Annie besant và c.W. Leadbeater

Dịch giả: BẠCH  LIÊN và HUYỀN CHÂU

GIẢNG  
ÁNH  SÁNG  TRÊN  ĐƯỜNG  ĐẠO

(TALKS  ON  THE  PATH  OF  OCCULTISM
- LIGHT  ON  THE  PATH)

 

 

Nhóm Hội Viên Thông Thiên Học Hải Ngoại

hiệu đính và xuất bản tại Hoa Kỳ.

 

2005


 

MỤC LỤC.. i

VÀI  LỜI  NÓI  ĐẦU.. 1

PHẦN THỨ NHẤT.. 6

CHƯƠNG   1  LỜI  MỞ  ĐẦU.. 6

CHƯƠNG   2  BỐN CÂU CÁCH NGÔN MỞ ĐẦU.. 18

CHƯƠNG   3  QUI TẮC THỨ NHỨT.. 36

CHƯƠNG   4  QUI TẮC  2 – 4. 68

CHƯƠNG   5  QUI TẮC  5 – 8. 92

CHƯƠNG   6  QUI TẮC  9 - 12. 119

CHƯƠNG   7  QUI TẮC  13 – 16. 127

CHƯƠNG   8  QUI TẮC  17 – 19. 145

CHƯƠNG   9  QUI TẮC  20. 159

CHƯƠNG   10  CHÚ GIẢI QUI TẮC  20. 185

CHƯƠNG   11  QUI TẮC  21. 201

PHẦN THỨ HAI 232

CHƯƠNG   1  LỜI GIẢNG LƯ MỞ ĐẦU.. 232

CHƯƠNG   2  QUI TẮC 1 – 4. 254

CHƯƠNG   3  QUI  TẮC  5 – 8. 266

CHƯƠNG   4  QUI TẮC 9 – 12. 291

CHƯƠNG   5  QUI TẮC 13. 322

CHƯƠNG   6  QUI TẮC 14 – 21. 335

CHÂN  THÀNH  TRI  ÂN.. 352

 


VÀI  LỜI  NÓI  ĐẦU

 

            Như tôi đă  nói trong quyển “Tôi Học Dưới Chân Thầy,” hiện giờ khắp hoàn cầu có ba quyển sách Đạo Đức, khuôn khổ tuy nhỏ nhưng giá trị cực kỳ lớn lao, không cuốn nào b́ kịp, chẳng phải v́ câu văn như gấm thêu hoa, hay là ư nghĩa thâm trầm của câu chuyện, mục đích chính là chúng dắt con người từ Cửa Tử đến Cơi Trường Sanh Bất Tử, trở thành một vị Siêu Phàm thoát khỏi đọa Luân Hồi. Nói cách khác là con người đạt được mục đích đă định sẵn cho nhân loại trong Thái Dương Hệ này. Ba quyển đó là:

            1.- Dưới Chân Thầy.

            2.- Tiếng Nói Vô Thinh.

            3.- Ánh Sáng Trên Đường Đạo.

            Quyển “Dưới Chân Thầy” dắt Sinh Viên tới bực Điểm Đạo lần thứ Nhứt. Phật Giáo gọi là Tu Đà Huờn (Sotapanna), sau khi trải qua ba giai đoạn Đệ Tử: Đệ Tử Nhập Môn, Đệ Tử Chính Thức và Con của Thầy.

            Quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” dắt Sinh Viên đến bực La Hán (Arhat) được bốn lần Điểm Đạo.

            C̣n quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” dắt Sinh Viên tới bực Tam Thanh: Trở thành một vị Bàn Cổ (Manu), hoặc một vị Bồ Tát (Bodhisattva), hay là một vị Văn Minh Đại Đế (Maha Chohan) được bảy lần Điểm Đạo.

            Thế nên quyển “Dưới Chân Thầy” dễ hơn hết, c̣n quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” khó hơn hết, v́ mỗi câu có bảy nghĩa, thấp  cao tùy theo bực.

            Hai vị Cao Đồ của Chơn Sư là Đại Đức A. Besant và Leadbeater có giảng lư ba quyển này để hướng dẫn các bạn tu hành mau bước tới cửa Đạo.

            Xét v́ quyển “Giảng Lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo” rất hữu ích cho tất cả các bạn tu hành, nhứt là những bạn  chí nguyện làm Đệ Tử, nên Huynh Huyền Châu và tôi hiệp nhau lại dịch bản văn chữ Pháp “Commentaires sur la Lumière sur le Sentier” ra tiếng Việt.

            Quyển này với quyển “Giảng Lư Dưới Chân Thầy” bổ túc lẫn nhau. Tuy nhiên, muốn thấy hiệu quả chắc chắn chúng ta cần sửa trị Phàm Nhơn và bắt buộc nó sống đúng theo những lời chỉ bảo trong đó. Phải nhẫn nại, phải bền chí, dù cho bị thất bại  cả trăm lần đi nữa, cũng đừng ngă ḷng, giữa đường bỏ cuộc. Hăy tiếp tục đi tới măi. Chung cuộc chân lư sẽ thắng. Mặt trời sẽ chói sáng rực rỡ như  xưa, sau khi bị mây mù che khuất ánh dương quang trong vài giờ hay là vài hôm chăng nữa.

            Chúng tôi xin quí bạn lưu ư. Chúng tôi chú trọng về việc dịch nghĩa của câu văn, không cố dịch từ chữ này qua chữ kia. Chúng tôi biết rằng cách hành văn của những dân tộc trên địa cầu đều khác nhau. Những sách đạo đức nếu dịch ra tiếng Việt từng chữ, y như nguyên văn tiếng ngoại quốc, sẽ nghe chướng tai và chắc chắn độc giả không hiểu chi cả hay là hiểu một cách mập mờ.

            Học Đạo phải thật tâm Hành Đạo, không thật tâm Hành Đạo không Đắc Đạo. Mà muốn Hành Đạo phải biết Đạo dạy cái chi. Không biết, hay biết một cách mơ hồ mà thực hành sẽ không có kết quả tốt đẹp, sợ e c̣n mang tai họa vào thân. Thế nên chúng tôi hết sức cố gắng t́m hiểu hai Đại Đức A. Besant và Leadbeater muốn dạy điều chi rồi dịch ra. Chúng tôi rất thận trọng chọn lựa những danh từ để dịch, nhưng dù sao cũng c̣n nhiều khuyết điểm cần phải bồi bổ sau này. Chúng tôi rất mừng khi nhận được những lời chỉ giáo. Tới những kỳ xuất bản sau chúng tôi sẽ sửa chữa những chỗ sơ sót; chúng tôi xin cám ơn trước quí bạn. Chúng tôi rất phục thiện v́ biết ḿnh c̣n không biết  bao nhiêu điều cần phải học hỏi. Hơn nữa, cổ nhân đă nói: “Biển giác vô biên,” dù ở dưới Trần Thế chúng ta tài ba lỗi lạc đến đâu, sự hiểu biết của chúng ta cũng chỉ bằng một giọt nước trong Đại Dương. Chúng ta quan sát những hiện tượng, học hỏi chúng nó mà không t́m ra được cái nguyên nhân đă sinh ra chúng nó. Nguyên nhân này vốn ở trên những cơi vô h́nh. Thí dụ như một việc xảy ra trước mắt chúng ta là chuyện một trứng gà, nếu ta đem ấp th́ nở ra gà con. Trong trứng gà ta chỉ thấy tṛng trắng, tṛng vàng (người Việt Nam gọi là tṛng đỏ) và một ṿng trắng ở trên. Tại sao đem ấp ba thứ này lại thành ra một con gà; trống hay mái? Vậy xin hỏi: Cái chi ở trong tṛng đỏ, tṛng trắng và ṿng trắng biến thành ra mồng, mỏ, xương thịt, ruột gan, chân cẳng con gà? Tại sao gà trống có cựa mà gà mái lại không, h́nh vóc của  hai trống, mái đều khác nhau? Cái chi làm ra màu sắc của lông cánh, gà điều khác với gà ô và không giống gà xám. Gà c̣n thụ lănh ít nhiều bản tính của ḍng giống nó nữa, như gà ṇi  đá hay hơn gà tre. Gà ô đạp mái, đẻ trứng đem ấp th́ nở ra gà ô con, gà điều sanh gà điều con, vân vân. Hoàn toàn bí mật. Về phần con người lại càng bí mật hơn nữa. Một tinh trùng và một noăn châu hợp lại thành một người nam hay nữ, diện mạo đẹp đẽ hay xấu  xa, tính t́nh hiền  hậu hay hung ác, khôn ngoan hay đần độn, thông minh  hay dốt nát. V́  lẽ nào? Có tinh trùng đực hay tinh trùng cái không? Tại sao màu da lại khác? Có giống da đen, da đỏ, da trắng, da vàng? Tại sao ngôn ngữ lại bất đồng? Tại sao đứa nhỏ ở nước nào sinh ra, lớn lên biết nói tiếng nước đó và hiểu cha mẹ  nó muốn nói điều chi? Từ bí mật này tới bí mật kia, không biết bao nhiêu mà kể.

            Nói cho đúng, ngày nay chúng ta học hỏi cũng có thể gọi là học lóm, nhưng bất toàn, những điều mà Đấng Hóa Công đă tạo ra cả chục tỷ năm trước. Nếu chỉ dùng Hạ Trí học hỏi một cách gián tiếp những hậu quả và chẳng rơ  những nguyên nhân th́ không biết chúng ta phải trải qua thêm mấy trăm triệu  năm nữa mới đoạt được mục đích đă định sẵn cho con người trong Thái Dương Hệ này, tức là trở nên một vị Siêu Phàm, đắc quả Chơn Tiên, hoàn toàn sáng suốt, không c̣n điều chi học hỏi trên Dăy Địa Cầu  này nữa.

            Muốn tiến mau chúng ta cần phải bước vào cửa Đạo, bởi v́ bên trong Thánh Điện mới có việc dạy dỗ mục đích của sự sanh hóa Thái Dương Hệ này đúng với sự thật và Sinh  Viên cũng học trực tiếp những phương pháp  biến đổi con người thành một vị Chơn Tiên, toàn  năng, toàn thiện, trong ṿng vài chục kiếp, thay v́ theo đường tiến hóa b́nh thường chúng ta phải trải qua mấy chục muôn lần sinh tử, tử sinh dưới Trần Thế cũng chưa chắc chúng ta đi đến bực Toàn Giác.

            Những vị ngự ở trong Thánh Điện là các Đấng Cao Cả, Đồ Tôn của những vị Đại Thánh Đế đă dự  phần vào việc tạo lập Thái Dương Hệ này, Các Ngài không bao giờ lầm lạc. Các Ngài vốn trường sanh bất tử, chớ không phải  như  chúng ta, những kẻ phàm phu tục tử mới sống có vài chục năm mà đă da mồi tóc bạc, trí óc lu mờ. Chính là các Ngài cho mở cửa Đạo để đón tiếp những ai được phép xứng đáng bước vào đó.

            Muốn bước tới cửa Đạo sinh viên  phải hội đủ những điều kiện do Luật Trời qui định, trước nhứt là những đức tính đă kể ra trong bốn quyển: Dưới Chân Thầy, Tiếng Nói Vô Thinh, Ánh Sáng Trên Đường Đạo và Con Đường Của Người Đệ Tử.

            Riêng về quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” hai vị Đại Đức A. Besant và Leadbeater chỉ rơ nếp sống từ những người có lư tưởng và chí nguyện làm Đệ Tử cho tới bực La Hán được bốn lần Điểm Đạo. Tôi vẫn biết đối với những điều kiện sinh sống hiện thời, việc luyện tập để Tự Giác và mưu hạnh phúc cho quần sinh là một điều cực kỳ khó khăn, bởi v́ Sinh Viên sẽ gặp không biết bao nhiêu chướng ngại dựng lên ở mỗi chặng đường. Nếu không vượt qua nổi chúng ta sẽ không tiến tới được. Thế nên hai vị Đại Đức giảng lư từ đoạn rất tỉ mỉ cốt ư d́u dắt Sinh Viên từng bước một. Ai có chút kinh  nghiệm về Đường Đạo mới thấy những lời giáo huấn này quí hơn vàng bạc và châu báu, bởi v́ những của cải vật chất vốn phù du, mộng ảo, dùng được lâu lắm bất quá là một đời mà thôi, ta thấy chúng nó ở đó rồi mất đó. Sợ e, chưa nhắm mắt từ giă Cơi Trần, chúng đă qua tay người khác.

            Trong quyển Giảng Lư này, tôi thấy có đoạn hai Ngài phải lặp đi, lặp lại giúp cho Sinh Viên hiểu và nhớ rồi đem ra thực hành; nhứt là ở Phần Nh́  để riêng cho những vị đă được Điểm Đạo lần thứ nhứt. V́ thế phần này rất khó cho những ai chưa biết tự  tỉnh, chưa biết tu tâm luyện tính, chỉ mến Đạo mà chưa hành Đạo. Gặp những đoạn dường như trùng hợp xin quí bạn chớ thắc mắc. Tôi có thêm những chú giải để giúp quí bạn chưa quen  với  Thông Thiên Học có thể hiểu được những danh từ chuyên môn để hành Đạo theo Thiên Cơ.

            Tôi tưởng cũng nên biết thêm điều này, thường thường hai Ngài trả lời miệng những câu hỏi, thính giả viết bằng tốc kư, sau đó họ chép lại. Trong những lần diễn thuyết cũng vậy. Có nhiều bài diễn văn chép lại, hai Ngài không có th́ giờ xem lại, v́ hai Ngài rất bận rộn. Việc này vừa thi hành xong th́ có việc khác tới. Hai Ngài dùng con đường hành động Karma Yoga để giúp đời. Về quyển “Giảng Lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo” này, cũng như hai quyển Giảng Lư kia: “Giảng Lư Dưới Chân Thầy và Giảng Lư Tiếng Nói Vô Thinh” chúng tôi tưởng nên  đọc đi, đọc lại, không phải hai, ba bận, mà hai chục, ba chục lần. Mỗi lần đọc, mỗi lần một ánh sáng mới hiện ra, độc giả thành tâm mộ Đạo sẽ hiểu hơn trước. Tôi dám quả quyết điều này không bao giờ sai.

            Các vị Cao Đồ của Chơn Sư đă bước vào cửa Đạo từ lâu và có nhiều kinh nghiệm hằng cầu chúc các bạn tu hành  mau Đắc Đạo thành Chánh Quả để cứu vớt quần sinh ra khỏi chốn trầm luân khổ hải. Lời cầu chúc này rất cao quí. Mong rằng chúng ta đừng phụ ḷng các Ngài. Chúng ta cứ vững ḷng tiến tới, không lơ đễnh, không thờ ơ mà cũng không vội vàng, hấp tấp, cứ  nỗ lực ra tay phá vỡ những xiềng xích trói buộc con người vào bánh xe Luân Hồi. Luôn luôn từ kiếp này qua kiếp kia chúng ta  phải tuân theo lời của Đức Phật dạy:

            Lánh dữ.

            Làm lành.

            Rửa ḷng cho trong sạch.

            Tới một ngày kia, không biết chắc là bao nhiêu năm hay là bao nhiêu kiếp, khi đúng ngày giờ Cửa Đạo sẽ mở rộng rước ta vào. Đây là Luật Nhân Quả: Gieo giống chi gặt giống nấy, không có chi gọi là thiên vị hay là bất công. Cổ nhân đă nói:   “Chí công mài sắt, chầy ngày nên kim.”

            Cầu xin quí bạn thân tâm an lạc.

Lành  thay!  Lành thay!

 

BẠCH-LIÊN

 

PHẠM NGỌC ĐA

CHƯƠNG   1

LỜI  MỞ  ĐẦU

(Introduction)

 

           

            A.B.- “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” thuộc về một bộ sách Huyền Bí Học, do các Đấng Chơn Sư lưu giữ và dùng để đào tạo Đệ Tử.

            Ấy là một đoạn trích trong quyển “Kim Huấn Thư” (The Book of the Golden Precepts) gồm nhiều quyển viết trong những thời đại khác nhau của lịch sử thế giới chúng ta, nhưng cả thảy đều phô bày một đặc điểm chung, là chứa đựng Chân Lư Huyền Môn. V́ vậy, chúng ta cần khảo cứu  nó khác hơn loại sách thường.

            Sự hiểu biết chúng tùy thuộc tŕnh độ của độc giả. Khi một trong những quyển sách  này được phép tiết lộ cho đời  biết, sự giải thích theo nghĩa từng chữ chỉ làm cho người ta đánh giá sai lầm giáo lư của nó.

            Bởi sách này chỉ dành riêng để thúc đẩy sự tiến hóa của những người đă bước vào Đường Đạo nên nó tŕnh  bày một thứ lư tưởng mà trong thế tục ít ai   sẵn sàng chấp nhận.

            Muốn đủ năng lực lănh hội nó, con người phải dám cả quyết và có chí nguyện đem áp dụng những lời giáo huấn trong đời sống, bằng không, những trang sách  này sẽ bị niêm kín lại.

            Độc giả rán hết sức ăn ở theo đó, ánh sáng sẽ hiện ra, nếu anh thờ ơ chẳng những sự đọc sách chỉ đem lại cho anh một lợi ích bé nhỏ mà anh c̣n công kích quyển sách và chê là vô ích  nữa.

            Sách này chia ra vài Chương Mục tự nhiên, Đức Chơn Sư Hilarion, một trong những vị  Giáo Chủ, nhân viên của Quần Tiên Hội đă đem nó hiến ra cho Thế Giới Tây Phương. Ngài đă giữ một vai tuồng quan trọng trong cuộc hoạt động của Phái Tri Thức Linh Thánh [1] và Tân Triết Học Platon và cũng là một trong những bậc vĩ nhân đă cố gắng bảo tồn Thiên Chúa Giáo. Ngài đă đầu thai nhiều lần, nhứt là ở Hy Lạp và La Mă, và đặc biệt chăm nom việc điều khiển cơ tiến hóa của các quốc gia Tây  Phương. Trước kia, Ngài đă tiếp nhận quyển sách này, y như hiện giờ chúng ta có đây, không có lời chú thích của Đức Chơn Sư Venetian, Đức Venetian là một trong những vị Đại Giáo Chủ mà  Đức Bà Blavatsky gọi là Đức Đế Quân.

            15 qui tắc ngắn ở phần thứ nhứt và 15 qui tắc trong phần thứ nh́ đă có từ ngàn xưa. Chúng được viết bằng một thứ cổ tự Bắc Phạn. Đức Đế Quân Venetian  thêm vô những câu khác trong những câu cách ngôn ngắn dùng làm nền tảng cho sự  huấn luyện Đệ Tử mà ngày nay thuộc về thành phần sách này và phải đọc luôn với 30 qui tắc hầu góp thêm những tư tưởng bổ sung, nếu không, độc giả có thể hiểu lầm.

            Trừ ra 30 câu cách  ngôn ngắn, tất cả những qui tắc chứa đựng trong hai đoạn sách đều do Đức Đế Quân Venetian đă viết ra và trao cho Đức Chơn Sư Hilarion.

            Bản dưới đây tŕnh bày 15 qui tắc ngắn của Phần Thứ  Nhứt y như trong bản thảo cổ viết tay, con số đứng trước mỗi câu là số chính, con số sau là số ghi  trong sách hiện hữu.

 

 

 

I

II

III

 

Hăy tiêu diệt ḷng tham vọng. 

Hăy tiêu diệt ḷng tham sống. 

Hăy tiêu diệt ḷng ham muốn sự tiện nghi.

 

1

 2

 3

IV

V

VI

Hăy hoàn toàn tiêu diệt tâm chia rẽ.

Hăy tiêu diệt ư niệm cảm giác.

Hăy tiêu diệt ḷng khao khát tăng trưởng.   

5

 6

 7

VII

VIII

IX

Chỉ nên ham muốn cái chi  ở nơi con.

Chỉ nên ham muốn cái chi ở ngoài con.

Chỉ nên ham muốn cái chi không thể đạt được.   

9

10

11

X

XI

XII

Hăy ham muốn quyền năng một cách hăng hái.

Hăy ham muốn s yên tịnh một cách nhiệt thành.

Hăy ham muốn nhng s hu trên tất cả mọi vật.

13

14

15

XIII

XIV

XV

 

Hăy tầm  Đạo.

Hăy tầm  Đạo bng phương pháp  đi sâu vào nội tâm.

Hăy tầm  Đạo bng phương pháp can đảm tiến ra ngoài.

17

18

19

 

            Trong bản trên đây (chỉ căn cứ vào phần thứ nhứt của sách) không ghi qui tắc 4, 8, 12,16, 20 và 21. Lư do là những qui tắc này không thuộc về phần cổ kính của sách. Cũng như những lời giảng lư đầu tiên và cuối cùng, những qui tắc này là phần bổ  sung của Đức Đế Quân Venetian đă giao lại cho Đức Chơn Sư Hilarion, cũng có vài câu chú thích do chính Đức Chơn Sư Hilarion viết ra.

            Trong kỳ xuất bản lần thứ nhứt (1885) sách chia ra làm ba phần:

            1- Những câu cách ngôn của nguyên bản xưa.

            2- Phần bổ sung của Đức Đế Quân Venetian.

            3- Lời chú thích của Đức Chơn Sư Hilarion.     

            Cả thảy đều do Bà Mabel Collins được sử dụng làm một khí cụ Phàm Trần để ghi chép lại. Đức Chơn Sư chính Ngài dịch sách ấy và chuyển vào bộ óc xác thịt của Bà là người đứng làm trung gian và bàn tay cầm cây viết, là bàn tay của Ngài.

            Về sau, tạp chí Lucifer có đăng vài bài Tựa đề “Những Giảng Lư” do Bà Mabel Collins viết ra dưới ảnh hưởng của Đức Chơn Sư.

            Những bài này rất quí giá, đáng cho chúng ta đọc và học  hỏi.

            Giờ đây, mở quyển sách ra, chúng ta gặp trước hết lời tuyên bố này:

            Những qui tắc này viết ra cho tất cả các Đệ Tử : Hăy tuân hành.

            Ở đây, xác định sự phân biệt giữa những người thế tục và Đệ Tử, xét một cách tổng quát, sách này không phải viết để cho người thế tục dùng.

            Danh từ Đệ Tử gồm hai nghĩa: Người chưa được Điểm Đạo và người đă được Điểm Đạo. Đọc cẩn thận, ta t́m thấy có hai lời dạy phân  biệt dùng trong một danh từ. Mỗi câu có hai nghĩa: Một để cho những kẻ tiến hóa cao, một để cho những kẻ kém tiến hóa. Chúng ta sẽ cố gắng phân biệt cả hai khi chúng ta đề cập lời tuyên bố mở đầu. Phần Thứ Nh́ dường như chỉ dành riêng cho Đệ Tử đă được Điểm Đạo, c̣n trong Phần Thứ Nhứt, mỗi câu đều có  hai nghĩa.

            Nhiều người c̣n lâu lắm mới được vào hàng Đệ Tử, nên không thể hiểu thấu nổi những qui tắc này. Họ thường hay chỉ trích và trách móc sao nó tŕnh bày một lư tưởng mà con người không thấy có chút ǵ êm dịu, dễ cảm mến. Quả thật, có nhiều trường hợp độc giả đứng trước một lư tưởng quá cao siêu đối với y. Một lư tưởng, dù cao siêu đi nữa, cũng không bổ ích cho ai, nếu nó không thu hút được họ; cho nên, khi giao thiệp với  đời, hăy giữ đúng nguyên tắc thực tiễn nầy là chỉ nên đem tŕnh bày những lư tưởng nào hấp dẫn họ được. Trong những thứ sách như loại này điều nào độc giả hấp thụ được là vừa với tầm hiểu biết của họ, họ sẽ hiểu biết, nếu họ có đủ khả năng ứng đáp với tư tưởng đă diễn tả.

            Những đồ vật hữu h́nh đối với ta có thật là khi nào ta mở những cơ quan đủ sức đáp ứng lại ảnh hưởng của chúng nó. Chính ngay lúc đó, chúng ta bị bao bọc bởi cả trăm thứ rung động mà chúng ta không đủ năng lực cảm biết được.

            Một ngày kia, Ông William Crookes đưa ra một thí dụ rất hay. Ông cố giảng cho ta biết về Điện Học, kiến thức ta c̣n thấp kém lắm, c̣n khả năng tiến bộ mới mẻ của Khoa Điện Học thật là lớn lao. Ông nói: “Nếu, thay v́ mắt ta nhạy cảm với sự rung động của ánh sáng, chúng ta lại có  những cơ quan ứng đáp lại với sự rung động của điện khí th́ tư tưởng của ta đối với cuộc đời sẽ thay đổi đến thế nào?” Sự khác biệt đối với chúng ta lớn biết là bao nhiêu.

            Trong một bầu không khí khô ráo, ta không biết chi  cả, v́ không khí khô ráo không dẫn điện. Căn nhà bằng kiếng sẽ mờ đục, nhưng căn nhà thường lại trong suốt. Một sợi chỉ bạc sẽ giống như một cái lỗ, hoặc con đường hầm ở không trung. Điều mà ta hiểu biết về thế tục tùy theo cách chúng ta ứng đáp với những sự rung động của nó. Cũng thế đó, nếu ta không ứng đáp được với một Chân Lư th́ Chân Lư ấy đối  với ta không c̣n là Chân Lư. Lại nữa, nếu là sách do  những Nhà Huyền Bí Học viết th́ chỉ có tŕnh độ tiến hóa Tinh Thần của ta mới giúp ta thấu đáo được tư tưởng của họ thôi. Tất cả những phần tư tưởng của họ tinh vi quá, hay cao diệu quá, vượt khỏi sức hiểu biết của ta, kết quả giống như chúng nó không có thật.

            Sách này tưởng thưởng rất nhiều trong sự tham thiền hơn là việc đọc sách một cách nông cạn. Giá trị chính của nó là hướng dẫn ta trong sự tham thiền, hăy chọn một câu và nghiền ngẫm nó, ngưng hẳn mọi hoạt động của Hạ Trí và đánh thức nội tâm trực tiếp với tư tưởng. Khi ta thoát khỏi h́nh ảnh của trí cụ thể, ta có thể thấy ngay Chân Lư. Nhờ tham thiền ta đem vào óc của ta một phần lớn sự hiểu biết Chân Lư do Chơn Nhơn đạt được trên cơi của nó.

            Tuy nhiên, người nào tham thiền mà không chịu đọc hoặc tuân theo lời Thầy chỉ dạy, nếu cứ tin chắc rằng ḿnh được tiến triển trên cơi Tinh Thần th́ cũng chỉ tiến triển một cách chậm chạp thôi. Nhờ cái lợi thêm là vừa đọc, vừa nghe lời giảng dạy, anh sẽ tiến bước mau lẹ. Những bài diễn thuyết hay việc ngồi suy gẫm có thể chuẩn bị cho cái óc để nhờ tham thiền mà mở mang thêm. Nhưng, đối với người chỉ biết nghe lời và đọc sách mà không chịu tham thiền th́ sự tiến bộ hầu như không thể được, những sự tiến bộ sẽ rất chậm chạp. Phải phối hợp cả hai lại. Tham  thiền nhiều, thêm vào một ít bài học khẩu truyền và đọc sách, có thể dắt ta đi thật xa.

            C.W.L.- Bài tựa lần xuất bản đầu tiên của quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” vào năm 1885 có kèm theo lời chỉ dẫn dưới đây:

            Sách nầy viết ra để đáp lại ư muốn của những người không am hiểu Khoa Minh Triết Đông Phương và mong cầu tiếp nhận ảnh hưởng của  nó.

            Tuy nhiên, sách bắt đầu tuyên bố rằng:

            “Những qui tắc nầy viết ra dành để cho tất cả những Đệ Tử.”

            Định nghĩa thứ nh́ chắc chắn đúng hơn, như lịch sử của nó sẽ chứng minh.

            Sách nầy, hiện nay chúng ta có đây, vốn do Đức Chơn Sư Hilarion đọc cho Bà Mabel Collins chép ra. Bà là người có tiếng tăm trong giới Thông Thiên Học, Bà đă một lần duy nhứt hợp tác với Bà Blavatsky xuất bản tạp chí Lucifer. Chính tự tay Đức Chơn Sư Hilarion tiếp nhận sách nầy của Đức Sư Phụ Ngài là một Đấng Cao Cả mà các sinh viên Thông Thiên Học gọi là Đức Venetian. Chính Đức Venetian, chỉ viết có một đoạn trong sách. Sách đă trải qua ba giai đoạn mà chúng ta sẽ lần lượt xem xét tới.

            Ngay như hiện giờ, nó là một quyển sách mỏng, nhưng dưới h́nh thức đầu tiên như ta đă thấy, nó c̣n mỏng hơn nữa. Ấy là một bản thảo viết tay trên những lá Gồi, có từ đời Thượng Cổ, khó mà xác định được hồi nào, trước thời kỳ của Đấng Christ ra đời, người ta đă quên ngày, tháng và tên tác giả và xem  như là nguồn gốc của nó biến mất trong lớp sương mù của thời tiền sử xa xôi.

            Nó gồm có 10 tờ, mỗi tờ có 3 hàng, v́ bản thảo viết bằng lá Gồi, các hàng chữ được viết theo chiều dọc chớ không theo chiều ngang như hiện giờ. Mỗi hàng đủ trọn một câu cách ngôn ngắn, chữ viết là chữ Bắc Phạn rất cổ.

            Đức Chơn Sư Venetian đă dịch những câu cách ngôn Bắc Phạn ấy ra chữ Hy Lạp để cho các Đệ Tử của Ngài tại thành Alexandria dùng, trong số đó có Đức Chơn Sư Hilarion, khi Chơn Sư đầu thai làm Iamblichus. Chẳng những Ngài phiên dịch mà c̣n phụ thêm những lời chú thích mà ta nên cho đi chung với nguyên văn. Thí dụ: nếu chọn 3 câu cách ngôn thứ nhứt, ta sẽ thấy đoạn số 4 kế tiếp là lời giảng lư. Cho nên ta phải đọc:

            Hăy tiêu diệt ḷng tham vọng, nhưng hăy làm việc như những kẻ đầy ḷng tham vọng làm việc.

            Hăy tiêu diệt ḷng tham sống, nhưng hăy kính trọng sự sống như những kẻ đầy ḷng tham sống.

            Hăy tiêu diệt ḷng ham sự tiện nghi, nhưng hăy sung sướng như những kẻ chỉ sống để hưởng lạc thú.

            Cũng thế đó, qui tắc 5, 6 và 7 lập thành một nhóm, kế tiếp qui tắc 8 là lời giảng lư do Đức Đế Quân viết và cứ thế nối tiếp nhau trong nhiều trang.

            Nhóm ba qui tắc nầy tŕnh bày như thế không do sự ngẫu nhiên, ấy là có dụng ư. Khi khảo sát ta nhận thấy luôn luôn có sự liên quan giữa ba qui tắc. V́ thế, ba qui tắc kể trên nhắm vào sự thanh bạch của tâm hồn và sự áp dụng trong đời sống tinh thần. Có thể nói, chúng vạch rơ điều mà con người muốn trở nên và những bổn phận bắt buộc hầu chuẩn bị để hành động.

            Nhóm thứ hai của ba câu cách ngôn (5 tới 8) bảo ta phải tiêu diệt tánh chia rẽ, mọi ư niệm cảm giác, mọi khao khát tăng trưởng. Chúng nêu ra bổn phận con người đối với những kẻ xung quanh ḿnh trên phương diện xă hội. Con người phải nhận thức rằng ḿnh là một với đồng loại. Y cương quyết từ bỏ các sự vui sướng ích kỷ và riêng biệt, tiêu diệt tất cả sự khao khát tăng trưởng cá nhân ḿnh và làm việc cho sự tăng trưởng chung của toàn thể Nhân Loại.

            Trong nhóm ba qui tắc (9 tới 12) chúng ta học điều mà ta phải ham muốn, nghĩa là những điều ở trong tâm ta, ngoài ta và quá sức ta, rơ ràng đó là bổn phận của ta đối với Thượng Ngă (Higher Self).

            Những câu cách  ngôn 13 tới 16 nói về sự ham muốn quyền năng, ham muốn sự an tịnh và ham muốn những sở hữu. Những sự ham muốn nầy cả thảy đều góp phần chuẩn bị cho ta để làm việc trên Đường Đạo.

            Nhóm qui tắc 17 tới 20  bảo kẻ chí nguyện hăy t́m kiếm Đường Đạo.

            Những qui tắc hiện mang số 4, 8, 12 , . . . , là  những lời chú thích và bàn giải rộng ra của Đức Chơn Sư Venetian, hợp với những câu cách ngôn làm thành một quyển sách xuất bản lần đầu tiên vào năm 1885, bởi v́ Đức Chơn Sư Hilarion đă dịch chữ Hy Lạp ra tiếng Anh dưới h́nh thức nầy. Khi sách vừa in xong, Ngài viết thêm một dọc chú thích rất quí giá. Kỳ xuất bản lần thứ nhứt, những lời chú thích nầy in ra trên những tờ riêng biệt, ngoài lề có thoa keo có thể dán vô tờ đầu và tờ chót. Trong những lần xuất bản sau, những lời chú thích được cho in vào đúng chỗ của nó, nhưng bằng loại chữ nhỏ hơn và có in chữ “chú giải” ở phía trước mỗi lời chú giải.

            Phần tiểu luận ngắn và thú vị nói về Nghiệp Quả ở phía sau quyển sách cũng do tay Đức Chơn Sư Venetian viết. Phần nầy cũng có in trong kỳ xuất bản lần thứ nhứt.

            Bản viết tay bằng chữ cổ Bắc Phạn đă dùng làm nền tảng cho quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” cũng được dịch ra bằng chữ Ai Cập. Vả lại, nhiều lời chú thích của Đức Chơn Sư Venetian bắt ta nhớ đến Giáo  Lư Ai Cập hơn là Giáo Lư Ấn Độ. Học giả quen thuộc chút ít với tinh thần của nền văn minh cổ Ai Cập sẽ hiểu sách nầy khá hơn. Điều kiện sinh hoạt của cổ Ai Cập hoàn toàn khác hẳn  hơn hiện nay, đến nỗi bây  giờ ta cũng khó mà cho một ư niệm về nó. Tuy nhiên, nếu ta có thể thấy lại được tinh thần của thời xưa, ta sẽ nhận biết được nhiều sự việc mà hiện giờ ta không biết. Ngày nay, do thói quen chúng ta hay phóng đại sự quan trọng của trí tuệ và thích khoe khoang rằng nền văn minh hiện hữu cao trội hơn nền văn minh cổ thời. Có lẽ chúng ta hơn họ ở một vài điểm, nhưng ở những điểm khác, ta chưa có phần nào bằng họ được. Vả lại, sự so sánh có lẽ không công b́nh, v́ lẽ nền văn minh của ta c̣n rất trẻ trung.

            Trở ngược lại ba thế kỷ về trước trong lịch sử Âu Châu, nhứt là trong lịch sử nước Anh, chúng ta sẽ nhận thấy một t́nh trạng thật kém văn minh. Đem so sánh ba thế kỷ nầy, kể luôn 150 năm tiến bộ về Khoa Học mà vai tuồng thật quan trọng trong thời kỳ văn minh của ta, với bốn ngàn năm gần như không thay đổi của nền văn minh Ai Cập cường thịnh, ta nhận biết liền sự văn minh của ta không có ǵ là quan trọng. Trọn cả nền văn minh bốn ngàn năm ấy có biết bao cơ hội cho họ thực hiện những cuộc thí nghiệm và thu hoạch nhiều thành tích mà ta chưa có. Chúng ta thử cố gắng so sánh với nền văn minh vĩ đại nào đă tiến đến cực điểm là quá đáng, v́ chúng ta mới bắt đầu văn minh mà thôi.

            Giống Dân Phụ thứ Năm của chúng ta hăy c̣n rất xa mức tuyệt đỉnh của sự vinh quang rực rỡ của nó. Chừng nó đi tới mức ấy, nó sẽ nổi bật lên trên tất cả những nền văn minh khác, nhứt là ở vài phương diện. Nó sẽ có đặc tính riêng mà vài đặc tính có thể làm cho ta ít thỏa thích hơn những đặc tính của những nền văn minh trước. Nhưng, tóm lại nó vẫn cứ tiến tới, v́ những Giống Dân nối tiếp nhau ra đời giống như nước triều dâng lên rồi rút xuống.

            Mỗi Giống Dân đến, rồi rút lui và Giống Dân khác tiến tới một chút nữa. Tất cả các Giống Dân ra đời, cùng tiến đến tột độ rồi tàn tạ. Đối với chúng ta, ấy là ngọn thủy triều đương lên, thế nên, trong vài phương diện, chúng ta chưa đi đến cái thế ổn định của vài cuộc văn minh cổ đă biểu lộ. Chúng ta cần phải mở được ḷng vị tha vong kỷ và tin chắc rằng đoàn thể là trọng hệ chớ không phải cá nhân.

            Trong vài nền văn minh đă bị tiêu diệt, con người đă tiến đến cực điểm, mà đối với ta dường như là sự không tưởng, nhưng trái lại ta sẽ mở được nhiều năng lực mà các dân tộc cổ thời chưa có.

            Lúc sơ khởi trong lịch sử La Mă (đă có một thời đại ngắn), theo lời của Macaulay là “không có ai lo cho đảng phái, tất cả đều lo cho Quốc Gia mà thôi.” Đức Pythagoras ngỏ lời với dân chúng tại Taormina rằng: “Quốc Gia tiêu biểu hơn cha mẹ, vợ con,” và mọi người phải luôn luôn sẵn sàng đem tư tưởng, t́nh cảm và ư muốn của ḿnh phục vụ quyền lợi của đoàn thể, cho quốc gia, cho hạnh phúc của mọi người.

            V́ hạnh phúc chung đó, mỗi người phải vui ḷng hy sinh quyền lợi cá nhân ḿnh.  Tại Anh Quốc cũng thế, thời kỳ Nữ Hoàng Elizabeth trị v́ là một thời kỳ của t́nh cảm thống trị, có một phong trào hoạt động ái quốc chân chính.

            Tôi không muốn nói rằng trong xứ cổ Ai Cập và cổ Hy Lạp, hay ở xứ nào khác, mọi người đều có một tấm ḷng vị tha vong kỷ. Nhưng mà những người được giáo dục hoàn toàn đều xét đời về một phương diện rộng răi hơn chúng ta hiện giờ. Họ vẫn nghĩ đến Quốc Gia nhiều hơn là nghĩ đến sự sung sướng hay sự tiến hóa riêng của họ. Rồi cũng sẽ tới phiên chúng ta tiến đến tŕnh độ đó khi ngày giờ đến. Chúng ta sẽ hiểu rơ được những tư tưởng nầy hơn những Giống Dân xưa. Chúng ta sẽ hiểu và cũng sẽ t́m kiếm những sự áp dụng chúng nó mà các bậc tiền nhân chưa được biết.

            Cho nên, nếu ta có thể nh́n lại cái tâm trạng ngày xưa của xứ Ai Cập nầy, ta sẽ hiểu rành rẽ quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo.” Trong khi tham cứu từng Chương, học giả phải hết sức cố gắng có cho kỳ được thái độ trên đây th́ rất tốt, v́ nó sẽ giúp anh đặt ḿnh vào địa vị của những kẻ hồi cổ thời, họ cũng đă chuyên tâm vào công việc tu luyện như ḿnh bây giờ vậy.

            Đó là chuyện dễ dàng cho những người trong chúng ta đă luyện tập để nhớ lại những tiền kiếp của chúng ta. Tôi  c̣n giữ được kỷ niệm của kiếp chót của tôi ở Hy Lạp, nơi đó, tôi đă tham dự những Pháp Môn Huyền Bí Eleusinian, cũng như trong một kiếp khác rất xa xôi, vào thời đại những Đại Pháp Môn Huyền Bí Ai Cập đóng một vai tuồng quan trọng mà vài phế tích hiện c̣n trong Phái Tam Điểm (Freemasonry). Tôi đă học Đạo trong một Tu Viện và đă ghi sâu vào kư ức. Những kỷ niệm ấy giúp tôi khi đọc những trang sách như thế thu thập được nhiều sự hữu ích hơn là nếu tôi đă không chúng nó. Những cảm xúc hay những sự hồi ức thường cho ta có cảm giác như sống lại trong bầu không khí đó, chúng là một hộ lực lớn lao.

            Quyển sách nầy, dù là viết bằng chữ Ai Cập hay chữ Ấn Độ, là một bảo vật hi hữu trong văn học sử Thông Thiên Học, không có quyển sách nào giúp ích cho ta nhiều bằng nó khi chúng ta khảo cứu nó một cách rất cẩn thận và tỉ mỉ. Như chúng tôi đă giải thích, quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” là quyển thứ nhứt trong ba quyển đă chiếm một địa vị duy nhứt trong văn học sử Thông Thiên Học, bởi v́ nó chứa đựng những lời giáo huấn của những Đấng Cao Cả đă đi qua trên Đường Đạo, Các Ngài đă truyền lại cho những ai có ư nguyện bước vào con đường đó.

            Tôi c̣n nhớ lời của Đức Swami T. Subba Row đă nói với chúng tôi một ngày kia rằng:

            “Những câu cách ngôn nầy tŕnh bày nhiều ư nghĩa chồng chất nhau.” Chúng có thể dùng nhiều lần cho nhiều tŕnh độ khác nhau. Trước tiên, chúng hữu ích cho những kẻ có chí nguyện đương theo dơi con đường Nhập Môn. Kế đó, dùng cho những người có một tŕnh độ cao hơn, ấy là những người qua ngưỡng cửa của cuộc Đại Điểm Đạo lần thứ nhứt, đă đặt bước vào con Đường Đạo chánh thức. Sau cùng, khi vị Đệ Tử đă thành một vị Chơn Tiên, người ta lại nói với chúng tôi một lần nữa rằng: “Mấy câu cách  ngôn nầy có một ư nghĩa cao thâm huyền diệu hơn, chúng  có thể dùng để d́u dắt bực Siêu Nhân tiến xa  hơn và cao hơn nữa.” Cho nên, đối với kẻ đọc sách, khi biết nhận thức được hoàn toàn Ư Nghĩa Huyền Bí của sách nầy, nó sẽ dắt chúng ta đi xa hơn tất cả các quyển sách khác.

            Những quyển sách nầy đặc biệt viết ra để thúc đẩy sự tiến hóa của những kẻ đi trên Đường Đạo, chúng tŕnh bày những tư tưởng mà, nói một cách tổng quát, người đời chưa sẵn ḷng chấp nhận. Chính trong những học giả, cũng có người c̣n phân vân về h́nh thức của Giáo Lư. Có một cách duy nhứt t́m hiểu được Giáo Lư là thừa nhận nó và thử đem áp dụng vào đời sống của ta.

            Quyển “Dưới Chân Thầy” đă cảnh cáo chúng ta rằng: “Khen những lời nầy là đúng và tốt đẹp, chưa đủ. Người nào muốn thành công phải làm đúng theo lời chỉ dạy của Chơn Sư, cẩn thận nghe từng tiếng, theo dơi từng dấu nhỏ nhặt.” Những lời đó cũng vẫn đúng với quyển sách nầy. Kẻ nào không chịu khép đời ḿnh để sống trong khuôn khổ của Giáo Lư, luôn luôn chạm trán với những điểm làm cho y bối rối không thể nào thừa nhận chúng nó. Nếu, trái lại, y biết t́m cách đem áp dụng vào đời sống của ḿnh th́ ư nghĩa thật của Giáo Lư có thể khởi sự phát lộ. Tất cả sức cố gắng chân thành để sống theo Giáo Lư đưa đến kết quả là trí ta sáng suốt để thấu triệt được lư sách và đó là cách duy nhứt có thể nhận đúng chân giá trị của  những lời châu ngọc vô giá ấy.

            Những sách thuộc loại nầy chứa đựng nhiều nghĩa khác hơn là nghĩa từng chữ. Cho nên, mỗi người thu thập sự hiểu biết theo những điều ḿnh đạt đến, nghĩa là tùy theo năng lực đồng hóa phần nào của sách và chỉ đạt được phần đó thôi.

            Chỉ đọc sách nầy và khảo cứu  nó cũng chưa đủ, cần phải lấy nó làm đề tài cho sự tham thiền. Hăy lấy những đoạn nào bề ngoài hơi khó hiểu, những câu ẩn nghĩa Bí Mật, Huyền Bí hay mâu thuẫn đem ra suy gẫm và tham thiền. Nhờ đó, nó sẽ giúp bạn hiểu được nhiều hơn, mặc dù thường khi bạn không thể diễn tả được tư tưởng ấy.

            Trong khi tôi đă thử giải thích cho bạn biết cách thức mà tôi khảo sát mấy điểm khác nhau nầy và việc chúng nó đối với tôi, tôi có cảm tưởng rằng tôi không bày tỏ ư kiến một cách đầy đủ. Tôi biết nhiều lúc tôi không sao  t́m được danh từ nào giải thích trọn vẹn tư tưởng của tôi, nếu đem ra nói, tư tưởng ấy trở thành tầm thường, vô vị, tuy nhiên, tôi cảm biết trong ḷng tôi nhiều ư nghĩa cao siêu, có lẽ với Thể Trí của tôi. Mỗi tŕnh độ đều như thế cả. Tất cả những điều chúng  ta có thể nhận thức được bằng Thể Trí, nên thêm vô đó tất cả những điều nào chúng ta chỉ có thể tự hiểu lấy bằng Thượng Trí và Trực Giác.

            Dù chúng tôi có tận tâm tận lực phô diễn, luôn luôn cũng c̣n cái ǵ cao sâu vi diệu cứ tiếp tục đơm hoa trổ nụ trong ḷng chúng tôi.

            Con người là một biểu hiện của Đấng Vô Thủy Vô Chung và ngoài Đấng Vô Thủy Vô Chung ra, không ai có thể giúp chúng ta: Đó là sự thật và đó là Chân Lư mà 3 Vị Tác Giả quyển sách nầy luôn luôn ân cần nhắc nhở chúng ta.


CHƯƠNG   2

BỐN CÂU CÁCH NGÔN MỞ ĐẦU

 

            Trước khi được thấy, mắt phải ráo lệ.

            A.B.- Ấy là câu đầu tiên của bốn câu cách ngôn xác định bốn đức tánh mà kẻ chí nguyện làm Đệ Tử cần phải khai triển trước khi anh được phép bước vào Đường Đạo chánh thức, là năng lực thấy, nghe, nói và sau hết là được phép đứng trước mặt Đức Chơn Sư. Những năng lực ấy giúp ta phụng sự nhân loại đắc lực dưới quyền điều khiển của Ngài. Có 2 giai đoạn theo tŕnh tự:

            1. Chơn Sư cho phép trước.

            2. Người Đệ Tử tận tâm tận lực hiến ḿnh phụng sự cho Nhân Loại.

            Câu cách ngôn nầy cũng như ba câu kế tiếp đều liên quan đến hai  hạng Đệ Tử.

            Thuộc về hạng thứ nhứt là những kẻ đang rảo bước trên đường Nhập Môn, họ tập cởi bỏ tất cả những ǵ, theo chúng ta hiểu, thuộc về Phàm Nhơn. Những lời giáo huấn mở đầu nầy chỉ dẫn họ hiểu biết việc làm trước tiên là phải lo diệt trừ bản ngă (Phàm Nhơn).

            Thuộc về hạng thứ hai là những Đệ Tử đă được Điểm Đạo. Người ta đ̣i hỏi ở hạng nầy nhiều hơn: Họ phải cởi bỏ cá tánh của ḿnh hay là Chơn Nhơn c̣n bị chuyển kiếp luân hồi, hầu khi đi mút Đường Đạo, đời sống của họ phải hoàn toàn đặt dưới sự điều khiển của Chơn Thần. Cho nên, ta sẽ nhận thấy mỗi câu của bốn câu cách ngôn có thể thích dụng hoặc cho Phàm Nhơn, hoặc cho Chơn Nhơn. Sự hiểu biết những câu cách ngôn nầy tùy thuộc cách học giả đem thực hành trong đời sống của ḿnh.

            Ta cần phải chịu khó chú ư và nhớ lại những câu cách ngôn nầy có thể có hai phương diện để hiểu khác nhau. Nếu những lời giáo huấn trên đây được các Đấng Chơn Sư trong Quần Tiên Hội đem ra dạy th́ những vị Tả Đạo Bàng Môn chuyên luyện tà thuật để ám hại người cũng dùng những lời giáo huấn y hệt như thế để dạy Đệ Tử của họ, có khi ta gọi họ là những Anh Em trong Bóng Tối. Có hai cách có thể làm cho mắt có thể ráo lệ. Lư do thúc đẩy kẻ chí nguyện tiến bước chỉ định rơ ràng con đường họ đi theo. Một trong những con đường ấy là con đường của kẻ muốn thành Đệ Tử của Phái Bàng Môn; Y sẽ giải thích câu cách ngôn nầy như một lời dạy nên lănh đạm hoàn toàn đối với sự vui sướng cũng như đối với sự đau khổ. Sự lănh đạm đạt được bằng cách làm cho chai ḷng và tránh né tất cả mọi thiện cảm. Kẻ nào kiếm thế để làm cho mắt ráo lệ bằng cách diệt mất mọi cảm giác sẽ đi đến gần con đường tối tăm của Tả Đạo. Trái lại, người hết ḷng theo Chánh Đạo không được khóc v́ nỗi đau khổ riêng của ḿnh. Không phải v́ bản tánh thấp hèn của họ làm cho họ bị lay động, nhưng v́ họ rất chú trọng đến t́nh cảm của kẻ khác. Chúng ta phải cố gắng tập chịu đựng trước nỗi đau khổ của con người mà không làm tổn hại đến ḿnh.

            Bảng kê khai dưới đây chứng minh sự tương phản của hai con đường:

           

Tả Đạo

Chánh Đạo

 

1. Khép chặt tấm ḷng không một mảy may phiền năo.

 

Mở mang năng lực cảm giác cho đến đỗi ứng đáp với tất cả những sự rung động của kẻ khác.

 

2. Dựng một  bức tường rào bao quanh ḿnh để tránh mọi đau khổ.

 

Phá bỏ hết mọi tường rào ngăn cản không cho ta cảm động trước nỗi niềm đau khổ của kẻ khác.

 

3. Bóp nghẹt đời sống cá nhân của họ.

 

Mở mang đời sống cá nhân của họ. Con người t́m cách ḥa ḿnh trong đời sống của đồng loại.

 

4. Dẫn dắt đến sự chết, sự tiêu diệt, Cơi A -Tỳ, Địa Ngục.

 

Dẫn dắt đến sự sống, sự trường sanh bất tử, Cơi Niết Bàn.

 

            Sự sai biệt cốt yếu giữa hai phương pháp là: Phương pháp thứ nhứt luôn luôn hướng về sự chia rẽ và sau cùng ở trong t́nh trạng bị cô lập tuyệt đối, trái lại phương pháp thứ hai có một mục đích kiên cố về sự đoàn kết và đi đến một t́nh trạng hợp nhứt hoàn toàn.

            Bên Chánh Đạo, kẻ chí nguyện trong khi chung đụng với ngoại giới, phải lần lượt loại trừ tất cả cái chi biểu lộ ra bằng sự đau khổ riêng của ḿnh, và làm lay chuyển con người họ với bao nỗi phiền muộn lo âu. Họ phải đạt đến một tŕnh độ mà mọi sự lo buồn về tư lợi không c̣n nữa. Hẳn nhiên, họ phải từ bỏ tất cả lối sống cá nhân riêng biệt tự do để làm thế nào cho Thể T́nh Cảm (Thể Vía) của họ trở thành một khí cụ độc hữu cho Chơn Nhơn. Hay nói một cách khác, họ không c̣n ưa thích hay chán ghét, không c̣n ham muốn hay ước mong, không c̣n hy vọng hay lo sợ, tất cả đều phải tận diệt.

            Ở đây anh chớ lầm lạc, anh không cần tiêu diệt Thể T́nh Cảm, nhưng anh phải tự dưng  ngưng hẳn, không ứng đáp riêng cho  nó những cảm giác từ ngoại giới đưa vào. Anh chỉ cần diệt mất lối sống chia rẽ, c̣n Thể T́nh Cảm anh phải bảo tồn để dùng vào việc phụng sự Nhân Loại.

            Lẽ dĩ nhiên, sự cấu tạo của Thể T́nh Cảm chỉ dẫn cho người Đệ Tử  biết phải sửa đổi tánh t́nh của y thế nào. Nơi người Đệ Tử thường, Thể Vía (Thể T́nh Cảm) hay thay đổi màu sắc luôn luôn, nhưng khi nó được tinh luyện rồi và Đệ Tử đă dứt tuyệt mọi cuộc sống chia rẽ th́ Thể ấy trở thành một khí cụ thật tốt đẹp không màu sắc và sáng chói, phản chiếu sự sống linh hoạt ở nội tâm. Nó không có màu sắc riêng biệt mà chỉ lấy màu sắc của Chơn Nhơn truyền đạt qua. Lúc ấy, nó tựa như ánh sáng trăng rọi xuống mặt nước hồ thu yên lặng không gợn sóng, lóng lánh như xa cừ, phô bày một thứ rung động mà ta gượng gạo cho là màu sắc. Sự biến đổi nầy thành tựu dần dần trong Thể Vía của Đệ Tử.

            Khi mà càng ngày họ càng cố gắng thực hiện công việc khó khăn là cảm động trước mọi thống khổ của đồng loại th́ họ càng phải lănh đạm thờ ơ với mọi thống khổ của chính ḿnh họ phải gánh. Họ có thể đè nén dễ dàng t́nh cảm của ḿnh, nhưng họ phải xúc động trước t́nh cảm của kẻ khác và đồng thời phải giữ đừng cho xen t́nh ư riêng của ḿnh vào; ấy là một trách vụ rất khó khăn bắt buộc những kẻ chí nguyện phải thi hành. Tuy nhiên, càng chuyên tâm tập luyện th́ họ càng nhận thấy rằng những xúc động ích kỷ tiêu lần và biến thành những xúc động vị tha.

            Kẻ Đệ Tử có một phương thế để thử xem ḿnh quả thật có ḷng thiện cảm hay không và tới bực nào; ấy là anh có nghe ḷng thiện cảm hay không khi những nỗi khổ đau của thiên hạ không c̣n lọt vào mắt anh nữa. Anh gặp một kẻ khốn khổ, anh chứng kiến một hành động hung bạo, có lẽ làm cho ḷng anh se thắt lại, nhưng liệu anh có động ḷng thương xót như thế khi người đó đă khuất mắt anh không? Ḷng thiện cảm của ta không đáng giá bao nhiêu, nếu cần phải có cảnh năo ḷng để khêu gợi nó. Thử đưa một người đến đô thị lớn như châu thành Luân Đôn chẳng hạn, có thể những cảnh tượng thương tâm thảm mục mà Y thấy, bao bọc chung quanh ḿnh Y, làm cho Y xúc động vô cùng. Hăy cho Y ở một chỗ khác, Y sẽ chóng quên những nỗi thống khổ Y đă chứng kiến và thấy ḿnh vẫn hoàn toàn sung sướng.

            Kẻ Đệ Tử phải tập sống cách nào như toàn thể sự đau khổ của nhân loại luôn luôn hiện ra trước mắt y; làm nhẹ bớt gánh nặng đau khổ chính là lư do thúc đẩy y làm việc.

            Chưa ai đi đến  tŕnh độ mà tiếng gào thét đau thương làm cho y xúc động như trong quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” đă nói, trừ phi động lực của đời sống y là lo giúp đỡ nhân sinh, dù những sự đau khổ của nhân loại có ở trước mắt y hay không, bởi v́ đó mới quả thật là động lực của Đệ Tử. Phương tiện tốt nhứt thoát khỏi Phàm Nhơn, trở thành lănh đạm đối với mọi niềm vui sướng hay đau khổ riêng của ḿnh, mắt phải ráo lệ là để cho Thể Trí suy nghĩ đến niềm đau khổ của Thế Gian, và phương pháp phải theo hầu làm giảm bớt đau khổ; như thế, điều nầy mới giúp ta thấy được cái bản ngă đúng vào chân vị trí của nó, kế bên bản ngă to lớn hơn tượng trưng là toàn thể nhân loại cô đơn nầy.

            Khi Đệ Tử được Điểm Đạo bắt đầu đạt được trạng thái Bồ Đề Tâm, th́ y ráo lệ một cách khác nữa. Bấy giờ, y mới bắt đầu hiểu được ư nghĩa của sự tiến hóa, và cảm biết rằng tiến hóa ở đây có nghĩa là sự phát triển của Ba Ngôi Cao (Atma, Buddhi, Manas) ở con người. Nó khởi sự nh́n nhận giá trị và mục đích của tất cả mọi đau khổ và tất cả mọi phiền năo. Dần dần mắt y ráo lệ v́ nhờ hiểu được sự ích lợi mà nỗi niềm đau khổ đă ban cho những kẻ gánh chịu và nghiệm thấy rằng nếu sự đau khổ đến cho một người nào đó là v́ sự cần thiết tuyệt đối cho sự phát triển cao siêu của Linh Hồn y.

            Về mặt lư thuyết, con người có lẽ tránh được sự đau khổ nầy, nếu khi  xưa y biết cách hành động khôn ngoan hơn, bởi v́ nếu sự đau khổ không do ở sự lầm lạc hiện tại th́ cũng là kết quả của Nghiệp Quả xưa.

            Nhưng xét về mặt thực tế, con người trước kia đă ăn ở sái quấy, thích chọn những bài học của sự thử thách ngày nay hơn là bài học Minh Triết, bởi v́ y không chọn lựa con đường êm đẹp hơn mà đi, cho nên hiện giờ y đành phải chịu đau khổ và nhờ có đau khổ mới giúp nó đạt được sự Minh Triết và thúc giục sự tiến hóa của y.

            Người Đệ Tử am hiểu được tất cả điều nói trên y đă tiến đến một t́nh trạng mà ta có thể gọi là một sự thiện cảm hoàn toàn hợp nhứt với tâm y, và không c̣n một sự hối tiếc nào. Khi đời sống cơi Bồ Đề chưa chiếu diệu đến Tâm Thức sự hối tiếc có thể c̣n. Đến khi Tâm Bồ Đề phát sinh, ḷng thiện cảm của Đệ Tử nẩy nở một cách lạ thường, sự hối tiếc lại tiêu mất. Càng tiến bước lên cao, và nh́n thấy  chân Trời mở rộng, Đệ Tử mắt ráo lệ, v́ đứng trước sự đau khổ khắc nghiệt của con người, y phải tập làm sao sống lại trong cảnh khổ ấy để tự ḿnh cảm biết nỗi ḷng sâu xa đến bực nào, đồng thời y nhận thức được mục đích và cứu cánh của sự đau khổ. Đệ Tử tiến đến chỗ hoàn toàn chia sớt nỗi niềm đau khổ với Nhân Loại, nhưng không hề có một mảy nào mong mỏi sự đau khổ được sửa đổi. Muốn đừng có sự ước ao thoát khỏi sự đau khổ trước khi nó kết thành quả, Tâm Bồ Đề phải chói rạng. Ấy là điều kiện mà người ta đă gọi là Tâm Bồ Đề phát hiện.

            Luật Trời là Minh Triết, Thiên Ư là Toàn Hảo và sự đau khổ chuẩn bị một cứu cánh hoàn thiện, v́ vậy, Đệ Tử triệt để vui vẻ và bằng ḷng số phận ḿnh, y cam chịu đau khổ không hề than van, không hề phiền muộn.

            Khi vị Đệ Tử đă đạt đến tŕnh độ ấy, Tâm Thức y trở thành một phần tử của đời sống Thế Gian. Nếu y nghĩ đến y và xưng “Tôi” th́  cũng như nó thuộc về một phần tử của cái “Tôi” bao hàm tất cả những cái tôi khác. Từ đó, đối với Đệ Tử, không có cái ǵ sống ở ngoài y, hay phân cách y. Y đồng hóa với đời sống duy nhứt vĩ đại nầy, mặc dù ở vào tŕnh độ nào. Mỗi khi đời sống ấy cần đến sự giúp đỡ, Đệ Tử mất hẳn cái quan niệm rất phổ thông của cơi Thế Gian nầy là có nhiều người c̣n biệt lập ở bên ngoài. Đệ Tử ở trong tất cả và ở với tất cả.

            Việc thông hiểu sự hợp nhất có ảnh hưởng sâu xa đến sự giúp đỡ của con người có thể thi thố cho đời. Nếu có sự trợ giúp ai, nó thông cảm được nỗi niềm đau khổ của người đó cũng như nỗi niềm của chính ḿnh, chớ không phải những khó khăn của một kẻ khác. Nó thấy những sự đau khổ đó cũng như chính người trong cảnh ngộ thấy và v́ vậy, thay v́ giúp đỡ người ở bên ngoài, nó lại giúp đỡ ở bên trong. Giữa hai cách giúp ấy, sự sai biệt rộng lớn vô cùng. Cách thứ nhứt là giúp tạm thời và ngẫu nhiên, cách thứ nh́ tiêu biểu trong đời sống của con người một sự tiến triển về quyền năng.

            Đệ Tử chỉ có thể đạt đến tŕnh độ nầy nhờ ở đào luyện được ḷng thiện cảm, tập đồng hóa với nỗi niềm vui  vẻ và sự thống khổ của kẻ khác, làm cho đời ḿnh thành một đời sống chung của tất cả mọi người nếu không khó mà diệt được tánh chia  rẽ. Mắt phải ráo lệ, đối với Đệ Tử, chỉ có một ư nghĩa mà thôi, ấy là phải lănh đạm đối với những ǵ liên hệ Phàm Nhơn ḿnh, nhưng không được làm mất sự cảm xúc sâu sắc đối với tất cả những ǵ có ảnh hưởng đến những Linh Hồn khác.

            C.W.L.- Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta nói về bốn câu cách ngôn thứ nhứt của quyển sách nầy, khởi đầu bằng câu: “Trước khi thấy được, mắt  phải ráo lệ,” có thể bị giải thích sai lầm và v́ thế, anh Bàng Môn cũng như chúng ta đều thừa nhận chúng nó.

            Họ cho ư nghĩa của câu đó như thế nầy: “Diệt tất cả mọi cảm xúc, bao quanh ḿnh một lớp vỏ và loại ra ngoài những phiền năo và đau khổ của cuộc đời.”

            Đó thật là trái ngược với lời giáo huấn dùng dạy bảo các vị Đệ Tử bên Chánh Đạo, họ phải tập khai triển t́nh cảm cho đến một tŕnh độ có thể chia  sớt một cách tuyệt đối nỗi niềm đau khổ của nhân loại.

            Người ta nói nhiều về các vị Bàng Môn Tả Đạo, nhưng tôi tưởng ít người hiểu nhiều về họ. Nhờ gặp được nhiều đại diện bên Phái đó, tôi dám nói rằng: Tánh t́nh của họ và phương pháp của họ dùng không xa lạ ǵ  với tôi cả.

            Trong bọn họ có vài người đáng để ư, nhưng không nên thân thiện. Danh từ Bàng Môn Tả Đạo để dùng cho nhiều hạng khác nhau. Thí dụ: Người da đen ở Nam Phi Châu và ở quần đảo West Indies, có lẽ những Thổ Dân ở Úc Châu cũng vậy, rất giỏi luyện những Phép Tà Thuật  nhỏ mọn. Thật là đáng thương hại. Chính bọn Thổ Dân nầy nh́n nhận không làm thương tổn đến người da trắng được. Trong vài trường hợp, đời sống của những người da trắng bị họ khuấy rối rất khó chịu, nhưng phải nói thêm rằng do cách ăn thói ở của mấy người nầy cho nên họ mới phá được.

            Muốn thành công, họ thường lợi dụng ḷng lo sợ của những người bị họ trù ẻo. Ảnh hưởng của tà thuật tuy yếu ớt nhưng cũng có chút linh nghiệm, những Thổ Dân nầy có vài thứ thuốc, họ biết thôi miên, tóm lại, họ biết cách sử dụng vài quyền năng sai khiến những vị Ngũ Hành ở trên mặt đất và những vị khác cùng loại. Họ có thể làm cho một người kia mắc bịnh hoạn hoặc trọn gia đ́nh Y hay là những thú vật trong bầy của Y nuôi đau ốm, họ làm khô khan vườn tược, đồng ruộng và phá hoại mùa màng thất bát. Tuy nhiên, trong trường hợp sau nầy, họ  hay dùng kèm thêm thuốc súng để giúp sức cho tà thuật của họ.

            Một hạng khác, cao hơn, t́m luyện Phép Thần Thông để mưu đồ lợi ích cho cá nhân ḿnh. Họ học được vài cương yếu của Huyền Bí Học và chính đôi khi, họ c̣n tiến khá xa trên con đường đó, nhưng họ giữ lấy cho ḿnh quyền năng ấy để lợi dụng. Thường thường họ nhờ phép tắc đó làm giàu và tạo uy thế cho cá nhân ḿnh và toại hưởng sung sướng suốt đời.

            Sau khi ĺa bỏ Trần Thế rồi, đôi khi, họ thử dùng phép tắc tạo một đời sống như hồi c̣n sanh tiền, nhưng rất ít khi thành công nên kế họạch của họ không thực hiện được. Sớm muộn ǵ, họ không c̣n cái chi cả, và bị rơi vào một t́nh trạng nguy khốn cực điểm.

            Một hạng Bàng Môn khác, tiến hoá hơn, không mong cầu ǵ cho ḿnh, không màng tiền bạc, quyền năng hay thế lực hoặc những cái chi tương tợ, nhờ thế, phép tắc của họ rất cao cường. Họ sống một cuộc đời trong sạch và có qui củ như trong anh em chúng ta, nhưng họ lại chọn sự chia rẽ làm mục đích. Họ thích đời sống trên các Cảnh Giới cao siêu và tránh nhập vào Tâm Đức Thượng Đế. Họ ghê tởm những ǵ chúng ta cho là tối đại hạnh phúc. Họ muốn sống như t́nh trạng hiện thời của họ, họ tự phụ đạt được mục đích đó, vả lại, ư chí của con người có thể chống lại tới một điểm nào đó với ư chí của Thượng Đế.

            Tôi đă gặp hạng người đó. Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta luôn luôn muốn cứu vớt những Linh Hồn lạc lơng ấy đương lầm lũi đi trên con đường chia rẽ nên thử thuyết phục một đôi lần để cảm hóa họ, hầu dắt d́u họ trở lại với quan niệm của chúng ta, nhưng tôi e ngại ít khi được thành công.

            Có khi, Bà nói với họ: “Anh biết được điều đó sẽ chấm dứt bằng cách nào. Anh hiểu nhiều về Luật Thiên Nhiên và có đủ trí khôn để nh́n thấy con đường của anh đưa về đâu. Sự đổ vỡ cuối cùng đang chờ anh, điều đó chắc chắn. Khi kỳ gian của một A tăng kỳ kiếp (Manvantara) măn, khi Dăy Hành tinh nầy đúng kỳ tan ră, dù muốn dù không, anh cũng sẽ bị  nhập vào Tâm Đức Thượng Đế trên các Cảnh Giới cao siêu, chừng ấy số phận anh sẽ như thế nào?”

            Họ trả lời: “Kỳ thực, Bà không biết ǵ hết. Lấy theo bề ngoài mà nói, chúng tôi công nhận những việc sẽ xảy ra như thế, nhưng thật ra, chúng tôi không cần. Chúng tôi rất hài ḷng t́nh trạng hiện hữu của chúng tôi. Chúng tôi đủ khả năng để bảo thủ cá tánh của ḿnh chống lại mọi hành động bắt buộc chúng tôi nhập vô Tâm Đức Thượng Đế và điều đó kéo dài lắm, có lẽ đến ngày tận cùng của A tăng kỳ kiếp. Sau đó, chúng tôi sẽ thành công hay không, chúng tôi chẳng biết được, nhưng điều đó mặc kệ. Dù chúng tôi làm được hay không, chúng tôi cũng có lối sống mà chúng tôi chọn lựa.”

            Điều nầy có thể tranh luận và người nào chọn lựa quan điểm trên, chưa hẳn  thật là chánh trực, dĩ nhiên cũng không phải là kẻ ác đức, theo nghĩa thông thường của danh từ nầy. Họ tỏ ra là người cực kỳ kiêu căng phách lối nhưng không muốn gây thù kết oán với ai hay mưu toan sâu độc hại ai. Trái lại, họ không biết ngần ngại là ǵ cả. Người nào chống lại ư muốn của họ, họ quét sạch, ít do dự hơn là họ giết một con muỗi. Tuy nhiên, họ có thể kết giao thân mật với kẻ nào không làm trở ngại ư muốn của họ. Tánh t́nh họ không có vẻ ǵ là hung bạo. Họ không phải là một con quái vật độc ác mà là người đă chọn lựa một phương hướng nào đó và đi theo nó, hy sinh tất cả điều ǵ, đối với ta, có nghĩa là tiến hóa. Chúng ta tin chắc chắn rằng một hiểm họa lớn lao đang chờ họ, mà họ ít khi tin chắc điều đó như chúng ta, và dù sao, họ vẫn thích làm những chuyện mạo hiểm.

            Thường thường, những con người ấy, tự họ, cho thế là măn nguyện. Họ có thái độ ngờ vực và khinh bỉ tất cả mọi người. Đó luôn luôn  là đặc tính của hạng người theo dơi con đường Tả Đạo. Họ cho họ là hữu lư, c̣n kẻ khác th́ lầm lạc và thấp kém hơn. Đôi khi, người ta nghe nói đến Giáo Đoàn Bàng Môn, nhưng không bao giờ có một Giáo Đoàn nào như thế được thành lập cả. Không có t́nh hữu nghị chân thật nào có thể phát hiện ở giữa họ, nhưng gặp cơ  hội nào là  họ liên kết với  nhau để chống với hiểm họa cấp bách, hoặc giả khi một trong những kế hoạch của họ bị hăm dọa. Bất quá đây là một cuộc liên minh lỏng lẻo, rời rạc, nếu cuộc liên minh nầy dữ dội, đáng sợ, là nhờ ở nơi pháp lực cao cường của vài người trong bọn họ.

            Thỉnh thoảng, những công tŕnh giúp đỡ nhân loại của các Đức Chơn Sư chúng ta ngăn cản ư muốn của  họ, lập tức họ trở thành kẻ thù địch ghê gớm. Đối với Chơn Sư, họ không làm ǵ được các Ngài – tôi tưởng họ cáu tiết lên được – đôi khi, họ nhắm vào đám môn đệ của các Ngài để hăm hại, cố ư làm cho các Ngài v́ đó phải khổ tâm và chán nản, trong ư họ tưởng lầm tâm trạng các Ngài sẽ như thế đó.

            Những lời họ khuyên dạy, ta nên hoài nghi họ là hữu lư, v́ bọn người nầy hay phỉnh phờ, làm cho ta lầm lạc. Đức Bà Blavatsky biết rơ tung tích họ và cũng tỏ ra vị nể họ nữa. Bà xem họ không khác chi là bọn quỷ sứ cám dỗ người, thích làm điều ác chẳng v́ một lư do nào khác hơn là ḷng vui thích gây nên tội lỗi. Đó là hạng Bàng Môn c̣n thấp kém. C̣n những người quyền lực cao siêu không lấy làm vui bất cứ là việc nào, nhưng mà những kế hoạch của họ thực hiện luôn luôn có tánh cách hoàn toàn tư kỷ, có thể đem đến kết quả rất tai hại cho  nhiều người. Họ cũng trầm tĩnh, cũng đủ năng lực tự chủ, cũng trừ tuyệt dục vọng như bất cứ người Đệ Tử nào của Đức Chơn Sư. Họ c̣n luyện ḿnh  hơn thế nữa, bởi v́ họ cố tâm tiêu diệt tất cả  mọi cảm giác. Họ không hề làm hại ai chỉ v́  ḷng thích thú muốn làm khổ người, nhưng như tôi đă nói, kẻ nào cản trở công việc riêng của họ th́ họ không ngần ngại thủ tiêu người đó. Những người có phận sự giúp đỡ những kẻ ở trên Cơi Trung Giới cũng có đôi lần cứu những nạn nhân bị họ khuấy rối, và trong trường hợp nầy, họ đương nhiên ra mặt đối địch ngay.

            Chúng ta hăy trở lại đầu đề chánh. Thật là khó tập ứng đáp với t́nh cảm của kẻ khác mà không xen chút đỉnh Phàm Nhơn của ta vào, và cũng khó có ḷng thiện cảm hoàn toàn đối với kẻ khác mà không pha lẫn t́nh cảm của ta. Nhiều người quá xúc động v́ nỗi khổ của những người khác, nhưng sau đó họ quên đi khi cảnh khổ ấy không c̣n phô bày dưới mắt họ nữa.

            Thí dụ, trong một đô thị Luân Đôn chẳng hạn, nhiều người  phú hộ cảm động khi trông thấy cảnh nghèo khổ xơ xác của những ngôi nhà ẩm thấp, dơ bẩn, họ lập tức vận dụng tất cả khả năng của ḿnh để làm nhẹ bớt gánh nặng  đau khổ riêng của những người họ đă chứng kiến. Rồi sau đó, cũng mấy vị ấy đi săn bắn, câu cá, hay là dự các cuộc chơi và quên mất cái cảnh sống thảm năo kia đi. Trong trường hợp nầy, nỗi ưu sầu của họ không phải hoàn toàn do sự đau khổ của kẻ khác mà phát sinh, ấy là một  sự đau ḷng riêng, v́ chính họ đă mục kích những sự thống khổ đó. Ḷng thiện cảm thuộc loại nầy không có giá trị bao nhiêu, v́ nó không phải là ḷng thiện cảm chân thật.

            Khi chúng ta cảm thông toàn vẹn sự đau khổ của nhân loại, chúng ta lần lần quên mất sự đau khổ của ḿnh. Chúng ta quên nỗi đau khổ riêng của ta, khi thấy cái đau khổ mênh mang vô tận đang đè nặng nhân loại. Dù sao, chúng ta nên biết rằng phần đau khổ đă định sẵn cho ta là một thành phần trong cái gánh nặng chung. Có được cái tinh thần hiểu biết như thế là người đă vượt cao lên trên Phàm Nhơn của ḿnh rồi. Y khổ tâm v́ nhân sinh, chớ không v́  cảnh đời bi đát của ḿnh, mắt y trở nên ráo lệ đối với niềm vui, nỗi khổ riêng tư của y.

            Hiểu cho đúng được những sự đau khổ của kẻ khác không phải giản dị. Cách vài năm nay, Bà Chánh Hội Trưởng và tôi có khảo sát về vấn đề ảnh hưởng gây ra bởi sự đau khổ của nhiều người, xét theo bề ngoài th́ cũng là một thứ đau khổ chung về thể xác. Chúng tôi nghiệm thấy rằng trong trường hợp cực đoan, người nầy có lẽ đau đớn gấp ngàn lần hơn kẻ nọ và trong đời sống b́nh thường cũng thường có thể đau khổ trăm lần nhiều hơn kẻ khác. Trong khi người nầy tỏ dấu đau khổ, kẻ nọ lại thản nhiên như thường, như thế, chúng ta chớ nên  kết luận rằng người sau có đủ can đảm hơn, hoặc sống một cách triết lư hơn, chưa hẳn đúng như vậy. Chúng tôi cũng nghiệm xét đến mức  độ đau khổ của nhiều người khác nhau trong khi tủi  nhục v́ bị giam cầm. Người th́ xem thường như không có ǵ hết, kẻ lại đau đớn về tinh  thần và t́nh cảm đến cực độ. Đừng nói như thế nầy vô ích: “Tôi không có cảm giác ǵ về việc đó, vậy những kẻ khác cũng không có cảm giác ǵ.” Người ta không biết mức độ nào hay trong khuôn khổ nào sẽ làm cho kẻ khác cảm động. Tôi t́m thấy nhiều việc, đối với tôi không quan trọng tí nào, thế mà nó có thể làm cho đồng loại tôi đau khổ nhiều. Trái lại, những tiếng vang động khó chịu thường là nguyên nhân khiến cho những người đă khai mở được những giác quan tinh vi đau đớn một cách dữ dội. Tôi đă thấy Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta tỏ vẻ bứt rứt xốn xang khi vài ba chiếc xe lớn tiếp vận quân nhu rần rộ kéo ngang qua chỗ ngụ của chúng tôi ở tại đại lộ Avenue Road, Châu Thành Luân Đôn. Đó không phải là Bà chưa thống trị được thần kinh. Bà thường giải thích rằng nếu Đệ Tử khai mở cảm giác ḿnh, đồng thời phải chế ngự thần kinh hệ, làm cách nào chịu đựng sự đau khổ hay sự kinh động như thường, không hề nao núng.

            Trước khi được nghe, lỗ tai phải điếc.

            A.B.- Đệ Tử phải hoàn toàn lănh đạm đối với dư luận phê phán t́nh ư riêng của ḿnh. Người ta nghĩ hay là có nói điều ǵ tốt lành cho ḿnh, không nên lấy đó làm kiêu hănh, cũng như họ nói xấu ḿnh, ta không nên đem ḷng phiền muộn, nhưng đồng thời cũng không nên lănh đạm với dư luận, v́ dư luận ấy phản ứng lại chủ nó. Thế nên, Đệ Tử không được xem thường những ư tưởng của kẻ khác đối với y, nếu v́ cách cư xử của y làm cho người ta phải tránh xa y th́ y mất năng lực giúp đỡ họ.

            Đệ Tử tiến bước trên Đường Đạo sẽ đạt được Phép Thần Thông và cảm biết được kẻ khác tưởng nghĩ ǵ đến ḿnh. Y sống trong một bầu thế giới mà nơi đó, y có thể nghe được tất cả những lời bàn tán về y và thấy được tất cả những lời chỉ trích y ở trong trí của kẻ khác bay ra. Y tiến đến tŕnh độ nầy khi đă vượt cao lên trên tất cả sự chỉ trích và không c̣n bị kích động v́ những luồng dư luận của thiên hạ nữa.

            Có nhiều người ham muốn nồng nhiệt đạt được Thần Nhăn trước khi đi đến tŕnh độ nầy, nhưng, nếu họ biết những điều tôi vừa nói trên  đây th́ sự hiểu biết Cơi Trung Giới, là mục tiêu mọi nguyện vọng của họ, không c̣n quyến rủ họ nữa.

            C.W.L.- Người tiến hóa, khi nghe được những lời chỉ trích xúc phạm đến ḿnh, vẫn một mực thản nhiên. Anh đừng tưởng rằng Y giữ ḿnh được như vậy là nhờ cương quyết dằn cơn nóng giận và nói rằng: “Điều ấy thật là gớm ghiếc, tôi không bận tâm lo nghĩ và để ư đến làm ǵ.”

            Dĩ nhiên, Y trải qua một giai đoạn tương tự như thế; nhưng Y tiến rất nhanh đến một điểm mà ḷng lănh đạm của Y trở nên tuyệt đối hoàn toàn, do đó, những điều người ta nói về Y, Y vẫn xem  như tiếng líu lo của chim hót hoặc tiếng ve sầu kêu. Những lời chỉ trích có thể chọc tức Y, làm cho Y khó chịu thật, nhưng chỉ có thế thôi. Nếu Y không lựa chọn một con ve riêng biệt để lắng nghe tiếng kêu của nó, Y cũng không t́m được trong số những câu khiếm nhă đă nghe tư tưởng nào hoặc lời nói nào đặc biệt.

            Cả thảy chúng ta đều phải cố gắng tiến đến tŕnh độ nầy mà chúng ta hằng nhắc đến  luôn, bởi v́ đó là thái độ của các Đức Chơn Sư chúng ta trong cơi đời của các Ngài mà chúng ta ướm thử bước vào.

            Nhưng người ta sẽ nói: “Làm thế nào mong đạt cho được thái độ của các Đấng Siêu Nhân ấy?” Đành rằng không ai tiến đến tŕnh độ đó tức khắc được, nhưng phải lấy nó làm mục tiêu và chúng ta cố gắng tiến lại gần, càng mau càng tốt, và một trong những phương pháp để thành công – thật là dễ – là đừng quan tâm mảy may  nào đến những lời người ta nói về ḿnh.

            Tiến đến đó  rồi, bước kế là suy gẫm về quả báo xấu gây ra bởi những người đă nghĩ hoặc nói xấu chúng ta. Bấy giờ chúng ta có thể hối tiếc giùm cho  họ và nhờ vậy chúng ta hết sức tránh những cơ hội khả dĩ làm cho người ta xét đoán lầm lạc và làm mếch ḷng ḿnh, chẳng phải chúng ta bị xúc động v́ những lời nói xấu ấy, nhưng, bởi v́ chúng nó tạo ra quả xấu cho những người thốt ra chúng nó.

            Trước khi được nói trước mặt các Đấng Chơn Sư, lời nói phải mất hiệu lực lăng nhục.

            A.B.- Đệ Tử phải từ bỏ tất cả điều ǵ có thể làm khổ đồng loại ḿnh. Trong những giai đoạn đầu tiên, y phải tập trừ khử, trong ngôn ngữ, cái chi có thể lăng nhục, chấm dứt sự chỉ trích chua cay hay những danh từ bất thiện cảm và cần triệt hạ tất cả mọi lời nói xúc phạm người bằng cách, hoặc hạ danh giá họ, hoặc làm cho kẻ khác chú ư đến một trong những thói hư tật xấu của họ.

            Sự thật, có nhiều người ở vào địa vị mà họ có bổn phận đôi khi phải vạch những lỗi lầm của kẻ khác, nhưng họ sai lầm khi tưởng rằng họ có quyền làm khổ người khác trong lúc họ làm bổn phận.

            Chỉ lỗi người một cách hoàn toàn thân mật, không làm phật ḷng ai cả; lời nói chỉ lăng nhục khi nào bổn phận thi hành không đúng.

            Khi kẻ t́nh nguyện giúp đỡ người, không đồng hóa ḿnh với kẻ đối thoại th́ lời khuyên bảo của y do ở ngoài đến nên người ta ít để ư tới. Nếu kẻ giúp đỡ ḥa ḿnh với người và thử giúp đỡ bằng cách chia sớt những ư kiến của họ, Y sẽ gây được mối thiện cảm trong những mối xúc động của họ. Nhờ nhận thức được mối thiện cảm ấy, họ sẽ làm thức tỉnh trong bản tánh của họ những khía cạnh tốt đẹp nhứt, nhân từ nhứt và vui vẻ tiếp nhận lời khuyên bảo không coi như là bị lăng nhục.

            Nếu anh có  bổn phận chỉ trích người nào và nếu lời chỉ trích của anh làm xúc phạm y, anh phải tự ḿnh t́m chỗ khuyết điểm, nguyên nhân của sự xúc phạm ấy.

            Nếu chúng ta muốn mất hiệu lực lăng nhục, cá nhân riêng biệt phải bị tiêu diệt; khi chúng ta cảm thấy đời sống của vạn vật là một, chúng ta khó mà làm cho chúng sinh đau khổ, v́  tất cả đều là phần tử của chính ḿnh chúng ta đây.

            Muốn tiến đến tŕnh độ nầy, chúng ta phải bắt đầu gọt giũa dần dần lời nói của chúng ta, trước hết bằng cách sửa chữa những lỗi lầm nào dễ thấy hơn hết.

            C.W.L.- Tất cả những kẻ nào ước nguyện đến gần Đức Chơn Sư cũng phải từ bỏ ḷng ham muốn lăng nhục người bằng lời nói. Tuy vậy, cũng  c̣n có thể lăng  nhục được với một cách vô t́nh và vô ư thức, do sự thiếu ḷng trắc ẩn mà ra.

            Càng tiến bước càng nâng Tâm Thức chúng ta lên trên tŕnh độ cao siêu, chúng ta sẽ  nhận biết được, càng ngày càng rơ hơn, thế nào là phản ứng của kẻ khác. Những người đă nhiều năm dày công tham thiền cảm thấy ḿnh trở nên nhạy cảm hơn và trong một phạm vi nào đó, người tiến đến gần sự hợp nhất. V́ vậy, họ biết những người xung quanh họ hơi rơ hơn những người không cố gắng trong sự tu tập đó.

            Trước mặt chúng ta, một người kia có một lối chỉ trích mà chúng ta xét ra thật quái ác. Y chỉ trích một cách rất thành thật, nhưng không ngờ rằng lời ḿnh nói đáng trách và làm lăng nhục người.

            Nhờ suy gẫm, khảo cứu và cố gắng sống một cuộc đời cao thượng mà chúng ta tinh luyện lần lần giác quan của chúng ta, tự nhiên, chúng ta cảm biết được người thứ ba sẽ có thái độ nào đối với những lời chỉ trích đó mà chúng ta xét thấy rất tai hại và mong sao lời nói nên dùng một cách khác, nhă nhặn hơn.

            Đức Chơn Sư không bao giờ nói một lời nào có thể làm lăng nhục người. Có khi Ngài xét ra cần phải khiển trách ai, Ngài liền bày tỏ cách nào cho người bị quở không tủi nhục. Một vị Đệ Tử đôi khi có bổn phận phải hành động một cách nghiêm khắc. Năng lực của ḷng thiện cảm riêng của y liền thúc giục y từ khước công việc ấy, nhưng nếu Chơn Nhơn xác nhận quyền lực của ḿnh và nếu đó là điều cần thiết tuyệt đối, Đệ Tử chẳng những sẽ nói một cách nghiêm khắc mà c̣n trầm tĩnh  như một vị thẩm phán và không bao giờ nóng giận.

            Trước khi có thể đứng trước mặt Đức Chơn Sư, Linh Hồn phải rửa chân nó trong máu của trái tim.

            A.B.- Câu cách ngôn nầy, sau lưng nó có một truyền thuyết huyền bí rất lâu đời và di lưu cho con người bằng nhiều cách: nó liên quan đến giáo lư của sự hy sinh c̣n t́m thấy ở trong nhiều Tôn Giáo dưới những h́nh thức khác  nhau, mặc dù, xét về toàn thể, ư nghĩa của nó đă mất hết. Danh từ đem dùng ở đây có liên quan đến việc mệnh danh, đôi khi là sự hy sinh và sự liên kết của máu, mà dấu vết kỳ lạ nhứt c̣n lưu truyền trong những bộ lạc c̣n sót lại trong những Giống Dân Tộc xưa.

            Ngược ḍng thời gian của những tiền kiếp, chúng ta đă ghi chép một     việc xảy ra có thể làm cho chúng ta hiểu được ư tưởng chứa đựng trong sự hy sinh và liên kết của máu.

            Đă lâu lắm rồi, Đấng mà hiện giờ là Đức Chơn Sư Morya là một Vị Hoàng Đế. Đứa  con trai duy nhứt của Ngài (là Đức Bà H. P. Blavatsky) c̣n đương thời niên thiếu nên được phó thác cho Vị Trưởng Đoàn Hộ Vệ Quân (là Đại Tá Olcott).

            Ngày kia, Hoàng Tử ở một ḿnh với Ông Trưởng Đoàn. Quân phiến loạn thừa dịp đó muốn hành thích Hoàng Tử, áp lại và có thể chúng giết được Hoàng Tử; nếu không có Ông Trưởng Đoàn liều ḿnh tả xông hữu đột, che chở, giúp Hoàng Tử thoát nạn.

            Hoàng Tử chỉ bất tỉnh, Ông Trưởng Đoàn nằm trên ḿnh Ngài thoi thóp chờ chết, và ḍng máu từ vết tử thương chảy ra ṛng ṛng, Ông Trưởng Đoàn lấy ngón tay thấm vào máu và chấm lên hai chân của Đức Vua.

            Đức Vua hỏi rằng: “Giờ đây Trẫm phải  làm sao báo đáp công của Khanh đă liều ḿnh với Trẫm và con Trẫm.”

            Ông Trưởng Đoàn sắp tắt thở trả lời: “Xin Bệ Hạ cho phép Hoàng Tử và Hạ Thần được phụng sự Bệ Hạ măi măi trong những kiếp tái sinh.”

            Đức Vua liền đáp rằng: “V́ máu đă đổ cho Trẫm và ḍng họ Trẫm nên sự liên kết cột chặt chúng ta sẽ không bao giờ dứt.”

            Một thời gian sau, Đức Vua thành một Đấng Chơn Sư, sự liên kết vẫn tồn tại, nhưng với h́nh thức một sợi dây liên kết Đức Chơn Sư và Đệ Tử và mối liên kết nầy không bao  giờ đứt đoạn.

            Nhờ sự hy sinh đời sống nhục thể của ḿnh, vị Trưởng Đoàn đă tạo ra một sợi dây, nó ban cho Ngài một đời sống thật, đời sống người Đệ Tử thọ lănh từ Đức Thầy.

            Tôi thuật câu chuyện nầy cho Huynh nghe v́ nó chứa đựng một Chơn Lư vĩ đại. Chúng ta càng có sức mạnh để hy sinh tất cả điều ǵ, đối với ta, là sự sống và rưới máu Phàm Nhơn dưới chân của Chơn Nhơn, thật ra, đời sống của ta thay v́ sút kém đi lại càng tăng trưởng thêm. Tất cả cuộc tiến hóa của nhân loại trẻ trung nầy thực hiện được là nhờ sự t́nh nguyện hy sinh đời sống thấp thỏi cho đời sống cao siêu. Khi sự hy sinh nầy được hoàn thiện, con người t́m thấy rằng, thay v́ đời sống của ḿnh bị tiêu diệt, nó lại trở nên trường sanh bất tử. Cái dấu hiệu bên ngoài của sự hy sinh giúp cho ta nhận thức được rơ ràng nguyên lư của sự hy sinh ấy, nó bắt ta chú ư đến Chân Lư căn bản nầy: Đời sống thấp thỏi chỉ đạt được mục đích chân thật cuộc tiến hóa của nó khi nó hy sinh cho đời sống cao siêu.

            Chân Lư nầy đầu tiên được tượng trưng bởi những sự hy sinh thường dùng trong nhiều Tôn Giáo. Sự liên kết của máu cũng tùy thuộc ở nguyên lư nầy. Đời sống thấp thỏi hy sinh cho đời sống cao siêu và đời sống cao siêu nâng cao đời sống thấp thỏi do sợi dây liên kết đời đời, không bao giờ dứt.

            Đệ Tử phải rửa chân ḿnh trong máu của trái tim. Y phải hoàn toàn hiến dâng tất cả những vật ǵ y thương yêu và quí trọng, tất cả những điều ǵ y xem như là tạo thành đời sống của y, nhưng khi mất những vật ấy, y đạt được đời sống cao siêu.

            Thường thường máu không có đổ thật sự, nhưng ở thực tế, đôi khi máu phải đổ. Xét về mặt tượng trưng, luôn luôn có sự đổ máu, nhưng chỉ liên quan đến Đệ Tử trong thời kỳ hiện tại, bởi v́ sự mất mát đó làm cho y quá đau khổ. Thật sự y hy sinh những ǵ, đối với  y, đă tạo thành đời sống y và dường như những vật ấy mất đi, y không sao t́m lại được. Một cuộc thử ḷng lớn lao quyết định coi sự hy sinh của Đệ Tử có được trọn vẹn không và nhờ đó, mới thấy Linh Hồn có đủ năng lực, tự ư lao ḿnh vào cơi hư vô, rưới tất cả máu trong trái tim Y mà không mong ǵ sự  ban thưởng. Nếu Đệ Tử không đủ khả năng làm như vậy, y chưa có thể đứng trước mặt Đức Chơn Sư. Trái lại, ví như y đạt đến tŕnh độ từ khước tất cả những ǵ mà từ đó đến giờ Y cho là đời sống  của y, lúc ấy cái bằng chứng của quá khứ và cái Chân Lư của Luật Trời cho  Y biết rằng Y sẽ gặp lại t́nh trạng hiện hữu nầy trong một kiếp sống khác dũng mănh hơn và cao thượng hơn kiếp sống y đă dứt bỏ. Sự hy sinh nầy  phải thực hiện trước khi người Đệ Tử bước qua đời sống cao siêu và đứng trước mặt Đức Chơn Sư, y đă mạnh mẽ nhờ một ḷng cương quyết đă chứng tỏ trong khi thi hành sự hy sinh.

            C.W.L.- Câu nầy có nghĩa là con người ước nguyện đứng trước mặt các Đấng Chơn Sư phải hy sinh  Phàm Nhơn cho Chơn Nhơn. Đôi chân của Linh Hồn tức là Bản Ngă ở Trần Gian phải rửa trong máu của trái tim hay là của t́nh cảm, trước khi có thể tiến đến đời sống cao siêu.

            Đó là một định luật chung trong cơi đời nầy. Đứa  nhỏ rất vui thích với món đồ chơi của nó, nhưng lớn lên, những cuộc vui của thời thơ ấu không c̣n thích hợp với tuổi nó nữa. Nó bỏ đồ chơi ấy để đeo đuổi theo việc tập luyện trở nên giỏi giắn trong các cuộc thao luyện đúng đắn hơn. Nơi học đường, kẻ thiếu niên chăm học thường hay từ bỏ những cuộc nô đùa chơi giỡn ngoài trời, điều mà nó rất ưa thích, hay bỏ thú vui đọc sách và cặm cụi hoặc trong những động từ Hy Lạp, hoặc trong các cuộc khảo cứu khác, đối với nó, không hữu ích bao nhiêu. Nếu nó tập  luyện để tham gia một cuộc chạy đua, hoặc chèo thuyền, nó từ chối những buổi ăn thịnh soạn và ép ḿnh dùng những bữa cơm thanh đạm và chọn lựa kỹ lưỡng cho tới sau khi măn cuộc đua.

            Trên đường Huyền Bí Học, người ta biết rằng nhiều thú vui ở thế gian chỉ là một việc làm mất th́ giờ. Có nhiều trường hợp cần phải có một nỗ lực thật sự mới tránh xa chúng nó được; khi có tiếng gọi của đời sống cao siêu, kẻ chí nguyện đáp lời ngay, nhưng phải thương tổn đến Phàm Nhơn của ḿnh. Muốn đạt được đời sống cao siêu, y phải dứt bỏ liền đời sống thấp thỏi, về sau nó không c̣n quyến rủ anh được nữa. Từ khi con người hiểu biết đầy đủ đời sống cao siêu, đời sống thấp thỏi, đối với y, đă chấm dứt. Nhưng trong nhiều trường hợp y bị bắt buộc phải dứt bỏ đời sống thấp thỏi trước khi thật sự bước chân vào sự vinh quang và sự an lạc của đời sống tinh thần.Tôi biết có lắm người gặp nhiều cơ hội thuận tiện lại lùi bước trước điểm nhứt định nầy. Họ đă thất bại v́ không sẵn sàng hy sinh tất cả những điều họ đă thọ hưởng trước kia, bởi v́ bên ngoài, không thấy được cái ǵ đền bù lại. Thường thường, người ta sợ buông cái nầy ra trước khi có thể bắt lấy cái khác, nên bấu víu vào cái ít cao hơn, nhưng cũng chưa được thỏa măn, v́ họ thoáng thấy cái cao hơn nữa.

            Tất cả đều phải hy sinh cho tiếng gọi của Đức Chơn Sư. Người ta tự hỏi không biết hy sinh như thế có thể được không? Luôn luôn họ nghĩ đến điều đó và ước ao sẽ thi hành sự hy sinh cho kỳ được, nhưng khi cơ hội đến, liệu anh có thể hy sinh một cách trọn vẹn và không ḷng phiền muộn chăng?

            Biết bao nhiêu người đă làm việc nầy từ năm nầy qua năm nọ mà vẫn ngạc nhiên sao ḿnh không đạt được kết quả và không có mặt ở trong số những vị  Đệ Tử được Đức Chơn Sư kêu gọi đến bên cạnh Ngài. Lư do luôn luôn cũng là v́ Phàm Nhơn dưới h́nh thức nầy hoặc dưới h́nh thức khác ngăn trở họ không cho bước tới. Sự hy sinh hoàn toàn nầy không thực hiện  được bởi v́ họ kiếm cớ lần lựa qua ngày, hôm nay cho ra, ngày mai t́m cách lấy lại, với sự tự kiêu cho “Ḿnh là kẻ đă cho tất cả.” Thái độ nầy không giá trị ǵ hết. Phải thi hành sự hy sinh như là một việc rất tự nhiên và b́nh tĩnh. Người sắp thành công sẽ tự nhủ  rằng không có một thái độ nào khác hơn để giải quyết khi gặp phải cơ hội hy sinh rất lớn lao.


CHƯƠNG   3

QUI TẮC THỨ NHỨT

 

            Hăy diệt. . . .

            A.B.- Mỗi qui tắc ngắn đều khởi đầu bằng danh từ “Diệt.” Điều cần thiết là phải hiểu cho đúng nghĩa chữ Diệt ở đây. Có  hai cách loại trừ hay tiêu diệt một tư tưởng xấu, một hành động xấu.

            Chúng ta hăy khảo sát tư tưởng trước nhứt, v́ khi tư tưởng bị tiêu diệt, các thứ khác c̣n lại cũng bị tiêu diệt dễ dàng. Thí dụ: một tư tưởng xấu phát sinh trong trí óc một người nào đó, Y nghiệm thấy rằng tư tưởng ấy có một khuynh hướng tự lặp đi lặp lại măi.

            Thường thường, hành động đầu tiên của Y là chiến đấu với tư tưởng ấy bằng cách chống lại với tất cả sức mạnh của ḿnh và đánh đuổi nó mănh liệt như khi Y đối địch với một kẻ thù bằng thịt bằng xương vậy. Nhứt định va phải tống khứ tư tưởng ấy ra khỏi trí, Y chụp lấy hai vai nó, và liệng mạnh nó ra ngoài.

            Tuy nhiên, phương pháp nầy chưa phải là toàn hảo, v́ nó không biết định luật to tát đương vận hành khắp mọi nơi trong thiên nhiên là sức động và sức phản động, vừa cân nhau vừa chống nhau.

            Anh liệng một quả banh vô vách, banh sẽ dội trở lại, trúng anh nhẹ nếu anh liệng nó nhẹ, trúng anh mạnh nếu anh liệng nó mạnh. Cũng một nguyên tắc như thế đó được xác nhận khắp mọi nơi. Thí dụ anh đuổi một tư tưởng ra khỏi trí anh mănh liệt sẽ có một sức phản động rơ rệt phát sinh. Anh  không chống nổi sức phản động ấy, anh nhượng bộ tức là anh cảm thấy yếu đuối thật sự và tư tưởng nầy có thể trở lại trí anh với một sức mạnh càng mănh liệt thêm lên. Tinh lực anh  đem ra dùng thâm nhập vào tư tưởng, nó trở lại với anh và bắt anh phải mở lại một cuộc chiến đấu khác nữa. Ở t́nh trạng nầy, người ta có thể đôi khi chiến đấu trong  nhiều tuần lễ, nhiều tháng hoặc đến nhiều năm mà không thấy lợi ích ǵ cả. Tuy nhiên, nhờ thời gian, anh có thể diệt được một tư tưởng xấu, nhưng phải chịu tiêu hao một phần lớn sức lực, tinh lực và trí lực của anh cho đến đỗi cuộc chiến đấu ấy sẽ đưa đến kết quả là một phần nào trong lănh vực của Thể Trí bị chai cứng và suy nhược đi.

            Có một phương pháp khác để diệt tư tưởng là cách thay thế tư tưởng xấu bằng một tư tưởng tốt cùng loại tương phản nhau. Anh hăy bắt đầu khảo cứu kỹ lưỡng vấn đề và nhứt định coi tư tưởng tốt nào trái nghịch với tư tưởng xấu đó. Anh hăy  phát biểu tư tưởng mới trong trí anh một cách trầm tĩnh và khi nào tư tưởng xấu xuất hiện, anh hăy nghĩ đến tư tưởng tốt đối lập với tư tưởng xấu ấy để thay thế nó.

            Anh có thể thay thế tư tưởng như thế nầy:

            Tánh kiêu hănh thay thế bằng đức từ bi, sự nóng giận thay thế bằng t́nh thương yêu, sự lo sợ thay thế bằng ḷng hâm mộ, ḷng vật dục thấp hèn thay thế bằng tư tưởng trong sạch, tự trọng, danh dự và các tư tưởng tương tự khác.

            Anh cũng có thể chú định vào tư tưởng sùng kính Đức Chơn Sư, v́ đức tánh nầy biểu lộ luôn luôn  nơi Ngài và anh có thể quên ḿnh đi bằng cách tưởng nghĩ đến Ngài.

            Thể Trí của con người không thể nào tập trung một lúc vào  hai đối tượng khác nhau được, nếu anh chú định vào một tư tưởng tốt th́ tự nhiên tư tưởng xấu bị đuổi ra khỏi Trí mà không cần phải dùng sức đối kháng.

            Trí lực không bị phung phí và sinh lực cũng không bị tiêu hao. Tư tưởng tốt sẽ lấy sức lại liền, Thể Trí khỏi bị những tư tưởng xấu tấn công và không c̣n ứng đáp với tư tưởng cùng loại đó nữa.

            V́ vậy, tóm lại, anh đă diệt cái xấu bằng cách làm tăng sức và phấn khởi cái tốt tương phản với nó. Dường như khi rút hết sanh lực của tư tưởng xấu đi th́ nó chỉ c̣n là một cái vỏ trống không. Diệt tư tưởng theo cách nầy rất hiệu nghiệm.

            Thế nên, chúng ta có hai phương pháp để diệt trừ tư tưởng:

            Phương pháp thứ nhứt là phương pháp tiêu diệt.

            Phương pháp thứ hai là phương pháp khai triển.

            Phương pháp thứ nhứt thường được những người mới bước chân vào con đường Tả Đạo đem ra dùng, nó trái nghịch với Thiên Ư. Phương pháp thứ hai là sự tiến hóa đúng theo Thiên Cơ đă định. Hai con đường đó đều mở rộng cho chúng ta được tự do chọn lựa. Trong Cơi Thế Gian nầy, tất cả đều tiến hóa, tất cả đều theo con đường nầy hoặc theo con đường nọ.

            Những lănh vực trong Thái Dương Hệ của Đấng Tối Cao mà trong đó phát triển H́nh Thức của Ngài, có một phần tự do ư chí nghĩa là những lănh vực ấy có thể hoạt động ḥa hợp với Thiên Ư hay là hoạt động một cách độc lập như những cá nhân riêng biệt. Kẻ nào hợp tác với Đấng Tối Cao, chung cuộc sẽ theo Đường Chánh Đạo, c̣n kẻ nào cố tâm chọn lối sống riêng biệt th́ sắp sửa đi trên Đường Tà Đạo.

            Nói một cách tổng quát, tất cả điều ǵ dẫn đến sự cô độc thúc giục con người qua bên Tà Đạo, c̣n tất cả điều ǵ hướng về sự hợp nhất, dắt con người qua bên Chánh Đạo.

            Những người theo học phái Tà Đạo, diệt mất thiện cảm, t́nh thương và ḷng bác ái, bởi v́ họ nhận thấy rằng những đức tánh nầy là nguyên nhân của sự đau khổ và ngoài ra chúng nó c̣n ngăn trở sự khai mở những phép thần thông.

            Cho nên, phương  pháp tiêu diệt thường được những vị t́m luyện phép thần thông và mưu đồ lợi ích khác ưa thích, v́ những việc ấy được họ coi như là điều hoài băo của kiếp sống hiện tại, và như thế, để củng cố và thỏa thích bản ngă riêng biệt. Họ không bao giờ nghĩ đến hạnh phúc chung của toàn thể, v́ họ chăm chú vào sự tiến bộ và sự thắng lợi riêng của họ. Họ tiêu diệt mănh liệt, trong bản tánh của họ, tất cả những ǵ làm ngăn trở sự phát triển Phép Thần Thông. Họ cũng tiêu diệt luôn t́nh thương, v́ họ cho đức tánh đó dẫn đến sự phiền năo và họ tiến đến sự lănh  đạm rất dễ dàng bằng cách diệt mất t́nh thương hơn là bằng cách phát triển càng ngày càng  sâu đậm thêm ḷng cảm xúc.

            Phương pháp đem ra dạy chúng ta là phương pháp hợp nhất, ấy là con đường mà kẻ Đệ Tử phải ứng đáp với tất cả những tiếng kêu đau thương như trong quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” đă nhấn mạnh. Đệ Tử không được thu hẹp mà phải cố phát triển đời sống ḿnh. Y phải tùng phục Luật Trời không  được chống lại, tự nhiên, lúc bấy giờ, Luật Trời sẽ đứng một bên y.

            Phương pháp của Đệ Tử nhắc ta nhớ đến cách đấu vật của Nhựt Bổn và trong cuộc chiến đấu ấy, người thắng trận nhờ biết khéo nhượng tay cho kẻ nghịch. Y cứ nhượng và măi nhượng cho đến lúc nguy cấp, mới làm một cử động bắt buộc  đối thủ phải dùng sức và chính sức ấy trở lại hại đối thủ. Ấy là đúng theo nguyên tắc về đạo pháp Yoga bên Chánh Đạo. Đức Krishna nói về đạo pháp Yoga trong quyển “Thánh Ca” (Bhagavad Gita) như vầy: “Theo đó, không phí sức, không phạm pháp.”

            C.W.L.- Có nhiều người, khi nghe lời dạy bảo phải diệt sự ham muốn bắt đầu công kích dữ dội và muốn diệt tánh xấu nào, họ dùng toàn lực chống lại, gần như là tức giận lắm. Do đó, kết quả là họ khiêu khích sức đề kháng hung tợn nhứt trong tất cả những lực lượng nghịch bên trong hoặc bên ngoài. Một cuộc chiến đấu nghiêm trọng, v́ thế, bắt đầu.

            Người có đầy đủ ư chí, chung cuộc cũng đem được thắng lợi cho ḿnh, nhưng lắm lúc v́ phí nhiều sức lực, tinh lực và trí lực mà bị kiệt quệ và ṃn mỏi.

            Tôi có thể quả quyết rằng phương pháp thay thế rất hiệu nghiệm. Tôi đă thử áp dụng hai phương  pháp đó, ấy là một lối vơ Nhu Thuật (Ju Jutsu) tinh thần lợi dụng sức mạnh của đối phương để giúp ḿnh. Anh ít tấn công kẻ nghịch hơn là tập trung tất cả sức chú ư của anh vào đức tánh đối lập. Nếu, thí dụ một người kia có tánh lau chau và  hay nổi nóng, Y không nên công kích ngay tánh  xấu đó mà phải luôn luôn chú định tư tưởng của ḿnh vào sự điềm tĩnh, an lạc và nhẫn nại. Nhờ thói quen mà tư tưởng nầy, sớm muộn ǵ, cũng sẽ trụ lại được. Y sẽ nhận thấy rằng tánh lau chau và sự thiếu b́nh tĩnh xưa kia đă tiêu mất, không chống lại một cách thất vọng nữa.

            Nếu Y cứ bao bọc chung quanh ḿnh những h́nh tư tưởng: “Đừng nóng giận,” . . . th́  màu sắc của h́nh tư tưởng ấy luôn luôn là màu sắc của sự nóng giận và Y lại bị phản ứng xấu xa của h́nh tư tưởng ấy nữa.

            Nhưng, nếu Y tưởng mạnh mẽ như vầy: “Hăy điềm tĩnh, tử tế, an lạc” nó liền phát sanh những lằn rung động thuận lợi và những lằn rung động ấy, tự nó, đem lại sự b́nh tĩnh và sự điều ḥa.

            Chúng tôi không muốn lấy một tật xấu để chống lại một tật xấu. Chúng tôi muốn, không biết đến tật xấu nào cả và chỉ muốn khai triển đức tánh tốt đối lập. Kết quả cũng sẽ tốt đẹp như vậy, và chúng tôi sẽ đạt kết quả không có ǵ khó nhọc lắm.

            Chúng ta nói: “Hăy diệt ḷng ham muốn” chớ không phải bảo: “Hăy diệt t́nh cảm.” Những t́nh cảm thanh cao luôn luôn được khuyến khích, càng mạnh càng tốt, nhứt là về t́nh thương chân thật và ḷng sùng tín càng nên đào luyện cho có phương pháp.

            Khi trong ḷng một người phát sinh loại t́nh cảm thanh cao nầy, hào quang của Y liền nở lớn ra. Thể Vía của Y, trong trường hợp của một người thường, có thể chiếm một thể tích mười lần lớn hơn lúc b́nh thường và càng nở lớn hơn nữa khi con người biết dùng những Thể cao siêu của ḿnh.

            Khi thời kỳ nẩy nở cực độ của t́nh cảm chấm dứt, hào quang thu nhỏ trở lại, không như hồi trước, bây giờ lại to lớn hơn xưa chút ít nhờ nó vừa mới phát nở ra.

            Sự nẩy  nở nầy đưa đến kết quả đầu tiên là chất khí của Thể Vía kém đi rất nhiều, nhưng Thể Vía rút thật nhanh chất Thanh Khí lấp đầy khoảng mới nở lớn thêm ra và lấy lại gần đúng mức độ thường lệ của nó.

            Thể Vía rất cần thiết, nó giúp ta gây thiện cảm với kẻ khác, hơn nữa, nó dùng làm tấm gương cho Kim Thân (Thể Bồ Đề) rọi xuống. Ở nơi người tiến hóa cao, những màu sắc duy nhứt lộ ra trong Thể Vía là phản ảnh của các cảnh giới cao siêu. Thể Vía chỉ phản chiếu và phô bày những màu sắc tốt đẹp  nhứt mà thôi.

            Chơn Nhơn có ba cách giao thông với Phàm Nhơn. Thượng Trí phản chiếu xuống Hạ Trí. Kim Thân hay là Thể Trực Giác phản chiếu xuống cơi thấp kế bên là Thể Vía. Giữa Tiên Thể và óc xác thịt cũng có sự liên quan với nhau. Mối liên quan nầy là một điều rất khó hiểu nhứt. Đây là sức mạnh phi thường của ư chí biểu lộ, không cần nghĩ đến phương tiện để đạt tới mục đích. Ấy là phương pháp Cung thứ  Nhứt, Cung của Bà Annie Besant, Bà có một năng lực to lớn quyết định làm không cần nghĩ đến phương tiện đem ra thi hành, điều đó Bà sẽ nghĩ sau. Giới hạn của ư chí con người không biết đến đâu là cùng. Người ta bảo đức tin có sức dời non lấp bể. Tôi không biết rơ sự ích lợi đặc biệt của đức tin nầy sẽ đem lại ǵ cho con người, nhưng quả thật tôi thấy những kết quả phi thường do ư chí con người tạo ra không biết đâu là bờ bến.

            Chỉ có ư chí mà thôi, nhứt là trên những cảnh giới cao siêu, ư chí tạo ra nhiều kết quả không thể tưởng tượng được. Thí dụ, khi tôi nghiên cứu cách hiện h́nh, tôi phải học cho đúng cách thức thực hiện sự hiện h́nh ấy, theo như phương pháp tôi đem ra áp dụng, công việc đó hơi phiền phức cần có một sức hiểu biết khá chính xác về những chất khí khác hợp nhau lại và sắp xếp cho có thứ lớp những chất khí ấy một cách khéo léo.

            Thế mà, tôi được biết một người hoàn toàn không hiểu chi về tất cả những điều nói trên đây, nhưng nhờ có một ư chí mạnh mẽ vô cùng mà Y hiện h́nh được tức khắc khỏi phải hợp lại tất cả các yếu tố khác nhau cần thiết cho sự  hiện h́nh đó, không cần biết phương pháp phải theo.

            Một ư chí hùng mạnh vừa nói trên là một trong những năng lực tiềm tàng ở trong người của chúng ta, nhưng rất ít ai biểu lộ được ư chí ấy hầu tạo nên một kết quả phi thường như thế, khỏi phải mất công phu nhiều năm chuyên cần học tập.

            Thường thường, tôi tưởng cách giao thông dễ dàng hơn hết với Chơn Nhơn là hợp nhất Thượng Trí với Hạ Trí, đi từ tư tưởng cụ thể đến tư tưởng trừu tượng, hay là đi từ phân tích đến tổng hợp.

            Tuy nhiên, tôi thấy có nhiều trường hợp Bồ Đề Tâm phát hiện nhưng không làm rối loạn mối giao thông  thường lệ giữa Hạ Trí và Thượng Trí.

            Tôi nhờ một Đấng Cao Cả  dạy cho biết rằng sự hợp nhất giữa Kim Thân và Thể Vía là một con đường giao thông ngắn nhứt, nhưng muốn có đủ khả năng thực hiện sự hợp nhứt ấy cần phải chịu nhiều đau khổ ở những tiền kiếp. Nhờ cố gắng mở rộng ḷng bác ái và sùng tín mà nhiều người đem ḿnh vượt cao lên đến Cơi Bồ Đề và hợp nhất với Kim Thân. Tuy nhiên, Hạ Trí của họ chưa tiến đến thời kỳ có thể phát triển tới tŕnh độ hợp tác được với Thượng Trí và chính Thượng Trí, tự  nó, cũng chưa được  mở mang. Khỏi phải nói, ta cũng biết rằng Thượng Trí và Hạ Trí đều cần phải được khai triển v́ lư do hai Thể ấy không phải là kém quan trọng.

            Từ Thể Vía mà kẻ chí nguyện tác động đến Hạ Trí và v́ có ḷng bác ái và sùng tín mà nó sẽ rán sức khai triển Hạ Trí và học hỏi tất cả những điều ǵ phải học hỏi. Đệ Tử có một tấm ḷng thương yêu thâm thúy đối với Đức Sư Phụ ḿnh nên y sẽ  cố gắng đạt được sự hiểu biết mong muốn và do đó, càng cần thiết bao nhiêu th́ y càng mở mang trí thức của y bấy  nhiêu hầu để phụng sự Ngài.

            Trên Cảnh Giới cao siêu, Đệ Tử cũng cảm đến  Nhân Thể (Thể Thượng Trí). Y truyền xuống Nhân Thể ư thức Bồ Đề và bắt buộc Nhân Thể tiếp nhận sự hiểu biết đó trong phạm vi mà thể nầy đủ  năng lực lănh hội tùy theo phương tiện của nó.

            1.- Hăy diệt ḷng tham vọng.

            A.B.- Giờ đây chúng ta bắt qua qui tắc thứ nhứt đặc biệt đối với ḷng tham vọng. Người chưa tiến hóa phải chịu bất lực dưới quyền lệ thuộc gắt gao của sức quyến rủ của vật dục. Nó muốn cho được sung sướng tấm thân và hưởng những khoái lạc của xác thịt.

            Trước khi Thể Trí chưa thật khai triển rộng lớn và các năng lực trí thức chưa đủ sức mạnh, nó không sanh ḷng tham vọng hay là không có ư muốn quyền thế. Cái âm điệu riêng của cá nhân chính là âm điệu của trí tuệ, nó lại tạo cho con người có ư thức là ḿnh riêng biệt với kẻ khác, lẽ dĩ nhiên nó dắt con người đến việc ham muốn sử dụng quyền thế, hầu con người nhờ ư muốn ấy mà củng cố đời sống riêng biệt của nó. Y cảm  thấy ḿnh cao thượng hơn mọi người chung quanh, điều nầy phô diễn ra bằng sự ham muốn quyền thống trị về mặt vật chất, do đó mới toan t́m kiếm và sử dụng quyền hành chánh trị và xă hội.

            Trong địa hạt chánh trị và xă hội, ḷng tham vọng là động lực lớn v́ con người nhờ trí khôn của ḿnh gây được ảnh hưởng giữa đồng loại và xuất hiện như là một vị lănh tụ, đây cũng như là một thứ hương thơm xông lên mũi con người kiêu căng và ngạo mạn.

            Kế đó, con người bắt đầu khinh thường quyền thế bên ngoài mà y dùng để áp chế đồng loại ḿnh. Y lư hội được ư  niệm của một thứ quyền thế tinh vi hơn mà y t́m cách đạt cho được. Nó không c̣n nghĩ đến cách quy định luật pháp nhờ sự thống trị h́nh thể. Ḷng tham vọng của y tinh vi hơn: Y muốn thống trị và chỉ huy những bực trí thức – đó là ḷng tham vọng về trí thức – ḷng ham muốn trở nên là một nhà lănh tụ trí thức. Muốn có ḷng tham vọng như thế phải là người được khai mở về mặt trí thức rất cao.

            Về sau, khi ư muốn nói trên, không hợp thời nữa, ḷng tham vọng lại xuất hiện dưới một h́nh thức tinh vi  hơn, trong lúc con người bước qua đời sống tinh thần. Anh cho rằng những bước tiến bộ về tinh thần của anh vốn do chính anh thực hiện được và thực hiện cho anh. Chính anh muốn tăng trưởng, hiểu biết và tiến bộ. Kỳ thật, ḷng tham vọng xưa vẫn c̣n nắm giữ lấy anh, nó càng trở nên nguy hiểm hơn khi mà nó cao siêu hơn và tinh vi hơn.

            V́ lẽ ấy trong lời chú thích bổ di cho câu cách ngôn, Đức Chơn Sư có phụ thêm mấy lời tuyên bố đặc sắc nầy: “Người nghệ sĩ chân thành làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật, đôi khi thành thật bước vào con đường ngay chánh hơn là Nhà Huyền Bí Học tưởng rằng ḿnh không c̣n tham luyến cái ǵ cho bản thân ḿnh  nữa, nhưng, kỳ thật anh chỉ  nới rộng giới hạn của sự kinh nghiệm và sự ham muốn và đem quyền lợi của anh đặt lên trên những vật mà chân trời mở rộng của đời sống anh cung hiến cho anh.”

            Nếu Nhà Huyền Bí Học không hạn định sự ham muốn của ḿnh trong kiếp sống hiện tại, ḷng tham vọng của anh rất có thể c̣n sống sót. Anh không tha thiết làm một Nhà Lập Pháp hoặc làm một Vị Đế Vương hay là một Viên Trọng Tài trong địa hạt trí thức nữa, mà lại muốn chiếm một địa vị cao cả trong giới tinh thần. Anh nghiệm thấy rằng những kiếp luân hồi liên tiếp chỉ là một kiếp sống thôi và ḷng tham vọng của anh bao hàm tất cả thời gian của đời sống kéo dài nầy. Anh cũng c̣n muốn được cho là người đứng đầu, sống biệt lập và thành cái ǵ mà những kẻ khác không thành được. Ḷng ham muốn nầy cũng cần phải diệt trừ.

            Điều trước nhứt để khuyên nhủ những kẻ nào có ước vọng chia sớt đời sống đại đồng là phải diệt yếu tố chia rẽ. Tuy nhiên, không ích lợi ǵ mà đem đặt một lư tưởng như thế dưới mắt của người thường, v́ họ không đủ khả năng lao ḿnh liền từ đời sống Trần Tục nầy vào đời sống tinh thần, nơi đây họ sẽ hoạt động mà không thực hành điều chi cho bản ngă hay là cá nhân ḿnh. Nếu anh bảo một người thường hăy diệt ḷng tham vọng và kể như Y đem thực hành lời nói ấy th́ sẽ thấy không ích lợi ǵ. Y sẽ sanh tật lười biếng và không làm việc ǵ hết.

            Thí dụ, một người kia tiến hóa hơn và đang đi trên con đường Nhập Môn, anh sẽ hiểu qui tắc về ḷng tham vọng đó như thế nào?

            Anh sẽ áp dụng một cách  rất khôn ngoan danh từ diệt theo h́nh thức thấp thỏi của ḷng tham vọng. Sự thật anh phải xem chữ diệt ấy như là đồng nghĩa với sự thay đổi. Trong khi dứt ḷng ham muốn những vật ở Trần Gian, anh phải trù tính một mục đích cao cả hơn cho xứng với ḷng tham vọng của anh: Ấy là ḷng ham muốn học hỏi và tăng trưởng về tinh thần. Đến tŕnh độ nầy con người cũng chưa hoàn toàn cởi bỏ được ḷng tham vọng. Anh bước qua một t́nh trạng trung gian và sẽ tiến bộ rất nhiều, nếu mục đích của anh là đạt cho được sự hiểu biết tinh thần, hạnh ngộ Chơn Sư và sau rốt chính ḿnh anh thành một Đức Thầy (thành Chánh Quả). [2]

            Kỳ thật, tất cả những điều ham muốn trên đây cũng c̣n là tham vọng, nhưng chúng nó sẽ giúp kẻ Nhập Môn loại bỏ nhiều chướng ngại làm tê liệt Phàm Nhơn.

            Ḷng tham vọng nầy mà vị Đệ Tử phải lo diệt trừ không phải là không hữu ích cho y trong cuộc tiến hóa trước đây, v́ nhờ có ḷng tham vọng mà cá nhân y được củng cố và định h́nh.

            Trong những giai đoạn đầu tiên, con người mở mang nhờ y sống biệt lập. Sự tiến hóa của Thể Xác và Thể Trí bắt buộc phải tranh thủ và chiến đấu. Tất cả mọi giai đoạn của sự chiến đấu và tranh đua ấy có sự hữu ích của nó trong việc cấu tạo cá tánh và tạo cho y một sức mạnh cần thiết để duy tŕ trung tâm điểm của nó. Cần cho nó một chỗ trú ẩn để che chở những loạt tấn công bên ngoài, mà nhờ ở trong đó nó mới có thể phát triển được sức mạnh của nó và cũng cần cho nó những thắng lợi vinh quang của cảnh phù hoa thế sự, mục tiêu của ḷng tham vọng. Cũng như muốn cất nhà phải dùng dàn tṛ. Mới đầu, ḷng tham vọng dùng được nhiều việc: Dựng lên những bức tường và làm cho chúng được kiên cố hơn, tăng cường nghị lực, giúp đỡ con người, từ bước một, trong những bước tiến thủ của nó. Người nào mà ḷng tham vọng chiếm phần ưu thế cũng bóp nghẹt sự ham muốn ái ân và nhiều tật xấu khác, bởi v́ chúng nó làm trở ngại sự phát triển tinh thần và sự thủ đắc quyền năng. Như thế, con người chế ngự được những dục vọng thấp hèn của ḿnh.

            Huynh không nên bảo người đời: “Hăy diệt ḷng tham vọng,” bởi v́ ḷng tham vọng kích thích y và làm cho những tánh t́nh của y hiện ra, nhưng khi làm Đệ Tử rồi con người phải tiến đến đời sống tinh thần, y phải đạp đổ bức tường bao quanh ḿnh y trong những giai đoạn xưa kia. Khi nhà kiến tạo xong, dàn tṛ phải phá bỏ, cũng thế, sự tiến  hóa sau nầy của nhân loại là làm sao cho những bức tường ấy trong suốt, hầu tất cả sự sống nào cũng có thể xuyên qua được. V́ thế, những qui tắc nầy để cho Đệ Tử chớ không phải cho người ngoài đời.

            C.W.L.- Nơi người chưa tiến hóa ḷng tham vọng biểu lộ, thí dụ, như ham muốn của cải hầu thỏa măn ư muốn được sung sướng và những sự khoái lạc của xác thân. Về sau, khi trí tuệ mở mang, con người lại ham muốn quyền tước. Dù con người đă vượt cao lên trên ḷng tham vọng và sức quyến rủ của cơi đời nầy và t́nh nguyện làm việc giúp đỡ chúng sanh thường khi y cũng c̣n ḷng tham vọng muốn trông thấy kết quả những sự cố gắng của ḿnh.

            Nhiều người rất sẵn ḷng và rất đúng đắn dùng th́ giờ của ḿnh để làm việc phải, nhưng họ lại thích cho những kẻ khác biết và nói tốt cho họ như    vầy: “Thật mấy ông đó nhân đức và hữu ích quá.”

            Ấy cũng c̣n là ḷng tham vọng, có lẽ nhẹ hơn nhiều tánh khác, tuy đó là ḷng tham vọng riêng biệt của cá nhân, nhưng tất cả điều ǵ riêng biệt của cá nhân sẽ làm chậm bước người Đệ Tử.

            Phàm Nhơn phải hoàn toàn bị tiêu diệt. Đây là việc làm khó khăn v́ rễ đă ăn rất sâu, khi rễ ấy bị bứng lên con người chảy máu và h́nh như chính quả tim bị cắt đứt đi.

            Sau khi diệt được ư muốn thấy kết quả công việc của ḿnh làm, chúng ta hăy c̣n có ư muốn thấy việc làm đó được ban thưởng một cách trọng hậu. Có lẽ chúng ta c̣n tham muốn t́nh thương; chúng ta mong được thiên hạ hoan nghinh. Đắc nhân tâm, được thiên hạ yêu mến ḿnh là điều tốt đẹp và hữu ích, nhờ đó thế lực mà người sẵn có lại tăng gia. Nó giúp cho con người hoàn thành được nhiều công việc mà anh  không thể làm nếu không có chuyện đắc nhân tâm và nó cũng bao bọc quanh ḿnh một lớp không khí êm đềm khiến cho mọi thứ công tác đều dễ dàng.

            Nhưng ư muốn được ḷng dân chúng, nếu có tánh cách tham vọng th́ ta cũng nên tránh xa. Nói một cách hợp lư, chúng ta có thể nếm hạnh phúc của chúng ta nếu t́nh thương đến với chúng ta; điều đó tốt đẹp và chánh đáng – ấy là quả lành. Nhưng nếu t́nh thương quay đi chỗ khác th́ đừng mơ ước nó.Chúng ta không thể chụp lấy một người nào và  nói với họ rằng: “Tôi bảo anh phải thương tôi, tôi bảo anh phải thích tôi.” Nếu kẻ đối thoại sẵn ḷng, y sẽ thi hành theo lời ta, bằng như y không chịu ta không có ǵ xấu hơn là muốn bắt buộc người.

            Chúng ta phải vượt lên trên tất cả mọi giai đoạn của ḷng tham vọng c̣n tồn tại trong cơi thế gian nầy. Chúng ta phải cho v́ ḷng vui thích cho, dù là công việc của ta, dù là của bố thí là của chúng ta, dù là t́nh thương là của chúng ta hoặc là ḷng sùng tín là của chúng ta, luôn luôn cứ cho ra một cách rộng răi với tấm ḷng vui vẻ, thành thật, không hề nghĩ đến một sự ban thưởng nào.

            Đó mới thật là t́nh thương chân thật, chớ không phải là người không ngớt tự hỏi rằng: “Người đó thương tôi đến bực nào?” Trái lại phải nói: “Làm sao đem đặt dưới chân người tôi thương trọn vẹn tấm thân tôi để cung hiến cho người? Làm sao giúp ích cho người? Làm cái ǵ cho người đây?”

            Chỉ có t́nh thương duy nhứt ấy mới xứng đáng mang cái danh từ tốt đẹp là t́nh thương. Tất cả những điều trên đây, chúng ta đều hiểu biết rành mạch, nhưng cần phải đem nó ra thực hành. Dường như điều nầy đôi khi cũng khó khăn, v́ c̣n cần phải loại trừ một phần c̣n lại của bản ngă thấp hèn (Phàm Nhơn).

            Đối với người thường, có lẽ cũng như đối với người bước gần đến Thánh Đạo, tôi tưởng, tốt hơn là chỉ rơ đến một điểm nào đó và nói rằng: “Hăy diệt ḷng tham vọng thấp hèn.” Không ai đưa cho một người tân tín đồ một kiểu mẫu hạnh kiểm mà y có thể mong mỏi trau sửa tâm tánh theo đó sau nhiều năm cố công, gắng sức. Một người đang bị ḷng ham muốn những sự phù hoa kích thích, làm sao hy vọng cho y loại bỏ tất cả những thứ đó nếu không có cái ǵ khác thay thế ngay. Vả lại, dù y dứt  ḷng tham vọng đó, cũng không có cái chi chứng tỏ rằng một sự thay đổi quá đột ngột như thế tỏ ra thuận lợi cho y. Trước nhứt y phải biến đổi ḷng tham vọng của y, y có thể tùy ư thích như ham muốn học hỏi, tiến bộ trên con đường Huyền Bí Học, mở rộng ḷng vị tha; sau cùng, y có thể ước nguyện đến gần Đức Chơn Sư và được thu nhận vào hàng Đệ Tử.

            Hầu hết cả thảy chúng ta đều có những ham muốn như thế mà chúng ta gọi là nguyện vọng. Sự thay đổi danh từ, có vẻ như thay đổi toàn diện thái độ của chúng ta, nhưng dĩ nhiên, đó luôn luôn là ḷng tham vọng. Chúng ta sẽ tiến đến tŕnh độ mà những ham muốn đó tự chúng nó sẽ tiêu tan mất, bởi v́ chừng đó chúng ta sẽ hoàn toàn chắc chắn rằng sự tiến bộ của chúng ta chỉ tùy thuộc riêng nơi sự nỗ lực của chúng ta mà thôi, từ đó chúng ta sẽ không c̣n ham muốn chi cả. Đức Chơn Sư một ngày kia có nói rằng: “Đừng ham muốn cái ǵ hết, v́ ḷng ham muốn cũng c̣n yếu ớt, phải cả quyết.” Khi tưởng đến một đức tánh nào mà con t́m cách mở mang, con không nên nói: “Tôi sẽ mong có đức tánh ấy.” Phải nói rằng: “Tôi muốn có đức tánh ấy.” Và hăy làm cách nào đạt cho  được nó. Chỉ có phương pháp thực hành theo cách đó, v́ lẽ chúng ta được hoàn toàn tự do trong sự cố gắng hoặc không cố gắng. Chúng ta có quyền chọn lựa.

            Trước hết, là vấn đề biến đổi. Ḷng ham muốn tăng trưởng về tinh thần là một trong những sự ham muốn mà những người đến gần Thánh Đạo không nên tự khuyến khích lấy ḿnh, nhưng trong giai đoạn trung gian đó là lẽ tự nhiên.

            Là sinh viên, chúng ta sẽ phải đến giai đoạn trong đó chúng ta vận dụng tất cả tinh lực của chúng ta để giúp đỡ đồng loại của ḿnh và coi sự tiến hóa tinh thần của chúng ta như là điều phụ thuộc.

            Trước nhứt một lư do riêng tư là cần thiết. Kế đó, con người tiến lần lần đến sự quên ḿnh, chính v́ Đức Sư Phụ và muốn làm đẹp ḷng Ngài mà y cầu mong được tiến bộ; sau rốt, y tập làm một vận hà hữu ích cho đời, không màng kết quả. V́ vậy, phải hết sức thận trọng không cho điều ǵ ở bản thân ḿnh ngăn cản không cho nó biểu hiện đời sống thiêng liêng và biểu hiện không sai lạc chừng nào càng tốt chừng nấy. Và sự biểu hiện đó không làm xáo trộn sự an tịnh của nó. Không mong mỏi sức mạnh của nó được đem ra dùng cách nầy hoặc cách khác, nó chỉ là một khí cụ ở trong tay Đức Thượng Đế, Ngài sẽ dùng  nó cách nào và đặt nó ở nơi nào tùy Ngài thích.

            Lẽ tự nhiên chỉ lần hồi chúng ta có thể đạt thái độ đó, nhưng phải coi nó như là khuynh hướng của tư tưởng đáng t́m kiếm. Chúng ta phải bắt đầu quên ḿnh và kỹ lưỡng nhổ tận gốc bản ngă. Chúng ta không đạt được sự tiến bộ mà chúng ta đă hoạch đắc sau nhiều năm suy gẫm và học hỏi ư? Những kẻ thọ ân ta mà vẫn không tỏ ư ǵ biết ân, như trường hợp thường thấy? Tất cả những điều nầy không quan trọng. Hăy quên ḿnh, làm việc đừng nghĩ đến sự ban thưởng. Đừng lo sợ, v́ Quả Báo sẽ lănh phần thưởng phạt. Những định luật vĩ đại của Vũ Trụ sẽ không mất sự bất di bất dịch của nó, làm tổn thương một cách bất công bất cứ người nào trong chúng ta. Hăy vững niềm tin chắc như vậy. Những định luật ấy cầm cân công b́nh và hành động không hề sai lạc, dù là chậm. Hăy quên ḿnh; ấy là lời khuyên nhủ đầu tiên mà cũng là lời khuyên nhủ cuối cùng trên con đường Huyền Bí Học – ngoài ra không có phương pháp nào khác. Công việc nầy có vẻ quá nặng nhọc, nhưng phải làm cho xong và  trọn vẹn.

            Giờ đây, chúng ta đă đến câu chú thích thứ nhứt của Đức Chơn Sư Hilarion bổ di cho qui tắc thứ nhứt mà chúng tôi sẽ khảo cứu từng chi tiết. Khởi đầu bằng những ḍng chữ sau đây:

            Ḷng tham vọng là nỗi đau khổ đầu tiên của chúng ta, nó là tên cám dỗ đại tài của con người vượt cao trên đồng loại ḿnh. Chính h́nh thức đơn giản nhứt của nó là t́m kiếm sự ban thưởng.

            Ư niệm  nầy được diễn tả bằng những danh từ lạ lùng, nhưng vẫn đúng và không thể ngờ vực. Khi một người tự thấy ḿnh cao hơn  đồng loại về vài phương diện, sự cám dỗ đầu tiên thử thách y là tự coi ḿnh như một nhân vật quan trọng, điều nầy lại càng thúc đẩy y lên cao hơn nữa để t́m một sự khoái lạc càng tăng gia thêm trong sự kiêu hănh của y.

            Luôn luôn nó đổi chiều hướng những mục đích cao thượng nhứt của những người thông minh và có giá trị.

            Phải mở Thần Nhăn mới biết những lời nói trên đúng tới bực nào. Tôi tưởng rằng những môn đồ của các Đấng Chơn Sư đều có thói quen xem xét khả năng của tất cả những người mà họ gặp có thể trở nên những Đệ Tử. Ḱa là một người tốt thật, xét về vài phương diện. Tư tưởng đầu tiên anh gợi trong đầu chúng ta là: “Độ c̣n bao lâu nữa anh đến mức có thể trở thành Đệ Tử của Chơn Sư.” Đối với chúng ta sự ban thưởng trọng hậu nhứt, sự tiến bộ quí báu nhứt có thể ban cho một người là khi y đến tŕnh độ xứng đáng được một trong các Đấng Siêu Nhân nắm tay d́u dắt, được vậy bước đường tiến hóa tương lai của y có thể được bảo đảm. Từ đó, sự thành công chỉ là vấn đề của thời gian và lẽ tự nhiên cũng nhờ sự kiên tâm tŕ chí và của công phu khó nhọc.

            Đối với mỗi người, sự tiến bộ có lẽ chỉ là vấn đề thông thường của thời gian thôi, nhưng đối với đa số đó là một thời gian kéo dài khiến họ có thể bị nhập chung vào một khối và được đăi  ngộ như một toàn  thể. Khi con người tiến đến tŕnh độ mà người ta nghĩ rằng một vị Chơn Sư có thể săn sóc và d́u dắt các môn đệ của Ngài đặc biệt chú ư đến y và họ luôn luôn có ư muốn giúp đỡ y tiến đến điểm có thể thực hiện được sự tiếp xúc.

            Đừng bao giờ quên rằng: “Đây là điều mà chỉ con người xứng đáng mới được thọ lănh chớ không hề có sự thiên vị nào cả.” V́ đối với Đức Chơn Sư nếu đáng ra công khó nhọc dùng tinh lực cần thiết để huấn luyện một người nào,  Chơn Sư sẽ thực hiện ngay, nhưng với điều kiện là nhờ người Đệ Tử nầy mà Ngài đạt được một kết quả cao  hơn kết quả, cũng do thứ tinh lực đó, dùng vào một  công việc khác.

            Chúng tôi gặp nhiều người dường như không xa bao nhiêu điểm nầy, họ rất có thiện tâm cách nầy hay cách khác. Vài người, ở tất cả mọi phương diện, đều tỏ ra có nhiều triển vọng và theo ư chúng tôi tưởng, nếu họ biết cách điều khiển tinh lực của họ chín chắn hơn chút nữa trong chiều hướng tốt đẹp, họ sẽ có thể  sẵn sàng được thu nhận vào hàng Đệ Tử. Sau đó, chúng tôi lại thất vọng khi biết rằng việc đó không thành và họ vẫn sống một cuộc đời thường tục.

            Tôi đặc biệt nhận xét điều đó ở những trẻ em nam, nữ mà tôi luôn luôn có bổn phận t́m kiếm trong đám những em tỏ ra có nhiều kỳ vọng. Có lắm em rất gần điểm đủ năng lực thực hiện sự tiến bộ nầy nếu tinh lực các em được điều khiển vào đường ngay chánh, thế mà các em vẫn không chụp lấy cơ hội. Mảng tranh đua cao thấp trong cuộc sống thường ở Học Đường, các em bước vào một thế giới mà nơi đó tư tưởng thấp hèn ngự trị, không phải tư tưởng nầy xấu – tôi không muốn nói như thế, mặc dù đôi khi tư tưởng ấy cũng có thể xấu thật – nhưng mà các em bị lôi cuốn trong một thứ gió lốc do những  tư tưởng tương đối thấp kém thật. Thường thường mục đích trù định cho các em là thành công về vật chất như trở nên đại Kỹ Sư, đại Luật Gia hay là thành công trong sự điều khiển một xí nghiệp.

            Chẳng những cha mẹ, anh em mong mỏi được thấy con ḿnh đeo đuổi theo một chức nghiệp ở trần gian, khuynh hướng chung của dư luận người đời cũng muốn cho chúng nó được như thế. Dĩ nhiên, khó mà tránh khỏi hiệu lực của dư luận quần chúng không ngớt tác động đủ mọi cách vào đời sống của ta, và v́ thế, những trẻ em nầy dường  như tập hợp được nhiều đức tánh cần thiết nhưng ít khi đạt được mục đích cao cả. Chính chúng nó thích chức nghiệp có giá trị và hữu ích, nhưng đó không phải là mục đích cao cả.

            Tôi đă theo dơi và khảo cứu nhiều trường hợp dường như cho tôi nhiều niềm hy vọng đặc biệt và tôi nhận thấy rằng cũng cùng một việc như thế  xảy ra cho nhiều Linh Hồn trong một số kiếp luân hồi. Trong 12 hoặc 20 kiếp, chúng nó thu thập được hầu hết những đức tánh mong muốn, nếu cố gắng thêm một chút nữa chúng nó sẽ bước tới cửa Đạo, nhưng mỗi lần như vậy chúng nó quay ḿnh  đi chỗ khác và tóm lại, chính cũng luôn luôn v́ ḷng tham vọng những sự vật Hồng Trần làm chúng nó mất những  khả năng cao cả.

            Khi nói rằng những bực thông minh và có giá trị luôn luôn thay đổi chiều hướng, không theo  những mục đích cao thượng nhứt của họ, h́nh như Đức Chơn Sư Hilarion đă có nghĩ đến nhiều thí dụ tương tự như trước đây, bởi v́ những người mà những mục đích cao siêu mở ra trước mắt phải là những bực thông minh và có giá trị chớ không phải kẻ tầm thường. Ngài không nói rằng ḷng tham vọng giết hại cuộc đời của họ, Ngài chỉ nói có những khả năng cao thượng để cung hiến cho những kẻ bị ḷng tham vọng làm mê muội, lầm đường lạc lối. Thật vậy, một đứa trẻ muốn trở nên một Kỹ Sư, một Luật Gia hay là một Y Sĩ đại tài cũng không phải điều xấu, đó là những chức nghiệp tốt đẹp, nhưng hăy c̣n những mục đích  khác hữu ích hơn nữa và nếu có thể phân biệt và lựa chọn trong mấy mục đích ấy, chắc chắn rất tốt cho nó. Chúng tôi không thể nói rằng tất cả mọi hoạt động ở Thế Gian nầy đều xấu, nhưng chỉ nói có những hoạt động cao quí nhất mà thôi. Người ta có thể thích những hoạt động cao quí nhất đó mà không quên những chức nghiệp và giá trị của chúng ở tại Thế Gian. Tôi muốn nói rằng phần đông những người có giáo dục, có năng lực bậc trung sẽ có thể thành công trong các chức nghiệp đó, hoặc nhiều, hoặc ít, nhưng chỉ có những người nào có một quá khứ về phương diện thần bí mới có thể theo đuổi và thành công trên đường chật hẹp và khó khăn của kỹ luật Huyền Bí Học. Những kẻ theo dơi con đường nầy có thể làm được nhiều việc tốt đẹp hơn  những vị đại diện ưu tú nhất của một nghề nào đó. V́ vậy, nếu một đứa trẻ muốn theo con đường Huyền Bí Học và nếu tất cả mọi việc đều làm cho ta có ư nghĩ rằng nó có khả năng làm được th́ bất cứ ai cũng không nên cản trở nguyện vọng của nó.

            Và, tuy nhiên nó [3] là một ông thầy cần thiết. Những kết quả của nó trong miệng biến thành tro bụi. Cũng như sự chết và sự tan ră, cuối cùng nhắc nhở con người biết rằng làm việc cho bản ngă ḿnh tức là rước lấy sự thất vọng.

            Người muốn đạt cho được điều ham muốn nhiệt liệt từ lâu, về sau sẽ thường thấy rằng việc ấy hoàn toàn không phải là điều của y mong mỏi. Những ai ham muốn quyền thế và những địa vị cao sang đều nhận thấy rằng quyền thế một phần lớn là hăo huyền, tư bề đều bị hạn chế. Đó là trường hợp của nguyên lăo Nghị Sĩ Beaconsfield đă kể qua. Có lẽ chính khách nầy sẽ làm được nhiều việc lành hơn, bằng cách đem tất cả tinh lực của ḿnh để khảo cứu và truyền bá Huyền Bí Học. Tác phẩm của người nầy nay ít ai đọc, nhưng nội dung cho ta thấy được kiến thức của người về Huyền Bí Học như quyển tiểu thuyết kỳ dị của người viết nhan đề là Alroyd.

            Nhưng, mặc dù qui tắc thứ nhứt nầy xem như tầm thường và quá dễ dàng đi nữa, con cũng đừng vội vàng sang qua câu kế tiếp, bởi v́ những tật xấu của con người thường biến đổi một cách tinh vi và hiện ra dưới một h́nh thức khác trong tâm của người Đệ Tử.

            Người Đệ Tử bị những sự cám dỗ, những sự khó khăn đặc biệt. Người thường có thể kiêu hănh về kết quả nào đó đă đạt được. Đệ Tử Chơn Sư hiểu rơ rằng không có sự tiến bộ nào cho phép y được quyền kiêu căng phách lối. Vả lại, khi đă biết được Đấng Chơn Sư, ḷng kiêu hănh khó mà phát sinh, bởi v́ người thật biết Ngài không c̣n khoe ḿnh nữa. Có lẽ y có đủ khả năng thi hành nhiều việc mà kẻ khác không làm nổi, phần khác là lẽ đương nhiên, v́ cuộc đời đưa đẩy y luôn luôn hội kiến với một hay nhiều vị Huynh Trưởng có thể hoàn thành công việc vô cùng khéo léo hơn y, v́ vậy phải công b́nh nói rằng ít khi gặp những Đệ Tử Chơn Sư có tánh kiêu hănh. Đồng thời, tất cả điều nói trên đây thật hết sức tinh vi. Người Đệ Tử nếu không đề pḥng sẽ nhận thấy ḿnh cũng c̣n hănh diện cho rằng ḿnh không có ḷng kiêu hănh; hănh diện cho rằng ḿnh ăn ở khiêm tốn, dẫu rằng y có thể làm, tưởng và nói những điều phi thường. Hoặc giả, y có thể, ướm thử tiến lên hàng đầu bằng cách thúc đẩy người nầy, lấn người kia, t́m một lối đi riêng, v́ ḷng kiêu hănh khiến y tưởng tượng rằng chỉ công việc y làm mới là tốt đẹp và sự hiện diện của y trên tuyệt đỉnh là điều cần thiết. Nhưng, như Bà Blavatsky đă nói trong quyển “Những bước đầu tiên trên con đường Huyền Bí Học”: "Không ai có thể tự nói rằng tôi xứng đáng hơn, hay là tôi làm đẹp ḷng Đức Sư Phụ của tôi nhiều hơn các bạn  tôi, mà vẫn c̣n làm Đệ Tử của Ngài". Riêng về phần Bà Bác sĩ Besant, bà có nói một ngày kia rằng: "Đối với nhà Huyền Bí Học, một trong những qui luật thứ nhứt là giữ một địa vị khiêm tốn chừng nào tốt chừng nấy, hầu cho Phàm Nhơn của nó ít được người ta để ư đến chừng nào càng tốt chừng nấy." Những người khảo cứu về Huyền Bí Học mà chưa được nhận vào hàng Đệ Tử Chơn Sư có thể rất dễ bị lầm lạc v́ ḷng kiêu hănh và đó là điều khó khăn lớn lao cho những kẻ đă luyện được những phép thần thông. Họ nhận thấy rằng họ có thể thấy được nhiều vật vô h́nh mà kẻ khác không thấy, họ có thể đạt được nhiều sự hiểu biết mà kẻ khác không biết, họ bắt đầu cảm thấy ḿnh cao hơn đồng loại, v́ thế kết quả trên đây thường khá khốc hại. Khi chúng ta gặp những người có phép thần thông kiêu hănh thái quá, tôi tưởng chúng ta có thể quả quyết rằng họ chưa phải là bực cao siêu và nếu những quyền năng cao siêu của họ phát triển th́ họ cũng chưa giao tiếp được với Đức Chơn Sư, v́ lẽ không kiêu hănh là đặc tính hoàn toàn của người phải học bài học của y.

            Rất dễ nói rằng: "Tôi không muốn có ḷng tham vọng" ; nhưng không phải dễ khi nói rằng: "Khi Đức Chơn Sư nh́n vào tâm tôi, Ngài sẽ thấy nó hoàn toàn trong sạch ."

            Hai điều nầy rất khác nhau. Chúng ta tin tưởng quá dễ dàng rằng chúng ta không có ḷng tham vọng, không hề ích kỷ, không bao giờ nóng giận. Chúng ta tin tưởng nhiều việc khác nữa, nhưng Đức Chơn Sư với cái nh́n không bao giờ lầm lạc, phân biện những sự vật, chớ không phải lớp sơn giả dối mà chúng ta tô lên chúng nó khi chúng ta tự kiểm điểm lấy ḿnh.

            Người nghệ sĩ chân thành làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật đôi khi thành thật bước vào đường ngay chánh hơn Nhà Huyền Bí Học tưởng rằng ḿnh không c̣n tham luyến chi cho bản thân ḿnh nữa, nhưng, kỳ thật y chỉ nới rộng giới hạn của sự kinh nghiệm và sự ham muốn và đem quyền lợi của y đặt lên trên  những vật mà chân trời mở rộng của đời sống y cung hiến cho y.

            Một người cố chấp sẽ lưu ư chúng ta rằng người chân nghệ sĩ, hiểu theo ư nghĩa nầy, không ai t́m đâu cho ra. Điều đó không đúng. Tôi có giao thiệp nhiều với nghệ sĩ bên Anh cũng như bên Pháp. Nghệ sĩ thường hay đố kỵ và phê b́nh nghệ thuật thiếu hẳn sự dịu dàng nhă nhặn, nhưng tôi biết có một vài nghệ sĩ sống và làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật chớ không v́ giàu sang phú quí. Cách làm việc như vậy khiến cho y từ chối những cơ hội thúc đẩy y bước vào đời, v́ y nghĩ rằng không thể nào lợi dụng những cơ hội đó mà không phản bội nghệ thuật. Người v́ t́nh yêu nghệ thuật t́nh nguyện hy sinh như thế đă cởi bỏ hẳn bản ngă ḿnh trong một phạm vi nào đó. Nếu một h́nh thức cao siêu của ḷng tham vọng riêng tư c̣n ở trong ḷng y, ít ra y cũng diệt được một phần lớn cái bản ngă tầm thường khi y đă dứt được ḷng ham muốn tiền tài danh vọng. Có một giai đoạn mà nhà Huyền Bí Học đă hoàn toàn chế ngự được tất cả mọi dục vọng liên quan đến Phàm Nhơn, nơi đó nó vượt lên trên những điều tham vọng của người đời, nhưng y cũng c̣n ḷng tham vọng cho cá nhân riêng biệt của y hay là Chơn Nhơn mà sự tiến bộ có lợi cho y hơn là điều lành, điều  phải mà y có thể đem thi thố cho đời. V́ vậy, rất có thể một nghệ sĩ hoàn toàn hy sinh mọi tư tưởng lợi kỷ mặc dù không hiểu chi về Huyền Bí Học cũng bước vững vàng trên đường ngay chánh hơn là một Nhà Huyền Bí Học ích kỷ nói trên.

            Cũng nguyên tắc ấy được áp dụng cho hai qui tắc khác nhau, bề ngoài cũng giản dị như nhau. Con hăy nghiền ngẫm thâm sâu hai qui tắc nầy và đừng để tâm con bị gạt gẫm.

            Ở đây, Đức Chơn Sư đề cập đến những qui tắc 2 và 3 mà chúng ta sẽ bàn đến ở Chương sau và những qui tắc nầy bắt buộc ta phải diệt ḷng ham sống và ḷng ham sung sướng. Ngài pḥng bị cho ta chống lại ba loại dục vọng, bởi v́ Thể Trí chứng tỏ một sự xảo quyệt phi thường và cực kỳ tinh quái bằng cách t́m cho ta những lời bào chữa và viện đủ ngàn lư lẽ để hành động như thật là ta có ḷng ham muốn như  vậy. Có thể chúng ta không xem ḿnh như là người có đặc tài hay thông minh, nhưng nếu chúng ta kiểm điểm lại những lời bào chữa do chúng ta đặt ra để thi hành những điều ta muốn  th́ chúng ta buộc ḷng phải nh́n nhận một cách tổng quát  ở điểm nầy, chúng ta tỏ ra có nhiều khả năng phi thường.

            Bởi v́, hiện giờ đây, trước thềm Thánh Đạo, một sự sai lầm c̣n có thể sửa chữa được, nhưng nếu con ấp ủ nó trong ḷng con, nó sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái; chắc chắn con phải chịu đau đớn dữ dội mới hy vọng tiêu diệt nó được.

            C.W.L. - Đến đây chấm dứt lời chú thích dài do Đức Chơn Sư Hilarion thêm vào qui tắc thứ nhứt. Con người càng tiến bước trên con đường phát triển về Huyền Bí Học, càng chôn sâu trong ḷng ḿnh tất cả các tánh xấu chưa khai trừ được. Thí dụ ḷng ích kỷ, tánh xấu nặng nhất và thông thường nhất trong tất cả các tánh xấu, v́ nó là nguồn gốc của nhiều tánh xấu khác. Con người mà mọi biểu hiện bên ngoài của ḷng ích kỷ đă dứt, có thể tưởng ḿnh đă hoàn toàn giải thoát được tánh đó nhưng không dè tánh xấu ấy, tự nó, có thể chưa chịu bại trận lần nào. Người càng tiến bước trên Đường Đạo nó càng ẩn núp kín đáo bên trong. Trong khi chờ đợi, con người tăng cường dần  dần những sự rung động các thể của nó cho đến đỗi tất cả các tánh, dù tốt dù xấu, đều tăng cường mănh liệt một lượt. Nếu c̣n một tánh xấu nào mà chính ḿnh con người và bạn thân nó chưa thấy được, tánh xấu đó càng ngày trở nên mạnh mẽ thêm và tới một ngày kia, không sao tránh khỏi, nó sẽ dấy lên và bộc lộ ra ngoài. Rồi chính v́ sự tiến bộ lớn lao đă thực hiện được mà tánh xấu đó sẽ sinh ra một tai họa thảm khốc nhiều hơn là lúc nó c̣n ở trong một giai đoạn trước và sự diệt trừ nó chắc chắn sẽ làm cho ta đau khổ không ít.

            A.B. - Trên Đường Đạo, công việc phải làm cho kỹ càng tối đa. Trên thềm Thánh Đạo, những sự sai lầm c̣n sửa chữa dễ dàng, nhưng trừ phi khi nào vị Đệ Tử không ngớt ham muốn triệt để quyền năng trong những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ Nhập Môn, sự ham muốn nầy sẽ càng ngày càng mạnh thêm; nếu không nhổ tận gốc của nó ở nơi nào mà nó có căn cứ như tại cơi Trần, cơi Trung Giới và cơi Thượng Giới, vị Đệ Tử để sự ham muốn xâm nhập vào cơi Tinh Thần của Chơn Nhơn sẽ rất khó diệt trừ nó được. Ḷng tham vọng ẩn trú trong Nhân Thể (Thể Thượng Trí) rồi theo măi con người từ kiếp nầy qua kiếp khác. Những Thể: Xác, Vía và Trí chết đi, con người sẽ lấy các thể mới khác, nhưng Nhân Thể chỉ chờ đến khi chấm dứt kỳ gian của một dăy hành tinh (Kalpa) mới tan ră. Cho nên, Đệ Tử phải thận trọng đừng để ḷng tham vọng tinh thần xâm nhập vào Nhân Thể và đưa vào đó những yếu tố chia rẽ càng ngày càng giam hăm đời sống của y.

            Hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc.

            A.B. - Mặc dù câu cách ngôn nầy được đặt vào chỗ khởi đầu của Qui tắc 4, tôi muốn đem khảo sát nó nơi đây chỗ nó được áp dụng đặc biệt. Đây là lời giảng lư Qui tắc 1 do Đức Đế Quân viết ra. Đồng thời, chúng ta sẽ đề cập qui tắc và lời chú thích của Ngài, rồi đem đối chiếu lại sẽ thấy được nghĩa lư của nó. Cho nên, chúng ta hăy đọc: 1.- "Hăy diệt ḷng tham vọng, nhưng hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc." 2.- "Hăy diệt ḷng ham sống, nhưng hăy kính trọng sự sống như những kẻ ham muốn sống vậy." 3.- "Hăy diệt ḷng ham sung sướng, nhưng hăy sung sướng như những kẻ sống v́ hạnh phúc." Ham muốn quyền tước, ham sống và ham muốn hạnh phúc, đó là những điều thúc giục con người hành động ở Thế Gian nầy. Ấy là phần thưởng của Đấng Tối Cao hiến cho tất cả mọi người, nhờ đó mà sự tiến hóa phát triển. Tất cả mọi nỗ lực của con người để đạt cho được những phần thưởng ấy làm nảy sinh những tánh t́nh và thuận lợi cho sự tiến hóa. Nếu hết thảy những điều đó đột nhiên biến mất con người sẽ mất hết ḷng tham vọng, ḷng ham sống và ḷng ham sung sướng. Chính đó là một giai đoạn mà chúng ta đều trải qua trước khi sự ham muốn nồng nhiệt đời sống tinh thần hoàn toàn phát khởi trong tâm ta - giai đoạn đó gọi là Vairagya: Đoạn Tuyệt - nó sinh ra do sự nhàm chán. Con người nếm được mùi quyền thế và không t́m thấy hạnh phúc ở đó, làm việc hầu đạt cho được nó và nắm giữ lấy nó, nhưng nhận thấy rằng, đối với Chơn Nhơn, quyền thế là một điều thất vọng, không như người ta đă tưởng và không làm cho họ thoả măn. Chúng ta hăy lấy thí dụ cố Hoàng Đế Nga. Ở trên ngôi vị tuyệt đỉnh của quyền lực con người, Ngài quá chán ngán và hết sức ao ước thoát ly sự ràng buộc của nó. Không phải là chuyện hiếm có khi gặp trong lịch sử một người nắm giữ trong tay một quyền hành tuyệt đối và khi ḷng đoạn tuyệt bị kích thích liền từ bỏ ngôi báu của ḿnh. Kết quả: Một cuộc sụp đổ, một sự suy nhược của tất cả mọi lư do, từ đó đến giờ, thúc giục con người hành động. Y nói trong sự chán nản rằng: " Ích ǵ phải có một nỗ lực mới? Tôi không ham muốn quyền thế nên tôi không có lư do để làm việc. Tôi không ham sống, tại sao phải tiếp tục sống? Tôi không ham sung sướng v́ nó không làm cho tôi thoả măn, tại sao tôi phải chịu lao tâm khổ trí để đạt nó?" Đối với chúng ta câu hỏi như vầy: "Làm thế nào khích lệ người nầy trở lại hành động tiếp tục phát triển và tiến đến mức chót của cuộc tiến hóa của y? Làm thế nào kéo y ra khỏi giấc mộng hôn mê?" Phương pháp duy nhất là đánh thức trong tâm y, sức hoạt động của Sự Sống Thiêng Liêng, sự sống nầy trưởng thành bằng cách cho ra chớ không bằng cách thâu vô. Y đi đến một điểm biến chuyển của cuộc đời là nếu y c̣n muốn bấu víu vào bản ngă chia rẽ kiếp tái sinh sau nầy của y sẽ mệt mỏi và chán nản. Người ta có thể nào đánh thức trong tâm y, ḷng ham muốn đời sống chân thật ban rải ra ngoài để phụng sự chớ không phải khư khư nhốt ḿnh trong sự ích kỷ thấp kém. Trong t́nh trạng hiện hữu, người ấy, ở Thế Gian, là một phần tử vô dụng, vô dụng cho chính ḿnh, vô dụng cho tất cả. Trước khi đi đến mức đó, y đă là một mănh lực phụ trợ cho sự tiến hóa chung của Thế Gian, v́ bởi y chịu ảnh hưởng của những vật có sức hấp dẫn những kẻ thường nhơn hầu giúp họ tiến hóa. Trong t́nh trạng sụp đổ và vô dụng mà y đă nhốt ḿnh vào đó v́ mất những lư do thường t́nh và thấp thỏi bỗng có một tiếng gọi đặc biệt kêu  y - một tiếng gọi kêu đến ba trạng thái của con người - y đă mất những lư do hành động. Có lịnh truyền cho y: "Hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc vậy." Câu cách ngôn nầy kèm theo qui tắc I: "Hăy diệt ḷng tham vọng," khi đứng một ḿnh th́ sẽ dắt đến sự bất động. Bản ngă chia rẽ bị tiêu diệt rồi, con người không c̣n lư do ǵ để làm việc nữa, nó nhận được lời kêu gọi nầy: "Hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc vậy." Kế đến lệnh thứ II: "Hăy kính trọng sự sống như những kẻ ham muốn sống vậy." Và tiếp đến lệnh thứ III: "Hăy sung sướng như những kẻ sống v́ hạnh phúc" Đó là ba huấn lệnh mới, khởi điểm của một cuộc đời sống mới thay thế cho ba lư do cũ. Huynh hăy nh́n người nằm dài duỗi thẳng ra, h́nh như chết. Quả thật, đời sống h́nh thể đă bị tiêu diệt. Giờ đây, chính là đời sống Tâm Thức cần phải thức tỉnh. Ba tiếng gọi ấy đă giúp y làm được việc nầy. Y phải khởi sự làm việc lại, chính hiện giờ con người Tinh thần phải sống và hoạt động, khi mà Phàm Nhơn sẽ động tác như một cái máy. Con người sẽ sống mănh liệt hơn bao giờ hết, mặc dù tất cả sự ham sống, ham sung sướng và ham quyền thế đă tắt hẳn trong ḷng y. Ấy là câu trả lời cho câu hỏi nầy: Tại sao phải làm việc?

            Người nào không t́m được câu trả lời sẽ không chịu hành động và sự tiến  hóa của y bị ngưng trệ. Đó là điểm,  theo    Học,  mang tên  là tử  điểm (điểm chết) là t́nh trạng quân b́nh mà trong đó không c̣n sức xúc động. Những mănh lực cao siêu cân phân với những mănh lực thấp thỏi và tiêu diệt tánh ích kỷ và ḷng tham vọng xưa kia, nhưng chúng nó chưa đủ khả năng thúc đẩy con người tiến tới trước; y sẵn sàng đem hết tinh lực và ư chí của y cung ứng cho những mănh lực cao siêu ấy. Sự quân b́nh nầy không phải là mục đích của cuộc tiến hóa. Đâu là những lư do mới đưa ra cho con người hầu đánh thức và làm cho y hoạt động? Một lư do duy nhất thôi, tác động ở nội tâm, có thể làm khích động Linh Hồn; nó vốn ở trong sự đồng hóa với đời sống của Đức Thượng Đế trong Thế Gian và hoạt động như là phần tử của đời sống ấy, thay v́ hoạt động với ḷng ham muốn mong được ban thưởng. Không có sự chú thích nào của câu cách ngôn nầy hay hơn một đoạn ở trong phần đàm thoại thứ III của quyển Thánh Ca (Bhagavad Gita) nơi đó chỉ cho biết những lư do phải làm việc sau khi đă mất những lư do thường t́nh là ḷng ham muốn những kết quả của sự hành động:

            "Kẻ nào gặp sự hoan hỉ nơi Chơn Ngă (Chơn Nhơn) thỏa măn với Chơn Ngă và chỉ đẹp ḷng với Chơn Ngă, kẻ ấy mới đích thật là không c̣n ǵ phải thi hành ở Thế Gian nầy.

            Sự hành động cũng như sự bất động không c̣n liên hệ đến nó ở Thế Gian nữa, nó không c̣n lệ thuộc một sinh vật nào ở cơi đời nầy.

            Thế nên, con phải thoát ly và phải hành động; sự hành động là bổn phận của con, v́ khi hoàn thành sự hành động mà không tham luyến, con người đạt được Ngôi Cao Cả. Janaka và những vị khác, quả thật đă tiến đến bậc toàn thiện bằng sự hành động. Con hăy cố gắng hành động bằng cách nhắc nhở lấy con rằng mục đích của con là phụng sự Thế Gian." (Bhagavad Gita, Chương III, 17 - 20 ).

            Những điều diễn tả trên đây là một tŕnh độ cao diệu hơn tŕnh độ của con người mà chúng ta hiện đang đề cập đến. Chúng ta chỉ nói tới chỗ khởi điểm của con Đường Đạo dắt đến sự thực hiện hoàn toàn Chơn Ngă. Tuy nhiên, lư do đă được tŕnh bày trong quyển Thánh Ca đem áp dụng cho con người nói trên đây, khi mà y đă nhận thấy rằng Phi Ngă (Non Soi) không hàm chứa ǵ cả, th́ Y tới tŕnh độ đáp lời kêu gọi của Chơn Ngă duy nhất. Y sẵn sàng làm việc cho lư do nầy, là lo cho hạnh phúc của chúng sinh. Một người như thế, hiện giờ, có thể nghĩ đến cách hoạch đắc được sự hiểu biết thiêng liêng, không phải để cho ḿnh trở nên minh triết và cao quí, mà để giúp đỡ nhân sinh, ấy là mục tiêu mà Y dung nạp từ từ,  mục tiêu ở ngoài bản ngă riêng biệt của cá nhân Y.

            Rốt cuộc, Y sẽ bỏ lư do nầy, ḷng ham muốn, từ đó chỉ c̣n một sự muốn duy nhất thôi, ấy là có thể trở nên một bộ phận của cái ǵ cao hơn Y và để hoàn thành Thiên ư. Y sẽ tập dứt ḷng ham muốn, dù là ham muốn sự hiểu biết thiêng liêng hay là mong ước được trở nên một Đấng Chơn Sư, mà chỉ ham muốn làm một khí cụ của Đời Sống Cao Siêu. V́ thế, Y trở lại hoạt động như những kẻ có ḷng tham vọng, nhưng với lư do là làm một vận hà cho Đời Sống Cao Siêu, con người sẽ loại bỏ những dấu vết cuối cùng của ḷng tham vọng. Tiến đến điểm nầy, tinh lực của Y, ngay lúc đó, thâm nhập vào Thiên ư. Ấy là lư do thúc đẩy y làm việc. Trong những chương của Thánh Ca mới vừa kể trên, Đức Shri Krishna giải thích phải làm việc cách nào để đạt đến Ngôi Cao Cả, để nhận thức được sự hiện diện và quyền lực của Đức Thượng Đế. Kế đó, Ngài chỉ cho biết rằng sự kiện đạt đến Ngôi Cao Cả và nhận thức được Đức Thượng Đế, dắt đến một sự hoạt động của Đấng Tối Cao là để bảo tồn tất cả vạn vật:

            "Nầy Partha, Ta không c̣n cái chi phải hoàn thành hoặc hoạch đắc ở trong ba Cơi Thế Giới và trong khi đó Ta vẫn tham gia vào sự hành động. Bởi v́, nếu Ta không tham dự một phần việc kiên cố trong sự hành động, nầy Partha, Nhân Loại sẽ theo bước chân Ta khắp nơi. Ba Cơi Thế Giới nầy sẽ bị hủy diệt, nếu Ta không hành động.” (Bhagavad Gita, chương III, 22 - 24).

            Ngài làm việc cho hạnh phúc Nhân Loại, để duy tŕ sức chuyển động của bánh xe Vũ Trụ. Sự hoạt động của Ngài chỉ có một lư do là giúp cho Thế Gian tăng trưởng và phát triển cho đến khi chấm dứt chu kỳ của Địa Cầu. [4] Kế đó, Đức Shri Krishna chỉ mục đích nhắm vào sự làm việc của chúng ta là phụng sự và bảo tồn  Cơi Thế Gian và Nhân Loại. Dứt hẳn sự đồng hóa với mọi h́nh thức chia rẽ hầu đưa chúng nó đến chỗ hoàn thiện. Như thế, con người đồng hóa với Sự Sống, phải hiến dâng tất cả mọi công tác cho hạnh phúc, cho công việc phụng sự đồng loại và trọn cả Thế Gian, hầu tất cả muôn loài, từ động vật cho đến bất động vật, có thể tiến đến mức cuối cùng đă dành sẵn cho chúng nó, có thể trở nên cái ǵ mà Đấng Tối Cao muốn cho chúng nó trở nên, mặc dù, trong đời sống biểu hiện, chúng nó chưa tiến đến điểm đó. [5] Tất cả Vũ Trụ của Đấng Tối Cao đă có sẵn và toàn thiện trong tư tưởng của Ngài, dần dần và trải qua nhiều giai đoạn, Ngài đem tư tưởng nầy làm thành h́nh thức trong vật chất. Người ta không thể nào nhận thức được một phần Sự Sống của Ngài mà không làm việc như chính Ngài đă làm việc cho sự biểu hiện hoàn toàn tư tưởng nầy, nghĩa là làm chuyển động bánh xe của Sự Sống cho đến kỳ hạn chỉ định.

            Con người không cần thiết phải phấn khởi v́ lư do chính đáng và thiêng liêng nầy mà tin tưởng đến Đức Thượng Đế hay là chú ư đến Ngài; dù sao Y cũng cảm biết được Sự Sống thiêng liêng trong Thế Gian, Y ứng đáp lại và phụng sự Sự Sống thiêng liêng nầy với tấm ḷng sùng kính tuyệt đối. Đó là trường hợp, thí dụ, của ông bạn già của tôi. Ông Charles Bradlaugh, mặc dù ông không tin tưởng ở Đức Thượng Đế như thời đó người ta đă tin, nhưng ông luôn luôn sẵn sàng đương đầu với mọi sự đau khổ và nguy hiểm, đem thân của ḿnh lấp ngang miệng hố để cho kẻ khác làm phương tiện tiến lên, như một cái cầu, đến đời sống cao siêu. Tuy nhiên, những kẻ nào cảm biết được Thiên ư đến đỗi lấy đó làm lư do chính của đời sống ḿnh nên giữ đừng làm rối trí kẻ khác chưa đủ sức suy nghĩ  như họ và c̣n hành động dưới ảnh hưởng của ḷng ham muốn. Kế đó, Đức Shri Krishna nói rằng:

            "Cũng như kẻ vô minh hành động v́ quyến luyến sự hành động, nầy Bharata, cũng thế, bậc Thánh Nhân phải hành động mà ḷng không tham luyến, với mục đích duy nhất là giúp đỡ Thế Gian.

             Bậc Thánh Nhân không nên làm rối trí những kẻ vô minh c̣n quyến luyến sự hành động, nhưng, khi hành động trong sự hợp nhất với Ta, y cần phải làm cho mọi hành động đều được vui thích. " (Bhagavad Gita, III, 25 -26).

            Người tinh thần hết ḷng làm việc cho đời và nêu gương v́ lẽ người thế noi theo cách hiểu biết của các vị Thánh Hiền  mà làm việc. Một người làm mục tiêu cho quảng đại quần chúng trông vào, tự nêu một gương sáng, tức th́ kẻ khác sẽ bắt chước cách hành động của Y. Nếu Y lănh đạm với sự hành động, những kẻ thấp hơn Y cũng làm thế; sự lănh đạm của Y có thể có một lư do cao thượng mà họ không biết, và lẽ dĩ nhiên họ sẽ nghĩ đến một lư do khác. Đối với họ, ḷng lănh đạm có tính cách bất động và sự tiến hóa của họ v́ thế bị ngưng trệ.

            Một người nào đó sẽ có thể nói rằng: "Tôi không thiết đến kết quả ở Thế Gian cũng như ở trên cơi Thiên Đường; như vậy tại sao giúp đỡ đồng loại, theo dơi con đường dắt đến sự thỏa măn nầy? Tại sao thúc giục họ hành động nhắm vào những mục tiêu mà tôi xét thấy vô ích, nhắm vào những thắng lợi hăo huyền? Tại sao tôi tận lực cho ra những điều không dung nạp được?" Câu trả lời không c̣n làm cho người ta hoài nghi nữa. Những kết quả của sự hành động nầy hết sức cần thiết cho đa số người; trừ phi họ không ham muốn những cảnh vui Hồng Trần, những sự sung sướng, những điều tham vọng, những mục tiêu, chúng thúc giục họ hành động, khiến cho sự tiến hóa của họ sẽ bị ngưng trệ. Nếu con người không t́m những sự thỏa măn ở Thế Gian, có thể mục đích của họ hướng về Cơi Thiên Đường. Dù sao, họ phải được khuyến khích để hành động, tăng trưởng, và tiến hóa. Nếu huynh làm cho họ tin rằng (thuyết phục) tất cả điều đó là vô ích họ sẽ không tiến bước.

            Cho nên, đối với sự tiến bước của nhân loại, điều quan trọng là có một gương mẫu đưa ra, gương mẫu của một công việc được hoàn thành trọn vẹn, đầy đủ. Luôn luôn khó mà thực hiện sự toàn thiện ngày nào mà công việc làm c̣n bị ḷng ham muốn thúc giục; mặc dù, trong trường hợp nầy, con người có thể làm được một gương mẫu đáng khen về nghị lực và kiên nhẫn, nhưng việc làm của Y có pha đôi chút tính cách lợi kỷ sẽ không cho gương mẫu của y trở nên toàn thiện. Y sẽ có thể làm việc một cách đúng đắn, nhưng đó là điều y sẽ thực hiện cho Y. Kỳ thật, Y không tận lực thi hành, tư tưởng của Y không hoàn toàn hướng về công việc làm, mà cố bám vào một phần kết quả riêng biệt cho cá nhân Y.

            Đức Thượng Đế làm việc trong sự toàn thiện hầu cho sự tiến bộ của Thế Gian được vững bền, thế nên, chúng ta hăy làm việc với một tinh thần như thế. Chúng ta phải làm việc giỏi giắn hơn những thế nhân có nhiều khả năng hơn hết, v́ lẽ chúng ta có lư do là phụng sự Đức Thượng Đế và Nhân Loại, chớ không v́ quyền lợi riêng của chúng ta. Chúng ta muốn làm việc là v́ Nhân Loại. Chúng ta từ khước việc đi t́m khắp nơi những hoạt động chỉ v́ ḷng vui thích tầm thường mà hoạt động. Có lắm người làm việc như thế để thỏa thích sự hoạt động của họ v́ nếu họ sống nhàn hạ, không làm ǵ hết, họ chết ṃn trong sự buồn chán, khuynh hướng đó không giống chút ǵ với khuynh hướng của con người đă đẹp ḷng v́ Chơn Ngă (Chơn Nhơn). Không bao giờ họ buồn chán, không bao giờ họ t́m kiếm một phương thế để thỏa măn sự cần phải hoạt động của họ. Họ làm việc v́ tin là bổn phận của họ, và nơi nào không có bổn phận bắt buộc phải làm, th́ họ không ham muốn hoạt động. Trong phần đối thoại thứ IV của Thánh Ca, Đức Shri Krishna giải thích bằng những lời nầy về sự hành động, sự hành động xấu và sự bất động:

            "Thế nào là hành động? Thế nào là bất  động? Chính những bậc Hiền Triết cũng bối rối về điều đó. Bởi thế, ta sẽ giải thích cho con biết thế nào là hành động, khi biết rồi con sẽ giải thoát khỏi sự khổ.

            "Cần phải học hỏi để biết sự hành động và phân biệt thế nào là hành động không chân chính và thế nào là bất động. Huyền bí thay con đường hành động!

            Kẻ nào có thể thấy được bất động trong hành động và hành động trong bất động, [6] kẻ ấy là bậc Hiền Triết ở giữa nhân loại, y vẫn ḥa hợp với mọi người, dù khi có hành động ." (Bhagavad Gita, IV, 16 - 18).

            Người ta nói chính những bậc Hiền Triết cũng không nhận thức được rơ ràng giới hạn của tất cả những điều trên đây. Sự hành động tốt, đối với con người, là một bổn phận, bổn phận biểu thị sự sống của Đức Thượng Đế mà vẫn  tồn tại vị trí của ḿnh. Như thế, y cần phải làm một vận hà, hoặc như một nhân viên và làm việc với sự hiểu biết, sự chính chắn và thận trọng mà con người không tham vọng đă chứng tỏ. Huynh hăy so sánh công việc của y với công việc của người tham vọng, huynh sẽ thấy công việc ấy cũng đàng hoàng và tốt đẹp v́ nó đă được hoàn thành với một tinh thần hy sinh tuyệt đối và sự quân b́nh triệt để. Nếu huynh gặp một người không làm việc như thế và cũng không cầu mong kết quả của sự hành động, vậy mà y tỏ ra ít hoạt động hơn là y phải làm, y làm việc kém nghị lực, kém hứng thú và kém mực thước v́ y không c̣n lư do riêng tư nữa th́ huynh đứng trước mặt một người, trước khi đi đến sự bất động, y chưa học xong bài học "bổn phận phải hành động". Tôi được nghe nói về nhiều người rằng: "Mấy người đó chưa hành động mà đă bắt đầu bất động, v́ họ đă nhận thức được trong trí họ rằng kết quả của sự hành động là hăo huyền, trước khi họ tiến đến điểm mà họ sẽ có thể làm việc một cách bất vụ lợi. Trong Thế Gian nầy, họ là những người vô dụng, không làm việc ǵ cả. Họ cũng không phải là những người tinh thần để cung hiến tinh lực ḿnh cho sự tiến hóa của nhân loại."

            Người tiến đến tŕnh độ mà kết quả của sự hành động không c̣n quyến rũ y được nữa, được quyền chọn lựa giữa hai lối sống: Y có thể lánh ḿnh vào rừng sâu, sống cuộc đời cô độc, hoặc là tích cực tham gia vào những công việc của người đời. Nếu y tiến hóa khá cao để làm việc mạnh mẽ trên Cơi Thượng Giới hay là Cơi Tinh Thần (Cơi Bồ Đề), đời sống bất động nầy ở Thế Gian, đối với y, có thể tốt nhất. Y giúp ích kẻ khác đắc lực hơn là việc mà y không thể làm được trong khi xung quanh y đầy những náo động của Trần Ai. Tuy nhiên, Đức Sư Phụ thường cho y thác sinh xuống Trần Thế để trong kiếp chót nầy, y làm gương mẫu của sự hành động chân chính ở Thế Gian, sẽ sống một cuộc đời hoàn toàn hoạt động và biểu lộ tất cả tinh lực làm ra đặc tính của con người đầy tham vọng nhất.

            Ở trên Thế Gian nầy, khi một người sống một đời sống tinh thần, thường khó mà xác định, do triệu chứng bên ngoài, xem có phải y hoạt động v́ ḷng ham muốn hay là v́ bổn phận. Nhưng có một sự thử thách không sai lầm, luôn luôn giúp chúng ta nhận xét lư do riêng cho chúng ta. Huynh có cảm giác ǵ khi kết quả của sự hành động bày ra trước mắt huynh ? Nếu ḷng tham vọng đóng vai tuồng tối thiểu trong công tác của y th́: Ví như thất bại, y sẽ tỏ ra chán nản, mà thành công, y sẽ hớn hở vui mừng. Nếu sự thất bại không làm cho y đau khổ th́ không có một yếu tố riêng của bản ngă xen vào công việc của y. Y đă làm việc ví như chính Đức Thượng Đế làm việc cho hạnh phúc nhân loại, y sẽ biết rằng sự thất bại không phải là sự thất bại của Đấng Tối Cao, nó thuộc về Cơ Huyền Diệu  của Ngài. Về quan điểm của Đấng Tối Cao th́ sự thất bại không hề có, nhưng trong đời sống con người, sự thất bại thường cũng rất cần thiết cho sự thành công  cuối cùng, cũng như sự thành công cần thiết cho sự thành công tối hậu cuối cùng. Vai tṛ của các con của Đấng Tối Cao, đôi khi phải chịu cảnh thất bại để giúp chúng trở nên dơng mănh hơn và hiểu được rằng không có sự thất bại nào mà không có sự thành công tương ứng.

            Thật sự, con người làm việc như  một thành phần của đời sống của Đức Thượng Đế chăng ? Chính điều đó chứng tỏ ḷng hoan hỉ hoàn toàn của y, dù nó thành công hay thất bại. Nếu ḷng hoan hỉ của y hoàn toàn không một mảy tức tối, giận hờn th́ công tác của y có mục đích đặc biệt là bảo tồn nhân loại, và không trói buộc người chủ động y, dù ở trong sự hành động đi nữa, cũng giải quyết được vấn đề bất động và cũng tập sử dụng các thể và những vật tính (gounas) (những đặc tính của vật chất) [7] nhưng mà không c̣n đồng hóa với chúng nó nữa. Trong trường hợp thông thường, những vật tính (gounas) dẫn dắt con người, nhưng trên Đường Đạo, chính con người dẫn dắt những vật tính. Phần đông con người bị những luồng sinh lực thiên nhiên lay chuyển và thúc giục họ làm việc, nhưng khi con người để chân trên Đường Đạo rồi th́ sử dụng lại những nguồn sinh lực ấy như là khí cụ để làm việc, y tách ra khỏi chúng nó và tận dụng lại chúng nó. Người tham vọng là món đồ chơi của vật tính, bị chúng nó sai khiến, trong khi y tưởng rằng y làm việc, nhưng kẻ nào chế ngự được chúng nó, bắt chúng nó đi theo con đường tiến hóa do Đấng Tối Cao phác họa th́ không c̣n đồng hóa với chúng nó nữa. Trong Thánh Ca có dạy chúng ta về điều đó như vầy:

            "Kẻ nào từ bỏ tất cả tham luyến về kết quả của sự hành động, luôn luôn bằng ḷng lấy ḿnh và không t́m đâu làm nơi nương tựa, kẻ đó không hoạt động, mặc dù y làm một việc nào đó.

            "Không ham muốn, làm chủ được Thể Trí và bản thân ḿnh, từ bỏ tất cả mọi khát vọng, đó chỉ hoàn thành sự hành động về mặt Thể Chất thôi và không phạm tội.

            "Bằng ḷng với tất cả cái chi hoạch đắc được một cách tự nhiên, ḷng không có sự xung đột phản khắc nhau, không đố kỵ, thản nhiên trong sự thành công cũng như trong sự thất bại, y không bị trói buộc, mặc dù y hành động.

            "Đối với bực siêu thoát không ḷng tham luyến mà Thể Trí ở trong sự minh triết và tất cả mọi hành động đều là sự hy sinh, Nghiệp Quả hoàn toàn tiêu tán. (Bhagavad Gita, IV,20 -23)

            Người đă đặt ḿnh ở vào tử điểm rồi, như ḷng lănh đạm, cần phải lo t́m kiếm phương thế để tăng cường trong tâm ḿnh những ảnh hưởng cao siêu hầu nhờ sức kích thích của chúng nó chọn lấy đời sống hoạt động về tinh thần. Y phải thực hành tham thiền; y phải lợi dụng tất cả mọi t́nh cảm sẵn có; y phải nắm lấy một cách cẩn thận tất cả mọi cơ hội phụng sự; y phải hoạt động, dù không ham muốn hoạt động, dù trái với ư muốn thích ngồi một chỗ, bất động, y cần phải triệt để hành động. Nếu y biết được một người mà y đem ḷng kính trọng và gương mẫu của người đó khuyến khích y hoạt động y sẽ trải qua một tŕnh độ trung gian nầy rất nhanh chóng, bằng không sự tiến hóa của y có thể bị gián đoạn. Nếu y muốn làm đẹp ḷng một người mà y kính mến, y có thể dùng ḷng ham muốn ấy như là chất kích thích cho đến lúc y sẽ cảm thấy được sự thúc giục của Sự Sống thiêng liêng, v́ thế, ḷng ham muốn ấy sẽ kéo y ra ngay khỏi t́nh trạng nản chí ấy.

            C.W.L.- Khi đă diệt được ḷng tham vọng riêng tư, con người nhận được huấn lệnh: "Hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc." Thường thường, có ba giai đoạn nối nhau tiếp diễn: Trước tiên là làm việc để đạt cho được kết quả ở Trần Gian, kế đó đến giai đoạn con người vẫn tiếp tục làm việc, cũng c̣n v́ một kết quả được về cơi Thiên Đàng. Nhiều Giáo Hội khác nhau xác định mạnh mẽ các điều trên đây là phải từ bỏ Cơi Thế Gian để sống trường cửu ở trên trời; chúng ta sẽ càng đến gần bệ ngọc của Đức Thượng Đế hơn và vân vân. Hầu hết cả thảy mọi người đều trải qua hai giai đoạn nầy: Làm việc cho một mục tiêu ở Thế Gian, kế đó làm việc cho một mục tiêu ở Thiên Đàng. Đôi khi, người ta đi xa hơn, làm việc để làm đẹp ḷng các Đấng Thần Minh của họ. Thí dụ nhiều tín đồ Cơ Đốc Giáo, làm việc v́ ḷng yêu Đức Chúa Jésus, điều nầy thật đáng kính, v́ ở đây không c̣n ḷng ích kỷ nữa; ấy là một tŕnh độ cao hơn tŕnh độ của kẻ nào làm việc v́ một kết quả riêng, dù là được về Cơi Thiên Đường. Có một tŕnh độ cao hơn nữa; là người ta làm việc v́ ḷng ham mến sự làm việc, ít ai hiểu được như thế, nhưng có nhiều nghệ sĩ lại hiểu. Vài người trong bọn họ, làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật, dù ở ngành nào mà họ trau luyện cũng vậy. Một nhà đại thi hào nói rằng: "Nếu tôi ca hát, ấy là tôi không làm ǵ khác hơn được", có ư nói rằng ông bị bắt buộc phải phô diễn cái điều do ông chuyển đạt lại cho đời như một bức thông điệp. Một người khác cũng có ư tưởng như thế, nói rằng ông quí chuộng thi phẩm của ông không phải v́ ông là tác giả của bài ấy, mà trái lại, v́ chúng nó không phải là của ông. Cũng thế, có lắm người làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật, không v́ họ, không v́ danh tiếng của họ, không v́ làm vừa ư kẻ khác, cũng không v́ làm đẹp ḷng Đức Thượng Đế - trong ư nghĩa mà thường hiểu như vậy - nhưng v́ họ có cảm tưởng như ḿnh được giao phó một sứ mạng mà họ phải làm cho xong. Đến tŕnh độ nầy thật là điều hết sức tốt đẹp.

            Sau rốt, đến tŕnh độ cao hơn hết là con người làm việc v́ biết ḿnh là một phần tử của Đức Thượng Đế và như thế, y nguyện ước hoàn thành Cơ Tạo Hóa. Nhiều kẻ, đôi khi, lầm tưởng rằng đó là mục đích của họ trong bầu không khí của những tư tưởng thấp hèn không ngớt bao phủ họ. Ở vào phương diện nầy, chúng ta có thể luôn luôn tự ḿnh thử thách lấy ḿnh, có lẽ, có ích lợi là khi nào chúng ta bị thất bại, điều nầy, thỉnh thoảng xảy đến cho chúng ta. Như  Bà Chánh Hội Trưởng đáng kính của chúng ta thường giải thích rằng, nếu chúng ta chân thành và tận tâm làm việc như những phần tử của Thượng Đế, như những phần tử của toàn thể th́ không có cảnh thất bại nào có thể làm rối trí chúng ta được, bởi v́ chúng ta biết rằng Đức Thượng Đế không bao giờ lầm lạc. Nếu, hiện giờ, sự hoạt động nầy hay sự hoạt động nào khác, đối với chúng ta dường như là một sự thất bại, sự thất bại ấy đă được Thiên Cơ dự liệu trước, v́ thế, nó cũng cần thiết và tóm tắt rằng đó không phải thật sự là một việc thất bại. Xét về mặt Thiên Lư, không có sự nỗ lực nào vô ích cả, như thế, chúng ta không có ǵ phải buồn rầu. Một điểm duy nhất cần phải khảo xét lại là xem có phải lỗi ở chúng ta chăng ? Nhưng nếu chúng ta cố sức hành động mà việc làm của chúng ta không thành công, chúng ta biết rằng tất cả đều tốt đẹp.

            Tuy nhiên, những lư do như thế không nên làm cho chúng ta trở nên hờ hững hay lănh đạm để mặc cho thời gian đi qua. Một trong những bổn phận của chúng ta, là làm cho đồng loại chúng ta từ bỏ thuyết bất động và dắt họ đi trên con đường phụng sự. Chỉ sự thành công nầy cũng đem lại cho đời một ích lợi chắc chắn. Quả thật, tất cả đều làm cho tốt đẹp hơn, nhưng chỉ khi nào chúng ta thật tâm cố gắng. Nếu con người, trong phần việc được giao phó mà không rán sức hành động, kết quả thu được phải kém hơn kết quả của nó phải có, bởi v́ kết quả nầy đáng lẽ phải tốt đẹp hơn. Khi chúng ta triệt để thi hành tất cả và chỉ khi đó, chúng ta mới có quyền nương dựa vào tư tưởng nầy: "Tôi đă làm tất cả những điều tôi có thể làm được; mặc dù tôi không thành công, tôi xin nghiêng ḿnh trước một quyền lực cao hơn quyền lực của tôi". Tôi dám cả quyết rằng điều ǵ đă làm trọn vẹn th́ thật không mất mát và rốt cuộc, mỗi người đều đạt được những điều thuận lợi cho y nhất. Dẫu cho huynh có đạt được một kết quả trong ngày hôm nay hay là trong một triệu năm nữa, việc đó không có ǵ quan trọng; nếu tư tưởng triết lư cao siêu nầy chỉ là một ảo tưởng thôi, chính đó là một ảo tưởng rất dũng mănh. Cảm thấy ảo tưởng ấy đối với tôi, có giá trị, tôi tưởng, đối với kẻ khác, cũng có giá trị như thế và nếu chúng ta có thể khuyên bảo họ nắm lấy cơ hội đầu tiên để tiến bước, chúng ta sẽ giúp ích cho họ thật lớn lao. Về lâu, điều đó có sự sai biệt như thế nào đối với Đức Thượng Đế, mà nơi Ngài tất cả đều di chuyển, tôi không biết rơ, nhưng chắc chắn Thiên Ư muốn cho chúng ta tiến bộ và nếu quả vậy Ngài cũng muốn cho sự tiến hóa của chúng ta được hoàn thành càng sớm càng tốt. Lẽ cố nhiên, chúng ta phải ăn ở thuận theo Thiên Ư bằng cách bước mau trên Đường Đạo, dắt đến sự hợp nhất với Ngài và bằng cách giúp đỡ kẻ khác cùng đi một đường với chúng ta. V́ thế, tôi không thấy tại sao có thể lănh đạm khi người ta bước vào Cửa Đạo (Nhập Lưu) trong thời kỳ nầy tại Thế Gian, hoặc trong kỳ gian của Dăy Hành Tinh hiện thời, hoặc người ta chờ đến Dăy Hành Tinh sau. Tôi sẽ hết sức cố gắng giúp đỡ đồng loại tôi bước vào Cửa Đạo tại Dăy Hành Tinh nầy.

            Một sự thách thức khác, có lẽ sẽ được xác định xem chúng ta có bằng ḷng thi hành công tác nào đó thuộc về công tác của Ngài không? Xem chúng ta có bằng ḷng giúp đỡ những người cao thượng hơn hết cũng như những người thấp thỏi hơn hết không? Đối với Đức Thượng Đế, trong phạm vi của sự tiến bộ không có ǵ cao mà cũng không có ǵ thấp, dẫu rằng trong sự tiến bộ ấy, phần tử nầy của Cơ Tạo Hóa có thể tiến đến một điểm cao, c̣n phần tử khác tiến đến một điểm thấp. Điều đó cũng giống như một bánh xe quay : trong sự chuyển động nầy, có một phần nào của bánh xe đến gần đỉnh, nhưng trong lúc quay tṛn, toàn thể bánh xe đều tiến tới. Phận sự của chúng ta là trợ lực cho sự chuyển động tiến tới trước và thúc đẩy bất cứ phần tử nào của bánh xe.  Sự sống ở tất cả mọi tŕnh độ là sự sống thiêng liêng. Ở nhiều giai đoạn, sự sống nầy phát triển hơn sự sống khác - sự phát triển trong con người hơn sự phát triển trong thú vật, sự phát triển trong thú vật hơn sự phát triển trong thảo mộc, sự phát triển trong thảo mộc hơn sự phát triển trong khoáng vật - nhưng, khắp mọi nơi, đều là sự sống thiêng liêng, và nếu chúng ta giúp đỡ cho sự tiến bộ của một trong những phần tử của nó là chúng ta hối thúc sự hoàn thành Thiên Cơ. Cái ǵ cao cả hơn hay thấp thỏi hơn, ấy là h́nh thể dùng để làm khuôn mẫu cho Sự Sống. H́nh thể giúp cho sự phát triển được lớn lao nhiều hay ít, nhưng Sự Sống vẫn là một. Quan điểm của Đức Thượng Đế khác hơn quan điểm của chúng ta nhiều, dĩ nhiên nó phải bao gồm một chút tư tưởng nầy: Kỳ thật, tất cả Sự Sống đều như nhau, ở phương diện nầy, không có ǵ cao hay thấp, v́ toàn thể đang chuyển động. Điều đó không làm trở ngại nhiều người mà Sự Sống phát triển hơn, có nhiều khả năng hơn để giúp đỡ, c̣n lắm kẻ khác chỉ có thể giúp đỡ một cách ít oi thôi. Huynh hăy nhớ kỹ điều nầy: Những người nhận thấy rằng việc làm của họ được thành tựu nhất, tốt đẹp nhất mà thường bị xem là thấp kém, dù sao chớ nên nản chí ngă ḷng, họ cũng thúc đẩy bánh xe ấy, họ cũng góp phần vào sự phát triển Sự Sống thiêng liêng ấy.


CHƯƠNG   4

QUI TẮC  2 – 4

 

            2.- Hăy diệt ḷng tham sống.

            Hăy kính trọng sự sống như những kẻ ham sống muốn vậy.

            A.B. - Những điều khảo sát trước đây có liên quan đến một điểm nào đó của câu cách ngôn nầy và câu kế tiếp. Cũng những nguyên tắc chung ấy áp dụng cho sự diệt ḷng tham vọng (trừ phi những hoạt động của kẻ làm việc như y có ḷng tham vọng) cũng được đem áp dụng luôn cho cả hai câu trên đây. Vị Đệ Tử phải diệt ḷng ham muốn đời sống cá nhân riêng biệt, tất cả điều ǵ làm tăng trưởng tinh lực của bản ngă và nuông chiều điều ham muốn riêng tư của y. Niềm vui thích phát triển đời sống của y bằng cách không ngớt đưa vào những yếu tố bên ngoài nhiều hơn trước cũng chưa phải là đủ cho hạnh phúc của y.

            Khắp cả Thế Gian, người ta thấy những người t́m kiếm một cách nồng nhiệt, một đời sống thung dung hơn, phong lưu hơn, họ chiếm đoạt nó bằng cách biểu lộ những dục vọng khác nhau, họ phấn đấu, họ tranh đua hầu hoạch đắc và tích trữ không ngớt những vật do sự tưởng tượng cuồng nhiệt và vô kỷ luật của họ đ̣i hỏi, đó là nguyên nhân của sự hỗn loạn vô biên về phương diện cá nhân và xă hội. Vị Đệ Tử chính ḿnh, phải diệt ḷng ham muốn nầy là sự tăng trưởng, khai triển đời sống cá nhân và chia rẽ. Y phải bước vào đời sống cao siêu và chỉ có một điều ham muốn mà thôi là có mặt ở khắp cả bốn phương trời trong Vũ Trụ  nơi đó sự hiện diện của y có thể biểu hiện được sự sống duy nhất. Trong Vũ Trụ nầy có nhiều việc đáng làm. Khi mà tất cả ḷng ham muốn đời sống cá nhân và chia rẽ bị đàn áp, tất cả những sự ưa thích riêng tư bị tiêu tán những nhu cầu thời đại của nó mới qui định sự tuyển chọn con người tinh thần. Linh hồn siêu thoát làm việc bất cứ ở nơi nào cần đến sự giúp đỡ, nó chỉ nguyện ước có một điều là được làm một dụng cụ ở nơi nào nó hữu dụng. Đời sống của nó chỉ có giá trị và hữu ích là do theo Đời Sống Đại Đồng mà nó là một thành phần.

            Con người khi đă mất ḷng ham sống, bây giờ gặp bước nguy cơ nh́n đời sống Thế Gian không c̣n giá trị nữa, v́ Y không c̣n tha thiết đến của cải mà cuộc đời đem cung hiến cho Y. Y có thể nh́n cơi đời nầy và đồng loại ḿnh một cách khinh bỉ. V́ tin chắc rằng ḿnh là bậc cao siêu, Y có thể xem rẻ kẻ khác, cho họ là điên dại, khi nói tới họ Y dùng lời lẽ nghiêm khắc, sau rốt Y xem những lư do của họ là điều đáng thương hại. Thái độ của Y, đối với họ, rất là tự nhiên nhưng đầy vẻ nguy hiểm và thật là xấu xa. Nó chứng tỏ rằng, nếu Y có thể nhận thức được Phi Ngă là thế đó th́ Y không hiểu Chơn Ngă là ǵ. Nếu một sự sống nào, dù không được tiến hóa mà làm cho Y sinh ḷng khinh bỉ, Y lại quên rằng sự biểu hiện nầy là thành phần của Đấng Tối Cao, v́ thế, bức thông điệp sau nầy, đối với Y, là cần thiết và khẩn cấp: Hăy kính trọng sự sống như những kẻ tham sống muốn vậy."

            Y hỏi chúng tôi tại sao cần phải xem sự sống với ḷng tôn kính, chúng tôi đáp rằng: "Bởi v́ sự sống là thiêng liêng," ấy là giai đoạn công tác của Đức Thượng Đế và đối với Ngài, công tác ấy cũng rất quan trọng như giai đoạn cao siêu của nó hiện giờ là giai đoạn của người nầy. Khi dùng danh từ thấp và cao, chúng tôi tự đặt ḿnh vào phương diện tiến hóa của thời gian, sự thay đổi liên tiếp làm ra thời gian. Không phải Đức Thượng Đế nh́n xem vũ trụ Ngài như thế, đối với Ngài, không có cái nào lớn, không có cái nào nhỏ, không có cái nào ghét bỏ, không có cái nào mến yêu. Tất cả vạn vật đều tiến đến một khoảng đường nào đó ở trên con đường mà tất cả nhân loại phải đi qua hầu đạt cho được một mục đích chung. Một h́nh thể thô kệch cũng rất cần thiết cho Cơ tiến hóa như các h́nh thể được gọi là cao siêu. Vị Đệ Tử, v́ thế, cần phải tránh sự sai lầm là khinh bỉ một sự sống nào và cho nó không có ǵ quan trọng v́ viện cớ rằng nó tiêu biểu cho một tŕnh độ thấp thỏi của sự tiến hóa; tất cả vạn vật, ở vào vị trí đặc biệt của nó, đều tốt đẹp và hữu  ích.  Sự nh́n nhận Chân Lư căn bản nầy sinh ra bổn phận thương yêu đồng loại chúng ta, v́ họ thuộc về thành phần của Đời Sống Đại Đồng  c̣n  đang  tiến  hóa.

            Ở vào tŕnh độ thấp, con người có lẽ thiếu lương tri, ham vật dục, biếng nhác, càng ít được người thương mến. Y không đủ sức hấp dẫn là do h́nh thể chớ không phải do Sự Sống. H́nh thể làm cho ta mù quáng. V́ lẽ chúng ta miệt thị người, v́ lẽ chúng ta quay mặt chỗ khác, điều đó tỏ ra chúng ta cao thượng hơn người, cho nên ḷng khinh bỉ do ở ư niệm của sự cao thượng sinh ra. Thật sự, nếu chúng ta cao hơn một người nào đó chỉ do ở tŕnh độ tiến hóa của h́nh thể mà thôi. Phần tinh hoa vốn vẫn  in nhau. Những khả năng mở ra cho đồng loại chúng vẫn đồng giá trị với những khả năng của chúng ta và bắt đầu từ trung tâm điểm khi quan sát sẽ thấy: "Ta sao, người vậy." Người đă theo con Đường Đạo rồi, tập nh́n xem sự vật ngay ở trung tâm cũng như ở châu vi; v́ thế, y phải kính trọng Sự Sống và nhận biết rằng Đời Sống Đức Thượng Đế chỉ là một. H́nh thể là cái vỏ mà Đức Thượng Đế xét thấy cần thiết để cho Ngài biểu hiện trong đó một thời gian và nếu nó cũng khá tốt đẹp cho Đức Thượng Đế, nó cũng khá tốt đẹp cho chúng ta.

            Vũ trụ cần phải tŕnh bày những h́nh thể thuộc về tất cả mọi tŕnh độ của sự tăng trưởng, không có một h́nh thể nào cao hay thấp; tất cả đều như nhau. Một sự sai biệt hiện ra là khi nào sự tiến hóa chính của chúng ta c̣n tiếp diễn, nó tiêu mất, lúc mà sự tiến hóa của chúng ta chấm dứt. Phải bỏ sự quan tâm của chúng ta về h́nh thể, phải để qua một bên tất cả điều ǵ có liên quan đến h́nh thể và kết quả của sự hành động, trước khi có thể kính trọng sự sống trong tất cả mọi biểu hiện của nó. Con người mà sự tiến hóa mới trải qua một giai đoạn, chưa trọn vẹn, c̣n bị nhốt ḿnh trong những h́nh thể bằng ḷng giúp đỡ những người thân cận với y, và đáng giúp đỡ. Y chưa sẵn sàng hỗ trợ những người tầm thường, hèn mọn hơn hết. Trái lại, kẻ nào giúp đỡ người bằng cách tự đặt ḿnh vào quan điểm của Đức Thượng Đế sẽ giúp đỡ tất cả mọi người. Bổn phận của Y là cứ thi hành mà không phân biệt người nào cả. Sự hoạt động của Y chính là sự hoạt động của Đức Thượng Đế. Y giúp đỡ những người mà Y gặp gỡ, dù họ cao thượng hay không. Y kính  trọng Sự Sống ở ngay trung tâm của mỗi người. Y giúp đỡ nơi nào cần đến sự giúp đỡ. Y không để cho tự Y phải rối trí v́ Sự Sống không được hoàn toàn hiện diện ở trong con người. Biết rằng công tŕnh của Đức Thượng Đế tiếp diễn thế nào để khích lệ Sự Sống, Y chú tâm vào sự giúp đỡ cho Sự Sống được biểu hiện. Y tránh việc nói rằng: "Tôi thuộc về Bản ngă, c̣n ngoài ra không có ǵ hết." Y làm việc cho sự biểu hiện, kính trọng và thương yêu Sự Sống và như thế, không c̣n tỏ ra tánh khinh bỉ, sự sai lầm nầy khi dựng lên bức tường Bản Ngă chia rẽ,sẽ ngăn cản Sự Sống không cho phát triển nơi Y.

            Có một sự sai biệt vô cùng rộng lớn giữa cách thức mà hai người quan sát Sự Sống, một mặt, một người là thường nhơn, và mặt khác, là kẻ sống trong cảnh TrườngTồn Bất Diệt. Người thứ hai thấy Sự Sống kèm theo tất cả những khả năng của nó, khả năng mà nó nhận thấy ngay từ bây giờ, dù chúng nó chưa được phát triển, bởi v́ nó sống trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt và khi Sự Sống được khảo sát dưới phương diện nầy, người ta thấy nó ở trong tất cả sự mỹ lệ của sự toàn thiện đă thực hiện được của nó. Khi Sự Sống tiến chưa đến một mức cao lắm, chúng ta chỉ thấy nó vào giai đoạn đặc biệt là ở trong thời gian chớ không phải ở trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt; v́ thế chúng ta không kính trọng Sự Sống đúng mức. Linh Hồn siêu thoát sống trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt nh́n thấy Sự Sống đúng như hiện trạng của nó, vừa khảo sát lại giai đoạn hiện tại, trong giờ phút đặc biệt mà Sự Sống tiến triển đến đó, Linh Hồn nầy không thể cảm giác một sự ghê tởm nào, v́ biết rằng giai đoạn đó là hoàn toàn thông thường thôi.

            Cho nên, một người kia càng tiến bước lên cao, Y càng tỏ ra khoan dung với tất cả Sự Sống và ḷng từ ái của Y, đối với tất cả, càng rộng lớn, bởi v́ ḷng từ ái của Y gần với ḷng từ ái của Đức Thượng Đế. Trong khi diệt nơi tâm ḿnh sự ham sống nghĩa là sự ham muốn của Bản Ngă chia rẽ, vừa kính trọng Sự Sống như những kẻ ham sống muốn vậy, con người bắt đầu đạt được ư niệm của cảnh TrườngTồn Bất Diệt, nó giúp cho Y kính trọng Sự Sống, dù Sự Sống có biểu hiện cách nào đi nữa. Tất cả ḷng khinh bỉ, đối với kẻ thấp hơn Y, v́ thế, không c̣n . Y thấy mọi người ở vào vị trí của họ như là sự biểu hiện của Sự Sống Toàn Mỹ.

            C.W.L.- Ở đây, cũng như đối với qui tắc trước, Giáo Lư đem ra áp dụng cho hai tŕnh độ khác nhau. Hẳn nhiên, kẻ mới học Đạo phải lo diệt ḷng ham muốn sống ở ngoại giới, theo cách nầy hơn là cách khác, nếu cách khác đó làm trở ngại công việc hoàn thành. Con người, khi làm Đệ Tử Chơn Sư, phải triệt để vui ḷng thi hành nhiệm vụ ǵ đặt trên bước đường y đi, đến một nơi nào hoặc một chỗ nào khác, bỏ cái nầy hay cái kia mà vẫn không phật ư chút nào. Nếu y nói: "Tôi làm loại công tác nầy, tôi làm cho nó tốt đẹp và tôi không muốn làm công việc ǵ khác. Ḷng kiêu hănh của Y có thể làm cho y vấp ngă. Chúng ta hăy thí dụ Y bị thu hồi một nhiệm vụ mà Y thấy ḿnh đủ khả năng thi hành và Y được giao phó cho một nhiệm vụ khác, đối với Y, c̣n mới mẻ quá, Y cũng phải nhận lănh nó với sự im lặng hoàn toàn. Sự thay đổi nầy có thể có hai lư do: Hoặc là nhiệm vụ mới rất cần kíp hơn, hoặc là vị Đệ Tử đă học qua công tác đặc biệt nầy, nên tốt hơn là để cho Y học làm một công tác khác.

            Ở ngoài những kỷ luật đặc biệt của Đệ Tử, chúng tôi thường gặp những lực tiến hóa hành động như thế. Mỗi người thích làm điều mà Y có ư làm cho tốt đẹp, nhưng mà những lực tiến hóa muốn khai triển hoàn toàn con người, và rất thường lắm, chúng nó thu hồi công tác của Y đang thi hành và giao phó cho Y một công tác khác mà Y chưa quen thuộc, bởi v́ những lực ấy muốn đánh thức trong tâm Y một năng lực mới. Nếu khởi đầu mà Y làm công việc không hành tựu, Y phải nhẫn nại, tŕ chí làm cho đến khi thành công. Đây là cách thức mà sự tiến hóa tác động một cách tổng quát và Chơn Sư  cũng áp dụng nguyên tắc ấy vào sự đào luyện Đệ Tử Ngài. Nếu Đệ Tử hoàn thành trọn vẹn một nhiệm vụ nào th́ nhiệm vụ ấy c̣n có thể giao phó cho Y trong một thời gian, nhưng rồi, th́nh ĺnh, Đệ Tử có thể phải đi công tác ở một nơi khác, và công tác mới đó, Đệ Tử phải sẵn sàng thi hành với ḷng vui thích như công tác cũ.

            Ở tŕnh độ cao, công việc ấy cũng c̣n là xác thật đối với đời sống của Chơn Nhơn. Vị Đệ Tử khi nh́n lại những kiếp quá khứ của ḿnh, biết rằng Chơn Nhơn của Y đă theo dơi vài đường lối, khai triển vài đức tánh và xét theo phương diện cá tánh, Y có thể thành công bằng cách vẫn theo dơi những đường lối ấy. Tuy nhiên, Y có thể bị chuyển hướng. Cá tánh hay là Chơn Nhơn phải thọ lănh những điều mà nó thu thập được trong lúc học hỏi của nó và ở đó chúng ta phải loại bỏ tất cả mọi ư niệm rằng công tác nầy hoặc đường lối nầy đáng thích hơn công tác khác hoặc đường lối khác. Chúng ta biết được điều ấy khi mà chúng ta gặp những người thuộc về một Cung hay là một chủng loại khác hơn chúng ta. Chúng ta cảm thấy rằng Cung hay chủng loại của chúng ta là tốt đẹp hơn hết. Về mặt lư thuyết, chúng ta công nhận Cung hay chủng loại của kẻ khác đồng giá trị Cung hay chủng loại của chúng ta, nhưng trong chúng ta, rất ít người tiến đến chỗ gây được t́nh thiện cảm thân hữu thật sự với họ. V́ thế, thí dụ, một người say mê những công tŕnh Triết Học và Khoa Học có thể phải khổ tâm khi bị bắt buộc phải phục vụ theo con đường nghệ thuật hay nghi lễ. Khó mà xoay chiều mối thiện cảm của chúng ta và để nó thong thả hướng về đường khác. Tuy nhiên, ấy là một trong những điều cần phải tập làm, nếu sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Khi một người có được ư niệm hợp nhất th́ Y có một lối phán xét vô tư. Thật thế, đối với Y, tất cả các loại công tác đều như nhau. Không phải y có thể thi hành tất cả một cách dễ dàng như  nhau, nhưng Y thấy chúng nó đều dắt đến một điểm chung. Người chưa tiến hóa không bao giờ hiểu thấu được điều đó. Y luôn luôn tưởng rằng người mà đă đứng ở phương diện cao siêu th́ ḷng lạnh nhạt, cứng rắn và không có thiện cảm. Đây là lư do: Con người ít tiến hóa cứ tưởng nghĩ đến ḿnh và ham muốn đủ thứ lạc thú riêng cho ḿnh, trong khi kẻ khác chỉ nghĩ đến nhiệm vụ thi hành và đặt vào đó tất cả sức mạnh  của ḿnh. Khi Thiên Cơ bắt đầu lố dạng như vầng thái dương xuất hiện trên chân trời, con người chỉ thấy có Thiên Cơ, hiến dâng cho Thiên Cơ tất cả tinh lực của Y và tận lực hoàn thành những ǵ để phụng sự tốt nhất cho Thiên Cơ, cho đến trong những chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống hằng ngày. Y móc chiếc xe của Y vào tinh đẩu. [8] Y có nhiều lư tưởng rất cao siêu, hoàn toàn xa lạ với trí thông minh thường. V́ vậy, có thể nào mà những kẻ c̣n nhận định sự vật theo phương diện cá nhân hiểu được Y? Nếu Y đau khổ v́ không ai hiểu được Y - tánh nầy cũng c̣n bộc lộ một dấu vết của bản ngă - th́ y cũng phải loại bỏ nó đi. Y cần chấm dứt sự mong ước những sự cố gắng của y sẽ được thưởng thức, dù được thưởng thức hay không, y cũng phải hiểu rằng điều đó không mảy may ǵ quan trọng cả. Chỉ có một điều quan trọng thôi là công tác đem ra thi hành. Người ta phán đoán không công b́nh những việc của chúng ta làm? Không cần. Miễn là nó được hoàn thành với tất cả sự toàn thiện có thể được. Chơn Sư sẽ biết điều đó, nhưng chính đó cũng chưa phải là động lực của chúng ta. Chúng ta hoạt động v́ đó là công tác của Đức Thượng Đế. Như chúng ta ở trong tâm của Ngài, ư chí của Ngài là ư chí của chúng ta. Niềm hoan lạc của chúng ta, sự đặc ân cao cả của chúng ta là rán sức ḿnh để hoàn thành điều mà Ngài muốn thấy hoàn thành.

            Nhận thức được rằng tất cả Sự Sống là thiêng liêng lẽ dĩ nhiên chúng ta phải kính trọng Sự Sống ở trong tất cả mọi biểu hiện. Chúng ta chỉ thấy được nó có phân nửa nên luôn luôn chúng ta không kính trọng nó dưới tất cả h́nh thể và trong tất cả mọi biểu hiện của nó. Nghiệm thấy rằng có nhiều Sự Sống, đối với ta, là đáng được ưa chuộng hết sức nhưng chúng ta lại có ư hay khinh bỉ những biểu hiện đặc biệt nầy. Đó luôn luôn là một sai lầm. Chúng ta thấy chung quanh nhiều sự vật, xét theo phương diện của chúng ta th́ rất xấu, điều đó thường có thật như vậy. Tất cả những cách biểu thị của tánh ích kỷ, ḷng tham lam, và t́nh dục phóng túng, không kềm chế, bày nhan nhản ở Thế gian, lẽ dĩ nhiên là đă xấu xa, theo ư nghĩa nầy tất cả đều sẽ tiến đến sự đẹp đẽ hơn, nếu những cách biểu thị nầy khác hẳn những điều mà ta đă thấy. Nghĩ như vậy, chúng ta thấy ḿnh không lầm lạc: Đúng hẳn như thế. Nhưng khi chúng ta đem ḷng khinh bỉ những người ở vào tŕnh độ nầy, chúng ta đă vượt quá mức đă định. Tŕnh độ phát triển của họ đă giải nghĩa những sự biểu hiện nầy. Thường th́ chúng nó là cách duy nhất để biểu thị mà họ có thể làm được trong tŕnh độ hiện hữu và chính là nhờ ở chúng nó mà họ học hỏi được. Khi thấy một người tỏ ra ích kỷ, tham lam và không tự chủ, chúng ta nói: "Thật là đáng tiếc." Đáng tiếc thật, nhưng chỉ trong ư nghĩa mà chúng ta thương tiếc dùm cho một đứa trẻ thơ mới lớn lên bốn chưa đến tuổi trưởng thành. Nếu chúng ta để cho những thị dục của chúng ta chi phối chúng ta, nếu chúng ta tỏ ra tham lam và ích kỷ, chúng ta tha hồ mà tự khinh bỉ chúng ta v́ chúng ta hiểu phải là thế nào rồi, nhưng mà khinh bỉ người khác là xấu xa vậy. Người nầy dường như có khả năng làm được việc hơn, có lẽ Y đă bỏ qua nhiều cơ hội thuận tiện. Chúng ta hăy tiếc dùm cho Y, nếu  có thể, hăy thử giúp đỡ Y đi theo con đường ngay chánh và nhận thức những khả năng cao siêu, nhưng chúng ta đừng xa lánh Y, đó là lỗi nặng nhất, mặc dù luôn luôn chúng ta không thể tránh được ư ghê tởm đối với những hành động của Y. Một người say rượu, ấy là tŕnh độ hiện hữu của Y. Linh Hồn y c̣n trẻ trung, Y chịu khuất phục trước sự cám dỗ của men rượu, thay v́ phải chống lại nó là việc Y phải làm. Có lẽ Y cũng thường thử kháng cự lại nhưng không thành công. Tất cả mọi phương tiện giúp đỡ của chúng ta cần phải được triệt để và hoàn toàn để cho Y sử dụng, nhưng chúng ta đừng gớm ghiếc Y. Đó là cái tư tưởng cũ rích của Thiên Chúa Giáo: Chúng ta có thể thù ghét tội lỗi, nhưng nên xét thương giùm cho kẻ phạm tội, bằng không tánh t́nh của chúng ta c̣n xấu tệ hơn nữa, v́ lẽ chúng ta mất t́nh huynh đệ, và cùng một lúc, ta mất luôn cái năng lực giúp đỡ của chúng ta.

            Sự Sống duy nhất ở trong tâm của tất cả và chúng ta phải kính trọng nó, dù nó ở trong những biểu hiện mà chúng ta không thích và chúng ta biết là bất hảo. Sự Sống là Thiêng Liêng; đừng bao giờ quên điều đó. Đôi khi cũng khó mà công nhận việc ấy khi những hành động phạm pháp có tính cách quá vô đạo, dù sao cũng nên rán nhớ rằng Sự Sống là thiêng liêng. Đó c̣n là cái ư niệm cũ kỹ của Sự Sống ẩn tàng đă được đem truyền dạy cho chúng ta từ cả muôn, cả ngàn năm nay trong những Pháp Môn Huyền Bí Ai Cập. Người ta nói với chúng ta rằng Sự Sống ẩn tàng ngự trong tâm của mỗi người, nó ẩn kín trong sâu xa, gần như không thấy được. Huynh hăy nhớ luôn luôn rằng nó vẫn hiện diện mặc dù chúng ta không trông thấy nó. Ánh sáng ẩn tàng ở trong tâm ta, không thể soi sáng một kẻ khác, và làm cho ánh sáng c̣n  ẩn kín ở trong tâm của Y tỏ rạng, nhưng nhờ có đủ nhẫn nại và nghị lực mà Y sẽ hoạt động đúng ngày giờ của Y và theo cách thức của Y. Ngày nay lời giáo huấn nầy được tŕnh bày bằng những danh từ có hơi khác hơn, nhưng chân lư chứa đựng trong đó vẫn không thay đổi.

            Người sống trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt nh́n xem tương lai cũng như hiện tại. V́ thế, đứng trước một biểu hiện hết sức xấu xa ghê tởm của Sự Sống, Y nói: " Phải, trong nhất thời và xét theo phương diện của kỳ gian thôi, đúng là điều tôi thấy như vậy đó: Một sự biểu hiện hạ đẳng và không xứng đáng, nhưng Sự Sống thiêng liêng, vĩnh cửu bất biến, sẽ nẩy nở một ngày kia." Lắm người không hiểu được hiện tại, thật là ảo tưởng đến bực nào. Chúng ta vừa mới nghĩ đến hiện tại là nó đă chạy mất. Chúng ta nói: "Chuyện nào đó đang xảy ra bây giờ đây." Và những lời nầy chưa thốt ra, cái hiện tại đă trở nên quá khứ. Thật sự, không có hiện tại; ấy là lưỡi dao chia đôi quá khứ và tương lai, ấy là một danh từ tiện dụng, nhưng mỗi giây qua là lưỡi dao lại di chuyển. Phải đọc tương lai trong hiện tại và nhận xét nó ra thế nào. Nếu chúng ta thoát ra khỏi mấy thể nầy và những bộ óc nầy trong chốc lát thôi và chúng ta đi vào một đời sống thật t́nh cao siêu hơn, rồi từ trên cao đó chúng ta có thể khảo sát vấn đề nầy, chúng ta sẽ hiểu nó được một cách đầy đủ. Chúng ta thấy rằng khi tưởng nghĩ đến tương lai này, ngay bây giờ chúng ta làm cho nó đến gần chúng ta hơn. Nếu, thấy một kẻ phạm tội, chúng ta cứ tưởng đến tội lỗi của Y, chúng ta càng bó chặt tội lỗi ấy vào ḿnh Y, nhưng nếu thấy Y mà chúng ta nghĩ đến tương lai khi mà Y sẽ giải thoát được tội lỗi đó, chúng ta mở cho Y một con đường của tương lai nầy, v́ thế mà nó ít cách xa hơn.

            3.- Hăy diệt ḷng ham sung sướng.

            Hăy sung sướng như những kẻ sống v́ hạnh phúc.

            A.B. - Trong những giai đoạn đầu tiên của sự tiến triển, con người vận dụng tất cả năo lực và thể lực của Y hầu đạt cho được những phương tiện bảo đảm sự sung sướng của Y. Ḷng ham muốn sung sướng, đó là điều chỉ định cho phần đông con người. Đó là sự kích thích rất hữu ích để đem vài tánh biểu lộ ra để chúng nó thích ứng với sự sung sướng mà người đạt được muốn thụ hưởng.

            Ḷng ham muốn sung sướng tiêu tán dần dần khi mà những mục tiêu hiện lên. Thí dụ như một người có thể diệt ḷng ham muốn sung sướng và những lạc thú của xác thân bằng cách di chuyển quyền lợi của Y qua đời sống tinh thần. Trước tiên, Y có một ư niệm về sự cố gắng, sự đau khổ và sự mất mát tổn hao, nhưng Y thích những sự lạc thú của Thể Trí hơn là Thể Xác, biết rằng chúng nó sẽ tồn tại lâu hơn, kế đó, nếu Y thực hành sự đoạn tuyệt Y nhận thấy rằng ư nghĩ tổn hao mất mát giảm bớt, những sự lạc thú trí thức đối với Y, có sức hấp dẫn tăng trưởng thêm, sau rốt, những điều ham muốn thấp hèn mất hết sự quyến rũ của nó.

            Trước hết, ở mọi tŕnh độ, có sự tự ư đoạn tuyệt, kế đó, sự vật Hồng Trần mà ḿnh ham muốn mất sức quyến rũ của nó. Về sau, một sự thay đổi tương tự phát sinh liên quan đến những lạc thú trí thức. Khi con người ngưỡng vọng đến đời sống thiêng liêng, ḷng ham thích hoạt động về trí thức giảm lần từ giai đoạn. Sự hưởng thụ một tinh lực dũng mănh về trí thức càng ngày càng ít làm nó mê say. Nó từ khước những sự lạc thú của trí tuệ và t́m kiếm những sự lạc thú của tinh thần. Nó thoát khỏi trí tuệ và chú định Tâm Thức của nó vào tŕnh độ cao siêu.

            Diệt ḷng ham muốn sung sướng không phải là không có hại, nó là cái hại thứ ba. Cái hại thứ nhứt là bất động, cái hại thứ hai là ḷng khinh bỉ, cái hại thứ ba là một khuynh hướng không sung sướng mà cũng không đau khổ.        

            Làm thế nào cho được hạnh phúc ? Chúng tôi đáp: " Khi t́m biết được rằng Chơn Ngă là toàn phúc." Trong quyển kinh Brahma Sutras  có nói rằng: "Phạm Thiên  là toàn phúc. Phạm Thiên là toàn lạc." Giờ đây, con người phải có ḷng tự tin như thế. Không có sự sung sướng nào, không có sự đau khổ nào c̣n ảnh hưởng đến người y nữa. Chúng nó không c̣n sức hấp dẫn y được, chúng nó sinh ra bởi sự tiếp xúc giữa những h́nh thể. Giờ đây, đạt đến mức quân b́nh con người quên hẳn ḿnh đi không thấy ǵ là sung sướng hay là đau khổ nữa, tuy nhiên, Y cần phải tập cho được sung sướng như những kẻ sống v́ hạnh phúc.

            Ấy là sự toàn phúc mà Chơn Ngă được hưởng, cái toàn phúc thâm thúy và bất biến nầy là đặc tính cần thiết của đời sống thiêng liêng mà tâm thức của chúng ta khó nhận thức hơn hết. Đặc điểm của những Đại Gia Thần Bí và của những Đấng Cứu Thế; ấy là sự đau khổ đóng một vai tuồng to tát trong cuộc đời của các Ngài. Đức Jésus là một người đau khổ. Gautama, Đức Phật, ĺa bỏ cung vàng điện ngọc huy hoàng, những vườn thượng uyển, [9] những bằng hữu trung thành, hầu t́m kiếm một phương thuốc cho sự đau khổ của nhân loại. Cũng thế đó, nếu chúng ta khảo sát lại cuộc đời của tất cả những bậc Đại Dẫn Đạo quần chúng. Sự đau khổ có một ảnh hưởng sâu xa nơi con người của các Ngài, nhưng Các Ngài biết cách chịu đựng. Ở nơi Các Ngài tràn ngập một niềm vui bền bỉ và người xét đoán các Ngài ở bên ngoài là cho các Ngài chịu những sự đau khổ ghê gớm. Như sự phiền năo ŕnh rập các Ngài, biết bao nhiêu là sầu muộn, sự rối rắm, lo lắng và những cảnh hoạn nạn, từ khắp nơi, như mưa đổ trút trên ḿnh các Ngài, lẽ dĩ nhiên, người ta dựa theo đó mà suy luận ra rằng các Ngài rất buồn thảm. Không hẳn như thế, các Ngài không nao núng, không khổ sở, không lo buồn v́ những nỗi niềm đau khổ ấy, mặc dù các Ngài rất chú ư vào đó và vẫn đủ khả năng hoàn thành tất cả điều ǵ mà hạnh phúc của Thế Gian có thể đ̣i hỏi. Sự an tĩnh ngự trị trong tâm hồn các Ngài. Cho nên, huynh nghe các Ngài luôn luôn lập lại rằng: "Ḷng ta luôn luôn an tịnh."

            Đệ Tử chia sớt tất cả nỗi niềm đau khổ dưới Thế Gian. Sự đau khổ nầy không thể tránh được. Nó rọi bóng trên ḿnh vị Đệ Tử, một cái bóng mà y không phương trốn tránh. Tất cả niềm đau khổ của nhân loại cần phải gặp một tiếng dội trong ḷng Y. Y đau khổ, thương hại giùm cho những kẻ vô minh, những người đau khổ, những phản kháng của họ, sự bạo động của họ. Ở vào tŕnh độ nói trên, Đệ Tử phải lâm nguy v́ làm mất cảm giác của ḿnh. Nếu cảm giác càng kém sút, Đệ Tử càng ít được hữu dụng hơn. Những Đấng Cao Cả động ḷng thương hại cho con người c̣n lệ thuộc Nhân Quả, nhưng các Ngài vẫn chịu bất lực v́ chính các Ngài cũng không làm sao giúp đỡ được. Phải, có những trường hợp mà sự giúp đỡ của các Ngài khó bề thực hiện và con người phải tự lực đương đầu với những kinh nghiệm của ḿnh. Biết được sự cần thiết ḥa hợp tuyệt đối với Thiên Cơ, các Ngài, trong khi đó, đứng biệt lập ra ngoài coi chừng Thiên Cơ hành động. Một yếu tố đau khổ và thiện cảm, v́ thế, c̣n tồn tại ở các Ngài, sự thương hại của các Ngài cũng bao hàm một mức độ phiền muộn nào đó.

            Và điều nầy sẽ lưu tồn măi măi như một cái bóng. Khi làm mất năng lực  của ḷng thiện cảm, con người sẽ mất năng lực giúp đỡ. Trong phạm vi mà đời sống của y thông đồng với kẻ dốt nát, Y cảm thông được niềm vui và nỗi khổ của nó và Y làm cho nhẹ bớt sự đau khổ bằng cách chia sớt sự đau khổ với nó.

            Vị Đệ Tử luôn luôn hiểu rơ những chơn lư khẩn thiết nầy, và cần nhớ lại rằng Chơn Ngă là toàn phúc. Y trong ḷng phải vui vẻ và đào luyện cho có phương pháp cái tinh thần an phận và điềm tĩnh. Do đó, Y có thể tham thiền về sự toàn phúc thiêng liêng, sự toàn phúc thâm thúy, mănh liệt ở Thế Gian nầy không có ǵ bằng, bởi v́ nó là tinh hoa và chính là bản thể của Chơn Ngă. Trạng thái nầy chỉ có thể phát triển một cách duy nhất là: Nhờ sự đào luyện có phương pháp sự vui vẻ và tính an phận, sự khảo sát cảnh Thế Gian,  t́m hiểu rằng điều ác là Vô Minh hay là thiếu Minh Triết. Bị bao bọc ở trong ṿng phiền năo, vị Đệ Tử phải sung sướng. Y phải đạt cho được sự tin chắc rằng đau khổ riêng thuộc về mấy Thể nhưng đời sống luôn luôn là vui vẻ.

            C.W.L. - Qui tắc nầy không có nghĩa là cấm đoán sung sướng như người ta thường hay giải thích. Những vị Đạo sĩ Yogis, những nhà tu ẩn dật, những nhà sư, căn cứ vào những kinh sách khác đều kết luận giống nhau. Những lời kết luận ấy đều hoàn toàn sai lạc và vô lư. Thời Trung Cổ, những nhà sư đeo lông ngựa vào cổ để hành xác. Nhiều Đạo sĩ Yogis ngồi trên bàn chông sắt nhọn trong mùa viêm nhiệt, hết sức nóng, ban đêm họ vẫn ngủ giữa những đám lửa hồng, tất cả những điều nói trên cốt để tránh sự sung sướng. Người ta đi đến kết quả đó, v́ họ lấy một đoạn kinh rồi giải thích một cách quá lố. Trong Thánh Ca (Bhagavad Gita) nói rằng: " Những kẻ nào hành hạThể Xác tức là hành hạ Đức Thượng Đế ngự trong thân ḿnh của họ và những phương pháp luyện tập của họ phản tiến hóa." V́ thế, qui tắc nầy, đối với chúng ta, không có nghĩa là cấm đoán sự sung sướng, nhưng chúng ta không nên để cho ḷng ham muốn sung sướng ngăn trở chúng ta thi hành một công tác nào mà chúng ta có bổn phận phải làm. Dù sự thi hành bổn phận của chúng ta có đem lại cho ta nhiều nỗi bực ḿnh trọng hệ, đó cũng không phải là lư do để cho chúng ta xao lăng bổn phận của chúng ta.

            Tự cấm ḿnh hưởng sung sướng một cách vô lư, ta chỉ tạo ra những khó khăn. Người ta nói nhiều về kiến hiệu của sự đau khổ và của tất cả những sự tiến bộ mà sự đau khổ mang lại cho chúng ta, nhưng khi khảo sát sự vật cặn kẽ, chúng ta nhận thấy sự tiến bộ có là khi nào sự đau khổ chấm dứt. Không phải chính sự đau khổ làm cho tiến bộ, nhưng trong nhiều trường hợp, nó bắt con người phải chú ư đến những điều kiện mà nếu không có sự đau khổ th́ Y không đủ sức chú ư. Đôi khi, sự đau khổ diệt mất những tánh ngăn trở sự tiến bộ của Y, nhưng những sự tiến bộ nầy chỉ thực hiện được khi nào Y không c̣n đau khổ nữa. Chỉ có lúc bấy giờ thôi, trạng thái tinh thần của y mới giúp cho y nhắm cao xa hơn.

            Chúng ta đừng tưởng rằng là một đức hạnh nào đó khi làm cho chính chúng ta mất tiện nghi. Trái lại, khi nào Thể Xác được thư thái, chúng ta càng dễ nghĩ đến đời sống cao siêu hơn. Tuy nhiên, tôi có biết những người cứ khư khư ở măi trong sự lầm lạc ấy. Đây là một thí dụ. Ở Ấn Độ nơi mà người ta biết rành rẽ về cách thức tham thiền. Họ có tập quán ngồi xếp bằng kiết dà. Tôi có biết một số đông người Tây Phương bị kiệt sức v́ bắt ḿnh phải chịu đau khổ bằng cách, trong lúc tham hiền, tập ngồi cho quen theo thế kiết dà của người Ấn Độ. Họ không hiểu rằng đó chỉ là một vấn đề chi tiết bên ngoài và người Ấn Độ chấp nhận chỉ v́ họ đă tập quen ngay từ khi c̣n thơ ấu. Những người chưa quen với tư thế nầy bị nó làm phiền lụy lại vẫn muốn tự bắt ḿnh ngồi theo lối đó sẽ phí hết th́ giờ của họ. Đức Patanjali khuyến cáo một lối ngồi tham thiền "thong thả và êm ái".

            Có hai điểm đáng được khảo sát liên quan đến cách ngồi của chúng ta trong khi tham thiền. Điểm thứ nhứt là Thể Xác phải vừa đủ thư thái để người ta có thể quên ḿnh, v́ đó mới là mục đích t́m kiếm. Điểm thứ hai là ngồi thế nào, nếu chúng ta xuất hồn khỏi xác lúc tham thiền (điều đó vẫn có thể xảy ra luôn) mà không có ǵ rủi ro. Trong trường hợp nầy, cảm giác của Thể Xác là mê man như bị bất tỉnh. Người Ấn Độ ngồi tham thiền trên ván, té ngửa ra sau nên không có tai hại. V́ vậy, trong lúc tham thiền, chúng ta phải ngồi trên ghế bành hầu tránh khỏi phải té ngửa khi Thể Xác mất tri giác. Nằm tham thiền không tốt v́ nó làm cho chúng ta dễ buồn ngủ.

            Những mối cảm xúc và trí tuệ có sự lạc thú của nó và lắm kẻ bài xích quan niệm rằng sự sung sướng của Thể Xác, đối với họ, không có ǵ trọng hệ, nhưng họ lại hết sức đau khổ nếu sự sung sướng của t́nh cảm không được vững chắc, nghĩa là khi họ tưởng ḿnh không nhận được sự báo đáp xứng đáng do những sự cảm xúc của họ. Nhiều người cảm xúc một cách khó nhọc lại mong ước cho thiên hạ cũng giống như họ v́ khi nhận thấy sự trái ngược lại họ tỏ ra rất bất măn. Họ ban rải điều mà họ gọi là t́nh thương, nhưng đức tánh nầy cũng thường đượm màu ích kỷ. Họ gây ra đủ thứ rối rắm, hành động của họ làm tổn thương những kẻ mà họ nói là họ thương, tất cả những điều trên đây cũng chỉ v́ một lư do duy nhất là họ muốn t́nh thương của họ phải được báo đáp lại. Họ không biết rằng có nhiều loại t́nh thương khác nhau và có lẽ hết sức khó cho những người được họ thương yêu báo đáp lại t́nh thương của họ như  ư họ mong muốn. Nguyên nhân của sự khó khăn là do ở sự kiên cố của ḷng ham muốn sung sướng của t́nh cảm. Nhưng chúng ta không nên bao giờ cho ḷng ham muốn ấy xen vào những sự tiến bộ riêng của chúng ta hay là của những người thân yêu chúng ta.

            Cũng thế, có một sự sung sướng của trí tuệ là con người muốn gặp lại những tư tưởng của họ nơi kẻ khác không sai một mảy và do đó, bảo đảm sự thỏa măn và sự an tĩnh của Thể Trí.. Chúng ta vẫn thường gặp sự khó khăn nầy. Thí dụ, một thanh niên có nhiều triển vọng tốt đẹp, hết sức mến thích Thông Thiên Học và ước mong gia nhập vào Hội. Cha mẹ nó phản đối kịch liệt. Đối với họ, nếu con của họ, trai hay gái, thừa nhận những tư tưởng mà họ không thể nào chia sớt được, họ không c̣n sung sướng về trí tuệ nữa. Họ tin chắc rằng họ hữu lư và ngoài những ư kiến đặc biệt của họ ra, không ǵ hữu lư có thể tồn tại được. V́ thế, nếu con trai hay con gái của họ có nhiều tư tưởng khác hơn tư tưởng của họ, họ cảm thấy đó là một điều sỉ nhục. Họ quên rằng nếu một Linh Hồn thác sinh trong gia đ́nh họ, đó không phải là một lư do để bắt nó phải chia sớt tính khí của cha mẹ nó. Mỗi Linh Hồn có cách thức của nó, có năng lực đặc biệt của nó để nhận thức Chân Lư.

            Đường lối đặc biệt của Linh Hồn là đường lối duy nhất, theo đó nó có thể tiếp nhận được Chân Lư. Nhiều kẻ khác lại lầm lạc muốn bắt buộc Linh Hồn phải theo đường lối của họ đưa ra, theo ư họ, làm vậy tức là gây ra sự phản động toàn diện của Bản Ngă bên trong. Một trăm lần xảy ra là đúng cả một trăm lần, những trẻ em mà trí thức bị đàn áp như thế đều bỏ hẳn tín ngưỡng của cha mẹ nó. Biết bao lần, thí dụ, con trai của vị Giáo sĩ [10] đă trở nên kẻ vô thần v́ cha mẹ đă lầm lạc cưỡng bách nó theo tư tưởng riêng của ḿnh. Ḷng ham muốn sung sướng của trí tuệ đă tạo cho con người nhiều đau khổ. Vị Đệ Tử phải luôn luôn coi chừng ḷng ham muốn sung sướng của t́nh cảm hay trí tuệ của ḿnh giục nó xâm phạm tới quyền lợi của kẻ khác và đừng để ḷng ham muốn ấy ngăn trở bổn phận nó có thể thi hành hay sự cứu trợ có thể ban bố.

            Điều cần thiết là chúng ta phải sống lạc quan, như ở đây Đức Đế Quân đă nói với chúng ta, mặc dù có lẽ chúng ta không sống v́ hạnh phúc. Cái bổn phận sống lạc quan, tôi tưởng, thường hay bị người ta quên. Người ta không thấy đó là bổn phận, thế mà đó là bổn phận theo tất cả ư nghĩa mạnh mẽ của danh từ. Ấy là một yếu tố cần thiết cho sự tiến bộ của chúng ta. Một người cứ măi sầu thảm và chán nản v́ ảnh hưởng của những biến cố th́ không thể tiến bộ. Tốt hơn Y phải lư hội được lẽ đó. Tôi xin lặp lại: Sự cần thiết cho chúng ta có được một sức cảm xúc lẹ làng càng ngày càng tăng trưởng, bởi v́ không cảm xúc lẹ làng, chúng ta không thể nào ứng đáp liền với một dấu hiệu hết sức nhẹ nhàng của Đức Sư Phụ. Phải vừa rất nhạy cảm và vừa ban rải hạnh phúc là điều khó khăn không căi chối được. Dù sao cũng phải đạt cho được việc nầy. Biết bao nhiêu điều đă kêu gọi đến ḷng thiện cảm thâm thúy nhất của chúng ta. Dĩ nhiên, khó mà có thiện cảm với những người đau khổ mà đồng thời trong ḷng lại không phiền năo. Tuy nhiên, như tôi đă giải thích, Sư Phụ có một ḷng thiện cảm rộng mênh mông hơn ḷng thiện cảm của chúng ta, tuy nhiên Ngài không cảm thấy sự phiền năo như là một sự phiền năo.

            Những sự đau khổ, những sự phiền năo sẽ giảm đi nhiều nếu những người ngày nay chịu những đau khổ và phiền năo, trong mấy kiếp trước của họ, có lẽ cả chục ngàn năm rồi, họ sống một cuộc đời khác hẳn với lối sống của họ hiện nay. Nhưng bởi họ đă sống một cuộc đời trái với đạo lư như thế bây giờ không có cái chi thuận lợi nhiều cho sự tiến bộ của họ bằng những điều xảy đến cho họ hôm nay. Chúng ta không sao ngăn cản được ḷng phiền năo khi thấy t́nh trạng hiện hữu của họ, nhưng niềm thương tiếc của chúng ta không phải v́ những sự thử thách hiện thời của họ, mà v́ những nguyên nhân xa xăm xưa kia đă làm cho những sự thử thách đó ngày nay trở nên cần thiết. Ư niệm nầy dường như lạt lẽo, lạnh lùng, nhưng khi chúng ta biết được đến điểm nào đó, rằng kết quả mới thuộc về thành phần của nguyên nhân chúng ta có thể nhận thấy hiện tại có liên quan thiết thực với nguyên nhân do những người nầy gây ra đă từ lâu và không có ǵ khác lạ dưới quyền lực của Luật Trời là Luật Nhân Quả.

            Ngày nay, tất cả những sự đau khổ nầy chỉ có thể sửa đổi được nhờ sự can thiệp của những lực mới, chúng ta có thể làm êm dịu, đến một điểm nào đó, sự phiền năo và sự đau khổ. Khi chúng ta làm thế không phải chúng ta cản trở được sự thực hiện của Luật Trời, điều đó không bao giờ có mà cũng không phải làm rối loạn sự ḥa hợp với Luật Trời, nhưng chúng ta vận dụng lực mới, chính nó cũng tùy thuộc Luật Trời và nó làm giảm bớt phần lớn những hiệu quả của quá khứ. Mặc dù, như tôi đă tỏ bày, nhiều người trong chúng ta có khả năng an ủi giúp đỡ, nhưng cũng khó nhọc khi tỏ t́nh thiện cảm hoàn toàn và đồng thời nh́n nhận sự đau khổ là cần thiết. Thế mà, trong vài trường hợp, chúng ta tiến một cách rất khéo léo. Thí dụ, một trong những bạn chí thân của chúng ta cần phải chịu giải phẫu. Đă đành chúng ta rất tiếc điều đó nhưng chúng ta không hề có ư nghĩ rằng cuộc giải phẫu ấy không tốt đẹp: Chúng ta biết những sự ích lợi do cuộc giải phẫu đem đến và trông đợi sức khoẻ của bạn thân chúng ta hồi phục. V́ thế, dù có than thở hay lo buồn thế mấy, chúng ta xem cuộc giải phẫu ấy như một sự cần thiết đáng buồn và đáng tiếc. Tất cả những sự phiền năo, tất cả những sự đau khổ cũng chỉ là thế thôi - có bấy nhiêu cuộc giải phẫu cốt để loại bỏ những mầm nguy hiểm.

            Ở Thế Gian nầy, nhiều sự phiền năo có thể tránh được v́ một phần lớn không do ở quá khứ, mà do những lỗi lầm hiện thời gây ra. Con người nhận lấy mọi sự vật ở khía cạnh xấu. V́ vậy chúng ta thường sinh ra bất b́nh, chúng ta nổi nóng, chúng ta tự đau khổ. Luật Nhân Quả không liên can chi trong mấy việc nầy cả. Trong nhiều trường hợp, bảy phần tám những điều lo lắng không ở ngoài đến mà hoàn toàn do cách thức của những người chịu đựng những kinh nghiệm của họ. Nhân Quả ở ngoài đến th́ chẳng bao nhiêu, nhưng chúng ta lại làm cho nó to lớn thêm nhiều, đó là sự lầm lỗi hiện tại của chúng ta; không phải không phương cứu chữa. Phần đông những người lấy hạnh phúc làm mục tiêu ở đời, t́m hạnh phúc bằng nhiều cách khác nhau. Họ hợp tác với những kẻ mà sự gần gũi đă đem lại cho họ niềm vui đẹp, họ đi đến những nơi mà họ tưởng t́m gặp được lạc thú v.v.... Vị Đệ Tử không nên bắt chước theo các gương của họ, v́ Y cần có khả năng t́m hạnh phúc ngay trong tâm ḿnh, không bắt buộc hạnh phúc đó lệ thuộc những điều kiện đặc biệt bên ngoài. Đối với chúng ta thật khó, bởi v́ trong nhiều kiếp đă qua, chúng ta đă từng bị những cảnh ngộ điều khiển, đẩy đưa, không nhiều th́ ít. Khi nh́n kỹ lại đồng loại, chúng ta nhận thấy đa số cũng vẫn c̣n ở trong t́nh trạng đó. Phần đông, ở Thế Gian, rất ít ai chịu khó hoán cải t́nh trạng mà họ đang sống. Họ cảm thấy tinh thần suy nhược, sinh ra phật ư liền và v́ thế bị đau khổ. Họ chỉ cần sửa đổi tất cả điều kể trên, nhưng không, khi bị xúc phạm họ đáp lại bằng những lời than van hay trách móc và tuyên bố không thể nào thuận thảo với những hạng người như vậy. Thế mà, hạng người nầy cũng không khác ǵ mấy với đa số nhân loại. Hạnh phúc của chúng ta tùy theo cách chúng ta biết đối xử với họ và thái độ của chúng ta ứng đáp với thái độ của họ. Nếu chúng ta đă có thâu thập được vài lợi ích trong công cuộc khảo cứu về Huyền Bí Học, chúng ta sẽ nói: "Tôi không cho ư muốn của họ là quan trọng, đó là công việc của họ chớ không phải của tôi. Phần tôi, tôi không hề chiều theo tánh hay hờn giận, lo âu hầu giữ được ḷng b́nh tĩnh, mặc dù mấy người khác làm hay nghĩ thế nào cũng mặc."

            Người ta sẽ nói: "Thật là rất khó, nếu chúng ta bị công kích và bị sỉ nhục, nhưng phải chăng thật sự là những hậu quả của một thái độ sỉ nhục và khiêu khích tùy thuộc cách mà con người đă nhận lănh? Nếu chúng ta không dằn được cơn nóng giận sẽ sinh thêm nhiều rắc rối, riêng phần chúng ta cũng bộc lộ những tánh t́nh xấu xa như kẻ kia và dưới mắt của nhân chứng th́ hành vi khiêu khích dường như có phần đúng. Nếu trái lại, chúng ta giữ được hoàn toàn b́nh tĩnh kẻ sỉ nhục ta bị xem như là có lỗi và nhân chứng có thể xét thấy chúng ta không lỗi. Đă đành không nên giữ b́nh tĩnh với dụng ư tỏ ra ḿnh không lỗi, nhưng thái độ của chúng ta phải là thái độ triết lư, v́ những lời công kích và sự can thiệp nhắm vào chúng ta không làm cho chúng ta xúc động, như thế chúng ta thật hữu phước.

            Hạnh phúc giả là việc tránh những sự phiền năo và đau khổ. Chúng ta có thể làm nhiều hơn thế. Chúng ta thử xếp đặt cuộc đời ḿnh cho phù hợp với những lời giáo huấn của Huyền Bí Học bằng cách khảo cứu về đời sống nội tâm. Chúng ta cần phải tham gia vào công tác của Thế Gian. Hăy quả quyết rằng: "Không ai thấy được Cơ Tạo Hóa hay công tác của Đức Thượng Đế thực hiện mà không thử phụ giúp vào với tất cả sức mạnh của ḿnh." Chỉ một việc chú tâm công tác ấy cũng đủ choán hết th́ giờ, cho con người hạnh phúc. Đứng trước những việc từ ngoài đưa đến, chúng ta đừng mất th́ giờ phản động lại bằng cách chán nản hay lo buồn. Nếu luôn luôn chúng ta t́m cách gởi những tư tưởng lành, những lời cầu nguyện mạnh mẽ đầy thiện chí cho những người xung quanh ta, chúng ta bận suốt ngày và công việc của chúng ta làm tạo cho chúng ta một  niềm vui thích vậy.

            Làm sao chúng ta không khỏi buồn ḷng khi nghe những người xung quanh ta vẫn nói măi những điều họ làm để "giết th́ giờ": Họ thi hành việc nầy, việc nọ, đó là họ đề xướng ra các công việc để làm. Cảnh tượng vừa buồn cười, vừa tội nghiệp, v́ ở Thế Gian nầy có hàng ngàn cơ hội để hành động một cách từ thiện và cao quí, nhưng họ không t́m những công việc ấy mà làm. Họ chỉ bày ra những tṛ chơi, những cuộc giải trí và đó mới là thái độ kỳ lạ nhất.

            Sinh Viên Huyền Bí Học không đủ ngày giờ thi hành hết thảy những điều họ mong muốn. Thật ra, tất cả những người muốn làm việc th́ công việc kéo đến dồn dập. Công tác luôn luôn trên sức họ. Bà Tiến Sĩ Annie Besant làm việc không biết mệt và không nghỉ ngơi, từ sáng sớm cho đến một giờ đêm. Quan niệm của bà về công việc cũng không khác bao nhiêu với quan niệm của người thường. Trong Thế Giới Doanh Nghiệp, nhiều người, có lẽ, thường hay mê say thích thú một công việc nào đó, nhưng thường lệ họ hiểu làm việc phải như thế nầy: Làm một ít công việc rồi nghỉ ngơi, kế đó làm việc trở lại một thời gian ngắn và người ta gọi đó là cần mẫn, làm việc một cách đúng đắn. Đó không phải cách thức làm việc của Bà Tiến Sĩ Annie Besant. Bà vừa lắng tai nghe Huynh nói,  không để mất một chữ, Bà vừa tiếp tục viết. Câu chuyện của Huynh chấm dứt, sự giúp đỡ hay lời khuyên bảo của Bà cũng sẵn sàng. Bà không bỏ mất một phút giây nào. Nếu bị bắt buộc phải chờ đợi trong sân ga, luôn luôn Bà có trong tay một tập giấy nhỏ, Bà liền viết thư hay bài đăng báo. Không phải ai ai cũng bắt chước cách làm việc của Bà được - Huynh đừng quên rằng bấy giờ niên kỷ Bà đă cao. Vả lại công việc của Bà thường thường rất tinh tế, trên nhiều điểm và khác nhau, nên bắt buộc phải có quyết định nhanh chóng. Những người làm việc ăn lương không làm như vậy. Chính v́ bởi tất cả công việc của Bà làm đều không thù lao nên Bà mới đủ khả năng làm việc như thế. Bà lấy đó làm vui thích, luôn luôn nụ cười khả ái nở trên môi đối với những người Bà đă gặp. Bà là nguồn cảm hứng thật sự đối với tất cả những người tới lui giao thiệp với Bà. Chúng ta gắng sức theo bước chân Bà đi xa bao nhiêu hay bấy nhiêu và đừng bao giờ quên bổn phận là sống lạc quan. Nếu chúng ta không có hạnh phúc, ấy v́ chúng ta chưa làm đầy đủ sức ḿnh - bằng chứng chắc chắn là chúng ta làm mất th́ giờ của chúng ta. Hăy bắt tay vào việc, khởi công làm một việc nào đó rồi chúng ta sẽ thấy hết buồn bă, bởi v́ chẳng có th́ giờ nhàn rỗi, ở không. Phận sự chúng ta đem đến một hứng thú quá nồng nàn, nó rộng răi bao la quá nên khi thấu hiểu được chân lư, chúng ta không có một tư tưởng nào để nghĩ ngợi đến buồn bă hay âu sầu nữa.

            Hăy t́m kiếm trong tâm con cội rễ của sự quấy. Hăy tận diệt nó, nó sinh trưởng, nẩy nở sung túc trong ḷng của người Đệ Tử chân thành cũng như ở trong ḷng con người tham vọng. Chỉ có kẻ mạnh mẽ mới trừ diệt được nó. Người yếu đuối phải chờ nó lớn lên, tăng trưởng rồi chết, và đó là một cây sinh trưởng và phát triển qua nhiều thời đại. Nó trổ nụ, đơm bông khi con người tích lũy trên đầu vô lượng số kiếp, kẻ nào muốn bước vào con đường của quyền lực hăy nhổ sạch gốc rễ của nó trong tâm ḿnh. Bấy giờ tâm sẽ rướm máu và kiếp sống của con người cơ hồ như hoàn toàn tan ră. Phải chịu sự thử thách nầy: Nó có thể khai diễn từ nấc đầu tiên của cái thang nguy hiểm dắt đến con đường của sự sống; nó có thể tŕ hoăn lại đến nấc thang cuối cùng. Nhưng, nầy Đệ Tử, con hăy nhớ, con phải chịu sự thử thách nầy và hăy tập trung tất cả tinh lực của tâm hồn con vào việc đó. Đừng sống trong hiện tại, đừng sống trong tương lai, hăy sống trong trường tồn bất diệt. Cây cỏ dại to lớn nầy không thể đơm bông kết trái. Muốn xóa bỏ vết nhơ của đời sống, chỉ cần không khí của tư tưởng trường tồn bất diệt là được.

                                                                                                                                                                                                                  

            C.W.L. - Qui tắc 4 chấm dứt như thế. Ấy là lời chú thích của Đức Đế Quân phụ thêm 3 qui tắc đầu. Cây cỏ dại to lớn là tà thuyết của sự chia rẽ - thật sự nó là nguồn cội của sự đau khổ. Chúng ta được khuyến cáo phải dần dần tiêu diệt nó. Trước tiên phải hợp nhất Phàm Ngă với Chơn Ngă, ḥa tan  Phàm Nhơn trong cá tánh. [11] Phần đông chúng ta, bản ngă c̣n gần chúng ta quá đến đỗi nó chực che khuất chúng ta, không cho thấy những điều cao cả. Phải vượt qua khỏi nó và dần dần lướt lên trên nó hầu lột tất cả tánh  ích kỷ. Rồi sau đó, chúng ta mới thực hiện điều nầy với cá tánh.

            Cá tánh hay Chơn Nhơn là một sinh vật tuyệt vời, phức tạp, cực kỳ xinh đẹp, thích ứng kỳ diệu ở cảnh giới của nó, thật sự là một sinh vật vinh diệu phi thường. Tuy nhiên, một thời gian sẽ đến, chúng ta cần phải nhận thức nó chỉ là một khí cụ do chúng ta tạo ra, trải qua vô số thời đại, để bảo đảm sự tiến bộ của Chơn Thần. V́ cần phát triển ư thức của bản ngă chia rẽ trong những giai đoạn tiên khởi của cuộc tiến hóa chúng ta mà cây cỏ dại to lớn hay là mầm giống của nó trú ngụ trong tâm của mỗi người. Không chầy th́ kíp, cây cỏ dại nầy phải bị hủy diệt, nhưng chỉ những kẻ mạnh mẽ mới đủ khả năng loại trừ nó, ngay từ khi nó mới bắt đầu phát triển. Những người yếu đuối phải đợi và để cho nó trưởng thành, họ chờ chừng nào họ có đủ sức mạnh để tiêu diệt nó. Thật là đáng tiếc cho họ, bởi v́ người ta càng để cho nó kéo dài đời sống của nó th́ nó càng quấn chặt vào bản tánh của con người. Những người đủ sức mạnh trừ diệt ngay từ ngày hôm nay, sẽ tiến  nhanh chóng và thấy rơ rệt. Sự tranh đấu cần thiết để giải thoát bản ngă chia rẽ luôn luôn dữ dội, nhưng sự tranh đấu  ấy sẽ vô cùng gay go hơn nếu chúng ta tŕ hoăn lại trong những giai đoạn vị lai của sự tiến bộ của chúng ta. Khi chung cuộc nó vẫn chưa bị tiêu diệt, chúng ta sẽ phải trải qua tất cả mọi nỗi khó khăn và nguy hiểm không thể tránh được; chỉ có cách bóp nghẹt cho nó chết ngay mới mong thoát khỏi. Vậy dĩ nhiên điều tốt hơn hết là diệt trừ nó ngay từ lúc đầu.

            Những phương pháp luyện đạo của Huyền Bí Học đều phù hợp với nhau tất cả về sự khuyên bảo sinh viên tức khắc diệt trừ ảo tưởng nầy. Ngoài thói quen của chúng ta xem nhau như cách biệt, c̣n một điều khó khăn nữa là ư niệm chia rẽ khi xưa là nguồn cội của tất cả sức mạnh của chúng ta. Trong thời kỳ Linh Hồn trở thành một cá tánh, nó rất yếu đuối. Trước đó, nó là thành phần của một Hồn khóm và đối với nó, ư thức một cá nhân riêng biệt chưa xác định rơ rệt, măi đến kiếp sống của người dă man mới giúp cho ư thức đó mạnh mẽ thêm lên. Từ ư niệm “chính tôi đây" phát sinh dần dần ra sức mạnh. Ban đầu nó nói: "Tôi là một chiến sĩ đại tài, chạy đua rất nhanh, tôi là một vị đại lănh tụ, tôi có thể chỉ huy các đạo quân, tôi có thể lănh đạo mọi người, tôi có thể bắt họ làm theo ư của tôi." Sau nữa, ở vào một tŕnh độ cao hơn, nó biểu lộ tư  tưởng nầy: Tôi là một nhà đại trí thức, tôi tự tin lấy tôi, tôi rất tự hào, tôi là một bậc Vĩ Nhân, tư tưởng của tôi dũng mănh hơn tư tưởng kẻ khác, tôi thống trị những hạng trí thức và hướng dẫn họ theo ư tôi thích."

            Về sau, sẽ tiến đến một tŕnh độ mà ḷng tự tin có nghĩa là sự tin cậy của Chơn Ngă. Dứt được ḷng tự tin nơi sức nhanh nhẹn của đôi cánh tay, nơi sự nhậm lẹ, nơi sức mạnh của bắp thịt, nơi trí năng, con người tiến đến sự hiểu biết rằng có một sức mạnh tinh thần rất cao siêu hơn những biểu hiện bên ngoài. Muốn đạt đến tŕnh độ nầy chẳng bao lâu Y t́m thấy được sức mạnh tinh thần là do sức mạnh của Vô Cực Vô Biên sinh ra, bởi v́ nó là một với Đức Thượng Đế. V́ thế, ḷng tự tin của cá nhân ta trở thành ḷng tự tin nơi Ngài - nơi quyền lực sinh hóa vô biên. Chúng ta là Ngài. Đặt ḷng tin nơi Đức Thượng Đế tức là đặt ḷng tin nơi chúng ta, v́ mỗi người trong chúng ta là một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế và Đức Thượng Đế ngự trong tâm chúng ta. Chỉ cần nhận thức và khai triển ư thức nầy, kế đó Chơn Ngă mà chúng ta đặt ḷng tin, trở thành Đại Ngă Toàn Thiện.

            Tư tưởng Bản Ngă chia rẽ nầy thấm nhuần trong ḷng ta. Theo sự hiểu biết của chúng ta, nó chính là căn bản của Chơn Nhơn, mà Chơn Nhơn ngự trong tâm chúng ta là yếu tố trường tồn duy nhất. Chúng ta cần phải biết c̣n có Chơn Thần nữa: Chính Chơn Thần sẽ hiện trong ḷng chúng ta như là Chơn Ngă khi chúng ta loại bỏ được cá tánh. Tuy nhiên, khi ngày giờ đến, chúng ta sẽ thấy được một cách minh bạch hơn hiện giờ nhiều lắm rằng những Chơn Thần nầy là những Điểm Linh Quang. Giờ đây chúng ta biết qua điều đó bằng lư thuyết thôi mà mỗi người trong chúng ta, đúng ngày giờ, sẽ thật biết nó; đă có nhiều người biết nó rồi. Cũng như tôi đă tŕnh bày, khi tiêu điểm của Tâm Thức lên ở phần trên của Nhân Thể (Thượng Trí) có thể thấy được con đường nối liền Chơn Thần với Chơn Nhơn. Theo dơi con đường đó cho đến Chơn Thần, và cao hơn nữa (trong chúng ta ít ai biết được Chơn Thần), đây là chuyện thật mà chúng ta thấy và biết với một cách đích  xác và chắc chắn không thể diễn tả bằng lời nói ở Thế Gian: Tất cả những điều chúng ta cho là Bản Ngă và thuộc về chúng ta không phải là chúng ta mà là Ngài. Trí thức, sùng tín, t́nh yêu mà chúng ta có, không phải là ta mà trí thức ấy, sùng tín ấy, t́nh yêu ấy chính là Thượng Đế biểu hiện nơi chúng ta. Sau khi được kinh nghiệm nầy, con người không bao giờ trở lại y như tâm trạng cũ của ḿnh nữa. Về phương diện cá nhân, Y chẳng c̣n trở lại giống như xưa v́ Y nhận biết một cách rơ ràng chắc chắn. Một kinh nghiệm như thế cũng cần thiết để bổ chính sự phát triển của Bản Ngă chia rẽ, sự chia rẽ nầy là nguyên nhân của sự rối loạn vĩ đại, là nguồn cội phong phú của phiền năo và đau khổ, là bức màn ngăn trở không cho ta phân biệt rơ ràng thế nào là Sự Sống. Chúng ta ở trong t́nh trạng lạ lùng: Chúng ta nhờ ư tưởng chia rẽ mà phát triển đến một điểm nào đó, rồi từ điểm đó, ư tưởng chia rẽ ấy trở thành tai hại và chúng ta phải lo diệt trừ nó. Nhân loại tiến đến một tŕnh độ cần phải nhận thức điều nói trên đây. V́ thế cho nên tất cả Giáo Lư có tính cách huyền bí hay giáo pháp cao thâm đều nhấn mạnh vào bổn phận thực hành ḷng vị tha vong kỷ. Tất cả nhân sinh cần có tấm ḷng đó. Họ c̣n ở giai đoạn của ḷng ích kỷ và c̣n t́m cách chiếm hữu vật nầy hay vật nọ. Hết thảy sức mạnh của chúng ta phải chống lại khuynh hướng nầy.

            Đồng thời, phải cố gắng hết sức khoan dung. Thường thường chúng ta không khỏi nóng ḷng khi nh́n thấy sự ích kỷ tràn ngập và thói vũ phu đầy dẫy khắp mọi nơi, nhưng nóng ḷng cũng vô ích thôi. Những kẻ vô phúc nầy vẫn c̣n làm những điều mà sự phát triển của họ cần đến, kể từ cả ngàn năm trước. Hăy giúp đỡ họ, nếu có thể. Hăy luôn luôn tỏ ra dịu dàng và tha thứ, nhưng hăy chứng tỏ một cách cương quyết sự cần thiết loại bỏ tánh ích kỷ nầy và kính trọng sự tiến bộ của toàn thể nhân loại. Vài người trong chúng ta luôn luôn nghĩ một cách chí lư rằng chúng ta thuộc về Nhân Loại. Chúng ta cố gắng tuân theo lời khuyên bảo của một trong những Chơn Sư của chúng ta: "Nếu con tiến tới được một bước, nếu con thành công trong sự tiến bộ rơ rệt, con đừng nói: "Tôi làm việc nầy thật là một sự tiến bộ." Tốt hơn là nghĩ như vầy: "Tôi lấy làm may mắn mà thấy điều đó đă đến bởi v́ Nhân loại do nơi tôi mà tiến gần đến lúc họ t́m thấy được bản tánh của họ, mục đích cuối cùng của Đức Thượng Đế đă qui định cho họ. Do nơi tôi mà Nhân Loại đă tiến đến một bước, nó tiêu biểu cho mỗi người trong toàn thể một chút ít tiến bộ." V́ thế, người ta có thể tưởng đến toàn thể Nhân Loại, không khác nào một người lo nghĩ đến trọn cả gia đ́nh họ như là một đoàn thể mà tất cả đều là thành phần trong đó, từ đứa bé thơ cho đến ông tổ phụ già nua và như thế đó, Y lo lắng cho sự phồn thịnh chung.

            Chúng ta được khuyến cáo không nên sống trong hiện tại, không nên sống trong tương lai mà sống trong sự trường tồn bất diệt. Đấng sống trong trường tồn bất diệt là Đức Thượng Đế, là Trời. Sống trong trường tồn bất diệt, Đức Thượng Đế đồng thời thấy một lượt tương lai và hiện tại. Ngài thấy tất cả những điều nầy đă hoàn thành. Nếu chúng ta có thể tự đem ḿnh lên cao cho đến quan điểm của Ngài, chúng ta sẽ có đủ khả năng sống như Ngài trong trường tồn bất diệt. Không phải cho hôm nay hay cho ngày mai, mà ấy là một mục tiêu chúng ta phải nhắm vào đó để mở một con đường bằng cách tranh đấu. Một sự bất măn thiêng liêng về điều đó cũng cần thiết cho chúng ta. Đừng bao giờ hài ḷng hoàn cảnh mới của ḿnh, như vậy là đứng giậm chân một chỗ, không tiến. Hăy luôn luôn cố gắng làm cho càng ngày càng thêm tốt đẹp hơn trước. Chúng ta sẽ đạt đến đó bằng cách chú định đời sống của chúng ta vào tương lai.

            Nếu chúng ta luôn luôn t́m cách tiến bước, luôn luôn đem ḿnh vươn lên cao, chúng ta có lỗi, nếu chúng ta để cho ḷng ḿnh bất măn hoặc ưu tư khi đứng trước những biến cố có ảnh hưởng tạm thời đến hoàn cảnh hiện tại của chúng ta và của kẻ khác. Điều khôn ngoan và tốt hơn là chúng ta phác họa h́nh ảnh chúng ta muốn có ở tương lai và sống theo đó. Chúng ta phải tự nói như vầy: "Hiện giờ tôi là người thế nầy hay thế kia. Tôi có vài tật xấu và vài nhược điểm. Tôi muốn thắng phục chúng nó và tôi chờ đến lúc chúng nó không c̣n tồn tại nữa." Ấy là một việc lớn lao là sống cho ngày mai chớ không sống cho ngày hôm qua. Thường thường, thế gian sống cho những thế kỷ đă qua và bám chặt vào những thành kiến cổ hủ. Hăy kêu gọi tương lai với tất cả những nguyện vọng của chúng ta và chúng ta hăy sống cho nó.

            Hăy chú định tư tưởng của huynh vào tương lai với niềm hy vọng. Đừng chú định tư tưởng của huynh vào quá khứ với sự tiếc rẻ. Hiện tại cũng là một ảo tưởng quá lắm rồi, v́ vậy chúng ta bất măn, không phải thật chúng ta bất măn điều chúng ta đang làm mà là chúng ta mới làm rồi đây. Muốn tiến bộ, hăy nh́n về phía trước. Ngó lại sau không phải là phương cách tiến triển. Tại Trần Thế, nếu chúng ta cứ măi khư khư ngó lại phía sau dĩ văng, chúng ta không đi xa một cách b́nh an vô sự được. Cũng một nguyên tắc nầy áp dụng ở một cảnh giới cao. Chúng ta càng suy gẫm về điều đó, càng thấy rơ ràng trong ba câu cách ngôn đă được khảo sát là: “Hăy diệt ḷng tham vọng, hăy diệt ḷng ham muốn và hăy diệt ḷng ham sung sướng,” tất cả những điều ǵ thúc giục người thường cố gắng đă bị hoàn toàn tiêu diệt.

            Trước hết, sự sinh hoạt của con người bị chi phối bởi ḷng ham muốn bảo đảm đời sống ḿnh và đời sống của gia đ́nh ḿnh, ḷng ham muốn "giữ vững sự thịnh vượng," nó luôn luôn có tham vọng tiến lên cao, nó cầu mong cho nó và cho gia đ́nh nó được nhiều sung sướng. Đó mới thật đúng là những động lực của người thường và chắc chắn, nếu những động lực nầy mất đi, con người sẽ không làm ǵ hết, y thành ra bất động, không c̣n một lư do để làm cho nó hoạt động nữa. Y sẽ giống như một khúc gỗ. Y sẽ nói: "Nếu tôi không ḷng tham vọng, nếu tôi không ḷng tham sống cũng như ḷng ham muốn sung sướng th́ ích ǵ mà hoạt động?" Để một ḿnh nó không đủ lư do để phấn khích sự nỗ lực tối thiểu th́ nó không tiến bộ. Người ta không thể chối căi rằng, đối với nó, bỏ những động lực ấy đi là có hại.

            Vả lại, khi con người gần được thâu nhận vào Thánh Đạo và khi ḷng đă mất hết sự quyến luyến những sự vật ở Trần Gian, Y đi đến một tŕnh độ mà chính y cũng sợ lâm vào t́nh trạng bất động. Y tin chắc một cách tuyệt đối bằng trí thông minh của ḿnh rằng những sự vật Trần Gian không đáng nhọc công t́m lấy chút nào và bởi những vật ấy không c̣n sức hấp dẫn được y nữa nên y không cảm thấy ḿnh sẵn sàng dùng tinh lực của ḿnh vào một chiều hướng nào. Trong cuộc tiến hóa đang tiếp diễn hầu hết nhân loại đều phải trải qua kinh nghiệm nầy. Đối với phần đông, nó là nguyên nhân rối loạn rất thực tế. Giải thoát được những quyền lợi thấp thỏi, họ không thay thế chúng nó bằng những quyền lợi cao cả hơn mà lại đặt ḿnh ở giữa hai thứ quyền lợi ấy. Giai đoạn đó vẫn tạm thời thôi. Họ chưa biết hợp nhất để lấy đó làm động lực vĩ đại cho đời sống ḿnh, tuy nhiên, bao nhiêu đó cũng đủ cho biết rằng những điều ham muốn của bản ngă chia rẽ không đáng theo đuổi, v́ vậy, họ sống một cuộc đời do dự, phân vân bất nhất. Nhiều sinh viên hết sức khổ tâm để lay chuyển ư hướng nầy. Không có ǵ xứng đáng để nỗ lực; không có ǵ làm họ ham thích. Họ muốn kết liễu cuộc đời họ hầu chấm dứt t́nh huống nầy.

            Chỉ có một cách thoát khỏi t́nh trạng không mấy thích đáng nầy, là tiến thêm một bước nữa tới trước rồi con người mới nhận thấy có một đời sống cao siêu và thực tế hơn, hết sức xứng đáng cho sự nỗ lực của chúng ta. Vừa trông thấy được Thiên Cơ, y chỉ c̣n ham muốn có một điều là dâng trọn ḷng chân thành tận tụy cho Thiên Cơ, chớ không c̣n làm ǵ khác hơn nữa được. Đồng hóa với Đời Sống Duy Nhất và hoạt động như là thành phần của Đời Sống nầy, y t́m được động lực duy nhất đủ sức thúc đẩy hành động. Khi y tiến tới bước mới nầy và bắt đầu nhận thức được Đời Sống của Chơn Ngă lúc bấy giờ, thay v́ bị rơi vào cảnh hư vô tịch diệt giải thoát cho tất cả, y lại phát khởi ḷng ham muốn mănh liệt luôn luôn được thêm sức mạnh hầu hiến dâng cho công tŕnh vinh diệu nầy. Chơn Ngă duy nhất, ấy là động lực sẽ làm thức tỉnh trong tâm nó một sự hoạt động mà từ đó đến giờ nó chưa hề biết được, động lực nầy vô cùng dũng mănh, mạnh hơn tất cả động lực khác ít cao cả hơn. Động lực nầy hiến cho con người thừa nhận nó hầu hoàn thành những ư muốn tối thượng của Đức Thượng Đế, một cảnh hạnh phúc và một sự an tĩnh vô biên.


CHƯƠNG   5

QUI TẮC  5 – 8

 

            5.-  Hăy diệt mọi ư niệm chia rẽ.

            Tuy nhiên, con hăy sống cô độc, trơ trọi một ḿnh, bởi không có cái chi có h́nh sắc, không có cái chi có ư thức chia rẽ, không có cái chi ngoài Đấng Vô Thủy Vô Chung có thể hộ tŕ con được.

            A.B.- Trong quyển sách nầy dành riêng cho Đệ Tử, câu cách ngôn nói trên chứa đựng một điều quan trọng đặc biệt, v́ bởi Đệ Tử cần phải tập sống hoàn toàn cô độc, trơ trọi một ḿnh. Không cái chi có h́nh sắc, không cái chi ngoài Đấng Vô Thủy Vô Chung có thể hộ tŕ y được. Tất cả sự giúp đỡ nhận được từ một vị có Thể Xác là một sự giúp đỡ phụ thuộc và có thể mất đi trong khi nó rất cần đến sự giúp đỡ đó. Tiểu sử của những Đại Gia Thần Bí Cơ Đốc Giáo chỉ cho chúng ta thấy một đặc điểm bất  di bất dịch trong đời sống của họ là: Họ cảm thấy bị tất cả mọi người bỏ rơi và họ cần phải sống hoàn toàn cô độc, trơ trọi một ḿnh. Người ta cũng gặp Chân Lư ấy trong những cuốn Phúc Âm (Évangiles), Thánh Kinh của Cơ Đốc Giáo, tượng trưng cuộc đời của Đức Jésus. Mấy quyển nầy tường thuật những kinh nghiệm bắt buộc mỗi Linh Hồn phải trải qua trong các giai đoạn làm người Đệ Tử. Có hai cảnh tượng phù hợp đặc biệt với những điều nói trên đây: Cảnh tượng thứ nhứt gọi là giờ hấp hối của Đức Jésus trong vườn Gathsémani, trong giờ phút mà Ngài nh́n thấy các bạn thân và các môn đồ của Ngài không thể cùng tâm thức với Ngài được, mặc dù trong một thời gian rất ngắn. Ngài biết rằng Ngài phải đi tới một ḿnh trong cảnh  quạnh hiu. Trong cảnh tượng thứ nh́ vang lên  lời than thở trên Thập Tự Giá: "Chúa ơi! Chúa ơi! Tại sao Chúa bỏ con?" Những kinh nghiệm nầy thuộc về cuộc Đại Điểm Đạo lần thứ tư, trong lúc con người quay về nội tâm, tập nương tựa hoàn toàn vào uy lực của Chơn Ngă bên trong và nhận biết rằng Y chỉ là một biểu hiện của Đấng Vô Chung ở ngoại giới. Trong cuộc thử thách lớn lao và cuối cùng nầy, vị Đệ Tử luôn luôn chực vấp ngă.

            Có hai nhiệm vụ chờ đợi vị Đệ Tử, ấy là: Y cần phải diệt ư niệm chia rẽ và tập sống cô độc một ḿnh hầu được dũng mănh, dũng mănh như Đức Thượng Đế ngự trong ḷng y. Y ban rải ánh sáng như một tinh đẩu trong ṿm trời không mượn  ánh sáng của ai. Kinh nghiệm của sự cô độc mới có thể huấn luyện Y được thôi. Và tuy nhiên, ư niệm sống cô độc một ḿnh là một ảo tưởng v́ vị Đệ Tử ở trong ḷng Đấng Trường Tồn Bất Diệt. Nguyên nhân của ảo tưởng là sự sụp đổ của tất cả mọi h́nh thức, trước khi trong tâm thức phát sinh sự tin chắc rằng chúng ta hợp nhất và đồng nhất với Đấng Vô Thủy Vô Chung.

            Câu cách ngôn nầy, có lời chú thích của nó nối tiếp theo, c̣n tŕnh bày những ư niệm quan trọng khác. Có một giai đoạn mà vị thí sinh phải sống xa đồng loại, nguyên nhân v́ sự yếu đuối của Y chớ không phải v́ sức mạnh của Y. Đôi khi, một người có nếp sống không khác lạ ǵ bao nhiêu với những người chung quanh Y, họ c̣n đang sống một cuộc đời thấp hèn mà Y không muốn nữa. V́ thế Y tin chắc rằng Y c̣n chung sống với họ th́ Y sẽ bị những tật xấu của họ làm cho Y phải sa ngă. Cái ư niệm gớm ghiếc vẫn ích lợi và dẫu rằng nó có đặc tính của một giai đoạn tiến hóa chưa được cao, tốt hơn là vị Đệ Tử phải nghe theo và tránh giao du với những người ấy.

            Một người nói với giọng ghê tởm về tật xấu nầy hay tật xấu khác th́ huynh có thể chắc chắn rằng, đă từ lâu rồi y vẫn làm tôi mọi cho nó. Mới đây, Y đă chiến đấu với tật xấu ấy và nội tâm không quên điều ǵ cả, cho nên y mới đề pḥng cho y ngày nay khỏi vấp ngă nữa. Trong một giai đoạn sau nầy, con người tiến đến tŕnh độ cao hơn sẽ không cần phải xa lánh kẻ gây tội lỗi, nhưng khi y chưa đạt được tŕnh độ nầy, khi một sự thúc đẩy từ bên ngoài, đủ sức xô ngă y vào tật xấu th́ điều chắc chắn hơn hết là y nên  tránh xa sự cám dỗ cho đến khi nào y có đủ sức mạnh để bước chân vào nơi tội lỗi mà không bị lôi cuốn nữa. Nói một cách tổng quát, muốn cho một người chế ngự được ḷng ghê tởm và chán nản của Y, th́ tật xấu đối với Y, phải mất tất cả quyền năng quyến rủ.

            Rồi tới một lúc kia, Y nh́n thấy kẻ phạm tội là một người đáng giúp đỡ, cũng nhờ nhớ đến lỗi lầm quá khứ của Y, cho nên Y mới giúp đỡ kẻ khác được. Khó mà giúp đỡ đồng loại trong khi chính chúng ta c̣n bị nguy cơ sa ngă. Muốn giúp họ, chúng ta đừng v́ ḷng thương hay ghét, mà nên nhận thấy sự đồng nhất giữa chúng ta với những người đang tranh đấu. Rồi chúng ta nhớ lại rằng tội lỗi của Thế Gian chính là tội lỗi của chúng ta và cái chân lư thâm sâu là không một ai có thể được hoàn toàn trong sạch trong khi một người khác c̣n dơ bẩn lấm lem. Đời sống của Nhân Loại là đời sống của chúng ta, ngày nào chúng ta c̣n ở trong hàng ngũ với họ; bằng không, chúng ta phải tách ra khỏi nhân loại. Tật xấu của một người nào đó tức là tật xấu của chúng ta khi mà, riêng phần Y, Y chưa loại trừ được tật xấu đó. Sự giải thoát Thế Gian tùy thuộc hoàn toàn Chân Lư nầy.

            Người Đệ Tử nào đang bị một sự cám dỗ đặc biệt, thử thách, đều phải nghĩ đến điều đó; Y phải hiểu rằng Y không chiều theo nó, v́ lẽ nếu Y bị sa ngă tức là toàn thể Nhân Loại bị sa ngă. Bao nhiêu đây cũng đủ làm cho y tránh xa sự quấy rối. Thí dụ, Huynh cố gắng t́m hiểu đời sống của Nhân Loại, Huynh t́m cách thắng phục một nhược điểm nào đó của Huynh, rồi Huynh sẽ cảm thấy sự chiến thắng riêng của Huynh không phải chỉ để cho một ḿnh Huynh hưởng mà lại cho tất cả mọi người. Toàn thể nhân loại hưởng thụ những cuộc tranh đấu và những sự thành công của một phần tử của họ. Ư niệm nầy thường thường sẽ truyền cho Huynh một sức mạnh vô biên. Thật sự là phải chịu khó tranh đấu tất cả, chớ không phải cho chính Bản Ngă của Huynh.

            C.W.L.- Có khi người ta áp dụng những lời huấn thị nầy một cách nghiêm khắc thái quá và v́ sự giải thích quá lố mà họ cho những lời huấn thị ấy có một tính cách hư ảo. Phải nh́n nhận thẳng thắn rằng, ở Thế Gian, sự chia rẽ là một sự thật. Những cảm t́nh Huynh Đệ của chúng ta càng giữ ǵn nhiều chừng nào càng tốt chừng nấy, nhưng thật là trong không gian, những thể xác của chúng ta đều phân cách nhau. Đôi khi người ta phủ nhận sự không chia rẽ như thế, và người ta đưa cái ư niệm không có sự chia rẽ đến một điểm mà nó trở nên phi lư. Về Huyền Bí Học, việc đó luôn luôn là một sự sai lầm. Pháp môn Huyền Bí Học luôn luôn là sự biểu hiện cao cả nhất của lư trí và lương tri và mỗi khi chúng ta đứng trước một ư niệm vô lư rơ rệt, chúng ta có thể chắc chắn rằng có sự sai lầm trong đó. Trong vài trường hợp, ư niệm có thể xem như là vô lư, bởi v́ chúng ta c̣n thiếu sự hiểu biết về các sự kiện hiển nhiên, nhưng khi chúng ta thâu thập được tất cả những sự kiện ấy và lời tuyên bố c̣n giữ vẻ bề ngoài vô lư của nó th́ chúng ta có lư do chánh đáng ngờ vực nó và chờ đợi những giải thích rơ ràng hơn.

            Nếu trong không gian, thể xác chúng ta bị chia rẽ, nói cho đúng sự chia rẽ nầy không  đến đỗi như người ta tưởng. Chúng ta chịu ảnh hưởng lẫn nhau, người nầy đối với người kia, cho đến đỗi không có ai có thể thật sự cô độc sống một ḿnh được. Một thể xác thọ bệnh, những thể khác ở gần nó dễ bị truyền nhiễm. Thể Vía bị thọ bệnh ư, theo ư nghĩa của bệnh đây là hay nóng giận, tham lam, đố kỵ, ích kỷ, v.v..., nó thành ra một trung tâm truyền nhiễm, bởi v́ sự rung động của nó truyền ra xa và những Thể Vía ở kế cận, trong một mức độ nào đó, phải thọ nhiễm những làn rung động nầy. Thí dụ, khi những người hội họp trong một căn pḥng, Thể Vía của họ thâm nhập với nhau một cách khá rơ ràng, bởi v́ Thể Vía của một người thường ló ra ngoài thể xác lối 45 phân, đôi khi nhiều hơn nữa, cho đến đỗi không cần đụng chạm nhau, những người nầy cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ lẫn nhau. Điều nầy cũng c̣n đúng đối với Hạ Trí, và Thượng Trí hay là Nhân Thể [12] của chúng ta, tự chúng nó cũng chia rẽ trong không gian cũng như do t́nh trạng chúng nó. Như thế, khi giải thích qui tắc nầy là diệt ư niệm chia rẽ, chúng ta đừng quên những sự kiện tự nhiên nầy.

            Không có sự chia rẽ trên Cơi Bồ Đề, nơi đây ở cảnh thấp hơn hết, những Tâm Thức không cần phải ḥa hợp với nhau, nhưng lại mở rộng ra từng bậc. Khi tiến đến Cảnh cao nhất của Cơi Bồ Đề và sau khi chúng ta tự mở mang trọn vẹn trong tất cả bảy Cảnh của Cơi nầy, chúng ta mới nhận thấy ḿnh vẫn là một với nhân loại. Ấy chỉ kể từ tŕnh độ nầy mà sự chia rẽ mới hoàn toàn không có thật, c̣n sự hợp nhất có ư thức với tất cả vạn vật thuộc về cơi kế đó tức là cơi Niết Bàn.

            Huynh hăy tưởng tượng rằng tất cả chúng ta đều có thể tự ḿnh khai triển đồng một lượt Tâm Thức Bồ Đề (Bồ Đề Tâm). Mỗi người sẽ nhận thấy rằng ḿnh tiến lên cao đến cơi đó và Tâm Thức của Y chứa đựng tất cả Tâm Thức của những kẻ khác; nhưng y sẽ luôn luôn biết rằng Tâm Thức của những kẻ khác cũng là TâmThức của y nữa. Mỗi người trong chúng ta không mất cái ư niệm về cá tánh của ḿnh, trái lại, cá tánh nầy sẽ bành trướng như chưa bao giờ có điều đó vậy. H́nh như mỗi người cũng biểu lộ ra ở những kẻ khác. Kỳ thật, cái Tâm Thức mà chúng ta hiểu biết được là Tâm Thức duy nhất mà tất cả chúng ta là những thành phần trong đó. Nó chính là cái Tâm Thức của Đức Thượng Đế vậy.

            Chính trên Cơi Niết Bàn, chúng ta mới lănh hội chân lư nầy một cách sâu xa hơn hết. Tất cả những điều ǵ chúng ta tưởng là Tâm Thức của chúng ta, trí tuệ của chúng ta, sùng tín của chúng ta, t́nh thương của chúng ta, thật ra đó là Tâm Thức của Ngài, trí tuệ của Ngài, t́nh thương của Ngài, sùng tín của Ngài, do chúng ta biểu hiện chút ít ở bên ngoài như một luồng ánh sáng đi ngang qua một thấu kính. Đối với con người, sự hiểu biết nầy không được toàn diện ở trên cơi Bồ Đề, nhưng nó trở nên toàn diện ở trên cơi cao kế đó là cơi Niết Bàn.

            Trong kinh Stances de Dzyan [13] có một đoạn nói về con người như vầy: "Đóm lửa nối liền với ngọn lửa nhờ sợi chỉ làm bằng Fohat mảnh mai, tinh vi nhất. Điều nầy, tôi tưởng, có thể áp dụng cho nhiều tŕnh độ khác nhau. C̣n riêng về chúng ta th́ chúng ta có thể giải thích như vầy: "Chơn Nhơn dính liền với Chơn Thần nhờ một sợi chỉ đi ngang qua suốt cơi Bồ Đề. Chúng ta có thể tưởng tượng sợi chỉ nầy hết sức tế nhuyễn; đó là tất cả những ǵ tiêu biểu cho người thường trên các cảnh của cơi Bồ Đề nầy. Khi mà con người chú ư đến những lănh vực cao vút đó, khi mà y hằng tâm niệm đến  đó và lấy đó làm mục đích của đời ḿnh th́ sợi chỉ ấy bắt đầu nở to ra càng ngày càng giống như sợi dây cáp và về sau, như cái quặng, bởi v́ nó lớn phần trên (một người có Huệ Nhăn tŕnh bày như thế), kế đó nó rọi xuống Thượng Trí (Nhân Thể), lúc bấy giờ Nhân Thể có kích thước nhất định. Về sau, Nhân Thể nhờ những thần lực tuôn xuống như thác nước mà nở lớn ra và cái quặng trở nên to lớn hơn nhiều, nở vừa phần dưới, vừa phần trên. Trong cuộc Điểm Đạo lần thứ nhứt (đă có nhiều người trải qua cuộc kinh nghiệm nầy sớm hơn) con người bỏ Thượng Trí (Nhân Thể) và nhập vô cơi Bồ Đề. Trong khi đó, như tôi đă giải thích, Nhân Thể hoàn toàn tan ră. Thể nầy là yếu tố duy nhất trường tồn mà con người biết được, trong vô lượng kiếp luân hồi dài đăng đẳng sau khi thoát khỏi kiếp thú. Đồng thời, cái quặng lại hóa thành h́nh cầu. Diễn tả cho đúng thật khó cho tôi, v́ lẽ ở cơi nầy có nhiều bề đo hơn ở Thế Gian mà những sự vật hiện ra trước mắt người có Huệ Nhăn như thế đó.

            Sau khi được Điểm Đạo lần thứ nhứt, người Đệ Tử trước khi có thể được Điểm Đạo lần thứ nh́ phải hoàn toàn thoát khỏi ư niệm chia rẽ, ngoài những nhược điểm khác. Ư niệm nầy là chướng ngại đầu tiên trong mười chướng ngại (Sanyojana) mà Y cần phải loại trừ để tiến bước trên Đường Đạo và sự loại trừ cuối cùng và nhất định nầy Y có thể thực hiện được nhờ đă có kinh nghiệm trong cuộc Điểm Đạo lần thứ nhứt: Y nhập vào Tâm Thức Bồ Đề trong chốc lát. Cố nhiên, không phải do đó mà Y có thể t́m lại trạng thái Tâm Thức nầy chừng nào cũng được, ít ra Y cũng có cảm giác Bồ Đề Tâm: Lúc ấy Y cảm thấy được sự hợp nhất, Y biết rằng sự hợp nhất có thật, mặc dù Y không đủ khả năng tự ḿnh lên cơi đó một lần nữa, nếu không có sự giúp đỡ của Đức Sư Phụ. Như thế, cái ư niệm chia rẽ, đối với Y, đă trở thành ảo tưởng. Ở Thế Gian, thật ra chúng ta dường như không thể nào nhận thức được điều nầy trong Thể Xác. Chúng ta không ngớt bàn luận về nó, chúng ta cố gắng tin rằng chúng ta cảm thấy sự hợp nhất đó, nhưng tôi tưởng kỳ thật điều đó chưa có thể được ngày nào mà con người c̣n mang lấy cái h́nh hài xác thịt nầy và chưa có thực hiện sự kinh nghiệm cao cả đó. Chúng ta tin chắc bằng trí khôn thôi, nhưng cảm thấy thật sự hợp nhất là cả một vấn đề khác nữa.

            Khi bắt đầu hoạt động trên Cơi Bồ Đề, con người bước vào đó từ cảnh thấp nhất (Cảnh thứ bảy), nhưng thoạt tiên, Y không nhận thức được ǵ cả, dù là Cảnh thấp nầy. Y cảm thấy một nguồn phúc lạc mănh liệt không thể tả nổi và đồng thời, Tâm Thức Y bành trướng, nó nối tiếp theo tất cả những điều Y đă cảm được từ lúc trước, có lẽ Tâm Thức nầy làm cho Y tưởng rằng nó lan rộng khắp Thế Gian. Vả chăng, đây là một điều sai lầm hoàn toàn. Khi mà Y quen thuộc với cảnh giới cao siêu nầy rồi th́ Y phân tách được, Y nhận thấy sự bành trướng của Tâm Thức Y, tuy được rộng lớn, nhưng nó cũng vẫn chưa trọn vẹn, chưa đại đồng. Y mở rộng phạm vi hoạt động của Y từng chút, từng bậc, giống như một đạo quân trú đóng trong một phần đất mới chiếm được: trước hết, họ đặt chân lên đó, sau lại dần dần, khu vực hàng phục lan rộng khắp xứ. Xong rồi, con người chú tâm luyện tập để lên Cảnh trên kế cận một cách có ư thức; nhưng y có thể lên từ Cảnh nầy đến Cảnh khác, cho đến Cảnh thứ nhứt cao hơn hết mà không cần cấu tạo Thể Bồ Đề. Con người nhờ tham thiền hay cố gắng tiến tới Tâm Thức Bồ Đề luôn luôn có thể đạt được nó. Đối với người đă cấu tạo xong cho ḿnh Thể Bồ Đề (KimThân) Tâm Thức nầy làm căn bản cho Tâm Thức Hồng Trần thấp thỏi của xác thân, của Cái Vía và của Hạ Trí. Đó là một sự tiến bộ khác nhau và đặc biệt mà cũng khó khăn nữa, bởi v́ nó bắt buộc phải loại bỏ Nhân Thể [14], phá tan bức tường chia rẽ nầy.

            Người mà Tâm Thức hoạt động trên Cơi Bồ Đề, trong lúc tham thiền, thấy rằng, nếu y chia sớt được tất cả Tâm Thức kỳ diệu của cơi nầy th́ cũng c̣n là một ṿng tṛn nhỏ trống không, chia đôi Tâm Thức nầy với khoảng ở bên kia vũ trụ, lẽ cố nhiên, tấm vách ngăn mỏng manh nầy là Nhân Thể, chính nó phải tan ră để cho Thể Bồ Đề phát triển. Sau đó, người ta mới cảm thấy được Đời Sống tự do kỳ thật là thế nào và ở Thế gian chẳng có thể nào diễn tả được. Bà Blavatsky tŕnh bày như vầy: "Một cái ṿng tṛn mà trung tâm ở khắp nơi, chu vi của cái vành lại không có," định nghĩa nầy rất đẹp đẽ và rất có ư nghĩa. Quả thật, đó là điều vô lư trái ngược nhau nhưng không thể bàn ǵ về những t́nh trạng siêu việt nầy do tôi nói mà không tương phản với nhau.

            Khi đạt được ư niệm hợp nhất chắc chắn rồi, con người có cảm tưởng rằng ở tŕnh độ nầy, Thể Kim Thân của y choán hết toàn diện Cơi Bồ Đề, và dường như Y có thể tự ḿnh chuyển di tiêu điểm Tâm Thức của Y trên khắp Cơi nầy bất cứ ở chỗ nào và cũng không v́ lẽ đó mà rời bỏ trung tâm của ṿng tṛn, mặc dù tất cả những lời nói đây có thể bị người ta cho là vô lư. Kinh nghiệm đó không thể nào diễn tả được. Mối cảm giác nầy đến cực độ và kèm theo luôn luôn ư thức phúc lạc vô biên, cái phúc lạc mà ở những cơi thấp không thể cho ta chút quan niệm ǵ cả, cái phúc lạc mănh liệt, linh động và nồng nhiệt mà trí con người không tưởng tượng được. Ở Thế Gian, trong những cơ hội rất hiếm hoi mà chúng ta nhận thấy, không có cái ǵ xứng đáng với danh từ phúc lạc ấy, cái phúc lạc vốn không cảm thấy sự đau khổ nào cả. Tại Trần Thế chúng ta hưởng được hạnh phúc hay phúc lạc là khi nào, trong chốc lát, chúng ta không mệt mỏi và không đau khổ, khi nào chúng ta có thể nghỉ xả hơi, chúng ta thưởng thức được những ảnh hưởng tốt đẹp. Đó là một ư niệm có hơi tiêu cực. Trên Cơi Bồ Đề, phúc lạc là một cảm giác mănh liệt phi thường và linh động; tôi không biết làm thế nào để bày tỏ nó. Hăy tưởng tượng sự hoạt động mănh liệt nhất mà huynh chưa hề cảm thấy, hăy thay thế sự hoạt động linh mẫn nầy, nhiệt liệt nầy bằng những ư niệm toàn phúc; kế đó hăy tinh thần hóa ư niệm toàn phúc nầy rồi đem nó lên đến một Cơi thật cao, và nhơn nó với một con số gọi là số n (lũy thừa n), có lẽ như thế, huynh sẽ có được một quan niệm về cái phúc lạc Cơi Bồ Đề.

            Ấy là một sự thực linh động của một sức mạnh không có cái chi chống lại nổi. Nó không có ǵ là thụ động cả. Người ta không có nghỉ ngơi. Ở Thế Gian, chúng ta bắt buộc phải có nhiều nỗ lực chuyên cần mà sự nghỉ ngơi luôn luôn chiếm một địa vị rất lớn trong lư tưởng của chúng ta, dù lư tưởng đó thế nào cũng vậy; nhưng ở trên cao đó, con người trở thành hóa thân của một năng lực phi thường, tự biểu thị bằng cách ban rải ra ngoài. Trong Tâm Thức của Y, quan niệm về sự cần thiết nghỉ ngơi tuyệt nhiên không có. Điều mà ở Thế Gian người ta gọi là sự nghỉ ngơi, ở trên Cơi Bồ Đề dường như là một sự không có thật. Chúng ta liên kết với sự biểu thị khí lực thiêng liêng và khí lực nầy là một sự sống linh động. Người ta có nói đến sự an nghỉ ở Cơi Niết Bàn, nhưng đứng về phương diện thấp thỏi mà thôi. Sức mạnh của khí lực mới thật là đặc tính của đời sống cao siêu nầy, khí lực cao diệu cho đến đỗi không thể lấy một sự vận động thông thường nào mà giải thích được, chính nó là một triều lưu vô biên và không có chi chống lại nổi, ở dưới nh́n lên nó in như sự yên lặng nhưng nó có nghĩa là Tâm Thức của Quyền lực tuyệt đối. Không có danh từ nào để tŕnh bày tất cả những điều nầy. Đi đến đó chúng ta mới thắng phục được cây cỏ dại to lớn - kẻ thù nguy hiểm của chúng ta tức là cái ư niệm chia rẽ. Tóm lại, đó là phận sự khó khăn hơn hết đang chờ đợi chúng ta, bởi  v́ nó bao hàm tất cả cái ǵ c̣n lại. Khi Thể Bồ Đề phát triển trọn vẹn trên bảy cảnh rồi và chỉ lúc đó con người mới làm chủ được toàn Cơi Bồ Đề và có năng lực đồng hóa một cách mỹ măn với toàn thể nhân loại. Cái năng lực nầy giúp cho Y biết được tư tưởng và t́nh ư của tất cả mọi người. Trước khi đạt được Tâm Thức Bồ Đề, chúng ta có thể gắng sức làm giảm bớt cái ư niệm chia rẽ và nói về mặt trí thức th́ sự thành công to tát lắm, tuy nhiên, chúng ta c̣n đứng ở bên ngoài, đó có nghĩa là chúng ta chưa biết được đồng loại ḿnh. Đối với chúng ta, họ cũng c̣n là một sự bí mật tuyệt đối, bởi v́ đối với con người, con người là sự bí mật to lớn nhất. Chúng ta có thể giao thiệp mật thiết trong một thời gian khá lâu với nhiều người, nhưng mà chúng ta không am hiểu họ tường tận. Có thể, trước khi đi đến Cơi Bồ Đề không ai biết rành rẽ một người nào cả, nhưng sau khi đến Cơi Bồ Đề rồi, Y có thể ḥa ḿnh vào Tâm Thức của những kẻ khác và biết rơ những việc làm của họ và v́ lư do nào họ hành động theo thế nầy hay theo thế kia. Tại đó, tất cả vạn vật đều ở trong tâm Y, chớ không ở bên ngoài và y quan sát vạn vật cũng như quan sát những bộ phận của chính ḿnh vậy. Ở Thế Gian không thể làm như vậy được, nhưng cảm giác được bấy nhiêu cũng đủ lắm rồi. Tất cả niềm vui, tất cả nỗi đau khổ của nhân loại cũng chính là niềm vui vẻ và nỗi đau khổ của Y. Khi Y muốn xuống cơi thấp, Y mượn một trong số những ṿi, những tua - nghĩa là Tâm Thức của người khác, bởi v́ Y với những kẻ khác chỉ là một mà thôi. Y có thể cảm giác được và thật ra, Y cảm giác được hết thảy những điều ǵ làm cho người ấy xúc động. Y biết được tất cả những niềm đau khổ của Thế Gian, nhưng Y hiểu một cách chắc chắn và tuyệt đối rằng sự đau khổ là một thành phần cần thiết của Cơi nầy và khi lên đến Cơi cao nó không c̣n nữa. Không chia sớt sự đau khổ một cách ít thấm thía hơn, Y biết rằng Phạm Thiên Brahman là Toàn Phúc và hợp nhất với đời sống thiêng liêng là một t́nh trạng phúc lạc vô biên ở nội tâm. Phải tới tŕnh độ phát triển nầy trước khi có thể giúp đỡ đầy đủ đồng loại ḿnh.

            Khi con người đạt được Tâm Thức mới nầy, một thời gian trước đó, y phải ĺa khỏi mấy Cơi thấp, nơi đó Y c̣n có nguy cơ mất sự an tĩnh và sự quân b́nh của Y, chính Y mới là một yếu tố của niềm hoan lạc thiêng liêng. Khi trở về nhập vào ba Thể: Trí, Vía và Xác Thân Y c̣n có thể bị những sự lo lắng nhỏ nhặt làm cho Y xúc động. Nhưng cũng không nên có điều đó nữa, tuy nhiên có một khoảng lớn chia đôi đời sống cao siêu với đời sống ở Thế gian và khi chúng ta c̣n ở trong xác phàm những chuyện không ra ǵ cũng c̣n có thể làm cho chúng ta nỗi cơn thịnh nộ. Có thể mất b́nh tĩnh trong nhất thời, v́ một lư do thuộc về Cơi Trần; ở một Cảnh Giới thật cao cũng vẫn c̣n điều đó, nhưng chỉ hoàn toàn phớt qua thôi. Dưới Thế Gian, những sự vật làm cho người ta đau khổ thật sự vốn là những sự vật mà người ta tưởng là không phương cứu chữa. Không thể nào bị thất vọng sau khi đă đạt được Tâm Thức siêu việt nầy, thực tại luôn luôn là hạnh phúc, nhất định chắc chắn như vậy. Chúng ta biết rằng, ở những cơi thấp, tất cả những sự đau khổ đều là tạm thời và chúng ta không c̣n chịu đau khổ nữa, nếu chúng ta tiến rất gần sự toàn thiện.

            Chúng ta có năng lực đồng hóa, chẳng những Tâm Thức của kẻ khác mà cho đến tất cả cái chi ở Cơi Bồ Đề. Chúng ta học hỏi tất cả theo con đường nội tâm chớ không theo ngoại cảnh[15]. Chúng ta muốn khảo cứu một vấn đề nào, một cơ thể nào hay hoạt động của một Luật Thiên Nhiên nào hoặc các vấn đề khác cho đến tất cả Tâm Thức của Nhân Thể nữa, chúng ta bắt buộc phải xem xét từ bên ngoài và xem nó như ở ngoài chúng ta. Ở trong Nhân Thể, chúng ta có thể quan sát việc nầy với một Tâm Thức vô cùng mở mang, với cái năng lực thu hoạch được những điều hiểu biết hết sức rộng sâu hơn là ở những Cơi thấp. Nhưng khi tiến tới cơi Bồ Đề, sự sai biệt thật trọng yếu. Đối tượng của sự quan sát của chúng ta lại trở thành phần tử của chính chúng ta. Khó mà phô diễn bằng lời nói, bởi v́, ở Thế Gian, chúng ta không có cái ǵ hoàn toàn giống như thế; nhưng khi khảo sát sự vật bằng cách lấy phương diện nội tâm thay thế cho phương diện ngoại cảnh sẽ có một sự ích lợi to tát cho chúng ta. Những đặc điểm đó mới mẻ cho đến đỗi như là chúng ta có thể nói rất đúng "Đây là sự thấy đầu tiên của chúng ta về cách thức mà Đức Thượng Đế quan sát vũ trụ của Ngài," bởi v́ kinh nghiệm nầy chính thật là kinh nghiệm của Ngài, điều mà Ngài quan sát phải là một phần tử của chính Ngài, bởi v́ không có cái ǵ mà không phải là Ngài. Tâm Thức của Ngài vốn là Tâm Thức Bồ Đề nầy nhân cho một số n  (lũy thừa n) và thêm vào đó một sự thông tuệ, một sự vinh quang và một sự huy hoàng mà không cái ǵ, bất cứ ở cơi nào, có thể gợi cho chúng ta một ư niệm nào cả. Người ta mới hiểu rơ rằng tại sao ta gọi Cơi nầy là Cơi chơn và tất cả những cái thấp là Cơi giả, bởi v́ sự sai biệt thật to tát, sự thay đổi thái độ của chúng ta hoàn toàn cho đến đỗi tất cả các cách thức khác để quan sát sự vật như là hư ảo, không thực tế mà lại c̣n kỳ cục nữa, khi mà chúng ta tập quan sát sự vật theo con đường nội tâm.

            Đạt được sự thấy cao siêu nầy cũng không phải là khó như nhiều sinh viên đă tưởng vậy. Có một số người đă thành công trong kiếp hiện tại, ở nơi đây và ngay bây giờ, chắc chắn những người bằng ḷng tuân theo kỷ luật và thực hành ḷng vị tha vong kỷ một cách tuyệt đối sẽ tập được; bởi v́ ngày nào một yếu tố cá nhân chia rẽ c̣n tồn tại trong quan điểm của người Đệ Tử th́ ngày đó y không thể nào tiến bộ được trong Tâm Thức Bồ Đề, v́ sự mở mang Tâm Thức nầy tùy thuộc sự loại trừ Bản Ngă.

            Ư niệm chia rẽ được diễn tả nhiều cách khác nhau trong sự sinh hoạt hằng ngày và điều khôn ngoan là coi chừng những biểu lộ nầy. Một trong những sự biểu lộ đó nổi bật hơn hết  là ḷng ham muốn sử dụng quyền thế để áp bức kẻ khác. Hơn phân nửa Thế Gian nầy măi lo t́m cách xen vào chuyện thiên hạ, thói quen đó đă có từ lâu đến đỗi chúng ta không để ư đến; thường thường ta cho việc đó là khuyên bảo những lời hay lẽ phải. May ra trong 2.000 lần mới có một lần đúng như vậy, và thường thường, chúng ta chỉ củng cố cái Bản Ngă chia rẽ của chúng ta bằng cách bắt kẻ khác phải nghe theo ḿnh.

            Ở Cơi Trần, chúng ta cố gắng ép kẻ khác hành động theo đường lối của chúng ta và nhân nhượng chúng ta, luôn luôn chúng ta cố gắng bắt họ thừa nhận kế hoạch riêng của chúng ta, dù kế hoạch đó thế nào cũng mặc. Chúng ta tưởng rằng hễ là kế hoạch của chúng ta, nó là tốt nhất trên đời và chúng ta muốn ai ai cũng phải thi hành theo nó. Về tŕnh độ trí thức cũng thế; họ cũng luôn luôn gắng sức bắt buộc kẻ khác phải theo ư kiến và tư tưởng của họ. Người mà trí hóa minh mẫn sẽ nhờ nó bắt đầu muốn áp chế kẻ khác một cách tinh tế và không hấp tấp chút nào. V́ lư do tư tưởng của y trở nên sâu sắc hơn và dũng mănh hơn tư tưởng của những kẻ khác, cho nên y mới ra công uốn nắn tư tưởng của họ giống như tư tưởng của Y. Thật là điều chính đáng và tốt đẹp khi chúng ta có ư muốn chia sớt với kẻ khác tất cả những sự hiểu biết của chúng ta và đem tŕnh bày cho họ những điều chúng ta đă t́m ra và có ích lợi cho chúng ta; nhưng thường thường, không phải ư tưởng chỉ muốn áp chế về mặt trí thức, sự ham muốn nầy lại kèm thêm ḷng khinh bỉ kẻ khác. Chúng ta tự nói rằng: "Mấy người nầy cũng như bầy trừu, chúng ta có thể ở đàng sau đuổi họ đi tới trước; chúng ta có thể điều khiển tư tưởng của họ tùy theo sở thích của chúng ta." Thật đúng khi một người kia có thói quen suy tưởng như chúng ta phải suy tưởng: Nhờ tham thiền và học hỏi, y có thể chi phối tư tưởng kẻ khác hết sức dễ dàng, nhưng chúng ta không nên làm thế, bởi v́ tất cả điều ǵ giống như áp chế, ngự trị là có phương hại cho sự tiến hóa của kẻ khác mà cũng không ích lợi ǵ cho chúng ta. V́ vậy, cần phải chống lại ḷng ham muốn chi phối về mặt trí thức v́ nó thuộc về tật xấu của sự chia rẽ.

            Vượt khỏi điều nói trên, về phương diện nầy, c̣n lại cho chúng ta một khả năng cao siêu khác là trong phạm vi tinh thần, chúng ta c̣n có ư muốn hướng dẫn đồng loại đi theo con đường riêng của chúng ta; do đó tất cả những nỗ lực nhằm mục đích bắt con người bỏ Đạo nầy theo Đạo khác. Nói như thế, sợ rằng có vài chỗ bất công. Cơ đốc Giáo cũng vậy, căn cứ vào nguyên tắc nầy - nó là cái ảo tưởng lớn lao vô cùng - trừ phi thừa nhận những thể thức, những tín điều của Cơ Đốc Giáo con người chuẩn bị một tương lai rất khó nhọc và khổ sở, những sự nỗ lực của Cơ Đốc Giáo trong việc căi biến tín ngưỡng vẫn nhuộm màu sắc bác ái vị tha. Nó tuyên bố với mọi người rằng: "Giáo Lư của tôi là chính thống, c̣n Giáo Lư của Huynh là tà thuyết dị đoan", hoặc giả nói: "Điều tôi tin tưởng là Chân Lư, Huynh phải ăn ở theo đó." Sau khi tinh thần đă phát triển, chúng ta đạt được nhiều sự hiểu biết mà kẻ khác không có; điều tốt đẹp và thích đáng là đem truyền bá Phúc Âm của chúng ta; có ư muốn chia sớt những điều chúng ta đă sưu tầm được cho đồng loại và giúp đỡ họ có tất cả những cơ hội thuận tiện để theo chúng ta vào những lănh vực cao siêu của tư tưởng nầy; nhưng nếu điều ước vọng trên có xen ḷng ham muốn áp chế họ, ḷng ham muốn thường đi đôi với nhiều tánh tốt, người ta gặp lại ở đây cái ǵ của Bản Ngă chia rẽ; "cỏ dại" to lớn cũng chưa bị bứng gốc rễ, chưa chết hẳn.

            Cũng phải loại bỏ hoàn toàn ḷng ham muốn áp chế, hay chi phối, bởi v́, ngày nào, con người c̣n làm việc cho bản ngă riêng biệt chia rẽ, ngày đó y c̣n thuộc vào một "lớp" người rất đông đảo sống ích kỷ chia rẽ; đối với sự tiến hóa, họ tiêu biểu cho một khối nặng vô dụng ghê gớm. Khi mà y quan niệm được sự hợp nhất, y liền tách ra khỏi khối nặng nầy và bắt đầu giúp đỡ những người đang nâng đỡ khối đó lên.

            Sống cô độc một ḿnh có nghĩa là không bị lệ thuộc vào người nào, ngoài ta ra, bởi v́ không có người nào hay vật nào riêng rẽ mà chung qui có thể giúp ích cho ta được việc ǵ. Sự giúp đỡ phải tự ở trong tâm chúng ta. Đức Sư Phụ có thể luôn luôn giúp đỡ sự nỗ lực của chúng ta, nhưng chính Ngài cũng không làm sao hoạt động tại cơi của chúng ta được. Ngài không ngớt đưa ra những tư tưởng cho chúng ta và trợ lực chúng ta đủ mọi cách, nhưng ở mỗi bước đi, công việc phải do chúng ta làm cho hoàn thành. Khi tiến tới, phải có thể sống trong cảnh cô đơn tịch mịch, đối với ta th́ h́nh như ta vẫn trơ trọi một ḿnh và không có sức hộ tŕ trực tiếp của Sư Phụ. Tuy nhiên, điều nầy cũng là một ảo tưởng, bởi v́, thật sự, không ai sống chia rẽ với Đức Sư Phụ hay Đức Thượng Đế được, mà Đức Sư Phụ lại là thành phần của Đấng Vô Thủy Vô Chung. Nhưng phải hoạt động như là chúng ta sống một ḿnh và trong vài giai đoạn của sự tiến hóa của chúng ta, chúng ta sẽ cảm thấy ḿnh hoàn toàn cô lập. Đồng thời, một sự nỗ lực về mặt trí thức, chắc hẳn là khó khăn trong t́nh trạng của chúng ta; sự nỗ lực nầy giúp chúng ta hiểu biết rằng không thể nào sống cô độc một cách thực sự được. Chúng ta thuộc về Đức Thượng Đế, sự hợp nhất vẫn c̣n măi măi, bằng không chúng ta sẽ vô tri vô giác.

            Chúng ta thuộc về cái ǵ không thể chấm dứt được, v́ thế, ư niệm cô độc là một ảo tưởng, dù rằng ảo tưởng đó gây cho chúng ta tất cả mọi phiền năo, tất cả mọi đau khổ. Ở Trần Thế, thường khi con người tưởng rằng ḿnh cô độc, thật ra lại ít cô độc hơn. Ở giữa một đám đông, những điều cao cả ít có ảnh hưởng đến Y, v́ thế mà Y càng cách xa điều đó. Nhưng, khi những người sống ích kỷ, chia rẽ nầy dang xa Y rồi, Y lại chịu ảnh hưởng của "Bản Ngă không chia rẽ" dễ dàng hơn, bởi vậy, rất đúng là con người ít cô độc hơn trong những giờ phút Y tưởng hay cảm thấy ḿnh cô độc nhất.

            Khó mà quan niệm cái ư ghê sợ khi cảm thấy ḿnh sống hoàn toàn trơ trọi trong vũ trụ - như một điểm trôi giạt trong không gian, đó là t́nh trạng gọi là cơi A Tỳ (Avichi), nghĩa là "không sóng gợn, không rung động". Trong t́nh trạng Tâm Thức nầy, dường như con người ở ngoài những làn rung động của Sự Sống Thiêng Liêng, người ta nói đó là sự kinh nghiệm kinh khủng nhất. Huynh Bàng Môn Tả Đạo nào trong nhiều kiếp luân hồi, cố ư tranh đấu một cách có phương pháp cho sự chia rẽ và trực tiếp chống lại những lực lượng hợp nhất của sự tiến hóa sẽ bỏ ḿnh trong cảnh A Tỳ. Vị Đệ Tử của Chơn Sư cần phải tập có thiện cảm, dù là với huynh Bàng Môn Tả Đạo chịu cảnh A Tỳ. V́ thế, trên con đường tiến hóa của ḿnh, vị Đệ Tử phải có một lần cảm thấy được t́nh trạng Tâm Thức ấy. Y chỉ vào đó trong chốc lát thôi nhưng cái cảm giác không thể nào quên được. Từ đây, Y luôn luôn biết được nỗi đau khổ của những kẻ sống trong t́nh trạng nầy trải qua không biết bao nhiêu thời đại rồi. Đối với chúng ta, khi th́ giờ thí nghiệm đă đến,[16] hăy nhớ rằng tất cả cái ǵ tồn tại là Đức Thượng Đế và chúng ta không thể nào sống chia rẽ với Ngài được, mặc dù chúng ta lầm tưởng như vậy: Chúng ta hăy hiểu rằng đó là một ảo tưởng cuối cùng mà chúng ta phải chiến thắng.

            Tất cả chúng ta phải sống trong cảnh cô đơn (một ḿnh), bởi v́ mỗi người trong chúng ta phải tập tự tin lấy ḿnh và tự biết rằng ḿnh là Đức Thượng Đế, và Điểm Linh Quang chói sáng trong tâm ḿnh, thực sự, là thành phần của Toàn Thể. Khi mà chúng ta chưa tiến đến tŕnh độ đó, đối với những giai đoạn cao siêu của công nghiệp của Đức Sư Phụ, chắc chắn chúng ta chưa phải là những nhân viên tín cẩn của Ngài. Trong khi chờ đợi, trong tất cả mọi công tác của chúng ta ở tại đây, dù là ở cơi Trần, ở cơi Trung Giới hay ở cơi Thượng Giới, sự tin chắc rằng: Đức Sư Phụ không ngớt bao bọc chúng ta trong hào quang của Ngài và Ngài ở kề bên chúng ta là một sức mạnh rất lớn lao và một niềm êm dịu vô cùng đối với chúng ta. Tùy theo trường hợp, mỗi đêm chúng ta thi hành phận sự thường lệ của chúng ta ở cơi Trung giới hay ở Cơi Thượng Giới và luôn luôn chúng ta biết rằng quyền lực của Đức Sư Phụ bảo vệ chúng ta. Có khi chúng ta gặp một sức mạnh phi thường, cao hơn chúng ta vô cùng, hăm dọa làm khổ sở, điêu đứng chúng ta, cũng như ở Thế Gian bị một trận băo tố dữ dội hay một cuộc động đất hoành hành, nhưng chúng ta luôn luôn biết rằng chúng ta có thể cầu cứu măi măi và vô hạn ở quyền lực của Ngài. Vả lại, vị Đệ Tử phải tập "không cầu cứu với Ngài," nhưng đây cốt để cho ḿnh trở nên một trung tâm cũng dũng mănh như  Đức Sư Phụ vậy.

            Đừng tưởng rằng con có thể sống riêng biệt với kẻ hung ác hay người điên cuồng. Họ chính là con, mặc dù ở vào một tŕnh độ thấp kém hơn người bạn thân của con hay Sư Phụ con. Nhưng nếu con để trong tâm nẩy nở ư nghĩ rằng con không liên đới với một vật nào hay một người nào, do đó, con sẽ tạo ra một nghiệp quả, nó trói buộc con vào vật đó hay người đó cho đến ngày nào Linh Hồn con nh́n nhận rằng nó không thể sống riêng biệt được nữa.

            C.W.L. _ Đây là phần đầu của lời chú thích dài do Đức Chơn Sư Hilarion viết ra. Về mặt lư thuyết, có lẽ chúng ta tin rằng loài người hợp thành một đoàn thể lớn, và quả thật vậy, làm ra một khối duy nhất. Ở đây, Đức Chơn Sư xác nhận sự hợp nhất nầy gồm có những cấp bậc, thế nên mới có những cấp bậc khác biệt nhau, sau cùng trong một mức độ nào đó, chúng ta thấy ḿnh phân cách với kẻ hung ác hay người điên cuồng hơn là với bạn thân chúng ta hay Đức Sư Phụ của chúng ta. Người ta thường cho danh từ huynh đệ đại đồng bao hàm ư nghĩa b́nh đẳng giữa loài người, thật ra điều nầy không thể có được. Trong tất cả các gia đ́nh đều có nhiều anh em tuổi tác khác nhau, cũng thế đó, trong những phần tử của đoàn thể nhân loại phải có những Linh Hồn cao tuổi và những Linh Hồn nhỏ tuổi. Cũng như trong một gia đ́nh dưới Thế Gian nầy, người anh cả phải đảm nhiệm phần giáo dục đàn em thơ ấu, trong đại gia đ́nh của Nhân Loại, vị Trưởng Huynh phải lo bảo vệ và giúp đỡ đủ mọi cách những em c̣n trẻ tuổi. Ai nói Huynh Đệ là nói sự bất đồng, nó gồm về sự sai biệt về niên kỷ, vừa khác nhau về những việc làm.

            Sau đây là một trong những biểu tượng đẹp đẽ nhất của t́nh Huynh Đệ mà tôi được biết. Một trong những hội viên của chúng ta, trông thấy hiện ra trước mắt một ṭa thánh điện Đông Phương với cả hàng trăm cây cột. Huynh ấy diễn tả ṭa thánh điện ấy với những lời lẽ như vầy: "Tất cả những cột nầy đều góp phần nâng đỡ ṭa thánh điện, vậy nên chúng nó tiêu biểu cho những Linh Hồn cá nhân dự phần xây dựng ṭa thánh điện nhân loại. Có những cột ở bên ngoài phơi bày dưới mắt mọi người. Người ta thấy chúng nó, người ta không ngớt trầm trồ khen ngợi, chúng nó trải qua bao cơn mưa nắng dăi dầu. Những cột khác, nằm bên trong nội điện, bị ch́m mất trong đám rừng cột, suốt năm không hề thấy ánh sáng mặt trời rọi đến, khách qua đường hờ hững không hề để ư tới. Có vài cây cột ở nhằm những vị trí thuận tiện cho những vị sùng đạo tựu hợp, họ đến ngồi dựa lưng vào bệ từ sáng đến chiều. Những cột khác ở chỗ xa vắng hơn, nhưng mỗi cột là thành phần của Thánh Điện và mỗi cột đều có sự hữu ích của nó. T́nh Huynh Đệ Đại Đồng là như thế đó. Nhiều người có thể có quan niệm thủ một vai tuồng trọng yếu; nhiều người khác có thể làm mất cơ hội để phụng sự, tuy thế, tất cả đều chống đỡ một phần Thánh Điện. Những người làm mất cơ hội vẫn là những cột của thánh điện cũng như những cột được công chúng biết nhiều nhất."

            Nhiều Sinh Viên của chúng ta rất ân cần xác nhận rằng họ hợp nhất với Đức Sư Phụ và các vị Thánh, nhưng họ ít chịu quả quyết rằng họ hợp nhất với những kẻ sát nhân, những người nghiện rượu, những kẻ bơ thờ, vô tư lự, những kẻ ham mê sắc dục, những kẻ hung ác. Tuy nhiên, Nhân Loại vẫn là một, phải hợp nhất với những người tiến hóa thấp cũng như những người tiến hóa cao. Trong trường hợp thứ nhứt, đó là một phần tử của chính ḿnh chúng ta, theo gương đó, chúng ta phải tiến lên, nhưng trong trường hợp thứ nh́, đó là phần tử của Nhân Loại mà chúng ta cố gắng giúp đỡ. Bằng cách nào? Trước hết phải có một thái độ tốt đẹp đối với họ, nếu chúng ta tránh xa họ với sự ghê tởm, nếu chúng ta thù ghét họ tức là chúng ta làm cho con đường của họ trở nên khó khăn hơn. Nếu chúng ta để cho tánh tự nhiên và ưa sự ác nổi lên trong ḷng ta ảnh hưởng đến thái độ chúng ta đối với phạm nhân th́ chúng ta c̣n ở trong hai sự sai lầm; sự sai lầm nầy hầu như đôi khi không thể tránh được, mà chỉ có sự suy luận mới có thể giúp cho chúng ta tránh khỏi sự lầm lạc nầy.

            Các Bác Sĩ gặp những chứng bịnh hết sức ghê gớm và hết sức khủng khiếp mà lỗi lại hoàn toàn thuộc về người bệnh gây ra, nhưng không có vị Bác Sĩ đứng đắn nào lại nghĩ đến điều đó, khi nh́n xem bệnh nhân. Ông không xa lánh bệnh nhân v́ ghê tởm mà xem bệnh chứng như là một kẻ thù phải chiến đấu và phải chiến thắng. Đó là một gương mẫu rất tốt đẹp của một thái độ mà ta phải theo khi ta gặp phải một người trụy lạc. Quả thật chắc chắn là chúng ta không có làm ǵ được với một người nghiện rượu hoàn toàn hư đốn đă mất hầu hết nghị lực. Nhưng không phải v́ ghê tởm họ mà quay mặt đi chỗ khác hay là khinh miệt họ, chúng ta phải giúp đỡ họ. Cũng thế, nếu một người phạm một tội ác gớm ghiếc, chúng ta có thể phát sinh ḷng gớm ghiếc tội ác, chớ không phải đối với phạm nhân. Sự phân biệt tuy rất khó cho chúng ta nhưng phải rán sức phân biệt cho được.

            Một điểm khác về chi tiết cũng hơi lạ lùng. Những vật khiến chúng ta ghê tởm nhất là những vật mà chúng ta có ư hướng ít nhiều về chúng, như vậy không phải là không nguy hiểm cho chúng ta. Không có một ư hướng về một tội ác, dù là một ư hướng mong manh yếu ớt nhất, khiến chúng ta xem tội ác không có ǵ là ghê tởm; nhưng nếu một người kia thấy một sự yếu đuối của con người mà sinh ḷng gớm ghiếc th́ Y có thể tự nhủ rằng: Sự yếu đuối nầy đă đưa y đến một sự nguy hiểm thật sự, có lẽ trong kiếp vừa qua hoặc trong kiếp trước đó.

            Khi chúng ta bị những ảnh hưởng xấu bao vây, đôi khi chúng ta cần bao ḿnh với một lớp vỏ để ngăn cản ảnh hưởng ấy xâm nhập vào ḿnh, đó thường là điều chắc chắn hơn hết v́ lẽ chúng ta đều chưa tiến hoá, nhưng đồng thời ấy cũng là việc thú nhận yếu đuối của chúng ta tới một mức nào đó. Người thật dũng mănh mạo hiểm mà không ngần ngại chi cả, v́ Y chắc rằng chúng nó không thể làm ǵ được. Chúng ta không thể làm như vậy mà không bị mang tiếng là bất cẩn. Sức mạnh của chúng ta có hạn và phương sách không để phung phí một phần sức mạnh của chúng ta là tạo thành một lớp vỏ nầy. Một người hoàn toàn tin chắc ở sức mạnh có thể trải qua những sự nguy hiểm khác nhau mà không bị hại, bởi v́ sự tin chắc của Y là xác thực. Sức mạnh hoàn toàn làm tiêu mất hết sự ghê tởm. Chúng ta lùi bước trước một bệnh truyền nhiễm v́ sợ lây; nếu chúng ta tin chắc ở sự không bị nhiễm của chúng ta, chúng ta không c̣n có ư tưởng về sự truyền nhiễm nữa.

            Nếu chúng ta không xem ḿnh như riêng biệt với người hung ác và kẻ ngu ngốc, không phải chúng ta cứ giao du với họ măi, mặc dù có cơ hội tiếp xúc với họ cũng có lợi vậy. Nhiều người có ḷng nhân đạo t́m cách giúp đỡ những kẻ nghèo khổ trong một đô thị lớn như Luân Đôn, bằng cách vào ở những xóm bần hàn đói rách. Nhiều Sinh Viên của chúng ta nghĩ rằng đó là bổn phận của chúng ta đối với kẻ hung ác và những người mất lương tri. Cách giúp đỡ như vậy không phải luôn luôn là tốt nhất. Hăy lấy thí dụ ở các Đấng Chơn Sư. Những Đấng Thiêng Liêng Cao Cả không đến sống trong những xóm tồi tệ, bẩn thỉu của các đô thị lớn. Tại sao vậy? Bởi v́ các Ngài không thể theo đuổi công việc giúp đỡ Nhân Loại của các Ngài như thế đó. Chơn Sư cần chuẩn bị cho ḿnh một nơi nào để Ngài có thể làm việc gần trọn hết th́ giờ của Ngài; có lẽ Ngài chỉ làm được có một phần trăm những điều mà Ngài thi hành được ở trong trường hợp khác.

            Nguyên tắc ấy đối với chúng ta cũng vậy: Không có sự cần thiết nhỏ mọn nào bắt buộc chúng ta phải nhận những điều kiện xấu tệ. Trái lại, sự giúp đỡ của chúng ta thường được đầy đủ hơn khi nào chúng ta được tự do. Thí dụ khi người ta mắc kẹt ở giữa một đám đông thật là đặc biệt khó chịu, đang sôi nổi v́ bị sự hung ác hay bị sự phẫn nộ kích thích, người ta có thể làm một cái vỏ để bảo vệ ḿnh khỏi bị ảnh hưởng xấu, nhưng mà người ta không làm ǵ được đến đám đông trong lúc đó. Trái lại, nếu ở xa đám đông, người ta có nhiều tinh lực hơn để cung hiến cho họ. Dù sao, nếu một đám đông tŕnh độ tiến hóa chưa mở mang bị kích thích bởi ḷng dục vọng tàn ác, ở trên những Cảnh Giới cao siêu, không thể ảnh hưởng họ được, bởi v́ tinh lực tiêu dùng như vậy không thể cảm đến họ, khi mà họ ở trong t́nh trạng ấy. Thế nên không ích lợi chi đi vào những chỗ xấu xa bất chánh mà không biết rơ việc lành nào ḿnh có thể làm được tại đó. Nếu chúng ta bị đặt trong hoàn cảnh ấy, hẳn nhiên chúng ta phải làm hết khả năng ḿnh. Người ta nói với tôi rằng các Nhà Truyền Giáo vào những quán rượu tổ chức những công việc đạo đức. Sự can đảm của họ đôi khi cũng đem đến sự thành công. Nhiều trường hợp, làm như vậy tự nhiên đưa đến cảnh thất bại lớn. Trong vấn đề nầy cũng không khác ǵ ở cuộc chiến tranh, một quyết định gan dạ, có vẻ liều lĩnh, mạo hiểm, có thể thành công được, nhưng thường người ta có thể làm hơn thế nữa bằng cách làm việc một cách hợp lư.

            Con hăy nhớ rằng tội lỗi và sự nhục nhă của Thế Gian là tội lỗi và sự nhục nhă của con, bởi v́ con là phần tử của Thế Gian, nghiệp quả của con dệt chung với đại Nghiệp Quả của nhân loại, không thể nào gỡ ra được.

            Tại Thế Gian nầy, người ta không nhận thức được điều nói trên, nhưng khi lên đến Cơi Bồ Đề, người ta mới thấy câu cách ngôn phô bày một chân lư. Ở Cơi đó, chúng ta mới tự nhủ rằng: "Tôi dự phần vào việc mà nhân loại không thể tránh được, sự xấu xa của nhân loại chính là sự nhục nhă của tôi." Lư do sự tin chắc nầy v́: Vốn là phần tử của Nhân Loại, chúng ta đă dự phần vào tội lỗi của Nhân Loại cũng như chúng ta đă dự phần vào tất cả những sự tốt lành của nhân loại. Một người tiến được một bước tới trước, chúng ta thấy đó là một sự thắng lợi cho tất cả. Nhờ Y mà toàn thể Nhân Loại tiến gần đến mục đích một chút.

            Và trước khi được giác ngộ, con phải trải qua khắp mọi nơi, dù chúng nó ô uế hay chúng nó trong sạch, v́ thế, con nên nhớ rằng y phục dơ bẩn mà vừa đụng tới con đă gớm, có thể con đă mặc nó trong ngày hôm qua, cũng có thể con sẽ mặc lại nó ngày mai nữa, và nếu con quay mặt chỗ khác tỏ vẻ ghê tởm, nó sẽ bó sát vào thân con khi người ta choàng nó lên vai con. Người nào kiêu hănh về đức hạnh của ḿnh là dọn cho ḿnh một chỗ nằm trong chốn bùn lầy. Con hăy tŕ giới, v́  tŕ  giới là điều tốt, chớ không phải cốt để giữ ḿnh con cho được trong sạch.

            Đoạn nầy chấm dứt lời chú thích của Đức Chơn Sư  Hilarion; người ta thường hiểu sai lầm ư nghĩa của nó; người ta giải thích câu cách ngôn ấy như thế nầy: "Đến một lúc kia, mỗi cá nhân đều phải phạm tất cả những tội lỗi." Không phải ư nghĩa của nó như vậy đâu, bởi v́ người khôn rút lấy ở sự kinh nghiệm của kẻ khác một lời giáo huấn. Khi thấy một người đưa tay vào lửa bị phỏng, chúng ta không cần phải làm như vậy chắc rằng đó không phải là một gương mẫu đáng theo. Cũng vô ích khi gây ra các tội ác để biết thế nào là đau khổ. Đến một giai đoạn tiến hóa nào đó, tất cả chúng ta đă vượt qua khỏi t́nh trạng của nhân loại tối cổ và chúng ta đă trải qua những giai đoạn khác nhau của kiếp người, cho nên đến điểm nầy, chúng ta mới ở vào t́nh trạng hiện hữu, nhưng không phải thế mà mỗi người trong chúng ta đều có làm tội ác. Có thể thí dụ rằng phần đông chúng ta trong khi trải qua những kiếp luân hồi thật dài của chúng ta, chúng ta học tập cho biết hết những thứ lỗi lầm khác nhau mà con người có thể phạm, nhưng chắc chắn không phải trong những chi tiết của chúng nó. Đối với một Linh Hồn khôn ngoan, tôi tưởng rằng sự biết được một trong những h́nh thức của một tội lỗi nào đó, tiêu biểu cho sự kinh nghiệm của một số lỗi lầm khác đồng loại với nhau.

            Một điểm khác nữa cần được xem xét. Tất cả mọi người, khi đạt được Tâm Thức Bồ Đề không dùng Tâm Thức nào khác. Tất cả kinh nghiệm của nhân loại trở thành kinh nghiệm của ḿnh. Đối với chúng ta, sự vinh quang và sự huy hoàng của Tâm Thức Bồ Đề là nó nối liền chúng ta với Đức Chơn Sư. Đừng quên rằng Tâm Thức Bồ Đề cũng đem chúng ta gần với những kẻ tà dâm và những người làm tội ác. Chúng ta cần biết qua những tâm hồn của họ, cũng như sự vinh quang và sự huy hoàng của đời sống ở Cơi cao. Vừa đụng tới cơi Bồ Đề như thế, chúng ta có thể quen thuộc với Sự Sống, trong những trạng thái thấp thỏi và khó khăn của nó bằng cách chia sớt Tâm Thức của những người đă trải qua những giai đoạn đặc biệt nầy. Đó không phải là một bài học khẩn thiết cho chúng ta, bởi v́, về mặt giả thuyết, chúng ta biết rằng chúng ta không những làm mấy việc đó được, nhưng muốn cho t́nh thiện cảm của chúng ta trở nên hoàn toàn th́ cần phải có một vài kinh nghiệm, bằng không chúng ta không thể giúp đỡ kẻ khác. Người mà ḷng thiện cảm đă trở nên hoàn toàn sẽ nhờ trực giác cảm biết được những sự khó khăn và những sự cám dỗ của kẻ khác, v́ vậy người chỉ đem t́nh thương đến với kẻ lầm đường lạc lối. Nhờ t́nh thiện cảm của Y mà "chiếc áo dơ" trở thành chiếc áo của Y mặc. Cuối cùng, sau khi đă loại bỏ sự sống riêng biệt một ḿnh và thực hiện được sự hợp nhất, chúng ta thấy rằng ḿnh nhập vào Đời Sống Thiêng Liêng và t́nh thương là mối t́nh duy nhất có thể có đối với đồng loại chúng ta từ người cao thượng nhất cho tới người hạ tiện nhất.

            6. - Hăy diệt ư niệm cảm giác.

            Hăy để cho cảm giác dạy dỗ con và quan sát nó, bởi v́ chỉ làm như vậy, con mới có thể bắt đầu vào môn học tự giác và đặt chân con lên nấc thứ nhứt của cái thang.

            A.B. - Vị Đệ Tử cần phải học hỏi những cảm giác riêng của ḿnh hầu tự hiểu lấy ḿnh một cách rơ ràng hơn, nhưng sự hiểu biết nầy bắt buộc phải nghiên cứu có phương pháp những tư tưởng riêng của ḿnh, sự nghiên cứu đưa Y trước hết đến sự tự tách ḿnh, sự tự ĺa ḿnh ra khỏi tư tưởng. Chỉ một ḿnh nó thôi, sự nghiên cứu về tư tưởng của huynh cũng làm cho đời sống của huynh tách ra khỏi tư tưởng rồi cho đến đỗi hiện giờ đây, huynh không c̣n đồng hóa với tư tưởng ấy nữa. Thật vậy, người ta không đồng hóa với đối tượng mà người ta nghiên cứu hay khảo sát. Theo một từ ngữ riêng thuộc phái của Đức Shankaracharya, chủ quan và khách quan không bao giờ lầm lộn được. V́ vậy nỗ lực dùng vào việc nghiên cứu làm suy yếu những h́nh dạng và chỉ một ḿnh sự nỗ lực cũng giúp anh được giải thoát [17].

            Lời khuyên bảo trên có liên quan đến lời khuyên bảo khác là : tự học hỏi bằng những kinh nghiệm của ḿnh giúp con người có thể đi đến giai đoạn không c̣n bị kinh nghiệm ấy nhiễm ḿnh nữa. Khi một người nghiên cứu một trong những cảm giác riêng của ḿnh để học hỏi, y có thể thí nghiệm cảm giác đó, nhưng đồng thời y cũng có thể làm hơn nữa, nghĩa là đo lường sức mạnh cảm giác mà không nhượng bộ. Những cơ hội cũng sẽ đưa đến để cho vị Đệ Tử tập quan sát những cảm giác, y nhận thấy có những cảm giác từ lâu ngủ yên trong ḷng ḿnh, bây giờ lại ùn ùn nổi dậy. 

            Chúng ta đều có những hồi ức. Người ta có thể nói rằng : Những hồi ức theo hộ tống chúng ta giống như những người đă chết. Một hành động bên ngoài có thể làm cho chúng nó sống lại. Chúng nó có thể sống lại nhờ tiếp xúc với những h́nh tư tưởng của kẻ khác tương tợ chúng nó; hay là có một vị quyền năng cao cường thuộc về bên Chánh Đạo hoặc bên Bàng Môn cố tâm làm cho chúng nó sống lại, bởi v́ họ muốn cho chúng ta mau trở nên thanh khiết hoặc họ muốn thử thách chúng ta. Tư tưởng đă chết rồi mà sống lại th́ chủ nhân của nó sẽ cảm thấy điều mà người ta gọi là sức mạnh của sự cám dỗ ra sao. Học hỏi sự tác động của tất cả những điều nầy, vị Đệ Tử nhận thấy những ǵ đă xảy ra. Khi đó sức mạnh của tư tưởng sống lại rồi, huynh nói với nó: "Ngươi  không phải là hiện sinh của ta, ngươi chỉ là cái Bản Ngă xưa kia của ta, hăy đi đi."

            Đôi khi, trong giờ phút bị cám dỗ cũng có ích mà nhận biết rằng đó chỉ là quá khứ của Huynh sống lại thôi, rồi anh sẽ nói rất hữu lư rằng: "Cái nầy không phải là tôi," Huynh xem nó như ở ngoài Huynh, xa lạ với con người của Huynh, hay là sự hoạt động của huynh. Huynh sẽ biết rằng cái quá khứ nầy không thể cầm giữ được Huynh, cũng không thể làm ô uế Huynh. Sự kiên nhẫn tin cậy do ḷng quả quyết nầy là một liều thuốc bổ mạnh. Đối với Huynh, gần đến thời giờ mà Huynh không c̣n cảm thấy ḿnh bị cám dỗ nữa. Chẳng bao lâu, sự cám dỗ sẽ trở thành bất lực, không c̣n cảm nhiễm Huynh được.

            Trong tiến tŕnh có phương pháp nầy gồm có sự cân nhắc, đo lường và phân tích những t́nh cảm và những tư tưởng xưa kia của ḿnh, vị Đệ Tử làm cho Bản Ngă đă chết nầy không c̣n phương thế nào tái sinh nữa. Đó là ư nghĩa của câu cách ngôn nói về ḷng ham muốn trong cuốn Tiếng Nói Vô Thinh như vầy: "Hăy coi chừng, nó sẽ sống lại giữa đám người đă chết". Muốn cho t́nh cảm và tư tưởng bị tiêu diệt đem chúng nó chôn vùi dưới đáy sâu cho biệt dạng cũng chưa đủ mà c̣n phải làm sao cho cái mảnh vụn cuối cùng c̣n sót lại của chúng nó tan vỡ hết. Và khi xem xét chúng nó, con người nhận biết một cách hết sức rơ rệt cái bản tính thật sự của chúng nó và không c̣n xem chúng nó như một phần tử của chính ḿnh nữa.

            C.W.L. - Trước tiên, chúng ta phải đứng ngoài quan sát sự hoạt động của cảm giác trong nội tâm của chúng ta. Khi nào nó lôi cuốn chúng ta được th́ nó không có ǵ để huấn luyện ta cả, bởi v́ chúng ta là nô lệ của nó rồi, nhưng nếu chúng ta có thể đem ḿnh lên cao, từ trên nh́n xuống và xem nó như một cặn bă của quá khứ chúng ta, chừng đó chúng ta mới có thể quan sát và học hỏi được.

            Những làn sóng cảm giác bủa khắp Thế Gian, cần phải t́m hiểu cho được chúng nó hầu có thể giúp đỡ đồng loại ḿnh, nhưng lẽ tự nhiên, điều ấy có thể thực hiện được khi nào những cảm giác nầy không c̣n ảnh hưởng đến chúng ta nữa. Thật vậy, đây thuộc về tính khí, nhưng đối với nhiều người, một trong những khó khăn to tát là ở chỗ họ bị những cảm giác của t́nh cảm nhồi lên nhồi xuống trước khi biết rơ cách chế ngự chúng nó. Điều nầy cũng như một người đứng dưới nước ngay chỗ giáp mối của hai ḍng nước chảy mà muốn ra sức khắc phục chúng. Con người không thể nào áp phục được một sức mạnh không ngớt vật ngă nó rồi lôi cuốn nó đi. Chỉ v́ người ta không biết rằng t́nh cảm thật sự không phải là một sức mạnh bên ngoài như sức mạnh mới nói ra đây, mà sức mạnh ấy ở ngay trong tâm họ, nếu họ biết cách điều khiển ắt có thể hoàn toàn chế phục được nó.

            Muốn thế, ngay từ sơ khởi, phải mạnh dạn bắt tay vào việc. Một làn sóng nóng giận, chán nản, đố kỵ hay tất cả dục t́nh khác phát sinh trong khoảnh khắc và lan rộng ra rất xa một cách nhanh chóng. Làn sóng ấy sinh sản quá ư đột ngột cho đến đỗi những kẻ đă từng quen xem nó như là Bản Ngă của ḿnh, lúc ấy không sao nhận ra kịp và v́ thế họ không chận đứng được nó bằng cách nói rằng: "Tôi không phải là cái đó; tôi không để bị lôi cuốn, tôi không cử động." Nếu ta kịp thời nhớ đến nó, sự cảm xúc biến mất tức khắc. Phần nhiều những kẻ, trong lúc hoàn toàn an tĩnh quyết định giữ vững tinh thần, nhưng khổ thay, khi làn sóng cảm giác bủa tràn vào người họ, lại đúng là lúc họ không có ư muốn kháng cự lại. Linh Hồn không ư thức được liền sự nguy hiểm nên dễ bị lôi cuốn và đồng hóa với sự cảm xúc hay cảm giác. V́ thế, phải tập xua đuổi sự cảm xúc ngay từ khi nó vừa mới chớm nở, bỏ qua giây phút ấy sẽ rất khó cho chúng ta chận đứng liền nó lại khi mà sự cảm giác đang trong ṿng phát triển mạnh mẽ, cho dù đôi khi, người khác có thể xua đuổi nó để giúp chúng ta. Rồi sau đó, chúng ta nhớ lại quyết định của ḿnh và hối tiếc. Phương pháp thực tế là chế ngự cảm giác luôn luôn càng sớm càng tốt. Nếu chúng ta, chỉ một lần thôi, trừ diệt được nó, trước khi nó được tự do phát triển,  chắc chắn sau đó, chúng ta có thể trừ được chúng nó dễ dàng, điều nầy thật không sai.

            Sự khó khăn đầu tiên sinh ra là do con người, Bản Ngă thường hay từ bỏ quyền hành của ḿnh, cho đến đỗi họ mất cái thói quen biểu dương quyền hành nầy, nhưng nếu họ quyết sử dụng những quyền hành ấy trong t́nh thế nguy cấp họ sẽ nhận thấy rằng họ có thể sử dụng chúng thêm một lần nữa và một lần nữa, bởi v́ tinh chất, [18] nguyên nhân của sự khó khăn sẽ lo sợ và sẽ thấy rằng nó [19] không phải là bất khả kháng. Thoạt tiên, tinh chất tin chắc nó lắm, không khác ǵ con chó nhảy xổ vào ḿnh con người, vừa sủa, vừa nhe răng nhọn ra, bởi v́ nó tưởng rằng con người sợ nó, nhưng nếu, thay v́ bỏ chạy, y kháng cự lại con chó liền ngập ngừng, do dự và không c̣n chắc chắn nó sẽ thắng nữa. Tuy nhiên, tinh chất không có trí khôn của con chó. Nó có thể biết hoặc không biết rằng chúng ta dũng mănh hơn nó, nhưng nếu nó không biết chỉ v́ tại chúng ta không xác nhận sức mạnh của chúng ta. Hăy tỏ cho nó biết rằng chúng ta là chủ nó th́ ngay từ bây giờ trước nhất nó sẽ do dự trong việc nổi cơn sóng gió. Hăy tức khắc chận đứng nó lại, rồi tất cả mọi việc sẽ êm đẹp.

            Chúng ta cần học hỏi ở cảm giác của ḿnh và cũng phân tích luôn cảm giác của người, nhờ thế, chúng ta sẽ t́m hiểu được bản tính con người. Khi thấy kẻ khác điên đầu v́ làm vật hy sinh cho cảm giác của họ, khi khảo sát cảnh tượng đau thương nầy và tất cả sự đau khổ do họ tự gây ra cho họ, chúng ta tập chận đứng trong tâm tất cả định ư làm như thế đó. Thấy điều ấy nơi kẻ khác tự nhiên dễ hơn là thấy trong tâm ḿnh, khi chúng ta là khách bàng quan và đứng ngoài trông vào. Tuy nhiên, đừng xem xét đồng loại ḿnh để chỉ trích và t́m những nhược điểm của họ, mà chỉ xem coi cách nào gương của họ có thể giúp cho ta học hỏi. Chúng ta nhận thấy khi họ bị một t́nh dục, một mối cảm xúc hay một ư niệm nào đó chi phối, đời sống của họ không c̣n là đời sống thanh bai và tốt đẹp nữa. Chúng ta có thể ghi nhớ những điều nầy trong trí và đừng bao giờ nghĩ rằng chúng ta tốt đẹp hơn họ. Chúng ta có thể tự nhủ rằng: "Phải chăng tôi cũng sẽ không làm ǵ khác hơn thế. Riêng phần tôi, tôi lo coi chừng làm sao cho việc đó đừng xảy ra." Không có thói quen chỉ trích và thói quen đó luôn luôn là xấu, nhờ vậy chúng ta có thể học hỏi từ những lỗi lầm kẻ khác. Nếu chúng ta chứng kiến tai họa của kẻ khác mặc dù chúng ta có chia sớt sự đau khổ của họ đi nữa, cũng không có ǵ đáng trách trong khi ta tưởng như vầy: "Tôi không muốn đến phiên tôi lại té xuống vực sâu; một tai nạn cũng đủ lắm rồi." Trong lúc chiến tranh, những làn sóng cảm giác trùng trùng điệp điệp bay cùng khắp hoàn cầu; tựu trung có một số kinh khủng gồm những làn sóng thù hận, đố kỵ đối với Cường Quốc mà chúng ta đang chiến đấu. Tôi không hề có ư dung thứ những hành vi dă man, tàn ác do các Cường Quốc ấy gây ra. Tôi biết những Quốc Gia nầy có những hành động ấy v́ trong lúc xuất Vía chúng tôi chứng kiến được nhiều tội đại ác ghê gớm và đối với Nhân Loại, những hành động nầy làm tôi hết sức hỗ thẹn. Tôi không bao giờ nghĩ đến sự phủ nhận những việc nầy, t́m những lời giải thích hay bào chữa, nhưng những sự bài xích do những kẻ sát nhân gây ra một ḍng nước cuồn cuộn chảy là một hiểm họa lớn. Trách nhiệm của những hành vi tàn ác nầy trút đổ trên vai những kẻ chủ động và những người truyền lệnh chớ không phải bắt trọn một quốc gia gánh chịu. Trong quá khứ, người Anh chắc hẳn đă làm những điều  mà bây giờ chúng ta không muốn đồng hóa. Người ta cũng có thể nói như thế về tất cả các Quốc Gia khác. Đừng để cho ḿnh đi đến chỗ bất công dù trong tư tưởng cũng như trong lời nói hay việc làm.

            Kẻ nghịch của chúng ta cố tâm chăm lo phát động ḷng thù hận chống lại ta. Có thể trong một thời gian họ sẽ thành công: Đó cũng là một trong những mưu mô quỷ quyệt của chiến tranh, có lẽ họ cho rằng ḷng thù hận có những lợi ích của nó là giúp cho họ có nhiều người hưởng ứng và tiền bạc, v.v. . ., ấy là sự lầm lạc nghiêm trọng về tinh thần; về phương diện cao siêu họ phạm lỗi nầy th́ họ hoàn toàn sái quấy. Nhưng trong một trường hợp tương tợ, e cho chúng ta cũng sinh ḷng thù hận. Phải triệt để cương quyết chiến đấu với tội ác và chiến đấu cho đến kỳ cùng, đừng để một chút tư tưởng thù hận đụng tới ḿnh ta. Hăy nhớ lời Đức Phật dạy: "Không bao giờ lấy oán đáp lại oán mà oán ấy tiêu tan."

            Nghe thuật lại những hành vi độc ác đối với đàn bà, con nít ḷng căm phẫn của chúng ta tự nhiên bộc khởi dữ dội. Người ta có thể v́ lư do chánh đáng công phẫn những tội ác như thế. Chúng nó hết sức ghê tởm và tất cả mọi người có lương tri, phải tố giác những tội ác nầy, đừng do dự, đừng ḥa hoăn dung túng, đừng t́m cách bào chữa. Nhưng thù oán kẻ vô phước phạm tội cũng là một điều lầm lạc to tát. Họ đáng thương hại hơn là đáng trách cứ. Phận sự của chúng ta không phải khiển trách họ; bổn phận của chúng ta là thái độ của một người đối với một con thú dữ đang vồ bầy con của Y. Y không danh dự ǵ thù oán với con thú nhưng nên loại trừ nó đi. Phải hết sức hối tiếc giùm cho những kẻ phạm những tội ác nầy, bởi v́ chúng ta biết Luật Nhân Quả đang chờ họ. Sự tàn sát đàn bà trẻ nít là một hành động dă man, ghê tởm, ghê tởm dĩ nhiên đối với gia đ́nh họ c̣n hơn là đối với chính họ, nhưng ghê tởm nhất là đối với kẻ sát nhân, họ đáng được thương xót nhiều, bởi v́ thời gian sẽ đem lại cho họ những niềm đau khổ vô cùng ghê gớm.

            Chúng ta sẽ làm với tất cả cố gắng của chúng ta để chận đứng những hành động như thế, không cho tái diễn, nhưng chúng ta không có ḷng thù hận, ấy là trường hợp mà ḷng cao thượng bắt buộc phải thế. Chúng ta cao hơn rất nhiều những kẻ c̣n phạm tội ác nầy; về phương diện tiến hóa và phát triển, hằng ngàn thế kỷ chia cách chúng ta với họ. Chúng ta phải chứng tỏ sự phát triển tinh thần cao siêu của chúng ta bằng cách không sinh ḷng thù hận như họ.

            Muốn phân tách những hiệu quả của cảm giác ta phải tự chủ, đặt ḿnh ở ngoại cảnh, cố gắng chế ngự t́nh cảm, như thế mới học hỏi được. Không để bị lôi cuốn bởi trận cuồng phong tương tợ do t́nh cảm của quần chúng gây ra, chúng ta rán phân biệt v́ đâu mà họ phạm tội và làm cái ǵ mà chúng ta có thể làm, hầu điều chỉnh t́nh cảm ấy. Nhiều người bị nhiễm cái ảnh hưởng dục t́nh dữ dội nầy, nên cho chúng ta có hơi vô t́nh và lạnh nhạt. Chính v́ không thù hận mà đôi khi chúng ta bị khiển trách là thiếu t́nh yêu tổ quốc. Dĩ nhiên là vô lư, nhưng không có ǵ hữu lư đối với những kẻ bị nhiễm ảnh hưởng của những làn sóng lớn lao của ḷng thù hận. Chúng ta rất có thể giải thích với họ rằng t́nh yêu tổ quốc không bắt buộc chúng ta phải thù hận những quốc gia khác, nhưng họ luôn luôn không biết rằng mỗi người đều có thể thương yêu tổ quốc ḿnh mà không thù ghét quốc gia khác.

            Trong vấn đề nầy, thái độ của chúng ta là thái độ đối với sự buồn bực của một đứa nhỏ. Một đứa bé gái làm bể con búp bê của nó nó khóc la om ṣm và thất vọng. Chúng ta có thiện cảm với em bé nầy nhưng không bỏ cái triết lư của chúng ta và chúng ta không chia sớt những sự hối tiếc của nó. Không phải sự đánh vỡ con búp bê, không phải một chuyện bất ngờ nhỏ nhặt nào đó xảy ra trong đời sống học sinh của đứa nhỏ làm cho chúng ta sầu khổ. Chúng ta nghĩ đến tương lai và tất cả những nỗi ưu phiền nhỏ nhen nầy, nếu người ta đem so sánh chúng nó với tương lai đứa bé, chúng nó chỉ là tạm thời thôi và không quan trọng mấy, mặc dù đối với em bé, chúng nó thật hết sức hệ trọng. Chúng ta không tỏ ḷng thiện cảm là chúng ta thiếu sót bổn phận, nhưng chia sớt tất cả những ǵ đứa nhỏ cảm xúc là vô lư, như thế chúng ta sẽ tự ḿnh hành động một cách trẻ con.

            Cũng như thế đó, đối với những người tập công nhận một thái độ triết lư. Y có thiện cảm với những kẻ bị những sự việc xảy ra làm xáo trộn đến mức độ nầy, nhưng chính ḷng y vẫn yên tịnh. Chúng ta nói với em bé rằng: "Điều nầy không quan trọng ǵ hết: Tất cả sẽ dàn xếp êm thắm." Chúng ta cũng nói như thế với những người bị t́nh cảm nầy lôi cuốn: "Nếu mấy huynh muốn tin điều đó th́ tất cả sẽ dàn xếp, tất cả sẽ tốt đẹp." Chúng ta nói như vậy sẽ bị người ta cho là vô t́nh, mà thật ra không có ǵ đúng hơn. Đôi khi chúng ta thật khổ tâm biết được sự mù quáng của đồng loại ḿnh, chúng ta thấy họ bị xáo trộn v́ những điều hoàn toàn vô lư. Thường thường những điều tốt đẹp mà họ có thể thâu thập ở ngay trước mắt họ, nhưng họ không trông thấy và để ḷng tham vọng sai khiến họ. Nhưng chúng ta cũng đă làm như họ từ cả ngàn năm rồi. Chúng ta học tập đức kiên nhẫn, chúng ta biết rằng mọi việc nói trên là một giai đoạn của sự tiến hóa, dĩ nhiên là một giai đoạn ít đáng cho ta mong muốn. Trong chúng ta, những ai c̣n sợ ḿnh chiều theo thứ t́nh cảm nầy cần phải tự chủ và nói rằng: Hai chục kiếp trước, có lẽ c̣n tha thứ được, chớ hiện giờ thời gian ấy đă qua rồi." Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta thấy một người trọng tuổi mà đi phí th́ giờ trong các cuộc truy hoan, chúng ta biết rằng hai chục năm trước Y làm như thế c̣n chấp nhận, nhưng hiện giờ y phải lo lắng những việc quan trọng hơn. Cũng như chúng ta phải tiến đến một tŕnh độ mà nơi đó những t́nh cảm phải thuộc loại cao siêu và nơi đó ư niệm vĩ đại và duy nhất của chúng ta là ư niệm của phận sự mà Đức Thượng Đế ban cho chúng ta để hoàn thành.

            7.- Hăy diệt ḷng khao khát tăng trưởng.

            Hăy tăng trưởng như đóa hoa tăng trưởng một cách vô tâm, nhưng khao khát ư muốn mở rộng tâm hồn ra với không khí. Chính cũng nhờ thế con phải hối thúc sự nẩy nở của tâm hồn con với Đấng Vô Thủy Vô Chung. Nhưng phải để cho Đấng Vô Thủy Vô Chung làm nẩy nở quyền lực và vẻ mỹ lệ của con, chớ không phải v́ con có ḷng ham muốn tăng trưởng. Bởi v́, trong trường hợp thứ nhứt con tự phát triển trong tất cả những sự huy hoàng lộng lẫy của ḷng trong sạch; c̣n trong trường hợp thứ nh́, con chỉ làm cho con thành cứng rắn v́  tánh vị kỷ không thể nào tránh khỏi được.

            A.B.- Trong một giai đoạn tiến hóa cao hơn, vị Đệ Tử có cảm giác ḿnh mở rộng ra với Đấng Vô Thủy Vô Chung và càng ngày càng thưởng thức được những vẻ mỹ lệ huy hoàng của vũ trụ. Ḷng ham muốn tăng trưởng cầu được cao hơn người huynh đệ ḿnh không thể nào c̣n nữa. Trước khi đến tŕnh độ nầy, y c̣n bị lâm nguy v́ sự quan trọng của những công tác mà Y đă hoàn thành. Nếu Y cho sự phát triển nầy là của bản ngă chia rẽ, th́ Y tự cảm thấy ḿnh tăng trưởng, e cho Y c̣n bị vấp ngă. Một phương thế duy nhất để tránh khỏi mối nguy hiểm là: Từ bỏ ư muốn tăng trưởng, chống lại sự ham muốn phát triển riêng cho ḿnh. Khi đạt đến cơi tiến hóa cao siêu của Nhân Loại, vị Đệ Tử, dù có tăng trưởng hay không tăng trưởng, cũng phải trở nên lănh đạm. Y chỉ nghĩ đến Đời Sống Thiêng Liêng có thể ban cho tất cả những ai mở rộng tâm hồn của ḿnh với Ngài.

            C.W.L.- Chúng ta phải tăng trưởng như đóa hoa tăng trưởng. Tại sao vậy ? Bởi v́ đóa hoa tăng trưởng không thiết nghĩ đến ḿnh và với một ḷng vị tha tuyệt đối, không phô trương hương sắc ḿnh mà cốt để cho ṇi giống sinh sôi nẩy nở thêm ra nhờ cái chết của ḿnh. Nếu đóa hoa có ra đây, không phải để sinh trái cho nó, bởi v́ trái chỉ sinh ra sau khi đóa hoa tàn tạ. Trong sự tăng trưởng của nó, đóa hoa không làm ǵ cho riêng ḿnh cả. Tất cả đều dành cho những cây sẽ mọc trong tương lai. Cũng như chúng ta đừng nghĩ đến ḿnh nữa, mà làm việc cho hạnh phúc kẻ khác, do đó chúng ta mới tiến bộ. Một tư tưởng vĩ đại, duy nhất dẫn dụ chúng ta: Hợp tác với công nghiệp của Đức Thượng Đế. Chúng ta phải cố gắng tập cho có đủ các đức tánh và có đủ các năng lực, như thế chỉ để trở nên những kẻ phụng sự hữu ích mà thôi. Chúng ta quên ḿnh trong các công việc làm vị tha, chúng ta như là phần tử của toàn thể, tức là "trong sự huy hoàng diễm lệ của ḷng trong sạch."


CHƯƠNG   6

QUI TẮC  9 - 12

           

            C.W.L. - Từ trước tới nay, chính là phương diện phủ định, tiêu cực đă được đem ra tŕnh bày cho chúng ta ở trong quyển sách nầy. Người ta khuyên bảo chúng ta diệt trừ vài sự ham muốn, nhưng giờ đây, mới là phương diện tích cực, thực tiễn. Chúng ta sẽ học những điều nào chúng ta có thể học được và cố nhiên là những điều mà chúng ta phải ham muốn. Người ta có thể ngạc nhiên về sự khuyến khích chúng ta ham muốn một điều nào đó. Độc giả nào đă từng biết qua những kinh sách Ấn Độ sẽ nhớ rằng, về điểm nầy, những kinh Oupanishads cũng nói khác nhau. Quyển th́ bài bác, chỉ trích đủ các loại ham muốn, cho đến sự ham muốn làm việc thiện nữa, bởi v́ chúng ta tuyệt nhiên không c̣n một sự ưa thích nào cả. Quyển khác th́ bảo chúng ta nên ham muốn sự tiến bộ và lại thêm rằng sau khi thắng phục được tất cả những sự ham muốn, khác hơn sự ham muốn phát triển Linh Hồn th́ con người không thế nào c̣n có sự ưu tư phiền năo nào nữa. Hai phát biểu nầy có thể dung hoà với nhau bằng cách giải thích ư nghĩa của chúng nó như sau: Câu thứ nhứt có nghĩa là nếu chúng ta muốn tham dự, dù là vào những hoạt động cao cả của cơi Thế Gian nầy với tư cách cá nhân riêng biệt, chỉ lo nghĩ đến ḿnh và những công việc tốt đẹp, quan trọng mà chúng ta có đủ khả năng làm được, th́ ư niệm chia rẽ chưa hẳn hoàn toàn tiêu diệt. Nếu trái lại, chúng ta tiến tới tŕnh độ tự xem ḿnh như là phần tử của Nhân Loại và thực hiện sự tiến bộ của ḿnh để giúp đỡ chúng sinh mà chúng ta đây cũng là người như họ, nếu mọi ư niệm cá nhân riêng biệt mất đi th́ sự ham muốn cao thượng và trong sạch của chúng ta sẽ biến thành một nguyện vọng rất cao quí.

            9.- Chỉ nên ham muốn cái chi ở nơi con.

            Bởi v́ ở nơi con có ánh sáng của thế giới, ánh sáng duy nhất có thể ban rải trên Đường Đạo. Nếu con không đủ khả năng nhận thấy ánh sáng ấy ở nơi con,  đừng mong đi kiếm nó nơi khác vô ích.

            Tư tưởng diễn tả ở lời chú thích nầy trong tất cả các Tôn Giáo đều có, mặc dù dưới những h́nh thức khác nhau. Chúng ta gặp tư tưởng nầy trong Cơ Đốc Giáo, nhưng, thường thường dường như chỉ có những nhà Thần Bí Cơ Đốc Giáo hiểu được nó mà thôi. Tư tưởng ấy ở trong những vần thơ rất hay nầy đây :

            Dù cho Đấng Christ giáng sinh 1.000 lần tại Bethlehem đi nữa, nếu Ngài không giáng sinh trong ḷng Huynh th́ Linh Hồn huynh sẽ bị bỏ rơi tại Độc Lâu Cương (Calvaire) Ngài bị đóng đinh trên Thập Tự Giá cũng vô ích thôi, nếu trong ḷng Huynh  cây Thập Tự Giá không dựng lên một lần nữa.

            Ư nghĩa câu nầy cũng dễ phân biệt: Nếu con người không tin tưởng ở Đấng Thần Minh cao cả ở trong ḷng ḿnh, Y không chút hy vọng ǵ tiến bộ được, Y không có một phương tiện hành động nào cả, Y không có ǵ để có thể nâng đỡ Y lên. Nhưng nếu Y biết được cái tâm thức Bồ Đề kỳ diệu ở trong ḿnh Y, th́ Y hiểu rằng sự phát triển Đấng Thần Minh chỉ là một vấn đề thời gian thôi và Y phải góp phần vào sự phát triển nầy bằng cách làm điều ḥa các thể ở ngoài của y hầu để cho sự vinh quang bên trong chiếu rạng ra ngoài. Đó là ư nghĩa của những danh từ sau đây: "Đấng Christ ở trong ḷng Huynh, đó là niềm hy vọng vinh quang trong Huynh." Niềm hy vọng ở trong ḷng Huynh là Điểm Linh Quang đó. Người mà không chịu tin rằng: Điểm Linh Quang ở trong ḷng ḿnh sẽ dựng lên một chướng ngại vật không thể vượt qua được trên con đường ḿnh đi trong suốt thời gian mà Huynh không biết ḿnh lầm lạc.

            Quả thật nhờ Đấng Christ con người được giải thoát, đây không phải là nhờ một người đă sống và đă chết, nhưng nhờ cái Tâm Thức Bồ Đề của chúng ta. Người cứu rỗi chúng ta lại ở trong ḿnh chúng ta. Đó là giáo lư Cơ Đốc Giáo chân chính. Chúng ta có thể kể nhiều bản văn để chứng minh. Chính v́ không biết cái tư tưởng cao siêu nầy mà Giáo Lư Cơ Đốc Giáo tân thời, nếu người ta được phép nói, đă đi sai đường và làm cho người ta dị nghị. Ta hăy luôn luôn nhớ rằng: Khởi điểm của Cơ Đốc Giáo là cái triết lư Bất khả tri luận (Agnosticisme) tuyệt diệu, nhưng trong số tín đồ Cơ Đốc Giáo, những người thất học, loại bỏ ra ngoài Tôn Giáo tất cả những tư tưởng cao siêu trên sức hiểu biết của họ, tất cả những khái niệm bắt buộc phải nhiều năm học tập mới hiểu nổi và khai trừ những nhà Đại Thông Thái Cao Đẳng Thần Học (Grands Docteurs gnostiques) mà họ cho là những người theo Tà Thuyết. Họ áp dụng sự đầu phiếu trong Tôn Giáo, đó là một phương pháp ít khôn khéo để đi đến một quyết định với những hậu quả hết sức tai hại.

            Ban sơ, Cơ Đốc Giáo có một Triết Lư tốt đẹp nhất trong những Triết Lư; Triết Lư duy nhất dùng làm căn bản cho tất cả các Tôn Giáo. Câu chuyện kể trong Phúc Âm vốn được xem như một thí dụ, một tượng trưng, nhưng khi mà người ta chỉ thấy trong đó tiểu sử bịa đặt của một người th́ Tôn Giáo đă trở nên khó hiểu. V́ thế, tất cả những kinh sách tŕnh bày đúng với phương diện cao siêu đều bị sửa đổi ra khác và dĩ nhiên không c̣n thích hợp với Chân Lư dùng làm căn bản cho tư tưởng nữa. Cơ Đốc Giáo quên mất một phần lớn Giáo Lư Cổ Truyền của ḿnh nên hiện giờ người ta có thói quen phủ nhận rằng nó không có một Khoa Bí Truyền. Tuy nhiên, những bằng chứng không thiếu chi để thuyết phục vị học giả không thành kiến rằng những hiểu biết cao siêu ấy có thật và các vị Sứ Đồ và Cố Đạo thuở xưa đều học được nó. Giờ đây tôi không thể bàn rộng đến vấn đề nầy. Tôi chỉ cần nhắc độc giả rằng Ông Origène là vị Cố Đạo lớn nhất của Cơ Đốc Giáo đă xác nhận sự hiện tồn của Khoa Bí Giáo. Ông nhận biết sự tín ngưỡng b́nh dân và phi lư đưa đến điều mà Ngài gọi là Cơ Đốc Giáo nhục thể [20] với Cơ Đốc Giáo tâm linh.[21] Ông định nghĩa Cơ Đốc Giáo nhục thể là tín ngưỡng căn cứ ở lịch sử của Phúc Âm. Ông nói thêm rằng đây là một Giáo Lư rất tốt cho quần chúng, nhưng người Cơ Đốc Giáo tâm linh đă hoạch đắc được Cao Đẳng Thần Học biết rằng tất cả những sự việc xảy ra được kể trong câu chuyện nầy là: Sự Giáng Sinh, sự Rửa Tội, sự Giác Ngộ, sự đóng đinh trên Thập Tự, sự Phục Sinh và sự Thăng Thiên - xảy ra không phải chỉ một lần thôi, không phải chỉ một nơi thôi, mà tiêu biểu cho những giai đoạn trong đời sống tinh thần và trong những sự tiến bộ của tất cả tín đồ Cơ Đốc Giáo.

            Những tín ngưỡng của Tôn Giáo chính thống tân thời vẫn c̣n căn cứ trên đức tin mù quáng thích hợp với quần chúng chưa được mở mang. Nó nhất quyết từ khước cái phần c̣n lại của một di sản xưa kia vốn tráng lệ huy hoàng, đây có nghĩa là vài đoạn vô cùng quí báu của Giáo Lư Cao Đẳng Thần Học. V́ mất hết phần giải thích cao siêu nên với một sự cố gắng tuyệt vọng, nó phải đưa ra một lối giải thích thấp thỏi dưới h́nh thức dễ hiểu, nhưng việc nầy bất thành. Những nhà học giả Thông Thiên Học hoạch đắc được những sự hiểu biết giúp họ giải thích được tất cả những Giáo Lư lạ lùng ấy và gặp một ư nghĩa và những điều tốt đẹp trong lời nói thật thà của các nhà Thuyết Giáo ở ngoài lộ thiên. Họ hiểu được những điều mà những nhà Thuyết Giáo ấy diễn tả, nếu các vị ấy ít dốt về đề tài trong buổi diễn giảng.

            Như thế, chúng ta nên ham muốn những điều ǵ ở măi trong ḷng chúng ta, chúng ta không t́m gặp nó ở nơi khác đâu. Ở vào một thời đại thật xưa lắm, cái Chân Lư nầy đă được đem tŕnh bày cho chúng ta ở xứ Ai Cập. Nơi đó, tất cả những tư tưởng về Đạo Giáo đều lấy "Ánh Sáng Ẩn Tàng" và "Công Tác Ẩn Tàng" mà làm trung tâm điểm. "Ánh Sáng Ẩn Tàng" là Ánh Sáng ở trong tâm mỗi người, "Công Tác Ẩn Tàng" giúp cho con người trước tiên phát hiện ánh sáng ấy ở nội tâm ḿnh, và kế đó tiếp tục khai triển ánh sáng ấy ở nơi kẻ khác. [22] Điểm chính của Giáo Lư Ai Cập là thế nầy: Ánh sáng vẫn có luôn luôn, mặc dù nó bị tất cả những ǵ ở bên ngoài che khuất nó; công việc của chúng ta vốn là vén bức màn che khuất ấy và để cho Ánh Sáng chiếu rọi ra ngoài.

            Thường thường người ta hay lầm lạc đi t́m ánh sáng ấy ở nơi khác. Người ta nói: "Chúng tôi cầu mong các Đấng Chơn Sư giúp đỡ chúng tôi; chúng tôi cầu mong các Đấng Chơn Sư nâng đỡ chúng tôi". Nhưng xin nói với tất cả tấm ḷng tôn kính của tôi rằng không những Đấng Chơn Sư mà cho đến Đức Thượng Đế cũng không thể làm việc đó được nữa. Đức Chơn Sư có thể chỉ bảo cho chúng ta phương thế để tự đem ḿnh lên cao. Sự tiến triển hoàn toàn giống như cách thức làm nẩy nở bắp thịt. Không ai có thể làm thế cho người khác; nhưng kẻ nào hoạch đắc được những điều hiểu biết cần thiết có thể chỉ dạy người khác cách thức phải làm chớ không có cách giúp đỡ nào khác ở ngoài. Một người kia có thể nói với chúng ta rằng khi thừa nhận vài qui tắc và vài phép luyện tập, Y nghiệm thấy có kết quả tốt đẹp. Dĩ nhiên, Đức Chơn Sư và vị Cao Đồ có thể ban rải thần lực cho chúng ta, giúp cho phận sự chúng ta được dễ dàng, nhưng chỉ có thế thôi. Ở tŕnh độ nào cũng vẫn có sự giúp đỡ như thế. Nếu chúng ta không cảm thấy trong tâm cái năng lực ứng đáp với sự mỹ lệ và sự vinh quang của Thiên Nhiên th́ sự mỹ lệ và sự vinh quang ấy đi ngang qua một bên ta mà ta không hay biết. Nếu chúng ta không thể thấy Đức Thượng Đế ở trong tâm chúng ta, đi t́m Ngài ở nơi khác thật là vô  ích. Khi nào chúng ta nhận thức được chắc chắn rằng chúng ta là phần tử của Đức Thượng Đế, Đức Thượng Đế ở nội tâm sẽ ứng đáp với Đức Thượng Đế ở ngoại giới và chúng ta sẽ bắt đầu trở nên hữu ích thật sự cho công nghiệp của Ngài, tóm lại, đó là mục đích chính của đời sống của chúng ta vậy.

            10. - Chỉ nên ham muốn cái chi ở ngoài con.

            Nó ở ngoài con bởi v́ khi con đến tới nó th́ con đă mất bản ngă của con rồi.

            C.W.L. - Đây cũng là một câu cách ngôn c̣n di tồn lại trong Giáo Lư Cơ Đốc Giáo. Chính Đấng Christ đă nói rằng: "Ai cứu mạng sống của ḿnh th́ phải mất nó, c̣n ai v́ Ta mà mất mạng sống của ḿnh th́ sẽ cứu rỗi nó." Lời nói nầy áp dụng nhiều lần cho những tŕnh độ khác nhau. Hăy xem người Thế Gian trong đời sống b́nh thường của họ, đời sống phần lớn làm bằng những t́nh cảm, đôi khi những t́nh cảm lại không được cao đẹp. Vừa khi bắt đầu nhận thức được phương diện cao siêu th́ biết rằng có những sự lợi ích cao cả và cao quí hơn, nhưng Y cũng biết rằng trừ phi vứt bỏ đời sống thấp hèn và thô tục nhất nầy, Y không thể nào thật sự tiến tới đời sống cao siêu được. Y buộc ḿnh phải bỏ một đời sống thấp thỏi để đạt lấy đời sống cao siêu. Chỉ c̣n bước thêm một bước nữa, con người sống trước hết là trong Thể Trí. Y biết rằng để cho làn sóng dục vọng lôi cuốn, thật là hèn hạ; Thể Trí có phận sự chọn lựa và chế ngự t́nh cảm và chỉ lưu lại những t́nh cảm nào nó ưng nhận mà thôi, làm như sự tiến hóa của nó bắt buộc phải thế. Chẳng bao lâu có một sự tiến bộ mới: Con người không c̣n vừa ḷng Thể Trí nữa, Y nhận thấy có một đời sống cao cả hơn đời sống của Thể Trí. V́ vậy, Y bắt đầu sống dần dần trong Chơn Nhơn và lấy quan điểm của Chơn Nhơn xem xét vạn vật. Ấy là một mức tiến bộ thật lớn lao. Nhưng vậy cũng chưa đủ, Y t́m thấy ngoài tŕnh độ nầy c̣n có sự hợp nhất nữa. Như thế Y đạt được một vài kinh nghiệm ở Cơi Bồ Đề và khi Y vừa đụng tới cơi đó, những ǵ ở mấy Cơi thấp không c̣n làm cho y đẹp ư nữa.

            Cái Tâm Thức Bồ Đề phi thường nầy, tới phiên nó, cũng sẽ bị vượt qua khỏi. Trên kia là Tâm Thức của Cơi Thiêng Liêng, Cơi Niết Bàn, và kế đó, cao hơn nữa và xa hơn nữa, ấy là Chơn Thần. Những vị nào chưa đắc quả vị Chơn Tiên, thấy Chơn Thần biểu hiện như Tam Nguyên trên Cơi Niết Bàn, kế Cơi Đại Niết Bàn của nó, nhưng mà khi Y đắc quả vị Siêu Phàm, Chơn Thần và Chơn Nhơn nhập lại làm một và chỉ có Tâm Thức chung là Tâm Thức Chơn Thần - Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế mà thôi.

            Ở mỗi giai đoạn trong những tŕnh độ nầy, chúng ta cảm thấy ḿnh nắm trong tay sự tự do, chúng ta bắt đầu sống thật sự và kế đó chúng ta lại thấy c̣n có một tŕnh độ cao siêu hơn, cao hơn cả tŕnh độ hiện hữu của  chúng ta cũng như tŕnh độ hiện hữu của chúng ta cao hơn tŕnh độ trước đó. Trong khi tiến lên cao, chúng ta không ngớt vứt bỏ đời sống thấp thỏi trước khi đạt được đời sống cao siêu. Nói một cách khác, chúng ta phải mất đời sống mà chúng ta biết, trước khi tiến đến đời sống cao siêu mà chúng ta mong mỏi đạt cho được. Ở mỗi tŕnh độ và khi đi đến tŕnh độ đó, chúng ta thấy rằng ḿnh đă mất cái bản ngă quen thuộc với ḿnh từ đó đến giờ, bởi v́ chúng ta đă qua khỏi tŕnh độ đó rồi. Chúng ta mất nó khi mà chúng ta có một cái bản ngă cao cả hơn.

            Trong những Thánh Thư viết rằng chúng ta sẽ hợp nhất với Đức Thượng Đế và nhập vào ḷng của Ngài. Chúng tôi không rơ kết quả cuối cùng sẽ ra sao, ít ra cũng có đôi người trong chúng ta có thể quả quyết rằng theo kinh nghiệm riêng của họ, trong sự tiến triển của Linh Hồn có nhiều lúc nhập vào như thế đă xảy ra trong những tŕnh độ khác nhau. Ở mỗi trường hợp như vậy, dường như chúng ta trở thành một với điểm cao nhất mà chúng ta có thể đạt tới, tuy nhiên chúng ta không hề mất cái bản ngă thiệt thọ của ḿnh. Thí dụ khi đạt được Tâm Thức Bồ Đề và khi mất Nhân Thể (Thượng Trí), chúng ta mất đời sống thấp thỏi, nhưng đời sống nầy luôn luôn chỉ là một biểu hiện bất toàn của một phần tử nhỏ nhặt của chính chúng ta. Tất cả những thắng lợi là một chuỗi dài kiếp sống đem đến cho chúng ta vẫn c̣n hiện diện. Chúng ta chỉ cởi bỏ cái h́nh thể bên ngoài dùng để biểu thị những đức tánh khác nhau của chúng ta. Trên một cơi cao, luôn luôn chúng ta có những đức tánh chói ngời rực rỡ hơn trước, nhưng h́nh thể xưa kia của chúng nó đă mất rồi. Cũng v́ cố gắng đồng hóa với đời sống và h́nh thể, lắm người tưởng rằng nếu họ mất h́nh thể, họ không c̣n cái chi hết. Trái lại, không có cái ǵ đă thâu hoạch được mà lại mất bao giờ.

            11.- Chỉ nên ham muốn thứ ǵ không thể đạt được.

            Nó không thể đạt được bởi v́ nó cứ lùi xa măi măi vô tận. Con sẽ bước vào trong Ánh Sáng, nhưng con không bao giờ chạm đến Ngọn Lửa Thiêng.

            C.W.L. - Đây không có nghĩa là ở đời sống cao siêu, mục đích của chúng ta, không thể đạt được, nhưng mà ngoài tất cả những đỉnh đă chiếm, chúng ta thấy luôn luôn có một đỉnh khác hiện ra trước mặt. Chúng ta sẽ không ngớt đến gần Đức Thượng Đế, và lần lượt, ở mỗi tŕnh độ, chúng ta sẽ hợp nhất với Ngài, nhưng Ngọn Lửa, cái Tâm Thức thật của Ngài, chúng ta không bao giờ đụng tới được. Con đường của chúng ta đi gồm có nhiều giai đoạn mà càng ngày càng tiến lên cao, cái vẻ đẹp của nó không thể diễn tả nổi. Mặc dù cao độ mà Tâm Thức của chúng ta lên tới là bao nhiêu, mặc dù những sự vinh quang không thể tả mà chúng ta đạt được là thế nào, luôn luôn chúng ta thấy trên kia c̣n có những sự vinh quang cao cả hơn nữa. Ngọn lửa không ngớt lùi ra xa măi. Những điều hiểu biết của chúng ta càng giúp cho chúng ta tin tưởng rằng sự vinh quang và sự mỹ lệ nầy càng ngày càng tăng trưởng, càng kéo dài ra vô tận. Ở đây những thuyết lư gần như vô ích. Cũng như xưa kia, Đức Phật đă nói: "Bàn đến lúc khởi thủy và lúc tận cùng không ích ǵ cả, bởi v́ bức màn nầy hạ xuống rồi, bức màn khác hiện ra, luôn luôn phải có những bức màn, màn nầy rồi đến màn kia, xa xăm vô tận."

            Tôi muốn truyền sang cho mỗi người cái cảm tưởng sâu xa và mănh liệt mà tôi đă nhận thức, là những bước tiến bộ vị lai của chúng ta hoàn toàn xác thực, cũng xác thực như sự vinh quang, sự mỹ lệ, quyền năng, sự Minh Triết, và t́nh thương kỳ diệu phát triển theo sự tiến bộ ấy, đó là cứ mỗi bước đi, con Đường Đạo lại mỗi lên cao và càng ngày càng khó miêu tả bằng ngôn ngữ của thế gian, nhưng ở trên nh́n xuống sẽ thấy ánh vinh quang, sự mỹ lệ Chân Lư chói ḷa. Con đường của chúng ta đi xuyên qua ḷng vị tha, muốn cho con đường ấy mở rộng trước mặt chúng ta, chúng ta phải ĺa bỏ cái bản ngă thấp hèn, bước vào đời sống ở trên cảnh giới cao siêu, ở trong cái Bản Ngă bao la bát ngát, ở trong cái Bản Ngă đại đồng. Rồi đối với con người, sự vinh quang và sự huy hoàng mà Y có thể đạt được trở thành vô tận vô biên.


CHƯƠNG   7

QUI TẮC  13 – 16

 

            13. - Hăy ham muốn quyền năng một cách hăng hái.

            C.W.L. - Câu cách ngôn nầy do Đức Đế Quân thích nghĩa như vầy:

            Và quyền năng nầy mà vị Đệ Tử ham muốn là quyền năng làm cho y không có giá trị ǵ hết trước mắt thế nhân.

            Quyền năng làm cho chúng ta không có giá trị ǵ hết trước mắt thế nhân là cái năng lực dẹp bỏ cá nhân của chúng ta qua một bên trong khi làm việc và hoàn thành công việc ấy mà không hề khoe khoang công lao của ḿnh. Nhiều người cố ở cho được hàng đầu. Người ta thường xem điều đó cũng như một thứ khoe khoang vô hại, tuy nhiên ấy là một dấu hiệu chứng tỏ họ chưa quên được bản ngă thấp hèn. Vị Đệ Tử không nhận công lao của ḿnh trong một hành động nào. Mục đích của Y là làm việc và miễn là Y thành công, dù cho người ta ghi công cho Y hay là cho người khác; điều đó đối với Y không có ǵ quan trọng. Nếu Y phải xung phong đi trước và tạo thành một trung tâm điểm, Y làm ngay điều đó, nhưng không hề có ư nghĩ lấy đó làm kiêu, v́ Y biết rằng tốt hơn lưu tâm luôn luôn ẩn danh, không ra mặt.

            Luôn luôn rất có ích lợi khi chúng ta không lưu tâm đến kết quả, tận dụng khả năng và quên ḿnh đi. Tất cả Giáo Lư Huyền Bí đều qui về điểm căn bản duy nhất nầy: "Huynh hăy quên cái bản ngă thấp hèn ấy đi và bắt tay vào việc." Nhiều người cứ nghĩ măi đến sự tiến bộ của họ. Dĩ nhiên, nghĩ đến sự tiến hóa tinh thần vẫn tốt hơn mong cầu được giàu sang phú quí, nhưng đó cũng c̣n là ích kỷ, mặc dù dưới một h́nh thức tinh vi hơn. Căn cứ vào kinh nghiệm riêng của tôi, tôi xin nói rằng phương pháp tiến bộ chắc chắn nhất là hoàn toàn quên sự tiến hóa của chúng ta và hiến  ḿnh cho công nghiệp của Đức Sư Phụ. Sau đó cái ǵ c̣n lại sẽ đến sau. Đó là Chân Lư ngàn xưa, được kinh Phúc Âm xác nhận: "Trước nhất, hăy lo t́m nước của Đức Chúa Trời và sự công bằng của Ngài, tất cả mọi điều khác sẽ được ban thêm cho ngươi." Đó chính là Chân Lư, tất cả cái ǵ c̣n lại sẽ đến sau; khi chúng ta không lo nghĩ đến sự tiến bộ của ḿnh, th́nh ĺnh chúng ta nhận thấy ḿnh đă tiến bộ và điều đó cũng tốt vậy.

            Khi lần đầu tiên, con người biết được thật sự thế nào là đời sống trong Thượng Trí, Y cũng biết rằng, ở vào tŕnh độ nầy, Y có thể trở nên hữu ích tới bực nào cho tất cả các đường lối hoạt động của Y, dĩ nhiên, Y tự hỏi rằng: "Phải chăng điều hay hơn hết tôi lănh phận sự mới và vẻ vang đưa đến cho tôi." Luôn luôn tôi có thói quen thỉnh nguyện ư kiến, hay là ư muốn của Sư Phụ mỗi khi tôi thấy có những cơ hội đặc biệt đưa đến, mà tôi không tin chắc nên từ chối hay không? Tôi nói: "Thưa Sư Phụ, Sư Phụ muốn con phải làm ǵ?" Thường thường Ngài đáp: "Điều đó do con quyết định." Như vậy chỉ c̣n trông cậy vào sự phân biện riêng của chúng ta mà thôi. Không có qui tắc nào dành cho những trường hợp đó. Tôi sẵn sàng lănh thử phận sự cao cả hơn hết. Nhưng chúng ta đừng quên lời khuyến cáo nhắc nhở chúng ta: "Đừng để ư muốn tự phát triển làm hư hại bất cứ công việc hữu ích nào đưa đến con và vừa sức con. Sự phát triển của con sẽ theo thời gian mà đến." Luôn luôn tôi theo quyết định ấy và tôi nghĩ như vậy là khôn ngoan nhất.

            Nhờ công việc làm trong tinh thần vong kỷ mà chúng ta đạt được quyền năng làm cho chúng ta như không có giá trị ǵ hết dưới mắt thế nhân. Nếu phải chịu nhục nhă hăy cứ chịu. Nó liệt Phàm Nhơn xuống địa vị phụ thuộc và đó là điều cần thiết nhất. Nếu những cơ hội đến chúng ta hăy chụp lấy, nhưng luôn luôn tự nhủ rằng: "Ấy là công nghiệp của Đức Chơn Sư, chứ không phải của tôi đâu." Dù người phụng sự Đức Chơn Sư hay là một người nào khác được đặc ân làm một công tác đặc biệt cho Ngài, điều đó cũng không có ǵ quan trọng. Nhiệm vụ của chúng ta là phải sẵn sàng, đừng bỏ lỡ cơ hội gánh lấy phần nào công nghiệp của Ngài.

            Nên biết rơ rằng trong công nghiệp của Ngài không có ǵ nhỏ cũng không có ǵ lớn, nhưng tất cả mọi công tác, dù tầm thường, mà được hoàn tất và hiến dâng cho Đức Chơn Sư dưới mắt Ngài nó cũng quan trọng như một công tác nào khác mà người Thế Gian cho là phi thường. Chúng ta thích chọn điều ǵ mà chúng ta cho là công tác quan trọng nhứt, bởi v́ chúng ta không nh́n thấy tất cả những thành phần của công tác đều cần thiết. Hăy cố gắng, trong chốc lát, tưởng tượng đến cách mà Đức Chơn Sư  xem xét tất cả những điều đó từ trên đỉnh núi cao tuyệt vời, đối với chúng ta đỉnh nầy tiêu biểu cho Quyền Lực và Tri Thức rộng lớn của Ngài. Tất cả những chi tiết của công tác nầy, đối với Ngài dường như bé nhỏ, nhưng mỗi chi tiết đều có vị trí trong toàn thể.

            Tất cả những vấn đề của đời sống, quá phức tạp bên ngoài, không thể hiểu được ở Thế Gian nầy, lại trở thành giản dị đối với một người đứng từ trên cảnh giới cao quan sát nó. Đối với những cảnh giới không mấy cao lắm, sự kiện cũng như thế. Hăy quan sát những vật nhỏ li ti ở trong một giọt nước, Huynh sẽ t́m thấy những h́nh thức của sự sống vừa đẹp đẽ, vừa phức tạp. Càng đi sâu vào những lănh vực cực kỳ bé nhỏ, người ta càng nhận thấy sự phức tạp lạ lùng của nó. Người ta tự hỏi làm thế nào những Thế Giới ấy có thể xem là giản dị được, dù đối với Đức Thượng Đế, tuy vậy mà đúng, v́ chỉ cần từ những quan điểm cao nhất mà chúng ta đă đạt được để nhận thấy rằng những kết quả kỳ diệu nầy sinh ra bởi những sự biến đổi và sự phối hợp của bảy luồng sinh lực của Sự Sống duy nhất. Những yếu tố của sự sinh sản tỏ ra đơn giản và nhiều nhất; cho nên càng lên cao, con người càng thấu rơ hơn và điều ǵ dường như không làm được ở Thế Gian, từ mấy Cơi cao người ta thực hiện nó dễ dàng.

            Tôi tưởng chúng ta được phép kính cẩn nghĩ rằng Đức Thượng Đế có thể giữ trọn hệ thống của Ngài trong Trí Ngài và đồng thời Ngài cũng thấy dễ dàng những sự việc xảy ra, với những chi tiết nhỏ nhặt. Toàn thể hệ thống với những sự sinh sôi nẩy nở đều được nhận thức một cách chớp nhoáng cũng như chúng nó phơi bày trên mặt giấy. Đối với Đức Bàn Cổ và Đức Bồ Tát th́ công việc nắn đúc h́nh thể và điều khiển những giống dân rất minh bạch và đích xác, nhưng công việc ấy, đối với chúng ta, lại quá phức tạp và hỗn độn.

            Chúng ta có bổn phận phụng sự Đức Chơn Sư trong phạm vi nhỏ bé của chúng ta. Những chi tiết thuộc về phần của chúng ta chớ không phải của Ngài. Điều mà Ngài muốn là toàn thể công việc phải được thành tựu. Tất cả những điều chúng ta có thể làm là để góp phần vào đó, tiêu biểu cho sự tham gia của chúng ta. Những người gần gũi Ngài bằng tư tưởng và nhờ sự liên lạc nầy mà họ có cách xét đoán phù hợp với sự thấy của Ngài một phần nào; luôn luôn họ tỏ ra sốt sắng làm việc, dù là công việc tầm thường hơn hết khi mà họ xét ra nó vốn hữu ích. Thí dụ, chúng ta có thể viết vài hàng chữ nó sẽ thay đổi cuộc diện của một đời người. Chúng ta có thể nói chuyện như những nhà diễn thuyết, chúng ta cố gắng sửa đổi tư tưởng của hàng trăm thính giả nhưng mà việc đó bất thành. Lá thơ nhỏ của chúng ta tiêu biểu cho một công việc cũng hết sức thực tế. Vài người trong chúng ta có thể bận rộn đến đỗi không làm ǵ được cho riêng ḿnh. Trong trường hợp nầy, dĩ nhiên họ kiếm được nhiều lợi tức và có lẽ có thể giúp vốn cho người khác hoàn thành công tác cần thiết. Có nhiều cách nhỏ nhặt làm việc vừa sức mỗi người. Đừng chờ đợi một cơ hội lớn lao vô ích, bằng cách tự nhủ rằng: Khi cơ hội đến chúng ta sẵn sàng chụp lấy. Chúng ta có nhiều may mắn để sẵn sàng nắm lấy cơ hội, nếu chúng ta có thói quen luôn luôn làm những công việc nhỏ nhặt mà hiện giờ đây chúng ta có thể làm được.

            Một người làm việc mà không hề nghĩ đến quyền lợi riêng của ḿnh chút nào và luôn luôn sẵn sàng đặt ḿnh vào địa vị thấp thỏi, đứng sau kẻ khác, ngoài xă hội không ai biết đến Y, đó là lẽ tất nhiên. Người ta biết và người ta ngưỡng mộ một kẻ nào có ư chí hùng mạnh, tạo tên tuổi cho ḿnh và xung phong đi trước. Nói về phương diện Thế Gian, Y đă thành công. Y tỏ ra có nghị lực. Nhà Huyền Bí Học có thể có nhiều nghị lực hơn nữa, nhưng không biểu lộ bằng cách đó. Thường thường Y t́m thế ẩn ḿnh không cho ai biết. Y biết rằng một trong những đức tánh chính phải có là hiểu được lúc nào nên lánh xa, lúc nào phải để cho quyền lực Thiêng Liêng hành động mà không kềm hăm và cũng không ngăn trở sự lưu hành của nó. Bề ngoài xem, không có ǵ giản dị hơn, tuy nhiên bởi có hàng trăm người làm việc không đủ khả năng thực hành như vậy bao nhiêu đó cũng đủ chứng tỏ rằng thực sự đó là một công việc cực kỳ khó khăn.

            Ở Thế Gian, một người đă có sẵn ư nghĩ rằng nhà Huyền Bí Học là một người không có ư chí mạnh mẽ, luôn luôn sẵn sàng nhượng bộ. Đối với những chi tiết nhỏ nhặt của đời sống, điều đó đúng vậy. Nhà Huyền Bí Học để cho kẻ khác làm những việc không mấy cần thiết theo ư họ và cũng để cho họ điều khiển ḿnh tới một mức nào đó, nhưng trong những vấn đề nguyên tắc th́ y rất cứng cỏi, không nhượng bộ. Y thờ ơ, lănh đạm với dư luận. Những người nói chuyện thiên hạ thường bịa đặt những điều nhảm nhí, những giả thuyết th́ trong mười lần họ đă lầm lạc hết chín lần. Điều họ nghĩ về chúng ta có làm ǵ được chúng ta đâu. Theo lời Ông Tennyson nói: "Hăy để cho họ nói điên nói khùng." Lẽ tất nhiên, tôi không muốn nói rằng chúng ta không cần biết tới tất cả những tập quán xă hội. Ban đầu vài Hội Viên chúng ta xét rằng tốt hơn là làm khác hơn người thường cho nên không chịu mặc y phục buổi chiều như thiên hạ, v.v. . . Xâm phạm đến tập quán như thế là vô ích. Hơn nữa h́nh như nếu chúng ta muốn cho người khác thừa nhận những tín ngưỡng của ḿnh chúng ta cần tránh, đừng xúc phạm đến ai một cách vô ích. Chống đối mănh liệt những tư tưởng của kẻ khác, không phải là một chính sách khôn khéo. Nếu là một điểm không đề cập đến nguyên tắc nào cả, chúng ta nên nhân nhượng, bởi v́ công kích ngay những tập tục là một chuyện phi lư.

            Điều ǵ thuộc về nguyên tắc luôn luôn phải kháng cự lại. Thí dụ, ăn chay trường, đối với chúng ta là một nguyên tắc, bởi v́ chúng ta xem sự ăn chay là có ích lợi cho tất cả mọi phương diện, chẳng những đối với chúng ta mà đối với ai cũng vậy. Có điều bất tiện là khi chúng ta dùng bữa không ở tại nhà ḿnh hoặc giả khi đi du lịch, nhưng chúng ta nhận chịu những điều bất tiện nhỏ nhặt nầy và giữ vững quan niệm của chúng ta. Đối với vô số việc khác, thật sự không quan trọng, cách giản tiện là ăn ở theo phong tục tập quán của thời đại chúng ta. Xin lấy một thí dụ khác về y phục. Y phục của người tân thời thường xấu xí, bất tiện, không đẹp mắt và trái với vệ sinh, nhưng vẫn cứ thừa nhận nó, là điều giản tiện nhất. Nếu chúng ta không bằng ḷng ăn mặc cách đó, dù cho y phục của chúng ta có tính cách hợp lư, đẹp và vừa vặn thế mấy đi nữa, nó cũng làm cho thiên hạ chú ư đến chúng ta một cách khó chịu, và hơn nữa, chúng ta cũng bị xem như là những người mất trí, không nhiều th́ ít. Mấy điều đó không cần quan tâm đến. Tốt hơn tránh đừng ra mặt chống đối những trường hợp ít quan trọng. Nhưng, khi có ǵ liên hệ đến một nguyên tắc, chúng ta phải mạnh dạn bảo vệ điều mà chúng ta tin tưởng là tốt.

            Nếu chúng ta có được thái độ hoàn toàn vô tư  lợi trong tất cả mọi việc, đối với chúng ta đó là một sự giúp đỡ rất lớn  lao. Ông Ruskin khi bàn về nghệ thuật có nói rằng nếu tính tự khen ḿnh và tính khoe khoang là tầm thường không thể nói được, tính khiêm tốn thái quá, dưới một h́nh thức khác, cũng thế đó. Phải kiếm cách tạo cho ḿnh một tâm trạng giúp cho ta xem xét mọi công tác theo phương diện khách quan và nói rằng: "Công việc ấy được hoàn thành do tôi, do Huynh, hay do một người nào khác, nó cũng vẫn tốt đẹp cả." Nếu gặp cơ hội, chúng ta phải tán dương một công tác nào đă được hoàn thành, chớ không phải v́ công tác ấy của ḿnh hay của bạn thân ḿnh hoặc giả công tác ấy mang tên tuổi của một vị danh nhân nào, chúng ta tán dương chỉ v́ nó tốt lành chớ cá nhân của vị thực hành công tác ấy hoàn toàn để qua một bên. Tôi sợ rằng chúng ta không thể măi măi làm như  vậy được. Khi chúng ta kể một đoạn sách luôn luôn không phải bởi v́ lời văn đẹp đẽ của nó mà v́ chúng ta lấy của Bà Blavatsky hay của Bà Tiến sĩ Besant. Tuy nhiên trong vài trường hợp, chúng ta vẫn hoàn toàn hữu lư. Khi một độc giả gặp một điểm nào đó đă được xác nhận mà Y không hiểu và cũng không thể tự kiểm soát được, điều quan trọng cho Y là t́m biết xem Tác Giả là ai? Y có thể nói: "Bà Tiến sĩ Besant xác nhận điều nầy, tôi có nhiều lư lẽ vững chắc tin rằng Bà biết rành về vấn đề ấy, cho nên tôi chấp nhận lời Bà nói." Tóm lại, về phương diện Khoa Học, chúng ta cũng làm như vậy. Trong lănh vực nầy, có nhiều sự kiện không thể nào trưng ra đủ bằng chứng, nhưng có vài bậc nhân tài xuất chúng, sau khi nghiên cứu vấn đề , đă đi đến những kết luận nầy hoặc những kết luận khác th́ chúng ta chấp nhận được những kết luận đó. Nhưng khi chúng ta thấy một câu đẹp đẽ có tính cách đạo đức, không có vấn đề nó xuất xứ từ Thánh Kinh, Thánh Ca Gita, Kinh Koran hay Kinh Vệ Đà; chúng ta nên chấp nhận, v́ nó có giá trị riêng của nó. Như  thế là v́ câu văn tao nhă và tư tưởng thanh bai.

            Nếu chúng ta thừa nhận hay cố gắng thừa nhận những sự vật v́ giá trị riêng của nó, chúng ta cũng phải thử đánh giá công tác đặc biệt của chúng ta theo đúng chân giá trị của nó và đừng cho rằng bởi v́ chúng ta là người thi hành công tác ấy cho nên dĩ nhiên nó phải được hoàn thiện. Phần nhiều những người đủ khả năng làm một việc hết sức giỏi giắn cũng hiểu biết những khuyết điểm của công tác ḿnh. Nếu việc nào đă thành công, chúng ta sẵn ḷng nh́n nhận nó. Khi chúng ta thấy những sự sai lầm trong công tác riêng của ta hay ai khác, đừng do dự nói rằng: "Ư kiến của tôi lại khác." Chuyện nầy hay chuyện kia cũng có thể làm tốt đẹp hơn nữa được. Nhưng tốt hơn là phải có một trạng thái tinh thần giúp chúng ta quên mất nguồn gốc của công tác ấy đi nếu nó tốt đẹp và loại ra cái ǵ xấu xa, dù cho chúng ta là người thi hành công tác ấy, cũng vậy.

            Công việc nầy quả thật là khó khăn, bởi v́ nếu con người hoàn toàn thành công là nhờ từ ở cơi Thượng Thiên, Chơn Nhơn đưa mắt nh́n xuống cơi Hạ Giới chúng ta, Hạ Trí cho một phần quyền năng nhưng chỉ có một ḿnh Thượng Trí mới có được năng lực nầy một cách đầy đủ. Hạ Trí có khả năng phân biện và nếu chúng ta sử dụng Hạ Trí về phương diện cao siêu, không để t́nh ư riêng tư che mờ nó, nó là một năng lực rất tốt đẹp khi mà sự phát triển của nó được trọn vẹn. Chúng ta cũng khá tự hào về sự mở mang trí tuệ của chúng ta trong Giống Dân phụ thứ Năm của Giống Dân chánh Thứ Năm là Giống Dân thủ một vai tuồng khá quan trọng về năng lực phân tích riêng biệt của Hạ Trí, nhưng cái người ta gọi là Trí Tuệ, bây giờ đây không có ǵ là quan trọng khi so sánh nó với cái Trí Tuệ của cuộc Tuần Hoàn sau và tới chừng đó, Trí Tuệ đă thật sự là một quan năng chính yếu. Chúng ta kiêu hănh v́ những thành công do Hạ Trí đem lại và không phải là không có lư. Trong lănh vực khoa học và phát minh, Hạ Trí đă tỏ ra kỳ diệu phi thường. Nhưng phải đủ khả năng nh́n về tương lai và cần phải thấy các Đấng Chơn Sư, các Ngài là những Bậc Vĩ Nhân của tương lai, hầu hiểu được chúng ta sẽ ra sao trong vài ngàn năm nữa. [23] Tôi có thể chứng nhận rằng sự hoạt động cao siêu nhất của Trí Tuệ hiện thời là một tṛ chơi trẻ nít đối với sự hoạt động của Trí Tuệ một ngày kia. Chắc chắn, là một chân trời huy hoàng sẽ mở ra trước mặt chúng ta.

            Cái mà người ta thường gọi là Cái Trí của họ là phần thấp hơn hết của Cái Trí. Trong Cái Trí có bốn khu vực làm ra do những chất khí thuộc về cảnh thứ bảy, cảnh thứ sáu, cảnh thứ năm và cảnh thứ tư của Cơi Trí Tuệ (Cơi Hạ Thiên) nhưng mà họ chỉ sử dụng chất khí của cảnh thấp nhất là cảnh thứ bảy, nó rất gần với Cơi Trung Giới. Bởi thế nên, tất cả tư tưởng của họ đều bị nhiễm màu sắc của những phản ảnh của Cơi Trung Giới, nơi đây, những tư tưởng xen lẫn với những sự xúc động, những t́nh cảm và những dục vọng. Rất ít người có thể hoạt động trên cảnh thứ sáu. Lẽ tất nhiên, những Nhà Thông Thái trứ danh của chúng ta sử dụng chất khí cảnh nầy, nhưng khổ thay, họ dùng chất khí thứ sáu lẫn với chất khí thứ bảy, v́ vậy họ trở thành đố kỵ với những sáng chế và những sự phát minh của người khác. Khi lên tới cảnh thứ năm, họ rất ít bị vướng vít vào Cơi Trung Giới. Lên tới cảnh thứ tư là cảnh cao hơn hết của cơi Trí Tuệ (Cơi Hạ Thiên) th́ họ ở ngay trung tâm của Cơi Thượng Giới, sát một bên Thượng Trí. Từ đó, tư tưởng của họ không c̣n bị những làn rung động của chất Thanh Khí nhiễm nữa. Tất cả những điều trên đây đều có thể hiểu được. Một sự rung động, rất dễ truyền qua một vật thể khi mà nó và vật thể ḥa điệu đúng bậc với nhau. Một người giận dữ kích động sự nộ cảm (émotion colère ) trong Thể Vía của những người ở xung quanh, liền đó, tư tưởng thấp thỏi của họ bị như thế mà xáo trộn, chớ những tư tưởng cao siêu không hề bị nhiễm, nếu họ có những tư tưởng nầy - mà phần đông chưa có những tư tưởng cao siêu. Có một  trong những điều, mà chúng ta là Sinh Viên, phải cố gắng thực hiện, lúc chúng ta tư tưởng và tham thiền, là kích thích những phần cao siêu của Cái Trí và làm cho nó hoạt động. Những người tham thiền thường xuyên về Đức Chơn Sư  và những ǵ liên hệ đến Ngài, sử dụng, trong một phạm vi nào đó, khu vực cao siêu nhất của Cái Trí, càng sử dụng th́ tư tưởng của chúng ta càng ít chịu ảnh hưởng của sự ham muốn, những dục vọng và những sự xúc động. Phần đông con người chưa đến tŕnh độ đó, v́ thế, xét theo toàn thể, những tư tưởng phát sinh trong cơi Thế Gian nầy bị ḷng ham muốn biến đổi màu sắc. Phần nhiều những h́nh tư tưởng mà chúng ta thấy chứa đầy chất Thanh Khí và chất Thượng Thanh Khí lẫn lộn với nhau.

            Con người chung sống gần gũi với nhau, do đó những người khác có thể cảm nhiễm chúng ta mà không cần nghĩ đến chúng ta. Đành rằng chúng ta cũng ảnh hưởng họ vậy, nhưng chúng ta phải luôn luôn chú tâm và cố gắng làm sao cho ảnh hưởng của ḿnh được tốt đẹp đối với họ. Nếu chúng ta chuyên chú làm cho ḿnh trở thành một trung tâm ḥa b́nh và t́nh thương tuyệt đối, chúng ta giúp ích rất nhiều cho hết thảy những người ở chung quanh chúng ta; nhưng khi chúng ta là những trung tâm của dục vọng và sự  ích kỷ, sự phát triển nào cũng bị chúng ta chận đứng cả, chẳng những đối với chính ḿnh mà c̣n đối với tất cả những người gần bên ta và điều đó mới là trọng hệ. Mỗi người chí nguyện phải ghi vào ḷng sự kiện nầy là nếu chúng ta nuông chiều sự ham muốn riêng của ḿnh, chúng ta làm ngăn trở sự tiến bộ của kẻ khác.

            Khó mà đạt được năng lực quên ḿnh trước khi chưa loại trừ tất cả những sự ham muốn riêng tư cá nhân. Chúng ta nói đến sự tận tâm với phận sự và với Chơn Sư; dĩ nhiên, ấy là điều tối thiểu mà chúng ta có thể làm cho Ngài. Nếu cần phải có một nỗ lực thật lớn lao, chúng ta phải sẵn sàng làm việc cho các Đấng Cao Cả nầy, v́ lẽ các Ngài ban bố rất nhiều cho chúng ta và truyền lại cho chúng ta tất cả Giáo Lư Thông Thiên Học. Không phải v́ muốn làm vui ḷng các Ngài mà chúng ta làm như vậy, mặc dù sự tiến bộ của những người mà các Ngài lo giúp đỡ chỉ có thể làm cho các Ngài hoan hỉ thôi, ấy cũng là lẽ thường. Nếu chúng ta muốn giúp đỡ sự tiến hóa, điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất là chúng ta phải tự ḿnh cải thiện. Phải bắt buộc Bản Ngă thấp hèn phục tùng mệnh lệnh nầy: Đứng trước mặt thiên hạ, chúng ta không có giá trị ǵ cả. Thật vậy, ảnh hưởng của những thần lực phi thường vốn vô h́nh, chúng ta có thể cũng liên hợp với những thần lực ấy và trong t́nh trạng nầy chúng ta có vẻ là con người không có nghĩa lư ǵ cả dưới mắt thế nhân.

            14. - Hăy ham muốn sự an tĩnh một cách nhiệt thành.

            Sự an tĩnh mà con ham muốn là sự an tĩnh thiêng liêng không có ǵ làm náo động được và trong đó Linh Hồn phát triển như đóa hoa thần nẩy nở trong đầm yên  lặng.

            C.W.L. - Câu cách ngôn ngắn ngủi nầy liên quan chặt chẽ với câu cách ngôn trước. Quyền năng mà ḷng ham muốn đ̣i hỏi dẫn đến sự an tĩnh. Không có sự an tĩnh, nếu chúng ta không chế ngự được Bản Ngă. Phải t́m được sự an tĩnh trước khi có thể ban bố nó cho kẻ khác và năng lực ban cho người sự an tĩnh quả thật là một trong những quyền năng vĩ đại nhất và tốt đẹp nhất. Đời sống của đa số con người chứa đầy những sự ưu tư, phiền năo, đố kỵ và tham vọng. Trong người của họ, không ngớt sôi nổi chẳng những các mối xúc cảm mà luôn luôn những sự ham muốn chưa được thỏa thích. Nhiều kẻ dốc ḷng khảo cứu Huyền Bí Học, nghĩa là cái thực tại làm căn bản cho kiếp sống, cũng hy vọng có thể tiếp tục lối sống trên đây. Người ta cũng gặp những hạng người nầy trong số những người được xem là khảo cứu Huyền Bí Học đă lâu rồi và họ t́m cách đến gần Chơn Sư, mà dường như họ chưa dứt bỏ được ḷng ham muốn của họ. Họ không cố tâm gắng sức xua đuổi những xúc cảm gàn dở và rối loạn của họ và rồi lại ngạc nhiên sao ḿnh không tiến bộ và thấy kẻ khác vượt qua họ. Tại sao lại muốn cho ḿnh tiến bước mà không bỏ lại phía sau tất cả những điều xấu xa đó? Khi mà chúng ta chưa hoàn toàn thoát ra khỏi những sự rối loạn ấy, th́ mọi sự tiến bộ cao siêu chân chính, dĩ nhiên, chúng ta không thể nào có được đâu. Nếu chúng ta muốn giao tiếp với Chơn Sư, tâm trí chúng ta phải hoàn toàn an tĩnh.

            Người ta nói sự tranh đấu vốn cần thiết cho sự tiến bộ, dĩ nhiên, thật sự là trong cuộc tiến hóa của nó, Linh Hồn trải qua một giai đoạn dài đăng đẳng trong t́nh trạng tranh đấu và chiến đấu không ngừng. Nh́n về dĩ văng, chúng ta nhận thấy sự tiến bộ trong một kiếp sống đầy dẫy sóng gió lại mau chóng hơn là trong những hoàn cảnh mà điều kiện thuận tiện hơn. Trong sự tu luyện tánh t́nh nầy, tất cả những điều đau khổ và tất cả những nỗi khó khăn mà con người gặp phải và những nghịch cảnh mà y chịu đựng, dĩ  nhiên là đến dạy dỗ Y một điều ǵ đó, ấy là những bài học phải học. Ở vào tŕnh độ cao siêu của vị Đệ Tử, t́nh trạng tranh  đấu nầy đă mất giá trị của nó. Sự phát triển của hàng Thượng Thừa bắt buộc phải có một sự an tĩnh hoàn toàn. Một Đấng Chơn  Sư đă viết: "Luật của sự sống c̣n thích ứng nhất với luật tiến hóa của thú vật; nhưng luật hy sinh là luật tiến hóa của con người". Nhiều kẻ nghĩ rằng khi họ thỏa măn được ḷng ham muốn dại dột của họ rồi sẽ được an tĩnh, nhưng kinh nghiệm chỉ cho họ biết rằng không phải như vậy. Cho nên, họ bắt đầu chịu khổ sở ưu phiền v́ đă chiều theo những sự ham muốn và biết rằng đáng lẽ họ phải chế ngự chúng. Sự thỏa măn ḷng ham muốn không bao giờ đem lại cho con người một sự an tĩnh nào cả. Chỉ có cách duy nhất t́m được sự an tĩnh là tránh xa những điều ham muốn thấp hèn và phát triển trong tâm quyền năng làm cho chúng ta như không có giá trị ǵ hết dưới mắt thế nhân.

            Ở đây có nói: "Đóa Hoa Thần nẩy nở trong đầm yên lặng." Trên mặt nước yên lặng, hoa sen tạo được tất cả sự đẹp đẽ của nó. Nếu bị lay chuyển nó không thành công. Chỉ ở trong sự an tĩnh mà Linh Hồn có thể nẩy nở được. Những cơn băo tố của dục t́nh và ḷng ham muốn giống như những trận giông phá hoại những đóa hoa ở dưới Thế Gian nầy. Tất cả những sự phát triển cao siêu không khác ǵ những đóa hoa rất mảnh mai, những cơn băo tố của ḷng dục vọng nổi lên làm cho nó tan tành và tiêu mất. Những người để th́ giờ nổi nóng lên một cách dữ dội, những người không ngớt nghĩ ngợi lo lắng đủ thứ vấn đề cá nhân vô lư, những người luôn luôn nghĩ đến t́nh cảm riêng tư của họ và đối xử với kẻ khác, tỏ ra ganh ghét, đố kỵ, những kẻ đó không thế nào khai triển được những lá non, những ṿi xoắn, đó là dấu hiệu của sự tiến bộ.

            Thường thường người ta có rất ít những khái niệm khoa học về sự tiến bộ huyền bí, về sự tiến bộ chân chính. Đứng riêng một ḿnh nó, những phương pháp giáo dục chứng tỏ rằng con người không hiểu ǵ về Khoa Huyền Bí cả. Chúng ta đă tiến  tới một giai đoạn tiến hóa tương ứng với tŕnh độ của người dă man, hay là tŕnh độ hơi cao hơn một chút mà chúng ta có thể coi như là hoạch đắc chắc chắn rồi vậy, nghĩa là chúng ta, dù ở trường hợp nào cũng khó mà xuống thấp hơn nữa được. Nhưng sự tiến bộ sau nầy, nối tiếp với sự tiến bộ của cái phần giống thú là phần thấp thỏi và thuộc về t́nh cảm con người; nó tiêu biểu cho một sự phát triển vô cùng tinh tế và về nhiều phương diện khác nhau. Bản chất của một điểm làm cho một người đại trí thức và là nghệ sĩ khác biệt với một người hết sức thô lỗ, chưa mở mang chút nào, thật là hết sức tinh vi, và đ̣i hỏi những sự tiến bộ vững bền, chậm chạp và quan trọng. Đó là những mầm non đem lại những hy vọng đẹp đẽ nhất, những mầm vừa chớm nở hoa, thật ra chưa phải là đúng mức trưởng thành như tới một ngày kia. Cây yếu ớt nầy bị nghịch cảnh đầu tiên tiêu diệt không khác nào một trận cuồng phong thổi qua. Khoa giáo dục tân thời nặng nhọc và khó khăn làm cho các trẻ em kinh sợ và cũng hành hạ bọn chúng nữa. Hiệu quả của nó là phá hủy sự phát triển tốt đẹp của sự học vấn và sự tinh luyện mà những Linh Hồn đến trú ngụ trong những h́nh hài trẻ em nầy đă phải dùng một thời gian rất lâu, có lẽ trong hai chục hoặc ba chục kiếp mới đạt được. Bởi thế nên, những trẻ em nầy thủ đắc đặc tính của người dă man cổ sơ, chúng thường bị sợ hăi, sự thù hận và cái tánh ư gay gắt về sự bất công thường xuyên ám ảnh; từ đó mọi sự tiến triển huyền diệu làm cho một "giống dân phụ mới" khác biệt với một giống dân phụ cũ đă tiêu mất.

            Thiên hạ không ngờ rằng họ thường có dịp làm những chuyện phá hoại như thế. Luôn luôn tôi thấy những trẻ em nam nữ có nhiều hứa hẹn mà có lẽ cha mẹ là những người tầm thường thôi. Nếu được nâng đỡ và d́u dắt vào con đường tốt đẹp trong kiếp sống hiện tại, chúng sẽ thực hiện được những sự tiến bộ trông thấy rơ rệt, nhưng hoàn cảnh của chúng không thuận tiện chút nào cho sự tiến triển như thế. Những mầm non bị găy đổ và bị chà đạp và những đứa trẻ nầy trải qua một đời sống như một người thường tục. Tôi có ghi chú nhiều trường hợp xảy ra luôn luôn như thế, có lẽ trọn mười lăm hay hai chục kiếp như vậy. Sự tiến bộ có thể thành tựu trong kiếp thứ nhứt mà măi để cho kiếp thứ hai mươi mới làm xong. Dĩ nhiên, khi Chơn Nhơn sống một cách đúng đắn và yên tịnh hơn trong mỗi kiếp th́ chung cuộc Nhân Quả phải cho Y đầu thai vào một hoàn cảnh thuận tiện hơn và đồng thời có cơ hội tiến hóa, nhưng có thể xét đoán rằng sự phát triển như thế nầy có thể hoạch đắc hai mươi kiếp sớm hơn, miễn là hoàn cảnh được tốt đẹp hơn một chút.

            Tội nghiệp thay cho những kẻ bóp nghẹt ư chí yếu ớt nhất thời nầy. Theo ư tôi, không có tội nào lớn hơn tội làm ngă ḷng những người mới thử tiến tới. Ấy là một trong những trọng tội nầy mà Đấng Christ ám chỉ khi Ngài nói về sự phạm tội với Đấng Thánh Linh không thể nào khoan dung được trong đời nầy hay trong đời sau. Danh từ  "khoan dung" dùng sai nghĩa. Tiếng "bỏ rơi" hay "bỏ qua một bên" giải đúng nghĩa hơn, nghĩa của nó hết sức rơ rệt. Phạm tội với Đấng Thánh Linh là sự đàn áp Chơn Thần trong con người. Nó sinh ra những nghiệp quả không sao thanh toán được, ngay trong thời kỳ phổ độ nầy hoặc trong kỳ gian của sự tiến hóa của địa cầu và có lẽ trong kỳ gian sắp tới nữa, chỉ v́ tội nầy thật là rất nặng nề.

            Nhiều người phạm tội nầy với chính họ và với con cái họ nữa. Họ không để cho phần cao siêu của họ có dịp nẩy nở. Trẻ em thường có linh năng thấy được những vị Ngũ Hành và những chuyện khác lạ lùng, kỳ diệu mà những người lớn tuổi không thấy được. Họ cũng rất có thể thấy những vật vô h́nh ấy nếu sự nhạy cảm của họ không bị tiêu diệt v́ lối sống quay cuồng của họ. Về sau, đôi khi, họ bắt đầu khôi phục trở lại, nhưng một cách khó nhọc, chẳng những linh năng Thần Nhăn mà c̣n những năng khiếu thưởng thức tất cả những ǵ tốt đẹp và mỹ thuật, tất cả những màu sắc tinh vi của t́nh cảm và tri giác, mấy cái nầy là dấu hiệu của nền văn hóa và giáo dục chân chính.

            Những yếu tố của sự tiến bộ cao siêu đều hết sức tinh vi và quân b́nh đúng mức cho đến đỗi sự điều khiển sai lầm bé nhỏ cũng đủ làm tê liệt chúng trong nhiều tuần lễ hay nhiều tháng. Kết quả của nhiều tháng có thể bị hủy diệt chỉ trong một ngày thôi. Do đó, hoàn cảnh là quan trọng. Bởi thế người ta không chắc gặp lại t́nh trạng cũ cho nên nhà Huyền Bí Học cố gắng luôn luôn lợi dụng những điều kiện hiện hữu, mặc dù điều kiện đó là thế nào và giữ sao cho ḿnh khỏi bị một điều kiện nào ngăn trở cả. Một trong những Kinh Pouranas có viết:

            “Không Thể Xác th́ không một ai có thể đạt đến mục đích của Linh Hồn”; v́ thế phải chăm sóc Thể Xác cũng như một kho tàng và thi ân bố đức cho người. Một thôn xă, một cánh đồng, một gia tài, một mái nhà, cũng như nghiệp quả tốt và xấu chúng ta có thể gặp lại được nhưng không bao giờ chúng ta có thể gặp lại thể xác nầy đâu.

            Người ta nghe nói như vầy: "Tôi không thể làm ǵ lớn lao được trong kiếp nầy; tôi sẽ xem những điều nào mà tôi có thể làm được trong kiếp tới. Giữ măi trong trí ḿnh cái ư niệm về kiếp vị lai của chúng ta và những điều mà chúng ta có thể hoàn thành là một việc tốt, nhưng quá tin tưởng đến điều nầy là không thận trọng, bởi v́ Quả Tích Trữ chắc chắn là có nhiều, tốt lẫn xấu, đôi khi nó ào tới phủ vây chúng ta như một lượn sóng, có những lúc, quả báo có thể ban cho chúng ta một hoàn cảnh thuận tiện nhưng không phải v́ đó trong kiếp sau những cơ hội đến với chúng ta cũng sẽ được thuận tiện như vầy đâu. Tóm lại, có thể Nhân Quả của chúng ta sẽ theo lẽ vận-hành thông thường. Mặt khác, có thể có một khối quả báo xấu mà các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu cầm cân tội phước xét ra c̣n quá nặng đối với người tạo ra nó và khối quả báo ấy, các Ngài có thể cho Y trả dần trong kiếp tới với những điều kiện ít thuận tiện hơn.

            Không ǵ khôn ngoan hơn là ngay trong kiếp hiện tại, nắm lấy tất cả các cơ hội có thể có; như vậy, chứng tỏ cho các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu thấy rằng chúng ta biết lợi dụng những cơ hội ấy; điều đó có ảnh hưởng rất lớn đối với Nhân Quả kiếp vị lai của chúng ta, bởi v́ đó cũng là quyền hưởng được những hoàn cảnh thuận tiện. Những cơ hội hiện hữu thật nhiều lắm, nhưng kết luận rằng chúng ta sẽ gặp lại những cơ hội ấy trong kiếp tới ấy là bất cẩn. Có lẽ có mà cũng có thể không.Tôi không thích người ta nói như thế nầy:"Tôi già rồi không làm ǵ được trong kiếp nầy." Nếu chúng ta lợi dụng điều chúng ta có đây và nếu chúng ta tiến bộ càng ngày càng xa, chúng ta tạo nên một t́nh trạng làm cho các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu khó mà từ chối ban cho chúng ta những cơ hội mới. Khi theo đường lối đặc biệt nào đó, chúng ta có thể gây ra nghiệp quả giúp chúng ta chiếm được cơi Thiên Đường. Chúng ta có thể bắt buộc các Ngài thanh toán quả báo của chúng ta cách nào để cho chúng ta có một vài cơ hội mong muốn; những nguyên nhân mà chúng ta phát động không khai triển được những hiệu quả của chúng nó; nếu chiều hướng tổng quát của chúng ta bị thay đổi. Tất nhiên, tốt hơn là triệt để lợi dụng những cơ hội đưa đến và e rằng bỏ qua cơ hội ấy, chúng ta gây ra một cơ hội khác biệt nhiều ngàn năm trong sự tiến hóa của chúng ta.

            Vài ngàn năm đối với đời sống vĩnh cửu của Linh Hồn không có nghĩa lư ǵ hết, nhưng chúng ta không muốn làm mất th́ giờ của chúng ta như thế. Thí dụ, chúng ta thấy trong quyển Những kiếp sống của Alcyone, trường hợp một thanh niên sống gần bên một trong những vị Đại Sư tại một Thánh Điện Ai Cập, Y có nhiều điều kiện thuận lợi đặc biệt.

            Y phạm một điều khờ khạo là làm mất th́ giờ, bỏ lỡ cơ hội và để cho cơ hội ấy qua đi. Sư Phụ của Y bèn nói với Y rằng: Ngài luôn luôn sẵn sàng thu nhận Y trở lại. Dĩ nhiên trong kiếp nầy Y gặp lại Đức Thầy. Như thế, sự thờ ơ đă khiến cho Y làm mất th́ giờ.Huynh hăy nghĩ xem trong 6.000 năm nầy Y có thể làm biết bao nhiêu công việc, nếu trước đó Y chấp nhận lời đề nghị đă đưa ra. Vào thời kỳ ấy, vị Đại Sư mà chúng ta nói đây chưa đắc quả Chơn Tiên, dĩ nhiên, nếu Y chấp nhận điều kiện làm Đệ Tử th́ chính Y hiện giờ cũng không cách xa lắm quả vị Siêu Phàm. Một quyết định tương tự 6.000 năm sớm hơn hay là 6.000 muộn hơn không thể giống nhau được. Một người có sự quyết định liền theo Thầy sẽ có công đức về những năm hoạt động trong khoảng 6.000 năm ở trên những cảnh giới cao nhất th́ làm sao nói rằng không có sự khác biệt nhau ?

            Tôi không biết điều mà chúng ta gọi là thời gian đối với Thiên Đ́nh có ảnh hưởng ra sao. Một quan điểm mà con người có thể đạt tới là quá khứ, hiện tại và vị lai biểu lộ ra như là hiện tại trường tồn. Tuy nhiên, chính trong hiện tại trường tồn nầy, có những việc dễ đạt hơn và những việc khác khó thâu thập được. V́ vậy, nắm lấy một cơ hội hay bỏ qua một cơ hội, không phải là không có hậu quả, mặc dù có cách bổ khuyết trong tương lai một lỗi lầm như thế. Sự hối tiếc đă phạm lỗi trở thành một sức mạnh thúc đẩy con người phải tăng gia gấp bội sự nỗ lực hầu đền bù thời giờ đă mất. Một lư luận tầm thường, một sự cố gắng tưởng tượng tầm thường để h́nh dung một quá tŕnh tiến hóa ư? Tuy vậy chúng ta không thiếu ǵ những lư lẽ để tin rằng một ngày kia có thể sửa đổi quá khứ được. Trên những cảnh giới cao siêu, vấn đề được xem xét như sau đây, chúng ta nói rằng bản tánh của quá khứ là thế nầy, hay thế nọ mà chúng ta không sao thay đổi được. Nó là như thế khi chúng ta có mặt tại nơi ấy, nhưng mà, chúng ta không rơ được ngày hôm nay nó trở nên như thế nào [24] v́ chúng ta hiện giờ ở quá xa điểm đó. Cái quá khứ nầy vẫn c̣n măi măi. Đối với một người khác, ở một nơi khác, nó vốn là hiện tại. Quan niệm nầy khó mà hiểu rơ được. Ở Cơi Trần, chúng ta biết rằng ḿnh thấy một vật; ánh sáng từ vật ấy rọi ra làm cho chúng ta biết được vật đó. Cái ánh sáng mới ngày hôm qua đây chỉ cho ta biết một vật hiện giờ nó ở cách xa nơi đây hàng triệu dậm mà bây giờ nó cũng c̣n chỉ vật ấy. Cái "hôm qua" của chúng ta có thể là "buổi hôm nay" đối với một người khác, về sự tiếp nhận thông điệp do ánh sáng nầy mang đến. Hai việc giống nhau có chăng cùng một căn bản thực tế, tôi không hiểu được, nhưng mà dường như cái chân lư phải giống như vậy đó.

            Quan sát Cơi Hồng Trần từ trên một cảnh giới cao, ấy là đứng trên đỉnh núi, và trông thấy một toa xe lửa di động trong thung lũng, dưới chân ta. Về phần hành khách, đoàn xe đă trải qua vài điểm. Những điểm ấy tuy đă khuất dạng, nhưng vẫn luôn luôn c̣n ở đó. Cây cối và thú vật trông thấy ở đó vẫn sinh sống như thường. Quá khứ vẫn c̣n hoạt động nhưng v́ không c̣n thấy chúng nó nữa cho nên phần đông thiên hạ tưởng rằng vai tuồng của chúng nó tại đó đă chấm dứt rồi. Tôi không tin chắc như vậy. Tôi không nghĩ rằng t́m hiểu vấn đề nầy là rất hữu ích, bởi v́, ở Thế Gian, khó mà t́m được một cách giải thích có mạch lạc về điều đó. Tuy nhiên, tôi tin rằng quá khứ không phải là bất di bất dịch không thể biến cải được và ngày nào mà chúng ta đạt đến tŕnh độ khảo sát được tất cả các điều đó từ trên cơi cao, quá khứ sẽ hiện ra tốt đẹp hơn là điều chúng ta đă tưởng tượng khi nhớ tới nó. Thật vậy, tất cả cái quá khứ nầy vẫn tiến tới, v́ nó là yếu tố của thực tại Thiêng Liêng. Nó cũng sẽ được chúc tụng, nó sẽ đơm bông, nó sẽ trở thành cái ǵ mà kiếp số đă tiền định. Tôi không tự phụ mà nói rằng tại sao vậy. Nhưng mà ư niệm nầy không phải là không khuyến khích chúng ta. Tôi muốn nói những sự sơ xuất, những thiếu sót, những sự lầm lạc trong dĩ văng của chúng ta, về sau cũng có thể có một tính cách khác biệt mặc dù ngày hôm nay, đối với chúng ta, chúng có đặc tính không tốt nầy. Ở Thế Gian, ư niệm nầy khó cho con người thấu hiểu được, nhưng tôi tin chắc rằng nó chứa đựng một phần Chân Lư.

            15.- Hăy ham muốn những vật sở hữu trên tất cả mọi vật.

            Nhưng những vật sở hữu nầy phải tuyệt đối thuộc về của Linh Hồn trong sạch, và bởi đó, Linh Hồn trong sạch nào cũng đều được hưởng sở hữu đó một cách in như nhau. Tới ngày nào tất cả chỉ là một, ngày đó chúng ta sẽ thành tài sản đặc biệt của tất cả. Hăy ham muốn những vật sở hữu mà Linh Hồn trong sạch có thể ǵn giữ được hầu súc tích những của cải cho đời sống tinh thần chung của Nhân Loại, cho đơn vị nầy, chỉ đây mới thật là Chơn Ngă của con.

            C.W.L. - Những vật sở hữu mà chúng ta nên ham muốn là những đức tánh giúp ích cho Nhân Loại. Tất cả những thắng lợi mà chúng ta đạt được là Nhân Loại đạt được, chứ không phải là của chúng ta. Sự ham muốn chiếm hữu phải nhắm vào những vật sở hữu chung cho tất cả, đó là sự ham muốn cho mỗi người đều có phần trong một gia tài chung. Chúng ta gặp lại đây vấn đề Vô Ngă và dưới một h́nh thức khác. Đời sống của các Đấng Chơn Sư cho chúng ta những gương mẫu đáng kính phục. Tôi c̣n nhớ có một lúc tôi hết sức ngạc nhiên khi nghe người ta nói rằng các Ngài dường như không có mắc Nghiệp Quả. Những Thánh Thư của Ấn Độ cũng nói rằng các Ngài đứng trên Nghiệp Quả. Thuở đó tôi không hiểu điều nầy. Nhân Quả là một định luật cũng giống như hấp lực. Chúng ta có thể lên cao tới ngôi mặt trời, mà hấp lực cũng không mất. Trái lại, chúng ta cảm thấy lực ấy càng mănh liệt hơn nữa. Dường như tôi thấy khó mà thoát khỏi Luật Nhân Quả, bởi v́ nhờ Luật ấy mà mỗi người nhận lănh những ǵ cân xứng với hành động của y. Nếu các Đấng Chơn Sư Cao Cả không ngớt ban rải ân lành cho vạn vật đến một điểm mà chúng ta không có hy vọng ǵ sánh bằng các Ngài được và nếu đồng thời, các Ngài không tạo ra một Nghiệp Quả nào th́ kết quả phi thường của sự ban rải thần lực để giúp đời của các Ngài trở nên như thế nào ?

            Cuối cùng, sau khi khảo cứu vấn đề nầy, chúng tôi bắt đầu hiểu. Nếu tôi diễn tả cách thức mà Nhân Quả hiện ra dưới tầm mắt của vị có Huệ Nhăn, có lẽ vấn đề sẽ trở nên dễ hiểu hơn. Cách hành động của Luật Nhân Quả ở trên mấy Cơi cao biểu lộ ra giống như cảnh tượng sau đây. Mỗi người đều là trung tâm của những h́nh cầu đồng một tâm điểm với nhau. Chúng nhiều cho đến đỗi không thể nào tưởng tượng được. Có vài cái ở sát bên Y, c̣n những cái khác ở tít mù xa trong ḷng vực thẳm của Vũ Trụ. Mỗi tư tưởng, mỗi lời nói và hành vi, dù ích kỷ hay không ích kỷ đều phát ra một nguồn khí lực chạy ngay vào mặt những h́nh cầu, và đánh thẳng góc vào cái mặt bên trong của một trong những h́nh cầu ấy rồi dội ngược lại và trở về chỗ khởi điểm của nó. Tính chất của sức mạnh cũng như thời gian quay về dường như hạn định do một h́nh cầu nào đẩy lui sức mạnh ấy. Có thứ sức mạnh sinh ra do vài hành động đánh vào một h́nh cầu tương đối ở gần một bên, kế đó quay trở lại rất nhanh chóng, c̣n những sức mạnh khác tiếp tục đi vào cơi không gian vô tận và chỉ quay về sau nhiều kiếp. Tại sao vậy? Chúng tôi không hiểu v́ lẽ nào. Chúng tôi chỉ biết rằng sự quay về của nó không thể tránh được và trong tất cả những trường hợp, sức mạnh ấy chỉ có thể trở về nơi trung tâm đă phát sinh ra nó mà thôi.

            Tất cả những sức mạnh do con người sinh ra phải trở về với y, thời gian trở về cũng lâu bằng cách Y phóng sức mạnh ấy ra ngoài. Tuy nhiên, mọi người đều dính liền bên trong với Đức Thượng Đế và điều đó, không phải do một trong những h́nh cầu nào mà chính nó do nơi trung tâm điểm. Khi quay về trung tâm, Y có thể đi tới Đức Thượng Đế và khi mà Y điều khiển tất cả sức mạnh của tư tưởng và ḷng ham muốn của Y về ngay trung tâm, th́ sức mạnh ấy không quay trở về với Y nữa mà đi phối hợp với khối thần lực vô biên đang chuyển động do Đức Thượng Đế không ngớt ban rải trong Vũ Trụ của Ngài hầu duy tŕ sự sống của vạn vật. Sức mạnh thiêng liêng từ  trung tâm phát ra, chớ không phải từ bên ngoài đến. Khi khảo sát những nguyên tử hồng trần, vị có Huệ Nhăn nhận thấy có vài nguyên tử thu hút sức mạnh và có những nguyên tử khác phát ra sức mạnh. Sức mạnh nầy phải có một nguồn cội, nó không phải vô bên nầy rồi ra bên kia. Nó từ trung tâm nguyên tử phóng ra và ở bên ngoài xem không biết nó từ đâu đến. Sự thật, sức mạnh ấy phát khởi từ một bề cao siêu [25] và con mắt của chúng ta không thấy được. V́ thế, con đường dắt đến Đức Thượng Đế ở trong tâm của muôn loài vạn vật và ấy là cái chiều hướng theo đó mà con người phải điều khiển tất cả sức lực của ḿnh trong khi Y luôn luôn nh́n về Thượng Đế và chỉ nghĩ đến Ngài lúc Y hoàn thành công việc của Y. Riêng về cá nhân Y, sức mạnh nầy tan mất, tuy nhiên, như tôi đă nói, sức mạnh ấy lại đến nhập vô nguồn thần lực của Đức Thượng Đế luôn luôn ban rải khắp nơi. Đối với con người, không có kết quả riêng nào cho cá nhân ở trong những cơi thấp, nhưng mà nhờ mỗi sự nỗ lực tương tự, Y sẽ tiến gần đến Chân Lư thiêng liêng ở trong ḷng Y, Y biểu lộ nó rơ ràng hơn và đầy đủ hơn. V́ vậy, nói rằng Y không thâu thập một kết quả nào hết là sai. Trong một Vũ Trụ phục tùng Định Luật, tất cả đều tạo nên một hiệu quả, nhưng mà không có hiệu quả nào bên ngoài có thể lôi kéo con người trở lại Thế Gian.

            Tôi tưởng đó là những điều giải thích đoạn sách nói về các Đấng Cao Cả thoát khỏi Luật Quả Báo, tất cả thần lực vô biên của các Ngài đều được các Ngài lấy danh nghĩa Nhân Loại và như là những đơn vị của Nhân Loại mà sử dụng trọn vẹn để ban bố phúc lành cho con người. Dường như, các Ngài thoát ra khỏi sự bắt buộc của Định Luật. Dù là kết quả thế nào, nó cũng thuộc về nhân loại chớ không phải thuộc về các Ngài, Nhân Quả của tất cả những sự hoạt động vinh diệu của Chơn Sư không để dành lại để Ngài hưởng thụ mà để cho toàn thể nhân sinh.

            Chúng ta cũng thế, chúng ta phải hoạt động với tinh thần vô ngă. Nếu trong lúc hành động, dù là một hành động tốt đẹp, chúng ta tự nói: "Tôi làm điều nầy, tôi muốn thấy được công lao của tôi." Hoặc giả, dù không nghĩ đến công lao, chúng ta chỉ nói: "Ấy là tôi làm điều đó," cũng như những vị Pharisiens thuở xưa, chúng ta nhận lănh phần thưởng của chúng ta rồi. Kết quả sẽ dành cho bản ngă cá nhân và buộc trói chúng ta vào Thế Gian nầy, không khác ǵ một kết quả xấu. Nếu trái lại, quên hẳn bản ngă của ḿnh đi, chúng ta chỉ hành động như những đoàn viên của Nhân Loại, kết quả của sự hành động sẽ trở về cho Nhân Loại và mỗi người là một phần tử. Càng hành động bất vụ lợi chúng ta càng đến gần Tâm Thiêng Liêng của vạn vật. Đó là quan điểm của chính Đức Thượng Đế. Đối với Ngài, không có một tư tưởng riêng tư nào có thể tồn tại được. Ngài luôn luôn hành động cho hạnh phúc của toàn thể mà Ngài là người đại diện. Nếu trong lúc hành động, chúng ta chỉ nghĩ đến Ngài, kết quả sẽ trút đổ vào Kho Thần Lực của Ngài và không c̣n trở lại với chúng ta dưới một h́nh thức nào khả dĩ cột trói chúng ta được, mà như là một yếu tố làm cho chúng ta trở nên những sự biểu hiện càng ngày càng viên măn của Đức Thượng Đế và càng ngày nó càng nâng cao chúng ta lên đến sự an tĩnh của Ngài mà trí thông minh  của con người không thể hiểu nổi.


CHƯƠNG   8

QUI TẮC  17 – 19

 

            17.- Hăy t́m Đạo.

            C.W.L. - Bây giờ chúng ta đi đến ba qui tắc ngắn. Chúng có sự liên quan mật thiết và cùng chung với nhau trong giảng lư của Đức Đế Quân cũng như trong những kư chú của Đức Hilarion. Chúng được đề cập đến một lượt. Thật có hơi khó mà sắp đặt chúng ra từng nhóm riêng như việc chúng ta đă làm từ trước đến giờ và tôi muốn lấy mấy câu nầy theo thứ tự ở trong sách. Lẽ tự nhiên chúng ta đi tới một điểm chánh quan trọng của Giáo Lư bởi v́ chúng ta gặp nơi đây giảng lư của hai Đấng Cao Cả dài hơn mấy đoạn trước. Kư chú của Đức Hilarion thêm vô qui tắc thứ 17 khởi đầu như sau đây:

            Ba tiếng nầy có lẽ dường như chúng nó không quan trọng lắm để làm ra một qui tắc. Người Đệ Tử sẽ nói: "Nếu tôi không t́m Đạo, tôi đâu có phí công nghiền ngẫm những tư tưởng nầy sao?" Tuy nhiên, con chớ nên vội sang qui tắc khác. Hăy dừng lại và hăy suy nghĩ  trong chốc lát. Có phải con đường mà con muốn chăng? Hay là con thấy trong đó một viễn ảnh mơ hồ của những cao độ mà phải leo lên, hay nơi đó có một tương lai rực rỡ phải thực hiện. Hăy coi chừng. Phải t́m Đạo v́ Đạo chớ không phải v́ những bước chân của con giẵm lên đó.

            Những lời nầy giải bày một cách tuyệt diệu, chúng ta phải tiến đến Đường Đạo với tinh thần nào? Từ đầu tới cuối, phải tách phàm Nhơn ra và làm việc theo Bản Ngă cao siêu. T́m Đạo là hành động như thế đó. Như chúng ta đă thấy, con người dầu cho đă để lại đàng sau ḿnh sự tham vọng tầm thường, cũng c̣n gặp lại nó nữa và trong những h́nh thức tế nhị hơn. Bây giờ đây tham vọng của nó lên tới một mức độ cao siêu, nó nhất định không ham muốn chi cho bản ngă của ḿnh, nó hiến dâng trọn vẹn tất cả những năng lực của nó sẵn có cho công việc của Quần Tiên Hội. Nó chỉ nghĩ đến một điều là làm một khí cụ tốt lành và đối với Chơn Sư, nó chiếm một vị trí thế nào mà những thần lực của Chơn Sư đi ngang qua nó hết sức dễ dàng.

            Lẽ tự nhiên, tất cả những thần lực từ những cơi cao đi xuống đều bị hạn chế khi chúng hoạt động ở một cảnh thấp. Thần lực đi ngang qua ḿnh kẻ Đệ Tử chỉ là một phần nhỏ nhít của ảnh hưởng mà một Đấng Cao Cả giao cho huynh để chuyển di. Không thể làm khác hơn được. Tuy nhiên, mặc dù tất cả những khuyết điểm tự nhiên c̣n bám chặt vào chúng ta tại cơi Trần, khi người Đệ Tử làm cho ḿnh thành một khí cụ cho thần lực của Chơn Sư, càng được hoàn hảo bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, th́ huynh có thể giúp ích được rất nhiều. Huynh có mục đích mở đường cho một luồng thần lực đi qua càng nhiều càng tốt và huynh phải làm cho nó ít bị biến chất được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

            Thần lực tuôn xuống do trung gian của Đệ Tử để Y ban rải ra, nhưng trong sự phân biệt nầy, vị Đệ Tử không đóng vai tuồng là một cái máy; Y thêm vô đó phần của Y, một chút màu sắc của Y truyền qua luồng thần lực. Người ta mong muốn điều nầy, người ta chờ đợi Y, nhưng người Đệ Tử phải triệt để làm cho đúng với thái độ và những lời dạy của Chơn Sư. Điều nầy không phải là không thể làm được; bởi v́ Đệ Tử làm một với Chơn Sư một cách kỳ diệu, như tôi đă nói trong quyển Chơn Sư và Thánh Đạo (Les Maitres et le Sentier).[26] Chẳng những cái chi chứa đựng trong Tâm Thức của người Đệ Tử đều có trong Tâm Thức của Chơn Sư, mà cái chi xảy ra trước mắt Đệ Tử cũng có trong Tâm Thức của Chơn Sư, nếu không phải ngay trong lúc đó như  ư Ngài muốn, nó cũng ghi trong trí nhớ của Ngài. Dù trong lúc đó Ngài rất bận rộn về công việc cao siêu của Ngài, Ngài không cần theo dơi cuộc đàm thoại của Đệ Tử, nhưng có những bằng cớ rơ rệt chứng minh rằng đôi khi Ngài vẫn để ư tới, bởi v́ thỉnh thoảng Ngài cho Đệ Tử tư tưởng hay lời phê b́nh và sửa đổi cái ǵ vừa nói ra.

            Như tôi đă nói trước đây, những điều vị Đệ Tử cảm xúc đều phản ứng đến Chơn Sư, nếu là một t́nh cảm như sự trêu tức, hay là nóng giận th́ Chơn Sư dứt ngay sự liên lạc. Thật vậy vị Đệ Tử không hề muốn cho Ngài chịu nhọc như thế, mặc dù người ta có thể nói với tất cả ḷng tôn kính rằng sự nhọc đó rất nhỏ. Có thể Chơn Sư làm việc nầy rất mau lẹ, một tư tưởng cũng đủ rồi, nhưng người ta không muốn có sự gián đoạn nhỏ nhoi trong sự hoạt động của Ngài.

            Ngoài ra, lẽ tự nhiên, vị Đệ Tử muốn tránh việc bị trục xuất như thế, đó là hậu quả không thể tránh được và xảy ra một lượt. Huynh hết sức chủ tâm để không cho mọi tư tưởng hay mọi t́nh cảm không tốt đẹp thâm nhập vào Tâm Thức huynh, huynh tránh một đám đông ồn ào hay là một chỗ nào phát sinh ra một thứ từ điện xấu xa, trừ ra khi nào công việc huynh phải làm cho Chơn Sư bắt buộc huynh phải có mặt tại đó. Trong trường hợp nầy, huynh bao bọc ḿnh bằng một cái vỏ [27] và giữ chừng không cho sự khó chịu nào động đến Chơn Sư. Tuy nhiên, những tư tưởng thuộc về loại vật chất hiện diện trong Tâm Thức của Đệ Tử cũng hiện diện trong Tâm Thức của Chơn Sư. Thí dụ, nếu bị một tiếng động th́nh ĺnh làm cho giật ḿnh, sự đụng chạm nầy mặc dù nhẹ nhàng cũng truyền qua Chơn Sư. Ngài không chút bận ḷng, Ngài xua đuổi nó đi, dù sao sự đụng chạm nầy vẫn truyền sang và nó chứng minh sự liên lạc mật thiết. Một vị Đệ Tử thận trọng, khôn ngoan cố gắng tránh mọi thứ đụng chạm, cho nên thường thường Y tỏ ra dịu dàng và yên lặng, điềm tĩnh.

            Về những đặc điểm khác của Đệ Tử, Y không hề quên Sư Phụ Y và sự hiện diện của Ngài. Trừ ra khi thờ ơ, sơ suất, Y không bao giờ để cho một tư tưởng hay một t́nh cảm nào mà Y không muốn nhập vào trong tư tưởng hay trong t́nh cảm của Chơn Sư; Y cũng cố gắng tránh những sự xao động ở ngoài có thể làm cho Y phải bị trục xuất tạm thời.

            Sự liên lạc mật thiết với Chơn Sư ban cho một vị Đệ Tử một đại hạnh phúc. Niềm vui được giao thiệp với một người thông minh tuyệt thế với những cảm giác, mà đúng hơn, không phải những cảm giác mà là những quyền năng siêu việt, bởi v́ trong Chơn Sư, người ta không thể gọi sự sùng đạo, t́nh thương và thiện cảm là những cảm giác ở nơi Ngài, ấy là những quyền năng. Niềm vui nầy thật là phi thường và có một sự xinh đẹp không thể diễn tả. Vị Đệ Tử càng mở Tâm tiếp đón những ảnh hưởng cao siêu nầy, chúng càng tuôn xuống Y và Y càng giống Chơn Sư, Y là người phục vụ Ngài. Đây là vấn đề tăng trưởng dài lâu, mà sự tăng trưởng nầy gặp một sự giúp đỡ lớn lao trong luồng thần lực không ngớt truyền sang từ Thầy qua tṛ.

            Sự liên hiệp nầy tiêu biểu việc thu nhỏ lại sự đồng nhất cao siêu trước kỳ hạn của nó. Sự đồng nhất nầy hiện ra khi mà Tâm Thức Bồ Đề hoàn thành sự mở mang của nó; nhưng trong khi chờ đợi sự mở mang nầy, tôi không biết có chi thân mật hơn sự liên lạc giữa Đệ Tử và Chơn Sư. Những người chí nguyện mong được hân hạnh thâu nhận làm Đệ Tử, ngay bây giờ đây phải sống như huynh tưởng phải sống như khi huynh đă được thâu nhận, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Chúng ta càng làm cho những sự hành động của chúng ta, những tư tưởng của chúng ta đại khái có tính cách yên tịnh và thanh bạch th́ chúng ta càng đáng được thâu nhận, khi ngày giờ được sự liên hiệp mật thiết đă đến. Không có chi phải ngờ vực, cách xứng đáng được đặc quyền nầy là sống như đă có nó rồi vậy. Tôi biết lắm, người ta thường tưởng rằng những việc nhỏ mọn bên ngoài không có chút chi quan trọng cả. Đôi khi người ta nói: "Có thể việc nào đó làm chậm trễ sự tiến hóa, nhưng mà những hậu quả không có thể trầm trọng lắm, ấy là một chuyện nhỏ mọn quá." Tôi nghe người ta nói điều nầy về sự ăn thịt cũng như sự hút thuốc. Nhưng, chúng ta không có những phương thế bỏ qua một sự lợi ích, dù hết sức nhỏ nhoi chăng nữa. Công việc chờ đợi chúng ta rất lớn lao, quan trọng, không phải dễ dàng đâu. Trong những trường hợp nầy, người khôn ngoan không hề bỏ qua một sự giúp đỡ nhỏ mọn nào cả.

            Đức Chơn Sư  thêm vô kư chú của Ngài:

            Có sự liên lạc giữa qui tắc nầy với qui tắc thứ 17 của phần nh́. Sau khi trải qua nhiều thế kỷ chiến đấu và nhiều chiến thắng, con thắng trận cuối cùng và đ̣i hỏi bí quyết cuối cùng con sẽ sẵn sàng đi xa hơn nữa.

            Qui tắc thứ 17 của phần nh́ của quyển sách được Chơn Sư đề cập, đúng như sau đây: "Hăy hỏi bản thể sâu kín của con, Đấng Duy Nhất, cái bí quyết cuối cùng mà người dành sẵn cho con qua các thời đại." Nghĩa nó như vầy: Như bây giờ đây, chúng ta phải t́m Bản Ngă Cao Siêu, cũng đúng vậy, khi tới tŕnh độ cao siêu hơn nữa chúng ta phải t́m kiếm Đấng Duy Nhất, là Chơn Thần, bí quyết cuối cùng là luôn luôn làm việc nhiều hơn và làm việc cao hơn. Nhiều người h́nh như gặp trong điều đó một viễn ảnh không vui vẻ chút nào cả. Thâm ư của một số đông người là muốn nghỉ ngơi. Chúng ta đă bao phen cố gắng, chịu đau khổ và lao lực, nên nhiều người mong mỏi nghỉ ngơi trọn vẹn. Quan điểm nầy đặc biệt thuộc về xác thân. Ở trên mấy cơi cao không có sự mệt nhọc. Tôi đă biết có nhiều người ở cơi Trung Giới lâu năm, họ chờ Chơn Sư t́m cho họ một thể xác mà các Ngài xét ra thích hợp với họ. Trong trường hợp thứ nhứt, một người chờ đợi 25 năm, trong trường hợp thứ nh́, 20 năm. Trong thời gian nầy, họ triệt để thực hành công việc của Chơn Sư không ngừng nghỉ. Người thứ nhứt cũng như người thứ nh́ không tỏ ra một chút chi mệt mỏi và cuối cùng họ cũng sốt sắng, hăng hái như lúc ban đầu. Nếu ở cơi Trung Giới có một điều chi giống như sự mệt mỏi và muốn biểu lộ ra nó đ̣i hỏi những thời hạn mà chúng ta không biết là bao lâu.

            Khi mà bí quyết cuối cùng của bài học cao siêu nầy được tiết lộ, Đệ Tử t́m được trong đó sự bí mật của con đường mới, con đường dắt đến trạng thái ở ngoài sự kinh nghiệm của con người và hoàn toàn ở trên tất cả tri giác và sự tưởng tượng của con người. Ở mỗi đoạn đường nầy, cần phải dừng lại thật lâu và suy gẫm cho kỹ lưỡng. Ở mỗi đoạn đường nầy, cần phải tự hỏi có phải chắc chắn là t́m Đạo v́ Đạo chăng ? Con đường và Chân Lư hiện ra trước, sự sống sẽ đến sau.

            A.B. - Khi Linh Hồn được giải thoát đă trải qua những giai đoạn dắt đến địa vị La Hán và tiến đến sự Điểm Đạo lần thứ nhứt của những cuộc Điểm Đạo kế tiếp, Ngài sẽ chọn lựa một trong những con đường mở ra trước mặt Ngài, có tất cả bảy con đường, số bảy là số Thiêng Liêng. Linh Hồn có thể quyết định bảy cách khác nhau. Người ta thường nói: Tới chừng đó chỉ có một phương thế mà thôi, ấy là con người phải muốn thành một vị Chơn Sư; một tư tưởng phụ thêm vào ư kiến nầy là nếu Ngài chọn lựa đúng th́ Ngài trở lại để giúp đời. Sự quyết định nầy nên khuyên bảo, v́ quyền lợi đặc biệt của nhân loại. Nhưng tôi xin nhắc huynh, điều đó là một quyết định  quá sớm. Một chú giải cho chúng ta biết bản chất của sự chọn lựa trong mấy chữ nầy: "Trên mỗi đoạn đường, cần phải chắc chắn là T́m Đạo V́ Đạo." Những chữ "V́ Đạo" cho chúng ta bí quyết. Phải chọn lựa chỉ V́ Đạo mà thôi. Việc có nhiều con đường cũng đủ để ngăn cản ta không cho lập một qui tắc nào cả về sự  quyết định của chúng ta và hơn nữa, để ngăn cản chúng ta nói rằng: "Ngài chọn lựa đúng", điều nầy dường như có thể chọn lựa sai khi Linh Hồn đă được giải thoát.

            Tuy nhiên, một ư tưởng - rất tế nhị - xuyên qua Trí của chúng ta: Ấy là chúng ta có thể quyết định sự chọn lựa nầy. Có khi chúng ta nhất định những điều chúng ta sẽ làm cho tương lai chúng ta - tương lai nầy vẫn c̣n xa vời lắm - chúng ta sẽ ra thế nào? chúng ta sẽ làm cái chi? Thật ra ấy là Tâm Thức thấp thỏi đem quyết định của nó thay thế quyết định của Tâm Thức cao siêu. Khuynh hướng tế nhị nầy phát hiện ra trọn suốt cuộc đời của chúng ta. Một phần Tâm Thức của chúng ta tự cho nó là Bản Ngă, nên lẽ tự nhiên, nó sẵn sàng phân chia con đường tương lai của nó theo như con đường nầy hiện ra cho nó thấy, quên rằng sử dụng quyền chọn lựa chỉ thuộc về Tâm Thức cao siêu mà thôi. Quyết định phải làm cái chi giai đoạn cuối cùng của vị La Hán chấm dứt, ấy là hành động như một đứa trẻ chọn lựa nghề nghiệp. Quyết định nầy không có sự hiểu biết hướng dẫn, chắc chắn không phải là sự quyết định mà sự xét đoán già giặn của nó sẽ chấp thuận. Một đứa bé không đủ tư cách để chọn lựa nghề nghiệp mai sau của nó, và trong vấn đề nói trên đây, nguyên tắc vẫn in như nhau. Bản Ngă cao siêu nhất định mà không cần lưu ư đến Phàm Nhơn, nói cho đúng, Phàm Nhơn không c̣n nữa trước lúc chọn lựa.[28] Quan niệm hệ trọng duy nhất phải đưa ra cho Bản Ngă thấp thỏi là quan niệm phụng sự. Bản Ngă thấp thỏi phải thành một khí cụ khả dĩ dùng được. Nếu không tuân hành, nó trở thành một chướng ngại cho Tâm Thức cao siêu. Huynh nên nhớ rằng nó có thể làm bế tắc con đường của Tâm Thức nầy; người ta thường nói nó đóng đinh  Bản Ngă cao siêu trên Thập Tự Giá.

            Một điểm khác cũng đừng quên: Chúng ta không thể xét đoán giai đoạn nào của Tâm Thức trước khi có kinh nghiệm về nó và biết giá trị tương đối của nó. Khi tưởng đến một điều kiện cao siêu của Tâm Thức Huynh, điều kiện mà Huynh không biết chi về nó, Huynh không thể nào có một quan niệm về nó cả. Khi Huynh lên đến cao độ nầy, Vũ Trụ biến đổi với Huynh; một sự biến đổi thực hiện trong bản tánh Huynh, và Huynh có thể hiểu cách hành động đặc biệt của Tâm Thức nầy. Trước khi hiểu biết, phải có kinh nghiệm về sự biến đổi ấy. Cũng thế đó, tạo một quan niệm về một con đường tương lai thật không khác nào xét đoán một trạng thái Tâm Thức mà Huynh không biết, vậy xét đoán của Huynh không có giá trị. Khi chúng ta đứng về một quan điểm cao hơn, chỉ có một lư do nhất định sự chọn lựa của chúng ta; lư do đó là những nhu cầu của Nhân Loại thuở đó. Ở đây có một chỗ trống, ở đàng kia, sự giúp đỡ của chúng ta lại cần thiết; đó là lư do điều khiển sự quyết định của chúng ta. Trong những con đường mở ra trước mặt Linh Hồn thanh khiết, Ngài chọn lựa con đường dắt Ngài đến chỗ nào cần sự giúp đỡ của Ngài. Bản Ngă xét đoán sự giúp đỡ mà Quần Tiên Hội [29] đang cần. Sự quyết định của Chơn Ngă tùy thuộc sự cần thiết biểu lộ Ư Chí của Đức Thái Dương Thượng Đế. Một Đấng Cao Cả có nói với tôi: "Thật là một sự lầm lạc khi tưởng rằng có thể quyết định ở dưới Trần Thế; sự quyết định phải do sự giúp đỡ cần thiết cho sự biểu lộ Ư Chí của Đức Thái Dương Thượng Đế".

            Một nhóm người làm việc để giúp đỡ Nhân Loại. Nếu họ cần dùng sự viện trợ và một vận hà tỏ ra cần thiết, sự chọn lựa là nhất định tán trợ hoạt động ấy. Tôi nhấn mạnh về điểm nầy v́ đă được cảnh cáo: Đừng để tư tưởng xúi giục bỏ một sự hoạt động hữu ích để lo những công chuyện khác mà chúng ta chưa có trách nhiệm gánh vác. Trong quyển Thánh Ca Bhagavad Gita cảnh giác chúng ta rằng: "Dharma (Đạt-ma) [30]  của kẻ khác mang đầy những nguy hiểm." Dharma (Đạt-ma) của chúng ta ở chỗ nào, công việc của chúng ta ở chỗ đó.

            C.W.L. - Con đường dắt đến trạng thái ở ngoài sự kinh nghiệm của con người là con đường của vị Siêu Phàm mở ra trước mặt Ngài theo bảy chiều hướng khác nhau như chúng ta đă thấy trước đây. [31] Tôi nghe nhiều Hội Viên chúng ta quả quyết điều nầy: "Chắc chắn về vấn đề chọn lựa của chúng ta, chúng ta sẽ ở lại để phụng sự Nhân Loại." Điều khôn ngoan nhất là đừng phung phí sức lực của chúng ta khi lấy những quyết định như thế, bởi v́ thật sự chúng ta không biết chi cả về vấn đề nầy. Đó là hành động như một trẻ con quyết định điều nó sẽ làm khi nó lớn khôn, nó sẽ thành tướng cướp hay là tài xế xe lửa. Những điều kiện quyết định sự chọn lựa của chúng ta, chúng ta không biết, cũng như đối với một đứa trẻ, nó không biết tương lai nó tùy thuộc những điều kiện nào. Không thể trong bảy đường lại có một con đường đáng chọn lựa hơn mấy con đường kia, mặc dù cả thảy đều dắt đến những sự hoạt động khác nhau. Chúng ta chớ nên nghi ngờ; tới lúc chọn lựa, tư tưởng quan trọng nhất là: "Tôi có thể phụng sự đắc lực hơn hết ở chỗ nào." Chúng ta không quá xa Chân Lư khi tóm tắt quyết định của chúng ta như sau đây: "Kính thưa Thượng Đế ! Có con đây! Xin Ngài gởi con đến nơi nào mà sự cần thiết giúp đỡ cấp bách hơn hết." Tuy nhiên, trong lúc chúng ta phát triển, có lẽ rất hữu ích mà đạt được một khả năng đặc biệt theo đuổi con đường nầy hay con đường kia trong bảy con đường, do đó sự ích lợi của toàn thể hệ thống là chúng ta t́m được một công việc trong con đường mà nơi đó chúng ta có thể làm nhiều việc lành hơn hết. Mỗi lần chúng ta đạt được một tŕnh độ Tâm Thức cao siêu, cơi đời mở rộng ra cho đến đỗi đối với chúng ta nó vẫn hoàn toàn mới mẻ. Khi thành những vị Siêu Phàm, chúng ta sẽ thấy một chân trời rộng lớn vô biên. Chúng ta sẽ hiểu đích xác những điều chúng ta sẽ làm, bởi v́ chúng ta xem Thái Dương Hệ như Đấng Hóa Công xem nó, từ trên nh́n xuống chớ không phải từ dưới ngắm lên. Chúng ta thấy kiểu mẫu mà một tổ chức (tissu) mô phỏng lại; chúng ta sẽ biết tất cả những điều đó có nghĩa ǵ. Mỗi bước tiến tới trước, mỗi lần mở rộng Tâm Thức đều đem chúng ta đến gần lúc mà chúng ta hiểu gần hết ư nghĩa của mọi vật; khi đi tới, chúng ta càng ít lầm lạc hơn, và càng hiểu biết rơ hơn; nhưng sự hiểu biết toàn vẹn [32] vốn thuộc về Bậc Siêu Phàm; bởi v́ Tâm Thức Ngài nhập vô Tâm Thức của Đức Thái Dương Thượng Đế; dù Tâm Thức nầy là một trong những sự biểu hiện thấp của cơi Ngài.[33]

            Trong trường hợp nầy, quyền chọn lựa cũng về phần Chơn Thần, nhất định, chúng ta không có lư do để lo lắng việc đó ngay bây giờ. Có thể Chơn Thần đă quyết định tất cả rồi. Trong trường hợp nầy, mỗi phần của những đại diện thấp thỏi hay là những phần của Ngài t́m được vị trí của nó, mặc dù những tư tưởng của những phần đó hồi trước ra sao chăng nữa. Điều quan trọng cho chúng ta chỉ là in sâu vào trí của Phàm Nhơn tư tưởng phụng sự, đó là điều phải chọn lựa. Chúng ta có thể làm cho Phàm Nhơn hiểu rằng luôn luôn phải t́m những cơ hội để giúp đỡ, nó sẽ thành một vận hà hoàn hảo cho Chơn Nhơn, và tới phiên Chơn Nhơn trở thành một vận hà hay là một khí cụ hết sức tốt cho Chơn Thần. Trong đời, phụng sự là lư tưởng cao hơn hết. Đấng Christ há chẳng có nói: "Ai muốn đứng đầu trong các con th́ y hăy làm tôi tớ cho các con đi ?”

            18.- Hăy t́m Đạo bằng cách đi sâu vào nội tâm.

            19.- Hăy t́m Đạo bằng cách can đảm tiến ra ngoài.

            C.W.L.- T́m Đạo bằng cách đi sâu vào nội tâm có nghĩa là: T́m trước nhất Chơn Nhơn, và nhờ Người d́u dắt. Chúng tôi đă giải nghĩa rồi, giai đoạn đầu tiên được chỉ định là Phàm Nhơn nhập một với Chơn Nhơn. Ngày sau, Chơn Nhơn thành một sự biểu hiện toàn vẹn của Chơn Thần; con người sẵn sàng thọ lănh sự Điểm Đạo làm một vị Siêu Phàm [34]. Kế đó, vị Siêu Phàm gắng sức đem Tâm Thức ḿnh lên tới Tâm Thức của Đức Thái Dương Thượng Đế. Ngài luôn luôn tự t́m kiếm ḿnh ở những tŕnh độ cao siêu.

            Trong tất cả những lần mà con người đi tới một giai đoạn nào đó và hướng một luồng tư tưởng sùng đạo lên Cơi trên, bù lại một luồng thần lực ban xuống cho Y làm cho sự cố gắng của Y bị một áp lực mạnh. Về phần con người, ấy là sự thọ lănh một luồng thần lực hơn là sự đi lên cao. Cũng thế đó xảy ra giữa Chơn Sư và Đệ Tử. Vị Đệ Tử dâng t́nh thương ḿnh cho Sư Phụ, Ngài đáp lại bằng cách ban cho Y một t́nh thương vượt hẳn sự cố gắng của y. Y có cảm giác nhận được một luồng thần lực hết sức mạnh mẽ, ấy là sáng kiến của y gây ra sự tuôn tràn nầy.

            Ở mức độ cao siêu, đó là sự biểu lộ của Đức Chúa Thánh Thần cho vị Siêu Phàm; Đức Chúa Thánh Thần là quyền năng của Ngôi Thứ Ba của Đức Thái Dương Thượng Đế. Những lằn lửa tượng trưng Ngài trong cuộc lễ Đức Chúa Giáng Lâm Pentecôte. [35] Đúng ngày giờ, vị Siêu Phàm nhập một với Ngôi Thứ Ba hiện ra ở Cơi Niết Bàn, rồi Ngài nhập một với Trạng Thái tượng trưng là Đấng Christ ở trong ḷng Đức Chúa Cha. [36] Mai sau, mặc dù tôi không biết chi về điều nầy, tôi chắc chắn rằng càng ngày Ngài càng tiến đến gần Đức Thái Dương Thượng Đế. Chúng ta không ngớt đến gần ánh sáng, nhưng chúng ta không bao giờ đụng tới ngọn lửa. Một ngày kia, chúng ta lên tới chỗ Ngài đang ngự bây giờ, nhưng Ngài không ngừng lại để đón rước chúng ta; Ngài cũng tiến hóa vậy. V́ thế chúng ta không hề đụng tới ngọn lửa, mặc dù chúng ta luôn luôn càng đến gần nó. Hạnh phúc tuyệt vời của sự kinh nghiệm nầy không thể so sánh được, không thể diễn tả được, bản tánh của nó không hề tương ứng với bất cứ cái chi ở cơi thấp cả.

            Ở nơi mỗi người, sự t́m kiếm thâm sâu tiết lộ nhiều Chân Lư. Phàm Nhơn mà nhiều người xem như là Bản Ngă chỉ là một phần nhỏ bé của con người. Chúng ta là những sinh vật quan trọng hơn cái vẻ bề ngoài của chúng ta rất nhiều. Trong mỗi kiếp, Chơn Nhơn chỉ có tách ra một phần nhỏ bé hay là một mặt nhỏ của Ngài xuống mấy cơi thấp mà thôi, mà dù cho phần nầy biểu hiện được trọn vẹn đi nữa, nó cũng chỉ là một phần tối thiểu. Một vĩ nhân ở dưới Trần Thế mang một h́nh dáng đẹp đẽ, chúng ta hăy chắc chắn rằng: Toàn thể vẫn cao hơn rất nhiều cái điều mà chúng ta thấy được. Riêng một ḿnh nó, không có Phàm Nhơn nào biểu lộ được vô số khả năng c̣n tiềm tàng trong Chơn Nhơn. Chơn Nhơn chứa đựng trong ḿnh tinh hoa của tất cả những kiếp đă qua. Những tánh t́nh hết sức tốt đẹp, hết sức cao thượng của những người sống ở chính giữa chúng ta, đây cũng chỉ tượng trưng một mẫu bậc trung của những đức tánh mà chúng ta sẽ thấy trong Chơn Nhơn nếu chúng ta có thể chiêm ngưỡng Ngài.

            Đôi khi chúng ta gặp những mẫu tương tự, chúng ta phải cố gắng xem chúng như là những mẫu thật . Thí dụ, chúng ta gặp một người rất tầm thường biểu lộ trong một trường hợp bất ngờ một thái độ anh hùng. Một anh thợ có thể hy sinh tánh mạng ḿnh để cứu sống một người bạn. Việc làm được như thế chứng tỏ con người nội tâm đă đi đến tŕnh độ đó. Dù cho điểm cao nhất mà Y lên tới là thế nào đi nữa, điểm nầy cũng vẫn chính là con người, bởi v́ con người không thể đụng chạm nó hay là tưởng tới nó, nếu không có sự đồng nhất. Tất cả những sự biểu lộ thấp thỏi, những dục t́nh sôi nổi gây ra những trận băo ḷng, những t́nh cảm đê hèn thuộc về Phàm Nhơn; chúng không nên có; điều nầy khỏi nói, chúng không làm ra "Con người thật". Khi mà anh nầy lên cao quá rồi, luôn luôn Y phải cố gắng giữ vững vị trí của Y tại đó.

            Những nguyện vọng cao thượng và thanh bai của con người phải được phát triển trong một phạm vi nào đó nơi Chơn Nhơn, không vậy, Y không cảm biết chúng nó ở tại Cơi Trần nầy. Những người thờ ơ với những lư tưởng ấy là những người không có mầm móng những đức tánh đặc biệt nầy trong ḷng họ. Nếu chúng ta mơ ước được những sản nghiệp thiêng liêng, điều nầy chứng tỏ rằng chúng là một sự việc linh động ở trong ḿnh ta chớ không phải là những khả năng; chúng ta phải quyết định đời sống của chúng ta ở mức độ cao hơn hết và như vậy chúng ta c̣n lên tới một cao độ cao hơn nữa.

            Tóm lại, nếu Chơn Nhơn xuống những cơi thấp chẳng qua là Ngài muốn thu thập sự minh bạch và những t́nh cảm tốt đẹp nhưng c̣n mơ hồ của Ngài kết tinh lại và thành một sự quyết định hành động. Tất cả những kiếp luân hồi của Ngài tạo thành một diễn tiến nhờ đó mà Ngài hoạch đắc sự đúng đắn và sự minh bạch. V́ vậy, cách mà chúng ta tiến tới là sự chuyên môn. Chúng ta sinh vào mỗi giống dân chánh và mỗi giống dân phụ hầu hoạch đắc những đức tánh mà những giống dân nầy phải phát triển đến mức hoàn thiện. Một phần của Chơn Nhơn đi sâu vào mấy cơi thấp th́ rất giỏi về chuyên môn, nó có sứ mạng mở mang một đức tánh nào đó; xong rồi, đúng ngày giờ, Chơn Nhơn thâu hồi nó về và nhiều lần như vậy. Trở về với Chơn Nhơn, Phàm Nhơn chuyển giao cho Chơn Nhơn một chút ít những kết quả đặc biệt của nó thu thập được. Chơn Nhơn nhờ vậy ít mơ hồ hơn trước.

            Mặc dù Chơn Nhơn có những quyền năng rộng lớn, Ngài vẫn ít đúng đắn hơn Hạ Trí rất nhiều. Phàm Nhơn ưa thích trước nhất năng lực phân tách của Hạ Trí mà nó phải mở mang, cho nên nó thường khinh khi Chơn Nhơn cao hơn nó rất nhiều nhưng c̣n mơ hồ hơn. Nó có thói quen tưởng ḿnh được tự chủ, khỏi phải phục tùng Chơn Nhơn.

            Trong những giai đoạn đầu tiên của sự tiến hóa của Ngài, Chơn Nhơn c̣n mơ hồ và về phương diện nầy, Ngài không có làm cái chi cho tốt đẹp, nhưng trong Ngài không có điều ǵ xấu xa, Ngài không có khuyết điểm về đạo đức. Trong Thượng Trí hay là Nhân Thể không chứa đựng chất nào có thể ứng đáp với sự rung động thấp thỏi, nhưng ở điểm nào mà sự mở mang của nó có một chỗ khuyết, những thể thấp của nó có thể làm vài chuyện sai quấy. Trong trường hợp nầy, có thể trong lúc nguy kịch, cái Vía ám ảnh con người và trong cơn điên Y xách dao đâm kẻ khác, hay là quá cần dùng tiền, Y gặp cơ hội có thể làm tiền nhờ gian lận Y sẽ sa ngă v́ bị cám dỗ. Chơn Nhơn chưa được thức tỉnh cho lắm để can thiệp và ngăn cản hành động hay là có lẽ Ngài không hiểu rằng dục t́nh và sự tham vọng của cái Vía có thể bắt buộc bản ngă thấp thỏi phạm trọng tội. Nếu chúng ta thấy sự quấy hiện ra th́nh ĺnh trong tánh t́nh của một người kia, đừng tưởng rằng sự quấy vốn do Bản Ngă cao siêu sinh ra, nó chỉ chứng tỏ rằng có một chỗ khuyết điểm trong Chơn Nhơn; bởi v́ nếu Chơn Nhơn khá tiến hóa, Ngài ngăn chận con người khi một tư tưởng xấu xuất hiện ra th́nh ĺnh và con người không phạm trọng tội.

            Về phần chúng ta, t́m Đường Đạo bằng cách đi sâu vào nội tâm có nghĩa là chúng ta luôn luôn phải tiến lên cao rồi đem về Trần Thế trong một phạm vi, càng ngày càng thêm nhiều hơn, những bảo vật mà Chơn Nhơn xúc tích trong vô số kiếp của nó. Nhưng trong khi t́m hiểu Bản Ngă cao siêu, chúng ta nên nhớ rằng phải t́m Đường Đạo bằng cách tiến ra ngoài. Không thể nào không biết cái chi ở ngoài chúng ta. Chúng ta phải gắng sức học hỏi và t́m hiểu cơi đời và những cái chi xảy ra tại đó.


CHƯƠNG   9

QUI TẮC  20

 

            20.- Chớ nên bằng ḷng t́m Đạo với một con đường duy nhất. Mỗi tánh khí đều có một con đường riêng biệt dường như hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn, nhưng không thể t́m được Đạo chỉ với tấm ḷng sùng tín, hoặc bằng sự thiền định, hoặc bằng sự hăng hái tiến bộ, hoặc chỉ bằng sự hành động vô tư lợi, hoặc chỉ bằng sự quan sát tỉ mỉ cuộc đời. Mỗi con đường chỉ có thể giúp cho vị Đệ Tử vượt qua một nấc thang mà thôi; tất cả các nấc thang đều cần thiết để tạo thành một cái thang.

            A.B.- Qui tắc 20 là lời chú giải của Đức Đế Quân về ba câu cách ngôn ngắn từ 17 đến 19 kể trong chương trước. Qui tắc ấy nói rằng: Con người không nên giới hạn sự phát triển của ḿnh theo con đường nào mà Y gặp ít trở lực hơn hết, nhưng Y phải khai triển năng lực của Y trong mọi chiều hướng trước khi Y đi đến mục đích, sự ích lợi đại đồng. Y t́m cách trở thành một công cụ hoàn thiện của Thiên Luật và không một ai có thể thành công được nếu không khai triển đủ mọi phương diện. Bởi thế muốn thực hiện cho được sự hoàn thiện, mỗi giống người hay mỗi tánh khí phải cung ứng cho ḿnh cái ǵ mà ḿnh c̣n thiếu sót. Nhân loại đạt được mục đích không phải chỉ bằng ḷng sùng tín hoặc chỉ bằng sự thiền định, hoặc chỉ bằng sự hành động vô tư lợi và cũng không chỉ bằng sự quan sát tỉ mỉ cuộc đời mà thôi. Cuối cùng sự hoạch đắc tất cả những điều trên đây vẫn cần thiết cho mỗi người, nhưng mà trên con đường hành đạo, con người bị tánh khí ḿnh hạn chế và trong một thời gian rất lâu, những nỗ lực của vị Đệ Tử để giúp đời bị hạn chế bởi một trong những tánh khí ấy.

            Bây giờ rất dễ hiểu tại sao cần phải theo đuổi tất cả những con đường. Khi tiến tới mọi người phải xít lại gần nhau, dính liền nhau như một cơ thể trọn vẹn. V́ vậy nếu một người kia có một năng lực lớn lao về sự thiền định mà những năng lực khác lại rất thấp kém, nó không giúp Y được bao nhiêu khi Y phải tiếp xúc với một người có năng lực về sự hành động vô tư lợi. [37] Trong địa hạt nầy Y không sánh kịp họ được và sự hữu ích của Y cũng bị giảm sút đi. V́ vậy điều có thể mong ước là trong khi t́m sự toàn thiện trong lề lối làm việc riêng biệt của ḿnh và trước khi t́m cách hiểu biết trọn vẹn một vấn đề đặt ra, đồng thời vị Đệ Tử cái ǵ cũng phải học hỏi một chút ít, làm thế nào có thể tiếp xúc chặt chẽ với những người tính khí khác nhau khi mà Y phải cộng tác với họ.

            Điều chánh yếu là sự Quân B́nh. Phải đạt cho được cách làm việc theo con đường nào cũng được cho tới một mức độ nào đó. Sự kiên nhẫn cũng cần thiết vậy hầu có thể giúp đỡ mọi người. Phải xem con đường của mỗi người đi là con đường thích hợp với họ, ấy là một trong những con đường mở ra cho con người, v́ thế phải cho: Nó là tốt. Chúng ta phải kính trọng tất cả những hạng người, và riêng ta, trong khi chờ đợi lúc ta có thể giúp đỡ tất cả, chúng ta hăy thử hướng dẫn những người mà chúng ta không làm được ǵ cho họ đến những kẻ khác có khả năng giúp đỡ họ, mà chúng ta không chê bai con đường họ theo và không t́m cách dắt dẫn họ theo con đường của ḿnh đi.

            C.W.L. -  Sự phát triển gần như không bao giờ đồng điệu với nhau. Ở người nầy sự sùng tín chiếm phần hơn, ở người khác th́ trí tuệ, ở người khác nữa th́ sự hoạt động. Dĩ nhiên, mỗi người đi theo con đường đối với ḿnh  được dễ dàng hơn, song họ không nên quên rằng sự phát triển toàn diện sẽ cần thiết cho họ trước khi đắc quả Chơn Tiên. Vị Chơn Tiên trước nhứt là một người hoàn toàn và nếu chúng ta coi Ngài là lư tưởng của chúng ta, chúng ta phải rán sức phát triển nhiều cách khác nhau hết ḷng tận tụy là một điều rất tốt, nhưng mà, đồng thời phải có học thức, bởi v́ con người tận tụy mà mù quáng [38] th́ không ích lợi bao nhiêu. Đối với những kẻ đi trên con đường trí huệ, sự trái ngược lại là đúng, họ cần sự tận tụy, không vậy chỉ sợ họ lạc đường v́ sự mở mang kiến thức của họ.

            Phát triển trong một chiều hướng duy nhứt c̣n tốt hơn là không phát triển ǵ hết, nhưng mà nếu mỗi người theo đuổi con đường riêng biệt của ḿnh, đồng thời Y phải nhớ rằng c̣n có những con đường khác nữa. Người ta thường có xu hướng công kích những con đường khác và tưởng chừng rằng chúng không  ích lợi bằng con đường của chúng ta.

            Thật vậy, đối với chúng ta, có lẽ những con đường đó không ích lợi, nhưng trái lại chúng vẫn ích lợi đối với những người đi trên con đường đó. Dầu cho tŕnh độ tiến hóa hiện hữu của chúng ta tới bực nào đi nữa, điều chắc chắn là chúng ta cũng phải đạt cho được sự quân b́nh. V́ thế hôm nay chúng ta chỉ đánh giá sự hoạt động siêng cần, rồi một ngày kia chúng ta sẽ hiểu biết được người tiến bộ nhờ đức Minh Triết, và sau đó, người tiến bộ nhờ ḷng tận tụy mà chúng ta không hề phê b́nh rằng họ ít có được trực tiếp hữu ích  hơn chúng ta. Tôi e rằng những người tiến bộ nhờ ḷng tận tụy tỏ ra hẹp lượng, cố chấp với những người muốn học hỏi và làm việc. Đôi khi họ nói rằng tất cả những điều anh làm thuộc về phương diện bên ngoài hay về phương diện trí huệ thuần túy. Nhưng mà trong mọi việc ở Thế Gian cái Tâm vẫn là điều quan trọng nhất, nếu anh không lo trau giồi cái Tâm th́ không thế nào anh tiến bộ thật sự được. Thật vậy, những đức tánh thuộc về cái Tâm phải được mở mang. Tuy nhiên, một vài người tiến bộ nhiều nhờ một công tác nhứt định. Những người khác không thể khêu gợi được nơi họ cái ǵ tốt đẹp hơn, nếu không có sự học hỏi cẩn thận và sự hiểu biết minh bạch.

            Đôi khi người ta bị đời sống cao siêu lôi cuốn nên chỉ lo tham thiền nhập định. Đối với vài nhà Huyền Bí Học đó là phương sách tốt nhứt, ít ra cũng ở trong giai đoạn đầu tiên. Nhưng mà, người ta có thể nói rằng: Tôi cần phải phát triển trước nhứt hầu có đủ khả năng phụng sự. Khi tôi thành Tiên rồi tôi sẽ giúp đỡ con người một cách hoàn mỹ, tôi không c̣n lầm lạc nữa. Ở mọi tŕnh độ đều có công tác để làm, và khi trở nên xứng đáng với quả vị Chơn Tiên, con người sẽ hoàn thành sứ mạng ḿnh trên những cảnh giới cao siêu hơn những cảnh giới mà chúng ta đi đến được. V́ thế nếu chúng ta chờ đắc quả Chơn Tiên mới hiến ḿnh phụng sự thế gian, từ đây đến đó có nhiều việc thuộc về hạng thấp thỏi hơn sẽ bị bỏ bê. Chơn Sư chúng ta làm việc nhứt là trên cơi Niết Bàn, từ nơi đó, Ngài ảnh hưởng đến hằng triệu Chơn Nhơn . Trên những Cơi cao, các Ngài làm những điều mà chúng ta không làm được, nhưng dưới những Cơi thấp, có hiếm công tác vừa sức cho chúng ta làm. Đôi khi người ta nghĩ rằng các Đấng Chơn Sư cần phải làm công việc hạ cấp, thí dụ như cộng tác với người nầy, người kia ở Thế Gian. Như tôi đă giải thích, các Ngài không làm như vậy, trừ phi trong những trường hợp tương đối hiếm có. Các Ngài nhận thấy những người đó đền bù được một cách mau chóng sự cố gắng của các Ngài đă v́ họ mà ra sức. Quyền lợi của công tác đứng trên mọi quan điểm khác đến nỗi, trong đó không t́nh cảm nào được đóng một vai tṛ, dẫu là hết sức nhỏ nhặt cũng vậy. Các Đấng Chơn Sư cộng tác với một Đệ Tử, nếu bù đắp lại Y có khả năng giúp ích và nếu tinh lực đem dùng để huấn luyện và điều khiển Y trong một thời gian nhất định, phải thu hoạch được kết quả cũng bằng số tinh lực Ngài đă tiêu hao trong một phạm vi rộng răi hơn và cao cả hơn, nghĩa là nếu Y học hỏi được và nếu Y sẵn sàng làm được nhiều việc bất cứ ở trong trường hợp nào. Bằng không người ta có thể nói rằng các Ngài chủ ư đến Y một cách tổng quát mà thôi.

            C̣n nhiều công việc phải làm ở những cơi thấp, thật ra, có những hoạt động lớn lao và rất khác nhau, từ đó đến giờ đă bị lăng quên.

            Khi mà t́nh huynh đệ đại đồng được xác nhận dần dần th́ luôn luôn xuất hiện những phương thức mới để phụng sự. Các Đấng Chơn Sư của chúng ta đă có nhiều Đệ Tử trước khi thành lập Hội Thông Thiên Học nhưng phần đông là những người Á Đông như là tín đồ Ấn Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo Thần Bí (Soufis) và tín đồ Bái Hỏa Giáo (Zoroastre). Tâm lư của người Đông Phương khác hơn tâm lư của chúng ta. Tôi tưởng không phải để châm biếm, là ta có thể nói rằng: Tâm lư người Đông Phương ít thực tế hơn tâm lư người Tây Phương về một vài phương diện.

            Phần đông những Đệ Tử Ấn lo lắng nhứt là về sự học hỏi riêng tư của họ, vả lại công việc nầy đ̣i hỏi lắm công phu khó nhọc và họ tiến bước khá xa trước khi họ ngưng lại để giúp đỡ đồng loại. Công tác cứu trợ vô h́nh đối với họ không hấp dẫn như đối với chúng ta. Ở Ấn Độ không một người nào dầu cho là anh lao công tương đối cũng không đến nỗi hoàn toàn mù tịt về đời sống sau khi chết như một tín đồ Thiên Chúa Giáo bực trung. V́ vậy không cần thiết giải thoát họ ra khỏi cái ảo ảnh do sự tin tưởng một miền địa ngục đời đời tạo ra.

            Khi mà những Sinh Viên chúng ta nhận thức được bản tánh của các công tác ở cơi Trung Giới, họ biết rằng sự cần giúp đỡ lớn lao vô cùng. Trước mặt sinh viên có hàng ngàn người rên siết dữ dội v́ họ bị một cơn ác mộng, một thứ bù nh́n do chính họ tạo ra bởi ảnh hưởng những lời giáo huấn phi lư. Đứng trước một cảnh tượng như thế tức th́ phát sinh ư muốn làm giảm bớt mọi sự đau khổ liền, v́ vậy công việc của những người cứu trợ vô h́nh phát khởi và bành trướng như một quả bóng tuyết. Người được cứu bắt đầu giúp đỡ lại kẻ khác v́ thế mà trong ṿng 35 năm nay, từ khi công việc nầy được tổ chức có phương pháp, kết quả thâu thập được thật là to tát.

            Một người có thể tiến hóa rất cao bằng cách chỉ chăm lo sự phát triển riêng tư của ḿnh, nhưng với đường lối nầy, Y không đạt được quả vị Chơn Tiên. Người nào đợi đến khi ḿnh thành Tiên mới giúp đời, không bao giờ được thành Tiên. Y có thể ẩn ḿnh vào cơi Niết Bàn nghĩa là đă được giải thoát nhưng Y không hiểu rằng Đức Thượng Đế đang chờ đợi những ǵ ở nơi Y. Một đám đông người ít tiến hóa và ít xuất sắc nhưng biết được điều đó sẽ theo kịp Y.

            Bởi vậy cho nên Y phải từ khước đời sống trên những cơi cao và trở xuống thấp học hỏi lại những điều Y chưa biết nghĩa là Nhân Loại là một, và nếu không hiểu điều nầy, khó mà lên tới tột đỉnh của sự tiến bộ.

            Nhưng, như ở đây đă nói, việc làm vô tư  lợi, tự nó, cũng chưa đủ bảo đảm sự phát triển trọn vẹn. Con người cũng cần phát triển ḷng tận tụy, nhứt là năng lực đáp ứng với cái ánh sáng bên trong. Không vậy y là một khí cụ bất toàn, dù Y hăng hái làm việc đi nữa Y cũng không có khả năng đáp ứng mau lẹ với những dấu hiệu, những sự chỉ dẫn xuất phát từ Cơi trên đưa xuống. Có thể nói Y cần phải được dẫn dắt mạnh mẽ đúng theo đường lối chánh, chỉ một cử động nhẹ của bàn tay là đủ rồi và thiếu điều kiện nầy, sự huấn luyện Y sẽ làm cho Chơn Sư  nhọc ḷng nhiều hơn.

            Con người cũng phải có vài khái niệm về Thiên Cơ bởi v́ công nghiệp nầy rất vẻ vang và muốn hoàn thành nó, sự hiểu biết rất cần thiết. V́ vậy phải cố gắng mở mang trí thức mới đạt được kết quả đó. Trong lúc hoạt động, chúng ta thâu thập được nhiều sự hiểu biết, nhưng chúng ta có đủ lư do để lợi dụng những kinh nghiệm chung của các bậc tiền bối chúng ta, và do sự nghiên cứu, chúng ta học hỏi thêm đầy đủ chừng nào càng tốt chừng nấy hầu mau kiện toàn công việc chúng ta.

            Những tật xấu của con người trở thành những nấc thang, từ cái nầy đến cái kia, khi mà con người chế ngự được chúng. Những đức tánh của con người, tự chúng nó cũng là những nấc thang cần thiết mà con người không sao bỏ qua được. Tuy nhiên, dù những nấc thang đó tạo nên một bầu không khí thuận tiện và một tương lai phúc hậu, nhưng nếu chỉ có những tánh tốt thôi, chúng nó cũng không ích ǵ cả.

            A.B.- Ở đây tật xấu cũng như tánh tốt đều được gọi là những nấc thang. Sự đồng hóa nầy đối với Sinh Viên không có ǵ phương hại. C̣n đối với Đệ Tử nó rất cần thiết, nhưng ở Thế Gian tốt hơn là chấp nhận một ư nghĩa thu hẹp, bởi v́ đối với những người chưa tiến hóa, tật xấu không có nghĩa ǵ khác hơn là tật xấu và tánh tốt là tánh tốt. Sự đồng hóa làm xáo trộn những quan niệm về luân lư của họ. Họ không thể áp dụng những nguyên tắc như họ đă thông thạo vấn đề và họ chỉ thấy cái giá trị đạo đức của sự hành động mà thôi. V́ vậy họ cần có một bảng danh sách những tật xấu nên tránh, những qui tắc đạo đức và xă hội nên theo. Làm xáo trộn ư kiến chung về tật xấu và tánh tốt là một sự sai lầm, mặc dầu ư kiến ấy cho phép thực hiện nhiều việc mà người Đệ Tử không biết đến.

            Trái lại, những Sinh Viên Huyền Bí Học phải biết rằng những người nầy, những người kia là những biểu hiện của Thượng Đế. Cách thức xem xét vấn đề là coi mỗi Linh Hồn như là một Đấng Thần Linh, một tâm điểm của nhiều ly tâm lực rải rác khắp Thế Gian. Đời sống của con người phải là sự biểu lộ của Atma và nó sẽ gặp sự biểu lộ của Atma ở ngoài đời. Trong những giai đoạn đầu tiên của sự tiến hóa của nó, không có ǵ có thể gọi là tật xấu hay là tánh tốt cả, đó chỉ là một luồng Thần Lực biểu lộ nhiều cách khác nhau mà những luật lệ của xă hội hiện đại của chúng ta không thừa nhận. Và từ khi khởi sự chuyển kiếp làm người, chắc chắn phần đông trong chúng ta, đặc biệt là những ai có cá tánh hồi c̣n ở trong những loại thú cao nhứt có thể đă sử dụng trí tuệ của họ tới một điểm nào đó và do vậy họ học được nhiều điều khi họ nh́n xem chung quanh họ. Tuy nhiên trên thực tế, tất cả chúng ta trong giai đoạn đầu tiên đều có phạm những điều mà ngày nay người ta cho là những hành vi xấu xa. Những kinh nghiệm này dạy chúng ta phải hành động khôn khéo hơn, v́ vậy chúng là những nấc thang hay là những phương tiện để tiến hóa; ngoài ra chúng c̣n giúp ta hiểu biết và giúp đỡ kẻ khác mà giờ đây họ đang thực hiện những sự kinh nghiệm tương tự. Tất cả những thứ kinh nghiệm đều cần thiết như nhau. Khó cho ta nhận thức được chúng, dù là từng phần riêng rẽ, nếu không nhờ đến mọi cách thức biểu hiện. Không bao giờ chúng ta có thể giúp đỡ được đồng loại khi mà chúng ta không hiểu biết họ. Có thể xưa kia chúng ta là những kẻ sát nhân, hay những người say rượu, nếu đó là kinh nghiệm đặc biệt của chúng ta và hiện giờ chúng ta thấy đó là điều quấy, ấy tại v́ vô minh mà chúng ta đă có những hành động như thế nên chúng mới đem sự đau khổ đến cho chúng ta. Về sau, chúng ta biết rằng chúng cản trở sự tiến hóa của ḿnh, chúng là tật xấu, nhưng nếu chưa có một vài mức độ kinh nghiệm nào, chúng ta chưa biết hành động đó là xấu đâu. Không có lời khuyên nhủ nào khả dĩ cho ta những sự hiểu biết đúng đắn, những sự hiểu biết nầy chỉ là những kết quả của sự kinh nghiệm mà thôi. Sau khi học xong bài học của chúng ta ở một điều nào đó rồi, dù cho sức cám dỗ mănh liệt thế mấy chúng ta cũng không hề phạm vào lỗi đó nữa đâu. Huynh không bao giờ được an toàn nếu Huynh c̣n có thể bị sa ngă. Phải biết điều nầy một cách có ư thức. Ấy là khái niệm khuôn mẫu, ấy là kinh nghiệm căn bản cần thiết cho Huynh nếu Huynh muốn được an toàn và có đủ khả năng phụng sự.

            C.W.L.- Cũng ở đây Đức Đế Quân nhắc nhở chúng ta rằng mục đích của sự huấn luyện huyền bí không phải chỉ làm cho con người có đức hạnh mà c̣n trở thành những mănh lực Thiêng Liêng lớn lao có thể hợp tác một cách khôn ngoan với Đức Thượng Đế.

            Đức hạnh cao quí là một điều cần thiết trước nhứt, nhưng một ḿnh nó, cũng không ích lợi ǵ. Bước đầu tiên của sự tiến hóa và trong những giai đoạn sơ khai của nó, con người chưa có ư niệm về Thiện và Ác, v́ vậy mà người ta không thể gán cho họ có tánh tốt hay là có tật xấu. Người dă man, thật ra là một ly tâm lực theo loại vô trách nhiệm mà chúng ta thường gặp trong những loài hạ đẳng. Một con ruồi có một thân h́nh nhỏ xíu, nhưng sánh với thân h́nh của nó, nó phát ra một tinh lực kinh khủng. Tỷ dụ một sinh vật bằng chúng ta có một tinh lực to lớn tương xứng với thân ḿnh mà nó không biết ǵ hơn con ruồi về sự tác dụng tinh lực của nó, th́ đó là một sinh vật hung bạo, đáng sợ, một tai họa cho những người chung quanh.

            Một người dă man có một tinh lực tương tự, biểu hiện bằng những trận giặc, những sự tham lam đủ thứ, dĩ nhiên đối với quan điểm của chúng ta đó là những tật xấu mặc dầu rất khó mà xem mấy điều đó như là những tật xấu. Ở nơi họ không có thú vui vô đạo và bỉ ổi nào hơn để thúc đẩy họ đến cuộc chém giết như chuyện thường xảy ra ở những người thuộc về giống dân văn minh. Chắc chắn họ cảm thấy một thứ kiêu hănh chiến thắng được đồng loại và tàn sát chúng, như thế đó họ phải tiêu hao một số tinh lực lớn lao mà trong nhiều ngàn năm sau mới tập trung lại một cách hữu ích được.

            Họ phải tập điều khiển tinh lực ấy, để nó xuyên qua ḿnh mà chính họ hay kẻ khác không v́ đó chịu khổ. Nhưng đây là một vấn đề kỷ luật và phát triển dài lâu, và cũng là vấn đề do Chơn Nhơn chế ngự các thể của ḿnh.

            Ở một tŕnh độ cao hơn nhiều, đối với một người có sẵn một quyền lực rộng hơn th́ cũng thế; thí dụ một nhà triệu phú người Mỹ xưa kia có thu hoạch một gia tài lớn lao bằng cách làm cho đồng loại họ tán gia bại sản. Họ hành động một cách thậm tệ, xấu xa để đạt cho được những năng lực ghê gớm về sự tập trung tư tưởng và sự chỉ huy.

            Trong t́nh trạng nầy, họ tập sử dụng năng lực ấy và điều khiển con người, có lẽ trong một kiếp khác, họ sẽ trở nên một vị tướng lănh. Khởi đầu họ dùng quyền lực như nhà độc tài Nă Phá Luân để thỏa măn danh vọng cá nhân, cho ḷng tham muốn của họ. Về sau họ tập cách sử dụng năng lực ấy vào việc phụng sự nhân loại. V́ vậy, chắc chắn những tật xấu của con người là những nấc thang đưa lên đến chỗ cao hơn và tốt đẹp hơn. Tóm lại, muốn tiến qua từ tật xấu đến tánh tốt, phải tập trấn áp tinh lực của ta và đưa nó vào chiều hướng tốt đẹp. Sự thay đổi tật xấu ra tánh tốt, bắt đầu từ ngày chúng ta nhận biết rằng tinh lực phung phí như thế đă gây nhiều đau khổ th́ cũng có thể sinh ra những hậu quả tốt. Mỗi khi một tật xấu bị loại trừ, nó biến đổi thành một tánh tốt đối lập và v́ thế nó trở thành một nấc thang thật sự giúp ta tiến tới trong sự phát triển của ta.

            Kẻ nào muốn bước vào đường Đạo phải biết lợi dụng một cách khôn ngoan tất cả bản tánh của con người.

            A.B. - Ở đây con đường Đạo có nghĩa là đời sống thiêng liêng theo nghĩa chính của nó. Con người là một sinh vật Thiêng Liêng, đời sống Thiêng Liêng mới là đời sống thật của nó. Muốn theo con đường nầy, nó phải tận dụng tất cả năng lực, tất cả sức mạnh, tất cả con người của nó. Cái điều mà con người c̣n ở trong trạng thái tiềm thế, chưa hiện ra th́ sẽ trở thành thực tế, đây có nghĩa là trở thành một biểu hiện của Đức Thượng Đế. Tới một giai đoạn, vị Đệ Tử được nghe nói: Ngươi là đường Đạo. Từ trước đến giờ Y gọi Chơn Sư là con đường Đạo của Y. Y thấy Ngài là sự biểu hiện của Đức Thượng Đế, nhưng khi  trong tâm Y biểu hiện được Đức Thượng Đế th́ chính Y trở thành con đường Đạo và càng tiến tới , Y càng thành Đạo. V́ vậy tất cả bản tánh của con người phải được lợi dụng một cách khôn ngoan, kế đó, Điểm Linh Quang, nhờ khí cụ của ḿnh tạo thành, có thể phô bày những năng lực tiềm tàng của ḿnh vào đời sống linh động và thiết thực.

            Danh từ Điểm Linh Quang không phải dùng như một h́nh ảnh nên thơ thông thường đâu. Nó chứa đựng một Chơn Lư mà ta không thể nào được phép quên và cũng không thể diễn tả bằng những danh từ nào khác. Người ta cũng gặp ư tưởng nầy trong quyển Cương Yếu (Catéchisme) được kể ra trong bộ Giáo Lư Bí Truyền (La Doctrine Secrète): Vị Đạo Sư hỏi môn đệ ḿnh rằng: Con thấy ǵ? Và vị Đệ Tử thấy vô số tia sáng dường như mỗi cái đứng biệt lập một ḿnh. Đối với kẻ vô minh th́ đúng vậy, nhưng dưới mắt của vị Thánh Nhân những tia sáng ấy hợp thành một ngọn lửa duy nhất. Một tia sáng với tư cách là trung tâm của Tâm Thức là một điểm rộng lớn mênh mông, không thể tách rời ra được. Thật ra, tất cả trung tâm đều là một, v́ chỉ có một viên thể cuối cùng, một vũ trụ duy nhất, nhưng mà dưới Cơi Niết Bàn, lẽ mầu nhiệm của trạng thái đơn nhất không làm sao hiểu nổi. Ở dưới các Cơi thấp, không thể nào diễn tả được. Mọi sự thử phô diễn nó bằng những biểu tượng cũng vẫn c̣n là bất toàn.

            Điểm Linh Quang là Chơn Thần mà ba Ngôi là h́nh ảnh của nó trên Cơi Niết Bàn. Tại đây Tinh Thần Atma phân làm ba Ngôi, nó phóng một trong những quyền lực của nó xuống Cơi Bồ Đề, và một quyền lực khác xuống Cơi Thượng Giới. Chơn Thần có những tiềm lực của Đức Thượng Đế mà trong buổi đầu tiên nó không bao giờ biểu lộ được.

            Atma đi xuống dưới hiện ra làm Manas là nguyên lư tạo ra cá nhân, ấy là năng lực sinh sản Bản ngă, do đó sinh ra Cá tánh trong thời gian, tương phản với Vô Thủy Vô Chung. Nó bao ḿnh bằng một lớp vật chất hầu biểu hiện ở cơi Thượng Thiên và như thế tạo ra một vận cụ là Nhân Thể (Corps causal). Nhân Thể sống trải qua suốt những kiếp luân hồi của con người. Ấy là cái thể cấu tạo với niềm đau khổ, nhờ đó con người tự nguyện theo đuổi sự phát triển của ḿnh.

            Huynh hăy quan niệm rằng Atma đi xuống ban rải thần lực ở Cơi thứ ba (bắt từ trên đi xuống) nghĩa là Cơi Thượng Giới (Cơi Trí Tuệ). Nó bao ḿnh bằng một lớp vật chất tức là chất khí cao nhất [39] của Cơi nầy và tạo thành Nhân Thể, là vận cụ của nó dùng từ đây để biểu hiện trạng thái trí huệ của nó tại Cơi nầy. Nó là Ngôi thứ Ba Manas mượn Nhân Thể (Thượng Trí) khi nhập thế để đi đầu thai; Manas phân ra làm hai. Nó xuống những cảnh giới thấp của Cơi Trí Tuệ và tạo thành nơi đây một vận cụ gọi là Hạ Trí. Tới phiên nó, Hạ Trí tạo thành thể Vía, và Thể Vía đến lượt nó dùng tinh lực làm ra Thể Phách  và Thể Xác.

            Trên Cơi của nó, mỗi thể là một phương tiện để thu hoạch kinh nghiệm và kinh nghiệm nầy được truyền lại cho chủ nhân sanh hóa nó, nếu bản tánh nó làm được việc nầy. Như thế, khi con người ĺa bỏ trần gian, Hạ Trí chuyển đạt lên Nhân Thể mọi kinh nghiệm đă thu hoạch rồi th́ Phàm Nhơn tan ră. Nhân Thể lưu trữ những kinh nghiệm khác nhau thuận lợi cho cuộc trưởng thành của nó và giữ măi chúng trong suốt thời gian của những kiếp tái sanh của nó sau nầy.

            Phần khác, Nhân Thể liên lạc với cái ǵ ở trên nó. Về phương diện nội tâm hay là phương diện cao hơn, từ vận cụ nầy tinh hoa của tất cả những sự kinh nghiệm của Nhân Thể đều chuyển đạt lên Manas, Ngôi Ba của Atma, như thế điều ǵ mà trạng thái Trí Tuệ của Atma thâu nhận được khiến nó đủ khả năng hoạt động khỏi cần đến Nhân Thể, nghĩa là không cần có vận cụ mà cũng không có giới hạn nào cả.

            Quen thuộc với những sự kiện trên, học giả sẽ nhận thấy rằng những lời lẽ trên đây giải thích cái chết của Cá Tánh. Vả lại, ư niệm này vẫn gặp trong những kinh sách Ấn Giáo và Phật Giáo. Nhân Thể tiêu biểu cho Cá tánh, nó sống măi suốt chu kỳ của những kiếp luân hồi. Tạo ra trong một lúc, nó cũng phải bị hủy diệt trong một lúc khác. Đă có sanh tất  phải có tử. Theo thành ngữ của Thánh kinh Gita Cái chết chắc chắn sẽ đến cho kẻ nào đă sanh ra.[40] Điều nầy thật đúng, chẳng những ở ngoại giới mà cũng trong ư nghĩa rộng hơn, Nhân Thể đă sanh ra tất phải bị hủy diệt. Chính nó là nơi trú ẩn mà Điểm Linh Quang đă kiến tạo với nhiều công lao khó nhọc. Chính nó là Cái Tôi của vị Đệ Tử. Ở những người khác, Cái Tôi c̣n ở dưới thấp hơn nữa trong Phàm Nhơn, nhưng Cái Tôi mà chúng ta vừa nói đến chúng ta phải tiến tới nó khi bước vào đường Đạo; [41] cuối cùng chúng ta phải vượt qua khỏi nó khi giai đoạn phát triển của Atma đă chấm dứt; ấy là lúc được giải thoát thật sự.[42] Từ đây đến đó nó thu hẹp lại và bản chất của nó thay đổi dần dần theo sự trưởng thành của vị La Hán. Đến một ngày kia, người ta nhận biết rằng họ là Cái Tôi bất toàn chớ không phải là Cái Tôi chân thật, nhưng trong thời kỳ hiện hữu của sự tiến hóa Nhân Loại, tất cả sự ướm thử để miêu tả nó chỉ làm sai lạc ư những ư ni&#