Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 27 tháng 5 năm 2017

[7:07:04 PM] *** Group call ***
[7:10:33 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/sach/GiangLyAnhSangTDD.htm
[7:12:03 PM] Thuan Thi Do: VÀI LỜI NÓI ĐẦU



Như tôi đă nói trong quyển “Tôi Học Dưới Chân Thầy,” hiện giờ khắp hoàn cầu có ba quyển sách Đạo Đức, khuôn khổ tuy nhỏ nhưng giá trị cực kỳ lớn lao, không cuốn nào b́ kịp, chẳng phải v́ câu văn như gấm thêu hoa, hay là ư nghĩa thâm trầm của câu chuyện, mục đích chính là chúng dắt con người từ Cửa Tử đến Cơi Trường Sanh Bất Tử, trở thành một vị Siêu Phàm thoát khỏi đọa Luân Hồi. Nói cách khác là con người đạt được mục đích đă định sẵn cho nhân loại trong Thái Dương Hệ này. Ba quyển đó là:

1.- Dưới Chân Thầy.

2.- Tiếng Nói Vô Thinh.

3.- Ánh Sáng Trên Đường Đạo.

Quyển “Dưới Chân Thầy” dắt Sinh Viên tới bực Điểm Đạo lần thứ Nhứt. Phật Giáo gọi là Tu Đà Huờn (Sotapanna), sau khi trải qua ba giai đoạn Đệ Tử: Đệ Tử Nhập Môn, Đệ Tử Chính Thức và Con của Thầy.

Quyển “Tiếng Nói Vô Thinh” dắt Sinh Viên đến bực La Hán (Arhat) được bốn lần Điểm Đạo.

C̣n quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” dắt Sinh Viên tới bực Tam Thanh: Trở thành một vị Bàn Cổ (Manu), hoặc một vị Bồ Tát (Bodhisattva), hay là một vị Văn Minh Đại Đế (Maha Chohan) được bảy lần Điểm Đạo.

Thế nên quyển “Dưới Chân Thầy” dễ hơn hết, c̣n quyển “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” khó hơn hết, v́ mỗi câu có bảy nghĩa, thấp cao tùy theo bực.

Hai vị Cao Đồ của Chơn Sư là Đại Đức A. Besant và Leadbeater có giảng lư ba quyển này để hướng dẫn các bạn tu hành mau bước tới cửa Đạo.

Xét v́ quyển “Giảng Lư Ánh Sáng Trên Đường Đạo” rất hữu ích cho tất cả các bạn tu hành, nhứt là những bạn chí nguyện làm Đệ Tử, nên Huynh Huyền Châu và tôi hiệp nhau lại dịch bản văn chữ Pháp “Commentaires sur la Lumière sur le Sentier” ra tiếng Việt.

Quyển này với quyển “Giảng Lư Dưới Chân Thầy” bổ túc lẫn nhau. Tuy nhiên, muốn thấy hiệu quả chắc chắn chúng ta cần sửa trị Phàm Nhơn và bắt buộc nó sống đúng theo những lời chỉ bảo trong đó. Phải nhẫn nại, phải bền chí, dù cho bị thất bại cả trăm lần đi nữa, cũng đừng ngă ḷng, giữa đường bỏ cuộc. Hăy tiếp tục đi tới măi. Chung cuộc chân lư sẽ thắng. Mặt trời sẽ chói sáng rực rỡ như xưa, sau khi bị mây mù che khuất ánh dương quang trong vài giờ hay là vài hôm chăng nữa.

Chúng tôi xin quí bạn lưu ư. Chúng tôi chú trọng về việc dịch nghĩa của câu văn, không cố dịch từ chữ này qua chữ kia. Chúng tôi biết rằng cách hành văn của những dân tộc trên địa cầu đều khác nhau. Những sách đạo đức nếu dịch ra tiếng Việt từng chữ, y như nguyên văn tiếng ngoại quốc, sẽ nghe chướng tai và chắc chắn độc giả không hiểu chi cả hay là hiểu một cách mập mờ.

Học Đạo phải thật tâm Hành Đạo, không thật tâm Hành Đạo không Đắc Đạo. Mà muốn Hành Đạo phải biết Đạo dạy cái chi. Không biết, hay biết một cách mơ hồ mà thực hành sẽ không có kết quả tốt đẹp, sợ e c̣n mang tai họa vào thân. Thế nên chúng tôi hết sức cố gắng t́m hiểu hai Đại Đức A. Besant và Leadbeater muốn dạy điều chi rồi dịch ra. Chúng tôi rất thận trọng chọn lựa những danh từ để dịch, nhưng dù sao cũng c̣n nhiều khuyết điểm cần phải bồi bổ sau này. Chúng tôi rất mừng khi nhận được những lời chỉ giáo. Tới những kỳ xuất bản sau chúng tôi sẽ sửa chữa những chỗ sơ sót; chúng tôi xin cám ơn trước quí bạn. Chúng tôi rất phục thiện v́ biết ḿnh c̣n không biết bao nhiêu điều cần phải học hỏi. Hơn nữa, cổ nhân đă nói: “Biển giác vô biên,” dù ở dưới Trần Thế chúng ta tài ba lỗi lạc đến đâu, sự hiểu biết của chúng ta cũng chỉ bằng một giọt nước trong Đại Dương. Chúng ta quan sát những hiện tượng, học hỏi chúng nó mà không t́m ra được cái nguyên nhân đă sinh ra chúng nó. Nguyên nhân này vốn ở trên những cơi vô h́nh. Thí dụ như một việc xảy ra trước mắt chúng ta là chuyện một trứng gà, nếu ta đem ấp th́ nở ra gà con. Trong trứng gà ta chỉ thấy tṛng trắng, tṛng vàng (người Việt Nam gọi là tṛng đỏ) và một ṿng trắng ở trên. Tại sao đem ấp ba thứ này lại thành ra một con gà; trống hay mái? Vậy xin hỏi: Cái chi ở trong tṛng đỏ, tṛng trắng và ṿng trắng biến thành ra mồng, mỏ, xương thịt, ruột gan, chân cẳng con gà? Tại sao gà trống có cựa mà gà mái lại không, h́nh vóc của hai trống, mái đều khác nhau? Cái chi làm ra màu sắc của lông cánh, gà điều khác với gà ô và không giống gà xám. Gà c̣n thụ lănh ít nhiều bản tính của ḍng giống nó nữa, như gà ṇi đá hay hơn gà tre. Gà ô đạp mái, đẻ trứng đem ấp th́ nở ra gà ô con, gà điều sanh gà điều con, vân vân. Hoàn toàn bí mật. Về phần con người lại càng bí mật hơn nữa. Một tinh trùng và một noăn châu hợp lại thành một người nam hay nữ, diện mạo đẹp đẽ hay xấu xa, tính t́nh hiền hậu hay hung ác, khôn ngoan hay đần độn, thông minh hay dốt nát. V́ lẽ nào? Có tinh trùng đực hay tinh trùng cái không? Tại sao màu da lại khác? Có giống da đen, da đỏ, da trắng, da vàng? Tại sao ngôn ngữ lại bất đồng? Tại sao đứa nhỏ ở nước nào sinh ra, lớn lên biết nói tiếng nước đó và hiểu cha mẹ nó muốn nói điều chi? Từ bí mật này tới bí mật kia, không biết bao nhiêu mà kể.

Nói cho đúng, ngày nay chúng ta học hỏi cũng có thể gọi là học lóm, nhưng bất toàn, những điều mà Đấng Hóa Công đă tạo ra cả chục tỷ năm trước. Nếu chỉ dùng Hạ Trí học hỏi một cách gián tiếp những hậu quả và chẳng rơ những nguyên nhân th́ không biết chúng ta phải trải qua thêm mấy trăm triệu năm nữa mới đoạt được mục đích đă định sẵn cho con người trong Thái Dương Hệ này, tức là trở nên một vị Siêu Phàm, đắc quả Chơn Tiên, hoàn toàn sáng suốt, không c̣n điều chi học hỏi trên Dăy Địa Cầu này nữa.

Muốn tiến mau chúng ta cần phải bước vào cửa Đạo, bởi v́ bên trong Thánh Điện mới có việc dạy dỗ mục đích của sự sanh hóa Thái Dương Hệ này đúng với sự thật và Sinh Viên cũng học trực tiếp những phương pháp biến đổi con người thành một vị Chơn Tiên, toàn năng, toàn thiện, trong ṿng vài chục kiếp, thay v́ theo đường tiến hóa b́nh thường chúng ta phải trải qua mấy chục muôn lần sinh tử, tử sinh dưới Trần Thế cũng chưa chắc chúng ta đi đến bực Toàn Giác.

Những vị ngự ở trong Thánh Điện là các Đấng Cao Cả, Đồ Tôn của những vị Đại Thánh Đế đ..
[7:19:10 PM] hueloc nguyen nguyen: may em nghe duoc ma noi o duoc
[7:30:59 PM] Thuan Thi Do: CHƯƠNG 1

LỜI MỞ ĐẦU

(Introduction)




A.B.- “Ánh Sáng Trên Đường Đạo” thuộc về một bộ sách Huyền Bí Học, do các Đấng Chơn Sư lưu giữ và dùng để đào tạo Đệ Tử.

Ấy là một đoạn trích trong quyển “Kim Huấn Thư” (The Book of the Golden Precepts) gồm nhiều quyển viết trong những thời đại khác nhau của lịch sử thế giới chúng ta, nhưng cả thảy đều phô bày một đặc điểm chung, là chứa đựng Chân Lư Huyền Môn. V́ vậy, chúng ta cần khảo cứu nó khác hơn loại sách thường.

Sự hiểu biết chúng tùy thuộc tŕnh độ của độc giả. Khi một trong những quyển sách này được phép tiết lộ cho đời biết, sự giải thích theo nghĩa từng chữ chỉ làm cho người ta đánh giá sai lầm giáo lư của nó.

Bởi sách này chỉ dành riêng để thúc đẩy sự tiến hóa của những người đă bước vào Đường Đạo nên nó tŕnh bày một thứ lư tưởng mà trong thế tục ít ai sẵn sàng chấp nhận.

Muốn đủ năng lực lănh hội nó, con người phải dám cả quyết và có chí nguyện đem áp dụng những lời giáo huấn trong đời sống, bằng không, những trang sách này sẽ bị niêm kín lại.

Độc giả rán hết sức ăn ở theo đó, ánh sáng sẽ hiện ra, nếu anh thờ ơ chẳng những sự đọc sách chỉ đem lại cho anh một lợi ích bé nhỏ mà anh c̣n công kích quyển sách và chê là vô ích nữa.

Sách này chia ra vài Chương Mục tự nhiên, Đức Chơn Sư Hilarion, một trong những vị Giáo Chủ, nhân viên của Quần Tiên Hội đă đem nó hiến ra cho Thế Giới Tây Phương. Ngài đă giữ một vai tuồng quan trọng trong cuộc hoạt động của Phái Tri Thức Linh Thánh [1] và Tân Triết Học Platon và cũng là một trong những bậc vĩ nhân đă cố gắng bảo tồn Thiên Chúa Giáo. Ngài đă đầu thai nhiều lần, nhứt là ở Hy Lạp và La Mă, và đặc biệt chăm nom việc điều khiển cơ tiến hóa của các quốc gia Tây Phương. Trước kia, Ngài đă tiếp nhận quyển sách này, y như hiện giờ chúng ta có đây, không có lời chú thích của Đức Chơn Sư Venetian, Đức Venetian là một trong những vị Đại Giáo Chủ mà Đức Bà Blavatsky gọi là Đức Đế Quân.

15 qui tắc ngắn ở phần thứ nhứt và 15 qui tắc trong phần thứ nh́ đă có từ ngàn xưa. Chúng được viết bằng một thứ cổ tự Bắc Phạn. Đức Đế Quân Venetian thêm vô những câu khác trong những câu cách ngôn ngắn dùng làm nền tảng cho sự huấn luyện Đệ Tử mà ngày nay thuộc về thành phần sách này và phải đọc luôn với 30 qui tắc hầu góp thêm những tư tưởng bổ sung, nếu không, độc giả có thể hiểu lầm.

Trừ ra 30 câu cách ngôn ngắn, tất cả những qui tắc chứa đựng trong hai đoạn sách đều do Đức Đế Quân Venetian đă viết ra và trao cho Đức Chơn Sư Hilarion.

Bản dưới đây tŕnh bày 15 qui tắc ngắn của Phần Thứ Nhứt y như trong bản thảo cổ viết tay, con số đứng trước mỗi câu là số chính, con số sau là số ghi trong sách hiện hữu.

 

 

I

II

III

 

Hăy tiêu diệt ḷng tham vọng. 

Hăy tiêu diệt ḷng tham sống. 

Hăy tiêu diệt ḷng ham muốn sự tiện nghi.

 

1

 2

 3

IV

V

VI

Hăy hoàn toàn tiêu diệt tâm chia rẽ.

Hăy tiêu diệt ư niệm cảm giác.

Hăy tiêu diệt ḷng khao khát tăng trưởng.   

5

 6

 7

VII

VIII

IX

Chỉ nên ham muốn cái chi  ở nơi con.

Chỉ nên ham muốn cái chi ở ngoài con.

Chỉ nên ham muốn cái chi không thể đạt được.   

9

10

11

X

XI

XII

Hăy ham muốn quyền năng một cách hăng hái.

Hăy ham muốn s yên tịnh một cách nhiệt thành.

Hăy ham muốn nhng s hu trên tất cả mọi vật.

13

14

15

XIII

XIV

XV

 

Hăy tầm  Đạo.

Hăy tầm  Đạo bng phương pháp  đi sâu vào nội tâm.

Hăy tầm  Đạo bng phương pháp can đảm tiến ra ngoài.

17

18

19

 





 

 

 

 



 

 

 

 

 

 

 

 

 




Trong bản trên đây (chỉ căn cứ vào phần thứ nhứt của sách) không ghi qui tắc 4, 8, 12,16, 20 và 21. Lư do là những qui tắc này không thuộc về phần cổ kính của sách. Cũng như những lời giảng lư đầu tiên và cuối cùng, những qui tắc này là phần bổ sung của Đức Đế Quân Venetian đă giao lại cho Đức Chơn Sư Hilarion, cũng có vài câu chú thích do chính Đức Chơn Sư Hilarion viết ra.

Trong kỳ xuất bản lần thứ nhứt (1885) sách chia ra làm ba phần:

1- Những câu cách ngôn của nguyên bản xưa.

2- Phần bổ sung của Đức Đế Quân Venetian.

3- Lời chú thích của Đức Chơn Sư Hilarion.

Cả thảy đều do Bà Mabel Collins được sử dụng làm một khí cụ Phàm Trần để ghi chép lại. Đức Chơn Sư chính Ngài dịch sách ấy và chuyển vào bộ óc xác thịt của Bà là người đứng làm trung gian và bàn tay cầm cây viết, là bàn tay của Ngài.

Về sau, tạp chí Lucifer có đăng vài bài Tựa đề “Những Giảng Lư” do Bà Mabel Collins viết ra dưới ảnh hưởng của Đức Chơn Sư.

Những bài này rất quí giá, đáng cho chúng ta đọc và học hỏi.

Giờ đây, mở quyển sách ra, chúng ta gặp trước hết lời tuyên bố này:

Những qui tắc này viết ra cho tất cả các Đệ Tử : Hăy tuân hành.

Ở đây, xác định sự phân biệt giữa những người thế tục và Đệ Tử, xét một cách tổng quát, sách này không phải viết để cho người thế tục dùng.
[7:50:09 PM] Thuan Thi Do:
Danh từ Đệ Tử gồm hai nghĩa: Người chưa được Điểm Đạo và người đă được Điểm Đạo. Đọc cẩn thận, ta t́m thấy có hai lời dạy phân biệt dùng trong một danh từ. Mỗi câu có hai nghĩa: Một để cho những kẻ tiến hóa cao, một để cho những kẻ kém tiến hóa. Chúng ta sẽ cố gắng phân biệt cả hai khi chúng ta đề cập lời tuyên bố mở đầu. Phần Thứ Nh́ dường như chỉ dành riêng cho Đệ Tử đă được Điểm Đạo, c̣n trong Phần Thứ Nhứt, mỗi câu đều có hai nghĩa.

Nhiều người c̣n lâu lắm mới được vào hàng Đệ Tử, nên không thể hiểu thấu nổi những qui tắc này. Họ thường hay chỉ trích và trách móc sao nó tŕnh bày một lư tưởng mà con người không thấy có chút ǵ êm dịu, dễ cảm mến. Quả thật, có nhiều trường hợp độc giả đứng trước một lư tưởng quá cao siêu đối với y. Một lư tưởng, dù cao siêu đi nữa, cũng không bổ ích cho ai, nếu nó không thu hút được họ; cho nên, khi giao thiệp với đời, hăy giữ đúng nguyên tắc thực tiễn nầy là chỉ nên đem tŕnh bày những lư tưởng nào hấp dẫn họ được. Trong những thứ sách như loại này điều nào độc giả hấp thụ được là vừa với tầm hiểu biết của họ, họ sẽ hiểu biết, nếu họ có đủ khả năng ứng đáp với tư tưởng đă diễn tả.

Những đồ vật hữu h́nh đối với ta có thật là khi nào ta mở những cơ quan đủ sức đáp ứng lại ảnh hưởng của chúng nó. Chính ngay lúc đó, chúng ta bị bao bọc bởi cả trăm thứ rung động mà chúng ta không đủ năng lực cảm biết được.

Một ngày kia, Ông William Crookes đưa ra một thí dụ rất hay. Ông cố giảng cho ta biết về Điện Học, kiến thức ta c̣n thấp kém lắm, c̣n khả năng tiến bộ mới mẻ của Khoa Điện Học thật là lớn lao. Ông nói: “Nếu, thay v́ mắt ta nhạy cảm với sự rung động của ánh sáng, chúng ta lại có những cơ quan ứng đáp lại với sự rung động của điện khí th́ tư tưởng của ta đối với cuộc đời sẽ thay đổi đến thế nào?” Sự khác biệt đối với chúng ta lớn biết là bao nhiêu.

Trong một bầu không khí khô ráo, ta không biết chi cả, v́ không khí khô ráo không dẫn điện. Căn nhà bằng kiếng sẽ mờ đục, nhưng căn nhà thường lại trong suốt. Một sợi chỉ bạc sẽ giống như một cái lỗ, hoặc con đường hầm ở không trung. Điều mà ta hiểu biết về thế tục tùy theo cách chúng ta ứng đáp với những sự rung động của nó. Cũng thế đó, nếu ta không ứng đáp được với một Chân Lư th́ Chân Lư ấy đối với ta không c̣n là Chân Lư. Lại nữa, nếu là sách do những Nhà Huyền Bí Học viết th́ chỉ có tŕnh độ tiến hóa Tinh Thần của ta mới giúp ta thấu đáo được tư tưởng của họ thôi. Tất cả những phần tư tưởng của họ tinh vi quá, hay cao diệu quá, vượt khỏi sức hiểu biết của ta, kết quả giống như chúng nó không có thật.

Sách này tưởng thưởng rất nhiều trong sự tham thiền hơn là việc đọc sách một cách nông cạn. Giá trị chính của nó là hướng dẫn ta trong sự tham thiền, hăy chọn một câu và nghiền ngẫm nó, ngưng hẳn mọi hoạt động của Hạ Trí và đánh thức nội tâm trực tiếp với tư tưởng. Khi ta thoát khỏi h́nh ảnh của trí cụ thể, ta có thể thấy ngay Chân Lư. Nhờ tham thiền ta đem vào óc của ta một phần lớn sự hiểu biết Chân Lư do Chơn Nhơn đạt được trên cơi của nó.

Tuy nhiên, người nào tham thiền mà không chịu đọc hoặc tuân theo lời Thầy chỉ dạy, nếu cứ tin chắc rằng ḿnh được tiến triển trên cơi Tinh Thần th́ cũng chỉ tiến triển một cách chậm chạp thôi. Nhờ cái lợi thêm là vừa đọc, vừa nghe lời giảng dạy, anh sẽ tiến bước mau lẹ. Những bài diễn thuyết hay việc ngồi suy gẫm có thể chuẩn bị cho cái óc để nhờ tham thiền mà mở mang thêm. Nhưng, đối với người chỉ biết nghe lời và đọc sách mà không chịu tham thiền th́ sự tiến bộ hầu như không thể được, những sự tiến bộ sẽ rất chậm chạp. Phải phối hợp cả hai lại. Tham thiền nhiều, thêm vào một ít bài học khẩu truyền và đọc sách, có thể dắt ta đi thật xa.


http://thongthienhoc.net/sach/GiangLyTiengNoiVoThinh.htm
[8:09:21 PM] Thuan Thi Do: CHƯƠNG II

CÁC NGUYÊN NHÂN XUẤT PHÁT
TỪ CUỘC SỐNG TẬP THỂ

Khi xét đến bệnh tật và các nguyên nhân căn bản của nó, chúng ta đă đặc biệt bàn đến các nguyên nhân có liên quan đến giống dân Aryan và nhân loại hiện nay; các nguyên nhân này phần lớn có cội nguồn ở thể cảm dục và có thể được mô tả như là có bản chất của thời Atlantis. Chúng ta cũng đă xem xét vắn tắt về các bệnh khác nhau xuất phát từ cơi trí; chính xác hơn các bệnh này của giống dân Aryan và cũng dính líu đến các bệnh mà đệ tử có khuynh hướng mắc phải. Các bệnh truyền nhiễm và các bệnh vốn có căn bản trong chất liệu hành tinh, có một hiệu ứng mạnh mẽ trên các giống dân này (vẫn c̣n ở trong số chúng ta) vốn là bệnh xưa nhất trên hành tinh ta, và vốn có liên quan tới các giống dân Lemuria đă tàn tạ nhanh chóng; Sắc Dân Da Đen đặc biệt có khuynh hướng mắc các bệnh dịch truyền nhiễm.
Trong bộ luận này, tôi không cố thử bàn về mặt bệnh lư đối với bất cứ bệnh nào được nói đến, tôi cũng không để ư đến sinh lư học của bệnh nhân. Điều đó hoàn toàn nằm ngoài lănh vực hiểu biết của tôi. Tuy nhiên, tôi thử nêu ra cội nguồn của một số bệnh, để kêu gọi sự chú tâm đến mức tối quan trọng của hệ thống tuyến và để liên kết một cách thật đúng đắn và khôn ngoan, một vài trong số các lư thuyết Đông phương liên quan đến các bí huyệt và minh triết Tây phương. Sau này, tôi sẽ nêu ra một số t́nh trạng căn bản của con người vốn dĩ phải được thay đổi nếu việc chữa trị thực sự được áp dụng một cách chính xác và bấy giờ, tôi hy vọng đưa ra một vài phương pháp mà nhờ đó, các nhà chữa trị có thể hoàn thành công tác vốn sẽ phù hợp với các dữ kiện của trường hợp và sẽ trợ giúp trong tiến tŕnh phục hồi.
222

Ngày nay, vấn đề bệnh tật tăng lên mạnh mẽ, do sự việc là trong giống dân Aryan này – mà hiện giờ đang chi phối hành tinh, có sự xuất lộ đích thực đầu tiên hướng ra ngoài trên cơi trần do sự tổng hợp căn bản của nhân loại sẽ – dưới h́nh thức hoàn hảo hơn của nó – có ư nghĩa rất đặc sắc của căn chủng chính kế tiếp, căn chủng thứ sáu. Hôn nhân trong ḍng họ giữa các quốc gia và các giống dân, sự pha trộn huyết thống trong nhiều thế kỷ – do sự di dân, du lịch, giáo dục và hợp nhất trí tuệ – đă đưa đến việc không có được các kiểu chủng tộc thuần túy thực sự ngày nay. Nếu xét đến lịch sử dài đăng đẳng của con người th́ càng chắc chắn hơn, đây là trường hợp mà kẻ giác ngộ nhất nghĩ tới. Không một chướng ngại nào có thể ngăn trở sự giao phối được cả, và con người, vào thời nay, có trong ḿnh họ mọi ḍng giống và huyết thống của mọi chủng tộc, và điều này (do kết quả của thế chiến 1914–1945) sẽ là trường hợp ngày càng tăng. Sự phát triển này rơ ràng là một phần của thiên cơ, bất luận không được ưa thích ra sao đối với những kẻ lư tưởng hóa sự tinh khiết của mối liên hệ hoặc việc áp dụng thiên cơ đó khắc khe ra sao vào lúc này. Có cái ǵ đó được dự trù xảy ra và điều đó không thể tránh được. Việc thôi thúc để kết đôi đặc biệt trở nên mạnh mẽ khi con người tách ra khỏi các khung cảnh quen thuộc và trải qua sự mới lạ của việc cô độc hoàn toàn, khi các sự ức chế b́nh thường và các tục lệ được đặt ra bởi các liên hệ gia đ́nh và các tiêu chuẩn quốc gia được tách ra, khi mối nguy hiểm của sự chết được đương đầu thường xuyên, và giá trị lớn áp đảo được các giá trị nhỏ, và các thái độ dựa trên tập tục thông thường, và khi cơ thể vật chất được luyện tập và thúc đẩy bằng lối trị liệu có khoa học, và việc bảo dưỡng đầy đủ đem lại hiệu quả cao về mặt thể chất. Tôi đang nói đến hiệu quả về vật chất chớ không phải hiệu quả về trí tuệ, hiệu quả trí tuệ có thể hay không thể song hành với hiệu quả vật chất.
[8:15:32 PM] Thuan Thi Do:
223

Do đó các bản năng thú tính mạnh lên; các bí huyệt dưới cách mô trở thành bị kích hoạt một cách đặc biệt; các nhu cầu t́nh cảm mang lại sinh khí rất nhiều cho huyệt đan điền, c̣n bí huyệt ở chót xương sống làm tăng hoạt động của các tuyến thượng thận khi ư chí của con người được huy động để vượt qua nguy hiểm; ư-chí -muốn-sống với phần phụ thuộc của nó là ư-muốn-được-thường-tồn (will-to-perpetuate) và sống trong tuổi thanh xuân, được nuôi dưỡng một cách mạnh mẽ. Với vai tṛ là một bổ sung chính của nỗ lực lớn, cũng nên thêm vào việc này ư chí của chính Thiên Nhiên đang tác động (theo một số luật thiêng liêng) để hóa giải nỗi thiệt tḥi của sự sống và các tổn thất do chiến tranh bằng một luồng sinh khí mới mẻ đi vào h́nh hài, như vậy, duy tŕ ṇi giống con người, cung cấp các thể cho trào lưu chân ngă kế tiếp và như vậy làm tăng con người trên địa cầu.
Khi nói đến điều này, tôi chỉ t́m cách giải thích hiện tượng vốn có thể được ghi nhận vào mọi lúc khi chiến tranh xảy ra và trong thế chiến, nó có thể được ghi nhận ở một mức độ rộng lớn. Các đạo quân của thế giới có ở khắp nơi và trải rộng khắp mọi xứ; sự di trú của nhân loại là một yếu tố phổ cập, cả về khía cạnh nhu cầu quân sự, lẫn cảnh ngộ của người dân thường, tức là những kẻ thấy chính ḿnh ở vào con đường của chiến tranh. Phong trào này của hàng triệu người ở khắp nơi là một trong các yếu tố tối thượng sẽ chi phối nền văn minh mới và tầm quan trọng của nó được dựa trên sự kiện là trong thời gian hai mươi lăm năm, cả nam lẫn nữ sẽ là một chủng tộc lai mà cha mẹ của chủng tộc này sẽ thuộc về mọi quốc gia có thể tưởng tượng được. Những người cha da trắng sẽ có mối liên quan vật chất với phụ nữ thuộc mọi nguồn gốc Á châu hoặc Phi châu, như vậy, tạo ra sự pha trộn huyết thống mà – nếu được nhận thức và vận dụng, phát triển đúng, từ khía cạnh giáo dục và với sự hiểu biết – sẽ biểu lộ bản chất của căn chủng thứ 6 ở giai đoạn phôi thai, và sẽ thật sự là Nhân Loại mà không có sự ngăn cách nào về chủng tộc hoặc quốc gia với không có cái gọi là huyết thống thuần chủng và các đẳng cấp đặc thù, và với một ư nghĩa mới mẻ, hùng tráng của sự sống, bởi v́ việc truyền lại ḍng dơi mạnh mẽ hơn với kẻ yếu đuối hoặc các kiểu mẫu bị kiệt quệ và của
224

các ḍng giống chủng tộc mới mẻ hơn với cái cũ hơn và phát triển hơn. Tôi không ủng hộ cho cách mà điều này đang được tạo ra. Nó có thể xảy ra mà không có chiến tranh và nhờ một sự tin chắc rằng tất cả mọi người đều như nhau, và con người, cùng với sự pha trộn các chủng tộc sẽ giải quyết được nhiều vấn đề. Tuy nhiên, chiến tranh đă hối thúc diễn tŕnh và các chiến sĩ của mọi đạo quân trên thế giới đều đang có các liên quan thể xác với phụ nữ thuộc mọi chủng tộc, mọi nền văn minh và mọi sắc thái. Dù được xem là đúng hay sai đi nữa, điều này phải tùy vào qui tắc luân lư và tŕnh độ của kẻ quan sát, tạo ra một t́nh trạng hoàn toàn mới mẻ, mà thế giới tương lai sẽ phải đối phó với t́nh trạng này. Điều đó tất nhiên sẽ làm sụp đổ các thành kiến quốc gia và các bức tường chủng tộc – cái trước tạo ra nhiều hiệu quả hơn cái sau trong các giai đoạn mở đầu. Hiển nhiên là một nhân loại đồng nhất hơn sẽ xuất hiện trong các thay đổi của một trăm năm sắp tới. Nhiều phong thái và nhiều phản ứng theo thông thường mà ngày nay đang chế ngự sẽ biến mất, và các kiểu mẫu cùng các tính chất và đặc điểm mà nhờ đó chúng ta có được cho đến nay, chưa bao giờ xuất hiện từ trước đến giờ trên một mức độ rộng lớn.
[8:25:30 PM] Thuan Thi Do: Dù cho những kẻ bảo thủ và những kẻ được gọi là "đạo đức" một cách cứng nhắc chán ghét, biến cố toàn cầu này không có liên quan ǵ đến trường hợp đó. Điều đó đă xảy ra và đang xảy ra hằng ngày và sẽ mang lại, về phương diện vật chất các thay đổi rộng lớn. Các liên hệ giữa chủng tộc và được phối hợp này luôn luôn xảy ra ở một mức độ nhỏ và cá biệt; hiện nay, chúng đang xảy ra ở một mức độ rộng lớn. Đối với các kết quả này, cần phải được chuẩn bị đúng mức.
Như các bạn đă biết, có một vài bệnh đang vượt trội về số lượng trên thế giới ngày nay. Đó là:
1. Đủ loại bệnh tim, đặc biệt tác động vào nhân loại tiến hóa.
225

2. Bệnh điên
3. Ung thư rất thường thấy trong mọi hạng người ngày nay.
4. Các bệnh xă hội – bệnh giang mai trong thiên nhiên.
5. Bệnh lao.
Dưới h́nh thức tinh anh và huyền bí, các bệnh này là do hai nguyên nhân căn bản sau: một nguyên nhân là sự tương tác chặt chẽ giữa con người sống với các điều kiện hiện tại và đông đảo con người hợp thành các đô thị và thành phố; nguyên nhân kia là tuổi của đất mà con người sống trên đó (một sự kiện ít được nhận biết hay xem xét) v́ nó ăn sâu với các mầm mống và cặn bă gắn liền với các thời đại đă qua. Sự miễn nhiễm của con người là một vấn đề đáng ngạc nhiên, có thể bạn chỉ mới hiểu nó; con người chống lại và thường xuyên cũng như luôn luôn loại bỏ mọi loại bệnh tật – các bệnh vốn là kết quả của việc tiếp xúc với những kẻ khác, những bệnh vốn thường thấy trong chính bầu khí quyển vào mọi thời, những bệnh tiềm tàng bên trong chính cơ thể và những bệnh bị kế thừa, và đối với bệnh đó, con người luôn luôn có khuynh hướng mắc phải. Cuộc đấu tranh v́ sức khỏe của con người vẫn không ngừng nghỉ và không kết thúc, được xếp thành nhiều loại, từ sự mệt mỏi thông thường và sự mệt nhọc (cộng với khuynh hướng chung là cảm lạnh) đến bệnh nặng, chấm dứt bằng cái chết.
226

Đối với nhà quan sát lăo luyện của huyền môn, có thể là nhân loại – nói chung – đang phần nào bước trong bóng tối dày đặc đang nhận ch́m nhân loại, và một vài nơi có liên quan đến một vùng của cơ thể của mọi người. Một trong các mục tiêu của Kỷ Nguyên Mới sẽ là "soi sáng bóng tối này và đưa con người đi vào t́nh trạng thích hợp của sức khỏe đích thực". Cũng bóng tối này thâm nhập vào giới khoáng chất, ảnh hưởng đến giới thực vật và cũng liên quan đến giới động vật. Đó là một trong các nguyên do chính của tất cả những ǵ có thể được xét dưới danh xưng "tội lỗi" mà có thể làm cho bạn ngạc nhiên. Đó cũng là hạt giống tốt của tội ác. Đây là một sự kiện từng được chấp nhận, xem xét một cách thích hợp và bàn đến dựa trên lư trí, lành mạnh, sáng suốt và thiên về tinh thần; nó sẽ đ̣i hỏi mọi yếu tố cần ghi nhớ để nâng con người ra khỏi bóng tối của bệnh tật, vào t́nh trạng sức khỏe được ổn cố và rạng rỡ. Một vài Chân Sư đang giải quyết vấn đề này trong mối liên hệ với các giới khác trong thiên nhiên, v́ sẽ không có sự vượt thoát thật sự nào đối với con người trong khi môi trường của y vẫn c̣n ở dưới bóng của bệnh tật.
Phần nhiều những ǵ mà tôi có thể nói với bạn về mối liên hệ này sẽ có vẻ tưởng tượng và sẽ gây ra sự chế giễu đùa cợt của nhà khoa học sắt đá. Các lư thuyết mà nhân loại đưa ra về cội nguồn của bệnh tật và việc nhận thức về vi khuẩn , về mầm bệnh và các cơ cấu xâm nhập tương tự đều đúng phần lớn, nhưng điều này chỉ đúng như thế nếu bạn nhớ rằng thực ra, chúng là hậu quả của các nhân mà nhà t́m ṭi không đá động tới và c̣n ẩn tàng trong chính lịch sử của chính hành tinh, và cũng trong lịch sử của con người của quá khứ – mà rất ít người được biết hay thực tế không được biết tới. Ở đây chỉ là sự ước đoán, phỏng chừng.
[8:49:37 PM] Thuan Thi Do: 1. CÁC BỆNH CỦA NHÂN LOẠI, KẾ THỪA TỪ QUÁ KHỨ

Theo khảo cứu ngày nay, lịch sử đi lùi chỉ một ít và mặc dù sử gia và nhà khoa học giác ngộ có thể nới rộng lịch sử của nhân loại đến nhiều triệu năm, không một ai biết về các giống dân đă sống cách đây nhiều triệu năm; không ai biết ǵ về nền văn minh đă phồn thịnh vào đầu thời Atlantis cách đây 12 triệu năm; không ai biết được chút xíu nào về nền văn minh cổ Lemuria, vốn dĩ đi lùi trở lại hơn 15 triệu năm; vẫn c̣n ít ai biết về giai đoạn tranh tối, tranh sáng có cách đây 21 triệu năm khi con người vừa mới làm người, và khi họ c̣n liên hệ mật thiết với giới động vật mà chúng ta gọi họ bằng danh xưng vụng về là "người thú" ("animal – man").
227

Trong giai đoạn rộng lớn giữa lúc ấy và hiện nay, vô số người đă sống, yêu thương và học hỏi kinh nghiệm; các thể xác của họ đă nhập thành cát bụi của địa cầu và mỗi người đă đóng góp một cái ǵ mà họ đă thu thập được trong kinh nghiệm sống – tuy nhiên, có một cái ǵ đó khác với những ǵ mà họ đóng góp cho sự sống của linh hồn trên cơi riêng của nó. Điều được đóng góp này đă biến đổi theo cách nào đó thành các nguyên tử và tế bào của thể xác, và cái được thu thập đó chẳng chóng th́ chầy, được phóng thích trở lại vào trong đất của hành tinh. Mỗi linh hồn, khi triệt thoái khỏi xác thân, đă đến địa cầu nhiều lần liên tiếp, và nhiều triệu linh hồn hiện nay đang ở đây, đặc biệt là những linh hồn hiện hữu vào cuối thời Atlantis, và do đó, họ là tinh hoa và sản phẩm cao nhất của giống dân có nhiều t́nh cảm đó. Họ đem theo với họ các tố bẩm (predispositions, bản chất dễ mắc bệnh) và các khuynh hướng bẩm sinh mà lịch sử đă qua của họ đă phú cho họ.
Do đó, cần ghi nhớ rằng các xác thân mà hiện nay con người khoác lấy, được kiến tạo bằng vật chất rất cổ xưa, và chất liệu được dùng đó đă bị nhiễm bệnh hay bị chi phối bởi lịch sử của quá khứ. Phải đưa thêm hai ư khác vào ư tưởng này: thứ nhất, các linh hồn mới đến tự thu hút loại vật chất mà họ phải kiến tạo các thể bên ngoài của họ, và điều này sẽ được đáp ứng đối với khía cạnh nào đó của các bản chất tinh anh hơn của họ. Thí dụ, nếu ước muốn vật chất chi phối họ, chất liệu của thể xác họ sẽ được đáp ứng phần lớn với thôi thúc đặc biệt đó. Thứ hai, mỗi thể xác mang theo bên trong nó các mầm mống trừng phạt tất yếu, nếu các chức năng của nó bị dùng sai. Tội lỗi lớn lao đầu tiên ở thời Lemuria có bản chất là tính dục và phần lớn không chỉ do các khuynh hướng cố hữu, mà c̣n do mật độ dân số quá nhiều của nền văn minh thời ấy và do sự liên quan chặt chẽ đối với giới động vật. Nguồn gốc của các bệnh giang mai truy nguyên từ các thời này.
228

Có một ư tưởng tốt đẹp trong trí của người vô minh, đó là các giống dân nguyên thủy đều thoát khỏi loại ô nhiễm đó, c̣n nhiều bệnh tính dục và hậu quả của chúng đều hầu hết là các bệnh của t́nh trạng văn minh. Không phải như thế theo khía cạnh nhăn quang huyền bí. Hiểu biết chính xác bác bỏ điều đó. Trong thời ấu trĩ của nhân loại, có sự hỗn giao lớn, t́nh trạng hỗn tạp tính dục và hàng loạt các đồi trụy xảy ra, và trong ngôn ngữ của một số sách cổ nhất thuộc Văn Khố của các Thánh sư, chúng ta đọc thấy: "Địa cầu chịu tổn thất lớn và đất đai bị ô nhiễm và không tinh khiết, trở lại với địa cầu; như vậy, sự sống tệ hại tiến nhập vào t́nh trạng tinh khiết cổ sơ của bà mẹ xưa. Ở sâu trong ḷng đất có ẩn tàng tà lực, thỉnh thoảng lộ ra trong h́nh hài, chỉ có lửa và đau khổ mới có thể thanh tẩy bà mẹ của tà lực mà các con của bà đă mang lại cho bà".
Giống dân Lemuria hầu như đă tự hủy diệt ḿnh, do bởi việc lạm dụng bí huyệt xương cùng, mà vào lúc đó là huyệt linh hoạt nhất và quan trọng nhất. Vào thời Atlantis, chính huyệt đan điền mới là mục tiêu quan yếu nhất của "luồng hỏa đi vào". Như tôi đă có nói ở nơi nào đó, công việc của Thánh Đoàn vào thời Lemuria là giảng dạy cho nhân loại c̣n ấu trĩ hiểu được bản chất, tầm quan trọng và ư nghĩa của thể xác, cũng như trong giống dân kế tiếp, t́nh cảm được bảo dưỡng và là mục tiêu chú tâm chính yếu, c̣n trong giống dân của chúng ta, chính thể trí bị lệ thuộc vào sự kích thích. Điểm đạo đồ thời Lemuria là kẻ đă hoàn toàn chế ngự được việc kiềm chế thể xác, và Hatha-yoga, lúc bấy giờ là sự thực hành tâm linh nổi bật. Theo thời gian, môn này được Laya-yoga thay thế, chính Laya-yoga đă đưa mọi bí huyệt trong thể dĩ thái (trừ bí huyệt cổ họng và bí huyệt đầu) đi vào hoạt động. Đây không phải là loại hoạt động đang có hiện nay, bởi v́, nên nhớ rằng, vào thời ấy Chân Sư chưa có được sự phát triển hay là sự hiểu biết của các Chân Sư ngày nay, các ngoại lệ duy nhất là các Ngài đến từ các hệ thống và bầu hành tinh khác để giúp đỡ người thú và nhân loại sơ khai.
[9:10:32 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/MUSLIM/