Annie besant và c.W. Leadbeater

Dịch giả: BẠCH  LIÊN và HUYỀN CHÂU

GIẢNG  
ÁNH  SÁNG  TRÊN  ĐƯỜNG  ĐẠO

(TALKS  ON  THE  PATH  OF  OCCULTISM
- LIGHT  ON  THE  PATH)

 

 

Nhóm Hội Viên Thông Thiên Học Hải Ngoại

hiệu đính và xuất bản tại Hoa Kỳ.

 

2005


 

MỤC LỤC.. i

VÀI  LỜI  NÓI  ĐẦU.. 1

PHẦN THỨ NHẤT.. 6

CHƯƠNG   1  LỜI  MỞ  ĐẦU.. 6

CHƯƠNG   2  BỐN CÂU CÁCH NGÔN MỞ ĐẦU.. 18

CHƯƠNG   3  QUI TẮC THỨ NHỨT.. 36

CHƯƠNG   4  QUI TẮC  2 – 4. 68

CHƯƠNG   5  QUI TẮC  5 – 8. 92

CHƯƠNG   6  QUI TẮC  9 - 12. 119

CHƯƠNG   7  QUI TẮC  13 – 16. 127

CHƯƠNG   8  QUI TẮC  17 – 19. 145

CHƯƠNG   9  QUI TẮC  20. 159

CHƯƠNG   10  CHÚ GIẢI QUI TẮC  20. 185

CHƯƠNG   11  QUI TẮC  21. 201

PHẦN THỨ HAI 232

CHƯƠNG   1  LỜI GIẢNG LƯ MỞ ĐẦU.. 232

CHƯƠNG   2  QUI TẮC 1 – 4. 254

CHƯƠNG   3  QUI  TẮC  5 – 8. 266

CHƯƠNG   4  QUI TẮC 9 – 12. 291

CHƯƠNG   5  QUI TẮC 13. 322

CHƯƠNG   6  QUI TẮC 14 – 21. 335

CHÂN  THÀNH  TRI  ÂN.. 352

 


VÀI  LỜI  NÓI  ĐẦU

 

            Như tôi đă  nói trong quyển “Tôi Học Dưới Chân Thầy,” hiện giờ khắp hoàn cầu có ba quyển sách Đạo Đức, khuôn khổ tuy nhỏ nhưng giá trị cực kỳ lớn lao, không cuốn nào b́ kịp, chẳng phải v́ câu văn như gấm thêu hoa, hay là ư nghĩa thâm trầm của câu chuyện, mục đích chính là chúng dắt con người từ Cửa Tử đến Cơi Trường Sanh Bất Tử, trở thành một vị Siêu Phàm thoát khỏi đọa Luân Hồi. Nói cách khác là con người đạt được mục đích đă định sẵn cho nhân loại trong Thái Dương Hệ này. Ba quyển đó là:

            1.- Dưới Chân Thầy.

            2.- Tiếng Nói Vô Thinh.

            3.- Ánh Sáng Trên Đường Đạo.

            Quyển “Dưới Chân Thầy” dắt Sinh Viên tới bực Điểm Đạo lần thứ Nhứt. Phật Giáo gọi là Tu Đà Huờn (Sotapanna), sau khi trải qua ba giai đoạn Đệ Tử: Đệ Tử Nhập Môn, Đệ Tử Chính Thức và Con của Thầy.

            Quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” dắt Sinh Viên đến bực La Hán (Arhat) được bốn lần Điểm Đạo.

            C̣n quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” dắt Sinh Viên tới bực Tam Thanh: Trở thành một vị Bàn Cổ (Manu), hoặc một vị Bồ Tát (Bodhisattva), hay là một vị Văn Minh Đại Đế (Maha Chohan) được bảy lần Điểm Đạo.

            Thế nên quyển “Dưới Chân Thầy” dễ hơn hết, c̣n quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” khó hơn hết, v́ mỗi câu có bảy nghĩa, thấp  cao tùy theo bực.

            Hai vị Cao Đồ của Chơn Sư là Đại Đức A. Besant và Leadbeater có giảng lư ba quyển này để hướng dẫn các bạn tu hành mau bước tới cửa Đạo.

            Xét v́ quyển “Giảng Lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo” rất hữu ích cho tất cả các bạn tu hành, nhứt là những bạn  chí nguyện làm Đệ Tử, nên Huynh Huyền Châu và tôi hiệp nhau lại dịch bản văn chữ Pháp “Commentaires sur la Lumière sur le Sentier” ra tiếng Việt.

            Quyển này với quyển “Giảng Lư Dưới Chân Thầy” bổ túc lẫn nhau. Tuy nhiên, muốn thấy hiệu quả chắc chắn chúng ta cần sửa trị Phàm Nhơn và bắt buộc nó sống đúng theo những lời chỉ bảo trong đó. Phải nhẫn nại, phải bền chí, dù cho bị thất bại  cả trăm lần đi nữa, cũng đừng ngă ḷng, giữa đường bỏ cuộc. Hăy tiếp tục đi tới măi. Chung cuộc chân lư sẽ thắng. Mặt trời sẽ chói sáng rực rỡ như  xưa, sau khi bị mây mù che khuất ánh dương quang trong vài giờ hay là vài hôm chăng nữa.

            Chúng tôi xin quí bạn lưu ư. Chúng tôi chú trọng về việc dịch nghĩa của câu văn, không cố dịch từ chữ này qua chữ kia. Chúng tôi biết rằng cách hành văn của những dân tộc trên địa cầu đều khác nhau. Những sách đạo đức nếu dịch ra tiếng Việt từng chữ, y như nguyên văn tiếng ngoại quốc, sẽ nghe chướng tai và chắc chắn độc giả không hiểu chi cả hay là hiểu một cách mập mờ.

            Học Đạo phải thật tâm Hành Đạo, không thật tâm Hành Đạo không Đắc Đạo. Mà muốn Hành Đạo phải biết Đạo dạy cái chi. Không biết, hay biết một cách mơ hồ mà thực hành sẽ không có kết quả tốt đẹp, sợ e c̣n mang tai họa vào thân. Thế nên chúng tôi hết sức cố gắng t́m hiểu hai Đại Đức A. Besant và Leadbeater muốn dạy điều chi rồi dịch ra. Chúng tôi rất thận trọng chọn lựa những danh từ để dịch, nhưng dù sao cũng c̣n nhiều khuyết điểm cần phải bồi bổ sau này. Chúng tôi rất mừng khi nhận được những lời chỉ giáo. Tới những kỳ xuất bản sau chúng tôi sẽ sửa chữa những chỗ sơ sót; chúng tôi xin cám ơn trước quí bạn. Chúng tôi rất phục thiện v́ biết ḿnh c̣n không biết  bao nhiêu điều cần phải học hỏi. Hơn nữa, cổ nhân đă nói: “Biển giác vô biên,” dù ở dưới Trần Thế chúng ta tài ba lỗi lạc đến đâu, sự hiểu biết của chúng ta cũng chỉ bằng một giọt nước trong Đại Dương. Chúng ta quan sát những hiện tượng, học hỏi chúng nó mà không t́m ra được cái nguyên nhân đă sinh ra chúng nó. Nguyên nhân này vốn ở trên những cơi vô h́nh. Thí dụ như một việc xảy ra trước mắt chúng ta là chuyện một trứng gà, nếu ta đem ấp th́ nở ra gà con. Trong trứng gà ta chỉ thấy tṛng trắng, tṛng vàng (người Việt Nam gọi là tṛng đỏ) và một ṿng trắng ở trên. Tại sao đem ấp ba thứ này lại thành ra một con gà; trống hay mái? Vậy xin hỏi: Cái chi ở trong tṛng đỏ, tṛng trắng và ṿng trắng biến thành ra mồng, mỏ, xương thịt, ruột gan, chân cẳng con gà? Tại sao gà trống có cựa mà gà mái lại không, h́nh vóc của  hai trống, mái đều khác nhau? Cái chi làm ra màu sắc của lông cánh, gà điều khác với gà ô và không giống gà xám. Gà c̣n thụ lănh ít nhiều bản tính của ḍng giống nó nữa, như gà ṇi  đá hay hơn gà tre. Gà ô đạp mái, đẻ trứng đem ấp th́ nở ra gà ô con, gà điều sanh gà điều con, vân vân. Hoàn toàn bí mật. Về phần con người lại càng bí mật hơn nữa. Một tinh trùng và một noăn châu hợp lại thành một người nam hay nữ, diện mạo đẹp đẽ hay xấu  xa, tính t́nh hiền  hậu hay hung ác, khôn ngoan hay đần độn, thông minh  hay dốt nát. V́  lẽ nào? Có tinh trùng đực hay tinh trùng cái không? Tại sao màu da lại khác? Có giống da đen, da đỏ, da trắng, da vàng? Tại sao ngôn ngữ lại bất đồng? Tại sao đứa nhỏ ở nước nào sinh ra, lớn lên biết nói tiếng nước đó và hiểu cha mẹ  nó muốn nói điều chi? Từ bí mật này tới bí mật kia, không biết bao nhiêu mà kể.

            Nói cho đúng, ngày nay chúng ta học hỏi cũng có thể gọi là học lóm, nhưng bất toàn, những điều mà Đấng Hóa Công đă tạo ra cả chục tỷ năm trước. Nếu chỉ dùng Hạ Trí học hỏi một cách gián tiếp những hậu quả và chẳng rơ  những nguyên nhân th́ không biết chúng ta phải trải qua thêm mấy trăm triệu  năm nữa mới đoạt được mục đích đă định sẵn cho con người trong Thái Dương Hệ này, tức là trở nên một vị Siêu Phàm, đắc quả Chơn Tiên, hoàn toàn sáng suốt, không c̣n điều chi học hỏi trên Dăy Địa Cầu  này nữa.

            Muốn tiến mau chúng ta cần phải bước vào cửa Đạo, bởi v́ bên trong Thánh Điện mới có việc dạy dỗ mục đích của sự sanh hóa Thái Dương Hệ này đúng với sự thật và Sinh  Viên cũng học trực tiếp những phương pháp  biến đổi con người thành một vị Chơn Tiên, toàn  năng, toàn thiện, trong ṿng vài chục kiếp, thay v́ theo đường tiến hóa b́nh thường chúng ta phải trải qua mấy chục muôn lần sinh tử, tử sinh dưới Trần Thế cũng chưa chắc chúng ta đi đến bực Toàn Giác.

            Những vị ngự ở trong Thánh Điện là các Đấng Cao Cả, Đồ Tôn của những vị Đại Thánh Đế đă dự  phần vào việc tạo lập Thái Dương Hệ này, Các Ngài không bao giờ lầm lạc. Các Ngài vốn trường sanh bất tử, chớ không phải  như  chúng ta, những kẻ phàm phu tục tử mới sống có vài chục năm mà đă da mồi tóc bạc, trí óc lu mờ. Chính là các Ngài cho mở cửa Đạo để đón tiếp những ai được phép xứng đáng bước vào đó.

            Muốn bước tới cửa Đạo sinh viên  phải hội đủ những điều kiện do Luật Trời qui định, trước nhứt là những đức tính đă kể ra trong bốn quyển: Dưới Chân Thầy, Tiếng Nói Vô Thinh, Ánh Sáng Trên Đường Đạo và Con Đường Của Người Đệ Tử.

            Riêng về quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” hai vị Đại Đức A. Besant và Leadbeater chỉ rơ nếp sống từ những người có lư tưởng và chí nguyện làm Đệ Tử cho tới bực La Hán được bốn lần Điểm Đạo. Tôi vẫn biết đối với những điều kiện sinh sống hiện thời, việc luyện tập để Tự Giác và mưu hạnh phúc cho quần sinh là một điều cực kỳ khó khăn, bởi v́ Sinh Viên sẽ gặp không biết bao nhiêu chướng ngại dựng lên ở mỗi chặng đường. Nếu không vượt qua nổi chúng ta sẽ không tiến tới được. Thế nên hai vị Đại Đức giảng lư từ đoạn rất tỉ mỉ cốt ư d́u dắt Sinh Viên từng bước một. Ai có chút kinh  nghiệm về Đường Đạo mới thấy những lời giáo huấn này quí hơn vàng bạc và châu báu, bởi v́ những của cải vật chất vốn phù du, mộng ảo, dùng được lâu lắm bất quá là một đời mà thôi, ta thấy chúng nó ở đó rồi mất đó. Sợ e, chưa nhắm mắt từ giă Cơi Trần, chúng đă qua tay người khác.

            Trong quyển Giảng Lư này, tôi thấy có đoạn hai Ngài phải lặp đi, lặp lại giúp cho Sinh Viên hiểu và nhớ rồi đem ra thực hành; nhứt là ở Phần Nh́  để riêng cho những vị đă được Điểm Đạo lần thứ nhứt. V́ thế phần này rất khó cho những ai chưa biết tự  tỉnh, chưa biết tu tâm luyện tính, chỉ mến Đạo mà chưa hành Đạo. Gặp những đoạn dường như trùng hợp xin quí bạn chớ thắc mắc. Tôi có thêm những chú giải để giúp quí bạn chưa quen  với  Thông Thiên Học có thể hiểu được những danh từ chuyên môn để hành Đạo theo Thiên Cơ.

            Tôi tưởng cũng nên biết thêm điều này, thường thường hai Ngài trả lời miệng những câu hỏi, thính giả viết bằng tốc kư, sau đó họ chép lại. Trong những lần diễn thuyết cũng vậy. Có nhiều bài diễn văn chép lại, hai Ngài không có th́ giờ xem lại, v́ hai Ngài rất bận rộn. Việc này vừa thi hành xong th́ có việc khác tới. Hai Ngài dùng con đường hành động Karma Yoga để giúp đời. Về quyển “Giảng Lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo” này, cũng như hai quyển Giảng Lư kia: “Giảng Lư Dưới Chân Thầy và Giảng Lư Tiếng Nói Vô Thinh” chúng tôi tưởng nên  đọc đi, đọc lại, không phải hai, ba bận, mà hai chục, ba chục lần. Mỗi lần đọc, mỗi lần một ánh sáng mới hiện ra, độc giả thành tâm mộ Đạo sẽ hiểu hơn trước. Tôi dám quả quyết điều này không bao giờ sai.

            Các vị Cao Đồ của Chơn Sư đă bước vào cửa Đạo từ lâu và có nhiều kinh nghiệm hằng cầu chúc các bạn tu hành  mau Đắc Đạo thành Chánh Quả để cứu vớt quần sinh ra khỏi chốn trầm luân khổ hải. Lời cầu chúc này rất cao quí. Mong rằng chúng ta đừng phụ ḷng các Ngài. Chúng ta cứ vững ḷng tiến tới, không lơ đễnh, không thờ ơ mà cũng không vội vàng, hấp tấp, cứ  nỗ lực ra tay phá vỡ những xiềng xích trói buộc con người vào bánh xe Luân Hồi. Luôn luôn từ kiếp này qua kiếp kia chúng ta  phải tuân theo lời của Đức Phật dạy:

            Lánh dữ.

            Làm lành.

            Rửa ḷng cho trong sạch.

            Tới một ngày kia, không biết chắc là bao nhiêu năm hay là bao nhiêu kiếp, khi đúng ngày giờ Cửa Đạo sẽ mở rộng rước ta vào. Đây là Luật Nhân Quả: Gieo giống chi gặt giống nấy, không có chi gọi là thiên vị hay là bất công. Cổ nhân đă nói:   “Chí công mài sắt, chầy ngày nên kim.”

            Cầu xin quí bạn thân tâm an lạc.

Lành  thay!  Lành thay!

 

BẠCH-LIÊN

 

PHẠM NGỌC ĐA

CHƯƠNG   1

LỜI  MỞ  ĐẦU

(Introduction)

 

           

            A.B.- “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” thuộc về một bộ sách Huyền Bí Học, do các Đấng Chơn Sư lưu giữ và dùng để đào tạo Đệ Tử.

            Ấy là một đoạn trích trong quyển “Kim Huấn Thư” (The Book of the Golden Precepts) gồm nhiều quyển viết trong những thời đại khác nhau của lịch sử thế giới chúng ta, nhưng cả thảy đều phô bày một đặc điểm chung, là chứa đựng Chân Lư Huyền Môn. V́ vậy, chúng ta cần khảo cứu  nó khác hơn loại sách thường.

            Sự hiểu biết chúng tùy thuộc tŕnh độ của độc giả. Khi một trong những quyển sách  này được phép tiết lộ cho đời  biết, sự giải thích theo nghĩa từng chữ chỉ làm cho người ta đánh giá sai lầm giáo lư của nó.

            Bởi sách này chỉ dành riêng để thúc đẩy sự tiến hóa của những người đă bước vào Đường Đạo nên nó tŕnh  bày một thứ lư tưởng mà trong thế tục ít ai   sẵn sàng chấp nhận.

            Muốn đủ năng lực lănh hội nó, con người phải dám cả quyết và có chí nguyện đem áp dụng những lời giáo huấn trong đời sống, bằng không, những trang sách  này sẽ bị niêm kín lại.

            Độc giả rán hết sức ăn ở theo đó, ánh sáng sẽ hiện ra, nếu anh thờ ơ chẳng những sự đọc sách chỉ đem lại cho anh một lợi ích bé nhỏ mà anh c̣n công kích quyển sách và chê là vô ích  nữa.

            Sách này chia ra vài Chương Mục tự nhiên, Đức Chơn Sư Hilarion, một trong những vị  Giáo Chủ, nhân viên của Quần Tiên Hội đă đem nó hiến ra cho Thế Giới Tây Phương. Ngài đă giữ một vai tuồng quan trọng trong cuộc hoạt động của Phái Tri Thức Linh Thánh [1] và Tân Triết Học Platon và cũng là một trong những bậc vĩ nhân đă cố gắng bảo tồn Thiên Chúa Giáo. Ngài đă đầu thai nhiều lần, nhứt là ở Hy Lạp và La Mă, và đặc biệt chăm nom việc điều khiển cơ tiến hóa của các quốc gia Tây  Phương. Trước kia, Ngài đă tiếp nhận quyển sách này, y như hiện giờ chúng ta có đây, không có lời chú thích của Đức Chơn Sư Venetian, Đức Venetian là một trong những vị Đại Giáo Chủ mà  Đức Bà Blavatsky gọi là Đức Đế Quân.

            15 qui tắc ngắn ở phần thứ nhứt và 15 qui tắc trong phần thứ nh́ đă có từ ngàn xưa. Chúng được viết bằng một thứ cổ tự Bắc Phạn. Đức Đế Quân Venetian  thêm vô những câu khác trong những câu cách ngôn ngắn dùng làm nền tảng cho sự  huấn luyện Đệ Tử mà ngày nay thuộc về thành phần sách này và phải đọc luôn với 30 qui tắc hầu góp thêm những tư tưởng bổ sung, nếu không, độc giả có thể hiểu lầm.

            Trừ ra 30 câu cách  ngôn ngắn, tất cả những qui tắc chứa đựng trong hai đoạn sách đều do Đức Đế Quân Venetian đă viết ra và trao cho Đức Chơn Sư Hilarion.

            Bản dưới đây tŕnh bày 15 qui tắc ngắn của Phần Thứ  Nhứt y như trong bản thảo cổ viết tay, con số đứng trước mỗi câu là số chính, con số sau là số ghi  trong sách hiện hữu.

 

 

 

I

II

III

 

Hăy tiêu diệt ḷng tham vọng. 

Hăy tiêu diệt ḷng tham sống. 

Hăy tiêu diệt ḷng ham muốn sự tiện nghi.

 

1

 2

 3

IV

V

VI

Hăy hoàn toàn tiêu diệt tâm chia rẽ.

Hăy tiêu diệt ư niệm cảm giác.

Hăy tiêu diệt ḷng khao khát tăng trưởng.   

5

 6

 7

VII

VIII

IX

Chỉ nên ham muốn cái chi  ở nơi con.

Chỉ nên ham muốn cái chi ở ngoài con.

Chỉ nên ham muốn cái chi không thể đạt được.   

9

10

11

X

XI

XII

Hăy ham muốn quyền năng một cách hăng hái.

Hăy ham muốn s yên tịnh một cách nhiệt thành.

Hăy ham muốn nhng s hu trên tất cả mọi vật.

13

14

15

XIII

XIV

XV

 

Hăy tầm  Đạo.

Hăy tầm  Đạo bng phương pháp  đi sâu vào nội tâm.

Hăy tầm  Đạo bng phương pháp can đảm tiến ra ngoài.

17

18

19

 

            Trong bản trên đây (chỉ căn cứ vào phần thứ nhứt của sách) không ghi qui tắc 4, 8, 12,16, 20 và 21. Lư do là những qui tắc này không thuộc về phần cổ kính của sách. Cũng như những lời giảng lư đầu tiên và cuối cùng, những qui tắc này là phần bổ  sung của Đức Đế Quân Venetian đă giao lại cho Đức Chơn Sư Hilarion, cũng có vài câu chú thích do chính Đức Chơn Sư Hilarion viết ra.

            Trong kỳ xuất bản lần thứ nhứt (1885) sách chia ra làm ba phần:

            1- Những câu cách ngôn của nguyên bản xưa.

            2- Phần bổ sung của Đức Đế Quân Venetian.

            3- Lời chú thích của Đức Chơn Sư Hilarion.     

            Cả thảy đều do Bà Mabel Collins được sử dụng làm một khí cụ Phàm Trần để ghi chép lại. Đức Chơn Sư chính Ngài dịch sách ấy và chuyển vào bộ óc xác thịt của Bà là người đứng làm trung gian và bàn tay cầm cây viết, là bàn tay của Ngài.

            Về sau, tạp chí Lucifer có đăng vài bài Tựa đề “Những Giảng Lư” do Bà Mabel Collins viết ra dưới ảnh hưởng của Đức Chơn Sư.

            Những bài này rất quí giá, đáng cho chúng ta đọc và học  hỏi.

            Giờ đây, mở quyển sách ra, chúng ta gặp trước hết lời tuyên bố này:

            Những qui tắc này viết ra cho tất cả các Đệ Tử : Hăy tuân hành.

            Ở đây, xác định sự phân biệt giữa những người thế tục và Đệ Tử, xét một cách tổng quát, sách này không phải viết để cho người thế tục dùng.

            Danh từ Đệ Tử gồm hai nghĩa: Người chưa được Điểm Đạo và người đă được Điểm Đạo. Đọc cẩn thận, ta t́m thấy có hai lời dạy phân  biệt dùng trong một danh từ. Mỗi câu có hai nghĩa: Một để cho những kẻ tiến hóa cao, một để cho những kẻ kém tiến hóa. Chúng ta sẽ cố gắng phân biệt cả hai khi chúng ta đề cập lời tuyên bố mở đầu. Phần Thứ Nh́ dường như chỉ dành riêng cho Đệ Tử đă được Điểm Đạo, c̣n trong Phần Thứ Nhứt, mỗi câu đều có  hai nghĩa.

            Nhiều người c̣n lâu lắm mới được vào hàng Đệ Tử, nên không thể hiểu thấu nổi những qui tắc này. Họ thường hay chỉ trích và trách móc sao nó tŕnh bày một lư tưởng mà con người không thấy có chút ǵ êm dịu, dễ cảm mến. Quả thật, có nhiều trường hợp độc giả đứng trước một lư tưởng quá cao siêu đối với y. Một lư tưởng, dù cao siêu đi nữa, cũng không bổ ích cho ai, nếu nó không thu hút được họ; cho nên, khi giao thiệp với  đời, hăy giữ đúng nguyên tắc thực tiễn nầy là chỉ nên đem tŕnh bày những lư tưởng nào hấp dẫn họ được. Trong những thứ sách như loại này điều nào độc giả hấp thụ được là vừa với tầm hiểu biết của họ, họ sẽ hiểu biết, nếu họ có đủ khả năng ứng đáp với tư tưởng đă diễn tả.

            Những đồ vật hữu h́nh đối với ta có thật là khi nào ta mở những cơ quan đủ sức đáp ứng lại ảnh hưởng của chúng nó. Chính ngay lúc đó, chúng ta bị bao bọc bởi cả trăm thứ rung động mà chúng ta không đủ năng lực cảm biết được.

            Một ngày kia, Ông William Crookes đưa ra một thí dụ rất hay. Ông cố giảng cho ta biết về Điện Học, kiến thức ta c̣n thấp kém lắm, c̣n khả năng tiến bộ mới mẻ của Khoa Điện Học thật là lớn lao. Ông nói: “Nếu, thay v́ mắt ta nhạy cảm với sự rung động của ánh sáng, chúng ta lại có  những cơ quan ứng đáp lại với sự rung động của điện khí th́ tư tưởng của ta đối với cuộc đời sẽ thay đổi đến thế nào?” Sự khác biệt đối với chúng ta lớn biết là bao nhiêu.

            Trong một bầu không khí khô ráo, ta không biết chi  cả, v́ không khí khô ráo không dẫn điện. Căn nhà bằng kiếng sẽ mờ đục, nhưng căn nhà thường lại trong suốt. Một sợi chỉ bạc sẽ giống như một cái lỗ, hoặc con đường hầm ở không trung. Điều mà ta hiểu biết về thế tục tùy theo cách chúng ta ứng đáp với những sự rung động của nó. Cũng thế đó, nếu ta không ứng đáp được với một Chân Lư th́ Chân Lư ấy đối  với ta không c̣n là Chân Lư. Lại nữa, nếu là sách do  những Nhà Huyền Bí Học viết th́ chỉ có tŕnh độ tiến hóa Tinh Thần của ta mới giúp ta thấu đáo được tư tưởng của họ thôi. Tất cả những phần tư tưởng của họ tinh vi quá, hay cao diệu quá, vượt khỏi sức hiểu biết của ta, kết quả giống như chúng nó không có thật.

            Sách này tưởng thưởng rất nhiều trong sự tham thiền hơn là việc đọc sách một cách nông cạn. Giá trị chính của nó là hướng dẫn ta trong sự tham thiền, hăy chọn một câu và nghiền ngẫm nó, ngưng hẳn mọi hoạt động của Hạ Trí và đánh thức nội tâm trực tiếp với tư tưởng. Khi ta thoát khỏi h́nh ảnh của trí cụ thể, ta có thể thấy ngay Chân Lư. Nhờ tham thiền ta đem vào óc của ta một phần lớn sự hiểu biết Chân Lư do Chơn Nhơn đạt được trên cơi của nó.

            Tuy nhiên, người nào tham thiền mà không chịu đọc hoặc tuân theo lời Thầy chỉ dạy, nếu cứ tin chắc rằng ḿnh được tiến triển trên cơi Tinh Thần th́ cũng chỉ tiến triển một cách chậm chạp thôi. Nhờ cái lợi thêm là vừa đọc, vừa nghe lời giảng dạy, anh sẽ tiến bước mau lẹ. Những bài diễn thuyết hay việc ngồi suy gẫm có thể chuẩn bị cho cái óc để nhờ tham thiền mà mở mang thêm. Nhưng, đối với người chỉ biết nghe lời và đọc sách mà không chịu tham thiền th́ sự tiến bộ hầu như không thể được, những sự tiến bộ sẽ rất chậm chạp. Phải phối hợp cả hai lại. Tham  thiền nhiều, thêm vào một ít bài học khẩu truyền và đọc sách, có thể dắt ta đi thật xa.

            C.W.L.- Bài tựa lần xuất bản đầu tiên của quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” vào năm 1885 có kèm theo lời chỉ dẫn dưới đây:

            Sách nầy viết ra để đáp lại ư muốn của những người không am hiểu Khoa Minh Triết Đông Phương và mong cầu tiếp nhận ảnh hưởng của  nó.

            Tuy nhiên, sách bắt đầu tuyên bố rằng:

            “Những qui tắc nầy viết ra dành để cho tất cả những Đệ Tử.”

            Định nghĩa thứ nh́ chắc chắn đúng hơn, như lịch sử của nó sẽ chứng minh.

            Sách nầy, hiện nay chúng ta có đây, vốn do Đức Chơn Sư Hilarion đọc cho Bà Mabel Collins chép ra. Bà là người có tiếng tăm trong giới Thông Thiên Học, Bà đă một lần duy nhứt hợp tác với Bà Blavatsky xuất bản tạp chí Lucifer. Chính tự tay Đức Chơn Sư Hilarion tiếp nhận sách nầy của Đức Sư Phụ Ngài là một Đấng Cao Cả mà các sinh viên Thông Thiên Học gọi là Đức Venetian. Chính Đức Venetian, chỉ viết có một đoạn trong sách. Sách đă trải qua ba giai đoạn mà chúng ta sẽ lần lượt xem xét tới.

            Ngay như hiện giờ, nó là một quyển sách mỏng, nhưng dưới h́nh thức đầu tiên như ta đă thấy, nó c̣n mỏng hơn nữa. Ấy là một bản thảo viết tay trên những lá Gồi, có từ đời Thượng Cổ, khó mà xác định được hồi nào, trước thời kỳ của Đấng Christ ra đời, người ta đă quên ngày, tháng và tên tác giả và xem  như là nguồn gốc của nó biến mất trong lớp sương mù của thời tiền sử xa xôi.

            Nó gồm có 10 tờ, mỗi tờ có 3 hàng, v́ bản thảo viết bằng lá Gồi, các hàng chữ được viết theo chiều dọc chớ không theo chiều ngang như hiện giờ. Mỗi hàng đủ trọn một câu cách ngôn ngắn, chữ viết là chữ Bắc Phạn rất cổ.

            Đức Chơn Sư Venetian đă dịch những câu cách ngôn Bắc Phạn ấy ra chữ Hy Lạp để cho các Đệ Tử của Ngài tại thành Alexandria dùng, trong số đó có Đức Chơn Sư Hilarion, khi Chơn Sư đầu thai làm Iamblichus. Chẳng những Ngài phiên dịch mà c̣n phụ thêm những lời chú thích mà ta nên cho đi chung với nguyên văn. Thí dụ: nếu chọn 3 câu cách ngôn thứ nhứt, ta sẽ thấy đoạn số 4 kế tiếp là lời giảng lư. Cho nên ta phải đọc:

            Hăy tiêu diệt ḷng tham vọng, nhưng hăy làm việc như những kẻ đầy ḷng tham vọng làm việc.

            Hăy tiêu diệt ḷng tham sống, nhưng hăy kính trọng sự sống như những kẻ đầy ḷng tham sống.

            Hăy tiêu diệt ḷng ham sự tiện nghi, nhưng hăy sung sướng như những kẻ chỉ sống để hưởng lạc thú.

            Cũng thế đó, qui tắc 5, 6 và 7 lập thành một nhóm, kế tiếp qui tắc 8 là lời giảng lư do Đức Đế Quân viết và cứ thế nối tiếp nhau trong nhiều trang.

            Nhóm ba qui tắc nầy tŕnh bày như thế không do sự ngẫu nhiên, ấy là có dụng ư. Khi khảo sát ta nhận thấy luôn luôn có sự liên quan giữa ba qui tắc. V́ thế, ba qui tắc kể trên nhắm vào sự thanh bạch của tâm hồn và sự áp dụng trong đời sống tinh thần. Có thể nói, chúng vạch rơ điều mà con người muốn trở nên và những bổn phận bắt buộc hầu chuẩn bị để hành động.

            Nhóm thứ hai của ba câu cách ngôn (5 tới 8) bảo ta phải tiêu diệt tánh chia rẽ, mọi ư niệm cảm giác, mọi khao khát tăng trưởng. Chúng nêu ra bổn phận con người đối với những kẻ xung quanh ḿnh trên phương diện xă hội. Con người phải nhận thức rằng ḿnh là một với đồng loại. Y cương quyết từ bỏ các sự vui sướng ích kỷ và riêng biệt, tiêu diệt tất cả sự khao khát tăng trưởng cá nhân ḿnh và làm việc cho sự tăng trưởng chung của toàn thể Nhân Loại.

            Trong nhóm ba qui tắc (9 tới 12) chúng ta học điều mà ta phải ham muốn, nghĩa là những điều ở trong tâm ta, ngoài ta và quá sức ta, rơ ràng đó là bổn phận của ta đối với Thượng Ngă (Higher Self).

            Những câu cách  ngôn 13 tới 16 nói về sự ham muốn quyền năng, ham muốn sự an tịnh và ham muốn những sở hữu. Những sự ham muốn nầy cả thảy đều góp phần chuẩn bị cho ta để làm việc trên Đường Đạo.

            Nhóm qui tắc 17 tới 20  bảo kẻ chí nguyện hăy t́m kiếm Đường Đạo.

            Những qui tắc hiện mang số 4, 8, 12 , . . . , là  những lời chú thích và bàn giải rộng ra của Đức Chơn Sư Venetian, hợp với những câu cách ngôn làm thành một quyển sách xuất bản lần đầu tiên vào năm 1885, bởi v́ Đức Chơn Sư Hilarion đă dịch chữ Hy Lạp ra tiếng Anh dưới h́nh thức nầy. Khi sách vừa in xong, Ngài viết thêm một dọc chú thích rất quí giá. Kỳ xuất bản lần thứ nhứt, những lời chú thích nầy in ra trên những tờ riêng biệt, ngoài lề có thoa keo có thể dán vô tờ đầu và tờ chót. Trong những lần xuất bản sau, những lời chú thích được cho in vào đúng chỗ của nó, nhưng bằng loại chữ nhỏ hơn và có in chữ “chú giải” ở phía trước mỗi lời chú giải.

            Phần tiểu luận ngắn và thú vị nói về Nghiệp Quả ở phía sau quyển sách cũng do tay Đức Chơn Sư Venetian viết. Phần nầy cũng có in trong kỳ xuất bản lần thứ nhứt.

            Bản viết tay bằng chữ cổ Bắc Phạn đă dùng làm nền tảng cho quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” cũng được dịch ra bằng chữ Ai Cập. Vả lại, nhiều lời chú thích của Đức Chơn Sư Venetian bắt ta nhớ đến Giáo  Lư Ai Cập hơn là Giáo Lư Ấn Độ. Học giả quen thuộc chút ít với tinh thần của nền văn minh cổ Ai Cập sẽ hiểu sách nầy khá hơn. Điều kiện sinh hoạt của cổ Ai Cập hoàn toàn khác hẳn  hơn hiện nay, đến nỗi bây  giờ ta cũng khó mà cho một ư niệm về nó. Tuy nhiên, nếu ta có thể thấy lại được tinh thần của thời xưa, ta sẽ nhận biết được nhiều sự việc mà hiện giờ ta không biết. Ngày nay, do thói quen chúng ta hay phóng đại sự quan trọng của trí tuệ và thích khoe khoang rằng nền văn minh hiện hữu cao trội hơn nền văn minh cổ thời. Có lẽ chúng ta hơn họ ở một vài điểm, nhưng ở những điểm khác, ta chưa có phần nào bằng họ được. Vả lại, sự so sánh có lẽ không công b́nh, v́ lẽ nền văn minh của ta c̣n rất trẻ trung.

            Trở ngược lại ba thế kỷ về trước trong lịch sử Âu Châu, nhứt là trong lịch sử nước Anh, chúng ta sẽ nhận thấy một t́nh trạng thật kém văn minh. Đem so sánh ba thế kỷ nầy, kể luôn 150 năm tiến bộ về Khoa Học mà vai tuồng thật quan trọng trong thời kỳ văn minh của ta, với bốn ngàn năm gần như không thay đổi của nền văn minh Ai Cập cường thịnh, ta nhận biết liền sự văn minh của ta không có ǵ là quan trọng. Trọn cả nền văn minh bốn ngàn năm ấy có biết bao cơ hội cho họ thực hiện những cuộc thí nghiệm và thu hoạch nhiều thành tích mà ta chưa có. Chúng ta thử cố gắng so sánh với nền văn minh vĩ đại nào đă tiến đến cực điểm là quá đáng, v́ chúng ta mới bắt đầu văn minh mà thôi.

            Giống Dân Phụ thứ Năm của chúng ta hăy c̣n rất xa mức tuyệt đỉnh của sự vinh quang rực rỡ của nó. Chừng nó đi tới mức ấy, nó sẽ nổi bật lên trên tất cả những nền văn minh khác, nhứt là ở vài phương diện. Nó sẽ có đặc tính riêng mà vài đặc tính có thể làm cho ta ít thỏa thích hơn những đặc tính của những nền văn minh trước. Nhưng, tóm lại nó vẫn cứ tiến tới, v́ những Giống Dân nối tiếp nhau ra đời giống như nước triều dâng lên rồi rút xuống.

            Mỗi Giống Dân đến, rồi rút lui và Giống Dân khác tiến tới một chút nữa. Tất cả các Giống Dân ra đời, cùng tiến đến tột độ rồi tàn tạ. Đối với chúng ta, ấy là ngọn thủy triều đương lên, thế nên, trong vài phương diện, chúng ta chưa đi đến cái thế ổn định của vài cuộc văn minh cổ đă biểu lộ. Chúng ta cần phải mở được ḷng vị tha vong kỷ và tin chắc rằng đoàn thể là trọng hệ chớ không phải cá nhân.

            Trong vài nền văn minh đă bị tiêu diệt, con người đă tiến đến cực điểm, mà đối với ta dường như là sự không tưởng, nhưng trái lại ta sẽ mở được nhiều năng lực mà các dân tộc cổ thời chưa có.

            Lúc sơ khởi trong lịch sử La Mă (đă có một thời đại ngắn), theo lời của Macaulay là “không có ai lo cho đảng phái, tất cả đều lo cho Quốc Gia mà thôi.” Đức Pythagoras ngỏ lời với dân chúng tại Taormina rằng: “Quốc Gia tiêu biểu hơn cha mẹ, vợ con,” và mọi người phải luôn luôn sẵn sàng đem tư tưởng, t́nh cảm và ư muốn của ḿnh phục vụ quyền lợi của đoàn thể, cho quốc gia, cho hạnh phúc của mọi người.

            V́ hạnh phúc chung đó, mỗi người phải vui ḷng hy sinh quyền lợi cá nhân ḿnh.  Tại Anh Quốc cũng thế, thời kỳ Nữ Hoàng Elizabeth trị v́ là một thời kỳ của t́nh cảm thống trị, có một phong trào hoạt động ái quốc chân chính.

            Tôi không muốn nói rằng trong xứ cổ Ai Cập và cổ Hy Lạp, hay ở xứ nào khác, mọi người đều có một tấm ḷng vị tha vong kỷ. Nhưng mà những người được giáo dục hoàn toàn đều xét đời về một phương diện rộng răi hơn chúng ta hiện giờ. Họ vẫn nghĩ đến Quốc Gia nhiều hơn là nghĩ đến sự sung sướng hay sự tiến hóa riêng của họ. Rồi cũng sẽ tới phiên chúng ta tiến đến tŕnh độ đó khi ngày giờ đến. Chúng ta sẽ hiểu rơ được những tư tưởng nầy hơn những Giống Dân xưa. Chúng ta sẽ hiểu và cũng sẽ t́m kiếm những sự áp dụng chúng nó mà các bậc tiền nhân chưa được biết.

            Cho nên, nếu ta có thể nh́n lại cái tâm trạng ngày xưa của xứ Ai Cập nầy, ta sẽ hiểu rành rẽ quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo.” Trong khi tham cứu từng Chương, học giả phải hết sức cố gắng có cho kỳ được thái độ trên đây th́ rất tốt, v́ nó sẽ giúp anh đặt ḿnh vào địa vị của những kẻ hồi cổ thời, họ cũng đă chuyên tâm vào công việc tu luyện như ḿnh bây giờ vậy.

            Đó là chuyện dễ dàng cho những người trong chúng ta đă luyện tập để nhớ lại những tiền kiếp của chúng ta. Tôi  c̣n giữ được kỷ niệm của kiếp chót của tôi ở Hy Lạp, nơi đó, tôi đă tham dự những Pháp Môn Huyền Bí Eleusinian, cũng như trong một kiếp khác rất xa xôi, vào thời đại những Đại Pháp Môn Huyền Bí Ai Cập đóng một vai tuồng quan trọng mà vài phế tích hiện c̣n trong Phái Tam Điểm (Freemasonry). Tôi đă học Đạo trong một Tu Viện và đă ghi sâu vào kư ức. Những kỷ niệm ấy giúp tôi khi đọc những trang sách như thế thu thập được nhiều sự hữu ích hơn là nếu tôi đă không chúng nó. Những cảm xúc hay những sự hồi ức thường cho ta có cảm giác như sống lại trong bầu không khí đó, chúng là một hộ lực lớn lao.

            Quyển sách nầy, dù là viết bằng chữ Ai Cập hay chữ Ấn Độ, là một bảo vật hi hữu trong văn học sử Thông Thiên Học, không có quyển sách nào giúp ích cho ta nhiều bằng nó khi chúng ta khảo cứu nó một cách rất cẩn thận và tỉ mỉ. Như chúng tôi đă giải thích, quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” là quyển thứ nhứt trong ba quyển đă chiếm một địa vị duy nhứt trong văn học sử Thông Thiên Học, bởi v́ nó chứa đựng những lời giáo huấn của những Đấng Cao Cả đă đi qua trên Đường Đạo, Các Ngài đă truyền lại cho những ai có ư nguyện bước vào con đường đó.

            Tôi c̣n nhớ lời của Đức Swami T. Subba Row đă nói với chúng tôi một ngày kia rằng:

            “Những câu cách ngôn nầy tŕnh bày nhiều ư nghĩa chồng chất nhau.” Chúng có thể dùng nhiều lần cho nhiều tŕnh độ khác nhau. Trước tiên, chúng hữu ích cho những kẻ có chí nguyện đương theo dơi con đường Nhập Môn. Kế đó, dùng cho những người có một tŕnh độ cao hơn, ấy là những người qua ngưỡng cửa của cuộc Đại Điểm Đạo lần thứ nhứt, đă đặt bước vào con Đường Đạo chánh thức. Sau cùng, khi vị Đệ Tử đă thành một vị Chơn Tiên, người ta lại nói với chúng tôi một lần nữa rằng: “Mấy câu cách  ngôn nầy có một ư nghĩa cao thâm huyền diệu hơn, chúng  có thể dùng để d́u dắt bực Siêu Nhân tiến xa  hơn và cao hơn nữa.” Cho nên, đối với kẻ đọc sách, khi biết nhận thức được hoàn toàn Ư Nghĩa Huyền Bí của sách nầy, nó sẽ dắt chúng ta đi xa hơn tất cả các quyển sách khác.

            Những quyển sách nầy đặc biệt viết ra để thúc đẩy sự tiến hóa của những kẻ đi trên Đường Đạo, chúng tŕnh bày những tư tưởng mà, nói một cách tổng quát, người đời chưa sẵn ḷng chấp nhận. Chính trong những học giả, cũng có người c̣n phân vân về h́nh thức của Giáo Lư. Có một cách duy nhứt t́m hiểu được Giáo Lư là thừa nhận nó và thử đem áp dụng vào đời sống của ta.

            Quyển “Dưới Chân Thầy” đă cảnh cáo chúng ta rằng: “Khen những lời nầy là đúng và tốt đẹp, chưa đủ. Người nào muốn thành công phải làm đúng theo lời chỉ dạy của Chơn Sư, cẩn thận nghe từng tiếng, theo dơi từng dấu nhỏ nhặt.” Những lời đó cũng vẫn đúng với quyển sách nầy. Kẻ nào không chịu khép đời ḿnh để sống trong khuôn khổ của Giáo Lư, luôn luôn chạm trán với những điểm làm cho y bối rối không thể nào thừa nhận chúng nó. Nếu, trái lại, y biết t́m cách đem áp dụng vào đời sống của ḿnh th́ ư nghĩa thật của Giáo Lư có thể khởi sự phát lộ. Tất cả sức cố gắng chân thành để sống theo Giáo Lư đưa đến kết quả là trí ta sáng suốt để thấu triệt được lư sách và đó là cách duy nhứt có thể nhận đúng chân giá trị của  những lời châu ngọc vô giá ấy.

            Những sách thuộc loại nầy chứa đựng nhiều nghĩa khác hơn là nghĩa từng chữ. Cho nên, mỗi người thu thập sự hiểu biết theo những điều ḿnh đạt đến, nghĩa là tùy theo năng lực đồng hóa phần nào của sách và chỉ đạt được phần đó thôi.

            Chỉ đọc sách nầy và khảo cứu  nó cũng chưa đủ, cần phải lấy nó làm đề tài cho sự tham thiền. Hăy lấy những đoạn nào bề ngoài hơi khó hiểu, những câu ẩn nghĩa Bí Mật, Huyền Bí hay mâu thuẫn đem ra suy gẫm và tham thiền. Nhờ đó, nó sẽ giúp bạn hiểu được nhiều hơn, mặc dù thường khi bạn không thể diễn tả được tư tưởng ấy.

            Trong khi tôi đă thử giải thích cho bạn biết cách thức mà tôi khảo sát mấy điểm khác nhau nầy và việc chúng nó đối với tôi, tôi có cảm tưởng rằng tôi không bày tỏ ư kiến một cách đầy đủ. Tôi biết nhiều lúc tôi không sao  t́m được danh từ nào giải thích trọn vẹn tư tưởng của tôi, nếu đem ra nói, tư tưởng ấy trở thành tầm thường, vô vị, tuy nhiên, tôi cảm biết trong ḷng tôi nhiều ư nghĩa cao siêu, có lẽ với Thể Trí của tôi. Mỗi tŕnh độ đều như thế cả. Tất cả những điều chúng  ta có thể nhận thức được bằng Thể Trí, nên thêm vô đó tất cả những điều nào chúng ta chỉ có thể tự hiểu lấy bằng Thượng Trí và Trực Giác.

            Dù chúng tôi có tận tâm tận lực phô diễn, luôn luôn cũng c̣n cái ǵ cao sâu vi diệu cứ tiếp tục đơm hoa trổ nụ trong ḷng chúng tôi.

            Con người là một biểu hiện của Đấng Vô Thủy Vô Chung và ngoài Đấng Vô Thủy Vô Chung ra, không ai có thể giúp chúng ta: Đó là sự thật và đó là Chân Lư mà 3 Vị Tác Giả quyển sách nầy luôn luôn ân cần nhắc nhở chúng ta.


CHƯƠNG   2

BỐN CÂU CÁCH NGÔN MỞ ĐẦU

 

            Trước khi được thấy, mắt phải ráo lệ.

            A.B.- Ấy là câu đầu tiên của bốn câu cách ngôn xác định bốn đức tánh mà kẻ chí nguyện làm Đệ Tử cần phải khai triển trước khi anh được phép bước vào Đường Đạo chánh thức, là năng lực thấy, nghe, nói và sau hết là được phép đứng trước mặt Đức Chơn Sư. Những năng lực ấy giúp ta phụng sự nhân loại đắc lực dưới quyền điều khiển của Ngài. Có 2 giai đoạn theo tŕnh tự:

            1. Chơn Sư cho phép trước.

            2. Người Đệ Tử tận tâm tận lực hiến ḿnh phụng sự cho Nhân Loại.

            Câu cách ngôn nầy cũng như ba câu kế tiếp đều liên quan đến hai  hạng Đệ Tử.

            Thuộc về hạng thứ nhứt là những kẻ đang rảo bước trên đường Nhập Môn, họ tập cởi bỏ tất cả những ǵ, theo chúng ta hiểu, thuộc về Phàm Nhơn. Những lời giáo huấn mở đầu nầy chỉ dẫn họ hiểu biết việc làm trước tiên là phải lo diệt trừ bản ngă (Phàm Nhơn).

            Thuộc về hạng thứ hai là những Đệ Tử đă được Điểm Đạo. Người ta đ̣i hỏi ở hạng nầy nhiều hơn: Họ phải cởi bỏ cá tánh của ḿnh hay là Chơn Nhơn c̣n bị chuyển kiếp luân hồi, hầu khi đi mút Đường Đạo, đời sống của họ phải hoàn toàn đặt dưới sự điều khiển của Chơn Thần. Cho nên, ta sẽ nhận thấy mỗi câu của bốn câu cách ngôn có thể thích dụng hoặc cho Phàm Nhơn, hoặc cho Chơn Nhơn. Sự hiểu biết những câu cách ngôn nầy tùy thuộc cách học giả đem thực hành trong đời sống của ḿnh.

            Ta cần phải chịu khó chú ư và nhớ lại những câu cách ngôn nầy có thể có hai phương diện để hiểu khác nhau. Nếu những lời giáo huấn trên đây được các Đấng Chơn Sư trong Quần Tiên Hội đem ra dạy th́ những vị Tả Đạo Bàng Môn chuyên luyện tà thuật để ám hại người cũng dùng những lời giáo huấn y hệt như thế để dạy Đệ Tử của họ, có khi ta gọi họ là những Anh Em trong Bóng Tối. Có hai cách có thể làm cho mắt có thể ráo lệ. Lư do thúc đẩy kẻ chí nguyện tiến bước chỉ định rơ ràng con đường họ đi theo. Một trong những con đường ấy là con đường của kẻ muốn thành Đệ Tử của Phái Bàng Môn; Y sẽ giải thích câu cách ngôn nầy như một lời dạy nên lănh đạm hoàn toàn đối với sự vui sướng cũng như đối với sự đau khổ. Sự lănh đạm đạt được bằng cách làm cho chai ḷng và tránh né tất cả mọi thiện cảm. Kẻ nào kiếm thế để làm cho mắt ráo lệ bằng cách diệt mất mọi cảm giác sẽ đi đến gần con đường tối tăm của Tả Đạo. Trái lại, người hết ḷng theo Chánh Đạo không được khóc v́ nỗi đau khổ riêng của ḿnh. Không phải v́ bản tánh thấp hèn của họ làm cho họ bị lay động, nhưng v́ họ rất chú trọng đến t́nh cảm của kẻ khác. Chúng ta phải cố gắng tập chịu đựng trước nỗi đau khổ của con người mà không làm tổn hại đến ḿnh.

            Bảng kê khai dưới đây chứng minh sự tương phản của hai con đường:

           

Tả Đạo

Chánh Đạo

 

1. Khép chặt tấm ḷng không một mảy may phiền năo.

 

Mở mang năng lực cảm giác cho đến đỗi ứng đáp với tất cả những sự rung động của kẻ khác.

 

2. Dựng một  bức tường rào bao quanh ḿnh để tránh mọi đau khổ.

 

Phá bỏ hết mọi tường rào ngăn cản không cho ta cảm động trước nỗi niềm đau khổ của kẻ khác.

 

3. Bóp nghẹt đời sống cá nhân của họ.

 

Mở mang đời sống cá nhân của họ. Con người t́m cách ḥa ḿnh trong đời sống của đồng loại.

 

4. Dẫn dắt đến sự chết, sự tiêu diệt, Cơi A -Tỳ, Địa Ngục.

 

Dẫn dắt đến sự sống, sự trường sanh bất tử, Cơi Niết Bàn.

 

            Sự sai biệt cốt yếu giữa hai phương pháp là: Phương pháp thứ nhứt luôn luôn hướng về sự chia rẽ và sau cùng ở trong t́nh trạng bị cô lập tuyệt đối, trái lại phương pháp thứ hai có một mục đích kiên cố về sự đoàn kết và đi đến một t́nh trạng hợp nhứt hoàn toàn.

            Bên Chánh Đạo, kẻ chí nguyện trong khi chung đụng với ngoại giới, phải lần lượt loại trừ tất cả cái chi biểu lộ ra bằng sự đau khổ riêng của ḿnh, và làm lay chuyển con người họ với bao nỗi phiền muộn lo âu. Họ phải đạt đến một tŕnh độ mà mọi sự lo buồn về tư lợi không c̣n nữa. Hẳn nhiên, họ phải từ bỏ tất cả lối sống cá nhân riêng biệt tự do để làm thế nào cho Thể T́nh Cảm (Thể Vía) của họ trở thành một khí cụ độc hữu cho Chơn Nhơn. Hay nói một cách khác, họ không c̣n ưa thích hay chán ghét, không c̣n ham muốn hay ước mong, không c̣n hy vọng hay lo sợ, tất cả đều phải tận diệt.

            Ở đây anh chớ lầm lạc, anh không cần tiêu diệt Thể T́nh Cảm, nhưng anh phải tự dưng  ngưng hẳn, không ứng đáp riêng cho  nó những cảm giác từ ngoại giới đưa vào. Anh chỉ cần diệt mất lối sống chia rẽ, c̣n Thể T́nh Cảm anh phải bảo tồn để dùng vào việc phụng sự Nhân Loại.

            Lẽ dĩ nhiên, sự cấu tạo của Thể T́nh Cảm chỉ dẫn cho người Đệ Tử  biết phải sửa đổi tánh t́nh của y thế nào. Nơi người Đệ Tử thường, Thể Vía (Thể T́nh Cảm) hay thay đổi màu sắc luôn luôn, nhưng khi nó được tinh luyện rồi và Đệ Tử đă dứt tuyệt mọi cuộc sống chia rẽ th́ Thể ấy trở thành một khí cụ thật tốt đẹp không màu sắc và sáng chói, phản chiếu sự sống linh hoạt ở nội tâm. Nó không có màu sắc riêng biệt mà chỉ lấy màu sắc của Chơn Nhơn truyền đạt qua. Lúc ấy, nó tựa như ánh sáng trăng rọi xuống mặt nước hồ thu yên lặng không gợn sóng, lóng lánh như xa cừ, phô bày một thứ rung động mà ta gượng gạo cho là màu sắc. Sự biến đổi nầy thành tựu dần dần trong Thể Vía của Đệ Tử.

            Khi mà càng ngày họ càng cố gắng thực hiện công việc khó khăn là cảm động trước mọi thống khổ của đồng loại th́ họ càng phải lănh đạm thờ ơ với mọi thống khổ của chính ḿnh họ phải gánh. Họ có thể đè nén dễ dàng t́nh cảm của ḿnh, nhưng họ phải xúc động trước t́nh cảm của kẻ khác và đồng thời phải giữ đừng cho xen t́nh ư riêng của ḿnh vào; ấy là một trách vụ rất khó khăn bắt buộc những kẻ chí nguyện phải thi hành. Tuy nhiên, càng chuyên tâm tập luyện th́ họ càng nhận thấy rằng những xúc động ích kỷ tiêu lần và biến thành những xúc động vị tha.

            Kẻ Đệ Tử có một phương thế để thử xem ḿnh quả thật có ḷng thiện cảm hay không và tới bực nào; ấy là anh có nghe ḷng thiện cảm hay không khi những nỗi khổ đau của thiên hạ không c̣n lọt vào mắt anh nữa. Anh gặp một kẻ khốn khổ, anh chứng kiến một hành động hung bạo, có lẽ làm cho ḷng anh se thắt lại, nhưng liệu anh có động ḷng thương xót như thế khi người đó đă khuất mắt anh không? Ḷng thiện cảm của ta không đáng giá bao nhiêu, nếu cần phải có cảnh năo ḷng để khêu gợi nó. Thử đưa một người đến đô thị lớn như châu thành Luân Đôn chẳng hạn, có thể những cảnh tượng thương tâm thảm mục mà Y thấy, bao bọc chung quanh ḿnh Y, làm cho Y xúc động vô cùng. Hăy cho Y ở một chỗ khác, Y sẽ chóng quên những nỗi thống khổ Y đă chứng kiến và thấy ḿnh vẫn hoàn toàn sung sướng.

            Kẻ Đệ Tử phải tập sống cách nào như toàn thể sự đau khổ của nhân loại luôn luôn hiện ra trước mắt y; làm nhẹ bớt gánh nặng đau khổ chính là lư do thúc đẩy y làm việc.

            Chưa ai đi đến  tŕnh độ mà tiếng gào thét đau thương làm cho y xúc động như trong quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” đă nói, trừ phi động lực của đời sống y là lo giúp đỡ nhân sinh, dù những sự đau khổ của nhân loại có ở trước mắt y hay không, bởi v́ đó mới quả thật là động lực của Đệ Tử. Phương tiện tốt nhứt thoát khỏi Phàm Nhơn, trở thành lănh đạm đối với mọi niềm vui sướng hay đau khổ riêng của ḿnh, mắt phải ráo lệ là để cho Thể Trí suy nghĩ đến niềm đau khổ của Thế Gian, và phương pháp phải theo hầu làm giảm bớt đau khổ; như thế, điều nầy mới giúp ta thấy được cái bản ngă đúng vào chân vị trí của nó, kế bên bản ngă to lớn hơn tượng trưng là toàn thể nhân loại cô đơn nầy.

            Khi Đệ Tử được Điểm Đạo bắt đầu đạt được trạng thái Bồ Đề Tâm, th́ y ráo lệ một cách khác nữa. Bấy giờ, y mới bắt đầu hiểu được ư nghĩa của sự tiến hóa, và cảm biết rằng tiến hóa ở đây có nghĩa là sự phát triển của Ba Ngôi Cao (Atma, Buddhi, Manas) ở con người. Nó khởi sự nh́n nhận giá trị và mục đích của tất cả mọi đau khổ và tất cả mọi phiền năo. Dần dần mắt y ráo lệ v́ nhờ hiểu được sự ích lợi mà nỗi niềm đau khổ đă ban cho những kẻ gánh chịu và nghiệm thấy rằng nếu sự đau khổ đến cho một người nào đó là v́ sự cần thiết tuyệt đối cho sự phát triển cao siêu của Linh Hồn y.

            Về mặt lư thuyết, con người có lẽ tránh được sự đau khổ nầy, nếu khi  xưa y biết cách hành động khôn ngoan hơn, bởi v́ nếu sự đau khổ không do ở sự lầm lạc hiện tại th́ cũng là kết quả của Nghiệp Quả xưa.

            Nhưng xét về mặt thực tế, con người trước kia đă ăn ở sái quấy, thích chọn những bài học của sự thử thách ngày nay hơn là bài học Minh Triết, bởi v́ y không chọn lựa con đường êm đẹp hơn mà đi, cho nên hiện giờ y đành phải chịu đau khổ và nhờ có đau khổ mới giúp nó đạt được sự Minh Triết và thúc giục sự tiến hóa của y.

            Người Đệ Tử am hiểu được tất cả điều nói trên y đă tiến đến một t́nh trạng mà ta có thể gọi là một sự thiện cảm hoàn toàn hợp nhứt với tâm y, và không c̣n một sự hối tiếc nào. Khi đời sống cơi Bồ Đề chưa chiếu diệu đến Tâm Thức sự hối tiếc có thể c̣n. Đến khi Tâm Bồ Đề phát sinh, ḷng thiện cảm của Đệ Tử nẩy nở một cách lạ thường, sự hối tiếc lại tiêu mất. Càng tiến bước lên cao, và nh́n thấy  chân Trời mở rộng, Đệ Tử mắt ráo lệ, v́ đứng trước sự đau khổ khắc nghiệt của con người, y phải tập làm sao sống lại trong cảnh khổ ấy để tự ḿnh cảm biết nỗi ḷng sâu xa đến bực nào, đồng thời y nhận thức được mục đích và cứu cánh của sự đau khổ. Đệ Tử tiến đến chỗ hoàn toàn chia sớt nỗi niềm đau khổ với Nhân Loại, nhưng không hề có một mảy nào mong mỏi sự đau khổ được sửa đổi. Muốn đừng có sự ước ao thoát khỏi sự đau khổ trước khi nó kết thành quả, Tâm Bồ Đề phải chói rạng. Ấy là điều kiện mà người ta đă gọi là Tâm Bồ Đề phát hiện.

            Luật Trời là Minh Triết, Thiên Ư là Toàn Hảo và sự đau khổ chuẩn bị một cứu cánh hoàn thiện, v́ vậy, Đệ Tử triệt để vui vẻ và bằng ḷng số phận ḿnh, y cam chịu đau khổ không hề than van, không hề phiền muộn.

            Khi vị Đệ Tử đă đạt đến tŕnh độ ấy, Tâm Thức y trở thành một phần tử của đời sống Thế Gian. Nếu y nghĩ đến y và xưng “Tôi” th́  cũng như nó thuộc về một phần tử của cái “Tôi” bao hàm tất cả những cái tôi khác. Từ đó, đối với Đệ Tử, không có cái ǵ sống ở ngoài y, hay phân cách y. Y đồng hóa với đời sống duy nhứt vĩ đại nầy, mặc dù ở vào tŕnh độ nào. Mỗi khi đời sống ấy cần đến sự giúp đỡ, Đệ Tử mất hẳn cái quan niệm rất phổ thông của cơi Thế Gian nầy là có nhiều người c̣n biệt lập ở bên ngoài. Đệ Tử ở trong tất cả và ở với tất cả.

            Việc thông hiểu sự hợp nhất có ảnh hưởng sâu xa đến sự giúp đỡ của con người có thể thi thố cho đời. Nếu có sự trợ giúp ai, nó thông cảm được nỗi niềm đau khổ của người đó cũng như nỗi niềm của chính ḿnh, chớ không phải những khó khăn của một kẻ khác. Nó thấy những sự đau khổ đó cũng như chính người trong cảnh ngộ thấy và v́ vậy, thay v́ giúp đỡ người ở bên ngoài, nó lại giúp đỡ ở bên trong. Giữa hai cách giúp ấy, sự sai biệt rộng lớn vô cùng. Cách thứ nhứt là giúp tạm thời và ngẫu nhiên, cách thứ nh́ tiêu biểu trong đời sống của con người một sự tiến triển về quyền năng.

            Đệ Tử chỉ có thể đạt đến tŕnh độ nầy nhờ ở đào luyện được ḷng thiện cảm, tập đồng hóa với nỗi niềm vui  vẻ và sự thống khổ của kẻ khác, làm cho đời ḿnh thành một đời sống chung của tất cả mọi người nếu không khó mà diệt được tánh chia  rẽ. Mắt phải ráo lệ, đối với Đệ Tử, chỉ có một ư nghĩa mà thôi, ấy là phải lănh đạm đối với những ǵ liên hệ Phàm Nhơn ḿnh, nhưng không được làm mất sự cảm xúc sâu sắc đối với tất cả những ǵ có ảnh hưởng đến những Linh Hồn khác.

            C.W.L.- Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta nói về bốn câu cách ngôn thứ nhứt của quyển sách nầy, khởi đầu bằng câu: “Trước khi thấy được, mắt  phải ráo lệ,” có thể bị giải thích sai lầm và v́ thế, anh Bàng Môn cũng như chúng ta đều thừa nhận chúng nó.

            Họ cho ư nghĩa của câu đó như thế nầy: “Diệt tất cả mọi cảm xúc, bao quanh ḿnh một lớp vỏ và loại ra ngoài những phiền năo và đau khổ của cuộc đời.”

            Đó thật là trái ngược với lời giáo huấn dùng dạy bảo các vị Đệ Tử bên Chánh Đạo, họ phải tập khai triển t́nh cảm cho đến một tŕnh độ có thể chia  sớt một cách tuyệt đối nỗi niềm đau khổ của nhân loại.

            Người ta nói nhiều về các vị Bàng Môn Tả Đạo, nhưng tôi tưởng ít người hiểu nhiều về họ. Nhờ gặp được nhiều đại diện bên Phái đó, tôi dám nói rằng: Tánh t́nh của họ và phương pháp của họ dùng không xa lạ ǵ  với tôi cả.

            Trong bọn họ có vài người đáng để ư, nhưng không nên thân thiện. Danh từ Bàng Môn Tả Đạo để dùng cho nhiều hạng khác nhau. Thí dụ: Người da đen ở Nam Phi Châu và ở quần đảo West Indies, có lẽ những Thổ Dân ở Úc Châu cũng vậy, rất giỏi luyện những Phép Tà Thuật  nhỏ mọn. Thật là đáng thương hại. Chính bọn Thổ Dân nầy nh́n nhận không làm thương tổn đến người da trắng được. Trong vài trường hợp, đời sống của những người da trắng bị họ khuấy rối rất khó chịu, nhưng phải nói thêm rằng do cách ăn thói ở của mấy người nầy cho nên họ mới phá được.

            Muốn thành công, họ thường lợi dụng ḷng lo sợ của những người bị họ trù ẻo. Ảnh hưởng của tà thuật tuy yếu ớt nhưng cũng có chút linh nghiệm, những Thổ Dân nầy có vài thứ thuốc, họ biết thôi miên, tóm lại, họ biết cách sử dụng vài quyền năng sai khiến những vị Ngũ Hành ở trên mặt đất và những vị khác cùng loại. Họ có thể làm cho một người kia mắc bịnh hoạn hoặc trọn gia đ́nh Y hay là những thú vật trong bầy của Y nuôi đau ốm, họ làm khô khan vườn tược, đồng ruộng và phá hoại mùa màng thất bát. Tuy nhiên, trong trường hợp sau nầy, họ  hay dùng kèm thêm thuốc súng để giúp sức cho tà thuật của họ.

            Một hạng khác, cao hơn, t́m luyện Phép Thần Thông để mưu đồ lợi ích cho cá nhân ḿnh. Họ học được vài cương yếu của Huyền Bí Học và chính đôi khi, họ c̣n tiến khá xa trên con đường đó, nhưng họ giữ lấy cho ḿnh quyền năng ấy để lợi dụng. Thường thường họ nhờ phép tắc đó làm giàu và tạo uy thế cho cá nhân ḿnh và toại hưởng sung sướng suốt đời.

            Sau khi ĺa bỏ Trần Thế rồi, đôi khi, họ thử dùng phép tắc tạo một đời sống như hồi c̣n sanh tiền, nhưng rất ít khi thành công nên kế họạch của họ không thực hiện được. Sớm muộn ǵ, họ không c̣n cái chi cả, và bị rơi vào một t́nh trạng nguy khốn cực điểm.

            Một hạng Bàng Môn khác, tiến hoá hơn, không mong cầu ǵ cho ḿnh, không màng tiền bạc, quyền năng hay thế lực hoặc những cái chi tương tợ, nhờ thế, phép tắc của họ rất cao cường. Họ sống một cuộc đời trong sạch và có qui củ như trong anh em chúng ta, nhưng họ lại chọn sự chia rẽ làm mục đích. Họ thích đời sống trên các Cảnh Giới cao siêu và tránh nhập vào Tâm Đức Thượng Đế. Họ ghê tởm những ǵ chúng ta cho là tối đại hạnh phúc. Họ muốn sống như t́nh trạng hiện thời của họ, họ tự phụ đạt được mục đích đó, vả lại, ư chí của con người có thể chống lại tới một điểm nào đó với ư chí của Thượng Đế.

            Tôi đă gặp hạng người đó. Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta luôn luôn muốn cứu vớt những Linh Hồn lạc lơng ấy đương lầm lũi đi trên con đường chia rẽ nên thử thuyết phục một đôi lần để cảm hóa họ, hầu dắt d́u họ trở lại với quan niệm của chúng ta, nhưng tôi e ngại ít khi được thành công.

            Có khi, Bà nói với họ: “Anh biết được điều đó sẽ chấm dứt bằng cách nào. Anh hiểu nhiều về Luật Thiên Nhiên và có đủ trí khôn để nh́n thấy con đường của anh đưa về đâu. Sự đổ vỡ cuối cùng đang chờ anh, điều đó chắc chắn. Khi kỳ gian của một A tăng kỳ kiếp (Manvantara) măn, khi Dăy Hành tinh nầy đúng kỳ tan ră, dù muốn dù không, anh cũng sẽ bị  nhập vào Tâm Đức Thượng Đế trên các Cảnh Giới cao siêu, chừng ấy số phận anh sẽ như thế nào?”

            Họ trả lời: “Kỳ thực, Bà không biết ǵ hết. Lấy theo bề ngoài mà nói, chúng tôi công nhận những việc sẽ xảy ra như thế, nhưng thật ra, chúng tôi không cần. Chúng tôi rất hài ḷng t́nh trạng hiện hữu của chúng tôi. Chúng tôi đủ khả năng để bảo thủ cá tánh của ḿnh chống lại mọi hành động bắt buộc chúng tôi nhập vô Tâm Đức Thượng Đế và điều đó kéo dài lắm, có lẽ đến ngày tận cùng của A tăng kỳ kiếp. Sau đó, chúng tôi sẽ thành công hay không, chúng tôi chẳng biết được, nhưng điều đó mặc kệ. Dù chúng tôi làm được hay không, chúng tôi cũng có lối sống mà chúng tôi chọn lựa.”

            Điều nầy có thể tranh luận và người nào chọn lựa quan điểm trên, chưa hẳn  thật là chánh trực, dĩ nhiên cũng không phải là kẻ ác đức, theo nghĩa thông thường của danh từ nầy. Họ tỏ ra là người cực kỳ kiêu căng phách lối nhưng không muốn gây thù kết oán với ai hay mưu toan sâu độc hại ai. Trái lại, họ không biết ngần ngại là ǵ cả. Người nào chống lại ư muốn của họ, họ quét sạch, ít do dự hơn là họ giết một con muỗi. Tuy nhiên, họ có thể kết giao thân mật với kẻ nào không làm trở ngại ư muốn của họ. Tánh t́nh họ không có vẻ ǵ là hung bạo. Họ không phải là một con quái vật độc ác mà là người đă chọn lựa một phương hướng nào đó và đi theo nó, hy sinh tất cả điều ǵ, đối với ta, có nghĩa là tiến hóa. Chúng ta tin chắc chắn rằng một hiểm họa lớn lao đang chờ họ, mà họ ít khi tin chắc điều đó như chúng ta, và dù sao, họ vẫn thích làm những chuyện mạo hiểm.

            Thường thường, những con người ấy, tự họ, cho thế là măn nguyện. Họ có thái độ ngờ vực và khinh bỉ tất cả mọi người. Đó luôn luôn  là đặc tính của hạng người theo dơi con đường Tả Đạo. Họ cho họ là hữu lư, c̣n kẻ khác th́ lầm lạc và thấp kém hơn. Đôi khi, người ta nghe nói đến Giáo Đoàn Bàng Môn, nhưng không bao giờ có một Giáo Đoàn nào như thế được thành lập cả. Không có t́nh hữu nghị chân thật nào có thể phát hiện ở giữa họ, nhưng gặp cơ  hội nào là  họ liên kết với  nhau để chống với hiểm họa cấp bách, hoặc giả khi một trong những kế hoạch của họ bị hăm dọa. Bất quá đây là một cuộc liên minh lỏng lẻo, rời rạc, nếu cuộc liên minh nầy dữ dội, đáng sợ, là nhờ ở nơi pháp lực cao cường của vài người trong bọn họ.

            Thỉnh thoảng, những công tŕnh giúp đỡ nhân loại của các Đức Chơn Sư chúng ta ngăn cản ư muốn của  họ, lập tức họ trở thành kẻ thù địch ghê gớm. Đối với Chơn Sư, họ không làm ǵ được các Ngài – tôi tưởng họ cáu tiết lên được – đôi khi, họ nhắm vào đám môn đệ của các Ngài để hăm hại, cố ư làm cho các Ngài v́ đó phải khổ tâm và chán nản, trong ư họ tưởng lầm tâm trạng các Ngài sẽ như thế đó.

            Những lời họ khuyên dạy, ta nên hoài nghi họ là hữu lư, v́ bọn người nầy hay phỉnh phờ, làm cho ta lầm lạc. Đức Bà Blavatsky biết rơ tung tích họ và cũng tỏ ra vị nể họ nữa. Bà xem họ không khác chi là bọn quỷ sứ cám dỗ người, thích làm điều ác chẳng v́ một lư do nào khác hơn là ḷng vui thích gây nên tội lỗi. Đó là hạng Bàng Môn c̣n thấp kém. C̣n những người quyền lực cao siêu không lấy làm vui bất cứ là việc nào, nhưng mà những kế hoạch của họ thực hiện luôn luôn có tánh cách hoàn toàn tư kỷ, có thể đem đến kết quả rất tai hại cho  nhiều người. Họ cũng trầm tĩnh, cũng đủ năng lực tự chủ, cũng trừ tuyệt dục vọng như bất cứ người Đệ Tử nào của Đức Chơn Sư. Họ c̣n luyện ḿnh  hơn thế nữa, bởi v́ họ cố tâm tiêu diệt tất cả  mọi cảm giác. Họ không hề làm hại ai chỉ v́  ḷng thích thú muốn làm khổ người, nhưng như tôi đă nói, kẻ nào cản trở công việc riêng của họ th́ họ không ngần ngại thủ tiêu người đó. Những người có phận sự giúp đỡ những kẻ ở trên Cơi Trung Giới cũng có đôi lần cứu những nạn nhân bị họ khuấy rối, và trong trường hợp nầy, họ đương nhiên ra mặt đối địch ngay.

            Chúng ta hăy trở lại đầu đề chánh. Thật là khó tập ứng đáp với t́nh cảm của kẻ khác mà không xen chút đỉnh Phàm Nhơn của ta vào, và cũng khó có ḷng thiện cảm hoàn toàn đối với kẻ khác mà không pha lẫn t́nh cảm của ta. Nhiều người quá xúc động v́ nỗi khổ của những người khác, nhưng sau đó họ quên đi khi cảnh khổ ấy không c̣n phô bày dưới mắt họ nữa.

            Thí dụ, trong một đô thị Luân Đôn chẳng hạn, nhiều người  phú hộ cảm động khi trông thấy cảnh nghèo khổ xơ xác của những ngôi nhà ẩm thấp, dơ bẩn, họ lập tức vận dụng tất cả khả năng của ḿnh để làm nhẹ bớt gánh nặng  đau khổ riêng của những người họ đă chứng kiến. Rồi sau đó, cũng mấy vị ấy đi săn bắn, câu cá, hay là dự các cuộc chơi và quên mất cái cảnh sống thảm năo kia đi. Trong trường hợp nầy, nỗi ưu sầu của họ không phải hoàn toàn do sự đau khổ của kẻ khác mà phát sinh, ấy là một  sự đau ḷng riêng, v́ chính họ đă mục kích những sự thống khổ đó. Ḷng thiện cảm thuộc loại nầy không có giá trị bao nhiêu, v́ nó không phải là ḷng thiện cảm chân thật.

            Khi chúng ta cảm thông toàn vẹn sự đau khổ của nhân loại, chúng ta lần lần quên mất sự đau khổ của ḿnh. Chúng ta quên nỗi đau khổ riêng của ta, khi thấy cái đau khổ mênh mang vô tận đang đè nặng nhân loại. Dù sao, chúng ta nên biết rằng phần đau khổ đă định sẵn cho ta là một thành phần trong cái gánh nặng chung. Có được cái tinh thần hiểu biết như thế là người đă vượt cao lên trên Phàm Nhơn của ḿnh rồi. Y khổ tâm v́ nhân sinh, chớ không v́  cảnh đời bi đát của ḿnh, mắt y trở nên ráo lệ đối với niềm vui, nỗi khổ riêng tư của y.

            Hiểu cho đúng được những sự đau khổ của kẻ khác không phải giản dị. Cách vài năm nay, Bà Chánh Hội Trưởng và tôi có khảo sát về vấn đề ảnh hưởng gây ra bởi sự đau khổ của nhiều người, xét theo bề ngoài th́ cũng là một thứ đau khổ chung về thể xác. Chúng tôi nghiệm thấy rằng trong trường hợp cực đoan, người nầy có lẽ đau đớn gấp ngàn lần hơn kẻ nọ và trong đời sống b́nh thường cũng thường có thể đau khổ trăm lần nhiều hơn kẻ khác. Trong khi người nầy tỏ dấu đau khổ, kẻ nọ lại thản nhiên như thường, như thế, chúng ta chớ nên  kết luận rằng người sau có đủ can đảm hơn, hoặc sống một cách triết lư hơn, chưa hẳn đúng như vậy. Chúng tôi cũng nghiệm xét đến mức  độ đau khổ của nhiều người khác nhau trong khi tủi  nhục v́ bị giam cầm. Người th́ xem thường như không có ǵ hết, kẻ lại đau đớn về tinh  thần và t́nh cảm đến cực độ. Đừng nói như thế nầy vô ích: “Tôi không có cảm giác ǵ về việc đó, vậy những kẻ khác cũng không có cảm giác ǵ.” Người ta không biết mức độ nào hay trong khuôn khổ nào sẽ làm cho kẻ khác cảm động. Tôi t́m thấy nhiều việc, đối với tôi không quan trọng tí nào, thế mà nó có thể làm cho đồng loại tôi đau khổ nhiều. Trái lại, những tiếng vang động khó chịu thường là nguyên nhân khiến cho những người đă khai mở được những giác quan tinh vi đau đớn một cách dữ dội. Tôi đă thấy Bà Chánh Hội Trưởng của chúng ta tỏ vẻ bứt rứt xốn xang khi vài ba chiếc xe lớn tiếp vận quân nhu rần rộ kéo ngang qua chỗ ngụ của chúng tôi ở tại đại lộ Avenue Road, Châu Thành Luân Đôn. Đó không phải là Bà chưa thống trị được thần kinh. Bà thường giải thích rằng nếu Đệ Tử khai mở cảm giác ḿnh, đồng thời phải chế ngự thần kinh hệ, làm cách nào chịu đựng sự đau khổ hay sự kinh động như thường, không hề nao núng.

            Trước khi được nghe, lỗ tai phải điếc.

            A.B.- Đệ Tử phải hoàn toàn lănh đạm đối với dư luận phê phán t́nh ư riêng của ḿnh. Người ta nghĩ hay là có nói điều ǵ tốt lành cho ḿnh, không nên lấy đó làm kiêu hănh, cũng như họ nói xấu ḿnh, ta không nên đem ḷng phiền muộn, nhưng đồng thời cũng không nên lănh đạm với dư luận, v́ dư luận ấy phản ứng lại chủ nó. Thế nên, Đệ Tử không được xem thường những ư tưởng của kẻ khác đối với y, nếu v́ cách cư xử của y làm cho người ta phải tránh xa y th́ y mất năng lực giúp đỡ họ.

            Đệ Tử tiến bước trên Đường Đạo sẽ đạt được Phép Thần Thông và cảm biết được kẻ khác tưởng nghĩ ǵ đến ḿnh. Y sống trong một bầu thế giới mà nơi đó, y có thể nghe được tất cả những lời bàn tán về y và thấy được tất cả những lời chỉ trích y ở trong trí của kẻ khác bay ra. Y tiến đến tŕnh độ nầy khi đă vượt cao lên trên tất cả sự chỉ trích và không c̣n bị kích động v́ những luồng dư luận của thiên hạ nữa.

            Có nhiều người ham muốn nồng nhiệt đạt được Thần Nhăn trước khi đi đến tŕnh độ nầy, nhưng, nếu họ biết những điều tôi vừa nói trên  đây th́ sự hiểu biết Cơi Trung Giới, là mục tiêu mọi nguyện vọng của họ, không c̣n quyến rủ họ nữa.

            C.W.L.- Người tiến hóa, khi nghe được những lời chỉ trích xúc phạm đến ḿnh, vẫn một mực thản nhiên. Anh đừng tưởng rằng Y giữ ḿnh được như vậy là nhờ cương quyết dằn cơn nóng giận và nói rằng: “Điều ấy thật là gớm ghiếc, tôi không bận tâm lo nghĩ và để ư đến làm ǵ.”

            Dĩ nhiên, Y trải qua một giai đoạn tương tự như thế; nhưng Y tiến rất nhanh đến một điểm mà ḷng lănh đạm của Y trở nên tuyệt đối hoàn toàn, do đó, những điều người ta nói về Y, Y vẫn xem  như tiếng líu lo của chim hót hoặc tiếng ve sầu kêu. Những lời chỉ trích có thể chọc tức Y, làm cho Y khó chịu thật, nhưng chỉ có thế thôi. Nếu Y không lựa chọn một con ve riêng biệt để lắng nghe tiếng kêu của nó, Y cũng không t́m được trong số những câu khiếm nhă đă nghe tư tưởng nào hoặc lời nói nào đặc biệt.

            Cả thảy chúng ta đều phải cố gắng tiến đến tŕnh độ nầy mà chúng ta hằng nhắc đến  luôn, bởi v́ đó là thái độ của các Đức Chơn Sư chúng ta trong cơi đời của các Ngài mà chúng ta ướm thử bước vào.

            Nhưng người ta sẽ nói: “Làm thế nào mong đạt cho được thái độ của các Đấng Siêu Nhân ấy?” Đành rằng không ai tiến đến tŕnh độ đó tức khắc được, nhưng phải lấy nó làm mục tiêu và chúng ta cố gắng tiến lại gần, càng mau càng tốt, và một trong những phương pháp để thành công – thật là dễ – là đừng quan tâm mảy may  nào đến những lời người ta nói về ḿnh.

            Tiến đến đó  rồi, bước kế là suy gẫm về quả báo xấu gây ra bởi những người đă nghĩ hoặc nói xấu chúng ta. Bấy giờ chúng ta có thể hối tiếc giùm cho  họ và nhờ vậy chúng ta hết sức tránh những cơ hội khả dĩ làm cho người ta xét đoán lầm lạc và làm mếch ḷng ḿnh, chẳng phải chúng ta bị xúc động v́ những lời nói xấu ấy, nhưng, bởi v́ chúng nó tạo ra quả xấu cho những người thốt ra chúng nó.

            Trước khi được nói trước mặt các Đấng Chơn Sư, lời nói phải mất hiệu lực lăng nhục.

            A.B.- Đệ Tử phải từ bỏ tất cả điều ǵ có thể làm khổ đồng loại ḿnh. Trong những giai đoạn đầu tiên, y phải tập trừ khử, trong ngôn ngữ, cái chi có thể lăng nhục, chấm dứt sự chỉ trích chua cay hay những danh từ bất thiện cảm và cần triệt hạ tất cả mọi lời nói xúc phạm người bằng cách, hoặc hạ danh giá họ, hoặc làm cho kẻ khác chú ư đến một trong những thói hư tật xấu của họ.

            Sự thật, có nhiều người ở vào địa vị mà họ có bổn phận đôi khi phải vạch những lỗi lầm của kẻ khác, nhưng họ sai lầm khi tưởng rằng họ có quyền làm khổ người khác trong lúc họ làm bổn phận.

            Chỉ lỗi người một cách hoàn toàn thân mật, không làm phật ḷng ai cả; lời nói chỉ lăng nhục khi nào bổn phận thi hành không đúng.

            Khi kẻ t́nh nguyện giúp đỡ người, không đồng hóa ḿnh với kẻ đối thoại th́ lời khuyên bảo của y do ở ngoài đến nên người ta ít để ư tới. Nếu kẻ giúp đỡ ḥa ḿnh với người và thử giúp đỡ bằng cách chia sớt những ư kiến của họ, Y sẽ gây được mối thiện cảm trong những mối xúc động của họ. Nhờ nhận thức được mối thiện cảm ấy, họ sẽ làm thức tỉnh trong bản tánh của họ những khía cạnh tốt đẹp nhứt, nhân từ nhứt và vui vẻ tiếp nhận lời khuyên bảo không coi như là bị lăng nhục.

            Nếu anh có  bổn phận chỉ trích người nào và nếu lời chỉ trích của anh làm xúc phạm y, anh phải tự ḿnh t́m chỗ khuyết điểm, nguyên nhân của sự xúc phạm ấy.

            Nếu chúng ta muốn mất hiệu lực lăng nhục, cá nhân riêng biệt phải bị tiêu diệt; khi chúng ta cảm thấy đời sống của vạn vật là một, chúng ta khó mà làm cho chúng sinh đau khổ, v́  tất cả đều là phần tử của chính ḿnh chúng ta đây.

            Muốn tiến đến tŕnh độ nầy, chúng ta phải bắt đầu gọt giũa dần dần lời nói của chúng ta, trước hết bằng cách sửa chữa những lỗi lầm nào dễ thấy hơn hết.

            C.W.L.- Tất cả những kẻ nào ước nguyện đến gần Đức Chơn Sư cũng phải từ bỏ ḷng ham muốn lăng nhục người bằng lời nói. Tuy vậy, cũng  c̣n có thể lăng  nhục được với một cách vô t́nh và vô ư thức, do sự thiếu ḷng trắc ẩn mà ra.

            Càng tiến bước càng nâng Tâm Thức chúng ta lên trên tŕnh độ cao siêu, chúng ta sẽ  nhận biết được, càng ngày càng rơ hơn, thế nào là phản ứng của kẻ khác. Những người đă nhiều năm dày công tham thiền cảm thấy ḿnh trở nên nhạy cảm hơn và trong một phạm vi nào đó, người tiến đến gần sự hợp nhất. V́ vậy, họ biết những người xung quanh họ hơi rơ hơn những người không cố gắng trong sự tu tập đó.

            Trước mặt chúng ta, một người kia có một lối chỉ trích mà chúng ta xét ra thật quái ác. Y chỉ trích một cách rất thành thật, nhưng không ngờ rằng lời ḿnh nói đáng trách và làm lăng nhục người.

            Nhờ suy gẫm, khảo cứu và cố gắng sống một cuộc đời cao thượng mà chúng ta tinh luyện lần lần giác quan của chúng ta, tự nhiên, chúng ta cảm biết được người thứ ba sẽ có thái độ nào đối với những lời chỉ trích đó mà chúng ta xét thấy rất tai hại và mong sao lời nói nên dùng một cách khác, nhă nhặn hơn.

            Đức Chơn Sư không bao giờ nói một lời nào có thể làm lăng nhục người. Có khi Ngài xét ra cần phải khiển trách ai, Ngài liền bày tỏ cách nào cho người bị quở không tủi nhục. Một vị Đệ Tử đôi khi có bổn phận phải hành động một cách nghiêm khắc. Năng lực của ḷng thiện cảm riêng của y liền thúc giục y từ khước công việc ấy, nhưng nếu Chơn Nhơn xác nhận quyền lực của ḿnh và nếu đó là điều cần thiết tuyệt đối, Đệ Tử chẳng những sẽ nói một cách nghiêm khắc mà c̣n trầm tĩnh  như một vị thẩm phán và không bao giờ nóng giận.

            Trước khi có thể đứng trước mặt Đức Chơn Sư, Linh Hồn phải rửa chân nó trong máu của trái tim.

            A.B.- Câu cách ngôn nầy, sau lưng nó có một truyền thuyết huyền bí rất lâu đời và di lưu cho con người bằng nhiều cách: nó liên quan đến giáo lư của sự hy sinh c̣n t́m thấy ở trong nhiều Tôn Giáo dưới những h́nh thức khác  nhau, mặc dù, xét về toàn thể, ư nghĩa của nó đă mất hết. Danh từ đem dùng ở đây có liên quan đến việc mệnh danh, đôi khi là sự hy sinh và sự liên kết của máu, mà dấu vết kỳ lạ nhứt c̣n lưu truyền trong những bộ lạc c̣n sót lại trong những Giống Dân Tộc xưa.

            Ngược ḍng thời gian của những tiền kiếp, chúng ta đă ghi chép một     việc xảy ra có thể làm cho chúng ta hiểu được ư tưởng chứa đựng trong sự hy sinh và liên kết của máu.

            Đă lâu lắm rồi, Đấng mà hiện giờ là Đức Chơn Sư Morya là một Vị Hoàng Đế. Đứa  con trai duy nhứt của Ngài (là Đức Bà H. P. Blavatsky) c̣n đương thời niên thiếu nên được phó thác cho Vị Trưởng Đoàn Hộ Vệ Quân (là Đại Tá Olcott).

            Ngày kia, Hoàng Tử ở một ḿnh với Ông Trưởng Đoàn. Quân phiến loạn thừa dịp đó muốn hành thích Hoàng Tử, áp lại và có thể chúng giết được Hoàng Tử; nếu không có Ông Trưởng Đoàn liều ḿnh tả xông hữu đột, che chở, giúp Hoàng Tử thoát nạn.

            Hoàng Tử chỉ bất tỉnh, Ông Trưởng Đoàn nằm trên ḿnh Ngài thoi thóp chờ chết, và ḍng máu từ vết tử thương chảy ra ṛng ṛng, Ông Trưởng Đoàn lấy ngón tay thấm vào máu và chấm lên hai chân của Đức Vua.

            Đức Vua hỏi rằng: “Giờ đây Trẫm phải  làm sao báo đáp công của Khanh đă liều ḿnh với Trẫm và con Trẫm.”

            Ông Trưởng Đoàn sắp tắt thở trả lời: “Xin Bệ Hạ cho phép Hoàng Tử và Hạ Thần được phụng sự Bệ Hạ măi măi trong những kiếp tái sinh.”

            Đức Vua liền đáp rằng: “V́ máu đă đổ cho Trẫm và ḍng họ Trẫm nên sự liên kết cột chặt chúng ta sẽ không bao giờ dứt.”

            Một thời gian sau, Đức Vua thành một Đấng Chơn Sư, sự liên kết vẫn tồn tại, nhưng với h́nh thức một sợi dây liên kết Đức Chơn Sư và Đệ Tử và mối liên kết nầy không bao  giờ đứt đoạn.

            Nhờ sự hy sinh đời sống nhục thể của ḿnh, vị Trưởng Đoàn đă tạo ra một sợi dây, nó ban cho Ngài một đời sống thật, đời sống người Đệ Tử thọ lănh từ Đức Thầy.

            Tôi thuật câu chuyện nầy cho Huynh nghe v́ nó chứa đựng một Chơn Lư vĩ đại. Chúng ta càng có sức mạnh để hy sinh tất cả điều ǵ, đối với ta, là sự sống và rưới máu Phàm Nhơn dưới chân của Chơn Nhơn, thật ra, đời sống của ta thay v́ sút kém đi lại càng tăng trưởng thêm. Tất cả cuộc tiến hóa của nhân loại trẻ trung nầy thực hiện được là nhờ sự t́nh nguyện hy sinh đời sống thấp thỏi cho đời sống cao siêu. Khi sự hy sinh nầy được hoàn thiện, con người t́m thấy rằng, thay v́ đời sống của ḿnh bị tiêu diệt, nó lại trở nên trường sanh bất tử. Cái dấu hiệu bên ngoài của sự hy sinh giúp cho ta nhận thức được rơ ràng nguyên lư của sự hy sinh ấy, nó bắt ta chú ư đến Chân Lư căn bản nầy: Đời sống thấp thỏi chỉ đạt được mục đích chân thật cuộc tiến hóa của nó khi nó hy sinh cho đời sống cao siêu.

            Chân Lư nầy đầu tiên được tượng trưng bởi những sự hy sinh thường dùng trong nhiều Tôn Giáo. Sự liên kết của máu cũng tùy thuộc ở nguyên lư nầy. Đời sống thấp thỏi hy sinh cho đời sống cao siêu và đời sống cao siêu nâng cao đời sống thấp thỏi do sợi dây liên kết đời đời, không bao giờ dứt.

            Đệ Tử phải rửa chân ḿnh trong máu của trái tim. Y phải hoàn toàn hiến dâng tất cả những vật ǵ y thương yêu và quí trọng, tất cả những điều ǵ y xem như là tạo thành đời sống của y, nhưng khi mất những vật ấy, y đạt được đời sống cao siêu.

            Thường thường máu không có đổ thật sự, nhưng ở thực tế, đôi khi máu phải đổ. Xét về mặt tượng trưng, luôn luôn có sự đổ máu, nhưng chỉ liên quan đến Đệ Tử trong thời kỳ hiện tại, bởi v́ sự mất mát đó làm cho y quá đau khổ. Thật sự y hy sinh những ǵ, đối với  y, đă tạo thành đời sống y và dường như những vật ấy mất đi, y không sao t́m lại được. Một cuộc thử ḷng lớn lao quyết định coi sự hy sinh của Đệ Tử có được trọn vẹn không và nhờ đó, mới thấy Linh Hồn có đủ năng lực, tự ư lao ḿnh vào cơi hư vô, rưới tất cả máu trong trái tim Y mà không mong ǵ sự  ban thưởng. Nếu Đệ Tử không đủ khả năng làm như vậy, y chưa có thể đứng trước mặt Đức Chơn Sư. Trái lại, ví như y đạt đến tŕnh độ từ khước tất cả những ǵ mà từ đó đến giờ Y cho là đời sống  của y, lúc ấy cái bằng chứng của quá khứ và cái Chân Lư của Luật Trời cho  Y biết rằng Y sẽ gặp lại t́nh trạng hiện hữu nầy trong một kiếp sống khác dũng mănh hơn và cao thượng hơn kiếp sống y đă dứt bỏ. Sự hy sinh nầy  phải thực hiện trước khi người Đệ Tử bước qua đời sống cao siêu và đứng trước mặt Đức Chơn Sư, y đă mạnh mẽ nhờ một ḷng cương quyết đă chứng tỏ trong khi thi hành sự hy sinh.

            C.W.L.- Câu nầy có nghĩa là con người ước nguyện đứng trước mặt các Đấng Chơn Sư phải hy sinh  Phàm Nhơn cho Chơn Nhơn. Đôi chân của Linh Hồn tức là Bản Ngă ở Trần Gian phải rửa trong máu của trái tim hay là của t́nh cảm, trước khi có thể tiến đến đời sống cao siêu.

            Đó là một định luật chung trong cơi đời nầy. Đứa  nhỏ rất vui thích với món đồ chơi của nó, nhưng lớn lên, những cuộc vui của thời thơ ấu không c̣n thích hợp với tuổi nó nữa. Nó bỏ đồ chơi ấy để đeo đuổi theo việc tập luyện trở nên giỏi giắn trong các cuộc thao luyện đúng đắn hơn. Nơi học đường, kẻ thiếu niên chăm học thường hay từ bỏ những cuộc nô đùa chơi giỡn ngoài trời, điều mà nó rất ưa thích, hay bỏ thú vui đọc sách và cặm cụi hoặc trong những động từ Hy Lạp, hoặc trong các cuộc khảo cứu khác, đối với nó, không hữu ích bao nhiêu. Nếu nó tập  luyện để tham gia một cuộc chạy đua, hoặc chèo thuyền, nó từ chối những buổi ăn thịnh soạn và ép ḿnh dùng những bữa cơm thanh đạm và chọn lựa kỹ lưỡng cho tới sau khi măn cuộc đua.

            Trên đường Huyền Bí Học, người ta biết rằng nhiều thú vui ở thế gian chỉ là một việc làm mất th́ giờ. Có nhiều trường hợp cần phải có một nỗ lực thật sự mới tránh xa chúng nó được; khi có tiếng gọi của đời sống cao siêu, kẻ chí nguyện đáp lời ngay, nhưng phải thương tổn đến Phàm Nhơn của ḿnh. Muốn đạt được đời sống cao siêu, y phải dứt bỏ liền đời sống thấp thỏi, về sau nó không c̣n quyến rủ anh được nữa. Từ khi con người hiểu biết đầy đủ đời sống cao siêu, đời sống thấp thỏi, đối với y, đă chấm dứt. Nhưng trong nhiều trường hợp y bị bắt buộc phải dứt bỏ đời sống thấp thỏi trước khi thật sự bước chân vào sự vinh quang và sự an lạc của đời sống tinh thần.Tôi biết có lắm người gặp nhiều cơ hội thuận tiện lại lùi bước trước điểm nhứt định nầy. Họ đă thất bại v́ không sẵn sàng hy sinh tất cả những điều họ đă thọ hưởng trước kia, bởi v́ bên ngoài, không thấy được cái ǵ đền bù lại. Thường thường, người ta sợ buông cái nầy ra trước khi có thể bắt lấy cái khác, nên bấu víu vào cái ít cao hơn, nhưng cũng chưa được thỏa măn, v́ họ thoáng thấy cái cao hơn nữa.

            Tất cả đều phải hy sinh cho tiếng gọi của Đức Chơn Sư. Người ta tự hỏi không biết hy sinh như thế có thể được không? Luôn luôn họ nghĩ đến điều đó và ước ao sẽ thi hành sự hy sinh cho kỳ được, nhưng khi cơ hội đến, liệu anh có thể hy sinh một cách trọn vẹn và không ḷng phiền muộn chăng?

            Biết bao nhiêu người đă làm việc nầy từ năm nầy qua năm nọ mà vẫn ngạc nhiên sao ḿnh không đạt được kết quả và không có mặt ở trong số những vị  Đệ Tử được Đức Chơn Sư kêu gọi đến bên cạnh Ngài. Lư do luôn luôn cũng là v́ Phàm Nhơn dưới h́nh thức nầy hoặc dưới h́nh thức khác ngăn trở họ không cho bước tới. Sự hy sinh hoàn toàn nầy không thực hiện  được bởi v́ họ kiếm cớ lần lựa qua ngày, hôm nay cho ra, ngày mai t́m cách lấy lại, với sự tự kiêu cho “Ḿnh là kẻ đă cho tất cả.” Thái độ nầy không giá trị ǵ hết. Phải thi hành sự hy sinh như là một việc rất tự nhiên và b́nh tĩnh. Người sắp thành công sẽ tự nhủ  rằng không có một thái độ nào khác hơn để giải quyết khi gặp phải cơ hội hy sinh rất lớn lao.


CHƯƠNG   3

QUI TẮC THỨ NHỨT

 

            Hăy diệt. . . .

            A.B.- Mỗi qui tắc ngắn đều khởi đầu bằng danh từ “Diệt.” Điều cần thiết là phải hiểu cho đúng nghĩa chữ Diệt ở đây. Có  hai cách loại trừ hay tiêu diệt một tư tưởng xấu, một hành động xấu.

            Chúng ta hăy khảo sát tư tưởng trước nhứt, v́ khi tư tưởng bị tiêu diệt, các thứ khác c̣n lại cũng bị tiêu diệt dễ dàng. Thí dụ: một tư tưởng xấu phát sinh trong trí óc một người nào đó, Y nghiệm thấy rằng tư tưởng ấy có một khuynh hướng tự lặp đi lặp lại măi.

            Thường thường, hành động đầu tiên của Y là chiến đấu với tư tưởng ấy bằng cách chống lại với tất cả sức mạnh của ḿnh và đánh đuổi nó mănh liệt như khi Y đối địch với một kẻ thù bằng thịt bằng xương vậy. Nhứt định va phải tống khứ tư tưởng ấy ra khỏi trí, Y chụp lấy hai vai nó, và liệng mạnh nó ra ngoài.

            Tuy nhiên, phương pháp nầy chưa phải là toàn hảo, v́ nó không biết định luật to tát đương vận hành khắp mọi nơi trong thiên nhiên là sức động và sức phản động, vừa cân nhau vừa chống nhau.

            Anh liệng một quả banh vô vách, banh sẽ dội trở lại, trúng anh nhẹ nếu anh liệng nó nhẹ, trúng anh mạnh nếu anh liệng nó mạnh. Cũng một nguyên tắc như thế đó được xác nhận khắp mọi nơi. Thí dụ anh đuổi một tư tưởng ra khỏi trí anh mănh liệt sẽ có một sức phản động rơ rệt phát sinh. Anh  không chống nổi sức phản động ấy, anh nhượng bộ tức là anh cảm thấy yếu đuối thật sự và tư tưởng nầy có thể trở lại trí anh với một sức mạnh càng mănh liệt thêm lên. Tinh lực anh  đem ra dùng thâm nhập vào tư tưởng, nó trở lại với anh và bắt anh phải mở lại một cuộc chiến đấu khác nữa. Ở t́nh trạng nầy, người ta có thể đôi khi chiến đấu trong  nhiều tuần lễ, nhiều tháng hoặc đến nhiều năm mà không thấy lợi ích ǵ cả. Tuy nhiên, nhờ thời gian, anh có thể diệt được một tư tưởng xấu, nhưng phải chịu tiêu hao một phần lớn sức lực, tinh lực và trí lực của anh cho đến đỗi cuộc chiến đấu ấy sẽ đưa đến kết quả là một phần nào trong lănh vực của Thể Trí bị chai cứng và suy nhược đi.

            Có một phương pháp khác để diệt tư tưởng là cách thay thế tư tưởng xấu bằng một tư tưởng tốt cùng loại tương phản nhau. Anh hăy bắt đầu khảo cứu kỹ lưỡng vấn đề và nhứt định coi tư tưởng tốt nào trái nghịch với tư tưởng xấu đó. Anh hăy  phát biểu tư tưởng mới trong trí anh một cách trầm tĩnh và khi nào tư tưởng xấu xuất hiện, anh hăy nghĩ đến tư tưởng tốt đối lập với tư tưởng xấu ấy để thay thế nó.

            Anh có thể thay thế tư tưởng như thế nầy:

            Tánh kiêu hănh thay thế bằng đức từ bi, sự nóng giận thay thế bằng t́nh thương yêu, sự lo sợ thay thế bằng ḷng hâm mộ, ḷng vật dục thấp hèn thay thế bằng tư tưởng trong sạch, tự trọng, danh dự và các tư tưởng tương tự khác.

            Anh cũng có thể chú định vào tư tưởng sùng kính Đức Chơn Sư, v́ đức tánh nầy biểu lộ luôn luôn  nơi Ngài và anh có thể quên ḿnh đi bằng cách tưởng nghĩ đến Ngài.

            Thể Trí của con người không thể nào tập trung một lúc vào  hai đối tượng khác nhau được, nếu anh chú định vào một tư tưởng tốt th́ tự nhiên tư tưởng xấu bị đuổi ra khỏi Trí mà không cần phải dùng sức đối kháng.

            Trí lực không bị phung phí và sinh lực cũng không bị tiêu hao. Tư tưởng tốt sẽ lấy sức lại liền, Thể Trí khỏi bị những tư tưởng xấu tấn công và không c̣n ứng đáp với tư tưởng cùng loại đó nữa.

            V́ vậy, tóm lại, anh đă diệt cái xấu bằng cách làm tăng sức và phấn khởi cái tốt tương phản với nó. Dường như khi rút hết sanh lực của tư tưởng xấu đi th́ nó chỉ c̣n là một cái vỏ trống không. Diệt tư tưởng theo cách nầy rất hiệu nghiệm.

            Thế nên, chúng ta có hai phương pháp để diệt trừ tư tưởng:

            Phương pháp thứ nhứt là phương pháp tiêu diệt.

            Phương pháp thứ hai là phương pháp khai triển.

            Phương pháp thứ nhứt thường được những người mới bước chân vào con đường Tả Đạo đem ra dùng, nó trái nghịch với Thiên Ư. Phương pháp thứ hai là sự tiến hóa đúng theo Thiên Cơ đă định. Hai con đường đó đều mở rộng cho chúng ta được tự do chọn lựa. Trong Cơi Thế Gian nầy, tất cả đều tiến hóa, tất cả đều theo con đường nầy hoặc theo con đường nọ.

            Những lănh vực trong Thái Dương Hệ của Đấng Tối Cao mà trong đó phát triển H́nh Thức của Ngài, có một phần tự do ư chí nghĩa là những lănh vực ấy có thể hoạt động ḥa hợp với Thiên Ư hay là hoạt động một cách độc lập như những cá nhân riêng biệt. Kẻ nào hợp tác với Đấng Tối Cao, chung cuộc sẽ theo Đường Chánh Đạo, c̣n kẻ nào cố tâm chọn lối sống riêng biệt th́ sắp sửa đi trên Đường Tà Đạo.

            Nói một cách tổng quát, tất cả điều ǵ dẫn đến sự cô độc thúc giục con người qua bên Tà Đạo, c̣n tất cả điều ǵ hướng về sự hợp nhất, dắt con người qua bên Chánh Đạo.

            Những người theo học phái Tà Đạo, diệt mất thiện cảm, t́nh thương và ḷng bác ái, bởi v́ họ nhận thấy rằng những đức tánh nầy là nguyên nhân của sự đau khổ và ngoài ra chúng nó c̣n ngăn trở sự khai mở những phép thần thông.

            Cho nên, phương  pháp tiêu diệt thường được những vị t́m luyện phép thần thông và mưu đồ lợi ích khác ưa thích, v́ những việc ấy được họ coi như là điều hoài băo của kiếp sống hiện tại, và như thế, để củng cố và thỏa thích bản ngă riêng biệt. Họ không bao giờ nghĩ đến hạnh phúc chung của toàn thể, v́ họ chăm chú vào sự tiến bộ và sự thắng lợi riêng của họ. Họ tiêu diệt mănh liệt, trong bản tánh của họ, tất cả những ǵ làm ngăn trở sự phát triển Phép Thần Thông. Họ cũng tiêu diệt luôn t́nh thương, v́ họ cho đức tánh đó dẫn đến sự phiền năo và họ tiến đến sự lănh  đạm rất dễ dàng bằng cách diệt mất t́nh thương hơn là bằng cách phát triển càng ngày càng  sâu đậm thêm ḷng cảm xúc.

            Phương pháp đem ra dạy chúng ta là phương pháp hợp nhất, ấy là con đường mà kẻ Đệ Tử phải ứng đáp với tất cả những tiếng kêu đau thương như trong quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” đă nhấn mạnh. Đệ Tử không được thu hẹp mà phải cố phát triển đời sống ḿnh. Y phải tùng phục Luật Trời không  được chống lại, tự nhiên, lúc bấy giờ, Luật Trời sẽ đứng một bên y.

            Phương pháp của Đệ Tử nhắc ta nhớ đến cách đấu vật của Nhựt Bổn và trong cuộc chiến đấu ấy, người thắng trận nhờ biết khéo nhượng tay cho kẻ nghịch. Y cứ nhượng và măi nhượng cho đến lúc nguy cấp, mới làm một cử động bắt buộc  đối thủ phải dùng sức và chính sức ấy trở lại hại đối thủ. Ấy là đúng theo nguyên tắc về đạo pháp Yoga bên Chánh Đạo. Đức Krishna nói về đạo pháp Yoga trong quyển “Thánh Ca” (Bhagavad Gita) như vầy: “Theo đó, không phí sức, không phạm pháp.”

            C.W.L.- Có nhiều người, khi nghe lời dạy bảo phải diệt sự ham muốn bắt đầu công kích dữ dội và muốn diệt tánh xấu nào, họ dùng toàn lực chống lại, gần như là tức giận lắm. Do đó, kết quả là họ khiêu khích sức đề kháng hung tợn nhứt trong tất cả những lực lượng nghịch bên trong hoặc bên ngoài. Một cuộc chiến đấu nghiêm trọng, v́ thế, bắt đầu.

            Người có đầy đủ ư chí, chung cuộc cũng đem được thắng lợi cho ḿnh, nhưng lắm lúc v́ phí nhiều sức lực, tinh lực và trí lực mà bị kiệt quệ và ṃn mỏi.

            Tôi có thể quả quyết rằng phương pháp thay thế rất hiệu nghiệm. Tôi đă thử áp dụng hai phương  pháp đó, ấy là một lối vơ Nhu Thuật (Ju Jutsu) tinh thần lợi dụng sức mạnh của đối phương để giúp ḿnh. Anh ít tấn công kẻ nghịch hơn là tập trung tất cả sức chú ư của anh vào đức tánh đối lập. Nếu, thí dụ một người kia có tánh lau chau và  hay nổi nóng, Y không nên công kích ngay tánh  xấu đó mà phải luôn luôn chú định tư tưởng của ḿnh vào sự điềm tĩnh, an lạc và nhẫn nại. Nhờ thói quen mà tư tưởng nầy, sớm muộn ǵ, cũng sẽ trụ lại được. Y sẽ nhận thấy rằng tánh lau chau và sự thiếu b́nh tĩnh xưa kia đă tiêu mất, không chống lại một cách thất vọng nữa.

            Nếu Y cứ bao bọc chung quanh ḿnh những h́nh tư tưởng: “Đừng nóng giận,” . . . th́  màu sắc của h́nh tư tưởng ấy luôn luôn là màu sắc của sự nóng giận và Y lại bị phản ứng xấu xa của h́nh tư tưởng ấy nữa.

            Nhưng, nếu Y tưởng mạnh mẽ như vầy: “Hăy điềm tĩnh, tử tế, an lạc” nó liền phát sanh những lằn rung động thuận lợi và những lằn rung động ấy, tự nó, đem lại sự b́nh tĩnh và sự điều ḥa.

            Chúng tôi không muốn lấy một tật xấu để chống lại một tật xấu. Chúng tôi muốn, không biết đến tật xấu nào cả và chỉ muốn khai triển đức tánh tốt đối lập. Kết quả cũng sẽ tốt đẹp như vậy, và chúng tôi sẽ đạt kết quả không có ǵ khó nhọc lắm.

            Chúng ta nói: “Hăy diệt ḷng ham muốn” chớ không phải bảo: “Hăy diệt t́nh cảm.” Những t́nh cảm thanh cao luôn luôn được khuyến khích, càng mạnh càng tốt, nhứt là về t́nh thương chân thật và ḷng sùng tín càng nên đào luyện cho có phương pháp.

            Khi trong ḷng một người phát sinh loại t́nh cảm thanh cao nầy, hào quang của Y liền nở lớn ra. Thể Vía của Y, trong trường hợp của một người thường, có thể chiếm một thể tích mười lần lớn hơn lúc b́nh thường và càng nở lớn hơn nữa khi con người biết dùng những Thể cao siêu của ḿnh.

            Khi thời kỳ nẩy nở cực độ của t́nh cảm chấm dứt, hào quang thu nhỏ trở lại, không như hồi trước, bây giờ lại to lớn hơn xưa chút ít nhờ nó vừa mới phát nở ra.

            Sự nẩy  nở nầy đưa đến kết quả đầu tiên là chất khí của Thể Vía kém đi rất nhiều, nhưng Thể Vía rút thật nhanh chất Thanh Khí lấp đầy khoảng mới nở lớn thêm ra và lấy lại gần đúng mức độ thường lệ của nó.

            Thể Vía rất cần thiết, nó giúp ta gây thiện cảm với kẻ khác, hơn nữa, nó dùng làm tấm gương cho Kim Thân (Thể Bồ Đề) rọi xuống. Ở nơi người tiến hóa cao, những màu sắc duy nhứt lộ ra trong Thể Vía là phản ảnh của các cảnh giới cao siêu. Thể Vía chỉ phản chiếu và phô bày những màu sắc tốt đẹp  nhứt mà thôi.

            Chơn Nhơn có ba cách giao thông với Phàm Nhơn. Thượng Trí phản chiếu xuống Hạ Trí. Kim Thân hay là Thể Trực Giác phản chiếu xuống cơi thấp kế bên là Thể Vía. Giữa Tiên Thể và óc xác thịt cũng có sự liên quan với nhau. Mối liên quan nầy là một điều rất khó hiểu nhứt. Đây là sức mạnh phi thường của ư chí biểu lộ, không cần nghĩ đến phương tiện để đạt tới mục đích. Ấy là phương pháp Cung thứ  Nhứt, Cung của Bà Annie Besant, Bà có một năng lực to lớn quyết định làm không cần nghĩ đến phương tiện đem ra thi hành, điều đó Bà sẽ nghĩ sau. Giới hạn của ư chí con người không biết đến đâu là cùng. Người ta bảo đức tin có sức dời non lấp bể. Tôi không biết rơ sự ích lợi đặc biệt của đức tin nầy sẽ đem lại ǵ cho con người, nhưng quả thật tôi thấy những kết quả phi thường do ư chí con người tạo ra không biết đâu là bờ bến.

            Chỉ có ư chí mà thôi, nhứt là trên những cảnh giới cao siêu, ư chí tạo ra nhiều kết quả không thể tưởng tượng được. Thí dụ, khi tôi nghiên cứu cách hiện h́nh, tôi phải học cho đúng cách thức thực hiện sự hiện h́nh ấy, theo như phương pháp tôi đem ra áp dụng, công việc đó hơi phiền phức cần có một sức hiểu biết khá chính xác về những chất khí khác hợp nhau lại và sắp xếp cho có thứ lớp những chất khí ấy một cách khéo léo.

            Thế mà, tôi được biết một người hoàn toàn không hiểu chi về tất cả những điều nói trên đây, nhưng nhờ có một ư chí mạnh mẽ vô cùng mà Y hiện h́nh được tức khắc khỏi phải hợp lại tất cả các yếu tố khác nhau cần thiết cho sự  hiện h́nh đó, không cần biết phương pháp phải theo.

            Một ư chí hùng mạnh vừa nói trên là một trong những năng lực tiềm tàng ở trong người của chúng ta, nhưng rất ít ai biểu lộ được ư chí ấy hầu tạo nên một kết quả phi thường như thế, khỏi phải mất công phu nhiều năm chuyên cần học tập.

            Thường thường, tôi tưởng cách giao thông dễ dàng hơn hết với Chơn Nhơn là hợp nhất Thượng Trí với Hạ Trí, đi từ tư tưởng cụ thể đến tư tưởng trừu tượng, hay là đi từ phân tích đến tổng hợp.

            Tuy nhiên, tôi thấy có nhiều trường hợp Bồ Đề Tâm phát hiện nhưng không làm rối loạn mối giao thông  thường lệ giữa Hạ Trí và Thượng Trí.

            Tôi nhờ một Đấng Cao Cả  dạy cho biết rằng sự hợp nhất giữa Kim Thân và Thể Vía là một con đường giao thông ngắn nhứt, nhưng muốn có đủ khả năng thực hiện sự hợp nhứt ấy cần phải chịu nhiều đau khổ ở những tiền kiếp. Nhờ cố gắng mở rộng ḷng bác ái và sùng tín mà nhiều người đem ḿnh vượt cao lên đến Cơi Bồ Đề và hợp nhất với Kim Thân. Tuy nhiên, Hạ Trí của họ chưa tiến đến thời kỳ có thể phát triển tới tŕnh độ hợp tác được với Thượng Trí và chính Thượng Trí, tự  nó, cũng chưa được  mở mang. Khỏi phải nói, ta cũng biết rằng Thượng Trí và Hạ Trí đều cần phải được khai triển v́ lư do hai Thể ấy không phải là kém quan trọng.

            Từ Thể Vía mà kẻ chí nguyện tác động đến Hạ Trí và v́ có ḷng bác ái và sùng tín mà nó sẽ rán sức khai triển Hạ Trí và học hỏi tất cả những điều ǵ phải học hỏi. Đệ Tử có một tấm ḷng thương yêu thâm thúy đối với Đức Sư Phụ ḿnh nên y sẽ  cố gắng đạt được sự hiểu biết mong muốn và do đó, càng cần thiết bao nhiêu th́ y càng mở mang trí thức của y bấy  nhiêu hầu để phụng sự Ngài.

            Trên Cảnh Giới cao siêu, Đệ Tử cũng cảm đến  Nhân Thể (Thể Thượng Trí). Y truyền xuống Nhân Thể ư thức Bồ Đề và bắt buộc Nhân Thể tiếp nhận sự hiểu biết đó trong phạm vi mà thể nầy đủ  năng lực lănh hội tùy theo phương tiện của nó.

            1.- Hăy diệt ḷng tham vọng.

            A.B.- Giờ đây chúng ta bắt qua qui tắc thứ nhứt đặc biệt đối với ḷng tham vọng. Người chưa tiến hóa phải chịu bất lực dưới quyền lệ thuộc gắt gao của sức quyến rủ của vật dục. Nó muốn cho được sung sướng tấm thân và hưởng những khoái lạc của xác thịt.

            Trước khi Thể Trí chưa thật khai triển rộng lớn và các năng lực trí thức chưa đủ sức mạnh, nó không sanh ḷng tham vọng hay là không có ư muốn quyền thế. Cái âm điệu riêng của cá nhân chính là âm điệu của trí tuệ, nó lại tạo cho con người có ư thức là ḿnh riêng biệt với kẻ khác, lẽ dĩ nhiên nó dắt con người đến việc ham muốn sử dụng quyền thế, hầu con người nhờ ư muốn ấy mà củng cố đời sống riêng biệt của nó. Y cảm  thấy ḿnh cao thượng hơn mọi người chung quanh, điều nầy phô diễn ra bằng sự ham muốn quyền thống trị về mặt vật chất, do đó mới toan t́m kiếm và sử dụng quyền hành chánh trị và xă hội.

            Trong địa hạt chánh trị và xă hội, ḷng tham vọng là động lực lớn v́ con người nhờ trí khôn của ḿnh gây được ảnh hưởng giữa đồng loại và xuất hiện như là một vị lănh tụ, đây cũng như là một thứ hương thơm xông lên mũi con người kiêu căng và ngạo mạn.

            Kế đó, con người bắt đầu khinh thường quyền thế bên ngoài mà y dùng để áp chế đồng loại ḿnh. Y lư hội được ư  niệm của một thứ quyền thế tinh vi hơn mà y t́m cách đạt cho được. Nó không c̣n nghĩ đến cách quy định luật pháp nhờ sự thống trị h́nh thể. Ḷng tham vọng của y tinh vi hơn: Y muốn thống trị và chỉ huy những bực trí thức – đó là ḷng tham vọng về trí thức – ḷng ham muốn trở nên là một nhà lănh tụ trí thức. Muốn có ḷng tham vọng như thế phải là người được khai mở về mặt trí thức rất cao.

            Về sau, khi ư muốn nói trên, không hợp thời nữa, ḷng tham vọng lại xuất hiện dưới một h́nh thức tinh vi  hơn, trong lúc con người bước qua đời sống tinh thần. Anh cho rằng những bước tiến bộ về tinh thần của anh vốn do chính anh thực hiện được và thực hiện cho anh. Chính anh muốn tăng trưởng, hiểu biết và tiến bộ. Kỳ thật, ḷng tham vọng xưa vẫn c̣n nắm giữ lấy anh, nó càng trở nên nguy hiểm hơn khi mà nó cao siêu hơn và tinh vi hơn.

            V́ lẽ ấy trong lời chú thích bổ di cho câu cách ngôn, Đức Chơn Sư có phụ thêm mấy lời tuyên bố đặc sắc nầy: “Người nghệ sĩ chân thành làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật, đôi khi thành thật bước vào con đường ngay chánh hơn là Nhà Huyền Bí Học tưởng rằng ḿnh không c̣n tham luyến cái ǵ cho bản thân ḿnh  nữa, nhưng, kỳ thật anh chỉ  nới rộng giới hạn của sự kinh nghiệm và sự ham muốn và đem quyền lợi của anh đặt lên trên những vật mà chân trời mở rộng của đời sống anh cung hiến cho anh.”

            Nếu Nhà Huyền Bí Học không hạn định sự ham muốn của ḿnh trong kiếp sống hiện tại, ḷng tham vọng của anh rất có thể c̣n sống sót. Anh không tha thiết làm một Nhà Lập Pháp hoặc làm một Vị Đế Vương hay là một Viên Trọng Tài trong địa hạt trí thức nữa, mà lại muốn chiếm một địa vị cao cả trong giới tinh thần. Anh nghiệm thấy rằng những kiếp luân hồi liên tiếp chỉ là một kiếp sống thôi và ḷng tham vọng của anh bao hàm tất cả thời gian của đời sống kéo dài nầy. Anh cũng c̣n muốn được cho là người đứng đầu, sống biệt lập và thành cái ǵ mà những kẻ khác không thành được. Ḷng ham muốn nầy cũng cần phải diệt trừ.

            Điều trước nhứt để khuyên nhủ những kẻ nào có ước vọng chia sớt đời sống đại đồng là phải diệt yếu tố chia rẽ. Tuy nhiên, không ích lợi ǵ mà đem đặt một lư tưởng như thế dưới mắt của người thường, v́ họ không đủ khả năng lao ḿnh liền từ đời sống Trần Tục nầy vào đời sống tinh thần, nơi đây họ sẽ hoạt động mà không thực hành điều chi cho bản ngă hay là cá nhân ḿnh. Nếu anh bảo một người thường hăy diệt ḷng tham vọng và kể như Y đem thực hành lời nói ấy th́ sẽ thấy không ích lợi ǵ. Y sẽ sanh tật lười biếng và không làm việc ǵ hết.

            Thí dụ, một người kia tiến hóa hơn và đang đi trên con đường Nhập Môn, anh sẽ hiểu qui tắc về ḷng tham vọng đó như thế nào?

            Anh sẽ áp dụng một cách  rất khôn ngoan danh từ diệt theo h́nh thức thấp thỏi của ḷng tham vọng. Sự thật anh phải xem chữ diệt ấy như là đồng nghĩa với sự thay đổi. Trong khi dứt ḷng ham muốn những vật ở Trần Gian, anh phải trù tính một mục đích cao cả hơn cho xứng với ḷng tham vọng của anh: Ấy là ḷng ham muốn học hỏi và tăng trưởng về tinh thần. Đến tŕnh độ nầy con người cũng chưa hoàn toàn cởi bỏ được ḷng tham vọng. Anh bước qua một t́nh trạng trung gian và sẽ tiến bộ rất nhiều, nếu mục đích của anh là đạt cho được sự hiểu biết tinh thần, hạnh ngộ Chơn Sư và sau rốt chính ḿnh anh thành một Đức Thầy (thành Chánh Quả). [2]

            Kỳ thật, tất cả những điều ham muốn trên đây cũng c̣n là tham vọng, nhưng chúng nó sẽ giúp kẻ Nhập Môn loại bỏ nhiều chướng ngại làm tê liệt Phàm Nhơn.

            Ḷng tham vọng nầy mà vị Đệ Tử phải lo diệt trừ không phải là không hữu ích cho y trong cuộc tiến hóa trước đây, v́ nhờ có ḷng tham vọng mà cá nhân y được củng cố và định h́nh.

            Trong những giai đoạn đầu tiên, con người mở mang nhờ y sống biệt lập. Sự tiến hóa của Thể Xác và Thể Trí bắt buộc phải tranh thủ và chiến đấu. Tất cả mọi giai đoạn của sự chiến đấu và tranh đua ấy có sự hữu ích của nó trong việc cấu tạo cá tánh và tạo cho y một sức mạnh cần thiết để duy tŕ trung tâm điểm của nó. Cần cho nó một chỗ trú ẩn để che chở những loạt tấn công bên ngoài, mà nhờ ở trong đó nó mới có thể phát triển được sức mạnh của nó và cũng cần cho nó những thắng lợi vinh quang của cảnh phù hoa thế sự, mục tiêu của ḷng tham vọng. Cũng như muốn cất nhà phải dùng dàn tṛ. Mới đầu, ḷng tham vọng dùng được nhiều việc: Dựng lên những bức tường và làm cho chúng được kiên cố hơn, tăng cường nghị lực, giúp đỡ con người, từ bước một, trong những bước tiến thủ của nó. Người nào mà ḷng tham vọng chiếm phần ưu thế cũng bóp nghẹt sự ham muốn ái ân và nhiều tật xấu khác, bởi v́ chúng nó làm trở ngại sự phát triển tinh thần và sự thủ đắc quyền năng. Như thế, con người chế ngự được những dục vọng thấp hèn của ḿnh.

            Huynh không nên bảo người đời: “Hăy diệt ḷng tham vọng,” bởi v́ ḷng tham vọng kích thích y và làm cho những tánh t́nh của y hiện ra, nhưng khi làm Đệ Tử rồi con người phải tiến đến đời sống tinh thần, y phải đạp đổ bức tường bao quanh ḿnh y trong những giai đoạn xưa kia. Khi nhà kiến tạo xong, dàn tṛ phải phá bỏ, cũng thế, sự tiến  hóa sau nầy của nhân loại là làm sao cho những bức tường ấy trong suốt, hầu tất cả sự sống nào cũng có thể xuyên qua được. V́ thế, những qui tắc nầy để cho Đệ Tử chớ không phải cho người ngoài đời.

            C.W.L.- Nơi người chưa tiến hóa ḷng tham vọng biểu lộ, thí dụ, như ham muốn của cải hầu thỏa măn ư muốn được sung sướng và những sự khoái lạc của xác thân. Về sau, khi trí tuệ mở mang, con người lại ham muốn quyền tước. Dù con người đă vượt cao lên trên ḷng tham vọng và sức quyến rủ của cơi đời nầy và t́nh nguyện làm việc giúp đỡ chúng sanh thường khi y cũng c̣n ḷng tham vọng muốn trông thấy kết quả những sự cố gắng của ḿnh.

            Nhiều người rất sẵn ḷng và rất đúng đắn dùng th́ giờ của ḿnh để làm việc phải, nhưng họ lại thích cho những kẻ khác biết và nói tốt cho họ như    vầy: “Thật mấy ông đó nhân đức và hữu ích quá.”

            Ấy cũng c̣n là ḷng tham vọng, có lẽ nhẹ hơn nhiều tánh khác, tuy đó là ḷng tham vọng riêng biệt của cá nhân, nhưng tất cả điều ǵ riêng biệt của cá nhân sẽ làm chậm bước người Đệ Tử.

            Phàm Nhơn phải hoàn toàn bị tiêu diệt. Đây là việc làm khó khăn v́ rễ đă ăn rất sâu, khi rễ ấy bị bứng lên con người chảy máu và h́nh như chính quả tim bị cắt đứt đi.

            Sau khi diệt được ư muốn thấy kết quả công việc của ḿnh làm, chúng ta hăy c̣n có ư muốn thấy việc làm đó được ban thưởng một cách trọng hậu. Có lẽ chúng ta c̣n tham muốn t́nh thương; chúng ta mong được thiên hạ hoan nghinh. Đắc nhân tâm, được thiên hạ yêu mến ḿnh là điều tốt đẹp và hữu ích, nhờ đó thế lực mà người sẵn có lại tăng gia. Nó giúp cho con người hoàn thành được nhiều công việc mà anh  không thể làm nếu không có chuyện đắc nhân tâm và nó cũng bao bọc quanh ḿnh một lớp không khí êm đềm khiến cho mọi thứ công tác đều dễ dàng.

            Nhưng ư muốn được ḷng dân chúng, nếu có tánh cách tham vọng th́ ta cũng nên tránh xa. Nói một cách hợp lư, chúng ta có thể nếm hạnh phúc của chúng ta nếu t́nh thương đến với chúng ta; điều đó tốt đẹp và chánh đáng – ấy là quả lành. Nhưng nếu t́nh thương quay đi chỗ khác th́ đừng mơ ước nó.Chúng ta không thể chụp lấy một người nào và  nói với họ rằng: “Tôi bảo anh phải thương tôi, tôi bảo anh phải thích tôi.” Nếu kẻ đối thoại sẵn ḷng, y sẽ thi hành theo lời ta, bằng như y không chịu ta không có ǵ xấu hơn là muốn bắt buộc người.

            Chúng ta phải vượt lên trên tất cả mọi giai đoạn của ḷng tham vọng c̣n tồn tại trong cơi thế gian nầy. Chúng ta phải cho v́ ḷng vui thích cho, dù là công việc của ta, dù là của bố thí là của chúng ta, dù là t́nh thương là của chúng ta hoặc là ḷng sùng tín là của chúng ta, luôn luôn cứ cho ra một cách rộng răi với tấm ḷng vui vẻ, thành thật, không hề nghĩ đến một sự ban thưởng nào.

            Đó mới thật là t́nh thương chân thật, chớ không phải là người không ngớt tự hỏi rằng: “Người đó thương tôi đến bực nào?” Trái lại phải nói: “Làm sao đem đặt dưới chân người tôi thương trọn vẹn tấm thân tôi để cung hiến cho người? Làm sao giúp ích cho người? Làm cái ǵ cho người đây?”

            Chỉ có t́nh thương duy nhứt ấy mới xứng đáng mang cái danh từ tốt đẹp là t́nh thương. Tất cả những điều trên đây, chúng ta đều hiểu biết rành mạch, nhưng cần phải đem nó ra thực hành. Dường như điều nầy đôi khi cũng khó khăn, v́ c̣n cần phải loại trừ một phần c̣n lại của bản ngă thấp hèn (Phàm Nhơn).

            Đối với người thường, có lẽ cũng như đối với người bước gần đến Thánh Đạo, tôi tưởng, tốt hơn là chỉ rơ đến một điểm nào đó và nói rằng: “Hăy diệt ḷng tham vọng thấp hèn.” Không ai đưa cho một người tân tín đồ một kiểu mẫu hạnh kiểm mà y có thể mong mỏi trau sửa tâm tánh theo đó sau nhiều năm cố công, gắng sức. Một người đang bị ḷng ham muốn những sự phù hoa kích thích, làm sao hy vọng cho y loại bỏ tất cả những thứ đó nếu không có cái ǵ khác thay thế ngay. Vả lại, dù y dứt  ḷng tham vọng đó, cũng không có cái chi chứng tỏ rằng một sự thay đổi quá đột ngột như thế tỏ ra thuận lợi cho y. Trước nhứt y phải biến đổi ḷng tham vọng của y, y có thể tùy ư thích như ham muốn học hỏi, tiến bộ trên con đường Huyền Bí Học, mở rộng ḷng vị tha; sau cùng, y có thể ước nguyện đến gần Đức Chơn Sư và được thu nhận vào hàng Đệ Tử.

            Hầu hết cả thảy chúng ta đều có những ham muốn như thế mà chúng ta gọi là nguyện vọng. Sự thay đổi danh từ, có vẻ như thay đổi toàn diện thái độ của chúng ta, nhưng dĩ nhiên, đó luôn luôn là ḷng tham vọng. Chúng ta sẽ tiến đến tŕnh độ mà những ham muốn đó tự chúng nó sẽ tiêu tan mất, bởi v́ chừng đó chúng ta sẽ hoàn toàn chắc chắn rằng sự tiến bộ của chúng ta chỉ tùy thuộc riêng nơi sự nỗ lực của chúng ta mà thôi, từ đó chúng ta sẽ không c̣n ham muốn chi cả. Đức Chơn Sư một ngày kia có nói rằng: “Đừng ham muốn cái ǵ hết, v́ ḷng ham muốn cũng c̣n yếu ớt, phải cả quyết.” Khi tưởng đến một đức tánh nào mà con t́m cách mở mang, con không nên nói: “Tôi sẽ mong có đức tánh ấy.” Phải nói rằng: “Tôi muốn có đức tánh ấy.” Và hăy làm cách nào đạt cho  được nó. Chỉ có phương pháp thực hành theo cách đó, v́ lẽ chúng ta được hoàn toàn tự do trong sự cố gắng hoặc không cố gắng. Chúng ta có quyền chọn lựa.

            Trước hết, là vấn đề biến đổi. Ḷng ham muốn tăng trưởng về tinh thần là một trong những sự ham muốn mà những người đến gần Thánh Đạo không nên tự khuyến khích lấy ḿnh, nhưng trong giai đoạn trung gian đó là lẽ tự nhiên.

            Là sinh viên, chúng ta sẽ phải đến giai đoạn trong đó chúng ta vận dụng tất cả tinh lực của chúng ta để giúp đỡ đồng loại của ḿnh và coi sự tiến hóa tinh thần của chúng ta như là điều phụ thuộc.

            Trước nhứt một lư do riêng tư là cần thiết. Kế đó, con người tiến lần lần đến sự quên ḿnh, chính v́ Đức Sư Phụ và muốn làm đẹp ḷng Ngài mà y cầu mong được tiến bộ; sau rốt, y tập làm một vận hà hữu ích cho đời, không màng kết quả. V́ vậy, phải hết sức thận trọng không cho điều ǵ ở bản thân ḿnh ngăn cản không cho nó biểu hiện đời sống thiêng liêng và biểu hiện không sai lạc chừng nào càng tốt chừng nấy. Và sự biểu hiện đó không làm xáo trộn sự an tịnh của nó. Không mong mỏi sức mạnh của nó được đem ra dùng cách nầy hoặc cách khác, nó chỉ là một khí cụ ở trong tay Đức Thượng Đế, Ngài sẽ dùng  nó cách nào và đặt nó ở nơi nào tùy Ngài thích.

            Lẽ tự nhiên chỉ lần hồi chúng ta có thể đạt thái độ đó, nhưng phải coi nó như là khuynh hướng của tư tưởng đáng t́m kiếm. Chúng ta phải bắt đầu quên ḿnh và kỹ lưỡng nhổ tận gốc bản ngă. Chúng ta không đạt được sự tiến bộ mà chúng ta đă hoạch đắc sau nhiều năm suy gẫm và học hỏi ư? Những kẻ thọ ân ta mà vẫn không tỏ ư ǵ biết ân, như trường hợp thường thấy? Tất cả những điều nầy không quan trọng. Hăy quên ḿnh, làm việc đừng nghĩ đến sự ban thưởng. Đừng lo sợ, v́ Quả Báo sẽ lănh phần thưởng phạt. Những định luật vĩ đại của Vũ Trụ sẽ không mất sự bất di bất dịch của nó, làm tổn thương một cách bất công bất cứ người nào trong chúng ta. Hăy vững niềm tin chắc như vậy. Những định luật ấy cầm cân công b́nh và hành động không hề sai lạc, dù là chậm. Hăy quên ḿnh; ấy là lời khuyên nhủ đầu tiên mà cũng là lời khuyên nhủ cuối cùng trên con đường Huyền Bí Học – ngoài ra không có phương pháp nào khác. Công việc nầy có vẻ quá nặng nhọc, nhưng phải làm cho xong và  trọn vẹn.

            Giờ đây, chúng ta đă đến câu chú thích thứ nhứt của Đức Chơn Sư Hilarion bổ di cho qui tắc thứ nhứt mà chúng tôi sẽ khảo cứu từng chi tiết. Khởi đầu bằng những ḍng chữ sau đây:

            Ḷng tham vọng là nỗi đau khổ đầu tiên của chúng ta, nó là tên cám dỗ đại tài của con người vượt cao trên đồng loại ḿnh. Chính h́nh thức đơn giản nhứt của nó là t́m kiếm sự ban thưởng.

            Ư niệm  nầy được diễn tả bằng những danh từ lạ lùng, nhưng vẫn đúng và không thể ngờ vực. Khi một người tự thấy ḿnh cao hơn  đồng loại về vài phương diện, sự cám dỗ đầu tiên thử thách y là tự coi ḿnh như một nhân vật quan trọng, điều nầy lại càng thúc đẩy y lên cao hơn nữa để t́m một sự khoái lạc càng tăng gia thêm trong sự kiêu hănh của y.

            Luôn luôn nó đổi chiều hướng những mục đích cao thượng nhứt của những người thông minh và có giá trị.

            Phải mở Thần Nhăn mới biết những lời nói trên đúng tới bực nào. Tôi tưởng rằng những môn đồ của các Đấng Chơn Sư đều có thói quen xem xét khả năng của tất cả những người mà họ gặp có thể trở nên những Đệ Tử. Ḱa là một người tốt thật, xét về vài phương diện. Tư tưởng đầu tiên anh gợi trong đầu chúng ta là: “Độ c̣n bao lâu nữa anh đến mức có thể trở thành Đệ Tử của Chơn Sư.” Đối với chúng ta sự ban thưởng trọng hậu nhứt, sự tiến bộ quí báu nhứt có thể ban cho một người là khi y đến tŕnh độ xứng đáng được một trong các Đấng Siêu Nhân nắm tay d́u dắt, được vậy bước đường tiến hóa tương lai của y có thể được bảo đảm. Từ đó, sự thành công chỉ là vấn đề của thời gian và lẽ tự nhiên cũng nhờ sự kiên tâm tŕ chí và của công phu khó nhọc.

            Đối với mỗi người, sự tiến bộ có lẽ chỉ là vấn đề thông thường của thời gian thôi, nhưng đối với đa số đó là một thời gian kéo dài khiến họ có thể bị nhập chung vào một khối và được đăi  ngộ như một toàn  thể. Khi con người tiến đến tŕnh độ mà người ta nghĩ rằng một vị Chơn Sư có thể săn sóc và d́u dắt các môn đệ của Ngài đặc biệt chú ư đến y và họ luôn luôn có ư muốn giúp đỡ y tiến đến điểm có thể thực hiện được sự tiếp xúc.

            Đừng bao giờ quên rằng: “Đây là điều mà chỉ con người xứng đáng mới được thọ lănh chớ không hề có sự thiên vị nào cả.” V́ đối với Đức Chơn Sư nếu đáng ra công khó nhọc dùng tinh lực cần thiết để huấn luyện một người nào,  Chơn Sư sẽ thực hiện ngay, nhưng với điều kiện là nhờ người Đệ Tử nầy mà Ngài đạt được một kết quả cao  hơn kết quả, cũng do thứ tinh lực đó, dùng vào một  công việc khác.

            Chúng tôi gặp nhiều người dường như không xa bao nhiêu điểm nầy, họ rất có thiện tâm cách nầy hay cách khác. Vài người, ở tất cả mọi phương diện, đều tỏ ra có nhiều triển vọng và theo ư chúng tôi tưởng, nếu họ biết cách điều khiển tinh lực của họ chín chắn hơn chút nữa trong chiều hướng tốt đẹp, họ sẽ có thể  sẵn sàng được thu nhận vào hàng Đệ Tử. Sau đó, chúng tôi lại thất vọng khi biết rằng việc đó không thành và họ vẫn sống một cuộc đời thường tục.

            Tôi đặc biệt nhận xét điều đó ở những trẻ em nam, nữ mà tôi luôn luôn có bổn phận t́m kiếm trong đám những em tỏ ra có nhiều kỳ vọng. Có lắm em rất gần điểm đủ năng lực thực hiện sự tiến bộ nầy nếu tinh lực các em được điều khiển vào đường ngay chánh, thế mà các em vẫn không chụp lấy cơ hội. Mảng tranh đua cao thấp trong cuộc sống thường ở Học Đường, các em bước vào một thế giới mà nơi đó tư tưởng thấp hèn ngự trị, không phải tư tưởng nầy xấu – tôi không muốn nói như thế, mặc dù đôi khi tư tưởng ấy cũng có thể xấu thật – nhưng mà các em bị lôi cuốn trong một thứ gió lốc do những  tư tưởng tương đối thấp kém thật. Thường thường mục đích trù định cho các em là thành công về vật chất như trở nên đại Kỹ Sư, đại Luật Gia hay là thành công trong sự điều khiển một xí nghiệp.

            Chẳng những cha mẹ, anh em mong mỏi được thấy con ḿnh đeo đuổi theo một chức nghiệp ở trần gian, khuynh hướng chung của dư luận người đời cũng muốn cho chúng nó được như thế. Dĩ nhiên, khó mà tránh khỏi hiệu lực của dư luận quần chúng không ngớt tác động đủ mọi cách vào đời sống của ta, và v́ thế, những trẻ em nầy dường  như tập hợp được nhiều đức tánh cần thiết nhưng ít khi đạt được mục đích cao cả. Chính chúng nó thích chức nghiệp có giá trị và hữu ích, nhưng đó không phải là mục đích cao cả.

            Tôi đă theo dơi và khảo cứu nhiều trường hợp dường như cho tôi nhiều niềm hy vọng đặc biệt và tôi nhận thấy rằng cũng cùng một việc như thế  xảy ra cho nhiều Linh Hồn trong một số kiếp luân hồi. Trong 12 hoặc 20 kiếp, chúng nó thu thập được hầu hết những đức tánh mong muốn, nếu cố gắng thêm một chút nữa chúng nó sẽ bước tới cửa Đạo, nhưng mỗi lần như vậy chúng nó quay ḿnh  đi chỗ khác và tóm lại, chính cũng luôn luôn v́ ḷng tham vọng những sự vật Hồng Trần làm chúng nó mất những  khả năng cao cả.

            Khi nói rằng những bực thông minh và có giá trị luôn luôn thay đổi chiều hướng, không theo  những mục đích cao thượng nhứt của họ, h́nh như Đức Chơn Sư Hilarion đă có nghĩ đến nhiều thí dụ tương tự như trước đây, bởi v́ những người mà những mục đích cao siêu mở ra trước mắt phải là những bực thông minh và có giá trị chớ không phải kẻ tầm thường. Ngài không nói rằng ḷng tham vọng giết hại cuộc đời của họ, Ngài chỉ nói có những khả năng cao thượng để cung hiến cho những kẻ bị ḷng tham vọng làm mê muội, lầm đường lạc lối. Thật vậy, một đứa trẻ muốn trở nên một Kỹ Sư, một Luật Gia hay là một Y Sĩ đại tài cũng không phải điều xấu, đó là những chức nghiệp tốt đẹp, nhưng hăy c̣n những mục đích  khác hữu ích hơn nữa và nếu có thể phân biệt và lựa chọn trong mấy mục đích ấy, chắc chắn rất tốt cho nó. Chúng tôi không thể nói rằng tất cả mọi hoạt động ở Thế Gian nầy đều xấu, nhưng chỉ nói có những hoạt động cao quí nhất mà thôi. Người ta có thể thích những hoạt động cao quí nhất đó mà không quên những chức nghiệp và giá trị của chúng ở tại Thế Gian. Tôi muốn nói rằng phần đông những người có giáo dục, có năng lực bậc trung sẽ có thể thành công trong các chức nghiệp đó, hoặc nhiều, hoặc ít, nhưng chỉ có những người nào có một quá khứ về phương diện thần bí mới có thể theo đuổi và thành công trên đường chật hẹp và khó khăn của kỹ luật Huyền Bí Học. Những kẻ theo dơi con đường nầy có thể làm được nhiều việc tốt đẹp hơn  những vị đại diện ưu tú nhất của một nghề nào đó. V́ vậy, nếu một đứa trẻ muốn theo con đường Huyền Bí Học và nếu tất cả mọi việc đều làm cho ta có ư nghĩ rằng nó có khả năng làm được th́ bất cứ ai cũng không nên cản trở nguyện vọng của nó.

            Và, tuy nhiên nó [3] là một ông thầy cần thiết. Những kết quả của nó trong miệng biến thành tro bụi. Cũng như sự chết và sự tan ră, cuối cùng nhắc nhở con người biết rằng làm việc cho bản ngă ḿnh tức là rước lấy sự thất vọng.

            Người muốn đạt cho được điều ham muốn nhiệt liệt từ lâu, về sau sẽ thường thấy rằng việc ấy hoàn toàn không phải là điều của y mong mỏi. Những ai ham muốn quyền thế và những địa vị cao sang đều nhận thấy rằng quyền thế một phần lớn là hăo huyền, tư bề đều bị hạn chế. Đó là trường hợp của nguyên lăo Nghị Sĩ Beaconsfield đă kể qua. Có lẽ chính khách nầy sẽ làm được nhiều việc lành hơn, bằng cách đem tất cả tinh lực của ḿnh để khảo cứu và truyền bá Huyền Bí Học. Tác phẩm của người nầy nay ít ai đọc, nhưng nội dung cho ta thấy được kiến thức của người về Huyền Bí Học như quyển tiểu thuyết kỳ dị của người viết nhan đề là Alroyd.

            Nhưng, mặc dù qui tắc thứ nhứt nầy xem như tầm thường và quá dễ dàng đi nữa, con cũng đừng vội vàng sang qua câu kế tiếp, bởi v́ những tật xấu của con người thường biến đổi một cách tinh vi và hiện ra dưới một h́nh thức khác trong tâm của người Đệ Tử.

            Người Đệ Tử bị những sự cám dỗ, những sự khó khăn đặc biệt. Người thường có thể kiêu hănh về kết quả nào đó đă đạt được. Đệ Tử Chơn Sư hiểu rơ rằng không có sự tiến bộ nào cho phép y được quyền kiêu căng phách lối. Vả lại, khi đă biết được Đấng Chơn Sư, ḷng kiêu hănh khó mà phát sinh, bởi v́ người thật biết Ngài không c̣n khoe ḿnh nữa. Có lẽ y có đủ khả năng thi hành nhiều việc mà kẻ khác không làm nổi, phần khác là lẽ đương nhiên, v́ cuộc đời đưa đẩy y luôn luôn hội kiến với một hay nhiều vị Huynh Trưởng có thể hoàn thành công việc vô cùng khéo léo hơn y, v́ vậy phải công b́nh nói rằng ít khi gặp những Đệ Tử Chơn Sư có tánh kiêu hănh. Đồng thời, tất cả điều nói trên đây thật hết sức tinh vi. Người Đệ Tử nếu không đề pḥng sẽ nhận thấy ḿnh cũng c̣n hănh diện cho rằng ḿnh không có ḷng kiêu hănh; hănh diện cho rằng ḿnh ăn ở khiêm tốn, dẫu rằng y có thể làm, tưởng và nói những điều phi thường. Hoặc giả, y có thể, ướm thử tiến lên hàng đầu bằng cách thúc đẩy người nầy, lấn người kia, t́m một lối đi riêng, v́ ḷng kiêu hănh khiến y tưởng tượng rằng chỉ công việc y làm mới là tốt đẹp và sự hiện diện của y trên tuyệt đỉnh là điều cần thiết. Nhưng, như Bà Blavatsky đă nói trong quyển “Những bước đầu tiên trên con đường Huyền Bí Học”: "Không ai có thể tự nói rằng tôi xứng đáng hơn, hay là tôi làm đẹp ḷng Đức Sư Phụ của tôi nhiều hơn các bạn  tôi, mà vẫn c̣n làm Đệ Tử của Ngài". Riêng về phần Bà Bác sĩ Besant, bà có nói một ngày kia rằng: "Đối với nhà Huyền Bí Học, một trong những qui luật thứ nhứt là giữ một địa vị khiêm tốn chừng nào tốt chừng nấy, hầu cho Phàm Nhơn của nó ít được người ta để ư đến chừng nào càng tốt chừng nấy." Những người khảo cứu về Huyền Bí Học mà chưa được nhận vào hàng Đệ Tử Chơn Sư có thể rất dễ bị lầm lạc v́ ḷng kiêu hănh và đó là điều khó khăn lớn lao cho những kẻ đă luyện được những phép thần thông. Họ nhận thấy rằng họ có thể thấy được nhiều vật vô h́nh mà kẻ khác không thấy, họ có thể đạt được nhiều sự hiểu biết mà kẻ khác không biết, họ bắt đầu cảm thấy ḿnh cao hơn đồng loại, v́ thế kết quả trên đây thường khá khốc hại. Khi chúng ta gặp những người có phép thần thông kiêu hănh thái quá, tôi tưởng chúng ta có thể quả quyết rằng họ chưa phải là bực cao siêu và nếu những quyền năng cao siêu của họ phát triển th́ họ cũng chưa giao tiếp được với Đức Chơn Sư, v́ lẽ không kiêu hănh là đặc tính hoàn toàn của người phải học bài học của y.

            Rất dễ nói rằng: "Tôi không muốn có ḷng tham vọng" ; nhưng không phải dễ khi nói rằng: "Khi Đức Chơn Sư nh́n vào tâm tôi, Ngài sẽ thấy nó hoàn toàn trong sạch ."

            Hai điều nầy rất khác nhau. Chúng ta tin tưởng quá dễ dàng rằng chúng ta không có ḷng tham vọng, không hề ích kỷ, không bao giờ nóng giận. Chúng ta tin tưởng nhiều việc khác nữa, nhưng Đức Chơn Sư với cái nh́n không bao giờ lầm lạc, phân biện những sự vật, chớ không phải lớp sơn giả dối mà chúng ta tô lên chúng nó khi chúng ta tự kiểm điểm lấy ḿnh.

            Người nghệ sĩ chân thành làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật đôi khi thành thật bước vào đường ngay chánh hơn Nhà Huyền Bí Học tưởng rằng ḿnh không c̣n tham luyến chi cho bản thân ḿnh nữa, nhưng, kỳ thật y chỉ nới rộng giới hạn của sự kinh nghiệm và sự ham muốn và đem quyền lợi của y đặt lên trên  những vật mà chân trời mở rộng của đời sống y cung hiến cho y.

            Một người cố chấp sẽ lưu ư chúng ta rằng người chân nghệ sĩ, hiểu theo ư nghĩa nầy, không ai t́m đâu cho ra. Điều đó không đúng. Tôi có giao thiệp nhiều với nghệ sĩ bên Anh cũng như bên Pháp. Nghệ sĩ thường hay đố kỵ và phê b́nh nghệ thuật thiếu hẳn sự dịu dàng nhă nhặn, nhưng tôi biết có một vài nghệ sĩ sống và làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật chớ không v́ giàu sang phú quí. Cách làm việc như vậy khiến cho y từ chối những cơ hội thúc đẩy y bước vào đời, v́ y nghĩ rằng không thể nào lợi dụng những cơ hội đó mà không phản bội nghệ thuật. Người v́ t́nh yêu nghệ thuật t́nh nguyện hy sinh như thế đă cởi bỏ hẳn bản ngă ḿnh trong một phạm vi nào đó. Nếu một h́nh thức cao siêu của ḷng tham vọng riêng tư c̣n ở trong ḷng y, ít ra y cũng diệt được một phần lớn cái bản ngă tầm thường khi y đă dứt được ḷng ham muốn tiền tài danh vọng. Có một giai đoạn mà nhà Huyền Bí Học đă hoàn toàn chế ngự được tất cả mọi dục vọng liên quan đến Phàm Nhơn, nơi đó nó vượt lên trên những điều tham vọng của người đời, nhưng y cũng c̣n ḷng tham vọng cho cá nhân riêng biệt của y hay là Chơn Nhơn mà sự tiến bộ có lợi cho y hơn là điều lành, điều  phải mà y có thể đem thi thố cho đời. V́ vậy, rất có thể một nghệ sĩ hoàn toàn hy sinh mọi tư tưởng lợi kỷ mặc dù không hiểu chi về Huyền Bí Học cũng bước vững vàng trên đường ngay chánh hơn là một Nhà Huyền Bí Học ích kỷ nói trên.

            Cũng nguyên tắc ấy được áp dụng cho hai qui tắc khác nhau, bề ngoài cũng giản dị như nhau. Con hăy nghiền ngẫm thâm sâu hai qui tắc nầy và đừng để tâm con bị gạt gẫm.

            Ở đây, Đức Chơn Sư đề cập đến những qui tắc 2 và 3 mà chúng ta sẽ bàn đến ở Chương sau và những qui tắc nầy bắt buộc ta phải diệt ḷng ham sống và ḷng ham sung sướng. Ngài pḥng bị cho ta chống lại ba loại dục vọng, bởi v́ Thể Trí chứng tỏ một sự xảo quyệt phi thường và cực kỳ tinh quái bằng cách t́m cho ta những lời bào chữa và viện đủ ngàn lư lẽ để hành động như thật là ta có ḷng ham muốn như  vậy. Có thể chúng ta không xem ḿnh như là người có đặc tài hay thông minh, nhưng nếu chúng ta kiểm điểm lại những lời bào chữa do chúng ta đặt ra để thi hành những điều ta muốn  th́ chúng ta buộc ḷng phải nh́n nhận một cách tổng quát  ở điểm nầy, chúng ta tỏ ra có nhiều khả năng phi thường.

            Bởi v́, hiện giờ đây, trước thềm Thánh Đạo, một sự sai lầm c̣n có thể sửa chữa được, nhưng nếu con ấp ủ nó trong ḷng con, nó sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái; chắc chắn con phải chịu đau đớn dữ dội mới hy vọng tiêu diệt nó được.

            C.W.L. - Đến đây chấm dứt lời chú thích dài do Đức Chơn Sư Hilarion thêm vào qui tắc thứ nhứt. Con người càng tiến bước trên con đường phát triển về Huyền Bí Học, càng chôn sâu trong ḷng ḿnh tất cả các tánh xấu chưa khai trừ được. Thí dụ ḷng ích kỷ, tánh xấu nặng nhất và thông thường nhất trong tất cả các tánh xấu, v́ nó là nguồn gốc của nhiều tánh xấu khác. Con người mà mọi biểu hiện bên ngoài của ḷng ích kỷ đă dứt, có thể tưởng ḿnh đă hoàn toàn giải thoát được tánh đó nhưng không dè tánh xấu ấy, tự nó, có thể chưa chịu bại trận lần nào. Người càng tiến bước trên Đường Đạo nó càng ẩn núp kín đáo bên trong. Trong khi chờ đợi, con người tăng cường dần  dần những sự rung động các thể của nó cho đến đỗi tất cả các tánh, dù tốt dù xấu, đều tăng cường mănh liệt một lượt. Nếu c̣n một tánh xấu nào mà chính ḿnh con người và bạn thân nó chưa thấy được, tánh xấu đó càng ngày trở nên mạnh mẽ thêm và tới một ngày kia, không sao tránh khỏi, nó sẽ dấy lên và bộc lộ ra ngoài. Rồi chính v́ sự tiến bộ lớn lao đă thực hiện được mà tánh xấu đó sẽ sinh ra một tai họa thảm khốc nhiều hơn là lúc nó c̣n ở trong một giai đoạn trước và sự diệt trừ nó chắc chắn sẽ làm cho ta đau khổ không ít.

            A.B. - Trên Đường Đạo, công việc phải làm cho kỹ càng tối đa. Trên thềm Thánh Đạo, những sự sai lầm c̣n sửa chữa dễ dàng, nhưng trừ phi khi nào vị Đệ Tử không ngớt ham muốn triệt để quyền năng trong những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ Nhập Môn, sự ham muốn nầy sẽ càng ngày càng mạnh thêm; nếu không nhổ tận gốc của nó ở nơi nào mà nó có căn cứ như tại cơi Trần, cơi Trung Giới và cơi Thượng Giới, vị Đệ Tử để sự ham muốn xâm nhập vào cơi Tinh Thần của Chơn Nhơn sẽ rất khó diệt trừ nó được. Ḷng tham vọng ẩn trú trong Nhân Thể (Thể Thượng Trí) rồi theo măi con người từ kiếp nầy qua kiếp khác. Những Thể: Xác, Vía và Trí chết đi, con người sẽ lấy các thể mới khác, nhưng Nhân Thể chỉ chờ đến khi chấm dứt kỳ gian của một dăy hành tinh (Kalpa) mới tan ră. Cho nên, Đệ Tử phải thận trọng đừng để ḷng tham vọng tinh thần xâm nhập vào Nhân Thể và đưa vào đó những yếu tố chia rẽ càng ngày càng giam hăm đời sống của y.

            Hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc.

            A.B. - Mặc dù câu cách ngôn nầy được đặt vào chỗ khởi đầu của Qui tắc 4, tôi muốn đem khảo sát nó nơi đây chỗ nó được áp dụng đặc biệt. Đây là lời giảng lư Qui tắc 1 do Đức Đế Quân viết ra. Đồng thời, chúng ta sẽ đề cập qui tắc và lời chú thích của Ngài, rồi đem đối chiếu lại sẽ thấy được nghĩa lư của nó. Cho nên, chúng ta hăy đọc: 1.- "Hăy diệt ḷng tham vọng, nhưng hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc." 2.- "Hăy diệt ḷng ham sống, nhưng hăy kính trọng sự sống như những kẻ ham muốn sống vậy." 3.- "Hăy diệt ḷng ham sung sướng, nhưng hăy sung sướng như những kẻ sống v́ hạnh phúc." Ham muốn quyền tước, ham sống và ham muốn hạnh phúc, đó là những điều thúc giục con người hành động ở Thế Gian nầy. Ấy là phần thưởng của Đấng Tối Cao hiến cho tất cả mọi người, nhờ đó mà sự tiến hóa phát triển. Tất cả mọi nỗ lực của con người để đạt cho được những phần thưởng ấy làm nảy sinh những tánh t́nh và thuận lợi cho sự tiến hóa. Nếu hết thảy những điều đó đột nhiên biến mất con người sẽ mất hết ḷng tham vọng, ḷng ham sống và ḷng ham sung sướng. Chính đó là một giai đoạn mà chúng ta đều trải qua trước khi sự ham muốn nồng nhiệt đời sống tinh thần hoàn toàn phát khởi trong tâm ta - giai đoạn đó gọi là Vairagya: Đoạn Tuyệt - nó sinh ra do sự nhàm chán. Con người nếm được mùi quyền thế và không t́m thấy hạnh phúc ở đó, làm việc hầu đạt cho được nó và nắm giữ lấy nó, nhưng nhận thấy rằng, đối với Chơn Nhơn, quyền thế là một điều thất vọng, không như người ta đă tưởng và không làm cho họ thoả măn. Chúng ta hăy lấy thí dụ cố Hoàng Đế Nga. Ở trên ngôi vị tuyệt đỉnh của quyền lực con người, Ngài quá chán ngán và hết sức ao ước thoát ly sự ràng buộc của nó. Không phải là chuyện hiếm có khi gặp trong lịch sử một người nắm giữ trong tay một quyền hành tuyệt đối và khi ḷng đoạn tuyệt bị kích thích liền từ bỏ ngôi báu của ḿnh. Kết quả: Một cuộc sụp đổ, một sự suy nhược của tất cả mọi lư do, từ đó đến giờ, thúc giục con người hành động. Y nói trong sự chán nản rằng: " Ích ǵ phải có một nỗ lực mới? Tôi không ham muốn quyền thế nên tôi không có lư do để làm việc. Tôi không ham sống, tại sao phải tiếp tục sống? Tôi không ham sung sướng v́ nó không làm cho tôi thoả măn, tại sao tôi phải chịu lao tâm khổ trí để đạt nó?" Đối với chúng ta câu hỏi như vầy: "Làm thế nào khích lệ người nầy trở lại hành động tiếp tục phát triển và tiến đến mức chót của cuộc tiến hóa của y? Làm thế nào kéo y ra khỏi giấc mộng hôn mê?" Phương pháp duy nhất là đánh thức trong tâm y, sức hoạt động của Sự Sống Thiêng Liêng, sự sống nầy trưởng thành bằng cách cho ra chớ không bằng cách thâu vô. Y đi đến một điểm biến chuyển của cuộc đời là nếu y c̣n muốn bấu víu vào bản ngă chia rẽ kiếp tái sinh sau nầy của y sẽ mệt mỏi và chán nản. Người ta có thể nào đánh thức trong tâm y, ḷng ham muốn đời sống chân thật ban rải ra ngoài để phụng sự chớ không phải khư khư nhốt ḿnh trong sự ích kỷ thấp kém. Trong t́nh trạng hiện hữu, người ấy, ở Thế Gian, là một phần tử vô dụng, vô dụng cho chính ḿnh, vô dụng cho tất cả. Trước khi đi đến mức đó, y đă là một mănh lực phụ trợ cho sự tiến hóa chung của Thế Gian, v́ bởi y chịu ảnh hưởng của những vật có sức hấp dẫn những kẻ thường nhơn hầu giúp họ tiến hóa. Trong t́nh trạng sụp đổ và vô dụng mà y đă nhốt ḿnh vào đó v́ mất những lư do thường t́nh và thấp thỏi bỗng có một tiếng gọi đặc biệt kêu  y - một tiếng gọi kêu đến ba trạng thái của con người - y đă mất những lư do hành động. Có lịnh truyền cho y: "Hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc vậy." Câu cách ngôn nầy kèm theo qui tắc I: "Hăy diệt ḷng tham vọng," khi đứng một ḿnh th́ sẽ dắt đến sự bất động. Bản ngă chia rẽ bị tiêu diệt rồi, con người không c̣n lư do ǵ để làm việc nữa, nó nhận được lời kêu gọi nầy: "Hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc vậy." Kế đến lệnh thứ II: "Hăy kính trọng sự sống như những kẻ ham muốn sống vậy." Và tiếp đến lệnh thứ III: "Hăy sung sướng như những kẻ sống v́ hạnh phúc" Đó là ba huấn lệnh mới, khởi điểm của một cuộc đời sống mới thay thế cho ba lư do cũ. Huynh hăy nh́n người nằm dài duỗi thẳng ra, h́nh như chết. Quả thật, đời sống h́nh thể đă bị tiêu diệt. Giờ đây, chính là đời sống Tâm Thức cần phải thức tỉnh. Ba tiếng gọi ấy đă giúp y làm được việc nầy. Y phải khởi sự làm việc lại, chính hiện giờ con người Tinh thần phải sống và hoạt động, khi mà Phàm Nhơn sẽ động tác như một cái máy. Con người sẽ sống mănh liệt hơn bao giờ hết, mặc dù tất cả sự ham sống, ham sung sướng và ham quyền thế đă tắt hẳn trong ḷng y. Ấy là câu trả lời cho câu hỏi nầy: Tại sao phải làm việc?

            Người nào không t́m được câu trả lời sẽ không chịu hành động và sự tiến  hóa của y bị ngưng trệ. Đó là điểm,  theo    Học,  mang tên  là tử  điểm (điểm chết) là t́nh trạng quân b́nh mà trong đó không c̣n sức xúc động. Những mănh lực cao siêu cân phân với những mănh lực thấp thỏi và tiêu diệt tánh ích kỷ và ḷng tham vọng xưa kia, nhưng chúng nó chưa đủ khả năng thúc đẩy con người tiến tới trước; y sẵn sàng đem hết tinh lực và ư chí của y cung ứng cho những mănh lực cao siêu ấy. Sự quân b́nh nầy không phải là mục đích của cuộc tiến hóa. Đâu là những lư do mới đưa ra cho con người hầu đánh thức và làm cho y hoạt động? Một lư do duy nhất thôi, tác động ở nội tâm, có thể làm khích động Linh Hồn; nó vốn ở trong sự đồng hóa với đời sống của Đức Thượng Đế trong Thế Gian và hoạt động như là phần tử của đời sống ấy, thay v́ hoạt động với ḷng ham muốn mong được ban thưởng. Không có sự chú thích nào của câu cách ngôn nầy hay hơn một đoạn ở trong phần đàm thoại thứ III của quyển Thánh Ca (Bhagavad Gita) nơi đó chỉ cho biết những lư do phải làm việc sau khi đă mất những lư do thường t́nh là ḷng ham muốn những kết quả của sự hành động:

            "Kẻ nào gặp sự hoan hỉ nơi Chơn Ngă (Chơn Nhơn) thỏa măn với Chơn Ngă và chỉ đẹp ḷng với Chơn Ngă, kẻ ấy mới đích thật là không c̣n ǵ phải thi hành ở Thế Gian nầy.

            Sự hành động cũng như sự bất động không c̣n liên hệ đến nó ở Thế Gian nữa, nó không c̣n lệ thuộc một sinh vật nào ở cơi đời nầy.

            Thế nên, con phải thoát ly và phải hành động; sự hành động là bổn phận của con, v́ khi hoàn thành sự hành động mà không tham luyến, con người đạt được Ngôi Cao Cả. Janaka và những vị khác, quả thật đă tiến đến bậc toàn thiện bằng sự hành động. Con hăy cố gắng hành động bằng cách nhắc nhở lấy con rằng mục đích của con là phụng sự Thế Gian." (Bhagavad Gita, Chương III, 17 - 20 ).

            Những điều diễn tả trên đây là một tŕnh độ cao diệu hơn tŕnh độ của con người mà chúng ta hiện đang đề cập đến. Chúng ta chỉ nói tới chỗ khởi điểm của con Đường Đạo dắt đến sự thực hiện hoàn toàn Chơn Ngă. Tuy nhiên, lư do đă được tŕnh bày trong quyển Thánh Ca đem áp dụng cho con người nói trên đây, khi mà y đă nhận thấy rằng Phi Ngă (Non Soi) không hàm chứa ǵ cả, th́ Y tới tŕnh độ đáp lời kêu gọi của Chơn Ngă duy nhất. Y sẵn sàng làm việc cho lư do nầy, là lo cho hạnh phúc của chúng sinh. Một người như thế, hiện giờ, có thể nghĩ đến cách hoạch đắc được sự hiểu biết thiêng liêng, không phải để cho ḿnh trở nên minh triết và cao quí, mà để giúp đỡ nhân sinh, ấy là mục tiêu mà Y dung nạp từ từ,  mục tiêu ở ngoài bản ngă riêng biệt của cá nhân Y.

            Rốt cuộc, Y sẽ bỏ lư do nầy, ḷng ham muốn, từ đó chỉ c̣n một sự muốn duy nhất thôi, ấy là có thể trở nên một bộ phận của cái ǵ cao hơn Y và để hoàn thành Thiên ư. Y sẽ tập dứt ḷng ham muốn, dù là ham muốn sự hiểu biết thiêng liêng hay là mong ước được trở nên một Đấng Chơn Sư, mà chỉ ham muốn làm một khí cụ của Đời Sống Cao Siêu. V́ thế, Y trở lại hoạt động như những kẻ có ḷng tham vọng, nhưng với lư do là làm một vận hà cho Đời Sống Cao Siêu, con người sẽ loại bỏ những dấu vết cuối cùng của ḷng tham vọng. Tiến đến điểm nầy, tinh lực của Y, ngay lúc đó, thâm nhập vào Thiên ư. Ấy là lư do thúc đẩy y làm việc. Trong những chương của Thánh Ca mới vừa kể trên, Đức Shri Krishna giải thích phải làm việc cách nào để đạt đến Ngôi Cao Cả, để nhận thức được sự hiện diện và quyền lực của Đức Thượng Đế. Kế đó, Ngài chỉ cho biết rằng sự kiện đạt đến Ngôi Cao Cả và nhận thức được Đức Thượng Đế, dắt đến một sự hoạt động của Đấng Tối Cao là để bảo tồn tất cả vạn vật:

            "Nầy Partha, Ta không c̣n cái chi phải hoàn thành hoặc hoạch đắc ở trong ba Cơi Thế Giới và trong khi đó Ta vẫn tham gia vào sự hành động. Bởi v́, nếu Ta không tham dự một phần việc kiên cố trong sự hành động, nầy Partha, Nhân Loại sẽ theo bước chân Ta khắp nơi. Ba Cơi Thế Giới nầy sẽ bị hủy diệt, nếu Ta không hành động.” (Bhagavad Gita, chương III, 22 - 24).

            Ngài làm việc cho hạnh phúc Nhân Loại, để duy tŕ sức chuyển động của bánh xe Vũ Trụ. Sự hoạt động của Ngài chỉ có một lư do là giúp cho Thế Gian tăng trưởng và phát triển cho đến khi chấm dứt chu kỳ của Địa Cầu. [4] Kế đó, Đức Shri Krishna chỉ mục đích nhắm vào sự làm việc của chúng ta là phụng sự và bảo tồn  Cơi Thế Gian và Nhân Loại. Dứt hẳn sự đồng hóa với mọi h́nh thức chia rẽ hầu đưa chúng nó đến chỗ hoàn thiện. Như thế, con người đồng hóa với Sự Sống, phải hiến dâng tất cả mọi công tác cho hạnh phúc, cho công việc phụng sự đồng loại và trọn cả Thế Gian, hầu tất cả muôn loài, từ động vật cho đến bất động vật, có thể tiến đến mức cuối cùng đă dành sẵn cho chúng nó, có thể trở nên cái ǵ mà Đấng Tối Cao muốn cho chúng nó trở nên, mặc dù, trong đời sống biểu hiện, chúng nó chưa tiến đến điểm đó. [5] Tất cả Vũ Trụ của Đấng Tối Cao đă có sẵn và toàn thiện trong tư tưởng của Ngài, dần dần và trải qua nhiều giai đoạn, Ngài đem tư tưởng nầy làm thành h́nh thức trong vật chất. Người ta không thể nào nhận thức được một phần Sự Sống của Ngài mà không làm việc như chính Ngài đă làm việc cho sự biểu hiện hoàn toàn tư tưởng nầy, nghĩa là làm chuyển động bánh xe của Sự Sống cho đến kỳ hạn chỉ định.

            Con người không cần thiết phải phấn khởi v́ lư do chính đáng và thiêng liêng nầy mà tin tưởng đến Đức Thượng Đế hay là chú ư đến Ngài; dù sao Y cũng cảm biết được Sự Sống thiêng liêng trong Thế Gian, Y ứng đáp lại và phụng sự Sự Sống thiêng liêng nầy với tấm ḷng sùng kính tuyệt đối. Đó là trường hợp, thí dụ, của ông bạn già của tôi. Ông Charles Bradlaugh, mặc dù ông không tin tưởng ở Đức Thượng Đế như thời đó người ta đă tin, nhưng ông luôn luôn sẵn sàng đương đầu với mọi sự đau khổ và nguy hiểm, đem thân của ḿnh lấp ngang miệng hố để cho kẻ khác làm phương tiện tiến lên, như một cái cầu, đến đời sống cao siêu. Tuy nhiên, những kẻ nào cảm biết được Thiên ư đến đỗi lấy đó làm lư do chính của đời sống ḿnh nên giữ đừng làm rối trí kẻ khác chưa đủ sức suy nghĩ  như họ và c̣n hành động dưới ảnh hưởng của ḷng ham muốn. Kế đó, Đức Shri Krishna nói rằng:

            "Cũng như kẻ vô minh hành động v́ quyến luyến sự hành động, nầy Bharata, cũng thế, bậc Thánh Nhân phải hành động mà ḷng không tham luyến, với mục đích duy nhất là giúp đỡ Thế Gian.

             Bậc Thánh Nhân không nên làm rối trí những kẻ vô minh c̣n quyến luyến sự hành động, nhưng, khi hành động trong sự hợp nhất với Ta, y cần phải làm cho mọi hành động đều được vui thích. " (Bhagavad Gita, III, 25 -26).

            Người tinh thần hết ḷng làm việc cho đời và nêu gương v́ lẽ người thế noi theo cách hiểu biết của các vị Thánh Hiền  mà làm việc. Một người làm mục tiêu cho quảng đại quần chúng trông vào, tự nêu một gương sáng, tức th́ kẻ khác sẽ bắt chước cách hành động của Y. Nếu Y lănh đạm với sự hành động, những kẻ thấp hơn Y cũng làm thế; sự lănh đạm của Y có thể có một lư do cao thượng mà họ không biết, và lẽ dĩ nhiên họ sẽ nghĩ đến một lư do khác. Đối với họ, ḷng lănh đạm có tính cách bất động và sự tiến hóa của họ v́ thế bị ngưng trệ.

            Một người nào đó sẽ có thể nói rằng: "Tôi không thiết đến kết quả ở Thế Gian cũng như ở trên cơi Thiên Đường; như vậy tại sao giúp đỡ đồng loại, theo dơi con đường dắt đến sự thỏa măn nầy? Tại sao thúc giục họ hành động nhắm vào những mục tiêu mà tôi xét thấy vô ích, nhắm vào những thắng lợi hăo huyền? Tại sao tôi tận lực cho ra những điều không dung nạp được?" Câu trả lời không c̣n làm cho người ta hoài nghi nữa. Những kết quả của sự hành động nầy hết sức cần thiết cho đa số người; trừ phi họ không ham muốn những cảnh vui Hồng Trần, những sự sung sướng, những điều tham vọng, những mục tiêu, chúng thúc giục họ hành động, khiến cho sự tiến hóa của họ sẽ bị ngưng trệ. Nếu con người không t́m những sự thỏa măn ở Thế Gian, có thể mục đích của họ hướng về Cơi Thiên Đường. Dù sao, họ phải được khuyến khích để hành động, tăng trưởng, và tiến hóa. Nếu huynh làm cho họ tin rằng (thuyết phục) tất cả điều đó là vô ích họ sẽ không tiến bước.

            Cho nên, đối với sự tiến bước của nhân loại, điều quan trọng là có một gương mẫu đưa ra, gương mẫu của một công việc được hoàn thành trọn vẹn, đầy đủ. Luôn luôn khó mà thực hiện sự toàn thiện ngày nào mà công việc làm c̣n bị ḷng ham muốn thúc giục; mặc dù, trong trường hợp nầy, con người có thể làm được một gương mẫu đáng khen về nghị lực và kiên nhẫn, nhưng việc làm của Y có pha đôi chút tính cách lợi kỷ sẽ không cho gương mẫu của y trở nên toàn thiện. Y sẽ có thể làm việc một cách đúng đắn, nhưng đó là điều y sẽ thực hiện cho Y. Kỳ thật, Y không tận lực thi hành, tư tưởng của Y không hoàn toàn hướng về công việc làm, mà cố bám vào một phần kết quả riêng biệt cho cá nhân Y.

            Đức Thượng Đế làm việc trong sự toàn thiện hầu cho sự tiến bộ của Thế Gian được vững bền, thế nên, chúng ta hăy làm việc với một tinh thần như thế. Chúng ta phải làm việc giỏi giắn hơn những thế nhân có nhiều khả năng hơn hết, v́ lẽ chúng ta có lư do là phụng sự Đức Thượng Đế và Nhân Loại, chớ không v́ quyền lợi riêng của chúng ta. Chúng ta muốn làm việc là v́ Nhân Loại. Chúng ta từ khước việc đi t́m khắp nơi những hoạt động chỉ v́ ḷng vui thích tầm thường mà hoạt động. Có lắm người làm việc như thế để thỏa thích sự hoạt động của họ v́ nếu họ sống nhàn hạ, không làm ǵ hết, họ chết ṃn trong sự buồn chán, khuynh hướng đó không giống chút ǵ với khuynh hướng của con người đă đẹp ḷng v́ Chơn Ngă (Chơn Nhơn). Không bao giờ họ buồn chán, không bao giờ họ t́m kiếm một phương thế để thỏa măn sự cần phải hoạt động của họ. Họ làm việc v́ tin là bổn phận của họ, và nơi nào không có bổn phận bắt buộc phải làm, th́ họ không ham muốn hoạt động. Trong phần đối thoại thứ IV của Thánh Ca, Đức Shri Krishna giải thích bằng những lời nầy về sự hành động, sự hành động xấu và sự bất động:

            "Thế nào là hành động? Thế nào là bất  động? Chính những bậc Hiền Triết cũng bối rối về điều đó. Bởi thế, ta sẽ giải thích cho con biết thế nào là hành động, khi biết rồi con sẽ giải thoát khỏi sự khổ.

            "Cần phải học hỏi để biết sự hành động và phân biệt thế nào là hành động không chân chính và thế nào là bất động. Huyền bí thay con đường hành động!

            Kẻ nào có thể thấy được bất động trong hành động và hành động trong bất động, [6] kẻ ấy là bậc Hiền Triết ở giữa nhân loại, y vẫn ḥa hợp với mọi người, dù khi có hành động ." (Bhagavad Gita, IV, 16 - 18).

            Người ta nói chính những bậc Hiền Triết cũng không nhận thức được rơ ràng giới hạn của tất cả những điều trên đây. Sự hành động tốt, đối với con người, là một bổn phận, bổn phận biểu thị sự sống của Đức Thượng Đế mà vẫn  tồn tại vị trí của ḿnh. Như thế, y cần phải làm một vận hà, hoặc như một nhân viên và làm việc với sự hiểu biết, sự chính chắn và thận trọng mà con người không tham vọng đă chứng tỏ. Huynh hăy so sánh công việc của y với công việc của người tham vọng, huynh sẽ thấy công việc ấy cũng đàng hoàng và tốt đẹp v́ nó đă được hoàn thành với một tinh thần hy sinh tuyệt đối và sự quân b́nh triệt để. Nếu huynh gặp một người không làm việc như thế và cũng không cầu mong kết quả của sự hành động, vậy mà y tỏ ra ít hoạt động hơn là y phải làm, y làm việc kém nghị lực, kém hứng thú và kém mực thước v́ y không c̣n lư do riêng tư nữa th́ huynh đứng trước mặt một người, trước khi đi đến sự bất động, y chưa học xong bài học "bổn phận phải hành động". Tôi được nghe nói về nhiều người rằng: "Mấy người đó chưa hành động mà đă bắt đầu bất động, v́ họ đă nhận thức được trong trí họ rằng kết quả của sự hành động là hăo huyền, trước khi họ tiến đến điểm mà họ sẽ có thể làm việc một cách bất vụ lợi. Trong Thế Gian nầy, họ là những người vô dụng, không làm việc ǵ cả. Họ cũng không phải là những người tinh thần để cung hiến tinh lực ḿnh cho sự tiến hóa của nhân loại."

            Người tiến đến tŕnh độ mà kết quả của sự hành động không c̣n quyến rũ y được nữa, được quyền chọn lựa giữa hai lối sống: Y có thể lánh ḿnh vào rừng sâu, sống cuộc đời cô độc, hoặc là tích cực tham gia vào những công việc của người đời. Nếu y tiến hóa khá cao để làm việc mạnh mẽ trên Cơi Thượng Giới hay là Cơi Tinh Thần (Cơi Bồ Đề), đời sống bất động nầy ở Thế Gian, đối với y, có thể tốt nhất. Y giúp ích kẻ khác đắc lực hơn là việc mà y không thể làm được trong khi xung quanh y đầy những náo động của Trần Ai. Tuy nhiên, Đức Sư Phụ thường cho y thác sinh xuống Trần Thế để trong kiếp chót nầy, y làm gương mẫu của sự hành động chân chính ở Thế Gian, sẽ sống một cuộc đời hoàn toàn hoạt động và biểu lộ tất cả tinh lực làm ra đặc tính của con người đầy tham vọng nhất.

            Ở trên Thế Gian nầy, khi một người sống một đời sống tinh thần, thường khó mà xác định, do triệu chứng bên ngoài, xem có phải y hoạt động v́ ḷng ham muốn hay là v́ bổn phận. Nhưng có một sự thử thách không sai lầm, luôn luôn giúp chúng ta nhận xét lư do riêng cho chúng ta. Huynh có cảm giác ǵ khi kết quả của sự hành động bày ra trước mắt huynh ? Nếu ḷng tham vọng đóng vai tuồng tối thiểu trong công tác của y th́: Ví như thất bại, y sẽ tỏ ra chán nản, mà thành công, y sẽ hớn hở vui mừng. Nếu sự thất bại không làm cho y đau khổ th́ không có một yếu tố riêng của bản ngă xen vào công việc của y. Y đă làm việc ví như chính Đức Thượng Đế làm việc cho hạnh phúc nhân loại, y sẽ biết rằng sự thất bại không phải là sự thất bại của Đấng Tối Cao, nó thuộc về Cơ Huyền Diệu  của Ngài. Về quan điểm của Đấng Tối Cao th́ sự thất bại không hề có, nhưng trong đời sống con người, sự thất bại thường cũng rất cần thiết cho sự thành công  cuối cùng, cũng như sự thành công cần thiết cho sự thành công tối hậu cuối cùng. Vai tṛ của các con của Đấng Tối Cao, đôi khi phải chịu cảnh thất bại để giúp chúng trở nên dơng mănh hơn và hiểu được rằng không có sự thất bại nào mà không có sự thành công tương ứng.

            Thật sự, con người làm việc như  một thành phần của đời sống của Đức Thượng Đế chăng ? Chính điều đó chứng tỏ ḷng hoan hỉ hoàn toàn của y, dù nó thành công hay thất bại. Nếu ḷng hoan hỉ của y hoàn toàn không một mảy tức tối, giận hờn th́ công tác của y có mục đích đặc biệt là bảo tồn nhân loại, và không trói buộc người chủ động y, dù ở trong sự hành động đi nữa, cũng giải quyết được vấn đề bất động và cũng tập sử dụng các thể và những vật tính (gounas) (những đặc tính của vật chất) [7] nhưng mà không c̣n đồng hóa với chúng nó nữa. Trong trường hợp thông thường, những vật tính (gounas) dẫn dắt con người, nhưng trên Đường Đạo, chính con người dẫn dắt những vật tính. Phần đông con người bị những luồng sinh lực thiên nhiên lay chuyển và thúc giục họ làm việc, nhưng khi con người để chân trên Đường Đạo rồi th́ sử dụng lại những nguồn sinh lực ấy như là khí cụ để làm việc, y tách ra khỏi chúng nó và tận dụng lại chúng nó. Người tham vọng là món đồ chơi của vật tính, bị chúng nó sai khiến, trong khi y tưởng rằng y làm việc, nhưng kẻ nào chế ngự được chúng nó, bắt chúng nó đi theo con đường tiến hóa do Đấng Tối Cao phác họa th́ không c̣n đồng hóa với chúng nó nữa. Trong Thánh Ca có dạy chúng ta về điều đó như vầy:

            "Kẻ nào từ bỏ tất cả tham luyến về kết quả của sự hành động, luôn luôn bằng ḷng lấy ḿnh và không t́m đâu làm nơi nương tựa, kẻ đó không hoạt động, mặc dù y làm một việc nào đó.

            "Không ham muốn, làm chủ được Thể Trí và bản thân ḿnh, từ bỏ tất cả mọi khát vọng, đó chỉ hoàn thành sự hành động về mặt Thể Chất thôi và không phạm tội.

            "Bằng ḷng với tất cả cái chi hoạch đắc được một cách tự nhiên, ḷng không có sự xung đột phản khắc nhau, không đố kỵ, thản nhiên trong sự thành công cũng như trong sự thất bại, y không bị trói buộc, mặc dù y hành động.

            "Đối với bực siêu thoát không ḷng tham luyến mà Thể Trí ở trong sự minh triết và tất cả mọi hành động đều là sự hy sinh, Nghiệp Quả hoàn toàn tiêu tán. (Bhagavad Gita, IV,20 -23)

            Người đă đặt ḿnh ở vào tử điểm rồi, như ḷng lănh đạm, cần phải lo t́m kiếm phương thế để tăng cường trong tâm ḿnh những ảnh hưởng cao siêu hầu nhờ sức kích thích của chúng nó chọn lấy đời sống hoạt động về tinh thần. Y phải thực hành tham thiền; y phải lợi dụng tất cả mọi t́nh cảm sẵn có; y phải nắm lấy một cách cẩn thận tất cả mọi cơ hội phụng sự; y phải hoạt động, dù không ham muốn hoạt động, dù trái với ư muốn thích ngồi một chỗ, bất động, y cần phải triệt để hành động. Nếu y biết được một người mà y đem ḷng kính trọng và gương mẫu của người đó khuyến khích y hoạt động y sẽ trải qua một tŕnh độ trung gian nầy rất nhanh chóng, bằng không sự tiến hóa của y có thể bị gián đoạn. Nếu y muốn làm đẹp ḷng một người mà y kính mến, y có thể dùng ḷng ham muốn ấy như là chất kích thích cho đến lúc y sẽ cảm thấy được sự thúc giục của Sự Sống thiêng liêng, v́ thế, ḷng ham muốn ấy sẽ kéo y ra ngay khỏi t́nh trạng nản chí ấy.

            C.W.L.- Khi đă diệt được ḷng tham vọng riêng tư, con người nhận được huấn lệnh: "Hăy làm việc như những kẻ tham vọng làm việc." Thường thường, có ba giai đoạn nối nhau tiếp diễn: Trước tiên là làm việc để đạt cho được kết quả ở Trần Gian, kế đó đến giai đoạn con người vẫn tiếp tục làm việc, cũng c̣n v́ một kết quả được về cơi Thiên Đàng. Nhiều Giáo Hội khác nhau xác định mạnh mẽ các điều trên đây là phải từ bỏ Cơi Thế Gian để sống trường cửu ở trên trời; chúng ta sẽ càng đến gần bệ ngọc của Đức Thượng Đế hơn và vân vân. Hầu hết cả thảy mọi người đều trải qua hai giai đoạn nầy: Làm việc cho một mục tiêu ở Thế Gian, kế đó làm việc cho một mục tiêu ở Thiên Đàng. Đôi khi, người ta đi xa hơn, làm việc để làm đẹp ḷng các Đấng Thần Minh của họ. Thí dụ nhiều tín đồ Cơ Đốc Giáo, làm việc v́ ḷng yêu Đức Chúa Jésus, điều nầy thật đáng kính, v́ ở đây không c̣n ḷng ích kỷ nữa; ấy là một tŕnh độ cao hơn tŕnh độ của kẻ nào làm việc v́ một kết quả riêng, dù là được về Cơi Thiên Đường. Có một tŕnh độ cao hơn nữa; là người ta làm việc v́ ḷng ham mến sự làm việc, ít ai hiểu được như thế, nhưng có nhiều nghệ sĩ lại hiểu. Vài người trong bọn họ, làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật, dù ở ngành nào mà họ trau luyện cũng vậy. Một nhà đại thi hào nói rằng: "Nếu tôi ca hát, ấy là tôi không làm ǵ khác hơn được", có ư nói rằng ông bị bắt buộc phải phô diễn cái điều do ông chuyển đạt lại cho đời như một bức thông điệp. Một người khác cũng có ư tưởng như thế, nói rằng ông quí chuộng thi phẩm của ông không phải v́ ông là tác giả của bài ấy, mà trái lại, v́ chúng nó không phải là của ông. Cũng thế, có lắm người làm việc v́ ḷng yêu nghệ thuật, không v́ họ, không v́ danh tiếng của họ, không v́ làm vừa ư kẻ khác, cũng không v́ làm đẹp ḷng Đức Thượng Đế - trong ư nghĩa mà thường hiểu như vậy - nhưng v́ họ có cảm tưởng như ḿnh được giao phó một sứ mạng mà họ phải làm cho xong. Đến tŕnh độ nầy thật là điều hết sức tốt đẹp.

            Sau rốt, đến tŕnh độ cao hơn hết là con người làm việc v́ biết ḿnh là một phần tử của Đức Thượng Đế và như thế, y nguyện ước hoàn thành Cơ Tạo Hóa. Nhiều kẻ, đôi khi, lầm tưởng rằng đó là mục đích của họ trong bầu không khí của những tư tưởng thấp hèn không ngớt bao phủ họ. Ở vào phương diện nầy, chúng ta có thể luôn luôn tự ḿnh thử thách lấy ḿnh, có lẽ, có ích lợi là khi nào chúng ta bị thất bại, điều nầy, thỉnh thoảng xảy đến cho chúng ta. Như  Bà Chánh Hội Trưởng đáng kính của chúng ta thường giải thích rằng, nếu chúng ta chân thành và tận tâm làm việc như những phần tử của Thượng Đế, như những phần tử của toàn thể th́ không có cảnh thất bại nào có thể làm rối trí chúng ta được, bởi v́ chúng ta biết rằng Đức Thượng Đế không bao giờ lầm lạc. Nếu, hiện giờ, sự hoạt động nầy hay sự hoạt động nào khác, đối với chúng ta dường như là một sự thất bại, sự thất bại ấy đă được Thiên Cơ dự liệu trước, v́ thế, nó cũng cần thiết và tóm tắt rằng đó không phải thật sự là một việc thất bại. Xét về mặt Thiên Lư, không có sự nỗ lực nào vô ích cả, như thế, chúng ta không có ǵ phải buồn rầu. Một điểm duy nhất cần phải khảo xét lại là xem có phải lỗi ở chúng ta chăng ? Nhưng nếu chúng ta cố sức hành động mà việc làm của chúng ta không thành công, chúng ta biết rằng tất cả đều tốt đẹp.

            Tuy nhiên, những lư do như thế không nên làm cho chúng ta trở nên hờ hững hay lănh đạm để mặc cho thời gian đi qua. Một trong những bổn phận của chúng ta, là làm cho đồng loại chúng ta từ bỏ thuyết bất động và dắt họ đi trên con đường phụng sự. Chỉ sự thành công nầy cũng đem lại cho đời một ích lợi chắc chắn. Quả thật, tất cả đều làm cho tốt đẹp hơn, nhưng chỉ khi nào chúng ta thật tâm cố gắng. Nếu con người, trong phần việc được giao phó mà không rán sức hành động, kết quả thu được phải kém hơn kết quả của nó phải có, bởi v́ kết quả nầy đáng lẽ phải tốt đẹp hơn. Khi chúng ta triệt để thi hành tất cả và chỉ khi đó, chúng ta mới có quyền nương dựa vào tư tưởng nầy: "Tôi đă làm tất cả những điều tôi có thể làm được; mặc dù tôi không thành công, tôi xin nghiêng ḿnh trước một quyền lực cao hơn quyền lực của tôi". Tôi dám cả quyết rằng điều ǵ đă làm trọn vẹn th́ thật không mất mát và rốt cuộc, mỗi người đều đạt được những điều thuận lợi cho y nhất. Dẫu cho huynh có đạt được một kết quả trong ngày hôm nay hay là trong một triệu năm nữa, việc đó không có ǵ quan trọng; nếu tư tưởng triết lư cao siêu nầy chỉ là một ảo tưởng thôi, chính đó là một ảo tưởng rất dũng mănh. Cảm thấy ảo tưởng ấy đối với tôi, có giá trị, tôi tưởng, đối với kẻ khác, cũng có giá trị như thế và nếu chúng ta có thể khuyên bảo họ nắm lấy cơ hội đầu tiên để tiến bước, chúng ta sẽ giúp ích cho họ thật lớn lao. Về lâu, điều đó có sự sai biệt như thế nào đối với Đức Thượng Đế, mà nơi Ngài tất cả đều di chuyển, tôi không biết rơ, nhưng chắc chắn Thiên Ư muốn cho chúng ta tiến bộ và nếu quả vậy Ngài cũng muốn cho sự tiến hóa của chúng ta được hoàn thành càng sớm càng tốt. Lẽ cố nhiên, chúng ta phải ăn ở thuận theo Thiên Ư bằng cách bước mau trên Đường Đạo, dắt đến sự hợp nhất với Ngài và bằng cách giúp đỡ kẻ khác cùng đi một đường với chúng ta. V́ thế, tôi không thấy tại sao có thể lănh đạm khi người ta bước vào Cửa Đạo (Nhập Lưu) trong thời kỳ nầy tại Thế Gian, hoặc trong kỳ gian của Dăy Hành Tinh hiện thời, hoặc người ta chờ đến Dăy Hành Tinh sau. Tôi sẽ hết sức cố gắng giúp đỡ đồng loại tôi bước vào Cửa Đạo tại Dăy Hành Tinh nầy.

            Một sự thách thức khác, có lẽ sẽ được xác định xem chúng ta có bằng ḷng thi hành công tác nào đó thuộc về công tác của Ngài không? Xem chúng ta có bằng ḷng giúp đỡ những người cao thượng hơn hết cũng như những người thấp thỏi hơn hết không? Đối với Đức Thượng Đế, trong phạm vi của sự tiến bộ không có ǵ cao mà cũng không có ǵ thấp, dẫu rằng trong sự tiến bộ ấy, phần tử nầy của Cơ Tạo Hóa có thể tiến đến một điểm cao, c̣n phần tử khác tiến đến một điểm thấp. Điều đó cũng giống như một bánh xe quay : trong sự chuyển động nầy, có một phần nào của bánh xe đến gần đỉnh, nhưng trong lúc quay tṛn, toàn thể bánh xe đều tiến tới. Phận sự của chúng ta là trợ lực cho sự chuyển động tiến tới trước và thúc đẩy bất cứ phần tử nào của bánh xe.  Sự sống ở tất cả mọi tŕnh độ là sự sống thiêng liêng. Ở nhiều giai đoạn, sự sống nầy phát triển hơn sự sống khác - sự phát triển trong con người hơn sự phát triển trong thú vật, sự phát triển trong thú vật hơn sự phát triển trong thảo mộc, sự phát triển trong thảo mộc hơn sự phát triển trong khoáng vật - nhưng, khắp mọi nơi, đều là sự sống thiêng liêng, và nếu chúng ta giúp đỡ cho sự tiến bộ của một trong những phần tử của nó là chúng ta hối thúc sự hoàn thành Thiên Cơ. Cái ǵ cao cả hơn hay thấp thỏi hơn, ấy là h́nh thể dùng để làm khuôn mẫu cho Sự Sống. H́nh thể giúp cho sự phát triển được lớn lao nhiều hay ít, nhưng Sự Sống vẫn là một. Quan điểm của Đức Thượng Đế khác hơn quan điểm của chúng ta nhiều, dĩ nhiên nó phải bao gồm một chút tư tưởng nầy: Kỳ thật, tất cả Sự Sống đều như nhau, ở phương diện nầy, không có ǵ cao hay thấp, v́ toàn thể đang chuyển động. Điều đó không làm trở ngại nhiều người mà Sự Sống phát triển hơn, có nhiều khả năng hơn để giúp đỡ, c̣n lắm kẻ khác chỉ có thể giúp đỡ một cách ít oi thôi. Huynh hăy nhớ kỹ điều nầy: Những người nhận thấy rằng việc làm của họ được thành tựu nhất, tốt đẹp nhất mà thường bị xem là thấp kém, dù sao chớ nên nản chí ngă ḷng, họ cũng thúc đẩy bánh xe ấy, họ cũng góp phần vào sự phát triển Sự Sống thiêng liêng ấy.


CHƯƠNG   4

QUI TẮC  2 – 4

 

            2.- Hăy diệt ḷng tham sống.

            Hăy kính trọng sự sống như những kẻ ham sống muốn vậy.

            A.B. - Những điều khảo sát trước đây có liên quan đến một điểm nào đó của câu cách ngôn nầy và câu kế tiếp. Cũng những nguyên tắc chung ấy áp dụng cho sự diệt ḷng tham vọng (trừ phi những hoạt động của kẻ làm việc như y có ḷng tham vọng) cũng được đem áp dụng luôn cho cả hai câu trên đây. Vị Đệ Tử phải diệt ḷng ham muốn đời sống cá nhân riêng biệt, tất cả điều ǵ làm tăng trưởng tinh lực của bản ngă và nuông chiều điều ham muốn riêng tư của y. Niềm vui thích phát triển đời sống của y bằng cách không ngớt đưa vào những yếu tố bên ngoài nhiều hơn trước cũng chưa phải là đủ cho hạnh phúc của y.

            Khắp cả Thế Gian, người ta thấy những người t́m kiếm một cách nồng nhiệt, một đời sống thung dung hơn, phong lưu hơn, họ chiếm đoạt nó bằng cách biểu lộ những dục vọng khác nhau, họ phấn đấu, họ tranh đua hầu hoạch đắc và tích trữ không ngớt những vật do sự tưởng tượng cuồng nhiệt và vô kỷ luật của họ đ̣i hỏi, đó là nguyên nhân của sự hỗn loạn vô biên về phương diện cá nhân và xă hội. Vị Đệ Tử chính ḿnh, phải diệt ḷng ham muốn nầy là sự tăng trưởng, khai triển đời sống cá nhân và chia rẽ. Y phải bước vào đời sống cao siêu và chỉ có một điều ham muốn mà thôi là có mặt ở khắp cả bốn phương trời trong Vũ Trụ  nơi đó sự hiện diện của y có thể biểu hiện được sự sống duy nhất. Trong Vũ Trụ nầy có nhiều việc đáng làm. Khi mà tất cả ḷng ham muốn đời sống cá nhân và chia rẽ bị đàn áp, tất cả những sự ưa thích riêng tư bị tiêu tán những nhu cầu thời đại của nó mới qui định sự tuyển chọn con người tinh thần. Linh hồn siêu thoát làm việc bất cứ ở nơi nào cần đến sự giúp đỡ, nó chỉ nguyện ước có một điều là được làm một dụng cụ ở nơi nào nó hữu dụng. Đời sống của nó chỉ có giá trị và hữu ích là do theo Đời Sống Đại Đồng mà nó là một thành phần.

            Con người khi đă mất ḷng ham sống, bây giờ gặp bước nguy cơ nh́n đời sống Thế Gian không c̣n giá trị nữa, v́ Y không c̣n tha thiết đến của cải mà cuộc đời đem cung hiến cho Y. Y có thể nh́n cơi đời nầy và đồng loại ḿnh một cách khinh bỉ. V́ tin chắc rằng ḿnh là bậc cao siêu, Y có thể xem rẻ kẻ khác, cho họ là điên dại, khi nói tới họ Y dùng lời lẽ nghiêm khắc, sau rốt Y xem những lư do của họ là điều đáng thương hại. Thái độ của Y, đối với họ, rất là tự nhiên nhưng đầy vẻ nguy hiểm và thật là xấu xa. Nó chứng tỏ rằng, nếu Y có thể nhận thức được Phi Ngă là thế đó th́ Y không hiểu Chơn Ngă là ǵ. Nếu một sự sống nào, dù không được tiến hóa mà làm cho Y sinh ḷng khinh bỉ, Y lại quên rằng sự biểu hiện nầy là thành phần của Đấng Tối Cao, v́ thế, bức thông điệp sau nầy, đối với Y, là cần thiết và khẩn cấp: Hăy kính trọng sự sống như những kẻ tham sống muốn vậy."

            Y hỏi chúng tôi tại sao cần phải xem sự sống với ḷng tôn kính, chúng tôi đáp rằng: "Bởi v́ sự sống là thiêng liêng," ấy là giai đoạn công tác của Đức Thượng Đế và đối với Ngài, công tác ấy cũng rất quan trọng như giai đoạn cao siêu của nó hiện giờ là giai đoạn của người nầy. Khi dùng danh từ thấp và cao, chúng tôi tự đặt ḿnh vào phương diện tiến hóa của thời gian, sự thay đổi liên tiếp làm ra thời gian. Không phải Đức Thượng Đế nh́n xem vũ trụ Ngài như thế, đối với Ngài, không có cái nào lớn, không có cái nào nhỏ, không có cái nào ghét bỏ, không có cái nào mến yêu. Tất cả vạn vật đều tiến đến một khoảng đường nào đó ở trên con đường mà tất cả nhân loại phải đi qua hầu đạt cho được một mục đích chung. Một h́nh thể thô kệch cũng rất cần thiết cho Cơ tiến hóa như các h́nh thể được gọi là cao siêu. Vị Đệ Tử, v́ thế, cần phải tránh sự sai lầm là khinh bỉ một sự sống nào và cho nó không có ǵ quan trọng v́ viện cớ rằng nó tiêu biểu cho một tŕnh độ thấp thỏi của sự tiến hóa; tất cả vạn vật, ở vào vị trí đặc biệt của nó, đều tốt đẹp và hữu  ích.  Sự nh́n nhận Chân Lư căn bản nầy sinh ra bổn phận thương yêu đồng loại chúng ta, v́ họ thuộc về thành phần của Đời Sống Đại Đồng  c̣n  đang  tiến  hóa.

            Ở vào tŕnh độ thấp, con người có lẽ thiếu lương tri, ham vật dục, biếng nhác, càng ít được người thương mến. Y không đủ sức hấp dẫn là do h́nh thể chớ không phải do Sự Sống. H́nh thể làm cho ta mù quáng. V́ lẽ chúng ta miệt thị người, v́ lẽ chúng ta quay mặt chỗ khác, điều đó tỏ ra chúng ta cao thượng hơn người, cho nên ḷng khinh bỉ do ở ư niệm của sự cao thượng sinh ra. Thật sự, nếu chúng ta cao hơn một người nào đó chỉ do ở tŕnh độ tiến hóa của h́nh thể mà thôi. Phần tinh hoa vốn vẫn  in nhau. Những khả năng mở ra cho đồng loại chúng vẫn đồng giá trị với những khả năng của chúng ta và bắt đầu từ trung tâm điểm khi quan sát sẽ thấy: "Ta sao, người vậy." Người đă theo con Đường Đạo rồi, tập nh́n xem sự vật ngay ở trung tâm cũng như ở châu vi; v́ thế, y phải kính trọng Sự Sống và nhận biết rằng Đời Sống Đức Thượng Đế chỉ là một. H́nh thể là cái vỏ mà Đức Thượng Đế xét thấy cần thiết để cho Ngài biểu hiện trong đó một thời gian và nếu nó cũng khá tốt đẹp cho Đức Thượng Đế, nó cũng khá tốt đẹp cho chúng ta.

            Vũ trụ cần phải tŕnh bày những h́nh thể thuộc về tất cả mọi tŕnh độ của sự tăng trưởng, không có một h́nh thể nào cao hay thấp; tất cả đều như nhau. Một sự sai biệt hiện ra là khi nào sự tiến hóa chính của chúng ta c̣n tiếp diễn, nó tiêu mất, lúc mà sự tiến hóa của chúng ta chấm dứt. Phải bỏ sự quan tâm của chúng ta về h́nh thể, phải để qua một bên tất cả điều ǵ có liên quan đến h́nh thể và kết quả của sự hành động, trước khi có thể kính trọng sự sống trong tất cả mọi biểu hiện của nó. Con người mà sự tiến hóa mới trải qua một giai đoạn, chưa trọn vẹn, c̣n bị nhốt ḿnh trong những h́nh thể bằng ḷng giúp đỡ những người thân cận với y, và đáng giúp đỡ. Y chưa sẵn sàng hỗ trợ những người tầm thường, hèn mọn hơn hết. Trái lại, kẻ nào giúp đỡ người bằng cách tự đặt ḿnh vào quan điểm của Đức Thượng Đế sẽ giúp đỡ tất cả mọi người. Bổn phận của Y là cứ thi hành mà không phân biệt người nào cả. Sự hoạt động của Y chính là sự hoạt động của Đức Thượng Đế. Y giúp đỡ những người mà Y gặp gỡ, dù họ cao thượng hay không. Y kính  trọng Sự Sống ở ngay trung tâm của mỗi người. Y giúp đỡ nơi nào cần đến sự giúp đỡ. Y không để cho tự Y phải rối trí v́ Sự Sống không được hoàn toàn hiện diện ở trong con người. Biết rằng công tŕnh của Đức Thượng Đế tiếp diễn thế nào để khích lệ Sự Sống, Y chú tâm vào sự giúp đỡ cho Sự Sống được biểu hiện. Y tránh việc nói rằng: "Tôi thuộc về Bản ngă, c̣n ngoài ra không có ǵ hết." Y làm việc cho sự biểu hiện, kính trọng và thương yêu Sự Sống và như thế, không c̣n tỏ ra tánh khinh bỉ, sự sai lầm nầy khi dựng lên bức tường Bản Ngă chia rẽ,sẽ ngăn cản Sự Sống không cho phát triển nơi Y.

            Có một sự sai biệt vô cùng rộng lớn giữa cách thức mà hai người quan sát Sự Sống, một mặt, một người là thường nhơn, và mặt khác, là kẻ sống trong cảnh TrườngTồn Bất Diệt. Người thứ hai thấy Sự Sống kèm theo tất cả những khả năng của nó, khả năng mà nó nhận thấy ngay từ bây giờ, dù chúng nó chưa được phát triển, bởi v́ nó sống trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt và khi Sự Sống được khảo sát dưới phương diện nầy, người ta thấy nó ở trong tất cả sự mỹ lệ của sự toàn thiện đă thực hiện được của nó. Khi Sự Sống tiến chưa đến một mức cao lắm, chúng ta chỉ thấy nó vào giai đoạn đặc biệt là ở trong thời gian chớ không phải ở trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt; v́ thế chúng ta không kính trọng Sự Sống đúng mức. Linh Hồn siêu thoát sống trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt nh́n thấy Sự Sống đúng như hiện trạng của nó, vừa khảo sát lại giai đoạn hiện tại, trong giờ phút đặc biệt mà Sự Sống tiến triển đến đó, Linh Hồn nầy không thể cảm giác một sự ghê tởm nào, v́ biết rằng giai đoạn đó là hoàn toàn thông thường thôi.

            Cho nên, một người kia càng tiến bước lên cao, Y càng tỏ ra khoan dung với tất cả Sự Sống và ḷng từ ái của Y, đối với tất cả, càng rộng lớn, bởi v́ ḷng từ ái của Y gần với ḷng từ ái của Đức Thượng Đế. Trong khi diệt nơi tâm ḿnh sự ham sống nghĩa là sự ham muốn của Bản Ngă chia rẽ, vừa kính trọng Sự Sống như những kẻ ham sống muốn vậy, con người bắt đầu đạt được ư niệm của cảnh TrườngTồn Bất Diệt, nó giúp cho Y kính trọng Sự Sống, dù Sự Sống có biểu hiện cách nào đi nữa. Tất cả ḷng khinh bỉ, đối với kẻ thấp hơn Y, v́ thế, không c̣n . Y thấy mọi người ở vào vị trí của họ như là sự biểu hiện của Sự Sống Toàn Mỹ.

            C.W.L.- Ở đây, cũng như đối với qui tắc trước, Giáo Lư đem ra áp dụng cho hai tŕnh độ khác nhau. Hẳn nhiên, kẻ mới học Đạo phải lo diệt ḷng ham muốn sống ở ngoại giới, theo cách nầy hơn là cách khác, nếu cách khác đó làm trở ngại công việc hoàn thành. Con người, khi làm Đệ Tử Chơn Sư, phải triệt để vui ḷng thi hành nhiệm vụ ǵ đặt trên bước đường y đi, đến một nơi nào hoặc một chỗ nào khác, bỏ cái nầy hay cái kia mà vẫn không phật ư chút nào. Nếu y nói: "Tôi làm loại công tác nầy, tôi làm cho nó tốt đẹp và tôi không muốn làm công việc ǵ khác. Ḷng kiêu hănh của Y có thể làm cho y vấp ngă. Chúng ta hăy thí dụ Y bị thu hồi một nhiệm vụ mà Y thấy ḿnh đủ khả năng thi hành và Y được giao phó cho một nhiệm vụ khác, đối với Y, c̣n mới mẻ quá, Y cũng phải nhận lănh nó với sự im lặng hoàn toàn. Sự thay đổi nầy có thể có hai lư do: Hoặc là nhiệm vụ mới rất cần kíp hơn, hoặc là vị Đệ Tử đă học qua công tác đặc biệt nầy, nên tốt hơn là để cho Y học làm một công tác khác.

            Ở ngoài những kỷ luật đặc biệt của Đệ Tử, chúng tôi thường gặp những lực tiến hóa hành động như thế. Mỗi người thích làm điều mà Y có ư làm cho tốt đẹp, nhưng mà những lực tiến hóa muốn khai triển hoàn toàn con người, và rất thường lắm, chúng nó thu hồi công tác của Y đang thi hành và giao phó cho Y một công tác khác mà Y chưa quen thuộc, bởi v́ những lực ấy muốn đánh thức trong tâm Y một năng lực mới. Nếu khởi đầu mà Y làm công việc không hành tựu, Y phải nhẫn nại, tŕ chí làm cho đến khi thành công. Đây là cách thức mà sự tiến hóa tác động một cách tổng quát và Chơn Sư  cũng áp dụng nguyên tắc ấy vào sự đào luyện Đệ Tử Ngài. Nếu Đệ Tử hoàn thành trọn vẹn một nhiệm vụ nào th́ nhiệm vụ ấy c̣n có thể giao phó cho Y trong một thời gian, nhưng rồi, th́nh ĺnh, Đệ Tử có thể phải đi công tác ở một nơi khác, và công tác mới đó, Đệ Tử phải sẵn sàng thi hành với ḷng vui thích như công tác cũ.

            Ở tŕnh độ cao, công việc ấy cũng c̣n là xác thật đối với đời sống của Chơn Nhơn. Vị Đệ Tử khi nh́n lại những kiếp quá khứ của ḿnh, biết rằng Chơn Nhơn của Y đă theo dơi vài đường lối, khai triển vài đức tánh và xét theo phương diện cá tánh, Y có thể thành công bằng cách vẫn theo dơi những đường lối ấy. Tuy nhiên, Y có thể bị chuyển hướng. Cá tánh hay là Chơn Nhơn phải thọ lănh những điều mà nó thu thập được trong lúc học hỏi của nó và ở đó chúng ta phải loại bỏ tất cả mọi ư niệm rằng công tác nầy hoặc đường lối nầy đáng thích hơn công tác khác hoặc đường lối khác. Chúng ta biết được điều ấy khi mà chúng ta gặp những người thuộc về một Cung hay là một chủng loại khác hơn chúng ta. Chúng ta cảm thấy rằng Cung hay chủng loại của chúng ta là tốt đẹp hơn hết. Về mặt lư thuyết, chúng ta công nhận Cung hay chủng loại của kẻ khác đồng giá trị Cung hay chủng loại của chúng ta, nhưng trong chúng ta, rất ít người tiến đến chỗ gây được t́nh thiện cảm thân hữu thật sự với họ. V́ thế, thí dụ, một người say mê những công tŕnh Triết Học và Khoa Học có thể phải khổ tâm khi bị bắt buộc phải phục vụ theo con đường nghệ thuật hay nghi lễ. Khó mà xoay chiều mối thiện cảm của chúng ta và để nó thong thả hướng về đường khác. Tuy nhiên, ấy là một trong những điều cần phải tập làm, nếu sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Khi một người có được ư niệm hợp nhất th́ Y có một lối phán xét vô tư. Thật thế, đối với Y, tất cả các loại công tác đều như nhau. Không phải y có thể thi hành tất cả một cách dễ dàng như  nhau, nhưng Y thấy chúng nó đều dắt đến một điểm chung. Người chưa tiến hóa không bao giờ hiểu thấu được điều đó. Y luôn luôn tưởng rằng người mà đă đứng ở phương diện cao siêu th́ ḷng lạnh nhạt, cứng rắn và không có thiện cảm. Đây là lư do: Con người ít tiến hóa cứ tưởng nghĩ đến ḿnh và ham muốn đủ thứ lạc thú riêng cho ḿnh, trong khi kẻ khác chỉ nghĩ đến nhiệm vụ thi hành và đặt vào đó tất cả sức mạnh  của ḿnh. Khi Thiên Cơ bắt đầu lố dạng như vầng thái dương xuất hiện trên chân trời, con người chỉ thấy có Thiên Cơ, hiến dâng cho Thiên Cơ tất cả tinh lực của Y và tận lực hoàn thành những ǵ để phụng sự tốt nhất cho Thiên Cơ, cho đến trong những chi tiết nhỏ nhặt của cuộc sống hằng ngày. Y móc chiếc xe của Y vào tinh đẩu. [8] Y có nhiều lư tưởng rất cao siêu, hoàn toàn xa lạ với trí thông minh thường. V́ vậy, có thể nào mà những kẻ c̣n nhận định sự vật theo phương diện cá nhân hiểu được Y? Nếu Y đau khổ v́ không ai hiểu được Y - tánh nầy cũng c̣n bộc lộ một dấu vết của bản ngă - th́ y cũng phải loại bỏ nó đi. Y cần chấm dứt sự mong ước những sự cố gắng của y sẽ được thưởng thức, dù được thưởng thức hay không, y cũng phải hiểu rằng điều đó không mảy may ǵ quan trọng cả. Chỉ có một điều quan trọng thôi là công tác đem ra thi hành. Người ta phán đoán không công b́nh những việc của chúng ta làm? Không cần. Miễn là nó được hoàn thành với tất cả sự toàn thiện có thể được. Chơn Sư sẽ biết điều đó, nhưng chính đó cũng chưa phải là động lực của chúng ta. Chúng ta hoạt động v́ đó là công tác của Đức Thượng Đế. Như chúng ta ở trong tâm của Ngài, ư chí của Ngài là ư chí của chúng ta. Niềm hoan lạc của chúng ta, sự đặc ân cao cả của chúng ta là rán sức ḿnh để hoàn thành điều mà Ngài muốn thấy hoàn thành.

            Nhận thức được rằng tất cả Sự Sống là thiêng liêng lẽ dĩ nhiên chúng ta phải kính trọng Sự Sống ở trong tất cả mọi biểu hiện. Chúng ta chỉ thấy được nó có phân nửa nên luôn luôn chúng ta không kính trọng nó dưới tất cả h́nh thể và trong tất cả mọi biểu hiện của nó. Nghiệm thấy rằng có nhiều Sự Sống, đối với ta, là đáng được ưa chuộng hết sức nhưng chúng ta lại có ư hay khinh bỉ những biểu hiện đặc biệt nầy. Đó luôn luôn là một sai lầm. Chúng ta thấy chung quanh nhiều sự vật, xét theo phương diện của chúng ta th́ rất xấu, điều đó thường có thật như vậy. Tất cả những cách biểu thị của tánh ích kỷ, ḷng tham lam, và t́nh dục phóng túng, không kềm chế, bày nhan nhản ở Thế gian, lẽ dĩ nhiên là đă xấu xa, theo ư nghĩa nầy tất cả đều sẽ tiến đến sự đẹp đẽ hơn, nếu những cách biểu thị nầy khác hẳn những điều mà ta đă thấy. Nghĩ như vậy, chúng ta thấy ḿnh không lầm lạc: Đúng hẳn như thế. Nhưng khi chúng ta đem ḷng khinh bỉ những người ở vào tŕnh độ nầy, chúng ta đă vượt quá mức đă định. Tŕnh độ phát triển của họ đă giải nghĩa những sự biểu hiện nầy. Thường th́ chúng nó là cách duy nhất để biểu thị mà họ có thể làm được trong tŕnh độ hiện hữu và chính là nhờ ở chúng nó mà họ học hỏi được. Khi thấy một người tỏ ra ích kỷ, tham lam và không tự chủ, chúng ta nói: "Thật là đáng tiếc." Đáng tiếc thật, nhưng chỉ trong ư nghĩa mà chúng ta thương tiếc dùm cho một đứa trẻ thơ mới lớn lên bốn chưa đến tuổi trưởng thành. Nếu chúng ta để cho những thị dục của chúng ta chi phối chúng ta, nếu chúng ta tỏ ra tham lam và ích kỷ, chúng ta tha hồ mà tự khinh bỉ chúng ta v́ chúng ta hiểu phải là thế nào rồi, nhưng mà khinh bỉ người khác là xấu xa vậy. Người nầy dường như có khả năng làm được việc hơn, có lẽ Y đă bỏ qua nhiều cơ hội thuận tiện. Chúng ta hăy tiếc dùm cho Y, nếu  có thể, hăy thử giúp đỡ Y đi theo con đường ngay chánh và nhận thức những khả năng cao siêu, nhưng chúng ta đừng xa lánh Y, đó là lỗi nặng nhất, mặc dù luôn luôn chúng ta không thể tránh được ư ghê tởm đối với những hành động của Y. Một người say rượu, ấy là tŕnh độ hiện hữu của Y. Linh Hồn y c̣n trẻ trung, Y chịu khuất phục trước sự cám dỗ của men rượu, thay v́ phải chống lại nó là việc Y phải làm. Có lẽ Y cũng thường thử kháng cự lại nhưng không thành công. Tất cả mọi phương tiện giúp đỡ của chúng ta cần phải được triệt để và hoàn toàn để cho Y sử dụng, nhưng chúng ta đừng gớm ghiếc Y. Đó là cái tư tưởng cũ rích của Thiên Chúa Giáo: Chúng ta có thể thù ghét tội lỗi, nhưng nên xét thương giùm cho kẻ phạm tội, bằng không tánh t́nh của chúng ta c̣n xấu tệ hơn nữa, v́ lẽ chúng ta mất t́nh huynh đệ, và cùng một lúc, ta mất luôn cái năng lực giúp đỡ của chúng ta.

            Sự Sống duy nhất ở trong tâm của tất cả và chúng ta phải kính trọng nó, dù nó ở trong những biểu hiện mà chúng ta không thích và chúng ta biết là bất hảo. Sự Sống là Thiêng Liêng; đừng bao giờ quên điều đó. Đôi khi cũng khó mà công nhận việc ấy khi những hành động phạm pháp có tính cách quá vô đạo, dù sao cũng nên rán nhớ rằng Sự Sống là thiêng liêng. Đó c̣n là cái ư niệm cũ kỹ của Sự Sống ẩn tàng đă được đem truyền dạy cho chúng ta từ cả muôn, cả ngàn năm nay trong những Pháp Môn Huyền Bí Ai Cập. Người ta nói với chúng ta rằng Sự Sống ẩn tàng ngự trong tâm của mỗi người, nó ẩn kín trong sâu xa, gần như không thấy được. Huynh hăy nhớ luôn luôn rằng nó vẫn hiện diện mặc dù chúng ta không trông thấy nó. Ánh sáng ẩn tàng ở trong tâm ta, không thể soi sáng một kẻ khác, và làm cho ánh sáng c̣n  ẩn kín ở trong tâm của Y tỏ rạng, nhưng nhờ có đủ nhẫn nại và nghị lực mà Y sẽ hoạt động đúng ngày giờ của Y và theo cách thức của Y. Ngày nay lời giáo huấn nầy được tŕnh bày bằng những danh từ có hơi khác hơn, nhưng chân lư chứa đựng trong đó vẫn không thay đổi.

            Người sống trong cảnh Trường Tồn Bất Diệt nh́n xem tương lai cũng như hiện tại. V́ thế, đứng trước một biểu hiện hết sức xấu xa ghê tởm của Sự Sống, Y nói: " Phải, trong nhất thời và xét theo phương diện của kỳ gian thôi, đúng là điều tôi thấy như vậy đó: Một sự biểu hiện hạ đẳng và không xứng đáng, nhưng Sự Sống thiêng liêng, vĩnh cửu bất biến, sẽ nẩy nở một ngày kia." Lắm người không hiểu được hiện tại, thật là ảo tưởng đến bực nào. Chúng ta vừa mới nghĩ đến hiện tại là nó đă chạy mất. Chúng ta nói: "Chuyện nào đó đang xảy ra bây giờ đây." Và những lời nầy chưa thốt ra, cái hiện tại đă trở nên quá khứ. Thật sự, không có hiện tại; ấy là lưỡi dao chia đôi quá khứ và tương lai, ấy là một danh từ tiện dụng, nhưng mỗi giây qua là lưỡi dao lại di chuyển. Phải đọc tương lai trong hiện tại và nhận xét nó ra thế nào. Nếu chúng ta thoát ra khỏi mấy thể nầy và những bộ óc nầy trong chốc lát thôi và chúng ta đi vào một đời sống thật t́nh cao siêu hơn, rồi từ trên cao đó chúng ta có thể khảo sát vấn đề nầy, chúng ta sẽ hiểu nó được một cách đầy đủ. Chúng ta thấy rằng khi tưởng nghĩ đến tương lai này, ngay bây giờ chúng ta làm cho nó đến gần chúng ta hơn. Nếu, thấy một kẻ phạm tội, chúng ta cứ tưởng đến tội lỗi của Y, chúng ta càng bó chặt tội lỗi ấy vào ḿnh Y, nhưng nếu thấy Y mà chúng ta nghĩ đến tương lai khi mà Y sẽ giải thoát được tội lỗi đó, chúng ta mở cho Y một con đường của tương lai nầy, v́ thế mà nó ít cách xa hơn.

            3.- Hăy diệt ḷng ham sung sướng.

            Hăy sung sướng như những kẻ sống v́ hạnh phúc.

            A.B. - Trong những giai đoạn đầu tiên của sự tiến triển, con người vận dụng tất cả năo lực và thể lực của Y hầu đạt cho được những phương tiện bảo đảm sự sung sướng của Y. Ḷng ham muốn sung sướng, đó là điều chỉ định cho phần đông con người. Đó là sự kích thích rất hữu ích để đem vài tánh biểu lộ ra để chúng nó thích ứng với sự sung sướng mà người đạt được muốn thụ hưởng.

            Ḷng ham muốn sung sướng tiêu tán dần dần khi mà những mục tiêu hiện lên. Thí dụ như một người có thể diệt ḷng ham muốn sung sướng và những lạc thú của xác thân bằng cách di chuyển quyền lợi của Y qua đời sống tinh thần. Trước tiên, Y có một ư niệm về sự cố gắng, sự đau khổ và sự mất mát tổn hao, nhưng Y thích những sự lạc thú của Thể Trí hơn là Thể Xác, biết rằng chúng nó sẽ tồn tại lâu hơn, kế đó, nếu Y thực hành sự đoạn tuyệt Y nhận thấy rằng ư nghĩ tổn hao mất mát giảm bớt, những sự lạc thú trí thức đối với Y, có sức hấp dẫn tăng trưởng thêm, sau rốt, những điều ham muốn thấp hèn mất hết sự quyến rũ của nó.

            Trước hết, ở mọi tŕnh độ, có sự tự ư đoạn tuyệt, kế đó, sự vật Hồng Trần mà ḿnh ham muốn mất sức quyến rũ của nó. Về sau, một sự thay đổi tương tự phát sinh liên quan đến những lạc thú trí thức. Khi con người ngưỡng vọng đến đời sống thiêng liêng, ḷng ham thích hoạt động về trí thức giảm lần từ giai đoạn. Sự hưởng thụ một tinh lực dũng mănh về trí thức càng ngày càng ít làm nó mê say. Nó từ khước những sự lạc thú của trí tuệ và t́m kiếm những sự lạc thú của tinh thần. Nó thoát khỏi trí tuệ và chú định Tâm Thức của nó vào tŕnh độ cao siêu.

            Diệt ḷng ham muốn sung sướng không phải là không có hại, nó là cái hại thứ ba. Cái hại thứ nhứt là bất động, cái hại thứ hai là ḷng khinh bỉ, cái hại thứ ba là một khuynh hướng không sung sướng mà cũng không đau khổ.        

            Làm thế nào cho được hạnh phúc ? Chúng tôi đáp: " Khi t́m biết được rằng Chơn Ngă là toàn phúc." Trong quyển kinh Brahma Sutras  có nói rằng: "Phạm Thiên  là toàn phúc. Phạm Thiên là toàn lạc." Giờ đây, con người phải có ḷng tự tin như thế. Không có sự sung sướng nào, không có sự đau khổ nào c̣n ảnh hưởng đến người y nữa. Chúng nó không c̣n sức hấp dẫn y được, chúng nó sinh ra bởi sự tiếp xúc giữa những h́nh thể. Giờ đây, đạt đến mức quân b́nh con người quên hẳn ḿnh đi không thấy ǵ là sung sướng hay là đau khổ nữa, tuy nhiên, Y cần phải tập cho được sung sướng như những kẻ sống v́ hạnh phúc.

            Ấy là sự toàn phúc mà Chơn Ngă được hưởng, cái toàn phúc thâm thúy và bất biến nầy là đặc tính cần thiết của đời sống thiêng liêng mà tâm thức của chúng ta khó nhận thức hơn hết. Đặc điểm của những Đại Gia Thần Bí và của những Đấng Cứu Thế; ấy là sự đau khổ đóng một vai tuồng to tát trong cuộc đời của các Ngài. Đức Jésus là một người đau khổ. Gautama, Đức Phật, ĺa bỏ cung vàng điện ngọc huy hoàng, những vườn thượng uyển, [9] những bằng hữu trung thành, hầu t́m kiếm một phương thuốc cho sự đau khổ của nhân loại. Cũng thế đó, nếu chúng ta khảo sát lại cuộc đời của tất cả những bậc Đại Dẫn Đạo quần chúng. Sự đau khổ có một ảnh hưởng sâu xa nơi con người của các Ngài, nhưng Các Ngài biết cách chịu đựng. Ở nơi Các Ngài tràn ngập một niềm vui bền bỉ và người xét đoán các Ngài ở bên ngoài là cho các Ngài chịu những sự đau khổ ghê gớm. Như sự phiền năo ŕnh rập các Ngài, biết bao nhiêu là sầu muộn, sự rối rắm, lo lắng và những cảnh hoạn nạn, từ khắp nơi, như mưa đổ trút trên ḿnh các Ngài, lẽ dĩ nhiên, người ta dựa theo đó mà suy luận ra rằng các Ngài rất buồn thảm. Không hẳn như thế, các Ngài không nao núng, không khổ sở, không lo buồn v́ những nỗi niềm đau khổ ấy, mặc dù các Ngài rất chú ư vào đó và vẫn đủ khả năng hoàn thành tất cả điều ǵ mà hạnh phúc của Thế Gian có thể đ̣i hỏi. Sự an tĩnh ngự trị trong tâm hồn các Ngài. Cho nên, huynh nghe các Ngài luôn luôn lập lại rằng: "Ḷng ta luôn luôn an tịnh."

            Đệ Tử chia sớt tất cả nỗi niềm đau khổ dưới Thế Gian. Sự đau khổ nầy không thể tránh được. Nó rọi bóng trên ḿnh vị Đệ Tử, một cái bóng mà y không phương trốn tránh. Tất cả niềm đau khổ của nhân loại cần phải gặp một tiếng dội trong ḷng Y. Y đau khổ, thương hại giùm cho những kẻ vô minh, những người đau khổ, những phản kháng của họ, sự bạo động của họ. Ở vào tŕnh độ nói trên, Đệ Tử phải lâm nguy v́ làm mất cảm giác của ḿnh. Nếu cảm giác càng kém sút, Đệ Tử càng ít được hữu dụng hơn. Những Đấng Cao Cả động ḷng thương hại cho con người c̣n lệ thuộc Nhân Quả, nhưng các Ngài vẫn chịu bất lực v́ chính các Ngài cũng không làm sao giúp đỡ được. Phải, có những trường hợp mà sự giúp đỡ của các Ngài khó bề thực hiện và con người phải tự lực đương đầu với những kinh nghiệm của ḿnh. Biết được sự cần thiết ḥa hợp tuyệt đối với Thiên Cơ, các Ngài, trong khi đó, đứng biệt lập ra ngoài coi chừng Thiên Cơ hành động. Một yếu tố đau khổ và thiện cảm, v́ thế, c̣n tồn tại ở các Ngài, sự thương hại của các Ngài cũng bao hàm một mức độ phiền muộn nào đó.

            Và điều nầy sẽ lưu tồn măi măi như một cái bóng. Khi làm mất năng lực  của ḷng thiện cảm, con người sẽ mất năng lực giúp đỡ. Trong phạm vi mà đời sống của y thông đồng với kẻ dốt nát, Y cảm thông được niềm vui và nỗi khổ của nó và Y làm cho nhẹ bớt sự đau khổ bằng cách chia sớt sự đau khổ với nó.

            Vị Đệ Tử luôn luôn hiểu rơ những chơn lư khẩn thiết nầy, và cần nhớ lại rằng Chơn Ngă là toàn phúc. Y trong ḷng phải vui vẻ và đào luyện cho có phương pháp cái tinh thần an phận và điềm tĩnh. Do đó, Y có thể tham thiền về sự toàn phúc thiêng liêng, sự toàn phúc thâm thúy, mănh liệt ở Thế Gian nầy không có ǵ bằng, bởi v́ nó là tinh hoa và chính là bản thể của Chơn Ngă. Trạng thái nầy chỉ có thể phát triển một cách duy nhất là: Nhờ sự đào luyện có phương pháp sự vui vẻ và tính an phận, sự khảo sát cảnh Thế Gian,  t́m hiểu rằng điều ác là Vô Minh hay là thiếu Minh Triết. Bị bao bọc ở trong ṿng phiền năo, vị Đệ Tử phải sung sướng. Y phải đạt cho được sự tin chắc rằng đau khổ riêng thuộc về mấy Thể nhưng đời sống luôn luôn là vui vẻ.

            C.W.L. - Qui tắc nầy không có nghĩa là cấm đoán sung sướng như người ta thường hay giải thích. Những vị Đạo sĩ Yogis, những nhà tu ẩn dật, những nhà sư, căn cứ vào những kinh sách khác đều kết luận giống nhau. Những lời kết luận ấy đều hoàn toàn sai lạc và vô lư. Thời Trung Cổ, những nhà sư đeo lông ngựa vào cổ để hành xác. Nhiều Đạo sĩ Yogis ngồi trên bàn chông sắt nhọn trong mùa viêm nhiệt, hết sức nóng, ban đêm họ vẫn ngủ giữa những đám lửa hồng, tất cả những điều nói trên cốt để tránh sự sung sướng. Người ta đi đến kết quả đó, v́ họ lấy một đoạn kinh rồi giải thích một cách quá lố. Trong Thánh Ca (Bhagavad Gita) nói rằng: " Những kẻ nào hành hạThể Xác tức là hành hạ Đức Thượng Đế ngự trong thân ḿnh của họ và những phương pháp luyện tập của họ phản tiến hóa." V́ thế, qui tắc nầy, đối với chúng ta, không có nghĩa là cấm đoán sự sung sướng, nhưng chúng ta không nên để cho ḷng ham muốn sung sướng ngăn trở chúng ta thi hành một công tác nào mà chúng ta có bổn phận phải làm. Dù sự thi hành bổn phận của chúng ta có đem lại cho ta nhiều nỗi bực ḿnh trọng hệ, đó cũng không phải là lư do để cho chúng ta xao lăng bổn phận của chúng ta.

            Tự cấm ḿnh hưởng sung sướng một cách vô lư, ta chỉ tạo ra những khó khăn. Người ta nói nhiều về kiến hiệu của sự đau khổ và của tất cả những sự tiến bộ mà sự đau khổ mang lại cho chúng ta, nhưng khi khảo sát sự vật cặn kẽ, chúng ta nhận thấy sự tiến bộ có là khi nào sự đau khổ chấm dứt. Không phải chính sự đau khổ làm cho tiến bộ, nhưng trong nhiều trường hợp, nó bắt con người phải chú ư đến những điều kiện mà nếu không có sự đau khổ th́ Y không đủ sức chú ư. Đôi khi, sự đau khổ diệt mất những tánh ngăn trở sự tiến bộ của Y, nhưng những sự tiến bộ nầy chỉ thực hiện được khi nào Y không c̣n đau khổ nữa. Chỉ có lúc bấy giờ thôi, trạng thái tinh thần của y mới giúp cho y nhắm cao xa hơn.

            Chúng ta đừng tưởng rằng là một đức hạnh nào đó khi làm cho chính chúng ta mất tiện nghi. Trái lại, khi nào Thể Xác được thư thái, chúng ta càng dễ nghĩ đến đời sống cao siêu hơn. Tuy nhiên, tôi có biết những người cứ khư khư ở măi trong sự lầm lạc ấy. Đây là một thí dụ. Ở Ấn Độ nơi mà người ta biết rành rẽ về cách thức tham thiền. Họ có tập quán ngồi xếp bằng kiết dà. Tôi có biết một số đông người Tây Phương bị kiệt sức v́ bắt ḿnh phải chịu đau khổ bằng cách, trong lúc tham hiền, tập ngồi cho quen theo thế kiết dà của người Ấn Độ. Họ không hiểu rằng đó chỉ là một vấn đề chi tiết bên ngoài và người Ấn Độ chấp nhận chỉ v́ họ đă tập quen ngay từ khi c̣n thơ ấu. Những người chưa quen với tư thế nầy bị nó làm phiền lụy lại vẫn muốn tự bắt ḿnh ngồi theo lối đó sẽ phí hết th́ giờ của họ. Đức Patanjali khuyến cáo một lối ngồi tham thiền "thong thả và êm ái".

            Có hai điểm đáng được khảo sát liên quan đến cách ngồi của chúng ta trong khi tham thiền. Điểm thứ nhứt là Thể Xác phải vừa đủ thư thái để người ta có thể quên ḿnh, v́ đó mới là mục đích t́m kiếm. Điểm thứ hai là ngồi thế nào, nếu chúng ta xuất hồn khỏi xác lúc tham thiền (điều đó vẫn có thể xảy ra luôn) mà không có ǵ rủi ro. Trong trường hợp nầy, cảm giác của Thể Xác là mê man như bị bất tỉnh. Người Ấn Độ ngồi tham thiền trên ván, té ngửa ra sau nên không có tai hại. V́ vậy, trong lúc tham thiền, chúng ta phải ngồi trên ghế bành hầu tránh khỏi phải té ngửa khi Thể Xác mất tri giác. Nằm tham thiền không tốt v́ nó làm cho chúng ta dễ buồn ngủ.

            Những mối cảm xúc và trí tuệ có sự lạc thú của nó và lắm kẻ bài xích quan niệm rằng sự sung sướng của Thể Xác, đối với họ, không có ǵ trọng hệ, nhưng họ lại hết sức đau khổ nếu sự sung sướng của t́nh cảm không được vững chắc, nghĩa là khi họ tưởng ḿnh không nhận được sự báo đáp xứng đáng do những sự cảm xúc của họ. Nhiều người cảm xúc một cách khó nhọc lại mong ước cho thiên hạ cũng giống như họ v́ khi nhận thấy sự trái ngược lại họ tỏ ra rất bất măn. Họ ban rải điều mà họ gọi là t́nh thương, nhưng đức tánh nầy cũng thường đượm màu ích kỷ. Họ gây ra đủ thứ rối rắm, hành động của họ làm tổn thương những kẻ mà họ nói là họ thương, tất cả những điều trên đây cũng chỉ v́ một lư do duy nhất là họ muốn t́nh thương của họ phải được báo đáp lại. Họ không biết rằng có nhiều loại t́nh thương khác nhau và có lẽ hết sức khó cho những người được họ thương yêu báo đáp lại t́nh thương của họ như  ư họ mong muốn. Nguyên nhân của sự khó khăn là do ở sự kiên cố của ḷng ham muốn sung sướng của t́nh cảm. Nhưng chúng ta không nên bao giờ cho ḷng ham muốn ấy xen vào những sự tiến bộ riêng của chúng ta hay là của những người thân yêu chúng ta.

            Cũng thế, có một sự sung sướng của trí tuệ là con người muốn gặp lại những tư tưởng của họ nơi kẻ khác không sai một mảy và do đó, bảo đảm sự thỏa măn và sự an tĩnh của Thể Trí.. Chúng ta vẫn thường gặp sự khó khăn nầy. Thí dụ, một thanh niên có nhiều triển vọng tốt đẹp, hết sức mến thích Thông Thiên Học và ước mong gia nhập vào Hội. Cha mẹ nó phản đối kịch liệt. Đối với họ, nếu con của họ, trai hay gái, thừa nhận những tư tưởng mà họ không thể nào chia sớt được, họ không c̣n sung sướng về trí tuệ nữa. Họ tin chắc rằng họ hữu lư và ngoài những ư kiến đặc biệt của họ ra, không ǵ hữu lư có thể tồn tại được. V́ thế, nếu con trai hay con gái của họ có nhiều tư tưởng khác hơn tư tưởng của họ, họ cảm thấy đó là một điều sỉ nhục. Họ quên rằng nếu một Linh Hồn thác sinh trong gia đ́nh họ, đó không phải là một lư do để bắt nó phải chia sớt tính khí của cha mẹ nó. Mỗi Linh Hồn có cách thức của nó, có năng lực đặc biệt của nó để nhận thức Chân Lư.

            Đường lối đặc biệt của Linh Hồn là đường lối duy nhất, theo đó nó có thể tiếp nhận được Chân Lư. Nhiều kẻ khác lại lầm lạc muốn bắt buộc Linh Hồn phải theo đường lối của họ đưa ra, theo ư họ, làm vậy tức là gây ra sự phản động toàn diện của Bản Ngă bên trong. Một trăm lần xảy ra là đúng cả một trăm lần, những trẻ em mà trí thức bị đàn áp như thế đều bỏ hẳn tín ngưỡng của cha mẹ nó. Biết bao lần, thí dụ, con trai của vị Giáo sĩ [10] đă trở nên kẻ vô thần v́ cha mẹ đă lầm lạc cưỡng bách nó theo tư tưởng riêng của ḿnh. Ḷng ham muốn sung sướng của trí tuệ đă tạo cho con người nhiều đau khổ. Vị Đệ Tử phải luôn luôn coi chừng ḷng ham muốn sung sướng của t́nh cảm hay trí tuệ của ḿnh giục nó xâm phạm tới quyền lợi của kẻ khác và đừng để ḷng ham muốn ấy ngăn trở bổn phận nó có thể thi hành hay sự cứu trợ có thể ban bố.

            Điều cần thiết là chúng ta phải sống lạc quan, như ở đây Đức Đế Quân đă nói với chúng ta, mặc dù có lẽ chúng ta không sống v́ hạnh phúc. Cái bổn phận sống lạc quan, tôi tưởng, thường hay bị người ta quên. Người ta không thấy đó là bổn phận, thế mà đó là bổn phận theo tất cả ư nghĩa mạnh mẽ của danh từ. Ấy là một yếu tố cần thiết cho sự tiến bộ của chúng ta. Một người cứ măi sầu thảm và chán nản v́ ảnh hưởng của những biến cố th́ không thể tiến bộ. Tốt hơn Y phải lư hội được lẽ đó. Tôi xin lặp lại: Sự cần thiết cho chúng ta có được một sức cảm xúc lẹ làng càng ngày càng tăng trưởng, bởi v́ không cảm xúc lẹ làng, chúng ta không thể nào ứng đáp liền với một dấu hiệu hết sức nhẹ nhàng của Đức Sư Phụ. Phải vừa rất nhạy cảm và vừa ban rải hạnh phúc là điều khó khăn không căi chối được. Dù sao cũng phải đạt cho được việc nầy. Biết bao nhiêu điều đă kêu gọi đến ḷng thiện cảm thâm thúy nhất của chúng ta. Dĩ nhiên, khó mà có thiện cảm với những người đau khổ mà đồng thời trong ḷng lại không phiền năo. Tuy nhiên, như tôi đă giải thích, Sư Phụ có một ḷng thiện cảm rộng mênh mông hơn ḷng thiện cảm của chúng ta, tuy nhiên Ngài không cảm thấy sự phiền năo như là một sự phiền năo.

            Những sự đau khổ, những sự phiền năo sẽ giảm đi nhiều nếu những người ngày nay chịu những đau khổ và phiền năo, trong mấy kiếp trước của họ, có lẽ cả chục ngàn năm rồi, họ sống một cuộc đời khác hẳn với lối sống của họ hiện nay. Nhưng bởi họ đă sống một cuộc đời trái với đạo lư như thế bây giờ không có cái chi thuận lợi nhiều cho sự tiến bộ của họ bằng những điều xảy đến cho họ hôm nay. Chúng ta không sao ngăn cản được ḷng phiền năo khi thấy t́nh trạng hiện hữu của họ, nhưng niềm thương tiếc của chúng ta không phải v́ những sự thử thách hiện thời của họ, mà v́ những nguyên nhân xa xăm xưa kia đă làm cho những sự thử thách đó ngày nay trở nên cần thiết. Ư niệm nầy dường như lạt lẽo, lạnh lùng, nhưng khi chúng ta biết được đến điểm nào đó, rằng kết quả mới thuộc về thành phần của nguyên nhân chúng ta có thể nhận thấy hiện tại có liên quan thiết thực với nguyên nhân do những người nầy gây ra đă từ lâu và không có ǵ khác lạ dưới quyền lực của Luật Trời là Luật Nhân Quả.

            Ngày nay, tất cả những sự đau khổ nầy chỉ có thể sửa đổi được nhờ sự can thiệp của những lực mới, chúng ta có thể làm êm dịu, đến một điểm nào đó, sự phiền năo và sự đau khổ. Khi chúng ta làm thế không phải chúng ta cản trở được sự thực hiện của Luật Trời, điều đó không bao giờ có mà cũng không phải làm rối loạn sự ḥa hợp với Luật Trời, nhưng chúng ta vận dụng lực mới, chính nó cũng tùy thuộc Luật Trời và nó làm giảm bớt phần lớn những hiệu quả của quá khứ. Mặc dù, như tôi đă tỏ bày, nhiều người trong chúng ta có khả năng an ủi giúp đỡ, nhưng cũng khó nhọc khi tỏ t́nh thiện cảm hoàn toàn và đồng thời nh́n nhận sự đau khổ là cần thiết. Thế mà, trong vài trường hợp, chúng ta tiến một cách rất khéo léo. Thí dụ, một trong những bạn chí thân của chúng ta cần phải chịu giải phẫu. Đă đành chúng ta rất tiếc điều đó nhưng chúng ta không hề có ư nghĩ rằng cuộc giải phẫu ấy không tốt đẹp: Chúng ta biết những sự ích lợi do cuộc giải phẫu đem đến và trông đợi sức khoẻ của bạn thân chúng ta hồi phục. V́ thế, dù có than thở hay lo buồn thế mấy, chúng ta xem cuộc giải phẫu ấy như một sự cần thiết đáng buồn và đáng tiếc. Tất cả những sự phiền năo, tất cả những sự đau khổ cũng chỉ là thế thôi - có bấy nhiêu cuộc giải phẫu cốt để loại bỏ những mầm nguy hiểm.

            Ở Thế Gian nầy, nhiều sự phiền năo có thể tránh được v́ một phần lớn không do ở quá khứ, mà do những lỗi lầm hiện thời gây ra. Con người nhận lấy mọi sự vật ở khía cạnh xấu. V́ vậy chúng ta thường sinh ra bất b́nh, chúng ta nổi nóng, chúng ta tự đau khổ. Luật Nhân Quả không liên can chi trong mấy việc nầy cả. Trong nhiều trường hợp, bảy phần tám những điều lo lắng không ở ngoài đến mà hoàn toàn do cách thức của những người chịu đựng những kinh nghiệm của họ. Nhân Quả ở ngoài đến th́ chẳng bao nhiêu, nhưng chúng ta lại làm cho nó to lớn thêm nhiều, đó là sự lầm lỗi hiện tại của chúng ta; không phải không phương cứu chữa. Phần đông những người lấy hạnh phúc làm mục tiêu ở đời, t́m hạnh phúc bằng nhiều cách khác nhau. Họ hợp tác với những kẻ mà sự gần gũi đă đem lại cho họ niềm vui đẹp, họ đi đến những nơi mà họ tưởng t́m gặp được lạc thú v.v.... Vị Đệ Tử không nên bắt chước theo các gương của họ, v́ Y cần có khả năng t́m hạnh phúc ngay trong tâm ḿnh, không bắt buộc hạnh phúc đó lệ thuộc những điều kiện đặc biệt bên ngoài. Đối với chúng ta thật khó, bởi v́ trong nhiều kiếp đă qua, chúng ta đă từng bị những cảnh ngộ điều khiển, đẩy đưa, không nhiều th́ ít. Khi nh́n kỹ lại đồng loại, chúng ta nhận thấy đa số cũng vẫn c̣n ở trong t́nh trạng đó. Phần đông, ở Thế Gian, rất ít ai chịu khó hoán cải t́nh trạng mà họ đang sống. Họ cảm thấy tinh thần suy nhược, sinh ra phật ư liền và v́ thế bị đau khổ. Họ chỉ cần sửa đổi tất cả điều kể trên, nhưng không, khi bị xúc phạm họ đáp lại bằng những lời than van hay trách móc và tuyên bố không thể nào thuận thảo với những hạng người như vậy. Thế mà, hạng người nầy cũng không khác ǵ mấy với đa số nhân loại. Hạnh phúc của chúng ta tùy theo cách chúng ta biết đối xử với họ và thái độ của chúng ta ứng đáp với thái độ của họ. Nếu chúng ta đă có thâu thập được vài lợi ích trong công cuộc khảo cứu về Huyền Bí Học, chúng ta sẽ nói: "Tôi không cho ư muốn của họ là quan trọng, đó là công việc của họ chớ không phải của tôi. Phần tôi, tôi không hề chiều theo tánh hay hờn giận, lo âu hầu giữ được ḷng b́nh tĩnh, mặc dù mấy người khác làm hay nghĩ thế nào cũng mặc."

            Người ta sẽ nói: "Thật là rất khó, nếu chúng ta bị công kích và bị sỉ nhục, nhưng phải chăng thật sự là những hậu quả của một thái độ sỉ nhục và khiêu khích tùy thuộc cách mà con người đă nhận lănh? Nếu chúng ta không dằn được cơn nóng giận sẽ sinh thêm nhiều rắc rối, riêng phần chúng ta cũng bộc lộ những tánh t́nh xấu xa như kẻ kia và dưới mắt của nhân chứng th́ hành vi khiêu khích dường như có phần đúng. Nếu trái lại, chúng ta giữ được hoàn toàn b́nh tĩnh kẻ sỉ nhục ta bị xem như là có lỗi và nhân chứng có thể xét thấy chúng ta không lỗi. Đă đành không nên giữ b́nh tĩnh với dụng ư tỏ ra ḿnh không lỗi, nhưng thái độ của chúng ta phải là thái độ triết lư, v́ những lời công kích và sự can thiệp nhắm vào chúng ta không làm cho chúng ta xúc động, như thế chúng ta thật hữu phước.

            Hạnh phúc giả là việc tránh những sự phiền năo và đau khổ. Chúng ta có thể làm nhiều hơn thế. Chúng ta thử xếp đặt cuộc đời ḿnh cho phù hợp với những lời giáo huấn của Huyền Bí Học bằng cách khảo cứu về đời sống nội tâm. Chúng ta cần phải tham gia vào công tác của Thế Gian. Hăy quả quyết rằng: "Không ai thấy được Cơ Tạo Hóa hay công tác của Đức Thượng Đế thực hiện mà không thử phụ giúp vào với tất cả sức mạnh của ḿnh." Chỉ một việc chú tâm công tác ấy cũng đủ choán hết th́ giờ, cho con người hạnh phúc. Đứng trước những việc từ ngoài đưa đến, chúng ta đừng mất th́ giờ phản động lại bằng cách chán nản hay lo buồn. Nếu luôn luôn chúng ta t́m cách gởi những tư tưởng lành, những lời cầu nguyện mạnh mẽ đầy thiện chí cho những người xung quanh ta, chúng ta bận suốt ngày và công việc của chúng ta làm tạo cho chúng ta một  niềm vui thích vậy.

            Làm sao chúng ta không khỏi buồn ḷng khi nghe những người xung quanh ta vẫn nói măi những điều họ làm để "giết th́ giờ": Họ thi hành việc nầy, việc nọ, đó là họ đề xướng ra các công việc để làm. Cảnh tượng vừa buồn cười, vừa tội nghiệp, v́ ở Thế Gian nầy có hàng ngàn cơ hội để hành động một cách từ thiện và cao quí, nhưng họ không t́m những công việc ấy mà làm. Họ chỉ bày ra những tṛ chơi, những cuộc giải trí và đó mới là thái độ kỳ lạ nhất.

            Sinh Viên Huyền Bí Học không đủ ngày giờ thi hành hết thảy những điều họ mong muốn. Thật ra, tất cả những người muốn làm việc th́ công việc kéo đến dồn dập. Công tác luôn luôn trên sức họ. Bà Tiến Sĩ Annie Besant làm việc không biết mệt và không nghỉ ngơi, từ sáng sớm cho đến một giờ đêm. Quan niệm của bà về công việc cũng không khác bao nhiêu với quan niệm của người thường. Trong Thế Giới Doanh Nghiệp, nhiều người, có lẽ, thường hay mê say thích thú một công việc nào đó, nhưng thường lệ họ hiểu làm việc phải như thế nầy: Làm một ít công việc rồi nghỉ ngơi, kế đó làm việc trở lại một thời gian ngắn và người ta gọi đó là cần mẫn, làm việc một cách đúng đắn. Đó không phải cách thức làm việc của Bà Tiến Sĩ Annie Besant. Bà vừa lắng tai nghe Huynh nói,  không để mất một chữ, Bà vừa tiếp tục viết. Câu chuyện của Huynh chấm dứt, sự giúp đỡ hay lời khuyên bảo của Bà cũng sẵn sàng. Bà không bỏ mất một phút giây nào. Nếu bị bắt buộc phải chờ đợi trong sân ga, luôn luôn Bà có trong tay một tập giấy nhỏ, Bà liền viết thư hay bài đăng báo. Không phải ai ai cũng bắt chước cách làm việc của Bà được - Huynh đừng quên rằng bấy giờ niên kỷ Bà đă cao. Vả lại công việc của Bà thường thường rất tinh tế, trên nhiều điểm và khác nhau, nên bắt buộc phải có quyết định nhanh chóng. Những người làm việc ăn lương không làm như vậy. Chính v́ bởi tất cả công việc của Bà làm đều không thù lao nên Bà mới đủ khả năng làm việc như thế. Bà lấy đó làm vui thích, luôn luôn nụ cười khả ái nở trên môi đối với những người Bà đă gặp. Bà là nguồn cảm hứng thật sự đối với tất cả những người tới lui giao thiệp với Bà. Chúng ta gắng sức theo bước chân Bà đi xa bao nhiêu hay bấy nhiêu và đừng bao giờ quên bổn phận là sống lạc quan. Nếu chúng ta không có hạnh phúc, ấy v́ chúng ta chưa làm đầy đủ sức ḿnh - bằng chứng chắc chắn là chúng ta làm mất th́ giờ của chúng ta. Hăy bắt tay vào việc, khởi công làm một việc nào đó rồi chúng ta sẽ thấy hết buồn bă, bởi v́ chẳng có th́ giờ nhàn rỗi, ở không. Phận sự chúng ta đem đến một hứng thú quá nồng nàn, nó rộng răi bao la quá nên khi thấu hiểu được chân lư, chúng ta không có một tư tưởng nào để nghĩ ngợi đến buồn bă hay âu sầu nữa.

            Hăy t́m kiếm trong tâm con cội rễ của sự quấy. Hăy tận diệt nó, nó sinh trưởng, nẩy nở sung túc trong ḷng của người Đệ Tử chân thành cũng như ở trong ḷng con người tham vọng. Chỉ có kẻ mạnh mẽ mới trừ diệt được nó. Người yếu đuối phải chờ nó lớn lên, tăng trưởng rồi chết, và đó là một cây sinh trưởng và phát triển qua nhiều thời đại. Nó trổ nụ, đơm bông khi con người tích lũy trên đầu vô lượng số kiếp, kẻ nào muốn bước vào con đường của quyền lực hăy nhổ sạch gốc rễ của nó trong tâm ḿnh. Bấy giờ tâm sẽ rướm máu và kiếp sống của con người cơ hồ như hoàn toàn tan ră. Phải chịu sự thử thách nầy: Nó có thể khai diễn từ nấc đầu tiên của cái thang nguy hiểm dắt đến con đường của sự sống; nó có thể tŕ hoăn lại đến nấc thang cuối cùng. Nhưng, nầy Đệ Tử, con hăy nhớ, con phải chịu sự thử thách nầy và hăy tập trung tất cả tinh lực của tâm hồn con vào việc đó. Đừng sống trong hiện tại, đừng sống trong tương lai, hăy sống trong trường tồn bất diệt. Cây cỏ dại to lớn nầy không thể đơm bông kết trái. Muốn xóa bỏ vết nhơ của đời sống, chỉ cần không khí của tư tưởng trường tồn bất diệt là được.

                                                                                                                                                                                                                  

            C.W.L. - Qui tắc 4 chấm dứt như thế. Ấy là lời chú thích của Đức Đế Quân phụ thêm 3 qui tắc đầu. Cây cỏ dại to lớn là tà thuyết của sự chia rẽ - thật sự nó là nguồn cội của sự đau khổ. Chúng ta được khuyến cáo phải dần dần tiêu diệt nó. Trước tiên phải hợp nhất Phàm Ngă với Chơn Ngă, ḥa tan  Phàm Nhơn trong cá tánh. [11] Phần đông chúng ta, bản ngă c̣n gần chúng ta quá đến đỗi nó chực che khuất chúng ta, không cho thấy những điều cao cả. Phải vượt qua khỏi nó và dần dần lướt lên trên nó hầu lột tất cả tánh  ích kỷ. Rồi sau đó, chúng ta mới thực hiện điều nầy với cá tánh.

            Cá tánh hay Chơn Nhơn là một sinh vật tuyệt vời, phức tạp, cực kỳ xinh đẹp, thích ứng kỳ diệu ở cảnh giới của nó, thật sự là một sinh vật vinh diệu phi thường. Tuy nhiên, một thời gian sẽ đến, chúng ta cần phải nhận thức nó chỉ là một khí cụ do chúng ta tạo ra, trải qua vô số thời đại, để bảo đảm sự tiến bộ của Chơn Thần. V́ cần phát triển ư thức của bản ngă chia rẽ trong những giai đoạn tiên khởi của cuộc tiến hóa chúng ta mà cây cỏ dại to lớn hay là mầm giống của nó trú ngụ trong tâm của mỗi người. Không chầy th́ kíp, cây cỏ dại nầy phải bị hủy diệt, nhưng chỉ những kẻ mạnh mẽ mới đủ khả năng loại trừ nó, ngay từ khi nó mới bắt đầu phát triển. Những người yếu đuối phải đợi và để cho nó trưởng thành, họ chờ chừng nào họ có đủ sức mạnh để tiêu diệt nó. Thật là đáng tiếc cho họ, bởi v́ người ta càng để cho nó kéo dài đời sống của nó th́ nó càng quấn chặt vào bản tánh của con người. Những người đủ sức mạnh trừ diệt ngay từ ngày hôm nay, sẽ tiến  nhanh chóng và thấy rơ rệt. Sự tranh đấu cần thiết để giải thoát bản ngă chia rẽ luôn luôn dữ dội, nhưng sự tranh đấu  ấy sẽ vô cùng gay go hơn nếu chúng ta tŕ hoăn lại trong những giai đoạn vị lai của sự tiến bộ của chúng ta. Khi chung cuộc nó vẫn chưa bị tiêu diệt, chúng ta sẽ phải trải qua tất cả mọi nỗi khó khăn và nguy hiểm không thể tránh được; chỉ có cách bóp nghẹt cho nó chết ngay mới mong thoát khỏi. Vậy dĩ nhiên điều tốt hơn hết là diệt trừ nó ngay từ lúc đầu.

            Những phương pháp luyện đạo của Huyền Bí Học đều phù hợp với nhau tất cả về sự khuyên bảo sinh viên tức khắc diệt trừ ảo tưởng nầy. Ngoài thói quen của chúng ta xem nhau như cách biệt, c̣n một điều khó khăn nữa là ư niệm chia rẽ khi xưa là nguồn cội của tất cả sức mạnh của chúng ta. Trong thời kỳ Linh Hồn trở thành một cá tánh, nó rất yếu đuối. Trước đó, nó là thành phần của một Hồn khóm và đối với nó, ư thức một cá nhân riêng biệt chưa xác định rơ rệt, măi đến kiếp sống của người dă man mới giúp cho ư thức đó mạnh mẽ thêm lên. Từ ư niệm “chính tôi đây" phát sinh dần dần ra sức mạnh. Ban đầu nó nói: "Tôi là một chiến sĩ đại tài, chạy đua rất nhanh, tôi là một vị đại lănh tụ, tôi có thể chỉ huy các đạo quân, tôi có thể lănh đạo mọi người, tôi có thể bắt họ làm theo ư của tôi." Sau nữa, ở vào một tŕnh độ cao hơn, nó biểu lộ tư  tưởng nầy: Tôi là một nhà đại trí thức, tôi tự tin lấy tôi, tôi rất tự hào, tôi là một bậc Vĩ Nhân, tư tưởng của tôi dũng mănh hơn tư tưởng kẻ khác, tôi thống trị những hạng trí thức và hướng dẫn họ theo ư tôi thích."

            Về sau, sẽ tiến đến một tŕnh độ mà ḷng tự tin có nghĩa là sự tin cậy của Chơn Ngă. Dứt được ḷng tự tin nơi sức nhanh nhẹn của đôi cánh tay, nơi sự nhậm lẹ, nơi sức mạnh của bắp thịt, nơi trí năng, con người tiến đến sự hiểu biết rằng có một sức mạnh tinh thần rất cao siêu hơn những biểu hiện bên ngoài. Muốn đạt đến tŕnh độ nầy chẳng bao lâu Y t́m thấy được sức mạnh tinh thần là do sức mạnh của Vô Cực Vô Biên sinh ra, bởi v́ nó là một với Đức Thượng Đế. V́ thế, ḷng tự tin của cá nhân ta trở thành ḷng tự tin nơi Ngài - nơi quyền lực sinh hóa vô biên. Chúng ta là Ngài. Đặt ḷng tin nơi Đức Thượng Đế tức là đặt ḷng tin nơi chúng ta, v́ mỗi người trong chúng ta là một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế và Đức Thượng Đế ngự trong tâm chúng ta. Chỉ cần nhận thức và khai triển ư thức nầy, kế đó Chơn Ngă mà chúng ta đặt ḷng tin, trở thành Đại Ngă Toàn Thiện.

            Tư tưởng Bản Ngă chia rẽ nầy thấm nhuần trong ḷng ta. Theo sự hiểu biết của chúng ta, nó chính là căn bản của Chơn Nhơn, mà Chơn Nhơn ngự trong tâm chúng ta là yếu tố trường tồn duy nhất. Chúng ta cần phải biết c̣n có Chơn Thần nữa: Chính Chơn Thần sẽ hiện trong ḷng chúng ta như là Chơn Ngă khi chúng ta loại bỏ được cá tánh. Tuy nhiên, khi ngày giờ đến, chúng ta sẽ thấy được một cách minh bạch hơn hiện giờ nhiều lắm rằng những Chơn Thần nầy là những Điểm Linh Quang. Giờ đây chúng ta biết qua điều đó bằng lư thuyết thôi mà mỗi người trong chúng ta, đúng ngày giờ, sẽ thật biết nó; đă có nhiều người biết nó rồi. Cũng như tôi đă tŕnh bày, khi tiêu điểm của Tâm Thức lên ở phần trên của Nhân Thể (Thượng Trí) có thể thấy được con đường nối liền Chơn Thần với Chơn Nhơn. Theo dơi con đường đó cho đến Chơn Thần, và cao hơn nữa (trong chúng ta ít ai biết được Chơn Thần), đây là chuyện thật mà chúng ta thấy và biết với một cách đích  xác và chắc chắn không thể diễn tả bằng lời nói ở Thế Gian: Tất cả những điều chúng ta cho là Bản Ngă và thuộc về chúng ta không phải là chúng ta mà là Ngài. Trí thức, sùng tín, t́nh yêu mà chúng ta có, không phải là ta mà trí thức ấy, sùng tín ấy, t́nh yêu ấy chính là Thượng Đế biểu hiện nơi chúng ta. Sau khi được kinh nghiệm nầy, con người không bao giờ trở lại y như tâm trạng cũ của ḿnh nữa. Về phương diện cá nhân, Y chẳng c̣n trở lại giống như xưa v́ Y nhận biết một cách rơ ràng chắc chắn. Một kinh nghiệm như thế cũng cần thiết để bổ chính sự phát triển của Bản Ngă chia rẽ, sự chia rẽ nầy là nguyên nhân của sự rối loạn vĩ đại, là nguồn cội phong phú của phiền năo và đau khổ, là bức màn ngăn trở không cho ta phân biệt rơ ràng thế nào là Sự Sống. Chúng ta ở trong t́nh trạng lạ lùng: Chúng ta nhờ ư tưởng chia rẽ mà phát triển đến một điểm nào đó, rồi từ điểm đó, ư tưởng chia rẽ ấy trở thành tai hại và chúng ta phải lo diệt trừ nó. Nhân loại tiến đến một tŕnh độ cần phải nhận thức điều nói trên đây. V́ thế cho nên tất cả Giáo Lư có tính cách huyền bí hay giáo pháp cao thâm đều nhấn mạnh vào bổn phận thực hành ḷng vị tha vong kỷ. Tất cả nhân sinh cần có tấm ḷng đó. Họ c̣n ở giai đoạn của ḷng ích kỷ và c̣n t́m cách chiếm hữu vật nầy hay vật nọ. Hết thảy sức mạnh của chúng ta phải chống lại khuynh hướng nầy.

            Đồng thời, phải cố gắng hết sức khoan dung. Thường thường chúng ta không khỏi nóng ḷng khi nh́n thấy sự ích kỷ tràn ngập và thói vũ phu đầy dẫy khắp mọi nơi, nhưng nóng ḷng cũng vô ích thôi. Những kẻ vô phúc nầy vẫn c̣n làm những điều mà sự phát triển của họ cần đến, kể từ cả ngàn năm trước. Hăy giúp đỡ họ, nếu có thể. Hăy luôn luôn tỏ ra dịu dàng và tha thứ, nhưng hăy chứng tỏ một cách cương quyết sự cần thiết loại bỏ tánh ích kỷ nầy và kính trọng sự tiến bộ của toàn thể nhân loại. Vài người trong chúng ta luôn luôn nghĩ một cách chí lư rằng chúng ta thuộc về Nhân Loại. Chúng ta cố gắng tuân theo lời khuyên bảo của một trong những Chơn Sư của chúng ta: "Nếu con tiến tới được một bước, nếu con thành công trong sự tiến bộ rơ rệt, con đừng nói: "Tôi làm việc nầy thật là một sự tiến bộ." Tốt hơn là nghĩ như vầy: "Tôi lấy làm may mắn mà thấy điều đó đă đến bởi v́ Nhân loại do nơi tôi mà tiến gần đến lúc họ t́m thấy được bản tánh của họ, mục đích cuối cùng của Đức Thượng Đế đă qui định cho họ. Do nơi tôi mà Nhân Loại đă tiến đến một bước, nó tiêu biểu cho mỗi người trong toàn thể một chút ít tiến bộ." V́ thế, người ta có thể tưởng đến toàn thể Nhân Loại, không khác nào một người lo nghĩ đến trọn cả gia đ́nh họ như là một đoàn thể mà tất cả đều là thành phần trong đó, từ đứa bé thơ cho đến ông tổ phụ già nua và như thế đó, Y lo lắng cho sự phồn thịnh chung.

            Chúng ta được khuyến cáo không nên sống trong hiện tại, không nên sống trong tương lai mà sống trong sự trường tồn bất diệt. Đấng sống trong trường tồn bất diệt là Đức Thượng Đế, là Trời. Sống trong trường tồn bất diệt, Đức Thượng Đế đồng thời thấy một lượt tương lai và hiện tại. Ngài thấy tất cả những điều nầy đă hoàn thành. Nếu chúng ta có thể tự đem ḿnh lên cao cho đến quan điểm của Ngài, chúng ta sẽ có đủ khả năng sống như Ngài trong trường tồn bất diệt. Không phải cho hôm nay hay cho ngày mai, mà ấy là một mục tiêu chúng ta phải nhắm vào đó để mở một con đường bằng cách tranh đấu. Một sự bất măn thiêng liêng về điều đó cũng cần thiết cho chúng ta. Đừng bao giờ hài ḷng hoàn cảnh mới của ḿnh, như vậy là đứng giậm chân một chỗ, không tiến. Hăy luôn luôn cố gắng làm cho càng ngày càng thêm tốt đẹp hơn trước. Chúng ta sẽ đạt đến đó bằng cách chú định đời sống của chúng ta vào tương lai.

            Nếu chúng ta luôn luôn t́m cách tiến bước, luôn luôn đem ḿnh vươn lên cao, chúng ta có lỗi, nếu chúng ta để cho ḷng ḿnh bất măn hoặc ưu tư khi đứng trước những biến cố có ảnh hưởng tạm thời đến hoàn cảnh hiện tại của chúng ta và của kẻ khác. Điều khôn ngoan và tốt hơn là chúng ta phác họa h́nh ảnh chúng ta muốn có ở tương lai và sống theo đó. Chúng ta phải tự nói như vầy: "Hiện giờ tôi là người thế nầy hay thế kia. Tôi có vài tật xấu và vài nhược điểm. Tôi muốn thắng phục chúng nó và tôi chờ đến lúc chúng nó không c̣n tồn tại nữa." Ấy là một việc lớn lao là sống cho ngày mai chớ không sống cho ngày hôm qua. Thường thường, thế gian sống cho những thế kỷ đă qua và bám chặt vào những thành kiến cổ hủ. Hăy kêu gọi tương lai với tất cả những nguyện vọng của chúng ta và chúng ta hăy sống cho nó.

            Hăy chú định tư tưởng của huynh vào tương lai với niềm hy vọng. Đừng chú định tư tưởng của huynh vào quá khứ với sự tiếc rẻ. Hiện tại cũng là một ảo tưởng quá lắm rồi, v́ vậy chúng ta bất măn, không phải thật chúng ta bất măn điều chúng ta đang làm mà là chúng ta mới làm rồi đây. Muốn tiến bộ, hăy nh́n về phía trước. Ngó lại sau không phải là phương cách tiến triển. Tại Trần Thế, nếu chúng ta cứ măi khư khư ngó lại phía sau dĩ văng, chúng ta không đi xa một cách b́nh an vô sự được. Cũng một nguyên tắc nầy áp dụng ở một cảnh giới cao. Chúng ta càng suy gẫm về điều đó, càng thấy rơ ràng trong ba câu cách ngôn đă được khảo sát là: “Hăy diệt ḷng tham vọng, hăy diệt ḷng ham muốn và hăy diệt ḷng ham sung sướng,” tất cả những điều ǵ thúc giục người thường cố gắng đă bị hoàn toàn tiêu diệt.

            Trước hết, sự sinh hoạt của con người bị chi phối bởi ḷng ham muốn bảo đảm đời sống ḿnh và đời sống của gia đ́nh ḿnh, ḷng ham muốn "giữ vững sự thịnh vượng," nó luôn luôn có tham vọng tiến lên cao, nó cầu mong cho nó và cho gia đ́nh nó được nhiều sung sướng. Đó mới thật đúng là những động lực của người thường và chắc chắn, nếu những động lực nầy mất đi, con người sẽ không làm ǵ hết, y thành ra bất động, không c̣n một lư do để làm cho nó hoạt động nữa. Y sẽ giống như một khúc gỗ. Y sẽ nói: "Nếu tôi không ḷng tham vọng, nếu tôi không ḷng tham sống cũng như ḷng ham muốn sung sướng th́ ích ǵ mà hoạt động?" Để một ḿnh nó không đủ lư do để phấn khích sự nỗ lực tối thiểu th́ nó không tiến bộ. Người ta không thể chối căi rằng, đối với nó, bỏ những động lực ấy đi là có hại.

            Vả lại, khi con người gần được thâu nhận vào Thánh Đạo và khi ḷng đă mất hết sự quyến luyến những sự vật ở Trần Gian, Y đi đến một tŕnh độ mà chính y cũng sợ lâm vào t́nh trạng bất động. Y tin chắc một cách tuyệt đối bằng trí thông minh của ḿnh rằng những sự vật Trần Gian không đáng nhọc công t́m lấy chút nào và bởi những vật ấy không c̣n sức hấp dẫn được y nữa nên y không cảm thấy ḿnh sẵn sàng dùng tinh lực của ḿnh vào một chiều hướng nào. Trong cuộc tiến hóa đang tiếp diễn hầu hết nhân loại đều phải trải qua kinh nghiệm nầy. Đối với phần đông, nó là nguyên nhân rối loạn rất thực tế. Giải thoát được những quyền lợi thấp thỏi, họ không thay thế chúng nó bằng những quyền lợi cao cả hơn mà lại đặt ḿnh ở giữa hai thứ quyền lợi ấy. Giai đoạn đó vẫn tạm thời thôi. Họ chưa biết hợp nhất để lấy đó làm động lực vĩ đại cho đời sống ḿnh, tuy nhiên, bao nhiêu đó cũng đủ cho biết rằng những điều ham muốn của bản ngă chia rẽ không đáng theo đuổi, v́ vậy, họ sống một cuộc đời do dự, phân vân bất nhất. Nhiều sinh viên hết sức khổ tâm để lay chuyển ư hướng nầy. Không có ǵ xứng đáng để nỗ lực; không có ǵ làm họ ham thích. Họ muốn kết liễu cuộc đời họ hầu chấm dứt t́nh huống nầy.

            Chỉ có một cách thoát khỏi t́nh trạng không mấy thích đáng nầy, là tiến thêm một bước nữa tới trước rồi con người mới nhận thấy có một đời sống cao siêu và thực tế hơn, hết sức xứng đáng cho sự nỗ lực của chúng ta. Vừa trông thấy được Thiên Cơ, y chỉ c̣n ham muốn có một điều là dâng trọn ḷng chân thành tận tụy cho Thiên Cơ, chớ không c̣n làm ǵ khác hơn nữa được. Đồng hóa với Đời Sống Duy Nhất và hoạt động như là thành phần của Đời Sống nầy, y t́m được động lực duy nhất đủ sức thúc đẩy hành động. Khi y tiến tới bước mới nầy và bắt đầu nhận thức được Đời Sống của Chơn Ngă lúc bấy giờ, thay v́ bị rơi vào cảnh hư vô tịch diệt giải thoát cho tất cả, y lại phát khởi ḷng ham muốn mănh liệt luôn luôn được thêm sức mạnh hầu hiến dâng cho công tŕnh vinh diệu nầy. Chơn Ngă duy nhất, ấy là động lực sẽ làm thức tỉnh trong tâm nó một sự hoạt động mà từ đó đến giờ nó chưa hề biết được, động lực nầy vô cùng dũng mănh, mạnh hơn tất cả động lực khác ít cao cả hơn. Động lực nầy hiến cho con người thừa nhận nó hầu hoàn thành những ư muốn tối thượng của Đức Thượng Đế, một cảnh hạnh phúc và một sự an tĩnh vô biên.


CHƯƠNG   5

QUI TẮC  5 – 8

 

            5.-  Hăy diệt mọi ư niệm chia rẽ.

            Tuy nhiên, con hăy sống cô độc, trơ trọi một ḿnh, bởi không có cái chi có h́nh sắc, không có cái chi có ư thức chia rẽ, không có cái chi ngoài Đấng Vô Thủy Vô Chung có thể hộ tŕ con được.

            A.B.- Trong quyển sách nầy dành riêng cho Đệ Tử, câu cách ngôn nói trên chứa đựng một điều quan trọng đặc biệt, v́ bởi Đệ Tử cần phải tập sống hoàn toàn cô độc, trơ trọi một ḿnh. Không cái chi có h́nh sắc, không cái chi ngoài Đấng Vô Thủy Vô Chung có thể hộ tŕ y được. Tất cả sự giúp đỡ nhận được từ một vị có Thể Xác là một sự giúp đỡ phụ thuộc và có thể mất đi trong khi nó rất cần đến sự giúp đỡ đó. Tiểu sử của những Đại Gia Thần Bí Cơ Đốc Giáo chỉ cho chúng ta thấy một đặc điểm bất  di bất dịch trong đời sống của họ là: Họ cảm thấy bị tất cả mọi người bỏ rơi và họ cần phải sống hoàn toàn cô độc, trơ trọi một ḿnh. Người ta cũng gặp Chân Lư ấy trong những cuốn Phúc Âm (Évangiles), Thánh Kinh của Cơ Đốc Giáo, tượng trưng cuộc đời của Đức Jésus. Mấy quyển nầy tường thuật những kinh nghiệm bắt buộc mỗi Linh Hồn phải trải qua trong các giai đoạn làm người Đệ Tử. Có hai cảnh tượng phù hợp đặc biệt với những điều nói trên đây: Cảnh tượng thứ nhứt gọi là giờ hấp hối của Đức Jésus trong vườn Gathsémani, trong giờ phút mà Ngài nh́n thấy các bạn thân và các môn đồ của Ngài không thể cùng tâm thức với Ngài được, mặc dù trong một thời gian rất ngắn. Ngài biết rằng Ngài phải đi tới một ḿnh trong cảnh  quạnh hiu. Trong cảnh tượng thứ nh́ vang lên  lời than thở trên Thập Tự Giá: "Chúa ơi! Chúa ơi! Tại sao Chúa bỏ con?" Những kinh nghiệm nầy thuộc về cuộc Đại Điểm Đạo lần thứ tư, trong lúc con người quay về nội tâm, tập nương tựa hoàn toàn vào uy lực của Chơn Ngă bên trong và nhận biết rằng Y chỉ là một biểu hiện của Đấng Vô Chung ở ngoại giới. Trong cuộc thử thách lớn lao và cuối cùng nầy, vị Đệ Tử luôn luôn chực vấp ngă.

            Có hai nhiệm vụ chờ đợi vị Đệ Tử, ấy là: Y cần phải diệt ư niệm chia rẽ và tập sống cô độc một ḿnh hầu được dũng mănh, dũng mănh như Đức Thượng Đế ngự trong ḷng y. Y ban rải ánh sáng như một tinh đẩu trong ṿm trời không mượn  ánh sáng của ai. Kinh nghiệm của sự cô độc mới có thể huấn luyện Y được thôi. Và tuy nhiên, ư niệm sống cô độc một ḿnh là một ảo tưởng v́ vị Đệ Tử ở trong ḷng Đấng Trường Tồn Bất Diệt. Nguyên nhân của ảo tưởng là sự sụp đổ của tất cả mọi h́nh thức, trước khi trong tâm thức phát sinh sự tin chắc rằng chúng ta hợp nhất và đồng nhất với Đấng Vô Thủy Vô Chung.

            Câu cách ngôn nầy, có lời chú thích của nó nối tiếp theo, c̣n tŕnh bày những ư niệm quan trọng khác. Có một giai đoạn mà vị thí sinh phải sống xa đồng loại, nguyên nhân v́ sự yếu đuối của Y chớ không phải v́ sức mạnh của Y. Đôi khi, một người có nếp sống không khác lạ ǵ bao nhiêu với những người chung quanh Y, họ c̣n đang sống một cuộc đời thấp hèn mà Y không muốn nữa. V́ thế Y tin chắc rằng Y c̣n chung sống với họ th́ Y sẽ bị những tật xấu của họ làm cho Y phải sa ngă. Cái ư niệm gớm ghiếc vẫn ích lợi và dẫu rằng nó có đặc tính của một giai đoạn tiến hóa chưa được cao, tốt hơn là vị Đệ Tử phải nghe theo và tránh giao du với những người ấy.

            Một người nói với giọng ghê tởm về tật xấu nầy hay tật xấu khác th́ huynh có thể chắc chắn rằng, đă từ lâu rồi y vẫn làm tôi mọi cho nó. Mới đây, Y đă chiến đấu với tật xấu ấy và nội tâm không quên điều ǵ cả, cho nên y mới đề pḥng cho y ngày nay khỏi vấp ngă nữa. Trong một giai đoạn sau nầy, con người tiến đến tŕnh độ cao hơn sẽ không cần phải xa lánh kẻ gây tội lỗi, nhưng khi y chưa đạt được tŕnh độ nầy, khi một sự thúc đẩy từ bên ngoài, đủ sức xô ngă y vào tật xấu th́ điều chắc chắn hơn hết là y nên  tránh xa sự cám dỗ cho đến khi nào y có đủ sức mạnh để bước chân vào nơi tội lỗi mà không bị lôi cuốn nữa. Nói một cách tổng quát, muốn cho một người chế ngự được ḷng ghê tởm và chán nản của Y, th́ tật xấu đối với Y, phải mất tất cả quyền năng quyến rủ.

            Rồi tới một lúc kia, Y nh́n thấy kẻ phạm tội là một người đáng giúp đỡ, cũng nhờ nhớ đến lỗi lầm quá khứ của Y, cho nên Y mới giúp đỡ kẻ khác được. Khó mà giúp đỡ đồng loại trong khi chính chúng ta c̣n bị nguy cơ sa ngă. Muốn giúp họ, chúng ta đừng v́ ḷng thương hay ghét, mà nên nhận thấy sự đồng nhất giữa chúng ta với những người đang tranh đấu. Rồi chúng ta nhớ lại rằng tội lỗi của Thế Gian chính là tội lỗi của chúng ta và cái chân lư thâm sâu là không một ai có thể được hoàn toàn trong sạch trong khi một người khác c̣n dơ bẩn lấm lem. Đời sống của Nhân Loại là đời sống của chúng ta, ngày nào chúng ta c̣n ở trong hàng ngũ với họ; bằng không, chúng ta phải tách ra khỏi nhân loại. Tật xấu của một người nào đó tức là tật xấu của chúng ta khi mà, riêng phần Y, Y chưa loại trừ được tật xấu đó. Sự giải thoát Thế Gian tùy thuộc hoàn toàn Chân Lư nầy.

            Người Đệ Tử nào đang bị một sự cám dỗ đặc biệt, thử thách, đều phải nghĩ đến điều đó; Y phải hiểu rằng Y không chiều theo nó, v́ lẽ nếu Y bị sa ngă tức là toàn thể Nhân Loại bị sa ngă. Bao nhiêu đây cũng đủ làm cho y tránh xa sự quấy rối. Thí dụ, Huynh cố gắng t́m hiểu đời sống của Nhân Loại, Huynh t́m cách thắng phục một nhược điểm nào đó của Huynh, rồi Huynh sẽ cảm thấy sự chiến thắng riêng của Huynh không phải chỉ để cho một ḿnh Huynh hưởng mà lại cho tất cả mọi người. Toàn thể nhân loại hưởng thụ những cuộc tranh đấu và những sự thành công của một phần tử của họ. Ư niệm nầy thường thường sẽ truyền cho Huynh một sức mạnh vô biên. Thật sự là phải chịu khó tranh đấu tất cả, chớ không phải cho chính Bản Ngă của Huynh.

            C.W.L.- Có khi người ta áp dụng những lời huấn thị nầy một cách nghiêm khắc thái quá và v́ sự giải thích quá lố mà họ cho những lời huấn thị ấy có một tính cách hư ảo. Phải nh́n nhận thẳng thắn rằng, ở Thế Gian, sự chia rẽ là một sự thật. Những cảm t́nh Huynh Đệ của chúng ta càng giữ ǵn nhiều chừng nào càng tốt chừng nấy, nhưng thật là trong không gian, những thể xác của chúng ta đều phân cách nhau. Đôi khi người ta phủ nhận sự không chia rẽ như thế, và người ta đưa cái ư niệm không có sự chia rẽ đến một điểm mà nó trở nên phi lư. Về Huyền Bí Học, việc đó luôn luôn là một sự sai lầm. Pháp môn Huyền Bí Học luôn luôn là sự biểu hiện cao cả nhất của lư trí và lương tri và mỗi khi chúng ta đứng trước một ư niệm vô lư rơ rệt, chúng ta có thể chắc chắn rằng có sự sai lầm trong đó. Trong vài trường hợp, ư niệm có thể xem như là vô lư, bởi v́ chúng ta c̣n thiếu sự hiểu biết về các sự kiện hiển nhiên, nhưng khi chúng ta thâu thập được tất cả những sự kiện ấy và lời tuyên bố c̣n giữ vẻ bề ngoài vô lư của nó th́ chúng ta có lư do chánh đáng ngờ vực nó và chờ đợi những giải thích rơ ràng hơn.

            Nếu trong không gian, thể xác chúng ta bị chia rẽ, nói cho đúng sự chia rẽ nầy không  đến đỗi như người ta tưởng. Chúng ta chịu ảnh hưởng lẫn nhau, người nầy đối với người kia, cho đến đỗi không có ai có thể thật sự cô độc sống một ḿnh được. Một thể xác thọ bệnh, những thể khác ở gần nó dễ bị truyền nhiễm. Thể Vía bị thọ bệnh ư, theo ư nghĩa của bệnh đây là hay nóng giận, tham lam, đố kỵ, ích kỷ, v.v..., nó thành ra một trung tâm truyền nhiễm, bởi v́ sự rung động của nó truyền ra xa và những Thể Vía ở kế cận, trong một mức độ nào đó, phải thọ nhiễm những làn rung động nầy. Thí dụ, khi những người hội họp trong một căn pḥng, Thể Vía của họ thâm nhập với nhau một cách khá rơ ràng, bởi v́ Thể Vía của một người thường ló ra ngoài thể xác lối 45 phân, đôi khi nhiều hơn nữa, cho đến đỗi không cần đụng chạm nhau, những người nầy cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ lẫn nhau. Điều nầy cũng c̣n đúng đối với Hạ Trí, và Thượng Trí hay là Nhân Thể [12] của chúng ta, tự chúng nó cũng chia rẽ trong không gian cũng như do t́nh trạng chúng nó. Như thế, khi giải thích qui tắc nầy là diệt ư niệm chia rẽ, chúng ta đừng quên những sự kiện tự nhiên nầy.

            Không có sự chia rẽ trên Cơi Bồ Đề, nơi đây ở cảnh thấp hơn hết, những Tâm Thức không cần phải ḥa hợp với nhau, nhưng lại mở rộng ra từng bậc. Khi tiến đến Cảnh cao nhất của Cơi Bồ Đề và sau khi chúng ta tự mở mang trọn vẹn trong tất cả bảy Cảnh của Cơi nầy, chúng ta mới nhận thấy ḿnh vẫn là một với nhân loại. Ấy chỉ kể từ tŕnh độ nầy mà sự chia rẽ mới hoàn toàn không có thật, c̣n sự hợp nhất có ư thức với tất cả vạn vật thuộc về cơi kế đó tức là cơi Niết Bàn.

            Huynh hăy tưởng tượng rằng tất cả chúng ta đều có thể tự ḿnh khai triển đồng một lượt Tâm Thức Bồ Đề (Bồ Đề Tâm). Mỗi người sẽ nhận thấy rằng ḿnh tiến lên cao đến cơi đó và Tâm Thức của Y chứa đựng tất cả Tâm Thức của những kẻ khác; nhưng y sẽ luôn luôn biết rằng Tâm Thức của những kẻ khác cũng là TâmThức của y nữa. Mỗi người trong chúng ta không mất cái ư niệm về cá tánh của ḿnh, trái lại, cá tánh nầy sẽ bành trướng như chưa bao giờ có điều đó vậy. H́nh như mỗi người cũng biểu lộ ra ở những kẻ khác. Kỳ thật, cái Tâm Thức mà chúng ta hiểu biết được là Tâm Thức duy nhất mà tất cả chúng ta là những thành phần trong đó. Nó chính là cái Tâm Thức của Đức Thượng Đế vậy.

            Chính trên Cơi Niết Bàn, chúng ta mới lănh hội chân lư nầy một cách sâu xa hơn hết. Tất cả những điều ǵ chúng ta tưởng là Tâm Thức của chúng ta, trí tuệ của chúng ta, sùng tín của chúng ta, t́nh thương của chúng ta, thật ra đó là Tâm Thức của Ngài, trí tuệ của Ngài, t́nh thương của Ngài, sùng tín của Ngài, do chúng ta biểu hiện chút ít ở bên ngoài như một luồng ánh sáng đi ngang qua một thấu kính. Đối với con người, sự hiểu biết nầy không được toàn diện ở trên cơi Bồ Đề, nhưng nó trở nên toàn diện ở trên cơi cao kế đó là cơi Niết Bàn.

            Trong kinh Stances de Dzyan [13] có một đoạn nói về con người như vầy: "Đóm lửa nối liền với ngọn lửa nhờ sợi chỉ làm bằng Fohat mảnh mai, tinh vi nhất. Điều nầy, tôi tưởng, có thể áp dụng cho nhiều tŕnh độ khác nhau. C̣n riêng về chúng ta th́ chúng ta có thể giải thích như vầy: "Chơn Nhơn dính liền với Chơn Thần nhờ một sợi chỉ đi ngang qua suốt cơi Bồ Đề. Chúng ta có thể tưởng tượng sợi chỉ nầy hết sức tế nhuyễn; đó là tất cả những ǵ tiêu biểu cho người thường trên các cảnh của cơi Bồ Đề nầy. Khi mà con người chú ư đến những lănh vực cao vút đó, khi mà y hằng tâm niệm đến  đó và lấy đó làm mục đích của đời ḿnh th́ sợi chỉ ấy bắt đầu nở to ra càng ngày càng giống như sợi dây cáp và về sau, như cái quặng, bởi v́ nó lớn phần trên (một người có Huệ Nhăn tŕnh bày như thế), kế đó nó rọi xuống Thượng Trí (Nhân Thể), lúc bấy giờ Nhân Thể có kích thước nhất định. Về sau, Nhân Thể nhờ những thần lực tuôn xuống như thác nước mà nở lớn ra và cái quặng trở nên to lớn hơn nhiều, nở vừa phần dưới, vừa phần trên. Trong cuộc Điểm Đạo lần thứ nhứt (đă có nhiều người trải qua cuộc kinh nghiệm nầy sớm hơn) con người bỏ Thượng Trí (Nhân Thể) và nhập vô cơi Bồ Đề. Trong khi đó, như tôi đă giải thích, Nhân Thể hoàn toàn tan ră. Thể nầy là yếu tố duy nhất trường tồn mà con người biết được, trong vô lượng kiếp luân hồi dài đăng đẳng sau khi thoát khỏi kiếp thú. Đồng thời, cái quặng lại hóa thành h́nh cầu. Diễn tả cho đúng thật khó cho tôi, v́ lẽ ở cơi nầy có nhiều bề đo hơn ở Thế Gian mà những sự vật hiện ra trước mắt người có Huệ Nhăn như thế đó.

            Sau khi được Điểm Đạo lần thứ nhứt, người Đệ Tử trước khi có thể được Điểm Đạo lần thứ nh́ phải hoàn toàn thoát khỏi ư niệm chia rẽ, ngoài những nhược điểm khác. Ư niệm nầy là chướng ngại đầu tiên trong mười chướng ngại (Sanyojana) mà Y cần phải loại trừ để tiến bước trên Đường Đạo và sự loại trừ cuối cùng và nhất định nầy Y có thể thực hiện được nhờ đă có kinh nghiệm trong cuộc Điểm Đạo lần thứ nhứt: Y nhập vào Tâm Thức Bồ Đề trong chốc lát. Cố nhiên, không phải do đó mà Y có thể t́m lại trạng thái Tâm Thức nầy chừng nào cũng được, ít ra Y cũng có cảm giác Bồ Đề Tâm: Lúc ấy Y cảm thấy được sự hợp nhất, Y biết rằng sự hợp nhất có thật, mặc dù Y không đủ khả năng tự ḿnh lên cơi đó một lần nữa, nếu không có sự giúp đỡ của Đức Sư Phụ. Như thế, cái ư niệm chia rẽ, đối với Y, đă trở thành ảo tưởng. Ở Thế Gian, thật ra chúng ta dường như không thể nào nhận thức được điều nầy trong Thể Xác. Chúng ta không ngớt bàn luận về nó, chúng ta cố gắng tin rằng chúng ta cảm thấy sự hợp nhất đó, nhưng tôi tưởng kỳ thật điều đó chưa có thể được ngày nào mà con người c̣n mang lấy cái h́nh hài xác thịt nầy và chưa có thực hiện sự kinh nghiệm cao cả đó. Chúng ta tin chắc bằng trí khôn thôi, nhưng cảm thấy thật sự hợp nhất là cả một vấn đề khác nữa.

            Khi bắt đầu hoạt động trên Cơi Bồ Đề, con người bước vào đó từ cảnh thấp nhất (Cảnh thứ bảy), nhưng thoạt tiên, Y không nhận thức được ǵ cả, dù là Cảnh thấp nầy. Y cảm thấy một nguồn phúc lạc mănh liệt không thể tả nổi và đồng thời, Tâm Thức Y bành trướng, nó nối tiếp theo tất cả những điều Y đă cảm được từ lúc trước, có lẽ Tâm Thức nầy làm cho Y tưởng rằng nó lan rộng khắp Thế Gian. Vả chăng, đây là một điều sai lầm hoàn toàn. Khi mà Y quen thuộc với cảnh giới cao siêu nầy rồi th́ Y phân tách được, Y nhận thấy sự bành trướng của Tâm Thức Y, tuy được rộng lớn, nhưng nó cũng vẫn chưa trọn vẹn, chưa đại đồng. Y mở rộng phạm vi hoạt động của Y từng chút, từng bậc, giống như một đạo quân trú đóng trong một phần đất mới chiếm được: trước hết, họ đặt chân lên đó, sau lại dần dần, khu vực hàng phục lan rộng khắp xứ. Xong rồi, con người chú tâm luyện tập để lên Cảnh trên kế cận một cách có ư thức; nhưng y có thể lên từ Cảnh nầy đến Cảnh khác, cho đến Cảnh thứ nhứt cao hơn hết mà không cần cấu tạo Thể Bồ Đề. Con người nhờ tham thiền hay cố gắng tiến tới Tâm Thức Bồ Đề luôn luôn có thể đạt được nó. Đối với người đă cấu tạo xong cho ḿnh Thể Bồ Đề (KimThân) Tâm Thức nầy làm căn bản cho Tâm Thức Hồng Trần thấp thỏi của xác thân, của Cái Vía và của Hạ Trí. Đó là một sự tiến bộ khác nhau và đặc biệt mà cũng khó khăn nữa, bởi v́ nó bắt buộc phải loại bỏ Nhân Thể [14], phá tan bức tường chia rẽ nầy.

            Người mà Tâm Thức hoạt động trên Cơi Bồ Đề, trong lúc tham thiền, thấy rằng, nếu y chia sớt được tất cả Tâm Thức kỳ diệu của cơi nầy th́ cũng c̣n là một ṿng tṛn nhỏ trống không, chia đôi Tâm Thức nầy với khoảng ở bên kia vũ trụ, lẽ cố nhiên, tấm vách ngăn mỏng manh nầy là Nhân Thể, chính nó phải tan ră để cho Thể Bồ Đề phát triển. Sau đó, người ta mới cảm thấy được Đời Sống tự do kỳ thật là thế nào và ở Thế gian chẳng có thể nào diễn tả được. Bà Blavatsky tŕnh bày như vầy: "Một cái ṿng tṛn mà trung tâm ở khắp nơi, chu vi của cái vành lại không có," định nghĩa nầy rất đẹp đẽ và rất có ư nghĩa. Quả thật, đó là điều vô lư trái ngược nhau nhưng không thể bàn ǵ về những t́nh trạng siêu việt nầy do tôi nói mà không tương phản với nhau.

            Khi đạt được ư niệm hợp nhất chắc chắn rồi, con người có cảm tưởng rằng ở tŕnh độ nầy, Thể Kim Thân của y choán hết toàn diện Cơi Bồ Đề, và dường như Y có thể tự ḿnh chuyển di tiêu điểm Tâm Thức của Y trên khắp Cơi nầy bất cứ ở chỗ nào và cũng không v́ lẽ đó mà rời bỏ trung tâm của ṿng tṛn, mặc dù tất cả những lời nói đây có thể bị người ta cho là vô lư. Kinh nghiệm đó không thể nào diễn tả được. Mối cảm giác nầy đến cực độ và kèm theo luôn luôn ư thức phúc lạc vô biên, cái phúc lạc mà ở những cơi thấp không thể cho ta chút quan niệm ǵ cả, cái phúc lạc mănh liệt, linh động và nồng nhiệt mà trí con người không tưởng tượng được. Ở Thế Gian, trong những cơ hội rất hiếm hoi mà chúng ta nhận thấy, không có cái ǵ xứng đáng với danh từ phúc lạc ấy, cái phúc lạc vốn không cảm thấy sự đau khổ nào cả. Tại Trần Thế chúng ta hưởng được hạnh phúc hay phúc lạc là khi nào, trong chốc lát, chúng ta không mệt mỏi và không đau khổ, khi nào chúng ta có thể nghỉ xả hơi, chúng ta thưởng thức được những ảnh hưởng tốt đẹp. Đó là một ư niệm có hơi tiêu cực. Trên Cơi Bồ Đề, phúc lạc là một cảm giác mănh liệt phi thường và linh động; tôi không biết làm thế nào để bày tỏ nó. Hăy tưởng tượng sự hoạt động mănh liệt nhất mà huynh chưa hề cảm thấy, hăy thay thế sự hoạt động linh mẫn nầy, nhiệt liệt nầy bằng những ư niệm toàn phúc; kế đó hăy tinh thần hóa ư niệm toàn phúc nầy rồi đem nó lên đến một Cơi thật cao, và nhơn nó với một con số gọi là số n (lũy thừa n), có lẽ như thế, huynh sẽ có được một quan niệm về cái phúc lạc Cơi Bồ Đề.

            Ấy là một sự thực linh động của một sức mạnh không có cái chi chống lại nổi. Nó không có ǵ là thụ động cả. Người ta không có nghỉ ngơi. Ở Thế Gian, chúng ta bắt buộc phải có nhiều nỗ lực chuyên cần mà sự nghỉ ngơi luôn luôn chiếm một địa vị rất lớn trong lư tưởng của chúng ta, dù lư tưởng đó thế nào cũng vậy; nhưng ở trên cao đó, con người trở thành hóa thân của một năng lực phi thường, tự biểu thị bằng cách ban rải ra ngoài. Trong Tâm Thức của Y, quan niệm về sự cần thiết nghỉ ngơi tuyệt nhiên không có. Điều mà ở Thế Gian người ta gọi là sự nghỉ ngơi, ở trên Cơi Bồ Đề dường như là một sự không có thật. Chúng ta liên kết với sự biểu thị khí lực thiêng liêng và khí lực nầy là một sự sống linh động. Người ta có nói đến sự an nghỉ ở Cơi Niết Bàn, nhưng đứng về phương diện thấp thỏi mà thôi. Sức mạnh của khí lực mới thật là đặc tính của đời sống cao siêu nầy, khí lực cao diệu cho đến đỗi không thể lấy một sự vận động thông thường nào mà giải thích được, chính nó là một triều lưu vô biên và không có chi chống lại nổi, ở dưới nh́n lên nó in như sự yên lặng nhưng nó có nghĩa là Tâm Thức của Quyền lực tuyệt đối. Không có danh từ nào để tŕnh bày tất cả những điều nầy. Đi đến đó chúng ta mới thắng phục được cây cỏ dại to lớn - kẻ thù nguy hiểm của chúng ta tức là cái ư niệm chia rẽ. Tóm lại, đó là phận sự khó khăn hơn hết đang chờ đợi chúng ta, bởi  v́ nó bao hàm tất cả cái ǵ c̣n lại. Khi Thể Bồ Đề phát triển trọn vẹn trên bảy cảnh rồi và chỉ lúc đó con người mới làm chủ được toàn Cơi Bồ Đề và có năng lực đồng hóa một cách mỹ măn với toàn thể nhân loại. Cái năng lực nầy giúp cho Y biết được tư tưởng và t́nh ư của tất cả mọi người. Trước khi đạt được Tâm Thức Bồ Đề, chúng ta có thể gắng sức làm giảm bớt cái ư niệm chia rẽ và nói về mặt trí thức th́ sự thành công to tát lắm, tuy nhiên, chúng ta c̣n đứng ở bên ngoài, đó có nghĩa là chúng ta chưa biết được đồng loại ḿnh. Đối với chúng ta, họ cũng c̣n là một sự bí mật tuyệt đối, bởi v́ đối với con người, con người là sự bí mật to lớn nhất. Chúng ta có thể giao thiệp mật thiết trong một thời gian khá lâu với nhiều người, nhưng mà chúng ta không am hiểu họ tường tận. Có thể, trước khi đi đến Cơi Bồ Đề không ai biết rành rẽ một người nào cả, nhưng sau khi đến Cơi Bồ Đề rồi, Y có thể ḥa ḿnh vào Tâm Thức của những kẻ khác và biết rơ những việc làm của họ và v́ lư do nào họ hành động theo thế nầy hay theo thế kia. Tại đó, tất cả vạn vật đều ở trong tâm Y, chớ không ở bên ngoài và y quan sát vạn vật cũng như quan sát những bộ phận của chính ḿnh vậy. Ở Thế Gian không thể làm như vậy được, nhưng cảm giác được bấy nhiêu cũng đủ lắm rồi. Tất cả niềm vui, tất cả nỗi đau khổ của nhân loại cũng chính là niềm vui vẻ và nỗi đau khổ của Y. Khi Y muốn xuống cơi thấp, Y mượn một trong số những ṿi, những tua - nghĩa là Tâm Thức của người khác, bởi v́ Y với những kẻ khác chỉ là một mà thôi. Y có thể cảm giác được và thật ra, Y cảm giác được hết thảy những điều ǵ làm cho người ấy xúc động. Y biết được tất cả những niềm đau khổ của Thế Gian, nhưng Y hiểu một cách chắc chắn và tuyệt đối rằng sự đau khổ là một thành phần cần thiết của Cơi nầy và khi lên đến Cơi cao nó không c̣n nữa. Không chia sớt sự đau khổ một cách ít thấm thía hơn, Y biết rằng Phạm Thiên Brahman là Toàn Phúc và hợp nhất với đời sống thiêng liêng là một t́nh trạng phúc lạc vô biên ở nội tâm. Phải tới tŕnh độ phát triển nầy trước khi có thể giúp đỡ đầy đủ đồng loại ḿnh.

            Khi con người đạt được Tâm Thức mới nầy, một thời gian trước đó, y phải ĺa khỏi mấy Cơi thấp, nơi đó Y c̣n có nguy cơ mất sự an tĩnh và sự quân b́nh của Y, chính Y mới là một yếu tố của niềm hoan lạc thiêng liêng. Khi trở về nhập vào ba Thể: Trí, Vía và Xác Thân Y c̣n có thể bị những sự lo lắng nhỏ nhặt làm cho Y xúc động. Nhưng cũng không nên có điều đó nữa, tuy nhiên có một khoảng lớn chia đôi đời sống cao siêu với đời sống ở Thế gian và khi chúng ta c̣n ở trong xác phàm những chuyện không ra ǵ cũng c̣n có thể làm cho chúng ta nỗi cơn thịnh nộ. Có thể mất b́nh tĩnh trong nhất thời, v́ một lư do thuộc về Cơi Trần; ở một Cảnh Giới thật cao cũng vẫn c̣n điều đó, nhưng chỉ hoàn toàn phớt qua thôi. Dưới Thế Gian, những sự vật làm cho người ta đau khổ thật sự vốn là những sự vật mà người ta tưởng là không phương cứu chữa. Không thể nào bị thất vọng sau khi đă đạt được Tâm Thức siêu việt nầy, thực tại luôn luôn là hạnh phúc, nhất định chắc chắn như vậy. Chúng ta biết rằng, ở những cơi thấp, tất cả những sự đau khổ đều là tạm thời và chúng ta không c̣n chịu đau khổ nữa, nếu chúng ta tiến rất gần sự toàn thiện.

            Chúng ta có năng lực đồng hóa, chẳng những Tâm Thức của kẻ khác mà cho đến tất cả cái chi ở Cơi Bồ Đề. Chúng ta học hỏi tất cả theo con đường nội tâm chớ không theo ngoại cảnh[15]. Chúng ta muốn khảo cứu một vấn đề nào, một cơ thể nào hay hoạt động của một Luật Thiên Nhiên nào hoặc các vấn đề khác cho đến tất cả Tâm Thức của Nhân Thể nữa, chúng ta bắt buộc phải xem xét từ bên ngoài và xem nó như ở ngoài chúng ta. Ở trong Nhân Thể, chúng ta có thể quan sát việc nầy với một Tâm Thức vô cùng mở mang, với cái năng lực thu hoạch được những điều hiểu biết hết sức rộng sâu hơn là ở những Cơi thấp. Nhưng khi tiến tới cơi Bồ Đề, sự sai biệt thật trọng yếu. Đối tượng của sự quan sát của chúng ta lại trở thành phần tử của chính chúng ta. Khó mà phô diễn bằng lời nói, bởi v́, ở Thế Gian, chúng ta không có cái ǵ hoàn toàn giống như thế; nhưng khi khảo sát sự vật bằng cách lấy phương diện nội tâm thay thế cho phương diện ngoại cảnh sẽ có một sự ích lợi to tát cho chúng ta. Những đặc điểm đó mới mẻ cho đến đỗi như là chúng ta có thể nói rất đúng "Đây là sự thấy đầu tiên của chúng ta về cách thức mà Đức Thượng Đế quan sát vũ trụ của Ngài," bởi v́ kinh nghiệm nầy chính thật là kinh nghiệm của Ngài, điều mà Ngài quan sát phải là một phần tử của chính Ngài, bởi v́ không có cái ǵ mà không phải là Ngài. Tâm Thức của Ngài vốn là Tâm Thức Bồ Đề nầy nhân cho một số n  (lũy thừa n) và thêm vào đó một sự thông tuệ, một sự vinh quang và một sự huy hoàng mà không cái ǵ, bất cứ ở cơi nào, có thể gợi cho chúng ta một ư niệm nào cả. Người ta mới hiểu rơ rằng tại sao ta gọi Cơi nầy là Cơi chơn và tất cả những cái thấp là Cơi giả, bởi v́ sự sai biệt thật to tát, sự thay đổi thái độ của chúng ta hoàn toàn cho đến đỗi tất cả các cách thức khác để quan sát sự vật như là hư ảo, không thực tế mà lại c̣n kỳ cục nữa, khi mà chúng ta tập quan sát sự vật theo con đường nội tâm.

            Đạt được sự thấy cao siêu nầy cũng không phải là khó như nhiều sinh viên đă tưởng vậy. Có một số người đă thành công trong kiếp hiện tại, ở nơi đây và ngay bây giờ, chắc chắn những người bằng ḷng tuân theo kỷ luật và thực hành ḷng vị tha vong kỷ một cách tuyệt đối sẽ tập được; bởi v́ ngày nào một yếu tố cá nhân chia rẽ c̣n tồn tại trong quan điểm của người Đệ Tử th́ ngày đó y không thể nào tiến bộ được trong Tâm Thức Bồ Đề, v́ sự mở mang Tâm Thức nầy tùy thuộc sự loại trừ Bản Ngă.

            Ư niệm chia rẽ được diễn tả nhiều cách khác nhau trong sự sinh hoạt hằng ngày và điều khôn ngoan là coi chừng những biểu lộ nầy. Một trong những sự biểu lộ đó nổi bật hơn hết  là ḷng ham muốn sử dụng quyền thế để áp bức kẻ khác. Hơn phân nửa Thế Gian nầy măi lo t́m cách xen vào chuyện thiên hạ, thói quen đó đă có từ lâu đến đỗi chúng ta không để ư đến; thường thường ta cho việc đó là khuyên bảo những lời hay lẽ phải. May ra trong 2.000 lần mới có một lần đúng như vậy, và thường thường, chúng ta chỉ củng cố cái Bản Ngă chia rẽ của chúng ta bằng cách bắt kẻ khác phải nghe theo ḿnh.

            Ở Cơi Trần, chúng ta cố gắng ép kẻ khác hành động theo đường lối của chúng ta và nhân nhượng chúng ta, luôn luôn chúng ta cố gắng bắt họ thừa nhận kế hoạch riêng của chúng ta, dù kế hoạch đó thế nào cũng mặc. Chúng ta tưởng rằng hễ là kế hoạch của chúng ta, nó là tốt nhất trên đời và chúng ta muốn ai ai cũng phải thi hành theo nó. Về tŕnh độ trí thức cũng thế; họ cũng luôn luôn gắng sức bắt buộc kẻ khác phải theo ư kiến và tư tưởng của họ. Người mà trí hóa minh mẫn sẽ nhờ nó bắt đầu muốn áp chế kẻ khác một cách tinh tế và không hấp tấp chút nào. V́ lư do tư tưởng của y trở nên sâu sắc hơn và dũng mănh hơn tư tưởng của những kẻ khác, cho nên y mới ra công uốn nắn tư tưởng của họ giống như tư tưởng của Y. Thật là điều chính đáng và tốt đẹp khi chúng ta có ư muốn chia sớt với kẻ khác tất cả những sự hiểu biết của chúng ta và đem tŕnh bày cho họ những điều chúng ta đă t́m ra và có ích lợi cho chúng ta; nhưng thường thường, không phải ư tưởng chỉ muốn áp chế về mặt trí thức, sự ham muốn nầy lại kèm thêm ḷng khinh bỉ kẻ khác. Chúng ta tự nói rằng: "Mấy người nầy cũng như bầy trừu, chúng ta có thể ở đàng sau đuổi họ đi tới trước; chúng ta có thể điều khiển tư tưởng của họ tùy theo sở thích của chúng ta." Thật đúng khi một người kia có thói quen suy tưởng như chúng ta phải suy tưởng: Nhờ tham thiền và học hỏi, y có thể chi phối tư tưởng kẻ khác hết sức dễ dàng, nhưng chúng ta không nên làm thế, bởi v́ tất cả điều ǵ giống như áp chế, ngự trị là có phương hại cho sự tiến hóa của kẻ khác mà cũng không ích lợi ǵ cho chúng ta. V́ vậy, cần phải chống lại ḷng ham muốn chi phối về mặt trí thức v́ nó thuộc về tật xấu của sự chia rẽ.

            Vượt khỏi điều nói trên, về phương diện nầy, c̣n lại cho chúng ta một khả năng cao siêu khác là trong phạm vi tinh thần, chúng ta c̣n có ư muốn hướng dẫn đồng loại đi theo con đường riêng của chúng ta; do đó tất cả những nỗ lực nhằm mục đích bắt con người bỏ Đạo nầy theo Đạo khác. Nói như thế, sợ rằng có vài chỗ bất công. Cơ đốc Giáo cũng vậy, căn cứ vào nguyên tắc nầy - nó là cái ảo tưởng lớn lao vô cùng - trừ phi thừa nhận những thể thức, những tín điều của Cơ Đốc Giáo con người chuẩn bị một tương lai rất khó nhọc và khổ sở, những sự nỗ lực của Cơ Đốc Giáo trong việc căi biến tín ngưỡng vẫn nhuộm màu sắc bác ái vị tha. Nó tuyên bố với mọi người rằng: "Giáo Lư của tôi là chính thống, c̣n Giáo Lư của Huynh là tà thuyết dị đoan", hoặc giả nói: "Điều tôi tin tưởng là Chân Lư, Huynh phải ăn ở theo đó." Sau khi tinh thần đă phát triển, chúng ta đạt được nhiều sự hiểu biết mà kẻ khác không có; điều tốt đẹp và thích đáng là đem truyền bá Phúc Âm của chúng ta; có ư muốn chia sớt những điều chúng ta đă sưu tầm được cho đồng loại và giúp đỡ họ có tất cả những cơ hội thuận tiện để theo chúng ta vào những lănh vực cao siêu của tư tưởng nầy; nhưng nếu điều ước vọng trên có xen ḷng ham muốn áp chế họ, ḷng ham muốn thường đi đôi với nhiều tánh tốt, người ta gặp lại ở đây cái ǵ của Bản Ngă chia rẽ; "cỏ dại" to lớn cũng chưa bị bứng gốc rễ, chưa chết hẳn.

            Cũng phải loại bỏ hoàn toàn ḷng ham muốn áp chế, hay chi phối, bởi v́, ngày nào, con người c̣n làm việc cho bản ngă riêng biệt chia rẽ, ngày đó y c̣n thuộc vào một "lớp" người rất đông đảo sống ích kỷ chia rẽ; đối với sự tiến hóa, họ tiêu biểu cho một khối nặng vô dụng ghê gớm. Khi mà y quan niệm được sự hợp nhất, y liền tách ra khỏi khối nặng nầy và bắt đầu giúp đỡ những người đang nâng đỡ khối đó lên.

            Sống cô độc một ḿnh có nghĩa là không bị lệ thuộc vào người nào, ngoài ta ra, bởi v́ không có người nào hay vật nào riêng rẽ mà chung qui có thể giúp ích cho ta được việc ǵ. Sự giúp đỡ phải tự ở trong tâm chúng ta. Đức Sư Phụ có thể luôn luôn giúp đỡ sự nỗ lực của chúng ta, nhưng chính Ngài cũng không làm sao hoạt động tại cơi của chúng ta được. Ngài không ngớt đưa ra những tư tưởng cho chúng ta và trợ lực chúng ta đủ mọi cách, nhưng ở mỗi bước đi, công việc phải do chúng ta làm cho hoàn thành. Khi tiến tới, phải có thể sống trong cảnh cô đơn tịch mịch, đối với ta th́ h́nh như ta vẫn trơ trọi một ḿnh và không có sức hộ tŕ trực tiếp của Sư Phụ. Tuy nhiên, điều nầy cũng là một ảo tưởng, bởi v́, thật sự, không ai sống chia rẽ với Đức Sư Phụ hay Đức Thượng Đế được, mà Đức Sư Phụ lại là thành phần của Đấng Vô Thủy Vô Chung. Nhưng phải hoạt động như là chúng ta sống một ḿnh và trong vài giai đoạn của sự tiến hóa của chúng ta, chúng ta sẽ cảm thấy ḿnh hoàn toàn cô lập. Đồng thời, một sự nỗ lực về mặt trí thức, chắc hẳn là khó khăn trong t́nh trạng của chúng ta; sự nỗ lực nầy giúp chúng ta hiểu biết rằng không thể nào sống cô độc một cách thực sự được. Chúng ta thuộc về Đức Thượng Đế, sự hợp nhất vẫn c̣n măi măi, bằng không chúng ta sẽ vô tri vô giác.

            Chúng ta thuộc về cái ǵ không thể chấm dứt được, v́ thế, ư niệm cô độc là một ảo tưởng, dù rằng ảo tưởng đó gây cho chúng ta tất cả mọi phiền năo, tất cả mọi đau khổ. Ở Trần Thế, thường khi con người tưởng rằng ḿnh cô độc, thật ra lại ít cô độc hơn. Ở giữa một đám đông, những điều cao cả ít có ảnh hưởng đến Y, v́ thế mà Y càng cách xa điều đó. Nhưng, khi những người sống ích kỷ, chia rẽ nầy dang xa Y rồi, Y lại chịu ảnh hưởng của "Bản Ngă không chia rẽ" dễ dàng hơn, bởi vậy, rất đúng là con người ít cô độc hơn trong những giờ phút Y tưởng hay cảm thấy ḿnh cô độc nhất.

            Khó mà quan niệm cái ư ghê sợ khi cảm thấy ḿnh sống hoàn toàn trơ trọi trong vũ trụ - như một điểm trôi giạt trong không gian, đó là t́nh trạng gọi là cơi A Tỳ (Avichi), nghĩa là "không sóng gợn, không rung động". Trong t́nh trạng Tâm Thức nầy, dường như con người ở ngoài những làn rung động của Sự Sống Thiêng Liêng, người ta nói đó là sự kinh nghiệm kinh khủng nhất. Huynh Bàng Môn Tả Đạo nào trong nhiều kiếp luân hồi, cố ư tranh đấu một cách có phương pháp cho sự chia rẽ và trực tiếp chống lại những lực lượng hợp nhất của sự tiến hóa sẽ bỏ ḿnh trong cảnh A Tỳ. Vị Đệ Tử của Chơn Sư cần phải tập có thiện cảm, dù là với huynh Bàng Môn Tả Đạo chịu cảnh A Tỳ. V́ thế, trên con đường tiến hóa của ḿnh, vị Đệ Tử phải có một lần cảm thấy được t́nh trạng Tâm Thức ấy. Y chỉ vào đó trong chốc lát thôi nhưng cái cảm giác không thể nào quên được. Từ đây, Y luôn luôn biết được nỗi đau khổ của những kẻ sống trong t́nh trạng nầy trải qua không biết bao nhiêu thời đại rồi. Đối với chúng ta, khi th́ giờ thí nghiệm đă đến,[16] hăy nhớ rằng tất cả cái ǵ tồn tại là Đức Thượng Đế và chúng ta không thể nào sống chia rẽ với Ngài được, mặc dù chúng ta lầm tưởng như vậy: Chúng ta hăy hiểu rằng đó là một ảo tưởng cuối cùng mà chúng ta phải chiến thắng.

            Tất cả chúng ta phải sống trong cảnh cô đơn (một ḿnh), bởi v́ mỗi người trong chúng ta phải tập tự tin lấy ḿnh và tự biết rằng ḿnh là Đức Thượng Đế, và Điểm Linh Quang chói sáng trong tâm ḿnh, thực sự, là thành phần của Toàn Thể. Khi mà chúng ta chưa tiến đến tŕnh độ đó, đối với những giai đoạn cao siêu của công nghiệp của Đức Sư Phụ, chắc chắn chúng ta chưa phải là những nhân viên tín cẩn của Ngài. Trong khi chờ đợi, trong tất cả mọi công tác của chúng ta ở tại đây, dù là ở cơi Trần, ở cơi Trung Giới hay ở cơi Thượng Giới, sự tin chắc rằng: Đức Sư Phụ không ngớt bao bọc chúng ta trong hào quang của Ngài và Ngài ở kề bên chúng ta là một sức mạnh rất lớn lao và một niềm êm dịu vô cùng đối với chúng ta. Tùy theo trường hợp, mỗi đêm chúng ta thi hành phận sự thường lệ của chúng ta ở cơi Trung giới hay ở Cơi Thượng Giới và luôn luôn chúng ta biết rằng quyền lực của Đức Sư Phụ bảo vệ chúng ta. Có khi chúng ta gặp một sức mạnh phi thường, cao hơn chúng ta vô cùng, hăm dọa làm khổ sở, điêu đứng chúng ta, cũng như ở Thế Gian bị một trận băo tố dữ dội hay một cuộc động đất hoành hành, nhưng chúng ta luôn luôn biết rằng chúng ta có thể cầu cứu măi măi và vô hạn ở quyền lực của Ngài. Vả lại, vị Đệ Tử phải tập "không cầu cứu với Ngài," nhưng đây cốt để cho ḿnh trở nên một trung tâm cũng dũng mănh như  Đức Sư Phụ vậy.

            Đừng tưởng rằng con có thể sống riêng biệt với kẻ hung ác hay người điên cuồng. Họ chính là con, mặc dù ở vào một tŕnh độ thấp kém hơn người bạn thân của con hay Sư Phụ con. Nhưng nếu con để trong tâm nẩy nở ư nghĩ rằng con không liên đới với một vật nào hay một người nào, do đó, con sẽ tạo ra một nghiệp quả, nó trói buộc con vào vật đó hay người đó cho đến ngày nào Linh Hồn con nh́n nhận rằng nó không thể sống riêng biệt được nữa.

            C.W.L. _ Đây là phần đầu của lời chú thích dài do Đức Chơn Sư Hilarion viết ra. Về mặt lư thuyết, có lẽ chúng ta tin rằng loài người hợp thành một đoàn thể lớn, và quả thật vậy, làm ra một khối duy nhất. Ở đây, Đức Chơn Sư xác nhận sự hợp nhất nầy gồm có những cấp bậc, thế nên mới có những cấp bậc khác biệt nhau, sau cùng trong một mức độ nào đó, chúng ta thấy ḿnh phân cách với kẻ hung ác hay người điên cuồng hơn là với bạn thân chúng ta hay Đức Sư Phụ của chúng ta. Người ta thường cho danh từ huynh đệ đại đồng bao hàm ư nghĩa b́nh đẳng giữa loài người, thật ra điều nầy không thể có được. Trong tất cả các gia đ́nh đều có nhiều anh em tuổi tác khác nhau, cũng thế đó, trong những phần tử của đoàn thể nhân loại phải có những Linh Hồn cao tuổi và những Linh Hồn nhỏ tuổi. Cũng như trong một gia đ́nh dưới Thế Gian nầy, người anh cả phải đảm nhiệm phần giáo dục đàn em thơ ấu, trong đại gia đ́nh của Nhân Loại, vị Trưởng Huynh phải lo bảo vệ và giúp đỡ đủ mọi cách những em c̣n trẻ tuổi. Ai nói Huynh Đệ là nói sự bất đồng, nó gồm về sự sai biệt về niên kỷ, vừa khác nhau về những việc làm.

            Sau đây là một trong những biểu tượng đẹp đẽ nhất của t́nh Huynh Đệ mà tôi được biết. Một trong những hội viên của chúng ta, trông thấy hiện ra trước mắt một ṭa thánh điện Đông Phương với cả hàng trăm cây cột. Huynh ấy diễn tả ṭa thánh điện ấy với những lời lẽ như vầy: "Tất cả những cột nầy đều góp phần nâng đỡ ṭa thánh điện, vậy nên chúng nó tiêu biểu cho những Linh Hồn cá nhân dự phần xây dựng ṭa thánh điện nhân loại. Có những cột ở bên ngoài phơi bày dưới mắt mọi người. Người ta thấy chúng nó, người ta không ngớt trầm trồ khen ngợi, chúng nó trải qua bao cơn mưa nắng dăi dầu. Những cột khác, nằm bên trong nội điện, bị ch́m mất trong đám rừng cột, suốt năm không hề thấy ánh sáng mặt trời rọi đến, khách qua đường hờ hững không hề để ư tới. Có vài cây cột ở nhằm những vị trí thuận tiện cho những vị sùng đạo tựu hợp, họ đến ngồi dựa lưng vào bệ từ sáng đến chiều. Những cột khác ở chỗ xa vắng hơn, nhưng mỗi cột là thành phần của Thánh Điện và mỗi cột đều có sự hữu ích của nó. T́nh Huynh Đệ Đại Đồng là như thế đó. Nhiều người có thể có quan niệm thủ một vai tuồng trọng yếu; nhiều người khác có thể làm mất cơ hội để phụng sự, tuy thế, tất cả đều chống đỡ một phần Thánh Điện. Những người làm mất cơ hội vẫn là những cột của thánh điện cũng như những cột được công chúng biết nhiều nhất."

            Nhiều Sinh Viên của chúng ta rất ân cần xác nhận rằng họ hợp nhất với Đức Sư Phụ và các vị Thánh, nhưng họ ít chịu quả quyết rằng họ hợp nhất với những kẻ sát nhân, những người nghiện rượu, những kẻ bơ thờ, vô tư lự, những kẻ ham mê sắc dục, những kẻ hung ác. Tuy nhiên, Nhân Loại vẫn là một, phải hợp nhất với những người tiến hóa thấp cũng như những người tiến hóa cao. Trong trường hợp thứ nhứt, đó là một phần tử của chính ḿnh chúng ta, theo gương đó, chúng ta phải tiến lên, nhưng trong trường hợp thứ nh́, đó là phần tử của Nhân Loại mà chúng ta cố gắng giúp đỡ. Bằng cách nào? Trước hết phải có một thái độ tốt đẹp đối với họ, nếu chúng ta tránh xa họ với sự ghê tởm, nếu chúng ta thù ghét họ tức là chúng ta làm cho con đường của họ trở nên khó khăn hơn. Nếu chúng ta để cho tánh tự nhiên và ưa sự ác nổi lên trong ḷng ta ảnh hưởng đến thái độ chúng ta đối với phạm nhân th́ chúng ta c̣n ở trong hai sự sai lầm; sự sai lầm nầy hầu như đôi khi không thể tránh được, mà chỉ có sự suy luận mới có thể giúp cho chúng ta tránh khỏi sự lầm lạc nầy.

            Các Bác Sĩ gặp những chứng bịnh hết sức ghê gớm và hết sức khủng khiếp mà lỗi lại hoàn toàn thuộc về người bệnh gây ra, nhưng không có vị Bác Sĩ đứng đắn nào lại nghĩ đến điều đó, khi nh́n xem bệnh nhân. Ông không xa lánh bệnh nhân v́ ghê tởm mà xem bệnh chứng như là một kẻ thù phải chiến đấu và phải chiến thắng. Đó là một gương mẫu rất tốt đẹp của một thái độ mà ta phải theo khi ta gặp phải một người trụy lạc. Quả thật chắc chắn là chúng ta không có làm ǵ được với một người nghiện rượu hoàn toàn hư đốn đă mất hầu hết nghị lực. Nhưng không phải v́ ghê tởm họ mà quay mặt đi chỗ khác hay là khinh miệt họ, chúng ta phải giúp đỡ họ. Cũng thế, nếu một người phạm một tội ác gớm ghiếc, chúng ta có thể phát sinh ḷng gớm ghiếc tội ác, chớ không phải đối với phạm nhân. Sự phân biệt tuy rất khó cho chúng ta nhưng phải rán sức phân biệt cho được.

            Một điểm khác về chi tiết cũng hơi lạ lùng. Những vật khiến chúng ta ghê tởm nhất là những vật mà chúng ta có ư hướng ít nhiều về chúng, như vậy không phải là không nguy hiểm cho chúng ta. Không có một ư hướng về một tội ác, dù là một ư hướng mong manh yếu ớt nhất, khiến chúng ta xem tội ác không có ǵ là ghê tởm; nhưng nếu một người kia thấy một sự yếu đuối của con người mà sinh ḷng gớm ghiếc th́ Y có thể tự nhủ rằng: Sự yếu đuối nầy đă đưa y đến một sự nguy hiểm thật sự, có lẽ trong kiếp vừa qua hoặc trong kiếp trước đó.

            Khi chúng ta bị những ảnh hưởng xấu bao vây, đôi khi chúng ta cần bao ḿnh với một lớp vỏ để ngăn cản ảnh hưởng ấy xâm nhập vào ḿnh, đó thường là điều chắc chắn hơn hết v́ lẽ chúng ta đều chưa tiến hoá, nhưng đồng thời ấy cũng là việc thú nhận yếu đuối của chúng ta tới một mức nào đó. Người thật dũng mănh mạo hiểm mà không ngần ngại chi cả, v́ Y chắc rằng chúng nó không thể làm ǵ được. Chúng ta không thể làm như vậy mà không bị mang tiếng là bất cẩn. Sức mạnh của chúng ta có hạn và phương sách không để phung phí một phần sức mạnh của chúng ta là tạo thành một lớp vỏ nầy. Một người hoàn toàn tin chắc ở sức mạnh có thể trải qua những sự nguy hiểm khác nhau mà không bị hại, bởi v́ sự tin chắc của Y là xác thực. Sức mạnh hoàn toàn làm tiêu mất hết sự ghê tởm. Chúng ta lùi bước trước một bệnh truyền nhiễm v́ sợ lây; nếu chúng ta tin chắc ở sự không bị nhiễm của chúng ta, chúng ta không c̣n có ư tưởng về sự truyền nhiễm nữa.

            Nếu chúng ta không xem ḿnh như riêng biệt với người hung ác và kẻ ngu ngốc, không phải chúng ta cứ giao du với họ măi, mặc dù có cơ hội tiếp xúc với họ cũng có lợi vậy. Nhiều người có ḷng nhân đạo t́m cách giúp đỡ những kẻ nghèo khổ trong một đô thị lớn như Luân Đôn, bằng cách vào ở những xóm bần hàn đói rách. Nhiều Sinh Viên của chúng ta nghĩ rằng đó là bổn phận của chúng ta đối với kẻ hung ác và những người mất lương tri. Cách giúp đỡ như vậy không phải luôn luôn là tốt nhất. Hăy lấy thí dụ ở các Đấng Chơn Sư. Những Đấng Thiêng Liêng Cao Cả không đến sống trong những xóm tồi tệ, bẩn thỉu của các đô thị lớn. Tại sao vậy? Bởi v́ các Ngài không thể theo đuổi công việc giúp đỡ Nhân Loại của các Ngài như thế đó. Chơn Sư cần chuẩn bị cho ḿnh một nơi nào để Ngài có thể làm việc gần trọn hết th́ giờ của Ngài; có lẽ Ngài chỉ làm được có một phần trăm những điều mà Ngài thi hành được ở trong trường hợp khác.

            Nguyên tắc ấy đối với chúng ta cũng vậy: Không có sự cần thiết nhỏ mọn nào bắt buộc chúng ta phải nhận những điều kiện xấu tệ. Trái lại, sự giúp đỡ của chúng ta thường được đầy đủ hơn khi nào chúng ta được tự do. Thí dụ khi người ta mắc kẹt ở giữa một đám đông thật là đặc biệt khó chịu, đang sôi nổi v́ bị sự hung ác hay bị sự phẫn nộ kích thích, người ta có thể làm một cái vỏ để bảo vệ ḿnh khỏi bị ảnh hưởng xấu, nhưng mà người ta không làm ǵ được đến đám đông trong lúc đó. Trái lại, nếu ở xa đám đông, người ta có nhiều tinh lực hơn để cung hiến cho họ. Dù sao, nếu một đám đông tŕnh độ tiến hóa chưa mở mang bị kích thích bởi ḷng dục vọng tàn ác, ở trên những Cảnh Giới cao siêu, không thể ảnh hưởng họ được, bởi v́ tinh lực tiêu dùng như vậy không thể cảm đến họ, khi mà họ ở trong t́nh trạng ấy. Thế nên không ích lợi chi đi vào những chỗ xấu xa bất chánh mà không biết rơ việc lành nào ḿnh có thể làm được tại đó. Nếu chúng ta bị đặt trong hoàn cảnh ấy, hẳn nhiên chúng ta phải làm hết khả năng ḿnh. Người ta nói với tôi rằng các Nhà Truyền Giáo vào những quán rượu tổ chức những công việc đạo đức. Sự can đảm của họ đôi khi cũng đem đến sự thành công. Nhiều trường hợp, làm như vậy tự nhiên đưa đến cảnh thất bại lớn. Trong vấn đề nầy cũng không khác ǵ ở cuộc chiến tranh, một quyết định gan dạ, có vẻ liều lĩnh, mạo hiểm, có thể thành công được, nhưng thường người ta có thể làm hơn thế nữa bằng cách làm việc một cách hợp lư.

            Con hăy nhớ rằng tội lỗi và sự nhục nhă của Thế Gian là tội lỗi và sự nhục nhă của con, bởi v́ con là phần tử của Thế Gian, nghiệp quả của con dệt chung với đại Nghiệp Quả của nhân loại, không thể nào gỡ ra được.

            Tại Thế Gian nầy, người ta không nhận thức được điều nói trên, nhưng khi lên đến Cơi Bồ Đề, người ta mới thấy câu cách ngôn phô bày một chân lư. Ở Cơi đó, chúng ta mới tự nhủ rằng: "Tôi dự phần vào việc mà nhân loại không thể tránh được, sự xấu xa của nhân loại chính là sự nhục nhă của tôi." Lư do sự tin chắc nầy v́: Vốn là phần tử của Nhân Loại, chúng ta đă dự phần vào tội lỗi của Nhân Loại cũng như chúng ta đă dự phần vào tất cả những sự tốt lành của nhân loại. Một người tiến được một bước tới trước, chúng ta thấy đó là một sự thắng lợi cho tất cả. Nhờ Y mà toàn thể Nhân Loại tiến gần đến mục đích một chút.

            Và trước khi được giác ngộ, con phải trải qua khắp mọi nơi, dù chúng nó ô uế hay chúng nó trong sạch, v́ thế, con nên nhớ rằng y phục dơ bẩn mà vừa đụng tới con đă gớm, có thể con đă mặc nó trong ngày hôm qua, cũng có thể con sẽ mặc lại nó ngày mai nữa, và nếu con quay mặt chỗ khác tỏ vẻ ghê tởm, nó sẽ bó sát vào thân con khi người ta choàng nó lên vai con. Người nào kiêu hănh về đức hạnh của ḿnh là dọn cho ḿnh một chỗ nằm trong chốn bùn lầy. Con hăy tŕ giới, v́  tŕ  giới là điều tốt, chớ không phải cốt để giữ ḿnh con cho được trong sạch.

            Đoạn nầy chấm dứt lời chú thích của Đức Chơn Sư  Hilarion; người ta thường hiểu sai lầm ư nghĩa của nó; người ta giải thích câu cách ngôn ấy như thế nầy: "Đến một lúc kia, mỗi cá nhân đều phải phạm tất cả những tội lỗi." Không phải ư nghĩa của nó như vậy đâu, bởi v́ người khôn rút lấy ở sự kinh nghiệm của kẻ khác một lời giáo huấn. Khi thấy một người đưa tay vào lửa bị phỏng, chúng ta không cần phải làm như vậy chắc rằng đó không phải là một gương mẫu đáng theo. Cũng vô ích khi gây ra các tội ác để biết thế nào là đau khổ. Đến một giai đoạn tiến hóa nào đó, tất cả chúng ta đă vượt qua khỏi t́nh trạng của nhân loại tối cổ và chúng ta đă trải qua những giai đoạn khác nhau của kiếp người, cho nên đến điểm nầy, chúng ta mới ở vào t́nh trạng hiện hữu, nhưng không phải thế mà mỗi người trong chúng ta đều có làm tội ác. Có thể thí dụ rằng phần đông chúng ta trong khi trải qua những kiếp luân hồi thật dài của chúng ta, chúng ta học tập cho biết hết những thứ lỗi lầm khác nhau mà con người có thể phạm, nhưng chắc chắn không phải trong những chi tiết của chúng nó. Đối với một Linh Hồn khôn ngoan, tôi tưởng rằng sự biết được một trong những h́nh thức của một tội lỗi nào đó, tiêu biểu cho sự kinh nghiệm của một số lỗi lầm khác đồng loại với nhau.

            Một điểm khác nữa cần được xem xét. Tất cả mọi người, khi đạt được Tâm Thức Bồ Đề không dùng Tâm Thức nào khác. Tất cả kinh nghiệm của nhân loại trở thành kinh nghiệm của ḿnh. Đối với chúng ta, sự vinh quang và sự huy hoàng của Tâm Thức Bồ Đề là nó nối liền chúng ta với Đức Chơn Sư. Đừng quên rằng Tâm Thức Bồ Đề cũng đem chúng ta gần với những kẻ tà dâm và những người làm tội ác. Chúng ta cần biết qua những tâm hồn của họ, cũng như sự vinh quang và sự huy hoàng của đời sống ở Cơi cao. Vừa đụng tới cơi Bồ Đề như thế, chúng ta có thể quen thuộc với Sự Sống, trong những trạng thái thấp thỏi và khó khăn của nó bằng cách chia sớt Tâm Thức của những người đă trải qua những giai đoạn đặc biệt nầy. Đó không phải là một bài học khẩn thiết cho chúng ta, bởi v́, về mặt giả thuyết, chúng ta biết rằng chúng ta không những làm mấy việc đó được, nhưng muốn cho t́nh thiện cảm của chúng ta trở nên hoàn toàn th́ cần phải có một vài kinh nghiệm, bằng không chúng ta không thể giúp đỡ kẻ khác. Người mà ḷng thiện cảm đă trở nên hoàn toàn sẽ nhờ trực giác cảm biết được những sự khó khăn và những sự cám dỗ của kẻ khác, v́ vậy người chỉ đem t́nh thương đến với kẻ lầm đường lạc lối. Nhờ t́nh thiện cảm của Y mà "chiếc áo dơ" trở thành chiếc áo của Y mặc. Cuối cùng, sau khi đă loại bỏ sự sống riêng biệt một ḿnh và thực hiện được sự hợp nhất, chúng ta thấy rằng ḿnh nhập vào Đời Sống Thiêng Liêng và t́nh thương là mối t́nh duy nhất có thể có đối với đồng loại chúng ta từ người cao thượng nhất cho tới người hạ tiện nhất.

            6. - Hăy diệt ư niệm cảm giác.

            Hăy để cho cảm giác dạy dỗ con và quan sát nó, bởi v́ chỉ làm như vậy, con mới có thể bắt đầu vào môn học tự giác và đặt chân con lên nấc thứ nhứt của cái thang.

            A.B. - Vị Đệ Tử cần phải học hỏi những cảm giác riêng của ḿnh hầu tự hiểu lấy ḿnh một cách rơ ràng hơn, nhưng sự hiểu biết nầy bắt buộc phải nghiên cứu có phương pháp những tư tưởng riêng của ḿnh, sự nghiên cứu đưa Y trước hết đến sự tự tách ḿnh, sự tự ĺa ḿnh ra khỏi tư tưởng. Chỉ một ḿnh nó thôi, sự nghiên cứu về tư tưởng của huynh cũng làm cho đời sống của huynh tách ra khỏi tư tưởng rồi cho đến đỗi hiện giờ đây, huynh không c̣n đồng hóa với tư tưởng ấy nữa. Thật vậy, người ta không đồng hóa với đối tượng mà người ta nghiên cứu hay khảo sát. Theo một từ ngữ riêng thuộc phái của Đức Shankaracharya, chủ quan và khách quan không bao giờ lầm lộn được. V́ vậy nỗ lực dùng vào việc nghiên cứu làm suy yếu những h́nh dạng và chỉ một ḿnh sự nỗ lực cũng giúp anh được giải thoát [17].

            Lời khuyên bảo trên có liên quan đến lời khuyên bảo khác là : tự học hỏi bằng những kinh nghiệm của ḿnh giúp con người có thể đi đến giai đoạn không c̣n bị kinh nghiệm ấy nhiễm ḿnh nữa. Khi một người nghiên cứu một trong những cảm giác riêng của ḿnh để học hỏi, y có thể thí nghiệm cảm giác đó, nhưng đồng thời y cũng có thể làm hơn nữa, nghĩa là đo lường sức mạnh cảm giác mà không nhượng bộ. Những cơ hội cũng sẽ đưa đến để cho vị Đệ Tử tập quan sát những cảm giác, y nhận thấy có những cảm giác từ lâu ngủ yên trong ḷng ḿnh, bây giờ lại ùn ùn nổi dậy. 

            Chúng ta đều có những hồi ức. Người ta có thể nói rằng : Những hồi ức theo hộ tống chúng ta giống như những người đă chết. Một hành động bên ngoài có thể làm cho chúng nó sống lại. Chúng nó có thể sống lại nhờ tiếp xúc với những h́nh tư tưởng của kẻ khác tương tợ chúng nó; hay là có một vị quyền năng cao cường thuộc về bên Chánh Đạo hoặc bên Bàng Môn cố tâm làm cho chúng nó sống lại, bởi v́ họ muốn cho chúng ta mau trở nên thanh khiết hoặc họ muốn thử thách chúng ta. Tư tưởng đă chết rồi mà sống lại th́ chủ nhân của nó sẽ cảm thấy điều mà người ta gọi là sức mạnh của sự cám dỗ ra sao. Học hỏi sự tác động của tất cả những điều nầy, vị Đệ Tử nhận thấy những ǵ đă xảy ra. Khi đó sức mạnh của tư tưởng sống lại rồi, huynh nói với nó: "Ngươi  không phải là hiện sinh của ta, ngươi chỉ là cái Bản Ngă xưa kia của ta, hăy đi đi."

            Đôi khi, trong giờ phút bị cám dỗ cũng có ích mà nhận biết rằng đó chỉ là quá khứ của Huynh sống lại thôi, rồi anh sẽ nói rất hữu lư rằng: "Cái nầy không phải là tôi," Huynh xem nó như ở ngoài Huynh, xa lạ với con người của Huynh, hay là sự hoạt động của huynh. Huynh sẽ biết rằng cái quá khứ nầy không thể cầm giữ được Huynh, cũng không thể làm ô uế Huynh. Sự kiên nhẫn tin cậy do ḷng quả quyết nầy là một liều thuốc bổ mạnh. Đối với Huynh, gần đến thời giờ mà Huynh không c̣n cảm thấy ḿnh bị cám dỗ nữa. Chẳng bao lâu, sự cám dỗ sẽ trở thành bất lực, không c̣n cảm nhiễm Huynh được.

            Trong tiến tŕnh có phương pháp nầy gồm có sự cân nhắc, đo lường và phân tích những t́nh cảm và những tư tưởng xưa kia của ḿnh, vị Đệ Tử làm cho Bản Ngă đă chết nầy không c̣n phương thế nào tái sinh nữa. Đó là ư nghĩa của câu cách ngôn nói về ḷng ham muốn trong cuốn Tiếng Nói Vô Thinh như vầy: "Hăy coi chừng, nó sẽ sống lại giữa đám người đă chết". Muốn cho t́nh cảm và tư tưởng bị tiêu diệt đem chúng nó chôn vùi dưới đáy sâu cho biệt dạng cũng chưa đủ mà c̣n phải làm sao cho cái mảnh vụn cuối cùng c̣n sót lại của chúng nó tan vỡ hết. Và khi xem xét chúng nó, con người nhận biết một cách hết sức rơ rệt cái bản tính thật sự của chúng nó và không c̣n xem chúng nó như một phần tử của chính ḿnh nữa.

            C.W.L. - Trước tiên, chúng ta phải đứng ngoài quan sát sự hoạt động của cảm giác trong nội tâm của chúng ta. Khi nào nó lôi cuốn chúng ta được th́ nó không có ǵ để huấn luyện ta cả, bởi v́ chúng ta là nô lệ của nó rồi, nhưng nếu chúng ta có thể đem ḿnh lên cao, từ trên nh́n xuống và xem nó như một cặn bă của quá khứ chúng ta, chừng đó chúng ta mới có thể quan sát và học hỏi được.

            Những làn sóng cảm giác bủa khắp Thế Gian, cần phải t́m hiểu cho được chúng nó hầu có thể giúp đỡ đồng loại ḿnh, nhưng lẽ tự nhiên, điều ấy có thể thực hiện được khi nào những cảm giác nầy không c̣n ảnh hưởng đến chúng ta nữa. Thật vậy, đây thuộc về tính khí, nhưng đối với nhiều người, một trong những khó khăn to tát là ở chỗ họ bị những cảm giác của t́nh cảm nhồi lên nhồi xuống trước khi biết rơ cách chế ngự chúng nó. Điều nầy cũng như một người đứng dưới nước ngay chỗ giáp mối của hai ḍng nước chảy mà muốn ra sức khắc phục chúng. Con người không thể nào áp phục được một sức mạnh không ngớt vật ngă nó rồi lôi cuốn nó đi. Chỉ v́ người ta không biết rằng t́nh cảm thật sự không phải là một sức mạnh bên ngoài như sức mạnh mới nói ra đây, mà sức mạnh ấy ở ngay trong tâm họ, nếu họ biết cách điều khiển ắt có thể hoàn toàn chế phục được nó.

            Muốn thế, ngay từ sơ khởi, phải mạnh dạn bắt tay vào việc. Một làn sóng nóng giận, chán nản, đố kỵ hay tất cả dục t́nh khác phát sinh trong khoảnh khắc và lan rộng ra rất xa một cách nhanh chóng. Làn sóng ấy sinh sản quá ư đột ngột cho đến đỗi những kẻ đă từng quen xem nó như là Bản Ngă của ḿnh, lúc ấy không sao nhận ra kịp và v́ thế họ không chận đứng được nó bằng cách nói rằng: "Tôi không phải là cái đó; tôi không để bị lôi cuốn, tôi không cử động." Nếu ta kịp thời nhớ đến nó, sự cảm xúc biến mất tức khắc. Phần nhiều những kẻ, trong lúc hoàn toàn an tĩnh quyết định giữ vững tinh thần, nhưng khổ thay, khi làn sóng cảm giác bủa tràn vào người họ, lại đúng là lúc họ không có ư muốn kháng cự lại. Linh Hồn không ư thức được liền sự nguy hiểm nên dễ bị lôi cuốn và đồng hóa với sự cảm xúc hay cảm giác. V́ thế, phải tập xua đuổi sự cảm xúc ngay từ khi nó vừa mới chớm nở, bỏ qua giây phút ấy sẽ rất khó cho chúng ta chận đứng liền nó lại khi mà sự cảm giác đang trong ṿng phát triển mạnh mẽ, cho dù đôi khi, người khác có thể xua đuổi nó để giúp chúng ta. Rồi sau đó, chúng ta nhớ lại quyết định của ḿnh và hối tiếc. Phương pháp thực tế là chế ngự cảm giác luôn luôn càng sớm càng tốt. Nếu chúng ta, chỉ một lần thôi, trừ diệt được nó, trước khi nó được tự do phát triển,  chắc chắn sau đó, chúng ta có thể trừ được chúng nó dễ dàng, điều nầy thật không sai.

            Sự khó khăn đầu tiên sinh ra là do con người, Bản Ngă thường hay từ bỏ quyền hành của ḿnh, cho đến đỗi họ mất cái thói quen biểu dương quyền hành nầy, nhưng nếu họ quyết sử dụng những quyền hành ấy trong t́nh thế nguy cấp họ sẽ nhận thấy rằng họ có thể sử dụng chúng thêm một lần nữa và một lần nữa, bởi v́ tinh chất, [18] nguyên nhân của sự khó khăn sẽ lo sợ và sẽ thấy rằng nó [19] không phải là bất khả kháng. Thoạt tiên, tinh chất tin chắc nó lắm, không khác ǵ con chó nhảy xổ vào ḿnh con người, vừa sủa, vừa nhe răng nhọn ra, bởi v́ nó tưởng rằng con người sợ nó, nhưng nếu, thay v́ bỏ chạy, y kháng cự lại con chó liền ngập ngừng, do dự và không c̣n chắc chắn nó sẽ thắng nữa. Tuy nhiên, tinh chất không có trí khôn của con chó. Nó có thể biết hoặc không biết rằng chúng ta dũng mănh hơn nó, nhưng nếu nó không biết chỉ v́ tại chúng ta không xác nhận sức mạnh của chúng ta. Hăy tỏ cho nó biết rằng chúng ta là chủ nó th́ ngay từ bây giờ trước nhất nó sẽ do dự trong việc nổi cơn sóng gió. Hăy tức khắc chận đứng nó lại, rồi tất cả mọi việc sẽ êm đẹp.

            Chúng ta cần học hỏi ở cảm giác của ḿnh và cũng phân tích luôn cảm giác của người, nhờ thế, chúng ta sẽ t́m hiểu được bản tính con người. Khi thấy kẻ khác điên đầu v́ làm vật hy sinh cho cảm giác của họ, khi khảo sát cảnh tượng đau thương nầy và tất cả sự đau khổ do họ tự gây ra cho họ, chúng ta tập chận đứng trong tâm tất cả định ư làm như thế đó. Thấy điều ấy nơi kẻ khác tự nhiên dễ hơn là thấy trong tâm ḿnh, khi chúng ta là khách bàng quan và đứng ngoài trông vào. Tuy nhiên, đừng xem xét đồng loại ḿnh để chỉ trích và t́m những nhược điểm của họ, mà chỉ xem coi cách nào gương của họ có thể giúp cho ta học hỏi. Chúng ta nhận thấy khi họ bị một t́nh dục, một mối cảm xúc hay một ư niệm nào đó chi phối, đời sống của họ không c̣n là đời sống thanh bai và tốt đẹp nữa. Chúng ta có thể ghi nhớ những điều nầy trong trí và đừng bao giờ nghĩ rằng chúng ta tốt đẹp hơn họ. Chúng ta có thể tự nhủ rằng: "Phải chăng tôi cũng sẽ không làm ǵ khác hơn thế. Riêng phần tôi, tôi lo coi chừng làm sao cho việc đó đừng xảy ra." Không có thói quen chỉ trích và thói quen đó luôn luôn là xấu, nhờ vậy chúng ta có thể học hỏi từ những lỗi lầm kẻ khác. Nếu chúng ta chứng kiến tai họa của kẻ khác mặc dù chúng ta có chia sớt sự đau khổ của họ đi nữa, cũng không có ǵ đáng trách trong khi ta tưởng như vầy: "Tôi không muốn đến phiên tôi lại té xuống vực sâu; một tai nạn cũng đủ lắm rồi." Trong lúc chiến tranh, những làn sóng cảm giác trùng trùng điệp điệp bay cùng khắp hoàn cầu; tựu trung có một số kinh khủng gồm những làn sóng thù hận, đố kỵ đối với Cường Quốc mà chúng ta đang chiến đấu. Tôi không hề có ư dung thứ những hành vi dă man, tàn ác do các Cường Quốc ấy gây ra. Tôi biết những Quốc Gia nầy có những hành động ấy v́ trong lúc xuất Vía chúng tôi chứng kiến được nhiều tội đại ác ghê gớm và đối với Nhân Loại, những hành động nầy làm tôi hết sức hỗ thẹn. Tôi không bao giờ nghĩ đến sự phủ nhận những việc nầy, t́m những lời giải thích hay bào chữa, nhưng những sự bài xích do những kẻ sát nhân gây ra một ḍng nước cuồn cuộn chảy là một hiểm họa lớn. Trách nhiệm của những hành vi tàn ác nầy trút đổ trên vai những kẻ chủ động và những người truyền lệnh chớ không phải bắt trọn một quốc gia gánh chịu. Trong quá khứ, người Anh chắc hẳn đă làm những điều  mà bây giờ chúng ta không muốn đồng hóa. Người ta cũng có thể nói như thế về tất cả các Quốc Gia khác. Đừng để cho ḿnh đi đến chỗ bất công dù trong tư tưởng cũng như trong lời nói hay việc làm.

            Kẻ nghịch của chúng ta cố tâm chăm lo phát động ḷng thù hận chống lại ta. Có thể trong một thời gian họ sẽ thành công: Đó cũng là một trong những mưu mô quỷ quyệt của chiến tranh, có lẽ họ cho rằng ḷng thù hận có những lợi ích của nó là giúp cho họ có nhiều người hưởng ứng và tiền bạc, v.v. . ., ấy là sự lầm lạc nghiêm trọng về tinh thần; về phương diện cao siêu họ phạm lỗi nầy th́ họ hoàn toàn sái quấy. Nhưng trong một trường hợp tương tợ, e cho chúng ta cũng sinh ḷng thù hận. Phải triệt để cương quyết chiến đấu với tội ác và chiến đấu cho đến kỳ cùng, đừng để một chút tư tưởng thù hận đụng tới ḿnh ta. Hăy nhớ lời Đức Phật dạy: "Không bao giờ lấy oán đáp lại oán mà oán ấy tiêu tan."

            Nghe thuật lại những hành vi độc ác đối với đàn bà, con nít ḷng căm phẫn của chúng ta tự nhiên bộc khởi dữ dội. Người ta có thể v́ lư do chánh đáng công phẫn những tội ác như thế. Chúng nó hết sức ghê tởm và tất cả mọi người có lương tri, phải tố giác những tội ác nầy, đừng do dự, đừng ḥa hoăn dung túng, đừng t́m cách bào chữa. Nhưng thù oán kẻ vô phước phạm tội cũng là một điều lầm lạc to tát. Họ đáng thương hại hơn là đáng trách cứ. Phận sự của chúng ta không phải khiển trách họ; bổn phận của chúng ta là thái độ của một người đối với một con thú dữ đang vồ bầy con của Y. Y không danh dự ǵ thù oán với con thú nhưng nên loại trừ nó đi. Phải hết sức hối tiếc giùm cho những kẻ phạm những tội ác nầy, bởi v́ chúng ta biết Luật Nhân Quả đang chờ họ. Sự tàn sát đàn bà trẻ nít là một hành động dă man, ghê tởm, ghê tởm dĩ nhiên đối với gia đ́nh họ c̣n hơn là đối với chính họ, nhưng ghê tởm nhất là đối với kẻ sát nhân, họ đáng được thương xót nhiều, bởi v́ thời gian sẽ đem lại cho họ những niềm đau khổ vô cùng ghê gớm.

            Chúng ta sẽ làm với tất cả cố gắng của chúng ta để chận đứng những hành động như thế, không cho tái diễn, nhưng chúng ta không có ḷng thù hận, ấy là trường hợp mà ḷng cao thượng bắt buộc phải thế. Chúng ta cao hơn rất nhiều những kẻ c̣n phạm tội ác nầy; về phương diện tiến hóa và phát triển, hằng ngàn thế kỷ chia cách chúng ta với họ. Chúng ta phải chứng tỏ sự phát triển tinh thần cao siêu của chúng ta bằng cách không sinh ḷng thù hận như họ.

            Muốn phân tách những hiệu quả của cảm giác ta phải tự chủ, đặt ḿnh ở ngoại cảnh, cố gắng chế ngự t́nh cảm, như thế mới học hỏi được. Không để bị lôi cuốn bởi trận cuồng phong tương tợ do t́nh cảm của quần chúng gây ra, chúng ta rán phân biệt v́ đâu mà họ phạm tội và làm cái ǵ mà chúng ta có thể làm, hầu điều chỉnh t́nh cảm ấy. Nhiều người bị nhiễm cái ảnh hưởng dục t́nh dữ dội nầy, nên cho chúng ta có hơi vô t́nh và lạnh nhạt. Chính v́ không thù hận mà đôi khi chúng ta bị khiển trách là thiếu t́nh yêu tổ quốc. Dĩ nhiên là vô lư, nhưng không có ǵ hữu lư đối với những kẻ bị nhiễm ảnh hưởng của những làn sóng lớn lao của ḷng thù hận. Chúng ta rất có thể giải thích với họ rằng t́nh yêu tổ quốc không bắt buộc chúng ta phải thù hận những quốc gia khác, nhưng họ luôn luôn không biết rằng mỗi người đều có thể thương yêu tổ quốc ḿnh mà không thù ghét quốc gia khác.

            Trong vấn đề nầy, thái độ của chúng ta là thái độ đối với sự buồn bực của một đứa nhỏ. Một đứa bé gái làm bể con búp bê của nó nó khóc la om ṣm và thất vọng. Chúng ta có thiện cảm với em bé nầy nhưng không bỏ cái triết lư của chúng ta và chúng ta không chia sớt những sự hối tiếc của nó. Không phải sự đánh vỡ con búp bê, không phải một chuyện bất ngờ nhỏ nhặt nào đó xảy ra trong đời sống học sinh của đứa nhỏ làm cho chúng ta sầu khổ. Chúng ta nghĩ đến tương lai và tất cả những nỗi ưu phiền nhỏ nhen nầy, nếu người ta đem so sánh chúng nó với tương lai đứa bé, chúng nó chỉ là tạm thời thôi và không quan trọng mấy, mặc dù đối với em bé, chúng nó thật hết sức hệ trọng. Chúng ta không tỏ ḷng thiện cảm là chúng ta thiếu sót bổn phận, nhưng chia sớt tất cả những ǵ đứa nhỏ cảm xúc là vô lư, như thế chúng ta sẽ tự ḿnh hành động một cách trẻ con.

            Cũng như thế đó, đối với những người tập công nhận một thái độ triết lư. Y có thiện cảm với những kẻ bị những sự việc xảy ra làm xáo trộn đến mức độ nầy, nhưng chính ḷng y vẫn yên tịnh. Chúng ta nói với em bé rằng: "Điều nầy không quan trọng ǵ hết: Tất cả sẽ dàn xếp êm thắm." Chúng ta cũng nói như thế với những người bị t́nh cảm nầy lôi cuốn: "Nếu mấy huynh muốn tin điều đó th́ tất cả sẽ dàn xếp, tất cả sẽ tốt đẹp." Chúng ta nói như vậy sẽ bị người ta cho là vô t́nh, mà thật ra không có ǵ đúng hơn. Đôi khi chúng ta thật khổ tâm biết được sự mù quáng của đồng loại ḿnh, chúng ta thấy họ bị xáo trộn v́ những điều hoàn toàn vô lư. Thường thường những điều tốt đẹp mà họ có thể thâu thập ở ngay trước mắt họ, nhưng họ không trông thấy và để ḷng tham vọng sai khiến họ. Nhưng chúng ta cũng đă làm như họ từ cả ngàn năm rồi. Chúng ta học tập đức kiên nhẫn, chúng ta biết rằng mọi việc nói trên là một giai đoạn của sự tiến hóa, dĩ nhiên là một giai đoạn ít đáng cho ta mong muốn. Trong chúng ta, những ai c̣n sợ ḿnh chiều theo thứ t́nh cảm nầy cần phải tự chủ và nói rằng: Hai chục kiếp trước, có lẽ c̣n tha thứ được, chớ hiện giờ thời gian ấy đă qua rồi." Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta thấy một người trọng tuổi mà đi phí th́ giờ trong các cuộc truy hoan, chúng ta biết rằng hai chục năm trước Y làm như thế c̣n chấp nhận, nhưng hiện giờ y phải lo lắng những việc quan trọng hơn. Cũng như chúng ta phải tiến đến một tŕnh độ mà nơi đó những t́nh cảm phải thuộc loại cao siêu và nơi đó ư niệm vĩ đại và duy nhất của chúng ta là ư niệm của phận sự mà Đức Thượng Đế ban cho chúng ta để hoàn thành.

            7.- Hăy diệt ḷng khao khát tăng trưởng.

            Hăy tăng trưởng như đóa hoa tăng trưởng một cách vô tâm, nhưng khao khát ư muốn mở rộng tâm hồn ra với không khí. Chính cũng nhờ thế con phải hối thúc sự nẩy nở của tâm hồn con với Đấng Vô Thủy Vô Chung. Nhưng phải để cho Đấng Vô Thủy Vô Chung làm nẩy nở quyền lực và vẻ mỹ lệ của con, chớ không phải v́ con có ḷng ham muốn tăng trưởng. Bởi v́, trong trường hợp thứ nhứt con tự phát triển trong tất cả những sự huy hoàng lộng lẫy của ḷng trong sạch; c̣n trong trường hợp thứ nh́, con chỉ làm cho con thành cứng rắn v́  tánh vị kỷ không thể nào tránh khỏi được.

            A.B.- Trong một giai đoạn tiến hóa cao hơn, vị Đệ Tử có cảm giác ḿnh mở rộng ra với Đấng Vô Thủy Vô Chung và càng ngày càng thưởng thức được những vẻ mỹ lệ huy hoàng của vũ trụ. Ḷng ham muốn tăng trưởng cầu được cao hơn người huynh đệ ḿnh không thể nào c̣n nữa. Trước khi đến tŕnh độ nầy, y c̣n bị lâm nguy v́ sự quan trọng của những công tác mà Y đă hoàn thành. Nếu Y cho sự phát triển nầy là của bản ngă chia rẽ, th́ Y tự cảm thấy ḿnh tăng trưởng, e cho Y c̣n bị vấp ngă. Một phương thế duy nhất để tránh khỏi mối nguy hiểm là: Từ bỏ ư muốn tăng trưởng, chống lại sự ham muốn phát triển riêng cho ḿnh. Khi đạt đến cơi tiến hóa cao siêu của Nhân Loại, vị Đệ Tử, dù có tăng trưởng hay không tăng trưởng, cũng phải trở nên lănh đạm. Y chỉ nghĩ đến Đời Sống Thiêng Liêng có thể ban cho tất cả những ai mở rộng tâm hồn của ḿnh với Ngài.

            C.W.L.- Chúng ta phải tăng trưởng như đóa hoa tăng trưởng. Tại sao vậy ? Bởi v́ đóa hoa tăng trưởng không thiết nghĩ đến ḿnh và với một ḷng vị tha tuyệt đối, không phô trương hương sắc ḿnh mà cốt để cho ṇi giống sinh sôi nẩy nở thêm ra nhờ cái chết của ḿnh. Nếu đóa hoa có ra đây, không phải để sinh trái cho nó, bởi v́ trái chỉ sinh ra sau khi đóa hoa tàn tạ. Trong sự tăng trưởng của nó, đóa hoa không làm ǵ cho riêng ḿnh cả. Tất cả đều dành cho những cây sẽ mọc trong tương lai. Cũng như chúng ta đừng nghĩ đến ḿnh nữa, mà làm việc cho hạnh phúc kẻ khác, do đó chúng ta mới tiến bộ. Một tư tưởng vĩ đại, duy nhất dẫn dụ chúng ta: Hợp tác với công nghiệp của Đức Thượng Đế. Chúng ta phải cố gắng tập cho có đủ các đức tánh và có đủ các năng lực, như thế chỉ để trở nên những kẻ phụng sự hữu ích mà thôi. Chúng ta quên ḿnh trong các công việc làm vị tha, chúng ta như là phần tử của toàn thể, tức là "trong sự huy hoàng diễm lệ của ḷng trong sạch."


CHƯƠNG   6

QUI TẮC  9 - 12

           

            C.W.L. - Từ trước tới nay, chính là phương diện phủ định, tiêu cực đă được đem ra tŕnh bày cho chúng ta ở trong quyển sách nầy. Người ta khuyên bảo chúng ta diệt trừ vài sự ham muốn, nhưng giờ đây, mới là phương diện tích cực, thực tiễn. Chúng ta sẽ học những điều nào chúng ta có thể học được và cố nhiên là những điều mà chúng ta phải ham muốn. Người ta có thể ngạc nhiên về sự khuyến khích chúng ta ham muốn một điều nào đó. Độc giả nào đă từng biết qua những kinh sách Ấn Độ sẽ nhớ rằng, về điểm nầy, những kinh Oupanishads cũng nói khác nhau. Quyển th́ bài bác, chỉ trích đủ các loại ham muốn, cho đến sự ham muốn làm việc thiện nữa, bởi v́ chúng ta tuyệt nhiên không c̣n một sự ưa thích nào cả. Quyển khác th́ bảo chúng ta nên ham muốn sự tiến bộ và lại thêm rằng sau khi thắng phục được tất cả những sự ham muốn, khác hơn sự ham muốn phát triển Linh Hồn th́ con người không thế nào c̣n có sự ưu tư phiền năo nào nữa. Hai phát biểu nầy có thể dung hoà với nhau bằng cách giải thích ư nghĩa của chúng nó như sau: Câu thứ nhứt có nghĩa là nếu chúng ta muốn tham dự, dù là vào những hoạt động cao cả của cơi Thế Gian nầy với tư cách cá nhân riêng biệt, chỉ lo nghĩ đến ḿnh và những công việc tốt đẹp, quan trọng mà chúng ta có đủ khả năng làm được, th́ ư niệm chia rẽ chưa hẳn hoàn toàn tiêu diệt. Nếu trái lại, chúng ta tiến tới tŕnh độ tự xem ḿnh như là phần tử của Nhân Loại và thực hiện sự tiến bộ của ḿnh để giúp đỡ chúng sinh mà chúng ta đây cũng là người như họ, nếu mọi ư niệm cá nhân riêng biệt mất đi th́ sự ham muốn cao thượng và trong sạch của chúng ta sẽ biến thành một nguyện vọng rất cao quí.

            9.- Chỉ nên ham muốn cái chi ở nơi con.

            Bởi v́ ở nơi con có ánh sáng của thế giới, ánh sáng duy nhất có thể ban rải trên Đường Đạo. Nếu con không đủ khả năng nhận thấy ánh sáng ấy ở nơi con,  đừng mong đi kiếm nó nơi khác vô ích.

            Tư tưởng diễn tả ở lời chú thích nầy trong tất cả các Tôn Giáo đều có, mặc dù dưới những h́nh thức khác nhau. Chúng ta gặp tư tưởng nầy trong Cơ Đốc Giáo, nhưng, thường thường dường như chỉ có những nhà Thần Bí Cơ Đốc Giáo hiểu được nó mà thôi. Tư tưởng ấy ở trong những vần thơ rất hay nầy đây :

            Dù cho Đấng Christ giáng sinh 1.000 lần tại Bethlehem đi nữa, nếu Ngài không giáng sinh trong ḷng Huynh th́ Linh Hồn huynh sẽ bị bỏ rơi tại Độc Lâu Cương (Calvaire) Ngài bị đóng đinh trên Thập Tự Giá cũng vô ích thôi, nếu trong ḷng Huynh  cây Thập Tự Giá không dựng lên một lần nữa.

            Ư nghĩa câu nầy cũng dễ phân biệt: Nếu con người không tin tưởng ở Đấng Thần Minh cao cả ở trong ḷng ḿnh, Y không chút hy vọng ǵ tiến bộ được, Y không có một phương tiện hành động nào cả, Y không có ǵ để có thể nâng đỡ Y lên. Nhưng nếu Y biết được cái tâm thức Bồ Đề kỳ diệu ở trong ḿnh Y, th́ Y hiểu rằng sự phát triển Đấng Thần Minh chỉ là một vấn đề thời gian thôi và Y phải góp phần vào sự phát triển nầy bằng cách làm điều ḥa các thể ở ngoài của y hầu để cho sự vinh quang bên trong chiếu rạng ra ngoài. Đó là ư nghĩa của những danh từ sau đây: "Đấng Christ ở trong ḷng Huynh, đó là niềm hy vọng vinh quang trong Huynh." Niềm hy vọng ở trong ḷng Huynh là Điểm Linh Quang đó. Người mà không chịu tin rằng: Điểm Linh Quang ở trong ḷng ḿnh sẽ dựng lên một chướng ngại vật không thể vượt qua được trên con đường ḿnh đi trong suốt thời gian mà Huynh không biết ḿnh lầm lạc.

            Quả thật nhờ Đấng Christ con người được giải thoát, đây không phải là nhờ một người đă sống và đă chết, nhưng nhờ cái Tâm Thức Bồ Đề của chúng ta. Người cứu rỗi chúng ta lại ở trong ḿnh chúng ta. Đó là giáo lư Cơ Đốc Giáo chân chính. Chúng ta có thể kể nhiều bản văn để chứng minh. Chính v́ không biết cái tư tưởng cao siêu nầy mà Giáo Lư Cơ Đốc Giáo tân thời, nếu người ta được phép nói, đă đi sai đường và làm cho người ta dị nghị. Ta hăy luôn luôn nhớ rằng: Khởi điểm của Cơ Đốc Giáo là cái triết lư Bất khả tri luận (Agnosticisme) tuyệt diệu, nhưng trong số tín đồ Cơ Đốc Giáo, những người thất học, loại bỏ ra ngoài Tôn Giáo tất cả những tư tưởng cao siêu trên sức hiểu biết của họ, tất cả những khái niệm bắt buộc phải nhiều năm học tập mới hiểu nổi và khai trừ những nhà Đại Thông Thái Cao Đẳng Thần Học (Grands Docteurs gnostiques) mà họ cho là những người theo Tà Thuyết. Họ áp dụng sự đầu phiếu trong Tôn Giáo, đó là một phương pháp ít khôn khéo để đi đến một quyết định với những hậu quả hết sức tai hại.

            Ban sơ, Cơ Đốc Giáo có một Triết Lư tốt đẹp nhất trong những Triết Lư; Triết Lư duy nhất dùng làm căn bản cho tất cả các Tôn Giáo. Câu chuyện kể trong Phúc Âm vốn được xem như một thí dụ, một tượng trưng, nhưng khi mà người ta chỉ thấy trong đó tiểu sử bịa đặt của một người th́ Tôn Giáo đă trở nên khó hiểu. V́ thế, tất cả những kinh sách tŕnh bày đúng với phương diện cao siêu đều bị sửa đổi ra khác và dĩ nhiên không c̣n thích hợp với Chân Lư dùng làm căn bản cho tư tưởng nữa. Cơ Đốc Giáo quên mất một phần lớn Giáo Lư Cổ Truyền của ḿnh nên hiện giờ người ta có thói quen phủ nhận rằng nó không có một Khoa Bí Truyền. Tuy nhiên, những bằng chứng không thiếu chi để thuyết phục vị học giả không thành kiến rằng những hiểu biết cao siêu ấy có thật và các vị Sứ Đồ và Cố Đạo thuở xưa đều học được nó. Giờ đây tôi không thể bàn rộng đến vấn đề nầy. Tôi chỉ cần nhắc độc giả rằng Ông Origène là vị Cố Đạo lớn nhất của Cơ Đốc Giáo đă xác nhận sự hiện tồn của Khoa Bí Giáo. Ông nhận biết sự tín ngưỡng b́nh dân và phi lư đưa đến điều mà Ngài gọi là Cơ Đốc Giáo nhục thể [20] với Cơ Đốc Giáo tâm linh.[21] Ông định nghĩa Cơ Đốc Giáo nhục thể là tín ngưỡng căn cứ ở lịch sử của Phúc Âm. Ông nói thêm rằng đây là một Giáo Lư rất tốt cho quần chúng, nhưng người Cơ Đốc Giáo tâm linh đă hoạch đắc được Cao Đẳng Thần Học biết rằng tất cả những sự việc xảy ra được kể trong câu chuyện nầy là: Sự Giáng Sinh, sự Rửa Tội, sự Giác Ngộ, sự đóng đinh trên Thập Tự, sự Phục Sinh và sự Thăng Thiên - xảy ra không phải chỉ một lần thôi, không phải chỉ một nơi thôi, mà tiêu biểu cho những giai đoạn trong đời sống tinh thần và trong những sự tiến bộ của tất cả tín đồ Cơ Đốc Giáo.

            Những tín ngưỡng của Tôn Giáo chính thống tân thời vẫn c̣n căn cứ trên đức tin mù quáng thích hợp với quần chúng chưa được mở mang. Nó nhất quyết từ khước cái phần c̣n lại của một di sản xưa kia vốn tráng lệ huy hoàng, đây có nghĩa là vài đoạn vô cùng quí báu của Giáo Lư Cao Đẳng Thần Học. V́ mất hết phần giải thích cao siêu nên với một sự cố gắng tuyệt vọng, nó phải đưa ra một lối giải thích thấp thỏi dưới h́nh thức dễ hiểu, nhưng việc nầy bất thành. Những nhà học giả Thông Thiên Học hoạch đắc được những sự hiểu biết giúp họ giải thích được tất cả những Giáo Lư lạ lùng ấy và gặp một ư nghĩa và những điều tốt đẹp trong lời nói thật thà của các nhà Thuyết Giáo ở ngoài lộ thiên. Họ hiểu được những điều mà những nhà Thuyết Giáo ấy diễn tả, nếu các vị ấy ít dốt về đề tài trong buổi diễn giảng.

            Như thế, chúng ta nên ham muốn những điều ǵ ở măi trong ḷng chúng ta, chúng ta không t́m gặp nó ở nơi khác đâu. Ở vào một thời đại thật xưa lắm, cái Chân Lư nầy đă được đem tŕnh bày cho chúng ta ở xứ Ai Cập. Nơi đó, tất cả những tư tưởng về Đạo Giáo đều lấy "Ánh Sáng Ẩn Tàng" và "Công Tác Ẩn Tàng" mà làm trung tâm điểm. "Ánh Sáng Ẩn Tàng" là Ánh Sáng ở trong tâm mỗi người, "Công Tác Ẩn Tàng" giúp cho con người trước tiên phát hiện ánh sáng ấy ở nội tâm ḿnh, và kế đó tiếp tục khai triển ánh sáng ấy ở nơi kẻ khác. [22] Điểm chính của Giáo Lư Ai Cập là thế nầy: Ánh sáng vẫn có luôn luôn, mặc dù nó bị tất cả những ǵ ở bên ngoài che khuất nó; công việc của chúng ta vốn là vén bức màn che khuất ấy và để cho Ánh Sáng chiếu rọi ra ngoài.

            Thường thường người ta hay lầm lạc đi t́m ánh sáng ấy ở nơi khác. Người ta nói: "Chúng tôi cầu mong các Đấng Chơn Sư giúp đỡ chúng tôi; chúng tôi cầu mong các Đấng Chơn Sư nâng đỡ chúng tôi". Nhưng xin nói với tất cả tấm ḷng tôn kính của tôi rằng không những Đấng Chơn Sư mà cho đến Đức Thượng Đế cũng không thể làm việc đó được nữa. Đức Chơn Sư có thể chỉ bảo cho chúng ta phương thế để tự đem ḿnh lên cao. Sự tiến triển hoàn toàn giống như cách thức làm nẩy nở bắp thịt. Không ai có thể làm thế cho người khác; nhưng kẻ nào hoạch đắc được những điều hiểu biết cần thiết có thể chỉ dạy người khác cách thức phải làm chớ không có cách giúp đỡ nào khác ở ngoài. Một người kia có thể nói với chúng ta rằng khi thừa nhận vài qui tắc và vài phép luyện tập, Y nghiệm thấy có kết quả tốt đẹp. Dĩ nhiên, Đức Chơn Sư và vị Cao Đồ có thể ban rải thần lực cho chúng ta, giúp cho phận sự chúng ta được dễ dàng, nhưng chỉ có thế thôi. Ở tŕnh độ nào cũng vẫn có sự giúp đỡ như thế. Nếu chúng ta không cảm thấy trong tâm cái năng lực ứng đáp với sự mỹ lệ và sự vinh quang của Thiên Nhiên th́ sự mỹ lệ và sự vinh quang ấy đi ngang qua một bên ta mà ta không hay biết. Nếu chúng ta không thể thấy Đức Thượng Đế ở trong tâm chúng ta, đi t́m Ngài ở nơi khác thật là vô  ích. Khi nào chúng ta nhận thức được chắc chắn rằng chúng ta là phần tử của Đức Thượng Đế, Đức Thượng Đế ở nội tâm sẽ ứng đáp với Đức Thượng Đế ở ngoại giới và chúng ta sẽ bắt đầu trở nên hữu ích thật sự cho công nghiệp của Ngài, tóm lại, đó là mục đích chính của đời sống của chúng ta vậy.

            10. - Chỉ nên ham muốn cái chi ở ngoài con.

            Nó ở ngoài con bởi v́ khi con đến tới nó th́ con đă mất bản ngă của con rồi.

            C.W.L. - Đây cũng là một câu cách ngôn c̣n di tồn lại trong Giáo Lư Cơ Đốc Giáo. Chính Đấng Christ đă nói rằng: "Ai cứu mạng sống của ḿnh th́ phải mất nó, c̣n ai v́ Ta mà mất mạng sống của ḿnh th́ sẽ cứu rỗi nó." Lời nói nầy áp dụng nhiều lần cho những tŕnh độ khác nhau. Hăy xem người Thế Gian trong đời sống b́nh thường của họ, đời sống phần lớn làm bằng những t́nh cảm, đôi khi những t́nh cảm lại không được cao đẹp. Vừa khi bắt đầu nhận thức được phương diện cao siêu th́ biết rằng có những sự lợi ích cao cả và cao quí hơn, nhưng Y cũng biết rằng trừ phi vứt bỏ đời sống thấp hèn và thô tục nhất nầy, Y không thể nào thật sự tiến tới đời sống cao siêu được. Y buộc ḿnh phải bỏ một đời sống thấp thỏi để đạt lấy đời sống cao siêu. Chỉ c̣n bước thêm một bước nữa, con người sống trước hết là trong Thể Trí. Y biết rằng để cho làn sóng dục vọng lôi cuốn, thật là hèn hạ; Thể Trí có phận sự chọn lựa và chế ngự t́nh cảm và chỉ lưu lại những t́nh cảm nào nó ưng nhận mà thôi, làm như sự tiến hóa của nó bắt buộc phải thế. Chẳng bao lâu có một sự tiến bộ mới: Con người không c̣n vừa ḷng Thể Trí nữa, Y nhận thấy có một đời sống cao cả hơn đời sống của Thể Trí. V́ vậy, Y bắt đầu sống dần dần trong Chơn Nhơn và lấy quan điểm của Chơn Nhơn xem xét vạn vật. Ấy là một mức tiến bộ thật lớn lao. Nhưng vậy cũng chưa đủ, Y t́m thấy ngoài tŕnh độ nầy c̣n có sự hợp nhất nữa. Như thế Y đạt được một vài kinh nghiệm ở Cơi Bồ Đề và khi Y vừa đụng tới cơi đó, những ǵ ở mấy Cơi thấp không c̣n làm cho y đẹp ư nữa.

            Cái Tâm Thức Bồ Đề phi thường nầy, tới phiên nó, cũng sẽ bị vượt qua khỏi. Trên kia là Tâm Thức của Cơi Thiêng Liêng, Cơi Niết Bàn, và kế đó, cao hơn nữa và xa hơn nữa, ấy là Chơn Thần. Những vị nào chưa đắc quả vị Chơn Tiên, thấy Chơn Thần biểu hiện như Tam Nguyên trên Cơi Niết Bàn, kế Cơi Đại Niết Bàn của nó, nhưng mà khi Y đắc quả vị Siêu Phàm, Chơn Thần và Chơn Nhơn nhập lại làm một và chỉ có Tâm Thức chung là Tâm Thức Chơn Thần - Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế mà thôi.

            Ở mỗi giai đoạn trong những tŕnh độ nầy, chúng ta cảm thấy ḿnh nắm trong tay sự tự do, chúng ta bắt đầu sống thật sự và kế đó chúng ta lại thấy c̣n có một tŕnh độ cao siêu hơn, cao hơn cả tŕnh độ hiện hữu của  chúng ta cũng như tŕnh độ hiện hữu của chúng ta cao hơn tŕnh độ trước đó. Trong khi tiến lên cao, chúng ta không ngớt vứt bỏ đời sống thấp thỏi trước khi đạt được đời sống cao siêu. Nói một cách khác, chúng ta phải mất đời sống mà chúng ta biết, trước khi tiến đến đời sống cao siêu mà chúng ta mong mỏi đạt cho được. Ở mỗi tŕnh độ và khi đi đến tŕnh độ đó, chúng ta thấy rằng ḿnh đă mất cái bản ngă quen thuộc với ḿnh từ đó đến giờ, bởi v́ chúng ta đă qua khỏi tŕnh độ đó rồi. Chúng ta mất nó khi mà chúng ta có một cái bản ngă cao cả hơn.

            Trong những Thánh Thư viết rằng chúng ta sẽ hợp nhất với Đức Thượng Đế và nhập vào ḷng của Ngài. Chúng tôi không rơ kết quả cuối cùng sẽ ra sao, ít ra cũng có đôi người trong chúng ta có thể quả quyết rằng theo kinh nghiệm riêng của họ, trong sự tiến triển của Linh Hồn có nhiều lúc nhập vào như thế đă xảy ra trong những tŕnh độ khác nhau. Ở mỗi trường hợp như vậy, dường như chúng ta trở thành một với điểm cao nhất mà chúng ta có thể đạt tới, tuy nhiên chúng ta không hề mất cái bản ngă thiệt thọ của ḿnh. Thí dụ khi đạt được Tâm Thức Bồ Đề và khi mất Nhân Thể (Thượng Trí), chúng ta mất đời sống thấp thỏi, nhưng đời sống nầy luôn luôn chỉ là một biểu hiện bất toàn của một phần tử nhỏ nhặt của chính chúng ta. Tất cả những thắng lợi là một chuỗi dài kiếp sống đem đến cho chúng ta vẫn c̣n hiện diện. Chúng ta chỉ cởi bỏ cái h́nh thể bên ngoài dùng để biểu thị những đức tánh khác nhau của chúng ta. Trên một cơi cao, luôn luôn chúng ta có những đức tánh chói ngời rực rỡ hơn trước, nhưng h́nh thể xưa kia của chúng nó đă mất rồi. Cũng v́ cố gắng đồng hóa với đời sống và h́nh thể, lắm người tưởng rằng nếu họ mất h́nh thể, họ không c̣n cái chi hết. Trái lại, không có cái ǵ đă thâu hoạch được mà lại mất bao giờ.

            11.- Chỉ nên ham muốn thứ ǵ không thể đạt được.

            Nó không thể đạt được bởi v́ nó cứ lùi xa măi măi vô tận. Con sẽ bước vào trong Ánh Sáng, nhưng con không bao giờ chạm đến Ngọn Lửa Thiêng.

            C.W.L. - Đây không có nghĩa là ở đời sống cao siêu, mục đích của chúng ta, không thể đạt được, nhưng mà ngoài tất cả những đỉnh đă chiếm, chúng ta thấy luôn luôn có một đỉnh khác hiện ra trước mặt. Chúng ta sẽ không ngớt đến gần Đức Thượng Đế, và lần lượt, ở mỗi tŕnh độ, chúng ta sẽ hợp nhất với Ngài, nhưng Ngọn Lửa, cái Tâm Thức thật của Ngài, chúng ta không bao giờ đụng tới được. Con đường của chúng ta đi gồm có nhiều giai đoạn mà càng ngày càng tiến lên cao, cái vẻ đẹp của nó không thể diễn tả nổi. Mặc dù cao độ mà Tâm Thức của chúng ta lên tới là bao nhiêu, mặc dù những sự vinh quang không thể tả mà chúng ta đạt được là thế nào, luôn luôn chúng ta thấy trên kia c̣n có những sự vinh quang cao cả hơn nữa. Ngọn lửa không ngớt lùi ra xa măi. Những điều hiểu biết của chúng ta càng giúp cho chúng ta tin tưởng rằng sự vinh quang và sự mỹ lệ nầy càng ngày càng tăng trưởng, càng kéo dài ra vô tận. Ở đây những thuyết lư gần như vô ích. Cũng như xưa kia, Đức Phật đă nói: "Bàn đến lúc khởi thủy và lúc tận cùng không ích ǵ cả, bởi v́ bức màn nầy hạ xuống rồi, bức màn khác hiện ra, luôn luôn phải có những bức màn, màn nầy rồi đến màn kia, xa xăm vô tận."

            Tôi muốn truyền sang cho mỗi người cái cảm tưởng sâu xa và mănh liệt mà tôi đă nhận thức, là những bước tiến bộ vị lai của chúng ta hoàn toàn xác thực, cũng xác thực như sự vinh quang, sự mỹ lệ, quyền năng, sự Minh Triết, và t́nh thương kỳ diệu phát triển theo sự tiến bộ ấy, đó là cứ mỗi bước đi, con Đường Đạo lại mỗi lên cao và càng ngày càng khó miêu tả bằng ngôn ngữ của thế gian, nhưng ở trên nh́n xuống sẽ thấy ánh vinh quang, sự mỹ lệ Chân Lư chói ḷa. Con đường của chúng ta đi xuyên qua ḷng vị tha, muốn cho con đường ấy mở rộng trước mặt chúng ta, chúng ta phải ĺa bỏ cái bản ngă thấp hèn, bước vào đời sống ở trên cảnh giới cao siêu, ở trong cái Bản Ngă bao la bát ngát, ở trong cái Bản Ngă đại đồng. Rồi đối với con người, sự vinh quang và sự huy hoàng mà Y có thể đạt được trở thành vô tận vô biên.


CHƯƠNG   7

QUI TẮC  13 – 16

 

            13. - Hăy ham muốn quyền năng một cách hăng hái.

            C.W.L. - Câu cách ngôn nầy do Đức Đế Quân thích nghĩa như vầy:

            Và quyền năng nầy mà vị Đệ Tử ham muốn là quyền năng làm cho y không có giá trị ǵ hết trước mắt thế nhân.

            Quyền năng làm cho chúng ta không có giá trị ǵ hết trước mắt thế nhân là cái năng lực dẹp bỏ cá nhân của chúng ta qua một bên trong khi làm việc và hoàn thành công việc ấy mà không hề khoe khoang công lao của ḿnh. Nhiều người cố ở cho được hàng đầu. Người ta thường xem điều đó cũng như một thứ khoe khoang vô hại, tuy nhiên ấy là một dấu hiệu chứng tỏ họ chưa quên được bản ngă thấp hèn. Vị Đệ Tử không nhận công lao của ḿnh trong một hành động nào. Mục đích của Y là làm việc và miễn là Y thành công, dù cho người ta ghi công cho Y hay là cho người khác; điều đó đối với Y không có ǵ quan trọng. Nếu Y phải xung phong đi trước và tạo thành một trung tâm điểm, Y làm ngay điều đó, nhưng không hề có ư nghĩ lấy đó làm kiêu, v́ Y biết rằng tốt hơn lưu tâm luôn luôn ẩn danh, không ra mặt.

            Luôn luôn rất có ích lợi khi chúng ta không lưu tâm đến kết quả, tận dụng khả năng và quên ḿnh đi. Tất cả Giáo Lư Huyền Bí đều qui về điểm căn bản duy nhất nầy: "Huynh hăy quên cái bản ngă thấp hèn ấy đi và bắt tay vào việc." Nhiều người cứ nghĩ măi đến sự tiến bộ của họ. Dĩ nhiên, nghĩ đến sự tiến hóa tinh thần vẫn tốt hơn mong cầu được giàu sang phú quí, nhưng đó cũng c̣n là ích kỷ, mặc dù dưới một h́nh thức tinh vi hơn. Căn cứ vào kinh nghiệm riêng của tôi, tôi xin nói rằng phương pháp tiến bộ chắc chắn nhất là hoàn toàn quên sự tiến hóa của chúng ta và hiến  ḿnh cho công nghiệp của Đức Sư Phụ. Sau đó cái ǵ c̣n lại sẽ đến sau. Đó là Chân Lư ngàn xưa, được kinh Phúc Âm xác nhận: "Trước nhất, hăy lo t́m nước của Đức Chúa Trời và sự công bằng của Ngài, tất cả mọi điều khác sẽ được ban thêm cho ngươi." Đó chính là Chân Lư, tất cả cái ǵ c̣n lại sẽ đến sau; khi chúng ta không lo nghĩ đến sự tiến bộ của ḿnh, th́nh ĺnh chúng ta nhận thấy ḿnh đă tiến bộ và điều đó cũng tốt vậy.

            Khi lần đầu tiên, con người biết được thật sự thế nào là đời sống trong Thượng Trí, Y cũng biết rằng, ở vào tŕnh độ nầy, Y có thể trở nên hữu ích tới bực nào cho tất cả các đường lối hoạt động của Y, dĩ nhiên, Y tự hỏi rằng: "Phải chăng điều hay hơn hết tôi lănh phận sự mới và vẻ vang đưa đến cho tôi." Luôn luôn tôi có thói quen thỉnh nguyện ư kiến, hay là ư muốn của Sư Phụ mỗi khi tôi thấy có những cơ hội đặc biệt đưa đến, mà tôi không tin chắc nên từ chối hay không? Tôi nói: "Thưa Sư Phụ, Sư Phụ muốn con phải làm ǵ?" Thường thường Ngài đáp: "Điều đó do con quyết định." Như vậy chỉ c̣n trông cậy vào sự phân biện riêng của chúng ta mà thôi. Không có qui tắc nào dành cho những trường hợp đó. Tôi sẵn sàng lănh thử phận sự cao cả hơn hết. Nhưng chúng ta đừng quên lời khuyến cáo nhắc nhở chúng ta: "Đừng để ư muốn tự phát triển làm hư hại bất cứ công việc hữu ích nào đưa đến con và vừa sức con. Sự phát triển của con sẽ theo thời gian mà đến." Luôn luôn tôi theo quyết định ấy và tôi nghĩ như vậy là khôn ngoan nhất.

            Nhờ công việc làm trong tinh thần vong kỷ mà chúng ta đạt được quyền năng làm cho chúng ta như không có giá trị ǵ hết dưới mắt thế nhân. Nếu phải chịu nhục nhă hăy cứ chịu. Nó liệt Phàm Nhơn xuống địa vị phụ thuộc và đó là điều cần thiết nhất. Nếu những cơ hội đến chúng ta hăy chụp lấy, nhưng luôn luôn tự nhủ rằng: "Ấy là công nghiệp của Đức Chơn Sư, chứ không phải của tôi đâu." Dù người phụng sự Đức Chơn Sư hay là một người nào khác được đặc ân làm một công tác đặc biệt cho Ngài, điều đó cũng không có ǵ quan trọng. Nhiệm vụ của chúng ta là phải sẵn sàng, đừng bỏ lỡ cơ hội gánh lấy phần nào công nghiệp của Ngài.

            Nên biết rơ rằng trong công nghiệp của Ngài không có ǵ nhỏ cũng không có ǵ lớn, nhưng tất cả mọi công tác, dù tầm thường, mà được hoàn tất và hiến dâng cho Đức Chơn Sư dưới mắt Ngài nó cũng quan trọng như một công tác nào khác mà người Thế Gian cho là phi thường. Chúng ta thích chọn điều ǵ mà chúng ta cho là công tác quan trọng nhứt, bởi v́ chúng ta không nh́n thấy tất cả những thành phần của công tác đều cần thiết. Hăy cố gắng, trong chốc lát, tưởng tượng đến cách mà Đức Chơn Sư  xem xét tất cả những điều đó từ trên đỉnh núi cao tuyệt vời, đối với chúng ta đỉnh nầy tiêu biểu cho Quyền Lực và Tri Thức rộng lớn của Ngài. Tất cả những chi tiết của công tác nầy, đối với Ngài dường như bé nhỏ, nhưng mỗi chi tiết đều có vị trí trong toàn thể.

            Tất cả những vấn đề của đời sống, quá phức tạp bên ngoài, không thể hiểu được ở Thế Gian nầy, lại trở thành giản dị đối với một người đứng từ trên cảnh giới cao quan sát nó. Đối với những cảnh giới không mấy cao lắm, sự kiện cũng như thế. Hăy quan sát những vật nhỏ li ti ở trong một giọt nước, Huynh sẽ t́m thấy những h́nh thức của sự sống vừa đẹp đẽ, vừa phức tạp. Càng đi sâu vào những lănh vực cực kỳ bé nhỏ, người ta càng nhận thấy sự phức tạp lạ lùng của nó. Người ta tự hỏi làm thế nào những Thế Giới ấy có thể xem là giản dị được, dù đối với Đức Thượng Đế, tuy vậy mà đúng, v́ chỉ cần từ những quan điểm cao nhất mà chúng ta đă đạt được để nhận thấy rằng những kết quả kỳ diệu nầy sinh ra bởi những sự biến đổi và sự phối hợp của bảy luồng sinh lực của Sự Sống duy nhất. Những yếu tố của sự sinh sản tỏ ra đơn giản và nhiều nhất; cho nên càng lên cao, con người càng thấu rơ hơn và điều ǵ dường như không làm được ở Thế Gian, từ mấy Cơi cao người ta thực hiện nó dễ dàng.

            Tôi tưởng chúng ta được phép kính cẩn nghĩ rằng Đức Thượng Đế có thể giữ trọn hệ thống của Ngài trong Trí Ngài và đồng thời Ngài cũng thấy dễ dàng những sự việc xảy ra, với những chi tiết nhỏ nhặt. Toàn thể hệ thống với những sự sinh sôi nẩy nở đều được nhận thức một cách chớp nhoáng cũng như chúng nó phơi bày trên mặt giấy. Đối với Đức Bàn Cổ và Đức Bồ Tát th́ công việc nắn đúc h́nh thể và điều khiển những giống dân rất minh bạch và đích xác, nhưng công việc ấy, đối với chúng ta, lại quá phức tạp và hỗn độn.

            Chúng ta có bổn phận phụng sự Đức Chơn Sư trong phạm vi nhỏ bé của chúng ta. Những chi tiết thuộc về phần của chúng ta chớ không phải của Ngài. Điều mà Ngài muốn là toàn thể công việc phải được thành tựu. Tất cả những điều chúng ta có thể làm là để góp phần vào đó, tiêu biểu cho sự tham gia của chúng ta. Những người gần gũi Ngài bằng tư tưởng và nhờ sự liên lạc nầy mà họ có cách xét đoán phù hợp với sự thấy của Ngài một phần nào; luôn luôn họ tỏ ra sốt sắng làm việc, dù là công việc tầm thường hơn hết khi mà họ xét ra nó vốn hữu ích. Thí dụ, chúng ta có thể viết vài hàng chữ nó sẽ thay đổi cuộc diện của một đời người. Chúng ta có thể nói chuyện như những nhà diễn thuyết, chúng ta cố gắng sửa đổi tư tưởng của hàng trăm thính giả nhưng mà việc đó bất thành. Lá thơ nhỏ của chúng ta tiêu biểu cho một công việc cũng hết sức thực tế. Vài người trong chúng ta có thể bận rộn đến đỗi không làm ǵ được cho riêng ḿnh. Trong trường hợp nầy, dĩ nhiên họ kiếm được nhiều lợi tức và có lẽ có thể giúp vốn cho người khác hoàn thành công tác cần thiết. Có nhiều cách nhỏ nhặt làm việc vừa sức mỗi người. Đừng chờ đợi một cơ hội lớn lao vô ích, bằng cách tự nhủ rằng: Khi cơ hội đến chúng ta sẵn sàng chụp lấy. Chúng ta có nhiều may mắn để sẵn sàng nắm lấy cơ hội, nếu chúng ta có thói quen luôn luôn làm những công việc nhỏ nhặt mà hiện giờ đây chúng ta có thể làm được.

            Một người làm việc mà không hề nghĩ đến quyền lợi riêng của ḿnh chút nào và luôn luôn sẵn sàng đặt ḿnh vào địa vị thấp thỏi, đứng sau kẻ khác, ngoài xă hội không ai biết đến Y, đó là lẽ tất nhiên. Người ta biết và người ta ngưỡng mộ một kẻ nào có ư chí hùng mạnh, tạo tên tuổi cho ḿnh và xung phong đi trước. Nói về phương diện Thế Gian, Y đă thành công. Y tỏ ra có nghị lực. Nhà Huyền Bí Học có thể có nhiều nghị lực hơn nữa, nhưng không biểu lộ bằng cách đó. Thường thường Y t́m thế ẩn ḿnh không cho ai biết. Y biết rằng một trong những đức tánh chính phải có là hiểu được lúc nào nên lánh xa, lúc nào phải để cho quyền lực Thiêng Liêng hành động mà không kềm hăm và cũng không ngăn trở sự lưu hành của nó. Bề ngoài xem, không có ǵ giản dị hơn, tuy nhiên bởi có hàng trăm người làm việc không đủ khả năng thực hành như vậy bao nhiêu đó cũng đủ chứng tỏ rằng thực sự đó là một công việc cực kỳ khó khăn.

            Ở Thế Gian, một người đă có sẵn ư nghĩ rằng nhà Huyền Bí Học là một người không có ư chí mạnh mẽ, luôn luôn sẵn sàng nhượng bộ. Đối với những chi tiết nhỏ nhặt của đời sống, điều đó đúng vậy. Nhà Huyền Bí Học để cho kẻ khác làm những việc không mấy cần thiết theo ư họ và cũng để cho họ điều khiển ḿnh tới một mức nào đó, nhưng trong những vấn đề nguyên tắc th́ y rất cứng cỏi, không nhượng bộ. Y thờ ơ, lănh đạm với dư luận. Những người nói chuyện thiên hạ thường bịa đặt những điều nhảm nhí, những giả thuyết th́ trong mười lần họ đă lầm lạc hết chín lần. Điều họ nghĩ về chúng ta có làm ǵ được chúng ta đâu. Theo lời Ông Tennyson nói: "Hăy để cho họ nói điên nói khùng." Lẽ tất nhiên, tôi không muốn nói rằng chúng ta không cần biết tới tất cả những tập quán xă hội. Ban đầu vài Hội Viên chúng ta xét rằng tốt hơn là làm khác hơn người thường cho nên không chịu mặc y phục buổi chiều như thiên hạ, v.v. . . Xâm phạm đến tập quán như thế là vô ích. Hơn nữa h́nh như nếu chúng ta muốn cho người khác thừa nhận những tín ngưỡng của ḿnh chúng ta cần tránh, đừng xúc phạm đến ai một cách vô ích. Chống đối mănh liệt những tư tưởng của kẻ khác, không phải là một chính sách khôn khéo. Nếu là một điểm không đề cập đến nguyên tắc nào cả, chúng ta nên nhân nhượng, bởi v́ công kích ngay những tập tục là một chuyện phi lư.

            Điều ǵ thuộc về nguyên tắc luôn luôn phải kháng cự lại. Thí dụ, ăn chay trường, đối với chúng ta là một nguyên tắc, bởi v́ chúng ta xem sự ăn chay là có ích lợi cho tất cả mọi phương diện, chẳng những đối với chúng ta mà đối với ai cũng vậy. Có điều bất tiện là khi chúng ta dùng bữa không ở tại nhà ḿnh hoặc giả khi đi du lịch, nhưng chúng ta nhận chịu những điều bất tiện nhỏ nhặt nầy và giữ vững quan niệm của chúng ta. Đối với vô số việc khác, thật sự không quan trọng, cách giản tiện là ăn ở theo phong tục tập quán của thời đại chúng ta. Xin lấy một thí dụ khác về y phục. Y phục của người tân thời thường xấu xí, bất tiện, không đẹp mắt và trái với vệ sinh, nhưng vẫn cứ thừa nhận nó, là điều giản tiện nhất. Nếu chúng ta không bằng ḷng ăn mặc cách đó, dù cho y phục của chúng ta có tính cách hợp lư, đẹp và vừa vặn thế mấy đi nữa, nó cũng làm cho thiên hạ chú ư đến chúng ta một cách khó chịu, và hơn nữa, chúng ta cũng bị xem như là những người mất trí, không nhiều th́ ít. Mấy điều đó không cần quan tâm đến. Tốt hơn tránh đừng ra mặt chống đối những trường hợp ít quan trọng. Nhưng, khi có ǵ liên hệ đến một nguyên tắc, chúng ta phải mạnh dạn bảo vệ điều mà chúng ta tin tưởng là tốt.

            Nếu chúng ta có được thái độ hoàn toàn vô tư  lợi trong tất cả mọi việc, đối với chúng ta đó là một sự giúp đỡ rất lớn  lao. Ông Ruskin khi bàn về nghệ thuật có nói rằng nếu tính tự khen ḿnh và tính khoe khoang là tầm thường không thể nói được, tính khiêm tốn thái quá, dưới một h́nh thức khác, cũng thế đó. Phải kiếm cách tạo cho ḿnh một tâm trạng giúp cho ta xem xét mọi công tác theo phương diện khách quan và nói rằng: "Công việc ấy được hoàn thành do tôi, do Huynh, hay do một người nào khác, nó cũng vẫn tốt đẹp cả." Nếu gặp cơ hội, chúng ta phải tán dương một công tác nào đă được hoàn thành, chớ không phải v́ công tác ấy của ḿnh hay của bạn thân ḿnh hoặc giả công tác ấy mang tên tuổi của một vị danh nhân nào, chúng ta tán dương chỉ v́ nó tốt lành chớ cá nhân của vị thực hành công tác ấy hoàn toàn để qua một bên. Tôi sợ rằng chúng ta không thể măi măi làm như  vậy được. Khi chúng ta kể một đoạn sách luôn luôn không phải bởi v́ lời văn đẹp đẽ của nó mà v́ chúng ta lấy của Bà Blavatsky hay của Bà Tiến sĩ Besant. Tuy nhiên trong vài trường hợp, chúng ta vẫn hoàn toàn hữu lư. Khi một độc giả gặp một điểm nào đó đă được xác nhận mà Y không hiểu và cũng không thể tự kiểm soát được, điều quan trọng cho Y là t́m biết xem Tác Giả là ai? Y có thể nói: "Bà Tiến sĩ Besant xác nhận điều nầy, tôi có nhiều lư lẽ vững chắc tin rằng Bà biết rành về vấn đề ấy, cho nên tôi chấp nhận lời Bà nói." Tóm lại, về phương diện Khoa Học, chúng ta cũng làm như vậy. Trong lănh vực nầy, có nhiều sự kiện không thể nào trưng ra đủ bằng chứng, nhưng có vài bậc nhân tài xuất chúng, sau khi nghiên cứu vấn đề , đă đi đến những kết luận nầy hoặc những kết luận khác th́ chúng ta chấp nhận được những kết luận đó. Nhưng khi chúng ta thấy một câu đẹp đẽ có tính cách đạo đức, không có vấn đề nó xuất xứ từ Thánh Kinh, Thánh Ca Gita, Kinh Koran hay Kinh Vệ Đà; chúng ta nên chấp nhận, v́ nó có giá trị riêng của nó. Như  thế là v́ câu văn tao nhă và tư tưởng thanh bai.

            Nếu chúng ta thừa nhận hay cố gắng thừa nhận những sự vật v́ giá trị riêng của nó, chúng ta cũng phải thử đánh giá công tác đặc biệt của chúng ta theo đúng chân giá trị của nó và đừng cho rằng bởi v́ chúng ta là người thi hành công tác ấy cho nên dĩ nhiên nó phải được hoàn thiện. Phần nhiều những người đủ khả năng làm một việc hết sức giỏi giắn cũng hiểu biết những khuyết điểm của công tác ḿnh. Nếu việc nào đă thành công, chúng ta sẵn ḷng nh́n nhận nó. Khi chúng ta thấy những sự sai lầm trong công tác riêng của ta hay ai khác, đừng do dự nói rằng: "Ư kiến của tôi lại khác." Chuyện nầy hay chuyện kia cũng có thể làm tốt đẹp hơn nữa được. Nhưng tốt hơn là phải có một trạng thái tinh thần giúp chúng ta quên mất nguồn gốc của công tác ấy đi nếu nó tốt đẹp và loại ra cái ǵ xấu xa, dù cho chúng ta là người thi hành công tác ấy, cũng vậy.

            Công việc nầy quả thật là khó khăn, bởi v́ nếu con người hoàn toàn thành công là nhờ từ ở cơi Thượng Thiên, Chơn Nhơn đưa mắt nh́n xuống cơi Hạ Giới chúng ta, Hạ Trí cho một phần quyền năng nhưng chỉ có một ḿnh Thượng Trí mới có được năng lực nầy một cách đầy đủ. Hạ Trí có khả năng phân biện và nếu chúng ta sử dụng Hạ Trí về phương diện cao siêu, không để t́nh ư riêng tư che mờ nó, nó là một năng lực rất tốt đẹp khi mà sự phát triển của nó được trọn vẹn. Chúng ta cũng khá tự hào về sự mở mang trí tuệ của chúng ta trong Giống Dân phụ thứ Năm của Giống Dân chánh Thứ Năm là Giống Dân thủ một vai tuồng khá quan trọng về năng lực phân tích riêng biệt của Hạ Trí, nhưng cái người ta gọi là Trí Tuệ, bây giờ đây không có ǵ là quan trọng khi so sánh nó với cái Trí Tuệ của cuộc Tuần Hoàn sau và tới chừng đó, Trí Tuệ đă thật sự là một quan năng chính yếu. Chúng ta kiêu hănh v́ những thành công do Hạ Trí đem lại và không phải là không có lư. Trong lănh vực khoa học và phát minh, Hạ Trí đă tỏ ra kỳ diệu phi thường. Nhưng phải đủ khả năng nh́n về tương lai và cần phải thấy các Đấng Chơn Sư, các Ngài là những Bậc Vĩ Nhân của tương lai, hầu hiểu được chúng ta sẽ ra sao trong vài ngàn năm nữa. [23] Tôi có thể chứng nhận rằng sự hoạt động cao siêu nhất của Trí Tuệ hiện thời là một tṛ chơi trẻ nít đối với sự hoạt động của Trí Tuệ một ngày kia. Chắc chắn, là một chân trời huy hoàng sẽ mở ra trước mặt chúng ta.

            Cái mà người ta thường gọi là Cái Trí của họ là phần thấp hơn hết của Cái Trí. Trong Cái Trí có bốn khu vực làm ra do những chất khí thuộc về cảnh thứ bảy, cảnh thứ sáu, cảnh thứ năm và cảnh thứ tư của Cơi Trí Tuệ (Cơi Hạ Thiên) nhưng mà họ chỉ sử dụng chất khí của cảnh thấp nhất là cảnh thứ bảy, nó rất gần với Cơi Trung Giới. Bởi thế nên, tất cả tư tưởng của họ đều bị nhiễm màu sắc của những phản ảnh của Cơi Trung Giới, nơi đây, những tư tưởng xen lẫn với những sự xúc động, những t́nh cảm và những dục vọng. Rất ít người có thể hoạt động trên cảnh thứ sáu. Lẽ tất nhiên, những Nhà Thông Thái trứ danh của chúng ta sử dụng chất khí cảnh nầy, nhưng khổ thay, họ dùng chất khí thứ sáu lẫn với chất khí thứ bảy, v́ vậy họ trở thành đố kỵ với những sáng chế và những sự phát minh của người khác. Khi lên tới cảnh thứ năm, họ rất ít bị vướng vít vào Cơi Trung Giới. Lên tới cảnh thứ tư là cảnh cao hơn hết của cơi Trí Tuệ (Cơi Hạ Thiên) th́ họ ở ngay trung tâm của Cơi Thượng Giới, sát một bên Thượng Trí. Từ đó, tư tưởng của họ không c̣n bị những làn rung động của chất Thanh Khí nhiễm nữa. Tất cả những điều trên đây đều có thể hiểu được. Một sự rung động, rất dễ truyền qua một vật thể khi mà nó và vật thể ḥa điệu đúng bậc với nhau. Một người giận dữ kích động sự nộ cảm (émotion colère ) trong Thể Vía của những người ở xung quanh, liền đó, tư tưởng thấp thỏi của họ bị như thế mà xáo trộn, chớ những tư tưởng cao siêu không hề bị nhiễm, nếu họ có những tư tưởng nầy - mà phần đông chưa có những tư tưởng cao siêu. Có một  trong những điều, mà chúng ta là Sinh Viên, phải cố gắng thực hiện, lúc chúng ta tư tưởng và tham thiền, là kích thích những phần cao siêu của Cái Trí và làm cho nó hoạt động. Những người tham thiền thường xuyên về Đức Chơn Sư  và những ǵ liên hệ đến Ngài, sử dụng, trong một phạm vi nào đó, khu vực cao siêu nhất của Cái Trí, càng sử dụng th́ tư tưởng của chúng ta càng ít chịu ảnh hưởng của sự ham muốn, những dục vọng và những sự xúc động. Phần đông con người chưa đến tŕnh độ đó, v́ thế, xét theo toàn thể, những tư tưởng phát sinh trong cơi Thế Gian nầy bị ḷng ham muốn biến đổi màu sắc. Phần nhiều những h́nh tư tưởng mà chúng ta thấy chứa đầy chất Thanh Khí và chất Thượng Thanh Khí lẫn lộn với nhau.

            Con người chung sống gần gũi với nhau, do đó những người khác có thể cảm nhiễm chúng ta mà không cần nghĩ đến chúng ta. Đành rằng chúng ta cũng ảnh hưởng họ vậy, nhưng chúng ta phải luôn luôn chú tâm và cố gắng làm sao cho ảnh hưởng của ḿnh được tốt đẹp đối với họ. Nếu chúng ta chuyên chú làm cho ḿnh trở thành một trung tâm ḥa b́nh và t́nh thương tuyệt đối, chúng ta giúp ích rất nhiều cho hết thảy những người ở chung quanh chúng ta; nhưng khi chúng ta là những trung tâm của dục vọng và sự  ích kỷ, sự phát triển nào cũng bị chúng ta chận đứng cả, chẳng những đối với chính ḿnh mà c̣n đối với tất cả những người gần bên ta và điều đó mới là trọng hệ. Mỗi người chí nguyện phải ghi vào ḷng sự kiện nầy là nếu chúng ta nuông chiều sự ham muốn riêng của ḿnh, chúng ta làm ngăn trở sự tiến bộ của kẻ khác.

            Khó mà đạt được năng lực quên ḿnh trước khi chưa loại trừ tất cả những sự ham muốn riêng tư cá nhân. Chúng ta nói đến sự tận tâm với phận sự và với Chơn Sư; dĩ nhiên, ấy là điều tối thiểu mà chúng ta có thể làm cho Ngài. Nếu cần phải có một nỗ lực thật lớn lao, chúng ta phải sẵn sàng làm việc cho các Đấng Cao Cả nầy, v́ lẽ các Ngài ban bố rất nhiều cho chúng ta và truyền lại cho chúng ta tất cả Giáo Lư Thông Thiên Học. Không phải v́ muốn làm vui ḷng các Ngài mà chúng ta làm như vậy, mặc dù sự tiến bộ của những người mà các Ngài lo giúp đỡ chỉ có thể làm cho các Ngài hoan hỉ thôi, ấy cũng là lẽ thường. Nếu chúng ta muốn giúp đỡ sự tiến hóa, điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất là chúng ta phải tự ḿnh cải thiện. Phải bắt buộc Bản Ngă thấp hèn phục tùng mệnh lệnh nầy: Đứng trước mặt thiên hạ, chúng ta không có giá trị ǵ cả. Thật vậy, ảnh hưởng của những thần lực phi thường vốn vô h́nh, chúng ta có thể cũng liên hợp với những thần lực ấy và trong t́nh trạng nầy chúng ta có vẻ là con người không có nghĩa lư ǵ cả dưới mắt thế nhân.

            14. - Hăy ham muốn sự an tĩnh một cách nhiệt thành.

            Sự an tĩnh mà con ham muốn là sự an tĩnh thiêng liêng không có ǵ làm náo động được và trong đó Linh Hồn phát triển như đóa hoa thần nẩy nở trong đầm yên  lặng.

            C.W.L. - Câu cách ngôn ngắn ngủi nầy liên quan chặt chẽ với câu cách ngôn trước. Quyền năng mà ḷng ham muốn đ̣i hỏi dẫn đến sự an tĩnh. Không có sự an tĩnh, nếu chúng ta không chế ngự được Bản Ngă. Phải t́m được sự an tĩnh trước khi có thể ban bố nó cho kẻ khác và năng lực ban cho người sự an tĩnh quả thật là một trong những quyền năng vĩ đại nhất và tốt đẹp nhất. Đời sống của đa số con người chứa đầy những sự ưu tư, phiền năo, đố kỵ và tham vọng. Trong người của họ, không ngớt sôi nổi chẳng những các mối xúc cảm mà luôn luôn những sự ham muốn chưa được thỏa thích. Nhiều kẻ dốc ḷng khảo cứu Huyền Bí Học, nghĩa là cái thực tại làm căn bản cho kiếp sống, cũng hy vọng có thể tiếp tục lối sống trên đây. Người ta cũng gặp những hạng người nầy trong số những người được xem là khảo cứu Huyền Bí Học đă lâu rồi và họ t́m cách đến gần Chơn Sư, mà dường như họ chưa dứt bỏ được ḷng ham muốn của họ. Họ không cố tâm gắng sức xua đuổi những xúc cảm gàn dở và rối loạn của họ và rồi lại ngạc nhiên sao ḿnh không tiến bộ và thấy kẻ khác vượt qua họ. Tại sao lại muốn cho ḿnh tiến bước mà không bỏ lại phía sau tất cả những điều xấu xa đó? Khi mà chúng ta chưa hoàn toàn thoát ra khỏi những sự rối loạn ấy, th́ mọi sự tiến bộ cao siêu chân chính, dĩ nhiên, chúng ta không thể nào có được đâu. Nếu chúng ta muốn giao tiếp với Chơn Sư, tâm trí chúng ta phải hoàn toàn an tĩnh.

            Người ta nói sự tranh đấu vốn cần thiết cho sự tiến bộ, dĩ nhiên, thật sự là trong cuộc tiến hóa của nó, Linh Hồn trải qua một giai đoạn dài đăng đẳng trong t́nh trạng tranh đấu và chiến đấu không ngừng. Nh́n về dĩ văng, chúng ta nhận thấy sự tiến bộ trong một kiếp sống đầy dẫy sóng gió lại mau chóng hơn là trong những hoàn cảnh mà điều kiện thuận tiện hơn. Trong sự tu luyện tánh t́nh nầy, tất cả những điều đau khổ và tất cả những nỗi khó khăn mà con người gặp phải và những nghịch cảnh mà y chịu đựng, dĩ  nhiên là đến dạy dỗ Y một điều ǵ đó, ấy là những bài học phải học. Ở vào tŕnh độ cao siêu của vị Đệ Tử, t́nh trạng tranh  đấu nầy đă mất giá trị của nó. Sự phát triển của hàng Thượng Thừa bắt buộc phải có một sự an tĩnh hoàn toàn. Một Đấng Chơn  Sư đă viết: "Luật của sự sống c̣n thích ứng nhất với luật tiến hóa của thú vật; nhưng luật hy sinh là luật tiến hóa của con người". Nhiều kẻ nghĩ rằng khi họ thỏa măn được ḷng ham muốn dại dột của họ rồi sẽ được an tĩnh, nhưng kinh nghiệm chỉ cho họ biết rằng không phải như vậy. Cho nên, họ bắt đầu chịu khổ sở ưu phiền v́ đă chiều theo những sự ham muốn và biết rằng đáng lẽ họ phải chế ngự chúng. Sự thỏa măn ḷng ham muốn không bao giờ đem lại cho con người một sự an tĩnh nào cả. Chỉ có cách duy nhất t́m được sự an tĩnh là tránh xa những điều ham muốn thấp hèn và phát triển trong tâm quyền năng làm cho chúng ta như không có giá trị ǵ hết dưới mắt thế nhân.

            Ở đây có nói: "Đóa Hoa Thần nẩy nở trong đầm yên lặng." Trên mặt nước yên lặng, hoa sen tạo được tất cả sự đẹp đẽ của nó. Nếu bị lay chuyển nó không thành công. Chỉ ở trong sự an tĩnh mà Linh Hồn có thể nẩy nở được. Những cơn băo tố của dục t́nh và ḷng ham muốn giống như những trận giông phá hoại những đóa hoa ở dưới Thế Gian nầy. Tất cả những sự phát triển cao siêu không khác ǵ những đóa hoa rất mảnh mai, những cơn băo tố của ḷng dục vọng nổi lên làm cho nó tan tành và tiêu mất. Những người để th́ giờ nổi nóng lên một cách dữ dội, những người không ngớt nghĩ ngợi lo lắng đủ thứ vấn đề cá nhân vô lư, những người luôn luôn nghĩ đến t́nh cảm riêng tư của họ và đối xử với kẻ khác, tỏ ra ganh ghét, đố kỵ, những kẻ đó không thế nào khai triển được những lá non, những ṿi xoắn, đó là dấu hiệu của sự tiến bộ.

            Thường thường người ta có rất ít những khái niệm khoa học về sự tiến bộ huyền bí, về sự tiến bộ chân chính. Đứng riêng một ḿnh nó, những phương pháp giáo dục chứng tỏ rằng con người không hiểu ǵ về Khoa Huyền Bí cả. Chúng ta đă tiến  tới một giai đoạn tiến hóa tương ứng với tŕnh độ của người dă man, hay là tŕnh độ hơi cao hơn một chút mà chúng ta có thể coi như là hoạch đắc chắc chắn rồi vậy, nghĩa là chúng ta, dù ở trường hợp nào cũng khó mà xuống thấp hơn nữa được. Nhưng sự tiến bộ sau nầy, nối tiếp với sự tiến bộ của cái phần giống thú là phần thấp thỏi và thuộc về t́nh cảm con người; nó tiêu biểu cho một sự phát triển vô cùng tinh tế và về nhiều phương diện khác nhau. Bản chất của một điểm làm cho một người đại trí thức và là nghệ sĩ khác biệt với một người hết sức thô lỗ, chưa mở mang chút nào, thật là hết sức tinh vi, và đ̣i hỏi những sự tiến bộ vững bền, chậm chạp và quan trọng. Đó là những mầm non đem lại những hy vọng đẹp đẽ nhất, những mầm vừa chớm nở hoa, thật ra chưa phải là đúng mức trưởng thành như tới một ngày kia. Cây yếu ớt nầy bị nghịch cảnh đầu tiên tiêu diệt không khác nào một trận cuồng phong thổi qua. Khoa giáo dục tân thời nặng nhọc và khó khăn làm cho các trẻ em kinh sợ và cũng hành hạ bọn chúng nữa. Hiệu quả của nó là phá hủy sự phát triển tốt đẹp của sự học vấn và sự tinh luyện mà những Linh Hồn đến trú ngụ trong những h́nh hài trẻ em nầy đă phải dùng một thời gian rất lâu, có lẽ trong hai chục hoặc ba chục kiếp mới đạt được. Bởi thế nên, những trẻ em nầy thủ đắc đặc tính của người dă man cổ sơ, chúng thường bị sợ hăi, sự thù hận và cái tánh ư gay gắt về sự bất công thường xuyên ám ảnh; từ đó mọi sự tiến triển huyền diệu làm cho một "giống dân phụ mới" khác biệt với một giống dân phụ cũ đă tiêu mất.

            Thiên hạ không ngờ rằng họ thường có dịp làm những chuyện phá hoại như thế. Luôn luôn tôi thấy những trẻ em nam nữ có nhiều hứa hẹn mà có lẽ cha mẹ là những người tầm thường thôi. Nếu được nâng đỡ và d́u dắt vào con đường tốt đẹp trong kiếp sống hiện tại, chúng sẽ thực hiện được những sự tiến bộ trông thấy rơ rệt, nhưng hoàn cảnh của chúng không thuận tiện chút nào cho sự tiến triển như thế. Những mầm non bị găy đổ và bị chà đạp và những đứa trẻ nầy trải qua một đời sống như một người thường tục. Tôi có ghi chú nhiều trường hợp xảy ra luôn luôn như thế, có lẽ trọn mười lăm hay hai chục kiếp như vậy. Sự tiến bộ có thể thành tựu trong kiếp thứ nhứt mà măi để cho kiếp thứ hai mươi mới làm xong. Dĩ nhiên, khi Chơn Nhơn sống một cách đúng đắn và yên tịnh hơn trong mỗi kiếp th́ chung cuộc Nhân Quả phải cho Y đầu thai vào một hoàn cảnh thuận tiện hơn và đồng thời có cơ hội tiến hóa, nhưng có thể xét đoán rằng sự phát triển như thế nầy có thể hoạch đắc hai mươi kiếp sớm hơn, miễn là hoàn cảnh được tốt đẹp hơn một chút.

            Tội nghiệp thay cho những kẻ bóp nghẹt ư chí yếu ớt nhất thời nầy. Theo ư tôi, không có tội nào lớn hơn tội làm ngă ḷng những người mới thử tiến tới. Ấy là một trong những trọng tội nầy mà Đấng Christ ám chỉ khi Ngài nói về sự phạm tội với Đấng Thánh Linh không thể nào khoan dung được trong đời nầy hay trong đời sau. Danh từ  "khoan dung" dùng sai nghĩa. Tiếng "bỏ rơi" hay "bỏ qua một bên" giải đúng nghĩa hơn, nghĩa của nó hết sức rơ rệt. Phạm tội với Đấng Thánh Linh là sự đàn áp Chơn Thần trong con người. Nó sinh ra những nghiệp quả không sao thanh toán được, ngay trong thời kỳ phổ độ nầy hoặc trong kỳ gian của sự tiến hóa của địa cầu và có lẽ trong kỳ gian sắp tới nữa, chỉ v́ tội nầy thật là rất nặng nề.

            Nhiều người phạm tội nầy với chính họ và với con cái họ nữa. Họ không để cho phần cao siêu của họ có dịp nẩy nở. Trẻ em thường có linh năng thấy được những vị Ngũ Hành và những chuyện khác lạ lùng, kỳ diệu mà những người lớn tuổi không thấy được. Họ cũng rất có thể thấy những vật vô h́nh ấy nếu sự nhạy cảm của họ không bị tiêu diệt v́ lối sống quay cuồng của họ. Về sau, đôi khi, họ bắt đầu khôi phục trở lại, nhưng một cách khó nhọc, chẳng những linh năng Thần Nhăn mà c̣n những năng khiếu thưởng thức tất cả những ǵ tốt đẹp và mỹ thuật, tất cả những màu sắc tinh vi của t́nh cảm và tri giác, mấy cái nầy là dấu hiệu của nền văn hóa và giáo dục chân chính.

            Những yếu tố của sự tiến bộ cao siêu đều hết sức tinh vi và quân b́nh đúng mức cho đến đỗi sự điều khiển sai lầm bé nhỏ cũng đủ làm tê liệt chúng trong nhiều tuần lễ hay nhiều tháng. Kết quả của nhiều tháng có thể bị hủy diệt chỉ trong một ngày thôi. Do đó, hoàn cảnh là quan trọng. Bởi thế người ta không chắc gặp lại t́nh trạng cũ cho nên nhà Huyền Bí Học cố gắng luôn luôn lợi dụng những điều kiện hiện hữu, mặc dù điều kiện đó là thế nào và giữ sao cho ḿnh khỏi bị một điều kiện nào ngăn trở cả. Một trong những Kinh Pouranas có viết:

            “Không Thể Xác th́ không một ai có thể đạt đến mục đích của Linh Hồn”; v́ thế phải chăm sóc Thể Xác cũng như một kho tàng và thi ân bố đức cho người. Một thôn xă, một cánh đồng, một gia tài, một mái nhà, cũng như nghiệp quả tốt và xấu chúng ta có thể gặp lại được nhưng không bao giờ chúng ta có thể gặp lại thể xác nầy đâu.

            Người ta nghe nói như vầy: "Tôi không thể làm ǵ lớn lao được trong kiếp nầy; tôi sẽ xem những điều nào mà tôi có thể làm được trong kiếp tới. Giữ măi trong trí ḿnh cái ư niệm về kiếp vị lai của chúng ta và những điều mà chúng ta có thể hoàn thành là một việc tốt, nhưng quá tin tưởng đến điều nầy là không thận trọng, bởi v́ Quả Tích Trữ chắc chắn là có nhiều, tốt lẫn xấu, đôi khi nó ào tới phủ vây chúng ta như một lượn sóng, có những lúc, quả báo có thể ban cho chúng ta một hoàn cảnh thuận tiện nhưng không phải v́ đó trong kiếp sau những cơ hội đến với chúng ta cũng sẽ được thuận tiện như vầy đâu. Tóm lại, có thể Nhân Quả của chúng ta sẽ theo lẽ vận-hành thông thường. Mặt khác, có thể có một khối quả báo xấu mà các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu cầm cân tội phước xét ra c̣n quá nặng đối với người tạo ra nó và khối quả báo ấy, các Ngài có thể cho Y trả dần trong kiếp tới với những điều kiện ít thuận tiện hơn.

            Không ǵ khôn ngoan hơn là ngay trong kiếp hiện tại, nắm lấy tất cả các cơ hội có thể có; như vậy, chứng tỏ cho các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu thấy rằng chúng ta biết lợi dụng những cơ hội ấy; điều đó có ảnh hưởng rất lớn đối với Nhân Quả kiếp vị lai của chúng ta, bởi v́ đó cũng là quyền hưởng được những hoàn cảnh thuận tiện. Những cơ hội hiện hữu thật nhiều lắm, nhưng kết luận rằng chúng ta sẽ gặp lại những cơ hội ấy trong kiếp tới ấy là bất cẩn. Có lẽ có mà cũng có thể không.Tôi không thích người ta nói như thế nầy:"Tôi già rồi không làm ǵ được trong kiếp nầy." Nếu chúng ta lợi dụng điều chúng ta có đây và nếu chúng ta tiến bộ càng ngày càng xa, chúng ta tạo nên một t́nh trạng làm cho các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu khó mà từ chối ban cho chúng ta những cơ hội mới. Khi theo đường lối đặc biệt nào đó, chúng ta có thể gây ra nghiệp quả giúp chúng ta chiếm được cơi Thiên Đường. Chúng ta có thể bắt buộc các Ngài thanh toán quả báo của chúng ta cách nào để cho chúng ta có một vài cơ hội mong muốn; những nguyên nhân mà chúng ta phát động không khai triển được những hiệu quả của chúng nó; nếu chiều hướng tổng quát của chúng ta bị thay đổi. Tất nhiên, tốt hơn là triệt để lợi dụng những cơ hội đưa đến và e rằng bỏ qua cơ hội ấy, chúng ta gây ra một cơ hội khác biệt nhiều ngàn năm trong sự tiến hóa của chúng ta.

            Vài ngàn năm đối với đời sống vĩnh cửu của Linh Hồn không có nghĩa lư ǵ hết, nhưng chúng ta không muốn làm mất th́ giờ của chúng ta như thế. Thí dụ, chúng ta thấy trong quyển Những kiếp sống của Alcyone, trường hợp một thanh niên sống gần bên một trong những vị Đại Sư tại một Thánh Điện Ai Cập, Y có nhiều điều kiện thuận lợi đặc biệt.

            Y phạm một điều khờ khạo là làm mất th́ giờ, bỏ lỡ cơ hội và để cho cơ hội ấy qua đi. Sư Phụ của Y bèn nói với Y rằng: Ngài luôn luôn sẵn sàng thu nhận Y trở lại. Dĩ nhiên trong kiếp nầy Y gặp lại Đức Thầy. Như thế, sự thờ ơ đă khiến cho Y làm mất th́ giờ.Huynh hăy nghĩ xem trong 6.000 năm nầy Y có thể làm biết bao nhiêu công việc, nếu trước đó Y chấp nhận lời đề nghị đă đưa ra. Vào thời kỳ ấy, vị Đại Sư mà chúng ta nói đây chưa đắc quả Chơn Tiên, dĩ nhiên, nếu Y chấp nhận điều kiện làm Đệ Tử th́ chính Y hiện giờ cũng không cách xa lắm quả vị Siêu Phàm. Một quyết định tương tự 6.000 năm sớm hơn hay là 6.000 muộn hơn không thể giống nhau được. Một người có sự quyết định liền theo Thầy sẽ có công đức về những năm hoạt động trong khoảng 6.000 năm ở trên những cảnh giới cao nhất th́ làm sao nói rằng không có sự khác biệt nhau ?

            Tôi không biết điều mà chúng ta gọi là thời gian đối với Thiên Đ́nh có ảnh hưởng ra sao. Một quan điểm mà con người có thể đạt tới là quá khứ, hiện tại và vị lai biểu lộ ra như là hiện tại trường tồn. Tuy nhiên, chính trong hiện tại trường tồn nầy, có những việc dễ đạt hơn và những việc khác khó thâu thập được. V́ vậy, nắm lấy một cơ hội hay bỏ qua một cơ hội, không phải là không có hậu quả, mặc dù có cách bổ khuyết trong tương lai một lỗi lầm như thế. Sự hối tiếc đă phạm lỗi trở thành một sức mạnh thúc đẩy con người phải tăng gia gấp bội sự nỗ lực hầu đền bù thời giờ đă mất. Một lư luận tầm thường, một sự cố gắng tưởng tượng tầm thường để h́nh dung một quá tŕnh tiến hóa ư? Tuy vậy chúng ta không thiếu ǵ những lư lẽ để tin rằng một ngày kia có thể sửa đổi quá khứ được. Trên những cảnh giới cao siêu, vấn đề được xem xét như sau đây, chúng ta nói rằng bản tánh của quá khứ là thế nầy, hay thế nọ mà chúng ta không sao thay đổi được. Nó là như thế khi chúng ta có mặt tại nơi ấy, nhưng mà, chúng ta không rơ được ngày hôm nay nó trở nên như thế nào [24] v́ chúng ta hiện giờ ở quá xa điểm đó. Cái quá khứ nầy vẫn c̣n măi măi. Đối với một người khác, ở một nơi khác, nó vốn là hiện tại. Quan niệm nầy khó mà hiểu rơ được. Ở Cơi Trần, chúng ta biết rằng ḿnh thấy một vật; ánh sáng từ vật ấy rọi ra làm cho chúng ta biết được vật đó. Cái ánh sáng mới ngày hôm qua đây chỉ cho ta biết một vật hiện giờ nó ở cách xa nơi đây hàng triệu dậm mà bây giờ nó cũng c̣n chỉ vật ấy. Cái "hôm qua" của chúng ta có thể là "buổi hôm nay" đối với một người khác, về sự tiếp nhận thông điệp do ánh sáng nầy mang đến. Hai việc giống nhau có chăng cùng một căn bản thực tế, tôi không hiểu được, nhưng mà dường như cái chân lư phải giống như vậy đó.

            Quan sát Cơi Hồng Trần từ trên một cảnh giới cao, ấy là đứng trên đỉnh núi, và trông thấy một toa xe lửa di động trong thung lũng, dưới chân ta. Về phần hành khách, đoàn xe đă trải qua vài điểm. Những điểm ấy tuy đă khuất dạng, nhưng vẫn luôn luôn c̣n ở đó. Cây cối và thú vật trông thấy ở đó vẫn sinh sống như thường. Quá khứ vẫn c̣n hoạt động nhưng v́ không c̣n thấy chúng nó nữa cho nên phần đông thiên hạ tưởng rằng vai tuồng của chúng nó tại đó đă chấm dứt rồi. Tôi không tin chắc như vậy. Tôi không nghĩ rằng t́m hiểu vấn đề nầy là rất hữu ích, bởi v́, ở Thế Gian, khó mà t́m được một cách giải thích có mạch lạc về điều đó. Tuy nhiên, tôi tin rằng quá khứ không phải là bất di bất dịch không thể biến cải được và ngày nào mà chúng ta đạt đến tŕnh độ khảo sát được tất cả các điều đó từ trên cơi cao, quá khứ sẽ hiện ra tốt đẹp hơn là điều chúng ta đă tưởng tượng khi nhớ tới nó. Thật vậy, tất cả cái quá khứ nầy vẫn tiến tới, v́ nó là yếu tố của thực tại Thiêng Liêng. Nó cũng sẽ được chúc tụng, nó sẽ đơm bông, nó sẽ trở thành cái ǵ mà kiếp số đă tiền định. Tôi không tự phụ mà nói rằng tại sao vậy. Nhưng mà ư niệm nầy không phải là không khuyến khích chúng ta. Tôi muốn nói những sự sơ xuất, những thiếu sót, những sự lầm lạc trong dĩ văng của chúng ta, về sau cũng có thể có một tính cách khác biệt mặc dù ngày hôm nay, đối với chúng ta, chúng có đặc tính không tốt nầy. Ở Thế Gian, ư niệm nầy khó cho con người thấu hiểu được, nhưng tôi tin chắc rằng nó chứa đựng một phần Chân Lư.

            15.- Hăy ham muốn những vật sở hữu trên tất cả mọi vật.

            Nhưng những vật sở hữu nầy phải tuyệt đối thuộc về của Linh Hồn trong sạch, và bởi đó, Linh Hồn trong sạch nào cũng đều được hưởng sở hữu đó một cách in như nhau. Tới ngày nào tất cả chỉ là một, ngày đó chúng ta sẽ thành tài sản đặc biệt của tất cả. Hăy ham muốn những vật sở hữu mà Linh Hồn trong sạch có thể ǵn giữ được hầu súc tích những của cải cho đời sống tinh thần chung của Nhân Loại, cho đơn vị nầy, chỉ đây mới thật là Chơn Ngă của con.

            C.W.L. - Những vật sở hữu mà chúng ta nên ham muốn là những đức tánh giúp ích cho Nhân Loại. Tất cả những thắng lợi mà chúng ta đạt được là Nhân Loại đạt được, chứ không phải là của chúng ta. Sự ham muốn chiếm hữu phải nhắm vào những vật sở hữu chung cho tất cả, đó là sự ham muốn cho mỗi người đều có phần trong một gia tài chung. Chúng ta gặp lại đây vấn đề Vô Ngă và dưới một h́nh thức khác. Đời sống của các Đấng Chơn Sư cho chúng ta những gương mẫu đáng kính phục. Tôi c̣n nhớ có một lúc tôi hết sức ngạc nhiên khi nghe người ta nói rằng các Ngài dường như không có mắc Nghiệp Quả. Những Thánh Thư của Ấn Độ cũng nói rằng các Ngài đứng trên Nghiệp Quả. Thuở đó tôi không hiểu điều nầy. Nhân Quả là một định luật cũng giống như hấp lực. Chúng ta có thể lên cao tới ngôi mặt trời, mà hấp lực cũng không mất. Trái lại, chúng ta cảm thấy lực ấy càng mănh liệt hơn nữa. Dường như tôi thấy khó mà thoát khỏi Luật Nhân Quả, bởi v́ nhờ Luật ấy mà mỗi người nhận lănh những ǵ cân xứng với hành động của y. Nếu các Đấng Chơn Sư Cao Cả không ngớt ban rải ân lành cho vạn vật đến một điểm mà chúng ta không có hy vọng ǵ sánh bằng các Ngài được và nếu đồng thời, các Ngài không tạo ra một Nghiệp Quả nào th́ kết quả phi thường của sự ban rải thần lực để giúp đời của các Ngài trở nên như thế nào ?

            Cuối cùng, sau khi khảo cứu vấn đề nầy, chúng tôi bắt đầu hiểu. Nếu tôi diễn tả cách thức mà Nhân Quả hiện ra dưới tầm mắt của vị có Huệ Nhăn, có lẽ vấn đề sẽ trở nên dễ hiểu hơn. Cách hành động của Luật Nhân Quả ở trên mấy Cơi cao biểu lộ ra giống như cảnh tượng sau đây. Mỗi người đều là trung tâm của những h́nh cầu đồng một tâm điểm với nhau. Chúng nhiều cho đến đỗi không thể nào tưởng tượng được. Có vài cái ở sát bên Y, c̣n những cái khác ở tít mù xa trong ḷng vực thẳm của Vũ Trụ. Mỗi tư tưởng, mỗi lời nói và hành vi, dù ích kỷ hay không ích kỷ đều phát ra một nguồn khí lực chạy ngay vào mặt những h́nh cầu, và đánh thẳng góc vào cái mặt bên trong của một trong những h́nh cầu ấy rồi dội ngược lại và trở về chỗ khởi điểm của nó. Tính chất của sức mạnh cũng như thời gian quay về dường như hạn định do một h́nh cầu nào đẩy lui sức mạnh ấy. Có thứ sức mạnh sinh ra do vài hành động đánh vào một h́nh cầu tương đối ở gần một bên, kế đó quay trở lại rất nhanh chóng, c̣n những sức mạnh khác tiếp tục đi vào cơi không gian vô tận và chỉ quay về sau nhiều kiếp. Tại sao vậy? Chúng tôi không hiểu v́ lẽ nào. Chúng tôi chỉ biết rằng sự quay về của nó không thể tránh được và trong tất cả những trường hợp, sức mạnh ấy chỉ có thể trở về nơi trung tâm đă phát sinh ra nó mà thôi.

            Tất cả những sức mạnh do con người sinh ra phải trở về với y, thời gian trở về cũng lâu bằng cách Y phóng sức mạnh ấy ra ngoài. Tuy nhiên, mọi người đều dính liền bên trong với Đức Thượng Đế và điều đó, không phải do một trong những h́nh cầu nào mà chính nó do nơi trung tâm điểm. Khi quay về trung tâm, Y có thể đi tới Đức Thượng Đế và khi mà Y điều khiển tất cả sức mạnh của tư tưởng và ḷng ham muốn của Y về ngay trung tâm, th́ sức mạnh ấy không quay trở về với Y nữa mà đi phối hợp với khối thần lực vô biên đang chuyển động do Đức Thượng Đế không ngớt ban rải trong Vũ Trụ của Ngài hầu duy tŕ sự sống của vạn vật. Sức mạnh thiêng liêng từ  trung tâm phát ra, chớ không phải từ bên ngoài đến. Khi khảo sát những nguyên tử hồng trần, vị có Huệ Nhăn nhận thấy có vài nguyên tử thu hút sức mạnh và có những nguyên tử khác phát ra sức mạnh. Sức mạnh nầy phải có một nguồn cội, nó không phải vô bên nầy rồi ra bên kia. Nó từ trung tâm nguyên tử phóng ra và ở bên ngoài xem không biết nó từ đâu đến. Sự thật, sức mạnh ấy phát khởi từ một bề cao siêu [25] và con mắt của chúng ta không thấy được. V́ thế, con đường dắt đến Đức Thượng Đế ở trong tâm của muôn loài vạn vật và ấy là cái chiều hướng theo đó mà con người phải điều khiển tất cả sức lực của ḿnh trong khi Y luôn luôn nh́n về Thượng Đế và chỉ nghĩ đến Ngài lúc Y hoàn thành công việc của Y. Riêng về cá nhân Y, sức mạnh nầy tan mất, tuy nhiên, như tôi đă nói, sức mạnh ấy lại đến nhập vô nguồn thần lực của Đức Thượng Đế luôn luôn ban rải khắp nơi. Đối với con người, không có kết quả riêng nào cho cá nhân ở trong những cơi thấp, nhưng mà nhờ mỗi sự nỗ lực tương tự, Y sẽ tiến gần đến Chân Lư thiêng liêng ở trong ḷng Y, Y biểu lộ nó rơ ràng hơn và đầy đủ hơn. V́ vậy, nói rằng Y không thâu thập một kết quả nào hết là sai. Trong một Vũ Trụ phục tùng Định Luật, tất cả đều tạo nên một hiệu quả, nhưng mà không có hiệu quả nào bên ngoài có thể lôi kéo con người trở lại Thế Gian.

            Tôi tưởng đó là những điều giải thích đoạn sách nói về các Đấng Cao Cả thoát khỏi Luật Quả Báo, tất cả thần lực vô biên của các Ngài đều được các Ngài lấy danh nghĩa Nhân Loại và như là những đơn vị của Nhân Loại mà sử dụng trọn vẹn để ban bố phúc lành cho con người. Dường như, các Ngài thoát ra khỏi sự bắt buộc của Định Luật. Dù là kết quả thế nào, nó cũng thuộc về nhân loại chớ không phải thuộc về các Ngài, Nhân Quả của tất cả những sự hoạt động vinh diệu của Chơn Sư không để dành lại để Ngài hưởng thụ mà để cho toàn thể nhân sinh.

            Chúng ta cũng thế, chúng ta phải hoạt động với tinh thần vô ngă. Nếu trong lúc hành động, dù là một hành động tốt đẹp, chúng ta tự nói: "Tôi làm điều nầy, tôi muốn thấy được công lao của tôi." Hoặc giả, dù không nghĩ đến công lao, chúng ta chỉ nói: "Ấy là tôi làm điều đó," cũng như những vị Pharisiens thuở xưa, chúng ta nhận lănh phần thưởng của chúng ta rồi. Kết quả sẽ dành cho bản ngă cá nhân và buộc trói chúng ta vào Thế Gian nầy, không khác ǵ một kết quả xấu. Nếu trái lại, quên hẳn bản ngă của ḿnh đi, chúng ta chỉ hành động như những đoàn viên của Nhân Loại, kết quả của sự hành động sẽ trở về cho Nhân Loại và mỗi người là một phần tử. Càng hành động bất vụ lợi chúng ta càng đến gần Tâm Thiêng Liêng của vạn vật. Đó là quan điểm của chính Đức Thượng Đế. Đối với Ngài, không có một tư tưởng riêng tư nào có thể tồn tại được. Ngài luôn luôn hành động cho hạnh phúc của toàn thể mà Ngài là người đại diện. Nếu trong lúc hành động, chúng ta chỉ nghĩ đến Ngài, kết quả sẽ trút đổ vào Kho Thần Lực của Ngài và không c̣n trở lại với chúng ta dưới một h́nh thức nào khả dĩ cột trói chúng ta được, mà như là một yếu tố làm cho chúng ta trở nên những sự biểu hiện càng ngày càng viên măn của Đức Thượng Đế và càng ngày nó càng nâng cao chúng ta lên đến sự an tĩnh của Ngài mà trí thông minh  của con người không thể hiểu nổi.


CHƯƠNG   8

QUI TẮC  17 – 19

 

            17.- Hăy t́m Đạo.

            C.W.L. - Bây giờ chúng ta đi đến ba qui tắc ngắn. Chúng có sự liên quan mật thiết và cùng chung với nhau trong giảng lư của Đức Đế Quân cũng như trong những kư chú của Đức Hilarion. Chúng được đề cập đến một lượt. Thật có hơi khó mà sắp đặt chúng ra từng nhóm riêng như việc chúng ta đă làm từ trước đến giờ và tôi muốn lấy mấy câu nầy theo thứ tự ở trong sách. Lẽ tự nhiên chúng ta đi tới một điểm chánh quan trọng của Giáo Lư bởi v́ chúng ta gặp nơi đây giảng lư của hai Đấng Cao Cả dài hơn mấy đoạn trước. Kư chú của Đức Hilarion thêm vô qui tắc thứ 17 khởi đầu như sau đây:

            Ba tiếng nầy có lẽ dường như chúng nó không quan trọng lắm để làm ra một qui tắc. Người Đệ Tử sẽ nói: "Nếu tôi không t́m Đạo, tôi đâu có phí công nghiền ngẫm những tư tưởng nầy sao?" Tuy nhiên, con chớ nên vội sang qui tắc khác. Hăy dừng lại và hăy suy nghĩ  trong chốc lát. Có phải con đường mà con muốn chăng? Hay là con thấy trong đó một viễn ảnh mơ hồ của những cao độ mà phải leo lên, hay nơi đó có một tương lai rực rỡ phải thực hiện. Hăy coi chừng. Phải t́m Đạo v́ Đạo chớ không phải v́ những bước chân của con giẵm lên đó.

            Những lời nầy giải bày một cách tuyệt diệu, chúng ta phải tiến đến Đường Đạo với tinh thần nào? Từ đầu tới cuối, phải tách phàm Nhơn ra và làm việc theo Bản Ngă cao siêu. T́m Đạo là hành động như thế đó. Như chúng ta đă thấy, con người dầu cho đă để lại đàng sau ḿnh sự tham vọng tầm thường, cũng c̣n gặp lại nó nữa và trong những h́nh thức tế nhị hơn. Bây giờ đây tham vọng của nó lên tới một mức độ cao siêu, nó nhất định không ham muốn chi cho bản ngă của ḿnh, nó hiến dâng trọn vẹn tất cả những năng lực của nó sẵn có cho công việc của Quần Tiên Hội. Nó chỉ nghĩ đến một điều là làm một khí cụ tốt lành và đối với Chơn Sư, nó chiếm một vị trí thế nào mà những thần lực của Chơn Sư đi ngang qua nó hết sức dễ dàng.

            Lẽ tự nhiên, tất cả những thần lực từ những cơi cao đi xuống đều bị hạn chế khi chúng hoạt động ở một cảnh thấp. Thần lực đi ngang qua ḿnh kẻ Đệ Tử chỉ là một phần nhỏ nhít của ảnh hưởng mà một Đấng Cao Cả giao cho huynh để chuyển di. Không thể làm khác hơn được. Tuy nhiên, mặc dù tất cả những khuyết điểm tự nhiên c̣n bám chặt vào chúng ta tại cơi Trần, khi người Đệ Tử làm cho ḿnh thành một khí cụ cho thần lực của Chơn Sư, càng được hoàn hảo bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, th́ huynh có thể giúp ích được rất nhiều. Huynh có mục đích mở đường cho một luồng thần lực đi qua càng nhiều càng tốt và huynh phải làm cho nó ít bị biến chất được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

            Thần lực tuôn xuống do trung gian của Đệ Tử để Y ban rải ra, nhưng trong sự phân biệt nầy, vị Đệ Tử không đóng vai tuồng là một cái máy; Y thêm vô đó phần của Y, một chút màu sắc của Y truyền qua luồng thần lực. Người ta mong muốn điều nầy, người ta chờ đợi Y, nhưng người Đệ Tử phải triệt để làm cho đúng với thái độ và những lời dạy của Chơn Sư. Điều nầy không phải là không thể làm được; bởi v́ Đệ Tử làm một với Chơn Sư một cách kỳ diệu, như tôi đă nói trong quyển Chơn Sư và Thánh Đạo (Les Maitres et le Sentier).[26] Chẳng những cái chi chứa đựng trong Tâm Thức của người Đệ Tử đều có trong Tâm Thức của Chơn Sư, mà cái chi xảy ra trước mắt Đệ Tử cũng có trong Tâm Thức của Chơn Sư, nếu không phải ngay trong lúc đó như  ư Ngài muốn, nó cũng ghi trong trí nhớ của Ngài. Dù trong lúc đó Ngài rất bận rộn về công việc cao siêu của Ngài, Ngài không cần theo dơi cuộc đàm thoại của Đệ Tử, nhưng có những bằng cớ rơ rệt chứng minh rằng đôi khi Ngài vẫn để ư tới, bởi v́ thỉnh thoảng Ngài cho Đệ Tử tư tưởng hay lời phê b́nh và sửa đổi cái ǵ vừa nói ra.

            Như tôi đă nói trước đây, những điều vị Đệ Tử cảm xúc đều phản ứng đến Chơn Sư, nếu là một t́nh cảm như sự trêu tức, hay là nóng giận th́ Chơn Sư dứt ngay sự liên lạc. Thật vậy vị Đệ Tử không hề muốn cho Ngài chịu nhọc như thế, mặc dù người ta có thể nói với tất cả ḷng tôn kính rằng sự nhọc đó rất nhỏ. Có thể Chơn Sư làm việc nầy rất mau lẹ, một tư tưởng cũng đủ rồi, nhưng người ta không muốn có sự gián đoạn nhỏ nhoi trong sự hoạt động của Ngài.

            Ngoài ra, lẽ tự nhiên, vị Đệ Tử muốn tránh việc bị trục xuất như thế, đó là hậu quả không thể tránh được và xảy ra một lượt. Huynh hết sức chủ tâm để không cho mọi tư tưởng hay mọi t́nh cảm không tốt đẹp thâm nhập vào Tâm Thức huynh, huynh tránh một đám đông ồn ào hay là một chỗ nào phát sinh ra một thứ từ điện xấu xa, trừ ra khi nào công việc huynh phải làm cho Chơn Sư bắt buộc huynh phải có mặt tại đó. Trong trường hợp nầy, huynh bao bọc ḿnh bằng một cái vỏ [27] và giữ chừng không cho sự khó chịu nào động đến Chơn Sư. Tuy nhiên, những tư tưởng thuộc về loại vật chất hiện diện trong Tâm Thức của Đệ Tử cũng hiện diện trong Tâm Thức của Chơn Sư. Thí dụ, nếu bị một tiếng động th́nh ĺnh làm cho giật ḿnh, sự đụng chạm nầy mặc dù nhẹ nhàng cũng truyền qua Chơn Sư. Ngài không chút bận ḷng, Ngài xua đuổi nó đi, dù sao sự đụng chạm nầy vẫn truyền sang và nó chứng minh sự liên lạc mật thiết. Một vị Đệ Tử thận trọng, khôn ngoan cố gắng tránh mọi thứ đụng chạm, cho nên thường thường Y tỏ ra dịu dàng và yên lặng, điềm tĩnh.

            Về những đặc điểm khác của Đệ Tử, Y không hề quên Sư Phụ Y và sự hiện diện của Ngài. Trừ ra khi thờ ơ, sơ suất, Y không bao giờ để cho một tư tưởng hay một t́nh cảm nào mà Y không muốn nhập vào trong tư tưởng hay trong t́nh cảm của Chơn Sư; Y cũng cố gắng tránh những sự xao động ở ngoài có thể làm cho Y phải bị trục xuất tạm thời.

            Sự liên lạc mật thiết với Chơn Sư ban cho một vị Đệ Tử một đại hạnh phúc. Niềm vui được giao thiệp với một người thông minh tuyệt thế với những cảm giác, mà đúng hơn, không phải những cảm giác mà là những quyền năng siêu việt, bởi v́ trong Chơn Sư, người ta không thể gọi sự sùng đạo, t́nh thương và thiện cảm là những cảm giác ở nơi Ngài, ấy là những quyền năng. Niềm vui nầy thật là phi thường và có một sự xinh đẹp không thể diễn tả. Vị Đệ Tử càng mở Tâm tiếp đón những ảnh hưởng cao siêu nầy, chúng càng tuôn xuống Y và Y càng giống Chơn Sư, Y là người phục vụ Ngài. Đây là vấn đề tăng trưởng dài lâu, mà sự tăng trưởng nầy gặp một sự giúp đỡ lớn lao trong luồng thần lực không ngớt truyền sang từ Thầy qua tṛ.

            Sự liên hiệp nầy tiêu biểu việc thu nhỏ lại sự đồng nhất cao siêu trước kỳ hạn của nó. Sự đồng nhất nầy hiện ra khi mà Tâm Thức Bồ Đề hoàn thành sự mở mang của nó; nhưng trong khi chờ đợi sự mở mang nầy, tôi không biết có chi thân mật hơn sự liên lạc giữa Đệ Tử và Chơn Sư. Những người chí nguyện mong được hân hạnh thâu nhận làm Đệ Tử, ngay bây giờ đây phải sống như huynh tưởng phải sống như khi huynh đă được thâu nhận, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Chúng ta càng làm cho những sự hành động của chúng ta, những tư tưởng của chúng ta đại khái có tính cách yên tịnh và thanh bạch th́ chúng ta càng đáng được thâu nhận, khi ngày giờ được sự liên hiệp mật thiết đă đến. Không có chi phải ngờ vực, cách xứng đáng được đặc quyền nầy là sống như đă có nó rồi vậy. Tôi biết lắm, người ta thường tưởng rằng những việc nhỏ mọn bên ngoài không có chút chi quan trọng cả. Đôi khi người ta nói: "Có thể việc nào đó làm chậm trễ sự tiến hóa, nhưng mà những hậu quả không có thể trầm trọng lắm, ấy là một chuyện nhỏ mọn quá." Tôi nghe người ta nói điều nầy về sự ăn thịt cũng như sự hút thuốc. Nhưng, chúng ta không có những phương thế bỏ qua một sự lợi ích, dù hết sức nhỏ nhoi chăng nữa. Công việc chờ đợi chúng ta rất lớn lao, quan trọng, không phải dễ dàng đâu. Trong những trường hợp nầy, người khôn ngoan không hề bỏ qua một sự giúp đỡ nhỏ mọn nào cả.

            Đức Chơn Sư  thêm vô kư chú của Ngài:

            Có sự liên lạc giữa qui tắc nầy với qui tắc thứ 17 của phần nh́. Sau khi trải qua nhiều thế kỷ chiến đấu và nhiều chiến thắng, con thắng trận cuối cùng và đ̣i hỏi bí quyết cuối cùng con sẽ sẵn sàng đi xa hơn nữa.

            Qui tắc thứ 17 của phần nh́ của quyển sách được Chơn Sư đề cập, đúng như sau đây: "Hăy hỏi bản thể sâu kín của con, Đấng Duy Nhất, cái bí quyết cuối cùng mà người dành sẵn cho con qua các thời đại." Nghĩa nó như vầy: Như bây giờ đây, chúng ta phải t́m Bản Ngă Cao Siêu, cũng đúng vậy, khi tới tŕnh độ cao siêu hơn nữa chúng ta phải t́m kiếm Đấng Duy Nhất, là Chơn Thần, bí quyết cuối cùng là luôn luôn làm việc nhiều hơn và làm việc cao hơn. Nhiều người h́nh như gặp trong điều đó một viễn ảnh không vui vẻ chút nào cả. Thâm ư của một số đông người là muốn nghỉ ngơi. Chúng ta đă bao phen cố gắng, chịu đau khổ và lao lực, nên nhiều người mong mỏi nghỉ ngơi trọn vẹn. Quan điểm nầy đặc biệt thuộc về xác thân. Ở trên mấy cơi cao không có sự mệt nhọc. Tôi đă biết có nhiều người ở cơi Trung Giới lâu năm, họ chờ Chơn Sư t́m cho họ một thể xác mà các Ngài xét ra thích hợp với họ. Trong trường hợp thứ nhứt, một người chờ đợi 25 năm, trong trường hợp thứ nh́, 20 năm. Trong thời gian nầy, họ triệt để thực hành công việc của Chơn Sư không ngừng nghỉ. Người thứ nhứt cũng như người thứ nh́ không tỏ ra một chút chi mệt mỏi và cuối cùng họ cũng sốt sắng, hăng hái như lúc ban đầu. Nếu ở cơi Trung Giới có một điều chi giống như sự mệt mỏi và muốn biểu lộ ra nó đ̣i hỏi những thời hạn mà chúng ta không biết là bao lâu.

            Khi mà bí quyết cuối cùng của bài học cao siêu nầy được tiết lộ, Đệ Tử t́m được trong đó sự bí mật của con đường mới, con đường dắt đến trạng thái ở ngoài sự kinh nghiệm của con người và hoàn toàn ở trên tất cả tri giác và sự tưởng tượng của con người. Ở mỗi đoạn đường nầy, cần phải dừng lại thật lâu và suy gẫm cho kỹ lưỡng. Ở mỗi đoạn đường nầy, cần phải tự hỏi có phải chắc chắn là t́m Đạo v́ Đạo chăng ? Con đường và Chân Lư hiện ra trước, sự sống sẽ đến sau.

            A.B. - Khi Linh Hồn được giải thoát đă trải qua những giai đoạn dắt đến địa vị La Hán và tiến đến sự Điểm Đạo lần thứ nhứt của những cuộc Điểm Đạo kế tiếp, Ngài sẽ chọn lựa một trong những con đường mở ra trước mặt Ngài, có tất cả bảy con đường, số bảy là số Thiêng Liêng. Linh Hồn có thể quyết định bảy cách khác nhau. Người ta thường nói: Tới chừng đó chỉ có một phương thế mà thôi, ấy là con người phải muốn thành một vị Chơn Sư; một tư tưởng phụ thêm vào ư kiến nầy là nếu Ngài chọn lựa đúng th́ Ngài trở lại để giúp đời. Sự quyết định nầy nên khuyên bảo, v́ quyền lợi đặc biệt của nhân loại. Nhưng tôi xin nhắc huynh, điều đó là một quyết định  quá sớm. Một chú giải cho chúng ta biết bản chất của sự chọn lựa trong mấy chữ nầy: "Trên mỗi đoạn đường, cần phải chắc chắn là T́m Đạo V́ Đạo." Những chữ "V́ Đạo" cho chúng ta bí quyết. Phải chọn lựa chỉ V́ Đạo mà thôi. Việc có nhiều con đường cũng đủ để ngăn cản ta không cho lập một qui tắc nào cả về sự  quyết định của chúng ta và hơn nữa, để ngăn cản chúng ta nói rằng: "Ngài chọn lựa đúng", điều nầy dường như có thể chọn lựa sai khi Linh Hồn đă được giải thoát.

            Tuy nhiên, một ư tưởng - rất tế nhị - xuyên qua Trí của chúng ta: Ấy là chúng ta có thể quyết định sự chọn lựa nầy. Có khi chúng ta nhất định những điều chúng ta sẽ làm cho tương lai chúng ta - tương lai nầy vẫn c̣n xa vời lắm - chúng ta sẽ ra thế nào? chúng ta sẽ làm cái chi? Thật ra ấy là Tâm Thức thấp thỏi đem quyết định của nó thay thế quyết định của Tâm Thức cao siêu. Khuynh hướng tế nhị nầy phát hiện ra trọn suốt cuộc đời của chúng ta. Một phần Tâm Thức của chúng ta tự cho nó là Bản Ngă, nên lẽ tự nhiên, nó sẵn sàng phân chia con đường tương lai của nó theo như con đường nầy hiện ra cho nó thấy, quên rằng sử dụng quyền chọn lựa chỉ thuộc về Tâm Thức cao siêu mà thôi. Quyết định phải làm cái chi giai đoạn cuối cùng của vị La Hán chấm dứt, ấy là hành động như một đứa trẻ chọn lựa nghề nghiệp. Quyết định nầy không có sự hiểu biết hướng dẫn, chắc chắn không phải là sự quyết định mà sự xét đoán già giặn của nó sẽ chấp thuận. Một đứa bé không đủ tư cách để chọn lựa nghề nghiệp mai sau của nó, và trong vấn đề nói trên đây, nguyên tắc vẫn in như nhau. Bản Ngă cao siêu nhất định mà không cần lưu ư đến Phàm Nhơn, nói cho đúng, Phàm Nhơn không c̣n nữa trước lúc chọn lựa.[28] Quan niệm hệ trọng duy nhất phải đưa ra cho Bản Ngă thấp thỏi là quan niệm phụng sự. Bản Ngă thấp thỏi phải thành một khí cụ khả dĩ dùng được. Nếu không tuân hành, nó trở thành một chướng ngại cho Tâm Thức cao siêu. Huynh nên nhớ rằng nó có thể làm bế tắc con đường của Tâm Thức nầy; người ta thường nói nó đóng đinh  Bản Ngă cao siêu trên Thập Tự Giá.

            Một điểm khác cũng đừng quên: Chúng ta không thể xét đoán giai đoạn nào của Tâm Thức trước khi có kinh nghiệm về nó và biết giá trị tương đối của nó. Khi tưởng đến một điều kiện cao siêu của Tâm Thức Huynh, điều kiện mà Huynh không biết chi về nó, Huynh không thể nào có một quan niệm về nó cả. Khi Huynh lên đến cao độ nầy, Vũ Trụ biến đổi với Huynh; một sự biến đổi thực hiện trong bản tánh Huynh, và Huynh có thể hiểu cách hành động đặc biệt của Tâm Thức nầy. Trước khi hiểu biết, phải có kinh nghiệm về sự biến đổi ấy. Cũng thế đó, tạo một quan niệm về một con đường tương lai thật không khác nào xét đoán một trạng thái Tâm Thức mà Huynh không biết, vậy xét đoán của Huynh không có giá trị. Khi chúng ta đứng về một quan điểm cao hơn, chỉ có một lư do nhất định sự chọn lựa của chúng ta; lư do đó là những nhu cầu của Nhân Loại thuở đó. Ở đây có một chỗ trống, ở đàng kia, sự giúp đỡ của chúng ta lại cần thiết; đó là lư do điều khiển sự quyết định của chúng ta. Trong những con đường mở ra trước mặt Linh Hồn thanh khiết, Ngài chọn lựa con đường dắt Ngài đến chỗ nào cần sự giúp đỡ của Ngài. Bản Ngă xét đoán sự giúp đỡ mà Quần Tiên Hội [29] đang cần. Sự quyết định của Chơn Ngă tùy thuộc sự cần thiết biểu lộ Ư Chí của Đức Thái Dương Thượng Đế. Một Đấng Cao Cả có nói với tôi: "Thật là một sự lầm lạc khi tưởng rằng có thể quyết định ở dưới Trần Thế; sự quyết định phải do sự giúp đỡ cần thiết cho sự biểu lộ Ư Chí của Đức Thái Dương Thượng Đế".

            Một nhóm người làm việc để giúp đỡ Nhân Loại. Nếu họ cần dùng sự viện trợ và một vận hà tỏ ra cần thiết, sự chọn lựa là nhất định tán trợ hoạt động ấy. Tôi nhấn mạnh về điểm nầy v́ đă được cảnh cáo: Đừng để tư tưởng xúi giục bỏ một sự hoạt động hữu ích để lo những công chuyện khác mà chúng ta chưa có trách nhiệm gánh vác. Trong quyển Thánh Ca Bhagavad Gita cảnh giác chúng ta rằng: "Dharma (Đạt-ma) [30]  của kẻ khác mang đầy những nguy hiểm." Dharma (Đạt-ma) của chúng ta ở chỗ nào, công việc của chúng ta ở chỗ đó.

            C.W.L. - Con đường dắt đến trạng thái ở ngoài sự kinh nghiệm của con người là con đường của vị Siêu Phàm mở ra trước mặt Ngài theo bảy chiều hướng khác nhau như chúng ta đă thấy trước đây. [31] Tôi nghe nhiều Hội Viên chúng ta quả quyết điều nầy: "Chắc chắn về vấn đề chọn lựa của chúng ta, chúng ta sẽ ở lại để phụng sự Nhân Loại." Điều khôn ngoan nhất là đừng phung phí sức lực của chúng ta khi lấy những quyết định như thế, bởi v́ thật sự chúng ta không biết chi cả về vấn đề nầy. Đó là hành động như một trẻ con quyết định điều nó sẽ làm khi nó lớn khôn, nó sẽ thành tướng cướp hay là tài xế xe lửa. Những điều kiện quyết định sự chọn lựa của chúng ta, chúng ta không biết, cũng như đối với một đứa trẻ, nó không biết tương lai nó tùy thuộc những điều kiện nào. Không thể trong bảy đường lại có một con đường đáng chọn lựa hơn mấy con đường kia, mặc dù cả thảy đều dắt đến những sự hoạt động khác nhau. Chúng ta chớ nên nghi ngờ; tới lúc chọn lựa, tư tưởng quan trọng nhất là: "Tôi có thể phụng sự đắc lực hơn hết ở chỗ nào." Chúng ta không quá xa Chân Lư khi tóm tắt quyết định của chúng ta như sau đây: "Kính thưa Thượng Đế ! Có con đây! Xin Ngài gởi con đến nơi nào mà sự cần thiết giúp đỡ cấp bách hơn hết." Tuy nhiên, trong lúc chúng ta phát triển, có lẽ rất hữu ích mà đạt được một khả năng đặc biệt theo đuổi con đường nầy hay con đường kia trong bảy con đường, do đó sự ích lợi của toàn thể hệ thống là chúng ta t́m được một công việc trong con đường mà nơi đó chúng ta có thể làm nhiều việc lành hơn hết. Mỗi lần chúng ta đạt được một tŕnh độ Tâm Thức cao siêu, cơi đời mở rộng ra cho đến đỗi đối với chúng ta nó vẫn hoàn toàn mới mẻ. Khi thành những vị Siêu Phàm, chúng ta sẽ thấy một chân trời rộng lớn vô biên. Chúng ta sẽ hiểu đích xác những điều chúng ta sẽ làm, bởi v́ chúng ta xem Thái Dương Hệ như Đấng Hóa Công xem nó, từ trên nh́n xuống chớ không phải từ dưới ngắm lên. Chúng ta thấy kiểu mẫu mà một tổ chức (tissu) mô phỏng lại; chúng ta sẽ biết tất cả những điều đó có nghĩa ǵ. Mỗi bước tiến tới trước, mỗi lần mở rộng Tâm Thức đều đem chúng ta đến gần lúc mà chúng ta hiểu gần hết ư nghĩa của mọi vật; khi đi tới, chúng ta càng ít lầm lạc hơn, và càng hiểu biết rơ hơn; nhưng sự hiểu biết toàn vẹn [32] vốn thuộc về Bậc Siêu Phàm; bởi v́ Tâm Thức Ngài nhập vô Tâm Thức của Đức Thái Dương Thượng Đế; dù Tâm Thức nầy là một trong những sự biểu hiện thấp của cơi Ngài.[33]

            Trong trường hợp nầy, quyền chọn lựa cũng về phần Chơn Thần, nhất định, chúng ta không có lư do để lo lắng việc đó ngay bây giờ. Có thể Chơn Thần đă quyết định tất cả rồi. Trong trường hợp nầy, mỗi phần của những đại diện thấp thỏi hay là những phần của Ngài t́m được vị trí của nó, mặc dù những tư tưởng của những phần đó hồi trước ra sao chăng nữa. Điều quan trọng cho chúng ta chỉ là in sâu vào trí của Phàm Nhơn tư tưởng phụng sự, đó là điều phải chọn lựa. Chúng ta có thể làm cho Phàm Nhơn hiểu rằng luôn luôn phải t́m những cơ hội để giúp đỡ, nó sẽ thành một vận hà hoàn hảo cho Chơn Nhơn, và tới phiên Chơn Nhơn trở thành một vận hà hay là một khí cụ hết sức tốt cho Chơn Thần. Trong đời, phụng sự là lư tưởng cao hơn hết. Đấng Christ há chẳng có nói: "Ai muốn đứng đầu trong các con th́ y hăy làm tôi tớ cho các con đi ?”

            18.- Hăy t́m Đạo bằng cách đi sâu vào nội tâm.

            19.- Hăy t́m Đạo bằng cách can đảm tiến ra ngoài.

            C.W.L.- T́m Đạo bằng cách đi sâu vào nội tâm có nghĩa là: T́m trước nhất Chơn Nhơn, và nhờ Người d́u dắt. Chúng tôi đă giải nghĩa rồi, giai đoạn đầu tiên được chỉ định là Phàm Nhơn nhập một với Chơn Nhơn. Ngày sau, Chơn Nhơn thành một sự biểu hiện toàn vẹn của Chơn Thần; con người sẵn sàng thọ lănh sự Điểm Đạo làm một vị Siêu Phàm [34]. Kế đó, vị Siêu Phàm gắng sức đem Tâm Thức ḿnh lên tới Tâm Thức của Đức Thái Dương Thượng Đế. Ngài luôn luôn tự t́m kiếm ḿnh ở những tŕnh độ cao siêu.

            Trong tất cả những lần mà con người đi tới một giai đoạn nào đó và hướng một luồng tư tưởng sùng đạo lên Cơi trên, bù lại một luồng thần lực ban xuống cho Y làm cho sự cố gắng của Y bị một áp lực mạnh. Về phần con người, ấy là sự thọ lănh một luồng thần lực hơn là sự đi lên cao. Cũng thế đó xảy ra giữa Chơn Sư và Đệ Tử. Vị Đệ Tử dâng t́nh thương ḿnh cho Sư Phụ, Ngài đáp lại bằng cách ban cho Y một t́nh thương vượt hẳn sự cố gắng của y. Y có cảm giác nhận được một luồng thần lực hết sức mạnh mẽ, ấy là sáng kiến của y gây ra sự tuôn tràn nầy.

            Ở mức độ cao siêu, đó là sự biểu lộ của Đức Chúa Thánh Thần cho vị Siêu Phàm; Đức Chúa Thánh Thần là quyền năng của Ngôi Thứ Ba của Đức Thái Dương Thượng Đế. Những lằn lửa tượng trưng Ngài trong cuộc lễ Đức Chúa Giáng Lâm Pentecôte. [35] Đúng ngày giờ, vị Siêu Phàm nhập một với Ngôi Thứ Ba hiện ra ở Cơi Niết Bàn, rồi Ngài nhập một với Trạng Thái tượng trưng là Đấng Christ ở trong ḷng Đức Chúa Cha. [36] Mai sau, mặc dù tôi không biết chi về điều nầy, tôi chắc chắn rằng càng ngày Ngài càng tiến đến gần Đức Thái Dương Thượng Đế. Chúng ta không ngớt đến gần ánh sáng, nhưng chúng ta không bao giờ đụng tới ngọn lửa. Một ngày kia, chúng ta lên tới chỗ Ngài đang ngự bây giờ, nhưng Ngài không ngừng lại để đón rước chúng ta; Ngài cũng tiến hóa vậy. V́ thế chúng ta không hề đụng tới ngọn lửa, mặc dù chúng ta luôn luôn càng đến gần nó. Hạnh phúc tuyệt vời của sự kinh nghiệm nầy không thể so sánh được, không thể diễn tả được, bản tánh của nó không hề tương ứng với bất cứ cái chi ở cơi thấp cả.

            Ở nơi mỗi người, sự t́m kiếm thâm sâu tiết lộ nhiều Chân Lư. Phàm Nhơn mà nhiều người xem như là Bản Ngă chỉ là một phần nhỏ bé của con người. Chúng ta là những sinh vật quan trọng hơn cái vẻ bề ngoài của chúng ta rất nhiều. Trong mỗi kiếp, Chơn Nhơn chỉ có tách ra một phần nhỏ bé hay là một mặt nhỏ của Ngài xuống mấy cơi thấp mà thôi, mà dù cho phần nầy biểu hiện được trọn vẹn đi nữa, nó cũng chỉ là một phần tối thiểu. Một vĩ nhân ở dưới Trần Thế mang một h́nh dáng đẹp đẽ, chúng ta hăy chắc chắn rằng: Toàn thể vẫn cao hơn rất nhiều cái điều mà chúng ta thấy được. Riêng một ḿnh nó, không có Phàm Nhơn nào biểu lộ được vô số khả năng c̣n tiềm tàng trong Chơn Nhơn. Chơn Nhơn chứa đựng trong ḿnh tinh hoa của tất cả những kiếp đă qua. Những tánh t́nh hết sức tốt đẹp, hết sức cao thượng của những người sống ở chính giữa chúng ta, đây cũng chỉ tượng trưng một mẫu bậc trung của những đức tánh mà chúng ta sẽ thấy trong Chơn Nhơn nếu chúng ta có thể chiêm ngưỡng Ngài.

            Đôi khi chúng ta gặp những mẫu tương tự, chúng ta phải cố gắng xem chúng như là những mẫu thật . Thí dụ, chúng ta gặp một người rất tầm thường biểu lộ trong một trường hợp bất ngờ một thái độ anh hùng. Một anh thợ có thể hy sinh tánh mạng ḿnh để cứu sống một người bạn. Việc làm được như thế chứng tỏ con người nội tâm đă đi đến tŕnh độ đó. Dù cho điểm cao nhất mà Y lên tới là thế nào đi nữa, điểm nầy cũng vẫn chính là con người, bởi v́ con người không thể đụng chạm nó hay là tưởng tới nó, nếu không có sự đồng nhất. Tất cả những sự biểu lộ thấp thỏi, những dục t́nh sôi nổi gây ra những trận băo ḷng, những t́nh cảm đê hèn thuộc về Phàm Nhơn; chúng không nên có; điều nầy khỏi nói, chúng không làm ra "Con người thật". Khi mà anh nầy lên cao quá rồi, luôn luôn Y phải cố gắng giữ vững vị trí của Y tại đó.

            Những nguyện vọng cao thượng và thanh bai của con người phải được phát triển trong một phạm vi nào đó nơi Chơn Nhơn, không vậy, Y không cảm biết chúng nó ở tại Cơi Trần nầy. Những người thờ ơ với những lư tưởng ấy là những người không có mầm móng những đức tánh đặc biệt nầy trong ḷng họ. Nếu chúng ta mơ ước được những sản nghiệp thiêng liêng, điều nầy chứng tỏ rằng chúng là một sự việc linh động ở trong ḿnh ta chớ không phải là những khả năng; chúng ta phải quyết định đời sống của chúng ta ở mức độ cao hơn hết và như vậy chúng ta c̣n lên tới một cao độ cao hơn nữa.

            Tóm lại, nếu Chơn Nhơn xuống những cơi thấp chẳng qua là Ngài muốn thu thập sự minh bạch và những t́nh cảm tốt đẹp nhưng c̣n mơ hồ của Ngài kết tinh lại và thành một sự quyết định hành động. Tất cả những kiếp luân hồi của Ngài tạo thành một diễn tiến nhờ đó mà Ngài hoạch đắc sự đúng đắn và sự minh bạch. V́ vậy, cách mà chúng ta tiến tới là sự chuyên môn. Chúng ta sinh vào mỗi giống dân chánh và mỗi giống dân phụ hầu hoạch đắc những đức tánh mà những giống dân nầy phải phát triển đến mức hoàn thiện. Một phần của Chơn Nhơn đi sâu vào mấy cơi thấp th́ rất giỏi về chuyên môn, nó có sứ mạng mở mang một đức tánh nào đó; xong rồi, đúng ngày giờ, Chơn Nhơn thâu hồi nó về và nhiều lần như vậy. Trở về với Chơn Nhơn, Phàm Nhơn chuyển giao cho Chơn Nhơn một chút ít những kết quả đặc biệt của nó thu thập được. Chơn Nhơn nhờ vậy ít mơ hồ hơn trước.

            Mặc dù Chơn Nhơn có những quyền năng rộng lớn, Ngài vẫn ít đúng đắn hơn Hạ Trí rất nhiều. Phàm Nhơn ưa thích trước nhất năng lực phân tách của Hạ Trí mà nó phải mở mang, cho nên nó thường khinh khi Chơn Nhơn cao hơn nó rất nhiều nhưng c̣n mơ hồ hơn. Nó có thói quen tưởng ḿnh được tự chủ, khỏi phải phục tùng Chơn Nhơn.

            Trong những giai đoạn đầu tiên của sự tiến hóa của Ngài, Chơn Nhơn c̣n mơ hồ và về phương diện nầy, Ngài không có làm cái chi cho tốt đẹp, nhưng trong Ngài không có điều ǵ xấu xa, Ngài không có khuyết điểm về đạo đức. Trong Thượng Trí hay là Nhân Thể không chứa đựng chất nào có thể ứng đáp với sự rung động thấp thỏi, nhưng ở điểm nào mà sự mở mang của nó có một chỗ khuyết, những thể thấp của nó có thể làm vài chuyện sai quấy. Trong trường hợp nầy, có thể trong lúc nguy kịch, cái Vía ám ảnh con người và trong cơn điên Y xách dao đâm kẻ khác, hay là quá cần dùng tiền, Y gặp cơ hội có thể làm tiền nhờ gian lận Y sẽ sa ngă v́ bị cám dỗ. Chơn Nhơn chưa được thức tỉnh cho lắm để can thiệp và ngăn cản hành động hay là có lẽ Ngài không hiểu rằng dục t́nh và sự tham vọng của cái Vía có thể bắt buộc bản ngă thấp thỏi phạm trọng tội. Nếu chúng ta thấy sự quấy hiện ra th́nh ĺnh trong tánh t́nh của một người kia, đừng tưởng rằng sự quấy vốn do Bản Ngă cao siêu sinh ra, nó chỉ chứng tỏ rằng có một chỗ khuyết điểm trong Chơn Nhơn; bởi v́ nếu Chơn Nhơn khá tiến hóa, Ngài ngăn chận con người khi một tư tưởng xấu xuất hiện ra th́nh ĺnh và con người không phạm trọng tội.

            Về phần chúng ta, t́m Đường Đạo bằng cách đi sâu vào nội tâm có nghĩa là chúng ta luôn luôn phải tiến lên cao rồi đem về Trần Thế trong một phạm vi, càng ngày càng thêm nhiều hơn, những bảo vật mà Chơn Nhơn xúc tích trong vô số kiếp của nó. Nhưng trong khi t́m hiểu Bản Ngă cao siêu, chúng ta nên nhớ rằng phải t́m Đường Đạo bằng cách tiến ra ngoài. Không thể nào không biết cái chi ở ngoài chúng ta. Chúng ta phải gắng sức học hỏi và t́m hiểu cơi đời và những cái chi xảy ra tại đó.


CHƯƠNG   9

QUI TẮC  20

 

            20.- Chớ nên bằng ḷng t́m Đạo với một con đường duy nhất. Mỗi tánh khí đều có một con đường riêng biệt dường như hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn, nhưng không thể t́m được Đạo chỉ với tấm ḷng sùng tín, hoặc bằng sự thiền định, hoặc bằng sự hăng hái tiến bộ, hoặc chỉ bằng sự hành động vô tư lợi, hoặc chỉ bằng sự quan sát tỉ mỉ cuộc đời. Mỗi con đường chỉ có thể giúp cho vị Đệ Tử vượt qua một nấc thang mà thôi; tất cả các nấc thang đều cần thiết để tạo thành một cái thang.

            A.B.- Qui tắc 20 là lời chú giải của Đức Đế Quân về ba câu cách ngôn ngắn từ 17 đến 19 kể trong chương trước. Qui tắc ấy nói rằng: Con người không nên giới hạn sự phát triển của ḿnh theo con đường nào mà Y gặp ít trở lực hơn hết, nhưng Y phải khai triển năng lực của Y trong mọi chiều hướng trước khi Y đi đến mục đích, sự ích lợi đại đồng. Y t́m cách trở thành một công cụ hoàn thiện của Thiên Luật và không một ai có thể thành công được nếu không khai triển đủ mọi phương diện. Bởi thế muốn thực hiện cho được sự hoàn thiện, mỗi giống người hay mỗi tánh khí phải cung ứng cho ḿnh cái ǵ mà ḿnh c̣n thiếu sót. Nhân loại đạt được mục đích không phải chỉ bằng ḷng sùng tín hoặc chỉ bằng sự thiền định, hoặc chỉ bằng sự hành động vô tư lợi và cũng không chỉ bằng sự quan sát tỉ mỉ cuộc đời mà thôi. Cuối cùng sự hoạch đắc tất cả những điều trên đây vẫn cần thiết cho mỗi người, nhưng mà trên con đường hành đạo, con người bị tánh khí ḿnh hạn chế và trong một thời gian rất lâu, những nỗ lực của vị Đệ Tử để giúp đời bị hạn chế bởi một trong những tánh khí ấy.

            Bây giờ rất dễ hiểu tại sao cần phải theo đuổi tất cả những con đường. Khi tiến tới mọi người phải xít lại gần nhau, dính liền nhau như một cơ thể trọn vẹn. V́ vậy nếu một người kia có một năng lực lớn lao về sự thiền định mà những năng lực khác lại rất thấp kém, nó không giúp Y được bao nhiêu khi Y phải tiếp xúc với một người có năng lực về sự hành động vô tư lợi. [37] Trong địa hạt nầy Y không sánh kịp họ được và sự hữu ích của Y cũng bị giảm sút đi. V́ vậy điều có thể mong ước là trong khi t́m sự toàn thiện trong lề lối làm việc riêng biệt của ḿnh và trước khi t́m cách hiểu biết trọn vẹn một vấn đề đặt ra, đồng thời vị Đệ Tử cái ǵ cũng phải học hỏi một chút ít, làm thế nào có thể tiếp xúc chặt chẽ với những người tính khí khác nhau khi mà Y phải cộng tác với họ.

            Điều chánh yếu là sự Quân B́nh. Phải đạt cho được cách làm việc theo con đường nào cũng được cho tới một mức độ nào đó. Sự kiên nhẫn cũng cần thiết vậy hầu có thể giúp đỡ mọi người. Phải xem con đường của mỗi người đi là con đường thích hợp với họ, ấy là một trong những con đường mở ra cho con người, v́ thế phải cho: Nó là tốt. Chúng ta phải kính trọng tất cả những hạng người, và riêng ta, trong khi chờ đợi lúc ta có thể giúp đỡ tất cả, chúng ta hăy thử hướng dẫn những người mà chúng ta không làm được ǵ cho họ đến những kẻ khác có khả năng giúp đỡ họ, mà chúng ta không chê bai con đường họ theo và không t́m cách dắt dẫn họ theo con đường của ḿnh đi.

            C.W.L. -  Sự phát triển gần như không bao giờ đồng điệu với nhau. Ở người nầy sự sùng tín chiếm phần hơn, ở người khác th́ trí tuệ, ở người khác nữa th́ sự hoạt động. Dĩ nhiên, mỗi người đi theo con đường đối với ḿnh  được dễ dàng hơn, song họ không nên quên rằng sự phát triển toàn diện sẽ cần thiết cho họ trước khi đắc quả Chơn Tiên. Vị Chơn Tiên trước nhứt là một người hoàn toàn và nếu chúng ta coi Ngài là lư tưởng của chúng ta, chúng ta phải rán sức phát triển nhiều cách khác nhau hết ḷng tận tụy là một điều rất tốt, nhưng mà, đồng thời phải có học thức, bởi v́ con người tận tụy mà mù quáng [38] th́ không ích lợi bao nhiêu. Đối với những kẻ đi trên con đường trí huệ, sự trái ngược lại là đúng, họ cần sự tận tụy, không vậy chỉ sợ họ lạc đường v́ sự mở mang kiến thức của họ.

            Phát triển trong một chiều hướng duy nhứt c̣n tốt hơn là không phát triển ǵ hết, nhưng mà nếu mỗi người theo đuổi con đường riêng biệt của ḿnh, đồng thời Y phải nhớ rằng c̣n có những con đường khác nữa. Người ta thường có xu hướng công kích những con đường khác và tưởng chừng rằng chúng không  ích lợi bằng con đường của chúng ta.

            Thật vậy, đối với chúng ta, có lẽ những con đường đó không ích lợi, nhưng trái lại chúng vẫn ích lợi đối với những người đi trên con đường đó. Dầu cho tŕnh độ tiến hóa hiện hữu của chúng ta tới bực nào đi nữa, điều chắc chắn là chúng ta cũng phải đạt cho được sự quân b́nh. V́ thế hôm nay chúng ta chỉ đánh giá sự hoạt động siêng cần, rồi một ngày kia chúng ta sẽ hiểu biết được người tiến bộ nhờ đức Minh Triết, và sau đó, người tiến bộ nhờ ḷng tận tụy mà chúng ta không hề phê b́nh rằng họ ít có được trực tiếp hữu ích  hơn chúng ta. Tôi e rằng những người tiến bộ nhờ ḷng tận tụy tỏ ra hẹp lượng, cố chấp với những người muốn học hỏi và làm việc. Đôi khi họ nói rằng tất cả những điều anh làm thuộc về phương diện bên ngoài hay về phương diện trí huệ thuần túy. Nhưng mà trong mọi việc ở Thế Gian cái Tâm vẫn là điều quan trọng nhất, nếu anh không lo trau giồi cái Tâm th́ không thế nào anh tiến bộ thật sự được. Thật vậy, những đức tánh thuộc về cái Tâm phải được mở mang. Tuy nhiên, một vài người tiến bộ nhiều nhờ một công tác nhứt định. Những người khác không thể khêu gợi được nơi họ cái ǵ tốt đẹp hơn, nếu không có sự học hỏi cẩn thận và sự hiểu biết minh bạch.

            Đôi khi người ta bị đời sống cao siêu lôi cuốn nên chỉ lo tham thiền nhập định. Đối với vài nhà Huyền Bí Học đó là phương sách tốt nhứt, ít ra cũng ở trong giai đoạn đầu tiên. Nhưng mà, người ta có thể nói rằng: Tôi cần phải phát triển trước nhứt hầu có đủ khả năng phụng sự. Khi tôi thành Tiên rồi tôi sẽ giúp đỡ con người một cách hoàn mỹ, tôi không c̣n lầm lạc nữa. Ở mọi tŕnh độ đều có công tác để làm, và khi trở nên xứng đáng với quả vị Chơn Tiên, con người sẽ hoàn thành sứ mạng ḿnh trên những cảnh giới cao siêu hơn những cảnh giới mà chúng ta đi đến được. V́ thế nếu chúng ta chờ đắc quả Chơn Tiên mới hiến ḿnh phụng sự thế gian, từ đây đến đó có nhiều việc thuộc về hạng thấp thỏi hơn sẽ bị bỏ bê. Chơn Sư chúng ta làm việc nhứt là trên cơi Niết Bàn, từ nơi đó, Ngài ảnh hưởng đến hằng triệu Chơn Nhơn . Trên những Cơi cao, các Ngài làm những điều mà chúng ta không làm được, nhưng dưới những Cơi thấp, có hiếm công tác vừa sức cho chúng ta làm. Đôi khi người ta nghĩ rằng các Đấng Chơn Sư cần phải làm công việc hạ cấp, thí dụ như cộng tác với người nầy, người kia ở Thế Gian. Như tôi đă giải thích, các Ngài không làm như vậy, trừ phi trong những trường hợp tương đối hiếm có. Các Ngài nhận thấy những người đó đền bù được một cách mau chóng sự cố gắng của các Ngài đă v́ họ mà ra sức. Quyền lợi của công tác đứng trên mọi quan điểm khác đến nỗi, trong đó không t́nh cảm nào được đóng một vai tṛ, dẫu là hết sức nhỏ nhặt cũng vậy. Các Đấng Chơn Sư cộng tác với một Đệ Tử, nếu bù đắp lại Y có khả năng giúp ích và nếu tinh lực đem dùng để huấn luyện và điều khiển Y trong một thời gian nhất định, phải thu hoạch được kết quả cũng bằng số tinh lực Ngài đă tiêu hao trong một phạm vi rộng răi hơn và cao cả hơn, nghĩa là nếu Y học hỏi được và nếu Y sẵn sàng làm được nhiều việc bất cứ ở trong trường hợp nào. Bằng không người ta có thể nói rằng các Ngài chủ ư đến Y một cách tổng quát mà thôi.

            C̣n nhiều công việc phải làm ở những cơi thấp, thật ra, có những hoạt động lớn lao và rất khác nhau, từ đó đến giờ đă bị lăng quên.

            Khi mà t́nh huynh đệ đại đồng được xác nhận dần dần th́ luôn luôn xuất hiện những phương thức mới để phụng sự. Các Đấng Chơn Sư của chúng ta đă có nhiều Đệ Tử trước khi thành lập Hội Thông Thiên Học nhưng phần đông là những người Á Đông như là tín đồ Ấn Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo Thần Bí (Soufis) và tín đồ Bái Hỏa Giáo (Zoroastre). Tâm lư của người Đông Phương khác hơn tâm lư của chúng ta. Tôi tưởng không phải để châm biếm, là ta có thể nói rằng: Tâm lư người Đông Phương ít thực tế hơn tâm lư người Tây Phương về một vài phương diện.

            Phần đông những Đệ Tử Ấn lo lắng nhứt là về sự học hỏi riêng tư của họ, vả lại công việc nầy đ̣i hỏi lắm công phu khó nhọc và họ tiến bước khá xa trước khi họ ngưng lại để giúp đỡ đồng loại. Công tác cứu trợ vô h́nh đối với họ không hấp dẫn như đối với chúng ta. Ở Ấn Độ không một người nào dầu cho là anh lao công tương đối cũng không đến nỗi hoàn toàn mù tịt về đời sống sau khi chết như một tín đồ Thiên Chúa Giáo bực trung. V́ vậy không cần thiết giải thoát họ ra khỏi cái ảo ảnh do sự tin tưởng một miền địa ngục đời đời tạo ra.

            Khi mà những Sinh Viên chúng ta nhận thức được bản tánh của các công tác ở cơi Trung Giới, họ biết rằng sự cần giúp đỡ lớn lao vô cùng. Trước mặt sinh viên có hàng ngàn người rên siết dữ dội v́ họ bị một cơn ác mộng, một thứ bù nh́n do chính họ tạo ra bởi ảnh hưởng những lời giáo huấn phi lư. Đứng trước một cảnh tượng như thế tức th́ phát sinh ư muốn làm giảm bớt mọi sự đau khổ liền, v́ vậy công việc của những người cứu trợ vô h́nh phát khởi và bành trướng như một quả bóng tuyết. Người được cứu bắt đầu giúp đỡ lại kẻ khác v́ thế mà trong ṿng 35 năm nay, từ khi công việc nầy được tổ chức có phương pháp, kết quả thâu thập được thật là to tát.

            Một người có thể tiến hóa rất cao bằng cách chỉ chăm lo sự phát triển riêng tư của ḿnh, nhưng với đường lối nầy, Y không đạt được quả vị Chơn Tiên. Người nào đợi đến khi ḿnh thành Tiên mới giúp đời, không bao giờ được thành Tiên. Y có thể ẩn ḿnh vào cơi Niết Bàn nghĩa là đă được giải thoát nhưng Y không hiểu rằng Đức Thượng Đế đang chờ đợi những ǵ ở nơi Y. Một đám đông người ít tiến hóa và ít xuất sắc nhưng biết được điều đó sẽ theo kịp Y.

            Bởi vậy cho nên Y phải từ khước đời sống trên những cơi cao và trở xuống thấp học hỏi lại những điều Y chưa biết nghĩa là Nhân Loại là một, và nếu không hiểu điều nầy, khó mà lên tới tột đỉnh của sự tiến bộ.

            Nhưng, như ở đây đă nói, việc làm vô tư  lợi, tự nó, cũng chưa đủ bảo đảm sự phát triển trọn vẹn. Con người cũng cần phát triển ḷng tận tụy, nhứt là năng lực đáp ứng với cái ánh sáng bên trong. Không vậy y là một khí cụ bất toàn, dù Y hăng hái làm việc đi nữa Y cũng không có khả năng đáp ứng mau lẹ với những dấu hiệu, những sự chỉ dẫn xuất phát từ Cơi trên đưa xuống. Có thể nói Y cần phải được dẫn dắt mạnh mẽ đúng theo đường lối chánh, chỉ một cử động nhẹ của bàn tay là đủ rồi và thiếu điều kiện nầy, sự huấn luyện Y sẽ làm cho Chơn Sư  nhọc ḷng nhiều hơn.

            Con người cũng phải có vài khái niệm về Thiên Cơ bởi v́ công nghiệp nầy rất vẻ vang và muốn hoàn thành nó, sự hiểu biết rất cần thiết. V́ vậy phải cố gắng mở mang trí thức mới đạt được kết quả đó. Trong lúc hoạt động, chúng ta thâu thập được nhiều sự hiểu biết, nhưng chúng ta có đủ lư do để lợi dụng những kinh nghiệm chung của các bậc tiền bối chúng ta, và do sự nghiên cứu, chúng ta học hỏi thêm đầy đủ chừng nào càng tốt chừng nấy hầu mau kiện toàn công việc chúng ta.

            Những tật xấu của con người trở thành những nấc thang, từ cái nầy đến cái kia, khi mà con người chế ngự được chúng. Những đức tánh của con người, tự chúng nó cũng là những nấc thang cần thiết mà con người không sao bỏ qua được. Tuy nhiên, dù những nấc thang đó tạo nên một bầu không khí thuận tiện và một tương lai phúc hậu, nhưng nếu chỉ có những tánh tốt thôi, chúng nó cũng không ích ǵ cả.

            A.B.- Ở đây tật xấu cũng như tánh tốt đều được gọi là những nấc thang. Sự đồng hóa nầy đối với Sinh Viên không có ǵ phương hại. C̣n đối với Đệ Tử nó rất cần thiết, nhưng ở Thế Gian tốt hơn là chấp nhận một ư nghĩa thu hẹp, bởi v́ đối với những người chưa tiến hóa, tật xấu không có nghĩa ǵ khác hơn là tật xấu và tánh tốt là tánh tốt. Sự đồng hóa làm xáo trộn những quan niệm về luân lư của họ. Họ không thể áp dụng những nguyên tắc như họ đă thông thạo vấn đề và họ chỉ thấy cái giá trị đạo đức của sự hành động mà thôi. V́ vậy họ cần có một bảng danh sách những tật xấu nên tránh, những qui tắc đạo đức và xă hội nên theo. Làm xáo trộn ư kiến chung về tật xấu và tánh tốt là một sự sai lầm, mặc dầu ư kiến ấy cho phép thực hiện nhiều việc mà người Đệ Tử không biết đến.

            Trái lại, những Sinh Viên Huyền Bí Học phải biết rằng những người nầy, những người kia là những biểu hiện của Thượng Đế. Cách thức xem xét vấn đề là coi mỗi Linh Hồn như là một Đấng Thần Linh, một tâm điểm của nhiều ly tâm lực rải rác khắp Thế Gian. Đời sống của con người phải là sự biểu lộ của Atma và nó sẽ gặp sự biểu lộ của Atma ở ngoài đời. Trong những giai đoạn đầu tiên của sự tiến hóa của nó, không có ǵ có thể gọi là tật xấu hay là tánh tốt cả, đó chỉ là một luồng Thần Lực biểu lộ nhiều cách khác nhau mà những luật lệ của xă hội hiện đại của chúng ta không thừa nhận. Và từ khi khởi sự chuyển kiếp làm người, chắc chắn phần đông trong chúng ta, đặc biệt là những ai có cá tánh hồi c̣n ở trong những loại thú cao nhứt có thể đă sử dụng trí tuệ của họ tới một điểm nào đó và do vậy họ học được nhiều điều khi họ nh́n xem chung quanh họ. Tuy nhiên trên thực tế, tất cả chúng ta trong giai đoạn đầu tiên đều có phạm những điều mà ngày nay người ta cho là những hành vi xấu xa. Những kinh nghiệm này dạy chúng ta phải hành động khôn khéo hơn, v́ vậy chúng là những nấc thang hay là những phương tiện để tiến hóa; ngoài ra chúng c̣n giúp ta hiểu biết và giúp đỡ kẻ khác mà giờ đây họ đang thực hiện những sự kinh nghiệm tương tự. Tất cả những thứ kinh nghiệm đều cần thiết như nhau. Khó cho ta nhận thức được chúng, dù là từng phần riêng rẽ, nếu không nhờ đến mọi cách thức biểu hiện. Không bao giờ chúng ta có thể giúp đỡ được đồng loại khi mà chúng ta không hiểu biết họ. Có thể xưa kia chúng ta là những kẻ sát nhân, hay những người say rượu, nếu đó là kinh nghiệm đặc biệt của chúng ta và hiện giờ chúng ta thấy đó là điều quấy, ấy tại v́ vô minh mà chúng ta đă có những hành động như thế nên chúng mới đem sự đau khổ đến cho chúng ta. Về sau, chúng ta biết rằng chúng cản trở sự tiến hóa của ḿnh, chúng là tật xấu, nhưng nếu chưa có một vài mức độ kinh nghiệm nào, chúng ta chưa biết hành động đó là xấu đâu. Không có lời khuyên nhủ nào khả dĩ cho ta những sự hiểu biết đúng đắn, những sự hiểu biết nầy chỉ là những kết quả của sự kinh nghiệm mà thôi. Sau khi học xong bài học của chúng ta ở một điều nào đó rồi, dù cho sức cám dỗ mănh liệt thế mấy chúng ta cũng không hề phạm vào lỗi đó nữa đâu. Huynh không bao giờ được an toàn nếu Huynh c̣n có thể bị sa ngă. Phải biết điều nầy một cách có ư thức. Ấy là khái niệm khuôn mẫu, ấy là kinh nghiệm căn bản cần thiết cho Huynh nếu Huynh muốn được an toàn và có đủ khả năng phụng sự.

            C.W.L.- Cũng ở đây Đức Đế Quân nhắc nhở chúng ta rằng mục đích của sự huấn luyện huyền bí không phải chỉ làm cho con người có đức hạnh mà c̣n trở thành những mănh lực Thiêng Liêng lớn lao có thể hợp tác một cách khôn ngoan với Đức Thượng Đế.

            Đức hạnh cao quí là một điều cần thiết trước nhứt, nhưng một ḿnh nó, cũng không ích lợi ǵ. Bước đầu tiên của sự tiến hóa và trong những giai đoạn sơ khai của nó, con người chưa có ư niệm về Thiện và Ác, v́ vậy mà người ta không thể gán cho họ có tánh tốt hay là có tật xấu. Người dă man, thật ra là một ly tâm lực theo loại vô trách nhiệm mà chúng ta thường gặp trong những loài hạ đẳng. Một con ruồi có một thân h́nh nhỏ xíu, nhưng sánh với thân h́nh của nó, nó phát ra một tinh lực kinh khủng. Tỷ dụ một sinh vật bằng chúng ta có một tinh lực to lớn tương xứng với thân ḿnh mà nó không biết ǵ hơn con ruồi về sự tác dụng tinh lực của nó, th́ đó là một sinh vật hung bạo, đáng sợ, một tai họa cho những người chung quanh.

            Một người dă man có một tinh lực tương tự, biểu hiện bằng những trận giặc, những sự tham lam đủ thứ, dĩ nhiên đối với quan điểm của chúng ta đó là những tật xấu mặc dầu rất khó mà xem mấy điều đó như là những tật xấu. Ở nơi họ không có thú vui vô đạo và bỉ ổi nào hơn để thúc đẩy họ đến cuộc chém giết như chuyện thường xảy ra ở những người thuộc về giống dân văn minh. Chắc chắn họ cảm thấy một thứ kiêu hănh chiến thắng được đồng loại và tàn sát chúng, như thế đó họ phải tiêu hao một số tinh lực lớn lao mà trong nhiều ngàn năm sau mới tập trung lại một cách hữu ích được.

            Họ phải tập điều khiển tinh lực ấy, để nó xuyên qua ḿnh mà chính họ hay kẻ khác không v́ đó chịu khổ. Nhưng đây là một vấn đề kỷ luật và phát triển dài lâu, và cũng là vấn đề do Chơn Nhơn chế ngự các thể của ḿnh.

            Ở một tŕnh độ cao hơn nhiều, đối với một người có sẵn một quyền lực rộng hơn th́ cũng thế; thí dụ một nhà triệu phú người Mỹ xưa kia có thu hoạch một gia tài lớn lao bằng cách làm cho đồng loại họ tán gia bại sản. Họ hành động một cách thậm tệ, xấu xa để đạt cho được những năng lực ghê gớm về sự tập trung tư tưởng và sự chỉ huy.

            Trong t́nh trạng nầy, họ tập sử dụng năng lực ấy và điều khiển con người, có lẽ trong một kiếp khác, họ sẽ trở nên một vị tướng lănh. Khởi đầu họ dùng quyền lực như nhà độc tài Nă Phá Luân để thỏa măn danh vọng cá nhân, cho ḷng tham muốn của họ. Về sau họ tập cách sử dụng năng lực ấy vào việc phụng sự nhân loại. V́ vậy, chắc chắn những tật xấu của con người là những nấc thang đưa lên đến chỗ cao hơn và tốt đẹp hơn. Tóm lại, muốn tiến qua từ tật xấu đến tánh tốt, phải tập trấn áp tinh lực của ta và đưa nó vào chiều hướng tốt đẹp. Sự thay đổi tật xấu ra tánh tốt, bắt đầu từ ngày chúng ta nhận biết rằng tinh lực phung phí như thế đă gây nhiều đau khổ th́ cũng có thể sinh ra những hậu quả tốt. Mỗi khi một tật xấu bị loại trừ, nó biến đổi thành một tánh tốt đối lập và v́ thế nó trở thành một nấc thang thật sự giúp ta tiến tới trong sự phát triển của ta.

            Kẻ nào muốn bước vào đường Đạo phải biết lợi dụng một cách khôn ngoan tất cả bản tánh của con người.

            A.B. - Ở đây con đường Đạo có nghĩa là đời sống thiêng liêng theo nghĩa chính của nó. Con người là một sinh vật Thiêng Liêng, đời sống Thiêng Liêng mới là đời sống thật của nó. Muốn theo con đường nầy, nó phải tận dụng tất cả năng lực, tất cả sức mạnh, tất cả con người của nó. Cái điều mà con người c̣n ở trong trạng thái tiềm thế, chưa hiện ra th́ sẽ trở thành thực tế, đây có nghĩa là trở thành một biểu hiện của Đức Thượng Đế. Tới một giai đoạn, vị Đệ Tử được nghe nói: Ngươi là đường Đạo. Từ trước đến giờ Y gọi Chơn Sư là con đường Đạo của Y. Y thấy Ngài là sự biểu hiện của Đức Thượng Đế, nhưng khi  trong tâm Y biểu hiện được Đức Thượng Đế th́ chính Y trở thành con đường Đạo và càng tiến tới , Y càng thành Đạo. V́ vậy tất cả bản tánh của con người phải được lợi dụng một cách khôn ngoan, kế đó, Điểm Linh Quang, nhờ khí cụ của ḿnh tạo thành, có thể phô bày những năng lực tiềm tàng của ḿnh vào đời sống linh động và thiết thực.

            Danh từ Điểm Linh Quang không phải dùng như một h́nh ảnh nên thơ thông thường đâu. Nó chứa đựng một Chơn Lư mà ta không thể nào được phép quên và cũng không thể diễn tả bằng những danh từ nào khác. Người ta cũng gặp ư tưởng nầy trong quyển Cương Yếu (Catéchisme) được kể ra trong bộ Giáo Lư Bí Truyền (La Doctrine Secrète): Vị Đạo Sư hỏi môn đệ ḿnh rằng: Con thấy ǵ? Và vị Đệ Tử thấy vô số tia sáng dường như mỗi cái đứng biệt lập một ḿnh. Đối với kẻ vô minh th́ đúng vậy, nhưng dưới mắt của vị Thánh Nhân những tia sáng ấy hợp thành một ngọn lửa duy nhất. Một tia sáng với tư cách là trung tâm của Tâm Thức là một điểm rộng lớn mênh mông, không thể tách rời ra được. Thật ra, tất cả trung tâm đều là một, v́ chỉ có một viên thể cuối cùng, một vũ trụ duy nhất, nhưng mà dưới Cơi Niết Bàn, lẽ mầu nhiệm của trạng thái đơn nhất không làm sao hiểu nổi. Ở dưới các Cơi thấp, không thể nào diễn tả được. Mọi sự thử phô diễn nó bằng những biểu tượng cũng vẫn c̣n là bất toàn.

            Điểm Linh Quang là Chơn Thần mà ba Ngôi là h́nh ảnh của nó trên Cơi Niết Bàn. Tại đây Tinh Thần Atma phân làm ba Ngôi, nó phóng một trong những quyền lực của nó xuống Cơi Bồ Đề, và một quyền lực khác xuống Cơi Thượng Giới. Chơn Thần có những tiềm lực của Đức Thượng Đế mà trong buổi đầu tiên nó không bao giờ biểu lộ được.

            Atma đi xuống dưới hiện ra làm Manas là nguyên lư tạo ra cá nhân, ấy là năng lực sinh sản Bản ngă, do đó sinh ra Cá tánh trong thời gian, tương phản với Vô Thủy Vô Chung. Nó bao ḿnh bằng một lớp vật chất hầu biểu hiện ở cơi Thượng Thiên và như thế tạo ra một vận cụ là Nhân Thể (Corps causal). Nhân Thể sống trải qua suốt những kiếp luân hồi của con người. Ấy là cái thể cấu tạo với niềm đau khổ, nhờ đó con người tự nguyện theo đuổi sự phát triển của ḿnh.

            Huynh hăy quan niệm rằng Atma đi xuống ban rải thần lực ở Cơi thứ ba (bắt từ trên đi xuống) nghĩa là Cơi Thượng Giới (Cơi Trí Tuệ). Nó bao ḿnh bằng một lớp vật chất tức là chất khí cao nhất [39] của Cơi nầy và tạo thành Nhân Thể, là vận cụ của nó dùng từ đây để biểu hiện trạng thái trí huệ của nó tại Cơi nầy. Nó là Ngôi thứ Ba Manas mượn Nhân Thể (Thượng Trí) khi nhập thế để đi đầu thai; Manas phân ra làm hai. Nó xuống những cảnh giới thấp của Cơi Trí Tuệ và tạo thành nơi đây một vận cụ gọi là Hạ Trí. Tới phiên nó, Hạ Trí tạo thành thể Vía, và Thể Vía đến lượt nó dùng tinh lực làm ra Thể Phách  và Thể Xác.

            Trên Cơi của nó, mỗi thể là một phương tiện để thu hoạch kinh nghiệm và kinh nghiệm nầy được truyền lại cho chủ nhân sanh hóa nó, nếu bản tánh nó làm được việc nầy. Như thế, khi con người ĺa bỏ trần gian, Hạ Trí chuyển đạt lên Nhân Thể mọi kinh nghiệm đă thu hoạch rồi th́ Phàm Nhơn tan ră. Nhân Thể lưu trữ những kinh nghiệm khác nhau thuận lợi cho cuộc trưởng thành của nó và giữ măi chúng trong suốt thời gian của những kiếp tái sanh của nó sau nầy.

            Phần khác, Nhân Thể liên lạc với cái ǵ ở trên nó. Về phương diện nội tâm hay là phương diện cao hơn, từ vận cụ nầy tinh hoa của tất cả những sự kinh nghiệm của Nhân Thể đều chuyển đạt lên Manas, Ngôi Ba của Atma, như thế điều ǵ mà trạng thái Trí Tuệ của Atma thâu nhận được khiến nó đủ khả năng hoạt động khỏi cần đến Nhân Thể, nghĩa là không cần có vận cụ mà cũng không có giới hạn nào cả.

            Quen thuộc với những sự kiện trên, học giả sẽ nhận thấy rằng những lời lẽ trên đây giải thích cái chết của Cá Tánh. Vả lại, ư niệm này vẫn gặp trong những kinh sách Ấn Giáo và Phật Giáo. Nhân Thể tiêu biểu cho Cá tánh, nó sống măi suốt chu kỳ của những kiếp luân hồi. Tạo ra trong một lúc, nó cũng phải bị hủy diệt trong một lúc khác. Đă có sanh tất  phải có tử. Theo thành ngữ của Thánh kinh Gita Cái chết chắc chắn sẽ đến cho kẻ nào đă sanh ra.[40] Điều nầy thật đúng, chẳng những ở ngoại giới mà cũng trong ư nghĩa rộng hơn, Nhân Thể đă sanh ra tất phải bị hủy diệt. Chính nó là nơi trú ẩn mà Điểm Linh Quang đă kiến tạo với nhiều công lao khó nhọc. Chính nó là Cái Tôi của vị Đệ Tử. Ở những người khác, Cái Tôi c̣n ở dưới thấp hơn nữa trong Phàm Nhơn, nhưng Cái Tôi mà chúng ta vừa nói đến chúng ta phải tiến tới nó khi bước vào đường Đạo; [41] cuối cùng chúng ta phải vượt qua khỏi nó khi giai đoạn phát triển của Atma đă chấm dứt; ấy là lúc được giải thoát thật sự.[42] Từ đây đến đó nó thu hẹp lại và bản chất của nó thay đổi dần dần theo sự trưởng thành của vị La Hán. Đến một ngày kia, người ta nhận biết rằng họ là Cái Tôi bất toàn chớ không phải là Cái Tôi chân thật, nhưng trong thời kỳ hiện hữu của sự tiến hóa Nhân Loại, tất cả sự ướm thử để miêu tả nó chỉ làm sai lạc ư những ư niệm mà thôi.

            Vị Đệ Tử có lư do tự nguyện t́m hiểu và thanh lọc cá tánh. Cá tánh được cấu tạo để phụng sự người tạo thành ra nó, đôi khi, nó được gọi bằng danh từ chuyên môn là vật được sáng tạo ra (créature), v́ thế, người ta nói rằng con người thật (Chơn Nhơn) gặp gỡ vật của nó tạo ra, cũng thế, cá tánh hay vật tạo ra gặp lại con người tạo thành ra nó (créateur). Sự gặp gỡ nầy chỉ xảy ra trong một giai đoạn khá cao của cuộc tiến hóa. Khi con người gặp lại vật của Y tạo ra th́ Y trở nên toàn năng, toàn thiện và vượt qua khỏi cá tánh.

            Sự cấu tạo cá tánh nầy xảy ra trong một giai đoạn thấp thỏi, [43] nó bắt buộc con người phải dùng nhiều nỗ lực trường kỳ. Những người ít tiến hóa bị nhốt trong những thể thấp của họ một thời gian thật lâu và điều nầy cần cho sự tiến bộ của họ khi mà cá tánh chưa được cấu tạo trọn vẹn. V́ vậy, Nhân Thể (Thượng Trí) cũng c̣n ở trong t́nh trạng của lớp vỏ vô ư thức, trong khi ở Phàm Nhơn những sự hoạt động đă diễn ra. Phải mất bao nhiêu thời gian để cấu tạo Thể Xác; phải mất bao nhiêu cuộc Tuần Huờn, biết bao nhiêu giai đoạn mà tổ tiên con người tại Dăy Nguyệt Cầu (Pitris) [44] phải trải qua, trước khi đủ năng lực bước sang cuộc tiến hóa của Nhân Loại. Thời gian cần thiết cho con người để cấu tạo cá tánh vốn biến đổi vô cùng, không nhứt  định được, nhưng tất cả đều phải mất một thời gian thật lâu. Sự cấu tạo nầy rất mau lẹ trong những giai đoạn cao siêu, nhờ sức kích thích của Chơn Nhơn đă tiến hóa hơn trong những giai đoạn thấp thỏi. Khi Trí Tuệ tiến đến một giai đoạn cao, nó sử dụng những mănh lực cao siêu, và tập không phung phí những mănh lực ấy bấy giờ sự cấu tạo được tiếp tục một cách thần tốc. Đối với chúng ta đó là một sự khích lệ mạnh mẽ. Thật vậy, chúng ta nhớ lại Dăy Nguyệt Cầu và nghĩ đến thời gian chúng ta dùng để tiến tới, nếu phải tái diễn, thời gian ấy đối với ta thật là quá lâu, xa vời; nhưng nếu chúng ta nh́n tới trước, chúng ta nhận thấy sự tiến bộ có thể gia tăng một cách mau chóng hầu như không thể tưởng tượng được.

            Điểm Linh Quang, tự nó, không thể làm ǵ được, mọi phát triển của nó phải do sự tiếp xúc với những tinh lực bên ngoài và các vận cụ của nó . Không có chúng, không thể có sự tiến triển. Như Đức Bà Blavatsky đă nói: Tinh Thần vốn vô ư thức ở các Cơi thấp. Nó không thể phô diễn một quyền lực nào nếu không có một Thể Xác để biểu lộ quyền lực đó tại cơi nó đang hoạt động.

            Hơn nữa, nó chỉ làm chủ được các Thể của nó khi nào chúng trở nên hoàn thiện. Công việc hoàn thiện hóa các Thể làm phát triển những năng lực của Tinh Thần cho đến mức hoàn thiện. V́ vậy cả hai đều phát triển một lượt với nhau. Khi công tác nầy hoàn thành xong, Tinh Thần có năng lực làm tan vỡ những Thể cá nhân [45] lúc nó loại bỏ những Thể đó ra ngoài và cấu tạo lại tức khắc những Thể đó khi nó xét thấy điều nầy cần phải làm.

            Hăy tưởng đến những Đấng Thiêng Liêng đă toàn thiện. Sự phát triển của các Ngài chỉ cần dùng các Thể khi nào các Ngài c̣n tiến hóa trong hàng ngũ Nhân loại hay các loài thấp hơn, nhưng nếu trong các Ngài có một vị đă đồng hóa mọi kinh nghiệm của cuộc tiến hóa nầy, muốn biểu hiện ra, bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể tạo ra một Thể cần thiết cho công việc đó, và sau khi đă sử dụng những năng lực của Cơi nầy rồi, Ngài loại bỏ nó một lần nữa. Nói về các Đấng Tinh Quân (Esprits planétaires) , Đức Bà Blavatsky cho chúng ta biết các Ngài đă đầu thai vào hàng Nhân Loại. Chúng ta không thể thấy các Ngài trong những vai tṛ cứu trợ, nếu trong những giai đoạn làm người các Ngài không đồng hóa được sự kinh nghiệm cần thiết. V́ vậy cũng có những Đấng không thể hiện ra, nhưng có đủ khả năng hiện ra bằng cách mượn trong tinh hoa của các Ngài sự kinh nghiệm mà các Ngài cần dùng và tạo ra một vận cụ để có thể hoạt động trong đó.

            Người ta rất dễ hiểu tại sao có những Thể để riêng cho các Ngài dùng. Khi tiến tới, chúng ta cởi bỏ những Thể dùng để biểu hiện bên ngoài và chỉ tập sử dụng nó riêng cho công tác cao cả mà không chút tư ư nào hết. Đối với Đệ Tử đi tới tŕnh độ đó, Thể Xác phải là sự nỗ lực của anh thường ngày. Thể Xác phải được chế ngự đến nỗi trong tâm anh không c̣n bóng h́nh của nó nữa. Nó có đây là để phụng sự anh và anh phải tập chế phục nó hoàn toàn hầu nó không thể bắt anh làm những kinh nghiệm nào mà anh không muốn; nó chỉ c̣n là một công cụ vừa tầm tay của anh; anh dạy nó chuyển đạt những kinh nghiệm của nó cho Chơn Nhơn. Một ngày kia, anh không cần đến sự chuyển đạt kinh nghiệm nữa, Bản Ngă sẽ chọn lựa tùy ư ḿnh. Đó là một đỉnh núi cao ṿi vọi, đó là tŕnh độ của vị Chơn Tiên.

            Trong quyển Giáo Lư Bí Truyền có nói rằng: Thể Xác của Chơn Sư là ảo ảnh, đây chỉ có nghĩa là Thể Xác không làm bực bội, xáo động hay khó chịu cho Ngài. Do Thể Xác nầy, những mănh lực xung quanh chỉ có thể ảnh hưởng đến Ngài trong phạm vi Ngài cho phép mà thôi và không thể làm lung lay trung tâm của nó được. Đức Bà Blavatsky cũng nói rằng Thể Xác của Chơn Sư chỉ là một vận cụ không truyền đạt cái chi hết, một điểm tiếp xúc với cơi Trần, một Thể dành cho nhu cầu hoạt động của Ngài, rồi bị phế thải sau đó  khi không c̣n thiết dụng nữa. Đối với Thể Vía và Thể Trí cũng thế. Khi Nhân Thể thành ra một dụng cụ th́ cá tánh tan mất. Atma có năng lực biểu hiện tùy thích trạng thái thứ Ba của ḿnh trên cơi Thượng Giới và không c̣n duy tŕ một Thể thường trực nữa.

            C.W.L. - Câu cách ngôn ngắn nầy dường như trái ngược với vài câu cách ngôn trước. Thí dụ: Nó dạy chúng ta diệt ḷng ham muốn, diệt vài thành phần của chính chúng ta. Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh (La voix du silence) nói rằng: Vị Đệ Tử phải tập tùy ư tiêu diệt Thể Nguyệt Tinh [46] - nghĩa là tiêu diệt Thể Vía, chừng nào cũng được. Hai chữ tùy ư là cái bí quyết. Không nên tiêu diệt Thể Vía, nếu diệt nó chúng ta sẽ thành những quái vật trí hóa rất mở mang, nhưng không có chút thiện cảm nào cả. Nhiều người rất sợ sự cảm động v́ họ không thể chống lại nó, tuy nhiên, họ phải gắng sức không phải để tiêu diệt nó mà là để thanh lọc và trấn áp nó. Nó phải là một mănh lực khả dĩ giúp ích chớ không phải một mănh lực đè nặng lên chúng ta. Không nên tiêu diệt sự cảm động, bởi v́ không có nó, chúng ta không bao giờ có thể hiểu được sự cảm động của kẻ khác  và sau đó, cũng không bao giờ chúng ta có thể giúp đỡ những người có tánh hay cảm động. Chúng ta chỉ nên tinh luyện nó và trừ tuyệt mọi yếu tố cá nhân riêng biệt.

            Cũng thế, những người trí thức không nên tiêu diệt trí tuệ của ḿnh mà phải gắn cho nó một cái hàm thiết, rồi dẫn dắt nó đi. Thật rất đúng, trí tuệ cũng như sự sùng tín có thể nổi xung. Luôn luôn người ta không hiểu được điều đó. Người ta nói trí tuệ tự nó cản trở chúng ta sa vào chỗ cực đoan. Tôi sợ điều nầy không phải như vậy. Nhiều người thần thánh hóa trí tuệ, họ nói: Lư trí của chúng ta là kẻ hướng đạo duy nhất mà chúng ta có và chúng ta theo nó một cách hợp lư cho đến cùng.

            Thật quả như vậy, nếu tất cả tiền đề của nó là đúng, nhưng thường thường chúng rất thiếu sót. Những người nầy thường chỉ xét vấn đề trên phương diện h́nh thức bên ngoài, sự kết luận cũng không tránh khỏi những sai lầm. Tôi xin lặp lại: Phải giữ quân b́nh, phải tập nghiên cứu một vấn đề dưới mọi phương diện, phải tránh sự phát triển một đức tánh duy nhất, - dù tốt thế mấy đi nữa  cho đến đỗi mọi đức tánh khác biến mất cạnh bên nó, bởi v́ thường thường một đức tánh tốt tuyệt diệu có thể trở nên nguy hiểm nếu nó tách rời những đức tánh khác, tức là đứng riêng biệt một ḿnh. Người có trí thông minh sắc bén đáng được chúng ta khen ngợi, v́ sự mở mang trí tuệ, nhưng Y càng phải lo giữ chừng phương diện khác nữa của bản tánh Y, như t́nh thương, t́nh thiện cảm, không được thờ ơ, không được lảng quên.

            Cũng thế, rất đúng vậy, những người có t́nh thương và thiện cảm phải lo phát triển về phương diện trí tuệ, để đừng v́ thiện cảm đến đỗi làm một điều khờ dại, không giúp đỡ được kẻ khác mà lại c̣n cản trở họ không thể tiến tới nữa. Một người có t́nh thiện cảm quá nồng nhiệt nhưng v́ không sáng suốt, thường bất lực trong sự giúp đỡ người khác, cũng như một số đông những người chứng kiến một tai nạn lớn lao mà không biết ǵ về y học cả. Nhiều người đầy ḷng thiện cảm và rất mong muốn giúp đỡ nhưng không biết phải làm ǵ. Nếu họ dốt nát, sự cố gắng của họ có thể làm hại cũng như làm lợi. Sự hiểu cũng cần thiết như sự cảm xúc, điều nầy không ai chối căi được.

            Trong bản tánh của ta, cảm xúc là một lực kích thích (xung lực), trong những bản văn cổ Ấn Độ nói rằng:  Những sự cảm xúc là những con chiến mă do Hạ Trí cầm cương điều khiển. V́ thế phải khai triển sự cảm xúc và luôn cả Hạ Trí nữa. Những con ngựa cần thiết cho ta, ấy là phương tiện để tiến bộ, một kho dự trữ  sinh lực, nhưng sự chỉ huy hợp lư không phải là ít hữu ích, nếu không có nó, những con ngựa đó nổi chứng lôi cuốn chúng ta. Tất cả điều nầy được luôn luôn chỉ dẫn trong mọi tác phẩm Huyền Bí Học, tuy nhiên, cần lặp đi lặp lại cho thường, v́ người ta sẽ quên đi. Luôn luôn có người chỉ mở mang một phương diện, c̣n phương diện khác ở trong t́nh trạng phôi thai. Đó là một trong những lư do có thể đưa đến sự sa ngă, dù là một người tiến hóa cao.

            Nói một cách tuyệt đối, mỗi người, đối với chính ḿnh là con Đường Đạo, là Chân Lư và là Sự Sống. Nhưng tất cả đều trở nên sự thật là chỉ khi nào nó thấu hiểu trọn vẹn cá tánh của nó và nhờ sức mạnh của ư chí Thiêng Liêng đă thức tỉnh, nó nhận biết cá tánh nầy không phải thật là nó mà là cái vật do nó cần mẫn tạo thành để riêng cho nó sử dụng, và nhờ đó nó tự nguyện tiến tới sự sống ở bên ngoài cá tánh, khi sự phát triển của nó mở mang dần dần trí tuệ. Khi nó biết rằng v́ lư do nầy mà sự sống tồn tại, sự sống phi thường và phức tạp,  thật ra chỉ tới chừng đó nó mới ở trên Đường Đạo.

            C.W.L.- Con Đường Đạo nghĩa là đời sống Thiêng Liêng thật sự  chỉ t́m thấy sau khi cá tánh đă được tạo thành. Ở đây, danh từ do Đức Đế Quân Vénitien dùng, cái vật phức tạp nầy được cấu tạo với nhiều công phu khó nhọc và cố gắng để dành riêng cho nó sử dụng, có thể áp dụng cho cá tánh, cũng như cho mỗi Phàm Nhơn. Chơn Thần cấu tạo cá tánh hay là Chơn Nhơn, đến phiên nó, nó cấu tạo ra nhiều Phàm Nhơn khác nhau, nhưng tất cả đều phụng sự cho đời sống cao siêu và cũng chỉ v́ lư do duy nhất nầy mà thôi. Tất cả mọi người đồng phạm một lỗi lầm là đồng hóa với bản tánh thấp thỏi và để nó làm cho họ tin rằng nó là Bản Ngă, sự thật, trong khi đó Bản Ngă là Chơn Thần, ở tận trên cơi cao và sử dụng hết thảy những vận cụ nầy.

            Có thể định nghĩa cuộc tiến hóa của Nhân Loại là một sự phản bổn hườn  nguyên, nhưng luôn luôn con người mang theo ḿnh những bó hoa thơm [47] chớ không hề trở về với hai bàn tay trắng. Sự truyền đạt những thành quả của kinh nghiệm từ thấp lên cao luôn luôn tiếp tục ở tất cả mọi tŕnh độ. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta vẫn làm như thế bằng nhiều cách, nhưng chúng ta lại không giải thích như vậy. Thí dụ chúng ta biết đọc trong kiếp nầy chúng ta tạo được năng khiếu đó một cách chậm chạp với nhiều cố gắng. Hôm nay, chúng ta cầm một quyển sách lên và hiểu liền những trương sách nói ǵ. Về điều nầy rất vô ích mà nhớ lại rằng chúng ta biết đọc, những chi tiết của kinh nghiệm nầy đă bị quên hết, chúng ta không lợi lộc ǵ mà nhớ tới nó. Vài người trong chúng ta tập đọc những nốt nhạc và đọc được nó, nhưng lúc mới bắt đầu học, họ phải xem xét kỹ lưỡng mỗi nốt và kế đó t́m nút nhạc tương ứng trên phím đàn. Hôm nay sự cần thiết của tất cả công việc đó đă quên, sự nhớ lại mỗi bài học xưa, không c̣n cần thiết nữa để dạo đàn, mục đích của nó đă đạt được.

            Việc nhớ lại những tiền kiếp cũng đúng như thế. Những người tin có Luân Hồi thường có ẩn ư oán hận, bởi v́ họ không nhớ được nguyên nhân của những sự đau khổ hiện thời của họ, tuy nhiên, họ bằng ḷng chấp nhận những sự đau khổ nầy do tội lỗi xưa kia gây ra. Có lẽ ư thức nầy thật tự nhiên, nhưng không có ǵ quan trọng. Linh Hồn hiểu biết, ghi chú nguyên nhân sanh ra một kết quả xấu và cố gắng hết sức ảnh hưởng đến Phàm Nhơn hầu tránh sự tái phạm những lỗi lầm.

            Người ta tưởng rằng đời sống của chúng ta sẽ được giản dị nếu Phàm Nhơn có thể nhớ lại tất cả những kiếp quá khứ. Về vài phương diện có thể được, nhưng theo ư tôi, nếu trước khi đắc quả Chơn Tiên mà Phàm Nhơn chúng ta nhớ lại tất cả những kiếp đă qua th́ có hại hơn là có lợi. Trước hết, chúng ta không đủ khả năng cân nhắc tất cả những sự việc với một cách thản nhiên, b́nh tĩnh. Cảnh tượng của những tội ác gớm ghiếc do chúng ta gây ra ở những kiếp trước làm cho ḷng chúng ta chán nản.

            Từ lâu tôi biết cách truy ra những tiền kiếp của tôi, tôi không được vui chút nào cả. Những việc làm cao thượng, những sự tốt đẹp đôi khi xảy ra trong những kiếp trước của mỗi người, và người ta gặp lại chúng với niềm vui thỏa thích, nhưng trong sự quan sát một kiếp quá khứ, cái điều làm ta xúc động trước hết và mănh liệt hơn hết là một số cơ hội mà người ta không thấy được. Đây đó, khắp cả, những cơ hội bao quanh chúng ta, và tôi ngạc nhiên mà nhận xét rằng: Chúng ta quá ít lợi dụng chúng nó, không phải v́ chúng ta thiếu ư chí nắm lấy chúng nó, ư muốn chúng ta tốt nhiều hay ít và nếu chúng ta phân biện được những cơ hội ắt chúng ta chụp lấy chúng nó rồi. Bây giờ chúng ta ngó lại sau, chúng ta chợt thấy ḿnh khi xưa mù quáng. Chúng ta tự nói rằng: Nếu tôi quyết định theo đường lối nầy hay đường lối kia, hậu quả sẽ xảy ra, và hôm nay tôi đă thành một vị Chơn Tiên. Chỉ v́ chúng ta đă không chịu làm như vậy thôi. Đi đến tŕnh độ cao cả nầy, quyền năng nhớ lại tiền kiếp sẽ hữu ích cho chúng ta, nhưng v́ sự phát triển hiện tại của chúng ta về trí tuệ và sự tự do ư chí như thế, chắc chắn đó không phải là một niềm vui không pha lẫn với những sự buồn tủi.

            Chúng ta hảy khảo sát những nguyên lư tổng quát. Nói về toàn diện, chúng ta là thành phần của một cái Cơ để giúp cho con người tiến hóa, v́ thế nếu chắc chắn một người kia phải nhớ lại tất cả những kiếp quá khứ của Y,  và việc nầy có ích lợi cho Y th́ Y sẽ có quyền năng đó; nhưng nếu Y không có quyền năng đó, chúng ta nên chứng tỏ chút đỉnh niềm tin tưởng và nh́n nhận rằng: Tất cả chung qui đều góp phần vào sự tốt đẹp. Có được quyền năng nhớ lại kiếp trước, con người cùng một lúc hoạch đắc nhiều kinh nghiệm hơn và xét đoán b́nh tĩnh hơn. Y rất tin tưởng Cơ Trời do Luật Công B́nh chỉ huy, khi cách trả quả do bởi nguyên nhân nào sinh ra mà Y không hiểu được thấu đáo th́ Y không nói rằng: Tôi không thấy lư do của điều nầy, nhưng chút nữa chắc chắn tôi sẽ t́m ra. Y không có ư tưởng rằng Y bị sự bất công. Những người luôn luôn than van số phận bị đối đăi bất công và không ngớt than trời trách đất bỏ bê ḿnh, thật là không biết chi về vấn đề nầy. Luật Trời, chúng ta biết vốn chí công, nó chính xác như Luật Hấp dẫn, nhưng không do đó mà chúng ta có thể luôn luôn nói đúng được cách thức của Luật Trời hành động. Như tôi đă nói, Chơn Nhơn ghi chú nguyên nhân của những hiệu quả xấu; hiểu biết nhờ những kinh nghiệm thuở xưa, nó thử gây ảnh hưởng đến Phàm Nhơn trước khi Phàm Nhơn chưa trở nên quá dũng mănh, quá nổi bật lên, quá cương quyết để từ chối sự chấp nhận chiều hướng của Chơn Nhơn ở trên cao hơn nó nên nó cho là viển vông. Phàm Nhơn lại rất tin tưởng rằng trong lănh vực của nó, luôn luôn nó hữu lư. Phàm Nhơn thường khước từ sự giúp đỡ từ cơi trên, v́ vậy Chơn Nhơn không thể ảnh hưởng đến Phàm Nhơn như ư muốn. Tuy nhiên, Chơn Nhơn t́m cách trở thành Chủ nhơn và khi chúng ta dần dần tiến tới, chúng ta cảm thấy càng ngày Chơn Nhơn càng t́m cách nắm lấy quyền hướng đạo. Nếu chúng ta bằng ḷng đồng hóa với Chơn Nhơn, chúng ta sẽ thấy Ngài có thể tác động nhiều hơn cho chúng ta. Chơn Nhơn gặp sự khó khăn chính là việc Phàm Nhơn bực trung đồng hóa với các thể thấp và không chịu nổi sự can thiệp của Chơn Nhơn, nhưng nếu Chơn Nhơn có thể dẫn dụ Phàm nhơn đồng hóa được với ḿnh th́ mọi sự khó khăn sẽ giảm bớt tức khắc.

            Hơn nữa, khi Thể Vía và Thể Trí đă hoàn toàn bị chế phục, sự tiến bộ có thể nhanh chóng nhứt. B́nh thường, khi Chơn Nhơn muốn dùng một Thể thấp để chăm lo một việc nào đó th́ chúng nó ngoan cố đưa ra cả trăm việc khác và những tờ tŕnh mà Chơn Nhơn không đ̣i hỏi và cũng không muốn biết. Cái Trí phải phục tùng mạng lịnh cách nào mà nó chỉ truyền đạt đến Chơn Nhơn điều mà Chơn Nhơn muốn biết thôi; như vậy, nếu Chơn Nhơn đưa ra một vấn đề cho Cái Trí và nói: Hăy giải quyết điều này cho minh bạch và cho tôi những lời chỉ dẫn mà tôi cần biết, th́ Cái Trí dễ dạy ngoan ngoăn vâng lời, trong lúc đó, cũng ở t́nh trạng như thế, Cái Trí bậc trung lại đưa cả trăm việc vô ích cho Chơn Nhơn, v́ tất cả bay vơ vẩn trên không trung len lỏi vào Cái Trí và bắt nó phải thu nhận.

            Hệ thống chuyển đạt những kết quả của các công tác thấp thỏi nhưng không có những chi tiết của sự kinh nghiệm vẫn bất di bất dịch cho đến khi nào chúng ta đắc quả Chơn Tiên. Trong tiến tŕnh phát triển của Chơn Nhơn, sự thay đổi đầu tiên nổi bật trong con người là đưa trí tuệ ḿnh lên đến cơi Bồ Đề. Con người có Ba Ngôi, nhưng y hiện đang hoạt động trên hai cảnh giới thay v́ ba,[48] Atma phát triển trên cơi của nó; Ngôi thứ Nh́ (Bouddhi) ở trên cơi riêng của nó, và Ngôi thứ Ba (Manas) ở ngang mức độ của Bồ Đề (Bouddhi) được nâng lên tới Trực Giác. Chơn Nhơn liền rời bỏ Nhân Thể mà nó không c̣n cần dùng nữa. Nếu muốn trở xuống và biểu hiện một lần nữa trên Cơi Thượng Giới th́ Chơn Nhơn phải tự tạo lấy một Nhân Thể mới, ngoài ra Nhân Thể không c̣n cần thiết cho nó nữa.

            Cũng gần giống như thế, hai biểu hiện nầy, tức là Bồ Đề (Bouddhi) và Trí Tuệ linh diệu gọi là Trực Giác, hợp nhau lại trên cơi Bồ Đề rồi tiến lên đến cơi Niết Bàn và tại cơi Niết Bàn, Ba Ngôi linh động một cách viên măn. Lúc bấy giờ, Ba Biểu Hiện đồng qui làm một. Quyền năng nầy ở tŕnh độ của Chơn Tiên, bởi v́ Ngài hợp nhứt Chơn Thần với Chơn Nhơn, cũng như Đệ Tử rán sức hợp nhứt Chơn Nhơn với Phàm Nhơn.

            Ngôi thứ Ba (Manas) tách ḿnh ra khỏi Nhân Thể và lên tới cơi Bồ Đề ở bên cạnh Ngôi thứ Nh́ Bồ Đề (Bouddhi), đó là h́nh dáng hay trạng thái của Chơn Nhơn mà Đức Bà Blavatsky gọi là Chơn Nhơn Thiêng Liêng (Égo spirituel). Khó mà lập một sự so sánh với những chi tiết trạng thái mà Hai Biểu Hiện ấy do các nhà Thần Học Cơ Đốc Giáo đă trải qua và đă mô tả. Họ đứng trên một phương diện khác, nhưng trạng thái nầy dường như phù hợp với điều mà những nhà Thần Học gọi là Thiên Khải (Illumination spirituelle), nghĩa là trạng thái La Hán. Ấy là sự phát triển của Nguyên Lư Bồ Đề. Đối với chúng ta, Nguyên Lư Bồ Đề sanh ra ngay trong lúc Tâm Thức Bồ Đề chuyển động lần đầu tiên trong con người, nhưng khi nói Đấng Christ phát triển trọn vẹn trong người nó, tôi tưởng đó là trạng thái mà chúng ta vừa mới nói đây.

            Tới những tŕnh độ cao siêu nầy, sự tiến bộ gia tăng tốc độ mau lẹ vô cùng. Tôi nhớ, tại Ấn Độ, một ngày kia người ta hỏi tôi có phải cách đo những sự tiến bộ của con người trên Đường Đạo bằng Toán học cấp số (cấp số cộng) [49] không?  Tôi trả lời:  Khi sự tiến bộ chuyển vận điều ḥa, tôi tưởng nó đúng là Kỷ Hà cấp số (cấp số nhân).[50] Tôi không thuyết phục cho thiên hạ tin tôi. Người Ấn Độ dường như cho tôi đi xa hơn một chút. Tôi có hỏi Đức Thầy Kouthoumi danh từ Kỷ hà cấp số có thể áp dụng cho sự tiến bộ của một người đi trên Đường Đạo không?  Ngài đáp: Không, danh từ đó không được chính xác. Khi một người bước vào Đường Đạo, nếu Y tập trung tất cả tinh lực trong người Y, sự tiến bộ của y tiêu biểu không phải bằng Toán Học cấp số hay là Kỷ Hà cấp số mà bằng Lũy thừa. V́ vậy không phải cấp số 2, 4, 8, 16 . . . mà bằng 2, 4, 16, 256 . . . Điều nầy làm sáng tỏ vấn đề một cách rất khác xa và chúng ta thấy trước điều đương chờ đợi chúng ta không đến nỗi khó khăn mà cũng không đến nỗi gian khổ như người ta đă tưởng. Chúng ta phải trải qua hàng ngàn năm mới tiến đến giai đoạn hiện tại và công trạng không có ǵ đặc sắc lắm nếu tính theo thời gian đ̣i hỏi. Nếu cuộc tiến hóa vị lai của chúng ta cũng chậm chạp, chúng ta sẽ chán nản, tuyệt vọng khi nghĩ đến: C̣n phải qua bao nhiêu thế kỷ, bao nhiêu thời đại nữa mới đạt được mục đích. Nên khuyến khích cái ư nghĩ  rằng chúng ta tiến bộ thật mau chóng, ngay bước đầu tiên trên Đường Đạo.

            Hăy chấp nhận rằng người tử tế bực trung dùng có một phần trăm trí tuệ để tự đào luyện ḿnh trở nên tốt lành hơn trước một chút. Nhiều người không làm như vậy. Chúng ta khảo cứu những nguyên lư Huyền Bí Học và cố gắng sống một cuộc đời phù hợp theo đó, chúng ta đi xa hơn và bắt đầu dùng một thời gian thích ứng để học Huyền Bí Học. Khi chúng ta tiến đến giai đoạn mà mọi sức lực và mọi tư tưởng của ta tập trung vào công tác lớn lao nầy th́ chúng ta tiến bằng cách nhảy vọt tới trước. Hôm nay chúng ta c̣n ở đàng sau xa, khi mà chúng ta có thể dùng tất cả năng lực của ḿnh vào công tác cần thiết th́ chúng ta làm việc vô cùng tốt đẹp hơn điều mà chúng ta làm được bây giờ.

            Hăy t́m Đạo bằng cách đi sâu vào chốn thâm sâu huyền diệu và vinh quang của nội tâm con. Hăy t́m Đạo bằng cách phân tích mọi kinh nghiệm, sử dụng các giác quan của con hầu nhận thức được sự trưởng thành và ư nghĩa của cá tánh cũng như sự tốt đẹp và sự tối tăm của những Điểm Linh Quang khác đương phấn đấu khổ cực ở bên cạnh con và tạo thành ṇi giống của con. Hăy t́m Đạo bằng sự khảo cứu những định luật sanh tồn của đời sống, những định luật thiên nhiên và siêu nhiên, và hăy t́m Đạo bằng cách bắt buộc linh hồn con hoàn toàn phục tùng ngôi sao lập ḷe đương chiếu trong nội tâm, lần lượt khi con càng canh chừng và tôn thờ,  ánh sáng của nó càng trở nên rực rỡ hơn trước. Bấy giờ con sẽ biết rằng con đă t́m được chỗ khởi đầu của con Đường Đạo, và khi con đi mút con đường, ánh sáng bỗng nhiên trở thành ánh sáng bao la bát ngát, vô tận vô biên.

            A.B. -  Một lần nữa trong lời chú thích nầy nh́n thấy có ba phương cách để t́m Đạo.

            Nói về tánh cách Nhân Loại, người ta có thể phân biệt những Định Luật Thiên Nhiên liên quan đến Thế Giới hiện tượng hay Thế Giới có thể quan sát được, những định luật siêu nhiên hay những định luật của Cơi Thượng Thiên và Cơi Bồ Đề, sau rốt những định luật của Thực Thể hay của đời sống chân thật ở Cơi Niết Bàn. Bởi thế, khi nói đến Định Luật Thiên Nhiên, chúng ta hiểu là những Định Luật thống trị Cơi Hồng Trần, Cơi Trung Giới và những cảnh giới hữu h́nh của Cơi Hạ Thiên.

            Những định luật cao hơn những định luật đó, nhưng thấp hơn những định luật của “Thực Thể “có thể gọi là những định luật siêu nhiên, nó bao gồm cả những cảnh  giới vô h́nh của cơi Thượng Thiên và cơi Bồ Đề. Ấy là khu vực nơi đó, đời sống phô diễn nhiều hơn h́nh dạng, nơi đó, vật chất tùy thuộc vào sự sống, lúc nào cũng biến đổi. Nơi đó, một sinh vật không có một h́nh thể thật rơ ràng, nhứt định. Hễ tư tưởng thay đổi, h́nh dạng thay đổi liền theo; vật chất dùng làm khí cụ cho sự sống của nó, chớ không phải là biểu hiện của sự sống, h́nh dạng được cấu tạo tạm thời, mỗi lần sự sống biến đổi th́ h́nh dạng cũng biến đổi theo luôn. Điều nầy rất đúng trên cảnh giới vô h́nh của cơi Thượng Thiên; trên cơi Bồ Đề cũng vậy, nhưng một cách tinh vi hơn. Với Chơn Nhơn thiêng liêng cũng vẫn đúng, tôi gọi Chơn Nhơn thiêng liêng là Ngôi thứ Nh́ (Bouddhi),[51]  Bồ Đề, hiệp với trạng thái Trí Tuệ của Chơn Thần duy nhất. Trạng thái nầy ở trong Bouddhi, Bồ Đề, khi Nhân Thể hay là Thượng Trí bị loại ra. T́nh trạng nầy những nhà Thần Học Cơ Đốc Giáo gọi là Thiên Khải. Ấy là tŕnh độ La Hán hay là Bồ Đề Tâm (Đấng Christ) phát hiện trong con người.

            Danh từ Siêu Nhiên thường dùng để che đậy tất cả điều ǵ mà sự kinh nghiệm chung của Cơi Thế Gian không giải thích được. Tất cả điều ǵ dường như bất thường hay không phù hợp với những định luật Thiên Nhiên đă được qui định làm cho những người hay suy tư phải do dự hoài nghi không ít. Ở Thế Gian người ta thường chống lại bất cứ cái ǵ gọi là Siêu Nhiên; người ta cảm thấy không có cái ǵ Siêu Nhiên có thể tồn tại được, bởi v́ trong Cơi Thiên Nhiên, không có sự bất thường, không có sự hỗn loạn, không có khu vực nào thoát khỏi định luật cả. Đâu đâu cũng có định luật ngự trị và định luật là một.

            Cái ǵ ở trên th́ cũng lặp lại ở dưới. Đó là Chơn Lư đại đồng. Một bản tánh duy nhứt, dù biểu hiện bên ngoài bằng nhiều cách khác nhau thế nào đi nữa, luôn luôn cũng là bản tánh duy nhứt. Nhưng khi mà chúng ta đi đến điều ở đây gọi là Siêu Nhiên, chúng ta đụng phải một t́nh trạng ngoài phạm vi của giác quan, dù ta có cho danh từ giác quan nầy cái ư nghĩa rộng răi hơn. Vượt qua tất cả cái ǵ là hiện tượng, chúng ta đi đến những thế giới thiêng liêng.

            Xa hơn nữa, ấy là Cơi của Atma hay là Cơi Niết Bàn, là khu vực của Thực Thể, nơi đó tất cả đều là sự thật, nơi đó Tâm Thức chân chính ngự trị. Chúng ta phải t́m con đường nầy bằng cách khảo cứu con người sâu kín nhất của chúng ta, khi mà, trong buổi tham thiền tột bực cao, chúng ta chưa lên tới Cơi Niết Bàn, chúng ta chưa đủ khả năng tiến gần đến Tâm Thức thật sự của Atma. Tuy nhiên, chúng ta có thể t́m cách tiến đến đó và trước hết bằng sự cố gắng t́m hiểu thực tại của nó. Huynh hăy tưởng tượng Cơi Niết Bàn như một khu vực mà tất cả đều có thật; nơi đó không có ranh giới, mà chỉ có sự đồng nhất thôi. Trong lúc tham thiền, Huynh hăy rán tưởng tượng Cơi Niết Bàn như thế. Huynh chỉ có thể làm như vậy bằng đường lối tiêu cực. Huynh tự hỏi: Cơi Niết Bàn có phải là cơi hiện tượng không? Không. Nó là Cơi Trí Tuệ phải không? Cũng không nữa. Huynh t́m Cơi Niết Bàn bằng cách loại bỏ điều nào không phải là Niết Bàn. Rồi Huynh nói: Niết Bàn không phải là vật mà giác quan nhận thức được, mà cũng không thể dùng Trí Tuệ mà tưởng tượng được. Trí Tuệ bừng sáng tuy là rộng lớn mênh mông nhưng cũng không hiểu nổi Cơi Niết Bàn. Và cứ thế mà tiếp tục suy tưởng.

            Nhưng người ta nói, tại sao đi t́m bằng đường lối tiêu cực, nếu anh đă vừa tiến đến Tâm Thức Atma? Thành thực mà nói không phải TâmThức của Atma phát hiện trong đầu óc Huynh đâu mà đó là một sự rung động yếu ớt của trạng thái Trí Tuệ của Atma, nó khác hẳn với mọi rung động khác riêng biệt thuộc về Tâm Thức của Ngôi Ba [52]. Những rung động bắt nguồn từ những cơi cao khác biệt với những rung động khởi đầu từ cơi Trí Tuệ. Tiến đến tŕnh độ cao nhất của Con Đường Đạo  trong nghĩa chính của nó  nghĩa là cuộc Điểm Đạo thứ Tư hay là con đường của vị La Hán, một người tham thiền ngoài xác thân có thể bước vào trạng thái xuất thần (Samadhi) và tiến đến TâmThức Atma tại Cơi Niết Bàn.

            C.W.L.- Sự phân chia những phương sách ra làm ba nhóm đă được nhắc đi nhắc lại hai lần, vốn cố ư để chỉ dẫn cho chúng ta phải t́m Đạo cách nào và những luật tương ứng với những phương sách ấy.

            Khi đi sâu vào nội tâm của ḿnh, con người bắt đầu nghiên cứu những định luật của Thực Thể, những định luật của cảnh giới ở ngoài tất cả những ǵ mà đối với ta đều là sự biểu hiện, nghĩa là cảnh giới của cơi Niết Bàn. Dĩ nhiên, những cơi cao luôn luôn là những cơi biểu hiện và cho đến cái chi ở ngoài kia cũng chưa phải thật là Cái không biểu hiện,[53] mặc dù nó hiện ra dưới mắt ta như thế trong giai đoạn tiến hóa hiện tại của chúng ta. Sự khảo cứu những định luật của Thực Thể chỉ sẽ giúp chúng ta đạt đến mục tiêu t́m kiếm bằng cách đi sâu vào nội tâm chúng ta, nghĩa là sự phục tùng ánh sao lập ḷe đương chiếu bên trong. Khi chúng ta t́m kiếm Atma [54] và coi nó như là người hướng đạo duy nhất của chúng ta, lẽ dĩ nhiên chúng ta đă đạt đến một tŕnh độ tiến triển rất cao.

            Sự phân tách mọi kinh nghiệm tương ứng với sự nghiên cứu những định luật Thiên Nhiên hay những định luật của Thế Giới hiện tượng, những định luật nầy thống trị những Cơi Hồng Trần, Trung Giới và Hạ Thiên mà Phàm Nhơn đắm ḿnh trong đó. Kế đến chúng ta phải đạt tới sự hiểu biết cá tánh bằng cách nghiên cứu những định luật Siêu Nhiên của Cơi Bồ Đề và khu vực cao của Cơi Thượng Giới, dĩ nhiên nó có nghĩa là những định luật của Thế Giới mà trong đó Chơn Nhơn hoạt động, nếu dùng những danh từ khác th́ là những định luật của Cơi Bồ Đề và khu vực cao của Cơi Thượng Giới (Cơi Thượng Thiên). Dĩ nhiên điều đó không có ǵ là Siêu Nhiên, và chắc chắn danh từ được dùng ở đây với một ư nghĩa có hơi chuyên môn. Ấy là Sự Sống Duy Nhất biểu lộ trong tất cả các cảnh giới bằng nhiều cách khác nhau, trong Thiên Cơ không hề có sự vi phạm  định luật và trật tự Thiên Nhiên nào. Chỉ khi tiến đến khu vực cao hơn những khu vực mà giác quan của Xác Thân, của Cái Vía và của Cái Trí chúng ta nhận thức được, th́ chúng ta vượt qua cảnh Thiên Nhiên mà phần đông con người đă biết; ở nơi đó những định luật khác biệt nhau thực hiện và được học hỏi nhiều hơn. Tôi tưởng trong ư nghĩa nầy mà Đức Đế Quân dùng danh từ Siêu Nhiên . Vượt qua khỏi phạm vi của giác quan, chúng ta tiến đến một khu vực cao hơn cơi hiện tượng mà người Hi Lạp gọi là Thế Giới Bản Thể,[55] nguồn gốc và nguyên nhân của những Thế Giới hiện tượng. V́ thế, đoạn nầy dường như tŕnh bày cái ư nghĩa sau đây:

            Khi thấu triệt Phàm Nhơn, chúng ta hiểu biết được định luật Thiên Nhiên, khi t́m hiểu cá tánh chúng ta đi vào khu vực của định luật Siêu Nhiên, sau rốt, khi tiến xa hơn để t́m hiểu Atma, chúng ta nghiên cứu những định luật của Sự Sống.

            Ở những tŕnh độ nầy, những dị biệt khá lớn biện minh một sự phân loại như thế. Tại Cơi Trần, mọi vật đều tùy thuộc nhiều về h́nh dạng của nó và tại Cơi Trung Giới và Cơi Hạ Thiên cũng vậy. Ở cảnh giới Thượng Trí (Nhân Thể), mặc dù nói rằng chúng ta không có h́nh dạng là không hoàn toàn đúng, nhưng những h́nh dạng ít ra cũng khác nhau và lại trực tiếp hơn. Tư tưởng của Thượng Trí (Nhân Thể) giống như một làn chớp đi thẳng đến mục tiêu, thay v́ cấu tạo một h́nh dạng rơ ràng và biệt lập, nó tuôn tràn ra và thẳng đến mục tiêu, ấy là một xung lực do tư tưởng phát sinh.

            Hăy lên cao nữa, chúng ta tiến đến cơi Bồ Đề, như tôi đă nói, một trạng thái dường như không thể nào diễn tả nổi. Nơi đó tư tưởng của mỗi người là một sự dao động của toàn diện cơi Bồ Đề cho đến nỗi, ở tŕnh độ nầy, mỗi người thu góp tư tưởng của tất cả những kẻ khác lại, có thể nói là Y lấy những tư tưởng ấy để tự học hỏi và nhờ đó mà có kinh nghiệm. Chúng tôi xin miễn làm sáng tỏ nhiều về vấn đề nầy nên có lời chỉ dẫn mà thôi.

            Tự cố gắng t́m hiểu những trạng thái cao siêu nầy rất tốt. Chúng ta chỉ đạt được mục đích là do phương pháp chỉ dẫn trong những kinh sách Ấn Độ, đó cũng luôn luôn là cách tiêu cực. Kinh sách không diễn đạt một trạng thái Tâm Thức mà loại bỏ dần dần tất cả cái ǵ không phải là "Có thật". Sau đó, nếu chúng ta đạt được cách lưu giữ như là tinh hoa của tư tưởng liên quan đến mục tiêu, chúng ta xít lại gần một chút điều ǵ là thực tại.

            Những Môn Đồ của Đức Phật thường hỏi Ngài rằng: Niết Bàn là ǵ? Hoặc đôi khi: "Có Niết Bàn hay không có?" Nghĩa là Niết Bàn có thật hay không có thật. Một ngày kia Đức Phật trả lời rằng:  Niết Bàn có thật, không có ǵ phải nghi ngờ sự tồn tại của nó, tuy nhiên, nếu con hỏi Ta Cơi Niết Bàn có thật không th́ ta chỉ có thể nói rằng không có vấn đề có hay không có, theo như ư nghĩa mà con hiểu những chữ đó." Có lẽ chính Đức Phật cũng không thể cho ta biết được tư tưởng của Ngài tại cảnh giới Hồng Trần nầy. Theo phương thế của chúng ta dùng vô cùng giản dị hơn, chúng ta làm một sự kinh nghiệm tương tự. Tôi có thể chắc rằng khi đạt được Bồ Đề Tâm và sử dụng nó, nhiều quan điểm tối tăm sẽ trở thành hoàn toàn sáng tỏ, trái lại, một khi mất trạng thái Tâm Thức ấy chỉ trong chốc lát thôi cũng không thể nào phô diễn được điều mà chúng ta hiểu. Tất cả những điều đó không phải nói ra dễ dàng, chúng ta lấy bằng cớ trong việc nầy chính là Đức Phật mặc dù Ngài là Đấng Chí Tôn Cao Cả, Ngài cũng không thể dùng ngôn ngữ dưới Thế Gian nầy để làm cho người ta hiểu Niết Bàn là ǵ? Và cũng phải dùng đến đường lối tiêu cực [56] mà thôi.


CHƯƠNG   10

CHÚ GIẢI QUI TẮC  20

 

            A.B. - Đức Chơn Sư Hilarion thêm vào qui tắc 20 chú giải sau đây:

            Hăy t́m Đạo bằng cách phân tích tất cả kinh nghiệm và con nên nhớ rằng khi nói với con điều nầy Ta không muốn bảo con: "Hăy chiều theo sự cám dỗ của giác quan hầu nhận thức nó." Con có thể hành động như thế, trước khi chớ không phải sau khi trở nên một nhà Huyền Bí Học. Khi đă chọn con Đường Đạo và bước chân vào đó rồi, con không khỏi hổ thẹn khi chiều theo những sự cám dỗ ấy. Tuy nhiên, con được phép thử thí nghiệm cảm giác đó mà không ghê tởm hăi hùng. Con có thể cân nhắc, quan sát, phân tích chúng và chờ đợi một cách kiên tŕ, tín cẩn giờ phút chúng không c̣n làm cho con xúc động nữa.

            Trong những giai đoạn đầu tiên Sự Tiến Hóa của Nhân Loại, Chơn Nhơn chưa mấy mở mang để phân biệt thiện ác; nhưng từ khi Y biết phân biệt, luân lư đạo đức bắt đầu nảy nở nơi Y. Thí dụ: Khi Y bắt đầu nhận biết được sự khác biệt giữa phá hoại và bảo vệ Sự Sống, luân lư đạo đức phát sinh nơi Y theo thứ tự của quan điểm nầy. Loại kinh nghiệm dạy Y bài học nầy trở nên vô ích.Tuy nhiên, mặc dù con người không cần phải thực hành điều đó nhưng thỉnh thoảng Y cũng bị những trận tấn công của giác quan thúc đẩy Y làm việc quấy nầy hay việc quấy nọ khiến cho Y đau khổ, bởi Y biết rằng một khi ḿnh chiều theo sự cám dỗ là ḿnh hành động sai quấy. Những nhà Huyền Bí Học giả hiệu cho rằng con người có thể sống cuộc đời tội lỗi hầu rút lấy những kinh nghiệm. Không bao giờ ư kiến nầy được chứng minh. Làm một việc mà không biết trước được tính cách đáng trách của nó, con người thu hoạch một kinh nghiệm cần thiết, nhưng khi Y biết được điều quấy rồi, mỗi sự yếu đuối trở thành một sa ngă, lẽ tất nhiên nó đem lại những niềm đau khổ dữ dội.

            Có thể con người chịu khuất phục trước áp lực của hoàn cảnh kéo dài trong nhiều kiếp. Cho đến đỗi sau khi bước vào Đường Đạo rồi, sự tranh đấu để chống lại những sự xúi giục, quyến rũ của giác quan vẫn tiếp tục thường xuyên. Trước khi có thể tiến bước mau lẹ, phải trải qua những giai đoạn dài xung đột giữa sự ham muốn lộ liễu của Thể Vía và Thể Trí và phần khác là sự tin chắc rằng khi chiều theo nó, con người làm trở ngại đời sống cao siêu. Trong những giai đoạn thấp kém sự tranh đấu kéo dài và khi nó lặp lại ở một tŕnh độ cao hơn do bởi h́nh tư tưởng của Cái Trí kết hợp với những dục vọng của giác quan, th́ những sự cám dỗ lại trở nên tế nhị hơn, bởi v́ Thể Trí lư tưởng hóa những vật do giác quan tiếp nhận, nó thanh lọc những xúc động thô kệch nhất và tŕnh bày những sự ham muốn dưới những trạng thái hấp dẫn nhất. Kế đó, đến một giai đoạn khác kẻ chí nguyện ở trên con Đường Đạo chánh thức, trong lúc nầy những sự cám dỗ xưa kia cũng c̣n đủ sức mạnh khá dữ dội để đột kích Y. Chính điều đó thuộc về lời chú thích của Đức Chơn Sư chỉ dẫn Đệ Tử cách thức sử dụng những sự cám dỗ. Y có thể cân nhắc, quan sát, thí nghiệm chúng và kiên nhẫn chờ đợi tới lúc mà chúng không c̣n làm cho Y cảm động nữa.

            Khi mà Tâm Thức tách rời khỏi Thể ham muốn (Thể Vía) và chú định vào Cơi Thượng Giới (Cơi Trí Tuệ) có một sự tiến bộ lớn lao hơn. Con người không đồng hóa với Thể ham muốn nữa mà xem nó như là một khí cụ thôi. Tuy nhiên, những sự rung động của Cái Vía c̣n  có thể làm cho Y xúc động v́ Thể nầy có một sự sống riêng biệt và người ta có thể nói những con ngựa đôi khi c̣n nổi chứng. Đó là giai đoạn trong kinh Kathopanishad đă đề cập đến: Những con ngựa do người cầm cương điều khiển phóng đi êm thắm, nhưng thỉnh thoảng cũng thích nổi chứng bất ngờ vậy. Vị Đệ Tử đă được cảnh cáo trước do sự kích thích của giác quan. Đó là một giai đoạn thử thách rất khổ sở. Sự sa ngă làm cho tất cả bản tánh của con người cảm thấy xấu hổ và đau khổ, Y không thể chiều theo giác quan mà không khỏi xót xa trong ḷng. Trong tâm trạng b́nh thường, những giác quan không quyến rũ được Y, những sự cám dỗ của Thể Vía, thật ra, cũng không làm động ḷng Y được. Tuy nhiên, một đôi khi Y cũng cảm xúc mấy điều đó như thường, lư do là tại cái khuôn cũ của sự ham muốn chưa tan vỡ, v́ vậy một ảnh hưởng bên ngoài làm cho sự ham muốn sống lại. Con đường vận hà chưa biến mất hẳn, mặc dù nó sắp mất dạng và một tai hại vẫn c̣n tồn tại: Con đường vận hà cùng một lúc bị nước ở ngoài tràn vô ngập đầy, như vậy h́nh ảnh cũ của ḷng ham muốn bừng sống dậy. Những ảnh hưởng của Cái Vía bộc khởi trong ḷng Y, những sự rung động khá mạnh để một lần nữa cảm đến Tâm Thức Y, h́nh ảnh ấy tự nó không làm xúc động được Tâm Thức, nhưng đôi khi con người ở một nơi kia, đúng vào một lúc hoặc ở gần một người nào xúi giục những ảnh hưởng mạnh mẽ bên ngoài làm cho ḷng Y rung động và đánh thức h́nh ảnh cũ sống lại.

            Phải tự nói rằng những ảnh hưởng nầy từ bên ngoài đưa đến chớ không do chính ḿnh sinh ra. Vị Đệ Tử phải biết bản tánh của chúng nó. Y lấy làm xấu hổ, nhục nhă, và chán nản mà cảm biết những ảnh hưởng đó nhưng không t́m ra được nguyên nhân. Chúng tôi xin trả lời rằng có một giai đoạn tiến hóa mà người ta có thể bị những sự cám dỗ do những giác quan đưa đến nhưng không có cái ǵ bắt buộc ḿnh phải sa ngă. Vậy con người đừng để ư đến những cám dỗ và nói với chúng rằng: "Ta cảm biết mi, ta cân nhắc mi, nhưng ta không hề bị xúc động." Đó là ư nghĩa của đoạn kinh Kathopanishad nói rằng con người đă tiến đến điểm mà Y đủ khả năng cầm cương ngựa với một bàn tay vững chắc. Từ đó những giác quan chịu phục tùng Y. Về việc cám dỗ của giác quan, ấy là bài học chót và sau khi đă thuộc rồi những giác quan vĩnh viễn mất hết quyền năng đối với con người, chúng không c̣n làm cho Y xúc động nữa, Y đă chiến đấu với chúng một trận cuối cùng, từ đó Linh Hồn mới được tự do.

            Ai cũng phải chiến đấu, khi tới giờ phút chiến đấu nầy và sau khi đem Tâm Thức lên Cơi Thượng Giới (Cơi Trí Tuệ) điều rất hữu ích là hiểu được bản tánh của sự chiến đấu và biết được phương pháp theo đuổi để có thể nói rằng: "Không phải thật tôi mà chỉ là sự rung động của bản tánh thấp hèn do ở ngoài điều khiển để chống lại tôi, tôi loại nó ra; đó là câu trả lời của tôi như thế." Vừa khi Huynh loại ra sự rung động đó, sự hăi hùng ghê tởm biến mất, Huynh không để cho nó ảnh hưởng tới Huynh. Kế đó Huynh có thể tự quan sát hầu nhận thấy phần nào bản tánh Huynh bị công kích. Sau rốt Huynh kiên nhẫn chờ đợi giờ phút mà Huynh không c̣n sự xúc động nữa. Vững niềm tin ở định luật, Huynh yên ḷng chờ đợi. Những rung động không bao lâu sẽ tan mất và những giác quan không đủ khả năng gây ra một sự đáp ứng trong ḷng Huynh. Huynh tự nhủ: "Tôi sẽ kiên nhẫn chờ đợi giờ phút mà tôi không c̣n xúc động về điều đó nữa." Đó là một h́nh ảnh xưa sống dậy, nó sẽ tan ră và tiêu mất. Chỉ có một sự quyết định mà thôi, là chờ đợi như thế. Có lẽ phải chờ đợi nhiều tháng hoặc nhiều năm. Kế đó Huynh mới thắng cuộc, cái khuôn đă tan vỡ. Khi Huynh tuyên bố kiên nhẫn là huynh đă đánh cho nó một đ̣n chót, nó không c̣n ảnh hưởng ǵ đối với Huynh nữa, trừ ra khi nào Huynh rời bỏ mục tiêu và điều nầy dường như không thể xảy ra được.

            Kinh nghiệm nầy có một lợi ích khác, khi nào Huynh không có kinh nghiệm như vậy, Huynh không thể giúp đỡ kẻ bị sa ngă. Huynh không giúp đỡ được một người nào trước khi Huynh phải cao hơn họ, nhưng đồng thời Huynh không thể cứu vớt người nào trừ ra khi Huynh biết được điều đă làm cho Y xúc động. Trong một giai đoạn kia, chính Huynh bị sự kiềm hăm của dục vọng, Huynh không đủ sức cứu trợ những người lâm vào t́nh trạng khó khăn như Huynh. Về sau Huynh mới được giải  thoát. Xua đuổi được dục vọng Huynh đi đến một điểm mà Huynh không thể hiểu tại sao một người khác lại để cho sự cám dỗ lung lạc được, không biết tánh t́nh họ Huynh không thể giúp đỡ họ được, huynh có thể chỉ điều quấy của họ cho họ thấy, nhưng không thể giúp ích họ bằng đường lối Tinh Thần. Huynh không thể ban rải sức mạnh của Huynh cho họ v́ Huynh đứng bên ngoài họ và tánh t́nh Huynh không hợp với tánh t́nh họ. Huynh ghê tởm, sự ghê tởm đó làm cho Huynh trở thành vô ích. Khó mà giúp đỡ một người nào mà ḿnh ghê tởm muốn tránh xa, trong trường hợp nầy, tốt hơn là để y tự nhiên. Muốn giúp y cần phải chia xẻ t́nh cảm của y.

            Dù có chia xẻ t́nh cảm của họ đi nữa, Huynh cũng không thể giúp đỡ người nào mà họ đă xây một lớp vách tường bao phủ họ,[57]  trong trường hợp nầy và lúc bấy giờ tốt hơn là để tự họ hành động bởi v́ mọi hỗ trợ bên ngoài cũng vô ích thôi. Có thể Huynh phải từ chối không giúp đỡ một người nào tại Cơi Trần nhưng không có ǵ ngăn trở Huynh không cho Huynh giúp đỡ họ trong nội tâm, điều nầy bắt buộc phải nhiều can đảm hơn là việc giúp đỡ bên ngoài. Khuyên bảo và giúp ư kiến th́ thú vị hơn, và đối với bản tánh c̣n thấp thỏi điều đó thích ư hơn là giúp đỡ nội tâm một cách vô h́nh.

            Một lẽ khác, nếu Huynh phải giúp đỡ ai cứ giúp, đừng nghe kẻ khác cho rằng họ không đáng giúp, hay là Huynh hăy giúp mà không cho họ biết. Đức Bà H. P. Blavatsky đôi khi bị chính môn đệ của Bà chỉ trích với những lời lẽ nặng nề nhưng với thái độ nhân từ và cương quyết, Bà không xua đuổi họ và vẫn tiếp tục giúp đỡ họ trong nội tâm không chút bận ḷng đến ư kiến của họ. Sự giúp đỡ nội tâm cuối cùng cũng thắng được sự chống đối. Có khi Huynh chống đối hay không có thiện cảm về tư tưởng với nhiều người khác hoặc giả đối với vị Huấn Sư của Huynh chăng nữa. Huynh trách cứ họ ư ? Huynh tưởng rằng có một bức tường giữa Huynh và họ nhưng về sau Huynh biết rằng bức tường ấy là ảo ảnh và chính do Huynh tạo nó ra trên Cơi Trí Tuệ. Trong tiến tŕnh của giai đoạn đó, chúng ta dựng lên nhiều bức tường làm khổ chúng ta cho đến ngày nào chúng ta phá vỡ chúng, ngày đó chúng ta mới hết khổ.

            C̣n một giai đoạn cao hơn, khó mà phô diễn. Có vài Vị [58] làm trung gian giữa các Đấng Cao Cả và Nhân Loại. Cũng như khi nói về Đức Jésus các Ngài xúc động v́ những niềm đau khổ và những sự cám dỗ của con người, tuy nhiên các Ngài không phạm tội. Đó là giai đoạn mà Thể ham muốn (Thể Vía) đă hoàn toàn trong sạch, tất cả những chất chết đă bị loại bỏ, chỉ c̣n lại những năng lực phản chiếu h́nh ảnh mà thôi, con người không thể phạm tội nữa.

            Nếu không có những vị như thế không có sự liên lạc giữa Nhân Loại với những Đấng Cao Cả, nhưng sự liên lạc nầy được họ duy tŕ và mặc dù họ đă hoàn toàn trong sạch, tâm họ cũng xúc động v́ những niềm đau khổ của kẻ khác. Giai đoạn nầy ở ngay trước đầu giai đoạn của vị Chơn Tiên, ấy là giai đoạn chót của vị La Hán. Chơn Tiên không c̣n sầu năo nữa. Tâm Thức Ngài là chí thiện, chí mỹ. Ngài có thể hồi tưởng lại những kinh nghiệm xưa mà không đau buồn, đối với Ngài, kinh nghiệm là một h́nh ảnh hoàn thiện và không thống thiết. Nhưng trong thời kỳ chót của giai đoạn kể ra trước đây, mặc dù con người không thể phạm tội và cá nhân con người đă trong sạch, sự hồi tưởng lại sự kinh nghiệm cũng không tránh được sự xót xa trong ḷng.

            Trong những tác phẩm công truyền, giai đoạn nầy đôi khi lầm lộn với giai đoạn của những vị Chơn Tiên mà người ta cho rằng các Ngài cũng c̣n cảm giác đau buồn. Chính trong giai đoạn trước đó người ta mới đau khổ, giai đoạn mà các vị La Hán tham gia những công tác của Chơn Tiên và trong lúc nầy c̣n bị ảnh hưởng của sự đau buồn. Vị Chơn Tiên hoàn toàn ở trên mọi sự thống khổ. Những vị La Hán dự phần vào việc xây dựng "Bức tường bảo vệ" nhưng xây dựng với sự đau khổ. Thường khi người ta áp dụng cho vị Chơn Tiên điều mà chỉ đúng với những vị Cao Đồ trong giai đoạn họ phải chịu khổ tâm nhưng không phạm tội nữa.

            Ở tŕnh độ thấp, chúng ta có thể v́ thiện cảm mà liên kết với bạn thân đến đỗi chúng ta xóa bỏ mọi t́nh cảm dị biệt. Một thiện cảm sau đậm như thế gây ra sự khổ năo. Khi mà không vượt qua khỏi Ahamkara[59] th́ thiện cảm và đau khổ vẫn dính liền nhau. Nếu chúng ta tách rời giai đoạn nầy quá sớm, chúng ta mất quyền năng thiện cảm, ấy là một trong những sự cám dỗ gặp phải trên Đường Đạo. Nhiều Đấng Cao Cả lùi bước lại dù đă tiến tới giai đoạn chót, bởi v́ nếu các Ngài mất năng lực đau khổ nên các Ngài mất luôn tính thiện cảm, dĩ nhiên, nếu tính thiện cảm không được toàn vẹn, bức tường ngăn cách chưa sụp đổ.

            Nhưng đừng lên án kẻ sa ngă, hăy đưa tay ra nắm lấy bạn hành hương mà đôi chân c̣n nặng trĩu bùn dơ. Nầy Đệ Tử, con hăy nhớ rằng vực thẳm có thể to lớn giữa người đạo hạnh và kẻ tội lỗi. Nhưng nó to lớn hơn nữa giữa người đạo hạnh và kẻ đă giác ngộ và nó vẫn vô biên giữa người đạo hạnh và vị sắp thành chánh quả. V́ vậy con đừng tưởng rằng con không c̣n ở trong hàng ngũ của Nhân Loại nữa.

            A.B. - Ở đây bảo rằng chúng ta không nên lên án kẻ bị cám dỗ. Sau khi trải qua giai đoạn thử thách, chắc chắn Huynh sẽ không lên án ai cả. Khi Huynh đă giẵm được những sự cám dỗ dưới chân Huynh, Huynh sẽ nhớ lại thời gian Huynh xúc cảm v́ nó, Huynh sẽ không c̣n lên án kẻ sa ngă nữa đâu. Sự khác biệt giữa người đạo hạnh và kẻ tội lỗi tương đối nhẹ, v́ người nào cũng phải tranh đấu trong giai đoạn đầu, sự khác biệt rất nhỏ. Trái lại, con người sau khi đă học hỏi và biết được ư nghĩa của đức hạnh và tật xấu Y đă tiến bộ rất nhiều rồi. Khi y thấy đạo hạnh và tật xấu là cặp đối lập, Y vượt lên trên sự hiểu biết. Khi Y đến ngưỡng cửa Thần Minh[60] sự khác biệt không thể đo lường được. Ở đây, chúng ta được cảnh cáo rằng nếu chúng ta tưởng tượng sớm quá rằng chúng ta đă tách ra khỏi Nhân Loại, chúng ta có ư khinh miệt những kẻ thấp hơn chúng ta và chúng ta sẽ bị vấp ngă sau đó. Một người đă Đắc Đạo thành Chánh Quả không tự cho ḿnh là cao hơn ai cả. Ngài biết chia xẻ cảm tưởng của mỗi người. Ngài kết liên với kẻ thấp kém hơn hết.

            Khi mà con t́m được chỗ khởi đầu của Đường Đạo, ngôi sao của Linh Hồn con cho thấy ánh sáng của nó và nhờ ánh sáng rực rỡ của nó con nhận thấy cảnh tăm tối nơi đó đang chiếu sáng rộng lớn biết bao. Trí, tâm, năo, tất cả đều tăm tối, tất cả đều hắc ám cho đến khi thắng được trận đại chiến đầu tiên. Con đừng sợ hăi, đừng khủng khiếp khi thấy cảnh tượng nầy. Con hăy chăm chỉ nh́n ánh sáng nhỏ bé và nó sẽ lớn dần ra. Cầu cho cảnh hắc ám ở nội tâm con giúp con hiểu được sự khốn khổ của những kẻ không trông thấy chút ánh sáng nào và Linh Hồn họ sống trong một đêm tăm tối dày dặc.

            A.B. - Khi chúng ta nh́n lên cơi Atma,[61] chúng ta tôn sùng ánh sáng nội tâm, chúng ta thấy ánh sáng nầy to lớn lên. Lần đầu tiên thấy được ánh sáng đó, Tâm Thức huynh mở mang làm cho huynh thấy được bóng tối bao quanh ngọn lửa của nó. Sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng chỉ cho huynh thấy điều đó, v́ vậy chính nhờ bóng tối nội tâm mà huynh hiểu biết cái bất lực của những kẻ không trông thấy chút ánh sáng nào cả. Chính họ mới cần đến ḷng thương chân thành. Không có lư do đau khổ giùm cho đồng loại chúng ta kể từ lúc họ biết có ánh sáng xuất hiện. Sự thương xót cần thiết cho những người không biết ḿnh ở trong cảnh tối tăm, họ măi đam mê trong cảnh vật phù du, vô giá trị, nhưng lại tưởng ḿnh là khôn ngoan. Sự tăm tối của họ dày mịt đến nỗi họ hoàn toàn không biết điều ǵ đă tạo cho họ nhiều đau khổ, các Đấng Cao Cả mới ban t́nh thương cho họ.

            Những kẻ nào nh́n thấy được, dù là một tia sáng, y vẫn tiến bộ trong những sự vật mà người đời chưa thấy thoáng qua. Từ khi thấy được ánh sáng, ḷng thương xót trở nên vô ích. Nếu ta thấy một người đau khổ trong t́nh trạng nầy, chính Y sau đấy sẽ lật đổ được bức tường và chính Y hữu phước làm được điều đó.

            C.W.L. - Khi chúng ta biết được Linh Hồn có thật, chúng ta thấy rằng đây là một sự kiện lớn lao mà đại đa số người đời không biết. Phần đông những người tự xưng là đạo đức cũng không tin chắc rằng Linh Hồn có thật, chỉ sống theo quan điểm Thế Gian mà thôi, có lẽ về mặt lư thuyết họ tin rằng Linh Hồn bất diệt nhưng những sự vật ở Thế Gian nầy đối với họ quan trọng hơn và họ chỉ để cho sự tín ngưỡng của họ dắt dẫn họ trong những trường hợp thật hi hữu.

            Muốn cho "Ngôi sao Linh Hồn" xuất hiện, trước hết chúng ta phải tin chắc Linh Hồn có thật. Chúng ta phải biết Linh Hồn ở trong ḿnh ta. Khi chúng ta ưa thích những sự vật trên những cảnh giới cao siêu, chúng ta tự ḿnh hiểu được vài Chân Lư mà không có cái ǵ làm lay chuyển được chúng ta về việc chúng có thật. Ngôi sao bắt đầu cho thấy ánh sáng hay là sự phản chiếu lờ mờ của nó. Ánh sáng yếu ớt nầy giúp ta thấy được sự vô minh thăm thẳm ở quá khứ và cũng ở hiện tại của ta nữa. Đó là cảm giác đầu tiên khi ta thu thập được chút ít sự hiểu biết.

            "Cuộc chiến đấu đầu tiên" là cuộc chiến đấu của giác quan. Trong cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ nầy, con người tuyên bố chống lại bản tánh thấp hèn của ḿnh và Y toàn thắng. Khi ánh sáng xuất hiện, chúng ta có thể lường được cảnh tối tăm mà chúng ta đă trải qua, chúng ta biết rằng tất cả những hành động và cho đến t́nh thương của chúng ta đều không có chiều hướng chỉ dẫn chúng nó đúng với sự thật hoàn toàn. Ánh sáng yếu ớt nầy cho chúng ta cái cảm tưởng rằng vẫn bị sai lầm không phương cứu văn, làm cho chúng ta cảm thấy sự bất lực của chúng ta. Nhưng tất cả điều nầy không nên làm chúng ta sợ hăi.

            Đừng trách cứ họ, đừng ngoảnh mặt làm lơ với họ, và con cố gắng nâng đỡ một chút nghiệp quả nặng nề của Trần Gian. Con hăy giúp đỡ vài bàn tay mạnh mẽ đang ngăn chặn những quyền lực hắc ám không cho chúng hoàn toàn thắng trận.

            C.W.L.- Ở đây chúng ta đừng ngộ nhận. Những bàn tay mạnh mẽ là những Nhân Viên của Quần Tiên Hội. Cuộc chiến đấu không chống với ma quỉ, theo danh từ của Cơ Đốc Giáo, cũng đừng xem những anh Bàng Môn Tả Đạo là những người nắm giữ quyền lực độc ác. Phải hiểu ở đây những Quyền lực hắc ám" là áp lực của vật chất. Muốn thắng nó, sự hợp tác của ta với các Đấng Cao Cả là cần thiết, nó vốn là một yếu tố dự liệu và thuộc về Cơ Tạo Hóa Trong lúc nầy những "Bàn tay mạnh mẽ" hỗ trợ không được nhiều v́ sự tiến hóa của nhân loại cho đến nay vừa sản xuất được một thiểu số "Chơn Tiên." Thiên Cơ  lấy nguyên tắc sau đây làm căn bản: "Một khi con người biết được Thiên Cơ, Y cộng tác liền với Thiên Cơ." Một sự kiện cho ta thấy bằng chứng, cho đến lúc Giống dân chánh thứ Tư sinh ra được phân nửa, liền cũng sau đó một ít lâu tất cả những chức vụ cao cả điều khiển sự tiến hóa của Cơi Trần đều do những nhân vật không thuộc về chủng loại của Địa Cầu chúng ta đảm trách. Có những vị khác từ Kim Tinh [62]  đến với chúng ta và những vị khác từ Nguyệt Tinh [63]  đến, ấy là những vị Đại Thánh đă được hoàn toàn giải thoát và đáng lẽ đă nhập vào hàng Thượng Đẳng. Nhưng kể từ khi cuộc tiến hóa của chúng ta đi đến chính giữa giai đoạn của nó phải trải qua, nhân loại phải tự ḿnh t́m những vị Đạo Sư cho ḿnh và người đầu tiên là Đức Phật Gautama. Không thể phủ nhận rằng chúng ta chẳng những phải sản xuất những vị Đại Thánh như Đức Phật và Đấng Christ mà tất cả chúng ta phải trở thành, ở một tŕnh độ rất thấp, những cộng sự viên thông minh, dốc ḷng thúc đẩy sự tiến hóa.

            Lúc bấy giờ con nhập vào một đoàn thể vui vẻ. Điều nầy dĩ nhiên bắt buộc con phải gánh vác một công việc vô cùng nặng nhọc và chịu đựng những nỗi đau buồn thâm thúy mà nó cũng ban cho một niềm hạnh phúc tuyệt vời và luôn luôn tăng trưởng.

            A.B. - Những lời nầy có nghĩa là nếu chúng ta hiện giờ tiếp xúc được với những vị mà đời sống là toàn phúc, nỗi đau buồn vẫn c̣n vấn vít trong ḷng chúng ta, bởi v́ chúng ta biết rằng bóng tối vẫn c̣n bao phủ nhân loại. Khi mà nghĩ đến kẻ khác, các huynh buồn, bởi v́ các huynh chưa đến tŕnh độ có thể nói : "Phải, đó là điều tốt". Trong giai đoạn nầy đối với sự sung sướng và đau khổ, một t́nh cảm tế nhị sinh ra, t́nh cảm ấy không thấy ở Cơi Thấp. Khi mà ánh sáng chưa được hoàn toàn sáng rỡ, cảm giác của huynh cũng tăng trưởng, bởi v́ ánh sáng làm cho ta biết được bóng tối. Tuy nhiên, khi học hỏi định luật, niềm vui của ta tăng trưởng thêm nhiều. Tôi nói ǵ đây? Không có một người nào thật sự khốn khổ trong thâm tâm của Y, bởi v́ tất cả đều là thành phần của sự sống Thiêng Liêng, mà sự sống nầy là toàn phúc. Vị Đệ Tử càng tiến bộ, Y càng có thể vượt qua những vực sâu thẳm nầy. Sau hết, Y biết rằng theo lời dạy của Thánh Ca Gita, Y đau khổ cho kẻ khác là Y lầm vậy và Thánh Nhân không đau khổ cho người sống cũng như không đau khổ cho người chết. Tại sao ta đau buồn cho một người thật có hạnh phúc?

            Đệ Tử nhập vào một đoàn thể vui vẻ, nhưng chính đoàn thể nầy bắt buộc Y phải làm một việc cực nhọc và cũng phải chịu đựng một nỗi buồn sâu xa thâm thúy, bởi v́ Y bị đưa đẩy giữa hai t́nh trạng nầy. Y phải tập cảm biết niềm vui nội tâm nhưng không làm mất sự tiếp xúc với những nguyên tắc thấp thỏi của đồng loại, sự đau khổ của nó hiện ra trong những nguyên tắc nầy. Y phải cảm biết điều đó, nhưng không để nó đè nặng lên Y. Con Đường Đạo chật hẹp [64] như lưỡi dao cạo, nhưng chúng ta phải giữ cho được thăng bằng triệt để, vừa để hai cá tánh tương phản ảnh hưởng đến chúng ta. Một trong những vai tṛ lớn lao của Đức Chơn Sư là giữ cho chúng ta được thăng bằng. Vị Đệ Tử khi ngă bên nầy, khi ngă bên kia. Lúc bóng tối đến, Chơn Sư làm cho Y nhớ tới đoàn thể vui vẻ, khi vị Đệ Tử tỏ ư muốn hoàn toàn thoát khỏi những sự đau khổ của Nhân Loại, kư ức của sự buồn rầu lại đến cho Y.

            Vị Đệ Tử ở trong t́nh trạng lưng chừng nầy thật lâu. Chúng ta không thể trở nên toàn thiện, nếu trước khi giữ được mức trung b́nh, chúng ta không lần lượt thực hành mỗi kinh nghiệm. Kinh nghiệm bắt buộc Nhân Loại phải có, là cùng trong một lúc chỉ học một bài mà thôi, như vậy mới có thể hết sức chú ư vào đó. Vị Đệ Tử đi trên Đường Đạo bị ném từ bên nầy qua bên kia khi Y không học cách giữ được thế quân b́nh.

            Đôi khi, không lư do ǵ cả, một bóng tối đổ xuống bao trùm Y lại, Y không làm sao t́m được nguyên nhân, tất cả điều ǵ Y biết là có bóng tối ở đó và Y không thể nào xua đuổi nó được. Nếu đă học thuộc bài, Y sẽ chấp nhận sự thử thách với ḷng b́nh tĩnh và kiên nhẫn, không có ư định trốn tránh nó. Sự thử thách sẽ dạy Y về ḷng trắc ẩn và tánh kiên nhẫn và nhiều bài học khác nữa, những bài học nầy không phải học trong ánh sáng mà phải học trong bóng tối. Chấp nhận với tinh thần ấy, khoảng thời gian tối tăm không bị tiếp nhận một cách lơ là, bởi v́ sự thử thách không c̣n gây cho ta sự buồn phiền và xáo trộn nữa. Chúng ta phải học những bài học nầy, nhưng không đau khổ, thở than. Đó là những h́nh ảnh, đúng hơn gọi là những bóng tối, nó làm cho ta đau khổ. Như một trẻ con sợ bóng tối, chúng ta chất chứa những h́nh ảnh đau khổ ghê gớm trong chốn tối tăm của Linh Hồn. Bóng tối là bóng tối, không hơn không kém; nó chỉ chứa đựng những bài học mà bóng tối phải đem đến cho ta và với thời gian, tất cả những loài ma quỉ sẽ biến mất. Không thể nào chúng ta sa ngă măi trong bóng tối; trước hết, nó làm cho ta tê liệt v́ khiếp sợ, sau đó chúng ta mới lợi dụng được những bài học của nó.

            Trong kỳ Điểm Đạo chót, kỳ Điểm Đạo của vị Chơn Tiên. Atma hiện ra như một ánh sáng trong vắt, như một ngôi sao, và cuối cùng lúc bức tường [65] sụp đổ, nó chiếu sáng rực rỡ, ánh sáng của nó thành ra ánh sáng vô tận vô biên. Trước đó, vị La Hán có thể cảm biết được sự an tĩnh chưa rơ rệt của Atma trong khi Ngài ở trong trạng thái tham thiền, nhưng luôn luôn Ngài vẫn ưu sầu. Về sau, khi một người tiến hóa lên cơi Atma hoàn toàn tỉnh táo và Tâm Thức Bồ Đề đă nhập vào Atma th́ một ánh sáng duy nhất hiện ra. Quyển Tiếng Nói Vô Thinh ( La Voix du Silence ) diễn tả điều đó bằng những danh từ đẹp đẽ nầy: "Cả ba ngự trong Vinh Quang và Hạnh Phúc vô lượng, hiện giờ tên tuổi ch́m mất trong cơi đời ảo mộng. Cả ba trở thành một ngôi sao độc nhất, ấy là lửa cháy mà không thiêu đốt, lửa ấy là  Oupadhi de la Flamme ". Vận cụ của Ngọn Lửa Thiêng[66].

            Trong Nhân Thể (Thượng Trí) con người thấy Ba Ngôi Thiêng Liêng (Trois sacrés) phân biệt với nhau, bây giờ Y thấy như là Ba Trạng Thái của Atma. Đối với Tâm Thức Bồ Đề trong giai đoạn trước kia, Bồ Đề và Manas là hai đứa con sinh đôi, hiện giờ chúng ta hợp nhất với Atma là Ngôi sao chiếu sáng trong không gian, ấy là lửa làm vận cụ (le feu véhicule) cho ngọn lửa Chơn Thần (Flamme Monadique). Vị Đạo Sư liền nói: Nầy Đệ Tử (Lanou) đâu là cá tánh của con, đâu là chính Đệ Tử (Lanou)? Ấy là đốm lửa mất dạng trong ngọn lửa, giọt nước biến mất trong biển cả nhưng tia sáng luôn luôn có đó và trở nên Ánh Sáng tỏa ra khắp nơi và vĩnh cửu. Vị Đệ Tử đă thành Chơn Sư. Ngài ngự tại trung tâm và trong ḷng Ngài chói sáng rực rỡ Ba Ngôi của Atma.

            C.W.L. - Huynh bước vào một đoàn thể vui vẻ, nhưng nó bắt buộc huynh phải gánh vác một công việc vô cùng nặng nhọc và chịu đựng những nỗi đau buồn thâm thúy, đó là chú giải của Chơn Sư. Tất cả những điều nầy là đúng, mà nó cũng đúng khi nói rằng niềm vui luôn luôn tăng trưởng làm quân b́nh được nỗi buồn.

            Sinh Viên nào mà những năng lực phát triển đầy đủ, theo giả định, Y là một người có thiện cảm: V́ vậy, Y phải trải qua một giai đoạn u buồn và gần như thất vọng khi thấy những nỗi thảm sầu và những niềm đau khổ bao quanh Y. Bởi v́ con người chưa được tiến hóa cao, chưa biết lẽ phải cho nên những sự đau đớn và buồn rầu, nóng giận, ganh ghét, đố kỵ, ghen tị, ham muốn và các tánh khác cùng loại, chiếm nhiều trong ḷng Y hơn là những đức tánh cao thượng, do đó những làn rung động khổ năo do Nhân Loại sinh ra chiếm ưu thế. Trên Cơi Trung Giới, điều nầy hiện ra thật rơ ràng; v́ vậy, người nào Thể Vía mở mang đầy đủ, cũng đồng thời cảm biết được những nỗi ưu sầu và đau khổ ở Thế Gian, có lẽ một cách không rơ ràng nhưng như là một sức nặng không ngớt đè lên Linh Hồn Y. Hơn nữa thường xảy ra những trường hợp ưu sầu và phiền muộn cá nhân ở Cơi Trung Giới cũng ép buộc gắt gao Y phải chú ư đến chúng. Sau cùng mọi thảm họa gây cho nhiều người những sự ưu sầu lớn lao phản ứng rơ rệt trên bầu thanh khí Địa Cầu.

            Sinh Viên phải tập chịu đựng sự ưu sầu nầy mà không để cho nó đè nặng lên Y; điều ấy kéo dài rất lâu. Dần dần, Y có một cách phán đoán sâu sắc hơn, sau rốt, Y bắt đầu nhận thấy rằng tất cả những niềm đau khổ nầy là cần thiết, v́ lẽ những t́nh trạng do chính con người tạo nên, mà niềm đau khổ không thể tránh được là bởi sự lănh đạm và thờ ơ quá mức của con người, nếu họ ít thờ ơ một chút sẽ có thể tránh được một phần lớn của sự đau khổ. Như tôi đă nói, sự đau khổ thật sự, do Nhân Quả của những kiếp quá khứ của ta sinh ra, có lẽ chỉ một phần mười những nỗi đau khổ mà chúng ta phải gánh chịu, c̣n chín phần mười khác là kết quả của chính thái độ xấu xa của chúng ta, tại nơi đây và ngay ngày hôm nay, trong kiếp hiện tại nầy. Đối với điều ấy, có một số đau khổ hoàn toàn vô ích. Trái lại, khi mà con người c̣n khăng khăng giữ lấy thái độ lỗi lầm, tư tưởng và hành động điên cuồng, họ c̣n phải chịu đau khổ, ấy là định luật vĩnh cửu. Nói một cách gián tiếp điều đó đối với họ là một việc tốt lành, bởi v́ sự đau khổ thức tỉnh họ, họ biết được sự lầm lạc của họ. Tiếc rằng họ cần nhiều sự cảnh cáo như thế; nếu họ không sớm lợi dụng và sửa đổi thái độ của họ, th́ c̣n có biết bao nhiêu sự đau khổ mà họ khó có thể tránh được.

            Đối với tất cả chúng ta là những người đă nghiên cứu vấn đề, những điều đó dường như rất dễ hiểu, v́ thế tôi cho hy vọng của tôi là chính đáng -  sự đau khổ của nhân loại sẽ giảm đi rất mau khi mà một thiểu số khá mạnh chấp nhận quan điểm chánh lư. Con người sau cùng cũng sẽ hiểu rằng chính là họ gây ra những niềm đau khổ cho họ và tới một ngày kia nhờ lương tri soi sáng, họ sẽ không làm tất cả những điều bất hảo nữa. Những Nhân Viên của Hội Thông Thiên Học phải để cho Thế gian một gương mẫu về thái độ Thông Thiên Học đối với cuộc đời, nhưng trong số đó có lắm Hội Viên, dù nhận thức rơ Chân Lư nầy cũng thấy khó đem ra thực hành. Đó là việc rất tự nhiên, tuy vậy, người ta cũng có thể gặp nhiều Hội Viên có thể chấp nhận hơi mau lẹ những tư tưởng mới; vả lại, chắc chắn rằng những quan niệm về loại nầy sẽ loan truyền với một tốc độ nhất định. Một người phát sinh một tư tưởng có thể tạo ra một vài ấn tượng, mười người sẽ tăng ấn tượng đó lên gắp mười và nhiều hơn nữa; một trăm người không phải chỉ tăng lên gắp trăm mà lên tới vô số lượng hơn là một người riêng rẽ, trừ phi người nầy là một bậc Thiên Tài phi thường. Hội của chúng ta có gần 30.000 Hội viên, nếu tất cả đều chấp nhận nh́n cuộc đời một cách triết lư và cao cả, do đó chắc chắn sẽ tránh được nhiều sự đau khổ; tôi tưởng, họ làm được một gương mẫu mạnh mẽ và tuyệt diệu. Theo cách đó, chúng ta có thể giúp đỡ một đám đông người không hiểu phương diện cao siêu của đời sống.

            Đối với ta, khi mà ta tin rằng tất cả những điều ǵ xảy ra đều hết sức tốt đẹp không có ǵ thay đổi được - tôi muốn nói phải kể luôn hoàn cảnh và quyền lợi của mỗi người - nỗi ưu sầu của ta thay đổi bản chất của nó. Ḷng thiện cảm của ta đối với kẻ khác cũng một mực như cũ, nhưng nỗi đau khổ của họ không đè nặng ḷng ta nữa. Chúng ta cùng chịu đau khổ chung với họ, nhưng không cùng chia xẻ t́nh cảm của họ. Các Đấng Chơn Sư có thiện cảm sâu xa với những người đau khổ nầy, nhưng chúng ta không thể nói rằng các Ngài chia xẻ nỗi niềm đau khổ, sự hiểu biết của các Ngài không cho các Ngài làm như vậy. Tôi xin lặp lại: “Một vị Chơn Sư không bao giờ buồn, không bao giờ chán nản.” Tuy nhiên, dường như đôi khi, đối với nhiều người, chính các Ngài cũng có một vài thất vọng. Có lẽ là tôi nói quá nhiều, nhưng tôi biết chắc rằng các Ngài nỗ lực đặng hoàn thành vài mục tiêu và nếu những mục tiêu nầy không đạt được, nguyên nhân là do sự khuyết điểm suy nhược những Công Cụ của các Ngài. Tôi không rơ, có phải ngay từ lúc đầu tiên các Ngài đă biết trước rằng những nỗ lực nầy sẽ vô ích chăng? Trong nhiều trường hợp, tôi có ư nghĩ rằng các Ngài đă biết, tuy vậy các Ngài vẫn hành động như các Ngài mong mỏi thấy cái kết quả tốt đẹp. Đây là một thí dụ: Trước Đại chiến, nhiều nỗ lực lớn lao đă được thực hiện hầu ngăn chận, nhưng thất bại. Các Đấng Chơn Sư góp phần vào nỗ lực nầy, đă tiên đoán ngay từ lúc đầu hay không, tôi không biết. Nhưng các Ngài làm việc như các Ngài trông vào sự thành công.

            Đức Bà Blavatsky trong nhiều trường hợp hiến những cơ hội như thế cho những người ở xung quanh. Bà thường chịu nhiều khó nhọc để dẫn dắt họ nắm lấy cơ hội, nhưng ngay từ lúc đầu bà biết rằng họ không làm ǵ hết. Một ngày kia tôi nhớ Bà tiếp những người muốn hỏi thăm bà. Tôi thấy rơ ràng họ không đủ khả năng học hỏi và làm bất cứ việc nào của Thông Thiên Học cả, bởi v́ với tâm tánh của họ lúc bấy giờ họ không thâu thập được sự ích lợi nào cả, đó là lẽ dĩ nhiên, nhưng bà hầu chuyện với những ông khách lạ nầy và thố lộ cho họ biết những dự định hoàn toàn thầm kín mà bà mong mỏi được thực hiện  cho Hội. Họ cười gượng và dường như họ không xứng đáng chút nào với những lời tâm sự. Sau khi khách về Bà Bá Tước Wachtmeister mới hỏi:"Thưa bà tại sao bà lại nói tất cả những điều nầy với họ? Dường như họ không phải là những người lợi dụng được mấy việc nầy." Bà Blavatsky liền đáp: "Nầy bạn, Nhân Quả dắt họ đến với tôi, tôi phải cho họ được dịp may mắn và tôi sẽ làm tất cả những điều tôi có thể làm được cho họ". Bà nghĩ rằng họ hiểu phần nào tâm sự của Bà, Bà đă cho họ một cơ hội thuận tiện. Tôi không biết, nhưng trái lại Bà biết, thật ra họ sẵn sàng nắm lấy cơ hội nầy tới mức nào, nhưng mà thái độ bên ngoài của họ là thái độ khinh thường, chế nhạo, khó chịu. Không bao giờ họ cho chúng tôi biết tin tức của họ, nhưng mà cơ hội đưa đến với họ, có vài lư do Nhân Quả để họ nhận được sự ích lợi nầy và nếu họ thờ ơ bỏ qua, có lẽ, khi một cơ hội khác như loại nầy đưa đến, họ sẽ nắm lấy khá hơn bây giờ một chút.

            Đức Bà Blavatsky trong dịp nầy áp dụng triệt để nguyên tắc không nên trách cứ những kẻ c̣n ở trong bóng tối. Họ càng tự măn th́ Bà thấy họ càng đáng thương. Luôn luôn rất vô ích đi trách cứ một người về thái độ thông thường và thói quen của họ: Đó là tŕnh độ tiến hóa của họ, họ vốn ở tại mức đó. Nếu họ rơi xuống dưới tŕnh độ trung b́nh ta có thể nói ngay với họ rằng: "Thật cái đó không tốt, Huynh biết chớ, đáng lẽ không nên làm như thế." Có lẽ chúng ta giúp họ không tái phạm. Nhưng tŕnh độ thông thường của một người chỉ cho biết sự tiến hóa của họ tới đó và nếu người nầy là người chậm tiến nhất th́ sự trách cứ y có ích lợi ǵ đâu; mà thật ra cũng vô lư đi quở trách đứa con nít mới lên năm sao chưa được mười tuổi.

            Một mặt khác, những người thường biểu lộ những đặc tính ít tốt đẹp, chính họ lại có những đức tánh cao thượng tiềm tàng và đôi khi những đức tánh ấy biểu lộ th́nh ĺnh trong một t́nh thế nguy kịch, khủng hoảng.Tôi đă nói : Có những người mà đời sống hằng ngày không mấy cao thượng và trong một cơ hội đặc biệt họ có thể tỏ ra có ḷng vị tha cho đến đỗi họ hy sinh đời ḿnh cho một người bạn. Đức Thượng Đế luôn luôn ngự trong con người và đôi khi Ngài hiện ra không ai ngờ được. Ngài hằng có mặt luôn luôn, chúng ta có thể cầu cứu Ngài. Đến gần Ngài th́ vẫn không bao giờ được, bởi v́ Ngài ngự chỗ thâm sâu nhất trong ḷng ta, nhưng trong nhiều trường hợp, chúng ta có thể cảm thấy Ngài bằng cách nầy hay cách khác.

            Câu cách ngôn nầy nói rằng: "Cảnh tượng thống khổ của Nhân Loại cũng bắt buộc ta làm một công việc nặng nhọc phi thường." Nhận thấy t́nh trạng chậm tiến và sự khốn khổ của Nhân Loại, làm sao ta lại không ân cần lo phương cứu chữa họ. Ấy là điều duy nhất phải làm. Không thể nào trở lại Thế gian mà không lo lắng đến những nỗi thống khổ đau đớn đang hoành hành trên Thế Gian, dù chỉ thật cảm biết qua một lần thôi. Tuy nhiên, công việc khó nhọc nầy liên kết với niềm vui tột bực và luôn luôn tăng trưởng. Chúng ta nên biết ơn Luật Trời. Chúng ta thấy lư do của những sự đau khổ và điều tốt lành do đó sinh ra. Hăy ghi chú lời nầy: "Con sẽ nhập vào một đoàn thể vui vẻ".  Đó là đời sống cao thượng trong tất cả sự mỹ lệ của nó. Chúng ta hợp tác với những Đấng Cao Cả hơn chúng ta. Chúng ta cảm biết rằng chúng ta làm việc cho các Ngài và với các Ngài, và chỉ một sự việc nầy cũng là một niềm vui to tát cho đến đỗi nó cho chúng ta sức mạnh để hoàn thành một công tác, không vậy, chúng ta xét thấy ḿnh vẫn bất lực, không làm được.


CHƯƠNG   11

QUI TẮC  21

 

            21.- Hăy sẵn sàng xem hoa nở trong cảnh im lặng sau cơn băo tố, chớ không phải trước đó.

            Hoa sẽ lớn, sẽ cao, sẽ sinh cành, lá và đâm chồi chính ngay giữa cơn băo tố và trong suốt thời gian tranh đấu. Nhưng hoa sẽ không nở trước khi Phàm Nhơn chưa hoàn toàn tiêu tan và bị hủy diệt, không phải trước khi hoa được một Điểm Linh Quang đă tạo ra nó và xem nó như một thí vật của sự thử thách và sự kinh nghiệm nặng nhọc, không phải trước khi toàn thể bản tánh chịu khuất phục Chơn Nhơn và biết vâng lời. Liền đó, một cảnh im lặng chợt hiện ra giống như cảnh im lặng trong miền nhiệt đới, sau một cơn mưa băo; trong cảnh im lặng đó Thiên Nhiên thực hành với một tốc độ kinh khủng cho đến đỗi thấy rơ rệt sự hành động. Sự an tĩnh sẽ đến cho tinh thần đang mệt mỏi. Và trong sự im lặng tuyệt đối, một sự huyền diệu sẽ xảy ra đột ngột, sẽ làm cho Linh Hồn biết rằng ḿnh đă t́m được con Đường Đạo. Con hăy đặt cho nó cái danh hiệu ǵ cũng được, tùy ư: Ấy là tiếng nói ở nơi mà không có con người nói, ấy là một sứ giả đi đến, sứ giả không h́nh sắc, không thực chất hay là đóa hoa của Linh Hồn đă nở. Nó không thể diễn tả bằng những lời lẽ bóng dáng nào cả. Nhưng người ta có thể gặp gỡ nó, ham muốn nó, t́m kiếm nó, mặc dù băo tố đang gầm thét.

            C.W.L.- Hoa nở là sự phát triển, sự khai mở Linh Hồn. Điều làm cho cho niềm ưu tư và nỗi thống khổ của Thế Gian càng thêm nặng nề hơn, ấy là chúng ta cảm thấy nỗi bất lực của chúng ta. Chúng ta thấy những người cố gắng, chịu đựng đủ mọi cách, nhưng họ thường tin rằng họ làm việc vô ích, không kết quả ǵ cả. Họ nói: "Người ta quả quyết có vài người tiến bộ nhanh chóng. Tôi không được may mắn như họ." Sự vô minh làm cho họ mất hết nguồn hy vọng. Sự phát triển của linh Hồn không cho họ có ư tưởng ấy, bởi v́ chúng ta biết điều đó. Những cuộc tranh đấu, những nỗi đau khổ, những điều khó khăn c̣n chờ đợi chúng ta, nhưng chúng ta tin chắc rằng bởi chúng ta là những Linh Hồn, không ai chống nổi chúng ta, không ai đánh bại chúng ta được.

            Như trong sách của chúng ta đă nói: Chính là Linh Hồn trưởng thành trong cảnh im lặng và an tĩnh. Theo ư tôi, người ta quả quyết và thường nhấn mạnh rằng: Linh Hồn trưởng thành nhờ sự đau khổ. Giải thích như vậy, nghĩa không hoàn toàn đúng. Linh Hồn học tập cách phát triển trong khi phạm lỗi và lúc sửa chữa những lỗi lầm ấy. Sự đau khổ luôn luôn là hậu quả của những tội lỗi, tôi xin lặp lại, mặc dù sự phát triển không xảy ra trong lúc đang đau khổ, măi về sau rất lâu mới thấy. Một bệnh nhân có thể thấy trong ḿnh khá hơn trước nhiều, sau khi được giải phẫu, nhưng sức khoẻ được khả quan không phải trong lúc giải phẫu. Cũng vậy, những kẻ bị vày ṿ khổ sở v́ mọi thứ khó khăn ghê gớm không sao phát triển được, nhưng theo cách họ tiếp nhận những sự khó khăn nầy và sau khi vượt qua khỏi chúng, họ mới có thể học tập cách phát triển. Hoa chỉ nở trong cảnh im lặng và sau cơn băo tố. Chắc chắn như thế, những cây nào chịu đựng nổi trước cơn giông tố có thể tăng thêm sức mạnh, nhưng phải đợi đến lúc yên tịnh trở lại chúng mới có thể phát triển. Phải trải qua cơn hỗn loạn của trận chiến trước khi hưởng sự ban thưởng cho kẻ chiến thắng. Sự phát triển thật sự của Linh Hồn cũng là sự chắc chắn yên ổn mà từ đây về sau không ǵ lay chuyển được.

            Sự chắc chắn nầy đối với những vật ở cơi trên ta có thể nói rằng: Cả Thế Gian đồng thốt lên một tiếng duy nhất đ̣i hỏi nó. Ḷng ham muốn tha thiết cho đến đỗi một tên bịp bợm đầu tiên khoe ḿnh hiểu biết trực tiếp, chắc chắn liền có nhiều người theo xin làm môn đệ. Vị Đạo Sư  tự tín đều lôi cuốn con người, bởi v́ các Tôn Giáo trên Thế Gian chưa đáp ứng được chút nào ḷng thỏa măn thật sự của họ. Chỗ nhược điểm của phần nhiều Đạo Giáo là không giải thích ǵ hết, bất cứ vấn đề nào. Đạo Giáo đưa ra định luật - một định luật hoàn toàn - như  "Ngươi chớ nên sát sanh" mà không giải thích tường tận tại sao sát sanh là điều ác. Thí dụ như sự nóng giận và những tư tưởng xấu, không ai chỉ dạy về điều ác đă gây nên, trong khi sự ác nầy không biểu lộ hoặc bằng lời nói hoặc bằng sự hành động. Tuy nhiên, Đấng Christ giải bày rất minh bạch về vấn đề nầy. Ngài dùng lời lẽ cương quyết nói về giới luật thứ bảy: "Người đàn ông nào hướng những tư tưởng đáng trách đến một người đàn bà là trong ḷng họ đă phạm tội." Chúng ta không được biết Ngài có giải thích cách h́nh tư tưởng tác động như thế nào chăng? Bởi v́ về điểm nầy sự giải thích càng làm cho Giáo Lư của Ngài dễ hiểu hơn nhiều.

            Nếu người ta muốn có sự chắc chắn trực tiếp đối với Chân Lư thiêng liêng và Chân Lư siêu nhiên, bước đầu tiên phải làm vẫn là bước đầu tiên của sự tiệm tiến huyền bí. Phải đàn áp Phàm Nhơn, sự thanh tịnh mới đến liền sau đó và chúng ta cảm thấy rằng chúng ta sống trong bầu không khí yên lặng mà chúng ta không biết. Chúng ta làm cho một cơn gió lốc nhỏ nổi lên ở chung quanh chúng ta, sự an tịnh không phải dành cho chúng ta, mặc dù vài người ở gần chúng ta không ngớt an hưởng sự thanh tịnh đó. Khi chúng ta có được năng lực nầy của Linh Hồn tức là sự chắc chắn nầy, tất cả dường như thay đổi, bởi v́ chúng ta không c̣n cho rằng mọi nỗ lực đều vô ích. Đức tin của chúng ta, một ḿnh nó, trong t́nh thế nguy nan, cũng có thể mất đi, bởi v́ lư do tin tưởng làm thỏa măn chúng ta trong lúc nào đó, không làm thỏa măn chúng ta luôn luôn trong khi khác, thí dụ trong giờ phút bị căng thẳng cực độ. C̣n sự chắc chắn sẽ làm thỏa măn luôn luôn. Khi chúng ta thấy và tự ḿnh chứng thực, dẫu cho sự thấy và hiểu biết nầy có bỏ chúng ta và chúng ta không thể bám víu vào chúng nó được nữa, luôn luôn chúng ta có thể nói: "Tôi thấy, tôi biết, trong lúc nầy tôi không thể nào thấy và biết như trước kia, nhưng tôi đă thấy, tôi đă biết, và sự chắc chắn nầy đưa chúng ta đi tới trước.

            Sau khi đă có kinh nghiệm trực tiếp nầy, rất khó mà tưởng tượng lại t́nh trạng trước kia của chúng ta, bởi v́ cách chúng ta nh́n xem vạn vật dưới cơi Trần đă thay đổi tận gốc. Đối với chúng ta, những biến cố nào đó khi xưa dường như rất quan trọng, giờ đây, chúng trở nên tầm thường. Hiện nay chúng ta biết được Chân Lư vĩ đại, thâm sâu, chúng ta biết đời sống duy nhất là cần thiết, c̣n đời sống bên ngoài không quan trọng, nên nó bị liệt vào hàng ngũ riêng biệt của nó. Tuy nhiên chúng ta đừng quên rằng phần đông những người mà chúng ta gặp đây vẫn c̣n ở tại tŕnh độ của chúng ta trước kia, khi chúng ta chưa mở mang Tâm Thức nầy. Thế nên luôn luôn không phải dễ mà có thiện cảm với họ, bởi v́ họ theo đuổi những ánh lửa ảo huyền. Chúng ta quên rằng mới hôm qua đây chúng ta cũng làm như họ vậy.

            Sự im lặng có thể kéo dài trong một lúc hay trong một ngàn năm, nhưng rồi cũng sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, con sẽ mang sức mạnh của nó vào ḿnh con. Phải biết bao phen chiến đấu và phải chiến thắng. Chỉ trong khoảnh khắc thôi, thiên nhiên mới có thể yên tịnh.

            Việc đúng lúc phát triển trọn vẹn có thể xảy ra ở bất cứ thời kỳ nào của đời sống con người. Nói một cách khác, đối với Linh Hồn, khi giờ phút nầy đă đến, sự phát triển của nó vẫn được thực hiện, dù Linh Hồn có hay không có một xác phàm. Nơi đây, tại cơi Trần, sự im lặng có thể xảy ra chỉ trong giây lát hay trong khoảng thời gian rất ngắn, nhưng nó cũng có thể kéo dài trong một ngàn năm, nếu con người ở tại cơi Thiên Đường. Sự im lặng đến với mỗi người và ở luôn với họ. Nhưng sự im lặng của thiên nhiên chỉ có thể kéo dài trong một lúc thôi, bởi v́ sự tiến hóa tiếp tục không ngừng, trong bất động không có sự tiến hóa. Người ta nói rằng, trong địa hạt Huyền Bí Học, không có ai đứng yên một chỗ, người ta hoặc lùi bước hoặc tiến tới. Tôi không biết có thật đúng như vậy hay không, nhưng chắc chắn một người không tiến bộ phải tự xét ḿnh và rán t́m ra lư do đó. Sự tiến bộ phải bền bỉ và không ngừng.

            Bây giờ đây chúng ta đă đến câu chú thích do Đức Chơn Sư Hilarion thêm vào qui tắc 21:

            Hoa nở là thời kỳ vinh quang, lúc đó sự tri giác phát khởi, tiếp theo là sự tin cậy, sự hiểu biết, sự chắc chắn. Thời kỳ mà Linh Hồn ở trong trạng thái lơ lửng và khoảnh khắc kinh ngạc, kỳ lạ, sự toại nguyện đến sau đó. Ấy là sự im lặng.

            Hoa từ từ nở, dù hoa c̣n khép kín, nó dần dần nở lớn ra dưới sự tác động của mưa, nắng và muôn ngàn  ảnh hưởng mà nó phải chịu đựng. Hoa nở khá th́nh ĺnh, nhưng sự phát triển vẫn liên tục. Sự tăng trưởng theo đà như trước kia, cũng như nó theo đà đó về sau. Hăy lấy một thí dụ tương tự khác: Con gà con lớn lên trong trứng, nó phá vỡ lớp vỏ và tiếp tục trưởng thành. Trong một lúc đặc biệt, dưới mắt chúng ta, cái trứng vỡ chứng tỏ thời kỳ quan trọng, mặc dù, sự thật, nó là một thành phần trong sự phát triển liên tục. Sự tiến triển của Linh Hồn cũng như thế.

            Đoạn nầy cũng liên hệ đến một giai đoạn đặc biệt trong đời sống của vị Đệ Tử, nó diễn tả tánh t́nh con người khi mà trong lúc được Điểm Đạo, Chân Lư vĩ đại đầu tiên chỉ dạy cho Y. Người ta có ư nghĩ rằng những cương yếu dạy trong kỳ Điểm Đạo rất nhiều và khác nhau. Tôi không phản bội lời thề mà nói rằng tất cả những Chân Lư vĩ đại không hề tiết lộ cùng một lúc. Mỗi giai đoạn tương ứng với sự truyền dạy một sự việc duy nhất, sự việc nầy dưới mắt con người biến đổi cuộc diện Thế Giới, cũng như sự am hiểu Luật Luân Hồi và Nghiệp Quả đă thay đổi đời sống của chúng ta. Người ta có thể nghĩ rằng đứng trước một sự việc mới mẻ, vị Đệ Tử được Điểm Đạo cần phải tuân theo trong đời sống hằng ngày của ḿnh và Y tự t́m lấy bằng chứng, không phải thế đâu, khi con người gặp được Chân Lư Y công nhận nó liền. Y không cần bằng chứng nào cả. Tiếp theo đó là thời kỳ lạ lùng: Sự mỹ lệ và sự hoàn thiện của Chân Lư làm cho Y kinh ngạc. Chỉ về sau Y mới biết rằng không phải như vậy là hết. Những sự quan sát sau nầy sẽ mở rộng tầm hiểu biết của Y, nhưng mà, ngay bây giờ, ấy là sự toàn thiện. Y cũng lấy làm ngạc nhiên tại sao Y không nghiệm biết sớm hơn những điều hiển nhiên như thế. Ḷng thỏa măn đến sau đó: Ấy là sự im lặng.

            Nầy Đệ Tử, con hăy biết rằng những người đă trải qua sự im lặng, những người đă cảm thấy sự yên tịnh và giữ được sức mạnh ấy. Những người đó tha thiết cầu mong con bước chân vào cảnh yên tịnh nầy.

            Chắc chắn họ cầu mong con được như vậy, bởi v́ những người đă mở mang năng lực của Linh Hồn đều biết toàn bộ hệ thống. Họ thấy hệ thống hoạt động trước mắt họ và quang cảnh đó, họ rất mong muốn chia xẻ nó với tất cả. Họ biết rằng theo dự định của một phần Thiên Cơ, tất cả chúng ta đều phải hợp tác với Cơ Trời. V́ thế, họ muốn rằng mỗi người, càng sớm càng tốt, được hướng dẫn để biết rằng giúp đỡ là bổn phận của ḿnh, là công tác riêng biệt thuộc về phần của Nhân Loại. Tất cả chúng ta đều có những công tác phụ thuộc. Chúng ta giữ một vai tṛ trên sân khấu Thế Gian, và chúng ta phải thủ vai tṛ ḿnh, càng tốt đẹp, càng thanh cao chừng nào càng hay chừng nấy. Vai tṛ, không mấy quan trọng, điều cốt yếu là diễn cho xuất sắc. Chúng ta hăy nhớ rằng chỉ có đời sống thật sự của Linh Hồn ở đàng sau tất cả những điều nầy, chính đời sống đó mới là quan trọng hơn. Chúng ta sống trong một Thế Giới mà những phương tiện lại được lấy làm cứu cánh. Sự giáo dục gần như căn cứ trên nguyên tắc nầy. Thí dụ, người ta dạy Kỷ Hà Học và Toán Học, nhưng không bao giờ người ta chỉ bảo những môn học nầy giúp cho chúng ta biết vị Đại Kiến Trúc Sư, tức là Đức Thượng Đế, tạo lập Vũ Trụ Ngài như cách nào. Nếu chúng ta lấy môn học đó làm cứu cánh, nó không dắt ta đến mục tiêu đặc biệt nào, nhưng nếu chúng ta nghiên cứu nó như các người xưa đă làm và phát minh ra nó th́ sự ích lợi to tát của nó hiện ra cho ta thấy. Đức Pythagore dạy về giá trị của con số và Kỷ Hà Học, nhưng bài học của Ngài dành cho các nhà Hiền Triết Physikoi, tức là những vị học hỏi những điều bí ẩn của cuộc đời. Họ học hỏi ngơ hầu biết rơ sự sống. Ấy là quan điểm do đó mà chúng ta cần phải học hỏi vạn vật, không nên giới hạn chúng ta ở trong những bài toán có tính cách vật chất hay thương mại.

            V́ thế, khi vị Đệ Tử đủ khả năng bước vào Đền Thụ Huấn luôn luôn Y gặp Đức Tôn Sư của Y tại đó.

            Thường thường người ta hay giải thích sai lầm về “Đền Thụ Huấn.” Trong “Tiếng Nói Vô Thinh” cũng có nói đến Đền nầy. Ba Đền được người ta đề cập đến, tŕnh bày nhiều ư nghĩa, như chúng tôi đă giải thích trước đây.

            Đối với Bà Mabel Collins, người được dùng để viết ra quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo,” Đền Thụ Huấn có nghĩa đen là một ṭa nhà. Bà đă xuất Vía đi vào Đền nầy và thấy vài lời giáo huấn viết bằng chữ vàng trên tường. Có thể Bà rất có lư. Kinh nghiệm nầy có lẽ do phương pháp đặc biệt về lối huấn luyện Bà. Những vị Huấn Sư của bà có thể có một Đền thờ loại nầy. Tôi không biết rơ và tôi chỉ biết nói là tôi không thấy Đền đó bao giờ, nhưng dĩ nhiên, những điều Bà nói ở đây về Đền Thụ Huấn thuộc về cơi Trung Giới. Ở tại đây, kẻ chí nguyện trước tiên cần phải học nhiều bài học của họ. Những người mà Thể Vía đă hoàn toàn khai mở th́ rất ít, phần đông c̣n tập sử dụng Thể ấy, v́ vậy người ta làm việc nhiều ở tŕnh độ nầy. Những người khai mở Thể Trí từng bậc cũng chưa đủ khả năng dùng nó như một vận cụ, và sau khi chết cũng vậy. Tất cả những người dùng được năng lực của Thể Trí có thể thấy được người chết bị bao bọc trong một lớp vỏ do tư tưởng của họ tạo ra. Có vài con đường thông thương từ lớp vỏ nầy ra bên ngoài nhưng số đường nầy rất ít và không có hiệu nghiệm nhiều. Người quá văng sống trong lớp vỏ chớ không phải ở cơi Trí Tuệ. V́ vậy, mặc dù tư tưởng của họ rất cạn hẹp, họ cũng cảm thấy được hoàn toàn hạnh phúc. Thật ra, họ có thể sống trong hạnh phúc viên măn hơn, nếu họ hoạt động được trong toàn cơi Hạ Thiên. Họ khai mở những năng lực giúp họ di chuyển thong thả. Trong khi chờ đợi, họ vẫn ở tại cơi Hạ Thiên, nhưng v́ sự giới hạn riêng của chính ḿnh nên họ chỉ biết có một phần nhỏ mà thôi.

            Ít người mở mang Thể Trí đến mức độ có đủ khả năng sử dụng nó làm một vận cụ. Tới một ngày kia, những vị Đệ Tử của Chơn Sư học di chuyển trong Thể Trí và họ tạo ra một Thể Giả gọi là Mayavi roupa để dùng khi làm việc ở Trung Giới. Học hỏi phương pháp xong, vị Đệ Tử bỏ Thể Vía và Xác Thân ở trên giường và khi nào Y muốn làm việc ở Cơi Trung Giới, Y tạo ra một Thể Vía tạm thời (Mayavi roupa), khi không cần dùng nữa Y để tự nó tan ră. Trước tiên, Đức Chơn Sư dạy Đệ Tử phương pháp thực hành, kế đó, vị Đệ Tử tự ḿnh làm lấy như tôi đă giải thích trong quyển Chơn Sư và Thánh Đạo.

            Việc vị Đệ Tử chắc chắn gặp Đức Chơn Sư trong Đền Thụ Huấn dường như mâu thuẫn với lời dạy trong “Tiếng Nói Vô Thinh”: Đừng t́m Tôn Sư của con trong Cơi ảo tưởng (Région  mayavique). Hai đoạn nầy có thể ḥa hợp trọn vẹn nếu người ta biết ư nghĩa của mỗi đoạn. Ở đây, người ta nên hiểu rằng tại Cơi Trung Giới con người sẽ luôn luôn gặp vị Đại Diện của Đức Chơn Sư. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt, chính Đức Chơn Sư tự ḿnh đứng ra lo lắng cho vị Đệ Tử. Thường thường vị Đệ Tử làm việc trên Cơi Trung Giới dưới sự điều khiển của một trong những vị Cao Đồ của Ngài.

            Lời giáo huấn của “Tiếng Nói Vô Thinh” khuyến cáo chúng ta đừng nhận nhân vật đầu tiên mà ta gặp trên Cơi Trung Giới làm vị hướng đạo cho chúng ta trong khi chúng ta chưa biết rơ họ là người thế nào, bởi v́ có một số đông nhân vật trên Trung Giới, đủ hạng khác nhau, với ḷng nhiệt thành đáng khen, sẵn sàng t́nh nguyện đứng ra làm Đạo Sư và họ không chút ngă ḷng về việc họ hiểu biết ít hơn những người mà họ muốn thâu nhận làm Đệ Tử.

            Ai cầu xin sẽ nhận được. Nhưng tiếng nói của kẻ thường nhân đă không ngớt cầu xin mà không được ai nghe, bởi v́ họ cầu xin với cái Trí, và tiếng nói của cái Trí chỉ nghe được ở cảnh giới, chỗ cái Trí hoạt động. Bởi thế, ta phải chờ qua 21 qui tắc đầu tiên trước khi nói: Ai cầu xin sẽ nhận được.

            Câu đầu của đoạn trên nhắc nhở một đoạn khác trong Kinh Thánh Tân Ước, đoạn đó giống hệt đoạn nầy. Đấng Christ nói: “Hăy cầu xin, người ta sẽ cho, hăy t́m rồi ngươi sẽ gặp, hăy gơ cửa người ta sẽ mở.” Thường thường người ta giải thích điều nầy như vầy: Những lời cầu nguyện của ta sẽ được chấp nhận và nếu chúng ta gơ cửa Trời, cửa sẽ mở cho chúng ta vào. Người ta tưởng một cách mập mờ rằng khi ta thử t́m phương giải thoát, ta sẽ được măn nguyện. Trong đoạn nầy, quan điểm cao hơn. Đây nói về Chơn Lư cũng như về sự phát triển Huyền Bí. Câu cách ngôn không áp dụng cho kẻ thường nhân mà đúng là cho vị Đệ Tử sau khi trải qua 21 qui tắc đầu tiên Y đi đến tŕnh độ được Điểm Đạo lần thứ Nhứt.

            Người nào chỉ cầu xin bằng trí năng, kiếm cách hoạch đắc những sự hiểu biết về Huyền Bí Học và cố gắng quan sát kỹ lưỡng những sự bí ẩn của cuộc đời và vạn vật bằng những năng lực trí thức mà thôi. Đức Chơn Sư nói rất minh bạch rằng điều nầy chưa đủ. Người đó, cũng sẽ được đáp ứng lại nhưng chỉ tương ứng với tŕnh độ Trí thức của Y mà thôi, nói một cách khác, Y sẽ chỉ có một quan niệm trí thức về vài vấn đề. Vả lại, đó cũng là một việc tốt lắm và phải thận trọng đừng khinh thường điều đó.

            Học giả Thông Thiên Học, về mặt trí thức hiểu rành rẽ Giáo Lư đă làm được một việc tuyệt đẹp, Y công nhận Giáo Lư là đúng bởi v́ trí tuệ của Y được thỏa măn. Đó đă là một kết quả quí báu, nhưng không cấu thành được sự hiểu biết thật sự và không giống chút nào sự xác thực tuyệt đối do những điều hiểu biết nhận được ở cơi Trực Giác, [67] chỉ có những điều hiểu biết đó, đối với nhà Huyền Bí Học mới chứng tỏ sự tiến bộ đúng đắn.

            Rất khó mà có một trí thức quá sâu sắc. Ai không đồng ư kiến với chúng ta? Điều lợi ích cho chúng ta là cố gắng gia tăng sự hiểu biết của chúng ta, mở mang trí thức do một công việc làm nhất định, bởi v́  tôi đă giải thích ở trên  không có sự tiến bộ quan trọng nào có thể có được trước khi Thể Trí cũng như Thể Vía của chúng ta đă phát triển tới một tŕnh độ nào đó. Trong vài trường hợp, người hiểu rơ hệ thống Thông Thiên Học gặp phải nguy cơ là phóng đại tầm quan trọng của những năng lực trí tuệ của Y, có thể Y tự ư phê phán và nói rằng: “Nếu do tôi điều khiển Vũ Trụ sẽ được xếp đặt một cách khéo léo hơn, không như bây giờ.” Người nào duy tŕ ư kiến nầy là dùng một cách tệ hại trí năng của ḿnh, Y sẽ phải khổ sở v́ nó. Y sẽ được ích lợi là mở mang cho ḿnh năng lực xúc cảm sâu xa hơn và thắm thía hơn. Trái lại, nếu con người có thể mở mang về mặt trí thức, mà vẫn giữ thói khiêm tốn, nếu Y hết sức nghiên cứu hệ thống mà trong trí tưởng hoặc trong lời nói, Y không xét đoán nó, sự phát triển của Y chỉ đem lại cho Y toàn là những ích lợi mà thôi.

            Người ta thường nói với chúng tôi: “Phải lấy Lương Tâm ḿnh làm người hướng đạo.” Những mạng lịnh của Lương Tâm từ trên đưa xuống và thường thường tiêu biểu những sự hiểu biết của Chơn Nhơn về vấn đề đương giải quyết; nhưng Chơn Nhơn mới phát triển có một phần; những điều Ngài hiểu biết về một vấn đề có thể rất ít oi và cũng có thể sai lầm, Ngài chỉ có thể lư luận tùy theo những sự hiểu biết mà Ngài sẵn có. Vậy Lương Tâm của một người đối với Y vẫn là một hướng đạo ít chắc chắn. Đôi khi, một Chơn Nhơn c̣n trẻ, ít thông minh, có thể bắt buộc Phàm Nhơn tuân theo ư muốn của ḿnh. Theo thế thường, một Chơn Nhơn chưa phát triển không khác hơn điều đó được, nếu là việc cưỡng bách mấy thể thấp phải thực hành  mạng lịnh của Ngài đưa ra, và có lẽ việc nầy là một điều tốt lành. Đôi khi, một Chơn Nhơn ít mở mang về phương diện khoan hồng và không có một học thức vững chắc nhưng có một ư chí khá mạnh mẽ nên ra lịnh cho cái óc xác thịt, và những mạng lịnh nầy chứng tỏ vị Chơn Nhơn nầy c̣n quá trẻ và không hiểu biết chi cả.

            Chúng ta chỉ phải vâng lời Lương Tâm của chúng ta mà thôi, nhưng cũng chắc chắn là chúng ta phải t́m cách sử dụng Lương Tâm đặng kiểm soát và kiểm nhận vài sự việc quan trọng lớn lao mà không ai đem ra bàn bạc.

            Rất có thể những vị Pháp quan [68] đôi khi hành động như vậy v́ theo tâm ư [69] họ xúi giục, nếu họ so sánh tâm ư họ bảo họ giết người, tra tấn người, thiêu đốt người với lời giáo huấn cao thượng và khoan hồng của Đấng Christ, Đức Giáo Chủ của họ đă dạy họ: “Các người hăy thương yêu nhau,” họ sẽ do dự. Họ sẽ tự nói: Lẽ tự nhiên điều nầy là một sự lầm lạc. Ít ra chúng ta cũng phải sáng suốt t́m hiểu trước khi chiều theo bản năng của chúng ta về quan điểm đặc biệt nầy. Mấy vị Pháp quan rất hữu lư tự giác như thế đó và đem tâm ư của họ ra mà so sánh như đá thử vàng với những qui tắc tổng quát của Đấng mà họ đă biết là bực cao minh tối thượng. Nhưng họ không tưởng nghĩ đến điều đó, v́ thế Cơi đời chịu đau khổ dữ dội. Trong trường hợp như vậy, ít có người chịu ra công suy nghĩ, không thấy đó là phương sách chắc chắn nhứt phải đem ra thực hành.

            V́ vậy chúng ta phải sử dụng trí tuệ của ta cách nào đặng nó làm dụng cụ cho Chơn Nhơn và không làm trở ngại sự phát triển của Ngài. Nếu tâm ư của ta h́nh như bảo ta làm một việc rơ ràng trái ngược với Đại Luật Bác Ái, Chơn Lư và Công Bằng, chúng ta phải tự hỏi có phải là qui tắc tổng quát không cao hơn sự áp dụng đặc biệt nầy chăng? Và dường như sự áp dụng không hợp với Định Luật.

            Trước khi thật thức tỉnh trên Cơi Trực Giác, [70] ta thường nhận được những phản ảnh của nó. Đôi khi trực giác đến với chúng ta trong đời sống hằng ngày và mặc dù những cảm giác của Chơn Nhơn bắt nguồn từ cơi Thượng Thiên hơn là cơi Bồ Đề, thỉnh thoảng chúng ta cũng nhận được như một lằn chớp nhoáng của sự hiểu biết Thiêng Liêng mà sự biểu hiện không thể phát sanh ở cảnh giới thấp hơn cơi Bồ Đề. Những ánh sáng vô giá nầy đem đến cho chúng ta những sự hiểu biết mà chúng ta cảm biết hết sức là đúng, nhưng trong nhiều trường hợp không dùng trí khôn t́m ra được nguyên nhân.

            Sự tín nhiệm của ta rất chính đáng, nếu quả là trực giác thực sự. Trong những giai đoạn đầu tiên, sự khó khăn đối với chúng ta là luôn luôn chúng ta không thể phân biệt được Trực Giác với sự kích thích. Muốn phân biện, Đức Bà A. Besant đưa ra một hay hai thí dụ sau đây:

            Huynh đă có thời giờ chờ đợi, hăy bỏ qua trong chốc lát và để việc đó qua ngày mai. Nếu là một sự kích thích, chắc chắn nó sẽ tan mất. C̣n như quả là một Trực Giác thực sự, nó vẫn giữ nguyên vẹn sức mạnh của nó. Một mặt khác, Trực Giác luôn luôn có tánh cách Bác Ái, Vị Tha. Một sự kích thích từ Cơi cao đưa xuống có vẻ ích kỷ, Huynh hăy tin chắc rằng đó là một sự kích thích trí tuệ, chớ không phải là Trực Giác thật sự ở Cơi Bồ Đề.

            Những sự kích thích của Cái Vía cũng như những Trực Giác, đi từ cơi Trung Giới vô Cái Phách  của bộ óc xác thịt, c̣n những Trực Giác xuất phát, tùy theo trường hợp, từ Thượng Trí hay Kim Thân (Thể Bồ Đề): Thứ nầy cũng như thứ kia, đều phát sanh từ những cảnh cao nên thật khó mà phân biệt chúng nó. Tới một giai đoạn sau nầy, chúng ta không thể lầm lạc, khi TâmThức mở ra trên mức độ cao hơn Cái Vía, chúng ta biết chắc chắn những kích thích bắt nguồn từ cơi Trung Giới hay là một cơi cao hơn. Những người sanh đồng thời với chúng ta ít khi hưởng được sự ích lợi nầy, thế nên họ phải vận dụng tất cả lương tri và tất cả trí lực mà họ đă mở mang được.

            Sau khi thực hành xong 21 qui tắc, trong lúc Sinh Viên được Điểm Đạo, Tâm Thức Bồ Đề hay là sự hiểu biết Sự Đồng Nhất hiện ra cho anh thấy như là một sự kiện Thiêng Liêng vĩ đại. [71] Sau sự kinh nghiệm nầy, thí sanh khác hẳn thường nhân chỉ biết cầu xin với trí năng mà thôi. Người ta thường nói: Đơn Nhứt là đặc điểm của cơi Bồ Đề. Điều nầy có lẽ cần phải có vài lời giải thích phụ thêm. Ở trong Nhân Thể (Thượng Trí), một người có thâu thập sự hiểu biết khá đầy đủ một vật nào đó; anh thấy cái tinh hoa, cái cốt yếu của nó, bởi v́ Chơn Nhơn tác động qua trung gian của Nhân Thể (Thượng Trí). Chơn Nhơn tưởng một cách trừu tượng, chớ không cần hạ xuống cho tới những thí dụ, bởi v́ tư tưởng của Ngài soi thấu cặn kẽ vấn đề. Mấy điều nầy thật kỳ diệu nhưng c̣n hành động từ bên ngoài.

            Đặc điểm lớn lao của cơi Bồ Đề là hoạt động từ trung tâm phát ra ngoài (Ly Tâm Lực). Nếu ta muốn tỏ bày thiện cảm với người nào đó và hiểu biết họ trọn vẹn hầu giúp đỡ họ cho có hiệu quả, ta hăy hoạt động trong Thượng Trí (Nhân Thể). Ta phóng ra một tia sáng như tia sáng của đèn khí đá của Nhân Thể của Y (đây là nói một cách bóng dáng) rồi ta học hỏi những đặc tánh, những cái riêng biệt. Chúng nó rất rơ ràng và dễ xem xét, nhưng luôn luôn chúng ta thấy từ bên ngoài. Nếu chúng ta có năng lực Bồ Đề và muốn đạt được sự hiểu biết nầy, ta đem Tâm Thức ta lên cơi Bồ Đề và tại đó ta nhận thấy Tâm Thức của người mà ta muốn học hỏi là một thành phần của chúng ta. Tại đây, ta gặp trong Tâm Thức ta, một điểm, có thể nói là một kẽ hở hơn là một điểm, nó tiêu biểu cho tâm thức của Y, nhờ kẽ hở nầy mà ta vào Tâm Thức của Y, đây là một mức độ thấp ta đă chọn lựa. Ta thấy  tất cả mọi vật đúng như Y đă thấy. Ta thấy chúng nó bằng cách ta vô trong tâm Y, thay v́ từ ở ngoài mà nhắm vô. Người ta hiểu dễ dàng rằng phương pháp nầy giúp chúng ta hiểu biết và có thiện cảm một cách trọn vẹn.

            Khi tầm mắt ta mở rộng nhờ những sự hiểu biết mới mẻ nầy, tất cả những thực thể khác nhau và tất cả những vấn đề liên hệ đến chúng nó trở thành một thành phần của chúng ta. Chúng ta học hỏi chúng nó từ bên trong, chớ không phải từ bên ngoài, chúng ta có thể nhứt định điều khiển Tinh Lực chúng ta theo chiều hướng nào. Đây là một sự lợi ích rất lớn lao và mới mẻ. Chúng ta biết phải bàn đến những vấn đề dưới Thế Gian cách nào. Tôi không muốn nói rằng một người mới thấy thoáng qua sự đồng nhứt không hề lầm lạc ở trong mấy cảnh thấp, nhưng y không lầm lạc nếu Y có khả năng đem Tâm Thức Y lên cảnh cao, Y quan sát vấn đề theo quan điểm cao siêu nầy, chừng về nhập xác nhớ rành rẽ rồi hành động. Có khi Y không có đủ th́ giờ làm như vậy, hoặc là không nghĩ tới điều nầy. Y cũng lầm lạc như mấy kẻ khác vậy.

            Tuy nhiên, việc có năng lực nầy rất  ích lợi cho Y, bởi v́ ngay bây giờ đây chẳng những nó giúp Y hiểu biết mà c̣n nhờ tầm mắt mở rộng nên thấy được chiều hướng cần điều khiển sức mạnh để thâu thập những kết quả mong muốn với những điều kiện rất thuận lợi.

            Đọc, theo ư nghĩa Huyền Bí của danh từ, là đọc với cặp mắt tinh thần. Hỏi, tức là cảm biết khao khát trong thâm tâm - thiết tha với nguyện vọng Thiêng Liêng. Có khả năng đọc được tức là có năng lực để thỏa măn sự khao khát đó trong một mức độ thật nhỏ.

            Nguyện vọng thiết tha Thiêng Liêng không phải là sự ham muốn thường để hiểu và biết, vốn sẵn có (cố hữu) của Nhân Thể (Thượng Trí) mà nó thuộc về một sự biểu hiện cao cả, sự biểu hiện ở cơi Bồ Đề và chỉ tại cơi nầy nó mới t́m được sự thỏa măn trọn vẹn. Như tôi đă giải thích, cái chi xảy ra trong Thể Bồ Đề đều phản chiếu trong Cái Vía của Phàm Nhơn. V́ thế  luôn luôn người ta lấy một sự cảm xúc mạnh mẽ thuộc về cơi Trung Giới như là một nguyện vọng Thiêng Liêng.

            Những Sinh Viên Huyền Bí Học không nên lầm lạc như thế, nhưng những Tân tín đồ đều thường phạm lỗi nầy. Chúng ta thường thấy những gương thí dụ trong những cuộc hội họp Tôn Giáo gọi là Để Thức Tỉnh trong đó nhiều người không có giáo dục, không có sự mở mang nào cả, ở vào trạng thái xuất thần, mê mang trong chốc lát khi nghe một người kia giảng Đạo. Chính là người nầy cũng bị xúc động mănh liệt, cho nên mới gây được sự xúc động cho các thính giả. Vài nhà đại truyền giáo thuở xưa v́ bản tánh đa cảm nên có được quyền năng nầy đến một mức độ hết sức cao. Tôi không có ư nghĩ rằng họ không làm được nhiều sự ích lợi, tôi không có chút chi ngờ vực về điều đó, nhưng theo lời thú nhận th́ sự hành động của họ thuộc về Cơi Trung Giới và nhắm vào sự cảm xúc.

            Quả thật có thể thức tỉnh nhiều người có nguyện vọng Thiêng Liêng bằng phương pháp đi từ dưới thấp lên trên cao, nhưng hạng người nầy rất hiếm và không có trong những hạng người c̣n kém về bề học thức.

            Ư kiến nầy không có chi gọi là hẹp ḥi hay nhỏ nhen, v́ những t́nh trạng của sự sanh sản đều do Nhân Quả định đoạt. Một người kia sanh trong giai cấp xă hội thiếu giáo dục và đức dục là tại số phần của Y. Chắc chắn Y là một Linh Hồn c̣n trẻ hơn một người khác lúc mới sanh đă hưởng thụ được những lợi lộc nhiều hơn Y. Nhưng đây không phải là trường hợp bất di bất dịch. Có những ngoại lệ, những trường hợp đặc biệt, nhưng nói một cách tổng quát th́ thật đúng như vậy. Có những tín đồ Cơ Đốc Giáo như hạng ông Mondy và Nankey chỉ thuyết Đạo cho những người không có giáo dục nghe. Người ta có thể mong mỏi đánh thức được những cảm xúc, chớ không biết những hiệu quả được trường cửu hay không. Nếu những ấn tượng khá mănh liệt, họ sẽ nhớ được lâu, dầu cho những xúc động đă lắng dịu xuống và người mà Thế Gian gọi là “Được cứu rỗi” có thể duy tŕ tâm trạng mới mẻ và cao thượng hơn trước.

            Những sự xúc động mănh liệt có khi rất bổ ích, nhưng mà thường thường chúng nó gây ra nhiều tai hại. Có nhiều người nhờ chúng nó mà dứt bỏ được đời sống xấu xa, nhưng cũng có nhiều người bị khổ sở vô cùng, như trí tuệ mất sự quân b́nh, hay là mất năng lực tư tưởng, hoặc trở nên điên cuồng dữ tợn. Những trường hợp mà sự ích lợi được trường cửu rất hiếm, không phải là thông thường, phần đông có tánh cách tạm thời. Sự kích thích tiêu mất không c̣n cái chi tốt đẹp tồn tại cả. Nhưng chúng tôi nh́n nhận rằng sự cảm xúc là một việc tốt đẹp trong trường hợp những người cảm thụ được nâng lên một tŕnh độ cao hơn trước, mặc dầu điều nầy là nhứt thời, trong chốc lát thôi.

            Những Sinh Viên Huyền Bí Học không nên có những sự cảm động nầy, bởi v́ họ đă qua khỏi giai đoạn nhờ sự kích thích như thế đó giúp cho họ tiến hóa. Nhưng đừng lầm lẫn sự cảm động của loại nầy với sự phấn khởi của mấy cơi cao. Trong những cuộc hội họp gọi là “Thức Tỉnh,” các thính giả thường ở trong trạng thái xuất thần, hôn mê; lúc đó chắc chắn họ không tự chủ được nữa. Tôi thấy nhiều người dậm chân, la hét om ṣm, họ không tự kềm chế cho đến đỗi họ không hiểu họ đang làm ǵ. Người ta nói:  Điều đó chứng tỏ họ vui mừng. Tôi muốn công nhận như thế, nhưng đó là một sự cảm xúc cuồng loạn, Sinh Viên Huyền Bí Học phải tránh xa. Người nào ở vào trạng thái xuất thần lên Cơi Bồ Đề liền rời khỏi xác thân, một niềm phúc lạc đưa anh lên, mănh liệt cho đến đỗi không có danh từ nào diễn tả được, nhưng anh không mất ư thức “anh chính là anh.” Anh ở trên một Cơi cao anh cũng chính là anh, anh c̣n hơn trước nhiều, anh vẫn tự chủ. Sự xuất thần của anh có thể đối chiếu với một sự cảm xúc của Phàm Nhơn; nó là một niềm vui tột bực ở mọi tŕnh độ, nhưng không phải một cảm xúc buông lung, không có sự kềm hăm. Nhưng sự xuất thần không hề xúi giục anh làm những việc bất cẩn hay là những điều vô lư, khiến anh quên ḿnh và tự hạ nhục ḿnh. Sự phấn khởi tột độ, niềm phúc lạc của sự kinh nghiệm cao siêu không thể diễn tả được, luôn luôn nó kèm theo một sự an tịnh tuyệt vời dường như lan tràn khắp Thế Gian, trong lúc đó, những sự cảm xúc thấp làm mất sự thăng bằng tới một điểm hết sức lạ lùng.

            Một người có Thần Nhăn khi tới dự một cuộc hội họp gọi là “Thức Tỉnh” thường thấy có những sinh vật không phải là con người, ở thật đông trong pḥng chờ, lợi dụng những lượn sóng của sự xúc động vô kỷ luật nầy. Sự cảm xúc là một năng lực khủng khiếp và những lượn sóng của nó, nếu chúng ta để ư xem xét về kích thước của chúng sẽ thấy chúng rất cao và có một sức mạnh dữ tợn. Chúng phóng tới, chúng lao ḿnh qua chất Thanh Khí làm Cơi Trung Giới và gây tại đây tất cả những hậu quả của một trận băo lớn tại Cơi Trần. Nhiều sinh vật ở Cơi Trung Giới vui thích trầm ḿnh trong cơn băo tố với một niềm hoan lạc và một sự kích thích tột độ, họ không biết cảm xúc ấy sanh ra bởi những cảm t́nh đạo đức, thù hận hay t́nh thương. Họ chỉ t́m những sự rung động lớn lao, những ḍng nước xoáy và những làn gió lốc của trận băo tố. Họ rất thích thú quay cuồng trong sóng nước và thả trôi như những tay bơi lội giỏi ở ngoài biển khơi. Khi làm được họ làm nổi dậy những cảm xúc của con người và t́m cách tăng nó lên thập bội, họ chỉ biết đó là niềm vui vô bờ bến. Trong những cuộc hội họp như thế chính do họ mà những lực hùng hồn phát sanh ra. Họ tăng thêm cường độ lực nầy cũng như một bầy cá voi trong lúc biển động trững giỡn làm cho sóng dậy ba đào. Những loài sinh vật nầy chỉ khôn bằng loài ḱnh ngư mà thôi, không có chi gọi là Thiêng Liêng cả. Không phải như nhiều người đă lầm tưởng đó là Linh Khí. Làm tṛ chơi cho những sinh vật thấp thỏi như thế thật là không xứng đáng cho con người chút nào.

            Sự phấn khởi và niềm phúc lạc mănh liệt kèm theo ḿnh sự im lặng và sự yên tĩnh tuyệt đối trong cơi ḷng mới chứng tỏ chắc chắn là con người đạt đến những mức độ cao siêu. Sự xáo động, sự hỗn loạn, sự mất tự chủ là dấu hiệu con người c̣n ở trong một cảnh thấp.

            Khi Đệ Tử đă sẵn sàng học hỏi th́ anh được đón tiếp, nh́n nhận và thâu nhận. Phải có như thế bởi v́  anh đă đốt sáng ngọn đèn của anh, không thể che giấu nó được.

            Đây là một câu cách ngôn khích lệ chúng ta. Những vị Đệ Tử luôn luôn được Sư Phụ chăm nom, mặc dù nhiều người khó mà hiểu được điều nầy. Những Đấng Cao Cả đă cắt nghĩa điều nầy như vầy: Khi các Ngài nh́n xuống cơi Trần, người nào đă thắp sáng ngọn đèn của ḿnh rồi th́ hiện ra như một ngọn lửa lớn giữa đêm tăm tối, như thế làm sao các Ngài không thấy nó. Các Ngài chờ đợi những ánh sáng nhỏ hiện ra rồi các Ngài gắng sức biến đỗi mỗi ngọn đèn leo lét thành một ngọn lửa, để sau đó, tới phiên những ngọn lửa mới nầy chiếu sáng khắp Cơi Trần.

            Về điều nầy, người ta thường đưa ra những lời công kích đột ngột, không kịp suy nghĩ. Có lẽ đó là sự tự nhiên, nhưng những người công kích ấy nên im lặng là điều tốt hơn. Tôi thường nghe nhiều Hội Viên rất thông minh, biết phân biện lẹ làng những sự lầm lạc và nhược điểm của kẻ khác, nói như vầy : Anh đó là Đệ Tử Chơn Sư, tôi thấy anh không có cái ǵ xứng đáng hơn tôi. Tôi đă ở nhiều năm trong Hội, tôi đă làm việc nầy, việc nọ, nếu một người nào c̣n những nhược điểm rơ rệt lại được thâu nhận, tại sao tôi không được hân hạnh đó.

            Những người đưa ra ư kiến như thế quên hẳn nguyên tắc chung nền tảng của sự tiến bộ Huyền Bí. Những sự chống đối của họ là một loại với sự chống đối về Luật Nhân Quả mà người ta thường thấy. Họ thấy không có sự công b́nh trong nhiều việc đă xảy đến cho họ. Như thế th́ không có luật công b́nh nào cả. Họ nói: “Luật công b́nh ở Thế Gian, chỉ là ảo tưởng thôi.” Điều nầy rơ ràng cũng như nói: Tôi chế tạo một Thủy động cơ, nhưng nó không chạy. V́ không có áp lực của nước. Một người có trí óc lành mạnh không nói như vậy. Trước hết anh sẽ t́m kiếm cái máy trục trặc ở chỗ nào, biết rằng những luật của thiên nhiên vẫn bất di bất dịch và không bao giờ chúng nó lầm lạc. Không một ai có thái độ như thế đối với luật của Khoa Học Vật lư; nhưng đối với Luật Nhân Quả người ta lại có thái độ đó. Nếu lúc đầu người ta lấy giả thuyết rằng Luật Nhân Quả có thật và có hành động bất di bất dịch, và nếu người ta không biết cách nó hành động trong trường hợp nầy hay trường hợp kia, họ nên qui lỗi cho chính ḿnh và sự nông cạn của họ. Họ sẽ không phạm lỗi khờ khạo phủ nhận sự tồn tại của Luật Nhân Quả.

            Cũng thế, về nhiều phương diện, những người nào tưởng ḿnh cao hơn những người đă được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử nên nhớ rằng xét đoán của Ngài không hề sai lầm trong sự lựa chọn. Quả thật ở trên những cơi cao siêu có những điều mà một vị Chơn Sư chưa biết, nhưng mà chắc chắn những ǵ ở các cơi thấp liên hệ với chúng ta, chúng ta có thể nh́n nhận những sự hiểu biết của Ngài không hề sai lầm. Trên Chơn Sư c̣n những Đấng Cao Cả như Đức Bàn Cổ (Manou). Đức Bồ Tát (Bodhisatva), Đức Phật, Đức Ngọc Đế. Các Ngài thấu rơ nhiều điều mà Chơn Sư chưa thông. Đức Thái Dương Thượng Đế c̣n biết nhiều hơn. Ngoài ra c̣n những Đấng Thái Dương Thượng Đế cao hơn nữa và sự hiểu biết của các Ngài càng sâu rộng vô cùng. Đối với mấy cảnh dưới mà Chơn Sư đă hoàn toàn khắc phục, chớ nên nghi ngờ sự xét đoán và sự đúng đắn của Ngài. Khi chọn lựa ai, Ngài không thể lầm lạc.

            Dầu trường hợp đặc biệt, ngoại lệ, ngày sau vị Đệ Tử bỏ đường chánh làm những việc xấu xa tệ hại, điều nầy không phải Chơn Sư đă lầm trong sự lựa chọn. Nếu Anh xứng đáng được cơ hội tốt đẹp, cơ hội tốt đẹp sẽ đến với Anh. Việc dạy dỗ một vị Đệ Tử như thế đ̣i hỏi vô lượng công phu. Trong trường hợp trên đây, dường như những công phu trước kia rất vô ích. Nhưng không phải như vậy. Chắc chắn tất cả những điều nầy sẽ được kể vào sự tiến hóa của y trong một chỗ kia và một cách nào đó. Có khi Chơn Sư đưa đến cho người nào đó một dịp may v́ anh xứng đáng được hưởng, mặc dầu trong người anh, gần bên những tánh tốt lại có những tật xấu, nếu những tật xấu nầy thắng những tánh tốt, chắc chắn không thể dùng anh được. Chơn Sư vẫn đưa cơ hội đến, v́ đó là sự công b́nh.

            Đôi khi có những sự ràng buộc giữa những Chơn Nhơn (Linh Hồn) với nhau, khiến nhiều kiếp sau đưa đến t́nh thân mật giữa Thầy và Tṛ. Ta hăy kể trường hợp mà nhiều người biết, là trường hợp của Huynh Sinnett, Phó Hội Trưởng của chúng ta. Xưa kia, lâu lắm rồi, Huynh là một ông hoàng Ai Cập danh tiếng lẫy lừng. Thân phụ Huynh có tạo lập và chu cấp cho một Đạo Viện nên có thanh thế và uy tín rất lớn. Lúc ấy, một vị Tôn Sư của chúng ta bị bắt làm tù binh ở Ai Cập. Huynh Sinnett và tôi vốn ở trong đạo binh giam cầm Ngài. Ở trong xứ, Ngài là một vị rất có thanh danh. Người ta giao Ngài cho chúng tôi giữ, bởi v́ những tù binh thuộc hạng quyền quí cao sang được đối đăi rất tử tế tại Ai Cập và được những người ngang hàng với họ săn sóc, ngày nào họ không t́m cách trốn đi. Ngài ở trong nhà Huynh Sinnett hai năm, trong thời gian nầy Ngài rất thích những hoạt động trong Tu Viện. Ngài xin tham gia vào những công tác đó. Nhờ Huynh Sinnett giúp lời nên Ngài được vô Đạo Viện khảo cứu Huyền Bí Học. Ngài tiến bộ một cách lạ thường và trong những kiếp sau, Ngài tiếp tục học hỏi thêm rộng sâu những điều Ngài đă biết khi c̣n ở trong Đạo Viện tại Khem thuở xưa. Về sau Ngài thành một vị Chơn Sư trong khi người ơn của Ngài ngày xưa ở Ai Cập vẫn c̣n xa cửa Đạo. Trong kiếp hiện tại, khi Ngài quyết định đem truyền bá Chơn Lư Thông Thiên Học cho Thế Gian, v́ ngày giờ đă đến cho Nhân Loại để tiếp nhận nó, Ngài bèn t́m một người để giao phó sứ mạng nầy. Ngài nh́n xuống thế, thấy người bạn cũ và cũng là ân nhân của Ngài khi xưa đang làm Giám Đốc một tờ Đại Nhựt Báo, hội đủ những điều kiện cần thiết để hoàn thành sứ mạng nầy. Khi đưa cơ hội tốt đẹp đến cho Sinnett, Chơn Sư đă trả xong mối nợ Ngài đă thiếu Huynh. Chúng ta hiểu Huynh Sinnett đă biết lợi dụng cơ hội bằng cách tốt đẹp nào rồi. Gương nầy chứng tỏ rằng một người kia, trong một quá khứ xa xưa có tạo sợi dây liên lạc với người khác, ngày nay Đắc Đạo thành Chánh Quả làm một vị Siêu Phàm. Muốn trả món nợ đă mang, lẽ tự nhiên Ngài giúp đỡ Anh nầy, dạy dỗ và đem Anh đến gần Ngài.

            V́ vậy, những sợi dây có thể thắt chặt nhiều cách khác nhau và có thể người được chọn lựa làm Đệ Tử  rất c̣n xa sự trọn lành; nhưng nếu không xứng đáng, Anh không được chọn lựa. Những lầm lỗi, những nhược điểm của Anh chưa phải là một duyên cớ để loại Anh ra ngoài, nếu Anh có nhiều khả năng khác quan trọng hơn và những lợi ích thâu hoạch được nhiều hơn những bất lợi. Có nhiều trường hợp khiến cho Chơn Sư quyết định thâu nhận người nầy hay người nọ. Chúng ta hăy chắc chắn rằng anh nầy không được thâu nhận nếu anh không xứng đáng. Điều trái ngược lại rất đúng là không một ai xứng đáng cần phải lo ngại cho số phận ḿnh không được Chơn Sư để ư tới và không được chọn lựa.

            Dùng Hạ Trí, do công tŕnh khó nhọc của chúng ta kiến tạo để phê phán những hành động của các vị Chơn Sư mà sự hiểu biết vô cùng cao siêu hơn chúng ta, là không sáng suốt chút nào. Chúng ta có thể không hiểu được lư do của các Ngài. Nhưng ít ra những kẻ phụng sự Ngài giữ vững niềm tin đối với các Ngài để nói rằng; Tôi biết Chơn Sư hành động rất đúng. Tôi không phân biệt được tại sao. Riêng về phần tôi, Ngài sẽ thâu nhận tôi khi tôi sẵn sàng. Tôi phải tỏ ra xứng đáng. Trong khi chờ đợi, những điều Chơn Sư ban cho kẻ khác không quan hệ ǵ tới tôi cả. Không có ǵ khôn ngoan hơn.

            Cũng nguyên tắc đó đối với công việc giao phó cho chúng ta. Nếu bề ngoài xem như có vẻ không thành công, cũng đừng thất vọng. Nếu chúng ta không thu hoạch được kết quả đă tiên liệu, chúng ta có thể thu nhận được kết quả đúng với ư muốn của Chơn Sư. Không phải luôn luôn Ngài nói với chúng ta tất cả những tư tưởng của Ngài. Ngài cho chúng ta một công việc làm, chúng ta tưởng kết quả chúng ta thu thập chắc chắn là kết quả mà Ngài chờ đợi. Có lẽ ư muốn của Ngài lại khác hẳn. Có lẽ Ngài muốn tập cho người làm việc chịu một kỷ luật đặc biệt, thí dụ như không thất vọng trong trường hợp thất bại; sau cùng, Chơn Sư có những lư lẽ khác mà kẻ làm việc không biết. Trong những kinh nghiệm của tôi về Huyền Bí Học, tôi có cơ hội nhận thấy nhiều lần điều đó. Chúng tôi được lịnh làm vài việc, chúng tôi tưởng rằng chúng sẽ sanh ra những hậu quả nào đó, nhưng không có ǵ xảy ra. Chúng tôi lấy làm lạ, nhưng vài năm sau, chúng tôi thấy rằng nếu không có việc làm của chúng tôi trước đây sẽ không thu thập được một hiệu quả khác. Theo ư tôi, chắc chắn là trong trường hợp nầy Chơn Sư cho chúng tôi làm một việc không phải như ư của chúng tôi đă tưởng, mà với ư nghĩ khác chúng tôi không hiểu chi cả.

            Với những người bất măn v́ t́m thấy những điều mà họ gọi là lỗi lầm ở nơi những người Đệ Tử và cho rằng những người như thế không xứng đáng được chọn lựa, tôi xin nói với họ: Chắc chắn mấy Anh thấy có một khía cạnh của vấn đề và Cái Trí của mấy Anh đă nghĩ sai lầm. Nếu mấy anh biết sự hiện hữu của các Chơn Sư và nếu mấy Anh có một chút ư niệm về  quyền năng của các Ngài, mấy Anh có thể tin chắc rằng các Ngài biết rơ những điều của các Ngài làm. Nếu mấy Anh không t́m hiểu được ư định của các Ngài, tóm lại, điều nầy không có ǵ là cần thiết cho mấy Anh. Các Ngài biết, đó mới là điều quan trọng.

            Người được chọn lựa làm Đệ Tử không phải luôn luôn được hay biết liền về việc nầy. Thường thường người được vinh hạnh sẽ làm Đệ Tử đă có giao thiệp mật thiết cách nầy hay cách nọ với một người đă làm Đệ Tử  Chơn Sư và đă được Ngài chỉ dẫn đôi điều qua trung gian của người Đệ Tử ấy. Chắc chắn Chơn Sư đă nói với vị Đệ Tử cũ: Đêm mai, con dắt người đó đến Thầy trong lúc Y ngủ. Khi Y đến tŕnh diện, Chơn Sư  nói với Y: Ta theo dơi công việc làm của con, ta tin tưởng con có thể tiến bộ. Ta thâu nhận con làm Đệ Tử Nhập Môn, nếu con cam kết con sẽ dùng hết sức lực của con, hay là những sức lực mà con có thể sử dụng để phụng sự Nhân Loại theo những điều kiện mà Ta sẽ chỉ bảo, đó là điều thường xảy ra.

            Nhưng có khi phải chờ đợi một thời gian khá lâu trước khi hay biết việc được chọn lựa, hoặc v́ một lư do nào đó, con người không biết được việc nầy trong lúc anh đang thức.

            Tôi nhớ, một trường hợp đặc biệt, tại Ấn Độ, một ông lăo, tín đồ Ấn Giáo chánh thống sống một đời hết sức đúng đắn, rất hữu ích và siêng năng. Ấy là một người không bao giờ tỏ ra ích kỷ và dùng tất cả những phương tiện đă có để phụng sự Nhân Loại. Sau khi làm đầy đủ bổn phận trong gia đ́nh, ông dùng tất cả th́ giờ và tiền của ông để làm những việc phước thiện theo ư ông hiểu. Trước khi biết Hội Thông Thiên Học, ông luôn luôn tin rằng: Những vị Đại Hiền Triết Ấn Độ (Rishis) thuở xưa có thật mà hiện giờ các Ngài vẫn c̣n. Ông hy vọng sẽ được gần gũi các Ngài trong tương lai, nhưng ông nói một cách khiêm tốn: “Tôi biết quyền quyết định ở nơi các Ngài chớ không phải do tôi. Tôi t́m kiếm các Ngài, trong nhiều năm dài đăng đẳng, tôi cố gắng sống một cuộc đời đúng theo ư muốn của các Ngài.” Ngày kia, một vị Chơn Sư của chúng tôi nói với ông: “Đă 40 năm rồi, Ta theo dơi công việc của con làm, Ta thường dắt dẫn con mà con không hay biết. Ngày giờ đă đến. Tốt hơn là cho con hay biết điều nầy.

            Đây là một gương sáng rất hiển nhiên, dường như nó chứng tỏ rằng nhiều người có ḷng vị tha có thể làm việc dưới sự điều khiển của các Tôn Sư của chúng ta mà họ không ngờ điều đó. Có thể có nhiều lư do để trong kiếp nầy họ đừng biết việc ấy.[72] Chúng ta hăy tin chắc. Chơn Sư hành động cho sự tốt đẹp, nếu các Ngài không nói chi cả, điều nầy không chứng tỏ rằng sự chăm nom của các Ngài vẫn không được thường trực.

            Trong những sự giao thiệp nầy, Chơn Sư hành động thế nào cho quyền lợi của con người và sự ích lợi của việc làm được tăng thêm, bởi v́ Ngài được ưu thế xem xét tất cả những điều nầy từ trên những cơi cao siêu, nơi đó khỏi cần phải làm cho điều lành và điều dữ cân phân với nhau như ở các Cảnh thấp. Biết bao lần, tại Thế Gian nầy, sự làm việc phải, việc lành đưa tới theo một chiều hướng duy nhứt, nhưng xét về một phương diện khác th́ việc làm của ta có hại.

            Đức Bàn Cổ có ám chỉ về Chơn Lư nầy mà không ai biết khi Ngài nói: “Không có lửa nào mà không có khói,” nhưng Lửa không có Khói có thật. Ở mấy Cơi cao sự lành thuần túy, không có những hiệu quả, không có sự liên kết với sự ác, bởi v́ tất cả đều thực hiện cho quyền lợi chung và sự tiến bộ của toàn thể bao hàm sự tiến bộ của mỗi đơn vị. Nếu đôi khi, việc làm gây ra tai hại, nếu con người bị chận đứng lại, th́ việc chận đứng nầy giúp cho sự tiến bộ của Y. Cũng như sự tỉa nhánh cây chỉ có một mục đích là làm cho nó vượt lên tốt, nhưng cái cây cho là ác độc đối với nó.

            Nhưng không thể nào học được trước khi thắng trận giặc đầu tiên. Lư trí có thế biết Chơn Lư nhưng Tinh Thần không thể chấp nhận nó.

            Chơn Nhơn đưa những cảm giác xuống mấy cảnh thấp khi Ngài bắt đầu thức tỉnh. Ngày nào mà Ngài chưa làm chủ được Cái Vía th́ ngày đó Ngài không làm ǵ được, bởi v́ khi Cái Vía chỉ là những sự cảm giác sôi nổi, làm sao Chơn Nhơn truyền đạt những lời giáo huấn có mạch lạc hay là hợp lư. Trận Đại Chiến đầu tiên là chiến đấu đối với giác quan. Chơn Nhơn phải thắng phục chúng nó, sau đó Chơn Nhơn đối diện với Cái Trí, có thể nó là một địch thủ gớm ghiếc hơn Cái Vía nữa.

            Chơn Sư nói tiếp qua những điều do Trực Giác ban cho. Như tôi đă giải thích, trong mỗi kỳ Điểm Đạo thí sinh nhận được một bí quyết, một ch́a khóa, dưới tầm mắt của Anh, nó sẽ biến đổi hết cuộc đời, tiết lộ những sự bí mật thâm sâu mới mẻ và như thế đó, nó thêm cho Giáo Lư Huyền Bí một ư nghĩa rộng răi hơn. Mỗi lần thí sinh nhận lấy bí quyết, Anh tưởng nó là cái chót. Anh nói: Bây giờ đây tôi thông suốt tất cả, những sự hiểu biết của tôi rất mỹ măn, rất đầy đủ, không có cái chi cao siêu hơn nữa. Nhưng những điều c̣n lại phải học tập vô tận, vô biên. Càng ngày con người càng tiến, từ bức màn nầy tới bức màn khác lần lượt vén lên cho anh. Chơn Sư biết đúng lúc nào sự giải thích nầy hay sự giải thích nọ hữu ích hơn hết. Đôi khi, người ta tưởng tượng rằng: Điều tốt hơn hết là nhận lănh tất cả một lần một. Ư tưởng như thế thật là phi lư. Điều nầy không khác nào bắt buộc vị giáo sư dạy phép Vi Tích Phân cho một đứa nhỏ c̣n đương học bảng toán nhân. Nó phải trải qua nhiều tŕnh độ trung gian, trước khi hiểu được ư nghĩa của phép toán mới nầy.

            Đối với chúng ta cũng hoàn toàn đúng như vậy. Chúng ta thường nghĩ rằng (cũng là sự kiêu hănh của Cái Trí) chúng ta hiểu biết khá đầy đủ, không c̣n có thể dạy chúng ta những sự hiểu biết mới mẻ khác nữa. Tôi chỉ xin nói: Các Ngài hiểu hơn chúng ta nhiều về cái ǵ tốt đẹp cho chúng ta. Dĩ nhiên, điều tốt nhứt cho mỗi người cũng là điều tốt nhứt cho tất cả.

            Nhiều người vẫn đồng ư về điều nầy. Họ thừa nhận toàn thể phải đi trước mỗi phần tử, nhưng đôi khi họ có chút ư nghĩ rằng: Những phần tử bị bỏ quên và nếu tất cả đều góp phần vào sự ích lợi cho toàn thể, e rằng những phần tử cá nhân thường không được săn sóc. Cơi đời được cai trị một cách rất khôn khéo. Điều tốt nhứt cho toàn thể chắc chắn là tốt nhứt cho cá nhân. Chẳng những Nhân Loại đều được đối xử công b́nh, mà sự công b́nh nầy đối với bất cứ một cá nhân nào cũng không được trở thành một sự bất công, dầu một sự bất công nhỏ nhất chăng nữa. Chúng ta hăy tin như thế: Niềm tin của chúng ta phải trở thành tuyệt đối, vậy không c̣n chút chi ngờ vực, không c̣n chút chi sợ hăi nữa. Dù có chi xảy đến, chúng ta cũng có thể nói với một ḷng tin tưởng và b́nh tĩnh rằng: Tất cả đều thực hiện cho sự tốt đẹp nhứt.

            Ai đă trải qua cơn dông tố và t́m được sự an tịnh, từ đó lúc nào cũng có thể học hỏi; dầu cho vị Đệ Tử c̣n do dự, sa ngă và rời bỏ con đường chánh, Tiếng Nói Vô Thinh vẫn ở trong ḷng Y, dầu Y bỏ hẳn Con Đường Đạo đi nữa, một ngày kia nó sẽ vang lên, làm tan nát cơi ḷng Y và chia đôi t́nh dục với thiên năng. Rồi, mặc cho Phàm Nhơn đau khổ và kêu la tuyệt vọng, v́ bị bỏ rơi, vị Đệ Tử cũng trở về với Đạo.

            Trong trường hợp như thế, thật ra, sự chiến đấu sẽ cực kỳ ác liệt. Chúng ta chớ nên đi đến t́nh trạng đó. Điều tốt hơn là chúng ta ǵn giữ lấy ḿnh và tránh một sự giải phẫu trầm trọng, là sự chia rẽ giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn. Sự chiến đấu chống với Phàm Nhơn vốn tiếp tục không ngừng, nếu vị Đệ Tử cho kẻ nghịch bám chặt vào Chơn Nhơn và làm cho Ngài bỏ những khả năng cao thượng của ḿnh sẽ chịu cực kỳ đau khổ khi tới ngày chia rẽ không tránh khỏi được, bởi v́ người đă nhập lưu chỉ ra khỏi ḍng sông khi đă tới bờ bên kia. [73]

            V́ thế Ta nói với con: Cầu chúc cho con được an tịnh. Câu: “Ta ban cho con sự an tịnh của Ta,” chỉ để cho Đức Thầy dùng nói với những Đệ Tử yêu quí giống như Ngài.

            Nơi đây Chơn Sư  định rơ một sự phân biệt đáng chú ư. Ở Á Đông câu: Cầu xin sự an tịnh đến vói anh là một lối chào thường lệ, với một nét tốt đẹp. Khi chúng ta nói Good bye là Cầu xin Đức Thượng Đế đến với anh, câu nầy đồng nghĩa với câu trên, v́ Đức Thượng Đế là Sự An Tịnh. Chữ Salaam của người Hồi Giáo là Salem của Jérusalem và Jérusalem có nghĩa là chỗ cư lưu của sự yên tịnh. Người Ấn có từ Shanti, có nghĩa là “Yên tịnh.” C̣n Namaste của họ có nghĩa là Chào anh! Kính anh! Thường thường người ta trả lời lại bằng chữ Shanti.

            Ở Á Đông có tục lệ để sau chót quyển sách câu: Cầu xin sự an tịnh đến với anh. Câu nầy muốn nói tác giả cáo từ các độc giả và chúc phước lành cho họ. Nhưng, như Chơn Sư đă nói câu: “Ta cho con sự an tịnh của Ta” chỉ để dùng trong trường hợp đặc biệt mà thôi. Khi nói: “Ta để lại cho các con sự an tịnh của Ta, Ta cho các con sự an tịnh của Ta không phải như Thế Gian đă cho,”[74]  Đấng Christ chỉ nói riêng với các Đệ Tử của Ngài mà thôi. Chúng ta hăy đọc câu nầy. Muốn thọ lănh sự yên tịnh của Chơn Sư, vị Đệ Tử phải giống như Ngài, nghĩa là một vị Đệ Tử Chánh Thức, Thiệt Thọ, có lẽ c̣n hơn nữa, là Đệ Tử, Con của Thầy. Những lời nói với vị Đệ Tử không phải tiêu biểu cho cái ước vọng thường t́nh là cầu xin sự an tịnh và ân huệ ban xuống cho Y. Ước vọng do một người có quyền năng đọc lên sẽ có một hiệu lực chắc chắn. Những tiếng nầy có một ư nghĩa nhiều hơn. Chơn Sư ban sự yên tịnh của Ngài, sự yên tịnh mà không có chi khuấy rối được, cho những người con  của Ngài, giống Y như Ngài. Họ thuộc về thành phần của chính bản chất của Ngài và kết hợp với Ngài trong phạm vi khả năng của họ. Lẽ tự nhiên cái đó không có nghĩa là vị Đệ Tử được dự phần vào trọn vẹn bản chất của Ngài và những ǵ Ngài đă có. Nếu như vậy vị Đệ Tử đă thành một vị Siêu Phàm, nhưng anh dự phần vào được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

            Những câu trên đây có thể lặp đi lặp lại hằng ngày một cách đầy đủ hơn cho những ai chưa từng biết Khoa Minh Triết Đông Phương.

            Đây là một thông điệp đặc sắc và rất thú vị. Đối với chúng ta nó có thể dường như lạ lùng, bởi v́ nhiều người trong chúng ta có vài quan niệm về Khoa Minh Triết Đông Phương, tôn kính các Đấng Cao Cả, từ lâu thuộc về một tổ chức đặc biệt hiến ḿnh để phụng sự các Ngài và công việc các Ngài; nhưng đối với phần đông, các Ngài không thể nói: Ta cho các con sự an tịnh của Ta. Ngài chỉ nói câu nầy với một số người được Ngài chấp nhận liên quan mật thiết với Ngài.

            Tuy nhiên ân huệ thân mật nầy có thể ban cho vài người không biết Khoa Minh Triết Đông Phương. Điều nầy có nghĩa chi? Ai được ban cho một đặc ân như thế ? Trong giai đoạn tiến hóa hiện thời những người được đặc ân đó rất ít, nhưng vẫn có. Muốn hiểu được, chúng ta hăy tự hỏi điều ǵ làm Chơn Sư được quyền đem vị Đệ Tử đến gần bên và phụ tá Ngài. Ấy bởi vị Đệ Tử đă bước qua Thế Giới của Ngài, chia xẻ hoàn toàn cách nh́n thấy của Ngài và xem xét tất cả những ǵ có liên hệ với cơi đời y như Ngài đă quan sát vậy. Điều nầy cũng có thể ban cho một người không biết Chơn sư và Khoa Minh Triết Đông Phương. Sự thiếu kém giáo dục không thể ngăn cản Y, không cho Y chấp nhận sự thấy cao siêu nầy. Đặc điểm của Chơn Sư là Tuyệt Đối Không Ích Kỷ. Ở nơi Ngài, không bao giờ nghĩ đến Bản Ngă thấp hèn. Chơn Sư xem vạn vật như thấy chúng nó tại cảnh giới của Thượng Đế và không có phút nào Phàm Nhơn của Ngài can thiệp. Tất cả cái chi giúp ích cho sự tiến hóa của con người đều tốt đẹp, cái chi ngăn cản nó, là xấu xa. Khoa Minh Triết Thiêng Liêng cho chúng ta đầy đủ tâm trạng nầy, nếu chúng ta hiểu rơ nó, tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy có nhiều người không biết Khoa Minh Triết mà cũng có được tâm trạng đó, như chúng ta. Muốn gần Chơn Sư đến mức độ có thể nhận lănh được sự an tĩnh của Ngài, ḷng thương người hay là tánh vị tha (Từ Bi, Bác Ái) là điều kiện đầu tiên và chánh yếu. Người ta có thể ở gần Chơn Sư và nhận lănh sự An Tĩnh của Ngài, nhưng mà hai người được diễm phúc nầy vẫn thọ lănh không đồng đều với nhau. Một người hiền đức vị tha nhưng dốt nát [75] nhận lănh sự an tĩnh của Ngài tất cả những ǵ mà Y có thể nhận lănh được. Trái lại, một người kia có đủ hai đức tánh đó đồng bực với người nầy nhưng thêm vô sự hiểu biết cao siêu sẽ nhận lănh sự an tĩnh nhiều hơn không biết bao nhiêu lần.

            Hăy xem xét ba Chơn Lư. Chúng vẫn bằng nhau.

            Trước hàng nầy có h́nh tam giác; ấy cũng như chữ kư của người đă viết nó, cũng như các Đức Giám mục Công giáo để h́nh Thập Tự trên những bức thơ hay là những tài liệu. Ở đây h́nh tam giác muốn cho người ta chú ư một cách đặc biệt.

            Ba Chơn Lư mà Đức Chơn Sư Hilarion đề cập đến là những Chơn Lư của Ngài đă kể ra trong một quyển mà Ngài nói cho một vị Đệ Tử chép lại. Quyển đó nhan đề The Idyll of the White Lotus (Mối t́nh ngây thơ của Bông Sen Trắng) nhưng không được độc giả chú ư đúng mức.

            Nơi đây thuật lại một trong những tiền kiếp của Ngài tại Ai Cập trong thời kỳ Đạo Giáo Ai Cập đă suy đồi, nên không c̣n ai hiểu nó nữa. Sự thờ phượng tốt đẹp và Vô Ngă biến thành sự tôn thờ một nữ thần bắt buộc tín đồ phải phát triển dục t́nh sôi nổi nhiều hơn là ḷng thanh khiết cao thâm; sự trụy lạc càng ngày càng trầm trọng.

            Chơn Sư lúc đó tên là Sensa, Ngài có thần nhăn và là một học tṛ trong một Đạo Viện Ai Cập. Các Mục Sư của Đạo Viện nầy rất mến Ngài, v́ Ngài có thần nhăn và dùng Ngài như một đồng cốt, nhưng không muốn Ngài đem Đạo Giáo chân chính  ra dạy dân chúng , bởi v́ điều nầy có hại cho Giáo Hội thuở đó. Cuối cùng họ giết Ngài. Trong câu chuyện nầy, Sensa sau khi trải qua nhiều cơn thử thách gặp một nhóm Chơn Sư  trong đó có Sư Phụ của Ngài. Sư Phụ Ngài nói với Ngài những điều cần dạy cho dân chúng biết, họ là những người lạc đường v́ nghe theo một Giáo Lư sai lầm, đồi trụy.

            Các vị Siêu Phàm dặn  Ngài chỉ dạy những Chơn Lư tổng quát mà thôi. Chúng tôi có những Đại Chơn Lư nầy như chúng đă được tŕnh bày khi xưa. Ở phía trước có vài chữ như vầy:  Có Ba Chơn Lư tuyệt đối không bao giờ mất được, nhưng có thể phải ch́m vào sự im lặng, v́ không có một miệng nào phô diễn chúng.

            Nói một cách khác: Quần Tiên Hội ǵn giữ chúng nó, cho nên chúng nó không thể nào mất được, dù cho tới một thời buổi kia, thiên hạ không biết đến chúng nó nữa, v́ không có một ai đem ra công bố.

            1)  Đại Chơn Lư thứ nhứt: Linh Hồn con người vốn bất tử, tương lai của nó là tương lai của một vật mà sự phát triển và sự huy hoàng vốn vô tận vô biên.

            Đại Chơn Lư nầy trừ tuyệt sự sợ sệt ngày về Địa Ngục và việc cần được cứu rỗi, bởi v́ sự thành công cuối cùng của mỗi Linh Hồn con người là điều tuyệt đối chắc chắn, mặc dầu v́ lạc nẻo, nó cách xa đường tiến hóa không biết bao nhiêu dặm.

            2)  Đại Chơn Lư thứ nh́: Nguyên Lư ban phát sự sống vốn ở trong ḿnh ta và ở ngoài ta. Nó không bao giờ chết. Đời đời kiếp kiếp nó vẫn chí thiện; không thấy nó được, không nghe nó được, không cảm nó được, nhưng mà người nào muốn thấy nó th́ thấy được.

            Nói một cách khác, Thế Gian là một sự biểu hiện của Đức Thượng Đế. Con người là một thành phần của Ngài, có thể chứng nhận được điều nầy khi nó có khả năng vươn lên tới mức độ mà sự hiểu biết nầy có thể ban cho nó. Cuối cùng vạn vật đều hướng về sự Từ Thiện, minh bạch và khôn ngoan.

            3) Đại Chơn Lư thứ ba: Mỗi người vừa là người tự lập luật lệ cho ḿnh, tự cấp phát cho ḿnh sự vinh quang hay sự đen tối, vừa là người tự quyết định đời sống của ḿnh, tự ban thưởng ḿnh hay là tự hành phạt ḿnh.

            Ấy là Luật Nhân Quả, Luật Bù Trừ và Luật Thăng Bằng được thuyết minh rơ ràng.

            Đối với những chữ ấy: Những Chơn Lư nầy vĩ đại như sự sống, cũng giản dị như tinh thần con người giản dị nhứt. Hăy lấy chúng làm thực phẩm nuôi những kẻ đói.

            Ở đây tŕnh bày những nguyên tắc của một Tôn Giáo, ai ai cũng có thể hiểu được. Nó gồm Ba tín điều chánh yếu tŕnh bày một cách hết sức giản dị, nhưng cũng với nhiều thận trọng để tránh những sự khinh miệt. Người ta có thể tóm tắt chúng nó như sau đây:

            Đức Thượng Đế vốn Chí Thiện. Người ta gieo cái chi, sẽ gặt cái nấy. Dưới h́nh thức sơ đẳng nầy, các tín điều trên phù hợp với những người c̣n ở trong giai đoạn cần có một tín điều đơn giản. Một Linh Hồn tiến hóa hơn, muốn hiểu tất cả; có thể dạy y những chi tiết nầy; chúng cũng đủ choán hết tâm trí của những người khôn ngoan nhứt.

            Ba Chơn Lư nầy thấy rơ ràng; dù chúng nó có mất đi chăng nữa, chúng ta sẽ nhờ kinh nghiệm để t́m lại được chúng. Nhiều Chơn Nhơn tự biết được Ba Chơn Lư nầy và một cách trực tiếp, c̣n nhiều người khác chỉ tin thôi, đây là nói về những ǵ liên quan với Phàm Ngă của họ. Họ chấp nhận những Chơn Lư nầy, bởi v́ họ tin những người đă đưa chúng đến cho họ và cũng bởi dường như chúng rất rơ ràng và chỉ chúng mới giải thích được một cách hợp lư đời sống ở chung quanh. Đây là một giai đoạn và cũng là giai đoạn tối quan trọng trên con đường dắt đến sự hiểu biết, nhưng lẽ dĩ nhiên không phải là sự hiểu biết trực tiếp. Thí dụ, tôi có thể nói với các anh: Đối với tôi, thật sự đó là những Chơn Lư, v́ đă nhiều năm và ở trên nhiều cảnh giới, tôi đă t́m kiếm và có những kinh nghiệm mà kết quả sẽ khác, nếu những luật căn bản nầy không có thật.

            Ngày nay, những người có thể nói Tôi thấy rất ít, ít lắm, nhưng mỗi người phải cố gắng để có đủ khả năng thốt ra lời nầy, bởi v́ Sự Hiểu Biết Trực Tiếp ban cho nhiều quyền năng hơn sự tin tưởng hết sức rơ rệt, bằng Trí Tuệ.

            Một người kia nói về những việc nầy, luôn luôn người ta biết Y nói những điều Y hiểu biết hay là những điều Y chỉ nghe nói lại mà thôi. Ảnh hưởng của từ điện khác nhau tùy theo trường hợp. Bởi thế, v́ quyền lợi của thiên hạ, điều quan trọng là sớm đạt được những sự hiểu biết riêng tư của ḿnh. Dù là một phần nhỏ bé của Đại Chơn Lư chăng nữa, đó cũng là kết quả của sự kinh nghiệm của chúng ta. Chơn Lư của tất cả những ǵ c̣n lại, liền trở thành chắc chắn và niềm tin của chúng ta tăng thêm. Những người mà sự tin chắc được hoàn toàn và căn cứ vào những sự hiểu biết của ḿnh, có thể giúp đỡ kẻ khác, bởi v́ chỉ có sự hiểu biết mới làm được việc đó mà thôi. Thế nên, sự kinh nghiệm riêng tư của chúng ta mặc dầu là từng phần, từng giai đoạn cũng rất hữu ích.

            Nhiều người có những lúc, như trong giấc ngủ hay trong tham thiền, thấy Chơn Sư, nhưng không thể chứng minh điều nầy cho kẻ khác. Người ta sẽ bảo: Biết đâu đó chỉ là ảo ảnh hay là tưởng tượng. Nhưng mấy người ấy biết chắc chắn không phải như vậy, họ biết họ thấy, họ cảm biết chắc chắn có sự hiện diện của một Đấng Chơn Sư của chúng ta. Đó là một sự kinh nghiệm tầm thường nhưng những hiệu quả lại lớn lao vô cùng. Những người nào có được hạnh phúc kinh nghiệm như vậy có thể tỏ ḷng vô cùng biết ơn các Đấng Cao Cả. Ấy, ít ra cũng là một điểm đă đạt được và sự biết được một việc liên quan đến cơi cao siêu soi sáng và giúp cho chúng ta hiểu biết dễ dàng ngay lúc đó tất cả những cái chi c̣n lại của Giáo Lư. Chớ nên khinh thường những kinh nghiệm về loại nầy.

            Nếu sự hiểu biết của ta c̣n khuyết điểm th́ không có chi lạ lùng. Nó phải như thế; đó là lẽ tự nhiên. Khi chúng ta tưởng bổ túc những sự hiểu biết từng phần và đáng thương hại của chúng ta, khi chúng ta đinh ninh rằng chúng ta Toàn Tri, thông suốt tất cả, chúng ta lên án những kẻ có tư tưởng khác hơn ḿnh, không biết rằng họ chiêm ngưỡng Chơn Lư theo một trong nhiều mặt của nó, như vậy chúng ta đă đi lạc đường. Hăy giữ vững những sự hiểu biết c̣n nhiều khuyết điểm của chúng ta, nhưng phải lợi dụng tất cả những cơ hội để mở mang thêm chúng nó, và đừng bao giờ quên rằng chúng nó chưa hoàn toàn, không vậy chúng ta sẽ lầm lạc rất dễ dàng: Ấy là  việc lên án một người có lẽ thông minh hơn chúng ta.

            Chơn Lư rất thâm sâu, Chơn Lư rất mầu nhiệm, không một người nào, không một nhóm nào, không một đảng phái nào hiểu biết nó trọn vẹn.

            Phải tập mến Chơn Lư, dần dần trước khi có thể hiểu biết nó dưới một trong những trạng thái của nó. Chơn Lư liên quan đến một vật nào là cách thức của vật đó tự tŕnh bày với Đức Thái Dương Thượng Đế, là Đấng đă sanh hóa Hệ Thống nầy.

            Chỉ có một ḿnh Ngài mới hiểu nó và biết tất cả vạn vật như thế nào. Chỉ có Ngài mới thấy hết sức đúng. Với chúng ta, Chơn Lư vẫn tương đối. Chúng ta không thấy toàn diện như Ngài đă thấy, nếu những sự hiểu biết của chúng ta c̣n khuyết điểm th́ trong t́nh trạng hiện thời, không phải chúng nó sai lầm. Về một vấn đề, chúng ta có thể hiểu biết nó vừa đủ, tới khi chúng ta thành những vị Siêu Phàm, chúng ta hiểu biết nó trọn vẹn, chúng ta không cần sửa đổi những ư niệm thâu thập trước kia, chúng ta chỉ mở rộng nó ra mà thôi.

            Rất khó biết những điều nào người ta có thể đem ra dạy ở ngoài đời. Vậy tốt hơn là nên tham khảo ư kiến của Chơn Sư để biết những điều nào có thể nói cho thiên hạ nghe. Thường thường chúng ta nói Thông Thiên Học với những người không hề chia xẻ quan điểm của chúng ta. Trong một cuộc diễn thuyết công cộng, chúng tôi cảm thấy chúng tôi nói rành rẽ hơn nữa, nếu chúng tôi tiết lộ một chút ư nghĩa cao thâm, nhưng chúng tôi ngần ngại v́ điều đó có hại cho họ.

            Thật sự, nếu chúng tôi đem dạy thính giả những điều chúng tôi biết về Thông Thiên Học sẽ có nhiều vị không hiểu được bao nhiêu. Người ta cảm thấy tức khắc không thể đem vấn đề Chơn Sư ra nói với một số người, v́ tư tưởng nầy rất lạ lùng đối với họ. Về điểm nầy chắc chắn họ sẽ đưa ra những lời chỉ trích quá đáng không kịp suy nghĩ hay là những sự nhạo báng, làm buồn chúng ta và cũng gây cho họ quả xấu lớn lao nữa. Người nào nói xấu các Đấng Cao Cả sẽ chịu một trách nhiệm nặng nề. Việc họ không tin các Ngài cũng không thay đổi được hiệu quả. Chúng ta có thể không tin một miếng kim khí nóng. Nhưng nếu chúng ta nắm nó trong tay, chúng ta sẽ bị phỏng. Những người nói hành các Đấng Cao Cả phạm hai tội một lượt: Tội bạc bẽo, phi ân bội nghĩa và tội nhạo báng những chuyện Linh Thiêng, tức là “Phạm Thánh,” bởi v́ các Ngài đă đem hết những kiếp sống và những năng lực của Ngài ra độ đời. Việc không hiểu bản tánh Thiêng Liêng của các Ngài không can dự vào việc nầy. Thế nên, điều cần thiết là phải cân nhắc lời nói chúng ta. Mục đích duy nhứt của cuộc diễn thuyết là đem sự ích lợi cho thính giả. Chúng ta có thể làm hại họ, thay v́ giúp đỡ, nếu chúng ta tŕnh bày những tư tưởng mà họ chế nhạo.

            Các Huynh hăy nhớ lời của Đấng Christ nói, mà thường bị hiểu lầm: Chớ ném những hột ngọc trước những con heo. Người ta thường tưởng rằng câu nầy so sánh con người như là một con heo. Đức Chưởng Giáo không bao giờ nghĩ như thế. Ngài chỉ muốn nói đem những Chơn Lư cao thâm cho những người quá dốt nát để họ thưởng thức, cũng điên rồ như việc ném những hột ngọc trước những con heo. Chúng tưởng nhận đồ ăn; khi chúng thấy ngọc không ăn được chúng chà đạp những hột ngọc nầy dưới bùn, rồi trở lại tấn công những người ném cho chúng những ngọc, chúng giận dữ cắn xé họ v́ chúng thất vọng. Dầu cho giá trị những ngọc đối với chúng ta thế nào chăng nữa, những ngọc nầy rất vô ích đối với bầy heo. Ấy là thái độ của những người thường, khi chúng ta cho họ những Chơn Lư mà họ không hiểu. Họ không nhận được giá trị, họ ném chúng nó qua một bên và thường thường họ giận dữ, trách sao chúng ta đem cho họ những ǵ họ xét ra vô ích.

            Luôn luôn người ta nh́n nhận rằng chỉ có những Chơn Lư đơn giản, b́nh dị mới đem ra tŕnh bày cho đại đa số quần chúng chưa được tiến hóa nhiều.

            Tất cả những Tôn Gíáo lớn đều có một Chơn Lư đặc biệt để dạy tín đồ một cách ân cần; một trong những Chơn Lư ấy được chấp nhận toàn diện, người ta thấy nó ứng đáp với hầu hết tất cả những nhu cầu. Điều kiện cần thiết là vài tư tưởng phải ăn sâu vào trí năo của những Linh Hồn đương tiến hóa. Những Linh Hồn ấy đi từ Tôn Giáo nầy qua Tôn Giáo khác, từ giống dân nầy qua giống dân khác và trong mỗi Tôn Giáo hay mỗi giống dân, họ đều học tập để trở nên thông minh.

            Thí dụ Ấn Giáo nhấn mạnh đặc biệt về Đại Tư Tưởng của Bổn Phận. Khi tư tưởng nầy làm chủ Cái Trí, nó khuyến khích con người sống một đời đức hạnh và rất có mực thước. Đạo Giáo của Hi Lạp nhấn mạnh về Mỹ Lệ.

            Quan niệm chính yếu mà Tôn Giáo ấy ghi khắc trọn đời trong ḷng người dân Hy Lạp là quan niệm về Mỹ Lệ. Mỹ Lệ về sự biểu hiện của Thượng Đế. Trong phạm vi một người tô điểm cho đẹp đẽ thân ḿnh Y, những người và vật ở chung quanh Y, Y đem họ đến gần kiểu mẫu của Đức Thượng Đế đă mong muốn và giúp quyền lực Thiêng Liêng biểu hiện thêm nhiều ở nơi Y. Một vật nhỏ mọn thường dùng vẫn luôn luôn tốt đẹp, không cần thiết nó phải đắc giá hay là khó kiếm, nhưng nó đẹp v́ h́nh dáng và màu sắc của nó. Đó là Sức Mạnh của Mỹ Lệ, điều mà Hy Lạp tuyên bố cho đời biết. Thiên Chúa Giáo lấy Sự Sùng Tín làm quan niệm chánh. Đă nhiều thế kỷ, Giáo Hội dự định sản xuất những vị Thánh, những vị có Đức Hạnh; Giáo Hội tự khen ḿnh đă thành công và lập ra tước vị để được mọi người chú ư, tổ chức những cuộc lễ và dùng tất cả những phương sách đưa Thiên Chúa Giáo lên địa vị rất cao. Khi khảo cứu lịch sử, người ta thấy tín đồ Thiên Chúa Giáo thuộc về những hạng người không giống nhau. Những người nầy quả thật là cao sang, thông minh và có nhiều khả năng; những người kia khác hơn, quá ư tầm thường và vô học thức, nhưng ḷng tốt của họ đem lại vinh dự cho họ. Phải có một sự khảo cứu thâm sâu mới biết được Thiên Chúa Giáo có mục đích không những bồi dưỡng cho ngọn lửa Sùng Tín mà c̣n giúp đỡ tín đồ ở mọi giai cấp và mọi phương diện. Khi khảo sát các Tôn Giáo khác, như Phật Giáo hay Ấn Độ Giáo chúng ta thấy hai Tôn Giáo nầy sẵn sàng đáp ứng với tất cả những nhu cầu. Mỗi Tôn Giáo, đối với quần chúng thất học, có vài qui tắc giúp họ sống một đời đức hạnh nếu họ thành thật tuân theo. Những Tôn Giáo lớn  cũng có những Giáo Lư quan trọng về Triết Học và Siêu H́nh Học để cho những người cần dùng tới chúng. Trong h́nh thức hiện thời, Thiên Chúa Giáo không làm như thế. Tôi không quên sách vở của các vị Cố Đạo viết ra. Khi đọc lại Origène và Clément d'Alexandrie chúng ta thấy những lời chỉ dẫn về những giáo lư cao siêu ấy. Thí dụ, hai Tác Giả nầy nói rằng Thiên Chúa Giáo có những Bí Pháp của nó, nhưng những Giáo Hội Hy Lạp, La Mă, Anh Quốc hiện nay chắc chắn tiêu biểu một cách bất toàn t́nh trạng của Thiên Chúa Giáo lúc ban sơ. Chánh Giáo nào cũng phải có đủ khả năng thích ứng với nhu cầu của những người cực kỳ khác nhau. Nó phải thỏa măn người Hiền Triết và những người thông thái cũng như người sùng Đạo thất học. Nó không nên để những người sùng Đạo dốt nát trên người Hiền Triết muốn hiểu biết. Khổ thay! Thiên Chúa Giáo lại có khuynh hướng không thể phủ nhận được là việc lên án những người hiếu học, chê bai sự hiểu biết của họ và gọi sự hiểu biết nầy là "Sự khôn ngoan của thời đại." Sau cùng họ tin rằng những người nào có thái độ trẻ con th́ có nhiều khả năng để tiến mau. "Linh Hồn c̣n trẻ" phải hành  động như thế; Tôn Giáo nào cũng có thể nuôi dưỡng nó, nhưng mà không phải là lư do nói rằng không có món đồ ăn nào để nuôi dưỡng những Linh Hồn tiến hóa cao. Đă lâu lắm rồi, những Linh Hồn trong những kiếp trước đă trải qua những giai đoạn phát triển đầu tiên, bây giờ đây muốn t́m hiểu Cơ Trời, muốn biết vài chuyện của Cơi Trần là nơi họ đang sống, những nguyên lư làm nền tảng cho Thế Gian và giúp cho cơi Trần được tồn tại. Nhiều huynh đệ Công Giáo của chúng ta lấy làm ngạc nhiên và được an ủi rất nhiều khi t́m thấy Thông Thiên Học có thể cung cấp cho họ những sự hiểu biết nầy mà không làm thương tổn Thiên Chúa Giáo chút nào cả. Thiên Chúa Giáo nguyên thủy không chứa đựng điều ǵ trái ngược với Khoa Học, mặc dù từ đời Trung Cổ, Giáo Hội có khuynh hướng Phản Khoa Học. Lúc ban sơ Thiên Chúa Giáo đă thực hiện được mục đích của nó như các Tôn Giáo khác; lư do duy nhất mà nó cần phải được bổ sung thêm là v́ nó khổ sở bởi đă mất Giáo Lư cao siêu của nó. Đức Đế Quân chấm dứt Phần Thứ Nhứt với mấy lời nầy:

            Những qui tắc trên đây là những qui tắc thứ nhứt đă viết lên trên tường của Đền Thụ Huấn. Những ai cầu xin, sẽ nhận được. Những ai muốn học, sẽ học được.

                                                                                                                                                            

 

                              CẦU CHÚC CHO CON ĐƯỢC AN TỊNH

CHƯƠNG   1

LỜI GIẢNG LƯ MỞ ĐẦU

 

            C.W.L. - Trong Phần Thứ Hai của quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo người ta giả sử sinh viên đă được Điểm Đạo lần thứ nhứt. Con người tiến lên từng bậc kế tiếp cho tới khi thành một vị Siêu Phàm. Xa hơn nữa khởi đầu có một lời giải thích khác cao siêu, giúp vị Siêu Phàm theo đuổi giai đoạn kế tiếp. Theo lời Đức Subba Row, là người biết rành rẽ về vấn đề nầy nói với tôi: Thật ra quyển nầy có Bảy nghĩa, Bảy cách giải thích, dường như tương ứng với nhiều tŕnh độ khác nhau và sự giải thích cao hơn hết dắt con người đến địa vị Văn Minh Đại Đế. Lẽ tự nhiên, đây là những vấn đề vượt quá xa tầm hiểu biết của chúng ta. Tŕnh độ nầy quá cao, chúng ta không thể hiểu câu văn liên hệ đến điều ǵ. Có lẽ chúng ta thấy nó có hai nghĩa, ngoài ra, phần c̣n lại, chúng ta không sao đạt được. Phần đă học rồi dạy ta cần loại bỏ Bản Ngă thấp thỏi hay là Phàm Nhơn; theo lời giải thích cao chúng ta loại bỏ cá tánh. Nếu trong phần giải thích thấp của Phần Nhứt có mục đích hợp nhất Chơn Nhơn với Phàm Nhơn, sự giải thích thứ nh́ là hợp nhất Chơn Nhơn với Chơn Thần. Lời giải thích thứ nh́ của Phần Nhứt phải là lời giải thích thứ nhứt của Phần Hai, bởi v́ nó do Phần Nhứt mà ra. Nên nhớ điều nầy; như vậy ở chỗ nầy hay chỗ kia, chúng ta sẽ thấy ư nghĩa c̣n cao hơn nữa của lời giải thích thứ nhứt.

            Ngoài sự im lặng là sự an tịnh, một tiếng vang lên. Tiếng đó sẽ nói: Bao nhiêu chưa đủ; ngươi đă gặt, bây giờ ngươi phải gieo. Và biết rằng tiếng nói đó tức là sự im lặng, con sẽ vâng lời.

            Con bây giờ là một vị Đệ Tử đủ sức đứng vững, đủ sức nghe, đủ sức thấy và đủ sức nói; con đă thắng được dục vọng và đạt được sự hiểu biết bản ngă; con thấy tâm hồn con đang phát triển, con nhận biết nó, con đă nghe Tiếng Nói Vô Thinh. Vậy con hăy vào Đền Thụ Huấn và đọc những ǵ đă viết tại đó cho con.

            Ấy là những câu nhập đề của Phần Nh́ do Đức Chơn Sư Vénitien viết. Tôi tưởng trước nhất phải xem xét câu cách ngôn đầu tiên: "Ngoài sự im lặng là sự an tịnh, một tiếng vang lên . . . và biết rằng tiếng nói đó tức là sự im lặng, con sẽ vâng lời." Người ta thường hỏi rất nhiều, trong những người Thông Thiên Học, Tiếng Nói Vô Thinh, thật đúng là cái chi ? Bây giờ đây người ta gần như đồng ư nh́n nhận rằng: Ư nghĩa của nó vẫn thay đổi. Sự im lặng luôn luôn tiêu biểu điều ǵ xa hơn điểm mà con người đă đi đến; Tiếng Nói Vô Thinh là tiếng nói từ cơi cao đưa xuống, tiếng nói của Bản Ngă thâm sâu mà chúng ta đă nói đến.

            Trong mọi trường hợp, tiếng nói từ cơi cao đưa xuống là tiếng nói, một khi nghe được, bắt buộc phải vâng lời. Với người Đệ Tử vừa được Điểm Đạo lần thứ nhứt (theo lời giải thích thấp) hay với vị Siêu Phàm được năm lần Điểm Đạo (theo lời giải thích cao) th́ Tiếng Đó nói rằng nếu Huynh an nghỉ trong niềm phúc lạc của sự yên tịnh khôn lường, Huynh chớ vui thích trong đó quá lâu. Trong sự im lặng, con người vẫn c̣n kinh ngạc về những tặng phẩm vinh diệu của sự Điểm Đạo ban cho. Y học hỏi vạn vật trong ánh sáng mới đang bao phủ Y. Nhưng tiếng nói vang lên "ngươi đă gặt, bây giờ ngươi phải gieo lại." Con người đi đến tŕnh độ nầy và đạt được tất cả những ǵ bao hàm sự hiểu biết, sự tin chắc và sự an tịnh, y phải cố gắng đem tặng phẩm nầy[76] ban cho kẻ khác. Y không nên tự măn rằng đă hoạch đắc được mấy điều ấy.

            Kế đó Đức Đế Quân nhắc nhở sinh viên về những quyền năng mà y đạt được: "Con bâygiờ đây là một vị Đệ Tử có thể đứng vững, có thể nghe, có thể thấy, có thể nói." Như Chơn Sư đă cắt nghĩa: Đủ sức đứng vững là có ḷng tin cậy. Sự tin cậy nầy ban cho con người do sự hiểu biết của Y. Trong cuộc Điểm Đạo lần thứ nhứt, vị Đệ Tử được tiếp xúc lần đầu tiên với Cơi Bồ Đề. Vài sự kinh nghiệm không cần thiết kéo dài nhưng rất rơ rệt, giúp cho chính Y nhận thấy có một sự thật như thế và sự sống vẫn đơn nhất. Kế đó là chú thích của Chơn Sư Hilarion và mới xem qua ta thấy, trong Phần Nh́, Ngài giải thích toàn thể vấn đề một cách khác. Trước đây Ngài cho chúng ta một giảng lư tổng quát về bản văn. Ở đây Ngài giải thích từng chữ. Lẽ tự nhiên Ngài cho phần nầy rất khó hiểu và đ̣i hỏi không phải một giảng lư suông mà một sự cắt nghĩa nữa. Để khởi đầu, Ngài nói:

            Đủ sức đứng vững có nghĩa là có ḷng tin cậy; đủ sức nghe tức là mở cửa tâm hồn.

            "Cửa của Tâm Hồn" nhắc nhở đức tánh thứ nhứt của Con Đường Nhập Môn là Phân Biện Sự Chơn và Sự Giả, theo chữ Phạn Pali là Manodwaravajjana, có nghĩa "mở cửa của Cái Trí." Khi Trí bắt đầu phân biệt những vật đáng t́m kiếm và những vật không đáng nhận lấy, nó mở cửa để nhận lấy Chân Lư. Trong lúc Điểm Đạo c̣n những cánh cửa khác phải mở, ấy là những cánh cửa của Tâm Hồn. Nói một cách khác, Sinh Viên phải đạt được Tâm Thức Bồ Đề. Đây là lần đầu tiên con người thật là một Linh Hồn và xem xét vạn vật như một Linh Hồn xem xét. Ở tŕnh độ nầy, sự chia rẽ ngự trị do vật chất gây ra cho đến đỗi ở trong Thượng Trí con người cũng vẫn c̣n rất xa việc hiểu biết ư nghĩa thật sự của đời sống, như Linh Hồn đă thấy. Nhưng khi dùng được Tâm Thức Bồ Đề, con người đạt được một điều kiện khác hơn điều kiện trước, chẳng những về thứ bậc, mà c̣n về bản chất của t́nh trạng nữa. Thế nên điều nầy được xem như là rất quan trọng, v́ vậy nó được kể vô trong lúc Điểm Đạo lần thứ nhứt, mặc dù chúng ta có thể đạt được Tâm Thức Bồ Đề ngoài sự Điểm Đạo và trước khi đi tới mức độ đó.

            Có thể thấy được là đạt được năng lực nhận thấy.

            Nếu thực sự người được Điểm Đạo thấy Cơi Trần trực tiếp rơ ràng hơn người thường rất nhiều, kết quả những sự quan sát của Y vẫn cao hơn những điều mà người thường có thể bày tỏ dễ dàng, hay là hiểu biết một cách chính chắn. Đă từ lâu, các nhà tư tưởng lấy việc "có Thượng Đế hay không có Thượng Đế " làm đề tài học hỏi, tranh luận và suy luận. Không một người có Thần Nhăn nào thông minh, làm như vậy, v́ Y biết. Tôi không nói: Y thấy Đức Thượng Đế. Trong quyển Saint Jean,1, 18 (Thánh Giong) có câu nầy: "Không ai thấy được Đức Thượng Đế cả." Nếu nói về Đức Thái Dương Thượng Đế th́ không thật đúng; nhưng đối với phần đông sinh viên điều nầy không sai. Nói một cách tổng quát, mặc dù người ta không thấy điện, nhưng người ta có nhiều bằng chứng về sự hiện tồn của điện. Đèn điện thắp sáng, động lực của xe điện chứng minh điện có thật, mặc dù không ai thấy lực nầy ra sao. Đối với người có Thần Nhăn cũng thế. Y không thể chiêm ngưỡng Đức Thái Dương Thượng Đế, nhưng việc nhận thấy sự Hành Động của Ngài cũng đủ để chứng minh rằng Ngài có thật. Ấy là trường hợp của chúng ta đối với nhiều bằng chứng liên quan đến những vấn đề cao siêu Thông Thiên Học. Luôn luôn chúng ta không biết chúng một cách trực tiếp, nhưng mà chúng ta thấy những kết quả.

            Dưới bậc Chơn Sư, không ai thấy Chơn Thần ra sao, nhưng vị La Hán biết nó có ở tại Cơi Niết Bàn, dưới cơi cư trú của nó một bậc. [77]  Chúng ta thấy Ba Biểu Hiện của Chơn Thần gọi là Ba Ngôi. Những tia sáng của Chơn Thần phóng ra, khi đi lên phải đồng qui tụ tại một điểm cao. Chúng nó phải hiệp lại với nhau. Chúng ta biết điều đó, mặc dù chúng ta không hiểu sự ḥa hợp của chúng ra sao. Những hiện tượng mà chúng ta đă thấy liên kết với Ba Ngôi, và làm cho chúng ta tưởng rằng ba tia sáng chỉ là ba mặt nhỏ của một Thân H́nh lớn hay là một Ánh Sáng lớn. V́ vậy, dù không thấy tận mắt Chơn Thần, chúng ta vẫn công nhận nó có thật nhờ một bằng chứng đáng cho chúng ta tin chắc một cách tuyệt đối: Ấy là "Sự hiện diện của các Chơn Sư." Hơn nữa những hiện tượng chúng ta thấy ở Cơi cao hơn hết mà chúng ta lên tới chứng nhận có một sự thật như vậy.

            Các Đấng Cao Cả nầy có nói với chúng tôi nhiều chuyện mà chúng tôi chưa hiểu thấu rành rẽ, nhưng khi chúng tôi bước thêm một bước tới trước, chắc chắn chúng tôi nhận thấy mấy điều đó nhiều hơn bây giờ. Điều đó đă đến với chúng tôi nhiều lần. Nếu chúng ta đi đến cảnh giới đă nói trong bài nầy, [78] chúng ta cũng không đủ sức thấy được Đức Thái Dương Thượng Đế. Những sự chứng nhận như thế quả quyết Đức Thượng Đế có thật; chúng ta không có thể nào không tin được điều đó. Những chứng nhận ấy và cơ cấu của sự tiến hóa làm cho ta tin tưởng tuyệt đối rằng tất cả đều được tốt lành.

            Về điều nầy phải bắt đầu mở Huệ Nhăn cao mới thấy được. Sự quan trọng của nó rất lớn lao. Trước khi đi đến mức độ đó, tôi tưởng rằng con người mới hiểu được bản tánh của sự tin chắc tuyệt đối nầy; không có cái thảm họa cuối cùng và dù cho bóng tối bao phủ vạn vật, đó cũng chỉ là h́nh dáng bề ngoài mà thôi. Chẳng bao lâu, đám mây sẽ tan, rồi vầng Thái Dương vĩnh cửu không ngớt chiếu sáng trên đầu chúng ta sẽ hiện ra lại.

            Với một chút thói quen, không khó chi đi đến sự tin chắc rằng riêng về phần chúng ta tất cả đều được tốt lành. Khi trải qua cuộc đời, chúng ta đă biết đủ hết các thứ ưu tư, phiền muộn, các thứ khó khăn. Không nói về Huyền Bí Học, con người có tư tưởng Thông Thiên Học vẫn biết rằng tất cả cái chi xảy đến cho Y ít quan trọng hơn là Thái Độ của Y, và Y có thể thấy ḿnh hữu phước,[79] trong những trường hợp mà nhiều kẻ khác lại đau buồn. Sự trái ngược cũng đúng như vậy. Một người có thể làm cho Y khổ sở trong những trường hợp mà thường thường nhiều kẻ khác lại vui mừng. Thế nên không có khó chi để tin rằng riêng về phần chúng ta, tất cả làm việc cho hạnh phúc chúng ta, và đối với những người thân yêu của chúng ta, hăy tin rằng hạnh phúc nầy sẽ đến với họ nhiều hơn nữa, nếu chúng ta thấy họ đang bị những chuyện khó khăn, những sự lầm lạc và những điều khổ năo. Chúng ta rất khó mà tin tưởng rằng tất cả đều xảy đến cho họ một cách b́nh thường, bởi v́ lẽ tự nhiên chúng ta muốn bảo vệ họ, chúng ta muốn che chở họ khỏi bị Nhân Quả báo ứng.

            Người ta nói: T́nh thương mù quáng, có lẽ theo một ư nghĩa, nó ngăn cản không cho con người thấy rơ ràng. Nhưng sự kinh nghiệm riêng của tôi th́ chứng minh sự trái ngược lại. Một t́nh thương đậm đà làm cho chúng ta thành những người quan sát viên đặc biệt về một tật xấu đă thấy và chúng ta muốn góp phần vào sự tiêu diệt nó. Như theo người ta hiểu, câu cách ngôn có nghĩa là chúng ta không thấy những tật xấu của người chúng ta yêu thương. Dù sao đi nữa, khi ư thức về thực tế nảy sinh trong ḷng chúng ta, ngoài những sự ích lợi lớn lao khác, chúng ta mười phần tin chắc rằng tất cả đều góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc của chúng ta và của người thân yêu của chúng ta. Cuối cùng và trong tất cả những trường hợp, kết quả sẽ là: "Sự tốt đẹp nhứt có thể thu thập được." Sự chắc chắn nầy là nguồn cội lớn lao của sự an tịnh.

            Đủ sức nói, ấy là được quyền năng giúp đỡ kẻ khác.

            Sự chọn lựa nầy rất có ư nghĩa. Chơn Sư chỉ rơ lời nói như là phương thức và cách giúp đỡ rất dễ dàng hơn hết của chúng ta. Đối với phần đông chúng ta, điều nầy rất đúng vậy. Tại cơi Trần, chúng ta có thể giúp đỡ kẻ khác nhiều cách, mà đối với chúng ta là người Thông Thiên Học phương sách có hiệu quả hơn hết là Nói, hay là Viết, đó là một h́nh thức khác của lời nói. Chúng ta có thể truyền đạt sự hiểu biết của chúng ta. Rất ít người trong chúng ta tuy không có sự hiểu biết trực tiếp, nhưng có sự tin chắc trong ḷng, sự tin chắc nầy, chúng ta khó mà cắt nghĩa, nếu người ta bảo chúng ta giải thích. Ảnh hưởng lớn lao của Bà A. Besant vốn do cảm giác của thính giả gây ra khi nghe Đức Bà nói về những điều Bà hiểu biết. Hơn nữa, tài hùng biện của Bà vốn thật là phi thường. Không có hy vọng nào được tài hùng biện nầy trong một thời gian ngắn ngủi, bởi v́ nó không phải là một món quà. Tài hùng biện của Bà vốn là kết quả của một công tŕnh cực kỳ khó khăn, cực nhọc, đeo đuổi trong nhiều kiếp. Trong những kiếp nầy Bà tập trung một phần lớn sức mạnh của tư tưởng vào thuật hùng biện, thuật diễn thuyết, do đó Bà được tài ba lỗi lạc như bây giờ. Một ngày kia, người ta khen tặng về tài hùng biện của Bà. Bà bèn trả lời: "Tôi đă nói giữa công chúng từ 12.000 năm rồi, tôi phải bắt đầu có thói quen." Chỉ có sự thực hành nầy làm cho Bà có một năng lực phi thường. Nếu không có sự cố gắng như Bà, chúng ta không hy vọng đạt được kết quả như thế. Tuy nhiên dù chúng ta không có tài hùng biện vô song nầy, chúng ta cũng nói được điều chúng ta biết. Ḷng tin cậy của các thính giả sẽ ứng đáp với sự tin chắc của chúng ta.

            Chúng ta càng tin chắc lấy ḿnh, chúng ta càng chia sớt sự tin tưởng của chúng ta cho kẻ khác dễ dàng và sự giúp đỡ của chúng ta càng có hiệu quả. Phải mở mang học thức của chúng ta càng ngày càng thêm rộng sâu. Chớ nên bằng ḷng sự giải thích nông cạn về những tư tưởng Thông Thiên Học. Tư tưởng nầy phải thấm nhuần đời sống chúng ta. Tôi biết có nhiều Hội Viên Thông Thiên Học vô hội 20 năm rồi mà không biết ǵ hơn lúc họ mới gia nhập; tôi cũng biết có nhiều Hội Viên cũ đồng hóa Giáo Lư Thông Thiên Học và biến nó thành một thành phần của họ. Mấy vị nầy đủ sức nói với một cách quả quyết, một sự quả quyết mà nhiều Sinh Viên mặc dù có ḷng nhiệt thành cũng không thể đạt được một cách dễ dàng. Ngày nay cũng như thuở xưa câu sau nầy rất đúng: "Nếu ai muốn thực hành ư muốn củaThượng Đế, họ sẽ biết giáo lư của Ta có phải là của Trời hay không." ( Saint Jean, 7,17 ). Cách duy nhất đạt được sự tin tưởng nầy trước khi có sự hiểu biết trực tiếp là sống như Giáo Lư đă đúng thật vậy. Sau đó trước mắt chúng ta những sự việc lần lần tăng thêm và xác nhận Giáo Lư. Mỗi sự việc riêng rẽ dường như không có nghĩa chi cả; nhưng hợp lại chúng tạo ra một bằng chứng khó mà nghi ngờ hay là từ khước.

            Thắng phục được ḷng tham dục, tức là đă học hỏi được sự kiểm soát và sử dụng Phàm Nhơn; đạt được sự tự tri, ấy là rút vào trong thành tŕ  nơi đó có thể xét đoán Phàm Nhơn một cách vô tư.

            Trong trường hợp nầy, thành tŕ nội tâm, lẽ tự nhiên, là Chơn Nhơn. Trong giai đoạn cao hơn, thành tŕ nội tâm là Chơn Thần mà Chơn Nhơn phải nhập vô Chơn Thần. Tôi đă cắt nghĩa Chơn Nhơn nhập vào con người cách nào. Phải hiểu điều nầy thật rành rẽ. Chơn Thần cho một tia sáng từ trong ḿnh đi xuống cơi Niết Bàn dưới cơi nó một bậc. Chúng tôi không t́m được sự so sánh nào đúng hơn. Tia sáng nầy phân ra làm ba và thành ra Atma TamThể hay Ba Ngôi Thiêng Liêng. Dưới h́nh thức ba trạng thái nầy, nó đi xuống và hiện ra dưới mấy cơi thấp như là Atma, Bouddhi, Manas và cả ba hiệp lại làm ra Chơn Nhơn. Thế nên, Chơn Nhơn là một sự biểu hiện một phần của Chơn Thần, có thể nói nó là một phần nhỏ của Chơn Thần, nhưng mà Nó cư xử như nó là một sinh vật hoàn toàn độc lập. V́ vậy một người thường, tự xem ḿnh như là một sinh vật riêng biệt. Nó tưởng rằng Linh Hồn bay vơ vẩn trên đầu nó như một quả Khí Cầu bị cột dây dưới đất. Tôi tưởng các bạn Thông Thiên Học nào chưa biết quyển Cá Tánh của Con Người (Human Personality), (La Personalité humaine) của Giáo Sư Myers nên t́m đọc quyển đó. Trong quyển ấy Giáo Sư giải bày một cách hết sức hay, sự liên lạc giữa Chơn Nhơn và Phàm Nhơn. Những trường hợp nầy có một sự ích lợi đặc biệt đối với những Hội viên của chúng ta, bởi v́ Giáo Sư Myers trước kia là người hoài nghi, nhưng cuối cùng phải tin rằng có thật  những Hồn Ma hiện h́nh và tất cả những ǵ do đó mà ra. Tôi thường gặp Ông, Ông cũng thường gặp Bà Blavatsky và rất cảm phục những điều Bà nói với Ông, nhưng tỏ ra chưa vừa ḷng. Luôn luôn Ông t́m những sự chính xác, minh bạch, nhưng cứ giữ măi theo quan điểm trí thức. Đó chính là những điều không thể nói về cái ǵ thuộc về mấy Cơi cao mà không gặp phải những nỗi khó khăn không vượt qua được. Người ta không thể dùng những danh từ ở cảnh thấp đặng phô diễn những năng lực mạnh mẽ hay là những điều kiện của mấy cơi cao. Cái đó cũng không thể nào đem những h́nh b́nh diện (mesures de surface) trải ra trong dung tích của h́nh lập phương. Chính chúng ta không quan niệm được cơi đời cũng như con người, sinh ra đây cách nào, bởi v́ Đức Thượng Đế tạo con người giống h́nh Ngài. Con người cũng có bản tánh thiêng liêng in như Ngài vậy: Ba Ngôi trong một Đơn Nhất. Ba Ngôi và một Đơn Nhất biểu hiện trên Cơi thứ bảy Không Gian vẫn giống như Atma - Bouddhi - Manas (Ắt ma -Bồ Đề - Mạt na) trong con người, nếu dùng cho đúng danh từ th́ là Ba Trạng Thái chỗ khác biệt ở nơi đó.

            Giáo Sư Myers t́m cách diễn tả Thế Giới cao siêu với những danh từ dùng ở cảnh thấp. Chúng ta có thể t́m cái "phỏng chừng," chúng ta có thể áp dụng điều nầy bằng cách t́m kích thích sự tưởng tượng của độc giả hay thính giả của chúng ta, nhưng chúng ta không có danh từ thích ứng, không phải chúng ta bị bắt buộc phải giữ thái độ im lặng, nhưng cái cảm giác mong muốn không thể có được. Muốn thấy những cơi cao chúng ta phải phát triển những quan năng cao  siêu. Mặc dù chúng tôi cố gắng nói với họ những điều liên quan đến Cơi Trung Giới, nhưng những người lên tới Cơi ấy và vẫn thức tỉnh như chúng ta đây, sẽ thốt ra mấy lời nầy: "Người ta chỉ nói với chúng tôi không tới phân nửa sự thật." Thật vậy, chúng ta không có đủ những danh từ để diễn tả. Nếu thực sự chúng ta không biết những việc ở các Cơi trên, điều đó là một sự ích lợi và một sự thỏa măn lớn hơn là việc hiểu chúng có một phần. Chúng tôi có thể biết có phân nửa, nhưng chúng tôi biết khá đầy đủ và có thể chắc chắn rằng không sợ sệt, không nghi ngờ và đó là sự ích lợi lớn lao và tốt đẹp nhờ sự học hỏi Thông Thiên Học đă đem đến cho chúng tôi.

            Thấy Linh Hồn con bừng nở, ấy là đă thấy nơi con trong chốc lát sự biến dạng của Linh Hồn, tới một ngày kia nó sẽ biến đổi con thành một vị Siêu Phàm.

            Khi đi đến Tâm Thức Bồ Đề, sự thấu triệt của con người tăng thêm và khác hơn sự thấu triệt thường, bởi v́ nó cũng gồm luôn sự cảm giác nữa. Ấy là điều lạ lùng và hết sức mới mẻ trong kinh nghiệm của con người, cho đến đỗi Chơn Sư phải lặp đi lặp lại nhiều cách và Ngài đứng về nhiều phương diện khác nhau. Thấy được lần đầu tiên điều làm cho huynh biến đổi thành khác hơn con người, đó là sự tiếp xúc lần đầu tiên với trạng thái Đơn Nhất ở trong Đức Thái Dương Thượng Đế, Chúa Tể Thái Dương Hệ chúng ta. Huynh hăy nhớ rằng trong cuộc Điểm Đạo lần thứ nhứt, con  người chưa nhận được Tâm Thức Bồ Đề đầy đủ và chưa hề mở mang Thể Bồ Đề.

            Người Đệ Tử đă tập luyện để mở mang Tâm Thức Bồ Đề, thường thường đă có vài kinh nghiệm trên cơi nầy. Nếu chưa th́ kinh nghiệm lần đầu tiên của Y phải thực hiện ngay bây giờ, nó liên quan đến những chướng ngại mà Y phải vượt qua. Ba chướng ngại trước nhứt phải diệt trừ là: Phàm Nhơn là ảo ảnh, sự nghi ngờ và sự dị đoan.[80] Quang cảnh nầy thấy rồi làm cho chúng nó rơi xuống, khi biết được bản tánh Đơn Nhất (Tất cả chỉ là Một) không c̣n sự chia rẽ hăo huyền nữa, không thể c̣n nghi ngờ những sự việc nữa. Vị Đệ Tử tự hiểu rằng Y không nên nghi ngờ Sự Tiến Hóa, Đại Luật Nhân Quả hay là việc có thể nhờ Thánh Đức tiến bộ rất mau. Đó là Chân Lư vậy, con người tin chắc điều đó. Y có thể thấy Luật ấy hành động. Y ở vào ngả ba, nơi gặp gỡ của nhiều con đường, Y biết bản tánh phức tạp của chúng cũng như mục đích chung, nghĩa là Chí Phúc. Y không c̣n tin tưởng dị đoan rằng: Đi tới mức độ đó, một Tôn Giáo đặc biệt c̣n cần thiết cho Y. Đứng trên chót núi cao, Y phân biệt được tất cả những con đường dắt chúng ta đi đến đó và biết rằng chúng nó đều tốt đẹp. Một điều trọng yếu lớn lao dính dấp đến sự kinh nghiệm tại Cơi Bồ Đề nầy; về mọi mặt, nó cho thấy thoáng qua "Cái ǵ mà tới một ngày kia nó biến đổi ngươi thành ra hơn một con người."

            Đối với con người thành một vị Siêu Phàm, kinh nghiệm c̣n có nghĩa cao hơn nữa, bởi v́ Ngài đă hoàn toàn liên kết với Một Sự Biểu Hiện của Đức Thái Dương Thượng Đế. [81] Khi hiện ra ở những Cơi [82] mà tất cả nhập lại làm ra Nguyên Khí Không Gian (Plan Prakritique) hay là Cơi thấp hơn hết của những Cơi lớn của Không Gian (Grands plans Cosmiques) [83] th́ sự Biểu Hiện nầy phân làm Ba Ngôi và một đơn vị; Ba Ngôi Thánh Thiện, BaTrạng Thái của một Đơn vị huy hoàng. [84]

            Người ta không ngớt lặp đi lặp lại với chúng ta rằng: Khi tưởng đến Đức Thượng Đế luôn luôn chúng ta tránh việc lầm lộn Những Cá Nhân và sự phân chia "Bản Chất" và chúng ta cố gắng hiểu ư niệm về sự Mầu Nhiệm Lớn Lao của Ba Ngôi, tuy Ba song vẫn là Một, nhưng không thể hiểu biết, không thể cắt nghĩa cho rành rẽ được. Trong hầu hết các Tôn Giáo và ở các thời đại, người ta đều cho sự hiểu biết sự Mầu Nhiệm nầy rất quan trọng và về phương diện thực tế, tầm mức của nó thật lớn lao. Cả ngàn người nói rằng tất cả những Giáo Lư về loại nầy chỉ tŕnh bày một giá trị tầm thường về phương diện lư thuyết và không có ảnh hưởng chi tới đời sống hằng ngày. Điều nầy không thật đúng vậy. Hăy tin chắc rất cần thiết, có một sự hiểu biết ít nhất cũng là bậc sơ đẳng về điều nầy. Chúng ta không hiểu biết toàn diện, nhưng chúng ta phải biết sự hiện hữu của ba cách thức của Năng Lực, và Năng Lực vốn Duy Nhất. Về tất cả những điều nầy chúng ta thật không có kinh nghiệm để hiểu biết, nhưng tối thiểu ta nên biết đại khái là việc nầy có liên quan đến 3 luồng sống sinh hoạt của Đức Thái Dương Thượng Đế. Tuy nhiên, nói là 3 thật ra cũng chỉ là Sự Sống Duy Nhất của Đức Thái Dương Thượng Đế mà ta không thể dùng khái niệm hay phương pháp Khoa Học để phân chia ra, v́ chúng mang tính chất hoà hợp tuyệt đối và đồng nhất.

            Nếu thiếu sự hiểu biết căn bản về Thiên Cơ Vĩ Đại của Đức Thái Dương Thượng Đế, chúng ta không thể hiểu được sự tạo lập Vũ Trụ và sự cấu tạo các Thể của con người. Chẳng hạn tại sao Vũ Trụ xuất hiện và tại sao Con Người được sinh tồn. Bởi v́ Đức Thái Dương Thượng Đế đă sáng tạo Con Người theo sự h́nh thành phức tạp của Thiên Cơ trong một chương tŕnh đặc biệt dành cho mỗi Hệ Thống Tiến Hoá. Nói một cách đơn giản cho dễ hiểu là: “Con Người có đầy đủ bản chất của Thượng Đế ở trạng thái tiềm tàng. Khi ngày giờ Nhân Quả cho phép Con Người được phát triển giống hệt Đức Thái Dương Thượng Đế.” Người ta cũng có thể nói: “Tôi là Cái Đó” hay “Tôi là Con của Đức Thái Dương Đế.” Con Người có 3 Ngôi, Đức Thái Dương Thượng Đế có 3 Trạng Thái, nhưng Sự Sống là Một, v́ từ nơi Đức Thượng Đế. Ba Trạng Thái của Đức Thái Dương Thượng Đế là: Ư Chí – Bác Ái – Minh Triết, chuyển xuống cho Con Người thành: Atma – Buddhi – Manas. Ba trạng thái nầy kéo dài suốt nhiều Đại Kiếp Tiến Hoá từ những Cơi Giới Tinh Thần xuống tận Cơi Giới Vật Chất Hồng Trần. Do đó Con Người có thể nói tôi là Con của Đức Từ Phụ, là Đức Thái Dương Thượng Đế. Tôi giống hệt như Ngài vậy. Chơn Linh cao cả ngự tại Cơi cao hơn hết trong Bảy Cơi của chúng ta. [85] Ngôi thứ Nh́ xuống thấp một Cơi và hiện ra dưới hai trạng thái: Một trạng thái ở tại Cơi trên ( tức là Cơi Lưỡng Nghi hay là Cơi Đại Niết Bàn),  một trạng thái ở Cơi kế đó (tức là Cơi Tứ Tượng hay là Cơi Niết Bàn). Người ta thấy tại đó Nhị Nguyên. Theo Thiên Chúa Giáo, Đấng Christ là Trời và Người. Chúng ta đọc trong bộ Giáo Lư Bí Truyền (Doctrine Secrète) đoạn nầy: Trạng thái nầy luôn luôn là lưỡng tính. Nó bằng Đức Thượng Đế về hai phần Thiêng Liêng. Nhưng khi nó xuống dưới một Cơi th́ nó thấp hơn Đức Thượng Đế về phần Nhân Tính (Humanité). Tuy nhiên hai trạng thái không chia rẽ ra. Cả hai làm ra Đấng Christ duy nhất và Đấng Christ vốn là một với Đức Chúa Cha.

            Ngôi thứ Ba của Đức Thượng Đế xuống Cơi thứ nh́, nơi đó Ngài ngang hàng với Đức Chúa Con, rồi Ngài xuống thấp một bậc nữa và hiện ra ở tại một chỗ cao của Cơi Niết Bàn hay là Cơi của Atma. Cơi nầy chúng ta chưa có thể tới, Ngài ở tại đó. Vậy chúng ta có Ba đường làm ra H́nh Tam Giác. Trước nhất là cạnh nối liền Ba Trạng Thái hay Ba Ngôi, ở tại Cơi các Ngài, kế đó là đường thẳng góc (perpendiculaire) của H́nh Tam Giác đi xuống, trong trường hợp nầy chúng ta gọi là cạnh nằm, thay v́ đi lên, nó là cạnh huyền (hypoténuse) của H́nh Tam Giác mà b́nh phương của nó bằng tổng số b́nh phương của hai cạnh kia. H́nh Tam Giác tiêu biểu Đức Thượng Đế. Đối với chúng ta, tại Cơi Trần, Ba Ngôi được tiêu biểu như thế đó nhưng vẫn hiệp lại làm Một. Con người thành một vị Siêu Phàm khi Ngài đem Tâm Thức của Ngài lên tới cơi Niết Bàn. Việc làm cho Ngài khác hơn người thường và lên tới bậc Siêu Phàm là sự liên hiệp Chơn Thần với Chơn Nhơn. Hợp nhất với Chơn Thần rồi, vị Siêu Phàm được lên ngang hàng với Ngôi thứ Ba. Ngôi thứ Ba là sự biểu hiện thấp hơn hết của Đức Thượng Đế. V́ vậy Ngôi thứ Ba mới ban thần lực xuống cho Ngài, như sự miêu tả của Lễ "Chúa Giáng Lâm" (Pentecôte) làm cho ta hiểu được việc đó. Sau khi bị đóng đinh Trên Thập Tự Giá và Sống lại, việc nầy tiêu biểu tŕnh độ La Hán, con người có trước mắt Sự Thăng Thiên (Lên Trời), kế đó là Đức Thánh Linh (Đức Chúa Thánh Thần) hiện xuống. Trong biểu tượng mà người ta đưa ra cho chúng ta, theo lời tường thuật của Tân Ước, th́ Đấng Christ lên Trời; việc Đức Thánh Linh hiện xuống ở trên đầu các Tông Đồ không liên quan chi với Đấng Christ và sau khi Ngài đă từ giă Cơi Trần. Nhưng mà Cao Đẳng Thần Học hay là Thần Bí Triết Học (Gnosticisme) trong Pistis Sophia [86] nói rằng sau khi Đấng Christ lên Trời Ngài trở xuống Thế dạy dỗ các Tín Đồ trong mười một năm. Như vậy người ta thấy rằng Đức Thánh Linh hiện xuống không phải sau khi Đấng Christ ĺa Trần mà chắc chắn lúc Đấng Christ c̣n ở trong Giáo Hội Ngài. Sự giáng phàm của Đức Thánh Linh tượng trưng sự Đắc Đạo thành Chánh Quả của tất cả những người tu hành (bất cứ là người nước nào), c̣n các Tông Đồ tượng trưng mấy vị nầy bởi những ngọn lửa đặt trên đầu các Ngài. Lời tuyên bố nầy giống như vài hiện tượng mà người ta đă biết rơ ở Á Đông. Người ta thấy trên đầu những h́nh Đức Phật, hoặc trên đầu h́nh của những vị Đại Thánh hay là trên đầu những vị Thần Ấn Độ một cái ṿm tṛn nhỏ có hai tầng. Ít có người biết cái đó có nghĩa chi. Trên đầu con người có một Luân Xa (Chakra) đôi khi được gọi là Bông Sen có 1.000 cánh. Ở nơi người thường ấy là một thứ gió lốc, một bề lơm hủng vô (concave) trong Cái Phách. Khi con người đi đến một tŕnh độ cao y có thể lật ngược Luân Xa nầy ra phía ngoài và làm cho nó lồi ra (convexe). Đó là điều mà các nhà nghệ sĩ muốn mô tả khi vẽ h́nh Phật trên đầu có một ṿm tṛn nhỏ kỳ lạ có hai tầng. Bởi Luân Xa nầy chói sáng và làm cho người ta có cảm tưởng là một ngọn lửa, cho nên từ ngữ langues de feu - những lằn lửa - vừa là nên thơ, vừa là chính xác vậy.

            Theo Thánh Kinh, một hiện tượng lạ lùng khác đi kèm theo sự giáng lâm của Đức Thánh  Linh: Đó là những người ấy nói mỗi thính giả đều nghe như là tiếng mẹ đẻ của ḿnh. Sự hiểu biết của chúng tôi hiện thời, không cho phép chúng tôi quả quyết rằng khi con người thành Chánh Quả th́ có quyền năng đó, nhưng mà nó thuộc về một cấp bậc cao hơn. Riêng tôi, tôi chứng kiến điều nầy một lần rồi. [87] Nếu chúng ta thấy lời tường thuật trên là một sự kiện lịch sử, quyền năng nầy vốn ban cho các vị Tông Đồ.

            Dùng Thần Nhăn xem xét, chúng tôi không thấy các vị Tông Đồ hợp từng nhóm như đă nói trong Thánh Kinh. Không phải Pierre không có thật, nhưng có nhiều Pierre. Pierre là một chức tước ban cho vị Cai quản một Giáo Đường (Petros  = Pierre ou fondement sur laquelle était édifiée l'église): Đá hay là nền tảng trên đó xây cất một Giáo Đường. Sự tượng trưng nầy rất khéo chọn lựa, v́ chúng tôi biết rằng có nhiều Chi Bộ Thông Thiên Học và những nhóm khác thường ở dưới quyền cai quản của một vị. Thuở xưa dường như cũng thế đó, có những người đủ sức điều khiển. Ai biết điều khiển, luôn luôn sẽ được người ta nghe theo, sự kinh nghiệm của Y là tảng đá lớn để làm nền tảng cho Giáo Hội đặc biệt nầy; những cái c̣n lại chúng tôi không quan sát thêm nhiều để có thể nói một cách chính xác, nhưng câu chuyện làm cho chúng tôi thấy có nhiều điều ngờ vực. Origène đặc biệt đề pḥng chúng tôi, khi Ngài bảo chúng tôi đừng tin lời tường thuật như là một sự kiện lịch sử. Ngài so sánh nó với chuyện Agar và Ismael trong Thánh Kinh Bible có viết câu nầy: Những chuyện đó có ư nghĩa bóng dáng, tượng trưng" (Ces choses ont un sens allégorique - Galates, 4. 24) [88] Khi áp dụng nguyên tắc nầy cho những việc đó th́ thấy chúng nó rất quan trọng và rất hữu ích, bởi v́ Origène có nói: "Dù mấy việc nầy có xảy ra tại Judée hay không, chúng vẫn xảy đến măi măi cho kiếp sống của những người Công Giáo, đời đời bất diệt." Trong trường hợp nầy, đó là điều quan trọng, không phải là một sự kiện thuộc về vật chất.

            Như thế đó, vị Siêu Phàm nhập một cách có ư thức với Ngôi thứ Ba của Tam Vị Thánh Thiện. Sự liên hiệp nầy phải giống như cách mà cơi dưới chúng ta đi đến "Tâm Thức duy nhất." Khi đi đến Tâm Thức hoàn toàn thuộc về cơi Niết Bàn, chúng ta thấy những người đồng loại với chúng ta dường như là những thành phần của chúng ta; cả thảy đều thuộc về chúng ta cũng như những mặt của một Đơn Vị Duy Nhất.

            Nhận biết, ấy là đă hoàn thành công việc lớn lao nh́n ngay ánh sáng rực rỡ mà không cúi mắt xuống và không sợ hăi thối lui lại như đứng trước vài ma quái ghê gớm. Ấy là điều đă xảy đến cho vài người và v́ thế mà phải bại trận trong lúc sắp chiến thắng.

            Thật là hết sức kỳ lạ, khi lên đến bậc cao siêu như vậy mà c̣n có thể yếu đuối nên thất bại. Tuy nhiên điều nầy đôi khi đă xảy ra. Trước khi đi đến mức độ nầy, con người phải không c̣n sợ sệt nữa, nhưng mà có những người thối bước, thụt lùi lại trước những sự phát triển huy hoàng nầy v́ sợ mất cá tánh của ḿnh. Ở một tŕnh độ thấp thỏi, một tai hại in như thế chờ đợi con người sau khi chết. Nhiều người bám lấy sự sống của xác thân, v́ tin chắc rằng không có sự sống nào khác. Trong trường hợp nầy, Cái Phách làm bằng chất Hồng Trần ĺa khỏi xác thịt; con người ở trong Cái Vía, Y bám vào Cái Phách, nó bao bọc Y, thay v́ để cho nó tan ră lần lần như thường lệ. Như thế con người sửa soạn lănh lấy những kinh nghiệm đau khổ. Y sống trong Thế Giới Xám [89] như đôi khi người ta đă gọi nó như vậy. Chúng ta gặp hiện tượng như thế ở một tŕnh độ cao hơn. Trong tất cả những kiếp Luân Hồi, con người có Nhân Thể (Thượng Trí), Y đồng hóa Nhân Thể với cá tánh của Y và Y sợ mất cá tánh nầy. Chí phúc và ánh sáng vô biên của cơi Bồ Đề ở trước mặt Y, nhưng lên được cơi nầy chỉ khi nào Y bỏ Nhân Thể mà viễn ảnh nầy có khi làm cho Y phát sợ. Sợ mất tất cả khi mất Nhân Thể, Y sợ nhập vào ánh sáng vô biên; nên khi tới ngưỡng cửa, Y bèn lùi lại. Sự nhập vào Đơn Nhất, sự kinh nghiệm nầy Y chưa biết nên làm cho Y sợ.  Y không biết rằng sau khi nhập rồi, không có chi thay đổi trong người Y. Giọt nước không phải tan mất trong biển cả mà biển cả chun vào một giọt nước.

            Ở dưới những mức độ thấp kém, thỉnh thoảng, những sự kinh nghiệm một loại với điều đó hiện đến với chúng ta. Con người hoạt động ở trong Hạ Trí, đôi khi lại sợ mất nó đi. Nó vô trong Thượng Trí không c̣n cụ thể nữa mà là trừu tượng. Tới giai đoạn nầy, Y ngập ngừng và không dám đi tới. Trong mọi trường hợp, sự tiến bộ của con người, tùy thuộc năng lực mà Y có sẵn và luôn luôn nhiệt thành, ḷng sùng tín cực độ, chúng phấn khởi Y. Nếu đó là sức mạnh của sự kích thích th́ sự ngần ngại chứng minh rằng Y không có ḷng nhiệt thành, bởi v́ sự sợ sệt và ḷng nhiệt thành về loại đó tương xứng, tương khắc, nếu có cái nầy th́ không có cái kia. Khi con người phát sợ sệt, Y buông trôi, Y thối bước và mất địa thế chiếm được. Sự thối lui nầy luôn luôn không phải là vô cớ. Theo tôi, dường như là v́ lư do sau nầy, khi con người qua khỏi mức độ mà Y có ư thức Y trở nên mê mang gọi là xuất thần, Y không hiểu ǵ hết. Bên Ấn Độ người ta gọi nó là Đại Định  (Samadhi). Chúng tôi tự hỏi: Trạng thái nầy như thế nào? Chúng tôi nhận biết nó ở nhiều tŕnh độ liên tiếp và thấy nó không phải là không thay đổi. Chúng tôi phải mất một thời gian khá lâu mới t́m thấy Sự Xuất Thần Sa-ma-đi (Shamadi) đều thay đổi tùy theo con người. Ấy là mức độ ở trên khít mức độ mà nơi đó con người đủ sức hiểu biết như ta thức đây. Đối với người c̣n dă man, Tâm Thức của Y minh bạch chỉ ở tại Cơi Trần mà thôi th́ Shamadi (Đại Định) của Y là Cơi Trung Giới. Phần đông những người da trắng không thông hiểu vấn đề nầy, việc qua Nhân Thể [90] là Đại Định của họ, bởi v́ họ không đủ sức hiểu biết nên không thu thập được chút lợi ích nào của kinh nghiệm nầy. Nhiều người trong chúng ta, nếu nhờ sức mạnh lên tới Cơi Bồ Đề, cũng không ư thức được chi cả; nói một cách khác, khi trở về nhập xác, không đem được một sự hiểu biết mới mẻ nào cho trí óc, chỉ trừ có cảm giác hưởng được một hạnh phúc tuyệt vời và ở trong tất cả những sự vinh quang bất biến, mà cũng không có sự hiểu biết chính chắn nào, cũng không có một năng lực mới mẻ nào để làm việc hữu ích. Loại Đại Định nầy, hay là t́nh trạng cao hơn Tâm Thức hiện thời của huynh một bậc, Tôn Sư của chúng ta khuyên chúng ta không nên tập cách nầy. Các Ngài sẽ nói với chúng ta: "Thật vậy, phải lên tới tŕnh độ cao hơn hết mà các con có thể đạt được, nhưng phải làm việc nầy có ư thức, phải đi từ bậc, đừng nhảy nhanh quá; phải cẩn thận. Sự cố gắng đi lên trên của mấy tṛ phải tiếp tục không ngừng, nhưng không được mất một phần nào của Tâm Thức cả." Có nhiều việc làm được mà có thể gọi là nguy hiểm, nhưng thật sự không có chi là nguy hiểm cả, bởi v́ trên những tŕnh độ cao, con người không có đời sống riêng rẽ để mất như Cơi Trần. Nhưng c̣n một sự nguy hại là những kinh nghiệm táo bạo có thể làm cho con người mất nhiều chiều hướng b́nh thường của sự tiến hóa. Đối với một Sinh Viên thường không chắc có điều nầy, v́ Y làm việc với một sự cần mẫn bền bĩ ở mức độ mà Y biết; đó là mục đích của những cố gắng của Y.

            Việc có thể bị yếu đuối nên thất bại v́ sợ những sự phát triển cao siêu đă được người ta nhắc nhở cho chúng ta biết một cách thấm thía trong các cuộc Điểm Đạo của những Bí Pháp ở Ai Cập thuở xưa. Người ta dạy sinh viên khi muốn tầm học chớ nên bất cẩn mà cũng đừng sợ sệt. Người ta dắt sinh viên tới cửa của một căn pḥng ở dưới đất, nơi đó sẽ cử hành những đại lễ. Về điều nầy Y học được một bài thực tập. Khi Y bước vô tới cửa, một mũi gươm đụng ngay vô ngực Y. Đây nghĩa bóng của nó là điều cần thiết không nên phóng ḿnh tới trước những Bí Pháp nầy mà không suy nghĩ. Trong lúc đó người ta tṛng một sợi dây vào cổ Y rồi dắt đi, nếu Y sợ sệt thụt lùi sẽ bị sợi dây siết cổ làm cho Y bị đau đớn. Người ta sẽ giải thích về điều nầy sau đó, Sinh Viên học hỏi cần thiết phải trầm tĩnh và tin cậy; không nên phóng ḿnh một cách bất cẩn tới chỗ chưa biết, chưa trải qua, trái lại cũng đừng sợ hăi lùi bước như một việc bề ngoài xem như rất dữ tợn.

            Đức Bà Blavatsky, sáng lập viên Hội chúng ta, không ai có thể trách bà là không can đảm. Năm 1864, Bà mặc quân phục đàn ông chiến đấu dưới thời Garibaidi, Bà nói với tôi khi Bà được dẫn tới trước mặt Đức Ngọc Đế, Đấng Duy Nhất Chí Tôn cầm quyền Điểm Đạo, Chúa Tể Quả Địa Cầu nầy th́ Bà quỳ xuống cúi mặt, rất lo sợ không dám ngó lên v́ Ngài rất oai nghi lẫm liệt. Tất cả những Thí Sinh đều không phải xúc động in như Bà, nhưng mà nếu cảm giác của một người gan dạ như Bà Blavatsky mạnh mẽ thế ấy th́ sự đối diện với Đấng Chí Tôn thay mặt cho Đức Thái Dương Thượng Đế tại Quả Địa Cầu không phải là sự thử thách tầm thường, ấy là một kinh nghiệm kỳ diệu, phi thường.

            Những người được làm Đệ Tử Chơn Sư, tới một ngày kia, đúng lúc được Ngài dắt vào con đường đi đến sự Điểm Đạo. Thí sinh sẽ phải đối diện với Đức Ngọc Đế, không phải lần thứ nhứt hay lần thứ nh́, nhưng mà tới lần thứ ba và lần thứ tư. Từ đây đến đó, dọc đường, họ có nhiều kinh nghiệm, họ sẽ được đôi chút chuẩn bị. Đức Bà Blavatsky cũng thế đó. Tôi chỉ lặp lại lời của Bà, tôi hoàn toàn đồng ư với Bà: Gương mặt Ngài vô cùng lẫm liệt, oai nghi, một sự oai nghi thật là phi thường ngoài sức tưởng tượng của con người mà nó cũng tỏ ra một t́nh thương bao la bát ngát cho đến đỗi, theo ư tôi, đứng trước mặt Ngài không thế nào có một chút sợ sệt. Tôi không tin Bà Blavatsky hoảng sợ, nhưng mà Bà khép nép, cung kính cũng như đối với Bà ánh sáng rực rỡ chói ḷa, Bà biết không thể nào chịu nổi.

            Trong quyển nầy, không phải sự gặp gỡ Đấng Duy Nhất Chí Tôn cầm quyền Điểm Đạo, mà sự gặp gỡ Bản Ngă cao siêu của ta, sự vô trong khu vực Tinh Thần rộng răi hơn. Tại ngưỡng cửa, những người lùi lại, họ sợ khi lặn vào cái biển rực rỡ hào quang nầy họ không bao giờ trở lại đàng sau nữa được và mất luôn cá tánh của họ. Chỉ cần suy nghĩ để tự nói rằng nhiều người đă lặn xuống biển đó mà vẫn c̣n sống, nhưng trong những trường hợp như thế luôn luôn người ta không suy nghĩ, có lẽ người ta hành động theo bản năng tự nhiên. Sự hành động theo bản năng nầy phải rán làm sao cho nó có lư là thật đúng. Đừng lùi bước trước cái chi thiêng liêng, dầu nó xuất hiện nơi ta hay ở nơi khác. Ở đây, người ta nói có nhiều người đă lùi bước, nên thất trận trong khi sắp sửa chiến thắng. Sự nhu nhược đáng thương hại thật, nhưng những danh từ sử dụng không nên khêu gợi nơi chúng ta những tư tưởng sai lầm.

            Chúng ta thường được cảnh cáo rằng: Con người càng lên cao càng có cơ té nặng. Điều nầy có nhiều lư do. Sau đây là một: Con người có thể dùng sai sức mạnh Thiêng Liêng đă được ban cho. Một lư do khác:  Y có thể rơi vào một t́nh trạng gây một lỗ hở trong vận hà do một nhóm Đệ Tử làm ra, mà Y cũng là một thành phần. Các Đấng Cao Cả cho vào một vận hà như thế một luồng thần lực mănh liệt nhưng không thâu hồi lại. Nếu vận hà không kín, một phần lớn thần lực gặp nguy cơ mất đi. Luồng thần lực nầy không phải luôn luôn hoạt động theo một chiều hướng. Khi nó hoạt động theo cách nầy, khi theo cách kia. Mục đích thay đổi và sự thành công chỉ chắc chắn khi nào những người làm vận hà đứng vững, mỗi người đều ở vị trí của ḿnh. Sự suy nhược cá nhân thật đáng tội nghiệp, nó gây một lỗ hở rất quan trọng, bởi v́ áp lực của thần lực hết sức mạnh mẽ; đối với người yếu tánh như thế nó là một sự sa ngă, rơi xuống. Người nào sợ trách nhiệm không dám làm một công việc hữu ích vừa tŕnh độ của ḿnh sẽ cũng bị rớt xuống như vậy. Con người càng lên cao, nếu té càng té nặng. Thật hết sức buồn, khi đi tới chót rồi, một người kia c̣n để rơi té xuống; nhưng nếu Huynh lên tới mức cao như thế chắc chắn Huynh không rơi té xuống tới đáy sâu. Nhưng, chúng ta đừng tưởng nghĩ rằng một sự sa ngă, rơi xuống như việc đă miêu tả trong sách thật tai hại ác liệt. "Người nào lên cao có thể rơi xuống. Người nào rơi xuống có thể lên cao; bánh xe quay không ngừng." [91] Không có sự sa ngă nào là tai hại ác liệt cả, bởi v́ ư muốn của Thượng Đế là mọi người đều tiến lên; v́ vậy ai ai cũng tiến bộ; chỉ có việc đi mau của Y là lư do sự sa ngă của Y mà thôi.

            Một sự sa ngă như điều mới nói trên đây là một cơ hội bỏ lỡ, để mất nhưng nó không đem con người trở lại chỗ bắt đầu khởi hành; nó có nghĩa là Y phải lo mở mang có phương pháp sự hiểu biết bản tánh Thiêng Liêng của ḿnh và tin chắc vào bản tánh nầy.

            Không có ǵ là dễ. Lẽ tự nhiên trong lúc con người, mất tự chủ, mất b́nh tĩnh, không phải dễ t́m lại được mấy điều nầy. Nếu trong lúc đi lên, con người nh́n xuống dưới chân ḿnh và thấy hố sâu, chắc chắn Y rất sợ, Y sẽ té xuống. Nếu không sợ, Y có nhiều may mắn lên tới chót mà không run rẩy. Người nào nh́n xuống vực thẳm và mất b́nh tĩnh, không thế nào leo trở lên lại với những điều kiện chắc chắn, sau đó rất lâu. Cũng đừng tưởng rằng sự sa ngă, rơi xuống của Y là hoàn toàn thiệt thọ. Y đáng thương hại, Y không nên phạm lỗi đó. Chúng ta phải thấy điều nầy và phải nghĩ như thế. Y sẽ t́m lại được những phương sách rồi chẳng sớm th́ muộn, y sẽ lên đường lại.

            Rất dễ nói rằng chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Bản Tánh Thiêng Liêng của chúng ta, nhưng thật là cực kỳ khó khăn cho chúng ta khi chúng ta đương đầu với một trong những sự thử thách lớn lao nầy. Trong trường hợp sa ngă, ít ra người ta cũng có thể tin chắc rằng công việc đă thực hiện không mất, không hề có một sự sa ngă không cứu văn được. Cũng thế đó, như ở tại cơi Trần người ta có thể không thi đậu, thật là một việc đáng buồn, nhưng Thí Sinh vẫn c̣n giữ được những tài năng của ḿnh trong lúc chuẩn bị cuộc thi. Khi Y sẵn sàng để ứng thí một lần nữa, có phần chắc Y sẽ thi đậu.

            Sự chết th́nh ĺnh của một người tiến rất mau trên con đường Huyền Bí Học, h́nh như là một việc đáng buồn. Người ta có ư nói: "Thật là đáng tiếc." Nếu Y tiếp tục tiến hóa như thế, chắc chắn trong kiếp nầy Y sẽ được "Điểm Đạo." Nhưng không phải thế. Cái ǵ đến cho con người là ảnh hưởng của Nhân Quả và rất tốt cho Y. Người chết không mất những điều nó đă thu thập được. Bản ngă cao siêu (Chơn Nhơn) bảo tồn những ǵ mà Ngài đă hoạch đắc, Ngài phải tạo một thân h́nh mới để sử dụng; công việc của Ngài được dễ dàng cho tới điểm chót mà Ngài đă đến hồi kiếp trước; sự khó khăn mới bắt đầu từ đó về sau.

            Nghe Tiếng Nói Vô Thinh tức là hiểu rằng sự hướng dẫn chánh đáng duy nhất phát xuất từ nội tâm, bước vào Đền Thụ Huấn là đi đến một t́nh trạng có thể học hỏi được. Con sẽ gặp trong đó những lời nói viết bằng chữ sáng rực để dành cho con và rất dễ đọc, bởi v́ khi Đệ Tử sẵn sàng, Thầy cũng sẵn sàng.

            Như chúng ta đă thấy điều đó, Đền Thụ Huấn khởi sự tại cơi Trung Giới; ấy là cơi thứ nhứt mà nơi đây không có chi học hỏi chín chắn về những trạng thái cao siêu. Điều nầy không có nghĩa là không có chi để học hỏi trên mấy Cơi cao, như Cơi Thượng Giới chẳng hạn. Có nhiều điều để học hỏi, nhưng đối với người thường, Đền Thụ Huấn của họ vốn ở tại Cơi Trung Giới. Khi bỏ xác phàm để qua Cơi Trung Giới, con người thọ lănh một phần trọng hệ những điều mà người ta phải dạy dỗ Y. Thường lắm, những Sinh Viên không thật hiểu rơ làm Đệ Tử Chơn Sư  có nghĩa là chi? Nhiều Sinh Viên tưởng rằng, khi được đặc ân lớn lao nầy, họ không ngớt nhận lănh những bài học của Chơn Sư đưa ra và Ngài dạy họ những chi tiết liên quan đến sự phát triển của họ. Khi Chơn Sư thu nhận những Đệ Tử Nhập Môn, Ngài xem xét đời sống của họ hơn là dạy dỗ họ. Một điểm chính là Ngài phải có trước mắt tất cả những chi tiết về đời sống của Đệ Tử, từ những tư tưởng, những t́nh cảm của Y để xem Ngài có thể đem Y liên kết chặt chẽ với Ngài không và điều nầy có ích lợi chăng? Sự hiểu biết ấy rất cần thiết khi đi xa hơn nữa. Sự khiếm khuyết về khả năng của Đệ Tử sẽ gây cho Chơn Sư  nhiều phiền muộn lớn lao mà không có lợi ích nào về phương diện làm việc bù đắp lại được. Đệ Tử nhập môn có thể dùng để chuyển giao Thần Lực của Ngài, trường hợp nầy thường xảy ra; nhưng Y không thể luôn luôn được liên lạc thường xuyên với Sư Phụ trước khi được liên kết chặt chẽ với Ngài, mà cũng không cần thiết cho Y ư thức được việc nầy nữa. Mỗi khi vị Đệ Tử cảm biết một luồng Thần Lực đi ngang qua ḿnh Y, ấy là một sự kinh nghiệm lạ thường, một đặc ân, một sự vui mừng cực điểm khi ḿnh được sử dụng để ban rải Thần Lực của Chơn Sư, nhưng ít khi Chơn Sư dạy dỗ Y. Một vị Đệ Tử cũ thường được giao phó coi sóc vị mới Nhập Môn và dạy Y những bài học cần thiết. Như tôi đây, Đức Bà Blavatsky dạy tôi rất nhiều, theo mạng lệnh của Chơn Sư. Nhưng tôi phải xa Bà trong năm năm v́ phải qua Ấn Độ, trong lúc đó bà ở Âu Châu. Bà không thể săn sóc tôi, trừ ra thỉnh thoảng tôi nhận được thư của bà gởi hay là bà dạy tôi trên Cơi Trung Giới. [92] Thế nên tôi được giao phó cho Đức Swami T. Subba Rao. Tôi chịu ơn vị Huấn Sư nầy rất nhiều, v́ Ngài nhẫn nại một cách hiếm có trong sự dạy dỗ những chi tiết.

            Trong thời kỳ nầy, thỉnh thoảng tôi mới thấy Tôn Sư tới một lần và trong lúc thấy, tôi nhận được những bài học ít hơn là những huấn lệnh về những công việc mà Ngài giao cho tôi thực hành. Khi làm công việc nầy người ta hiểu biết rất nhiều về Thông Thiên Học lư thuyết và thực hành. Khi cố gắng thi hành một mạng lệnh, dù không biết tại sao, vị Đệ Tử vẫn nhận thấy chỗ khuyết điểm của ḿnh rồi chuyên tâm trừ khử chúng nó để lần sau thực hành công việc một cách khéo léo hơn. Tôi tưởng đây là phương thế do đó tôi học được hầu hết tất cả. Tôi bày ra một cách thực hành nào đó, rồi tôi t́m thế cải thiện nó, sau cùng tôi tập thực hành những phương pháp cao siêu do Đức Swami T. Subba Rao chỉ bảo cho tôi. Đây là thời kỳ làm việc cực nhọc và những sự cố gắng khó khăn, những sự tiến bộ thường chậm chạp, nhưng phải như thế; tôi đă đi qua đường đó và v́ thế tôi tưởng rằng tất cả những vị Đệ Tử đều được đào tạo theo phương pháp nầy. Khi thi hành xong một công việc được giao phó, Đệ Tử học được cách  hoàn thành những công việc khác cao thượng hơn. Trong quyển Chơn Sư và Thánh Đạo tôi có viết nhiều trang nói về sự liên lạc giữa Thầy và Tṛ .[93]

            Có nhiều cách học hỏi cung cấp cho vị ĐệTử, cũng có nhiều cách khác trên Cơi Trung Giới cung cấp cho bất cứ ai muốn lợi dụng chúng. Tại Cơi Trần, có khi chúng ta đến dự những cuộc diễn thuyết để thâu hoạch những khái niệm Thông Thiên Học, nhờ thế những người nầy học hỏi dễ dàng hơn, c̣n những người khác học hỏi bằng cách tự ḿnh đọc sách. Những diễn giả về Huyền Bí học luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các thính giả. Có nhiều hội viên để trọn th́ giờ của ḿnh làm việc và giúp đỡ trên Cơi Trung Giới. Vị cựu Phó Hội Trưởng của chúng ta Ông A. P. Sinnett, làm bổn phận trên Cơi Trung Giới bằng cách đó. Thường thường ông không cộng tác với những người pḥ trợ vô h́nh. Trái lại ông có một khu vực riêng của ông, nơi đó người ta gặp ông không ngớt lo dạy dỗ Thông Thiên Học cho những ai bằng ḷng nghe ông trên Cơi Trung Giới rộng lớn nầy. Ông giúp cho một số đông những người c̣n sống [94] cũng như những người đă chết hiểu biết những Đại Chân Lư nầy, v́ ông có một phương pháp quả quyết tŕnh bày Giáo Lư Thông Thiên Học làm cho các thính giả rất thích  nên theo dơi những bài học dễ dàng.


CHƯƠNG   2

QUI TẮC 1 – 4

 

            C.W.L. - Trong Chương thứ Nhứt chúng ta đă học hỏi những điều thật sự làm ra Bài Tựa của Phần Nh́ của quyển sách. Bây giờ chúng ta đến những qui tắc. Chúng nó được đánh số như trong Phần Thứ Nhứt tới qui tắc 12. Những qui tắc 1 đến 3, 5 đến 7, và 9 đến 11 được xấp chung lại từ ba câu theo Bản Thảo viết tay trên những lá buông. Những qui tắc 4, 8 và 12  là giảng lư của Đức Đế Quân. Xa hơn nữa sự đánh số lại khác.

            Trong chương nầy, chúng ta học hỏi những qui tắc từ 1 đến 3. Tôi chia giảng lư của Đức Đế Quân, hay qui tắc thứ 4 ra làm ba phần và chúng ta học hỏi chúng nó một lượt với những qui tắc chúng nó có liên quan.

            1 . - Con hăy đứng bên ngoài cuộc chiến đấu sắp diễn ra và mặc dù con chiến đấu, con cũng không làm vị chiến sĩ.

            Người vẫn là con, nhưng mà con bị giới hạn và c̣n lầm lạc, c̣n Người th́ vĩnh viễn, trường tồn và chắc chắn. Người là Chân Lư bất diệt. Một khi Người thâm nhập vào ḿnh con rồi và thành một người chiến sĩ của con th́ không khi nào Người hoàn toàn bỏ con và tới ngày Đại An Tịnh, [95] Người trở nên một với con.

            Người Đệ Tử phải chiến đấu, Y dấn ḿnh vào sự tiến hóa đang bao bọc Y, Y chiến đấu về phía Tinh Thần. Tinh Thần tập sử dụng lần lần vật chất, khi làm chủ được nó tới một tŕnh độ nào đó, tách ra khỏi nó, kế đó khắc phục một cảnh giới vật chất cao hơn và sử dụng nó. Tinh Thần theo đuổi sự thắng phục Vật Chất ở mọi tŕnh độ, chẳng những ở chung quanh ta mà c̣n ở trong ḿnh ta nữa. Chúng ta dự phần vào sự chiến đấu để giúp cho sự hành động của Luật Tiến Hóa được dễ dàng.

            Trong sự chiến đấu nầy, để cho sự tiến hóa được nhanh chóng, phải đặt Phàm Nhơn qua một bên; nó không được dự phần vào. Nhưng phải dùng nó v́ nó là khí cụ duy nhất giúp chúng ta có ảnh hưởng đến những người đồng loại với chúng ta ở tại Cơi Trần, nhưng chúng ta đừng cho Bản Ngă thấp thỏi của chúng ta bắt buộc chúng ta phải vâng theo mạng lệnh của nó. Trên mỗi Cơi của Phàm Nhơn, [96] phải tháo gở những xiềng xích trói buộc chúng ta và phải ở vào thế mạnh. Lần lượt chúng ta rút ra khỏi Ba Thể: Thân, Vía, Trí, nhưng duy tŕ năng lực sử dụng chúng nó.

            Câu cách ngôn nầy c̣n gồm một nghĩa cao siêu nữa, nó áp dụng vào lúc Phàm Nhơn bị dẹp qua một bên, con người nhập một với Chơn Nhơn. Kế đó con người biết rằng sự kiện nầy phải lặp lại với Chơn Nhơn; nó ước mong đạt được Tâm Thức của Chơn Thần. Phải để Chơn Thần hoạt động do Chơn Nhơn.

            Vị chiến sĩ vẫn trường tồn bất diệt, và chắc chắn; điều nầy tương đối đúng với việc Chơn Nhơn liên lạc với Phàm Nhơn thấp thỏi; nó hoàn toàn đúng về việc Chơn Nhơn liên lạc với Chơn Thần. Chúng tôi đă nói: Trong những giai đoạn đầu tiên, Chơn Nhơn có thể lầm lạc, nhưng thường ít lầm lạc hơn Phàm Nhơn. C̣n Chơn Thần th́ không bao giờ lầm lạc. Một mặt khác, nếu chúng ta dám nói đến Chơn Thần như chúng ta biết Ngài - mà thật sự chúng ta không biết Ngài ra sao - chúng ta sẽ nói sự hiểu biết của Ngài ở cơi Trần c̣n mập mờ, Chơn Thần tự nhiên xác nhận lẽ phải, bởi v́ Ngài vốn Thiêng Liêng, trường tồn bất diệt và cũng chắc chắn như đă nói ở đây, nhưng có thể Chơn Thần và Chơn Nhơn thường đứng về một quan điểm tổng quát và khi chúng ta cố gắng áp dụng những tư tưởng của Chơn Thần và Chơn Nhơn tại cơi Trần nầy, chúng ta sẽ lầm lạc, bởi v́ sự đi xuống vật chất có một mục đích mà thôi, ấy là đạt được sự đúng đắn và sự xác thật nhờ hiểu biết hoàn toàn những điều kiện thấp thỏi. Sự tiến hóa của Chơn Thần và Chơn Nhơn chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn. Chơn Thần hay Chơn Nhơn, không một vị nào có sự hiểu biết đúng đắn cả. Hai Ngài là những vị Hướng Đạo của chúng ta, chúng ta chỉ cần phải vâng theo mạng lệnh của hai Ngài mà thôi. Nhưng mà hai vị Hướng Đạo nầy cũng tiến hóa vậy.

            Trên Cơi cao, ngày Đại An Tịnh là ngày mà chúng ta sẽ đi đến cơi Niết Bàn. Ở dưới Cơi thấp nó có nghĩa là Phàm Nhơn hợp nhất với Chơn Nhơn.

            2.- Hăy t́m kiếm Người Chiến Sĩ và để Người chiến đấu với con.

            Hăy t́m kiếm Người, bằng không trong trận chiến sôi nổi và hỗn loạn, con có thể đi bên cạnh Người mà Người không nhận biết con, trừ phi con biết được Người. Nếu tiếng kêu của con thấu đến tai chăm chỉ của Người Người sẽ chiến đấu nơi con và lấp bằng phẳng chỗ trống rỗng đau đớn của ḷng con. Và nếu được như vậy, con có thể trải qua trận chiến không mệt mỏi và b́nh tĩnh. Con đứng riêng qua một bên và để Người chiến đấu cho con. Như vậy, con không thể đánh một thế nào sai cả.

            Diễn tả Chơn Nhơn như vậy h́nh như kỳ lạ, nhưng đó là Chân Lư, là sự thật. Hào quang của Ngài chói ra tuy đẹp nhưng c̣n mập mờ. Không thấy được những Chơn Nhơn th́ không thể nào tưởng tượng được Chơn Nhơn cao hơn Phàm Nhơn bao nhiêu về Đức Minh Triết và sức mạnh. Hơn nữa, con người chớ tỏ ra kiêu căng, tự phụ ở vào một tŕnh độ cao, ḿnh là một nhân vật lỗi lạc, một nhân vật phi thường, bởi v́ Linh Hồn nào cũng như thế cả, cũng lỗi lạc, cũng phi thường. Thật vậy, mỗi người đều cao hơn trạng thái của ḿnh hiện giờ rất nhiều. Một vị Đại Thánh cao hơn hết cũng không thể biểu thị trọn vẹn Chơn Nhơn của ḿnh nữa; ở trên cảnh cao nầy (Cơi Thượng Thiên)[97] luôn luôn Ngài lớn hơn vị Đại Thánh ở Trần Thế v́ vậy phải rán để cho phần cao cả nầy của chúng ta dùng chúng ta như một khí cụ. Chơn Nhơn vốn đẹp hơn và tốt hơn Phàm Nhơn thật nhiều. Ngài sinh ra Phàm Nhơn để tiến hóa và để Ngài tiến đến gần mức toàn thiện. Sự tiến hóa nầy cần thiết cho Ngài, chúng ta đừng lầm tưởng rằng Chơn Nhơn vốn trọn lành, Ngài chưa được điều đó đâu. Điều mà Ngài c̣n thiếu sót để tiến bộ là sự đích xác, sự minh bạch. Ngài rất đẹp đẽ, nhưng nếu tôi dám nói thế sự đẹp đẽ nầy c̣n lờ mờ.

            Ngài muốn tự phát triển nhờ một phần nhỏ của Ngài đầu thai xuống Trần Thế. Ngài biết cách đi xuống, nhưng khi chưa phát triển đến một mức độ nào đó Ngài không biết phải làm sao để d́u dắt Bản Ngă thấp thỏi. Ấy là những kinh nghiệm của Bản Ngă thấp thỏi ở tại Trần Thế dạy Ngài cách hành động theo ư muốn của Ngài. Ngài muốn tiến hóa, Ngài cho một thành phần của Ngài xuống mấy cơi thấp, có thể nói, như một ngón tay; ngón tay nầy đạt được một sự đúng đắn nào đó; nhưng khi Chơn Nhơn thâu hồi nó về sau một chu kỳ mau lẹ của đời sống ở tại cơi Trần, tại cơi Trung Giới và tại cơi Thượng Giới, nói theo danh từ vật chất, nó chỉ đem cho Chơn Nhơn một chút ít sự đúng đắn mà thôi. Huynh hăy nhớ lại việc Hồn Khóm [98] nhờ sự kinh nghiệm của các con thú đem lại cho nó, nên lần lần nó mới được dồi dào. Một con sư tử, một con mèo hay một con chó có thể trải qua vài thứ kinh nghiệm và đạt được vài tánh thấy rơ ràng ở mỗi con. Sự gan dạ có thể đầy đủ để làm cho con mèo, con chó, hay con sư tử nầy trở thành con thú hết sức can đảm. Nhưng nếu tổng số can đảm nầy đem rải rác cho một Hồn Khóm 100 con thú mỗi con sẽ thọ lănh chỉ được có một phần trăm sự can đảm mà thôi. Thế nên phải trải qua nhiều kiếp như vậy tánh nầy mới mở mang mạnh mẽ trong Hồn Khóm tập hợp chung.

            Mặc dù Chơn Nhơn là một thể khác hơn Hồn Khóm, dường như người ta có thể nói Ngài cũng như Hồn Khóm vậy. Nhờ Phàm Nhơn mà Ngài đạt được sự đúng đắn. Sự đúng đắn nầy đủ sức làm cho một Phàm Nhơn trở thành hết sức chính chắn, nhưng khi tánh nầy được Chơn Nhơn thu lấy, Ngài đem phân phát cho khắp cả Thượng Trí (Nhân Thể). Tổng số những sự đúng đắn dư sức làm cho một Phàm Nhơn trở nên thật đúng đắn, nhưng nó chỉ ứng đáp được một phần những nhu cầu của Chơn Nhơn mà thôi. Ngài cần nhiều kiếp, trước khi Ngài phát triển một tánh cho đến mức độ trong kiếp sau đó, nó vượt lên trên tất cả mấy tánh khác, bởi v́ Chơn Nhơn không để dành một phần riêng biệt nào để làm ra một Phàm Nhơn kiếp sau. Ngài lấy một phần nhỏ trong toàn thể và phóng ra một Phàm Nhơn, nhưng không có việc hai lần Phàm Nhơn  giống như nhau. Một Chơn Nhơn (một Linh Hồn ) tiến hóa cao, rất đúng đắn, hiểu Phàm Nhơn, và biết sử dụng nó một cách khôn ngoan và cố gắng làm cho nó thành một khí cụ tốt. Đối với người thường ở dưới cơi Trần nầy, là một việc khác, vậy Phàm Nhơn phải cầu khẩn Chơn Nhơn và chịu ảnh hưởng của Ngài. Nếu con người ở tại Trần Thế muốn cộng tác với Thiên Cơ và hành động như vậy, Chơn Nhơn ứng đáp tức khắc, Ngài sử dụng Phàm Nhơn, và Phàm Nhơn phải đứng qua một bên để người chiến sĩ (Chơn Nhơn) chiến đấu cho nó.

            Chơn Nhơn có sẵn nhiều khả năng tốt đẹp chỉ cần khai mở; ngoài những lư do khác, ấy là những sự tiến bộ lớn lao thường do một người thô tục thực hiện được khi Y gây ra chiến tranh, cùng là tranh đấu cho những tín ngưỡng của ḿnh, dù phải liều thân hay chịu  những sự nguy hiểm lớn lao khác. Một quyết định tốt đẹp như thế, sự hy sinh hạnh phúc cá nhân cho một lư tưởng không mảy may lo sợ những sự đau khổ Linh Hồn và có thể bỏ mạng th́ kêu gọi ở Chơn Nhơn một sự đáp ứng mạnh mẽ.

            Nhưng thiên hạ không tin chắc về điều nầy. Nhiều người gởi thư cho chúng tôi và hỏi: "Các Ngài nói một anh lính mở mang về phần Tinh Thần, tôi không thấy cách nào, bởi v́ anh bị sự thù hận thúc đẩy hơn là một t́nh cảm cao thượng." Dù công nhận anh lính ghét kẻ nghịch, nhưng anh sẵn ḷng chiến đấu v́ cái điều mà anh cho là quyền lợi, sự hành động của anh vốn quí hóa, cao thượng và vô tư. Việc làm của anh phản ứng đến Chơn Nhơn và thức tỉnh Ngài hơn bất cứ điều nào khác. Đời tư của con người đôi khi đưa đến cho con người cơ hội cho một sự hy sinh cao thượng, dù phải bỏ xác thân nầy; thí dụ hết sức tận tụy với một người khác không than phiền, không tưởng nghĩ tới ḿnh, từ bỏ các sự vui, giải trí, không nghỉ ngơi, hay là canh chừng ngày đêm ở bên giường một người bệnh kinh niên. Nhiều sự hy sinh giống như vậy c̣n lớn lao hơn sự hy sinh anh dũng của anh lính chiến, nhưng chúng rất ít; mặc dù trong lúc chiến tranh cả ngàn người nắm lấy được cơ hội lớn lao nầy. Nhờ một sự nỗ lực phi thường, con người hy sinh. Như thế, Chơn Nhơn thức tỉnh liền ứng đáp bằng cách ban cho con người một luồng thần lực sùng tín  rất đẹp đẽ có thể làm phấn khởi sự ưng thuận hy sinh nầy trong một kiếp sau nữa. Một sự nỗ lực can đảm cần thiết chăng ? Một luồng thần lực can đảm từ Chơn Nhơn ban xuống, Cũng như Đấng Christ xưa kia đă nói: "Ai mất sự sống sẽ t́m lại được nó." Khi mất sự sống trong một dịp như thế, chắc chắn con người chuẩn bị cho kiếp sau một đời sống quan trọng hơn, ấy là một đời sống của một Phàm Nhơn lớn lao, không ai chối căi điều nầy. Chơn Nhơn có thể biểu lộ quyền năng của ḿnh và hơn nữa, điều khiển Phàm Nhơn dễ hơn trước.

            "...... trong trận chiến sôi nổi và hỗn loạn, con có thể đi bên cạnh người......" Sự ngẫu nhiên nầy có thể đến khi những người tận tâm làm những việc tốt đẹp, cao thượng cho phép Phàm Nhơn can thiệp vào. Việc nầy không nên xảy đến cho Sinh Viên Huyền Bí Học, nhưng đôi khi họ làm. Một công việc lớn lao, tốt đẹp, đang thực hiện trong Hội Thông Thiên Học và những người thi hành nó, riêng họ phải tự đặt ḿnh ở trên t́nh cảm cá nhân; nhưng thường thường lại trái ngược với điều nầy. Họ tự nói: "Công việc nhỏ mọn ấy vốn của tôi, nó phải được làm trước các công việc khác, không phải tại tôi làm để thỏa thích ư muốn tôi và v́ lư do đó tôi không muốn thấy ai làm thế cho tôi. Nếu tôi quyết thi hành nó, v́ không có ai làm được như tôi vậy. Tôi dám chắc điều nầy". Đây là một thái độ chứng tỏ một Phàm Nhơn tham lam. Tham dự vào một công việc như công việc của chúng ta khiến cho con người làm việc được mở mang thêm, t́nh cảm được mẫn nhuệ hơn, sắc bén hơn. Sự kiện làm công việc gây ra ảnh hưởng kích thích nầy, có khuynh hướng tăng thêm sự cứng rắn của Phàm Nhơn; nhưng điều đó không biện hộ được điều ǵ cho con người khá điên rồ, nếu không chống lại nó. Cũng có mấy điều đó trong những nhóm khác. Hồi tôi làm Linh Mục và c̣n trẻ, tôi lo lắng tất cả những công việc của Giáo Hội, bất cứ về loại nào; ngoài ra c̣n sự thành lập đoàn hát lễ đồng thanh. Những người dự phần vào công việc nầy hy sinh trực tiếp cho Giáo Đường của Thượng Đế, người ta cho họ có những động lực và những nguyên nhân cao hơn những động lực và những nguyên nhân của những người bậc trung ở ngoài đời, nhưng tôi tưởng người ta không có căi vă với nhau như những người hát lễ gây gổ với những người thân cận với họ trong Giáo Đường. Phải có điều khiển đoàn hát lễ mới biết việc ấy. Thật là buồn, nhưng đó là sự thực, thiết tưởng điều nầy không nên có. Lư do chắc chắn là mấy người nầy đồng cộng tác vào một việc khá cao hơn tŕnh độ b́nh thường; không cần phải có điều chi nhiều hơn nữa để kích thích đời sống nội tâm của họ bằng một cách dị thường. Vị Đệ Tử giữ chừng đừng cho Phàm Nhơn can thiệp vào bất cứ điều chi của công việc tốt lành nầy; không vậy Y không c̣n thấy vị Hướng Đạo cao cả. Muốn cho Chơn Nhơn có thể chiến đấu nơi Y và sử dụng được Y, vị Đệ Tử phải tận tâm làm việc không chút lo lắng cho phần việc của y đảm nhận. Một cơn sôi nổi, một mối cảm động của Phàm Nhơn cũng đủ làm cho Y quên mất Bản Ngă cao siêu, từ đó Y không c̣n đủ sức thu nhận sự giúp đỡ và biết được ư kiến của Chơn Nhơn nữa. Vị Đệ Tử có thể trong một thời gian không c̣n liên lạc với Chơn Nhơn và mất sự giúp đỡ quí báu của Ngài.

            Sự mơ hồ của Chơn Nhơn [99] - trừ ra khi nào Ngài tiến hóa cao - ngăn cản Ngài không cho Ngài chỉ bảo một công việc đặc biệt nào cho Phàm Nhơn. Nhưng khi Phàm Nhơn trở nên đúng đắn đă chon lựa một công việc nào đó Chơn Nhơn có thể hợp tác với Phàm Nhơn, dự phần vào công việc của Phàm Nhơn và giúp Phàm Nhơn thực hiện công việc đó tốt đẹp hơn trước nhiều và trong những ư thức cao thượng nhiều hơn là khi Phàm Nhơn hoạt động một ḿnh.

            Nếu con không t́m Người, nếu con đi ngang qua Người mà không thấy Người th́ không có cái chi bảo vệ con cả. Đầu óc con rối loạn, tim con đập không đều và giữa cảnh cát bụi của chiến trường, sự thấy và giác quan của con yếu đi và con không c̣n nhận biết ai là bạn, ai là thù.

            Tất cả những điều diễn tả ra đây phải đến, khi Phàm Nhơn không kêu gọi những Hướng Đạo cao siêu. Vị Đệ Tử không c̣n phân biệt ai là bạn, ai là thù, Y bị lôi cuốn vào trận cuồng phong của t́nh dục và dưới ảnh hưởng nầy, Y tin theo lời của một người không thân thiết với Y chút nào. Việc nầy thường thấy trong đời sống hằng ngày. Một người kia bị chọc phá, nổi giận hay ganh tị, lắng tai nghe những chuyện ngồi lê đôi mách, tầm phào, nhảm nhí của những kẻ cho rằng ḿnh là bạn thân của Y, mà kỳ thật không phải vậy.

            Một người nói hành, một người gieo rắc những sự bất ḥa, không phải là bạn thân của ai cả, mà Y là kẻ thù nghịch tồi tệ của những kẻ đối thoại với Y. Giao thiệp với một người như thế và tin những lời của Y, thật là đáng buồn biết bao nhiêu. Nếu trước mặt chúng ta Y bắt đầu phê b́nh, chỉ trích hành vi của kẻ khác, chúng ta hăy lánh xa Y, sớm chừng nào tốt chừng nấy và điều nầy v́ hai lư do. Một là, trước nhất chắc chắn chúng ta không học được cái ǵ tốt đẹp cả; hai là, một người đem những chuyện của kẻ khác ra nói th́ lần sau có dịp sẽ đem những chuyện của chúng ta ra nói in như vậy. Điều hay hơn hết là đừng liên lạc với những kẻ nói hành và đừng để những điều Y nói ảnh hưởng đến chúng ta. Khi nghe họ thuật chuyện, người ta thường nói: Tôi không tin mấy điều đó. Tôi không để ư tới. Nhưng mà những chuyện đă nghe không để cho người ta lănh đạm, thờ ơ. Thỉnh thoảng nhớ tới chúng nó, người ta tự hỏi: phải chăng thật sự, mấy điều đó có vài lư do, thay v́ nên khinh thường chúng nó ngay khi đó. Chỉ có thái độ nầy mới là hợp lư.

            Khi biết rơ một người nào rồi, ư kiến của ta về người đă đủ và đừng cho có giá trị những điều mà người ít biết Y hơn ḿnh, nói về Y. Những tánh t́nh của con người đều khác nhau rất xa, nhưng nói một cách tổng quát, chúng ta không thể đi lạc đường khi chúng ta giữ ư kiến của chúng ta liên quan đến tánh t́nh, tư tưởng và việc làm của người nầy sau một thời gian rất lâu mà chúng ta không nhận thấy có một sự thay đổi nào trong người Y, và điều nầy không c̣n lư do ngờ vực nữa. Một thí dụ chưa đủ cho chúng ta; phải chờ đợi và xem xét, bởi v́ thường thường bị mất ngủ hay là khó ở, một người kia thốt ra một lời hoặc là làm một việc mà Y không nói hay không làm trong những trường hợp khác. Cho rằng Y thay đổi tánh t́nh, bởi v́ nhiều người quả quyết như thế là không công b́nh chút nào. Nếu Huynh có một người bạn thân, Huynh hăy ở gần một bên Y và hăy chờ đến khi nào một lời nói hay một việc làm của Y chứng minh rằng những tư tưởng, những việc làm hay những lời nói của người ta gán cho Y rất đúng vậy. Đừng chấp nhận bằng chứng của những kẻ khác, có lẽ họ nghe tin thất thiệt, họ khờ khạo dại dột hay là không có thiện cảm với Y.

            Nếu một người để bị ảnh hưởng như thế cho đến đỗi không phân biệt được người bạn hay kẻ thù, không hề biết những sự việc, những hậu quả sẽ giống như người để cho Phàm Nhơn chi phối. Y gây gổ ư, Y tỏ ra rơ ràng mù quáng, những giác quan thông thường đối với Y trở nên vô ích. Y không dùng chúng nó nữa. Ư kiến của Y về bất cứ vấn đề nào cũng đă kết thúc. Muốn sửa đổi cũng vô ích. Thật kỳ lạ, mà cũng thật đáng buồn khi thấy có không biết bao nhiêu người sẵn sàng tin tưởng những điều xấu kẻ khác. Hăy bác bỏ những lời trách móc, hăy giải thích rằng nó không căn cứ vào đâu, nhưng dầu sao, một sự ngờ vực cũng vẫn c̣n.

             Điều nầy không nên có, nhưng một phần lư do nầy là sự mở mang quá độ của một thành phần [100] của chúng ta trong sự tiến hóa hiện thời của nhân loại. Hạ Trí học hỏi nhờ sự phân biện, nhờ năng lực nhận biết sự khác biệt nhau giữa vật nầy với vật kia, v́ vậy cho nên chắc chắn là lập tức nó nhảy vào chỗ khác biệt. Khi con người đứng trước một người lạ với Y, hay một tư tưởng mà Y không quen thuộc hoặc là một cuốn sách mà Y chưa đọc qua, thường thường Y muốn trước nhất là nêu lên những chuyện  Y không thích, những điều khác hơn thói quen của Y, rồi Y phóng đại để thay đổi nó. Lư do là chúng ta có hơi mở mang quá độ năng lực phân tách hay đúng hơn là chúng ta không cho nó một đối lực là một năng lực Bồ Đề [101] đă được xác nhận khá đầy đủ.

            Trong quyển Thánh Ca Bhagavad Gita, II, 62-63 có những danh từ ư nghĩa rơ rệt như sau đây về sự dạy dỗ chứa đựng trong câu cách ngôn nầy:

            Khi tưởng đến những đối tượng của giác quan, con người bắt đầu tŕu mến chúng; từ tŕu mến sinh ra ham muốn, sự ham muốn sinh ra sự giận dữ, từ sự giận dữ sinh ra sự sai lầm, sự sai lầm làm cho kư ức rối loạn, rồi sự rối loạn sinh ra sự tiêu diệt lư trí. Khi lư trí bị tiêu diệt con người không c̣n nữa.

            Tôi biết rất khó cho chúng ta hiểu được v́ sao Chơn Thần vừa Thiêng Liêng mà lại vừa không phát triển một lượt, v́ sao tới khi kết thúc những kiếp Luân Hồi của nó trong Chơn Nhơn, nó sẽ khác hơn lúc sơ khởi. Chúng ta hăy lấy một thí dụ tương tự, nhưng chưa được hoàn toàn, như sau đây: Thân ḿnh con người gồm cả triệu tế bào, những tế bào nầy là tế bào của con người, bởi v́ chúng là những thành phần của con người, thí dụ có một sự tiến hóa nào đó - việc nầy không phải là không thể có - giúp cho Hồn của tế bào biến thành Hồn của một con người, vậy làm sao cho rằng cuối cùng sự tiến hóa không đem lại kết quả nào hết; tế bào lúc đầu tiên đă là con người rồi. Sự so sánh nầy cho chúng ta một ư niệm về việc Chơn Thần là một thành phần của Đức Thái Dương Thượng Đế, nhưng mà một thành phần chưa mở mang. Tôi biết việc làm nầy không được thận trọng khi dùng lư luận tương tự bắt từ dưới thấp đi lên trên cao áp dụng nó vào mỗi chi tiết, bởi v́, thường thường, mấy điều đó không thích hợp. Một đại cách ngôn Huyền Bí Học nói với chúng ta: "Cái chi ở trên cao sẽ lặp lại ở dưới thấp," c̣n câu trái ngược lại: "Cái ǵ ở dưới thấp th́ lặp lại ở trên cao," chỉ đúng trong những trường hợp rất ít mà thôi. Tôi tưởng, chúng ta có thể lư luận như những người Ấn mà không có gây ra tai hại khi bàn luận về câu mà người ta nói với họ: "Cái chi ở trên cao th́ sẽ tự nhiên phải có ở một tŕnh độ thấp kém hơn." Lập luận trái ngược lại sẽ không thận trọng, bởi v́ ở mấy cơi cao lẽ tự nhiên những sự sắp đặt rất rộng lớn, mặc dù chúng ta không hiểu tại sao. Thường thường người ta lầm lạc nói rằng:  Chuyện nầy xảy ra ở Cơi Trần th́ ở Cơi cao cũng phải có như vậy." Cũng một Luật như thế hành động trên mấy Cơi cao, nhưng dưới một h́nh thức nào đó chúng ta không được biết. Sự tương tự của những tế bào trong ḿnh con người không thể dùng để dắt dẫn chúng ta đi xa được; nhưng trên con đường học vấn chúng ta gặp vài điểm làm cho chúng ta suy nghĩ thấy có vài việc tương tự xảy ra. Chúng ta biết rằng sự sống nuôi dưỡng tất cả những loại thấp kém, tới phiên nó, nó sẽ thành ra một dụng cụ cho một sự sống cao siêu hơn khi con người có cá tánh. Thượng Trí hay là Nhân Thể mà chúng ta sử dụng ngày nay vốn là Hồn của một con thú. Nhân Thể đó là điểm xuất hành của cá tánh chúng ta; trước kia cái chi là sự sống để nuôi dưỡng, ngày sau thành ra một vận cụ. Nhưng tŕnh bày như thế, Chân Lư nầy không phải là tuyệt đối. Cái mà trong con người gọi là Nhân Thể, trước kia là sự biểu hiện của Linh Hồn trong con thú và trong cái cây, nhưng thuở xưa, đó là một chất thuộc về một cơi đặc biệt, chất nầy phải là một sự sống, nó đi xuống nuôi dưỡng chất ấy làm cho nó trở nên linh động, nhưng mà chúng ta không thấy được điều nầy. [102] Đừng quên rằng chúng ta không thấy khí lực, tinh thần ra sao, chúng ta chỉ nhận biết sự biểu hiện của nó trong một h́nh dạng làm bằng vật chất mà thôi. Thí dụ Xác Thân ta đây. Cái chi làm cho nó sống, có sinh khí? Linh động? Ấy là Con Người ở trong Cái Vía. Chúng ta không thấy Cái Vía. Trong giai đoạn nầy nó là Hồn của chúng ta. Sự mở mang Thần Nhăn cho chúng ta thấy, tới phiên nó, Cái Vía nhờ Chơn Nhơn làm cho nó linh động và cứ như vậy và càng lên cao măi. Cái chi đối với chúng ta dường như là sự sống, cội rễ của sinh vật, không phải thật là Tinh Thần đâu, nó chỉ là một trong những sự biểu hiện của Tinh Thần mà thôi. Khi chúng ta đi đến điểm cao hơn hết mà chúng ta có thể tới, những bọt của Hỗn Nguơn Nhứt Khí (Bulles du Koilon) hay là Tiên Thiên Dĩ Thái trên Không gian (Véritable éther de l'espace) dường như trống rỗng đối với con mắt của chúng ta hiện thời. Thật sự không phải như thế, đúng vậy, chúng nó chứa đựng một nguồn gốc mà chúng ta không biết ra sao, có năng lực duy tŕ ở cách khoảng xa sức mạnh phi thường của Dĩ Thái trên Không Gian vô tận. Không Gian nầy dường như trống rỗng nhưng chắc chắn nó chứa đựng vài điều, hiện giờ chúng ta không thấy nó ra sao, nhưng có lẽ một ngày kia chúng ta sẽ thấy được. Điều chúng ta sẽ thấy không phải Tinh Thần ban cho sự sống nhưng một chất thuộc về hạng cao siêu giúp Tinh Thần ban cho sự sống nầy biểu hiện được. Luôn luôn chúng ta không hề thấy được sức mạnh cao siêu.

            3.- Hăy lănh lấy mạng lệnh của Người để chiến đấu và hăy tuân theo.

             Hăy tuân lệnh Người, nhưng không phải xem Người như một chủ tướng mà phải xem Người chính là con và xem những lời của Người như là ư muốn thầm kín của con, bởi v́ Người là con đó, mặc dù Người mạnh hơn con và khôn ngoan hơn con không biết bao nhiêu.

            Phải biết rằng trong mọi chiến đấu giữa kẻ dưới và người trên, chúng ta là người trên. Đầu tiên chúng ta chưa chắc chắn lắm rằng Chúng Ta đồng nhất với Chơn Nhơn. Chúng ta tin tưởng như vậy, v́ Giáo Lư của chúng ta dạy chúng ta điều nầy. Chúng ta hành động như chúng ta tin chắc việc đó, không bao lâu chúng ta sẽ nhận thấy sự đồng nhất quả có thật. Sự nguy hiểm hăm dọa chúng ta khi chúng ta đồng nhất với kẻ dưới và bỏ rơi người trên.


CHƯƠNG   3

QUI  TẮC  5 – 8

 

            C.W.L. - Những qui tắc từ 5, 6, 7 và 8 hợp thành những nhóm mà chúng ta quen thuộc. Tôi chia qui tắc 8 (giảng lư của Đức Đế Quân) ra làm ba phần, mỗi phần liên quan với một trong ba qui tắc ngắn, kế đó chúng ta học hỏi chúng một lượt với những qui tắc nầy, như trong chương trước.

            5.- Hăy lắng nghe tiếng hát của sự sống.

            Sự sống có tài nói năng và không bao giờ im lặng; lời nói của nó không phải một tiếng la hét, nhưng v́ con điếc nên đă tưởng như vậy. Nó là một câu hát. Hăy học với sự sống để biết rằng con là một phần tử của sự điều ḥa. Hăy học với nó để tuân theo Luật Điều Ḥa.

            Câu cách ngôn 5 cũng gồm một chú giải thật dài của Chơn Sư  Hilarion;  nó khởi đầu như vầy:

            Hăy kiếm Người, và hăy nghe Người trước nhất ở trong ḷng con, có thể ban đầu con sẽ nói: "Người không có ở trong đó," khi t́m Người, tôi chỉ gặp sự bất ḥa. Hăy t́m sâu hơn nữa. Nếu thêm một lần nữa con thất vọng th́ hăy ngưng lại, rồi t́m sâu hơn nữa. Có một âm điệu du dương tự nhiên, một nguồn bí mật ở trong ḷng mỗi người. Nó có thể bị che lấp, hoàn toàn bị ẩn khuất và bị bóp nghẹt, nhưng nó vẫn ở đó. Con có thể t́m gặp đức tin, hy vọng và t́nh thương trong chốn thâm sâu của chính bản tánh con.

            Nói một cách khác, sinh vật nào cũng bao phủ, che đậy một sức mạnh tiềm tàng không ít th́ nhiều, tùy theo trạng thái mở mang của sự sống. Sự sống làm cho vạn vật chuyển động. Thiên Chúa Giáo dạy chúng ta gọi Sự Sống là Ư Muốn của Thượng Đế hay là T́nh Thương củaThượng Đế; nhưng người ta thường dùng danh từ nầy một cách mơ hồ, chúng mất rất nhiều sự thật và sức mạnh của chúng. Trong Tôn Giáo b́nh dân, chúng ta gặp nhiều danh từ tŕnh bày một tính cách lịch sử hay là truyền thống, nhưng không có ư nghĩa chi nhiều đối với những người đă sử dụng chúng. Thí dụ người ta nói nhiều về Phước Trời (Thượng Đế) ban xuống, nhưng tôi tưởng thường thường họ không biết danh từ đó có nghĩa chi. Cũng vậy, trong những Giáo Đường, khi đọc kinh cầu nguyện, các Tín Đồ nói: "Cầu xin Đức Thượng Đế nhân từ xá tội chúng tôi." Câu nầy thật là kỳ lạ, thật vô cùng phi lư và không thể có được; mà dường như không ai thấy điều đó; những tiếng "xin xá tội chúng tôi" kết liên với những tiếng "Đức Thượng Đế nhân từ" là những danh từ mâu thuẫn nhau. Thật là vô ích khi cầu xin Đức Thượng Đế nhân từ xá tội cho bất cứ ai. Cầu khẩn Ngài tội c̣n nặng hơn sự lầm lạc, bởi v́ lời cầu nguyện nầy công nhận rằng Đức Thượng Đế c̣n có tánh xấu. Ấy là một xúc phạm đến Thượng Đế, c̣n nặng hơn việc kêu trời mà chưởi rủa, thề thốt như chúng ta thường nghe ngoài đường, và làm điều nầy cũng đủ phạm tội rồi đó. Như vậy các Tín Đồ cho Thượng Đế c̣n có dục t́nh và ác độc nên mới cầu khẩn Ngài xá tội cho họ.  Người ta cũng nói đến Đức Từ Bi của Thượng Đế. Về điều nầy chúng ta cũng gặp một loại quan niệm. Đức Thượng Đế có thể giáng cho Quí Huynh những tai họa dữ dội, nhưng Ngài không làm ǵ hết rồi xét ra điều rất tốt là xá tội cho chúng ta. Thật vậy, những danh từ nầy hàm chứa một sự hoàn toàn dốt về ư nghĩa của tiếng Trời hay Thượng Đế. Ấy là một tiếng cao thượng hơn hết và tốt đẹp hơn hết. Nó có nghĩa là Nhân Từ, mà Người Nhân Từ th́ không cần những lời cầu nguyện để tỏ ra ḿnh xót thương trường hợp nầy hay là trường hợp khác, bởi v́ T́nh Thương của Ngài tràn trề tới một điểm mà chúng ta không thể cho Ngài có t́nh cảm nào khác hơn là sự xót thương. Đức Thượng Đế biểu lộ t́nh thương cho tất cả mọi người, mặc dù họ làm điều chi cũng vậy. Chúng ta thử nghĩ xem một người cha hiền, tánh t́nh thế nào, khi ông ngồi nghe mấy đứa con quỳ dưới chân cầu khẩn ông tha thứ. Trong Thông Thiên Học; khi chúng ta giải về những lực cao siêu, chúng ta phải chống lại sự khó khăn nầy. Những người trong chúng ta trải qua những Giáo Đường hay Tiểu Giáo Đường rất tiếc là có thói quen khi nói mấy vấn đề trên đây họ xem chúng nó dường như rất mơ hồ; không có ư nghĩa chi chính chắn lắm. Người ta đi đến các cuộc lễ để cầu xin phước lành của Thượng Đế ban xuống trong ư tưởng được Trời pḥ hộ hay là ban cho một ân điển. Tôi sợ quan niệm nầy không đúng với khoa học lắm. Phải hiểu rằng một cuộc Thánh Lễ ở nhà thờ là một cách chuyển sang một thứ thần lực nhất định rơ ràng, đó là ân huệ của Thượng Đế. Thần lực nầy như điện, không thể bắt bẻ được, nó cũng như hơi nước vận động làm cho xe lửa chạy. Nó theo những vận hà do các vị Linh Mục hay là Giám Mục dọn sẵn cho nó. Khi một trong những vị nầy giơ bàn tay ra Ngài Phóng cho các Tín Đồ một thứ thần lực đặc biệt. Thần lực nầy tủa ra và tràn ngập Giáo Đường. Những người đă dọn ḿnh để rước nó sẽ thâu nhận nó và đồng hóa với nó. C̣n trong nhóm Tín Đồ, những người nào không thâu nhận nó được chỉ v́ tại họ không dọn sẵn ḿnh trước về việc nầy. Khi ta nói về t́nh thương và ân huệ của Thượng Đế thường thường hai điều nầy đối với họ là những khái niệm mơ hồ, nhưng thật ra chúng là những lực hết sức thực tế. Luôn luôn không phải dễ mà bỏ những tư tưởng mập mờ nầy. Không phải chỉ có những người đă trải qua nhiều Giáo Hội khác nhau chịu khổ đâu, mà những người khác cũng bị thiệt tḥi vậy. Những người theo đường lối tu hành đạt được vài ân huệ, vài năng lực hiểu biết mà những người tự do tư tưởng thuở xưa không thể sử dụng một cách dễ dàng. Kỷ luật của Giáo Hội chánh thống thật hữu ích, trừ ra việc nó tŕnh bày sự sùng đạo quá mức đến đỗi thành ra ngu muội, cùng là tư tưởng hẹp ḥi và cách giải thích quan niệm về Thượng Đế cho các Tín Đồ. Phần c̣n lại, như Phụng Sự Thượng Đế với những lời ca tụng và những sự ban phước, hội hợp lại để tôn thờ Ngài cùng là sắp đặt cách thờ phượng với tất cả những sự xinh đẹp có thể làm được, tôi tưởng tất cả những điều đó đi chung với Giáo Lư hết sức tự do và hết sức rộng răi. Tiếc thay! Đă nhiều thế kỷ qua, sự đi chung nầy đă chấm dứt, ngoại trừ chỗ nầy, chỗ kia chỉ có vài người c̣n thực hiện được mà thôi. Tôi đă suy nghĩ nhiều, chẳng sớm th́ muộn sẽ nảy sinh ra một Giáo Hội phối hợp những nguyên tắc khác nhau nầy; mà giờ đây đă có Giáo Hội đó, ấy là Giáo Hội Thiên Chúa Giáo tự do. Những người c̣n tŕu mến Giáo Hội thuở xưa, cùng với những phương pháp, những nghi lễ, những bài hát, sự mỹ lệ, sự dịu dàng và thánh thiện của nó, bây giờ gặp lại những điều nầy và đồng thời một giáo lư, ấy là ThôngThiên Học thuần túy.

            Thế nên khi nói về Thông Thiên Học, chúng ta dùng những danh từ đối chiếu với những danh từ mà người ta thường dùng một cách không chính xác. Nên hiểu rằng những danh từ nầy không có chi gọi là mơ hồ hay là tối tăm, khó hiểu. Nói rằng ban ân huệ của Chơn Sư cho một người kia, theo những danh từ nầy, tôi hiểu đó là một luồng thần lực tích cực tuôn xuống; thần lực nầy thường dùng chất khí ở cảnh cao hơn cơi Trần để làm một vận cụ cho nó. Nó phải dùng chất khí đó mới ảnh hưởng được chất khí làm ra Thượng Trí, Hạ Trí hay là Cái Vía tùy theo trường hợp. Không nên có một chút ư nghĩ nào rằng đó là một ảnh hưởng không chắc là tốt lành và không có tầm mức lớn lao.

            Đại thần lực nầy làm cho Vạn Vật chuyển động và tŕnh bày một trạng thái khác nữa: Ấy là Luật Hy Sinh. Hy Sinh là một tiếng đẹp lắm mà thường bị dùng sai. Hy Sinh thường có nghĩa là: Từ bỏ một vật mà sự mất nó làm tan nát cơi ḷng; nếu con người muốn biết ư  nghĩa thật trong Tôn Giáo của tiếng Hy Sinh là một tư tưởng mà họ phải loại trừ. Họ phải chấp nhận một sự giải thích mới về một tiếng mà suốt đời họ đă biết. Đôi khi họ tin tưởng rằng họ đă thảy bỏ cái cũ và chấp nhận cái mới, mặc dù cái cũ c̣n phủ bóng trong trí họ; một đám mây mù xâm nhập Cái Trí họ mà họ không ngờ và nó chỉ tan mất dần dần thôi.

            Hy Sinh (Sacrifice) do chữ La Tinh  Sacrifico có nghĩa là: Tôi làm cho Thánh Thiện (Je rend saint). Hy Sinh một vật tức là hiến dâng nó cho Đức Thượng Đế và v́ thế làm cho trở nên Thánh Thiện. Ư tưởng khi hiến dâng vật đó cho Ngài, Huynh mất nó đi, là nghĩa phụ và do người ta thêm vào. Như Thánh Kinh thường nói: Nếu Huynh có ư muốn hiến dâng ḿnh cho Đức Thượng Đế như là một sự Hy Sinh trọn vẹn, hăy đừng có một tư tưởng nhỏ mọn nào về sự từ bỏ xen vào. Thật ra, dưới cái vẻ trái ngược nhau khi Y có ư nghĩ về sự Hy Sinh một món nào đó th́ không có sự Hy Sinh, vật đó không được Thánh Thiện, bởi v́ Huynh hiến nó với ḷng tiếc rẻ. Khi Huynh cảm thấy không thể nào Huynh không quỳ dưới chân Đức Thượng Đế hay là Đấng Christ được trong lúc phấn khởi của ḷng sùng tín; khi tư tưởng về sự thiếu thốn không đến cho Huynh; khi tánh t́nh huynh không cho Huynh hành động khác hơn; khi Huynh tin chắc rằng Huynh có thể đoạn tuyệt tất cả; chừng đó có lẽ sự Hy Sinh của Huynh mới là hoàn thiện. Muốn hiến dâng một Hy Sinh thực sự, phải quên mất ư tưởng thường dính dấp với danh từ nầy. Ấy là một tiếng rất tốt đẹp, nó không có nghĩa là từ bỏ một vật, mà có nghĩa Thánh Thiện hóa.

            Đức Thái Dương Thượng Đế thực hành một sự Hy Sinh lớn lao tột bực, bởi v́ Ngài tự ban rải ra, Ngài xuống vật chất, Ngài giới hạn quyền năng của Ngài, Ngài cởi bỏ sự Vinh Quang của Ngài. Thật sự "v́ chúng ta là những con người và v́ sự giải thoát của chúng ta mà Ngài từ trên Trời xuống." Ấy là một câu châm ngôn rất đẹp, mà ngày nay ư nghĩa của nó bị giảm đi rất nhiều và làm nhơ bẩn tư tưởng thiệt thọ. Nếu chúng ta hiểu rành rẽ những ư nghĩa nầy, sự tốt đẹp của chúng làm cho chúng ta chú ư đến chúng. Chúng ta nhận biết chúng đáng cho chúng ta tán đồng và hoàn toàn khâm phục, nhưng trước nhất phải hiểu biết chúng. Sự Hy Sinh lớn lao hơn hết là sự Hy Sinh của Đấng Christ.[103] C̣n chúng ta, trong phạm vi chúng ta tận tâm với công việc của Ngài, chúng ta dự phần vào sự Hy Sinh nầy và chúng ta liên kết với nó. Không thể có sự chọn lựa nào khác, khi thấy được sự thực tế sâu xa. Ở ngoài đời không c̣n thấy sự Hy Sinh nào khác nữa, bởi v́ chúng ta có vẻ lấy ư chí chúng ta làm hướng đạo. Con người tiếp tục giúp đỡ lực tiến hóa, nhưng quên mất "Sự hiến dâng" của ḿnh. Đây, không phải là một sự từ bỏ nào nữa, mà là đi tới sự thực hiện Chơn Ngă và biết được Sự Sống ra sao? Tư tưởng của Đức Thượng Đế là như thế đó. Phải giống như Ngài, nếu ta muốn thật sự Hy Sinh.

            Như Tiến Sĩ A. Besant đă nói rằng trên đời không có một Tôn Giáo nào không tŕnh bày ư niệm của sự Hy Sinh với nhiều tính cách khác nhau; điều nầy chứng tỏ sự hiện diện của một Đại Chân Lư bí truyền và cao thâm. Luật Hy Sinh chưa được dùng làm mục đích của một sự học hỏi trọn vẹn; nhưng có một hôm, Chơn Sư đă nói nó cũng quan trọng như những Luật của Luân Hồi và Nhân Quả.

            Thấy được sự thật ở phía sau Vạn Vật là nghe bài hát của sự sống. Bài hát của sự sống là một động lực không bao giờ ngừng nghỉ. Trong Thiên Nhiên những sự chuyển động khác nhau đều phổ biến bằng những âm thanh và những màu sắc kèm theo chúng nó; c̣n nhiều sự biểu lộ khác, chúng ta không biết, trừ ra khi nào tiếng tăm và màu sắc là một thành phần của những sự kinh nghiệm của chúng ta. Có thể tập nghe sự điều ḥa của Thiên Nhiên cho tới một điểm nào đó, và thấy được sự đẹp đẽ, sự vinh quang và trật tự của nó. Đây là cách chắc chắn hơn hết để quả quyết rằng mọi vật đều góp phần vào sự tốt lành và trật tự tuyệt đối, dù cho sự rối loạn bên ngoài che lấp đi nữa cũng vẫn là quan trọng hơn hết, thiết thực hơn hết về các phương diện và không có chi sánh kịp. Sự rối loạn chỉ là một sự xao động nhẹ nhàng, một bọt nước trên mặt; ở phía dưới ngự trị những vực sâu của biển cả; biển cả vốn hoàn toàn tuân theo Luật Trời, mặc dù trên mặt biển, Luật Trời h́nh như bị vi phạm.

            Đối với chúng ta, nếu chúng ta có thể làm được điều cần thiết là biết được sự thật ẩn tàng phía bên trong và thấy cái không có chi làm xáo trộn và cũng không làm chênh lệch, lạc hướng. Đạt được sự tiếp xúc với sự thật nầy, tin chắc rằng vạn vật đều tiến tới trước không ngừng nghỉ; do đó, cái chi xảy ra trên bề mặt vẫn không quan hệ ǵ, bởi đó chỉ là một sự phân tán tạm thời, ngắn ngủi, một sự lay chuyển yếu đuối mà thôi, vậy tất cả mấy điều đó là một sự dịu dàng cao quí, một sự an ủi lớn lao, một sự an toàn chắc chắn. Chúng ta không ngớt tiến đến gần sự liên hiệp với Đấng Duy Nhất, nhưng chúng ta đă là thành phần của Ngài; tới một ngày kia chúng ta thực hiện được sự Hiệp Nhất nầy. Đấng Duy Nhất càng ngày càng hiện ra cho chúng ta.

            Người ta có thể nói rằng một bài hát, một sự ḥa hợp vang lừng bên ngoài của các Thế Giới, bao la bát ngát. Trong thời kỳ cổ điển, người ta nói về âm nhạc của những Tinh Cầu; người ta tưởng rằng Mặt Trời, các Hành Tinh, các Ngôi Sao trong lúc vận chuyển trên không gian phát sinh một sự điều ḥa hùng vĩ. Chúng tôi đọc trong Thánh Kinh Cựu Ước đoạn nầy:  Những Ngôi Sao ban mai đồng reo lên những tiếng vui mừng và những con của Thượng Đế hát khúc khải hoàn" (Les étoiles du matin poussaient ensemble des cris de joie et les enfants de Dieu chantaient en triomple - Job,XXXVIII, 7 ). Đối với nhiều người, ấy là những danh từ tốt đẹp, một biểu tượng của thi thơ, không có chi khác hơn. Theo ư nghĩa của một câu cách ngôn "Vài chuyện tốt quá nên không có thật." Nhưng cái chi Thiện và Mỹ phải có thật v́ sự tốt và sự đẹp của nó. Không có tư tưởng tốt nào sinh ra mà không có lư do, nó không đến cho người nào nếu Y không có một sự tương ứng ở mấy Cơi cao. Những việc cao quí nhất, cao thượng, vĩ đại nhất, là những tư tưởng của Trời, những Thiên Ư. Tư tưởng của chúng ta càng đến gần chúng nó th́ tư tưởng của chúng ta càng trở nên cao siêu, thanh khiết, chân thật và thanh cao. Hăy tin chắc rằng không phải chúng ta thấy ở đó một tư tưởng lạ lùng của thi thơ và để giải trí, nhưng đó là một sự thật rơ rệt rất quan trọng và ở trên tất cả, sự đẹp đẽ và sự chơn thật ngự trị. [104] Những tư tưởng đem cung cấp cho chúng ta thường ngày là sự xét đoán của con người về những sự vật, c̣n những sự thật bị những sự vật làm ra một bức màn bao phủ, mới là sự xét đoán của Thượng Đế. Những tư tưởng của Thượng Đế vượt qua tư tưởng của chúng ta trong phạm vi mà Thượng Đế cao hơn  con người. [105] Cao hơn không có nghĩa là nghiêm khắc, hay ít thực tế hơn hoặc là xa lạ không liên quan với đời sống hằng ngày, nhưng mà lớn lao hơn, đẹp đẽ hơn và vinh diệu hơn.

            Chúng ta lắng nghe tiếng hát của sự sống trong tất cả những lần mà chúng ta ướm thử khám phá sự tốt lành và sự đẹp đẽ chứa đựng trong vật nầy hay vật kia. Sinh Viên Huyền Bí Học cần phải lạc quan, bởi v́ họ biết rằng những sự việc biện minh cho sự lạc quan cực điểm của chúng ta và c̣n ngoài điều đó nữa. Chân Lư ẩn tàng bên trong luôn luôn vẫn cao thượng. Nếu chúng ta không biết nó, không hiểu nó, không đạt được nó, lỗi đó không phải ở nơi Chân Lư mà tại chúng ta chưa được thông minh. Vậy đời sống hằng ngày giúp cho chúng ta nghe được tiếng hát của sự sống bằng nhiều cách khác nhau, nhưng luôn luôn không phải là lạ lùng lắm. Khi chúng ta nghe được nó một lần không phải chúng ta không c̣n nghe được nữa đâu. Nó vang lừng khắp các Cơi. Thí dụ chúng ta nghe được nó trọn vẹn tại một Cơi nào đó, chúng ta chỉ biết có một phần nhỏ nhít, một nốt (note), một âm điệu mà thôi. Mỗi Cơi lần lượt tiết lộ cho ta sự đẹp đẽ và sự vinh quang nhiều hơn trước. Chúng ta càng nghe rơ tiếng hát, sự điều ḥa càng được hoàn hảo. Hăy đánh một lượt tám nốt của một khoảng bát độ, Huynh không nhận được một sự điều ḥa mà lại là một âm điệu bất ḥa chát tai. Ở trên mấy Cơi cao, trái lại, có một điều mà tôi chỉ có thể diễn tả bằng một cách trái ngược lại là có thể nhận được một sự điều ḥa càng hoàn hảo khi huynh nhấn mạnh một lượt nhiều nốt, bởi v́ tại đó mọi vật đều hội hợp với nhau và phù trợ với nhau một cách kỳ lạ, không thể nào giải thích cho ở dưới Trần Thế hiểu được. Nếu viết một phần nầy của một khúc điệu du dương (mélodie) trong một khóa (clef), c̣n một phần kia th́ viết trong một khóa khác, ảnh hưởng phát sinh ra là một sự bất điều ḥa. Nếu chúng ta có thể tưởng tượng rằng trên không gian trước hết những phần tử khác nhau nầy được phóng ra, trong đó mỗi phần tử đều tự biểu lộ là một toàn thể điều ḥa, rồi trong một phương hướng khác lại có một sự phối hợp những phần tử nầy cách nào mà khi thực hành sự hỗn hợp mỗi phần tử thành ra một nốt. Có lẽ như vầy chúng ta có thể hiểu được ư niệm nầy, chúng ta không có ngôn ngữ đầy đủ để diễn tả. Luôn luôn có thể phóng ra như vậy những khóa khác nhau mà chúng tạo ra ở những cơi cao một sự điều ḥa trọn vẹn, mặc dù ở tại Cơi Trần nầy chúng chỉ sinh ra sự bất ḥa, nghe chát chúa.

            Âm nhạc kim thời tŕnh bày một sự điều ḥa kém hơn âm nhạc cổ điển. Nó gia tăng những âm điệu bất ḥa hết sức cuồng loạn để t́m lấy một sự điều ḥa tốt đẹp hơn, nhưng không thành công. Tuy nhiên, tôi tưởng những nhạc sĩ đă thấy điều tôi mới mô tả đây và cố gắng phô diễn nó. Họ t́m kiếm một cách lấy sự điều ḥa trong âm điệu bất ḥa. Tôi tưởng điều nầy không thể có được ở tại cơi Trần, và xin thú thật tôi không thích sự biểu diễn những khúc nhạc lạ lùng của thời đại chúng ta và v́ vậy chắc chắn tôi không hiểu được chúng nó. Tác giả những bản nhạc lạ lùng nầy t́m những hiệu quả mà phần đối chiếu của chúng nó trên cơi Trung Giới và Thượng Giới là sự điều ḥa chớ không phải là những âm điệu bất ḥa. Ở dưới Trần nầy họ chỉ thâu nhận được sự không điều ḥa. Tôi tưởng rằng những người thưởng thức những khúc nhạc nầy tập thực hiện trong những thể cao của họ những hiệu quả mong muốn; thế nên họ rất thích nghe những tiếng dị kỳ và đụng chạm nhau.

            Nhiều sự biểu hiện kỳ lạ của nghệ thuật hiện đại, chẳng những trong âm nhạc mà c̣n hội họa nữa, chắc chắn nhắm vào tương lai và sinh sản những hiệu quả mà con mắt chúng ta, lỗ tai chúng ta không thể nhận biết được. Cái mà chúng ta có thể nghe được, thấy được th́ thường xấu tệ, nhưng tôi vẫn tin rằng mục đích của các Nghệ Sĩ đang nhắm sẽ tŕnh bày những sự tốt đẹp khi mà những ư muốn của họ được thực hiện. Người ta muốn sự điều ḥa có một hiệu quả vừa đủ ở mỗi cơi và tại cơi Trần Thế nầy th́ công việc được tốt đẹp đối với những người dù không biết trạng thái cao siêu của vấn đề ra sao.

            Nhiều người quả quyết với tôi rằng những khúc nhạc khác nhau cho họ một ấn tượng đồng nhất. Nhiều người trong chúng ta cảm thấy một sự vui mơ hồ khi nghe âm nhạc nhưng họ không hiểu chi cả. Đối với những kẻ khác, khúc nhạc nào đó chẳng những làm êm tai mà nó c̣n là ngôn ngữ đúng đắn như ngôn ngữ của một diễn giả, ấy là một h́nh dạng rơ ràng có thể thấy được và thưởng thức được. Tôi có nghe những Đại Nhạc sĩ  đàm luận với nhau. Tôi hiểu rằng h́nh tư tưởng mà một Nhạc Sĩ dùng để viết một trang nhạc nào đó có thể truyền qua một người khác. Tôi có ghi vào sổ một trường hợp như thể ở Ư Đại Lợi hồi tôi c̣n ở đó cách đây vài năm. Một người phổ nhạc viết một bài nhạc để tŕnh bày một suối nước ở trong một cái vườn có ba cái hồ nước chồng chất cái nầy trên cái kia, h́nh tư tưởng nầy đă hiện diện trong lúc Y làm việc. Tôi biết h́nh tư tưởng nầy truyền sang qua trí của một người nhạc sĩ khác. Huynh nầy không hề thấy cái suối, cái vườn ra sao, Y cũng không ngờ khúc nhạc tượng trưng cái ǵ. Nhưng khi trổi khúc nhạc th́ h́nh tư tưởng hiện ra cho Y, nên Y nhận biết những phần liên quan với những hồ của cái suối và luôn cả phần trạng tả cái vườn. Tôi có biết vài thứ tương ứng, nhưng cần phải cắt nghĩa cho tôi biết, h́nh của chúng nó mới hiện ra cho tôi thấy. Đó là một sự phát triển cao siêu của khiếu âm nhạc. Khi chúng ta đi tới điểm chúng ta có thể biết được ư định của một bản nhạc như thế, âm nhạc sẽ có giá trị, nhưng phần đông những người trong chúng ta chưa biết được điều nầy. Đối với một bức tranh, một bức họa cũng thế. Điều mà người nầy thấy, không phải là điều mà người kia đă khám phá ra. Có những kẻ giống như người ở trong bài thơ của Wordsworth:

            Cây Anh Thảo ( Prinevère ) vàng mọc trên mé rạch đối với Y th́ là một cây Anh Thảo vàng mà thôi, không có chi khác lạ.

            Nhưng đối với một nhà Thi Sĩ, cây Anh Thảo làm nảy sinh trong tâm trí một loạt tư tưởng tốt đẹp vô cùng. Hoạch đắc được hoàn toàn năng lực nầy, chúng ta có thể dùng những tượng trưng để tưởng nghĩ. Đó là việc của Chơn Nhơn làm ở trong Thượng Trí. Ngài dùng những tượng trưng để tưởng nghĩ chớ không phải những chuyện cụ thể. Không có chi ngờ vực, đây là một trong những cách mở mang những quyền năng, mặc dù nó vẫn khác hơn nhiều những cách thường dùng. Những sự biểu lộ mỹ thuật, nghệ thuật mới mẻ như những bức tranh của những Phái Vị Lai (Futuriste) [106] và của những Phái Lập Phương (Cubistes), người ta không hề thấy ở trên Trời hay ở dưới đất những điều giống như vậy. Chúng đang ở vào giai đoạn chuyển tiếp, ấy là công việc làm mới có phân nửa. Luôn luôn người ta nói không nên để cho trẻ em thấy một việc làm chưa hoàn thành. Về phương diện nầy phần đông trong chúng ta là những đứa trẻ con. Chúng ta không học những công việc c̣n khuyết điểm, chưa hoàn toàn, nhưng có lẽ sự thành công của chúng sẽ lớn lao khi chúng được hoàn tất. Tiếng hát của Sự Sống không phải làm ra có một phần mà thôi; nó là trọn một giàn nhạc. Ấy là một sự tập hợp vĩ đại của những khúc điệu du dương và có lẽ những người có nhiệt tâm với nghệ thuật mới đi lên tới một sự biểu hiện mà chúng ta không thấy được.

            Khi Đức Chưởng Giáo [107] lâm phàm có thể xảy ra những việc thay đổi lớn lao trong những thuật tạo h́nh (arts plastiques), cũng như trong Tôn Giáo những sự cải cách xă hội và chính trị. Thường thường chúng ta xem Ngài như là một vị Giáo Chủ. Tôi tưởng chúng ta không nên giới hạn những tư tưởng của chúng ta, bởi v́ ngoài Đạo Giáo, sự tiến hóa của con người tiếp tục theo nhiều đường lối khác nhau. Tôi không muốn nói rằng Giáo Lư Đạo Đức không nên thấm nhuần trọn kiếp sống của chúng ta; chắc chắn phải thấm nhuần, nhưng Tôn Giáo cũng có thể tự biểu hiện dưới nhiều trạng thái khác nhau. Có thể Đức Chưởng Giáo dạy chúng ta làm những việc nầy và Ngài cũng Linh Cảm chẳng những vị Giáo sĩ mà lại c̣n các nhà: Thi Sĩ, Mỹ Thuật, Điêu Khắc, Nhạc Sĩ và Bác Học nữa. Khi Tôn Giáo được tŕnh bày một cách tân thời thích ứng với tŕnh độ tiến hóa của Nhân Loại hiện tại, rất có thể sự tuyên bố mới mẻ nầy truyền qua cho tất cả một sự phấn khởi phi thường. Thông điệp của Đức Chưởng Giáo về tất cả những phương diện làm cho chúng ta càng ngày càng hiểu rành rẽ Tiếng hát của Sự Sống. Nó tiết lộ cho chúng ta càng ngày càng nhiều sự vinh quang, sự đẹp đẽ, sự điều ḥa và trật tự ẩn khuất bên trong.

            Điều cần thiết là thật hiểu trật tự. Hiện giờ chúng ta đang trải qua một giai đoạn Chế Độ Dân Chủ; trong những t́nh trạng nầy, sự rối loạn h́nh như phát hiện ra đến cực điểm không thể tránh được. Hơn nữa, vài người tự hào đă góp phần vào sự rối loạn. Họ quả quyết rằng mỗi người phải theo con đường riêng biệt của ḿnh, c̣n số phận đồng loại của họ th́ mặc kệ, không quan hệ ǵ. Vậy, nếu cần thiết cho con người tập tự ḿnh điều khiển ḿnh th́ sau khi thực hành điều nầy rồi, cũng cần thiết cho con người tập luyện ư chí của ḿnh phục tùng Ư Chí Thượng Đế. Khi đạt được quyền năng hành động, nói năng và đứng vững, nó phải tập sử dụng chúng nó vào mục tiêu chính đáng. Phải có một ư chí và để nó phục tùng Ư Chí Thượng Đế. Người không ư chí có một đời sống rất dễ dàng, bởi v́ Y không lo lắng cái chi cả và cứ phú cho Trời. Những người có ư chí đôi khi lại dùng ư chí ḿnh chống lại Ư Chí Thượng Đế và h́nh như điều nầy có lợi cho sự tiến hóa của họ; họ có sức làm quấy nhưng chẳng bao lâu họ trở về với luật pháp, bởi v́ những kẻ không tốt mà cũng không xấu h́nh như không thể làm những việc rất hữu ích và cũng không đi xa được.

            Tuân theo Ư Chí của Thượng Đế là lắng nghe theo Tiếng hát của Sự Sống; chúng ta càng chăm chỉ, chúng ta càng nhận biết nó. Ở mỗi tŕnh độ, kế tiếp nhau, lần lượt, đối với chúng ta nó càng phong phú, càng vĩ đại hơn. Trong sách đă nói, ngay bây giờ, chúng ta có thể có một quan niệm mơ hồ về nó, chúng ta có thể thấy nó như một phản ảnh lờ mờ của một ánh sáng rực rỡ, huy hoàng toàn diện, bởi v́ Tiếng hát của Sự Sống ở trong ḿnh ta, nếu ta t́m kiếm nó khá sâu xa, ta sẽ gặp nó. Trong ḿnh ta vẫn có Tinh Thần của Thượng Đế, hay là Linh Khí. Nhưng bởi nó bị bản tánh con người che lấp, khúc điệu du dương không thể làm thủng dễ dàng nên điểm Linh Quang chỉ chiếu ra lờ mờ. Tuy nhiên khúc điệu du dương vẫn vang dội tại đó, đốm lửa (Điểm Linh Quang) [108] không ĺa khỏi chúng ta, như chúng ta đă tưởng, nó luôn luôn là một thành phần của Ngọn Lửa Trời toàn vẹn và bổn phận của chúng ta phải biến đổi bản ngă thấp hèn thành ra một ngọn đèn chiếu sáng.

            Luôn luôn trong ḿnh chúng ta có một sự biểu hiện Thiêng Liêng, việc nó kết liên với vật chất cũng không thể làm ô uế nó và che lấp nó được. Nếu ta có thể đồng hóa với nó th́ vật chất không c̣n quyền lực nào đối với chúng ta nữa; nhưng muốn đạt được kết quả nầy trọn vẹn cần phải đi đến một tŕnh độ rất cao siêu, có lẽ cao hơn Bậc Siêu Phàm. Sự biểu hiện nầy luôn luôn vẫn có, nó hoàn toàn trong sạch, c̣n nguyên vẹn không c̣n bị mây mù che khuất. Nếu chúng ta tự đồng hóa với nó, dù là một chút ít thôi và cảm biết rằng Bản Ngă của chúng ta tức là "Nó đó" th́ luôn luôn chúng ta sẽ nghe được Tiếng Hát của Sự Sống. Dù cho bị sự hỗn loạn và những sự chiến đấu ở dưới mấy cơi thấp bao vây chúng ta, tiếng hát nầy vẫn luôn luôn vang dội trong chúng ta. Chúng ta thực hành bổn phận của chúng ta ở ngoài đời một cách b́nh tĩnh, bất biến, chúng ta không muốn ǵ hơn nữa, v́ biết rằng sự thật duy nhất xứng đáng với danh từ nầy vốn ở trong ḿnh chúng ta và tất cả những cái chi c̣n lại chỉ là sự biểu hiện tạm thời thôi. Thường thường khi chúng ta vừa đụng tới Tâm Thức cao siêu của chúng ta hay là Tâm Thức của Chơn Sư th́ chúng ta bắt đầu nghe được khúc nhạc du dương nầy, nó cho chúng ta sự cảm biết Sự Sống bên trong, sự vui vẻ, niềm hạnh phúc; chúng ta đă chinh phục được, chúng ta là kẻ chiến thắng trong trận Đại Chiến.

            Chú giải của Đức Chơn Sư tiếp tục như sau đây:

            Kẻ nào chọn con đường quấy th́ không chịu nh́n lại bản tâm mà che tai không nghe âm điệu du dương của tâm hồn, cũng như bịt mắt để không nh́n ánh sáng của Linh Hồn. Họ làm như thế v́ cho rằng sống theo dục vọng dễ dàng hơn. Nhưng bên trong mọi Sự Sống, có một ḍng nước mănh liệt chảy qua không thể nào ngăn cản được; nguồn nước vĩ đại vốn ở nơi đó. Hăy t́m nó, con sẽ thấy tất cả đều là phần tử của nó, tất cả, cho tới một sinh vật hết sức khốn cùng, tồi tệ, dù cho nó khư khư không chịu nh́n thấy điều nầy và mang lớp quỉ ma gớm ghiếc.

            Nếu con người chọn đường quấy, ấy tại họ không chịu nh́n lại nội tâm; không phải họ tự ư chọn lựa đường quấy mà tại họ không hề tự rút lui vào trong thâm tâm. Họ tưởng rằng họ là Cái Vía, họ để tất cả những sự ham muốn trong đời sống của họ và họ theo con đường thấp thỏi đặng thỏa măn chúng nó. Họ không muốn nh́n ngay những thực tế của đời sống, bởi vậy họ là một chướng ngại trong trào lưu tiến hóa. Thường thường họ nhất quyết quay đầu về chỗ khác rất lâu sau lúc họ có thể bước qua đời sống cao siêu. Họ thấy rất khó chịu mà tự biết rằng đă lâu rồi họ theo đuổi con đường quấy, họ phải trở bước lại, họ phải đương đầu với những việc làm cực nhọc, khó khăn, buồn bă v́ lẽ họ là tác giả của một sự kích thích hướng về con đường quấy. Có biết bao nhiêu người ở trong trạng thái nầy, mới xem qua thấy không có chi là nặng nề lắm; nhưng nếu một người có những đặc điểm nầy mà ở vào vị trí có thể làm được nhiều điều phải hay là nhiều điều quấy, về phương diện tiến hóa huyền bí y sẽ gặp ngay những sự nguy hiểm hết sức lớn lao.

            Những đoạn văn như những đoạn văn trên đây thường khêu gợi tư tưởng của chúng ta về một người luyện tập Đại Qui Mô của Phái Bàng Môn Tả Đạo, nhưng trong sách nói đúng khi điều đó là chuyện nhỏ nhặt hơn. Người mà không nh́n nhận những sự vật có nguy cơ bị lôi cuốn vào con đường dễ dàng nhưng nguy hiểm hơn. Họ thích cái ǵ dễ dàng, thay v́ cái ǵ tốt đẹp. Chúng ta phải tự thấy cho thật đúng chúng ta là như thế nào. Người nào nhứt định không làm cái chi về việc nầy chắc chắn là có những lư do để sợ rằng, nếu Y tự đối diện với Y th́ không có chút chi vui cả. Người ta cũng có thể bị lầm lạc trong việc làm trái ngược lại. Rơi vào trạng thái tự xét ḿnh một cách rối trí, mất Tinh Thần, quả thật có những hậu quả rất tai hại,[109] chúng tôi đă chỉ điều đó trong khi học quyển Dưới Chơn Thầy. Những người nhổ gốc rễ lên đặng xem chúng nó có tốt không, chẳng tiến bộ được. Điểm quan trọng là tin chắc rằng chúng ta đă quay về hướng tốt đẹp và huynh cố gắng làm lành rồi huynh bền ḷng tiến tới một các b́nh tĩnh và làm hết sức ḿnh. Đừng lo sợ cho "sự tiến hóa của huynh." Chắc chắn huynh tiến bộ, nhưng mà những sự tiến bộ tốt hơn hết là khi huynh đừng tưởng tới chúng nó và khi thực hành một công việc hữu ích và tốt đẹp cho đời th́ huynh hăy hoàn toàn quên ḿnh đi. Những sự tiến bộ mà tôi đạt được trong bốn mươi lăm năm nay vốn nhờ một lư do duy nhất và tuyệt đối là tôi chấp nhận tất cả những công việc đưa đến cho tôi mà không hề lo lắng chi hết về sự tiến bộ riêng của tôi. Một sự thật khác hẳn nữa: Người không nh́n nhận Điểm Linh Quang trong người ḿnh, chuẩn bị mang một h́nh dáng gớm ghiếc. Nếu khó cho chúng ta giúp đỡ họ là tại ở dưới Trần Thế nầy chúng ta gặp một h́nh dáng gớm ghiếc chớ không phải Linh Hồn ở trong h́nh dáng nầy, nhưng phải rán hiểu rằng Linh Hồn vốn có mặt trong h́nh dáng. Tôi tưởng đă nói với huynh rằng trước kia tôi có thâu thập được một sự kinh nghiệm trong Giáo Đường với tư cách là một người phụ tá ngoại đạo c̣n trẻ tuổi, khi đó ở trong khu phố hết sức tồi tệ ở Anh Quốc. Trong kinh nghiệm của tôi, tôi gặp những người đê tiện và vô liêm sĩ nhất, không c̣n ai hơn họ nữa. Họ không hề tưởng tới một đời sống vinh dự; đối với họ sống là trộm cắp hay là làm những việc phạm pháp; những tư tưởng của họ không đi xa hơn mấy điều đó. Những người sống dư dă đă không bao giờ biết được đời sống của những người thật nghèo khổ tại Luân Đôn (Londres). Tôi biết năm gia đ́nh ở chung một căn nhà, mỗi gia đ́nh chiếm một góc và một gia đ́nh ở chính giữa cũng như ở trong một chuồng heo, họ cũng khá thỏa thuận với nhau cho tới một ngày kia gia đ́nh ở chính giữa cho một người tới ở trọ rồi họ đánh nhau.

            Trong những xứ c̣n trẻ trung, không có cái chi giống như những pḥng dơ bẩn gọi là ổ chuột ở tại Anh Quốc. Giống dân nào cũng chứa đựng những người tiến hóa nhiều hay tiến hóa ít, nhưng mà ở đây (Anh Quốc) những t́nh trạng đến mức tột độ gặp gỡ nhau, bởi v́ luôn luôn chúng ta không hoàn thành những quyền năng và trách nhiệm của chúng ta. Trong vài trường hợp, chúng ta đă tàn sát những dân tộc dă man, chúng ta giết họ như hạ những mănh thú, chúng ta gởi binh đi chinh phục họ giống như một cuộc đi săn. Thường thường những người bị ngược đăi như thế đầu thai vào đời sống của chúng ta. Chính họ là những người ở trong những ổ chuột đó. Về h́nh thể, họ được một sự ưu đăi là thuộc về một giống dân có một tŕnh độ cao, nhưng thường thường họ không lợi dụng được chi cả, việc nầy kéo dài rất lâu, nhất là khi hoàn cảnh đáng tội nghiệp, đáng xót thương của họ vẫn c̣n như thế.

            Khi những người sống trong những điều kiện như vậy, làm sao bảo họ có một tŕnh độ luân lư và nhân từ cao thượng được. Những người xấu số nầy, tổ tiên của họ là những người phạm các trọng tội, họ sống trong những điều kiện gớm ghiếc như tôi mới miêu tả, dù sao cũng có trong người họ một đốm nhỏ của vài điều tốt đẹp như là tỏ ra một chút t́nh thương người láng giềng đau ốm, một trẻ con hay là một con chó. Tôi nhớ một người hết sức thấp kém: Tôi tưởng trong người Y không có một ảnh hưởng nhân từ nhỏ nhen nào, ngoại trừ Y rất thương con chó của Y và chia sớt cho nó miếng bánh ḿ chót của Y. Trong những người nầy đều có Điểm Linh Quang, nó sẽ hiện ra trong lúc mà người ta không chút chờ đợi nó. Huynh biết rằng Điểm Linh Quang vẫn luôn luôn hiện diện và việc làm của huynh ảnh hưởng đến nó. Huynh không t́m được một dấu vết nhỏ mọn nào của nó ư? Huynh hăy tin chắc nó không vắng mặt đâu. Nếu chúng ta cố gắng đừng khi nào quên rằng sự vinh quang bị h́nh hài của con người che lấp, phải nh́n nhận rằng h́nh dáng bên ngoài, hiện giờ thật xấu xa. Phải giúp cho Điểm Linh Quang hiện ra, mặc dù trong vài trường hợp chúng ta mới vừa tới gần nó. Nhưng không phải mọi người đều biết được cách. Chúng ta gặp những người rất khó giúp đỡ, chúng ta hăy thử, chúng ta cứ  làm hết sức chúng ta. Có lẽ Kạt-Ma (Karma) của họ ngăn cản điều nầy; cũng có lẽ Karma của chúng ta không cho chúng ta có đủ sức để t́m được cách giúp đỡ như trong trường hợp đặc biệt nào đó. Trong những vấn đề nầy, luôn luôn chúng ta hăy nhớ đến sự quan trọng của Lẽ Phải, chúng ta đừng để thành ra bất lực hay là ngă ḷng rủn chí hoặc để một thứ đa cảm nào ngăn cản chúng ta không cho chúng ta nh́n nhận những sự việc quả là hiển nhiên minh bạch. Người ta thường nói: "Từ cao thượng đến câu chuyện buồn cười, lố lăng chỉ có một bước thôi." Đôi lúc, khi đi quá xa hay là phóng đại cái chi cao thượng và tốt đẹp, người ta làm nó hóa ra buồn cười. Giáo Lư và những sự hoạt động Thông Thiên Học đă đưa nhiều thí dụ và nhiều trường hợp.

            Sự Sống Thiêng Liêng ở trong chúng ta và có thể sự biểu hiện của nó yếu đuối và lu mờ, phải để ư đến điều nầy. Tại Cơi Trần, về đời sống xă hội, vài luật lệ rất cần thiết cho những người vi phạm chúng nó và họ trở thành những người thường phạm pháp; vậy cần phải áp dụng một cách đối xử hữu ích cho họ và luôn cho xă hội nữa. Tôi biết có nhiều người tưởng nghĩ quá xa về ánh sáng nội tâm nên trách cứ sự câu thúc những tội nhân nầy. Theo ư tôi, đó là một sự khờ dại, là tự nạp ḿnh cho kẻ sát nhân. Đời sống, trật tự và sự tiến bộ trở thành vô ích đối với cả triệu người xứng đáng được hưởng những trường hợp tốt đẹp và họ cần thiết cho sự tiến bộ của Nhân Loại nhiều hơn là kẻ phạm trọng tội. Không nên làm hại họ, phải đối xử với họ như một trường hợp Y Học. Phải thấy họ là một người bệnh nhân hơn là một người bất chánh, tà tâm, bởi v́ kẻ phạm đại tội thường lệ là trí óc họ chưa đầy đủ. Về vài phương diện họ nhận thấy khá lắm, c̣n những phương diện khác, họ rất kém sút, c̣n thấp thỏi. Họ không thể hiểu sự cần thiết của tánh vị tha, sự hợp quần và sự phù trợ nhau, nếu không vậy họ đâu thành người thường phạm đại tội. Độc giả những quyển sách của Giáo Sư Lombroso sẽ nhớ rằng sau một loạt thí nghiệm rất dài, ông kết luận rằng ở những người thường phạm đại tội do cái óc họ chưa mở mang đầy đủ, mặc dù họ khéo léo; cái óc của họ nhất định nhẹ hơn óc của một người thường và nhiều phần tử trong óc chưa hoạt động.

            Hành phạt người phạm trọng tội v́ muốn trả thù, chắc chắn không phải thật là cách xem xét vấn đề. Đối với tôi h́nh như điều đó không xứng đáng với một dân tộc văn minh. Phải ngăn cản những sự công kích của những hạng người hung ác phạm trọng tội, bởi họ gồm những người và những anh em, thật vậy, những anh em c̣n trẻ hơn chúng ta nhiều lắm, chúng ta nên cố gắng trong khi đảm nhận sự bảo vệ họ phải giúp đỡ, giáo dục họ, thay v́ trả thù. Người ta nói rằng một thí dụ khủng khiếp, ghê gớm có thể ngăn chận được những tội trọng khác. Đó là gây tội lỗi hầu có sự tốt lành. Lịch sử chứng minh rằng tuân theo nguyên tắc nầy không thể thâu thập được việc tốt lành.

            Tất cả những thứ kinh sợ, hăi hùng nầy là những ảo tưởng, trong sự thực tế Thiêng Liêng, chúng nó không có sự sống nào cả. Những người Trung Hoa nói: "Sự dữ chỉ là một bóng dày đặc của sự lành." Trong Cơi đời nầy, chúng ta là tác giả của phần nhiều những sự đau khổ của chúng ta, bởi v́ chúng ta không hành động đúng nhịp điều ḥa với Luật Trời, hoặc trong một kiếp nầy, hoặc trong những kiếp trước. Nếu tất cả chúng ta có thể tuân theo Thiên Luật th́ sự đau khổ sẽ bị tiêu diệt. Điều cần thiết là chúng ta phải đi đến một tŕnh độ nào đó của Tự Do Ư Chí hầu tập cách sử dụng nó. Nhưng chúng ta thường dùng Tự Do Ư Chí của chúng ta để làm điều quấy cũng như làm điều phải; v́ thế điều mà người ta gọi là đau khổ nhập vào Cơi Trần nầy. Nhưng nó chỉ là một sự xáo trộn trên mặt; phía dưới, trong những chỗ thâm sâu, Sự Sống Thiêng Liêng vẫn lưu hành cuồn cuộn và sự tiến hóa do Đức Thái Dương Thượng Đế sắp đặt sẵn để giúp chúng ta cứ tiếp tục. Những thực tế bất biến của đời sống, chúng ở đàng khác. C̣n sự biểu lộ của sự quấy vốn nông cạn, mặc dù đối với chúng ta h́nh như chúng nó có một thế lực ghê gớm và một sức mạnh kinh hồn; so sánh phần c̣n lại, chúng nó không có chi là hùng cường cả. Không có cái chi của những điều ta thấy, động đến ḍng nước lớn được. Do một cách mầu nhiệm, như câu thơ của Southey nói rất đúng: "Những kẻ hung ác thực hiện một cách mù quáng công b́nh của Thiên Ư."

            Chính trong ư nghĩa đó mà Ta nói với con: Tất cả chúng sinh mà con đang chiến đấu đều là những Điểm Linh Quang của Thượng Đế. Ảo ảnh mà trong đó con đang sống quá giả dối, cho đến đỗi con khó dự đoán được phải bắt đầu từ chỗ nào để nghe được tiếng nói dịu dàng trong tâm của kẻ khác. Nhưng hăy biết nó vốn ở ngay trong tâm con. Con hăy kiếm nó trong tâm con và một khi con đă nghe được nó, con sẽ nhận biết nó dễ dàng ở xung quanh con.

            Nếu có thể xem xét vạn vật theo quan điểm của Chơn Nhơn trong Thượng Trí và c̣n hơn nữa khi chúng ta đi tới Cơi kế đó là Cơi Bồ Đề, cái ư nghĩa thật của điều đó sẽ hiện ra cho chúng ta thấy. Điều mà chúng ta sẽ thấy không phải là phần nhỏ của trạng thái thấp kém, nhưng chúng là toàn thể. Những sự rộng lớn sẽ tự biểu lộ ra và chúng ta sẽ nhận thấy sự quấy thật ra không có chi là quan trọng cả. "Sự quấy không có ǵ hết, sự quấy vốn trống không, ấy là sự im lặng bao hàm âm thanh." Khi Browning viết mấy câu nầy có lẽ ông không ngờ rằng đó là Chân Lư, nó đúng tới mức nào. Ở đàng sau, ở ngoài xa và ở phía dưới của tất cả sự quấy, triều lưu tiến hóa cứ tiếp tục vận hành; chúng ta chỉ tin chắc điều nầy. Tiếng hát của Sự Sống vốn nghe được, nếu chúng ta kiếm nó một cách khá thâm sâu. Như xưa kia Đức Phật đă nói: "Hồn của Tạo Vật vốn dịu hiền và Tâm của con người là chỗ an nghỉ đời đời."

            Muốn gặp con đường dắt đến Thượng Đế chúng ta phải nuôi một đốm lửa cho đến khi nó thành ra một ngọn lửa rồi nó sẽ đốt những vách do cá nhân dựng lên; nó diệt những vách nầy, nhưng chúng ta không mất khí lực và sự đúng đắn đă thâu hoạch được trong lúc xây dựng chúng nó và sử dụng chúng nó. Một ngày kia, nhờ sức lực của nó được gia tăng, nó sẽ hành động không phải như một đốm lửa mà như một ngôi Mặt Trời tỏa ra sự sống và ánh sáng xuyên qua khoảng không gian bao la bát ngát của Thái Dương Hệ và tới chừng đó, thật sự, con người sẽ giống như Thượng Đế.

            Bây giờ chúng ta hăy xem qua giảng lư của Đức Đế Quân thêm vô cho qui tắc 5:

            Sự Sống có tài nói năng và không bao giờ im lặng. Và lời nói của nó không phải là một tiếng la hét. Bởi v́ con không nghe được, nên đă tưởng như vậy. Nó là một bản nhạc. Hăy học với Sự Sống để biết rằng con là một phần tử của sự điều ḥa. Hăy học với nó để tuân theo Luật Điều Ḥa.

            Ở Trần Thế, nghĩa là trên mặt, có không biết bao nhiêu sự lầm lẫn, hỗn độn, biết bao nhiêu nước mắt, tham lam, sự gạt gẫm, sự thù hiềm và người ta tưởng rằng nếu họ đi tới Tâm của Thiên Nhiên sẽ nghe được tại đó một tiếng kêu khốn khổ, một tiếng kêu đau thương, nhưng không phải như vậy. Không phải người ta có thể nghe một tiếng kêu la, mà người ta nghe một tiếng hát. Mặc dù những bọt nổi lên mặt nước, mặc dù con mắt phàm của ta thấy tại cơi Trần tất cả những ḍng nước và những xoáy nước, triều lưu mạnh mẽ cứ tiến tới măi; mà chỉ cái đó mới đáng kể và mới quan trọng.

            Một tiếng yêu cầu sự nghỉ ngơi và sự an tịnh, đó thường là những điều ta có thể nghe được tại Cơi Trần. Khi đi lên những Cơi cao siêu, chúng ta khám phá ra rằng nguồn cội của Sự Sống vốn ở trong người ta. Không yêu cầu sự an tịnh, một khúc ca khải hoàn vinh diệu trổi lên và không ngớt đi đến hướng mà Đức Thượng Đế đă vạch sẵn cho nó. Tiếng hát nầy có thể dạy Huynh được, cũng như đă nói ở đây: Huynh là một thành phần của sự điều ḥa và Huynh có thể nhờ tiếng hát mà học tập cách tuân theo những Luật Điều Ḥa. Tất cả Vũ Trụ kỳ diệu và vinh quang nầy là sự biểu lộ Thiên Ư, nó vận hành không ngừng nghỉ như ư muốn của Thượng Đế. Muốn biểu hiện được điều ấy, chúng ta phải lănh một phần khéo léo trong sự vận hành nầy và t́m xem Thượng Đế chỉ định cho ta công việc nào, rồi thực hành nó cho trọn vẹn.

            Không có mà cũng không bao giờ có một sự khó khăn nào trong sự hiểu biết công việc nầy, bởi v́ từ đời thái cổ mà ta có thể hồi tưởng lại, điều đó quả thật là những điều mà luôn luôn Tôn Giáo đă dạy liên quan đến những hành động của con người. Có bao nhiêu Tôn Giáo, có bao nhiêu danh từ khác nhau đặt cho những sự vật, nhưng các Tôn Giáo đều đồng ư về việc mà bổn phận con người phải làm. Đó là điều quan trọng và rất lạ là người ta không công nhận điều nầy và không để ư đến. Tất cả đều công nhận rằng người có đức hạnh là người quảng đại, hào hiệp, vô tư lợi, làm ơn, làm phước; thay v́ hiếp đáp kẻ khác, lại cố gắng tới giúp đỡ họ, tùy phương tiện; ấy là những người nhân từ đối với kẻ nghèo, nuôi dưỡng kẻ đói, cho nước uống những kẻ khát, cho quần áo những kẻ thiếu y phục, tới thăm viếng những người đau ốm và những tội nhân. Theo lời Đấng Christ nói: "Số phận con người tùy thuộc những hành động nầy" (Saint Matthieu XXV - 35 - 40). Trong Phật Giáo, Tôn Giáo chót do Đức Phật Cồ Đàm (Gautama Bouddha) là Đức Chưởng Giáo tiền nhiệm tạo ra, huynh thấy cũng đức tánh kể ra trên đây đem truyền dạy cho các Tín Đồ phải tuân theo. Riêng Đức Chưởng Giáo hiện nay lâm phàm lấy xác Shri Krishna Ngài cũng truyền bá Giáo Lư nầy. Những biến thể mà người ta thấy trong vài h́nh dạng bên ngoài và trong vài danh từ, thật không quan trọng lắm, Giáo Lư không hề thay đổi. Nhưng dù cho con người luôn luôn nghe nói và biết được Thiên Ư, cũng thật khó mà bảo họ tuân theo.

            Trong sách vở, người ta nói rất nhiều về đời sống giản dị. Nhưng tôi tưởng, không đời sống nào giản dị hơn đời sống của những vị ẩn tu (ermites)  thuở xưa. Tại Ấn Độ hiện giờ vẫn c̣n những người sống ẩn dật trong các rừng sâu, không có tài sản chi cả và cứ chuyên tâm sống một đời cao thượng. Tôi thường biết về điều nầy, họ không được khá đâu. Những người được xem như là sống một đời cao thượng, thật sự không đủ sức sống hoàn toàn như thế, họ không đạt tới một tŕnh độ khá cao, trọn đời cứ lo tham thiền nhập định. Đă có những vị Dô-ghi (Yogi) làm cho người ta chỉ trích Dô-ga (Yoga) và có những vị ẩn tu làm ô danh Tôn Giáo của họ. Nhưng, thật đúng ra, đời sống cao thượng hơn hết, giản dị hơn hết là đời sống đă được thực hiện đầy đủ, ấy là đời sống trọn vẹn trên mấy Cơi cao siêu.

            Đời sống nầy không thích hợp với tất cả, phần đông chúng ta theo con đường Kạt-Ma Dô-Ga (Karma Yoga) hay là làm việc cho nhân loại tại Cơi Trần. Người nào lánh Trần, sống ẩn dật cần phải làm việc cho nhân loại với sự quyết định và nghị lực nhiều hơn, nhưng phải ở trên cơi cao. Nếu họ vào rừng sâu hay động vắng để tham thiền không phải chỉ là họ trốn đời và để cứu rỗi dễ dàng Linh Hồn họ. Họ ẩn đạt bởi v́ họ là một Linh Hồn đă được cứu rỗi, chiếu sáng rực rỡ, tốt phước, mạnh mẽ, và trở thành một năng lực tinh thần. Họ biết họ có thể làm việc rất dễ dàng trên những cơi cao siêu hơn là ở trong một thành thị chịu ảnh hưởng của thế tục.

            Có nhiều người lánh ḿnh vào rừng sâu chỉ v́ muốn trốn tránh những trách nhiệm và những sự khó khăn của họ trong đời sống xă hội. Nhưng người nào đă qua khỏi giai đoạn của những nhiệm vụ nầy sẽ thấy ḿnh đă được giải thoát lần lần; con đường đă mở ra cho họ, họ có thể thử sống một đời cao thượng như là đời sống của một người Tu Sĩ Sannyasi,[110] hay là một Tăng Lữ. Trong giai đoạn hiện tại của lịch sử Thế Giới, đời sống Tu Sĩ h́nh như không được nói tới nhiều. Có biết bao nhiêu chuyện phải làm ở Cơi Trần, ít ra chúng ta cũng phải thực hành cho tṛn tất cả những bổn phận của chúng ta, trước khi xét rằng chúng ta được rảnh rang lánh ḿnh và giao công việc cho kẻ khác. Có lẽ khi Đức Chưởng Giáo lâm phàm, Ngài sẽ chọn lựa những người phải làm việc cách nầy hay cách kia, có lẽ trong đám thanh niên có vài người được chỉ định sống một đời Tu Sĩ. Chúng tôi không hiểu chi về việc nầy cả, nhưng chắc chắn rằng tại cơi Trần Ngài sẽ cần dùng rất nhiều người phụ tá dễ thương, thích hoạt động và có ḷng nhiệt thành. Bây giờ chúng ta hăy làm việc nầy v́ nó đưa đến cho chúng ta. Khi Ngài lâm phàm, th́ tùy Ngài, nếu Ngài để riêng ra vài người giao phó một công việc cao siêu th́ Ngài sẽ giúp cho chúng ta có phương tiện hoàn thành công việc ấy. Hiện nay chúng ta phải lo hoàn thành công việc ngay bây giờ của chúng ta với tất cả sức lực của chúng ta như là một công việc hiến dâng cho Đấng Chí Tôn, Đức Thượng Đế, chớ không phải cho con người.

            6.- Hăy ghi vào kư ức khúc điệu du dương con đă nghe được.

            Trong khi con là một con người, chỉ có những đoạn của đại khúc ḥa tấu có thể lọt vào tai con mà thôi. Nhưng nếu con đă nghe được, con hăy ghi nhớ kỹ, đừng mất một đoạn nào và gắng sức học hỏi để biết ư nghĩa của sự huyền bí bao bọc chung quanh con. Với thời gian con không cần một Huấn Sư nào nữa. Bởi v́ mỗi cá nhân có một tiếng nói, một tiếng mà do đó nó mới hiện tồn.

            Khi lắng tai, có lúc Huynh nghe được tiếng hát rất lớn, hăy nhớ kỹ nó. Đừng quên điều ǵ Huynh đă nghe được. Tất cả cái ǵ Huynh nhận biết, đừng để bị phai mờ; vậy khi Huynh ráp lại những đoạn của tiếng hát vang lừng nầy, lần lượt Huynh có thể khám phá được ư nghĩa của sự huyền bí đang bao bọc Huynh.

            Sự sống vẫn là một sự huyền bí đối với những người không thấy nó như là một Toàn thể duy nhất, và không một người nào trong chúng ta thấy nó trọn vẹn trước khi nhập Một với Đức Thái Dương Thượng Đế, và Sự Sống nầy chỉ là một biểu lộ của Ngài mà thôi. Chỉ có một ḿnh Ngài mới thấy nó trọn vẹn. Chúng ta là những phần tử hết sức nhỏ nhít của TâmThức Ngài (tôi biết, tôi nói đây không phải với những danh từ triết học mà lời nầy thích ứng với sự vật hơn mấy danh từ khác). Chúng ta có thể đồng hóa ít hay nhiều với Đại Tâm Thức nầy; chúng ta càng gần nó, chúng ta càng thấy, sẽ càng nhận thức được Tiếng hát của Sự Sống. Mỗi người trong chúng ta gắng sức nghe nó, gắng sức ráp lại những đoạn văn mà chúng ta đă ghi chú ở chỗ nầy hay chỗ kia.

            Toàn thể Thiên Nhiên chắc chắn là đơn giản, những lực đơn giản không có nhiều lắm, trong những điều kiện thay đổi, cũng đủ để giải thích tất cả những ǵ đang bao quanh chúng ta. Nhưng chúng ta chưa đi đến điểm mà chúng ta có thể nhận biết một cách đúng đắn bản tánh của những lực nầy và ảnh hưởng của những điều kiện tất yếu. Thoạt đầu, thật kỳ lạ mà thấy rằng ta càng học hỏi Thiên Nhiên theo phương pháp Khoa Học, nó càng hiện ra phức tạp đối với chúng ta. Thí dụ khi gia tăng sức phóng đại của kính hiển vi, một điểm tự biểu lộ như là một cơ thể phức tạp tuyệt vời. Mới đây, các nhà hóa học gọi vàng, sắt là một nguyên tố, một đơn chất, nhưng đă nhiều năm rồi, nhờ Thần Nhăn cao hơn không biết bao nhiêu lần sức phóng đại của kính hiển vi, chúng tôi nhận thấy sự cực kỳ phức tạp của mấy chất nầy. Thế nên, một nguyên tử hóa học của vàng, như người ta thường gọi, chứa đựng 3546 nguyên tử căn bản Hồng Trần và chúng nó vận chuyển từng nhóm chung quanh trọng tâm (centre de gravité) của chúng nó và điều nầy giống in như Thái Dương Hệ.

            Về bề ngoài, chúng ta càng kéo dài những sự t́m kiếm của chúng ta đối với chúng ta h́nh như tất cả càng thêm phức tạp. Nhưng, cuối cùng, điều đó vốn là giả, là hư ảo, bởi v́ càng đi sâu vào sự khảo sát của chúng ta, chúng ta thấy mọi vật đều làm bằng những Bọt Hỗn Nguơn Nhứt Khí (Bulles de Koilon) tức là trống rỗng và Vũ Trụ h́nh như là ảo ảnh. [111] Kinh sách Ấn  từ ngàn xưa đă xác nhận điều nầy: "Sự đơn giản cuối cùng vốn ở trong thâm tâm của mọi phức tạp." Chúng ta không thể hoàn toàn giải quyết điều đó, bởi v́ chưa nhận thấy chúng nó; nhưng h́nh như nó đúng cho đến đỗi chúng ta có ư định cho rằng tính cách bất biến của qui tắc nầy vẫn không sai. Nếu những sự phức tạp cực kỳ lớn hơn việc chúng ta đă giả tưởng, nền tảng của chúng cũng vẫn là sự đơn giản tuyệt đối.

            7.- Hăy học bài học điều ḥa nơi ḥa điệu ấy.

             Bây giờ con có thể đứng vững như ngọn núi giữa trận ba đào, vâng theo mệnh lệnh của Người Chiến Sĩ, người chính thật là con, và là vị Chúa Tể của con. Không nghĩ đến trận chiến đấu mà chỉ nghĩ đến vâng theo lời Người; không nghĩ đến kết cuộc của chiến tranh, mà chỉ có một điều quan trọng là Người Chiến Sĩ phải thắng, và con biết rằng không bao giờ bại. Con vững vàng như thế, b́nh tĩnh sáng suốt, sử dụng trí minh mẫn mà con đă hoạch đắc được trong đau khổ và trong sự diệt trừ sự đau khổ.

            Đại Sư Vénitien diễn tả nơi đây trạng thái mà con người phải đi đến khi bản Ngă cao siêu là người chiến sĩ, người chiến đấu. Khi con người nhận biết sự đồng nhất của ḿnh với người chiến sĩ, tự biết ḿnh là Bản Ngă cao siêu, ḿnh vốn Thiêng Liêng và thành phần của Đức Thái Dương Thượng Đế, sự chiến đấu của đời sống không c̣n làm cho con người bận ḷng lo lắng nữa, con người chỉ c̣n một tư tưởng mà thôi; ấy là tuân theo mạng lệnh của Bản Ngă cao siêu.

            Trước nhứt trong lúc chiến đấu tại Cơi Trần, gắng sức làm công việc của chúng ta và hoàn tất bổn phận của chúng ta, chúng ta rất lo lắng cho cái hiệu quả. Chúng ta cảm biết nếu chúng ta không làm việc cho điều lành, điều lành không thắng thế được. Nhưng luôn luôn, cuối cùng, sự lành thế nào cũng mạnh hơn cả. Thật là rất buồn cho một người trong chúng ta không chịu góp phần vào mục đích nầy, nhưng chúng ta dám chắc chắn rằng việc lành dù có chi xảy đến đi nữa, tới một ngày kia nó cũng đắc thắng. Ngày nào chúng ta tuân theo mệnh lệnh của Bản Ngă cao siêu và chúng ta dùng tất cả những phương châm hành động, ngày đó chúng ta không cảm thấy bối rối, bấn loạn, ưu tư, dù cho những sự gắng sức của chúng ta dường như vô ích. Chỉ có một điều là chúng ta phải hết sức chắc chắn là chúng ta đă làm hết khả năng và tin chắc rằng sự lành sẽ thắng, chúng ta không nên kiếm cớ chữa lỗi về tánh uể oải, bất động của chúng ta.

            Cả ngàn người nói về Đại Thế Chiến như vầy: "Lẽ phải sẽ thắng, tại sao chúng ta phải hành động?" Đúng vậy, lẽ phải sẽ thắng, nhưng rất đáng phàn nàn, đáng tội nghiệp cho những người mà cơ hội đưa đến để dự phần vào sự thành công lại cố ư trốn tránh đi. Kạt-ma (Karma) Quả của một cơ hội lớn lao đă mất và luôn quả của tất cả sự quấy gia tăng v́ thời giờ đă mất, sẽ trả lại cho họ rất nặng. Nếu được nhiều người nhất định hy sinh và có gan dạ đến tŕnh diện để chiến đấu, lẽ phải đă thắng sớm hơn và nhiều sinh mạng đă được cứu khỏi. Những người do dự chịu trách nhiệm về số người chết đă gia tăng thêm nhiều. Tôi tưởng rằng nhiều người thích gởi những kẻ khác chết thế cho họ, [112] mặc dù thật là khó tin được điều nầy. Đó là một giai đoạn tiến hóa rất thấp thỏi, nhưng h́nh như vẫn có những người như vậy.

            Chắc chắn rằng trong trận đại chiến của sự sinh tồn, điều lành sẽ thắng và tất cả tới một ngày kia đều đi đến mức trọn lành, hoặc cách nầy hay cách nọ, nếu không ở tại Dăy Địa Cầu ít ra cũng trong Dăy Hành Tinh sau. [113] Những ai thấy "trong sự thật "nầy một duyên cớ để tự bào chữa cho ḿnh và nói: "Tất cả đều sẽ hoàn tất tốt lành, tôi không cần phải ra sức, Chơn Nhơn sẽ chiến đấu trên Cơi cao nào đó; cái điều tôi làm với tư cách là Phàm Nhơn không có quan trọng ǵ hết." Họ đang tạo một nghiệp quả xấu xa, bởi v́ họ làm chậm trễ sự chiến thắng cuối cùng của sự lành trong chu kỳ tiến hóa nầy.

            Có một khác biệt lớn lao giữa sự hiểu biết rằng vị chiến sĩ ở trong ḿnh chắc chắn sẽ thắng trận và sự ngờ vực việc đó không xác thật ở giai đoạn trước đây. Trong trường hợp sau nầy Huynh có cảm nghĩ mơ hồ rằng vị chiến sĩ sẽ thắng trận và Huynh lo âu rất nhiều về vai tṛ mà Huynh phải lănh trong trận chiến. Đó là sự sai lầm, nhưng nó là một giai đoạn cần thiết. Trái lại, ai hành động v́ biết chắc lư do th́ rất b́nh tĩnh, dù ở trong trường hợp thất bại; không phải sự b́nh tĩnh của sự bất động mà sự b́nh tĩnh của Thiên Ư hoạt động trong Bản Ngă cao siêu. Về phương diện của sự Đại Viên Măn [114] không có công việc của người nào gọi là vô nghĩa cả. Những sự cố gắng nhỏ nhặt hiệp lại sẽ thành một toàn thể to tát, nhưng phần của mỗi người không có ǵ là quan trọng, lấy điều nầy mà tự hào là có lỗi vậy. Sự lành sẽ thắng. Bây giờ đây nên quyết định chúng ta sẽ gia nhập vào đạo binh chinh phục lẽ phải [115] hay là chúng ta rất thích ở lại phía sau. Phải gia nhập hoặc với những người lo giúp đỡ Nhân Loại, hoặc với những người được giúp đỡ. Mỗi người phải thuộc về những người làm việc cho thế tục hay là thuộc về những người nhờ việc làm của kẻ khác hỗ trợ.

            Chơn Ngă sẽ thắng, không khi nào Ngài bại trận. Khi Phàm Nhơn bị dẹp qua một bên, người chiến sĩ trong con người chiến đấu, sự thắng trận sẽ chắc chắn. Khi Huynh đồng hóa với người chiến sĩ, Huynh sẽ b́nh tĩnh và chăm chỉ theo dơi trận chiến mà Huynh dự phần, cũng như trận chiến xa lạ với Huynh. Mấy điều đó không cản trở được Huynh trong việc t́m kiếm những giọng hát của Sự Sống. Huynh dùng thính giác để nghe sự đau khổ và diệt sự đau khổ. Ngày nào Huynh c̣n nhận biết sự đau khổ, ngày đó Huynh c̣n chiến đấu, Huynh c̣n giong ruổi trên con đường hành hương, nhưng một khi sự đau khổ bị tiêu diệt rồi, Huynh đi tới một trạng thái trong đó Huynh hoạch đắc được một quan năng mới, nó giúp Huynh luôn luôn nghe được và thấy được phía ngoài xa trận chiến. Huynh phân biệt được Tiếng Hát của Sự Sống trong lúc hỗn chiến cuồng loạn, và triều lưu tiến hóa vĩ đại trong trận giông tố thổi tới. Huynh biết rằng sự đau khổ chỉ có một thời buổi thôi. Huynh sẽ vượt qua khỏi nó. Nó không c̣n gây ra tai hại cho Huynh; không c̣n là sự đau khổ nữa, bởi Huynh biết ư nghĩa của nó, nó không c̣n ảnh hưởng nào đến Huynh nữa.


CHƯƠNG   4

QUI TẮC 9 – 12

 

            C.W.L. - Chúng ta tới nhóm qui tắc từ 9 đến 12. Chúng ta hăy tập kết hợp lần nữa mỗi qui tắc ngắn ngủi nầy với phần đối chiếu của giảng lư do Đức Đế Quân.

            9. - Hăy quan sát kỹ lưỡng mọi sự sống ở chung quanh con.

            Hăy xem xét cuộc đời luôn luôn biến chuyển và thay đổi ở chung quanh con, bởi v́ nó do những tâm tánh của Thế Nhân tạo thành và khi con biết được sự cấu tạo và ư nghĩa của chúng lần lượt con hiểu được ư nghĩa của sự sống rộng răi hơn hết.

            Phần đông dân chúng để th́ giờ xem xét không phải Sự Sống mà là h́nh dạng bao quanh họ. Tư tưởng họ không hề chú trọng đến Sự Sống thâm sâu. Thế nên họ tỏ ra cộc cằn, tàn nhẫn, vô tư lự đối với loài thảo mộc, họ hạ những cây rất đẹp và biến đổi một cảnh vật xinh tươi thành một trung tâm kỹ nghệ gớm ghiếc hay là một đô thị mất vẻ thẩm mỹ, họ không có ư niệm ǵn giữ những vẻ đẹp Thiên Nhiên, tùy sức họ; họ cũng không thương xót chẳng những thú vật là những em út ngây thơ của chúng ta mà lại cấu xé lấy nhau.

            Cũng lư do nầy làm cho chúng ta hiểu tại sao điều dữ ở Trần Thế đè nặng tâm hồn của những người cao thượng. Nếu họ nh́n xuống phía dưới của bề mặt và thấy cái chi xảy đến cho Sự Sống thâm sâu, họ nghiệm xét rằng những sự việc xảy ra hết sức gớm ghê cũng dùng để điều khiển sự sống trên con đường dẫn đến Hạnh Phúc Thiêng Liêng; như vậy sự bối rối của họ sẽ ít hơn. Trong mọi việc, người Đệ Tử phải xem xét Sự Sống. Điểm thứ nhất mà huynh phải xem xét trong mỗi Sự Sống là: Sự Sống vốn là sự biểu hiện của Đức Thái Dương Thượng Đế. Trong sự sống bao quanh chúng ta, thật vậy, chúng ta gặp nhiều chuyện ghê sợ và chúng ta biết tính cách xấu xa của chúng nó, nhưng chúng nó cũng có vai tṛ phải đóng trong sự tiến hành của thế sự. Vậy, chúng ta có thể phân biện khắp nơi một sự biểu hiện của Đức Thượng Đế.

            Trong mỗi người đều có điểm tốt lành, trừ ra, có lẽ trong trường hợp mà Phàm Nhơn vĩnh viễn ĺa khỏi Chơn Nhơn; đây là trường hợp rất hiếm hoi, song đôi khi cũng có xảy ra vậy. Sự chia rẽ nầy đối với chúng ta dường như rất đáng sợ, mà điều nầy thật đúng, nhưng người ta quá phóng đại nó. Lúc đầu tiên, những sách Thông Thiên Học bàn rộng rất nhiều về việc người ta gọi là "Những Linh Hồn sa đoạ" (Les âmes perdues); có khi người ta gặp trong mấy chuyện đó hai hay ba dẫn chứng họp lại và thuộc về những điều kiện rất khác nhau. Nhiều độc giả bị lầm lạc và tưởng rằng có rất nhiều "Những Linh Hồn sa đoạ."

            Dưới Trần Thế có vài hạng người bị sự ghê gớm khủng khiếp lôi cuốn mạnh mẽ; họ chỉ nh́n thấy trong mọi vật và mọi người khía tồi tệ. Đây là đặc điểm của những giai cấp thấp ở Anh, mà do theo những bài báo đă xét đoán th́ khắp mọi nơi đều có điều nầy. Mấy người đó có chăng một tin tức xấu xa để nói cho người ta biết, h́nh như họ vui thích tô điểm nó, thêm vào đó nhiều chi tiết rùng rợn. Tôi có cảm tưởng rằng một số đông người có ít nhiều tâm trạng ấy và nếu tâm trạng nầy thấy rơ rệt trong những giai cấp thấp kém nó cũng biểu lộ trong các giai cấp khác.

            Tôi tin tưởng trong Hội Thông Thiên Học, chúng ta cũng có những hội viên như vậy, họ ghi chép kỹ lưỡng những đoạn nói về vấn đề trên đây, như Bầu thứ Tám, [116] việc có thể mất Linh Hồn và tất cả mấy điều đó tạo thành một bài tường thuật hăi hùng, rồi họ liên kết vào tư tưởng nầy một câu của Đức Bà Blavatsky nói rằng: "Mỗi ngày chúng ta đụng chạm không biết bao nhiêu người bị mất Linh Hồn." Đây là một danh từ ít ra cũng cần sửa đổi, không thể nào trong một ngày mà có thể đụng chạm tới cả triệu người. Câu nầy không nên hiểu theo nghĩa từ chữ: Ấy là cách nói bóng dáng về số hai phần năm Nhân Loại [117] rời bỏ sự tiến hóa của chúng ta lúc phân nửa cuộc Tuần Hoàn thứ Năm. Những Linh Hồn  nầy gọi là những Linh Hồn bị mất để phân biệt họ với những Linh Hồn được an toàn và tiếp tục tiến tới. Họ chỉ mất trong Dăy Hành Tinh nầy mà thôi. Như chúng ta đă giải thích, họ không bị sự hành phạt đời đời nào cả. Họ an nghỉ, mơ mơ màng màng và toại nguyện, họ rất hữu phước, bởi v́ họ không biết cái chi tốt hơn nữa. Họ đáng cho chúng ta xót thương chỉ v́ trong Dăy Hành Tinh sau, họ phải trải qua một chu kỳ chuyển tiếp, sinh tử, tử sinh rất dài và tất cả chúng ta đều biết việc nầy rất buồn chán. Nhưng không c̣n ǵ tốt hơn cho những người phải chịu như thế v́ điều nầy hết sức hữu ích cho họ và dễ dàng, hơn là việc họ bị chậm trễ trong chu kỳ tiến hóa của chúng ta. Họ bị thúc đẩy đi tới, mà chắc chắn họ không chịu đựng nổi những sự cố gắng mănh liệt. Sự tiến hóa của chúng ta vượt qua những khả năng của họ. Họ không mất th́ giờ, những điều họ đă học hỏi và hoạch đắc được trong Dăy Hành Tinh nầy đều để dành cho họ và trên Cơi Thiên Đường[118] giữa hai Dăy Hành Tinh họ có thể tiến bộ chút ít. Thế nên trong Dăy Hành Tinh sau, họ sẽ chiếm một địa vị cao và đứng đầu những Linh Hồn c̣n trẻ của Dăy Hành tinh nầy.

            Đó là hằng triệu người mà chúng ta đụng chạm hằng ngày; không có điều chi giống như trường hợp lẻ loi, biệt lập, trong đó Phàm Nhơn ĺa khỏi Chơn Nhơn. Điều nầy thật là ghê tởm, khủng khiếp, tuy nhiên tốt hơn là đừng xem nó như là một đại thảm họa; nhưng mà, như tôi đă nói, ấy là một trường hợp cực đoan của một việc thường xảy ra; sau một kiếp luân hồi thường có một sự mất mát, mặc dù có thể được rất nhiều lợi ích. Sự mất trọn vẹn một Phàm Nhơn là hậu quả của một đời sống đồi bại khủng khiếp. Điều đó không có nghĩa là Chơn Nhơn cố ư phạm tội, nhưng Phàm Nhơn đôi khi thoát ra khỏi sự điều khiển của Chơn Nhơn, Chơn Nhơn phải chịu trách nhiệm về điều nầy. Lẽ ra th́ Ngài không nên cho Phàm Nhơn được tự do, mà lỗi của Chơn Nhơn là một sự nhu nhược hơn là một tai hại trực tiếp. Tuy nhiên Chơn Nhơn cứ tiếp tục tiến tới. Ngài đă lui lại một cách khủng khiếp, nhưng Ngài cứ tiếp tục đi, không phải liền ngay khi đó, bởi v́ Ngài như choáng váng. Sau một sự kinh nghiệm như thế, Chơn Nhơn duy tŕ một tánh nết đặc biệt; luôn luôn Ngài không hài ḷng, Ngài chợt nhớ lại một mục đích cao siêu, quan trọng hơn, mà bây giờ đây, không c̣n ở trong tầm tay của Ngài nữa. Ấy là một trường hợp ghê sợ, mà người nào phạm một sự nhu nhược nặng nề như thế phải chịu Quả Báo về điều đó và một ngày kia Y sẽ biết rằng Y là tác giả của những sự đau khổ của Y.

            Tôi không biết chắc chắn những sự mất mát khác có thể xảy ra trong thời đại xa xưa của Lịch Sử Thế Giới của chúng ta là thế nào. Trong những trường hợp hiện thời chắc chắn cái tệ hại nhất xảy đến cho Chơn Nhơn là mất trọn vẹn một Phàm Nhơn. Đối với Ngài, điều đó hết sức nặng nề. Ngài có nguy cơ kéo từ một nền văn minh khá cao thụt lùi lại cho tới trường hợp gần giống như trường hợp của một người c̣n dă man, nhưng không đến mức thú vật. Nếu sự thối hóa có thể xảy ra được trong một thời kỳ nào đó thuở xưa, bây giờ đây, không thể nào có điều đó nữa. Chúng tôi nghiệm xét như vậy.

            Nhiều người thuộc về Nhân loại hiện nay mới thoát kiếp thú không được lâu lắm. Tôi nói đây là xem xét thời gian theo nhà Huyền Bí Học. Khi gần đến lúc không cho thú vật đi đầu thai làm người nữa, một sự cố gắng lớn lao thực hiện để làm cho một số  đông thú vật được đi đầu thai làm người; [119] hầu đưa đến mỗi con thú một dịp may cuối cùng tuyệt đỉnh. V́ lẽ ấy mà những Vị Hồng Quân (Les Seigneurs de la Flamme) từ Kim Tinh xuống Trần Thế ngay lúc đó hay trước thời kỳ đó một ít lâu. Ảnh hưởng của các Ngài là sự kích thích.[120] Tất cả những sự cố gắng đều hướng về trước, nhất là việc giúp cho nhiều thú vật được đi đầu thai làm người trước khi cánh cửa Thiên Nhiên đóng chặt lại vĩnh viễn. [121] Trong nhiều trường hợp kém hơn, có nhiều người cố gắng một cách đặc biệt khi một dịp may tốt đẹp đưa đến cho họ, như buôn bán trong những điều kiện thuận lợi, hay là dự vào một việc thi cử. H́nh như có một việc tương tự như thế, nhưng trong phạm vi rộng lớn hơn nhiều đă xảy ra trong thời kỳ mà một dịp may cuối cùng đưa đến giúp cho loài thú được đi đầu thai làm người trong Dăy Địa Cầu chúng ta.

            Có nhiều kẻ c̣n quá gần với loài thú vật và vừa đủ điều kiện để đi đầu thai làm người. Họ phải chuyển kiếp mấy trăm lần liên tiếp không ngừng nghỉ vào giống dân tộc c̣n dă man, rừng rú và hết sức c̣n thấp kém; luôn luôn họ lăn ḿnh trong đời sống Hồng Trần. Cơi Trung Giới chỉ mở ra lần lần cho họ mà thôi. Trong số đó có lẽ có những người được đi đầu thai làm người mà không có ích lợi chi cho họ cả. Chắc chắn là tới lúc phân nửa cuộc Tuần Hoàn thứ Năm th́ họ sẽ rời khỏi Triều lưu tiến hóa. Mặc dù như vậy, họ cũng hoạch đắc được một vài kinh nghiệm của đời sống con người trong thời gian "phân nửa cuộc Tuần Hoàn thứ Tư và phân nửa cuộc Tuần Hoàn thứ Năm." Qua Dăy Hành Tinh sau, họ không đầu thai lúc sơ khởi, bởi v́ họ đă qua lớp sơ đẳng. Họ có thể đầu thai làm người c̣n dă man, song thuộc về hạng tốt, không dă man cho đến đỗi làm cho sự tiến hóa của họ bị chậm trễ rất nhiều. Họ không thể tiến nhiều, và điều cần thiết là họ phải tiến chậm; một lẽ khác, năng lực trí năo của họ c̣n yếu đuối, cho đến đỗi họ không thể thoái bộ nhiều.

            Vài cuốn sách xưa thường nói con người trở xuống đầu thai làm thú vật. Nhưng chúng tôi không xem thấy một trường hợp nào cả. Có nhiều cách làm cho con người tiếp xúc với tâm thức của thú vật và gặp phải những sự đau khổ kinh khủng. Tôi có giải nghĩa trong quyển Huyền Bí Học trong Thiên Nhiên, quyển II, Chương I (LOccultisme dans la nature, section I). Nhưng đầu thai làm thú vật, hiện giờ không c̣n có thể được nữa. Từ lâu lắm rồi, chúng ta đă qua khỏi con đường chia rẽ con người và thú vật, chúng ta không thể trở lại con đường đó một lần nữa, dù cho công nhận rằng thuở xưa một trường hợp như vậy có thể xảy ra. Mấy Huynh Bàng Môn ư chí hết sức cứng cỏi cũng không làm nổi điều đó. Trong trận đại chiến, chúng tôi có dịp thấy vài vị Hắc Diện ĐạiVương đă đầu thai lại và hành động. Điều nầy có thể cắt nghĩa những tội ác ghê gớm đă phạm. Quả của cá nhân họ gây ra thật hết sức rùng rợn. Tôi có thấy quả vị lai của vài người ít tội lỗi hơn họ: Một cảnh tượng không thể quên được, một ác mộng hăi hùng. Vài người c̣n thua xa những kẻ hung ác ấy, nhưng họ tạo cho họ một tương lai ghê tởm khi họ đánh đập những trẻ con, mổ xẻ thú vật đặng học hỏi cơ thể [122] (Vivisecteurs). Thấy tương lai của họ làm rùng rợn. Nhưng mà những huynh Bàng Môn Tả Đạo tôi mới nói đây c̣n cực kỳ ác liệt hơn nữa. Họ phạm những tội lỗi đó đến một tỷ lệ to lớn hết sức, v́ tánh ích kỷ phi lư của họ mà họ hy sinh tánh mạng dân chúng của phân nửa Địa Cầu, nhưng họ cũng không trở lại đầu thai làm thú vật.

            Trong những trường hợp hiếm có, Phàm Nhơn bị trôi giạt, nó sống một cuộc đời giống đời sống của Margrave, trong quyển Một Chuyện Lạ Lùng (Une Histoire étrange) của Bulwer Lytton. Margrave là một người hết sức ích kỷ, vô lương tâm, không có Linh hồn để hướng dẫn y. Đây là một người đồi bại tột bực, tánh t́nh nầy có thể hiện ra kiếp sau nữa. Đức Bà Blavatsky có nói: Một Phàm Nhơn như thế không có một xác thân nào làm sẵn cho nó. Nó có thể đầu thai lại bằng cách nhập vào ḿnh một đứa nhỏ mới chết và làm cho nó sống lại rồi sử dùng xác thân đó; [123] như thế nó sống một đời mới khác. Đức Bà ít khi đề cập đến những vấn đề như thế, mà khi bà ám chỉ những sự việc đó bà biểu lộ sự ghê sợ của Bà với những danh từ rất thấm thía. Đối với chúng ta là những thính giả của Bà, chúng ta cần biết bà đă thấy rơ ràng những trường hợp như thế; bởi v́ Bà chỉ nói để tự vệ mà thôi.

            Những lời chỉ dẫn của bà cho chúng ta hiểu rằng nếu một sự đi đầu thai làm người lần thứ nh́ không thể được th́ Phàm Nhơn trong lúc tan ră c̣n giữ được một mảnh nhỏ tách rời khỏi Chơn Nhơn, và rút lấy sinh lực của mảnh nầy, nó rơi xuống loại thú vật. Một ngày kia Bà trạng tả cho chúng tôi nghe một cách rùng rợn cách một Phàm Nhơn thối bước khi theo con đường gọi là Lệ Thuộc Sự Tiến hóa (Courant de la évolution).[124] Tôi nhớ bà nói rằng đôi khi có những Phàm Nhơn như thế nhập vào ḿnh mấy con rắn và có vài người nhớ lại t́nh trạng con người của họ khi xưa, v́ họ cũng có ư thức như chúng ta. Thật là hăi hùng và giống như một cơn ác mộng. Chúng tôi có thể nói rằng trường hợp như thế là một việc hi hữu và ngoại lệ. H́nh như một trường hợp như thế do kết quả của một sự ngoan cố sống một đời đồi bại, trụy lạc trong nhiều kiếp liên tiếp.  

            Những người thật hung ác rất hiếm có ở Cơi Trần; họ c̣n đưa ra những lư lẽ để bào chữa cho họ. Kẻ trộm cắp những đồ bằng bạc của huynh thường có ư tưởng rằng tài sản phân phối không đều. Họ chỉ lấy cái phần mà Chính Phủ hay là những kẻ khác lẽ ra phải ban thưởng cho họ. Họ giành lại của "sở hữu bất hợp pháp" những của cải thật ra đáng lẽ phân phát cho tất cả. Những kẻ bất lương ít khi biết rằng việc làm của họ là có tội, luôn luôn họ t́m cách chữa lỗi họ. Ngày sau họ sẽ thấy rằng những sự bào chữa lỗi lầm của họ vẫn vô giá trị, theo ư tôi, lúc họ phạm tội lỗi, luôn luôn họ tưởng tới một sự bào chữa nào đó. Những tội ác nầy so sánh với những sự rùng rợn  của việc "Mất Hồn," thật khác xa. Muốn đi đến việc mất hồn con người phải làm ác với tất cả ư muốn, với tất cả sự suy nghĩ kỹ lưỡng và chống lại triều lưu tiến hóa.

            Những khả năng ghê gớm nầy càng ngày càng hiếm hoi, bởi v́ Nhân Loại tiến hóa và thông minh. "Phái trong bóng tối" càng ngày ít t́m được những đảng viên mới và bây giờ đây họ chỉ c̣n tượng trưng một tàn tích của quá khứ thôi. Người ta hiểu nhiều về "Những Ma Cà Rồng," "Những Người Hóa Sói". Mấy thứ nầy có thật hồi xưa, cũng c̣n ở thời nay nữa. Tôi có thấy những mẫu người đó tôi không trông mong thấy thêm nữa. Không thể nào con người rớt xuống đến mức đó. Thay v́ là những Ma Cà Rồng, họ qua "Thế Giới Xám" (Monde gris). [125] H́nh như  trường hợp sau nầy thay thế cho trường hợp trước và nó c̣n tốt hơn, nhưng, thật ra, dù sao cũng thật là đáng buồn.

            Đời sống ở Thế Giới Xám sau khi bỏ xác là do Cái Phách và Cái Vía kết dính liền nhau. Nhiều người không tin có đời sống bên kia cửa tử nên ước mong sống thêm nữa. Họ nói một cách mơ hồ rằng họ tin sau khi bỏ xác con người c̣n sống, nhưng kỳ thật họ rất nghi ngờ điều nầy. Đối với họ, chỉ có đời sống Hồng Trần là thực tế, cho nên họ bám chặt vào xác thân. Đến đỗi sau khi họ chết rồi, chất dĩ  thái không rút ra hết khỏi Cái Vía, [126] như trong trường hợp b́nh thường. Thế nên, người chết ở rất lâu trong một điều kiện không phải điều kiện ở cơi Trần mà cũng không phải là điều kiện ở Cơi Trung Giới. Bởi v́ họ c̣n giữ một phần của chất dĩ thái, nó không cho họ dùng trọn vẹn những giác quan của Cái Vía; đáng lẽ họ phải qua Cơi Trung Giới, nhưng không qua được. Một mặt khác, họ không trở về cơi Trần được v́ không c̣n ảnh hưởng chi tới Cơi nầy nữa, mặc dù trong ḿnh họ có chất dĩ thái. Họ bị kẹt ở giữa một cơi mà người ta gọi là Thế Giới Xám. Trong trường hợp nầy, khi họ thấy Cơi Trần, khi th́ họ thấy Cơi Trung Giới, không chừng đỗi chi hết. Họ rất hoảng hốt, họ không ngớt chống chỏi đặng có một đời sống trọn vẹn. Nếu có chí khí, trong chốc lát họ được giải thoát ra khỏi chốn nầy, nhưng mà thường thường phải mất một thời gian khá lâu.

            Đức Đế Quân nói rằng: Sự Sống biến đổi bao bọc chúng ta vốn do tâm của con người cấu tạo. Những điều kiện bên ngoài của chúng ta là kết quả của những tư tưởng và những t́nh cảm bên trong của chúng ta. Thường khi người ta than phiền những điều kiện xă hội, chính thể, chính trị, tôn giáo, thương măi và giáo dục. Tất cả những điều đó biểu lộ t́nh trạng của dân chúng ở đông đúc trong thành phố của chúng ta. Tất cả mấy điều đó do tâm của con người cấu tạo ra. Những sự vui vẻ và những sự đau khổ mà nguyên nhân ít trực tiếp hơn như những cuộc biến đổi địa chất, khí hậu, làm ra hoàn cảnh chúng ta, vốn do Nhân Quả của tư tưởng và những t́nh cảm chúng ta tạo thành. Như vậy, chúng ta chỉ định địa vị của chúng ta trong Thiên Nhiên do bản tánh bên trong của chúng ta và tấm ḷng của chúng ta. Sau đó chúng ta không hiểu biết chi cả, bởi v́ chúng ta xem xét những h́nh dạng, thay v́ xem xét sự sống. Nhiều việc thường bị xem như là một tai họa vẫn có một khía cạnh tốt của nó. Thí dụ, như ở cơi Trần, một trận động đất xảy ra năm 908 làm sụp đổ một phần lớn Sicile và Calabre [127] giết hại hơn 150.000 sinh mạng; có người chết liền, c̣n nhiều người khác tôi e rằng họ chịu đau đớn dữ dội trước khi ĺa trần. Biết bao nhiêu người sẽ xem điều đó như là một đại thảm họa. Nhưng đối với quả Địa Cầu không phải là một tai hại. Trận địa chấn làm nổi lên và dời chỗ một phần lớn vỏ trái đất và đổi mới đất đai. Đối với Cơi Trần, ấy là một sự ích lợi thực tế. Hăy xem, tại Ư, hỏa diệm sơn Vésuve; trong một thời gian sau, tất cả những chất của hỏa diệm sơn bị trục xuất biến thành ra một thứ đất tốt và ph́ nhiêu hơn hết, nhưng trong lúc chờ đợi điều nầy, nó giết hại bao nhiêu sinh mạng.[128] Một trận băo, một trận động đất, một trận lụt lớn không phải chỉ là một tai họa, nó có thể giải thoát cho nhiều người ra khỏi xác thân, nhưng không phải là việc hại họ. Tất cả những chi xảy đến, dù những tai họa về loại nào, đều thuộc về Định Luật Nhân Quả và về sau góp vào sự ích lợi cho nạn nhân. Người Thông Thiên Học phải hiểu biết sự chết riêng nó không phải là một tai hại, mà lắm khi, nó được xem như một ban thưởng. Về điểm nầy thái độ thường thường của con người vốn do một Giáo Lư đạo đức sai lạc tạo thành. Bản năng bảo tồn đều ăn sâu vào ḷng của mỗi người trong chúng ta, nó thúc giục chúng ta pḥng ngừa xác thân chúng ta cho khỏi, hoặc một tổn thương, hoặc bị tiêu diệt. Bản năng nầy rất khôn ngoan và rất cần thiết. Chúng ta phải bảo vệ xác thân của chúng ta và giữ nó được sống lâu chừng nào càng tốt chừng nấy. Nếu tôi dám, với tất cả sự kính cẩn, tôi xin nói rằng Đức Thái Dương Thượng Đế ra công cực nhọc để cho chúng ta kiếp sống nầy,  vậy bổn phận hiển nhiên của chúng ta là phải dùng nó để làm những điều hết sức ích lợi, nhiều chừng nào tốt chừng nấy.

            Nhưng có một cơ hội có thể hiện đến, trong đó, cách sử dụng kiếp sống của chúng ta tốt hơn hết là phải chịu nguy hiểm, liều lĩnh và hy sinh nó nữa. Như thế, một tên lính xông tới hầu như tuyệt vô hy vọng, v́ biết rằng nó sẽ chết, nhưng sự chết của nó thuộc về Đại Kế Hoạch chiến lược mà kết quả là sự thắng trận. Anh lính nầy sử dụng kiếp sống của anh một cách cao thượng khi anh tự ư bỏ nó, khi anh hiến dâng nó. Đối với phần đông chúng ta, trong những trường hợp b́nh thường bổn phận chúng ta phải cẩn thận đề pḥng để cho xác thân chúng ta được sống lâu chừng nào càng hay chừng nấy. Không vậy, khi chúng ta làm cho xác thân chết sớm, chúng ta gây ra những xáo trộn nặng nề.

            Vài người không suy nghĩ chính chắn về việc họ tin chắc rằng Chơn Sư phải che chở cho họ. Họ nói: "Khi tôi c̣n làm việc cho Chơn Sư, tôi không cần phải đề pḥng chi cả về sự truyền nhiễm khi tôi đến gần bệnh nhân. Tôi chắc chắn Ngài sẽ chăm nom tôi. Tôi không biết lội, nhưng tôi nhảy xuống nước, tôi chắc Ngài sẽ nâng tôi lên". Điều nầy có thể được, nếu Chơn Sư xét ra việc đó tốt lành. Nhưng chúng ta không có quyền ǵ ép buộc Chơn Sư phải làm điều mà theo một chút chánh lư, chúng ta có thể làm được. Nếu chúng ta có phận sự đi viếng thăm những người bị bệnh truyền nhiễm, tôi tưởng, thay v́ dựa vào một cách mù quáng sự che chở của Chơn Sư, chúng ta phải dùng những cách đề pḥng b́nh thường để tránh cho Ngài sự mệt nhọc. Về phần chúng ta, chúng ta phải làm hết khả năng của chúng ta. Nếu Chơn Sư muốn giúp chúng ta, đó là quyền tự do của Ngài. Chúng ta có lỗi hết sức lớn khi tin vào sự can thiệp của Ngài. Đôi khi quả thật Ngài có can thiệp, nhưng chúng ta không có quyền chờ đợi điều đó. Trong t́nh trạng nầy, tôi thấy có nhiều sự việc thật kỳ lạ, nhưng không khi nào tôi làm cho Chơn Sư phiền muộn về việc tôi cầu xin Ngài che chở cho tôi một cách đặc biệt, bất cứ về việc ǵ, trong khi tôi có thể giữ ḿnh dễ dàng.

            Bản năng bảo tồn hữu ích cho ṇi giống con người; nó vẫn b́nh thường, nhưng mà người gan dạ luôn luôn sẵn sàng chịu lấy sự đau khổ, sự nguy hiểm và mất mạng v́ những lư do cao thượng. Người nào không c̣n cho chết là một tai hại lớn lao nhất th́ đi đến trước cái chết với một tấm ḷng cao thượng hầu ngăn cản một thảm họa lớn lao hơn nữa. Đó là điều mà cả trăm ngàn đồng bào của chúng ta đă làm trong chiến trận. Chúng ta biết rằng sự chết không phải là sự cuối cùng của một việc như người ta thường tưởng như vậy. Đối với chúng tôi, một tai biến thảm khốc như tai biến của Messine [129] không phải là khủng khiếp chỉ v́ một việc nhiều người th́nh ĺnh bị thảy lên cơi Trung Giới. Tôi ở Mỹ Quốc trong lúc một trận hỏa hoạn thiêu rụi một rạp hát tại Chicago. Một số đàn bà và trẻ em bị chết. Có vài hội viên đến hỏi tôi: "Đức Thượng Đế cai trị cơi đời cách nào lại để cho đàn bà và trẻ em vô tội đó chết như vậy?" Tôi trả lời với họ: "Mấy Huynh tưởng rằng chỉ có người đàn ông mới xứng đáng được ban thưởng khi mau thoát khỏi kiếp Trần ư?" Những người đối thoại với tôi không hề tưởng rằng chết là một đặc ân, giải thoát con người ra khỏi những t́nh trạng đau đớn, khó khăn và như thế con người được tự do hơn để tiếp tục tiến.

            Vậy chúng ta chớ xem một trận động đất lớn như một tai hại, khi tưởng đến những người bị ném lên Cơi Trung Giới một cách đột ngột, số những người bị chôn lấp và chết chậm chạp tương đối không lên cao. Những người bị thiêu sống, người khác bị chôn dưới đống gạch đá vụn; chúng tôi tưởng rằng những đau đớn của họ rất khủng khiếp. Nhưng chúng ta hăy áp dụng Thông Thiên Học vào những trường hợp ngoại lệ cũng như những trường hợp b́nh thường và tự nhủ rằng: Chắc chắn những đau khổ của người nầy hay người nọ trừ được ngay bây giờ là một mối nợ đă ghi trong sổ Nhân Quả của Y, do số nầy Y phải đầu thai trong hai mươi kiếp b́nh thường mới trả xong. Chúng ta hăy thương hại những người chết như thế, hăy giúp đỡ họ với tất cả khả năng của chúng ta, nhưng đừng than khóc cho họ, [130] điều đó thật vô ích. Chết trên đây là một cách mau lẹ, nhưng nghiêm khắc để giải thoát chúng ta ra khỏi những hậu quả do những sự lầm lạc nghiêm trọng gây ra. Kinh nghiệm thật là ghê sợ, thật vậy, nhưng khi tất cả chấm dứt sẽ được lợi biết dường nào. Chúng ta so sánh những sự đau khổ đă chịu đựng, trước nhất là một bệnh nặng được chữa lành lần lần và tự nhiên, kế đó là việc chữa lành bằng cách mổ xẻ. "Nhưng đại khái là đừng kéo dài những thí dụ tương tự như thế." Sự chữa lành bệnh một cách chậm chạp có thể chung qui gồm những sự đau khổ nhiều hơn và phân chia ra nhiều năm. Cảm t́nh của chúng ta đối với những người chết không phải là cảm t́nh mà họ thường khêu gợi, bởi v́ chúng ta biết rằng t́nh trạng của họ bây giờ đáng quí hơn là t́nh trạng trước. Chúng ta có cảm t́nh sâu đậm đối với những cha mẹ, bà con đang than khóc. Nhưng chúng ta nhấn mạnh về sự lầm lạc mà con người mắc phải khi nghĩ đến mấy việc đó một cách ghê sợ và tưởng tượng rằng Đức Thượng Đế đă cho mấy việc đó xảy ra, vậy Ngài không thể tốt được. Thật vậy, những kinh nghiệm nầy thật khủng khiếp, nhưng hậu quả cuối cùng là một điều tốt lành, không bao giờ sai.

            Phải làm chủ hoàn toàn quan điểm cá nhân để thấy rằng tất cả đều góp phần vào hạnh phúc của chúng ta và ở nơi những người đồng chủng với chúng ta, sự sống xuyên qua những lối khúc khuỷu quanh co của Nhân Quả và đi về phía dưới chân của Đấng Vô Thuỷ Vô Chung không hề ngừng nghỉ. Đức Đế Quân bảo chúng ta xem xét Sự Sống một cách tổng quát. Chúng ta không phân hạng những người đồng chủng với chúng ta một cách hẹp ḥi. Thí dụ, chúng ta không thấy trong những người tu hành, những người nầy là theo Anh Quốc Giáo Phái, c̣n những người kia là những người chia rẽ, ly khai, mà chúng ta gọi họ là những người sùng Đạo; và ở trong những nhà chính trị chúng ta không hề gọi những người nầy là Bảo Thủ, c̣n những người kia là Cấp Tiến. Quan điểm của chúng ta cao hơn những điều đó. Chúng ta sắp hạng những người đồng chủng như vầy: Những người trí thức, những người có ḷng nhân từ hay là những người có ư chí tùy theo tiêu chuẩn hoạt động có ư thức điều khiển đời sống họ. Chúng ta gọi họ theo tên của Cung ngự trị họ.[131] Khi chọn sự phân hạng cao thâm hơn theo cách nầy, chúng ta đi gần đến sự thật và sự sống có thể dễ hiểu hơn trước.

            Rất khó hiểu trọn vẹn những mẫu người khác nhau. Nhưng chúng ta phải chuyên tâm học hỏi. Hạng Siêu Phàm gồm nhiều mẫu người hết sức Thiêng Liêng, mỗi vị cho mỗi người, nhưng nếu làm được việc nầy phải là một vị Siêu Phàm. Chúng ta có bổn phận cố gắng thực hiện điều đó. Quan điểm của đồng bào chúng ta có thể là khó hiểu, nhưng dù sao chúng ta cũng phải rán sức t́m hiểu nó. Tuy nhiên, những điều nầy không hề bắt buộc chúng ta phải chấp nhận quan điểm của họ; chúng ta có quyền về quan điểm cá nhân của chúng ta, cũng như họ có quyền về quan điểm cá nhân của họ. Nhưng điều trái ngược lại cũng đúng vậy. Người nào có thể có thiện cảm với những người hoàn toàn triệt để khác lạ hơn Y, chẳng bao lâu Y sẽ hiểu được ít nữa cũng một khu vực của Thế Giới Y đang sống.

            Chắc chắn những điều Chơn Sư nói đây là một mệnh lệnh cho Đệ Tử. Chúng ta phải hiểu biết tất cả những mẫu người tùy theo khả năng chúng ta và mỗi lần ảnh hưởng của chúng ta có thể dắt dẫn họ ra khỏi vết xe cũ của họ, hăy thực hành ngay; nhưng luôn luôn phải xét đoán, không vậy, chúng ta không thành công trong việc lôi cuốn về với chúng ta; do những bài giảng dạy của chúng ta, chúng ta có thể làm cho t́nh trạng của họ xấu tệ hơn trước nữa. Tôi đă biết nhiều gương.

            Những độc giả nào c̣n nhớ các quyển sách Thông Thiên Học của những năm đầu tiên, không thể quên rằng chúng không có thiện cảm với Thiên Chúa Giáo. Đức Bà Blavatsky tỏ ra ít nhẫn nại đối với Chánh thống Tôn Giáo. Lẽ tất nhiên Bà thường thấy một tín ngưỡng không sáng suốt làm tê liệt trí khôn và những Linh Hồn cách nào. Có khi Bà dùng những lời lẽ nghiêm khắc đối với Giáo Lư đạo đức hẹp ḥi, luôn luôn không tạm ngừng nhắc nhở rằng có một quan điểm khác cao hơn. Bà là kẻ thù nghịch hăng hái chống với tất cả những h́nh thức của sự mê tín dị đoan và chú ư vào sự giải thoát con người ra khỏi sự mê tín của họ nhiều hơn là cho họ cái ǵ để thay thế sự tín ngưỡng lầm lạc nầy. Chắc chắn mấy người đó cần được lay chuyển và chịu một sự đối xử nghiêm khắc và cũng chắc chắn v́ họ từ chối không chịu chia sớt tức khắc cách chúng ta xem xét cuộc đời.

            Tôi biết Đức Bà A. Besant trong lúc bà công kích Thiên Chúa Giáo kịch liệt hơn Đức Bà Blavatsky nữa. Có hai lần bà đứng trước những người tự do tư tưởng nhóm họp nhau trong pḥng Khoa Học tại Luân Đôn. Một người Tín Đồ Công Giáo hay là Giáo Sĩ ở Anh bênh vực Giáo Lư Chánh Thống, người ta nghe rất thú vị những lư lẽ của Bà A. Besant đưa ra, bởi v́ Bà là nhà hùng biện giỏi nhất trong thời đại của Bà. Tôi có nghe Bà tranh luận trước và sau khi Bà vào Hội Thông Thiên Học. Sự tranh luận Thông Thiên Học của Bà nhân từ hơn trước, nhưng ít lư thú hơn. Bà chỉ rơ những nhược điểm của bài tranh luận, phản đối một cách êm ái và tử tế, Bà cố tránh nêu ra những câu hỏi làm bối rối, lúng túng, để tránh làm mất cảm t́nh của đối lập. Lần đầu tiên, tôi nghe Bà nói, Bà theo đuổi sự thắng lợi tới cùng, điều nầy có nhiều lư thú hơn, nhưng kẻ đối lập không được vui ḷng.

            Tài hùng biện của Bà ngày nay cũng c̣n  như trước, nhưng Bà dùng nó một cách dè dặt, thận trọng cho đến đỗi trong các cuộc tranh luận người ta ít thấy tài của bà. Bây giờ Bà đạt được điều mà Bà chưa có, có lẽ lúc Bà c̣n tự do tư tưởng; tôi muốn nói đó là khả năng hiểu biết mọi người. Bà có được quan năng phi thường nầy v́ Bà làm việc không ngừng. Bà hoạch đắc nó nhờ Bà hết sức t́m hiểu công chúng và đặt ḿnh vào vị trí của họ. Lúc tôi nghe Bà nói hồi Bà c̣n tự do tư tưởng, chắc chắn Bà không tự đặt ḿnh vào vị trí của những kẻ đối lập, đôi khi Bà c̣n làm cho họ ấp úng nói không ra tiếng và kinh ngạc v́ lư luận hoàn hảo, không khuyết điểm và sức tấn  công mănh liệt của Bà.

            Người nào muốn hiểu biết Nhân Loại và thật tâm muốn học hỏi cách quan sát sự sống từ trên xuống dưới cũng phải đồng hóa với những loại thấp kém và, tùy khả năng, xem Thiên Nhiên như một toàn thể. Y phải có một thái độ thiện cảm đối với các Đại Thiên Thần, các loại Ngũ Hành (các Tinh Linh) săn sóc cây cối và ở trong đồng bái. [132] Những sự văn minh kim thời của chúng ta h́nh như đă mất quan niệm nầy, mặc dù chúng ta thấy nó chỗ nầy hay chỗ kia trong những tác phẩm của một văn sĩ hay một nghệ sĩ. Nếu những người như Ruskin [133] và Turner đă viết và trạng tả những cái ǵ họ đă làm th́ quả là họ có quan niệm đó.

            Thuở xưa, ở cổ Hy Lạp, chúng ta xem xét vạn vật khác hơn ngày nay. Trong Thiên Nhiên, trước mắt chúng ta không có cái chi quan trọng cho những người sinh đồng thời với chúng ta, ngoại trừ đối với một ít người có tinh thần mỹ thuật. Chúng ta ít tưởng nghĩ đến tiền bạc, những việc kinh doanh, chúng ta hưởng lạc thú Thiên Nhiên rất nhiều. Có quan điểm như thế đó, thật là rất tốt. Về việc mở mang Hạ Trí, làm cho nó trở nên sắc bén đối với những việc làm và phương diện thực hành của đời sống những giống dân kim thời mất rất nhiều mà cũng được rất nhiều; tôi muốn nói năng lực làm một trăm việc một lượt và tập trung tư tưởng vào những điều kiện cực kỳ khó khăn ở giữa những tiếng ồn ào, gầm thét, những sự náo nhiệt khủng khiếp của sự văn minh của chúng ta. Không có điều nầy ở cổ Hy Lạp. Những cuộc hành tŕnh của chúng ít mau lẹ hơn bây giờ, nhưng khi chúng ta đi du lịch, chúng ta học hỏi nhiều hơn bây giờ. Tôi nghĩ, chúng ta nên t́m lại trong một mức độ nào đó, trạng thái tinh thần nầy. Ngày nay con người ít khi tô điểm cho đẹp những ǵ ở chung quanh họ, nhưng hồi thuở họ hiểu biết Thiên Nhiên hơn bây giờ, họ không làm cho Thiên Nhiên biến dạng nhiều như thế nầy. Những người cổ Hy Lạp biết xây dựng đúng chỗ những Đền Miếu, những Thánh Đường trong những phong cảnh hết sức u nhàn. Có lẽ chúng ta bắt chước họ phối hợp Thẩm Mỹ với sự hữu ích. Thí dụ, chúng ta có thể dùng làm một cơ xưởng, một ṭa nhà giống như một Đại Giáo Đường, nhưng trong khi chờ đợi, một trong những nhược điểm của văn minh hiện nay là nó không có thiện cảm với tất cả những phương diện thâm sâu của Thiên Nhiên, cho đến đỗi chúng ta phải trau giồi, luyện tập mới hoạch đắc được cái mà đối với người cổ Hy Lạp là một Thiên Tư: Đó là một năng lực hiểu biết Thiên Nhiên. Khi đọc quyển Queen of the Air của Ruskin, người ta mới bắt đầu thấy quan niệm nầy.

            Chúng ta hăy t́m cách điều khiển một lượt tất cả sự tiến bộ. Thuở xưa, chúng ta đă sống trong những giống dân tộc từng sử dụng sự Mỹ Lệ, biết được lúc nhàn hạ và đời sống rộng răi; Chơn Nhơn của chúng ta c̣n giữ ǵn quan niệm đó. Đời sống hiện thời của chúng ta đưa đến việc bóp nghẹt quan niệm nầy; nhưng chỉ cần kêu gọi đến những kư ức của chúng ta, các chướng ngại đều rơi xuống. Điều nầy không phải là không thể làm được và rất đáng ra công thực hiện, khi mà cái đó chỉ là một quan điểm cá nhân; bởi v́ chúng ta sẽ được hưởng rất nhiều những lạc thú của đời sống.

            Có những người tự cảm thấy ḿnh xa lạ với Thiên Nhiên; họ nói rằng họ bị những ảnh hưởng xấu xa bao phủ họ và chỉ thấy trong cơi đời toàn là ḅ cạp, rắn và cọp. Không có con rắn nào, không có con ḅ cạp nào, không có con ong bầu nào thật hung dữ cả. Nhưng chúng nó dễ nóng giận lắm - chúng ta sẽ nói: Chúng nó thuộc về ḍng giống con người - chúng không có chút chi ngần ngại trong cách hành động của chúng. Chúng bị quấy phá, chúng nổi giận rồi chích và cắn những người đến gần chúng. Huynh không thể gọi chúng là hung dữ, v́ chúng hành động không phải ác ư; bởi v́ sinh lực của chúng rất dồi dào, chúng sử dụng nó và tấn công bất cứ ai chúng gặp trên con đường đi của chúng.

            Trên Cơi Trung Giới và ở các Cảnh Dĩ Thái cũng có nhiều chuyện như thế. Có nhiều loại Ngũ Hành thuộc về hạng thấp thỏi, không hung dữ và cũng không kiếm cách làm hại, nhưng gặp họ th́ khó chịu lắm. Vậy, phải tránh họ đi. May thay rất dễ tránh họ trên Cơi Trung Giới hơn là cơi Trần, bởi v́ một ư chí cứng cỏi cũng đủ đuổi họ đi xa ta. Nếu Huynh chấp nhận ảnh hưởng của bọn chúng, bọn chúng sẽ sai khiến Huynh. Như tôi đă giải thích, nhiều Tinh Linh trong đám đó rất hân hoan gặp một người giận dữ, họ vẫn thản nhiên đối với lư do giận hờn nầy (chúng có biết đây là con người không? Tôi không dám chắc điều nầy) nhưng khi chúng gặp một sự quay cuồng gió lốc do những sự rung động dữ dội và thô bạo gây ra và làm cho chúng vui thích, chúng nhảy vào đó lặn hụp; chúng hưởng lạc thú, chúng tăng thêm sức mạnh cho sự quay cuồng nầy và lợi dụng nó với tất cả những phương thế mà chúng có.

            Những rung động hung ác làm vui thích vài thứ Tinh Linh. Chắc chắn chúng chụp lấy người có tánh nầy và giục làm những điều mà con người không bao giờ tưởng đến. Nếu Huynh để tánh nóng giận nổi lên Huynh có thể nói và hành động một cách khác hơn ư muốn của Huynh. Sự hung ác cũng giống như thế và luôn luôn đố kỵ, ghen ghét, tham vọng, thù hiềm. Khi con người nuôi một trong những tật xấu nầy trong ḷng, Cái Vía họ h́nh như bị một sự trả thù kích thích, bởi v́ họ bị bọn Tinh Linh chụp lấy họ. Chúng ta khó mà có cảm tưởng tốt đẹp đối với bọn chúng, bởi v́ lẽ tự nhiên chúng ta nghĩ đến những ảnh hưởng xấu xa chúng gây ra cho chúng ta; nhưng những sinh vật tội nghiệp nầy chỉ t́m những sự thỏa thích riêng biệt của chúng mà thôi. Hơn nữa, không phải đó là một lư do để cho chúng ngự trị chúng ta. Về điểm nầy chúng ta không có chi phải sợ; nhưng chúng ta nên nhớ rằng tất cả những sự tăng cường tật xấu như thế vẫn đă có, và khi học hỏi các bạn đồng loại với chúng ta nên để ư đến điều đó.

            Chung quanh chúng ta, những Đại Lực không ngớt hoạt động mà phần đông con người không ngờ vực điều nầy chút nào. Chúng ta biết được việc đó một cách tổng quát; chúng ta biết rằng những lực, như là dư luận quần chúng ảnh hưởng đến chúng ta mà chúng ta không có ư thức được điều đó. Chúng ta không biết ǵ về sức mạnh phi thường của Luật Tiến Hóa và nó biểu hiện chung quanh chúng ta với nhiều cách và thật là huyền diệu. Đức Thượng Đế che phủ ḿnh bằng vật chất, nếu Ngài không cho chúng ta thấy Ngài, không phải là Ngài chết đâu. Những sự hoạt động của Ngài, những thần lực của Ngài không ngớt ảnh hưởng đến những loài vật của Ngài sinh ra. Khi những lực nầy hoạt động mạnh mẽ đến một người nào, nó lay chuyển Y, không khác nào người ta quậy mặt nước ứ đọng. Tất cả nước đều xao xuyến và tất cả những ǵ nó chứa đựng đều trồi lên mặt; nước thành bùn, nhưng chúng ta biết được cái ǵ ở dưới đáy nước. Quậy nước, dầu cho dưới đáy là bùn chăng nữa cũng c̣n tốt hơn là để nó ứ đọng, nó sẽ hôi thúi, không c̣n hy vọng nào nó trở nên tốt được. Cũng thế đó, sự xao động nầy thuộc về đời sống Thiêng Liêng nó làm cho những tánh xấu của con người đều hiện rơ ra tỏ rơ.

            Người ta có thể phản đối rằng con người không bị xáo trộn như thế có ích lợi hơn, nhưng không phải như vậy. Đời sống con người, trong lúc nầy lại thêm xấu xa, nhưng tốt hơn những tánh không tốt lộ lên trên mặt; con người tập hiểu biết chúng, các bằng hữu của Y cũng thấy rơ và có thể giúp đỡ Y. [134] Không vậy những tánh xấu nầy có thể ẩn ḿnh mà không ai biết và có thể sinh ra những hậu quả đáng tiếc, nếu sau nầy có một việc nào đó làm cho chúng nó hoạt động. Thế nên đôi khi chính là sức mạnh Tinh Thần sinh ra những hoạt động mà bề ngoài xem như tệ hại. Chúng ta đừng nghi ngờ điều đó. Đấng sanh ra vạn vật hành động cho điều tốt hơn hết. Ngài biết Ngài làm điều chi, khi Ngài lay chuyển chất nầy hay chất kia ứ đọng, đó là để tẩy sạch nó đi, mặc dù hiện giờ sự lay chuyển h́nh như không thuận lợi cho sự tiến hóa. Chúng ta hăy luôn luôn nhớ rằng quần chúng đều ở vào những tŕnh độ khác nhau, cái ǵ tốt cho người nầy, chắc chắn là xấu cho người kia. Chúng ta phải quan sát và hoạch đắc một cách vô tư trọn vẹn, chúng ta không nên xét đoán một cách quá mau lẹ, dù cho điều chi xảy đến cũng vậy. Tất cả những sự sống đều ở trong ḷng Đức Thái Dương Thượng Đế, chúng hiển nhiên là những thành phần Sự Sống của Ngài. Thế nên tất cả những vật nầy kỳ thật là những trạng thái và những sự biểu hiện của Ngài. Tất cả những sự biểu lộ của Ngài không xa lạ với chúng ta, chúng ta có bổn phận hoàn thành đối với chúng. Có thể chúng ta có dịp giúp đỡ một người nầy mà không giúp đỡ được một người kia. Chúng ta phải biết chấp nhận tất cả những công việc đưa đến cho chúng ta.

            10. - Hăy học cách nh́n vào tâm người một cách sáng suốt.

            Con hăy nghiên cứu tâm con người để hiểu biết Thế Giới trong đó con đang sống ra sao và con là một phần tử trong đó.

            Trong qui tắc nầy danh từ Tâm dùng một cách bóng dáng. Phải hết sức cố gắng suy nghĩ sâu xa về toàn diện bản tánh con người, không phải chỉ với t́nh cảm thường được gọi là Tấm Ḷng của nó mà luôn những hoạt động trí thức của nó nữa. Chúng ta phải tự cố gắng hiểu biết cặn kẽ con người và v́ lẽ đó, chúng ta phải t́m nơi nó sự biểu lộ của Chơn Nhơn.

            Khi thấy những người ở chung quanh chúng ta hành động khác hơn việc của chúng ta làm, chúng ta thường la lên: "Cái ǵ xúi giục họ làm một chuyện như thế." Không nghĩ ra được một trường hợp nào mà chúng ta có thể làm như vậy, chúng ta không thấy tại sao người đồng loại của chúng ta lại làm được. Đă lâu lắm rồi, phần đông chúng ta bỏ việc giải quyết những sự bí hiểm như thế, bởi v́ dường như không thể hiểu được chúng nó. Thế nên, tôi không hiểu tại sao một đám đông người gấp rúc đi xem một cuộc đấu vơ; tôi không thấy một sự lợi ích nào cả, bởi v́ theo ư kiến của tôi, đó chỉ là một sự biểu dương tánh tàn nhẫn, hung bạo. Nếu phải trả tiền, tôi thích trả tiền và được phép ra đi để khỏi xem trận đấu. Khi suy nghĩ chính chắn và t́m sự giải thích hấp dẫn của trận đấu, tôi tự hỏi phải chăng đó là việc biểu dương sự khéo léo, nhưng sự khéo léo khá tàn nhẫn và khá thô bạo, nhưng dù sao cũng là sự khéo léo; có lẽ cũng có ư tưởng gan dạ và sức dẻo dai chịu đựng chen lẫn vào đó.

            Người ta cũng thấy nhiều người xúm nhau ở những góc đường cười vang một cách thô bỉ và nói chuyện với nhau giọng khàn khàn. Khó mà hiểu được sự vui thích của họ, họ tiêu biểu cho một hạng người mà chúng ta cần phải t́m hiểu ít nhiều.

            Quần chúng làm tất cả những việc lạ kỳ, khi họ ganh tị một cách dữ tợn không có lư do nào đặc biệt, khi họ rất xúc động v́ họ bị những lời dèm pha. Huynh nói lẽ phải với họ, Huynh cho rằng dư luận quần chúng không quan trọng và không làm hại chút nào cả; nhưng mà họ cũng không khỏi bị xúc động quá mạnh. Chúng ta phải cố gắng t́m ra lư do tới một điểm nào đó. Thường thường điều ấy không thành vấn đề, tôi chấp nhận nó, nhưng chắc chắn nhiệm vụ của chúng ta là t́m hiểu người đồng loại của chúng ta.

            Nhiều người có thể cho rằng sự học hỏi nầy không có thú vị; nó không có ích lợi riêng cho chúng ta, nhưng nó vẫn ích lợi cho chúng ta về phương diện cao siêu hơn. Khi chúng ta tự xét ḿnh được chút ít tiến bộ hơn những người vừa nói đây, lẽ dĩ nhiên bổn phận của chúng ta là phải giúp đỡ họ. Nhưng nếu chúng ta không hiểu biết th́ sự giúp đỡ của chúng ta rất vô ích. Thường thường, những quyền lợi của họ xa lạ với chúng ta, chỉ v́ trong đời sống của Linh Hồn, chúng ta lớn tuổi hơn họ một chút, Linh Hồn lớn lên và khi con người tiến tới càng biết lẽ phải hơn trước.

            Chúng ta thấy mấy đứa trẻ con làm tất cả những chuyện không thể hiểu được; những trẻ, trai và gái, mười ba, mười bốn tuổi hành động v́ những lư do gần giống như lư do của chúng ta, nhưng chúng ta không biết nguyên nhân những sự hành động của chúng. Chúng ta bị bắt buộc phải nhớ lại lúc thanh xuân của chúng ta để hiểu chút ít những điều chúng nó làm và hiểu cách chúng nó giải thích những sự vật. Luôn luôn thật là khó: Tôi vẫn biết như vậy, bởi v́ một khi kia, tôi rất lo lắng cho những thiếu niên và thanh niên. Nếu Huynh tŕnh bày cho họ một ư niệm với hy vọng có lẽ họ chấp nhận như Huynh đă chấp nhận có khi họ nghe theo; nhưng thường thường họ xem xét ư niệm với một quan điểm khác và xét đoán với những lư lẽ không bao giờ mà Huynh nghĩ đến. Đôi khi có thể khám phá được mục đích của họ nhưng thường thường không thành công. Những vị giáo chức và những người khác thấy những trẻ con, trai và gái ở gần một bên, phải chuyên tâm t́m hiểu tư tưởng và tánh t́nh kỳ lạ của chúng. Họ ít gây tủi nhục bọn học tṛ nhỏ của họ.

            Đó là một trường hợp ngoại lệ, nhưng cũng phải hành động như thế đối với những thanh niên ở chung quanh Huynh, nếu Huynh muốn giúp đỡ chúng, Huynh phải rán đặt ḿnh vào vị trí của chúng. Đó là ư nghĩa của câu: "Hăy học cách nh́n vào tâm con người một cách sáng suốt." Họ có những thành kiến của họ cũng như Huynh có những thành kiến của Huynh, - chắc chắn không phải là một thứ với nhau - nhưng Huynh phải t́m kiếm chỗ thấy (quan điểm) của người đối thoại với Huynh và để ư đến điều đó. Hăy cố gắng khám phá xem họ tạo thành ư niệm hiện thời của họ cách nào và v́ lư do nào mà họ có thành kiến riêng biệt, như thế có lẽ Huynh được phép giúp họ bỏ hẳn ư niệm đó.

            Không có chi tế nhị như những thành kiến, chúng nó mạnh mẽ và bám chặt cho đến đỗi con người không biết rằng chúng có thật. Họ nghĩ không cần có sự giúp đỡ; thế nên chúng ta rất có thể làm cho họ không vừa ḷng, khi chúng ta đề nghị xin giúp đỡ họ. Muốn thành công trong công việc làm của Huynh và hoàn tất nó một cách khéo léo, Huynh phải khám phá tại sao con người tưởng cách nầy hay cách kia và thành kiến của họ sinh ra cách nào, phải quyết định dẹp qua một bên thành kiến của Huynh, nếu không Huynh có nguy cơ kéo người đó từ quan điểm lầm lạc nầy tới quan điểm khác, cũng lầm lạc luôn.

            Nguồn gốc những quyền lợi lạ lùng của nhiều người vốn ở trong Cái Vía. Cái Trí c̣n đang ở trong thời kỳ phát triển như người ta thấy điều đó trong những hiện tượng bao quanh chúng ta trên Cơi Thượng Giới sau khi con người bỏ xác. Khi người bậc trung ở giai cấp cao qua Cơi Trung Giới họ rất có thể tham gia một cách khôn ngoan vào đời sống tại cơi nầy, mặc dù tất cả những người chết vẫn không làm như vậy; bởi v́ sau khi bỏ xác, chất khí làm Cái Vía sắp lớp lại lẹ làng; [135] sự hoạt động của nhiều người bị giảm sút đi rất nhiều. Những năng lực của Cái Vía đă mở mang tốt đẹp và sẵn sàng phục vụ, mặc dù nhiều người không biết họ làm cái chi, họ không biết cách sử dụng chúng nó. Khi qua Cơi Trung Giới, những người chết nào đă thông thạo vấn đề nầy ở trong một t́nh trạng giúp họ tự biểu lộ một cách trọn vẹn hơn trước kia họ c̣n ở trong xác thịt. Nhưng mà khi lên Cơi Thượng Giới th́ thường thường không phải như vậy.

            Ở Cơi Thượng Giới, chúng ta thường gặp họ hoạt động trong Cái Trí của họ. Họ ở trong đó và bị nhốt kín cho đến đỗi với họ Cái Trí là một lớp vỏ bao, hơn là một sự biểu lộ đời sống của họ. Đây là ư nghĩa của kinh sách xưa, chúng nói một cách quả quyết rằng "trên Cơi Thiên Đường con người ở riêng biệt cách xa tất cả." Người ta thường nói Cơi nầy như là một miền dành riêng cho các Linh Hồn trên Cơi Thượng Giới. Không phải vậy. Mỗi người đều tự nhốt ḿnh trong cái vỏ tự ḿnh làm ra. Họ không bao giờ tham gia vào đời sống của Cơi Thượng Giới. Họ không đi lại tự do, họ không tiếp xúc với kẻ khác như hồi họ c̣n ở Cơi Trung Giới. Trong cái vỏ của họ, những lỗ trống giúp cho sự sống bên ngoài tới với họ là những cánh cửa mà họ tự làm ra khi họ làm cho Cái Trí của họ phát triển cách nầy hay cách kia. Việc họ sử dụng Cái Trí giúp họ ứng đáp được với những ảnh hưởng của Cơi Thượng Giới; dù họ sử dụng Cái Trí của họ cách nào, họ cũng lănh lấy hậu quả trong kiếp sống của họ trên Cơi Thiên Đàng. Những hậu quả nầy giúp cho họ tiếp xúc với ngoại giới trong một giới hạn nào đó. Nhưng mà ảnh hưởng của họ đối với những nhân vật ở cơi Thượng Giới rất ít hơn là ảnh hưởng của những nhân vật nầy đối với họ, bởi v́ thường thường họ biểu lộ trên cơi nầy nhờ những vận hà rất chật hẹp.

            Trong những thời kỳ đầu tiên của Hội Thông Thiên Học chúng tôi không hiểu việc nầy. Nó chứng minh rằng Cái Trí của con người bậc trung chỉ mở mang có một phần. Hăy xem xét những biểu lộ của nó tại cơi Trần trong xác thịt, chúng ta cũng đi tới một kết luận như thế. Tôi tưởng ai cũng đều thấy những sự giới hạn nầy trong tất cả mọi người. Nếu chúng ta muốn, chúng ta có thể thấy những sự giới hạn đó trong ḿnh chúng ta; nhưng điều nầy khó hơn là thấy chúng nó ở trong ḿnh những kẻ khác. Thí dụ, ta nói chuyện Thông Thiên Học với những người lạ. Vài người biểu lộ một cách rất thích thú; mấy người khác không biết đó là cái ǵ? Họ nghe Huynh, rồi họ nói: "Phải! Phải!" nhưng họ không cảm thấy sự lợi ích nào cả. Thường thường lư do của những khuynh hướng trái ngược nầy là do có những người nhiều kiếp trước đă biết những tư tưởng như thế, c̣n mấy người khác th́ không biết. Tôi nghĩ rằng tôi lầm lạc khi tôi tưởng tất cả những người văn minh cả ngàn năm trước chắc chắn đă biết quan niệm nầy trong những tiền kiếp của họ. Tất cả những người đă đầu thai, dù có một lần thôi, tại cổ Ấn Độ hay cổ Ai Cập, hay là những người đă được xét ra xứng đáng biết những Bí Pháp ở Hy Lạp hay ở La Mă, phải có vài sự hiểu biết về những quan niệm nầy. Vài người đă học hỏi chúng nó một cách thâm sâu, họ đă làm phát triển những phần đối chiếu với chúng nó trong những Cái Trí của họ. Mấy người khác không hiểu và không lo lắng chi cả về điều đó. Như họ nói, họ chỉ t́m cách làm cho đời sống được thú vị; ngoài những sự ham muốn thô bỉ thấp hèn, đầu óc đối với họ thật vô ích. Dù Huynh khuyên được họ đọc một trương sách Thông Thiên Học đi nữa, họ cũng không nhớ ǵ hết.

            Cái óc xác thịt nhận lănh một sự giáo dục đối chiếu với cách hoạt động mà chúng ta muốn nó phải thực hiện; đây chính là điều chúng ta phải làm trong Thông Thiên Học. Những người chấp nhận Thông Thiên Học không khó khăn và một cách sốt sắng đă chấp nhận, một phần bởi v́ Thông Thiên Học ứng đáp với nhiều vấn đề mà họ đă đưa ra; một phần, bởi v́ trong nhiều kiếp trước họ đă quen thuộc ít nhiều với những quan niệm nầy. Đầu óc họ đă có những phần thích hợp với chúng nó. Một người mà cái óc không thích hợp với quan điểm Triết Học phải chịu nhiều khó nhọc t́m hiểu Thông Thiên Học. Chúng ta đưa cho Y một sự giải thích rất dễ, chắc chắn Y chỉ đồng hóa có một phần những khái niệm tổng quát mà thôi. Về việc nầy, nhiều sự huấn luyện rất cần thiết, người bậc trung không gặp cái ǵ hết trong Thông Thiên Học; hiện giờ tôi không nói về sự khôn ngoan hay là sự khờ khạo của Y, tôi chỉ nói về Y không quen thuộc với loại ư niệm nầy, v́ con người cần phải được huấn luyện về điều đó. Sự huấn luyện nầy trước nhất nhờ Tôn Giáo. Về phương diện đạo đức, Y phải chịu một sự huấn luyện theo từng cấp bậc. Một Tôn Giáo phát triển trọn vẹn phải thích ứng với tất cả các hạng Tín Đồ. Khi mới ra đời, các Tôn Giáo đều thành công về điều nầy; thời gian qua, vài Tôn Giáo đă mất phần nầy hay phần kia của Giáo Lư ḿnh và có khi bị ứ đọng lại như kết tinh một cách đáng buồn.

            Nếu chúng ta muốn hiểu biết quần chúng, chúng ta nên nhớ họ đă mở mang hay đă chậm tiến về điểm nào. Chúng ta nên nhớ rằng Cái Trí chưa được phát triển trọn vẹn; Thượng Trí hay Nhân Thể c̣n ít mở mang hơn nữa, cho đến đỗi trong đám b́nh dân, công việc Thông Thiên Học gần như vô ích. Những người đă học hỏi Thông Thiên Học hiểu được rất nhiều đời sống, về phương diện nầy trí hóa họ rất mở mang; có khi họ có khuynh hướng tự măn khi đă được thành công. Họ tưởng rằng về phương diện trí thức, họ không c̣n cái chi phải làm nữa. Thường thường họ lầm vậy và chẳng sớm th́ muộn họ phải luyện tập Cái Trí họ lại.

            Sự hoạt động của Linh Hồn, là điều mà chúng ta muốn học hỏi ở mỗi người, nhưng mà không phải dễ học hỏi mỗi người một cách như nhau; khi t́m hiểu những người anh em đồng loại với chúng ta đừng quên điều nầy. Một mặt trong mỗi người, luôn luôn chúng ta phải nghĩ tới những yếu tố tốt đẹp và hy vọng những việc làm của họ giống như điều mà ta muốn thấy. Chúng ta giúp họ rất nhiều khi chấp nhận thái độ tư tưởng nầy. Người ta thường thấy nếu một người kia có lẽ dính líu vào một sự giao dịch khả nghi mà Y được người ta kính nể để chứng tỏ rằng người ta tin cậy vào danh giá của Y, Y sẽ tỏ ra xứng đáng với ḷng tin cậy nầy. Một mặt khác, nếu y làm cho chúng ta ngờ vực, Y chắc chắn sẽ xứng đáng với sự ngờ vực đó. [136]

            Thật vô ích cảm thấy sự bất măn khi một người nào đó không tuân theo nguyên tắc của chúng ta. Đừng trách cứ một người nào v́ Y đă như thế và đang ở vào giai đoạn tiến hóa hiện thời của Y. Nếu là một người đức hạnh rất cao, chúng ta có thể tự nói:" Rất tiếc! Anh hơn cái đó nhiều lắm!" Nhưng không có lư do nào để giận hờn, không có ích lợi nào cả. Chúng ta hăy có ư kiến hết sức tốt về mỗi người đồng loại với chúng ta và giúp họ chọn những tánh tốt của họ làm hướng đạo cho họ. Nếu họ không đạt được điều đó chúng ta hăy chịu thất vọng một cách nhẫn nại như một Triết Nhân. Đừng cau có, đừng nóng ḷng, bực bội, hăy bằng ḷng giúp đỡ họ tùy theo tŕnh độ tiến hóa của họ hiện thời. Tôi tưởng, đó là bài học của châm ngôn: "Hăy tập xem xét một cách khôn ngoan trong tâm  của con người."

            Đây là những lời chú giải rất dài của Chơn Sư Hilarion. Chúng ta hăy xem xét đoạn nầy với những chi tiết, được tŕnh bày như sau đây:

            Về một quan điểm vô ngă tuyệt đối, bằng không, th́ sự thấy của con sẽ bị lu mờ. Thế nên, sự vô ngă phải được hiểu biết trước nhất.

            Đối với chúng ta, Vô Ngă thường có nghĩa là công b́nh, điều ḥa, lấy một quyết định mà không có sự thiện cảm hay oán ghét dự vào, cũng như một vị Thẩm Phán ở tại ṭa án. Nhưng Chơn Sư muốn nói nhiều hơn nữa. Đối với Ngài, Vô Ngă là một t́nh trạng trong đó chúng ta hoàn toàn vượt lên cao hơn Phàm Nhơn cho đến đỗi chúng ta xem xét vạn vật chẳng những với một cách vô tư trọn vẹn mà c̣n theo quan điểm của Chơn Nhơn nữa. Đó là điều rất khó khăn. Muốn đi tới bậc toàn thiện, Thượng Trí hay Nhân Thể của chúng ta phải phát triển đầy đủ. Phần đông con người c̣n đang mở mang Hạ Trí. Những Sinh Viên Huyền Bí Học cố gắng đi xa hơn một chút, nhưng tới bây giờ đây những người dùng được Thượng Trí một cách khá dễ dàng tương đối thật hiếm có. Khởi đầu, Sinh Viên phải dùng lư luận; Y phải có một ư niệm về quan điểm của Linh Hồn phải là thế nào rồi chăm chú vào đó và loại ra tất cả những cái chi c̣n lại.

            Thật khó tập tánh Vô Ngă. Một sự căi vă xảy ra giữa hai người, một người là bạn thân thiết của Huynh, Huynh biết y cặn kẽ, c̣n người kia là xa lạ. Chúng ta không thể nào không nghiêng một chút về phía người bạn thân thiết của chúng ta; điều nầy không phải là vô lư bởi Huynh biết người bằng hữu của Huynh nhiều hơn người kia. Khi người ta càng biết về một người nhiều chừng nào, người ta càng hiểu Y nhiều chừng nấy, và người ta càng khoan dung đối với Y. Rất khó mà không thiên vị một người bạn thân của chúng ta.

            Tôi không tin rằng luôn luôn chúng ta hiểu được chúng ta tùy thuộc những cảnh ngộ và những người thân cận chúng ta tới một điểm nào. Sinh ra ở ngoại ô của một thành phố lớn, chúng ta lớn lên biết được một ṿng chật hẹp; trong ṿng nầy chúng ta chọn lựa được vài người bằng hữu. Chúng ta đổi chỗ ở và trong những xóm mới, chúng ta kết nghĩa với vài người bạn thân khác, mà trước nhất t́nh bằng hữu của chúng ta tùy thuộc chỗ chúng ta cư ngụ. Nếu chúng ta sinh ở một ngoại ô khác chắc chắn chúng ta sẽ có những người bạn thân khác.

            Có khi những người hội họp như thế thương yêu nhau và kết làm vợ chồng. Họ không hiểu rằng nếu họ sinh ra ở chỗ khác, chắc chắn họ sẽ có những t́nh cảm đó đối với những kẻ khác. Sự gần gũi đóng vai tṛ quan trọng. Quả thật Nhân Quả có dự vào nhiều trường hợp, nhưng sự kết hôn thường do sự kế cận chỉ định. Những người lân cận chúng ta, cũng như thường thường là hoàn cảnh của chúng ta, ảnh hưởng đến chúng ta một cách mạnh mẽ. Tất cả những điều nầy làm cho chúng ta khó mà xem được trong ḷng dạ của thiên hạ và cuối cùng trong ḷng dạ của chúng ta.

            Chúng ta có khuynh hướng xét đoán tất cả những sự vật tùy theo cách chúng có ảnh hưởng đến chúng ta. Nhiều người không đủ sức ở vào một phương diện ít chật hẹp hơn và xem xét những sự vật tùy theo cách chúng có ảnh hưởng đến cả một nước. Trong thời đại phổ thông đầu phiếu của chúng ta, những gương thí dụ tràn ngập. Nhiều người chỉ xem xét việc bỏ phiếu có ảnh hưởng đến họ mà thôi, h́nh như họ không đủ sức hiểu rằng chúng ta có bổn phận đối với tập đoàn. Họ không cố ư để tư tưởng của tập đoàn lệ thuộc của tư tưởng cá nhân họ, nhưng có một tư tưởng cao siêu mà họ không hề biết.

            Tôi đă giải nghĩa có ba cách thức mà Linh Hồn có thể phát triển và ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta. Trước hết là cách thức các nhà đại bác học và đại triết gia ở tại Cơi Trần. Họ đă mở mang không những Hạ Trí mà c̣n mở mang Thượng Trí của họ cho đến đỗi một phần lớn những tư tưởng trừu tượng và hiểu biết kỳ diệu đến trong tư tưởng b́nh thường của họ và luôn luôn họ không thể phô diễn chúng nó trong những tác phẩm của họ. Những người có thiên tư về phương pháp nầy phải trải qua giai đoạn của nhà Đại Bác Học hay là nhà Triết Học. Sự mở mang Thể Bồ Đề hay là Kim Thân sẽ đến sau đó rất lâu.

            Hai là: Có thể những cảm xúc cao thượng, như một t́nh thương nồng nàn, sùng đạo hay là sự thiện cảm kích thích rất nhiều Kim Thân (Thể Bồ Đề) mà không mở mang đặc biệt Thượng Trí ở chính giữa, nhưng Thượng Trí bị ảnh hưởng. Sự mở mang nào của Thể Bồ Đề cũng ảnh hưởng rất mạnh đến Thượng Trí. Phần đông những Sinh Viên của chúng ta chuyên tâm áp dụng những sự cảm xúc cao thượng để ảnh hưởng đến Thể Bồ Đề. Tôi không muốn nói rằng họ đă mở mang Thể Bồ Đề và có thể sống trong đó một cách vĩnh viễn. Điều nầy đáng quí chuộng một cách tột bực, nhưng đối với phần đông chúng ta khó mà thực hiện được. Quả thật, việc sử dụng những cảm xúc cao thượng làm phát khởi những sự rung động trong Chất Bồ Đề, sự hoạt động của chúng đem sinh khí lại cho chất nầy vốn chưa có h́nh thể nhất định; như thế nhiều sự rung động của chất nầy đi xuống và ảnh hưởng đến Cái Vía. Như vậy có thể mượn Cơi Bồ Đề một ảnh hưởng khá lớn lao trước khi Thể Bồ Đề mở mang trọn vẹn.

            Ba là: C̣n lại một phương pháp thứ ba khó hiểu hơn. Nó làm cho ư chí hoạt động mạnh mẽ. Cái Vía phản ứng đến Thể Bồ Đề (Kim Thân). Hạ Trí phản ứng tới Thượng Trí. Xác Thân phản ứng tới Tiên Thể. Về điểm nầy tôi không biết chi hết. Phần đông những Sinh Viên tiến bộ do sự sùng bái các Chơn Sư  và do một thiện cảm nồng nàn đối với đồng loại.

            Trí Tuệ vốn vô tư : Không ai là thù, không ai là bạn. Tất cả đều là Thầy của con cả. Kẻ thù của con là một sự bí ẩn cần phải giải quyết, dù phải bao nhiêu thế kỷ, bởi v́ con cần hiểu biết con người.

            Nếu Huynh có những bằng hữu Huynh phải biết ơn về điều đó; nhưng trong những trường hợp đặc biệt nầy Huynh xem xét họ một cách vô tư như từ trên cao, Huynh nói: "Họ là những bằng hữu của tôi. V́ thế với tư cách là Linh Hồn chúng ta hội họp với nhau ở đây." Như vậy chắc chắn sẽ thấy hoặc có những điểm lớn tương đồng giữa huynh và các bạn thân, hoặc họ và quí Huynh bổ túc với nhau, những rung động của họ và của quí huynh ḥa hợp với nhau và tạo thành một toàn thể tốt đẹp.

            Cũng thế, theo quan điểm nầy không có người nào là kẻ thù của Huynh. Nếu người nào ngông cuồng muốn lănh vai tuồng đó, huynh hăy nói: " Tại sao Huynh ấy lại làm như vậy? Huynh ấy không có cảm t́nh tốt đẹp như thế đối với tôi, nếu trước kia tôi không cho Y cơ hội đó. [137]  Chúng ta hăy t́m xem trong những trường hợp nào mà chúng ta sẽ có thể giúp Y thay đổi thái độ ấy.”

            Bạn con là một thành phần của con, một sự nới rộng của con người con, một bí ngữ khó hiểu. Có sự kiện khó hiểu hơn nữa là chính là ḷng con. Khi nào những xiềng xích của Phàm Ngă nới lỏng, con mới bắt đầu hiểu được sự sâu kín của Bản Ngă.

            Người ta có thể biết một người kia rất nhiều. Có khi người ta đi đến một vùng kỳ lạ trong Tâm Thức Y. Người ta nói không thể nào hiểu biết trọn vẹn một người nào dù ở chung với họ trong một kiếp sống lâu dài; tôi tưởng đó là một Đại Chân Lư. Đối với Chơn Sư th́ lại khác. Chúng ta được một trong sự an toàn lớn lao khi chúng ta liên kết với các Đấng Chơn Sư. Chúng ta  chắc chắn tuyệt đối là các Ngài biết rơ chúng ta nhiều hơn chúng ta tự biết ḿnh và tất cả những ǵ ở trong chúng ta không lọt qua mắt các Ngài được. Chúng ta thấy những nhược điểm của chúng ta, những sự yếu đuối về Tinh Thần của chúng ta và chúng ta cố gắng t́m cách cải thiện chúng nó. Có thể chúng ta c̣n nhiều tật khác mà chúng ta không thấy và chúng sẽ hiện ra trong cơn khủng hoảng hay là trong lúc khẩn trương. Như thế, chúng ta thường tưởng rằng nếu Chơn Sư biết mấy tánh đó, không sớm th́ muộn Ngài làm cho mấy tánh xấu, mà chúng ta không biết, lộ ra và như vậy Ngài giúp chúng ta diệt trừ chúng. Những người được Ngài thâu nhận làm Đệ Tử và đem đến gần Ngài dù sao cũng được sự an ủi mà tự nhủ rằng họ không có thể hư đốn đến đỗi không phương nào sửa chữa được, và dù cho họ có lư do khiêm tốn tự cho rằng họ vốn là tầm thường. Ở mọi giai đoạn của sự tiến hóa nội tâm, sự cố gắng cần thiết về phần chúng ta và nó sẽ do ư chí của chúng ta quyết định. Chơn Sư không thể thay chúng ta làm việc đó, mặc dù Ngài có thể giúp đỡ chúng ta và Ngài giúp đỡ chúng ta với từ điện của Ngài, T́nh Thương của Ngài, Cảm T́nh của Ngài, cũng như ảnh hưởng gián tiếp của Ngài sử dụng do trung gian của một vài Đệ Tử của Ngài. Ngài giúp đỡ chúng ta chỉ khi nào Nhân Quả (Karma) của chúng ta cho phép Ngài làm điều đó. Chúng ta hăy chuẩn bị cho cơ hội sau nầy, và khi nó đến mau chụp lấy liền, không do dự; như thế chúng ta sẽ tự chuẩn bị dễ dàng cho cơ hội khác sẽ đến sau. Một lẽ khác, Chơn Sư không có quyền giúp đỡ chúng ta, bởi v́ Ngài cũng phải phục tùng Đại Luật Nhân Quả, mặc dù ư Ngài muốn đưa lên tức khắc đến địa vị Siêu Phàm. Ngài bị cản trở điều đó. Cái điều chắc chắn trên Đường Đạo, chúng ta nhận lănh sự giúp đỡ của Ngài khi chúng ta đáng được trợ giúp, bởi v́ Ngài cũng là một vị Bằng Hữu, theo ư nghĩa thường của danh từ nầy, Ngài không thể ban cho chúng ta cái ǵ mà chúng ta không xứng đáng được. Thật sự Ngài chỉ giúp chúng ta được chỉ khi nào chúng ta liên kết với Ngài.

            Khi nào con đứng ngoài Bản Ngă, con mới có thể hiểu được nó. Tới chừng đó và chỉ tới chừng đó, con mới hiểu rơ và điều khiển nó được. Tới chừng đó và chỉ tới chừng đó, con mới có thể sử dụng tất cả mănh lực của nó hiến dâng cho công việc phụng sự xứng đáng.

            Ở đây, lẽ dĩ nhiên là Chơn Sư tưởng đến Bản Ngă cao siêu, Chơn Nhơn trong Thượng Trí. Chơn Nhơn trông nom Bản Ngă thấp thỏi và d́u dắt nó. Như chúng ta đă thấy, tất cả mấy điều nầy có thể giải thích theo nhiều tŕnh độ khác nhau, tùy theo địa vị các Đệ Tử hay các Chơn Sư. Ở những người nầy, công việc của Chơn Nhơn trong Thượng Trí (Nhân Thể) là làm chủ Phàm Nhơn và điều khiển nó tại Trần Thế. Ở những người khác th́ công việc của Chơn Thần là trông nom và điều khiển Chơn Nhơn. Phận sự nầy hoàn tất rồi - ấy là công việc của Chơn Sư - Ngài phải nhắm vào một mục đích trực tiếp kế đó cao siêu hơn Chơn Thần và dắt dẫn Chơn Thần triệt để làm đúng theo mục đích nầy.

            11.- Hăy quan sát hết sức kỹ lưỡng tấm ḷng con.

             Bởi v́ tấm ḷng con là con đường nơi đó chiếu ra ánh sáng độc nhất có thể đủ năng lực soi sáng đời sống làm cho đời sống trở nên sáng suốt trước mắt con.

            Không khi nào Huynh gặp được Đức Thượng Đế ở ngoài trước khi biết được quyền năng của Ngài ở trong ḿnh Huynh. Ánh Sáng độc nhất xuyên qua tấm ḷng Huynh. Nó có khả năng soi sáng đời sống và làm cho Huynh hiểu nó. Một sự giúp đỡ ở bên ngoài có thể tán trợ rất nhiều sự kêu gọi ánh sáng nầy. Đức Tôn Sư của Huynh không thể cho Huynh ánh sáng nầy, mặc dù Ngài có thể giúp Huynh làm nảy sinh ánh sáng đó trong ḿnh Huynh; nó phải khởi sự từ trong thâm tâm. Thật sự nó ở tại đó, dù Huynh biết hay không biết điều nầy cũng vậy.

            Chúng ta phải t́m được một sự ban ân huệ và một sự khích lệ cực độ trong vấn đề mà Giáo Lư Thông Thiên Học đă tuyên bố và thường nhấn mạnh là : Đấng Thiêng Liêng ở trong ḿnh chúng ta và chúng ta hoàn toàn thuộc về thành phần của Ngài. Bởi v́ chúng ta thường quên ư thức về Giáo Lư đó cho nên đôi khi việc xảy đến cho chúng ta, là thấy sự yếu đuối của chúng ta không đủ sức làm cho chúng ta hiểu rơ sự sống rộng lớn, sự thâm sâu và sự huyền  diệu của Cơ Trời. Người ta thường quên rằng họ là một với Đức Thượng Đế mà có bao giờ họ biết điều đó. Muốn đạt được một tŕnh độ của sự phát triển hoặc là một hạnh phúc thật sự hay là Chân Lư nào khả dĩ thiết lập được sự điều ḥa giữa họ và phần c̣n lại của Thế Giới, chỉ có một phương pháp mà thôi; ấy là càng ngày càng đến gần sự biểu hiện của Đức Thượng Đế. Tất cả những nhà Thần Bí Học đều quả quyết điều nầy: "Chỉ có một điều mà thôi, là do Đức Thượng Đế trong nội tâm mà chúng ta mới thật gặp Đức Thượng Đế ở ngoài chúng ta." Chơn Sư đă nói trước đây: "Nếu con không đủ sức thấy ánh sáng ở trong ḿnh con, th́ rất vô ích t́m nó ở ngoài."


CHƯƠNG   5

QUI TẮC 13

 

            C.W.L. – Nơi đây của Phần Thứ Hai trong quyển Ánh Sáng Trên Đường Đạo, sự đánh số qui tắc lại thay đổi. Chúng ta không gặp những câu cách ngôn của quyển viết tay sắp hàng ba, và kế đó giảng lư của Đức Đế Quân. Bây giờ chúng ta đến qui tắc thứ 13 do Đức Đế Quân đưa ra.

            13. - Lời nói chỉ đến với sự hiểu biết. Con hăy hoạch đắc sự hiểu biết và con sẽ nói được.

            Chú giải của Đức Hilarion thêm vào :

            Không thế nào giúp đỡ kẻ khác khi mà riêng con, con chưa bắt đầu có một sự hiểu biết chắc chắn.

            Người ta có thể học hỏi cặn kẽ hệ thống Thông Thiên Học, xem xét nó về tất cả những phương diện, so sánh nó với những lư thuyết khác đă cố gắng giải thích những điều kiện dưới Trần Thế và đi đến sự kết luận rằng nó quả là giả thuyết tốt đẹp nhứt đă tŕnh bày cho con người từ xưa đến nay, và chấp nhận nó như là Chân Lư. Tôi tưởng, thật ra, mấy điều nầy không thể gọi là "Hiểu Biết" được, nhưng ít ra nó cũng làm ra một sự tự tin chắc đầy đủ và hữu lư giúp chúng ta hành động v́ hiểu biết lư do.

            Khi tham khảo Giáo Lư của Công Giáo chính thống, chúng tôi thấy liền nó không vững vàng, không chắc chắn, mặc dù nó tự phụ cắt nghĩa được tất cả. Chúng ta khó t́m được một lư thuyết làm cho chúng ta thỏa măn. V́ vậy, nhiều người Công Giáo rất sợ suy nghĩ. Khi mà chúng ta hiểu được sự giải nghĩa của Thông Thiên Học về sự sống, địa thế ở dưới chân chúng ta lại được vững vàng. Một người ở ngoài đến hỏi chúng ta những giải thích minh bạch; có lẽ họ thấy những quả quyết của chúng ta rất mạnh mẽ, rất trực tiếp, rất hoàn toàn, họ mới hỏi chúng ta: "Mấy Huynh có bằng cớ ǵ về mấy điều  đó không?" Họ có thể hoài nghi về sự xác thực  của bằng cớ nầy hay bằng cớ nọ, nhưng mà triết lư của chúng ta, xem xét về toàn diện, không ai chối căi việc ít nữa nó tiêu biểu cho một lư thuyết có mạch lạc và nếu điều đó đúng thật th́ bất cứ vấn đề nào cũng phải giải nghĩa được cả. Trong nhiều trường hợp, những lư thuyết khoa học cũng không đ̣i hỏi nhiều hơn điều nầy. Một số những sự việc để trước mắt chúng ta; giả thuyết phải có một sự giải thích chúng nó, đây nầy là một sự giải thích cao siêu hơn hết, nó cắt nghĩa thật rành rẽ tất cả những sự quan sát đă thu thập được, như vậy chúng ta tạm gọi nó là đúng vậy.

            Khi tôi học hỏi để hiểu biết Thông Thiên Học, tôi đă làm Linh Mục trong Giáo Hội Anh Quốc, nhưng tôi ngờ vực nhiều Giáo Điều, tôi cố tránh, không giảng một Giáo Điều nào cả. Tôi dạy và tôi chứng minh Khoa Luân Lư. Gặp Thông Thiên Học một lư thuyết khả dĩ thừa nhận được, tôi rất sẵn sàng chấp nhận nó. Tôi có một chút ít bằng chứng, nói tóm lại, thuở đó tôi có những bằng chứng giống như những bằng chứng của chúng ta có, để giải thích những chuyện Thiên Văn, hoặc để biện hộ cho nhiều lư thuyết được Thế Giới công nhận trong Hóa Học hay trong Vật Lư Học. Nhiều sự thí nghiệm nhờ những lư thuyết nầy chứng minh, nhưng c̣n nhiều chuyện khác không giải thích được.

            Kế đó tôi gặp Đức Bà Blavatsky, tôi xem xét vài việc và thấy h́nh như chúng chứng thực vài sự quả quyết của bà. Lẽ tự nhiên, điều nầy không biện minh được tất cả những điều c̣n lại. Nhưng khi vào Hội Thông Thiên Học chưa đầy ba năm, tự riêng tôi, tôi có thể tin chắc vào những vị Đại Sư, như Bà đă nói với tôi. Sự kiện nầy biện hộ cho cái ǵ c̣n lại. Hơn nữa, tất cả những sự xác nhận của Bà đều phù hợp với nhau một cách lạ lùng đáng phục và tạo thành một toàn thể tuyệt diệu.

            Sau đó, tôi có thể thực hiện được vài sự quan sát trực tiếp và cho tới ngày nay tôi không hề gặp sự sai lầm nào trong những Đại Chân Lư Bà đă tŕnh bày cho chúng tôi nghe. Trong những tác phẩm của Bà, Bà cho chúng tôi không biết bao nhiêu bài học mà những sự hiểu biết trực tiếp của tôi chưa giúp tôi hiểu biết tất cả. Cho tới ngày nay, tôi cũng chưa hiểu được ư nghĩa của vài sự xác nhận của Bà, nhưng càng ngày tôi càng học, tôi càng nhận thấy sự hiểu biết rộng lớn của Bà, mặc dù Bà nh́n nhận trong những quyển sách của Bà viết có nhiều sự sai lầm. Tôi từ bỏ việc t́m kiếm chúng nó. Trước nhất, khi chúng ta gặp một đoạn văn mà chúng ta không hiểu được th́ chúng ta tưởng rằng, đó là một trong những sai lầm, nhưng về sau chúng ta t́m thấy chính là chúng ta lầm lạc, v́ chúng ta không hiểu rơ. Chắc chắn có những sai lầm, mà khi chúng ta tiến bộ khá nhiều trong sự học hỏi của chúng ta, chúng ta sẽ khám phá ra chúng nó. Tôi tính sắp xếp vài sự xác nhận của Bà vào loại sai lầm, nhưng tôi tránh việc đó, tôi không làm việc ấy trước khi tôi biết chắc chắn chúng nó không đúng với sự thật; tốt hơn là hăy nhận lănh chúng nó một cách kính cẩn.

            Thật vậy, những điều hiểu biết đích xác giúp cho chúng ta có vài niềm tin chắc chắn; người ta nói với tôi điều đó. Nhiều người nhận thấy những cuộc đàm thoại của tôi làm cho họ tin được. Những người khác, không có sự hiểu biết trực tiếp nhưng tài hùng biện hơn tôi rất nhiều, họ tŕnh bày những ư tưởng nầy đứng về phương diện cá nhân. Nhiều thính giả nói với tôi: "Phải! Mà ông có biết điều đó không?" Tôi bèn trả lời: "Đúng vậy, tôi biết điều đó, mặc dù tôi quả quyết, ai chứng minh với Huynh rằng tôi nói thật". "Chúng tôi không biết, nhưng chúng tôi có một cảm giác khác nhau tùy theo một người nói những điều mà họ đă tự nhận thấy hay là họ chỉ tŕnh bày cho chúng tôi kết quả của những sự đọc sách và những sự học hỏi của họ." [138] Người ta có thể gặp tất cả những sự tương tợ như thế, chúng chỉ rơ rằng không thể giúp đỡ kẻ khác trước khi tự ḿnh chưa đi đến một tŕnh độ chắc chắn nào đó. Muốn nâng đỡ một người lên trên những lượn sóng, phải cảm biết dưới chân ḿnh có một tảng đá.

            Khi một Linh Hồn biết, nó truyền sự tin chắc của nó cho nhiều người khác, và tới phiên mấy người nầy tự tuyên bố rằng họ tin. Chắc chắn tại Cơi Trần và với cái óc xác thịt không đưa ra được những lư do, nhưng họ cảm thấy tự nhiên họ biết. Không thể giúp đỡ những người khác trong sự phát triển cao siêu của họ, hay là đem những Đệ Tử đến gần các Đấng Tôn Sư của họ, nếu không có sự hiểu biết trực tiếp đă hoạch đắc được.

            Sự khác biệt nầy hiện ra rơ rệt trong những quyển sách do Đức Bà A. Besant viết. Ba quyển đầu tiên: Bảy nguyên tố làm ra Con Người, Luân Hồi, Sự Chết và Bên Kia Cửa Tử  viết ra trước khi Bà thấy rơ những điều đó. Bà biết rằng Bộ Giáo Lư Bí Truyền  là một công tŕnh tuyệt tác, nhưng nó rất khó khăn cho Sinh Viên bậc trung; nếu Y không có một sự học hỏi dự bị, Y không hiểu được một phần mười [139] những lời nói trong đó. Với nghị lực đặc biệt của Bà, bà bắt đầu làm việc và ra công soạn thảo cho các bạn thêm vài toát yếu, chỉ do theo những sự đọc sách của bà và do những câu trả lời của Đức Bà Blavatsky cho vài câu hỏi của Bà nêu ra. Tôi tự hỏi: Nếu một người khác ra công khảo cứu một ḿnh Bộ Giáo Lư Bí Truyền có thâu thập được một kết quả như vậy không? Bà có tài kỳ lạ là đối chiếu những vấn đề rồi làm sáng tỏ chúng nó. Trong lúc Bà soạn quyển thứ tư - Nhân Quả - Bà bắt đầu thấy guồng máy những Luật nầy. Tôi viết  quyển Cơi Trung Giới và Cơi Thiên Đường. Về phần Bà, Bà viết quyển thứ bảy: “Con Người và Những Thể Của Nó.” Trong lúc xuất bản quyển nầy, Bà hoạch đắc thiệt thọ năng lực thấy trực tiếp (tức là Huệ Nhăn).[140] Một mặt là quyển “Nhân Quả” và một mặt là quyển “Con Người và Những Thể Của Nó” tŕnh bày sự khác biệt của giai đoạn rất rơ rệt. Quyển nầy và quyển kia chỉ rơ Bà có sự hiểu biết trực tiếp về vấn đề Bà viết. Trong mấy quyển khác, Bà đưa ra những dẫn chứng và mặc dù Bà biết dung hợp chúng nó trong quyển sách với tài ba phi thường của Bà, ba quyển đầu tiên vẫn chứa đựng nhiều đoạn không được minh bạch và rất khó hiểu. Bà thường nói Bà muốn viết lại chúng nó, nhưng luôn luôn Bà xuất bản những quyển mới, Bà không có ngày giờ để làm việc ấy. Một mặt khác, Bà xem chúng nó như những tài liệu lịch sử để chứng tỏ những điều chúng ta đă hiểu biết và những điều chúng ta không hiểu biết trong thời đại đó.

            Ở những thời kỳ đầu tiên, những quan điểm của chúng ta c̣n thiếu sót nhiều và những lư thuyết của chúng ta có nhiều khuyết điểm. Quyển Phật Giáo Bí Truyền (Le Bouddhisme  ésotérique)  của huynh  A. P. Sinnett tiêu biểu một sự cố gắng đầu tiên của sự tổng hợp gần như đầy đủ và có thứ tự. Quyển nầy hoàn toàn căn cứ vào nhiều bức thư gởi cho Huynh Sinnett do trung gian của những vị Đệ Tử của Đức Chơn Sư  Kouthoumi. Ban sơ, chúng tôi cho rằng tất cả những câu trả lời nhận được vốn của Chơn Sư. Sau đó chúng tôi biết, nếu người ta có thể nói, chúng nó xuất phát từ Văn Pḥng, từ những người thân cận với Ngài. Những thư  đó chứa đựng cả ngàn lời chỉ dẫn, phần nhiều trả lời những câu hỏi của huynh Sinnett đưa ra. Đó là cội rễ của những quyển sách Thông Thiên Học đầu tiên của Huynh  Sinnett.

            Chúng tôi nhờ trước nhất là Tiến Sĩ  A. Besant; theo ư muốn của tôi, bà sắp đặt lại cho có thứ tự những vấn đề Thông Thiên Học và tŕnh bày những việc giúp cho độc giả nào cũng hiểu biết Thông Thiên Học. Thật khó khăn, và sự khác biệt thấy rơ ràng giữa công việc phi thường, do Tiến sĩ A. Besant thực hiện trong lúc chỉ có những sách vở là những vị Hướng Đạo và sau đó khi có được sự học hỏi trực tiếp. Đức Bà Blavatsky thấy nhiều việc trực tiếp và Cái Trí của Bà, theo chỗ hiểu biết của chúng tôi, thật phi thường, nó không hành sự như Cái Trí của chúng ta. Nếu người ta có thể nói một cách lễ phép và kính cẩn, Cái Trí của Bà thuộc về mẫu người Atlante, v́ nó tích trữ không biết bao nhiêu chuyện, nhưng không được sắp đặt chúng có thứ tự. Đức Swami T. Subba Rao gọi Bộ Giáo Lư Bí Truyền là một đống ngọc quí. Thật đúng vậy, nhưng tự ḿnh phải sắp đặt chúng ra từng loại. Tác giả không thấy cần thiết làm việc đó cho chúng ta.

            Trong thời gian  tôi đang học hỏi, tôi gặp nhiều tư tưởng rất mới mẻ đối với tôi, tôi bèn ghi chép, thấy trong đó không phải đúng là những sự khám phá mà là những tư tưởng không thể nào gặp ở mấy chỗ khác. Vài tháng sau hay là một hay hai năm sau, đọc lại quyển Phật Giáo Bí Truyền hoặc Bộ Giáo Lư Bí Truyền, tôi thấy tư tưởng trước kia dường như là mới mẻ vẫn ẩn tàng trong đó, nhưng không biểu lộ ra bằng những danh từ đích xác. Chắc chắn là do cách suy luận, chúng ta phải gặp nhiều tư tưởng mà mới đây được xem như là mới mẻ. Thấy những Chân Lư nầy do những tư tưởng đă có sẵn trước sinh ra cách nào, tôi phải khó nhọc mới hiểu giờ đây tôi không có đủ năng lực để suy luận một ḿnh. Trong mỗi kỳ Đại Điểm Đạo, kinh nghiệm nầy tái diễn một cách kinh dị: "Bí quyết của sự hiểu biết" được trao cho - đối với chúng ta dường như nó rất hiển nhiên, minh bạch. Chúng tôi tự nói: Tại sao tôi lại không thấy điều nầy một ḿnh? Nhưng chúng ta không hề thấy nó, không ai thấy nó trước khi được chỉ bảo. Không một bằng chứng nào cần thiết cho chúng ta. Chân Lư tự nó nói với chúng ta. Nó không cần sự chứng minh nào cả. Sự việc hiện đă có đó. Trọn đời chúng ta, nó ở trước mặt chúng ta mà không khi nào chúng ta thấy nó.

            Dù rằng sự mở mang trí thức của chúng ta xúi giục chúng ta trở nên kiêu căng, thứ kinh nghiệm nầy sẽ đem chúng ta trở lại với tánh khiêm tốn. Chỉ có các Đấng Chơn Sư mới giúp được con người một cách trọn vẹn. Sự hiểu biết của các Ngài vốn tổng quát, [141] nó lan rộng ra đến tất cả những Cơi cao siêu. Các Ngài không cần nhờ tới những sự hiểu biết tích trữ trong đầu óc các Ngài, như chúng ta. H́nh như các Ngài có thể điều khiển một năng lực nào đó vào điểm cần thiết cho các Ngài, liền đó các Ngài biết tức khắc tất cả những ǵ liên quan đến điểm đó. Chơn Sư cần dùng một sự chỉ dẫn nào, Ngài không t́m kiếm nó trong một tài liệu nào cả. Ngài chỉ nh́n vào vấn đề, sự thấy của Ngài soi thấu vạn vật. Ngài hiểu liền vấn đề đó cặn kẽ, tôi không biết v́ lẽ ǵ? Tôi tưởng tượng đó là ư nghĩa câu: "Tự giải thoát ra khỏi Vô Minh." Lẽ tự nhiên, không hề có một ai có được điều hiểu biết toàn vẹn do theo những phương pháp mà chúng ta dùng để học hỏi bây giờ đây. Người ta nói trắng ra rằng: Chướng ngại chót mà vị La Hán phải diệt trừ, chính danh đó là Avidya: tức là Sự Dốt Nát (trong kinh sách dịch là Vô Minh).[142]

            Chúng tôi hỏi: " Giải thích mấy tiếng đó như thế nào?  Chúng tôi phải biết cái chi? Câu trả lời cho chúng tôi như vầy: "Tất cả cái chi thuộc về Thái Dương Hệ." Viễn ảnh kinh khủng cho ai biết chút ít về những cơi thấp của Thế Giới chúng ta và đă mở mang Tâm Thức ở vài tŕnh độ cao siêu hơn. Tôi có thể quả quyết điều nầy. Mặc dù con đường của chúng ta dắt đến sự hiểu biết tổng quát, càng ngày chúng ta càng đi tới, chúng ta càng cảm thấy sự vô minh mù mịt càng thêm đè nặng. Mỗi lần chúng ta đi đến một mức độ cao siêu, chúng ta hiểu được nhiều việc mà trước kia chúng ta ao ước được nghe sự giải thích; đồng thời chúng ta thấy hiện ra trước mắt những vùng rộng lớn vô biên mà chúng ta không hiểu ǵ hết về chúng nó. Một Sinh Viên càng học hỏi, Y càng biết những điều c̣n lại mà Y cần phải học hỏi và những điều Y tưởng đă hoạch đắc được hết sức ít oi. Nhưng đó mới chỉ phân nửa của sự khó khăn, bởi v́ mỗi sự lên cao liên tiếp đều đem đến một trạng thái mới mẻ cho cái ǵ mà người ta đă biết rồi và bắt buộc họ phải bắt đầu học hỏi lại.

            Trong những đường lối mà chúng ta đă noi theo, không có con đường nào cho chúng ta một hy vọng lớn lao. Nếu chúng ta phải có sự hiểu biết tổng quát và Thiêng Liêng, mà muốn đạt được nó ắt phải có một phương thế khác hơn và nó sẽ tiết lộ ra khi chúng ta tiến bộ hơn trước. Bây giờ đây tôi nhận lấy tất cả một cách thản nhiên, đó là việc duy nhất phải làm. Tôi hoạch đắc những sự hiểu biết theo phương sách hiện thời, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Tôi áp dụng chúng, nhưng tôi biết chúng không bao giờ dắt tôi đến mục đích cuối cùng. Muốn học hỏi, phải có một phương pháp hết sức mới mẻ về phương diện đó. Tôi tưởng trong Tâm Thức Bồ Đề mà tôi đă nói, chúng ta gặp một sự chỉ dẫn sơ lược. Tâm thức nầy khỏi cần phải kết hợp lại những sự thu thập ở bên ngoài. Nó giúp cho con người nhập vô Tâm Thức của tất cả mọi vật, dù cho mấy vật đó là loại Kim Thạch, Thảo Mộc hay là Thiên Thần và hiểu biết họ về phương diện Nội Tâm. Vậy, như thế đó, người ta thấy tất cả đều là thành phần của Tâm Thức của chúng ta. Theo đường lối nầy nó có thể dắt đến mục đích. [143]

            Khi con học hết 21 qui tắc đầu và bước vào Đền Thụ Huấn với những quyền năng phát triển và sự hiểu biết mở rộng, con t́m gặp nơi con một nguồn phát sinh ngôn ngữ.

            Đền Thụ Huấn có nghĩa trước nhất là cơi Trung Giới, sau đó Chơn Sư gọi Đền Thụ Huấn là cái ǵ cao lắm. Trước nhất, khi sự kinh nghiệm ở cơi Trung Giới chỉ là việc vừa sức cho kẻ chí nguyện, Y có thể học hỏi nhiều việc ở cơi nầy; chúng toàn là mới mẻ đối với Y. Y hoạch đắc được những năng lực mà Y chưa biết đến, những viễn ảnh mở ra trước mắt Y trong nhiều phương hướng, giúp cho Y xem xét tất cả về một phương diện mới. Trước hết, Cơi Trung Giới gồm một thứ nguyên không gian hơn Cơi Trần.[144] Chúng ta hăy đề cập đến năng lực nh́n thấu suốt qua tất cả những vật hữu h́nh. [145] Cuối cùng, quan sát viên diễn tả mọi vật với danh từ thuộc về Cái Vía, điều nầy hoàn toàn khác hẳn sự thấy với con mắt xác thịt. Trong Thế Giới cao siêu hơn Cơi Trần có nhiều điều phải học hỏi, có nhiều điều phải làm, bởi v́ ở đó con người cần sự giúp đỡ nhiều hơn hết. Tại đó người ta gặp người mới chết trong những t́nh trạng khác nhau và ở trong giai đoạn phát triển khác nhau. Cũng ở đó, chúng ta giúp đỡ những Linh Hồn đau khổ trong khi chúng ta để xác thân chúng ta qua một bên. [146]

            Trong giai đoạn cao hơn nữa, con người được tự do trên Cơi Thượng Giới, tức là Cơi Trí Tuệ, cũng như phần đông chúng ta trên cơi Trung Giới khi chúng ta ra khỏi xác thân. Đệ Tử Chơn Sư học được phương sách đặc biệt làm phát triển Cái Trí đến mức sử dụng nó dễ dàng như sử dụng Cái Vía. Rồi họ học cách tạo thành Mayavi Roupa là Cái Vía tạm thời, không phải Cái Vía Trời sinh dính dấp với con người. Trên Cơi Trung Giới, ấy là một sự hóa h́nh giả mà chỉ có những người đă học được cách sử dụng Cái Trí để di chuyển mới làm được mà thôi.

            Trong giai đoạn kế, con người học cách sử dụng dễ dàng Thượng Trí hay Nhân Thể. Kế đó, dù cho các Thể thấp của Y sử dụng thế nào đi nữa, Y cũng vẫn giữ được Tâm Thức mới của Y tới một điểm nào đó. Khi dùng Cái Vía hay Cái Trí, Y không thể sử dụng trọn vẹn năng lực riêng biệt của Nhân Thể, bởi v́ hai Thể: Cái Vía và Cái Trí làm thành một bức màn che hay là sự giới hạn, nhưng Y nhớ được kinh nghiệm của Y trong Nhân Thể. Khi Y chọc thủng được bức màn ngăn cách Xác Thân và Cái Vía, Y nhớ lại trong đầu óc Y tất cả những ǵ Y đă làm trên mấy Cơi cao siêu, như thế đời sống của Y vẫn liên tục. Trong Nhân Thể, Tâm thức Y không bị gián đoạn trong lúc Y ngủ hay trong lúc Y thức, trong lúc Y c̣n sống hay trong lúc Y chết, bởi v́ Tâm Thức nầy vốn trường tồn. Khi vào Đền Thụ Huấn ở mức độ cao hơn kế đó, hay là Cơi Bồ Đề Y có được sự hiểu biết trực tiếp tất cả những ǵ đưa đến cho Y, Y có thể vào trong ḷng những kẻ khác cũng như Y kéo họ vào trong ḷng Y, Y hiểu biết trọn vẹn.

            Trên mức độ cao siêu, sự phát triển những năng lực và sự giải tỏa những giác quan giúp con người đem về Cơi Trần nhiều sự kinh nghiệm, nhưng đồng thời luôn luôn Y như bị tê liệt khó mà diễn tả. Y thấy, Y biết và có thể nói về nhiều chuyện với một cách làm cho người ta tin Y hơn là người không có sự hiểu biết trực tiếp. Nhưng, dù rằng tất cả những sự cố gắng của Y, dù rằng Y đă giúp được vài người, luôn luôn Y có măi [147] cảm tưởng rằng Y chỉ nói có phân nửa những điều Y thấy. Không có danh từ để truyền đạt cho kẻ khác kinh nghiệm đă thu thập được trên cảnh giới nơi đó không có ngôn ngữ.

            Những người thuộc hạng sùng đạo thỉnh thoảng đi tới trạng thái xuất thần, trong đó họ thấy được những cảnh cao siêu. Chỉ cần đến mấy Cảnh đó một lần thôi cũng đủ để hiểu liền những nỗi khó khăn mà những vị Thánh bên Thiên Chúa Giáo và những Tu Sĩ  Dô- ghi (Yogis) bên Ấn Độ gặp phải trong sự toan tính trạng tả chúng nó. Bà Thánh Thérèse có nói những kinh nghiệm như thế, Thánh Jean de la Croix, Thánh  Francois d'Assise và những vị khác cũng có ghi chép những kinh nghiệm của các Ngài một, hai lần. Trong những bài mô tả, những người Công Giáo nầy dùng những danh từ Công Giáo, một người Thông Thiên Học th́ dùng những danh từ Thông Thiên Học, Y cho những kinh nghiệm liên hệ với các Đấng Chơn Sư, c̣n những vị Thánh nói chúng nó liên hệ với Đấng Christ.

            Thật rất cần thiết tiếp xúc với sự thật ở ngoài những hiện tượng hay là đến gần sự thật ở ngoài những h́nh dạng, bởi v́ một kinh nghiệm cá nhân dù không đầy đủ cũng có giá trị nhiều hơn những lời chỉ dẫn của người khác. Một ít kinh nghiệm cá nhân cũng làm cho lời nói từ miệng của chúng ta tuôn ra. Chúng ta cảm thấy chúng ta có vài chuyện khác phải nói. Chúng ta phải làm điều đó. Việc truyền đạt những chuyện nầy cho đời là một nhiệm vụ thuộc về phần chúng ta. Chúng ta phải chứng tỏ sự thật kỳ diệu nầy. Chơn Sư nói rằng, khi Huynh hiểu được trực tiếp những sự thật nầy, Huynh t́m gặp nơi Huynh nguồn phát sinh ra lời nói. Huynh cảm thấy sự cần thiết và có bổn phận phải lặp lại những điều quan trọng mà Đức Chúa đă làm để giúp Huynh - ở đây tôi dùng danh từ Công Giáo.

            Chúng tôi không muốn bắt buộc bất cứ ai công nhận lời tường thuật về tất cả những kinh nghiệm của chúng tôi, nhưng mà người ta có cảm tưởng rằng những ai có những sự hiểu biết trực tiếp nào đó sẵn sàng chứng minh mấy điều nầy. Những người nào đă thấy và đă gặp một vài vị Tôn Sư của chúng ta và ghi nhớ việc nầy, v́ tôi tưởng luôn luôn họ phải chứng minh nó; bởi v́ những người ngoài khi nghe đề cập đến những việc đă xảy ra như thế th́ thường nói: " À! Ai đă gặp các Đấng Cao Cả đó?" Tôi không muốn chút nào làm giảm giá trị tư tưởng của chúng tôi về các Đấng Chơn Sư khi chúng tôi tŕnh bày tư tưởng nầy với những người không thể hiểu nó; nếu trong số những người nầy có những người hỏi chúng tôi trong một cuộc hội họp công cộng như vầy: Huynh có gặp một vị Chơn Sư nào không ? Tôi sẽ trả lời: Tôi có gặp, nhưng tôi không muốn đem nó ra làm vấn đề bàn căi giữa công chúng.  Trong một cuộc hội họp như vầy, chắc chắn có những thính giả ưa giễu cợt, hay nếu họ nói khôi hài họ sẽ không tin chi hết. Mấy điều đó không động đến Chơn Sư được, nhưng có ảnh hưởng lớn lao đối với kẻ phạm thượng, chớ quên điều nầy. Người nào chế nhạo các Đấng Cao Cả như các Đấng Chơn Sư tự gây cho họ một thứ Quả Báo đặc biệt rất nặng nề. Tôi thường thấy điều đó. Nếu đôi khi tôi từ chối không nói về các Ngài phải thấy lư do thật sự của chúng tôi; chẳng những chúng tôi tự nhiên rất kinh sợ đem những tôn danh mà chúng tôi xem như là Thánh Thiện để cho những kẻ dốt nát và điên rồ chế giễu, mà v́ ḷng thương họ tránh không khỏi trong tương lai những kinh nghiệm rất đau thương. Về phương diện nầy, tôi không thể đưa ra những giải thích trọn vẹn, nhưng tôi biết phải có như thế. Tôi đă nhận thấy nhiều lần, nhiều lắm, chớ không phải là sự t́nh cờ hay là sự rủi ro nào đó.

            Không ai được phép chế giễu một vị Đạo Sư, mặc dù Ngài là thế nào. Người ta có thể không tin Ngài, tự xét ḿnh không bị bắt buộc phải nghe theo Ngài; nhưng người tánh t́nh tế nhị không bao giờ nghĩ đến việc nhạo báng những tín ngưỡng của thiên hạ. Ai phạm lỗi nầy mắc tội nghịch với nguyên tắc căn bản, dù cho tính cách của Giáo Lư đưa ra thế nào đi nữa.

            Có lẽ rất tốt cho tất cả một cảnh cáo chung là đừng khinh dễ cái chi cả, bởi v́ luôn luôn trong những tư tưởng dường như không thể tin được và không thể hiểu được, có thể có một phần Chân Lư. Mọi hậu quả dù là một sự dị đoan đều có nguyên nhân và dù rằng ngay bây giờ đây, dáng vẻ của nó xem rất kỳ dị; nhưng nếu chúng ta truy ra cội rễ, chúng ta sẽ thấy rằng không phải là nó không có một căn bản vững chắc.

            Sau qui tắc thứ 13, ta không c̣n chi nữa để thêm vào cho những điều đă viết ra.

            Đức Chơn Sư Hilarion muốn nói rằng những chú giải của Đức Đế Quân Vénitien, theo tôi, gồm tất cả những ǵ có thể cho mà không tai hại. Ngài chấm dứt những chú giải của Ngài với mấy chữ :

            Ta cho con sự an tịnh của Ta.

            Những chú giải nầy chỉ viết cho những người mà Ta cho sự an tịnh của Ta, cho những người có thể đọc những điều mà Ta viết với những giác quan bên trong và những giác quan bên ngoài (nội giác quan và ngoại giác quan).

            Như chúng ta đă thấy trong Phần Thứ Nhứt câu: "Ta cho con sự an tịnh của Ta" chỉ có thể để do Chơn Sư nói với những Đệ Tử giống như Ngài hay là những người đi tới cơi Bồ Đề; họ có Tâm Thức Bồ Đề và họ làm một với Ngài.

            Thí dụ hai người trao đổi lời chào hỏi nhau như câu: "Cầu xin sự an vui đến với Huynh" và câu trả lời: Cầu xin sự an vui ban xuống cho Huynh. Họ cho lẫn nhau cái ǵ? Chúng ta có thể tưởng tượng họ đồng bực với nhau. Một ư muốn mănh liệt hay là một sự cầu chúc được an tịnh từ người nầy qua người kia. Ấy là một tặng phẩm có thể cảm biết rơ ràng. Mà cũng thế đó, khi mà mỗi lần một tư tưởng yêu thương của chúng ta hướng về người mà chúng ta quí mến, chúng ta di chuyển thật sự một phần nhỏ nhít của Cái Vía chúng ta dùng làm dụng cụ cho h́nh tư tưởng của chúng ta. Cũng có thể di chuyển chất khí cao siêu hơn, như chất Bồ Đề, nếu người ta đi đến mức độ cao siêu như vậy.

            Nên biết rằng trong những trường hợp như thế, có sự di chuyển vật chất. Thường thường người ta tưởng rằng sự ham muốn không có nghĩa ǵ hết. Nhưng một sự cầu chúc tốt đẹp là một tặng phẩm làm bằng vật chất cũng như một cuốn sách hay là một món nữ trang, mặc dù nó làm bằng chất Thanh Khí[148] và chất Trí Tuệ: Ấy là một tặng phẩm vừa tầm tay của người nghèo cũng như người giàu nhất.

            Một người trong chúng ta nhận được ân huệ của một vị Linh Mục ban cho: Cầu xin sự an tịnh của Đức Chúa Trời cao hơn mọi sự khôn ngoan ban xuống cho Huynh. C̣n có một hiện tượng nhất định hiện ra nữa: Ư muốn tốt của vị Linh Mục có thể thêm vào, chỉ là một số lượng cực nhỏ do Ngài mà ra. Khi Ngài nhân danh Đức Chúa Trời ban xuống một ân huệ long trọng, Ngài hành động như một vị Linh Mục, Ngài mượn thần lực trong kho dự trữ đặc biệt do Đấng Christ lập ra cho việc nầy. Trong cuộc lễ Thánh Thể, thần lực cũng mượn ở một gốc, mặc dù trong trường hợp nầy nó do ở một chỗ thâm sâu khác và biểu lộ ra một cách thế khác. Có vài Đấng Cao Cả xét ra nên lập thành một phân bộ đặc biệt trong kho dự trữ nói trên đây; trước hết các Ngài cung cấp thần lực cho phân bộ nầy rồi luôn luôn nó được duy tŕ đầy đủ do những nhân viên đặc biệt phục vụ các Ngài. Đó là điều Đấng Christ đă làm khi Ngài giáng lâm tại Palestine. Do ư chí của Linh Mục, các Tín Đồ nhận lănh một sự an tịnh và một ân huệ của một người thường có thể ban cho kẻ khác. Sự an tịnh và ân huệ nầy không phải của vị Linh Mục, chúng từ trên cao ban xuống.

            Sự ban ân huệ của một vị Giám Mục cũng là hiện tượng đó nhưng ở mức độ cao. Thần lực ban rải ra nhiều hơn. Khi Đức Giám Mục ban ân huệ của Giám Mục, Ngài làm ra ba dấu Thánh Giá, c̣n vị Linh Mục chỉ làm có một dấu mà thôi. Ngài phô diễn ba lực từ nơi Ngài tuôn ra. Tôi không muốn nói, v́ là Giám Mục Ngài không thể ban cho lực đó khi làm một dấu Thánh Giá, nhưng nếu Ngài làm ba dấu, đó là Ngài sử dụng thần lực nầy ba cách khác nhau, trên một mức độ cao hơn mức độ từ nơi đó ân huệ của vị Linh Mục ban xuống. Khi nói với một người nào "Sự an tịnh đến với Huynh" th́ một trong các Đấng Tôn Sư của chúng ta ban cho Huynh đó một sự an tịnh hoàn toàn tuyệt đối và làm cho hân hoan phấn khởi hơn nhiều.

            Sự ban ân huệ của Đấng Christ là sự ban ân huệ cao hơn hết mà chúng ta có thể thọ lănh tại cơi Trần nầy. Quả thật, Đức Ngọc Đế cai trị quả Địa Cầu cao hơn Đấng Christ, nhưng nhiệm vụ của Ngài là ban cho thần lực nhiều hơn là Giáng Phúc. Tôi tưởng, chúng ta có thể nói sự ban ân huệ của Đức Bồ Tát, trong giới đạo đức, là ân huệ tối thượng mà con người có thể thọ lănh tại cơi Trần nầy. Mỗi người thọ lănh sự an tịnh và ân huệ nầy tới mức nào ? Điều nầy không chút nào tùy thuộc về Đức Bồ Tát mà hoàn toàn thuộc về con người. Thần lực của Ngài chiếu ra như Mặt Trời ở giữa những đám mây, nếu sương mù dày đặc dưới Trần Thế che khuất Mặt Trời và cản trở sự hành động của Thần Lực th́ Thần Lực nầy cũng vẫn hiện diện, cũng vẫn chói rạng và cũng vẫn kỳ diệu.

            Quần chúng thường quá duy vật về những phương diện nầy và rất ít duy vật về những phương diện khác. Chủ nghĩa duy vật của chúng ta sâu đậm cho đến đỗi, nếu một vật nào chúng ta không thấy hay là không cảm giác, chúng ta hơi tin rằng nó có thật. Về một mặt khác, những tư tưởng của chúng ta sai lầm v́ khuyết điểm về vật chất. Phải thật hiểu khi nói về ân huệ do các Đấng Cao Cả và Đấng Christ ban xuống, chúng ta kêu gọi một Thần lực có h́nh dạng rơ ràng như điện hay một ṿi nước. Nhờ phương tiện vật chất mà thần lực mới tự biểu lộ cho chúng ta thấy; một ân huệ mà chúng ta thọ lănh là một lực nhất định, có thật và có thể đem chúng ta đến gần Đức Thượng Đế.


CHƯƠNG   6

QUI TẮC 14 – 21

 

            C.W.L. - Qui tắc 14 cũng c̣n là một chú giải của Đức Đế Quân, nó liên quan tới phần trước đây ít hơn và việc nó chuẩn bị một nhóm khác gồm ba qui tắc đánh số 15, 16 và 17.

            14. - Sử dụng được giác quan bên trong và giác quan bên ngoài, chiến thắng được những dục vọng của Linh Hồn cá nhân và đạt được sự hiểu biết; hỡi Đệ Tử ! Giờ đây con đă chuẩn bị để thực sự bước vào Đường Đạo. Đă t́m được Đường Đạo rồi, con hăy sẵn sàng đi theo nó.

            Chúng ta đă qua khỏi phân nửa Phần Thứ Hai, cho nên lấy làm lạ mà biết chỉ bây giờ đây chúng ta mới bước vào con đường dắt đến sự thật. Lẽ tự nhiên, đây là một giai đoạn cao hơn trước. Như chúng tôi đă nói : Trước nhất là con đường nhập môn, kế đó con đường thiệt thọ mở ra sau cuộc Điểm Đạo lần thứ nhứt. Cũng thế, Đức Đế Quân đề cập ở đây việc bước vào con đường dắt đến thực tế. Người ta vẫn gặp cũng tư tưởng nầy ở những tŕnh độ khác nhau. Vị La Hán bước vào con đường mới, ấy là con đường vào cơi Niết Bàn, nơi đó sự thật cao hơn sự thật ở cơi Bồ Đề. Tới phiên vị Siêu Phàm, Ngài bước vào con đường cao thượng hơn nữa, Ngài đến một chỗ thực tế hoàn toàn hơn trước.

            Con đường nầy dường như vô tận. H́nh như đối với chúng ta không có chỗ cuối cùng. Phải chăng chúng ta có thể nói : Cái thang dựng lên trước mặt chúng ta mà nấc chót biến mất trong sự vinh quang mà chúng ta không đủ khả năng hiểu được. Một lẽ khác, chúng ta biết chắc chắn là sự tiến hóa của chúng ta c̣n kéo dài cả triệu năm nữa. Nó thật chấm dứt ở đâu? Không ai biết được điều đó. Chúng ta sẽ đi đến Tâm Thức của Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta, điều nầy chúng ta biết rơ. Có phải là chỗ tận cùng đối với chúng ta chăng? Nhưng tôi chắc rằng phía ngoài xa c̣n nhiều sự vinh quang khác sẽ biểu lộ ra nữa. C̣n chỗ cuối cùng, không thể nói ǵ hết, dù rằng ở vào tŕnh độ tiến hóa hiện thời của chúng ta, dù cho những vấn đề như thế đưa đến cho chúng ta đi nữa, chúng ta cũng không biết ǵ cả.

            Đối với Đức Đế Quân, sự chinh phục những ham muốn của Linh Hồn cá nhân là việc chinh phục sự ham muốn mà chính Chơn Nhơn có thể cảm biết và chúng không giống như những điều mà Trần Thế gọi là Ham Muốn. Trong giai đoạn tiến hóa cao, phải loại ra hai chướng ngại gọi là:  Roupâraga và Aroupâraga; danh từ nầy có nghĩa là: "ư muốn sự sống có h́nh dạng" (sự sống hữu h́nh) và "ư muốn sự sống không có h́nh dạng" (sự sống vô h́nh). Khi đạt được Tâm Thức Chơn Nhơn, con người thấy trước mắt ḿnh có hai cách sống: Trước nhất sự sống trong Nhân Thể (Thượng Trí) nghĩa là sự sống trong một h́nh dạng, rồi kế đó là sự sống tại Cơi Bồ Đề, theo nghĩa của danh từ nầy là sự sống không có h́nh dạng.

            Chơn Nhơn hưởng dụng Tâm Thức trong một h́nh dạng, và Tâm Thức khác không h́nh dạng, sự kỳ diệu nầy gấp đôi và không trạng tả được, bởi v́ sự sống của Chơn Nhơn trong một h́nh dạng trải qua ở chính giữa những vị Chơn Nhơn khác đồng hàng với ḿnh. Nếu Ngài thức tỉnh tại Cơi nầy, Ngài thấy chung quanh Ngài có những vị chiếu ra hào quang rực rỡ, thuộc về hạng Thiên Thần cũng có, thuộc về loại người cũng có, những vị mà cơi đời đă từng sản xuất. Tại Cơi riêng biệt của Chơn Nhơn,[149] đời sống của Ngài thật huy hoàng mà Phàm Nhơn không thể nào tưởng tượng nổi. Muốn bắt đầu hiểu đời sống của Chơn Nhơn ra sao phải tưởng tượng một đời sống chung đụng, gần gũi với những bậc vĩ nhân tại cơi Trần nầy như các Nghệ Sĩ, các Thi Sĩ, các Bác Học,[150] luôn các vị Chơn Sư nữa và thêm vào đây năng lực hiểu biết các vị ấy, năng lực nầy chúng ta ở Trần Thế không có.

            Đi đến mức độ cao siêu như thế trong sự phát triển của chúng ta, người ta mới thấy đó là một sự sống quyến rũ mạnh mẽ. Như vậy, ai mà được sự sống nầy đem tặng cho mà không nhận và lại nói: Tôi không có một chút ham muốn nào điều đó cả, người ấy thực hiện được một sự hy sinh phi thường.

            Sự từ khước của Y c̣n lớn lao hơn nữa, nếu ở ngoài xa hơn và ở trên đời sống hữu h́nh, là đời sống vô h́nh, tức là đời sống ở cơi Bồ Đề để cho Y sử dụng; đời sống vô h́nh gồm chẳng những sự kết hợp mà tôi mới nói đây c̣n gồm sự đồng nhất của mỗi người với tất cả và c̣n nhiều hơn nữa. Con người sẽ nói: "Tôi không muốn chi hết, dù cho đời sống vô h́nh cũng vậy. Tôi hoàn toàn thoát ly tất cả những sự ham muốn. Dù cho, qua trung gian của các Đấng Chơn Sư của chúng ta, Đức Thượng Đế ra lệnh cho tôi sống một đời sống hữu h́nh hay là đời sống vô h́nh, tôi cũng chấp nhận nhiệm vụ với sự vui mừng lớn lao và ḷng biết ơn sâu xa, tôi cố gắng hoàn tất nó, nhưng tôi không muốn đời sống hữu h́nh hay là đời sống vô h́nh; tôi cũng bằng ḷng nhận lấy một công việc tại cơi Trần nữa." Tôi tưởng ít người có đôi chút ư nghĩ về đời sống tại cơi Trần là một sự thoái bộ hết sức gớm ghiếc, sau một sự kinh nghiệm như thế trước đây. Trở về  tŕnh độ hiện thời của chúng ta, dù với những điều kiện hết sức thuận lợi và trong hoàn cảnh hết sức tốt đẹp, cũng không khác nào rời bỏ một ánh sáng tuyệt vời mà vào trong chốn tối tăm mù mịt, bị giam hăm trói buộc, không có sự giúp đỡ nào cả; bởi v́ đó là sự tinh vi của những năng lực riêng biệt thuộc về mấy cảnh cao mà không có thể thi hành chúng nó tại cơi Trần. Trong một bức thư nhận được thuở xưa của các Đấng Chơn Sư có nói điều đó. Những người đi tới cơi Niết Bàn khi trở về Trần Thế th́ bị Tinh Thần suy nhược trong nhiều tuần lễ. Điều nầy rất đúng với nhiều Huynh Đệ người Ấn sau khi xuất thần rất cao hay là Sa-ma-đi (Samadhi) rồi trở về đời sống Hồng Trần. Họ thấy đời sống nầy rất chán nản. Những vị Đệ Tử Chơn Sư có kinh nghiệm ở mấy cơi cao đă luyện tập tránh không bị chán nản khi gặp lại tại Cơi Trần một đời sống chẳng chút chi vui vẻ, dễ dàng.

            Người nào hiến ḿnh để phụng sự, phải dự bị hoàn toàn hy sinh tất cả trong trường hợp cần thiết. Y phải sẵn sàng đi đến hoàn cảnh nào chẳng hạn khi được lệnh, và hiện giờ, từ khước sự sống trong những h́nh dạng cao siêu cũng như sự sống vô h́nh ngự trị trên cảnh cao hơn nữa. Ấy là phương thế duy nhất để diệt trừ hai chướng ngại và đó là phận sự của vị La Hán. Cũng có thể được Điểm Đạo lần thứ tư, chỉ đôi khi cảm biết sự ham muốn thoáng qua về những tŕnh độ cao siêu đó; vậy chúng ta không nên mất hy vọng. Sự đoạn tuyệt hoàn toàn một chí phúc như thế không thực hiện được, nếu không có một sự phát triển rộng lớn và hết sức tin chắc về sự cần thiết phục vụ. Ở nơi đó có một sự cám dỗ không thể tưởng tượng được chút nào cả.

            15. - Hăy hỏi đất, không khí và nước những sự bí mật của chúng giữ ǵn cho con. Sự mở được những giác quan bên trong giúp con thực hiện điều đó.

            Câu đầu trong qui tắc nầy là câu cách ngôn trong nguyên văn, c̣n câu thứ nh́ là giảng lư của Đức Đế Quân. Tôi có đề cập đến những điều đă chỉ bảo nơi đây. Ấy là việc cần thiết có một sự cảm thông chặt chẽ hơn nữa với Thiên Nhiên, nếu chúng ta thật muốn hiểu biết nó. Tôi tin không có một Tôn giáo nào, kể luôn những nghi lễ của những bộ lạc c̣n dă man và mới vừa xứng đáng với danh từ Tôn Giáo, mà không có những khái niệm về Vũ Trụ nguyên thủy luận, một lối giải thích cơi đời hay là Thái Dương Hệ sinh ra cách nào ? Không phải là vô lư đâu; mỗi lần Đức Chưởng Giáo giáng phàm trong các giống dân phụ (sous races) th́ Ngài in sâu vào trí năo họ sự tin chắc rằng họ cần phải học hỏi để hiểu biết Vũ Trụ mà họ là những thành phần.

            Chúng ta càng thấy được toàn bộ Cơ Tiến Hóa, chúng ta càng sống đúng theo nó trong đời sống của chúng ta và chúng ta càng có thể làm cho những hoạt động của chúng ta phù hợp với nó, cho đến những chi tiết nhỏ nhất. Đối với những người chưa thực hành đầy đủ kinh nghiệm, tôi e rằng, khó mà hiểu những điều nói ở nơi đây về sự cần thiết của việc liên quan chặt chẽ với Thiên Nhiên. Tác Giả không phải nói một cách mơ hồ và Ngài nói với sự biết rơ căn nguyên khi thốt ra câu: "Hăy hỏi đất, không khí và nước những bí mật mà chúng ǵn giữ cho con." Những bí mật nầy giúp cho chúng ta hiểu được sự tiến hóa kỳ diệu và bao la bát ngát nầy. Một sự dạy dỗ đầu tiên ít ra cũng đủ để đề pḥng con người khỏi sự nguy hiểm đặt trung tâm của sự sống vào trong tâm ḿnh. Nhiều người đă làm việc đó khi họ nói về ư tưởng phi lư nầy rằng: Tất cả những loài vật đặc biệt sinh ra cho Nhân Loại - loài thảo mộc, th́ Kinh Thánh Bible nói chúng nó để làm thực phẩm cho con người - loài thú phải tuân theo ư muốn của Thượng Đế, chúng phải phục vụ con người, dường như có nhiều thứ để cho con người ăn thịt. (Tôi không tin ở đây nguyên văn trong Kinh Thánh Bible lại chính xác như thế). Kinh Thánh Bible không nói như vậy. Kinh Thánh nói: Thảo mộc và trái cây, đó là những ǵ mà Đức Thượng Đế đă cho con người để nuôi sống.[151] Người ta tin rằng tất cả sinh ra để cho con người dùng: Như khí trời để cho người ta thở, nước để cho con người uống hay là để cho con người tắm, tất cả đều quây tṛn chung quanh trung tâm con người. Tất cả điều nầy đều là một sự lầm lạc.

            Cũng mấy người ấy cho rằng Mặt Trăng vô ích trừ ra việc soi sáng họ ban đêm. Nếu đó là phận sự của ngôi tinh tú nầy th́ nó làm phận sự không đúng, bởi v́ phân nửa th́ giờ, nó không làm ǵ hết. Nhưng họ cứ nói: Mặt Trời có đây để soi sáng họ ban ngày và Mặt Trăng để soi sáng họ ban đêm. Ư kiến nầy không hề thay đổi. Nó rất lạ lùng khi chúng ta biết rơ sự việc. Chúng ta đứng đầu sự tiến hóa súc vật. Chúng ta tưởng rằng chúng ta làm ra một loài khác hơn loài thú, nhưng điều chắc chắn là chúng ta cao hơn hết trong những sinh vật có xác thịt nặng nề nầy. Trên chúng ta có hằng hà sa số những vị chỉ có Cái Trí và Cái Vía; những vị khác dùng những xác thân tạm thời làm bằng chất dĩ thái đặc lại.

            Nếu chúng ta muốn để riêng một trong những Bậc Tiến Hóa đó và nói v́ họ mà Thái Dương Hệ hay là quả Địa Cầu có đây phải chọn lấy sự Đại Tiến Hóa của các vị Thiên Thần hơn là sự tiến hóa của con người, bởi v́ sự tiến hóa của các Thiên Thần thật là rất cao hơn và huy hoàng hơn sự tiến hóa của con người. Có những vị mà những kinh nghiệm về phương diện vật chất Hồng Trần đă chấm dứt ở những Dăy Hành Tinh khác và hiện giờ đây họ c̣n đang tiến hóa và sử dụng những Cơi cao của Dăy Địa Cầu chúng ta. Thí dụ, những sự tiến hóa đang theo đuổi trên Cơi Bồ Đề không có chi chung cùng với ba Cơi dưới, nơi mà chúng ta đang tiến hóa đây. Họ đă ở trên cảnh giới cao siêu cho đến đỗi mức độ thấp hơn hết của họ là Cơi Thượng Giới (Cơi Trí Tuệ), Cơi nầy đối với chúng ta thật là cao lắm rồi. Những sự tiến hóa  đó có thể vô cùng quan trọng hơn sự tiến hóa của chúng ta.

            Tất cả những điều chúng ta đă kiểm điểm hay là nhận thấy bắt buộc chúng ta phải tin rằng không có khoảng không gian nào đă mất hay đă bỏ trống. Tôi c̣n nhớ điều tôi đă nghe một lần trong cuộc hội họp Thần Linh Học, lúc mà tôi chưa biết Thông Thiên Học. Theo lời của người khuất mặt đang tiếp chuyện với những người dự hội th́ trong pḥng đầy những Vong Linh, Thần Linh. [152] Hơn nữa, ở ngoài pḥng và cho tới ở trên Trời, một đám đông Thiên Thần đủ các cấp bậc từ trên không trung tuôn xuống như một ḍng sông, rồi trở lại lên Trời. Y nói: "Trong không khí và ở ngoài xa mà Y có thể phân biệt được, Y thấy những vị cao cả nầy sắp hàng khít rịt". Đối với tất cả, h́nh như Chi Bộ đặc biệt của chúng ta là một trung tâm hấp dẫn. Chắc là có những vị cao cả trong đám nói trên săn sóc nó. Nhưng ở phía ngoài, có những sự tiến hóa chiếm khắp không gian. Những sự tiến hóa nầy không có dính dáng chi với chúng ta, hay là với một loạt tiến hóa song song với chúng ta.

            Tất cả trên không gian đều dẫy đầy những sự sống. Hơn ba phần tư diện tích của quả Địa Cầu bị nước bao phủ. Con người không thể sống dưới nước, nhưng tại đó sự sống vẫn tràn ngập. Khối đất quả Địa Cầu chứa một loại sinh vật di chuyển trong đất [153] cũng như ta di chuyển trong không khí, không bị sự cản trở nào cả. Tŕnh độ nầy thấp hơn tŕnh độ con người; về vài phương diện, trí khôn của họ sắc sảo hơn trí khôn của chúng ta, nhưng tóm lại ít thanh nhă ít cao thượng hơn trí khôn của chúng ta. Những sinh vật nầy [154] hoàn toàn khác hẳn chúng ta, cho đến đỗi sự tiến hóa b́nh thường của họ đối với chúng ta là sự phản tiến hóa.

            Không thể nào diễn tả đời sống nầy bằng ngôn ngữ thường của chúng ta, nhưng người ta có thể biết nó khi ra khỏi xác thân, chung đụng với nó và quan sát nó. Hơn nữa, tôi không khuyên làm thử việc nầy trước khi có những năng lực cao siêu và những tư cách khác đă được đề cập đến, v́ việc đó là dấn ḿnh vào chỗ cực kỳ nguy hiểm, nhất là trong những lực thấp thỏi sức mạnh phi thường, chúng không có t́nh cảm nào mà ta có thể hiểu được. Trong vài loại tiến hóa nầy, điều mà chúng ta gọi là quan niệm luân lư đạo đức không hề có. Tất cả mấy điều đó hoàn toàn khác hẳn những điều chúng ta đă biết. Tuy nhiên chúng ta phải biết chúng trước khi đi đến tŕnh độ Thiêng Liêng và nhập vào Tâm của Thượng Đế, bởi v́ tất cả những sự sống nầy, cũng như sự sống của chúng ta, đều là sự sống của Thượng Đế và muốn hiểu Thượng Đế cần phải hiểu tất cả.

            16.- Hăy hỏi những vị Thánh của Địa Cầu những bí mật của các Ngài ǵn giữ cho con.

            Dưới đây là giảng lư:

            Sự khắc phục những ham muốn của giác quan bên ngoài của con cho con điều đó.

            Trong các vị Thánh trên Địa Cầu chắc chắn có các Tôn Sư chúng ta. Tôi tưởng ở đây Đức Đế Quân cũng muốn nói về các Đại Thiên Thần. Chúng ta có thể giao thiệp với các Ngài và học hỏi được nhiều việc, chúng ta cũng nhờ Tôn Sư của chúng ta mà chúng ta hoạch đắc được nhiều sự hiểu biết và chúng ta đă hoạch đắc rồi. Các Ngài sai những Đệ Tử của các Ngài dạy chúng ta những điều mà chúng ta phải mất một thời gian khá lâu mới tự ḿnh t́m ra được. Lúc đầu tiên, các Ngài bảo chúng ta tự kiểm điểm lại các bài của Ngài dạy. Đó là những điều mà chúng ta đă làm và v́ vậy nhiều quyển sách Thông Thiên Học mới viết sau nầy có những chi tiết tường tận, tỉ mỉ hơn mấy quyển cũ; những lời dạy dỗ đă nhận được làm ra phần chánh của mấy quyển nầy.

            Tham khảo ư kiến một vị Chơn Sư không phải có nghĩa là luôn luôn tŕnh cho Ngài những câu hỏi, có nhiều cách khác, trong vài trường hợp, chúng tôi đă thực hành rồi, sau khi sắp đặt rành rẽ vài câu hỏi, chờ khi có dịp, chúng tôi hỏi Ngài, hỏi miệng, như là lời nói theo nghĩa thông thường của nó được dùng trên mấy Cơi cao siêu. Có khi chúng tôi tŕnh cho Ngài mấy câu hỏi trong lúc Ngài được rảnh để nghe chúng tôi và Ngài cho chúng tôi những câu trả lời rất đích xác. Trong công việc hằng ngày của chúng tôi, chúng tôi muốn lợi dụng những sự hiểu biết cao siêu của Ngài, nhưng không có lúc nào chúng tôi nghĩ đến việc làm cho Ngài phải nhọc ḷng trả lời những câu hỏi của chúng tôi. Như chúng tôi đă cắt nghĩa trước đây,[155] vị Đệ Tử có thể đem tư tưởng Y kề bên tư tưởng của Tôn Sư  Y và không cần gọi đến Tâm Thức của Ngài để coi cách Tôn Sư xem xét vấn đề nào đó. Không phải chúng tôi bắt buộc Ngài chú ư đến chúng tôi, chúng tôi chỉ sử dụng con đường liên lạc bên trong và đem tư tưởng chúng tôi kề bên tư tưởng của Ngài. Tôi xin cắt nghĩa: Vị Đệ Tử bắt đầu học hỏi về vấn đề, Y đi đến một kết luận mà Y cho là hay hơn hết đối với Y, rồi Y so sánh kết luận nầy với ư kiến của Chơn Sư để xem hai tư tưởng có khác với nhau không?  Nếu khác nhau Y lập tức sửa đổi tư tưởng của Y, v́ Y biết Chơn Sư  rất Minh Triết và tư tưởng của Ngài rất đúng đắn.

            Có thể bất cứ giờ phút nào tham khảo ư kiến của Chơn Sư mà không làm bận rộn Ngài. Trong những trường hợp khác, cách liên lạc nầy không có chỉ dẫn, chúng tôi phải chờ một cơ hội thuận tiện trước khi tŕnh Ngài câu hỏi và được Ngài trả lời. Điều kiện trước nhất, chắc chắn phải có một sự phát triển vừa đủ để ta có thể đến gần Chơn Sư mà không làm phiền các Ngài.

            Vài người bạn của chúng tôi mỗi đêm khi họ ngủ, họ có bổn phận đến nhà Sư Phụ của Y để nhận những chỉ thị và đôi khi những sự dạy dỗ đặc biệt. Có khi tôi thấy Ngài rất bận rộn. Không để cho Ngài để ư đến chúng tôi, chúng tôi rút lui, không nói chi hết và tiếp tục công việc quen thuộc thường ngày. Lẽ tất nhiên, vị Đệ Tử nào cũng hành động như thế; trước nhất là lo lắng về sự tiện nghi của Chơn Sư. Y nghĩ đến Chơn Sư chớ không nghĩ đến Y trong trường hợp mà Y có một việc quan trọng phải báo cáo. Nhưng những Tân Tín Đồ, đôi khi, thấy rơ sự quan trọng, hoặc về những điều họ đă thực hành, hoặc những vấn đề họ muốn hỏi; họ ở gần  một bên, làm cho Chơn Sư chú ư tới họ, cho đến đỗi Ngài phải ngưng công việc của Ngài. Vị Đệ Tử cũ luôn luôn giữ ǵn một cách hết sức thận trọng về bản tánh những tư tưởng và những t́nh cảm hướng về Chơn Sư để cố tránh mọi sự rung động bất điều ḥa, dù là hết sức nhỏ nhặt. Điều nầy đ̣i Y phải có đôi chút chú ư, bởi v́ đôi khi có xảy ra những sự rung động bất điều ḥa mà Y không phải chịu trách nhiệm. Thí dụ, trong một thành phố lớn hoàn cảnh thường rất khó chịu: Trong một đám đông, trong những giờ hoạt động ồn ào, khi những tiếng ầm ầm đáng sợ vang dậy, tất cả những sự rung động dữ dội và đối nghịch nhau đập vào chúng ta. Người ta có thể tránh khỏi những sự rung động nầy tới một điểm nào đó và phải giữ ǵn kỹ lưỡng đừng cho một sự rung động mà chúng ta bị ảnh hưởng truyền đến Chơn Sư. Chỉ một tư tưởng cũng đủ cho Chơn Sư che chở Ngài, nhưng chúng ta quyết tâm tránh cho Ngài điều đó. Th́ giờ của Ngài rất quí báu, nó có một giá trị rất lớn lao, thần lực của Ngài ban ra phi thường cho đến đỗi Đệ Tử của Ngài không muốn cho nó mất một mảy may nào cả; đời sống của Y cũng như đời sống của Chơn Sư đều hiến dâng cho công việc phụng sự. Ngoài ra những phận sự khác, Y c̣n có bổn phận giữ sao cho cái đặc ân cực kỳ lớn lao của Chơn Sư ban cho Y không gây ra sự xáo trộn nào cả khi Ngài làm cho Đệ Tử của Ngài thành một tiền đồn của Tâm Thức Ngài. Rất dễ mà không cho những náo động nầy đụng chạm đến Ngài khi người ta đi tới giai đoạn học được phương pháp chỉ dạy; bây giờ đây, trong lúc chờ đợi cần phải đàn áp những sự ham muốn của giác quan bên ngoài mới được phép đến gần Chơn Sư để tham khảo ư kiến các Ngài.

            17. - Hăy hỏi bản thể sâu kín của con, Đấng Duy Nhất, cái bí quyết cuối cùng mà Người dành sẵn cho con qua các thời đại.

            Bản thể sâu kín, Đấng Duy Nhất đối với Phàm Nhơn quả thật là Chơn Nhơn; c̣n đối với Chơn Nhơn, ấy là Chơn Thần. C̣n đối với Chơn Thần th́ tôi chưa biết chắc là chi, v́ tôi chưa thấy Chơn Thần. Chúng ta có thể thấy Ba Ngôi của Atma hay là biểu hiện của Chơn Thần, như vậy có thể có nhiều suy diễn. Nhưng tôi chưa chiêm ngưỡng đối diện với Chơn Thần. Các Tôn Sư của chúng ta đă thực hành điều nầy rồi, nhưng không thể nói cho chúng ta biết tất cả những điều các Ngài đă thấy hay là những điều các Ngài đă biết; điều nầy không có chi nghi ngờ nữa. Người ta trạng tả Chơn Thần như là một đốm lửa của Ngọn Lửa Thiêng. Một mặt khác, chúng tôi tưởng, trong lúc Biểu Hiện đầu tiên của Thái Dương Hệ chúng ta, Đức Thái Dương Thượng Đế đă truyền sự sống của Ngài cho Bảy Vị Hành Tinh Thượng Đế gọi là Bảy Vị Đại Thiên Thần phủ phục trước Ngai vàng (Les septs Esprits devant le trône de Dieu). Tôi không biết chi hết, nhưng tôi tưởng Chơn Thần do Ngọn Lửa Thiêng sinh ra và theo một trong Bảy Đường màu sắc rực rỡ, [156] Đức Hành Tinh Thượng Đế đă cho Chơn Thần bản thể, có thể được xem như là "Bản Tánh Sâu Kín Nhất." Và cũng thế đó, càng ngày càng lên cao. Mấy vấn đề nầy đối với chúng ta thật là không hiểu nổi; không có những danh từ để giải thích chúng. Ở dưới Trần Thế nầy, chúng ta không biết ra sao, nhưng trong lúc tham thiền, quan niệm nầy có thể có một giá trị rất lớn. H́nh như Đức Thượng Đế cho xuống và cho vào trong vật chất một phần của Ngài và chia phần nầy ra Tinh Thần và Vật Chất, hai biểu hiện của Một Nguyên Lư. Xong rồi Ngài ngự trị, ngoài mấy điều đó. Ngài vốn vô tận, vô biên, vô sở bất tại (omniprésent) và bất biến. Bản thể sâu kín, Đấng Duy Nhất, đă giữ ǵn những Bí Quyết cho chúng ta trải qua các thời đại, bởi v́ lúc sơ khởi, Bản Ngă thâm sâu là Chơn Thần luôn luôn đă có nhiều sự hiểu biết. Chúng tôi không rơ những sự hiểu biết đó là cái chi? Chơn Thần là một đốm lửa của Ngọn Lửa Thiêng và Đức Thượng Đế là LửaThiêng, Ngài biết tất cả.

            Giảng lư qui tắc 17 nói với chúng ta như vầy:

            Sự chiến thắng lớn lao cực nhọc, sự chế ngự những dục vọng của Linh Hồn cá nhân là một công việc đ̣i hỏi không biết bao nhiêu thế kỷ mới hoàn tất. V́ thế con chớ mong được ban thưởng trước khi trải qua nhiều đời kinh nghiệm. Khi ngày giờ học hỏi qui tắc thứ 17 đă đến, con người sắp trở thành hơn con người.

            Sự quả quyết nầy dường như là quá nhiều, nhưng chúng ta phải nói rằng tác giả nói những điều Ngài biết rơ. Chúng ta hăy nhớ rằng mấy điều nầy áp dụng cho hai tŕnh độ khác nhau. Nếu đó là những sự ham muốn của Phàm Nhơn và ưa thích chúng hơn là những nguyện vọng của Linh Hồn th́ sự khó khăn không phải là không thể vượt qua được. C̣n bắt buộc những dục vọng của Linh Hồn cá nhân lệ thuộc những ham muốn của Chơn Thần là một công việc cực kỳ cao hơn và khi chúng ta nghe nói việc nầy cần phải vô số thời đại mới hoàn tất th́ chúng ta tin ngay. Tuy nhiên, bắt đầu thực hành trong giai đoạn mới mẻ và cao cả những điều chúng ta đă làm xong trong giai đoạn thấp thỏi th́ không phải có những sự khó khăn mà không thể vượt qua được, bởi v́ đó cũng là một công việc khởi sự làm lại, mặc dù ở một quan điểm hoàn toàn khác hơn. Chắc chắn là cần phải vô số thời đại cho những ai c̣n chậm chạp trên con đường rộng răi của sự tiến bộ Nhân Loại, và như chúng ta đă thấy, thường thường chỉ cần vài kiếp thôi cho những ai ngày nay đă bước vào Đường Đạo và bắt đầu leo thẳng lên núi. Khi mà sau bức màn, chúng ta xem được chương tŕnh của Quần Tiên Hội, chúng ta thấy những con số đưa ra dùng thật là khổng lồ. Các Ngài soạn những dự thảo với một sự chắc chắn phi thường và dường như tuyệt đối, không có cái ǵ cản trở được sự thực hiện. Các Ngài chia Tương Lai của Quần Tiên Hội ra những Thời Kỳ, mỗi Thời Kỳ tính ra lối 10.000 năm. Các Ngài nói: "Trong 10.000 năm chúng ta hoàn thành công việc nầy hay công việc nọ" và các Ngài thực hành. Nhưng công việc nầy không phải là cần thiết phân chia ra đều đều trong khoảng thời gian nầy. Theo những sự quan sát của tôi, tôi tưởng rằng có một chương tŕnh theo đó một số công việc phải thực hành trong 200 năm đầu tiên, một số nữa trong 200 năm kế đó, tiếp tục như vậy làm sao hết một thời kỳ 1.000 năm sẽ đạt được một mục đích đặc biệt nào đó. H́nh như trong những thời kỳ nhỏ 200 năm, số công việc đă chỉ định không phải luôn luôn hoàn tất. Trái lại, điều ǵ mà Quần Tiên Hội dự định thực hiện trong một thời kỳ dài lâu, như thời kỳ 1.000 năm th́ luôn luôn được hoàn thành. Nếu trong lúc đầu công việc thấy chậm chạp, tới lúc cuối cùng nó sẽ tiến nhanh.

            Dân chúng hay những quốc gia nào trước nhất được cơ hội đưa đến để làm công việc mà không lấy, luôn luôn một dự thảo thứ nh́ lại được soạn ra. Nếu người nào đó hay là quốc gia nào đó thất bại, phần dự bị sẽ bắt tay vào việc và công chuyện cũng sẽ làm xong nhưng phải chịu chậm trễ hơn trước một đôi chút. Hồi Đại Thế Chiến, Anh Quốc đă chịu một sự thử thách về loại nầy. Chung qui Anh Quốc đă theo kịp t́nh thế và tỏ ra xứng đáng với nhiệm vụ. Không vậy, một cường quốc khác đă được chọn lựa để sẵn sàng thay thế Anh Quốc, nhưng đúng ra cường quốc nầy sẽ thực hành công việc dự định trong một hay hai thế kỷ nữa, bởi v́ nó chưa có thể hành động ngay bây giờ. Bởi v́ tới ngày nay đây chúng ta biết lợi dụng cơ hội đưa đến (tôi ước ao chúng ta làm như thế cho tới cùng) quốc gia nầy sẽ có nhiều ngày giờ để phát triển. Những sự tiến bộ của nó sẽ vững vàng và dễ dàng hơn và sự mở mang của nó ít khổ cực hơn bây giờ, nếu trước kia chúng ta nao núng và kháng cự yếu dần.

            Hội Thông Thiên Học cũng như mỗi Hội viên đều ở vào trong một t́nh trạng tương tự. Hội viên nào tỏ ra có khả năng trong công việc tổng quát và làm cho người ta có cảm tưởng y sẽ giúp ích được trong một ngày gần đây, sẽ chịu một sự thử thách. Y sẽ được dự vào một trong những việc cố gắng thành lập Giống Dân phụ thứ Sáu của giống Aryen chúng ta (là Giống Dân thứ Năm). Trong mấy điều đó, lẽ tự nhiên, không có việc một người t́nh nguyện mà cũng không có việc bắt buộc. Sớm hay muộn, tất cả đều đi đến mức toàn thiện trong khi tiến hóa; chúng ta hăy nhất định ngày giờ mà chúng ta dành để vào việc đó. Giải pháp hay hơn hết là làm việc hết sức hay mà không mệt mỏi, không bị ép buộc phải cố gắng cho đến đỗi không c̣n sức tiếp tục một cách lâu dài được.

            Dù cho công việc chúng ta thế nào đi nữa, chúng ta vẫn có ích lợi mà biết chúng ta thuộc về Cung nào. Phần đông các bạn Thông Thiên Học của chúng ta thuộc về một trong năm Cung, từ Cung thứ Ba cho đến Cung thứ Bảy. Nhưng có nhiều bạn qua Cung thứ Nhứt và Cung thứ Nh́ để sau làm việc dưới mệnh lệnh của hai Đức Chơn Sư sáng lập Hội Thông Thiên Học. Hai Ngài sau sẽ là Đức Bàn Cổ và Đức Bồ Tát vị lai của Giống Dân Chánh thứ Sáu sẽ sinh ra trong ṿng bảy trăm năm nữa. Nhiều người bạn chúng ta sẽ đầu thai vào giống dân nầy, c̣n những người khác thích Giống Dân thứ Năm [157] và giúp cho nó đi đến mức toàn thiện đă định sẵn cho nó. C̣n nhiều người khác lại ưa noi theo gương những bậc Đại Thiên Tài. Họ sẽ đầu thai vào Giống Dân Thứ Năm khi Giống Dân nầy lên tới cực điểm văn minh. Họ thích điều đó hơn là việc đi theo hai Đức Chơn Sư  là những vị gầy dựng Giống Dân Chánh thứ Sáu.

Tại Úc Châu, Mỹ Châu và mấy chỗ khác nữa, một cơ hội đặc biệt đưa đến cho những người muốn cộng tác vào sự phát triển của Giống Dân phụ thứ Sáu, bởi v́ Giống Dân phụ nầy sẽ được thành lập rất mau lẹ. C̣n ở những xứ thuộc về Thế Giới cũ hơn, người ta chỉ gặp những người lẻ loi, cô lập. Nhiều người chết trong trận Đại Thế Chiến đă đi đầu thai, nhưng thật ra tới bây giờ đây không có cái chi chứng tỏ rằng họ đă rời bỏ quê hương cũ của họ để đi qua những vùng mới. Những mẫu người của Giống Dân mới và ở trong những xứ của Thế Giới cũ sẽ gặp những sự khó khăn nhiều hơn các bạn của họ v́ bị áp lực của những ư tưởng cũ kỹ và những phong tục, những tập quán thủ cựu.

            Trong những công việc nầy, không có người nào là không cần thiết. Riêng về phong trào Thông Thiên Học của chúng ta, chúng ta hăy tin chắc rằng những Đấng Cao Cả đă nâng đỡ nó, các Ngài sẽ chăm nom nó một cách tổng quát.

            Mới vừa rồi, khi thi hành lại phận sự của người Công Giáo, tôi nhận thấy Giáo Hội được dắt dẫn kỹ lưỡng biết bao và sự liên lạc giữa những người điều khiển nó ở dưới Trần Thế với Chủ Nhân thiệt thọ của nó[158] sẽ mật thiết dường nào, nếu những người phụ tá phàm phu chuyên tâm để trở thành những vận hà đúng đắn. Đă có biết bao trường hợp mà họ không làm, họ chỉ tưởng đến thế lực và quyền lợi riêng tư; ấy là một sự thật đáng thương hại; thế nên họ không thấy được một vùng rộng lớn nơi đó họ có thể rèn luyện những năng lực tinh thần, những tài năng và những hoạt động của họ. Mới đây tôi khám phá ra những khả năng của chúng ta thật là phi thường biết dường nào mà thường thường ít ai tin điều đó; và căn cứ theo những điều tôi đă thấy, tôi chắc chắn rằng c̣n nhiều khả năng nữa trong những đường lối khác mà không ai ngờ.

            Không bao giờ tôi lấy làm lạ khi gặp ở khắp nơi các vị Tiên Thánh trong Quần Tiên Hội nhúng tay vào những công việc tốt đẹp, dù quan trọng hay không, bởi v́ các Ngài không bỏ qua một cơ hội nào cả, dù là một cơ hội nhỏ thật nhỏ hơn hết. Một phong trào nào đó đưa ra những phần tử tốt, nó được dùng trực tiếp về sự tốt đẹp của nó. Phong trào nầy cũng có thể đưa ra nhiều phần tử xấu, mấy người nầy thật đáng tiếc, phải để họ qua một bên, nhưng mà họ không ngăn cản việc sử dụng trọn vẹn cái tốt ở trong người họ. Trong người nầy hay trong phong trào kia, người ta có thể chú ư đến tánh mê tín ngu muội, ngược đăi, hành hạ, kiêu căng, ganh tị, ích kỷ và nhiều tánh xấu khác. Ba chục năm trước, tôi tưởng những tánh không tốt nầy ngăn cản không cho họ được dùng vào việc nào cả; nhưng nếu mấy tánh nầy là những chướng ngại lớn lao cho họ và ngăn trở họ không cho họ tiến bộ th́ việc họ chỉ có một tánh tốt thôi cũng đủ giúp cho họ được sử dụng.

            Phương pháp nầy của Quần Tiên Hội dùng thật là khích lệ cho chúng ta. Biết được những sự khuyết điểm của ḿnh, chúng ta tự hỏi: "Làm sao một vị Chơn Sư gặp ở nơi tôi điều ǵ dùng được, trong khi tôi c̣n phạm nhiều lỗi lầm?" Tuy nhiên bổn phận của chúng ta là phải làm với tất cả khả năng của chúng ta. Chơn Sư sẽ dùng cái ǵ mà Ngài thấy là tốt ở nơi chúng ta. Đồng thời chúng ta có một phận sự lớn lao khác là chừa bỏ cái ǵ ngăn cản Ngài không cho Ngài dùng chúng ta một cách dễ dàng. Ngài dùng chúng ta cách nào được th́ dùng. Chúng ta phải làm cho sự hành động của Ngài được dễ dàng bằng cách trở thành những vận hà tuyệt diệu.

            Quần chúng có thể mở mang theo nhiều cách mà mỗi cách đ̣i hỏi nhiều kiếp để phát triển những đặc điểm riêng biệt của nó. Tôi dùng một phần lớn kiếp sống nầy để mở mang về khía cạnh quyền năng của tôi, tôi học cách sử dụng Thần Nhăn và học hỏi nó trong những sách của tôi. Gặp Ông William Crookes trong Hội chúng ta, tôi trở thành người cộng sự với ông. Ông hiến đời ông cho Hóa Học và thật hiểu nó rành rẽ. Tôi thường nói: "Nếu tôi có sự hiểu biết của ông và ông có Huệ Nhăn của tôi, th́ chúng ta làm được biết bao công việc." Chúng ta không thể trong một kiếp có được hai thứ phát triển nầy và rất tiếc; mỗi thứ đ̣i hỏi trọn một kiếp người. Sir William Crookes đă dùng trọn đời ông vào những công việc Hóa Học, kiếp sau ông trở lại cơi Trần không có sự hiểu biết tường tận, tỉ mỉ như ngày nay; song ông sẽ có những năng lực t́m gặp mấy điều nầy gần như tự nhiên. C̣n tôi, trọn đời, tôi lo mở mang những quyền năng. Tôi không biết tôi có thể truyền cho Xác Thân tôi kiếp sau cái chi thuộc về những quyền năng nầy, nhưng tôi sẽ truyền lại được càng nhiều càng tốt. Sau đó tôi sẽ đi theo một trong những phương hướng khác, nếu nhiệm vụ tôi cho tôi làm điều đó. Trong khi chờ đợi, những người nào muốn chia sớt công việc đặc biệt của chúng tôi, hăy dự vào, chúng tôi không c̣n rảnh rang để lo lắng những công việc khác.

            Phải lần lượt đạt được tất cả những mục đích, cái nầy tới cái kia. Chúng ta sẽ thành công, bởi v́ chúng ta không mất sự hiểu biết nào đă hoạch đắc được khi chúng ta không c̣n theo đuổi nó nữa và t́m kiếm cái khác. Nếu trong kiếp nầy, chúng ta đă phát triển về phương diện Thông Thiên Học, kiếp sau có lẽ sự hoạch đắc những năng lực trí thức và sùng đạo thâm sâu sẽ được dễ dàng nhờ sự luyện tập của chúng ta ngày nay; không kể một sự ích lợi lớn lao khác, chúng ta có thể chắc chắn không lạm dụng những năng lực nầy khi chúng ta đă đạt được chúng nó.

            Phải tiến tới mau lẹ. Chúng ta có thể ở gần sự phát triển cao thượng hơn là chúng ta tưởng tượng điều đó. Nếu phải để một, hai kiếp đặng hoạch đắc những năng lực nầy, điều đó có nghĩa chi đâu. Chúng ta có đủ ngày giờ cần thiết. Vậy, chúng ta hăy nhắm lên cao, phải cố gắng hoạch đắc tất cả những sự mở mang Tinh Thần, Trí Thức và sự hiểu biết thâm sâu. Chúng ta t́m thế làm thủng vách tường dốt nát, thành kiến, nó bao bọc chúng ta đă nhiều kiếp. Chúng ta giống như một tên tội nhân muốn thoát ra ngoài. Nó đào măi, không ngừng nghỉ. Nó không biết lúc nào cái cuốc nhọn của nó xuyên qua vách tường. Sự ban thưởng sẽ đến ngay không lâu. Nếu chúng ta c̣n nhiều sự hiểu biết phải hoạch đắc, có thể chúng ta đạt được chúng nó mau lẹ. Muốn được vậy, chúng ta hăy theo chân các Ngài và phải biết học hỏi những bài mà các Ngài xét ra thích hợp với nhu cầu của chúng ta.

            Qui tắc 18, nó cũng là chú giải của Đức Đế Quân.

            18.- Sự hiểu biết mà con có bây giờ thuộc về phần riêng của con, v́ Linh Hồn  con  đă đồng hóa với tất cả những Linh Hồn trong sạch và Đấng ở sâu kín hơn hết nơi con. Ấy là một bảo vật của Thượng Đế đă kư thác cho con. Nếu con phản bội ḷng tin của Ngài, nếu con dùng sai lạc sự hiểu biết nầy hay là con bỏ phế nó th́ con vẫn có thể, ngay bây giờ đây rơi xuống từ chỗ cao siêu mà con đă lên tới. Có những Đấng Cao Cả, đi tới ngưỡng cửa mà rơi xuống v́ không chịu đựng nổi những trọng trách của ḿnh. V́ vậy hăy luôn luôn để ư lo sợ khi nghĩ đến giờ phút nghiêm trọng đó và hăy chuẩn bị để chiến đấu.

            H́nh như không thể nào những Đấng Cao Cả đi tới ngưỡng cửa mà lại có thể rơi xuống được. Càng ngày Huynh càng lên đến gần các Ngài, Huynh càng thấy không thể có sự rơi xuống, bởi v́ người ta không thể quan niệm rằng một người đi đến địa vị cao siêu như vậy mà c̣n có một mảy may ích kỷ trong ḷng. Nhưng vẫn có điều đó, bởi v́ Người quả quyết với chúng ta việc nầy đă biết rơ căn nguyên. Tư tưởng của Bản Ngă rất tế nhị, nó sống lại một cách bất ngờ ở những cảnh giới mà một chuyện như vậy nhất định không thể nào có được. Chúng ta hăy để ư đến lời cảnh cáo nầy và đừng tưởng tượng quá mau rằng chúng ta không để cho sự  ích kỷ ảnh hưởng đến chúng ta. Ấy là chướng ngại chót có thể cản trở chúng ta tiến tới, nhưng mà h́nh dạng của nó rất nhiều và nó hết sức tế nhị.

            Ba qui tắc chót cũng vậy, chúng nó làm ra một loạt. Số 19 gồm một giảng lư của Đức Đế Quân soạn ra:

            19.- Đă có ghi chép rằng ai đi đến ngưỡng cửa của Thần Minh th́ không c̣n qui luật nào để dạy nữa, không c̣n ai dắt dẫn nữa.

            Tới tŕnh độ nầy, sự dạy dỗ bên ngoài không c̣n chút chi cần thiết cho vị Đệ Tử nữa. Y đă đọc trong quyển sách của Thiên Nhiên, trên năm cơi của sự tiến hóa của con người. Y sắp sửa loại bỏ chướng ngại chót: Ấy là Avidya (Vô Minh). Khi đó luật ngự trị đời sống của Y chỉ phô diễn trong thâm tâm Y. Tất cả những lời giải thích trở thành vô ích. Đức Đế Quân thêm vào:

            Nhưng để giác ngộ người Đệ Tử, sự chiến đấu cuối cùng có thể được diễn tả như sau đây:

            Rồi đến ba qui tắc:

            Hăy chủ tâm, hăy tha thiết vào cái ǵ không có thể chất mà cũng không tồn tại.

            20. - Hăy nghe theo Tiếng Nói Vô Thinh mà thôi.

            21.- Hăy chăm chú nh́n vào cái vô sắc đối với những giác quan bên trong cũng như những giác quan bên ngoài.

CẦU  CHÚC  CHO  CON  ĐƯỢC  AN  TỊNH.

H Ế T

( Dịch xong ngày 7 tháng 7 năm 1974 )


CHÂN  THÀNH  TRI  ÂN

 

            Quư vị trợ giúp việc ấn loát các sách Thông Thiên Học.

               Lê Thành Lân. – Lê Văn Hai và gia đ́nh. – Lê Văn Thạnh và gia đ́nh. – Lư Trọng Văn và gia đ́nh. – Nguyễn Thị Luận. – Lê Minh Triết + Bích. – Lê Minh Đức + Châu – Lê Minh Nguyệt + Anthony. – Huỳnh Hữu Đức. – Margarette Whatley. – Khuê + Hải. – Những Vị Vô Danh. – Nguyễn Thị Dục Tú. – Một nhóm bạn anh Lân.  – Nguyễn Kinh Lư. – Ngô Tố Hoa. – Lê Hồng Hạnh.  – Một nhóm bạn Văn ở Hăng Sysco. – Lư Phước Lạc và gia đ́nh. – Đặng Văn Tiên + Huê. – Trương Lệ Chi. – Nhóm TTH ở Sydney (Úc). – Châu Thị Hồng Yến. – Lâm Hữu Lễ. – Julia Ngô. – Nguyễn Kim Oanh. – Nguyễn Vinh. – Một nhóm bạn Chị của Văn. – Jimmy Phan. – Phạm Xuân Dũng. – Nguyễn Tâm. – Nguyễn Ngọc Anh. –  Phạm Thị Lựu. – Phạm Thị Ngọc Dung. – Nguyễn Thuỷ. – Thích Nữ Liễu Nhiên. – Thích Tịnh Măn. – T. Caroline Besancon. – Mạch Quế Lan. – Anh Ngọc Huệ. – Ất Chiêu Nguyễn N. Anh. – Richard Hồ. – Phan Quang Trường. – Zella Balch. – Nguyễn Hạnh Trang. – Huỳnh Mạng. – Huỳnh Tom. – Nguyễn Thị Quư. – Kimberly Shropshire. – Chị Lâm Ngọc Anh. – Lê Thành Nhơn. – Nguyễn Thị Hà. – Chu Đôn. – Lư Thị Châu. – Nguyễn Thị Lan. – Lâm Xuân Hương. – Nguyễn Thành Nhân. – Liêm Whatley. – Nguyễn Thị Minh Phương. – Trần Quan. – Lê Trung. – Nguyễn Hữu Chương. – Dương Hoàng Tuấn và gia đ́nh. – Hồ  Văn Xách và gia đ́nh. – Lê Thị Tiền. – Lê Minh Tâm. – Nguyễn Minh Tuấn. – Lê Minh Nhựt + Hằng + Bé Hiếu. – Lê Minh Dũng. – Lâm Quang Khải. – Lâm Phước Đông. – Nguyễn Mộng Thu. – Ông, Bà Chung Hữu Thế. – Phan Mỹ Hạnh. – Ông, Bà Lê Văn Kim. – Tô Văn Hiệp. – Ngô Văn Thuấn. - Trần Trọng Khải.

 

                        Mọi chi tiết xin liên lạc:

- Nguyễn Trung Nghĩa,   58 Krotona Hill,  Ojai, CA 93023.

- Điện Thoại: (805) 640-0637.    - E-mail: nghia@thongthienhoc.org

 

 



[1] Tri Thức Linh Thánh (Sacred Knowledge). (Lời Dịch Giả)

[2] Lời Dịch Giả

[3] Nó đây là ḷng ham muốn.

[4] Tức là hết Cuộc Tuần Hoàn thứ bảy. (Lời  Dịch Giả)

[5] Đây có nghĩa là: Con Người thành Tiên Thánh, Thú Vật thành Con Người hay các Tinh Linh, Thảo Mộc thành Thú Vật, Kim Thạch thành Thảo Mộc. (Lời Dịch Giả)

[6] Tức là trong hữu vi có vô vi và trong vô vi có hữu vi. (Lời Dịch Giả)

[7] Gunas hay Gounas là đặc tánh của vật chất. Vật chất có ba đặc tánh: Rajas: Động,Tapas: Tịnh, Sattvas: Tiết điệu, Quân b́nh.

[8] Tôi có gởi thơ qua Adyar xin giải nghĩa câu này th́ được Bà Emma Hunt  phúc đáp như sau đây:

          Câu: He hitches his wagon to a star là phương ngôn được người Anh thường dùng để nói chuyện với nhau. Câu này lấy trong quyển sách của Emerson. Đức C. W. Leadbeater dùng nó trong quyển “Giảng lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo” có nghĩa là Người đó có một mục đích rất cao xa. Người ấy muốn nói: Một khi chương tŕnh làm việc của Quần Tiên Hội chiếu xuống chân trời của người ấy th́ Y có một mục đích thật cao xa.

          Khi dịch đoạn văn ở chương  70 , Huynh có thể nói: Y có một mục đích thật cao xa. Y đặt trước Y những lư tưởng thật cao xa. . .  Thân ái chào Huynh.

[9] Đây là nói theo kinh sách Công Truyền. ( Lời Dịch Giả)

[10] Clergyman :Giáo sĩ theo Anh Quốc Tôn Giáo.

[11] Khi được Điểm Đạo lần thứ nhứt.

[12] Nhân Thể: Corps Causal ou Corps Mental. ( Lời Dịch Giả )

[13] Ấy là cuốn Thiên Thơ. (Lời Dịch Giả)

[14] Xin nhớ Nhân Thể là Thượng Trí. (Lời Dịch Giả)

[15] Nghĩa là đi từ trong ra ngoài, chớ không phải đi từ ngoài vô trong. (Lời Dịch Giả)

[16] Trước khi được Điểm Đạo lần thứ tư. (Lời dịch giả)

[17] Khỏi bị áp lực của tư tưởng. (Lời Dịch Giả)

[18] Đây là Tinh Chất Cái Vía (Elémental astral). (Lời Dịch Giả)

 

[19] Nó đây là ḷng ham muốn. (Lời Dịch Giả)

[20] Christianisme somatique.

[21] Christianisme spirituel.

[22] Tức là Tự giác nhi giác tha. (Lời Dịch Giả)

[23] Tôi xin kính cẩn nói rằng: Vài trăm ngàn năm nữa tới Giống Dân thứ 6 và thứ 7. (Lời Dịch Giả)

[24]  Trái Đất quay chung quanh mặt trời với tốc độ là 106.560 cây số một giờ. (Lời Dịch Giả)

[25] Tại Cơi Trần chúng ta biết có 3 bề hay 3 thứ nguyên khí: Bề dài, bề ngang, bề cao hay bề sâu. C̣n bề thứ tư, bề thứ năm, bề thứ sáu, bề thứ bảy, con người chưa biết. (Lời Dịch Giả)

[26] Les Maitres et le Sentier, Chapitres III et IV.

Chương III  Con đường dắt đến Chơn Sư.

Chương IV  Đệ Tử Nhập Môn. (Lời Dịch Giả)

[27] Cái vỏ này làm bằng chất Dĩ Thái. Khi công việc xong rồi anh làm cho nó tan ră. (Lời Dịch Giả)

[28] Bởi v́ lúc Điểm Đạo lần thứ nhứt Phàm Nhơn đă nhập một với Chơn Nhơn rồi.      (Lời Dịch Giả)

[29] Chữ Hiérachie, tôi dịch Quần Tiên Hội hay Thiên Đ́nh cũng cùng một nghĩa (Lời Dịch Giả)

[30] Dharma có nhiều nghĩa như: Bổn phận, luật pháp, nguyên tắc, nền tảng, tùy theo chỗ. (Lời Dịch Giả)

[31] Bảy con đường mở ra trước mặt vị Siêu phàm. Ngài có quyền theo đuổi con đường nào cũng được. Bảy con đường nầy là:

          1/. Hoặc nhập vô Niết Bàn sau làm một vị Avatar, hóa thân của Đức Thái Dương Thượng Đế trong một vũ trụ khác, gọi là mặc áo Darmakaya .

          2/. Hoặc nhập vào Niết Bàn, ở vào một trạng thái Thiêng Liêng không hiểu được, gọi là mặc áo Sambhogakaya.

          3/. Hoặc sanh ra thần lực rồi cho nhập vô Kho Thần Lực để các nhân viên của Quần Tiên Hội dùng độ đời, gọi là Nirmanakaya.

          4/. Lănh một nhiệm vụ tại Thiên Đ́nh hầu giúp Nhân Loại. Ấy là những vị trong Quần Tiên Hội c̣n giữ xác phàm từ Chơn Sư cho tới Đế Quân và Tam Thanh.

          5/. Nhập vào hàng các Đại Thiên Thần.

          6/. Lo tạo lập Dăy Hành Tinh sau.

          7/. Nhập vào Bộ Tham Mưu của Đức Thái Dương Thượng Đế và đem chỉ thị của Ngài khắp các Dăy Hành Tinh của Thái Dương Hệ.

          Những vị ở lại Cơi Trần tu hành thêm và càng ngày càng lên cao.

          Từ 5 lần Điểm Đạo đến 6 lần Điểm Đạo làm một vị Đế Quân hay là lănh một nhiệm vụ khác.

          Từ 6 lần Điểm Đạo lên 7 lần Điểm Đạo làm một vị Bàn Cổ (Manou) hoặc làm một vị Bồ Tát (Bodhisatva) hoặc làm một vị Văn Minh Đại Đế (Maha Chohan) tùy theo cung hoặc lănh một nhiệm vụ khác.

          Từ 7 lần Điểm Đạo lên 8 Điểm Đạo làm một vị Độc Giác Phật hay là một vị Phật Đạo đức tùy theo cung hoặc lănh một nhiệm vụ khác.

          Từ 8 lần Điểm Đạo lên 9 lần Điểm Đạo làm một vị Ngọc Đế (Seigneur du Monde) cai trị một Bầu Hành Tinh.

          Từ 9 lần Điểm Đạo lên 10 lần Điểm Đạo làm một vị Phổ Tịnh Đại Đế coi sóc sự tiến hóa của Nhơn Vật trọn một cuộc Tuần Huờn (Une Ronde) gồm 7 Bầu Hành Tinh, v.v

          Từ 6 lần Điểm Đạo sắp lên ở mấy Cơi khác chớ không phải tại Dăy Địa Cầu này.

          Dăy Hành Tinh sau là Dăy Hành Tinh thứ 5. Dăy Địa Cầu của chúng ta hiện giờ là Dăy Hành Tinh thứ 4. Tôi có giải trong bộ “Học Cơ Tiến Hóa” và “Sự sanh hóa các Giống Dân trên dăy Địa Cầu.”  (Lời Dịch Giả)

[32] Đối với con người th́ vị Siêu Phàm vốn toàn giác, Ngài không c̣n cái chi để học hỏi trên Dăy Địa Cầu nầy nữa, nhưng mà Ngài phải học hỏi những Cơi khác trong Vũ Trụ.  (Lời Dịch Giả)

[33] Đây là sự biểu hiện của Ngôi thứ Ba gọi là Đức Chúa Thánh Thần, (Saint Esprit)  3e Logos  ở tại Cơi Niết Bàn. (Lời Dịch Giả)

[34] Tức là được Điểm Đạo lần thứ 5.  (Lời Dịch Giả)

[35] Công vụ các sứ đồ II- 3 (Actes II-3).

          Những lằn giống như những lằn lửa, cái này cách xa cái kia, hiện ra cho họ và ở trên đầu mỗi người.  (Lời Dịch Giả)

[36] Đây là tượng trưng sự hợp nhất với Ngôi thứ Nh́ của Đức Thái Dương Thượng Đế.  (Lời Dịch Giả)

[37] Xin quí bạn chú ư  đến 3 chữ Vô Tư Lợi bởi v́ có người hành động rất nhiều song v́ Tư Lợi. (Lời Dịch Giả)

[38] Chúng ta phải sáng suốt mới ít lầm lạc trong sự hành động, v́ thế cần phải có nhiều kinh nghiệm. (Lời Dịch Giả)

[39] Ấy là chất Nguyên tử căn bản (Matière atomique) làm ra Cảnh thứ nhứt của Cơi Thượng Giới hay là Cơi Trí Tuệ.    (Lời Dịch Giả)

[40] Bagavad Gita  II -27

[41] Khi được Điểm Đạo lần thứ Nhứt, Phàm Nhơn nhập một với Chơn Nhơn.

[42] Khi được 5 lần Điểm Đạo thành một vị Siêu Phàm.

[43] Lúc con thú có Thượng Trí được đi đầu thai làm người.

[44] Pitris có nghĩa là TTiên con người (Ancêtre direct de l’homme). Dăy Nguyệt Cầu là Dăy thứ Ba, xin xem quyển “Sự Sanh Hóa Các Giống Dân Trên Dăy Địa Cầu của tôi.” (Lời Dịch Giả)

[45] Thể Cá nhân (Véhicules individuels) là cái Thể dùng riêng cho mỗi Cơi như Thể Hạ Trí dùng ở Cơi Hạ Thiên, Thể Vía dùng ở Cơi Trung Giới, v.v… (Lời Dịch Giả)

[46] Cái Vía gọi là Thể Nguyệt Tinh, bởi v́ nó do các Vị Siêu Phàm ở Dăy Nguyệt Tinh (Barishads Pitris) làm ra, nó liên lạc với Mặt Trăng.   (Lời Dịch Giả)

[47] Đây là nói bóng dáng về những năng lực của ḿnh.  (Lời Dịch Giả)

[48] Về sự hoạt động của Ba Ngôi, phải tu hành tới bậc La Hán mới hiểu được rành rẽ. Thật ra chúng ta c̣n xa tŕnh độ đó. Thế nên tôi tưởng điều hay hơn hết là lo tu tâm dưỡng tánh để làm chủ ba Thể: Thân, Vía, Trí. Chúng ta phải lo tiến lên rồi sẽ hiểu biết lần lần tùy theo sự mở mang tâm thức của chúng ta. Đem bàn căi những vấn đề như thế rất vô ích, v́ không đi đến đâu cả mà lại c̣n mất niềm ḥa khí.   (Lời Dịch Giả)

[49] Progression arithmétique.

[50] Progression  géométrique

[51] Xin đừng lầm lộn chữ Bouddhi và Manas đây là Ngôi thứ Nh́ và Ngôi thứ Ba của Chơn Nhơn chớ không phải Thể Bồ Đề (Corps Bouddhique) và Nhân Thể hay là Thượng Trí (Corps Causal ou Corps Mental Supérieur).

          Đoạn nầy hết sức khó, cao hơn tŕnh độ của chúng ta hiện thời, chúng ta không hiểu ǵ hết. Thấy nói vậy th́ hay vậy.  (Lời Dịch Giả)

[52] Manas đây là Ngôi thứ Ba của Chơn Nhơn. (Lời Dịch Giả)

[53] Chúng tôi nghĩ dịch Non Manifesté là Vô Sanh đúng hơn là không biểu lộ bởi v́ cái chi có sanh, có biểu lộ ra là có diệt.  (Lời Dịch Giả)

[54] Kinh sách xưa Ấn Độ dùng chữ Atma đồng nghĩa với Chơn Thần (Monade).

[55] Monde nouménal.

[56] Phủ định. (Lời Dịch Giả)

[57] Lớp vách tường này là những tư tưởng ích kỷ, xấu xa. (Lời Dịch Giả)

[58] Ấy là những vị La Hán đă chặt đứt được chướng ngại thứ 8 Mano là kiêu căng. Tâm Ngài đă thanh tịnh. (Lời Dịch Giả)

[59] Ahamkara có nhiều nghĩa, ở đây có thể gọi là: Tánh ích kỷ , ảo tưởng của Phàm Nhơn. (Lời Dịch Giả)

[60] Tức sắp thành Chánh Quả. (Lời Dịch Giả)

[61] Đây là Cơi Niết Bàn. (Lời Dịch Giả)

[62] Ấy là Đức Ngọc Đế, ba Vị Độc Giác Phật, Đệ Tử của Ngài và 25 Vị Đại Thánh khác. (Lời Dịch Giả)

[63] Ấy là những Vị Barishads Pitris làm ra xác thân con người. Các Ngài là những Vị Chơn Tiên của Dăy Nguyệt Tinh. (Lời Dịch Giả)

[64] Người ta gọi Con Đường Đạo là con đường chật hẹp. (Lời Dịch Giả)

[65] Bức tường Vô minh. (Lời Dịch Giả)

[66] Oupadhi: Tiếng Phạn có nghĩa là cách che giấu. Đây có nghĩa là vận cụ. (Lời Dịch Giả)

[67] Tức là Cơi Bồ Đề.   (Lời Dịch Giả)

[68] Inquisiteurs: Những vị Pháp quan thuở xưa.

[69] Chữ Conscience tôi dịch là Tâm ư, không dịch là Lương tâm.   (Lời Dịch Giả)

[70] Tức là Cơi Bồ Đề.  (Lời Dịch Giả)

[71] Xin nói thêm  Sau khi Điểm Đạo lần thứ Nhứt hay là lúc thuận tiện thí sanh nhờ Tôn Sư hay là một vị Đại Sư Huynh đem lên Cơi Bồ Đề tập luyện một vài cách.

          Không có sự giúp đỡ nầy, không khi nào vị Tu Đà Huờn lên tới Cơi Bồ Đề được. Anh mới hoạt động ở Cơi Trung Giới và cũng có thế ở Cơi Hạ Thiên.  (Lời Dịch Giả)

[72] Có lẽ Chơn Sư muốn đề pḥng tánh kiêu căng của con người. (Lời Dịch Giả)

[73] Đắc Đạo thành Chánh Quả. (Lời Dịch Giả)

[74] Saint John, 15,  27.

[75] Chưa thông Luật Trời, chưa biết lẽ Đạo.  (Lời Dịch Giả)

[76] Sự hiểu biết, sự tin chắc và sự an tịnh là những tặng phẩm của Thiên Đ́nh ban cho. Chúng là những quyền năng. (Lời Dịch Giả)

[77] Chơn Thần cư trú tại Cơi Đại Niết Bàn. (Lời Dịch Giả)

[78] Ấy là Cơi Niết Bàn. (Lời Dịch Giả)

[79] Đây là an phận, vui ḷng trả Quả. Rất có phước là kiếp này trả rồi, kiếp sau khỏi trả.  (Lời Dịch Giả)

[80] Vị Tu Đà Huờn phải diệt xong 3 chướng ngại này mới được Điểm Đạo lần thứ Nh́. (Lời Dịch Giả)

[81] Sự Biểu Hiện là Ngôi thứ Ba của Đức Thái Dương Thượng Đế. (Lời Dịch Giả)

[82] Những Cơi này là 7 Cơi Thái Dương Hệ của chúng ta. (Lời Dịch Giả)

[83] Bảy Cơi của Thái Dương Hệ của chúng ta nhập lại làm ra Cơi Nguyên Khí của Không Gian (Plan Cosmo Prakritique). Đây có nghĩa là trên Không Gian c̣n có 7 cơi, xin gọi đồng tên của 7 cơi của Thái Dương Hệ chúng ta nhưng cao hơn nhiều lắm (Les 7 grands Plans Cosmiques): Ấy là: 1/ Cơi Tối Đại Niết Bàn Không Gian. 2/ Cơi Đại Niết Bàn Không Gian. 3/ Cơi Niết Bàn Không Gian. 4/ Cơi Bồ Đề Không Gian. 5/ Cơi Thượng Giới hay Cơi Trí Tuệ Không Gian. 6/ Cơi Trung Giới Không Gian. 7/ Cơi Hạ Giới Không Gian (Plan Cosmo Prakritique) là Cơi thấp hơn hết, Cơi thứ bảy.

          Tất cả những Ngôi Tinh Tú ta thấy ban đêm đều ở Cơi Hạ Giới Không Gian này. Trong Vũ Trụ có không biết bao nhiêu Thái Dương Hệ. Có những Thái Dương Hệ lớn hơn Thái Dương Hệ của chúng ta mười lần, trăm lần, muôn lần và cả triệu lần. Những Vị Thái Dương Thượng Đế của những Thái Dương Hệ đó cao hơn Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta nhiều lắm. Vũ Trụ vốn vô biên.  (Lời Dịch Giả)

[84] Ba trạng thái  của Đức Thái Dương Thượng Đế. (Lời Dịch Giả)

[85] Chơn Linh cao cả tức là Ngôi thứ Nhứt. Cơi cao hơn hết trong 7 Cơi Thái Dương Hệ là Cơi Tối Đại Niết Bàn cũng gọi là Cơi Thái Cực. (Plan Adi ou Plan Mahaparanirvanique). (Lời Dịch Giả)

[86] Gnostique do chữ Gnose mà ra. Gnose có nghĩa là Khoa Học của Trời (Science de Dieu). Pistis Sophia là quyển sách căn bản của Cao Đẳng Thần Học (Gnosticisme).  La Gnose cũng là Khoa Bí Truyền vậy. (Lời Dịch Giả).

[87] Mỗi năm đúng giờ trăng tṛn của tháng 7 Dương Lịch (Juillet) th́ Đức Bồ Tát là Đức Di Lạc lặp lại bài Chuyển Pháp Luân của Đức Phật cho Tiên Thánh và các Đệ Tử nghe. Ngài nói bằng tiếng Pali (Nam Phạn) và người Ư nghe bằng tiếng Ư, người Pháp nghe bằng bằng Pháp, người Anh nghe bằng tiếng Anh, người Nhựt nghe bằng tiếng Nhựt v.v..., nghĩa là mỗi thính giả nghe bằng tiếng mẹ đẻ của ḿnh. Thật là phi thường, người đời khó tin, nhưng đó là sự thật. Lễ này gọi là lễ Asala  Lễ Chuyển Pháp Luân. (Lời Dịch Giả).

[88] Trong Tân Ước: Kinh sách viết rằng: Abraham có hai người con trai, một đứa do người vợ nô t́ sinh ra, một đứa do người vợ tự do sinh ra, đứa con của vợ nô t́ sinh ra là do xác thịt, đứa con của người vợ tự do sinh ra là theo lời hứa hẹn. Những việc này có ư nghĩa bóng dáng, tượng trưng, hai người đàn bà này là hai sự phối hợp. Một là của núi Sinai, sinh ra đặng làm nô lệ; ấy là Agar, bởi v́ Agar là núi Sinai ở xứ Á rập (Arabie) và đối chiếu với Jérusalem hiện thời, đương ở trong sự nô lệ với mấy đứa con của nó, nhưng Jérusalem  trên cao, được tự do, ấy là Mẹ của dân chúng ta. (Galates – IV – 24)

          (Lời chép lại,  Dịch Giả)

[89] Chữ Monde Gris tôi tưởng  nên dịch là cơi Mờ Mờ nếu dịch là Thế Giới Xám th́ nghe không được. (Lời Dịch Giả)

[90] Lên Cơi Thượng Thiên (Plan Mental Supérieur).  (Lời Dịch Giả)

[91] Trong quyển Ánh Sáng Á Châu, quyển VIII.

[92] Tôi xin nói rằng trước kia hai vị Đại Đức Annie Besant và Leadbeater giảng lư 3 quyển: Dưới Chơn Thầy, Tiếng Nói Vô Thinh và Ánh Sáng Trên Đường Đạo cho các bạn chí nguyện làm Đệ Tử. Sau mới được phép đem ra phổ biến cho quần chúng. Hai vị Đại Đức nói với các Sinh Viên Huyền Bí Học, chớ không phải giảng cho độc giả nghe. Các Ngài, nhứt là Đức Leadbeater thuật lại những điều Ngài đă học hỏi và kinh nghiệm. Người không biết lư do tưởng đâu là Ngài có ư khoe khoang. Xin quí bạn hiểu cho điều này. (Lời Dịch Giả)

[93] Xin đọc quyển Chơn Sư và Thánh Đạo (Les Maitres et le Sentier):

                             Chương IV - Đệ Tử Nhập Môn.

                             Chương V - Đệ Tử Chánh Thức.

[94] Những người sống lúc ngủ, ở trong Cái Vía, qua Cơi Trung Giới. Dầu ngủ ban ngày hay ban đêm cũng vậy. (Lời Dịch Giả)

[95] Ngày Đại An Tịnh là khi được Điểm Đạo lần thứ 5, làm một vị Siêu Phàm. (Lời Dịch Giả).

[96] Cơi Phàm Trần, Cơi Trung Giới và Cơi Hạ Thiên là ba Cơi của Phàm Nhơn. (Lời Dịch Giả)

[97] Vị Đại Thánh ở Cơi Trần. (Lời Dịch Giả)

[98] Tất cả những thú một loại với nhau trên Địa Cầu đều có một Hồn chung gọi là Hồn Khóm (Âme groupe). Tỷ như, các loại cọp có một Hồn chung gọi là Hồn Khóm Cọp Hùm. Có những Hồn Khóm Chó, Hồn Khóm Mèo v.v… Xin xem quyển “Sự sanh hóa các Giống Dân trên Dăy Địa Cầu” của tôi. (Lời Dịch Giả)

[99] Xin xem bài L’égo et la personnalité (Chơn Nhơn và Phàm Nhơn) đă xuất bản của Đức Leadbeater.  (Lời Dịch Giả)

[100] Tôi tưởng Đức Leadbeater muốn nói: Một thành phần của chúng ta đây là Cái Trí.

          Trong cuộc Tuần Huờn thứ Tư này, đáng lẽ con người chỉ mở mang Cái Vía là t́nh cảm mà thôi. Nhưng 16 triệu rưỡi năm trước, nhờ Đức Ngọc Đế, 3 vị Độc Giác Phật và lối 25 vị Đại Thánh từ Kim Tinh xuống coi sóc sự tiến hóa tại cơi Trần và làm cho Cái Trí con người phát triển mau lẹ, cho nên ngày nay Nhơn loại mới đi đến mức độ nầy. Nghĩa là Nhân Loại mở Cái Trí một cuộc Tuần Huờn bởi v́ theo Luật Trời qua cuộc Tuần Huờn sau con người mới mở mang Cái Trí. (Lời Dịch Giả)

[101] Năng lực Bồ Đề là Trực Giác. Dùng được Trực Giác nh́n vô vấn đề nào ta biết liền nó đúng hay không đúng với Chơn Lư, khỏi cần phải suy luận.

          Phải dùng Trực Giác để kiểm soát hành động của Cái Trí mới khỏi sợ lầm lạc. Chưa dùng được Trực Giác mà Cái Trí mở mang rất nhiều, con người sẽ kiêu căng, tự phụ, không sợ luật Báo Ứng Tuần Huờn. V́ thế người ta gọi Trực Giác là đối lực của Hạ Trí. (Lời Dịch Giả)

[102] Đoạn này quí bạn nên suy nghĩ cho lắm mới hiểu. (Lời Dịch Giả)

[103] Đấng Christ đứng về phương diện Đức Chúa Con. (Lời Dịch Giả)

[104] Ở đây nói về Chân và Mỹ, c̣n Thiện là đă nói trước kia rồi. (Chân, Thiện, Mỹ).  (Lời Dịch Giả)

[105] Nguyên văn chữ Pháp: Les pensées de Dieu dépassent les nôtres dans la mesure ̣u Dieu est supérieur à lhomme dịch từ chữ là: Những tư tưởng của Thượng Đế vượt qua tư tưởng của chúng ta trong phạm vi mà Thượng Đế cao hơn con người. Nhưng tôi thấy dịch như vậy độc giả rất khó hiểu. Tôi tưởng ư nghĩa câu nầy như vầy: Đức Thượng Đế cao hơn con người bao nhiêu th́ tư tưởng của Ngài cao hơn tư tưởng của chúng ta bấy nhiêu.  (Lời Dịch Giả)

[106] Phái Vị Lai sản xuất ở Ư từ năm 1910 về Hội Họa, Điêu Khắc và Văn Học.

Phái Lập Phương xuất hiện từ năm 1906. Trường Mỹ Thuật nầy cho rằng vật nào cũng có thể dùng những Kỹ Hà Học đặng tŕnh bày những trạng thái của nó. Khởi đầu có Họa Sĩ Pháp Césanne, kế đó là Họa Sĩ và Điêu Khắc Tây Ban Nha Picasso. (Lời Dịch Giả)

[107] Ấy là Đức Bồ Tát, Bodhisatva hoặc Maha Gourou theo Ấn Giáo, dịch ra Pháp văn là Instructeur Mondial. (Lời Dịch Giả)

[108] Ngọn Lửa Trời là Đức Thượng Đế, c̣n đốm lửa là Điểm Linh Quang.  (Lời Dịch Giả)

[109] Trong quyển Giảng lư Dưới Chơn Thầy  Chương XVIII Tự chủ trong lúc tư tưởng hai Đại Đức A. Besant và Leadbeater có giảng rất nhiều về sự làm chủ Cái Trí và Tâm phải thanh tịnh. Tôi tưởng đoạn dưới đây nói về những tai hại khi sinh viên tự xét ḿnh một cách không b́nh tĩnh . . . Hai khuynh hướng vẫn thấy trong những sinh viên: khuynh hướng thứ nhứt là cẩu thả, bất cẩn; khuynh hướng thứ nh́ là tự nhận lấy những sự đau khổ cho ḿnh. Trong trường hợp sau nầy, tâm thức có thể đi tới một t́nh trạng giống như t́nh trạng của những đường gân căng thẳng quá. Như vậy có thể xảy ra việc mà các Sinh Viên ưu tú cho những việc nhỏ mọn là quan trọng lắm. Đừng làm cho chúng nó nặng nề thêm cho tới khi chúng lớn bằng những trọng tội. Hăy đi theo khoảng giữa của hai thái cực nầy. Trước khi sự việc xảy ra, Huynh không thể lo ngại xa quá, sau khi nó xảy ra rồi Huynh rất dễ mà tự làm cho ḿnh bị khốn khổ. Đừng nhấn mạnh những lỗi lầm và những sự thất bại của Huynh. Hăy bằng ḷng xem xét chúng nó để nhận lấy lư do, rồi hăy cố gắng một lần nữa. Hành động như thế những khuynh hướng làm cho Huynh nóng giận sẽ tàn rụi dần. Tưởng tới chúng nó là thêm sức  mạnh cho chúng nó mà thôi.   (Lời Dịch Giả)                                                                                                    

[110] Sannyasi là người tu sĩ Ấn đă từ khước tất cả những sự quyến rũ của Trần Ai. Cũng có nghĩa là trạng thái thứ tư trong đời sống kiểu mẫu của người Bà La Môn.  (Lời Dịch Giả)

[111] Thế nên trong Tâm Kinh mới có câu: Sắc tức thị không. Không tức thị  sắc. (Lời Dịch Giả)

[112] Theo Luật Nhân Quả, những chiến sĩ tử trận hy sinh v́ tổ quốc trừ được một số Quả lớn, họ đầu thai mau lẹ và tiến hóa cao hơn kiếp trước rất nhiều, người thường không sánh kịp.  (Lời Dịch Giả)

[113] Đây là những người bị bỏ lại trong sự Phán xét cuối cùng của cuộc Tuần Huờn thứ Năm tại Dăy Địa Cầu chúng ta. Xin xem quyển “Sự sinh hóa các Giống Dân trên Dăy Địa Cầu” của tôi và quyển “L’ occultisme dans la nature,” tome II. Qua Dăy Hành Tinh thứ Năm họ cũng sẽ thành một vị Siêu Phàm, thoát đọa Luân Hồi nhưng trễ hơn chúng bạn đă được giải thoát. (Lời Dịch Giả)

[114] Khi Dăy Địa Cầu tan ră.  (Lời Dịch Giả)

[115] Tôi thêm hai chữ: Lẽ phải , độc giả mới hiểu.  (Lời Dịch Giả)

[116] Bầu thứ Tám tức là Mặt Trăng. (Xin xem quyển II, “Huyền Bí Học trong Thiên Nhiên,” Chương: Những Dăy Hành Tinh (Les chaines planétaires). (L’occultisme dans la nature , tome II par Leadbeater.)    (Lời Dịch Giả)

[117] Số Nhân Loại trên Dăy Địa Cầu nầy là 60 tỉ. Theo ước lượng của Thiên Đ́nh khi xét về sự tiến hóa của nhơn loại hiện tại tới sự Phán xét cuối cùng của Dăy Hành Tinh chúng ta vào lúc phân nửa cuộc Tuần Huờn thứ Năm th́ hai phần năm trong số 60 tỉ sẽ bị bỏ lại, tức là 24 tỉ. C̣n 36 tỉ tiếp tục tiến hóa. Hết cuộc Tuần Huờn thứ Bảy chỉ có:

          12 tỉ được 5 lần Điểm Đạo hoàn toàn giải thoát, làm những VSiêu Phàm.

          12 tỉ được 4 lần Điểm Đạo thành những vị La Hán.

          12 tỉ được 1 tới 3 lần Điểm Đạo làm những vị Tu Đà Huờn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm. Bốn bực sau này chưa được giải thoát.

          Các Ngài phải qua Dăy Hành Tinh sau là Dăy HànhTinh thứ Năm tu hành thêm cho đến khi được hoàn toàn giải thoát. Thế nên chúng ta phải tu ngay bây giờ kẻo sẽ bị loại bỏ. Những người bị bỏ Đức Bà Blavatsky gọi là Âmes perdues là những Linh Hồn ẩn nấp.

          Chúng ta có bổn phận truyền bá Chân Lư bằng lời nói, kinh sách và nhứt là đời sống hằng ngày của chúng ta đúng với đạo đức. Phải Thuyết Đạo và Hành Đạo một lượt. Những Linh Hồn c̣n yếu đuối noi theo gương chúng ta sẽ khỏi bị bỏ lại trong cuộc Phán xét cuối cùng. Được nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Chúng ta hăy cố gắng.   (Lời Dịch Giả)

[118] Có chỗ để là Cơi Niết Bàn giữa hai Dăy Hành Tinh. (Nirvana intercaténaire)   (Lời Dịch Giả)

[119] Lúc phân chia nam nữ của Giống Dân thứ Ba. Xin xem quyển “Sự sanh hóa các Giống Dân trên Dăy Địa Cầu” của tôi và “L’occultisme dans la nature,” tome II . (Lời Dịch Giả)

[120] Trong quyển II, “Huyền Bí Học trong Thiên Nhiên,” Chương Dăy Địa Cầu , trương 209 (L’occultisme dans la nature, tome II) Đức Leadbeater có viết đoạn nầy:

          Đức Bà Blavatsky nói: Các Đấng Cao Cả phóng ra một Điểm Linh Quang vào ḿnh những người chưa có Cái Trí và khai mở sự khôn ngoan của họ.

          Thấy những danh từ lạ lùng nầy, chớ nên tưởng rằng các Ngài phóng ra một phần của các Ngài vào ḿnh con người. Các Ngài hành động như là một sự kích thích từ điện. Các Ngài chiếu ra những lằn hào quang vào thân ḿnh của những người nầy, cũng như Mặt Trời chói vào những bông hoa. Do sự phóng quang nầy của các Ngài kéo họ đến gần các Ngài, các Ngài cho họ những phương sách làm nẩy nở Điểm Linh Quang c̣n tiềm tàng trong ḿnh họ và dắt họ đi lần lần đến lúc có cá tánh.

          Nên biết các Đấng Cao Cả quyền năng rộng lớn. Mỗi vị săn sóc cả triệu người cũng như săn sóc một người. Tŕnh độ của chúng ta c̣n thấp kém, chưa hiểu được lẽ nầy. Phải lên tới Cơi Bồ Đề và Niết Bàn mới biết được đó là sự thật. Xin nhắc: Trong cuộc Tuần Huờn thứ Tư nầy, đáng lẽ con người mới mở mang Cái Vía hay là T́nh Cảm mà thôi. Qua cuộc Tuần Huờn sau là cuộc Tuần Huờn thứ Năm, con người mới mở Trí. Nhờ sự giúp đỡ của các vị Hồng Quân mà con người mở mang trí hóa trước một cuộc Tuần Huờn và ngày nay chúng ta mới được khôn ngoan như thế. Chúng ta nên khéo sử dụng sự khôn ngoan nầy, tức là những việc lành, việc phải mà thôi để khỏi bị trói buộc măi vào bánh xe Luân Hồi. (Lời Dịch Giả)

                                                                                     

[121] Đây là cánh cửa chia hai con người và thú.  (Lời Dịch Giả)

[122] Họ có tội nặng nề là mổ xẻ thú vật rồi để cho chúng nó đau đớn đến chết, chớ không may lại mấy chỗ mổ và nuôi dưỡng chúng cho đến khi lành mạnh. (Lời Dịch Giả)

[123] Đây là chuyện thay Hồn đổi Xác. Có một sự bí mật mà không ai biết được. Một người chết đă hư một vài cơ quan rồi. Hồn ma nhập vô xác muốn làm cho nó sống lại phải làm sao cho cơ thể bị bịnh lành mạnh và đem sinh lực vô ḿnh. Bằng cách nào? Chưa có thể giải thích điều nầy cho đúng sự thật. Phải mở Thần Nhăn xem coi mới biết. (Lời Dịch Giả)

[124] Tôi có đọc một bài của Đức Bà A. Besant viết nhan đề “Les à côté de l’évol.”   (Lời Dịch Giả)

[125] Sau khi con người tắt hơi rồi th́ Cái Phách xuất ra khỏi Xác Thân, sinh lực không vô thân con người được nữa, nên thân ḿnh con người lạnh ngắt. Vài giờ sau y ĺa khỏi Cái Vía và ở lẩn quẩn một bên Xác Thân. Tại nghĩa địa người ta thường thấy những bóng trắng tưởng là Hồn Ma, nhưng thường thường đó là Cái Phách. Cái Phách tan ră lần lần ra chất Dĩ Thái.

          Sau khi Cái Phách rời ra khỏi Cái Vía, con người mê mang. Chừng tỉnh lại th́ thấy ḿnh ở một Cơi khác. Con người lúc đó ở trong Cái Vía tại Cơi Trung Giới.

          Tuy nhiên, có nhiều người quá ham sống cho nên tắt hơi rồi mà không ngờ ḿnh đă chết. Cái Phách c̣n dính với Cái Vía không tách ra được. Thế nên con người qua Cơi Trung Giới không được, v́  Cái Phách c̣n dính với Cái Vía, mà trở lại Cơi Trần cũng không được, v́ đă mất Cái Xác. Con người như thế phải ở tại 4 cảnh Dĩ thái, Thông Thiên Học gọi là Thế Giới Xám (Monde gris) tới chừng nào Cái Phách tách ra mới lên Cơi Trung Giới được.

          Trong quyển “Giảng Lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo” lại để Cái Phách không rút hết ra khỏi Cái Xác, có lẽ là lộn. Phải nói Cái Vía mới đúng. Nếu Cái Phách chưa rút ra hết khỏi Cái Xác th́ con người chưa hẳn chết v́ sinh lực c̣n vô ḿnh được cũng như lúc ngửi thuốc mê.

          Xin xem quyển “Huyền Bí Học trong Thiên Nhiên.” Quyển II, chương đầu, bài Sự ám ảnh thú vật  trương 28, nói rành rẽ về việc nầy.    (Lời Dịch Giả)

[126] Trong sách để Corps dense tôi sửa lại là Cái Vía.   (Lời Dịch Giả)

[127] Sicile là đảo của Ư, lớn nhứt và đông dân nhứt ở Địa Trung Hải. Calabre là một xứ ở về Tây Nam nước Ư.   (Lời Dịch Giả)

[128] Theo Luật Nhân Quả, người nào tới số mới chết, không tới số th́ được cứu thoát một cách phi thường. Khó mà nói: May và rủi.    (Lời Dịch Giả)

[129] Messine là Thị Trấn của Ư ở đảo Sicile.  (Lời Dịch Giả)

[130] Không phải là không thương, song khóc lóc chỉ càng thêm sự đau khổ cho họ, v́ họ thấy tư tưởng của chúng ta. Họ đă khổ rồi, đừng thêm sự đau khổ khác cho họ nữa. Chúng ta có thể giúp đỡ bằng cách cầu nguyện cho họ, c̣n các Đệ Tử th́ dạy dỗ họ trên Cơi Trung Giới.    (Lời Dịch Giả)

[131] Tất cả loài vật, từ con người cho đến loài cầm thú, thảo mộc, kim thạch, tinh chất đều thuộc về một trong 7 Cung sau đây:

          1/. Cung thứ như: Cung Quản Trị, Cung Hành Chánh.

          2/. Cung thứ nh́: Cung Đạo Đức và Giáo Dục.

          3/. Cung thứ ba: Cung Thích Nghi.

          4/. Cung thứ tư: Cung Điều Ḥa và Mỹ Lệ (Mỹ Thuật).

          5/. Cung thứ năm: Cung Khoa Học.

          6/. Cung thứ sáu: Cung Sùng Đạo.

          7/. Cung thứ bảy: Cung Pháp Môn và Phù Thủy.

          Mỗi Cung c̣n chia ra làm 7 Chi nữa. (Lời Dịch Giả)

 

[132] Loài Ngũ Hành cũng gọi là Tinh Linh chia ra nhiều thứ. Có thứ lo săn sóc cây cỏ, có thứ ở dưới nước, có thứ ở trên mây, v.v… Xin xem quyển Các Hạng Thiên Thần của tôi , quyển “Le côté caché des choses” của Đức Leadbeater  (Khía cạnh bí ẩn của vạn vật), “Les Fées au travail et au jeu” par  G. Hodson,  “La science de la voyance” par G. Hodson.   (Lời Dịch Giả)

[133] Ruskin: Nhà phê b́nh nghệ thuật, nhà xă hội học và Văn sĩ Anh (1819).  (Lời Dịch Giả)

[134] Nhưng hăy cẩn thận, không khéo coi chừng có khi bạn ta trở lại ghét ta rồi thành kẻ thù.  (Lời Dịch Giả)

[135] Sau khi tắt hơi rồi Cái Vía sắp lại làm 7 lớp: Lớp nặng ở ngoài, lớp nhẹ ở trong. Nếu lớp ở ngoài là lớp thứ 6 th́ hồn ma phải vào ở cảnh thứ 6. Chừng lớp thứ 6 rớt ra rồi, hồn ma mới lên Cảnh thứ 5. Nói tóm lại rớt một lớp lên một Cảnh. Cái Vía rớt ra hết rồi, hồn ma mới ở trong Cái Trí và lên Cơi Thiên Đàng (Cơi Thượng Giới).     (Lời Dịch Giả)

[136] Phải chăng Ngài muốn nói: Tư tưởng xúi giục thiên hạ làm theo ư muốn của người đă sanh ra nó.   (Lời Dịch Giả)

[137] Tức là trước kia tôi không có những cảm t́nh tốt đẹp đối với anh. Đây là do Luật Nhân Quả.  (Lời Dịch Giả)

[138] Đây là câu của họ trả lời. Lẽ ra th́ phải dịch: Họ nói.   (Lời Dịch Giả)

[139] Tôi e không tới một phần ngàn nữa.  (Lời Dịch Giả)

[140] Lời Dịch Giả.

[141] Trong Thái Dương Hệ nầy th́ Ngài toàn thông, toàn tri, toàn giác. Ngài không c̣n cái chi học hỏi trong Thái Dương Hệ nầy nữa. (Lời Dịch Giả)

[142] Lời Dịch Giả.

[143] Tức là làm một vị Siêu Phàm, ấy là mục đích đă định sẵn cho nhơn loại trong Thái Dương Hệ nầy.    (Lời Dịch Giả)

[144] Cơi Trần có 3 thứ nguyên: Bề dài, bề ngang, bề cao. Cơi Trung Giới có 4 thứ nguyên.    (Lời Dịch Giả)

[145] Tức là có Thần Nhăn.  (Lời Dịch Giả)

[146] Lúc chúng ta ngủ.  (Lời Dịch Giả)

[147] Trong bản chữ Pháp là obsédé: Dịch là ám ảnh nghe rất trái tai. Tôi xin dịch là có măi cảm tưởng, có nghĩa là bị một cảm tưởng ám ảnh.   (Lời Dịch Giả)

[148] Chất Thanh Khí hay là Chất Tinh Quang làm ra Cơi Trung Giới. Chất Trí Tuệ hay là Chất Thượng Thanh Khí làm ra Cơi Trí Tuệ hay là Cơi Thượng Giới. Chất Bồ Đề hay Chất Thái Thanh Khí làm ra Cơi Bồ Đề.    (Lời Dịch Giả)

[149] Cơi Thượng Thiên.  (Xin xem quyển Chơn Nhơn và Phàm Nhơn) (Lời Dịch Giả)

[150] Xin nói: Đây là các danh nhân sống theo lư tưởng chớ không phải sống một đời tầm thường chạy theo vật chất, cũng sắc tài, cũng danh vọng. (Lời Dịch Giả)

[151] Trong Cựu Ước, Sáng Thế Kư, 1  29.

Và Đức Chúa Trời nói: Đây nầy Ta cho các ngươi tất cả những cỏ có hột giống ở trên mặt đất và hết thảy những cây có trái và có hột giống, ấy là thực phẩm của các ngươi. Không có câu nào nói rằng Trời sanh thú vật cho con người ăn thịt cả.       (Lời Dịch Giả)

[152] La salle était  pleine d’esprits  Chữ esprits  không biết phải dịch sao cho thật đúng ư nghĩa  của nó, xin tạm dịch  Vong Linh, Thần Linh.   (Lời Dịch Giả)

[153] Sự di chuyển nầy giống như các cách độn thổ trong truyện Tàu. (Lời Dịch Giả)

[154] Trong quyển Những tiền kiếp của Alcyone , Đức Leadbeater có thuật lại rằng:

          Trong kiếp thứ XVII, Alcyone sống tại Ấn Độ từ năm 10429 tới 10358 trước  Tây Lịch kỷ nguyên, thọ 71 tuổi.

          Alcyone và người bạn thân là Demeter có xuống thám hiểm dưới ḷng đất và gặp những sanh vật nầy. Họ chia ra nhiều cấp bậc và người thường không nên gần họ. Nên biết thân h́nh họ làm bằng chất Dĩ Thái, cho nên họ đi xuyên qua nước, lửa và cát đá dễ dàng; nước lửa không hại họ được.    (Lời Dịch Giả)

[155] Trong quyển “Giảng lư Dưới Chân Thầy.”    (Lời Dịch Giả)

[156] Bảy màu của bảy Cung khác nhau.    (Lời Dịch Giả)

[157] Là Giống da trắng bây giờ.    (Lời Dịch Giả)

[158] Là Đấng Christ.   (Lời Dịch Giả)