Họp Thông Thiên Học ngày 4  tháng 11 năm 2017

 

http://thongthienhoc.net/sach/GiangLyAnhSangTDD.htm

     Con người chung sống gần gũi với nhau, do đó những người khác có thể cảm nhiễm chúng ta mà không cần nghĩ đến chúng ta. Đành rằng chúng ta cũng ảnh hưởng họ vậy, nhưng chúng ta phải luôn luôn chú tâm và cố gắng làm sao cho ảnh hưởng của ḿnh được tốt đẹp đối với họ. Nếu chúng ta chuyên chú làm cho ḿnh trở thành một trung tâm ḥa b́nh và t́nh thương tuyệt đối, chúng ta giúp ích rất nhiều cho hết thảy những người ở chung quanh chúng ta; nhưng khi chúng ta là những trung tâm của dục vọng và sự ích kỷ, sự phát triển nào cũng bị chúng ta chận đứng cả, chẳng những đối với chính ḿnh mà c̣n đối với tất cả những người gần bên ta và điều đó mới là trọng hệ. Mỗi người chí nguyện phải ghi vào ḷng sự kiện nầy là nếu chúng ta nuông chiều sự ham muốn riêng của ḿnh, chúng ta làm ngăn trở sự tiến bộ của kẻ khác.

Khó mà đạt được năng lực quên ḿnh trước khi chưa loại trừ tất cả những sự ham muốn riêng tư cá nhân. Chúng ta nói đến sự tận tâm với phận sự và với Chơn Sư; dĩ nhiên, ấy là điều tối thiểu mà chúng ta có thể làm cho Ngài. Nếu cần phải có một nỗ lực thật lớn lao, chúng ta phải sẵn sàng làm việc cho các Đấng Cao Cả nầy, v́ lẽ các Ngài ban bố rất nhiều cho chúng ta và truyền lại cho chúng ta tất cả Giáo Lư Thông Thiên Học. Không phải v́ muốn làm vui ḷng các Ngài mà chúng ta làm như vậy, mặc dù sự tiến bộ của những người mà các Ngài lo giúp đỡ chỉ có thể làm cho các Ngài hoan hỉ thôi, ấy cũng là lẽ thường. Nếu chúng ta muốn giúp đỡ sự tiến hóa, điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất là chúng ta phải tự ḿnh cải thiện. Phải bắt buộc Bản Ngă thấp hèn phục tùng mệnh lệnh nầy: Đứng trước mặt thiên hạ, chúng ta không có giá trị ǵ cả. Thật vậy, ảnh hưởng của những thần lực phi thường vốn vô h́nh, chúng ta có thể cũng liên hợp với những thần lực ấy và trong t́nh trạng nầy chúng ta có vẻ là con người không có nghĩa lư ǵ cả dưới mắt thế nhân.

14. - Hăy ham muốn sự an tĩnh một cách nhiệt thành.

Sự an tĩnh mà con ham muốn là sự an tĩnh thiêng liêng không có ǵ làm náo động được và trong đó Linh Hồn phát triển như đóa hoa thần nẩy nở trong đầm yên lặng.

C.W.L. - Câu cách ngôn ngắn ngủi nầy liên quan chặt chẽ với câu cách ngôn trước. Quyền năng mà ḷng ham muốn đ̣i hỏi dẫn đến sự an tĩnh. Không có sự an tĩnh, nếu chúng ta không chế ngự được Bản Ngă. Phải t́m được sự an tĩnh trước khi có thể ban bố nó cho kẻ khác và năng lực ban cho người sự an tĩnh quả thật là một trong những quyền năng vĩ đại nhất và tốt đẹp nhất. Đời sống của đa số con người chứa đầy những sự ưu tư, phiền năo, đố kỵ và tham vọng. Trong người của họ, không ngớt sôi nổi chẳng những các mối xúc cảm mà luôn luôn những sự ham muốn chưa được thỏa thích. Nhiều kẻ dốc ḷng khảo cứu Huyền Bí Học, nghĩa là cái thực tại làm căn bản cho kiếp sống, cũng hy vọng có thể tiếp tục lối sống trên đây. Người ta cũng gặp những hạng người nầy trong số những người được xem là khảo cứu Huyền Bí Học đă lâu rồi và họ t́m cách đến gần Chơn Sư, mà dường như họ chưa dứt bỏ được ḷng ham muốn của họ. Họ không cố tâm gắng sức xua đuổi những xúc cảm gàn dở và rối loạn của họ và rồi lại ngạc nhiên sao ḿnh không tiến bộ và thấy kẻ khác vượt qua họ. Tại sao lại muốn cho ḿnh tiến bước mà không bỏ lại phía sau tất cả những điều xấu xa đó? Khi mà chúng ta chưa hoàn toàn thoát ra khỏi những sự rối loạn ấy, th́ mọi sự tiến bộ cao siêu chân chính, dĩ nhiên, chúng ta không thể nào có được đâu. Nếu chúng ta muốn giao tiếp với Chơn Sư, tâm trí chúng ta phải hoàn toàn an tĩnh.

Người ta nói sự tranh đấu vốn cần thiết cho sự tiến bộ, dĩ nhiên, thật sự là trong cuộc tiến hóa của nó, Linh Hồn trải qua một giai đoạn dài đăng đẳng trong t́nh trạng tranh đấu và chiến đấu không ngừng. Nh́n về dĩ văng, chúng ta nhận thấy sự tiến bộ trong một kiếp sống đầy dẫy sóng gió lại mau chóng hơn là trong những hoàn cảnh mà điều kiện thuận tiện hơn. Trong sự tu luyện tánh t́nh nầy, tất cả những điều đau khổ và tất cả những nỗi khó khăn mà con người gặp phải và những nghịch cảnh mà y chịu đựng, dĩ nhiên là đến dạy dỗ Y một điều ǵ đó, ấy là những bài học phải học. Ở vào tŕnh độ cao siêu của vị Đệ Tử, t́nh trạng tranh đấu nầy đă mất giá trị của nó. Sự phát triển của hàng Thượng Thừa bắt buộc phải có một sự an tĩnh hoàn toàn. Một Đấng Chơn Sư đă viết: "Luật của sự sống c̣n thích ứng nhất với luật tiến hóa của thú vật; nhưng luật hy sinh là luật tiến hóa của con người". Nhiều kẻ nghĩ rằng khi họ thỏa măn được ḷng ham muốn dại dột của họ rồi sẽ được an tĩnh, nhưng kinh nghiệm chỉ cho họ biết rằng không phải như vậy. Cho nên, họ bắt đầu chịu khổ sở ưu phiền v́ đă chiều theo những sự ham muốn và biết rằng đáng lẽ họ phải chế ngự chúng. Sự thỏa măn ḷng ham muốn không bao giờ đem lại cho con người một sự an tĩnh nào cả. Chỉ có cách duy nhất t́m được sự an tĩnh là tránh xa những điều ham muốn thấp hèn và phát triển trong tâm quyền năng làm cho chúng ta như không có giá trị ǵ hết dưới mắt thế nhân.

Ở đây có nói: "Đóa Hoa Thần nẩy nở trong đầm yên lặng." Trên mặt nước yên lặng, hoa sen tạo được tất cả sự đẹp đẽ của nó. Nếu bị lay chuyển nó không thành công. Chỉ ở trong sự an tĩnh mà Linh Hồn có thể nẩy nở được. Những cơn băo tố của dục t́nh và ḷng ham muốn giống như những trận giông phá hoại những đóa hoa ở dưới Thế Gian nầy. Tất cả những sự phát triển cao siêu không khác ǵ những đóa hoa rất mảnh mai, những cơn băo tố của ḷng dục vọng nổi lên làm cho nó tan tành và tiêu mất. Những người để th́ giờ nổi nóng lên một cách dữ dội, những người không ngớt nghĩ ngợi lo lắng đủ thứ vấn đề cá nhân vô lư, những người luôn luôn nghĩ đến t́nh cảm riêng tư của họ và đối xử với kẻ khác, tỏ ra ganh ghét, đố kỵ, những kẻ đó không thế nào khai triển được những lá non, những ṿi xoắn, đó là dấu hiệu của sự tiến bộ.
Thường thường người ta có rất ít những khái niệm khoa học về sự tiến bộ huyền bí, về sự tiến bộ chân chính. Đứng riêng một ḿnh nó, những phương pháp giáo dục chứng tỏ rằng con người không hiểu ǵ về Khoa Huyền Bí cả. Chúng ta đă tiến tới một giai đoạn tiến hóa tương ứng với tŕnh độ của người dă man, hay là tŕnh độ hơi cao hơn một chút mà chúng ta có thể coi như là hoạch đắc chắc chắn rồi vậy, nghĩa là chúng ta, dù ở trường hợp nào cũng khó mà xuống thấp hơn nữa được. Nhưng sự tiến bộ sau nầy, nối tiếp với sự tiến bộ của cái phần giống thú là phần thấp thỏi và thuộc về t́nh cảm con người; nó tiêu biểu cho một sự phát triển vô cùng tinh tế và về nhiều phương diện khác nhau. Bản chất của một điểm làm cho một người đại trí thức và là nghệ sĩ khác biệt với một người hết sức thô lỗ, chưa mở mang chút nào, thật là hết sức tinh vi, và đ̣i hỏi những sự tiến bộ vững bền, chậm chạp và quan trọng. Đó là những mầm non đem lại những hy vọng đẹp đẽ nhất, những mầm vừa chớm nở hoa, thật ra chưa phải là đúng mức trưởng thành như tới một ngày kia. Cây yếu ớt nầy bị nghịch cảnh đầu tiên tiêu diệt không khác nào một trận cuồng phong thổi qua. Khoa giáo dục tân thời nặng nhọc và khó khăn làm cho các trẻ em kinh sợ và cũng hành hạ bọn chúng nữa. Hiệu quả của nó là phá hủy sự phát triển tốt đẹp của sự học vấn và sự tinh luyện mà những Linh Hồn đến trú ngụ trong những h́nh hài trẻ em nầy đă phải dùng một thời gian rất lâu, có lẽ trong hai chục hoặc ba chục kiếp mới đạt được. Bởi thế nên, những trẻ em nầy thủ đắc đặc tính của người dă man cổ sơ, chúng thường bị sợ hăi, sự thù hận và cái tánh ư gay gắt về sự bất công thường xuyên ám ảnh; từ đó mọi sự tiến triển huyền diệu làm cho một "giống dân phụ mới" khác biệt với một giống dân phụ cũ đă tiêu mất.

Thiên hạ không ngờ rằng họ thường có dịp làm những chuyện phá hoại như thế. Luôn luôn tôi thấy những trẻ em nam nữ có nhiều hứa hẹn mà có lẽ cha mẹ là những người tầm thường thôi. Nếu được nâng đỡ và d́u dắt vào con đường tốt đẹp trong kiếp sống hiện tại, chúng sẽ thực hiện được những sự tiến bộ trông thấy rơ rệt, nhưng hoàn cảnh của chúng không thuận tiện chút nào cho sự tiến triển như thế. Những mầm non bị găy đổ và bị chà đạp và những đứa trẻ nầy trải qua một đời sống như một người thường tục. Tôi có ghi chú nhiều trường hợp xảy ra luôn luôn như thế, có lẽ trọn mười lăm hay hai chục kiếp như vậy. Sự tiến bộ có thể thành tựu trong kiếp thứ nhứt mà măi để cho kiếp thứ hai mươi mới làm xong. Dĩ nhiên, khi Chơn Nhơn sống một cách đúng đắn và yên tịnh hơn trong mỗi kiếp th́ chung cuộc Nhân Quả phải cho Y đầu thai vào một hoàn cảnh thuận tiện hơn và đồng thời có cơ hội tiến hóa, nhưng có thể xét đoán rằng sự phát triển như thế nầy có thể hoạch đắc hai mươi kiếp sớm hơn, miễn là hoàn cảnh được tốt đẹp hơn một chút.


http://thongthienhoc.net/sach/TriBenhTronghuyenmon.htm

Chết để tránh đau (euthanasia)
Một số nhà nghiên cứu bận tâm về cố gắng sắp xếp để hợp pháp hóa việc chết để tránh đau, và băn khoăn về việc đặt sức mạnh của sự sống và cái chết trong tay của thầy thuốc. Đồng thời, họ biết rằng việc đó cũng liên quan với yếu tố nhân đạo, trong trường hợp không ngưng được sự đau đớn kéo dài. Về việc này, tôi xin nói:
Việc nghiên cứu cách thực hành được đưa ra về t́nh trạng chết tránh đau sẽ không thành vấn đề nữa khi đạt được sự liên tục của tâm thức (nó phủ nhận sự chết). Điều đó có nghĩa là do sự phát triển của nhân loại, sẽ đến lúc linh hồn biết rằng kỳ hạn của kiếp sống hồng trần đă hết, và sẽ tự chuẩn bị để triệt thoái ra khỏi h́nh hài với đầy đủ ư thức. Linh hồn sẽ biết rằng việc phụng sự của h́nh hài không c̣n cần thiết nữa và h́nh hài phải bị vứt bỏ. Linh hồn sẽ biết rằng ư thức hiểu biết của nó đang được tập trung trong bản chất trí tuệ, vẫn đủ mạnh và đủ sinh lực để đưa nó vượt qua tiến tŕnh và giai đoạn triệt thoái. Khi ư thức đó đă phát triển trong con người và tiến tŕnh xảy ra được nhận biết bởi giới y khoa và những kẻ nghiên cứu khoa học về cơ cấu con người, bấy giờ, toàn bộ thái độ đối với sự chết, và các diễn tiến của nó có liên quan đến sự đau đớn, sẽ được thay đổi về mặt vật chất. Lúc bấy giờ, người nào đến thời kỳ chết, đều có thể có sẵn cho chính ḿnh một vài phương pháp thoát ra mà theo quan điểm của người b́nh thường, có thể được xem như có liên quan tới việc chết tránh đau. Các cách triệt thoái sẽ được nghiên cứu và áp dụng khi cái chết gần kề và tiến tŕnh sẽ được xem như sự rút ra của linh hồn giống như một tiến tŕnh giải phóng và giải thoát. Thời kỳ đó không c̣n xa như bạn nghĩ đâu.
319

Ngày nay, các nguy hiểm trầm trọng đang chờ đợi tiến tŕnh thúc đẩy sự triệt thoái và sự bảo vệ hợp pháp, sẽ cần sự tính toán thật cẩn thận, và thậm chí lúc bấy giờ các vấn đề nghiêm trọng có thể xảy ra. Nhưng một hối thúc nào đó đối với các tiến tŕnh chết hợp lệ phải được thực hiện. Tuy nhiên, trước hết, vào lúc này, ư-chí-muốn-chết của bệnh nhân không được dựa trên sự hiểu biết và sự an trụ vào thể trí, hay là dựa trên sự liên tục tâm thức đă có, mà dựa trên các phản ứng t́nh cảm và sự do dự v́ đau đớn và v́ sợ hăi.
Tuy nhiên, khi nào có cơn đau khủng khiếp và tuyệt nhiên không có hy vọng về sự trợ giúp thực sự hay là về sự phục hồi, và khi mà bệnh nhân sẵn sàng (hay là nếu quá đau yếu, gia đ́nh sẵn sàng) lúc bấy giờ, dưới sự bảo vệ thích đáng, một điều ǵ đó cần nên làm. Nhưng việc sắp xếp thời gian để ra đi này sẽ không được dựa vào cảm xúc và dựa vào sự thương xót, mà là dựa vào các khoa học tinh thần và dựa vào sự hiểu biết đúng đắn về các khả năng tinh thần của sự chết.
320

Về các mầm bệnh (On germs)
Quả là các lời thiếu thỏa đáng biết bao để đáp ứng với nhu cầu chân lư. Chúng tôi dùng từ ngữ "mầm bệnh" để chỉ cội nguồn của một bệnh nào đó hoặc là cội nguồn của một số h́nh thức. Chúng tôi nói đến một mầm hay hạt giống của sự sống; chúng tôi đề cập tới mầm của một ư tưởng; chúng tôi nêu ra rằng mức năng lượng không thể nhận ra đó sẽ tạo ra kết quả sau này dưới một loại h́nh thức biểu lộ nào đó. Có thể là một h́nh tư tưởng, một con người hoặc một bệnh, tuy nhiên, cùng một từ ngữ cũng chỉ đủ cả ba. Tôi đă thường bảo các bạn rằng tất cả đều là năng lượng và không có ǵ khác nữa. Một mầm bệnh là một điểm năng lượng có bên trong nó một số tiềm năng sống động, tạo nên một vài hiệu quả trên trường năng lượng xung quanh và tạo ra một số h́nh thức biểu lộ có thể nhận biết được trên cơi trần. Nhưng cuối cùng, tất cả những ǵ được đề cập đến là một h́nh thức năng lượng linh hoạt nào đó hợp thành một phần của năng lượng có sẵn trên, trong và chung quanh địa cầu.
Liên quan với bệnh tật, một mầm bệnh vẫn c̣n là một điểm năng lượng, nhưng nó có thể được xem như năng lượng không vận hành một cách chính xác liên quan với h́nh thức đặc biệt, h́nh thức này trở nên dễ bị tác động với hoạt động của nó hoặc biết được sự hiện hữu của nó.
Mầm bệnh là hậu quả đầu tiên của một cội nguồn ban sơ. Một số ít tạo thành một phần của tà lực hành tinh, hàm ư là chúng có cội nguồn thâm căn cố đế và thuộc trí tuệ, và là cội nguồn có tầm mức quan trọng đến nỗi trí óc hữu hạn của con người chưa thể hiểu được chúng. Thí dụ, các nguyên nhân như thế có thể có các hậu quả y như là sự sùng tín mănh liệt, nhiệt thành sôi nổi đối với một ư tưởng hoặc một người, hoặc là chúng có thể thể hiện ra như một cơn sốt, vừa dữ dội vừa nóng bỏng trong thể xác, và đối với cơn sốt này, tùy theo các triệu chứng của nó, một danh xưng chuyên môn sẽ được giới y học đưa ra. Nguyên nhân xuất phát th́ như nhau, c̣n các tác động trong phàm ngă sẽ khác nhau tùy theo sự tập trung chú tâm, hoặc là nơi nào có đặt tầm quan trọng của sự sống. Hăy suy tư về điều này v́ tôi đă đưa ra một ẩn ngôn ở đây về tầm quan trọng thực sự.
Khi tôi dùng các từ "tập trung sự chú tâm", tôi không nói đến bất kỳ thái độ tinh thần nào hoặc đến một thể trí biết chú tâm, mà là nói đến sự tác động của sinh lực theo bất cứ hướng đă định nào, bất cứ vị trí nào và bất cứ khía cạnh nào của xác thân con người, nơi mà sinh năng (life energy) được hướng đến. Các mầm bệnh là các cơ thể sống (living organisms) lớn hoặc nhỏ. Chúng t́m cách đi vào bộ máy con người qua môi trường sinh lực mà, đến lượt nó, dùng tim và ḍng máu như là tác nhân phân phối của nó. Cũng giống như vậy, năng lượng của ư thức dùng hệ thần kinh và bộ óc như là môi giới phân phối của nó. Nơi nào có sự yếu ớt bẩm sinh hoặc do kế thừa, nơi đó sinh lực không được tập trung một cách thích hợp, và sẽ có một h́nh thức tắc nghẽn nào đó, hoặc một h́nh thức phát triển bị đ́nh trệ nào đó, hoặc một h́nh thức dễ mắc bệnh nào đó. Khi trường hợp này xảy ra, mầm bệnh có thể t́m được một vị trí màu mỡ, nơi đó mới lộ ra hoạt động ác tính của chúng. Khi sinh khí trở nên dồi dào, c̣n sinh lực lưu chuyển thông thoáng và không bị ngăn trở, lúc bấy giờ, sẽ không có các bẩm chất này, mầm bệnh không thể t́m được trú sở và sẽ không xảy ra nguy cơ cảm nhiễm.
Thí dụ bệnh sốt ban đỏ (scarlet fever) vốn hay lây, nhưng không phải tất cả những người tiếp xúc với bệnh này đều bị mắc bệnh. Khả năng để thoát khỏi sự cảm nhiễm và miễn nhiễm đối với các bệnh truyền nhiễm phần lớn là vấn đề sinh lực (có lẽ sinh lực trong các vùng đặc biệt của cơ thể nơi tập trung chú tâm và trọng điểm của sinh lực). Điều đó cũng có thể được dựa trên sự hoạt động của các huyết cầu, vốn dùng để giữ cho ḍng máu ở t́nh trạng tốt.
322

Trọng tâm và trọng điểm này cũng giống nhau xét về con vật, v́ đó không phải là tiêu điểm của thể trí, mà là của năng lượng sự sống bên trong xác thân. Khi hiện hữu và có tính tích cực, nó sẽ che chở. Khi tiêu cực và yếu ớt, nó để cho thể xác (con người và con thú) chịu các nguy hại v́ cảm nhiễm.


Đề cập đến mối tương hệ giữa các thần lực, W. Grove
cho rằng:
Khi chứng kiến hiện tượng thiên nhiên không giống với các
điều tương tự (analogies) thông thường và không thể giải thích
được bằng bất cứ tác động cơ học nào, cổ nhân thường qui điều đó
cho một linh hồn, một quyền năng tinh thần siêu phàm…. Thoạt
đầu, không khí và các chất khí cũng được xem là có tính cách tinh
thần, nhưng sau đó, chúng bị xem là có tính cách vật chất nhiều
hơn. Cũng vậy, các từ ngữ spirit (tinh thần) v.v….được dùng để chỉ
linh hồn hay một chất khí; chính từ ngữ “gas” (khí) có từ nguyên là
geist, một con ma hay một vong linh cũng cho chúng ta một thí dụ
về việc chuyển dần dần từ một quan niệm tinh thần sang một quan
niệm vật chất.(1)
Trong lời mở đầu cho ấn bản kỳ thứ sáu của tác phẩm
ḿnh, khoa học gia lỗi lạc trên đă xem điều đó như là mối
quan tâm duy nhất của khoa học chính xác, vốn không hề bận
tâm ǵ đến các NGUYÊN NHÂN (CAUSE).
Do đó, trong mối tương quan trừu tượng với các lực
này, nhân và quả chỉ là những từ ngữ được dùng cho tiện.
Chúng ta hoàn toàn xa lạ với quyền năng sinh hoá tối hậu
của mỗi một và tất cả bọn chúng, và có lẽ là cũng sẽ như thế
măi. Chúng ta chỉ có thể xác định được qui phạm của các tác
động của chúng. Chúng ta phải bấm bụng qui nguyên nhân
của chúng cho một tác dụng toàn hiện duy nhất, và đành
phải nghiên cứu các hậu quả của chúng, đồng thời dùng thực
nghiệm triển khai các quan hệ hỗ tương của chúng.(2)
Một khi mà ta đă chấp nhận chính sách này và đă thực
sự thừa nhận những lời lẽ nêu trên (nghĩa là thừa nhận rằng
“quyền năng sinh hoá tối hậu” có tính cách tinh thần) th́ cũng
không có lư do ǵ mà chúng ta lại không chịu thừa nhận cái
tính chất vốn có sẵn trong các nguyên tố vật chất, hay đúng
hơn là trong các hợp chất của chúng, đang tồn tại trong hoả,
phong thuỷ hay địa. Cổ nhân biết rơ các quyền năng này đến
nỗi mà trong khi che giấu bản chất thật sự của chúng với
nhiều ẩn dụ khác nhau, điều này có thể là có lợi hoặc có hại
cho những người thất học, họ không bao giờ xuất phát từ
mục tiêu đa phân đang nhắm tới, trong khi đảo ngược chúng
lại. Họ cố gắng phủ một bức màn dày đặc lên trên hạt nhân
chân lư ẩn tàng trong biểu tượng, nhưng bao giờ họ cũng cố
gắng duy tŕ được biểu tượng này để truyền lại cho các thế hệ
vị lai. Biểu tượng đó phải trong sáng đủ để cho những kẻ
sáng suốt có thể phân biệt được chân lư ẩn sau h́nh thức thần
thoại của h́nh tượng hay ẩn dụ. Các hiền triết thời xưa bị kết
án là mê tín dị đoan và dễ tin. Nhưng các quốc gia hiện nay
cũng đâu có kém ǵ; mặc dù đă học hỏi được tất cả mọi
ngành nghệ thuật cùng là khoa học hiện đại, và đă đào tạo
nên một thế hệ khôn ngoan và trí thức, đến nay, người ta vẫn
cứ chấp nhận Jehovah nhân h́nh của dân Do Thái như là
Thượng Đế vô cực sinh động độc tôn!
Thế th́ đâu là một vài điều bị người ta gán cho là “mê
tín dị đoan”? Chẳng hạn như Hesiod tin rằng “gió là con của
người Khổng Lồ Typhaeus”, y bị Aeolus xiềng xích rồi lại cởi
xích ra; thế là những người Hy Lạp đa thần cũng tin theo lời
Hesiod. Họ làm sao mà không tin như vậy, khi mà những
người Do Thái độc thần cũng tin như thế (có điều là tôn danh
của các thần khác đi) và cho đến lúc bấy giờ tín đồ Thiên
Chúa giáo cũng tin như vậy? Aeolus, Boreas v.v….của
Hesiod được “dân tộc tuyển định” (“chosen people”) Do Thái
gọi là Kedem, Tzephum, Derum và Ruach Hayum. Thế là đâu là
sự dị biệt cơ bản? Trong khi dân Hy Lạp được dạy là Aeolus
nổi gió rồi lại làm yên gió th́ dân Do Thái lại tin tưởng nhiệt
thành rằng Thượng Đế của họ “mũi xịt khói, miệng khạc
lửa,…cưỡi trên một tiểu thiên sứ chắp cánh bay cao; người ta thấy
Ngài cưỡi trên ngọn gió”.(1) Cả hai quốc gia trên hoặc là diễn
đạt theo lối bóng bẩy, hoặc là đều mê tín dị đoan. Chúng tôi
cho rằng họ không hề như vậy; có điều là quan niệm trên đă
xuất phát từ một ư thức sâu sắc đồng nhất với Thiên Nhiên
và một tri giác về những ǵ bí nhiệm và thông tuệ ẩn sau mọi
hiện tượng trong thiên nhiên, đó là thứ mà con người hiện
đại không c̣n t́m đâu ra được nữa. Nếu người Do Thái
thường tế thần gió (và nhất là thần lửa) và xem đó như là Tục
thờ cúng Thiêng liêng th́ đâu có ǵ là mê tín dị đoan khi các
kẻ Tà đạo Hy Lạp nghe theo lời sấm giảng Delphi lúc hạm
đội Xerxes tiến đến, sấm giảng này khuyên “hăy tế thần gió”.
Chẳng phải là họ đă bảo rằng “Thượng Đế là lửa thiêu rụi”
(“God is a consuming fire”),(2) thường xuất hiện như là lửa và
“bị lửa bao quanh” đấy ư? Chẳng phải là Elijah đă t́m kiếm
“Thượng Đế” trong trận cuồng phong và cơn động đất đấy
ư? Chẳng phải là tín đồ Thiên Chúa giáo đă lặp lại những
điều ấy hay sao? Hơn nữa, măi tới nay, chẳng phải là họ cũng
đă tế “Phong Thần và Thuỷ Thần” đấy ư? Họ đă làm; bởi v́
măi cho đến nay trong các kinh cầu nguyện của ba Giáo hội
Thiên Chúa, vẫn c̣n có các lời cầu nguyện đặc biệt khi mưa,
hạn hán, gió mậu dịch (tradewinds) và khi đi biển gặp băo.
Hàng trăm giáo phái Tin Lành cũng đă kêu cầu tới Chúa khi
đại hoạ thiên tai. Cho dù Jehovah có lẽ không đáp lại
nhiều như là Jupiter Pluvius đi chăng nữa, th́ những lời cầu
nguyện này cũng được dâng lên các Quyền Năng mà người
ta giả định là đang chủ tŕ các Hành, (các Quyền Năng này
đều như nhau dù là trong Tà đạo hay trong Thiên Chúa giáo).
Như vậy th́ chẳng hoá ra là khi một tín đồ tà đạo cầu nguyện
với “thần tượng” của ḿnh th́ đó là tục thờ cúng ngẫu tượng
thô bỉ và điều “mê tín dị đoan” ngớ ngẩn, c̣n khi người ta
cầu nguyện với một Đấng thiêng liêng khác, th́ cũng điều mê
tín dị đoan đó lại đột nhiên biến thành tôn giáo và ḷng mộ đạo
đáng ca ngợi hay sao? Nhưng chỉ có nếm quả mới biết được
cây. Thế mà quả của cây Thiên Chúa giáo (Christian tree) đâu
có ǵ tốt hơn quả của cây Tà đạo (tree of Paganism), vậy th́
tại sao Thiên Chúa giáo lại được trọng vọng hơn Tà đạo?
Hầu tước Drach, một người Do Thái cải đạo, và Hầu
tước De Mirville, một tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă thuộc
giai cấp quí tộc Pháp, đều cho rằng trong tiếng Hebrew, tia
chớp đồng nghĩa với sự giận dữ và luôn luôn bị Ác quỉ sử
dụng; c̣n Jupiter Fulgur lại được tín đồ Thiên Chúa giáo gọi
là Elicius và bị tố cáo là linh hồn của sấm chớp (the soul of
lightning), Ma Quỷ.(1) Như thế, hoặc là chúng ta phải áp dụng
định nghĩa và những lời giải thích giống như vậy cho
“Thượng Đế của Do Thái” trong cùng một t́nh huống, hoặc
là chúng ta không c̣n được quyền chê bai các Thần Linh
và tín ngưỡng của các tôn giáo khác nữa.

Cho dù xuất phát từ hai tín đồ Công giáo La Mă nhiệt
thành và trí thức, các lời phát biểu trên cũng thật là nguy hiểm
(nói thế là c̣n nhẹ) cho Thánh kinh và các giảng sư. Thật vậy,
nếu Jupiter, “quỷ vương của các tín đồ tà đạo Hy Lạp” mà lại
vung lưỡi tầm sét đánh chết những kẻ nào dám cả gan phẫn
nộ (exited his wrath), th́ Đức Chúa Trời của Abraham và
Jacob cũng thế. Không tin th́ chúng ta thử đọc đoạn sau đây
mà xem:
Đức Chúa Trời nổi trận lôi đ́nh, Đấng Chí Tôn lớn giọng ḥ
hét. Ngài phóng ra các mũi tên [sấm sét] rải rác khắp nơi [các đạo
quân của Saul]; chớp loé lên làm cho chúng tan tác hết”.(1)
Người ta kết án dân Athens là đă cúng tế Boreas; “Con
Quỷ” (“Daemon”) này cũng bị kết án là đă làm đắm 400 chiếc
tàu thuộc hạm đội Ba Tư trên Núi Pelion cũng như là điên
tiết đến nỗi mà tất cả các Pháp sư ở Xerxes khó ḷng mà hoá
giải được quyền năng của nó bằng cách cúng tế Thetis.(2)
May mắn thay lịch sử chiến tranh Thiên Chúa giáo chưa hề
ghi nhận một trường hợp nào mà một hạm đội Thiên Chúa
giáo phải hứng chịu một thảm hoạ với một qui mô lớn như
vậy v́ quân địch, một quốc gia Thiên Chúa giáo khác, trù ếm
bằng cách cầu nguyện. Nhưng điều này không phải là lỗi của
họ, v́ mỗi bên đều cầu nguyện xin Jehovah huỷ diệt phe bên
kia cũng nhiệt thành như là dân Athens cầu nguyện với
Boreas. Cả hai đều sốt sắng cầu cứu tới ma thuật. Việc Đấng
thiêng liêng khó ḷng can thiệp như vậy là do v́ người ta
không chịu cầu nguyện với cùng một Thượng Đế Toàn Năng
để huỷ diệt lẫn nhau, thế th́, làm sao mà chúng ta phân biệt
được tín đồ Tà giáo với Thiên Chúa giáo bây giờ? Và ai có thể
ngờ rằng mọi tín đồ Tin Lành người Anh cũng sẽ hân hoan
cảm tạ Chúa nếu một trận chiến tương lai nào đó 400 chiếc
tàu của hạm đội địch lại bị đánh đắm do những lời cầu
nguyện thiêng liêng như thế? Thế th́, chúng tôi xin hỏi lại,
giữa một Jupiter, một Boreas và một Jehovah có ǵ khác nhau
không? Cũng chỉ như thế này thôi: tội ác của thân nhân,
chẳng hạn như cha ḿnh, luôn luôn được khoan dung, nhiều
khi c̣n được tán dương nữa; trong khi đó, tội ác thân nhân
của người láng giềng của chúng ta bao giờ cũng bị trừng phạt
bằng cách treo cổ. Thế mà hai tội ác đó có ǵ khác nhau đâu?
Cho đến nay, “ân huệ của Thiên Chúa giáo” h́nh như là
đă không khiến cho các tín đồ Tà giáo cải đạo tiến bộ hơn bao
nhiêu về mặt đạo đức.

When included under the arts and sciences of the fourth race, the Atlanteans, the phenomenal manifestation of the four elements, justly attributed by the believers in Cosmic gods to the intelligent interference of the latter, assumed a scientific character. The magic of the ancient priests consisted, in those days, in addressing their gods in their own language. "The speech of the men of the earth cannot reach the Lords. Each must be addressed in the language of his respective element" -- is a sentence which will be shown pregnant with meaning. "The Book of Rules" cited adds as an explanation of the nature of that Element-language: "It is composed of sounds, not words; of sounds, numbers and figures. He who knows how to blend the three, will call forth the response of the superintending

http://www.theosociety.org/pasadena/sd/sd1-2-14.htm (4 von 9) [06.05.2003 03:32:58] The Secret Doctrine by H. P. Blavatsky, Vol 1, bk 2, ch 14

Power" (the regent-god of the specific element needed).

Thus this "language" is that of incantations or of MANTRAS, as they are called in India, sound being the most potent and effectual magic agent, and the first of the keys which opens the door of communication between Mortals and the Immortals. He who believes in the words and teachings of St. Paul, has no right to pick out from the latter those sentences only that he chooses to accept, to the rejection of others; and St. Paul teaches most undeniably the existence of cosmic gods and their presence among us. Paganism preached a dual and simultaneous evolution: "creation" -- "spiritualem ac mundanum," as the Roman Church has it -- ages before the advent of that Roman Church. Exoteric phraseology has changed little with respect to divine hierarchies since the most palmy days of Paganism, or "Idolatry." Names alone have changed,

[[Vol. 1, Page]] 465 A CONFESSION OF SCIENCE.

along with claims which have now become false pretences. For when Plato put in the mouth of the Highest Principle -- "Father AEther" or Jupiter -- these words, for instance: "The gods of the gods of whom I am the maker (opifex) as I am the father of all their works (operumque parens)"; he knew the spirit of this sentence as fully, we suspect, as St. Paul did, when saying: "For though there be that are called gods, whether in heaven or in earth, as there be gods many and lords many," . . . . etc. (1 Cor. viii. 5.)* Both knew the sense and the meaning of what they put forward in such guarded terms.

Says Sir W. Grove, F.R.S., speaking of the correlation of forces, "The ancients when they witnessed a natural phenomenon, removed from ordinary analogies, and unexplained by any mechanical action known to them, referred it to a soul, a spiritual or preternatural power. . . . Air and gases were also at first deemed spiritual, but subsequently they became invested with a more material character; and the same words [[pneuma]], spirit, etc., were used to signify the soul or a gas; the very word gas, from geist, a ghost or spirit, affords us an instance of the gradual transmutation of a spiritual into a physical conception . . . . . ." (P. 89.) This, the great man of science (in his preface to the fifth edition of "Correlation of Physical Forces") considers as the only concern of exact science, which has no business to meddle with the CAUSES. "Cause and effect," he explains, "are therefore, in their abstract relation to these forces, words solely of convenience. We are totally unacquainted with the ultimate generating power of each and all of them, and probably shall ever remain so; we can only ascertain the norma of their actions; we must humbly refer their causation to one omnipresent influence, and content ourselves with studying their effects and developing, by experiment, their mutual relations" (p. xiv.).

This policy once accepted, and the system virtually admitted in the above-quoted words, namely, the spirituality of the "ultimate generating power," it would be more than illogical to refuse to recognise this quality which is inherent in the material elements, or rather, in their com-

[[Footnote(s)]] -------------------------------------------------

* We cannot be taken to task by the Protestants for interpreting the verse from the Corinthians as we do; for, if the translation in the English Bible is made ambiguous, it is not so in the original texts, and

http://www.theosociety.org/pasadena/sd/sd1-2-14.htm (5 von 9) [06.05.2003 03:32:58] The Secret Doctrine by H. P. Blavatsky, Vol 1, bk 2, ch 14

the Roman Catholic Church accepts the words of the Apostle in their true sense. For a proof see the Commentaries on St. Paul's Epistles, by St. John Chrysostom "directly inspired by the Apostle," and "who wrote under his dictation," as we are assured by the Marquis de Mirville, whose works are approved by Rome. And St. Chrysostom says, commenting on that special verse, "And, though there are (in fact) they who are called gods . . . . -- for it seems, there are really several gods -- withal, and for all that, the God-principle and the Superior God ceasing to remain essentially one and indivisible." . . . Thus spoke the old Initiates also, knowing that the worship of minor gods could never affect the "God Principle" (See de Mirville, "Des Esprits," vol. ii., 322).

[[Vol. 1, Page]] 466 THE SECRET DOCTRINE.

pounds -- as present in the fire, air, water or earth. The ancients knew these powers so well, that, while concealing their true nature under various allegories, for the benefit (or to the detriment) of the uneducated rabble, they never departed from the multiple object in view, while inverting them. They contrived to throw a thick veil over the nucleus of truth concealed by the symbol, but they ever tried to preserve the latter as a record for future generations, sufficiently transparent to allow their wise men to discern that truth behind the fabulous form of the glyph or allegory. They are accused of superstition and credulity, those ancient sages; and this by those very nations, which, learned in all the modern arts and sciences, cultured and wise in their generation, accept to this day as their one living and infinite God, the anthropomorphic "Jehovah" of the Jews.

What were some of the alleged "superstitions"? Hesiod believed, for instance, that "the winds were the sons of the giant Typhoeus," who were chained and unchained at will by AEolus, and the polytheistic Greeks accepted it along with Hesiod. Why should not they, since the monotheistic Jews had the same beliefs, with other names for their dramatis personae, and since Christians believe in the same to this day? The Hesiodic AEolus, Boreas, etc., etc., were named Kadim, Tzaphon, Daren, and Ruach Hajan by the "chosen people" of Israel. What is, then, the fundamental difference? While the Hellenes were taught that AEolus tied and untied the winds, the Jews believed as fervently that their Lord God, "with smoke coming out of his nostrils and fire out of his mouth, rode upon a cherub and did fly; and was seen upon the wings of the wind" (II. Sam., xxii. 9 and 11). The expressions of the two nations are either both figures of speech, or both superstitions. We think they are neither; but only arise from a keen sense of oneness with nature, and a perception of the mysterious and the intelligent behind every natural phenomenon, which the moderns no longer possess. Nor was it "superstitious" in the Greek pagans to listen to the oracle of Delphi, when, at the approach of the fleet of Xerxes, that oracle advised them to "sacrifice to the Winds," if the same has to be regarded as Divine Worship in the Israelites, who sacrificed as often to the wind and fire -- especially to the latter element. Do they not say that their "God is a consuming fire" (Deut. iv., 24), who appeared generally as Fire and "encompassed by fire"? and did not Elijah seek for him (the Lord) in the "great strong wind, and in the earthquake"? Do not the Christians repeat the same after them? Do not they, moreover, sacrifice to this day, to the same "God of Wind and Water?" They do; because special prayers for rain, dry weather, trade-winds and the calming of storms on the seas exist to this hour in the prayer-books of the three Christian churches; and the several hundred sects of the Protestant religion

http://www.theosociety.org/pasadena/sd/sd1-2-14.htm (6 von 9) [06.05.2003 03:32:58] The Secret Doctrine by H. P. Blavatsky, Vol 1, bk 2, ch 14

[[Vol. 1, Page]] 467 THE FIGHTING GODS.

offer them to their God upon every threat of calamity? The fact that they are no more answered by Jehovah, than they were, probably, by Jupiter Pluvius, does not alter the fact of these prayers being addressed to the Power or Powers supposed to rule over the Elements, or of these Powers being identical in Paganism and Christianity; or have we to believe that such prayers are crass idolatry and absurd "superstition" only when addressed by a Pagan to his idol, and that the same superstition is suddenly transformed into praiseworthy piety and religion whenever the name of the celestial addressee is changed? But the tree is known by its fruit. And the fruit of the Christian tree being no better than that of the tree of Paganism, why should the former command more reverence than the latter.

Thus, when we are told by the Chevalier Drach, a converted Jew, and the Marquis de Mirville, a Roman Catholic fanatic of the French aristocracy, that in Hebrew lightning is a synonym of fury, and is always handled by an evil Spirit; that Jupiter Fulgur or Fulgurans is also called by the Christians oelicius, and denounced as the soul of lightning, its daemon*; we have either to apply the same explanation and definitions to the "Lord God of Israel," under the same circumstances, or renounce our right of abusing the gods and creeds of other nations.

The foregoing statements emanating as they do from two ardent and learned Roman Catholics, are, to say the least, dangerous, in the presence of the Bible and its prophets. Indeed, if Jupiter, the "chief Daemon of the Pagan Greeks," hurled his deadly thunder-bolts and lightnings at those who excited his wrath, so did the Lord God of Abraham and Jacob. We find in I. Samuel, that "the Lord thundered from heaven, and the most High uttered his voice, and he sent out arrows (thunder bolts) and scattered them (Saul's armies) with lightning, and discomforted them." (Chap. xxii. 14, 15.)

The Athenians are accused of having sacrificed to Boreas; and this "Demon" is charged with having submerged and wrecked 400 ships of the Persian fleet on the rocks of Mount Pelion, and of having become so furious "that all the Magi of Xerxes could hardly counteract it by offering contra-sacrifices to Tethys" [Herodotus "Polym." cxc]. Very fortunately, no authenticated instance is on the records of Christian wars showing a like catastrophe on the same scale happening to one Christian fleet owing to the "prayers" of its enemy -- another Christian nation. But this is from no fault of theirs, for each prays as ardently to Jehovah for the destruction of the other, as the Athenians prayed to Boreas. Both resorted to a neat little piece of black magic con amore. Such abstinence from divine interference being hardly due to lack of

[[Footnote(s)]] -------------------------------------------------

* Cosmolatry, p. 415.

[[Vol. 1, Page]] 468 THE SECRET DOCTRINE.

prayers, sent to a common Almighty God for mutual destruction, where, then, shall we draw the line between Pagan and Christian? And who can doubt that all Protestant England would rejoice and offer

http://www.theosociety.org/pasadena/sd/sd1-2-14.htm (7 von 9) [06.05.2003 03:32:58] The Secret Doctrine by H. P. Blavatsky, Vol 1, bk 2, ch 14

thanks to the Lord, if, during some future war, 400 ships of the hostile fleet were to be wrecked owing to such holy prayers. What is, then, the difference, we ask again, between a Jupiter, a Boreas, and a Jehovah? No more than this: The crime of one's own next-of-kin -- say of one's "father" -- is always excused and often exalted, whereas the crime of our neighbour's parent is ever gladly punished by hanging. Yet the crime is the same.

So far the "blessings of Christianity" do not seem to have made any appreciable advance on the morals of the converted Pagans.

The above is not a defence of Pagan gods, nor is it an attack on the Christian deity, nor does it mean belief in either. The writer is quite impartial, and rejects the testimony in favour of either, neither praying to, believing in, nor dreading any such "personal" and anthropomorphic God. The parallels are brought forward simply as one more curious exhibition of the illogical and blind fanaticism of the civilized theologian. For, so far, there is not a very great difference between the two beliefs, and there is none in their respective effects upon morality, or spiritual nature. The "light of Christ" shines upon as hideous features of the animal-man now, as the "light of Lucifer" did in days of old.

"Those unfortunate heathens in their superstition regard even the Elements as something that has comprehension! . . . . They still have faith in their idol Vayu -- the god or, rather, Demon of the Wind and Air . . . they firmly believe in the efficacy of their prayers, and in the powers of their Brahmins over the winds and storms. . . . ." (The Missionary Lavoisier, of Cochin, in the Journal des Colonies.) In reply to this, we may quote from Luke viii., 24: "And he (Jesus) arose and rebuked the Wind and the raging of the Water, and they ceased and there was a calm." And here is another quotation from a prayer book: . . . "Oh, Virgin of the Sea, blessed Mother and Lady of the Waters, stay thy waves . . ." etc., etc. (prayer of the Neapolitan and Provencal sailors, copied textually from that of the Phoenician mariners to their Virgingoddess Astarte.) The logical and irrepressible conclusion arising from the parallels brought forward, and the denunciation of the Missionary is this: The commands of the Brahmins to their element-gods not remaining "ineffectual," the power of the Brahmins is thus placed on a par with that of Jesus. Moreover, Astarte is shown not a whit weaker in potency than the "Virgin of the Sea" of Christian sailors. It is not enough to give a dog a bad name, and then hang him; the dog has to be proven guilty. Boreas and Astarte may be devils in theological

[[Vol. 1, Page]] 469 PRAYER IS OFTEN SORCERY.

fancy, but, as just remarked, the tree has to be judged by its fruit. And once the Christians are shown as immoral and wicked as the pagans ever were, what benefit has humanity derived from its change of gods and idols?

That, however, which God and the Christian Saints are justified in doing, becomes a crime, if successful, in simple mortals. Sorcery and incantations are regarded as fables now; yet from the day of the Institutes of Justinian down to the laws against witchcraft of England and America -- obsolete but not repealed to this day -- such incantations, even when only suspected, were punished as criminal. Why punish a chimera? And still we read of Constantine, the Emperor, sentencing to death the philosopher Sopatrus for unchaining the winds, and thus preventing ships loaded with grain from

http://www.theosociety.org/pasadena/sd/sd1-2-14.htm (8 von 9) [06.05.2003 03:32:58] The Secret Doctrine by H. P. Blavatsky, Vol 1, bk 2, ch 14

arriving in time to put an end to famine. Pausanias, when affirming that he saw with his own eyes "men who by simple prayers and incantations" stopped a strong hail-storm, is derided. This does not prevent modern Christian writers from advising prayer during storm and danger, and believing in its efficacy. Hoppo and Stadlein two magicians and sorcerers -- were sentenced to death for throwing charms on fruit and transferring a harvest by magic arts from one field to another, hardly a century ago, if we can believe Sprenger, the famous writer, who vouches for it: "Qui fruges excantassent segetem pellicentes incantando."

Let us close by reminding the reader that, without the smallest shadow of superstition, one may believe in the dual nature of every object on Earth -- in the spiritual and the material, the visible and the invisible nature, and that science virtually proves this, while denying its own demonstration. For if, as Sir William Grove has it, the electricity we handle is but the result of ordinary matter affected by something invisible, the "ultimate generating power" of every Force, the "one omnipresent influence," then it only becomes natural that one should believe as the ancients did; namely, that every Element is dual in its nature. "ETHEREAL fire is the emanation of the KABIR proper; the aerial is but the union (correlation) of the former with terrestrial fire, and its guidance and application on our earthly plane belongs to a Kabir of a lesser dignity" -- an Elemental, perhaps, as an Occultist would call it; and the same may be said of every Cosmic Element.

No one will deny that the human being is possessed of various forces: magnetic, sympathetic, antipathetic, nervous, dynamical, occult, mechanical, mental -- every kind of force; and that the physical forces are all biological in their essence, seeing that they intermingle with, and often merge into, those forces that we have named intellectual and moral -- the first being the vehicles, so to say, the upadhi, of the second. No one, who does not deny soul in man, would hesitate in

[[Vol. 1, Page]] 470 THE SECRET DOCTRINE.

saying that their presence and commingling are the very essence of our being; that they constitute the Ego in man, in fact. These potencies have their physiological, physical, mechanical, as well as their nervous, ecstatic, clairaudient, and clairvoyant phenomena, which are now regarded and recognised as perfectly natural, even by science. Why should man be the only exception in nature, and why cannot even the ELEMENTS have their vehicles, their "Vahans" in what we call the PHYSICAL FORCES? And why, above all, should such beliefs be called "superstition" along with the religions of old?


https://vi.wikipedia.org/wiki/Abraham