Tiếng Nói Vô Thinh
PHẦN THỨ NH̀ A
HAI CON ĐƯỜNG
101. Và bây giờ đây, bạch Sư Phụ Từ Bi, xin Ngài chỉ đường cho kẻ khác. Ngài hăy
xem, tất cả những kẻ đến gơ cửa để được thâu nhận đương ở trong cảnh dốt nát,
tối tăm chờ mong cửa Diệu Pháp mở rộng.
Tiếng của các Thí Sinh
102. Hỡi Đức Thầy Từ Ái, Ngài há đành chẳng tiết lộ Tâm Pháp (1) sao ? Ngài há
đành chẳng d́u dắt Tôi Tớ Ngài vào con đường Giải Thoát sao ?
Đức Thấy nói
103. Con đường có hai [4]; Sự Chí Thiện có ba [5]; sáu Đức Hạnh [6] biến đổi
thân h́nh thành cây Trí Tuệ (2).
104. Ai sẽ bước đến gần ?
105. Ai sẽ vào trước ?
106. Ai là người thứ nhất nghe giảng hai con đường vô một và chân lư của Tâm
Pháp (3). Pháp môn bảo đừng học, pháp môn đó dạy Minh Triết và tiết lộ một câu
chuyện đau thương.
107. Hỡi ôi ! Hỡi ôi ! tất cả mọi người đều có Alaya nơi ḿnh, đều là một với
Đại Hồn và có nó nơi ḿnh, mà không mấy ai biết dùng Alaya.
108. Ḱa xem, cũng như mặt trăng phản chiếu xuống mặt nước im ĺm, Alaya phản
chiếu trong vật nhỏ cũng như vật lớn, nó soi bóng trong các hột nguyên tử tí ti
nhưng không sao soi thấu tâm vạn vật được. Hỡi ôi ! ít người lợi dụng được tặng
vật vô giá là sự học hỏi chân lư, sự nhận thức đúng đắn các sự vật hiện hữu, sự
Tri Thức cái không hiện hữu.
Đệ Tử hỏi:
109. Thưa Thầy, con phải làm thế nào để đạt được Minh Triết ?
110. Thưa Đấng Sáng Suốt, con phải làm thế nào để được toàn thiện ?
111. Hỡi Đệ Tử, hăy t́m kiếm đường đi, nhưng con phải có tấm ḷng trong sạch
trước khi bắt đầu cuộc hành tŕnh của con. Trước khi cất bước ra đi, con phải
tập phân biệt cái chân và cái giả, cái vô thường và cái trường cửu. Trên hết mọi
sự con phải tập phân tách sự học của Đầu Óc và sự Minh Triết của Tâm Hồn, nhăn
pháp và tâm pháp.
112. Sự vô minh giống như một cái hũ đậy kín, không có không khí, linh hồn như
chim bị nhốt trong hũ, nó hết líu lo, đập lông vỗ cánh, con chim sơn ca câm
miệng, tê cóng và chết ṃn.
113. Tuy nhiên, sự vô minh c̣n hơn sự học của Đầu Óc mà không có sự Minh Triết
của Tâm Hồn soi sáng và hướng dẫn.
114. Hột giống Minh Triết không thể nứt mộng đâm chồi trong chỗ không có khí
trời. Muốn sống và gặt hái kinh nghiệm, trí phải hiểu cho rộng và cho sâu và có
những điểm kéo nó đến Linh Hồn Kim Cương (4). Con chớ t́m những điểm đó trong
cơi của Ma Vương mà phải đem tâm hồn lên khỏi ảo cảnh để t́m sự tồn tại đời đời
bất dịch, bất biến SAT (5) và con phải đề pḥng những khêu gợi lừa dối của tưởng
tượng.
115. Bởi v́ cái trí giống như tấm gương nó chất chứa bụi bậm và phản chiếu (6)
h́nh ảnh bụi bậm đó. Phải có ngọn gió êm dịu của tâm hồn Minh Triết mới thổi bay
bụi trần ảo mộng của chúng ta. Hỡi đệ tử Sơ Cơ, con hăy t́m cách ḥa hợp trí và
tâm hồn con lại.
116. Phải xa lánh sự vô minh, mà cũng phải lánh xa ảo ảnh, con phải ngoảnh mặt,
đừng nh́n những lừa dối của trần thế, con chớ tin giác quan của con, chúng giả
dối nhưng trong cái kho chứa cảm giác là thân thể con đó, con hăy t́m con người
trường cữu (7) trong cái Vô Ngă, và khi t́m được rồi con hăy nh́n trở vô trong :
con là Phật (8) đó.
117. Hăy xa lánh lời ca tụng, hỡi kẻ nhiệt tâm sùng đạo, lời ca tụng đưa đến
huyễn ngă. Thân thể con không phải là Chân Ngă con đâu. Chân Ngă con không có
thân và lời khen chê đều không ảnh hưởng đến nó được.
118. Tự ḿnh xưng tụng lấy ḿnh, hỡi đệ tử, không khác nào kẻ ngông cuồng leo
lên tháp cao ngồi tự đắc, không c̣n thấy ai hơn là thấy ḿnh.
119. Cái học sai lầm bị nhà Hiền Triết bác bỏ và Định Luật tốt lành tung nó bay
theo gió. Bánh xe pháp quay cho tất cả mọi người, kẻ khiêm tốn cũng như kẻ kiêu
căng. Nhăn Pháp (9) để dành cho quấn chúng, Tâm Pháp dành cho kẻ được tuyển lựa.
Hạng thứ nhất lập lại một cách kiêu căng: “Hăy coi ! Tôi biết.” Hạng sau là
những kẻ thâu lượm một cách khiêm tốn và nhỏ nhẹ thú nhận : “Đây là điều tôi đă
nghe được (10)”.
120. Hỡi Đệ tử, Cái Sàng To là danh từ để gọi Tâm Pháp.
121. Bánh xe Diệu Pháp xoay mau lẹ cả ngày lẫn đêm. Nó làm cho tróc lớp vỏ vô
giá trị của hột lúa vàng, nó lọc bột cho hết chất vô dụng. Bàn tay Nhân Quả điều
khiển bánh xe, sự tuần hoàn là nhịp đập của trái tim Nhân Quả.
122. Chân tri thức là bột, sự học sai lầm là trấu. Nếu con muốn ăn bánh Minh
Triết th́ con phải nhồi bột với nước Amrita [7] trong ngần. C̣n nếu con nhồi
trấu với nước sương mù Mộng Ảo th́ con chỉ có thể làm ra món ăn cho loài chim
tử, sanh, lăo, khổ.
123. Nếu ai nói với con rằng, muốn thành La Hán con phải dứt sự thương yêu đối
với mọi người th́ con hăy trả lời là họ nói láo.
124. Nếu ai nói với con rằng, muốn được giải thoát con phải ghét mẹ, bỏ con,
đừng nh́n cha nữa mà chỉ gọi người là gia trưởng thôi (11), bởi v́ con phải diệt
ḷng trắc ẩn đối với người và vật, th́ con hăy nói cho họ biết là họ nói vô lư.
125. Đó là học thuyết của bọn Tirthikas, hạng người ngoại đạo [8].
126. Nếu ai dạy con rằng tội lỗi do hành động gây ra và muốn có hạnh phúc phải
đừng làm ǵ hết, con hăy nói cho họ biết là họ lầm. Không tiếp tục công việc của
loài người, giải thoát thần trí khỏi ṿng nô lệ bằng cách thôi làm tội lỗi
suông, không phải là việc thích đáng cho Chân Nhân đang chịu luân hồi. Đó là lời
của “Tâm Pháp”.
127. “Nhăn Pháp” là hiện thân của cái bên ngoài và cái không tồn tại.
128. “Tâm Pháp” là hiện thân của Bồ Đề [9], cái Thường Trụ và Thường Tồn.
129. Cái Đèn cháy tỏ rạng khi mà tim và dầu đều sạch sẽ. Muốn cho tim và dầu
được sạch th́ phải có người săn sóc lau chùi. Ngọn lửa không biết có sự lau chùi
đó. “Nhánh cây bị gió thổi oằn oại, nhưng thân cây vẫn đứng yên”.
130. Sự hành động và sự bất động đều có ở nơi con. Xác thân con cử động, trí con
yên tịnh, Tâm Hồn con trong suốt như nước hồ trên đỉnh núi cao.
131. Con có muốn trở nên một nhà Yogi trong “Ṿng của Thời Gian” không ? Nếu có
th́ hỡi Đệ Tử :
132. Con chớ tin là ngồi trong rừng sâu, kiêu hănh sống riêng biệt với người
đời, con chớ tin là đói ăn rễ cây, khát uống nước tuyết, con chớ tin là mấy điều
đó sẽ dắt con đến mục đích giải thoát cuối cùng.
133. Con chớ tưởng rằng tự làm cho ḿnh găy xương, rách thịt là hợp nhất được
với “Chơn Ngă Tịch Tịnh”(12) của con. Con chớ tưởng rằng khi đă thắng được tội
lỗi của xác thịt th́, hỡi Nạn Nhân của H́nh Bóng của ḿnh, phận sự của con đối
với vạn vật và nhân loại đă xong xuôi.
134. Những bậc hiền nhân rất khinh bỉ những hành động như thế. Vị Sư Tử Pháp,
Đấng Từ Bi Vô Lượng [10] đă hiểu rơ nguyên nhân của sự đau khổ trần gian, liền
từ bỏ ngay sự yên nghỉ êm đềm nhưng ích kỷ nơi chốn rừng hoang tịch mịch. Bỏ
cảnh Aranyaka (14) người trở ra đời làm Thầy của nhân loại. Sau khi Như Lai (15)
đạt Niết Bàn, Người đi truyền giáo khắp chốn núi non cùng đồng nội và thuyết
pháp trong các đô thị cho Thiên Thần và Người.
135. Con hăy gieo những hành vi tốt và con sẽ gặt hái kết quả của những hành vi
đó. Quên sót một hành động bác ái là vi phạm một tội lỗi nặng nề. Bậc hiền triết
nói như thế.
136. Con c̣n kiêng cữ sự hoạt động nữa chăng ? Không phải làm như thế mà hồn con
sẽ được tự do đâu. Muốn đạt đến Niết Bàn phải đạt sự Tự Tri và sự Tự Tri vốn là
con đẻ của hành vi từ thiện.
137. Hỡi Thí sinh, con phải kiên nhẫn như kẻ không sợ sự thất bại, không dua
nịnh sự thành công. Con hăy đặt mắt của Tâm Hồn nơi ngôi sao mà con là tia sáng
(17); Ngôi sao chói lọi trong chốn sâu thẳm, tối tăm của bản thể trường tồn,
trong cơi vô biên vô tận của cái Bất khả Tri.
138. Con hăy bền chí như một kẻ sống đời đời. Những h́nh bóng của con sống và
tàn tạ (18). Cái sẽ sống măi ở nơi con, cái “biết” ở nơi con, chính nó là tri
thức (19) không phải thuộc về đời sống phù du này; đó là con người có tồn tại từ
trước, hiện đang tồn tại và sẽ tồn tại măi măi, đối với con người đó giờ cuối
cùng sẽ không khi nào gơ.
139. Nếu con muốn gặt sự b́nh an, yên nghỉ êm đềm th́ con phải gieo hột giống
công lao nơi miếng ruộng sẽ gặt mùa tới, con phải nhận lănh những nỗi đau khổ
của kiếp luân hồi.
140. Hăy lui vào bóng tối để cho kẻ khác hưởng ánh nắng mặt trời. Những gịng
nước mắt tưới lên miếng đất khô khan đầy nhọc nhằn, đau khổ sẽ làm mọc lên bông,
trái theo luật thù đáp của Nhân Quả. Ở trên ḷ lửa của đời người và trên làn
khói đen của nó bốc lên những ngọn lửa nhẹ nhàng tinh khiết càng ngày càng cao
dưới tầm mắt Nhân Quả để cuối cùng dệt nên canh chỉ rực rỡ của ba thứ Đạo Phục
(20).
141. Ba thứ Đạo Phục đó là Nirmanakàya, Sambhogakàya và Dharmakàya, thứ y phục
tuyệt diệu (21).
142. Quả thật là áo Shangua (22) có thể mua được ánh sáng đời đời. Áo Shangua đủ
đem lại cho con người cảnh Niết Bàn tịch diệt; nó chấm dứt sinh tử, nhưng hỡi Đệ
tử, nó cũng giết chết ḷng từ bi. Có thể nào những Đức Phật trọn lành một khi đă
choàng vào ḿnh sự vinh diệu của Pháp thân (Dharmakàya) th́ không c̣n giúp vào
sự cứu vớt nhân loại được nữa. Hỡi ôi ! Đám sinh linh kia sẽ bị hy sinh cho cái
Ta đó sao ? Cả nhân loại sẽ bị hy sinh cho hạnh phúc của những Đơn vị ?
143. Hỡi Đệ tử sơ cơ, con hăy biết rằng đó là con Đường mở rộng, con đường hạnh
phúc ích kỷ mà những Bậc Bồ Tát đi theo con đường “Tâm Pháp”, những Đức Phật Từ
Bi xa lánh.
144. Sống để làm lợi ích cho nhân loại là bước thứ nhất; thực hành sáu hạnh cao
quư (23) là bước thứ nh́.
145. Mặc áo Nirmanakàya vi diệu là khước từ hạnh phúc đời đời cho ḿnh để giúp
vào sự cứu giúp nhân loại. Đạt được chân phúc Niết Bàn nhưng không hưởng đó là
bước cao quư cực điểm, bước chót trên con Đường Từ Bỏ.
146. Con hăy biết, hỡi Đệ Tử, đó là con Đường Bí mật mà các Đức Phật Trọn Lành
đă chọn lựa, các Ngài hy sinh ḿnh cho chúng sinh c̣n yếu đuối.
147. Tuy nhiên, nếu “Tâm Pháp” quá cao đối với con, nếu con cần tự giúp lấy con
và sợ không dám cứu trợ kẻ khác th́, hỡi kẻ yếu tính, ta cảnh cáo cho con biết,
con nên an phận theo “Nhăn Pháp” th́ hơn. Con hăy cứ hy vọng. Bởi v́ nếu hiện
giờ con chưa có thể theo đuổi “con Đường Bí Mật” th́ mai mốt nó sẽ vừa với sức
con, con nên biết rằng những sự gắng sức hướng về đường thiện hay đường ác, dù
nhỏ đến đâu nữa cũng không thể tiêu mất nơi cơi nguyên nhân. Dù cho làn khói bay
cũng không thể không c̣n dấu vết. “Một lời nói phũ phàng thốt ra trong những
kiếp trước, cũng không tiêu mà vẫn luôn luôn trở lại”[11]. Dây tiêu không thể
trổ sanh bông hường và hoa lài trắng tinh khả ái không thể biến thành gai góc.
148. Ngày nay con có thể tạo những cơ hội may mắn cho ngày mai của con. Trong
cuộc “Đại hành tŕnh”(25) những nguyên nhân gieo ra mỗi giờ đều sẽ có mùa kết
quả của mỗi thứ, bởi v́ Định Luật Chí Công thống trị Thế Gian. Với một trớn đẩy
tới mănh liệt không khi nào sai lạc, luật công b́nh mang lại cho con người hạnh
phúc hay đau khổ, cái hậu quả của nghiệp báo của tất cả tư tưởng, hành vi của
chúng ta từ kiếp trước.
149. Con hăy lănh lấy tất cả những ǵ mà công lao dành cho con, hỡi người có tấm
ḷng son sắt. Hăy vui vẻ, an ḷng lănh số phận ḿnh. Đó là Nghiệp Quả của con.
Nghiệp Quả của các kiếp luân hồi của con, mà cũng là vận mệnh của những kẻ,
trong cảnh đau buồn, sanh ra đồng thời với con, họ đă vui mừng và than khóc kiếp
này sang kiếp khác, liên hệ với các hành động từ kiếp trước của con.
150. Bây giờ con hăy làm cho người, rồi ngày mai người sẽ làm cho con.
151. Chính mầm Từ Bỏ bản ngă sẽ trổ sanh trái ngọt của sự Giải Thoát cuối cùng.
152. Kẻ nào v́ sợ Ma Vương, v́ e ḿnh c̣n ḷng vị kỷ, mà không dám giúp người,
kẻ đó đành phải chịu chết. Kẻ đi đường xa mệt mỏi muốn xuống sông tắm cho mát mà
sợ nước cuốn, có thể chịu nóng không nổi mà chết. V́ ḷng ích kỷ mà không dám
làm ǵ hết chỉ đem lại quả xấu mà thôi.
153. Người sùng đạo ích kỷ sống không mục đích. Người không làm tṛn phận sự ở
đời cũng sống vô ích.
154. Con hăy lăn theo bánh xe đời, hăy lăn theo bánh xe nghĩa vụ đối với ṇi
giống, họ hàng, bạn hữu và thù nghịch và đừng nghĩ đến những vui thích cũng như
những khổ cực. Con hăy làm khô kiệt sự thù báo của Nhân Quả. Hăy đạt những
Siđhis cho kiếp tới của con.
155. Nếu con không thể làm Mặt Trời th́ hăy yên phận làm hành tinh nhỏ. Thực
thế, nếu con bị trở ngăn không thể dọi tia sáng như Mặt Trời đứng bóng trên đỉnh
núi tinh khiết trường tồn th́ hỡi Đệ Tử Sơ Cơ, con hăy chọn một nghĩa vụ khiêm
tốn hơn.
156. Hăy chỉ “con Đường” - dù khi phải sống lẫn lộn trong đám quần chúng không
ai biết đến con – như sao hôm chỉ đàng cho những kẻ đi trong đem tối.
157. Ḱa con hăy nh́n xem “Con Mắt của Migmar” [12] xuyên qua lớp lưới bao mặt
mầu đỏ sậm để lặng nh́n địa cầu đang yên giấc. Con hăy xem “Bàn Tay” sáng rực
của Lhagpa [13] đưa ra trên đầu các nhà khổ tu một cách yêu thương che chở. Cả
hai hiện giờ là bộ hạ của Nyima [14] (26) lặng lẽ thức canh trong đêm tối lúc
vắng chủ. Tuy nhiên, trong những Kalpas trước, cả hai đều sáng chói như Nyima và
trong “Tương Lai” sẽ có thể trở nên hai ngôi Mặt Trời trở lại. Đó là cuộc thăng
trầm của Luật Nhân Quả trong vũ trụ.
NGỮ-GIẢI cho PHẦN THỨ NH̀
HAI CON ĐƯỜNG
1) Phật pháp chia ra tâm truyền và công truyền gọi là Tâm Pháp và Nhăn Pháp. Gọi
là Tâm Pháp v́ lẽ giáo pháp đó do tâm Đức Phật trao truyền c̣n Nhăn Pháp là sản
phẩm của trí năo Ngài. Tâm Pháp v́ đó mà gọi là “tâm ấn” hay là “chân ấn”, một
biểu tượng mà người ta thấy để trên đầu của hầu hết những kinh sách bí truyền.
2) “Cây Trí Huệ” là danh từ mà các môn đồ của Bồ Đề Đạt Ma (tôn giáo căn cứ nơi
trí huệ Minh Triết) gọi những kẻ đă đạt đến những trạng thái cao thâm của tri
thức thần bí – Nhưng Chơn Tiên Nàgàrjuna, đấng sáng lập Môn phái Madhyamika được
gọi là ‘ Cây Rồng”, Rồng là biểu hiệu của Minh Triết và Trí huệ. Cái cây được
tôn sùng v́ chính dưới cội Bồ đề (Minh Triết) là nơi Đức Phật sinh ra đời, được
giác ngộ, thuyết pháp lần đầu và tịch diệt.
3) “Tâm Pháp” là giáo lư bí truyền.
4) “Linh Hồn Kim Cương” “Vajrasattva” là danh hiệu của Đức Phật Tối Cao, “Chúa
tể của tất cả những sự Huyền Bí” gọi là Vajradhara và A Di Đà Phật.
5) SAT, Chơn Lư và Sự Thật duy nhất trường tồn và Tuyệt Đối, ngoài ra tất cả đều
là ảo mộng.
6) Những giáo pháp của Thần Tú dạy rằng trí con người giống như một tấm gương
thu hút và phản chiếu mọi vi trần và ta phải để ư phủi bụi mỗi ngày. Thần Tú là
tổ thứ sáu của Bắc Trung Hoa giảng dạy giáo lư bí truyền của Bồ Đề Đạt Ma.
7) Phật giáo phương Bắc gọi Chơn Nhơn đang luân hồi là “con người thật” con
người hợp nhất được với Cái Ta Cao Siêu của ḿnh là thành Phật.
8) “Phật” nghĩa là “Giác Ngộ”.
9) Xem giải nghĩa số 1. Phật giáo công truyền của quần chúng.
10) Câu như thị ngă văn thường để trước kinh sách Phật giáo có nghĩa là lời của
Phật và các vị La Hán đă thu thập được bằng cách khẩu truyền.
11) Rathapala gọi cha như thế trong câu chuyện Rathapala Sutrasanne.
12) Cái ta Cao Siêu, nguyên tố thứ bảy.
13) Xác thân của chúng ta, các trường huyền bí gọi là “cái bóng”.
14) Nhà ẩn tu, ẩn thân trong rừng rậm khi đă trở nên vị Yogi.
15) Như Lai, tiếng Trung Hoa dịch Tathagata tôn hiệu của Phật..
16) Tất cả phương Bắc và phương Nam đều đồng ư rằng Đức Phật dời bỏ cảnh cô đơn
khi Ngài giải quyết được bài toán đố của đời sống lúc Ngài giác ngộ, và đi dạy
dỗ nhân loại.
17) Theo bí giáo th́ mỗi Chơn Nhơn là một tia sáng của một vị Thượng Đế cai quản
một hành tinh hệ.
18) Những phàm nhân hay là xác thân ngắn ngủi như những cái bóng.
19) Trí (Manas) nguyên lư tư tưởng hay là Chơn Nhơn, trong con người là chỉ
riêng cho “Tri thức” mà thôi v́ Chơn Nhơn của con người gọi là Manasa putras,
con của Trí (phổ biến).
20) Xem giải thích ở phần ba số 34.
21) Xem giải thích ở phần ba số 34.
22) Áo Shangua của Shanguavesu ở xứ Rajagriha vị Đại La Hán hay là tổ thứ ba
trong 33 vị tổ nối nhau truyền bá Phật pháp. Áo Shangua tỉ dụ như sự hoạch đắc
minh triết nhờ đó người ta nhập Niết Bàn tịch diệt (tịch diệt bản ngă). Theo tự
nghĩa là “áo điểm đạo” của vị Neophytes. Edkins nói: “Thứ áo bằng cỏ từ Tây Tạng
du nhập Trung Hoa dưới triều nhà Tống”. Truyền kỳ Trung Hoa và Tây Tạng nói
rằng: “Khi có một vị La Hán ra đời người ta thấy cỏ này mọc nơi chỗ tinh khiết”.
23) Hành con đường Paramità nghĩa là làm nhà Yogi tu khổ hạnh.
24) “Ngày Mai” nghĩa là kiếp tới.
25) “Đại hành tŕnh’ hay là những kiếp luân hồi trong một cuộc tuần hoàn.
26) Nyima là Mặt Trời theo chiêm tinh học Tây Tạng. Con mắt là biểu tượng của
Migmar hay Mars, bàn tay là biểu tượng của Lhagpa hay Mercury.
Source: http://anhduong.net/thongthienhoc/TiengNoiVoThinhWeb.htm