên kết như một linh hồn với nhiều linh hồn của các huynh đệ thuộc nhóm của bạn. Kế đó, liên kết với các thể trí của họ, và sau đó với các bản chất t́nh cảm của họ. Hăy làm điều này bằng cách sử dụng sự tưởng tượng, do hiểu được rằng năng lượng theo sau tư tưởng và rằng tiến tŕnh liên kết không thể tránh khỏi nếu được làm đúng. Bấy giờ, bạn có thể tác động như một nhóm. Kế đó, quên đi sự liên hệ của nhóm và tập trung vào công việc phải làm.
2. Kế đó, trong chính bạn, hăy liên kết linh hồn với bộ óc và gom chung lại các mănh lực của bác ái vốn có trong hào quang của bạn, và tập trung chính bạn và tất cả những ǵ mà bạn phải đưa ra bên trong đầu, h́nh dung chính bạn như một trung tâm năng lượng tỏa chiếu hay là một điểm sáng chói lọi. Ánh sáng này là để phóng ra trên bệnh nhân qua bí huyệt ấn đường giữa hai mắt.
3. Sau đó, đọc thần chú sau đây của nhóm:
“Với sự tinh khiết của động lực, được gợi ra bằng một ḷng bác ái, chúng tôi hiến dâng chính chúng tôi cho công tác chữa trị này. Chúng tôi làm việc này với tư cách một nhóm và cho người mà chúng tôi t́m cách chữa trị”.
104
Khi làm
việc đó, bạn hăy h́nh dung tiến tŕnh liên kết
đang nối tiếp. Hăy xem nó như là các tuyến
hoạt động của chất liệu ánh sáng sinh
động, liên kết bạn với các huynh đệ
của bạn ở một mặt và với bệnh nhân
ở mặt khác. Cảm nhận các tuyến này đang
xuất phát từ bạn tới bí huyệt tim của nhóm
và tới bệnh nhân. Nhưng công việc bao giờ
cũng đi từ bí huyệt ấn đường cho
đến khi được huấn luyện để
làm một cách khác hơn. Theo cách này, bí huyệt ấn
đường và bí huyệt ở tim của tất
cả mọi người có dính líu sẽ được
liên kết chặt chẽ với nhau. Bạn sẽ
thấy giá trị của việc h́nh dung xuất hiện ở
đây. Thực ra, đó là sự ngoại hiện bằng
dĩ thái của sức tưởng tượng sáng
tạo. Hăy suy đoán về câu cuối cùng này.
4. Kế đó, hăy dùng tư tưởng, tư tưởng có hướng dẫn, trong một lúc ngắn ngủi và nghĩ đến kẻ mà bạn t́m cách chữa trị, liên kết với y, và tập trung sự chú tâm của bạn về y sao cho y trở thành một thực tại trong tâm thức bạn và liên kết với bạn. Khi bạn biết được nỗi khó khăn vật chất là ǵ, bấy giờ chỉ việc nhắc nó lại trong trí và rồi xua nó đi. Bấy giờ hăy quên đi các chi tiết của công việc, như là nhóm, chính bạn và nỗi khó khăn của bệnh nhân, và tập trung vào loại thần lực mà bạn sắp vận dụng, trong trường hợp này và đối với hiện tại, vốn là thần lực của cung hai, thần lực bác ái. Những ǵ mà tôi nêu ra ở đây là một mô phỏng theo phương pháp chữa trị của cung hai, được sắp xếp cho những kẻ mới bắt đầu.
105
5.
Cảm thấy một ḷng bác ái sâu xa đang tuôn đổ
vào bạn. Lưu tâm đến điều đó như là
ánh sáng có thật mà bạn có thể và sẽ vận
dụng. Kế đó, hăy gửi nó ra như là một ḍng
ánh sáng tỏa chiếu từ huyệt ấn
đường và điều khiển nó nhờ hai bàn tay
của bạn đến bệnh nhân. Khi làm điều
này, hăy giữ hai bàn tay trước mắt, ḷng bàn tay
hướng ra ngoài, các lưng bàn tay kế cận với
mắt và cách xa mặt chừng 6 inches (15cm24). Theo cách này,
ḍng năng lượng đang tuôn ra từ bí huyệt
ấn đường, trở nên chia hai và tuôn đổ
qua hai bàn tay. Cứ như thế mà được
hướng về phía bệnh nhân. H́nh dung nó như đang
tuôn ra và cảm thấy người bệnh đang thu
nhận nó. Khi làm điều này, bạn hăy nói to lên bằng
một giọng trầm:
“Cầu xin ḷng bác ái của Linh Hồn Duy Nhất, tập trung vào nhóm này, tỏa chiếu lên bạn, hỡi huynh đệ, và thấm nhuần mọi phần của cơ thể bạn – chữa trị, xoa dịu, làm cho mạnh lên, và làm tiêu tán tất cả những ǵ đang ngăn cản việc phụng sự và sức khỏe tráng kiện”.
Thốt ra lời đó một cách chậm chạp và một cách thong thả, tin tưởng vào các kết quả. Nên biết rằng không có sức mạnh tư tưởng hay sức mạnh ư chí nào nhập vào ḍng năng lượng chữa trị, mà chỉ có ḷng bác ái được tập trung đang tỏa chiếu. Việc vận dụng năng lực h́nh dung và sức tưởng tượng sáng tạo, cộng với một nhận thức về ḷng bác ái sâu xa và vững chắc, sẽ giữ thể trí và ư chí ở t́nh trạng ngưng đọng.
Tôi xin nhấn mạnh về nhu cầu cấp thiết đối với sự im lặng hoàn toàn và sự dè dặt lời nói trong sự tương quan với mọi công tác chữa trị. Đừng bao giờ để cho người nào mà bạn đang thực hành cách này biết được điều đó, và đừng bao giờ nhắc cho người nào về các danh tính của những kẻ mà bạn đang t́m cách trợ giúp. Đừng bao giờ nói đến bệnh nhân đang được chữa trị cho dù ở trong chính các bạn. Nếu qui luật im lặng căn bản này không được giữ đúng, điều đó sẽ chứng tỏ rằng bạn chưa sẵn sàng cho công tác này và sẽ làm gián đoạn nó. Huấn thị này c̣n quan trọng hơn là bạn hiểu; v́ lời nói và việc bàn bạc không những chỉ có khuynh hướng làm lệch đi và làm phân tán thần lực, mà c̣n vi phạm một qui luật căn bản mà tất cả các nhà trị liệu được tập luyện để giữ và ngay cả giới y khoa trên cơi trần cũng noi theo cùng cách thức chung.
BA ĐỊNH LUẬT CHÍNH VỀ SỨC KHỎE
Có ba định luật chính về sức khỏe và bảy định luật phụ. Các định luật này được thể hiện trong ba cơi thấp, vốn là những ǵ có liên hệ đến bạn trong lúc này. Trong mọi giáo huấn được đưa ra trong tương lai trước mắt, tầm quan trọng chính sau rốt sẽ được đặt vào kỹ thuật về thể dĩ thái, v́ đó là giai đoạn tiến tới kế tiếp. Ba định luật chính yếu là:
106
1-
Định luật kiểm soát ư chí muốn sống,
một biểu hiện của Ngôi Một Thượng
Đế, tức ư chí hay quyền năng .
2- Định luật kiểm soát sự b́nh đẳng của chu kỳ, một biểu hiện của Ngôi Hai của Thượng Đế, tức là bác ái hay minh triết.
3- Định luật kiểm soát sự kết tinh, một biểu hiện của Ngôi Ba của Thượng Đế, tức trạng thái hoạt động hay trạng thái căn bản .
Cả ba định luật chính này chi phối các yếu tố hay các định luật tự biểu lộ qua ba phân chia chính của con người .
1. Trạng thái ư chí biểu lộ qua các cơ quan hô hấp. Một trạng thái biểu lộ khác của nó là khả năng ngủ. Trong cả hai biểu lộ này, bạn có một sự lặp lại hay một tương đồng trong tiểu thiên địa của chu kỳ biểu lộ và ngơi nghỉ của Thượng Đế.
2. Trạng thái bác ái tự biểu lộ nhờ tim, hệ tuần hoàn và hệ thần kinh. Về nhiều mặt, đây là điều quan trọng nhất cho bạn t́m hiểu, v́ nó kiểm soát một cách tuyệt đối thể dĩ thái và cách đồng hóa prana hay sinh khí của nó. Prana này tác động qua cả hai ḍng máu và thần kinh, v́ sinh lực (life force) sử dụng ḍng máu và sức mạnh tâm linh tác động qua hệ thần kinh. Cả hai bộ phận này của cơ thể là các bộ phận vốn gây phần lớn bệnh tật vào lúc này và thậm chí sẽ nhiều hơn trong tương lai. Nhân loại học hỏi qua đau khổ và chỉ có nhu cầu cấp thiết mới thúc đẩy con người t́m cách giải quyết và giảm thiểu. Theo quan điểm chữa trị hiện nay, con người lại tạo thành một bộ ba nhỏ hơn rất quan trọng:
107
a) Nhục
thân, là cái mà khoa học và y học biết đến
nhiều.
b) Thể dĩ thái, vốn là lănh vực nỗ lực kế tiếp để kinh nghiệm và để khám phá.
c) Thể cảm dục, đồng thời với thể dĩ thái, là đối tượng kế tiếp cho việc chế ngự của khoa học. Khoa tâm lư học sẽ hoạt động ở đây.
3.Trạng thái hoạt động, vốn biểu lộ trước tiên qua các cơ quan đồng hóa và thải trừ. Ở đây tôi t́m cách nhấn mạnh một điều. Giống như thái dương hệ của chúng ta đang phát triển trạng thái bác ái, tức là trạng thái thứ hai, và giống như con người đang an trụ vào thể cảm dục, vốn là phản ánh của trạng thái thứ 2 đó, cũng thế, bộ phận thứ hai trong số ba bộ phận được nhắc đến ở trên của cơ thể người, tức dĩ thái thể, là quan trọng nhất. Cho đến nay, nó đă là chỗ truyền đạt chính yếu của năng lượng cảm dục cho thể xác. Nay điều này đang trong tiến tŕnh thay đổi.
108
Toàn
bộ khuynh hướng của y khoa hiện nay sẽ
được thức tỉnh trước các sự
kiện cụ thể về nhục thân và hướng
về việc nghiên cứu việc tiếp sinh khí và sự
lưu thông, v́ cả hai có liên quan chặt chẽ với
nhau. Ngày nay, hệ thần kinh được kiểm soát
phần lớn từ thể cảm dục, xuyên qua
thể dĩ thái, và căn bản của mọi bệnh
thần kinh ẩn tàng trong thể t́nh cảm, nơi mà vào
lúc này, nhân loại được an trụ vào. Hệ
tuần hoàn của thể xác được kiểm soát
phần lớn từ thể dĩ thái. Khi nào bạn có một
thể dĩ thái không vận hành thích đáng và không
truyền prana đầy đủ, và khi bạn có một
thể cảm dục không được kiểm soát thích
đáng, bạn sẽ có trong hai thể này cội nguồn
của đa số bệnh tật và các t́nh trạng
thần kinh và trí tuệ tăng gia hằng năm. Tác
động phản xạ của sự lưu thông không
tương xứng trên bộ óc hồng trần (lại do
dĩ thái thể) đưa đến sự căng
thẳng trí tuệ và sự suy sụp sau cùng. Do
điểm đó, bạn có thể thấy sự quan
trọng của thể dĩ thái.
Trạng thái thứ nhất, mà sự biểu lộ và lănh vực kiểm soát của nó là các cơ quan hô hấp và khả năng ngủ, khi không vận hành thích hợp, sẽ gây ra tử vong, mất trí và một số bệnh về năo bộ .
Trạng thái thứ ba, khi không vận hành thích hợp sẽ gây ra đau bao tử, các chứng đau ruột và các bệnh khác nữa nằm ở dưới huyệt đan điền trong bụng dưới.
Do đó, bạn sẽ thấy, sau rốt y học phải làm sao t́m giải pháp bằng cách đơn giản hóa các phương pháp và quay trở lại từ sự phức tạp của thuốc men và mổ xẻ, đến một sự hiểu biết về cách sử dụng đúng các năng lượng đang tuôn đổ từ con người nội tâm, xuyên qua dĩ thái thể đến thể xác.
Các gợi ư sau đây có thể hữu ích:
1. Bằng sự phát triển thiện chí, vốn là ư muốn của dự tính và động lực tốt lành, sẽ đưa đến việc chữa trị các bệnh của bộ máy hô hấp, phổi và cổ họng, làm ổn định các tế bào năo bộ, chữa các bệnh mất trí và ám ảnh, đạt đến sự thăng bằng, nhịp nhàng. Sự trường thọ sẽ theo sau, v́ cái chết sẽ xảy ra khi nào linh hồn nhận thức được là công việc đă hoàn thành và cần sự an nghỉ. Điều đó sẽ chỉ xảy ra sau này vào các giai đoạn lâu dài và riêng rẽ, và sẽ được ư chí con người kiểm soát. Y sẽ ngừng thở khi nào y đă chấm dứt công việc, và lúc bấy giờ sẽ gửi các nguyên tử của thể xác y vào trạng thái pralaya (ngơi nghỉ). Đó là sự ngủ của thể xác, chấm dứt chu kỳ biểu lộ và ư nghĩa huyền bí của điều này chưa được thấu hiểu.
109
2. Bằng
sự thấu hiểu các định luật về
sức sống
(vitality) và trong câu này có bao hàm các định luật đang
cai quản prana, bức xạ và từ điển – sẽ
tiến đến việc chữa trị các bệnh trong
máu, của động mạch và tĩnh mạch, một
số bệnh thần kinh, thiếu sinh lực, lăo–suy,
sự tuần hoàn kém cỏi và các bệnh tương
tự. Điều này cũng sẽ tạo ra kết
quả trong việc kéo dài đời sống. Các
định luật về điện năng cũng
sẽ được hiểu rơ hơn trong mối liên
hệ này.
1. Bằng sự hiểu biết các phương pháp đúng để đồng hóa và thải trừ sẽ tiến đến việc chữa trị các bệnh có liên quan đến các mô của cơ thể, bao tử và ruột cùng với các cơ quan sinh sản của nam và nữ. Và một ngày nào đó người ta sẽ hiểu được rằng các bệnh sau này chỉ là một hệ thống đồng hóa và thải hồi khác, lần này được tập trung trong trạng thái nữ hay đàn bà, v́ cần nhớ rằng đây là hệ thống thứ nh́ hay hệ thống bác ái. Thứ tự như sau:
a) Hệ thống thứ nhất (Thái dương hệ 1) thuộc dương.
b) Hệ thống hiện tại, (Thái dương hệ 2), thuộc âm.
c) Hệ thống thứ 3 sẽ là lưỡng phái.
Cho dù huyền giai tiến hóa của nhân loại thuộc nam hay dương, tuy vậy điều đó không bảo đảm rằng tất cả những ǵ có trong thái dương hệ hiện tại cũng là dương hết. Sự thực là năng lực âm hay trạng thái nữ chi phối cho dù các bạn không nhận ra được điều này. Tôi xin chứng minh điều này và đưa ra một vài chỉ dẫn bằng các con số của giả thuyết này:
1. Trong Thái dương hệ thứ nhất có một sự tiến hóa chiếm ưu thế và gồm có 100 000 triệu chân thần (100 tỉ)
2. Trong thái dương hệ hiện tại, tức thứ hai có hai cuộc tiến hóa chiếm ưu thế, đó là sự tiến hóa của con người và thiên thần; – như đă nói trước kia – có 60 tỉ chân thần con người. Thêm vào đó là cuộc tiến hóa âm tính của các thiên thần, gồm có 140 tỉ, và tất nhiên, bạn có 200 tỉ. Điều này minh giải phát biểu của tôi liên quan tới việc đây là một thái dương hệ thuộc âm tính.
110
3. Trong
thái dương hệ ba, tổng số trong cơ tiến
hóa sẽ cần đến 300 tỉ mà một vị
Thượng Đế Ba Ngôi cần có để
đạt mức hoàn thiện.
Sự bàn bạc của chúng ta tất nhiên chỉ là sơ sài, v́ tất cả những ǵ tôi cố gắng làm ở đây là đưa ra các chỉ dẫn về các đường lối mà theo đó thuật chữa trị mới sau rốt phải đạt tới, và đưa ra một vài ẩn ngữ sẽ vạch đường lối đưa tới nguyên nhân của các bệnh thường thấy, và nhờ thế giúp cho kẻ sáng suốt phủ nhận các hậu quả. Sự vắn tắt và hệ thống truyền đạt kiến thức nhờ các ẩn ngữ rất thiết yếu về mặt huyền linh và sẽ là cách duy nhất để bàn đến vấn đề tương đối nguy hiểm này cho đến lúc mà một sự huấn luyện vững chăi về y học, giải phẫu và thần kinh học có bản chất chuyên môn được phối hợp với một sự hiểu biết tâm lư học cũng vững chắc như thế, cộng với một mức độ linh thị tâm linh. Một y sĩ và nhà giải phẫu lư tưởng cũng là một nhà siêu h́nh học; nhiều khó khăn và lúng túng hiện nay có thể bị quy cho sự thiếu phối hợp này. Nhà chữa trị siêu h́nh ngày nay bị thu hút bởi những ǵ không thuộc về thể xác, đến nỗi y trở thành ít có lợi cho người bệnh, người đau yếu và người bị thương hơn là nhà y sĩ thực hành. Nhà siêu h́nh học bậc trung, dù y có tự gọi bằng nhăn hiệu ǵ đi nữa, là người có đầu óc khép kín; y qúa nhấn mạnh vào các khả năng thiêng liêng mà không đếm xỉa đến các khả năng thuộc về hữu h́nh hay là vật chất. Việc chữa trị hoàn toàn tinh thần sẽ có thể có tính cách thiêng liêng sau rốt, nhưng về phương diện vật chất, điều này không thể xảy ra vào những lúc rơ rệt nào đó trong thời gian và không gian, và với con người ở các tŕnh độ khác nhau rất nhiều trên nấc thang tiến hóa. Việc chọn đúng lúc và một hiểu biết vững vàng về sự tác động của định luật Nghiệp Quả, cộng thêm với một mức độ rộng lớn về nhận thức trực giác th́ rất thiết yếu cho thuật chữa trị tinh thần cao siêu. Về việc này, phải thêm sự nhận thức rằng bản chất h́nh hài và thể xác không nhất thiết là các lư do chủ yếu hay là rất quan trọng mà một số lớn người có thể nghĩ.
111
Nhiều
kẻ tôn sùng và nhiều nhà trị liệu khác,
thường có lập trường rằng chính v́ có
tầm quan trọng chủ yếu mà thể xác phải
được làm cho khỏi bệnh tật và thoát
khỏi các tiến tŕnh tử vong. Tuy nhiên, có thể là
đáng ưa thích (và thường là như thế) rằng
bệnh tật được phép tác động và sự
chết mở ra cánh cửa để cho linh hồn thoát
khỏi ngục tù. Đến một lúc không tránh khỏi
đối với mọi sinh linh lâm phàm khi mà linh hồn
cần thoát khỏi xác thân và thoát khỏi sự sống
sắc tướng, và tạo hóa có các đường
lối khôn ngoan riêng của ḿnh để làm điều
này. Bệnh tật và tử vong phải được nh́n
nhận như là các yếu tố giải thoát khi nào chúng
xảy đến dưới h́nh thức kết quả
của việc tính đúng thời điểm của linh
hồn. Người nghiên cứu cần phải hiểu
rằng h́nh hài vật chất là một tập hợp các
nguyên tử, được kiến tạo thành các cơ
quan và sau cùng thành một thể cố kết mạch
lạc, và rằng, thể này được giữ chung
với nhau bằng ư chí của linh hồn. Triệt thoái ư
chí đó lên trên cơi riêng của nó hay là (như
được diễn tả về mặt huyền bí)
"hăy để cho con mắt của linh hồn quay sang
một hướng khác", và trong chu kỳ hiện nay,
bệnh tật và tử vong tất nhiên sẽ xảy
đến. Đây không phải là sự sai lầm của
trí tuệ hay là việc không nhận thức
được thiên tính hay là không chống nỗi sai trái.
Thực ra đó là sự tách rời (resolution) của phàm
ngă thành các phần cấu tạo và tinh hoa căn bản. Về
thực chất, bệnh tật là một khía cạnh
của tử vong. Đó là tiến tŕnh mà nhờ đó
bản chất vật chất và h́nh hài cụ thể, tự
chuẩn bị cho việc tách ra khỏi linh hồn.
112
Tuy
nhiên, phải nhớ rằng nơi nào có bệnh tật hay
sự bất an hay đau ốm mà không liên quan đến
sự tan ră cuối cùng, từ đó, các nguyên nhân
được t́m thấy trong nhiều yếu tố; chúng
có thể được t́m thấy ở vùng chung quanh, v́
một số bệnh do môi trường và có tính chất
lây lan; trong việc điều hợp của cá nhân vào các
luồng độc hại xuất phát từ sự ganh
ghét của thế gian, hay là từ các phức cảm tâm lư
mà chúng ta đă bàn đến một số và trong các
bệnh (tôi tạm gọi như thế) vốn có tính cách
bẩm sinh đối với chất liệu mà con
người đă chọn để tạo nên thể xác,
biệt lập với nó và tách nó ra khỏi chất
liệu biểu lộ chung, và như vậy, tạo thành
một loại vật chất vốn được giao
cho nhiệm vụ tạo ra sự ngoại hiện của
thực tại bên trong. Do đó, điều này tạo thành
một trạng thái duy nhất và đặc thù của
chất liệu phổ thông, được làm hoàn
thiện đến một mức độ nào đó trong
thái dương hệ trước và tất nhiên là ở
một cấp đẳng cao hơn là chất liệu
đang rung động một cách sáng tạo đối
với tiếng gọi của ba giới dưới nhân
loại trong thiên nhiên.
TỔNG KẾT CÁC NGUYÊN NHÂN BỆNH TẬT
Trong mọi khảo sát của huyền môn về bệnh tật, cần phải thừa nhận như là tuyên bố căn bản rằng mọi bệnh tật đều là kết quả của việc dùng sai thần lực trong một kiếp sống trước hoặc kiếp này. Đây là căn bản. Liên quan tới việc này, tôi xin nhắc bạn một vài phát biểu mà trước đây tôi có đưa ra về vấn đề này.
1. 90% các nguyên nhân của bệnh đều nằm trong các thể dĩ thái và thể cảm dục. Việc sử dụng sai lầm năng lượng trí tuệ và dục vọng bị lạm dụng là các nhân tố tối quan trọng, tuy nhiên, với đa số con người vẫn c̣n ở vào tŕnh độ tâm thức của thời Atlantis, chỉ có năm phần trăm các bệnh thường thấy là do các nguyên nhân ở trí. Tỷ lệ thay đổi với sự phát triển của nhân loại và tŕnh độ tiến hóa. Do đó, bệnh tật là sự biểu hiện ra bên ngoài của các t́nh trạng bên trong, ngoài ư muốn – của thể sinh lực, thể t́nh cảm và thể trí.
2. Mọi việc có liên quan đến sức khỏe của con người có thể được tiếp cận theo ba khía cạnh:
113
a. Khía
cạnh của cuộc sống phàm ngă… Về khía cạnh
đó chúng ta đang học hỏi.
b. Khía cạnh nhân loại nói chung… điều này đang bắt đầu được hiểu rơ.
c. Khía cạnh sự sống hành tinh …chúng ta chỉ biết ít về điều này.
3. Mọi bệnh tật đều do bởi sự thiếu hài ḥa giữa h́nh hài với sự sống, giữa linh hồn với phàm ngă; sự thiếu hài ḥa này xảy ra khắp các giới trong thiên nhiên.
4. Đa số bệnh tật đều có:
a. Cội nguồn trong nhóm.
b. Kết quả của việc cảm nhiễm.
c. Sự thiếu dinh dưỡng, hiểu về mặt vật chất, mặt chủ quan và mặt huyền môn.
5. Bệnh tật đối với quần chúng, đối với người dân bậc trung, đối với giới trí thức và đối với đệ tử đều cách nhau rất xa và có các lănh vực biểu lộ khác nhau.
a. Ba nhóm bệnh tật chính đối với hai hạng đầu là:
– Bệnh lao.
– Các bệnh về xă hội.
– Ung thư.
b. Hai bệnh chính yếu đối với giới trí thức và đối với đệ tử là:
– Đau tim.
– Các bệnh thần kinh.
6. Bệnh tật là một sự thực trong thiên nhiên. Khi điều này được thừa nhận, con người sẽ bắt đầu làm việc với Định Luật Giải Thoát, với tư tưởng đúng đắn, đưa đến thái độ đúng, định hướng đúng và với nguyên tắc không đối kháng. Về sự không đối kháng này, việc sẵn sàng chết quá mạnh vốn rất thường là một đặc điểm của giai đoạn cuối ngay trước cái chết là biểu lộ thấp nhất. Chính sự không đối kháng chi phối sự hôn mê về mặt tâm lư.
114
7.
Luật Nhân Quả hay Luật Karma, chi phối mọi
bệnh tật. Điều này bao hàm nghiệp quả
của cá nhân, của nhóm, của quốc gia và của toàn
thể nhân loại.
Nếu bạn tạm dừng ở điểm này và xem lại những ǵ tôi đă nhắc lại, và nếu bạn nghiên cứu lại và suy tư về bốn định luật và bốn qui luật này, bạn sẽ có được cơ sở cần thiết để dựa vào đó tiến hành các nghiên cứu sau này của chúng ta, bắt đầu bằng các bệnh gắn liền với cuộc sống của đệ tử. Một số trong các bệnh này, tôi đă có bàn tới trong quyển thứ II của bộ "Luận về Bảy Cung" (trang 520 –625). Trong đó cách tiếp cận chủ yếu là theo khía cạnh huyền bí, trong lúc đó, ở nơi đây, tôi sẽ đề cập đến các vấn đề của đệ tử nhập môn.
4. CÁC BỆNH DO SỰ SỐNG CỦA ĐỆ TỬ.
Trước đây, tôi có nói với bạn rằng bệnh tật xuất phát từ bốn nguyên nhân sau:
1. Đó là hậu quả của việc ngăn chận sự sống thông suốt của linh hồn.
2. Do bởi ba ảnh hưởng hoặc các nguồn lây nhiễm:
a. Các lỗi lầm cũ, được gọi là tội lỗi và lầm lạc của cá nhân liên hệ, phạm phải trong kiếp này, hoặc kiếp trước.
b. Các dấu vết và khuynh hướng dễ mắc bệnh (tố bẩm) của con người phải chịu chung với mọi phần c̣n lại của nhân loại.
c. Tà lực của hành tinh liên quan đến tŕnh độ thành đạt của Hành Tinh Thượng Đế và bị chi phối bởi Karma hành tinh.
3. Bị chi phối bởi các lực xuất phát từ cơi mà tâm thức của con người trụ vào đó trước tiên.
115
4.
Năm loại bệnh chính, với các hiệu quả kèm
theo và phụ thuộc của chúng, có thể và chắc
chắn là tạo ra các hậu quả mà đệ tử có
liên hệ đến; y không được miễn trừ
cho đến sau cuộc điểm đạo thứ ba.
A. CÁC BỆNH CỦA NHÀ THẦN BÍ.
Tuy nhiên, bậc đệ tử ít khi mắc bệnh lao (trừ khi bị nghiệp quả chi phối), y cũng không có khuynh hướng mắc phải các bệnh xă hội, trừ khi chúng có thể tác động lên y về mặt vật chất qua cuộc sống xả thân phụng sự của y. Sự lây nhiễm có thể tác động vào y nhưng không nghiêm trọng lắm. Y cũng có thể là nạn nhân của bệnh ung thư, nhưng y có thể mắc bệnh tim và rối loạn thần kinh loại này hoặc loại khác. Nhà thần bí chân thực dễ nhượng bộ hơn cho các t́nh trạng thuần túy tâm lư, liên quan đến phàm ngă hội nhập, và do đó, gắn liền với bản chất của y được tập trung phần lớn trên cơi cảm dục. Bậc đệ tử c̣n dễ mắc các khó khăn trí tuệ và mắc các bệnh có liên quan tới năng lượng và do sự hợp nhất – hoặc là đă hoàn tất, hoặc là đang tiếp diễn – của linh hồn và phàm ngă.
Nguyên nhân thứ nhất mà tôi đă liệt kê trước đây trong bộ luận này được tổng kết bằng phát biểu rằng bệnh tật là hậu quả của việc tắc nghẽn sự sống thông suốt và việc năng lượng đang tuôn đổ vào của linh hồn. T́nh trạng tắc nghẽn này do nhà thần bí tạo ra, khi y không chống nỗi với các h́nh tư tưởng của chính y, được tạo ra liên tục để đáp ứng với đạo tâm đang tăng lên của y. Các h́nh tư tưởng này trở nên các tường ngăn cách giữa y với sự sống tự do của linh hồn, và ngăn chận sự tiếp xúc của y và có ảnh hưởng đến ḍng chảy vào của năng lượng linh hồn.
Đệ tử đảo ngược toàn bộ t́nh trạng và trở thành nạn nhân (trước khi được điểm đạo lần thứ ba) cho ḍng chảy vào khủng khiếp của năng lượng linh hồn – năng lượng của Ngôi Hai – đang đến với y từ:
116
a. Linh
hồn của riêng y, nơi mà trung tâm dung hợp năng
lượng đang diễn ra một cách nhanh chóng.
b. Nhóm hay là Đạo viện của y, mà với tư cách là một đệ tử nhập môn, y có liên kết với nó.
c. Sư phụ của y, Đấng mà y có mối liên hệ tinh thần với Ngài, và y bao giờ cũng cảm nhận được ảnh hưởng rung động của Ngài.
d. Thánh Đoàn, mà năng lượng của nơi này có thể đến được với y nhờ cả ba yếu tố trên.
Tất cả các ḍng năng lượng này có một hiệu quả rơ rệt trên các bí huyệt của đệ tử, tùy theo cung của y và sự an trụ đặc biệt của y trong kiếp sống này. V́ mỗi bí huyệt có liên hệ đến tuyến này hay tuyến khác, và đến phiên chúng, các tuyến này chi phối ḍng máu, và cũng có một hiệu quả đặc thù trên cấu trúc của cơ thể nằm trong phạm vi ảnh hưởng rung động của chúng (nghĩa là bao tử, sát với huyệt đan điền, và tim, sát với bí huyệt tim v.v..) bạn sẽ thấy tại sao có thể xảy ra việc các bệnh chính yếu mà một đệ tử có thể mắc phải (vốn là độc nhất và giới hạn trước tiên vào nhân loại đă tiến hóa) lại là hậu quả của việc quá bị kích thích, hay là ḍng năng lượng đi vào một bí huyệt đặc biệt tạo ra bệnh quá mức và có tính cách cục bộ.
Đối với các t́nh trạng này, nhà thần bí không có khuynh hướng như thế, trừ phi y đang nhanh chóng trở nên nhà thần bí hay là nhà huyền linh học thực hành. Đây là một chu kỳ chuyển tiếp rơ rệt giữa thái độ thần bí với lập trường rơ rệt hơn đó mà nhà huyền linh học đảm trách. Do đó, tôi sẽ không bàn đến các bệnh mà nhà thần bí phải kế thừa, trừ phi tôi xin nêu ra một sự kiện lư thú:
Nhà thần bí (mystic) bao giờ cũng hiểu biết về nhị nguyên tính. Y là kẻ t́m kiếm ánh sáng, linh hồn, vật thân yêu, t́m kiếm một điều nào đó cao hơn là cái mà y cảm thấy như đang hiện hữu và như là cái vốn có thể được t́m ra. Y nỗ lực sau khi thừa nhận có đấng thiêng liêng và bởi đấng thiêng liêng; y là kẻ noi theo linh thị, một đệ tử của Đức Christ, và điều này chi phối suy tư và đạo tâm của y. Y là một kẻ sùng tín và là kẻ yêu cái không thể đạt được theo bề ngoài – Cái Khác (Other) hơn là chính y.
117
Chỉ
khi nào trở nên nhà huyền linh học, lúc ấy, nhà
thần bí mới học được rằng lúc nào
cũng có một từ lực lôi cuốn y, và nhị nguyên
tính đang nhuốm màu cuộc sống và các tư
tưởng của y, nó đem lại động lực
cho tất cả những ǵ mà y t́m cách để làm, là Chân
Ngă của y, Thực Tại Duy Nhất. Lúc bấy giờ,
y nhận ra rằng sự đồng hóa và nhập hóa /
huyền đồng với thực tại duy nhất
đó giúp cho lưỡng nguyên tính được chuyển
hóa thành nhất nguyên, và chiều hướng t́m kiếm
phải được biến đổi thành nỗ
lực để trở thành những ǵ mà về thực
chất, y là – một Con của Thượng Đế,
hợp nhất với tất cả các Con của
Thượng Đế. Nhờ đạt được
điều đó, y thấy chính ḿnh hợp nhất với
Đấng Duy Nhất mà trong Ngài chúng ta sống, hoạt
động và hiện tồn.
Kế tiếp, tôi xin nêu ra rằng biểu lộ thấp nhất của t́nh trạng thần bí và hợp nhất với những ǵ mà chúng ta đang trở nên ngày càng quen thuộc, là cái được gọi là "đa nhân cách" ("split personality"); khi t́nh trạng này xảy ra, phàm ngă cá nhân tự biểu lộ nhờ một t́nh trạng lưỡng nguyên căn bản và hai nhân vật tự biểu lộ, một cách biểu kiến, thay v́ linh hồn – phàm ngă hợp nhất. Tất nhiên, điều này tạo ra một t́nh trạng tâm lư nguy hiểm và là t́nh trạng nó biện hộ cho việc vận dụng khoa học có lăo luyện.
Đó là sự thiếu thốn ở mức độ lớn vào lúc này, v́ rất ít các nhà tâm lư học lăo luyện và các chuyên gia tâm thần nhận thức được sự thật về linh hồn. Tôi nhắc đến điều này, v́ ngày nay nó có giá trị, và sẽ trở nên ngày càng tăng trong các năm sau này, khi điều đó sẽ được cần tới để truy ra và hiểu được các tương đồng đang có trong tâm thức con người đến các lănh vực hiểu biết rộng lớn chưa được thăm ḍ. Đa nhân cách và nhà thần bí là hai trạng thái của một tổng thể – một trạng thái th́ đúng, và theo đường lối khai mở tinh thần cao siêu, c̣n trạng thái kia vốn là một phản ảnh và một sự méo mó của tŕnh độ phát triển đó, nó đi trước tŕnh độ của nhà huyền linh học có luyện tập. Có nhiều t́nh trạng thường thấy trong nhân loại vào lúc này, nó có thể tùy thuộc cùng một lập luận và là một trong các cách chữa trị, vốn sẽ được thực hiện sau này là việc khám phá các tương ứng cao so với các khó khăn và các bệnh tật thấp, và việc nhận thức được rằng chúng chỉ là các méo mó của một thực tại lớn lao. Điều này đưa tới sự chuyển di chú tâm của một người được sự chăm sóc của nhà chữa trị tới trạng thái cao đă được nhận thức đó.
118
Toàn
bộ Khoa Học Hội Nhập (Science of Integration) có liên
quan tới vấn đề này. Nếu được
hiểu đúng, khoa học này sẽ mở ra một lănh
vực hoàn toàn mới để tiếp cận bằng tâm
lư với bệnh tật, hoặc là về mặt sinh lư hay
về mặt thần kinh. Một mở đầu nho
nhỏ đă được tạo ra theo đường
lối này bởi các nhà tâm lư học và các nhà mô phạm
mở trí về tâm linh. Phương pháp giúp đỡ con
người về phương diện tâm lư dứt khoát là
theo các đường lối mới này, và có thể
được diễn tả như sau: nhà tâm lư học
bậc trung dùng phương pháp (khi ứng xử với
các trường hợp về thần kinh, với các
trường hợp ở ranh giới, và với
người có khuynh hướng bệnh thần kinh)
để khám phá các phức cảm sâu kín, các vết
thương, các khích động cũ hoặc các lo sợ
ẩn sau kinh nghiệm của hiện tại và tạo ra
con người có bản chất như hiện tại.
Thường thường các yếu tố quyết
định này có thể được truy nguyên
đến tiềm thức bằng tiến tŕnh khơi
lại quá khứ, xem xét môi trường hiện tại,
tính toán đến sự di truyền và nghiên cứu các
hiệu quả của giáo dục – hoặc là theo lư
thuyết, hoặc là dựa trên chính sự sống. Lúc
bấy giờ, yếu tố vốn là cản trở chính,
và nó đă đưa con người vào một vấn đề
tâm lư, được mang lên (với sự trợ giúp
của y, nếu có thể) trên mặt của tâm thức y,
lúc bấy giờ được giải thích một cách
sáng suốt và liên kết với t́nh trạng hiện có, và
con người tất nhiên là được mang lại
hiểu biết về phàm ngă của y, các vấn
đề của phàm ngă và cơ hội sắp xảy
đến của nó.
119
Tuy
nhiên, kỹ thuật tâm linh th́ hoàn toàn khác hẳn. Vấn
đề phàm ngă và tiến tŕnh đào sâu vào tiềm
thức chưa được biết, bởi v́ các
điều kiện ngoài ư muốn được xem như
là kết quả của việc thiếu sự tiếp xúc
của linh hồn và kiểm soát của linh hồn.
Bệnh nhân (tôi tạm gọi như thế)
được dạy rằng hăy dùng mắt, và tất
nhiên là sự chú tâm của y, tách rời khỏi chính y,
cảm giác của y, phức cảm của y và các
định kiến cùng các tư tưởng không
được ưa thích của y, và tập trung chúng vào
linh hồn, Thực Tại Thiêng Liêng bên trong h́nh hài, và tâm
thức Christ. Điều này có thể được
gọi là tiến tŕnh dùng sự chú tâm mới mẻ, mănh
liệt để thay thế một cách khoa học cho những
ǵ mà từ trước đến nay vẫn nắm diễn
trường, nó khơi hoạt một yếu tố
hợp tác mà năng lượng của yếu tố này lướt
qua sự sống thấp của phàm ngă, và mang đi các
khuynh hướng tâm linh sai lầm, các phức cảm
bất đắc dĩ, đưa đến các tiếp
cận sai lầm với sự sống. Sau rốt, điều
này hoán cải sự sống trí tuệ hay tư
tưởng để cho con người được
định đoạt bằng tư duy đúng dưới
sự thúc đẩy hoặc soi sáng của linh hồn.
Điều này tạo ra "sức đẩy mănh liệt
của một t́nh thương mới"; các ư
tưởng cố định cổ xưa, các trầm
cảm/chán nản và đau khổ xưa, các dục
vọng đang ngăn cản và gây bất lợi
trước kia – tất cả các điều này biến
mất và con người trở nên thung dung với tư
cách một linh hồn và chủ nhân của các tiến tŕnh
sự sống của ḿnh.
Tôi đă bàn về hai t́nh trạng này một cách chi tiết, bởi v́ về thực chất, có một định luật khác liên hệ với việc chữa trị cần được hiểu rơ trước khi chúng ta tiếp tục đi xa hơn. Sự bàn căi về tâm thần phân liệt, các vấn đề của nhà thần bí và phương pháp mới để tiếp cận với bệnh tật (theo khía cạnh linh hồn và lănh vực của các nguyên nhân, thay v́ theo khía cạnh phàm ngă và lănh vực của hiệu quả) có thể làm sáng tỏ định luật này trong trí các bạn và ít nhất nêu ra sự hữu lư của nó và áp dụng có giá trị của nó cho nhu cầu con người.
ĐỊNH LUẬT IV
120
Bệnh tật, cả về
mặt thể xác lẫn tâm lư, có cội nguồn của nó
trong thiện, mỹ và chân. Đó chỉ là một phản
ảnh méo mó của các khả năng thiêng liêng. Linh hồn
bị ngăn trở, đang t́m cách biểu lộ
đầy đủ một vài đặc điểm
thiêng liêng hay thực tại tinh thần nội tâm, tạo
ra bên trong chất liệu của các thể của nó
một điểm ma sát. Đôi mắt của phàm ngă
tập trung trên điểm này, và điều này đưa
tới bệnh tật.
Nghệ thuật của nhà trị liệu có liên hệ đến việc ngước đôi mắt đang chăm chú nh́n xuống, lên linh hồn, nhà Trị Liệu bên trong h́nh hài. Con mắt tinh thần hay mắt thứ ba bấy giờ hướng về sức mạnh chữa trị và mọi sự đều tốt lành.
B. CÁC BỆNH CỦA BẬC ĐỆ TỬ.
Chúng tôi sẽ chia những ǵ mà chúng tôi phải nói về các bệnh của đệ tử thành hai phần: các vấn đề riêng biệt của mọi đệ tử và các khó khăn gắn liền với sự tiếp xúc của linh hồn.
Ở đây, chúng ta cần nhớ rằng tất cả các đệ tử đều dễ mắc các bệnh chủ yếu. Họ đang cố gắng đồng nhất với tất cả nhân loại, do đó điều này bao hàm tất cả các bệnh mà thể xác kế thừa. Tuy nhiên, đệ tử không thể chống nỗi nhược điểm của con người thông thường, và nên nhớ rằng các bệnh về tim và thần kinh tạo thành vấn đề chính của họ. Về điều đó có thể nêu ra rằng các đệ tử thuộc vào hai nhóm chính: những kẻ sinh hoạt trên cách mô và do đó có khuynh hướng mắc bệnh tim, tuyến giáp trạng và cổ họng, và những kẻ ở trong diễn tŕnh biến đổi các năng lượng của các bí huyệt dưới cách mô vào các bí huyệt trên cách mô. Đa số các bí huyệt này hiện nay đang chuyển các năng lượng của huyệt đan điền vào bí huyệt tim, và nỗi thống khổ của thế gian đang hết sức thúc đẩy tiến tŕnh. Các bệnh về bao tử, gan và đường hô hấp đi kèm theo chuyển biến này.
1. Các vấn đề đặc biệt của đệ tử.
121
Như
bạn biết, các vấn đề đặc biệt
này, riêng đối với những kẻ đă tự nâng
cao tâm thức ra khỏi sự sống của phàm ngă vào
sự sống của linh hồn. Trước tiên, chúng có
liên quan tới năng lượng, ḍng lưu nhập
của nó, sự đồng hóa hoặc không đồng hóa
của nó, và việc sử dụng có hướng dẫn
đúng của nó. Các bệnh khác mà mọi thể xác bị
kế thừa vào lúc này trong sự tiến hóa của con
người (v́ phải nhớ rằng bệnh tật thay
đổi tùy theo tŕnh độ tiến hóa và cũng
xuất hiện theo chu kỳ), và đối với các
đệ tử nào có thể và chắc chắn không
chống nỗi, th́ không bàn đến ở đây; cần
nói rằng ba bệnh chính của nhân loại
được nhắc đến ở đây, đă gây ra
sự mất mát của các đệ tử, đặc
biệt trong việc mang lại sự giải thoát của
linh hồn khỏi hiện thể của nó. Tuy nhiên – cho dù
có thể ít khi xuất hiện – trong các trường
hợp này, chúng bị kiềm chế khỏi các mức
độ của linh hồn, và sự ra đi
được dự trù xảy ra theo kết quả
của quyết định của linh hồn, chứ không
theo kết quả của hiệu quả bệnh tật.
Lư do mà ba bệnh chủ yếu này – vốn bẩm sinh
đối với sự sống hành tinh trong đó chúng ta
sống, hoạt động và hiện tồn – có
được mănh lực trên các đệ tử, là v́ các
đệ tử đó chính là bộ phận không thể
thiếu của sự sống hành tinh, và trong các giai
đoạn trước kia của nhận thức của
họ về sự hợp nhất này, họ có khuynh
hướng thành một miếng mồi sẵn sàng cho
bệnh tật. Đây là một sự kiện mà ít ai
biết và hiểu được, trừ việc giải
thích lư do tại sao các đệ tử và người
tiến hóa dễ mắc các bệnh này.
Chúng ta có thể chia các vấn đề này ra làm bốn loại:
1. Các loại có liên quan tới ḍng máu hay với khía cạnh sự sống, v́ "máu là sự sống". Các loại này có các hiệu quả đặc thù trên tim, nhưng thường thường, chỉ có bản chất chức năng. Bệnh về cơ cấu (organic disease) của tim xuất phát từ các nguyên nhân c̣n sâu xa hơn nữa.
2. Các loại vốn là hiệu quả trực tiếp của năng lượng, đang tác động vào và qua hệ thần kinh, xuyên qua bộ óc được hướng dẫn.
3. Các loại có liên quan với hệ hô hấp và có một nguồn cội huyền linh.
122
4. Các
loại đặc biệt do tính thụ cảm hoặc
không thụ cảm, do sự tác động hoặc không tác
động và do ảnh hưởng của bí huyệt.
Tất nhiên, các loại này thuộc về bảy nhóm, tác
động vào bảy vùng chính yếu của cơ thể.
Đối với đệ tử bậc trung,
trước khi có sự kiềm chế hoàn toàn của linh
hồn và sự hướng dẫn của Chân Thần, tác
nhân điều khiển chính, qua bộ óc, là thần kinh
phế vị, dọc theo đó các năng lượng (đang
đi vào qua bí huyệt đầu) được phân
phối đến phần c̣n lại của cơ thể.
Một khoa học rơ rệt về các bí huyệt và sự liên
quan của chúng đối với hỏa xà đă
được thiết lập bởi một số
trường phái huyền bí có uy thế ở Đông
phương. Trong đó, có nhiều điều đúng,
nhưng cũng có nhiều điều sai.
Tôi đă phân biệt giữa các vấn đề với các phản ứng xác thân và bệnh tật, bởi v́ sự lưu nhập, phân phối và điều khiển năng lượng không nhất thiết tạo ra bệnh tật. Tuy nhiên, luôn luôn, trong thời kỳ mới tu trước khi điểm đạo, chúng rơ ràng là tạo ra các khó khăn và các vấn đề loại này hay loại khác, hoặc là trong ư thức của đệ tử, hoặc là trong mối liên hệ của y với những kẻ chung quanh y. Do đó, môi trường quanh y bị ảnh hưởng và tất nhiên là do phản ứng hỗ tương của riêng y.
123
Về
điều này, cần nên nhớ rằng , mọi
đệ tử đều là các trung tâm năng
lượng trong cơ thể nhân loại và đang trong
tiến tŕnh trở thành các điểm năng lượng
được tập trung, được hướng
dẫn. Chức năng và hoạt động của họ
luôn luôn và tất nhiên là tạo ra các tác dụng, các kết
quả, các khơi hoạt, các găy vỡ và các tái
định hướng trong các kiếp sống của
những kẻ chung quanh họ. Trong các giai đoạn ban
đầu, họ tạo ra điều này một cách
hữu thức, và do đó thường thường, các
kết quả nơi những kẻ mà họ tiếp xúc
đều không đáng ao ước, cũng như năng
lượng không được điều khiển
một cách khôn ngoan, bị lệch lạc hay là không
được giữ lại. Chủ đích sáng suốt
phải nằm sau mọi hướng năng lượng
sáng suốt. Sau này, khi họ biết được
một cách hữu thức để tồn tại và
trở nên các trung tâm phát ra sức mạnh chữa trị,
được điều khiển một cách hữu thức,
năng lượng làm linh hoạt này và bấy giờ
được truyền ra, được sử dụng
một cách xây dựng hơn theo cả hai đường
lối tâm lư và vật chất. Tuy nhiên trong bất cứ
trường hợp nào, đệ tử cũng trở
thành một ảnh hưởng có hiệu quả và không bao
giờ có thể là điều mà về mặt huyền bí
được gọi là "bị bỏ qua trong vị
trí của nó và tác động không đáng kể lên các linh
hồn khác". Ảnh hưởng của y, bức
xạ và năng lượng mạnh mẽ của y,
chắc chắn sẽ tạo ra các vấn đề và các
khó khăn cho y; các điều này được dựa
trên các liên giao của nhân loại mà y đă tạo ra về
mặt nghiệp quả và các phản ứng của
những kẻ mà y tiếp xúc hoặc là v́ điều
tốt, hoặc là v́ điều xấu.
Về thực chất, ảnh hưởng của một đệ tử của Thánh Đoàn, căn bản là tốt và thuộc trạng thái tâm linh; ở bề ngoài và với các hiệu quả bên ngoài của nó – đặc biệt lănh vực liên quan đến đệ tử – các t́nh trạng khó khăn, các nứt rạn bề ngoài và việc xảy ra lỗi lầm cũng như các đức hạnh về phần của những kẻ bị tác động tạo ra bề ngoài của chúng, và thường kéo dài trong nhiều kiếp sống, cho đến khi một người chịu ảnh hưởng như thế trở thành điều được gọi là "được ḥa giải về mặt huyền linh đối với năng lượng đang phát ra". Hăy suy gẫm về điều đó. Sự hiệu chỉnh phải xảy đến từ phía những kẻ bị ảnh hưởng, chứ không phải từ phía đệ tử.
Bây giờ, chúng ta hăy xét bốn vấn đề theo khía cạnh tâm lư, chớ không phải khía cạnh vật chất:
a. Các vấn đề xuất phát từ bí huyệt tim đă được khơi hoạt của đệ tử có lẽ là thông thường nhất và thường thường thuộc về một vài trong số các khó khăn nhất phải xử lư. Các vấn đề này được dựa trên các liên quan sống động và sự tương tác của năng lượng t́nh thương với các sức mạnh của dục vọng. Trong các giai đoạn đầu, mănh lực t́nh thương đang tuôn vào này tạo nên các tiếp xúc của phàm ngă vốn thay đổi hướng giữa các giai đoạn sùng tín cuồng nhiệt và sự căm thù tột bực về phía người bị ảnh hưởng bởi năng lượng của đệ tử. Điều này tạo ra sự xáo trộn thường xuyên trong cuộc đời của đệ tử, cho đến khi y đă trở nên hiệu chỉnh được các kết quả của sự phân phối năng lượng của y, và cũng thường làm gián đoạn các liên hệ và các dung ḥa thường thấy. Khi đệ tử đủ quan trọng để trở thành trung tâm tổ chức của một nhóm, hoặc ở trong một vị thế để bắt đầu tạo thành, về mặt huyền bí, đạo viện riêng của y (trước khi nhận được một trong các cuộc điểm đạo chính) bấy giờ, nỗi khó khăn có thể trở nên rất thực và xáo trộn nhất. Tuy nhiên, có ít điều mà đệ tử có thể làm được, trừ việc cố gắng điều chỉnh lại năng lượng t́nh thương đang tuôn ra. Về căn bản, vấn đề c̣n lại là vấn đề của kẻ chịu ảnh hưởng; các hiệu chỉnh, như tôi có nhấn mạnh ở trên, phải được làm theo phương diện khác, với đệ tử sẵn sàng để hợp tác khi có dấu hiệu đầu tiên của một sự tự nguyện để nhận thức mối liên lạc và ư định hợp tác trong việc phụng sự tập thể. Đây là một điểm mà cả hai bên – đệ tử và người phản ứng với ảnh hưởng của y – cần phải xem xét. Đệ tử phải sẵn sàng; bên đáp ứng thường là triệt thoái hay tiến gần tùy theo sự cấp thiết của linh hồn hay của phàm ngă y – có lẽ là phàm ngă trong các giai đoạn ban đầu. Tuy nhiên, sau rốt, y trụ lại với đệ tử trong sự hiểu biết hợp tác đầy đủ, và thời gian cố gắng khó khăn chấm dứt.
124
Theo
tôi, không thể đi vào chi tiết rơ ràng khi xem xét các
vấn đề này liên quan tới tim và năng
lượng sống của đệ tử. Chúng
được kiềm chế bởi cung của y,
cuộc điểm đạo mà y đang được
chuẩn bị và tính chất, t́nh trạng tiến hóa và
cung của những kẻ được ảnh
hưởng.
Cũng có các khó khăn và các vấn đề có bản chất tinh anh hơn xuất phát từ cùng một nguyên nhân, nhưng không bị khu biệt trong một vài tương quan nhân loại rơ rệt. Một vị đệ tử phụng sự; y viết và nói; các lời lẽ và ảnh hưởng của y thấm nhập vào đa số con người, đánh thức họ vào hoạt động nào đó – thường thường là tốt và có tính chất tinh thần, đôi khi bất hảo, thù hận và nguy hiểm. Do đó, y phải đối phó không những chỉ với chính các phản ứng của y đối với công việc mà y đang làm, mà c̣n, theo một ư nghĩa tổng quát và đặc thù, đối phó với quần chúng mà y đang bắt đầu có ảnh hưởng đến. Đây không phải là điều dễ làm, đặc biệt là đối với một người làm việc cho Thiên Cơ mà thiếu kinh nghiệm. Y dao động giữa cơi trí, nơi mà y cố gắng hoạt động một cách b́nh thường, với cơi cảm dục, nơi mà đa số con người đang an trụ vào và điều này đưa y vào lănh vực ảo cảm và tất nhiên là nguy hiểm. Y dành hết tâm thức hướng đến những kẻ mà y đang t́m cách giúp đỡ, nhưng đôi khi với tư cách linh hồn (và bấy giờ y thường quá kích thích thính giả của y), và đôi khi với tư cách phàm ngă (và lúc đó, y nuôi dưỡng và nâng cao các phản ứng của phàm ngă của họ).
125
Theo
thời gian qua, y học cách – nhờ các khó khăn xảy
ra, bởi sự tiếp cận cần thiết của tâm
hồn – trụ vững ở trung tâm, phát ra âm điệu,
đưa ra thông điệp của y, phân phối năng
lượng bác ái có hướng dẫn và tạo ảnh
hưởng lên những kẻ chung quanh ḿnh, nhưng y
vẫn vô ngă, một tác lực điều khiển duy
nhất và một linh hồn cảm thông. Tính vô ngă
(impersonality) này (vốn có thể được
định nghĩa như một sự thu hồi năng
lượng phàm ngă) tạo ra các vấn đề riêng
của nó, như mọi đệ tử đều
biết rơ; tuy nhiên, không có ǵ mà họ có thể làm về
việc đó, trừ việc chờ cho thời gian
dẫn dắt kẻ khác tiến đến việc
hiểu biết rơ ràng về ư nghĩa và hàm ư huyền bí
của các tương quan đúng đắn của con
người. Vấn đề những kẻ phụng
sự với các cá nhân và với các nhóm, về căn
bản có liên quan với năng lượng của bí
huyệt tim, và với lực làm linh hoạt của sự
sống lồng bên trong của nó. Về vấn đề
này và các phản ứng của nó đối với
đệ tử, một số khó khăn về vật
chất rơ rệt lại có khuynh hướng xảy ra và
tôi sẽ bàn đến các điều này một cách
vắn tắt.
Cũng
cần nêu ra rằng các khó khăn về sự nhịp
nhàng đều có thể xảy đến, và các vấn
đề có liên quan đến cuộc sống theo chu
kỳ của đệ tử. Về mặt huyền bí,
tim và máu có liên quan với nhau, c̣n về mặt biểu
tượng, chúng xác định sự sống mạch
động của linh hồn đang biểu lộ trên cơi
trần trong sự hướng ngoại và sự sống
kép đang triệt thoái của t́nh trạng đệ
tử, mỗi giai đoạn lại có các vấn
đề riêng của nó. Khi đệ tử đă chế
ngự được nhịp điệu của sự
sống bên ngoài và bên trong của y, và đă sắp
đặt các phản ứng của y sao cho y rút
được ư nghĩa cao xa nhất từ các phản ứng
đó mà không bị chúng chi phối, bấy giờ y
bước vào cuộc sống tương đối
đơn giản của
126
đệ
tử điểm đạo. Câu đó có làm cho bạn
ngạc nhiên không? Bạn cần nhớ rằng đệ
tử điểm đạo, sau cuộc điểm
đạo thứ hai, đă tự thoát khỏi các phức
cảm và sự kiềm chế t́nh cảm và thể
cảm dục. Huyễn cảm không thể áp đảo y
được nữa. Y có thể trụ lại một
cách vững vàng bất kể những ǵ mà y có thể làm và
cảm nhận. Y hiểu được rằng t́nh
trạng chu kỳ có liên quan tới các cặp đối
hợp và là một phần của biểu lộ sự
sống đối với chính sự hiện tồn. Trong
tiến tŕnh học hỏi điều này, y trải qua các
khó khăn to tát. Với tư cách là một linh hồn, y
bắt buộc chính ḿnh phải chịu một sự
sống hướng ngoại, với ảnh hưởng
từ điện và tính hướng ngoại. Y có thể
theo điều đó một cách trực tiếp với
một cuộc sống rút vào nội tâm, bề ngoài
thiếu quan tâm vào các liên hệ của y và môi trường
xung quanh và với một biểu lộ cực kỳ
nội quan, hướng nội. Giữa hai thái cực này,
y có thể lúng túng một cách thảm hại – đôi khi
trong nhiều kiếp sống – cho đến khi y học
được cách phối trộn cả hai biểu
lộ. Lúc bấy giờ, cuộc sống hai mặt
của đệ tử nhập môn, trong các tŕnh độ
và giai đoạn khác nhau, trở nên sáng tỏ hơn
đối với y, y biết được những ǵ y
đang làm. Một cách thường xuyên và có hệ
thống, cả hướng ngoại lẫn hướng nội,
phụng sự trong thế gian và sống cuộc
đời trầm tư, đều có vai tṛ hữu
dụng của chúng.
127
Nhiều
khó khăn về tâm lư hiện ra trong khi tiến tŕnh này
được chế ngự, đưa đến
nứt rạn tâm lư, cả bề sâu lẫn bề mặt.
Mục tiêu của mọi phát triển là sự hội nhập
– hội nhập với tư cách một phàm ngă, hội
nhập với linh hồn, hội nhập vào Thánh Đoàn,
hội nhập với Tổng Thể (the Whole), cho
đến khi sự hợp nhất và sự huyền
đồng hoàn hảo được đạt
đến. Để quán triệt khoa học về sự
hội nhập này (mà mục tiêu căn bản của nó là
đồng nhất với Thực Tại Duy Nhất),
đệ tử tiến từ sự hợp nhất này
đến sự hợp nhất khác, tạo ra lỗi
lầm thường đưa đến sự mất
hết can đảm, đồng nhất hóa chính ḿnh
với những ǵ bất hảo, cho đến khi, với
tư cách linh hồn – phàm ngă (soul-personality) y không thừa nhận
các liên hệ trước kia; y chịu mọi thiệt tḥi
không biết bao nhiêu lần về sự sôi nổi không
đúng chỗ, đạo tâm bị thiên lệch, hậu
quả có tính cách áp đảo của huyễn cảm, và
nhiều t́nh trạng xáo trộn về tâm lư và thể
chất vốn dĩ phải xảy ra trong khi các nứt
rạn được chữa trị, sự đồng
nhứt hóa đúng đắn được thành
đạt và sự định hướng đúng chỗ
được thiết lập.
Trong khi tiến tŕnh căn bản không thể tránh được và tất yếu này xảy ra, th́ một việc rơ rệt diễn tiến trong thể dĩ thái. Đệ tử đang học cách nâng cao các năng lượng gom lại từ các bí huyệt thấp, vào huyệt đan điền, và từ bí huyệt đó đi vào bí huyệt tim, như vậy đem lại sự tái tập trung năng lượng trên cách mô, thay v́ đặt vào tầm quan trọng bên dưới. Điều này thường đưa đến các phiền phức sâu xa, bởi v́ – theo quan điểm phàm ngă – huyệt đan điền là bí huyệt mạnh mẽ nhất, là nơi trao đổi các lực của phàm ngă. Đó là tiến tŕnh phá ngă chấp (decentralisation) và "nâng" tâm thức thấp lên tâm thức cao, nó tạo ra các khó khăn chính mà đệ tử phải lệ thuộc. Chính tiến tŕnh này cũng đang diễn ra trên thế gian nói chung ngày nay, gây ra t́nh trạng rối loạn tồi tệ đối với các sự việc, văn hóa và văn minh của nhân loại. Điểm tập trung toàn bộ ư thức của nhân loại đang được thay đổi; cuộc sống ích kỷ (đặc điểm của con người hướng vào dục vọng của ḿnh, và tất nhiên hướng vào huyệt đan điền) đang thế chỗ cho sự sống phá ngă chấp của người không vị kỷ (tập trung vào Bản ngă hay linh hồn), biết được các liên quan và trách nhiệm của y đối với Tổng Thể chứ không phải đối với từng phần. Việc siêu chuyển cuộc sống thấp thành cuộc sống cao là một trong các thời khắc bí ẩn nhất đối với cá nhân và đối với nhân loại. Một khi đệ tử cá biệt và cũng là nhân loại, tượng trưng cho đệ tử trên thế giới, đă quán triệt được tiến tŕnh chuyển di về phương diện này, chúng ta sẽ thấy được tŕnh tự mới về việc phụng sự cá nhân và phụng sự thế gian được thiết lập, và do đó, triển vọng của một tŕnh tự mới được chờ đợi.
128
Trong
số các tiến tŕnh này, sự lưu thông của ḍng máu
là biểu tượng, và manh mối đối với
việc thiết lập trật tự thế giới
ẩn trong biểu tượng kư này – sự lưu
chuyển thông suốt của tất cả những ǵ
cần cho mọi phần của cơ cấu vĩ
đại của nhân loại. Máu là sự sống và
sự trao đổi lẫn nhau thông suốt, phân chia không
bị ràng buộc, vận chuyển thông suốt tất
cả những ǵ cần cho cách sống đúng đắn
của nhân loại sẽ đặc trưng cho thế
giới sắp đến. Ngày nay các t́nh trạng này không có
nữa, thể xác nhân loại bị bệnh và sự
sống bên trong của nó bị phá vỡ. Thay v́ có sự
lưu chuyển thông suốt giữa các phần của
trạng thái sự sống, lại có sự tách ra, các
vận hà bị tắc nghẽn, ngưng trệ, ứ
đọng. Lúc này, cần có cơn khủng hoảng ghê
gớm để đánh thức nhân loại trước
t́nh trạng bệnh tật của họ, trước phạm
vi của tà lực mà bây giờ, được khám phá là
rất lớn lao, và các bệnh về "máu của nhân
loại" (hiểu một cách tượng trưng)
tệ hại đến nỗi chỉ các biện pháp
quyết liệt nhất – đau đớn, thống
khổ, tuyệt vọng, khủng khiếp – mới có
thể đủ để lập ra cách chữa trị.
129
Các nhà
trị liệu cần phải nhớ rơ điều này và
ghi trong trí rằng các đệ tử và tất cả
những người lương thiện và người
t́m đạo đều dự phần vào bệnh tật
chung này của nhân loại; nhân loại phải chịu
tổn thương về mặt tâm linh hoặc vật
chất, hoặc cả hai mặt. Bệnh tật có
cội nguồn xưa, và do thói quen tạo ra từ lâu và
chắc chắn là có ảnh hưởng tới thể
hồng trần của linh hồn. Việc thoát khỏi
ảnh hưởng đối với bệnh tật
của con người, không hề là chỉ dẫn về
sự vượt trội của tinh thần. Đó
chỉ có thể là dấu hiệu của điều mà
một trong các Chân Sư đă gọi là "vực thẳm
của ích kỷ tâm linh và sự tự măn". Một
vị đă được điểm đạo lần
3 có thể giữ cho chính ḿnh khỏi bệnh, nhưng
đó chỉ v́ người đă hoàn toàn thoát khỏi
huyễn cảm, và không một khía cạnh nào của
cuộc sống phàm ngă có được mănh lực
đối với người. Tất cả các loại cung
đều cũng chịu lệ thuộc vào các vấn
đề đặc biệt này. Tuy nhiên, cung bảy dễ
bị ảnh hưởng với các rắc rối, các khó
khăn và các bệnh gắn liền với ḍng máu hơn là
bất cứ loại cung nào khác. Lư do là v́ đây là cung có
liên quan tới sự biểu hiện và biểu lộ của
sự sống trên cơi trần và liên quan với việc
tạo ra liên hệ giữa tinh thần với vật
chất thành h́nh hài sắc tướng. Do đó, ngày nay,
liên quan tới việc đó, với mục đích t́m cách
tạo ra một trật tự mới, với sự
lưu chuyển thông suốt và tất nhiên với một
sự tự do có dự tính của nhân loại thoát
khỏi bệnh tật và các vấn đề của quá
khứ. Điều này rất lư thú cần ghi nhớ và các
môn sinh sẽ thấy rằng nó có ích vào lúc này, nếu
họ muốn hợp tác một cách thông minh với các
diễn biến của thời đại, để thu
thập và nghiên cứu tất cả những ǵ mà tôi đă
viết về cung bảy, tức cung trật tự, nghi
lễ và huyền thuật.
b. Bệnh của hệ thần kinh – do ḍng năng lượng đến khắp các phần của cơ thể, được hướng dẫn, hoặc là bởi phàm ngă, một khía cạnh nào đó của phàm ngă, hoặc là bởi linh hồn, xuyên qua bộ óc, th́ nhiều và trở nên tỏ tường, khi đệ tử sắp được điểm đạo hay trở nên một điểm đạo đồ. Không kể đến bệnh về sinh lư, mà t́nh trạng này tạo ra, có nhiều t́nh trạng khác xảy đến do bởi luồng thần lực đi vào này. Thí dụ, đệ tử trở nên quá bị kích thích, và v́ đó, quá hoạt động; y trở nên mất thăng bằng, và khi nhắc đến điều này, tôi không đề cập đến sự thiếu cân bằng trí tuệ (dù rằng điều đó có thể xảy ra) mà là nói đến sự quá phát triển và quá biểu lộ ở một vài phần của bản chất y. Y có thể trở nên vượt hiệu năng quá mức do một bí huyệt nào đó quá hoạt động, hay là thiếu tổ chức và bất động. V́ lẽ đó, y bị lệ thuộc vào sự mất cân bằng của hệ thống tuyến, với mọi khó khăn kèm theo của nó. Việc quá bị kích thích hay là thiếu phát triển, nơi mà các bí huyệt có liên hệ đến, tác động một cách b́nh thường vào các tuyến, rồi đến lượt các tuyến này lại tạo ra các khó khăn về tính chất, mà tất nhiên, đến phiên chúng, sẽ tạo ra các vấn đề thuộc về hoàn cảnh cũng như sự cản trở của phàm ngă.
130
Bấy
giờ, đó là một ṿng luẩn quẩn, và tất
cả đều do sự chỉ đạo thần
lực sai lầm, và ḍng thần lực đi vào từ
một nơi này hay nơi khác của các hiện thể
của phàm ngă, đến bí huyệt liên hệ của nó
(nghĩa là sức mạnh cảm dục và mối liên
hệ của nó với huyệt đan điền), và
bấy giờ, nảy sinh ra các vấn đề về sức
khỏe, về đặc tính và về ảnh
hưởng. Hoạt động quá phóng phát (over-radiotory)
qua một số bí huyệt, thu hút sự chú tâm, và
đệ tử trở thành nạn nhân của việc
thành đạt riêng của y. Tôi sẽ bàn đến các
điều này một cách rộng răi hơn khi tôi
đề cập đến các bệnh xuất phát từ
bốn loại.
Các khó khăn này thuộc về một loại thông thường nhất, nhưng chắc chắn có ảnh hưởng trước tiên trên các đệ tử thuộc cung hai và cung sáu. V́ cung hai là cung kiến tạo, và do đó có liên hệ chủ yếu với biểu lộ bên ngoài và với việc vận dụng của mọi bí huyệt; cung sáu, bởi v́ trước tiên đó là cung của nhất tâm – một sự nhất tâm vốn có thể được thể hiện dưới h́nh thức cuồng tín tệ hại nhất hoặc là sự tận tụy vị tha nhất. Tất cả mọi cung đều có cùng các vấn đề như nhau, không cần phải nói, nhưng cung hai liên quan phần lớn với hoạt động của linh hồn qua tất cả các huyệt (các huyệt ở trên và dưới cách mô) nhưng với bí huyệt tim được xem như là bí huyệt đầu tiên cần chú ư. Cung sáu có một liên hệ chặt chẽ với huyệt đan điền v́ là nơi trao đổi và là chỗ tái định hướng sinh lực trong phàm ngă. Nên luôn luôn ghi nhớ điều này.
131
c. Các
vấn đề liên quan với hệ hô hấp,
tất cả đều liên quan với tim, và do đó, liên
quan với sự thiết lập nhịp điệu
đúng và tiếp xúc đúng với môi trường xung
quanh. Việc hít vào sinh khí, việc chia xẻ không khí
với tất cả những người khác, cho thấy
cả hai bí huyệt riêng biệt của sự sống
lẫn sự tham dự vào sự sống chung của
tất cả. Đối với các vấn đề này
về cuộc sống cá nhân hay cuộc sống riêng
biệt và về điều ngược lại của nó,
Thánh Ngữ OM, có liên quan một cách mật thiết. Có
thể nói bằng những lời lẽ của một quyển
cẩm nang huyền linh về chữa trị,
được đưa ra cho các đệ tử đă
tiến hóa rằng:
"Kẻ nào sống dưới âm thanh của thánh ngữ AUM, kẻ ấy biết được chính ḿnh. Kẻ nào sống mà trỗi lên thánh ngữ OM, kẻ ấy biết được huynh đệ ḿnh. Kẻ nào biết được LINH ÂM (SOUND), kẻ ấy biết được tất cả".
Kế đó, bằng ngôn ngữ ẩn dụ và biểu tượng của vị điểm đạo đồ, cẩm nang huyền linh tiếp tục:
"Linh khí của sự sống trở thành nguyên nhân của sự chết đối với kẻ sống trong một ma h́nh (shell). Y tồn tại nhưng y không hiện hữu; bấy giờ linh khí rời khỏi và chuyển động theo h́nh xoắn ốc đến tổng thể.
"Kẻ nào phát ra thánh ngữ OM, kẻ ấy không phải chỉ biết có riêng ḿnh. Y biết hơi thở là prana, sự sống, lưu chất nối liền. Các bệnh của sự sống là bệnh của y, bởi v́ các bệnh đó là số mệnh của con người – không sinh ra trong ma h́nh, v́ ma h́nh không tồn tại.
"Kẻ nào là Linh Âm (Sound) và phát ra Linh Âm, kẻ ấy không biết đến bệnh tật, không biết đến bàn tay tử thần".
Trong vài lời trên, toàn thể vấn đề về nhóm thứ ba của các nan đề và các bệnh tật đă được tổng kết. Chúng liên hệ với sự lưu chuyển của năng lượng linh hồn, vốn là năng lượng bác ái, và chúng không có liên quan đến sự lưu chuyển của tinh hoa sự sống. Hai năng lượng căn bản này, khi chúng tác động lên các lực của phàm ngă, chúng mang lại phần lớn các nan đề mà nhân loại phải kế thừa. Đó là thiếu bác ái, thiếu linh động, không gióng lên được một cách chính xác nốt của linh hồn và của cung, và thất bại trong việc truyền đạt. Bí nhiệm của việc cấu tạo một vận hà thuần khiết (dùng cách nói thần bí chớ không dùng cách nói huyền linh), được xét trong nhóm thứ nhất của các nan đề và việc thiết lập sự liên giao đúng đắn bằng cách phát ra đúng nốt thu hút của linh hồn, được xét đến trong hai nhóm sau cùng.
132
Nhóm khó
khăn thứ ba này, tức các nan đề và các bệnh
tật, dĩ nhiên là các khó khăn của con người
trên tất cả các cung, trừ ra người thuộc
cung 1 có thiên hướng dứt khoát đối với các
khó khăn đặc biệt này. Đồng thời, khi
họ vận dụng đúng các sức mạnh tiềm
tàng của ḿnh, họ có thể khắc phục bằng
cách dùng đúng Thánh Ngữ OM, và sau rốt đúng Linh Âm, th́
các nan đề ngẫu nhiên và các khó khăn dễ dàng
được vượt qua nhiều hơn là những
người ở trên các cung khác. Ở đây, các bạn có
một tham khảo về Linh Từ Thất Truyền
của Hội Tam Điểm và về Linh Âm của Danh
Xưng Cấm Kỵ (the SOUND of the Ineffable Name).
Âm của AUM, âm của OM, và chính Linh Âm, tất cả đều liên hệ tới rung động và các hiệu quả dị biệt và đa dạng của chúng. Bí nhiệm của Định Luật Rung Động ngày càng được tiết lộ khi con người học được cách phát ra Linh Từ (Word) theo ba trạng thái của nó. Các đạo sinh nên cân nhắc kỹ về sự phân biệt giữa hơi thở (breath) với âm thanh (sound), giữa tiến tŕnh thở với tiến tŕnh tạo ra hoạt động rung động. Chúng có liên hệ nhưng lại riêng biệt với nhau. Một đàng có liên quan với Thời Gian, c̣n đàng kia liên quan với Không Gian và (theo cách diễn tả của Cổ Luận) "âm thanh, cái cuối cùng và tuy thế âm thanh mở đầu, liên quan đến những ǵ không phải là Thời Gian cũng không phải là Không Gian; nó nằm bên ngoài Vạn Hữu biểu lộ, Cội Nguồn của tất cả những ǵ hiện tồn và chưa hiện tồn" (tức là thái hư – nothing – A.A.B.)
V́ lư do này, các đệ tử trên cung 4 thường có thể phát triển bằng năng lực trực giác, cách hiểu biết về Thánh ngữ OM. Cung hài ḥa qua xung khắc này (xung khắc của các cặp đối hợp) tất nhiên có liên quan với việc dẫn tới hoạt động rung động đó, vốn sẽ đưa đến hợp nhất, hài ḥa, đến các tương quan đúng và đến sự phóng thích trực giác.
133
d. Các
vấn đề gắn liền với hoạt
động hoặc không hoạt động của các bí
huyệt có lẽ là quan trọng nhất theo quan
điểm bệnh tật, bởi v́ các bí huyệt chi
phối hệ thống tuyến, c̣n các tuyến có liên quan
trực tiếp với ḍng máu và chúng cũng chi phối các
vùng chính và trọng yếu nhất trong cơ thể
người; chúng có hiệu quả cả về mặt
sinh lư lẫn tâm lư trên phàm ngă và các tiếp xúc, các
tương quan bên trong và bên ngoài. Phản ứng
trước nhất là về thể xác, nhưng các hậu
quả phần lớn là về mặt tâm lư, và do đó,
chính nhóm thứ tư này mà tôi sẽ chủ yếu bàn
rộng thêm, liên quan với các bệnh của các đệ
tử và đưa ra một vài chỉ dẫn rơ rệt
về các bí huyệt. Điều này sẽ nêu ra rơ hơn
ở một nơi khác các nguyên nhân của nhiều
bệnh của nhân loại và các khó khăn thể chất.
Trước khi tiếp tục điểm kế tiếp, nên cố gắng hiểu rơ hơn một chút các Định Luật Chữa trị và các Qui Luật được đưa ra xa như thế và được lặp lại ở đây để làm cho dễ dàng các nỗ lực của các bạn.
ĐỊNH LUẬT I
Mọi bệnh tật là hệ quả của sự sống linh hồn bị ức chế, và điều này đúng với tất cả mọi h́nh hài trong tất cả các giới. Tài khéo léo của nhà chữa trị cốt ở chỗ khai phóng linh hồn sao cho sự sống của linh hồn có thể tuôn đổ qua toàn bộ các cơ quan đang cấu tạo bất cứ h́nh hài đặc biệt nào.
ĐỊNH LUẬT II
Bệnh tật là sản phẩm của và lệ thuộc vào ba ảnh hưởng: thứ nhất, quá khứ của một người, y phải trả giá cho lỗi lầm cũ; thứ hai, sự kế thừa của y, trong đó y chia sẻ với tất cả nhân loại các ḍng năng lượng bị ô nhiễm vốn có nguồn gốc tập thể; thứ ba, y chia phần với tất cả các h́nh hài, trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chưởng Quản Sự Sống đặt để trên cơ thể của Ngài. Ba ảnh hưởng này được gọi là "Định Luật Cổ Chia Sẻ Tà Lực". Định luật này vào một ngày nào đó, phải nhường chỗ cho "Định Luật Thiện Hảo Cổ, Chiếm Ưu Thế" mới mẻ hơn, vốn ẩn đàng sau tất cả những ǵ mà Thượng Đế đă tạo ra. Định Luật này phải được đưa vào hoạt động bằng ư chí tinh thần của con người.
ĐỊNH LUẬT III
134
Bệnh tật là một
hệ quả của việc tập trung cơ bản
năng lượng sự sống của con người.
Từ cơi mà các năng lượng này được
tập trung, tiếp diễn những t́nh trạng có tính
quyết định vốn tạo ra t́nh trạng sức
khỏe tệ hại, và do đó, thể hiện
dưới h́nh thức bệnh hoặc là dưới h́nh
thức vô bệnh.
ĐỊNH LUẬT IV
Bệnh tật, cả về mặt vật chất lẫn tâm linh, có cội nguồn trong thiện, mỹ và chân. Bệnh tật chỉ là một phản ảnh méo mó của các tiềm năng thiêng liêng. Linh hồn bị ngăn trở, đang t́m cách biểu lộ đầy đủ một tính chất thiêng liêng nào đó hoặc thực tại tinh thần bên trong, tạo ra bên trong chất liệu của các thể của nó một điểm va chạm. Đôi mắt của phàm ngă được tập trung trên điểm này và việc đó đưa đến bệnh tật. Kỹ năng của nhà trị liệu là quan tâm đến việc ngước đôi mắt chăm chú ngó xuống, nh́n lên linh hồn, tức là Nhà Trị Liệu bên trong h́nh hài. Mắt tinh thần hay mắt thứ ba lúc đó hướng dẫn sức mạnh trị liệu, và mọi sự đều tốt đẹp.
QUI LUẬT MỘT
Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, trái tim, bộ óc và hai bàn tay của ḿnh. Nhờ thế, y có thể tuôn đổ sức mạnh chữa trị thiết yếu lên người bệnh. Đây là công tác từ điện. Nó chữa lành bệnh tật, hoặc làm tăng t́nh trạng tệ hại, tùy theo sự hiểu biết của nhà trị liệu.
Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, bộ óc, tim và bức xạ hào quang của ḿnh. Như thế, sự hiện diện của y có thể nuôi dưỡng sự sống linh hồn của người bệnh. Đây là công tác bức xạ. Không cần đến hai bàn tay. Linh hồn phô bày sức mạnh của nó. Linh hồn của người bệnh đáp ứng lại qua sự đáp ứng với hào quang của y, đến bức xạ của hào quang nhà trị liệu, tràn ngập với năng lượng linh hồn.
QUI LUẬT HAI
Nhà trị liệu phải đạt được sự tinh khiết về từ điện, nhờ sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt được loại bức xạ xua đuổi, bức xạ này tự biểu lộ trong mỗi người khi y liên kết các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này được thiết lập, bức xạ cũng phát ra.
QUI LUẬT BA
135
Nhà
trị liệu nên tự luyện tập để
biết được tŕnh độ tư tưởng
bên trong hoặc là ước muốn của kẻ đang
mưu t́m sự giúp đỡ của y. Nhờ đó, y có
thể biết được cội nguồn của
bệnh tật. Y nên liên kết nhân và quả, và biết
được mức độ chính xác để nhờ
đó mới trợ giúp được.
QUI LUẬT BỐN
Nhà chữa trị và nhóm chữa trị phải kiềm chế ư chí. Không phải dùng ư chí mà dùng t́nh thương.
2. Các khó khăn gắn liền với sự tiếp xúc Linh Hồn.
Hôm nay, chúng ta bắt đầu nghiên cứu về các khó khăn, các bệnh tật và các bệnh về tâm lư (thần kinh và trí tuệ) của người t́m đạo và của các đệ tử trên thế gian. Chúng ta sẽ khảo cứu các điều này một cách rơ rệt theo góc độ của bảy bí huyệt, cũng như xem xét các kết quả của các sức mạnh và các năng lượng (tôi dùng các lời lẽ phân biệt này một cách cố ư) đang tuôn đổ qua chúng. Nhiều điều mà tôi sắp nói, sẽ được mở ra cho vấn đề theo quan điểm y học chính thống, tuy nhiên, đồng thời, y khoa chính thống đă từ từ bị lôi cuốn hướng về quan điểm huyền bí. Tôi sẽ không cố gắng liên kết thái độ huyền bí để chữa trị, các đề xuất và các phương pháp của nó đối với các trường phái chữa trị hiện đại. Trong bất luận trường hợp nào, cả hai đang dần dần tiến đến gần nhau. Các giáo huấn này có dụng ư dành cho người đọc ở thế tục, họ sẽ hiểu được rơ ràng hơn về luận đề của tôi nếu nó tương đối ít có các thuật ngữ chuyên môn, và các quan điểm về lư thuyết của y khoa. Chúng sẽ chỉ đem lại sự rối rắm, và cố gắng của tôi là đưa ra một bức tranh tổng quát về các nguyên nhân nằm bên dưới của các bệnh thể xác bên ngoài. Tôi t́m cách tŕnh bày một vài khía cạnh trị liệu theo huyền môn mà nhân loại hiện nay đang sẵn sàng, xin nhắc các bạn nhớ rằng việc tŕnh bày tất nhiên là không đầy đủ và chỉ có một phần, và v́ lư do đó, có thể dường như không chính xác và là thách đố cho những kẻ luôn t́m lối thoát cho sự cả tin của con người. Tuy nhiên, điều đó không có liên quan tới tôi. Thời gian sẽ chứng minh sự chính xác cho các phát biểu của tôi.
136
Ngành y
học mới sẽ bàn đến các yếu tố mà ngày
nay được nhận biết một cách lờ mờ
và tuy nhiên, không dẫn đến bất cứ mối liên
quan thật sự hay có thật nào đối với con
người và thể xác của y. Lư thuyết căn
bản mà dựa vào đó huấn điều y học
mới sẽ dựa vào, có thể được tóm
tắt đầy đủ nhất bằng phát biểu
rằng trong thực tế không có ǵ trừ ra năng
lượng, cần được xem xét, và các mănh lực
vốn đề kháng lại hay có sức đồng hóa
thuộc các dạng năng lượng cao hoặc khác nhau.
Do đó, tôi xin bắt đầu bằng cách nêu ra cho
bạn một Định Luật mới để thêm vào
bốn định luật đă được truyền
đạt. Các định luật trước đă có
trong thiên nhiên với các mệnh đề trừu
tượng, và trừ phi có liên quan với định
luật thứ năm này sẽ vẫn hơi mơ hồ
và vô nghĩa.
ĐỊNH LUẬT V
Không có ǵ ngoài năng lượng, v́ Thượng Đế là sự sống. Hai năng lượng đáp ứng trong con người, c̣n năm năng lượng khác hiện hữu. Đối với mỗi năng lượng có một điểm tiếp xúc trung ương. Sự xung đột giữa các năng lượng này với các lực và giữa chính các lực với nhau tạo ra các bệnh về thể xác của con người. Sự xung đột của năng lượng thứ nhất và năng lượng thứ hai kéo dài nhiều thời đại cho đến khi đỉnh núi được đạt tới – đỉnh núi lớn thứ nhất. Cuộc chiến giữa các sức mạnh tạo ra mọi bệnh tật, mọi ốm đau và thống khổ cho thể xác, vốn t́m sự giải thoát trong cái chết. Hai, năm và như thế là bảy, cộng với những ǵ mà chúng tạo ra, nắm giữ bí mật. Đây là Định Luật Chữa Trị thứ năm bên trong thế giới sắc tướng.
Định luật này có thể được phân tích thành một vài phát biểu căn bản có thể được kể ra như sau:
1. Chúng ta sống trong một thế giới năng lượng và chính chúng ta là một thành phần tạo thành của các năng lượng đó.
2. Thể xác là sự phối hợp của hai năng lượng và bảy thần lực.
3. Năng lượng thứ nhất là năng lượng của linh hồn, tức năng lượng của cung. Đó là chủ thể tạo ra sự xung đột khi năng lượng linh hồn t́m cách kiềm chế các thần lực.
137
4.
Năng lượng thứ nh́ là năng lượng
của phàm ngă tam phân – tức cung phàm ngă v́ nó đối
kháng lại với năng lượng cao.
5. Các thần lực là các năng lượng khác hay là các tiềm lực của cung, đang kiềm chế bảy bí huyệt và bị chế ngự hoặc là bởi năng lượng của phàm ngă, hoặc là bởi năng lượng của linh hồn.
6. Do đó, hai sự xung đột tiếp diễn giữa hai năng lượng chính và giữa các năng lượng khác, được tập trung qua bảy bí huyệt.
7. Chính sự tương tác của các năng lượng này mới tạo ra sức khỏe tốt hoặc xấu.
Có nhiều giáo huấn được đưa ra liên quan đến sự đấu tranh lâu đời giữa phàm ngă với linh hồn, nhưng điều đó luôn luôn được tŕnh bày bằng ngôn ngữ chỉ sự tiếp cận của tinh thần, của huyền bí học và của tôn giáo hoặc cái nào khác trong các thuật ngữ chỉ phản ứng của cá tính, chỉ đạo tâm trừu tượng và chỉ sự thanh khiết hay là không thanh khiết. Tôi sẽ không bàn đến các điều này. Chủ đề của tôi là các hậu quả của sự xung đột này trong thể xác. Do đó, tôi muốn tự hạn chế chỉ vào các vấn đề sinh lư và tâm lư, gắn liền với sự đấu tranh, mà nói chung, tạo ra khó khăn cho tất cả đệ tử. Có thể thừa nhận rằng:
A. Mọi bệnh tật và khó khăn vật chất là do bởi một hay nhiều trong số ba sự việc hay t́nh trạng sau:
1. Tiếp xúc với linh hồn tiến hóa, như vậy tạo ra việc bồi bổ sinh khí cho mọi bí huyệt theo nhịp điệu được định đoạt tùy theo cung của linh hồn. Tất nhiên, điều này tạo ra sự chấn động và sự căng thẳng trong thể xác.
2. Sự sống và sự tập trung của phàm ngă, nó đang cố gắng để chối bỏ sự kiềm chế của linh hồn, và được biểu lộ ở mức độ lớn qua hoạt động của bí huyệt cổ họng (mở đường cho hoạt động của tuyến giáp trạng) và của các bí huyệt dưới cách mô.
138
3.
Một chu kỳ trong kiếp sống của người
t́m đạo mà trong đó, sự kiềm chế của
phàm ngă bắt đầu yếu đi và khi đó trọng
điểm và hoạt động hợp lư di chuyển vào
các bí huyệt trên cách mô – lại tạo nên phiền toái và
thích nghi lại.
B. Một số mục tiêu tự hiện ra cho người t́m đạo vào các giai đoạn khác nhau, và mỗi giai đoạn có liên quan với sự tiến hóa, nhưng đồng thời một vài khó khăn kèm theo.
1. Mục tiêu trước mắt điểm đạo đồ là có được mọi bí huyệt trong thể dĩ thái đáp ứng với năng lượng cung của linh hồn và với mọi năng lượng của bảy cung khác phụ thuộc vào nó. Tiến tŕnh kích thích, hiệu chỉnh và đạt đến sự kiềm chế được thiết lập tiếp tục cho đến sau cuộc điểm đạo thứ ba. Lúc bấy giờ khi cuộc điểm đạo đó xảy ra, thể xác có được một tầm cỡ và tính chất hoàn toàn khác, các Qui Luật và Định luật về sức khỏe không c̣n áp dụng được nữa.
2. Mục tiêu trước mắt đệ tử là xúc tiến việc kiểm soát của các bí huyệt trong cơ thể, xuyên qua linh hồn, nhờ sự kích thích, gạt bỏ và làm ổn định sau rốt. Điều này tất nhiên tạo ra khó khăn, và sự bồi bổ sinh khí hay là truyền linh hứng (hoặc là bằng các lời lẽ thích đáng), hoặc là sự thiếu thốn hay bất toàn của chúng, tác động vào các cơ quan trong cơ thể bên trong vùng xung quanh các bí huyệt và tác động đến mọi chất liệu xung quanh các bí huyệt.
139
3. Mục
tiêu trước mắt người t́m đạo
hoặc đệ tử dự bị là chuyển thần
lực từ bí huyệt dưới cách mô, xuyên qua
huyệt đan điền, đến các bí huyệt trên
cách mô. Năng lượng của bí huyệt ở chót
xương sống phải được chuyển lên
đầu; năng lượng của bí huyệt
xương mông phải được đem lên bí
huyệt cổ họng, trong khi năng lượng của
huyệt đan điền phải được
chuyển lên tim. Điều này được làm
để đáp ứng với "sức hút" từ
điện của linh hồn khi nó bắt đầu
chế ngự cung phàm ngă. Đó là một tiến tŕnh lâu
dài và đau khổ gồm nhiều kiếp sống và
hậu quả là mang lại nhiều bệnh về thể
xác.
4. Mục tiêu trước mắt người b́nh thường (chịu ảnh hưởng một cách vô tâm) là đáp ứng đầy đủ với sức mạnh của phàm ngă, tập trung trước tiên ở trung điểm, tức đan điền, và kế đó, phối hợp các thần lực này một cách vững chăi và một cách sáng suốt, sao cho một phàm ngă hợp nhất sau rốt được đem ra cho linh hồn kiềm chế và sử dụng.
5. Mục tiêu trước mắt người sơ khai hoặc người chưa phát triển (lại chịu ảnh hưởng một cách vô tâm) là sống một cuộc sống đầy thú tính và đầy t́nh cảm, nhờ đó thu lượm được kinh nghiệm để phát triển, để tiếp xúc và sau rốt để hiểu biết. Nhờ cách này mà bộ máy đáp ứng của linh hồn trong ba cơi thấp được kiến tạo.
Tôi cũng xin kêu gọi sự chú tâm đến ư tưởng mà tôi đă đưa vào ở đây, đó là về bản chất, các mục tiêu tự chúng có một hiệu quả trên những ǵ mà con người đang nỗ lực. Đây là một ư tưởng biện hộ cho việc xem xét cẩn thận.
Các điều khái quát này sẽ chỉ hữu ích nếu bạn nhớ rằng chúng là các điều khái quát. Không một người t́m đạo ở bất cứ tŕnh độ nào hoàn toàn cắt đứt nỗ lực của ḿnh cho đến sau cuộc điểm đạo thứ ba, y cũng không hoàn toàn bị đặc thù hóa trong kiếp sống và nỗ lực của y. Nhân loại đang ở mọi tŕnh độ phát triển có thể tưởng tượng được, và nhiều người ở các tŕnh độ này thuộc về hạng giữa so với năm tŕnh độ được nhắc ở trên. Tất cả các tŕnh độ này đều phối hợp và trộn lẫn vào nhau và thường tạo ra một diễn trường dữ đội và gây bối rối cho tư tưởng và hoạt động. Chỉ có trong cuộc đời của một cá nhân chưa phát triển mà người ta mới thấy được sự đơn giản rơ rệt. Ở quăng giữa – từ giai đoạn ấu trĩ của giống dân hay của con người, đến giai đoạn ở trạng thái giải thoát khỏi cuộc sống phàm ngă – không có ǵ cả trừ ra sự phức tạp, sự gối lên của các trạng thái tâm thức, nỗi khó khăn, bệnh tật, các vấn đề tâm lư, ốm đau và chết chóc.
140
Điều
này hiển nhiên phải là như thế, khi phần lớn
năng lượng và thần lực vốn dĩ tạo
ra con người và tạo thành hoàn cảnh của y có liên quan
với nhau. Trong thực tế, mọi con người,
giống như một xoáy nước nhỏ trong
đại dương Sinh Linh mà trong đó y sống và
hoạt động – không ngừng chuyển động cho
đến lúc mà linh hồn "thở trên mặt
nước" (tức là các thần lực) và Thiên
Thần Bản Lai Diện Mục giáng vào xoáy nước.
Bấy giờ, tất cả trở nên phẳng lặng.
Mặt nước bị khuấy động bởi
nhịp sống, rồi sau đó bị khuấy
động dữ dội do sự giáng xuống của
Thiên Thần, đáp ứng với mănh lực chữa
trị của Thiên Thần và được biến
đổi "thành một cái ao yên tĩnh mà những
người nhỏ bé có thể đi vào và t́m
được sự chữa trị mà họ cần".
Cổ Luận giảng như thế.
CÁC BÍ HUYỆT VÀ HỆ THỐNG TUYẾN
Do đó, điều hiển nhiên đối với bạn là bệnh tật (khi không có nguồn cội từ tập thể, hay là kết quả của nghiệp quả hành tinh hay là dựa trên sự ngẫu nhiên) bắt nguồn từ sự hoạt động hoặc không hoạt động của các bí huyệt. Đây là một phát biểu về một chân lư căn bản, được đưa ra theo cách đơn giản nhất. Như các bạn biết, các bí huyệt chi phối hệ thống nội tiết, rồi đến phiên nó, hệ thống này kiềm chế bảy vùng chính yếu trên thể xác và chịu trách nhiệm đối với việc vận hành chính xác của toàn cơ thể, tạo ra các hiệu quả về mặt sinh lư lẫn tâm lư.
Sự quan trọng của hệ thống tuyến này không nên được đánh giá quá cao. Đó là một bản sao thu nhỏ của cấu tạo thất phân của vũ trụ và là phương tiện biểu lộ và là vận cụ giao tiếp đối với thần lực của bảy cung, bảy Tinh Quân trước Thiên Ṭa. Bấy giờ, y học và các phương pháp chữa trị của nền văn minh sau này, sẽ được kiến tạo chung quanh chân lư chưa được thừa nhận này.
141
Các
tuyến tạo thành một hệ thống liên lạc
lớn trong cơ thể; chúng đưa mọi phần
của thể xác, liên hệ lại với nhau; chúng
cũng nối liền con người với thể dĩ
thái – cả về mặt cá nhân lẫn hành tinh – và cũng
giống như ḍng máu, tức tác nhân vận chuyển nguyên
khí sự sống đến mọi phần của cơ
thể. Tất nhiên là có bốn tác nhân phân phối chính
nằm trong thể xác. Chúng hoàn toàn nằm bên trong chính chúng,
tất cả đều góp phần vào cả sự
sống chức năng lẫn sự sống hữu cơ
của cơ thể, tất cả đều có liên hệ
hỗ tương chặt chẽ, và tất cả
đều tạo ra các kết quả sinh lư lẫn tâm lư,
tùy theo sức mạnh của chúng, sự đáp ứng
của bí huyệt với luồng thần lực cao
đang đi vào, tŕnh độ tiến hóa đă
đạt được và biểu lộ thông suốt,
hay là ngược lại, của năng lượng
đang đi vào. Bốn tác nhân phân phối năng
lượng này là:
1. Chính thể dĩ thái. Thể này, với vô số các tuyến lực và năng lượng, các năng lượng đang đi vào và đi ra, sự đáp ứng của nó với các tác động năng lượng xuất phát từ chung quanh, cũng như từ con người tâm linh bên trong và các thể tinh anh, ẩn dưới toàn bộ xác thân. Trong đó, có bảy bí huyệt có vai tṛ như các tụ điểm tiếp nhận và phân phối; chúng là nơi tiếp nhận bảy loại năng lượng và chúng phân phối bảy năng lượng này qua toàn bộ hệ thống nhỏ bé của con người.
2. Hệ thần kinh và hệ thống quản trị ăn khớp của nó. Đây là một mạng lưới năng lượng và thần lực tương đối rơ ràng; chúng vốn là ngoại hiện của mạng lưới năng động, thiết yếu bên trong của thể dĩ thái và hàng triệu nadis hay là nguyên mẫu của các thần kinh nằm bên dưới thể xác quan trọng hơn. Các dây thần kinh và các bí huyệt sinh lực (plexi) cùng nhiều nhánh nhóc của chúng là các trạng thái âm của các năng lượng dương vốn chi phối hay là đang cố gắng chi phối con người.
142
3. Hệ
thống nội tiết. Đây là biểu lộ hữu
h́nh và bên ngoài đối với hoạt động của
thể sinh lực và bảy bí huyệt của nó. Bảy bí
huyệt đều nằm trong cùng một vùng với
bảy tuyến chính yếu, và, theo giáo huấn nội môn,
mỗi bí huyệt cung cấp sức mạnh và sự
sống của tuyến tương ứng, mà thực ra,
chính là sự ngoại hiện của nó.
Các Bí huyệt Các tuyến
Bí huyệt đầu ……………… Tuyến tùng quả
Bí huyệt ấn đường ……………… Tuyến yên
Bí huyệt cổ họng ………………… Tuyến giáp trạng
Bí huyệt tim …………………… Tuyến ức (thymus)
Bí huyệt đan điền …………………. Tụy tạng
Bí huyệt xương mông …………….. Tuyến sinh dục
Bí huyệt chót xương sống ………. Tuyến thượng thận
Ba hệ thống này liên kết chặt chẽ với nhau và tạo thành một hệ thống quản trị ăn khớp gồm các năng lượng và thần lực, chủ yếu có tính sinh động, khích động, năng động và sáng tạo. Về căn bản, chúng tùy thuộc lẫn nhau và toàn bộ sức khỏe bên trong của cơ cấu xác thân đều tùy thuộc vào chúng. Trước tiên, chúng đáp ứng với thể này hoặc thể khác trong số các thể (t́nh cảm hoặc trí tuệ), kế đó với phàm ngă hợp nhất và cung của phàm ngă, và sau cùng với cung của linh hồn khi linh hồn bắt đầu đảm nhận việc kiềm chế. Trong thực tế, chúng chịu trách nhiệm đối với việc tạo ra thể xác, và – sau khi ra đời – chúng chi phối tính chất tâm lư của nó, và đến phiên nó, tạo ra con người vật chất đang phát triển. Chúng là các tác nhân đối với ba trạng thái thiêng liêng của mọi biểu lộ: sự sống – tính chất – sắc tướng.
4. Ḍng máu. Đây là tác nhân chuyên chở của nguyên khí sự sống và của các năng lượng và thần lực phối hợp của ba hệ thống trên. Đây sẽ là một ư kiến có phần mới lạ đối với chính thống. Mối liên quan của hệ tuần hoàn của máu đối với hệ thần kinh, cho đến nay, không được phát triển thích đáng trong y học hiện đại. Tuy nhiên, có nhiều điều đă được làm để liên kết hệ thống tuyến với máu.
143
Chỉ
khi nào bốn hệ thống liên hệ hỗ tương
này được xem như một tổng thể hợp
nhất và như là bốn trạng thái của một
hệ thống lưu thông thiết yếu duy nhất, th́
bấy giờ, chân lư mới hiện ra. Chỉ khi nào chúng
được thừa nhận là bốn tác nhân phân
phối chính của các cung phối hợp của con
người cá biệt, bấy giờ, bản chất
thực sự của hiện tượng vật chất
mới được hiểu rơ. Ở đây, cần
lưu ư rằng:
1. Theo khía cạnh tuần hoàn, thể dĩ thái bị Nguyệt Cầu chi phối, v́ nó che phủ Vulcan.
2. Hệ thần kinh do Venus cai quản.
3. Hệ thống nội tiết bị Saturn chi phối.
4. Ḍng máu bị Neptune chi phối.
Trong thực tế bốn hệ thống này là biểu lộ của bốn trạng thái vật chất trong biểu lộ thấp nhất hay là biểu lộ thuần vật chất. Có các trạng thái biểu lộ khác của chất liệu căn bản, nhưng đây là bốn trạng thái quan trọng nhất.
Mỗi một trong các trạng thái này đều chủ yếu là có hai mặt và mỗi nhị bộ (duality) tương ứng với cung của linh hồn hay cung của phàm ngă. Do đó, mỗi cái vừa dương lẫn âm; mỗi cái có thể được mô tả như là một đơn vị của kháng lực và của năng lượng mănh liệt; mỗi cái là một phối hợp của một số trạng thái vật chất và chất liệu nguyên thủy – vật chất (matter) ở trạng thái tương đối tĩnh tại, c̣n chất liệu nguyên thủy (substance) là tác nhân tương đối dễ thay đổi hay là được phú cho đặc tính. Sự tương tác của chúng, mối liên quan và chức năng phối hợp của chúng là biểu lộ của Nguyên Khí Sự Sống Duy Nhất, và khi chúng đă đạt tới một tŕnh độ phối hợp toàn hảo hay là tổng hợp hay là hoạt động phối kết, lúc bấy giờ mới xuất hiện cái gọi là "sự sống phong phú hơn" mà Đức Christ đă nói đến và cho đến nay chúng ta không biết ǵ về điều đó cả. Bốn trạng thái của vật chất cũng tạo ra sự tương ứng đối với bốn thuộc tính thiêng liêng cũng như đối với ba trạng thái thiêng liêng.
144
Sự
tương đồng của thuyết nhị nguyên
căn bản của mọi biểu lộ cũng
được duy tŕ, như vậy tạo ra chín cửa điểm
đạo – ba, bốn và hai. Tuy nhiên, sự tương
đồng này đối với tiến tŕnh khai mở th́
ở chiều hướng ngược lại, v́ đó là
sự khai mở vào Ngôi Ba, Ngôi Sáng Tạo, khía cạnh
vật chất và thế giới của hoạt
động sáng suốt. Đó không phải là cuộc khai
mở ở khía cạnh thứ hai hay khía cạnh linh
hồn, như trường hợp xảy ra với các
cuộc điểm đạo của Thánh Đoàn mà
đệ tử đang chuẩn bị. Đó là sự khai
mở của linh hồn vào kinh nghiệm lâm phàm ở cơi
trần, vào cuộc sống cơi trần và vào thuật
để tác động với tư cách con người.
Cánh cửa dẫn vào kinh nghiệm này là "Cánh cửa
Bắc Giải" ("Gate of Cancer"). Cuộc khai
mở vào Thiên giới được tiến nhập vào
qua "Cánh cửa Ma kết". Bốn thuộc tính và ba
trạng thái của vật chất này, cộng với
hoạt động song đôi của chúng, là sự
tương ứng với bốn trạng thái của phàm
ngă và Tam Thượng Thể Tinh Thần và mối liên
hệ linh hoạt song hành của chúng. Trong phát biểu này
có ẩn chiếc ch́a khóa đưa đến giải
thoát.
BẢY BÍ HUYỆT CHÍNH
Ở đây, sẽ là hữu ích nếu chúng ta xem xét trong một chốc, bản chất của chính các bí huyệt, tóm tắt sơ lược giáo huấn đă được nêu ra trong các sách khác của tôi, và v́ thế tŕnh bày một bức tranh sáng sủa về thể năng lượng (energy body) nằm dưới nhục thân.
Có nhiều tụ điểm thần lực bên trong thể xác, nhưng chúng ta sẽ chỉ bàn đến bảy cái chính đang kiềm chế tất cả những cái c̣n lại ở mức độ này hay mức độ khác. Bằng cách đó chúng ta sẽ không bị lầm lẫn. Chúng ta sẽ xem xét năm bí huyệt nằm trên cột xương sống và hai bí huyệt ở trong đầu.
1. Bí huyệt đầu. Bí huyệt này nằm ở đúng đỉnh đầu. Nó thường được gọi là "hoa sen ngàn cánh" hay là Brahmarandra.
145
a. Nó
tương ứng với mặt trời tinh thần trung
ương.
b. Nó hoạt động sau kỳ điểm đạo thứ ba và là cơ quan phân phối năng lượng Chân thần, trạng thái ư chí của thánh linh.
c. Nó có liên quan đến phàm ngă tam phân bằng giác tuyến mà các đệ tử và các điểm đạo đồ ở trong tiến tŕnh kiến tạo, và đạt đến sự hữu dụng đầy đủ chỉ sau khi có sự phá hủy linh hồn thể vào cuộc điểm đạo thứ tư.
d. Đó là trung tâm Shamballa trong thể xác và phương tiện của Từ Phụ hay của Ngôi Thiêng Liêng thứ nhứt.
e. Nó ghi nhận Thiên Ư, tương ứng với "lửa điện" của thái dương hệ và có tính năng động.
f. Ngoại hiện ở cơi trần trọng trược của nó là tuyến tùng quả trong đầu. Điều này vẫn tác động trong thời thơ ấu và cho tới khi ư-chí-hiện-tồn đă được thiết lập đầy đủ để cho kẻ luân hồi được bám chặt vững vàng khi lâm phàm trong thân xác. Trong các giai đoạn cuối cùng của biểu lộ thiêng liêng trong con người, nó lại đi vào hoạt động và trở thành hữu ích với tư cách là phương tiện để hoàn thành năng lượng ư chí của Đấng thiêng liêng đă được thiết lập trên cơi trần.
g. Nó là cơ quan tổng hợp, bởi v́, sau kỳ điểm đạo thứ ba và trước khi linh hồn thể bị hủy diệt, nó gom vào chính nó các năng lượng của tất cả ba trạng thái của sự sống biểu lộ. Về phần con người, điều này có nghĩa là các năng lượng của Tam Thượng Thể Tinh thần, của hoa sen Chân ngă tam phân và của phàm ngă tam phân, như thế, tạo thành chín của khai mở. Thế nên, các năng lượng đồng bộ và được tập trung trong, chung quanh và trên đầu, rất là đẹp đẽ và tỏa chiếu rộng, cộng với hiệu quả năng động. Chúng dùng để liên kết điểm đạo đồ với mọi phần của sự sống hành tinh, với Đại Hội Đồng ở Shamballa và với Đức Ngọc Đế, Đấng Điểm Đạo cuối cùng – qua Đức Phật, và một trong ba vị Hoạt Động Phật. Phật Thích Ca, theo một ư nghĩa đặc thù nhất, liên kết điểm đạo đồ với Ngôi Hai của Thượng Đế – ngôi bác ái – và do đó với Thánh Đoàn; các Hoạt động Phật liên kết đạo đồ với Ngôi Ba của Thượng Đế, ngôi của hoạt động thông tuệ. Thế nên, năng lượng của ư chí của tâm thức và của óc sáng tạo gặp nhau trong điểm đạo đồ, tạo ra sự tổng hợp của các trạng thái thiêng liêng.
146
h.
Đây chỉ là một trong bảy bí huyệt mà vào lúc hoàn
toàn giải thoát vẫn giữ được vị
thế hoa sen đảo ngược, cuống sen (thực
ra là antahkarana) đạt tới "cơi Trời thứ
bảy" như vậy nối liền điểm
đạo đồ với trung tâm hành tinh chủ yếu
thứ nhứt, Shamballa. Tất cả các trung tâm khác
khởi đầu bằng cách đảo ngược,
với tất cả các cánh hoa xoay xuống về phía
đáy xương sống; trong diễn tŕnh tiến hóa các
cánh của chúng dần dần khai mở và kế đó
từ từ hướng lên "tiến về phía
đỉnh của cái que", như cách gọi trong Cổ
Luận. Trên đây là một mảnh chi tiết có chút ít giá
trị, trừ phi tới một chừng mức mà nó nêu ra
một chân lư, hoàn thành một bức tranh và đem
đến cho đạo sinh một ư tưởng
tượng trưng về những ǵ chủ yếu là
một tác nhân phân phối năng lượng ư chí của
Thượng Đế.
147
2. Bí
Huyệt ấn đường. Đây là bí huyệt
giữa hai mày và nằm trong vùng đầu ngay trên hai
mắt, nơi mà nó "tác động như một b́nh
phong đối với vẻ mỹ lệ rực rỡ và
huy hoàng của con người tâm linh".
a. Nó tương ứng với mặt trời vật chất và là biểu hiện của phàm ngă, phối kết và đang tác động – trước tiên với tư cách đệ tử và sau rốt với tư cách điểm đạo đồ. Đây là con người đích thực hay là cái mạng che mặt.
b. Nó đạt được hoạt động đầy đủ vào lúc cuộc điểm đạo thứ ba xảy ra. Tôi xin nhắc các bạn rằng cuộc điểm đạo này được Thánh Đoàn xem như là cuộc điểm đạo chính thứ nhứt, một điều mà trước kia tôi có truyền đạt. Đó là cơ quan để phân phối năng lượng của Ngôi Ba – năng lượng của sự thông tuệ linh hoạt.
c. Nó có liên quan tới phàm ngă bằng sinh mệnh tuyến sáng tạo, và do đó có liên quan chặt chẽ với bí huyệt cổ họng (trung tâm của hoạt động sáng tạo), cũng như bí huyệt ở đầu có liên quan với bí huyệt ở chót xương sống. Một tương tác linh hoạt, khi được thiết lập giữa bí huyệt ấn đường và bí huyệt cổ họng, sẽ tạo ra một cuộc sống sáng tạo và một biểu hiện Thiên ư về phía điểm đạo đồ. Cũng giống như thế, sự tương tác linh hoạt giữa bí huyệt ở đầu và bí huyệt ở chót xương sống, tạo ra sự biểu lộ của thiên ư. Các mănh lực của bí huyệt ấn đường và bí huyệt cổ họng, khi phối hợp nhau, tạo ra biểu lộ cao nhất của "lửa do ma sát", cũng như các năng lượng của bí huyệt ở đầu và bí huyệt căn bản tạo ra "lửa điện" của cá nhân mà, khi tự biểu lộ đầy đủ, chúng ta gọi là luồng xà hỏa (kundalini fire).
148
d.
Đó là bí huyệt mà qua đó, Huyền Giai sáng tạo
thứ tư t́m cách biểu lộ trên cơi riêng của nó, và
nơi đây, cũng Huyền giai này và giới thứ
tư trong thiên nhiên, tức gia đ́nh nhân loại,
được phối hợp và ḥa lẫn nhau. Bí huyệt
ở đầu có liên quan với Chân thần và phàm ngă. Bí
huyệt ấn đường có liên kết Tam
Thượng Thể Tinh thần (biểu lộ của Chân
Thần trong các thế giới vô sắc tướng)
với phàm ngă. Hăy suy gẫm về phát biểu này, bởi
v́ ở đây – trong biểu tượng kư về bí
huyệt ở đầu, xét về mặt vật chất
– bạn có h́nh ảnh của ư chí tinh thần, tức Atma,
và bác ái-tinh thần, tức buddhi. Việc giảng dạy
về vị trí của hai mắt trong phát triển của
biểu hiện hữu thức, tiến tới Thiên ư
một cách sáng tạo, cũng xảy ra ở đây.
Mắt thứ ba……….. bí huyệt ở đầu……….. Ư chí. Atma
Mắt của Từ Phụ. Chân Thần. SHAMBALLA
Trạng thái thứ nhứt của ư chí hay quyền năng và mục tiêu.
Liên quan tới tùng quả tuyến.
Mắt phải…….. bí huyệt ấn đường........ Bác ái.Bồ Đề (Buddhi)
Mắt của Ngôi Con, Linh hồn. Thánh Đoàn.
Trạng thái hai của bác ái minh triết.
Liên quan tới tuyến yên.
Mắt trái……… bí huyệt cổ họng.. ….. Hoạt động thông tuệ.
Mắt của Mẹ, phàm ngă. Nhân loại
Trạng thái thông tuệ thứ ba.
Liên quan tới tuyến thuộc động mạch cổ.
Khi cả ba mắt này đều tác động, và tất cả ba đều "thấy" cùng một lúc, bấy giờ, bạn sẽ nh́n thấu suốt vào Thiên ư (điểm đạo đồ), hoặc có linh thị trực giác của cơi (đệ tử), và có chiều hướng tâm linh của hoạt động sáng tạo (Thánh sư).
149
e. Bí
huyệt ấn đường ghi nhận hay tập trung ư
định để sáng tạo. Đó không phải là
cơ quan sáng tạo theo cùng ư nghĩa giống như bí
huyệt cổ họng, mà nó thể hiện ư tưởng
nằm sau tính sáng tạo linh hoạt, tác động theo sau
của sự sáng tạo, sau rốt tạo ra h́nh thức
lư tưởng đối với ư tưởng.
f. Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của nó là tuyến yên; hai thùy của tuyến này tương ứng với hai cánh hoa đa dạng của bí huyệt ấn đường. Nó biểu lộ sự tưởng tượng và ước muốn dưới hai dạng cao nhất và đây là các yếu tố năng động nằm sau mọi sáng tạo.
g. Do đó, nó là cơ quan hướng về lư tưởng và – thật là kỳ lạ – nó có liên hệ chặt chẽ với cung 6, cũng như bí huyệt đầu về thực chất liên quan với cung 1. Cung 6 có liên quan đặc biệt với cung 3 và ngôi ba của thiên tính, cũng như đối với cung hai và ngôi hai. Nó phối hợp, bám chặt và biểu lộ. Đây là một sự kiện mà từ trước đến giờ tôi không nhấn mạnh trong các tác phẩm khác của tôi. Bí huyệt ấn đường là điểm ở trong đầu, nơi mà bản chất song đôi của biểu lộ trong ba cơi thấp được tượng trưng. Nó ḥa lẫn các năng lượng sáng tạo của cổ họng và các năng lượng được siêu hóa của dục vọng hay là bác ái chân chính của tâm.
150
h. Bí
huyệt này chỉ có hai cánh hoa thực sự, không phải
là hoa sen đích thực theo cùng ư nghĩa như các bí
huyệt khác. Các cánh của nó gồm có 96 cánh nhỏ hơn
hay các đơn vị của lực (48 + 48 = 96) nhưng
các cánh này không khoác lấy h́nh đóa hoa của các hoa sen
khác. Chúng trải ra giống như các cánh của một phi
cơ đối với bên phải và bên trái của
đầu, và được tượng trưng bằng
đường bên phải và đường bên trái
của con đường vật chất và con
đường tinh thần. Do đó, về mặt
biểu tượng, chúng tạo thành hai cánh của
Thập giá mà con người bị đóng đinh trên
đó – hai ḍng năng lượng hay ánh sáng được
đặt ngang qua ḍng sự sống tuôn xuống từ
Chân Thần đến chót xương sống và đi qua
đầu.
Ư tưởng về sự tương đối là ư tưởng luôn luôn phải được ghi nhớ khi đạo sinh t́m hiểu về các bí huyệt, về mặt trong có liên quan tới dĩ thái thể, đồng thời lại liên kết các thể tinh anh với các trạng thái ư thức vốn đồng nghĩa với trạng thái hiện tồn và biểu lộ, với các năng lượng của cung, với các t́nh huống chung quanh, với ba hiện thể theo chu kỳ (như H.P.B. gọi phàm ngă, linh hồn tam phân và Tam Thượng Thể Tinh Thần), với Shamballa và với toàn thể các Sự Sống biểu lộ. Đề tài rất là phức tạp, nhưng, khi đệ tử hoặc điểm đạo đồ đang sinh hoạt trong ba cơi thấp và các năng lượng khác nhau của toàn bộ con người bị "mắc cạn" trong con người ràng buộc cơi trần, lúc bấy giờ, t́nh trạng sẽ trở nên sáng tỏ hơn. Tôi dùng thành ngữ "mắc cạn" ("grounded") theo ư nghĩa đích thực và chính xác của nó, chứ không phải như là cách mô tả một người đă loại bỏ thể xác của ḿnh như nhà giáng ma học dùng thuật ngữ đó. Một số nhận thức trong thời gian và không gian có thể xảy ra; một số hiệu quả có thể được ghi nhận, một số ảnh hưởng của cung có vẻ trội hơn các ảnh hưởng khác; một vài "kiểu mẫu thực thể" xuất hiện; một biểu lộ của một Đấng tinh thần ở một mức độ kinh nghiệm hữu thức nào đó hiện ra một cách rơ rệt và bấy giờ có thể được chẩn đoán về mặt tinh thần. Các trạng thái và các thuộc tính của nó, các lực và năng lượng của nó, có thể được xác định vào thời điểm đó và cho một biểu lộ đặc thù được tạo ra của đời sống. Điều này cần được ghi nhớ và các tư tưởng của đạo sinh đừng nên lang thang quá xa, mà phải được tập trung vào dáng vẻ bề ngoài của con người (chính y hay là ai khác) và vào tính chất đang lộ ra. Khi kẻ nghiên cứu là một đệ tử hay là một điểm đạo đồ, y sẽ cũng có thể nghiên cứu khía cạnh của sự sống.
151
Tuy
nhiên, khảo cứu của chúng ta hơi khác, v́ chúng ta
sẽ cố gắng khám phá các bệnh tật và các khó
khăn gắn liền với việc kích thích năng
lượng hoặc thiếu sự kích thích của các bí
huyệt, và nhờ thế đi đến một số
hiệu quả mà năng lượng này tuôn vào và xung
khắc với các sức mạnh sẽ tạo ra.
3. Bí huyệt cổ họng. Bí huyệt này nằm ở phía sau cổ, đến chỗ kéo dài của hành tủy, như vậy liên can tới tuyến động mạch cổ và hướng xuống xương bả vai. Đó là một bí huyệt đă phát triển đầy đủ và rất mạnh mẽ ở nơi con người b́nh thường. Điều lư thú cần ghi nhận trong mối liên hệ này là:
a. Bí huyệt cổ họng do hành tinh Saturn chi phối, cũng như hai bí huyệt đầu lần lượt được chi phối bởi hành tinh Uranus (chi phối bí huyệt đầu) và Mercury (chi phối bí huyệt ấn đường). Đây là chỉ xét về đệ tử; t́nh trạng chi phối này thay đổi sau kỳ điểm đạo thứ ba hay là trước kỳ điểm đạo thứ nhất. Cả ba hành tinh này tạo thành một tam giác thần lực lư thú nhất và trong bộ ba theo sau và mối liên quan hỗ tương tất yếu của chúng, các bạn có – lại chỉ trong trường hợp các đệ tử – một câu chuyện hoặc biểu tượng vẽ vời gây kinh ngạc nhất của sự khai mở cửu phân:
1. Bí huyệt đầu
Bí huyệt ấn đường.
Bí huyệt cổ họng.
2. Mắt thứ ba.
Mắt phải.
Mắt trái.
3. Tuyến tùng quả
Tuyến yên
Tuyến động mạch cổ
152
Như
vậy tŕnh bày cơ nguyên mà qua đó Tam Thượng
Thể Tinh thần, linh hồn và phàm ngă tác động. Bí
quyết để hiểu đúng tiến tŕnh "nằm
trong liên quan của ba hành tinh Uranus, Mercury và Saturn, khi chúng
tuôn đổ năng lượng của chúng qua chín
"điểm tiếp xúc tinh thần" trên cơi trần
vào trong "phạm vi nền tảng của ánh sáng và
quyền năng vốn là con người trong thời gian
và không gian".
b. Bí huyệt này có liên quan đến cuộc điểm đạo thứ nhất và phát triển hoạt động vĩ đại, khi mức kinh nghiệm đó được đạt đến như nó đă được đạt đến bởi đa số nhân loại, vào lúc này, họ là người t́m đạo và các đệ tử dự bị của thế gian. (Đừng quên rằng nói về mặt chuyên môn, cuộc điểm đạo chủ yếu đầu tiên theo quan điểm Thánh Đoàn là cuộc điểm đạo thứ ba. Cuộc điểm đạo thứ nhất được các Chân Sư xem như là sự kết nạp tượng trưng vào Thánh đạo. Nó được nhân loại gọi là cuộc điểm đạo, bởi v́ vào thời Lemuria, đó là cuộc điểm đạo 1, hàm ư là bước vào việc kiềm chế thể xác hoàn toàn). Đó là cơ quan để phân phối năng lượng sáng tạo, năng lượng của ngôi ba bởi các linh hồn ở trên tŕnh độ tiến hóa. Có ba bí huyệt trong con người có liên quan tới và sự biểu lộ chính yếu của cung ba hay Ngôi Ba ở một số tŕnh độ phát triển khác nhau trên Thánh đạo:
1. Bí huyệt xương cùng đối với người chưa tiến hóa và người b́nh thường.
2. Bí huyệt cổ họng đối với người t́m đạo và đệ tử dự bị.
3. Bí huyệt ấn đường đối với các đệ tử và các điểm đạo đồ.
153
Ở
đây, bạn lại có một bộ ba năng
lượng vĩ đại chứa các tiềm lực
vĩ đại ngày nay, do sự việc biểu lộ
của trạng thái thông tuệ linh hoạt thứ ba đă
đạt đến các đỉnh cao như thế
nhờ sự phát triển và tâm thức nhân loại.
c. Nó được liên kết với phàm ngă bằng tuyến sáng tạo, với linh hồn bằng giác tuyến và với Chân Thần bằng stutratma hay sinh mệnh tuyến (life thread). Nó không liên quan tới bất cứ trạng thái nào trong số các trạng thái thiêng liêng bởi antakarana, bởi v́ tuyến đó vốn nối liền Chân Thần với phàm ngă một cách trực tiếp (và sau rốt không tùy thuộc vào linh hồn), chỉ bám chặt vào biểu lộ của sự sống Chân Thần trong đầu, nơi bí huyệt đầu. Bấy giờ tâm thức trực tiếp được thiết lập giữa Chân Thần với phàm ngă và một bộ hai vĩ đại xuất hiện. Sự sống, tâm thức và h́nh hài lúc bấy giờ đều được tập trung một cách sáng tạo và một cách linh hoạt trong đầu và hoạt động của chúng được điều khiển từ đầu, xuyên qua hai bí huyệt đầu. Bí huyệt ấn đường chỉ đi vào hoạt động sáng tạo khi antakarana được kiến tạo. Trong các giai đoạn ban sơ, chính bí huyệt cổ họng, vốn là tác nhân sáng tạo, và trong thời kỳ sơ khai nhất, bí huyệt xương mông được linh hoạt. Tuy nhiên, bạn có một điều lư thú cần ghi nhớ. Việc kiến tạo antakarana chỉ có thể xảy ra thực sự khi nào cuộc sống sáng tạo của người t́m đạo chuyển từ bí huyệt xương cùng vào bí huyệt cổ họng và trở nên có thực và tiêu biểu. Về cái "cầu" liên lạc này, chính cái mũi là biểu tượng, v́ nó nối liền với đầu – chỉ một ḿnh và cô lập – với thân ḿnh, có hai phần, gồm những ǵ nằm trên cách mô và những ǵ nằm dưới cách mô – biểu tượng của linh hồn và phàm ngă hợp nhất, phối hợp và ḥa lẫn làm một. Đầu là biểu tượng của cái mà Patanjali mô tả như là trạng thái "hợp nhất cô lập" ("isolated unity").
d. Đó là bí huyệt mà qua đó trạng thái thông tuệ của nhân loại tập trung một cách sáng tạo. Do đó, nhờ bí huyệt này mà năng lượng sáng tạo của trung tâm lớn của hành tinh được gọi là Nhân Loại tuôn tràn qua. Ba trung tâm hành tinh chính là Shamballa, Thánh Đoàn và Nhân Loại. Khi đạt tới sự hoàn hảo, năng lượng Shamballa gồm ư chí, quyền năng và Thiên ư sẽ tuôn đổ một cách thông suốt qua bí huyệt đầu, các năng lượng bác ái-minh triết của Thánh Đoàn sẽ tuôn đổ qua bí huyệt tim, c̣n năng lượng của nhân loại sẽ tập trung qua bí huyệt cổ họng, với bí huyệt ấn đường, tác động như là phương tiện của cả ba cái kia. Lúc bấy giờ sẽ xảy ra một hoạt động mới mẻ về phần nhân loại. Đó là nhiệm vụ nối liền ba giới trên nhân loại với ba giới dưới nhân loại, và như thế, lập nên các cơi trời mới và cơi trần mới. Lúc bấy giờ nhân loại sẽ đạt đến đỉnh của mục tiêu tiến hóa của ḿnh trên địa cầu này.
154
e.
Bí huyệt cổ họng, một cách đặc biệt,
là cơ quan của Linh Từ sáng tạo. Nó ghi nhận ư
định hay mục tiêu sáng tạo của linh hồn,
được truyền đạt cho nó bằng ḍng
năng lượng đi vào từ bí huyệt ấn
đường. Sự phối hợp của hai năng
lượng xảy ra như thế sẽ đưa
tới một số kiểu mẫu hoạt động
sáng tạo. Đây là sự tương ứng cao hơn
đối với tính sáng tạo của bí huyệt
xương cùng. Trong bí huyệt đó, các năng
lượng sáng tạo âm và dương được
biểu hiện trong các cơ thể nam và nữ riêng
biệt và đưa tới mối liên hệ trong tác động
sáng tạo, được đảm nhận một cách
hữu thức, dù rằng cho đến nay không có nhiều
mục tiêu rơ rệt.
f. Thể hiện ra ngoài bằng vật chất trọng trược của bí huyệt này là tuyến giáp trạng. Tuyến này được xem như có tầm quan trọng tối thượng cho t́nh trạng khỏe mạnh của kẻ thường nhân ngày nay. Mục đích của nó là bảo vệ sức khỏe, quân b́nh hóa sự thăng bằng của cơ thể trong một số khía cạnh quan trọng của bản chất hồng trần, và nó tượng trưng cho Ngôi Ba, Ngôi Thông Tuệ, và có chất liệu thấm nhuần bằng trí tuệ. Trong thực tế, nó có liên hệ với Ngôi Thánh Thần hay là trạng thái thiêng liêng thứ ba khi biểu lộ, "phù tŕ" (như Thánh Kinh diễn tả), Đức Mẹ Mary Đồng Trinh. Các tuyến phó giáp trạng (parathyroids) là biểu tượng của Mary và Joseph và sự liên giao mà chúng nắm giữ đối với Ngôi Thánh Thần đang phù tŕ (overshadowing). Cuối cùng, nó sẽ được xác định rằng có một liên hệ sinh lư chặt chẽ xảy ra giữa tuyến giáp trạng với tuyến tùng quả, giữa các tuyến phó giáp trạng với hai thùy của tuyến yên, như vậy, đem lại một hệ thống liên kết duy nhất cho toàn thể vùng cổ họng và đầu.
155
g.
Giống như đầu tượng trưng cho bản
chất lưỡng nguyên chủ yếu của
Thượng Đế biểu lộ, cũng thế bí
huyệt cổ họng tượng trưng cho bản
chất tam phân của biểu lộ thiêng liêng. Bản
chất lưỡng phân xuất hiện, phối hợp và
trộn lẫn trong đầu trong mối tương quan
giữa hai bí huyệt và hai phản ảnh hồng trần
trọng trược của chúng. Ba năng lượng
vĩ đại vốn tác động trong hoạt
động sáng tạo thiêng liêng được hợp
nhất trong hoạt động bằng sự biểu lộ
đầy đủ của năng lượng đang
tuôn đổ qua bí huyệt cổ họng, qua bộ máy
phát âm và hai lá phổi. Trong mối liên hệ này bạn có:
Sự Sống hay Linh Khí (Breath), Thánh Ngữ hay Linh hồn,
và bí huyệt cổ họng của Chất Liệu Nguyên
Thủy đang hoạt động.
h. Hoa sen này của cổ họng, trong các giai đoạn đầu của cuộc tiến hóa, bị đảo ngược xuống, và các cánh của nó đạt đến hai vai và bao hàm hai lá phổi hay là các phần của chúng. Trong chu kỳ sống của linh hồn, nó tự đảo ngược một cách chậm chạp và các cánh của nó bấy giờ hướng về hai tai và gồm tủy sống kéo dài và tuyến động mạch cổ. Tuyến này có liên hệ chặt chẽ với tuyến giáp trạng hơn là hai tuyến khác trong đầu.
156
Như
thế, điều hiển nhiên đối với bạn
là làm thế nào toàn thể các vùng của cơ thể
vật chất có thể đi vào vận hành linh hoạt và
chính xác, có thể được bồi bổ sinh khí và
được giữ ở t́nh trạng tốt và chính xác
bằng hoạt động dưới h́nh thức này hay
h́nh thức khác của bí huyệt gần nhất với
vùng của cơ thể đang được xem xét.
Điều cũng hiển nhiên đối với bạn
là sự khiếm khuyết và bệnh tật có thể là do
sự không hoạt động của một bí huyệt.
4. Bí huyệt tim. Bí huyệt này nằm ở giữa hai bả vai và – trong thời đại này – là bí huyệt đang nhận được sự chú tâm nhiều nhất từ những Đấng có trách nhiệm về việc khai mở tâm thức nhân loại. Hỡi huynh đệ, có thể nói thật rằng sự khai mở nhanh chóng của hoa sen này là một trong các lư do giải thích tại sao chiến tranh thế giới không thể tránh khỏi. Theo một ư nghĩa khác, đó là một biến cố cần thiết (căn cứ vào tính ích kỷ mù quáng của đa số nhân loại) bởi v́ cần phế bỏ đi mọi h́nh thức cũ kỹ của cách cai trị, của tôn giáo và của đẳng cấp xă hội đă được cô đọng. Nhân loại ngày nay đă đạt đến một tŕnh độ hiểu biết tập thể và tương tác tập thể bằng một loại tâm linh sâu sắc, và các h́nh thức mới được đ̣i hỏi mà qua đó tinh thần mới mẻ này có thể tác động một cách thích hợp hơn.
a. Bí huyệt tim tương ứng với "tâm của mặt trời" và do đó với cội nguồn tâm linh của ánh sáng và t́nh thương.
157
b. Nó
được khơi hoạt sau kỳ điểm
đạo thứ hai. Lần điểm đạo đó
đánh dấu sự hoàn thành tiến tŕnh mà nhờ đó
bản chất xúc cảm (với tính chất dục
vọng nổi bật của nó) được
đặt dưới sự kiềm chế của linh
hồn, và dục vọng của phàm ngă được
chuyển hóa thành t́nh thương. Đó là cơ quan
để phân phối năng lượng của Thánh
Đoàn, tuôn đổ qua linh hồn vào bí huyệt tim
của mọi kẻ t́m đạo, đệ tử và
điểm đạo đồ; bằng cách này, năng
lượng đó được làm cho khả dụng và
đem lại hai kết quả:
1. Hoán cải nhân loại qua t́nh thương
2. Liên hệ được thiết lập một cách vững chăi giữa một nhân loại đang phát triển nhanh chóng với Thánh Đoàn. Bằng cách này, hai trung tâm vĩ đại của hành tinh – Thánh Đoàn và Nhân Loại – được đưa vào tiếp xúc và liên giao chặt chẽ.
Theo lời Thánh Kinh: "T́nh thương của Thượng Đế được rải khắp nơi" trong tâm nhân loại, c̣n năng lực bức xạ, có sức thu hút và đang biến đổi của nó th́ rất thiết yếu cho việc xây dựng lại thế gian và cho sự thiết lập trật tự mới trên thế giới. Về sự khai mở bí huyệt tim, và về mối liên giao sáng suốt của nhân loại với Thánh Đoàn, với sự đáp ứng tất nhiên của con người đối với năng lượng t́nh thương vào lúc này, mọi đệ tử được đ̣i hỏi phải suy tư và nghiền ngẫm, v́ "con người nghĩ trong ḷng như thế nào, th́ y trở nên như thế ấy". Việc suy tưởng trong ḷng chỉ có thể xảy ra đích thực khi năng lực trí tuệ được phát triển thích hợp và đă đạt đến một tŕnh độ khai mở khá cao. Cảm nghĩ (feeling) trong tâm thường bị lầm lộn với suy tư (thinking). Khả năng suy tư trong tâm là kết quả của tiến tŕnh chuyển hóa dục vọng thành t́nh thương trong nhiệm vụ nâng cao sức mạnh của huyệt đan điền vào bí huyệt tim. Việc suy tưởng trong tâm cũng là một trong các chỉ dẫn rằng trạng thái cao của bí huyệt tim, hoa sen 12 cánh được t́m thấy ở chính trung tâm của hoa sen ngàn cánh, đă đạt đến một mức độ hoạt động thực sự. Việc suy tư, với tư cách là kết quả của cảm nghĩ đúng đắn, lúc bây giờ được thay thế bằng sự nhạy cảm cá nhân. Nó cũng mang lại cho chúng ta các chỉ dẫn yếu ớt đầu tiên, của trạng thái hiện tồn vốn là đặc trưng của Chân Thần và vốn không thể được gọi là tâm thức – theo như chúng ta hiểu về thuật ngữ này.
158
c. Bí huyệt tim trở nên có liên quan thiết yếu
với phàm ngă khi tiến tŕnh chỉnh hợp với linh
hồn được am hiểu. Tiến tŕnh này ngày nay
được giảng dạy trong mọi trường
phái huyền bí mới mẻ hơn và có uy tín hơn, và
đă được nhấn mạnh trong Trường
Arcane từ thuở ban đầu; chính cách đó (phân
biệt bằng định hướng, định trí và
tham thiền đúng) nó nối liền phàm ngă với linh
hồn và như thế với Thánh Đoàn. Mối giao
tiếp với Thánh Đoàn tự động xảy ra khi
sự chỉnh hợp này tiếp diễn và sự tiếp
xúc trực tiếp của linh hồn nhờ đó
được thiết lập. Phàm ngă thức
được thay thế bằng tập thể thức,
và ḍng năng lượng đi vào của Thánh Đoàn noi
theo như một hậu quả tự nhiên, v́ mọi linh
hồn chỉ là các trạng thái của Thánh Đoàn. Chính
mối liên giao được thiết lập này, với
sự tương tác tiếp theo sau của nó (về
từ điện và về bức xạ, đưa
tới sự hủy diệt sau cùng của linh hồn
thể khi mối liên lạc đạt tới tŕnh
độ cao nhứt của sự nhận thức
mạnh hơn.
d. Do đó, trong thể xác, Thánh Đoàn tác động qua bí huyệt đó; nó cũng là tác nhân hoạt động của linh hồn. Ở đây, khi dùng từ ngữ "linh hồn", không những tôi đề cập đến linh hồn cá biệt của con người mà cũng nói đến linh hồn của Hành Tinh Thượng Đế nữa, cả hai là kết quả của sự phối hợp của tinh thần và vật chất của trạng thái Cha và trạng thái Mẹ. Đây là một bí nhiệm lớn mà chỉ có cuộc điểm đạo mới có thể tiết lộ được.
e. Bí huyệt tim biểu lộ năng lượng bác ái. Ở đây; có thể nói rằng, sau cùng, khi antakarana đă được kiến tạo, ba trạng thể của Tam Thượng Thể Tinh thần, mỗi trạng thể sẽ t́m thấy một điểm tiếp xúc bên trong cơ cấu dĩ thái của điểm đạo đồ đang hoạt động trên cơi trần. Vị điểm đạo đồ giờ đây là một dung hợp của linh hồn và phàm ngă mà qua đó, sự sống tràn đầy của Chân Thần có thể tuôn đổ xuống.
159
1.
Bí huyệt đầu trở nên điểm tiếp xúc cho
ư chí tinh thần tức Atma.
2. Bí huyệt tim trở nên tác nhân cho ḷng bác ái tinh thần, tức Buddhi.
3. Bí huyệt cổ họng trở thành biểu hiện của Toàn Linh Trí, tức Manas.
Trong công tác của điểm đạo đồ, khi y thể hiện Thiên ư theo Thiên Cơ, bí huyệt ấn đường trở thành tác nhân hướng dẫn hay là nơi phân phối các năng lượng được phối hợp của Chân Ngă. Bí huyệt tim tương ứng với "lửa thái dương" bên trong thái dương hệ và có tính chất từ điện và tính chất phát xạ trong hoạt động. Đó là cơ quan của năng lượng vốn đem lại tính chất bao quát.
160
f.
Ngoại hiện bằng vật chất trọng
trược của nó là tuyến ức. Hiện nay,
tuyến này chưa được biết đến
nhiều, dù là nhiều điều cần được
học hỏi khi kẻ nghiên cứu chấp nhận và
thử nghiệm với các giả thuyết mà khoa huyền
linh học đưa ra, và khi bí huyệt tim phát triển và
tuyến ức được trở lại với
hoạt động của người trưởng thành. Đến
nay, trường hợp này chưa xảy ra. Bản
chất của chất tiết ra của tuyến đó
vẫn chưa được xác minh, c̣n các hiệu ứng
của tuyến này đă được biết rơ theo khía
cạnh tâm lư hơn là theo khía cạnh vật chất. Tâm lư
học hiện đại, khi được kết
hợp với y học, sẽ nhận thức ra rằng
tuyến này khi quá năng động, sẽ tạo ra
người tắc trách và phi luân lư. Khi nhân loại biết
rơ bản chất của trách nhiệm, chúng ta sẽ có các
dấu hiệu đầu tiên về sự chỉnh
hợp của linh hồn, về phá ngă chấp (personality
decentralisation) và về tập thể thức, và kế
đó – song song với sự phát triển này – chúng ta sẽ
thấy tuyến ức trở nên hoạt động chính
xác. Hiện nay, sự mất quân b́nh chung của hệ
thống nội tiết làm cản trở sự an toàn và
sự vận hành đầy đủ của tuyến
ức trong người trưởng thành. Cho đến
nay, có một liên hệ chưa được hiểu rơ
hiện hữu giữa tuyến tùng quả và tuyến ức,
cũng như giữa cả hai tuyến này với bí
huyệt ở chót xương sống. Khi Tam Thượng
Thể Tinh Thần trở nên hoạt động qua trung
gian phàm ngă, cả ba bí huyệt này và ba ngoại hiện
của chúng sẽ tác động trong sự tổng
hợp, chi phối và điều khiển toàn thể con
người. Khi tuyến tùng quả quay trở lại
với sự vận hành đầy đủ ở
người trưởng thành (v́ đây không phải là
trường hợp của người trưởng thành)
ư-chí-hành-thiện thiêng liêng sẽ tự biểu lộ và
thiên ư được đạt thành; tương tự
như thế, khi tuyến ức trở nên linh hoạt ở
người trưởng thành, thiện chí sẽ trở
nên rơ ràng và thiên cơ sẽ bắt đầu
được thể hiện. Đây là giai đoạn
đầu tiên hướng về t́nh thương, các
tương quan đúng của con người và sự yên
b́nh. Thiện chí này đă xuất hiện trong thế
giới ngày nay, cho thấy bí huyệt tim đang đi vào
hoạt động, và chứng tỏ rằng bí huyệt
tim ở trong đầu đang bắt đầu khai
mở như là kết quả của hoạt động đang
tăng trưởng của bí huyệt tim trên xương
sống.
161
g.
Đó là cơ quan phối hợp, cũng như bí huyệt
đầu là cơ quan tổng hợp. Khi bí huyệt tim
trở nên hoạt động, người t́m đạo
cá biệt từ từ bị lôi cuốn vào một liên
hệ ngày càng chặt chẽ hơn với linh hồn
của y, và lúc bấy giờ, hai sự mở rộng tâm
thức xảy ra và được y diễn dịch
như là các biến cố:
1. Y được lôi cuốn đến Đạo Viện của một trong các Chân Sư, tùy theo cung linh hồn của y, và trở nên một đệ tử nhập môn theo ư nghĩa chuyên môn. Chính Chân Sư là bí huyệt tim của Đạo Viện và bây giờ, Ngài có thể vươn đến đệ tử của Ngài xuyên qua linh hồn, bởi v́ đệ tử đó, nhờ chỉnh hợp và tiếp xúc, đă để cho tâm của ḿnh giao tiếp chặt chẽ với linh hồn. Bấy giờ, y trở nên đáp ứng với tâm của mọi vật, mà đối với nhân loại hiện tại là Thánh Đoàn.
2. Y được lôi cuốn vào quan hệ phụng sự chặt chẽ với nhân loại. Ư thức trách nhiệm tăng thêm của y do bởi hoạt động của bí huyệt tim, đưa y đến phụng sự và hành động. Sau rốt, y cũng trở nên trung tâm của một nhóm hoặc của một tổ chức – lúc đầu nhỏ, nhưng trở nên rộng khắp khi năng lực tinh thần của y phát triển và y cảm nghĩ bằng các thuật ngữ của nhóm và của nhân loại. Về phía y, hai liên hệ này có tính hỗ tương. Như thế, trạng thái bác ái của Thượng Đế trở nên linh hoạt trong ba cơi thấp, và t́nh thương được giữ chặt trên địa cầu và thay thế cho cảm xúc, cho dục vọng và khía cạnh vật chất của cảm giác. Hăy nhớ câu này.
h. Trong các giai đoạn khai mở ban đầu của cả cá nhân lẫn nhân loại, hoa sen có tâm đảo ngược với 12 cánh hướng về phía huyệt đan điền. Vào thời Atlantis, bí huyệt cuối cùng này đă đảo ngược và các cánh của nó bây giờ hướng lên bí huyệt kế tiếp trên xương sống, bí huyệt tim, nhờ bởi các năng lượng tăng lên dần dần từ huyệt đan điền, bí huyệt này đang t́m cách để thoát khỏi "sự giam cầm của các vùng thấp" nhờ một tiến tŕnh chuyển hóa.
162
Kết
quả là bí huyệt tim đang bắt đầu từ
từ khai mở và cũng tự đảo ngược.
Sự đảo ngược của các "trung tâm hoa
sen" luôn luôn xảy ra như là kết quả của tác
động kép – đẩy từ phía dưới và kéo
từ phía trên.
Sự đảo ngược của hoa sen ở tim và sự khai mở hướng lên trên của nó là do các yếu tố sau:
1. Sức mạnh ngày càng tăng với sự tiến gần của Thánh Đoàn.
2. Tiếp xúc với linh hồn đang được thiết lập một cách nhanh chóng.
3. Sự đáp ứng của hoa sen ở tim đang khai mở đối với sức lôi cuốn của Đạo Viện Thánh Sư.
4. Các năng lượng được chuyển hóa từ dưới cách mô dâng lên, xuyên qua huyệt đan điền, để đáp ứng với "sức lôi cuốn" tinh thần.
5. Hiểu biết ngày càng tăng của con người về bản chất của t́nh thương.
C̣n có các yếu tố khác nữa, nhưng đây là các yếu tố mà bạn sẽ dễ hiểu nhất nếu bạn xem chúng như là biểu tượng chứ không theo nghĩa đen. Cho đến năm 1400 của Công Nguyên, liên hệ giữa huyệt đan điền với bí huyệt tim có thể được diễn tả bằng h́nh ảnh sau đây: (trang 184)
Phản ảnh của Tam Thượng Thể Tinh Thần trong phàm ngă được đầy đủ khi bí huyệt ấn đường hoàn toàn ở dưới sự kiềm chế của linh hồn. Trong sơ đồ này không có sự cố gắng minh họa đúng con số các cánh trong mỗi hoa sen (xem h́nh).
Sau rốt, vào lúc kết thúc căn chủng tới, bạn sẽ có sự biểu lộ đầy đủ t́nh thương và các hoa sen trên xương sống sẽ xuất hiện – tất cả là năm cái – chỉ khác ở con số cánh hoa trong mỗi cái.
Cuối cùng, vào lúc kết thúc đại chu kỳ thế giới khi tất cả các hoa sen đều tự đảo ngược, tất cả sẽ được khai mở và tiêu biểu cho các vận hà thông suốt cho việc nhập vào và truyền chuyển của ba năng lượng thiêng liêng chính yếu và bốn thần lực thứ yếu.
Đối với chuyển động thường xuyên này của các bí huyệt và đối với luồng năng lượng đi vào thường xuyên, chúng ta có thể truy nguyên nhiều bất tiện của nhân loại trong các thể khác nhau của nó; đó là việc các bí huyệt không có khả năng đáp ứng hay khai mở, mà trong nhiều trường hợp, tạo ra bệnh hoạn và khó khăn; đó là sự khai mở thiếu thăng bằng của các bí huyệt, sự phát triển của chúng bị ngăn chận và sự thiếu ứng đáp của chúng sẽ tạo ra nhiều vấn đề trong các trường hợp khác; chính sự khai mở sớm của chúng và việc quá hoạt động của chúng mà trong các trường hợp khác sẽ đem lại nguy cơ; đó là sự không thích hợp của bộ máy vật chất với việc khai mở bên trong, khai mở này gây ra rất nhiều khó khăn. Như thế, bạn lại thấy sự phức tạp của vấn đề. Giai đoạn lư thuyết là giai đoạn đơn giản, trừ phi tới một chừng mức mà nó khơi động các mănh lực mà sau rốt đưa tới khó khăn. Giai đoạn phản ứng để đáp ứng và để hiệu chỉnh với lư thuyết, cũng tạo nên một chu kỳ cực kỳ khó khăn và phức tạp, bởi v́ nó dẫn đến một chu kỳ thực nghiệm và kinh nghiệm, trong đó đệ tử học hỏi nhiều và đau khổ cũng nhiều. Kế đó, với kinh nghiệm thu lượm được, giai đoạn biểu lộ tinh thần xảy đến, việc thoát khỏi nguy hiểm, thoát khỏi khó khăn và thoát khỏi bệnh tật xảy ra. Sự đơn giản được phục hồi.
163
THỂ XÁC, SẮC TƯỚNG
CƠI HIỆN TƯỢNG.
Không cần viết nhiều về điều này ở đây, v́ bản chất của h́nh hài và khía cạnh sắc tướng đă là các đối tượng t́m kiếm và là vấn đề của tư tưởng và bàn căi của người biết suy tư trong nhiều thế kỷ. Nhiều điều mà con người đạt đến, căn bản là đúng. Đôi khi kẻ khảo cứu hiện đại sẽ thừa nhận Định Luật Tương Đồng như là nền tảng của các tiền đề và các nhận thức của y, đó là thuyết của Hermess, "Trên sao dưới vậy", có thể đưa ra nhiều tia sáng vào các vấn đề hiện nay. Các định đề sau đây có thể dùng để làm sáng tỏ:
1. Con người, trong bản chất h́nh hài của nó, là một tổng thể, một sự hợp nhất.
2. Tổng thể được chia thành nhiều phần và nhiều cơ thể.
3. Tuy nhiên, nhiều phần nhỏ này hoạt động theo cách thống nhất, và h́nh hài là một toàn thể có liên hệ với nhau.
4. Mỗi một trong các phần của nó khác nhau về h́nh thức và chức năng, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào nhau.
5. Mỗi phần và mỗi cơ thể, đến phiên nó, lại gồm nhiều phân tử, tế bào và nguyên tử, và các thành phần này được giữ chung với nhau dưới h́nh thức cơ thể bằng sự sống của tổng thể.
6. Tổng thể được gọi là con người, được chia một cách sơ lược thành năm phần, một số phần quan trọng nhiều hơn các phần khác; nhưng tất cả đều bổ túc cho cơ thể sinh động mà chúng ta gọi là con người.
a. Đầu
b. Thân trên, hay phần nằm trên cách mô
c. Thân dưới, hay phần nằm dưới cách mô
d. Tay
e. Chân
164
7. Các
cơ quan này được dùng vào các mục đích khác
nhau, và sự tiện lợi của toàn thể tùy thuộc
vào sự vận hành đúng và hiệu chỉnh thích hợp
của chúng.
8. Mỗi một trong các cơ quan này đều có sự sống riêng của nó, vốn là toàn thể sự sống của cấu trúc nguyên tử và cũng được làm cho linh hoạt bởi sự sống hợp nhất của tổng thể, được điều khiển từ đầu bởi ư chí sáng suốt hay năng lượng của con người tinh thần.
9. Phần quan trọng của cơ thể là ba phần, đầu, thân trên và thân dưới. Con người có thể hoạt động và sống mà không cần tay và chân.
10. Mỗi một trong ba phần này cũng gồm ba phần theo khía cạnh vật chất, tạo ra sự tương đồng của ba phần của bản chất con người và chín phần của sự sống Chân Thần hoàn thiện. Có các cơ quan khác, nhưng các cơ quan này được kể ra là các cơ quan có một ư nghĩa huyền bí có giá trị nhiều hơn các phần khác.
a. Trong đầu là:
1. Năm năo thất hay những ǵ mà chúng ta có thể gọi là bộ óc với vai tṛ là một cơ quan hợp nhất.
2. Ba tuyến là tuyến động mạch cổ, tuyến tùng quả và tuyến yên.
3. Hai mắt.
b. Trong thân trên là:
1. Cổ họng
2. Phổi
3. Tim
c. Trong thân dưới là:
1. Lá lách
2. Bao tử
3. Cơ quan sinh dục.
11. Toàn cơ thể cũng có ba phần:
165
a. Da
và cấu trúc xương.
b. Mạch máu hay hệ tuần hoàn
c. Hệ thần kinh tam phân
12. Mỗi một trong các bộ ba này tương ứng với ba phần của bản chất con người:
a. Bản chất thể xác: da và cấu tạo xương, tương đồng với nhục thân và thể dĩ thái của con người.
b. Bản chất của linh hồn: Các mạch máu và hệ tuần hoàn là sự tương đồng đối với mọi linh hồn đang tỏa ra, đang xâm nhập vào mọi phần của thái dương hệ, v́ máu đi vào mọi phần của cơ thể.
c. Bản chất của Tinh thần: Hệ thần kinh, khi nó truyền năng lượng và tác động khắp con người là sự tương ứng với năng lượng của tinh thần.
13. Trong đầu, chúng ta có sự tương đồng với trạng thái tinh thần, ư chí hướng dẫn, Chân Thần, Đấng Duy Nhất.
a. Bộ óc với năm năo thất của nó là sự tương tự với h́nh hài thể xác, mà tinh thần làm cho linh hoạt khi giao tiếp với con người, toàn thể năm phần vốn là phương tiện mà qua đó tinh thần trên cơi trần phải tự biểu lộ.
b. Ba tuyến trong đầu có liên quan chặt chẽ với linh hồn hay là bản chất thông linh (cao và thấp).
c. Hai mắt là các tương ứng trên cơi trần với Chân Thần, chính là ư chí và bác ái-minh triết, hay là atma-buddhi, theo thuật ngữ huyền học.
14. Trong thân trên, chúng ta có một tương đồng đối với bản chất tam phân của linh hồn.
a. Cổ họng, tương ứng với khía cạnh sáng tạo thứ ba hay là bản chất của cơ thể, sự thông tuệ linh hoạt của linh hồn.
166
b. Tim,
bác ái- minh triết của linh hồn, nguyên khí Bồ
đề hay nguyên khí Christ.
c. Hai phổi là sự tương đồng cho hơi thở của sự sống, là phần tương ứng với tinh thần.
15. Trong thân dưới, chúng ta lại có những hệ thống tam phân này.
a. Các cơ quan sinh dục, khía cạnh sáng tạo, chủ thể nắn tạo cơ thể.
b. Bao tử, với vai tṛ là biểu lộ vật chất của huyệt đan điền, là cái tương đồng với bản chất linh hồn.
c. Lá lách, chỗ đón nhận năng lượng và do đó là biểu lộ ở cơi trần của bí huyệt đang nhận năng lượng này, là sự tương đồng đối với tinh thần đang mang năng lượng.
Tôi hiểu rơ các danh từ chuyên môn mà tôi đă đưa ra ở đây và nỗi khó khăn cùng là sự vô dụng bề ngoài của chúng. Người ta có thể hỏi: tại sao cần phải quá tỉ mỉ trong việc kể ra các chi tiết về thể xác, về tâm lư và về hệ thống của một bản chất thuần túy lư thuyết, khi mà, bằng một tác động của ư chí và của sức mạnh thiêng liêng, và bằng việc dùng một số Quyền Lực Từ, th́ việc chữa trị có thể hoàn tất được? Các ư tưởng này về cơ bản th́ đúng, nhưng lại dựa trên một sự hiểu lầm về thời gian và không gian. Nếu tất cả mọi nhà chữa trị đều là các Thánh Sư Minh Triết, nếu tất cả họ đều có nhăn thông, nếu họ hiểu Luật karma và cách thể hiện của Luật ấy trong cuộc đời của bệnh nhân, nếu họ có sự hợp tác đầy đủ của bệnh nhân và nếu họ có năng lực để bổ túc vào mọi đ̣i hỏi nêu trên, cách dùng một số Linh từ và Mantrams (thần chú), lúc bấy giờ sự hiểu biết có tính cách lư thuyết mới thực sự không cần. Nhưng các đ̣i hỏi này lại không có và không thể được đáp ứng. Theo thông lệ, các nhà chữa trị không có quyền năng nào trong số các quyền năng này. Những ǵ họ thường chữa trị (dù là không thường như họ nghĩ họ làm) là đúng, nhưng khi thành công, họ đă cố làm được một trong các điều sau đây:
167
Chữa
lành bệnh nhân khi số mệnh và định mệnh
của người ấy muốn như vậy, và do
đó, linh hồn y thu hút hiện thể của nó (con
người hồng trần) vào hào quang bức xạ
của nhà chữa trị hoặc nhóm chữa trị. Có
thể xảy ra việc đó là người bệnh
muốn phục hồi trong bất luận trường
hợp nào mà diễn tŕnh được thúc đẩy
bởi sự cố gắng ứng dụng và sự chú tâm
cộng thêm với đức tin.
Xen vào với cách sắp xếp trực tiếp về đời sống bệnh nhân và như thế, hoăn lại một số tiến tŕnh học hỏi tâm linh vốn dĩ cần thiết. Đây chính là năng khiếu đă bị quên lăng. Vấn đề thật là quá phức tạp không thể bàn đến ở đây, nhưng tôi có thể làm cho nó sáng tỏ hơn phần nào khi chúng ta bàn đến tiết cuối cùng.
Do đó, (cho đến khi có được sự hiểu biết đầy đủ) th́ điều cực kỳ tất yếu chính là cấu trúc của quyền năng và sức sống, cùng với mạng lưới năng lượng và thần lực vốn tạo ra cơ thể con người phải được nghiên cứu. Việc hiểu rơ bằng trí tuệ các tiến tŕnh chữa trị là cần thiết; c̣n các lư do làm cho chúng có vẻ khó khăn và phức tạp, không cần thiết và phí th́ giờ, th́ như sau:
168
Sự
bất lực của ngay cả trí óc mở mang nhất
của con người để hiểu các chủ
đề và các vấn đề nói chung. Yếu tố
tổng hợp cho đến nay vẫn c̣n thiếu.
Hiện nay, việc giảng dạy và các tiến tŕnh có
liên quan phải được thấu triệt từng bước,
từng chi tiết, từng giáo huấn, từng áp
dụng. Nhưng tương lai hứa hẹn sáng sủa,
và năng lực của mắt người để
hoạt động tổng hợp, thí dụ để
nắm bắt một phong cảnh ở độ lớn
và những nét nổi bật của nó và để làm
điều này một cách đồng bộ với một
cái nh́n thoáng qua là sự bảo đảm về kỹ thuật
tương lai của nhân loại. Một cái nh́n bằng
trí đă tỏ ngộ, một sự phóng phát t́nh
thương vĩ đại, và người chữa
trị hoặc nhóm chữa trị sẽ biết chữa
trị cách nào, để giúp vào nỗ lực của
bệnh nhân – một tiến tŕnh chậm chạp hơn
nhiều – hay là để cố tránh chữa trị.
Sự thiếu năng động của người nam hoặc nữ bậc trung, họ chống đối lại cố gắng cần có để khắc phục khía cạnh kỹ thuật của việc chữa trị. Thật là dễ dàng hơn nhiều khi nhờ vào sự thiêng liêng (thực ra, sự thiêng liêng này vốn tiềm tàng chứ không lộ ra) và "hăy để cho Thượng Đế làm việc đó". Thật là dễ dàng hơn nhiều khi nhận thức ḷng bác ái và việc tuôn đổ ḷng bác ái, hơn là nắm vững các tiến tŕnh mà bởi đó bác ái có thể được làm cho có hiệu quả – hay là bản chất của những ǵ phải chịu ảnh hưởng.
Đây là các điểm đ̣i hỏi phải có sự chú tâm và xem xét cẩn thận. Chúng đáng được suy gẫm. Sức mạnh tổng hợp của trí tuệ, được ḷng bác ái chân chính trợ giúp, một ngày nào đó sẽ là khí cụ của mọi nhà chữa trị chân chính. Đồng thời, v́ lư do tương lai và để giúp cho việc diễn giải về nghệ thuật chữa trị sắp đến – dựa trên hiểu biết về năng lượng, cách lưu nhập và lưu thông của nó – bộ luận này sẽ bàn sơ lược về khía cạnh lư thuyết. Sau rốt, các sự kiện được đưa ra là các sự kiện có thật và là món quà thực sự, với tư cách là các xúc cảm mà nhà trị liệu bậc trung gọi là t́nh thương.
BẢY BÍ HUYỆT CHÍNH (Tiếp theo)
169
Bây
giờ, chúng ta hăy tiếp tục xem xét về các bí
huyệt. Chúng ta đă bàn đến bốn bí huyệt trên
cách mô – ba bí huyệt mà qua đó Tam Thượng Thể Tinh
thần sau rốt phải tác động, và bí huyệt
tổng hợp, bí huyệt ấn đường, sau cùng
biểu hiện phàm ngă hội nhập và trở nên tác nhân
trực tiếp của linh hồn. Hiện nay, chúng ta có ba
bí huyệt nữa cần phải xem xét, tất cả
đều nằm dưới cách mô – bí huyệt đan
điền, bí huyệt xương cùng và bí huyệt ở
chót xương sống. Quan trọng nhất đối
với tất cả những người t́m đạo
vào lúc này là huyệt đan điền; huyệt linh hoạt
nhất – nói chung – trong con người với tư cách là
một tổng thể, vẫn là huyệt xương cùng;
huyệt im ĺm nhất trong cơ thể (theo khía cạnh con
người tinh thần) là huyệt căn bản.
5. Huyệt đan điền (Solar plexus centre). Huyệt này nằm ngay dưới xương bả vai trong xương sống và đang cực kỳ linh hoạt. Vào thời Atlantis, nó đem lại một tŕnh độ phát triển cao, cũng như vào thời Aryan, bí huyệt cổ họng được khơi hoạt nhanh chóng. Huyệt này đặc biệt liên hệ tới hai huyệt khác: bí huyệt tim và bí huyệt ấn đường, và, vào lúc này, chúng tạo thành một tam giác năng lượng kỳ thú trong cơ thể người và là huyệt đang nhận nhiều chú tâm từ Thánh Đoàn. Có một ḍng năng lượng tuôn xuống từ huyệt ấn đường đến bí huyệt tim từ linh hồn, theo chừng mức mà người t́m đạo tiếp xúc được với linh hồn của ḿnh. Điều này đưa tới ba việc:
– Kích thích của bí huyệt tim.
– Phản ứng đáp lại từ bí huyệt tim vốn gây ra một kích thích của bí huyệt ấn đường và sau rốt tạo ra nhận thức về tập thể thức của phàm ngă.
– Đáp ứng của bí huyệt tim trong đầu.
170
Tuy nhiên, mọi điều
này được làm cho dễ dàng bởi diễn biến
tiến bộ của huyệt đan điền trong
người t́m đạo, vốn có hiệu quả riêng
của nó trên tim và hiệu quả hỗ tương trên bí
huyệt ấn đường. Tất nhiên, có hai tam giác
quan trọng cần xem xét:
Về mặt chiêm tinh, cũng có một khoa học về các Tam giác, thế nên, sau này sẽ phát triển một môn học về các tam giác liên hệ tới hệ thống nhân loại. Nhưng, chưa đến lúc. Đôi lúc, tôi chỉ đưa ra các chỉ dẫn của một khoa học như thế mà trực giác của các đệ tử có thể tham gia được.
a. Huyệt đan điền là một phản ảnh trong phàm ngă của "tâm mặt trời", giống như bí huyệt tim. Đó là yếu tố trung tâm trong sự sống của phàm ngă đối với tất cả nhân loại dưới cấp bậc của đệ tử dự bị. Ở tŕnh độ đó thể trí bắt đầu tác động rơ rệt tuy hăy c̣n yếu ớt. Đó là lối thoát – nếu một từ như thế có thể dùng được – của thể cảm dục vào thế giới bên ngoài, và là dụng cụ mà qua đó năng lượng cảm dục tuôn chảy. Đó là cơ quan của dục vọng. Nó tối quan trọng trong cuộc đời của một người trung b́nh, và việc kiềm chế nó là một mục tiêu thiết yếu đối với người t́m đạo. Y phải chuyển hóa dục vọng thành đạo tâm.
171
b. Vào
thời Atlantis, huyệt đan điền đă hoạt
động đầy đủ, trong thời kỳ mà
giống dân lớn thứ hai đang phát triển. Các
huyệt thấp này không có liên hệ một cách đặc
biệt với các cuộc điểm đạo như là
các huyệt ở trên cách mô, v́ chúng là các huyệt của
phàm ngă và phải ở dưới sự kiểm soát
đầy đủ của linh hồn khi các cuộc
điểm đạo ở một tŕnh độ nào
đó xảy ra.
c. Huyệt đan điền là nơi thanh toán lớn đối với mọi năng lượng dưới cách mô. Điều này liên quan tới ba huyệt chính và các huyệt phụ đă được kể ra trên trang 72 (Anh văn– ND). Liên quan của huyệt này với cơi cảm dục rất nhạy bén (dùng một từ đặc biệt nhưng diễn tả nhiều nhất). Đó là nơi nhận mọi phản ứng t́nh cảm, các xung lực dục vọng và các năng lượng, và, bởi v́ nhân loại ngày nay đang trở nên linh hoạt theo ư nghĩa tập thể và bao quát nhiều hơn từ trước đến giờ trong lịch sử nhân loại, t́nh trạng trở nên nghiêm trọng và cực kỳ khó khăn. Con người, qua cá nhân và cũng qua huyệt đan điền tập thể, bị lệ thuộc vào một sức ép hầu như không thể chịu đựng được. Các cuộc thử thách điểm đạo là như thế đó ! Ở đây, tôi không định bàn đến các tiến tŕnh thu hút năng lượng thấp, cách tập trung chúng vào đan điền và nơi đó chuyển hóa chúng, thanh luyện chúng, đến mức độ có thể chuyển vào bí huyệt tim. Nhiều điều trong số đó có liên quan đến việc luyện tập được đưa ra cho các đệ tử nhập môn, trước cuộc điểm đạo thứ hai. Đó là một vấn đề quá phức tạp không thể bàn đến, cũng như mang theo với nó một số nguy hiểm đặc biệt đối với những kẻ chưa sẵn sàng cho tiến tŕnh; tuy nhiên, đó là một điểm mà – dưới sự cố gắng linh động – hầu như tiến tới một cách tự động. Như thế, đan điền là huyệt phân cách nhất trong số tất cả các huyệt (ngoại trừ huyệt ấn đường trong trường hợp của người thuộc tả đạo) bởi v́ nó đứng ở trung điểm, giữa huyệt cổ họng và bí huyệt tim – trên cách mô – và bí huyệt xương cùng và các bí huyệt căn bản, dưới cách mô. Đây là một cân nhắc rất quan trọng.
172
d.
Đan điền là huyệt ở trong thể dĩ thái,
nhờ đó nhân loại (người thường,
người chưa được khai ngộ) sống,
hoạt động và hiện tồn. Nhân loại bị
chi phối bởi ước muốn – ước muốn
tốt lành, ước muốn ích kỷ, ước
muốn sai lầm và ước muốn tinh thần. Đó
là bí huyệt mà qua đó hầu hết các năng lượng
lưu chuyển làm cho con người tiến bộ v́ y có
tham vọng, ích kỷ v́ các ước muốn cá nhân
của con người đều quan trọng, và hay thay
đổi v́ lẽ được an trụ về mặt
cảm dục. Nhờ nó mà "ánh sáng rực rỡ phát
sinh trong thời Atlantis" được tuôn vào, và ánh sáng
cảm dục được tiếp xúc. Đó là bí
huyệt mà hầu hết các phương tiện tác
động qua đó và những kẻ có nhăn thông hoạt
động nhờ đó. Về sau, những kẻ này
sẽ học cách tác động như là những kẻ
trung gian, một cách hữu thức và một cách sáng
suốt, bằng cách dùng các năng lực của họ;
họ sẽ có được tri giác rơ rệt và tri giác này
sẽ thay thế cho nhăn thông. Lúc bấy giờ, họ
sẽ an trụ vào huyệt ấn đường. V́
vậy cho nên đó là một bí huyệt xáo trộn nhất
trong cơ thể và là một nguyên nhân cơ bản của
đa số các bệnh bao tử và các rối loạn liên
hệ tới gan. Toàn thể vùng nằm ngay dưới cách
mô thường xuyên ở trạng thái xáo trộn, nơi mà
kẻ thường nhân có liên quan đến; điều
này do bởi các nguyên nhân riêng và nguyên nhân chung.
Ở đây, thật là lư thú mà ghi nhớ rằng cũng như huyệt ấn đường (tổng hợp các sức mạnh phàm ngă, khi được phát triển cao độ) là một tác nhân hướng dẫn và phân phối lớn, cũng thế, huyệt đan điền (tổng hợp của các năng lượng phàm ngă đă phát triển của thường nhân, có trước tiến tŕnh hợp nhất), là một trung tâm gom góp, qui tụ tất cả các năng lượng thấp và sau rốt là một tụ điểm cho phương hướng và sự phân phối các năng lượng tổng hợp này – trao lại cho chúng các bí huyệt có khả năng tiếp nhận cao của chúng:
1. Các năng lượng của huyệt đan điền chính nó phải được hướng vào bí huyệt tim.
173
2. Các
năng lượng của bí huyệt xương cùng
phải được chuyển vào bí huyệt cổ
họng.
3. Các năng lượng của bí huyệt ở chót xương sống phải được chuyển vào bí huyệt đầu. Sau cuộc điểm đạo thứ ba, các năng lượng cơ bản này được nâng lên, kiềm chế hay là phân phối bằng một tác động của ư chí của Tam Thượng Thể Tinh Thần. Bấy giờ "ánh sáng phát sinh vào thời Lemuria" (ánh sáng của bí huyệt xương cùng), và "ánh sáng phát sinh vào thời Atlantis" (ánh sáng của huyệt đan điền) sẽ tàn tạ, và hai bí huyệt này sẽ đơn thuần là nơi tiếp nhận các năng lượng tinh thần từ trên cao. Chúng sẽ không có ánh sáng trực tiếp, cố hữu của riêng chúng; ánh sáng mà chúng sẽ truyền đi sẽ đến với chúng từ các nguồn tổng hợp trên các cơi dĩ thái.
Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của bí huyệt này là tụy tạng, với một ngoại hiện phụ ở trong bao tử. Trong mối liên hệ với huyệt đan điền, có một liên hệ kỳ thú vốn được tượng trưng cả trong h́nh thức và trong hàm ư. Các bạn có:
174
Ở
đây lại nảy sinh chủ đề về bí
huyệt của sức mạnh tinh thần (v́ lực
cảm dục về bản chất là sức mạnh tinh
thần) và ba biểu hiện của nó. Tất cả ba
ngoại hiện trọng trược này được
cung cấp và bảo dưỡng bằng thần lực và
năng lượng của huyệt đan điền.
Ở đây, tôi xin nêu ra một sự kiện rất quan
trọng cho những kẻ có hứng thú trong việc nghiên
cứu y học theo khía cạnh huyền bí: khi
được đánh giá một cách đúng đắn, nó
sẽ đưa đến việc hiểu biết về
thuật chữa trị. Kiềm chế huyệt đan
điền và tiếp nhận và phóng rải đúng lúc các năng
lượng được tập trung trong bí huyệt
đó, sẽ mang lại một sự thanh lọc chủ
yếu, một sự tăng cường mạnh mẽ và
một che chở thiết yếu đối với ba cơ
quan rất quan trọng nằm trong lĩnh vực của
bộ máy hồng trần của con người.
Như tôi đă nêu ra trước kia, bí huyệt này là một cơ quan tổng hợp và qui tụ vào chính nó mọi năng lượng thấp ở một mức độ nào đó trong phát triển cao siêu của con người. Sự thật, đó là một khí cụ (khi được hiểu đúng và điều khiển đúng) sẽ giúp vào việc hội nhập của sự sống phàm ngă. Vấn đề chính của người đă phát triển cao nhưng chưa có khuynh hướng tinh thần là vấn đề dục vọng. Các mục tiêu của y là ǵ? Các mục đích của y được hướng đến ǵ? Bản chất các hoài băo đă được hiểu rơ của y là ǵ? Y mong mỏi những ǵ? Tùy theo bản chất của các sức mạnh và các năng lượng mà cuộc sống tư tưởng của y mang lại cho huyệt đan điền, thế nên, quyết tâm của y để tiến tới theo con đường ánh sáng, để giữ vững mức duy ngă, hay để chọn đường lối thấp vốn sẽ dẫn đến việc giũ sạch ánh sáng của linh hồn.
Như chúng ta đă thấy, các cánh hoa của huyệt đan điền hướng lên đến bí huyệt tim. Trong thực tế, điều này có nghĩa là năng lượng xúc cảm, dục vọng và tham vọng (mà toàn thể nhân loại đều có) đang nỗ lực hướng về con đường cao cả.
175
Ở
đây, cần ghi nhớ rằng việc chuyển di
năng lượng ở huyệt đan điền
tự nó là bổn phận của tất cả những
người t́m đạo tiến vào Con Đường
Đệ Tử vào thời điểm đặc biệt
này, cộng với sự khơi hoạt từ từ
của bí huyệt tim. Các thành viên đầu tiên của gia
đ́nh nhân loại muốn trở nên có tập thể
thức, dĩ nhiên là những người t́m đạo và
các đệ tử, và những người này dẫn
đầu cho nhân loại c̣n lại. Họ đạt
được điều này bằng áp lực của
chính sự sống và của hoàn cảnh chung quanh, chứ
không phải bằng việc noi theo các qui luật đă
đặt ra hay lối thiền định đặc
biệt nào. Sau này, trước khi có một cuộc
điểm đạo chủ yếu nào đó, các qui
luật và các biện pháp như thế có thể
được áp dụng để mang lại cho
điểm đạo đồ sự kiềm chế
hữu thức và tức khắc khắp thể cảm
dục và tụ điểm của nó để tiến vào
thể xác, huyệt đan điền, và lần nữa,
vào lúc mà các sự chuyển di chính yếu được
thực hiện một cách hữu thức. Trong các
chuyển di này có ba loại có tầm quan trọng hàng
đầu:
1. Từ ba bí huyệt dưới cách mô đi vào tim, cổ họng và bí huyệt ấn đường.
2. Từ hai bí huyệt trên cách mô – bí huyệt tim và bí huyệt cổ họng – vào bí huyệt ấn đường và hoa sen ngh́n cánh ở trên đầu.
3. Từ bí huyệt ấn đường vào bí huyệt đầu, có nghĩa là sự hợp nhất hoàn toàn của mọi năng lượng khắp toàn bộ thể dĩ thái, vào tụ điểm trung ương duy nhất để phân phối – dưới sự kiểm soát trực tiếp của Tam Thượng Thể Tinh Thần.
Các tiến tŕnh liên quan đến ba kinh nghiệm lớn này (mỗi kinh nghiệm được đi trước bằng nhiều thử thách và thực nghiệm) dĩ nhiên là đặt một căng thẳng trên thể xác và là nguyên nhân của nhiều trong số các bệnh mà các đệ tử phải kế thừa.
176
Thí
dụ, điều hiển nhiên đối với bạn
là sự chuyển di của mọi năng lượng tích
tụ trong huyệt đan điền đi vào bí huyệt
tim sẽ gây ra khó khăn rất thường có bản
chất trầm trọng; đây là lư do giải thích tại
sao ngày nay rất nhiều người tiến hóa, lại
chết v́ bệnh tim. Trong chu kỳ dài của sự
sống và kinh nghiệm của linh hồn, đây chỉ là
một thời gian tương đối nhỏ; trong chu
kỳ ngắn của đời sống cá biệt của
đệ tử, đó là một khó khăn lớn và
thường là bi thảm. Tương tự, việc
chuyển di năng lượng của năm bí huyệt
trên xương sống vào các bí huyệt đầu sẽ
mang theo nó các vấn đề riêng của nó. Việc kích
thích huyệt ấn đường bằng sự tập
trung các năng lượng này có thể đưa
đến các vấn đề tâm lư tai hại. Một
người có thể trở thành một người
cực kỳ ích kỷ (ego-maniac) tạm thời (tất
cả chỉ là tạm thời trong cuộc sống
trường cửu của linh hồn !) và trở thành
một quái vật của loài người như Hitler và
những kẻ khác cùng loại như ông ta mặc dầu
ở mức độ thấp hơn; có thể cũng có
các t́nh trạng động kinh dữ dội, hay là thị
lực có thể bị tác động và người
ấy trở nên mù ḷa. Tất cả các điểm này
biện minh cho ư tưởng cẩn thận.
6. Bí huyệt xương cùng. Bí huyệt này nằm ở phần dưới vùng thắt lưng và là một bí huyệt rất mạnh, đang kiểm soát đời sống tính dục. Một trong các điều lư thú về bí huyệt này đó là nó vẫn luôn luôn là một bí huyệt mạnh cho đến khi hai phần ba nhân loại được điểm đạo, v́ tiến tŕnh sinh sản phải tiếp tục và vẫn hoạt động để cung cấp thể xác cho các linh hồn mới đến. Nhưng khi nhân loại tiến hóa, bí huyệt này sẽ được kiềm chế và các hoạt động của họ sẽ được xúc tiến một cách sáng suốt do hiểu biết sâu rộng và do các tiếp xúc cao siêu hơn và tinh tế hơn, chứ không phải do dục vọng không giới hạn và thiếu kiềm chế, như trường hợp hiện nay. Tôi không thể quảng diễn thêm về vấn đề này v́ chủ đề quá rộng lớn. Tuy nhiên, tôi có thể làm cho bạn chú ư những ǵ tôi đă viết và gợi ư rằng kẻ nào đó với sự quan tâm và theo thời gian sẽ gom góp tất cả những điều tôi đă nói trong tất cả các sách của tôi liên quan đến vấn đề phái tính để cho một tập sách nhỏ về đề tài này có thể được biên soạn.
a. Bí huyệt xương cùng tương ứng với mặt trời hồng trần, tức nguồn sinh lực và là tác nhân ban phát sự sống trên hành tinh ta.
177
b. Cách
h́nh tượng hóa của bí huyệt xương cùng có liên
quan trước tiên với thai kỳ trước khi sinh,
và sự hiểu biết đúng về nó có thể
được truy nguyên và khai triển rộng ra toàn
thể câu chuyện về sự hoài thai, về sự
kiến tạo h́nh hài và dù đó là h́nh hài vật chất
của một người, dạng thức của một
ư tưởng, một hệ thống được
tạo ra chung quanh một chân lư trung ương, dạng
thức của một hành tinh hay của một thái
dương hệ. Có lẽ trên mọi điều khác, bí
huyệt mà nhờ đó các mănh lực của Vô Ngă sau
rốt phải tự biểu lộ, và toàn bộ vấn
đề nhị nguyên phải được giải quyết.
Giải pháp và cách giải thích biểu tượng phải
xuất phát từ lănh vực trí tuệ, nhờ đó
việc kiềm chế phản ứng xác thân và dồn
hết th́ giờ vào các mục tiêu chớ không phải
với dục vọng. Hăy suy gẫm về điều này.
Khi đă hiểu rơ như vậy, bấy giờ, chúng ta
sẽ đạt tới tŕnh độ mà sự chuyển
di lớn sẽ có thể xảy ra vào bí huyệt sáng
tạo cao hơn, tức bí huyệt cổ họng.
c. Do đó, bí huyệt xương cùng có liên quan chặt chẽ với vật chất, và có một ḍng năng lượng giữa ba điểm trong phần dưới của cơ thể:
1. Lá lách, cơ quan của prana hay là của sự sống vật chất, xuất phát từ thái dương.
2. Bí huyệt xương cùng, tác nhân sắp xếp hướng về sự sinh sản vật chất.
3. Bí huyệt ở chót xương sống mà (cho đến khi trạng thái ư chí xuất phát trong con người) nuôi dưỡng nguyên khí ban phát sự sống,ư-chí-muốn-sống, đến khắp các phần của cơ thể.
Các điểm này tạo ra một tam giác lực vĩ đại, liên quan đến vật chất, đến chất liệu nguyên thủy, tạo h́nh, sáng tạo, sức sống và sự bền vững trong h́nh hài. Tam giác này là phản ánh của một tam giác c̣n cao hơn, gồm có:
1. Bí huyệt cổ họng, tương ứng với bí huyệt xương cùng.
178
2.
Tuyến yên, tương ứng với bí huyệt lá lách.
3. Tuyến tùng quả tương ứng với bí huyệt căn bản.
Trong sự liên quan của hai tam giác này có ẩn manh mối đối với bản năng tự bảo toàn, sự tồn tại của các thể tinh anh sau khi chết, và nguyên khí bất tử được đặt trong linh hồn và tác động khi sự tự bảo toàn và sự sống c̣n không c̣n chế ngự nữa. Điều này tạo thành một bộ ba về ư tưởng, cần phải nghiên cứu một cách thật cẩn thận và – tôi tạm diễn tả như thế – đem lại bí quyết cho hoạt động tâm linh.
d. Cuối cùng, bí huyệt xương cùng cũng liên kết với bí huyệt ấn đường. Cả hai cùng tạo thành một nhị nguyên hoạt động vốn tạo ra tính chất tinh anh mà chúng ta gọi là phẩm cách (personality). Có một lănh vực t́m ṭi rộng lớn trong chủ đề phẩm cách với vai tṛ một tổng thể phối kết và trong tính chất của phàm ngă, vốn là hương vị, ảnh hưởng, hiệu quả và bức xạ của phàm ngă. Tôi nêu ra các ư tưởng này cho các đạo sinh, hy vọng rằng một số điều t́m kiếm có thể noi theo vốn sẽ liên kết vấn đề các bí huyệt với các sự kiện được nhận thức về sự kết hợp, hội nhập và các hiệu quả của chúng trong việc tạo ra sự vĩ đại.
Đối với các bạn nào có nghiên cứu Giáo Lư Bí Nhiệm, có nhiều điều cần khai mở liên quan tới mối liên hệ của các "Nguyệt Tinh Quân", tức Barishad Pitris, đối với Thái Dương Thiên Thần. Lănh vực tác động của Nguyệt tinh quân là bí huyệt xương cùng; lănh vực hoạt động của Thái Dương Thiên Thần là bí huyệt cổ họng.
179
e. Bí
huyệt xương cùng thể hiện năng
lượng thuộc Ngôi Ba của Thượng Đế,
cũng như bí huyệt đan điền thể hiện
năng lượng Ngôi Hai và bí huyệt căn bản
thể hiện năng lượng Ngôi Một. Ở
đây, bạn lại có các bí huyệt thấp đang
phản chiếu là bí huyệt cổ họng, tim và
đầu và như thế bổ sung cho biểu lộ cao
và thấp của Ba Ngôi thiêng liêng trong con người. Vào
thời Lemuria cổ xưa, bí huyệt này được
khơi hoạt và hoạt động đầy đủ
trong giống dân thứ nhất; năng lượng
của nó là năng lượng của Chúa Thánh Thần,
đang che chở chất liệu nguyên trạng (virgin
substance). Ở đây, chúng ta lại cũng thấy một
phản ảnh thiêng liêng khác như sau:
Sau cùng, trong Lưỡng Tính Thiêng Liêng (xuất hiện sau này) bạn sẽ có một phối hợp khác:
Hỡi huynh đệ, bạn lại sẽ chú ư làm thế nào mà khoa học về các tam giác đang chế ngự cấu trúc con người dưới mọi trạng thái của nó, cũng như cấu trúc của thái dương hệ. Điều này đang được mong đợi.
180
f.
Ngoại hiện của thể xác trọng trược
của bí huyệt này nằm trong các tuyến sinh dục,
các cơ quan sinh sản của con người – khi xét chúng
như là đơn vị căn bản, dù là tạm
thời tách biệt trong biểu lộ lưỡng phân
hiện tại của con người. Cần phải
nhớ rằng sự phân ly này nuôi dưỡng xung lực
mạnh mẽ hướng về sự dung hợp, và
sự thôi thúc để phối hợp này, chúng ta gọi
là dục tính. Thực ra, dục tính là bản năng
hướng về sự hợp nhất: trước
nhất là hợp nhất thể xác. Đó là nguyên lư
bẩm sinh (dù cho có nhiều hiểu sai) của thần bí
học, vốn là danh xưng mà chúng ta gán cho sự thôi thúc
để hợp nhất với thiêng liêng. Giống như
mọi cái khác mà người kém phát triển đă tiếp
xúc, chúng ta đă làm sai lệch méo mó thiên ư và coi thường
sự thúc đẩy vô h́nh đối với ước
muốn vật chất. Chúng ta đă đảo
ngược chiều hướng của năng
lượng ở bí huyệt xương cùng đưa
đến bản chất thú tính quá phát triển và các
chức năng của nhân loại bậc trung.
Có nhiều điều cần thiết mà tôi có thể thêm vào ở trên, nhưng đề tài đ̣i hỏi nhiều phân tích cẩn thận, làm sáng tỏ và diễn tả mà thời gian không cho phép, nếu không, sự thăng bằng được tạo ra của bộ luận này sẽ không c̣n nữa.
181
Cũng
có một ít điều mà tôi có thể nói liên quan
đến bí huyệt chót xương sống. Tuy nhiên,
trước hết, tôi đề cập đến chi
tiết nào có kết quả hay có thể được,
tôi muốn nêu ra sơ đồ trên trang 162 (Anh văn – ND)
mô tả tŕnh độ tiến hóa của một
đệ tử chứ không phải của một
điểm đạo đồ đă tiến hóa cao. Nó
cũng không mô tả một người tầm
thường bậc trung. Điều này được nêu
ra do sự kiện là phản ảnh của bí huyệt tim
trong đầu đang xoay lên để đáp ứng
với hoạt động tăng lên của chính bí
huyệt tim, và rằng định nghĩa của bí
huyệt ấn đường th́ rơ ràng và chính xác,
chứng tỏ một phàm ngă hội nhập, phối
kết. Do đó, đây không phải là sơ đồ các
bí huyệt của người b́nh thường hay chưa
phát triển. Đối với các sơ đồ như
thế, không thể làm ǵ nhiều hơn là đưa ra
một số điểm hoàn thiện, nhưng cần
nhớ rằng các điểm hoàn thiện này không phải
là các thành tựu không thay đổi mà mỗi một thành
tựu đó đă được đi trước
bằng các giai đoạn và thời kỳ hoạt
động vốn tạo ra các kết quả luôn thay
đổi và là các trạng thái không ổn định
của các bí huyệt; đến lượt chúng, các
trạng thái này được nối tiếp bằng các
chu kỳ hoạt động khác, với thay đổi và
với việc phóng rải năng lượng đă
được đổi mới. Hậu quả
của các nguyên nhân ẩn sâu trong chính chúng trở thành các
lư do, v́ trong chu kỳ biểu lộ, không có ǵ tĩnh
tại hoặc cố định hoặc sau rốt
được xác định cả. Đây là một
điểm cực kỳ quan trọng. Do đó,
đừng nên để bị đánh lừa bởi
những thời điểm thành đạt bề ngoài.
Chúng chỉ là các mở đầu để thay
đổi, v́ đó là Định Luật Tồn Tại.
7. Bí huyệt ở chót xương sống. Trên mọi huyệt khác, bí huyệt này được kiềm chế và chi phối bởi Luật Tồn Tại đă nói trên, và được thiết lập nơi nào mà tinh thần và vật chất gặp nhau và nơi nào mà vật chất, tức Mary Đồng Trinh – ở dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, tức năng lượng của thể dĩ thái – được biến đổi "thành Thiên Đường", nơi đó (theo cách nói của Cơ Đốc giáo) "được đặt ngồi bên cạnh Con của Bà trong nhà của Cha".
Bí huyệt này nằm ở ngay chót xương sống, và nâng đỡ mọi bí huyệt khác. Vào lúc này, nó tương đối yên lặng, v́ nó chỉ được khơi hoạt để hoạt động đầy đủ bằng một tác động của ư chí được điểm đạo đồ hướng dẫn và điều khiển. Nó chỉ được đáp ứng với trạng thái ư chí và ư-chí-hiện-tồn đang lâm phàm là yếu tố mà hiện đang kiềm chế sự sống của nó và tạo ra các hiệu quả của nó khi nó nuôi dưỡng và điều khiển nguyên khí sự sống trong vật chất và h́nh hài. Đúng như chúng ta được dạy rằng nguyên khí sự sống "ngự trong tim", cũng thế, ư-chí-hiện-tồn nằm ở chót xương sống. Có nhiều câu chuyện vô bổ và nguy hiểm liên quan đến bí huyệt này, và toàn thể vấn đề về "xà hỏa" đă tỏ ra là một câu chuyện hứng thú và lôi cuốn bởi các nhà huyền linh học giả mạo trên thế gian. Nhà huyền linh học chân chính được dạy không nên động chạm ǵ đến xà hỏa đó – theo sự hiểu biết thông thường. Tôi không thể làm ǵ hơn là đưa ra một số sự kiện khá rơ ràng cho bạn và tuy nhiên, đồng thời tôi cũng phải kiềm chế không nêu ra các cách thức và phương pháp khơi hoạt sự hoạt động của bí huyệt này, v́ có sự cực kỳ nguy hiểm liên can đến bất kỳ việc khai mở sớm nào về bí huyệt căn bản ấy. Điều tốt nhất tôi có thể làm là đưa ra một loạt diễn đạt có thể hiểu được theo đúng đường lối bởi những kẻ hiểu biết (và những người này cho đến nay hăy c̣n ít và cách xa nhau) vốn dĩ sẽ giúp cho việc suy tư của những kẻ đang được huấn luyện và đem lại cho họ một h́nh ảnh đầy đủ hơn phần nào, nhưng sẽ bảo vệ kẻ thiếu hiểu biết tránh được tai họa. Tôi sẽ nêu các điều này ra càng rơ ràng và vắn tắt càng tốt, nhưng về mặt thực hành, tôi sẽ không giải thích ǵ hết.
182
1.
Bí huyệt căn bản này là điểm mà theo
định luật tiến hóa, tinh thần và vật
chất gặp nhau và sự sống được liên
kết với h́nh hài.
2. Do đó, bí huyệt mà lưỡng nguyên chính của Đấng thiêng liêng biểu lộ – con người hoặc Hành Tinh Thượng Đế – đáp ứng và tạo ra h́nh hài.
3. Bản thể của Đấng thiêng liêng này chỉ được tiết lộ khi Ngôi Hai đă hoàn thành công việc, nhờ phương tiện của Ngôi Ba, nhưng dưới ư chí hướng dẫn của Ngôi Một.
4. Đó là bí huyệt mà "con rắn của Chúa" trải qua hai biến h́nh:
a. Con rắn vật chất nằm cuộn tṛn.
b. Con rắn này được biến đổi thành rắn minh triết.
c. Con rắn minh triết được chuyển sang và trở thành "con rồng ánh sáng sinh động".
5. Cả ba giai đoạn này được bảo dưỡng bằng sự sống và năng lượng đang tuôn xuống qua khắp chiều dài của cột xương sống, xuyên qua sự tương ứng dĩ thái của dây sống lưng, và – trong thời gian và không gian – sự tuôn đổ này (cộng với sự sống đang dâng lên đồng thời) tạo ra:
183
a.
Sự khơi hoạt một cách từ từ và có thứ
tự của các bí huyệt, tùy theo các loại cung.
b. Sự đảo ngược các bí huyệt sao cho tâm thức của con người nội tâm trở nên thích ứng với môi trường của y.
c. Sự tổng hợp của các năng lượng sự sống của mọi bí huyệt, và sự thích hợp với các nhu cầu của điểm đạo đồ và việc phụng sự của Thánh Đoàn và của nhân loại.
6. Cột xương sống (theo quan điểm của huyền bí học) chứa một tuyến tam phân. Đây là ngoại hiện của antahkarana, gồm có giác tuyến đích thực (antahkarana proper), linh tuyến (sutrama) hay sinh mệnh tuyến (life thread) và sáng tạo tuyến (creative thread). Do đó, tuyến tam phân này bên trong cột xương sống gồm có ba tuyến năng lượng vốn được chuyển vào cho chính cả ba bằng chất liệu của phần bên trong của cột sống, một "con đường tiếp cận có ba phần và con đường triệt thoái cũng có ba phần". Theo thuật ngữ Ấn giáo, các tuyến này được gọi là ida, pingala và sushumna, và chúng cùng hợp thành con đường sự sống đối với con người cá biệt và được đánh thức vào hoạt động tuần tự tùy theo loại cung và tŕnh độ tiến hóa. Tuyến sushumna không được sử dụng một cách chính xác và an toàn cho tới khi antahkarana được kiến tạo để cho Chân Thần và Phàm Ngă nhờ đó được nối liền, cho dù chỉ bằng một đường mảnh mai nhất. Lúc bấy giờ Chân Thần, tức Cha, tức trạng thái ư chí, mới có thể đạt tới phàm ngă một cách trực tiếp và có thể khơi hoạt bí huyệt căn bản, và cùng với nó phối hợp, hợp nhất và khơi dậy ba luồng lửa.
184
7.
Một trong ba tuyến này là tuyến mà theo đó năng
lượng, vốn nuôi dưỡng vật chất
được tuôn đổ vào. Một tuyến khác có liên
hệ với tuyến tâm thức và sự khai mở
nhạy cảm về tâm linh. Tuyến thứ ba là tuyến
thuần túy tinh thần. Như vậy, trong mọi h́nh hài
c̣n sống, công việc của Cha, của Mẹ và của
Con được xúc tiến. Sự sống - tâm thức -
h́nh tướng (form) và sự sống - tính chất - sắc
tướng (appearance) được phối hợp và
bộ máy đáp ứng của con người thiêng liêng
trở nên hoàn thiện, khiến cho y tiếp xúc và nhận
thức trạng thái thiêng liêng chính yếu trong các giới
của thiên nhiên, trong hành tinh và sau rốt trong thái
dương hệ.
Đừng nên lầm lẫn mà đặt các lĩnh vực đan vào nhau này của năng lượng sinh động ở bên phải hoặc bên trái của dây sống lưng. Luôn luôn có một chuyển động, một tương tác và một sự đảo ngược diễn ra. Tôi chỉ có thể phác họa bản chất của một biểu tượng vốn chỉ rơ ra tuyến đặc biệt thuộc ba năng lượng của Tam Thượng Thể thiêng liêng. Tôi không nêu ra sự kiện về vị trí hoặc nơi chốn, v́ chính sự xuất hiện và sự khu biệt của quan niệm chính đă tạo ra rất nhiều nguy hiểm. Môn sinh được điểm đạo t́m cách hiểu mối liên quan của ba năng lượng căn bản, ba tuyến lửa sinh động, mối liên hệ của chúng và sự liên hệ hỗ tương cùng với sự an trụ tuần tự. Y không t́m cách thu hẹp giáo huấn xuống đến các điểm, các đường và vị trí, măi cho tới lúc mà các thuật ngữ này ít có ư nghĩa đối với y và y c̣n biết nhiều hơn thế nữa.
185
8.
Ba con đường của sự sống này là các vận
hà đối với lửa điện, lửa thái
dương và lửa do ma sát, và được liên kết
trong việc sử dụng chúng với ba giai đoạn
của con đường tiến hóa: con đường
tiến hóa trong vật chất ở các giai đoạn
trước; Con Đường Dự Bị và các giai
đoạn đầu của Con Đường Đệ
Tử cho tới lần điểm đạo thứ ba;
và chính Con Đường Điểm Đạo.
9. Về Luồng Xà Hỏa, có rất nhiều điều được nói và viết đến ở Đông Phương và ngày càng nhiều ở Tây phương, thực ra là sự kết hợp của ba lửa này, nó được tập trung do tác động của ư chí giác ngộ, dưới sự thúc đẩy của t́nh thương trong bí huyệt căn bản. Luồng hỏa hợp nhất này lúc bấy giờ được khơi dậy nhờ dùng Quyền Lực Từ (do ư chí của Chân Thần phát ra) và do quyền lực hợp nhất của linh hồn và phàm ngă, hợp nhất và sống động. Kẻ nào có thể làm điều này với tâm thức đầy đủ, như vậy kẻ ấy là một điểm đạo đồ ở trên mức điểm đạo thứ ba. Vị ấy, và chỉ một ḿnh vị ấy mới có thể đưa luồng hỏa tam phân này từ chót xương sống đến bí huyệt đầu một cách an toàn.
186
10.
Thường thường, theo sự diễn dịch
của nhà huyền bí học kém hiểu biết trong
nhiều nhóm huyền linh khác nhau, xà hỏa phải
được "đi lên", và khi nó đi lên, tất
cả các bí huyệt lúc bấy giờ sẽ hoạt
động, và các vận hà nằm khắp cột
xương sống sẽ được quét sạch
mọi chướng ngại. Đây là một khái quát hóa
nguy hiểm và một đảo ngược sự
thật. Xà hỏa sẽ được đi lên và mang lên
đến trời (heaven) khi tất cả bí huyệt
được khơi hoạt và các vận hà trên
xương sống không bị ngăn trở. Việc
thải bỏ mọi chướng ngại là kết
quả của sự sinh động của các bí huyệt
cá biệt, mà nhờ sức mạnh sự sống của
chúng, chính chúng có hiệu quả trong việc phá hủy
mọi chướng ngại và ngăn trở. Chúng có
thể "thiêu rụi" tất cả những ǵ
ngăn trở sự phát xạ (radiation) của chúng.
Những ǵ thường xảy ra trong các trường
hợp ngẫu nhiên (vốn gây ra quá nhiều tai hại),
đó là người t́m đạo, do tính hiếu kỳ
thiếu hiểu biết của y và do một cố
gắng của trí tuệ (không phải của ư chí tinh
thần, mà thuần là biểu lộ của ư chí phàm ngă),
thành công trong việc khơi dậy cái thấp nhất trong
ba luồng hỏa, tức là lửa của vật
chất, lửa do ma sát; điều này tạo ra việc
đốt cháy sớm và tiêu hủy mạng lưới
dĩ thái trong dĩ thái thể. Các đĩa tṛn hay
lưới này nằm ở giữa mỗi hai bí huyệt
trên xương sống và cũng ở trong đầu.
Chúng thường bị tiêu tan khi sự tinh khiết
của sự sống, giới luật của t́nh cảm
và sự phát triển của ư chí tinh thần sẽ được
tiến hành.
Có tất cả bốn lưới như thế. Khi phàm ngă tứ phân (fourfold personality) được phát triển cao độ và huyệt ấn đường được khơi hoạt, bấy giờ, một cách chậm chạp và từ từ, một cách b́nh thường và tự động, các lưới này biến mất. Các lưới ở đầu có phẩm chất cao hơn nhiều và chia đôi sọ theo chiều ngang và chiều dọc. Như thế, chúng tượng trưng cho Thập Giá mà Con của Thượng Đế bị đóng đinh trên đó.
187
11.
Ba vận hà trên xương sống hoàn toàn đáp ứng
với ba huyệt chính:
a. Bí huyệt đan điền, tạo ra sức thúc đẩy của dục vọng và nuôi dưỡng sự sống thể xác và thôi thúc sự sáng tạo.
b. Bí huyệt tim, tạo ra xung lực để yêu thương và để tiếp xúc hữu thức với bất luận khu vực rộng lớn nào của biểu lộ thiêng liêng.
c. Bí huyệt đầu, tạo ra xung lực mạnh mẽ của ư chí muốn sống (will to live).
Tôi không nêu ra vận hà nào đáp ứng với bí huyệt nào, trừ trường hợp vận hà sushumna vốn chỉ đáp ứng với năng lượng của bí huyệt đầu và ư chí được hướng dẫn, tập trung trong hoa sen ngàn cánh. Điều này có thể được nói ra một cách an toàn, v́ cho đến nay, ư chí tinh thần chưa phát triển trong những kẻ t́m cách khơi dậy xà hỏa. Khi xà hỏa đi lên, họ sẽ biết những ǵ mà họ có thể làm một cách an toàn.
12. Ba bí huyệt trong đầu cũng có liên hệ đến ba vận hà:
a. Vùng tủy sống kéo dài (bí huyệt tủy sống) và tuyến động mạch cổ.
b. Bí huyệt ấn đường và tuyến yên.
c. Hoa sen ngàn cánh và tuyến tùng quả.
Các đạo sinh sẽ thấy điều đó là lư thú khi liên kết các bộ ba này với ba cung chính:
188
a. Cung
1, ư chí hay quyền lực
b. Cung 2, bác ái - minh triết
c. Cung 3, thông tuệ –linh hoạt,
và cũng đối với ba giống dân được phú cho năng lực để khai mở mầm giống của ba khía cạnh thiêng liêng: Lemuria, Atlantis và giống dân Aryan. Các giống dân này có thể được liên kết, với tư cách là mầm giống, đối với hai giống dân cuối cùng vốn sẽ phối hợp và tổng hợp tất cả các sức mạnh, tính chất, các thành đạt và các mục tiêu vào sự sống hoàn hảo của hành tinh.
Một tổng hợp khác cũng có thể xảy ra và cũng quan trọng:
a. Con đường tiến hóa…… các bí huyệt dưới cách mô.
b. Con đường Đệ tử …….. các bí huyệt trên cách mô.
c. Con đường điểm đạo … các bí huyệt trong đầu.
Các nhóm và các bộ ba này được liên kết trong thời gian và không gian vào ba dây sống lưng.
13. Cũng c̣n có – lại mối liên hệ đối với tất cả các điểm tổng hợp trên trong cơ thể – một điểm tuyệt đích của sự phối hợp hoàn hảo. Tôi nêu ra mỗi một trong các điểm này theo tŕnh tự công tác phối hợp của chúng:
a. Bí huyệt đan điền, phối hợp các bí huyệt dưới cách mô.
b. Bí huyệt ấn đường, phối hợp các bí huyệt cả trên và dưới cách mô.
c. Bí huyệt chót xương sống, phối hợp tất cả sáu bí huyệt.
d. Hoa sen ngàn cánh trên đầu, phối hợp tất cả bảy năng lượng.
189
Về
tất cả những điều nói trên, nên ghi nhớ
rằng chúng ta hoàn toàn đang bàn về các sức mạnh
và năng lượng, đang tác động qua thể
dĩ thái; rằng chúng ta đang bàn đến thế
giới thứ ba của các nguyên nhân, vốn có trách
nhiệm cho thế giới hữu cơ của biểu
lộ trọng trược ở cơi trần. Biểu
lộ hồng trần này chính nó tùy thuộc vào ảnh
hưởng của thế giới thứ hai của
sự sống hữu thức, mà đến phiên nó chịu
trách nhiệm trong thời gian và không gian đối với
thế giới năng động có mục đích và có
Hiện tồn.
Bí quyết cho cuộc sống hoàn măn của linh hồn ẩn dưới các lời của tôi, nhưng linh hồn chọn cuộc sống hiến dâng và trí tuệ giác ngộ để hưởng được lợi ích nhờ tri thức được truyền đạt và để thấy được đàng sau h́nh thức của lời nói, tư tưởng ṇng cốt vốn đem cho nó sự sống và – nói về mặt huyền linh – hơi ấm sinh ra.
Hăy ghi nhớ rơ ràng các quan niệm về sự kích thích hay thiếu kích thích, về sự tương tác hay về sự phân ly, sự im ĺm hay hoạt động, v́ trong các bộ hai này có ẩn các nguyên nhân về sức khỏe hay về bệnh tật.
THỂ DĨ THÁI, HỆ THẦN KINH VÀ HỆ NỘI TIẾT
Những ǵ tôi phải nói ở đây được căn cứ trên một số ghi nhận trong các trang trước trong đó tôi có nêu ra rằng:
1. Chính thể dĩ thái
2. Hệ thần kinh
3. Hệ thống nội tiết
"có liên hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành một hệ thống quản trị ăn khớp gồm các năng lượng và các lực mà về bản chất là sinh động, khích động, năng động và sáng tạo… Toàn bộ sức khỏe bên trong của cơ thể đều tùy thuộc vào chúng". Đối với ba điểm này, bây giờ, tôi thêm vào ḍng máu với vai tṛ là phương tiện chuyên chở khắp cơ thể của
1. Nguyên Khí Sự Sống,
2. Các năng lượng kết hợp của ba hệ thống trên,
190
và nêu ra
rằng sự phối hợp lớn của các mănh lực
mà chúng ta gọi là các cặp đối hợp hay là các
lưỡng nguyên chính yếu, chi phối các nguyên nhân
nằm đàng sau của sức khỏe và bệnh tật.
Khi nói ra các điều này là tôi đang nỗ lực
để làm cho toàn thể vấn đề trở thành
đơn giản tối đa. Khi làm như thế,
một số chân lư mất đi, nhưng điều
cốt yếu là một vài điểm khái quát rộng răi
được đạo sinh hiểu rơ trước khi y
bắt đầu nghiên cứu các ngoại lệ và
để bàn đến những chi tiết vụn vặt,
và chi tiết về các khuyết điểm thể xác hay
các đối nghịch của chúng.
Điều đă trở thành quá hiển nhiên với các đạo sinh huyền linh học là thể dĩ thái qui định, kiềm chế và định đoạt biểu lộ sự sống của cá nhân lâm phàm. C̣n điều hiển nhiên thứ yếu là thể dĩ thái này là tác nhân vận chuyển các sức mạnh của phàm ngă, nhờ vào các bí huyệt và bằng cách ấy, khích động thể xác đi vào hoạt động. Các mănh lực này đi qua các bí huyệt, là các mănh lực của phàm ngă hợp nhất nói chung, hay chỉ là các mănh lực của thể cảm dục hoặc thể t́nh cảm và thể trí; chúng cũng truyền sức mạnh của cung phàm ngă hay là năng lượng của cung linh hồn, tùy theo tŕnh độ tiến hóa mà con người đạt được. Do đó, thể xác không phải là một nguyên khí. Nó bị điều khiển chớ không điều khiển – một điểm thường hay bị bỏ quên. Nó là một nạn nhân của cuộc sống phàm ngă hay là biểu hiện thắng lợi của năng lượng linh hồn. Chính và lư do này mà khoa tâm lư học, trong hai thế kỷ tới sẽ chế ngự y học hiện đại, trừ ra các loại bệnh mà chúng ta sẽ bàn đến trong tiết tới – các bệnh xuất phát từ đời sống tập thể như là bệnh lao, hoa liễu, ung thư. Cho đến khi nhân loại trở nên có ư thức tập thể một cách rơ rệt hơn (một điều mà cho đến nay hăy c̣n xa vời) không thể áp dụngcác điều khái quát về tâm lư một cách rộng răi cho các bệnh riêng biệt đối với hành tinh ta. Tuy nhiên, chúng ta có thể xét việc nghiên cứu các khó khăn tương tự xuất phát trong từng cá nhân; các khó khăn này được căn cứ trên sự xung đột của các cặp đối hợp và dựa vào sự thiếu hài ḥa được t́m thấy trong ba hệ thống điều khiển ăn khớp chính yếu.
191
Do
đó bạn có ba hệ thống để chuyên chở
trong trí bạn, và một phương tiện chuyên chở
hay truyền đạt, cộng với sự thật
huyền linh căn bản rằng một vài năng
lượng đối nghịch lớn, hoạt
động bên trong cơ thể, tạo ra cái mà chúng ta
gọi là bệnh. Đối với các yếu tố trên,
tôi xin thêm một tương quan cần có khác. Tôi xin
nhắc bạn rằng chúng ta có liên quan với các h́nh
thức sự sống, và tất cả các h́nh thức này
đều có sức sáng tạo trong chính chúng, và có thể
tạo ra một cách mạnh mẽ nhiều h́nh hài hơn
hoặc có thể cung cấp các môi trường trong đó
các h́nh hài này có thể linh hoạt. Xin ghi nhận cách
diễn tả một chân lư căn bản này. Nền
tảng của mọi giáo huấn huyền môn về
sự biểu lộ là nền tảng mà lực kiến
tạo hiện hữu, và phát biểu này là chính xác dù cho
bạn liên kết với Sự Sống của một thái
dương hệ hay chỉ với tâm thức của
thể mà trong đó con người đang hoạt
động và sống – theo các đường lối lành
mạnh hoặc không lành mạnh; chúng ta đang bàn
đến cơ thể thế giới (the world body) trong
đó một con người đang sống. Nhờ
bởi điều này, chúng ta đi đến chỗ
ngược lại với một định luật thiên
nhiên lớn khác có thể được diễn tả
đơn giản như sau:
ĐỊNH LUẬT VI
Khi các năng lượng kiến tạo của linh hồn trở nên linh hoạt trong cơ thể, bấy giờ mới có được sức khỏe, sự tương tác hoàn toàn và hoạt động đúng đắn. Khi các vị kiến tạo là các Nguyệt Tinh Quân và những ai làm việc dưới sự kiềm chế của Nguyệt cầu và theo lệnh phàm ngă, bấy giờ sẽ có bệnh hoạn, sức khỏe kém cỏi và chết chóc.
192
Đây
là một qui luật đơn giản mà sâu xa, nó đem
lại manh mối cho các nguyên nhân của bệnh tật và
lư do để tạo nên bất tử; điều đó
cần được hiểu thật rơ ràng và khả năng
hiểu trong thời gian một vài năm, bấy giờ
sẽ thay thế cho các hệ thống duy tâm nhưng
thật ra thiếu lành mạnh và thiếu xác thực mà
chúng ta gán cho danh xưng là Hợp Nhất, Khoa Học Tinh
thần và Khoa Học Cơ Đốc. Các hệ thống
này tŕnh bày dưới h́nh thức trực tiếp các
khả năng có thể minh chứng được về
giai đoạn giải thoát cuối cùng khỏi các hạn
chế của thiên nhiên và vật chất, mà ngày nay đang
kiềm chế mọi h́nh hài sắc tướng; họ
không biết yếu tố thời gian và bỏ sót diễn
tŕnh tiến hóa cũng như tŕnh độ phát triển
của kẻ có liên hệ; lập trường của
họ được dựa vào sự mơ tưởng
và vào ước muốn tự nhiên của hạng
người trung b́nh về tiện nghi và sự hài ḥa
vật chất, và nói phớt qua cái ích kỷ tự nhiên
về cách tŕnh bày chân lư của họ với quan niệm
rằng mọi sự đều đi đến vinh quang
cuối cùng của Thượng Đế. Chắc
chắn là bệnh tật và các giới hạn vật
chất thuộc bất cứ loại nào cũng sẽ
biến mất, nhưng điều này sẽ chỉ
xảy ra khi linh hồn có các kiềm chế cá nhân và phàm ngă
trở thành chẳng khác ǵ một người máy của
linh hồn, như xác thân vào lúc này là người máy của
bản chất t́nh cảm, của trí tuệ và thỉnh
thoảng (chỉ rất ít khi đối với đa
số con người) của linh hồn.
Chỉ khi nào linh hồn một cách thực tâm và với sự hợp tác của phàm ngă, kiến tạo được Thánh điện của xác thân, và lúc đó giữ cho nó tràn ngập ánh sáng, th́ bệnh tật sẽ biến mất. Tuy nhiên, sự kiến tạo này là một tiến tŕnh khoa học, và trong các giai đoạn đầu của con đường đệ tử (vốn là thời kỳ mà linh hồn bắt đầu hiểu được vận cụ của nó, tức phàm ngă), điều này, tất nhiên đưa đến xung đột, làm tăng thêm căng thẳng và thường thường làm cho bệnh tật và sự thiếu hài ḥa trầm trọng thêm. Sự thiếu hài ḥa và bệnh tật này đưa đến nhiều rối loạn cần thiết và do đó dẫn tới các hậu quả bất đắc dĩ. Các hậu quả này sẽ bị khắc phục – trong sự dàn xếp tạm thời để hiệu chỉnh – chỉ khi nào chúng được ghi nhận và tự biểu hiện, sẽ có nhiều đau khổ về mặt vật chất và tâm lư và tất cả các khó khăn lớn và nhỏ mà con người dường như kế thừa.
193
Ở
nhân loại chưa tiến hóa, sự xung đột (theo
khía cạnh tâm thức), thực tế không có; bạn có ít
tính mẫn cảm đối với các bệnh tinh tế
xuất phát từ ba hệ thống ăn khớp nhưng
đồng thời có một đáp ứng to tát hơn
nhiều đối với ba bệnh bẩm sinh,
đối với các bệnh hay lây và đối với các
bệnh dịch lớn đang lan ra khắp các quốc gia
và các vùng rộng lớn của hành tinh. Khi nhân loại phát
triển, bệnh tật trở nên cá biệt hơn (tôi
tạm diễn tả điều đó bằng cách này) và
không có liên quan rơ ràng đến t́nh trạng của
nhiều người hay của quần chúng. Chúng xuất
phát trong chính từng người và mặc dù chúng có thể
được liên kết với các bệnh của
quần chúng, chúng lại dựa trên các nguyên nhân cá biệt.
Khi một người tách ra khỏi quần chúng và bước trên đường dự bị và như thế trở nên một ứng viên đệ tử, lúc bấy giờ, các bệnh của thể xác và sự mất hài ḥa của toàn thể hệ thống gồm ba phần của y, cộng với ḍng chuyển vận, tạo thành vấn đề hữu thức và là vấn đề mà người t́m đạo phải chính ḿnh giải quyết – như vậy lộ ra cho y nhu cầu kiến tạo hữu thức và có tính cách sáng tạo.
Chính ở điểm này mà thuyết luân hồi trở nên có giá trị tối cao; đệ tử bắt đầu thiết lập các t́nh trạng này, sáng tạo các h́nh hài và kiến tạo các hiện thể mà, trong kiếp sống khác, sẽ tỏ ra thích hợp hơn cho sự kiềm chế của linh hồn và các khí cụ thích hợp hơn để tiến hành các qui tŕnh toàn hảo mà linh hồn cần đến. Tôi xin nêu ra rằng bậc đệ tử không nhắm vào thể xác bất cứ lúc nào, hoặc bắt đầu bằng bất cứ chú tâm vật chất nào để đạt tới việc loại bỏ bệnh tật hay sự thiếu hài ḥa. Đệ tử nên bắt đầu với tâm lư học mà linh hồn dạy ra và bắt đầu với các nguyên nhân đang tạo ra hiệu quả trên cơi trần. Đó là một tiến tŕnh chậm chạp, nhưng vững bền. Nhiều tự kỷ ám thị mạnh mẽ của các hệ thống liên kết với Khoa Học Công Giáo và Hợp Nhất, chỉ nhất thời trong hiệu quả của chúng và dựa trên một tiến tŕnh kiềm chế có khoa học, cộng với một sự từ khước thừa nhận các yếu tố hiện có. Chúng không căn cứ vào chân lư. Trong một kiếp sống sau này, t́nh trạng đè nén sẽ lại xuất hiện với sức mạnh lớn hơn bao giờ hết, và sẽ tiếp tục xảy ra như thế cho tới khi mà cuộc sống đó hoàn toàn không được biết và tầm quan trọng của sự sống được đặt trên sự tiếp xúc của linh hồn và biểu hiện của sự sống được hướng ngoại trở thành việc phụng sự cho những người khác.
194
Liên
quan với bệnh thể xác và sự liên hệ của nó
với các bí huyệt (được xem như là các tụ
điểm cho các năng lượng đến từ
nguồn cội này hay nguồn cội khác) có thể là
hữu ích nếu một số điều khái quát
được nêu ra ở đây, nên nhớ rằng
đối với tất cả những điều này có
thể có các ngoại lệ, đặc biệt là trong
trường hợp khỏe mạnh hay không khỏe
mạnh của đệ tử.
1. Mỗi một trong bảy bí huyệt chính chế ngự hoặc điều khiển – theo khía cạnh vật chất, cũng như theo khía cạnh linh hồn và của nguyên khí sự sống – vùng thể xác mà trong đó có nhiều trung tâm năng lượng nhỏ và bí huyệt sinh lực có thể nằm trong đó.
2. Ba sự phân chia lớn, căn bản và đang biểu hiện của thiên tính được t́m thấy một cách tượng trưng trong mỗi bí huyệt là:
a. Nguyên khí sự sống, trạng thái thứ nhất, tự lộ ra khi toàn bộ bí huyệt được khai mở hay thức tỉnh về mặt huyền bí. Hiện nay, mọi thời gian đều tiềm tàng, nhưng đó không phải là yếu tố năng động tạo ra sự kích thích của Chân Thần cho đến cuối đại chu kỳ tiến hóa.
b. Tính chất hay khía cạnh linh hồn dần dần bộc lộ ra trong tiến tŕnh khai mở tiến hóa, và, trong thời gian và không gian tạo ra hiệu quả rơ rệt mà bí huyệt có được đối với hoàn cảnh của nó. Tính chất này tùy thuộc vào cung (hoặc là của phàm ngă, hoặc là của linh hồn) vốn là cội nguồn của năng lượng đang đi đến, hoặc là tùy thuộc vào cung đang chi phối thể cảm dục trong trường hợp kẻ kém tiến hóa; nó cũng tùy thuộc vào tŕnh độ tiến hóa và vào ảnh hưởng bức xạ của các bí huyệt khác.
195
c.
Sự xuất hiện trong dĩ thái thể một bí
huyệt đă hay đang phát triển chỉ rơ vị trí
của con người trên thang tiến hóa, các liên kết
về chủng tộc, và mục tiêu hữu thức
của y; mục tiêu này có thể hoàn toàn thay đổi,
từ trọng điểm về đời sống tính
dục và hoạt động tất nhiên của bí
huyệt xương cùng, đến mục tiêu của điểm
đạo đồ, đưa bí huyệt đầu
đến hoạt động. Tất cả các
điều này tạo ra một hậu quả tất nhiên
trên hệ thống chung quanh, chất liệu và các h́nh hài có
tổ chức bên trong phạm vi ảnh hưởng
của bí huyệt. Vùng ảnh hưởng này thay
đổi tùy theo hoạt động của bí huyệt, và
điều này tùy thuộc vào tŕnh độ phát triển mà
cá nhân đă đạt được và loại năng
lượng trội hơn mà cá nhân đáp ứng lại.
3. Năng lượng đang đến được chuyển hóa bên trong bí huyệt thành sức mạnh. Điều này cần đến một tiến tŕnh biến phân thành các năng lượng cấp hai của năng lượng nguyên thủy đă nói đến, và là một diễn biến tự động; tốc độ của tiến tŕnh chuyển hóa, cường độ của việc thu nạp các lực kết thành và hoạt động bức xạ theo sau (tạo ra các kết quả chi phối trên nhục thân) đều tùy thuộc vào phạm vi của việc khai mở bí huyệt đặc biệt có liên quan, và trạng thái đă khơi hoạt hay chưa khơi hoạt của nó.
196
4. Các
lực hướng ra ngoài từ một bí huyệt tác
động trên đối phần dĩ thái của toàn
thể mạng lưới thần kinh phức tạp
đang tạo thành hệ thần kinh. Các đối phần
này với các tương ứng bên trong đồng
nhất được gọi là "nadis" theo Triết
lư Ấn giáo; chúng tạo thành một mạng lưới
phức tạp và mở rộng nhất của các năng
lượng uyển chuyển vốn là hệ thống
hữu h́nh, ở bên trong và song song với hệ thống
của các thần kinh trong cơ thể, mà hệ thống
sau này thực ra là một ngoại hiện của kiểu
mẫu các năng lượng bên trong. Cho đến nay,
trong Anh ngữ, hay trong bất cứ ngôn ngữ Âu Châu nào
không có từ ngữ nào tương ứng với từ
ngữ "nadi", lư do là v́ sự hiện hữu của
hệ thống bên trong này, cho đến nay vẫn chưa
được nhận ra, và chỉ có ư niệm duy vật
về các dây thần kinh như là một hệ thống
được tạo nên để đáp ứng với
môi trường hữu h́nh vẫn chế ngự ở
phương Tây. Ư niệm về các thần kinh này hiện
là kết quả vật chất trọng trược của
bộ máy đáp ứng bén nhạy bên trong mà khoa học Tây
phương hiện đại vẫn chưa biết và
chưa xác định được. Khi có được
nhận thức phù hợp với chất tinh anh này (bao
gồm các tuyến năng lượng) ẩn dưới
các dây thần kinh hiện ra rơ rệt hơn, chúng ta sẽ
tiến gần hơn đến toàn bộ vấn
đề sức khỏe và bệnh tật, và thế
giới nguyên nhân sẽ là thế giới gần gũi
hơn. Mạng lưới nadis này tạo thành một
kiểu mẫu sự sống rơ rệt, nó thay đổi tùy
theo cung phàm ngă.
5. Do đó, các nadis (tuyến lực) xác định bản chất và đặc tính của thần kinh hệ cùng với mạng lưới mở rộng của các dây thần kinh và các đám rối (plexi) đang bao phủ toàn bộ thể xác. Các nadis và tất nhiên là mạng lưới các dây thần kinh, có liên quan trước tiên với hai khía cạnh của vận cụ hồng trần của con người – bảy bí huyệt chính trong thể dĩ thái (một thể có thực đang ẩn dưới nhục thân), và cột xương sống với đầu. Phải luôn luôn nhớ rằng thể dĩ thái là một thể hồng trần, dù là được tạo thành bằng vật chất (material) tinh anh hơn vật chất mà chúng ta có thể thấy và sờ được. Nó được làm bằng chất liệu (substance) hay bằng những ǵ vốn đang "đứng dưới" ("substand") hay ở dưới (underlies) mọi phần và mọi cấu tử của nhục thân. Đây là một điểm mà sau này sẽ nhận được sự chú tâm của những nhà chữa trị và những nhà y học giác ngộ trong Kỷ Nguyên Mới. Khi sự liên hệ hiện có giữa các nadis và các dây thần kinh và mối liên hệ kết hợp đối với các bí huyệt và cột xương sống được hiểu rơ, chúng ta sẽ thấy một cuộc cách mạng vĩ đại trong các phương pháp y học và tâm thần. Kinh nghiệm sẽ có khuynh hướng chứng minh rằng sự tương tác giữa cả hai – nadis và dây thần kinh – được tạo ra càng chặt chẽ, th́ sự kiềm chế bệnh tật cũng được tiến hành nhanh hơn.
197
6. Các
nadis trong thể hồng trần tương ứng với
khía cạnh sự sống hay khía cạnh tinh thần; các
dây thần kinh th́ tương ứng với khía cạnh
linh hồn hay khía cạnh phẩm chất. Những ǵ
biểu lộ như là ngoại hiện hợp nhất
của chúng là hệ thống nội tiết, vốn phù
hợp với khía cạnh h́nh hài hay khía cạnh vật
chất. Cả ba – nadis, hệ thần kinh và các tuyến –
là các tương ứng vật chất với ba trạng
thái thiêng liêng. Về mặt huyền bí, chúng đáp ứng
với ba trạng thái này và chúng tạo ra những ǵ
đúng y với con người trên cơi trần. Chính ba nhóm
này, được chi phối (xuyên qua bảy bí huyệt
như chúng ta đă thấy trước kia) bằng thể
cảm dục hoặc thể trí, hay là bởi phàm ngă
hợp nhất, hay là bởi linh hồn đang bắt
đầu sử dụng phàm ngă như là nơi truyền
đạt và chuyển hóa năng lượng, và – vào lúc
kết thúc Con Đường Đệ Tử – bởi
Chân Thần, xuyên qua antahkarana, sử dụng con
đường được bản ngă tạo ra đó
như là một vận hà trực tiếp để thông
thương với bảy bí huyệt và từ đó
đến ba hệ thống của nadis, thần kinh và các
tuyến.
7. Ba hệ thống chính yếu này trong con người, biểu lộ qua thể xác, t́nh huống hay trạng thái phát triển của các bí huyệt. Sự sống, tính chất và năng lượng mà chúng tiêu biểu, được chuyển đến mọi phần của thể xác qua ḍng máu. Điều này, khoa học hiện đại đă đang nhận ra như một sự thực, bằng cách nói rằng ḍng máu chuyển đi một vài yếu tố đă được các tuyến phóng thích ra. Tuy nhiên, khoa học không nhận biết sự thực về mối liên hệ của các tuyến với các bí huyệt, với các hệ thống trung gian của nadis và các thần kinh. Tiến triển lớn kế tiếp trong y học sẽ là nhận ra sự thực về dĩ thái thể, chất hồng trần đang ẩn dưới vật chất trọng trược.
198
8. Khi
các bí huyệt được khơi hoạt khắp
thể xác, lúc bấy giờ sẽ có được
một hệ thần kinh có điện thế cao đáp
ứng với sự liên quan trực tiếp với
năng lượng do các nadis mang lại. Kết quả
của việc ấy sẽ là một hệ thống
nội tiết cân bằng. Sinh lực và sự sống
đang tuôn đổ qua khắp cơ thể, lúc bấy
giờ, sẽ mạnh đến nỗi mà thể xác
sẽ kháng lại bệnh tật một cách tự
động, hoặc là nội tại, di truyền, hoặc
là có nguồn gốc tập thể. Bằng các lời này,
tôi diễn tả cho các bạn một sự có thể
xảy ra trong tương lai, nhưng không phải xảy
ra liền tức khắc. Một ngày nào đó, con
người sẽ có ba hệ thống được
phối hợp hoàn hảo, đáp ứng về mặt tâm
linh với kiểu mẫu nội tại của các
tuyến lực và các bí huyệt, và kết hợp một
cách hữu thức với linh hồn, và sau đó, – xuyên qua
antahkarana – với nguyên khí Sự Sống (Life principle).
9. Ngày nay, v́ có sự phát triển không đồng đều, một số bí huyệt chưa được khơi hoạt, các bí huyệt khác quá bị kích thích, và với các bí huyệt dưới cách mô quá hoạt động, tất nhiên, các bạn có nhiều vùng của thể xác nơi mà các tuyến lực (nadis) c̣n ở trạng thái phôi thai, các vùng khác nữa, nơi mà chúng được truyền năng lượng cao, nhưng ḍng lưu thông của chúng bị chận đứng lại v́ một bí huyệt nào đó dọc theo tuyến hoạt động của chúng vẫn chưa được khơi hoạt, hay là – nếu đă khơi hoạt – vẫn không phóng phát (non - radiatory). Các điều kiện không đồng đều này tạo ra các hiệu quả mạnh mẽ trên hệ thần kinh và trên các tuyến, đưa đến việc quá bị kích thích trong một số trường hợp, ở t́nh trạng dưới b́nh thường trong các trường hợp khác, thiếu sinh lực, quá hoạt động và các phản ứng ngoài ư muốn khác mà tất nhiên sẽ tạo ra bệnh tật. Các bệnh như thế, hoặc là xuất phát từ trong chính thể xác như là kết quả của các khuynh hướng có sẵn (hay tôi nên nói là có tính cách địa phương), hoặc là do di truyền, hoặc là do các tố bẩm, hiện hữu trong mô của cơ thể; hoặc là chúng hiện ra như là kết quả của sự phóng phát hay là không phóng phát của các bí huyệt, vốn đang tác động qua các nadis; chúng cũng có thể hiện ra như là kết quả của các va chạm hay là tiếp xúc bên ngoài (như là các bệnh truyền nhiễm và bệnh dịch). Do bởi thiếu phát triển của các bí huyệt của con người, nên không thể kháng lại được các chứng bệnh này.
199
10.
Tổng kết: bệnh tật, tức sự bất
lực/ khiếm khuyết của thể xác thuộc
bất cứ loại nào (dĩ nhiên trừ trường
hợp bệnh tật do tai nạn và đối với
một số phạm vi, đối với các t́nh trạng
của hành tinh, kể cả các bệnh dịch có bản
chất độc hại đặc biệt mà chiến
tranh thường tạo ra) và nhiều khía cạnh khác nữa
của t́nh trạng sức khỏe kém cỏi có thể
được truy nguyên trực tiếp đến t́nh
trạng của các bí huyệt, v́ chúng xác định sự
hoạt động hoặc không hoạt động
của các nadis; đến phiên chúng, các nadis này tác
động vào hệ thần kinh, gây cho hệ thống
nội tiết cái mà chính trong con người cá biệt và
ḍng máu chịu trách nhiệm cho t́nh trạng này đi
tới mọi phần của cơ thể.
199
CÁC HIỆU QUẢ XẢY
RA TRONG CÁC VÙNG ĐẶC THÙ
Bây giờ, chúng ta hăy xét một vài hiệu quả của các sự kiện nói trên và hậu quả của chúng trên các vùng mà các bí huyệt chi phối, và trong đó bệnh tật xuất hiện.
Điều rơ rệt đối với các bạn là khi năng lượng tuôn đổ qua các bí huyệt, xuyên qua các tuyến năng lượng (nadis) và các dây thần kinh, tác động mạnh mẽ vào hệ thống tuyến và ḍng máu, các vùng của cơ thể trở thành có liên quan và đáp ứng một cách thiết yếu. Dĩ nhiên, vùng này bao gồm đầu, cổ họng và thân trên. Thế là năng lượng được gởi đi, xâm nhập vào mọi phần của thể xác, đến mọi cơ quan, mọi tế bào và nguyên tử. Chính tác động của tính chất năng lượng trên cơ thể gây ra, kích thích, loại bỏ hoặc làm giảm bớt bệnh tật.
Ở đây, tôi không đề cập đến ba bệnh chính yếu có tính cách bẩm sinh (tôi tạm gọi như thế) – ung thư, giang mai và bệnh lao. Ở sau, tôi sẽ bàn đến các bệnh này, bởi v́ chúng thuộc về phạm vi hành tinh, có trong vật chất mà mọi h́nh hài được tạo thành và có trách nhiệm để tạo ra một số đông các bệnh thứ yếu mà đôi khi được nhận thấy như là sát nhập vào nhưng thường được biết không phải thế.
200
Các
bệnh này được gọi một cách không đúng
lắm là bệnh tâm thần (mental diseases) và có liên quan
tới năo bộ, mà cho đến nay được
hiểu rất ít. Trong căn chủng vừa rồi, căn
chủng Atlantis, có rất ít bệnh tâm thần; bản
chất thể trí lúc bấy giờ là yên tịnh và ít kích
thích, được truyền đi qua các cơi phụ
của cơi trí, xuyên qua bí huyệt đầu đến tùng
quả tuyến và năo bộ. Có rất ít bệnh về
mắt và không có các bệnh về mũi v́ bí huyệt
ấn đường chưa được khơi
hoạt và mắt thứ ba nhanh chóng trở nên không hoạt
động. Bí huyệt ấn đường là cơ quan
của phàm ngă hội nhập, vận cụ để
điều khiển và có liên quan chặt chẽ với
tuyến tùng quả và hai mắt, cũng như với
tất cả các vùng trước của đầu. Vào
thời Atlantis, sự hội nhập của phàm ngă không
được biết đến nhiều ngoại
trừ trường hợp các đệ tử và
điểm đạo đồ, lúc bấy giờ luôn luôn
là mục tiêu của điểm đạo đồ và
dấu hiệu thành đạt của vị này là sự
hội nhập ba phần này. Ngày nay, mục tiêu là tiến
tới một hợp nhất c̣n cao hơn nữa – hợp
nhất của linh hồn với phàm ngă. Nói theo thuật
ngữ về năng lượng, điều này liên quan
sự thành lập, hoạt động và sự
tương tác đă được nhắc đến
của các tam giác lực sau đây:
I - 1. Linh hồn, tức con người tâm linh trên cơi riêng của nó.
2. Phàm ngă, con người tam phân hội nhập trong ba cơi thấp.
3. Bí huyệt đầu.
II - 1. Bí huyệt đầu, điểm dung hợp thứ hai.
2. Bí huyệt ấn đường, điểm dung hợp thứ nhất.
3. Bí huyệt trong tủy sống kéo dài, kiểm soát xương sống.
III - 1. Tuyến tùng quả, ngoại hiện của bí huyệt đầu.
2.Tuyến yên, liên quan đến bí huyệt ấn đường.
3. Tuyến động mạch cổ, ngoại hiện của bí huyệt đầu thứ ba.
Tất cả các bộ ba này nằm trong phạm vi của đầu, tạo ra cơ chế mà qua đó:
1. Linh hồn kiềm chế khí cụ của nó, tức phàm ngă.
2. Phàm ngă điều khiển các hoạt động của thể xác.
201
Cột
xương sống (về mặt huyền bí là các vận
hà ida, pingala và sushumna), hai mắt và toàn thể năo bộ
đều dễ tiếp thu, bị kích thích bởi, hay là
không tiếp thu với các năng lượng trong
đầu. Trong trường hợp sau, toàn bộ khu
vực ở trạng thái tĩnh, nói về mặt tinh
thần, và tụ điểm của năng lượng
ở nơi khác.
Sự khiếm khuyết này hay là sự kích thích, nếu thiếu quân b́nh hay nếu dùng sai, sẽ tạo ra một số loại bệnh tật rơ rệt, thường thường có bản chất sinh lư cũng như tâm lư, và trong thời Aryan của chúng ta, chúng ta sẽ thấy số bệnh thuộc năo bộ đang tăng thêm (sự mất quân b́nh trí óc thường xuyên tăng thêm), và các bệnh về mắt, cho đến khi bản chất của các bí huyệt và loại thần lực đang đến và sự điều ḥa của chúng được nhận biết và nghiên cứu một cách cẩn thận và khoa học. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ thấy khoa học về sự điều ḥa năng lượng sẽ phát triển v́ nó chi phối con người. Trong lúc này, có nhiều khó khăn khắp nơi và có nhiều bệnh tâm trí, các t́nh trạng kích thích thần kinh, điên loạn, và có lẽ ngay cả nhiều sự mất quân b́nh về tuyến thường thấy đang trên đà bành trướng. Ngày nay, ở phương Tây, người ta ít biết về các phương pháp kiềm chế hoặc chữa trị, c̣n ở phương Đông, nơi có một ít hiểu biết, lại không có thực hành do tính hờ hững hiện có ở đó.
Cột xương sống trước tiên được dự liệu làm vận hà, nhờ đó, việc truyền năng lượng của các bí huyệt và việc phân phối năng lượng cho các vùng chung quanh của cơ thể được tiến hành bởi phàm ngă hội nhập sáng suốt, hành động dưới sự điều khiển hữu thức của linh hồn. Ở đây, tôi không nói đến cấu tạo xương của cột xương sống, mà nói đến dây sống, đối phần huyền bí của nó và nói đến các thần kinh xuất phát từ xương sống. Ngày nay, không có sự kiềm chế năng lượng được sắp xếp, điều khiển về mặt huyền bí, ngoại trừ trong trường hợp những kẻ có được tâm thức của điểm đạo đồ và một vài đệ tử đă tiến hóa. Có các ức chế, tắc nghẽn, những vùng chưa được khơi hoạt, thiếu sinh khí, thiếu sự tuôn chảy thông suốt và tất nhiên là thiếu sự phát triển bên trong toàn thể con người; nếu không có quá nhiều sự kích thích, rung động quá nhanh, sự khơi hoạt quá sớm của các bí huyệt, dẫn đến việc hoạt động quá mức của các nguyên tử và các tế bào bị chi phối bởi bất cứ bí huyệt đặc biệt nào. Tất cả các t́nh trạng này cùng với nhiều t́nh trạng khác không được ghi nhận, tác động vào hệ thần kinh, điều khiển các tuyến và tạo ra khó khăn và bệnh hoạn về mặt tâm lư dưới h́nh thức này hoặc h́nh thức khác. Các bạn có sơ đồ của cột xương sống và đầu sau đây, tuy đon giản, nhưng đủ gợi ư và tượng trưng, khi nh́n cả hai theo khía cạnh của các bí huyệt và các tuyến:
202
Bí huyệt cổ họng … Tuyến giáp trạng
Bí huyệt tim … Tuyến ức Tim
Huyệt đan điền … Tụy tạng
Bí huyệt xương cùng … Tuyến sinh dục
Bí huyệt ở chót … Tuyến
xương sống thượng thận
203
Các
bạn nên chú ư rằng lá lách không được kể
trong sơ đồ này. Chức năng của nó là một
chức năng đặc biệt, vốn là bí huyệt
của sinh lực liên quan với sinh lực hành tinh và
bức xạ từ mặt trời. Nó không được
kiểm soát bằng bất cứ cách nào từ cột
xương sống. Cần phải nhớ rằng sơ
đồ này chỉ là một cố gắng để liên
kết cách diễn tả các bí huyệt bằng h́nh
ảnh, các tuyến mà chúng chi phối và các cơ quan
đang chịu ảnh hưởng của cả hai. Không
có dụng tâm tạo một h́nh ảnh xác thực của
bất luận các liên hệ sinh lư của cơ quan nào.
Bí huyệt ở chót xương sống có một chức năng duy nhất. Chính là với chất liệu của cơ thể, với mô vật chất và với mọi chất liệu không bao hàm trong các cơ quan đă được nói đến ở trên, cội nguồn của sự sống. Trong con người hoàn thiện, hai bí huyệt (bí huyệt cao nhất ở đầu và bí huyệt căn bản) tượng trưng cho lưỡng nguyên vĩ đại là tinh thần và vật chất, và bấy giờ, chúng kiềm chế và chi phối, trong trạng thái ḥa hợp hoàn hảo, toàn bộ chiều hướng của hiện thể của linh hồn. Sau rốt, bạn sẽ có trạng thái tinh thần của chính biểu lộ của con người một cách hoàn hảo qua Chân Thần và phàm ngă kết hợp (xảy ra bằng một sự phối hợp chủ yếu lớn lao thứ ba). Lúc bấy giờ, con người vật chất đáp ứng với cả hai xuyên qua bí huyệt đầu (Chân Thần) và bí huyệt căn bản (phàm ngă được tinh thần truyền năng lượng). Cả hai bí huyệt này bây giờ sẽ được liên giao hoàn toàn, biểu lộ bản chất đầy đủ của Chân Nhân.
204
Điều
chủ yếu là những nhà chữa trị tâm linh nên có
một cách rơ ràng trong trí họ h́nh ảnh của các khu
vực trong cơ thể vốn được chi phối
bởi bí huyệt đầu và các bí huyệt khác, bởi
v́ bên trong các vùng này là các cơ quan khác nhau, chúng phản
ứng lại với bệnh. Sự khỏe mạnh
của các cơ quan này phần lớn tùy thuộc vào các bí
huyệt v́ chúng chi phối các tuyến và v́ năng
lượng được phân phối khắp cơ
thể. Một ḍng năng lượng đầy
đủ và quân b́nh từ bí huyệt vào vùng mà nó kiểm
soát, đưa đến sự đối kháng
thường được gọi là bệnh tật;
nơi nào thiếu sự phát triển và có t́nh trạng
thiếu quân b́nh, nơi nào mà các bí huyệt có liên quan
đến, nơi đó sẽ không có sức mạnh
đối kháng. Tiến tŕnh chữa trị trong Kỷ
Nguyên Mới sẽ khởi đầu bằng công tác
được hoạch định một cách rơ rệt
với các bí huyệt, và khuynh hướng tổng quát
của thuật chữa trị lúc bấy giờ sẽ là –
như bạn có thể thấy một cách dễ dàng – pḥng
bệnh một cách tự nhiên hơn là chữa bệnh.
Toàn bộ tầm quan trọng sẽ ở trên các bí
huyệt mang năng lượng, các luồng năng
lượng và phương hướng của năng
lượng đối với các cơ quan trong phạm vi
ảnh hưởng của bất luận bí huyệt
đặc biệt nào. Do nghiên cứu các tuyến (một
nghiên cứu nhiều vào thời kỳ trứng
nước của nó, cho rằng nó khó xứng đáng
với từ ngữ "c̣n phôi thai") nhiều
điều sẽ được biết rơ về sau này
về tương quan của chúng đối với các bí
huyệt và nhiều công tác thực nghiệm sẽ
được thi hành. Theo quan điểm của nhà
huyền bí học – kẻ đă thừa nhận sự
thực về các bí huyệt – th́ các tuyến vượt
trội nhất, là nhân tố quyết định chính liên
quan tới sức khỏe tổng quát của một cá
nhân; không những chúng báo hiệu sự phát triển tâm lư
c̣n hơn là ngày nay người ta hiểu, mà chúng c̣n có (v́
c̣n bị y khoa khoa chính thống nghi ngờ) một hiệu
quả mạnh mẽ nhất trên toàn bộ hệ
thống cơ quan; ảnh hưởng của chúng, xuyên qua
ḍng máu, đi đến mọi phần của cơ thể
và đến tứ chi. Các tuyến là kết quả
của hoạt động của các bí huyệt; chúng là kết
quả của các nguyên nhân được sắp xếp
bên trong vào lúc đầu, lúc cuối và mọi lúc, và chính
là nhờ các bí huyệt và các tuyến liên hệ của
chúng mà linh hồn tạo được bộ máy trên cơi
trần mà chúng ta gọi là con người hồng trần.
205
Do
đó, nhóm các yếu tố liên hệ mà chúng ta bàn
đến, phải được nghiên cứu cẩn
thận và phải được bất luận nhà
chữa trị thực hành nào hiểu rơ, v́ sau rốt, y
sẽ phải hoạt động qua chính các bí huyệt
của y trong mối liên quan với bệnh nhân mà y đang
nỗ lực chữa trị. Tất nhiên, y phải
nhớ ba yếu tố: các bí huyệt, các tuyến liên
hệ và nhóm các cơ quan nhờ đó hai phần này
chịu trách nhiệm. Trong bảy vùng của cơ thể,
chúng ta bị chi phối bởi bảy bí huyệt chính các tuyến
liên hệ của chúng, bộ ba căn bản của
biểu lộ lại xuất hiện:
1. Sự sống hay tinh thần …… trung tâm năng lượng
2. Linh hồn hay phẩm tính … tuyến
3. Sắc tướng hay vật chất … các cơ quan trong bất cứ vùng đặc biệt nào bị bất luận bí huyệt nào chi phối.
Điều này đưa chúng ta đến một định luật khác mà nhà chữa trị phải luôn luôn ghi nhớ:
ĐỊNH LUẬT VII
Khi sự sống hay năng lượng tuôn chảy không bị ngăn trở và qua đúng hướng đến chỗ phóng hiện của nó (tuyến liên hệ), lúc bấy giờ h́nh hài đáp ứng và sức khỏe kém cỏi liền tan biến.
Đây là một định luật chữa trị căn bản và có liên quan tới sự khéo léo thực sự để liên kết năng lượng tinh thần với sự sống sắc tướng, và sức khỏe cùng với sinh lực của các cơ quan tùy thuộc vào đó. Do đó, chúng ta đi đến qui luật kế tiếp mà nhà trị liệu phải quán triệt. Điều này được diễn tả một cách rơ rệt và các nhóm từ dùng để truyền đạt giáo huấn phải được hiểu rơ và áp dụng một cách sáng suốt.
QUI LUẬT NĂM
Nhà trị liệu hăy tập trung năng lượng cần thiết bên trong bí huyệt cần thiết.
Hăy để cho bí huyệt đó phù hợp với bí huyệt cần thiết.
Hăy để cho cả hai ăn khớp nhau và cùng tăng thêm sức mạnh.
Như thế, h́nh hài đang chờ đợi sẽ được thăng bằng trong công việc của nó.
Như thế cái thứ hai và cái thứ nhất ở đúng hướng, sẽ có tác dụng chữa trị.
206
Do
đó, điều hiển nhiên đối với bạn là
các nhà trị liệu hiện nay (ở đây tôi không
nhắc đến giới y khoa mà nói đến số
lớn trong nhiều trường phái tư tưởng)
tuy vậy, không trở lại với yếu tố căn
bản, mặc dù mọi cuộc nói chuyện của
họ liên quan đến t́nh thương vốn là mănh
lực chữa trị. Trong thực tế, chúng
được nhấn mạnh và liên hệ đến
động lực đang thúc đẩy nhà chữa trị
vận dụng thuật chữa trị của ḿnh. Chúng có
liên quan đến phương tiện mà nhờ đó có
thể tiếp xúc với bệnh nhân cần
được chữa trị. Tiếp xúc đó lúc nào
cũng phải được thiết lập dựa trên
Ḷng Bác Ái – có tính cách mới mẻ, thúc ép và vô kỷ.
Nhưng một khi mối liên hệ đó được
thiết lập, nhà chữa trị phải hiểu rơ
sự kiện là, bao lâu mà y c̣n liên hệ đến, y
phải làm việc một cách khoa học; y phải áp
dụng sự hiểu biết, và – sau khi chẩn đoán
đúng, sau các phương pháp chữa trị hiện
đại đúng đắn, sau lương tri đúng, nó
bao hàm cái tốt nhất mà y học đă được
thử thách có thể mang lại – lúc bấy giờ, y
phải bắt đầu hành động qua bí huyệt
của riêng y, để cho nó tiếp xúc với bí huyệt
trong người bệnh đang chi phối vùng suy yếu
hay là cơ quan bị bệnh.
Khi y làm như thế, năng lượng mà ư định bác ái và sự hiểu biết khéo léo đă được rút ra và mang lại, th́ không được phép (trong tiến tŕnh chữa trị) để kích thích hay ảnh hưởng đến các tuyến liên hệ của chính người chữa trị, hoặc tạo ra tác động trong vùng liên hệ của thể xác riêng y. Nhà chữa trị phải biết cách ly chính ḿnh với năng lượng phải được dùng nhân danh người bệnh. Y phối hợp nó với năng lượng của bí huyệt bệnh nhân đang chi phối vùng bị bệnh; tuyến có liên kết bây giờ được mang lại năng lượng gấp đôi (hoặc giảm bớt khi có thể và tùy sự chẩn đoán) và ḍng máu phóng rải vào mô bị bệnh những ǵ cần để chữa trị hay là ngăn ngừa sự tăng trưởng của bệnh.
207
Trong
phần giáo huấn này, tôi đă đưa ra cho bạn
nhiều điều cần suy gẫm. Tôi đă nhấn
mạnh một khía cạnh của khoa chữa trị theo
huyền môn mà trước kia chưa được sự
chú ư của các nhà nghiên cứu. Tôi muốn các bạn
hiểu được bức họa tổng quát và có
được các nét diễn tiến rơ rệt; tôi muốn
giúp bạn nghiên cứu sự liên hệ giữa nhà
chữa trị và bệnh nhân khi y vượt ra khỏi
giai đoạn chỉ yêu thương và đưa ra t́nh
thương hay là ra khỏi việc nh́n thấy bệnh
nhân dưới ánh sáng của t́nh thương, và nối
tiếp công tác khoa học để tăng thêm năng
lượng tinh thần của chính bệnh nhân. Như
vậy, người bệnh giúp cho y thực hiện cách
chữa trị riêng của ḿnh một cách hữu ư hay vô
tâm.
Do đó, bạn sẽ có nhà chữa trị, bệnh nhân và nơi chứa năng lượng tinh thần, cộng với tiến tŕnh khoa học để đem cả ba vào một liên hệ chữa trị chặt chẽ. Điều này được tạo ra xuyên qua bí huyệt liên hệ trong vận cụ của bệnh nhân, bí huyệt tương ứng trong vận cụ của nhà chữa trị, và chiều hướng (bằng một tác động của ư chí nhà chữa trị hoặc của nhóm chữa trị) của các ḍng kết hợp của năng lượng đặc thù cần có đối với vùng bị bệnh. Điều này thường được tạo ra xuyên qua tuyến liên hệ, dù không phải luôn luôn như thế.
Hăy suy tưởng về các điều này và xem xét, nếu có thể, sự đơn giản của tiến tŕnh được dựa trên ư định bác ái, nó cách ly vùng đặc biệt trong đó bệnh tật đang xảy ra, nó tự đồng hóa với trung tâm năng lượng tinh thần trong người bệnh, và lúc bấy giờ áp đặt và điều khiển các năng lượng đă được phối hợp và ḥa lẫn.
CÁC HIỆU QUẢ CỦA VIỆC KÉM KÍCH THÍCH
VÀ QUÁ KÍCH THÍCH CỦA CÁC BÍ HUYỆT
208
Thỉnh
thoảng, chúng ta đă khảo sát các bí huyệt và liên quan
giữa chúng với nhục thể. Chúng ta cũng đă ghi
nhận các vùng vốn bị chi phối bởi các bí
huyệt này và công việc trung gian của các tuyến
nội tiết. Chúng ta đă thấy rằng hai nguyên nhân
chính mở đường cho bệnh thể xác, xuất
phát từ bên trong cơ cấu vật chất, ít chịu
kích thích hay là quá kích thích của các bí huyệt. Như các
bạn nhớ lại, cũng có ba loại bệnh vốn
có sẵn trong chính vật chất, và do đó tạo ra thiên
hướng căn bản bên trong cơ thể con
người: ung thư, giang mai và lao. Vào lúc này, chúng ta không
bàn đến ba loại bệnh này. Nhưng về mặt
căn bản, t́nh trạng các bí huyệt tạo ra mọi
khó khăn, cho phép thâm nhập vào các lây nhiễm và các
mầm bệnh vốn có thể không gây bệnh trong
trường hợp khác, tạo ra các t́nh huống mà các
bệnh tật có sẵn trong phàm nhân có thể
được thúc đẩy, và làm cho các khuynh
hướng bất đắc dĩ trở thành mạnh
mẽ. Tất nhiên, chúng ta có thể đưa ra tiền
đề (điều mà giới y học sau này sẽ
chấp nhận một cách toàn bộ) rằng bệnh
tật vốn tự sinh ra (tôi tạm dùng một nhóm
từ kỳ lạ và không thích hợp như thế) và
vốn không phải là kết quả của sự lây
nhiễm hay của các tai nạn, được tạo ra
do sự thất bại, sự giới hạn, sự
khiếm khuyết hoặc sự quá trớn và bởi sự
quá phát triển hay là kém phát triển của hệ thống
tuyến nội tiết. Hệ thống nội tiết
này, xuyên qua các kích thích tố, tác động vào mọi
phần của cơ quan vật chất xuyên qua ḍng máu – và
do đó, có thể được cho là đúng khi các
tuyến nội tiết hoàn toàn được thăng
bằng và tác động một cách chính xác, sẽ không có
nơi nào bị bệnh trong cơ thể. Ḍng máu, lúc
bấy giờ cũng sẽ được giữ trong
một t́nh trạng hoàn hảo. Manh mối để có
được sức khỏe thể chất hoàn hảo
như đă được một Thánh sư minh triết
diễn tả, tất nhiên có thể được truy
nguyên trực tiếp đến việc kiểm soát
đầy đủ các bí huyệt của Ngài đối
với trạng thái thăng bằng của việc
tiếp nhận và phân phối năng lượng, và
đến kết quả mà chúng tạo ra trên toàn bộ
hệ thống tuyến nội tiết. Bằng cách này,
mọi vùng của cơ thể được cung cấp
một cách thích hợp bằng các thần lực cần
thiết, và như vậy được giữ ở t́nh
trạng hoàn hảo.
Tiến đến nửa đường giữa các bí huyệt với các tuyến nội tiết tương ứng và tác động như là tác nhân phân phối năng lượng, là hệ thần kinh. Tuy nhiên ở đây cũng thường gặp khó khăn. Đó là thiếu luồng năng lượng thích hợp; năng lượng được phân phối bằng các phương tiện của nó đến cơ thể xuyên qua các bí huyệt được phân phối không đồng đều; một số bí huyệt được cung ứng quá mức, các bí huyệt khác nhận một số lượng không thích hợp; một vài bí huyệt vẫn chưa được khơi hoạt, và do đó, không có tính tiếp nhận; các bí huyệt khác nữa phát triển sớm và chuyển quá nhiều thần lực vào các vùng mà chúng chi phối. Theo y học huyền bí và theo sự diễn dịch có tính triết lư của nó (cuối cùng chỉ là áp dụng có hiệu quả và thực tiễn về các sự kiện đă biết) chính trạng thái năo tủy đang điều khiển và chi phối toàn bộ hệ thần kinh, v́ chính nhờ trạng thái này và qua lực gây tác động của nó mà các bí huyệt hoạt động và có ảnh hưởng đến bộ máy của xác thân, cung cấp cho cơ thể sinh năng cần thiết; như vậy, sau rốt thông qua 7 bí huyệt, hệ thần kinh trở nên đáp ứng với 7 năng lượng chính hay là thần lực của 7 cung.
209
Không
ở trong một người nào, ngoại trừ một
Thánh Sư, mà tất cả các bí huyệt được
khơi hoạt thích đáng và hoạt động một
cách thăng bằng, chúng cũng không được liên
kết một cách thích đáng nhờ bức xạ
mạnh mẽ; không ở trong một người nào mà
hệ thần kinh đáp ứng một cách chính xác với
các bí huyệt. Có hai lư do về việc này, cả hai
đều có liên quan tới hệ năo tủy:
1. Bí huyệt đầu chưa được khơi hoạt hay là chỉ phát triển một cách chậm chạp, khi đệ tử tự đặt ḿnh vào việc tập luyện.
2. Luồng năng lượng thông qua đầu đến các bí huyệt trên xương sống vốn không đồng đều, do sự kiện là ḍng năng lượng đi vào không đồng đều, và rằng do mạng lưới dĩ thái – giữa các bí huyệt – cho đến nay chỉ cho phép rất ít năng lượng tuôn chảy qua tất cả các huyệt.
Cần nên nhớ rằng, trong giai đoạn mở đầu, sự sống của các bí huyệt được tạo ra trên sự sống vốn có của chính các cơ quan, với sự tập trung sự sống phát tán ra để được thành lập trong bí huyệt ở chót xương sống. Đây là một điểm thường hay bị các nhà thần bí học bỏ quên. Bí huyệt căn bản này là bí huyệt mà qua đó sự sống của chính vật chất tác động; đây là sự sống hay năng lượng của Ngôi Thánh thần, tức Ngôi Ba. Nhờ chính sự sống đó mà mỗi nguyên tử trong cơ thể được nuôi dưỡng. Diễn tŕnh làm linh hoạt vật chất này của sắc tướng cơi trần được khởi đầu trong thời kỳ tiền sinh. C̣n sau khi sinh, loại thần lực này được trợ giúp và được đi song song bởi luồng prana hành tinh đi vào hay là sinh năng (vital energy) từ chính sự sống hành tinh, xuyên qua lá lách. Đây là cơ quan liên kết chính yếu giữa sự sống có sẵn của chính vật chất, khi hiện hữu trong tiểu thiên địa và sự sống có sẵn trong hành tinh.
210
Khi
sự tiến hóa tiếp diễn, dần dần có thêm vào
thần lực cố hữu này một ḍng năng
lượng "đủ phẩm chất"
("qualified") chảy vào, vốn là biểu lộ
của trạng thái tâm thức của thiên tính, và nêu ra cho
nhà thần bí học trạng thái ư thức của con
người và cũng là loại cung của linh hồn y.
Ḍng thần lực chảy vào này xuất phát từ Ngôi Hai
thiêng liêng, từ linh hồn hay Đức Christ nội tâm.
Do đó có thể phát biểu liên quan tới hai bí huyệt
ở đầu như sau:
1. Bí huyệt ấn đường hay bí huyệt phàm ngă, tập trung giữa hai chân mày và chi phối tuyến yên, có liên hệ với toàn bộ sự sống của cơ cấu tam phân hội nhập. Qua cơ cấu này, tâm thức tất phải tự biểu lộ và các thể xác, thể t́nh cảm và thể trí biểu lộ tŕnh độ tiến hóa của nó.
2. Bí huyệt đầu (trong triết lư Ấn giáo gọi là hoa sen ngàn cánh) chi phối tuyến tùng quả và liên kết với sự sống của linh hồn, và – sau kỳ điểm đạo thứ ba – liên kết với sự sống của Chân Thần; nó truyền đến các bí huyệt năng lượng của ba loại thực thể tinh thần chủ yếu mà ba thần lực của phàm ngă là các phản ánh hay đối phần hồng trần của nó.
211
Sau này,
năng lượng từ trạng thái tinh thần, tức
Ngôi Một hay Ngôi Cha, sẽ trở nên hữu dụng và
sẽ tuôn đổ xuống qua bí huyệt đầu
đến bí huyệt ấn đường, phối
hợp năng lượng của phàm ngă với năng
lượng của linh hồn. Kế đó bằng
một tác động của ư chí, nó được
hướng xuống cột xương sống, xuyên qua bí
huyệt hành tủy, bí huyệt này đang chi phối
tuyến động mạch cổ. Khi nó chuyển
xuống cột xương sống, nó đem lại sinh
khí cho hai trạng thái của các bí huyệt; khi nó đi
đến bí huyệt căn bản, nó phối hợp
với năng lượng tiềm tàng của chính vật
chất, và do đó, bạn có sự hợp nhất của
tất cả ba năng lượng thiêng liêng và sự
biểu lộ trong con người của ba trạng thái
thiêng liêng. Các năng lượng được phối
hợp này bấy giờ đổ xô đến vận hà
trung ương trong cột xương sống, và trạng
thái thứ ba hay trạng thái tiếp nhận cao nhất
của các bí huyệt được truyền năng
lượng. Như vậy, tất cả các bí huyệt
được biểu hiện đầy đủ;
tất cả các giới hạn bị phá hủy; mọi
phần của cơ thể được mang lại sinh
lực và sự hoàn thiện vật chất
được tạo ra, cộng thêm với sự
hoạt động đầy đủ của tâm
thức đă giác ngộ và cũng của trạng thái
sự sống.
Lúc bấy giờ, hệ thần kinh nằm dưới sự kiềm chế hoàn toàn của chân ngă, c̣n ḍng máu được tinh lọc và trở thành một vận hà thông suốt và thích hợp cho việc lưu thông của những ǵ mà các tuyến mang năng lượng phóng ra. Đây là ư nghĩa huyền bí của các lời trong Thánh Kinh: "Máu là sự sống", và cũng của các lời "được cứu bằng máu của Đức Christ". Không phải bằng máu của Đức Christ chết cách đây 2000 năm trên Thập giá ở Palestine mà con người được cứu, mà là bởi sức sống (livingness) của máu của những kẻ mà nơi họ sự sống Christ và tâm thức Christ và phẩm đức của Đấng Christ được minh chứng và biểu lộ một cách hoàn hảo. Lúc bấy giờ khi bản chất của Đức Christ nội tại tự biểu lộ một cách đầy đủ, không g̣ bó và một cách tự động và thông qua phàm ngă, ba loại lửa của tiến tŕnh sáng tạo – lửa vật chất, lửa của linh hồn và lửa điện của Tinh Thần – được phối hợp, và bấy giờ có một biểu lộ đầy đủ trên cơi trần của kiếp sống vật chất, của sự sống t́nh cảm và sự sống trí tuệ, và cũng của sự sống tinh thần của một Đứa Con đang lâm phàm của Thượng Đế, một Christ.
212
Chính
ở tŕnh độ hiểu biết này mà rất nhiều
người đáng tôn kính đi lạc đường,
đặc biệt là trong các phong trào Khoa học tâm
thần, trong phong trào hợp nhất và trong Khoa học Công
giáo. Thay v́ tập trung nỗ lực của họ
để đạt cuộc sống thanh khiết của
Đức Christ trong đời sống hằng ngày, và hành
động với tư cách những người phụng
sự hiến dâng của huynh đệ họ và với
tư cách các vận hà cho t́nh thương, và chỉ
biết đến tâm thức của tổng thể,
họ lại tập trung vào việc xác định một
sự hoàn thiện tương lai – bằng tinh thần và
bằng lời nói – để có được sức
khỏe tráng kiện và tiện nghi vật chất. Họ
xem việc đó như là quyền lợi và bổn
phận của họ phải đạt được
bằng sự xác tín, và quên đi công việc khó nhọc
cần để mang lại trong chính họ các t́nh
trạng vốn sẽ tạo ra Đấng Christ biểu
hiện thiêng liêng hiện nay. Họ cần ghi nhớ
rằng sức khỏe tráng kiện sẽ trở nên b́nh
thường và có tính minh giải nếu ư thức bên trong
trở nên vô tổn hại (và đa số những kẻ
này đều phạm tội có một tinh thần phê phán
cao) nếu họ phá được ngă chấp trong ba cơi
thấp, và nếu họ được "trụ vào cơi
trời, nhờ đó giúp cho Con của Nhân loại ở
cơi Trời vốn là Con của Thượng Đế
sống cuộc sống Thiên Đường khi c̣n xa cách
với cơi Trời"– như một nhà thần bí Cơ
Đốc thời cổ từ lâu bị quên lăng,
thường nói. Các lời của Ngài đă
được Thánh Sư M. ghi nhớ – và nhờ vậy
gợi lại sự chú tâm của tôi.
Một trường phái tư tưởng khác tự dán nhăn một cách dối trá giả làm những nhà huyền linh học, cũng sai lầm như vậy. Họ tác động hay đúng hơn, tự cho là tác động được với các bí huyệt, chỉ may cho họ là thiên nhiên thường bảo vệ họ chống lại chính họ. Họ quyết tâm nỗ lực để đem sinh lực cho các bí huyệt, để thiêu rụi mạng lưới bảo vệ, và để khơi dậy các lửa vật chất trước khi lửa tinh thần được phối hợp với lửa của linh hồn. Bấy giờ, họ trở thành nạn nhân cho sự kích thích sớm của các lửa vật chất trước khi sự quân b́nh của các lực có thể xảy ra. Bệnh hoạn, điên cuồng và nhiều t́nh trạng loạn thần kinh thêm vào các t́nh trạng bệnh lư trầm trọng lúc đó sẽ xảy ra. Một số tuyến trở nên quá hoạt động; các tuyến khác bị bỏ sót và toàn thể hệ thống tuyến và hệ thần kinh phụ thuộc lâm vào t́nh trạng mất quân b́nh hoàn toàn.
213
Đệ
tử cần phải học cách tập trung sự chú tâm
của họ vào thực tại và vào các yếu tố có
tầm quan trọng tinh thần hàng đầu. Khi họ
làm điều này, các năng lượng trong đầu,
việc sử dụng đúng khu vực xương
sống với các "bí huyệt xâu thành chuỗi" và
việc khơi hoạt bí huyệt căn bản và sự
phối hợp tất nhiên của nó với các năng
lượng cao sẽ là một diễn biến tự
động và hoàn toàn an toàn.
Nhịp điệu theo thứ tự của hệ thống tuyến và việc vận dụng thông suốt, an toàn của hệ thần kinh được kiềm chế bấy giờ có thể xảy ra; các năng lượng được đưa ra từ bí huyệt, xuyên qua các nadis, sẽ được liên kết một cách an toàn và mang lại tác động tổng hợp bên trong cơ thể, c̣n đệ tử sẽ trải qua không những chỉ một tâm thức khơi hoạt đầy đủ và một bộ óc bao giờ cũng tiếp thu một cách sáng suốt, mà c̣n một sự sống tâm linh luôn luôn tuôn vào. Lúc bấy giờ, sẽ có sự cân bằng hoàn hảo và sức khỏe hoàn hảo vốn biểu thị đặc điểm của một Thánh Sư Minh Triết.
214
Sự
hiểu biết liên quan đến các tuyến nội
tiết, cho đến nay, vẫn c̣n ở t́nh trạng phôi
thai. Nhiều điều được biết về các
tuyến liên hệ với bí huyệt xương cùng và
về tuyến giáp trạng, nhưng cho đến nay,
một cách tự nhiên, giới y khoa không thừa nhận
rằng chúng là hiệu quả của hoạt động
hay bất động của các bí huyệt, hay thừa
nhận rằng có một đường lối ít bị
đối kháng nhất giữa bí huyệt xương cùng
với bí huyệt cổ họng. Một số
điều được biết (không nhiều) về
tuyến yên, nhưng sự cực kỳ quan trọng
của nó khi nó có ảnh hưởng tới đáp ứng
tâm lư của con người th́ không được biết
đầy đủ. Nói đúng ra, không có điều ǵ
được biết về tuyến tùng quả hoặc
tuyến thymus (ức) và bởi v́ không phải bí huyệt
đầu, cũng không phải bí huyệt tim
được khơi hoạt nơi người chưa
phát triển, hay ngay cả trong người b́nh
thường. Đành rằng một sự phong phú đáng
kể về kiến thức liên quan đến bí huyệt
xương cùng (như là cội nguồn sáng tạo
vật chất), và các hậu quả chi phối của
tuyến giáp trạng do bởi sự kiện là cả hai
bí huyệt này được khơi hoạt trong một
người b́nh thường, và khi sự vận hành
được thích hợp và sự tương tác cần
thiết được thiết lập, bấy giờ
bạn có được một người có nhu cầu
tính dục cao, y cũng là một nghệ sĩ sáng tạo
theo đường lối nghệ thuật nào đó.
Điều này rất thường thấy, như bạn
đă biết. Khi bí huyệt ấn đường và
ngoại hiện của nó, tức tuyến yên, cũng linh
hoạt, và mối liên hệ giữa ba bí huyệt – sinh
dục, cổ họng và ấn đường –
được khơi hoạt và đang bắt đầu
tác động, và mối liên hệ hữu thức rơ
rệt được thiết lập giữa nó với
các bí huyệt khác (tùy cung, tùy mục đích hữu ư và có
luyện tập), bấy giờ bạn sẽ có nhà
thần bí thực tiễn, người nhân đạo và
nhà huyền linh học.
Người nghiên cứu nên nhớ rằng cả hai khuynh hướng năng lượng lên và xuống bên trong toàn bộ cấu trúc của các bí huyệt nơi mà người t́m đạo và đệ tử có liên hệ:
1. Khuynh hướng đi lên .. tạo ra chuyển hóa. Từ bí huyệt xương cùng đến bí huyệt cổ họng. Sáng tạo vật chất được chuyển hóa thành sáng tạo nghệ thuật.
Từ huyệt đan điền đến bí huyệt tim. Ư thức t́nh cảm cá nhân được chuyển hóa thành ư thức tập thể.
Từ bí huyệt chót xương sống đến bí huyệt đầu. Sức mạnh vật chất được chuyển hóa thành năng lượng tinh thần.
Từ bất cứ hay là tất cả của năm bí huyệt ở xương sống đến bí huyệt ấn đường. Sự sống thiếu phối kết được chuyển hóa thành sự hội nhập của phàm ngă.
Từ sáu bí huyệt liên quan đến bí huyệt đầu cao nhất. Hoạt động phàm ngă được chuyển hóa thành cách sống tinh thần.
215
Đây
là một khái quát hóa rộng lớn và tiến tŕnh không
được xúc tiến bằng bất cứ kiểu
cách liên tục hoặc là êm xuôi và theo tŕnh tự như
bảng biểu ở trên có thể gợi ra. Tiến tŕnh
có liên quan này trải rộng khắp nhiều kiếp
sống với sự chuyển hóa vô t́nh trong các giai
đoạn trước, và theo kết quả của kinh
nghiệm đắng cay và của nỗ lực hữu
thức trong các giai đoạn sau và trở nên tăng lên
mạnh mẽ và có hiệu quả khi các giai đoạn
khác nhau trên Thánh Đạo được người t́m
đạo bước lên. Năm cung mà một đệ
tử phải tác động đến (hai cung chính đang
chi phối và ba cung phụ) có một hiệu quả tích
cực rơ rệt; các hiệu chỉnh nghiệp quả
đem lại cơ hội hoặc ngăn trở, c̣n các
phức tạp của toàn thể diễn tŕnh (trong kinh nghiệm
tương đối giới hạn của đệ
tử) th́ rất mơ hồ, trong khi trong diễn tŕnh mà
tất cả những ǵ y có thể làm là hiểu
được nét khái quát như đă nêu ra ở đây,
chứ không đặt quá nhiều chú tâm vào chi tiết có
thật ngay trước mắt.
2. Khuynh hướng đi xuống… tạo ra sự biến đổi.
Một khi bí huyệt đầu được khơi hoạt và đệ tử hoạt động một cách hữu thức trong công tác điều khiển năng lượng đến các bí huyệt, và nhờ đó, chi phối được sự sống phàm ngă của ḿnh, có một công việc khoa học để đem lại năng lượng cho các bí huyệt với một nhịp điệu an bài nào đó vốn được định trở lại bởi các cung, bởi t́nh huống và bởi karma; thế nên, mọi năng lượng của thể xác đều được xoay chuyển vào ngay chính hoạt động tinh thần. Ở đây, chúng ta không thể bàn đến tiến tŕnh có liên quan, ngoài việc nêu ra rằng khuynh hướng đi xuống này có thể được đại khái xem như là thuộc vào ba giai đoạn:
1. Giai đoạn đem lại năng lượng cho sự sống sáng tạo, xuyên qua bí huyệt cổ họng, như thế đem lại:
a. Bí huyệt đầu và bí huyệt cổ họng.
b. Cả hai bí huyệt này và bí huyệt xương cùng,
c. Cả ba bí huyệt này, một cách hữu thức và đồng thời, vào mối liên hệ hữu thức.
216
Khi
được thiết lập thích đáng, mối liên quan
này sẽ giải quyết vấn đề tính dục
của cá nhân, và không dùng đến hoặc sự ức
chế, hoặc sự cấm chỉ, mà chỉ bằng
cách áp dụng sự kiềm chế đúng lúc, khiến cho
đệ tử đồng thời sáng tạo theo ư
nghĩa trần tục và do đó có ích cho huynh đệ
của y.
2. Giai đoạn đem lại năng lượng cho sự sống hữu thức với mối liên hệ xuyên qua bí huyệt đầu, như thế, đưa:
a. Bí huyệt đầu và bí huyệt tim,
b. Hai bí huyệt này và huyệt đan điền,
c. Một cách đồng thời và hữu thức, đưa cả ba bí huyệt này vào sự hợp tác chặt chẽ.
Điều này giúp tạo nên các tương giao đúng đắn giữa con người, các mối tương giao đúng đắn của nhóm và các tương giao đúng đắn về tinh thần và suốt toàn bộ biểu lộ sự sống của con người. Cũng như giai đoạn điều chỉnh sự sống sáng tạo có một hiệu quả tối quan trọng trên thể xác, cũng thế, giai đoạn này tác động rất mạnh mẽ lên thể cảm dục; các phản ứng t́nh cảm được biến đổi thành đạo tâm và phụng sự; t́nh thương ích kỷ có tính cách cá nhân được biến đổi thành t́nh thương tập thể, lúc bấy giờ, thiên tính chi phối đời sống.
3.Thời kỳ đem lại năng lượng cho toàn bộ con người, xuyên qua bí huyệt căn bản, như vậy, đưa:
a. Bí huyệt đầu và bí huyệt căn bản,
b. Cả hai bí huyệt này và bí huyệt ấn đường,
c. Một cách đồng thời và hữu thức, đưa cả ba bí huyệt này vào biểu lộ nhịp nhàng và có phối kết. Đây là giai đoạn cuối cùng rất quan trọng và chỉ xảy ra một cách đầy đủ vào lúc điểm đạo thứ ba, cuộc điểm đạo Biến Thân (Hiển Biến).
Do đó, bạn có thể thấy, ba từ ngữ quan trọng như thế nào khi truyền đạt mục đích của việc khai mở có tính khoa học và hướng đi đúng của các bí huyệt:
Biến tố Biến đổi Biến Thân
(Transmutation) (Transformation) (Transfiguration)
217
Tiến
tŕnh này xảy ra một cách khéo léo và an toàn suốt một
thời gian dài và – trở lại chủ đề của
chúng ta về sức khỏe và bệnh tật – khi
được hoàn thành, sẽ đem lại sức
khỏe hoàn hảo; trong thời gian chuyển tiếp,
tiến tŕnh hiệu chỉnh và thay đổi, điều
trái ngược thường xảy ra. Sự nguy hiểm
liên quan đến một số lớn các bệnh thể
chất có thể được truy nguyên đến t́nh
trạng của các bí huyệt, đến sự
tương tác hoặc là thiếu sự tương tác
của chúng, đến một t́nh trạng kém phát
triển, chưa được khơi hoạt và lờ
đờ, và đến một sự quá khích động
hoặc một hoạt động thiếu thăng
bằng. Nếu một bí huyệt được khơi
hoạt sớm, nó thường gây thiệt hại cho các bí
huyệt khác. Sức khỏe tráng kiện của
người bán khai hoặc của người nông phu hay
dân quê không giỏi dắn và kém thông minh (một trạng thái
tồn tại trôi qua nhanh chóng khi sự phát triển trí
tuệ và diễn tŕnh tiến hóa đạt hiệu
quả), phần lớn là do bởi trạng thái im ĺm
của hầu hết mọi bí huyệt ngoại trừ
huyệt xương cùng. Sự kiện họ dễ
trở thành con mồi cho bệnh truyền nhiễm có
thể cũng được truy nguyên đến cùng
sự thụ động như thế. Khi bản chất
t́nh cảm trở nên phát triển và thể trí bắt
đầu tác động, các bí huyệt lúc bấy giờ
trở nên linh hoạt hơn. Bệnh tật dứt khoát là
sẽ xảy ra sau đó, phần lớn bởi v́ các t́nh
trạng tâm lư bắt đầu xuất hiện. Con
người không c̣n chỉ là động vật nữa.
Sự hao ṃn của cuộc sống t́nh cảm (yếu
tố chính khiến phải chịu sức khỏe kém) tràn
ngập phàm ngă với năng lượng được
điều khiển kém cỏi (hay tôi nên nói là chỉ
dẫn sai?) Huyệt đan điền lúc bấy giờ,
trở nên linh hoạt quá đáng và sự hoạt động
này thuộc vào bốn giai đoạn:
1. Giai đoạn khơi hoạt của nó, khi cảm dục thể dần dần trở nên mạnh mẽ hơn.
218
2. Giai
đoạn sức mạnh của nó, đối với các
sinh linh, khi mà chính bí huyệt đang chi phối trong thể
dĩ thái hay thể sinh lực, và con người tất
nhiên là hoàn toàn bị chi phối bởi cuộc sống
cảm dục của ḿnh.
3. Giai đoạn mà huyệt đan điền trở thành nơi trao đổi đối với mọi bí huyệt (chính và phụ) dưới cách mô.
4. Giai đoạn mà các năng lượng của huyệt đan điền được đưa lên bí huyệt tim.
Tạm thời, tất cả các giai đoạn này đem lại các bệnh cho thể xác của riêng họ.
Bạn nên chú ư rằng, ngoài một số điều khái quát ra, tôi không muốn nói tới các bệnh đặc thù đối với các huyệt đặc thù. Tôi đă nêu ra rằng các vùng bị chi phối bởi các bí huyệt và bị chi phối một cách mạnh mẽ nhiều hơn là bạn có bất luận phương tiện nào để xác minh; tôi đă nói rằng về mặt căn bản, các tuyến nội tiết – với tư cách là các ngoại hiện của các bí huyệt – đều là các yếu tố xác định trong sức khỏe của xác thân, và nơi nào có sự mất thăng bằng, sự quá phát triển hoặc kém phát triển, bạn sẽ có bất an (trouble). Tôi đă gợi ư rằng, trong Kỷ Nguyên Mới, giới y học sẽ bàn đến ngày càng nhiều lư thuyết về hướng năng lượng và sự liên quan của nó với các tuyến nội tiết, và rằng điều đó sẽ thừa nhận ít nhất về mặt giả thuyết và cho mục đích thực nghiệm, rằng lư thuyết về cái trung tâm năng lượng có thể là đúng và trước tiên, chúng là các yếu tố chi phối, tác động qua các tuyến nội tiết mà đến phiên chúng, bảo vệ cơ thể, tạo ra sự đối kháng cần thiết, giữ cho ḍng máu được cung cấp với các cơ bản cho sức khỏe và – khi được liên kết đúng đắn – sẽ tạo ra biểu lộ thăng bằng của Chân nhân khắp toàn bộ thể xác – thăng bằng về mặt sinh lư và tâm lư. Khi t́nh huống mong ước này không xảy ra, lúc bấy giờ, do mối liên giao sai lầm và sự phát triển không đúng và thiếu quân b́nh, các tuyến nội tiết không hoạt động thỏa đáng; chúng không thể bảo vệ cơ thể khỏi bệnh tật và không thể tuôn đổ vào ḍng máu những ǵ mà thể xác cần đến. Do sự thiếu thích ứng của chúng, cơ thể không thể chống lại sự cảm nhiễm, nên lâm vào một t́nh trạng sức khỏe kém cỏi thường xuyên, và không thể đối phó với bệnh tật đến từ bên ngoài hoặc tiềm tàng bên trong cơ thể; sự yếu đuối này thường tạo ra bệnh nặng.
219
Y
học trong thế kỷ tới sẽ được
kiến tạo chung quanh một vài tiền đề chính:
1. Y học pḥng ngừa sẽ là mục tiêu, tạo ra nỗ lực để giữ cơ thể ở trật tự quân b́nh thích hợp.
2. Hệ thống vệ sinh tuyệt hảo và việc cung ứng các điều kiện có lợi cho sức khỏe sẽ được xem như là cốt yếu.
3. Việc cung cấp các chất hóa học đúng cho thể xác sẽ được nghiên cứu – môn hóa học vốn c̣n ấu trĩ dù là nó đang trở nên một đứa trẻ đang phát triển.
4. Việc t́m hiểu các định luật về sinh lực sẽ được xem như quan trọng hàng đầu, và về điều này, ngày nay tầm quan trọng về sinh tố và ảnh hưởng của mặt trời là các chỉ dẫn bổ ích.
5. Hơn mọi điểm khác, việc sử dụng thể trí sẽ được xét đến như là một nhân tố quan trọng chủ yếu; thể trí sẽ được xem như là có ảnh hưởng hàng đầu đối với các bí huyệt, v́ con người sẽ được dạy để tác động trên các bí huyệt của họ qua sức mạnh của thể trí, và như vậy tạo ra một phản ứng đúng nơi hệ nội tiết. Tất nhiên điều này sẽ liên quan đến việc hướng tư tưởng đến đúng một bí huyệt, hoặc rút sự chú ư ra khỏi một bí huyệt với hiệu quả tất nhiên trên hệ thống tuyến. Tất cả sẽ được dựa trên định luật huyền linh: "Năng lượng theo sau tư tưởng".
220
Do
sự việc là các đệ tử có một phát triển
năng lực trí tuệ lớn hơn là người
bậc trung, và cũng do sự kiện rằng loại cung
dễ xác minh hơn, tất nhiên liên quan đến sự
định đoạt chính xác hơn về t́nh trạng
của hệ thống tuyến, các đệ tử sẽ
lần đầu tiên hợp tác với giới y học và
để chứng minh sự liên quan của các bí huyệt
với các tuyến, và do đó với cơ thể nói chung.
Nhờ định trí và tham thiền đúng,
được xúc tiến trong bí huyệt đầu, và
được hướng về phía này hay phía khác của
các bí huyệt, các đệ tử sẽ chứng minh các
thay đổi rơ rệt trong các tuyến nội tiết,
đến nỗi giới y học sẽ bị thuyết
phục về sự quan trọng và sự hiện hữu
thực sự của các bí huyệt và năng lượng
của chúng, và cũng có thể kiểm soát các cơ quan
của thể xác nhờ sức mạnh của tư
tưởng. Tất cả mọi điều này
đều thuộc về tương lai. Tôi chỉ nêu ra
đường lối và đưa ra một kỹ
thuật trong tương lai, nhờ đó bệnh tật
sẽ bị khắc phục. Các trường phái tư
tưởng trí tuệ khác nhau, Phong Trào Hợp Nhất và
Khoa Học Cơ Đốc đă có các yêu sách kỳ lạ
và không tưởng trong lối tiếp cận rơ ràng là
phản khoa học của họ. Nhưng họ đă
nắm giữ ít nhất là một sợi chỉ trong
tiến tŕnh to tát về việc hiệu chỉnh đúng
đối với sự sống và đối với các
liên hệ đúng đắn. Họ có ước mơ và
cái nh́n xa rộng (vision); họ thiếu nhận thức và
lư trí thông thường, lại không biết ǵ về
diễn tŕnh tiến hóa.
Khoa sinh lư học và sức mạnh tâm lư, cộng với sự hợp tác của đệ tử có luyện tập với y sĩ lăo luyện (đặc biệt với nhà nội tiết học đă mở trí) sau rốt sẽ thành công trong việc giải quyết nhiều bệnh của con người và sẽ mang lại việc chữa trị đa số các bệnh mà hiện giờ đang gây khó khăn cho nhân loại.
Như thế, chúng ta đă khảo cứu một vài mục đích của tiết đầu tiên: Các Nguyên Nhân Tâm Lư của bệnh tật. Chúng ta đă đưa ư kiến từ các nguyên nhân bên trong và tinh tế hơn nhiều của bệnh tật đối với yếu tố vật chất chính yếu đang chi phối, tức các tuyến nội tiết. Bây giờ, chúng ta có thể xem xét vắn tắt một vài nguyên nhân huyền linh xa hơn và bàn đến các nguyên nhân xuất phát từ cuộc sống tập thể của nhân loại, và từ các trách nhiệm nghiệp quả của nhân loại. Ở đây, chúng ta sẽ đi vào lănh vực của kiến thức huyền linh và thông tin huyền bí, và điều này sẽ khó chấp nhận hơn đối với các nhà tư tưởng chính thống.
ef
221
CHƯƠNG II
CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT
TỪ CUỘC SỐNG TẬP THỂ
Khi xét đến bệnh tật và các nguyên nhân căn bản của nó, chúng ta đă đặc biệt bàn đến các nguyên nhân có liên quan đến giống dân Aryan và nhân loại hiện nay; các nguyên nhân này phần lớn có cội nguồn ở thể cảm dục và có thể được mô tả như là có bản chất của thời Atlantis. Chúng ta cũng đă xem xét vắn tắt về các bệnh khác nhau xuất phát từ cơi trí; chính xác hơn các bệnh này của giống dân Aryan và cũng dính líu đến các bệnh mà đệ tử có khuynh hướng mắc phải. Các bệnh truyền nhiễm và các bệnh vốn có căn bản trong chất liệu hành tinh, có một hiệu ứng mạnh mẽ trên các giống dân này (vẫn c̣n ở trong số chúng ta) vốn là bệnh xưa nhất trên hành tinh ta, và vốn có liên quan tới các giống dân Lemuria đă tàn tạ nhanh chóng; Sắc Dân Da Đen đặc biệt có khuynh hướng mắc các bệnh dịch truyền nhiễm.
Trong bộ luận này, tôi không cố thử bàn về mặt bệnh lư đối với bất cứ bệnh nào được nói đến, tôi cũng không để ư đến sinh lư học của bệnh nhân. Điều đó hoàn toàn nằm ngoài lănh vực hiểu biết của tôi. Tuy nhiên, tôi thử nêu ra cội nguồn của một số bệnh, để kêu gọi sự chú tâm đến mức tối quan trọng của hệ thống tuyến và để liên kết một cách thật đúng đắn và khôn ngoan, một vài trong số các lư thuyết Đông phương liên quan đến các bí huyệt và minh triết Tây phương. Sau này, tôi sẽ nêu ra một số t́nh trạng căn bản của con người vốn dĩ phải được thay đổi nếu việc chữa trị thực sự được áp dụng một cách chính xác và bấy giờ, tôi hy vọng đưa ra một vài phương pháp mà nhờ đó, các nhà chữa trị có thể hoàn thành công tác vốn sẽ phù hợp với các dữ kiện của trường hợp và sẽ trợ giúp trong tiến tŕnh phục hồi.
222
Ngày
nay, vấn đề bệnh tật tăng lên mạnh
mẽ, do sự việc là trong giống dân Aryan này – mà
hiện giờ đang chi phối hành tinh, có sự xuất
lộ đích thực đầu tiên hướng ra ngoài
trên cơi trần do sự tổng hợp căn bản
của nhân loại sẽ – dưới h́nh thức hoàn
hảo hơn của nó – có ư nghĩa rất đặc
sắc của căn chủng chính kế tiếp, căn
chủng thứ sáu. Hôn nhân trong ḍng họ giữa các
quốc gia và các giống dân, sự pha trộn huyết
thống trong nhiều thế kỷ – do sự di dân, du
lịch, giáo dục và hợp nhất trí tuệ – đă
đưa đến việc không có được các
kiểu chủng tộc thuần túy thực sự ngày nay.
Nếu xét đến lịch sử dài đăng
đẳng của con người th́ càng chắc chắn
hơn, đây là trường hợp mà kẻ giác ngộ
nhất nghĩ tới. Không một chướng ngại
nào có thể ngăn trở sự giao phối
được cả, và con người, vào thời nay, có
trong ḿnh họ mọi ḍng giống và huyết thống
của mọi chủng tộc, và điều này (do kết
quả của thế chiến 1914–1945) sẽ là
trường hợp ngày càng tăng. Sự phát triển này
rơ ràng là một phần của thiên cơ, bất luận
không được ưa thích ra sao đối với những
kẻ lư tưởng hóa sự tinh khiết của mối
liên hệ hoặc việc áp dụng thiên cơ đó
khắc khe ra sao vào lúc này. Có cái ǵ đó được
dự trù xảy ra và điều đó không thể tránh
được. Việc thôi thúc để kết đôi
đặc biệt trở nên mạnh mẽ khi con
người tách ra khỏi các khung cảnh quen thuộc và
trải qua sự mới lạ của việc cô
độc hoàn toàn, khi các sự ức chế b́nh
thường và các tục lệ được đặt
ra bởi các liên hệ gia đ́nh và các tiêu chuẩn quốc
gia được tách ra, khi mối nguy hiểm của
sự chết được đương đầu
thường xuyên, và giá trị lớn áp đảo
được các giá trị nhỏ, và các thái độ
dựa trên tập tục thông thường, và khi cơ
thể vật chất được luyện tập và
thúc đẩy bằng lối trị liệu có khoa học,
và việc bảo dưỡng đầy đủ đem
lại hiệu quả cao về mặt thể chất. Tôi
đang nói đến hiệu quả về vật chất
chớ không phải hiệu quả về trí tuệ,
hiệu quả trí tuệ có thể hay không thể song hành
với hiệu quả vật chất.
223
Do
đó các bản năng thú tính mạnh lên; các bí huyệt
dưới cách mô trở thành bị kích hoạt một cách
đặc biệt; các nhu cầu t́nh cảm mang lại sinh
khí rất nhiều cho huyệt đan điền, c̣n bí
huyệt ở chót xương sống làm tăng hoạt
động của các tuyến thượng thận khi ư
chí của con người được huy động
để vượt qua nguy hiểm; ư-chí -muốn-sống
với phần phụ thuộc của nó là
ư-muốn-được-thường-tồn
(will-to-perpetuate) và sống trong tuổi thanh xuân,
được nuôi dưỡng một cách mạnh mẽ.
Với vai tṛ là một bổ sung chính của nỗ lực
lớn, cũng nên thêm vào việc này ư chí của chính Thiên
Nhiên đang tác động (theo một số luật thiêng
liêng) để hóa giải nỗi thiệt tḥi của
sự sống và các tổn thất do chiến tranh bằng
một luồng sinh khí mới mẻ đi vào h́nh hài,
như vậy, duy tŕ ṇi giống con người, cung
cấp các thể cho trào lưu chân ngă kế tiếp và
như vậy làm tăng con người trên địa
cầu.
Khi nói
đến điều này, tôi chỉ t́m cách giải thích
hiện tượng vốn có thể được ghi
nhận vào mọi lúc khi chiến tranh xảy ra và trong
thế chiến, nó có thể được ghi nhận
ở một mức độ rộng lớn. Các
đạo quân của thế giới có ở khắp
nơi và trải rộng khắp mọi xứ; sự di
trú của nhân loại là một yếu tố phổ
cập, cả về khía cạnh nhu cầu quân sự,
lẫn cảnh ngộ của người dân
thường, tức là những kẻ thấy chính ḿnh
ở vào con đường của chiến tranh. Phong trào
này của hàng triệu người ở khắp nơi là
một trong các yếu tố tối thượng sẽ chi
phối nền văn minh mới và tầm quan trọng
của nó được dựa trên sự kiện là trong
thời gian hai mươi lăm năm, cả nam lẫn
nữ sẽ là một chủng tộc lai mà cha mẹ
của chủng tộc này sẽ thuộc về mọi
quốc gia có thể tưởng tượng
được. Những người cha da trắng sẽ
có mối liên quan vật chất với phụ nữ
thuộc mọi nguồn gốc Á châu hoặc Phi châu,
như vậy, tạo ra sự pha trộn huyết
thống mà – nếu được nhận thức và
vận dụng, phát triển đúng, từ khía cạnh giáo
dục và với sự hiểu biết – sẽ biểu
lộ bản chất của căn chủng thứ 6
ở giai đoạn phôi thai, và sẽ thật sự là Nhân
Loại mà không có sự ngăn cách nào về chủng
tộc hoặc quốc gia với không có cái gọi là
huyết thống thuần chủng và các đẳng
cấp đặc thù, và với một ư nghĩa mới
mẻ, hùng tráng của sự sống, bởi v́ việc
truyền lại ḍng dơi mạnh mẽ hơn với kẻ
yếu đuối hoặc các kiểu mẫu bị
kiệt quệ và của
224
các ḍng
giống chủng tộc mới mẻ hơn với cái
cũ hơn và phát triển hơn. Tôi không ủng hộ cho
cách mà điều này đang được tạo ra. Nó có
thể xảy ra mà không có chiến tranh và nhờ một
sự tin chắc rằng tất cả mọi
người đều như nhau, và con người, cùng
với sự pha trộn các chủng tộc sẽ giải
quyết được nhiều vấn đề. Tuy
nhiên, chiến tranh đă hối thúc diễn tŕnh và các
chiến sĩ của mọi đạo quân trên thế
giới đều đang có các liên quan thể xác với
phụ nữ thuộc mọi chủng tộc, mọi
nền văn minh và mọi sắc thái. Dù được
xem là đúng hay sai đi nữa, điều này phải tùy
vào qui tắc luân lư và tŕnh độ của kẻ quan sát,
tạo ra một t́nh trạng hoàn toàn mới mẻ, mà
thế giới tương lai sẽ phải đối phó
với t́nh trạng này. Điều đó tất nhiên
sẽ làm sụp đổ các thành kiến quốc gia và các
bức tường chủng tộc – cái trước
tạo ra nhiều hiệu quả hơn cái sau trong các giai
đoạn mở đầu. Hiển nhiên là một nhân
loại đồng nhất hơn sẽ xuất hiện trong
các thay đổi của một trăm năm sắp
tới. Nhiều phong thái và nhiều phản ứng theo
thông thường mà ngày nay đang chế ngự sẽ
biến mất, và các kiểu mẫu cùng các tính chất và
đặc điểm mà nhờ đó chúng ta có
được cho đến nay, chưa bao giờ xuất
hiện từ trước đến giờ trên một
mức độ rộng lớn.
Dù cho những kẻ bảo thủ và những kẻ được gọi là "đạo đức" một cách cứng nhắc chán ghét, biến cố toàn cầu này không có liên quan ǵ đến trường hợp đó. Điều đó đă xảy ra và đang xảy ra hằng ngày và sẽ mang lại, về phương diện vật chất các thay đổi rộng lớn. Các liên hệ giữa chủng tộc và được phối hợp này luôn luôn xảy ra ở một mức độ nhỏ và cá biệt; hiện nay, chúng đang xảy ra ở một mức độ rộng lớn. Đối với các kết quả này, cần phải được chuẩn bị đúng mức.
Như các bạn đă biết, có một vài bệnh đang vượt trội về số lượng trên thế giới ngày nay. Đó là:
1. Đủ loại bệnh tim, đặc biệt tác động vào nhân loại tiến hóa.
225
2.
Bệnh điên
3. Ung thư rất thường thấy trong mọi hạng người ngày nay.
4. Các bệnh xă hội – bệnh giang mai trong thiên nhiên.
5. Bệnh lao.
Dưới h́nh thức tinh anh và huyền bí, các bệnh này là do hai nguyên nhân căn bản sau: một nguyên nhân là sự tương tác chặt chẽ giữa con người sống với các điều kiện hiện tại và đông đảo con người hợp thành các đô thị và thành phố; nguyên nhân kia là tuổi của đất mà con người sống trên đó (một sự kiện ít được nhận biết hay xem xét) v́ nó ăn sâu với các mầm mống và cặn bă gắn liền với các thời đại đă qua. Sự miễn nhiễm của con người là một vấn đề đáng ngạc nhiên, có thể bạn chỉ mới hiểu nó; con người chống lại và thường xuyên cũng như luôn luôn loại bỏ mọi loại bệnh tật – các bệnh vốn là kết quả của việc tiếp xúc với những kẻ khác, những bệnh vốn thường thấy trong chính bầu khí quyển vào mọi thời, những bệnh tiềm tàng bên trong chính cơ thể và những bệnh bị kế thừa, và đối với bệnh đó, con người luôn luôn có khuynh hướng mắc phải. Cuộc đấu tranh v́ sức khỏe của con người vẫn không ngừng nghỉ và không kết thúc, được xếp thành nhiều loại, từ sự mệt mỏi thông thường và sự mệt nhọc (cộng với khuynh hướng chung là cảm lạnh) đến bệnh nặng, chấm dứt bằng cái chết.
226
Đối
với nhà quan sát lăo luyện của huyền môn, có thể
là nhân loại – nói chung – đang phần nào bước trong
bóng tối dày đặc đang nhận ch́m nhân loại, và
một vài nơi có liên quan đến một vùng của
cơ thể của mọi người. Một trong các
mục tiêu của Kỷ Nguyên Mới sẽ là "soi sáng
bóng tối này và đưa con người đi vào t́nh
trạng thích hợp của sức khỏe đích thực".
Cũng bóng tối này thâm nhập vào giới khoáng chất,
ảnh hưởng đến giới thực vật và
cũng liên quan đến giới động vật.
Đó là một trong các nguyên do chính của tất cả
những ǵ có thể được xét dưới danh
xưng "tội lỗi" mà có thể làm cho bạn
ngạc nhiên. Đó cũng là hạt giống tốt
của tội ác. Đây là một sự kiện từng
được chấp nhận, xem xét một cách thích
hợp và bàn đến dựa trên lư trí, lành mạnh, sáng
suốt và thiên về tinh thần; nó sẽ đ̣i hỏi
mọi yếu tố cần ghi nhớ để nâng con
người ra khỏi bóng tối của bệnh tật,
vào t́nh trạng sức khỏe được ổn
cố và rạng rỡ. Một vài Chân Sư đang giải
quyết vấn đề này trong mối liên hệ với
các giới khác trong thiên nhiên, v́ sẽ không có sự
vượt thoát thật sự nào đối với con
người trong khi môi trường của y vẫn c̣n
ở dưới bóng của bệnh tật.
Phần nhiều những ǵ mà tôi có thể nói với bạn về mối liên hệ này sẽ có vẻ tưởng tượng và sẽ gây ra sự chế giễu đùa cợt của nhà khoa học sắt đá. Các lư thuyết mà nhân loại đưa ra về cội nguồn của bệnh tật và việc nhận thức về vi khuẩn , về mầm bệnh và các cơ cấu xâm nhập tương tự đều đúng phần lớn, nhưng điều này chỉ đúng như thế nếu bạn nhớ rằng thực ra, chúng là hậu quả của các nhân mà nhà t́m ṭi không đá động tới và c̣n ẩn tàng trong chính lịch sử của chính hành tinh, và cũng trong lịch sử của con người của quá khứ – mà rất ít người được biết hay thực tế không được biết tới. Ở đây chỉ là sự ước đoán, phỏng chừng.
1. CÁC BỆNH CỦA NHÂN LOẠI, KẾ THỪA TỪ QUÁ KHỨ
Theo khảo cứu ngày nay, lịch sử đi lùi chỉ một ít và mặc dù sử gia và nhà khoa học giác ngộ có thể nới rộng lịch sử của nhân loại đến nhiều triệu năm, không một ai biết về các giống dân đă sống cách đây nhiều triệu năm; không ai biết ǵ về nền văn minh đă phồn thịnh vào đầu thời Atlantis cách đây 12 triệu năm; không ai biết được chút xíu nào về nền văn minh cổ Lemuria, vốn dĩ đi lùi trở lại hơn 15 triệu năm; vẫn c̣n ít ai biết về giai đoạn tranh tối, tranh sáng có cách đây 21 triệu năm khi con người vừa mới làm người, và khi họ c̣n liên hệ mật thiết với giới động vật mà chúng ta gọi họ bằng danh xưng vụng về là "người thú" ("animal – man").
227
Trong
giai đoạn rộng lớn giữa lúc ấy và hiện
nay, vô số người đă sống, yêu thương và
học hỏi kinh nghiệm; các thể xác của họ
đă nhập thành cát bụi của địa cầu và
mỗi người đă đóng góp một cái ǵ mà họ
đă thu thập được trong kinh nghiệm sống –
tuy nhiên, có một cái ǵ đó khác với những ǵ mà
họ đóng góp cho sự sống của linh hồn trên
cơi riêng của nó. Điều được đóng góp này
đă biến đổi theo cách nào đó thành các nguyên
tử và tế bào của thể xác, và cái được
thu thập đó chẳng chóng th́ chầy, được
phóng thích trở lại vào trong đất của hành tinh.
Mỗi linh hồn, khi triệt thoái khỏi xác thân, đă
đến địa cầu nhiều lần liên tiếp,
và nhiều triệu linh hồn hiện nay đang ở
đây, đặc biệt là những linh hồn hiện
hữu vào cuối thời Atlantis, và do đó, họ là tinh
hoa và sản phẩm cao nhất của giống dân có nhiều
t́nh cảm đó. Họ đem theo với họ các tố
bẩm (predispositions, bản chất dễ mắc bệnh)
và các khuynh hướng bẩm sinh mà lịch sử đă
qua của họ đă phú cho họ.
Do đó, cần ghi nhớ rằng các xác thân mà hiện nay con người khoác lấy, được kiến tạo bằng vật chất rất cổ xưa, và chất liệu được dùng đó đă bị nhiễm bệnh hay bị chi phối bởi lịch sử của quá khứ. Phải đưa thêm hai ư khác vào ư tưởng này: thứ nhất, các linh hồn mới đến tự thu hút loại vật chất mà họ phải kiến tạo các thể bên ngoài của họ, và điều này sẽ được đáp ứng đối với khía cạnh nào đó của các bản chất tinh anh hơn của họ. Thí dụ, nếu ước muốn vật chất chi phối họ, chất liệu của thể xác họ sẽ được đáp ứng phần lớn với thôi thúc đặc biệt đó. Thứ hai, mỗi thể xác mang theo bên trong nó các mầm mống trừng phạt tất yếu, nếu các chức năng của nó bị dùng sai. Tội lỗi lớn lao đầu tiên ở thời Lemuria có bản chất là tính dục và phần lớn không chỉ do các khuynh hướng cố hữu, mà c̣n do mật độ dân số quá nhiều của nền văn minh thời ấy và do sự liên quan chặt chẽ đối với giới động vật. Nguồn gốc của các bệnh giang mai truy nguyên từ các thời này.
228
Có
một ư tưởng tốt đẹp trong trí của
người vô minh, đó là các giống dân nguyên thủy
đều thoát khỏi loại ô nhiễm đó, c̣n
nhiều bệnh tính dục và hậu quả của chúng
đều hầu hết là các bệnh của t́nh trạng
văn minh. Không phải như thế theo khía cạnh nhăn
quang huyền bí. Hiểu biết chính xác bác bỏ
điều đó. Trong thời ấu trĩ của nhân
loại, có sự hỗn giao lớn, t́nh trạng hỗn
tạp tính dục và hàng loạt các đồi trụy
xảy ra, và trong ngôn ngữ của một số sách
cổ nhất thuộc Văn Khố của các Thánh sư,
chúng ta đọc thấy: "Địa cầu chịu tổn
thất lớn và đất đai bị ô nhiễm và không
tinh khiết, trở lại với địa cầu;
như vậy, sự sống tệ hại tiến
nhập vào t́nh trạng tinh khiết cổ sơ của bà
mẹ xưa. Ở sâu trong ḷng đất có ẩn tàng tà
lực, thỉnh thoảng lộ ra trong h́nh hài, chỉ có
lửa và đau khổ mới có thể thanh tẩy bà mẹ
của tà lực mà các con của bà đă mang lại cho
bà".
Giống dân Lemuria hầu như đă tự hủy diệt ḿnh, do bởi việc lạm dụng bí huyệt xương cùng, mà vào lúc đó là huyệt linh hoạt nhất và quan trọng nhất. Vào thời Atlantis, chính huyệt đan điền mới là mục tiêu quan yếu nhất của "luồng hỏa đi vào". Như tôi đă có nói ở nơi nào đó, công việc của Thánh Đoàn vào thời Lemuria là giảng dạy cho nhân loại c̣n ấu trĩ hiểu được bản chất, tầm quan trọng và ư nghĩa của thể xác, cũng như trong giống dân kế tiếp, t́nh cảm được bảo dưỡng và là mục tiêu chú tâm chính yếu, c̣n trong giống dân của chúng ta, chính thể trí bị lệ thuộc vào sự kích thích. Điểm đạo đồ thời Lemuria là kẻ đă hoàn toàn chế ngự được việc kiềm chế thể xác, và Hatha-yoga, lúc bấy giờ là sự thực hành tâm linh nổi bật. Theo thời gian, môn này được Laya-yoga thay thế, chính Laya-yoga đă đưa mọi bí huyệt trong thể dĩ thái (trừ bí huyệt cổ họng và bí huyệt đầu) đi vào hoạt động. Đây không phải là loại hoạt động đang có hiện nay, bởi v́, nên nhớ rằng, vào thời ấy Chân Sư chưa có được sự phát triển hay là sự hiểu biết của các Chân Sư ngày nay, các ngoại lệ duy nhất là các Ngài đến từ các hệ thống và bầu hành tinh khác để giúp đỡ người thú và nhân loại sơ khai.
A. CÁC BỆNH HOA LIỄU VÀ GIANG MAI
229
Song song
với mọi hoạt động của Thánh Đoàn (luôn
luôn xảy ra trường hợp này và là trường
hợp ngày nay) là hoạt động của các tà lực.
Các hậu quả của chúng xảy ra qua bí huyệt
xương cùng, và như vậy t́nh trạng tệ hại
nhất xảy đến làm suy yếu sức chịu
đựng của cơ thể người, vốn làm tăng
mạnh thêm các đ̣i hỏi của bản chất tính
dục do sự kích thích của bí huyệt xương cùng,
xảy đến một cách giả tạo bởi Tà Môn
(Black Lodge) và nó đă tạo ra nhiều liên minh nguy hại
và các liên hệ xấu xa lan rộng.
Một định luật vĩ đại mới của thiên nhiên lúc bấy giờ do Đức Hành Tinh Thượng Đế đặt ra, đă bị diễn đạt (rất là thiếu sót) bằng các từ "Linh hồn đă phạm tội, nó sẽ diệt vong". Định luật này có thể được diễn đạt rơ ràng hơn bằng cách nói "Kẻ nào lạm dụng những ǵ mà ḿnh đă tạo ra, kẻ ấy sẽ chứng kiến nó sụp đổ do các sức mạnh trong chính nó".
Theo nhiều thế kỷ trôi qua, và giống dân Lemuria quy phục các xung lực tà của phàm ngă, dần dần loại bệnh hoa liễu có trước tiên đă xuất hiện, sau rốt toàn thể nhân loại bị lây bệnh đó và tàn tạ đi, thiên nhiên chịu tổn thất lớn và rút ra được một cái giá không thể lay chuyển của nó. Ở đây bạn có thể thắc mắc làm thế nào mà các cư dân đầu tiên này của hành tinh chúng ta có thể chịu trách nhiệm v́ không có tội lỗi khi mà không có ư thức trách nhiệm và không cố ư để làm sai. Vào thời đó, Thánh Đoàn đă có các phương pháp giảng dạy riêng cho con người c̣n ấu trĩ này, cũng như đứa bé nhỏ nhất ngày nay có thể được dạy để cố nhịn một vài thói quen của thể xác. Nhân loại lúc bấy giờ biết rơ những ǵ tệ hại, bởi v́ các chứng cớ của tệ hại đó rất rơ về mặt vật chất và hoàn toàn nhận thức được dễ dàng. H́nh phạt là điều hiển nhiên và các kết quả đến tức thời; các Huấn Sư của nhân loại đă đảm bảo chắc chắn rằng nhân và quả được nhanh chóng ghi nhận.
Lúc đó cũng xuất hiện các khuynh hướng đầu tiên hướng về hôn nhân, như để phân biệt với t́nh trạng t́nh dục bừa băi; việc thành lập các đơn vị gia đ́nh đă trở nên vấn đề được chú ư, và là mục tiêu đối với những người tiến hóa cao nhất. Đây là một trong các nhiệm vụ đầu tiên mà Thánh Đoàn đảm nhận, và là cố gắng đầu tiên hướng về bất luận h́nh thức hoạt động tập thể nào, truyền đạt bài học đầu tiên về tinh thần trách nhiệm. Đơn vị gia đ́nh không ổn định như ngày nay, nhưng ngay cả sự chiếm hữu tương đối ngắn của nó đă là một bước tiến kỳ diệu. Sự phân chia của đơn vị gia đ́nh và sự phát triển ư thức trách nhiệm đă tiến tới vững vàng cho đến khi nó đạt được tột đỉnh trong hệ thống hôn nhân hiện tại của chúng ta, và sự nhấn mạnh của chúng ta ở phương Tây về sự đơn hôn; điều đó đă đưa tới mối hănh diện của Tây phương trong các khuynh hướng và các phổ hệ gia đ́nh, sự chú tâm của chúng ta vào các khoa phổ hệ và các mối liên quan, và sự khiếp sợ hoàn toàn của nhà tư tưởng Tây phương về các bệnh hoa liễu khi chúng tác động vào gia đ́nh và con cháu của họ.
230
Tuy
nhiên, có hai điều lư thú nhất đang xảy ra ngày
nay. Trên một mức độ rộng lớn, đơn
vị gia đ́nh đang bị găy vỡ, do các may rủi
của chiến tranh, và – ở một mức độ
nhỏ hơn – do các quan điểm hiện đại ngày
càng nhiều liên quan đến hôn nhân và ly dị. Thứ
hai là các cách chữa trị rơ rệt và nhanh chóng đối
với các bệnh về tính dục đang được
khám phá, và các điều này có thể có khuynh hướng
làm cho con người liều lĩnh hơn. Tuy nhiên, khi
trở nên hoàn thiện, rốt cuộc là chúng sẽ che
chở cho nhân loại và sẽ hoàn lại cho đất
đai các thể xác sau khi chết, thoát khỏi tai họa
vốn đă làm lây nhiễm địa cầu trong không
biết bao nhiêu thời đại. Như vậy, sẽ
mang lại sự thanh lọc từ từ cho đất
đai. Tăng gia việc thực hành hỏa táng cũng
sẽ giúp vào tiến tŕnh thanh lọc này. Thiêu hủy
nhờ lửa và sức nóng cao độ được
tạo ra bằng cách dùng các phương pháp quân sự
cũng có tính cách trợ giúp, và trong một triệu năm
sắp tới, chúng ta sẽ thấy bệnh giang mai
(truyền lại từ thời Lemuria) biến mất
cả trong nhân loại lẫn trong đất đai
của hành tinh.
231
Theo các
kỷ nguyên qua, nhân loại tiến vào giai đoạn phát
triển thời Atlantis. Cách kiểm soát hữu thức
của thể xác rơi xuống dưới ngưỡng
tâm thức; kết quả là, thể dĩ thái trở nên
mạnh hơn (một sự kiện thường không
được nghĩ đến) và thể xác phản
ứng ngày càng giống như một người máy
đối với ấn tượng và phương
hướng của một bản chất dục vọng đang
phát triển đều đặn. Dục vọng đă
trở thành một điều ǵ nhiều hơn là chỉ
đáp ứng với các thôi thúc thú tính vật chất và
đáp ứng với các bản năng nguyên thủy,
nhưng được hướng đến các
đối tượng và các mục tiêu bên ngoài đối
với cơ thể, về phía các tài sản vật
chất và về phía những ǵ mà (khi được nh́n
thấy và thèm thuồng) có thể được chiếm
hữu. Cũng như các tội lỗi lớn vào thời
Lemuria (nếu chúng có thể được gọi là
tội lỗi theo bất cứ ư nghĩa đích thực
nào bởi v́ trí tuệ của nhân loại c̣n thấp
thường là do lạm dụng tính dục, thế nên,
tội lỗi lớn của con người thời
Atlantis là trộm cắp, lan rộng khắp nơi. Các
mầm giống của sự xâm lược và của tính
hám lợi cá nhân đă bắt đầu tự biểu
lộ, lên đến cực điểm trong kỳ
đại chiến (như có nhắc đến trong Giáo Lư
Bí Nhiệm) giữa các Tinh Quân Bạch Diện với các
Tinh Quân Hắc Diện. Để giành được cái mà
họ thèm khát và cảm thấy cần, những
người tiến hóa cao nhất của giống dân
đó bắt đầu thực hành ma thuật. Tôi không
thể phác thảo cho bạn bản chất và các thực
hành ma thuật thời Atlantis với sự kiềm chế
của thuật đó đối với các tinh linh
(elementals) và đối với các h́nh thức sự
sống mà hiện nay đă được rút trở
lại và nhân loại không thể tiếp xúc
được. Tôi cũng không thể chỉ cho bạn các
phương pháp đặc biệt được dùng
để thu lượm những ǵ được ưa
thích, các Quyền Lực Từ được sử
dụng và các nghi lễ được hoạch định
một cách cẩn thận mà những kẻ t́m cách tự
làm phong phú đă theo đuổi và chiếm hữu những
ǵ mà họ muốn có, bất kỳ thiệt hại ra sao
cho kẻ khác. Ma thuật này là sự bắt chước
sai hướng của Huyền linh thuật
được sử dụng rất công khai vào thời
đó, trước khi có trận chiến dữ dội
giữa các Quang Minh Lực và các Tà Lực. Ma thuật
thuộc loại đúng đắn th́ rất quen thuộc
đối với người Atlantis, và được các
Thành Viên trong Thánh Đoàn sử dụng, các Đấng này được
giao phó cho việc dẫn dắt nhân loại và các Ngài
đang chiến đấu với tà lực lan tràn ở
nơi cao. Cùng loại tà lực đó lại sẵn sàng gây
sự và bị những người có thiện chí
chống trả, dưới sự hướng dẫn
của Thánh Đoàn. Vào thời Atlantis, sự xa hoa
đạt tới tột đỉnh, mà với nền
văn minh quá khoa trương của chúng ta, chúng ta không
biết ǵ hết và không bao giờ đạt tới
được. Một vài dấu vết mờ nhạt
về việc đó đă đến với chúng ta do các
truyền thuyết và từ thời Cổ Ai Cập, do các
khám phá của khảo cổ học và các thần thoại
cổ xưa. Có một sự tái diễn mối nguy
hại thuần túy thời Atlantis và nguy cơ vào những
ngày suy đồi của Đế Quốc La Mă. Sự
sống trở nên bị ô nhiễm bởi khí độc
của sự hoàn toàn ích kỷ và chính các con suối của
sự sống cũng trở nên bị ô nhiễm. Nhiều
người chỉ sống để hưởng thụ
xa hoa cực điểm và có của cải vật chất
quá thừa thăi. Họ bị phủ kín bởi dục
vọng và bị phiền hà bởi giấc mơ không bao
giờ chết mà muốn sống măi măi, tóm thu
được ngày càng nhiều tất cả những ǵ mà
họ ước muốn.
232
B. BỆNH LAO (Tuberculosis)
Chính ở trong t́nh trạng này mà chúng ta t́m được cội nguồn bệnh lao. Nó bắt nguồn nơi các cơ quan mà con người thở và sống, và được đặt ra – như là một h́nh phạt – bởi Thánh Đoàn. Các Thánh Sư ban bố một luật mới cho giống dân Atlantis khi mà thói xấu của dân Lemuria và tính tham lam của dân Atlantis đến mức độ thô bạo nhất. Luật này có thể được diễn dịch như sau: "Kẻ nào chỉ sống v́ của cải vật chất, hy sinh mọi đức hạnh để lấy những ǵ không thể trường tồn, kẻ ấy sẽ chết trong khi sống, sẽ thấy sinh khí (breath) mất dần nơi y, và tuy thế, không chịu nghĩ đến cái chết cho đến khi có sự triệu hồi".
233
Ngày nay,
chúng ta khó mà đánh giá hay hiểu được trạng
thái tâm thức của dân Atlantis. Không hề có tiến
bộ trí tuệ nào cả, ngoại trừ trong số các
vị lănh đạo của nhân loại; chỉ có dục
vọng lan tràn, thô bạo, không thể thỏa măn
được. Hành động này của Thánh Đoàn đă
mở ra hai lối thoát và đă đặt nhân loại
trước hai vấn đề mà từ trước
đến nay vẫn chưa hiểu được.
Thứ nhất là thái độ tâm lư và trạng thái tâm
thức có thể và chắc chắn đưa tới các
t́nh trạng sinh lư, cả hai đều tốt lẫn
xấu. Thứ hai là lần đầu tiên, con người
đối diện với sự nhận thức về
hiện tượng của sự chết – cái chết mà
chính họ làm cho xảy ra bằng một cách thức
mới chớ không chỉ bằng phương tiện
vật chất. Điều này đă bị bi thảm hóa
đối với họ theo một vài cách thức khách quan
rơ rệt, v́ cho đến nay, quần chúng không đáp
ứng với việc giảng dạy bằng lời nói,
mà chỉ đáp ứng với các biến cố thấy
được. Do đó, khi họ thấy một
người tàn bạo và tham lam bắt đầu chịu
đau đớn do một bệnh tệ hại mà
dường như xuất phát từ trong chính người
đó, và – trong lúc đau khổ – bám chặt vào ḷng khát
sống của ḿnh (như kẻ bị bệnh lao ngày nay
đă làm) họ đương đầu với một
khía cạnh hay h́nh thức khác của luật nguyên thủy
(được đặt ra vào thời Lemuria), với phát
biểu: "Linh hồn nào phạm tội, nó sẽ tử
vong". Cái chết từ lâu đă được chấp
nhận mà không bị chất vấn như là số
phận của mọi vật sống, nhưng nay, lần
đầu tiên, mối liên hệ trí tuệ giữa hành
động cá nhân với cái chết đă được
hiểu rơ – cho đến nay chỉ bằng cách lờ
mờ và yếu ớt – và một giai đoạn tiến
tới trọng đại được tạo ra trong
tâm thức nhân loại. Bản năng không dùng
được trong t́nh trạng này.
Hỡi huynh đệ, cái chết là một di sản lớn và chung; mọi h́nh hài đều chịu tử vong, v́ đó là luật của sự sống, quả là nghịch lư. Thời cơ đă đến khi nhân loại có thể được dạy bài học, đó là cái chết có thể hoặc là kết thúc một chu kỳ và là một sự đáp ứng tự động đối với Đại Luật Chu Kỳ, luật này luôn luôn thiết lập cái mới và kết thúc cái cũ, hoặc là nó có thể được tạo ra do sự lạm dụng xác thân, do năng lượng bị dùng sai, và do hành động cố ư của chính con người. Kẻ nào cố t́nh phạm tội và kẻ nào sai lầm về mặt tâm lư trong các thái độ và các hành động do sai sót đó của ḿnh, kẻ ấy phạm tội tự tử thực sự giống như kẻ cố t́nh bắn vào đầu ḿnh. Điều này ít khi được hiểu rơ, nhưng sự thực sẽ trở nên ngày càng hiển nhiên hơn.
234
Huấn
lệnh của Thánh Kinh nhắc nhở rằng con cái
sẽ bị trừng phạt v́ tội lỗi của ông
cha, là một phát biểu theo nghĩa đen, liên quan
đến sự kế thừa bệnh tật của nhân
loại từ thời Lemuria và Atlantis. Bệnh hoa liễu
và bệnh lao thường thấy bành trướng trong
nửa đầu của giống dân Aryan, chính chúng ta
hiện nay cũng thuộc về giống dân đó, và ngày
nay, chúng không những chỉ tác động vào các cơ quan
sinh sản hoặc là hai phổi (như chúng đă tác
động vào các giai đoạn đầu khi chúng
xuất hiện) nhưng hiện nay, đă liên quan tới
ḍng máu và tất nhiên là toàn bộ cơ quan của con
người.
Nhiều điều đă được thực hiện trong 50 năm qua để đưa bệnh lao lan tràn thời Atlantis vào sự kiềm chế bằng cách sống đơn giản, thức ăn trong sạch dồi dào, không khí trong lành. Sau cùng, nhiều điều đă được thực hiện để kiềm chế các bệnh giang mai, và cả hai bệnh này, sau rốt sẽ bị xóa sổ, không những chỉ bằng sự chữa trị lành mạnh và các khám phá của y khoa mà c̣n v́ nhân loại – khi nhân loại trở nên an trụ vào thể trí nhiều hơn – sẽ tự đối phó với vấn đề theo khía cạnh lương tri, sẽ quyết định rằng các tội lỗi vật chất đ̣i hỏi h́nh phạt quá nặng nề, và rằng việc sở hữu những ǵ mà bạn không kiếm được hay cần đến, và tất nhiên không chính đáng là của bạn, đều không đáng làm.
235
Chính là
quanh các ư tưởng căn bản này mà trận thế
chiến (1914 – 1945) xảy ra. Chúng ta gọi việc
chiếm hữu bất hợp pháp đất đai, lănh
thổ, tài nguyên và tài sản của dân tộc khác là sự
xâm lược, nhưng cùng nguyên tắc, đây là
điều cũng giống như cướp giựt,
trộm cắp, cưỡng đoạt. Ngày nay, các tệ
trạng này không những chỉ là các tội ác và lầm
lỗi của cá nhân, mà có thể là các đặc
điểm của quốc gia; trận thế chiến
đă gây ra toàn thể vấn đề đối với
mặt ngoài của tâm thức nhân loại, và cuộc
đấu tranh của dân Atlantis cổ đang
được tiến hành một cách cay đắng,
với điều chắc chắn là lần này, Thánh
Đoàn sẽ thắng. Trường hợp này không xảy
ra trong cuộc xung đột trước kia. Lúc bấy
giờ, cuộc chiến kết thúc nhờ sự can
thiệp của chính Hành Tinh Thượng Đế, và
rằng, nền văn minh cổ sẽ rơi vào vực
thẳm, bị ch́m đắm trong nước – biểu
tượng của sự tinh khiết, hệ thống
vệ sinh và tính phổ quát do đó thích hợp như là
một kết thúc đối với những ǵ mà một
Thánh Sư đă gọi là "một nhân loại bị
hướng về bệnh lao". Chết đuối và
chết bằng các phương tiện vật chất
mờ ám mà tôi không được tự do mô tả, cả
hai đều đă được thử thách trong nỗ
lực để cứu giúp nhân loại. Ngày nay, chết v́
lửa là kỹ thuật được dùng, và nó hứa
hẹn sẽ thành công. Trái ngược với các cuộc
khủng hoảng lớn lao thời Lemuria và Atlantis,
hiện nay, nhân loại có trí tuệ linh hoạt hơn
nhiều, các nguyên nhân của đau ốm đă
được nhận ra, các động lực
được nhận thấy một cách rơ ràng hơn,
ư-chí-hành-thiện và muốn thay đổi các t́nh trạng
tệ hại trong quá khứ lại mạnh hơn bất cứ
lúc nào từ trước đến giờ. Những ǵ
đang bắt đầu biểu lộ hiện nay trong ư
thức quần chúng là một cái ǵ hoàn toàn tốt và
mới mẻ.
236
Các lư do
bên trong được đưa ra để giải thích
sự xuất hiện của hai bệnh cổ xưa
nhất của nhân loại, có thể thấy
được rơ ràng đối với người không
biết huyền bí học, v́ có thể nhưng không
chắc chắn và có bản chất như là hoang
tưởng và quá tổng quát. Điều này không thể
giúp ích ǵ cả. Cả hai nhóm bệnh này có cội nguồn
cực kỳ cổ xưa đến nỗi tôi đă
gọi là chúng có sẵn trong chính sự sống của hành
tinh và di sản của toàn nhân loại, v́ tóm lại,
việc vi phạm một số luật sẽ đưa
tới các bệnh này. Nếu tôi quan tâm để làm như
thế, tôi có thể đưa bạn lùi lại xa hơn
vào lănh vực của tà lực vũ trụ khi nó thịnh
hành trong thái dương hệ chúng ta và tác động vào
Hành Tinh Thượng Đế, Đấng vẫn c̣n
được liệt kê trong số "các Thượng
Đế chưa toàn hảo"("the imperfect Gods").
H́nh thức bên ngoài của hành tinh mà qua đó Ngài tự
biểu lộ, được thấm nhuần ở
một độ sâu nào đó với các hạt giống và
các mầm mống của hai bệnh này. Tuy nhiên, khi sự
miễn nhiễm được tạo ra, khi các
phương pháp chữa trị đă phát triển, khi y khoa
pḥng ngừa xuất hiện, và khi chính con người
đạt đến chỗ tăng tiến, trí tuệ và linh
hồn kiềm chế được phàm ngă và bản
chất dục vọng, th́ các h́nh thức đau khổ này
của con người sẽ biến mất, và (dù cho khoa
thống kê có thể nói ǵ đi nữa), chúng đang tan
biến trong đám các vùng đă được kiềm
chế của gia đ́nh nhân loại. Khi sự sống
của Thượng Đế (tự biểu lộ
như thiên tính cá nhân và thiên tính vũ trụ) rung
động nhịp nhàng mạnh mẽ hơn qua các
giới của thiên nhiên, cả hai h́nh phạt của hành
động sai trái này tất nhiên không cần đến
nữa và sẽ biến mất v́ ba lư do:
1. Việc định hướng của nhân loại về phía ánh sáng đang từ từ thay đổi và "ánh sáng xua tan mọi tệ trạng". Ánh sáng của tri thức và việc nhận biết các nguyên nhân sẽ mang lại các t́nh trạng đă được hoạch định một cách thận trọng này sẽ làm cho bệnh giang mai và bệnh lao trở thành những sự việc của quá khứ.
2. Các bí huyệt dưới cách mô sẽ tùy thuộc vào tiến tŕnh thanh lọc, nâng cao; sự sống của các bí huyệt xương cùng sẽ được kiềm chế và năng lượng thường được tập trung ở đó sẽ được vận dụng trong cách sống sáng tạo, nhờ bí huyệt cổ họng. Huyệt đan điền sẽ nâng năng lượng của nó lên tim, khuynh hướng ích kỷ của con người lúc bấy giờ sẽ tàn tạ.
3. Việc chữa trị đầy đủ, được khoa học thực thi, sẽ làm cho sự lây nhiễm tan biến dần.
237
Một
lư do khác sẽ đưa tới việc ngưng lại các
thực hành và cách sinh hoạt, và ước vọng vốn
giải thích cho các bệnh này, cho đến nay, là một
điều ít được nhận biết; nó
được Đức Christ nhắc đến khi Ngài
nói về thời kỳ mà không có một bí mật ǵ có
thể được giữ kín, và khi mọi bí mật
sẽ được công bố rộng răi. Việc
tăng tiến ghi nhận viễn cảm và các quyền
năng tâm thông như là nhăn thông, nhĩ thông, sau rốt
sẽ có khuynh hướng giúp nhân loại tách rời
tội lỗi. Các quyền năng mà nhờ đó các Thánh
Sư và các điểm đạo đồ cao cấp có
thể xác định trạng thái tâm thông và t́nh trạng
vật chất, tính chất và tâm thức của nhân
loại, đă đang bắt đầu tự biểu
lộ trong nhân loại tiến hóa. Con người sẽ
phạm tội, vướng vào các hành vi sai trái và làm
thỏa măn dục vọng quá đáng, nhưng bạn bè
họ sẽ nhận thấy, và không điều ǵ mà
họ làm sẽ c̣n được giữ bí mật
nữa. Một người hoặc một nhóm nào đó
sẽ biết đến các khuynh hướng trong
đời sống của một người, và ngay các
việc trong đó y làm thỏa măn đ̣i hỏi nào đó
của phàm ngă y, và sự kiện về khả năng này
sẽ tác động như là một cản trở
lớn – một cản trở c̣n lớn hơn là bạn
có thể tưởng tượng. Con người thực
sự là kẻ trông nom của huynh đệ ḿnh (brother's
keeper) và sự trông giữ sẽ khoác lấy h́nh thức
của hiểu biết và của "tẩy chay và
chuẩn nhận" – như ngày nay người ta
thường gọi về vấn đề trừng
phạt các quốc gia. Tôi muốn bạn cân nhắc về
hai cách trị liệu sai lầm này. Chúng sẽ
được áp dụng một cách thực tiễn và
tự động như là một vấn đề tao nhă,
cảm giác đúng đắn và ư định hữu ích
của các cá nhân và các nhóm đối với các cá nhân và các
nhóm khác, và theo cách này, tội lỗi và khuynh hướng
đối với hành động sai trái, sẽ dần
dần bị dập tắt. Người ta sẽ hiểu
rơ rằng mọi tội ác được dựa trên
một số h́nh thức bệnh hoạn, hay là dựa trên
sự thiếu hoạt động hay là quá hoạt
động của các tuyến, đến phiên các tuyến
lại dựa trên sự phát triển hay là kém phát triển
của một số bí huyệt này hay bí huyệt khác.
Một dư luận quần chúng đă giác ngộ – có
hiểu biết về cấu tạo của con
người và hiểu rơ về Đại Luật Nhân
quả – sẽ đối phó với việc phạm
tội qua phương tiện y học, t́nh trạng môi
trường xung quanh thích hợp, và các h́nh phạt của
sự tẩy chay và chuẩn nhận. Tôi không có th́ giờ
để bàn rộng về các vấn đề này, mà các
gợi ư này sẽ cung cấp cho bạn tài liệu
để suy tưởng.
C. UNG THƯ (Cancer)
Bây giờ, chúng ta xem xét đến loại bệnh ngày càng tăng một cách nhanh chóng và bệnh điển h́nh thời Atlantis mà chúng ta gọi là ung thư. Chúng tôi đă nói đến một bệnh căn bản lan rộng liên quan tới thể xác; chúng tôi đă bàn qua một bệnh khác vốn là sản phẩm của bản chất dục vọng. Trong chu kỳ hiện nay của chúng ta, chu kỳ Aryan, ung thư rơ ràng là kết quả của sự hoạt động của hạ trí và của sự kích thích thể dĩ thái mà thể trí có thể mang lại. Đó là một bệnh chính yếu liên quan tới sự kích thích chừng nào mà quần chúng Aryan c̣n có liên hệ đến, giống như bệnh tim cũng là một bệnh do kích thích, đang tác động rất rộng lớn lên các mẫu người tiến hóa của nhân loại, những kẻ mà – do sự thu hút trong công việc và do sự lănh đạo – thường thường hy sinh cuộc sống của họ và gánh hậu quả tai hại về năng lượng bị lạm dụng và quá tập trung bởi các h́nh thức phát triển khác nhau của bệnh tim cấp tính.
238
Các
đệ tử và các điểm đạo đồ
cũng có khuynh hướng mắc bệnh này do khơi
hoạt bí huyệt tim vào hoạt động mănh liệt.
Trong một trường hợp, năng lượng
của sự sống đang tuôn đổ qua bí huyệt
tim được sử dụng, vượt quá sức chịu
đựng của con người trong công việc hằng
ngày. Mặt khác, bí huyệt tim khai mở, và sự căng
thẳng tác động vào tim quá mạnh, làm cho bệnh tim
xảy ra. Nguyên nhân thứ ba của bệnh tim là do bởi
sự đi lên sớm hoặc được hoạch
định một cách thận trọng của năng
lượng thuộc huyệt đan điền,
đến tim, như vậy tạo ra một sự
căng thẳng bất ngờ lên tim.
Dĩ nhiên, tôi đang bàn đến các khái quát rộng lớn. Sau này, bằng chứng sẽ dùng để chứng minh các loại hoạt động vốn sẽ gây ra khó khăn tương ứng bên trong tim. Bệnh tim sẽ tăng lên mạnh mẽ khi chúng ta đi vào căn chủng mới, đặc biệt là trong thời gian chuyển tiếp khi mà sự thật về các bí huyệt được thừa nhận cùng với bản chất và các tính chất của chúng, và tất nhiên, chúng trở thành mục tiêu chú tâm được dạy ra. Năng lượng theo sau tư tưởng, và sự tập trung trí óc vào các bí huyệt, tất nhiên sẽ tạo ra việc quá kích thích tất cả các bí huyệt, mặc dầu có sự chăm sóc và Môn Học về các Bí Huyệt được phát triển một cách thận trọng. Đó là một điều không thể tránh khỏi, do sự khai mở về thần kinh không đồng đều của con người. Sau này, việc kích thích đó sẽ được điều chỉnh và kiềm chế, c̣n tim sẽ chỉ lệ thuộc vào một trạng thái căng thẳng chung, cùng với mọi bí huyệt khác.
239
Ung
thư là một bệnh có liên quan rơ rệt nhất
đến các bí huyệt, và người ta sẽ thấy
rằng bí huyệt ở trong vùng có ung thư th́ quá hoạt
động, với sự tăng gia rơ rệt năng
lượng đang tuôn đổ qua chất liệu cơ
thể có liên hệ. Năng lượng này và sự quá kích
thích của một bí huyệt có thể là không chỉ do
sự hoạt động của bí huyệt và phát xạ
tất nhiên của nó, mà c̣n có sự ức chế do
thể trí đặt ra trên bất cứ hoạt
động nào của một bí huyệt đặc thù.
Điều này gây ra một tắc nghẽn năng
lượng, và chúng ta lại có sự sáng tạo của
năng lượng được tập trung quá nhiều
vào trong bất cứ vùng đặc biệt nào.
Một trong các cội nguồn chính của ung thư có liên quan tới bí huyệt xương cùng, và do đó liên quan tới cơ quan sinh dục, đă được ngăn chận bằng ư hướng tốt của sự sống tính dục và của mọi tư tưởng liên quan tới sự sống tính dục của những người t́m đạo bị hướng dẫn sai lầm. Họ là những kẻ t́m kiếm sự dạy dỗ – ở tu viện và sống độc thân – của thời Trung Cổ, cách làm dễ nhất. Vào thời đó, những người đức hạnh dạy rằng dục tính là xấu xa và đồi bại, một điều không nên ghi nhớ và là một cội nguồn mạnh mẽ của đau yếu. Thay v́ được kiềm chế và chuyển hóa thành hoạt động sáng tạo, các phản ứng b́nh thường lại bị đè nén một cách mạnh mẽ và mọi tư tưởng liên quan đến sự sống tính dục đều bị khước từ biểu lộ. Tuy nhiên, năng lượng cứ đi theo hướng của tư tưởng, kết quả là loại năng lượng từ điện đặc biệt đó thu hút một số lớn tế bào và nguyên tử vào chính nó; nơi đó, người ta thấy được cội nguồn của các bướu, sự tăng trưởng và các bệnh ung thư rất thường thấy ngày nay.
240
Cũng
vậy, có thể nói về sự ức chế mạnh
mẽ mà người t́m đạo đặt vào mọi
phản ứng t́nh cảm và xúc động. Trong nỗ
lực của họ để kiềm chế thể cảm
dục, những người này nhờ đến một
tiến tŕnh ức chế và ngăn chận trực
tiếp. Sự ngăn chận đó làm cho huyệt đan
điền thành một b́nh lớn chứa năng
lượng được giữ lại triệt
để. Sự chuyển hóa các xúc cảm thành đạo
tâm, bác ái và sự kiềm chế có định
hướng không xảy ra, và sự tồn tại của
nguồn lực sinh động này, đem lại ung thư
bao tử, ung thư gan và đôi khi toàn bộ vùng bụng
dưới. Tôi chỉ nhắc đến các nguyên nhân này
(sự quá hoạt động của một bí huyệt và
sự giữ lại năng lượng không cho biểu
lộ ra và bị ức chế) như là nguồn hậu
quả của bệnh ung thư.
Chúng ta trở lại từng trường hợp, như các bạn có thể thấy, đối với sự kiện về sự hiện hữu của các bí huyệt và các hiệu quả về sinh lư của chúng. Rất nhiều sự nhấn mạnh được đưa ra về các tính chất và các đặc điểm mà con người sẽ phát triển, khi các bí huyệt được cấu tạo và định hướng một cách thích hợp để các hiệu quả của năng lượng mà chúng tiếp nhận và phân phối vào cơ thể được giám sát một cách đầy đủ. Hai yếu tố liên quan tới các bí huyệt và ḍng máu, do đó biện minh cho việc lặp lại và việc chú tâm:
1. Ḍng máu là phương tiện của hệ thống tuyến, v́ đến phiên nó, nó là hậu quả của các bí huyệt. Ḍng máu mang đến cho mọi phần của cơ thể các yếu tố chính mà chúng ta biết rất ít, và nó có trách nhiệm để tạo ra bản chất con người về mặt tâm lư, và như thế, về mặt vật chất, kiểm soát được khí cụ của người đó.
2. Ḍng máu cũng là sự sống và mang đến khắp các cơ quan một trạng thái năng lượng mà các bí huyệt dự trữ, các bí huyệt này không có liên hệ trực tiếp với hệ thống tuyến nội tiết. Nhờ sự phát xạ của nó, nó thâm nhập vào ḍng máu và vào mọi động mạch, tĩnh mạch và mao mạch bên trong khu vực mà bí huyệt đang xét đến, đă kiểm soát được. Năng lượng thấu nhập này của chính sự sống, được tập trung và được định tính, có thể hoặc là bằng cách truyền sức sống, hoặc là dành cho cái chết.
241
Mọi
bệnh tật – trừ những bệnh do tai nạn, các
vết thương do sự lây nhiễm và các bệnh
dịch – sau cùng, có thể được truy nguyên ở
t́nh trạng nào đó của các bí huyệt, và do đó,
đến năng lượng đang tuôn đổ mănh
liệt, đến năng lượng quá hoạt
động và bị định hướng sai hoặc là
không đầy đủ và thiếu hoàn toàn hoặc là
được giữ lại, thay v́ được dùng và
chuyển hóa vào trung tâm năng lượng tương
ứng cao hơn. Bí nhiệm của máu vẫn c̣n cần
được giải rơ và sẽ nhận được
sự chú tâm ngày càng nhiều theo thời gian qua. Chứng
thiếu máu (anemias) ngày nay rất thường xảy ra
cũng là do sự thái quá của năng lượng.
Tôi chỉ có thể đưa ra các chỉ dẫn tổng quát, tŕnh bày các nguyên nhân, và sau đó, để cho những kẻ t́m ṭi sáng suốt cái nhiệm vụ nghiên cứu các hậu quả , sau khi chấp nhận như là một giả thuyết có thể chấp nhận các đề xuất mà tôi đă đưa ra. Việc nghiên cứu thích đáng về các tuyến nội tiết (và sau đó, về toàn thể cấu trúc của các tuyến của cơ thể) và của ḍng máu, sẽ xác minh chúng như là nguồn gốc cao nhất của khó khăn về vật chất. Tất nhiên, dù chậm chạp và nhờ nhẫn nại, các nhà khảo cứu cũng sẽ bắt buộc quay lại các bí huyệt và sẽ đi đến chỗ bao gồm trong các tính toán của họ một hệ thống thần kinh bên trong (toàn bộ hệ thống nadis bên trong đang nằm dưới các dây thần kinh khắp cơ thể) và sẽ chứng minh rằng các yếu tố này có trách nhiệm đối với đa số bệnh tật cùng nhiều bệnh phụ thuộc và che khuất các bệnh đang gây họa cho nhân loại. Tuy nhiên, những kẻ t́m ṭi đă mở trí, bắt đầu bằng cách chấp nhận sự thật về các bí huyệt, xem chúng như là có thể có và sau rốt có thể minh chứng, họ sẽ giúp cho sự tiến bộ được nhanh hơn nhiều. Lúc bấy giờ, bệnh tật sẽ chịu sự kiềm chế, bằng một hệ thống Laya yoga (tức khoa học về các bí huyệt) vốn dĩ là h́nh thức thăng hoa của Laya yoga vào thời Atlantis. Lúc bấy giờ, đạo sinh tiến hóa sẽ kiềm chế các bí huyệt bằng sức mạnh của tư tưởng. Trong khoa yoga sau này, nhờ sự tham thiền và chỉnh hợp cùng với sự thực hành đúng cách, các bí huyệt sẽ được đặt dưới sự kiềm chế trực tiếp của linh hồn – một điều rất khác với sự kiềm chế các bí huyệt bằng thể trí và là một điều mà đa số nhân loại chưa sẵn sàng. Đối với điều này, Môn học về sự Hô Hấp sẽ được thêm vào – không phải là cách tập thở như đă được dạy ra ngày nay với các kết quả thường là nguy hiểm, mà là nhịp thở được thể trí đặt ra, nhờ đó linh hồn có thể tác động và sẽ không đ̣i hỏi điều ǵ hơn là cách thở của xác thân theo nhịp điệu đơn giản để tái tổ chức các thể tinh anh và đưa các bí huyệt vào hoạt động có thứ tự, tùy theo cung và tŕnh độ tiến hóa.
242
Tôi
không bàn về bệnh lư học của các bệnh này.
Điều đó đă được y học thông
thường xem xét kỹ lưỡng và bàn đến
rồi. Trong phần này, tôi chỉ t́m cách nhấn mạnh
về các nguyên nhân bên trong và các hậu quả bên ngoài.
Cả hai phải được liên kết với nhau. Hoạt
động – quá trớn hoặc không thích hợp – của
các bí huyệt là nguyên nhân bên trong, nhưng phần c̣n
lại vẫn chưa được biết rơ, trừ các
nhà huyền bí học. Các nguyên nhân (nguyên nhân lộ ra ngoài
chính là kết quả của một nguyên nhân đích
thực bên trong) được mở đầu bằng
chính con người vật chất, hoặc là trong kiếp
sống này, hoặc là trong một kiếp trước –
một điểm mà chúng ta sẽ bàn đến sau này.
Ở trên, tôi đă nêu cho các bạn nhiều điều cần xem xét, và khi bạn cân nhắc, suy tư, khi bạn nghiên cứu các trường hợp và các kiểu mẫu, khi bạn xem xét các đặc điểm và các tính chất của những ǵ mà bạn biết và những ǵ xảy ra dưới một h́nh thức bệnh tật nào đó, ánh sáng sẽ đến.
Chỉ cần nêu ra các nguồn gốc chính của bệnh tật, chứ không cần xem kỹ chúng, cho dẫu vấn đề cũng quá bí hiểm đối với một trí thông minh bậc trung, điều đó thúc đẩy tôi bàn về điều thứ hai:
2. BỆNH TẬT XUẤT PHÁT TỪ CÁC T̀NH TRẠNG MƠ HỒ CỦA HÀNH TINH
243
Hiển
nhiên là tôi không thể bàn rộng về vấn đề
này, v́ ngay cả không thể đưa ra một chỉ
dẫn nhỏ nhất mà ngày nay có thể đưa
đến bất cứ t́nh trạng chứng thực nào.
Những ǵ tôi nói sẽ cần đến sự tin
tưởng, và tùy thuộc vào những ǵ tôi tin là
được nhận biết như là sự xác đáng
và tính trung thực đă được chứng minh
của tôi. Tôi sẽ và chỉ có thể nói ít thôi – chỉ
đủ để nêu ra một nguyên nhân hữu ích
của bệnh tật và là nguyên nhân của thời kỳ
to tát đến nỗi có sẵn trong sự sống
của chính hành tinh. Các bệnh này không có cội nguồn
bên trong hoặc cội nguồn tinh tế nào; chúng không
phải là kết quả của các trạng huống t́nh
cảm, hoặc của các tiến tŕnh trí tuệ ngoài ư
muốn. Chúng không có bản chất tâm lư, và do đó không
thể được truy nguyên đến bất cứ
hoạt động nào của các bí huyệt. Chúng phát
xuất từ trong chính sự sống của hành tinh và
từ trạng thái sự sống của nó, chúng có một
hậu quả xuất phát trực tiếp trên các nguyên
tử cá biệt mà nhục thể được tạo
thành. Đây là một điểm quan trọng cần
nhớ. Cội nguồn của bất cứ bệnh
tật có bản chất này đều được gây
ra bởi chính hành tinh, do đó, trước tiên là do bởi
một tác động bên ngoài của một số phóng phát
rung động, đến từ bề mặt của hành
tinh, ăn sâu vào trong hành tinh, và tác động đến
nhục thể. Các bức xạ này khơi dậy các
đơn vị năng lượng mà toàn thể tạo
thành chất nguyên tử của cơ thể; chúng không có
liên quan bằng bất cứ cách nào với ḍng máu hay
với hệ thần kinh. Tất nhiên, chúng không thể
được ḍ ra hay cô lập được, bởi v́
ngày nay, con người có tổ chức và có sự phối
kết cao đến nỗi các tác động bên ngoài này
gợi ra tức khắc một sự đáp ứng
từ hệ thần kinh; hiện nay, nhà y học hiện
đại không thể phân biệt được giữa
các bệnh xuất phát từ bên trong nội cơ cấu
của riêng người bệnh – thấy được
hoặc không thể thấy được – và các bệnh
có bản chất của các kích thích từ bên ngoài, tạo
ra các hiệu quả tức khắc trên cơ quan nhạy
cảm của cơ thể con người. Ở đây,
tôi không đề cập đến các nỗi khó khăn do
lây nhiễm hoặc truyền nhiễm.
244
Có
lẽ một điểm mà tôi có thể nhấn mạnh do
sự hữu ích đó là chính v́ hiệu quả mơ
hồ này của hành tinh (mơ hồ đối với
chúng ta vào lúc này) trên thể xác vốn là nguyên nhân chủ
yếu của tử vong nếu xét về bản chất
h́nh hài thuần động vật, hoặc là các h́nh
thức của sự sống hiện hữu trong giới
động vật và giới thực vật, và với
một mức độ bé nhỏ và chậm chạp
hơn trong giới khoáng chất. Về phần nhân
loại, cái chết ngày càng tăng lên do bởi mục
đích đă định (planned intent) và sự
triệt thoái đă được sắp đặt
của linh hồn dưới sự thôi thúc của mục
đích riêng đă được đề ra. Điều
này đúng ở một mức độ nào đó với
tất cả những kẻ c̣n trong ṿng sinh tử, trừ
những kẻ ở mức thông minh thấp kém đến
nỗi linh hồn gần như ít làm ǵ nhiều hơn là
phương tiện che chở/ linh trợ.
Trong số tất cả chúng sinh hữu tử, dù đă phát triển cao hay không, các giai đoạn tan ră sau đó, xảy ra sau sự triệt thoái hữu thức của linh hồn (có chủ ư về phần linh hồn và trở nên càng có chủ ư về phía kẻ đang hấp hối) đă xảy đến bằng năng lực ban cho cái chết của chính sự sống hành tinh.
Trong trường hợp các giới dưới nhân loại trong thiên nhiên, cái chết chính là kết quả trực tiếp của hoạt động qui nguyên của hành tinh. Ư tưởng duy nhất về sự vận hành của nó mà tôi có thể đưa ra cho bạn đó là linh hồn của mọi h́nh thức sự sống phi nhân loại, là một khía cạnh vốn có của vật chất mà chính hành tinh được tạo thành. Linh hồn này có thể được triệt thoái theo các chu kỳ, tuy chưa được khoa học xác minh, nhưng trong cách hành động của nó, đă có sự xác định và chắc chắn – không kể đến các tai biến lớn của hành tinh hay là tác động trực tiếp của giới thứ tư trong thiên nhiên. Quyền năng có sẵn này của hành tinh đưa tới cái chết của một động vật, và – trong một phạm vi tiến hóa lớn lao hơn – đưa tới sự tận diệt của một chủng loại; vào đúng lúc, nó cũng đưa đến cái chết của các h́nh hài của giới thực vật, và cũng là một trong các nguyên nhân đưa tới chu kỳ mùa thu trong năm, tạo ra "sự tàn úa, sự vàng lá", hiện tượng mất màu xanh tươi trong cây cỏ và các biểu lộ theo chu kỳ này cho thấy không những chỉ một ḿnh cái chết, ở một mức độ tạm thời và thoáng qua, mà c̣n có việc ngưng hoàn toàn sức sống bên trong h́nh hài. "Thời kỳ hủy diệt" là các biểu lộ theo chu kỳ của "trạng thái hủy diệt" bên trong chính hành tinh. Tất nhiên là các vấn đề khó khăn này sẽ khó hiểu đối với bạn.
245
Hoạt
động phóng phát này của sự sống hành tinh có tính
tuần hoàn trong thiên nhiên và hiện tại vĩnh cửu,
có liên quan chặt chẽ với ảnh hưởng
của cung 1. Chính trạng thái đó của Cung Ư chí hay
Quyền Lực tạo ra sự tan ră của h́nh hài, sự
hư hoại và tan ră của thể xác, cho đến khi nó
hoàn toàn được hóa nhập trở lại vào
chất liệu của hành tinh. Việc vận dụng trí
tưởng tượng có tập trung sẽ giúp các
bạn khám phá ra tác động này của thiên tính có thể
cực kỳ có ích biết bao.
Cái chết đă hiện hữu trên hành tinh chúng ta từ thời rất xa xưa; các h́nh hài đă đến và đi; cái chết đă xảy đến cho thảo mộc, động vật và các h́nh hài của con người trong không biết bao nhiêu là kỷ nguyên, tuy thế, hành tinh chúng ta không phải là một nhà mồ, mặc dù hành tinh này có vẻ như thế, nhưng vẫn là một điều tốt đẹp, ngay cả con người cũng không làm cho hư hoại được. Tiến tŕnh chết chóc và tan ră, cùng là phân hủy của h́nh hài, tiếp diễn vào mọi lúc mà không tạo ra sự lây nhiễm hay là làm biến dạng bề mặt địa cầu. Các kết quả của phân hủy đều có hiệu quả tốt lành. Hăy suy gẫm về hoạt động có lợi này và về cái đẹp đẽ của Thiên Cơ đối với sự chết và sự tan biến.
Với con người, cái chết đảm nhận hai khía cạnh hoạt động; linh hồn con người khác với linh hồn trong các h́nh hài không phải nhân loại, trong h́nh hài đó, chính linh hồn – trên cơi riêng của nó – là một biểu lộ đầy đủ và là một biểu lộ có hiệu quả của Ba Ngôi thiêng liêng; nó định đoạt trong ṿng một số giới hạn – được dựa trên các điều kiện về thời gian và sự cần thiết của không gian – tiến nhập vào h́nh hài con người và rời khỏi đó. Khi việc rời bỏ này xảy đến và linh hồn đă rút giác tuyến ra khỏi bộ óc và rút sinh mệnh tuyến của nó ra khỏi tim, một số tiến tŕnh sự sống vẫn c̣n tồn tại; tuy nhiên, bây giờ chúng ở dưới ảnh hưởng của sự sống hành tinh, và đối với các tiến tŕnh này, tinh linh hồng trần (toàn thể các nguyên tử sinh động của phàm ngă) trở nên đáp ứng. Tôi muốn các bạn chú ư đến sự nghịch thường huyền bí mà cái chết là kết quả của các tiến tŕnh sinh động. Cái chết, hay là năng lượng tạo ra trong cái chết tỏa ra từ hành tinh, đưa tới sự gián đoạn hoàn toàn của cơ thể và thu nhỏ nó thành các nguyên tố thiết yếu – chất hóa học và chất khoáng, cộng với một số chất vô cơ, vốn dễ được thu hút vào đất đai của chính hành tinh. Do đó, với vai tṛ là kết quả hoạt động của linh hồn, cái chết tạo ra sự triệt thoái khỏi xác thân của "thể ánh sáng và của các thể tinh anh", dành h́nh hài trọng trược và các bộ phận cấu thành của nó cho các tiến tŕnh tốt lành của sự kiềm chế hành tinh. Hoạt động hai mặt này tạo ra cái chết – như chúng ta biết nó theo khía cạnh con người.
246
Ở
đây, cần nêu ra rằng, năng lực này của Hành
Tinh Thượng Đế để rút ra tinh túy/bản thể
sự sống có sẵn trong mỗi nguyên tử, tạo ra
những ǵ có thể gọi là sự hư hoại trong
cấu trúc của h́nh hài ở bất cứ điểm
nào mà từ đó tinh túy sự sống này được
phát ra. Sau rốt, điều này sẽ mang lại các t́nh
trạng trở thành rơ rệt trước mắt; như
vậy, bệnh tật và "khuynh hướng tử
vong" trở thành có thể nhận ra được. Do
đó, sự tàn tạ của một cái hoa, chết chóc v́
tuổi già ở một động vật hoặc
thực vật, và nhiều bệnh tật của con
người, tất cả đều xảy ra do sự
lôi kéo của sức sống mạnh mẽ của hành tinh,
nói về mặt huyền bí; đây là một khía cạnh
của những ǵ được gọi một cách sai
lầm là Định Luật Hấp Dẫn. Định
luật này – lại nói về mặt huyền bí – là một
khía cạnh của Định Luật Phản Bổn Hoàn
Nguyên (Law of Return), nó chi phối mối liên hệ của
một đơn vị sự sống trong h́nh hài đối
với cội nguồn xuất phát của nó.
"Ngươi là cát bụi; ngươi sẽ trở
về với cát bụi" là một phát biểu của
định luật huyền linh. Trong sự tiến hóa
kỳ lạ của các từ ngữ – như bất
cứ quyển từ điển đặc sắc nào
sẽ nêu ra – từ ngữ "cát bụi" ("dust")
xuất phát từ hai nguồn gốc, một có nghĩa là
"gió" ("wind") c̣n nguồn gốc kia có nghĩa
là "tách ra thành mảnh" ("falling to pieces"). Hàm ư
của hai nghĩa này sẽ rơ rệt và sự nối
tiếp các ư tưởng bị ngăn chận lại. Cùng
với sự triệt thoái của gió hay hơi thở,
việc tách ra thành mảnh vụn xảy ra và đây là
một phát biểu đích thực và có ư nghĩa. Cũng
như sự sống vĩ đại thu hút sự sống
nhỏ bé; việc biến mất của những ǵ mà
sự sống đă làm linh hoạt sẽ xảy ra;
điều này đúng cho mọi h́nh hài trong các giới
dưới nhân loại, khi chúng đáp ứng với
lực kéo hay giật lại của sự sống hành tinh;
điều đó cũng đúng với h́nh hài con
người khi nó phản ứng lại tiếng gọi
của linh hồn để hoàn lại nguyên khí sự
sống của nó cho linh hồn, xuyên qua sutratma, và trở
lại dưới h́nh thức tâm thức cho cội
nguồn biểu lộ của nó.
247
Trong
tiến tŕnh và sự tương tác này, h́nh hài biểu
lộ các kết quả của bản thể, hoặc là chủ
thể nhận luồng sự sống từ hành tinh,
hoặc là với tư cách là người phóng rải
sự sống đó, theo định luật chu kỳ, vào
kho dự trữ chung chứa năng lượng linh
hoạt của nó. Hai phản ứng này tùy thuộc vào
sức khỏe hoặc là bệnh tật của h́nh hài
trong các giai đoạn và các trạng thái đáp ứng khác
nhau và dưới tác động của yếu tố
đóng góp và chi phối khác. Có ba giai đoạn chính trong
chu kỳ sống của mọi h́nh hài dưới nhân
loại và cũng trong h́nh hài con người khi linh hồn
chỉ là một mănh lực che chở/ linh trợ chứ
không phải là một năng lượng hội nhập:
1. Giai đoạn lưu nhập, của sinh khí và của phát triển.
2. Giai đoạn đối kháng, trong đó h́nh hài bảo tồn sự toàn vẹn của riêng nó trong một chu kỳ tạm thời, được xác định bằng thứ loại và môi trường của nó, như vậy chống lại một cách thành công bất cứ "lực hút" nào của sự sống đang bao bọc vạn vật và bất cứ sự tái hóa nhập nào của sinh khí của nó.
248
3.
Giai đoạn tỏa ra trong đó lực hút của
sự sống vĩ đại hơn của hành tinh, lôi
cuốn và hấp thu sự sống yếu kém hơn.
Tiến tŕnh làm yếu này là một phần của luật
chu kỳ mà một ngạn ngữ cổ có ám chỉ
đến trong câu "Kiếp sống của một
người là 70 năm". Khi mức trung b́nh của
một chu kỳ tổng quát diễn ra một cách b́nh
thường, một điểm gây yếu trong mô xác thân
chắc chắn và dần dần sẽ nổi lên. Bệnh
tật hay là sự hư hoại ở một phần nào
đó trong h́nh hài thường xảy ra, và cái chết
sẽ xảy đến. Độ dài của các chu kỳ
và nguyên nhân định đoạt của chúng là một bí
mật sâu xa và đặc biệt liên quan đến các
giới khác nhau trong thiên nhiên và liên quan đến các loài,
các kiểu và các h́nh hài bên trong toàn bộ các tiến tŕnh
sống. Cho đến nay, chỉ có các Thánh Sư và các
vị được điểm đạo mới
biết được các chu kỳ này. Những vị này
được giao cho nhiệm vụ thúc đẩy
diễn tŕnh tiến hóa bên trong các giới dưới nhân
loại, c̣n đối với các thiên thần, nhiệm
vụ của các Ngài là kiểm soát tiến tŕnh.
Như bạn đă rơ, sự phân biệt lớn lao giữa giới nhân loại trong ba cơi thấp với các giới khác trong thiên nhiên là yếu tố tự do ư chí. Sau rốt, trong vấn đề tử vong, tự do ư chí này có liên hệ rơ rệt với linh hồn; ư chí của linh hồn được noi theo, hoặc là một cách hữu thức, hoặc là một cách vô thức khi nào có liên hệ đến quyết định từ bỏ sự sống, và ư tưởng này mang nhiều hàm ư mà các môn sinh cần nên cân nhắc kỹ. Bây giờ, chúng ta đến một điểm khái quát chủ yếu khác về bệnh tật và tử vong có liên quan đến nhân loại:
ĐỊNH LUẬT VIII
Bệnh tật và tử vong là kết quả của hai mănh lực linh hoạt. Một lực là ư chí của linh hồn, nó nói với khí cụ của ḿnh: Ta thu hồi tinh hoa trở lại. Lực kia là sức mạnh từ điện của Sự Sống hành tinh; sự sống đó nói với sự sống bên trong cấu trúc nguyên tử: Giờ phút tái hóa nhập đă đến. Hăy trở lại cùng ta. Thế nên, dưới luật chu kỳ, rơ ràng là mọi h́nh hài đều tác động.
Ở đây, nói đến sự tan ră thông thường của h́nh hài vào lúc kết thúc chu kỳ luân hồi. Như chúng ta biết rơ, chu kỳ này được xác định trong trường hợp con người bằng các yếu tố tâm lư chính yếu, yếu tố đó có thể hối thúc hoặc kéo dài "giờ kết thúc", nhưng chỉ đến một mức độ nào thôi. Phán quyết của linh hồn và mệnh lệnh của Sự Sống hành tinh là các yếu tố quyết định sau cùng, ngoại trừ trong trường hợp chiến tranh, tai nạn, tự tử hoặc dịch bệnh.
249
Mănh
lực thu hút mà hành tinh được giao phó rất là to
tát trong ṿng một số giới hạn; thí dụ, chính các
giới hạn này thúc đẩy dịch bệnh như là
hậu quả của chiến tranh. Các dịch bệnh
như thế có hậu quả nghiêm trọng cho nhân
loại sau khi chu kỳ chiến tranh kết thúc, và sau khi
bệnh dịch sau đó tự tàn lụi. Nhân loại,
đặc biệt là ở Đông Âu, chưa hoàn toàn
phục hồi từ các bệnh dịch, gắn liền
với phần đầu của trận thế chiến,
khi phần thứ hai xảy ra. Các hậu quả về tâm
lư hăy c̣n tiếp tục; các vết thương và các hậu
quả của giai đoạn 2 của thế chiến
đó sẽ vẫn c̣n trong ṿng 50 năm, cho dù – nhờ
kiến thức khoa học lớn lao hơn của con
người – yếu tố bệnh dịch có thể
vẫn c̣n gây kinh ngạc trong nhiều biên giới. Tuy nhiên,
điều này vẫn c̣n không chắc chắn. Chỉ có
thời gian mới chứng minh được nhân loại
thành công như thế nào trong việc hóa giải các h́nh
phạt mà thiên nhiên bị xúc phạm có khuynh hướng
đ̣i hỏi.
Nhiều điều tốt lành sẽ xảy đến nhờ tăng gia thói quen hỏa táng các xác chết; khi tập quán này trở nên phổ biến, chúng ta sẽ thấy bệnh tật bị giảm đến tối thiểu, đưa tới sự trường thọ và sinh lực tăng thêm. Yếu tố đối kháng hay là tiến tŕnh mà nhờ đó một h́nh hài tự làm cho ḿnh miễn nhiễm, hay là không đáp ứng với sức lôi cuốn của hành tinh và sức thôi thúc hướng tới việc tái thu hút cần phải tiêu phí nhiều năng lượng. Khi sự sống tăng gia tiềm lực bên trong h́nh hài và ít phản ứng với các yếu tố truyền bệnh, th́ linh hồn bên trong h́nh hài sẽ có ảnh hưởng nhiều hơn, biểu lộ đẹp đẽ hơn nhiều và phụng sự hữu hiệu hơn.
Một ngày nào đó, điều này sẽ trở nên đúng trong mọi giới của thiên nhiên, và như vậy, chúng ta sẽ có một sự huy hoàng vững bền chiếu ra trong cái vinh quang tột đỉnh của Sự Sống Thượng Đế.
3. CÁC BỆNH CỦA CHỦNG TỘC VÀ CỦA QUỐC GIA.
250
Điều
hiển nhiên đối với bạn là hiện nay tôi quan
tâm phần lớn đến các yếu tố báo
trước, vốn là kết quả của lịch
sử đă qua của nhân loại, hơn là đưa ra
cho bạn một bản mô tả đặc biệt và chi
tiết về các bệnh tật có liên quan đến
nhiều quốc gia khác nhau. Thực ra điều này không
thể làm được do sự trùng lắp và sự song
hành đang xảy ra trong mỗi bộ môn của sự
sống thiên nhiên. Vượt trên mọi sự việc
khác, tôi t́m cách làm sáng tỏ những ǵ cần phải làm
theo đường lối chữa trị pḥng ngừa, và
những ǵ sẽ được hoàn thành trong nhiệm
vụ khó khăn là hóa giải các t́nh trạng thường
thấy trên địa cầu, như là hậu quả
của việc lạm dụng các năng lực thiên
nhiên trong quá khứ. Do đó, cần phải tiến hành
chữa trị các t́nh trạng này, mà hiện đang lan tràn
khắp nơi trên hành tinh chúng ta, và tất nhiên là tôi sẽ
không nhấn mạnh về tính đặc thù và cá biệt.
Tôi cũng đang đặt nền móng cho việc bàn
về chủ đề kế tiếp của chúng ta –
mối liên hệ của Luật Karma đối với
bệnh tật, chết chóc và đối với nhân
loại nói chung.
Khi xem xét đến các bệnh thuộc chủng tộc và quốc gia, tôi không định nêu ra rằng bệnh lao là một bệnh riêng biệt của giai cấp trung lưu trong mọi quốc gia, tiểu đường là một bệnh chính yếu trong các dân tộc ăn lúa gạo trên thế giới, c̣n bệnh ung thư đang lan tràn trong nước Anh, trong khi bệnh tim là nguyên nhân hàng đầu gây ra chết chóc ở Mỹ. Các khái quát hóa như thế vừa đúng vừa sai theo như thống kê học cho biết, và không có lợi ǵ mà bàn vào chi tiết các vấn đề này. Các khó khăn này sẽ được hóa giải đúng lúc nhờ sự hiểu biết tăng tiến, nhờ việc chẩn đoán bệnh tật bằng trực giác, và nhờ công tŕnh tuyệt diệu của y học tân tiến và chuyên môn, cộng với sự hiểu biết chính đáng hơn về các điều kiện sinh sống đúng cách.
Tôi muốn đưa ra các điều khái quát c̣n rộng hơn nữa, chúng sẽ cho thấy nguyên nhân và sẽ không nhấn mạnh về các hậu quả của các nguyên nhân này. Do đó, tôi xin nêu ra rằng:
251
1. Đất
đai của chính hành tinh là một nguyên nhân chính của
bệnh tật và sự lây nhiễm. Trong không biết bao
nhiêu thời đại, xác người, xác thú đă
được chôn vùi trong đất; đất ấy
tất nhiên bị tiêm nhiễm các mầm bệnh; và
mầm bệnh này ở dưới h́nh thức tinh tế
hơn là được ước đoán. Các mầm
bệnh cổ xưa đă biết hay chưa biết,
đều được t́m thấy trong các lớp
đất và tầng đất ngay bên dưới; các
lớp đất này có thể vẫn c̣n tạo ra các
bệnh độc hại nếu có điều kiện
thích hợp. Tôi xin nói rằng Tạo Hóa không bao giờ
định rằng xác chết phải được chôn
trong đất. Động vật chết đi và xác chúng
trở về với cát bụi, nhưng sự quay về
được thanh lọc nhờ tia nắng mặt
trời, và nhờ các cơn gió nhẹ thổi vào và phân tán
ra. Mặt trời có thể gây nên cái chết, cũng
như sự sống, các mầm bệnh và vi khuẩn
độc hại nhất không thể giữ
được tiềm lực của chúng nếu bị
phơi ra dưới sức nóng khô khan của
tia sáng mặt trời. Sự ẩm ướt và tối
tăm nuôi dưỡng bệnh tật v́ bệnh tật
tỏa ra và được nuôi dưỡng bằng các xác
chết. Khi nào mọi nước trên khắp thế
giới áp dụng luật lệ là các xác chết phải
"chịu hỏa thiêu", và khi mà luật lệ này
đă trở thành một thói quen phổ cập và bền vững,
lúc bấy giờ chúng ta sẽ thấy bệnh tật
giảm đi rất nhiều và thế giới sẽ
được lành mạnh hơn.
2. T́nh trạng tâm lư của một chủng tộc hay một quốc gia, như chúng ta đă thấy, đang tạo ra khuynh hướng mắc bệnh và giảm sức đối kháng với các nguyên nhân của bệnh; điều đó có thể tạo ra khả năng thu hút sự lây nhiễm tệ hại một cách dễ dàng. Về điểm này, tôi không cần bàn rộng thêm nữa.
252
3. Các
điều kiện sinh hoạt trong nhiều vùng
đất cũng nuôi dưỡng bệnh tật và
sức khỏe kém. Chỗ ở tối tăm và đông
đúc, chỗ ở dưới mặt đất, ăn
uống thiếu thốn, dinh dưỡng sai lầm, các
thói quen tệ hại của cuộc sống và đủ
thứ bệnh nghề nghiệp – tất cả
đều góp phần của chúng vào t́nh trạng sức
khỏe kém cỏi chung của nhân loại. Các t́nh trạng
này được nhận biết một cách rộng răi và
nhiều điều đă được làm để hóa
giải chúng, nhưng nhiều điều vẫn c̣n
phải làm. Một trong các hậu quả tốt của
trận thế chiến sẽ là thúc đẩy các thay
đổi cần thiết, cần kiến tạo lại
và nuôi dưỡng một cách khoa học lớp
người trẻ của nhân loại. Các bệnh về
xác thân trong một nước thay đổi tùy theo các
nghề đă được sắp xếp trước
của người dân; các bệnh của một giống
dân theo nông nghiệp sẽ khác nhiều với các bệnh
của một giống dân có tŕnh độ kỹ nghệ
cao; các khuynh hướng mắc bệnh thể chất
của một thủy thủ, thay đổi rất
nhiều so với các khuynh hướng mắc bệnh
của một công nhân xí nghiệp ở một trong các thành
phố lớn của chúng ta. Các điều chỉ dẫn
này được nhắc lại trừ phi công nhân trong
nhiều thành thị và vùng đất đă nhàm chán. Một
số bệnh chỉ xuất hiện ở địa
phương, một số khác dường như có các
hiệu quả chung của chúng; một số bệnh
đang dần dần tàn lụi, và các bệnh mới
đang xuất hiện; một số h́nh thức bệnh
tật luôn luôn tác động vào chúng ta; một số khác
dường như xuất hiện có chu kỳ; một
số là bệnh địa phương, trong khi nhiều
bệnh khác có tính truyền nhiễm.
Làm thế nào mà một chuỗi bệnh và các h́nh thức bệnh xác thân xuất hiện? Tại sao mà một số chủng tộc có khuynh hướng hứng chịu một bệnh thể xác, trong khi các chủng tộc khác lại chống được với bệnh đó? Các t́nh trạng khí hậu tạo ra một vài bệnh điển h́nh vẫn có tính cách địa phương, chớ không thấy có ở nơi nào khác trên thế giới. Ung thư, lao, giang mai, viêm màng năo, viêm phổi và bệnh tim cũng như bệnh tràng nhạc (thuật ngữ này dùng theo nghĩa xưa để chỉ một vài h́nh thức bệnh ngoài da), đang lan tràn khắp thế giới, tiêu diệt hàng triệu người, cho dù các bệnh này có thể được truy nguyên đến một số giai đoạn lớn trong nhân loại, ngày nay, chúng có hậu quả chung. Manh mối của điều này có thể thấy được nếu người nghiên cứu nhớ rằng dù cho thời kỳ của giống dân Atlantis cách đây nhiều ngàn năm, một số lớn nhân loại hiện nay về căn bản có tâm thức thời Atlantis và do đó, có khuynh hướng mắc các bệnh của nền văn minh đó.
253
Nếu
sự duyệt xét đầy đủ về sức
khỏe của thế giới được đảm
trách và tŕnh bày cho quần chúng biết suy tư –
được chọn trong các t́nh trạng b́nh
thường chớ không phải trong thời chiến –
vấn đề nêu lên là không biết có được
100.000 người có sức khỏe hoàn hảo trong số
nhiều tỉ người đang ở trên địa
cầu hiện nay không? Tôi nghĩ rằng không. Nếu
bệnh tật thực sự không có, tuy thế, t́nh
trạng của răng, thính giác và thị giác thường
có nhiều điều chưa đạt; các khuynh
hướng bị kế thừa và các tố bẩm linh
hoạt, gây nên sự quan tâm lớn, và đối với
mọi người, điều này phải được
thêm vào nỗi khó khăn tâm lư, các bệnh về tâm trí và
t́nh trạng bất an rơ rệt của năo bộ. Tất
cả các điều này đưa ra một h́nh ảnh làm kinh
hoàng. Y học ngày nay đang chiến đấu chống
lại các bệnh mà nó phát hiện; các nhà khoa học
đang t́m cách làm giảm nhẹ và chữa trị và dành các
phương pháp lành mạnh và bền vững để
nhổ tận gốc; các nhà nghiên cứu đang t́m
kiếm các mầm bệnh tiềm tàng và các nhà chuyên môn
về sức khỏe đang t́m các cách mới để
đối phó với sự tấn công của bệnh
tật. Cải thiện điều kiện vệ sinh,
cưỡng bách trồng trái, kiểm tra thường xuyên,
các luật lệ về thức ăn tinh khiết, các nhu
cầu hợp pháp và các t́nh trạng cư trú khả quan
hơn, tất cả đều được đưa
vào trận chiến này nhờ những kẻ có ḷng nhân
đạo thấy xa hiểu rộng. Tuy nhiên, bệnh
hoạn vẫn đang lan tràn, cần có nhiều bệnh
viện hơn và tốc độ tử vong tăng
vọt lên.
Để giúp vào việc thực hành này, Khoa Tâm Thần học, Trường Phái Tư Tưởng Mới, Khoa Học Hợp Nhất và Khoa Học Cơ Đốc cống hiến nhiều sự trợ giúp, và một cách hoàn toàn thành thật, t́m cách đem lại sức mạnh cho trí óc để ghi nhớ vấn đề. Vào giai đoạn hiện nay, các cơ quan và các nhóm này phần lớn là ở trong tay những kẻ cuồng tín và kẻ sùng tín, những người thiếu thông minh; họ không chịu thỏa thuận và dường như không nhận thức được rằng kiến thức chồng chất được do y học và do những kẻ làm việc một cách khoa học với cơ thể con người – như thể họ được Thượng Đế phú cho – cho đến nay vẫn là một lư tưởng chưa được chấp nhận. Sau này, các chân lư mà các nhóm này bênh vực, sẽ được bổ sung vào công việc của nhà tâm lư học và nhà y học; khi điều này đă được thực hiện, chúng ta sẽ thấy một sự cải thiện lớn lao. Khi mà công việc của nhà y sĩ và nhà giải phẫu có liên quan tới thể xác được nhận ra là thiết yếu và tốt lành, khi mà sự phân tích và các kết luận của nhà tâm lư học bổ sung cho công việc của họ, và khi mà năng lực của tư tưởng đúng cũng đến như một sự trợ giúp, lúc bấy giờ và chỉ có lúc bấy giờ, chúng ta mới tiến vào một kỷ nguyên mới của hạnh phúc.
254
Đối
với các loại bệnh tật khác nhau, cũng phải
thêm vào một nhóm bệnh tật chung vốn có hiệu
quả chặt chẽ về mặt tinh thần – đó là
các nhức đầu, các bệnh điên, các ám ảnh, các
đổ vỡ về tinh thần, các thác loạn, ảo
giác. Đối với các phương tiện chữa
trị khác nhau đă được nhắc ở trên,
cần nên thêm vào công việc mà các Thành Viên của Thánh
Đoàn và các đệ tử của các Ngài đảm
nhận; công việc đó nắm giữ sức mạnh và
sự hiểu biết về linh hồn, cộng với
minh triết của các nhóm chữa trị khác, để
tạo ra sức khỏe trong con người, để
trút vào nơi an dưỡng của chúng ta, để
rủ sạch cho nhân loại các bệnh căn bản,
chứng loạn trí và ám ảnh, và để ngăn
chận tội lỗi. Sau rốt, điều này được
mang lại nhờ sự phối kết đúng lúc của
toàn thể con người, nhờ hiều biết đúng
về bản chất của năng lượng và nhờ
đánh giá chính xác về hệ thống nội tiết, các
tuyến của nó và các liên quan tế nhị của các
tuyến đó.
Ngày nay, có ít nhiều công tác kết hợp chặt chẽ được thực hiện với sự thỏa thuận của bốn nhóm:
1. Các y sĩ và các nhà giải phẫu – chính thống và theo lư thuyết.
2. Các nhà tâm lư học, thần kinh học và nhà tâm thần học.
3. Các nhà trị liệu tinh thần và các nhà Tân Tư Tưởng, cộng với các nhà Tư Tưởng Hợp Nhất và Các Nhà Khoa Học Cơ Đốc.
4. Các đệ tử lăo luyện và những kẻ làm việc với linh hồn nhân loại.
Khi bốn nhóm này được liên kết chặt chẽ và có thể làm việc chung với nhau để giải thoát con người khỏi bệnh tật, bấy giờ, chúng ta sẽ tiến tới sự hiểu biết về cái kỳ diệu đích thực của con người. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có các bệnh viện mà trong đó bốn giai đoạn chữa trị sẽ diễn tiến bên cạnh nhau với sự hợp tác đầy đủ nhất. Không một nhóm nào có thể hoàn thành nhiệm vụ mà không có các nhóm khác, tất cả đều tùy thuộc nhau.
255
Chính
việc các nhóm này không nhận ra được cái hay trong
các nhóm khác – đang cố gắng đem lại khỏe
mạnh thể chất cho con người – khiến tôi
hầu như không thể giảng dạy đặc
biệt hơn và bàn đến trực tiếp hơn
về các vấn đề này. Bạn có ư kiến nào
về bức tường tư tưởng đối
kháng và ngôn từ chống đối mà một ư kiến
mới mẻ hay tiên phong phải phá vỡ hay không? Bạn
có bao giờ xem xét nghiêm chỉnh các h́nh tư tưởng
được tập hợp và cô đọng mà mọi ư
tưởng mới (và tôi sẽ gọi chúng là các
đề xuất của Thánh Đoàn) phải đấu
tranh với chúng hay không? Bạn có đánh giá
được gánh nặng oằn vai của các quyết
định cổ xưa đă có sẵn cần phải
được thúc đẩy trước khi Thánh Đoàn
có thể tạo nên một quan niệm mới và cần
thiết để thâm nhập vào tâm thức của dân chúng
bậc trung biết suy tư (hay tôi nên nói là thiếu suy
tư?). Lănh vực y học là một lănh vực khó
hoạt động nhất, v́ vấn đề rất là
sâu rộng và nỗi e ngại khi phải đi sâu vào các
phản ứng của những kẻ phải
được tiếp cận. Hố ngăn cách giữa
cái cũ đă ăn sâu với cái mới có nhu cầu
về mặt tinh thần, cần có nhiều nhịp
cầu dài và thận trọng. Kỳ lạ thay một
số lớn khó khăn lại được các trường
phái tư tưởng mới mẻ hơn cổ vũ. Y
học chính thống th́ chậm chạp và chậm chạp
một cách hữu lư, trong việc thừa nhận các
kỹ thuật và các phương pháp mới; đôi khi y
học đó lại quá chậm chạp, nhưng
trường hợp của cách chữa trị hay chẩn
đoán mới phải được chứng minh hữu
lư và chứng minh bằng thống kê trước khi
điều đó có thể được đưa vào
trong chương tŕnh giảng dạy và phương pháp y
khoa; các rủi ro cho con người th́ quá to tát, c̣n thầy
thuốc nhân đạo và tài ba sẽ không dùng bệnh nhân
của ḿnh làm đối tượng thử nghiệm. Tuy
nhiên trong ṿng vài thập niên qua, y học đă tiến
bằng những bước nhảy vọt, khoa
điện học và trị liệu bằng ánh sáng (light
therapy), cùng nhiều kỹ thuật và phương pháp
hiện đại khác đă được bổ túc
bằng các môn khác mà y học thấy là có lợi cho ḿnh. Các
đ̣i hỏi của điều không thể hiểu
được và cách chữa trị mơ hồ – nếu
các danh từ lạ kỳ như thế có thể dùng
được – được nhận ra ngày càng nhiều
và được biết đến khi đóng một vai
tṛ chính thống đă được nhận ra trong các
đường lối khảo cứu mới mẻ
về bệnh tật.
256
Phương
pháp của các trường phái trí tuệ và tôn thờ trí
tuệ, như họ đă tự gọi một cách sai
lầm, đă không diễn tiến một cách hữu ích
như thế. Đây phần lớn là lỗi lầm
của họ. Các Trường phái Tư Tưởng
như là Khoa Học Tâm Thần, Tân Tư Tưởng,
Hợp Nhất, Khoa Học Cơ Đốc, Thuật
Nắn Cột Sống, các nỗ lực của các nhà
Trị Liệu theo Thiên Nhiên (Naturopaths) và nhiều
Trường phái khác nữa, làm tổn thương
đại cục của họ, do các yêu sách to lớn mà
họ tạo ra, và do các công kích không ngừng của họ
vào y học chính thống và các con đường khác có
mức hữu ích đă được chứng minh, và vào
sự hiểu biết (thu lượm được qua
nhiều thế kỷ thực nghiệm) của các
trường phái học thuật của y học và
giải phẫu học. Họ quên rằng nhiều
điều trong số các đ̣i hỏi của họ,
muốn được thành công (và họ thường không
thể bác bỏ được) có thể được
sắp xếp theo đề mục chung của việc
chữa trị bằng đức tin, và điều này có
thể được thực thi một cách chính xác hay
không chính xác. Các cách chữa trị như thế đă
được các nhà tư tưởng theo lư thuyết nhận
biết từ lâu và được biết là có thực.
Các tôn sùng này, thực ra vốn là những kẻ bảo
quản các chân lư cần thiết, cần hơn mọi
thứ khác để thay đổi cách tiếp cận
của họ và để học hỏi bản chất
tinh thần của sự thỏa hiệp trong thời
kỳ tiến hóa. Các ư tưởng của họ không
thể đưa đến sự hữu ích đầy
đủ và mong muốn, tách rời tri thức đă
được Thượng Đế ban ra, mà y học qua
các thời đại đă tích lũy được;
họ cũng cần giữ bản ghi chép về nhiều
thất bại của họ, cũng như các thành công mà
họ lớn tiếng công bố. Ở đây, tôi muốn
nêu ra rằng các thành công này chẳng có cách nào nhiều
như các thành công của y học chính thống và của
công việc lợi ích mà các bệnh viện chúng ta đă làm
– mặc dù có thất bại và thường là sự
ngớ ngẩn rơ rệt –phần lớn cải thiện
được đau đớn và bệnh hoạn của
đa số con người. Các tôn thờ này đă bỏ
sót t́nh trạng, hay có khi nhận biết được,
rằng trong trường hợp đau ốm cực
độ hay tai nạn, về mặt thể chất,
bệnh nhân cũng không thể khẳng định
hoặc đ̣i hỏi việc chữa trị thiêng liêng và
tùy thuộc vào công việc của nhà chữa trị nào
đó, vị này hành động mà không hiểu biết
về karma của người bệnh. Nhiều thứ
trong cách chữa trị của họ (và đây cũng là
trường hợp của y học chính thống) là
thuốc men, v́ lẽ giờ kết thúc của
người bệnh chưa đến, nên người
bệnh sẽ được phục hồi trong bất
luận trường hợp nào, dù y thường
được phục hồi mau lẹ hơn nhiều
nhờ cách chữa trị của y sĩ tài giỏi.
257
Trong
các trường hợp tai nạn trầm trọng, lúc
người bị thương chảy máu, kẻ thờ
phụng (dù cho sự tôn thờ của y có thể
được gọi là ǵ đi nữa) sẽ tất
nhiên dùng các phương pháp y học chính thống; thí
dụ, y sẽ dùng cái ga-rô (tourniquet), và chọn các cách mà y
học chính thống đang dùng, hơn là đứng bên
cạnh để nh́n người bị thương chết
đi v́ không dùng các phương pháp này. Khi y đối
diện với cái chết, y sẽ thường quay
lại với các phương pháp trợ giúp đă
được thử thách, được chứng minh, và
thường là sẽ gọi đến một y sĩ,
hơn là chịu trách nhiệm về tội sát nhân.
Tất cả các điều trên được nói đến không phải với tinh thần dèm pha, mà là với một nỗ lực để chứng minh rằng nhiều trường phái tư tưởng – chính thống, lư thuyết suông, cổ xưa, vật chất hoặc tinh thần, mới mẻ, tiên phong hoặc về tâm thần – đều tùy thuộc nhau; chúng cần được gom chung lại với nhau thành một khoa chữa trị vĩ đại duy nhất. Đây sẽ là một khoa học để chữa trị cho toàn thể con người và phát huy mọi phương tiện – vật chất, t́nh cảm, trí tuệ và tinh thần – mà nhân loại có thể có được. Y học chính thống đang mở rộng sự hợp tác hơn nữa với các tôn thờ mới mẻ hơn là những tân tín đồ của khoa kiểm soát bệnh tật bằng tâm thần; tuy nhiên, họ không thể để cho các bệnh nhân của họ trở thành những con bọ thí nghiệm (đó có phải là thuật ngữ được dùng trong các trường hợp này không hỡi huynh đệ?) v́ sự toại nguyện của kẻ tôn thờ tiên phong và việc chứng minh các lư thuyết của y – dù đúng như thế nào khi được dùng kết hợp với những ǵ đă được chứng minh. Cách trung gian để thỏa hiệp và để hợp tác hỗ tương bao giờ cũng là cách khôn ngoan nhất, và đây là một bài học mà ngày nay cần đến rất nhiều trong mọi địa hạt suy tư của con người.
258
Bây
giờ, chúng ta sẽ tiếp tục bàn đến tiết
thứ ba và là tiết cuối cùng vể các ư tưởng
chung quanh các nguyên nhân căn bản của bệnh tật.
Chủ đề karma đă ít được xét
đến, và tôi sẽ bàn đến chủ đề
đó một cách rộng răi hơn khi có dịp.
259
CHƯƠNG III
CÁC TRÁCH NHIỆM NGHIỆP QUẢ CỦA CHÚNG TA
ef
NHẬN XÉT DẪN NHẬP
Bây giờ chúng ta đi đến giai đoạn kết luận về cách tiếp cận của chúng ta đối với vấn đề bệnh tật. Trong phần kế tiếp, chúng ta sẽ bàn đến các thái độ và tính t́nh của người bệnh, xem xét cung của y và cũng xét đến trạng thái trí tuệ của nhà chữa trị; tất cả các điểm này đều rất quan trọng khi người ta xét đến thuật chữa trị tinh vi. Tuy nhiên, điều chủ yếu là sức khỏe kém cỏi, bệnh cấp tính, và chính cái chết đều có vị trí của chúng trong toàn bộ bức tranh. Một lâm phàm đặc biệt không phải là một biến cố đơn độc trong sự sống của linh hồn, mà là một phần và một khía cạnh của chuỗi kinh nghiệm đă được định sẵn để đưa đến mục tiêu rơ rệt, duy nhất – mục tiêu của việc tự do chọn lựa và cố ư quay ra khỏi vật chất để tiến đến tinh thần và sự giải thoát cuối cùng.
260
Có
nhiều điều được nói đến trong
số các nhà huyền bí học (đặc biệt là trong
cách tŕnh bày theo Đông phương về Con
Đường Đến Thực Tại) liên quan
đến sự giải thoát. Mục tiêu trước
mắt kẻ sơ cơ là giải thoát, tự do, giải
phóng. Nh́n chung, điều này là chủ âm của chính sự
sống. Ư niệm chung là một sự chuyển di ra
khỏi lănh vực của vị kỷ thuần túy và
của giải thoát cá nhân thành một cái ǵ rộng lớn
và quan trọng hơn nhiều. Khái niệm giải thoát này
ẩn đằng sau việc sử dụng hiện nay
của từ ngữ "tự do", nhưng khôn khéo hơn
nhiều, tốt đẹp và sâu sắc hơn theo hàm ư
của nó. Trong trí của nhiều người, th́ tự do
là thoát khỏi sự áp đặt về luật lệ
của bất cứ ai, tự do làm theo ư ḿnh, suy
tưởng theo sự định đoạt của ḿnh
và sống theo ư ḿnh. Điều này sẽ được
như thế, miễn là các ước muốn, chọn
lựa, các tư tưởng và dục vọng của ta
đều không nhiễm ích kỷ và được
hiến dâng cho lợi ích của mọi người. Cho đến
nay điều này rất ít khi được như
thế.
Sự giải thoát c̣n nhiều hơn mọi điều này; đó là thoát khỏi quá khứ, tự do tiến tới theo một số đường lối định trước (do linh hồn định trước), tự do biểu lộ mọi tính thiêng liêng mà người ta có được với tư cách một cá nhân, hoặc cái mà một quốc gia có thể đưa ra cho thế giới.
Trong lịch sử của hai ngàn năm qua, có bốn biến cố tượng trưng lớn lao, chúng tuần tự hiện ra (cho những ai có mắt biết nh́n, có tai biết nghe và có trí biết t́m hiểu) chủ đề về sự giải thoát (liberation) – chứ không phải chỉ có tự do (liberty).
1. Cuộc đời của chính Đức Christ. Lần đầu tiên Ngài tŕnh bày ư tưởng về sự hy sinh của cá nhân, được đưa ra một cách thực tâm và có cân nhắc cho việc phụng sự toàn thể. Có các Đấng Cứu Trợ Thế Gian khác, nhưng các kết quả có liên quan không được mô tả rơ rệt lắm, bởi v́ trí óc của con người không sẵn sàng để hiểu hết các hàm ư. Phụng sự là chủ âm của sự giải thoát. Đức Christ là Đấng Phụng Sự lư tưởng.
2. Kư kết Hiến Chương Magna. Tài liệu này được kư kết ở Runnymede, dưới triều vua John, vào ngày 15–6–1215 sau T.C. Ở đây, ư tưởng về sự giải phóng khỏi uy quyền được tŕnh bày bằng sự nhấn mạnh về tự do cá nhân và các quyền của cá nhân. Sự tăng trưởng và phát triển ư tưởng căn bản này, tức là khái niệm trí tuệ và nhận thức được đưa ra thuộc vào bốn đoạn hay chương:
a. Kư kết Hiến Chương Magna, nhấn mạnh về sự tự do cá nhân.
261
b.
Thành lập nước Cộng Ḥa Pháp với việc
nhấn mạnh về tự do của con người.
c. Tuyên Ngôn Độc Lập và Dự Luật về Nhân Quyền quyết định chính sách quốc gia.
d. Hiến Chương Đại Tây Dương và Bốn Quyền Tự Do đưa toàn thể vấn đề vào lănh vực quốc tế, và bảo đảm cho người nam và nữ ở mọi nơi trên thế giới, quyền tự do để phát triển thực tại thiêng liêng trong chính họ.
Lư tưởng dần dần trở nên rơ rệt, để cho ngày nay đa số con người ở mọi nơi biết được những ǵ là điều cơ bản của hạnh phúc.
3. Giải Phóng Nô Lệ. Ư tưởng tinh thần về tự do của con người, đă trở nên lư tưởng được nhận ra, trở nên một ước muốn cần thiết và một biến cố tượng trưng vĩ đại xảy ra – các nô lệ được giải phóng. Giống như mọi việc mà con người đang có vai tṛ trong đó, sự hoàn hảo không thể có được. Người da đen không được tự do trong mảnh đất tự do này và Châu Mỹ sẽ phải thanh tẩy về mặt này; để đặt nó vào các lời lẽ rơ ràng, chính xác, nước Mỹ phải xem xét rằng Hiến Pháp và Dự Luật Nhân Quyền là các thực kiện chớ không phải là ảo tưởng. Chỉ có như thế th́ sự tác động không thể tránh khỏi của Luật Karma (vốn là chủ đề hiện nay của chúng ta) mới được đền bù. Người Da Đen là người Mỹ, cũng như những người Anh Mới và tất cả những chủng tộc khác, vốn không phải là thổ dân trong xứ này và Hiến pháp cũng là Hiến pháp của họ. Cho đến nay, các đặc quyền mà Hiến Pháp đưa ra đều bị những kẻ vốn là nô lệ của tính ích kỷ và sợ sệt, từ chối.
4. Giải Phóng Nhân Loại nhờ Liên Hiệp Quốc.
Chúng ta đang tham dự vào một biến cố rất huy hoàng và có tính cách tượng trưng, và đang chứng kiến biến cố đó tiếp diễn. Việc giải phóng cá nhân đă tiếp diễn nhờ sự giải phóng tượng trưng của một bộ phận nhân loại (dấu vết c̣n lại của hai giống dân đầu tiên là Lemuria và Atlantis) đối với sự giải phóng của nhiều triệu con người, bị nô lệ cho các tà lực bởi hàng triệu huynh đệ của họ. Lư tưởng đă được thể hiện thành một cố gắng thực tiễn khắp thế giới trên cơi trần và đă đ̣i hỏi sự hy sinh của khắp thế giới. Nó liên quan đến toàn thể ba cơi tiến hóa của con người, và v́ lư do này, Đức Christ bây giờ có thể hướng các thần lực của Ngài vào giúp con người để giải thoát cho nhân loại.
262
Do
đó, điều ǵ đă thực sự xảy ra trong các
sự sống của cá nhân, trong sự sống của
quốc gia và trong sự sống của nhân loại?
Một biện pháp phi thường để đánh giá
đúng tà kiến cổ xưa nhất, để hóa
giải một cách hữu thức Luật Nhân Quả
nhờ một nhận thức về các nguyên nhân trong các lănh
vực cá nhân, quốc gia và quốc tế, vốn đă
tạo ra các hậu quả mà ngày nay nhân loại đang
hứng chịu.
Luật Karma ngày nay là một sự kiện vĩ đại và không thể chối căi trong ư thức nhân loại ở khắp nơi. Họ không thể gọi luật ấy bằng danh xưng đó, nhưng họ biết rất rơ rằng trong tất cả các biến cố ngày nay, các quốc gia đang gặt những ǵ mà họ đă gieo. Định luật vĩ đại này – có thời là một lư thuyết – hiện nay là một sự kiện đă được chứng minh và là một yếu tố đă được hiểu rơ trong tư duy của con người. Câu hỏi "Tại sao?" rất thường được nêu ra trong yếu tố nhân quả một cách chắc chắn không thay đổi. Các quan niệm về di truyền và về môi trường xung quanh là các nỗ lực để giải thích các t́nh trạng hiện tại của con người; các tính chất, các đặc điểm về chủng tộc, các khí chất của quốc gia và các lư tưởng đă chứng tỏ sự thật về một số thế giới nguyên nhân đang khai mở. Các t́nh trạng lịch sử, các liên hệ giữa các quốc gia, các cấm kỵ trong xă hội, các xác tín của tôn giáo và các khuynh hướng, tất cả đều có thể truy nguyên đến các nguyên nhân khởi đầu – một vài trong số các nguyên nhân đó thuộc loại cổ xưa nhất. Mọi việc đang xảy ra trong thế giới ngày nay và đang tác động một cách rất mạnh mẽ lên nhân loại – những chuyện tốt đẹp và chuyện khiếp sợ, các cách sống và nền văn minh, văn hóa, các thành kiến và các ưa thích, thành tựu khoa học và biểu cảm nghệ thuật, và nhiều cách thức mà nhân loại khắp hành tinh đang tô điểm cho cuộc sống – đều là các khía cạnh của các hiệu quả, đă bắt đầu ở một nơi nào đó, trên một mức độ nào đó, vào một thời kỳ nào đó, bởi con người, cả cá nhân lẫn quần chúng.
263
Do
đó, karma là cái mà Con Người – vị Thiên Đế mà
chúng ta sống trong Ngài, nhân loại nói chung, nhân loại
trong các nhóm như các quốc gia và con người cá
biệt – đă thiết lập, xúc tiến, đă tán
đồng, bỏ đi không làm hoặc đă làm đúng
qua các thời kỳ, cho đến ngày nay. Hiện giờ,
mùa gặt đă đến và nhân loại đang gặt
những ǵ họ đă gieo, chuẩn bị cho một
luống cày mới trong mùa xuân của Kỷ Nguyên Mới,
việc gieo trồng các hạt giống mới (chúng ta hăy
cầu nguyện và hy vọng) sẽ tạo ra một mùa
gặt thành công hơn.
Chứng cớ nổi bật nhất của Luật Nhân Quả là chủng tộc Do Thái. Mọi quốc gia đều có minh chứng về định luật này, nhưng tôi chọn dân Do Thái, v́ lịch sử của họ được người ta biết rơ, tương lai và vận mệnh của họ là các chủ đề của toàn thế giới, liên quan đến nhiều người. Dân Do Thái luôn luôn có một ư nghĩa tượng trưng; họ tóm tắt trong chính họ – với tư cách một quốc gia qua các thời đại – các hố sâu của sai trái con người và các đỉnh cao của thiên tính nhân loại. Như đă được kể lại trong Kinh Cựu Ước, lịch sử gây hấn của họ vốn ngang bằng với sự thành tựu của dân Đức ngày nay; tuy nhiên Đức Christ là một người Do Thái, và chính chủng tộc Hebrew đă tạo ra Ngài. Đừng bao giờ quên điều này. Dân Do Thái là kẻ xâm lược vĩ đại; họ bóc lột dân Ai Cập và họ chiếm Đất Hứa (Promised Land) bằng mũi gươm, không dung tha cho đàn ông, đàn bà, trẻ con. Lịch sử tôn giáo của họ đă được xây dựng chung quanh một Jehovah duy vật, khư khư giữ của, tham ăn, tán đồng và khuyến khích sự xâm lược. Lịch sử của họ tượng trưng cho lịch sử của mọi kẻ xâm lược, chính họ viện lư vào niềm tin rằng họ đang tiến hành thiên ư (divine purpose) giành giựt tài sản của con người bằng một tinh thần tự vệ và t́m kiếm một lư do nào đó, thích hợp cho họ để bào chữa cho sự độc ác bất công đối với hành vi của họ. Đất Palestine bị dân Do Thái chiếm bởi v́ đó là "một vùng đất đầy hoa với sữa và mật ong" và khẳng định hành động của họ là theo mệnh lệnh thiêng liêng. Sau này, khoa biểu tượng nhận được nhiều lư thú nhất. Họ chia thành hai nửa: người Israelites với Tổng Hành Dinh ở Samaria và người Jews (nghĩa là hai hay ba bộ lạc đặc biệt trong số 12 bộ lạc) ở chung quanh Jerusalem. Thuyết Nhị Nguyên (Dualism) thấm đượm các đức tin tôn giáo của họ; họ được rèn luyện bởi dân Sadducees hoặc người Pharisees, và cả hai nhóm này đang thường xuyên xung đột. Đức Christ đă đến với tư cách là một thành viên của chủng tộc Do Thái và họ đă chối bỏ Ngài.
264
Theo
thực tế và theo tượng trưng, ngày nay, thiên
luật đang tác động và dân Do Thái đang trả giá
cho tất cả những ǵ họ đă làm trong quá khứ.
Họ đang chứng tỏ các hiệu quả có ảnh
hưởng sâu rộng của Thiên Luật. Theo thực
tiễn và theo biểu tượng, chúng thay thế cho
văn hóa và văn minh. Theo thực tiễn và theo biểu
tượng, họ là nhân loại; theo thực
tiễn và theo biểu tượng, họ giữ lập
trường như họ đă chọn từ bao giờ
đối với việc chia rẽ. Họ đă tự
xem như người được tuyển chọn và có
một ư thức bẩm sinh về số phận cao cả
đó, quên mất vai tṛ tượng trưng của họ
và chính Nhân Loại là kẻ được chọn chứ
không phải là một phần nhỏ và kém quan trọng
của nhân loại. Về thực tiễn và biểu
tượng, họ ao ước sự hợp nhất và
hợp tác, tuy nhiên, không biết hợp tác như thế
nào; về mặt thực tiễn và biểu tượng,
họ là "Kẻ Hành Hương Vĩnh Cửu";
họ là nhân loại đang lang thang qua các mê lộ của
ba cơi tiến hóa của nhân loại, và nh́n bằng đôi
mắt khát khao về miền đất hứa; về
mặt thực tiễn và biểu tượng, họ
tương tự như đa số con người, không
chịu t́m hiểu mục đích tinh thần ẩn
dưới mọi hiện tượng vật chất, bác
bỏ Đức Christ nội tâm (như là cách đây
nhiều thế kỷ họ đă làm đối với
Đức Christ trong ṿng các giới hạn của họ)
bám chặt lợi ích vật chất và kiên quyết bác
bỏ các sự việc tinh thần. Họ đ̣i hỏi
điều được gọi là phục hồi vùng Palestine,
giành đất đó ra khỏi những kẻ đă cư
ngụ ở đó từ nhiều thế kỷ; và
bằng sự nhấn mạnh liên tục vào sự sở
hữu vật chất mà họ không nh́n thấy cách
giải quyết đúng thực, lần nữa, về
mặt biểu tượng và thực tiễn, vốn là
những ǵ mà họ phải được đồng hóa
vào mọi quốc gia và ḥa hợp với mọi chủng
tộc, như vậy, chứng tỏ sự nhận
thức về Nhân Loại Duy Nhất.
265
Thật
là lư thú mà ghi nhận rằng người Do Thái đă
sống ở miền Nam Palestine và thành phố chính của
họ là Jerusalem, đă thành công trong việc thi hành
điều này và đă ḥa nhập với và được
đồng hóa bởi người Anh, người Ḥa Lan,
người Pháp, theo cách thức mà những người
Israelites, bị người Samaria cai trị, chẳng bao
giờ làm cả. Tôi nhắc lại điều này
để cho bạn xem xét.
Do đó, nếu giống dân Do Thái nhớ lại vận mệnh tượng trưng cao cả của họ, và nếu phần c̣n lại của nhân loại muốn thấy chính họ trong dân tộc Do Thái, và nếu cả hai nhóm muốn nhấn mạnh sự kiện về ḍng giống nhân loại và ngưng nghĩ tưởng về chính họ bằng các thuật ngữ về các quốc gia và chủng tộc, th́ Karma của nhân loại sẽ thay đổi tận gốc rễ từ karma báo phục của hiện tại, đến karma thưởng phạt tốt lành của tương lai.
266
Hăy xem
xét vấn đề này theo nhăn quang rộng răi (nh́n lui
lại về phương diện lịch sử, cũng
như nh́n tới phía trước một cách đầy hy
vọng); vấn đề là chính người Do Thái
phải đóng góp một cách rộng răi hơn. Tuy nhiên,
họ không bao giờ đối phó một cách thẳng
thắn và thành thật (với tư cách là một chủng
tộc) với vấn đề tại sao nhiều quốc
gia, từ thời Ai Cập, đă không ưa cũng như
không cần đến họ. Suốt nhiều thế
kỷ, việc đó vẫn luôn luôn giống nhau. Tuy nhiên,
phải có một số lư do, có sẵn trong chính dân chúng, khi
có phản ứng rất rộng răi và phổ quát. Cách
tiếp cận của họ đối với vấn
đề đầy khủng khiếp của họ là
vấn đề khẩn khoản, hay oán trách buồn
phiền hay là thất vọng. Nhu cầu của họ
đối với các quốc gia phi Do Thái (Gentile nations) là
đặt đúng vấn đề, và nhiều
người không phải là Do Thái đă thử làm
điều đó. Tuy nhiên, cho đến nay, chính
người Do Thái đă đương đầu với
t́nh h́nh và thừa nhận rằng đối với
họ, có thể có sự thể hiện của khía
cạnh báo phục của Luật Nhân Quả, và cho
đến khi họ nỗ lực để xác
định những ǵ có ở trong họ, với tư
cách là một giống dân, mở đầu vận mệnh
thảm khốc xa xưa của họ, vấn đề
căn bản của thế giới này sẽ vẫn như
là nó đă có từ thời vô thủy. Những ǵ có bên trong
nhân loại, th́ có trong con người vĩ đại,
thánh thiện, công bằng và thiên về tinh thần, đó
là một chân lư không thể sửa đổi
được. Một điều khái quát th́ không bao
giờ diễn tả chân lư đầy đủ
được. Nhưng, xét về vấn đề
người Do Thái trong thời gian và không gian, trong lịch
sử và hiện tại, các điểm mà tôi đă
đưa ra, sẽ được dân Do Thái xem xét một
cách đầy đủ.
Những ǵ mà tôi đă nói không có cách nào làm giảm nhẹ tội lỗi của những kẻ cố lạm dụng dân Do Thái. Bạn có câu tục ngữ "hai đen không tạo được một trắng" không? Cách cư xử của các quốc gia đối với dân Do Thái (Jews) lên đến cực điểm hung bạo vào khoảng phần tư thứ hai của thế kỷ XX, không biện minh ǵ cả. Thiên luật tất nhiên phải tác động. Dù cho nhiều việc đă xảy ra đối với dân Do Thái đă xuất phát từ trong lịch sử đă qua của họ và trong thái độ chia rẽ rơ rệt của họ và tính không thể đồng hóa , và trong việc nhấn mạnh vào lợi ích vật chất của họ, tuy các tác nhân đă mang lại karma xấu cho họ, cũng gánh chịu khía cạnh báo phục của cùng một luật; hiện nay, t́nh thế đă mang lấy h́nh thức một ṿng lẩn quẩn của sai lầm và hành động sai trái, của việc đền đáp và báo thù, và v́ lư do đó, phải đến lúc mà toàn thể các quốc gia sẽ thảo luận về vấn đề này, và toàn thể các quốc gia ấy sẽ hợp tác để mang lại một kết thúc về các thái độ sai lầm ở cả hai phía. Mọi karma có bản chất xấu đều được giải quyết bằng sự tŕnh bày về một ư chí được thừa nhận, một t́nh thương có tính hợp tác, một nh́n nhận thành thật về tinh thần trách nhiệm, và một sự hiệu chỉnh khéo léo về hoạt động chung hợp nhất để mang lại tốt lành cho nhân loại nói chung, chớ không chỉ sự tốt lành cho một quốc gia, một dân tộc hay một giống dân riêng biệt.
267
Vấn
đề Do Thái sẽ không được giải
quyết bằng việc chiếm hữu Palestine, bằng
sự kiện cáo, đ̣i hỏi và bằng việc vận
dụng tài chính. Điều đó chỉ là việc kéo dài
lầm lỗi cũ và việc sở hữu vật
chất. Vấn đề sẽ được giải
quyết bằng sự tự nguyện của
người Do Thái để phù hợp với nền
văn minh, với bối cảnh văn hóa và các tiêu
chuẩn sinh hoạt của quốc gia, mà do sự sinh
sản và sự giáo dục – dân Do Thái được liên
kết với, và nhờ đó họ sẽ
được đồng hóa. Điều đó sẽ
xảy đến nhờ sự từ bỏ ḷng tự
kiêu về chủng tộc và về ư niệm tuyển
chọn; điều đó sẽ xảy đến nhờ
việc từ bỏ các giáo điều và các tập quán
đă quá cổ xưa và đang tạo ra các điểm
bực bội luôn xảy ra đối với ma trận
(matrix) mà người Do Thái thấy ḿnh vướng trong
ấy; điều đó sẽ xảy đến khi tính
ích kỷ trong các liên hệ công việc và các khuynh
hướng vận dụng rơ rệt của người
Hebrew, đă được trao đổi v́ sự vô
kỷ nhiều hơn và các h́nh thức hoạt động
thành thật nhất.
Do các cung và tŕnh độ phát triển của ḿnh, người Do Thái nổi bật về tính sáng tạo và về mỹ thuật. Điều này, họ phải nhận ra, chớ không t́m cách – như hiện nay họ đang làm – chế ngự trong mọi lănh vực để giành lấy mọi cơ may của dân tộc khác, và như thế mưu lợi cho riêng ḿnh và dân tộc ḿnh bằng cách gây thiệt hại cho người khác. Việc thoát khỏi t́nh trạng hiện nay sẽ xảy đến khi người Do Thái quên rằng ḿnh là một người Do Thái và trong tận thâm tâm ḿnh trở nên là một người Ư, một người Mỹ, người Anh, người Đức hay một người Ba Lan. Hiện nay, điều này không phải như thế. Vấn đề Do Thái sẽ được giải quyết bằng hôn nhân khác chủng tộc và tôn giáo (intermarrige); c̣n vấn đề người da đen th́ không phải như thế. Điều này sẽ hàm ư là có sự nhân nhượng và thỏa hiệp về phía người Do Thái chính thống, không phải nhân nhượng theo thời cơ, mà là nhân nhượng v́ xác tín.
268
Tôi
cũng xin nêu ra rằng cũng như Kinh Kabbalah và kinh Talmud
(Pháp Điển Do Thái) là các đường lối phụ
để tiến đến chân lư nội môn, và
phương pháp của các kinh đó thiên về vật
chất (biểu hiện nhiều cho công tác huyền
thuật để liên kết một mức vật
chất với chất liệu của một mức khác),
cũng thế Cựu Ước rơ ràng là một Thánh Kinh
thứ yếu, và về mặt tinh thần, không
đứng trong hàng ngũ với kinh Bhagavad–Gita, các Kinh
cổ của Đông phương và Kinh Tân Ước. Nó
nhấn mạnh về vật chất và hiệu quả
của nó là ghi ấn tượng một Jehovad thuần
vật chất vào tâm thức thế gian. Chủ đề
tổng quát của Cựu Ước là phục hồi
biểu hiện cao nhất của minh triết thiêng liêng trong
thái dương hệ thứ nhất; thái dương
hệ đó tượng trưng cho công tác sáng tạo
của Ngôi Ba của Thượng Đế – ngôi của
thông tuệ linh hoạt tự biểu lộ qua vật chất.
Trong thái dương hệ này, thế giới sáng
tạo được dự trù là biểu hiện của
Ngôi Hai, về t́nh thương của Thượng
Đế. Người Do Thái không bao giờ hiểu được
điều này, v́ t́nh thương được diễn
tả trong Cựu Ước là t́nh thương chia rẽ,
ích kỷ của Jehovah cho từng đơn vị riêng
biệt trong giới thứ tư, tức là giới nhân
loại. Thánh Paul tóm tắt thái độ mà nhân loại nên
có bằng các lời: "Không có người Do Thái, cũng
không có người phi Do Thái". Karma xấu của
người Do Thái ngày nay được dự trù là
để chấm dứt sự cô lập của họ,
đưa họ đến mức từ bỏ các mục
tiêu vật chất, từ bỏ một quốc tịch
vốn có khuynh hướng hơi ăn bám trong ranh giới
của các quốc gia khác, và để biểu lộ ḷng
bác ái bao quát, thay v́ một bất hạnh phân cách.
268 269
C̣n
thái độ của người phi Do Thái là ǵ?
Điều tuyệt đối cần thiết là các
quốc gia gặp gỡ người Do Thái hơn nửa
đường khi người này đạt đến
mức thay đổi – một cách chậm chạp và
từ từ – quyền chính thống về quốc
tịch của ḿnh. Điều cần yếu là họ
ngưng sợ hăi và khủng bố, hết oán hờn và
không đặt ra các bức tường ngăn cản
sự hợp tác. Thái độ bài Do Thái đang tăng trên
thế giới, không thể bào chữa được theo
cái nh́n của Thượng Đế và con người.
Ở đây, tôi không nhắc đến các sự hung ác
đáng kinh tởm của người dân Đức bị
ám ảnh. Sau đó có ẩn lịch sử của các mối
liên hệ của thời Atlantis mà tôi không cần đi sâu
vào, bởi v́ tôi không thể chứng minh cho bạn sự
thật về các phát biểu của tôi. Tôi nhắc
đến lịch sử của hai ngàn năm qua và
đến cách cư xử hằng ngày của người
phi Do Thái ở khắp nơi. Phải có một nỗ
lực rơ
rệt
về phần các công dân ở mọi xứ để
đồng hóa người Do Thái, để tạo hôn nhân
dị chủng với họ và để không xem họ
như là các bức tường ngăn cách, các tập quán
cổ xưa của tư tưởng và các mối liên
hệ xấu thời trước. Con người ở
khắp nơi phải xem điều đó như là
một vết nhơ trên toàn thể quốc gia của
họ, nếu có xuất hiện trong biên giới của
họ cặp đối lập cũ – Do Thái và phi Do Thái.
Không có người Do Thái mà cũng không có người phi Do
Thái; chỉ có nhân loại. Cuộc thế chiến (1914 –
1945) nên được xem như đă mang lại một
kết thúc việc thù địch xưa giữa
người Do Thái và phi Do Thái, và giữa hai nhóm mà hiện
nay có cơ may để làm phát sinh một cơ hội
sống mới mẻ hơn, hạnh phúc hơn và một
liên hệ hợp tác chân thật trên cả hai phía. Tiến
tŕnh đồng hóa sẽ chậm lại, v́ t́nh trạng
ngày tháng cổ xưa đến nỗi các thói quen tư
duy, các thái độ thông thường và các thói quen chia
rẽ đă được thiết lập rơ ràng, khó mà
vượt qua được. Nhưng các thay đổi
cần thiết có thể được tạo ra nếu
thiện chí hướng dẫn lời nói, việc tŕnh bày
bằng cách viết và cách sống chung với nhau. Thánh
Đoàn không thấy có sự phân biệt nào. Vị Lănh
Đạo của Thánh Đoàn, dù cho vào lúc này, không ở
trong thân xác người Do Thái, cũng đă đạt
được mục tiêu tinh thần cao nhất cho nhân
loại trong khi ở trong thân xác Do Thái. Thánh Đoàn cũng
đang đưa vào các thể xác Do Thái một số
vị đệ tử, họ sẽ làm việc với
chủ đích hoàn toàn lúc t́nh thế thay đổi. Ngày nay,
có một số ít người Do Thái không suy tưởng
bằng các thuật ngữ của người Do Thái;
họ không bận tâm với vấn đề Do Thái,
loại bỏ mọi bất đồng, và họ đang
nỗ lực để ḥa nhập mọi người
thành một nhân loại duy nhất, như vậy lấp được
lỗ hổng.
Một lần nữa, tôi nói rằng các Thánh sư minh triết không phân biệt người Do Thái hay phi Do Thái, mà chỉ có các linh hồn và các con của Thượng Đế.
270
Khi bàn
đến vấn đề nghiệp quả như là
một yếu tố – có tính cách quyết định và kéo
dài về cả hai phía bệnh tật và sức khỏe –
một trong các phê phán mà cách tiếp cận của tôi tùy
thuộc vào, đó là tôi không bàn quá nhiều vào các
điều khái quát, và tôi không nêu ra sự phân tích
đặc biệt và chi tiết nào về các bệnh riêng
biệt, đặc biệt là về các bệnh căn
bản lớn lao mà ngày nay gây ra mất mát cho nhân loại
như thế và về căn bản không được
kiềm chế. Tôi không bàn đến các triệu chứng
của chúng hoặc cách chữa trị chúng, và tôi không nêu ra
một kỹ thuật nào để nhờ đó chúng có
thể được vận dụng. Điều này tôi
cảm thấy là một sự chỉ trích mà tôi sẽ bàn
đến, để cho bạn có thể tiếp tục
sự nghiên cứu của bạn mà không có sự hiểu
lầm. Đây là một điểm thích hợp để
chận đứng và đáp ứng với sự tranh căi
này. Tất nhiên, Karma là một chủ đề tổng
quát chớ không đặc thù; tuy nhiên, nó không được
quảng đại quần chúng chấp nhận theo ư
nghĩa huyền môn. Cần phải xem xét theo những
đường lối rộng lớn cho đến khi mà
Luật Nhân Quả được thừa nhận như
là một yếu tố chi phối chính trong ư thức con
người, không những trên một qui mô rộng lớn,
mà c̣n liên quan với các kiếp sống cá nhân. Tuy nhiên
quần chúng nói chung đều không biết đến
luật này.
Hiển nhiên là đối với bạn, tôi hoàn toàn không cần bàn đến khía cạnh triệu chứng của bệnh tật và bàn đến các sự kiện mà y học chính thống đă có thể xác minh. Trong một thời gian, chúng ta đă xem xét các nguyên nhân của những bệnh như thế, và tôi dự định bàn đến các phương pháp chữa trị theo huyền môn – khi mà các cách chữa trị như thế có thể chấp nhận được đúng theo Luật Karma, và khi mà nhà chữa trị sẵn sàng làm việc theo cách của huyền môn. Tôi đă thử minh giải cho bạn nguyên nhân căn bản có liên hệ tới năng lượng, tới việc quá thừa hay quá thiếu năng lượng đi qua các bí huyệt. Ở đây, có ẩn hai yếu tố chính trong việc tạo ra bệnh. Điều chủ yếu là những ai trong các bạn thấy lư thú trong việc nghiên cứu và chữa trị bệnh tật nên thừa nhận điều này, và đặt điều đó làm căn bản cho cách tiếp cận của bạn. Tôi đă nêu ra rằng y học và việc trị liệu bằng thuốc men trong tương lai sẽ bắt đầu bằng sự kiện này, và xem chúng như là yếu tố quyết định hàng đầu. Tôi không từ bỏ bản chất thực sự của khám phá y học. Tôi t́m cách xúc tiến vấn đề theo quan điểm đó, và không phải chủ trương của tôi là không biết đến các khám phá khôn ngoan của y học hiện đại, tôi cũng không ở về phía những kẻ chê bai và không thừa nhận các khám phá của y học hiện đại. Điều này, tôi đă nhấn mạnh trước kia. Tôi muốn nêu ra khuynh hướng t́m ṭi y học về sau, khuynh hướng đó sẽ là t́m kiếm vị trí của bệnh tật trong lĩnh vực sinh lực (theo như các nhà sưu khảo chính thống đă gọi), và những ǵ mà chúng ta phải xem như thuộc về lĩnh vực của thể dĩ thái. Ở đây, tôi xin đưa ra một phát biểu thực tiễn có thể xem như Qui Luật kế tiếp trong bộ luận này:
271
QUI LUẬT 6
Việc chẩn đoán bệnh cẩn thận, dựa trên các triệu chứng bên ngoài đă được xác minh, sẽ được đơn giản hóa đến mức mà khi cơ quan liên hệ đă được biết rơ và nhờ thế mà được cô lập, bí huyệt trong thể dĩ thái vốn có liên quan chặt chẽ nhất với cơ quan đó, sẽ tuân theo các phương pháp chữa trị theo huyền môn, dẫu cho các phương pháp thông thường, có cải thiện; các phương pháp dùng thuốc men hoặc giải phẫu sẽ vẫn được dùng.
Đây là chỗ mà nhà thờ phụng cuồng tín hay là kẻ chữa trị hiện đại rất thường lạc lối. Cách tiếp cận xưa của y học, với cách t́m ṭi thiên về vật chất của nó, và cách chẩn đoán thành công hoặc thất bại của nó, sẽ vẫn c̣n cần đến cho đến lúc mà các y sĩ và các nhà giải phẫu có được khả năng nhăn thông, nhận thức trực giác và thị kiến tâm linh, và cũng cho tới lúc mà họ đă vạch ra được một kỹ thuật để vận dụng năng lượng có liên quan tới bệnh nhân. Một ngày nào đó, điều này sẽ được bổ túc bằng sự diễn giải chính xác theo chiêm tinh học, việc nhận biết trực tiếp về các loại cung, và kế đó việc áp dụng các kỹ thuật chữa trị đúng đắn, theo sự đ̣i hỏi của cung đang chi phối biểu hiện sự sống của bệnh nhân, cộng thêm với tŕnh độ tiến hóa của y.
272
Tôi
đă gây bất lợi lớn khi t́m cách đặt nền
móng cho cách tiếp cận mới với y học. Tôi đă
gây trở ngại bằng các công bố lư tưởng
của các nhà tiên phong trong lănh vực mới đối
với việc chữa trị theo thiên nhiên, bằng thiên
nhiên liệu pháp và bằng các giả thuyết của Khoa
Học Cơ Đốc và các Trường Phái Hợp
Nhất. Tất cả những ǵ mà tôi có thể làm
(nếu bạn rút kinh nghiệm nhờ sự tŕnh bày
của tôi) là đề ra một số giả định
rộng răi và tổng quát sẽ chi phối các nhà y học
trong tương lai. Nhưng trong giai đoạn tạm
thời giữa kỷ nguyên cũ và mới, con
người sẽ lang thang trong đám sương mù
của suy đoán; một xung đột lớn sẽ
xảy ra giữa các trường phái theo chính thống
với các nhà suy đoán và các nhà điều nghiên các ư
tưởng mới và tạm thời "Bát Chánh
đạo" của Đức Phật sẽ bị lăng
quên.
Ngày nay, trong y khoa có một t́nh trạng song hành được t́m thấy trong lĩnh vực tôn giáo. Cách tiếp cận xưa đủ cho quần chúng và thường thành công cả trong khía cạnh cải thiện lẫn pḥng ngừa và trong tiến tŕnh chẩn đoán của nó. Đây là tất cả những ǵ có thể có được vào lúc này. Cũng giống như vậy, cách tŕnh bày cổ xưa của tôn giáo đủ để hướng dẫn quần chúng kém suy tư, theo một số đường lối rộng lớn của cách sống có kiềm chế, và duy tŕ một cách rơ rệt trong ư thức của hạng thường nhân một số sự kiện tinh thần không thể bàn căi được. Cả trong việc hướng dẫn và bảo vệ quần chúng về bản chất tinh thần của họ lẫn trong việc hướng dẫn và bảo vệ các thể xác của họ, các bác sĩ và các vị tư tế có thể được chia thành nhiều nhóm khác nhau – một số trung thành với các kỹ thuật cổ xưa đă được chứng minh, một số người theo lập trường chính thống đến nỗi họ không chịu t́m ṭi những ǵ mới lạ và chưa được chứng minh, c̣n một số theo chủ nghĩa lư tưởng, hay suy đoán và cuồng tín đến nỗi họ lao tới và tiến vào một thế giới thực nghiệm ức đoán vốn có thể hay không thể mang lại cho họ chiếc ch́a khóa đi đến y học của tương lai mà chắc chắn là sẽ đặt bệnh nhân của họ vào loại mà bạn gọi là "con bọ thí nghiệm".
273
Lănh
vực ức đoán chắc chắn nhất và kém cỏi
nhất trong thực hành y học là lĩnh vực có liên
hệ với sự giảm bệnh nhờ mổ
xẻ cho bệnh nhân. Nó được đặt
nền tảng trên sự hiểu biết chắc chắn
về giải phẫu học, việc chẩn đoán nó
theo nhu cầu có thể được kiểm soát một
cách sáng suốt, và việc thực hành nó (khi nào ở trong
tay của một nhà giải phẫu tài ba và nổi
tiếng) có thể và nhất định thường
tạo ra việc chữa lành hay kéo dài đời sống
thực sự. Tuy nhiên ngay cả trong lănh vực đó, người
ta cũng ít biết về các kết quả của một
cuộc giải phẫu như nó có thể tác động
vào thể dĩ thái và (tất nhiên) vào hệ thần kinh qua
hệ thống trung gian gồm các "nadis" hay là
đối phần dĩ thái của các dây thần kinh. Tôi
muốn nêu ví dụ về việc cắt bỏ removal
một số cơ quan. Các kết quả rơ rệt hẳn
phải lộ ra và một giai đoạn hiệu chỉnh
khó khăn tất nhiên phải xảy ra bên trong bộ máy
tinh vi của người bệnh. Khu vực cơ thể
đă nhận được cách điều trị
bằng giải phẫu và đặc biệt là bí huyệt
có liên hệ mật thiết nhất với nó phải chịu
tác động, v́ ḍng năng lượng tuần hoàn,
xuất phát từ bí huyệt, sẽ thấy chính nó bị
"nối tắt" ("short circuited"), nếu tôi có
thể sử dụng một nhóm từ như thế.
Cho đến nay, ḍng năng lượng này đă chạy qua vùng chú tâm giải phẫu, phải chuyển đường đi của nó đến mọi phần của cơ thể, xuyên qua các "nadis". Như các bạn biết các nadis này nằm bên dưới và cung cấp năng lượng cần cho hệ thần kinh. Các vận hà cũ dành cho ḍng năng lượng sẽ bị dời chuyển, do kết quả của các biện pháp đang dùng, lớn hoặc nhỏ. Các vận hà mới hay các tuyến thần lực, bắc cầu qua vùng "bị cắt đứt", sẽ phải được thiết lập và việc hiệu chỉnh căn bản sẽ phải được tạo ra bên trong cơ cấu sinh động của người bệnh. Thực tế cho đến nay không ai biết ǵ cả về các tuyến này. Ngay đến trong lănh vực t́m ṭi tiến bộ cũng không hề biết tới.
Nền y học mới không thể được diễn giải một cách khoa học, hay là được tŕnh bày một cách sáng suốt cho đến khi mà sự thật về thể dĩ thái được công nhận và sự hiện hữu của nó, với vai tṛ là cơ cấu cung cấp năng lượng và với vai tṛ là trạng thái sống động của h́nh hài bên ngoài, được hiểu một cách rộng răi. Lúc bấy giờ, sự thay đổi chú tâm của y học sẽ tách ra khỏi các hiệu quả vật chất hữu h́nh ở bên ngoài, và đi vào các nguyên nhân bên trong, v́ các hiệu quả đó được t́m thấy trong các bí huyệt và các lănh vực hoạt động liên hệ của chúng.
274
Bên trong
các vùng mà bệnh xuất hiện, một vài sự kiện
huyền bí liên quan đến chủ đề tổng quát
đă được tôi đặt ra:
1. Bệnh tật, với nguyên nhân trực tiếp của nó, có thể được truy nguyên đến thể dĩ thái cá nhân khi nỗi khó khăn thuần ở địa phương, hay là đến thể dĩ thái của hành tinh (đặc biệt là thể dĩ thái của giới thứ tư trong thiên nhiên) nơi nào có liên quan đến dịch bệnh, hoặc là đến từ t́nh trạng như là chiến tranh, khi tác động rộng lớn lên đa số nhân loại.
2. Từ trước đến nay, thể dĩ thái đă không được xem như một sự kiện có thật theo quan điểm của y học chính thống, mặc dù có một khuynh hướng hiện đại tiến tới việc nhấn mạnh về sức sống (vitality), về các tính chất sinh lực (vital qualities) trong thức ăn và đưa ra các sản phẩm có sinh tố để tăng cường sự đáp ứng sinh lực. Đây là chỉ dẫn đầu tiên của một nhu cầu chưa được hiểu rơ để gia tăng tiềm lực của thể sinh lực.
3. Chính t́nh trạng của thể dĩ thái khiến phải chịu lệ thuộc vào bệnh hoặc che chở khỏi bệnh, làm cho con người đối kháng với ảnh hưởng làm hư hoại hoặc các yếu tố truyền nhiễm, hoặc là không làm được như thế v́ sự yếu ớt sẵn có của thể dĩ thái.
4. Chính thể dĩ thái là cơ cấu của sự sống linh hoạt, chứa prana, và "chống chịu bên dưới" ("sub-stand") hay là ẩn dưới khí cụ bên ngoài quen thuộc của hệ thần kinh, đang cung cấp và thúc đẩy mọi phần của cơ thể vật chất. Mối liên quan hiện có giữa các bí huyệt, các nadis (tuyến lực) và toàn bộ hệ thần kinh bao gồm lănh vực của nền y học mới và vạch ra lănh vực t́m ṭi chủ yếu mới mẻ.
5. Trong thiên nhiên, các nguyên nhân chính của mọi bệnh tật gồm có hai loại:
275
a.
Trước nhất, chúng nằm trong việc kích thích hay
không kích thích của các bí huyệt. Điều này chỉ có
hàm ư là sự quá hoạt động hay kém hoạt
động của bất luận bí huyệt nào trong
bất luận phần nào của cơ thể. Nơi nào
mà ḍng năng lượng xứng hợp với nhu cầu
của thể xác ở bất cứ tŕnh độ phát
triển đặc biệt nào, lúc bấy giờ, ở
đó sẽ tương đối không có bệnh.
b. Thứ hai là chúng nằm trong tác dụng nghiệp quả của ba bệnh thuộc hành tinh: Ung thư, Lao, Hoa Liễu. Một ngày nào đó, y học sẽ hiểu được rằng ẩn đàng sau mọi bệnh tật đơn thuần (không kể các hậu quả của tai nạn hoặc chiến tranh) nằm dưới ba khuynh hướng chính này trong cơ thể người. Đây là một phát biểu cơ bản và quan trọng.
6. Thể dĩ thái là một tụ điểm cho tất cả mọi năng lượng bên trong cơ thể, và do đó, năng lượng được truyền đi sẽ không phải là năng lượng hoàn toàn sinh động hoặc chỉ là prana hành tinh, mà sẽ được phẩm định bằng các lực đến từ bộ máy cảm dục, từ thể trí hay là từ linh hồn thể. Các "phẩm chất của lực này", khi chúng chỉ rơ karma của cá nhân, rốt cuộc, lại là các sức mạnh chi phối chủ yếu. Chúng cho biết tŕnh độ phát triển của cá nhân và các khu vực kiềm chế trong phàm ngă của y. Do đó chúng chỉ rơ t́nh trạng karma của y. Điều này nâng toàn thể vấn đề y học vào lănh vực tâm lư và thừa nhận toàn bộ vấn đề về ảnh hưởng nghiệp quả, và về các loại cung.
7. Các yếu tố chi phối này làm cho thể dĩ thái có bản chất thực của nó trong bất cứ lần luân hồi nào. Đến lượt chúng, các yếu tố này là kết quả của các hoạt động được khai mở và hoàn thành trong các lần luân hồi trước, và như thế, tạo thành nợ nghiệp quả của bệnh nhân hoặc là thoát khỏi nghiệp quả của y.
276
8. Các
năng lượng căn bản đang tuôn đổ vào
thể dĩ thái và chi phối thể xác, sẽ thuộc
vào hai loại chính: năng lượng cung của linh
hồn và năng lượng cung của phàm ngă,
được phẩm định bằng ba lực
nhỏ hơn hay là các cung của bản chất trí
tuệ, thể cảm dục và thể xác. Do đó,
năng lượng căn bản này bao hàm năm năng
lượng vốn có trong thể dĩ thái mà một y
sĩ tương lai sẽ phải xem xét đến.
277
9.
Việc chẩn đoán, dựa trên sự nhận thức
về các yếu tố bên trong này, thực ra không phải
là vấn đề rắc rối và phức tạp mà ngày
nay chúng hiện ra đối với kẻ nghiên cứu các
lư thuyết huyền linh tiến bộ. Sau rốt, các nhà y
học trong Kỷ Nguyên Mới sẽ biết đầy
đủ để liên kết các mănh lực cung khác nhau
này vào các bí huyệt thích hợp của họ; nhờ
thế, họ sẽ biết loại mănh lực nào
chịu trách nhiệm cho các t́nh trạng – tốt hay xấu
– trong bất cứ khu vực đặc thù nào của
cơ thể. Một ngày nào đó, khi nhiều sưu
tầm và t́m kiếm hơn được xúc tiến, y
học sẽ được xây dựng dựa vào sự
thật về thể sinh lực và các năng lượng
cấu tạo của nó. Lúc bấy giờ, người ta
sẽ khám phá ra rằng khoa học này sẽ đơn
giản hơn và ít phức tạp hơn là y học hiện
đại. Ngày nay, y khoa đă đạt đến
một mức độ phức tạp đến nỗi
rất cần đến các nhà chuyên môn để có
thể đối phó với một khu vực của
cơ thể và với hiệu quả của nó trên toàn
bộ thể xác. Vị bác sĩ đa khoa bậc trung không
thể đương đầu với khối kiến
thức đầy chi tiết được thu thập
hiện nay về thể xác, các hệ thống khác nhau
của nó, sự tương tác của chúng và các hiệu
quả của chúng trên nhiều cơ quan đang cấu
tạo toàn bộ con người. Khoa giải phẫu
sẽ c̣n bận tâm với các nhu cầu giải phẫu
của cơ thể con người. Chẳng bao lâu
nữa, y học sẽ chuyển sự chú tâm vào thể
dĩ thái và các hệ thống năng lượng gắn
liền với sự tuần hoàn máu, các mối liên hệ
chặt chẽ của nó và sự thông thương giữa
bảy bí huyệt, giữa chính các bí huyệt với các
vùng mà chúng kiểm soát. Điều này sẽ đánh dấu
một tiến bộ vượt bực trong cách tiếp
cận khôn ngoan và hữu ích; nó sẽ tạo nên một
sự đơn giản hóa căn bản; nó sẽ đưa
đến các phương cách chữa trị chính xác
hơn, đặc biệt là khi nhăn thông được phát
triển và được khoa học hiểu rơ và
được người ta biết đến một
cách rộng răi như là một giác quan thông thường.
277
10.
Khi chiêm tinh học chân chính đáng được tin
cậy và được phát triển thành một khoa
học có uy tín, các biểu đồ của linh hồn và
của phàm ngă có thể được liên kết với
nhau; lúc bấy giờ, thể dĩ thái sẽ
được rà soát lại bằng các kết luận
đúng đắn của chiêm tinh học, người
thầy thuốc nhờ đó có được một
nền tảng chắn chắn hơn ngày nay nhiều. Chiêm
tinh học của thời trước quan tâm đến
sự sống của phàm ngă; chiêm tinh học của
tương lai sẽ chỉ rơ mục đích của linh
hồn và sẽ cách mạng hóa toàn bộ y học (trong
số các sự việc khác). Tuy nhiên, nó phải
được nhấc ra khỏi tay của những
kẻ quan tâm đến chiêm tinh học để tiên tri,
ra khỏi tay của hàng ngàn người vào lúc này đang
phí nhiều th́ giờ "lấy" số tử vi (t́m
cách diễn giải các kết luận thường
thường là sai lầm của họ) và đặt trong
tay của các nhà toán học thành thạo, và trong tay của
những kẻ đă cống hiến nhiều giờ vào
việc luyện tập khoa học theo các đường
lối chiêm tinh học như hiện nay đă
được đưa ra để huấn luyện
một y sĩ, một nhà hóa học hay một nhà sinh
vật học đáng kính trọng.
11. Các khám phá về chiêm tinh học này, không những chỉ liên quan tới phàm ngă và các biểu đồ của linh hồn, mà c̣n sẽ thâm nhập vào lănh vực của y học, đặc biệt là liên hệ với thể dĩ thái. Ngày nay, bất luận việc t́m ṭi về chiêm tinh nào được thực hành trong lănh vực y học, cũng liên quan tới bệnh về thể xác bên trong xác thân. Trong tương lai, sự t́m ṭi đó sẽ tập chú vào t́nh trạng của thể dĩ thái. Đây là một phát triển mới mẻ và sắp xảy ra trong việc t́m ṭi về chiêm tinh học.
278
Một
khó khăn khác mà tôi phải đối phó (khi tôi t́m cách
giới thiệu cho bạn nền y học sau này) đó là
tôi suy tưởng bằng các thuật ngữ chỉ chu
kỳ, c̣n các bạn nghĩ đến bằng các thuật
ngữ của một vài năm ngắn ngủi. Trong
thực tế, những ǵ tôi đang cố gắng làm là
để nêu ra các đường lối mà theo đó
sự t́m ṭi y khoa sẽ hướng đến trong hai
trăm năm tới. Nỗ lực của cách tiếp
cận hiện nay là làm thế nào để chữa
trị con người ở nhiều nơi; đây là
một phản ứng tự nhiên và những nhà tư
tưởng tiến bộ t́m cách để có thể làm
điều đó vào lúc này nhờ cái được
gọi là cách chữa trị theo huyền môn và tinh thần.
Tuy nhiên, người ta biết rất ít về cấu
tạo của thể sinh lực và về mặt thực
hành, không có bối cảnh t́m ṭi trong lănh vực này. Y
học hiện đại có nguồn gốc rất cổ
xưa. Qua nhiều thế kỷ, nó đă tăng
trưởng và phát triển đến độ kỹ
xảo hiện nay, sự t́m ṭi hiện nay, các kỹ
thuật hiện đại và các phương pháp chữa
trị hiện đại đă thành công một cách đáng
ngạc nhiên. Điều này thường bị quên trong
việc đặt tầm quan trọng của người
theo các môn phái mới chưa được thử thách
về thất bại của việc chữa trị, mà
họ cho là các phương pháp sai lầm v́ không thừa
nhận các giới hạn của nghiệp quả. Thành
công của y học hiện đại ngày nay th́ lớn lao
đến đỗi hàng triệu người
được cứu sống, những kẻ đó vào
thời trước và với khả năng kém khoa
học, thường chịu tử vong. Với sự khéo
léo và kiến thức đă phát triển này, và với khuynh
hướng này trong việc săn sóc bộ máy xác thân, ngày
nay, người ta thấy một vấn đề chính
trên thế giới – vấn đề dân số quá đông
của hành tinh đưa đến đời sống
hợp quần của nhân loại và vấn đề kinh
tế theo sau – chỉ ghi nhận một trong các khó khăn
ngẫu nhiên của thành công này. Việc ǵn giữ sự
sống "thiếu tự nhiên" ("unnatural") là
nguyên nhân của nhiều đau khổ và là một cội
nguồn do hậu quả của chiến tranh, trái
ngược với định ư nghiệp quả của
Hành Tinh Thượng Đế.
279
Ở
đây, tôi không bàn đến vấn đề rộng
lớn này. Tôi chỉ có thể nêu ra thôi. Điều đó
sẽ được giải quyết khi nỗi lo sợ
cái chết biến mất và khi nhân loại biết
được ư nghĩa của thời gian và hàm ư của
các chu kỳ. Điều đó sẽ được
đơn giản hóa khi các khám phá đúng thực về
chiêm tinh học xảy ra, khi con người biết
được giờ rời bỏ cơi ngoài này của ḿnh,
và nắm vững được kỹ thuật
"triệt thoái" và các phương pháp tách chính ḿnh một
cách hữu thức ra khỏi ngục tù xác thân. Nhưng
nhiều điều t́m kiếm phải xảy ra
trước tiên. Tuy nhiên, sự thật là vấn
đề được chấp nhận và sự suy
đoán và t́m kiếm đó đang thịnh hành, chỉ rơ
rằng đă đến lúc – về mặt nghiệp
quả và theo quan điểm tiến hóa của con
người – cần phải nghiên cứu về thể
dĩ thái, về các cung đang chi phối sự biểu
lộ của nó trong không gian và về chiêm tinh
học đang chi phối sự biểu lộ của nó trong
thời gian.
Chính v́ lư do này mà thế giới ngày nay đầy dẫy các nhóm nổi loạn chống lại y học chính thống – phản đối một cách sai lầm, bởi v́ trong sự nhiệt thành cuồng tín của họ đối với cách tiếp cận đặc biệt của họ với vấn đề chữa trị, họ không cần biết các khía cạnh lợi ích của y học đă phát triển. Như vậy, họ cố gạt bỏ sự đóng góp của bao thời đại cho kiến thức của con người về cơ thể con người, các liên giao của nó và cách chăm sóc, chữa trị và giữ ǵn cơ thể đó; họ không hưởng được lợi từ minh triết của quá khứ nhưng lại thích du hành trên biển để t́m kiếm một tinh thần cách mạng, đầy thiên kiến và không được trang bị đầy đủ về nhiệm vụ có trong tay.
Thiên
nhiên liệu pháp có nhiều loại, các giáo sư với các
phương pháp chữa trị bằng điện
hoặc ánh sáng và màu sắc, các chuyên gia dinh dưỡng
với các cách chữa trị không thể sai lầm
được đối với mọi bệnh tật,
nhiều người thực hành các hệ thống xây
dựng trên cách chẩn đoán của Abrams, và nhiều
kẻ tán thành các phương pháp nắn xương,
cũng như nhiều hệ thống chữa trị khác
vốn hoàn toàn tách ĺa khỏi y khoa, nhưng đang
đảm nhận để mang lại các chữa
trị, là mọi biểu thị các xu hướng mới
mẻ và đầy hy vọng; tuy nhiên, chúng có bản
chất cực kỳ thực nghiệm và được
tán thành một cách rất cuồng tín, rất riêng biệt so
với mọi phương pháp trợ giúp chữa trị
đă được biết (ngoại trừ chính họ),
đối kháng một
280
cách
rất mănh liệt với mọi t́m ṭi của quá khứ,
và miễn cưỡng hợp tác với y học chính
thống đến đổi trong nhiều trường
hợp, chúng tạo ra một nguy hiểm rơ rệt và
thực sự đối với quần chúng. Chính phần
lớn cách tiếp cận đầy lỗi lầm
của riêng họ chịu trách nhiệm cho việc này;
sự thiếu hiểu biết rơ rệt của họ
về bản chất của cơ thể người,
sự công kích của họ về các thực hành y học
hiện có (cho dẫu với giá trị đă
được thừa nhận) và sự tin tưởng lệch
lạc của họ về tính không thể sai lầm
của các kỹ thuật thực nghiệm của họ,
đă làm cho họ chịu sự công kích của các nhà y
học chính thống cứng nhắc và của những
người theo trào lưu chính thống bên trong ṿng giới
hạn của nền y học lư thuyết. Tuy nhiên, bên trong
các hàng ngũ y học, có nhiều người giác ngộ,
họ muốn vui vẻ hợp tác nếu các sùng bái nhỏ
nhặt và ầm ĩ có thể từ bỏ đặc
quyền của họ và sẽ tự nguyện hợp tác
và thừa nhận những ǵ mà bản năng thiêng liêng
trong con người qua các thời đại đă dạy
liên quan tới việc chữa trị cơ thể con
người. Chính là nhờ sự cộng tác của các
trường phái thực nghiệm mới mẻ và các
phương pháp cổ xưa hơn đă chứng minh
rằng nền y học tương lai sẽ
được phát triển. Giá trị của tất
cả nhiều nhóm – tốt lành và vừa phải – nằm
trong sự kiện là các nhóm ấy vạch ra các khuynh
hướng mới và chỉ ra các đường lối
mà theo đó y học tương lai có thể tự làm cho
phong phú thêm và trở nên thích ứng hiệu quả hơn
với nhu cầu con người. Cho đến nay, các nhóm
đó có quá nhiều thực nghiệm đáng
được tin cậy và chưa được
chứng minh về phương diện khoa học. Đó
là các nhóm tiền phong và có một đóng góp thực sự
trong việc thực hành, nhưng điều này sẽ
chỉ có thể xảy ra nếu các nhóm đó không chịu
tự tách ra khỏi quá khứ và tự nguyện thỏa
hiệp trong hiện tại. Y học lư thuyết là kết
quả của các tặng phẩm được
Thượng Đế ban cho đối với trí tuệ
con người; đó là một biểu lộ thiêng liêng đă
được chứng minh và là một sức mạnh
tốt lành nhất trên thế gian, dù cho có sự yếu
ớt của con người, việc khai thác có tính cách
thương mại và nhiều lỗi lầm. Về tôn
giáo cũng giống như vậy. Cả hai môn học
lớn này phải loại ra các vị thế phản tác
dụng và theo trào lưu chính thống, và bấy giờ
tiếp diễn với một thể trí cởi mở
thành các cách thức mới mẻ tiến đến thiên
tính và tiến đến phúc lợi vật chất.
281
Do
đó, có thể nói rằng sự đóng góp chủ yếu
mà tôi đưa ra vào lúc này là để nêu ra các nguyên nhân
của bệnh và t́nh trạng sức khỏe kém cỏi mà
y học chính thống không nhận thấy, có liên hệ
với các hậu quả của các nguyên nhân tế nhị
này khi chúng tác động trong thể xác và hệ thần
kinh. Tôi không bàn đến (như trước đây tôi
đă báo trước cho bạn) các triệu chứng
của bệnh, đến cách chẩn đoán theo y
học, hay là bàn đến các hệ thống của các
phương tiện vật chất được áp
dụng để mang lại sự chữa trị hay là để
cải thiện t́nh trạng. Các điều này tiến
kịp với khả năng đang tăng trưởng
của con người để khám phá và để
nhận biết.
Tôi xin lặp lại rằng tôi đang đặt nền tảng cho việc tiếp cận với chủ đề thể xác trong t́nh trạng khỏe mạnh, c̣n bệnh tật có liên hệ trước tiên tới thể dĩ thái. Sau rốt; điều này sẽ dẫn đến việc tích lũy kiến thức liên quan đến năng lượng, các điểm tập trung và phân phối năng lượng của nó trong thể dĩ thái, sẽ ngang bằng với những ǵ đă thu lượm được trong lĩnh vực hiểu biết vật chất chính xác, và hiểu biết chính xác đó là một sự thực.
282
Việc
nghiên cứu bệnh do kế thừa cho thấy một
nhận thức lờ mờ về món nợ nghiệp
quả và các khuynh hướng nghiệp quả của con
người. Tuy nhiên, có sai lầm khi tin rằng các khuynh
hướng này nằm trong các mầm của sự
sống và của vật chất, được tập
hợp lại vào lúc thụ thai, và do đó người cha
hoặc người mẹ chịu trách nhiệm về
sự truyền thụ này. Đây không phải là
trường hợp đó. Theo quan điểm của linh
hồn, đối tượng đang luân hồi đă
chọn lựa cha mẹ của ḿnh một cách dứt khoát
và hữu ư, về những ǵ mà cha mẹ đó có thể
góp phần vào việc nắn tạo thể xác của y
trong khi luân hồi. Do đó, thể sinh lực phải có
bản chất như thế nào để cho con
người có khuynh hướng hứng chịu một
kiểu mẫu đặc thù cho việc cảm nhiễm
hoặc cho bệnh tật; thể xác có bản chất
như thế nào để cho cách làm dễ nhất của
nó là cho phép xuất hiện và kiểm soát những ǵ mà
thể sinh lực có thể đem lại; trong công việc
sáng tạo và trong thể sinh lực của ḿnh, linh hồn
đang lâm phàm tạo ra một thể trạng đặc
biệt mà cha mẹ đă chọn để đóng góp vào
một khuynh hướng rơ rệt. Do đó, con
người không chống lại được một vài
loại bệnh. Điều này được định
rơ bởi karma của con người.
Các đạo sinh huyền bí học biết rơ rằng thể xác chỉ là một người máy, đáp ứng với và được kích hoạt bằng một thể năng lượng tinh anh hơn vốn là một biểu lộ đích thực của tŕnh độ tiến hóa. Tŕnh độ tiến hóa này có thể là tŕnh độ kiềm chế phàm ngă, qua thể này hoặc thể khác của nó, hoặc của sự kiềm chế do linh hồn. Đó là các sự kiện mà giới y học phải hiểu rơ, và khi điều đó xảy ra, th́ một bước tiến vĩ đại sẽ được thực hiện. Các đạo sinh huyền học sẵn sàng nhận thức rằng thể xác tự động đáp ứng với ấn tượng t́nh cảm, trí tuệ hoặc linh hồn. Tuy nhiên, thể dĩ thái đan kết với thể xác chặt chẽ đến nỗi nó hầu như không thể tách ra làm hai phần có ư thức được; điều này sẽ không được chứng minh hay có thể được chứng minh chừng nào mà môn học về năng lượng dĩ thái và sự phát triển nhận thức nhăn thông chứng minh là đúng những ǵ tôi nói. Câu này cần được lặp lại.
283
Nhờ
sự nghiên cứu về hệ thần kinh và nhận
thức về sức mạnh của tư tưởng
trên thể xác, y học đang nhanh chóng tiến đúng
hướng. Trong sự liên hệ với thể xác, khi
khoa học thừa nhận rằng "năng
lượng theo sau tư tưởng", và lúc bấy
giờ bắt đầu thực nghiệm với ư
niệm về các ḍng tư tưởng (như chúng
được gọi một cách sai lầm)
được hướng đến một vài vùng
của thể dĩ thái – nơi mà các nhà huyền bí học
thừa nhận sự hiện hữu của các
điểm năng lượng hay là các bí huyệt – lúc
bấy giờ, nhiều điều sẽ được
khám phá ra. Khoa học Cơ Đốc đă có một quan
niệm lành mạnh trong khái niệm căn bản nguyên
thủy của nó là xem thể trí như là một yếu
tố hiện tồn thường xuyên; việc quá
nhấn mạnh vào thể trí, việc tŕnh bày có tính cách lư
tưởng của nó về bản chất con
người, t́nh trạng mong chờ của nó về
khả năng của con người để chứng
tỏ ngày nay và ngay bây giờ như là đứa con
biểu lộ đầy đủ của Thượng
Đế (không cần các phát triển trung gian hoặc
thiết yếu), và lập trường mâu thuẫn
của nó để vận dụng năng lượng
của trí óc cho các nhu cầu vật chất chính yếu,
đă hoàn toàn phủ nhận các giáo điều căn
bản của nó. Nói cách khác, Con Người có thể
thường bị đánh lừa. Nếu Khoa học
Cơ Đốc đă làm tṛn ư định ban đầu
của nhóm điểm đạo đồ, nhóm này đă
t́m cách đặt ảnh hưởng lên nhân loại qua
phương tiện của nhóm, và nếu nhóm đă
triển khai ư tưởng một cách chính xác rằng
năng lượng theo sau tư tưởng, th́ y học
có thể được lợi rất nhiều.
Cách tŕnh bày vừa quá cao, vừa quá thấp và một cơ may lớn đă biến mất. Theo quan điểm của Thánh Đoàn, Khoa Học Cơ Đốc đă thất bại, và sự hữu dụng của nó đă bị chối bỏ phần lớn.
Các nhà chữa trị và các nhóm chữa trị cho đến nay hoạt động với một bất lợi lớn; nhưng bây giờ, họ có thể bắt đầu làm việc, và công việc của họ có bản chất hai mặt:
1. Nhờ sức mạnh của tư tưởng có hướng dẫn, họ có thể tuôn đổ năng lượng vào bí huyệt nào vốn là yếu tố quyết định trong khu vực đó của thể xác nơi có bệnh. Thí dụ, nếu người bệnh mắc một chứng bệnh như loét bao tử, việc kích thích huyệt đan điền có thể chữa lành được, miễn là công việc được làm thuần về mặt trí tuệ và miễn là các kết quả mong đợi đều thuần về vật chất. Nói cách khác, bản chất t́nh cảm sẽ chia phần trong việc kích thích, và nỗi khó khăn thực sự sẽ xuất hiện.
284
2.
Họ có thể kích thích một bí huyệt cao hơn là bí
huyệt đang chi phối một khu vực đặc
biệt, và như vậy – nhờ sự tăng
cường của các bí huyệt cao hơn – làm giảm
hạ sinh lực của bí huyệt thấp. Thí dụ,
nếu có bệnh hoặc đau ốm liên hệ với
các cơ quan sinh sản (thí dụ như bệnh của
tuyến tiền liệt), lúc bấy giờ bí huyệt cổ
họng cần nhận được sự chú tâm. Chính bí
huyệt đó sau rốt phải là nơi chứa năng
lượng của trạng thái sáng tạo thấp hay là
tương ứng thấp. Điều này được
gọi là "kỹ thuật triệt thoái của
lửa"; bằng cách đó, trong một vài trường
hợp, cái mà bạn gọi là sự quá kích thích hay là viêm
nhiễm ở những nơi khác, có thể
được chận đứng.
Cả hai cách sử dụng năng lượng và kiềm chế tư tưởng này tạo thành nền tảng huyền bí cho hai phương pháp cơ bản được dùng trong năng lượng có hướng dẫn trong các khu vực bị bệnh. Trong một trường hợp, chúng tạo ra việc tăng cường sức sống của bí huyệt liên hệ, với một hiệu quả rơ rệt tất nhiên trên vùng bị bệnh; hoặc là chúng làm giảm hạ ḍng thần lực đi vào trong trường hợp khác, và như vậy làm yếu đi tính chất của bệnh. Do đó, hiển nhiên là nhiều điều phải được biết rơ về các hiệu quả của hai kỹ thuật căn bản và khác nhau này trước khi nhà chữa trị dám hành động. Nói cách khác, y có thể làm tăng rối loạn trong vùng bị bệnh và thậm chí (điều này cũng thường xảy ra) c̣n gây chết chóc cho người bệnh nữa.
Có một điểm khác mà tôi muốn t́m cách nhấn mạnh. Trong mọi phương pháp chữa trị có bản chất của huyền môn, điều chủ yếu là các thực hành y khoa lành mạnh thuộc loại chính thống đi kèm theo các cách trợ giúp tinh vi. Chính trong việc phối hợp khôn ngoan của hai cách tiếp cận, và trong công cuộc hợp tác của nhà y học chính thống và của nhà chữa trị hoặc nhóm chữa trị theo huyền môn, mà kết quả lành mạnh nhất sẽ được tạo ra.
285
Do
đó, các môn sinh đang nỗ lực chữa trị
sẽ cần hiểu được hai điều:
bản chất của bệnh, theo sự chẩn đoán
của một y sĩ lành nghề và bí huyệt đang chi
phối vùng bị bệnh. Kế hoạch an toàn nhất
đối với môn sinh chữa trị bậc trung
hoặc là đối với nhóm chữa trị là làm
việc với sự hợp tác của một vài bác sĩ
giỏi và liên kết với bí huyệt đang chi phối
vùng bị bệnh. Trong công tác chữa trị, các
điểm đạo đồ đối phó với
sự tương ứng cao hơn của bí huyệt đang
chi phối, luôn luôn tác động qua các bí huyệt
tương ứng về t́nh cảm và trí tuệ.
Điều này không thể xảy ra và cũng không thể
chấp nhận được đối với nhóm
chữa trị thông thường. Các bí huyệt liên hệ
được xét đến càng cao, th́ các kết quả
càng mạnh và do đó, càng cần phải thận trọng
hơn.
Toàn thể tiến tŕnh thuộc về hoặc là hoạt động kích thích, hoặc là năng lượng đang triệt thoái, để làm linh hoạt hơn bí huyệt có liên kết, và như vậy rút sự chú tâm ra khỏi bí huyệt đang chi phối khu vực hoặc là cơ quan bị bệnh, hay là để làm thăng bằng các năng lượng đang tuôn đổ giữa hai bí huyệt, và như vậy, tạo ra một sự tương tác từ từ và đồng đều. Người tân đệ tử càng nghiên cứu vấn đề chữa trị này, th́ sự phức tạp càng hiện ra, cho đến lúc mà y có thể cộng tác với một y sĩ nào có được nội nhăn thông và có thể thấy được các bí huyệt, hay là với các bệnh nhân, là kẻ biết được trong chính ḿnh số mệnh của riêng ḿnh và có thể hợp tác với một số nhóm có được kiến thức huyền học tin cậy được, để có thể xác định được cung của người bệnh và biết được tối thiểu bản chất về thiên hướng của y hay là “sức khỏe kém" ("indisposition") của y nhờ tham khảo biểu đồ lúc y ra đời.
Do đó, cân nhắc đến mọi điều này, bạn có thể yêu cầu, nếu có thể được, xác định công tác chữa trị sao cho sẽ được hiệu quả, lành mạnh, đúng đắn và chấp nhận được. Các rủi ro của việc quá kích thích hay là thiếu kích thích dường như quá lớn; sự hiểu biết của nhà chữa trị dường như quá ít oi không thể thực nghiệm được, c̣n karma của bệnh nhân tất nhiên là (đối với nhà chữa trị bậc trung) chưa xác minh được.
Về việc này, tôi muốn đáp lại rằng mọi việc có tính chất tiền phong và thực nghiệm đều luôn luôn có rủi ro đặc biệt riêng của nó. Nhiều việc có các tổn thất về khoa học, và đặc biệt về y học, vào những ngày đầu của y học và giải phẫu hiện đại. Nhưng điều này không bao giờ ngăn cản kẻ nghiên cứu chân thật hoặc làm chậm lại sự tăng gia kiến thức; trong những ngày tiên phong thuộc lănh vực chữa trị theo huyền môn, phải tỏ ra can đảm cũng như phải chấp nhận rủi ro. Sự che chở của luật pháp khắc khe và quan điểm con người, sẽ thuộc về những ǵ mà bệnh nhân sẽ ở trong tay của một y sĩ đáng tin, về việc chẩn đoán và chăm sóc y học trong thời gian mà nhà chữa bệnh theo huyền môn cố gắng để được sự trợ giúp thiết thực.
286
Do
đó, công việc của nhà chữa trị và của nhóm
chữa trị sẽ được bổ túc bằng
việc săn sóc của y học chính thống. Các kết
quả sẽ phải được xem xét một cách
cẩn thận và ghi nhớ về cả hai mặt.
Bất luận một nhóm nào được thành lập
để chữa trị, cũng sẽ làm việc theo
một số đường lối đă định, và
đây là một ít điều mà tôi muốn gợi ra
như là thiết yếu để thành công trong giai
đoạn chuyển tiếp này:
1. Người bệnh phải được chữa trị (hoặc được giúp đỡ nếu việc chữa trị không thể làm được) sẽ luôn luôn ở trong tay của một bác sĩ giỏi và tận tâm, nếu không, nên đi hỏi ư kiến một người khác.
2. Bản chất của bệnh tật sẽ được nhóm biết tới và sẽ được xác định bằng sự chẩn đoán của y học chính thống một cách cẩn thận.
3. Tuổi tác của bệnh nhân, ngày sinh của người bệnh và một số chi tiết liên quan đến các hoàn cảnh của y, cũng cần nên biết để có được một điểm tập trung sự chú tâm, và một vùng từ lực sẽ được kiến tạo chung quanh bệnh nhân để thu hút năng lượng do tư tưởng hướng dẫn của nhóm.
4. Người chữa trị hoặc nhóm chữa trị nên có một hiểu biết chung về bản chất và giải phẫu học của cơ thể, vị trí của các cơ quan khác nhau trong cơ thể, sự bố trí và bản chất của các bí huyệt đang chi phối một vùng hay nhiều vùng bị bệnh. Các giản đồ nêu ra chi tiết này nên được nghiên cứu.
287
5.
Khả năng tưởng tượng và sức mạnh
của sự h́nh dung sẽ được nhấn
mạnh trong một nhóm chữa trị, và khả năng
sẽ được phát triển để đưa các
ḍng năng lượng đến người bệnh và
đến vùng có bệnh trong cơ thể bệnh nhân.
6. Người chữa trị hoặc nhóm chữa trị phải nhớ rằng không phải y chỉ làm việc với năng lượng tinh thần. Y, v́ chính y
a. Tạo ra một tư tưởng có sức mạnh chữa trị,
b. Điểm tập trung sự chú tâm được tạo ra đó sẽ trở nên tác nhân điều khiển đối với sức mạnh chữa trị hay prana.
c. Prana này không có bản chất trí tuệ, cũng không có bản chất cảm dục. Nó thuần là vật chất của hành tinh hay tinh hoa sống động, và với chính vật chất đó mà thể sinh lực của hành tinh được tạo ra.
d. Nhà chữa trị hoặc nhóm chữa trị chiếm hữu càng nhiều chất liệu này càng tốt, và nhờ sức mạnh của tư tưởng hợp nhất của họ mà họ hướng chất liệu đó đến và xuyên qua bí huyệt liên hệ. Công tác chữa trị là sự lưu chuyển, và đừng nên quên điều này. Năng lượng prana (được hướng dẫn bằng tư tưởng) không được gửi đến bí huyệt và được chất chứa nơi đó. Nó được chuyển qua bí huyệt, trước tiên đến cơ quan liên hệ hay là đến vùng gặp khó khăn, và kế đó được gửi đến toàn bộ cơ thể. Nó có thể được xem như là một hệ thống đánh động (system of flushing), có hiệu quả thanh lọc và kích thích.
Có thể là chỉ trong thời kỳ thực nghiệm mở đầu này và tác động theo các đường lối này để đưa ra một vài qui luật đơn giản. Nhờ các kết quả đă đạt được, kinh nghiệm sẽ đến và nhóm chữa trị sẽ dần dần học được cách tác động như thế nào, khi nào thay đổi các phương pháp của nó và những ǵ cần được chú tâm.
288
Từ
lúc bắt đầu công việc theo đường
lối này các điều ghi nhận cần được
giữ lại. Bệnh nhân sẽ thường xuyên hợp
tác theo khía cạnh công việc này. Ngày tháng, các hiện
tượng ngẫu nhiên, các thay đổi tốt hay
xấu hơn cần được ghi nhận theo các chi
tiết có thể liên quan tới t́nh trạng chung của
người bệnh. V́ lư do này, tôi khuyến cáo rằng
trong các giai đoạn đầu của công tác này,
việc trị liệu nên cố chỉ liên hệ tới
những kẻ được biết rơ đối
với các thành viên hay những kẻ được
đặt vào trong tay của nhóm chữa trị bởi các
y sĩ hay bởi những kẻ sẵn sàng có
được chi tiết đầy đủ.
Người đau yếu đến nỗi không mong sống được, người mắc các bệnh không có cơ phục hồi cuối cùng, sẽ không được nhận vào nhóm chữa trị, trừ phi có các kết quả cải thiện trong trí. Không một tân đệ tử nào biết đầy đủ về karma để hành động với ḷng xác tín là đem lại sức khỏe hoặc là đem lại giải thoát bằng cái chết. Tuy nhiên, nếu một bệnh nhân trở nên suy yếu trong khi cả nhóm đang ứng phó với trường hợp của y, y sẽ không bị bỏ rơi, nhưng một kỹ thuật rơ rệt và khác lạ lúc bấy giờ có thể được dùng để đem lại thoải mái cho con đường đến cửa tử. Trong tiết kế tiếp, tôi dự kiến nói đến karma của sự chết.
Nếu bạn ghi nhớ rằng công việc có liên quan đến thể dĩ thái (với vai tṛ là một khí cụ của sinh lực) ngày nay chỉ được biết rất ít, cũng như khoa y học hiện đại được người ta biết đến vào năm 1200 sau TC, bạn sẽ can đảm hành động mà không nhụt chí và không mong đợi quá mức mà ngày nay, mong đợi đó đang gây trở ngại cho tân đệ tử. Cố tâm nắm lấy công việc mà cho đến nay chưa có ai thực sự biết ǵ về các bí huyệt, các khu vực năng lượng trong cơ thể và chiều hướng của tư tưởng; cũng nên hiểu rằng bạn đang tham gia vào một dự án t́m ṭi vĩ đại. Không có ǵ, đúng là không có ǵ đă được làm liên quan đến y học và khoa học về các bí huyệt trong bất luận cách thực hành nào, dù cho một số sách nói về liên quan của các bí huyệt với sự t́m ṭi và trang bị về tâm lư và tuyến hay hệ thống nội tiết đă đóng vai tṛ thử nghiệm với vấn đề. Lănh vực t́m kiếm mà tôi đề ra cho bạn là một lănh vực hoàn toàn mới mẻ. Những ai trong các bạn tiến vào lănh vực đó có thể không thấy các kết quả của những ǵ mà bạn đang cố gắng làm. Sự thiếu nhẫn nại của bạn và sự nóng nẩy trợ giúp có thể gây trở ngại cho bạn; sự vô minh của bạn có thể khiến bạn tạo ra lỗi lầm. Nhưng, hăy tiến tới, hăy kiên nhẫn; ǵn giữ cẩn thận và duy tŕ mọi sự giao tiếp. Lúc bấy giờ chắc chắn sẽ có kết quả.
289
Ï
Ï Ï
1. MÓN NỢ NGHIỆP QUẢ CỦA CÁ NHÂN
Chúng ta đă nghiên cứu (có lẽ không hiểu rơ được các hàm ư của nó) điểm thứ nhất của chúng ta dưới đề mục này. Điều này liên quan đến các món nợ nghiệp quả của cá nhân, xuất phát từ các hiện thể bên trong và từ phàm ngă nói chung.
Khi chúng ta bàn về các nguyên nhân tâm lư của bệnh tật lúc chúng xuất phát trong các thể tinh anh trong ba cơi thấp hay từ sự nhất tâm (tension) của đệ tử khi người này nỗ lực bước lên Thánh Đạo, thực ra chúng ta hoàn toàn có liên quan với karma hay là quả của các nhân bên trong của các sự kiện, vận cụ và các hoàn cảnh trên cơi trần. Chúng ta đă thấy làm thế nào mà xuyên qua thể dĩ thái, các nội thể chi phối sự biểu lộ bên ngoài của con người, và bệnh tật hoặc sức khỏe đó phần lớn tùy thuộc vào các nội thể ấy. Chúng là nguyên nhân thuộc nghiệp quả trực tiếp của cách sống ở cơi trần. Nếu lúc bấy giờ, ư tưởng được mở rộng để bao gồm các lần luân hồi trước – khi gặp trường hợp không thể tránh khỏi – lúc bấy giờ, chúng ta đi đến kết luận rằng t́nh trạng của các nội thể này, và các giới hạn và sự phong phú của chúng; các sai sót và ưu thế của chúng, các khuynh hướng tâm linh và tâm lư chung của chúng, được kế thừa từ các kiếp sống trước, và do đó, chịu trách nhiệm cho t́nh trạng hiện tại ở cơi trần. Tất nhiên, chúng ta chỉ đẩy các nguyên nhân của các t́nh trạng hiện nay lùi xa hơn nữa, và chúng ta có thể – nếu chúng ta muốn như thế – tiến vào lănh vực rắc rối và chi tiết đến nỗi không một điều ǵ hữu ích có thể xảy ra. Toàn bộ vấn đề t́m lại các kiếp đă qua là vấn đề khả năng vô hạn, và khi tôi dùng từ "vô hạn" ("infinite") này là ngay tức khắc tôi đă đặt toàn thể vấn đề ra ngoài tầm kiểm soát của thể trí hữu hạn. Lúc bấy giờ chúng ta bàn đến một điều không thể vận dụng được một cách hợp lư.
290
Đối
với nhân loại c̣n ấu trĩ và đối với cá
nhân chưa phát triển, karma là một vấn đề
tập thể. Con người là một thành viên của
một nhóm mà không có bất luận tư tưởng nào
đối với các hàm ư và các trách nhiệm
được kế thừa. Sau này, khi tiến tŕnh thoát
kiếp thú trở nên có hiệu quả hơn về tính
chất và mục tiêu, và có khí chất rơ rệt hơn, th́
karma cũng trở nên riêng tư và chắc chắn hơn,
con người ở vào một vị thế có thể
tạo ra hay thanh toán nhiều nhân và quả hơn. Phàm ngă
không hoàn toàn được khai mở và hội nhập, con
người vẫn liên quan tới sự sống tập
thể và các quan hệ hỗ tương trở nên
rộng lớn hơn. Sau này, phàm ngă trở nên kẻ sáng
tạo hữu ư đối với các nguyên nhân riêng của
nó và là kẻ tham gia có ư thức vào các hậu quả. Trên
Thánh Đạo, karma của nhóm được chọn,
của cá nhân và của những kẻ mà con người
chọn liên kết qua sự hợp nhất của mục
tiêu tinh thần có liên quan tới y, và một yếu tố
khác được thêm vào các loại trách nhiệm
nghiệp quả có trước. Măi về sau này, karma trong
ba cơi thấp được đáp ứng, vượt qua
và vô hiệu hóa. Đồng thời, karma liên quan với
việc khai mở các nguyên nhân qua việc phụng sự
thế gian, cộng thêm những ǵ mà cá nhân đă kinh qua, và
y chia phần trách nhiệm nghiệp quả của chính
Thánh Đoàn. Tất cả các giai đoạn này là:
1. Karma sơ đẳng của nhóm – của con người nguyên thủy.
2. Karma cá nhân của con người đang phát triển ngă thức,
3. Karma liên quan tới cuộc đời của đệ tử,
4. Karma thuộc Thánh Đoàn,
291
phải
được cộng thêm vào Karma báo phục đă
biết rơ mà đệ tử đă quen thuộc; cũng
cần phải thêm vào đó karma quốc gia và chủng
tộc, cộng với Karma về giáo dục mà mọi
đệ tử đều mang trên chính họ khi họ
mong ước nhập vào Huyền Viện (Ashram)
để chuẩn bị điểm đạo.
Cũng có Karma Ân thưởng (Reward) tương phản với Karma Báo Phục, đây là loại Karma thường bị bỏ quên, nhưng là loại mà người ta sẽ biết rơ hơn trong chu kỳ thế giới sắp tới. Nhân loại đă thanh toán được nhiều karma xấu, c̣n karma dựa trên các nguyên nhân sau này để được điểm đạo sẽ không sinh ra các hậu quả khốc hại như là karma của quá khứ. Không phải tất cả karma đều xấu, bất chấp những ǵ mà con người nghĩ. Nhiều loại trong số đó tất nhiên là có tính cách trừng phạt và gây đau khổ, do sự vô minh và tŕnh độ phát triển thấp của con người. Khi nào việc phân phối karma trở nên bén nhạy và khủng khiếp, như kinh nghiệm đáng sợ của thế giới hiện nay, điều đó chỉ rơ rằng nhân loại đă đạt tới một tŕnh độ mà các hậu quả có thể được đưa ra trên một qui mô rộng lớn và công bằng. Rất ít đau khổ dính liền với karma khi nào có sự vô minh, đưa đến việc tắc trách và hoàn toàn thiếu suy nghĩ và được gắn liền với các sự việc mà chỉ có đôi chút ư thức xác thực về tội lỗi. Có thể có các t́nh trạng thiếu hạnh phúc và các trường hợp đau khổ, nhưng khả năng đáp ứng với các t́nh trạng đau khổ tương xứng như thế th́ thiếu sót; có ít phản ứng trí tuệ đối với các tiến tŕnh phân phối nghiệp quả. Điều này cần được ghi nhớ. Tuy thế, giống dân Aryan ngày nay phát triển trí tuệ ở mức độ rộng lớn đến nỗi karma thật khủng khiếp và gây khổ sở, có thể tự biểu lộ qua các t́nh h́nh thế giới. Đồng thời nỗi thống khổ rộng lớn hiện nay cho thấy phạm vi và mức thành công của việc khai mở nơi con người là một dấu hiệu đầy hy vọng và hứa hẹn nhất. Trong ư tưởng này, bạn có được manh mối chỉ rơ tại sao những kẻ phụng sự tốt lành và thánh thiện của nhân loại – trong chu kỳ thế giới này – đang mang một gánh nặng như thế về bệnh tật do nghiệp quả.
292
Tất
nhiên, trong phạm vi của bộ luận này hoàn toàn không
thể bàn về vấn đề karma một cách
đầy đủ hơn khi nó tạo ra nhiều
loại tai họa nơi con người, kể cả
bệnh tật – chỉ là một trong các biểu lộ
của nó. Chủ đề th́ quá rộng lớn và quá
phức tạp và hiệu quả của nó phân tán quá
rộng. Tất cả những ǵ người ta có thể
làm là đưa ra sự kiện rằng các hành động
đă qua và các phản ứng đă được tạo
nên trong các kiếp sống trước, có một sự
nhịp nhàng về nghiệp quả đến nỗi ngày
nay mọi khía cạnh của phàm ngă đều có liên quan
tới. Trong số các hiệu quả thông thường và
phổ cập nhất, và hiệu quả mà trong đó
Luật Phân Phối vĩ đại có hiệu lực, là
hiệu quả về bệnh tật. Đây là một
điểm mà các nhà chữa trị và các nhà siêu h́nh học,
tạm gọi như thế, cần nên xem xét hết
sức cẩn thận.
Ï
Ï Ï
2. CÁC NGUYÊN NHÂN THUỘC VỀ BẢY CUNG CỦA KARMA
Các nguyên nhân này mang theo nguyên nhân của mọi khó khăn của con người, gồm cả sức khỏe kém và bệnh tật – thuộc cá nhân, quốc gia và chủng tộc – lùi lại đến tận cội nguồn của chính sự sáng tạo. Karma biểu hiện trong các ḍng năng lượng này và chất liệu nguyên thủy đang tuôn đổ vào và qua thế giới được sáng tạo bao gồm cả ba cơi thấp, nơi mà các Nguyệt tinh quân và các tinh hoa tinh linh thuộc mọi dạng đang hoạt động. Karma nguyên thủy này (tôi tạm gọi như thế) góp phần vào sự tồn tại của bệnh tật. Chúng ta đă được học trong các cổ thư mà các Thánh sư có đề cập tới, rằng thế giới được kiến tạo bằng chất liệu vốn đă nhiễm karma của thái dương hệ trước.
293
Điều
hiển nhiên đối với các bạn là các luồng
thần lực này, xuất phát từ các Đấng
Chủ Quản của Bảy cung, nên đă nhuốm màu và
"bị hư hoại" ("tainted") – nếu tôi
được phép dùng một lời lẽ như thế –
bởi các giới hạn của cùng các Đấng Cao
Cả này. Các Ngài là các Thiên Đế (Gods), theo quan
điểm của chúng ta, nhưng trong thực tế, là
các Thiên Đế đang h́nh thành, cho dù gần với
Thượng Đế của thái dương hệ
nhiều hơn là con người tiến hóa nhất
gần gũi với Hành Tinh Thượng Đế. Các
Ngài là các vị "Thiên Đế chưa toàn hảo" ("imperfect
Gods") được nói đến trong Giáo Lư Bí
Nhiệm và là các Hành Tinh Thượng Đế của các
hành tinh thánh thiện và chưa thánh thiện. Nếu các
Đấng làm linh hoạt vĩ đại của các hành
tinh trong Thái Dương hệ chúng ta đều chưa toàn
hảo, hậu quả của sự chưa toàn hảo này
tất nhiên phải có ảnh hưởng lên các sáng tạo
thuộc hành tinh của các Ngài, và như thế, đưa
đến một t́nh trạng nghiệp quả mà qua đó
con người cá biệt tuyệt đối không kiềm
chế, nhưng trong ṿng những ǵ mà y hoạt động
và đóng góp. Hiển nhiên là tôi không thể làm sáng tỏ
chủ đề này. Những ǵ mà tôi có thể làm hay
được phép làm là nêu ra cho bạn bảy đoạn
kinh từ một trong các quyển sách cổ nhất trên
thế gian. Quyển sách ấy bàn đến bảy nguyên
nhân bất toàn của cung trong các biểu lộ hành tinh
của chúng ta. Nên thêm vào các đoạn kinh này (nếu có
thể) các đoạn kinh truyền đạt ư nghĩa
của các khuyết điểm xuất phát từ các t́nh
trạng thiên văn và tạo ra các hậu quả có bản
chất hành tinh và do đó, liên quan đến lá số
tử vi của Hành Tinh Thượng Đế riêng
biệt của chúng ta. Nhưng các điều này
đều quá khó hiểu, phức tạp và có ảnh
hưởng sâu rộng trong chủ đề của chúng,
có thể được khảo cứu và xem xét chỉ khi
nào nhân loại đă đạt đến một giai
đoạn phát triển trực giác đến nỗi con
người có thể "đánh giá các nguyên nhân và hậu
quả như là toàn bộ các tiến tŕnh và có thể
thấy cả hai cái bắt đầu và kết thúc trong
một chớp lóe của thời gian trong không gian".
Bằng các lời này, Chân Sư Serapis có lần đă
tổng kết vấn đề khi nỗ lực
để huấn luyện một nhóm các đệ tử
được điểm đạo bằng phương
cách tiếp cận các vấn đề bao la này.
294
Quyển
"Thiên Thư về Karma" ("Book of Karma") có
chứa các đoạn sau, và các đoạn kinh này có
thể được dùng như một dẫn nhập vào
các vấn đề bàn đến các nguyên nhân của
Bảy Cung về sự thiếu hài ḥa và bệnh tật.
Đối với người t́m đạo có trực
giác, một vài ư nghĩa sẽ hiện ra, nhưng bao
giờ y cũng phải nhớ rằng tất cả
những ǵ mà tôi đang cố làm là để đưa vào
các từ ngữ – thiếu thỏa đáng và hoàn toàn không
thích hợp – các đoạn kinh liên quan đến các
yếu tố chi phối trong vận cụ của các
Đấng Cao Cả mà sức sống (life force) của các
Ngài (mà chúng ta gọi là năng lượng) tạo ra
tất cả những ǵ hiện hữu, tức là các màu
sắc và các h́nh dạng, mọi biểu lộ bên trong các
thế giới và đưa thêm giới hạn về
lực của nó vào vận cụ của mọi con
người đơn độc. Mọi người
chiếm dụng năng lượng này theo mức
độ nhu cầu của ḿnh, và nhu cầu của y là
dấu hiệu phát triển của y. Các đoạn kinh mà
tôi đă chọn, được trích ra từ "Thiên
Thư về các Bất Toàn" ("The Book of Imperfections),
Phần 14:
294
"Bảy
sự Bất Toàn phát ra và làm hư hoại vật chất
từ lănh vực cao nhất đến lănh vực thấp
nhất. Bảy sự bất toàn kế tiếp nhau, và hai
cái – những ǵ nguyên vẹn, lành lặn và những ǵ
được biết như là tiểu tiết và không lành
mạnh theo ư nghĩa khủng khiếp – gặp gỡ trên
cơi giới của sự sống hồng trần (cơi dĩ
thái – A. A. B.)
"Và họ chiến đấu ở đó, ném vào cuộc xung đột tất cả những ǵ mà họ đă và có được, tất cả những ǵ được nh́n thấy và tất cả những ǵ không thấy được bên trong cái ṿng tam phân (Ba cơi thấp – A. A. B.).
"Bảy sự bất toàn thấu nhập vào bảy giống dân của nhân loại, mỗi cái ở vào vị trí riêng của chúng; chúng nhuốm màu bảy mức độ trong mỗi giống dân. (Bảy bí huyệt của hành tinh, đang truyền năng lượng bất toàn. A.A.B.).
"Bảy sự toàn hảo lượn lờ trên mỗi giống dân, trên mỗi người trong mỗi giống dân và trên mỗi điểm bên trong từng người.
"Và như thế, sự xung đột tăng từ ngoài cùng đến trong cùng, từ Đấng vĩ đại nhất đến cái thấp kém nhất. Bảy cái bất toàn. Bảy tổng thể hoàn hảo; bảy cách để xua đuổi bóng tối của bất toàn và lộ ra ánh sáng lạnh lẽo trong suốt, ánh sáng trắng của điện của tổng thể hoàn hảo".
295
Hỡi
huynh đệ, tất cả những ǵ mà bạn có
thể lĩnh hội từ đoạn trên, là một ư
niệm của cuộc xung đột triền miên của
bảy năng lượng lớn, chúng biểu lộ
như là các cặp đối nhau (dualities) và chúng tạo ra
khi bám chặt bên trong một thể (dù là thể của
một hành tinh, một con người hoặc một nguyên
tử) một khu vực hoặc chu kỳ thống khổ,
như người ta thường gọi; thống khổ
này tạo ra sự thôi thúc tiến hóa và chính nó là nguyên
nhân biểu lộ, trong khi hậu quả của nó
(vốn là karma) là sự giải thoát tối hậu của
sự hoàn hảo và thánh thiện. Các điều này không
dễ hiểu chút nào. Cần phải nhớ rằng
bảy sự bất toàn được liên kết với
bản chất thất phân của Đấng mà trong Ngài
chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn, và
chính bảy năng lượng bất toàn này nắm
giữ trong chính chúng ư-chí-hành-thiện (will-to-good) hoàn
hảo, mà sau rốt, mạnh mẽ hơn là ư-muốn-gây-tổn-hại
(will-to-harm).
Các năng lượng này tuôn đổ qua bảy bí huyệt của cơ thể hành tinh và là – ở chừng mức có liên quan đến chúng ta – bảy năng lượng của cung. Liên quan với ư-muốn-gây-tổn-hại, vốn có thể và tất nhiên là biểu lộ dưới h́nh thức bệnh tật trong cả 4 giới của thiên nhiên, bạn hiểu được lư do tại sao tôi khuyến cáo việc phát triển đức vô tổn hại trong các đạo sinh huyền học, những người mà tôi lănh trách nhiệm. Đó là tác nhân chính cho sự hóa giải karma. Ở đây, tôi sẽ nêu ra cho các bạn Định Luật IX, và như vậy, bổ túc cho một nhóm các định luật mà khi được noi theo, người ta sẽ thấy là thiết yếu cho việc chữa trị bệnh tật và duy tŕ sức khỏe.
ĐỊNH LUẬT IX
Sự hoàn thiện đẩy sự bất toàn lên trên mặt. Luôn luôn cái thiện xua cái ác ra khỏi h́nh hài con người theo thời gian và không gian. Phương pháp được Đấng Hoàn Thiện sử dụng và những ǵ được Điều Thiện vận dụng là sự vô tổn hại. Đây không phải là tính tiêu cực, mà là sự thăng bằng hoàn hảo, một quan điểm hoàn hảo và sự hiểu biết thánh thiện.
Các bạn nên chú ư rằng những ǵ tôi đă nói đến trong mối liên hệ này, sẽ chuyển toàn bộ vấn đề bệnh tật vào một thế giới căn nguyên xa xăm – một thế giới mà cho đến nay con người không thể thâm nhập vào. Chính v́ lư do này mà tôi đă dành rất nhiều th́ giờ để xét về các nguyên nhân của bệnh tật; hơn một nửa những ǵ tôi phải nói được t́m thấy trong phần đầu này về bàn bạc của chúng ta. Chúng ta gần như kết thúc vấn đề này, và đối phó với những ǵ mà nhiều người sẽ xem như là phần hữu ích hơn và thực tiễn hơn của giáo huấn liên quan đến vấn đề này. Tôi không bao giờ có ư định bàn đến vấn đề bệnh lư học của bệnh tật hoặc các triệu chứng của nhiều h́nh thức sức khỏe kém cỏi đang làm phiền nhiễu nhân loại. Phần chính là tôi t́m cách nhấn mạnh về các lư do bên trong (chủ quan) đối với đa số các bệnh đang tấn công cơ thể con người. Tuy nhiên, mục tiêu của tôi th́ lành mạnh. Việc con người quá nhấn mạnh vào bệnh tật đang gây bối rối cho linh hồn, v́ điều đó đặt kẻ vô thường luôn luôn thay đổi bản chất h́nh hài vào một t́nh trạng nổi bật không đúng chỗ, trong khi mà – theo quan điểm của linh hồn – sự thăng trầm của thể xác chỉ có tầm quan trọng chừng nào mà chúng đóng góp vào cho sự phong phú của kinh nghiệm linh hồn.
296
Nhân
tố có tầm quan trọng là các nguyên nhân, được
con người phát khởi từ kiếp sống này
tới kiếp sống khác; các nguyên nhân này thể hiện
ra bằng sự xuất hiện của bệnh tật,
bằng việc lộ ra của một hậu quả
thảm hại nào đó theo hoàn cảnh, theo biến cố
và theo sự chi phối chung của lần luân hồi
đặc biệt nào đó. Chính là với các nguyên nhân này
mà con người phải học cách đối phó
để nhận ra chúng và để lần ra năng
lượng đang chi phối đối với các
hậu quả thích hợp, lúc bấy giờ, trước tiên
là bàn đến việc làm tiêu tan nguyên nhân bằng sự
đối ngược của ư chí có luyện tập. Karma
không phải là diễn biến không thể tránh khỏi,
không thể thoát được và tệ hại. Nó có
thể được hóa giải, nhưng sự hóa
giải này đặc biệt ở nơi nào có liên hệ
đến bệnh tật, sẽ gồm trong bốn
đường lối hoạt động:
1. Xác định bản chất của nguyên nhân và khu vực trong tâm thức nơi mà nó xuất phát.
2. Phát triển các tính chất vốn là đối cực của nguyên nhân có ảnh hưởng.
3. Thực hành sự vô tổn hại nhằm mục đích ngăn chận sự biểu lộ của nguyên nhân và chận trước bất cứ diễn tiến thêm nữa của t́nh trạng không may.
297
4.
Chọn những giai đoạn cần thiết ở cơi
trần để tạo ra các t́nh trạng mà linh hồn
mong muốn. Các giai đoạn này sẽ gồm:
a. Sự tuân phục của trí tuệ và chấp nhận sự thật về hậu quả – trong trường hợp mà chúng ta đang xét có liên quan với karma – tức bệnh tật.
b. Hành động khôn khéo theo các đường lối của thủ tục y học chính thống.
c. Tham gia của nhóm chữa trị hoặc nhà chữa trị để trợ giúp trong việc chữa trị tinh thần bên trong.
d. Tầm nh́n rơ rệt về kết quả. Điều này có thể đưa đến việc chuẩn bị cho một cuộc sống hữu ích hơn ở cơi trần, hoặc chuẩn bị cho sự chuyển tiếp lớn lao gọi là sự chết.
Nhưng đằng sau mọi suy tư khôn ngoan và hoạt động sáng suốt phải là việc chấp nhận sự hiện hữu của một số t́nh trạng chung, nó thể hiện ra như là sức khỏe kém của thể xác trong chu kỳ thế giới này, không những chỉ cho giới nhân loại, mà c̣n cho ba giới dưới nhân loại nữa. Luật Bất Toàn tồn tại v́ các Đấng Thực Tại Vĩ Đại (có trong mọi thế giới hiện tượng) cũng ở trong tiến tŕnh phát triển và khai mở tiến hóa. Do đó, cho đến khi các Ngài, với tư cách là các Đấng Tinh Thần đă phát triển được "sự kiềm chế siêu phàm"– như người ta thường gọi – đối với chất liệu của sắc tướng cơi hiện tượng của các Ngài, các sắc tướng này sẽ không đạt tới hoàn thiện thiêng liêng. Bệnh tật chỉ là một h́nh thức bất toàn tạm thời, c̣n sự chết chỉ là một phương pháp để tái tập trung năng lượng, trước tiên đối với một hoạt động lũy tiến, từ từ tiến tới và luôn luôn hướng về sự hoàn thiện.
298
Hiểu
được bảy đoạn kinh mà hiện giờ tôi
định trao cho bạn, sau rốt sẽ đưa
đến việc cô lập bảy nguyên nhân tâm lư của
bệnh tật, có sẵn trong chất liệu của
mọi h́nh hài trong chu kỳ thế giới này, bởi v́
mọi h́nh hài đều được truyền bằng
năng lượng sự sống của "Các
Thượng Đế chưa toàn hảo". Theo các Kinh
Thánh của thế gian, chúng ta được dạy đó
là bảy Tinh Quân "trước Thiên Ṭa"; điều
này có nghĩa là các Ngài chưa đạt tới vị
thế trèo lên Thiên Ṭa (Throne), nói một cách tượng
trưng, do sự kiện là các Ngài chưa đạt
được biểu lộ thiêng liêng hoàn hảo. Các
vị Chủ Quản Bảy Cung này đều cao cả và
tiến hóa nhiều trong thang tinh thần hơn là các
Đấng Cao Cả đang hợp thành Hội
Đồng của Đấng Chưởng Quản
Địa Cầu ở Shamballa. Các Ngài là các Đấng
Tiêu Biểu của bảy Năng Lượng cung đang
truyền sức sống cho bảy Hành tinh thánh thiện
nhưng vẫn c̣n chưa phát triển về mặt thiêng
liêng như các Ngài. Vấn đề nhân loại đối
với sự bất toàn th́ rất phức tạp, không
những do sự kiện là bảy Năng Lượng
đang đem lại sức sống đều bị
"pha trộn v́ sự bất toàn", mà c̣n bởi
sự kiện là chính Đấng Chưởng Quản
Địa Cầu từ góc độ của một Thái
Dương Thượng Đế chẳng hạn, hăy c̣n
cách xa sự hoàn thiện. Đây là lư do giải thích tại
sao hành tinh của chúng ta, Địa cầu, chưa
phải là một hành tinh thánh thiện. Chúng ta
được biết rằng Đức Sanat Kumara
(Ngọc Đế) là vị tù nhân thiêng liêng của hành tinh
này, vẫn giữ ở đây cho đến khi "kẻ
hành hương mệt mỏi cuối cùng t́m ra con đường
trở về nguồn cội". Đây là karma nặng
nề của Ngài, trong khi nó lại là một biểu
hiện của ước muốn và niềm vui của
Ngài. Những kẻ "hành hương mệt mỏi"
là các nguyên tử (của con người hay thực thể
nào khác) trong cơ thể Ngài, và họ bị pha trộn
với sự bất toàn v́ các bất toàn của Ngài;
việc "chữa trị" hoàn toàn cho họ sẽ
đặt ra hạn kỳ cho sự giải thoát của
Ngài.
Do đó, hăy nhớ rằng các đoạn Kinh – cả thảy là 7 đoạn – hiện nay được đưa ra, nêu rơ tính chất của các năng lượng đang tuôn xuống và các dấu vết mà các năng lượng này mang lại và khêu gợi cho mọi h́nh hài đang được truyền sinh lực bởi sự sống của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta.
CÁC NGUYÊN NHÂN THUỘC BẢY CUNG CỦA SỰ BẤT HÀI H̉A VÀ BỆNH TẬT.
299
I. "Đấng
Cao Cả tự đặt cho ḿnh noi theo con
đường mà chỉ một ḿnh Ngài đă chọn. Ngài
không dung túng một sự cản trở nào. Ngài tôi
luyện các lộ tŕnh của Ngài. Từ cơi này đến
cơi khác, sự tôi luyện này tiếp diễn; nó tăng
trưởng và cứng cáp lại. Ư chí của Ngài
được sắp đặt giống như pha lê, chói
sáng, ḍn và cứng. Quyền năng để kết tinh là
quyền năng của Ngài. Không những đem lại
ư-chí-muốn-sống, mà c̣n đem lại
ư-chí-muốn-chết nữa. Cái chết là món quà của Ngài
đối với sự sống. Sự truyền vào và sự
khuếch tán không làm cho Ngài hài ḷng. Ngài yêu thích và t́m kiếm
ư niệm trừu tượng".
Chừng nào mà chúng ta có thể hiểu được ư nghĩa của đoạn Kinh này có liên quan đến chủ đề bệnh tật của chúng ta, sự bất toàn của năng lượng thiêng liêng này tạo ra một thái độ đặc thù tự biểu lộ trong sức mạnh để kết tinh, để trui luyện, để đem lại sự tiêu hao và gây nên tiến tŕnh trừu xuất vĩ đại mà chúng ta gọi là sự chết. Các kết quả khác là nhiều tiến tŕnh kết tinh tiếp diễn trong h́nh hài xác thân, mọi diễn tiến hao ṃn và thời kỳ xưa cũ.
II. "Đấng Cao Cả tuôn đổ sự sống của Ngài khắp mọi phần và mọi khía cạnh biểu lộ. Từ trung tâm đến ngoại vi và từ ngoại vi đến trung tâm; Ngài thúc đẩy, đem lại sự phong phú cho đời sống, cấp năng lượng cho mọi h́nh hài của chính Ngài, gây ra thừa thăi chuyển động, mở rộng vô hạn, tăng trưởng dồi dào và nhanh nhẹn thái quá. Ngài không biết những ǵ Ngài cần, bởi v́ Ngài cần tất cả, ước muốn tất cả, thu hút tất cả và đem lại cho tất cả quá nhiều".
300
Sự
bất toàn của năng lượng vĩ đại này
cùng với việc kiến tạo nó, đem lại sinh
lực và sức mạnh kết hợp, đă và đang là
sức mạnh đối với sự quá kích thích,
để tạo ra sự phát triển, để chồng
chất chung với nhau, để kiến tạo thật
nhiều h́nh hài, để thu hút quá nhiều nguyên tử và
để mang lại các t́nh trạng đưa tới
những ǵ được gọi là (về mặt
huyền bí) "sự ngột ngạt của đời
sống" – một h́nh thức khác của sự tàn
tạ, nhưng sự tàn tạ vào lúc này dưới h́nh
thức kết quả của sinh lực quá mức, tác
động đến ḍng máu, tạo ra cấu trúc (building)
bên trong các h́nh hài đă được kiến tạo và
thường tạo ra một thể dĩ thái quá mạnh đối
với h́nh hài vật chất bên ngoài. Các hậu quả khác
chẳng hạn, là sự xuất hiện các bướu,
ung thư, các khối u (growths) và việc quá phát triển các
trạng thể của cơ thể, các cơ quan quá
lớn và các phần cơ thể dư thừa.
III. "Đấng Cao Cả gom góp lại khắp nơi. Ngài lựa chọn và Ngài ném bỏ. Ngài từ chối năng lực này và thu nhận năng lực kia. Ngài không có mục đích nào được liên kết với sáu mục đích cùa sáu vị huynh đệ Ngài. Ngài thủ đắc một h́nh hài và không ưa thích nó nữa, ném nó đi và chọn một h́nh hài khác. Ngài không có một điểm hoặc một kế hoạch nào được thiết lập, mà chỉ sống trong huyễn cảm và rất ưa thích nó. Ngài dập tắt cả hai điều tốt và xấu, mặc dầu vận dụng cả hai. Ở một hướng, người ta có thể thấy quá thừa thăi, c̣n ở hướng khác lại thiếu thốn. Cả hai thái cực này chế ngự sự chọn lựa chất sống của Ngài, Ngài ném chung với nhau những ǵ không thích hợp nhau, bấy giờ, thấy được kết cục là nỗi ân hận và sự lừa dối. Kiểu mẫu th́ Ngài đă làm, nhưng mục tiêu không thích hợp. Ngài đă từ bỏ trong thất vọng".
301
Hiệu
quả chính yếu của sự "điều
khiển" và vận dụng bất toàn này, như
người ta đă gọi, phần lớn đều có
bản chất cảm dục, tất nhiên tạo ra
sức khỏe thể chất kém cỏi và các hiệu
quả ngoài ư muốn mà chúng ta đă nghiên cứu trong
bộ luận này. Chính v́ năng lượng của cung ba
này là năng lượng của chính chất liệu mà các
sự bất toàn của nó biểu lộ quá nhiều trong
khuynh hướng mắc bệnh của con người.
Huyễn cảm do việc sử dụng quá độ
năng lượng của cung 3 này vào các mục tiêu ích
kỷ, cá nhân, và biểu lộ trước tiên trên cơi
thứ 6 hay cơi cảm dục. Theo kết quả của
việc vận dụng dục vọng và việc
điều khiển bừa băi cho sự thỏa măn của
nó theo các đường lối vật chất, bạn có
các bệnh như là đau bao tử, đau ruột và các
chứng rối loạn bao tử khác đang tàn phá con
người văn minh – nhiều hơn là các giống dân
bán khai. Một số rối loạn về trí năo cũng là
hậu quả và sinh lực thấp kém.
IV. ”Đấng Cao Cả chiến đấu và đi vào cuộc chiến. Tất cả những ǵ mà Ngài gặp gỡ đă hiện ra cho Ngài một đối tượng để phô bày quyền năng. Bên trong cái thứ tư, Ngài thấy có một chiến trường và bắt đầu chú tâm chiến đấu. Ngài đă thấy được cái đúng, biết được cái sai và dao động giữa cả hai, chống lại cái đầu rồi chống lại cái sau, nhưng thiếu mất mọi thời gian mà trung điểm nơi có cuộc chiến mà không ai biết. Nơi đó, có sự hài ḥa, thoải mái, ngơi nghỉ và im lặng b́nh thản. Ngài làm yếu đi mọi h́nh hài vốn tận dụng sức mạnh và quyền năng của Ngài. Tuy nhiên, lúc nào Ngài cũng t́m kiếm sự mỹ lệ; ḍ t́m sự dễ chịu và mong mỏi sự yên b́nh. Sự thất vọng xảy đến cho Ngài trong các lộ tŕnh của Ngài; và với sự thất vọng, ư-chí-muốn-sống không thể tồn tại. Tuy nhiên, lúc nào sự hấp dẫn cũng ở đó".
Ở đây, chúng ta có một chỉ dẫn rơ rệt về lư do tại sao nhân loại (giới thứ tư trong thiên nhiên) lại nhanh chóng và dễ dàng chịu khuất phục bệnh tật đến như thế. Các xung đột mà nhân loại thường xuyên gặp phải, cả trong h́nh thức tập thể lẫn cá nhân – cho đến khi được hiểu rơ và sử dụng như một cách để thành công và tiến bộ – đều đưa đến một t́nh trạng luôn mất sinh lực. Nơi nào có sự mất sinh lực, th́ sự đối kháng với bệnh tật sẽ kém và gần như mọi h́nh thức sức khỏe kém cỏi và đau yếu xác thân dễ xảy ra. Việc tản mạn năng lượng thường đưa đến việc giảm bớt sức đề kháng này. Kết quả là bạn bị suy nhược, phản ứng nhanh và bất lợi đối với bệnh bẩm sinh trong chính hành tinh, và nhanh chóng mắc phải sự lây nhiễm và các bệnh truyền nhiễm. Chính năng lượng này đang ẩn dưới những ǵ mà chúng ta gọi là bệnh dịch, và bệnh cúm (influenza) là một trong các biểu hiện chính của nó.
302
V.
"Đấng Cao Cả vượt trên sự phẫn
nộ và tự tách Ngài ra. Ngài lướt một bên các tính
chất lưỡng nguyên lớn và trước tiên
thấy được môi trường đa tạp. Ngài
tạo ra sự phân chia ở mọi mặt. Ngài tác
động với tư tưởng mạnh mẽ cho hành
động riêng rẽ. Ngài thiết lập các
chướng ngại một cách vui vẻ. Ngài không dung
thứ sự hiểu biết; Ngài không biết đến
sự hợp nhất, v́ Ngài lạnh lùng, nghiêm khắc,
khổ hạnh và măi măi độc ác. Ngài đứng
giữa trung tâm dịu dàng, từ ái của mọi sinh linh
và sân ngoài của người đang sống, đang
đau yếu. Tuy nhiên, Ngài không đứng ở điểm
giữa và Ngài không làm ǵ đủ để chữa lành
chỗ thủng. Ngài khơi rộng mọi khe nứt,
dựng lên các bức tường và t́m cách làm cho các lỗ
hổng rộng ra".
Quả là điều vô cùng khó khăn khi mô tả bản chất của sự bất toàn về năng lượng của Đấng Chủ Quản cung 5. Trong hoạt động của năng lượng này – vốn biểu lộ trước tiên trên cơi thứ 5 hay cơi trí – sau rốt người ta sẽ thấy cội nguồn của nhiều rối loạn tâm lư và bệnh thần kinh. Sự phân chia (cleavage) là đặc điểm nổi bật – phân chia bên trong cá nhân, hoặc là giữa cá nhân với nhóm của y làm cho y chống lại xă hội. Tôi đă bàn đến điều này trong một phần trước đây của bộ luận này và không cần bàn rộng thêm về các khó khăn ở đây (trong "Tâm Lư học Huyền Bí" quyển II của bộ Luận Về Bảy Cung). Các kết quả khác là một số h́nh thức mất trí, các tổn thương năo và các lỗ hổng trong mối liên quan của xác thân với các thể tinh anh, vẫn lộ ra như là sự đần độn và các bệnh về tâm lư. Một h́nh thức bệnh hoạn khác xuất hiện như là kết quả của sức mạnh cung 5 này là chứng thiên đầu thống (migraine) tạo ra do sự thiếu liên hệ giữa năng lượng chung quanh tuyến tùng quả (tuyến này giống h́nh quả thông –ND) và năng lượng chung quanh tuyến yên (tuyến này giống h́nh yên ngựa – ND).
303
VI. "Đấng
Cao Cả yêu thương chính Ngài trong các h́nh hài khác và trong
mọi h́nh hài. Về mọi mặt, Ngài thấy các
đối tượng sùng tín Ngài và bao giờ các
đối tượng này cũng tỏ ra là chính Ngài. Bao
giờ Ngài cũng tuôn đổ chính Ngài vào các đối
tượng khác này, đ̣i hỏi sự đáp ứng và
không bao giờ nhận được đáp ứng đó.
Chắc chắn và với sự chắc chắn các
đường nét của các h́nh hài rất khả ái đă
mất đi, trở nên lu mờ và tan biến. Các
đối tượng t́nh thương của Ngài tàn
lụi từ từ. Chỉ có thế giới của h́nh
bóng, của sương mù và sa mù c̣n lại. Và khi Ngài đă
xem xét chính Ngài, Ngài phán: Vị Chúa Huyền Cảm, tôi là Cái
Đó, và Thiên Thần Hoang Mang. Không có ǵ sáng tỏ
đối với tôi. Tuy nhiên, tôi ưa thích tất cả
những ǵ dường như sai lầm ! Tôi biết
rằng bác ái là đúng và là tinh thần của vũ
trụ. Vậy th́, sai lầm là ǵ?"
Điều khá lư thú, chính là tiềm năng của sức mạnh cung 6 này (khi nó nuôi dưỡng dục vọng) vốn chịu trách nhiệm cho nhiều bệnh tật và ốm đau của nhân loại, vốn dựa vào sự lạm dụng nhiệm vụ và chức năng của tính dục. Dục vọng, hoang mang, yếu đuối, đồi trụy và phát triển một chiều về tính dục và các thỏa măn khác nảy sinh ra do sự lạm dụng năng lượng này. Sự hoang mang nảy sinh từ dục vọng đưa đến một đ̣i hỏi thỏa măn mạnh mẽ và việc chọn các giai đoạn này – một số th́ đúng c̣n một số th́ sai – đưa tới sự thỏa măn. Các kết quả bao trùm một lănh vực rộng lớn, mọi đường lối, từ sự độc ác do bạo dâm và sự dâm đăng, đến các hôn nhân được dựa trên ước muốn vật chất, và các t́nh trạng dẫn đến nhiều h́nh thức bệnh hoạn về tính dục. Một manh mối đưa đến toàn bộ vấn đề của thế giới này nằm trong các lời của một kinh sách cổ nói rằng "Sự bất toàn của Đấng Chủ Quản Cung thứ Sáu đă mở cửa cho hôn nhân sai sót giữa các cực".
VII. "Đấng Cao Cả gom vào chính Ngài các mănh lực và xác nhận sự chú tâm của Ngài để sáng tạo. Ngài sáng tạo những ǵ ở bên ngoài có thể thấy được. Ngài thấy các tạo vật của Ngài và không ưa thích các tạo vật đó, và thế là thu hồi sự chú tâm của Ngài lại; lúc bấy giờ các tạo vật mà Ngài đă tạo ra đều tàn tạ và biến mất. Ngài không có sự thành công bền bĩ và không thấy ǵ trừ sự thất bại khi Ngài đă đi qua con đường ngoài của sự sống. Ngài không hiểu nhu cầu của các h́nh hài. Đối với một số h́nh hài, Ngài đă ban ra một số lượng quá lớn sự sống, đối với một số khác th́ lại quá ít, và thế là cả hai loại đều tàn tạ và không phô bày được sự mỹ lệ của Đấng đă mang lại cho chúng sự sống, trừ thất bại khi đem lại cho chúng sự hiểu biết. Bấy giờ, Ngài không biết rằng ḷng bác ái duy tŕ sự sống".
304
Các
hiệu quả của sức mạnh cung này rất là
đặc biệt và sẽ thịnh hành hơn là từ
trước đến giờ rất nhiều, v́ cung này
hiện đang phát huy sức mạnh. Chính năng
lượng này chịu trách nhiệm phần lớn
đối với các bệnh truyền nhiễm. Chủ âm
của công việc của cung 7 là cung mang lại sự
sống và vật chất trên cơi trần. Tuy nhiên khi xét theo
khía cạnh bất toàn, đây là việc đồng
thời mang lại (nếu bạn có thể hiểu
được các hàm ư) Sự Sống vĩ đại, các
sự sống nhỏ hơn và sức sống rộng
lớn của tiến tŕnh sáng tạo. Điều này
được tượng trưng bằng sự tạp
hôn và sự tương tác chuyển động không
ngừng của mọi sự sống bên trong mọi sinh
linh.
Do đó, kết quả là sự hoạt động của mọi mầm mống và vi khuẩn bên trong môi trường sẽ nuôi dưỡng chúng hiệu quả nhất.
Đây là các ư niệm trừu tượng và khó hiểu, nhưng nếu chúng được nghiền ngẫm, và suy nghiệm sâu xa, chúng sẽ mang lại hiểu biết. Mọi bệnh hoạn và sức khỏe yếu kém đều là kết quả của sự hoạt động hoặc bất động của năng lượng này hay năng lượng khác trong số bảy loại năng lượng khi chúng tác động trên cơ thể người. Mọi bệnh tật xác thân xuất hiện do bởi tác động của các năng lượng chưa hoàn hảo này khi chúng tạo ra ảnh hưởng trên, đi vào và vượt qua các bí huyệt trong cơ thể. Tất cả đều tùy thuộc vào t́nh trạng của bảy bí huyệt trong con người. Qua bảy bí huyệt này, các năng lượng không thiên lệch tác động, mang lại sự sống, bệnh tật hoặc sự chết, khơi động các bất toàn trong cơ thể hoặc mang lại sự chữa trị cho cơ thể. Xét về con người, tất cả đều tùy thuộc vào t́nh trạng xác thân, tuổi của linh hồn và các khả năng nghiệp quả.
305
Tôi
xin bạn đừng hiểu sai ư nghĩa của từ
ngữ "chưa hoàn hảo" ("imperfection") mà
tôi đă dùng rất thường khi nói đến các
Đấng Cao Cả, các Ngài biểu lộ một mức
thánh thiện (divinity) mà con người không thể
đạt tới được vào bất cứ lúc nào
trên hành tinh đặc biệt này. Bạn nên nhớ
rằng thái dương hệ này là thái dương hệ
thứ hai, và rằng trong thái dương hệ thứ
nhất, tầm quan trọng được đặt trên
tính vật chất sáng suốt (intelligent materiality); mục
tiêu của vị điểm đạo đồ cao
nhất là để đạt tới kiềm chế hoàn
toàn vật chất, để khai mở nguyên khí trí tuệ
và để chứng minh một thuyết duy vật rơ ràng.
Trong các vô lượng thời quá xa xăm này có ghi dấu
sự thành đạt, trong khi đó trong thái dương
hệ này, nó ghi dấu sự thất bại đối
với nhân loại. Thái dương hệ này kể cả
mọi hành tinh đi kèm với địa cầu chúng ta có
một mục tiêu khác và trạng thái thiêng liêng thứ hai,
trạng thái bác ái, phải được biểu lộ và
biểu lộ qua môi trường vật chất
được thấm nhuần bằng các phẩm tính
đă phát triển trong thái dương hệ thứ
nhất. Những ǵ hoàn hảo vào lúc đó th́ nay không phải
như thế nữa. Do đó, các Đấng Cao Cả
vốn là toàn thể những ǵ hiện có đang tác
động qua và trong vật chất, vốn đă
nhuốm màu hay bị trộn lẫn với những ǵ
phải bị bỏ lại sau và không tùy thuộc vào
một sự khai mở thêm nào nữa.
Đây là các bất toàn mà chúng ta đang xem xét – bảy trạng thái của tính vật chất thông tuệ; chính ở đây mà bệnh tật chiếm chỗ và biểu lộ. Chúng ta được dạy rằng thể xác không phải là một nguyên khí; trong thái dương hệ vừa qua nó đă là nguyên khí. Trong thái dương hệ này, các nguyên khí đều khác nhau và chính trong sự va chạm giữa những ǵ đang hiện hữu và những ǵ sẽ có (những ǵ sẽ–hiện–tồn), mà trên cơi trần, chúng ta có các nguyên nhân của bệnh tật và tử vong. Hăy suy gẫm các vấn đề này và nhớ rằng bạn phải xem xét sự việc trên một mức độ rộng lớn hơn, càng rộng lớn càng tốt, nếu có một hiểu biết đích thực về một số các nguyên nhân của bệnh tật và ốm đau của xác thân.
306
CHƯƠNG IV
MỘT VÀI VẤN ĐÁP
Đa số các câu hỏi do tân đệ tử nêu ra, lẽ ra không cần hỏi, nếu y có kiên nhẫn nhiều hơn và hiểu rơ hơn những ǵ y đang học hỏi. Những kẻ sơ cơ cần chờ sự phát triển nơi chính họ và mở rộng tâm thức của họ một cách b́nh thường theo sự giáo huấn. Tuy nhiên, vị đạo sư có thể yêu cầu đặt các câu hỏi v́ các lư do:
1. V́ khi nào có liên hệ đến một nhóm và các thành viên rất sáng suốt, qua các câu hỏi của họ mà họ có thể tiến bộ nhiều trong việc học hỏi để biết và hiểu được lẫn nhau. Các đường liên giao có thể được thiết lập, sẽ liên kết họ cùng nhau một cách chặt chẽ hơn.
2. V́ qua các câu hỏi, chính vị đạo sư có thể có được liên giao chặt chẽ hơn với quan điểm của môn sinh. Thí dụ như chính tôi và quan điểm của Tây phương về thuật chữa trị.
Cuối cùng, đừng nên quên rằng tôi là một người Đông phương, và đó là bối cảnh và việc huấn luyện của tôi. Tôi có thể biết rơ về thuật chữa trị hơn là bạn, và biết về các năng lượng đang tạo nên cơ thể con người, nhưng quan điểm của bạn, các thuật ngữ của bạn và các thái độ trí tuệ của bạn vẫn c̣n hơi xa lạ đối với tôi. Các câu hỏi của bạn sẽ giúp tôi hiểu xuất thân của bạn và các giới hạn của bạn, nhờ thế, tôi có thể giúp các bạn với sự sáng suốt nhiều hơn.
307
3. V́
việc nêu câu hỏi sáng suốt là phương pháp của
huyền môn để tập trung trí tuệ, để
tổng hợp sự hiểu biết và để biết
được lănh vực thẩm tra và có thể mở
rộng tâm thức.
Về bản chất của sự tắc nghẽn (Congestion)
Làm sao tôi có thể định nghĩa sự tắc nghẽn cho bạn khi mà sự hiểu biết về lực và năng lượng và mối liên quan của chúng với nhau trong cơ thể con người, cho đến nay vẫn là một nghiên cứu c̣n phôi thai? Nói rằng tắc nghẽn là sức mạnh bị đông lại, là nói sai – nói rằng đó là năng lượng không sinh động th́ chẳng có ư nghĩa bao nhiêu; nói rằng đó là rung động bất thường hoặc không nhịp nhàng, th́ cũng khó làm rơ nghĩa. Vấn đề của tôi là thiếu các từ và các thuật ngữ chính xác để đưa bạn đến chân lư huyền môn.
Có lẽ sự tắc nghẽn được định nghĩa rơ ràng nhất là sự ngăn chận (arresting) ḍng chảy thông suốt của thần lực qua nhiều bí huyệt hay một bí huyệt và khắp cơ thể. Sự tắc nghẽn xảy ra dưới hai h́nh thức:
1. Sự tắc nghẽn tạo ra hiệu quả trong chính bí huyệt và do đó, tất nhiên, trên các tuyến. Nó bị ức chế, hoặc là khi nó tuôn đổ vào bí huyệt (khi nó không tác động đến tuyến ngoại trừ theo một ư nghĩa tiêu cực) hoặc là khi nó rời khỏi bí huyệt đó (khi ảnh hưởng của nó sẽ tích cực theo cách này hay cách khác). Khi sự khó khăn xảy ra lúc nó tuôn đổ vào bí huyệt, bấy giờ năng lượng được thu hồi về cội nguồn nguyên thủy của nó – hoặc là thể cảm dục, hoặc là thể trí – bạn sẽ có sự ức chế về tâm lư. Không có sức thôi thúc từ bên trong đến chỗ mà tuyến liên hệ có thể đáp ứng. Khi sự khó khăn ở nơi lối thoát vào thể xác, bạn sẽ không có luồng sức mạnh thông suốt nào, tuyến có liên quan với bí huyệt sẽ bị ảnh hưởng một cách rơ rệt và hoặc là quá bị kích thích bởi ḍng chảy không nhịp nhàng, hoặc là kém bồi dưỡng. Đến phiên ḍng chảy này lại tác động vào sự bài tiết của tuyến và sau đó là ḍng máu.
308
2. T́nh
trạng tắc nghẽn đó xảy ra khi năng
lượng hay là sinh lực lưu thông khắp thể xác,
và khi lưu thông như thế, nó sẽ t́m được
ở đó một vài h́nh thức khiếm khuyết,
nhiều chỗ có bệnh và các vùng mà ḍng chảy của nó
bị ngăn trở hay là lưu chuyển quá nhanh. Ḍng
năng lượng có thể bị ngăn chận trong
một vài khu vực và có thể cũng nuôi dưỡng các
khu bị bệnh trong cơ thể, hoặc có thể
cũng chữa trị và tẩy sạch chúng. Sự tắc
nghẽn tạm thời có thể đem lại lợi ích
cũng như đem lại mănh lực ác hại.
Điều này có làm cho bạn kinh ngạc không?
Lần nữa, tôi phải lặp lại rằng vấn đề mà chúng ta đang bàn đến rộng lớn biết là bao, và tất cả các giáo huấn trước kia và các câu trả lời mà tôi đưa ra cho các câu hỏi chỉ dùng để chứng tỏ vấn đề khó hiểu như thế nào. Nhưng nếu bạn nhẫn nại và quyết tâm học hỏi bằng cách hấp thụ nhiều hơn là bằng phân tích, sau này, bạn sẽ khám phá ra rằng bạn biết rất nhiều – bằng trực giác và bằng phân biện.
Xác minh vị trí tắc nghẽn
Có ba cách nhờ đó nhà chữa trị có thể xác minh sự hiện diện và vị trí tắc nghẽn, và bất cứ h́nh thức nào khác của bệnh tật tạo ra khó khăn bên ngoài.
1. Trước tiên, việc có nhăn thông sẽ giúp nhà chữa trị thấy được bằng mắt nơi nào có sự khó khăn. H́nh thức chẩn đoán này không phải luôn luôn chính xác và có thể bị "nhuốm màu" bằng các t́nh trạng hiện có nơi chính nhà chữa trị.
2. Có một h́nh thức nhận biết trực tiếp, một tiến tŕnh "hiểu biết rơ rệt", vốn là một khả năng của linh hồn và không thể thất bại được, một khi người ta đă được luyện tập đúng cách để vận dụng nó. Đó là việc phối hợp cách nhận thức trí tuệ và tâm linh, và là tri thức rơ rệt hoặc là một trực giác, nếu bạn thích gọi thế,giúp cho nhà chữa trị đặt tay đúng vào vị trí bệnh và biết được nguyên nhân, hiệu quả và mục tiêu của nó.
309
3. Cũng
có một phương pháp vật chất nữa,
được dựa trên sự nhạy cảm của
phàm ngă giúp cho nhà trị liệu ghi nhận trong cơ
thể của chính ḿnh cùng một khó khăn mà bệnh nhân
đang có. Đây là "sự chuyển di huyền bí" ("occult
transference") và chỉ sẽ được sử
dụng bởi những kẻ nào biết cách thu hút và phân
tán. Trong trường hợp này, nhà chữa trị cũng
có thể cảm nhận được nguyên nhân của
bệnh nhờ sự tuôn đổ năng lượng vào
đối phần dĩ thái của bệnh tật ở
cơi trần, hay là một tính cực kỳ dễ xúc cảm
hay đáp ứng nhạy bén trong đối phần cảm
dục.
Hai nguyên nhân tắc nghẽn
Tôi xin đưa ra một hay hai phát biểu rơ ràng và kế đó giải thích. Thứ nhất, chỉ một ḿnh t́nh trạng bên trong không thể gây nên sự tắc nghẽn bên ngoài. Linh hồn đă tự sắp xếp để tự biểu lộ qua phương tiện của một xác thân vốn có một số thiên hướng (predispositions) nào đó.
Thứ nh́, tính chất bên trong là một yếu tố nguyên nhân khi có sự hợp tác với các khuynh hướng được kế thừa của thể xác; do đó, mọi tắc nghẽn không thể tránh khỏi v́ sự sống bên trong định đoạt t́nh trạng, c̣n thể xác được sắp xếp trước cho một số bệnh tật. Đây là ư muốn của linh hồn. Tôi có thể nêu ra rằng vào giai đoạn này của cơ tiến hóa nhân loại, có phải t́nh trạng bên trong nào cũng đúng hay chăng?
Thứ ba, chỉ một t́nh trạng bên ngoài không thôi, không thể là yếu tố nguyên nhân. Nếu tôi đúng trong các tiền đề chính của tôi (và điều này sẽ được khoa học mới mẻ sắp tới chứng minh), bấy giờ các quan sát của giới y học sẽ cần để hiệu chỉnh lại các sự kiện. Yếu tố nguyên nhân hiện ra trong việc đáp ứng với các yếu tố bên trong và yếu tố hiện hữu bên ngoài.
310
Tôi xin
giải thích rơ ràng hơn một ít, v́ sự lầm lẫn
có thể xảy ra do ư tưởng rằng bệnh tật
là kết quả của hai nguyên nhân – một nguyên nhân bên
trong và một nguyên nhân bên ngoài. T́nh trạng bên trong là nguyên
nhân mở đầu. Một số yếu tố tâm lư,
đưa đến việc sử dụng sai năng
lượng, phát động các khuynh hướng bên trong rồi
chúng t́m cách thoát ra, với tư cách là các yếu tố
quyết định quan trọng trên cơi trần. Ở
đó, chúng tiếp xúc với thể xác hoặc là sự
biểu hiện vốn có một số bẩm chất,
một số nhược điểm được
kế thừa, một vài khiếm khuyết nơi các
tuyến – tất cả các yếu tố đó đều
là một phần của thiết bị cần có, nhờ
đó linh hồn quyết định rằng một
số bài học cần thiết nào đó phải được
quán triệt. Mối liên quan được thiết
lập giữa các lực bên ngoài và bên trong là nguyên nhân
căn bản (tự biểu lộ thành hai nguyên nhân)
vốn tạo ra một h́nh thức bệnh hoạn nào
đó. Lần nữa, các khía cạnh tiêu cực và tích
cực được liên kết để tạo ra
yếu tố thứ ba: biểu lộ của một h́nh
thức bệnh hoạn nào đó.
Nếu bạn nói đến các t́nh trạng vật chất hoàn hảo, tôi biết không có t́nh trạng nào như thế hoặc không có thể xác hay môi trường vật chất nào mà một thuật ngữ như thế có thể được áp dụng. Cả hai phải là t́nh trạng và nguyên nhân tâm lư bên trong, vốn là thực tại bên trong (ở một mức độ rất nhỏ) và t́nh trạng vật chất bên ngoài biểu hiện dưới h́nh thức yếu đuối hoặc dưới h́nh thức bất toàn. Đến phiên chúng, các điều này lại là một khuynh hướng từ một kiếp sống trước, một bẩm chất, một thương tổn di truyền hoặc là một khó khăn tiềm tàng, dựa trên các lợi lộc hoặc hành động sai trái của kiếp sống trước. Đưa hai yếu tố quyết định chính yếu này lại chung với nhau, và – theo thiên luật – tất nhiên bạn sẽ có một số biểu lộ thấy được nào đó của ốm đau hay khó khăn ở thể xác; điều này có thể trầm trọng hay tương đối không quan trọng; nó có thể nguy hiểm cho sự sống hay có thể chỉ tạm thời đem lại khó chịu. Không phải chỉ có một t́nh trạng bên ngoài là thích hợp để tạo ra bệnh, mà nỗi khó khăn là y học hiện đại chưa chấp nhận giả thuyết về nguyên nhân ẩn tàng, trừ các nguyên nhân bề ngoài như là nỗi bận tâm và quá lo âu có thể làm trầm trọng thêm cho bệnh tim hiện nay. Tuy nhiên, việc đó không cho phép các yếu tố này truy nguyên đến một kiếp sống trước. Trong trường hợp các bệnh truyền nhiễm, nguyên nhân bên trong có cội nguồn từ tập thể, và do đó có một hiệu quả tập thể bên ngoài, và là một biểu hiện karma của nhóm. Khó khăn về vật chất tất nhiên là lớn.
311
Như
các bạn nhận thấy, phải có hai nhân tố hiện
hữu, và hai nhân tố này khi được liên kết và
kích hoạt, sẽ làm cho bệnh tật xuất hiện.
Nên nhớ rằng vấn đề chọn thể xác
của một linh hồn và kiểu hiện thể mà trong
đó một vài loại bài học có thể
được học, và một vài kinh nghiệm giáo
huấn được quán triệt, là một chủ
đề ít được biết đến. Khi
đề cập đến điều này, tôi muốn
nhắc các bạn rằng bệnh tật thường là
một cách giải tỏa, và sau cùng đem lại lợi
ích bằng các hiệu quả của nó. Chính việc
thể hiện thành biểu lộ của một yếu
tố bất hảo bên trong, và khi các nguyên nhân bên trong và bên
ngoài được đưa ra ánh sáng bạch nhật, th́
chúng có thể được vận dụng, hiểu
biết và thường tan biến và kết thúc qua nỗi
cay đắng của bệnh tật và đau khổ.
Nhưng đây là một châm ngôn khó áp dụng.
VỀ MỘT VÀI LOẠI BỆNH
Viêm khớp (arthritis) và tiểu đường là hai bệnh có nguồn cội trong thể cảm dục, nhưng nếu tôi có thể đặt nó một cách không thỏa đáng, th́ viêm khớp trước tiên có tích cách khách quan hơn là tiểu đường, nguyên là kết quả của sự thỏa măn ham muốn xác thân v́ nó tự biểu lộ qua thức ăn hoặc trong kiếp này, hoặc trong kiếp trước. Sẽ có ít hoặc là không có viêm khớp nếu nhân loại ăn uống một cách đúng đắn và hiểu được các giá trị và hiệu quả thích hợp của thức ăn. Tiểu đường th́ rơ rệt hơn, là kết quả của các dục vọng sai lầm bên trong chứ nhất định không phải là kết quả của các dục vọng sai lầm bên ngoài. Các bệnh này có thể xuất phát trong kiếp sống này như tôi đă nói ở trên, hay là được kế thừa từ một kiếp trước. Trong trường hợp sau, linh hồn đang luân hồi, chọn một gia đ́nh để đầu thai, gia đ́nh đó sẽ mang lại cho linh hồn ấy một thể xác có khuynh hướng hay là có bẩm chất tự nhiên dễ mắc bệnh này.
312
Nơi
đây có tàng ẩn một lănh vực t́m ṭi rộng
lớn, phải tách ra các loại vốn dễ trở thành
mồi cho một số bệnh tập thể.
Giang mai và viêm khớp thuộc về loại bệnh mà phần lớn được dựa vào sự thỏa măn dục vọng xác thân. Ung thư và tiểu đường th́ rơ rệt hơn, thuộc về loại bệnh có liên quan đến các ước muốn t́nh cảm bên trong và kiếp sống mơ ước bị kiềm hăm mạnh mẽ của nhiều người. Các bệnh truyền nhiễm như là bệnh sởi và sốt ban đỏ, đậu mùa hay bệnh tả th́, lư thú thay, rơ ràng là các bệnh tập thể và được liên kết rơ rệt với bản chất trí tuệ. Điều này làm cho bạn ngạc nhiên, nhưng sự thực là như thế đấy.
Một môn sinh có sự hiểu biết sâu sắc về các nguyên nhân huyền linh học có thể cho rằng khi con người thay đổi điểm chú tâm của họ từ bản chất hồng trần, đến bản chất t́nh cảm, hoặc từ bản chất t́nh cảm đến bản chất trí tuệ, th́ họ có thể trở nên mắc phải các bệnh cũ xưa, như là giang mai và ung thư, mà giống dân Lemuria đă mắc phải. Không phải như thế đâu.
313
Tôi xin
nhắc các bạn rằng con người không mắc phải
các bệnh này v́ họ đă tạo ra một sự thay
đổi trong tâm thức, mà là do lạm dụng một
vài quyền năng đă được Thượng
Đế ban cho. Sự thay đổi trong việc nhận
thức và bệnh tật th́ không có liên hệ xa xôi với
nhau. Cũng thế, tôi xin nhắc các bạn nhớ
rằng, ngày nay, con người là một phối hợp
của ba trạng thái năng lượng mà chúng ta gọi
là xác thân, t́nh cảm và trí tuệ, vốn thuộc thời
Lemuria và Atlantis và các trạng thái tâm thức của thời
Aryan. Ngày nay, rất hiếm có người nào thuộc
một loại thuần túy, nghĩa là có ưu thế và
mặt nay hay mặt khác. Họ thường trộn
lẫn cả ba với nhau. Bạn sẽ gặp khó
khăn khi t́m một người hay một bệnh nhân
"thay đổi sự chú tâm của y từ xác thân
đến t́nh cảm". Người ấy sẽ
hoặc là thuộc về t́nh cảm hoặc trí tuệ, và
vào các lúc ngắn, và theo quan điểm sinh lư học
thuần túy, sẽ thuộc về xác thân. Ranh giới rơ
ràng nhất là ở trường hợp các môn đồ
đang nỗ lực một cách rơ rệt và thực tâm cố
chuyển di sự chú tâm của họ lên cơi trí. Tuy nhiên,
họ sống nhiều hơn trong một vùng mà chúng ta
gọi là trí cảm (kama-manasic), có nghĩa là gồm cả
cảm dục và trí tuệ. Đó là một mức
độ tâm thức trung gian. Do đó, chỉ có các
điều khái quát rộng lớn là có thể xảy ra.
Khái quát đến nỗi các t́nh trạng bệnh giang mai
thường có cội nguồn ở xác thân hơn là ung
thư. Các ranh giới rơ rệt đều không thể có
được, và bạn phải luôn luôn nhớ rằng
một số bệnh có thể hiện ra trong một
lần luân hồi đặc biệt vốn có cội
nguồn trong một quá khứ rất xa xăm; các mầm
mống của t́nh trạng đó vẫn c̣n tiềm tàng
trong nguyên tử thường tồn qua nhiều thời
đại. Chúng không thể ăn sâu vào lề thói hằng
ngày hoặc tính chất của cuộc sống hiện
tại một chút nào. Một cách bất ngờ chúng ập
vào cuộc sống và tác động vào kiếp hiện
tại, và một cách ngẫu nhiên, đưa đến
cơ may để giải thoát.
Cơn sốt (fever)
314
Sốt
là một chỉ dẫn đơn giản của sự
đau ốm và là một cách cơ bản để thanh
lọc và thải trừ. Đó là một dụng cụ
chỉ thị, chứ tự nó không phải là một
bệnh. Hăy suy gẫm về điều này và áp dụng nó
trên mọi cơi, v́ cơn sốt ở cơi trần có các
đối phần của nó ở cơi cảm dục và cơi
trí. Đó là năng lượng quá đáng đang thiêu
đốt, và, trong lúc thiêu đốt, nó làm giảm nhẹ
và chữa trị (hoặc là do sự khuất phục
của mầm bệnh hoặc là nhóm các năng
lượng đă tạo ra nó, hay là bằng sức
mạnh giải phóng của cái chết). Khi có thể và khi
thể xác đủ mạnh để chịu đựng
sự căng thẳng, thật ra cũng tốt khi
để cho cơn sốt kéo dài trong một thời gian,
v́ đó là sự chữa trị của thiên nhiên
đối với một vài t́nh trạng bất
đắc dĩ. Các cơn sốt không những chỉ báo
động cho sự hiện diện của những ǵ gây
nên tai họa, mà c̣n có giá trị trị liệu rơ rệt
trong chính chúng nữa. Nhưng cần phải xem xét và cân
nhắc cẩn thận – sự cân nhắc dựa vào các
năng lượng của xác thân. Trong khi cơn sốt lan
tràn, cơ thể được làm cho tương
đối vô hiệu và các hoạt động b́nh
thường của nó đều bị ảnh
hưởng. Về việc chữa trị và trị
liệu đúng các cơn sốt, giới y học chính
thống đă biết được nhiều
điều, và sự hiểu biết này sẽ đầy
đủ cho tới khi các nguyên nhân của sốt
được hiểu rơ hơn và các y sĩ sẽ có thể
hành động với nhân chứ không phải với
quả.
T́nh trạng quá dễ xúc cảm là một tương ứng tinh anh của cơn sốt thể xác và chỉ cho thấy một mầm mống của dục vọng đang lan ra cần phải được xét đến trước khi cơn sốt có thể dịu đi. Một thể trí quá hoạt động vốn kém điều ḥa, rất bận rộn nhưng không có hiệu quả để hoàn thành là sự tương ứng về trí tuệ.
Chữa trị ung thư (Cancer).
Trong tất cả các bệnh có bản chất ác tính, có một cốt lơi sinh động hay một điểm năng lượng sống động đang thu hút, một cách chậm chạp hoặc mau lẹ, tùy theo trường hợp, sinh lực trong con người. Trong các giai đoạn đầu của các bệnh như ung thư, cái lơi sinh động không được nhận ra cho đến khi t́nh trạng ác tính xảy ra mạnh đến nỗi rất khó để làm điều ǵ trợ giúp. Tuy thế, việc chữa trị chỉ có thể được trong t́nh trạng phát triển sớm này, và lúc bấy giờ, việc chữa trị có thể tiến hành, nhưng lại chỉ khi nào ư chí của bệnh nhân được kêu gọi đến. Trong các trường hợp ung thư, chỉ có thể làm được một ít trừ phi có sự hợp tác sáng suốt của bệnh nhân, v́ phương pháp duy nhất (mà tôi có thể nói chi tiết sau này) là phối hợp ư chí được hướng dẫn của bệnh nhân và của nhóm chữa trị chung với nhau thành một đơn vị sức mạnh đang tác động. Khi làm được điều này, bấy giờ năng lượng được gọi đến và được tập trung sẽ đi theo tư tưởng, theo định luật cổ xưa, và kích thích vùng quanh chỗ ung thư (nghĩa là mô lành mạnh) đến nỗi việc thu hút mô yếu ớt bị bệnh bằng mô mạnh hơn có thể xảy ra. Nếu năng lượng được điều khiển đến chính chỗ ung thư, t́nh trạng ung thư sẽ được kích thích và nỗi khó khăn tăng thêm nhiều hơn. Do đó, việc chữa trị ung thư trong các giai đoạn sơ khởi gồm hai phần:
315
1. Kích
thích mô lành mạnh
2. Tạo mô mới để thay thế cho mô bị bệnh, mô này dần dần bị thu hút và đẩy ra.
Ung thư luôn luôn xuất hiện trước khi có sự chuyển hóa sức mạnh t́nh cảm, lư do là có một vài đệ tử (và do đó vẫn c̣n ít hơn đa số con người thông thường) có t́nh cảm rất là biến đổi. T́nh trạng không bị ảnh hưởng bởi xúc cảm th́ ít khi thấy – ở giai đoạn hiện nay của lịch sử thế giới – đến nỗi người ta có thể nói rằng nó không tồn tại.
Không một người hội nhập và hoạt động một cách tích cực nào lại có khuynh hướng mắc bệnh ung thư, hay bất cứ bệnh nào thuộc loại cảm xúc. Y có khuynh hướng mắc bệnh tim nhiều hơn. Một cuộc sống hoạt động đầy đủ sẽ ngăn cản bệnh tật như ung thư, nhưng không phải luôn luôn như vậy. Khi các mănh lực của sự sống di chuyển chậm hơn, khi trở nên luống tuổi, th́ ung thư thường xuất hiện, chứng tỏ luận cứ đầu tiên của tôi là đúng. Vào các thời kỳ như thế, lúc mà ung thư là tác nhân hủy hoại và gây chết chóc lớn vào hàng thứ hai (và nếu tôi hữu lư khi cho rằng ung thư là một bệnh của hành tinh), lúc bấy giờ, hầu hết người nào cũng đều có thể mắc bệnh đó. Sợ sệt là một yếu tố có ảnh hưởng to tát. Thiếu năng động và đa cảm cũng giống như vậy.
Mất trí sớm (dementia praecox).
Mất trí sớm (dementia praecox) là ǵ? Có phải hiện tượng đó là do truyền thống tập thể của gia đ́nh không? Có manh mối nào trong sự kiện là trước tiên nó tự biểu lộ sớm trong thời thơ ấu chăng? Bác sĩ đa khoa có lư không khi xếp bệnh đó vào trường hợp vô hy vọng? Các môn sinh và các nhà chữa trị thường nêu ra các câu hỏi trên và các câu hỏi tương tự như thế.
316
Các h́nh
thức bệnh xác thân này xuất hiện dưới tên
chung là điên loạn, vốn rắc rối hơn là
người ta thường hiểu. Theo quan điểm
của nhà huyền bí học, chúng thuộc vào các loại
tương đối đơn giản sau đây:
1. Có những loại mà nỗi khó khăn là do sự sứt mẻ của mô năo. Các bệnh này rơ ràng là xuất phát từ bệnh giang mai nhiều hơn người ta thường thừa nhận, và tôi xin nhắc các bạn rằng, nói về mặt huyền bí, đó là trường hợp tự nhiên, v́ các cơ quan sinh dục vật chất là tương ứng thấp hơn của mối liên hệ âm dương có trong bộ óc giữa hai bí huyệt đầu với tuyến yên và tuyến tùng quả.
2. Có những loại mà nỗi khó khăn là do việc quá bị kích thích của các tế bào năo bằng một số h́nh thức năng lượng vượt quá sự cân bằng với các h́nh thức khác và tạo ra một số h́nh thức điên loạn trầm trọng.
3. Có những loại không có khó khăn thể chất thực sự nào, không có các thương tổn hay các mô bị bệnh nào, mà chỉ có một liên hệ lỏng lẻo giữa thể dĩ thái với nhục thân. Lúc bấy giờ, sự ám ảnh hay chiếm hữu có thể xảy ra. Các trường hợp như thế rất thường (tôi có thể nói là thường thường) được nhà tâm thần học chính thống và vị y sĩ xem như là các h́nh thức điên loạn; tuy nhiên, chúng không phải thực sự như vậy. Nếu người bị đau có thể được đặt trở lại "có quyền sở hữu của chính ḿnh" theo sự hiểu biết của một vài nhà tâm thần học, và điều này hoàn toàn có thể xảy ra, bấy giờ, bệnh sẽ chấm dứt. Có một khuynh hướng rơ rệt trong số các nhà tâm thần học có vẻ tiến bộ nhất ngày nay, để đưa các trường hợp này vào giả thuyết mà tôi đă đặt ra, và đó là một sự cải thiện rơ rệt.
317
4. Có
những loại mà trong đó một vài h́nh thức di
truyền của sự mất thăng bằng tâm trí
xảy ra. Các h́nh thức mất quân b́nh này là do các biến
cố trong các kiếp sống khác và có bản chất
của sự trừng phạt hay là karma báo phục. Để
tạo ra điều này, linh hồn cân nhắc chọn
một thể xác, h́nh hài đó sẽ có trong đó một
số sắc thái do di truyền, mà các Nghiệp Quả Tinh
Quân đưa vào đó khi linh hồn không thể chế
ngự được hiện thể của ḿnh – như
là trường hợp của kẻ chưa tiến hóa; hay
là với chủ tâm và định ư, khi thể xác có thể
được đặt dưới sự điều
khiển của linh hồn, v́ đă tiến hóa cao. Tôi không
liệt kê ra đây các h́nh thức điên cuồng hoặc
mất quân b́nh khác này theo các tên khác nhau, v́ chủ đề
đó quá phức tạp và thường có một vài
yếu tố do bẩm chất, và thường là chỉ
có các chỉ dẫn về đau yếu mà không bao giờ
xảy ra điều ǵ trầm trọng. Tôi chỉ nêu ra
các thứ loại và dành cho nhà nghiên cứu nhiệm vụ
cuối cùng là liệt kê các triệu chứng và quy đúng
nguyên nhân, sau nhiều công tŕnh thực nghiệm. Thời
kỳ đó chỉ vừa mới đến.
5. Có những người mà thể trí bất động và tĩnh tại quá mức, và kiềm chế bộ óc vô lư đến nỗi dường như chỉ có một quan điểm duy nhất, một thái độ duy nhất đối với cuộc sống, chứ không có sự co dăn và khả năng hiệu chỉnh. Những kẻ như thế có thể chịu đau khổ chẳng hạn do cái được gọi là định kiến, hoặc họ có thể hoàn toàn là nạn nhân của một tư tưởng ám ảnh nào đó của thể trí. Các ám ảnh trí tuệ như thế có thể thuộc về mọi mặt, từ một cuồng tín nhẹ đến chứng cuồng giáo (religious mania), với các tính chất ác dâm đi kèm, tính tàn bạo và t́nh trạng ốm yếu chung.
Chứng điên sớm xảy ra ở các nhóm 1 và 4 và thường là sự pha trộn các yếu tố được mô tả của cả hai loại. Nó được kế thừa trong mỗi trường hợp, và, nếu không hiện ra về mặt thể chất như thế, th́ bấy giờ, nó được dựa trên các t́nh trạng cảm dục bị kế thừa, mà đến phiên chúng, lại giúp vào việc quyết định t́nh trạng thể chất. Nó có cội nguồn ở bệnh giang mai (thường mang sang từ một kiếp sống khác), và trong kiếp sống đặc biệt này, hoàn toàn không thể chữa trị được.
318
Căn
bản tính dục của nó được chứng tỏ
bằng sự kiện là nó tự biểu lộ sớm vào
lúc thơ ấu. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể
được trợ giúp phần lớn trong các giai
đoạn đầu, nếu các triệu chứng được
nhận đúng, và đời sống tư tưởng
của y được hướng dẫn và hiệu
quả mạnh mẽ của các quan tâm mới
được dùng đến. Một động cơ
thúc đẩy về tinh thần và các quan tâm giống
như thế đôi khi có thể làm chậm sự phát
triển cơn bệnh; khi xảy ra trường hợp
này và vấn đề được xử lư từ
đầu kiếp sống về trước, th́ những
cực điểm tệ hại nhất có thể bị
xóa bỏ. Đối với mức độ mà bệnh
nhân cố gắng một cách sáng suốt để tự
giúp ḿnh, và cũng được bảo vệ bằng
sự săn sóc sáng suốt của y sĩ, y có thể hóa
giải một phần lớn cơn bệnh, và
đặc biệt chừng nào mà việc lặp lại
của nó trong một kiếp sống trước có liên
hệ đến.
Về bản chất, nhiều điều trong số các vấn đề này có ràng buộc với quá khứ và cho tới khi các định luật chi phối việc tái sinh được đưa ra cho thế gian, ngay cả tôi cũng khó mà giải thích các tiến tŕnh đang chi phối sự kế thừa về mặt vật chất, các hậu quả về mặt nghiệp quả và những ǵ được gọi là karma bù trừ. Việc nhận thức về các h́nh thức bệnh tật tinh anh hơn và sự trợ giúp của nhà tâm lư học trong việc hợp tác với y học chính thống (mà chắc chắn là có được vị thế riêng của nó, chẳng hạn như trong việc điều hành các hiệu chỉnh của các tuyến), cộng thêm với việc giữ vệ sinh đúng mức từ ấu thơ trở đi, sẽ thành đạt được nhiều điều và từ từ dập tắt các bệnh về trí năo, mà ngày nay có rất nhiều và đang gây nhiều thống khổ.
Chết để tránh đau (euthanasia)
Một số nhà nghiên cứu bận tâm về cố gắng sắp xếp để hợp pháp hóa việc chết để tránh đau, và băn khoăn về việc đặt sức mạnh của sự sống và cái chết trong tay của thầy thuốc. Đồng thời, họ biết rằng việc đó cũng liên quan với yếu tố nhân đạo, trong trường hợp không ngưng được sự đau đớn kéo dài. Về việc này, tôi xin nói:
Việc nghiên cứu cách thực hành được đưa ra về t́nh trạng chết tránh đau sẽ không thành vấn đề nữa khi đạt được sự liên tục của tâm thức (nó phủ nhận sự chết). Điều đó có nghĩa là do sự phát triển của nhân loại, sẽ đến lúc linh hồn biết rằng kỳ hạn của kiếp sống hồng trần đă hết, và sẽ tự chuẩn bị để triệt thoái ra khỏi h́nh hài với đầy đủ ư thức. Linh hồn sẽ biết rằng việc phụng sự của h́nh hài không c̣n cần thiết nữa và h́nh hài phải bị vứt bỏ. Linh hồn sẽ biết rằng ư thức hiểu biết của nó đang được tập trung trong bản chất trí tuệ, vẫn đủ mạnh và đủ sinh lực để đưa nó vượt qua tiến tŕnh và giai đoạn triệt thoái. Khi ư thức đó đă phát triển trong con người và tiến tŕnh xảy ra được nhận biết bởi giới y khoa và những kẻ nghiên cứu khoa học về cơ cấu con người, bấy giờ, toàn bộ thái độ đối với sự chết, và các diễn tiến của nó có liên quan đến sự đau đớn, sẽ được thay đổi về mặt vật chất. Lúc bấy giờ, người nào đến thời kỳ chết, đều có thể có sẵn cho chính ḿnh một vài phương pháp thoát ra mà theo quan điểm của người b́nh thường, có thể được xem như có liên quan tới việc chết tránh đau. Các cách triệt thoái sẽ được nghiên cứu và áp dụng khi cái chết gần kề và tiến tŕnh sẽ được xem như sự rút ra của linh hồn giống như một tiến tŕnh giải phóng và giải thoát. Thời kỳ đó không c̣n xa như bạn nghĩ đâu.
319
Ngày
nay, các nguy hiểm trầm trọng đang chờ
đợi tiến tŕnh thúc đẩy sự triệt thoái
và sự bảo vệ hợp pháp, sẽ cần sự tính
toán thật cẩn thận, và thậm chí lúc bấy giờ
các vấn đề nghiêm trọng có thể xảy ra.
Nhưng một hối thúc nào đó đối với các
tiến tŕnh chết hợp lệ phải được
thực hiện. Tuy nhiên, trước hết, vào lúc này, ư-chí-muốn-chết
của bệnh nhân không được dựa trên sự
hiểu biết và sự an trụ vào thể trí, hay là
dựa trên sự liên tục tâm thức đă có, mà dựa
trên các phản ứng t́nh cảm và sự do dự v́
đau đớn và v́ sợ hăi.
Tuy nhiên, khi nào có cơn đau khủng khiếp và tuyệt nhiên không có hy vọng về sự trợ giúp thực sự hay là về sự phục hồi, và khi mà bệnh nhân sẵn sàng (hay là nếu quá đau yếu, gia đ́nh sẵn sàng) lúc bấy giờ, dưới sự bảo vệ thích đáng, một điều ǵ đó cần nên làm. Nhưng việc sắp xếp thời gian để ra đi này sẽ không được dựa vào cảm xúc và dựa vào sự thương xót, mà là dựa vào các khoa học tinh thần và dựa vào sự hiểu biết đúng đắn về các khả năng tinh thần của sự chết.
320
Về các mầm bệnh
(On germs)
Quả là các lời thiếu thỏa đáng biết bao để đáp ứng với nhu cầu chân lư. Chúng tôi dùng từ ngữ "mầm bệnh" để chỉ cội nguồn của một bệnh nào đó hoặc là cội nguồn của một số h́nh thức. Chúng tôi nói đến một mầm hay hạt giống của sự sống; chúng tôi đề cập tới mầm của một ư tưởng; chúng tôi nêu ra rằng mức năng lượng không thể nhận ra đó sẽ tạo ra kết quả sau này dưới một loại h́nh thức biểu lộ nào đó. Có thể là một h́nh tư tưởng, một con người hoặc một bệnh, tuy nhiên, cùng một từ ngữ cũng chỉ đủ cả ba. Tôi đă thường bảo các bạn rằng tất cả đều là năng lượng và không có ǵ khác nữa. Một mầm bệnh là một điểm năng lượng có bên trong nó một số tiềm năng sống động, tạo nên một vài hiệu quả trên trường năng lượng xung quanh và tạo ra một số h́nh thức biểu lộ có thể nhận biết được trên cơi trần. Nhưng cuối cùng, tất cả những ǵ được đề cập đến là một h́nh thức năng lượng linh hoạt nào đó hợp thành một phần của năng lượng có sẵn trên, trong và chung quanh địa cầu.
Liên quan với bệnh tật, một mầm bệnh vẫn c̣n là một điểm năng lượng, nhưng nó có thể được xem như năng lượng không vận hành một cách chính xác liên quan với h́nh thức đặc biệt, h́nh thức này trở nên dễ bị tác động với hoạt động của nó hoặc biết được sự hiện hữu của nó.
Mầm bệnh là hậu quả đầu tiên của một cội nguồn ban sơ. Một số ít tạo thành một phần của tà lực hành tinh, hàm ư là chúng có cội nguồn thâm căn cố đế và thuộc trí tuệ, và là cội nguồn có tầm mức quan trọng đến nỗi trí óc hữu hạn của con người chưa thể hiểu được chúng. Thí dụ, các nguyên nhân như thế có thể có các hậu quả y như là sự sùng tín mănh liệt, nhiệt thành sôi nổi đối với một ư tưởng hoặc một người, hoặc là chúng có thể thể hiện ra như một cơn sốt, vừa dữ dội vừa nóng bỏng trong thể xác, và đối với cơn sốt này, tùy theo các triệu chứng của nó, một danh xưng chuyên môn sẽ được giới y học đưa ra. Nguyên nhân xuất phát th́ như nhau, c̣n các tác động trong phàm ngă sẽ khác nhau tùy theo sự tập trung chú tâm, hoặc là nơi nào có đặt tầm quan trọng của sự sống. Hăy suy tư về điều này v́ tôi đă đưa ra một ẩn ngôn ở đây về tầm quan trọng thực sự.
321
Khi
tôi dùng các từ "tập trung sự chú tâm", tôi không
nói đến bất kỳ thái độ tinh thần nào
hoặc đến một thể trí biết chú tâm, mà là nói
đến sự tác động của sinh lực theo
bất cứ hướng đă định nào, bất
cứ vị trí nào và bất cứ khía cạnh nào của
xác thân con người, nơi mà sinh năng (life energy)
được hướng đến. Các mầm bệnh
là các cơ thể sống (living organisms) lớn hoặc
nhỏ. Chúng t́m cách đi vào bộ máy con người qua môi
trường sinh lực mà, đến lượt nó, dùng
tim và ḍng máu như là tác nhân phân phối của nó. Cũng
giống như vậy, năng lượng của ư thức
dùng hệ thần kinh và bộ óc như là môi giới phân
phối của nó. Nơi nào có sự yếu ớt bẩm
sinh hoặc do kế thừa, nơi đó sinh lực không
được tập trung một cách thích hợp, và
sẽ có một h́nh thức tắc nghẽn nào đó,
hoặc một h́nh thức phát triển bị đ́nh
trệ nào đó, hoặc một h́nh thức dễ mắc
bệnh nào đó. Khi trường hợp này xảy ra, mầm
bệnh có thể t́m được một vị trí màu
mỡ, nơi đó mới lộ ra hoạt động ác
tính của chúng. Khi sinh khí trở nên dồi dào, c̣n sinh
lực lưu chuyển thông thoáng và không bị ngăn
trở, lúc bấy giờ, sẽ không có các bẩm chất
này, mầm bệnh không thể t́m được trú sở
và sẽ không xảy ra nguy cơ cảm nhiễm.
Thí dụ bệnh sốt ban đỏ (scarlet fever) vốn hay lây, nhưng không phải tất cả những người tiếp xúc với bệnh này đều bị mắc bệnh. Khả năng để thoát khỏi sự cảm nhiễm và miễn nhiễm đối với các bệnh truyền nhiễm phần lớn là vấn đề sinh lực (có lẽ sinh lực trong các vùng đặc biệt của cơ thể nơi tập trung chú tâm và trọng điểm của sinh lực). Điều đó cũng có thể được dựa trên sự hoạt động của các huyết cầu, vốn dùng để giữ cho ḍng máu ở t́nh trạng tốt.
322
Trọng
tâm và trọng điểm này cũng giống nhau xét về
con vật, v́ đó không phải là tiêu điểm của
thể trí, mà là của năng lượng sự sống
bên trong xác thân. Khi hiện hữu và có tính tích cực, nó
sẽ che chở. Khi tiêu cực và yếu ớt, nó
để cho thể xác (con người và con thú) chịu
các nguy hại v́ cảm nhiễm.
Tôi không thể giải thích điều này một cách đầy đủ hơn, v́ vấn đề cội nguồn và phương pháp vẫn c̣n là một vấn đề không giải quyết được chừng nào mà con người vẫn c̣n được trang bị với cách tiếp cận bằng trí hiện tại và phản ứng bằng t́nh cảm đối với sự đau đớn, bệnh tật và chừng nào mà y c̣n đặt trọng tâm quá cao vào sự sống của h́nh hài. Khi ư thức rơ rệt hơn về sự cân xứng đă phát triển, và con người bắt đầu cảm nghĩ bằng các thuật ngữ về linh hồn, mục tiêu và vận mệnh, th́ lúc bấy giờ, như chúng ta biết, bệnh tật sẽ thuộc vào hai loại chính:
1. Các bệnh tạo ra sự thanh lọc và cần có một thời kỳ phục hồi và ngơi nghỉ cho cơ thể, chuẩn bị cho sự sống tiếp tục trên cơi trần.
2. Các bệnh tạo ra sự triệt thoái hay sự trừu xuất của linh hồn dưới hai trạng thái – sống động và hữu thức.
Về sự tiêm chủng (On inoculations)
"Theo quan điểm huyền linh hoặc huyền bí học, vị trí hay giá trị của sự tiêm chủng là ǵ?" Câu hỏi này thường ở trong trí của nhà chữa trị khi họ đặt thêm câu hỏi vốn là căn bản thực sự của mọi quan tâm của họ: "Việc tiêm chủng có ảnh hưởng đến các thể tinh anh hay không? Bằng cách nào?"
323
Không
hề có chuẩn mực hoặc giá trị huyền bí nào
trong việc tiêm chủng hơn là chuẩn mực hoặc
giá trị huyền bí trong việc chích dưới da. Toàn
bộ vấn đề liên quan đến huyết thanh và
tiêm chủng đă được cường điệu
quá lố bởi những kẻ gọi là nhà nghiên cứu
huyền học. Hiện tại, cơ thể con
người là nơi chứa một số lượng
lớn chất liệu, xuất hiện đột
ngột từ bên ngoài, đi vào bên trong cơ thể
đến nỗi toàn bộ vấn đề mang một ư
nghĩa rộng lớn hơn, tuy thế, kém quan trọng
hơn là người ta nghĩ. Đó là điều
nghịch lư mà tôi tŕnh bày với các bạn. Thức ăn
sai lầm đủ loại, việc hít thở khói
suốt nhiều thế kỷ, thở không khí nhiễm
trược, uống mọi thứ thuốc hoàn, thuốc
viên, thuộc mọi loại có được, lục
lọi giới thực vật và khoáng vật để t́m
ra thành phần của chúng, và chích vào các khoáng chất,
thuốc và huyết thanh, đôi khi người ta vẫn
c̣n ngạc nhiên trước các năng lực đồng
hóa đáng kể của cơ thể người.
Tuy nhiên, với tất cả thẳng thắn, tôi xin nhắc các bạn rằng, xét về mặt sức khỏe xác thân của con người, các phương pháp và kỹ thuật này của Tây phương đă có kết quả trong việc tạo ra một chủng tộc mạnh khỏe hơn ở Đông phương trong việc kéo dài sự sống con người rất rơ rệt và trong việc loại trừ nhiều tai họa tệ hại của thể xác vốn thường gây hại cho con người. Về điểm này, tôi, một người Đông phương phải thừa nhận. Như vậy, tôi đă nói ra t́nh trạng này để mở rộng quan điểm của bạn từ đặc thù đến tổng thể.
Về liên quan giữa bệnh tật với tiêm chủng, tôi xin nhắc bạn rằng có ba nhóm bệnh không riêng biệt cho con người mà là bẩm sinh trong chính hành tinh. Các bệnh này được thấy trong các h́nh thức rộng lớn khác nhau, thuộc mọi giới trong thiên nhiên. Ba họ hay nhóm bệnh này là:
1.Nhóm lớn về bệnh ung thư
2.Nhóm bệnh giang mai
3.Nhóm bệnh lao.
324
Hầu
hết các bài bác của các bác sĩ đối với các
khuynh hướng huyền bí đều dựa một cách
vô tâm vào cảm nhận rằng nên có các phương pháp cao
hơn để kiểm soát bệnh tật trong con
người hơn là chích vào người chất liệu
lấy ra từ cơ thể của con vật. Đó là
điều chắc chắn nhất và chính xác rơ rệt
nhất, và một ngày nào đó điều ấy sẽ
được chứng minh. Một phản ứng khác về
phần con người là phản ứng về cảm giác
ghê tởm, lại không được nhận biết
một cách rộng răi. Việc cung cấp thuốc
chủng và các chất khác làm cho con vật đau
đớn, cần phải được bài bác quyết
liệt. Hiệu quả trên các nội thể (inner bodies)
gần như là không và ít hơn chính các bệnh tật
nhiều. Trong tương lai, ở đây có tồn tại
một vấn đề rất lư thú. T́nh trạng bệnh
tật trong cơ thể con người có vượt qua
và ảnh hưởng đến các nội thể về
mặt cấu trúc xa đến đâu? Đó là một câu
hỏi mà tôi không định giải đáp. Việc
kiểm soát bệnh tật hiện nay đang
được y học hiện đại vận dụng
trước tiên theo ba cách: nhờ khoa vệ sinh, nhờ y
khoa pḥng ngừa và nhờ sự tiêm chủng. Đây là các
tương ứng thấp với các phương pháp
hoạt động xuất phát từ cơi cảm dục,
từ các phân cảnh dĩ thái và từ chính địa
cầu.
Khoa vệ sinh, việc dùng nước và sự hiểu biết về thủy liệu pháp (hydrotherapy) ngày càng tăng, là sự đột hiện (precipita -tion) trên địa cầu của một số hoạt động bên trong, ở cơi cảm dục với một bản chất rơ rệt. Theo quan điểm của người t́m đạo, các phương pháp này được gọi là sự thanh lọc.
Khoa pḥng ngừa (cả bệnh tật lẫn sự chết) là sự đột hiện ở cơi trần của một vài cách trên cơi dĩ thái nơi mà các sức mạnh được sử dụng một cách chính xác và một số tác lực (agency) tàn phá được kiềm chế và ngăn chận khỏi đi đến chỗ hủy diệt.
Khoa tiêm chủng có nguồn gốc hoàn toàn vật chất và chỉ liên quan đến cơ thể động vật. Môn này sẽ được thay thế một cách mau chóng bằng một kỹ thuật cao hơn, nhưng chưa đến lúc.
325
Về các tuyến (On glands)
"Có thể nào nhờ một vài kiểu tham thiền để kích hoạt hoặc thùy sau hoặc thùy trước của tuyến yên khi đó có gây tác động bất lợi nào hay không? Liệu sự tham thiền được phác thảo để hội nhập phàm ngă có tự động điều chỉnh bệnh tật và mang lại hoạt động thích hợp cho tuyến yên hay không? Liệu cách này cũng sẽ hiệu chỉnh và làm thăng bằng hoạt động của các tuyến quan trọng khác hay không?"
Ở đây, bạn có một vài câu hỏi nhưng toàn bộ vấn đề th́ quá rộng lớn để vận dụng thích hợp trong thời gian và các giới hạn hiện có.
Tuy nhiên, tôi muốn nói một cách vắn tắt rằng việc kích thích một trong hai thùy của tuyến yên, cũng như việc kích thích bất cứ tuyến nào bằng tham thiền mà tân đệ tử cố làm, đều là một việc rất nguy hiểm. Việc đó có thể làm được, nhưng không phải là cách làm thích hợp, trừ phi ở dưới sự xem xét thành thạo của vài kẻ hiểu biết nhiều hơn bạn và của kẻ có thể thấy được nhiều hơn bạn. Các tuyến là kết quả của sự hoạt động hay không hoạt động của các bí huyệt hay luân xa (chakras) trong cơ thể và đi song song với sự phát triển của các luân xa. Sự phát triển này tùy thuộc vào cung và tŕnh độ tiến hóa. Vấn đề này quá rộng lớn và khó hiểu, nên tôi đề nghị tất cả các bạn nhớ rằng việc hằng trụ (constant dwelling) vào yếu tố vật chất phải thuộc về vận cụ của phàm ngă, chớ không phải là cách của đệ tử. Như bạn hiểu, phải nhắm vào sự hội nhập của phàm ngă và nhắm vào mục tiêu trở thành một vận hà thuần túy cho linh hồn. Hội nhập như thế là thành quả đạt được một cách b́nh thường của:
1.Kiến tạo tính chất.
2.Tiếp xúc với linh hồn qua tham thiền.
3.
326
Biểu
lộ của sự sống qua việc phụng sự.
Thực hành ba điều này, qua nhiều năm dài, tất nhiên sẽ tạo ra các kết quả mong muốn, khi xét về thiết bị của tuyến và bao giờ mà toàn thể cơ cấu có thể chịu đựng được sức ép của các đ̣i hỏi của linh hồn, như chúng phải được đáp ứng trong mỗi kiếp sống riêng biệt.
Về thể sinh lực (On vital body)
"Các yếu tố chính nào có thể được tuân thủ để tạo được một thể sinh lực thật tráng kiện? Người có một thể sinh lực hơi yếu, có thể nào làm cho nó mạnh lên hay không? Có phải cái thường được gọi là thể sinh lực yếu đuối không thể đồng thời là một thể sinh lực tráng kiện, sự yếu đuối biểu lộ trong việc không có sức bền và chậm phục hồi sau cơn mệt nhọc hay không?"
Câu hỏi này thật rơ ràng và có thể được trả lời một cách ngắn gọn. Thực ra, hay nói một cách khác, cần phải bàn bạc nhiều về vấn đề thể sinh lực, và đó là vấn đề quá rộng lớn, không thể bàn ở đây, và các ẩn ư cũng quá nhiều. Tôi đă trao cho các bạn nhiều điều trong các sách khác nhau do tôi viết ra.
Khi bạn nói thể sinh lực yếu ớt, tôi coi như là bạn ám chỉ một thể được kết hợp thiếu chặt chẽ với thể xác và nối nhau lỏng lẻo, do đó, chống đỡ yếu cho h́nh hài bên ngoài, v́ chính sự phối kết chặt chẽ của thể dĩ thái với xác thân là nguyên nhân của tất cả sức bền (sức chịu đựng/staying power) của nó. Bạn có lư khi tin rằng người ta có thể hoàn toàn khỏe mạnh nhưng lại có ít chống được với mệt mỏi.
Các yếu tố chính để lập lại hay kiềm chế thể dĩ thái hữu hiệu hơn là:
1.Ánh nắng mặt trời.
2.Chế độ ăn uống thận trọng, chú trọng vào chất đạm và sinh tố.
3.Tránh mệt mỏi và lo lắng.
327
Ngược
lại với mọi điều trên, vào lúc này, khí hậu,
t́nh trạng thế giới, hoàn cảnh và nền văn
minh chúng ta cản trở và do đó, cá nhân phải cam
chịu một t́nh trạng các sự việc đang
nằm ngoài sự kiềm chế riêng của ḿnh.
Một cuộc sống b́nh thường, lành mạnh, có điều độ, là cách tốt nhất để tạo ra mức độ sinh lực hoàn hảo hơn. Tôi cho đây là điều mà bạn muốn nói. Tuy thế bạn cần nhớ rằng khi nào mà thể dĩ thái bị thiếu sinh lực và t́nh trạng như là tái lập việc kiểm soát sinh lực có vẻ khó làm hay không thể làm được, th́ lúc đó người ta mới hiểu rơ các giới hạn của nghiệp quả và sẵn sàng để phục tùng chúng và để mặc cho các sự việc tự chúng diễn tiến. Kiếp sống đặc biệt này không phải là kiếp sống duy nhất. Do đó, thường thường trong bất cứ lần luân hồi đặc biệt nào, các t́nh trạng cũng không thể thay đổi được và được kéo dài bằng sự chống lại và đối kháng bên trong. Đệ tử phải học bài học nối tiếp, như sự biểu hiện đang có, bất chấp và không v́ hoàn cảnh nào cả.
Về prana (Sinh khí)
Bạn có thể khám phá nhiều điều về bản chất của prana nếu bạn dùng các sách mà bạn đang có và sẽ có. Trong quyển "Luận về Lửa Càn Khôn" của tôi và trong quyển "Ánh Sáng Linh Hồn" của A. A. B. toàn bộ vấn đề đă được xét đến.[3]
Chỉ cần nói rằng:
1. Không có ǵ đang biểu lộ trừ năng lượng, đang chiếm giữ h́nh hài, đang vận dụng và kích hoạt h́nh hài rồi làm tan ră h́nh hài.
328
2.
Năng lượng này được chia ra thành 3 loại
thường được gọi là hiện tượng
điện, trong Giáo Lư Bí Nhiệm, và trong Luận Về
Lửa Càn Khôn, được gọi là lửa do ma sát,
lửa thái dương và lửa điện.
3. Prana là tên gọi dùng chỉ năng lượng được rút ra trên cơi trần từ trạng thái dĩ thái của mọi sự sống ở thế giới hiện tượng. Trạng thái dĩ thái đó của năng lượng thiêng liêng là một tổng hợp các năng lượng. Thí dụ, nếu năng lượng mà trong đó lúc nguyên thủy, một cá nhân sống, hoạt động và có điểm hội tụ của bản thể của ḿnh, hầu hết về mặt cảm dục, bấy giờ, cách biểu lộ năng lượng chính trong vận cụ của y sẽ là năng lượng bén nhạy với cơi cảm dục. Trong suốt thời gian đó y sẽ phản ứng lại với năng lượng hồng trần hay prana và với năng lượng cảm dục hoặc là nhiều mănh lực t́nh cảm hữu cảm thức. Các năng lượng này thể hiện nhiều nhất qua lá lách, huyệt đan điền và cổ họng, và tác động theo nhiều cách khác nhau vào lá lách, bao tử và tuyến giáp trạng của xác thân.
4. Khi được một cá nhân biểu lộ, cái lư thú trong hai loại năng lượng này dựa trên sự kiện chúng là hai năng lượng mà chính y thường bị cuốn hút trong đó, và y đáp ứng với năng lượng đó một cách rất dễ dàng và b́nh thường.
329
5. Ḍng
năng lượng được dùng trong việc
chữa trị sẽ là tổng hợp các năng
lượng mà nhà chữa trị vận dụng một
cách b́nh thường với loại năng lượng
đang chiếm ưu thế đó, mà đối với y,
vốn là năng lượng cao nhất của sự
sống y. Nhà chữa trị bậc trung sáng suốt,
thường thường chỉ là một kẻ
truyền chuyển chính prana, vốn là năng lượng
của hành tinh. Năng lượng này phối hợp
với năng lượng dĩ thái hồng trần
của người bệnh, đi qua cơ thể
người chữa trị. Các năng lượng này kích
thích người bệnh một cách đầy đủ
để cho y có thể loại bỏ chứng bệnh
đang gây suy yếu. Một số nhà chữa trị có thể
tác động với loại thần lực đó và
với năng lượng t́nh cảm được
phối hợp và do đó tạo ra hoạt động,
không những trong thể xác người bệnh, mà c̣n trong
thể cảm dục của y nữa. Điều này
đưa tới các khó khăn trầm trọng mà đôi
khi và thường thường gây trở ngại cho
việc chữa trị thể xác đích thực v́ sự
rối loạn cảm dục đă tạo ra. Ở
đây, tôi không thể bàn rộng về vấn đề
này và không có th́ giờ để minh giải nhiều
hơn vào lúc này. Các nhà trị bệnh tâm thần (các nhà
chữa trị tâm thần chân chính thật ra rất
hiếm có) phối hợp năng lượng linh hồn
với hai mănh lực được nói đến ở
trên, và việc này tạo ra sự tổng hợp các
lực của phàm ngă. Khi được đưa vào
một cách sáng suốt, việc tổng hợp này mang
lại việc chữa trị cho con người nhờ
việc tạo ra cấu trúc và chỉnh hợp rơ rệt.
Chữa trị bằng linh hồn thay thế cho ba phương pháp nói trên, và gây nên việc tuôn vào và qua cơ thể của bệnh nhân bằng năng lượng linh hồn thuần túy. Chính Đức Christ đă làm việc theo cách này, nhưng ngày nay có ít người hành động theo lối đó. Tuy nhiên, việc đó phải được xem là một mục tiêu trước mắt các bạn.
Việc chữa trị thể xác bằng prana rất là thông dụng. Thường thường nó có hiệu quả tạm thời, nhưng nó liên quan và chỉ liên quan với quả, chớ không bao giờ dính dáng đến nhân. Do đó, bệnh có thể được làm cho dịu đi, nhưng không bao giờ được chữa lành. Về mặt trí tuệ, năng lực chữa trị đang tăng lên và tương đối tạo ra các hiệu quả lâu dài. Nhưng việc chữa trị về mặt cảm dục th́ hiếm và rất ít khi thành công. Tiềm năng của bản chất cảm dục của nhà chữa trị và cũng là của bệnh nhân và t́nh trạng kém điều ḥa thường xuyên của nó th́ quá lớn nên công việc khó đạt hiệu quả, do sự an trụ của nhân loại vào lúc này và do sự thiếu cân bằng và kiềm chế t́nh cảm đúng đắn.
Về các thể của người Đông phương và Tây phương
Câu hỏi cũng thường nằm trong trí của một số nhà chữa trị, dù là có một dị biệt trong các nguyên nhân của bệnh và các hậu quả như đă được cảm nhận trong các thể của người Đông phương hoặc Tây phương. Về các nhân và quả này, tôi xin nói:
330
Nhân
loại là một và như nhau trên khắp thế gian, các
thể ở Đông và Tây phương đều có khuynh
hướng mắc bệnh như nhau và biểu lộ các
triệu chứng giống nhau; mọi đau đớn do
bệnh lao, do ung thư và các vết nhơ về tính
dục; tất cả mọi người đều
thường chết v́ sưng phổi và cảm cúm.
Nhờ điều kiện vệ sinh và các phương pháp
chữa trị khác được xúc tiến trên một
mức độ rộng lớn, các bệnh cổ xưa
(kế thừa từ thời cổ Atlantis) như là
dịch hạch và bệnh tả, đang từ từ
bị tiêu diệt. Chúng vẫn c̣n xảy ra ở
Phương Đông do sức mạnh các nền văn minh
cổ, thiếu thức ăn, thiếu vệ sinh và dân
số đông đúc. Chúng cũng là các bệnh của khí
hậu và biến mất trong không khí lạnh hơn của
phương Bắc. Một số bệnh là kết
quả của chế độ ăn uống sai lầm,
áp dụng qua vô số thế kỷ.
Một trong các lư do chính đối với sự dị biệt bên ngoài (nếu có bất cứ dị biệt nào) có thể cũng ở trong chỗ số tuổi lớn hơn của các giống dân ở Đông phương. Các bệnh của tuổi già, các bệnh của tuổi trẻ hoặc tuổi trung niên đều có các biến thái của chúng, các dân tộc Châu Á th́ rất già. Ḍng giống cơ thể đang hao ṃn nhanh chóng. Tuy thế, người Nhật không để lộ dấu vết nào của tuổi già đó. Người Ấn Độ th́ già hơn người Âu nhiều, nhưng ḍng giống Trung Hoa và Nhật Bản vẫn c̣n già hơn, tuy họ không để lộ một dấu hiệu nào của tuổi già suy yếu như thế. Lư do của điều này là ở chỗ thể cảm dục rất khác nhau như đă thấy trong giống dân Aryan hoặc Atlantis. Toàn bộ vấn đề khó mà lường được.
Tuy nhiên, tôi có thể trả lời câu hỏi của bạn rất vắn tắt bằng cách nói rằng không có sự dị biệt nào trong các nguyên nhân căn bản của bệnh tật ở Phương Đông và Phương Tây. Các nguyên nhân đó đều chung cho toàn thể gia đ́nh nhân loại.
Về hệ thần kinh
Trong cách hiểu biết đúng về mối liên hệ của thể dĩ thái hay thể sinh lực (với các bí huyệt lớn và nhỏ và mạng lưới nadis của nó) đối với hệ thần kinh của cơ thể người, hai khía cạnh lớn về hoạt động của linh hồn có thể được hiểu rơ.
331
Thứ
nhất, trạng thái đó của sự sống linh
hồn giúp cho linh hồn thúc đẩy và đưa bộ
máy vật chất, tức là xác thân, vào luân hồi và hoạt
động, nhờ hoạt động phấn khích
của cái mà chúng ta gọi là Sự Sống.
Thứ hai, trạng thái đó của sự sống linh hồn vốn giữ cho thể xác được tráng kiện nhờ hoạt động thông suốt của các ḍng prana. Trên đây là một cố gắng diễn tả một chân lư vĩ đại bằng một cách càng đơn giản càng tốt. Ư nghĩa đích thực của phát biểu trên, tiêu biểu cho giai đoạn lớn kế tiếp thuộc lănh vực tâm lư đích thực và lănh vực chữa trị. Toàn bộ vấn đề vô cùng lư thú. Một số trong đó tôi đă bàn đến trong bộ "Luận Về Huyền Linh Thuật" (trang 18 – 50), bạn sẽ thấy bộ đó có giá trị để nghiên cứu vấn đề được phác họa ở đây.
T́nh trạng chung về mối liên hệ này có thể được phác họa vắn tắt như sau:
Con người là sự kết hợp của nhiều loại thần lực khác nhau. Có loại lực hay năng lượng của chính vật chất, mà toàn bộ của nó có thể được xem như là trạng thái năng lượng của các tế bào hay các nguyên tử của cơ thể. Theo hàm ư thường dùng của nó, từ ngữ "tế bào" ("cell") tự nó gợi ư một sự sống bị giam nhốt, c̣n đối với nhà huyền bí học, th́ sự sống và năng lượng là các từ đồng nghĩa. Đây là Ngôi Ba của Thượng Đế, tự biểu lộ trong nhân loại. Cũng có năng lượng kép mà linh hồn biểu hiện hay truyền chuyển; điều này có thể cũng giống như hai ḍng năng lượng, chúng phối hợp và trộn lẫn lại để tạo thành một ḍng duy nhất khi tách khỏi cơ thể, và chia thành hai khi đi vào vật chất và h́nh hài. Chúng mang lại cho vật chất hay là cho các sự sống của khối tế bào, đóng góp về phẩm tính – ư thức và sự sống tinh khiết. Cũng có thể nói rằng:
332
a. Ḍng
năng lượng sự sống (life energy) t́m lối vào
tim, quả tim vật chất, và ở đó (xuyên qua nguyên
tử thường tồn xác thân) nó đem lại năng
lượng cố kết cho toàn bộ xác thân, bằng cách
dùng ḍng máu như là phương tiện chính và là vận hà
tiếp xúc chính của nó, và sự thông thương
giữa nhà máy điện trung ương này của sự
sống và vùng ngoại biên. Như chúng ta đă biết rơ,
máu là sự sống. Hoạt động của sự
sống này là yếu tố, nó gom góp chung lại và nắm
giữ trong h́nh hài mọi nguyên tử sinh động và
mọi tế bào sống của xác thân. Khi sinh mệnh
tuyến đó được linh hồn thu hồi lại
vào lúc chết, các nguyên tử sinh động tách ra, thể
xác rời ra và sự tan ră xảy đến, với sự
sống của nguyên tử quay trở lại nơi
chứa năng lượng, vào ḷng của vật chất
sinh động từ nơi mà chúng xuất phát.
b. Ḍng năng lượng, vốn truyền đạt tính chất thông tuệ của linh hồn, cộng với bác ái - minh triết, và tạo nên những ǵ mà chúng ta hiểu như là tâm thức, với các năng lực giao tiếp của nó, để cảm nhận và để suy luận, mới xâm nhập đến tận bộ óc vật chất. Nơi đó, trạng thái thứ hai này tự tập trung hay tự bám chặt trong vùng tuyến tùng quả. Từ đó, trong bất luận tiềm lực đang tăng gia nào, khi các tiến tŕnh luân hồi và kinh nghiệm được theo đuổi, th́ linh hồn bắt đầu kiềm chế, khích động thành hoạt động có chí hướng và điều dụng thể xác. Hăy nhớ rằng đối với linh hồn, thể xác chỉ là bộ máy đáp ứng trên cơi trần và là một phương tiện biểu lộ.
Cũng có thể nêu ra như một phát biểu cần thiết thứ ba rằng, linh hồn tuôn đổ năng lượng được hướng dẫn một cách hữu thức vào nhục thân qua trung gian thể dĩ thái hay thể sinh lực. Dụng cụ này bao gồm:
1. Bảy huyệt chính và 49 huyệt phụ. Các huyệt lớn nằm trong đầu và trên cột xương sống. Các huyệt nhỏ nằm rải rác khắp cơ thể.
2. Mạng lưới dĩ thái vốn bao gồm các ḍng năng lượng, nối mọi bí huyệt thành 2 hệ thống – một chính và một phụ – và từ các bí huyệt này tỏa ra khắp cơ thể.
333
3. Các
nadis là các tuyến năng lượng vô cùng nhỏ, hay là
các đường lực (force fibres) tỏa ra từ
mọi phần của mạng lưới và ẩn
dưới mọi phần của hệ thần kinh tam
phân. Chúng có đến hàng triệu và tạo ra bộ máy
đáp ứng nhạy cảm mà nhờ đó chúng ta
hoạt động và bộ máy của 5 giác quan là một
trong các ngoại hiện của nó.
Trạm năng lực có kiểm soát này sẽ rất thay đổi tùy theo tŕnh độ tiến hóa đă đạt được:
1. Nhân loại cấp thấp dùng huyệt đan điền theo mức độ mà năng lượng cơ bản tạm thời nằm ở đó. Nơi đó, người ta cũng thấy một hoạt động nhẹ nhàng trong huyệt ấn đường.
2. Nhân loại bậc trung hoạt động một phần qua bí huyệt đan điền, nhưng phần lớn qua huyệt ấn đường và huyệt cổ họng.
3. Nhân loại bậc cao, tức giới trí thức và những người t́m đạo trên thế gian, dùng bí huyệt đầu, cộng với huyệt ấn đường, cổ họng, tim và đan điền.
Sau cùng có thể nói rằng bộ máy xác thân vốn là kết quả trực tiếp của hoạt động bên trong của các bí huyệt, mạng lưới và nadis chính là tim, hệ thống nội tiết và năo bộ. Thêm vào kế hoạch tổng quát này, được vạch ra một cách rất khái quát ở trên, mọi nền y học cổ (đặc biệt là Tây Tạng, Trung Hoa và Ấn Độ), với khoa học Tây phương hiện đại của chúng ta, rất là thích hợp. Tương quan của các kỹ thuật Tây phương và Đông phương vẫn c̣n được tạo ra và nhờ đó sẽ thu được nhiều lợi ích. Tôi không thể bàn rộng việc này thêm nữa, nhưng bao điều nói trên cũng đủ để chứng minh rằng các phương pháp mà bạn có thể khám phá trong sách vở của bạn (nhiều vô kể) có thể tất cả đều có liên quan với kế hoạch chung về các diễn tiến năng lượng trong cơ thể con người.
334
Về chế độ ăn
uống (On diet)
Không một chế độ ăn uống được đặt ra nào có thể hoàn toàn đúng cho một nhóm người thuộc các cung khác nhau, có cá tính và trang cụ khác nhau và ở các lứa tuổi khác nhau. Các cá nhân thuộc mỗi một trong những người nói trên đều không giống nhau ở một số điểm. Với tư cách cá nhân, họ cần t́m ra những ǵ họ cần đến, bằng cách nào mà các nhu cầu cơ thể họ có thể được đáp ứng thích hợp nhất, và loại vật chất nào có thể giúp họ phụng sự hữu hiệu nhất. Mỗi người phải t́m ra điều này cho chính ḿnh. Không có một chế độ ăn uống tập thể nào cả. Không cần bắt buộc loại bỏ thịt hay là bắt buộc ăn chay nghiêm nhặt. Có các giai đoạn của kiếp sống và đôi khi toàn bộ các lần luân hồi, lúc đó người t́m đạo tự đặt ḿnh vào giới luật về ăn uống, cũng như có thể có những giai đoạn khác hay toàn bộ một kiếp sống mà trong đó tạm thời bắt buộc sống độc thân nghiêm nhặt. Nhưng có những chu kỳ sống và các lần đầu thai khác mà sự chú tâm của đệ tử và việc phụng sự của y nằm trong các hướng khác. Có những lần đầu thai sau này lúc mà không có một ư tưởng cố định nào về thể xác, và một người hành động không bận tâm vể sự phức tạp của chế độ ăn kiêng và sống mà không tập trung vào sự sống sắc tướng, ăn loại thức ăn nào sẵn có và nhờ thức ăn đó, y có thể giữ cho sự sống của y có hiệu năng nhiều nhất. Khi chuẩn bị cho một số cuộc điểm đạo, một chế độ ăn chay trong quá khứ đă được xét thấy là cần yếu. Nhưng không phải luôn luôn xảy ra trường hợp này, và nhiều đệ tử vội vă tự xem ḿnh như là đang chuẩn bị cho điểm đạo.
Về lá lách (On the spleen)
Lá lách là tác nhân quan trọng nhất của sinh lực (life force), nhưng chính sinh lực có sẵn trong chính vật chất, không tùy thuộc vào h́nh hài. Do đó, nó có liên quan chặt chẽ với thể vật chất của hành tinh. Đó là ngoại hiện của một bí huyệt rất quan trọng.
335
Có ba bí
huyệt trong cơ thể (với các ngoại hiện
được kết hợp) về căn bản rất
thiết yếu đối với sự sống.
1. Bí huyệt tim và chính quả tim. Ở các nơi này, nguyên khí sự sống (trạng thái Tinh Thần) được an vị. Sự sống và Tinh thần là một.
2. Bí huyệt đầu và năo bộ là nơi mà nguyên khí của ư thức (trạng thái Linh hồn) được định vị (located).
3. Bí huyệt chứa prana (pranic centre) và lá lách, trong đó có sự sống của chính vật chất (trạng thái Vật Chất).
Như H.P.B. có nêu ra, các bạn phải nhớ rằng nhục thân không phải là một nguyên khí. Chính là chất liệu nguyên tử vốn được giữ trong h́nh hài bằng chất dĩ thái, mới ở dưới sự kiểm soát của linh hồn. Nó đáp ứng một cách tự động và phản ứng với ngoại giới bằng các va chạm và các xung lực bên trong, nhưng không có sự sống mở đầu của riêng nó. Nó bao gồm các đơn vị năng lượng, như là tất cả những thể khác trong thiên nhiên và có sự sống cá biệt của riêng nó; tụ điểm của nó đối với sự phân phối năng lượng cho kiếp sống này là lá lách.
Trong lá lách, sự sống tiêu cực (âm) của vật chất và năng lượng sinh động của thể dĩ thái tích cực (dương) được nhập lại với nhau, và bấy giờ, như người ta thường gọi, một "tia sáng" được tạo ra giữa các nội thể sinh động của con người (qua môi trường của thể dĩ thái) với cơi trần. Đó là một phản ảnh trên nấc thấp nhất của thang tiến hóa, đối với con người và đáp ứng với mối liên quan của linh hồn với thể xác, hay là – trên một ṿng xoắn cao hơn – của tinh thần và vật chất.
Về thần kinh phế vị (On Vagus Nerve)
336
Có hai bí
huyệt mạnh mẽ có liên quan đến thần kinh
phế vị: bí huyệt tim và bí huyệt chót xương
sống. Khi ở dưới sự kiềm chế của
linh hồn th́ hai huyệt này hoạt động thông qua bí
huyệt đầu (bramarandra) làm cho hỏa xà đi lên. Khi
xảy ra, bí huyệt này sẽ đưa toàn bộ hệ
thần kinh vào một h́nh thức đặc biệt
của hoạt động và ứng đáp nhịp nhàng, và
chính nhờ sự kích thích và kiềm chế của phế
vị thần kinh mà việc này được hoàn thành.
Không phải thần kinh phế vị là công cụ trong
việc làm cho hỏa xà đi lên, mà là t́nh trạng
ngược lại. Khi bí huyệt đầu, tim và
huyệt chót xương sống có sức thu hút và có
mối tương giao mạnh mẽ, chúng sẽ tạo ra
một tác động phóng phát, lúc bấy giờ, chúng
ảnh hưởng đến thần kinh phế vị và
các luồng hỏa của cơ thể hợp nhất và
đi lên, tạo ra sự thanh lọc và "mở tung
mọi cánh cửa".
Về nhăn quang (On the eye)
Có một trường phái gồm các lư thuyết gia khoa học đang làm việc dựa trên lư thuyết rằng mắt là yếu tố có tính minh giải trong cơ thể người và là qui luật hay ch́a khóa đưa đến sự hiểu biết đúng đắn. Họ đă chứng minh được nhiều điều liên quan đến các khả năng giải thích của mắt có liên quan với bệnh tật. Họ đang đi đúng đường. Tuy thế, môn học mà họ đang nghiên cứu, cho đến nay, hăy c̣n phôi thai đến nỗi các kết luận của họ không được chứng minh đầy đủ, cũng như không được tin cậy hoàn toàn.
Trong một tương lai gần, khi sự sống hành tinh của chúng ta có phần b́nh lặng hơn, toàn bộ vấn đề Linh Thị (Vision) và việc ghi nhận bằng mắt về các nội giới, sẽ nhận được một sức thôi thúc lớn lao, và các t́nh trạng, – cho đến nay, chưa được mơ tưởng đến – sẽ được tiết lộ. Con người sẽ đi vào một cách sống mới và một kỷ nguyên hiểu biết cao hơn. Việc giảng dạy liên quan đến tṛng đen của mắt (iris, mống mắt) là một chỉ dẫn của việc này.
337
Tại
sao không nghiên cứu kỹ về mắt một chút và ghi
nhận các tương quan huyền bí của nó với
thế giới được sáng tạo và với toàn
bộ vấn đề ánh sáng? Mắt và linh hồn
được liên kết chặt chẽ và – nói theo ngôn
ngữ huyền học – mắt bên phải là đại
diện cho linh hồn và do đó là trung gian của thể
bồ đề (buddhi), trong khi đó mắt trái
đại diện cho phàm ngă và là trung gian của hạ trí
cụ thể. Các bạn sẽ nhận thấy
điều đó là lư thú khi đọc thấy trong Giáo Lư
Bí Nhiệm và các sách khác (kể cả sách của tôi) về
đề tài này; người ta bắt buộc phải
kết luận rằng đây là một lănh vực t́m
kiếm mà cho đến nay vẫn chưa được
mở ra và giáo huấn sẽ biện minh cho việc nghiên
cứu cẩn thận v́ lợi ích của tập thể,
nếu không v́ lư do nào khác.
Về các nguyên nhân tâm lư của bệnh tật
Có phải "các nguyên nhân tâm lư của bệnh tật" là ghi nhận trong óc các triệu chứng trước khi phản xạ vào các phần khác của cơ thể không? Một câu trong "Ánh Sáng của Linh hồn" rất có liên quan ở đây:
"Thí dụ, bộ óc là "cái bóng" hay là cơ quan bên ngoài của trí tuệ, và kẻ t́m ṭi sẽ thấy rằng các tích chứa trong xoang năo đều có một tương ứng với các trạng thái của cơ cấu con người trên cơi trí".
Nên nhớ rằng mănh lực của sự sống tác động qua tim, sử dụng ḍng máu, trong khi trạng thái ư thức tác động qua năo bộ, sử dụng hệ thần kinh. Đây là điểm đầu tiên và quan trọng nhất phải hiểu rơ.
Các nguyên nhân tâm lư của bệnh tật ghi nhận trong năo bộ hay là (nếu thuộc một loại rất thấp kém) trong huyệt đan điền. Tuy nhiên, chúng không lộ ra như các triệu chứng của bệnh trong những vị trí mà chúng ghi nhận như thế. Chúng là các năng lượng hay sức mạnh mà – khi tiếp xúc với các năng lượng của cơ thể – sẽ tạo ra như là kết quả (chứ không phải trước điểm này) các t́nh trạng mà chúng ta gán cho tên gọi là bệnh hoạn. Các nguyên nhân tâm lư và các h́nh thức năng lượng, tác động qua các huyệt thích ứng trong cơ thể, và đến phiên chúng, các huyệt này chi phối hệ thống tuyến. Chất tiết hay kích thích tố, được tạo ra dưới sự kích thích huyền bí, t́m cách đi vào máu và kết quả của mọi tương tác này có thể hoặc là có được sức khỏe tráng kiện như nó lộ ra dưới h́nh thức các nguyên nhân tâm lư lành mạnh, hay là sức khỏe kém cỏi, khi nó biểu lộ ngược lại.
338
Đó
là mối liên quan nội tại giữa các năng
lượng tinh anh, đang tác động qua một số
bí huyệt, cộng thêm hệ thống tuyến liên hệ,
với sự liên quan của nó với ḍng máu, tạo thành
khả năng vừa gây bệnh vừa chữa trị.
Nhưng nhận thức này vẫn c̣n thiếu về
mặt lư thuyết. Nhiều điều về tâm lư
học có sẵn được hiểu rơ, nhưng vẫn
có một lỗ hổng giữa thể xác và thể dĩ
thái, và sự hiểu biết ít oi về thể dĩ thái,
tuy thế, vẫn phù hợp về mặt lư thuyết. Tuy
nhiên, không có sự hiểu biết thực sự nào về
mối liên hệ giữa nội tâm và ngoại thể,
xuyên qua thể dĩ thái. Việc nghiên cứu các tuyến
đă trợ giúp được phần nào, nhưng y
học phải tiến một bước xa hơn và liên
kết hệ thống tuyến với các bí huyệt bên
trong.
Về trạng thái ưu sầu (Melancholia)
Các vấn đề về chứng ưu sầu rất khó nhận ra, và do nguyên nhân khác nhau rất nhiều. Tôi sẽ liệt kê chúng ra đây và bảng liệt kê có thể giúp ích cho bạn vào một lúc nào đó.
1. Một cảm giác chán năn, một cuộc sống đầy ước vọng bị ngăn trở, hoặc là một nhận thức về sự thất bại căn bản trong cuộc sống.
2. Một ư thức về kịch tính và một ước muốn trông đợi rất quan trọng vào giai đoạn nhỏ của cuộc sống một người. Điều này có thể thường hoàn toàn không được hiểu rơ, và thật ra có cội nguồn ở trong tiềm thức, hoặc có thể là một thói quen hoặc thái độ được vun trồng một cách cẩn thận.
3. Một t́nh trạng mất sinh lực, phần lớn thuộc bản chất dĩ thái, nó cướp đi sự sống của mọi thú vui và ước muốn, và luôn luôn có một cảm giác về sự phù phiếm. Nhiều phụ nữ trải qua kỳ tắt kinh (menopause) mới có kinh nghiệm này.
339
4.
Một số h́nh thức suy nhược nào đó trong các
tế bào nằm trong một vùng riêng biệt của năo
bộ.
5. Dựa trên việc sợ bệnh điên và sợ cái chết – một nỗi e sợ vô căn cứ không bao giờ thể hiện, nhưng lại tạo thành một định kiến, khiến cho con người trở thành nạn nhân của một h́nh tư tưởng phát triển rơ rệt.
6. Do sự quá nhạy cảm mà trở nên điều hợp với nỗi đau đớn và khổ sở của nhiều người trên thế gian. Các đệ tử có thể tạm thời bị điều này đánh bại.
7. T́nh trạng này rất ít khi xảy ra bằng bất luận h́nh thức ám ảnh nào như là "một thực thể bị ràng buộc vào cơi trần hoặc một người giống như ma cà rồng sống". Rất ít trường hợp như thế đă được biết, nhưng chúng quá hiếm hoi, không thể được xem như là một yếu tố.
8. Đôi khi một người bị lôi cuốn vào trạng thái ưu sầu hàng loạt, như có thể gặp trong các viện điều dưỡng hoặc bệnh viện tâm thần. Thực ra, t́nh trạng đó không liên quan ǵ với y, nhưng v́ nhạy cảm, y tự đồng hóa với những kẻ đang đau khổ v́ chứng ưu sầu nặng.
9. T́nh trạng ưu sầu, dưới h́nh thức triệu chứng của bệnh (không phải bệnh năo) cũng thường xảy ra và sẽ hết đi khi chữa trị thích đáng.
Một người có thể chịu đau khổ do sự phối hợp các nguyên nhân như thế, thí dụ, chúng ta hăy kể đến sự phối hợp các nguyên nhân trong các số 1, 2, 6.
Về chu kỳ trăng tṛn và chứng loạn tinh thần
340
Một
trong các bộ môn của y học huyền môn trong
tương lai sẽ có liên hệ với luật chu kỳ
của mặt trăng và mặt trời. Bấy giờ,
điều đó sẽ được chứng minh như
là sự thật, những ǵ luôn luôn bị nghi ngờ và bây
giờ thường được nhận ra, đó là chu
kỳ trăng tṛn có một hiệu quả rơ rệt trên
người mất thăng bằng, trên t́nh trạng
mộng mị và thường thường các t́nh trạng
hết sức bi thảm, các t́nh trạng loạn thần
kinh và kích dục rất thường xảy ra vào lúc này.
Sự gia tăng dữ dội t́nh trạng điên rồ và mất quân b́nh ngày nay là do ba nguyên nhân chính:
1. Thời kỳ chuyển tiếp hiện nay tạo ra một va chạm giữa các mănh lực cung Bảo B́nh và cung Song Ngư đă đưa tới t́nh trạng làm cho người nhạy cảm chịu rất nhiều khó khăn khi muốn sống một cách b́nh thường. Diễn tả ư tưởng bằng biểu tượng: hầu hết nhân loại, sau khi đă quen sống trên mặt đất, bây giờ phải thích ứng để sống trong nước. Tôi đang nói theo quan điểm sắc tướng.
2. Sự kích hoạt mạnh mẽ tinh thần và trí tuệ mà ngày nay đang được áp dụng đối với quần chúng do Thánh Đoàn của hành tinh. Chủ đích là chấm dứt các cách sống cũ xưa, tạo ra các h́nh thức mới qua tiến tŕnh hiệu chỉnh, và như vậy, đem lại một văn minh mới dựa trên một văn hóa thiên về nội tâm hơn. Các bạn nên suy gẫm câu cuối cùng này.
3. Việc tuôn đổ nhiều ánh sáng hơn từ cơi cảm dục (hiện chưa được nhận biết) và cùng lúc có sự tăng gia rất nhiều sự giác ngộ b́nh thường trên cơi trần. Điều này tạo ra sự quá nhạy cảm. Công việc được thực hiện do việc thường dùng ánh sáng điện và sự sáng chói chung mà nhân loại hiện nay đang sống trong đó, sẽ gây ra mất mát cho nhân loại cho đến khi cơ thể con người tự điều chỉnh được với ánh sáng. Hăy nhớ rằng việc sử dụng ánh sáng chung này chưa đầy 100 năm và là một hiệu quả huyền bí có các kết quả sâu rộng.
341
Tôi
nhắc đến ba điều này bởi v́ chúng chịu
trách nhiệm cho nhiều người có bẩm chất
nhạy cảm thuộc loại bất thường. Các
môn sinh huyền học biết rơ rằng vào lúc trăng
tṛn, một số giao tiếp cao dễ xảy ra hơn vào
các lúc khác, nhưng hỡi huynh đệ, ở đây
vẫn c̣n ẩn nhiều khó khăn.
Vào lúc trăng tṛn (suốt thời gian năm ngày), mặt trăng và hành tinh (trái đất – ND) là hai nơi nhận nhiều ánh sáng phản chiếu từ mặt trời hơn bất cứ lúc nào khác. Về việc này có một nguyên nhân chủ quan. Tôi chỉ có thể giải thích điều đó cho bạn bằng một biểu tượng, biểu tượng này có thể truyền đạt chân lư cho bạn, nếu không, nó có thể hành động như người mù. Nói về mặt tượng trưng, chu kỳ thiền định mănh liệt nhất của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta lại đến vào kỳ trăng tṛn mỗi tháng; giống như bạn thiền định hằng ngày, th́ ở nơi cao thâm, Ngài cũng có điểm tiếp xúc theo chu kỳ của Ngài. Điều này tạo ra việc tuôn đổ ánh sáng chói lọi và việc thấu nhập năng lượng cả trong lẫn ngoài. Do đó, đối với mọi đạo sinh chân chính, công việc của họ trên cơi trí trở nên dễ dàng hơn. Lúc bấy giờ, họ có thể thiền định một cách thành công hơn và chứng ngộ dễ hơn nhiều. Chắc chắn họ dự phần trong thành tựu của Đấng Chưởng Quản Shamballa.
Như bạn biết, nguyệt cầu là một cái vỏ, một h́nh hài cổ xưa mà qua đó Hành Tinh Thượng Đế có lúc mưu t́m biểu lộ. Về mặt vật chất, nguyệt cầu đang chậm chạp tan ră, nhưng về mặt cảm dục cho đến nay vẫn chưa tan, và do đó vẫn c̣n liên kết chặt chẽ với thể cảm dục của Hành Tinh Thượng Đế, như vậy là liên kết với thể cảm dục của tất cả mọi người. Tất nhiên là ảnh hưởng của nó mạnh hơn vào lúc trăng tṛn lên tất cả những ai mất quân b́nh (unbalanced). Sự thiếu quân b́nh này vốn có thật sau rốt sẽ được nhận ra giữa thể cảm dục, thể dĩ thái và thể xác.
342
Người
t́m đạo và người thiên về trí tuệ rơ
rệt, có thể có lợi nhờ các chu kỳ trăng tṛn
này. Những kẻ bất b́nh thường rơ rệt,
kẻ cực kỳ thiên về tinh cảm và thường
bị lôi cuốn bởi dục vọng thiếu kiểm
soát, đều bị cản trở, quá bị khích
động và đảo lộn về mặt tâm linh
bởi cùng các chu kỳ này. Màn ảo tưởng
được chiếu sáng vào lúc đó với hậu
quả là tạo ra ảo giác, các linh thị cảm
dục, các thôi thúc tâm linh và các diễn dịch sai lệch
về sự sống đối với việc quá nhấn
mạnh vào các khía cạnh của sự sống mà chúng ta
gọi là các sợ hăi (phobias), t́nh trạng mất trí
(lunacy) v..v…
Ở đây, tôi xin đưa ra một gợi ư mà tôi không thể chứng minh cho bạn, nhưng tương lai sẽ cụ thể hóa. Các bệnh chính yếu được gọi là tâm thần, ít khi có tác động ǵ với chính thể trí. Đó là:
1. Các bệnh của năo bộ
2. Các rối loạn của huyệt đan điền
3. Các ưu thế về cảm dục
4. Nhăn thông và nhĩ thông quá sớm
5. Ám ảnh
6. Thiếu trí nhớ
7. Vô tâm / mất linh hồn (soullessness)
Dĩ nhiên, đây là một khái quát hóa rộng lớn và không có liên quan tới loại bệnh liên hệ đến cả thể trí lẫn năo bộ. Các bệnh của nhà thần bí cũng thuộc một loại khác. Dĩ nhiên các bệnh này cũng liên quan đến năo bộ, chứng tỏ sự mất thăng bằng ở thể trí; tạo ra đủ loại bệnh tim và nhiều khuynh hướng loạn thần kinh khác nhau mà các vị thánh trên thế gian thường mắc phải.
Tuy nhiên, có một điều mà tôi sẽ nói thêm để khuyến khích các bạn. Với tư cách nhân loại nói chung, được cai quản bởi Tinh Quân Thái Dương (Solar Lord), Thần Thái Dương (Sun God), Linh hồn, lúc bấy giờ các chu kỳ của mặt trăng sẽ dần dần mất hậu quả gây hại của chúng, và sẽ tàn tạ theo đủ loại bệnh thần kinh và tâm trí mà ngày nay rất thường thấy. Tuy nhiên, thời điểm đó chưa đến. Tôi không dễ dàng đưa ra nhiều chi tiết hơn liên quan tới nguyệt cầu và các tuần trăng của nó, v́ đó là một trong các bí mật chính chỉ được tiết lộ vào cuộc điểm đạo thứ ba.
343
VỀ SỰ PHÂN PHỐI
THẦN LỰC; SỰ TRUYỀN MÁU
Thay v́ có hai, bạn lại có nhiều câu hỏi. Tôi xin nêu các câu hỏi đó ra để bạn sẽ thấy những ǵ tôi muốn nói đến và có câu giải đáp rơ ràng. Nhiều trong số các câu hỏi này được suy diễn chứ không được đặt ra rơ ràng, nhưng nếu tôi bàn đến chúng, th́ chúng phải được đặt dưới h́nh thức câu hỏi, cho dẫu lúc bấy giờ đề tài rộng lớn đến nỗi sẽ không đủ th́ giờ bàn đến.
1. Làm thế nào để cho việc phân phối thần lực được điều ḥa hơn để đem lại lợi ích cho mọi người?
2. Bạn có thể trao cho chúng tôi nhiều khuyến cáo đặc biệt hơn và nêu cho chúng tôi một vài phương pháp huyền bí, thích hợp cho giai đoạn phát triển của chúng ta liên quan đến vấn đề phân phối thần lực này hay không?
3. Sự thật về việc truyền máu .. có bất cứ tương ứng nào trong tiến tŕnh truyền các năng lượng tinh anh trên các cơi bên trong hay không?
4. Có những cách đặc biệt nào, ngoài những ǵ mà chúng ta đă cố làm, nhờ đó những ai trong chúng ta thuộc cung hai, có thể truyền một cách hữu hiệu hơn tính chất bác ái của chúng ta vào các huynh đệ trên cung Một và ngược lại hay chăng?
5. Có liên hệ hỗ tương và hợp tác ǵ trong các thực thể của cung và đặc biệt giữa các thực thể thuộc cung một và cung hai?
6. Tấm gương về sự hợp tác chặt chẽ và t́nh thân hữu giữa Chân Sư M. và Chân Sư K.H có trở thành sự trợ giúp thực tiễn và nguồn cảm hứng cho chúng ta hay không?
Do các điều trên, bạn sẽ thấy không thể làm cách nào mà bàn đến phạm vi rộng lớn của các đề tài được. Tuy nhiên, tôi sẽ trao cho bạn các câu trả lời ngắn gọn nhất về một số trong các chủ đề đó, hay là nêu ra đường lối mà theo đó, bạn có thể đưa ra ư kiến.
344
1.
Việc phân phối hài ḥa thần lực, thay đổi
theo cách sắp xếp của nó và tất nhiên theo hiệu
ứng bên ngoài của nó, không những chỉ theo loại
cung, mà c̣n theo tuổi của linh hồn và t́nh trạng cá
nhân trên Thánh Đạo. Có một dị biệt trong cách
sắp xếp này nơi các thể tinh anh của đệ
tử dự bị và của đệ tử nhập môn,
của người đệ tử đă được
thu nhận và đối với mỗi đẳng cấp
trên đường điểm đạo. Sắp xếp
này diễn ra theo ba cách hay tùy thuộc vào ba h́nh thức
của các ảnh hưởng đang phát triển.
a. Qua sự sống có đạo tâm, như đă được ghi trong ư thức của năo bộ hồng trần.
b. Qua khơi hoạt ngẫu nhiên của các bí huyệt và lũy tiến đúng dạng h́nh học của chúng. Điều này, tôi đă đề cập tới trong một số sách của tôi, nhưng c̣n nhiều điều nữa không thể đưa ra v́ đó là một trong các bí mật của cuộc điểm đạo thứ nhất. Việc tái sắp xếp và tái hiệu chỉnh nối tiếp trong toàn bộ giai đoạn của Thánh đạo, hiểu theo mặt chuyên môn.
c. Qua việc phá ngă chấp (decentralisation) của toàn bộ sự sống hữu thức bên trong. Người phụng sự trở thành:
* Kẻ hướng ngoại thần bí (mystical extrovert).
* "Kẻ đang bước ra khỏi trung tâm".
* "Kẻ sống dựa vào ngoại vi trái tim".
* "Kẻ lượn lờ trên hoa sen chính yếu".
* "Kẻ biết trông xa, y thấy được từ xa tuy vẫn sống trong h́nh hài của tất cả những ǵ hiện hữu".
Việc nghiên cứu các giai đoạn mô tả này có thể mang lại cho bạn manh mối về việc phân phối năng lượng một cách đúng đắn.
2.Câu hỏi thứ hai được giải đáp một phần trong phát biểu ngắn nêu trên. Tôi đang làm những ǵ mà tôi có thể làm được trong các giáo huấn riêng của tôi ("Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới", quyển I và II) đối với tất cả các bạn để mang lại hai điều:
a. Tẩy sạch môi trường của sự sống phàm ngă để cho các năng lượng cao có thể hoạt động thông thoáng hơn.
345
b. Mang
lại các t́nh trạng và các định hướng vốn
sẽ tạo ra hài ḥa bên trong một cách tất nhiên và
đồng đều, với các liên hệ hài ḥa bên ngoài.
Tuy nhiên, tôi muốn nhắc các bạn rằng hài ḥa bên trong
của một huynh đệ trong một nhóm không thể
thích hợp để tạo ra hài ḥa trong huynh đệ
khác hoặc trong nhóm khác.
3. Việc truyền máu tượng trưng cho hai điều: thứ nhất, máu là sự sống, và thứ hai, chỉ có một Sự Sống Duy Nhất thấm nhuần mọi h́nh hài, và do đó có thể truyền theo đúng điều kiện. Đó cũng là một tác động tổng hợp của phụng sự. Hăy suy gẫm về điều này.
4. Câu hỏi của bạn mang lại cho tôi một cơ may để nêu ra rằng thậm chí một sự hiểu biết và việc quan tâm đến các loại cung (chẳng hạn như được tiêu biểu trong một nhóm) có thể tự nó đưa đến một thái độ phân cách tế nhị. Không có sự cần thiết nào cho bất kỳ đứa Con nào của Thượng Đế đang lâm phàm trên cơi trần hay là trong ba cơi thấp để "truyền" tính chất thuộc cung của y vào huynh đệ y. Các tính chất thuộc cung này được chia sẻ bởi tất cả những ǵ giống nhau và linh hồn riêng của huynh đệ – tuyệt nhiên không khác với một linh hồn khác – sẽ tạo nên chuyển hóa cần thiết hoặc là truyền vào sự sống phàm ngă. Người ta có thể làm cho tiến tŕnh trở nên dễ dàng bằng việc cung cấp các điều kiện hài ḥa và tịch lặng mà trong đó một huynh đệ phải đối phó càng ít có thái độ trái ngược càng tốt, và khi mà sự tương tác của t́nh thương có thể tạo ra một kích thích có hiệu quả. Nhưng đây không phải là sự truyền chuyển. Điều ǵ có trong bạn th́ đều có trong vạn hữu, và tính chất bác ái (trên tất cả những tính chất khác) là đặc điểm vượt trội của tất cả các cung.
5. Vấn đề này không những chỉ là một trong các bí mật của các huyền bí học, mà c̣n có một bản chất quá rộng lớn trong các hàm ư của nó và là một vấn đề quá phức tạp nên tôi không thể bàn đến nơi đây.
6. Mối quan hệ của hai Đức Thầy mà bạn nhắc đến, có thể được nghiên cứu bằng hai cách:
346
a.
Nhờ việc xem xét mối liên quan đang tác động
có hiệu quả hiện có giữa các nhóm môn đồ
đang làm việc dưới sự hướng dẫn
của các Ngài.
b. Nhờ việc nghiên cứu những người (và họ rất đông) có phàm ngă thuộc cung 1 và Chơn ngă thuộc cung 2, hoặc trái lại.
Sau rốt, hỡi huynh đệ, chúng ta mang lại việc phân phối đúng thần lực, đưa đến các liên hệ hài ḥa khi chúng ta t́m cách sống một cách vị tha. Đối với đệ tử dự bị điều này có nghĩa là một hoạt động vị tha bắt buộc phải có trên cơi trần. Đối với đệ tử nhập môn, điều đó liên quan tới một kiếp sống thoát khỏi mọi ích kỷ, mọi t́nh cảm duy ngă (self-centered -emotion) và trong số các điều này, than thân trách phận và sự tự bi thảm hóa (self-dramatisation) là các thí dụ nổi bật; đối với điểm đạo đồ, điều đó có nghĩa là một thái độ tinh thần để tránh tư tưởng ích kỷ, và tránh việc bi thảm hóa trong cảm nghĩ của chân ngă.
Về sự đau đớn (on suffering)
Cuối cùng, sự đau đớn chỉ xảy ra khi linh hồn đồng nhất hóa với xác thân, hay đúng hơn, khi trạng thái tinh thần của linh hồn (trong thể xác) bị đồng nhất hóa với sinh hồn (animal soul) đang làm linh hoạt và đem lại sinh khí cho h́nh hài và tạo nên sự sống tạm thời của h́nh hài. Trong trạng thái vô thức, sinh hồn biết được khổ sở và đau đớn, những người nuôi bệnh nhân đều biết rơ được điều này, nhưng không có khổ sở đích thực hoặc buồn phiền (distress) đích thực, bởi v́ Chân nhân, hồn tinh thần (spiritual soul) đă bị xua khỏi hoặc là do sự đau đớn quá độ (như là trong trạng thái vô thức thực sự) hoặc là do thuốc mê.
347
Đau
khổ của linh hồn khi phàm ngă lạc đường
chỉ là một cách nói tượng trưng. Không hề có
đau khổ hoặc đau đớn thực sự nào,
và thường thường linh hồn không biết
đến sự việc xảy ra, v́ rung động không
đủ cao để nhập vào cơi cao nơi mà linh
hồn an ngự. Tuy nhiên, nơi nào có sự hiểu
biết như thế, tôi tạm diễn tả như
vậy, th́ linh hồn trải qua cảm giác cơ hội
đă mất, và do đó có cảm giác thất vọng,
nhưng không nhiều lắm, v́ sự kiên nhẫn của
linh hồn, cũng như của Thánh Đoàn th́ vô giới
hạn. V́ chúng tôi nói một cách tượng trưng và nói
rằng linh hồn đau khổ, bạn đừng nên
diễn dịch điều đó bằng thuật ngữ
thông thường.
Đau khổ của Đức Christ hoặc của Hành Tinh Thượng Đế hoặc của chính Thượng Đế, không thể được hiểu bằng các thuật ngữ chỉ dùng cho phản ứng của phàm ngă. Chúng tôi dùng các từ, nhưng các từ đó thật sự hàm ư là "đồng nhất hóa tách rời và cô lập". Điều đó có gợi ư chút nào cho bạn không, hỡi huynh đệ?
Đồng nhất hóa (identification) sai lầm là nguyên nhân của đau khổ và đưa đến đau đớn, phiền muộn và đủ thứ hậu quả. Đồng nhất hóa đúng đưa đến sự cảm thông và hiểu rơ về các thái độ tâm lư của kẻ đau khổ, nhưng không đưa đến đau khổ hoặc phiền muộn thực sự như chúng ta thường hiểu.
Về năng lượng của hành tinh
348
Toàn
bộ năng lượng vẫn như nhau chừng nào mà
hành tinh c̣n tồn tại với các h́nh thức và biểu
lộ sự sống của nó. Đó là phần của
nơi dự trữ năng lượng vĩ đại.
Chính việc sử dụng và hiệu quả của
năng lượng này, khi nó được đánh giá bằng
một h́nh thức hay các h́nh thức thuộc một
loại nào đó mà chúng ta ghi nhận như là nó
được thu hút từ vị trí riêng của nó
đến vị trí mà b́nh thường nó sẽ không
bị tác động. Ở đó, nó tạo ra các t́nh
trạng và gây ra các khó khăn có liên quan chặt chẽ
với karma và vận mệnh của một người.
Có một năng lượng triệt thoái vĩ
đại mà chúng ta gọi là Sự Chết, mà ảnh
hưởng của nó vào một lúc nhất định,
tỏ ra mạnh hơn là các ảnh hưởng hợp nhất
của các nguyên tử và tế bào của xác thân. Nó tạo
ra khuynh hướng triệt thoái và sau cùng rút ra năng
lượng linh hồn, nhân dịp các mănh lực này trong
tiến tŕnh thải bỏ một hiện thể trên cơi
này hoặc cơi khác. Có thể nói rằng các hạt giống
tử vong (mầm của sự chết) tiềm tàng trong
hành tinh và trong các h́nh hài. Khi nào đủ mạnh để
được nhận ra, chúng ta gọi chúng là các mầm
bệnh (germs), nhưng điều này bao hàm một giai
đoạn rơ rệt của hầu hết bằng
chứng hữu h́nh. Khi nào quá mạnh, chúng tạo ra
một bệnh ác tính và đưa đến cái chết;
khi hiệu quả yếu ớt hơn, ta gọi chúng là
bệnh và lưu ư hiệu quả thanh lọc của chúng.
Các lây nhiễm này (như chúng thường được
gọi, dù dứt khoát không bằng tên tốt) chỉ khác
thường khi toàn thể các năng lượng mà chúng ta
gọi là con người được đưa vào
tiếp xúc với các ảnh hưởng lây nhiễm này
hoặc các loại năng lượng cũ, và phản
ứng hay sự đáp ứng trở nên tệ hại,
theo khía cạnh tiện lợi của xác thân.
Về sự chuyển hóa dục vọng
Một điểm cần được ghi nhớ là dục vọng chi phối và kiểm soát hành động khi sức sống (life force) được tập trung vào bản chất dục vọng, v́ nó hầu hết có nơi đa số con người. Nhưng sự kiềm chế thể trí có sắp xếp chỉ có thể xảy ra khi nào sự sống được tập trung trên cơi trí. Khi trường hợp này xảy ra, dục vọng sẽ không cần kiềm chế, bởi v́ sức mạnh của sự chú tâm được tập trung sẽ là ở một nơi khác và tất nhiên sẽ không có dục vọng mănh liệt nào phải kiềm chế. Sự kiềm chế là một nỗ lực do con người tập trung vào thể cảm dục để mang lại trạng thái ư chí của trí tuệ. Nhưng ít khi con người làm được điều này. Dục vọng có thể biến mất nhờ nỗ lực mạnh mẽ mà con người đang làm để đạt đến đôi chút tâm thức cơi trí, nhưng thực ra, không có sự kiềm chế nào xảy ra, cũng không có ư chí nào được kêu gọi đến. Khi kiếp sống của một người tiếp diễn và được trí tuệ kiểm soát từ các phân cảnh trí tuệ, lúc bấy giờ, sự chuyển hóa tất phải xảy ra; sự chuyển hóa (mà nhờ đó bản chất cảm dục được thay đổi và biến chuyển), có thể có bản chất tinh thần hay chỉ có bản chất tiện lợi. Dục vọng có thể được chuyển hóa thành khát vọng tinh thần, hay là thành một thái độ phù hợp với ư chí của trí tuệ đang biểu hiện nó. Do đó, cần phải phân tích cẩn thận về động cơ thúc đẩy và về các mục tiêu.
349
Về nghiệp quả (On Karma)
Tôi đă gợi ư với bạn rằng toàn bộ vấn đề karma, cho đến nay, được hiểu không đầy đủ. Có một Định Luật vĩ đại về Nhân và Quả, nhưng khía cạnh đặc biệt duy nhất của nó chưa bao giờ được nhấn mạnh, và sự hiểu biết của nhân loại về vấn đề karma c̣n rất sơ lược. Karma luôn luôn được diễn tả bằng các tên gọi qui về tai họa, và các hậu quả đau khổ, về sai lầm, về h́nh phạt và về các biến cố tai hại, cả cho cá nhân lẫn cho tập thể. Tuy nhiên, đó là cái đẹp của bản chất con người, và nhiều điều được thực hiện lại có tính chất tế nhị, vị tha và hướng về hạnh phúc, đến nỗi cái xấu xa thường được hóa giải bằng cái tốt lành. Ở đâu cũng có nhiều karma tốt với một sức mạnh (theo cùng một Định Luật) bằng với những ǵ được xem như là karma xấu, đó là điều mà ít người có thể hiểu được. Luôn luôn để ư chút ít về vấn đề này. Karma tốt khơi hoạt các mănh lực vốn có thể thể hiện ra dưới h́nh thức năng lượng chữa trị trong bất cứ trường hợp đặc biệt nào. Nhà chữa trị có thể luôn luôn trông cậy vào các năng lượng đem lại tốt lành này, chúng vẫn được t́m kiếm và đang hoạt động. Đây là mấu chốt thứ nhất của tôi. Hăy suy gẫm về nó.
Karma là một yếu tố quyết định, nhưng trừ phi nhà chữa trị là một đạo đồ tiến hóa và nhờ thế có thể hoạt động một cách hiệu quả và sáng suốt trên các phân cảnh nguyên nhân nơi mà linh hồn ngự trị, đối với y khó mà quyết định xem trường hợp đặc biệt nào sẽ nhượng bộ việc chữa trị hay không. Do đó, nhà chữa trị hoặc vị đệ tử thực hành có được trong trí ḿnh năng lực chữa trị (có thể được hay là không) và nghiệp quả tốt của bệnh nhân, và tiếp tục áp dụng tất cả những ǵ có thể trợ giúp được. Đây là quan điểm mấu chốt thứ hai của tôi.
350
Điểm
mấu chốt thứ ba của tôi là gợi ra cho bạn
và cho tất cả những ai tham dự vào thuật
chữa trị, đó là nhiều điều trong cái
được gọi là tai họa, liên quan đến
bệnh tật và tử vong (đặc biệt là tử
vong) nằm trong một thái độ sai lầm đối
với sự chết và đối với việc đánh
giá quá cao phúc lợi của sự sống sắc
tướng. Sự giải thoát của một linh hồn
qua bệnh tật và chết chóc không nhất thiết là
một điều bất hạnh. Một thái độ
mới, tốt đẹp hơn đối với
hiện tượng chết là cần yếu, có thể có
được và gần kề. Tôi không cần bàn rộng
điều này ở đây. Nhưng tôi phải t́m cách
đưa ra cho bạn một quan điểm mới
về vấn đề bệnh tật và tử vong.
Bạn có lấy làm ngạc nhiên không nếu tôi nói rằng theo Thiên Luật th́ hoàn toàn có thể "can thiệp vào nghiệp quả"? Các Định Luật lớn có thể được siêu việt và thường hay có trong quá khứ và ngày càng tăng trong tương lai. Định Luật Trọng Lực thường bị hóa giải và bị vượt qua hằng ngày khi một chiếc phi cơ cất cánh. Sức mạnh của đức tin có thể làm khởi động các năng lượng cao, và các năng lượng cao này có thể làm vô hiệu hoặc làm tŕ hoăn bệnh hoạn. Toàn bộ vấn đề về đức tin, ư nghĩa và năng lực thiết yếu của nó được hiểu rất ít giống như Luật Karma. Đây là một vấn đề trọng đại và tôi không thể bàn rộng hơn. Nhưng tôi đă nói đủ để đưa cho bạn chất liệu suy gẫm.
Về việc kéo dài tuổi thọ trong thế kỷ qua nhờ thành tựu của khoa học, tôi xin nêu ra rằng các kỹ thuật đúng và các khả năng của hoạt động có tổ chức của linh hồn luôn luôn được nhắc lại, và biểu lộ một cách sai lầm trên cơi trần bằng các hoạt động khoa học trước kia, vốn có động lực đúng đắn, nhưng chỉ là một biểu tượng, trên lănh vực bên ngoài của sự sống, của hoạt động sắp đến và thường là hoạt động mai sau của linh hồn. Sau rốt, tuổi thọ sẽ bị rút ngắn hoặc kéo dài tùy ư bởi các linh hồn biết phụng sự một cách thực tâm và sử dụng cơ thể như là dụng cụ mà nhờ đó Thiên Cơ được phụng hành. Ngày nay, các kiếp sống thường được duy tŕ trong h́nh hài – cả trong tuổi già lẫn lúc ấu thơ – điều đó có thể hoàn toàn được cho phép. Chúng không đáp ứng mục tiêu hữu ích nào cả, mà c̣n tạo ra nhiều đau khổ cho các h́nh hài mà thiên nhiên (mặc cho chính nó) không được sử dụng lâu dài và sẽ tàn lụi. Hăy chú ư lời này. Do quá nhấn mạnh vào giá trị của sự sống sắc tướng và do nỗi lo sợ chung về cái chết – sự chuyển tiếp lớn lao mà tất cả chúng ta phải gặp – và do sự không chắc chắn của chúng ta về sự thật của việc bất tử, và cũng do sự gắn chặt của chúng ta với h́nh hài, chúng ta chận lại các tiến tŕnh tự nhiên và giữ chặt sự sống, vốn đang phấn đấu để được thoát ra, bị trói chặt vào các thể hoàn toàn không thích hợp với mục tiêu của linh hồn. Xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi không có ư nói rằng việc đó có thể khuyến khích hành động tự tử. Nhưng tôi nói rơ và nhấn mạnh rằng Luật Karma thường bị đặt sang một bên khi h́nh hài được duy tŕ trong biểu lộ có mạch lạc, biểu lộ này nên được tách ra, v́ h́nh hài đó không c̣n dùng cho mục tiêu hữu ích nào nữa. Trong đa số các trường hợp, sự duy tŕ này bị thúc ép do nhóm của chủ thể, chớ không phải bởi chính chủ thể – thường thường một người tàn tật vô tâm, một người già có bộ máy tiếp xúc và đáp ứng không hoàn hảo, hoặc một trẻ sơ sinh không được b́nh thường. Các trường hợp này là các thí dụ rơ ràng về sự hóa giải của Luật Karma.
351
Nhờ
sự chỉnh hợp, linh hồn tiến tới việc
sử dụng th́ giờ một cách đúng đắn; hay
đúng hơn, bộ óc, vốn là yếu tố nhận
biết thời gian duy nhất trong con người, không c̣n
là thuộc tính nổi bật. Thể trí, với vai tṛ là
phương tiện của linh hồn (tâm thức linh
hồn bao gồm quá khứ, hiện tại và tương
lai), xét đoán sự sống và kinh nghiệm theo đúng
thực tế của nó. Do đó, cái chết
được nhắc đến như là một giai
đoạn và như là một điểm chuyển
tiếp trong một loạt chuyển tiếp rộng
lớn. Khi thái độ này của linh hồn
được hiểu rơ, th́ toàn bộ cách sống của
chúng ta, và nhân đó, sự hấp hối, được
biến đổi hoàn toàn.
352
Tuy
nhiên, tóm lại, và chỉ ở bề ngoài chứ không
thực sự phủ nhận tất cả những ǵ mà
tôi đă nói ở trên, tôi xin lặp lại rằng kẻ
chữa trị phải hết sức cố gắng. Trong
đa số trường hợp, không có khả năng nhăn
thông và có ư thức về thời gian và dưới ảnh
hưởng của karma, y sẽ hành động hết
sức ḿnh theo các đường lối luyện tập
riêng của y và phù hợp với các giáo huấn
được đưa ra trong bộ luận về
chữa trị này. Tôi nhắc cho bạn hiểu rằng
mục tiêu trước mắt bất cứ nhà chữa
trị nào vào lúc này và ở thời điểm đă
định này trong việc mở mang tiến hóa của
nhân loại là cần thiết, khi hỏi như thế là
giúp vào việc mang lại sức khỏe cho xác thân và kinh
nghiệm chống đỡ của nó trong cuộc
sống. Bạn cũng cần hiểu rằng nhiều
điều được tin tưởng, chấp
nhận và được các nhà siêu h́nh học ngày nay
giảng dạy, đều dựa trên các tiền
đề sai lầm, như là bản chất của
vật chất, sự cân bằng thời gian, giá trị
của sự sống h́nh hài và nỗi sợ chết. Hăy
t́m cách loại các thái độ này ra khỏi ư thức
của bạn, rồi bạn sẽ đi đến
một viễn cảnh xác thực hơn về thuật
chữa trị.
Sau này, trong một vài năm nữa, có lẽ chúng ta có thể bắt đầu bàn đến các trường hợp đặc biệt này. Tuy thế, vào lúc này, tôi t́m cách làm cho bạn giữ đúng các điều khái quát lớn và giữ các định luật và các đề xuất căn bản, chớ không che phủ các vấn đề với các sự việc thuần ở cơi trần, tạm bợ hoặc lâu dài hoặc bằng sự tử vong và vận mệnh.
Tuy nhiên, đừng bao giờ từ chối một yêu cầu trợ giúp thực sự nào. Đừng làm ngơ trước nỗi khó khăn hoặc về vật chất, tinh thần hoặc về tâm lư. Nhưng tôi muốn nhắc bạn chú ư đến sự kiện là thành công trong việc chữa trị không hẳn luôn luôn có nghĩa là thoát khỏi bệnh tật và cái thường được gọi là chữa trị thể xác của bệnh nhân. Nếu thành công về mặt vật chất, th́ điều đó chỉ có thể dính líu đến việc hoăn lại kế hoạch của linh hồn đối với con người. Sự thành công có thể có nghĩa là chữa lại các thái độ sai lầm bên trong, các đường lối lầm lạc của tư tưởng và đồng thời để cho thể xác vẫn y nguyên. Điều đó có thể có nghĩa là đặt người bệnh (nhờ sự dạy dỗ khôn khéo và sự kiên nhẫn) liên giao chặt chẽ với linh hồn của y, và kết quả là tái định hướng sự sống vào các chân lư vĩnh cửu. Điều đó có thể gồm trong việc chuẩn bị thích đáng của một người cho mục tiêu độc đáo mà chúng ta gọi là Sự Chết, và như vậy làm giảm nỗi đau đớn bằng cách này.
353
Sau
rốt, toàn bộ khoa chữa trị sẽ thay đổi
và ngày càng đi vào lănh vực y học pḥng ngừa và
điều chỉnh tâm lư của cá nhân bên trong nhóm của y
và cung cấp các điều kiện sinh hoạt thích
hợp, chế độ ăn uống và cư trú hợp
với mọi người. Tuy nhiên, việc đó cần
nhiều th́ giờ, và trong khi nhân loại đang trên
đường tiến đến các cách sống mới
mẻ hơn, với các hiệu quả là sức khỏe
được cải thiện hơn và hiểu biết
chính xác hơn các định luật về sức
khỏe, tất cả những ai hiện hữu trong cơi
đời như là các trung tâm thu hút, tùy theo ánh sáng có nơi
họ, phải tiếp tục làm việc với con
người để giúp đỡ họ, chữa
trị cho họ và để giúp họ tạo ra các
hiệu chỉnh cần thiết. Không ǵ có thể làm
đ́nh trệ việc phụng sự của bạn theo
đường lối này, ngay cả việc không hiểu
rơ về sự giới hạn và vô minh. Làm tất cả
điều ǵ mà bạn có thể làm để khuyến
khích và để cảm thông, vạch ra các thái độ
không thích đáng, để chấm dứt cách sống sai
lầm và thay đổi cách diễn đạt tâm lư kém
cỏi chừng nào mà bạn c̣n gặp chúng và với
hết khả năng của bạn. Tuy nhiên, nên nhớ
rằng cách hay nhất của bạn có thể là c̣n
thiếu sót nhiều so với các khả năng tương
lai của bạn, và hăy luôn luôn sẵn sàng để thay
đổi quan điểm khi một cách thức cao hơn
và hay hơn được đưa đến cho
bạn.
Trên mọi điều khác trong cuộc sống, hăy đem lại cho tất cả những ai đang t́m sự trợ giúp của bạn, cách thương yêu đầy đủ nhất, v́ t́nh thương giúp tháo gỡ, t́nh thương hiệu chỉnh và diễn dịch, và t́nh thương hàn gắn trên cả ba cơi.
Về các bệnh tập thể
354
Sau
rốt, đa số bất hạnh của cơ thể
đều bắt nguồn nơi đáp ứng nào đó
với hoạt động tập thể. Chúng ta cần
phải hiểu rơ sự kiện rằng nhóm từ
"sự sống và hoạt động tập
thể" phải bao gồm không những sự di
truyền từ quá khứ, hay là các khuynh hướng
kế thừa từ tập thể, mà c̣n có thể
đưa ra các tiếp xúc hiện tại trên thế
giới, vốn làm yếu đi hoặc làm tăng thêm
đối kháng nhiều hơn là người ta
thường có thể tin tưởng. Một trong các nguyên
nhân của ung thư, vốn không thường thấy
trước kia và trong những thời kỳ rỗi răi
hơn của sự sống nhân loại – v́ lúc bấy
giờ, bản năng Hợp Đoàn không được
mạnh mẽ như ngày nay – là do bởi sự kích thích
ngày càng tăng của cơ thể. Sự kích thích này
được tạo ra do sự tiếp xúc chặt chẽ
của chúng ta trong các cuộc sống hằng ngày với
nhau qua cuộc sống tập trung của tập thể,
đặc biệt là nơi các trung tâm thành thị. Nếu
các tế bào là các cơ thể (organism) sống động
(chúng vốn như thế), chúng sẽ đáp ứng
với sự sống tập thể, đáp ứng với
sự phóng phát và tỏa ra của tế bào tập trung.
Ḍng năng lượng không đổi này tuôn đổ
từ toàn thể tế bào xác thân trong nhân loại tập
trung, có thể tạo ra nơi một vài mẫu
người sự quá kích thích ở một phần nào
đó của kết cấu tế bào xác thân. Điều
này thường xảy ra ở nơi có nhược
điểm trong thể dĩ thái hay thể sinh lực, nó
có nghĩa rằng các bảo vệ tế bào bị suy kém
và kết quả xảy ra là thường có ung thư hay là
t́nh trạng ung thư tổng quát. Đây là nguyên nhân căn
bản, mặc dù việc t́m kiếm hiện nay bị
bận rộn với các nguyên nhân và hậu quả phụ
của t́nh trạng yếu kém trong thể dĩ thái. Sau này
tôi sẽ xét vấn đề này kỹ hơn. Điều
hiển nhiên đối với bạn là khi chúng ta bắt
đầu bàn đến thể sinh lực và xem xét thể
đó bằng sự hiểu biết và kiến thức
rộng răi hơn, chúng ta sẽ có thể đối phó
với các bệnh như ung thư một cách hữu
hiệu hơn.
Dùng trí và khả năng tưởng tượng để phát triển tập thể thức
Khi một thành viên của một nhóm, như là nhóm chữa trị, nói đến sự phát triển tập thể thức, tức là y nói đến nhóm huynh đệ đặc biệt của y, và đến nhóm của y với cương vị là một đơn vị gồm nhiều linh hồn. Đừng quên rằng một đơn vị như thế trong chính nó là một ư niệm riêng biệt theo quan điểm của một tổng thể vĩ đại hơn, nhưng nó phụng sự một mục tiêu hữu ích trong việc huấn luyện các thành viên của nhóm để suy tư bằng các thuật ngữ rộng răi hơn. Nó dùng như là một bàn đạp để tách khỏi ư thức của phàm ngă đơn độc.
355
Nếu
bạn có thể thực sự cảm nhận, suy tư và
hành động như là một đơn vị
đầy đủ – nhiều phàm ngă và một linh hồn
– bấy giờ sẽ tương đối dễ dàng
để mở rộng ư niệm tới một sự bao
gồm lớn hơn để mở rộng chân trời
của bạn, và như thế trở nên bao hàm trong
một ư nghĩa rộng hơn nhiều.
Việc vận dụng trí óc cho mục tiêu này liên quan đến một xu hướng học hỏi cách phân biệt giữa phân tích với chỉ trích. Đây là một việc khó khăn và hầu như không thể học được đối với nhiều người. Các dấu vết giác ngộ về vấn đề này sẽ tự lộ ra nếu nhóm kiên tŕ với mọi nhiệt t́nh. Với tư cách là một nhóm, các hội viên phải học cách đáp ứng với cùng các ư tưởng về tinh thần, trí tuệ và con người, và như vậy – với vai tṛ là "đơn vị viễn cảm" – chuyển thành việc huấn luyện hợp nhất của tư tưởng. Với tư cách là một nhóm, họ bận tâm với cùng các việc mà linh hồn của nhóm đă nêu ra, chứ không bởi một cá nhân trong nhóm như trường hợp thường hay xảy ra. Với cương vị là một nhóm, họ phải học cách giữ cho thể trí kiên định trong ánh sáng – thể trí của nhóm chứ không phải các thể trí cá biệt của họ.
Khi dùng trí tưởng tượng vào mục đích này, bạn phải vun trồng năng lực không chú ư đến h́nh thức bề ngoài và tập trung vào các tuyến ánh sáng bên trong đang nối huynh đệ với huynh đệ, nhóm với nhóm, và giới với giới thành biểu lộ Sự Sống của chính Thượng Đế. Chính việc dùng trí tưởng tượng có sáng tạo mới tạo ra thể dĩ thái hợp nhất của nhóm và giúp cho bạn thấy thể sinh lực và ánh sáng này dưới một h́nh thức hoàn hảo và dưới biểu lộ duy nhất của thông minh, ư chí và mục tiêu của nhóm – nhưng không phải là ư chí hoặc mục đích của một hoặc nhiều thể trí có ưu thế trong nhóm. Như thế, các thể trí này có thể thể hiện ra trên cơi trần trong biểu hiện đúng. Tuy thế, khi các thành viên của nhóm bị bận rộn nhiều với các ư tưởng riêng của họ, kế hoạch của họ, các vấn đề của họ và làm thế nào họ có thể sử dụng bất cứ ánh sáng và tri thức nào có thể nhận được, họ phủ nhận bất cứ khả năng vận dụng nào có tính sáng tạo như thế đối với trí tưởng tượng hợp nhất.Để hoàn toàn gạt bỏ điều này, cần tốn nhiều vun trồng cẩn thận và tự nhượng bộ đối với linh hồn.
356
Về năng lượng chữa
trị (On Healing energy)
Đôi lúc, những kẻ sơ cơ nêu ra câu hỏi: "Chúng ta có cách nào phân biệt giữa năng lượng chữa trị mà linh hồn và phàm ngă đă biểu lộ hay chăng? Chúng ta có thể có một hiểu biết nào đó về phía mà ḷng bác ái phải đóng góp trong thuật chữa trị hay không?" Tôi có thể trả lời một cách vắn tắt.
Khi chúng ta bắt đầu công việc theo nhóm với các cá nhân mà chúng ta sẽ t́m cách trợ giúp, lúc bấy giờ chúng ta sẽ học cách vận dụng các loại năng lượng khác nhau theo nhu cầu của cá nhân cần được chữa trị. Năng lượng đó sẽ được dùng vào mục đích thật sự của nhóm nếu tất cả các bạn muốn học hỏi những ǵ mà Rama Prasad đă nói đến trong sách của ông "Các Lực Tinh Anh của Thiên nhiên" và của Patanjali trong "Ánh Sáng của Linh Hồn" về vấn đề prana mà chúng ta làm việc với nó và trong nó; bạn sẽ quen thuộc phần nào với vấn đề.
Đặc biệt, để trả lời câu hỏi: một đạo đồ hay ngay cả một người có nhăn thông bậc thấp, có thể dễ dàng phân biệt giữa các năng lượng chữa trị của linh hồn với năng lượng chữa trị của phàm ngă, mà người t́m đạo thông minh bậc trung, cho đến nay, chưa thể làm được. Điểm đạo đồ biết được cội nguồn từ đó bất cứ loại năng lượng chữa trị nào có thể đến. Y cảm nhận được rung động của nó và có thể đi theo nó đến nguồn xuất phát bằng một nỗ lực của ư chí, được trực giác hướng dẫn. Người có nhăn thông có thể thấy được bí huyệt mà từ đó năng lượng chữa trị có thể tuôn đổ, và bấy giờ chỉ ra loại và tính chất của lực được phóng ra. Mọi năng lượng đều đến từ linh hồn trong trường hợp thứ yếu, nhưng theo ư nghĩa ban đầu, mọi năng lượng chỉ là sự sống, tác động dưới sự điều khiển thuộc một loại nào đó.
Về phần vai tṛ mà t́nh thương đóng góp trong tiến tŕnh chữa trị: T́nh Thương là sự biểu lộ của sự sống của chính Thượng Đế; t́nh thương là mănh lực kết hợp nó làm cho mọi vật được toàn vẹn (tôi muốn bạn suy tưởng về nhóm từ này), và t́nh thương là tất cả những ǵ hiện hữu. Đặc điểm chính của cách phân biệt giữa năng lượng của linh hồn và sức mạnh của phàm ngă, khi áp dụng vào việc chữa trị, nằm trong lănh vực thực hành và biểu lộ của t́nh thương. Sức mạnh của phàm ngă thuộc về t́nh cảm, đầy cảm giác, và – khi được dùng – phàm ngă bao giờ cũng tự nhận như là nhà chữa trị và là trung tâm gây ấn tượng của sân khấu có hai diễn viên là kẻ chữa trị và bệnh nhân. Năng lượng linh hồn tác động một cách vô thức và được sử dụng bởi những ai tiếp xúc được với linh hồn của họ và bởi vậy họ đă phá được ngă chấp; chính họ "ở ngoài sân khấu", nếu tôi có thể dùng cách diễn tả đó, và họ hoàn toàn bị bận tâm với t́nh thương của nhóm, hoạt động của nhóm và mục đích của nhóm.
357
Vậy
tại sao điều đó lại cực kỳ khó
khăn, nếu không nói là hoàn toàn không thể
được, v́ kẻ muốn trở thành nhà chữa
trị nhiệt thành phải làm việc chung với nhau
như là một nhóm, với khoa chữa trị thiêng liêng?
Bởi v́, với tư cách các cá nhân và với tư cách là
một nhóm, họ hầu hết là cá nhân trong các mối
liên quan cá nhân và liên quan giữa các nhóm. Điều này có
thể tự biểu lộ trong việc chỉ trích nhau
gay gắt, hay là chỉ trích chính ḿnh; bằng một sự
chắc chắn không lay chuyển của sự thẳng
thắn cá nhân và sự phán đoán khôn ngoan, nó không cho phép
kẻ nắm giữ điều đó thấy rằng có
lẽ có một ngẫu nhiên mà ư nghĩ họ không đúng
như họ đă tưởng; điều đó có
thể tự nó lộ ra bằng một sự măn
nguyện sâu xa vượt quá các tiếp xúc chủ quan cá
nhân. Bất cứ cái nào hay là mọi ngăn trở nói trên
đều có thể hiện hữu và biến biểu
lộ tập thể thành biểu lộ cá nhân, nó phủ
nhận công việc kiến tạo và bất cứ cố
gắng nào cũng chỉ làm mạnh thêm các phản ứng
của cá nhân và phần lớn (và ngược lại)
sẽ ảnh hưởng đến phàm ngă của
những kẻ mà họ có thể t́m cách trợ giúp.
358
Lúc
bấy giờ, làm thế nào chúng có thể tiến hành
được? Tôi xin nêu ra rằng bất luận thành viên
của nhóm nào, với tư cách là cá nhân, tránh
được các nhược điểm nói trên của
phàm ngă và tránh được các thái độ này, tuy nhiên,
biết được (và hân hoan một cách đúng
chỗ) rằng y tham dự vào với tư cách là một
thành viên của nhóm, với tính chất của nhóm. Đó là
một trong các khó khăn có thể xảy ra thuộc công
tác tập thể. Để tham dự vào và tuy thế thoát
khỏi bệnh tật; để nhận biết
được rằng các thành đạt hoặc thất
bại của các thành viên của nhóm hoàn toàn là công việc
riêng của họ; để chia sớt và tuy thế không
bị chi phối bởi các tư tưởng và ư kiến
mạnh mẽ của các thành viên có thế lực hơn
trong nhóm bao giờ cũng là điều cần lưu tâm.
Tôi nêu điểm này ra v́ trong Kỷ Nguyên sắp tới,
lúc mà công tác tập thể được phát triển phần
lớn, sẽ là điều hữu ích mà hiểu
được các t́nh trạng và các vấn đề
của tập thể, và lúc bấy giờ để
tiến hành công tác của nhóm chung với nhau với
những ai là thành viên của bạn để làm việc
với bạn. Lúc bấy giờ, bạn sẽ
vượt trội hơn và khôn khéo hơn đối với
các kinh nghiệm đă qua, và hợp nhất với tư
cách là một nhóm qua sự đau khổ và các giới
hạn được chia sẻ, và khả năng có
được v́ thất bại được đáp
ứng đúng mức.
Thế nên, hăy để cho t́nh thương chân chính, yên tĩnh, nhẫn nhục, không chỉ trích và kiên định trở thành mục tiêu của bạn và tính chất của cuộc sống tập thể của bạn. Lúc bấy giờ, khi có một công tác dứt khoát phải làm, bạn sẽ hoạt động như là một đơn vị với tim và óc là một.
Về sự chữa trị tức thời
Việc chữa trị tức thời có thể thuộc nhiều loại khác nhau. Chúng ta có thể kể ra sau đây nhiều điều có thể giải thích cho sự việc:
359
1.
Chữa trị vốn là kết quả của thực hành
rơ rệt, hữu ư hoặc vô t́nh về Hatha Yoga.
Điều này được tạo ra bởi việc
phóng ra từ điện hoàn toàn hồng trần, mà khi
nhập thêm vào phần từ điện thân thể
khả dụng có sẵn của người bệnh bên
trong chính thể xác của y, đủ để đem
lại chữa trị trực tiếp. Từ điện
trong thể xác người bệnh, thay v́ đi ra và tuôn ra
ngoài, lại đảo ngược và quay vào trong
để góp vào nguồn dự trữ thần lực
của xác thân được duy tŕ ở t́nh trạng không
thay đổi bên trong thể xác. Các hạng người
càng thấp kém th́ chữa trị theo cách này càng hợp. Liên
quan giữa bệnh nhân và nhà chữa trị cũng
tương tự như thế. Trường hợp nêu
trên là một thí dụ minh họa thích đáng. Việc
chữa trị dễ xảy ra hơn bởi vị
"pháp sư" ("sheik") có liên hệ bởi
vết thương (một vết cắn nơi tay –
A.A.B.) bị cố ư gây ra, và trước khi gây ra nó,
người bệnh (nếu tôi có thể gọi y như
thế) nắm giữ lực đang rời khỏi ở
t́nh trạng đ́nh chỉ bằng một tác động
của ư chí, như vậy tạo ra một nguồn
chứa năng lượng sẵn có để bổ sung
năng lượng của pháp sư, mà đến phiên nó
được phóng ra bằng một thần chú. Rơ ràng
đây không phải là cách chữa trị tinh thần.
2. Cũng có h́nh thức chữa trị có thể là tạm thời, bởi v́ bệnh tật phần lớn thuộc tâm lư và giống như ảo giác. Lúc bấy giờ, nhà chữa trị ở vị thế cho phép bệnh nhân gạt bỏ ảo giác và thế là được giải thoát. Ư chí của nhà chữa trị, khi được đưa thêm vào ư chí của bệnh nhân, sẽ giúp vào việc đánh tan ảo tưởng và h́nh tư tưởng lôi cuốn, lúc bấy giờ, bệnh nhân được giải thoát. Đây là cách chữa trị tâm lư và là một minh họa duy nhất về điều đó.
3. Kế tiếp có một loại chữa trị, nó xảy ra theo hai cách, và đây là chữa trị tinh thần đích thực:
a. Khi bệnh nhân có một tiếp xúc đột ngột và thường không đoán trước với linh hồn của ḿnh, trong đó năng lượng linh hồn lớn và mạnh đến nỗi nó lan qua các thể và dứt khoát là tạo ra các hiệu quả. Như vậy, việc chữa trị xảy ra trong một số hiện thể này hay hiện thể khác và thường là trong thể xác. T́nh trạng xác thân hay bệnh của thể xác rất thường vẫn giữ sự chú ư không bị phân tán của tâm thức của người có liên quan, và linh hồn tuôn đổ qua điểm chú tâm có tập trung đó. Đối với nhiều người trong các bạn, trong ư tưởng này có ẩn một ám chỉ rơ rệt.
360
b. Khi
nghiệp quả xấu về xác thân của người
bệnh đă cạn, th́ vào thời kỳ đặc
biệt này, vận mệnh của y sẽ không c̣n bệnh
thuộc cơi trần nữa. Lúc bấy giờ nhà chữa
trị có thể bắt đầu gánh vác công việc,
nếu y có tinh thần và đầy minh triết, có
đủ năng lượng tinh thần để
bảo đảm việc chữa trị. Tôi tin các bạn
sẽ t́m được các câu trả lời gợi ư này.
Hăy ngẫm nghĩ kỹ về các hàm ư.
Về việc dùng h́nh ảnh của Đấng Cao Cả
Ở đây, chúng ta đề cập đến một điểm có ích lợi đích thực. Việc sử dụng h́nh ảnh (image) của Đấng Cao Cả thường là tối quan trọng, nhưng – và ở đây, đó là điều mà tôi t́m cách nhấn mạnh – đó phải là h́nh ảnh đến một ḿnh nhờ trung gian của sự phát triển tâm thức Christ trong cuộc sống riêng của người ấy và nhờ việc đạt tới địa vị đệ tử hữu thức. Ở giai đoạn đặc biệt đó, khi một người được liên kết rơ rệt với một Đức Thầy và nhóm của Ngài, lúc bấy giờ, một cách tự động và với tư cách cá nhân, y liên kết với Thầy của mọi Đức Thầy. Lúc bấy giờ, xuyên qua linh hồn của riêng y và linh hồn của nhóm đặc thù của y, y sử dụng được thần lực của Đức Maitreya Buddha. Bạn hăy nghĩ xem tại sao không có một h́nh ảnh thánh thiện và chân thực nào của Đấng Giáng Phúc (The Blessed One), mà chỉ có một vài suy vấn do những kẻ sùng tín của giáo hội nguyên thủy, chớ không phải do những kẻ đă biết Ngài. Lư do thật là rơ rệt. Không có h́nh ảnh chính xác nào của Ngài, bởi v́ h́nh đó phải nằm trong tim ta chớ không phải trên bức vẽ. Chúng ta đạt tới chỗ biết được Ngài, bởi v́ Ngài là chúng ta, cũng như chúng ta là Ngài. Bạn có hiểu được những ǵ mà tôi nói không? Ngài là Đấng chữa trị và Đấng Cứu Thế. Ngài hành động bởi v́ Ngài là linh hồn hiện thân của mọi Thực Tại. Ngài hành động ngày hôm nay, cũng như Ngài đă hành động ở Palestine cách đây 2.000 năm qua các nhóm. Ở đó, Ngài tác động qua ba vị đệ tử yêu quí, qua 12 tông đồ, qua 70 người được tuyển chọn và năm trăm kẻ có quan tâm. Hăy suy cứu về sự kiện này, v́ ít được nhấn mạnh. Hiện nay, Ngài làm việc qua các Chân sư của Ngài và các nhóm của các Chân Sư, và do đó các nỗ lực của Ngài càng mạnh thêm lên. Ngài có thể và sẽ hoạt động qua mọi nhóm chừng nào mà tự họ thích ứng với việc phụng sự đă được sắp xếp, đối với sự phân phối t́nh thương và đi vào chỉnh hợp hữu thức với tiềm năng lớn hơn của các nhóm nội môn.
361
Các
bạn sẽ thấy (có lẽ hơi sớm) rằng các
nhóm chữa trị sẽ sử dụng các thần chú
thuộc một loại rơ rệt và trong các linh từ
đó danh xưng của Đấng Giáng Phúc sẽ hiện
ra. Nhưng linh từ cho sự tái lâm của Ngài vẫn
chưa được dùng. Thế giới vẫn chưa
sẵn sàng đón nhận sức mạnh sẽ
được phóng ra. Ngày nay, phải chăng có một
linh từ thường được nói đến:
"V́ Đức Christ và cho vinh quang của Danh Ngài"?
Nhưng các lời này phải được thốt ra
với t́nh thương và sẽ ở sau các lời nói,
nếu không, chúng chỉ là một biểu tượng
trống rỗng và một cái chủm chọe âm vang.
Đừng nên quên điều đó.
Về Đức Christ
Một số người t́m đạo và các môn đồ có thể trải qua một hồi niệm hầu như không thay đổi về Đức Christ, đó là do tính nhạy cảm của họ tăng lên đối với các nội cảnh giới và đặc biệt do sự kiện có rất nhiều chất liệu trong thể cảm dục của người t́m đạo tiến hóa được rút ra từ (và do đó nhạy cảm với) cơi phụ cao nhất của cơi cảm dục. Cũng chính do sự kiện Đức Maitreya cùng với các phụng sự viên của Ngài đang tiến đến cơi trần gần hơn bất cứ lúc nào. Lần đầu tiên, sự tập trung chú tâm của Ngài vào năm 1936 chủ yếu trên cơi phụ thứ nhất của cơi cảm dục. V́ thế, sự đáp ứng chính xác và tức khắc cho sự nhạy cảm đối với năng lượng của Ngài lộ ra ở đó. Ngài đang tiến gần hơn đến tư tưởng và hoạt động của Ngài. Nếu con người của thế gian đáp ứng với cơ hội hiện nay, các sức mạnh và sự chú tâm của Ngài có thể vào sâu hơn và có ưu thế trên các mức độ dĩ thái với tất cả những ǵ được hàm chứa trong một t́nh trạng như thế.
Điều này, nhiều người cảm nhận từ bên trong và biết được, và do đó, cơ may của họ và cơ may của các bạn để tạo nên một vận hà ngày càng mạnh đối với thần lực này thật là lớn lao.
362
Nên
nhớ rằng công việc mà v́ đó Ngài tái lâm và Thánh
Đoàn tham dự vào đó, được cam kết là
để giúp đỡ Ngài trong "việc chữa
trị các quốc gia" như đă được
diễn tả trong Thánh Kinh. Đây là một phát biểu
chân thực về sự kiện sắp xảy ra. Việc
chữa trị này sẽ xảy ra nếu những kẻ
có thiện chí ở khắp nơi đạt đến
cơ may của họ; nếu công việc của
Đức Christ và của những kẻ trợ giúp
của Ngài đưa tới chú tâm rơ rệt hơn của
quảng đại quần chúng và nếu có một sự
thư giăn bên trong ở thế giới của những
người sẽ được hoạt động
với các thiên thần. Chính sự sẵn sàng và đáp
ứng của họ đối với việc tiến
gần đến Đức Christ mà nhiều người
phụng sự có tinh thần hiến dâng được
nhận ra từ bên trong, và điều đó đă phần
nào gây bối rối cho họ. Các thiên thần chỉ có
thể được cảm thấy và nhận thấy;
cho đến nay, các Ngài không thể được nhân
loại tiến đến gần qua trung gian /phương
tiện (medium) thế giới tư tưởng và việc
sử dụng bộ máy tư tưởng trong con
người. Không có một nguy hiểm nào liên can vào
đối với người phụng sự nếu y
bắt đầu biết đến các sức mạnh
thiên thần này và các hoạt động của thiên
thần, xuyên qua Đức Christ và qua sự đáp ứng
của họ đối với công việc và sự
xuất lộ sắp tới của Ngài.
Về nhóm từ "Đức Mẹ Thế Gian"
Có nhiều cách khác nhau mà nhóm từ này có thể được dùng, để ám chỉ một số các việc khác nhau. Nó có thể có nghĩa:
1. Trạng thái âm trong biểu lộ, được tượng trưng cho chúng ta ở nhiều tôn giáo trên thế gian dưới h́nh thức mẹ đồng trinh và trong Cơ Đốc Giáo là Trinh Nữ Mary. Chính bản thể (substance) đó giúp cho Thượng Đế biểu lộ.
2. Chính Thiên Nhiên, mẹ của mọi h́nh hài.
3. Mặt Trăng cũng vậy vốn là biểu tượng của sự sống sinh sản, sáng tạo, sự sống này khai sinh ra các h́nh hài và do đó là biểu tượng của bản chất h́nh hài.
363
4.
Việc tập trung mănh lực âm trong thiên nhiên nơi
một cá nhân dưới h́nh hài nữ bấy giờ
được gọi là "Đức Mẹ Thế
Gian" ("World Mother"). Một cá nhân như thế
không bao giờ hiện hữu trong cuộc sống
đặc biệt của hành tinh chúng ta, dù cho các
Đấng Hóa thân của một thái dương hệ
trước, tự biểu lộ qua sự sống hành
tinh, luôn luôn khoác lấy h́nh hài này. Nhưng không phải trong
thái dương hệ này. Truyền thống của các
xuất lộ như thế thuần là biểu
tượng, được kế thừa từ thái
dương hệ trước, từ đó chúng ta
hưởng được chất liệu của tất
cả những ǵ mà mọi h́nh hài biểu lộ
được tạo ra. Biểu tượng kư này đă
sụp đổ từ thời xa xưa của thời
Mẫu Hệ, vốn đă có một tôn giáo kêu gọi các
phương cách cũ của thái dương hệ
trước và trong đó thời Lilith tượng trưng
cho Đức Mẹ Thế Gian, cho đến khi bà Eve
chiếm chỗ của Đức Mẹ Thế gian.
Nhận thức về sự vô nghĩa
Xét về công việc của nhà chữa trị với các bệnh nhân ở ngưỡng cửa sự chết, nhà chữa trị có thể trải qua một nhận thức về sự vô nghĩa. Có thể nào biết được đúng điều ǵ mà y có thể làm không? Y có nên tiếp tục cố gắng của ḿnh để giúp linh hồn mới được giải thoát tiến vào ánh sáng hay không? Mặc cho tất cả mọi kiến thức của y (và y có thể có nhiều) và mặc dầu sự mong muốn khát khao của y để giúp kẻ từ trần, nơi đó dường như không có ǵ để làm ngoại trừ việc bước sang một bên, với nhận thức hoàn toàn vô nghĩa, trong khi kẻ được mến mộ vượt qua cánh cửa dẫn đến ǵ, hỡi huynh đệ? Chúng ta có thể đi đến cánh cửa, nhưng cho đến nay, dường như chúng ta không thể đi xa hơn nữa. Cho dù đức tin ăn sâu trong sự kiên tŕ của linh hồn bất tử tỏ ra không thỏa đáng, và chỉ dùng để an ủi nhà chữa trị đang phụng sự về mặt cá nhân, nhưng không đủ để tiết lộ cho y những ǵ giúp y có thể hiến dâng.
Như tôi mong đợi, có một vài điều tôi có thể nói ra vào thời điểm có ư nghĩa này, v́ sự thiên khải sắp đến. Thiên khải đó tất yếu và chắc chắn xảy ra, và các câu hỏi như thế sẽ không được nêu ra từ 200 năm nay. Đối với sự kiện đang hiện rơ này, sự nhạy cảm đang tăng lên của nhân loại đối với các khía cạnh tế nhị hơn của cuộc sống và số lớn điều nghiên được xúc tiến theo mọi khía cạnh là sự bảo đảm ở cơi trần. Chân lư vĩ đại này và sự bảo đảm của nó được giữ vững trước mắt chúng ta trong câu chuyện "sự phục sinh vinh quang của Đức Christ" và sự tái lâm sau khi chết đi của Ngài, và trong nghi thức mạnh mẽ nhưng ít được hiểu đến của đẳng cấp tối thượng của Hội Tam Điểm nơi mà Thánh sư được nhắc đến.
364
Vào
lúc "bước vào ánh sáng" sự trợ giúp phần
lớn tùy thuộc vào hai sự việc: thứ nhất,
tầm quan trọng của sự giao tiếp chặt
chẽ giữa người hấp hối với
người canh bệnh nhân, và phân cảnh mà trên đó
sự giao tiếp mạnh nhất. Thứ hai, tùy vào
năng lực của kẻ canh thức để cắt đứt
và tách chính y ra khỏi các cảm giác của riêng y, và tự
đồng nhất hóa nhờ một tác động
của ư chí hoàn toàn vô kỷ với người đang
hấp hối. Không một điều nào thực sự
xảy ra khi sự ràng buộc giữa cả hai thuần
về t́nh cảm hay dựa trên sự liên hệ ở cơi
trần. Sự giao tiếp phải sâu xa hơn và mạnh
mẽ hơn thế. Phải là sự giao tiếp cá nhân
trên mọi cơi. Nơi nào có sự giao tiếp thực
sự của linh hồn và phàm ngă, nơi đó có ít vấn
đề lôi thôi. Nhưng điều này rất khó
thấy. Tuy nhiên, ở đây tôi đem đến cho
bạn một vài ám chỉ.
Cũng nên có diễn tiến tư tưởng càng ít rơ rệt càng tốt về phần kẻ canh thức. Tất cả những ǵ được đ̣i hỏi và có thể có được hiện nay chỉ là làm cho kẻ hấp hối tiến tới trên ḍng t́nh thương bao giờ cũng sâu thẳm. Nhờ sức mạnh của trí tưởng tượng sáng tạo, chứ không phải nhờ các quan niệm tinh thần (bất luận cao như thế nào), kẻ hấp hối phải được giúp để tách ra khỏi cái vỏ ngoài mà y đă gắn chặt vào và y đă làm việc cật lực trong kiếp sống. Điều này liên quan đến một hành vi hoàn toàn quên ḿnh, mà cho đến nay, ít người có khả năng đạt được. Đa số con người đều bị lôi cuốn v́ sợ hăi hay bởi một ước muốn mạnh mẽ để giữ người thân thích trở lại hay là bị làm lệch mục tiêu của họ bằng các hoạt động liên quan đến việc làm dịu đau và giảm thống khổ, họ cũng bị mất tinh thần do quá thiếu hiểu biết về "kỹ thuật chết" khi đối phó với trường hợp khẩn cấp. Họ thấy rằng chính họ không thể thấy được những ǵ ở bên kia cửa tử và bị lôi cuốn bởi tính bấp bênh của thể trí vốn là một phần của đại ảo tưởng. Theo như chúng tôi biết, không có một sự tiếp xúc chắc chắn nào trong tiến tŕnh hấp hối này. Tất cả đều không chắc chắn và gây bối rối. Nhưng không bao lâu nữa, điều này sẽ chấm dứt và con người sẽ biết cũng như thấy.
365
Về
phần những kẻ đă bước vào ánh sáng, kẻ
mà bạn muốn trợ giúp, hăy theo dơi họ với t́nh
thương của bạn, nên nhớ rằng họ
cũng vẫn là người đó, trừ bức màn
giới hạn bên ngoài của thể xác. Hăy phụng
sự họ nhưng đừng t́m cách để họ
phục vụ cho nhu cầu của bạn. Hăy đến
với họ, nhưng đừng làm ǵ để họ
xoay lưng lại bạn.
Chính đời sống hồng trần là nơi chuộc tội (purgatory), c̣n kinh nghiệm sống là ngôi trường có kỷ luật nghiêm minh. Chúng ta đừng sợ cái chết hay là những ǵ nằm bên kia cửa tử. Đệ tử khôn ngoan nỗ lực trong lănh vực phụng sự, nhưng nh́n về tương lai một cách kiên định cho đến lúc mở ra "ánh sáng mát lạnh, trong suốt" vào nơi mà một ngày nào đó y sẽ tiến vào và thế là kết thúc giai đoạn kích động tranh chấp và đau khổ của cuộc sống trần gian. Nhưng có các thời kỳ khác của kinh nghiệm sống khi mà cảm giác về sự vô ích và sự thất bại t́nh cờ xảy đến với người phụng sự trong thế giới ngày nay.
Theo góc nh́n của một đệ tử, chúng ta có thể chia con người thông minh thành ba nhóm, đồng thời loại ra trong tư tưởng chúng ta gánh nặng của quần chúng thiếu suy tư, họ biểu lộ ước muốn, nhưng cho đến nay họ không có kinh nghiệm nào về sự vô dụng hay là sự thất bại. Họ ước muốn và được thỏa măn, hoặc là họ ước muốn và bị cản trở, hoặc ghen ghét, hoặc giận dữ với những kẻ có mặt để có được những ǵ họ cần và kêu gọi đến sự sống giác quan. Ba nhóm đó là:
366
1. Các phàm
ngă đă phối kết và sáng suốt, họ có tham
vọng và đang quyết tâm tiến tới, tuy nhiên,
họ gặp thất bại. Thất bại này hoặc do
bởi các t́nh trạng thế giới quá đanh thép
đối với họ, hoặc do bởi sự áp
đặt lên họ của các linh hồn đang quán sát
của chính họ, chúng ném ra chướng ngại về
hướng của họ để đưa họ
đến ánh sáng.
2. Những kẻ thiên về thần bí và những kẻ có tầm nh́n xa, được định hướng đúng nhưng chưa được kiến tạo trong giàn giáo tinh thần, giúp cho họ thể hiện đúng đắn cái thấy của họ nhờ các quá tŕnh tư tưởng đúng đắn. Ngày nay, số người đó rất đông đảo và trường hợp của họ không phải là trường hợp dễ dàng.
3. Các đệ tử và những người t́m đạo đang cố gắng hoạt động trong môi trường của thế gian, tuy nhiên, qua giới hạn nghiệp quả, qua việc áp dụng sai lầm thiên luật, hay là một yếu kém căn bản nào đó của phàm ngă, họ không bao giờ đạt được mục tiêu của họ trong kiếp sống này, và thế là bị cuốn đi bởi một cảm nhận vô nghĩa áp đảo.
Hơn nữa, ba nhóm này, có vai tṛ như là đối cực (opposite pole) đối với quần chúng đang phấn đấu, là các đệ tử đang thực hiện hội nhập của thế gian, họ đang thành đạt và họ quá bận rộn và cũng quá chú tâm khi phí nhiều th́ giờ vào kẻ thấp kém đồng cảm hay là vào lỗi lầm và thất bại.
Do đó, nhờ khôn ngoan đặt kẻ cần bạn trợ giúp vào một trong số ba loại nêu trên (để cho trí của bạn có thể chuyển qua một loại cao hơn) bạn sẽ có thể giúp họ một cách sáng suốt hơn.
367
Một
phạm vi rộng lớn của phức cảm tự ty
mà ngày nay đang có ảnh hưởng đến rất
nhiều người, rơ rệt nhất là do phản
ứng của họ đối với các ảnh
hưởng tinh thần đang tuôn đổ vào. Họ
biết rằng chính họ quan trọng hơn các thành
đạt của họ; họ hiểu được
thiên tính của họ một cách vô thức và thầm
lặng, nhưng sự hạn chế của môi
trường và các trở ngại của phàm ngă, cho
đến nay vẫn quá to tát đối với sự
đáp ứng đúng cho cơ may và cho thực tại. Hăy
xem xét các linh hồn này và giúp đỡ họ bằng
sự hiểu biết đúng và bằng sự đánh giá
và sự hợp tác, và như vậy xua tan ảo
tưởng của việc không hoàn thành đang ám ảnh
bước chân của họ.
Nhưng thói thích phô trương và các ảo giác làm suy nhược thần kinh phải được chữa trị trước tiên nhờ cố gắng cá nhân, nhờ phá ngă chấp, chuyển di sự chú tâm và sự vô kỷ. Tuy nhiên, một đôi khi các khuynh hướng suy nhược thần kinh có thể tăng thay v́ giảm, đó là sự căng thẳng mà con người ngày nay đang là nạn nhân của nó. T́nh h́nh thế giới hiện nay bắt buộc con người t́m lối thoát và quay lại với năng lực chữa trị của chính sự tưởng tượng sáng tạo của chính con người. Sự giải thoát xảy đến do chấp nhận kịch tính của toàn thể chứ không phải của một phần và do măi bận bịu với việc sáng tạo trên cơi trần.
Sau này các phương pháp huấn luyện sẽ được dùng đến và đă bước vào giai đoạn sơ bộ nhờ công tŕnh của các nhà tâm lư học trên thế giới.
Về các song hành khoa học
Dường như các nhà nghiên cứu cho là chúng tôi, các huấn sư ở nội giới, có đọc hết mọi sách đă được viết ra, đặc biệt là những sách tiêu biểu cho các chân lư tiến bộ và mới mẻ, và cho rằng chúng tôi cũng liên lạc với cá nhân của những người phân phát kiến thức mới trên thế gian. Không hẳn như vậy đâu. Làm sao tôi có thể giải thích cho bạn t́nh trạng thực sự của các sự việc? Tôi nghĩ, đó chỉ là tượng trưng.
368
Khi chúng
tôi lục lọi khắp thế giới của trí năng
và đưa tư tưởng chúng tôi, từ các
điểm của tri thức linh hoạt, đến
nơi đó, chúng ta có thể bắt đầu biết
được các vùng ánh sáng (theo cách hiểu của chúng
tôi) đang tỏa chiếu trên cơi trần. Các vùng đó báo
hiệu ánh sáng đang tỏa chiếu của một
người phụng sự trong lĩnh vực nào đó,
của một đệ tử hay của một thành viên
của Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế
Gian. Thí dụ, tôi biết rằng các vùng như thế
nằm ở (về phần nước Mỹ) Baltimore,
Chicago, Cleveland và Rochester. Nhờ một cách chiếu sáng cá
biệt, ánh sáng đó báo cho tôi biết rằng có một
trung tâm, nơi đó các tri thức mới liên quan
đến cơ thể con người được t́m
ra. Tôi biết rằng có những vùng ánh sáng khác hiện
hữu trên khắp thế gian. Công việc của tôi và công
việc của tất cả các huấn sư trong giai
đoạn chuyển tiếp này là cổ vũ những
người đó, và làm cho trí năo của họ
được phong phú bằng nhiều ư tưởng.
Mọi lư thuyết mà họ lập ra trong việc t́m ṭi
chân lư của họ, mọi sách vở mà họ viết và
mọi kết luận mà họ đạt tới, chúng tôi
không được biết. Họ phải chịu trách
nhiệm của họ và thất bại hoặc thành công
trong việc đạt tới chân lư do chính nỗ lực
riêng của họ.
Cách đây nhiều năm, H.P.B. có tiên đoán công việc hiện đang được làm, khi bà nói đến sự thừa nhận sau cùng cần được chấp nhận bởi khoa học, đối với một Đấng Thiêng Liêng toàn hiện có ở khắp nơi (bà cũng nói với chúng ta chất dĩ thái của không gian là một thực thể) và rằng cái bí nhiệm của điện, khi được giải đáp, sẽ nắm giữ cho chúng ta cách giải quyết các vấn đề quan trọng nhất của chúng ta. Nhiều lư thuyết của khoa học hiện đại được đưa ra trong bộ "Luận Về Lửa Càn Khôn", dù cho các nhà khoa học đă chưa đi đủ xa để nhận biết sự kiện này; nơi đó bản chất điện của con người được đặt ra. Bạn sẽ thấy quả là lư thú và hữu ích khi t́m ra những hướng đi như thế. Tuy nhiên, khoa học không đưa ra được vị trí nào về mănh lực điện của linh hồn mà ngày càng tăng gia tiềm lực. Một số ít nhà khoa học thuộc số những kẻ tiến bộ nhất đang bắt đầu làm việc này. Bước kế tiếp trước mắt đối với khoa học là việc phát hiện ra linh hồn, một phát hiện sẽ làm thay đổi hoàn toàn, dù không phủ nhận đa số các lư thuyết của họ.
369
Từng
môn sinh riêng biệt có thể giúp vào việc này nếu
họ chọn một vài định đề căn
bản của một khoa học gia mà các t́m kiếm
của người này đă lôi cuốn được
họ, và cố gắng để khám phá trong các sách
của tôi, chẳng hạn, hay là trong Giáo Lư Bí Nhiệm các
đoạn mà sẽ đưa ra ánh sáng của huyền
học dựa vào những ǵ mà y nói, hoặc những ǵ có
thể phủ nhận giả thuyết của y. Lúc
bấy giờ, họ sẽ phát triển và vận dụng
trí phân tích như là một yếu tố nối liền
giữa thế giới của khoa học con người
và các khoa học huyền linh.
Về các ions [4] và các bức xạ
Các nhà khoa học có phát biểu rằng không khí chúng ta thở chứa các hạt có mang điện dương hoặc được tích điện âm, và họ có thể tạo ra không khí mang điện do nhân tạo; rằng ngay cả một ngọn lửa để hở trong một ḷ sưởi cũng ion hóa không khí; rằng với bộ máy thích hợp, người ta có thể hoặc là rút ra các ions âm hoặc ion dương, và rằng các bệnh nhân phơi ra với các ions mang điện dương đă nhận thấy các cảm giác mệt mỏi, chóng mặt và nhức đầu, trong khi đó, nếu phơi ra dưới các ions tích điện âm, th́ người ta có cảm giác khoan khoái; rằng các ions dương làm tăng huyết áp và thường tạo ra sự khó chịu, c̣n các ions âm làm hạ huyết áp và mang lại một cảm giác dễ chịu, thơ thới (relaxation).
Vấn đề nảy sinh là không biết bức xạ của người chữa trị có gây ra ion hóa không khí bao quanh người bệnh hay không? Để trả lời cho câu hỏi trên một cách chính xác, tôi xin nêu ra rằng cần phải có hai sự việc: khai mở một trong các bí ẩn mà nhân loại vẫn chưa sẵn sàng đón nhận, và đồng thời đưa ra câu trả lời hoàn toàn không thể giải thích được cho bạn, v́ không có thuật ngữ nào thích hợp cho chân lư tiềm tàng này. Trong chân lư này có thể hiện toàn bộ câu chuyện về lưỡng nguyên, vốn là câu chuyện về sự liên hệ của các trạng thái âm và dương của diễn tŕnh sinh hoạt. Tuy nhiên, tôi có thể nêu ra một vài điều:
370
1. Các
ions âm và dương mà các nhà khoa học nói đến có
bản chất là dĩ thái và do đó thuộc về cơi
trần. Các cấu tử vô h́nh này của vật chất
chỉ có thể được truy ra nhờ các hiệu
quả của chúng và nhờ sự can thiệp đến
các hoạt động của chúng, là các cấu tử
đang chuyển động một cách nhanh chóng liên quan
với nhau và đồng thời chính chúng chịu tác
động bởi một yếu tố kiềm chế
lớn hơn, giữ cho chúng chuyển động như
thế.
2. Liên quan với bệnh tật, người bệnh chỉ có thể được trợ giúp thực sự khi bức xạ dương của nhà chữa trị thắng được t́nh trạng âm của bệnh nhân.
3. Bức xạ của nhà chữa trị phải ngấm vào và khắc phục được sự đề kháng của cơn bệnh của bệnh nhân – không phải bức xạ của bệnh nhân tức là kẻ mà về mặt trí tuệ và t́nh cảm, có thể là âm đối với nhà chữa trị, và do đó ở một vị thế cần được giúp đỡ. Việc chữa trị tiến hành được nhờ bức xạ mạnh hơn của nhà chữa trị. Lúc bấy giờ từ điện của nhà chữa trị đi vào hoạt động, và với ư định rơ rệt, người đó có thể rút ra và phân tán các nguyên tử của vật chất nguyên là trung tâm và cội nguồn của khổ đau của bệnh nhân. Một ám chỉ được đưa ra ở đây về một trong các cách xua tan bệnh ở cơi trần trong tương lai. Sức mạnh để hướng các luồng từ điện phát ra từ một cội nguồn bên ngoài thể xác vẫn chưa được hiểu rơ, nhưng nó sẽ tiêu biểu cho một trong các cách chữa trị mới mẻ.
371
Do
đó bức xạ chữa trị đương nhiên tác
động vào bầu không khí chung quanh người
bệnh. Tuy nhiên, cho đến nay bức xạ đó
vẫn không đồng đều và không được
điều động vào đúng chỗ. Một số
người phóng ra từ điện xác thân hay từ
điện động vật; một số khác từ
thể cảm dục hay thể trí; c̣n một số khác
nữa phát ra năng lượng của phàm ngă hội
nhập đầy đủ. Một ít người phát ra
từ điện của linh hồn, năng lượng
thu hút chính dưới mọi h́nh thức. Trong tương lai,
nhà chữa trị chân chính phải tác động qua
bức xạ của toàn thể phàm ngă hoặc của linh
hồn. Tôi nói "hoặc là" một cách thận
trọng, v́ cho đến nay có một ít người có
thể hoạt động với năng lượng linh
hồn, nhưng nhiều người có thể hoạt
động với tư cách là các phàm ngă hội nhập
nếu họ thích như thế. Và khi một người
đă đạt tới quyền năng để phóng phát
này, th́ điều ǵ sẽ xảy ra với người
bệnh? Làm thế nào mà y được đưa tới
một t́nh trạng mà y sẽ đáp ứng một cách
chính xác với bức xạ từ điện? Nếu y
thuộc loại cảm dục như là hiện đang có
rất nhiều, y sẽ có thể đáp ứng với
từ điện của một nhà chữa trị tâm
thần được chăng? Y có thể được
trợ giúp bởi bức xạ của một nhà chữa
trị như thế hay không nếu chính y là một
người được hợp nhất đầy
đủ? Nếu bạn nói với tôi rằng Đức
Christ đă chữa trị tất cả mọi loại
bệnh, ở đây tôi xin gợi ư rằng tôi không bàn trong
bộ sách ngắn ngủi này các định luật
chữa trị như chúng được Chân Sư minh
triết hoặc điểm đạo đồ vận
dụng. Ngược lại, quyển sách của tôi sẽ
là một nỗ lực vô ích. Tôi đang viết cho
những người chú tâm t́m đạo và cho những ai
có thể chữa trị ở một mức độ nào
đó dưới mức độ của linh hồn, nhưng
cho đến nay không ai biết làm việc đó ra sao.
Về sau, mọi điều này sẽ được làm
sáng tỏ đầy đủ
hơn.
Về sự rung động (On vibration)
Một số môn sinh thỉnh cầu tôi định nghĩa từ ngữ "rung động" là ǵ, và tŕnh bày một cách chính xác một rung động là ǵ. Nếu tôi bảo với bạn rằng rung động là một ảo tưởng (illusion) cũng như một nhận thức bằng giác quan được linh hồn nhận biết, th́ bạn có hiểu được không (bị giới hạn như tất cả mọi người đang bị bằng các phản ứng của một loạt các hiện thể tất cả đều là các khí cụ của tri giác)? Nếu tôi nói với bạn rằng phản ứng rung động là do chúng ta có một cơ cấu đáp ứng với va chạm (impact), th́ tôi đang trả lời cho câu hỏi của bạn một phần nào, nhưng nếu điều này đúng, th́ nó có ư nghĩa ǵ đối với bạn, và lúc nào xảy ra va chạm đó? Nếu tôi trao cho bạn một định nghĩa khoa học (mà bạn có thể t́m thấy trong bất luận một quyển sách giáo khoa đặc sắc nào về ánh sáng, màu sắc hoặc âm thanh), ấy là tôi đang làm công việc mà chính bạn có thể làm, và do đó, tôi không có th́ giờ. Trong các sách của tôi có vài định nghĩa về rung động, hoặc là bởi sự suy diễn, hoặc là được định nghĩa, và bạn có thể t́m ṭi các điều này và suy tư về chúng. Ở đây, nếu tôi giải thích cho bạn liên quan giữa Ngă với Phi Ngă, giữa tri thức (awareness) tức cái được biết với đối tượng nhận thức, th́ tôi đang tạo nên một nền móng mà khi nghiên cứu cẩn thận về kinh Gita, bạn mới hiểu được.
372
Hăy
để sự mộc mạc làm người dẫn
đường của bạn và t́nh thương nhất
tâm làm mục tiêu chính của bạn. Hăy chọn một lănh
vực phụng sự nào có các giới hạn rơ rệt
của nó (v́ mọi đệ tử đều bị
hạn chế và không thể bao gồm phạm vi hành tinh
trong các ư tưởng của họ) và – về mặt tinh
thần và vật chất – hoạt động bên trong các
giới hạn này. Việc hoàn tất một bổn
phận tự ấn định nào đó bên trong lĩnh vực
giới hạn nghiệp quả thuộc về môi
trường mà vận mệnh của bạn đă an bài
cho bạn, là tất cả những ǵ được
đ̣i hỏi nơi bạn. Vào lúc này, bạn thực
sự thành đạt được điều ǵ? Hăy
để cho việc phụng sự của bạn nằm
bên trong lănh vực tiếp xúc, nơi mà bạn tự t́m
thấy ḿnh chứ không vươn tới toàn bộ hành
tinh. Phải chăng có bất cứ một nhiệm
vụ nào to tát hơn hoặc quan trọng hơn để
làm tṛn bổn phận của bạn và đưa nó
đến hoàn thành khi nào bạn hiện hữu và với
những kẻ đồng tâm được lựa
chọn của bạn?
Hăy tin nơi tôi khi tôi đoan chắc với bạn rằng tôi không t́m cách trốn tránh trả lời bất cứ câu hỏi nào, nhưng nếu tôi có thể làm cho bạn nhận biết sự cần thiết về "giới hạn tâm linh" (như đă được gọi về mặt huyền bí khi xác định quá tŕnh phát triển của một đệ tử trong ṿng các giới hạn về bổn phận của y) và làm cho bạn chú tâm đến việc cần phải đạt mục tiêu mà bạn đă tự đặt ra cho bạn khi bạn bắt đầu hành động, tôi sẽ giúp bạn nhiều hơn nếu tôi định nghĩa sự rung động hay nêu ra cho bạn một cách chính xác bao nhiêu tiến bộ, nhờ tiến tŕnh ǵ mà bạn hay những kẻ khác đă làm.
Về các trường phái chữa trị sau này
Các trường phái chữa trị này không được phát triển trong tương lai gần, không xảy ra trước khi chấm dứt thế kỷ này.[5] Chỉ có công tác chuẩn bị hiện đang được tiến hành, c̣n phạm vi hoạt động được sắp xếp – cho các khai mở sau này. Các sự việc không tiến triển nhanh như thế. Phải có một sự tổng hợp đang phát triển về các kỹ thuật của các trường phái như thế, bao gồm:
1.Các hiệu chỉnh và chữa trị về mặt tâm lư.
2.Chữa trị bằng từ điện.
3.
373
Các
kỹ thuật hay nhất trong các kỹ thuật
đối chứng liệu pháp và đồng chứng
liệu pháp mà chúng ta không nên phí phạm.
4.Chữa trị bằng phẫu thuật với các h́nh thức hiện đại của khoa đó.
5.Chữa trị bằng điện.
6.Chữa trị bằng nước (water-therapy).
7.Chữa trị bằng màu sắc, âm thanh và bức xạ.
8.Y học pḥng ngừa.
9.Các thực hành chủ yếu của thuật nắn xương và thuật nắn cột sống.
10.Thần kinh học và bệnh học tâm thần.
11.Chữa trị các ám ảnh và các bệnh tâm thần,
12.Săn sóc mắt và tai,
13.Trau dồi tiếng nói, vốn là một phương tiện chữa trị rơ rệt.
14.Chữa trị bằng tâm trí và bằng niềm tin.
15.Sự chỉnh hợp và tiếp xúc của linh hồn.
và nhiều tiến tŕnh và phương cách khác vốn tùy thuộc vào thuật chữa trị. Một vài trong số các trường phái cổ xưa hơn, như là đối chứng liệu pháp, cần đến một tiến tŕnh thải trừ để đi đến sự đóng góp thiết yếu và chân thực mà họ phải mang lại. Những trường phái khác thuộc loại hiện đại và thử thực nghiệm phải được đưa lên khỏi tầm tay của những kẻ cuồng tín, v́ cho đến khi mà sự cuồng tín cùng với sự mù quáng của nó, và việc thiếu sự tổng hợp sáng suốt bị tàn lụi (v́ điều đó tất phải xảy ra khi cung 6 thoái lui và Kỷ Nguyên Song Ngư kết thúc), các trường phái mới không thể tồn tại như chúng đáng lẽ tồn tại; phải có một sự hiểu biết sâu sắc hơn về cái thiện hảo căn bản ẩn dưới mọi trường phái, và một hiểu biết rơ rệt hơn về các nguyên lư đang ẩn dưới thuật chữa trị chân chính, trước khi mà các trường phái, được đề cập đến trong "Thư về Tham Thiền Huyền Linh" có thể xuất lộ. Như trường hợp xảy ra ngày nay, khi một nhà trị liệu hoặc trường phái nào đó, đặt toàn bộ tầm quan trọng vào một số thuốc trị bách bệnh có cầu chứng và xem thường tất cả các hệ thống tiết thực hoặc phương pháp khác, điều đó sẽ không thể xảy ra khi thiết lập các trường phái chân chính.
374
Giai
đoạn tới, khi mà chúng ta sẽ chuyển qua một chu
kỳ mà chúng ta sẽ thu thập kết quả của các
thời đại; trong đó, chúng ta sẽ gạn lọc
(tôi tạm diễn tả như thế) chất kem ra
khỏi chất sữa theo kinh nghiệm của con
người; và lúc bấy giờ với những ǵ
tuyệt diệu nhất mà quá khứ có thể ban cho chúng
ta, chúng ta sẽ mở ra các kế hoạch hoạt
động mới mẻ để thúc đẩy nhân
loại tiến tới.
Trong các kế hoạch hoạt động mới này, thuật chữa trị sẽ đi trước, v́ nó thiết yếu nhất.
Chúng ta sẽ thấy rằng công việc đang thu hút sự chú tâm của chúng ta sẽ thuộc vào ba loại; các loại này sẽ thể hiện ra theo tŕnh tự chứ không phải cùng một lúc.
1. Việc luyện tập theo các nguyên tắc của thuật chữa trị, v́ chúng ta
a.Đặt nền tảng cho sự mở rộng sau này trong Kỷ Nguyên mới.
b.T́m cách bảo tồn những ǵ tốt đẹp và hữu ích trong việc chuyển tầm quan trọng từ con người bên ngoài đến thể dĩ thái và thể sinh lực tinh anh hơn.
c. Nghiên cứu bộ luận về cách chữa trị mới này để đáp ứng với một phạm vi mà sau này sẽ trở nên hữu dụng thực sự.
2. Sau này, khi một nhóm có thể hoạt động chung với nhau một cách vô tư với tư cách là một đơn vị và với sự tương tác đích thực của t́nh thương, một nhóm như thế lúc bấy giờ có thể bắt đầu thực hiện một việc chữa trị rơ rệt nào đó; thí dụ, lấy một trường hợp về bệnh thể chất thường xảy ra, về sự ám ảnh hay là về khó khăn tinh thần và – thực hành dưới sự điều khiển của linh hồn hoặc một đệ tử được điểm đạo nào đó và phù hợp với giáo huấn được phác thảo trong bộ luận này – t́m cách chữa trị và trợ giúp. Việc nghiên cứu về cách từ trần cũng là để lôi cuốn sự chú tâm của bạn và sau đó, sự chú tâm của thế gian, nói chung.
375
3. Sau
rốt sẽ tới việc thành lập các nhóm phụ,
cần được dạy dỗ và phát triển bởi
các thành viên của các nhóm chữa trị tiên phong,
dưới sự hướng dẫn của linh hồn,
hoặc dưới sự hướng dẫn của
một đệ tử được điểm
đạo nào đó. Các nhóm phụ thuộc này sẽ
hoạt động dưới sự điều khiển
của nhóm để chữa trị con người. Tuy
nhiên điều này sẽ không xảy ra trong một vài
năm nữa, và không xảy ra cho tới khi nhóm
điểm đạo (hoặc nhiều nhóm) có thể
hoạt động với một mức độ thành
công, và các thành viên của nhóm có một hiểu biết sáng
suốt về kỹ thuật và các nguyên tắc liên quan
tới việc chữa trị. Các phát triển bên ngoài
của việc chữa trị trong Kỷ Nguyên Mới
sẽ vượt lên trên tất cả.
Không một môn phái hiện có nào ngày nay sẽ được duy tŕ. Tất cả đều biểu hiện cho một chân lư, nguyên lư hoặc ư tưởng hữu ích nào đó. Tôi muốn nêu ra rằng một nhóm tổng hợp vẫn sẽ là một thực thể riêng biệt và tách rời, và không một nhóm nào như thế là mục tiêu của chúng ta cả, . Chính việc tổng hợp sự sống và sự hiểu biết mới là đáng kể chứ không phải sự tổng hợp của con người. Chúng ta hăy hy vọng sau rốt sẽ có hàng trăm và hàng ngàn nhóm trên khắp thế giới, sẽ thể hiện cách chữa trị mới này, họ sẽ được ràng buộc với nhau nhờ sự hiểu biết chung và mục đích chung của họ, nhưng tất cả sẽ thể hiện điều này một cách hiệu quả nhất theo khả năng của họ, trong lănh vực đặc biệt của riêng họ, bằng cách riêng của họ, và theo thuật ngữ đặc biệt của riêng họ. Đó là sự hợp nhất của sự sống bên trong có liên quan tới các huấn sư trên khía cạnh bên trong của đời sống, và việc tạo ra một mạng lưới các nhà chữa trị chân chính trên khắp thế giới.
Hiện nay, một khởi đầu mới mẻ đang h́nh thành. Chúng ta sẽ và chắc chắn thừa hưởng được sự kỳ diệu của các kiến thức đă nhận được từ quá khứ, và việc sử dụng nhiều điều trong kiến thức đó sẽ c̣n tồn tại; tất cả những ǵ cần là loại ra cái không được ưa thích và các diễn dịch do việc hiểu sai các sự kiện đă biết và kiến thức áp dụng sai, cũng như chấm dứt sở thích ích kỷ, khai thác tài chính và tham lam tài chính. Khoa giải phẫu hiện đại, các phương pháp vệ sinh hiện đại và ngành y học hiện đại đều đầy dẫy cái kỳ diệu và hữu ích.
376
Thư gửi một nhà khoa học
Bạn thân mến,
Sáng nay tôi có được vài phút thư thả, sau khi đọc cho A.A.B. viết, tôi sẽ cố gắng đưa thêm một ít ánh sáng vào các câu hỏi mà bạn đă nêu. Như bạn sẽ ghi nhận, tôi không nói rằng tôi sẽ trả lời các câu hỏi. Các khám phá của khoa học cho đến nay không đủ để đáp ứng các tiên đoán mà tôi đă đưa ra trong bộ Luận Về 7 Cung. Vào cuối thế kỷ này và khi t́nh h́nh thế giới đă sáng tỏ và giai đoạn xây dựng lại dần dần đến chỗ kết thúc, các khám phá sẽ được thực hiện, chúng sẽ tiết lộ một số sức mạnh về điện từ trước đến giờ chưa được nhận biết. Tôi không biết ngôn từ nào khác nữa để dùng chỉ các tia điện (electrical rays) này, các tia đó sẽ lộ diện và dẫn đến khả năng vượt ngoài ước mơ của các nhà khảo cứu ngày nay. Trong thế kỷ tới, khoa điện học trong tương lai sẽ khác nhiều, cũng như cách dùng điện hiện nay khác với cái hiểu biết của nhà khoa học thời nữ hoàng Victoria (1837 – 1901).
377
Về
thắc mắc của bạn liên quan đến nhiếp
ảnh, chính thuật này liên quan tới các linh hồn quá cố.
Tôi xin nhắc bạn rằng việc t́m hiểu về
tiến tŕnh này sẽ đến từ một nghiên
cứu về cách chụp h́nh các h́nh tư tưởng.
Phần đầu được thực hiện liên quan
đến điều này do một nhà khoa học vĩ
đại Pháp, ông d'Arsonval, ở Paris. A.A.B. có thể
kể cho bạn một số điều về chuyện
này nếu bạn không biết rơ. Ánh sáng về vấn
đề đó sẽ đến qua câu chuyện này, qua
việc hoàn thành các âm bản tiếp nhận và độ
nhạy của chúng tăng lên nhiều và nhờ việc
liên kết điện với cách chụp ảnh. Bạn
có thể cho là điều đó hầu như không thể
làm được các âm bản (plates) có độ nhạy
lớn hơn là các âm bản đang được dùng
trong các pḥng thí nghiệm trang bị hiện đại
nhất. Nhưng không phải thế đâu. Theo
đường lối chụp - h́nh - tư - tưởng
này và thiết bị điện, giải pháp sẽ
tới. Chính tư tưởng của những
người ở phía bên kia và năng lực phóng ra các h́nh
tư tưởng của chính họ, cộng với
việc cung cấp âm bản nhạy bén thích hợp hay
tương đương với chúng, sẽ đánh
dấu một kỷ nguyên mới về cái được
gọi là "chụp h́nh vong linh"("spirit
photography"). Con người thường bận tâm
với dụng cụ hữu h́nh ở phía này của
bức màn, đến nỗi họ quên đi cái yếu
tố của những ǵ phải được đóng góp
từ phía bên kia của những người đă qua
đời.
Công việc sẽ được thực hiện từ đó, với sự trợ giúp vật chất mà cho đến nay không được cung cấp trong lĩnh vực khoa học bên ngoài.
Để tạo ra điều này, sự cộng tác của một đồng tử hữu ư, không phải là một đồng tử xuất thần, mà là một người nào đó có được nhăn thông và nhĩ thông thực sự) sẽ được cần đến. Có nhiều người như thế đang phát triển trong đám con trẻ ngày nay, và thế hệ sắp tới sau chúng sẽ cung cấp nhiều hơn nữa. Bức màn phân cách sẽ tan biến qua bằng chứng của hàng ngàn người có thể thấy được hiện tượng và nghe được âm thanh đang nằm bên ngoài phạm vi nhận biết được.
Bạn nói rằng các vong linh (spirits) cho rằng họ không thể chịu đựng được luồng điện. Điều đó hàm ư rằng họ không thể hứng chịu được ḍng điện như nó đang được đặt sát vào hiện giờ. Đây là một thí dụ của các phát biểu thiếu chính xác được truyền đi bởi các đồng tử thiếu hiểu biết hoặc bởi những người ở bên kia cửa tử, họ không hiểu biết nhiều về các định luật điện hơn là họ có thể có được khi c̣n ở trong thể xác. Không có ǵ khác ngoài điện lực (electricity) đang biểu lộ, cái "bí nhiệm của điện" được H.P.B. nói đến trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm. Mọi vật trong Thiên Nhiên, đều có bản chất là điện; chính sự sống là điện, nhưng tất cả những cái mà chúng ta đă tiếp xúc và vận dụng ngày nay là những ǵ chỉ là vật chất, nó liên quan với và có sẵn trong chất hồng trần và chất dĩ thái của mọi h́nh hài.
378
Cần
nên nhớ rằng cái gọi là "các vong linh"
đều đang hoạt động trong thể cảm
dục ảo, trong khi các "spirits" tiến hóa chỉ
hoạt động như thể trí và do đó có thể
chỉ tiếp xúc được bằng trí chứ không bằng
cách nào khác. Không bao giờ có thể chụp h́nh thể trí,
chỉ có thể cảm dục mới nhạy cảm
để chụp ảnh. Con người khi c̣n sống
càng có dục vọng và ham muốn thô trược chừng
nào, th́ càng dễ được chụp ảnh sau khi qua
đời (nếu có ai đó muốn thu h́nh y !); c̣n
người càng tiến hóa th́ càng khó chụp h́nh hơn.
Về việc sử dụng radio như là phương tiện liên lạc với "thế giới tinh thần", các khí cụ về điện hiện nay có rung động quá chậm chạp (tôi tạm dùng một thuật ngữ kém khoa học như thế) không thể làm được việc này. Nếu các "vong linh" thể cảm dục tiến gần các dụng cụ đó, họ thường có phản ứng gây rối loạn. Tuy nhiên dấu hiệu thứ nhất về sự sống sau khi chết theo cách sao cho nó có thể được ghi nhận trên cơi trần sẽ xuất hiện qua radio, bởi v́ âm thanh luôn luôn đi trước h́nh ảnh. Hăy suy gẫm về điều này. Tuy nhiên, không một loại radio nào hiện có, lại đủ nhạy để mang được sóng âm thanh từ cơi cảm dục.
379
Do
đó, các khám phá khoa học tương lai sẽ nắm
giữ bí mật. Về phần tôi, đây không phải là
sự lẩn tránh, mà là một phát biểu đơn
thuần về sự thật. Khám phá về điện
chỉ mới ở giai đoạn mở đầu, và
tất cả những ǵ mà chúng ta có chỉ là mở
đầu cho khám phá thực sự. Sự huyền
diệu của radio đối với con người
ở thế kỷ 18 là hoàn toàn không thể tin
được. Các khám phá và phát triển ở phía
trước trong thế kỷ 21 cũng sẽ không thể
tin được đối với con người ở
thế kỷ này. Một khám phá lớn liên quan tới việc
sử dụng ánh sáng bằng sức mạnh và
phương tiện điều khiển của tư
tưởng sẽ xảy đến vào lúc kết thúc
thế kỷ này hay là lúc bắt đầu thế kỷ
tới. Hai nhóm trẻ con – một đang sống ở
Mỹ và một ở Ấn Độ – sẽ tính ra
một công thức theo các đường lối khoa
học, chúng sẽ lấp đầy một số trong các
lỗ hổng hiện nay có trong thang rung động
của ánh sáng, xảy ra từ các tia và các làn sóng có tần
số cao như hiện nay bạn đă biết.
Điều này sẽ cần đến các dụng cụ
mà cho đến nay không ai mơ tưởng đến
nhưng hoàn toàn có thể có được. Chúng sẽ
nhạy bén đến nỗi chúng sẽ được
khởi động bằng sức mạnh của mắt
người theo hướng tập trung của tư
tưởng. Từ đó mối liên giao có thật với
thế giới tinh thần mới có thể có
được. Tôi không thể làm ǵ nhiều hơn là
đưa cho bạn đầu mối.
Tôi cũng bị trở ngại do sự hoàn toàn không hiểu biết của A. A. B. về các vấn đề liên quan đến các thuật ngữ và kiến thức về điện. Không một tư tưởng mầm mống nào trong trí của bà về những ǵ tôi có thể làm hay là từ đó tôi có thể mở rộng ư tưởng. Bà có thể giải thích những ǵ tôi muốn nói nếu bạn yêu cầu bà giải thích. Nhưng cho dù bà có được sự huấn luyện như bạn có, tôi cũng không thể giải thích một cách rơ ràng, v́ trước tiên, phải khám phá, và khám phá này sẽ cách mạng hóa mọi ư tưởng hiện nay, ngay cả trong khi xuất phát các ư tưởng đó. Một bộ luận thông thường về điện chẳng hạn như được các kỹ sư điện nghiên cứu, sẽ hoàn toàn không thể hiểu được ngay cả với người có học thức cao nhất cách đây 200 năm, hoặc ngay cả 100 năm đi nữa, t́nh thế hiện nay cũng giống như vậy. Trong khi ấy, công việc về chụp ảnh tư tưởng cũng như là một hành động mở đầu cho khoa học sắp tới, v́ nhờ việc đó, và việc phát triển từ từ các cách ghi nhạy bén hơn để ghi và thu lại các hiện tượng tinh vi, mà ư tưởng mới và các khả năng mới sẽ đến. Liệu có ư nghĩa ǵ chăng đối với bạn, khi tôi nói rằng điện và chụp ảnh có liên hệ chặt chẽ với nhau, bởi v́ con người có cội nguồn và bản chất là điện? Điều này phải được chứng minh trên cơi trần nhờ sự trợ giúp của các máy móc tinh nhạy cần thiết.
Tháng 2 – 1944
380
PHẦN HAI
NHU CẦU CĂN BẢN VỀ CHỮA TRỊ
Nay, chúng ta sang một đoạn mới trong thảo luận về các Cung và Bệnh tật. Về bản chất, đoạn này có phạm vi thực tiễn nhiều hơn là đoạn có tính chất suy đoán cao siêu (suy đoán cho tất cả các bạn) mà chúng ta vừa kết thúc. Nhiều điều mà tôi nói ra ở đó với bạn, đối với bạn, có bản chất của chân lư đáng ngờ (dùng thuật ngữ “đáng ngờ – questionable” theo nghĩa thực sự của nó; nghĩa là, các câu hỏi thôi thúc). Đối với người có trực giác nhất trong các bạn, đó là một giả thuyết “có thể chính xác” nhất. Ở đây, tôi muốn đ̣i hỏi bạn ghi nhận cách diễn đạt này v́ nó có vẻ nghịch thường. Bạn không có cách trực tiếp để biết nó có thể chính xác tới mức nào. Một số lớn bí mật của sự sống và của cách sống sẽ sáng tỏ khi người t́m đạo trên thế giới ngày càng bắt đầu hoạt động hữu thức trong lĩnh vực nguyên nhân. Không có nghi vấn nào trong Thánh Đoàn, ngoại trừ về các đề tài có đề cập tới bản chất không thể tiên đoán của các phản ứng con người. Ngay cả liên quan tới các hoạt động thất thường của nhân loại, các Chân Sư thường có thể đánh giá /đo lường (gauge) những ǵ sẽ xảy ra, nhưng về mặt huyền bí, các Ngài từ chối “xem xét về các năng lượng được giải phóng trên cơi sinh hoạt hồng trần, v́ e ngại các sức mạnh trái ngược (counter-energies), xuất phát từ Trung Tâm nơi mà Các Ngài đặt trú sở, có thể chối bỏ chân lư về tự do ư chí của con người”. Ở đây tôi dẫn chứng một trong các Đức Thầy, phát biểu ở một hội nghị được triệu tập năm 1725.
381
Những ǵ tôi nói với bạn trong phần trước, theo tôi, là một chân lư chắc chắn và đă được chứng minh thực sự. Đối với bạn, nó có thể là một giả thuyết thích hợp hoặc là một giải thích
đáng ngờ và không thể chấp nhận đối
với các nguyên nhân của bệnh tật ẩn bên dưới.
Đằng sau nhân loại có một quá khứ rất cổ xưa trải dài, trong đó cái gọi là tội lỗi và lầm lạc, hành vi sai trái và các thái độ không đúng đă chồng chất một karma rất nặng nề, mà (may thay cho nhân loại!) đang nhanh chóng được loại bỏ vào lúc này. Sự quan tâm rất nhiều vào bệnh tật đang lộ ra ngày nay, việc tập trung của mọi nguồn y học và giải phẫu v́ các lực lượng chiến đấu – (các tài nguyên cần được huy động sau này trong việc trợ giúp các cư dân văn minh của các xứ bị tàn phá trong cả hai bán cầu) – việc nghiên cứu rộng răi được xúc tiến trong các bệnh viện và các trung tâm nghiên cứu, và các khám phá nhanh chóng của khoa học, cộng với một khuynh hướng vững vàng hướng về một đơn giản hóa rất cần thiết, chẳng bao lâu nữa sẽ mang lại các thay đổi quan trọng trong việc tiếp cận bệnh tật. Các điều này sẽ dẫn đến việc xóa đi nhiều bệnh bị kế thừa đáng sợ.
Nguồn hứng cảm và ḍng lưu nhập của kiến thức huyền môn, xuyên qua các đệ tử và điểm đạo đồ trên thế giới, sẽ mang lại nhiều thay đổi trong kỹ thuật. Sự thiên khải sắp tới của các định luật về sức khỏe mới mẻ tuy rất đơn giản, và việc pha trộn tất sẽ xảy đến đối với y học chính thống, tâm lư học và các phương pháp chữa trị tâm linh, sẽ tạo ra một tiếp cận hoàn toàn mới cho toàn bộ vấn đề; việc sử dụng lửa ngày càng nhiều như một phương tiện thanh lọc (cả trong mối liên hệ với đất của hành tinh, lẫn với cơ thể con người) sẽ tạo ra nhiều vấn đề. Về việc này, kỹ thuật gây ra sốt như là phương tiện chữa trị một vài h́nh thức bệnh và phương pháp (thường được tạo hóa dùng đến) bắt các khu đất rộng chịu ảnh hưởng của lửa, sẽ được triển khai thành môn học mới và hữu ích nhất. Tuy nhiên, việc này sẽ đến sau. Tôi chỉ nêu ra các khuynh hướng mơ hồ trong chiều hướng đó.
382
Trong
mọi lĩnh vực của tri thức, con người đứng ở điểm tột đỉnh; điều này được đem lại do việc khai mở nhanh chóng tâm thức con người, việc đó mở đầu cho phát triển hiểu biết lớn lao và một tầm nh́n xa vào các
nguyên nhân chi phối vốn chịu trách nhiệm cho nhiều điều mà ngày nay gây phiền toái cho thể xác con người.
Học vấn mới và kiến thức sắp đến sẽ xuất hiện theo kết quả của trực giác khai mở, của sự hiện diện trên cơi trần của rất nhiều linh hồn đă tiến hóa và phát triển, và việc Thánh Đoàn và nhân loại tiến vào một liên hệ mật thiết hơn. Việc pha trộn (từ từ xảy ra) của năng lượng thuộc hai trung tâm hành tinh này sẽ mang lại các thay đổi và khai mở quan trọng, và điều này không chỉ ở trong các quan năng nhận thức của con người, mà cũng c̣n ở trong các cơ cấu vật chất nữa. Sẽ có một trở lực lớn hơn nhiều đối với các bệnh bẩm sinh và kế thừa, và một năng lực thực sự đề kháng với các cảm nhiễm, điều này sẽ loại ra nhiều đau khổ. Viêc hạ giảm tổng số Karma nhân loại qua kinh nghiệm của chiến tranh hành tinh (1914–1945) sẽ giúp cho các linh hồn đang t́m cách luân hồi, tạo ra các thể không nhiễm các khuynh hướng đưa đến các phát triển bệnh hoạn. Các Đức Thầy hoàn toàn thoát khỏi bệnh tật v́ Các Ngài đă hoàn toàn vượt qua Karma của ba cơi thấp và được giải thoát.
383
Năng
lực – đă phát triển trong năm mươi năm qua –
để đương đầu với bệnh lao hành tinh sẽ, khi mở rộng vào các vùng dân cư đông đúc của phương Đông và đến các khu vực đang chịu đau khổ từ trước đến giờ do sự quan tâm không thích
đáng về thuốc men, loại trừ bệnh lao hoàn toàn. Bệnh giang mai đang được đưa vào kiểm soát nhanh chóng qua
việc dùng các thuốc mới được khám phá, mặc dầu các thuốc này được các Đức Thầy xem như chỉ có tác dụng cải thiện và có kết quả hời hợt trong thời gian và không gian.
Các bệnh này sẽ từ từ và bị hủy diệt toàn bộ khi nhân loại chuyển di tâm thức lên cơi trí và ra khỏi lĩnh vực t́nh cảm và tính dục với phản ứng phản xạ tự nhiên trên thể xác tự động đáp ứng. Loại bệnh lớn thứ ba của hành tinh, tức ung thư, cho đến nay, về cơ bản chưa được kiểm soát, và hiện nay cách duy nhất có thể chữa trị tương đối đơn giản là giải phẫu. Cách ngừa xảy ra ung thư và bản chất nguyên nhân của nó vẫn c̣n chưa hiểu rơ, toàn bộ lĩnh vực phần lớn là suy luận và vẫn phụ thuộc vào việc t́m ṭi có giới hạn. Nhiều ốm vặt, nhiễm trùng và một tầm mức rộng các bệnh thể chất liên hệ sau rốt có thể được truy nguyên đến một trong số ba bệnh căn bản này. Đến lượt, chúng được liên kết vói việc chắc chắn dùng sai năng lượng của ba cung chính. Có thể nói rằng:
1. Các bệnh hoa liễu là do việc lạm dụng năng lượng cung ba, cung của năng lượng sáng tạo, thông tuệ của chính vật chất.
2. Bệnh lao là kết quả của việc lạm dụng năng lượng cung hai.
3. Ung thư là một phản ứng huyền bí và tinh tế đối với năng lượng của cung một, ư-muốn-linh-hoạt (will – to – live), vốn là một trong các trạng thái của cung này. Do đó, nó thể hiện trong tính chất quá năng động (over activity) và sự tăng trưởng của các tế bào xác thân mà ư-chí-muốn-sống của chúng trở nên có tính hủy diệt đối với cơ quan mà trong đó chúng ẩn náu.
Ở đây tôi chỉ nêu ra cho bạn một ẩn ngôn và nó không có tầm hữu ích rộng lớn vào lúc này. Một số lớn nghiên cứu huyền môn vẫn c̣n diễn ra bởi giới y khoa theo các đường lối này, nhưng điều này sẽ chỉ có thể xảy ra khi Môn học về Các Cung được hiểu rơ hơn và khi bằng chứng bênh vực sự hiện hữu của năm năng lượng căn bản trong mỗi con người (năng lượng của năm cung đang chi phối con người) có thể được xác định. Một ngày nào đó, con người sẽ học cách xác định loại cung của họ một cách dễ dàng và các cung chi phối phàm ngă tam phân của họ.
384
Theo mọi đường lối hiểu biết mở rộng của con người, cơ may cho những ǵ mới mẻ thâm nhập vào và chi phối, đang trở nên ngày càng rơ rệt. Cánh cửa phiêu lưu (bằng khả năng nhận thức cao nhất của nó) rộng mở, và tuy vậy, không có ǵ đă
từng thành công trong việc chặn đứng nhân loại không vượt qua được cánh cửa đó. Qua bao kỷ nguyên, con người đă vượt qua cổng của nó và đă tiến vào các lĩnh vực mới và phong phú hơn của t́m kiếm, của khám phá và của áp dụng thực tiễn theo sau.
Ngày nay, cánh cửa đang mở sẽ đón nhận con người vào thế giới ư nghĩa – một thế giới vốn là pḥng ngoài đối với thế giới nguyên nhân. Hậu quả (Effect); Ư nghĩa (Meaning); Nguyên Nhân (Cause). Trong ba từ này bạn có bí quyết cho việc phát triển tâm thức con người. Đa số con người ngày nay đang sống trong thế giới hậu quả, và không có một ư tưởng nào rằng họ là các hậu quả. Một số ít hiện giờ đang bắt đầu sống trong thế giới ư nghĩa, trong khi các đệ tử và những người đang hoạt động trong thế giới của Thánh Đoàn đang biết hoặc đang trở nên dần dần biết, các nguyên nhân vốn tạo ra các hậu quả mà ư nghĩa tiết lộ. Chính v́ lư do này mà giờ đây chúng ta có thể bắt đầu xem xét các nhu cầu căn bản mà con người phải đáp ứng, trước khi y có thể tiến tới theo con đường giác ngộ tương lai. Việc giác ngộ này sẽ tất nhiên hầu như xóa sạch mọi sợ hăi cái chết, và sẽ bàn đến vấn đề mà từ lâu đă đưa nhân loại vào các hố sâu của thất vọng và sợ sệt. Tôi cũng nhắc đến các thái độ cần có mà những kẻ đang mưu t́m việc chữa trị, việc khắc phục bệnh tật và việc chữa lành các bệnh xác thân, phải nhận ra, đồng thời họ phải đương đầu với chúng, chính yếu là theo các đường lối trí tuệ. Các nhu cầu này sẽ gợi ra sự lưu tâm trí tuệ của cả người phụ trách chữa trị, lẫn bệnh nhân. Họ cũng có liên quan với con người nói chung.
385
Người ta thường hay phỏng đoán rằng điều kiện tiên quyết quan trọng nhất đối với thuật chữa trị là đức tin. Nhưng không phải thế. Đức tin có ít liên quan
với thuật chữa trị. Chữa trị tùy thuộc vào một vài yếu tố tối quan trọng và cơ bản mà đức tin không can dự vào chút nào. Cố gắng của bệnh nhân để đạt tới đức tin thường là một thiệt hại lớn cho việc không bị ảnh hưởng bởi các khó khăn vốn nằm giữa y và việc chữa trị đầy đủ. Bởi thế khi Đức Christ thường nhấn mạnh vào đức tin (hay đúng hơn vào tính chất vốn được diễn dịch dưới h́nh thức đức tin trong các Thánh
Thư Tây Phương), thật ra, Ngài ám chỉ việc thừa nhận định luật, đến một nhận thức trước hết về Karma, và đến một hiểu biết về vận mệnh thiêng liêng. Nếu hiểu rơ, điều này sẽ đưa đến một thái độ mới đối với Thượng Đế vừa đối với hoàn cảnh. Các điều tiên quyết mà tôi muốn nhấn mạnh, có thể được kể như sau:
1. Nhận thức về Đại Luật Nhân Quả, nếu có thể. Điều này không phải luôn luôn xảy ra khi bàn đến toàn bộ người chưa giác ngộ.
2. Chẩn đoán chính xác về bệnh tật bởi một thầy thuốc thành thạo, và sau đó bởi một người có nhăn thông tinh thần (spiritual clairvoyant) khi năng lực đó được phát triển bởi nhà chữa trị là đệ tử điểm đạo.
3. Tin tưởng vào luật Karma nhăn tiền. Với ư đó, tôi muốn nói đến năng lực về phía bệnh nhân, hoặc của nhà chữa trị biết được đâu là số mệnh của bệnh nhân cần được chữa trị, nói khác đi, cần được giúp để tạo ra một chuyển tiếp lớn.
4. Sẵn sàng nhận ra rằng việc chữa trị có thể gặp tổn hại và về căn bản không thích hợp theo quan điểm của linh hồn. Con người đôi khi được chữa trị bằng sức mạnh của người chữa trị, khi đó không phải vận mệnh của họ để tiếp tục cách sống linh hoạt ở cơi trần.
5. Sự hợp tác linh hoạt của người chữa trị và bệnh nhân – một hợp tác được dựa vào cảm thông lẫn nhau.
6. Sự chấp nhận được định đoạt về phía bệnh nhân, để chấp nhận bất cứ cái ǵ có thể là Ư chí được thể hiện của linh hồn. Điều đó có thể được gọi là một biểu lộ của sự điềm nhiên thiêng liêng (divine indifference).
386
7. Một nỗ lực về phía nhà trị liệu lẫn bệnh nhân để thể hiện tính vô tổn hại hoàn toàn. Giá trị của việc này sẽ báo đáp cho tư tưởng cần mẫn. Về cơ bản điều này có liên quan
đến mối liên hệ của hai bên đối với người cộng tác của họ.
8. Một nỗ lực về phía bệnh nhân (trừ phi quá đau yếu) để hiệu chỉnh và đặt đúng chỗ các trạng thái này của thiên nhiên, và các tính chất này vốn có thể đối kháng với tri giác tinh thần đúng đắn. Đây là một trong các ư nghĩa ẩn giấu trong câu, tức là “công tác phục hồi”, mặc dầu không phải là ư nghĩa quan trọng nhất.
9. Việc loại bỏ có cân nhắc các tính chất, các đường lối tư tưởng và các ham muốn vốn có thể ngăn chận ḍng chảy vào của mănh lực thiêng liêng – một mănh lực có thể giúp linh hồn hội nhập một cách chặt chẽ hơn với thể xác trong ba cơi thấp và khai mở một biểu lộ sự sống mới mẻ, hoặc là có thể hội nhập linh hồn với cội nguồn xuất phát của nó và khởi xướng sự sống mới trên các phân cảnh linh hồn. Do đó điều này có ảnh hưởng đến liên hệ của bệnh nhân với linh hồn của y.
10. Năng lực của nhà trị liệu lẫn bệnh nhân hội nhập vào nhóm linh hồn mà họ liên kết bên trong, để hội nhập trong các trường hợp khác cả phàm ngă lẫn linh hồn, và, nếu họ ở mức phát triển cần có, th́ cả hai hội nhập chặt chẽ hơn vào nhóm thuộc Huyền Môn Viện của Đức Thầy.
387
Mười điều cần yếu này có thể dường như đơn giản, nhưng chẳng đơn giản chút nào. Về bên ngoài, chúng có
thể dường như liên quan tới tính chất, đặc tính và năng lực; về căn bản, chúng dính líu tới mối liên hệ giữa linh hồn với xác thân, và liên
quan tới sự hội nhập hoặc sự trừu xuất (tách ra). Mục tiêu bên dưới chúng trong bất cứ trường hợp nào là lập nên một liên giao giữa nhà trị liệu hoặc nhóm trị liệu với bệnh nhân, tức là kẻ đang nhận sự quan tâm khoa học của tác nhân trị liệu – tập thể hoặc cá nhân.
Một trong các sự việc đầu tiên mà bất cứ người trị liệu nào sẽ phải làm, sẽ là vạch ra một đường nét đơn giản về huấn thị vốn sẽ chi phối thái độ của người cần được chữa trị. Các huấn thị này cần phải đơn giản, v́ nơi thực sự có bệnh đối với bệnh nhân th́ không thể tạo ra nỗ lực vật chất đơn giản nhất để tiến hành bất luận cách thay đổi nào. Điều này thường bị quên.
Có một hoặc hai điều mà tôi muốn nói rơ và đến lượt bạn cũng phải nói rơ với bệnh nhân.
1. Chữa trị không phải là đảm bảo. Bệnh nhân phải hiểu rằng việc kéo dài sự sống trong xác thân không phải là mục tiêu cao nhất nên làm. Có thể là như thế nếu việc phụng sự được làm cho có ư nghĩa thực sự, nếu các bổn phận vẫn được tiến hành, và nếu các bài học khác vẫn phải được học. Tuy nhiên, cuộc sống của xác thân không phải là cái chí thiện (summum bonum) của cuộc sống. Thoát khỏi các giới hạn của xác thân mới thực sự là mối phúc lợi. Bệnh nhân phải học cách nhận biết và chấp nhận Luật Karma.
2. Không cần lo sợ. Một trong các mục tiêu đầu tiên của người chữa trị sẽ là giúp bệnh nhân đạt được một viễn cảnh hạnh phúc, lành mạnh, hy vọng cho tương lai của ḿnh – bất luận đều ǵ mà tương lai đó có thể mang lại.
388
Điều cũng sẽ hiển nhiên là trước mắt bạn có ẩn cơ hội mang lại một thái độ mới cho toàn bộ vấn đề bệnh tật, chữa trị, và dạy cho con người có một ư thức về sự tương xứng tốt đẹp hơn, và an tâm hơn liên quan tới bệnh tật và sức khỏe.
Điều cũng sẽ rơ ràng đối với bạn là thuật ngữ “phục hồi” (“restitution”) liên quan đến kỷ xảo cao siêu để hồi phục cho bệnh nhân nào cần phải đối mặt với sự sống – sự sống trong xác thân và trên cơi trần, hay là sự liên tục của sự sống trên các phân cảnh khác, không nh́n thấy đối với kẻ thường nhân và được xem như khó hiểu và không thể xác định được. Việc phục hồi cũng có thể liên quan đến việc chấn chỉnh các sai lầm của bệnh nhân trước khi nhận những ǵ mà y sẽ xem như cách ứng xử thành công, nhưng nó liên quan trước tiên đến hiệu quả của nhóm chữa trị, khi lần đầu tiên nhóm đó lập được sự tiếp xúc với người cần chữa trị. Đừng quên điều này. Đôi khi, khi Karma của bệnh nhân cho thấy điều đó, ư-chí-muốn-sống phải được phục hồi cho y. Trong các trường hợp khác, việc loại bỏ nỗi sợ (sợ sống hoặc sợ chết) phải được dẫn dụ, đem lại cho nó việc phục hồi can đảm; việc phục hồi một thái độ quả quyết trong mọi trường hợp có thể là tính chất cần thiết, mang theo với nó việc phục hồi tính chất sẵn sàng đón nhận, với sự hiểu biết và hân hoan bất cứ cái ǵ mà tương lai có thể mang lại. Nó cũng có thể dính líu đến việc phục hồi các liên hệ hài ḥa với môi trường của bệnh nhân, với gia đ́nh và bạn bè, kết quả tất nhiên của các hiệu chỉnh chính xác mới mẻ, một sự xuất hiện của tinh thần bác ái và sự phủ nhận của những ǵ có thể là tư duy sai lầm đă ăn sâu.
389
Do
đó, điều hiển nhiên đối với bạn là qui tŕnh noi
theo thủ tục chữa trị chỉ là một giai đoạn của công việc phải làm, và rằng liên hệ giữa nhà chữa trị với bệnh nhân, về cơ bản là một liên hệ về giáo dục. Đó phải là một loại giáo dục được tôi luyện bằng t́nh trạng vật chất của người bệnh. Khi làm việc theo các đường lối này, bạn sẽ thấy là sẽ cần thiết khi có được các phân tích tỉ mỉ về công việc cần làm đối với các phục hồi mà người bệnh phải được chuẩn bị để thi hành, để làm dễ dàng ḍng chảy vào của lực chữa trị. Y phải được dẫn dụ để “lau sạch tấm bảng” (tôi tạm dùng một câu có tính tượng trưng như thế) nếu việc chữa trị được thành công theo Luật Karma.
Giai đoạn của việc chuẩn bị này thật không dễ. Với người bệnh là kẻ có thể bệnh nặng, điều đó không thể thực hiện được. Tất cả các nhà phụ trách chữa trị đều nhận ra rằng khi làm việc với những người có tư tưởng thiên về tinh thần và những người mà các kiếp sống của họ có một thời gian dài dựa vào nỗ lực đúng đắn và thực hành đúng “trả lại cho Caesar những ǵ của Caesar và trả lại cho Chúa những ǵ thuộc về Chúa”, lúc đó việc chữa trị sẽ được gia tốc rất nhiều, hay là, mặt khác, lúc đó công việc san phẳng con đường thông qua cánh cửa tử vong sẽ được làm cho đơn giản rất nhiều. Sau rốt, cái chết tự nó là một công việc phục hồi. Nó liên quan đến việc hoàn trả lại chất liệu cho ba cơi vật chất, và làm việc đó một cách tự nguyện và hân hoan; nó cũng liên quan đến việc phục hồi/tái lập (restoration) của nhân hồn vào linh hồn từ đó nó xuất phát, và làm điều này trong nỗi hân hoan của việc tái thu hút/tái hóa nhập. Tất cả các bạn phải học cách xem sự chết như một tác động phục hồi; khi bạn có thể làm được điều này, th́ nó sẽ khoác lấy ánh sáng mới và ư nghĩa thực sự, đồng thời trở nên một phần toàn vẹn – được nhận ra và mong muốn của một tiến tŕnh sinh hoạt liên tục.
390
Nếu tôi được hỏi nói ra nhiệm vụ chính của mọi nhóm chữa trị là ǵ, giống như Thánh Đoàn t́m
cách để thấy hoạt động trong tương lai, tôi sẽ nói đó là để chuẩn bị con người cho những ǵ mà chúng ta sẽ xem như khía cạnh của sự chết và như vậy đem lại cho những ǵ được khiếp sợ là kẻ thù của nhân loại, một ư nghĩa mới và hạnh phúc hơn. Bạn sẽ thấy rằng nếu bạn làm việc theo các đường lối tư tưởng được chỉ dẫn này, th́ toàn bộ chủ đề sự chết sẽ thường xuyên trở lại, và rằng kết quả của việc này sẽ là các thái độ mới đối với sự chết và sự khắc sâu một hy vọng hạnh phúc ở nơi mà biến cố không thể tránh khỏi và quen thuộc nhất đó xảy ra. Các nhóm chữa trị phải chuẩn bị đối phó với t́nh trạng căn bản này của mọi kẻ đang sống, và một phần lớn công việc của họ sẽ là làm sáng tỏ nguyên tắc tử vong. Chúng ta được dạy, linh hồn phải trở về với Đấng sinh ra nó. Cho tới nay, những ǵ đă là một hoàn trả bắt buộc và gây khiếp sợ, là điều vốn tạo ra sợ hăi và đưa con người ở khắp nơi đến sự đ̣i hỏi chữa trị cho thể xác, quá nhấn mạnh vào sự quan trọng của nó và khiến cho họ xem việc kéo dài kiếp sống trần gian như là nhân tố quan trọng nhất trong các kiếp sống của họ. Trong chu kỳ tới đây, các thái
độ sai lầm này phải kết thúc. Cái chết sẽ trở thành một diễn biến b́nh thường và được coi là điều đương nhiên – b́nh thường như tiến tŕnh sinh ra, mặc dầu gợi ra ít đau
đớn và sợ hăi. B́nh luận này của tôi có bản chất của một tiên tri và nên
được xem xét với tính cách như thế.
Do đó tôi muốn yêu cầu bạn việc đầu tiên là bất cứ nhóm chữa trị nào t́m cách làm việc theo các đường lối mới cũng phải (như một nỗ lực tiên khởi) t́m cách hiểu một điều ǵ đó về yếu tố tử vong, vốn được gán cho tên gọi “tiến tŕnh phục hồi vĩ đại” hay là “sự hồi phục lớn”. Nó liên quan đến kỹ năng đưa xác thân trở lại cội nguồn của các yếu tố cấu tạo của nó và hoàn trả linh hồn về cội nguồn của bản thể thiết yếu của nó một cách sáng suốt, chính xác và đúng lúc. Tôi đang diễn đạt điều này với sự thận trọng v́ tôi muốn bạn cân nhắc thật thận trọng và một cách hợp lư cái gọi là bí hiểm của sự chết. Đó là một bí hiểm đối với con người, nhưng không phải bí hiểm đối với các đệ tử và các bậc thức giả minh triết.
391
Các nhóm
chữa trị và các nhà trị liệu cá nhân có lúc sẽ thấy điều đó cần thiết để giáp mặt với bệnh nhân của họ với sự thật về chết chóc. Một trong các công việc của các đệ tử trong Huyền Viện của tôi và trong Huyền Viện của Đức Thầy K.H. là xen chủ đề tử vong trong cuộc đàm thoại với các nhà t́m ṭi chân
lư khác, vào các suy tư của họ và vào các bàn bạc của họ với nhau, đặc biệt là với những người t́m cách chữa trị. Sẽ không dễ dàng và đừng nên làm theo cách vội vă, mà đó là một vấn đề vốn không thể và đừng nên né tránh. Nhóm
chữa trị tiến hành từ một Huyền Viện, không đặt tầm quan trọng vào việc chữa trị xác thân, mà vào việc điều
chỉnh thời gian (timing) và dựa vào các chu kỳ của công việc, hoặc của cách sinh hoạt ở cơi trần, và các chu kỳ
phục hồi hoặc là chết chóc ở cơi trần.
Toàn bộ tiết mục này mà hiện chúng ta đang đặt hết tâm trí vào đó, được gọi là Các Đ̣i Hỏi Căn Bản, thực ra có liên quan đến các diễn tiến từ trần, đến các t́nh trạng của thế giới vật chất hay là ba cơi thấp của công cuộc luân hồi. Việc hoàn trả (restitution) thể xác vào kho chứa chung của vật chất, hoặc là vào việc phụng sự trong thế giới bên ngoài của cách sống hằng ngày ở cơi trần, việc phục hồi (restoration) linh hồn vào cội nguồn của nó, linh hồn trên cơi riêng của nó, hay là – đảo ngược – đối với trách nhiệm đầy đủ trong thể xác, được bàn đến trong điểm đầu tiên này. Việc loại bỏ (elimination) nguyên khí sự sống và trạng thái tâm thức được bàn đến trong điểm thứ hai, và chủ đề không phải là chủ đề về kiến tạo cá tính, như một số người có thể ước đoán. Tôi đề cập đến đặc tính và các tính chất cá nhân trong các nhận xét mở đầu của tôi trong tiết đoạn này, bởi v́ mọi hiểu biết đích thực về các nguyên tắc căn bản của chết và sống đều được làm cho dễ dàng bằng hành động đúng, dựa vào tư duy đúng, vốn dẫn tới kết quả là kiến tạo tính t́nh đúng. Tuy nhiên, tôi không t́m cách mở rộng về các đ̣i hỏi cơ bản này. Như tôi t́m cách xem xét ở đây, các tiến tŕnh hội nhập liên quan đến sự hội nhập của linh hồn vào thể xác có ba phần, nếu Karma định đoạt như thế, hoặc là vào giới linh hồn, nếu Karma phán quyết rằng những ǵ mà chúng ta gọi là sự chết nằm đằng trước con người.
Do đó, trong tiết mục thứ hai này, chúng ta xem
xét vấn đề sự chết hoặc là thuật từ trần. Đây là một điều mà tất cả những người ốm nặng tất phải đối diện, c̣n những người đang mạnh khỏe nên tự chuẩn bị qua việc suy tư chính xác, và dự liệu trước hợp lư. Thái độ bi quan của đa số con người trước vấn đề tử vong và việc họ từ chối xem xét nó khi c̣n
khỏe mạnh, là một điều phải được sửa đổi và thay đổi một cách có cân nhắc. Đấng Christ tả cho
các đệ tử của
392
Ngài thấy
thái độ đúng khi Ngài
đề cập đến sự tái lâm của Ngài và cái chết trực tiếp do tay các kẻ thù của Ngài; Ngài quở trách họ khi họ tỏ ra đau khổ, nhắc họ rằng Ngài sắp đến với Cha của Ngài. V́ là một điểm đạo đồ cao cấp, nói về mặt huyền bí, Ngài ám chỉ rằng Ngài đang “trở về với Chân Thần”. Người thông thường và người dưới cấp điểm đạo thứ ba th́ “trở về với linh hồn”. Nỗi sợ hăi và tính chất không lành mạnh mà vấn đề tử vong thường gợi ra, và việc bất đắc dĩ đối diện với nó với sự hiểu biết do việc con người chú trọng vào xác thân và phương tiện mà chính họ đồng nhất hóa với nó; điều đó cũng
căn cứ vào nỗi sợ cố hữu về sự cô độc và mất sự quen thuộc. Tuy nhiên, sự cô độc xảy đến sau cái chết, khi con người thấy chính ḿnh không có
xác thân, là không đáng ǵ so với sự cô độc lúc ra đời. Vào lúc sinh ra, linh hồn thấy chính ḿnh ở trong môi trường mới và đắm ḿnh trong một thể mà lúc đầu hoàn toàn bất lực để săn sóc cho
chính ḿnh, hoặc là để lập sự giao tiếp sáng suốt với các điều kiện chung quanh trong một thời gian dài. Con người bước vào luân hồi mà không nhớ lại về tung tích hoặc là ư nghĩa
đối với y, về nhóm các linh hồn trong các thể xác mà y thấy chính ḿnh có mối liên hệ. Sự cô độc này chỉ biến mất từ từ khi y tạo các tiếp xúc với phàm ngă của riêng y, khám phá ra
những người thích hợp với y, và sau rốt tập hợp lại chung quanh y những người mà y gọi là bạn bè của y. Sau khi chết điều này không phải như thế, v́ con người t́m thấy bên phía bên kia của bức màn những người mà y biết và họ đă liên kết với y trong kiếp sống ở cơi trần, và y không bao giờ cô độc một ḿnh theo như con người hiểu từ ngữ cô độc. Y cũng biết được những người vẫn c̣n ở trong các thể hồng trần. Y có thể thấy được họ, y có thể điều hợp (tune in) với các xúc cảm của họ, và cũng điều hợp với tư duy của họ, v́ bộ óc xác thân không c̣n
hiện hữu, không c̣n tác
động như một vật cản trở nữa. Ước ǵ con người biết được nhiều hơn, việc sinh ra sẽ là kinh nghiệm mà họ thường sợ hăi, và không có cái
chết, v́ việc sinh ra khiến cho linh hồn ở trong ngục tù đích thực, c̣n cái chết của thể xác chỉ là bước đầu tiến đến sự giải thoát.
393
Một nỗi sợ khác khiến cho nhân loại xem cái chết như một tai họa là nỗi sợ mà giáo điều thần học đă khắc sâu, đặc biệt là người theo thuyết chính thống của Tin Lành và Giáo Hội Thiên Chúa La Mă –
đó là sợ địa ngục, việc bắt chịu các h́nh phạt, thường là không tương xứng với các lỗi lầm trong kiếp sống và các kinh hoàng
do một Thượng Đế hay nổi giận bắt phải chịu. Trước các sợ hăi này, con người được dạy rằng y sẽ phải tuân phục, và không có cách
nào thoát khỏi chúng, trừ việc qua việc chuộc tội thay (vicarious
atonement). Như bạn biết rơ, không có một Thượng Đế hay nổi giận, không có địa ngục và không có việc chuộc tội thay. Chỉ có một nguyên lư bác ái
vĩ đại làm linh hoạt toàn thể vũ trụ; có Sự
Hiện Diện (Presence) của Đấng Christ chỉ cho nhân loại về thực trạng của linh hồn, và chúng ta được cứu giúp bằng nguồn sống của linh hồn đó, c̣n địa ngục duy nhất là chính cơi trần, nơi mà chúng ta học cách để tiến hành/thể hiện sự cứu rỗi riêng của chúng ta, được thúc đẩy bằng nguyên lư bác ái và
ánh sáng, và ngoài ra, được dẫn khởi/kích hoạt bằng gương sáng của Đấng Christ và sự thôi thúc bên trong của chính linh hồn chúng ta. Giáo lư
liên quan tới địa ngục này là tàn dư của chỗ ngoặt tai hại vốn được đưa ra do cách tư duy của Giáo Hội Thiên Chúa trong thời Trung Cổ và do giáo huấn sai lầm trong kinh Cựu Ước liên quan đến Jehovah, Vị Thần bộ tộc của dân Do Thái. Jehovah
không phải là Thượng Đế, Hành Tinh Thượng Đế, Tâm Bác Ái Hằng Hữu mà Đức Christ nói đến. Khi các ư tưởng sai lầm này tiêu tan, th́ ư
niệm về địa ngục sẽ bị xóa khỏi kư ức con người và vị trí của nó sẽ được thay thế bằng việc hiểu thiên luật, hiểu biết này giúp cho mỗi người thể hiện việc cứu rỗi riêng của ḿnh trên cơi trần, nó đưa con người sửa chữa các sai lầm mà y có thể phạm phải trong các kiếp sống của ḿnh trên cơi trần, và sau rốt giúp y “tẩy sạch tấm bảng của chính y”.
394
Ở đây tôi không
t́m cách áp đặt lên bạn một tranh căi về thần học nào cả. Tôi chỉ nêu ra rằng nỗi sợ chết hiện nay phải được thay bằng một hiểu biết sáng suốt về thực tại và bằng sự thay thế cho một ư niệm về sự liên tục, nó sẽ vô hiệu hóa sự xáo trộn, và nhấn mạnh ư tưởng về một sự sống duy nhất và một Thực Thể hữu thức duy nhất trong nhiều thể đang trải qua kinh nghiệm.
Có thể nói rằng, để tóm tắt phát biểu chung của tôi rằng nỗi khiếp sợ cái chết được dựa vào việc yêu thích sắc tướng – h́nh hài của riêng chúng ta, h́nh hài của những người mà chúng ta yêu thích và h́nh hài của cảnh vật và môi trường quen thuộc của chúng ta. Tuy nhiên loại yêu thương này đi ngược với mọi giáo huấn của chúng ta liên quan đến các thực tại tâm linh. Hy vọng của tương lai và hy vọng của sự giải thoát của chúng ta ra khỏi cái sợ vô căn cứ này, nằm trong việc dời chuyển chú tâm của chúng ta sang sự kiện về linh hồn vĩnh cửu và sang sự cần thiết cho linh hồn đó sinh hoạt về mặt tinh thần, một cách xây dựng và một cách thiêng liêng bên trong các hiện thể vật chất. Ư niệm này lại nhập chung vào ư tưởng về sự phục hồi. Do đó các ư niệm sai lầm bị lăng quên; ư tưởng về sự loại trừ cũng đi vào để cho việc tập trung đúng mức được đạt đến. Sự hội nhập cần được xem xét sao cho việc hấp thu vào sự sống của linh hồn sẽ chiếm chỗ của việc hấp thu vào sự sống của thể xác. Phiền năo, cô độc, bất hạnh, suy tàn, mất mát – mọi điều này là các ư tưởng cần phải biến đi khi phản ứng chung đối với sự thật về cái chết cũng tan biến. Khi con người học cách sống một cách hiểu biết với tư cách linh hồn, khi con người cũng học cách tự tập trung trên các phân cảnh linh hồn, và bắt đầu xem h́nh hài hoặc các h́nh hài như chỉ là những cách biểu lộ (sự sống – ND), th́ mọi ư nghĩ phiền muộn xưa về cái chết sẽ từ từ tan biến, một tiếp cận mới và lạc quan hơn đến kinh nghiệm to tát đó sẽ chiếm chỗ của chúng.
Bạn cần để ư đến các từ ngữ khác nhau mà tôi đă chọn khi xem xét các đ̣i hỏi căn bản đă được chọn dành cho các ư nghĩa đặc biệt đặc thù của chúng:
395
1. Công
đoạn Phục Hồi (Work of
Restitution)
có nghĩa là việc quay trở lại của h́nh hài về
kho chứa căn bản của vật chất; hoặc đối với linh hồn, th́ năng lượng tinh thần thiêng liêng, trở về cội nguồn của nó – hoặc là ở trên các phân cảnh linh hồn hay Chân Thần, tùy mức tiến hóa. Việc phục hồi này chủ yếu là công việc của nhân hồn (human soul) bên
trong thể xác và liên quan cả bí huyệt tim lẫn bí huyệt đầu.
2. Thuật Loại Bỏ (Art of Elimination). Việc này liên quan đến hai hoạt động của con người tâm linh bên trong; nghĩa là việc loại bỏ mọi kiềm chế của phàm ngă tam phân và tiến tŕnh tái tập trung chính ḿnh trên các phân cảnh (levels) cụ thể của cơi trí như một điểm sáng tỏa chiếu. Điều này trước tiên liên quan với nhân hồn.
3. Tiến tŕnh Hội nhập (Integration). Các tiến tŕnh này liên quan tới công việc của con người tâm linh đă giải thoát khi người này ḥa hợp với linh hồn (đại hồn, oversoul) trên các phân cảnh cao của cơi trí. Tiểu phần (part) quay về với tổng thể, lúc đó con người mới hiểu được ư nghĩa đích thực các lời của Đức Krishna:”Dù tỏa khắp toàn bộ vũ trụ này bằng một mẩu của chính ta, ta vẫn c̣n lại”. Vốn là một mẩu nhỏ đang trải qua kinh nghiệm hữu thức, con người cũng đă tỏa khắp vũ trụ bé nhỏ của sắc tướng trong ba cơi thấp, vẫn c̣n lại. Con người biết chính ḿnh là một phần của tổng thể.
Cả ba tiến tŕnh này đều là Tử Vong.
396
Điều sẽ là hiển nhiên đối với bạn là khi nhân loại đạt đến cách nh́n này đối với sự kiện tử vong hay là thuật từ trần, th́ toàn bộ thái độ của nhân loại sẽ trải qua sự thay đổi có lợi. Theo thời gian qua, điều này sẽ đi song song bằng một tỉ lệ giữa con người trên các mức độ viễn cảm. Con người sẽ ngày càng phát triển trí tuệ và nhân loại sẽ ngày càng tập trung vào các phân cảnh trí tuệ. Tương giao viễn cảm này sẽ trở nên một hiện tượng chung và thông dụng, mà giáng ma học (spiri -tualism) hiện đại là bảo đảm của nó, mặc dù sự lệch lạc (và là lệch lạc rất nặng) chủ yếu dựa vào niềm tin do mơ ước của nhân loại, với rất ít viễn cảm đích thực nằm trong đó. Ngày
nay, viễn cảm xảy ra giữa đồng tử (trong hoặc ngoài lúc xuất thần) với thân nhân hoặc bè bạn từ trần, chớ không xảy ra giữa người đă qua kinh
nghiệm giải thoát của sự chết với người c̣n ở trong h́nh hài.
Điều này cần ghi nhớ. Trong thời gian chuyển tiếp, lúc mà thể trí không có được viễn cảm b́nh thường, có thể có (dù rất ít khi) việc chen vào của trạng thái đồng tử dựa vào nhăn thông và
nhĩ thông, mà không dựa vào xuất thần. Điều này sẽ cần có tiếp xúc xuyên qua một bên thứ ba, và sẽ hoàn toàn ở cơi cảm dục; v́ vậy tiếp xúc đó sẽ đầy huyễn cảm và sai lầm. Tuy nhiên đó sẽ là một bước tiến tới từ các thành tựu của giai đoạn đồng tử hiện tại, vốn chỉ không biết đến người đă chết và mang lại cho người truy t́m những ǵ mà đồng tử (medium) đọc được trong hào quang của y – khả năng nhớ lại của y về dáng vẻ cá nhân, các hồi tưởng có ư nghĩa
được dự trữ trong tâm thức của người truy t́m và niềm tin do mơ ước về lời khuyên được đ̣i hỏi, v́ người truy t́m tin rằng khi con người đă chết y phải trở nên khôn ngoan hơn trước kia. Khi đồng tử đôi lúc thành
công trong việc thiết lập giao tiếp thực sự, chính v́ người truy t́m và người chết đều thuộc mẫu người thiên về trí, do đó có một tương giao viễn cảm thực sự giữa họ mà đồng tử ngăn chận.
Nhân loại đang tiến tới, đang phát triển và đang trở nên ngày càng thiên về trí. Liên hệ giữa người chết với người sống phải và sẽ ở trên các phân cảnh trí tuệ trước khi có tiến tŕnh hội nhập; sự gián đoạn thực sự sẽ đến khi nhân hồn được tái hóa nhập (reabsorbed) vào đại hồn (oversoul), trước khi luân hồi trở lại. Tuy nhiên, sự thật về sự giao tiếp cho đến lúc đó sẽ hoàn toàn hủy diệt nỗi sợ chết. Trong trường hợp các đệ tử đang thụ giáo trong Huyền Môn Viện của Đức Thầy, ngay cả tiến tŕnh hội nhập này cũng không tạo được cản trở nào. Trong các trang tới, tôi sẽ đưa ra một số giáo huấn về những ǵ được gọi là thuật từ trần và như thế bàn rộng những ǵ tôi đă nói trong Luận Về Huyền Linh Thuật.
397
Thái độ hiện nay
đối với cái chết
Tôi có trách nhiệm nêu ra với bạn các tiến tŕnh từ trần và xem xét đầy đủ hơn đôi chút yếu tố tử vong – kinh nghiệm quen thuộc nhất (chỉ cần bộ óc xác thân vẫn có thể nhớ lại và hiểu kinh nghiệm đó) trong đời sống của thực thể luân hồi hay linh hồn. Tôi xin đưa ra một vài luận giải về thái độ của con người đối với kinh nghiệm “phục hồi”. Đây là một từ huyền môn đặc biệt, được dùng phần lớn bởi các đệ tử điểm đạo khi nói về cái chết. Thái độ nổi bật gắn liền với cái chết là thái độ sợ hăi. Hiện nay, nỗi sợ hăi này được dựa trên sự không chắc chắn của trí óc về sự thật của sự bất tử. Ngoại trừ sự kiện được chứng minh của một h́nh thức nào đó của sự sống c̣n, được thiết lập bởi các nhóm sưu khảo tâm linh, sự bất tử hay cuộc sống thường tồn của những ǵ mà chúng ta thường hàm ư khi nói đến “Cái Tôi”, cho đến nay vẫn nằm trong lĩnh vực niềm tin do mơ ước hay của đức tin. Đức tin này có thể được thiết lập dựa vào các tiền đề Thiên Chúa giáo, về sự xác tín tôn giáo căn cứ trên cách lư luận vấn đề và dựa vào sự tiếp cận khoa học hơn, nó biện minh rằng nhu cầu về kinh tế đ̣i hỏi rằng những ǵ mà từ lâu đang tiến hóa, và những ǵ là kết quả cao nhất của diễn tŕnh tiến hóa không thể bị mất đi. Thật lư thú mà ghi nhận rằng không có bằng chứng nào trên hành tinh chúng ta về bất cứ sản phẩm tiến hóa cao siêu nào hơn là sản phẩm của giới nhân loại; thậm chí đối với người suy tư duy vật, tính chất độc nhất của con người được t́m thấy trong các giai đoạn tâm thức khác nhau của y, và trong khả năng của con người để đưa ra cho việc t́m kiếm mọi giai đoạn của tâm thức, từ giai đoạn của người dă man thất học, qua mọi giai đoạn trung gian của hiệu quả về trí tuệ, đến tận những người suy tư tiến hóa nhất và các siêu tài, có khả năng sáng tạo, khám phá khoa học và có linh giác (spiritual perception).
Khi diễn tả điều đó thật đơn giản th́ câu hỏi mà đề tài sự chết gợi lên là: Đâu là cái “Ngă”, tức sở hữu chủ đang chiếm thể xác, khi thể đó bị từ bỏ và tan ră? Xét cho cùng, có một sở hữu chủ đang chiếm ngự hay không?
398
Lịch sử nhân loại ghi nhận sự t́m ṭi không ngừng là đảm bảo về vấn đề này. Sự t́m ṭi này dẫn đến kết quả ngày nay nhiều hội đoàn bận tâm đến việc cố gắng chứng minh tính chất bất tử, và cố xâm nhập vào các thành
lũy này của tinh thần mà bề ngoài làm nơi ẩn náu cho “Cái Tôi”
đó, là diễn viên trên cơi trần và từ trước đến giờ đă làm rối trí người t́m ṭi nhiệt thành nhất. Thúc đẩy của nỗi sợ nằm đàng sau sự t́m kiếm tuyệt vọng này; đó là một sự thật bất hạnh mà đa số con người (không kể đến một vài nhà khoa học giác ngộ và các nhà sưu khảo sáng suốt tương tự) đang lao vào
các kỹ thuật đáng ngờ thông thường của pḥng cầu đồng, thuộc loại cảm dục, dễ bị thuyết phục và cũng chỉ sẵn sàng chấp nhận như bằng chứng cái mà nhà t́m kiếm sáng suốt hơn muốn từ bỏ tức th́.
Ở đây tôi xin đưa ra lập trường của tôi rơ ràng đối với phong trào giáng ma rộng lớn, vốn đă làm rất nhiều trong quá khứ để chứng minh sự thật về sự sống c̣n, và nó cũng đă, trong vài giai đoạn của nó, làm rất nhiều điều để đánh lạc hướng và lừa gạt nhân loại. Dưới tên gọi chung này, tôi cũng phân biệt các nhóm sưu khảo tâm linh khác nhau và không kể mọi công việc khoa học chân thực. Không ai trong các nhóm này, cho đến nay, đă chứng minh được trường hợp của họ. Cái bí mật và cái dại dột của buổi cầu đồng của thường nhân và công việc của các đồng tử, tuy thế cũng đă chứng minh sự hiện hữu của một yếu tố không giải thích được; các pḥng thí nghiệm của các nhà t́m ṭi khoa học hầu như không chứng minh được điều đó. Đối với mỗi trường hợp xuất hiện có thể chấp nhận được một cách rơ rệt của một người thoát xác, có hàng ngàn trường hợp có thể được giải thích dựa vào các lĩnh vực cả tin, tương giao viễn cảm (với kẻ mất người thân, mà không phải với bất cứ người qua đời nào), việc thấy các h́nh tư tưởng của người có nhăn thông và việc nghe được tiếng nói của người có nhĩ thông và cũng do sự lừa bịp. Để ư rằng tôi nói đến “sự xuất hiện có thể chấp nhận được” của một vong linh trở lại. Có đủ bằng chứng để biện minh cho sự tin tưởng vào sự tồn tại (survival) và để chứng tỏ bản chất thực sự của nó. Dựa vào các nền tảng của hiện tượng tiếp xúc không giải thích được với người chết theo giả thuyết đă được ghi nhận, t́m ṭi và chứng minh, và dựa vào tính chất của nhiều người đă là nhân chứng cho sự thực về các hiện tượng này, chúng ta có thể xác nhận rằng một cái ǵ đó tiếp tục sống sau khi có “sự hoàn trả” (“restitution”) xác thân vật chất vào kho chứa vật chất vĩnh cửu. Chính dựa trên tiền đề này mà chúng ta bàn tiếp.
399
Ngày
nay hiện tượng tử vong đang trở nên ngày càng quen
thuộc. Trận thế chiến đă đưa hàng triệu người, cả nam lẫn nữ, – thường dân và những người ở trong các ngành khác
nhau của quân lực thuộc mọi quốc gia – vào trong thế giới không quen biết đó, thế giới này nhận tất cả những người vứt bỏ xác thân. Vào lúc
đó, bất chấp các t́nh trạng
sợ chết xưa đă ăn sâu,
có sự xuất hiện trong tâm thức của nhân loại cái nhận thức rằng có nhiều điều tệ hại hơn là cái chết; con người phải đi đến chỗ nhận ra rằng sự đói ăn,
khuyết tật, luôn luôn bất lực về thể chất, bất lực về tinh thần do hậu quả của chiến tranh và căng
thẳng của chiến tranh, việc quan sát về đau đớn và thống khổ vốn không thể được làm khuây khỏa, thật ra c̣n tệ hơn là cái chết. Cũng vậy nhiều người biết và tin tưởng (v́ đó là cái
vinh quang của tinh thần con người) rằng việc từ bỏ các giá trị mà con người đă tranh đấu và nằm xuống v́ chúng qua các thời đại, và vốn được cho là thiết yếu cho sự sống của tinh thần tự do của con người, có ư nghĩa to
tát hơn là diễn tŕnh sự chết. Thái độ này, tức đặc điểm của những người bén nhạy và suy tư đúng vào lúc
này, hiện nay đang xuất hiện ở mức độ rộng lớn. Điều này hàm ư là sự thừa nhận, bên cạnh của nỗi sợ từ xưa, của một hy vọng không thể chế ngự về các t́nh huống tốt đẹp hơn phải được t́m thấy ở nơi khác, và điều này không nhất thiết là suy tư do mơ ước, mà là một chỉ dẫn về tri thức chủ quan tiềm ẩn, từ từ xuất hiện ra mặt ngoài. Một điều ǵ đó theo
đúng đường như là kết quả của thống khổ và suy tư của con người; điều này ngày nay đă
được nhận ra; sự kiện này sẽ được chứng minh sau này. Trái
ngược với sự tin tưởng bên trong và nhận thức chủ quan này là các thói
quen suy tưởng xưa cũ, thái độ phát triển theo vật chất của ngày nay, nỗi sợ bị lừa gạt, và sự đối kháng của cả nhà khoa học, lẫn người theo tôn giáo hay mộ đạo. Hạng trước thẳng thừng từ chối tin vào những ǵ vẫn c̣n chưa được chứng minh và dường như cũng không dễ bị tác động v́ bằng chứng, trong khi các nhóm
tôn giáo và các tổ chức không có tin tưởng nào vào bất cứ cách tŕnh bày chân
lư nào mà họ không diễn giải bằng các thuật ngữ riêng của họ. Điều này đặt ra một tầm quan trọng không đúng vào
đức tin và như thế làm mất tác dụng mọi t́m kiếm nhiệt thành. Việc t́m ra sự thật về
tính bất tử sẽ đến từ con người; kế đó sau rốt điều đó sẽ được chấp nhận bởi các giáo phái và
được khoa học minh chứng, nhưng điều này chỉ sau
khi hậu quả của chiến tranh trôi qua, và
cuộc xáo trộn trên hành tinh
đă lắng dịu.
400
Không
cần nói, vấn đề tử vong được đặt nền móng trên việc yêu sự sống, vốn là bản năng sâu xa nhất trong bản chất con người. Việc quả quyết rằng không có ǵ mất đi theo thiên
luật là một nhận thức khoa học; sự kiên tŕ vĩnh cửu dưới h́nh thức này hoặc h́nh thức khác được xem là một chân lư đại đồng. Trong đám hỗn tạp của các lư thuyết, có ba giải pháp được đưa ra; các giải pháp này đều được tất cả những người có suy tư biết rơ. Đó là:
1. Giải pháp hoàn toàn vật chất, nó mặc nhiên công nhận kinh nghiệm và biểu lộ của sự sống hữu thức, bao lâu mà h́nh hài vật chất hữu h́nh hiện hữu và tồn tại, nhưng nó cũng chủ trương rằng sau khi chết, và tiếp theo là sự tan ră của thể xác không c̣n con người có ư thức, có hoạt động, tự nhận biết nào nữa. Ư thức về “Cái Tôi”, tức là sự hiểu biết của một phàm ngă tương phản với mọi phàm ngă khác, tan biến cùng với sự biến mất của h́nh hài; phàm ngă được tin tưởng chỉ là toàn bộ của tâm thức của các tế bào trong xác thân. Lư thuyết này hạ thấp con người xuống cùng trạng thái như bất cứ các h́nh thức nào khác trong ba giới khác trong thiên nhiên; nó được dựa vào tính chất không bén nhạy của nhân loại bậc trung đối với sự sống, được rút ra từ một hiện thể hữu h́nh; nó không biết đến mọi bằng chứng đối với sự trái ngược, và cho rằng v́ chúng ta không thể thấy (về bề ngoài) và chứng minh (một cách cụ thể) tính bền vững của “Cái Tôi” hay là thực thể bất tử sau cái chết, như vậy nó không tồn tại. Thuyết này không được hậu thuẫn bởi rất nhiều người như nó đă được hậu thuẫn trong nhiều năm trước, đặc biệt trong kỷ nguyên duy vật của nữ hoàng Victoria.
401
2.
Lư thuyết về sự bất tử có điều kiện. Thuyết này vẫn c̣n được tuân theo bởi một số người theo thuyết chính thống (fundamentalist) và
các trường phái tư tưởng thần học hẹp ḥi và cũng
được tin theo bởi một thiểu số người trí thức, chủ yếu là những người có khuynh hướng ích kỷ. Thuyết đó cho là chỉ có những người đạt đến giai đoạn đặc biệt của hiểu biết tâm linh, hoặc người chấp nhận một nhóm đặc thù các tuyên ngôn
thần học, mới có thể nhận được món quà bất tử của con người. Người trí thức cao đôi khi
cũng tranh căi rằng món quà tột đỉnh đối vói nhân loại là một thể trí phát triển và được vun trồng, và rằng những ai sở hữu được món quà này
cũng được phú cho sự kiên tŕ măi măi. Một trường phái bác bỏ những ai mà họ xem là những người chống đối về tâm linh hoặc là tiêu cực đối với sự áp đặt các xác tín thần học đặc biệt của họ, hoặc là đối với sự hủy diệt hoàn toàn giống như trong giải pháp vật chất, hoặc là đưa đến một tiến tŕnh trừng phạt đời đời, như vậy đồng thời biện hộ cho một h́nh thức bất tử. Do sự nhân ái có sẵn trong tâm nhân loại, rất ít người có tính chất thù hằn hoặc thiếu suy xét đủ để xem cách tŕnh bày
này như có thể thừa nhận được, và dĩ nhiên
trong số những người này, chúng ta phải sắp người kém suy tư, tức là người thoát khỏi trách nhiệm tinh thần đi vào một tin tưởng mù quáng trong các
tuyên ngôn thần học. Cách lư giải của Thiên Chúa giáo, như đă được đưa ra bởi các trường phái và người theo thuyết chính thống, tỏ ra không đứng vững khi được đệ tŕnh trước lập luận rơ ràng; trong số các luận cứ vốn phủ nhận tính chính xác của nó, có ẩn sự kiện rằng Thiên Chúa giáo thừa nhận một tương lai lâu dài, nhưng không có quá khứ; đó cũng là
một tương lai hoàn toàn tùy
thuộc vào các hoạt động của giai đoạn sống hiện tại này và không hề tính đến các điểm tách phân và các dị biệt giúp phân biệt nhân loại. Chỉ có thể biện hộ được dựa trên lư thuyết về một Thượng Đế nhân h́nh mà ư chí của Ngài – khi nó thể hiện ra trong thực tế – đem lại một hiện tại mà không có một quá khứ nào chỉ có tương lai thôi; sự bất công của điều này được nhận biết khắp nơi, nhưng ư chí không thể hiểu được của Thượng Đế đừng nên đặt nghi vấn. Hàng triệu người vẫn c̣n giữ tin tưởng này, nhưng nó không c̣n được duy tŕ mạnh mẽ như cách đây một trăm năm.
402
3.
Thuyết luân hồi, rất quen thuộc với mọi độc giả của tôi, đang trở nên ngày càng phổ cập ở Tây phương; thuyết này luôn luôn được chấp nhận (mặc dầu có nhiều thêm thắt và diễn dịch lố bịch) ở Đông phương. Giáo lư này
đă bị làm lệch lạc nhiều, cũng như các giáo huấn của Đức Christ, hoặc Đức Phật, hoặc Đức Shri Krishna bởi những nhà thần học thiển cận và tâm trí có giới hạn. Các sự kiện căn bản có nguồn gốc tâm linh, đối với việc giáng xuống vào vật chất, đối với việc thăng lên qua
phương tiện các lần luân hồi liên tục trong h́nh hài cho
đến khi các h́nh hài này
trở thành các biểu lộ hoàn hảo của tâm thức tâm linh nội tại, và của một loạt các lần khai mở vào lúc kết thúc chu kỳ
luân hồi, đang được sẵn sàng chấp nhận hơn và được công nhận nhiều hơn là trước đây.
403
Đó
là các giải pháp chính cho các vấn đề về sự bất tử và về sự tiếp tục tồn tại của linh hồn con người. Các giải pháp đó nhắm vào việc giải đáp nghi vấn muôn đời của tâm con người như là Từ Đâu, Tại Sao, Tới Đâu và Nơi Nào? Chỉ có giải pháp cuối cùng trong các giải pháp được đề ra này mới đưa ra một đáp án hữu lư thực sự cho mọi vấn
đề. Việc chấp nhận giải pháp đó đă
bị tŕ hoăn, v́ kể từ thời bà H.P.Blavatsky, người đưa ra chân lư cổ xưa này cho thế giới hiện đại trong phần tư cuối cùng của thế kỷ mười chín, nó đă
được tŕnh bày một cách thiếu khôn ngoan; nó
đă bị làm cho bất lợi do sự kiện rằng các chủng tộc Đông Phương đă luôn luôn nắm giữ nó, và – theo quan
điểm Tây Phương – họ là người ngoại đạo, và người ngoại đạo “trong sự mù quáng của họ, họ cúi đầu trước gỗ và đá”, dẫn chứng một trong các thánh ca của người theo chính thống thuyết của bạn. Thật là kỳ lạ biết bao khi hiểu được rằng đối với con người từ các xứ Đông Phương, người mộ đạo ở Phương Tây cũng làm
thế, và có thể được thấy trên các đầu gối của họ trước bàn thờ Cơ Đốc giáo mang tượng của Đấng Christ, của Trinh Nữ Mary và của các tông đồ.
Các nhà huyền linh học của thế giới, qua các Hội Theosophy và cái gọi là các đoàn thể huyền bí khác, đă làm
hại rất nhiều cách tŕnh bày chân
lư liên quan đến luân hồi qua các chi tiết không cần thiết, không quan trọng, thiếu chính xác và thuần là suy luận mà họ đưa ra dưới h́nh thức các chân lư liên
quan đến các diễn tiến của sự chết và các t́nh huống của con người sau khi chết. Các chi tiết này phần lớn tùy thuộc vào nhăn thông của các nhà tâm thông lỗi lạc trong hội Theosophy. Tuy
nhiên, trong các Kinh Thánh của thế giới, các chi tiết này không được nêu ra, và H.P.B.
trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm không nói đến ǵ cả. Một trường hợp của việc cố gắng không chính xác và
thiếu sáng suốt, đó là đưa ra ánh sáng về thuyết luân hồi có thể thấy được trong các giới hạn về thời gian được đặt ra trên các nhân hồn đă quá cố giữa các lần luân hồi trên cơi trần với việc trở lại tái sinh trên cơi trần – rất nhiều năm vắng mặt được đưa ra, tùy thuộc vào số tuổi của linh hồn quá cố và vị trí của linh hồn đó trên thang
tiến hóa. Chúng ta được dạy rằng nếu linh hồn rất tiến hóa, th́ sự vắng mặt ở cơi trần lại được kéo dài và ngược lại. Những linh hồn tiến hóa và những người có năng lực trí tuệ phát triển nhanh th́ trở lại với mức độ nhanh hơn nhiều, do sự đáp ứng bén nhạy của họ với sức lôi cuốn của các nghĩa vụ, các lợi ích và các trách nhiệm đă được tạo ra trên cơi trần. Con người thường dễ quên rằng thời gian là chuỗi của các biến cố và của
404
các trạng thái tâm thức theo sự ghi nhận của bộ óc xác thịt. Nơi nào không có bộ óc hồng trần, th́ những ǵ mà nhân loại hiểu theo ư nghĩa thời gian sẽ không c̣n nữa. Việc lấy đi các chướng ngại của h́nh hài, từng giai đoạn một, sẽ đưa tới nhận thức ngày càng tăng
về Hiện Tại Vĩnh Hằng. Trong trường hợp những người đă vượt qua cánh cửa tử vong và họ vẫn c̣n tiếp tục suy tưởng bằng các thuật ngữ về thời gian, đó là do
huyễn cảm và do sự dai bền của h́nh tư tưởng mạnh mẽ. H́nh tư tưởng đó là dấu hiệu của việc an trụ vào cơi cảm dục; đây là cơi mà
các nhà trước tác Minh Triết Thiêng Liêng hàng
đầu và các nhà tâm thông
đă làm việc và họ cũng đặt nền tảng các tác phẩm của họ trên cơi đó. Họ hoàn toàn chân thật trong những ǵ mà họ nói, nhưng lại quên nhận ra bản chất hăo huyền của mọi phát hiện dựa vào nhăn thông cảm dục. Việc nhận ra yếu tố thời gian rơ ràng và việc luôn luôn nhấn mạnh vào yếu tố thời gian, là đặc điểm của tất cả những người tiến hóa cao đang
lâm phàm và của những người mà hạ trí cụ thể của họ có năng lực mạnh mẽ. Trái lại, trẻ con và các dân tộc ấu trĩ và những người tiến hóa cao mà trí trừu tượng của họ đang hoạt động (qua phương tiện diễn dịch của hạ trí) thường không có ư thức về thời gian. Điểm đạo đồ dùng yếu tố thời gian trong các liên
hệ của ḿnh và các giao tiếp với những người đang sống trên cơi trần, nhưng bị tách biệt trong chính ḿnh với mọi nhận thức về điều đó ở nơi khác trong vũ
trụ.
405
Do
đó, việc dùng thuật ngữ “bất tử” hàm ư vô thời gian và dạy rằng tính chất vô thời gian (timelessness)
này hiện hữu đối với những ǵ không thể hư hoại hoặc bị chi phối bởi thời gian. Đây là một phát biểu cần xem xét cẩn thận. Con người luân hồi mà không có sự thôi thúc nào về thời gian. Con người lâm phàm dưới sự đ̣i hỏi (demands) của trách nhiệm nghiệp quả, dưới sự lôi cuốn của những ǵ mà y, với tư cách linh hồn, đă khởi xướng, và v́ nhu cầu được cảm nhận phải làm tṛn các
nghĩa vụ đă được giao phó; y
cũng lâm phàm do một ư thức trách nhiệm và để đáp ứng với các nhu cầu mà một lần phạm luật trước đây chi phối các liên quan
đúng đắn của con người đă áp đặt lên y. Khi các
đ̣i hỏi này, các hoàn cảnh bắt buộc của linh hồn, các kinh nghiệm và trách nhiệm đă được đáp ứng được hết, con người vĩnh viễn đi vào “ánh
sáng trong mát của t́nh thương và sự sống” và không c̣n cần (chừng nào mà chính y c̣n
liên quan đến) giai đoạn ấp ủ với kinh nghiệm của linh hồn trên cơi trần. Y thoát khỏi các áp đặt của karma trong ba cơi
thấp, nhưng vẫn c̣n ở dưới sự thúc đẩy của qui luật tất yếu của karma nó rút ra từ y cái lạng (ounce) cuối cùng có thể có của công việc mà y ở vị thế làm cho các áp đặt này vẫn c̣n ở dưới Luật Trách Nhiệm Nghiệp Quả. Do đó, bạn có ba trạng thái của Luật Karma, khi nó tác
động vào nguyên tắc tái sinh:
1. Luật Trách Nhiệm Nghiệp Quả (Law of Karmic Liability) chi phối sự sống trong ba cơi thấp của cơ tiến hóa nhân loại, và nó kết thúc hoàn toàn vào cuộc điểm đạo thứ tư.
2. Luật Tất Yếu Nghiệp Quả (Law of Karmic Necessity). Luật này chi phối đời sống của đệ tử tiến hóa và điểm đạo đồ từ lúc điểm đạo lần hai, cho đến một cuộc điểm đạo nào đó cao hơn điểm đạo thứ tư; các cuộc điểm đạo này giúp cho y chuyển qua Con Đường Tiến Hóa Cao Siêu.
3. Luật Chuyển Hóa Nghiệp Quả (Law of Karmic Transformation), một giai đoạn bí ẩn chi phối các tiến tŕnh được trải qua trên Con Đường Cao Siêu. Các tiến tŕnh này làm cho điểm đạo đồ thích hợp để giúp vượt qua cơi hồng trần vũ trụ hoàn toàn và hoạt động trên cơi trí vũ trụ. Nó liên quan đến việc giải thoát của các Đấng giống như Sanat Kumara và các Đấng Phụ Tá của Ngài trong Hội Đồng Huyền Linh ở Shamballa, ra khỏi sự áp đặt của dục vọng vũ trụ vốn biểu lộ trên cơi hồng trần vũ trụ của chúng ta dưới h́nh thức ư chí tinh thần. Điều này nên là một ư tưởng lôi cuốn đối với bạn. Tuy nhiên, quả là có ít điều mà tôi có thể nói về đề tài này. Tri thức có liên quan chưa thuộc về tôi.
406
Bây giờ chuyển sang một khía cạnh khác của chủ đề chúng ta. Nói theo
nghĩa rộng, có ba giai đoạn chết chính.
Trước tiên, luôn luôn có sự tái diễn sự kiện về cái chết của xác thân. Điều này quen thuộc với tất cả mọi chúng ta qua sự rất thường xuyên của nó, nhưng chúng ta có thể hiểu được nó. Nhận thức này sẽ nhanh chóng loại bỏ nỗi sợ chết hiện tại.
Kế đến có “cái chết thứ hai” được nói đến trong Thánh Kinh, trong chu kỳ hành tinh này, được kết hợp với cái chết của mọi kiềm chế cảm dục trên con người. Theo nghĩa rộng, cái chết thứ hai này được hoàn tất vào cuộc điểm đạo thứ tư, khi mà ngay cả đạo tâm tinh thần cũng chết đi v́ không c̣n cần nữa. Ư chí của điểm đạo đồ bây giờ trở nên cố định và vững chắc, và sự nhạy bén của thể cảm dục không c̣n cần nữa.
Có một đối ứng khác thường đối với kinh nghiệm này dựa vào một mức độ kém hơn nhiều trong cái chết của mọi xúc cảm cảm dục, vốn xảy ra cho người t́m đạo cá biệt vào lúc điểm đạo thứ hai. Lúc đó chính là một giai đoạn hoàn hảo và được ghi nhận thực sự. Giữa cuộc điểm đạo hai và ba, đệ tử phải chứng tỏ sự liên tục của việc không đáp ứng với cảm dục tính (astralism) và đa cảm tính (emotionalism). Cái chết thứ hai mà ở đây tôi bàn đến, có liên quan đến cái chết hay sự biến mất của thể nguyên nhân (causal body) vào lúc điểm đạo thứ tư; cái chết này đánh dấu sự hoàn tất của việc kiến tạo antahkarana và thiết lập sự liên tục trực tiếp, không bị ngăn trở của mối liên hệ giữa Chân Thần với phàm ngă.
407
Cái chết thứ ba xảy ra khi điểm đạo đồ bỏ lại đàng sau ngài,
cuối cùng và không có triển vọng quay lại, mọi liên hệ với cơi hồng trần vũ trụ. Tất nhiên, cái chết này ở đàng trước xa đối với tất cả trong Thánh Đoàn
và hiện nay chỉ có thể xảy ra và có thể chấp nhận đối với vài Đấng trong Huyền Linh Nội Điện ở Shamballa. Tuy nhiên,
nó không phải là một tiến tŕnh mà Đức Sanat Kumara sẽ trải qua. Ngài đă trải qua “biến đổi” này
(“transformation”) cách đây nhiều vô lượng thời, trong đại tai biến đă mở ra Kỷ Nguyên Lemuria và
được dẫn tới bởi kinh nghiệm vũ trụ của Ngài và nhu cầu cho ḍng lưu nhập của năng lượng từ các Đấng Cao Cả ngoại hành tinh
(extra-planetary Beings).
Tôi đă đưa ra các tóm tắt ngắn này để mở rộng tầm hiểu biết chung của bạn về điều mà các Chân Sư gọi là “kéo dài cái chết trong không gian” (“extension of death in space”). Tuy nhiên, trong các trang sau đây, chúng ta sẽ tự giới hạn vào chủ đề cái chết của xác thân và của các thể tinh anh trong ba cơi thấp; chúng ta cũng sẽ bàn đến các tiến tŕnh mang lại sự tái hóa nhập (reabsorption) của nhân hồn (human soul) vào trong hồn tinh thần (spiritual soul, hồn thiêng) trên cơi riêng của nó, tức cơi thượng trí; chúng ta sẽ xem xét sự tái đồng hóa (reassimilation) của vật chất và sự chiếm dụng (appropriation) vật chất để luân hồi trở lại.
Do đó, chúng ta sẽ xem xét ba tiến tŕnh chính mà tôi nhắc đến ở trước; các tiến tŕnh này bao gồm ba giai đoạn và sau rốt dẫn đến các tiến tŕnh khác theo Luật Tái Sinh. Đó là:
1. Tiến tŕnh hoàn trả (restitution, phục hồi), chi phối giai đoạn triệt thoái của linh hồn (tức nhân hồn – ND) ra khỏi cơi trần và ra khỏi hai trạng thể thuộc cơi hiện tượng của linh hồn, đó là nhục thân và thể dĩ thái. Tiến tŕnh này liên quan với Thuật Từ Trần.
2. Tiến Tŕnh Loại Trừ (Elimination, gạt bỏ). Tiến tŕnh chi phối giai đoạn sinh hoạt của nhân hồn sau khi chết và lúc ở trong hai cơi tiến hóa khác của nhân loại (cơi cảm dục và hạ trí –ND). Nó liên quan đến việc linh hồn (nhân hồn–ND) loại bỏ thể trí-cảm (astral-mental body), để cho linh hồn “sẵn sàng thung dung, không c̣n bị ràng buộc trong chỗ riêng của ḿnh”.
3. Tiến tŕnh Hội Nhập (Integration), liên quan đến giai đoạn trong đó linh hồn thoát xác lại bắt đầu có ư thức chính ḿnh là Thiên Thần Bản Lai Diện Mục và được tái hóa nhập vào thế giới Linh hồn, như vậy tiến vào t́nh trạng phản tĩnh (state of reflection). Sau đó, dưới tác động của Luật Trách Nhiệm Nghiệp Quả hay Tất Yếu, linh hồn lại tự chuẩn bị để giáng nhập vào h́nh hài lần nữa.
408
Lĩnh
vực kinh nghiệm (trong đó là sự chết, như người b́nh thường hiểu) là ba cơi tiến hóa của con người – cơi trần, cơi t́nh cảm và dục vọng, và cơi hạ trí. Xét cho cùng th́
đây là cơi kép (twofold), theo khía cạnh sự chết, nên có câu “cái chết thứ hai”. Trước đây tôi dùng tập ngữ này để chỉ cái chết hay là sự hủy diệt thể nguyên nhân, mà từ trước đến giờ hồn tinh thần (hồn thiêng) đă hoạt động trong đó. Tuy
nhiên, nó có thể được dùng sát nghĩa
hơn và có thể chỉ giai đoạn hai của tiến tŕnh chết trong ba cơi thấp. Do đó, nó chỉ liên quan đến h́nh hài và được liên kết với các hiện thể biểu lộ vốn nằm ở dưới các phân cảnh vô sắc tướng của cơi hồng trần vũ trụ. Các phân cảnh sắc tướng này (như bạn biết rơ v́ tri thức này chỉ là khái niệm mở đầu của lư thuyết huyền môn) là các phân cảnh mà hạ trí cụ thể hoạt động trên đó, bản chất xúc cảm phản ứng với cái gọi là cơi cảm dục và cơi trần kép. Thể xác gồm có nhục thân và thể dĩ thái. Do
đó, khi xem xét cái chết của một người, chúng ta phải dùng thuật ngữ “chết” liên quan đến hai giai đoạn mà nó hoạt động trong đó:
Giai đoạn một: cái chết của thể dĩ thái hồng trần (physical-etheric body). Giai đoạn này (phare) gồm hai tiểu kỳ (stages):
a. Tiểu kỳ mà trong đó các nguyên tử tạo thành nhục thân được hoàn lại cội nguồn xuất phát của chúng. Cội nguồn này là toàn bộ chất liệu của hành tinh, tạo thành nhục thân của Đức Hành Tinh Thượng Đế (planetary Life).
b. Tiểu kỳ mà trong đó thể dĩ thái, gồm tập hợp các lực, hoàn lại các lực này cho kho chứa năng lượng chung. Hai giai đoạn này (phase – đáng lẽ là stages (?)–ND) nằm trong Tiến Tŕnh Hoàn Trả.
409
Giai
đoạn hai: “Loại bỏ” (“rejection”) (như thường được gọi) các hiện thể trí cảm (mental-emotional
vehicles). Thực ra, các hiện thể này hợp thành một thể duy nhất; về thể này, các nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng thuở ban đầu (rất chính xác) gọi bằng danh xưng “kama-manasic body” tức là hiện thể của dục vọng - trí tuệ (vehicle of
desire-mind). Ở một nơi khác tôi có nói rằng không có thứ ǵ như là cơi cảm dục hoặc thể cảm dục cả. Giống như thể xác được làm bằng vật chất vốn không được xem là một nguyên khí,
cũng thế, thể cảm dục – chừng nào mà bản chất trí tuệ c̣n liên quan tới – cũng thuộc cùng loại. Đây là vấn đề khó hiểu cho bạn, v́ dục vọng và t́nh cảm rất hiện thực và rất quan trọng một cách đáng kinh
ngạc. Nhưng –nói theo
nghĩa đen– theo khía cạnh của cơi trí, thể cảm dục là một “hư cấu của trí tưởng tượng”, nó không phải là một nguyên khí. Tuy
nhiên việc đổ xô vận dụng trí tưởng tượng trong việc giúp sức cho dục vọng, đă tạo nên một thế giới huyễn tưởng, tức thế giới của cơi cảm dục. Trong khi lâm phàm ở cơi trần, và khi một người không ở trên Con Đường Đệ Tử, th́ cơi cảm dục rất hiện thực, với một sức sống và một sự sống hoàn toàn riêng của nó. Sau lần chết thứ nhất (cái chết của xác thân) nó vẫn cũng c̣n thực. Nhưng sức mạnh của nó từ từ tàn tạ; con người trí tuệ bắt đầu nhận ra trạng thái tâm thức thực sự của chính ḿnh (dù
đă phát triển hoặc chưa phát triển), và cái chết thứ hai bắt đầu có thể và xảy ra. Giai đoạn này nằm trong Tiến Tŕnh Loại Bỏ.
410
Khi hai
giai đoạn này của Thuật Từ Trần trôi qua, linh hồn thoát xác không c̣n
bị ràng buộc vào sự kiềm chế của vật chất nữa; nó được thanh luyện (tạm thời bằng giai đoạn Hoàn Trả và Loại Bỏ) khỏi mọi nhiễm trược (contamination) của vật chất. Điều này được đạt đến, không qua bất cứ hoạt động nào của linh hồn trong h́nh hài, tức nhân hồn, mà là theo kết quả của hoạt động của linh hồn trên cơi riêng (tức hồn tinh thần–ND) tách ra một phần của chính nó, mà chúng
ta gọi là nhân hồn. Trước tiên chính công việc của hồn đang ứng linh (overshadowing
soul – tức hồn tinh thần – ND) thực hiện điều này; việc đó không được tiến hành bằng linh hồn trong phàm ngă (tức nhân hồn – ND). Nhân hồn trong giai đoạn này chỉ đáp ứng với sức thu hút (pull) hay
là lực hút của hồn tinh thần (spiritual soul, hồn thiêng) khi nó – với ư định có cân nhắc – kéo nhân hồn ra khỏi các lớp vỏ đang giam giữ của nó. Sau đó, khi
diễn tŕnh tiến hóa tiếp tục và linh hồn ngày càng kiềm chế được phàm ngă, nó sẽ trở thành linh hồn bên trong các lớp vỏ giam nhốt vốn sẽ gây ra – một cách hữu ư và có định tâm – các giai
đoạn của sự chết. Trong các tiểu kỳ (stages) trước kia, việc thoát ra này sẽ chỉ xảy ra với sự trợ giúp của hồn thiêng đang ứng linh. Sau đó,
khi con người đang sống trong cơi trần với cương vị linh hồn, chính y sẽ – với sự liên tục đầy đủ của tâm thức – tiến hành các tiến tŕnh tách (abstraction), và
lúc đó sẽ (với mục tiêu có định hướng) ”tiến lên chỗ mà từ đó y xuất phát”. Đây là sự phản tỉnh (reflection) trong
ba cơi thấp của sự thăng lên thiêng
liêng của Đứa Con hoàn thiện của Thượng Đế. Một vài thông tin mà tôi
đă đưa ra về vấn đề tử vong trong các tác phẩm khác của tôi, có thể hữu ích khi thêm vào
đây. Tôi có mục đích rơ rệt khi đưa ra việc này. Lúc này, cái chết đều đang ở quanh bạn; nhu cầu của tinh thần con người có được ánh sáng về vấn đề này đă lên
đến điểm ngoặt của sức mạnh; nó đang gợi ra sự đáp ứng thế nào cũng xảy ra từ phía Thánh Đoàn.
Chính hy vọng của tôi là các đạo sinh sẽ làm một điều ǵ đó thật quan trọng để giúp đem lại ánh sáng cho các tiến tŕnh sự chết mà nhân loại ngày nay đang cần.
VỀ SỰ TỬ VONG
Trích đoạn từ các tác phẩm khác
411
“Tại sao có mănh lực mù quáng này? Tại sao có sự chết? Tại sao có sự hủy diệt h́nh hài? Tại sao có sự chối bỏ sức mạnh cầm giữ? Tại sao có sự chết, hỡi Đứa Con
Oai Hùng của Thượng Đế?”
Câu trả lời đến một cách yếu ớt: “Tôi nắm giữ ch́a khóa của sự sống và cái chết. Tôi buộc chặt và nới lỏng trở lại. Tôi là Kẻ Hủy Diệt”. Luận về Bảy Cung, q. I, t. 63.
Ư định của Đấng Chủ Quản Cung Một là đứng sau các Trạng Thái thiêng liêng khác, và khi các Ngài đă đạt mục tiêu của các Ngài, th́ phá vỡ các h́nh hài mà các Ngài đă tạo ra.
Ngài là kẻ kiểm soát tấn kịch sự chết trong mọi giới – một sự hủy diệt các h́nh hài vốn mang lại việc phóng thích mănh lực và cho phép “nhập vào ánh sáng qua cánh cổng tử vong”.
Trang 64
a. “Giữ lại bàn tay cho đến khi thời cơ đến. Lúc bấy giờ hăy ban ra món quà của sự chết, hỡi Người Mở Cánh Cửa”.
Trang 65
b. “Tách rời chiếc áo ra khỏi Những Cái đang ẩn sau nhiều nếp gấp của nó. Hăy lấy ra các Lớp Vỏ che đậy. Hăy để cho Chúa được nh́n thấy. Hăy đem Đức Christ ra khỏi Thập Giá”. Trang 69
Bước đầu tiên hướng về việc cụ thể hóa sự kiện về linh hồn là thiết lập sự thật về sự tồn tại, mặc dầu điều này có thể không nhất thiết chứng minh sự thật về sự bất tử… Những ǵ vượt qua diễn tŕnh sự chết và những ǵ tồn tại sau khi xác thân tan ră, dần dần đang được chứng minh. Nếu điều đó không diễn ra như thế, lúc bấy giờ chúng ta trở thành nạn nhân của một ảo giác tập thể, lúc đó óc năo và trí tuệ của hàng ngàn người trở thành không đúng và bị lừa phỉnh, bệnh hoạn và bị lệch lạc. Một sự điên rồ tập thể lớn lao như thế c̣n khó tin hơn là việc lựa chọn một tâm thức mở rộng.
Trang 98– 99
412
Việc phát triển nhăn thông dĩ
thái (etheric vision) và số người có nhĩ thông và
nhăn thông tăng lên nhiều, đang dần dần hé lộ sự hiện hữu của cơi cảm dục và đối phần dĩ thái của cơi trần. Ngày càng có nhiều người đang trở nên biết được lĩnh vực bên trong này: họ thấy được người đang đi
chung quanh những kẻ hoặc được gọi là “chết”, hoặc người đang ngủ, bỏ lại cái vỏ bằng xác
thân. Trang 98.
b. Hai trăm năm tới đây sẽ chứng kiến sự xóa bỏ cái chết, v́ lúc bấy giờ, chúng ta hiểu được sự chuyển tiếp lớn lao đó và sự thiết lập sự hiện hữu của linh hồn. Linh hồn sẽ được biết như là một thực thể, dưới h́nh thức xung lực thúc đẩy và trung tâm tinh thần đàng sau mọi h́nh hài biểu lộ… Tính bất tử chủ yếu của chúng ta sẽ được chứng minh và được hiểu là một sự thực trong thiên nhiên. Trang 96.
Trong vài năm tới, sự thật về kiên tŕ và về sự vĩnh cửu của sự sống sẽ tiến ra khỏi lĩnh vực hoài nghi, đi vào lĩnh vực chắc chắn… Sẽ không có một nghi vấn nào trong bất cứ tâm trí người nào, mà sự vất bỏ của thể xác sẽ để lại một người vẫn c̣n là một thực thể sinh động hữu thức. Y sẽ được biết là tiếp tục măi măi sự sống của ḿnh trong một lĩnh vực nằm đàng sau xác thân. Y sẽ được biết là hăy c̣n tồn tại, tỉnh táo và hiểu biết. Điều này sẽ được mang lại bằng:
a. Việc phát triển một năng lực bên trong con mắt xác thịt của con người …sẽ tiết lộ thể dĩ thái… con người sẽ được thấy là đang chiếm cứ thể đó.
b. Việc tăng số người có được năng lực sử dụng “con mắt thứ ba được khơi hoạt” sẽ minh giải tính bất tử, v́ họ sẽ dễ dàng thấy được con người đă vứt bỏ thể dĩ thái cũng như thể xác của ḿnh.
413
c.
Một khám phá trong
lĩnh vực chụp h́nh sẽ chứng minh sự sống c̣n măi (survival).
d. Qua việc dùng máy thu thanh của những người đă qua đời, sau rốt việc liên lạc sẽ được thiết lập và được biến đổi thành một khoa học thật sự.
e. Sau rốt, con người sẽ được điều chỉnh cho đến một nhận thức và đến một tiếp xúc sẽ giúp y hiểu được thực chất (see through), nó sẽ tiết lộ bản chất của chiều đo thứ tư, và sẽ ḥa lẫn thế giới bên trong (chủ quan) và bên ngoài (khách quan) chung với nhau thành một thế giới mới. Cái chết sẽ mất đi nỗi kinh khủng của nó và cái sợ đặc biệt đó sẽ kết thúc. Trang 183
Bạn phải luôn luôn nhớ rằng tâm thức vẫn như nhau dù cho đang luân hồi trong xác thân hoặc không luân hồi, và phát triển đó có thể được tiến hành thậm chí với sự thoải mái nhiều hơn là khi bị giới hạn và bị chi phối bởi tâm thức năo bộ. Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới q. I, tr 81.
Luật Hy Sinh và Tử Vong là yếu tố chi phối trên cơi trần. Việc hủy diệt h́nh hài để cho sự sống đang phát triển có thể tiến tới, là một trong các phương pháp căn bản trong tiến hóa.
Luận Về Lửa Càn Khôn, tr. 569
a. Luật Phân Ră (Law of Disintegration) là một khía cạnh của Luật Tử Vong. Đây là định luật chi phối sự hủy diệt h́nh hài để cho sự sống nội tại có thể tỏa chiếu đầy đủ… Luật này làm tan vỡ h́nh hài, c̣n Luật Hút kéo trở lại cội nguồn đầu tiên, chất liệu của các h́nh hài này. Trang 580
414
b. Luật Tử Vong chi phối trong ba cơi thấp. Tr. 596
c. Luật Hy Sinh là Luật Tử Vong trong các thể tinh anh, trong khi những ǵ mà chúng ta gọi là sự chết lại là điều tương đồng trong thể xác. Trang 596
d. Luật Tử Vong và Hy Sinh chi phối sự phân ră từ từ của các h́nh hài cụ thể và sự hy sinh của chúng cho sự sống đang phát triển… . Trang 596
e. Khi mọi đơn vị hoặc tế bào trong cơ thể của Hành Tinh Thượng Đế đă thành đạt, Ngài cũng được giải thoát/ phóng thích (set free) khỏi biểu lộ trọng trược và chết về mặt hồng trần. Trang 509
Tiến tŕnh Tử Vong như sau theo huyền môn:
a. Giai đoạn thứ nhất là triệt thoái sinh lực (life force) trong thể dĩ thái ra khỏi nhục thân, hậu quả là “rơi vào hư hoại” và trở nên “phân tán các yếu tố”. Con người cụ thể (objective man) mờ nhạt đi và không c̣n được thấy bằng con mắt xác thân nữa, mặc dầu vẫn c̣n trong thể dĩ thái của người ấy. Khi nhăn thông dĩ thái được phát triển, ư tưởng về cái chết sẽ mang lấy các tỷ lệ rất khác nhau. Khi một người có thể được thấy đang hoạt động trong thể dĩ thái hồng trần của ḿnh bởi đa số nhân loại, th́ việc buông rơi thể trọng trược sẽ được xem như việc giải thoát.
b. Giai đoạn thứ hai là sự triệt thoái sinh lực ra khỏi thể dĩ thái và việc mất sinh khí của nó… .
415
c. Giai
đoạn thứ ba là sự triệt thoái sinh lực ra khỏi thể cảm dục hay thể t́nh cảm, để nó tan ră theo cách tương tự c̣n sự sống được tập trung nơi khác. Nó đă
dành được sự tăng sinh khí
qua cuộc sống cơi trần và gia tăng sắc thái qua kinh nghiệm t́nh cảm.
d. Giai đoạn cuối đối với nhân loại là việc triệt thoái khỏi thể trí. Sau bốn lần triệt thoái này, sinh lực được tập trung vào linh hồn hoàn toàn… . Trang 735 – 737.
Luật Hút phá vỡ h́nh hài và kéo về các cội nguồn ban sơ, vật chất của các h́nh hài này, trước khi kiến tạo lại chúng lần nữa. Trên con đường tiến hóa, các hiệu quả của Luật này được biết rơ không những trong việc hủy diệt các thể bị thải bỏ, mà c̣n trong việc phá vỡ các h́nh hài mà các lư tưởng lớn được thể nhập trong đó… . Sau rốt vạn vật gián đoạn dưới Luật này.
Các tác động của luật này rơ rệt hơn đối với trí tuệ của người b́nh thường trong các biểu lộ của nó vào lúc này trên cơi trần. Chúng ta có thể theo dấu sự liên hệ giữa cơi Niết Bàn (cơi tinh thần) với cơi trần – biểu lộ trên cơi thấp dưới h́nh thức Luật Hy Sinh và Tử Vong– nhưng hậu quả của nó có thể cũng được thấy trên tất cả năm cơi. Đó là định luật vốn hủy diệt lớp vỏ cuối cùng, lớp vỏ này tách ra khỏi linh hồn hoàn thiện. Tr 581
Khi “ư chí muốn sống” biến mất, lúc đó “Các Con Tất Yếu” (“Sons of Necessity”) ngưng biểu lộ ra ngoại cảnh….Khi Chủ Thể Tư Duy trên cơi riêng của nó rút sự chú ư của nó ra khỏi hệ thống bé nhỏ của nó trong ba cơi thấp và tập hợp trong chính nó mọi thần lực của nó, lúc bấy giờ cuộc sống ở cơi trần kết thúc và tất cả quay trở lại trong ư thức thể nguyên nhân.
416
…Điều này biểu hiện trên cơi trần trong sự triệt thoái ra khỏi đỉnh đầu của thể dĩ thái tỏa chiếu và hậu quả là sự phân hủy của thân xác. Khung sườn không c̣n nữa và nhục thân tan ra từng mảnh. Trang
85
a. Thực ra, thể dĩ thái là một mạng lưới chứa các vận hà mảnh mai, vốn là các thành phần của một sợi dây mảnh mai bện lại – một phần của dây này là mắt xích từ điện nối liền thể xác với thể cảm dục và bị găy hay vỡ ra sau khi thể dĩ thái triệt thoái ra khỏi nhục thân vào lúc từ trần. (Xem Ecc. XII. 6 )
Trang 98.
b. Sau này “các phương pháp rơ rệt để chứng minh sự thật rằng sự sống vẫn tồn tại sau cái chết của nhục thân sẽ được tin theo và mạng lưới dĩ thái sẽ được nhận ra như là một yếu tố có thực”. Trang 429
Sự chết là “sự khởi đầu hay việc tiến vào một t́nh trạng giải thoát”. Luận Về Bảy Cung, q. I, trang 197
Sự chết và Thể Dĩ Thái
417
Không phải mục đích của chúng ta là đưa ra các Sự Kiện để thẩm tra bằng khoa học, hoặc ngay cả nêu ra cách thức cho giai đoạn tiến tới kế tiếp dành cho các nhà sưu khảo khoa học; mà chúng ta làm thế chỉ v́ t́nh cờ và hoàn toàn phụ thuộc. Những ǵ chúng ta t́m kiếm, chủ yếu là để đưa ra các chỉ dẫn về sự phát triển và tương ứng của ba tổng thể vốn làm cho thái dương hệ có được bản chất của nó – hiện thể mà một Thực Thể vĩ đại của vũ trụ, Đức Thái Dương Thượng Đế, biểu lộ sự thông tuệ linh hoạt với mục đích biểu lộ hoàn toàn khía cạnh bác ái của bản thể Ngài. Đằng sau phác thảo này có ẩn một mục tiêu về sau c̣n bí ẩn hơn, ẩn tàng trong Ư Chí Tâm
Thức (Will Conciousness)
của Đấng Tối Cao, mà tất phải sẽ được lộ ra sau này khi mục tiêu hiện tại được đạt đến. Sự luân phiên hai mặt của biểu lộ ngoại cảnh và ẩn vào nội cảnh, tức ngoại linh khí theo chu
kỳ, được theo sau bằng nội linh khí
(in-breathing) của tất cả những ǵ đă được xúc tiến qua tiến hóa, được lồng trong hệ thống một trong các rung
động cơ bản của vũ trụ, và chủ âm của Thực Thể vũ trụ đó mà chúng ta
là cơ thể của Ngài. Quả tim đang
đánh nhịp của Thượng Đế (tôi tạm diễn tả một cách không chính xác
như thế) là cội nguồn của mọi tiến hóa theo chu
kỳ, và do đó tầm quan trọng gắn liền với trạng thái phát triển được gọi là “tâm” hay “trạng thái bác ái” và cái
lư thú chính là được đánh thức bởi việc nghiên cứu về nhịp điệu. Điều này đúng, không
những về mặt vũ trụ và đại vũ trụ, mà cũng c̣n
đúng trong việc khảo cứu về con người. Nằm bên dưới mọi nhận thức hồng trần gắn liền với sự nhịp nhàng, rung động, các chu kỳ
và nhịp tim (heart-beat), có
ẩn các tương đồng nội tại của chúng – bác ái, cảm giác, cảm xúc, dục vọng, hài ḥa, tổng hợp và tŕnh tự được an bài– và ở sau các tương đồng này có cội nguồn của vạn vật, sự đồng nhất của Đấng Tối Cao, Ngài biểu lộ chính Ngài như thế đó.
Do đó, việc nghiên cứu về pralaya, hay là sự triệt thoái của sự sống ra khỏi thể dĩ thái, sẽ giống nhau, dù cho người ta nghiên cứu sự triệt thoái của thể dĩ thái con người, sự triệt thoái của thể dĩ thái hành tinh, hoặc là sự triệt thoái của thể dĩ thái của thái dương hệ. Hiệu ứng đều giống nhau và các kết quả đều tương tự.
Kết quả của sự triệt thoái này là ǵ, hay đúng hơn, điều ǵ gây nên cái mà chúng ta gọi là sự chết tức là pralaya? Khi chúng ta theo dơi chặt chẽ cách chỉ dẫn trong bộ Luận này, chúng ta sẽ tiếp tục phương pháp phân loại của chúng ta. Sự triệt thoái thể dĩ thái con người, hành tinh và một thái dương hệ do các nguyên nhân sau:
418
a. Chấm dứt ham muốn. Việc này sẽ là kết quả của mọi diễn tŕnh tiến hóa. Theo Thiên Luật, cái chết thực sự xảy ra do việc đạt đến mục tiêu, và v́ vậy do việc chấm dứt khát vọng (aspiration). Khi
chu kỳ được hoàn tất đưa đến kết thúc của nó, điều này sẽ diễn ra đích thực với con người cá biệt, với Hành Tinh Thượng Đế và với chính Thượng Đế .
b. Bằng việc ngưng từ từ và giảm đi nhịp điệu theo chu kỳ, rung động thích hợp được đạt đến và công việc được hoàn thành. Khi rung động hoặc âm điệu được cảm nhận hoàn toàn hoặc được ngân lên, nó tạo ra (ở điểm tổng hợp với các rung động khác) sự vỡ nát hoàn toàn của h́nh hài.
Như chúng ta biết, chuyển động được tiêu biểu bằng ba tính chất: tŕ trệ / tĩnh tại (inertia), hoạt động (mobility) và nhịp nhàng (rhythm).
Ba tính chất này được trải qua một cách chính xác theo tŕnh tự trên và đ̣i hỏi một giai đoạn hoạt động chậm, nối tiếp bằng một hoạt động thái quá. Giai đoạn trung gian này t́nh cờ tạo ra (khi t́m kiếm âm điệu và tốc độ đích thực) các chu kỳ hỗn độn với thực nghiệm, kinh nghiệm và hiểu biết. Theo sau hai mức độ chuyển động này (vốn là đặc điểm của nguyên tử, Con Người, của Hành Tinh Thượng Đế hoặc tập thể và của Thượng Đế hay là Toàn Thể) đến một giai đoạn nhịp nhàng và ổn cố, trong đó điểm quân b́nh được đạt tới. Bằng sức mạnh làm quân b́nh các cặp đối hợp, và như thế tạo ra quân b́nh, pralaya là tŕnh tự tất phải xảy ra.
c. Bằng cách cắt đứt thể xác ra khỏi thể tinh anh trên các nội cảnh giới, qua việc tiêu hủy mạng lưới. Điều này có ba hậu quả:
419
Thứ nhất. Sự sống vốn đă làm linh hoạt thể xác (cả nhục thân lẫn thể dĩ thái) sự sống đó có điểm khởi đầu của nó trong nguyên tử thường tồn, rồi từ đó “tràn ngập khắp cái động (the moving) và cái
bất động (the unmoving)” (trong
Thượng Đế, Hành Tinh Thượng Đế và con người, cũng như trong nguyên tử của vật chất), được triệt thoái hoàn toàn vào
trong nguyên tử trên cơi trừu xuất (plane of abstraction).
“Cơi trừu xuất” này là một cơi đa dạng tùy theo các thực thể có liên quan:
a. Đối với nguyên tử thường tồn hồng trần, đó là phân cảnh nguyên tử.
b. Đối với con người, đó là thể nguyên nhân.
c. Đối với Hành Tinh Thượng Đế, đó là cơi thứ nh́ của sự sống Chân Thần, trú cảnh (habitat) của Ngài.
d. Đối với Thượng Đế, chính là cơi Adi.
Tất cả các cơi này đánh dấu các điểm dành cho sự tiêu tán (disappearance) của cái đơn nhất vào trong pralaya. Ở đây, chúng ta cần nhớ rằng luôn luôn chính là pralaya khi xét từ bên dưới. Từ cái nh́n cao siêu, chính nó chứng kiến cái tinh anh luôn luôn làm lu mờ (overshadowing) cái trọng trược, khi không c̣n biểu lộ ra bên ngoài, pralaya chỉ là phần bên trong (subjectivity, phần nội tâm), và không phải cái “vốn là không”, mà chỉ v́ cái đó vốn thuộc huyền bí (esoteric).
Thứ hai. Thể dĩ thái của một con người, một Hành Tinh Thượng Đế và một Thái Dương Thượng Đế, bị tiêu tán, trở nên không được an trụ (non-polarised) đối với chủ thể của nó, và do đó cho phép thoát đi. Nói cách khác, nó không c̣n cội nguồn thu hút nữa, cũng như không c̣n là một điểm có từ lực thực sự. Nó trở nên không từ lực (non-magnetic), và Định Luật Hút vĩ đại không c̣n kiềm chế nó; như thế, sự tan ră là t́nh trạng theo sau của h́nh hài. Chân Ngă không c̣n bị thu hút bởi h́nh hài của nó trên cơi trần nữa, và tiếp tục hít vào (inbreath), rút lại sự sống của nó ra khỏi lớp vỏ. Chu kỳ đi đến kết thúc, kinh nghiệm đă được tạo ra, mục tiêu (một mục tiêu tương đối từ sự sống này đến sự sống khác, từ lần luân hồi này đến lần luân hồi khác) đă được đạt đến, và không c̣n ǵ nữa để ước muốn; Chân Ngă hay là thực thể suy tư, do đó mất hết chú tâm vào sắc tướng và chuyển sự chú ư vào nội tâm. Sự an trụ (polarisation) thay đổi, và cuối cùng thể xác bị bỏ rơi.
420
Trong chu
kỳ lớn hơn của Ngài (tổng hợp hay là tập hợp của các chu kỳ nhỏ hơn của các tế bào trong cơ thể Ngài), Hành Tinh Thượng Đế cũng theo
đuổi cùng tiến tŕnh. Ngài không
c̣n bị thu hút xuống dưới hoặc ra ngoài nữa, mà chuyển hết chú tâm của Ngài vào trong; Ngài
gom vào trong toàn bộ các sự sống nhỏ bé hơn trong cơ thể Ngài, tức hành tinh, và cắt đứt sự liên hệ. Sự thu hút bên ngoài chấm dứt, vạn vật bị thu hút về trung tâm thay v́
phân tán ra ngoại vi cơ thể Ngài.
Trong thái dương hệ, Thái Dương Thượng Đế cũng theo đuổi cùng tiến tŕnh như thế. Từ chốn trừu xuất cao thâm của Ngài, Ngài không c̣n bị thu hút bởi thể biểu lộ của Ngài nữa. Ngài rút lại sự chú ư của Ngài và các pairs of opposites, tức tinh thần và vật chất của hiện thể, tách ra (dissociate). Với sự tách ra này, thái dương hệ, tức “Đứa Con Tất Yếu”, hay Con của ham muốn, ngưng hiện tồn, và vượt ra ngoài cuộc sống biểu lộ. [6]
Thứ ba. Sau rốt, sự tách ra này dẫn đến việc phân tán các nguyên tử của thể dĩ thái vào t́nh trạng ban đầu của chúng. Sự sống bên trong, tức là tổng hợp của ư chí và bác ái đang khoác h́nh thức linh hoạt, bị rút ra. T́nh trạng cộng tác bị tan ră. Kế đó h́nh hài tan vỡ; từ lực vốn đă giữ nó dưới dạng kết hợp không c̣n hiện hữu nữa, sự tan biến trở nên hoàn tất. Vật chất vẫn c̣n, nhưng h́nh hài không tồn tại nữa.
Công việc của Thượng Đế Ngôi Hai chấm dứt, việc lâm phàm thiêng liêng của Ngôi Con kết thúc. Nhưng năng lực hoặc tính chất cố hữu của vật chất cũng c̣n, và vào lúc kết thúc của mỗi giai đoạn biểu lộ, vật chất (mặc dầu được phân phối trở lại vào h́nh thức ban sơ của nó) là vật chất sáng suốt linh hoạt cộng thêm với việc tăng thêm tính chất biểu hiện ra ngoại cảnh, tính chất phát xạ tăng lên và hoạt động tiềm tàng mà nó đạt được nhờ kinh nghiệm cũng tăng lên. Chúng ta hăy minh họa: Vật chất của thái dương hệ, khi chưa biến phân, là vật chất thông tuệ linh hoạt, và đó là tất cả những ǵ có thể được xác định về nó. Vật chất thông tuệ linh hoạt này là vật chất được định tính bởi một kinh nghiệm trước kia, và được tô màu bởi một lần hóa nhập (incarnation) trước kia. Giờ đây vật chất này ở trạng thái sắc tướng (in form), thái dương hệ không ở trạng thái qui nguyên mà ở trạng thái biểu lộ ra ngoại cảnh (in objectivity) – trạng thái biểu lộ ngoại cảnh này nhắm vào việc đưa thêm một tính chất khác vào kho chứa của Thượng Đế (logoic content, thiên khố), kho bác ái và minh triết. Do đó, vào kỳ qui nguyên thái dương sắp tới, lúc kết thúc một trăm năm của Brahma, vật chất của thái dương hệ sẽ được tô điểm bằng thông tuệ linh hoạt và bằng bác ái tích cực. Theo sát nghĩa, điều này hàm ư rằng tập hợp vật chất nguyên tử của thái dương hệ, sau rốt sẽ rung động theo một chủ âm khác hơn là nó đă rung động vào lúc bắt đầu biểu lộ.
421
Chúng
ta có thể suy diễn điều này liên quan với Hành Tinh Thượng Đế và từng con người, v́ sự tương đồng vẫn đúng. Chúng ta
có sự tương ứng trên một mức độ nhỏ nơi sự kiện là mỗi giai đoạn sống của con người có thể
thấy một người có một thể xác phát triển hơn với sự đáp ứng lớn hơn, điều hợp với một chủ điểm cao hơn, với sự thanh luyện thích hợp hơn và rung động theo một mức độ khác. Trong ba ư tưởng này có ẩn nhiều kiến thức, nếu chúng được nghiên cứu thận trọng và triển khai hợp lư.
d. Bằng sự chuyển hóa màu tím thành màu lam. Điều này không thể nói thêm. Chúng tôi chỉ đưa ra ư tưởng, và để việc thể hiện cho các nhà nghiên cứu mà karma của họ cho phép và họ có đủ trực giác.
422
e. Bằng việc triệt thoái của sự sống, h́nh tướng sẽ từ từ tan ră. Phản xạ tự nhiên (reflex action)
ở đây gây sự chú ư, v́ các Đấng Kiến Tạo vĩ đại và các Thiên Thần vốn là các vị thừa hành linh hoạt trong chu kỳ biểu lộ, các Ngài giữ cho h́nh hài ở dạng kết hợp, chuyển hóa, áp dụng và luân chuyển các phóng phát
prana, cũng như làm mất sự thu hút của chúng đối với vật chất của h́nh hài và chuyển sự chú tâm của các Ngài qua nơi khác. Trên con
đường của ngoại linh khí (dù là con
người, hành tinh hoặc Thượng Đế), các devas kiến tạo này (trên cùng một Cung như đơn vị đang muốn biểu lộ, hoặc đang ở trên Cung bổ túc) đều bị thu hút bởi ư chí và ước muốn của Ngài và đang
hoàn thành nhiệm vụ kiến tạo của các Ngài. Trên con
đường của nội linh khí (dù là con
người, hành tinh hoặc Thượng Đế) các Ngài không c̣n bị thu hút nữa, và h́nh hài bắt đầu tan ră. Các Ngài rút
lại sự chú tâm của các Ngài, c̣n các Lực (cũng là các thực thể) họ là các tác nhân hủy diệt, tiến hành công việc cần thiết của các Ngài, đó là
phá vỡ h́nh hài; các Ngài
phát tán nó – như nó được diễn tả về mặt huyền bí – theo “bốn luồng gió của Bầu Trời” hay là cho các vùng
theo bốn hơi thở – một sự tách rời và phân phối tứ phân. Ở đây có đưa ra một ẩn ngôn, cần nghiên cứu cẩn thận.
Mặc dầu không có các h́nh ảnh nào đă được vẽ ra về các cảnh vào lúc lâm chung, cũng không có sự thoát ra mang kịch tính nào của thể dĩ thái đang thoi thóp từ trung tâm ở trong đầu, như có thể được báo trước, tuy nhiên một số các qui luật và mục tiêu chi phối sự triệt thoái này đă được ghi nhận. Chúng ta đă thấy làm thế nào mục tiêu của mỗi sự sống (dù thuộc con người, hành tinh hoặc Thượng Đế) phải là việc thực hiện và xúc tiến một mục tiêu nhất định. Mục tiêu này là sự phát triển của một h́nh hài thích hợp hơn cho việc sử dụng của tinh thần; và khi mục tiêu này đạt được, lúc đó chủ thể nội tâm chuyển sự chú tâm của ḿnh đi nơi khác, và h́nh hài tan ră, v́ đă phụng sự cho nhu cầu của ḿnh. Đây không phải là trường hợp luôn luôn xảy ra với mọi kiếp sống con người, ngay cả cũng không ở trong chu kỳ hành tinh. Bí mật của nguyệt cầu là bí mật về sự thất bại. Khi được hiểu rơ, bí mật này dẫn đến một kiếp sống xứng đáng và đưa ra một mục đích xứng đáng cho nỗ lực cao nhất của chúng ta. Khi khía cạnh sự thật này được hiểu biết rộng răi, như nó sẽ xảy ra khi nhân loại có đủ sáng suốt, lúc bấy giờ sự tiến hóa chắc chắn sẽ tiếp diễn, và các thất bại sẽ không nhiều.
Luận Về Lửa Càn Khôn, trang 128 – 133
423
Mọi sự cắt đứt các khoen nối đều tạo ra các phản ứng dữ dội.
Tuy nhiên ước ǵ bạn có thể hiểu được điều đó, việc cắt đứt các khoen nối bên ngoài của cơi trần là cắt đứt ít tệ hại nhất và tạm bợ nhất của tất cả mọi biến cố như thế. Chính cái chết là một phần của đại ảo tưởng và chỉ có v́ các bức màn che mà chúng ta
đă gom lại chung quanh chính
chúng ta. Mọi người trong chúng ta, với cương vị là những người hoạt động trong lĩnh vực ảo cảm (lĩnh vực mới mẻ mà nhân loại phải học cách hoạt động một cách hữu thức trong đó)
đă được biểu dương và tin tưởng. Cái chết đến với mọi người, nhưng đối với các đệ tử sẽ không có một huyễn cảm thường thấy và một thống khổ nào. Tôi xin nói với bạn đừng nh́n lại quá khứ. Huyễn cảm và thống khổ nằm trong hướng đó. Đó là
hướng thông thường và là cách làm dễ nhất đối với đa số. Nhưng đó không phải là cách dành cho bạn. Đừng trông cậy vào sự thiên khải hoặc là vào tiện nghi hăo huyền được tạo ra của những người đang do dự trên đường phân chia giữa cái hữu h́nh với cái vô h́nh. Lần nữa, đó không phải là cách dành cho bạn. Bạn không phải là một đệ tử chịu đựng đau khổ và đau khổ v́ mất mát đang lo lắng nh́n vào bức màn phân cách, và hy
vọng vào một vài dấu hiệu phải trải qua, nó sẽ thuyết phục bạn rằng mọi sự đều tốt đẹp…..
Hăy vươn tới các đỉnh cao của linh hồn, nhờ t́m kiếm sẽ thấy được chóp đỉnh của an b́nh và độ cao đó của hân hoan nơi mà linh hồn bạn đang đứng vững, rồi nh́n vào thế giới của người sống – một thế giới ba mặt trong đó mọi người– lâm phàm hay không – đều hiện hữu. Hăy t́m nơi đó những ǵ mà linh hồn bạn có thể và sẽ nhận biết. Các huyễn cảm của nỗi đau riêng của bạn, ảo giác của quá khứ, quan điểm của con người bao giờ cũng lệch lạc. Chỉ có linh hồn đứng vững hoàn toàn tách khỏi ảo tưởng và chỉ có linh hồn mới thấy các sự vật theo đúng thực tướng của chúng. Do đó, đỉnh núi đưa đến linh hồn.
Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới, quyển I, tr 463.
424
CHƯƠNG V
TIẾN TR̀NH HOÀN TRẢ
Chủ đề sự chết mà chúng ta hiện đang xem xét, phải được chúng ta tiếp cận với tinh thần thuộc trạng thái b́nh thường và với sự thẩm tra khoa học nhiều như chúng ta có thể vận dụng. Phức cảm sợ sệt của nhân loại t́m được điểm xâm nhập của nó vào tâm thức con người qua tác động từ trần; không được sống, là nỗi sợ căn bản, và lại chính là hiện tượng thông thường nhất trên hành tinh. Hăy nhớ điều đó. Tác động từ trần là thói quen chung lớn lao vốn chi phối toàn bộ sự sống hành tinh chúng ta, nhưng chỉ trong gia đ́nh nhân loại, và một cách yếu ớt, rất yếu, trong giới động vật là phản ứng đối với nỗi sợ xảy ra. Trừ phi bạn có thể thấy được cơi giới dĩ thái như các Đấng ở khía cạnh nội môn của kinh nghiệm sống và thấy được nó, bạn sẽ thấy (diễn ra không ngừng và không một tạm ngưng nào) tác động phục hồi vĩ đại của hành tinh. Bạn sẽ chứng kiến được một hoạt động lớn lao tiếp diễn bên trong cơi dĩ thái, trong đó linh hồn thế giới (anima mundi), linh hồn con vật và linh hồn con người luôn luôn phục hồi chất liệu của mọi h́nh hài vật chất cho kho chứa vĩ đại của chất liệu chủ yếu. Chất liệu chủ yếu này là một chất thuần nhất tối quan trọng, có hướng dẫn, cũng nhiều như linh hồn thế giới (world soul) mà người ta nghe nhiều về nó. Sự tương tác này của nguyên lư sự chết với nguyên lư sự sống tạo ra hoạt động sáng tạo cơ bản. Lực thôi thúc có chỉ đạo này là Thiên Trí, của Hành Tinh Thượng Đế khi Ngài đeo đuổi các mục tiêu thiêng liêng của Ngài, mang theo với Ngài trong tiến tŕnh này mọi phương tiện mà qua đó Ngài biểu lộ.
425
Nỗi sợ chết của con người được tạo ra trước tiên v́ sự
định hướng của giới linh hồn, tức giới thứ năm trong thiên
nhiên, (cho tới khi tương đối muộn trong chu kỳ
thế giới) đă đang hướng tới biểu lộ h́nh hài và hướng tới nhu cầu t́m kiếm kinh nghiệm qua vật chất để sau rốt kiểm soát nó tùy thích. Tỷ lệ các linh hồn của những người được định hướng ra xa biểu lộ trong ba cơi thấp tương đối nhỏ, tương xứng với tổng số linh hồn cần đến kinh nghiệm trong ba cơi thấp, đến nỗi, cho đến khi chu kỳ hoặc kỷ nguyên mà chúng ta gọi là kỷ nguyên Cơ Đốc, có thể nói rằng cái chết ngự trị trong chiến thắng. Tuy nhiên, ngày
nay chúng ta đang ở vào thời trước khi thấy sự thay đổi hoàn toàn trong t́nh
trạng này, nhờ bởi sự kiện là nhân loại – ở một mức độ lớn hơn nhiều so với trước kia – đang
đạt được một sự định hướng cần thiết; các giá trị cao và sự sống của linh hồn, khi được tiến nhập vào qua sự quyết tâm của thể trí trong trạng thái cao và thấp của nó, đang bắt đầu kiểm soát. Điều này tất sẽ mang lại một thái độ mới về cái chết, nó sẽ được xem như một tiến tŕnh tự nhiên và đáng ao
ước, được trải qua theo chu
kỳ. Sau rốt, con người sẽ hiểu được ư nghĩa các lời của Đức Christ khi Ngài nói:
“Hăy trả lại cho Caesar những ǵ của Caesar, và trả lại cho Chúa những ǵ của Chúa”. Trong sự kiện mà các lời này được thốt ra, Ngài ám chỉ tác động phục hồi lớn lao mà chúng ta gọi là sự chết. Hăy trầm tư về câu chuyện đó và hiểu được biểu tượng của linh hồn, chứa bên trong đại hồn, giống như cá trong nước, và giữ một đồng tiền kim loại, tượng trưng cho vật chất.
Trong một trong các tác phẩm cổ, có các lời lẽ tượng trưng sau đây:
426
Cha
nói với Con: Hăy tiến tới và thu nhận cho chính con những ǵ không phải là chính con và những ǵ không phải của chính con, mà là của Ta. Hăy xem nó như của riêng con và t́m
nguyên nhân sự xuất hiện của nó. Hăy để nó có vẻ là
chính con. Nhờ vậy khám phá ra thế giới của ảo cảm, thế giới của ảo tưởng ăn sâu, thế giới của gian dối. Kế đó hăy học rằng ngươi đă lấy những ǵ không phải là mục tiêu của nỗ lực linh hồn.
Và khi thời điểm đó đến trong mỗi chu kỳ với sự xuất hiện của phỉnh lừa và của đánh cắp, lúc đó một tiếng nói sẽ được nghe thấy. Hăy tuân theo tiếng đó. Đó là tiếng của những ǵ bên trong chính ngươi, nó nghe được tiếng của Ta, một tiếng không nghe được bởi những người thích đánh cắp. Trật tự sẽ được ban ra trở lại và lần nữa: “Hăy hoàn trả của cải bị đánh cắp. Hăy nhận biết rằng chúng không được dành cho ngươi”. Vào các thời khoảng lớn hơn, tiếng nói đó lại sẽ đến: “Hăy hoàn trả những của cải đă vay mượn; hăy trả lại món nợ của ngươi”.
Và lúc đó, khi mọi bài học đă được học xong, một lần nữa tiếng nói sẽ cất lên: “Hăy vui vẻ hoàn lại những ǵ nguyên là của Ta, của ngươi và giờ đây là của chúng ta. Ngươi không c̣n cần đến h́nh hài nữa. Hăy thung dung tự tại”.
Hàm ư của các lời trên đă rơ.
Hai ư tưởng chủ yếu sẽ giúp làm sáng tỏ vấn đề tử vong mà chúng ta đang bận tâm hiện nay: Thứ nhất, lưỡng nguyên luận vĩ đại bao giờ cũng có trong biểu lộ. Mỗi một trong nhị nguyên tính đều có biểu lộ riêng của nó, được cai quản bởi các định luật riêng của nó và mưu t́m các mục đích riêng của nó. Nhưng – trong thời gian và không gian – chúng dung hợp các quan tâm của chúng cho lợi ích của cả hai và cùng tạo ra cái bề ngoài hợp nhất. Tinh thần-vật chất, sự sống-sắc tướng, năng lượng-mănh lực – mỗi nhị nguyên đều có trạng thái xuất phát của chúng; mỗi một trong chúng đều có liên hệ với nhau; mỗi cặp có một mục tiêu hỗ tương tạm thời, và như thế bằng sự liên kết chặt chẽ, tạo ra được luồng chảy vĩnh cửu, sự lên xuống theo chu kỳ của sự sống trong khi biểu lộ. Trong tiến tŕnh của mối liên hệ này giữa Cha-Tinh Thần và Mẹ-Vật Chất, đứa con xuất hiện, và trong giai đoạn thơ ấu xảy ra các tiến tŕnh sống bên trong hào quang của mẹ, trở nên đồng nhất hóa với mẹ, tuy nhiên luôn luôn t́m cách thoát khỏi sự thống trị của bà. Khi đến tuổi trưởng thành, vấn đề mạnh mẽ thêm, sức “kéo” của cha bắt đầu chậm chạp xóa bỏ thái độ chiếm hữu của mẹ, cho đến khi cuối cùng, sự nắm giữ của vật chất hay là của mẹ, đối với con của bà (linh hồn) sau rốt bị vỡ tan. Đứa Con, Chúa hài đồng (Christ-child), thoát khỏi sự bảo hộ và đôi tay dính chặt của mẹ, đến với sự hiểu biết của Cha. Tôi đang nói với bạn bằng các biểu tượng.
427
Thứ hai: Mọi tiến tŕnh lâm phàm, của sự sống trong h́nh hài và của sự hoàn trả (bằng sự hoạt động của nguyên lư tử vong), của vật chất cho vật chất, và linh hồn cho linh hồn, được xúc tiến dưới Định Luật Hút phổ quát vĩ đại. Bạn có thể h́nh dung thời gian khi tiến tŕnh sự chết được nhận biết rơ ràng và được con người chào đón, có thể được con người mô tả bằng câu đơn giản: “Thời điểm đă đến khi lực hút của linh hồn tôi đ̣i hỏi rằng tôi từ bỏ và hoàn trả thể xác tôi vào nơi mà từ đó nó xuất phát phải không?” Hăy tưởng tượng sự thay đổi trong tâm thức con người khi sự chết đến phải được xem như một hành động từ bỏ h́nh hài có ư thức và đơn giản, tạm thời được chọn cho hai mục tiêu đặc biệt:
a. Dành sự kiểm soát trong ba cơi thấp
b. Đem lại cơ hội cho vật chất của h́nh hài đă “bị đánh cắp hoặc vay mượn hoặc chiếm hữu một cách công bằng” tùy theo giai đoạn tiến hóa, để đạt tới một điểm hoàn thiện cao siêu qua tác động vào vật chất của sự sống, xuyên qua linh hồn.
428
Đây
là các ư tưởng có ư nghĩa.
Chúng đă được diễn tả trước đây, nhưng đă bị loại bỏ như là cách suy tưởng tượng trưng, có tính cách an ủi hoặc là như niềm tin do mơ ước. Tôi tŕnh bày các ư
tưởng đó cho bạn như là thực kiện trong thiên nhiên,
như là không thể trốn tránh trong thực tế, và như là kỹ thuật và diễn tŕnh quen thuộc giống như các hoạt động này (có bản
chất nhịp nhàng và theo chu
kỳ) vốn chi phối đời sống của kẻ trung b́nh – thức và ngủ, ăn và uống và những việc định kỳ mà con người quen làm.
Tôi đă bàn về chủ đề sự chết trong “Luận Về Huyền Linh Thuật”, trong đó tập trung trước tiên váo các tiến tŕnh chết ở cơi trần và làm thế theo quan điểm của kẻ bàng quan hoặc kẻ quan sát. Nơi đó tôi t́m cách nêu ra thái độ nên có của kẻ bàng quan. Ở đây, tôi xin tŕnh bày một bức tranh hơi khác, nêu ra những ǵ mà linh hồn tách ra được hay biết. Nếu điều này dính dáng đến việc lặp lại những ǵ mà bạn đă biết, tuy thế có vài lặp lại cơ bản và các tŕnh bày mà tôi muốn đưa ra. Tôi xin liệt kê chúng vắn tắt. Bạn nên xem chúng như là căn bản và đích thực.
1. Thời điểm cho việc ra đi của linh hồn lâm phàm đă đến. Trong quá khứ, linh hồn đă:
a- Chiếm hữu một thân xác với một năng lực nào đó thích hợp với các yêu cầu và tuổi của linh hồn đó.
b- Kích hoạt thân xác đó qua trung gian của thể dĩ thái, như vậy phấn khích nó vào hoạt động sự sống trong thời gian có kỳ hạn, được sắp xếp của linh hồn đối với công cuộc hoạt động ở cơi trần.
2. Hai ḍng năng lượng chính đi vào thể xác và tạo ra hoạt động của nó, tính chất và kiểu biểu lộ của nó, cộng với ấn tượng mà nó tạo lên ngoại cảnh/ môi trường của nó.
429
a- Ḍng
sự sống năng động. Ḍng này được bám chặt vào tim. Ḍng
năng lượng năng động này nhập vào thể xác, xuyên qua đầu và đi xuống tim, nơi mà nó được tập trung trong chu
kỳ. Một ḍng năng lượng chung nhỏ hơn hay là prana, phân
biệt với sinh lực được biệt ngă hóa, nhập vào thể xác, xuyên qua lá
lách. Sau đó nó lên tim để kết hợp với ḍng sinh lực lớn hơn và quan trọng hơn. Ḍng sinh lực này kích hoạt và giữ cho thể xác hội nhập ở t́nh trạng mạch lạc chặt chẽ. Ḍng năng lượng prana đem sinh
lực cho các nguyên tử và các tế bào cá biệt tạo thành thể xác.
b- Ḍng tâm thức cá biệt. Ḍng này bám chặt trong đầu, là một trạng thái của linh hồn, biểu lộ loại tâm thức mà đến phiên nó cho thấy mức tiến hóa đă đạt được. Ḍng năng lượng này cũng hoạt động liên quan đến một luồng thần lực phàm ngă; và lực này được tiêu biểu bởi dục vọng (khả năng tri giác cơi t́nh cảm hay cảm dục) và nhập vào thể xác, xuyên qua bí huyệt đan điền. Lực này liên kết con người với toàn bộ cơi cảm dục, và do đó với thế giới ảo cảm. Với người kém phát triển và với mẫu người b́nh thường, huyệt đan điền là nơi tập trung tâm thức và năng lượng được biểu lộ bằng điểm tập trung tâm thức trong đầu mà không có sự nhận biết nào ở bất cứ đâu. Chính v́ lư do này mà (vào lúc từ trần) linh hồn ĺa xác xuyên qua đan điền chớ không qua đầu. Trong trường hợp người phát triển, mẫu người mở trí, giác tuyến sẽ triệt thoái ra khỏi xác xuyên qua đầu.
3. Hồn khóm của mọi h́nh hài trong giới động vật – theo Định Luật Hút – triệt thoái (rút) nguyên khí sự sống ra khỏi bất cứ h́nh hài vật chất đặc thù nào xuyên qua đan điền vốn là năo bộ của động vật b́nh thường. Động vật phát triển cao và động vật được thuần hóa đang bắt đầu sử dụng năo bộ ở một mức độ nhiều hoặc ít, nhưng nguyên khí sự sống và trạng thái cảm thức (sentient aspect), tức là động vật thức (animal consciousness), vẫn rút ra xuyên qua đan điền. Do đó, trong mọi giai đoạn của diễn tŕnh tiến hóa, bạn có một vài tam giác năng lượng lư thú.
430
a- Trong trường hợp của động vật và của con người (con người ít gặp hơn là con vật), của người đần độn và một số người (họ dường như được sinh ra mà không có
điểm tập trung tâm thức cá nhân), bộ ba sau đây rất quan trọng:
Hồn khóm - Huyệt đan điền - Huyệt lá lách hay huyệt sinh lực.
b- Ở cấp thấp hơn, tuy nhiên con người được biệt ngă hóa và với mẫu người t́nh cảm b́nh thường, bộ ba sau đây phải được ghi nhận:
Linh hồn – Bí huyệt đầu – Bí huyệt đan điền.
c- Đối với người tiến hóa cao và đối với người trên Con Đường Đệ Tử, bạn có tam giác sau đây linh hoạt lúc từ trần:
Linh hồn – Bí huyệt đầu – Bí huyệt ấn đường
Liên quan với các bộ ba này, có một liên hệ kép với nguyên khí sự sống:
a. Tim trong đó được tập trung sự sống của linh hồn trong h́nh hài.
b. Lá lách, qua đó tinh hoa sự sống vũ trụ hay prana thường xuyên và nhịp nhàng đi qua.
431
Dĩ
nhiên, toàn bộ vấn đề rất khó hiểu, và đối với những ai cho đến nay c̣n ở trên mức độ hoàn toàn của con người, không thể kiểm chứng được. Tuy nhiên, việc chấp nhận ba điểm trên theo giả thuyết ngày nay, sẽ giúp làm sáng tỏ tâm trí bạn liên quan đến toàn bộ chủ đề hoàn trả này mà chúng ta
đang bận tâm đến.
4. Điểm kế tiếp không cần chứng minh, v́ thường thường nó được chấp nhận. Chính cái ham muốn chi phối tiến tŕnh tử vong, v́ nó cũng chi phối các diễn tŕnh của kinh nghiệm sống. Chúng tôi luôn luôn nói rằng khi thiếu ư-chí-muốn-sống, kết quả không tránh khỏi là cái chết. Ư-chí-muốn-sống này, dù nó là tính bền bĩ của xác thân, hoạt động như một thực thể cơ bản hoặc như là ư định có định hướng của linh hồn, là một khía cạnh của dục vọng, hay đúng hơn nó là một phản ứng của ư chí tinh thần trên cơi trần . Do đó, có một liên hệ gắn bó giữa:
a. Linh hồn trên cơi riêng của nó
b. Thể cảm dục
c. Bí huyệt đan điền.
Từ trước đến giờ, mối liên hệ này nhận được ít sự chú ư liên quan đến thuật từ trần. Tuy nhiên, điều đó biện minh cho sự suy tư cẩn thận.
Bạn hăy chú ư rằng ở đây tôi
đang bàn đến chủ đề sự chết v́ sự hiện hữu của nó được cảm nhận qua bệnh hoạn hoặc qua tuổi già. Tôi không nhắc đến cái chết khi nó xảy đến qua chiến tranh hoặc tai nạn, do ám sát hoặc do tự tử. Các nguyên nhân này
của sự chết, và các nguyên nhân
khác, xảy đến dưới một tiến tŕnh chi phối hoàn toàn khác, ngay
cả khi chúng không thể dính líu đến karma một người hoặc số mệnh riêng biệt của người ấy, như trong trường hợp chiến tranh. Lúc đó rất đông người bị giết. Việc này không có liên
quan ǵ với Luật Nhân Quả dưới h́nh thức một yếu tố trong quá tŕnh phát
triển linh hồn của bất luận cá nhân nào. Đó
không phải là một tác động hoàn trả, được sắp xếp bởi một linh hồn đặc biệt khi nó thể hiện vận mệnh cá biệt của nó. Qua tiến tŕnh hủy diệt của chiến tranh, sự chết ở dưới ư định chỉ đạo theo chu kỳ của Hành Tinh Thượng Đế, thể hiện qua Hội Đồng Huyền Linh ở Shamballa. Các Đấng Cao Cả nơi đây đang
432
điều khiển các diễn tŕnh thế giới, biết rằng một thời kỳ đă
đến khi mối liên hệ giữa tà lực hành tinh với các Quang Minh Lực hay là của Thiện Lực đă đạt đến một điểm “đối kháng bùng nổ” (như nó được gọi). Điều này phải được để cho tự do nếu mục tiêu thiêng liêng được
thể hiện không bị giữ lại. Do đó, việc bùng nổ được phép xảy ra; tuy nhiên lúc
nào cũng có một yếu tố kiềm chế hiện ra, cho dù con người không hiểu được. V́ các Đấng Cao Cả này (các Ngài
đang thể hiện Thiên Ư) không hề đồng nhất hóa với sự sống sắc tướng, tất nhiên các Ngài chỉ có một hiểu biết về sự tương đối quan trọng của sự sống trong h́nh hài;
đối với các Ngài, sự hủy diệt của h́nh hài không phải là cái chết theo nghĩa mà
chúng ta hiểu, mà chỉ là và độc nhất là một tiến tŕnh giải thoát. Đó là
cái thấy giới hạn của những ai đồng nhất hóa với h́nh hài đă từ lâu duy tŕ sự sợ chết. Chu kỳ chúng
ta đang sống hiện nay đă chứng kiến sự hủy diệt Lớn Lao nhất của h́nh hài con người trong toàn bộ Lịch Sử của hành tinh chúng ta. Không
có sự hủy diệt con người. Tôi muốn bạn ghi nhận phát biểu này. V́ có sự hủy diệt hàng loạt này, nhân loại đă tạo ra một tiến bộ rất nhanh hướng về một thái độ b́nh thản hơn liên quan với cái chết. Điều này chưa rơ ràng –nhưng trong thời gian vài năm–
thái độ mới sẽ bắt đầu trở nên rơ rệt, nỗi sợ chết sẽ bắt đầu tan biến trên thế giới. Phần lớn điều này cũng sẽ do sự nhạy cảm của bộ máy đáp ứng của nhân loại tăng lên, dẫn đến một chỗ ngoặt nội tâm hay là đến một định hướng mới cho tâm trí nhân loại, với các kết quả không thể nói trước.
432
Về cơ bản, căn cội của mọi chiến tranh là ư thức chia rẽ. Chủ nghĩa cá nhân
căn bản này hay sự thừa nhận tạo được vừa ư của chính sách biệt lập đưa đến mọi nguyên nhân phụ của chiến tranh: tham lam, tạo ra thảm họa về kinh tế; hận thù tạo ra tranh chấp quốc gia và quốc tế; tàn ác tạo ra đau khổ và tử vong. Do đó,
căn cội của cái chết đă ăn sâu;
đó là sự hủy diệt của chu kỳ chia rẽ với tư cách một cá nhân trên cơi trần mà chúng ta gọi là sự chết theo ư nghĩa
thông thường; tất nhiên sự chết là một tiến tŕnh nhất quán (at-one-ment).
Có thể bạn chỉ thấy thêm một ít vào vật chất, bạn cần học thêm rằng cái chết giải thoát sự sống đă biệt ngă hóa vào một cuộc sống ít bị g̣ bó và giam hăm, và
sau rốt– khi tiến tŕnh chết đă được áp dụng thực tiễn cho tất cả ba hiện thể trong ba cơi thấp – vào trong cuộc sống của mọi người. Đây là một điểm phúc lạc không thể diễn tả.
433
Định Luật Hút chi phối tiến tŕnh chết như nó chi phối mọi tiến tŕnh khác đang
biểu lộ. Chính nguyên khí cố kết, dưới sự hội nhập thăng bằng của toàn bộ cơ thể, mới giữ cho nó toàn vẹn, làm ổn định sự nhịp nhàng của nó và các tiến tŕnh sự sống có chu kỳ của nó và liên kết các phần khác nhau của nó với nhau. Đó là
nguyên khí kết hợp chính bên trong mọi h́nh hài, v́ đó
là biểu hiện đầu tiên (trong linh hồn) của trạng thái thứ nhất của Thượng Đế, trạng thái ư chí. Phát biểu này có thể làm bạn ngạc nhiên, v́ bạn đă quen xem
Định Luật Hút như một biểu hiện của trạng thái thứ hai, tức bác ái-minh triết. Nguyên khí thu hút
này được thấy trong mọi h́nh hài, từ h́nh hài cực nhỏ của nguyên tử đến h́nh hài lớn, Địa cầu, qua đó Hành
Tinh Thượng Đế của chúng ta biểu lộ chính Ngài. Nhưng nếu đó là nguyên khí
cố kết và nguyên nhân của hội nhập, đó cũng
là phương tiện mà nhờ đó “sự hoàn trả” xảy ra và nhờ đó nhân hồn được tái hóa nhập theo định kỳ vào trong
hồn đang ứng linh. Trạng thái này của Lực Hút, cho đến nay, đă nhận được ít chú ư. Lư do ở chỗ nó có liên quan
đến biểu lộ cao của Luật đó, và do
đó có liên quan tới trạng thái Ư Chí của Thượng Đế, v́ đó cũng
là trạng thái Ư Chí của Chân Thần. Chỉ khi huyền lực Shamballa tiếp tục với công việc trực tiếp hơn của nó trong chu
kỳ sắp đến và con người bắt đầu phân biện (theo như chúng phải và sẽ) giữa sự cứng đầu (self-will) với ư chí tinh thần (spiritual-will), giữa sự quyết định, ư định, kế hoạch, với sự an trụ cố định (fixed
polarisation), th́ sự sáng tỏ sẽ đến. Định luật Hút (như mọi định luật khác đang biểu lộ) có ba giai đoạn hoặc trạng thái, mỗi giai đoạn liên quan tới ba trạng thái thiêng liêng:
434
1.
Nó liên quan với sự sống và sắc tướng, tinh thần và vật chất – trạng thái thứ ba.
2. Nó chi phối tiến tŕnh hội nhập cố kết vốn tạo ra các h́nh tướng – trạng thái thứ hai.
3. Nó mang lại sự thiếu cân bằng vốn tạo ra kết quả trong tác động tan ră, như vậy vượt qua h́nh hài – ảnh hưởng đến con người – đưa đến ba giai đoạn mà chúng ta đặt tên là:
a. Hoàn trả, kết quả là làm tan ră xác thân và trả lại các nguyên tố, các nguyên tử và tế bào của nó cho cội nguồn nguyên thủy của chúng.
b. Loại bỏ, dính líu với cùng tiến tŕnh căn bản có liên quan đến các lực vốn đă tạo thành thể cảm dục và thể trí.
c. Hóa nhập (absorption), tức là cách mà nhờ đó nhân hồn được hội nhập vào cội nguồn nguyên thủy của nó, tức là hồn đang ứng linh, hay hồn thế giới (universal soul). Đây là một biểu hiện của trạng thái thứ nhất (Ngôi Một).
435
Khi
được hiểu đúng, tất cả các giai đoạn này minh họa hoặc là minh chứng cho sức mạnh duy nhất của Định Luật Hút và liên hệ của nó với Luật Tổng Hợp đang chi phối trạng thái thiêng liêng
thứ nhất. Sau rốt, sự hội nhập tạo ra sự tổng hợp. Nhiều sự hội nhập theo chu kỳ vốn được tiến hành trong chu
kỳ sinh hoạt vĩ đại của một linh hồn đang lâm phàm,
đưa đến sự tổng hợp sau cùng của tinh thần và linh hồn, vốn là mục tiêu của diễn tŕnh tiến hóa đối với nhân loại. Sau kỳ
điểm đạo thứ ba, điều này đưa đến kết quả trong việc giải thoát hoàn toàn của con người khỏi “lực kéo” của vật chất trong ba cơi thấp và trong năng lực tất nhiên của nó, với sự hiểu biết đầy đủ, vận dụng được Định Luật Hút trong các giai
đoạn khác nhau của nó khi mà diễn tŕnh sáng tạo có liên quan. Lúc bấy giờ, các giai đoạn khác sẽ được chế ngự sau. Một điểm phải được ghi nhớ. Cách nói “cát bụi trở về với cát bụi” rất quen thuộc trong các nghi lễ tống táng của phương Tây, nhắc đến tác động hoàn trả này và ngụ ư sự quay về của các yếu tố của xác thân với kho chứa chất liệu đầu tiên, và của chất liệu của h́nh hài đầy sức sống vào kho chứa dĩ thái chung.
Các thuật ngữ “tinh thần sẽ quay về với Chúa, Đấng sinh ra nó” là một cách nói lệch lạc về sự hóa nhập (absorption, thu
hút) của linh hồn bởi đại hồn (universal soul).
Tuy nhiên, các nghi thức/thủ tục thông thường quên nhấn mạnh rằng chính linh hồn đă biệt ngă hóa trong tiến tŕnh tái hóa nhập, bằng một tác động của ư chí tâm linh, nó
tiến hành và sắp đặt sự hoàn trả đó. Ở Tây phương người ta quên rằng “lệnh hoàn trả” đă được đưa ra với tần suất lớn suốt các thời kỳ bởi mọi linh hồn bên trong một h́nh hài vật chất. Khi làm thế một cách kiên tŕ và một cách tất yếu, trạng thái thiêng liêng
thứ nhất – Chân Thần trên cơi riêng
–đang siết chặt quyền kiểm soát trên thể biểu lộ của nó, xuyên qua h́nh ảnh
của nó – tức linh hồn. Như thế trạng thái ư chí tác
động ngày càng nhiều, cho đến khi, trên con đường đệ tử, quyết tâm thiêng liêng dẫn tới mức phát triển cao nhất của nó, và trên Con
đường Điểm Đạo, ư chí bắt đầu hoạt động tích cực. Điều
đáng ghi nhớ rằng, chính trong việc đưa ra có cân nhắc huấn lệnh của linh hồn trên cơi riêng của nó, đối với cái bóng của nó trong ba cơi thấp, mà linh hồn học cách biểu lộ trạng thái thứ nhất và cao nhất của Thượng Đế, và điều này, trước tiên và trong một thời kỳ rất dài, duy nhất qua tiến tŕnh tử vong.
436
Cái khó
khăn hiện nay là ở chỗ tương đối ít người có ư thức về linh hồn, và tất nhiên đa số con người vẫn chưa hiểu biết về “các huấn lệnh huyền bí” của chính linh hồn họ. Khi nhân loại trở nên có ư thức về linh hồn (và điều này sẽ là một trong các kết quả của nỗi thống khổ của chiến tranh hiện nay), cái chết sẽ được nh́n thấy như là một tiến tŕnh “có sắp xếp”, được diễn ra với ư thức đầy đủ và với hiểu biết về mục tiêu theo chu
kỳ. Dĩ nhiên, điều này sẽ kết thúc nỗi sợ đang lan tràn hiện nay và cũng sẽ chận đứng khuynh hướng tự tử, ngày càng lộ rơ trong các thời khó khăn này. Tội giết người thực ra được dựa vào sự kiện rằng nó can thiệp vào mục tiêu của linh hồn, chớ không thực sự dựa vào việc giết một thân xác con người đặc biệt nào. Điều đó cũng giải thích tại sao chiến tranh không phải là giết người như nhiều người cuồng tín có thiện chí đă
nghĩ. Đó là hủy diệt h́nh hài với mục đích có ích (nếu người ta có thể xem xét kỹ mục tiêu thiêng liêng) của Hành Tinh Thượng Đế. Tuy nhiên, chính các
động lực của những kẻ khởi xướng chiến tranh trên cơi trần mới làm cho chúng trở thành xấu xa. Nếu chiến tranh không xảy ra, th́ Đức Hành Tinh Thượng Đế, qua cái mà chúng ta
gọi là “tác động của Thượng Đế” triệu hồi các linh hồn con người ở mức độ lớn phù hợp với ư định bác ái của Ngài. Khi những người tà vạy khởi xướng chiến tranh, Ngài đưa cái thiện ra khỏi cái ác.
Do đó, bạn có thể thấy tại sao huyền bí học nhấn mạnh vào luật chu kỳ và tại sao có sự quan tâm ngày càng tăng vào Khoa Học Biểu Lộ Theo Chu Kỳ. Cái chết xuất hiện thường thường là vô mục đích; đó là v́ ư định của linh hồn không được biết rơ; sự phát triển đă qua, qua tiến tŕnh luân hồi, vẫn c̣n là một vấn đề bí mật; các tính di truyền và các môi trường đều không được biết, và sự nhận thức về tiếng nói của linh hồn thường thường chưa được phát triển. Tuy nhiên, đây là các vấn đề sắp sửa được nhận ra; sự thiên khải đang sắp diễn ra, và tôi đang đặt nền móng cho việc đó.
Tôi đang băn khoăn cho bạn không biết bạn có hiểu rơ giáo huấn mà tôi đă đưa ra, trước khi chúng ta tiếp tục nói đến những ǵ có tính cách giải thích hoặc mới mẻ. Hăy nghiên cứu với sự thận trọng sao cho chủ đề sự chết có thể hiện ra chắc chắn hơn và rơ ràng hơn trong trí bạn. Hăy t́m cách đạt đến một quan điểm mới về vấn đề và xem xét định luật, mục đích và cái đẹp đẽ của ư định nơi những ǵ mà từ trước đến giờ đă là một khủng khiếp và là một nỗi sợ chính.
437
Sau này
tôi sẽ nỗ lực đưa ra cho bạn một thoáng nh́n về tiến tŕnh chết theo ghi nhận của linh hồn, khi đảm trách tác động hoàn trả. Đối với bạn, những ǵ tôi nói có thể dường như có tính cách suy
đoán hoặc giả thuyết; trong bất cứ trường hợp nào, nó cũng sẽ là một phát biểu mà ít có ai trong
các bạn sẽ ở vào vị thế để chứng minh sự chính xác. Nhưng, hỡi huynh đệ, chắc chắn nó có thể rơ ràng và lành mạnh hơn, vững chắc hơn và đẹp đẽ hơn là cái tối tăm và hy vọng tồi tệ hiện nay, và cái suy
đoán vô vọng và thường là thất vọng đang phủ xuống mọi giường lâm chung vào lúc
này.
1. Bản chất Sự Chết
Trích từ các tác phẩm khác
Cái tổng thể phải được thấy là quan trọng hơn là cái từng phần, và điều này không như một giấc mơ, một linh thị, một lư thuyết, một diễn biến của niềm tin do mơ ước, một giả thuyết hoặc một thôi thúc. Nó được nhận thức như là một quy luật tất yếu có sẵn và như là thường thấy. Nó ngụ ư cái chết, nhưng là cái chết v́ sự tuyệt hảo, v́ hân hoan, v́ tinh thần trong hành động, v́ sự hoàn thiện của mọi điều lành.
Luận về Bảy Cung,q V
Nếu chúng ta có thể hiểu được nó, th́ cái chết chỉ là một trong các hoạt động thành thạo nhất của chúng ta. Chúng ta đă chết bao nhiêu lần rồi, và sẽ chết nhiều lần nữa. Về thực chất, chết là một vấn đề tâm thức. Chúng ta có ư thức về một thời điểm trên cơi thời điểm sau đó, chúng ta triệt thoái vào một cơi khác và có ư thức linh hoạt ở đó. Chừng nào mà tâm thức chúng ta c̣n được đồng nhất hóa với khía cạnh h́nh hài, th́ cái chết sẽ dành cho chúng ta nỗi sợ cổ xưa của nó. Ngay khi chúng ta biết được chính chúng ta là linh hồn, và thấy rằng chúng ta có khả năng tập trung tâm thức, hay là ư thức của chúng ta vào trong bất cứ h́nh hài nào hay là trên bất cứ cơi nào tùy ư, hoặc là theo bất cứ hướng nào trong h́nh hài của Thượng Đế, th́ chúng ta sẽ không c̣n biết cái chết nữa.
Luận về Huyền Linh Thuật, trang 494.
438
Do
đó, hăy suy gẫm về lư thuyết tách ra (abstraction)
này. Nó bao gồm mọi tiến tŕnh sự sống và sẽ gợi ra cho bạn cái bí mật lư thú bất diệt về Sự Chết vốn là lối vào sự sống.
Luận về Bảy Cung, quyển V
Trong Qui Luật này, có hai ư tưởng chính, cả hai đều có liên quan với trạng thái thiêng liêng thứ nhất: ư tưởng về Sự Chết và bản chất của Ư Chí. Trong thế kỷ tới, cái chết và ư chí tất nhiên sẽ được nhận ra là có ư nghĩa mới đối với nhân loại và nhiều ư tưởng cổ xưa sẽ biến mất. Cái chết đối với người suy tư bậc trung là một điểm nguy kịch gây tai họa. Chính việc ngưng và chấm dứt tất cả những ǵ được ưa thích, tất cả những ǵ quen thuộc và mong muốn; đó là việc đâm sầm vào cái không biết, vào cái không chắc chắn, kết thúc đột ngột mọi kế hoạch và dự tính. Bất luận niềm tin đích thực đặt vào các giá trị tinh thần có thể nhiều như thế nào đi nữa, bất luận sự viện lư của thể trí liên quan đến sự bất tử có thể rơ ràng đến thế nào đi nữa, bất luận bằng chứng về sự tiếp tục tồn tại và cuộc sống vĩnh hằng có thuyết phục đến thế nào đi nữa, vẫn c̣n có một nghi vấn, một nhận thức về việc có thể có một cứu cánh hoàn hảo và một điều không có hoàn toàn, và việc kết thúc mọi hoạt động, mọi phản ứng của tâm, của mọi tư tưởng, t́nh cảm, dục vọng, đạo tâm và các ư định vốn tập trung chung quanh cốt lơi trung ương của bản thể con người. Sự mong mỏi và sự quyết tâm tồn tại và ư thức về sự liên tục vẫn c̣n đó, thậm chí đối với tín đồ kiên tâm nhất, dựa vào khả năng, dựa vào nền tảng không vững chắc và dựa vào chứng tích của những kẻ khác – thực ra những người này không bao giờ trở lại để cho biết sự thực. Trọng điểm của mọi ư tưởng về vấn đề này liên quan đến “Cái Ngă” chính yếu (central “I”) hay là sự toàn vẹn của Thượng Đế.
439
Trong Qui
Luật này, bạn nên chú ư rằng trọng điểm thay đổi từ “Cái Ngă” đến các thành phần cấu tạo vốn hợp thành cái vỏ ngoài của Cái Ngă (Self), và
đây là một điểm đáng ghi nhận. Thông tin được trao cho đệ tử là để xóa tan cái vỏ ngoài này, và hoàn lại các sự sống nhỏ hơn cho cái kho chứa chung của chất sống. Đại dương của Bản Thể không được nói tới nơi đâu cả. Ở đây ư tưởng thận trọng sẽ chứng minh rằng diễn tiến tách ra đă
định đoạt này, mà sự sống tập thể làm cho có hiệu quả trong trường hợp của cá nhân, là một trong các lư lẽ vững chắc nhứt cho sự thật về sự liên tục và cho cá nhân, tức sự kiên tŕ có thể đồng nhất hóa được. Hăy ghi nhận các lời này. Sự tập trung hoạt động thay đổi từ thể linh hoạt đến thực thể linh hoạt bên trong thể đó, người làm chủ được hoàn cảnh của ḿnh, người điều khiển các sở hữu của ḿnh và kẻ vốn là chính hơi thở, đang gửi các sự sống vào kho chứa chất liệu hay là thu chúng lại tùy ư để tiếp tục lại mối liên hệ của chúng với y. Luận Về Bảy Cung, quyển V
Thứ nhất, Kẻ Hành Hương Vĩnh Cửu, bằng tự do ư chí và ư muốn riêng của ḿnh, “một cách bí ẩn” chọn cái chết và khoác lấy một thể hoặc một loạt các thể để nâng cao các sự sống của phàm ngă mà y đă thể nhập vào, trong khi làm như thế, chính y “đă chết” theo ư nghĩa mà, đối với một linh hồn tự do, cái chết và việc khoác lấy một h́nh hài và hậu quả là sự ch́m đắm của sự sống trong h́nh hài, là các thuật ngữ đồng nghĩa.
Thứ hai, khi làm như thế, linh hồn tóm tắt lại trên một mức độ nhỏ, những ǵ mà Thái Dương Thượng Đế và Hành Tinh Thượng Đế cũng đă làm và đang làm. Các Đấng Cao Cả đến dưới qui luật của các định luật này của linh hồn trong thời kỳ biểu lộ, cho dù các Ngài không bị chi phối hay kiểm soát bởi các định luật của thế giới tự nhiên theo cách chúng ta gọi. Tâm thức của các Ngài vẫn không nhập hóa vào với thế giới hiện tượng, mặc dầu tâm thức của chúng ta đồng hóa vào với thế giới đó cho đến khi mà chúng ta đến dưới qui luật của các định luật cao siêu hơn. Bằng “cái chết” huyền bí của các Đấng Cao Cả này, các sự sống thứ yếu mới có thể sống và được cống hiến cơ may. Luận về Bảy Cung, q. V
440
Ngày nay,
các lực của sự chết có ở khắp nơi, nhưng đó là cái chết của tự do, cái chết của ngôn từ tự do, cái chết của tự do trong hành động con người, cái chết của chân lư và của các giá trị thiêng liêng cao cả. Đây là những yếu tố thiết yếu trong sự sống của nhân loại. Cái chết của h́nh hài vật chất là một nhân tố không đáng kể liên quan đến các nhân tố này được chỉnh lại dễ dàng qua các diễn tŕnh tái sinh và cơ hội mới… Việc hủy diệt h́nh hài trong cuộc chiến vốn ít quan trọng đối với những ai biết rằng luân hồi là một định luật căn bản của thiên nhiên và thật ra không có cái chết.
Thông điệp tháng 6 – 1940
Cho đến nay bạn nói rằng chỉ có các tin tưởng về sự bất tử chớ không có bằng chứng nào chắc chắn cả. Trong quá tŕnh tích lũy bằng chứng, trong các tin tưởng bên trong của tâm con người, bằng sự kiện về niềm tin vào sự kiên tŕ vĩnh cửu dưới h́nh thức một ư tưởng trong trí con người, có ẩn dấu hiệu chắc chắn. Những dấu hiệu đó sẽ bị thay thế bởi sự xác tín và tri thức trước khi một trăm năm khác trôi qua, v́ một biến cố sẽ xảy ra và một thiên khải được đưa ra cho nhân loại, vốn sẽ chuyển hy vọng thành chắc chắn và tin tưởng thành tri thức. Đồng thời hăy để cho một thái độ mới đối với cái chết cần được vun trồng, và một khoa học mới về cái chết được mở ra. Hăy để cho nó không c̣n là một điều mà chúng ta không thể kiểm soát và nó ắt phải đánh bại chúng ta, và chúng ta hăy bắt đầu kiểm soát sự qua đời của chúng ta đối với mặt bên kia, và hiểu đôi điều về kỹ thuật chuyển tiếp.
Luận về Huyền Linh Thuật, trang 500
441
Tất cả những ǵ mà tôi yêu cầu là một sự tiếp cận hợp lư với cái chết, tất cả những ǵ tôi t́m cách làm
là đưa ra gợi ư rằng khi nỗi đau đă làm
kiệt sức và t́nh trạng yếu đuối xảy đến, người hấp hối nên được để cho chuẩn bị chính ḿnh, cho dù bề ngoài không hay biết, v́ sự chuyển tiếp lớn đó. Đừng quên rằng việc đó chiếm sức khỏe và một ảnh hưởng mạnh mẽ lên bộ máy thần kinh sẽ tạo ra đau đớn. Không thể nào tưởng tượng có một lúc khi mà tác
động hấp hối sẽ trở thành một thành công rốt ráo cho sự sống chăng? Không
thể nào h́nh dung được thời điểm khi mà các thời giờ qua vào lúc lâm chung
có thể nào chỉ là một khúc mở đầu huy hoàng cho một sự thoát ra có ư thức chăng? Khi gặp sự kiện con người phải tách ra, cái trở ngại của lớp vỏ vật chất có thể xảy ra đối với y và những người chung quanh y phải chăng là mục đích cuối cùng được hân hoan và mong mỏi từ lâu? Có thể nào bạn không h́nh dung ra
được lúc mà, thay v́ là
khóc lóc, hăi sợ và không chịu nhận cái không thể tránh khỏi, kẻ hấp hối và các bạn của y phải chăng sẽ đồng ư với nhau về thời điểm và không có ǵ ngoài
hạnh phúc sẽ đặc trưng cho việc ra đi? Phải chăng ư tưởng sầu đau không nên
có trong trí của những kẻ c̣n ở lại, c̣n phút lâm chung
sẽ được xem như các cơ hội hạnh phúc hơn là lúc sinh ra và
lúc kết hôn? Trước đây rất lâu tôi nói với bạn rằng, điều này sẽ có ấn tượng sâu sắc đối với người sáng suốt trong nhân loại, và dần dần đối với tất cả mọi người. Luận Về Huyền Linh Thuật, trang 499
441
Ở đây, điều lư thú nên ghi nhận là cái chết bị chi phối bởi Nguyên Lư Giải Thoát, chớ không phải bởi Nguyên Lư Giới
Hạn. Cái chết chỉ được nhận thức như là một yếu tố được bàn tới bằng các sự sống hữu ngă thức và chỉ bị ngộ nhận bởi con người, họ là những người bị ảo cảm nhất và bị đánh lừa với các tất cả các kiếp sống được thể hiện.
Luận về Huyền Linh Thuật, trang 534
Khi bản chất của Việc Phụng Sự chân chính được hiểu rơ, người ta sẽ thấy rằng đó là một trạng thái của năng lượng thiêng liêng vốn luôn luôn tác động dưới khía cạnh hủy diệt, v́ nó hủy diệt các h́nh hài để phóng thích. Phụng Sự là một biểu lộ của Nguyên Lư Giải Thoát (Principle of Liberation) sự chết và phụng sự tạo thành hai khía cạnh của nguyên lư này. Việc phụng sự sẽ cứu vớt, giải thoát và phóng thích tâm thức bị giam nhốt trên các mức độ khác nhau. Cũng các cách diễn đạt trên có thể dùng cho sự tử vong. Nhưng ngoại trừ việc phụng sự có thể được đem lại do một hiểu biết bằng trực giác về mọi sự kiện đang xét, được lư giải sáng suốt và được áp dụng với một tinh thần bác ái trên cơi trần, nó sẽ không làm tṛn nhiệm vụ của nó một cách thích đáng.
442
Luận về Huyền Linh Thuật, t. 537
Sợ Chết (Fear of Death)
Việc sợ chết là do:
a. Cái khủng khiếp của các tiến tŕnh giằng ra khỏi lần cuối trong động tác của chính sự chết.
b. Nỗi kinh khủng về cái không biết và cái không thể mô tả được.
c. Nghi ngờ về tính bất tử cuối cùng.
d. Buồn khổ trước việc ĺa bỏ những người thân ở sau hoặc là bị bỏ lại sau.
e. Các phản ứng xưa kia đối với những lần chết dữ dội trong quá khứ, đang nằm sâu trong tâm thức.
f. Cố bám vào sự sống h́nh tướng, v́ trước tiên đồng nhất hóa với nó trong tâm thức.
g. Giáo lư sai lầm xưa kia về Thiên đàng và Địa ngục, cả hai đều không dễ chịu theo kỳ vọng đối với một số loại. Luận về Huyền Linh Thuật, trang 300
443
Theo thời gian qua và trước khi kết thúc thế kỷ tới, sau rốt cái chết sẽ bị xem như không tồn tại trong ư thức như hiện nay nó đang được hiểu. Sự liên tục tâm thức sẽ được phát triển rộng răi và nhiều người tiến hóa cao sẽ đồng thời hoạt động trong hai thế giới, đến nỗi cái sợ xưa kia sẽ mất đi và sự liên giao giữa cơi cảm dục với cơi trần sẽ được thiết lập vững chắc, và kiểm soát khoa học đến nỗi công việc của các đồng tử xuất thần sẽ kết thúc một cách hợp lư và độ lượng. Trạng thái đồng cốt xuất thần thường thấy và các hiện h́nh dưới sự kiểm soát và các hướng dẫn viên Ấn Độ chỉ là các lệch lạc về giao tiếp giữa hai cơi, giống như các đồi bại tính dục và các lệch lạc của mối liên hệ và giao tiếp giữa phái tính. Ở đây tôi không
nói đến công việc của các nhà nhăn thông,
bất luận đáng thương đến đâu, cũng
như không chiếm hữu thể xác của các thực thể có tầm cỡ cao, nhưng với các hiện tượng không dễ chịu của các buổi hiện h́nh, của ngoại chất (ectoplasm) và công
việc thiếu sáng suốt mù quáng mà những người thoái hóa thời Atlantis cổ và các linh hồn c̣n ràng buộc vào cơi trần, thủ lănh và người hướng dẫn Ấn Độ bậc trung đă tạo ra. Nơi họ, không có ǵ để học hỏi cả, và tốt hơn hết là tránh xa.
Việc ngự trị của nỗi sợ chết hầu như chấm dứt, không bao lâu chúng ta sẽ tiến vào một thời kỳ hiểu biết, và chắc chắn là hiểu biết đó sẽ cắt đứt nền tảng của mọi sợ hăi của chúng ta. Khi bàn đến nỗi sợ chết, có ít điều cần làm, trừ việc nâng toàn bộ chủ đề lên một mức khoa học hơn và – trong ư thức khoa học này – dạy cho con người cách chết. Có một kỹ thuật từ trần ngay khi c̣n sống, nhưng kỹ thuật này đă thất tung rất nhiều ở Tây Phương, và hầu như mất hết, ngoại trừ trong một vài trung tâm của các Bậc Trí Giả ở Đông Phương. Nhiều điều về việc này có lẽ có thể được bàn đến sau này, c̣n ư tưởng về việc tiếp cận cần thiết với đề tài này có thể trụ vào trong trí của các nhà nghiên cứu đọc thấy sách này, và có lẽ khi họ khảo cứu, đọc và ngẫm nghĩ, tài liệu lư thú sẽ xuất hiện trên đường học hỏi của họ, tài liệu đó có thể dần dần được tập hợp lại và được ấn hành.
Luận Về Huyền Linh Thuật, trang 301 – 302
Nỗi sợ chết và nản ḷng gây ra cho con người Tổng Quả Báo trong kỷ nguyên và chu kỳ này. Cả hai đều cho thấy phản ứng cảm thụ đối với các yếu tố tâm lư như là can đảm. Chúng phải được đáp ứng bằng sự toàn tri (omniscience) của linh hồn, tác động qua thể trí – không phải bằng sự toàn năng (omnipotence) của linh hồn. Trong đoạn này, người ta thấy một ẩn ngôn huyền bí. Luận Về Huyền Linh Thuật, trang 309
Bản năng tự bảo toàn có các căn cội của nó trong nỗi sợ chết cố hữu; qua sự hiện hữu của nỗi sợ này, nhân loại đă chiến đấu với thói quen của ḿnh đưa đến mức tuổi thọ và sự nhẫn nại hiện nay. Luận Về Huyền Linh Thuật, trang 626
Định nghĩa sự chết
Chính sự chết là một phần của Đại Hăo Huyền, và chỉ hiện hữu v́ các bức màn mà chúng ta đă gom lại quanh chính chúng ta. Luận Về Bảy Cung , quyển V
Nhưng con người hay quên rằng, mỗi đêm, trong lúc ngủ, chúng ta chết đối với cơi trần, nhưng sống và hoạt động ở nơi khác. Con người quên rằng họ đă đạt được sự dễ dàng trong việc rời bỏ xác thân; v́ cho đến nay, họ không thể đem lại vào ư thức bộ óc hồng trần hồi ức về cái đă qua và khoảng cách tiếp theo của sự sống linh động, họ không liên kết được chết và ngủ. Sau rốt, chết chỉ là khoảng cách dài trong kiếp sống hoạt động ở cơi trần; người ta chỉ “đi ra ngoài” trong một giai đoạn dài. Nhưng tiến tŕnh ngủ mỗi ngày và tiến tŕnh chết đôi lúc th́ giống nhau, với một dị biệt là trong lúc ngủ, tuyến từ lực hay ḍng năng lượng mà theo đó các luồng sinh lực được giữ nguyên vẹn, và tạo thành con đường trở về với cơ thể. Trong cái chết, tuyến sinh lực này bị đứt hay găy. Khi điều này xảy ra, thực thể hữu thức không thể quay về với nhục thân, cơ thể đó, thiếu nguyên khí kết nối, nên tan ră.
Luận Về Huyền Linh Thuật t. 494
Tiến tŕnh tách ra (như bạn có thể thấy) liên quan với trạng thái sống, được tạo ra bởi một tác động của ư chí tinh thần, và sẽ tạo ra “nguyên khí phục hồi vốn ẩn giấu trong công việc của Đấng Hủy Diệt”, theo cách diễn tả của một châm ngôn huyền môn. Biểu lộ thấp nhất của nguyên khí này được nh́n thấy trong diễn tiến của cái mà chúng ta gọi là Sự Chết – thực ra vốn là một cách rút ra của nguyên khí sự sống được làm linh hoạt bằng tâm thức, ra khỏi các thể trong ba cơi thấp.
445
Như vậy, sự tổng hợp vĩ đại xuất hiện, c̣n sự hủy diệt, cái chết và sự tan ră thực ra không là ǵ cả trừ các tiến tŕnh sự sống. Sự rút ra là chỉ dẫn của diễn tŕnh, sự tiến triển và phát triển. Chính khía cạnh này của Định Luật Sự Sống (hay là Định Luật Tổng Hợp như nó thường được gọi trong vài hàm ư rộng hơn) mà các điểm đạo đồ đặc biệt bàn đến.
Luận về Bảy Cung q V
Sự sống được tiếp cận theo quan điểm của Người Quan Sát, chứ không theo quan điểm của người tham dự trong thực nghiệm và kinh nghiệm hiện nay trong ba cơi thấp (hồng trần-t́nh cảm -hạ trí)… nếu họ là các đệ tử được điểm đạo, họ càng lúc càng không chú ư đến các hoạt động, và các phản ứng của phàm ngă của họ, v́ một vài trạng thái của phàm ngă hiện nay được điều chỉnh và được thanh luyện đến nỗi chúng bị rơi xuống dưới ngưỡng của tâm thức và đă nhập vào thế giới của bản năng; do đó không có hiểu biết ǵ về chúng nhiều hơn là một người đang ngủ biết về hoạt động nhịp nhàng của thể xác của ḿnh trong lúc ngủ. Đây là một chân lư sâu xa và phần lớn không được biết đến. Nó được liên kết với toàn bộ tiến tŕnh sự chết, và có thể được xem như một trong các lư giải về sự chết; nó nắm giữ manh mối đối với các ngôn từ huyền bí “nguồn chứa sự sống”(“the reservoir of life”). Sự chết thực ra là việc không hay biết về những ǵ có thể đang diễn ra dưới h́nh thức này hoặc h́nh thức khác, nhưng dưới một h́nh thức mà thực thể tinh thần hoàn toàn không hay biết. Nguồn chứa sự sống là chỗ của sự chết, và đây là bài học thứ nhất mà đệ tử đang học…
Luận Về Bảy Cung, q. V
Các mục đích của Tử Vong
446
Qua cái
chết, một tiến tŕnh chuộc lỗi lớn lao được xúc tiến; trong “sự rơi của một cái lá” và đưa đến quả là sự đồng nhất hóa của nó với đất nơi nó rơi xuống, chúng ta có một minh họa nhỏ về tiến tŕnh to lớn và trường cửu của việc chuộc lỗi (at-one-ing) qua việc trở thành và chết đi theo kết quả của việc biến dịch. Luận Về Bảy Cung, quyển II, trang 173.
Tôi nói về sự chết với tư cách một người biết được vấn đề theo kinh nghiệm thế giới bên ngoài và biểu lộ của sự sống bên trong: “Không có Sự Chết. Như bạn biết, có sự nhập vào sự sống sung măn hơn. Có sự tự do thoát khỏi các cản trở của nhục thể. Diễn tiến ra khỏi gây nhiều kinh sợ không xảy ra, ngoại trừ trong các trường hợp chết dữ dội và bất ngờ, và lúc đó chỉ có các khó chịu thực sự là một cảm giác tức thời, và có tính áp đảo của cái nguy hiểm và hủy diệt sắp xảy ra, và một điều ǵ đó rất gần với một cơn điện giật. Không thêm ǵ nữa. Đối với người kém tiến hóa, cái chết theo nghĩa đen là một giấc ngủ và một sự quên đi, v́ thể trí không đủ tỉnh thức để phản ứng, c̣n kho chứa của kư ức th́ đến giờ thực sự trống rỗng. Đối với người tốt b́nh thường, chết là một tiếp tục của diễn tiến sinh động trong tâm thức của y, và một tiến hành các quan tâm và các khuynh hướng của sự sống. Tâm thức và ư thức hiểu biết của y cũng y như vậy, không thay đổi. Y không cảm nhận được nhiều sai biệt, chú ư kỹ, và thường không hay biết rằng y đă trải qua giai đoạn từ trần. Với người ích kỷ, xấu xa và độc ác, với người phạm tội và đối với một số ít người chỉ sống theo khía cạnh vật chất, đưa đến kết thúc là gặp t́nh trạng mà chúng ta gọi là “lụy trần”(“earth-bound”). Mắt xích mà họ đă rèn với cơi trần và khuynh hướng về phía cơi trần của mọi dục vọng của họ, bắt họ vẫn ở lại sát cơi trần và cuối cùng gắn chặt họ vào môi trường cơi trần. Họ tuyệt vọng t́m cách và bằng mọi cách có thể có, cố tiếp xúc lại với cơi trần và tái nhập vào đó. Trong vài trường hợp, t́nh thương cá nhân to tát đối với những người bị bỏ lại sau hoặc là việc chưa làm tṛn một nhiệm vụ đă được biết và cấp bách, duy tŕ cái tốt lành và đẹp đẽ trong một t́nh huống hơi giống. Đối với người t́m đạo, chết là tức khắc nhập vào một lĩnh vực phụng sự và biểu lộ mà y rất quen thuộc và y tức khắc nhận ra như không có ǵ mới mẻ. Trong các giờ ngủ, y đă phát triển một lĩnh vực phụng sự tích cực và một lĩnh vực học hỏi. Giờ đây, y chỉ hoạt động trong lĩnh vực đó trong toàn bộ hai mươi bốn giờ (nói bằng các thuật ngữ chỉ thời gian ở trần thế) thay v́ chỉ có vài giờ theo thông lệ của giấc ngủ cơi trần. Luận Về Huyền Linh Thuật, trang 300 – 301
447
Theo
thiên luật, cái chết thực sự xảy ra bằng việc đạt đến mục tiêu, và do đó
ngưng hết hoài băo. Thể dĩ thái của một người, một Hành Tinh Thượng Đế và một Thái Dương Thượng Đế, tan ră, trở nên không c̣n tập trung
(non-polarised) về phía chủ thể của nó nữa, và thế là để cho thoát ra. Nói
khác đi, không c̣n một nguồn thu hút nữa, cũng không có
một điểm tập trung từ lực. Nó trở nên vô từ lực và Định Luật Hút vĩ đại không c̣n kiềm chế nó nữa; do đó, sự tan ră là t́nh trạng tiếp theo sau của h́nh hài.
Luận Về Lửa Càn Khôn, tr 129 – 130
“Thiên Luật đ̣i hỏi có sự thấu nhập của những ǵ có thể tiến hành một thay đổi”.
Hăy nhớ lại những ǵ mà tôi đă đưa ra ở nơi khác, điều hiển nhiên là những ǵ phải t́m lối vào là cái thiết yếu được tập trung vốn sẽ, khi được khởi động trong một cá nhân, một tập thể, một quốc gia, một giới trong thiên nhiên (một trung tâm hành tinh) và trong hành tinh nói chung, nghĩa là đồng thời trong mọi trung tâm hành tinh, sẽ gây nên một náo động, một mức độ thay đổi, một chuyển động và một động lực thúc đẩy mới mẻ, một sự xuất hiện và một trừu xuất tiếp theo sau. Các thay đổi xảy ra trong các trung tâm khi cái chết của xác thân xảy ra mà chưa bao giờ được quan sát hoặc ghi lại; tuy nhiên chúng rơ ràng hiện hữu trước con mắt của điểm đạo đồ và tỏ ra lư thú và đem lại hiểu biết. Chính việc nhận thức t́nh trạng các bí huyệt đă giúp cho điểm đạo đồ biết –khi nào việc chữa trị nên tiến hành – dù cho việc chữa trị xác thân có được phép hay không. Bằng cách xem xét, y có thể thấy liệu yếu tố ư chí của trừu xuất, mà tôi đă nhắc đến, có đang hiện hữu một cách linh hoạt hay không. Cùng một tiến tŕnh có thể được thấy đang xảy ra trong các tổ chức và các nền văn minh mà trong đó khía cạnh h́nh hài đang bị hủy diệt để cho sự sống có thể được tách ra, và sau đó lại kiến tạo cho chính nó một h́nh hài thích hợp hơn. Chính là cùng theo các tiến tŕnh khai mở lớn này, vốn không những chỉ là các tiến tŕnh mở rộng tâm thức mà là được bắt rễ trong cái chết hoặc tiến tŕnh triệt thoái, đưa đến việc phục sinh và thăng thiên.
448
Những ǵ dẫn tới thay đổi là việc phóng ra (dùng cách
diễn đạt hoàn toàn không
thích hợp) năng lượng ư chí có điều khiển và có tập trung. Việc này có tính chất thu hút đến nỗi nó kéo về chính nó sự sống của các bí huyệt, đưa tới sự tan ră của h́nh hài trừ việc phóng thích
(release) sự sống. Cái chết đến với cá nhân theo
nghĩa thông thường của từ ngữ khi ư-chí-muốn-sống trong một xác thân không c̣n, và
ư-muốn-thu-hồi (will-to-abstract,
ư-muốn-tách-ra) xảy đến. Chúng ta gọi đó là sự chết. Trong trường hợp chết v́ chiến trận chẳng hạn, lúc đó không
phải là trường hợp ư-chí-triệt-thoái của cá nhân, mà là một tham gia bị bắt buộc vào một sự tách ra tập thể. Từ chốn riêng của nó, linh hồn của từng người nhận ra việc kết thúc chu kỳ
lâm phàm và triệu hồi sự sống của nó. Nó làm việc này qua việc phóng ra năng lượng ư chí đủ mạnh để mang lại thay đổi… Đức Christ có nói đến việc tách ra này có liên
hệ tới trung tâm hành tinh
lớn thứ ba, tức nhân loại, khi Ngài phán (và
Ngài nói với tư cách Đấng Đại Diện Thánh Đoàn, tức trung tâm hành tinh
thứ hai, mà mọi nhân loại đạt được điểm đạo đều “triệt thoái” vào đó về mặt huyền bí) “Nếu được thăng lên, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”. Một cách diễn đạt khác cho cách nói
này của Ngài sẽ được phán ra vào cuối kỷ nguyên khi Đức Chưởng Quản Địa Cầu sẽ phán từ Shamballa (trung tâm
hành tinh thứ hai), sẽ tách nguyên khí sự sống (life principle) ra
khỏi Thánh Đoàn, lúc
đó mọi sự sống và tâm thức sẽ được tập trung vào bí huyệt đầu của hành tinh – Hội Đồng Huyền Linh ở Shamballa.
449
“Thiên
Luật phán quyết rằng các thay đổi được tạo ra như thế sẽ loại bỏ h́nh hài, đưa tính chất ra ánh sáng và nhấn mạnh vào sự sống”.
Ở đây, ba khía cạnh lớn – h́nh hài, tính chất và sự sống– được đưa vào liên hệ và mức độ của mục tiêu tiến hóa, được nh́n thấy dưới ánh sáng đích thực của nó – Sự Sống. Hăy ghi nhận cách diễn tả này. H́nh hài hay sắc tướng, v́ đă đáp ứng mục tiêu của nó, liền biến mất. Cái chết của h́nh hài xảy ra. Tính chất (quality), tức thuộc tính thiêng liêng chính đang phát triển trong hành tinh này, trở nên thắng thế, “biết được chính nó”– theo cách diễn tả của các kinh sách cổ. Nó được đồng nhất hóa và trở thành cá biệt, nhưng nó không có h́nh hài đem ra áp dụng, ngoại trừ h́nh hài của tổng thể lớn mà nó có vị trí của nó trong đó. Không h́nh hài lẫn không tính chất (không thể xác lẫn không tâm thức) nào là cao nhất trong trạng thái hiện tồn mới, chỉ có trạng thái sự sống, tức tinh thần trên cơi riêng của nó, trở thành yếu tố chiếm ưu thế. Một ít ánh sáng mờ yếu về ư nghĩa của điều này có thể đến nếu bạn nhớ rằng bảy cơi của chúng ta chỉ là bảy cơi phụ của cơi hồng trần vũ trụ. Tiến tŕnh nhạy cảm đang phát triển trong cơ tiến hóa thất phân này phải được trải qua để giúp điểm đạo đồ hoạt động trên cơi cảm dục vũ trụ, khi được triệt thoái hay được trừu xuất sau các cuộc điểm đạo cao. Điểm đạo đồ được tách ra khỏi sự sống hành tinh của chúng ta nói chung. Yếu tố duy nhất có thể ngăn cản điều này, và điều đó có thể là cam kết của Ngài để tạm thời phụng sự bên trong ṿng hạn định của hành tinh. Các vị trong Thánh Đoàn là những vị tự cam kết với việc này, các Ngài đă bắt đầu có tâm thức Bồ Đề và con đường đi xuống của các Ngài (hiểu theo huyền bí học) là từ Kẻ Hành Hương Vĩnh Cửu, Đức Chưởng Quản Địa Cầu, kế đến Đức Phật và rồi Đức Christ. Qua sự chọn lựa tự do, các Ngài vẫn đồng nhất hóa với “tính chất được nh́n thấy bên trong ánh sáng” và đối với kỳ hạn của việc phụng sự được đáp trả một cách tự do của các Ngài. Làm việc với khía cạnh tâm thức để sau đó nhấn mạnh vào khía cạnh sự sống…. Luận Về Bảy Cung q. V
450
Mười tám ngọn lửa phải mờ dần; các sự sống thứ yếu (tiêu biểu cho nguyên khí của h́nh hài, của dục vọng và của tư tưởng, toàn thể của tính sáng tạo, được dựa vào t́nh thương thu hút) phải quay về với nguồn chứa sự sống và không ǵ bị bỏ lại trừ ra những ǵ làm cho chúng hiện hữu, cái ư chí chính yếu vốn được biết do các hiệu quả của bức xạ hay hơi thở của nó.
Sự phân tán, cái chết hoặc tan ră này, thực ra là một hiệu quả lớn được tạo ra bởi một Nguyên Nhân chính yếu và do đó có huấn lệnh: “Họ phải mang lại điều này bằng cách kêu gọi Ư Chí”… Đệ tử phải t́m ra nhóm của ḿnh trong Huyền Viện của Chân Sư và chế ngự Sự Chết với quyết tâm và hiểu biết đầy đủ – kẻ thù truyền kiếp của Sự Sống. Y phát hiện rằng cái chết chỉ là một hiệu quả được tạo ra bởi sự sống và bởi ư chí hữu thức của ḿnh, và là một cách mà nhờ đó y điều khiển vật chất và kiềm chế vật chất. Điều này trở nên có thể thực sự xảy ra, v́ nhờ đă phát triển hiểu biết về hai trạng thái thiêng liêng –hoạt động sáng tạo và t́nh thương– bây giờ y đă tập trung trong trạng thái cao nhất và biết được chính ḿnh là Ư Chí, Sự Sống, Từ Phụ, Chân Thần, Đấng Duy Nhất.
Luận về Bảy Cung q. V
451
Cuộc biến động lớn trong mọi giới của thiên nhiên đă
nêu lên đặc điểm của ngày và thế hệ hôm nay, một hủy diệt kinh hoàng mọi h́nh hài của sự sống thiêng và trong mọi giới đă là âm
điệu (note) nổi bật của sự biến động này. Nền văn minh hiện đại của chúng ta đă nhận một cú đánh chí tử mà nó sẽ không bao giờ hồi phục lại được, mà một ngày nào nó sẽ được nhận biết như là “tác động giải thoát”(“blow of
release”) và như là dấu hiệu cho những ǵ hay hơn, mới mẻ và thích hợp cho tinh thần đang tiến hóa để giúp nó xuất hiện. Các năng lượng lớn đang thấu nhập, và các lực gợi ra chúng đă
đáp ứng trong sự xung đột, nói một cách bóng dáng, vốn đă nâng cao giới khoáng chất vào các bầu trời và đă đem
xuống lửa từ bầu trời. Tôi đang nói với bạn thực tế chứ không chỉ bằng biểu tượng. Các thể của nam, nữ và trẻ con, cùng thú vật, bị hủy diệt; các h́nh hài của giới thực vật và các mănh lực của giới khoáng chất bị tan ră, bị phân tán, bị phá hủy. Sự sống cố kết của mọi h́nh hài trong hành
tinh đă tạm thời được làm cho rời rạc. Giống như một lời tiên tri cổ đă dạy: “Không một Linh Âm hợp nhất đích thực nào phát ra từ h́nh hài đến h́nh hài, từ sự sống đến sự sống. Chỉ có tiếng kêu đau thương, một nhu cầu phục hồi và một thỉnh nguyện để giảm thống khổ, tuyệt vọng và cố gắng vô hiệu phát ra từ đây đến Đó”.
Mọi biến động này của “đất” của thế gian – về tinh thần, tâm lư và thể chất – mọi rối loạn này của h́nh hài và của mọi đường biên quen thuộc của sự sống hành tinh chúng ta, phải xảy ra trước khi có thể xảy đến sự xuất hiện của thánh đoàn trong tâm thức quần chúng; mọi điều này phải làm công việc của nó dựa vào linh hồn con người trước khi Kỷ Nguyên Mới có thể đến, mang theo nó việc Phục Hồi các Bí Pháp và việc phục hồi của con người trên Địa Cầu. Cả hai hài ḥa cùng nhau. Đấy là một trong các điểm chính mà tôi đang t́m cách thực thi. Sự phá vỡ, tan ră và các t́nh trạng hỗn độn hoàn toàn kéo dài trong năm trăm năm qua trong tất cả các giới của thiên nhiên, cuối cùng đă tạo ra lối thoát của chúng vào các t́nh trạng vật chất song hành. Điểm này tốt lành và đáng mong muốn; nó đánh dấu giai đoạn mở đầu cho việc kiến tạo một thế giới hoàn hảo hơn và việc tạo nên các h́nh thức sự sống thích hợp hơn và với các tư thái chính xác hơn của con người, cộng thêm việc định hướng lành mạnh hơn đến thực tại. Cái tuyệt hảo chưa hiện hữu.
452
Mọi việc được nhanh chóng phơi bày ra – cái tốt và cái xấu, cái ưa thích và cái không ưa thích, cái quá khứ và tương lai (v́ cả hai chỉ là một); lưỡi
cày của Thượng Đế hầu như làm xong công việc của nó; lưỡi gươm của tinh thần chia cắt cái quá khứ tệ hại ra khỏi cái tương lai chói lọi và cả hai được xem như góp phần vào Thiên Nhăn (Eye
of God); nền văn minh vật chất của chúng ta sẽ được xem như được thay thế nhanh chóng bằng một văn hóa tinh thần hơn; các tổ chức giáo hội của chúng ta với các thần học có giới hạn và tối tăm của nó, chẳng bao lâu sẽ bị thay thế bởi Thánh Đoàn với giáo huấn đang xuất hiện của nó – minh bạch, xác thực, xuất phát từ trực giác và không vơ
đoán (nondogmatic).
Luận Về Bảy Cung q. V
Khao khát mănh liệt cuộc sống hữu t́nh tức là mê đắm (attachment). Điều này có sẵn trong mọi h́nh hài, đang tự tồn tại (selfperpetuating) và ngay đến người rất minh triết cũng biết nó.
Khi Sự Sống hay Tinh Thần tự triệt thoái, th́ về mặt huyền linh h́nh hài chết đi. Khi sự suy tưởng của ego hay là Chân Ngă bận bịu vào cơi riêng của nó, th́ không hề có năng lượng tuôn ra ngoài hướng về vật chất của ba cơi thấp, thế là không hề có việc kiến tạo h́nh hài, và không sự mê đắm h́nh hài nào có thể xảy ra. Điều này phù hợp với phương châm huyền bí, đó là “năng lượng theo sau tư tưởng”, và cũng phù hợp với giáo lư cho rằng thể (body) của nguyên khí Christ (thể Bồ Đề) chỉ bắt đầu được phối kết khi các xung lực thấp tàn tạ… Mê đắm vào h́nh tướng hoặc sự thu hút của h́nh tướng vào Tinh Thần là đại xung lực tiến hóa giáng hạ. Chán ghét h́nh tướng và do đó sự tan ră của h́nh tướng là đại xung lực tiến hóa thăng thượng.
Ánh Sáng của Linh Hồn, trang 137 – 138
453
Khi nhân,
tức dục vọng, đă tạo ra quả của nó, tức phàm ngă hay khía cạnh sắc tướng của con người, th́ bấy giờ, chừng nào mà ư-chí-muốn-sống c̣n tồn tại, chừng đó sắc tướng sẽ vẫn c̣n. Nó được giữ cho biểu lộ nhờ sinh lực trí tuệ. Điều này đă được minh chứng nhiều lần trong niên giám y học, v́ người ta đă chứng minh rằng chừng nào mà quyết tâm muốn sống vẫn tồn tại, chừng đó kỳ
gian khả hữu của kiếp sống ở cơi trần c̣n kéo dài. Nhưng vào lúc mà ư-chí-muốn-sống được thu hồi, hoặc sự quan tâm của chủ thể trong h́nh hài không
c̣n được tập trung vào biểu lộ phàm ngă nữa, th́ sự chết mới xảy ra và sự tan ră của h́nh-trí-tuệ, tức thể xác, mới xảy ra. Ánh
Sáng Của Linh Hồn, trang 397
Có hai đường tiến hóa chính, một đường liên quan đến vật chất và sắc tướng, c̣n một liên quan tới linh hồn, trạng thái tâm thức, chủ thể suy tưởng đang biểu lộ. Đối với mỗi đường lối này, nẻo tiến hóa đều khác nhau, và mỗi đường đều theo hành tŕnh của nó. Như đă được ghi nhận, trong một thời kỳ dài, linh hồn tự đồng nhất hóa với khía cạnh h́nh hài và nỗ lực đi theo “Con Đường Tử Vong”, v́ lẽ con đường tối tăm lại rất thực đối với chủ thể suy tưởng. Về sau, nhờ kiên tŕ nỗ lực, sự đồng nhất hóa này chấm dứt; lúc đó linh hồn mới biết được chính ḿnh và biết đến con đường riêng của ḿnh, tức là dharma (thiên trách), và lúc đó mới đi theo con đường ánh sáng và sự sống. Tuy nhiên, nên nhớ rằng, với cả hai trạng thái, con đường riêng của chúng vẫn là con đường đúng, và các thôi thúc ẩn trong thể xác hoặc trong thể cảm dục tự chúng đều không có ǵ sai trái. Chúng trở nên sai trái theo vài khía cạnh nào đó khi bị xuyên tạc không cho sử dụng đúng, và chính nhận định này đă làm cho vị đệ tử trong Sách của Job kêu lên và bảo: “Tôi đă làm lệch lạc những ǵ công chính”. Hai lối phát triển tách ra và riêng biệt, mọi người t́m đạo phải học thuộc điều này.
Ánh Sáng của Linh Hồn, trang 402 – 403
Thuật từ trần
454
Định vị ở tim, linh hồn chính là nguyên khí
sự sống, nguyên khí tự quyết, hạt nhân trung ương của năng lượng dương/tích cực, nhờ đó mọi nguyên tử của xác thân được giữ ở đúng vị trí của chúng và phụ thuộc vào “ư-muốn-tồn-tại” của linh hồn. Nguyên khí sự sống này sử dụng ḍng máu như là cách biểu lộ và như là phương tiện kiềm chế của nó, và qua sự liên lạc chặt chẽ của hệ thống nội tiết đối với ḍng máu, chúng ta
có hai trạng thái của hoạt động: linh hồn được đưa lại với nhau để giúp cho con người trở thành một thực thể linh hoạt, hữu thức và hoạt động do linh hồn chi phối, và thể hiện mục tiêu của linh hồn trong mọi hoạt động của sinh hoạt hằng ngày.
Do đó, cái chết theo nghĩa đen là sự triệt thoái ra khỏi tim và đầu hai ḍng năng lượng, kết quả là mất ư thức hoàn toàn và sự tan ră hoàn toàn của xác thân. Chết khác với ngủ ở chỗ cả hai ḍng năng lượng đều triệt thoái. Khi ngủ, chỉ có tuyến năng lượng đang bám chặt vào óc được triệt thoái, và khi điều này xảy ra, con người không c̣n ư thức nữa. Do điều đó, chúng tôi muốn nói rằng tâm thức hay ư thức hiểu biết của người này được tập trung nơi khác. Chú tâm của y không c̣n được hướng đến các sự vật hữu h́nh ở cơi trần, mà được chuyển vào một thế giới hiện tồn khác và được tập trung vào một bộ máy hay là cơ cấu khác. Khi chết, cả hai tuyến đều được triệt thoái, hay là được hợp làm một trong sinh mệnh tuyến (life thread). Sinh lực không c̣n đi vào qua ḍng máu và tim không c̣n hoạt động, giống như óc không c̣n ghi nhận và như thế sự im lặng dần đến. Ngôi nhà bị bỏ trống. Hoạt động ngưng lại, ngoại trừ loại hoạt động gây ngạc nhiên và cấp bách vốn là đặc quyền của chính vật chất, và vốn tự biểu lộ trong tiến tŕnh phân hủy. Do đó, theo một vài khía cạnh, tiến tŕnh đó nêu ra sự hợp nhất của con người với mọi thứ thuộc về vật chất; nó chứng minh rằng con người là một phần của chính thiên nhiên, và do thiên nhiên chúng ta hiểu rằng thể xác của Sự Sống duy nhất mà trong Ngài “chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn”. Trong ba từ ngữ này –sống, hoạt động và hiện tồn– chúng ta có toàn bộ lịch sử. Hiện tồn (being) là hiểu biết, ngă thức và tự biểu hiện (self- expression), đầu và óc của con người là các biểu tượng bên ngoài của điều này. Sự Sống (living) là năng lượng, dục vọng trong h́nh tướng, sự cố kết và sự bám chặt vào một ư tưởng, tim và máu là các biểu tượng của điều này. Hoạt động (moving) cho thấy sự hợp nhất và đáp ứng của thực thể hiện tồn, hiểu biết, sinh động vào trong hoạt động phổ quát, bao tử, tụy tạng và gan là các biểu tượng của điều này.
455
Cũng
cần lưu ư rằng, v́ lẽ đó, cái chết xảy ra dưới sự chỉ đạo của Chân Ngă, cho dù con
người có thể không hay biết về sự chỉ đạo đó. Tiến tŕnh tự động diễn ra với đa số người, v́ (khi linh hồn rút lại sự chú ư của nó) th́ phản ứng không tránh khỏi trên cơi trần là cái chết, do sự rút ra của hai tuyến sự sống và năng lượng lư trí, hoặc là do sự rút ra của tuyến năng lượng vốn được phẩm định bằng tính chất trí tuệ, để lại ḍng sự sống vẫn c̣n hoạt động qua tim, mà không hề có hiểu biết sáng suốt (có lẽ đây là t́nh trạng đời sống thực vật? ND). Linh hồn đang vướng bận ở nơi khác và bận tâm trên cơi riêng của ḿnh với các việc riêng của ḿnh.
Luận Về Huyền Linh Thuật, tr 496–497
Trước khi tiếp tục đề tài này với chi tiết đầy đủ hơn, tôi muốn nói đến “mạng lưới trong năo” (web in the brain”), mạng lưới này c̣n nguyên đối với đa số người, nhưng lại không tồn tại đối với người sáng suốt đă được khai ngộ.
Như bạn biết, trong cơ thể người, chúng ta có một thể sinh lực (vital body) trải dài bên dưới vốn là đối phần của xác thân, thể này lớn hơn thể xác, và chúng ta gọi là thể dĩ thái (etheric body or double). Đó là một thể mang năng lượng (energy body) và được tạo thành bằng các trung tâm lực và các nadis hay là các tuyến lực (force threads). Các phần này ẩn bên dưới hay là các đối phần của bộ máy thần kinh – gồm các dây và hạch thần kinh. Ở hai chỗ trong cơ thể người có các lỗ thoát, tôi tạm dùng một nhóm từ vụng về như thế. Một khe hở nằm trong huyệt đan điền, c̣n khe kia nằm trong năo ở đỉnh đầu. Cả hai được che chở bằng một mạng được đan lại chặt chẽ bằng chất dĩ thái, bao gồm các tao dây đan vào nhau chứa năng lượng sự sống.
456
Trong tiến tŕnh chết, áp suất của năng lượng sự sống đập vào mạng lưới, cuối cùng tạo ra một lỗ thủng hay khe hở. Nhờ khe hở đó mà sinh lực sự sống tuôn đổ khi sức mạnh của ảnh hưởng tách ra của linh hồn tăng lên. Trong
trường hợp của thú vật, trẻ con và của người nam lẫn nữ, họ hoàn toàn trụ vào (polanised) thể xác và thể cảm dục, lối thoát ra là huyệt đan điền, và chính mạng lưới đó bị đâm thủng, như vậy để cho thoát ra ngoài.
Trong trường hợp của mẫu người thiên về trí tuệ, của các thành phần nhân loại tiến hóa cao, chính mạng lưới ở đỉnh đầu trong vùng thóp
(fontanelle) bị nứt vỡ, như thế đó là chỗ thoát của người suy tư lư luận.
Do đó, trong diễn tiến từ trần, đây là hai lối thoát chính: huyệt đan điền đối với người an trụ vào thể cảm dục, người có khuynh hướng về vật chất, và do đó thuộc đại đa số nhân loại, và bí huyệt đầu đối với người an trụ vào trí tuệ và người có định hướng về tâm linh. Đây là yếu tố thứ nhất và quan trọng nhất cần nhớ, và sẽ dễ dàng nhận thấy làm thế nào mà xu thế của một chiều hướng sự sống và tiêu điểm chú ư của sự sống định đoạt cách thoát ra (của linh hồn–ND) lúc từ trần. Cũng có thể nhận thấy rằng một nỗ lực để kiểm soát đời sống t́nh cảm và bản chất t́nh cảm, và định hướng bản ngă con người vào thế giới trí tuệ và vào các sự việc tâm linh, có một tác dụng rất quan trọng vào các khía cạnh hiện tượng của diễn biến từ trần.
Nếu nhà nghiên cứu biết suy tư minh bạch, điều sẽ hiển nhiên với y là có một lối thoát liên quan đến người có khuynh hướng tâm linh và tiến hóa cao, trong khi lối ra kia liên quan đến người tiến hóa thấp, ít khi họ tiến hóa hơn tŕnh độ con thú. Vậy th́ điều ǵ xảy ra đối với người bậc trung. Một lối ra thứ ba hiện nay đang tạm thời được dùng; ngay bên dưới điểm cao nhất của tim, một lưới dĩ thái khác được t́m thấy đang bao bọc một chỗ thoát. Do đó, chúng ta có t́nh huống sau:
1. Lối thoát ở đầu được dùng bởi người thuộc loại thiên về trí tuệ, bởi các đệ tử và các điểm đạo đồ trên thế giới.
457
2. Lối thoát ở tim, được dùng bởi người nhân hậu, có hảo ư, họ là công dân tốt, huynh đệ thông minh và kẻ hoạt động nhân ái.
3. Lối thoát trong vùng huyệt đan điền, được dùng bởi người có bản chất thú tính mạnh.
Đây là điểm mấu chốt đầu tiên trong thông tin mới mẻ vốn sẽ từ từ trở nên hiểu biết thông thường ở phương Tây trong thế kỷ tới (thế kỷ XXI–ND). Nhiều điều trong số đó đă được biết bởi những kẻ có suy tư ở phương Đông và có bản chất của một bước đầu hướng về một hiểu biết sáng suốt về diễn biến từ trần. Luận Về Huyền Linh Thuật, trang 500
Liên quan tới kỹ thuật từ trần, vào lúc này tôi chỉ có thể đưa ra một hoặc hai gợi ư. Ở đây tôi không bàn đến thái độ của người theo dơi chăm sóc bệnh nhân, tôi chỉ bàn đến các điểm mấu chốt, vốn sẽ giúp cho việc ĺa trần của linh hồn chuyển tiếp được dễ dàng hơn.
Trước nhất, hăy để cho pḥng người bệnh được tĩnh lặng. Dĩ nhiên, đây là trường hợp thường thấy. Cần nhớ rằng người hấp hối có thể thường ở trạng thái vô thức. Hiện tượng vô thức này chỉ ở bề ngoài mà không có thực. Khoảng chín trăm trong số một ngàn trường hợp vẫn có sự hiểu biết của bộ óc, với ư thức đầy đủ về các việc xảy ra, nhưng có sự hoàn toàn tê liệt của ư muốn biểu lộ và hoàn toàn bất lực để phát ra năng lượng, nó sẽ báo hiệu c̣n sống. Khi sự im lặng và sự hiểu biết ngự trị trong pḥng bệnh nhân, linh hồn sắp ra đi có thể sáng suốt làm chủ khí cụ của ḿnh cho đến phút cuối cùng, và có thể chuẩn bị đúng lúc.
458
Sau này,
khi hiểu biết thêm về màu sắc, th́ chỉ có ánh sáng màu cam mới được đặt trong pḥng người bệnh đang hấp hối, và các ánh sáng này
sẽ chỉ được lắp đặt với nghi thức đúng, khi chắc chắn không có khả năng phục hồi. Màu cam giúp tập trung trong đầu, cũng như màu đỏ kích thích huyệt đan điền, c̣n màu lá cây có
hiệu ứng rơ rệt lên tim và các luồng sinh khí (life
streams).
Một vài loại nhạc sẽ được dùng khi hiểu nhiều liên hệ với âm thanh, nhưng cho đến nay không có âm nhạc nào sẽ làm dễ dàng cho công việc của linh hồn khi rút chính nó ra khỏi cơ thể, mặc dầu một vài âm điệu trên đàn organ được thấy là có hiệu quả. Vào đúng lúc từ trần, nếu nốt riêng của một người được gióng lên, nó sẽ kết hợp cả hai ḍng năng lượng, và cuối cùng cắt đứt sinh mệnh tuyến, nhưng cho đến nay, việc hiểu biết về điều này quá nguy hiểm không thể truyền đạt, chỉ có thể được trao truyền sau này. Tôi xin nêu ra tương lai và các đường lối mà việc khảo cứu huyền môn trong mai sau sẽ diễn tiến theo đó.
Người ta cũng sẽ thấy rằng sức ép trên một vài trung tâm thần kinh và trên một vài động mạch sẽ làm dễ dàng cho công việc, và môn học từ trần này được bảo quản ở Tây Tạng như nhiều nhà nghiên cứu đều biết. Sức ép lên trên tĩnh mạch cổ và trên một số thần kinh lớn trong vùng đầu và trên một điểm đặc biệt trong hành tủy sẽ được thấy là có ích và có hiệu quả. Một khoa học rơ rệt về cái chết tất nhiên sẽ được soạn thảo tỉ mỉ, nhưng chỉ khi nào sự thật về linh hồn được nhận biết và liên hệ của nó với thể xác đă được chứng minh bằng khoa học.
459
Các câu
chú cũng sẽ được dùng và dứt khoát đưa vào tâm thức người hấp hối do những người chung quanh y, hoặc được vận dụng có chủ ư và về mặt tinh thần bởi chính y. Đức Christ đă chứng minh công dụng của chúng khi Ngài kêu
to: “Hỡi Cha, Con xin giao
tinh thần của Con vào tay Cha”. Và
chúng ta có một thí dụ khác trong các lời: “Hỡi Chúa, giờ đây cầu xin Ngài để cho kẻ tôi tớ của Ngài ra đi an
b́nh”. Việc thường xuyên dùng Linh Từ, xướng lên khe khẽ hay là theo một âm điệu đặc biệt (kẻ hấp hối sẽ được thấy đáp ứng với âm đó), sau này
có thể tạo thành một phần của nghi thức của sự chuyển tiếp, được kèm theo bằng việc xức dầu, như được duy tŕ trong Giáo Hội Thiên Chúa. Việc Xức Dầu Thánh lúc lâm chung
có một căn bản huyền linh, khoa học. Đỉnh đầu người hấp hối cũng sẽ quay về hướng Đông, chân và
tay nên được bắt tréo. Chỉ có gỗ đàn hương (sandal wood) nên được đốt trong pḥng, không
được đốt nhang bất cứ loại nào, v́ gỗ đàn hương là hương trầm thuộc Cung Một, tức Cung Hủy Diệt, c̣n linh hồn đang trong tiến tŕnh hủy diệt trú sở của ḿnh. Luận Về Huyền Linh Thuật, trang 505
Nếu có một yếu tố mà những người t́m đạo nhận biết, đó là cần giải thoát chính ḿnh khỏi Đại Hăo Huyền. Arjuna biết được điều này, nhưng không chống nỗi thất vọng. Tuy thế, trong lúc đó, Krishna không làm y thất vọng, mà đề ra trong Kinh Gita qui luật đơn giản mà nhờ đó sự nản ḷng và nghi ngờ có thể được vượt qua. Các qui luật đó có thể được tóm gọn như sau:
a. Nên biết chính người là Đấng bất tử.
b. Kiềm chế trí ngươi, v́ qua cái trí đó có thể nhận biết Đấng bất tử.
c. Nên biết rằng h́nh hài chỉ là bức màn che giấu cái huy hoàng của Thượng Đế.
d. Hiểu được rằng Sự Sống Duy Nhất tràn ngập mọi h́nh hài, thế nên không hề có tử vong, không hề có thống khổ, không hề có chia ly.
e. Do đó hăy tách chính ngươi ra khỏi khía cạnh h́nh hài và đến với Ta, nhờ thế an trú nơi có Linh Quang và Sự Sống. Thế là hăo huyền chấm dứt.
Luận về Huyền Linh Thuật, tr 308
460
Một Đức Thầy nhận biết ư nghĩa của mỗi h́nh hài giam nhốt; kế đó Ngài bắt đầu kiểm soát và vận dụng thiên luật trên cơi phù hợp với h́nh hài. Kế đó Ngài từ bỏ h́nh hài và vứt bỏ nó v́ các h́nh hài
khác và cao hơn. Như thế, Ngài đă luôn
luôn tiến bộ bằng sự hy sinh và tử vong của h́nh hài. Luôn luôn
nó được nhận ra như đang giam nhốt, luôn luôn nó phải được hy sinh và chết đi để cho sự sống bên trong có thể luôn luôn lướt nhanh và tiến lên. Con đường phục hồi bao hàm thập giá h́nh và tử vong, rồi kế đó dẫn tới đỉnh núi nơi mà Sự Thăng Thiên
(Ascension) diễn ra.
Thư về Tham Thiền Huyền Linh t. 261
Tác Động Phục Hồi
Khi xem xét tâm thức của linh hồn sắp ra đi (chú ư câu đó) khi nó đảm trách tác động phục hồi, lần nữa, tôi muốn nói rằng tôi đang bàn đến chủ đề vốn không có bằng chứng vật chất hữu h́nh. Đôi khi con người lại được đưa về cuộc sống cơi trần khi ở đúng thời điểm có sự phục hồi đầy đủ ở cơi trần. Điều này chỉ có thể làm được chừng nào mà thực thể hữu thức vẫn c̣n chiếm thể dĩ thái, dù việc tách ra của nhục thân có liên quan đến mọi ư định và mục tiêu đă được hoàn tất. Dù cho thể dĩ thái thâm nhập toàn bộ xác thân, nó lại lớn hơn là xác thân đó nhiều, c̣n thể cảm dục và bản chất trí tuệ có thể vẫn c̣n trụ vào thể dĩ thái ngay cả xác thân đă chết – việc ngưng mọi hoạt động của tim và việc tập trung của tụ điểm dĩ thái căn bản trong vùng đầu hoặc tim, hoặc đan điền – đă có hiệu quả và việc triệt thoái đă diễn ra trôi chảy.
461
Trước tiên, các lực dĩ thái được rút vào phần mở rộng chung quanh của ṿng hạn định dĩ thái, trước khi có sự tan ră cuối cùng, sự tan ră đó để cho con người tự do đóng vai tṛ
là một nhân hồn, bên trong ṿng giới hạn của thể cảm dục của ḿnh. Ở đây bạn có một trạng thái hơi mới mẻ của diễn tŕnh từ trần. Sự triệt thoái của thể dĩ thái ra khỏi chỗ ở của nhục thân thường được mặc nhiên công nhận và đưa ra. Nhưng cho dù điều đó có được hoàn tất, cái chết vẫn chưa hoàn toàn; nó vẫn c̣n chờ hoạt động thứ hai của ư chí của linh hồn. Hoạt động thứ hai này sẽ có kết quả trong mọi lực dĩ thái
đang tan vào một cội nguồn xuất phát, vốn là kho chứa chung của các lực. Đừng quên rằng thể dĩ thái không có
sự sống riêng biệt của chính nó. Nó chỉ là một pha trộn của tất cả các lực và năng lượng vốn làm linh hoạt thể xác và thúc đẩy thể xác vào hoạt động trong chu kỳ
sống bên ngoài.
Cũng nên nhớ rằng năm bí huyệt trên xương sống không ở trong thể xác, mà nằm ở một vài điểm riêng biệt trong chất dĩ thái song
song. Ngay trong trường hợp của người kém phát triển, và hơn nữa trong trường hợp của người b́nh thường, ít nhất chúng cũng cách
xa xương sống của thể xác đến hai inch (5,08cm).
Ba bí huyệt đầu cũng ở bên ngoài nhục thân. Việc nhớ lại điều này sẽ làm dễ dàng cho việc t́m hiểu của bạn về phát biểu cho rằng xác thân thực chất bị bỏ trống khi cái chết được đảm nhiệm bởi các thẩm quyền quán sát, tuy nhiên,
nếu như con người không được phép chết thực sự. Tôi cũng xin nhắc bạn nhớ rằng điều này cũng
đúng đối với nhiều bí huyệt nhỏ cũng như các bí huyệt chính mà chúng ta rất quen thuộc.
462
Bí huyệt cuối trong các bí huyệt nhỏ “tàn tạ vào hư không” để bị tan ră thành toàn bộ chất dĩ thái, là hai
bí huyệt có liên quan chặt chẽ với và trong vùng phổi. Chính trên hai bí
huyệt này mà linh hồn tác động nếu được gọi về đi vào nhục thân v́ lư do nào
đó. Chính khi chúng xoay sở việc quay về hay là đi vào hoạt động mới mà linh khí sự sống (breath of life) trở lại với h́nh hài vật chất bị bỏ trống. Đó là một nhận thức vô h́nh về điều đang tạo ra nguyên nhân thôi
thúc của tiến tŕnh thường được tiến hành trong tất cả các trường hợp chết đuối hoặc ngạt thở. Khi một người chết v́ bệnh, và thể xác tất nhiên là yếu ớt, các bài tập phục hồi như thế không thể dùng được và không nên dùng.
Trong các trường hợp chết đột ngột do tai nạn, tự tử, ám sát, đau tim
đột xuất, hoặc do diễn biến của chiến tranh, cú va chạm mạnh đến nỗi diễn tiến có phần chậm răi của việc triệt thoái của linh hồn bị hoàn toàn hóa giải, c̣n việc bỏ trống của thể xác và việc tan ră hoàn toàn của thể dĩ thái gần như đồng thời. Trong các trường hợp thông thường chết v́ bệnh tật, việc triệt thoái chậm lại, và (khi khối u ác tính của bệnh không gây nên hư hại quá lớn của cơ quan vật chất có liên quan) có thể có sự quay về trong một thời kỳ ngắn hoặc dài. Điều này thường xảy ra, nhất là khi ư-chí-muốn-sống c̣n mạnh, hoặc nhiệm vụ sự sống cho đến nay chưa được hoàn thành và không
kết thúc thật đúng.
463
Có một điểm khác mà tôi muốn nhắc tới và nó có liên quan đến sự xung đột không ngừng xảy ra giữa các cặp sóng đôi của nhục thân và thể dĩ thái. Tinh
linh hồng trần (vốn là tên được đặt cho sự sống hội nhập của thể xác) và linh hồn, khi nó t́m cách triệt thoái và làm tan ră
toàn bộ các năng lượng phối hợp của thể dĩ thái, lại gặp xung đột dữ dội, nên tiến tŕnh thường dữ dội và kéo dài; chính trận chiến này vốn được tiến hành trong thời kỳ dài hoặc ngắn của cơn hôn mê, nó là đặc trưng cho nhiều trường hợp lâm chung. Nói về mặt huyền bí, hôn mê có hai loại: có loại “hôn mê v́ chiến đấu” (“coma of battle”) đi
trước cái chết thực sự; có loại “hôn mê để phục hồi” xảy ra khi linh hồn đă triệt thoái tuyến hay là trạng thái tâm thức, mà không triệt thoái sinh mệnh tuyến (life thread) trong
một nỗ lực
mang lại cho tinh linh hồng trần th́ giờ để lấy lại sức bám chặt (grip) của nó vào cơ thể và nhờ thế phục hồi lại sức khỏe. Cho đến nay, khoa học hiện đại không phân biệt được giữa hai trạng thái hôn mê này.
Sau này khi nhăn thông dĩ thái hoặc nhăn thông cảm dục trở nên phổ cập hơn, tính chất của hôn mê đang phổ biến sẽ được biết rơ, và các yếu tố hy vọng hoặc thất vọng sẽ không c̣n kiềm chế nữa. Các bạn bè và các họ hàng của người bất tỉnh sẽ biết chính xác phải chăng họ đang trông thấy
một sự triệt thoái lớn, và cuối cùng ra khỏi lần luân hồi hiện nay hoặc chỉ chứng kiến một tiến tŕnh phục hồi. Trong trường hợp sau, linh hồn vẫn giữ lại ảnh hưởng của nó trên thể xác, xuyên qua các
trung tâm lực, nhưng vẫn duy tŕ tạm thời mọi tiến tŕnh đem vào
năng lượng. Các ngoại lệ cho việc duy tŕ này là bí
huyệt tim, lá lách và hai
bí huyệt nhỏ tiếp cận với bộ máy hô hấp. Các bí huyệt này sẽ vẫn đem sinh lực b́nh thường, cho dù các hoạt động của chúng phần nào bị yếu đi; và nhờ
chúng mà sự kiểm soát được duy tŕ. Khi ư
định của linh hồn là chết thực sự, lúc bấy giờ sự kiềm chế (control over) lá
lách xảy ra trước tiên; kế đó, sự kiềm chế hai bí huyệt nhỏ tiếp theo, cuối cùng sự kiềm chế bí huyệt tim đột ngột xảy ra và con người từ trần.
Đoạn trên sẽ mang lại cho bạn một số ư tưởng về nhiều điểm liên quan với cái chết vẫn c̣n phải được y học chính thống khám phá, và chúng sẽ được tiết lộ khi nhân loại ngày càng đạt được sự nhạy cảm.
Tôi đ̣i hỏi bạn nhớ rằng trong mọi xem xét hiện nay, chúng ta đang bàn đến các phản ứng và các hoạt động của linh hồn, nó đang cân nhắc thu hồi trạng thái lâm phàm của nó v́ một chu kỳ sống đă kết thúc. Kỳ hạn của chu kỳ sống đó có thể dài hoặc ngắn, tùy theo các mục tiêu có liên quan; nó có thể chỉ gồm một vài năm rất ngắn ngủi hoặc một thế kỷ. Trước bảy tuổi, sức sống/khả năng sinh tồn (vitality) của tinh linh hồng trần là yếu tố định đoạt phần lớn. Lúc đó linh hồn trụ vào thể dĩ thái, nhưng không vận dụng đầy đủ mọi bí huyệt, nó chỉ có sự kiềm chế nhẹ nhàng từng chặp và một hoạt động thúc đẩy nhẹ nhàng bốc đồng – đủ để duy tŕ tâm thức, đem sinh lực cho các qui tŕnh vật chất khác nhau, và khởi đầu việc biểu lộ đặc điểm và tính khí. Các qui tŕnh này trở nên ngày càng rơ rệt cho đến hai mươi mốt tuổi, khi chúng ổn định thành cái mà chúng ta gọi là phàm ngă. Trong trường hợp các đệ tử, việc giữ chặt của linh hồn vào các bí huyệt dĩ thái sẽ trở nên mạnh mẽ hơn từ ngay lúc bắt đầu cuộc sống hồng trần. Lúc lên mười bốn tuổi, tính chất và bản chất của linh hồn lâm phàm, và thời kỳ gần đúng hay là kinh nghiệm của nó được định đoạt, tinh linh hồng trần, cảm dục và trí tuệ đều ở dưới sự kiểm soát, và linh hồn, tức con người tâm linh bên trong, sẵn sàng định đoạt các xu hướng và các chọn lựa trong kiếp sống.
464
Trong
trường hợp của người thường, khi cái chết được dự kiến, đấu tranh giữa tinh linh hồng trần với linh hồn là một yếu tố riêng biệt; về mặt huyền linh được gọi là “khởi hành Lemuria”
(“Lemurian departure”); trong trường hợp người b́nh thường, khi việc tập trung sự sống ở trong bản chất dục vọng, sự xung đột xảy ra giữa tinh linh cảm dục với linh hồn, và điều này được gán cho danh xưng “cái chết của người thời Atlantis”; khi nào
có liên quan đến đệ tử, sự tranh chấp sẽ thuần trí tuệ hơn và thường được tập trung quanh ư-chí-phụng-sự và việc định đoạt để hoàn thành một khía cạnh đặc biệt của Thiên Cơ và ư-chí-quay-về (will-to-return) với toàn bộ lực lượng hướng về trung tâm Huyền Viện. Trong trường hợp các điểm đạo đồ, không hề có tranh chấp mà chỉ có sự triệt thoái hữu thức và thong thả. Điều khá kỳ lạ, nếu có sự tranh chấp, th́ đó sẽ là giữa hai mănh lực tinh linh lúc đó
c̣n lại trong phàm ngă: tinh linh hồng trần và sự sống hạ trí. Không hề có tinh linh cảm dục ở trong vận cụ của một điểm đạo đồ cao cấp. Dục vọng đă hoàn toàn bị siêu việt xét về bản chất của riêng cá nhân.
CÁC YẾU TỐ ĐỐI ĐẦU VỚI SỰ TRIỆT THOÁI CỦA LINH HỒN
Do đó, trong cái chết của thể xác và trong tác động phục hồi, linh hồn đang triệt thoái phải đối phó với các yếu tố sau đây:
1. Tinh linh hồng trần, tức sự sống hội nhập và phối kết của thể xác, bao giờ cũng t́m cách giữ chung với nhau dưới các lực hút của mọi thành phần của nó và sự tương tác lẫn nhau của chúng. Lực này tác động qua một số các huyệt thứ yếu.
465
2. Hiện thể dĩ thái, vốn có một sự sống phối kết mạnh mẽ của riêng nó, biểu lộ qua bảy bí huyệt chính, các bí huyệt này phản ứng dưới năng lượng thôi thúc của cảm dục, hạ trí và của linh hồn. Nó cũng tác
động qua vài huyệt nhỏ vốn không được dành để đáp ứng với trạng thái đó của vận cụ của con người mà H.P.B. cho là
không phải một nguyên khí – cơ cấu nhục thân.
Do đó, các bí huyệt nhỏ được thấy nằm trong hai nhóm: các nhóm đáp ứng với sự sống của vật chất trọng trược, đáp ứng với trạng thái mẹ, và chúng rơ ràng là ở trên cung tiến hóa giáng hạ; các nhóm này là di sản từ thái dương hệ trước trong đó toàn bộ con người được kiểm soát xuyên qua các huyệt nhỏ này, với chỉ có rất ít các huyệt lớn báo hiệu lờ mờ trong trường hợp của các điểm đạo đồ và các đệ tử tiến hóa của thời đó. Thứ hai, các bí huyệt vốn đáp ứng với các năng lượng đạt tới chúng xuyên qua các huyệt chính; lúc đó các huyệt này đến dưới sự kiểm soát của thể cảm dục và bộ máy trí tuệ. Tất nhiên, bạn sẽ thấy tại sao, ở trước trong Bộ Luận này, tôi đưa tham khảo theo sau cho các huyệt nhỏ. Tuy thế, có thể là có lợi cho bạn khi kể ra hai mươi mốt huyệt nhỏ nằm ở đâu. Chúng có thể nằm ở các điểm sau:
1. Hai huyệt ở đàng trước hai tai, sát với xương quai hàm.
2. Hai huyệt ở ngay trên hai vú.
3. Một huyệt nối tiếp với xương ngực, sát với tuyến giáp trạng. Huyệt này với hai huyệt ở vú, tạo thành một tam giác lực.
4. Hai huyệt, mỗi huyệt ở trong ḷng bàn tay.
5. Hai huyệt, mỗi cái ở trong ḷng bàn chân.
6. Hai huyệt nằm ngay sau hai mắt.
7. Cũng có hai huyệt, liên hệ với tuyến sinh dục.
466
8. Một
huyệt sát cạnh gan.
9. Một huyệt, liên quan với bao tử; do đó nó liên quan với huyệt đan điền, nhưng không đồng nhất với huyệt này.
10. Hai huyệt liên thông với lá lách. Thực ra, các huyệt này hợp thành một trung tâm lực, nhưng một trung tâm lực như thế được hợp bởi hai huyệt được chồng cái này lên cái kia.
11. Hai huyệt, mỗi huyệt ở sau mỗi đầu gối.
12. Có một trung tâm mạnh nằm sát cạnh với thần kinh phế vị. Đây là huyệt mạnh nhất và một vài trường phái huyền linh học xem như là huyệt chính; nó không ở trong cột sống, nhưng không xa tuyến ức nhiều.
13. Một huyệt nằm sát với đan điền, và liên kết với huyệt ở chót xương sống, như vậy tạo thành tam giác gồm huyệt xương cùng, đan điền và huyệt ở chót xương sống.
Hai tam giác nói đến trong bảng liệt kê thực quan trọng. Một ở trên và một ở dưới cơ hoành.
467
Lần nữa, diễn tŕnh chết có thể được xem như hoạt động kép và là hoạt động trước tiên có liên quan
đến thể dĩ thái. Trước tiên có sự tập hợp và sự thu hồi chất dĩ thái, để cho nó không c̣n
xuyên thấu vào cơ cấu nhục thân nữa, sự dày đặc (densification, một từ tôi chọn có cân nhắc) tiếp theo sau của nó trong vùng
đó của thể dĩ thái vốn luôn luôn bị bao quanh mà không
xâm nhập vào nhục thân. Sự việc này đôi lúc
được gọi sai là hào quang sức khỏe, và nó có thể được chụp h́nh dễ thành công trong diễn biến chết hơn là bất cứ lúc nào khác, nhờ bởi sự tích lũy các lực bị thu hồi độ vài inch bên ngoài
xác thân hữu h́nh. Chính ở điểm này trong kinh nghiệm của linh hồn rút ra mà “từ ngữ sự chết” được nói đến, và chính là trước khi có sự diễn đạt này của ngôn từ này mà một sự quay về với người c̣n sống ở cơi trần có thể xảy ra, và các lực dĩ thái được rút ra có thể lại xâm nhập vào cơ thể. Mối liên hệ với tất cả các lực rút ra, cho đến thời điểm này, được giữ lại xuyên qua bí huyệt đầu, hoặc bí huyệt tim, hoặc huyệt đan điền, cũng như xuyên qua hai huyệt nhỏ ở ngực.
Trong suốt thời gian này, ư thức của người hấp hối được tập trung trong thể t́nh cảm (tức cảm dục) hoặc là thể trí, tùy tŕnh độ tiến hóa. Y không ở trạng thái vô thức như kẻ bàng quan suy đoán, mà là biết đầy đủ bên trong chính ḿnh về những ǵ đang xảy ra. Nếu y tập trung mạnh mẽ vào sự sống cơi trần, và nếu đó là cái ham muốn vượt trội mà y biết đến nhiều nhất, th́ bấy giờ y có thể làm mạnh thêm sự xung đột. Lúc đó, bạn sẽ có tinh linh hồng trần tranh chấp mănh liệt đ̣i tồn tại, bản chất dục vọng đấu tranh để làm chậm lại tiến tŕnh chết, c̣n linh hồn, nhắm vào việc rút ra và hoàn trả. Điều này có thể thường tạo cơ hội cho tranh chấp vốn hoàn toàn ở bên ngoài đối với những kẻ bàng quan. Khi nhân loại tiến bộ và phát triển, cuộc đấu tranh tay ba này sẽ trở nên ít hơn nhiều; ham muốn đối với sự sống hồng trần sẽ không có vẻ thu hút nữa, và hoạt động của thể cảm dục sẽ hết đi.
468
Tôi muốn bạn có thể có được một bức tranh (xét về mặt biểu tượng) của một người đang lâm phàm
đầy đủ và có cội rễ trong giai đoạn kinh nghiệm của ḿnh, và về một người đang rút ra khỏi kinh nghiệm đó. Việc đó có hàm ư việc lặp lại trên một qui mô nhỏ về các diễn biến hành tinh to tát của tiến hóa giáng hạ và tiến hóa thăng thượng; nó liên quan
đến các hoạt động vốn tạo ra một tập trung (focussing)
hay là an trụ (polarisation) vào một trong hai hướng; nó giống với những ǵ có thể được xem như một tiến tŕnh tuôn đổ sự sống và ánh sáng vào một cái bồn/vại (vessel) trên cơi trần, hay là một sự tăng cường phát xạ của sự sống và ánh sáng đó
với một bản chất mạnh đến nỗi dưới sức mạnh kêu gọi của linh hồn, cả hai đều rút ra và gom lại vào trung tâm của sự sống và ánh sáng nơi mà chúng đến lúc đầu. Ở đây tôi đă
trao cho bạn (có thể bạn nhận biết điều đó) một định nghĩa về điểm đạo, mà là một trong một cách diễn đạt hơi bất thường. Có lẽ một vài hàng từ Cẩm Nang Tử Vong vốn phải được t́m thấy trong văn khố của Thánh Đoàn sẽ chứng giải cho bạn, và có thể giúp bạn có được một triển vọng mới về cái chết. Cẩm nang này chứa những ǵ được gọi là “các cách thức đi trước Pralaya”. Các cách
thức này bàn đến mọi cái chết hay là các tiến tŕnh trừu xuất (tách ra), bao gồm cái chết của mọi h́nh hài, dù là cái
chết của một con kiến, một con người hoặc một hành tinh. Các công
thức chỉ liên quan đến hai trạng thái của sự sống và ánh sáng – cái
thứ nhất bị chi phối bởi Linh Âm (Sound); cái
thứ hai bị chi phối bởi Linh Từ (Word). Tài liệu mà tôi có trong trí
liên quan đến ánh sáng, c̣n Linh Từ vốn tách nó ra khỏi h́nh hài, hoặc tập trung nó bên trong
h́nh hài.
468
“Hỡi Đệ Tử, hăy ghi nhớ rằng bên trong lĩnh
vực đă biết không có ǵ trừ ra ánh sáng đáp ứng với Linh Từ. Nên biết rằng ánh sáng đó
giáng xuống và tập trung vào chính nó;
nên biết rằng từ điểm tập trung đă chọn của nó, nó soi sáng lănh
vực riêng của nó, cũng nên biết rằng ánh sáng đó
đi lên và để lại trong bóng tối những ǵ mà nó – trong thời gian và không gian –
soi sáng. Sự đi xuống và đi lên này
con người gọi là sự sống, sự hiện tồn và sự chết; Chúng Ta, Những Người bước trên Con Đường Sáng gọi điều này là cái chết, kinh nghiệm và sự sống.
Ánh sáng đi xuống, tự nó bám chặt vào cơi sắc tướng tạm bợ. Bảy sợi chỉ mà nó treo bên ngoài và bảy tia sáng đập nhịp theo các sợi chỉ này. Hai mươi mốt sợi chỉ nhỏ hơn tỏa ra từ đó, tạo ra bốn mươi chín lửa tỏa sáng và cháy rực. Trên cơi của sự sống biểu lộ, ngôn từ phát ra: Xem kia! Một người được sinh ra.
469
Khi sự sống tiếp diễn, tính chất của ánh sáng xuất hiện; nó có thể lu mờ và u ám, hoặc rực rỡ, sáng chói và chiếu rạng. Thế là các điểm sáng bên trong Ngọn Lửa Thiêng (Flame) qua lại; chúng đến rồi đi. Con người gọi đó là sự sống; họ gọi cái đó là sự hiện tồn đích thực. Như vậy họ tự lừa dối chính ḿnh, tuy phụng sự mục tiêu của linh hồn họ và làm cho thích hợp vào Thiên Cơ vĩ đại hơn.
Và kế đó một Linh Từ phát ra. Điểm ánh sáng giáng xuống, tỏa chiếu thăng lên, đáp ứng với âm điệu kêu gọi được nghe thấy mơ hồ, bị thu hút vào cội nguồn xuất phát của nó. Con người gọi điều này là sự chết c̣n linh hồn gọi đây là sự sống.
Linh Từ giữ lại ánh sáng trong sự sống; Linh Từ rút lại ánh sáng, và chỉ Cái Đó (That) c̣n lại, nó là chính Linh Từ. Linh Từ đó là Linh Quang. Linh Quang đó là Sự Sống, và Sự Sống là Thượng Đế”.
Sự biểu lộ của thể dĩ thái trong thời gian và không gian có trong nó cái mà về mặt huyền bí được gọi là “hai thời điểm tỏa chiếu”. Thứ nhất, đây là thời điểm trước khi có sự lâm phàm trong xác thân, khi ánh sáng đi xuống (mang theo sự sống) được tập trung bằng hết sức mạnh của nó chung quanh thể xác và lập nên một liên giao với ánh sáng bên trong của chính vật chất, nằm trong mọi nguyên tử của vật chất. Ánh sáng tập trung này sẽ được thấy tự tập trung trong bảy vùng của ṿng-giới-hạn của nó, như vậy tạo ra bảy trung tâm chính vốn sẽ kiểm soát biểu lộ của nó và sự sống của nó trên cơi bên ngoài, nói về mặt huyền bí. Đây là thời điểm tỏa chiếu lớn lao; nó hầu như một điểm ánh sáng đang nhịp nhàng, bùng lên thành ngọn lửa, và dường như bên trong ngọn Lửa đó, bảy điểm ánh sáng được tăng cường đă h́nh thành. Đây là một cao điểm trong kinh nghiệm để chọn Luân hồi và đi trước việc sinh ra thể xác bằng một thời khoảng rất ngắn. Chính đó là cái đưa tới giờ sinh. Theo cái thấy của người có nhăn thông, giai đoạn kế của tiến tŕnh là giai đoạn thấu nhập, trong đó “bảy trở thành hai mươi mốt và kế đó thành đa tạp”; chất ánh sáng (light substance), tức trạng thái năng lượng của linh hồn, bắt đầu tràn ngập thể xác và công việc sáng tạo của thể dĩ thái hay thể sinh lực được hoàn tất. Nhận biết đầu tiên về điều này trên cơi trần là “âm thanh” phát ra của trẻ sơ sinh. Nó là tột đỉnh của diễn tŕnh. Tác động sáng tạo của linh hồn giờ đây hoàn tất; một ánh sáng mới tỏa chiếu trong chỗ tối tăm.
470
Thời điểm tỏa chiếu thứ hai xảy ra ngược với tiến tŕnh này và báo trước giai đoạn hoàn trả và sự tách ra cuối cùng của năng lượng nội tại, của chính nó bởi linh hồn. Cái nhà ngục bằng xác thịt bị tan ră bằng việc triệt thoái của ánh sáng và sự sống. 49 Lửa bên trong cơ cấu xác thân tàn
đi; sức nóng và ánh sáng của chúng được cuốn hút vào hai mươi mốt điểm ánh sáng nhỏ hơn; đến phiên chúng các
điểm sáng này được thu hút bởi bảy trung tâm năng
lượng chính. Kế đó “Linh Từ Phản Hồi”được phát ra và khía cạnh tâm thức, bản chất tính chất, ánh sáng và
năng lượng của con người lâm phàm, được thu hồi vào thể dĩ thái. Nguyên
khí sự sống cũng rút ra khỏi tim. Tiếp theo một ánh sáng điện tinh khiết lóe lên sáng rực, và sau cùng “thể ánh sáng” (“body of
light”) phá vỡ mọi tiếp xúc với nhục thân, tập trung trong một giai đoạn ngắn trong thể sinh lực, và kế đó biến mất. Tác động phục hồi được hoàn tất. Toàn bộ tiến tŕnh của việc tập trung các yếu tố tinh thần trong thể dĩ thái, với sự tách ra theo sau và sự tan ră tiếp theo của thể dĩ thái sẽ được hối thúc phần lớn bằng việc dùng hỏa táng thay cho chôn cất.
Hai Lư Do Chính Nên Dùng Hỏa Táng
Nói về mặt huyền linh, việc hỏa táng là cần thiết v́ hai lư do chính. Nó thúc đẩy việc phóng thích các thể tinh anh (vẫn c̣n bao phủ linh hồn) ra khỏi thể dĩ thái, nhờ thế mang lại sự giải thoát trong vài giờ thay v́ vài ngày; nó cũng là một phương tiện rất cần để mang lại sự thanh lọc cho cơi cảm dục và để ngăn chận khuynh hướng “chuyển động hướng xuống” của dục vọng vốn cản trở rất nhiều linh hồn đang lâm phàm. Nó có thể không t́m thấy điểm tập trung nào, v́ về thực chất lửa xua tan trạng thái tạo h́nh (form-making aspect) của dục vọng và là một biểu hiện chính của Thượng Đế mà cơi cảm dục không có liên hệ thực sự nào với nó, hoàn toàn được tạo ra bởi nhân hồn (human soul) chớ không phải bởi hồn thiêng (divine soul). “Thượng Đế chúng ta là một ngọn lửa hay thiêu rụi” là phát biểu trong Thánh Kinh, có liên quan với trạng thái thiêng liêng thứ nhất, trạng thái hủy diệt, giải phóng sự sống. “Thượng Đế là t́nh thương” ngụ ư trạng thái thứ hai và diễn tả Thượng Đế như là sự sống lâm phàm. “Thượng Đế là một Thượng Đế ganh tị” là một diễn đạt nêu ra Thượng Đế dưới h́nh thức sắc tướng, bị giới hạn và hạn chế, duy ngă (self-centered) chứ không hướng ngoại. Linh Âm hủy diệt; Linh Từ thu hút; Ngôn Từ biệt ngă hóa !
471
Lúc
từ trần, ngôn từ (speech) nhỏ dần v́ Linh Từ (Word) ngân lên và sự hoàn trả được tăng thêm sức mạnh; sau đó, Linh
Từ không c̣n được nghe nữa v́ Linh Âm (Sound)
phá hủy hoặc thu hút nó, và lúc
đó có sự hoàn toàn loại bỏ tất cả những ǵ quấy rầy Linh Âm. Lúc
đó, im lặng chợt đến và chính Linh Âm không
c̣n được nghe nữa; sự an b́nh hoàn toàn
theo sau tác động hợp nhất cuối cùng. Đây là
cách nói huyền bí, mô tả toàn bộ tiến tŕnh sự chết.
Điều quan trọng cần để ư chính là dưới Định Luật Hút cơ bản mà Thuật Từ Trần được tiến hành, và chính trạng thái bác ái, tức trạng thái thứ hai của Thượng Đế, mà sự thu hút diễn ra. Tôi không xét đến các trường hợp chết đột ngột. Có lúc hoạt động là kết quả của tác nhân phá hủy, tức là trạng thái thiêng liêng thứ nhất. Có lúc t́nh trạng lại khác hẳn; cái tất yếu về nghiệp quả có thể không bị liên lụy chút nào, c̣n các lư do qui định của tập thể và của t́nh trạng tối tăm lớn lao có thể ẩn sau sự việc như thế. Thế nên, tối tăm là chủ đề lúc này mà tôi sẽ không cố làm sáng tỏ. Bạn không biết nhiều về Định Luật Karma, về sự dính líu Karma của nhóm, hoặc về các liên hệ và các bổn phận được thiết lập trong các tiền kiếp. Thí dụ, khi tôi nói rằng vào dịp “linh hồn có thể rời bỏ cánh cửa che chở đang mở để cho các lực tử vong lại có thể tiến vào, không hề có một điểm tập trung nào đàng sau cánh cửa” để “nhanh chóng hơn xóa bỏ các h́nh phạt đă qua đúng lúc”, bạn có thể thấy toàn bộ vấn đề này có thể tối tăm ra sao.
472
Trong
tất cả những ǵ mà tôi đang
viết ra ở đây, tôi chỉ bàn đến các diễn tŕnh từ trần b́nh thường – từ trần v́ hậu quả của bệnh tật, tuổi già hoặc ư muốn bắt buộc của linh hồn, nó đă hoàn tất một chu kỳ kinh
nghiệm được phác thảo và đang vận dụng các vận hà b́nh thường để đạt các mục tiêu được dự trù. Trong các trường hợp này, cái chết là b́nh thường, và nhân loại cần hiểu điều này với sự nhẫn nại, cảm thông và hy vọng to tát hơn.
Dưới Định Luật Hút, vào cuối chu kỳ sống và với ư định có cân nhắc, linh hồn vận dụng lực hút của nó cách nào để hóa giải lực hút có sẵn trong chính vật chất. Đây là một minh định về nguyên nhân căn bản của cái chết. Không hề có sự tiếp xúc nào với linh hồn được thiết lập hữu ư, v́ trong trường hợp của đa số con người hiện nay, cái chết xảy đến như một biến cố đi trước không mong đợi hoặc buồn rầu. Tuy nhiên, đó là một hoạt động đích thực của linh hồn. Đây là ư niệm tinh thần lớn đầu tiên cần được nêu ra khi nỗi sợ chết được diệt trừ. Sự chết được xúc tiến dưới Định Luật Hút, và chủ yếu là sự tách dần dần và một cách khoa học thể sinh lực ra khỏi nhục thân, sau rốt đưa đến việc loại bỏ mọi tiếp xúc của linh hồn trong ba cơi thấp.
Tŕnh Tự Các Sự Việc Lúc Chết
473
Tôi nhận thấy rằng điều tốt nhất tôi có thể làm để minh giải chủ đề này rơ hơn, là mô tả tŕnh tự các sự việc xảy ra vào phút lâm
chung, xin nhắc bạn rằng có ba điểm tách ra cuối cùng: đầu, đối với đệ tử và điểm đạo đồ và cũng đối với người tiến hóa đă mở trí; tim đối với người t́m đạo, người có thiện chí, và đối với mọi người đă đạt được mức hội nhập phàm ngă và
đang cố gắng làm tṛn, bằng hết khả năng của họ, định luật bác ái; cuối cùng là đan
điền đối với người kém phát triển và người an trụ vào thể t́nh cảm. Mọi điều tôi có thể làm là liệt kê các giai đoạn của diễn biến, để cho bạn chấp nhận chúng như một giả thuyết thú vị và khả hữu, chờ chứng thực; tin vào chúng vô
điều kiện, bởi v́ bạn đă tin vào hiểu biết của tôi, hoặc bác bỏ chúng như là hoang tưởng, không thể kiểm chứng và không có ǵ là
quan trọng. Tôi đề nghị cái thứ nhất trong ba cái, v́ nó
sẽ cho phép bạn duy tŕ nguyên vẹn thể trí của bạn, nó sẽ báo hiệu một thể trí rộng mở, đồng thời nó sẽ che chở cho bạn khỏi sự cả tin và khỏi trí óc hẹp ḥi. Thế th́ ba giai đoạn này là:
1. Linh hồn phát ra một “lệnh triệt thoái” từ cơi riêng của nó, lập tức một diễn biến bên trong và phản ứng bên trong được khơi dậy trong con người trên cơi trần.
a/ Một số biến cố sinh lư học xảy ra ở khu vực bệnh, có liên quan với tim và cũng ảnh hưởng tới ba hệ thống lớn vốn chi phối rất mạnh con người xác thịt: ḍng máu, hệ thần kinh với các biểu hiện khác nhau của nó và hệ thống nội tiết. Tôi sẽ không bàn đến các tác động này. Bệnh lư học về sự chết được biết rơ và đă nhận được nhiều nghiên cứu về mặt công truyền. Nhiều điều vẫn c̣n cần được khám phá và sau này sẽ được t́m ra. Trước tiên, tôi quan tâm đến các phản ứng bên trong, mà xét cho cùng, sẽ mang lại khuynh hướng bệnh lư học đưa đến tử vong.
474
b/ Một rung động chạy dọc theo các nadis. Như bạn biết, nadis là các đối phần bằng chất dĩ thái của toàn bộ hệ thần kinh, và chúng nằm dưới mỗi dây thần kinh đơn độc trong toàn bộ xác thân. Chúng là
các tác nhân ưu tú của các xung lực có hướng dẫn của linh hồn, phản ứng với hoạt động rung động phát ra từ đối phần dĩ thái của bộ óc. Chúng đáp ứng với Lệnh chỉ huy (directing Word),
phản ứng với “sức thu hút” (“pull”) của linh hồn và kế đó tổ chức chính chúng cho việc tách ra.
c/ Ḍng máu trở nên bị tác động theo một cách huyền linh đặc biệt. Chúng ta được dạy, “máu là sự sống”. Về mặt bên trong, nó bị thay đổi theo kết quả của hai giai đoạn trước, nhưng trước tiên theo kết quả một hoạt động mà từ trước đến giờ không được khoa học hiện đại khám phá ra, v́ hệ thống tuyến chịu trách nhiệm cho việc đó. Khi đáp ứng tiếng gọi của sự chết, các tuyến đưa vào ḍng máu một chất mà đến phiên nó, chất này tác động vào tim. Ở đó, sinh mệnh tuyến đang bám chặt, và chất này ở trong máu được xem như là “liên quan đến sự chết” (“death dealing”) và là một trong các nguyên nhân căn bản của hôn mê và mất ư thức. Nó gợi ra một tác động phản xạ trong năo. Chất này và tác động của nó sẽ được đặt nghi vấn, cho đến nay, bởi y học chính thống, nhưng sự hiện hữu của nó sau này sẽ được nhận ra.
d/ Một chấn động tâm linh nhẹ được tạo ra, nó có hiệu quả làm lỏng ra hoặc bẻ găy mối liên quan giữa các nadis với hệ thần kinh; nhờ đó thể dĩ thái tách rời khỏi nhục thân của nó, mặc dầu vẫn c̣n xâm nhập mọi phần của nhục thân.
2. Thường có một tạm ngừng ở điểm này với một thời gian ngắn hoặc dài. Điều này được cho phép để tiến hành tiến tŕnh nới lỏng một cách suông sẻ và không đau đớn càng tốt. Việc nới lỏng các nadis bắt đầu ở đôi mắt. Tiến tŕnh tách rời này thường hiện ra trong việc thư giăn (relaxation) và không sợ hăi mà kẻ hấp hối rất thường cho thấy; họ để lộ một t́nh trạng an b́nh, và một sự sẵn sàng ra đi, cộng với một bất lực để đưa ra một cố gắng tinh thần. Dường như kẻ hấp hối, vẫn c̣n duy tŕ tâm thức của y, gom góp các vốn liếng của ḿnh lại với nhau cho lần rút ra cuối cùng. Đây là giai đoạn mà –nỗi sợ chết dứt khoát một lần được tách ra khỏi trí nhân loại – bạn bè và quyến thuộc của người qua đời nên “tổ chức lễ hội” cho y và nên vui mừng với y v́ y từ bỏ xác thân. Hiện nay, điều này không thể xảy ra. Sự đau buồn ngự trị, và giai đoạn trôi qua không được nhận biết và không được vận dụng, như nó sẽ hiện ra một ngày nào đó.
475
3.
Kế đến, thể dĩ thái được sắp xếp, được tháo lỏng khỏi mọi liên hệ thần kinh qua tác động của các nadis, bắt đầu tụ tập chính nó chung lại với nhau cho lần khởi hành cuối cùng. Nó rút ra khỏi các điểm tận cùng, hướng về “lối thoát” cần đến và tự tập trung trong vùng
quanh lối thoát đó cho lần “kéo ra” cuối cùng của linh hồn đang chỉ đạo. Tất cả đều tiến hành theo Định Luật Hút đến tận điểm này – từ lực, ư chí thu hút của linh hồn. Bấy giờ, một “lực kéo” khác được cảm nhận. Nhục thân, toàn bộ các cơ quan, các tế bào và các nguyên tử, được từ từ phóng thích khỏi sức mạnh kết hợp của thể sinh lực bằng tác động của các nadis; nó bắt đầu đáp ứng với sức thu hút của chính vật chất. Sức này được gọi là lực hút “hồng trần” (“earth”pull) và
được vận dụng (exerted) bởi loại thực thể huyền bí mà chúng ta gọi là “chơn linh của địa cầu” (“spirit of the
earth”); thực thể này đang ở trên cung giáng hạ tiến hóa, và so với hành tinh chúng ta,
cũng giống như tinh linh hồng
trần
(xem lại định nghĩa trang
245 và 464) đối với thể xác con người. Sức mạnh của sự sống ở cơi trần này chủ yếu là sự sống và ánh sáng của vật chất nguyên tử (atomic substance) –
vật chất mà mọi h́nh hài được tạo thành với nó. Chất liệu của mọi h́nh hài được hoàn trả vào kho chứa này của sự sống vật chất và giáng hạ tiến hóa. Sự hoàn trả chất liệu bị trưng dụng của h́nh hài do linh hồn chiếm giữ trong chu kỳ sống, cốt là hoàn lại cho “Caesar” này của thế giới tiến hóa giáng hạ những ǵ của “Caesar”, trong khi
linh hồn hoàn lại cho Thượng Đế, Đấng đă phân phát vật chất đó.
476
Do
đó, rơ ràng là một diễn biến thu hút hai mặt ở giai đoạn này đang diễn ra:
a/ Thể sinh lực được chuẩn bị để thoát ra.
b/ Thể xác đang đáp ứng với sự tan ră.
Có thể thêm rằng một hoạt động thứ ba cũng đang xảy ra. Đó là hoạt động của con người hữu thức, đang rút lại ư thức của ḿnh, một cách kiên định và từ từ, vào thể cảm dục và hạ trí, chuẩn bị cho việc hoàn toàn tách ra của thể dĩ thái khi đến đúng lúc. Con người trở nên ngày càng ít gắn bó với cơi trần và càng thêm rút lại vào trong chính ḿnh. Trong trường hợp của người tiến hóa, diễn tŕnh này được đảm trách một cách hữu thức, và con người giữ lại các quan tâm thiết yếu và sự hiểu biết của ḿnh về sự liên hệ với những kẻ khác ngay cả trong khi không c̣n bám chặt vào sự sống hồng trần. Trong lúc tuổi già, sự tách ra này có thể được ghi nhận dễ hơn trong cái chết v́ bệnh, và thường thường linh hồn hay con người sống động bên trong có thể được nhận thấy mất đi việc bám chặt vào cơi trần, và đó là cái thực tại không có thật của ḿnh.
4. Lại thêm một tạm nghỉ tiếp theo. Đây là điểm mà tinh linh hồng trần đôi khi lấy lại ảnh hưởng của nó đối với thể dĩ thái, nếu điều đó được linh hồn cho là thích hợp, nếu cái chết không phải là một phần của kế hoạch bên trong, hoặc là nếu tinh linh hồng trần c̣n mạnh mẽ đến nỗi nó có thể kéo dài tiến tŕnh từ trần. Sự sống tinh linh đôi khi sẽ tiến hành một cuộc chiến kéo dài nhiều ngày và nhiều tuần. Tuy nhiên, khi cái chết là không tránh khỏi, việc tạm dừng ở điểm này sẽ cực kỳ ngắn, đôi khi chỉ trong vài giây. Tinh linh hồng trần đă mất đi ảnh hưởng của nó, thể dĩ thái chờ “cái giật mạnh” (“tug”) cuối cùng từ linh hồn, tác động theo Định Luật Hút.
477
5.
Thể dĩ thái nhô ra
khỏi nhục thân theo các giai đoạn từ từ và ở điểm thoát đă chọn. Khi sự nhô ra này hoàn tất, bấy giờ thể sinh lực khoác lấy đường nét mơ hồ của h́nh hài mà nó từng cấp năng lượng, và điều này diễn ra dưới ảnh hưởng của h́nh tư tưởng của chính nó mà con người đă tạo nên trong nhiều năm. H́nh tư tưởng này tồn tại trong trường hợp của mỗi người, và phải được hủy diệt trước khi giai đoạn loại bỏ thứ hai được hoàn tất lần cuối. Chúng ta sẽ nói đến điều này sau. Dù đă
thoát khỏi ngục tù thân xác, thể dĩ thái vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của nó. Hăy c̣n có liên
giao yếu ớt giữa cả hai, và liên giao này
giữ cho con người tâm linh vẫn c̣n gần gụi với xác thân vừa bị bỏ trống. Điều đó giải thích tại sao những người có nhăn thông thường cho là thấy thể dĩ thái lượn lờ chung quanh giường người chết hoặc quan tài. Vẫn c̣n xâm nhập vào thể dĩ thái là các
năng lượng sáp nhập mà chúng ta gọi là thể cảm dục và thể hạ trí, c̣n ở trung tâm có một điểm sáng, nó chỉ dẫn sự hiện hữu của linh hồn.
6. Thể dĩ thái dần dần bị phân tán khi năng lượng tạo thành nó được tổ chức lại và được rút ra, chỉ để lại chất sinh khí (pranic substance) vốn được đồng nhất hóa với thể dĩ thái của chính hành tinh. Như trước đây tôi có nói, tiến tŕnh phân tán này được trợ giúp phần lớn nhờ sự hỏa táng. Trong trường hợp của người kém phát triển, thể dĩ thái có thể nấn ná (linger, la cà) trong thời gian dài ở vùng lân cận của cái vỏ (shell, ma h́nh) đang tan ră bên ngoài, v́ sức kéo của linh hồn không mạnh và trạng thái vật chất c̣n hiện hữu. Khi gặp người tiến hóa, do đó đă có sự tách biệt trong tư duy của y từ lúc ở cơi trần, sự tan ră của thể sinh lực có thể cực kỳ nhanh chóng. Khi sự tan ră được hoàn thành, tiến tŕnh hoàn trả được viên măn; con người được tự do, ít nhất cũng tạm thời, thoát được mọi phản ứng đối với sức thu hút của chất hồng trần (physical matter); y ở trong các thể tinh anh của ḿnh, sẵn sàng cho tác động lớn mà chúng ta mệnh danh là “Thuật Thải Hồi” (“Art of Elimination”).
478
Một ư tưởng hiện ra khi chúng ta kết thúc việc nghiên cứu c̣n thiếu sót này về cái chết của xác thân dưới hai trạng thái của nó: chính tư tưởng là sự toàn vẹn của con người nội tâm. Y vẫn là chính ḿnh. Y không thay đổi và không bị hạn chế; y là một tác nhân (agent) tự do, xét về cơi trần, và hiện giờ chỉ đáp ứng với ba yếu tố gây ảnh hưởng:
1. Tính chất của vận cụ t́nh cảm tinh anh của y.
2. T́nh trạng tâm trí mà y thường sống trong đó.
3. Tiếng nói của linh hồn, thường không quen thuộc, nhưng đôi khi được biết rơ và yêu thương.
Cá tính không mất đi; cùng con người vẫn hiện hữu trên hành tinh. Chỉ những ǵ đă biến mất vốn là một phần nguyên vẹn của sắc tướng hữu h́nh của hành tinh chúng ta. Những ǵ được ưa thích hoặc ghét bỏ, vốn đă hữu dụng cho nhân loại hoặc một nợ nghiệp quả đă từng phụng sự nhân loại, hoặc là một thành viên thiếu hiệu năng của nó, vẫn tồn tại, vẫn tiếp xúc với các tiến tŕnh định tính và trí tuệ của cuộc sống, và sẽ măi măi vẫn c̣n – về mặt cá nhân, được phẩm định bằng loại cung, một phần của giới linh hồn và một điểm đạo đồ cao cấp trong nghi thức riêng của nó.
3. Hai Vấn Đề Hệ Trọng
479
Trong các
trang trước, tôi đă t́m
cách đưa ra một cái nh́n thấu đáo vào bản chất thực của cái mà chúng ta gọi là sự chết. Chết là sự rút ra, một cách hữu thức hoặc vô thức, của thực thể sinh động bên trong khỏi cái vỏ bên ngoài của nó, tức cái tương ứng sinh động bên trong của nó, và sau rốt, đó là việc từ bỏ một hoặc nhiều thể tinh anh, tùy tŕnh
độ tiến hóa của con người. Tôi cũng
đă t́m cách chứng minh tính chất b́nh thường của tiến tŕnh quen thuộc này. Nỗi hăi hùng đi kèm
cái chết trên chiến trường hoặc bởi tai nạn, là ở chỗ chấn động ập tới trong khu vực của thể dĩ thái; tất yếu đưa đến việc sắp xếp lại nhanh chóng các lực cấu tạo của nó và đưa lại vào tổ chức, bất ngờ và không mong đợi, các bộ phận cấu thành của nó để đáp ứng với tác động rơ rệt bắt buộc phải chọn của con người trong thể trí-cảm của y. Tác động này không liên quan
đến việc đặt con người bên trong vào lại trong thể dĩ thái, mà cần việc tiến đến cùng nhau của các trạng thái tan ră của thể đó theo Định Luật Hút, để sự tan ră cuối cùng và hoàn toàn của nó có thể xảy ra.
Trước khi nói đến chủ đề của chúng ta (Thuật Thải Hồi), tôi muốn giải đáp hai câu hỏi mà theo tôi dường như rất quan trọng; chúng thường được các nhà nghiên cứu sáng suốt và đứng đắn đặt ra.
480
Thực ra, câu hỏi thứ nhất là biểu hiện của sự thất vọng trong loạt các giáo huấn này. Nó có thể được tŕnh bày như sau: Tại sao Huấn Sư Tây Tạng không nói về các bệnh rơ rệt hoặc cơ bản và bàn đến bệnh lư học của chúng, đưa ra cách chữa trị hoặc gợi ư chữa trị, nêu ra các nguyên
nhân trực tiếp của chúng và nêu ra chi
tiết các diễn tiến hồi phục? Hỡi huynh đệ, v́ về mặt kỹ thuật, có ít điều mà tôi có thể thêm vào những ǵ đă được y khoa xác định liên quan đến các triệu chứng, vị trí và các khuynh hướng chung mà các t́nh
trạng nhiễm bệnh xảy ra. Việc quan sát, thực nghiệm, khảo sát, sai lầm, thành công và thất bại đă mang lại cho con người ngày nay một hiểu biết rộng răi và dứt khoát là chính xác của các trạng thái và hiệu quả bên ngoài của bệnh tật. Thời gian và sự quan sát được tập luyện thường xuyên, rơ ràng
cũng nêu ra cách chữa trị hoặc các diễn tiến cải thiện hoặc các biện pháp pḥng ngừa (như tiêm ngừa đậu mùa), và các biện pháp này, sau nhiều năm, đă tỏ ra hữu ích. Việc t́m kiếm, thực nghiệm và các phương tiện tăng tiến đều đặn mà khoa học cung ứng đang đưa thêm vào năng lực của con người để trợ giúp, đôi khi
để chữa trị, để cải thiện thường xuyên và làm giảm các phản ứng đau đớn. Y khoa và khéo léo
của giải phẫu học đă tiến rất nhanh – rất nhiều đến đổi những ǵ được biết ngày nay và hiểu được phần nào, có bản chất quá rộng và quá rắc rối ở các khía cạnh khoa học và trị liệu của nó đến nỗi chúng đă tạo nên các chuyên gia –
những người này tập trung vào lĩnh
vực đặc biệt, và do đó họ chỉ đối phó với một số t́nh trạng đau ốm, nhờ đó đạt được nhiều khéo léo, hiểu biết và luôn luôn thành
công. Mọi điều này đều tốt lành, mặc cho những người lập dị và người có cách chữa trị nóng nảy có thể dị nghị, hoặc ngay cả những người không c̣n dùng nghề y khoa và thích h́nh
thức cúng bái nào
đó, hoặc các tiếp cận mới mẻ với vấn đề sức khỏe.
480
Lư
do khiến các tiếp cận mới mẻ này tồn tại, là v́ y khoa
đă tạo được tiến bộ đến nỗi giờ đây nó đạt đến các giới hạn của lĩnh vực thuần vật chất, và giờ đây sắp xảy ra việc tiến vào lĩnh vực vô h́nh, và như vậy đi đến gần hơn với thế giới nguyên nhân. Chính
v́ lư do này mà tôi đă không phí thời gian với các chi tiết của bệnh, với việc liệt kê hoặc xem xét các bệnh đặc thù, các triệu chứng hoặc cách chữa trị chúng, v́ việc đó được bao gồm đầy đủ trong các sách giáo
khoa hiện có; chúng cũng
có thể được thấy trong nhiều giai đoạn khác nhau trong các
bệnh viện lớn của chúng ta.
Tuy nhiên, tôi có bàn đến các nguyên nhân tiềm ẩn của bệnh – như là lao, giang mai và ung thư– có sẵn trong con người cá biệt, trong nhân loại nói chung và cũng trong hành tinh chúng ta. Tôi đă vạch ra các căn bản tâm lư học của bệnh và đă nêu ra một lĩnh vực mới về mặt thực hành, trong đó bệnh tật – đặc biệt, trong các giai đoạn đầu – có thể được nghiên cứu.
481
Khi nền tảng tâm lư học của bệnh có thể được hiểu rơ và bản chất thực sự của nó được y sĩ chính thống, nhà giải phẫu, tâm lư gia và tu
sĩ thừa nhận, lúc đó tất cả sẽ làm việc cùng nhau trong
lĩnh vực hiểu biết đang phát triển này, và những ǵ mà ngày nay
được gọi một cách mơ hồ là “y học pḥng ngừa” sẽ tiến vào chỗ của chính nó. Tôi thích
định nghĩa giai
đoạn này là y học thực dụng v́ cơ cấu của các phương pháp này, nhờ đó bệnh tật sẽ được tránh khỏi, và cách phát triển các kỹ thuật này, nhờ đó việc huấn luyện tâm lư chính xác sẽ được dạy ra – từ lúc trẻ trở đi – và nhờ nhấn mạnh con người tâm linh bên trong,
các t́nh huống này sẽ bị phủ nhận và các thói quen mà
ngày nay tất nhiên đưa đến sức khỏe kém, dứt khoát tránh được bệnh về triệu chứng và sau rốt là cái chết.
Trong phát biểu trên, tôi không hề nhắc đến xác nhận hoặc suy đoán của khoa học như là Khoa Học Cơ Đốc hoặc là các trường phái tư tưởng vốn truy nguyên mọi bệnh tật đến sức mạnh của tư tưởng. Tôi quan tâm đến nhu cầu trước mắt của việc huấn luyện tâm lư học chính xác, dựa vào hiểu biết về cấu tạo của con người, dựa vào môn học về bảy cung (các lực đang chi phối con người và làm cho con người có được sắc thái riêng của ḿnh) và dựa vào chiêm tinh học nội môn. Tôi đang bàn đến việc áp dụng các tri thức mà từ trước đến giờ được xem như đặc thù và thuộc nội môn, chúng đang từ từ xuất hiện dưới sự xem xét chung, và chúng đă tạo ra sự tiến bộ lớn trong hai mươi lăm năm qua. Tôi không quan tâm đến việc hủy bỏ cách trị liệu y khoa, cũng không bận tâm đến việc hậu thuẫn cho các cách chữa trị mới –tất cả các cách đó đều vẫn c̣n ở giai đoạn thực nghiệm và tất cả đều đóng góp phần nào cho y khoa nói chung; nhờ sự đóng góp có kết hợp này, mà sẽ có được một tiếp cận y học uyển chuyển hơn và phong phú hơn đối với bệnh nhân.
482
H́nh ảnh mà tôi đă phác
họa về bối cảnh tâm lư của mọi bệnh tật sẽ trở nên dài khi vẽ ra. Cùng lúc, sự đóng góp của y khoa rất cần thiết. Dầu có lỗi lầm, chẩn đoán thiếu sót và nhiều sai sót, nhân loại không thể hành động mà không có các bác
sĩ, nhà giải phẫu và bệnh viện của ḿnh. Họ đều vô cùng cần thiết và c̣n cần trong nhiều thế kỷ nữa. Trong phát biểu này không hề có lư do để nản ḷng. Nhân loại không thể được đưa vào một t́nh trạng sức khỏe thân xác hoàn hảo ngay tức khắc, dù sự luyện tập về tâm lư đúng từ ấu thơ sẽ làm được nhiều điều trong ṿng vài thập niên nữa. Các t́nh trạng sai lầm đă phát triển từ lâu. Nền y học hiện đại phải trở nên cởi mở nhiều hơn, sẵn sàng hơn để hậu thuẫn (sau khi có chứng cớ chuyên môn đúng)
những ǵ mới mẻ, có bản chất canh tân và khác thường. Các tường ngăn được dựng lên bởi y học chuyên hóa, phải được hạ xuống, và các trường phái mới phải được t́m kiếm, huấn luyện, t́m ṭi, và sau
cùng được bao gồm trong các hàng
ngũ chính thống. Các phái mới, như là các phái liên quan
đến điện-trị-liệu, phái nắn cột sống (chiropractic),
chuyên gia dinh dưỡng, họ tuyên bố là chữa mọi bệnh qua thực phẩm thích hợp, và nhất là chữa bệnh theo phép dưỡng sinh lập dị (eccentric
naturopaths), cộng với nhiều nghi thức cúng bái và các phái
khác nữa, đừng nên tự tin một cách ngạo mạn rằng họ có được toàn bộ câu chuyện, rằng phương pháp của họ là phương pháp duy nhất, hoặc chính họ có được một thuốc chữa bách bệnh (cure-all) độc nhất và chắc chắn.
Các nhóm này, đặc biệt là những người nắn cột sống, rơ ràng đă làm hại đại cục của họ và làm suy yếu nỗ lực của họ bằng sự bảo đảm được rao to của họ (một lĩnh vực vẫn chưa có thực nghiệm) và bằng việc luôn luôn công kích y học chính thống. Đến phiên nó, y học chính thống đă tự giới hạn chính ḿnh do không nhận biết được những ǵ hay và đúng trong các trường phái mới; nó gây đối kháng bằng tiếng hô hào đ̣i công nhận của họ, và do việc thiếu các phương pháp khoa học của họ. Cái hoài vọng của y học chính thống là bảo vệ quảng đại quần chúng. Họ cần phải làm điều này để tránh các tai họa mà những kẻ cuồng tín và các phương pháp chưa được thử nghiệm sẽ mang lại, nhưng họ đă đi quá xa ở mặt này. Trường phái tư tưởng mà tôi đă bảo trợ trong các giáo huấn này cũng sẽ được thử thách và điều này sẽ chiếm thời gian dài. Tuy nhiên, các hậu quả tâm lư và trí tuệ của cuộc thế chiến sẽ thúc đẩy rất nhiều sự nhận thức về nền tảng tâm lư học đối với bệnh tật và các xáo trộn khác; do đó, y học hiện đại đối diện với cơ may chính của nó.
483
Một sự kết hợp của y khoa chân chính
(như đă được sản xuất bởi con người, qua các thời đại dưới sự cảm hứng của bản thể thiêng liêng của con người) về các khía cạnh trị liệu mới như đă được giải thích bởi nhiều trường phái tư tưởng đang xuất hiện, có thực hành và thực nghiệm, nhận thức về các năng lượng đang chi phối con người, tác động qua bảy trung tâm lực trong thể sinh lực của y, và với các ảnh hưởng chiêm tinh học cũng chi phối con người, xuyên qua con người nội tâm, sau rốt sẽ tạo ra phương pháp y khoa mới sẽ giữ cho con người có sức khỏe lành mạnh, sẽ ngăn chận bệnh tật trong các giai
đoạn đầu của nó, và sau rốt sẽ khởi xướng ra chu kỳ
trong các sự việc con người, trong đó bệnh tật và sức khỏe kém sẽ là các ngoại lệ chớ không phải là qui luật, như là trường hợp ngày nay, và khi
đó sự chết sẽ được xem như một hạnh phúc và sự giải thoát được định trước, chớ không phải như trường hợp ngày nay, là một kẻ thù gây khiếp sợ.
Câu hỏi thứ hai dứt khoát có liên quan đến các diễn tiến từ trần. Câu hỏi được đặt ra: Thái độ của Chân Sư đối với sự hỏa táng là ǵ, và dưới các điều kiện ǵ việc hỏa táng nên được noi theo? Thật là một điều may mắn và hạnh phúc khi sự hỏa táng ngày càng trở nên qui luật. Không c̣n bao lâu nữa, việc chôn trong đất sẽ trái với pháp luật, c̣n việc hỏa táng sẽ được cưỡng chế, và điều này như là biện pháp cho sức khỏe và vệ sinh. Các địa điểm có hại cho sức khỏe, thông linh, gọi là nghĩa địa, sau rốt sẽ biến mất, giống như việc thờ phụng tổ tiên đang trôi qua cả ở phương Đông – với việc thờ cúng tổ tiên – và ở phương Tây – cũng với việc tôn thờ địa vị kế thừa (hereditary position).
484
Nhờ việc dùng lửa, mọi h́nh tướng đều tiêu tan; thể hồng trần con người bị tiêu hủy càng mau, ảnh hưởng của nó trên linh hồn đang triệt thoái càng bị đứt vỡ mau. Rất nhiều điều vô nghĩa được thuật lại trong văn liệu minh triết thiêng liêng thông
thường về sự cân bằng thời gian liên quan với sự hủy diệt tuần tự các thể tinh anh. Tuy nhiên,
cần nên nói rằng lúc mà cái chết thực sự được khoa học ấn định (bởi y sĩ chân chính
chịu trách nhiệm) và đă xác
định rằng không một tia sự sống nào c̣n lại trong xác thân, bấy giờ có thể thi hành hỏa táng. Cái chết hoàn toàn và thực sự này xảy ra khi giác tuyến và sinh mệnh tuyến hoàn toàn rút ra khỏi đầu và tim. Đồng thời, sự tôn kính và thái
độ không vội vàng, có vị trí đúng của chúng trong diễn tiến. Gia đ́nh người chết cần vài giờ trong lúc đó
điều chỉnh chính họ với sự kiện về sự biến mất sắp đến của h́nh sắc ở ngoài và thường được yêu thích; việc chăm sóc
đúng lúc cũng phải được dành cho các thủ tục mà quốc gia hoặc chính quyền đ̣i hỏi. Yếu tố thời gian chủ yếu có liên quan đến những người bị bỏ lại sau, đến người sống chớ không phải người chết. Việc khẳng định rằng thể dĩ thái đừng nên vội đưa vào lửa hỏa thiêu, và việc tin rằng thể đó phải được để cho trôi dạt đây đó
trong một giai đoạn ấn định vài ngày, cũng
không hề có nền tảng đích thực nào cả. Không có việc cần tŕ hoăn đối với thể dĩ thái. Khi con
người bên trong rút ra khỏi xác thân của ḿnh, th́ cùng lúc y
cũng bỏ đi/rời khỏi thể dĩ thái.
Đúng là thể dĩ thái quen la
cà ở lại trong một thời gian trên “vùng phân
thân” khi thể xác được mai táng, và nó thường tồn tại cho đến khi sự tan ră hoàn toàn của nhục thân xảy ra. Tiến tŕnh ướp xác như được thực hành ở Ai Cập, và ướp hương liệu, như được thực hành ở phương Tây, hứng chịu trách nhiệm cho việc làm tồn tại thể dĩ thái,
đôi khi đến nhiều thế kỷ. Đặc biệt khi xảy ra trường hợp khi xác ướp hoặc người được ướp hương liệu thuộc hạng có cá tính xấu xa trong kiếp sống; thể dĩ thái
đang lượn lờ, lúc đó thường “bị ám nhập” (“possessed”) bởi một thực thể xấu xa hoặc một tà lực. Đây là trường hợp của các tấn công và các tai họa thường theo sát bước chân của những kẻ khai quật các cổ mộ và cư dân các ngôi mộ đó, tức các xác ướp cổ, và đưa chúng cùng các vật sở hữu của chúng ra ánh sáng.
Khi nào có luật hỏa táng, không những chỉ có hủy diệt tức khắc nhục thân, và phục hồi nó vào kho chất liệu, mà thể sinh lực cũng tức khắc tan ră, các lực của thể đó được cuốn sạch bởi luồng hỏa, đi vào kho chứa năng lượng sinh động. Bao giờ nó cũng là một phần không thể tách rời của kho chứa đó, hoặc ở dưới t́nh trạng sắc tướng, hoặc dưới t́nh trạng vô sắc tướng. Sau cái chết và hỏa táng, các lực này vẫn tồn tại, nhưng được hấp thu vào tổng thể tương tự. Hăy ngẫm nghĩ về câu nói này, v́ nó sẽ mang lại cho bạn manh mối đối với công việc sáng tạo của tinh thần con người. Nếu sự tŕ hoăn là cần thiết do t́nh cảm gia đ́nh, hoặc sự đ̣i hỏi của chính quyền, việc hỏa thiêu nên theo sau
cái chết trong ṿng ba mươi sáu giờ; khi nào không có lư
do để tŕ hoăn, việc hỏa thiêu có thể được diễn ra trong mười hai giờ. Tuy nhiên, hăy khôn
ngoan chờ mười hai tiếng đồng hồ để chắc chắn là chết thực sự.
485
486
CHƯƠNG VI
THUẬT LOẠI BỎ
Để tiếp tục lại ḍng giáo huấn của chúng ta, giờ đây chúng ta sẽ xem xét hoạt động của con người tâm linh bên trong, con người này đă tách ra khỏi thể xác và thể dĩ thái của ḿnh, giờ đây đang ở bên trong cái vỏ của thể tinh anh – một thể làm bằng chất cảm dục hay chất t́nh cảm, và bằng chất trí. Do việc an trụ mạnh mẽ vào thể t́nh cảm của người b́nh thường, cái ư tưởng đă ăn sâu rằng, sau khi chết thực sự, trước tiên con người rút vào thể cảm dục của ḿnh, và rồi sau đó vào thể hạ trí. Nhưng thực ra không phải như vậy. Một thể được cấu tạo chủ yếu bằng chất cảm dục là nền tảng của ư tưởng này. Cho đến nay, ít người phát triển đến mức cái hiện thể mà họ thấy chính ḿnh ở trong đó sau khi chết, phần lớn làm bằng chất trí. Chỉ có đệ tử và điểm đạo đồ, tức là kẻ hầu như sống trong thể trí của ḿnh, mới thấy chính ḿnh, sau khi chết, tức khắc ở trên cơi trí. C̣n hầu hết con người phát hiện chính ḿnh ở trên cơi cảm dục, khoác trong một lớp vỏ bằng chất cảm dục (astral matter) và phải chịu vào một giai đoạn loại bỏ bên trong lĩnh vực huyễn tưởng của cơi cảm dục.
Như trước đây tôi có nói với bạn, cơi cảm dục không có thực, mà là một sáng tạo hăo huyền của gia đ́nh nhân loại. Tuy nhiên, từ giờ trở đi (qua sự thất bại của các tà lực và sự thất bại thảm hại mà bên Hắc Đạo hứng chịu), cơi cảm dục từ từ trở thành một tạo vật đang chết, và trong giai đoạn cuối cùng của lịch sử nhân loại (trong căn chủng thứ bảy) nó sẽ không c̣n hiện hữu. Đây không phải là trường hợp ngày nay. Chất t́nh cảm vốn tạo thành cơi cảm dục,vẫn c̣n được gom lại thành các h́nh hài hăo huyền và vẫn tạo thành một tường ngăn trên con đường của linh hồn t́m tới siêu thoát. Nó vẫn c̣n “giam cầm” nhiều người ĺa trần trong khi phản ứng chính của họ đối với sự sống là phản ứng của ham muốn, của niềm tin do mơ ước và của cảm thụ về t́nh cảm. Đây vẫn c̣n là đại đa số. Cơi cảm dục xuất hiện vào thời Atlantis; lúc đó trạng thái ư thức trí tuệ thực sự chưa có, mặc dù “các con của trí tuệ” đă có vị trí của chúng trên cái mà ngày nay là các mức độ cao của cơi đó. Nguyên tử thường tồn trí tuệ cũng hầu như yên lặng trong mỗi h́nh hài con người, và tất nhiên không có “sức lôi cuốn” thu hút từ cơi trí, như trường hợp ngày nay. Nhiều người vẫn ở trong tâm thức thời Atlantis, và khi họ chuyển ra trạng thái tâm thức hồng trần và vứt bỏ thể xác nhị phân của họ, họ phải đối diện với vấn đề loại bỏ thể cảm dục, nhưng họ có ít điều cần làm để giải thoát chính họ ra khỏi bất luận ngục tù trí tuệ nào của linh hồn. Đây là những người kém phát triển và b́nh thường, sau khi loại bỏ thể cảm dục, họ có ít chuyện khác để làm; không có thể trí nào để kéo họ vào hội nhập trí tuệ, v́ không có một sức mạnh tập trung về mặt trí tuệ nào; cho đến nay, linh hồn (đây là hồn thiệng – ND) ở trên các phân cảnh trí tuệ cao, “trong trạng thái thiền định sâu xa” và hoàn toàn không biết cái bóng của nó (shadow) trong ba cơi thấp.
487
Do
đó, thuật loại bỏ thuộc vào ba loại:
1. Khi thực hành bởi những người có tính chất và cấu tạo thuần cảm dục. Chúng ta gọi đây là người “có bản chất cảm dục” (“kamic” people).
488
2. Khi
được thực hành bởi những người quân b́nh, họ là các phàm ngă hội nhập và họ được gọi là các “cá nhân trí
cảm” (“kama-manasic”
individuals).
3. Khi được thực hành bởi người tiến hóa và các đệ tử thuộc mọi cấp mà phần lớn họ thiên về trí tuệ trong “tiêu điểm sống” (“living focus”) của họ. Đây là những người được gọi là các chủ thể “trí tuệ” (“manasic” subject).
Cùng các qui luật căn bản kiểm soát họ, nhưng trọng điểm khác nhau trong mỗi trường hợp. Tôi muốn bạn ghi nhớ rằng nơi nào không có bộ óc hồng trần và khi nào trí óc kém phát triển, con người nội tâm thực sự thấy chính ḿnh bị phủ kín trong một cái vỏ bằng chất cảm dục và trong một thời gian dài bị ch́m đắm vào trong cái mà chúng ta gọi là cơi cảm dục. Người trí cảm có cái được gọi là “tự do của đời sống song đôi” và thấy chính ḿnh sở hữu được một h́nh thức kép vốn cho phép y tiếp xúc tùy ư với các phân cảnh cao của cơi cảm dục và các phân cảnh (cơi phụ) thấp của cơi hạ trí. Tôi lại xin nhắc bạn rằng không hề có bộ óc hồng trần để ghi nhận các tiếp xúc này. Hiểu biết của tiếp xúc là tùy thuộc vào hoạt động tự nhiên của con người nội tâm và trạng thái hiểu biết và đánh giá đặc biệt của y. Người thiên về trí tuệ có một thể trí mờ nhạt với một mật độ thưa thớt vốn tương xứng với t́nh trạng không bị ảnh hưởng của dục vọng và t́nh cảm.
Cả ba mẫu người này đều dùng một tiến tŕnh loại bỏ có bản chất tương tự, nhưng dùng một kỹ thuật khác hẳn trong diễn tŕnh. Để minh giải, có thể nói rằng:
1. Người cảm dục loại bỏ thể cảm dục của ḿnh bằng cách làm tiêu hao, và bỏ trống nó xuyên qua tương ứng cảm dục với huyệt đan điền. Sự tiêu hao này được mang lại v́ mọi ham muốn bên trong và t́nh cảm có sẵn trong giai đoạn này được liên kết với bản chất con vật và với xác thân – cả hai hiện giờ đều không tồn tại.
2. Người trí cảm dùng hai phương pháp. Điều này thường tự nhiên như thế, v́ trước tiên y loại bỏ thể cảm dục của ḿnh, rồi kế đó thể hạ trí.
489
a/ Y
loại bỏ thể cảm dục bằng cách tăng ham
muốn cho đời sống trí tuệ. Y dần dần rút ra và đều đặn đi vào thể trí, c̣n thể cảm dục “bỏ đi” về mặt huyền bí sau cùng biến mất. Điều này thường xảy ra một cách vô thức và có thể cần thời gian khá lâu. Tuy
nhiên khi nào con người trên mức trung b́nh, và sắp trở thành người thiên về trí tuệ, sự biến mất xảy ra đột ngột và một cách tích cực, con người trở nên tự tại trong thể trí của ḿnh. Việc này xảy ra một cách hữu ư và nhanh chóng.
b/ Y phá vỡ thể hạ trí (mental body) bằng tác động của ư chí con người, và cũng v́ linh hồn đang bắt đầu từ từ nhận biết cái bóng của ḿnh. Do đó con người bên trong (inner man) được hút về phía linh hồn (soul), mặc dù chỉ c̣n một cách hơi yếu. Diễn tŕnh này tương đối mau và tùy vào mức độ ảnh hưởng của thượng trí (manasic influence).
3. Người thiên về trí tuệ (manasic man), hiện đang tập trung trong thể hạ trí của y, cũng có hai việc cần hoàn thành:
a/ Làm tan ră và giải thoát ḿnh khỏi bất cứ cặn bă cảm dục nào có thể làm đổi màu thể hạ trí đục mờ của y. Cái được gọi là thể cảm dục giờ đây thực sự không c̣n nữa như là yếu tố biểu lộ. Y làm điều này bằng cách nhờ vào ánh sáng ngày càng tăng từ phía linh hồn. Ở giai đoạn này chính ánh sáng linh hồn mới làm tan được chất cảm dục, cũng như nó sẽ là ánh sáng kết hợp của linh hồn con người (nói chung) mà sau cùng sẽ làm tan cơi cảm dục – lại được gọi thế.
b/ Hủy diệt thể hạ trí nhờ dùng một số Quyền Lực Từ. Các Linh Từ này được truyền thụ cho các đệ tử xuyên qua Huyền Viện của Đức Thầy của đệ tử. Chúng mang lại sức mạnh linh hồn đến một tầm mức được làm trội lên rất nhiều, và tất nhiên tạo ra một sự mở rộng tâm thức trong thể hạ trí, đến nỗi hạ trí bị phá vỡ và không c̣n tạo ra một tường ngăn, đối với con người bên trong nữa. Giờ đây y có thể ở t́nh trạng một đứa con trí tuệ tự do, bên trong Huyền Viện Đức Thầy của y và “sẽ không c̣n đi ra ngoài nữa”.
490
Các Hoạt Động
Ngay Sau Khi Chết
Ngay sau khi chết, đặc biệt là nếu hỏa táng, con người, trong thể trí cảm của ḿnh, biết nhận thức và tỉnh táo chẳng khác ǵ đối với chung quanh ḿnh, như khi y c̣n sống trên cơi trần. Cách diễn tả này thừa nhận sự tự do đối với phạm vi hiểu biết và quan sát so với một tự do tương tự phải được cho phép đối với những người trên cơi trần. Không phải mọi người đều nhận thức hoặc cùng có ư thức về các hoàn cảnh hoặc kinh nghiệm ngay. Tuy nhiên, v́ đa số con người đều có ư thức về t́nh cảm nhiều hơn là có ư thức về mặt vật chất và sống cho một phạm vi lớn được tập trung trong thể cảm dục của họ, con người hoàn toàn quen với trạng thái tâm thức mà y thấy chính ḿnh trong đó. Đừng quên rằng về thực chất một cơi là một trạng thái tâm thức chớ không phải một vị trí (locality) như rất nhiều nhà huyền bí học vẫn nghĩ. Nó được nhận thức bởi phản ứng tập trung của người có ngă thức –luôn luôn và biết rơ về chính ḿnh– người này có khả năng cảm thụ với cái đặc thù của môi trường của ḿnh và đối với các ham muốn hướng ngoại của ḿnh, hoặc là (xét trường hợp người tiến hóa, hoạt động trên các phân cảnh tiến bộ hơn của cơi cảm dục) có khả năng cảm thụ đối với t́nh thương và hoài băo hướng ngoại; con người bị thu hút vào những ǵ thu hút sự chú tâm của ḿnh và có liên quan đến nguyên khí dục vọng (kamic principle) trong kinh nghiệm lâm phàm của ḿnh. Tôi lại xin nhắc bạn rằng hiện nay không hề có bộ óc hồng trần nào đáp ứng với các ảnh hưởng phát sinh bởi con người nội tâm, và cũng đáp ứng với phái tính, v́ về mặt hồng trần nó được hiểu là không tồn tại. Các nhà giáng ma thường nhớ kỹ điều này và rất hiểu rơ sự dại dột, cũng như sự không thể của các cuộc kết hợp tinh thần này mà một vài trường phái tư tưởng trong phong trào giảng dạy và thực hành. Trong thể cảm dục của ḿnh, con người hiện giờ thoát khỏi hoàn toàn các xung lực thú tính mà trên cơi trần, đều b́nh thường lẫn đúng đắn, nhưng giờ đây không hề có ư nghĩa đối với y trong thể cảm dục của y.
491
Do
đó, lấy trường hợp người thông thường, các phản ứng và hoạt động đầu tiên của y là ǵ sau sự hoàn trả thể xác vào kho chứa chất liệu chung? Tôi xin kể vài phản ứng này:
1. Y hoàn toàn biết về chính ḿnh. Điều này cần đến sự sáng suốt về nhận thức mà kẻ trung b́nh không nhận biết trong khi c̣n lâm phàm ở cơi trần.
2. Thời gian (vốn là sự nối tiếp các biến cố theo sự ghi nhận của bộ óc xác thịt) hiện giờ không c̣n tồn tại theo cách chúng ta hiểu thuật ngữ đó, và – khi con người chuyển chú tâm của ḿnh vào bản ngă t́nh cảm được xác định rơ ràng hơn – đưa đến kết quả là bao giờ cũng có một cơ hội/ thời điểm tiếp xúc trực tiếp với linh hồn. Điều này do bởi sự thật là ngay cả trong trường hợp của người vô minh và kém hiểu biết nhất, thời điểm hoàn toàn hoàn trả không trôi đi trong sự không để ư của linh hồn. Nó có một hiệu quả rơ rệt trên linh hồn, một điều ǵ đó giống như lực kéo mạnh ở sợi dây chuông, tôi tạm dùng một lối so sánh đơn giản như thế. Linh hồn đáp ứng trong phút giây ngắn ngủi, và bản chất của sự đáp ứng diễn ra cách nào mà con người đang trụ trong thể cảm dục của ḿnh, hay đúng hơn trong thể trí cảm của ḿnh, thấy được kinh nghiệm của lần luân hồi trước trải ra trước mắt y giống như một tấm bản đồ. Y ghi nhận một ư thức vô thời gian.
492
3. Theo kết quả của việc nhận biết các kinh nghiệm này, con người tách ba yếu tố chính đang chi
phối trong kiếp sống đă qua, và
chúng cũng nắm giữ các mấu chốt cho lần luân hồi sắp tới của y, mà y sẽ triển khai trong lần kế. Mọi cái khác bị bỏ quên, và mọi kinh nghiệm nhỏ mờ nhạt khỏi kư ức của y, không để lại ǵ trong tâm thức y, trừ ra cái mà về mặt huyền bí được gọi là “ba hạt giống hay mầm mống của tương lai”. Ba mầm mống này đặc biệt có liên quan với vi tử thường tồn hồng trần và cảm dục, và như thế tạo ra năm lực vốn sẽ tạo ra các h́nh tướng xuất hiện sau này. Có thể nói rằng:
a/ Mầm mống Một sau này định đoạt bản chất của hoàn cảnh vật chất mà con người quay lại sẽ t́m thấy vị trí của ḿnh. Nó có liên quan tới tính chất của hoàn cảnh tương lai và như thế chi phối lănh vực tiếp xúc cần có.
b/ Mầm mống Hai định đoạt tính chất của thể dĩ thái với tư cách một hiện thể qua đó các mănh lực của cung có thể tiếp xúc với nhục thân. Nó định giới hạn cho cấu trúc dĩ thái hay là sinh vơng (vital web) mà các năng lượng nhập vào sẽ luân lưu dọc theo đó, và được đặc biệt liên kết với một trong bảy bí huyệt vốn sẽ là bí huyệt linh hoạt và sống động nhất trong lần luân hồi tới.
c/ Mầm mống Ba mang lại bí quuyết cho thể cảm dục mà con người sẽ được an trụ trong đó trong lần luân hồi tới. Đừng quên rằng ở đây tôi đang bàn tới người b́nh thường, chứ không bàn đến người tiến hóa, đệ tử, hoặc điểm đạo đồ. Chính mầm mống này – qua các lực mà nó thu hút – đưa con người trở lại vào mối liên kết với những người mà trước đây y đă yêu thương hoặc với người mà y đă có tiếp xúc chặt chẽ. Nó có thể được chấp nhận như là sự thật mà ư kiến tập thể chi phối về mặt bên trong mọi cuộc luân hồi, và con người tái luân hồi đó được đưa vào luân hồi không những do ước muốn riêng của y về kinh nghiệm cơi trần, mà c̣n ở dưới xung lực tập thể và hợp với karma tập thể cũng như hợp với karma của riêng y. Đây là một điểm vốn cần nhận ra ư nghĩa đặc biệt hơn. Một khi điều này được nắm vững và hiểu rơ, rất nhiều nỗi sợ sinh ra bởi ư tưởng về sự chết sẽ biến mất. Bạn thân và người yêu thương sẽ vẫn c̣n là bạn thân và người yêu thương, v́ mối liên hệ đă được thiết lập chặt chẽ qua nhiều lần luân hồi và – như Cổ Luận diễn tả:
493
“Các
mầm mống xác định sự nhận biết này không phải độc nhất cho tôi và bạn, mà c̣n cho tập thể nữa; bên trong tập thể, chúng liên kết với nhau trong thời gian và không gian.
Chỉ có trong ba cơi thấp, các mầm mống được liên kết này mới t́m thấy sự sống thực sự của chúng. Khi linh hồn nhận ra linh hồn và trong chỗ gặp gỡ bên trong tiếng gọi của Chân Sư, các mầm mống này sẽ biến mất”.
Do đó, điều hiển nhiên là cần thiết biết bao nhiêu phải huấn luyện trẻ con nhận biết và rút kinh nghiệm, về việc này một khi học được, sẽ làm dễ dàng rất nhiều cho hoạt động trên cơi cảm dục sau khi chết.
Nhờ đă hoàn tất “việc cách ly kinh nghiệm” này, lúc đó con người sẽ t́m cách và tự động t́m thấy những người mà ảnh hưởng của mầm mống thứ ba này chỉ rơ khi có được một phần không đổi trong kinh nghiệm tập thể mà y là một thành phần trong đó, hữu thức hoặc vô thức. Khi mối liên hệ được lập lại (nếu những người t́m kiếm chưa loại bỏ thể xác), con người hành động giống y như c̣n ở trên cơi trần trong nhóm các bạn thân của y và tùy theo tính t́nh cùng tŕnh độ tiến hóa của y. Nếu những người này gần gũi với y nhất và là kẻ mà y yêu thương sâu xa hoặc thù hận, vẫn c̣n đang đầu thai ở cơi trần, y cũng sẽ t́m ra họ và –vừa lúc khi y lại đầu thai trên trần– y sẽ vẫn là người láng giềng của họ, hiểu được các hoạt động của họ, dù (trừ phi tiến hóa cao) họ sẽ không biết đến y. Tôi không thể đưa ra chi tiết nào về sự trao đổi lẫn nhau hoặc về các cách tiếp xúc. Mỗi người mỗi khác, mỗi tính t́nh đều có chỗ độc đáo ở mức độ khác nhau. Tôi chỉ t́m cách minh giải một vài đường lối cư xử căn bản mà con người theo đuổi trước các tác động loại bỏ.
494
Bốn hoạt động này bao gồm các giai đoạn khác nhau – theo
quan điểm của “những người sống bên dưới”, mặc dầu không có thời gian nhận biết về phía con người trên cơi cảm dục. Dần dà sự quyến rũ và huyễn tưởng (thuộc loại cao hoặc thấp) mất dần, con người tiến nhập vào giai đoạn mà y hay biết –v́ thể trí bây giờ nhạy bén hơn và chi phối nhiều hơn– nên y sẵn sàng cho lần chết thứ hai và cho toàn bộ việc loại bỏ thể cảm dục hay là thể trí cảm.
Một trong các điều cần nhớ ở đây là khi việc hoàn trả thể xác dưới hai trạng thái của nó xảy ra, con người bên trong, như tôi có nói trước kia, vẫn có ư thức đầy đủ. Bộ óc vật chất và xoáy lực dĩ thái (hầu hết có phần xáo trộn trong trường hợp của đa số con người) không c̣n hiện hữu nữa. Đây là hai yếu tố đă dẫn dắt cho các nhà nghiên cứu tin rằng các kinh nghiệm của con người trên các mặt bên trong của ba cơi thấp là các kinh nghiệm của một sự trôi dạt mơ hồ, của kinh nghiệm bán-ư-thức, hoặc cho thấy một sự sống lặp đi lặp lại, trừ trường hợp của người rất tiến hóa, hoặc các đệ tử và điểm đạo đồ. Nhưng không phải trường hợp này. Một người ở các mặt bên trong (inner planes) không phải chỉ biết về chính ḿnh như một cá nhân – với các kế hoạch, sự sống và các sự việc của riêng ḿnh – như y ở trên cơi trần, mà y cũng biết được trong cùng một cách thức về các trạng thái tâm thức bao quanh. Y có thể bị cám dỗ bởi sự sống cảm dục hoặc lệ thuộc vào ấn tượng viễn cảm của các luồng tư tưởng khác nhau phát xuất từ cơi trí, mà y c̣n biết rơ về chính ḿnh và về trí tuệ của y (hoặc là của mức độ sự sống trí tuệ đă phát triển) bằng một cách mạnh mẽ hơn nhiều, hơn cả khi y phải hành động qua phương tiện bộ óc hồng trần, khi sự tập chú của tâm thức y là tập chú của người t́m đạo, nhưng được bám chặt vào bộ óc. Kinh nghiệm của y phong phú hơn nhiều và đầy đủ hơn là y từng biết khi c̣n lâm phàm. Nếu bạn xem xét đôi chút về điều này, bạn sẽ nhận ra rằng, điều này tất phải như thế.
495
Do
đó, có thể cho rằng Thuật Loại Trừ được thực hành một cách dứt khoát hơn và hiệu quả hơn là việc hoàn trả (restitution) thể xác. Một điểm khác cũng phải được xem xét. Trên khía cạnh bên trong, con người biết rằng Luật Luân Hồi chi phối tiến tŕnh kinh nghiệm của cuộc sống hồng trần, và kế đó họ nhận thức rằng, trước khi có sự loại bỏ thể cảm dục, thể trí cảm hoặc thể trí, họ chỉ đi qua giai
đoạn chuyển tiếp giữa các lần luân hồi và tất nhiên họ đối mặt với hai kinh nghiệm lớn:
1. Một thời khoảng (dài hoặc ngắn tùy theo mức tiến hóa đă đạt được) khi việc tiếp xúc sẽ được tạo ra với linh hồn hoặc với thái dương thiên thần (solar angel).
2. Sau sự tiếp xúc đó, một sự thay đổi thái độ tương đối dữ dội đối với sự sống hồng trần xảy ra, đưa đến cái được gọi là “diễn tŕnh đi xuống và kêu gọi”, trong đó con người:
a/ Chuẩn bị cho việc lâm phàm hồng trần trở lại.
b/ Gióng lên nốt đích thực của chính ḿnh vào chất liệu của ba cơi thấp.
c/ Làm sinh động lại nguyên tử thường tồn, chúng tạo thành một tam giác lực bên trong linh hồn thể.
d/ Gom lại chất cần thiết để tạo ra các thể biểu lộ sau này.
e/ Tô điểm các thể đó bằng các tính chất và đặc điểm mà y đă thu lượm được qua kinh nghiệm sự sống.
f/ Trên cơi dĩ thái, sắp xếp chất liệu của thể sinh lực của ḿnh sao cho bảy bí huyệt h́nh thành và có thể thành nơi nhận các nội lực.
496
g/ Cân
nhắc chọn lựa những người sẽ cung cấp cho y lớp vỏ nhục thân cần thiết, và kế đó chờ lúc luân hồi. Các đạo sinh huyền môn cần nhớ rơ rằng chỉ có cha mẹ ban cho nhục thân. Họ đóng góp không
ǵ khác trừ một cơ thể có tính chất và bản chất đặc biệt, cơ thể này sẽ cung cấp hiện thể tiếp xúc cần thiết với hoàn cảnh do linh hồn lâm phàm đ̣i hỏi. Cha mẹ cũng có thể cung cấp một phương tiện liên giao tập thể, nơi mà kinh nghiệm linh hồn lâu dài và mối liên hệ tập thể thực sự đă được thiết lập. Hai thời điểm có tính quyết định này được đối diện một cách hữu thức bởi con người thoát xác và y biết rằng cái mà y đang
làm bên trong các giới hạn được sắp xếp bởi mức độ tiến hóa của y.
Kinh Nghiệm Ở Devachan
Tôi cũng muốn nêu ra rằng công việc hữu thức này đối với thuật loại bỏ, và việc hiểu biết tiến tŕnh và mục tiêu, trong thực tế tạo thành trạng thái tâm thức vốn được gọi là devachan (thiên đường tạm) bởi nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng chính thống (orthodox theosophist). Có rất nhiều hiểu sai về kinh nghiệm này. Ư tưởng chung là, sau tiến tŕnh thoát ra khỏi thể cảm dục và thể hạ trí, con người nhập vào một loại trạng thái mơ mộng (dream state) trong đó y lại trải qua kinh nghiệm (reexperiences) và tái cứu xét (reconsiders) các biến cố đă qua dưới ánh sáng của tương lai, và trải qua một loại thời kỳ an nghỉ, một thứ tiến tŕnh tiêu hóa (digestive process) chuẩn bị để trải qua cuộc tái sinh. Ư tưởng hơi sai lầm này đă xuất hiện v́ khái niệm thời gian vẫn c̣n chi phối cách tŕnh bày chân lư của khoa minh triết thiêng liêng. Tuy nhiên, nếu hiểu rơ rằng thời gian không được nhận biết, nếu không có kinh nghiệm ở cơi trần, th́ toàn bộ ư niệm về devachan sẽ sáng tỏ. Từ lúc hoàn toàn tách ra khỏi nhục thân và thể dĩ thái, và khi tiến tŕnh loại bỏ được tiến hành, con người biết được quá khứ và hiện tại; khi sự loại bỏ được hoàn tất và thời điểm tiếp xúc với linh hồn xảy ra, và thể trí đang ở trong tiến tŕnh hủy diệt, con người lập tức bắt đầu biết được tương lai v́ tiên đoán là một kỹ năng của linh hồn thức (soul consciousness) và trong kỹ năng đó, con người tạm thời chia sẻ. Do đó, quá khứ, hiện tại và tương lai được xem như một; việc nhận biết về Hiện Tại Vĩnh Cửu dần dần phát triển từ lần luân hồi này đến lần luân hồi khác và trong tiến tŕnh tái sinh liên tục. Điều này tạo thành một trạng thái tâm thức (đặc điểm của trạng thái b́nh thường của người tiến hóa) vốn có thể được gọi là trạng thái devachan.
497
Tôi
không định đi sâu vào chi
tiết kỹ thuật của tiến tŕnh loại bỏ. Nhân loại ở rất nhiều giai đoạn khác nhau –nằm giữa ba giai đoạn đă phác họa– thế nên không thể xác định rơ ràng được. Việc tiêu hao tương đối dễ hiểu; thể cảm dục tàn tạ v́ không có sự lôi cuốn/ mời gọi (call) từ chất hồng trần, gợi ra ham muốn, không hề có ǵ cả để nuôi sống hiện thể này. Thể cảm dục xuất hiện do tác động hỗ tương giữa cơi trần, vốn không phải là một nguyên khí, với nguyên khí của dục vọng; trong tiến tŕnh tiếp nhận luân hồi, nguyên khí này
được vận dụng với ư định tích cực của linh hồn trong thể trí để đảo ngược sự lôi cuốn, và lúc bấy giờ, vật chất đáp ứng với tiếng gọi của con người lâm phàm. Sau tiến tŕnh tiêu hao dài,
con người nặng về cảm dục trở nên tự do bên trong thể trí c̣n phôi thai, và
giai đoạn sự sống bán-trí-tuệ này rất ngắn và được kết thúc bằng cách linh hồn bất ngờ “hướng con mắt vào kẻ đang chờ”, và bằng sức mạnh của mănh lực có định hướng, lập tức tái định hướng con người thiên về cảm dục vào con đường hướng xuống tái sinh. Con người trí cảm thực hành một tiến tŕnh triệt thoái
và đáp ứng với “lực hút” của một thể trí đang phát
triển nhanh chóng. Việc triệt thoái trở nên ngày càng nhanh
và tích cực cho đến khi nó đạt đến t́nh trạng mà đệ tử dự bị –dưới sự tiếp xúc với linh hồn ngày càng tăng–
phá vỡ thể trí cảm, giống như một đơn vị, bằng một tác động của ư chí trí tuệ do linh hồn thực hiện. Bạn cần ghi nhận rằng kinh nghiệm “devachan” tất nhiên sẽ ngắn hơn liên quan đến đa số hơn là liên quan đến thiểu số người thiên về cảm dục, bởi v́ kỹ thuật ở devachan để duyệt xét và nhận biết về các hàm ư của kinh nghiệm đang từ từ kiểm soát con người trên cơi trần để cho y truy ra tầm quan trọng của ư nghĩa và luôn
luôn học được qua kinh nghiệm trong khi luân hồi. Như vậy bạn cũng sẽ hiểu rằng sự liên tục tâm thức cũng đang
từ từ phát triển và việc hiểu biết về con người bên trong bắt đầu thể hiện trên cơi trần, qua trung gian bộ óc xác thịt trước tiên, và kế đó một cách độc lập với cấu trúc vật chất đó. Ở đây tôi đă
truyền đạt một ẩn ngôn rơ rệt về một vấn đề vốn sẽ nhận được chú ư rộng răi trong hai
trăm năm nữa. (Ấn bản đầu tiên của sách này là năm
1953 –ND).
498
Như chúng ta thấy người thiên về trí, tức phàm ngă hội nhập, hoạt động theo hai cách mà tất nhiên tùy thuộc vào mức hội nhập đă đạt được. Mức hội nhập này sẽ thuộc hai loại:
1. Loại phàm ngă hội nhập tập trung trong trí và đạt được một quan hệ thân hữu luôn luôn tăng lên với linh hồn.
2. Đệ tử có phàm ngă hội nhập hiện đang nhanh chóng hội nhập vào và được linh hồn thu hút.
499
Trong
giai đoạn phát triển trí óc này và giai
đoạn kiềm chế trí năo (dựa trên sự kiện tâm thức con người hiện nay dứt khoát được tập trung và luôn luôn tập trung vào thể trí, các tiến tŕnh phá hủy thể cảm dục trước kia qua việc làm tiêu hao và bằng “sự phủ nhận mạnh mẽ” được xúc tiến trong khi lâm phàm ở cơi trần. Con người lâm phàm không chịu để dục vọng chế ngự; những ǵ c̣n lại của thể cảm dục hay đánh lừa, giờ đây bị chế ngự bởi thể trí, c̣n các thôi
thúc hướng về việc làm thỏa măn ham muốn đều bị từ chối với sự cân nhắc đầy đủ và hữu thức, hoặc là v́ tham vọng ích kỷ và các ư định thuộc trí tuệ của phàm ngă hội nhập, hoặc theo linh hứng của ư định linh hồn bắt thể trí tuân theo các mục tiêu của nó. Khi mức độ tiến hóa này được đạt tới, th́ con người có thể đánh tan các tàn
tích c̣n lại cuối cùng của mọi dục vọng bằng sự giác ngộ. Trong các giai
đoạn đầu của sự sống thuần trí tuệ, điều này được làm nhờ sự giác ngộ mà sự hiểu biết mang lại và có dính líu phần lớn với ánh sáng tự nhiên của chất trí. Sau này, khi
linh hồn và trí tuệ lập được liên hệ chặt chẽ, ánh sáng linh hồn sẽ thúc đẩy và bổ sung cho tiến tŕnh. Giờ đây đệ tử dùng các phương pháp huyền linh hơn, nhưng ở đây tôi không thể bàn rộng về các phương pháp này. Việc hủy diệt hạ trí không c̣n được mang lại bằng sức mạnh hủy diệt của ánh sáng của chính nó, mà được thúc đẩy bằng một vài âm thanh, phát
ra từ cơi của ư chí tinh thần; các âm thanh này
được các đệ tử nhận biết và được phép sử dụng chúng dưới h́nh thức ngôn từ thích hợp của chúng được trao ra cho y bởi một điểm đạo đồ cao cấp nào đó bên
trong Huyền Môn Viện hoặc là bởi chính Chân Sư, vào khoảng kết thúc chu kỳ
luân hồi.
Mười Định Luật Chữa Trị
Bây giờ tôi xin nêu ra vài định đề mà chúng ta sẽ cần xét đến trong nghiên cứu của chúng ta ở Phần Ba khi chúng ta đề cập tới các Định Luật Chữa Trị Căn Bản. Tôi đă trao cho bạn các Định Luật và Qui Luật này, nhưng bây giờ tôi t́m cách đi sâu vào chi tiết.
500
Chúng ta
đă khảo cứu khá chi tiết các tiến tŕnh cấp bách xảy ra khi nguyên khí sự sống triệt thoái hoặc bị rút ra khỏi xác thân. Dựa vào mức tiến hóa, có một sự phân biệt trong hai tiến tŕnh này. Chúng ta
đă truy nguyên sự triệt thoái của nguyên khí sự sống, cộng với tâm thức, ra khỏi các thể tinh anh trong ba cơi
thấp, và giờ đây đă
đạt đến mức mà chúng ta không
c̣n bàn đến người b́nh thường hoặc người kém phát triển nữa. Chúng ta sẽ bàn đến hoạt động hữu thức của linh hồn liên quan đến khía cạnh sắc tướng của nó.
Với người kém phát triển hoặc người b́nh thường, linh hồn đóng một vai tṛ rất nhỏ trong tiến tŕnh chết, vượt ngoài sự đóng góp của một định đoạt đơn giản của linh hồn vào cuối chu kỳ của sự sống lâm phàm, trước khi có một sự quay lại lần nữa với cơi trần. Các “mầm tử vong” đang có sẵn trong bản chất h́nh hài và hiện ra dưới h́nh thức bệnh hoặc dưới h́nh thức suy nhược (dùng từ ngữ đó theo nghĩa chuyên môn của nó chớ không theo nghĩa thông thường), c̣n linh hồn theo đuổi các quan tâm riêng của nó trên cơi riêng của nó cho đến lúc mà diễn tŕnh tiến hóa đă mang lại một t́nh huống mà trong đó sự hội nhập tức là sự liên giao chặt chẽ (close relation) giữa linh hồn với h́nh tướng trở nên có thật đến nỗi linh hồn huyền đồng vô cùng sâu xa với biểu hiện đang hiển lộ của nó. Có thể nói rằng khi đạt tới giai đoạn này, lần đầu tiên, linh hồn mới thực sự lâm phàm; đó mới thực là “đi vào biểu lộ”, và toàn bộ bản chất linh hồn nhờ đó được tham gia. Đây là một điểm ít được nhấn mạnh hoặc hiểu rơ.
501
Trong các
tiền kiếp của linh hồn nhập thể và đối với đa số các chu kỳ của kinh nghiệm sống, linh hồn rất ít quan tâm đến những ǵ đang diễn ra. Sự hoán đổi chất liệu mà mọi h́nh hài được tạo ra từ đó, tiến hành theo tiến tŕnh tự nhiên và “karma của vật chất” là lực chi phối mở đầu; việc này được tiếp nối trong thời gian do karma được sinh ra bằng sự dung hợp của linh hồn và h́nh hài, dù
(trong các giai đoạn trước) rất ít trách nhiệm do linh hồn tạo ra. Cái đang diễn ra trong lớp vỏ linh hồn tam phân tất nhiên là kết quả của các khuynh hướng có sẵn của chính vật chất. Tuy nhiên, theo thời gian qua và hết lần luân hồi này đến lần luân hồi khác, hiệu quả của tính chất linh hồn nội tại dần dần khêu gợi lương tâm –và qua trung
gian của lương tâm, vốn là ứng dụng của ư thức phân biện, được phát triển khi thể trí ngày càng đảm trách việc kiểm soát – một sự khơi hoạt và sau cùng một tâm thức thức tỉnh được khơi hoạt. Việc này lộ ra trong trường hợp đầu với tư cách là ư thức trách nhiệm, chính ư thức này dần dần tạo nên một sự đồng nhất hóa ngày càng
tăng của linh hồn với hiện thể của nó, tức phàm ngă tam phân.
Lúc đó các thể trở nên ngày càng được thanh luyện; các mầm tử vong và bệnh tật không c̣n mạnh lắm; độ bén nhạy đối với nhận thức của linh hồn bên trong tăng
lên, cho đến lúc mà đệ tử được điểm đạo từ trần, bằng một tác động của ư muốn tâm linh của ḿnh, hoặc bằng cách đáp ứng với karma tập thể hoặc đáp ứng với karma quốc gia hoặc hành tinh.
Về thực chất, bệnh tật và tử vong đều là các t́nh trạng có sẵn trong vật chất; chừng nào mà con người c̣n đồng nhất hóa chính ḿnh với khía cạnh h́nh hài, chừng đó y c̣n bị chi phối bởi Định Luật Phân Hủy. Đây là Luật căn bản và tự nhiên chi phối sự sống của sắc tướng trong mọi giới của thiên nhiên. Khi đệ tử hoặc điểm đạo đồ đồng nhất hóa chính ḿnh với linh hồn và khi antahkarana được kiến tạo bằng nguyên khí sự sống, lúc đó đệ tử vượt ra ngoài sự kiềm chế của định luật đại đồng, tự nhiên này và vận dụng hoặc vứt bỏ thể xác tùy ư – theo đ̣i hỏi của ư muốn tâm linh hoặc do nhận thức về các nhu cầu của Thánh Đoàn hoặc các mục tiêu của Shamballa.
Giờ đây, chúng ta phát biểu một Luật mới vốn được thay cho Luật Tử Vong, và vốn chỉ được nói đến cho những ai ở vào các giai đoạn sau của Con Đường Đệ Tử, và các giai đoạn trên Con Đường Điểm Đạo.
ĐỊNH LUẬT X
Hỡi đệ tử, hăy lắng nghe tiếng gọi xuất phát từ Con đến Mẹ, và hăy tuân theo. Linh Từ phát ra từ h́nh hài đó đă phụng sự mục tiêu của nó. Nguyên khí trí tuệ (nguyên khí thứ năm A.B.B) lúc đó tự sắp xếp, và lúc đó lặp lại Linh Từ. H́nh hài đang chờ sẽ đáp ứng và bỏ đi. Linh hồn trở nên tự tại.
502
Hỡi Đấng Thăng Thiên, hăy đáp ứng với tiếng gọi đến trong
lĩnh vực nhiệm vụ; hăy nhận ra tiếng gọi phát xuất từ Huyền Viện hay từ Huyền Linh Nội Điện nơi mà chính Đấng của Sự Sống đang chờ Linh Âm phát ra. Linh hồn lẫn sắc tướng
đều phải từ bỏ nguyên khí sự sống và như thế để cho Chân Thần trở nên tự tại. Linh hồn đáp ứng. Kế đó h́nh hài làm vỡ sự mạch lạc. Giờ đây
sự sống được phóng thích, làm chủ tính chất của tri thức hữu thức và kết quả của mọi kinh
nghiệm. Đây là món quà của linh hồn với h́nh hài kết hợp.
Tôi muốn minh giải trong trí bạn sự phân biệt giữa bệnh tật với tử vong y như người thường đă trải qua, và một vài diễn tŕnh tan ră hữu thức tương ứng như đă được thực hành bởi đệ tử hoặc điểm đạo đồ tiến hóa. Các tiến tŕnh sau này bao hàm một kỹ thuật phát triển từ từ, trong đó (trong các giai đoạn đầu) đệ tử vẫn là nạn nhân của các khuynh hướng tạo ra bệnh tật của h́nh hài, như của mọi h́nh hài trong thiên nhiên. Khuynh hướng này tạo ra cái chết tiếp theo, qua các giai đoạn bệnh được điều chỉnh và cái chết an b́nh theo sau đó, vào các giai đoạn khác khi mà cái chết xảy ra bởi tác động của ư chí – thời gian và cách thức được linh hồn định đoạt và được ghi nhớ rơ ràng trong óc. Đau đớn được thấy rơ trong cả hai trường hợp nhưng trên Con Đường Điểm Đạo, đau đớn phần lớn được làm tiêu tan, không phải v́ điểm đạo đồ cố gắng tránh đau, mà v́ sự nhạy cảm của h́nh hài đối với các tiếp xúc không mong muốn biến mất và cùng với nó, cái đau cũng biến mất. Đau (pain) là kẻ bảo vệ của h́nh hài và là tác nhân che chở (protector) của vật chất; nó cảnh báo nguy hiểm; nó chỉ ra vài giai đoạn rơ rệt trong diễn tŕnh tiến hóa; nó được liên kết với nguyên khí mà nhờ đó linh hồn đồng nhất hóa chính nó với vật chất. Khi sự đồng nhất hóa chấm dứt, đau khổ, bệnh hoạn, cũng như cái chết mất ảnh hưởng của nó đối với đệ tử; linh hồn không c̣n lệ thuộc vào các đ̣i hỏi của chúng nữa, và con người trở nên tự do, v́ bệnh tật và tử vong là các tính chất có sẵn trong h́nh hài và lệ thuộc vào sự thịnh suy của sự sống sắc tướng.
503
Đối với con người, tử vong chính xác là cái
giống như là sự phóng thích của nguyên tử; việc khám phá khoa học vĩ đại về việc phóng thích
năng lượng nguyên tử đă chứng minh sự kiện này. Nhân của nguyên tử bị tách làm hai. (Cách
diễn tả này không đúng về mặt khoa học). Trong kinh nghiệm sống của nguyên tử, biến cố này phóng thích một ánh sáng lớn lao, và một sức mạnh vĩ đại; trên cơi cảm dục, hiện tượng chết có một hiệu quả có phần tương tự và có một trùng hợp chặt chẽ trong hiện tượng đó tạo ra bằng sự phóng thích năng
lượng nguyên tử. Trong mọi giới của thiên nhiên, mỗi cái chết đều có một mức độ nào đó hiệu ứng này; nó phá vỡ và hủy diệt h́nh hài thiết yếu và như thế dùng cho mục tiêu kiến tạo; kết quả này phần lớn thuộc cơi cảm dục hoặc thông linh và dùng
để xua tan một số huyễn cảm đang bao bọc. Việc hủy diệt hàng loạt h́nh hài vốn đă được tiến hành trong một số năm chiến tranh vừa qua, đă tạo ra các thay đổi ở thế giới hiện tượng trên cơi cảm dục, và đă phá vỡ một số lớn huyễn cảm hiện có trên thế giới và điều này rất tuyệt hảo. Các sự việc này sẽ dẫn tới kết quả có ít đối kháng với ḍng lưu nhập của loại năng lượng mới; nó sẽ tạo dễ dàng cho sự xuất hiện các ư tưởng lồng trong các nhận thức cần có; các khái niệm mới giờ đây sẽ được nhận ra, và việc chúng xuất hiện vào lĩnh vực tư duy của con người sẽ tùy thuộc vào việc qui ra công thức đối với “các tuyến hay vận hà mới cho ấn tượng” nhờ đó trí óc con người có thể trở nên nhạy bén với các kế hoạch của Thánh Đoàn và với các mục tiêu của Shamballa.
504
Tuy thế, điều này chỉ là nhân tiện thôi. Đề xuất của tôi sẽ dùng để chỉ cho bạn một vài trong các liên hệ giữa cái chết với hoạt động kiến tạo, và sự hữu ích rộng răi của cái chết dưới h́nh thức một tiến tŕnh để tái thiết. Nó sẽ gợi cho bạn ư tưởng rằng Định Luật Tử Vong vĩ đại này – v́ nó chi phối vật chất trong ba cơi thấp – là một sự kiện đem lại lợi ích và có tính hiệu chỉnh. Không cần quảng diễn định luật này, tôi xin nhắc bạn rằng Luật Tử Vong này đang
chi phối mạnh mẽ trong ba cơi tiến hóa của con người, chính là một phản ảnh của mục tiêu vũ trụ đang chi phối cơi dĩ thái
vũ trụ của thái dương hệ chúng ta, cơi cảm dục vũ trụ và cơi trí vũ trụ. Năng lượng liên quan đến cái chết tỏa ra dưới h́nh thức một biểu hiện của nguyên khí sự sống của Sự Sống vĩ đại đang bọc chứa cả bảy hệ thống hành tinh mà trong
chính Các Ngài biểu hiện Sự Sống của thái dương hệ chúng ta. Trong tư duy của chúng ta và trong nỗ lực của chúng ta để t́m hiểu, chúng ta tiến vào lĩnh vực trừu tượng hóa thuần túy, đó là lúc
để kêu gọi một sự tạm dừng và rút tâm trí
chúng ta lại với những cách sống hành tinh thực tiễn hơn và đi tới các định luật chi phối giới thứ tư trong thiên nhiên, tức giới nhân loại.
Hiện nay chúng ta đang ở vào một vị thế (sau khi cố gắng để tranh luận từ cái phổ quát tới cái đặc thù, mà bao giờ cũng theo cách huyền linh) đề cập đến Phần Ba, điểm cuối cùng bàn đến các Đ̣i Hỏi Căn Bản, và bây giờ phải xem xét cách dùng nguyên tắc tử vong của đệ tử hoặc điểm đạo đồ. Tôi muốn bạn chú ư cách diễn tả của tôi về khái niệm này. Khái niệm này được bàn đến dưới tiêu đề Các Tiến Tŕnh Hội Nhập.
505
CHƯƠNG VII
CÁC TIẾN TR̀NH HỘI NHẬP
Khi xem xét tiến tŕnh này một cách sáng suốt nhờ vận dụng sự kiện như linh hồn đă dùng nhờ hoạt động hữu thức trong ba cơi thấp, chúng ta sẽ thấy thật là hữu ích khi xem xét việc đó dưới hai đề mục chính:
Thứ nhất: Các tiến tŕnh nhờ đó chu kỳ luân hồi được đưa tới kết thúc qua sự hội nhập hoàn toàn của linh hồn và phàm ngă. Chúng ta sẽ tiến gần đến đề mục này theo ba quan điểm:
Ư nghĩa của sự hội nhập.
Trạng thái trí tuệ của linh hồn.
Loại bỏ h́nh tư tưởng của phàm ngă.
Thứ hai: Các kết quả của việc này:
Bên trong Huyền Môn Viện (Ashram) của Chân Sư đối với bậc đệ tử.
Bằng cách thức mà nhờ đó vị đệ tử đă thoát xác giờ đây có thể tạo ra một thể để tiếp xúc với cơi trần, và để phụng sự trong ba cơi thấp – lần này không ở dưới Luật Tất Yếu mà ở dưới Luật Phụng Sự như điểm đạo đồ hiểu.
506
Giờ đây bạn sẽ hiểu được rằng chúng ta đă
bàn đến sự thật về cái chết như nó đă tác động vào xác thân (một biến cố quen thuộc nhất) và cũng là lớp vỏ cảm dục hoặc chất trí – các tập hợp năng lượng có ảnh hưởng này mà chúng ta
không quen thuộc ở bên ngoài với nó lắm, nhưng ngay đến tâm lư học cũng thừa nhận là có và chúng ta
tin nó phải tan ră hay biến mất theo cái chết của xác thân. Tuy nhiên,
những ǵ đến với bạn có phải là khía cạnh chủ yếu của sự chết mà cuối cùng con người bận tâm đến là cái chết của phàm ngă hay
chăng? Ở đây tôi không
nói đến bằng các thuật ngữ trừu tượng, như mọi nhà huyền bí học đang làm khi họ hoạt động với sự chối bỏ một hoặc các tính chất vốn tiêu biểu cho phàm ngă. Họ nói đến “tiêu diệt hết” tính chất này hoặc tính chất nọ, đến việc đè nén hoàn
toàn “phàm ngă” và các câu nói tương tự. Ở đây tôi đang nói đến, theo nghĩa
đen, sự hủy diệt, sự tan ră, phân hủy, giải tán hoặc phân tán cuối cùng của cái phàm ngă được yêu thương và biết rơ.
Cần nhớ rằng sự sống của một phàm ngă có thể chia thành các giai đoạn sau:
1. Việc cấu tạo nó chậm chạp và từ từ qua một thời gian dài. Trong nhiều chu kỳ luân hồi, một người không phải là một phàm ngă. Y chỉ là một thành viên của một đám đông (mass).
2. Sự đồng nhất hóa hữu thức của linh hồn với phàm ngă trong giai đoạn này gần như không có. Trạng thái của linh hồn vốn bị ẩn giấu bên trong các lớp vỏ, trong một thời gian dài, bị chi phối bởi sự sống của các lớp vỏ này, chỉ làm cho sự hiện hữu của nó được cảm nhận qua những ǵ được gọi là “tiếng nói của lương tâm”. Tuy nhiên, theo thời gian qua, sự sống linh hoạt sáng suốt của con người dần dần được nâng cao và được phối kết bằng năng lượng đang tuôn chảy từ các cánh hoa kiến thức của hoa sen chân ngă, hoặc là từ bản chất nhạy bén sáng suốt của linh hồn trên cơi riêng của nó. Sau rốt điều này tạo ra sự hội nhập của ba lớp vỏ/thể thấp thành một tổng thể đang tác động. Lúc bấy giờ con người, mới là một phàm ngă (personality).
507
3. Sự sống phàm ngă của cá nhân được phối kết hiện tại tiếp tục tồn tại trong một số lớn kiếp sống, và cũng có thể chia thành ba giai
đoạn.
a/ Giai đoạn của một sự sống phàm ngă năng động có ưu thế, về căn bản được chi phối bởi loại cung của nó, có bản chất ích kỷ và rất có tính chất cá nhân.
b/ Một giai đoạn chuyển tiếp trong đó một xung khắc nổi lên dữ dội giữa phàm ngă với linh hồn. Linh hồn bắt đầu t́m cách thoát ra khỏi sự sống sắc tướng và tuy thế – xét cho cùng– phàm ngă tùy thuộc vào nguyên khí sự sống được linh hồn ban cho. Nói cách khác, sự xung đột giữa cung linh hồn với cung phàm ngă bắt đầu và cuộc chiến diễn ra giữa hai trạng thái năng lượng có tập trung. Cuộc xung đột này kết thúc vào cuộc điểm đạo thứ ba.
c/ Sự kiềm chế của linh hồn là giai đoạn cuối cùng, đưa đến cái chết và sự hủy diệt của phàm ngă. Cái chết này bắt đầu khi phàm ngă, tức Kẻ Chận Ngơ (Dweller on the Threshold), đứng trước Thiên Thần Bản Lai Diện Mục. Ánh sáng của Thái dương Thiên Thần lúc bấy giờ phá tan ánh sáng vật chất.
Giai đoạn “kiềm chế” (“control”) được chi phối bởi sự đồng nhất hóa hoàn toàn của phàm ngă với linh hồn; đây là một đảo ngược của sự đồng nhất hóa trước kia của linh hồn với phàm ngă. Đây cũng là những ǵ mà chúng ta ám chỉ khi nói đến sự hội nhập của cả hai; giờ đây hai chỉ c̣n là một. Thánh Paul có nói đến giai đoạn này khi Ngài nhắc đến (trong thư gửi cho Ephesians) Đức Christ tạo ra “trong số hai, một người mới” (“out of two, one new man”). Trước tiên đó là kỳ (phase) trong số các giai đoạn (stages) của Con Đường Dự Bị (lúc mà công việc bắt đầu một cách đầy hiểu biết) và việc xúc tiến con đường đó đến chỗ hoàn tất trên Con Đường Đệ Tử. Đó là giai đoạn của người phụng sự thực tiễn và thành công; đó là giai đoạn mà trong đó toàn bộ tiêu điểm/trung tâm chú ư (focus) và năng suất (output) của sự sống con người được cống hiến cho việc hoàn thành ư định của Thánh Đoàn. Con người bắt đầu làm việc trên và từ các mức độ không bao gồm trong ba cơi của cơ tiến hóa thông thường, nhưng tuy vậy lại có các kết quả của chúng và các mục tiêu được dự tính của chúng trong ṿng ba cơi này.
508
Ư NGHĨA CỦA HỘI NHẬP
Trọng điểm mà đa số các huấn sư và người t́m đạo đặt ra, được dựa vào sự hội nhập của phàm ngă và sự định hướng chính xác của nó hướng về thế giới có các giá trị tâm linh. Nên nhớ rằng đây là một giai đoạn có trước và đúng thế. Sự hội nhập của thể trí, bản chất t́nh cảm và bộ óc là đặc điểm chính của tất cả những người tiến hóa – tệ, rất tệ, thánh thiện và rất thánh thiện, tuy nhiên không có dấu hiệu nào của đời sống tâm linh, và thường hoàn toàn ngược lại. “Một Hitler” hay là một người đầy tham vọng, với một đời sống quá vị kỷ hoặc đời sống được định hướng về mặt bạo ác, là một nhân vật, với mọi sức mạnh của thể trí của hắn được dành cho các mục đích tà vạy, với bản chất t́nh cảm được cấu tạo cách nào mà nó không cho ra một chướng ngại nào để đẩy mạnh các ư định ích kỷ và với một bộ óc dũng mănh, năng nỗ, dễ tiếp nhận với các kế hoạch và các phương pháp của hai hiện thể, thi hành lệnh của phàm ngă.
Tôi muốn nêu ra rằng đa số con người không phải là các phàm ngă (personalities), cho dù họ có thể nói về các phàm ngă của họ một cách lưu loát đến đâu. Chẳng hạn, mục tiêu ban đầu trước mắt đa số người t́m đạo và các đạo sinh, trước tiên là hội nhập con người tam phân hạ đẳng, sao cho chúng có thể trở thành các phàm ngă hoạt động, trước khi trở thành các linh hồn hoạt động; công việc được dành cho mục tiêu tạo ra một trọng tâm của phàm ngă hữu thức, trong khi tránh chu kỳ của các lâm phàm trong đó phàm ngă được dành cho các mục đích thấp và ích kỷ. Các đạo sinh vốn là những kẻ tiến hóa hơn, được dành cho mục tiêu tạo ra một hội nhập c̣n cao hơn của linh hồn và phàm ngă, dẫn đến sự hội nhập cuối cùng vốn đem lại trạng thái cao nhất trong tất cả, tức là hội nhập của sự sống Chân Thần.
509
Trên
thế giới ngày nay, có nhiều phàm ngă hội nhập thật sự. V́ lẽ linh hồn và phàm ngă đều hội nhập, các phàm ngă này có
thể bước lên Con Đường Đệ Tử Nhập Môn. Đây là một phát triển có triển vọng nhất, nếu bạn có thể nhận ra các hàm ư và ư
nghĩa của nó, c̣n câu hỏi nảy sinh về việc làm thế nào những người, cho đến nay chỉ ở trong tiến tŕnh tái định hướng, có thể phát triển một sự hội nhập phàm ngă thích hợp. Họ sẽ không bao giờ làm điều này nếu họ tự đánh giá quá cao
hoặc tự đánh giá quá thấp. Nhiều người quen xem chính ḿnh
như các phàm ngă v́ tính ương ngạnh tự nhiên của họ, hoặc v́ họ là các đạo sinh huyền linh học. Họ quên rằng một đạo sinh huyền môn là người đang t́m kiếm những ǵ c̣n ẩn giấu –trong trường hợp của họ, về những ǵ ẩn giấu, tuyến hội nhập (integrating thread)
sẽ giúp họ pha trộn ba thể lại và nhờ thế mới thực sự xứng với danh xưng phàm ngă (hay nhân
vật). Một số những người đó không thể trở thành các phàm ngă
trong kiếp sống này, nhưng họ có thể phát triển khái niệm trí tuệ với năng lực và bản chất của nó; họ cần nhớ rằng “trong ḷng
nghĩ thế nào, th́ con người trở nên thế ấy”. Không nên phí thời gian, mà một diễn biến rất cần thiết và là diễn biến mà qua đó mỗi Thành Viên của Thánh Đoàn
đă vượt qua.
Việc nghiên cứu và thiền định phối hợp là các nhân tố mà mọi người t́m đạo nên dùng nếu họ t́m cách tạo ra sự hội nhập cần có này và một cuộc sống phụng sự tiếp theo sau. Như vậy người t́m đạo có thể thử cả tŕnh độ hội nhập của ḿnh lẫn tầm mức của tính chất phụng sự được tạo ra bởi sự hội nhập này. Nếu những người t́m đạo muốn nghiên cứu sự sống hồng trần của họ với sự thận trọng, họ sẽ khám phá rằng hoặc là họ đang tự động làm việc đáp ứng với các ư tưởng theo thông lệ cơi trần về thiện chí hay về ứng xử tử tế, hoặc là họ đang làm việc bằng t́nh cảm v́ họ thích trợ giúp, họ thích được ưa thích, họ thích làm nhẹ nỗi đau khổ (do sự hận thù đối với sự khó chịu, gây đau khổ đưa đến cho họ), họ tin vào việc đi theo các bước chân của Đức Christ, Đấng đă cố công làm điều lành, hoặc v́ khuynh hướng đời sống ăn sâu tự nhiên. Đây là một phát triển đầy triển vọng và có tính chất chung cục.
510
Sau
rốt, những người t́m đạo sẽ t́m ra (khi các giai
đoạn hội nhập của thể xác và thể t́nh cảm đă xong), rằng có một giai đoạn phụng sự sáng suốt, được thúc đẩy trong trường hợp thứ nhất bởi ḷng nhân từ, kế đó bởi sự tin chắc về tính chất thiết yếu của nó, sau đó bằng một giai đoạn có tham vọng tinh thần rơ rệt, tiếp theo bằng một sự noi theo và tuân
thủ tấm gương của Thánh Đoàn và
sau rốt bằng sự hoạt động của tính chất của bác ái thuần túy. T́nh thương thuần khiết này tự biểu lộ ngày càng nhiều khi sự hội nhập cao hơn của linh hồn với phàm ngă diễn ra. Mọi giai đoạn dự định và chuyên môn này
đều đúng ở vị trí riêng của chúng, cũng như chừng nào mà chúng c̣n có
giá trị dạy dỗ, và trong khi các
giai đoạn cao kế tiếp vẫn c̣n mơ hồ và u ám. Chúng trở nên sai lầm khi chúng được duy tŕ và xúc tiến khi giai đoạn kế tiếp được thấy rơ nhưng không được noi theo. Hăy cân nhắc về điều này. Nó có giá trị cho bạn khi hiểu được ư nghĩa thực sự của các giai đoạn hội nhập khác nhau này,
được xúc tiến – như chúng đang diễn ra – theo Luật tiến hóa.
Tất cả các giai đoạn trên con đường hội nhập đều dẫn đến giai đoạn tột đỉnh trong đó phàm ngă – giàu về kinh nghiệm, mạnh mẽ khi biểu lộ, được tái định hướng và có nhiệt tâm – chỉ trở thành tác nhân trung gian của sự sống linh hồn giữa Thánh Đoàn với Nhân Loại. Lần nữa, hăy cân phân về điều này.
Trạng Thái Trí Tuệ Của Linh Hồn
511
Và trong
khi tất cả các giai đoạn lớn nhỏ này và các nhận thức đều xảy ra trong sự sống của phàm ngă, th́ thái
độ của linh hồn là ǵ trên cơi riêng
của nó? Việc xem xét về điều này trước tiên bao hàm một nhận thức về ba trạng thái của trí tuệ được t́m thấy dựa vào cái mà chúng ta
gọi là cơi trí:
1. Hạ trí cụ thể, nguyên là thái độ của tư tưởng được đưa ra bởi khía cạnh rất bé của linh hồn, nó được “ghi xuống” lúc bắt đầu cuộc biểu lộ ở thời điểm thoát kiếp thú (indivi–dualisation). Trong chu kỳ dài của các lần luân hồi, hạ trí trở nên ngày càng nhạy cảm với Đại Ngă đang ứng linh của nó. Đại Ngă ứng linh này nói với trạng thái lâm phàm của nó: “Dù đă thấm nhuần toàn bộ vũ trụ này bằng một mảnh của chính ta, ta vẫn tồn tại”. Sức thu hút của “Đại Ngă tồn tại” đang ứng linh đó là những ǵ đang kéo cái mảnh nhỏ trở lại với cội nguồn nguyên thủy của nó.
2. Con của Trí Tuệ, tức linh hồn, sản phẩm của tư tưởng của Toàn Linh Trí, Chủ Thể suy tư, nhận thức, phân biện, phân tích tức là Thực Thể tâm linh. Trạng thái này của Sự Sống Duy Nhất được đặc trưng bằng trí tuệ thuần túy, lư trí, t́nh thương thuần khiết và ư chí thuần khiết. “Đấng Hy Sinh”, qua kinh nghiệm lâm phàm, sự hội nhập và biểu lộ, Ngài đảm trách nhiệm vụ để cứu chuộc vật chất và để nâng vật chất vào Cơi Trời ! Đây là các chân lư quen thuộc và các vô vị cổ xưa, nhưng chúng chủ yếu vẫn là lư thuyết, đối với bạn. Bạn có thể trắc nghiệm bản chất lư thuyết của chúng bằng cách tự hỏi: Tôi đang làm ǵ với tư cách linh hồn (nếu tôi hành động với tư cách linh hồn), để nâng khía cạnh vật chất của tôi, ba hiện thể của tôi và chất liệu mà từ đó chúng được tạo ra, lên các cơi biểu lộ cao hơn?
3. Thượng trí trừu tượng, so với linh hồn, nó là cái mà trạng thái thấp nhất của linh hồn, được lồng trong các cánh hoa kiến thức, biểu hiện ra so với trí cụ thể. Trí trừu tượng này là trạng thái thấp nhất của Tam Thượng Thể Tinh Thần.
512
Khi sự hội nhập này xảy ra giữa phàm ngă với linh hồn, lúc bấy giờ linh hồn – trong thể và bản chất riêng của nó và trên cơi riêng
của nó – có thể bắt đầu chú ư đến một hội nhập cao hơn, hay mối liên hệ gắn bó mà sau rốt nó phải mang lại giữa chính nó với Tam Thượng Thể Tinh Thần. Việc hoàn thành trên một mức độ thấp bao giờ cũng dễ xảy ra hơn hoàn thành ở mức cao. Không có sự thành tựu thực sự cao nào cho tới khi, dần dần, trạng thái phản ảnh thấp bị chế ngự, vận dụng và nhận biết như là vận cụ để mang lại các hoạt động c̣n cao hơn.
Trạng thái trí tuệ của linh hồn trong các tiến tŕnh hội nhập thấp có thể được tóm lược vắn tắt như sau:
1. Tiến tŕnh thờ ơ hoàn toàn trong các giai đoạn trước của chu kỳ luân hồi. “Trạng thái ăn sâu” của nó (như nó thường được gọi) th́ hoàn toàn thích hợp với công việc chậm chạp và tẻ nhạt để phát triển các thể, nới rộng các đặc điểm của chúng và chuốc lấy kinh nghiệm đắng cay của mù quáng và vô minh. Giai đoạn này dài nhất, và trong khi nó diễn ra, linh hồn vẫn tiến tới với mối quan tâm vào sự sống của riêng nó trên mức độ kinh nghiệm riêng của nó, dựa vào cung riêng của nó, và dưới ảnh hưởng của Chân Sư, Đấng mà sau cùng sẽ hướng dẫn việc suy tư (qua ấn tượng nhận được một cách tự nguyện) của phàm ngă đang phát triển. Đừng quên rằng giới này hay tập hợp này của các linh hồn là những ǵ mà người Thiên Chúa giáo gọi là Thiên Giới, c̣n nhà huyền linh học gọi là Huyền Giai tinh thần của hành tinh chúng ta. Cũng nên nhớ rằng mục tiêu của sự sống tập hợp của nó là gợi ra nhận thức trong tâm thức của việc an trụ tinh thần của Sự Sống hành tinh.
513
2. Khi sự tiến hóa tiếp tục, ba hiện thể – hiện nay đă được tạo ra và phát triển –trở nên mạnh, và rung động của chúng trở thành đủ mạnh để thu hút một mức độ chú ư từ linh hồn quá bận tâm. Phản ứng đầu tiên là sự khó chịu (irritation). Khó chịu về mặt huyền linh không phải là sự gắt gỏng (crossness), theo
cách diễn tả của con người, mà là đáp ứng với sự tiếp xúc – một đáp ứng vốn không làm hài ḷng.
Nói cách khác, đó là sự tranh chấp. Do đó bạn sẽ hiểu rơ hơn ư nghĩa của phát biểu cho rằng cái xiềng xích cuối cùng mà Chân Sư ném ra là sự khó chịu. Phàm ngă không c̣n
thu hút sự chú tâm nữa; do đó tranh chấp (friction) kết thúc, và không c̣n
ǵ c̣n lại trừ một vận hà thuần túy mà năng lượng tinh thần có thể tuôn qua đó. Sự khó chịu, theo cách bạn hiểu, xảy ra khi sự bướng bỉnh, ḷng tự trọng, các ư tưởng và các kế hoạch cá nhân của bạn bị xâm phạm bởi những sự việc như trên của một người khác. Không phải h́nh thức khó chịu này mà Đức Thầy ném bỏ.
Phản ứng thứ nh́ là phản ứng của một tiến tŕnh thiền định hoặc là phát sinh ra lực, sau đó được dùng trong ba cơi thấp để nâng cao năng lượng linh hồn bên trong h́nh hài và tạo ra lĩnh vực hiểu biết, tràn ngập các h́nh tư tưởng mà sau đó phàm ngă mạo hiểm tiến vào. Do đó linh hồn chuẩn bị cho việc tái định hướng của riêng nó hướng về Sự Sống và biểu hiện của nó trong ba cơi thấp, chứ không thu thập thêm kinh nghiệm sống.
3. Khi phàm ngă trở nên có ưu thế, th́ linh hồn đưa một yếu tố mới vào trong sự sống với phản ảnh của nó, tức linh hồn đang lâm phàm. Yếu tố này huy động và tập trung năng lượng của cung linh hồn, và bằng một tác động của ư chí, đưa yếu tố đó vào tiếp xúc trực tiếp với cung phàm ngă. Điều này có một tác động phản xạ trên các cung của con người tam phân hạ đẳng, kích thích chúng, khơi hoạt chúng và chi phối thể dĩ thái sao cho các bí huyệt, mà các cung phàm ngă đang tuôn đổ qua đó, và bí huyệt đầu, vốn đang đáp ứng với cung linh hồn, có thể trở nên linh hoạt hơn. Huyệt ấn đường, mà phàm ngă tác động qua đó, tăng cường hoạt động của nó và hai điều xảy ra:
a/ Sự sống phàm ngă trở nên ngày càng mạnh và con người phát triển thành một cá nhân mạnh mẽ.
b/ Bí huyệt đầu bắt đầu phát huy ảnh hưởng lên bí huyệt ấn đường và một cách từ từ ảnh hưởng lên bí huyệt ở chót xương sống. Tính ương ngạnh phát triển cũng như mọi tính chất khác.
514
4. Giờ đây linh hồn vướng vào điều mà các nhà huyền bí học gọi là “một tiến tŕnh đảo ngược”. Điều này tạo ra một quan tâm lớn trong phản ảnh của nó trong ba cơi thấp, bấy giờ ba sự việc xảy ra:
a/ Hạ trí cụ thể trở nên lệ thuộc vào sự giác ngộ từ linh hồn.
b/ Năng lượng của cung linh hồn ngày càng tuôn đổ vào phàm ngă, làm mạnh thêm sự xung đột của nó.
c/ Con đường của con người chung quanh hoàng đạo (zodiac) từ Dương Cưu (Aries) xuyên qua Song Ngư (Pisces) đến Kim Ngưu (Taurus) bị đảo ngược và lúc đó y tiếp tục ngược chiều kim đồng hồ.
Tất cả các yếu tố này đều tạo ra va chạm dữ dội trên Con Đường Dự Bị, nó tăng lên khi con người bước lên Con Đường Đệ Tử. Mănh lực của phàm ngă, vượt lên và đang có ảnh hưởng, là cái đang tạo ra hoạt động nghiệp quả mạnh mẽ. Các biến cố và các hoàn cảnh chồng chất nhanh chóng và mănh liệt thành kinh nghiệm của đệ tử. Môi trường của y với tính chất cao siêu nhất có sẵn trong ba cơi thấp; kinh nghiệm của y dao động giữa các cực đoan, y thanh toán hết các trách nhiệm nghiệp quả và trả h́nh phạt của các lỗi lầm đă qua thật nhanh chóng.
Suốt thời gian này, luân hồi này nối tiếp luân hồi khác, và diễn tŕnh chết chóc quen thuộc, xảy ra giữa các chu kỳ kinh nghiệm tiếp diễn. Cả ba cái chết –thuộc xác thân, cảm dục và hạ trí– đều được tiến hành với sự khơi hoạt dần dần trạng thái hiểu biết, khi hạ trí phát triển; con người không c̣n bị trôi dạt đây đó nữa –như đang ngủ và không hay biết– ra khỏi thể dĩ thái, thể cảm dục và hạ trí, mà mỗi thể trở nên chẳng khác ǵ một biến cố xảy ra như là cái chết xác thân.
Sau cùng đến lúc mà đệ tử từ trần với sự cân nhắc và tâm thức đầy đủ, và với hiểu biết thực sự từ bỏ các thể khác nhau của ḿnh. Linh hồn từ từ đảm nhận sự kiểm soát, và lúc đó đệ tử gây ra cái chết qua một tác động của ư chí linh hồn và biết chính xác những ǵ y đang làm.
515
Loại Bỏ H́nh Tư Tưởng
Của Phàm Ngă
Khi bàn về chủ đề này (và điều đó chỉ có thể được làm rất vắn tắt), cần ghi nhớ hai điều:
1. Quả thật chúng ta đang xem xét độc nhất một ư tưởng trong trí của linh hồn và liên quan đến sự kiện căn bản về ảo tưởng, vốn đă kiểm soát toàn bộ chu kỳ luân hồi, và như thế giữ linh hồn làm tù nhân cho h́nh hài. Đối với linh hồn, phàm ngă ngụ ư hai điều:
a/ Năng lực của linh hồn để đồng nhất hóa với h́nh hài; trước tiên điều này được linh hồn nhận biết khi phàm ngă bắt đầu phản ứng với một mức độ hội nhập thực sự.
b/ Cơ may cho điểm đạo.
2. Rơ ràng là việc loại bỏ h́nh tư tưởng của phàm ngă, vốn hoàn tất ở cuộc điểm đạo thứ ba, là một điểm đạo lớn đối với linh hồn trên cơi riêng của nó (tức hồn thiêng– ND). V́ lư do này, cuộc điểm đạo ba được xem như cuộc điểm đạo chính thứ nhất, v́ hai cuộc điểm đạo trước có rất ít hiệu quả trên linh hồn và chỉ ảnh hưởng đến linh hồn đang lâm phàm (tức nhân hồn, hay thượng trí–ND), “mảnh nhỏ” (“fragment”) của tổng thể.
Đây là các sự kiện ít được nhận biết và ít khi được nhấn mạnh trong bất cứ tài liệu nào được xuất bản từ trước đến nay. Cho đến giờ, tầm quan trọng đă dựa vào các cuộc điểm đạo như chúng tác động đến đệ tử trong ba cơi thấp. Nhưng tôi đặc biệt bàn về các cuộc điểm đạo khi chúng tác động hoặc không tác động đến linh hồn, đang che chở h́nh ảnh của nó, tức phàm ngă, trong ba cơi thấp. Do đó, những ǵ mà tôi nói đến, sẽ có ít ư nghĩa đối với độc giả bậc trung.
516
Theo quan
điểm của phàm ngă, xem chính
nó như Kẻ Chận Ngơ, thái độ hoặc trạng thái trí tuệ đă được mô tả không tương xứng y như thái độ hoàn toàn xóa sạch dưới ánh sáng của linh hồn; cái huy hoàng của Bản Lai Diện Mục, được chuyển hóa bởi Thiên Thần, cách nào mà phàm
ngă hoàn toàn biến mất, với các đ̣i hỏi và hoài bảo của nó. Không ǵ bị bỏ lại trừ cái vỏ và dụng cụ mà ánh sáng mặt trời có thể tuôn đổ qua để giúp cho nhân loại. Điều này đúng ở một mức độ nào đó, nhưng xét cho cùng, chỉ là cố gắng của con người để diễn đạt hiệu quả chuyển hóa và hiệu quả biến dung của cuộc điểm đạo thứ ba, vốn không thể được thực hiện.
Khó hơn rất nhiều so với cái cố gắng mà ở đây tôi đang tạo ra để mô tả thái độ và các phản ứng của linh hồn, bản ngă duy nhất, Đức Thầy trong tâm, khi nó nhận ra sự kiện kỳ diệu về sự giải thoát cốt yếu của chính nó và hiểu rằng, chỉ một lần thôi, hiện nay nó không có khả năng để đáp ứng bằng bất cứ cách nào với các rung động thấp của ba cơi thấp, khi nó chuyển đạt cho linh hồn bằng dụng cụ tiếp xúc của nó, tức dạng thức phàm ngă. Dạng thức đó hiện giờ không có khả năng chuyển hóa như thế.
Phản ứng thứ nh́ của linh hồn, khi nhận thức này đă được tập trung và được thừa nhận, là – nhờ có được tự do – tự do đó giờ đây truyền đạt các đ̣i hỏi riêng của nó:
1. Cho một cuộc sống phụng sự trong ba cơi thấp, rất quen thuộc và hiện nay hoàn toàn được siêu việt.
2. Một ư thức che chở đối với t́nh thương hướng ra ngoài, hướng về phía những ai, cho đến nay, đang mưu t́m giải thoát.
3. Nhận ra được tam giác cốt yếu mà hiện giờ đă trở thành tâm điểm của sự sống theo khái niệm (conceptual life) của linh hồn:
517
Hiện nay linh hồn rung động giữa hai điểm hay các cặp đối hợp và hành động theo một trung tâm kêu gọi và đáp ứng.
Không cái nào trong số các nhận thức nói trên có thể được ghi nhận trong tâm thức năo bộ hay là trong trí của một phàm ngă giác ngộ. Theo lư thuyết, một số h́nh ảnh mơ hồ của các tiềm năng có sẵn có thể được cảm nhận, nhưng tâm thức không c̣n là tâm thức của đệ tử phụng sự trong ba cơi thấp, vận dụng trí năo, các xúc cảm và xác thân để tiến hành theo lệnh và ư định của Thánh Đoàn đến hết khả năng. Năng lực đó mất đi theo cái chết của ư thức phàm ngă. Ư thức đó giờ đây là ư thức của chính linh hồn, không biết đến phân cách, linh hoạt theo bản năng, bị ám ảnh về mặt tâm linh bởi các kế hoạch của Thiên Giới và hoàn toàn thoát khỏi sự mê hoặc hay là sự kiểm soát yếu nhất của h́nh hài-vật chất; tuy nhiên, linh hồn vẫn đáp ứng với và bị ch́m đắm trong năng lượng-vật chất và sự tương ứng cao của nó vẫn đang tác động trên các mức độ của cơi hồng trần vũ trụ – cơi Bồ Đề, Niết Bàn, Đại Niết Bàn và Tối Đại Niết Bàn.
Lúc đó, những ǵ phải xảy ra nếu sự sống của linh hồn là để làm đầy và hoàn tất, và hoàn toàn bao quát đến nỗi ba cơi thấp hợp thành một phần của lĩnh vực hiểu biết và lĩnh vực phụng sự của nó? Cách duy nhất mà tôi minh giải cho bạn là những ǵ mà linh hồn phải làm sau chu kỳ điểm đạo thứ ba là tổng kết nó theo hai cách:
Thứ nhất: Giờ đây linh hồn trở thành kẻ sáng tạo hữu ư v́ trạng thái thứ ba–phát triển và chế ngự qua kinh nghiệm trong ba cơi thấp trong chu kỳ dài của các lần luân hồi – đă đạt đến mức hoạt động hoàn hảo. Diễn tả về mặt kỹ thuật: năng lượng của các cánh hoa tri thức và năng lượng của các cánh hoa bác ái hiện giờ được dung hợp và ḥa lẫn đến nỗi hai trong các cánh hoa bên trong, đang bao bọc bảo ngọc trong hoa sen, không c̣n tác động như là các bức màn đối với bảo ngọc đó nữa. Ở đây, tôi đang nói theo cách tượng trưng. V́ biến cố này, sự chết hay loại bỏ của phàm ngă là hoạt động đầu tiên trong tấn kịch sáng tạo có ư thức và h́nh hài đầu tiên được tạo ra bởi linh hồn là một vật thay thế cho phàm ngă. Thế là một dụng cụ để phụng sự trong ba cơi thấp được tạo ra. Tuy nhiên, lần này đó là một dụng cụ không có sự sống, không ham muốn, không tham vọng và không có năng lực tư tưởng của riêng nó. Đó chỉ là một lớp vỏ bằng vật chất, được làm sinh động bằng sự sống linh hồn, nhưng đồng thời, lại đáp ứng với và thích hợp với thời kỳ, chủng tộc và các t́nh trạng chung quanh mà trong đó linh hồn sáng tạo chọn để làm việc. Hăy xem xét kỹ câu nói này và chú trọng các từ “thích hợp với” (“suited to”).
518
Thứ hai: Lúc đó linh hồn tự chuẩn bị cho cuộc điểm đạo thứ tư sắp đến. Về cơ bản đây là một kinh nghiệm của Chân Thần c̣n các kết quả – như bạn biết – trong việc biến mất hoặc là hủy diệt của linh hồn thể và do đó lập một liên giao trực tiếp giữa Chân Thần trên cơi riêng của nó (tức cơi Đại Niết Bàn – ND) với phàm ngă mới được tạo ra, xuyên qua giác
tuyến (antahkarana).
519
Hai
điểm này được trao cho bạn lần đầu tiên trong việc tuần tự đưa ra giáo lư huyền môn; tuy nhiên, các ẩn ngôn chuẩn bị đường lối cho hai sự kiện này. Kiến thức cũng đă
được phổ biến liên quan tới huyễn h́nh (mayavirupa)
qua đó Chân Sư làm việc và tiếp xúc với ba cơi thấp, và Ngài cũng
cân nhắc khi sáng tạo để giúp cho các mục tiêu và các kế hoạch của Ngài. Đó là một thay thế chắc chắn cho phàm ngă và chỉ có thể được tạo ra khi phàm ngă già
dặn (được kiến tạo và phát triển trong khi luân hồi) đă bị loại bỏ. Tôi thích dùng từ “bị loại bỏ” (“eliminated”) hơn là “bị hủy diệt” (“destroyed”). Cấu trúc – Vào thời điểm loại bỏ – vẫn tồn tại, nhưng cuộc sống riêng rẽ của nó đă ra
đi.
Nếu bạn muốn suy tư thấu đáo về phát biểu này, bạn sẽ thấy rằng một hội nhập rất đầy đủ hiện nay có thể xảy ra. Sự sống phàm ngă đă được sát nhập; h́nh tướng của phàm ngă vẫn c̣n bị bỏ lại, nhưng nó c̣n tồn tại mà không có sự sống đích thực nào của chính nó. Điều này có nghĩa là giờ đây nó có thể trở thành nơi nhận năng lượng và lực mà điểm đạo đồ hoặc Chân Sư cần đến để tiến hành công việc cứu độ nhân loại. Các đạo sinh sẽ thấy điều đó có giá trị để nghiên cứu ba “hiện thân của Đức Christ” như đă được ghi trong câu chuyện Phúc Âm:
1. Biến thân biến h́nh (transfigured appearance) của Ngài trên Núi Hiển Biến (Mount of Transfiguration). Giai đoạn đó mô tả một cách tượng trưng linh hồn tỏa chiếu, và cũng mô tả ba thể bị bỏ trống của phàm ngă, và cũng ám chỉ một kiến tạo trong tương lai của một thể biểu lộ. Thánh Peter nói: “Chúa ôi, xin để cho chúng con ở đây tạo nên ba túp lều” hay thánh điện.
2. Biến thân của Ngài dưới h́nh thức chính chân lư (lặng thinh tuy hiện diện) trước vành móng ngựa (bar) hay chỗ xử án của Pilate – bị chối bỏ bởi thế giới con người, nhưng được Thánh Đoàn nhận biết.
3. Các biến thân tỏa chiếu của Ngài sau cuộc điểm đạo phục sinh:
a/ Liên quan tới nữ nhân ở mộ đá – tượng trưng cho sự tiếp xúc của Ngài với Nhân Loại.
b/ Liên quan tới hai đệ tử trên đường đến Emmaus –tượng trưng cho sự tiếp xúc của Ngài với Thánh Đoàn.
c/ Liên quan đến mười hai tông đồ trong thượng pḥng – tượng trưng cho sự tiếp xúc của Ngài với Huyền Linh Nội Điện của Đấng Chưởng Quản Địa Cầu ở Shamballa.
Như vậy có thể thấy bản chất thực sự của các kết quả mà tôi nhắc đến trước kia trong giáo huấn này. Đệ tử nào đă loại bỏ (theo nghĩa chuyên môn, cũng như theo nghĩa huyền bí) sự kiểm soát của phàm ngă, giờ đây đang có “tự do của Huyền Viện”, như người ta gọi; y có thể hoạt động tùy ư trong số các đệ tử và điểm đồ thân hữu của y. Nơi đó sẽ không có ǵ trong rung động sự sống của y hoặc tính chất của y vốn có thể làm xáo trộn sự nhịp nhàng của Huyền Viện; nơi đó sẽ không có ǵ để khơi dậy “sự can dự tĩnh lặng” (“calming intervention”) của Chân Sư, như trường hợp thường xảy ra trong các giai đoạn trước của con đường đệ tử; hiện giờ không ǵ có thể can dự vào các tiếp xúc cao này và các lĩnh vực ảnh hưởng mà từ trước đến giờ đă được niêm phong kín đối với đệ tử v́ sự xâm phạm vào phàm ngă của chính y.
520
521
PHẦN BA
CÁC ĐỊNH LUẬT CHỮA TRỊ CƠ BẢN
Chúng ta đă hoàn tất hai phần xét về thuật trị liệu. Chúng ta đă bàn phớt qua về các nguyên nhân của bệnh tật, và ghi nhận rằng nói chung bệnh tật đều phát xuất từ ba nguồn chính: trạng thái tâm lư của bệnh nhân, nợ nhân quả của y và những ǵ gánh chịu qua mối liên hệ tập thể thuộc chung quanh, thuộc quốc gia hoặc thuộc hành tinh. Kế đó, tôi đă bàn đến vài đ̣i hỏi cơ bản về t́nh huống và thái độ phải được lập nên giữa người chữa trị với bệnh nhân và sau cùng, tôi đă bàn đến vấn đề sự chết. Tôi đă xét khi nó tác động đến ba hiện thể tạm thời, nhấn mạnh đến bản chất thiêng liêng của nó và mục đích kiến tạo của nó. Giờ đây, chúng ta đi đến tiết xét qua về các Định luật chữa trị và các Qui Luật sẽ chi phối tiến tŕnh chữa trị.
522
Chúng ta
đă thấy rằng có mười định luật và
sáu qui luật. Định Luật thứ mười quá bí
hiểm nên không thể giải thích nhiều
được. Nó liên hệ đến nguyên khí sự
sống, mà cho đến nay chúng ta không biết ǵ cả, và
có liên quan đến mục tiêu của Chân Thần. Mọi
giáo huấn huyền môn đều phát xuất trực
tiếp từ Thánh Đoàn, đều chứa trong nó
mầm mống sinh động của những ǵ sẽ
theo sau. Thí dụ như trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, H.P.B.
(dưới chỉ dẫn của tôi) đă thỉnh
thoảng đề cập rất vắn tắt và khó
hiểu đến giác tuyến (antahkarana). Như thế,
bà đă lưu lại một hạt giống, mà khi phát
triển đầy đủ, sẽ chỉ ra nhu cầu
cho những ai – nhờ đạt được
điểm đạo cao – có thể tiến vào Con
Đường Tiến Hóa Cao Siêu. Do đó, trong
định luật thứ mười này, tôi cũng
lồng vào mầm mống cho việc tiếp cận
đến vấn đề Sinh và Tử được
đầy đủ hơn sau này
Ở đây, tôi xin nhắc các bạn rằng thực ra một định luật là hiệu quả của sự sống của một thực thể vĩ đại, khi thực thể ấy chứa đựng bao quanh một thực thể nhỏ hơn trong các tiến tŕnh sinh hoạt của ḿnh. Định luật ấy thể hiện mục đích được đề ra hoặc ư chí đă an bài của một sự sống đang bảo bọc, mà mục tiêu biểu lộ hoặc ư chí đă định của những ǵ được bảo bọc, hoàn toàn bất lực để chống lại. Hỡi huynh đệ, các bạn có thể tranh căi rằng phát biểu này phủ nhận tự do ư chí của từng cá nhân được chứa đựng hay bảo bọc như thế. Chắc chắn phát biểu trên hẳn là phản bác lại khía cạnh h́nh hài của biểu lộ – chẳng hạn khía cạnh mà một con người biết rơ nhất. V́ vậy, liên hệ giữa cái cao hay lớn hơn với cái thấp hay nhỏ hơn chắc chắn cũng sẽ chế ngự và cuối cùng sẽ vô hiệu hóa những định luật thứ yếu của bản chất h́nh tướng, tức những luật mà ngày nay được gọi là các định luật của tạo hóa.
Tuy nhiên, điều cũng thiết yếu là linh hồn bên trong mọi h́nh hài, đang chiến đấu với các h́nh hài này, và trong sự sống toàn vẹn của chính nó, bị chi phối bởi những định luật cao vốn là những định luật của chính bản thể nó. Nó tùy ư tuân theo những định luật này, không hề có một chút mong muốn làm ngược lại. Do đó, không có một vi phạm đáng kể nào đối với tự do ư chí của chủ thể; chỉ có sự đối kháng của cái mà chúng ta gọi là "phi ngă" ("not-self") hay là trạng thái vật chất. Đối kháng này có thể gọi là nguyên nhân căn bản của mọi bệnh tật.
Những ǵ chúng ta gọi là các Định Luật của Thiên Nhiên chính là giai đoạn /phương tiện (phase) cao nhất của sự sống thiêng liêng có thể xảy ra trong thái dương hệ thứ nhất. Ban sơ, chúng là những định luật cố hữu trong khía cạnh sự sống sắc tướng, do đó, trong chúng có sẵn mầm mống của tử vong. Các Định Luật của Linh Hồn, v́ chúng phụ thuộc và làm vô hiệu các Định Luật Thiên Nhiên, chính là các định luật cao nhất mà nhân loại (hiện là giới cao nhất trong thiên nhiên) có thể ứng đáp được, và các luật này – khi trở nên hoàn măn – sẽ kết thúc mục đích của thái dương hệ thứ nh́. Các luật của chính Sự Sống, cuối cùng sẽ thay thế cho các luật của Linh Hồn và sẽ hoàn toàn hóa giải và vô hiệu hóa các Luật Thiên Nhiên, các định luật này sẽ trở thành đặc thù của thái dương hệ thứ ba – tức sự biểu lộ cuối cùng của phàm ngă của Thái Dương Thượng Đế, qua trung gian của bảy vị Hành Tinh Thượng Đế, với các sắc tướng và các biểu lộ linh hồn thay đổi của các Ngài.
523
BA NHÓM ĐỊNH LUẬT
Thế nên, chúng ta có ba nhóm định luật cai quản sự biểu lộ của mục đích sinh hoạt trong thái dương hệ thứ nh́ này – một nhóm th́ đă phát triển xong, một nhóm đang phát triển, nhóm thứ ba c̣n tiềm tàng và tương đối yên lặng.
1. Các Định Luật của Thiên Nhiên – tức các luật riêng biệt của bản chất sắc tướng.
2. Các Định Luật của Linh Hồn – tức các luật hài ḥa đối với sự toàn vẹn tập thể.
3. Các Định Luật của Sự Sống – tức những luật năng động (dynamic laws) của chính Bản Thể.
Giờ đây, chúng ta sẽ bàn đến một vài khía cạnh của các Luật của Linh Hồn, bởi v́ chúng liên quan đến tính toàn vẹn và sự hoạt động của linh hồn trong h́nh hài. Hăy thật thận trọng ghi nhớ điều này. Bệnh tật là những ǵ làm hại sự toàn vẹn hoặc hài ḥa của bản chất h́nh hài mà con người tinh thần bên trong phải dùng để giao tiếp trong ba cơi thấp, tức là môi trường của y khi nhập thế. Do vậy, mười định luật mà chúng ta sẽ nghiên cứu có thể được xem như mười luật phụ của Định Luật Cơ Bản về sự Toàn Vẹn Cốt Yếu. Chúng tạo nên chín chi tiết hay khía cạnh của định luật duy nhất đó; bạn phải ghi nhớ điều này thật cẩn thận. Nhà chữa trị chân chính bao giờ cũng phải vận dụng các luật này.
524
Sáu qui
luật chỉ bàn đến cách áp dụng sự toàn vẹn
được nhận ra cho các t́nh huống và hoàn cảnh
mà người trị liệu phải đối phó. Tính
toàn vẹn cần đến sự tập trung, sự
nhất tâm và sự biểu lộ (được nhận
thức đồng thời được tạo nên
một cách hữu ư và được vận dụng
một cách năng động).
ĐỨC TÍNH CẦN CÓ ĐỐI VỚI NHÀ TRỊ LIỆU
Trong các định luật và qui luật mà tôi truyền đạt, một số đặc tính cần thiết của người trị liệu được nhắc đến và một số đ̣i hỏi cần thiết được nêu ra. Trước hết, chúng ta nên ghi nhận các điều nói trên v́ không những chúng tŕnh bày các đức tính và thái độ vốn thiết yếu cho việc thực hành thành công thuật trị liệu, mà chúng c̣n cho thấy tại sao – đến tận ngày nay – chưa có một bệnh nhân nào được bất cứ một trường phái y học hiện hành nào chữa trị một cách có hệ thống và thành công thực sự. Đă có trường hợp mà tôi có thể gọi là "sự chữa lành t́nh cờ" do sự thực là người bệnh chưa đến lúc phải từ trần, th́ y sẽ được chữa lành bằng cách nào đó. Việc trị liệu có ư thức, cẩn trọng với hiểu biết đầy đủ, chỉ xảy ra khi nhà trị liệu là một điểm đạo đồ cao cấp, mô phỏng theo cách sống và bản chất của Đức Christ.
Bây giờ, chúng ta hăy xem xét kỹ các đức tính và các thái độ đă nêu trên. Tôi sẽ kể ra và giải thích một cách vắn tắt.
1. Quyền năng tiếp xúc và hoạt động với tư cách một linh hồn. "Khéo léo của nhà trị liệu cốt ở chỗ giải tỏa linh hồn". Hăy suy tưởng trong giây lát quyền năng này bao hàm những ǵ. Nhà trị liệu không những có thể tiếp xúc ngay và có ư thức với linh hồn của chính ḿnh, mà c̣n nhờ sự giao tiếp bằng linh hồn đó, y có thể tiếp xúc một cách dễ dàng với linh hồn của bệnh nhân.
525
2. Quyền
năng điều khiển ư chí tinh thần.
Định luật nào đặc biệt liên hệ
đến việc trị liệu phải được
khơi hoạt bằng "ư chí tinh thần".
Điều này tất phải là năng lực tiếp xúc
được với Tam Thượng Thể Tinh Thần.
Cho nên, giác tuyến phải ở trong tiến tŕnh kiến
tạo ít nhiều.
3. Quyền năng thiết lập liên giao bằng viễn cảm. Nhà trị liệu phải "biết được tŕnh độ tư tưởng và ham muốn bên trong" của bệnh nhân.
4. Kẻ chữa trị phải có hiểu biết chính xác. Chúng ta hiểu rằng y phải "biết điểm chính xác qua đó việc giảm bệnh phải đến". Đây là điểm quan trọng nhất và là điểm mà những người được gọi là các nhà trị liệu trong các phong trào như Khoa học Cơ Đốc, Hợp Nhất và các phong trào khác đă hoàn toàn bỏ qua. Việc chữa trị không thể đến bằng sự xác tính mạnh mẽ thiên tính, hay bằng cách chỉ tuôn đổ t́nh thương và biểu lộ một thuyết mơ hồ. Nó chỉ đến nhờ quán triệt khoa học giao tiếp chính xác, với ấn tượng, với thỉnh nguyện cộng thêm việc thông hiểu về bộ máy tinh vi của thể dĩ thái.
5. Quyền năng đảo ngược, tái định hướng và "nâng cao" tâm thức của bệnh nhân. Nhà trị liệu phải "làm cho đôi mắt chăm chú nh́n xuống, ngước lên linh hồn". Đây là mắt của bệnh nhân. Câu này hàm ư sự giới hạn, bởi v́, nếu người bệnh chưa đến tŕnh độ tiến hóa khiến điều đó có thể thực hiện, và chưa tiến hóa đến mức có thể giao tiếp với chính linh hồn ḿnh, th́ việc làm của nhà trị liệu tất nhiên là vô ích. Cho nên phạm vi hoạt động của nhà trị liệu tinh thần chỉ giới hạn trong những bệnh nhân đă có đức tin. Tuy nhiên, đức tin là "bằng chứng của những ǵ chưa thấy được". Bằng chứng đó phần lớn c̣n thiếu trong đa số con người. Đức tin không phải là niềm tin do mơ ước hay là hy vọng được hoạch định. Nó là bằng chứng của một sự xác tín có nền tảng vững chắc.
6. Quyền năng điều khiển năng lượng của linh hồn đến nơi cần thiết. "Bấy giờ, con mắt thứ ba hay là con mắt tâm linh sẽ điều khiển sức mạnh trị liệu". Điều này đ̣i hỏi một kỹ năng khoa học về phần nhà chữa trị và cách hoạt động đúng của bộ máy đối với mănh lực được thu nhận và điều khiển trong đầu.
526
7.
Quyền năng để biểu lộ từ
điện thanh khiết và tia sáng cần thiết.
"Nhà trị liệu phải có từ điện thanh
khiết và có được bức xạ xua tan bệnh
tật". Điều này cần đến nhiều
giới luật cá nhân trong đời sống hằng ngày
và thói quen sống thanh khiết (pure living). Sự thanh
khiết đương nhiên và tự động
được tạo ra trong bức xạ.
8. Quyền năng kiểm soát hoạt động của bộ máy trong đầu. Nhà trị liệu phải "liên kết được các trung tâm lực trong đầu". Nhà trị liệu chân chính đă thiết lập được một từ trường bên trong đầu y. Từ trường ấy tự xuất hiện hay tự biểu lộ qua một bức xạ rơ rệt có thể nhận biết được.
9. Quyền năng vận dụng các bí huyệt của chính y. Nhà trị liệu phải "tập trung năng lượng cần có vào trong bí huyệt đang cần đến”. Bí huyệt trong người bệnh nhân gần nơi có bệnh nhất phải được làm cho tiếp nhận năng lượng được phóng vào nó từ bí huyệt tương ứng trong cơ thể nhà trị liệu. Do đó bạn thấy rơ rằng nhà trị liệu chân chính cần đến biết bao tri thức và khả năng kiểm soát năng lượng.
10. Quyền năng vận dụng các phương pháp trị liệu cả ngoại môn lẫn nội môn. Nhà trị liệu sẽ dùng những "phương pháp trị liệu theo huyền môn, mặc dầu các phương pháp y học thông thường và giải phẫu sẽ không bị bỏ đi". Tôi đă luôn luôn nhấn mạnh đến tính chất thiên phú (God-given nature) của y khoa thực nghiệm – vốn là nhóm từ bổ nghĩa cho y khoa ngày nay và vẫn c̣n bổ nghĩa cho cách chữa trị siêu h́nh nhiều hơn. Không cần nhờ đến nhà trị liệu tinh thần trong trường hợp găy xương hay trong các bệnh mà y học chính thống đă biết cách chữa trị. Tuy nhiên, quyết tâm chung của bệnh nhân và t́nh trạng có thể được trợ giúp một cách thích đáng, trong cuộc giải phẫu sáng suốt và kiến thức y học được cải thiện đều được áp dụng. Điều này, nhà trị liệu siêu h́nh, như thường được gọi, thường không biết. Sau rốt, các nhà trị liệu sẽ được phân thành hai nhóm:
527
a. Các
nhà trị liệu tinh thần lăo luyện.
b. Các nhà trị liệu có quyền năng ít phát triển, nhưng có đủ bức xạ và từ điện để trợ giúp trong quá tŕnh chữa trị thông thường. Những người này sẽ thường hoạt động theo hướng dẫn của nhà trị liệu tinh thần.
11. Quyền năng chữa trị bằng từ điện. "Theo cách này, nhà chữa trị có thể tuôn rải lực chữa trị đầy sinh lực cho bệnh nhân". Nhà trị liệu làm điều này qua việc phối hợp có khoa học khí cụ của ḿnh bằng cách dùng tay làm tác nhân điều khiển. Bằng cách này, bệnh có thể được chữa lành, thuyên giảm hoặc trở nên nặng hơn, thậm chí đến mức tử vong. Do vậy, trách nhiệm của nhà trị liệu thật hệ trọng.
12. Quyền năng chữa trị bằng bức xạ. "Theo cách này, sự có mặt của y đưa vào sức sống linh hồn cho bệnh nhân". Việc này lại được tạo ra nhờ một hệ thống phối kết, nhưng môi giới của bức xạ bấy giờ là hào quang (của nhà trị liệu – ND), chớ không phải là bàn tay.
13. Quyền năng thực hành đầy đủ đức vô tổn hại vào mọi lúc. "Phương pháp được Đấng Hoàn Thiện sử dụng … là đức vô tổn hại" ("harmlessness"). Chúng ta được dạy rằng đức tính này cần đến một biểu lộ thăng bằng tích cực, một quan điểm bao quát và cảm thông thiêng liêng. Có được bao nhiêu nhà trị liệu kết hợp được cả ba đức tính này, cũng như hành động bằng t́nh thương?
528
14. Khả
năng kiềm chế ư muốn và làm việc qua t́nh
thương. "Nhà trị liệu phải kiềm
lại ư muốn của ḿnh". Đây là một trong
những đức tính khó nhất phải phát triển, v́
ư muốn của nhà trị liệu thường quá
mạnh mẽ trong quyết tâm chữa trị, đến
nỗi nó làm cho cố gắng áp dụng tiến tŕnh
trị liệu trở nên hoàn toàn vô hiệu. Theo khía
cạnh trái ngược, thường thường ư
muốn thiên về t́nh cảm và thần bí do xót
thương bệnh nhân, làm vô hiệu mọi nỗ
lực kềm giữ ư chí. Hỡi huynh đệ, hăy
nhớ rằng ư chí tinh thần phải hiện hữu
như một hồ năng lực sâu ẩn sau mọi
sự biểu lộ năng lượng bác ái.
15. Sau cùng là khả năng vận dụng Định Luật Sự Sống. Ít điều có thể nói được về định luật này, v́ nó chỉ có thể được vận dụng bởi những người đă phát triển hoặc đang phát triển nhanh chóng tâm thức của Tam Thượng Thể Tinh Thần – cho đến nay điều này rất ít xảy ra.
Trong khi nghiên cứu các điều kiện cần yếu này, ta không nên năn ḷng. Nghiên cứu đó sẽ giúp đặt mục tiêu cần thiết cho mọi nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới. Nó cũng sẽ giải thích được tại sao các phương pháp trị liệu khác nhau được thực hành ngày nay trên khắp thế giới (đặc biệt là ở các nước Anh Mỹ) từ trước đến giờ đă thất bại rơ rệt, bất chấp các khẳng định của họ. Không một ai trong họ – nếu họ giữ lại các ghi chép được chứng nhận thích đáng, có độ chính xác theo khoa học (thực tế là không có người nào làm chuyện đó) – có thể ghi nhận nhiều hơn số phần trăm tối thiểu, các trường hợp chữa trị dựa vào cách trị liệu tinh thần thuần túy. Tỷ lệ lành bệnh chưa đến một trong một triệu lần "chữa trị". Nếu để tự nhiên hoặc để cho y khoa và khoa giải phẫu thông thường th́ dù sao đi nữa, vào đúng lúc, các cách chữa này cũng giúp cho b́nh phục.
Tuy nhiên, ngày nay, kích thích tinh thần trên thế giới lớn lao, và số người đáp ứng với kích thích đó đông đến nỗi không thể tránh khỏi có một số lớn người trong hàng nhân loại b́nh thường tiến tới trên Con Đường Đệ Tử. Trong năm trăm năm nữa, mức tiến này sẽ cung ứng được nhiều nhà trị liệu, họ sẽ đáp ứng đến mức nào đó các điều cần yếu mà tôi đă liệt kê ở trên.
529
Các
triết lư được các hệ thống khác nhau tán
đồng, như là Phong Trào Hợp Nhất (Unity) và Khoa
Học Công Giáo (Christian Science) đều cơ bản là
hợp lư, chúng đưa ra những nhàm chán cơ bản
(song lại là những chân lư cốt yếu) ẩn
dưới mọi điều tôi đă nói ở trên. Tuy
nhiên, con người không được chữa lành
bằng cách nói ra những điều vô vị, bằng xác
quyết về Thượng Đế, hay bằng việc
tŕnh bày về các lư thuyết trừu tượng. Con
người sẽ được chữa trị khi
đến đúng lúc, v́ năng lực của nhà trị
liệu trong Kỷ Nguyên Mới biểu lộ trong chính y và
trong đời sống hằng ngày của y phẩm
đức của Thượng Đế (the quality of
divinity) để có thể dùng phần tinh thần kêu gọi
linh hồn của bệnh nhân, họ cũng có từ
điện thanh khiết và nhờ mănh lực của
một loại năng lượng đặc biệt phát
ra để kích thích bệnh nhân tự chữa chính ḿnh –
nhờ trung gian của bộ máy bên trong của chính ḿnh.
Nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới sẽ có khả năng tạo các giao tiếp sau đây, vừa dễ dàng, vừa thấu đáo:
1. Với linh hồn của chính y
2. Với linh hồn của bệnh nhân
3. Với loại năng lượng đặc biệt, thuộc về cung linh hồn hoặc cung phàm ngă của bệnh nhân.
4. Với bất cứ bí huyệt nào của chính y, y cần chúng để hoạt động như một phương tiện truyền năng lượng cần được đưa vào một khu vực được chi phối bởi một bí huyệt nào đó trong cơ thể bệnh nhân.
5. Với bí huyệt trong thể dĩ thái của bệnh nhân, bí huyệt này đang kiểm soát khu vực bị bệnh.
Như bạn thấy, khả năng này bao hàm rất nhiều kiến thức chuyên môn. Thêm vào đó, nhà trị liệu cũng phải có cái thấu suốt tinh thần, năng lực này giúp y trực nhận được "karma quan trọng nhất" ("karma of the moment"), nói theo huyền môn, và do thế mà biết được việc chữa trị có thể thực hiện được hay không. Đây là một h́nh thức hiểu biết mà hiện nay, không một nhà trị liệu nào trên thế giới có được, dầu người ta có khẳng định ǵ ǵ đi nữa. Tôi nhắc lại, đây không phải là lư do để nản ḷng.
530
Những
ǵ thực sự cần thiết sẽ được
tạo ra trong nhiều thập niên tới đây, đó là
việc các đệ tử và những kẻ có
định hướng thiêng liêng sẽ bước vào
giới y học. Họ sẽ tự làm hoàn thiện
bằng các kỹ thuật của y khoa chính thống,
bằng các kiến thức công truyền về cơ
thể học của thân xác, về các triệu chứng
bệnh lư, cộng với những phương pháp trị
liệu chính thống và các cách xử lư bệnh tật.
Với kiến thức và hiểu biết chuyên môn này,
họ sẽ đưa thêm vào một phần nào kiến
thức của huyền môn, và trong khi thực hành chức
năng, họ sẽ bắt đầu kết hợp cái
khôn khéo bên ngoài lẫn minh triết của huyền môn mà
họ có được. Lúc đầu, việc làm này
chỉ thuần là thí nghiệm, nhưng nhờ kinh
nghiệm thu được trong việc sử dụng
cả hai lĩnh vực kiến thức mà một nền y
khoa mới sẽ ra đời. Khoa này sẽ căn cứ
vào hai nhân tố tối quan trọng được
thừa nhận:
1. Khối kiến thức và sự hiểu biết về xác thân đă được tích lũy. Nó đă được các nhà khoa học gom góp qua các thời đại, phần lớn là đúng thật và được chứng minh.
2. Hiểu biết luôn luôn tăng lên về bản chất của thể dĩ thái, về các bí huyệt, về cách truyền chuyển và tuần hoàn của một vài năng lượng đă được kiểm soát.
Việc kết hợp hai khía cạnh chân lư này sẽ được thuận lợi rất nhiều nhờ sự nhạy cảm ngày càng tăng và hầu như tri giác nhăn thông của nhân loại đang phát triển. Một trong các kết quả nổi bật của cuộc thế chiến mới đây là một năng lực tăng gia phi thường về phản ứng thần kinh. Hiện nay, tính thụ cảm này của dây thần kinh hăy c̣n bất b́nh thường và có các hậu quả đáng buồn. Lư do là bộ máy thần kinh của một thường nhân (tôi muốn nói hệ thần kinh cộng với các nadis nằm bên dưới) chưa thích hợp với các đ̣i hỏi của nó. Tuy nhiên, thời gian sẽ điều chỉnh mọi việc.
531
Hiện
nay, cả những nhà trị liệu siêu h́nh, lẫn
những nhà y học chính thống đều có khuynh
hướng bác bỏ lẫn nhau rất quyết liệt.
Nói chung, các y sĩ chính thống th́ ít cực đoan và ít
độc đoán hơn các nhà siêu h́nh hiện đại.
Họ biết rất rơ các giới hạn của các thành
quả y học hiện tại. C̣n kẻ được
gọi là nhà trị liệu tinh thần hiện nay không
thừa nhận một sự giới hạn nào cả, và
điều này rơ ràng là một nhược điểm.
Sẽ đến lúc, cả hai nhóm phải trở thành
những người cộng tác với nhau, chứ không
phải là những kẻ đối địch nhau.
Cả hai nhóm đều có nhiều điều cần
học hỏi lẫn nhau, cả hai phải nhận ra
rằng các lănh vực tri thức đặc biệt mà
mỗi nhóm đang ủng hộ/ đại diện,
đều là một biểu lộ thiêng liêng, các nhóm đó
cho thấy năng lực trí tuệ con người là t́m
kiếm, ghi nhận, khám phá và diễn giải chân lư,
để nhờ đó mà những người khác
hưởng được lợi ích.
Tôi muốn nhắc cho bạn chú tâm vào sự thật rằng cả hai nhóm có nhiều việc cần làm, một bên tiến vào lĩnh vực tinh tế và vô h́nh (điều này đang ngày càng được thực hiện nhanh chóng). C̣n nhóm kia th́ phải đi xuống từ cái trừu tượng mơ hồ và cái khái quát không thực tiễn để học cách nhận ra các sự thực liên quan đến ngoại cảnh và hữu h́nh. Điều này, cho đến nay chưa được làm. Cái gọi là trị liệu siêu h́nh đang ch́m trong bóng tối của ngôn từ và những xác nhận rỗng tuếch.
Không ai nghi ngờ sự thành thực của đa số những người thuộc các trường phái tư tưởng này, động cơ thúc đẩy của họ hầu như cũng là thành thực và tốt lành. Trong cả hai nhóm đều có những kẻ bịp bợm, và cũng có một thiểu số – rất ít– những người v́ tư lợi và kẻ lợi dụng sự thiếu hiểu biết của con người. Trong số này, có cả những y sĩ và những nhà siêu h́nh học theo đường hướng thương mại; tuy nhiên, họ thuộc về thiểu số. Nhà sưu khảo thành tâm và kẻ nhân ái trong cả hai nhóm đều sẽ t́m được hy vọng tương lai của y học, đó là y học t́m cách đáp ứng được nhu cầu của nhân loại, một nhân loại đang ngày càng trở nên nhạy cảm và hướng về nội tâm.
532
CHƯƠNG VIII
LIỆT KÊ VÀ ÁP DỤNG CÁC ĐỊNH LUẬT VÀ QUI LUẬT
GHI CHÚ: Một số Qui luật (Rules) có liên hệ với một số Định Luật (Laws) và tôi sẽ xem xét liên hệ chính đáng của chúng. Tôi đă nhờ A. A. B. nêu ra đây 10 định luật, khi có một qui luật liên quan đến một định luật đặc biệt nào – th́ nêu qui luật đó theo với định luật đó. Các qui luật được đánh số trở lại và không theo thứ tự đưa ra trước đây.
ĐỊNH LUẬT I
Mọi bệnh tật đều là hậu quả của sự sống linh hồn bị ức chế. Điều này đúng cho mọi h́nh hài trong mọi giới. Cái khéo léo của nhà trị liệu nằm trong việc tháo gỡ cho linh hồn, sao cho sự sống của linh hồn có thể tuôn chảy qua toàn bộ các cơ quan cấu thành bất luận h́nh hài đặc biệt nào.
ĐỊNH LUẬT II
Bệnh tật là sản phẩm của và thuộc vào ba ảnh hưởng: một là quá khứ của bệnh nhân, trong đó y trả giá cho cái sai lầm cũ; hai là sự kế thừa của y, trong đó y phải chia sớt với toàn thể nhân loại những ḍng năng lượng bị ô nhiễm có nguồn gốc trong tập thể; ba là y phải chia sớt với mọi h́nh hài trong thiên nhiên, những ǵ mà Đấng Chủ Quản Sự Sống đặt để nơi cơ thể Ngài. Ba ảnh hưởng này được gọi là "Định Luật Cổ về Chia Sẻ Điều Ác". Một ngày nào đó, nó sẽ nhường chỗ cho luật mới, là "Định Luật Điều Thiện Cổ Xưa Đang Thống Ngự", định luật này đang nằm sau tất cả những ǵ Thượng Đế đă tạo ra. Định luật này phải nhờ ư chí tinh thần của con người làm cho linh hoạt.
533
QUI LUẬT MỘT
Nhà trị liệu hăy tự luyện tập để biết được giai đoạn bên trong của tư tưởng hoặc ham muốn của người đang t́m trợ giúp của y. Nhờ đó y có thể biết được cội nguồn từ đó bệnh xuất phát. Y hăy liên kết nhân với quả để biết điểm chính xác nhờ đó việc chữa trị sẽ đạt hiệu quả.
ĐỊNH LUẬT III
Bệnh tật là một hậu quả của việc tập trung sơ đẳng năng lượng sự sống của con người. Từ b́nh diện nơi mà các năng lượng này tập trung, diễn tiến các t́nh huống có tính định đoạt, chúng gây nên sức khỏe kém. V́ thế, các t́nh huống này diễn tiến thành bệnh hoặc thoát khỏi bệnh.
ĐỊNH LUẬT IV
Bệnh tật, cả về thể chất lẫn tâm lư, đều có nguồn gốc trong thiện, mỹ và chân. Nó chỉ là một h́nh ảnh méo mó của các tiềm năng thiêng liêng. Linh hồn bị ngăn trở đang t́m cách biểu lộ toàn vẹn tính chất thiêng liêng nào đó, hoặc thực tại tâm linh bên trong, tạo ra trong chất liệu của các thể/lớp vỏ của nó (sheaths), một điểm ma sát. Đôi mắt của phàm ngă tập chú vào điểm này, và việc đó đưa tới bệnh hoạn. Cái khéo của người chữa bệnh có liên quan đến việc làm cho đôi mắt chú mục nh́n xuống, ngước lên linh hồn, tức Người Chữa Trị đích thực trong h́nh hài. Bấy giờ, con mắt tâm linh hay mắt thứ ba mới hướng dẫn sức mạnh trị liệu và mọi sự đều tốt đẹp.
QUI LUẬT HAI
Nhà trị liệu phải đạt được sự thanh khiết về từ điện qua sự tinh khiết của đời sống. Y phải đạt được loại bức xạ xua đi bệnh hoạn. Bức xạ này tự biểu lộ trong người nào đă liên kết được các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này được thành lập, bức xạ này liền phát ra.
ĐỊNH LUẬT V
534
Không có
ǵ khác ngoài năng lượng, v́ Thượng Đế là
Sự Sống. Hai loại năng lượng đáp
ứng trong con người, c̣n năm năng lượng
khác đang hiện hữu. Đối với mỗi
loại năng lượng có một tâm điểm
tiếp xúc. Sự xung khắc của các năng
lượng này với các mănh lực, và sự xung khắc
của giữa chính các mănh lực, tạo nên các bệnh
ở thể xác của con người. Xung khắc
giữa năng lượng thứ nhất và năng
lượng thứ nh́ tồn tại qua nhiều thời
đại, cho đến khi đạt tới tột đỉnh
– đỉnh núi lớn thứ nhất. Trận chiến
giữa các lực tạo nên mọi bệnh tật và
đau đớn trong thể xác, vốn t́m cách giải
tỏa bằng cái chết. Hai, năm như vậy là
bảy, cộng với những ǵ chúng tạo nên, nắm
giữ sự bí mật. Đây là Định Luật
Chữa Trị thứ năm, trong thế giới sắc
tướng.
QUI LUẬT BA
Để cho nhà trị liệu tập trung năng lượng cần thiết trong bí huyệt cần thiết. Để cho bí huyệt đó tương ứng với bí huyệt đang có nhu cầu. Hăy để cho cả hai trở nên đồng bộ và cùng tăng thêm lực. Nhờ thế mà h́nh thể đang chờ chữa trị sẽ được thăng bằng trong hoạt động của nó. Nhờ thế mà hai và một sẽ được chữa trị đúng hướng.
ĐỊNH LUẬT VI
Khi các năng lượng kiến tạo của linh hồn đang linh hoạt trong cơ thể, lúc đó, có được khỏe mạnh, sự tương tác hoàn toàn và hoạt động đúng đắn. Khi những vị kiến tạo là các nguyệt thần (lunar lords) và những ai làm việc dưới sự chi phối của mặt trăng và theo lệnh của phàm ngă, bấy giờ sẽ có bệnh hoạn, sức khỏe kém và tử vong.
ĐỊNH LUẬT VII
Khi sự sống hoặc năng lượng lưu chuyển không bị cản trở và thông qua đúng hướng, đến chỗ phóng hiện của nó (tức là tuyến liên hệ), bấy giờ h́nh hài đáp ứng và sức khỏe kém biến mất.
QUI LUẬT BỐN
Dựa vào các triệu chứng bên ngoài đă biết rơ, việc chẩn đoán bệnh tật thận trọng sẽ được đơn giản hóa đến mức – mà khi đă biết và cô lập được cơ quan liên hệ, th́ bí huyệt trong thể dĩ thái vốn liên quan mật thiết nhất với nó sẽ tùy thuộc vào các phương pháp chữa trị theo huyền môn, mặc dầu các phương pháp cải thiện thông thường như dùng thuốc, hoặc giải phẫu sẽ vẫn được dùng.
ĐỊNH LUẬT VIII
535
Bệnh
tật và tử vong là các kết quả của hai mănh
lực chủ động. Một là ư chí của linh
hồn, lực này bảo với khí cụ của nó: "Ta
thu hồi tinh hoa trở lại". Lực kia là lực
thu hút của sự sống hành tinh. Lực này bảo
với sự sống bên trong cơ cấu nguyên tử:
"Đă đến thời điểm tái hấp thu. Hăy
trở lại cùng ta". Tất cả mọi h́nh hài
đều hoạt động theo luật chu kỳ như
thế.
QUI LUẬT NĂM
Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, trái tim, bộ óc và đôi tay của ḿnh. Nhờ thế, y có thể tuôn ra lực chữa trị linh hoạt vào bệnh nhân. Đấy là công đoạn truyền từ điện. Nó chữa lành bệnh tật hoặc tăng thêm t́nh trạng tệ hại, tùy theo mức hiểu biết của nhà trị liệu.
Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, bộ óc, quả tim và bức xạ của hào quang. Nhờ thế, sự hiện hữu của y có thể đưa vào sức sống linh hồn cho bệnh nhân. Đây là công đoạn phóng quang. Không cần đến bàn tay. Linh hồn hiển lộ quyền năng của nó. Linh hồn của bệnh nhân đáp ứng qua sự đáp ứng của hào quang của y với bức xạ của hào quang người chữa trị, ngập tràn với năng lượng linh hồn.
ĐỊNH LUẬT IX
Hoàn thiện thu hút bất hoàn thiện lên trên mặt. Chính xua tà ra khỏi h́nh hài con người trong thời gian và không gian. Phương pháp đó được Đấng Hoàn Thiện vận dụng và những ǵ được Chính Phái dùng đến là đức vô tổn hại. Đây không phải là tính chất tiêu cực, mà là sự thăng bằng hoàn hảo, một quan điểm đầy đủ và cảm thông thiêng liêng.
QUI LUẬT SÁU
Nhà trị liệu hoặc nhóm trị liệu phải ḱm lại ư chí. Phải sử dụng t́nh thương chứ không phải ư chí.
ĐỊNH LUẬT X
Hỡi đệ tử, hăy lắng nghe tiếng gọi từ Con đi đến Mẹ và rồi hăy vâng theo. Linh từ được ban ra rằng h́nh hài đă đáp ứng mục đích của nó. Bấy giờ nguyên khí trí tuệ tự sắp xếp và rồi lặp lại Linh Từ ấy. H́nh hài đang chờ đợi liền ứng đáp và buông rơi. Linh hồn trở nên tự do.
536
Hỡi
Đấng Giáng Lâm (Rising One) hăy đáp lại tiếng
gọi đến từ lănh vực của thiên trách; hăy
nhận ra tiếng gọi phát ra từ Đạo Viện
hay từ Hội Đồng Huyền Linh; nơi mà chính
Đấng Cai Quản Sự Sống đang chờ.
Diệu Âm được ban ra. Cả linh hồn lẫn
h́nh hài cùng phải từ bỏ nguyên khí sự sống,
nhờ thế giúp Chân Thần được tự do. Linh
hồn đáp lại. Bấy giờ h́nh hài phá vỡ
sự mạch lạc. Giờ đây, sự sống
được tự do, có được tính chất
của sự hiểu biết hữu thức và thành
quả của mọi kinh nghiệm. Đó là những món quà
của linh hồn, kết hợp với h́nh hài.
Ghi chú: Định luật cuối cùng này là sự công bố một luật mới được dùng thay thế cho Luật Tử Vong. Nó chỉ liên quan đến những người đang ở giai đoạn sau của Con Đường Đệ Tử và các giai đoạn trên Con Đường Điểm Đạo.
ÁP DỤNG ĐỊNH LUẬT VÀ QUI LUẬT
Trong vài trang qua, tôi đă tận lực minh giải vấn đề bằng cách nêu lên một số điều thiết yếu của nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới – thậm chí dù có thể làm cho bạn hơi nản ḷng, – và tôi cũng nêu ra một vài giao tiếp mà y sẽ phải thực hiện ngay một cách dễ dàng khi cố gắng chữa trị. Tôi cũng đă lư giải cho bạn bản chất của định luật. Đó là bước đầu để nghiên cứu các định luật mà nhà trị liệu phải tuân theo, và các qui luật mà y sẽ tự động tuân hành theo trực giác. Chúng ta có thể xem xét các định luật và qui luật này liên quan với người chữa trị và cũng liên quan với nhau, v́ một vài qui luật có liên hệ mật thiết với một định luật đang chi phối nhà trị liệu.
Từ việc lư giải định luật như trên, rơ ràng là các bạn sẽ thấy rằng xét cho cùng th́ bệnh tật, tử vong, dối trá, sai trái và thất vọng đều có sẵn trong chính hành tinh, bởi v́ Đức Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta (như tôi đă có nói trong khi giúp H.P.B. viết bộ "Giáo Lư Bí Nhiệm") là "một vị Thượng Đế chưa hoàn thiện" ("imperfect God").
537
Sau
cuộc khủng hoảng lớn của thế giới
hiện tại, gắn liền với Đức Hành Tinh
Thượng Đế chúng ta, khi Ngài tiến tới trên
vũ trụ Đạo (cosmic Path), do đó Ngài đă
nhận một cuộc điểm đạo vũ
trụ, các bất toàn của Ngài giảm đi. Thống
khổ và bệnh tật trên địa cầu sẽ ít
hơn, khi các hiệu chỉnh cần thiết trên hành tinh
được thực hiện. Chính các bạn sẽ không
thấy điều này xảy ra, v́ các điều chỉnh
trên một qui mô lớn như thế cần phải
nhiều thế kỷ để thực thi. Thế nên,
những ǵ tôi nói về cách chữa bệnh trong
tương lai sẽ không có giá trị thực sự trong
một thời gian dài sắp tới, nhưng lư thuyết
và các chỉ dẫn về tiềm năng phải
được xem xét và bàn bạc. Cũng trong một
thời gian dài nữa, thực hành y khoa và kiến thức
về giải phẫu sẽ đóng các vai tṛ hữu ích
trong y học pḥng ngừa, các thực hành làm giảm đau
và các tiến tŕnh chữa trị. Nhiều phương pháp
chữa trị về tâm lư sẽ ngày càng được
thêm vào đó để đi đôi với hai phương
pháp trên. Công việc của các nhà trị liệu tinh
thần cũng sẽ được đưa thêm vào
đó. Bằng cách này, sự tiếp cận toàn diện
với toàn thể con người sẽ dần dần phát
triển, và ngày nay, những y sĩ có suy tư tiến
bộ ở khắp nơi đều nhận ra
được nhu cầu đó. Bằng cách đó và
cũng nhờ phương pháp thử nghiệm và sai
lầm nhiều điều sẽ được học
hỏi.
538
Các
tiến tŕnh trị liệu mà tôi phác họa và nêu ra qua các
định luật và qui luật này đều cơ
bản là mới mẻ. Chúng không dựa vào những
quả quyết, như trong Khoa học Cơ Đốc và
các nhóm trị liệu tâm thần khác. Chúng không
được đặt vào những nguồn đă
được xác nhận và vào những kết quả
đang được xác nhận, bởi v́, những
kết quả này sẽ chỉ có được khi nhân
loại đă đạt đến một tiêu chuẩn
hoàn thiện cao hơn tiêu chuẩn được thấy
hiện nay, hoặc những ǵ có thể phát triển ngay
trước mắt. Như tôi đă nói nhiều lần
trong bộ luận này, về cơ bản, không có ǵ sai
lầm trong các xác nhận đưa ra bởi các nhóm và các
tổ chức liên quan đến người đă
đạt tới chỗ biểu lộ được linh
hồn và tới chỗ nhận thức được tâm
thức Christ. Cái sai lầm là họ cho rằng
người b́nh thường (hiển nhiên là không ở
mức tiến hóa cao đó) lại có thể thực
hiện các chữa trị huyền diệu này hoặc
nơi chính ḿnh hoặc cho kẻ khác. Cho đến nay
rất ít người đạt được tŕnh
độ đó, trong các nhóm và các tổ chức này, nhà
trị liệu làm được điều đó
thật sự c̣n hiếm. Nhà trị liệu trong Kỷ
Nguyên Mới sẽ nhận biết giới hạn, các hoàn
cảnh chi phối, cộng với định mệnh.
Nhận định này đưa tới việc phát
triển bên trong y các năng lực truyền đạt tri
thức. Về mặt tâm linh, y cũng biết rằng
việc chữa trị thể xác không phải luôn luôn là
thích hợp nhất về mặt tinh thần. Sự
đánh giá quá cao và lo lắng băn khoăn nhiều
đến sự sống sắc tướng, đến
xác thân, không nên đặt vào hàng quan trọng chính yếu.
538
Nhà
trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới không hề và sẽ
không làm việc trực tiếp với thân xác bao giờ v́
là nhà huyền bí học, y sẽ không xem thể xác như là
một nguyên khí. Hầu như y hoàn toàn làm việc với
thể dĩ thái và với các sinh năng, để cho các
năng lượng đó tác động vào người máy
của thân xác, theo chủ đích đă định. Bấy
giờ, chúng sẽ tạo nên hiệu quả tùy theo sự
ứng đáp của thân xác đó, nó sẽ bị chi
phối bởi nhiều yếu tố. Được
điều khiển xuyên qua thể dĩ thái của
bệnh nhân, hay phát ra từ thể đó, các năng
lượng này có thể chữa lành nếu số
mệnh của bệnh nhân cho phép, hoặc là, chúng có
thể kích thích khu vực bị bệnh đến mức
cơn bệnh trở nên trầm trọng và bệnh nhân
sẽ qua đời. Điều này thường hay
xảy ra dưới sự chăm sóc của những nhà
trị liệu theo nghi thức, họ không biết
đến các định luật trị liệu, mà các
hoạt động của họ chỉ dựa vào một
sự nhận thức về một vị thần đang
hiện diện (dầu thường là không biểu
hiện).
Trước khi hệ thống mà tôi đưa ra trở nên có hiệu quả, cần có được mức độ nhận thức tâm linh cao siêu và có sự thông hiểu trí tuệ. Tất cả những ǵ mà tôi đă đưa ra, phần lớn đều có tính cách tiên phong, cần nên nhớ điều này.
Bây giờ, chúng ta hăy nghiên cứu định luật Một, nó không có qui luật nào đi kèm hoặc có liên hệ với nó. Bởi v́ nó là một phát biểu cơ bản, nêu ra lư thuyết chính ẩn bên dưới mà nhà trị liệu sẽ làm việc theo đó.
ĐỊNH LUẬT I
Tất cả bệnh tật đều là hậu quả của sự sống linh hồn bị ức chế. Điều này đúng cho mọi h́nh hài trong mọi giới. Cái khéo của nhà trị liệu bao gồm trong việc tháo gỡ linh hồn sao cho sự sống của nó có thể tuôn chảy qua toàn bộ các cơ quan cấu thành bất cứ h́nh hài đặc biệt nào.
539
Định
luật này cho thấy rằng do bởi phàm ngă tam phân không
ở dưới sự kiềm chế của linh hồn
y, cho nên bệnh tật mới có thể hủy diệt y.
V́ lẽ ḍng năng lượng thông suốt tuôn ra từ
linh hồn bị ức chế và giới hạn, nên
bệnh tật mới có thể t́m được chỗ
trong xác thân. Thể xác được cung ứng một
cách thích hợp bằng năng lượng có tính phục
hồi sáng tạo của Chân nhân, tức linh hồn trên cơi
riêng của nó. Khi có ḍng lưu nhập hoàn toàn thông suốt
từ linh hồn đến bảy bí huyệt đem
lại sinh lực, bạn sẽ có sức khỏe hoàn
hảo, mà vị điểm đạo mức thứ
tư mới có được, ngoại trừ y đang
ở trường hợp thanh toán karma giới luật,
thực nghiệm hoặc karma đang phát khởi. Tuy nhiên,
không kể đến các trường hợp trên hoặc
các t́nh trạng của hành tinh, theo qui luật chung, một
điểm đạo đồ cao cấp không cần
đến người trị liệu nào cả, nơi
vị này, không có ǵ cần chữa trị.
Khi đối diện với một bệnh nhân, biết được t́nh trạng bị ức chế mà bệnh của y là bằng chứng, th́ nhà trị liệu phải làm ǵ? Y có làm việc với linh hồn của bệnh nhân đúng theo định luật hay chăng? Y có t́m cách giúp cho linh hồn ấy (trên cơi riêng của nó) ảnh hưởng lên bệnh nhân một cách rơ rệt, có giúp trông nom việc chuyển năng lượng từ linh hồn đến thể trí, từ thể trí đến thể cảm dục, và từ thể cảm dục đến thể dĩ thái hay chăng? Chẳng tí nào cả. Trong những trường hợp bệnh thực sự trầm trọng, t́nh trạng của bệnh nhân thường nặng đến nỗi y không thể đáp ứng cần thiết, hoặc vô t́nh hoặc cố ư, với các chăm sóc tận t́nh như thế của nhà trị liệu. Bất cứ nỗ lực tinh thần nào cũng hoàn toàn vượt quá khả năng của người bệnh, cho nên y không thể hợp tác với cố gắng của linh hồn y để truyền chuyển năng lượng. Hoạt động của thể cảm dục của y thường được tập trung vào việc đưa ra ước muốn lớn lao, ấy là sống và khỏi bệnh, trừ khi cơn bệnh nguy kịch đến mức bệnh nhân bước vào giai đoạn chỉ c̣n phó mặc và ư-chí-muốn-sống đang nhanh chóng rời khỏi y. Thêm vào các khó khăn đó, c̣n có sự kiện là rất ít người hoàn toàn hội nhập đến mức họ có thể hoạt động như phàm nhơn toàn vẹn khi ứng đáp với kích thích của linh hồn. Họ thường hay trụ vào một trong ba hạ thể của họ và sự thực đó lại đưa tới một t́nh trạng hạn chế mạnh mẽ cho nhà trị liệu. Hơn nữa rất thường khi người bệnh quá bận tâm đến sự khó chịu và đau đớn trong nhục thân, đến nỗi các ấn tượng cao siêu vốn dĩ có thể đến từ thể trí hoặc linh hồn thể lại hoàn toàn không đến được. Lúc đó nhà trị liệu lăo luyện và hiểu biết phải làm ǵ?
540
Trước
hết, y phải biết rằng thể dĩ thái là nhân
tố quan trọng nhất và là hiện thể chính mà y
phải xử lư. Do đó, y nên tập trung vào thể
năng lượng đó. Điều này có liên can
đến việc cần biết một số sự
kiện, lúc đó mới tạo được một
số điểm tiếp xúc hữu ích và có hiệu
quả.
Sự kiện đầu tiên cần phải xác định là mănh lực mà linh hồn đă nắm giữ và vẫn c̣n nắm giữ phàm ngă của nó. Nhà trị liệu biết rằng v́ người bệnh vẫn c̣n sống, nên dứt khoát là linh hồn vẫn hiện hữu qua trung gian của bí huyệt đầu và bí huyệt tim của thể dĩ thái, nhờ vậy giữ chặt cả nguyên khí tâm thức lẫn nguyên khí sự sống. Nếu người bệnh bị hôn mê, th́ trong một số trường hợp, các khó khăn của nhà trị liệu tăng lên rất nhiều, dầu rằng trong một số trường hợp khác lại giảm đi. Nếu trong thể sinh lực, nguyên khí ư thức bị rút ra khỏi bí huyệt đầu, th́ lúc đó nhà trị liệu biết rằng cái chết có thể đến bất ngờ, và trong trường hợp này, cách hành xử của y rơ ràng hơn nhiều, đặc biệt là khi ở tim, ánh sáng của sự sống lu mờ đi. Nếu ư thức của bệnh nhân c̣n hiện hữu mạnh mẽ, y biết rằng vẫn c̣n có thể chữa trị, bấy giờ, với niềm tin vững chắc hơn, y có thể tiến hành những việc phải làm. Nói như thế là tôi đang đề cập đến người b́nh thường. Trong trường hợp các điểm đạo đồ, th́ có hơi khác, bởi v́ họ thường vẫn hoàn toàn tỉnh táo trong suốt diễn tŕnh chết.
541
Cho nên,
bạn sẽ hiểu được nhu cầu cơ
bản của nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới là
phải hoặc là có nhăn thông hoặc là –tốt hơn – có
tri giác đích thực với tính chất không sai lầm
của nó. Việc đầu tiên của y là khảo sát hay
là "quan sát theo huyền linh học" thể dĩ thái
của bệnh nhân, nhờ thế đạt
được hiểu biết sau đây:
1. Mănh lực mà linh hồn đặt ảnh hưởng lên thể dĩ thái của nó. Điều này được chỉ rơ nhờ điểm ánh sáng trong bí huyệt đầu và khu vực mà nó soi sáng.
2. T́nh trạng của bí huyệt dĩ thái đang chi phối hay cai quản khu vực có bệnh ở thể xác.
3. Liên hệ của các bí huyệt trên cách mô với các bí huyệt ở dưới, bởi v́ điều này sẽ đem cho y chỉ dẫn chung về mức tiến hóa của người cần được chữa trị.
Nhờ xác định được các điểm này bằng hết khả năng ḿnh, sau đó, theo đúng định luật về "sự sống linh hồn bị ức chế", nhờ năng lực của chính linh hồn ḿnh (hoạt động trên các phân cảnh cao của cơi trí và qua bí huyệt đầu của y), y t́m cách kích thích điểm của sự sống linh hồn trong thể dĩ thái của bệnh nhân. Nếu có thể, y sẽ làm điều đó với ư định thu hút một ḍng lưu nhập sung măn của năng lượng linh hồn bệnh nhân vào bí huyệt đầu, để cho sinh mệnh tuyến (life thread) có thể đưa nguồn sinh lực sung măn đến bí huyệt tim. Bằng cách này, "mạch sống" của chính bệnh nhân sẽ mang lại việc chữa trị mong muốn. Theo bề ngoài, y sẽ được chữa trị bằng bản chất của chính y, hay là bằng cách tự nhiên và b́nh thường của sức sống thích hợp, nhờ thế mà xua đi cơn bệnh.
Thế nên, khi nhà trị liệu nhận thức được và làm việc theo định luật này, các điểm giao tiếp sau đây nên được nhận biết và vận dụng:
1. Linh hồn của bệnh nhân được buộc chặt vào thể dĩ thái của người ấy.
542
2. Linh
hồn của nhà trị liệu, bận với việc kích
thích điểm tiếp xúc ấy của linh hồn, qua tam
giác năng lượng sau đây:
Tam giác này liên kết thể sinh lực của nhà trị liệu với thể sinh lực của bệnh nhân, xuyên qua cả bí huyệt đầu lẫn bí huyệt tim của bệnh nhân, v́ nguyên khí sự sống được hội tụ ở đó, có liên quan chặt chẽ và chịu ảnh hưởng của bất cứ điều ǵ xảy ra.
3. Khi tam giác năng lượng này hoạt động suôn sẻ và mức độ đáp ứng đến từ bí huyệt đầu của bệnh nhân, khơi hoạt sự giao tiếp với linh hồn nhiều hơn và kết quả là tạo ra ḍng lưu nhập của năng lượng linh hồn vào bí huyệt đầu, rồi từ đó đến bí huyệt tim, kế đó – bằng tác động của ư chí và vận dụng thần chú cầu đảo– nhà trị liệu sẽ t́m cách vận dụng ḍng sinh lực ngày càng tăng này, qua bí huyệt tim, đến nơi bị bệnh, dùng bí huyệt đang chi phối vùng bị bệnh đó trong thể xác, bất luận bí huyệt đó là ǵ. Việc này phải được làm với mức thận trọng tối đa, để cho ḍng chảy không quá đột ngột, để khỏi v́ thế mà có hiệu quả hủy diệt. Trong trường hợp bệnh tim th́ phải đặc biệt thận trọng. Thí dụ như chứng tắc mạch (embolism) có thể gây tử vong, thường là do bệnh nhân biểu lộ ư-chí-muốn-sống (will-to-live) mănh liệt, gây nên một ḍng lưu nhập tràn ngập của nguyên khí sự sống. Ḍng này tác động vào tim quá đột ngột, làm ḍng máu vận chuyển đột ngột, thế là gây tắc mạch, gây ra tử vong. Tôi nói đến vấn đề này bằng các thuật ngữ hoàn toàn thiếu chuyên môn, tạo dịp cho những người chuyên chỉ trích. Tuy nhiên tôi làm thế để chuyển cho độc giả không chuyên nghiệp, một ư tưởng tổng quát về các nguy cơ có liên quan, nhờ thế, giúp cho kẻ quá nhiệt tâm phải thận trọng.
543
Định
luật này gói ghém một số tiền đề cơ
bản và có ít điều mà tôi có thể nói ra một cách có
lợi v́ các ẩn ư của nó. Nhiều điều sẽ
học được bằng cách chấp nhận các
tiền đề này và vạch ra các ẩn ư của chúng.
Những ǵ tôi đă nói c̣n rất ít so với những ǵ tôi
có thể nói, nhưng ở đây, tôi đă trao cho
người nghiên cứu một hiểu biết đơn
giản và đầy đủ về một vài ư niệm
thiết yếu và cơ bản. Bây giờ chúng ta chuyển
qua xem xét định luật thứ hai và qui luật
một.
ĐỊNH LUẬT II
Bệnh tật là sản phẩm của và phụ thuộc vào ba ảnh hưởng: một là quá khứ của bệnh nhân, trong đó y trả giá cho sai lầm đă qua; hai là sự kế thừa của y, trong đó y chia phần với toàn thể nhân loại các ḍng năng lượng ô nhiễm có nguồn gốc tập thể; ba là y chia phần với mọi h́nh hài trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chưởng Quản Sự Sống đặt nơi cơ thể Ngài. Ba ảnh hưởng này được gọi là "Định luật Xưa về Phân Chia Điều Ác". Một ngày nào đó, nó sẽ nhường chỗ cho luật mới là "Định Luật Điều Thiện Thống Ngự", luật này nằm sau mọi tạo vật của Thượng Đế. Định luật này phải được ư chí tinh thần của con người làm cho linh hoạt.
Các phát biểu của định luật này bao quát nhất và thực ra, nó là tổng hợp của hai định luật, một định luật hiện đang chế ngự, c̣n luật kia, sau rốt sẽ chế ngự. Với mục đích minh giải và v́ nhiều người thường đọc một cách khinh suất, chúng ta hăy chia định luật này thành nhiều phát biểu khác nhau, để nhờ thế mà có được ư tưởng rơ ràng hơn về các ẩn ư của chúng:
1. Bệnh tật là sản phẩm của và phụ thuộc vào ba ảnh hưởng:
544
a. Quá
khứ của bệnh nhân, trong đó y trả giá cho sai
lầm đă qua.
b. Sự kế thừa của y, trong đó y chia phần với toàn thể nhân loại các ḍng năng lượng ô nhiễm có nguồn gốc tập thể.
c. Y chia phần với mọi h́nh hài trong thiên nhiên những ǵ mà Đấng Chưởng Quản Sự Sống đặt nơi cơ thể Ngài.
2. Ba loại năng lượng này được gọi là "Định luật xưa về việc chia điều ác".
3. "Định luật về Điều Thiện cổ xưa đang chế ngự" vốn nằm đàng sau mọi tạo vật của Thượng Đế.
4. Một ngày nào đó Định luật này sẽ thay thế cho "Định luật xưa về việc phân chia điều ác".
5. Nó sẽ được ư chí tinh thần của con người làm cho linh hoạt.
Định luật này đưa một người biết suy tư trở lại định luật karma căn bản, mà như bạn biết, không có việc trốn tránh. Nhà trị liệu hiện nay trong các nhóm và các tổ chức trị liệu đều coi nhẹ luật này. Chúng ta đă bàn đến ảnh hưởng và các nguyên nhân làm cho dễ mắc bệnh, v́ vậy không cần bổ sung thêm ở đây, trừ việc lưu ư rằng một trong những điều hữu ích nhất mà người bệnh và nhà chữa trị cần ghi nhớ, là loại bệnh tật có nguồn gốc ở quá khứ (quá khứ của một nhóm hoặc quá khứ một cá nhân) và nói cho cùng, có thể đó là một cách có lợi để thanh toán những món nợ xưa. Hiểu biết này giúp cho bệnh nhân có được một thái độ xây dựng sẵn sàng chấp nhận – đó không phải là một sự chấp nhận đưa đến không hành động, mà là một chấp nhận vốn tạo nên một ư thức trách nhiệm cho hành động đúng. Hành động đúng này sẽ đưa đến, hoặc là việc thanh toán đủ h́nh phạt qua tiến tŕnh chết mà ai cũng biết, hoặc là đưa tới những bước thành công dễ dẫn đến mạnh khỏe. Trong trường hợp nhà trị liệu, việc đó sẽ dẫn đến nhận thức về những mănh lực đang tác động qua bệnh nhân và sẵn sàng cho số mệnh được an bài phải xảy ra. Trong cả hai trường hợp, sự âu lo bồn chồn thường có sẽ không xen vào giữa ư định của nhà trị liệu và bệnh nhân, để có thể ngăn cản những diễn biến tốt đẹp.
545
Việc
quan trọng thứ nh́ mà bệnh nhân cần nhớ,
nếu t́nh trạng bệnh của y cho phép, đó là
những ǵ mà y đang chịu đựng là vận
mệnh và số phận của nhiều người,
chứ không phải một ḿnh y. Cách hành xử đúng
đối với sức khỏe kém là một nhân tố
chính để đánh đổ sự chia rẽ, ư
thức cô đơn và cô lập. Đó là lư do cho thấy
tại sao các hậu quả của sức khỏe kém, khi
được vận dụng đúng vị dịu
ngọt của tính khí và mở rộng được
thiện cảm. Thường th́ phải rất khó khăn
mới học được sự chia sẻ và ư thức
san sớt chung – đó lại là định luật.
Trong định luật này, chúng ta có được đầu mối của những ǵ mà sau rốt sẽ quét sạch bệnh tật ra khỏi địa cầu. Tôi xin nói đến nó thật đơn giản. Khi đa số cư dân trên địa cầu mau chóng hướng về sự lành thiện, về lẽ công chính, như Thánh Kinh diễn tả và khi phần lớn nhân loại hướng về thiện chí (biểu lộ chính thứ nh́ của ảnh hưởng và sự tiếp xúc với linh hồn trong kiếp sống của cá nhân và trong cuộc sống của nhân loại – biểu lộ thứ nhất là ư thức trách nhiệm), bấy giờ, sức khỏe kém sẽ vẫn c̣n, cho dù chỉ từ từ tan biến và cuối cùng không c̣n tồn tại nữa. Từ từ, rất từ từ, việc này đă xảy ra – chưa đến mức làm bệnh tật tan biến, nhưng nó đang mang lại một định hướng đúng hơn. Những ǵ thật sự có ư nghĩa đó là vận hà giao tiếp giữa cá nhân với linh hồn y và linh hồn nhân loại đang trở nên trực tiếp hơn và không bị cản trở. Sự chỉnh hợp đang diễn ra. Cho nên, một lần nữa, bạn có thể thấy lư do tầm quan trọng trong đời sống của nhà trị liệu, đó là phải chú trọng vào sự giao tiếp và chỉnh hợp, và đó là lư do có rất ít người thành công. Chỉ có ít nếu không nói là không có một giao tiếp nào trong số các nhà trị liệu ngày nay, và ít người hiểu biết trực tiếp về sự cần thiết, và không có một hiểu biết thực sự nào về các kỹ thuật cần noi theo.
546
Hiểu
được điểm quan trọng này thật là sáng
suốt, v́ nó làm tiêu tan nỗi thất vọng. Trong giai
đoạn trước mắt mở ra Kỷ Nguyên
Mới, bệnh tật sẽ không đột nhiên tan
biến như có phép lạ. Nếu xảy ra điều
đó, tức là hàm ư rằng luật karma không c̣n kiềm
chế nữa, và đây không là trường hợp này.
Câu cuối cùng của định luật thứ hai này, mang lại chỉ dẫn căn bản về chu kỳ thời gian: Định luật Điều Thiện Thống Ngự sẽ được ư chí tinh thần của con người khơi hoạt. Điều này hàm ư ǵ? Nó có nghĩa là chỉ khi nào đa số nhân loại thực sự ở dưới sự chế ngự của Tam Thượng Thế Tinh Thần, đă kiến tạo được giác tuyến, và nhờ đó có thể vận dụng được ư chí tinh thần, lúc đó bệnh tật mới có thể bị xua tan và chỉ c̣n điều thiện chế ngự. Dĩ nhiên, đó sẽ là một tiến tŕnh tiệm tiến và trong những giai đoạn đầu hầu như không thể nhận thấy được. Lần nữa, tại sao xảy ra điều này? Bởi v́ sai trái, tội lỗi và bệnh tật chính là kết quả của đại tà thuyết chia rẽ, và v́ thù hận chứ không phải t́nh thương đang chế ngự. Đừng quên rằng người nào không yêu thương huynh đệ ḿnh, th́ đó là kẻ sát nhân – bởi v́ sát nhân bao giờ cũng là biểu tượng của thù hận. Cho đến nay, ư thức về tính đại đồng và tính đồng nhất hóa với vạn vật vẫn chưa có, ngoại trừ nơi những đệ tử tiến hóa và các điểm đạo đồ. Không nên lầm lẫn ư thức quần thể và sự biểu lộ bản năng hợp đoàn với ư thức về Tính Đơn Nhất, tính chất này đánh dấu con người định hướng đúng. Trong Kỷ Nguyên Mới giáo huấn về giác tuyến và sự cấu tạo của con người, chính yếu là đứng trên khía cạnh "ba thể theo chu kỳ" ("three periodical bodies") chứ không theo khía cạnh của phàm nhơn tam phân, đặc biệt là trong các trường cao cấp. Nhờ thế việc đặt một nền tảng vững chắc cho các trường bí giáo sẽ từ từ xuất hiện. Nhờ đó một triển vọng mới mẻ đối với nhân loại sẽ được đạt đến. Bản chất của ư chí tinh thần sẽ được giảng dạy tương phản với bản chất của ư chí vị kỷ của phàm nhân. Nhờ phương pháp đó mà những mănh lực mới mẻ, phi thường sẽ được giải khai (released) một cách an toàn vào đời sống hằng ngày.
547
Cho
đến giờ, ngay cả các đệ tử, vẫn
ít hiểu biết đến quyền năng siêu việt
về ư chí của Tam Thượng Thể. Ở đây, có thể
khẳng định rằng những nhà trị liệu nào
có được tâm thức của Tam Thượng Thể
và có thể vận dụng được mănh lực
của sự sống và ư chí của Chân Thần, qua Tam
Thượng Thể Tinh Thần, luôn luôn sẽ là nhà
trị liệu thành công. Họ sẽ không c̣n tạo
một lỗi lầm nào, v́ họ sẽ có tri thức tinh
thần xác thực. Tri thức này sẽ giúp họ biết
về năng lực chữa trị, nhờ sử
dụng ư chí mà bấy giờ họ có thể làm việc
một cách an toàn và với sức mạnh ở bí huyệt
đầu của bệnh nhân. Tất nhiên là họ sẽ
giới hạn các sức mạnh chữa trị của
họ vào những người sinh hoạt tập trung
ở bí huyệt đầu. Họ sẽ kích thích linh
hồn được giữ chặt ở đó, vào
hoạt động hữu hiệu, như vậy thúc
đẩy việc chữa trị bằng chân ngă.
Từ mọi điều nói trên, bạn sẽ nhận thấy rằng khi được xem xét cẩn thận, th́ các định luật này tương đối đơn giản biết bao và chúng liên hệ với nhau một cách tuyệt vời biết bao. Quán triệt và thấu hiểu được một định luật, th́ dễ dàng hiểu được định luật kế tiếp.
548
Đừng
quên rằng bí huyệt đầu là bí huyệt mà ư chí
hoạt động qua đó. Và nhớ được
điều này, bạn sẽ liên kết được
kiến thức có được về Định
Luật I mà tôi đă trao cho bạn trong phần đầu
của giáo huấn này, với những ǵ tôi đă
đưa ra cho bạn ở đây. Nếu những ai t́m
cách chữa trị bằng tinh thần, ra sức nghiên
cứu kỹ các định luật này, và nếu nhà
trị liệu cố gắng sống đúng theo các qui
luật, th́ một mô h́nh rơ rệt về trị liệu và
một kỹ thuật đang xuất hiện sẽ h́nh
thành trong trí y giúp tăng hiệu quả của việc
phụng sự rất nhiều. Bạn cũng sẽ ghi
nhận rằng, tôi không đưa ra các qui luật và
định luật liên quan đến các bệnh
đặc biệt. Tôi ngại việc này sẽ gây
thất vọng lớn cho nhiều phụng sự viên
nhiệt thành nhất. Họ rất muốn tôi nêu ra
những ǵ cần làm, thí dụ như để trị ung
thư gan hoặc sưng phổi, hoặc loét dạ dày,
hoặc là những h́nh thái của bệnh tim. Tôi không
định làm điều đó. Công việc của tôi c̣n
có tính cách cơ bản hơn thế. Tôi quan tâm đến
các nguyên nhân và quan tâm trước nhất đến thể
dĩ thái, với vai tṛ là nơi phân phối năng
lượng, hoặc là nơi giữ lại các năng
lượng này khi được biến đổi thành
lực; tôi bàn đến trạng thái tâm thức của nhà
trị liệu, đến những lư thuyết mà y nên tuân
theo; đến hiểu biết của y về sự
tương quan của linh hồn với các hiện
thể biểu lộ của nó (đặc biệt là
với thể sinh lực, trong trường hợp trị
liệu); và bàn đến hành động chi phối
của các bí huyệt nằm trong mỗi vùng của cơ
thể, hoặc phân phối năng lượng một cách
thông suốt và duy tŕ thể xác ở t́nh trạng khỏe
mạnh, hoặc – v́ kém phát triển và hoạt động
bị ngăn trở – gây ra những t́nh trạng mà khi
đó bệnh tật có thể xảy ra.
Cho nên, các bạn có thể thấy rằng tiến tŕnh chữa trị được đơn giản hóa đến mức nào khi chúng ta nhận ra được các nguyên nhân và hiểu rằng chúng có trách nhiệm cho hoạt động của xác thân ở ngoại giới. Nhà trị liệu phải luôn luôn nhớ tŕnh tự sau đây của các sự kiện:
1. Sự kiện về việc linh hồn đang tác động thông qua
2. Thể trí và thể cảm dục, các năng lượng mà chúng chi phối.
3. Thể dĩ thái, một xoáy năng lượng (a vortex of energies) được hội tụ nhờ nhiều bí huyệt cả chính lẫn phụ.
4. Bảy bí huyệt chính chi phối những vùng nhất định trong thân thể, xuyên qua
a. Các nadis (tuyến năng lượng, tuyến lực)
b. Các dây thần kinh
c. Hệ thống tuyến nội tiết (endocrine system)
d. Ḍng máu (blood stream)
Bốn nhóm gồm các trạng thái được qui định này của con người có liên quan đến sự sống và tâm thức hay là hai trạng thái chính của linh hồn khi nó đang biểu lộ trên cơi trần.
549
Tất
nhiên là cho đến nay, y học chính thống đă
giới hạn vào các triệu chứng bên ngoài và nguyên nhân
hiển lộ gần nhất của chúng, do đó giới
hạn vào các hậu quả chứ không phải vào các nguyên
nhân thực sự. Cách chữa trị mà tôi quan tâm
đến được hướng vào việc tái-
tổ-chức và làm sinh động lại thể dĩ
thái, với chủ đích nhận phía sau các chỉ dẫn
ở h́nh hài bên ngoài, các t́nh huống sai lầm đối
với thể năng lượng đó mà – nếu vận
hành chính xác và ở trong t́nh trạng chỉnh hợp
đúng – sẽ duy tŕ xác thân ở t́nh trạng hoàn hảo
và giữ nó khỏi bệnh. V́ thế trị liệu trong
Kỷ Nguyên Mới cần có kiến thức cơ bản
hơn và ít chi tiết hơn. Y đối phó với các khu
vực chớ không đối phó với các cơ quan. Y quan
tâm đến các năng lượng và các điểm phân
phối chúng, chứ không bận tâm đến các chi
tiết của thể xác, đến cấu trúc của các
cơ quan và sự hoạt động sai lạc của
chúng. Y sẽ xử lư với bảy bí huyệt trong
thể dĩ thái, với các nadis mà (không kể đến
sự phát xạ) nhờ đó chúng tác động
đến và kích thích hệ thần kinh. Y sẽ theo dơi
cẩn thận hệ thần kinh và ḍng máu, mà các bí
huyệt tác động qua cách phát xạ lên trên và qua các kích
thích tố nằm nơi đó. Tuy nhiên, điều chính
yếu của mọi công việc của y sẽ là
việc phân phối có định hướng và tâm
điểm chú ư của y sẽ là các vận hà trong việc
phân phối này – tức là toàn thể hệ thống các bí
huyệt dĩ thái.
550
Tôi xin
các bạn hăy suy tính đến mọi thông tin này với
sự thận trọng cần mẫn. Nói theo huyền bí
học th́ ch́a khóa để có được sức
khỏe tráng kiện là sự chia sớt hay phân
phối, cũng như đó là điều cốt
yếu cho sự sung măn chung của nhân loại. Các bệnh
liên quan đến kinh tế của nhân loại lại
tương ứng chặt chẽ với cá nhân. Thiếu
sự lưu thông thông suốt các nhu yếu của
đời sống đến các điểm phân phối,
nên các điểm phân phối này trở thành vô tích sự.
Hướng phân phối có khuyết điểm, và chỉ
khi nào nhờ sự hiểu biết sáng suốt ở
khắp thế giới về nguyên tắc chia sớt
của Kỷ Nguyên Mới, th́ chừng đó các căn
bệnh của nhân loại mới được chữa
lành. Chỉ nhờ việc phân phối năng
lượng thích hợp mà các bệnh thuộc thể xác
của riêng từng người cũng được
chữa lành. Đó là một nền tảng (tôi muốn
nói nguyên tắc căn bản) của toàn bộ việc
trị liệu tinh thần. Xét cho cùng, cũng chính nguyên
tắc này bao hàm một nhận thức rốt ráo và khoa
học về thể dĩ thái của hành tinh, và tất
nhiên là thể dĩ thái của con người.
Bây giờ, chúng ta xem xét đến qui luật một.
QUI LUẬT MỘT
Nhà trị liệu nên tự luyện tập để biết được diễn tiến bên trong của tư tưởng hoặc của ước muốn của người đang nhờ y giúp đỡ. Nhờ đó mà y có thể biết được cội nguồn từ đó bệnh phát xuất. Y hăy liên kết nhân và quả để biết được điểm chính xác nhờ đó làm giảm đi cơn bệnh.
Điều hiển nhiên là qui luật thứ nhất mà nhà trị liệu phải quán triệt tất phải là quan trọng. Các hàm ư của nó thật là cơ bản và thiết yếu, nếu muốn cho việc chữa trị có hiệu quả, hoặc là nếu nhà trị liệu không muốn phí th́ giờ để cố làm điều không thể làm. Có bốn huấn thị trong qui luật này:
1. Nhà trị liệu phải tự luyện tập để biết xem liệu người bệnh tập trung vào trí tuệ hay vào t́nh cảm.
2. Thế nên y có thể và phải xác định nền tảng tâm lư xáo trộn đang xảy ra.
3. Nhờ nhận ra được nguyên nhân ở dưới, bấy giờ y sẽ có thể xác định được vị trí của hiệu quả (tức chỗ bị bệnh).
4. Điều này sẽ giúp y biết được
a. Vùng bị ảnh hưởng
b. Bí huyệt trong thể dĩ thái đang chi phối vùng đó.
551
Các
bạn cũng sẽ hiểu được lư do tôi
bắt đầu phân tích bệnh tật và trị liệu
bằng cách tŕnh bày các nguyên nhân tâm lư. Qui luật thứ
nhất này có liên quan đến toàn bộ đoạn
đó của giáo huấn, và như các bạn có thể
thấy, nó vô cùng thực dụng.
Khi biết được mức an trụ của phàm ngă, th́ hai sự kiện chính xuất hiện: Điểm tiếp cận sẽ hoặc là qua bí huyệt đầu hoặc qua bí huyệt tim, nếu bệnh nhân tiến hóa cao, giả sử rằng nhà trị liệu có thể được cho là nhận biết điều đó do các chỉ dẫn về tánh t́nh và tính hiệu quả của cuộc sống bệnh nhân. Hoặc là sự tiếp cận có thể xảy ra qua bí huyệt cổ họng hoặc đan điền nếu bệnh nhân là một người thường và người tiến hóa trung b́nh. Nếu là người hoàn toàn chưa tiến hóa và ở tŕnh độ tương đối thấp, th́ điểm chính xác nhờ đó bệnh sẽ thuyên giảm là huyệt đan điền hoặc huyệt xương cùng. Điều lư thú cần ghi nhận là khi một người có tŕnh độ tiến hóa thấp đến nỗi muốn đến được thể dĩ thái phải qua huyệt xương cùng, th́ thường là y hết sức dễ chữa trị và sẽ ứng đáp mau chóng hơn với cái thường được gọi là "vận dụng thể dĩ thái" hơn sự đáp ứng của các hạng người khác. Lư do duy nhất của việc này là trí óc và t́nh cảm của y không gây trở ngại thực sự nào, và mọi năng lượng đang có đều có thể được hướng đến vùng bị bệnh mà không bị ngăn trở.
552
Nếu
nhà trị liệu có nhăn thông, y có thể dễ dàng xác
định được điểm đi vào của các
mănh lực chữa trị, bởi v́ lúc đó "ánh sáng
nhập vào" sẽ chói rạng nhất, ánh sáng của
chính bí huyệt đó sẽ truyền đạt thông tin
cần thiết. Nếu y là một nhà trị liệu
rất tiến hóa, y sẽ không dùng bất cứ h́nh
thức nào của tri giác tâm linh mà sẽ phản ứng
ngay khi tiếp xúc với một ấn tượng
đến từ bệnh nhân, mạnh đến nỗi nó
không thể bị phủ nhận và có lẽ hoàn toàn chính
xác và đáng tin cậy. Tuy nhiên, phải nhớ rằng
cũng bởi tính cách toàn vẹn của linh hồn con
người và cũng do sự kiện mỗi linh hồn
có bản chất riêng là một Đức Thầy, cho nên
luôn luôn sẽ có một tí sai lầm liên quan đến nhà
trị liệu, cho dầu y là một nhà trị liệu
được điểm đạo. Hiển nhiên
đối với y có một điểm mà con người
tinh thần (mà bệnh nhân chỉ là một phản ảnh
của nó) đang chế ngự – ngoại trừ với
tư cách một linh hồn có cùng căn bản với linh
hồn của bệnh nhân – th́ y không thể và không dám
đi xa hơn. Thí dụ như, có những t́nh trạng mà
một đệ tử tiến hóa hoặc một
điểm đạo đồ cấp cao (v́ mục
đích định rơ nên để trống xác thân của
ḿnh) có thể đang để cho những mănh lực
của tan ră, của giới hạn và của hủy
diệt, triệt hạ và hủy diệt h́nh hài vật
chất bên ngoài của y. Khi xảy ra trường hợp
đó, nhà trị liệu có thể không biết
được định ư đó, tuy nhiên, y sẽ
biết được sự đối kháng và sẽ
bị buộc phải đ́nh chỉ các cố gắng
chữa trị của ḿnh.
Khi bệnh nhân là mẫu người thuần túy trí năng, việc tiếp cận với tiến tŕnh trị liệu phải thông qua một bí huyệt cao hơn, tức bí huyệt đầu, th́ nhà trị liệu nên khôn ngoan để có được sự hợp tác hữu ư của bệnh nhân, sao cho hai ư chí của họ sẽ hoạt động hợp nhất. Điều này sẽ cần đến một liên hệ tích cực giữa hai người. Khi người bệnh không phát triển cao đến mức đó, th́ nhà trị liệu sẽ phải cố gắng tạo ra một tâm trạng chấp thuận đầy hy vọng trong người ấy. Trong trường hợp này, bản chất xúc cảm sẽ mạnh mẽ hơn trong mẫu người tiến hóa và công việc của nhà trị liệu tất nhiên là khó khăn hơn. Rất thường khi y sẽ phải chống chọi với lo âu, đủ loại phản ứng t́nh cảm, sợ hăi và các linh tính. Nhờ thế, trạng thái tâm lư của người bệnh sẽ dễ thay đổi, và nhà chữa trị sẽ có nhiều điều phải làm để giúp bệnh nhân giữ được một phản ứng t́nh cảm không thay đổi, trở nên thanh thản và b́nh tĩnh. Phải đạt được sự an tĩnh này nếu muốn cho các năng lượng trị liệu được chuyển một cách hiệu quả đến đúng bí huyệt và vùng chi phối của bí huyệt đó. Điều này có thể được mang lại bằng việc lập một tương giao hài ḥa giữa nhà trị liệu với bệnh nhân trước khi tiến đến bất cứ cách chữa trị nào. Các nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới cũng sẽ tạo ra nhóm khách quen riêng cho ḿnh giống như các thầy thuốc hiện nay đang làm, v́ thế họ học cách hiểu được thể trạng và tính khí của những người họ mời gọi trợ giúp. Họ sẽ rèn luyện cho những người đó một số tiến tŕnh và kỹ thuật trị liệu để chuẩn bị dùng sau này nếu cần. Tuy nhiên, thời điểm đó hăy c̣n xa.
553
Khi
bệnh nhân là một người chưa phát triển và
ở mức thấp trên thang tiến hóa, y sẽ
được kiểm soát về mặt tâm lư bằng phàm
ngă hiến dâng của người chữa trị và
bằng việc áp đặt ư chí của người
chữa trị lên thể dĩ thái của bệnh nhân.
Đây không có nghĩa là áp đặt năng lượng
của ư chí lên một người thụ động
để nhờ đó mà bắt buộc bệnh nhân phải
hành động, gây nguy hại cho tự do ư chí của
bệnh nhân, dầu ở mức độ rất nhỏ.
Nó có nghĩa là áp đặt uy thế của tri thức và
sự ổn cố tinh thần vào bệnh nhân, nhờ
đó mà truyền được niềm tin và sự
tự nguyện tuân phục.
Ở đây, các bạn có những giai đoạn đầu tiên mà nhà trị liệu phải chọn có liên quan với bệnh nhân, với linh hồn và phàm ngă của bệnh nhân. Có ba giai đoạn:
1. Đạt được sự hợp tác của phàm ngă của người tiến hóa. Chỉ có phàm ngă mới cần chữa trị.
2. Mang lại cho phàm ngă của người b́nh thường một tâm trạng hài ḷng đầy hy vọng. Cho đến nay, bệnh nhân này chưa có khả năng hợp tác sáng suốt, nhưng có thể điều khiển chính ḿnh đến mức làm giảm chướng ngại ở phàm ngă xuống mức tối thiểu.
3. Đem lại sự tuân phục đầy tin tưởng vào ư kiến của nhà trị liệu. Đó là tất cả những ǵ mà một người kém tiến hóa có thể làm.
Hiển nhiên, các bạn thấy rằng các điều khái quát rộng lớn như trên th́ không bao gồm được hết mọi mẫu người và nhiều hạng người ở các tŕnh độ trung gian. Nhà trị liệu phải là người thật ḷng yêu thương đồng loại và cũng là một nhà tâm lư học lăo luyện; điều này có nghĩa là y sẽ phải hành động với tư cách một linh hồn, cũng như với một trí óc biết nhận thức.
554
Ở
đây, nên lưu ư một điểm khác nữa. Một
khó khăn mà nhà trị liệu sẽ phải đối
phó với những mẫu người thuộc trí tuệ,
đó là họ thường có khuynh hướng giữ
mọi năng lượng đến từ linh hồn
hoặc ở trong bí huyệt đầu, hoặc ít ra cũng
giữ ở bên trên cách mô; điều này không có nghĩa là
mọi vùng cơ thể ở dưới cách mô không
thường được cung cấp năng
lượng cần thiết mà là ở nơi đó sự
hoạt động phần lớn là tự động và
người đó không có thói quen cố tâm hướng
năng lượng vào bí huyệt và vùng mà bí huyệt đó
chi phối, nếu bí huyệt đó ở dưới cách
mô. Có lẽ cần phải dạy y cách làm việc đó,
nếu người ấy cố gắng cộng tác
với nhà trị liệu và muốn được
chữa lành. Khả năng tập trung trí tuệ và
hoạt động của bí huyệt đầu của y
sẽ giúp ích rất nhiều, miễn là y chấp nhận
sự chỉ dẫn về thuật điều khiển
năng lượng. Nếu người ấy không quá
yếu hoặc không quá bận tâm đến việc
giữ sự giao tiếp hữu ư với thể xác
của ḿnh, th́ thường là y có thể làm
được điều nói trên. Khi bệnh nhân không
thể tập trung sự chú tâm của ḿnh, hoặc do
đau đớn hay do thiếu hồng trần thức
hoặc suy nhược trầm trọng, th́ nhà trị
liệu phải làm việc trước nhất ở
cấp độ linh hồn với linh hồn, và tin
tưởng rằng liên hệ giữa linh hồn bệnh
nhân với thể dĩ thái sẽ đủ để xúc
tiến việc chữa trị nếu đó là số
mệnh của người đó.
Khi nguồn gốc của bệnh nằm ở thể cảm dục, th́ công việc của nhà trị liệu không dễ dàng như trên. Bấy giờ, y phải làm việc, tập trung với tư cách là linh hồn ở bí huyệt đầu của y, nhưng điều khiển năng lượng cần thiết và kiểm soát bản chất t́nh cảm của bệnh nhân xuyên qua bí huyệt đan điền được định hướng chính xác của y. Ở đây, tôi đề cập đến bí huyệt đan điền của nhà trị liệu, đó là bí huyệt mà trong cuộc sống riêng của ḿnh, y không dùng nó làm tụ điểm để chú tâm theo qui luật chung. Nhà trị liệu đă đạt được khéo léo trong việc sử dụng mọi bí huyệt của ḿnh một cách tùy ư, xem chúng như các điểm phân phối năng lượng có định hướng. Tôi muốn bạn lưu ư, năng lượng định hướng này không được hướng vào việc chữa trị, mà là năng lượng linh hồn của nhà trị liệu được hướng đến việc đưa bí huyệt nào đó trong cơ thể bệnh nhân dưới sự kiểm soát v́ bệnh nhân biểu lộ tính dễ cảm xúc và để tái tổ chức nó thành trung tâm tiếp nhận các năng lượng trị liệu phóng phát từ linh hồn bệnh nhân – một vấn đề khác hẳn và là điều cần phải ghi nhớ cẩn thận.
555
Thế
nên, nhà trị liệu sử dụng hai bí huyệt, nói theo
thông thường là bí huyệt đầu của chính y c̣n
bí huyệt kia trong chính ḿnh y, ứng với vùng bị
bệnh và là bí huyệt đang kiểm soát của cơ
thể bệnh nhân. Trong mọi cuộc chữa trị
thành công đều phải tạo được một
liên giao đồng cảm. Một Cổ thư trong Văn
Khố của các Chân Sư có ghi: "Linh hồn ứng
với linh hồn, cả hai là một; điểm ứng
với điểm, chúng phải cùng chịu đau; vị
trí ứng với vị trí, chúng cảm thấy liên
kết, nhờ thế mà ḍng năng lượng kép dẫn
đến kết quả chữa trị".
Một trong những khó khăn chính mà nhà trị liệu phải đối phó (đặc biệt là nếu y c̣n tương đối thiếu kinh nghiệm) là hậu quả của liên hệ đồng cảm được lập nên này. Thường xảy ra cái mà chúng ta có thể gọi là "sự chuyển di" ("transference"). Nhà trị liệu nhận hay tiếp quản t́nh trạng bệnh hay sự khó chịu, không có thực, mà chỉ có triệu chứng. Điều này có thể làm cho y suy yếu; hoặc ít nhất ngăn chận hoạt động thông suốt của tiến tŕnh chữa trị. Đó là một ảo cảm và là một ảo tưởng và do nhà trị liệu đă có được khả năng tự đồng hóa với bệnh nhân của ḿnh. Điều đó cũng dựa vào sự khát khao và rất mong muốn chữa lành. Người chữa trị đă thường bận tâm với nhu cầu của bệnh nhân và bị phân tán ra khỏi ư thức tích cực, đồng nhất hóa của chính ḿnh, đến nỗi vô t́nh y đă trở nên tiêu cực/ thụ động và tạm thời không được bảo vệ. Nếu nhà trị liệu thấy ḿnh có khuynh hướng đó, th́ cách chữa trị là làm việc thông qua bí huyệt tim cũng như bí huyệt đầu, nhờ thế mà giữ cho ḍng năng lượng tích cực của t́nh thương tuôn ra đều đặn đến bệnh nhân. Việc này sẽ ngăn cho y khỏi bị nhiễm bệnh, nhưng không cách ly y với người bệnh. Y có thể làm điều đó bằng cách hoạt động qua bí huyệt tim bên trong brahmarandra (tức là bí huyệt đầu) và tăng thêm sức mạnh cho việc trị liệu của y. Tuy nhiên, điều đó đ̣i hỏi phía nhà trị liệu phải có tŕnh độ phát triển cao. Nhà trị liệu tinh thần bậc trung sẽ phải liên kết bí huyệt đầu và bí huyệt tim bằng tác động rơ rệt của ư chí. Bấy giờ y sẽ nhận thấy rằng t́nh thương tuôn ra từ y đến bệnh nhân sẽ ngăn bất cứ sự trở về nào của các phóng xuất ngoài ư muốn từ bệnh nhân đang tuôn chảy về phía người chữa bệnh; v́ nếu có một ḍng chảy như thế, nó sẽ cản trở việc chữa trị cho bệnh nhân.
556
Như
các bạn có thể thấy, nhà trị liệu nào đáp
ứng với sức thôi thúc chữa trị bên trong,
sẽ đối mặt với một tiến tŕnh rèn
luyện rất gắt gao, trước khi trang cụ
của y – phàm ngă, thể dĩ thái và các bí huyệt của
nó – chịu tuân phục linh hồn đến mức mà
chúng không gây trở ngại nào cho thuật trị liệu.
V́ thế, chính y phải học:
1. Cách chỉnh hợp nhanh chóng giữa linh hồn, thể trí, bí huyệt đầu và bộ óc xác thân.
2. Cách vận dụng thể trí, được linh hồn soi sáng, trong việc chẩn đoán các nguyên nhân tâm lư của loại bệnh mà y định chữa trị.
3. Các phương pháp tạo sự liên giao đồng cảm với bệnh nhân.
4. Những cách tự bảo vệ khỏi bất cứ một sự chuyển di nào do sự liên giao ấy mang lại.
5. Tạo sự liên giao đúng đắn với bệnh nhân, hoặc là hợp tác, chấp nhận hoặc là sự kiểm soát tinh thần.
6. Chẩn đoán thân xác và xác định vị trí của vùng cần phải chữa trị, xuyên qua bí huyệt đang chi phối.
557
7. Khéo
léo hợp tác với linh hồn của bệnh nhân sao cho
thể dĩ thái của người ấy hội tụ
được mọi năng lượng lưu nhập
của linh hồn, để chữa lành vùng bị
bệnh. Việc này bao gồm hoạt động trực
tiếp của thể dĩ thái của nhà trị liệu,
liên quan đến hoạt động đổi mới
về phía thể dĩ thái của bệnh nhân.
8. Kỹ thuật thu hồi năng lực trị liệu của nhà trị liệu, khi năng lực của bệnh nhân đă đủ đảm trách công việc.
Tôi cảm thấy rằng ở đây tôi đă trao cho các bạn tất cả những ǵ bạn cần để nghiên cứu và cân nhắc trực tiếp. Tôi đă chỉ cho các bạn thấy rằng thuật điều trị không phải là một tiến tŕnh thần bí mơ hồ, hoặc niềm tin do mơ ước và các hảo ư đơn thuần. Tôi đă nêu ra rằng, trước hết, đ̣i hỏi phải thấu triệt kỹ năng giao tiếp với linh hồn; thường xuyên thực hành việc chỉnh hợp và phải thông hiểu Khoa Học về các Bí Huyệt, hay – nói cho sát nghĩa – là một h́nh thức hiện đại của Laya–Yoga. Trong tương lai, các nhà trị liệu sẽ phải trải qua nhiều năm huấn luyện kỹ càng, và điều này không gây ngạc nhiên, bởi v́ y khoa thông thường cũng cần nhiều năm học hỏi và làm việc cật lực. Nhiều nhà trị liệu trong Kỷ Nguyên Mới sẽ kết hợp những học hỏi và tri thức chính thống với thuật trị liệu tinh thần.
Khi những nhà trị liệu thành thạo, có khả năng lư giải, có hiểu biết đầy đủ và thực dụng về thể dĩ thái, với sự thông hiểu về các năng lượng đang tạo nên thể đó, hoặc loại năng lượng mà nó đang hoặc có thể truyền dẫn, thông hiểu về cấu tạo tinh anh của con người, về các phương pháp điều khiển năng lượng từ một điểm và vị trí này, đến một điểm khác, có thể làm việc với kiến thức y khoa đầy đủ hoặc là có sự cộng tác đầy đủ với nhà giải phẫu hoặc y sĩ chính thống, th́ bấy giờ, các thay đổi phi thường sẽ xảy ra. Một sự khai ngộ quan trọng sẽ đến với nhân loại.
Chúng ta phải chuẩn bị cho chính điều đó – không phải chủ yếu là chuẩn bị cho việc điều trị thân xác, mà cốt mở rộng tâm thức của nhân loại, mà nghiên cứu mới mẻ và huyền bí này sẽ mang lại.
558
Chúng ta
đă bàn đến một số sự thực căn
bản vốn thật thiết yếu mà các nhà trị
liệu – đang cố gắng làm việc với lối
điều trị nội môn mới mẻ – đều
phải thấu triệt. Cho nên, những ǵ tôi đă nói ra
thật là quan trọng. Mỗi điểm mà tôi đă nói,
có thể dùng làm nền tảng cho một cuộc thảo
luận kéo dài; tuy nhiên, trong bộ luận này, không thể
làm điều đó được, v́ tôi chỉ t́m cách
đưa ra chỉ dẫn cho những điều có
thể xảy ra trong tương lai. Tôi cũng t́m cách thúc
đẩy việc không tin vào cách tiếp cận hiện
nay của giới siêu h́nh học về đề tài
bệnh tật và cách chữa trị, và làm suy giảm (tôi
tạm dùng cách diễn tả quyết liệt như
thế) niềm tin của công chúng vào cái gọi là các cách
trị liệu của Kỷ Nguyên Mới, vào các
phương pháp của những nhà khoa học Thiên Chúa giáo,
của Khoa Tâm Thần, và của những trường phái
tư tưởng, bàn đến cách chữa bệnh theo
góc độ xác nhận – xác nhận thiên tính của con
người và tuyên bố rằng thiên tính ẩn tàng và
bẩm sinh ấy bảo đảm việc lành bệnh
của y. Như tôi đă thường nêu ra, tuyên bố này
là một mê hoặc và là một lừa gạt.
Hôm nay, chúng ta bàn đến một định luật (nếu hiểu đúng), định luật này sẽ chứng tỏ rằng phương pháp của nhà siêu h́nh học thời nay đối với vấn đề này thiếu sót đến mức nào; và – dầu cho nó đặt giáo huấn của chúng ta về chữa trị trên một căn bản vững chắc – tŕ hoăn kỷ nguyên chữa trị theo huyền môn thực sự đến một thời điểm xa hơn nhiều. Định luật thứ ba này được tŕnh bày như sau:
ĐỊNH LUẬT III
Bệnh tật là một hậu quả của việc tập trung cơ bản các năng lượng của sự sống con người. Từ cảnh giới, nơi mà các năng lượng được tập trung, nảy sinh các t́nh trạng có tính định đoạt vốn tạo ra sức khỏe yếu kém. Thế nên, các t́nh trạng này thể hiện dưới h́nh thức bệnh hoặc dưới h́nh thức không bị ảnh hưởng của bệnh.
559
Định
luật này cho thấy rằng một trong các quyết tâm
căn bản mà nhà trị liệu phải đạt
đến là quyết tâm về mức tâm thức mà từ
đó năng lượng trội hơn trong thể dĩ
thái phát ra. Ở đây, tôi xin nhắc các bạn nhớ
rằng, trong Giáo Lư Bí Nhiệm, H.P.B. có nói rằng một
cơi (plane) và một trạng thái tâm thức là những
chữ đồng nghĩa và hoàn toàn có thể thay thế
cho nhau. Trong toàn bộ tác phẩm của tôi, tôi không t́m cách
nhấn mạnh đến mức độ vật
chất hay chất liệu (một cơi như nó
được gọi), mà chú trọng đến tâm
thức vốn tự biểu lộ trong vùng bao quanh
của chất liệu biết rơ đó.
Trong định luật cổ xưa này chúng ta được đoan chắc rằng bệnh tật là hiệu quả của việc tập trung căn bản năng lượng sự sống của con người. Năng lượng sự sống này không giống như năng lượng hay lực của tâm thức, mà tâm thức bao giờ cũng là yếu tố điều khiển trong mọi biểu lộ của sự sống tồn tại bên trong. Bởi v́, về cơ bản chỉ có năng lượng chính yếu duy nhất – tức năng lượng sự sống. Tâm thức của con người được hội tụ ở đâu, th́ năng lượng sự sống sẽ gom mănh lực của nó vào đó. Nếu tâm thức được hội tụ vào cơi trí hoặc vào cơi cảm dục, th́ năng lượng sự sống sẽ không tập trung quá mạnh và bám chặt vào bí huyệt tim (là bí huyệt mà nguyên khí sự sống nằm ở đó), mà chỉ một phần năng lượng sinh động của bí huyệt này sẽ t́m được lối đi vào thể xác, xuyên qua thể dĩ thái. Phần lớn năng lượng sẽ được giữ lại (dùng một từ không tương xứng) ở cơi mà tâm thức đang hoạt động nhiều nhất hoặc – nói cách khác – sự biểu lộ của năng lượng ấy sẽ bị qui định bởi trạng thái tâm thức, tương ứng với mức ư thức hay vị trí tiếp xúc với Tổng Thể thiêng liêng hay là tâm thức thiêng liêng mà mức tiến hóa của con người có thể làm được.
560
Cho nên,
công việc của nhà trị liệu là t́m ra nơi tập
trung của tâm thức. Việc này đưa chúng ta trở
lại một điểm mà tôi đă đưa ra về
người bệnh, đó là bệnh nhân thuộc mẫu
người thiên về trí tuệ hoặc t́nh cảm và
thật ra rất ít người có tâm thức thuần
ở xác thân. Khi tâm thức được ổn
định trong tâm thức của linh hồn, sẽ có ít
bệnh hoạn xảy ra và những khó khăn ở
thể xác người bệnh tiến hóa cao bấy
giờ sẽ liên kết với tác động của
năng lượng linh hồn vào một thể xác chưa
sẵn sàng. Ở tŕnh độ đó, chỉ có một
số bệnh chính yếu sẽ ảnh hưởng
đến y thôi. Y sẽ không nhạy cảm với các
đau ốm lặt vặt và những sự cảm
nhiễm nhỏ nhặt thường xảy ra, làm cho
cuộc sống của một thường nhân hay của
một người kém tiến hóa rất nguy ngập và khó
khăn. Y có thể bị bệnh tim, các bệnh thần
kinh và những loại bệnh có ảnh hưởng
đến phần trên của cơ thể và những vùng
chịu sự kiểm soát của các bí huyệt trên cách mô.
Tuy nhiên, y ít khi bị những bệnh do các bí huyệt
nhỏ có nhiều trong thể dĩ thái, hoặc do các bí
huyệt ở dưới cách mô, trừ khi (có thể
thuộc trường hợp của một đệ
tử rất tiến hóa) y đang có chủ tâm nhận lănh
những t́nh trạng được gây nên do việc
phụng sự người đời.
Cũng v́ hiện nay đa số nhân loại đang tập trung tâm thức vào cơi cảm dục (hay là trong thể cảm dục), manh mối của một trong những cội nguồn lớn nhất của bệnh tật trở nên lộ rơ. Khi tâm thức của nhân loại chuyển lên cơi trí – và việc này đang từ từ xảy ra – bấy giờ những loại bệnh thường thấy và đang phổ biến hiện nay sẽ tiêu tan và chỉ có những loại bệnh thuộc về trí hoặc bệnh của hàng đệ tử vẫn c̣n khuấy rối sự an tịnh của con người. Những bệnh này tôi đă bàn đến trong một quyển trước của bộ luận này. (Đó là "Luận Về Bảy Cung", quyển II, trang 520 – 625).
561
Khoa
học về trí tuệ đă hữu lư khi thừa nhận
rằng chính những t́nh cảm của con người
(như đă được diễn tả trong sự mô
phỏng kém cỏi của thực tại mà họ gọi
là tư tưởng) chịu trách nhiệm cho nhiều
bệnh hoạn. Họ hành động đúng khi cố
gắng làm cho bệnh nhân thay đổi thái độ t́nh
cảm của ḿnh và phản ứng với cuộc
sống, với hoàn cảnh và con người theo một
đường lối khác. Nhưng họ lại sai
lầm, vô vọng khi tin rằng bấy nhiêu đó là
đủ. V́ không biết mọi phương pháp khoa
học liên quan đến thể dĩ thái nên họ không có
được ǵ để liên kết bản chất xúc
cảm với xác thân. Do thế, lập luận của
họ có một chỗ hở, và một lỗi lầm
hiển nhiên trong kỹ thuật của họ. Điều
này làm cho hoạt động của họ thành vô bổ,
ngoại trừ khía cạnh cá tính. Khi họ chữa
trị có hiệu quả, đó là v́ dù sao chăng nữa
bệnh nhân cũng có định mệnh được
b́nh phục. Tuy nhiên, họ đă đáp ứng
được mục đích hữu ích trong việc
sửa đổi t́nh trạng cá tính trong đó y
thường có nguy cơ bị bệnh. Không phải
họ chữa được bệnh và khi khẳng
định điều đó, th́ cả người
trị liệu lẫn bệnh nhân đều bị
lừa gạt. Mọi lừa gạt nào cũng đều
nguy hại và gây chướng ngại.
Ở đây, có lẽ hữu ích nếu tôi nêu ra, theo đường lối rộng và tổng quát, một vài loại bệnh mà việc tập trung sinh lực vào cơi t́nh cảm chẳng hạn, có thể gây ra. Tôi sẽ chỉ liệt kê chúng mà thôi. Tôi sẽ không bàn đến chúng trong bất cứ chi tiết nào cả; v́, cho đến khi nhà trị liệu thời nay thừa nhận sự thực về thể dĩ thái, và làm việc một cách khoa học và sáng suốt với thể đó và kiểm soát các bí huyệt của nó, th́ bất cứ điều ǵ mà tôi có thể nói đến cũng trở thành vô ích. Vào lúc này, tôi đang cố gắng đề xướng một số đề nghị chuẩn nhận cơ bản – đó là sự thực về sự hiện hữu của thể dĩ thái.
1. Thường xuyên tự vấn, mọi h́nh thức đè nén/ bưng bít có tính cách bệnh hoạn và sự im lặng bị ép buộc quá quyết liệt khi có liên quan đến các xúc cảm căn bản, có thể đưa đến bệnh gan trầm trọng, dẫn đến các khó khăn thường thấy cho bao tử và đưa đến ung thư.
2. Khi những ác cảm và căm ghét sâu xa hiện hữu trong tâm thức, hoặc khi một người sống trong t́nh trạng luôn luôn khó chịu với một cá nhân hoặc một tập thể, hoặc là khi có cảm giác bị bạc đăi, th́ ḍng máu thực sự có thể bị ảnh hưởng; bấy giờ, con người sẽ dễ thụ cảm những sự truyền nhiễm liên tục, bị các đinh nhọt (boils), những vết loét liên tiếp (running sores) và bị đủ bệnh về máu, rơ ràng là có bản chất dễ nhiễm trùng.
3. Bản chất dễ cáu giận, luôn ở trạng thái rối rít, tâm trạng bẳn gắt, phản ứng giận dữ khi sự việc không diễn ra theo ư muốn, có thể đưa đến những sự bùng nổ tai hại vốn được chẩn đoán có thể là những bệnh về năo và điên tạm thời. Chúng có thể đưa đến những cơn nhức đầu liên tục, vốn làm xói ṃn thể chất và đưa tới t́nh trạng suy nhược không thể tránh khỏi.
562
4.
Một cuộc sống tính dục không hài ḷng, hoặc
một t́nh trạng mà trong đó một người
độc thân đă không có sự biểu lộ b́nh
thường của tiến tŕnh tự nhiên, và chung cho
mọi người và do đó đối với họ,
tính dục vẫn là một bí mật (đồng thời
là một vấn đề tư tưởng bên trong luôn
luôn không được ghi nhận) sẽ dẫn
đến:
a. Một t́nh trạng suy nhược nặng, với t́nh trạng sức khỏe kém tất nhiên và không tránh khỏi đi kèm theo mẫu người đó – thường được gọi thiếu tế nhị là bà cô/ gái già (old maid) hay đàn ông độc thân (bachelor). Không cần phải nói, có nhiều người không lập gia đ́nh như thế, họ vẫn sống một cách lành mạnh chứ không thuộc hạng người nói trên.
b. Cố gắng thường xuyên để thu hút sự chú ư của người khác phái, cho đến mức nó trở thành một khuynh hướng dễ bị kích thích và thiếu lành mạnh nhất.
c. Phát triển thói quen đồng phái tính hay các lệch lạc tính dục này làm sa đọa cuộc sống của nhiều người thông tuệ.
d. Các khối u – ác tính hoặc lành tính – tấn công các cơ quan sinh sản và thường đưa đến trường hợp phải giải phẫu.
Các phát triển khác có thể xảy ra, nhưng tôi không định nói kỹ về chúng. Ở đây tôi đă nêu ra đủ để chứng minh cái nguy hại của một ư thức về cản trở và một chú ư bệnh hoạn vào tính dục (cho dù lúc đó không nhận ra). Việc đó cũng có thể tự biểu lộ trong một cuộc sống mơ mộng, cuộc sống này liên kết bộ óc, thể trí và cơ quan sinh sản một cách mật thiết với nhau, và chứng minh sự thực rằng ham muốn của thể cảm dục đang tạo nên ham muốn ở xác thân. Điều này chứng minh khẳng định của tôi rằng thể xác tự động ứng đáp với sự chi phối của thể cảm dục – cho dù nó không hay biết trong những giờ ngủ. Dĩ nhiên, như bạn biết, cách chữa trị là một cuộc sống đầy sáng tạo ở ngoại giới. Đặc biệt là một cuộc sống hữu ích cho đồng loại, chứ không chỉ là việc chuyển hóa sự thôi thúc tính dục thành một h́nh thức suy tư sáng tạo nào đó, vốn dĩ chỉ là suy tư mà không được h́nh thành ở ngoại giới của kiếp người.
563
5.
Thương thân trách phận, một phiền muộn
rất thường thấy, đưa đến
chứng khó tiêu nghiêm trọng, đến bệnh
đường ruột, viêm họng sổ mũi và
nhức đầu ở một người b́nh
thường, c̣n ở người tiến hóa nhiều, nó
đưa đến bệnh kinh niên ở cuống
phổi, loét bao tử và những t́nh trạng đau
yếu ở răng và tai.
Tôi có thể tiếp tục kể ra những trạng thái t́nh cảm khác, vốn tạo ra bệnh cho người gặp các t́nh trạng này, nhưng bao nhiêu đó cũng đủ đem lại cho nhà thực hành trị liệu manh mối cho một vài viễn cảnh có thể chịu trách nhiệm cho các bệnh ở thể xác mà y được mời gọi chữa trị. Như, tôi đă nêu rơ ở nơi khác, người chữa trị cũng phải ghi nhớ các t́nh trạng đă được truyền lại từ các tiền kiếp, hoặc là được phát triển như kết quả của tập thể chung quanh, tức là karma của quốc gia hoặc của địa cầu.
Không có qui luật nào liên quan đến định luật này, v́ chúng ta vẫn đang bàn đến cách xác định các nguyên nhân gây ra bệnh bên ngoài; các nguyên nhân này cần được hiểu rơ và chấp nhận như là những giả thuyết có giá trị, trước khi nhà chữa trị có thể xử lư một cách hiệu quả với t́nh huống.
Giờ đây, chúng ta đi đến chỗ xem xét một định luật mà ư nghĩa và khả năng xác định của nó bao quát đến nỗi nó có thể được xem như tŕnh bày lư do đối với mọi bệnh tật có bất cứ bản chất nào và ở bất cứ thời gian nào trong lịch sử sự sống của nhân loại hoặc của cá nhân. Ở đây, nó được tŕnh bày và được xem như là Định Luật IV, chỉ v́ cần cho các lập luận chính của ba định luật trước đă được chấp nhận, xem xét và nghiên cứu. Cũng bởi nó là định luật chính chi phối sự xuất hiện bệnh tật trong giới thứ tư trong thiên nhiên, tức là giới nhân loại. Về cơ bản, nó là một định luật liên quan với Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư. Rơ ràng nó được ấn định và được thừa nhận là một định luật đang chế ngự nhân loại nhiều nhất, bởi các vị điểm đạo đồ đang làm việc trong căn chủng thứ tư, tức là giống dân Atlantis. Cũng lạ là khi nhân loại có thể hoạt động bằng tâm thức của họ (được tập trung ở cơi thứ tư hay cơi bồ đề) th́ bệnh tật sẽ tiêu tan, và Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư sau rốt sẽ thoát khỏi sự giới hạn lớn lao ấy.
564
ĐỊNH LUẬT IV
Mọi bệnh tật cả thể chất lẫn tâm lư đều bắt nguồn từ thiện, mỹ và chân. Nó chỉ là một phản ảnh méo mó của các triển vọng /tiềm năng thiêng liêng. Linh hồn bị ngăn trở đang t́m cách biểu lộ đầy đủ một đặc tính thiêng liêng, hoặc một thực tại tinh thần bên trong nào đó, linh hồn tạo ra một điểm ma sát trong chất liệu của các lớp vỏ của nó. Đôi mắt của phàm ngă tập trung vào điểm đó và điều này đưa tới bệnh hoạn. Thuật khéo léo của nhà trị liệu liên quan đến việc làm cho đôi mắt tập chú nh́n xuống, ngước lên linh hồn, tức nhà trị liệu đích thực ở trong h́nh hài. Bấy giờ, con mắt thứ ba hay con mắt tinh thần liền điều khiển sức mạnh trị liệu và mọi sự đều an lành.
Định luật này mở đầu bằng phát biểu của một trong các nghịch lư của giáo lư huyền môn: đó là thiện và ác là một và là điều giống nhau, cho dù trái ngược, hoặc tạo ra các mặt đối nghịch của Thực Tại duy nhất.
565
Bởi
v́ con người là một linh hồn và được
định đoạt về mặt tâm linh để hành
động với tư cách một linh hồn, cho nên
một t́nh trạng bất đồng được
tạo nên giữa linh hồn với phàm ngă; bất
đồng này là một nguyên nhân chính (nếu không phải
là nguyên nhân chính duy nhất) của mọi bệnh tật.
Đây là một manh mối để hiểu
được tập ngữ "lửa do ma sát",
trạng thái thứ ba của "bản chất
lửa", bản chất thiêng liêng của Thượng
Đế, v́ "Thượng Đế của chúng ta là
một ngọn lửa hay thiêu hủy". Chúng ta cũng
được dạy rằng bản thể của Ngài được
biểu lộ qua lửa điện, qua lửa thái
dương và qua lửa do ma sát. Ba loại lửa
này, đă được tôi nói đến rất nhiều
trong "Luận Về Lửa Càn Khôn" và trước
kia có gợi ư trong "Giáo Lư Bí Nhiệm".
Định luật này nói rơ rằng v́ con người vốn thiêng liêng, nên sức thôi thúc đến thiên tính tạo ra đối kháng trong các hiện thể biểu lộ. Tính đối kháng này sẽ tự khu biệt trong một vùng nào đó của xác thân và tạo nên một điểm cọ xát. Đến lượt điểm cọ xát này lại tạo nên một t́nh trạng hay một vùng viêm nhiễm. Cuối cùng, vùng viêm nhiễm ấy mới đưa đến bệnh tật loại này, hoặc loại khác. Ở đây, phải chăng các bạn có thể lại có một manh mối khác nữa – manh mối đưa đến vấn đề đă gây ra nhiều quan tâm trong thế giới siêu h́nh: Tại sao những người tiến hóa cao, những nhà lănh đạo tinh thần và những người hướng về cuộc sống tâm linh thường trải qua những trở ngại về thể xác đến thế? Có lẽ v́ họ đang ở tŕnh độ mà năng lượng của linh hồn đang tuôn đổ qua thể xác, gặp phải sự đề kháng từ thể đó thuộc loại mănh liệt tương ứng. Sự ma sát/ va chạm đó được tạo nên đột ngột đến nỗi hậu quả là bệnh mau chóng xuất hiện. Đối với các đệ tử đă được điểm đạo lần hai th́ điều này không c̣n đúng. Vấn đề sức khỏe kém của họ lại xảy ra theo lối khác. Chúng ta hăy lấy từng câu của định luật IV này và cố gắng phân tích phần nào ư nghĩa của nó:
1. Bệnh tật, cả thể chất lẫn tâm lư, đều có cội nguồn trong thiện, mỹ và chân. Đây chỉ là một phản ảnh méo mó của các tiềm năng thiêng liêng.
566
Tôi
đă chứng minh rằng, về mặt căn bản,
bệnh tật có bản chất thuộc về tâm lư. Tuy
nhiên, có những bệnh vốn có sẵn trong sự
đối kháng của nhục thân (chứ không chỉ
ở các thể tinh anh) với sự va chạm của các
năng lượng cao, hoặc bệnh tật sẵn có
trong chất liệu của hành tinh hay là vật chất
của chính địa cầu. Đừng nên quên rằng
thể xác được chất liệu đó cấu
thành. Câu đầu của định luật IV này cho chúng
ta biết rằng ba khía cạnh của thiên tính gây ra
bệnh tật. Điều này nghe có vẻ không thể nào
xảy ra khi đọc qua câu đó; tuy nhiên, khi thận
trọng nghiên cứu, sẽ phát hiện ra tính chính xác
chủ yếu của nó. Làm sao điều thiện,
điều mỹ và điều chân lại gây nên một
loại bệnh tật nào đó? Chúng ta hăy xem.
a. Thiện (The Good) – Thiện là ǵ? Có phải nó biểu hiện cho ư-chí-hành-thiện không? Có phải ư-chí-hành-thiện này không và sẽ không thể hiện trên cơi trần trong cái mà chúng ta gọi là thiện chí nơi con người? Có thể nào, trong khi luôn t́m cách (trên cơi riêng của nó) thích nghi với Thiên Cơ (Thiên Cơ này có mục đích thể hiện ư-chí-hành-thiện thiêng liêng), linh hồn không thể cố gắng thúc đẩy biểu lộ tam phân của nó, tức là phàm ngă biểu lộ được thiện chí (goodwill) hay sao? Linh hồn không thể làm được điều này vào đúng giai đoạn khai mở tiến hóa và khi linh hồn trở nên linh hoạt và tác động hay sao? Tuy nhiên, cũng v́ sự đối kháng của bản chất h́nh hài cho đến nay chưa thỏa đáng cho biểu hiện thiêng liêng mong muốn, nên sự cọ xát liền sinh ra và đưa đến kết quả là bệnh tật. Tôi nghĩ rằng chỉ cần xem qua các câu hỏi trên, các bạn cũng thấy rơ được cách nào mà khuynh hướng về "điều thiện" của linh hồn lại có thể đưa đến sự đối kháng trên cơi trần để cho sự xáo trộn sinh ra như thế trong tâm thức con người có thể và nhất định là gây ra bệnh tật. Loại bệnh này là nguyên nhân của nhiều khó khăn nơi người tiến hóa, người t́m đạo và các đệ tử. Kế đó, sự ma sát này mới tạo nên một phản ứng phụ và đưa đến các trạng thái tâm lư mà chúng ta gọi là "trầm cảm, mặc cảm tự ti và cảm giác thất bại". Nguồn gốc đặc biệt này của bệnh tật, tức "thiện" là nguồn có ảnh hưởng trước nhất đến những hạng người có trí năng.
567
b. Mỹ
(The Beautiful). Ở đây bạn có một từ chỉ rơ
ham muốn của mọi người, đối với
cái mà họ xem là mục tiêu đáng mong ước cho khuôn mẫu
sống của họ, và mục tiêu họ chọn
để phấn đấu. Theo góc độ của
một trạng thái thiêng liêng, cái mỹ có liên quan
đến phẩm tính của sự sống. Ở
đây, tôi muốn nhắc bạn nhớ các định
nghĩa mở đầu của chúng ta trong quyển I
của bộ luận này, về các từ ngữ tinh thần-linh
hồn-thể xác. Chúng ta đă định nghĩa chúng là
sự sống - phẩm tính - h́nh tướng. Sự
sống là năng lượng trong lúc biểu lộ
của ư-chí-hành-thiện thiêng liêng. Phẩm tính (quality) là
năng lượng lúc biểu lộ của linh hồn và
năng lượng này hiện nay đang tác động rơ
rệt nhất qua sự sống đầy ham muốn và
quyết tâm của mọi người ở mọi tŕnh
độ tiến hóa, muốn chiếm hữu, muốn làm
chủ và hưởng thụ những ǵ mà họ cho là
đẹp. Tùy tŕnh độ tiến hóa mà việc
định nghĩa "cái đẹp" và phạm vi ham
muốn của con người đều khác nhau rất
nhiều. Tuy nhiên, tất cả đều tùy theo nhân sinh
quan của người đang có ham muốn và tùy vị trí
mà y đang đứng trên thang tiến hóa. Bất cứ lúc
nào con người thấy ḿnh không thể đạt
được cái mà y cho là "mỹ", th́ điều
đó định đoạt khuynh hướng mắc
bệnh của y, căn cứ vào sự xung đột bên
trong tạo nên theo cách đó. Ở tŕnh độ phát
triển hiện nay của nhân loại, đa số
mọi người đang bị lôi cuốn vào những
t́nh trạng bệnh hoạn do sự bất đồng
xảy ra bởi nỗ lực của họ theo
đuổi "cái đẹp" – một nỗ lực
bị thôi thúc dưới h́nh thức một thôi thúc
tiến hóa, bởi v́, họ là những linh hồn và
đang ở dưới ảnh hưởng của
những phẩm đức của ngôi thiêng liêng thứ
hai.
568
c. Chân
(The true). Người ta cho rằng chân hay là chân lư (truth) là
biểu hiện thiêng liêng mà bất cứ người nào
cũng có thể biểu lộ nhiều nhất ở tŕnh
độ tiến hóa đặc biệt của ḿnh và
ở bất cứ giai đoạn đă định nào
trong quá tŕnh luân hồi của y. Biểu hiện của
chân lư này hàm ư rằng đàng sau những ǵ mà y kiểm soát
để biểu lộ, có nhiều điều mà y không
thể chứng minh được. Linh hồn của y
vẫn măi có ư thức về điều này. Việc
thiếu khả năng để sống theo lư
tưởng cao nhất mà – ở tŕnh độ riêng
biệt của y – con người biết đến và
nhận thức được, trong những khoảnh
khắc sáng tỏ nhất và tuyệt diệu nhất, không
tránh khỏi tạo nên một điểm xung khắc cho dù
y vẫn c̣n chưa biết được điều
đó. Một trong các biểu lộ chính của sự va
chạm đặc biệt này và t́nh trạng bệnh
hoạn mà nó mang lại là chứng phong thấp (rheumatism).
Bệnh này ngày nay đang lan tràn và đă có từ nhiều
thế kỷ trước. Theo quan điểm y học th́
không có nguyên do nào được định rơ hay là gán cho
nó, dầu rằng, trong giới y khoa chính thống đă có
nhiều suy đoán và kết luận. Trước hết,
nó ảnh hưởng đến bộ xương.
Thực ra, nó là hậu quả của sự bất lực
của linh hồn không tạo được sự
biểu lộ của "chân" trong con người, là
khí cụ của linh hồn trong ba cơi thấp. Đến
lượt con người, dầu ở vị trí thấp
kém đến đâu trên thang tiến hóa, nó bao giờ
cũng ư thức được cái không thể đạt
được. Y luôn luôn cảm thấy có một sự
thôi thúc tiến đến sự cải thiện. Các thôi
thúc này không liên quan đến sự biểu lộ của
ư-chí-hành-thiện hay là biểu lộ "cái mỹ"
(dầu rằng ít nhiều ǵ y cũng có thể biết
được chúng), nhưng, các thôi thúc này có liên hệ rơ
rệt đến việc biểu lộ ở cơi trần
của một cái ǵ gần gũi hơn với lư
tưởng của con người khi y thấy
được nó. Cho nên sự va chạm xảy ra và theo
sau là một loại bệnh nào đó.
Thật là lư thú mà ghi nhận rằng sự thiếu khả năng để biểu lộ "cái chân" hay là "trở thành Chân Lư" là nguyên nhân thực sự của cái chết của những ai c̣n thấp hơn tŕnh độ đệ tử và chưa được điểm đạo lần thứ nhất. Linh hồn chán ngán v́ phản ứng lại với va chạm của khí cụ của nó nên quyết định chấm dứt cuộc thí nghiệm lần nhập thế đặc biệt đó. Cho nên sự chết xảy đến như là hậu quả mà sự va chạm sinh ra.
Khi nghiên cứu các ư tưởng này, chúng ta nên nhớ rằng:
569
a. Điều
thiện chi phối con người, xuyên qua bí huyệt
đầu và sự va chạm sinh ra do sự bất
động của bí huyệt chót xương sống. Bí
huyệt này kiểm soát sự biểu lộ trạng thái
thiêng liêng thứ nhất nơi con người nhờ
sự tương tác của nó với bí huyệt
đầu. Sự tương tác này chỉ xảy ra khi con
người đạt đến tŕnh độ
đệ tử hoặc điểm đạo đồ.
b. Điều mỹ chi phối con người xuyên qua bí huyệt tim, sự va chạm xảy ra do bí huyệt đan điền thiếu khả năng ứng đáp. Do đó một t́nh trạng va chạm được tạo nên. Việc chấm dứt t́nh trạng này và khêu gợi sự ứng đáp đúng của đan điền sẽ đến khi các lực của huyệt đan điền được đưa lên và trộn lẫn với năng lượng của bí huyệt tim.
c. Điều chân với cương vị là một biểu lộ của Đấng thiêng liêng, có điểm tập trung của nó ở bí huyệt cổ họng. Việc phàm ngă không ứng đáp được và không thể biểu lộ điều chân là do mối liên hệ giữa bí huyệt sinh dục và bí huyệt cổ họng. Khi không có liên hệ này, sẽ tạo ra sự va chạm. Sẽ không có sự biểu lộ đích thực của "điều chân", nếu các mănh lực của bí huyệt sáng tạo ở dưới cách mô chưa được nâng lên đến bí huyệt sáng tạo ở cổ họng. Chừng đó, "Ngôi Lời" ("the Word"), về bản thể vốn là con người "sẽ lâm phàm" ("will be made flesh") và sự biểu lộ thực sự của linh hồn ở cơi trần sẽ được nhận ra.
2. Trong khi t́m cách biểu lộ đến mức hoàn măn một đặc tính thiêng liêng nào đó, hay một thực tại tinh thần nội tại nào đó, do bị ngăn trở, linh hồn tạo ra một điểm bất đồng trong chất liệu của các thể của nó.
570
Phần
lớn câu này tôi đă nói đến ở trên rồi. Tuy
nhiên, tôi muốn các bạn chú ư đến sự kiện
được nhấn mạnh trong câu này là chính linh
hồn chịu trách nhiệm v́ gây ra sự bất
đồng. Khi phân tích câu trước, có sự nhấn
mạnh được đặt vào phàm ngă do bởi nó không
ứng đáp được mới tạo nên sự
bất đồng và hậu quả là nảy sinh bệnh
tật. Trong câu này, chúng ta không thể có được manh
mối cho toàn bộ mục đích của đau
đớn, khốn khổ, và thậm chí của chiến
tranh chăng? Tôi muốn đưa ra điều đó
để các bạn suy tư cẩn thận và nếu có
thể nhờ đó mà được khai ngộ.
3. Đôi mắt của phàm nhân tập chú vào điểm đó, và việc này dẫn tới bệnh tật.
Ở đây, chúng ta có được gợi ư rất lư thú về phương tiện điều động thần lực. Ư nghĩa huyền bí của con mắt và bản chất của biểu tượng học về mắt ít được hiểu rơ. Điều nói đến ở đây thực ra không có dính dáng ǵ đến con mắt trong thể xác. Cách nói "đôi mắt của phàm ngă" ở đây chỉ sự chú ư tập trung của phàm ngă, phát xuất từ thể trí và thể cảm dục, thực chất vốn là đôi mắt của linh hồn đang nhập thế. Việc sử dụng hai cửa sổ hay mắt của linh hồn này đưa đến việc tập trung năng lượng (trong trường hợp này hoàn toàn là năng lượng của phàm ngă) vào trong thể dĩ thái. Kế đó, năng lượng này được hướng đến vùng bị bệnh, và v́ thế mà được đưa đến điểm bất đồng. Điểm bất đồng được duy tŕ và gia tăng bằng các lực được tập trung vào nó. Nói một cách khách quan, th́ người ta ít hiểu được rằng họ làm tăng sức mạnh của bệnh tật nhiều đến mức nào bằng cách luôn tưởng nghĩ đến nó và bằng cách chú ư đến vùng bị bệnh. Các năng lượng thuộc thể trí và thể cảm dục được mang lại, có liên quan tới vùng bị bệnh, và "đôi mắt của phàm ngă" là nhân tố mạnh mẽ trong việc duy tŕ bệnh tật.
571
Hơn
nữa, các bạn thấy rằng câu này đă diễn
tả một cách minh bạch rằng các t́nh trạng trong
thể hạ trí và thể cảm dục đưa
đến bệnh hoạn. Hoạt động của linh
hồn và sự va chạm của năng lượng linh
hồn thấu nhập vào thể xác, xuyên qua các thể tinh
anh, và điểm bất đồng (hậu quả
của sự đề kháng) được thấy
trước tiên trong hạ trí, kế đó, nó
được lặp lại c̣n mănh liệt hơn ở
trong thể cảm dục và được phản
dội vào thể xác. Các thể này tạo nên phàm ngă (đây
là điều sơ đẳng của huyền linh học
nhưng đôi khi bị quên đi), và tất nhiên, sự
bất đồng xảy ra khắp nơi.
Có lẽ các bạn rất thích thú khi liên kết những ǵ tôi đă nói về đôi mắt trong các tác phẩm khác của tôi với điểm được nêu trên. Như các bạn đều biết rơ và trong "Giáo Lư Bí Nhiệm" cũng có nói rằng mắt bên phải là "mắt của buddhi", c̣n mắt bên trái là "mắt của manas". Khi liên quan với bồ đề th́ manas là thượng trí (higher mind) cuối cùng nó sẽ hiện ra cho con người. Ở kẻ thường nhân, trước khi được hoàn thiện, mắt bên phải chuyển năng lượng của thể cảm dục, khi nó quyết tâm hướng đến một mục tiêu chú ư, c̣n mắt bên trái th́ điều khiển năng lượng của hạ trí. Ở giữa hai mắt dùng để điều khiển này có bí huyệt ấn đường (giữa 2 mày). Bí huyệt này giống như con mắt thứ ba hay là tác nhân điều khiển dành cho các năng lượng được ḥa lẫn và dung hợp của phàm nhân. Được liên kết với con mắt thứ ba này khi nó thức động và bắt đầu hoạt động là cái mà chúng ta gọi là "con mắt của linh hồn". Đây là một điểm ở trong bí huyệt đỉnh đầu. Con mắt của linh hồn có thể và thực sự chuyển năng lượng đến huyệt ấn đường, chính nó là tác nhân (trước lần điểm đạo thứ tư) của năng lượng của Tam Thượng Thể Tinh Thần. Mối liên hệ huyền bí này chỉ được thiết lập khi linh hồn chế ngự được khí cụ của nó, tức phàm ngă, và đưa mọi hoạt động thấp kém ở cơi trần vào dưới sự chi phối của linh hồn.
Thế nên, ở người hoàn thiện, có các tác nhân phân phối năng lượng sau đây:
1. Con mắt của linh hồn … tác nhân của Tam Thượng Thể
Tinh Thần …. Ư chí.
2. Con mắt thứ ba ….. tác nhân của linh hồn …Bác ái
3. Con mắt phải… tác nhân phân phối năng lượng bồ đề.
4. Con mắt trái….. tác nhân chuyển năng lượng trí tuệ
thuần túy.
572
5. Bí
huyệt ấn đường… điểm hội tụ
và điều khiển đối với
mọi năng lượng trên.
Nơi đệ tử và người đang bắt đầu hoạt động với tư cách một linh hồn, các bạn sẽ có:
1. Mắt thứ ba……… nơi phân phối năng lượng linh hồn.
2. Mắt phải ……….. tác nhân cho năng lượng cảm dục.
3. Mắt trái………..…tác nhân cho năng lượng hạ trí.
4. Bí huyệt ấn đường … điểm hội tụ của ba loại năng lượng trên.
Nơi kẻ thường nhân, vị trí sẽ như sau:
1.Mắt phải …..…tác nhân cho năng lượng cảm dục.
2.Mắt trái ………tác nhân cho năng lượng trí tuệ.
3.Bí huyệt ấn đường …… nơi phân phối.
Khi kiến thức huyền bí tăng lên, toàn bộ môn học về phân phối năng lượng sẽ được lập ra liên quan đến mắt và chức năng có tính cách biểu tượng của chúng; và công dụng huyền bí của chúng sẽ được hiểu rơ. Chưa đến lúc xảy ra việc đó, mặc dầu đă biết rằng, sức mạnh của mắt người khi tập trung vào một người nào chẳng hạn, sẽ có năng lực thu hút sự chú ư của người đó. Tôi có thể trao cho bạn một gợi ư: dây thần kinh thị giác là một biểu tượng của giác tuyến (antahkarana), c̣n toàn thể cấu trúc của nhăn cầu là một trong những biểu tượng đẹp đẽ nhất của Thượng Đế Ba Ngôi và phàm ngă có ba thể.
4. Cái khéo léo của nhà trị liệu có liên quan đến việc nâng đôi mắt chăm chăm nh́n xuống, ngước nh́n lên linh hồn, tức nhà trị liệu đích thực ở trong h́nh hài.
573
Với
hàm ư thấp nhất và rơ ràng nhất, th́ câu này chỉ nói
rằng nhà trị liệu phải giúp bệnh nhân nh́n ra
khỏi chính ḿnh, rằng y phải giúp người bệnh
nâng cao và tái định hướng năng lượng
được điều khiển, sao cho "điểm
bất đồng" không c̣n là mục tiêu chú ư của
bệnh nhân và đưa ra cho người ấy
điều quan tâm mới. Việc này từ lâu đă
được các nhà trị liệu cố gắng
thực hành, tuy nhiên nó c̣n một ư nghĩa huyền bí
hơn những ǵ họ đă biết, và đó là
điều mà tôi thấy hơi khó giải thích.
Chúng ta đă thấy rằng điểm bất đồng (nguyên nhân của bệnh) đă được tạo nên, do thiện, mỹ và chân khi chúng va chạm với các mănh lực của phàm nhân. Chúng ta cũng đă thấy rằng đây là một định luật nền tảng và là định luật mà con người hiểu rằng ḿnh phải chấp nhận và phải làm việc với nó một cách thông minh. Cho nên, làm cách nào y có thể áp dụng định luật này và tạo nên những kết quả mà y đang nỗ lực thu đạt?
Các năng lượng đang tuôn xuống này của linh hồn đi vào thể xác, xuyên qua thể dĩ thái, và chịu trách nhiệm cho xáo trộn bất đồng mà hậu quả của nó là bệnh tật. Qua sinh mệnh tuyến (sutratma), chúng đă "đi xuống giao tiếp" qua sutratma và được trụ vào trong ba trung tâm chánh, tức là ba bí huyệt chính, như các bạn đă rơ. Tùy theo bản chất, cung, mức phát triển, nhược điểm và các giới hạn của mỗi người, từ các bí huyệt này, chúng được phân phối đến nhiều vùng khác nhau của xác thân; hoặc chúng gây nên những điểm bất đồng, hoặc chúng tự biểu lộ thành những phẩm tính thiêng liêng. Khi có sự bất đồng và do đó có bệnh tật; và nếu người bệnh may mắn có được một nhà trị liệu huyền linh lăo luyện (hoặc một điểm đạo đồ, hoặc một đệ tử tiến hóa) th́ các năng lượng này sẽ được đưa trở lại những điểm phân phối của chúng – hoặc có hay không có sự cộng tác của bệnh nhân – tức là ba bí huyệt cao, và việc này tùy theo loại năng lượng đang tạo nên xáo trộn. Không thể đưa chúng hoàn toàn ra khỏi cơ thể xuyên qua bí huyệt đầu, v́, nếu làm thế, bệnh nhân sẽ chết. Tuy nhiên, về mặt huyền linh, "từ điểm bất đồng, chúng có thể được đưa trở về điểm xuất phát, chứ không về đến nguồn cội của chúng", như một cuốn sách cổ về trị liệu có nói.
574
Năng
lượng được đưa từ vùng nhiễm
bệnh (từ ngữ này được dùng không thích
hợp, nhưng chúng ta thiếu các từ đúng hơn
để dùng cho các khoa mới mẻ này) đến
điểm bất đồng; từ đó nó
được đưa đến bí huyệt chi phối
vùng ấy. Nhờ bí huyệt này mà năng lượng linh
hồn mới nhập vào trong nhục thân. V́ thế mà nhà
trị liệu đang làm việc một lượt
với hai mặt của thể xác – tức là nhục thân
và thể dĩ thái. Từ bí huyệt ấy, năng
lượng liên hệ được gom lại và
được hoàn về một trong ba bí huyệt chính.
Nếu một trong ba bí huyệt cao này lại liên hệ
đến vùng bị bệnh, th́ năng lượng
được gom lại, đưa về bí huyệt
đầu và giữ ở đó. Thế nên, chúng ta phải
ghi nhớ rằng công việc của nhà trị liệu
theo lối này gồm hai phần:
1. Giai đoạn "nâng cao" hay "trục xuất" về mặt huyền linh. Giai đoạn này gồm hai tiểu giai đoạn (phases):
a. Tiểu giai đoạn thu góp năng lượng
b. Tiểu giai đoạn tái hội tụ nó vào trung tâm phân phối của nó.
2. Giai đoạn sau khi việc làm của nhà trị liệu đă được hoàn tất và bệnh nhân hoặc là được thuyên giảm, hoặc là việc trị liệu không thành công. Trong giai đoạn này, năng lượng đă được "xua ra" lại quay trở lại bí huyệt và vị trí có điểm bất đồng.
Hiển nhiên, bạn sẽ thấy rằng h́nh thức trị liệu này chỉ xảy ra với người được huấn luyện ở cấp cao, do đó tôi thấy không cần phải đi vào chi tiết về kỹ thuật này. Tuy nhiên, cũng là hữu ích khi thỉnh thoảng xem xét những mục tiêu xa.
Hiện nay, tất cả những ǵ có thể làm được liên quan đến phát biểu này là chuyển sự chú tâm của bệnh nhân (nếu y có thể đáp ứng với các gợi ư) hướng về linh hồn, và giúp cho người ấy, với sự hồn nhiên, giữ cho tâm thức của y càng gần với linh hồn càng hay. Việc làm này sẽ giúp khai thông các vận hà mà năng lượng có thể tuôn xuống và cũng theo các vận hà đó mà năng lượng có thể tự động được rút ra, bởi v́ năng lượng theo sau tư tưởng.
575
Xét cho
cùng, trị liệu thực sự theo huyền môn là
một vấn đề đơn giản, khi so với
những chi tiết rắc rối và phức tạp liên
quan đến bộ máy con người và các bệnh
của bộ máy đó, mà nhà y sĩ thời nay phải
đối phó. Nhà trị liệu tinh thần quan tâm
đến vùng bị bệnh, đến bí huyệt
dĩ thái đang chi phối vùng đó và phần
tương ứng cao hơn của nó, và quan tâm đến
ba ḍng năng lượng đến từ linh
hồn, vốn chịu trách nhiệm về việc tạo
ra một hoặc nhiều điểm bất đồng.
Công việc c̣n lại của y liên quan đến việc
sử dụng trí tưởng tượng sáng tạo,
năng lực h́nh dung và sự hiểu biết do tư duy
khoa học, dựa vào định luật phổ quát và căn
bản là "năng lượng theo sau tư
tưởng". Năng lực h́nh dung và tư duy khoa
học này (khi liên quan đến việc chữa trị)
không cần đến việc tạo h́nh tư
tưởng. Nó chỉ cần đến khả năng
vận chuyển và điều khiển các ḍng năng
lượng.
5. Bấy giờ con mắt thứ ba điều khiển mănh lực trị liệu và mọi sự đều trôi chảy.
Con mắt thứ ba được đề cập đến ở đây là của nhà trị liệu chứ không phải của bệnh nhân bậc trung. Con mắt này, nhà trị liệu dùng phối hợp với con mắt của linh hồn. Trong trường hợp trị liệu cho một người rất tiến hóa, người này có thể hợp tác một cách có ư thức, lúc đó con mắt thứ ba của bệnh nhân cũng có thể linh hoạt, và nhờ đó mà hai ḍng năng lượng rất mạnh mẽ có điều khiển có thể xâm nhập vào vùng có điểm bất đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp thông thường, khi bệnh nhân không có chút kiến thức huyền môn nào, th́ nhà chữa trị làm tất cả mọi việc, và đây là điều thuận tiện. Sự hợp tác của người không kinh nghiệm và người dễ xúc cảm với bệnh của họ, đều không phải là hợp tác đích thực.
Vài ẩn ngữ được đưa ra trong phần phân tích các câu của định luật IV sẽ cung cấp nhiều chất liệu cho tư duy. Giờ đây, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét qui luật liên quan với định luật này.
576
Khi
nghiên cứu các định luật và qui luật này, nên
nhớ rằng các định luật được áp
đặt cho nhà trị liệu và cung cấp những
điều kiện không thể thay đổi mà y phải
làm việc theo đó. Y không được và không thể
lẩn tránh chúng. Tuy nhiên, các qui luật th́ y tự
đặt lên chính ḿnh và chúng tạo thành các t́nh trạng mà
y được khuyến cáo noi theo nếu y muốn thành
công. Nhiều điều tùy thuộc vào sự thông hiểu
của y về các qui luật và dựa vào năng lực
của y để diễn giải chúng một cách chính xác.
Chúng được diễn dịch và phỏng theo các qui
luật cổ xưa, từ lúc được đặt
ra đến giờ, chúng đă chi phối tất cả
các nhà trị liệu huyền môn đang làm việc
dưới linh hứng của Thánh Đoàn. Lúc bắt
đầu được sử dụng chúng
được đệ tŕnh và được các
Đấng trong Thánh Đoàn thời đó chuẩn nhận
– thời Lemuria cổ. Sau đó, chúng được
diễn giải cách khác, theo cách diễn giải hiện
đại. Ư nghĩa hiện nay của nó chỉ
đến ngày nay mới trong tiến tŕnh xuất hiện.
Có thể nói rằng:
1. Vào thời Lemuria, các qui luật này đă được các Đấng của Thánh Đoàn chấp nhận. Nếu không phải là một thành viên th́ bạn không thể xác định được chúng hay làm việc với chúng.
2. Vào thời Atlantis, chúng được hiển lộ đến mức các đệ tử chưa được điểm đạo hoặc chỉ được điểm đạo lần thứ nhất, đă dược truyền thụ và được phép sử dụng chúng. Chính lối diễn giải chúng ở thời Atlantis phần lớn đang tác động đến cách tiếp cận hiện nay để t́m hiểu chúng, nhưng chưa đủ thời cơ và đủ mẫu người phát triển trí tuệ hơn nữa.
3. Ngày nay, trong giống dân Aryan của chúng ta, có một ư nghĩa mới đang hiện ra. Tôi sẽ cố gắng truyền đạt ư nghĩa và lối diễn dịch mới đó. Qui luật I không lệ thuộc vào lối diễn giải mới này, bởi v́ các hàm ư của nó hiển nhiên là rất hiện đại. Thực ra, qui luật I này không có trong văn kiện cổ xưa lúc ban đầu, mà từ đó các qui luật quan trọng này được rút ra, mà tương đối rất hiện đại, được tŕnh bày vào đầu kỷ nguyên T.C. Đó là một qui luật rơ ràng và súc tích, hàm chứa những ǵ sẽ là bản chất của tư duy của nhà trị liệu.
577
1.
Y phải hiểu loại tư tưởng nào đang chi
phối bệnh nhân.
2. Y phải có khả năng hiểu thấu nguồn gốc của trở ngại – hoặc là hiểu được bối cảnh tâm lư của nó. Do đó, y phải dùng quyền năng của tư tưởng.
3. Y phải có khả năng liên kết nhân và quả. Tác nhân liên kết bao giờ cũng là trí.
Vào thời Lemuria và Atlantis thuở xưa, thể trí gần như là hoàn toàn bất động và chưa thực sự hoạt động chút nào. Chỉ trong giống dân hiện nay, bản chất trí tuệ của con người mới đang trở nên có ưu thế, do đó cách diễn giải mới mẻ và hiện đại về các qui luật này (dựa trên nguyên khí trí tuệ) hiện đang có giá trị và chúng ta sẽ tiếp tục bàn đến điều này.
QUI LUẬT HAI
Nhà trị liệu phải đạt được sự thanh khiết về từ điện qua sự thanh khiết của đời sống. Y phải có loại bức xạ xua bệnh. Bức xạ này tự biểu lộ trong kẻ nào biết liên kết các bí huyệt trong đầu. Khi từ trường này được thiết lập, bức xạ liền phát ra.
Người Đông phương đă từng nhấn mạnh về sự thanh khiết từ điện, nhưng họ hoàn toàn không biết ǵ đến sự thanh khiết của xác thân theo cái hiểu của người Tây phương. Người Tây phương đă chú trọng đến sự trong sạch bên ngoài của thể xác, nhưng họ không biết về sự thanh khiết từ điện. Sự thanh khiết này phần lớn được căn cứ (một cách hơi sai lầm, dầu không hoàn toàn sai lầm) vào hiệu quả của sự phát tán hào quang và vào sự thanh khiết hoặc không thanh khiết của nó. Trong qui luật này nhà trị liệu được khuyên:
1.Đạt sự thanh khiết từ điện qua sự thanh khiết của đời sống.
2.Đạt được loại bức xạ xua bệnh, nhờ liên kết các bí huyệt trong đầu.
3.
578
Lập
một trường phát xạ qua việc dùng từ
trường này. Kết quả: có được bức
xạ (radiation).
Phần lư thú của qui luật này là liên kết hai h́nh thức có thể có của cách trị liệu tinh thần – tức là sự phát xạ và truyền từ điện – vào một hoạt động duy nhất. Nhà trị liệu chân chính tự động phối hợp cả hai cách trị liệu này và sử dụng chúng một cách đồng thời và tự động, bởi v́ y làm việc qua từ trường, được chứa trong phạm vi ảnh hưởng của ba bí huyệt đầu, hoặc trong tam giác được tạo thành bằng cách liên kết chúng như thế.
Vào thời Lemuria, nhà trị liệu đạt mục tiêu bằng cách dùng những giới luật nghiêm nhặt ở thể xác, nhờ thế mà đạt được sự trong sạch cần thiết. Như bạn biết, vào thuở đó, mục tiêu nỗ lực của Thánh Đoàn là dạy cho con người cổ sơ các công dụng và mục đích của thể xác và cách kiểm soát nó một cách thông minh. Thuở ấy, kẻ nào kiềm chế được thân xác và kiểm soát được nó như người thợ máy điều khiển cỗ máy, th́ được xem là một điểm đạo đồ. Ngày nay việc chế ngự phàm ngă mới làm con người thành điểm đạo đồ. Sống độc thân, thận trọng trong cách ăn uống và cách giữ xác thân tinh khiết, cùng với các cơ bản của Hatha Yoga (kiểm soát thân xác bằng phương pháp thể dục c̣n phôi thai – đầu tiên là kiểm soát bắp thịt). Cái gọi là sự thanh khiết đă hoạch đắc này, cho phép ḍng chảy thông suốt của các luồng prana từ nhà trị liệu đến bệnh nhân, xuyên qua bí huyệt xương cùng và bí huyệt cổ họng – nhà trị liệu về tâm linh hoạt động qua bí huyệt cổ họng; c̣n điểm tiếp nhận nơi bệnh nhân là bí huyệt xương cùng. Cả bí huyệt tim, lẫn bí huyệt đầu đều không được dùng. Xác định nó cho các mục tiêu của bạn, th́ Prana là sinh lực của hành tinh, là sự phát xạ sinh khí của địa cầu. Chính prana này được phân phối hay là truyền chuyển bởi một nhà trị liệu tự nhiên (tức là một người không được huấn luyện ǵ, không có được bao nhiêu kiến thức chính yếu, hoặc chỉ có rất ít, nếu không nói là không có định hướng tinh thần). Y trị liệu, nhưng không biết được cách hoạt động và lư do; Prana chỉ lưu chuyển qua y dưới dạng một ḍng sinh lực mạnh mẽ của động vật, thường là đi từ bí huyệt lá lách, chớ không từ bí huyệt nào trong bảy cái kia.
579
Ngày
nay, các giới luật thể chất triệt để
này thường được những người t́m
đạo đầy thiện chí cố gắng thực
hành. Họ sống độc thân, trai giới nghiêm
nhặt, tập thư giăn và nhiều lối tập
thể dục khác, với hy vọng kiểm soát
được thân xác. Các h́nh thức giới luật này
rất tốt cho người thấp kém và chưa phát
triển, nhưng chúng không phải là những phương
pháp nên dùng cho người có tŕnh độ trung b́nh hay
người t́m đạo thực tiễn. Tập chú vào
thân xác, chỉ giúp nâng cao sức mạnh của nó, nuôi
dưỡng các thèm khát của nó và phơi bày ra với tâm
thức những điều nên che đậy một cách an
toàn ở dưới ngưỡng cửa của tâm
thức. Người t́m đạo chân chính nên quan tâm
đến sự kiểm soát t́nh cảm, chớ không phải
là thân xác và cố gắng an trụ vào cơi trí, trước
khi đạt được sự giao tiếp ổn
định với linh hồn.
580
Vào
thời Atlantis, việc chuyển sự chú tâm từ
nhục thân sang thể t́nh cảm, đă bắt đầu
được làm một cách chậm chạp. Vị
điểm đạo đồ của thời ấy
đă bắt đầu dạy môn đệ của ḿnh
rằng thể xác thực ra chỉ là một người
máy. Chính thể dục vọng và bản chất cùng tính
chất của các dục vọng quen thuộc của chúng
mới cần được xem xét nếu muốn
đạt đến sự tinh khiết. Thế nên, chính
trong giống dân này và lần đầu tiên từ lực cá
nhân đă bắt đầu từ từ tự hiển
lộ. Người Lemurian nguyên thủy và cổ sơ
tuyệt nhiên không có từ lực theo cách chúng ta hiểu
chữ đó, nhưng, vào thời Atlantis, một mức
độ bức xạ từ lực nào đó đă
tự lộ ra, dầu chưa đến mức mà ngày nay
có thể có và thường có. Ṿng hào quang mờ nhạt
đầu tiên có thể thấy được chung quanh
đầu của những người Ắt lăng
tiến hóa. Sự thanh khiết từ điện trở
nên một mục tiêu có thể đạt được,
nhưng nó tùy thuộc vào mức kiểm soát t́nh cảm và
việc thanh lọc bản chất dục vọng.
Việc làm này tự động tạo nên một mức
độ thanh khiết trong nhục thân nhiều hơn
những ǵ mà điểm đạo đồ thời
Lemuria từng đạt được. Các bệnh
của thể xác trở nên tinh vi hơn, phức tạp
hơn, c̣n các bệnh tâm lư đầu tiên đă xuất
hiện, và nhiều bệnh khác nhau rơ rệt là dựa vào
xúc cảm. Ở phần đầu của bộ luận
này, chúng ta đă bàn đến loại khó khăn này. Nhà
trị liệu thời ấy đă làm việc qua bí
huyệt đan điền và (nếu là điểm
đạo đồ th́) qua bí huyệt tim. Vẫn chưa
có từ trường hay khu vực năng lượng bên
trong đầu.
Ngày nay, trong giống dân Aryan, sự thanh khiết từ điện không c̣n tùy thuộc vào các giới luật nơi xác thân. Với đại khối quần chúng, nó vẫn c̣n tùy thuộc các giới luật ở thể cảm dục. Tuy nhiên, ở trường hợp của nhà trị liệu thực sự trong Kỷ Nguyên Mới, th́ sự thanh khiết ấy tùy thuộc "khu vực từ lực được soi sáng bên trong đầu". Từ trường này cung ứng một trường hoạt động cho linh hồn, đang hoạt động qua các bí huyệt đầu và tự tập trung trong từ trường mà chúng bao bọc. Khi mọi năng lực của xác thân và sự chú tâm có điều khiển của nhà trị liệu đều được tập trung trong đầu, khi thể cảm dục yên lặng và thể trí trở nên linh hoạt như là nơi truyền năng lượng của linh hồn đến ba bí huyệt đầu, bấy giờ, bạn có được hiện tượng phóng quang, hay là sự phóng phát năng lượng, vốn là một lực mạnh mẽ để trị liệu. Phát quang này vốn mạnh mẽ, không mạnh lắm theo khía cạnh ánh sáng quen thuộc mà theo mức độ các tia phóng phát năng lượng linh hoạt của nó, chúng có thể đến với bệnh nhân và truyền năng lượng cho bí huyệt cần có.
Mọi bí huyệt trong cơ thể bệnh nhân đều có thể tiếp nhận năng lượng này chứ không riêng một bí huyệt nào, như trong hai loại trị liệu trước đây.
581
Khi
nghiệp quả hay mô h́nh sự sống (life-pattern) của
bệnh nhân cho phép, th́ các tia năng lượng này (phát ra
từ trường trong đầu nhà trị liệu)
sẽ trở thành cái gọi là "bức xạ xua
bệnh". Chúng có thể xua tan các lực vốn tạo
ra hoặc làm nặng thêm cơn bệnh. Khi bức xạ
xua bệnh này không thể chữa lành được thân
xác (do số mệnh của bệnh nhân), th́ nó có thể
chuyển sang giải tán những phiền phức tinh vi
hơn, như là sự sợ hăi, dưới nhiều h́nh
thức, sự thiếu cân bằng ở thể t́nh
cảm và một số phiền phức tâm lư, chúng làm
tăng thêm khó khăn mà bệnh nhân đang đối phó.
Nhà trị liệu cần nên nhớ kỹ rằng, khi ba bí huyệt trong đầu được liên kết và nhờ đó từ trường được thiết lập và phát ra bức xạ, th́ bấy giờ, nhà trị liệu có thể dùng bí huyệt ấn đường làm tác nhân điều khiển đối với "bức xạ xua bệnh" này. Thật là lư thú khi ghi nhận hai bí huyệt chính trong đầu (tương ứng với Atma - Buddhi hay linh hồn) là bí huyệt đầu và bí huyệt hành tủy. Hai bí huyệt này tương ứng về mặt huyền bí với hai tác nhân phân phối: mắt phải và mắt trái, cũng như sự tương ứng của hai tuyến bên trong đầu: tuyến tùng quả và tuyến yên với đôi mắt vậy. Thế nên, trong đầu có ba tam giác, trong đó hai tam giác là chỗ phân phối năng lượng và tam giác thứ ba phân phối mănh lực.
582
Rốt
cuộc, nhà trị liệu lăo luyện sẽ làm việc
với các tam giác này và sử dụng chúng một cách
hữu thức. C̣n rất lâu về sau
này điều đó mới có thể thực hiện.
Hiện tại th́ nhà trị liệu phải làm việc
bằng cách h́nh dung và dùng năng lực tưởng
tượng sáng tạo. Qua việc h́nh dung, y tưởng
tượng ra liên quan của các tam giác đan vào nhau này. Y
chồng cái này lên cái kia, bắt đầu với tam giác
thứ nhất tức là y đang làm công việc rơ rệt
là đặt vị trí một cách sáng tạo, kế
đó, đưa sinh lực một cách sáng tạo và
cuối cùng là điều khiển một cách sáng
tạo. Trong ba từ ngữ: đặt vị trí,
đưa sinh lực, điều khiển, bạn có các
kết quả đưa ra về việc tuân thủ qui
luật này giúp cho nhà trị liệu đạt
được thành công. Sự chú tâm được
đặt đúng chỗ, từ trường
được đem lại sinh lực bằng tinh
thần; bấy giờ, bức xạ sống động
được sinh ra, được phân phối và
hướng đến đúng chỗ nhờ trung gian
của tam giác thứ ba. Tiến tŕnh này nghe ra có hơi
rắc rối, nhưng sau một ít luyện tập,
việc trị liệu bằng cách đặt vị trí
đưa vào sinh lực và điều khiển, sẽ
trở nên một sự thành tựu hầu như tự
động và tức th́.
Giờ đây, chúng ta xem xét đến một định luật dài và có hơi phức tạp. Nó bao gồm rất nhiều lănh vực, đến nỗi khi đọc nó lần đầu, chúng ta thường dễ lầm lẫn.
ĐỊNH LUẬT V
Không có ǵ khác ngoài năng lượng, v́ Thượng Đế là Sự Sống. Hai loại năng lượng đáp ứng trong con người, c̣n năm năng lượng khác đang hiện hữu. Đối với mỗi loại năng lượng có một tâm điểm tiếp xúc. Sự xung khắc của các năng lượng này với các mănh lực và sự xung khắc giữa chính các mănh lực tạo nên các bệnh ở thể xác con người. Xung khắc giữa năng lượng thứ nhất và năng lượng thứ hai kéo dài qua nhiều thời đại cho đến khi đạt tới tột đỉnh – tức là đỉnh núi lớn thứ nhất. Trận chiến giữa các lực tạo nên mọi bệnh tật và đau đớn trong xác thân, nó t́m cách giải tỏa bằng cái chết. Hai, năm, như vậy là bảy, cộng với những ǵ chúng tạo nên, nắm giữ cái bí ẩn. Đây là định luật chữa trị thứ năm trong thế giới sắc tướng.
583
Từ
trước đến nay, nội dung/ chủ đề
của định luật này không thể được
đưa ra, chỉ v́, ngày nay, giáo huấn liên quan với
Sự Sống (và sự sống dưới h́nh thức
năng lượng) mới có thể được
giảng dạy. Cũng như giáo huấn về 2 và 5
năng lượng gặp nhau trong con người, chỉ
mới được tôi đưa ra lần đầu
một cách chi tiết, dầu rằng trong Giáo Lư Bí
Nhiệm có nhắc đến chúng. Đôi khi tôi tự
nhủ ước chi trong các bạn có ai nhận thức
được cái quan trọng mở ra kỷ nguyên của
giáo huấn mà tôi đă đưa ra về bảy cung
dưới h́nh thức các năng lượng biểu
lộ. Trong các cuộc bàn thảo và suy tư của
những người tiến hóa, bao giờ cũng có các suy
đoán về bản thể của Tam Vị Nhất
Thể thiêng liêng – và – điều đó đă có từ
thuở Thánh Đoàn bắt đầu nhiệm vụ
đời đời là ảnh hưởng và kích thích tâm
trí nhân loại – nhưng, giáo huấn về bảy Tinh Quân
trước Thiên Ṭa của Tam Vị Nhất Thể
(Trinity) vẫn chưa phổ cập và chỉ có một vài
tác giả, xưa hoặc nay, đề cập đến
bản thể của các Đấng này. Giờ đây,
với tất cả những ǵ tôi đă trao cho các bạn
liên quan đến Bảy Cung và bảy Đấng Chủ
Quản Cung, nhiều điều có thể được
t́m ra. Bảy Đấng Cao Cả này có thể
được thấy và hiểu như là các tinh hoa làm linh
hoạt và các năng lượng linh hoạt trong tất
cả những ǵ biểu lộ và hữu h́nh ở cơi
trần, cũng như trên tất cả các cơi biểu
lộ thiêng liêng. Khi nói điều này, tôi bao gồm không
những cơi hồng trần vũ trụ (gồm bảy
cơi của thái dương hệ chúng ta) mà cũng gồm
luôn cả cơi cảm dục vũ trụ và cơi trí vũ
trụ nữa.
584
Trong qui
luật này, nhà trị liệu được mong sẽ
chấp nhận một số ư tưởng căn bản,
chúng sẽ giúp y mở rộng hiểu biết của y.
Một số công lư phổ quát và tổng quát
được đặt ra, chúng sẽ tạo nên một
nền tảng vững vàng cho mọi việc sau này.
Điểm chính cần nhớ là qui luật này hoàn toàn liên
quan với cơi trần (gồm chất trọng
trược và chất dĩ thái) và với các hậu
quả mà sự xung khắc giữa các năng lượng
và các lực tạo ra trong xác thân. Các lực là các năng
lượng vốn bị hạn chế và bị cầm
giữ bên trong một h́nh hài thuộc bất cứ
loại nào – một cơ thể, một cơi, một cơ
quan, một bí huyệt. Các năng lượng này là
những ḍng năng lượng có điều khiển,
vốn gây ra va chạm vào các lực đang bị cầm
giữ này (xin tạm gọi như thế) từ trong
một h́nh hài vĩ đại hơn hay bao quát hơn,
từ một cơi tinh anh hơn, nhờ thế mà tiếp xúc
với lực rung động thô hơn. Năng
lượng th́ tinh anh hơn và mạnh mẽ hơn
lực mà nó tác động vào hay giao tiếp. Lực th́
không mạnh mẽ bằng, nhưng lại được
bám chặt. Trong hai chữ cuối này bạn có bí
quyết cho vấn đề về liên quan của các
năng lượng. Theo khía cạnh điểm giao
tiếp bám chặt th́ năng lượng tự do
ở chừng mực nào đó kém hiệu quả (trong
một khu vực giới hạn) hơn là năng
lượng đă được trụ vào đó. Về
thực chất nó mạnh mẽ hơn, nhưng không
hữu hiệu. Hăy suy gẫm điều này và tôi xin minh
giải quan điểm của tôi. Trong cuộc sống
của người t́m đạo, năng lượng
của bí huyệt đan điền (do đă dùng lâu, đă
được tập trung và thói quen) có hiệu quả
mạnh mẽ trên đời sống người t́m
đạo hơn là năng lượng của bí huyệt
tim, năng lượng này chỉ chậm chạp, rất
chậm đi vào hoạt động có hiệu quả. Nói
rơ hơn: các năng lượng của phàm ngă vốn
dĩ mạnh hơn nhiều trong việc chi phối
cuộc sống của kẻ thường nhân hơn là
năng lượng của linh hồn. Qua vô số thời
đại, linh hồn đă cố gắng nắm bắt
hữu hiệu điểm biểu lộ của nó,
tức phàm ngă, nhưng đă thất bại cho đến
giai đoạn rất muộn của chu kỳ nhập
thế. Tuy thế, xét cho cùng th́ năng lượng của
bí huyệt tim và năng lượng của linh hồn vô
cùng mạnh hơn năng lượng của bí huyệt
đan điền hoặc của phàm ngă. Tuy nhiên, qua vô
số thời đại, năng lượng của bí
huyệt tim và năng lượng của linh hồn đă
thiếu những vận cụ ứng đáp
được trong ba cơi thấp.
585
Mặt
khác, điều này giản dị hóa vấn đề
của nhà trị liệu, bởi v́, điều
trước nhất y phải xác định là xem coi
năng lượng linh hồn hay năng lượng phàm
ngă đang chế ngự bệnh nhân. Đó là một
vấn đề rất dễ khám phá. Khuynh hướng
sống của bệnh nhân, cách sống hoặc cách phụng
sự của người ấy, cá tính mà y để
lộ, tất cả đều biểu thị cho các
lực đang chi phối sự sống biểu lộ
của y. Nếu bệnh nhân là người t́m đạo thực
sự và đang lưu ư để bước lên Con
Đường Đệ Tử, th́ y sẽ giúp vào
việc phát hiện ra bằng sự thừa nhận thành
thật. Tuy nhiên, nếu các lực phàm ngă của
người bệnh không đáp ứng được
với ảnh hưởng của linh hồn nhà trị
liệu, th́ phàm ngă sẽ vẫn không ư thức
được cơ may này và hoàn toàn không biết
được sự tác động đó. V́ thế, nhà
trị liệu có thể dễ dàng xác nhận các t́nh
huống này.
Đây là một định luật lâu dài và chứa những phát biểu rất quan trọng. Muốn được bổ ích chúng ta cần nghiên cứu chúng thật cẩn thận để biết được ẩn ư và thực nghĩa của chúng. Hiểu biết này phải theo quan điểm của tâm thức vị điểm đạo đồ chớ không theo góc nh́n của hạng thường nhân hoặc người thiếu sáng suốt. Thế nên, chúng ta sẽ chọn riêng ra từng câu, và t́m hiểu ư nghĩa của nó. Trong định luật này có bảy xác quyết, nhiều ẩn ư của chúng quen thuộc với bạn ở ngoài đời. Tuy nhiên, có thể được giảng lại liên quan với thuật chữa trị.
1. Không có ǵ ngoài năng lượng, v́ Thượng Đế là Sự Sống.
Đây là một điều khái quát rộng lớn, có thể chuyển tải nhiều ư tưởng, đối với vị đạo đồ, nhưng đối với người suy tưởng bậc trung, chắc chắn nó không truyền đạt bao nhiêu ư nghĩa. Đối với người ấy, sự sống về thực chất và đơn giản chỉ hàm ư những ǵ làm cho h́nh hài biểu lộ, duy tŕ h́nh hài đó tồn tại và luôn luôn biểu dương sự hiện hữu của h́nh hài ấy bằng hoạt động thuộc loại này hoặc loại khác – một hoạt động vốn chứng tỏ sức sống (livingness) của nó. Tuy nhiên, chúng ta áp dụng từ ngữ sinh động (living) một cách sai lầm để chỉ khả năng của h́nh hài khi biểu lộ và thể hiện phẩm tính và bản chất của nó. Tuy nhiên, sức sống và phẩm tính lại tồn tại tách biệt vói h́nh hài và thường thể hiện chính yếu và hữu ích qua việc áp dụng Luật Tử Vong.
Sự thật về thiên tính và về cội nguồn thiêng liêng được chứng minh bằng sự thật của sự sống. Điều này thường bị bỏ sót và tầm quan trọng được đặt vào khái niệm rằng sự sống tạo ra (evokes) và bảo dưỡng một h́nh hài vốn giữ chặt tinh hoa sự sống (life-essence) và chứng minh sự thực về sự hiện hữu của nó.
586
Chính
sự sống của Nguồn Cội Duy Nhất của
mọi h́nh hài biểu lộ, tạo nên các liên quan và các
phẩm tính cốt yếu, và dầu cho điều này
đă không ngớt được xác nhận, Sự
Sống đó vẫn c̣n là một khuôn sáo vô nghĩa. Tuy
nhiên, khi con người bắt đầu nhận thức
Thượng Đế dưới h́nh thức năng
lượng, và chính họ là những trạng thái của
năng lượng đó; khi họ bắt đầu làm
việc một cách hữu thức với các năng lượng
và nhận ra được sự phân biệt trong không gian
và thời gian giữa các năng lượng và các lực;
và sau đó, khi linh hồn bắt đầu hoạt động
mạnh mẽ hơn, th́ sự thực về đời
sống sẽ được nhận thức theo một
lối mới và hầu như phi thường. Nên nhớ
rằng linh hồn là năng lượng thứ cấp, nó
chứng minh sự hiện hữu của năng
lượng nguyên thủy và chịu trách nhiệm cho sự
xuất hiện của dạng năng lượng thứ
ba – hữu h́nh và biểu lộ ra ngoài. Cuối cùng, v́ h́nh
hài mà linh hồn có thể thỉnh nguyện đến
sự sống. Ở đây, có một manh mối cho
chủ đề tổng quát của chúng ta.
Cho đến nay cơ cấu để đạt đến trạng thái sự sống – tức giác tuyến và tác nhân, tức ư chí tinh thần vẫn chưa được t́m hiểu theo bất cứ ư nghĩa hữu ích nào. Ngày nay, các ám chỉ đầu tiên mơ hồ về công dụng của giác tuyến và mục đích của nó liên quan với phàm ngă và Tam Thượng Thể Tinh Thần, đang được một ít đạo sinh trên thế giới nghiên cứu. Số người này sẽ ngày một đông thêm khi cả hai phàm ngă lẫn linh hồn lập được sự giao tiếp, ḥa nhập, và nhiều người được điểm đạo hơn. Do đó, mục đích đối với chính sự hiện hữu của giới thứ tư trong thiên nhiên (với vai tṛ tác nhân truyền chuyển cho các năng lượng tinh thần cao siêu cho ba giới thấp) sẽ bắt đầu hiện rơ, và trong việc h́nh thành nhóm, con người sẽ bắt đầu một cách tự giác công việc “cứu độ” – khỏi phải nói, theo nghĩa huyền bí– các sinh linh tập hợp thành nhóm này. Lần đầu tiên Đại THiên Địa với chủ đích và các động cơ thúc đẩy của nó sẽ bắt đầu tự phản chiếu trong giới nhân loại theo một lối mới và mạnh mẽ hơn. Đến lượt nhân loại này sẽ trở nên đại thiên địa chứa ba trạng thái thấp của chúng sinh có ư thức – tức là giới thú cầm, thảo mộc và giới khoáng vật.
587
Trọn
cả vấn đề này là một bí nhiệm sâu sắc,
nó vẫn như thế chỉ v́ giới thứ tư c̣n
kém phát triển. Từ chủ đích ban đầu đă
có một sự lệch hướng. Tuy nhiên, chức
năng và lĩnh vực phụng sự của nhân loại
chỉ có thể được nhận thức và thể
hiện khi trạng thái cao nhất là trạng thái ư chí
đă được đưa vào biểu lộ hữu
thức trong nhân loại, qua việc kiến tạo và
sử dụng giác tuyến. Trạng thái sự sống có
thể lưu chuyển dọc theo cầu vồng nối
liền, và chính điều này được Đức
Christ nhắc đến, khi Ngài nói rằng Ngài đă
đến, để cho trên thế gian có được
“sự sống phong phú hơn”. Luôn luôn có sự sống,
nhưng khi tâm thức Christ tỏa chiếu (như
trường hợp hiện nay, dầu ở trên qui mô
nhỏ) và khi số người biểu lộ được
tâm thức này đă thực sự tăng lên, kết
luận là giác tuyến được thiết lập
vững vàng. Bấy giờ cầu vồng nối liền
có thể được vượt qua, c̣n sự sống
phong phú với một ư nghĩa mới mẻ và thúc
đẩy, với ư thức thôi thúc mới cũng có
thể tuôn đổ qua nhân loại đi vào các giới
dưới nhân loại trong thiên nhiên. Đây là bằng
chứng của bản chất thiêng liêng và là chứng tích
nổi bật về nguồn cội thiêng liêng của con
người và là hy vọng, hy vọng cứu rỗi,
của thế gian.
Năng lượng và các mănh lực tạo ra tổng thể của chúng sinh vẫn hiện hữu. Đây là một chân lư căn bản hay một khuôn sáo khác mà dựa vào đó khoa huyền linh học được xây dựng, và thuật trị liệu phải nhận ra. Dù sao chăng nữa, không có điều ǵ khác trong biểu lộ thuộc loại nào. Bệnh tật chính là một h́nh thức của năng lượng sinh động, lộ ra thành các lực gây hủy diệt hoặc tạo ra chết chóc. Thế nên, nếu tiền đề căn bản của chúng ta là đúng, th́ bệnh tật cũng là một h́nh thức của biểu lộ thiêng liêng, v́, cái mà chúng ta hiểu là ác th́ cũng là mặt trái của cái mà chúng ta gọi là thiện. Chúng ta sẽ làm giảm giá trị vấn đề hoặc gây nên một ấn tượng sai lầm hay chăng nếu chúng ta xem cái ác (ít ra cũng về phương diện bệnh tật) là cái thiện bị đặt không đúng chỗ hay là bị điều chỉnh sai lầm? Các bạn có hiểu lầm hay chăng nếu tôi bảo rằng bệnh tật là năng lượng không tác động theo mong muốn hoặc không đúng theo kế hoạch? Các năng lượng đi vào được liên kết với các mănh lực và kết quả là tạo ra sức khỏe tốt, h́nh hài khỏe mạnh thích hợp và hoạt động linh hoạt. Tuy nhiên, cũng các năng lượng đi vào đó có thể được đưa vào liên kết với cùng các lực như trên, mà lại tạo nên một điểm bất đồng, gây ra một vùng bị bệnh, đau nhức và có thể đưa đến cái chết. Thực ra các năng lượng và lực này vẫn có cùng bản chất thiêng liêng như trước, nhưng mối liên hệ được thiết lập đă tạo ra vấn đề. Nếu câu này được nghiên cứu kỹ th́ rơ ràng là một định nghĩa như là định nghĩa nói trên có thể được dùng để bao gồm mọi h́nh thức khó khăn, để rồi sau rốt trở thành kẻ tạo ra t́nh trạng (hoặc tốt hoặc xấu) là trạng thái liên hệ. Phát biểu này vô cùng quan trọng trong mọi tư duy của bạn.
588
2.
Hai ḍng năng lượng gặp nhau trong con người,
nhưng hiện đang có năm ḍng khác. V́ mỗi ḍng
năng lượng được nhận ra là một tâm
điểm tiếp xúc.
Hai năng lượng gặp nhau trong con người là hai trạng thái của Chân Thần, của Đấng Duy Nhất đang biểu lộ. Thực ra Chân Thần biểu hiện dưới h́nh thức một lưỡng nguyên (duality). Nó tự biểu lộ dưới h́nh thức ư chí và bác ái như là atma-buddhi và hai năng lượng này khi được đưa vào liên hệ với điểm trí tuệ, tức là với trạng thái thứ ba của thiên tính, tạo nên linh hồn và kế đó là thế giới biểu lộ hữu h́nh. Bấy giờ, trên hành tinh có sự phát lộ ư chí, bác ái và trí tuệ hay thông tuệ, tức Atma-Buddhi- Manas.
589
Khi chính
linh hồn bám chặt dưới h́nh thức tâm thức và
sự sống trong con người, th́ con người
đó góp thêm vào cái thứ ba vốn đang tiềm tàng hay
hiện ra theo nghiệp quả trong mọi vật chất,
tức là Manas hay trí tuệ. Trí tuệ này được kế
thừa hay được giữ tan ḥa trong vật
chất từ thái dương hệ trước. Trong thái
dương hệ đó; trí tuệ đă được
khai mở và đă được duy tŕ trong vật
chất để tạo căn bản cho cuộc phát
triển tiến hóa này, tức là thái dương hệ
thứ nh́. Đừng quên rằng bảy cơi của thái
dương hệ chúng ta hợp thành bảy cơi phụ
của cơi hồng trần vũ trụ. Thế nên, tinh
thần là vật chất ở mức biểu lộ cao
nhất, c̣n vật chất là tinh thần ở mức
biểu lộ thấp nhất. Sự sống tự phân
hóa thành ư chí và bác ái, thành những năng lượng thúc
đẩy lớn lao ẩn trong toàn bộ diễn tŕnh
tiến hóa và thúc đẩy diễn tŕnh tiến hóa
đến chỗ tất phải hoàn thành.
Với vai tṛ là những năng lượng, Atma-Buddhi tự bám chặt vào hiện thể của linh hồn, nơi hoa sen Chân Ngă. Hoạt động phối hợp của chúng khơi dậy sự đáp ứng từ chất liệu của cơi trí, lúc đó chất liệu này mới góp phần của riêng nó. Phản ứng của nó tạo ra cái mà chúng ta gọi là thượng trí, vốn có bản chất tinh anh mảnh mai của một phân thân đến nỗi nó phải bắt buộc liên kết chính nó với hai trạng thái cao hơn và trở nên một phần của Tam Thượng Thể Tinh Thần. Các xoáy lực được tạo nên dưới tác động của ư chí thiêng liêng, biểu hiện mục đích thiêng liêng và hợp nhất với Bản Thể (với vai tṛ là thực thể, chớ không phải là một tính chất) tạo ra hoa sen chơn ngă tức là vận cụ của “linh hồn đă huyền đồng”, được đưa vào biểu hiện bằng kết quả thứ ba của sự tác động của atma-buddhi vào ba cơi thấp. Trí cụ thể và trí tuệ của con người bắt đầu biểu lộ. Thế nên, có một sự giống nhau lạ lùng giữa ba trạng thái thiêng liêng đang biểu lộ với con người tinh thần ở cơi trí. Sự tương ứng như sau:
Chân thần Trí trừu tượng
Linh hồn .. Hoa sen chơn ngă
Phàm ngă . Hạ trí hay trí cụ thể.
590
Cái
trừu tượng mơ hồ tức Chân Thần, qua vô
số thời kỳ dường như không chút ǵ liên
hệ với linh hồn và phàm ngă. Cả hai đă và
đang bận với việc thiết lập một
sự ḥa hợp mật thiết hay là sự nhất quán,
đúng lúc, và theo sức thôi thúc tiến hóa. Qua nhiều
thời đại, trí trừu tượng vẫn c̣n là
một cái ǵ không thể hiểu và ở ngoài những cách
biểu lộ và suy tư của người thiên về
trí cảm (tức là xúc cảm và hạ trí), và cuối cùng
là linh hồn và trí cụ thể (hay là chủ thể làm
sáng tỏ và tác nhân truyền giác ngộ). Nếu
được cứu xét thích đáng, th́ các tương
đồng này sẽ giúp đem lại nhiều giác
ngộ.
Do đó, trong con người có hai năng lượng chính giữ chặt. Một cái không nhận thức được mà chúng ta gọi là Bản Lai Diện Mục (Presence), c̣n cái kia nhận thức được mà chúng ta gọi là Thiên Thần Bản Lai Diện Mục. Cả hai là linh hồn (thái dương thiên thần) và Chân Thần. Một cái thể nhập trong cung Chân Thần, c̣n cái kia trong cung linh hồn. Cả hai năng lượng này đều chi phối phàm nhân một cách sống động hay tế vi.
Năm năng lượng khác hiện có là cung của trí tuệ hay là lực chi phối của thể trí; cung của bản chất t́nh cảm và cung của thể xác cộng với cung thứ tư là cung của phàm ngă. Theo một bản văn xưa, th́ cung của thể xác “đang tiến lên hướng về sự kết hợp một cách huyền linh, trong khi đó, các cung kia đều đi xuống”. Cung phàm ngă là một hậu quả hay kết quả của chu kỳ rộng lớn của các lần luân hồi. Do đó chúng ta có:
1.Cung Chân thần
2.Cung linh hồn
3.Cung của thể trí (mind)
4.Cung của t́nh cảm (emotions)
5.Cung của xác thân
6.Cung của phàm nhân
7.Cung của hành tinh.
Cung của hành tinh luôn luôn là Cung Ba, Cung Thông Tuệ linh hoạt bởi v́ cung này chi phối địa cầu chúng ta, và có tiềm năng lớn, giúp con người có thể “xúc tiến công việc của ḿnh trong thế giới sinh hoạt vật chất của hành tinh”.
591
Ở
nơi khác, chỉ do t́nh cờ tôi đă đề cập
đến các cung này và không nói nhiều đến cung hành
tinh. Tôi đă chú trọng đến việc phân tích các cung
đang chi phối, theo một lối khác. Trong lối phân
tích này chỉ có 5 cung là thật có ích cho con người.
Đó là:
1. Cung linh hồn
2. Cung phàm ngă
3. Cung của trí tuệ
4. Cung của t́nh cảm
5. Cung của thể xác
Tuy nhiên, với việc tạo ra và phát triển giác tuyến, th́ cung Chân thần cũng phải theo đúng, và kế đó, cái vốn là đối cực của nó, tức “sức sống” của hành tinh, cung ba, sẽ phải được nhận ra. Ở đây, tôi đă truyền đạt cho bạn một điểm rất quan trọng. Tất cả những năng lượng này đều đóng vai tṛ linh hoạt trong chu kỳ sống của mỗi người, và nhà trị liệu không thể hoàn toàn không biết đến, dầu rằng hiện nay kiến thức đó có thể tương đối vô ích.
3. Sự xung khắc của các năng lượng này với các lực và giữa chính các lực với nhau, tạo ra các bệnh về xác thân của con người.
Ở đây bạn sẽ lưu ư rằng, theo định luật này th́ các bệnh tật được tạo ra bằng hai lối:
1) Do sự xung khắc của các năng lượng với các lực.
2) Do sự xung khắc của các mănh lực giữa chính chúng với nhau.
592
Hiển
nhiên là cuộc đụng độ kép này chỉ xảy
ra ở bề ngoài. Ở loại thứ nhất, sự
xung đột xảy ra trong cuộc sống phàm nhân khi linh
hồn dứt khoát chuyển sự chú ư của nó vào các
hiện thể của nó và cố gắng kiểm soát chúng.
Người nào càng quyết đặt phàm ngă của ḿnh
vào sự kiềm chế của linh hồn, th́ sự xung
đột càng mạnh mẽ, hậu quả là t́nh
trạng xác thân càng phức tạp. Loại này gồm
đa số các bệnh của các đệ tử và các nhà
thần bí, phần lớn có bản chất thần kinh và
thường có ảnh hưởng đến tim hoặc
ḍng máu. Trong đa số trường hợp, chúng chỉ
giới hạn vào vùng trên cách mô và do đó vào các vùng
chịu sự chi phối của các bí huyệt đầu,
cổ họng và tim. Một số những trường
hợp có thể gọi là “trung gian” cũng được
kể vào các bệnh. Tuy nhiên, những bệnh này
được xác định do sự chuyển di năng
lượng (dưới sự tác động của linh
hồn) từ huyệt đan điền lên bí huyệt tim
và “con đường” liên hệ chỉ là cách mô.
Loại thứ nhất này cũng gồm những phiền toái xảy ra khi năng lượng của thể t́nh cảm tác động vào các lực của thể dĩ thái, gây nên một sự xáo trộn t́nh cảm, v́ thế mà tạo ra sự khó khăn nghiêm trọng ở huyệt đan điền, đưa tới các xáo trộn ở dạ dày, ruột và gan. Các xáo trộn này đều là kết quả của sự xung khắc giữa năng lượng và các lực. Ở điểm này, tất cả những ǵ tôi có thể làm là chỉ ra loại khó khăn nào liên hệ đến loại xung khắc nào. Chủ đề này thật là không thích hợp để bàn đến một cách vắn tắt như tôi định làm ở đây.
593
Loại
thứ nh́ liên quan đến sự xung khắc giữa
lực với lực; nó liên can đến thể dĩ
thái và các lực liên hệ là lực ở trong các bí
huyệt lớn và nhỏ; liên quan tới sự liên hệ
của chúng với nhau và phản ứng bên trong của
chúng đối với sự tác động của các
năng lượng đến từ bên ngoài thể dĩ
thái. Các lực này và sự tương tác của chúng
tạo nên các bệnh tật thông thường của con
người, và chi phối các xáo trộn trong các cơ quan
vật chất và các vùng của thể xác ở chung quanh
các bí huyệt này. Thực ra chúng là các yếu tố chi
phối chính đối với đại khối nhân
loại trong vô lượng thời, măi cho đến khi
linh hồn “lưu tâm” đến sự chiếm hữu
để kiểm soát hoàn toàn các cơ cấu của nó
trong ba cơi thấp. Những khó khăn thứ yếu này do
sự tương tác giữa các bí huyệt, gồm ba
loại, chúng ta nên lưu ư cẩn thận:
1. Sự tương tác giữa:
a. Các bí huyệt ở trên cách mô, là bí huyệt đầu, cổ họng và tim, và thi thoảng là bí huyệt ấn đường.
b. Các bí huyệt ở dưới cách mô và sự liên hệ của chúng với nhau.
2. Sự liên hệ của một số bí huyệt với nhau, xảy ra theo Định Luật Chuyển Hóa (Law of Transmutation), hay là tiến tŕnh nâng các mănh lực từ bí huyệt này lên bí huyệt khác.
a. Từ bí huyệt xương cùng lên bí huyệt cổ họng.
b. Từ bí huyệt đan điền lên bí huyệt tim.
c. Từ bí huyệt chót xương sống lên bí huyệt đầu.
3. Sự tác động của “năng lượng” (lưu ư sự chính xác về kỹ thuật của cách diễn đạt của tôi) của các bí huyệt trên cách mô lên các bí huyệt dưới cách mô.
594
Đây
là tiến tŕnh ngược lại với tiến tŕnh
xảy ra khi các lực bên dưới cách mô được
nâng lên đến các bí huyệt trên cách mô. Trong loại liên
hệ thứ ba này bạn có việc thực hành thế
mạnh của từ điện; c̣n trong tiến tŕnh kia,
bạn có sự biểu lộ bức xạ. Ở một
giai đoạn phát triển nào đó, hai tiến tŕnh này
liên kết chặt chẽ với nhau.
Dưới tất cả các liên quan này đều có viễn cảnh của các khó khăn, dẫn đến một hiệu quả bất hảo nơi các cơ quan của thể xác trong vùng liên hệ. Trong những giai đoạn đầu của sự liên hệ giữa các bí huyệt ở trên cách mô với các bí huyệt ở dưới, con người thường hoàn toàn không biết đến những ǵ đang diễn tiến, lúc đó, y chỉ là nạn nhân của sự kích thích do bí huyệt phát ra năng lượng áp đặt vào bí huyệt nhận sự tác động của nó, hoặc y trở thành nạn nhân của suy nhược mất sinh khí (v́ thế tạo ra nhiều h́nh thức bệnh thể chất) khi các bí huyệt ấy đáp lại sự kích thích. Tất cả chỉ là vấn đề thăng bằng hay quân b́nh mà người sáng suốt và người t́m đạo phải cố gắng đạt cho được.
Bây giờ, chúng ta đến một phát biểu rất mơ hồ, và là phát biểu được cố ư đưa ra như thế:
4. Sự mâu thuẫn của ḍng năng lượng thứ nhất và ḍng thứ nh́ tồn tại qua nhiều thời đại, cho đến khi nào đạt được đỉnh núi – đó là đỉnh núi vĩ đại đầu tiên.
Câu này nói một cách mơ hồ (lại có chủ đích như thế) đến sự mâu thuẫn giữa các năng lượng trên cách mô – b́nh thường đến từ linh hồn trên cơi riêng của nó – với các lực ở dưới cách mô (cơ hoành). Đây là một xung khắc chính yếu và kéo dài. Nó bắt đầu khi bí huyệt đan điền trở nên trội và mạnh, tạo nên sự khủng hoảng như vào thời Atlantis. V́ đa số con người c̣n ở trong tâm thức thời Atlantis, phần lớn đang bị bản chất xúc cảm của họ chi phối, nên ngày nay, các khủng hoảng này mới xuất hiện. Cuối cùng và nói về mặt siêu h́nh th́ bí huyệt đan điền bắt đầu có một hiệu ứng phát xạ để đáp ứng với “tiếng gọi” từ lực của bí huyệt tim. Khi được điểm đạo lần thứ nhất, sự tương tác quan trọng đầu tiên được thiết lập giữa hai bí huyệt và hoạt động phối kết đầu tiên được thiết lập. Cổ luận diễn tả: “Giờ đây cái ở trên liên kết với cái ở dưới, nhưng cái ở dưới mất cá tính của nó khi nhập vào cái trên”. Người mẹ không c̣n trông coi v́ Chúa Hài Đồng (Christ Child) đă đảm nhận vị trí quan trọng. Linh hồn nắm quyền điều khiển và đưa người t́m đạo từ đỉnh núi này đến đỉnh núi khác.
5952
Ở
cuộc điểm đạo thứ nhất và ngày càng
tăng ở tất cả các cuộc điểm
đạo, năng lượng được đưa
vào cuộc xung khắc chính với các lực. Năng lượng
của linh hồn lôi cuốn thể dĩ thái và mọi bí
huyệt trở nên những “băi chiến trường”,
với một bí huyệt được chú trọng
nhiều hơn các bí huyệt khác. Bản chất của
cuộc chiến không c̣n là “giữa các lực và lẫn nhau
nữa”, mà bây giờ là giữa các năng lượng
với các lực, và chính cuộc chiến này tạo nên t́nh
trạng sắc bén của các thử thách cho cuộc
điểm đạo. Chính cuộc chiến đấu này
gây nên biết bao nhiêu bệnh thể chất trong số
những người đă được hay đang
chuẩn bị để được điểm
đạo lần thứ nhất và thứ nh́. Và
điều đó giải thích cho bệnh của các vị
thánh !
Một khoa học lớn về các trung tâm lực, một ngày nào đó sẽ xuất hiện, khoa này sẽ làm sáng tỏ toàn thể vấn đề phức tạp này. Tuy nhiên, chưa đến lúc đó. Hiện giờ, nếu khoa này được dạy công khai, th́ kết quả sẽ là các tư tưởng của con người sẽ chuyển sang sự thực về các bí huyệt và các vùng mà những bí huyệt ấy kiểm soát, chứ không chuyển qua các năng lượng tuôn đổ qua chúng. Sẽ có một kích thích có hại và bất hảo, hoặc việc mất sinh lực của chất liệu của các bí huyệt, đưa đến hậu quả là bệnh tật trầm trọng. Định luật bao giờ cũng đúng là “năng lượng theo sau tư tưởng”, và năng lượng đó có thể là bức xạ hoặc từ lực, nhưng không được giữ nó lại ở trạng thái tĩnh ở trong một bí huyệt. Khoa học thực sự về các bí huyệt sẽ chỉ được phép lưu hành tự do, khi – và chỉ khi nào con người biết được ít nhất các nguyên tắc cơ bản về chiều hướng tư tưởng và cách kiểm soát những tác động của năng lượng.
5. Cuộc chiến giữa các lực tạo nên mọi bệnh tật, đau yếu và thống khổ trong xác thân; chúng t́m cách giải tỏa bằng sự chết.
596
Ở
đây, nên lưu ư có một sự phân biệt lư thú. Khi
xảy đến, cái chết là kết quả của hai
sự việc:
1. Cuộc chiến giữa các lực, chứ không phải giữa năng lượng với các lực. Khu vực xung đột là thể dĩ thái và thể xác; không có năng lượng nào đến từ bên ngoài v́ con người quá đau yếu.
2. Mất ư-chí-muốn-sống. Người bệnh đă nhượng bộ, cuộc chiến bên trong đă quá nhiều đối với y, y không thể chịu đựng. Y không thể đưa vào năng lượng nào từ bên ngoài để chống lại các lực đang gây xung đột; y đă đạt đến điểm không c̣n muốn làm ǵ thêm nữa.
Hai giai đoạn này của tiến tŕnh hấp hối cho thấy vận số của bệnh nhân, và nhà trị liệu nên lưu ư ngay (khi thấy có các giai đoạn đó), lúc đó y nên dùng sự khéo léo của ḿnh giúp bệnh nhân từ trần và không cố gắng thực thi việc chữa trị nữa. Cánh cửa đi vào đối với các năng lượng ban sự sống đă bị niêm phong. Không một thứ ǵ có thể nhập vào để giúp nhà chữa trị, c̣n sự xung đột giữa các lực – có bản chất tổng quát hoặc bị giới hạn vào một sự xung đột quyết liệt ở một khu vực đặc biệt – tạo nên sự bất đồng/va chạm nhiều đến nỗi không c̣n hy vọng ǵ nữa, ngoại trừ cái chết. Qua câu này, có thể thấy rơ rằng, bệnh tật liên quan đến điểm ma sát (bất đồng), hoặc điểm có xáo trộn nghiêm trọng; mọi ốm đau đều có liên quan đến phản ứng chung của con người đối với vùng có xáo trộn và đến t́nh trạng ốm yếu do bệnh gây ra, trong khi đau đớn thể xác (bodily pain) liên quan đến sự khó chịu của vùng bị bệnh và chính là chỉ dẫn về bản chất của căn bệnh. Mọi ngôn từ dùng trong các định luật và qui luật này đều được chọn lựa rất cẩn thận và cho dù theo quan điểm của người diễn dịch th́ vẫn chưa thỏa đáng, nhưng không phải là rườm rà mà cốt diễn tả những ư nghĩa khác nhau.
6. Hai, năm, và kế đó là bảy, cộng với những ǵ chúng tạo nên, nắm giữ bí mật.
597
Liệt
kê trên thực chất là một tập hợp những ǵ
đă được đưa ra trước đây, ư
nghĩa hời hợt nhất của nó và là ư nghĩa
hữu dụng nhất cho nhà trị liệu, có thể
được diễn đạt một cách đơn
giản như sau:
Nhà trị liệu phải nhớ sự kiện về hai năng lượng chính vốn có trong mỗi người, đó là cung linh hồn và cung phàm ngă. Kế đó, y phải nhớ rằng cùng với hai cung này, y phải thêm vào ba cung chi phối tạo thành năm cung nói trên: Cung của thể trí, cung của thể t́nh cảm và cung của thể xác. Liệt kê này thường là đủ đối với tất cả những người thường hoặc người trung b́nh. Tuy nhiên nếu bệnh nhân là người rất tiến hóa, h́nh thức liệt kê khác sẽ được sử dụng. Sẽ cần thêm vào hai năng lượng nữa, lúc đó hai năng lượng sẽ hiện hữu với sức mạnh thực sự: cung của Chân thần và cung của hành tinh vốn là cung ba. Cung hành tinh này khi rất linh hoạt (như trường hợp với người rất tiến hóa và những người đă đạt được mức hội nhập cao và tổng quát) th́ nó có một hiệu quả mạnh mẽ. Prana của hành tinh đi vào mạnh mẽ theo cung hành tinh, và prana này có thể được dùng để chữa trị. Một lư do giải thích tại sao sức khỏe tổng quát của những người tiến hóa cao thường thường là tốt, đó là v́ năng lượng prana từ hành tinh đă lưu chuyển thông suốt xuyên qua cơ thể họ. Vị Chân Sư, đang làm việc qua một thể xác tương đối hoàn hảo, dựa vào chính năng lượng này để giữ cho nó được khang kiện. Đây là một mảng kiến thức có hơi mới mẻ và là kiến thức – khi nhận thức được – sẽ tỏ ra vừa đơn giản vừa hữu lư. Đối với nhà trị liệu, trong trường hợp này, “những ǵ mà chúng tạo nên”, có nghĩa là ngoại thể hữu h́nh. Có các ư nghĩa khác nữa, nhưng ở đây, chúng ta không cần bàn tới.
598
“Bí
mật” được nhắc đến (trong phát
biểu 6) là việc tiết lộ cách có thể giữ
sức khỏe tráng kiện. Đó không phải là bí mật
làm cách nào để chữa trị thân xác, khi có “đau
yếu trong cơ thể”. Nhưng có một bí quyết
để giữ sức khỏe tráng kiện mà những
người trên ba lần điểm đạo
đều biết. Nếu muốn họ có thể hoàn toàn
sử dụng. Tuy nhiên, họ có thể không luôn chọn
thế, trừ phi họ đang hoạt động
với các phần khác của Thiên Cơ, không liên quan
đến nhân loại. Nếu họ là những người
đang chăm lo khai mở tâm thức trong con người
và là những người phụng sự cho và ở trong
giới nhân loại, họ có thể biết được
bí quyết này, nhưng có thể đồng thời
lại không chọn để hưởng lợi ích
của nó, bởi v́ họ cảm thấy cần hoàn toàn
ḥa ḿnh với nhân loại. V́ thế, họ chọn
thực tâm chia sớt mọi kinh nghiệm của nhân
loại và từ trần theo những lối chung cho
phần nhân loại c̣n lại. Toàn bộ vấn đề
ḥa ḿnh nằm đàng sau mọi biểu lộ. Chính sự
ḥa ḿnh với hay là của tinh thần và vật chất
mới là bí mật của sự xuất lộ thiêng liêng.
Như các bạn đă rơ, một trong các nguyên nhân chính
của bệnh tật là v́ người ta dễ dàng
đồng hoá chính ḿnh với khía cạnh sắc tướng
(tức là với nhiều mănh lực được thu
hẹp – thu hẹp trong ṿng giới hạn của phàm ngă).
Con người không quan tâm đến việc đồng
nhất hóa chính ḿnh với chủ thể tạo ra h́nh hài,
tức chân nhân và với các năng lượng mà y t́m cách hướng
đến, mà – trong chu kỳ tiến hóa về sau – y
nhất định phải hướng đến.
Ở đây cũng có một nghĩa huyền bí liên hệ đến bảy cung khi chúng tự hiển lộ trong giới nhân loại.Việc biết được bí ẩn này giúp cho một Chân Sư kiểm soát được bệnh dịch và các bệnh lan rộng. Hiện thời, các bạn không dính dáng ǵ đến bí ẩn này. Nhân đây xin nói, việc tương đối thoát khỏi các bệnh dịch và bệnh truyền nhiễm thường theo sau chiến tranh một phần là do Thánh Đoàn vận dụng kiến thức về bảy cung này, cùng với kiến thức khoa học của chính nhân loại.
599
Cũng
liên quan đến vấn đề này (và tôi chỉ nói
đến khía cạnh có lợi của nó, có hai
Đấng trong Thánh Đoàn là Đức Mahachohan và
Đấng Đại Diện của Ngài ở cung 7.
Hiện nay các Ngài đang nắm giữ toàn thể bí
nhiệm này và các Ngài được năm vị Chân Sư
khác trợ giúp để áp dụng kiến thức đă
đạt được. Năm Đức Thầy này
đang làm việc chủ yếu với trường
tiến hóa thiên thần. Như các bạn biết, đó là
trường tiến hóa liên quan đến h́nh hài và trong
trường hợp đặc biệt này, liên quan tới
thiên thần chữa trị. Bảy Đấng này của
Thánh Đoàn đến phiên các Ngài được sự
trợ giúp của một trong các Hoạt Động
Phật, và cũng được trợ giúp của vị
đại diện của Tinh Quân Địa Cầu. Các
Ngài lại hợp thành hai, năm rồi bảy – một
liệt kê khác và là liệt kê mà khi nhập lại th́
bằng chín, chính là con số cuộc điểm
đạo. Liên hệ số học này đưa con
người đến mức y được “nhập
vào lănh vực hoàn thiện và không c̣n biết đến
những đau thương, thống khổ và nhờ
thế mà trí y bị lệch khỏi cái bên dưới
đến cái bên trên”.
Tôi đă đề cập đến mặt này của liên hệ nhân loại với vấn đề sức khỏe với mục đích chỉ cho bạn thấy các vấn đề mà chúng ta đang bàn thảo thật là tinh tế và huyền bí đến mức nào, và nhờ thế giúp cho cá nhân người bệnh có một ư thức cân đối, liên quan đến các bệnh cơ thể hay ngay cả sự chết của y cũng vậy.
7. Đây là định luật trị liệu thứ năm trong thế giới h́nh tướng.
Định luật thứ 5 này đầu tiên liên quan với nguyên khí thứ năm tức nguyên khí trí tuệ hay Manas. Chính nguyên khí này làm cho con người đúng theo bản chất của y. Chính nguyên khí này làm cho y thành một tù nhân bên trong h́nh hài và trên địa cầu, v́ thế mà khiến y dễ bị tổn thương và dễ bị bệnh tấn công về mặt h́nh thể. Các điều này tạo thành một phần của tác động ngàn đời của điều ác chống lại điều thiện. Chính nguyên khí thứ năm này khi được Con của Trí Tuệ, tức là Con của Thượng Đế, chế ngự và sử dụng, sẽ giúp con người tinh thần tự giải thoát khỏi mọi loại h́nh tướng, do đó mà thoát khỏi bệnh tật và chết chóc.
600
Điều
hiển nhiên là trong khi tự rèn luyện thuật
điều trị, nhà trị liệu phải hiểu rơ
ràng và không thiên vị một số sự kiện cực
kỳ đơn giản, nhưng có tính cách huyền bí sau
đây:
1. Việc trị liệu chỉ đơn thuần và chủ yếu là việc vận dụng các năng lượng.
2. Y phải thận trọng phân biệt các năng lượng với các mănh lực.
3. Nếu y mưu t́m thành công thực sự, y phải học cách đặt bệnh nhân càng chính xác càng tốt, đúng nấc thang tiến hóa.
4. Bắt buộc phải hiểu biết về các bí huyệt.
5. Chính y phải làm việc với tư cách một linh hồn, qua phàm ngă của y.
6. Liên hệ của y với người bệnh là một liên hệ về phàm nhân (trừ khi bệnh nhân tiến hóa cao).
7. Y phải xác định vị trí bí huyệt chi phối vùng có liên quan với điểm ma sát (điểm va chạm).
8. Cũng như tất cả những môn khác trong các môn học huyền bí, cả bệnh tật lẫn việc trị liệu đều là những khía cạnh của hệ thống “tương quan” vĩ đại, nó chi phối mọi biểu lộ.
601
Nếu
nhà trị liệu chọn tám điểm trên để quán
tưởng và trầm tư về chúng, th́ y sẽ
đặt một nền tảng vững chắc cho
mọi công việc cần làm. Chúng tương đối
đơn giản đến nỗi hiển nhiên là bất
cứ ai cũng có thể trở thành một nhà trị
liệu, nếu y chọn thế và sẵn sàng tuân theo
những điều cần thiết. Ư tưởng thông
thường cho rằng một người “bẩm sinh” là
nhà trị liệu, và v́ thế mà độc nhất,
thực ra, điều đó chỉ cho thấy rằng
đó là một trong những quan tâm chính có định
hướng của y. Cho nên, v́ mối quan tâm này, y đă chú
ư đến thuật trị liệu và v́ vậy
hướng về việc tiếp xúc với bệnh nhân.
Do tác động tất nhiên của định luật chi
phối tư tưởng, y khám phá ra rằng năng
lượng theo sau tư tưởng của y và tuôn
chảy qua y để đến với bệnh nhân. Khi
làm điều đó một cách thận trọng th́
việc chữa trị sẽ thường theo sau. Bất
cứ người nam hoặc nữ nào – thật t́nh quan
tâm đến và được thôi thúc bởi động
cơ phụng sự – biết tưởng nghĩ và yêu
thương, đều có thể làm kẻ chữa
trị. Đă đến lúc con người hiểu
được sự thật đó. Toàn thể tiến
tŕnh chữa trị là định hướng tư
tưởng. Nó liên quan đến việc định
hướng các ḍng năng lượng hoặc tách ra các
năng lượng đó; đây là một lối khác
để nói về bức xạ và từ điện.
Mọi điểm đạo đồ đều là nhà
trị liệu, và điểm đạo đồ càng
tiến hóa, th́ càng ít bận tâm đến các rắc
rối của các bí huyệt và lực, năng lượng
và hướng của năng lượng. Người
ấy trị liệu một cách tự nhiên, như
trường hợp của vị Điểm đạo
đồ Peter. Chúng ta đọc thấy về Ngài: “cái
bóng của Thánh Peter đi ngang qua cũng đủ chữa
lành mọi người trong họ”.
602
Sự
dị biệt chính được nhận thấy trong
thời gian chuyển tiếp (một chuyển tiếp
đến nhiều ngàn năm), giữa lối trị
liệu nêu trên với công việc của nhà trị
liệu kém tiến hóa hơn. Đó là những nhà trị
liệu vốn là các y sĩ thành thạo và những nhà y
học được thừa nhận, cũng như các
nhà trị liệu tinh thần sẽ được
thuận lợi rất nhiều hơn nhà trị liệu
chưa được huấn luyện, bởi v́ cách
chẩn bệnh của họ thường chính xác hơn
và năng lực h́nh dung của họ cũng sẽ
lớn hơn, do họ đă được huấn
luyện để quen với cấu trúc của cơ
thể và họ có nhiều hiểu biết về bệnh
lư học. Cho nên, từ đây, cho đến rất lâu
về sau này, nhà trị liệu tinh thần nên khôn ngoan mà
cộng tác luôn luôn với một y sĩ thành thạo. Nhà
trị liệu sẽ cung ứng kiến thức huyền
linh cần thiết. Hầu như đă qua cái thời mà
bất cứ một người nào tử tế, hảo
tâm và có tri thức tinh thần đều được
xem là nhà trị liệu. Bất cứ cách thực hành
trị liệu nào cũng cần có trước nhiều
năm nghiên cứu kỹ về bản chất của
năng lượng, về các loại cung, về các bí
huyệt. Tối thiểu cần đến ba năm cho
việc đó. Khi nghiên cứu đó được thêm vào
môn học của nhà y sĩ thành thạo, đă tốt
nghiệp ở những trường y khoa nổi danh
nhất của chúng ta, th́ lúc đó bạn sẽ có
được một cách trị liệu cho cơ thể
mới mẻ và hữu hiệu hơn nhiều so với
ngày nay. Chừng ấy, kiến thức chính thống và
huyền bí của nhà chữa trị, năng lực h́nh dung
và khả năng định hướng tư
tưởng của nhà trị liệu sẽ trở nên
hiện thực và hữu hiệu về mặt thực
hành.
Qui luật liên hệ với định luật V cho thấy rơ rằng cần phải có kiến thức huyền môn này, bởi v́ nó tŕnh bày rất rơ một số huấn thị cơ bản.
QUI LUẬT BA
Nhà trị liệu hăy tập trung năng lượng cần thiết bên trong bí huyệt cần thiết. Hăy để cho bí huyệt tương ứng với bí huyệt đang có như cầu. Hăy để cho cả hai được đồng bộ và cùng tăng thêm sức mạnh. Nhờ thế h́nh hài đang chờ sẽ trở nên thăng bằng trong hoạt động của nó. Nhờ thế mà hai và một, dưới sự định hướng đúng, sẽ được chữa trị.
Qui luật này đ̣i hỏi phải có hiểu biết về các bí huyệt, và như các bạn đă rơ, kiến thức này hăy c̣n phôi thai. Trong hầu hết các trường hợp, tất cả những điều cần biết là xác định vị trí của một bí huyệt. Tuy nhiên, đặc biệt là đối với những nhà trị liệu chưa thành thạo, th́ những hiểu biết trong sách này cũng đủ. Sự hiểu biết về cách cấu tạo, về t́nh trạng và khả năng đáp ứng của một bí huyệt với quá nhiều chi tiết sẽ gây bất lợi cho nhà trị liệu, v́ tư tưởng của y sẽ lệch sang chi tiết của h́nh hài và tách khỏi năng lượng và các chuyển vận của nó.
Ở đây qui luật đ̣i hỏi rằng do đă tự chỉnh hợp với linh hồn và “tiếp thu” năng lượng của linh hồn (nhờ đó làm cho chính ḿnh thành một vận hà cho mănh lực tinh thần), nhà trị liệu hướng năng lượng này vào vùng của chính bí huyệt của y vốn tương ứng với bí huyệt đang chi phối vùng có điểm va chạm nơi bệnh nhân. Thí dụ, nếu bệnh hoặc xáo trộn thể xác nằm nơi bao tử hoặc liên quan tới gan, th́ nhà trị liệu sẽ hướng năng lượng linh hồn của ḿnh vào huyệt đan điền, nằm trong phần dĩ thái của cột xương sống. Nếu bệnh nhân bị đau tim hoặc phổi, th́ nhà trị liệu sẽ dùng bí huyệt tim. C̣n với các bệnh ở phế quản, ở cổ họng, miệng hoặc tai th́ sử dụng bí huyệt cổ họng.
603
Thế
nên, có hai điều trở nên quan trọng có liên hệ
với chính nhà trị liệu.
1. Y phải biết tŕnh độ phát triển của chính ḿnh càng chính xác càng tốt; v́ điều đó sẽ cho y thấy rằng y có khả năng hay không để làm việc với một bí huyệt nào đó, hoặc với mọi bí huyệt. Muốn dùng bất cứ bí huyệt nào của ḿnh trong việc trị liệu, nhà trị liệu phải khơi hoạt chúng đến mức độ nào đó, và có thể tập trung năng lượng vào bất cứ bí huyệt nào y chọn – một cách hữu thức bằng quyền năng của tư tưởng, dưới sự tác động của ư chí. Điều này không có nghĩa là mọi bí huyệt đều được khơi hoạt và hoạt động thực sự. Tuy nhiên, nó sẽ có nghĩa là (nếu y muốn chữa trị cho tất cả) y không nên chỉ giới hạn vào việc dùng các bí huyệt dưới cơ hoành, mà tư tưởng có thể được hướng vào các bí huyệt cao, nhờ một nỗ lực của ư chí tinh thần. Nhiều người t́m đạo có thể làm điều này rất dễ dàng hơn là họ tưởng.
2. Khi chuyển năng lượng vào một bí huyệt nào đó trước khi hướng nó vào một bí huyệt trong cơ thể bệnh nhân, nhà trị liệu phải tránh nguy cơ để cho ḿnh bị kích thích quá độ. Đây là một điểm rất quan trọng. Rất nhiều bệnh và đau yếu xác thân của kẻ thường nhân đều ở hạ bộ, nên nhà trị liệu cần phải thường xuyên dùng bí huyệt đan điền. Việc này có thể đưa tới một t́nh trạng nghiêm trọng, đó là t́nh trạng quá xúc cảm và thậm chí t́nh trạng cảm dục tính (astralism) sắc bén về phía người chữa trị. Bấy giờ, y sẽ là nạn nhân của các hảo ư của ḿnh và của việc phụng sự tinh thần của ḿnh, v́ các hậu quả đều xấu như nhau. Năng lượng là một mănh lực vô tư và là một tác nhân hoàn toàn không thiên lệch. Ư định trong sạch, phụng sự vô tư lợi và thiện chí đều không phải là những che chở thực sự, dầu có các vô vị của nhà huyền linh học đa cảm. Thực ra sự hiện hữu của các t́nh trạng đáng mong muốn này chỉ tăng thêm khó khăn, v́ năng lượng linh hồn sẽ tuôn đổ vào với một lực lớn. Nhờ hiểu được những nguy cơ có liên quan, việc đánh giá sáng suốt về tính khả hữu và việc thông hiểu các biện pháp bảo vệ có khoa học và đúng kỹ thuật sẽ được đưa ra cho nhà trị liệu ở giai đoạn cuối của việc huấn luyện y. Hiện nay và v́ sự nguy hiểm lúc này không lớn lắm (do thiếu sức mạnh trong tư duy của con người và việc họ không có khả năng hướng dẫn tư tưởng)) nên biện pháp bảo vệ chính cốt ở khả năng của người chữa trị giữ tâm thức của y ổn định trong bí huyệt đầu, với “con mắt định hướng” quay về phía bí huyệt cần thiết. Điều này đ̣i hỏi một sức tập trung gấp đôi, và nhà trị liệu phải cố gắng để có khả năng làm điều đó.
604
Đây
chính là điểm để nhà trị liệu phân biệt
giữa phương pháp bức xạ và phương pháp
truyền từ điện. Nhờ tập trung năng
lượng linh hồn trong bí huyệt thích hợp, qua
năng lực định hướng từ bí huyệt
đầu (trung tâm của năng lượng linh hồn)
và nhờ sức mạnh của tư tưởng,
phương pháp dùng bức xạ kết thúc viên măn.
Phương pháp dùng bức xạ này đi qua hai giai
đoạn:
1.Giai đoạn linh hồn tỏa ra năng lượng vào bí huyệt đầu.
2.Giai đoạn nhà trị liệu điều khiển một tia của năng lượng ấy từ bí huyệt đầu đi vào “bí huyệt có nhu cầu”; nó được hội tụ và giữ ổn định ở đó.
Từ bí huyệt thích hợp này, giai đoạn đồng bộ với bí huyệt tương ứng trong cơ thể bệnh nhân được thiết lập. Nhà trị liệu tạo sự đồng bộ này không phải bằng cách phát một tia bức xạ vào bí huyệt đó, mà do dùng mănh lực của bí huyệt của ḿnh để khơi dậy sự ứng đáp từ bí huyệt của bệnh nhân; nó tác động như một thanh nam châm, đưa ra một tia rơ rệt từ bệnh nhân. Về mặt huyền bí, bức xạ ấy “làm sinh động” điểm va chạm trong khu vực bao quanh, và –nếu nhà trị liệu có nhăn thông– nhờ thế giúp y thấy được rơ ràng hơn trung tâm của xáo trộn, do đó đi đến việc chẩn đoán chính xác hơn. Thường thường nhà trị liệu tinh thần dựa vào việc chẩn đoán của thầy thuốc đang túc trực, nếu chính y không phải là y sĩ.
605
Giờ
đây, một tương tác được thiết
lập giữa nhà trị liệu và bệnh nhân trên các
cấp độ dĩ thái. Năng lượng của hai
bí huyệt đă được đồng bộ hóa
của họ giờ đang trở nên mật thiết,
đến lúc ấy nhà trị liệu phải quyết
định xem nên chữa trị bằng phương pháp
trục xuất hay là phương pháp kích hoạt. Cho nên y
phải xác định xem coi bí huyệt của bệnh nhân
có quá bị kích thích hay không, và xem coi số năng
lượng dư có nên bị trục xuất hoặc tách
ra, hoặc là xem coi có t́nh trạng thiếu sinh lực hay
không và năng lượng của bí huyệt có liên quan
cần thận trọng tăng thêm.
Tuy nhiên, ở đây có thể nêu ra một khả năng thứ ba xảy ra chậm hơn, nhưng trong mọi trường hợp th́ thực tế là nó đáng mong muốn hơn. Đó là việc đạt được sự quân b́nh của các năng lượng (giữa nhà trị liệu với bệnh nhân), nó sẽ giữ năng lượng ở trong khu vực có điểm ma sát và để cho căn bệnh tự nhiên được chữa lành. Điều này chỉ có thể xảy ra khi mối liên giao giữa bệnh nhân và nhà trị liệu được hoàn hảo. Bấy giờ nhiệm vụ duy nhất của nhà trị liệu là giữ vững t́nh thế, đem lại cho bệnh nhân niềm tin vào những năng lực sẵn có trong họ và khuyến khích giai đoạn kiên nhẫn chờ đợi. Bấy giờ, việc chữa trị sẽ kéo dài hơn và không có một ư thức hay giai đoạn va chạm tâm lư nào, là điều có thể xảy ra nếu có sự đột nhiên kích thích hoặc trục xuất triệt để được dùng đến.
Như bạn thấy, chúng ta đă ghi nhận ở đây ba phương pháp mà nhờ đó nhà trị liệu dùng mănh lực được tập trung bằng cách định hướng vào trong các bí huyệt của y:
1.
606
Để
trục xuất năng lượng thừa trong một bí
huyệt bị kích thích thái quá.
2. Để kích thích các bí huyệt của bệnh nhân theo những tiến tŕnh nhất định.
3. Để duy tŕ một trạng thái quân b́nh mà trong đó việc chữa trị b́nh thường có thể xảy ra.
Trong trường hợp thứ nhất, nhà trị liệu thận trọng tăng thêm sức mạnh của năng lượng chứa trong bí huyệt của y, sao cho nó trở nên có sức thu hút cực mạnh và tách ra việc cung cấp quá nhiều năng lượng trong bí huyệt của bệnh nhân. Trong trường hợp thứ nh́, nhà trị liệu phóng một tia năng lượng mạnh mẽ của riêng y vào bí huyệt tương ứng trong cơ thể bệnh nhân; đây là tác động của bức xạ và rất có hiệu quả. Trong trường hợp thứ ba, một sự tương tác được thiết lập để duy tŕ thế quân b́nh, và đẩy mạnh những hoạt động b́nh thường và ổn định trong bí huyệt chi phối vùng có xáo trộn.
Bạn cũng sẽ ghi nhận tại sao mọi tiến tŕnh này (và chúng tương đối đơn giản khi hiểu được) đều tùy thuộc vào quyết định của nhà trị liệu. Chính ở đây mà lầm lẫn có thể xảy ra, và người nào đang t́m cách làm việc theo những đường lối mà tôi đưa ra nên thận trọng, tiến hành chậm răi và cẩn thận đúng mức, cho dù việc trị liệu kém hiệu quả và không thành công. Thà không tạo được hiệu quả nào nơi bệnh nhân và t́nh trạng của họ, c̣n hơn là do mănh lực của sự quyết định thiếu khôn ngoan, tức là sức mạnh của tư tưởng và việc tập trung sự định hướng của con người, mà chúng ta làm cho bệnh nhân mau chết bằng cách th́nh ĺnh thu hồi năng lượng đang cần, hoặc bằng cách kích thích một bí huyệt đă quá bị kích thích và hoạt động quá độ.
607
Nói cho
cùng th́ mục đích trong ba cách giúp bệnh nhân bằng cách
làm việc trực tiếp với các bí huyệt liên
hệ, là để mang lại một hoạt động
lành mạnh và thăng bằng. Mục đích này ở
trường hợp một người tiến hóa cao th́
dễ đạt được hơn là ở
trường hợp một cá nhân mà nơi họ bí
huyệt chưa linh hoạt b́nh thường và chưa
thức động; và cái khó khăn thường là do tác
động của một bí huyệt phụ nào có trong 21 bí
huyệt phụ ở trong cơ thể, hơn là do một
trong bảy bí huyệt chính. Trong những trường
hợp này, giúp người bệnh bằng y khoa chính
thống và giải phẫu th́ dễ dàng nhiều hơn
bất cứ phương pháp trị liệu tinh thần
nào. Chính v́ lư do đó mà chỉ đến nay, nhà trị
liệu tinh thần mới trở nên quan trọng và công
việc của y mới có thể được thực
hiện phần nào. Đây là do việc nhân loại phát
triển tinh thần mau chóng, khiến cho lần đầu
tiên và ở một mức độ đáng kể, con
người nhận được lợi ích của các
định luật và qui luật này.
Trong câu chót của qui luật ba, ư nghĩa của hai và một, đó là năng lượng kết hợp nơi nhà trị liệu – năng lượng của linh hồn được hội tụ trong bí huyệt đầu và năng lượng của “bí huyệt cần thiết” cùng với năng lượng của bí huyệt đang chi phối điểm ma sát trong cơ thể bệnh nhân – chịu trách nhiệm cho việc chữa trị, miễn là chính vận số của bệnh nhân là được lành bệnh.
ĐỊNH LUẬT VI
Khi các năng lượng kiến tạo của linh hồn trở nên linh hoạt trong cơ thể, lúc đó có được sức khỏe, sự tương tác lành mạnh và hoạt động đúng đắn. Khi vị kiến tạo là các nguyệt thần và những kẻ làm việc dưới sự kiềm chế của mặt trăng và theo lệnh của phàm ngă, bấy giờ sẽ có bệnh tật, suy yếu và chết chóc.
Đây là một định luật đáng chú ư nhất, bởi v́ về cơ bản nó bàn đến các nguyên nhân. Trước hết các nguyên nhân mà một người b́nh thường chưa có chủ ư kiểm soát, và cũng v́ về mặt huyền bí, nó đưa ra một h́nh ảnh thu nhỏ hay về mặt tiểu thiên địa của t́nh trạng vũ trụ hoặc của t́nh trạng đại thiên địa. Nó bàn đến toàn bộ vấn đề sự ác hoặc là đau đớn và thống khổ (tức những bí nhiệm vĩ đại của hành tinh bé nhỏ của chúng ta) trong vài câu; nhưng, đó là những câu truyền đạt các hàm ư sâu rộng. Chính sự đơn giản của định luật thiên nhiên vĩ đại này lại che giấu những ư nghĩa sâu rộng của sự hoạt động b́nh thường của nó. Nó nói lên những điều sau đây một cách hoàn toàn đơn giản và tôi liệt kê chúng, v́ ngắt một đoạn văn thành những câu đơn giản và rơ ràng là cách rất hay để hiểu được nó.
608
1. Khi
linh hồn kiểm soát được h́nh hài có liên quan th́
có sức khỏe.
2. Linh hồn là nhà kiến tạo h́nh hài, mănh lực xây dựng khi biểu lộ.
3. Điều này đúng cho cả tiểu thiên địa lẫn đại thiên địa.
4. Kết quả là sự toàn vẹn, liên giao đúng và hoạt động đúng.
5. Khi linh hồn không ở trong sự kiểm soát, do đó mà các mănh lực của bản chất h́nh hài trở nên những yếu tố kiểm soát, bấy giờ, sức khỏe sẽ suy kém.
6. Các vị kiến tạo sắc tướng là các “nguyệt thần” (“lunar lords”) tức các tinh linh trí tuệ, cảm dục và hồng trần (về physical elementals, xin xem định nghĩa ở trang 245 – ND).
7. Toàn bộ ba loại tinh linh này làm thành phàm ngă.
8. Về mặt huyền bí, chúng chịu sự chi phối của mặt trăng, tức biểu tượng của sắc tướng, thường được gọi là “mẹ của h́nh hài”.
9. Bức xạ (emanation) đến từ mặt trăng có trong nó các mầm mống của tử vong và bệnh tật, bởi v́ mặt trăng là một “hành tinh chết”.
609
Như
bạn sẽ ghi nhận tất cả định luật
này đều trở lại nguồn gốc của
năng lượng chính đang chi phối cơ thể. Dù
linh hồn là nguồn cội của mọi sự sống
và tâm thức, nhưng qua nhiều thời đại,
tất cả những ǵ mà linh hồn làm là để
giữ cho h́nh hài có sự sống và có ư thức; cho
đến khi nó đạt mức tiến hóa trở thành
một khí cụ thích hợp và hữu ích (và ngày càng hữu
ích cho linh hồn, để dùng nó làm phương tiện
biểu lộ và phụng sự. Bấy giờ, karma
mới định đoạt bản chất và phẩm
tính của thân xác. Thân xác ấy có thể được
mạnh khỏe, bởi v́ nó đă không bị sử
dụng sai trong một kiếp sống đặc biệt
hay các kiếp sống đang chi phối một lần
nhập thế đặc biệt; hoặc thân xác không
khỏe mạnh v́ nó đang trả giá cho lỗi lầm.
Sức khỏe tốt không nhất thiết tùy thuộc vào
sự giao tiếp hữu thức với linh hồn.
Sự giao tiếp đó có thể và chắc chắn
tạo nên sức khỏe tốt, nhưng, trong đa
số trường hợp của người
thường, sức khỏe cũng tùy theo sự sống
và các định ư của phàm nhân – trong hiện kiếp và
trong các tiền kiếp. Chỉ đến khi ư chí của
phàm nhân hướng về sự cải thiện tinh
thần và một cuộc sống trong sạch, thanh cao
hơn, bấy giờ, linh hồn mới có thể trợ
giúp thực sự.
Định luật này cũng mang theo các ẩn ư về mối liên hệ căn bản khiến cho ba thể của con người trở nên một phần gắn bó của toàn thể đại thiên địa. Mọi h́nh hài trong mọi giới đều được các nguyệt thần kiến tạo dưới một sức thôi thúc phát ra từ Hành Tinh Thượng Đế, Đấng đang hoạt động hợp tác với Chơn Linh của Địa Cầu – tức là toàn thể các Nguyệt thần và của ba loại vật chất được phú cho năng lượng vốn được dùng để sáng tạo thể trí, thể t́nh cảm và thể xác. Liên hệ của Hành Tinh Thượng Đế với Chơn Linh Địa Cầu (tức liên hệ của một Đấng tiến hóa thăng thượng với một thực thể tiến hóa giáng hạ) là một phản ảnh trong ba cơi thấp (dù méo mó và dưới ảnh hưởng của ảo cảm) của liên hệ giữa linh hồn với tinh linh của phàm ngă. Thật vô cùng hữu ích cho nhà trị liệu, khi nhận thức rằng trong lúc đối phó với bệnh, thực ra y đang đối phó với các sinh linh tiến hóa giáng hạ và đang cố gắng làm việc với các tinh linh (elementals). Khuynh hướng tự nhiên của các sự sống tinh linh này (chúng đều ở trên cung tiến hóa giáng hạ) là ngăn chận và cản trở các nỗ lực của y và các cố gắng của linh hồn – đối với chúng – đó là con đường tiến hóa của chúng. Sau rốt, chính điều đó sẽ đưa chúng tiến tới trên cung tiến hóa thăng thượng.
610
Rồi
đến lúc, linh hồn có thể đảm nhận
việc kiểm soát có ư thức ở trong và toàn bộ h́nh
hài, và cuối cùng có thể tạo ra một h́nh hài thích
hợp với các nhu cầu tinh thần của nó. Linh
hồn làm được điều đó, bởi v́ các tinh
linh này vốn là tổng thể của tinh linh phàm ngă đă
đạt được mức phát triển, nơi mà
chúng sẵn sàng tiến lên trên đường phản
bổn hoàn nguyên. Công việc của linh hồn không bao
giờ là việc thuần vị kỷ, để có
một phương tiện biểu lộ trong ba cơi
thấp, như đôi khi một người suy tư
hời hợt thiếu nghiêm cẩn có thể thấy.
Điều đó hoàn toàn ngẫu nhiên theo khía cạnh linh
hồn. Đó là một hoạt động cần
thiết, nhưng nó cũng liên quan đến việc hy
sinh để cứu vớt vật chất và thúc
đẩy sự tiến hóa của vật chất. Cổ
luận có nói: “Mẹ (chất liệu – vật chất)
được cứu vớt nhờ sự giáng sinh
của Con (Christ nội tâm, tức linh thức)”.
Điều đó đúng đối với đại thiên
địa cũng như đối với tiểu thiên
địa.
Ở đây có chứa bí ẩn về sự đau khổ trên hành tinh và sự chết. Như các bạn biết, Đức Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta (xét chân lư theo khía cạnh đại thiên địa) là một trong “các Thượng Đế chưa hoàn thiện” mà bộ Giáo Lư Bí Nhiệm có nói đến, dầu mức hoàn thiện đó vượt khỏi hiểu biết của con người chúng ta – cái hiểu biết của một đơn vị ở một trong các giới hợp thành thể biểu lộ của Ngài. Vẫn chưa có quân b́nh thực sự giữa tinh thần với vật chất, dầu rằng điểm quân b́nh ấy hầu như đă đạt được. Các lực tiến hóa giáng hạ vẫn c̣n mạnh, c̣n các năng lượng tinh thần vẫn c̣n bị ngăn trở, tuy ít hơn so với buổi đầu trong nhân loại. Trong giống dân chính kế tiếp giống dân hiện nay, chúng ta sẽ thấy một điểm quân b́nh được đạt đến, vốn sẽ mở đầu cái gọi là thời đại hoàng kim. Khi đó điểm va chạm/ ma sát trên hành tinh sẽ ít đi nhiều và v́ thế mà cũng ít đi trong mỗi cá nhân; những vùng chướng ngại và những hoạt động vô ích sẽ chấm dứt. Có thể thấy điều này đang thể hiện ra trong cơ thể của một ngựi tiến hóa hoặc một điểm đạo đồ ở qui mô lớn, trong các chu kỳ dài của các lần luân hồi của họ. Theo qui luật chung, các tưong ứng đi song song vẫn đúng.
611
Định
luật này cho chúng ta một h́nh ảnh gây kinh ngạc và
cũng là một h́nh ảnh đầy triển vọng,
đặc biệt là nếu ngựi ta xem xét một số
sự kiện đang có trên thế giới ngày nay và so sánh
chúng với những t́nh trạng cách đây mấy trăm
năm. Hiện nay, ở đâu đâu, tâm thức của
nhân loại cũng đang bừng tỉnh. Các giống dân
kém phát triển nhất đang có được nền
giáo dục có kết quả, tất nhiên là liên quan
đến khám phá của trí tuệ. Thiện chí đang
được thừa nhận là cần thiết cho
việc phát triển thế giới, và con người
đang nhận ra rằng “không ai sống cho riêng ḿnh” – hay
là không có quốc gia nào sống cho riêng ḿnh. Họ đang
ghi nhận sự thực là chỉ có lương tri và
phần nào của minh triết mới đưa
đến các t́nh huống tốt đẹp hơn cho
mọi người ở khắp nơi. Đây là một
thái độ mới và là một cách tiếp cận
mới và đầy triển vọng. Con người
đang học cách hiểu và cảm thông với nhau. Các
quốc gia đang tiến đến những bang giao
mật thiết hơn với nhau. Các chính khách của
mọi quốc gia đang cùng nhau tranh đấu và tổ
chức hội nghị hợp tác bàn về vấn
đề cải thiện những điều kiện
sống của con ngựi. Ở đâu cũng có tư tưởng,
có đánh giá và có đấu tranh cho tự do và cho các giá
trị đích thực. Mọi thứ đó là ǵ, nếu
không phải là nỗ lực của linh hồn nhân loại
để tiêu trừ bệnh tật, khôi phục sức
khỏe cho vùng suy yếu và loại bỏ những
điểm va chạm? Có phải đó là những ǵ mà con
ngựi tinh thần vốn đang bị bệnh, t́m cách
mang lại cho thể xác chính ḿnh và là những ǵ mà nhà
trị liệu đang cố gắng giúp y thực hiện?
Khi làm điều đó, các “nguyệt thần” và những mănh lực của vật chất rốt cuộc phải nhường cho năng lượng của linh hồn và được hưởng lợi ích, dầu chúng là những mănh lực của tiểu thiên địa hoặc đại thiên địa.
Một trong những điều thường gây lúng túng cho các đạo sinh là câu nói thể xác không phải là một nguyên khí. H.P.B. trỉnh bày bằng cách nhấn mạnh sự thực này. Trừ kẻ nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng cuồng tín ra, người ta thường nghĩ rằng bà đă sai lầm, hoặc cố ư đánh lừa các đạo sinh. Một trong các điểm mà người ta hiểu rất ít là bản chất của một nguyên khí. Vậy mà, chỉ nhờ hiểu được một nguyên khí là ǵ, người ta mới có thể hiểu được phát biểu của bà là đẹp đẽ và chính xác đến thế nào. Xét cho cùng, nguyên khí là ǵ? Nói về mặt đại thiên địa, th́ một nguyên khí là những ǵ đang được phát triển trên mỗi cơi trong số bảy cơi của chúng ta – tức là bảy cơi phụ của cơi hồng trần vũ trụ. Chính mầm mống hay là hạt giống trên mỗi cơi phụ vốn tiêu biểu cho một trạng thái nào đó của tâm thức thiêng liêng đang khai mở; đó là những ǵ mà về mặt căn bản có liên quan với một h́nh thức cảm nhận nào đó; nó là cái mà các thể, khi chúng tiến hóa, có thể ứng đáp được. Một nguyên khí là một mầm mống của tri thức, đang mang mọi tiềm năng của tâm thức đầy đủ trên một mức độ hoạt động thiêng liêng đặc biệt nào đó. Chính nó giúp ta có thể hiểu được và đáp ứng hữu thức với hoàn cảnh chung quanh; chính nó hàm ư một hoạt động nhạy cảm “đang lộ ra” và theo tŕnh tự, có thể và tất nhiên đưa đến sự hiểu biết thiêng liêng.
612
Thể
xác và ở một mức ít hơn nhiều, thể cảm
dục, thể hạ trí, đều tự động
hoạt động với tư cách là những khía
cạnh của một bộ máy đáp ứng thiêng liêng
của một cơ cấu giúp cho Hành Tinh Thưọng
Đế và con ngựi tinh thần ghi nhận được
sự đáp ứng hữu thức với những ǵ
cần phải tiếp xúc, theo thiên cơ và qua trung gian
của một cơ cấu. Hiện nay, xác thân là một
thể duy nhất cho đến nay phát triển đầy
đủ đến nỗi trong hệ thống hành tinh này
của chúng ta, nó không có thêm phát triển tiến hóa nào
nữa, trừ việc tới chừng mức mà con người
tinh thần có thể ảnh hưởng đến nó –
hầu hết hiệu quả đều được
tạo nên trong thể dĩ thái chứ không phải trong
nhục thân. Đây là một điểm ít người
hiểu, nhưng có tầm quan trọng chính yếu.
Trong thái dưong hệ trước đây, nhục thân đă đạt đến điểm phát triển và quan tâm cao của nó (theo quan điểm quan tâm đến trí tuệ và hoạt động của Thánh Đoàn). Thuở đó, nó là mục tiêu thiêng liêng của toàn bộ diễn tŕnh tiến hóa. Nhân loại ngày nay không dễ ǵ hiểu được điều này. Tôi không thể hoặc không nên nêu rơ những giai đoạn tiến hóa mà bộ máy thiêng liêng này trải qua để chuẩn bị cho công việc cần được đảm nhiệm trong thái dương hệ hiện tại. Trong cuộc lâm phàm thiêng liêng của Đức Hành Tinh Thưọng Đế chúng ta qua phương tiện của hành tinh bé nhỏ này, tức Địa Cầu, th́ thể xác không phải là mục tiêu, mà chỉ là cái sẵn có và phải được chấp nhận; phải làm cho nó thích ứng và kết hợp vào trong cơ tiến hóa chung. Toàn bộ kế hoạch ấy liên quan tới tâm thức. Thể xác chỉ là (không hơn không kém) hiện thể của tâm thức ở cơi trần; c̣n trọng điểm chú ư là thể dĩ thái, dưới h́nh thức một biểu hiện của các hiện thể tinh anh và trạng thái tâm thức biểu hiện của chúng. Thể xác quan trọng là v́ nó phải chứa đựng và đáp ứng với mọi loại đáp ứng hữu thức, từ đáp ứng của hạng người thấp kém nhất, đến mức bao gồm tâm thức của một vị điểm đạo đồ cấp ba. Các thể và các h́nh hài của sự sống nội tại hữu thức trong ba giới dưới nhân loại cũng có vấn đề tương tự nhưng ít khó khăn hơn. Tuy nhiên, ở đây, tôi chỉ xét đến thể xác của con người, nó không phải là một nguyên khí, bởi v́ dầu sao đi nữa nó không phải là một mục tiêu. Nó không phải là một hạt giống hay mầm mống của bất cứ cái ǵ. Bất cứ thay đổi nào diễn ra trong thể xác cũng đều phụ thuộc vào mục tiêu đáp ứng hữu thức với sự khai mở của thiên tính đang xuất hiện. Tôi cảm thấy cần phải nhấn mạnh điều này, v́ trí óc con người hay lầm lẫn về vấn đề này.
613
Tóm
lại, thể xác không phải là một nguyên khí; nó không
phải là mục tiêu chú ư chính của người t́m
đạo; nó tự động ứng đáp với tâm
thức đang chậm chạp khai mở trong mọi
giới của thiên nhiên; nó măi măi vẫn là cái
được hoạch định chứ không phải là
cái có sẵn ảnh hưởng của chính nó; nó không quan
trọng trong diễn tiến tích cực, v́ nó là tác nhân thu
nhận, chớ không khai mở hoạt động.
Điều quan trọng là tâm thức đang khai mở,
tức đáp ứng của con người tinh thần
nội tại với cuộc sống, với các t́nh
huống, các biến cố, và với hoàn cảnh. Thể
xác đáp lại tâm thức ấy khi nào do lầm lẫn mà
thể xác trở nên mục tiêu chú ư, th́ đó là dấu
hiệu thoái hóa. Đây là lư do tại sao quá chú ư vào các
giới luật thân xác, vào sự ăn chay, vào thực
đơn và sự kiêng ăn, cũng như các cách hiện
nay (gọi là) trị liệu tâm thần và thiêng liêng,
đều bất đắc dĩ và không theo đúng
với Thiên Cơ đă định. Thế nên, quan tâm quá
mức và quá chú trọng vào thể xác sẽ có phản tác
dụng, và giống như việc thờ con bê vàng của
trẻ em Do Thái. Đó là việc quay về với những
ǵ đă có lần quan trọng, nhưng ngày nay nên
đặt vào địa vị thứ yếu và ở dưới
ngưỡng cửa của tâm thức.
614
Tôi
bàn điều này ở đây, bởi v́ trong định
luật VII chúng ta sẽ phải chú ư đến sự
thực về các tuyến nội tiết và chúng ta cần
tiến đến vấn đề đó từ quan
điểm đúng. Các tuyến nội tiết là phần
hữu h́nh của thể xác, do đó, chúng là một
phần của biểu lộ sáng tạo, vốn không
được xem là một nguyên khí. Tuy nhiên, các tuyến
ấy mạnh mẽ và hữu hiệu, không thể không
biết đến. Điều cốt yếu là
đạo sinh nên xem các tuyến này như là quả chớ
không phải là nhân của những biến cố, diễn
biến, và t́nh trạng trong cơ thể. Dầu các
nạn nhân của thể xác có tin và nói thế nào,
thể xác luôn luôn bị chi phối bởi những nguyên
nhân bên trong; về bản chất, chính nó không bao giờ là
một nguyên nhân. Trong thái dương hệ này và trên hành
tinh chúng ta, nó có tính tự động và chịu ảnh
hưởng của các nguyên nhân phát sinh trên các nội
giới hoặc bởi tác động của linh hồn.
Hăy ghi nhận tầm quan trọng của phát biểu này.
Thể xác không có sự sống thực của chính nó, mà,
trong chu kỳ này, nó chỉ đáp lại những sự
thôi thúc phát ra từ nơi khác. Thành tựu và thành công
của nó là làm một người máy. Nếu bạn
có thể hiểu được điều này một cách
đầy đủ, th́ chúng ta có thể tiếp tục
xem xét định luật VII và Qui luật bốn một
cách an toàn.
ĐỊNH LUẬT VII
Khi sự sống hoặc năng lượng tuôn chảy không bị cản trở và xuyên qua đúng hướng đến chỗ phóng hiện của nó (tức là tuyến liên hệ), bấy giờ h́nh hài đáp ứng và t́nh trạng sức khỏe kém biến mất.
615
Một
trong những yếu tố thú vị mà đạo sinh nên
lưu ư là giáo lư về các trung gian, có rất
nhiều và được xem như là có tầm quan
trọng rất lớn trong mọi giáo huấn huyền
môn. Nó đă được nhấn mạnh (dù là diễn
dịch sai lạc) trong giáo lư liên quan đến Đức
Christ. Thiên Chúa giáo đă tŕnh bày Ngài như là có vai tṛ
giống như đấng ḥa giải giữa một
Thượng Đế cau có với một nhân loại
dốt nát, đáng thương. Việc đó chẳng chút
nào là chủ đích của cuộc giáng lâm hoặc công
việc của Ngài, nhưng, ở đây tôi không cần
đi vào thực nghĩa của nó. Tôi đă bàn đến
chủ đề đó ở nơi khác, liên quan đến
nền Tôn giáo Mới trên Thế Gian (“Những Vấn
Đề Của Nhân Loại”, chương VI; và “Sự Tái
Lâm Của Đức Christ”, chương V).
Trong giáo
huấn huyền môn cũng có dạy (điều đó liên
quan mật thiết với giáo lư Cơ Đốc) rằng
linh hồn là trung gian giữa Chân Thần với phàm nhân. Ư
tưởng tương tự cũng được
thấy trong nhiều cách tŕnh bày của các tôn giáo khác,
chẳng hạn Đức Phật được xem là
Đấng trung gian giữa Shamballa với Thánh Đoàn, Ngài
đảm trách nhiệm vụ này mỗi năm một
lần. Chính Thánh Đoàn cũng là trung gian giữa Shamballa
với nhân loại. Cơi dĩ thái (với từ này tôi
muốn nói đến các thể dĩ thái của cá nhân,
của hành tinh và của vũ trụ) là trung gian giữa
các cơi cao với nhục thân. Toàn thể hệ thống
huyền môn hay khai mở huyền bí được dựa
trên triết lư tuyệt diệu này, về sự
tương thuộc, về một sự liên kết
hữu thức có sắp xếp và có kế hoạch, và
về sự truyền chuyển năng lượng từ
một trạng thái biểu lộ thiêng liêng này đến
trạng thái khác. Ở đâu đâu, trong vật nào cũng
có sự luân lưu, truyền chuyển và những cách
truyền năng lượng từ một h́nh thể này
sang một h́nh thể khác và luôn luôn qua một cơ cấu
thích hợp. Điều này đúng theo ư nghĩa tiến hóa
giáng hạ, ư nghĩa tiến hóa thăng thượng,
cũng như trong ư nghĩa tinh thần. Tất cả các
vị điểm đạo đồ cao cấp
đều biết rơ ư nghĩa tinh thần có hơi khác
với hai ư nghĩa kia. Có thể viết ra toàn thể
luận đề về các tác nhân truyền chuyển
năng lượng, và cuối cùng, nó sẽ bao gồm giáo
lư về các Đấng Hóa Thân.
616
Đấng
Hóa Thân là một Đấng có sứ mệnh hay khả
năng đặc biệt (ngoài một công tác tự
đề xuất và một vận mệnh tiền
định) để hoạt động với các
năng lượng, được truyền chuyển
xuyên qua thể dĩ thái của một hành tinh hay một
thái dương hệ; tuy nhiên, đây là một bí mật
sâu xa. Nó được biểu lộ một cách
đặc biệt và liên quan với năng lượng
vũ trụ, bởi Đức Christ, Đấng mà
lần đầu tiên trong lịch sử hành tinh đă
truyền năng lượng bác ái vũ trụ trực
tiếp cho cơi trần của hành tinh chúng ta, và cũng
đặc biệt chuyển cho giới thứ tư trong
thiên nhiên, tức là giới nhân loại. Điều này
sẽ cho các bạn thấy rằng, dầu năng lượng
bác ái là trạng thái thứ nh́ của thiên tính, nhưng
Đức Christ đă thể nhập và truyền chuyển
bốn phẩm tính của trạng thái này cho nhân loại,
tất nhiên, cho các giới khác trong thiên nhiên – nhân loại
chỉ có thể hấp thu được bốn phẩm
tính này. Chỉ có một trong bốn phẩm tính này cho
đến nay bắt đầu tự biểu lộ –
đó là phẩm tính về thiện chí. Sau này, ba phẩm
tính kia sẽ được hiển lộ, và một có
liên quan theo một ư nghĩa đặc biệt đến
phẩm tính trị liệu bằng t́nh thương. Theo
Kinh Thánh Tân Ước, Đức Christ đă gọi
phẩm tính này là “thần đức” (“virtue”) (là một
sự phiên dịch không được đúng lắm
đối với từ ngữ được dùng ban
đầu). Khi mănh lực chữa bệnh nơi Ngài
bị mất đi, Đức Christ đă nói là “thần
đức đă rời khỏi ta”.
Tôi kêu gọi bạn chú ư đến điều này, v́ chân lư này liên hệ trực tiếp với định luật VII. Chúng ta đă thấy liên quan đến mọi tiến tŕnh trị liệu, về mặt huyền môn, nhục thân được xem như chỉ là một người máy. Nó chỉ là nơi nhận năng lượng được chuyển đến.
617
Chúng ta
đă thấy rằng thể dĩ thái ở trong hay
“nằm dưới” mọi h́nh hài, chính nó là một cấu
trúc để truyền chuyển các năng lượng
đến từ một nguồn nào đó – nguồn đó
trước tiên chính là điểm mà sự sống bên trong
h́nh hài đặt trọng điểm căn bản
của nó. Với kẻ trung b́nh th́ thường
thường đây là thể cảm dục, từ đó
năng lượng t́nh cảm phát ra và t́m được
chỗ dựa, trước khi chuyển vào thể dĩ
thái. Tuy nhiên, trong đa số trường hợp, sẽ
có năng lượng của trí tuệ pha lẫn vào
nhiều hoặc ít. Về sau, năng lượng linh
hồn được củng cố (tôi tạm dùng một
từ như thế) bằng thể trí đă thanh luyện
và được truyền qua phàm ngă, th́ nó sẽ chi
phối thể dĩ thái và do đó mà kiểm soát
được các hoạt động của thể xác.
Định luật này đưa chúng ta chú ư đến sự kiện là dưói tác động của các năng lượng bên trong, đến phiên nó, nhục thân tạo ra một “cấu trúc để truyền chuyển năng lượng và tự động lập lại hoạt động của thể dĩ thái. Đáp ứng với các năng lượng lưu nhập từ thể dĩ thái, qua bảy bí huyệt chính, nó tạo nên một cấu trúc gắn chặt vào nhục thân mà chúng ta gọi là “hệ thống tuyến nội tiết”. Đáp lại năng lượng lưu nhập từ thể dĩ thái, đến lượt các tuyến này tiết ra những ǵ được gọi là hormone mà các tuyến truyền thẳng vào ḍng máu.
618
Tôi không
định quá đặt nặng về kỹ thuật khi
xem xét vấn đề này, chớ không viết cho giới
y khoa. Tôi viết cho các độc giả không chuyên môn,
họ thành thật thừa nhận rằng cho đến
nay họ biết về vấn đề này ít biết bao.
Kẻ hành đạo có t́m ṭi về y học cũng
biết không được nhiều về sự liên
hệ của các tuyến nội tiết với ḍng máu và
với toàn thể hoạt động sinh lư của con
người. Họ biết rất ít về liên hệ
giữa nhiều loại tuyến với nhau. Các tuyến
này tạo nên một hệ thống quản trị ăn
khớp vô cùng quan trọng, được bảy bí
huyệt dĩ thái liên kết, phối hợp, làm sinh
động và điều khiển. Đây là một yếu
tố mà nhà khoa học chính thống dễ dàng bỏ qua
trong lĩnh vực này; cho tới khi y nhận ra
được những ǵ tạo nên các tuyến nội
tiết th́ y sẽ vẫn hoàn toàn mù tịt về nguyên nhân
và các hậu quả thực sự. Các tuyến này là các
phóng hiện trực tiếp của bảy loại năng
lượng đang lưu chuyển qua bảy bí huyệt
dĩ thái. Chúng chi phối tất cả các khu vực
của cơ thể. Trong cách sáng tạo của chúng,
bạn có biểu hiện rơ rệt của bức xạ và
hoạt động từ tính của mọi năng
lượng, v́ chúng đều được tạo ra
bởi bức xạ từ bảy bí huyệt, nhưng
hiệu quả của chúng – cá biệt và kết hợp –
đều có từ tính. Bức xạ tách các nguyên tử
vật chất trọng trược và tập trung chúng trong
vùng chính xác trong thể xác sao cho chúng có thể hành xử
như các bộ phận phân phối vào ḍng máu, và do đó
vào nhục thân dưới h́nh thức một trạng thái
của năng lượng lưu nhập. Tôi muốn
bạn lưu ư rằng chỉ có một trạng thái
năng lượng được phân phối như
thế – chính trạng thái đó tương ứng với
trạng thái thứ ba của chất liệu thông tuệ
linh hoạt. Hai trạng thái tiềm tàng kia được
phân phối dưới dạng năng lượng
thuần khiết, ảnh hưởng đến các vùng
chứ không ảnh hưởng đến một tiêu
điểm thu hẹp như thế.
Tôi băn khoăn về vấn đề các tuyến này và liên hệ của chúng với các bí huyệt cần được hiểu đúng. Toàn bộ vấn đề có liên quan chặt chẽ với thuật trị liệu. Một trong những hiệu quả của việc áp dụng năng lượng trị liệu (qua trung gian của bất cứ bí huyệt nào chi phối vùng có điểm ma sát) là kích thích tuyến liên hệ và hoạt động ngày càng tăng của nó. Xét cho cùng th́ các tuyến là các tác nhân trung gian giữa nhà trị liệu với bệnh nhân, giữa bí huyệt với nhục thân và giữa thể dĩ thái với bộ máy tự động của nó, tức là nhục thân tiếp nhận.
619
Tiếp
tục xét về tác nhân trung gian truyền chuyển năng
lượng của các bí huyệt vào ḍng máu, tôi xin nêu ra
rằng các bí huyệt tác động qua hệ thống
tuyến nội tiết này nhờ tác động trực
tiếp qua một tia hoặc ḍng năng lượng, phát
ra từ trung điểm bên trong bí huyệt. Nhờ trung
gian này mà chúng chi phối và kiểm soát toàn bộ các vùng
của cơ thể. Chúng làm điều đó nhờ
những trạng thái của các bí huyệt mà chúng ta gọi
theo biểu tượng là “các cánh hoa sen”. Ở ngay tâm
điểm của hoa sen, mănh lực của sự sống
được hội tụ, và khi nó đi ra ngoài
để nhập vào tuyến liên hệ, th́ nó khoác thêm tính
chất của năng lượng mà bí huyệt chịu
trách nhiệm, bởi v́ mănh lực của sự sống
về thực chất không bị giới hạn. Tia sáng
của sự sống, nếu người ta có thể
gọi nó như thế, ở tại tâm của mỗi bí
huyệt, được đồng hóa với nguồn
cội của nó là Chân thần, và khi tiếp xúc với các
cánh hoa của nó, th́ nó có được một phẩm tính
chính yếu bẩm sinh của năng lượng thu hút.
Mọi năng lượng tỏa ra từ nguồn
cội duy nhất trong thái dương hệ này,
đều liên quan với năng lượng mà chúng ta
gọi là Bác Ái, và năng lượng này có sức thu hút
mạnh mẽ. Các cánh hoa sen và vùng năng lượng bao
quanh tạo thành h́nh hoa sen, đều được
phẩm định bằng một trong bảy loại
năng lượng thứ yếu. Chúng tỏa ra từ
bảy cung vốn phát sinh từ nguồn cội duy
nhất với vai tṛ là các Đấng Đại Diện
của Đấng Sáng Tạo Thiên H́nh.
Như các bạn biết, ở trong thái dương hệ có bảy hành tinh thánh thiện, vốn là nơi ǵn giữ hoặc biểu lộ bảy cung này, tức bảy phẩm đức của Đấng Thánh Linh. Trong hành tinh chúng ta, tức Địa Cầu (vốn chưa là một hành tinh thánh thiện) cũng có 7 trung tâm mà khi cơ tiến hóa nối tiếp sẽ trở nên những nơi tiếp nhận bảy phẩm đức của cung từ bảy hành tinh thánh thiện, như vậy tạo ra (bên trong ṿng hạn định thái dương) một hệ thống ăn khớp rộng lớn gồm nhiều năng lượng. Như bạn biết rơ, ba trong số các trung tâm này, tiêu biểu cho ba cung chính:
1. Shamballa …….. Cung Quyền Lực hay chủ đích.
Ngôi Một.
Năng lượng ư chí.
2. Thánh Đoàn …… Cung Bác Ái – Minh triết.
Ngôi Hai.
Năng lượng bác ái .
3. Nhân loại ….… Cung Thông Tuệ Linh Hoạt.
Ngôi Ba.
620
Năng lượng trí tuệ hay tư tưởng.
Có bốn trung tâm khác, cùng với ba trung tâm trên hợp thành bảy trung tâm, hay là bảy tiêu điểm năng lượng của hành tinh, chi phối sự biểu hiện cơ thể của Hành Tinh Thượng Đế chúng ta. Qua các tiêu điểm đó, và hoạt động từ mức độ riêng của Ngài trên một cơi vũ trụ và qua Phàm Ngă thiêng liêng của Ngài tức là Đức Sanat Kumara, tức là Đức Lord of the World xúc tiến các mục tiêu của Ngài trên hành tinh chúng ta.
Tương tự trong tiểu thiên địa, tức con người, cũng có các tương ứng với bảy trung tâm này. Trong đó cũng có 7 bí huyệt chính, và chúng là những nơi tiếp nhận năng lượng phát ra từ bảy trung tâm hành tinh, tức là những nơi ǵn giữ bảy trạng thái của mănh lực cung. Ở các giai đoạn ảnh hưởng khác nhau, bảy năng lượng này chi phối sự biểu lộ của con người trong ba cơi thấp, làm cho y lộ rơ bản chất của ḿnh; vào bất cứ lúc đă định nào trong khi luân hồi, và cho thấy tŕnh độ tiến hóa của y (do hiệu quả hoặc thiếu hiệu quả của chúng trên các bí huyệt).
Bên trong đầu của con người có hai bí huyệt như thế và năm bí huyệt kia ở trên cột xương sống. Cột xương sống này là biểu hiện hồng trần của sự chỉnh hợp cốt yếu, vốn là mục tiêu trước mắt của các liên hệ trực tiếp, được con người tinh thần xúc tiến trong tâm thức và được mang lại như là kết quả của tham thiền đúng cách.
621
Tham
thiền là một kỹ thuật của thể trí, sau
rốt tạo được sự liên giao không bị
cản trở và chính xác, đây là một tên gọi khác
chỉ sự chỉnh hợp. Do đó chính là việc
thiết lập một vận hà trực tiếp, không
chỉ giữa cội nguồn duy nhất, tức Chân
Thần, với biểu lộ của nó, tức phàm ngă
đă được thanh luyện và kiềm chế, mà
cũng c̣n giữa bảy bí huyệt trong thể dĩ thái
của con người. Có lẽ điều này làm bạn
ngạc nhiên, v́ nó đặt những kết quả
của tham thiền trên căn bản của các hiệu
quả thể xác, hay đúng hơn là của thể dĩ
thái, và bạn có thể xem đó là những kết quả
thuộc giai đoạn rất thấp. Đó là do sự
kiện bạn đặt nặng phản ứng trí
tuệ của bạn đối với sự chỉnh
hợp được tạo ra dựa vào sự thỏa đáng
mà bạn thu được từ một chỉnh hợp
như thế, trong đó bạn ghi nhận được
một hoặc nhiều thế giới hiện
tượng và dựa vào các quan niệm và ư tưởng
mới, tất nhiên chúng gây ấn tượng lên trí
bạn. Những kết quả đích thực (vừa
thiêng liêng vừa đáng ao ước về mặt
huyền bí) là sự chỉnh hợp chính xác, liên giao
đúng và các vận hà thông suốt cho bảy loại
năng lượng trong hệ thống tiểu thiên
địa, nhờ đó mà cuối cùng mang lại biểu
lộ đầy đủ của thiên tính. Tất cả
bảy bí huyệt trong thể dĩ thái của Đức
Christ đều được điều chỉnh
đúng, được chỉnh hợp chính xác,
được thức động thực sự, đang
hoạt động và tiếp nhận một cách thích
đáng cả bảy ḍng năng lượng đến
từ bảy trung tâm hành tinh. V́ thế mà các bí huyệt này giúp
Ngài giao tiếp một cách mật thiết và đầy ư
thức với Đấng mà Ngài sống, hoạt
động và hiện tồn trong Đấng đó.
Kết quả về mặt sinh lư của việc hoàn toàn
“phó thác huyền vi của bảy bí huyệt” (đôi khi
được gọi như thế) đối với các
năng lượng tinh thần đang đi vào, trong
trật tự và nhịp điệu đúng của chúng, là
sự xuất hiện trong cơ thể Đức Christ
một hệ thống tuyến nội tiết hoàn hảo.
Tất cả những tuyến của Ngài (cả chính
lẫn phụ) đều đang hoạt động chính
xác. Điều đó tạo nên “con người hoàn
thiện” – thể xác hoàn hảo, t́nh cảm ổn
định và trí tuệ được kiềm chế.
Theo cách nói thời nay, th́ “khuôn mẫu hành xử” của
Đức Christ – do sự hoàn hảo của hệ
thống tuyến của Ngài như là hiệu quả
của các bí huyệt được tiếp năng
lượng và khơi hoạt đúng cách – làm cho Ngài thành
một biểu hiện của sự hoàn thiện thiêng
liêng cho toàn thế giới. Ngài là người đầu
tiên của nhân loại chúng ta đạt đến tŕnh
độ tiến hóa này, và là “Người Anh Cả trong
đại gia đ́nh anh em”, như cách diễn tả
của Thánh Paul. Các h́nh ảnh hiện nay về Đức
Christ cho thấy sự hoàn toàn không chính xác của chính chúng,
v́ chúng không mang bằng chứng về sự hoàn thiện
nào của hệ thống tuyến. Chúng đầy vẻ
yếu ớt và dịu dàng, mà nêu ra không bao nhiêu sức
mạnh, quyền năng nhạy bén và sức sống
động. Có triển vọng rằng v́ Ngài hiện
hữu thế nào, th́ trong cơi đời này chúng ta cũng có
thể hiện hữu thế ấy.
622
Đây
là hy vọng nằm đằng sau việc hiểu đúng
khoa học về các bí huyệt. Tính xác thực về các bí
huyệt sẽ được chứng minh cho mọi
người khi các bí huyệt dần dần
được linh hồn kiểm soát, được
tiếp năng lượng một cách khoa học và chính
xác, được đưa đến một t́nh
trạng “sống động” thực sự và bắt
đầu chi phối toàn vùng cơ thể dưới
sự chi phối của bí huyệt đó, và – giữa các
bí huyệt – đưa mọi phần của thân thể
đến dưới ảnh hưởng bức xạ và
từ điện của các bí huyệt đó.
623
Chính các
bí huyệt giữ cho cơ thể ḥa hợp với nhau và
làm cho nó trở thành một tổng thể cố kết,
được tiếp năng lượng và linh hoạt.
Như các bạn biết, khi sự chết xảy ra, giác
tuyến (consciousness thread) được rút ra khỏi bí
huyệt đầu, c̣n sinh mệnh tuyến (life thread)
được rút ra khỏi bí huyệt tim. Điều
chưa được chú trọng là hai sự rút lui này có
ảnh hưởng trên mọi bí huyệt trong cơ
thể. Giác tuyến bám chặt trong bí huyệt đầu,
phẩm định cho các cánh của hoa sen mà kinh sách
Đông phương gọi là “hoa sen ngàn cánh”. Các cánh của
hoa sen đó có liên quan và có ảnh hưởng rơ rệt
đến phẩm tính (cả bức xạ lẫn từ
lực) lên các cánh trong mọi bí huyệt chính khác trong
thể dĩ thái. Bí huyệt đầu giữ chúng ở
hoạt động có đủ phẩm tính, và khi tính
đáp ứng hữu thức này được rút khỏi
bí huyệt đầu, th́ một hiệu quả tức th́
được cảm nhận trong mọi cánh của
mọi bí huyệt. Năng lượng đủ phẩm
tính được thu hồi và rời cơ thể xuyên
qua bí huyệt đầu. Cùng kỹ thuật tổng quát
cũng đúng đối với sinh mệnh tuyến
đang bám chặt vào bí huyệt tim, sau khi đi vào
(bằng cách kết hợp với giác tuyến) và thông qua
bí huyệt đầu. Bao giờ sinh mệnh tuyến c̣n
bám chặt vào bí huyệt tim, th́ nó tiếp năng
lượng và giữ cho mọi bí huyệt trong cơ thể
đều sống động, phát ra các tuyến sự
sống của nó vào một điểm ở ngay tâm hoa sen,
tức là ở tâm của bí huyệt. Tâm này, đôi khi
được gọi là “bảo ngọc trong hoa sen”,
dầu rằng nhóm từ này được áp dụng
thường hơn cho điểm trụ của Chân
thần ở tâm của hoa sen Chân ngă trên cơi riêng của nó.
Khi sự chết xảy ra và sinh mệnh tuyến
được linh hồn tập trung và triệt thoái
từ tim vào đầu và từ đó trở vào linh
hồn thể (soul body), th́ nó mang theo sự sống của
mỗi bí huyệt trong cơ thể. V́ thế, xác thân
chết đi và tan ră, không hợp thành một tổng
thể sống động, hữu thức và cố
kết nữa.
Liên quan với các bí huyệt này và phản ứng trong sự hợp nhất chặt chẽ với chúng, là hệ thống nội tiết hay hệ thống tuyến, trong thời gian nhập thế, sự sống hay năng lượng lưu chuyển qua hệ thống này không bị cản trở và theo đúng hướng trong trường hợp người tiến hóa cao, hoặc là bị cản trở và được định hướng thiếu hoàn hảo trong trường hợp người b́nh thường hay là người kém phát triển. Nhờ hệ thống kiểm soát hạch tuyến này mà h́nh thể con người đáp ứng hoặc không đáp ứng được với các năng lượng của thế giới chung quanh.
Liên quan đến chủ đề trị liệu hiện tại của chúng ta, một người có thể đau yếu hoặc khỏe mạnh tùy theo t́nh trạng của các bí huyệt và sự phóng hiện của chúng, tức các tuyến. Bao giờ cũng phải nhớ rằng các bí huyệt là tác nhân trọng yếu ở cơi trần, mà qua đó linh hồn hoạt động, biểu lộ sự sống và phẩm tính, tùy tŕnh độ tiến hóa đă đạt được, hệ thống tuyến chỉ là một hiệu quả – tất yếu và không thể tránh – của các bí huyệt mà linh hồn đang tác động qua đó. Thế nên, các tuyến biểu lộ đầy đủ tŕnh độ tiến hóa của con người và tŕnh độ đó có trách nhiệm về các khuyết điểm, và các giới hạn hoặc về các ưu điểm và các hoàn thiện đă đạt được. Hạnh kiểm và cách hành xử của con người ở cơi trần đều do bản chất các tuyến của y chi phối, kiểm soát và định đoạt, và các tuyến này lại bị chi phối, kiểm soát và định đoạt bởi bản chất phẩm tính và sức sống động của các bí huyệt. Đến phiên chúng, các bí huyệt này bị chi phối, kiểm soát và định đoạt bởi linh hồn với hiệu quả ngày càng tăng theo sự tiến hóa. Trước khi được linh hồn kiểm soát, th́ chúng bị chi phối phẩm định và kiểm soát bởi thể cảm dục và sau đó bởi thể trí. Mục tiêu của chu kỳ tiến hóa là mang lại sự kiểm soát, chi phối và định đoạt của linh hồn. Ngày nay, con người đang ở trong đủ mọi giai đoạn phát triển có thể tưởng tượng được trong tiến tŕnh này.
624
Tôi
biết rằng nhiều điều nói trên đă
được biết rơ và có bản chất lặp
lại. Tuy nhiên, tôi thấy cần lặp lại
để có thể có được sự sáng tỏ
mới mẻ trong tư duy của bạn.
Điều cũng sẽ hiển nhiên đối với bạn là quá tŕnh nghiệp quả trong bất cứ kiếp sống cá nhân nào, do đó đều phải thể hiện qua phương tiện các tuyến, chúng chi phối phản ứng của con người đối với hoàn cảnh, và các biến cố. Các Đấng Nghiệp Quả Tinh Quân đă ghi lại các kết quả của tất cả các tiền kiếp và của tất cả các hoạt động đă xảy ra trong các kiếp sống ấy. Luật nghiệp quả đang xảy ra trong sự cộng tác chặt chẽ với các Nguyệt Thần, là các thần kiến tạo và xây dựng nên các thể tạo ra phàm ngă. Về sau, luật này c̣n hoạt động trong sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa với mục tiêu của linh hồn. Tất nhiên, toàn thể vấn đề này vô cùng phức tạp và khó hiểu. Những ǵ tôi có thể làm là đưa ra một vài chỉ dẫn, thế thôi.
Nhà trị liệu phải làm việc với hệ thống các bí huyệt này và các hiệu quả lộ bên ngoài của chúng, tức các tuyến, đồng thời y phải xem xét thật cẩn thận. Thí dụ mọi kích thích mà y có thể truyền đến cho một bí huyệt trong cơ thể bệnh nhân, hoặc là mọi cách tách/rút năng lượng ra khỏi một bí huyệt, sẽ có một hiệu quả rơ rệt nhất trên tuyến có liên hệ, và v́ thế lên chất tiết (secretion) mà tuyến đó quen tuôn đổ vào máu.
Lại nữa, như bạn biết, bảy bí huyệt chính và các tuyến liên kết của chúng là:
1. Bí huyệt đầu tuyến tùng quả
2. Bí huyệt ấn đường tuyến yên
3. Bí huyệt cổ họng tuyến giáp trạng
4. Bí huyệt tim tuyến ức (thymus gland)
625
5. Bí
huyệt đan điền tụy tạng
6. Bí huyệt xương cùng tuyến sinh dục (gonads)
7. Bí huyệt chót xương sống tuyến thượng thận.
Cũng có các bí huyệt khác và nhiều tuyến khác trong cơ thể, nhưng đây là bảy loại mà nhà trị liệu cần đến. Các tuyến phụ hay thứ yếu được chi phối bởi bí huyệt đang kiểm soát vùng có vị trí của chúng. Tuy nhiên, nhà trị liệu từ chối không làm phức tạp tư duy của ḿnh bằng nhiều chi tiết về hệ thống tuyến phụ và những phức tạp của các liên hệ thứ yếu bên trong. Danh sách trên cũng đưa ra các bí huyệt và các tuyến mà về căn bản ấn định t́nh trạng sức khỏe – tốt, vừa phải hoặc kém – và trang cụ tâm lư của mỗi người. Nhà nghiên cứu nên ghi nhớ rằng hiệu quả sơ khởi /cơ bản (primary) của sự hoạt động của các tuyến và chất tiết của chúng là về mặt tâm lư. T́nh cảm và tư tưởng của một người trên cơi trần là những ǵ mà hệ thống tuyến của y tạo ra cho y, và nhân đó những ǵ chúng tạo được nơi thân xác y, bởi v́ những cái đó thường do trạng thái tâm lư của y: về trí tuệ và t́nh cảm ấn định. Người b́nh thường duy ngă phần lớn chú trọng vào thể xác, y ít chú ư hoặc không chú ư ǵ đến sự quân b́nh hoặc thiếu thăng bằng của hệ nội tiết của y, hoặc tạo ra (tôi tạm dùng từ ngữ đó) theo góc độ định đoạt của hệ nội tiết đó, hiệu quả tâm lư của y lên trên bạn bè của ḿnh. Tôi không định phân tích về các tuyến khác nhau, để ư xem chúng đáp ứng ra sao với t́nh trạng được khơi hoạt hoặc chưa khơi hoạt của các bí huyệt, hoặc chúng hạn chế hay tiến hành sự đáp ứng của con người ra sao đối với môi trường của y, hoặc ấn định cách lư giải về sự sống, tính tiêu cực hoặc tích cực của các phản ứng hằng ngày của y trước các biến cố và hoàn cảnh. Có thể nói một cách mạnh mẽ rằng một người có bản chất thế nào đều là do các tuyến của y định đoạt, nhưng đến phiên chúng, các tuyến này chỉ là hậu quả của một số nguồn năng lượng mạnh mẽ. Một lần nữa, như bạn thấy, tôi lặp lại chân lư trọng yếu này.
626
Chính
v́ lư do này mà sau rốt, y khoa sẽ t́m thấy chân lư (họ
cũng đă đang cảm nhận nó) rằng về
cơ bản không thể đổi được cá tính
(personality) và trang cụ hồng trần (physical equipment)
của con người qua cách xử lư/ trị liệu chính
các tuyến.
Trong ba, bốn mươi năm, các nhà nội tiết học đă xem xét và khảo cứu vấn đề này, chỉ tạo được một ít tiến bộ thật sự theo chiều hướng đó. Một số điều đă được t́m ra. Một vài kết quả về sự hoạt động hoặc bất động của các tuyến đă được ghi nhận. Một vài mẫu người đă được nhận ra như minh họa cho tính tích cực hoặc tiêu cực của hạch tuyến. Các biện pháp cải thiện đă được áp dụng và hoạt động của một tuyến đă được kích thích hoặc làm chậm lại (với hậu quả tốt hoặc xấu) bằng nhiều phương pháp và các loại thuốc khác nhau. Ngoài điều đó ra, người ta chưa biết thêm bao nhiêu, và những bậc tài trí lỗi lạc nhất trong lănh vực đặc biệt này đều biết được sự thực là họ đang đối diện với một “vùng đất lạ”. T́nh trạng này sẽ vẫn c̣n cho tới khi y khoa hiện đại nhận ra rằng thế giới nguyên nhân (đối với các tuyến nội tiết) là thể dĩ thái với bảy bí huyệt của nó; lúc đó họ sẽ ghi nhận sự thực là mọi công việc liên quan đến các tuyến phải được chuyển ra khỏi bảy hậu quả hay phóng hiện của các bí huyệt lên trên chính các bí huyệt.
Thế nên, nhà trị liệu không chú ư đến tuyến liên hệ và chỉ bận tâm trực tiếp với bí huyệt đang chi phối “điểm ma sát” và kiểm soát vùng ở dưới ảnh hưởng của nó. Tất nhiên, vùng này gồm có tuyến mà bí huyệt ấy đă tạo nên, hợp thành hay là đột hiện và tiếp năng lượng.
627
Như
định luật này cho biết, ư niệm trong trí của
nhà trị liệu sẽ là một vận hà không bị
cản trở hoặc là một lối đi thông suốt,
theo đó sự sống mang lại sức khỏe có
thể lưu chuyển từ “bí huyệt cần thiết”
trong thể dĩ thái của nhà trị liệu đến
với bí huyệt gắn bó chặt chẽ trong cơ
thể bệnh nhân, từ đó mà nhập vào ḍng máu, qua
tuyến liên hệ. Đừng quên chân lư muôn đời
vẫn đúng rằng “máu là sự sống” – mặc dù cho
đến nay vẫn không thể giải thích
được các ẩn ư của chân lư đó theo quan điểm
của nhà huyền bí học, cũng như theo quan
điểm của y học.
Nhà trị liệu phải học cách làm việc với nguyên khí sự sống (life principle) chứ không phải với năng lượng mơ hồ nào đó, vốn được phát khởi bằng quyền năng tư tưởng hoặc bằng mănh lực t́nh thương như là trường hợp được đưa ra ngày nay bởi nhiều hệ thống trị liệu khác nhau trên thế giới mà nhân loại đă triển khai. Nguyên sinh khí này được tiếp xúc và phát động bằng cách khai thông một số vận hà dĩ thái bên trong cấu trúc dĩ thái nằm bên dưới mọi bộ phận của cơ thể bệnh nhân. Việc khai thông này không tạo ra bằng cách nghĩ đến sức khỏe hoặc bằng cách xác nhận thiên tính, hoặc bằng cách loại bỏ “sai lầm” trong cách tiếp cận bằng trí mà bằng phương pháp b́nh thường hơn nhiều, tức là điều khiển các ḍng năng lượng, đi qua một số bí huyệt, và nhờ thế mà ảnh hưởng đến một số tuyến ở vùng thể xác bị bệnh, và là trung tâm của xáo trộn, đau đớn, và thống khổ.
Vậy th́ tư tưởng hoặc suy tư chính xác tất nhiên là đúng. Nhà trị liệu phải suy tư rơ ràng trước khi y có thể mang lại các kết quả mong muốn. Tuy nhiên, năng lượng tuôn đổ vào cơ thể bệnh nhân không phải là năng lượng trí tuệ, mà là một trong bảy dạng năng lượng prana hay năng lượng của sự sống. Năng lượng này đi theo đường sức hay vận hà nó nối liền và liên kết mọi bí huyệt này với các tuyến. Đừng quên rằng, năng lượng này tạo nên một bộ máy quản trị ăn khớp của các hệ thống sau đây. Theo quan điểm của nhà huyền bí học, th́ các hệ thống này là biểu tượng của các tiến tŕnh vũ trụ vĩ đại:
1. Toàn bộ thể dĩ thái, với các vận hà và các tuyến năng lượng thông thương của nó, ẩn dưới mọi bộ phận của cơ thể con người.
628
2.
Bảy bí huyệt liên hệ, mỗi bí huyệt có tính cách
riêng biệt và giao tiếp với mỗi và mọi bí
huyệt kia, xuyên qua các vi tuyến lực hay tuyến
lực bằng dĩ thái.
3. Các nadis tức hệ thống các vận hà dĩ thái hơi trọng trược hay là tuyến lực nhỏ đang nằm dưới toàn bộ hệ thần kinh. Chúng nằm dưới mọi loại dây thần kinh và mọi mạng lưới thần kinh.
4. Chính thần kinh hệ, trải rộng phạm vi ảnh hưởng của nó khắp toàn bộ cơ thể con người.
5. Hệ nội tiết hay hệ thống tuyến.
6. Ḍng máu, nơi tiếp nhận các ḍng năng lượng linh hoạt từ hệ nội tiết, xuyên qua cái được gọi là hormone.
7. Tổng thể liên hệ chặt chẽ vốn là biểu lộ thiêng liêng của con người tinh thần trong bất cứ kiếp luân hồi nào, và ở bất cứ tŕnh độ tiến hóa nào.
Do đó, hai ḍng năng lượng lớn tràn ngập và làm sinh động toàn bộ tập hợp các hệ thống này: ḍng sinh lực và ḍng tâm thức. Một ḍng hoạt động qua hệ thần kinh (ḍng tâm thức), c̣n ḍng kia th́ qua ḍng máu. Thực ra, cả hai có liên quan và kết hợp chặt chẽ đến nỗi trong khi hoạt động, một người thường không dễ ǵ mà phân biệt giữa chúng.
629
Tuy
nhiên, nhà trị liệu không làm việc với trạng thái
tâm thức, y làm việc hoàn toàn với trạng thái sự
sống. Nhà trị liệu toàn hảo (điều mà
hiện nay chưa có) làm việc thông qua điểm khép
chặt và niêm kín bên trong bí huyệt (chính là tâm của bí
huyệt ấy). Ở đó, có tâm điểm của
sự sống. Từ điểm này bên trong bí huyệt,
sự sống tỏa ra đi vào các cánh hoa sen. Việc kết
hợp sự sống ở trung tâm và tâm thức, sẵn có
ở các cánh hoa, là nguồn cội của con người
đang sống, hít thở, đang cảm nhận – theo quan
điểm vật chất (hồng trần) – và nhà trị
liệu phải nhận ra được điều này.
Đằng sau sự linh động và tâm thức này là Bản Thể (Being), tức con người tinh thần, tức diễn viên, tức kẻ cảm nhận ở nhiều tŕnh độ khác nhau, và kẻ suy tưởng. Tính đơn giản của phát biểu trên có phần nào gây hiểu lầm, v́ có các yếu tố và các liên hệ khác và các năng lượng khác phải xem xét. Tuy nhiên, về căn bản th́ phát biểu ấy đúng, và nhà trị liệu có thể hành động dựa vào chân lư ấy.
Thực là thú vị mà nêu ra rằng Đại Thỉnh Nguyện hiện đang được phổ biến trên thế giới được căn cứ vào cùng ư niệm căn bản này của các hệ thống vĩ đại đang chi phối toàn thể nhân loại. Các hệ thống ấy có thể được tiếp năng lượng nhờ ḍng năng lượng lưu nhập, mang lại sức sống mới và sức khỏe cho toàn cơ thể nhân loại, qua các trung tâm hành tinh của nguồn sống và tâm thức thiêng liêng.
Qui luật bốn kèm theo định luật VII cũng rất quan trọng, v́ nó cực kỳ đơn giản, và v́ nếu hiểu và noi theo, nó tạo thành một qui tắc bắc cầu giữa các phương pháp khách quan và chủ quan để giải quyết bệnh tật. Định luật mà chúng ta vừa xét cũng rất mực đơn giản và minh bạch, các ẩn ư của nó có liên hệ đến bản chất bên trong và h́nh hài bên ngoài. Người nghiên cứu đừng để bị lừa dối bởi tính đơn giản và bởi những phát biểu đơn sơ và bộc trực đó. Có một khuynh hướng xem giáo lư huyền bí như là tất phải trừu tượng quanh co, luôn luôn cần phải dùng “ư thức huyền bí” (theo bất cứ ư nghĩa nào) mới có thể lănh hội được. Tuy nhiên, giáo lư càng tiến bộ, th́ rất thường khi nó càng được diễn đạt đơn giản hơn. Tính chất bí hiểm có liên quan với thiếu hiểu biết của nhà nghiên cứu – chứ không do cách tŕnh bày của vị huấn sư. Qui luật này được tŕnh bày như sau:
630
QUI LUẬT BỐN
Dựa vào các triệu chứng bên ngoài đă biết rơ, việc chẩn đoán bệnh thận trọng sẽ được đơn giản hóa đến mức mà khi đă biết và cô lập được cơ quan liên hệ, th́ bí huyệt trong thể dĩ thái vốn liên quan mật thiết nhất với nó trong thể dĩ thái sẽ tùy thuộc vào các phương pháp chữa trị theo huyền môn, dầu các phương pháp cải thiện thông thường như dùng thuốc, hoặc giải phẫu sẽ vẫn được dùng.
Qui luật này không cần được minh giải bao nhiêu, v́ nó gồm các chỉ dẫn, vắn tắt, rơ ràng. Ta hăy liệt kê ra:
1. Cần phải thận trọng chẩn đoán căn bệnh dựa vào các triệu chứng bên ngoài đă biết rơ.
2. Cơ quan vốn là trung tâm xáo trộn phải được xác định. Cả hai hoạt động này có liên quan đến nhục thân.
3. Kế đến, phải chú ư đến bí huyệt trong thể dĩ thái gần nhất với vùng có xáo trộn.
4. Lúc đó mới dùng những phương pháp trị liệu theo huyền môn, nhắm vào việc kích thích bí huyệt liên hệ, hoặc là làm ngược lại.
5. Đồng thời, mọi phương pháp chính thống bên ngoài vẫn được dùng.
631
Đa
số nhà gọi là trị liệu thời nay,
thường lầm lạc về vấn đề
chẩn đoán thận trọng này. Họ không có hiểu
biết đầy đủ về thể xác, về
bệnh lư học, về các triệu chứng chính và
phụ, để xác định bản chất của khó
khăn. Đó là do nhà trị liệu thông thường
chưa được huấn luyện về y học,
đồng thời y lại chưa có được
khả năng tâm thông để đạt được
cách chẩn đoán thực sự theo phương pháp
huyền môn. V́ thế mà y rơi trở lại vào giả
thuyết chung rằng bệnh nhân đang bệnh, rằng
trung tâm của xáo trộn dường như đang ở
trong vùng này hay vùng nọ của thân xác, rằng bệnh nhân
than phiền về một số đau nhức, và rằng
nếu bệnh nhân có thể được làm cho
đủ an tĩnh, nếu y có thể hiểu (cùng với
nhà trị liệu) sự thực về thiên tính của y –
hỡi bạn, ai có thể làm điều đó? – và
bấy giờ, nếu y tin vào nhà trị liệu, th́
chắc chắn là y có thể được chữa lành.
Điều rơ ràng thường được ghi nhận là việc thiếu hiểu biết của cả bệnh nhân lẫn nhà trị liệu. Điều đáng phàn nàn là sự phỏng đoán của nhà trị liệu rằng, nếu sau đó bệnh được chữa lành, là hoàn toàn do theo đúng các phương pháp trị liệu, trong khi, rất có thể người bệnh sẽ hồi phục trong bất cứ trường hợp nào.
Việc chữa lành có thể đă được thúc đẩy bằng yếu tố đức tin, và đức tin chỉ là sự hội tụ năng lượng của bệnh nhân phù hợp với lời khuyên của nhà trị liệu, và do đó có sự “bộc lộ” năng lượng đó nơi vùng bệnh, tuân theo định luật “năng lượng theo sau tư tưởng”. Sự “bùng nổ” (xin tạm dùng một từ ngữ mạnh mẽ như thế) của năng lượng đức tin nơi hai người có liên quan – nhà trị liệu và bệnh nhân – về mặt huyền bí, đôi khi tạo ra sự kích thích về năng lượng đủ để đưa tới chữa lành bệnh, nơi mà trong bất cứ trường hợp nào việc lành bệnh tất phải xảy ra. Đó chỉ là tiến tŕnh thúc đẩy nhanh mà thôi. Tuy nhiên, đây không phải là trị liệu theo huyền môn thực sự, và không có các phương pháp chữa trị theo huyền môn đích thực nào được dùng hoặc có liên quan đến. Về mặt tâm lư, cùng một sự việc có thể được thấy xảy ra trong trường hợp một người “được cải đạo”, theo lối nói của Trường Phái Chính Thống Thiên Chúa giáo. Đức tin của người thụ giáo, đức tin của nhà truyền bá Phúc Âm, cộng với đức tin của người tham dự (nếu có) có thể mang lại việc chữa trị bằng tâm lư theo lối giải tỏa những sự chia cách, hoặc là tạo nên một sự nhất quán, cho dù chỉ có tính tạm thời.
632
Bao
giờ cũng phải nhớ rằng trong thế giới được
sáng tạo này không có ǵ trừ ra năng lượng đang
hoạt động, và rằng mọi tư tưởng
đều hướng dẫn một số trạng thái
của năng lượng đó, mặc dầu luôn luôn
ở trong phạm vi ảnh hưởng của một
năng lượng nào đó vĩ đại hơn, có
tư duy và có điều khiển. Cả đức tin
của nhà trị liệu lẫn đức tin của bệnh
nhân đều là những điển h́nh của năng
lượng đang hoạt động, và hiện nay,
thường thường là những năng lượng
duy nhất được dùng trong mọi trường
hợp trị liệu. Y học chính thống cũng tác
động với cùng các năng lượng đó, bổ
sung các phương pháp chính thống của nó với
sự tin tưởng của bệnh nhân vào thầy
thuốc, và vào kiến thức khoa học của thầy
thuốc.
Ở đây, tôi sẽ không bàn rộng thêm về lời khuyên dùng thuốc và những phương pháp giải phẫu khi nào có thể được. Tôi đă đề cập đến vấn đề này nhiều lần trong giáo huấn về trị liệu này. Điều thiết yếu là mọi người nên hiểu rằng các kiến thức đă được xác định của y học và giải phẫu hiện nay, cũng chính xác nhiều như một biểu hiện của kinh nghiệm thiêng liêng và hiểu biết như các phương pháp đầy hy vọng, tự tin nhưng vụng về của cái gọi là trị liệu thiêng liêng – nếu không nhiều hơn hiện tại. Dầu rằng nhiều phương pháp của y khoa chính thống vẫn c̣n có tính cách thí nghiệm, chúng không hẳn là các phương pháp của các nhà trị liệu thời nay, và nhiều kiến thức khoa học của họ đă được chứng minh và xác thực. Nên sử dụng và tin cậy vào kiến thức khoa học đó. Phối hợp trị liệu toàn hảo là sự phối hợp của thầy thuốc và nhà trị liệu tinh thần, mỗi người làm việc trong lĩnh vực của ḿnh và cùng tin cậy lẫn nhau. Hiện nay, chưa có được trường hợp đó. Không cần ǵ phải kêu gọi đến sự trợ giúp thiêng liêng để sắp lại xương mà nhà giải phẫu đủ trang bị để làm, hoặc là để thanh toán một bệnh truyền nhiễm mà thầy thuốc biết rành cách ứng phó. Nhà trị liệu có thể trợ giúp và có thể thúc đẩy tiến tŕnh chữa trị, tuy nhiên, một y sĩ chân chính cũng có thể thúc đẩy công việc của nhà trị liệu. Cả hai nhóm đều cần lẫn nhau.
633
Tôi
biết rằng những điều tôi đă nói ở
đây sẽ làm cho nhà trị liệu tinh thần cũng
như vị y sĩ chân chính đều không hài ḷng. Tuy
nhiên, đă đến lúc họ học cách thông hiểu
lẫn nhau và làm việc bằng sự hợp tác. Nói cho
cùng th́ nhà trị liệu tinh thần và các cách chữa
trị tâm trí mới đều tương đối ít
đóng góp, nếu so với việc làm và kiến thức
của một y sĩ chân chính. Thế gian mang ơn rất
nhiều đối với các bác sĩ và các nhà giải
phẫu. C̣n món nợ đối với các nhà trị
liệu tinh thần th́ hiển nhiên là không lớn như
thế. Họ cũng thường làm hư hỏng
đường trị liệu bằng sự gay gắt và
luôn chỉ trích các y sĩ và thầy thuốc chân chính.
Sự chắc chắn của hiểu biết và kinh
nghiệm ngăn chận được thái độ
tương tự trong nhóm chân chính cộng với nhận
thức rằng ngay cả nhà trị liệu tinh thần cũng
sẽ nhờ đến bác sĩ trong những lúc khẩn
cấp.
Giờ đây, định luật và qui luật cần xem xét sẽ đưa chúng ta vào lănh vực thực sự trừu tượng; sẽ không dễ dàng để bạn hiểu được nhiều về những ǵ tôi có thể nói đến. Định luật VIII này đưa chúng ta trở về chính nguồn cội của mọi hiện tượng có liên hệ đến con người – đó là ư chí của linh hồn bất tử muốn đầu thai xuống thế hay là muốn từ giă cơi trần. Định luật đó cũng đ̣i hỏi phải xem xét đến yếu tố Ư Chí trong việc tạo ra bệnh tật, như là phương tiện trực tiếp để đưa tới việc triệt thoái ấy. Cho đến nay, ít có sự hiểu biết về Ư Chí đến nỗi rất khó giải thích.
ĐỊNH LUẬT VIII
Bệnh tật và tử vong là kết quả của hai mănh lực chủ động. Một là ư chí của linh hồn, lực này bảo với khí cụ của nó: “Ta thu hồi tinh hoa trở lại”. Lực kia là lực thu hút của sự sống hành tinh, lực này bảo với sự sống bên trong cơ cấu nguyên tử: “Đă đến giờ phút tái hấp thu. Hăy trở lại cùng ta”. Tất cả mọi h́nh hài đều hoạt động theo định luật chu kỳ như thế.
Hai trạng thái trong bản chất của Ư Chí thiêng liêng được huy động nơi nào có liên quan đến bệnh tật và tử vong; một là ư chí của linh hồn muốn chấm dứt cuộc luân hồi. C̣n trạng thái kia là ư chí của Chơn linh địa cầu (spirit of the earth) (là mănh lực căn bản của tinh linh) muốn thu hồi những chất liệu đă được phóng xuất và tạm thời bị cô lập mà chính linh hồn đă tận dụng hết trong chu kỳ nhập thế.
Yếu tố thời gian, yếu tố về sự tương tác giữa mức độ ư chí vốn là mức của linh hồn với ư chí luôn luôn hiện hữu lan rộng của Chơn linh tinh linh của vật chất có liên hệ cộng với liên hệ theo chu kỳ của chúng. Chúng ta sẽ cố gắng xem xét các yếu tố này.
634
Những
ǵ mà tôi phải nói ra ở đây rất quan trọng và
sẽ chiếu rọi ánh sáng mới lạ vào toàn bộ
vấn đề bệnh tật. Trước hết tôi
sẽ bàn đến phần sau của định
luật, phần này liên quan đến “lực thu hút
của sự sống hành tinh”, lực này báo với sự
sống ở trong cấu trúc nguyên tử rằng: “Đă
đến giờ phút tái hấp thu. Hăy trở lại cùng
ta”.
Để hiểu rơ điều vừa nêu, tôi xin nhắc bạn rằng, con người là một thực thể tinh thần, đang nắm giữ hay làm linh hoạt (tôi thích dùng thuật ngữ huyền học này hơn) một nhục thân. Nhục thân này là một thành phần của cơ cấu chung của toàn bộ hành tinh, gồm các nguyên tử sống vốn ở dưới sự kiểm soát của sự sống của thực thể hành tinh và là thành phần của sự sống đó. Nhục thân này được đưa vào tự do tạm thời và được hướng dẫn bởi ư chí của linh hồn đang làm linh hoạt, nhưng đồng thời vẫn là thành phần cố hữu của tổng thể mọi chất liệu nguyên tử. Vận cụ hồng trần này có sự sống của riêng nó và có một mức độ trí khôn mà chúng ta gọi là bản năng của nó, c̣n các nhà huyền bí học th́ gọi đó là tinh linh hồng trần (physical elemental). Trong thời gian luân hồi, tinh linh hồng trần này là lực cố kết hay là phương tiện nhờ đó thể xác giữ được h́nh dáng đặc biệt của nó dưới sự tác động của nguồn sống dĩ thái. Sức sống đó ảnh hưởng đến mọi nguyên tử đang linh hoạt và đưa chúng liên kết lại với nhau. Thể xác là biểu tượng lớn (trong sự sống Duy Nhất) của nhiều thứ hợp thành nó. Nó là sự thực được minh chứng của tính cố kết bên trong, của hợp nhất, của tổng hợp và của mối liên hệ bên trong. Prana hành tinh hay hồng trần (dạng thấp nhất của năng lượng prana) là sự sống của toàn thể các nguyên tử (cấu thành tất cả các ngoại thể), khi chúng được đưa vào liên hệ với cấu trúc nguyên tử riêng biệt của nhục thân, của một linh hồn cá biệt đang làm linh hoạt trong bất cứ giới nào của thiên nhiên – đặc biệt là giới nhân loại là điểm mà chúng ta đang nghiên cứu.
635
Về
điều này, những ǵ đúng cho cá thể hoặc cho
con người, tức tiểu thiên địa, th́ cũng
đúng cho một hành tinh, vốn là một tổng thể
cố kết, giống như con người. Sự toàn
vẹn này là do sự liên hệ của hai trạng thái
của sự sống: sự sống của Hành Tinh
Thượng Đế và sự sống của Chơn linh
địa cầu, vốn là sự sống của toàn
thể mọi nguyên tử hợp thành mọi h́nh hài.
Nhục thân của con người phù hợp với toàn
thể vật chất linh hoạt, với sự sống tinh
linh, và do đó là biểu tượng của sự
sống đó. Hai sự sống này, hoạt động
trong tiểu thiên địa cũng như đại thiên
địa, tạo nên năng lượng prana sống
động, nó luân lưu khắp thể dĩ thái của
mọi h́nh hài, nó tạo ra sự mạch lạc hoặc là
sự liên kết tổng hợp, có thể được
nhận ra khi trạng thái trọng trược nhất
của dĩ thái thể được nh́n thấy, như
vậy tạo nên hào quang sức khỏe nơi thực
vật, cây cối, hải sinh vật, thú vật và con
người. Có các năng lượng và mănh lực khác
lưu chuyển và chi phối thể dĩ thái, nhưng
ở đây, tôi chỉ đề cập đến
trạng thái hồng trần thấp nhất. Trạng thái
này biểu thị cho sự sống của tinh linh trên hành
tinh chúng ta, tức là Chơn linh địa cầu, một
sự sống thiêng liêng đang tiến trên cung giáng hạ
tiến hóa của công cuộc biểu lộ.
Chơn linh địa cầu này duy tŕ ảnh hưởng của ḿnh dựa vào các cấu trúc nguyên tử của mọi h́nh hài được nắn tạo, kể cả thể xác của con người. Cuối cùng chơn linh gom chúng lại và tái hấp thu những thành phần thuộc sự sống của chơn linh vốn tạm thời bị tách ra khỏi chơn linh trong bất cứ kinh nghiệm nhập thể của bất cứ linh hồn nào, trong bất cứ giới nào trong thiên nhiên. Cần để ư là, các nguyên tử này thấm nhuần hoặc bị chi phối bởi hai yếu tố mà chỉ một ḿnh chơn linh địa cầu chịu trách nhiệm.
1. Yếu tố nghiệp quả của sự sống của tinh linh trên hành tinh. Đây là một loại nghiệp quả kết tụ trên đường tiến hóa giáng hạ, hoàn toàn khác với nghiệp quả của Đức Hành Tinh Thượng Đế, Ngài là một Đấng tinh thần trên cung tiến hóa thăng thượng. Do đó, karma tiến hóa giáng hạ này chi phối kinh nghiệm sống, theo khía cạnh thuần túy vật chất của mọi h́nh hài làm bằng chất liệu nguyên tử.
636
2.
Yếu tố hạn chế. Ngoài karma đang mang
đến kết quả ở cơi trần, ảnh
hưởng đến mọi h́nh hài cơi trần gồm có
tinh chất tinh linh này, thể xác của mọi sự
sống trong tất cả các giới của thiên nhiên
cũng chịu sự chi phối vào đúng thời
điểm của ảnh hưởng theo chu kỳ
của chơn linh hành tinh và theo tŕnh độ tiến hóa
của vị này. Chơn linh (spirit) tiến hóa giáng hạ
này chưa đạt mức hoàn thiện, mà đang tiến
đến một mục tiêu đặc biệt, vốn
sẽ được đạt đến khi ṿng cung
tiến hóa thăng thượng để học hỏi
kinh nghiệm được đạt tới. Việc
đó hăy c̣n xa. Đức Hành Tinh Thượng Đế
của chúng ta, – tức Đấng thiêng liêng vĩ
đại mà trong Ngài chúng ta đang sống, hoạt
động và hiện tồn, cho đến nay là một
trong “các Thượng Đế chưa hoàn thiện” – theo
quan điểm của mục tiêu ấn định cho
tất cả các Hành Tinh Thượng Đế. Thể
biểu lộ của Ngài, tức hành tinh của chúng ta,
tức là Địa Cầu, chưa là một hành tinh thánh
thiện. Chơn linh địa cầu thậm chí c̣n
rất xa với mức hoàn thiện tương
đối mà một con người hữu thức
biết đến.
Tŕnh độ tiến hóa của chơn linh/ tiểu thần địa cầu ảnh hưởng đến mọi nguyên tử trong cơ thể Ngài – cơ thể của một thực thể tiến hóa giáng hạ. Kết quả của sự bất toàn này vốn không phải là bất toàn của Hành Tinh Thượng Đế, mà là của tiểu thần địa cầu (spirit of the earth), tự biểu lộ trong sự hiện hữu của bệnh tật dưới mọi h́nh thức trong mọi giới của thiên nhiên. Các khoáng chất đang chịu lệ thuộc vào bệnh tật và phân hủy. Ngay đến “độ mỏi” (“fatigue”) của các kim loại cũng là một sự kiện khoa học được ghi nhận. Thảo mộc và thú vật đều phản ứng với bệnh tật trong cơ thể của chúng, c̣n bệnh tật và tử vong đều sẵn có trong các nguyên tử tạo ra mọi cơ quan. Con người cũng không tránh khỏi điều đó. Thế nên, như tôi thường nói với các bạn, bệnh tật không phải do sự suy tư sai lầm, hoặc là do việc không xác nhận được thiên tính. Nó sẵn có trong chính bản chất của h́nh hài, nó chứng tỏ các bất toàn mà tiểu thần địa cầu đang chịu đựng. Bệnh tật là cách hay nhất nhờ đó sự sống tinh linh này giữ được toàn vẹn và có thể tái ḥa nhập những ǵ thuộc về sự sống này, nhưng đă bị mang đi theo những chiều hướng khác, do mănh lực hút của sự sống của những ǵ làm linh hoạt mọi giới khác trong thiên nhiên trong một chu kỳ lâm phàm.
637
Điều
này chắc chắn sẽ mang lại cho bạn một ư
niệm mới về bệnh tật. Dưới sức
thôi thúc của linh hồn và ư muốn luân hồi, con người
tạo ra một h́nh hài gồm có những chất liệu
vốn đă bị chi phối. Chất liệu ấy
đă thấm nhuần các xung lực sự sống của
tiểu thần địa cầu. Nhờ làm thế, con
người đảm nhận trách nhiệm về
dạng tinh linh đó, nhưng đồng thời, y tự
hạn chế một cách rơ rệt do bản chất
của các nguyên tử hợp thành h́nh thể ấy.
Chất liệu nguyên tử mà tiểu thần địa cầu
dùng để tự biểu lộ bao giờ cũng
sẵn có trong nó “mầm mống trở về”, cho phép tái
hóa nhập. Chất liệu này cũng bao gồm mọi
cấp độ và phẩm tính của vật chất,
từ loại vật chất thô trược nhất, cho
đến loại tinh tế nhất, thí dụ như
phẩm tính của chất liệu tạo thành sắc
tướng của Đức Phật, hoặc có thể
của Đức Christ. Đấng Chưởng Quản
Địa Cầu, Đức Hành Tinh Thượng
Đế, không thể t́m thấy chất được
làm sinh động bởi tiểu thần địa
cầu với tính chất và bản chất đủ tinh
khiết. V́ thế, Ngài không thể hiện ra (materialise) hay
là tạo một sắc tướng như Đức
Phật hoặc Đức Christ có thể làm. Trong số
các Đấng hợp thành Huyền Linh Điện ở
Shamballa, ít có vị nào t́m được chất liệu
cần thiết hoặc thích hợp, để nhờ
đó mà hiện ra (appear); các Ngài không thể chọn
một nhục thân, và phải hài ḷng với một thể
dĩ thái.
Thế nên, có ba mẫu sự sống, ảnh hưởng đến sắc tướng trọng trược của một con người, trong suốt cuộc biểu lộ bị hạn chế hay là luân hồi của y:
638
1.
Sự sống của chính con người tinh thần
được truyền xuống từ Chơn thần, xuyên
qua linh hồn, đối với phần lớn của
sự sống biểu lộ.
2. Sự sống của toàn thể vốn là sự sống tinh linh của giới thứ tư trong thiên nhiên, tức giới nhân loại. Sự sống này (theo Định Luật Cô Lập hay Giới Hạn) hăy c̣n là một trạng thái của sự sống của tiểu thần địa cầu.
3. Toàn thể của sự sống vốn có trong chính chất liệu nguyên tử – chất liệu mà nhờ đó mọi h́nh hài được tạo thành. Đó là sự sống của tiểu thần địa cầu.
Ở đây, chúng ta không đề cập đến linh hồn trong một nguyên tử hoặc là linh hồn của bất cứ một h́nh hài lớn hay nhỏ nào. Chúng ta đang bàn riêng về sự sống tức là trạng thái thứ nhất. Trạng thái này tự biểu lộ dưới h́nh thức ư chí hiện tồn (will-to-be). Dù bao giờ cũng hiện hữu, ư chí đó chỉ linh hoạt trong sự sống h́nh hài, tức là giai đoạn biểu lộ sáng tạo. Chính ở đây mà yếu tố Ư Chí xuất hiện và liên hệ giữa ư chí, h́nh hài và luân hồi hiện ra.
639
Một
trong những yếu tố chi phối luân hồi là sự
hiện hữu của cái gọi là ư-muốn-linh-hoạt.
Khi ư muốn đó xuất hiện và khi nó có uy lực trong
con người, th́ con người sẽ bám chặt vào cơi
trần. Khi ư muốn đó không c̣n mạnh nữa, hoặc
bị triệt thoái, th́ con người chết. Về
mặt kỹ thuật và mặt huyền bí, sự sống
nơi xác thân được duy tŕ dưới xung lực
của ư-chí-hiện-tồn mạnh mẽ của con
người tinh thần đang nhập thể, dựa vào
từ lực của sự sống hành tinh, có sẵn trong
mọi nguyên tử của bản chất h́nh hài. Nhờ
vào các nguyên tử này – được tách ra và giữ
lại bởi Luật Hấp Dẫn trong h́nh hài – con
người mới xuất hiện ở cơi trần.
Từ lực này là biểu hiện của ư chí (tạm dùng
từ ngữ đó để chỉ ư thức cố
kết vốn phân biệt tiểu thần địa
cầu) của thực thể hành tinh. Đó là sự phóng
chiếu trạng thái tâm thức đặc thù của Ngài
vào một h́nh hài riêng biệt được tạo ra,
chiếm giữ, ẩn náu bởi một linh hồn,
bởi một người đang sống.
639
Đă
nhiều lần, tôi dùng cách diễn đạt “h́nh hài riêng
biệt” (“isolated form”), v́ chính trạng thái cô lập
đặc biệt này vốn chi phối thể xác của
một người (hoặc của bất cứ một
sinh thể nào, cũng vậy), làm cho nó tách ra, cố
kết và tạm thời sống kiếp sống riêng
của chính nó, để đáp ứng với sự áp
đặt đối với sức sống của linh
hồn đang hóa nhập. Tạm thời, lực hợp
nhất của các nguyên tử cô lập và tách ra
–đặc biệt là cấu trúc hành tinh của tiểu
thần địa cầu – ở vào trạng thái đ́nh
hoăn đối với phản ứng cá nhân đối với
sự sống hành tinh. Chỉ có các tính chất từ
lực cố kết vẫn tồn tại trong bất
cứ h́nh thức hoạt động nào và cùng với
ư-muốn-linh-hoạt của con người tinh thần
hoặc của một thực thể có linh hồn nào.
Việc này tạo ra một h́nh hài cố kết,
được giữ chung lại bằng hai sức
sống: sức sống của tiểu thần địa
cầu và sức sống của con người tinh
thần. Do đó mà hai trạng thái của sự sống và
hai h́nh thức của ư chí hoặc mục tiêu
được tập hợp lại – xin nói như vậy
cho dễ hiểu. Trạng thái cao có bản
chất tiến hóa thăng thượng, c̣n trạng thái
thấp th́ có bản chất tiến hóa giáng hạ. Chính
điều này tạo ra xung đột. Một loại
năng lượng th́ tiến hóa thăng thượng. C̣n
loại kia th́ tiến hóa giáng hạ. Chính hai mănh lực xung
đột này làm xuất hiện vấn đề nhị
nguyên – một nhị nguyên giữa cái cao và cái thấp
ở nhiều giai đoạn biến thiên khác nhau. Giai
đoạn cuối của cuộc xung đột
được giải quyết, hay nói đúng hơn là được
vạch ra khi Kẻ Chận ngơ/Tổng Quả và Thiên
Thần Bản Lai Diện Mục đối mặt nhau.
Chính trong biến cố chung cuộc này mà sức thu hút
hoặc phân tranh (conflict) giữa sự sống giáng hạ
tiến hóa với sự sống thăng thượng
tiến hóa, giữa ư chí thu hút c̣n phôi thai của các mănh
lực tinh linh (sẵn có trong các nguyên tử mà cả ba
thể của phàm ngă được tạo thành) với ư
chí của con người tinh thần sắp thoát khỏi
sự kiềm chế thu hút của vật chất,
đưa tới kết thúc.
640
Tiểu
thần địa cầu có sự tương ứng
của thần này với biểu lộ sáng tạo của
con người tinh thần, tương ứng đó
được thấy trong cách sống của phàm ngă
sơ khai. Phàm nhơn sơ khai này có thể và thường
là một lực c̣n phôi thai, hoàn toàn bị dục vọng
chi phối, và không có sự hợp nhất thực sự
nào của phàm ngă. Tuy nhiên, nó có thể là một yếu
tố mạnh mẽ và rất có tổ chức, tạo nên
cái gọi là một phàm ngă cấp cao, và là một khí cụ
hữu hiệu cho con người tinh thần trong ba cơi
tiến hóa của con người. Điều này
được nối tiếp sau đó bằng các mâu
thuẫn trên Con Đường Đệ Tử và Con
Đường Điểm Đạo. Sau đó nguồn
sống của con người tinh thần và ư muốn
biểu lộ thiên tính của y sẽ chi phối
đến mức mà cái chết của phàm ngă xảy ra.
Việc này lên tới tột đỉnh vào cuộc
điểm đạo thứ ba. Với kinh nghiệm
đó, ư chí Chân thần sẽ xuất hiện với
sức mạnh năng động đến nỗi ư chí
của các sự sống sơ khai của phàm ngă tam phân
trở nên hoàn toàn bị tiêu tan.
Tuy nhiên, (trở lại chủ đề chúng ta) chất liệu nguyên tử tẩm vào sự sống của tiểu thần địa cầu và vào lực truyền động của ư chí c̣n phôi thai của tiểu thần; biểu lộ dưới h́nh thức sức mạnh từ lực và luôn luôn phân tranh/mâu thuẫn bên trong thể biểu lộ của linh hồn đang linh hoạt, với sự sống của linh hồn.
Sự phân tranh hay ma sát/va chạm này là nguyên nhân chính của cái mà bạn gọi là bệnh tật. Bệnh tật là sự thiếu hài ḥa. Đó là khuyết điểm của lửa do ma sát; vùng bị bệnh là các vùng ma sát, trong đó chất liệu nguyên tử tạm thời khẳng định kiểu sinh hoạt (livingness) riêng của nó và đáp ứng (đôi khi đưa đến điểm chết) với lực hút từ điện của ư chí tiểu thần địa cầu. Nếu lực hút ấy đủ mạnh, th́ sự ma sát trong cấu trúc nguyên tử, nằm trong vùng của bí huyệt dĩ thái nào đó, sẽ có được bản chất khiến tính chất của bệnh tăng lên, sự sống của con người tinh thần bị triệt thoái nhanh hoặc chậm. Bấy giờ, ư muốn tồn tại, tức là ư chí hiện tồn thiêng liêng không mạnh bằng ư muốn được tái hấp thu – đó là ư muốn của các nguyên tử đang tạo ra thể xác. Do đó, nói theo nghĩa thông thường, con người từ trần.
641
Sự
sống/đấng hành tinh bảo rằng: “Giờ phút tái
hấp thu đă đến. Hăy trở lại cùng ta”.
Hiện nay, thôi thúc quay về là nốt vượt trội
trong chất liệu của các thể của nhân loại;
nốt đó chịu trách nhiệm cho sức khỏe kém
khắp nơi vốn phân biệt đa số con
người. Khuynh hướng này đă vượt
trội trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, thái độ
đó đang dần dần thay đổi. Rốt
cuộc, sẽ đến lúc mà các nguyên tử của các
thể, tức là các sức mạnh tinh linh (elemental forces),
sẽ được gởi trở lại theo con
đường tái hấp thu, chỉ theo ư chí của con
người tinh thần và để đáp lại theo
mệnh lệnh rành mạch của người, chứ
không đáp lại sức thu hút của tiểu thần địa
cầu.
642
Cho
tới nay, khi nghiên cứu các định luật và các qui luật,
chúng ta đă thấy rằng, về căn bản, bệnh
tật và tử vong đều do việc triệt thoái
của sự sống thái dương (tức năng
lượng của linh hồn, đôi khi được
gọi là lửa thái dương) hoặc là ra khỏi
một vùng riêng biệt nào của thể xác, hoặc ra
khỏi toàn bộ thể xác. Sự kiện này nhắc
nhở các đạo sinh về việc cần phân biệt
giữa mănh lực hay sự sống của các “nguyệt
thần” sẵn có trong mọi nguyên tử mà các cơ quan và
h́nh hài được làm ra, với năng lượng
của linh hồn đang thấu nhập vào toàn bộ
cơ thể, như một yếu tố hội nhập.
V́ thế, nói một cách tượng trưng, có lắm khi
sự sống của các nguyệt thần lấn át
đến nỗi sự sống của linh hồn bị
áp đảo trong một vùng đặc biệt nào đó,
hậu quả là sự sống thái dương rút ra, gây nên
bệnh tật. Hoặc nói cách khác, ma sát / va chạm
xảy ra khi các nguyệt thần không nhượng bộ,
gây ra bệnh tật. Tuy nhiên, cái chết không chứng
tỏ sự toàn thắng của các nguyệt thần, mà
đúng hơn việc đó nằm dưới kế
hoạch của linh hồn, và cũng v́ chu kỳ sinh
hoạt đă hoàn tất, năng lượng của linh
hồn hoàn toàn được triệt thoái, chỉ
chừa lại các nguyệt thần. Cũng v́ trong
hoạch định của linh hồn mà đôi khi các
nguyệt thần tạm thời chiến thắng, dù
sự chết không xảy ra. Sự hồi phục có
nghĩa là năng lượng của linh hồn từ
từ tái nhập, và sau đó kiểm soát các nguyệt
thần. Trạng thái năng lượng này của linh
hồn, không phải là trạng thái của các năng
lượng vốn tiêu biểu và dẫn đến sự
biểu hiện phẩm tính của linh hồn. Nó là năng
lượng sự sống đến từ Chân Thần,
đi qua linh hồn như là vận hà và phương
tiện giao tiếp. Không cần phải nói, vận hà
trực tiếp của nó là sutratma. Đó không phải là
antahkarana, hay sáng tạo tuyến (creative thread) hay tuyến
tâm thức (giác tuyến). Các tuyến này thường bị
làm cho không hoạt động khi xảy ra bệnh
nặng, và trạng thái sự sống trở nên yếu
đi, hoặc nhanh, hoặc chậm tự triệt thoái.
642
V́
vậy, bạn có thể thấy tại sao chính những
người thành công trong việc tạo antahkarana, tức
đường cầu vồng giữa Chân Thần với
phàm ngă, lại lập được sự giao tiếp
(không tồn tại nơi kẻ b́nh thường) giữa
Chân Thần, tức Cội Nguồn Sự Sống với
phàm ngă – biểu lộ của Sự Sống đó ở
ngoại giới. Bấy giờ Chân Thần chớ không
phải linh hồn, chi phối các chu kỳ biểu lộ
bên ngoài, lúc đó, điểm đạo đồ sẽ
tùy ư từ trần và theo kế hoạch hay các nhu cầu
của công việc. Dĩ nhiên điều này chỉ liên
quan tới điểm đạo đồ cấp cao. Tôi
cảm thấy các điểm này cũng lư thú và hữu ích
cho bạn. Xuất phát từ mọi điều trên,
một điểm khác nữa cho thấy tính chất bao
gồm mọi vật của Sự Sống thiêng liêng, v́
các nguyệt thần là các trạng thái của Sự
Sống đó, cũng nhiều như là năng
lượng của linh hồn.
Chính v́ vậy, điều tối quan trọng là nên khuyến khích việc hỏa táng, chớ không dùng cách chôn cất như hiện nay. Việc hỏa táng giúp cho sự sống của các nguyệt thần quay về với kho chứa sự sống trung ương nhanh hơn bất cứ phương pháp nào khác, v́, “Thượng Đế của chúng ta là một ngọn lửa hay thiêu hủy”, và mọi thứ lửa đều có sự tương cầu với Linh Hỏa trung ương.
Bây giờ, chúng ta hăy nghiên cứu qui luật kèm theo Định Luật VIII.
QUI LUẬT NĂM
643
Nhà trị liệu phải t́m
cách liên kết linh hồn, quả tim, bộ óc và đôi tay
của ḿnh. Nhờ thế y có thể tuôn ra lực chữa
trị linh hoạt vào bệnh nhân. Đây là công đoạn
truyền từ điện. Nó chữa lành bệnh tật,
hoặc tăng thêm t́nh trạng tệ hại, tùy theo
hiểu biết của nhà trị liệu.
Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, bộ óc, quả tim và bức xạ của hào quang. Nhờ thế, sự hiện hữu của y có thể đưa vào sức sống linh hồn cho bệnh nhân. Đây là công đoạn phóng quang. Không cần đến đôi bàn tay. Linh hồn hiển lộ quyền năng của nó. Linh hồn của người bệnh đáp ứng qua sự đáp ứng của hào quang của y với bức xạ của hào quang người chữa trị, tràn ngập với năng lượng linh hồn.
Chỉ ngẫu nhiên đọc qua qui luật này, cũng thấy rơ rằng ư nghĩa rất quan trọng đối với mọi công cuộc trị liệu thành công. Nó tóm tắt hai cách chữa trị, căn cứ vào hai khả năng của nhà trị liệu, dựa trên hai nhóm bề ngoài có liên quan trong phàm ngă của nhà trị liệu, và cho thấy hai mức tiến hóa khác nhau về phía nhà chữa trị. Việc phân tích qui luật này sẽ dẫn tới một ư tưởng c̣n lớn hơn về tầm quan trọng của nó, v́ không những nó chỉ rơ những đường lối mà nhà trị liệu phải tự rèn luyện theo đó, mà c̣n một số liên hệ bên trong phải có, các liên hệ này tùy tŕnh độ tiến hóa của nhà trị liệu. Lại nữa, trong một trường hợp th́ thể xác của bệnh nhân là mục tiêu trị liệu, trong khi ở trường hợp khác, chính linh hồn của bệnh nhân mới cảm nhận được hiệu quả của năng lượng trị liệu. Trong trường hợp thứ nhất, nhà trị liệu vận dụng prana, hay lưu chất sinh khí hành tinh, c̣n trong trường hợp kia th́ dùng năng lượng linh hồn.
644
Thế
nên, dựa vào qui luật này, chúng ta có thể chia các nhà
trị liệu thành hai nhóm: một nhóm dùng lưu chất
sinh lực dĩ thái mà chúng ta gọi là prana. C̣n nhóm thứ
hai làm việc ở một cấp độ cao hơn
nhiều và dùng khả năng làm cho năng lượng linh
hồn đi xuống cơ thể (đúng hơn là phàm
ngă) của nhà trị liệu, và – từ bí huyệt cần
thiết – phóng nó vào bí huyệt thích hợp trong cơ
thể bệnh nhân, nhưng lần này nhờ sự kích
thích hào quang của bệnh nhân, được kiểm soát
bởi linh hồn người ấy. Hai loại năng
lượng này có tính chất khác nhau rất nhiều,
bởi v́ một đàng thuần là năng lượng
của phàm ngă, đôi khi được gọi là từ
điện động vật (animal magnetism), c̣n một
đàng là năng lượng của linh hồn, liên quan
đến loại công việc được gọi là
sự phát xạ.
Ở đây, chúng ta nên lưu ư rằng, thực ra, nhà trị liệu có ba hạng:
1. Nhà trị liệu hoàn toàn làm việc qua từ điện và tập gánh vác sức sống chữa trị linh hoạt của thể dĩ thái hành tinh, khi thể này dùng thể dĩ thái của cá nhân y như một vận hà, để nhờ đó prana có thể tuôn vào thể sinh lực của bệnh nhân.
2. Nhà trị liệu làm việc ở tŕnh độ cao, và do đó tất nhiên là với hạng bệnh nhân cao hơn. Y sử dụng năng lượng của linh hồn đang ứng linh của chính y (overshadowing soul, có lẽ là divine soul – ND) kết hợp với năng lượng của linh hồn đă thoát kiếp thú của y (individualised soul, có lẽ là human soul –ND), nhờ đó mà phóng năng lượng vào linh hồn của bệnh nhân, xuyên qua hào quang của hai người.
3. Nhà trị liệu có thể dùng cả hai kỹ thuật và phạm vi giao tiếp lẫn khả năng hữu dụng của y lớn hơn hai hạng trên. Y có thể sử dụng năng lượng của linh hồn, hay mănh lực sinh khí đều dễ dàng như nhau, do đó y thành thạo cả hai kỹ thuật chi phối hai nhóm năng khiếu liên hệ. Nhà trị liệu hạng này ít có hơn hai hạng trên nhiều.
Hiện nay, trong thế giới tân tiến, không có một hệ thống chữa trị tinh thần đích thực nào dạy trở thành nhà trị liệu tương lai. Thay vào đó là một nỗ lực căn cứ vào toàn thể tiến tŕnh trị liệu cộng với các kỹ thuật được sử dụng, hoàn toàn dựa vào các cấp độ trí tuệ, dựa vào các hệ thống xác nhận, các cách cầu nguyện, kích thích ư-chí-muốn-sống của bệnh nhân, và đôi khi cũng dựa vào con đường từ điện hoặc con đường thôi miên liên quan đến thể dĩ thái. Các h́nh thức tư duy khác nhau dùng ở nội tâm được dạy ra, nhưng chưa thực sự có được công thức nào để chữa trị sáng suốt như mong muốn, chỉ có niềm tin mơ hồ của nhà trị liệu và của bệnh nhân, và một sự tự ám thị mù quáng về cái mà sự thừa nhận và xác nhận về thiên tính có thể tạo ra.
645
Tuy
nhiên, cách trị liệu đích thực được
dựa trên vài nguyên tắc rộng lớn, nó đ̣i hỏi
một chấp nhận rơ ràng trong trí. Vậy mà, những
phương pháp được sử dụng lại rơ
ràng là thuộc về vật chất, dùng luồng dĩ
thái và các bí huyệt trong thể dĩ thái, như
đặt tay lên đầu để ban phúc và tạo các
liên hệ vốn ảnh hưởng đến thể
xác, và vốn không chút ǵ có tính chất trí tuệ và không
cần được dành riêng và ghi nhớ trong trí của
bệnh nhân. Thể dĩ thái có bản chất thuộc
hồng trần, và điều này đừng nên quên và
cần lặp lại luôn luôn. Như trước đây,
chúng ta đă thấy, có ba nguyên lư căn bản,
được nhà trị liệu tin tưởng và xác
nhận. Y sẽ được giúp đỡ rất nhiều,
nếu người bệnh cũng chấp nhận nó:
1. Thực ra không hề có sự phân cách. Thể dĩ thái của hành tinh là một tổng thể nguyên vẹn và không gián đoạn. Các thể dĩ thái của nhà trị liệu và bệnh nhân đều là những phần toàn vẹn ở trong thể dĩ thái ấy.
2. Có một liên hệ không thể bẻ găy (dầu có thể không hiểu rơ) giữa thể dĩ thái của nhà trị liệu với thể dĩ thái của bệnh nhân, mối liên hệ này có thể được dùng đến, một khi sự giao tiếp đă được đem lại, v́ có sự lưu chuyển rơ rệt của các năng lượng.
3. Các vận hà liên lạc có thể trở thành tác nhân truyền dẫn nhiều loại năng lượng khác nhau, do người chữa trị truyền đến bệnh nhân. Trong sự kiện này có tồn tại cả hy vọng lẫn nguy hiểm.
Có nhiều nguyên lư khác nữa, nhưng ba nguyên lư này là thiết yếu và có tính chất giải thích đối với qui luật trên. Do đó, phần lớn việc trị liệu đều tùy theo kiến thức, sự thông hiểu và năng lực nhận thức của nhà trị liệu. Cả hai cách trị liệu bằng từ điện và bức xạ chỉ gây nguy hiểm khi nhà trị liệu không thành thạo, số lượng prana được đưa vào hoặc số năng lượng của linh hồn được phân phối có thể gây chết chóc cũng như sự sống. Nhà trị liệu có thể đưa/nạp prana quá nhiều vào thể dĩ thái của y, rồi phóng nó một cách mănh liệt vào thể dĩ thái của bệnh nhân, đến nỗi y có thể gây hại nhiều hơn là lợi. Chỉ nhờ thực hành nhiều, nhà trị liệu mới có thể biết đúng số năng lượng cần phát ra. Muốn học được điều đó, y nên vận dụng năng lượng càng ít càng tốt, và khi thao tác khéo hơn, y sẽ tăng dần số năng lượng lên. Nói rộng và nói chung, (xin nhắc rằng mọi qui luật đều có ngoại lệ), nhà chữa trị bằng từ điện sẽ làm việc với người kém tiến hóa hơn là với nhà trị liệu tinh thần dùng bức xạ linh hồn, và y sẽ đối trị chủ yếu với các bệnh nằm dưới cách mô. Nhà trị liệu tinh thần làm việc chủ yếu với phần trên cơ thể, qua các bí huyệt trên cách mô và với bí huyệt đầu, nhờ đó mà kiểm soát mọi bí huyệt trong toàn thân. Việc làm của họ vô cùng tinh vi, tế nhị, và có ẩn những nguy cơ lớn lao hơn nhiều. Nhà trị liệu đích thực, nếu là điểm đạo đồ, sử dụng hai phương pháp đều dễ dàng như nhau.
646
Dầu
không đặc biệt hữu ích cho bạn, nhưng
cũng lư thú khi nêu ra hai hạng nhà trị liệu khác,
đôi khi cũng có. Họ làm việc hoàn toàn khác vói một
trong hai phương pháp nói trên. Đó là:
647
1.
Một số nhà trị liệu – họa hoằn lắm –,
đă lập được liên hệ với tiểu
thần địa cầu, tức Thần Cai Quản
(Ruler) mọi nguyệt thần. Dưới một số
công thức và căn cứ vào một số thực hành,
các nhà trị liệu này có thể thỉnh cầu sự
trợ giúp của thần này, và –thật ra– yêu cầu/
chỉ huy việc đó. Tôi không khuyên bất cứ
đạo sinh nào trầm tư quá nhiều theo
đường lối này, hoặc cố thiết lập
sự giao tiếp hay thỉnh cầu sự trợ giúp
của thần. Chỉ có điểm đạo đồ
cao cấp mới có thể giao tiếp một cách an toàn
với Tinh Linh giáng hạ tiến hóa đầy sức
mạnh này. Các thần ấy chỉ làm thế trong các
trận dịch và các đại họa quốc tế
như thế chiến, trong đó liên can đến thể
xác của nhiều ngàn người. Người chưa
tiến hóa cao mà cố lập mối liên hệ đó, th́
có lẽ chỉ thành công trong việc kích thích các nguyệt
thần, với hệ thống bé nhỏ của chính y
tệ hại đến độ phàm ngă của y
được tiếp năng lượng quá mức,
thậm chí đôi khi đưa đến cái chết.
647
2.
Có những nhà trị liệu khác, không hiếm như trong
nhóm trên nhưng tương đối hiếm, hoạt
động kết hợp với thiên thần trị
bệnh. Có những thiên thần như thế, các ngài có
quyền năng ban sự sống. So với các nguyệt
thần giáng hạ tiến hóa, th́ các ngài giống như các
Đấng Cao Cả ở Shamballa so với chúng ta. Các
thần này không đáng ngại cho nhân loại, nhưng không
dễ ǵ tiếp xúc được, ngoại trừ ở
một giai đoạn nào đó trên Thánh Đạo. Khi
đó, nói theo lối tượng trưng, một cánh
cửa hay là điểm giao tiếp hiện ra giữa hai
trường tiến hóa, v́ các thiên thần không ở trên
cung tiến hóa giáng hạ. Sự liên hệ được
thiết lập qua sự tương cầu (affinity),
nhưng điều này chỉ do các thiên thần tạo ra,
chứ không do nhà trị liệu. Nếu nhà trị liệu
tiến hóa cao th́ Đức Thầy của y có thể chỉ
dẫn một thiên thần phụng sự đến giúp
y. Chỉ các nhà trị liệu rất thanh khiết và có
động lực hoàn toàn vô kỷ mới có thể thu hút
các thiên thần này, và khi được thiên thần
trợ giúp, sức mạnh trị liệu của họ
sẽ lớn hơn nhiều, họ ít tạo lầm
lẫn hơn. Thí dụ như họ không cố gắng
chữa trị bệnh nhân nào không có khả năng lành
bệnh. Tử thần (Angel of Death) (lần này tôi không nói
theo lối biểu tượng mà nói đến một
vị thần có thực) sẽ không cho phép thiên thần
chữa trị cộng tác; các thần này chỉ
được phép tiếp cận khi việc chữa trị
được chỉ dẫn.
648
Bây
giờ, chúng ta có thể chọn các câu trong qui luật này và
nghiên cứu ư nghĩa của chúng, v́ chúng có nhiều
nghĩa hơn là bề ngoài. Trong mỗi đoạn
của qui luật này, câu thứ nhất khởi
đầu bởi một huấn lệnh quan trọng cho
nhà trị liệu:
Nhà trị liệu phải t́m cách liên kết linh hồn, quả tim, bộ óc và hai tay của ḿnh. Nhờ thế, y có thể tuôn đổ lực chữa trị linh hoạt vào bệnh nhân.
Đây là kỹ thuật loại thấp nhất của nhà trị liệu tinh thần đích thực. V́ thế, nó bao gồm hai mặt của nhục thân: bộ óc và hai tay. Do đó, nhà trị liệu làm việc qua một tam giác và hai đường năng lượng. Có thể mô tả vị thế này bằng giản đồ sau đây:
Tam giác được hoàn thành, khi việc trị liệu đă xong, năng lượng được rút ra khỏi tay, trở lại năo bộ, và từ đó quay về với linh hồn nhờ tác động của ư chí. Khi (nhờ thực hành chỉnh hợp) nhà trị liệu đă liên kết với linh hồn ḿnh, th́ lúc đó, y đưa năng lượng xuống bí huyệt tim của ḿnh, rồi chuyển đến năo bộ, nơi mà nó hội tụ rơ rệt. Dùng bí huyệt ấn đường làm trung tâm phân phối, bấy giờ y dùng tay làm phương tiện để năng lượng được định hướng có thể đến vùng bị bệnh trong cơ thể bệnh nhân. Y chuyển năng lượng vào bí huyệt gần sát của bệnh nhân đang chi phối vùng bệnh, từ đó nó tỏa ra phần cơ thể chung quanh, đi vào cả trung tâm có xáo trộn, lẫn các giới hạn của vùng nguy hiểm.
649
Có
hai cách dùng tay, và hai phương pháp mà y vận dụng:
1. Đặt đôi bàn tay. Phương pháp này được dùng khi nơi có bệnh được khoanh vùng chặt chẽ. Hai tay được đặt trên bí huyệt ở xương sống, hoặc ở đầu có thể chi phối vùng đó. Tay phải đặt vào bí huyệt trên xương sống, c̣n tay trái th́ đặt ở vùng bụng, ngực hoặc đầu, là nơi mà bệnh nhân nói có bệnh. Chúng được giữ ở vị trí đó bao lâu mà người chữa trị có thể giữ được tam giác linh hồn, tim, năo bộ hiện rơ trong tâm thức.
650
2. Dùng
hoạt động của tay. Nhờ đă xác
định nơi có bệnh và kế đó khoanh vùng bí
huyệt cần thiết trên xương sống hoặc
nơi đầu, nhà trị liệu tạo được
sự lưu chuyển năng lượng (qua hoạt
động của hai tay), qua bí huyệt trong cơ thể
bệnh nhân đang chi phối vùng bệnh, từ đó
hướng ra ngoài qua vùng bệnh, hướng về phía
nhà trị liệu. Trước hết, y dùng tay phải,
đặt trên cơ quan hay vùng bị bệnh một
chốc, rồi từ từ rút tay lại. Y lại dùng bàn
tay trái làm giống như trên. Các bạn nên lưu ư là,
cả hai bàn tay đều được dùng một cách
tích cực. Không bộ phận nào hay dạng thức nào
trong thể xác hay các thể của nhà trị liệu
được để cho tiêu cực, c̣n cái tưởng
tượng rằng tay mặt thuộc dương, tay trái
thuộc âm nên vứt đi. Nếu một tay thuộc âm,
th́ nhà trị liệu có thể bị thu hút vào chính ḿnh các
nguyên tử nhiễm bệnh mà khi chữa được
bệnh, y đă lôi ra khỏi vùng bị bệnh. Các nguyên
tử này không đáp ứng với tác động của
hai tay y, qua trung gian của bí huyệt trong cơ thể
bệnh nhân gần chỗ có rối loạn nhất, mà
được thải ra qua vùng vốn đă đáp
ứng với bệnh.
Trong trường hợp đầu, nhờ đặt hai tay, bàn tay được giữ yên, mà ḍng năng lượng giữa hai tay tới lui bên trong vùng bệnh. Bí huyệt ở trên xương sống được dùng trong suốt thời gian đó, và, hoạt động được thiết lập, khi thành công sẽ thiêu hủy và hấp thu các mănh lực gây bệnh và không xâm nhập vào cơ thể nhà trị liệu. Ở trường hợp thứ nh́, các mănh lực gây bệnh được rút ra bằng tác động của năng lượng chuyển qua tay, áp vào tay này sau tay kia theo một nhịp đều đặn. Các mănh lực ấy chuyển qua hai tay, nhưng không thể tự tập trung ở đó, v́ sự tập trung của năng lượng trị liệu trong hai tay.
Các nhà trị liệu thuộc cung hai, ba và năm, thường dùng cách đặt vào hai tay, tức là chữa trị bằng từ điện (magnetic healing). Cách gọi này áp dụng cho hành động trực tiếp là đặt hai tay lên cơ thể bệnh nhân, chứ không theo hành động của hai tay trong phương pháp thứ nh́, khi hai tay được nhúng vào thể dĩ thái của bệnh nhân, và rơ ràng làm việc trong chất dĩ thái. Các nhà trị liệu thuộc cung một, bốn và bảy dùng phương pháp “nhúng tay”(“hand immersion”) như đôi khi được gọi thế. Ít có nhà trị liệu thuộc cung sáu, và chỉ thành công khi họ tiến hóa cao. Bấy giờ họ sẽ dùng hai phương pháp thay đổi cho nhau.
651
Tất
cả các nhà trị liệu tinh thần tiến hóa
đều dùng cả hai tay. Tuy nhiên, nhà trị liệu
được khuyên trước hết nên xác định
cung của họ, kế đó tự trau giồi cho thành
thạo cách chữa trị thích hợp nhất với cung
ấy. Kế đó, khi có khả năng thích hợp, và có
thể vận dụng dễ dàng và khéo léo, họ có thể
tập thêm cách trị liệu vốn không thích hợp
lắm với loại cung của họ. Người
thuộc cung sáu được khuyên nên ngưng việc trị
liệu, cho đến khi họ đạt đến giai
đoạn điểm đạo (một cách hữu
thức). Khi thông thạo cả hai cách trị liệu
bằng từ điện, nhà trị liệu có thể luân
phiên dùng cả hai, trong việc chữa trị, hoặc là y
có thể dùng cách truyền từ điện trước,
để tạo nên hoạt động thay đổi
trong vùng có bệnh, rồi, cuối cùng dùng cách đặt
tay.
Vào cuối giai đoạn trị liệu, cần “phong kín tam giác”. Cho đến giờ, năng lượng nhận vào tay qua bí huyệt ấn đường đến từ năo, được triệt thoái vào ấn đường, và từ đó được hướng đến linh hồn bằng tác động của ư chí. Mănh lực trị liệu thực sự “bị tắt” và chuyển hướng. Nó không c̣n được dùng nữa.
Trong suốt thời gian chữa bệnh, nhà trị liệu không nói chuyện. Y không phúc đáp và không dùng thần chú chữa trị nào. Tiến tŕnh được vạch ra ở đây là tiến tŕnh về hiệu quả của năng lượng, tức là sức mạnh của linh hồn (soul potency) tác động vào mănh lực. Đây là điểm cần nhấn mạnh. Công việc của nhà trị liệu là duy tŕ tư thế tập trung cực độ vào tam giác “đang hiện hữu bằng các tuyến năng lượng sinh động” (như nó được gọi) ở trong hào quang gồm bốn phần của chính y – hào quang sức khỏe, thể dĩ thái, thể cảm dục và thể trí. Y phải giữ tam giác này nguyên vẹn và ổn định trong suốt thời gian trị liệu. Linh hồn-quả tim-năo bộ, phải được liên kết bằng cách “chiếu sáng” đến độ một người có nhăn thông thực sự có thể thấy một tam giác chói sáng trong hào quang nhà chữa trị. Điểm cao nhất của tam giác (điểm của linh hồn) có thể không thấy trừ phi chính y tiến hóa cao, nhưng y có thể không thấy được các dấu hiệu của linh hồn trong năng lượng đang tuôn vào bí huyệt tim và từ tim đến năo bộ. Việc cần làm là giữ im lặng. Nhờ thế mà không thất thoát sức mạnh bất cứ lúc nào, v́ sức mạnh luôn bị mất đi do lời nói hoặc phúc đáp. Nếu người chữa trị phát ra âm thanh nào, th́ y không thể giữ cho tam giác đúng dạng h́nh học, và từ điện bị phân tán/dao động. Điều này đ̣i hỏi nhà trị liệu phải có tŕnh độ chỉnh hợp cao và định trí vững, đồng thời cũng nêu ra cho bạn một số đường lối mà nhà trị liệu nên đi theo.
652
Cách
chữa trị này có thể “chữa lành hoặc tăng
t́nh trạng tệ hại, tùy mức hiểu biết
của nhà trị liệu”. Dầu rằng đây không
phải là giai đoạn chữa trị cao nhất, tuy
nhiên, trong vài phương diện, nó là giai đoạn có
trách nhiệm nhất, v́, trong trường hợp chữa
bằng bức xạ, linh hồn của bệnh nhân
hoạt động hợp tác với nhà trị liệu, và
bấy giờ, linh hồn ấy chịu trách nhiệm
chính. Trong từ điện trị liệu, nhà trị
liệu cần nên hợp tác chặt chẽ với bác
sĩ hay nhà giải phẫu cùng chữa trị. Vị này
sẽ cung cấp những kiến thức chuyên môn, nhờ
thế giúp nhà trị liệu khỏi sai lầm. Khi cái
chết đă thấy rơ, và “dấu hiệu của sự
chết” được cả bác sĩ lẫn nhà trị
liệu ghi nhận, th́ nhà trị liệu không cần
phải ngưng công việc. Do tiếp tục, y có thể
làm tăng bệnh trạng, tuy nhiên, giúp cho bệnh nhân mau
từ trần một cách b́nh thường. Tục ngữ
xưa nói: “C̣n sống c̣n hy vọng”(“c̣n nước c̣n
tát”), về căn bản, không đúng trong mọi trường
hợp. Sự sống có thể và thường
được kéo dài, sau khi ư chí của linh hồn
được hướng về việc triệt thoái
của sự sống của linh hồn. Sự sống
của các nguyên tử của các nguyệt thần có
thể được khuyến khích trong thời gian dài,
việc này làm phiền lụy rất nhiều cho con
người tâm linh, v́ con người này biết
được diễn tiến và ư định của linh
hồn ḿnh. Cái được giữ sống c̣n là xác thân,
nhưng sự chú ư của chân nhân không c̣n được
tập trung vào đó nữa.
Đến một điểm không thể tránh khỏi, thí dụ trong trường hợp bệnh ác tính, lúc đó thầy thuốc biết rằng cái chết chỉ là vấn đề thời gian, và, nhà trị liệu tinh thần có thể học cách nhận ra cùng dấu hiệu đó. Bấy giờ, thay v́ sự im lặng hiện có, nhà trị liệu và bác sĩ sẽ dùng thời gian c̣n lại này để chuẩn bị một cách đúng đắn, hầu giúp cho linh hồn “triệt thoái được thuận lợi và thoải mái” (nếu khả năng của bệnh nhân cho phép). Gia đ́nh và bạn bè của người bệnh cũng sẽ góp phần chuẩn bị. Trong những giai đoạn đầu của tôn giáo mới thế giới, cách ứng xử này đối với sự chết sẽ được dạy ra. Một quan niệm hoàn toàn mới về sự chết, nhấn mạnh vào sự triệt thoái hữu thức sẽ được giảng dạy, dịch vụ an táng, hay nói đúng hơn là việc hỏa táng, sẽ là những sự kiện vui vẻ, bởi v́ trọng điểm của chúng sẽ dựa vào sự giải tỏa và quay về của linh hồn.
653
Tuy
nhiên, nếu vận mệnh bệnh nhân cho thấy sẽ
lành bệnh, nếu bất ngờ linh hồn có chủ
định kéo dài kiếp sống để hoàn thành
một nhiệm vụ nào đó, hoặc bệnh nhân
rất tiến hóa về tâm linh nên Thánh Đoàn cần y
phụng sự thêm một thời gian nữa th́ việc
chữa trị bằng từ điện sẽ thành công.
Bây giờ, chúng ta hăy xét đến bức xạ trị liệu.
Chúng ta sẽ xét đến một hoàn cảnh khác hơn hoàn cảnh vừa xem. Trong bức xạ trị liệu (radiatory healing), dầu hữu ư hay vô t́nh, bệnh nhân vẫn làm việc và hợp tác với nhà trị liệu. Trong bức xạ trị liệu, tiền đề căn bản đó là ít ra, bệnh nhân cũng đă có được sự liên giao với linh hồn ḿnh đến một mức nào đó. Khi đă có được mối liên giao này, th́ nhà trị liệu biết rằng một đường tiếp xúc có thể được thiết lập, và sự chú tâm của linh hồn có thể được đánh thức nơi người đại diện của nó, tức con người ở cơi trần. Nhà trị liệu cũng biết rằng, mức thành công trong cách trị liệu bằng bức xạ, phần lớn tùy vào khả năng của chính linh hồn y, tạo được sự liên giao vững chắc với linh hồn bệnh nhân. Khi bệnh nhân tỉnh táo và có thể cộng tác th́ việc trị liệu được trợ giúp rất nhiều. Tùy theo khả năng của nhà trị liệu khi vận dụng sự chỉnh hợp, sự tiếp xúc được nhận ra sẽ mang tính chất của sự trợ giúp mà y có thể đem lại cho người đang cần sự trợ giúp của y. Khi bệnh nhân thiếu tỉnh táo, ngay cả điều đó cũng không đưa tới trở ngại đáng kể nào, miễn là nhà trị liệu có thể đưa linh hồn ḿnh và linh hồn bệnh nhân vào sự liên giao. Thực ra, trong vài trường hợp, việc không tỉnh táo của bệnh nhân có thể trở thành hữu ích, v́ sự trợ giúp quá sốt sắng, quá cường điệu và thiếu nhẫn nại, có thể làm mất hiệu lực công việc trị liệu của người chữa trị – cần điềm tĩnh, yên lặng và biết kiềm chế.
654
Tuy
nhiên, một khi mối liên giao được thiết
lập, th́ công việc của nhà trị liệu chủ
yếu là chỉ giữ cho sự liên hệ ấy
được ổn định. Không được
để cho có sự can dự nào vào công việc mà linh
hồn bệnh nhân đang làm, được khởi
động nhờ sự trợ giúp của người
trị bệnh. Chân Sư Jesus ở trên Thập giá không thể
đáp ứng với bất cứ sự cứu giúp nào
(dầu Ngài có muốn làm thế) bởi v́ linh hồn
thể (soul body) của Ngài đă bị thiêu hủy –
trường hợp này luôn luôn xảy ra ở cuộc
điểm đạo thứ tư; không có ǵ để
đáp ứng với sức kêu gọi của một
người ở bên ngoài, dầu người này quan tâm
hoặc thương xót. Với cương vị là
một cao đồ, nơi Ngài, Chân thần thức đă
được tạo lập vững chắc, lúc đó,
Đức Jesus không thể sử dụng những
quyền năng mà Ngài đang có để cứu xác thân
Ngài. Đồng thời, cũng phải nhớ rằng
Ngài không có ư muốn làm thế, v́ lúc đó Ngài đă có
quyền năng sáng tạo một xác thân tùy ư muốn
để đáp ứng các nhu cầu của Ngài (về
sau, trong câu chuyện Phúc Âm có chứng minh). Lỗi lầm tế
nhị và chủ quan của các tông đồ là họ không
chú ư đến sự thỉnh nguyện hoạt
động linh hoạt của Đức Thầy nhân danh
chính Ngài, mà họ chỉ hoàn toàn bận tâm đến
nỗi buồn khổ của chính họ. (Họ không
biết rằng thậm chí không bao giờ Ngài có thể làm
điều đó). Nếu họ có cố thỉnh cầu,
th́ hẳn là nó không ích chi cho Ngài, nhưng có thể có ích cho
họ. Họ có thể nhận được khải
thị về tính bất tử của linh hồn, hẳn
là nó có thể đă soi sáng họ rất nhiều và có
thể đă tạo nên một Cơ Đốc giáo
được xây dựng chung quanh một Đức Christ
hằng sống, chứ không phải chung quanh một
Đức Christ tử đạo.
655
Trong
bức xạ trị liệu, “nhà trị liệu phải
t́m cách liên kết linh hồn, năo bộ, quả tim và sự
phát xạ của hào quang y”. Bạn nên lưu ư hai
điểm liên quan đến giáo huấn đặc
biệt này, vốn khác với giáo huấn được
đưa ra trong trường hợp trị liệu
bằng từ điện:
1. Thứ tự trong tam giác năng lượng được tạo ra có khác.
2. Phương tiện tiếp xúc rất tế vi và không thể thấy.
Năng lượng được phóng ra đi theo con đường tiếp xúc trực tiếp với năo bộ, và nhà trị liệu bắt đầu làm việc bằng một tam giác đóng kín chớ không mở ra, như trường hợp từ điện trị liệu. Tam giác được tạo nên th́ đơn giản, không có việc tiếp xúc vật chất và giải tỏa nào như trong từ điện trị liệu:
Năo bộ của nhà trị liệu có liên quan, nhưng không có tiếp xúc vật chất thuộc loại nào với bệnh nhân. Kết quả là một sự lưu chuyển liên tục của mănh lực từ linh hồn đến, rồi trở về linh hồn. Sự lưu chuyển này tất nhiên gây ra sự gia tăng và đem năng lượng cho phàm ngă tam phân của nhà trị liệu, và do đó cho phát xạ hào quang của y. Người có nhăn thông sẽ thấy hào quang của y nới rộng rất lớn, chuyển động mau lẹ, và được tiếp năng lượng bằng ánh sáng từ chính linh hồn của y, nhưng mọi bức xạ của nó được hướng về phía bệnh nhân. Bằng cách này, lực trị liệu của người chữa trị kích thích cả ba hiện thể của phàm ngă của bệnh nhân. Linh hồn của bệnh nhân được trợ giúp trong công việc mà nó phải làm. Tất nhiên, nhà trị liệu sẽ thấy cần đứng ở phía có xáo trộn của bệnh nhân, sao cho bức xạ của hào quang y có thể xâm nhập dễ dàng hơn. Đây là cách dễ làm nhất, nhưng không hiệu quả lắm. Khi sinh lực bệnh nhân c̣n mạnh, y nên nằm nghiêng, và nhà trị liệu nên đứng sau lưng bệnh nhân, để cho năng lượng tuôn qua, mà nhà chữa trị có thể dùng và vốn đang đem lại năng lượng mạnh mẽ cho hào quang nhà trị liệu với năng lượng linh hồn, có thể ảnh hưởng đến hào quang của bệnh nhân, và như vậy làm cho bức xạ chữa trị dễ đi vào một hoặc nhiều bí huyệt đang cần mà nhà chữa trị đang đưa ra. Khi bệnh nhân là người tiến hóa rất cao th́ nhà trị liệu nên đứng phía đầu người bệnh. Hiệu quả của cá nhân y lúc đó sẽ không nhiều lắm, nhưng không quan trọng, v́ việc đó không cần thiết. Linh hồn của bệnh nhân sẽ thích hợp với công việc. Tất cả những ǵ cần đến là hào quang của nhà trị liệu, ḥa hợp với hào quang của bệnh nhân, tạo nên một vùng hoạt động nhịp nhàng, yên tĩnh quanh bí huyệt đầu. Không cần tiếp xúc bằng tay, và nhà trị liệu không v́ bất cứ lư do ǵ mà chạm đến bệnh nhân.
656
T́nh
huống được tóm tắt bằng những lời:
“Như vậy, sự hiện hữu của y có thể làm
tăng sức mạnh cho sự sống linh hồn của
bệnh nhân. Đây là công đoạn phóng quang. Không cần
đến đôi tay”.
657
Nói theo
biểu tượng th́ gần như một xoáy năng
lượng lớn được tạo ra do sự
tiếp xúc của hai hào quang và do rung động cao của
chúng. Nhờ vùng xoáy đó linh hồn bệnh nhân có thể
hoạt động dễ dàng. Nếu có mặt nơi
đó, một điểm đạo đồ sẽ
thấy một ḍng năng lượng màu hoàng kim tuôn
thẳng xuống, qua các thể mang năng lượng
của phàm ngă người bệnh, đi vào bí huyệt
gần nhất với vùng xáo trộn. Sự tiếp
cận xảy ra qua bí huyệt đầu, thẳng
đến vùng bệnh, hào quang của nhà trị liệu
cũng được hướng đến điểm
này. Phong thái về tâm trí bệnh nhân được
củng cố, và gạn lọc, nhờ sự phóng phát
trong trí của hào quang nhà trị liệu. Phản ứng
t́nh cảm của người bệnh thường
rất mạnh và cũng được giúp để
đạt được thản nhiên và yên tĩnh.
Thể dĩ thái và hào quang sức khỏe của bệnh
nhân cũng chịu ảnh hưởng rơ rệt dựa vào
các trạng thái tương ứng của hào quang nhà
trị liệu.
657
Bức
xạ trị liệu được thực hiện
bằng cách ḥa lẫn hai hào quang, cả hai đều
ứng đáp với sự tiếp xúc của linh hồn.
Dưới sự chi phối của linh hồn, trạng
thái linh hồn của cả hai người lúc đó
được hướng về một vùng nào đó trong
cơ thể bệnh nhân. Việc này tạo ra một tác
động mạnh mẽ lên vùng bệnh, và bí huyệt
trong cùng khu vực đó được tiếp năng
lượng thật nhiều. Công việc của nhà
trị liệu trong tiến tŕnh này là công việc cực
kỳ im lặng. Nhờ đă giao tiếp được
với linh hồn của ḿnh, y chỉ việc chờ
đợi và không phải làm thêm việc ǵ nữa, trừ
việc giữ sự chỉnh hợp bền vững
với linh hồn và không để cho điều ǵ
quấy rối các thể của phàm ngă. Khi đă giao
tiếp với chính linh hồn của ḿnh, và kế đó
vươn sang giao tiếp với linh hồn bệnh nhân,
th́ công việc của y đă xong. Y có thể làm việc
đó, v́ y hiểu rằng mọi linh hồn đều là
một. Rốt cuộc, thuật trị liệu sẽ là
một trong các yếu tố điển h́nh để
chứng minh tính duy nhất của mọi linh hồn.
V́ thế, qui luật này kết thúc bằng các lời: “Khi linh hồn của bệnh nhân đáp ứng bằng sự đáp ứng của hào quang của y với bức xạ của hào quang nhà trị liệu, tràn ngập với năng lượng linh hồn”. Bởi vậy, đó là vấn đề năng lượng linh hồn của cả hai bên, gặp nhau trên cả ba mức độ của ư thức con người. “Linh hồn” ở đây được dùng ở số ít, bởi v́ sự hợp nhất đă đạt được (dù cho chỉ trong một chốc). Linh hồn của bệnh nhân nhận ra sự hợp nhất này bằng “tiến tŕnh gia tốc huyền bí” (“occult quickening”) của chính hào quang của y và bằng sự đáp ứng của nó với các bức xạ từ hào quang của nhà trị liệu đang nhập vào. Việc tràn ngập với năng lượng linh hồn này qua trung gian hào quang của các hào quang liên hệ, toàn bộ như là một nỗ lực duy nhất, hướng vào vùng có bệnh trong cơ thể bệnh nhân. Do đó, bạn có thể thấy rằng – dầu người bệnh tỉnh hay mê – công việc trị liệu đều có thể tiến hành và hoặc là chữa lành bệnh, hoặc là “làm linh hoạt các nguyên tử được hướng dẫn, bởi hướng của linh hồn đưa đến việc thoát xác”, theo cách gọi của Cổ Luận về sự từ trần.
658
Khi
biết rơ vận số của bệnh nhân là từ
trần, th́ kỹ thuật của nhà trị liệu có
hơi thay đổi. Lúc đó, y chọn vị trí phía
đầu bệnh nhân, từ điểm đó, y làm
lệch mọi bức xạ của chính y đến trung
tâm bệnh, tất nhiên, việc này làm gia tốc hoạt
động rung động. Trong lúc đó, dầu c̣n
tỉnh táo trong nhận thức của bộ óc, hay mê man
dưới sự điều khiển của linh hồn,
bệnh nhân cũng bắt đầu tiến tŕnh triệt
thoái mọi tâm thức ra khỏi thân xác. Điều này giải
thích tại sao rất nhiều người hôn mê
trước khi chết. Khi bắt đầu có sự
triệt thoái tâm thức này, th́ nhà trị liệu ngưng
công việc. Y “phong bế” sự giao tiếp với linh
hồn của y, và lại nắm lấy sự kiểm
soát hào quang của ḿnh như là phương tiện
biểu lộ tinh thần của chính ḿnh. Nó không c̣n là
một khí cụ để trị liệu bằng bức
xạ nữa, và để cho người bệnh một
ḿnh tự động hoàn tất việc triệt thoái giác
tuyến và sinh mệnh tuyến ra khỏi bí huyệt
đầu và tim.
Đây là một phác đồ chung về các tiến tŕnh được theo trong cách trị liệu bằng bức xạ và từ điện. Ở đây, tôi đă trao cho bạn khung ư tưởng, mà không có các chi tiết; nhiều điều có thể được suy diễn và đưa ra khi chúng ta nghiên cứu bảy cách chữa trị với các hàm ư về cung của chúng.
659
Giáo
huấn này được đưa ra theo cách sao cho kẻ
nghiên cứu sẽ phải t́m ṭi khắp các trang sách
của nó và gom lại các sự kiện cần ích, nhờ
đó mà đưa ra giai đoạn đầu của biện
pháp trị liệu tinh thần. Nếu chính y không phải
là nhà trị liệu tinh thần và sẵn sàng đoán
được ẩn ư và phân biệt giữa biểu
tượng với sự thực, th́ y sẽ bị
lầm lạc, và công việc của y trở thành vô ích.
Điều này có dụng ư, v́, thuật chữa trị khi
được áp dụng một cách hoàn hảo theo các công
thức chính xác – có thể trở thành nguy hiểm. Nên
nhớ rằng, mặc dầu năng lượng là tư
tưởng, theo một quan điểm cao hơn, năng
lượng cũng là lửa. Toàn thể các kỹ
thuật thủ tục và các công thức, sẽ phải
được khám phá, tùy vào kinh nghiệm và các kết
quả được ghi nhận trước khi việc
chữa trị tinh thần đích thực có thể
xảy ra. Theo thời gian, việc khảo cứu này
được hoàn tất, nó sẽ trở thành vấn
đề an toàn hơn là hiện nay.
Trong thời gian ấy, nhiều lợi ích có thể hoàn thành và một số lớn điều được học hỏi, nếu những ai quan tâm đọc, nghiên cứu, suy gẫm, cẩn thận thực nghiệm, và như vậy, họ sẽ dần dần xây dựng môn học rất cần thiết này trở nên một cộng tác trong y khoa của thời hiện đại.
Bây giờ, chúng ta hăy xem xét định luật IX.
Trong định luật IX và qui luật sáu, chúng ta sẽ bàn đến những nguyên tắc cơ bản, sao cho vấn đề của chúng ta sẽ được diễn giải thành giáo huấn theo cách súc tích, đến nỗi các chủ đề rộng lớn đó có thể được vận dụng vắn tắt, đồng thời lại có vẻ sáng tỏ và giản dị. Thực ra, định luật này là một định nghĩa của Luật Tiến Hóa, nhưng được đưa ra theo khía cạnh tinh thần. Hiểu theo thông thường th́ Luật Tiến Hóa liên quan đến sự tiến hóa của trạng thái sắc tướng, khi nó ngày càng trở nên xứng hợp để trở thành một tiêu biểu hay một biểu lộ của năng lượng linh hồn và về sau của năng lượng Chân Thần.
Định luật này có thể gọi là Luật Hoàn Thiện, có liên quan tới năng lượng bên trong, vốn chịu trách nhiệm cho cách hoạt động của Luật Tiến Hóa. Nó là trạng thái cao, hay là nguyên nhân quyết định của trạng thái thấp. Các Luật phụ thuộc vào Luật Hoàn Thiện, được tân đệ tử gọi một cách thiếu chính xác là những định luật tinh thần. Nhưng về các Luật này, y không hiểu bao nhiêu và hợp nhất chúng trong trí, dưới ư tưởng tổng quát rằng chúng là biểu hiện của trạng thái bác ái của Thượng Đế. Về thực chất, th́ điều đó là đúng theo khía cạnh tính chất, nếu cùng lúc người ta cũng nhận biết rằng trạng thái bác ái cốt yếu là lư trí thuần khiết, chứ không phải là một loại t́nh cảm xúc động tự biểu lộ qua những hành vi ân cần.
660
Qui
luật kèm theo định luật này, nói về mối liên
hệ giữa t́nh thương và ư chí, v́ thế mà rất
quan trọng đối với điểm đạo
đồ. Ở đây, tôi muốn nhắc nhở bạn
rằng chỉ có điểm đạo đồ mới
là nhà trị liệu đích thực. Bởi vậy chỉ
có đệ tử được điểm đạo
mới có thể thực sự thấu hiểu được
hai định luật cuối (định luật IX và X).
Tuy nhiên, các định luật đó, về mặt trí
tuệ, rất là lư thú đối với người
sơ cơ, nhà nghiên cứu và người t́m đạo;
v́, ít ra về lư thuyết, y cũng có thể hiểu
được một vài ư nghĩa của chúng, dầu y
hoàn toàn chưa có thể “nắm được
định luật” – tức là hiểu được về
mặt tâm linh.
ĐỊNH LUẬT IX
Hoàn thiện thu hút bất hoàn thiện lên trên mặt. Chính xua tà ra khỏi h́nh hài con người trong thời gian và không gian. Phương pháp đó được Đấng Hoàn Thiện vận dụng và những ǵ được Chính Phái dùng đến là đức vô tổn hại. Đây không phải là tính chất tiêu cực, mà là sự thăng bằng hoàn hảo, là một quan điểm đầy đủ và cảm thông thiêng liêng.
Định luật này vô cùng đơn giản, và hàm ư chính xác những ǵ được diễn đạt. Nó có thể được diễn dịch theo hai lối:
1.Nó liên hệ đến sự phát triển tinh thần của con người qua phương tiện h́nh hài, c̣n cách thức hoặc định luật mà dựa vào đó vật chất ngấm ngầm nắm giữ – vật chất này đă ngập tràn bởi tính vị kỷ và bởi tất cả những ǵ được nhận biết là tệ hại – bị đẩy ra và con người không c̣n bị ràng buộc nữa.
2.Nó cũng có thể được diễn giải liên quan tới nhà trị liệu với bệnh nhân. Thường thường, hiệu quả của hoạt động và hiểu biết của nhà trị liệu chân chính là để phơi bày ra (dưới h́nh thức sắc bén) cái tệ hại (tức là bệnh tật) trong h́nh hài. Kết quả của việc này có thể, hoặc là loại ra bệnh tật và dành lại sức khỏe, hoặc là h́nh hài sẽ khuất phục để tăng thêm khó khăn và có thể bệnh nhân sẽ chết. V́ thế mà may mắn thay việc làm của nhà trị liệu bậc trung thường là vô hiệu khiến cho khả năng chết người ấy không thể xảy ra !
661
Phương
pháp được sử dụng, theo Luật Hoàn
Thiện, được gọi là “vô tổn hại hoàn
toàn” (“perfect harmlessness”). Đức Christ, Đấng Hoàn
Thiện bao giờ cũng sử dụng phương pháp
đó. Đó không phải là tính vô tổn hại mà tôi
rất thường đưa ra khi tôi nói đến
những người t́m đạo, mà là đức vô
tổn hại do con người tâm linh và mệnh số
tự nhiên của y ấn định. Đó là sự không
bận tâm đến hiệu quả hay kết quả
dựa vào bản chất h́nh hài. Luôn luôn tôi nói với bạn
rằng Thánh Đoàn chỉ làm việc với bản
chất tinh thần hay là với linh hồn của nhân
loại, và đối với các Chân Sư th́ các Ngài xem h́nh
thể tương đối là không quan trọng. Con
người tinh thần bao giờ cũng xem việc
giải thoát ra khỏi ba hạ thể là thành tựu to
nhất, miễn là việc đó đến với y theo
thiên luật, theo kết quả của vận mệnh tinh
thần của y và sự định đoạt của
nghiệp quả. Điều đó không phải xảy ra
như là một hành động độc đoán, hoặc
như sự trốn lánh cuộc sống và các hậu
quả của nó ở cơi trần, hoặc là do tự ḿnh
đặt để. Trận đại chiến (1914 –1945)
là một trường hợp nổi bật cho sự tác
động khó hiểu này của Luật Hoàn Thiện (khó
hiểu đối với quan điểm giới hạn
của con người). Hàng triệu người thiệt
mạng; thêm nhiều triệu người chịu đau
khổ tàn khốc trong thể chất, và nhiều triệu
người nữa đă (và vẫn đang) trải qua
đau thương trong tâm trí, với lo âu, thấp thỏm
và nghèo đói. Tuy nhiên, có hai kết quả chính có bản
chất tâm linh, hoạt động theo Luật Hoàn
Thiện:
1. Nhiều linh hồn được thoát ra khỏi nền văn minh thoái hóa và suy tàn – v́, theo quan điểm của Thánh Đoàn, đó là nền văn minh khoác lác của bạn – và sẽ tái sinh trong những thân xác tốt đẹp hơn với một nền văn minh và văn hóa thích hợp hơn cho các nhu cầu của con người tâm linh. Lư do chính giải thích có sự hủy diệt hoàn toàn các h́nh hài cũ kỹ ấy (thể xác, thể cảm dục và thể trí) chính là v́ chúng đă tạo thành một ngục tù hoàn hảo của linh hồn và làm tiêu tan mọi phát triển thực sự của đại khối con người.
662
2.
Từ người giàu đến kẻ nghèo, từ
người thông minh đến kẻ dốt nát, có một
điều hiện đang được hiểu rơ, và
sẽ ngày càng tác động tới sự suy tư của
nhân loại, đó là: hạnh phúc và thành công không tùy
thuộc vào những vật sở hữu hoặc dựa
vào lợi ích vật chất. Ư tưởng đó là sự
lầm lẫn của tổ chức lao động, khi
tổ chức này tranh đấu và tạo ra nhiều
tiền của hơn, để sống phong lưu
hơn. Đó cũng là lỗi lầm của quần chúng
khi họ phản kháng lại việc rút ngắn của
ḍng chảy vào liên tục các của cải vật
chất. Nhân loại đă vấp phải lầm lẫn
đó trong vô vàn thời đại, và đă sai lầm
nặng nề khi chú trọng vào những ǵ có ích cho h́nh hài.
Đây là cái hay trong lập trường của nước
Nga, khi nước này chống lại chủ nghĩa tư
bản và nhấn mạnh vào giáo dục. Tuy nhiên, sự tàn
nhẫn và độc ác của họ và (nhất là) sự
đàn áp các quyền của cá nhân người dân
đối với một số tự do thiết yếu, rốt
cuộc có thể làm tiêu tan cái tốt đẹp, và hy
vọng của chủ nghĩa lư tưởng ban
đầu. Nước Nga th́ đúng trong chủ nghĩa lư
tưởng của nước này, nhưng các phương
pháp của nước đó th́ khủng khiếp và sai
lầm về căn bản. Nước Mỹ và Anh th́
ở mức lưng chừng. Các nước này có
được tầm nh́n đó, nhưng không biết cách
nào để thể hiện và làm nó thành hiện thực,
v́ họ không thích (điều này đúng) một chế
độ độc đoán. Tinh thần tư bản và
chủ nghĩa phát xít tiềm ẩn của Hoa Kỳ
hiện nay đang là một mối đe dọa rơ rệt
cho ḥa b́nh thế giới, các nhà tư bản đang
ngăn chận các nỗ lực của những kẻ có
thiện chí. Anh quốc hiện đang mất thế
lực, tài chánh suy sụp, các chính sách đế quốc
lỗi thời của họ hoàn toàn bị loại bỏ,
c̣n nhân dân th́ chán nản. V́ thế mà Anh quốc bận lo
chiến đấu để sống c̣n (và nước
đó sẽ sống), đến nỗi có ít th́ giờ,
sức chú tâm hoặc năng lực c̣n lại để
làm cho tầm nh́n đó thành hiện thực.
663
Như
bạn biết, luôn luôn có sự tương ứng
giữa cá nhân với toàn thể thế giới con
người. Chỉ v́ ngày nay, thực ra mỗi con
người đều có một cái ǵ đó sai lệch
nơi y về thể xác –đau mắt, tai, răng hay là
bệnh nơi xác thân có bản chất nào đó – thế
nên, nhân loại chịu ốm đau và chờ chữa
trị. Việc chữa trị này sẽ được
Đoàn Người Mới Phụng Sự Thế Gian và
những người có thiện chí mang lại,
được Thánh Đoàn trợ giúp và các năng
lượng trị liệu sẽ được rút
từ trung tâm hành tinh ấy. Sự bất toàn đă
được đưa lên trên mặt; các sai trái cần
loại ra, đều được mọi người
biết đến, việc này xảy ra dưới
ảnh hưởng của Luật Hoàn Thiện. Ở
đây, tôi bàn đến t́nh trạng chung, hơn là sự
liên hệ cá nhân giữa nhà trị liệu với
người bệnh. Tôi làm thế v́ lư do giản dị là,
chỉ có một điểm đạo đồ có kinh
nghiệm và hiểu biết, mới có thể nắm
vững được luật này và tuân theo qui luật này;
và người như thế hăy c̣n rất ít trên thế
giới ngày nay. Bệnh tật của nhân loại, là
hậu quả của bao kỷ nguyên sống sai lầm,
của mục tiêu ích kỷ và sự hám lợi, đă
tạo ra cả khối bệnh về thể xác. Ngày nay,
hàng triệu đứa trẻ ra đời, hoặc
mắc bệnh bẩm sinh, hoặc là mang mầm bệnh
trong người. Khi biết được cái tệ
hại đă gây ra bệnh tật, và khi các bất toàn
được đưa ra ngoài, để được
chữa trị, hoặc là đẩy lùi về vùng riêng
biệt của chúng, th́ bấy giờ – và chỉ bấy
giờ – bệnh thể xác mới đến lúc chấm
dứt hoặc là dễ dàng đầu hàng việc chữa
trị.
Ở đây, khi xét vấn đề tổng quát về bất toàn và tệ hại, th́ chúng ta bàn đến các nguyên nhân (bậc điểm đạo bao giờ cũng phải làm như thế). Khi chính các nguyên nhân này được xóa bỏ, th́ các hậu quả cũng biến mất. Thế nên, lư thuyết tổng quát và các tiền đề của Khoa Học Thiên Chúa giáo và Phong Trào Hợp Nhất th́ đúng, nhưng hoàn toàn sai lầm trong các trọng điểm và các phương pháp của họ. Rốt cuộc mọi việc mà họ làm hiện nay đều tương đối vô ích, ngoại trừ chừng mức mà họ duy tŕ và tŕnh bày Định Luật Hoàn Thiện, cho dù họ làm điều đó một cách hỗn độn, c̣n giáo huấn của họ bị pha trộn bằng tính ích kỷ chung.
664
Bạn
thường được dạy rằng có hai cách thành
đạt, một là con đường tiến hóa lâu dài,
khó nhọc phải mất bao thiên kỷ mới đạt
được những kết quả tương
đối nhỏ; hai là con đường tắt, gian
khổ hơn, nhưng mau đưa đến điểm
đạo. Trong nhiều kỷ nguyên, nó vẫn là nghi
vấn (bạn có gọi đó là điểm cần
thảo luận hay không?), phải chăng thế giới
loài người nên chọn (tốt hơn là chọn)
phương pháp chậm nhưng an toàn. Đó là một
phương pháp mà sự bất toàn chỉ được
loại ra rất chậm răi, con người chỉ cố
gắng rất ít và không căng thẳng bao nhiêu. Đó là một
cách mà cái tốt lành chỉ được từ từ
nhận ra, c̣n sai trái chỉ bị loại ra chậm
chạp, rất chậm. Theo hệ thống tiến hóa
thông thường, ư-chí-hướng-thiện của Shamballa
chỉ hiện ra yếu ớt, và ngay cả với tŕnh
độ phát triển của con người, cũng
phải mất nhiều thiên kỷ nữa mới có
thể đạt đến được.
Tuy nhiên, đă xảy ra một sự việc mà ngay cả Thánh Đoàn cũng không đoán trước được. Trong hai trăm năm qua, toàn cảnh đă thay đổi. Số người thích hợp đă được điểm đạo và đă nhập vào các Đạo Viện của các Chân Sư. Nhờ quyết tâm của những người t́m đạo thành công ấy, và do hoạt động liên tục của họ, mà họ đă quyết định rằng cần phải đi theo con đường khó khăn và nhanh chóng. Từ đó, có ba yếu tố lộ rơ:
1. Yếu tố tiến bộ phi thường trong việc nâng cao tâm thức của hàng loạt nhân loại, lên các tŕnh độ trí tuệ cao siêu hơn. Bằng chứng của bước tiến này là sự phát triển giáo dục, các khám phá của khoa học, việc kiềm chế mức độ vật chất và không gian.
2. Yếu tố thống khổ trên khắp thế giới, những thảm trạng kinh tế, các cuộc thế chiến, các thiên tai, vô số biến cố và những vấn đề nan giải khiến cho sinh hoạt cá nhân, sinh hoạt quốc gia và sinh hoạt hành tinh trở nên quá nặng nhọc ngày nay. Không ai thoát khỏi, và không có sự tách biệt nào.
665
3.
Yếu tố về sự tăng thêm hiểu biết liên
quan đến Thánh Đoàn và nhất là về Thiên Cơ.
Điều này đ̣i hỏi người t́m đạo và
các đệ tử đang hoạt động tŕnh bày cho
con người thấy được mục tiêu, cộng
thêm việc phác họa các phương pháp tiến trên Thánh
Đạo, nhờ đó mục tiêu này có thể
đạt tới. Chỉ có các đạo sinh của
Đạo Viện đảm đương công việc
nói trên, c̣n các nhóm giáo hội khắp thế giới th́
chưa hề làm. Tất cả những ǵ mà các giáo hội
ấy đă làm là bảo tồn trong tâm trí đại chúng
sự thực về Thượng Đế Siêu Việt,
trong khi lại không biết sự thực về Thượng
Đế Nội Tại; đưa ra chứng cứ
về sự hiện hữu của Đức Christ, trong
khi lại bôi bác giáo huấn của Ngài, giảng dạy
sự thật về sự bất tử, trong khi phớt
lờ Định Luật Luân Hồi.
V́ thế nhân loại đang tiến nhanh trên Đường Hướng Thượng, và có hai việc có thể được xem là kết quả: thứ nhất, các bất toàn và sai trái (một đàng th́ tiềm tàng, c̣n đàng kia th́ linh hoạt, tuy vậy đang suy thoái), sẽ ngày càng hiện rơ đối với người sáng suốt; thứ nh́ là cách loại trừ chúng cũng sẽ được biết rơ.
Ở đây tôi không bàn đến bản chất của sự bất toàn, hoặc là mục đích của sai trái. Tôi có cần nêu ra cho bất cứ độc giả nào của tôi tại sao cả hai đều hiện hữu một cách không thể tránh khỏi chăng? Tôi có thể vạch rơ rằng sự bất toàn có sẵn trong chính bản chất của vật chất, và là một kế thừa từ thái dương hệ trước. Tôi có thể chỉ rằng sai trái xuất phát từ hệ cấp của các tà lực vốn là tương ứng về mặt vật chất so với Huyền Giai thiêng liêng. Điều này liên quan tới sự kiện rằng, mọi cơi của chúng ta, đều làm bằng vật chất của cơi hồng trần vũ trụ. Cũng có thể nói rằng, khi sự bất toàn của vật chất được hiểu rơ, và được điều chỉnh, khi sự quan tâm và chú trọng của nhân loại được chuyển ra khỏi các t́nh trạng vật chất, chừng ấy các Tà Lực sẽ không có ǵ trong ba cơi thấp (ba phân cảnh thấp của cơi hồng trần vũ trụ) để dựa vào đó mà tác động. Lúc đó, dù hiện hữu, tà lực vẫn sẽ không có ǵ để chúng có thể ảnh hưởng được, và không có cách nào để ảnh hưởng lên con người. Hiện nay, tôi không thể mong các bạn hiểu được ư nghĩa của các lời này. Tuy nhiên, chúng có liên quan đến những lời trong Đại Thỉnh Nguyện nói rằng “phong bế cánh cửa mà tà lực ẩn náu”. Có một cửa vào nẻo ác và vào tối tăm, cũng như có cánh cửa vào nơi thánh thiện và ánh sáng.
666
Đối
với kẻ tận tụy tuân theo tà đạo th́ ma
quỉ cũng giống như Kẻ Chận Ngơ (Tổng
Quả Báo), đối với người t́m đạo
trên đường tinh thần.
Công việc chính của Thánh Đoàn bao giờ cũng đứng giữa các Tà Lực với nhân loại, để đưa sự bất toàn ra ánh sáng sao cho tà đạo “không c̣n chỗ” hành động, và để cửa mở vào lănh vực tinh thần. Thánh Đoàn đă làm việc này với trợ giúp nhỏ của nhân loại. Giờ đây, t́nh h́nh này đă thay đổi, và thế chiến đă là biểu tượng và bảo đảm của sự thay đổi ấy. Trong thế chiến, các Lực Lượng của Chính Đạo, tức Liên Hiệp Quốc đă chiến đấu với các Tà Lực trên cơi trần và đă hoàn toàn đánh bại họ. Đối với cuộc chiến, có một ư nghĩa tinh thần lớn lao hơn mà con người chưa hiểu. Nó đánh dấu một bước ngoặt trên thế giới, nó đă định hướng nhân loại về điều thiện. Nó đă đẩy lùi các Tà Lực và đă minh giải (việc này mới mẻ và cần thiết) sự khác nhau thực sự giữa thiện và ác; và điều này không theo ư nghĩa thần học – như các nhà b́nh giải trong giáo hội tŕnh bày – mà xảy ra thực tế và rơ rệt. Điều đó được chứng minh bằng t́nh h́nh kinh tế thảm hại và bằng sự hám lợi của những viên chức quan trọng trong mọi nước. Nhờ sự phân biệt rơ rệt giữa thiện với ác, thế giới loài người đă thức tỉnh trước sự kiện bóc lột vật chất, trước việc thiếu tự do thực sự, trước các quyền mà cho đến nay không được đ̣i hỏi của cá nhân. Năng lực con người chống lại chế độ nô lệ trở nên thấy rơ ở khắp nơi. Việc những người tranh đấu cho tự do dùng những phương pháp sai lầm và thường cố lấy ác chống ác tuy hoàn toàn đúng, nhưng, đó chỉ là những kỹ thuật chuyển tiếp và trong giai đoạn tạm thời. Tạm thời theo quan điểm của Thánh Đoàn (dầu có thể là dài theo quan điểm của con người trong ba cơi thấp), nhưng ngày nay, nó không c̣n cần phải kéo dài nữa.
667
Trong
hai trăm năm qua, sự tiến bộ của con
người nhiều đến nỗi Đại Hội
Đồng ở Shamballa đă buộc phải chú ư
đến. Do kết quả của sự chú ư này của
các Đấng Cao Cả chung quanh Đức Sanat Kumara và
sự quan tâm của các Ngài vào các sự việc của nhân
loại, có hai việc xảy ra:
1. Trạng thái ư chí của Thượng Đế đă tạo ra sự giao tiếp trực tiếp và rơ rệt đầu tiên với trí người. Sự tác động này là trực tiếp chớ không bị lệch đi – như trường hợp xảy ra từ trước đến giờ – đến với Thánh Đoàn, và từ đó đến nhân loại. Tùy theo mẫu người hoặc nhóm người ứng đáp hay phản ứng lại với sự giao tiếp này mà các kết quả cũng khác nhau: hoặc họ trở nên rất tốt hoặc cực xấu. Những người cao cả và thánh thiện đă xuất hiện và đưa ra các chân lư cần thiết cho Kỷ Nguyên Mới, trong các vị này có thể kể Lincoln, Roosevelt, Browning, Briand và rất nhiều nhân vật thứ yếu khác. Những người độc ác cũng xuất hiện như Hitler và nhóm người qui tụ quanh y, họ đă mang lại nhiều tàn hại trên thế gian.
2. Đồng thời, ư-chí-hướng-thiện đến từ Shamballa đă khơi dậy thiện chí tiềm tàng trong con người, khiến cho ngày nay và hơn một trăm năm qua, thiện chí của ḷng con người, sự ân cần trong hành động, tận tâm với kẻ khác và các hoạt động tập thể để thúc đẩy phúc lợi cho nhân loại, đă trải rộng khắp Địa Cầu.
668
Sự
xuất lộ của bất toàn và nỗ lực có
hoạch định của tà phái đă diễn ra song song
bằng sự xuất hiện của Đoàn Người
Mới Phụng Sự Thế Gian và bằng sự
chuẩn bị mà Thánh Đoàn đang làm cho sự hiển
lộ trên cơi trần. Hiện nay, Thánh Đoàn đang
rất năng động. Các Đạo Viện của
Thánh Đoàn đang đầy các điểm đạo
đồ và các đệ tử; phạm vi ảnh
hưởng hay từ trường của Thánh Đoàn
đang thu hút nhiều ngàn người t́m đạo,
hướng về Thánh Đoàn. Chiến tranh đă giáng
một ngọn đ̣n chí tử vào tà phái vật chất và
ảnh hưởng của chúng trong nhân loại đă
yếu đi rất nhiều.
Đừng lầm lẫn tà phái với các hoạt động của đạo tặc và tội phạm. Tội phạm và đạo tặc là hậu quả của các bất toàn đang xuất hiện trong quần chúng. Họ là nạn nhân của sự vô minh, ngược đăi khi c̣n bé và việc hiểu sai về các liên giao chánh đáng của con người suốt bao thời. Cuối cùng, Luật Luân hồi sẽ dắt họ lên con đường thiện. Kẻ theo tà phái thực sự là kẻ t́m cách thúc ép việc quay về với đường lối cũ kỹ, xấu xa; họ cố giữ huynh đệ ḿnh trong t́nh trạng nô lệ theo lối nào đó; họ ngăn chận sự biểu hiện của một hoặc cả bốn Quyền Tự Do, họ thu đoạt của cải vật chất với sự thiệt tḥi của kẻ bị bóc lột, hoặc là người t́m cách giữ cho riêng ḿnh, để đạt sản vật của địa cầu, v́ thế họ khiến cho giá cả của các nhu yếu của đời sống quá cao đối với người nghèo. Những kẻ hành động, suy tính, và vạch kế hoạch như thế đều có trong mọi nước và thường vượt lên do sự giàu có và ảnh hưởng của họ. Tuy nhiên, họ phạm tội đi ngược chính đạo chứ không do vô minh. Các mục tiêu của họ thuộc về vật chất chớ không phải tinh thần. So với hàng triệu người khác, th́ họ tương đối ít, nhưng họ rất có thế lực. Họ rất thông minh, nhưng vô đạo đức. Chính qua họ mà các Tà Lực hoạt động, đẩy lùi sự tiến bộ, thúc đẩy nghèo đói, nuôi dưỡng thù hận và phân biệt giai cấp, nuôi dưỡng phân biệt chủng tộc cho mục đích riêng của họ, và giữ cho sự ngu dốt ngự trị. Tội lỗi của họ nặng nề và thật khó cho họ thay đổi, bởi v́ quyền lực và ư-muốn-quyền lực (v́ nó đi ngược với ư-chí-hướng-thiện) là một yếu tố nổi bật kiểm soát tất cả trong các cách sống của họ. Ngày nay, những người này đang hoạt động chống lại sự hợp nhất của Liên Hiệp Quốc, qua tham vọng của họ, quyết tâm của họ làm chủ các tài nguyên của địa cầu (như dầu mỏ, khoáng sản và lương thực) và như thế làm cho người dân yếu đuối với thức ăn không đầy đủ. Những người này có ở mọi nước, họ hoàn toàn biết nhau và cùng làm việc trong các tổ hợp lớn để khai thác tài nguyên của địa cầu, gây thiệt hại cho nhân loại.
669
Ngày
nay, nước Nga (Russia) nổi bật v́ không có hạng
người đó, cho nên, ở đây, tôi không nói
đến nước rộng lớn đó như
nhiều nước thù nghịch của nước Nga có
thể phỏng đoán. Russia phạm các sai lầm lớn,
nhưng đó là các sai lầm của một kẻ theo ư
thức hệ cuồng tín, tức là của một kẻ
đạo tặc, y phạm tội v́ thiếu hiểu
biết, v́ chưa trưởng thành hoặc trong cơn
giận trước các tệ hại mà y đang bị vây
quanh. Đây là điều hoàn toàn khác với cái sai trái mà tôi
đă bàn ở trên. Nó sẽ không kéo dài, bởi v́
nước Nga sẽ nhận ra, c̣n các nước khác th́
chưa học được bài học.
670
Tôi dùng
minh họa trên để làm cho chủ đề của tôi
sáng tỏ phần nào. Tuy nhiên, toàn bộ vấn đề
tà phái th́ quá rộng lớn, nên không thể đem ra xem xét
ở đây, cũng không khôn ngoan hay sáng suốt khi bàn
về cội nguồn của tà vạy (chứ không
phải về sự bất toàn), tức Tà Phái. Năng
lượng theo sau tư tưởng, và lời
được nói ra có thể được gợi
lại mạnh mẽ. Cho nên, khi nào chưa là một thành
viên của Thánh Đoàn, th́ điều khôn ngoan là tránh xem xét
những thế lực mạnh ấy, chúng đủ tinh
nhạy để dùng sự bất toàn tiềm tàng trong
nhân loại, áp đặt tà lực rộng lớn của
chiến tranh, với mọi hậu quả và ảnh
hưởng rộng lớn của nó trên nhân loại. Tà
Phái là vấn đề của Chính Phái, chứ không
phải là vấn đề của nhân loại. Trong bao
thiên kỷ, Thánh Đoàn đă đối phó với vấn
đề này và hiện đang trong tiến tŕnh giải
quyết nó. Tuy vậy, thực ra đó là mối quan tâm và
vấn đề chính của Shamballa, v́ nó liên quan
đến trạng thái ư chí, và chỉ có ư-chí-hướng-
thiện mới đủ khả năng xóa tan và hủy
diệt ư-muốn-làm-ác (will-to-evil). Thiện chí sẽ không
đủ, dầu rằng tiếng kêu thỉnh nguyện và
hợp nhất của những kẻ thiện chí trên
khắp thế giới – phát ra ngày càng tăng qua
Đại Khấn Nguyện – sẽ giúp “đóng kín tà môn”.
670
Chính
đàng sau cánh cửa đó và liên quan đến các lực
ẩn giấu nơi đó (và được huy
động) mà Thánh Đoàn sẵn sàng hành động. Các
phương pháp và cách thức mà dựa theo đó các Ngài
bảo vệ nhân loại khỏi tà lực thúc đẩy
và từ từ đẩy lùi tà lực, bạn sẽ không
hiểu được nếu bạn chưa vượt
qua được cánh cửa dẫn đến Con
Đường Tiến Hóa cao siêu.
Tôi sẽ nói ǵ về đức vô tổn hại? Thật khó cho tôi khi bày tỏ hoặc chứng minh cho bạn thấy tính hữu hiệu của trạng thái cao, xoắn ốc (spiral) hoặc giai đoạn của tính vô tổn hại mà Thánh Đoàn đă vận dụng dưới sự chỉ đạo của Đấng Hoàn Thiện tức Đức Christ. Tính vô tổn hại mà tôi có nói đến trước đây, liên hệ đến những sự bất toàn mà nhân loại đang tranh đấu, và như bạn biết, khó mà áp dụng nó trong và dưới mọi trường hợp. Tính vô tổn hại mà tôi nhắc đến có liên hệ với bạn, nó không phải là một hoạt động tiêu cực, hoặc dịu dàng hoặc dễ chịu như rất nhiều người tin tưởng. Đó là một trạng thái trí tuệ, và là trạng thái vốn không hề làm tiêu tan hành động vững chắc hoặc ngay cả hành động quyết liệt. Nó liên quan đến nguyên động lực và dính líu đến sự định đoạt rằng động lực đàng sau mọi hoạt động là thiện chí. Động lực ấy có thể đưa đến hành động hoặc lời lẽ tích cực và, đôi khi không vừa ư, nhưng v́ đức vô tổn hại và thiện chí chi phối đường hướng trí tuệ th́ không ǵ có thể xảy ra trừ sự tốt lành.
671
Trên ṿng
xoắn cao hơn, Thánh Đoàn cũng sử dụng
đức vô tổn hại; nhưng nó liên quan đến
ư-chí-hướng-thiện và liên quan đến việc
vận dụng năng lượng mạnh mẽ của
điện, dưới sự hướng dẫn của
trực giác. Loại năng lượng này con người
không bao giờ khơi hoạt được. Đó là
năng lượng mà con người chưa thể
vận dụng. Loại vô tổn hại này dựa vào
sự hy sinh hoàn toàn, trong đó ư-chí-hy-sinh, ư-chí-hướng-thiện
và ư-chí-quyền-lực (ba mặt của trạng thái ư chí,
được biểu lộ qua Tam Thượng Thể
đều tan ḥa thành năng lượng mạnh mẽ duy
nhất, có bản chất tinh thần sâu xa. Năng
lượng này là h́nh ảnh thu nhỏ của tính vô
tổn hại hoàn toàn ở lĩnh vực liên quan với
nhân loại và các giới kém hơn trong thiên nhiên, nhưng
lại có hiệu ứng trục xuất và có tác
động hủy diệt mạnh trong lănh vực liên quan
với các Tà Lực.
Nghiên cứu kỹ theo hướng huyền bí về ba cám dỗ đối với Đức Christ, ta sẽ thấy ba dịp chính mà Đấng Hoàn Thiện biểu lộ đức vô tổn hại cao siêu này buộc quỷ sứ phải rút lui. Ba giai đoạn này có liên quan về mặt biểu tượng, nhưng bản chất lại xác thực. Ít người nghĩ nếu Đức Christ không phản ứng như Ngài đă làm, th́ hậu quả trên khắp thế giới qua nhiều thế kỷ sẽ như thế nào. Phỏng đoán th́ chẳng hữu ích bao nhiêu, nhưng có thể nói rằng toàn bộ diễn tŕnh lịch sử và cuộc tiến hóa của nhân loại đă thay đổi theo cách tàn khốc và tệ hại. Tuy nhiên, đức vô tổn hại mănh liệt là sự biểu lộ của ư-chí-hướng-thiện và sự biểu hiện của ư-chí-quyền-lực (bắt buộc tà lực rời khỏi Ngài) đă đánh dấu một bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc sống của Đức Christ.
Câu chuyện Phúc Âm (tổng kết năm cuộc điểm đạo) liên quan đến sự tiến bộ và thành công của Chân Sư Jesus. Câu chuyện về ba lần cám dỗ nêu ra việc nhận điểm đạo c̣n cao hơn, tức cuộc điểm đạo thứ sáu, của Đức Christ. Cuộc điểm đạo này giúp cho Ngài hoàn toàn chế ngự được tà lực, chứ không phải là chế ngự sự bất toàn. Chính v́ Ngài là “Đấng Hoàn Thiện”, nên Ngài có thể nhận cuộc điểm đạo này.
672
Tôi
đă trao cho các bạn nhiều điều cần xem xét
cẩn thận, và đă rọi một ít ánh sáng vào một
cuộc điểm đạo, mà dĩ nhiên là ít
người có thể hiểu. Tôi cũng kêu gọi bạn
chú ư đến ba điều cần yếu căn bản
để tiến đến cuộc điểm
đạo này một cách thành công: đó là sự thăng
bằng hoàn toàn, một cái nh́n đầy đủ, và
cảm thông thiêng liêng. Các bạn hẳn sẽ lấy làm thú
vị mà thấy rằng làm sao khi ba phẩm tính này
được thể hiện, lại liên quan đến
ba sự cám dỗ đó. Khi suy gẫm như thế,
nhiều ánh sáng sẽ hiện ra về sự sống,
bản thể và đặc tính của Đức Christ.
Dưới Định Luật Hoàn Thiện, chúng ta có được ch́a khóa về văn minh và chu kỳ tiến hóa mà Ngài đă khai mở – lư tưởng của nó không bị mất đi, dù việc áp dụng giáo huấn của Ngài đă bị các giáo hội và nhân loại thờ ơ. Bạn cũng nên chú ư rằng ở đỉnh của ngọn núi cao, có một cám dỗ. Từ độ cao ấy, cả thời gian và không gian đều hoàn toàn bị tịch diệt, v́ tầm nh́n của Đức Christ kéo dài từ quá khứ, qua hiện tại và đi vào tương lai. Trạng thái tri thức (awareness) này (tôi không thể gọi đó là tâm thức, c̣n awareness th́ hầu như là từ ngữ không chính xác, nó chỉ có được sau cuộc điểm đạo thứ năm; và biểu lộ đến mức cao ở cuộc điểm đạo thứ sáu.
Tôi muốn cùng bạn xem xét bản chất của ba điều cần thiết, được xem là cần yếu cho một cuộc điểm đạo nào đó, bởi v́ chúng nối liền Định Luật IX và Qui Luật Sáu. Qui luật này rơ ràng và vắn tắt, đến nỗi chỉ cần giải thích chút ít, nhấn mạnh về năng lượng nào phải dùng và năng lượng nào không được dùng.
QUI LUẬT SÁU
Nhà trị liệu hoặc nhóm trị liệu phải kiềm ư chí của ḿnh. Phải sử dụng t́nh thương chứ không phải ư chí.
Ba điều cần yếu căn bản này liên quan đến sự thành đạt trên nhiều cơi khác nhau, trong vũ trụ. Dầu rằng tôi đă bàn đến chúng liên quan đến việc tiếp cận cuộc điểm đạo thứ sáu – ở ṿng xoắn ốc thấp hơn – chúng có các tương ứng của chúng, do đó có áp dụng thực tiễn của đệ tử được điểm đạo, đặc biệt đệ tử được điểm đạo lần ba. Ta hăy xem xét chúng từng điểm một:
673
Thăng
bằng hoàn toàn
(Perfect Poise) báo hiệu việc hoàn toàn kiểm soát thể
cảm dục, để vượt qua những xáo
trộn t́nh cảm, hay ít nhất làm giảm xáo trộn
đó đến mức tối thiểu trong cuộc
sống của đệ tử. Trên ṿng xoắn cao hơn,
nó cũng là dấu hiệu của năng lực hoạt
động tùy ư trên các phân cảnh bồ đề,
nhờ hoàn toàn thoát khỏi (và tất nhiên thăng bằng)
mọi ảnh hưởng và xung lực thúc đẩy
từ ba cơi thấp. Nếu suy tưởng sâu xa, th́
loại hay tính chất thăng bằng này bao hàm một
trạng thái trừu tượng của thể trí. Không ǵ
bị xem là bất toàn mà có thể tạo ra xáo trộn.
Bạn có thể biết chắc rằng, nếu bạn
hoàn toàn thoát khỏi mọi phản ứng xúc cảm, th́
sự sáng suốt của trí, và năng lực suy tư thấu
suốt của bạn sẽ tăng lên phi thường,
với tất cả những ǵ có liên quan tới.
Dĩ nhiên, sự thăng bằng hoàn toàn của đệ tử điểm đạo và của Chân Sư th́ khác nhau, v́, một bên th́ liên quan đến ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng của ba cơi thấp, c̣n bên kia th́ liên hệ đến sự thích ứng với tiết điệu của Tam thượng thể Tinh Thần; tuy nhiên, loại thăng bằng trước phải đi trước thành tựu về sau, đó là mối quan tâm của tôi về vấn đề này. Thăng bằng hoàn hảo này (mà độc giả sách này có thể đạt) được đạt đến bằng cách loại bỏ các lôi kéo, thôi thúc, thúc đẩy, các cuốn hút của bản chất cảm dục, và cũng nhờ thực hành điều mà trước đây tôi đă gọi là Sự Điềm Nhiên Thiêng Liêng (Divine Indifference).
Một quan điểm hoàn hảo (A completed Point of View). Trước hết, điều này tất nhiên là có liên quan đến cái nh́n toàn bộ của Chân Thần, do đó liên quan đến điểm đạo đồ cao cấp. Tuy nhiên, nó có thể được diễn giải ở một nấc thấp hơn trên thang tiến hóa và đề cập tới chức năng của linh hồn với tư cách chủ thể quan sát trong ba cơi thấp và bức tranh toàn diện hoàn hảo mà chủ thể quan sát đó từ từ đạt đến. Điều này được tạo ra bằng việc phát triển hai đức tính dứt bỏ và phân biện (detachment and discrimination). Hai đức tính này khi được biểu lộ trên con đường tiến hóa cao siêu, th́ trở thành sự trừu xuất và ư-chí-hướng-thiện.
674
Theo
kinh nghiệm ở các phân cảnh linh hồn, th́ một
quan điểm hoàn hảo báo hiệu việc lấy đi
mọi chướng ngại và người đệ
tử sẽ thoát khỏi đại tà thuyết chia
rẽ. V́ thế, y tạo ra một vận hà thông suốt
cho nguồn bác ái thuần khiết đi vào. Nh́n ở cùng
cấp độ, sự thăng bằng hoàn toàn đă
tẩy đi mọi chướng ngại và những
yếu tố xúc cảm từ trước đến
giờ đă ngăn lấp vận hà, nhờ đó mà
mở đường cho chủ thể quan sát thấy
được sự thực. Bấy giờ, đệ tử
hoạt động với tư cách một vận hà thông
suốt cho bác ái.
Sự Cảm Thông Thiêng liêng cũng được nghiên cứu theo hai quan điểm. Với tư cách một phẩm tính của linh hồn th́ nó cho thấy thể trí có thể được giữ ổn định trong ánh sáng và v́ thế mà có thể phản chiếu được lư trí thuần túy (tức là bác ái thuần khiết) nó phẩm định các phản ảnh của Con của Trí Tuệ, tức linh hồn trên cơi riêng của nó. Trên Con Đường cao siêu của Đức Thầy, nó liên hệ đến sự huyền đồng vốn thay cho tâm thức cá biệt. Mọi hố ngăn cách đều biến mất và điểm đạo đồ thấy được thực tướng của sự vật, Ngài biết được các nguyên nhân mà mọi hiện tượng đều là các hậu quả nhất thời của nó. Tất nhiên, điều này giúp Ngài hiểu được Thiên Ư (Purpose), v́ nó xuất phát từ Shamballa, giống như điểm đạo đồ cấp thấp hiểu được Thiên Cơ (Plan) do Thánh Đoàn đưa ra.
Cả ba thuộc tính thiêng liêng này, ở mức độ nào đó, đều thiết yếu cho phát triển của nhà trị liệu được điểm đạo. Y phải lo khai mở chúng như là một phần của trang cụ cần cho ḿnh. Y phải biết rằng mọi phản ứng có bản chất xúc cảm đều tạo một bức tường ngăn cách giữa ḍng chảy thông suốt của lực trị liệu với bệnh nhân, vách ngăn ấy là do y tạo nên, chứ không do bệnh nhân. Các xúc cảm của bệnh nhân không được ảnh hưởng đến nhà trị liệu và không được làm y xao lăng, ngoài sự tập trung mạnh mẽ cần cho công việc của y. Các xúc cảm này của bệnh nhân không được tạo một tường ngăn trong chính chúng đủ mạnh để làm lệch lực chữa trị.
675
Ít
ra một quan điểm đầy đủ cũng liên
quan đến cố gắng của đệ tử
để nhập vào thế giới của các nguyên nhân,
nhờ thế, biết được (nếu có thể)
cái ǵ có trách nhiệm đối với bệnh của
bệnh nhân. Điều này không liên quan đến việc
đi vào tiền kiếp của bệnh nhân, cũng như
không cần thiết dầu cho một số nhà trị
liệu thời nay thường là dối trá, có thể
đ̣i hỏi. Thường thường có đủ
bằng chứng tâm lư hoặc các dấu hiệu về các
khuynh hướng di truyền, cung cấp cho nhà trị
liệu manh mối của bệnh nhân để y có
thể có được một bức tranh tương
đối đầy đủ về bệnh trạng.
Hiển nhiên là sự “quán triệt” vào các nguyên nhân của
xáo trộn này chỉ sẽ có được khi nào nhà
trị liệu có đủ yêu thương; v́ có t́nh
thương, y đạt được sự thăng
bằng, khiến cho thế giới ảo tưởng và
thế giới ảo cảm bị tiêu tán. Cảm thông
thiêng liêng chỉ là việc áp dụng nguyên tắc bác ái
thuần khiết (tức là lư trí thuần khiết) cho
mọi người và cho mọi hoàn cảnh, thêm vào đó
là sự diễn giải đúng các khó khăn đang có
của bệnh nhân, hoặc là những nỗi khó khăn có
thể có giữa bệnh nhân với nhà trị liệu.
Tôi xin thêm một yếu tố khác vào các điều kiện cần thiết này: đó là cần phải có vị bác sĩ, y sĩ hoặc nhà giải phẫu chịu trách nhiệm về thể xác bệnh nhân. Trong kỷ nguyên mới sắp đến, nhà trị liệu luôn luôn làm việc với sự trợ giúp khoa học của nhà y học thành thạo. Đây là một yếu tố đang gây bối rối cho nhà trị liệu có tŕnh độ trung b́nh ngày nay đang thuộc về một nhóm nào đó, hoặc đang thi thố một giai đoạn trị liệu không chính thống nào đó.
676
Do
đó, điều hiển nhiên là làm thế nào ba
điều kiện cần thiết thiêng liêng này (khi
được đưa xuống cho đệ tử trong
thế giới ngày nay sử dụng) vạch ra một
hướng rèn luyện hay là giới luật tự giác mà
mọi người đều nên tự áp dụng. Chỉ
cần quán triệt ngay cả một số bước sơ
khởi trong ba điều kiện trên, họ sẽ
thấy họ có thể áp dụng được Qui
Luật Sáu một cách dễ dàng.
“Kiềm giữ ư chí” nghĩa là ǵ? Trạng thái ư chí được xét đến ở đây không phải là ư-chí-hướng-thiện và biểu lộ thấp của nó là thiện chí (goodwill). Ư-chí-hướng-thiện (will-to-good) là định hướng vững vàng bất biến của bậc đệ tử điểm đạo, trong khi thiện chí có thể được xem là sự biểu lộ của nó trong việc phụng sự hằng ngày. Khi một điểm đạo đồ cấp cao biểu lộ ư-chí-hướng-thiện, th́ đó là một năng lượng mạnh mẽ có hiệu quả tập thể nổi bật. V́ lư do đó mà các điểm đạo đồ cấp cao ít khi bận tâm đến việc trị liệu của cá nhân. Công việc của các Ngài có ảnh hưởng lớn và quá quan trọng nên các Ngài không cho phép ḿnh làm thế. C̣n năng lượng ư chí thể hiện như là Ư Chí thiêng liêng, có thể trở thành có hậu quả hủy diệt trên một cá nhân. Bệnh nhân không thể nhận hay thu năng lượng ấy. Tuy nhiên, cần để cho thiện chí tác động toàn bộ thái độ và suy tư của đệ tử chữa bệnh.
677
Ư chí
phải được kiềm giữ là ư chí của phàm
ngă mà trong trường hợp của đệ tử
điểm đạo thuộc loại rất cao. Nó
cũng liên quan đến ư chí của linh hồn, phát ra
từ các cánh hoa hy sinh trong hoa sen chân ngă. Mọi nhà trị
liệu chân chính đều phải tạo nên một h́nh
tư tưởng trị liệu, và dầu hữu ư hay vô
t́nh, họ cũng làm việc qua đó. Chính h́nh tư
tưởng này khỏi bị ư chí vận dụng quá
mạnh, v́ (nếu nó không được kềm giữ,
không bị hạ giảm, không được sửa
đổi, hoặc nếu cần, loại bỏ hoàn toàn)
th́ nó có thể không những hủy diệt h́nh tư
tưởng do nhà trị liệu tạo ra, mà nó c̣n dựng
một hàng rào giữa bệnh nhân với nhà trị
liệu. Mối liên giao lúc đầu v́ thế bị tan
vỡ. Chỉ Đức Christ mới có thể chữa
trị bằng cách dùng ư chí, và thực ra Ngài rất ít khi
trị liệu. Trong những trường hợp mà Ngài nói
rằng đă làm điều đó, th́ lư do là Ngài muốn
chứng minh khả năng trị liệu. Tuy nhiên, nếu
quen thuộc câu chuyện Phúc Âm, các bạn sẽ nhận
thấy rằng Ngài không truyền dạy thuật trị
liệu cho các đệ tử. Điều này rất có ư
nghĩa.
Ư chí phàm ngă của nhà trị liệu (bất luận có bản chất cao đến đâu), và nỗ lực đă định của y để chữa trị bệnh nhân, đă tạo nên một sự căng thẳng nơi y. Căng thẳng đó có thể làm cho ḍng năng lượng trị liệu bị lệch hướng. Khi có loại ư chí đó (thường có nơi nhà trị liệu thiếu kinh nghiệm, hoặc với nhà trị liệu chưa được điểm đạo) th́ nhà trị liệu thường thu hút nỗi khó khăn của bệnh nhân và sẽ trải qua những triệu chứng xáo trộn và đau đớn. Sự cương quyết cố giúp đỡ của y sẽ tác động như một thứ vũ khí dội ngược (boomerang), khiến y bị tổn thương, c̣n bệnh nhân th́ không được giúp đỡ thực sự.
V́ thế mà có lời khuyên phải dùng t́nh thương và ở đây cái khó khăn chính xuất hiện. Làm sao nhà trị liệu có thể sử dụng t́nh thương mà không vướng tính xúc cảm, tức tính chất thấp của nó, và đưa nó vượt qua trạng thái thuần khiết của nó để chữa trị cho bệnh nhân? Nhà trị liệu chỉ vun trồng ba điều kiện cần yếu, do đó phát triển chính ḿnh thành một vận hà thanh khiết. Y thường bận tâm với chính ḿnh, với lư giải về t́nh thương và với cương quyết chữa trị bệnh nhân, đến nỗi xao lăng các điều kiện cần yếu. Cả y lẫn người bệnh đang phí th́ giờ của nhau. Y không cần nghĩ ngợi hoặc âu lo về bản chất của t́nh thương thuần khiết, hoặc nhiệt liệt cố gắng để hiểu làm sao mà lư trí thuần khiết lại đồng nghĩa với t́nh thương thuần khiết, hoặc xem coi y có thể biểu lộ đủ t́nh thương để tiến hành chữa trị. Y hăy cứ suy gẫm về ba điều kiện cần yếu, đặc biệt là điều kiện đầu, và để cho y hoàn thành trong chính y cả ba điều thiết yếu này bằng hết khả năng của y và tùy tŕnh độ tiến hóa của y. Lúc đó, y mới trở thành một vận hà thuần khiết, và các chướng ngại đối với ḍng chảy vào của bác ái thuần khiết, sẽ tự động bị tẩy sạch, bởi v́, “nếu con người nghĩ trong ḷng như thế nào, th́ y trở nên như thế ấy”. Bấy giờ, t́nh thương thuần khiết sẽ tuôn đổ qua y mà không c̣n chướng ngại hoặc khó khăn, và bệnh nhân sẽ được chữa lành – nếu nghiệp quả cho phép.
678
Giờ
đây, chúng ta hăy nghiên cứu định luật cuối
cùng và huyền bí nhất trong các định luật mà tôi
đă đưa ra. Trước đây tôi đă kêu gọi
các bạn chú ư đến nó, và đă nói rơ rằng
“định luật cuối này là cách diễn đạt
của một luật mới, thay thế cho Luật
Tử Vong. Luật này chỉ liên quan đến những người
đang ở các giai đoạn sau của Con
Đường Đệ Tử và các giai đoạn trên
Con Đường Điểm Đạo”. Tôi muốn nói
đến thời gian sau cuộc điểm đạo
thứ nh́ và trước cuộc điểm đạo
thứ ba. Định luật này không áp dụng
được chừng nào mà bản chất xúc cảm c̣n
có thể khuấy rối sự nhịp nhàng rơ rệt
của phàm ngă, khi nó ứng đáp với tác động
của năng lượng linh hồn, và sau đó với
năng lượng Chân Thần. Do đó, những ǵ tôi có
thể giải rơ cho các bạn th́ cũng không có bao nhiêu,
về tác động đầy đủ của
định luật này, nhưng tôi có thể nêu lên vài ư
tưởng và tương ứng lư thú nhất. Chúng sẽ
cổ vũ nơi bạn việc suy đoán có tính xây
dựng. Tuy nhiên, tiêu biểu cho các sự kiện đă được
chứng minh cho những người trong chúng tôi, vốn là
các đệ tử được điểm đạo
của Đức Christ hoặc của Đức Sanat
Kumara.
ĐỊNH LUẬT X
Hỡi đệ tử, hăy lắng nghe tiếng gọi từ Con đi đến Mẹ và rồi hăy vâng theo. Linh từ được ban ra rằng h́nh hài đă đáp ứng mục đích của nó. Bấy giờ, nguyên khí trí tuệ tự sắp xếp và lặp lại Linh Từ ấy. H́nh hài đang chờ đợi liền ứng đáp và buông rơi. Linh hồn trở nên tự do.
Hỡi Đấng Giáng Lâm, hăy đáp lại tiếng gọi đến từ lĩnh vực của thiên trách (obligation); hăy nhận biết tiếng gọi phát ra từ Đạo Viện hay từ Hội Đồng Huyền Linh nơi chính Đấng Cai Quản Sự Sống đang chờ. Diệu âm được ban ra. Cả linh hồn lẫn h́nh hài cùng phải từ bỏ nguyên khí sự sống; nhờ thế giúp Chân Thần được tự do. Linh hồn đáp lại. Bấy giờ; h́nh hài phá vỡ sự mạch lạc. Giờ đây, sự sống được tự do, có được tính chất của sự hiểu biết hữu thức và thành quả của mọi kinh nghiệm. Đó là những món quà của linh hồn, kết hợp với h́nh hài.
679
Định
luật X này là kẻ tiên phong của nhiều định
luật mới, về sự liên hệ giữa linh hồn
với h́nh hài, hoặc là liên quan của tinh thần với
vật chất. Nó được đưa ra đầu
tiên v́ hai lư do:
1. Nó có thể được các đệ tử áp dụng, nhờ thế mà nó được chứng minh là có thực đối với đại chúng, và nhất là đối với thế giới khoa học.
2. Trong đa số bằng chứng và trong loại từ trần (ở giai đoạn này, được gọi là “sự thuyên chuyển”) sự thật về Thánh Đoàn và về Shamballa mới có thể được xác lập.
Có ba nguồn triệt thoái mà chúng ta gọi là “sự chết”, nếu chúng ta loại trừ tai nạn (có thể gắn liền với nghiệp quả của người khác), chiến tranh (bao gồm nghiệp quả hành tinh) và các thiên tai (hoàn toàn liên hệ đến thể biểu lộ của Đấng mà chúng ta sống, hoạt động và hiện tồn trong Ngài).
680
Tôi xin
tạm dừng lại ở ư tưởng này và minh
giải phần nào cho bạn sự dị biệt giữa
“Thượng Đế vô hiện” (“unknown God”), Ngài tự
biểu lộ qua hành tinh nói chung, và Đấng Sanat Kumara
ở chốn cao thâm, tức Shamballa. Đức Sanat Kumara
trong chính Ngài là Chủ Thể Cơ bản (essential Identity)
chịu trách nhiệm về các thế giới biểu
lộ, nhưng quyền điều khiển năng
lượng và lực của Ngài – do mức phát triển
vũ trụ của Ngài – lớn đến nỗi Ngài
cần toàn bộ hành tinh để biểu lộ qua đó
tất cả những ǵ mà Ngài đang có. Do có đủ tâm
thức của cơi cảm dục và của cơi trí vũ
trụ, nên Ngài có thể –theo định luật vũ
trụ – vận dụng các năng lượng và các
lực để sáng tạo, để nâng đỡ và
tận dụng cho các mục đích của Thiên Ư của
Ngài, cho khắp hành tinh. Ngài làm linh hoạt hành tinh bằng
sự sống của Ngài; Ngài nâng đỡ hành tinh và
tất cả những ǵ có bên trong, hoặc ở trên hành
tinh nhờ tính chất linh hồn của Ngài, mà Ngài
truyền đạt cho mọi h́nh hài theo mức độ
khác nhau. Ngài liên tục tạo nên những h́nh hài mới
cần để “biểu lộ sự sống phong phú
hơn” và “mục tiêu ngày càng tăng của ư chí Ngài” mà
sự tiến bộ của các thời đại làm cho có
thể xảy ra theo chu kỳ. Hiện nay, chúng ta sống
trong một chu kỳ mà trong đó hoạt động
mạnh mẽ của Ngài là vận dụng kỹ thuật
hủy diệt thiêng liêng để giải phóng sự
sống tinh thần và đồng thời, Ngài đang
tạo nên cấu trúc văn minh mới vốn sẽ
biểu lộ đầy đủ hơn, mức thành
đạt tiến hóa của hành tinh và các giới trong thiên
nhiên, để cuối cùng, đưa đến sự
biểu lộ hoàn hảo sự sống và mục tiêu thiêng
liêng của Ngài.
680
Có
lẽ là khôn ngoan nếu chúng ta lư giải Định
Luật X này hơi chi tiết khi có thể, để
đi đến sự tổng hợp vốn có dụng ư
truyền đạt: như thế, chúng ta sẽ có
được nhận thức nào đó rằng chính cái
chết là một thành phần của tiến tŕnh tổng
hợp sáng tạo. Điều cần thiết là các ư
tưởng mới đang được và một cách
tiếp cận mới đối với toàn bộ vấn
đề sự chết.
Hỡi đệ tử, hăy lắng nghe tiếng gọi xuất phát từ CON đi đến MẸ và hăy vâng lời.
Ngay cả khi, do ngữ cảnh, chúng ta hiểu rằng câu này bàn đến việc vứt bỏ thể xác, thật hữu ích khi nhớ rằng lối nói này c̣n nhiều hàm nghĩa hơn thế nữa. Có thể diễn giải nó hàm ư là toàn bộ sự liên hệ của linh hồn và phàm ngă, và liên quan sự tuân phục mau lẹ của Mẹ (phàm ngă) đối với Con (linh hồn). Nếu không có sự phục tùng mau lẹ này, liên quan đến việc nhận ra Tiếng Nói thông báo, th́ phàm ngă sẽ vẫn không nghe được tiếng gọi của linh hồn để từ bỏ xác thân. Không có sự đáp ứng quen thuộc nào xảy ra. Tôi muốn bạn hăy cân nhắc về các ẩn ư này.
681
Tôi
biết, khi tôi chỉ ra rằng trạng thái Mẹ là
trạng thái vật chất, c̣n linh hồn – trên cơi riêng
của nó – là trạng thái Con, tức là tôi chỉ lặp
lại. V́ thế, huấn thị này bàn về liên hệ
của vật chất và linh hồn, như thế
đặt nền tảng cho mọi mối liên hệ mà
đệ tử phải học cách nhận ra. Ở
đây không bắt buộc phải có sự tuân thủ, nó
chỉ lệ thuộc vào tầm nghe. Kế đó sự
tuân phục theo sau như là phát triển kế tiếp.
Bạn ít khi nghĩ rằng đó là một diễn
tiến dễ dàng. So với tiến tŕnh tuân thủ th́
sự phân biệt này thật là thú vị, bởi v́
diễn tŕnh học bằng cách nghe luôn luôn chậm và
là một trong những tính chất hay trạng thái của
giai đoạn định hướng. Học bằng
cách thấy rơ ràng có liên quan với Con Đường
Đệ Tử, và bất cứ ai muốn trở nên
kẻ phụng sự đích thực và khôn ngoan,
đều phải học cách phân biệt giữa
người nghe và người thấy. Hiểu
được sự khác nhau, sẽ đưa đến
những thay đổi cơ bản trong kỹ thuật.
Trong trường hợp này, bạn làm việc với
những người rơ ràng là ở dưới ảnh
hưởng và sự kềm chế của trạng thái
Mẹ và kẻ cần được tập để
thấy. C̣n trường hợp kia, bạn làm việc
với những người đă nghe và đang phát triển
sự tương ứng tâm linh của thị giác. V́
thế, họ rất dễ thụ cảm với linh
thị.
Linh từ (Word) được đưa ra rằng h́nh hài đă đáp ứng được mục đích của nó.
682
Linh
từ hay là “tuyên cáo tinh thần” này của linh hồn, có
thể có hai mục đích: nó có thể gây nên sự
chết hoặc là có thể nó chỉ dẫn đến
sự triệt thoái của linh hồn ra khỏi khí cụ
của nó tức phàm ngă tam phân. Kết quả là
điều này có thể dẫn đến việc
để lại h́nh hài không linh hoạt và không có chủ
thể (dweller) trong xác thân. Khi việc này xảy ra, phàm ngă
(tôi muốn nói con người bằng thể vật chất,
thể cảm dục và thể hạ trí) sẽ tiếp
tục hoạt động. Nếu phàm nhân ấy có
phẩm tính ở tŕnh độ cao, th́ rất ít
người nhận biết linh hồn vắng mặt.
Điều này thường xảy ra trong tuổi già
hoặc bệnh nặng, và có thể kéo dài trong nhiều
năm. Điều này đôi khi cũng xảy ra ở
lĩnh vực liên quan đến trẻ con, lúc đó,
hoặc là đứa bé chết, hoặc nó trở nên
đần độn v́ các hạ thể của phàm ngă
không có thời gian rèn luyện. Một chút suy tư về
“Linh Từ ban ra này” sẽ đưa ra nhiều ánh sáng
về các trường hợp bị xem là rối mù/ khó
hiểu và về các trạng thái tâm thức mà từ
trước đến giờ tạo thành các vấn
đề hầu như không thể giải thích.
682
Bấy giờ, nguyên khí
trí tuệ liền tự sắp xếp, và tiếp đó
lặp lại Linh Từ ấy. H́nh hài đang chờ
liền ứng đáp và buông trôi.
Trong h́nh thức tử vong được bàn đến nơi đây, chính thể trí đóng vai tác nhân có thẩm quyền, truyền đến (là nơi giác tuyến tọa lạc) lệnh phải bỏ trống. Kế đó, con người ở trong xác thân mới truyền lệnh ấy đến tim (nơi mà sinh mệnh tuyến bám chặt). Kế đó, như các bạn đă biết, tiến tŕnh triệt thoái bắt đầu. Điều ǵ xảy ra trong các thời khắc phi thời gian này; trước cái chết, cho đến nay chưa ai biết, v́ không ai trở lại để nói với chúng ta. Nếu họ làm thế, câu hỏi được đặt ra: họ có đáng tin không? Có lẽ không ai tin họ cả.
Đoạn đầu của định luật X này bàn đến việc ra khỏi thân xác (tức là khía cạnh h́nh hài của phàm ngă tam phân) của người t́m đạo thông minh trung b́nh, xét định luật này theo một trong các tương ứng thấp nhất của nó. Tuy nhiên, dưới cùng Định Luật Tương Đồng, cái chết của mọi người, từ hạng thấp kém nhất trở lên, gồm cả những người t́m đạo, về cơ bản, được phân biệt bởi tiến tŕnh đồng nhất. Sự dị biệt chỉ có trong mức độ tâm thức được biểu lộ – tâm thức về tiến tŕnh và chủ đích. Trong mọi trường hợp, kết quả đều như nhau:
Linh hồn được tự do.
683
Thời
khắc tự do thực sự này có thể ngắn
ngủi và chóng qua, như trong trường hợp của
người kém phát triển, hoặc nó có thể kéo dài, tùy
theo mức hữu ích của người có đạo tâm
ở các nội cảnh giới. Tôi có bàn đến
điều này ở trước, nên không cần lặp
lại ở đây. Dần dần, khi các thôi thúc và các
ảnh hưởng của ba phân cảnh thấp của
tâm thức buông lỏng sự kiểm soát của chúng, th́
thời gian tách ra trở nên ngày càng dài, được
đặc trưng bằng sự sáng tỏ tăng lên
của tư tưởng và bằng nhận thức về
bản thể chính yếu, và điều này ở trong các
giai đoạn lũy tiến. Sự sáng tỏ và tiến
bộ này có thể không được mang lại qua
nhận thức hoặc lộ ra đầy đủ khi
sự tái sinh lại xảy ra, các giới hạn do
nhục thể áp đặt quá lớn. Tuy nhiên, mỗi
kiếp sống, mức bén nhạy tăng dần lên, và
cũng tăng thêm mức tích lũy kiến thức
huyền môn, thuật ngữ “huyền môn” (“esoteric”)
được dùng để chỉ tất cả
những ǵ không liên quan đến sự sống h́nh hài
thông thường, hoặc tâm thức trung b́nh của con
người trong ba cơi thấp.
Nói chung, cách sống theo huyền môn (như nó đang diễn ra) gồm ba giai đoạn. Các giai đoạn này diễn tiến trong tâm thức của con người và đi song song với nhận thức và các khía cạnh thông thường của sự sống sắc tướng ở ba mức kinh nghiệm:
1. Giai đoạn tiếp nhận các quan niệm, các ư tưởng và các nguyên lư, nhờ đó mà dần dần củng cố được sự hiện hữu của thể trí trừu tượng.
2. Giai đoạn “tiếp nhận ánh sáng” hay giai đoạn mà linh giác (spiritual insight) được phát triển, khi linh thị được nh́n thấy và chấp nhận như là thực và khi mà trực giác hay là “tri giác của thể bồ đề” được khai mở. Nhờ đó, chúng ta xác định được sự có thật của Thánh Đoàn.
3. Giai đoạn trừu xuất (rút ra, abstraction), tức là giai đoạn hoàn toàn định hướng. Con đường nhập vào Đạo Viện đă được thông thoáng và đệ tử bắt đầu thiết lập giác tuyến giữa phàm ngă với Tam Thượng Thể Tinh Thần. Chính ở giai đoạn này mà bản chất của ư chí được nhận ra một cách lờ mờ mang theo với nhận thức của nó cái ẩn ư rằng có một “Trung tâm mà Thiên Ư được thấu triệt”.
684
Các nhà
nghiên cứu thường nghĩ rằng cái chết
chấm dứt mọi sự, trái lại, theo quan
điểm về kết thúc, chúng ta đang bàn đến
các giá trị vốn bền bĩ mà không có sự can dự
nào, cũng như không thể có bất cứ ǵ giữ
trong chính chúng những mầm mống bất tử. Tôi
muốn các bạn hăy suy gẫm điều này và biết
rằng những ǵ có giá trị tinh thần đích
thực, đều bền bĩ trường tồn,
bất tử và vĩnh cửu. Chỉ có những ǵ vô giá
trị mới chết đi, và – theo cái nh́n của nhân
loại – điều đó hàm ư các yếu tố này vốn
chú trọng và khoác lấy tầm quan trọng xét về
mặt h́nh hài. Nhưng, các giá trị này dựa vào nguyên
tắc, chứ không dựa vào chi tiết của sắc
tướng có trong chúng cái nguyên lư bất tử ấy, nó
đưa con người từ “cánh cửa sinh tử, qua
cánh cửa tri thức, đến cánh cửa mục
đích” – nói theo cách diễn đạt của Cổ
Luận.
Tôi đă cố gắng chỉ cho bạn thấy, bằng cách nào mà phần đầu của định luật X này có một áp dụng đơn giản cho nhân loại, cũng như một ẩn ư trừu tượng và sâu xa đối với nhà huyền bí học.
Đoạn cuối của định luật X này không thể được diễn dịch theo cùng cách trên. Nó chỉ liên quan đến sự “từ trần” hay là việc “loại bỏ các chướng ngại” của chính các đệ tử tiến hóa và các điểm đạo đồ. Điều này được thấy rơ nhờ dùng các từ “Hỡi Đấng Thăng Thiên” – một thuật ngữ dùng để chỉ những vị đă được điểm đạo lần bốn, do đó không c̣n giữ lại bất cứ trạng thái ǵ của bản chất h́nh hài, dầu đó là một thể siêu việt như là linh hồn trong hiện thể riêng của nó, tức là thể nguyên nhân (causal body), tức là hoa sen Chân ngă. Tuy nhiên, muốn đáp ứng với định luật này được dễ dàng, th́ trong những giai đoạn đầu của đường đạo, phải phát triển khả năng lắng nghe, ứng đáp và tuân thủ về mặt huyền linh và mở rộng chúng thành những kinh nghiệm tâm linh có tầm mức cao siêu.
Ở đây, chúng ta lại phải cứu xét các ngôn từ nếu muốn hiểu thực nghĩa của chúng.
685
Hỡi Đấng Thăng
Thiên, hăy đáp lại tiếng gọi đến từ
lănh vực của Thiên trách.
Lănh vực của thiên trách (obligation) là ǵ mà điểm đạo đồ cấp cao phải chú ư đến? Toàn bộ kinh nghiệm sống, từ lĩnh vực sinh tử, đến những giới hạn cao tột của các khả năng tinh thần, đều được bao gồm trong bốn từ ngữ, áp dụng vào các tŕnh độ tiến hóa khác nhau. Đó là: Bản Năng, Nhiệm Vụ, Thiên Chức, Thiên Trách; hiểu được các dị biệt này, sẽ giác ngộ và tất nhiên, hành động đúng.
1. Lĩnh vực bản năng (Sphere of instinct). Điều này liên quan đến việc hoàn thành các thiên trách dưới ảnh hưởng của bản năng thú vật đơn giản mà bất cứ ai cũng có trách nhiệm phải làm, dù khi đảm trách mà không hiểu được tại sao phải làm như thế. Một minh họa của việc này là bản năng chăm sóc của người mẹ đối với con cái, hoặc họ hàng bên chồng hoặc vợ. Vấn đề này, chúng ta không cần bàn chi tiết, v́ ít ra, những ai đă vượt qua lănh vực các thiên chức sơ đẳng theo bản năng, đều đă nhận thức và hiểu rơ. Đối với họ, không có tiếng gọi đặc biệt nào, mà thế giới bản năng của việc cho và nhận, cuối cùng lại nhường chỗ cho lănh vực trách nhiệm cao hơn.
686
2. Phạm
vi bổn phận (Sphere of duty). Tiếng gọi
đến từ phạm vi này phát ra từ lĩnh vực
tâm thức vốn hoàn toàn thuộc về con người,
chứ không chủ yếu thuộc về con vật như
là lănh vực bản năng. Nó lôi cuốn mọi hạng
người vào trường hoạt động của nó,
và hết kiếp này sang kiếp khác, nó đ̣i hỏi
phải hoàn thành chính xác bổn phận. “Làm bổn phận
ḿnh” ít tán dương và ít tự hào về việc đó là
bước đầu tiên hướng về việc khai
mở nguyên tắc thiêng liêng mà chúng ta gọi là ư thức
trách nhiệm, ư thức này –khi được khai mở–
cho thấy sự kiềm chế của linh hồn ngày càng
vững chắc. Hoàn thành bổn phận, ư thức trách
nhiệm và ư muốn phụng sự là ba khía cạnh
của cùng một sự việc: giai đoạn phôi thai
của con đường đệ tử. Đây là
lời khó nói ra cho những ai đang vướng vào công
việc khó nhọc dường như vô vọng để
làm tṛn bổn phận. Họ khó mà hiểu được
rằng bổn phận ấy có vẻ cột họ vào
một sự buồn chán, các bổn phận theo bề
ngoài vô nghĩa và bạc bẽo của đời sống
hằng ngày, nhưng lại là một tiến tŕnh khoa
học để đưa họ đến các giai
đoạn kinh nghiệm cao hơn, và cuối cùng, nhập
vào Đạo Viện của Chân Sư.
3. Lănh vực Thiên chức (Sphere of Dharma). Đây là thành quả của hai giai đoạn trước. Đó là giai đoạn mà lần đầu tiên, đệ tử nhận biết rơ ràng vai tṛ của y trong toàn bộ diễn tiến các biến cố trên thế giới, và phần đóng góp không thể phủ nhận của y trong sự phát triển thế giới. Thiên chức là khía cạnh của nghiệp quả vốn đề cao bất cứ chu kỳ đặc biệt nào của thế giới và các sự sống của chúng sinh có liên quan trong cuộc biểu hiện ấy. Đệ tử bắt đầu thấy rằng nếu y gánh vác vai tṛ hay phần việc của y trong thiên trách định kỳ này và làm việc một cách cảm thông để hoàn thành công việc, như vậy, y bắt đầu hiểu được công tác tập thể (như các Chân Sư đă hiểu) và góp đúng phần của chính y để nhấc đi nghiệp quả thế gian đang thể hiện trong thiên chức định kỳ. Phụng sự theo bản năng, làm tṛn mọi bổn phận và góp phần trong thiên chức tập thể, tất cả đều ḥa hợp trong tâm thức y và trở thành một hành động phụng sự lớn lao, trung kiên và linh hoạt. Bấy giờ, y đang tiến tới trên Con Đường Đệ Tử và đă hoàn toàn vượt qua con đường dự bị. Ba khía cạnh hoạt động linh hoạt này là biểu lộ phôi thai trong cuộc đời của đệ tử với ba khía cạnh thiêng liêng:
a. Sinh hoạt theo bản năng ……….. áp dụng sáng suốt
b. Bổn phận ……… t́nh thương có trách nhiệm
687
c. Thiên
chức …….. ư chí được biểu hiện qua Thiên
Cơ
4. Lănh vực nghĩa vụ (Sphere of obligation). Nhờ học được bản chất của ba lănh vực hành động đúng khác nhau và – qua hoạt động của các lănh vực này– điểm đạo đồ đă khai mở các mặt thiêng liêng,giờ đây, bước vào lănh vực nghĩa vụ. Chỉ sau khi đă đạt được mức giải thoát đáng kể, người ta mới có thể nhập vào lănh vực này. Nó hướng dẫn các phản ứng của đệ tử điểm đạo trong hai giai đoạn của sự sống của y:
a. Trong Đạo Viện, bởi y chịu sự chi phối của Thiên cơ. Y nhận biết được Thiên cơ này khi thể hiện nghĩa vụ chính của ḿnh đối với sự sống. Tôi dùng từ ngữ “sự sống”(“life”) theo ư nghĩa huyền linh sâu xa nhất.
b. Ở Shamballa, nơi mà Thiên Ư đang hiển lộ của Đức Sanat Kumara (Thiên Cơ là sự thể hiện của Thiên Ư trong thời gian và không gian) bắt đầu hé lộ ẩn ư và thực nghĩa, tùy theo tŕnh độ tiến hóa và cách tiếp cận của y với Con Đường Tiến hóa cao siêu.
Ở Đạo Viện, sự sống của Tam Thượng Thể Tinh Thần dần dần thay thế cho sự sống của phàm ngă đă được linh hồn kiểm soát. Trong Đại Hội Đồng ở Shamballa, sự sống của Chân Thần thay thế mọi biểu lộ khác của Thực Tại cốt yếu. Tôi không thể nói nhiều hơn nữa.
Hăy nhận ra tiếng gọi nổi lên từ Đạo viện, hay từ Hội Đồng Huyền Linh, nơi mà chính Đấng Chúa của Sự Sống đang chờ.
688
Ở
đây, chúng ta lại đối đầu với toàn
bộ chủ đề tiến hóa ẩn bên dưới
của Thỉnh Nguyện và Đáp ứng (Invocation and
Evocation). Ở đây, chúng ta thấy hai trung tâm cao siêu
của Sự Sống thiêng liêng đang không ngớt kêu
gọi trung tâm thấp. Một trong các yếu tố chi
phối toàn bộ diễn tŕnh tiến hóa tùy thuộc
sự khéo léo của các Đấng Cao Cả trong việc
kêu gọi sự đáp ứng từ giới nhân loại
và dưới nhân loại hay là các sinh linh tập hợp
trong ba cơi thấp của sự sống sắc
tướng. Con người bận tâm đến những
vấn đề của chính ḿnh, đến nỗi họ
thường nghĩ rằng – sau cùng – những ǵ xảy
ra, đều hoàn toàn do cách hành xử, cách sinh hoạt và các
năng lực thỉnh nguyện của họ. Tuy nhiên, c̣n
có một khía cạnh khác nữa, nó bao gồm sự khéo léo
trong hành động, những trái tim thông cảm và ư chí thông
suốt không hề bị ngăn ngại của cả
Thánh Đoàn lẫn Shamballa.
Do đó, điều hiển nhiên đối với bạn bè đó là mọi đệ tử và điểm đạo đồ nên biết chính xác ḿnh đứng nơi đâu trên Thánh Đạo, tức mặt cuối cùng của thang tiến hóa, thật là thiết yếu biết bao. Bằng không, họ sẽ diễn dịch sai tiếng gọi và không nhận ra cội nguồn của âm thanh đang phát ra. Việc này xảy ra dễ dàng biết bao đối với mọi huấn sư tiến hóa của huyền linh học và huyền bí học, khi Ngài nhận thức dễ dàng người kém tiến hóa và những kẻ sơ cơ, diễn dịch những lời kêu gọi và thông điệp họ nhận được, đến với họ từ nguồn cội cao cả nào đó, trong khi mà rất có thể họ chỉ nghe được những ǵ phát ra từ tiềm thức của chính họ, từ linh hồn của chính họ, hoặc là từ một vị huấn sư nào đó (không phải Chân Sư) vị này đang cố gắng để trợ giúp họ.
Tuy nhiên, những tiếng gọi được đề cập đến ở đây, đến từ nguồn cội có thể cao nhất, và đừng nên lầm với tiếng nói thấp kém của những kẻ tầm thường.
Huyền Âm đang vang ra. (The SOUND goes forth)
689
Ở đây tôi không định bàn đến âm thanh sáng
tạo, trừ ra việc kêu gọi bạn chú ư sự
kiện rằng nó được sáng tạo.
Huyền Âm vốn là chỉ dẫn đầu tiên của
hoạt động của Hành Tinh Thượng Đế,
nó không phải là một từ (word), mà là một âm
được dội lại đầy đủ,
nắm giữ trong chính nó mọi âm khác, mọi hợp âm
(chords) và một số cung bậc (được gọi
là “âm nhạc của các bầu hành tinh”) và các nghịch âm
(dissonances) mà cho đến nay chưa ai biết.
“Đấng Thăng Thiên” phải học cách nhận ra
Huyền Âm đó là phải ứng đáp với nó, không
những bằng thính quan và các tương ướng cao
của nó, mà c̣n qua một đáp ứng từ mọi thành
phần và từ mọi phương diện của phàm ngă
trong ba cơi thấp. Tôi cũng muốn nhắc các bạn
nhớ rằng theo quan điểm của cuộc
điểm đạo thứ tư, th́ ngay cả hiện
thể của Chân Ngă, tức là linh hồn thể cũng
bị xem và đối xử như là một thành phần
của bản chất h́nh thể (form nature).
689
Dầu
rằng vào lúc điểm đạo lần thứ tư
xảy ra việc “tan ră Ngôi Đền Solomon”, các tính
chất tạo ra ngôi đền đă được thu
hút vào các hiện thể mà điểm đạo
đồ đang dùng cho mọi giao tiếp của Ngài trong
ba cơi thấp. Hiện giờ, về thực chất, Ngài
là tinh hoa của toàn bộ các thể của Ngài, và – theo
quan điểm và hiểu biết chuyên môn của Ngài –
cần nhớ rằng toàn bộ cơi trí là một trong ba cơi
tạo nên cơi hồng trần vũ trụ. Các nhà nghiên
cứu thường quên điểm này, hầu như lúc
nào họ cũng đặt linh hồn thể và nguyên
tử thường tồn thể trí ở ngoài các
giới hạn của h́nh thể và ở ngoài cái mà họ
gọi là ba cơi thấp. Về mặt kỹ thuật và theo
khía cạnh cao, th́ điều đó không đúng. Sự
kiện này dứt khoát làm thay đổi và chi phối
sự suy tư và việc làm của vị điểm
đạo đồ cấp bốn và các cấp cao hơn.
Nó cũng giải thích việc cần phải làm tan mất
chân ngă.
Huyền Âm vang khắp bốn cơi phụ cao của cơi hồng trần vũ trụ. Các cơi phụ này là tương ứng cao siêu của bốn cơi phụ dĩ thái của cơi trần trong số ba cơi thấp – gồm ba cơi phụ trọng trược và bốn cơi phụ dĩ thái. Do đó, cần nhớ rằng tất cả các cơi mà chúng ta đă quá quen biết đều thuộc về cơi hồng trần vũ trụ, và nhớ rằng cơi mà chúng ta biết nhiều nhất là cơi trọng trược nhất trong bảy cơi, nơi đó, chúng ta có nhiều nỗ lực và khó khăn.
690
Do ”im
lặng vốn là âm thanh, nốt vang dội của Shamballa”
âm thanh tự hội tụ, hoặc là trong Tam Thượng
Thể Tinh Thần, hoặc là trong Huyền Viện, tùy theo
tŕnh độ của điểm đạo đồ và
dù cho y thuộc hàng cao cấp trong phạm vi Huyền
Viện, hoặc là c̣n cao hơn nữa trong các giới mà
qua đó ánh sáng từ Hội Đồng Huyền Linh
tỏa chiếu. Trong trường hợp đầu, chính
bí huyệt tim đáp ứng với âm thanh và từ đó
đến toàn cơ thể. Trong trường hợp
thứ nh́, tâm thức được thay thế bằng
một loại nhận thức tinh thần (spiritual
recognition) c̣n cao siêu hơn nữa mà chúng ta gán cho danh xưng
không thích hợp là sự đồng nhất hóa
(identification). Khi âm thanh được ghi nhận nơi bí
huyệt tim của điểm đạo đồ, th́ người
đă khai mở được mọi loại tri thức
có thể có, mà bản chất h́nh hài – linh hồn và thân xác
có thể làm cho khả hữu. Khi bí huyệt đầu ghi
nhận, th́ sự đồng nhất hóa đă tạo ra
sự hợp nhất hoàn hảo biết bao với mọi
biểu hiện tinh thần của sự sống, bấy
giờ, thuật ngữ “more” (hàm ư tăng thêm – increased)
tất phải nhường chỗ cho chữ “deep”,
với nghĩa là xâm nhập (penetration). Hỡi huynh
đệ, nói như thế, các bạn có hiểu
được hết chăng?
Chính ở điểm này, lần đầu tiên, điểm đạo đồ đối diện với Bảy Con Đường, bởi v́ mỗi Con Đường tạo thành một cách xâm nhập vào các lănh vực nhận thức hoàn toàn ở ngoài hành tinh chúng ta. Để làm được điều đó, điểm đạo đồ phải thấu triệt Định Luật Biến Phân (Law of Differentiation) và phải hiểu được Bảy Con Đường bằng cách phân biệt bảy âm hợp thành Linh Âm duy nhất, tuy nhiên, nó không liên quan tới bảy âm, tạo thành Thánh ngữ AUM tam phân.
691
Cả linh hồn lẫn h́nh
hài đều cùng phải từ bỏ nguyên khí sự
sống, nhờ thế Chân Thần được tự
tại. Linh hồn đáp ứng lại. Bấy giờ
h́nh hài phá vỡ mối liên quan.
Ở đây, bạn có thể thấy tại sao tôi nhấn mạnh sự kiện điểm đạo đồ là nơi nhận một hoặc nhiều tính chất chính yếu mà h́nh hài lộ ra và phát triển, mà linh hồn đă hấp thu. Ở khúc quanh đặc biệt này, điểm đạo đồ trong Huyền Viện hoặc “trên đường vinh quang của Ngài tiến đến Thánh Địa, nơi ngự của Đấng Chúa Tễ” (tức Shamballa), sẽ tổng kết hoặc chứa đựng trong chính ḿnh mọi tốt lành thiết yếu vốn được chất chứa trong linh hồn trước khi nó tiêu tan vào cuộc điểm đạo thứ tư. Người là hiện thân trong chính ḿnh sự hiểu biết và minh triết của nhiều kỷ nguyên phấn đấu, và kiên tŕ nhẫn nại. Dù bám chặt vào linh hồn hoặc h́nh hài, cũng không c̣n thu đạt được ǵ thêm nữa. Người đă lấy tất cả những ǵ mà sự hiểu biết và minh triết phải cung hiến để rọi ánh sáng lên Định Luật Tâm Linh, đó là Luật Hy Sinh. Thật là thú vị khi ghi nhận ở điểm này, bằng cách nào linh hồn chỉ trở thành trung gian giữa phàm ngă với điểm đạo đồ cao cấp. Nhưng, giờ đây không có ǵ nữa để liên kết, để tường tŕnh hoặc truyền đạt, và – khi Huyền Âm vang dội – linh hồn không c̣n nữa, như chứng cớ của sự đáp ứng. Giờ đây, nó chỉ là một cái vỏ trống không, nhưng, chất liệu của nó thuộc đẳng cấp cao đến nỗi nó trở nên một thành phần rất cần thiết của cơi Bồ Đề và chức năng của nó ở đó giống như dĩ thái. Nguyên khí sự sống bị từ bỏ và quay về với kho dự trữ nguồn sống vũ trụ.
692
Tôi
muốn các bạn lưu ư đến tầm quan trọng
của hoạt động sắc tướng. Chính
Sắc Tướng làm tan ră mối liên kết (h́nh hài
thường bị khinh khi, bị xem nhẹ, gây cản
trở lại hoàn thành tác động sau cùng), mang lại
sự hoàn toàn giải thoát. “Nguyệt Thần” của phàm
ngă đă đạt mục tiêu của ḿnh và các nguyên tố
vốn tạo thành ba hạ thể của y (thể xác,
thể cảm dục và hạ trí) cùng với nguyên khí
sự sống, sẽ tạo ra chất liệu nguyên
tử của thể biểu lộ đầu tiên của
một linh hồn nào đó đang t́m cách nhập thế
lần đầu. Điều này liên quan mật thiết
đến vấn đề khó hiểu, đó là các nguyên
tử thường tồn. Nó đánh dấu một
thời điểm điểm hóa cao hơn cho Nguyệt
Thần này khi thần giải tán mối liên kết và
cắt đứt mọi liên hệ với linh hồn
từ trước đến giờ, vẫn làm linh
hoạt. Thần không chỉ là một h́nh bóng (Shadow)
nữa, mà giờ đây đă có những phẩm tính giúp
thần trở thành “cụ thể” (“substantial”) (theo
nghĩa huyền bí) và là một nhân tố mới trong
thời gian và không gian.
Các thuật ngữ c̣n lại của định luật này không cần giải thích và đánh dấu kết thúc thích hợp cho phần nghiên cứu này:
Giờ đây, sự sống được tự do, có được phẩm tính của sự hiểu biết hữu thức và thành quả của mọi kinh nghiệm. Đây là các tặng phẩm của linh hồn và h́nh hài được kết hợp.
693
CHƯƠNG IX
BẢY CÁCH TRỊ LIỆU
Bạn thấy rơ rằng cho dầu các kỹ thuật hoặc bảy cách trị liệu – v́ chúng liên quan đến năng lượng của bảy cung – nếu được truyền thụ cho bạn một cách chính xác, thực ra cũng khó t́m được nhà trị liệu nào có năng lực vận dụng chúng trong thời kỳ chuyển tiếp này trong các việc thế gian. Chúng ta đang ra khỏi một kỷ nguyên, để bước vào kỷ nguyên khác, và tất nhiên, điều đó tạo ra các khó khăn mà từ trước đến giờ, chưa được nhận ra. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử con người, nhân loại đủ thông minh để ghi nhận và hiểu được các hàm ư của diễn biến này, và đủ tiên kiến để có thể h́nh dung, tưởng tượng ra và đặt kế hoạch cho tương lai mới. Mặt khác, cung linh hồn của người t́m đạo bậc trung ít khi ở trạng thái kiềm chế đến mức nó có thể đem lại giác ngộ thích hợp và sức mạnh của cung. Ngày nào linh hồn chưa thống ngự, th́ những phương pháp và kỹ thuật này của cung (vốn định đoạt cách sử dụng và điều khiển các năng lượng cung)đều vô ích. Bạn đừng nên chán nản, mà chỉ giữ thái độ hy vọng, đặc biệt là với các đạo sinh và độc giả c̣n trẻ. Xét về mọi mặt, sự gián đoạn này giữa hy vọng và tiềm năng là quá thuận tiện.
694
Trong
thế kỷ trước, có nhiều điều
được đưa ra theo các đường lối
ma thuật, đến nỗi nếu c̣n truyền dạy
thêm vào lúc này th́ thật là thiếu khôn ngoan. Có quá nhiều
thần chú (mantranrs) và các Quyền Lực Từ (Word of
Power) đă được truyền dạy và việc
sử dụng Thánh Ngữ OM đă lan tràn, đến
đỗi việc đó có thể mang lại nhiều tai
hại. Tuy nhiên, những tổn hại đó đă không
xảy ra. Tŕnh độ tiến hóa tương đối
thấp của người nghiên cứu và nhà thực
nghiệm bậc trung đă bảo vệ họ, và những
cố gắng của họ cũng không mang lại
được bao nhiêu kết quả – dù tốt hay
xấu. Thường có những cuộc trị liệu (ít
ra cũng là những cuộc trị liệu tạm)
phần lớn do tính mẫn cảm của bệnh nhân
đối với sự ám thị và do sự tin
tưởng của họ vào nhà trị liệu. Về
mặt huyền bí, không có cuộc trị liệu nào trong
số đó có thể được truy nguyên từ
những phương pháp khoa học của huyền linh
học. Bất chấp sự bảo vệ này, hay nói
đúng hơn v́ có sự bảo vệ đó mà hiện nay,
tôi không truyền đạt Linh Từ nào của cung,
giống như điểm đạo đồ lăo
luyện dùng đến khi chú tâm vào trị liệu.
Phải sử dụng thành thạo ư chí tinh thần, đi
kèm với các Linh từ này. Tuy nhiên, với người thường
và với nhà trị liệu thông thường, th́ ngay
cả trạng thái thấp nhất của ư chí cũng
chưa phát triển và chỉ có sự bướng
bỉnh, vốn được định đoạt
bằng ham muốn ích kỷ, được biểu
lộ mà thôi. Do đó, thật là phí th́ giờ khi tôi đưa
ra giáo huấn theo các đường lối này.
Tôi thấy cần giải thích như thế, để cho không có sự mong mỏi quá đáng, rằng tôi sẽ truyền đạt các điều huyền bí trước đến giờ chưa được biết. Tôi chỉ t́m cách đặt nền tảng cho một cơ cấu hiểu biết tương lai. Khi việc đó trở nên an toàn, th́ mới là khôn ngoan và đúng lúc để truyền đạt các “Điểm tập hợp” những “Linh Từ tổ chức” (“organising Word”), các “Định Ư biểu lộ” (“expressed Intentions”) của nhà trị liệu huyền môn lăo luyện một cách chính xác. Tôi cũng t́m cách làm phát sinh nơi bạn mong mỏi t́m ṭi và khôn ngoan, vốn sẽ dùng số kiến thức nhỏ bé mà tôi có thể trao truyền và những lời lẽ tượng trưng mà tôi có thể nói ra, như thế chuẩn bị cho sự hiểu biết thấu đáo hơn về sau này. Đồng thời, có một số điều mà tôi có thể giảng dạy mà bạn sẽ thấy là hữu ích. Biết đâu những điều đó có thể làm tăng thêm khó khăn có thể nhận biết và h́nh dung, tuy nhiên, chúng có thể hữu ích khi đưa ra nền tảng cần phải bao gồm, trước khi nhà trị liệu đạt đến việc chữa trị chính xác và bền bĩ.
695
Phần
này thật sự rất ngắn, so với phần c̣n
lại của sách này. Nó chỉ gồm một loạt các
phát biểu tóm tắt và cô đọng có thể dùng làm
một cuốn sách giáo khoa cho nhà trị liệu, một
sách tham khảo, để hướng dẫn những ǵ
cần biết. Các phát biểu này gồm ba loại:
I. Các năng lượng của Bảy Cung
II. Cung của nhà trị liệu và của bệnh nhân
III. Bảy kỹ thuật trị liệu.
Các phát biểu này sẽ hoàn tất cuốn IV của bộ “Luận Về Bảy Cung” và sẽ mang lại nhiều kiến thức cho đệ tử điểm đạo, và ngay cả một phần cho người t́m đạo sáng suốt; chúng sẽ giúp cho việc chữa trị hiệu quả hơn, cho dầu chỉ có công việc sơ khởi và các qui luật sơ đẳng được dạy ra. Khỏi phải nói thêm, nhà trị liệu phải tự hoàn thiện chính ḿnh trong hoạt động mở đầu này, và – khi y hành động– chính y (một ḿnh và tự lực) có thể thấu triệt được ư nghĩa sâu xa hơn của giai đoạn này của Minh Triết Ngàn Đời.
I. NĂNG LƯỢNG CỦA BẢY CUNG
Mười lăm phát biểu
1. Bảy cung thể hiện và biểu lộ toàn thể các năng lượng đang luân lưu khắp h́nh hài của hành tinh chúng ta.
2. Các năng lượng của bảy cung này là bảy mănh lực vốn cùng hợp thành cung nguyên thủy Bác ái - Minh triết. Đó là cung hai của thái dương hệ chúng ta và là cung thống ngự trong mọi biểu lộ hành tinh trong thái dương hệ. Tất cả bảy cung đều là các cung phụ của cung vũ trụ vĩ đại này.
696
3.
Dầu cho nhà trị liệu thuộc cung nào, y cũng
phải luôn luôn làm việc thông qua cung phụ thứ nh́
của cung ấy – tức là cung bác ái - minh triết trong
mỗi cung. Nhờ cung này, y lập nên liên kết với,
hay liên hệ được với cung linh hồn đang
chi phối và cung của phàm ngă. Cung hai có khả năng bao
gồm tất cả.
4. Cung hai và cung phụ thứ nh́ trên tất cả các cung, chính chúng đều biểu lộ nhị phân. Nhà trị liệu phải học cách làm việc qua khía cạnh bác ái, chớ không qua khía cạnh minh triết. Việc này chiếm nhiều tập rèn mới thực hành được sự phân biệt tinh thần.
5. Những thể nào trong phàm ngă trên tuyến năng lượng 2–4–6, phải được nhà trị liệu vận dụng khi thực hành chữa trị. Nếu y không có vận cụ nào hay thể nào trên tuyến năng lượng căn bản này, th́ y không thể trị liệu. Điều này ít khi được nhận ra. Tuy nhiên ít khi t́m thấy một thiết bị nào lại hoàn toàn thiếu các lối ra của năng lượng cung hai.
6. Những nhà trị liệu nào ở cung hai, hay được trang bị một hiện thể có tiềm lực thuộc cung hai, đều thường là những nhà trị liệu lỗi lạc. Đấng Christ, Đấng tiêu biểu xác thực nhất của cung hai từng được biết đến trên địa cầu là Đấng vĩ đại nhất trong tất cả các Con của Thượng Đế có khả năng trị liệu.
7. Cung linh hồn chi phối và định đoạt kỹ thuật cần vận dụng. Cung trong các hiện thể của phàm ngă có liên hệ chặt chẽ nhất với cung hai (mà tất cả các cung phụ tác động như các vận hà cho nó) là cung mà năng lượng trị liệu phải tuôn tràn qua đó.
8. Cung phụ thứ nh́ của cung linh hồn định đoạt việc tiếp cận vấn đề chữa trị mà nhà trị liệu phải đối phó ngay trước mắt; năng lượng này được chuyển hóa thành lực trị liệu khi đi ngang qua hiện thể thích hợp của phàm ngă. Muốn được thích hợp, nó phải ở trên tuyến năng lượng 2–4–6.
697
9.
Vận cụ/hiện thể (vehicle) thích hợp ấy có
thể hoặc là thể trí, hoặc là thể t́nh cảm.
Đối với đa số con người đang
tập trung vào bản chất cảm dục, thông
thường việc trị liệu sẽ thành công
nhất, nếu vận hà truyền chuyển của nhà
trị liệu cũng là thể đó.
10. V́ thế, một tam giác năng lượng được h́nh thành. Nó gồm có:
a. Năng lượng của linh hồn
b. Vận cụ thích hợp
c. Thể dĩ thái, xuyên qua bí huyệt tim hoặc bí huyệt đan điền.
11. Trong thể dĩ thái, một tam giác phụ được tạo thành để luân lưu năng lượng giữa:
a. Bí huyệt đầu, tức bí huyệt thu nhận.
b. Bí huyệt ấn đường, tức bí huyệt phân phối có điều khiển.
c. Bí huyệt biểu lộ năng lượng của cung linh hồn–theo lối ít trở ngại nhất – bất cứ cung nào trong số bảy cung.
12. Tam giác thứ yếu này được liên kết với tam giác nguyên thủy, nhờ một “ tác động cân nhắc thận trọng.” Đó là một phần của kỹ thuật mà tôi giữ kín.
13. Nhà trị liệu nào chân thành và có kinh nghiệm (v́ không có công thức huyền bí để nối kết hai tam giác) vẫn có thể làm được nhiều để mang lại một mối liên hệ nhất định, bằng một hành vi tin tưởng thận trọng và bằng việc đưa ra định tâm vững vàng của ḿnh.
14. Tam giác lớn là tam giác có ảnh hưởng đến nhà trị liệu, biến y thành một tác nhân chuyển đạt. Tam giác nhỏ là tam giác tạo ra hiệu quả nơi bệnh nhân – ở cơi trần, nhà trị liệu làm việc thông qua tam giác này.
15. Do đó, trước khi có hành động trị liệu rơ rệt, cách trị liệu phải gồm ba phần:
698
Giai
đoạn một
a. Nhà trị liệu liên kết một cách hữu thức và rơ rệt với chính linh hồn ḿnh.
b. Kế đó, y quyết định phải dùng những hiện thể nào của phàm ngă. Quyết định này được căn cứ vào phản ứng của nó với các năng lượng, được vận chuyển theo tuyến 2 – 4 – 6.
c. Sau đó, bằng một tác động của ư chí, y sẽ liên kết năng lượng linh hồn xuyên qua hiện thể được ưa thích với bí huyệt thích hợp trong thể dĩ thái. Luôn luôn bí huyệt tim hoặc bí huyệt đan điền được chọn trước .
Giai đoạn hai
a. Kế đến, y sẽ lập tam giác phụ bằng cách tập trung chú tâm vào bí huyệt tiếp nhận, tức bí huyệt đầu.
b. Sau đó, qua sức mạnh của sự tưởng tượng sáng tạo, y sẽ liên kết bí huyệt đầu với bí huyệt giữa hai chân mày, và sẽ giữ năng lượng ở đó, bởi v́, nó là phương tiện để điều khiển.
c. Y sẽ cố gắng gom vào bí huyệt ấn đường này năng lượng của bí huyệt, trong thể dĩ thái y, có liên hệ đến cung linh hồn y.
Giai đoạn ba
Bấy giờ, với sự thận trọng, y mới liên kết hai tam giác. Làm xong việc này, tức là y đă sẵn sàng để trị liệu.
II - CUNG CỦA NHÀ TRỊ LIỆU VÀ CỦA BỆNH NHÂN
Điều hiển nhiên đối với độc giả hời hợt nhất, sự thay đổi hoặc đồng nhất giữa các cung của nhà trị liệu và bệnh nhân của y là một nhân tố quan trọng: nhiều yếu tố chi phối sẽ hiện ra. Cũng sẽ có sự tương phản giữa các cung linh hồn với các cung phàm ngă của cả đôi bên. Thế nên, có thể có những điều kiện, trong đó:
699
1.
Các cung linh hồn th́ tương đồng, c̣n các cung phàm
ngă th́ dị biệt.
2. Các cung phàm ngă giống nhau, nhưng các cung linh hồn lại không.
3. Các cung đều giống nhau trong cả hai trường hợp.
4. Không cung nào của linh hồn lẫn phàm ngă giống nhau.
5. Không biết rơ cung linh hồn, nhưng cung phàm ngă th́ lộ rơ. Dễ xác định cung phàm ngă, nhưng thường không có dấu hiệu nào về cung linh hồn. Việc này có thể xảy ra cho cả người trị bệnh lẫn bệnh nhân.
6. Không cung nào của đôi bên được biết.
Trong cuộc thảo luận này, tôi không đề cập ǵ đến cung của các thể xác, thể cảm dục và thể trí, dầu các cung ấy có một hiệu quả nhất định và đôi khi có tính quyết định, biết được th́ rất có ích.
700
Người
trị liệu thành thạo, khi có được hiểu
biết này, có thể dùng một kỹ thuật phụ
dưới h́nh thức trợ giúp cho phương pháp
căn bản, và dùng một hạ thể thích hợp
(hoặc của chính y, hoặc của bệnh nhân) tuôn
đổ qua đó một ḍng năng lượng trị
liệu phụ, để tăng cường tác dụng
của ḍng năng lượng chính. Việc đưa thêm
ḍng năng lượng phụ này, hàm ư nhà trị liệu
có kiến thức rất tiến bộ, hoặc phải được
bệnh nhân cho biết thông tin chính xác. Như bạn có
thể phỏng đoán, đây là điều hơi
hiếm có. Nhờ nghiên cứu cẩn thận, nhờ
tập hợp nhiều trường hợp tương
đồng được biết, có thể xác
định khá đúng bản chất hai cung chính. Tuy nhiên,
cần có một điểm đạo đồ ở
một tŕnh độ nào đó mới nhận biết và
làm việc qua các cung của người có nhiều hạ
thể. Nhờ đó, ở vào lợi thế phân phối
lực trị liệu qua hai bí huyệt cùng một lúc.
Tất nhiên, chúng ta sẽ không xét thêm mối liên hệ
của các cung chi phối nhà trị liệu và bệnh nhân,
theo quan điểm linh hồn và phàm ngă.
Tôi không thể chọn mỗi một trong các cung của cả nhà trị liệu lẫn bệnh nhân, rồi chỉ cho bạn kỹ thuật thích hợp. Điều này sẽ trở nên rơ ràng, nếu bạn xét một số lớn khó khăn xảy ra khi các cung của cả đôi bên được liên kết nhau. Trong quyển “Đường Đạo trong Kỷ Nguyên Mới” có nêu lên các cung của một số lớn đệ tử. Với tư cách bài tập thực nghiệm, bạn có thể chọn các cung khác nhau này, như đă nêu, rồi mỗi đệ tử này vào vai tṛ nhà trị liệu hoặc bệnh nhân, để xét xem phải sử dụng những bí huyệt nào trong trường hợp bệnh nào đó (mỗi bệnh nằm ở một chỗ khác nhau trong thân thể). Kế đó, cố gắng xác định nhà trị liệu nên khôn khéo theo phương pháp nào; tŕnh tự nào. Đồng thời, bạn nên nhớ hai điều: trước nhất, tất cả những người đó đều là thành viên của một Huyền Viện Cung Hai; thứ nữa, họ cũng là những người đệ tử, tất nhiên các cung của họ đều lộ rơ, trước nhà trị liệu – đó là sự trợ giúp rất lớn. Bạn cũng có thể quyết định xem năng lượng của cung nào nên được dùng trong tiến tŕnh trị liệu, qua bí huyệt nào trong chính bạn, với tư cách nhà trị liệu) và của đệ tử (bệnh nhân) – bạn sẽ làm việc và xét xem bạn nên dùng phương pháp phụ nào. Kế đó dùng cách tưởng tượng thực hiện việc trị liệu tưởng tượng, xem xét trong các thân hữu và bạn bè, có ai mà bạn tin là họ có điều kiện về cung tương tự, nếu họ đang đau ốm, hăy t́m cách giúp họ giống như cách bạn đă trợ giúp cho một bệnh nhân tưởng tượng. Sau đó, bạn hăy lưu ư xem những ǵ xảy ra. Tránh sử dụng kỹ thuật phụ bởi v́ đối với ba hạ thể, bạn dễ bị sai lầm hoàn toàn hơn là đối với hai cung chánh biểu lộ trong đời sống.
701
Có
lẽ phần c̣n lại của vấn đề này có
thể được minh giải bằng một số
phát biểu. Chúng sẽ trở nên sáng tỏ hơn, khi khoa
tâm lư học huyền môn trở nên một chủ đề
giáo dục rơ rệt trong những thập niên sau này.
1. Nhà trị liệu nên biết rơ các cung của ḿnh, sau đó mới tiến hành điều trị trên cơ sở hiểu biết đó. Khi chưa có được hiểu biết đó, th́ đừng nên cố sức chữa trị.
2. Khi, v́ thiếu sự hiểu biết đó mà không thể tiến hành trị liệu, y nên tự giới hạn vào việc làm một vận hà đưa năng lượng bác ái đến bệnh nhân.
3. Trong đa số trường hợp, nhà trị liệu đều thấy dễ xác định các cung, hay ít nhất một cung của ḿnh, hơn là biết các cung của bệnh nhân.
Điều này có hai lư do:
a. Sự kiện y đang t́m cách chữa trị và trợ giúp, cho thấy y đă khá tiến bộ trên đường tâm linh. Cần có tiến bộ đó để t́m đúng tính chất của cung. Nghiên cứu chút ít về chính ḿnh, về những cung có thể có, cũng đủ cho y thấy bản chất của các năng lượng đang chi phối y.
b. Nếu bệnh nhân là người tiến hóa, th́ có thể người ấy không có ư nhờ y giúp, mà sẽ tự giải quyết vấn đề của chính ḿnh, qua linh hồn và qua Huyền Viện, nếu người ấy có liên hệ với một Huyền Viện nào. Nếu bệnh nhân kém tiến hóa, th́ cung của phàm ngă sẽ dễ xác định hơn cung linh hồn, và v́ thế sẽ là điểm giao tiếp.
702
4. Khi
đă xác định thỏa đáng được
nhiều cung hoặc một cung đang chi phối y, lúc
đó, nhà trị liệu phải dùng trí, tức bộ máy
tư duy để tự chuẩn bị cho cuộc
trị liệu rất cẩn thận trong thời gian
tối thiểu là năm giờ. Tôi không có ư nói rằng
đó là năm giờ quán tưởng và kiểm soát liên
tục thể trí, mà là thời gian suy tư tĩnh
lặng. Trong thời gian đó, nếu có thể, nhà
trị liệu nghiên cứu về các điều kiện
của bệnh nhân để hiểu rơ:
a. Vấn đề bệnh và bản chất đặc biệt của nó.
b. Vị trí của nó trong thể xác.
c. Bí huyệt liên hệ và (khi y là đệ tử đă được khai ngộ) với t́nh trạng của nó.
d. Sự trầm trọng của bệnh và cơ may chữa lành.
e. Người bệnh có nguy cơ từ trần hay chăng.
f. T́nh trạng tâm lư của bệnh nhân.
g. Các cung của bệnh nhân nếu thuận tiện. Các cung này, khi biết được, sẽ chi phối cách tiến hành trị liệu của y.
703
5.
Chuẩn bị như thế, nhà trị liệu tập
trung chú tâm đến cung của chính y. Khi y chỉ có
sự hiểu biết tổng quát chứ không đặc
thù về một hoặc nhiều cung của y, và cung
của bệnh nhân, th́ y có thể tiếp tục,
ước đoán rằng một người hay cả hai
người thuộc về các tuyến năng
lượng 1 – 3 – 5 – 7 hoặc 2 – 4– 6, và hành động
dựa vào ước định tổng quát đó. Có
được sự hiểu biết đặc biệt
và thấu đáo th́ rất ích lợi, tuy nhiên, nếu không
có hiểu biết đó, và các cung đặc biệt không
được định rơ, th́ thường vẫn có
thể xét xem khuynh hướng chung trong tính t́nh theo
đường lối bác ái hoặc theo ư chí, rồi hành
động tương ứng. Bấy giờ vấn đề
là xem liên hệ giữa nhà trị liệu với bệnh
nhân sẽ là theo phàm ngă với phàm ngă, theo linh hồn
với linh hồn, hoặc là phàm ngă với linh hồn và
ngược lại.
6. Khi có sự liên hệ giữa phàm nhân với phàm nhân (điều này thường xảy ra nhất), th́ năng lượng mà nhà trị liệu sẽ dùng đến hoàn toàn là prana của hành tinh. Hiệu quả của prana này sẽ là kích thích các tiến tŕnh tự nhiên của thể xác và (hợp tác với bản thể và thế là phù hợp với karma của bệnh nhân), củng cố thể xác của y đến mức người bệnh có thể loại bỏ bệnh tật, hoặc là có thể được trợ giúp để trực diện với sự tin tưởng các tiến tŕnh từ trần, và thoát xác để nhập vào các lănh vực hiện tồn tinh anh hơn, với sự thông hiểu sáng suốt và điềm tĩnh.
7. Khi có sự liên hệ giữa linh hồn của nhà trị liệu với phàm ngă của bệnh nhân, th́ nhà trị liệu sẽ hoạt động với năng lượng cung bằng cách tuôn đổ năng lượng cung của chính y, qua bí huyệt đang chi phối vùng bệnh. Khi cả hai linh hồn hoạt động hợp tác, có thể có sự phối hợp của hai năng lượng, hoặc là (khi có các cung giống nhau) có sự củng cố của một năng lượng duy nhất và thôi thúc rất nhiều việc chữa lành hoặc việc giải thể.
8. Nhà trị liệu bao giờ cũng phải nhớ rằng công việc của y là hoặc chữa lành bệnh – đúng theo luật karma– hoặc giúp vào tiến tŕnh giải thể, để nhờ đó mang lại một h́nh thức chữa trị cao hơn.
9. Sẽ không xảy ra những việc chữa lành đột ngột và bệnh được ngăn chận một cách ấn tượng, trừ khi nhà trị liệu là một điểm đạo đồ cấp cao. Có thể làm việc với hiểu biết đầy đủ về các trường hợp và các điều kiện chi phối. Nếu các việc đó xảy ra, th́ do ba điều:
a. Vận số của bệnh nhân mà cơ hội của y chưa đến.
b. Sự chen vào của chính linh hồn bệnh nhân, bởi v́ xét cho cùng, th́ linh hồn là tác nhân của karma.
704
c.
Trợ giúp của nhà trị liệu; trợ giúp này tỏ
ra đủ thích hợp giúp bệnh nhân có được
niềm tin cần thiết và sức mạnh gia tăng,
để mang lại sự chữa trị của chính
người bệnh.
10. Không ai được giúp quay lại từ “cánh cửa tử vong”, nếu nghiệp quả họ cho thấy rằng thời giờ của ḿnh đă đến. Bấy giờ, chu kỳ sinh hoạt ở cơi trần chấm dứt, trừ phi người ấy là một phụng sự viên trong một Huyền Viện, một đệ tử ở một quả vị nào đó, mà công việc và sự hiện hữu của người đó vẫn c̣n cần ở cơi trần để hoàn tất công tác đă định của họ. Bấy giờ, Đức Thầy của Huyền Viện có thể đưa thêm kiến thức và năng lượng của Ngài cho nhà trị liệu, hoặc cho bệnh nhân, và tạm thời tŕ hoăn việc ra đi. Về việc này, có thể nhà trị liệu không tính đến hoặc bệnh nhân cũng thế, v́ họ không biết đầy đủ và chắc chắn các hoàn cảnh.
11. Nhà trị liệu phải thực hiện một số điều kiện cần yếu căn bản sau đây:
a. Trong pḥng bệnh nhân, càng yên lặng hoàn toàn càng tốt.
b. Có thể nói, càng ít người trong pḥng bệnh nhân là càng sáng suốt. Tư duy và các h́nh tư tưởng của những người hiện diện có thể gây xao lăng hoặc bị xao lăng, và do thế mà làm lệch các ḍng năng lượng trị liệu. Mặt khác, đôi khi chúng cũng giúp nhiều cho công việc của nhà trị liệu.
c. Khi nào có thể, th́ bệnh nhân nên nằm ngữa, hoặc nằm nghiêng, để cho các bí huyệt trên cột xương sống quay về phía nhà trị liệu. Trong vài trường hợp (mà nhà trị liệu phải tự quyết định) người bệnh nên nằm theo cách nào, để cho nhà trị liệu có thể đặt hai tay ở phía trên vùng bệnh, mặc dầu không bao giờ y cần phải chạm đến cơ thể bệnh nhân.
705
12. Khi
đă có được sự tĩnh lặng, an b́nh và thinh
lặng rồi, nhà trị liệu mới tiến hành
trị liệu với kỹ thuật thích hợp. Sự
tĩnh lặng, an b́nh và thinh lặng nói trên không chỉ
đối với các t́nh trạng của thân xác, mà c̣n
đối với các trạng thái t́nh cảm và trí dục của
nhà trị liệu, của bệnh nhân, cũng như
của những người hiện diện. Điều
này không phải lúc nào cũng dễ đạt
được.
Khi nhà trị liệu không có được kỹ thuật thích hợp hay không hiểu được những công thức trị liệu ghi ở phần sau của sách này, th́ y có thể góp nhặt kỹ thuật và qui luật của riêng y, sau khi đă nghiên cứu kỹ càng các giáo huấn chữa trị này vốn có đủ những tài liệu và các gợi ư để giúp y làm việc đó.
III. BẢY KỸ THUẬT TRỊ LIỆU
Các kỹ thuật mà tôi sắp phải đưa ra dưới dạng bảy phát biểu tượng trưng cũ kỹ, hay bảy công thức, được góp lại từ cuốn “Các qui luật dành cho đệ tử được điểm đạo” (Book of Rules for Initiated Disciples). Tôi không dám đưa ra cách áp dụng thuần vật chất cho các kỹ thuật cung này, v́, việc đó quá nguy hiểm. Khi được hiểu và vận dụng đúng, các kỹ thuật ấy mang lại mănh lực khủng khiếp, và – trong bàn tay sai trái – có thể gây hại thực sự. Ở đây, tôi xin nhắc bạn rằng các môn đồ Hắc phái cũng chữa bệnh hoặc gây chết chóc, bệnh tật, và sử dụng những kỹ thuật tương tự. Chỉ khác có điều là họ chỉ có thể làm việc với các cung phàm ngă của cả nhà trị liệu lẫn bệnh nhân. V́ ở cơi trần họ mạnh mẽ hơn các Thành Viên của Thánh Đoàn, nên việc làm của họ thường rất hiệu quả. Nhà trị liệu tinh thần, bất cứ khi nào có thể, đều làm việc bằng các năng lượng của ánh sáng, nên ít khi có hiệu quả về mặt hồng trần.
706
Tuy
nhiên, người của Hắc Phái, hoặc những nhà
trị liệu làm việc dưới ảnh hưởng
của Hắc Phái, đều hoàn toàn không thể tác
động vào một bệnh nhân đă có định
hướng tâm linh dầu ở mức tối thiểu, v́
thế mà đang ở dưới sự kiểm soát
của linh hồn y. Họ cũng không thể hành
động xuyên qua một nhà trị liệu đă có
định hướng tâm linh. Nếu họ thử làm
thế, th́ họ sẽ thấy chính họ bị chống
đối bởi năng lượng đến từ
Huyền Viện mà bệnh nhân hay nhà trị liệu
đang hướng về đó, hoặc là gia nhập vào
đó, dầu cho vị trí của y chỉ ở ngoại
vi. Người thường, kém suy tư, th́ không hề có
nguy cơ về sự can dự của “hắc phái”. Các
lực lượng hắc phái không quan tâm đến
người không quan trọng, mà chỉ chú ư đến
kẻ có thế lực và ảnh hưởng, tức
kẻ có thể đáp ứng mục tiêu của họ.
Cũng như tà nghiệp của họ chỉ xảy ra
vào lúc (hay chu tŕnh) mà con người đưa ra quyết
định về việc hoặc là y sẽ tập trung
vào sinh hoạt tinh thần, hoặc đứng yên một
chỗ, hoặc là cố t́nh (điều này cực kỳ
hiếm) quay sang con đường hoàn toàn ích kỷ. Con
đường này dẫn tới Hắc Phái.
Vào phần đầu thế kỷ tới, một đệ tử nào đó sẽ đem các kỹ thuật hay những phát biểu huyền thuật này liên kết với việc trị liệu, để diễn dịch và minh giải chúng. Chúng có thể có ba ư nghĩa, nghĩa thấp nhất mà người nghiên cứu thời nay có thể thành công trong việc lư giải cho chính ḿnh, nếu y phản ánh thích hợp và sống tâm linh. Sau đây là bảy phát biểu:
BẢY PHÁT BIỂU
1. Kỹ thuật của cung một.
Mong cho huyền lực năng động ngự trị trong tâm các Đấng ở Shamballa đến trợ giúp tôi, bởi v́ tôi xứng đáng với sự trợ giúp đó. Xin huyền lực giáng hạ vào cái thứ ba, chuyển qua cái thứ năm và hội tụ nơi cái thứ bảy. Các lời này không hàm ư những ǵ diễn ra theo cái nh́n. Cái thứ ba, cái thứ năm và cái thứ bảy nằm trong cái thứ nhất và phát ra từ Mặt Trời Trung Ương của nguồn sống tâm linh. Bấy giờ, cái cao nhất mới được đánh thức trong người hiểu biết và trong người cần được điều trị, và như vậy cả hai là một. Đây là sự bí nhiệm sâu xa. Việc phối hợp mănh lực chữa trị tác động lên công việc mong muốn. Nó có thể đưa đến sự chết, tức là sự giải thoát trọng đại, và bằng cách đó mà tái lập cái thứ năm, cái thứ ba, cái thứ nhất, nhưng cái thứ bảy th́ không.
707
Năng
lượng năng động này của cung một,
thường được nhà trị liệu tinh thần
thành thạo sử dụng, khi y thấy rơ rằng bệnh
nhân đă đến lúc từ trần và sắp
được thoát ra. Trong những trường hợp
cung linh hồn của nhà trị liệu hoặc bệnh
nhân là cung một, th́ sự áp dụng năng lượng
cung một này phải chuyển từ bí huyệt
đầu đến bí huyệt đầu, và từ
đó chuyển đến vùng bệnh, và đến bí
huyệt liên hợp với vùng đó. Khi đúng theo
nghiệp quả, căn bệnh có thể chữa lành, th́
áp dụng này có thể tạm thời làm cho cơn bệnh
nặng thêm. Đó là do năng lượng lưu nhập
đang “trục xuất mănh liệt” chính mầm mống
hay các cội rễ của bệnh tật. Nhiệt
độ bệnh nhân có thể tăng, hoặc có thể
bị suy sụp theo lối nào đó. Nhà trị liệu,
bệnh nhân và thầy thuốc đang trông nom phải
chuẩn bị cho việc này, và nên chọn các giai
đoạn cần cho thể xác để cải
thiện, các bước này do y khoa chính thống
định đoạt, để hóa giải phản
ứng thuần về thể xác. Khi cung linh hồn
bệnh nhân không thuộc cung một, mà phàm ngă lại
thuộc cung một, th́ nhà trị liệu phải hết
sức cẩn thận, khi áp dụng năng lượng
cung một, và nên tiến hành một cách thật chậm răi
và tuần tự xuyên qua bí huyệt thuộc cung 1 – 3 – 5 – 7,
ở gần vùng bệnh nhất, cho năng lượng
đi qua bí huyệt đó và đến bí huyệt (bất
cứ bí huyệt nào) ở tại vùng bệnh. Nếu bí
huyệt đó lại thuộc các cung 3 – 5 – 7, th́ nhà trị
liệu phải cẩn thận đặc biệt; nếu
không, năng lượng mạnh mẽ của cung một
sẽ hủy diệt chứ không chữa lành bệnh.
2. Kỹ thuật cung hai
708
Mong sao
năng lượng trị liệu giáng hạ, mang theo hai
tuyến năng lượng của sự sống và
lực thu hút của nó. Mong sao từ lực sống
động ấy triệt thoái và bổ túc những ǵ
đang có trong cái thứ bảy, đem bốn và sáu
đối lại ba và bảy, nhưng không động
đến năm. Ḍng xoáy xoay ṿng và bao quát –giáng xuống
vị trí– khuấy động, trừ khử, rồi cung
ứng và thế là công việc làm xong.
Trái tim xoay tṛn; hai trái tim xoay tṛn như một. Cái mười hai ở trong hiện thể, cái mười hai bên trong đầu, và cái mười hai ở trên cơi nỗ lực của linh hồn, đang cố gắng cộng tác như một và thế là công việc làm xong. Hai năng lượng đạt mức hoàn măn và cả ba lại hợp thành mười hai, ứng đáp với mười hai cao cả hơn. Sự sống được biết đến và năm kéo dài.
Nếu phát biểu cổ xưa này được đọc dưới ánh sáng của bất cứ sự hiểu biết nào mà bạn có (có lẽ bạn có nhiều hơn bạn hiểu, đặc biệt kiến thức liên quan đến các bí huyệt, lư giải đầu tiên hay là dễ nhất sẽ xuất hiện.
3. Kỹ thuật cung ba
Nhà trị liệu đứng lên và tổ chức (weaves). Từ ba, năm và bảy, y gom những ǵ cần cho tâm của sự sống. Y gom chung các năng lượng lại và giúp chúng phụng sự cái thứ ba. Thế là y tạo xoáy lực mà kẻ đau ốm phải đi vào đó và cùng với nhà trị liệu. Tuy vậy, cả hai vẫn an b́nh và tĩnh tại. Thế là, vị thiên thần của Đấng Chúa Tễ phải giáng vào hồ nước và mang lại sự sống lành mạnh.
709
Ở
đây, “hồ nước” có tính minh họa và có thể gây
ra nhiều nghi vấn về ẩn ư của nó. Lư giải
sơ đẳng của câu này thực sự liên quan
đến nguyên nhân chính yếu và quan trọng của nhiều
bệnh tật (như trước đây chúng ta đă
thấy), bản chất t́nh cảm mà nó là công việc
của ngôi/ trạng thái thứ ba của Thượng
Đế cần được chế ngự. Hăy suy
gẫm kỹ điều này, v́ bạn có thể
được nhiều khai ngộ.
Kỹ thuật trị liệu kế tiếp th́ dài hơn và khó hiểu hơn rất nhiều. Trong đó, bạn sẽ không hiểu được bao nhiêu; về phần chủ đề của chúng ta th́ nó hoàn toàn liên quan đến chính con người và liên quan đến câu châm ngôn: “Con người, ngươi hăy tự biết ḿnh” .
4. Kỹ thuật cung bốn.
Nhà trị liệu biết bất hài ḥa nằm ở nơi đâu. Y cũng hiểu được quyền năng của âm thanh và âm phải được nghe thấy. Biết được âm điệu (note) mà nhóm lớn thứ tư phản ứng lại và liên kết nó với Số Chín Sáng Tạo vĩ đại, y xướng lên âm điệu giúp cho giải thoát, âm điệu này sẽ thu hút vào cái duy nhất. Y huấn luyện lỗ tai đang lắng nghe của người cần được chữa lành. Y cũng huấn luyện lỗ tai đang lắng nghe của người phải ra đi. Y biết được thể cách của âm thanh giúp chữa lành bệnh, và cũng biết được mệnh lệnh: Lên đường. Và thế là công việc được thi hành.
Kỹ thuật thứ tư này là kỹ thuật mà –v́ thiếu hiểu biết đích thực về cung– có thể hữu ích rộng lớn v́ cung bốn cai quản giới thứ tư trong thiên nhiên, giới nhân loại. Nhà trị liệu theo đường lối làm việc này, chính yếu là trị liệu bằng cách sử dụng âm thanh hay các âm thanh thích hợp (hiện nay, những nhà trị liệu như thế, thực ra chưa có, bởi v́ cung bốn chưa lâm phàm. Trong những giai đoạn đầu, khi kỹ thuật này xuất hiện, nhà trị liệu sẽ dùng âm nhạc ở mức độ lớn để chữa trị, hoặc để làm cho tiến tŕnh từ trần được dễ dàng. Tuy nhiên, đó sẽ là âm nhạc có họp âm duy nhất lặp lại liên tục, nó sẽ biểu hiện cho âm điệu của cung bốn và của giới nhân loại. Trị liệu bằng phương tiện âm thanh sẽ là một trong những khai mở về trị liệu đầu tiên cần được chú ư vào cuối thế kỷ tới. Việc truyền dạy thêm theo đường lối này cũng sẽ vô ích cho tới khi cung thứ tư lại nhập vào chu kỳ biểu lộ.
710
5.
Kỹ thuật cung năm
Những ǵ đă truyền thụ, phải được đem sử dụng. Những ǵ xuất lộ ra trong cách được truyền dạy, phải có chỗ của nó trong kế hoạch của nhà trị liệu. Những ǵ c̣n ẩn giấu phải được t́m thấy, và từ số ba, tri thức trọng đại sẽ xuất lộ. Nhà trị liệu t́m kiếm những tri thức này. Nhà trị liệu thêm vào hai cái vốn như một. Thế là cái thứ năm phải đóng vai tṛ của nó, và năm phải hành động y như một. Các năng lượng đi xuống, vượt ngang qua và tan biến, để lại người có thể ứng đáp với karma chưa đến lúc tan ră, và mang theo chúng người nào không ứng đáp được theo cách đó, và v́ thế mà cũng phải tan biến.
Về cách trị liệu của cung năm, ư nghĩa dễ thấy và đơn giản, nhất là ở chỗ nhờ làm việc một cách khoa học và phần lớn trên cấp độ cụ thể, nhà trị liệu dùng mọi sự giúp đỡ để chữa trị, bắt đầu bằng sự chăm nom thể xác một cách thích hợp, rồi chuyển qua các cách trị liệu tinh tế hơn. Lần nữa, tôi xin nêu ra rằng sự giúp đỡ vật chất có thể được sử dụng một cách thiêng liêng như những phương pháp huyền bí hơn mà nhà trị liệu siêu h́nh hiện đại tin là có hiệu quả sâu xa hơn. Giống như mọi kiến thức tân tiến được phát triển ở cơi trần, qua phàm ngă của những người nam và nữ có hiểu biết sâu rộng và có siêu tài ở khắp nơi, đều hữu ích cho đệ tử và điểm đạo đồ, trong thời gian và không gian; các môn y học cũng hữu ích như thế. Đệ tử hoặc điểm đạo đồ cũng phải áp dụng đúng các khoa học khác nhau này, để mang lại những kết quả tinh thần; khi chữa trị, nhà trị liệu cũng phải áp dụng như thế.
711
Mọi
công việc đều trở nên thiêng liêng khi
được thúc đẩy đúng, khi được
vận dụng với sự phân biện khôn ngoan, và
sức mạnh linh hồn được đưa thêm vào
kiến thức thu đạt được trong ba cơi
thấp. Việc sử dụng tích cực một trong
bảy ḍng năng lượng được thêm vào
sự hiểu biết lành mạnh, và việc làm của
vị y sĩ tân tiến, được nhà trị
liệu trợ giúp (y đóng vai tṛ xúc tác), có thể tạo
nên những huyền diệu, khi mà vận mệnh
định như thế. Nhà trị liệu siêu h́nh làm
việc một ḿnh trên các phân cảnh tinh anh, th́ cũng
giống như người phụng sự tinh thần rất
thường gặp thất bại khi làm hiện ra
những tài sản cần có ở cơi trần. Điều
này thường được tạo ra bởi một ư thức
tự tôn tinh vi – dầu thường không được
nhận ra – mà nhà trị liệu bậc trung và nhà huyền
bí học xem vấn đề làm hiện ra sức khỏe
vật chất, hoặc tiền bạc với ư thức
đó. Hăy suy gẫm kỹ điều này và nhận ra
rằng các phương pháp của cung năm
được hoàn tất ở cơi trần. Ở cơi này,
chúng thường mang lại sự xung đột và sau
rốt tạo nên đột hiện vật chất có
bản chất mong muốn. Về những ǵ tôi đă nói
liên quan đến các kỹ thuật cung năm, tôi đă
đưa ra nhiều ngụ ư và thông tin hơn bất
cứ cung nào khác.
6. Kỹ thuật cung sáu
Nhà trị liệu khấn nguyện: mong sao quyền năng giáng xuống phân ly các ḍng nước. Y không bận tâm việc các ḍng nước ứng đáp ra sao. Chúng thường đem lại các lượn sóng dữ dội và những diễn biến kinh khủng ghê gớm. Kết thúc tốt đẹp. Xáo trộn sẽ chấm dứt khi giông tố hạ xuống, và năng lượng đă hoàn tất định mệnh được vạch ra của nó. Sức mạnh được thôi thúc nhập thẳng vào tim, và vào mọi vận hà, nadi, dây thần kinh và lá lách, sức mạnh này phải t́m ra một con đường và như vậy nó đối đầu với kẻ địch đă xâm nhập và đă quen sống ở đó. Việc đẩy ra không thương tiếc, đột ngột và hoàn toàn – được đảm nhận bởi người không thấy ǵ khác, ngoài sự vận hành hoàn hảo và không dung túng một can thiệp nào. Thế là sự vận hành hoàn hảo này mở được cửa vào cuộc sống vĩnh cửu, hoặc vào cuộc sống trần thế, thêm một ít lâu.
712
Khi nhà
trị liệu thuộc cung sáu, th́ kỹ thuật này
mạnh mẽ lạ lùng và đột ngột. Các kết
quả quyết liệt, đầy đau đớn,
nhưng lại chắc chắn – hoặc lành bệnh
hoặc chết, thường là chết. Hiện nay, nhà
chữa trị thuộc cung sáu ít khi giữ giới
luật hoặc khôn khéo, do cung này đang ở cuối chu
kỳ của nó. Khi cung 6 biểu lộ trở lại, nhân
loại đă tiến xa trên Thánh Đạo và nhà trị
liệu năng nỗ hiện nay quá tự tin, cuồng tín
thuộc cung 6 sẽ không tái xuất hiện. Ngày nay, họ
thuộc đa số, c̣n công việc của họ không có
ǵ hay cả. Đó là những việc làm đầy hảo
ư, nhưng kỹ thuật lại được áp dụng
một cách thiếu hiểu biết và mục tiêu không
chứng thực được sự tin chắc của
nhà trị liệu, nên thường đưa đến
sự lừa gạt bệnh nhân.
7. Kỹ thuật cung bảy
Năng lượng và lực phải đáp ứng lẫn nhau, như thế công việc mới hoàn thành. Màu sắc và âm thanh ở tŕnh tự đă an bài phải đáp ứng và ḥa hợp, nhờ thế công tác huyền thuật có thể tiến hành. Vật chất và tinh thần phải đáp ứng lẫn nhau, và khi đi qua bí huyệt của người đang cần trợ giúp, sẽ tạo được cái mới mẻ và tốt lành. Như thế, nhà trị liệu tiếp năng lượng cho sự sống đang suy yếu, đẩy sự sống lên, hoặc buộc chặt nó vào nơi c̣n thâm sâu hơn nữa của số mệnh. Cả bảy bí huyệt phải được sử dụng vào qua bảy bí huyệt các năng lượng chuyển qua nơi cần thiết, tạo nên con người mới, vốn đă hiện tồn và sẽ măi măi hiện tồn, hoặc ở đây hoặc ở đó.
713
Trong
kỹ thuật này, bạn có manh mối cho tất cả,
v́ công việc của nhà trị liệu cung bảy là
tập hợp lại sự sống và chất liệu
vốn sẽ chiếm chỗ của chất liệu
đă bị nhiễm bệnh và đưa lại sự
sống mới mẻ để giúp phục hồi. Vinh hạnh
của sự sống nằm trong sự thành toàn và trong
sự xuất lộ. Đây là nhiệm vụ chính yếu
và là phần thưởng quan trọng nhất của
mọi nhà trị liệu chân chính. Chính kỹ thuật thu
hút và thay thế này sẽ mang lại một tŕnh độ
biểu lộ khoa học tốt đẹp trong kỷ
nguyên mới vào lúc mà cung bảy sẽ thống ngự hành
tinh chúng ta, tạo ra những ǵ mới mẻ và cần
thiết, đồng thời định đoạt
văn hóa văn minh và khoa học sắp tới.
ef
Để kết luận tôi xin nói rơ lư do khiến tôi không đưa ra thêm nhiều chi tiết và không phân tích rơ cách diễn đạt bằng lời của các công thức trị liệu cổ xưa này. Không kể đến lư do được đưa ra trước đây, đó là con người chưa sẵn sàng để được truyền thụ các giáo huấn rơ ràng, trong lúc này, bất cứ điều ǵ mà tôi có thể nói dường như đối với bạn đều là trẻ con. Đó là ngôn từ lạ lùng, nó dường như mô tả phản ứng trước mắt có thể xảy ra. Chúng ta sắp sửa bước vào một kỷ nguyên mới trong việc phát triển khoa học, do sự khám phá cách giải phóng năng lượng nguyên tử. Ngay đến những nhà khoa học phụ trách khám phá cũng không có ư tưởng mơ hồ nhất về các hiệu quả sâu rộng của biến cố trọng đại đó. Theo khía cạnh chủ đề của chúng ta và chủ đề của sách này, một ngôn ngữ hoàn toàn mới, liên quan đến năng lượng và lực đă đang được đặt ra. Việc sử dụng khám phá đó trong cách đối phó với bệnh tật, sẽ được xem như đâu có kém phần kỳ diệu trong tương lai trước mắt, theo quan điểm huyền môn.
714
Việc
khám phá ra cách giải phóng năng lượng nguyên tử
đă xảy ra nhờ hoạt động của cung
một, liên quan đến cung bảy đang xuất
lộ, cũng tương tự với việc giải
thoát của Chân Sư ở kỳ điểm đạo
năm (khi cánh cửa nhà mồ mở tung ra) và tương
đồng với sự từ trần, lúc mà linh hồn
bị giam nhốt được giải thoát. Dưới
ánh sáng của các chuyển biến khoa học trong
tương lai, các kỹ thuật cổ xưa này sẽ
trở nên sáng tỏ hơn; trong thời gian chờ
đợi, bất cứ giải thích nào về “tầm
quan trọng của năng lượng” (“energetic import”)
đích thực của chúng sẽ là vô nghĩa. Thuật
ngữ mới mẻ sắp đến sẽ rọi ánh
sáng vào các công thức cổ xưa này, và đúng lúc bạn
sẽ thấy bao nhiêu điều có thể được
truyền đạt cho nhà chữa trị sáng suốt
của thế hệ mới đó, bởi những ǵ mà
theo bạn, dường như vừa gây thất vọng,
không có công dụng hoặc ư nghĩa ǵ cả, vừa bí
hiểm một cách không cần thiết.
Trong thời gian chuyển tiếp giữa quá khứ với những ǵ đang diễn tiến, ngay đến một Đức Thầy Minh Triết cũng không dễ ǵ nói ra hay giảng dạy; đặc biệt có liên quan đến chủ đề trị liệu. Thể xác chưa hề được đa số người thừa nhận là một đơn vị tích điện; bản chất của nó với tư cách năng lượng nguyên tử thuần túy chưa được nhận ra. Sự thực về thể năng lượng (energy body), tức thể dĩ thái, hiện nay chưa được nhận biết trong các giáo huấn của các trường y khoa hiện đại, mặc dầu sự kiện này đă được thảo luận. Bản chất dễ bùng nổ của năng lượng, khi tiếp xúc với lực, hay là sự bộc phát của linh hồn liên quan với vật chất, hoàn toàn chưa được biết hoặc c̣n bị che giấu trong ngôn ngữ thần bí. Rồi đến lúc mà các công thức khoa học mới và cách tiếp cận mới sẽ được đại chúng biết đến nhiều hơn (mà khám phá về giải phóng năng lượng nguyên tử đă mang lại); trở nên đề tài bàn bạc quen thuộc và được diễn đạt bằng ngôn ngữ quen dùng, th́ khoa trị liệu sắp đến mới không c̣n bị che giấu sau một lớp màn ngôn ngữ không thích hợp, và không c̣n ẩn giấu trong những lời lẽ không thích đáng nữa.
Như tôi vẫn thường nói với các bạn, sự việc này đang gây bất lợi cho mọi cuộc tŕnh bày chân lư mới. Chẳng hạn như, ngôn từ của một kỹ sư điện hoặc của một nhà họa kiểu xe hơi, hẳn nhiên là hoàn toàn vô nghĩa đối với người b́nh thường cách đây một thế kỷ. Bởi vậy, chính với các chủ đề mới và những khám phá quan trọng đang xảy ra, sau rốt sẽ ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực sinh hoạt nhân loại trong đó có Thuật Trị Liệu.
Bởi v́, mọi người đă biết được tôi là ai, nên tôi kư tên là Chân Sư Djwhal Khul.
Chân Sư Tây Tạng
(The Tibetan)
TRỊ LIỆU THEO HUYỀN MÔN
(ESOTERIC HEALING)
QUYỂN IV
TRONG BỘ
LUẬN VỀ BẢY CUNG
(A TREATISE ON THE SEVEN RAYS)
ALICE A. BAILEY
LUCIS PUBLISHING COMPANY
NEW YORK
LUCIS PRESS LTD
London
MMX
[1] Dĩ thái: do chữ ether của Tây phương. Trung Hoa phiên âm cách đọc chữ ether theo âm Bắc Kinh là Yī tài, V.N. đọc lại là dĩ thái. Trong đó chữ “dĩ” có nghĩa: cho là, tưởng…; “thái” có nghĩa là lớn, trùm khắp. Sở dĩ nó được đặt tên như thế là v́ “theo cổ nhân đây là một lưu chất tinh anh, lấp đầy các khoảng không ở bên kia bầu khí quyển địa cầu” (Trích Tự Điển La Rousse 1995).
Theo Huyền học, ether là một tác nhân vật chất (material agent) mặc dầu từ trước đến giờ chưa được bộ máy nào ở cơi trần phát hiện. (Trích Theosophical Glossary, 1971).
[2] [“Vấn đề tính dục”, trang 268 – 307, trong bộ “Luận về 7 cung”, quyển I]
[3] Luận Về Lửa Càn Khôn… trang 77 – 116 (bản tiếng Anh _ND)
Ánh Sáng Linh Hồn trang 77, 217 – 225, 280 – 282, 328-330, 332 –nt.
[4] Ion: (đôi khi được dịch là ly tử) là một nguyên tử hoặc nhóm các nguyên tử đă mất đi một hoặc nhiều âm điện tử ( = cation, trở thành cation) hoặc lấy thêm một hay nhiều âm điện tử (electron) để trở thành anion (= anion). (Từ Điển Oxford 1994). Anion: ion mang điện tích âm. Cation: ion mang điện tích dương.
[5] Quyển Esoteric Healing này được xuất bản lần thứ nhất năm 1953 (ND)