[6:11:03 PM] Thuan Thi Do: CHƯƠNG 20
ĐỨC KHOAN DUNG
(Tolerance)
3.- Đức Khoan Dung.- Con phải hết ḷng khoan dung cho tất cả mọi người và
phải nhiệt thành quan tâm đến đức tin của những người thuộc Tôn Giáo khác
cũng như là con quan tâm với Tôn Giáo của chính con vậy. V́ Tôn Giáo của họ
cũng như Tôn Giáo của con đều là con đường dẫn đến Thượng Đế. Muốn giúp đỡ
tất cả mọi người, con phải hiểu rơ tất cả họ.
A.B.- Đức Khoan Dung có thể là một trong những đức tính mà người ta đề cập
đến nhiều nhất hiện nay, nhưng mà lại thực hành ít nhất. Đó là một trong
những đức tính khó đạt được hơn hết, v́ một tín ngưỡng càng ăn sâu vào trí
năo càng được xem là cao quư, và lẽ tự nhiên người ta càng muốn ép buộc kẻ
khác phải tin theo. Sự gây hấn này phải sanh ra tất cả những sự ngược đăi và
những chiến tranh Tôn Giáo công khai hay là riêng rẽ. Nhưng sự gây hấn này
c̣n khá hơn tính lănh đạm, thường được coi như là đức khoan dung. Tính lănh
đạm không phải là đức khoan dung. Chớ nên lầm lẫn điều đó.
Hiện nay, trong Chính Quyền rất ít xảy ra những sự ngược đăi; nhưng trong gia
đ́nh và ngoài xă hội vẫn c̣n nhiều. Ở vài xứ, sự tự do tưởng được thịnh hành,
Chính Quyền vẫn c̣n ngược đăi Tôn Giáo. Những Nhà Tự Do Tư Tưởng bị ngược đăi
đến đỗi ư định trả thù của họ trở nên quá mạnh. Lẽ dĩ nhiên, họ vi phạm trực
tiếp những nguyên tắc của họ. Tôi hy vọng rằng đó chỉ là một phản ứng suông,
hậu quả những sự ngược đăi của Giáo Phái đối với họ, sẽ sớm chấm dứt.
Tinh thần ngược đăi vẫn c̣n nhiều trên Thế Giới và đôi khi Chính Phủ bị bắt
buộc phải thực hiện sự khoan dung, như ở Ấn Độ chẳng hạn, để ngăn cản những
sự rối loạn và bạo động. Tinh thần khoan dung lẫn nhau vẫn có giữa Tín Đồ của
các Giáo Phái trong những Xứ mà những Tôn Giáo khác nhau được quân b́nh ít
nhiều. Lư do của sự khoan dung này là sự sợ sệt lẫn nhau. Như vậy sự khoan
dung, dù đă có, hầu như luôn luôn bắt nguồn từ một t́nh cảm không mấy chính
đáng.
Sinh Viên Huyền Bí Học phải t́m cách phát triển ḷng nhân từ; vả lại người ta
đạt được nó nhờ biết rằng Chơn Nhơn trong mỗi người t́m con đường riêng biệt
của ḿnh. Chỉ có thái độ đó mới hợp lư mà thôi, vậy nên thừa nhận nó để cho
đức khoan dung trở thành một đức hạnh được phổ cập khắp nơi. Chúng ta phải
nh́n nhận rằng mỗi người có cách thức riêng của họ để t́m kiếm Chân Lư tối
cao và họ phải được tuyệt đối tự do trong sự hành động đó. Điều ấy có nghĩa
là chẳng những bạn không nên cố gắng lôi cuốn một người nào theo Tôn Giáo của
bạn, mà bạn cũng không nên cố gắng bắt buộc ai phải theo những lập luận và ư
kiến của bạn hoặc bạn làm lay chuyển những tín ngưỡng thích ứng với những nhu
cầu của họ. Ḷng hoàn toàn quảng đại này phải là mục tiêu của bạn. Những cực
đoan không xa cách nhau – một mặt là đại lượng, mặt khác, người đời thường có
ư khinh bỉ và cho rằng những vấn đề Tôn Giáo không có tầm quan trọng lớn lao,
chúng chỉ đóng vai tṛ cảnh sát để giữ ǵn con người trong ṿng trật tự, họ
cho điều đó là khoan dung. Tôn Giáo của kẻ khác phải thiêng liêng đối với
bạn, v́ lẽ nó thiêng liêng đối với y. Các Đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội sẽ
không nhận vào Hàng Huynh Đệ của các Ngài bất cứ ai chưa có cái thái độ thật
gần giống với nguyên tắc này.
C.W.L.- Hiện giờ có lẽ sự khoan dung có nhiều hơn thời đại Đế Quốc La Mă và
nó rất giống như sự khoan dung đă có hồi thuở xưa. Người ta nhắc lại nhiều
chi tiết lạ lùng về cách những người La Mă đối đăi với những người Thiên Chúa
Giáo đầu tiên. Những sự sưu tầm thận trọng đă cho thấy sự ngược đăi tàn ác
nhất mà người ta đă nói đến nhiều, không hề có. Nhưng quả thật người Thiên
Chúa Giáo thường tự gây phiền phức cho ḿnh. Tôi không muốn nói là trên vài
phương diện, những ư niệm trong thời đó không phải là không dă man, nhưng
những người Thiên Chúa Giáo đầu tiên hầu như có tinh thần hỗn loạn, vô Chính
Phủ và khi họ xung đột với Nhà Cầm Quyền, chẳng phải do Tôn Giáo của họ gây
ra, mà do những lời nói và hành động của họ. Những người La Mă không thừa
nhận T́nh Huynh Đệ theo kiểu người Thiên Chúa Giáo đầu tiên thuyết giảng. Nó
gần giống với h́nh thức này: “Hăy làm anh em với tôi hoặc tôi sẽ giết chết
anh.” Trong vài trường hợp, họ từ chối tham dự vào những cuộc lễ nhỏ được xem
như một bổn phận của người công dân. Họ không chịu rải một nhúm hương trên
bàn thờ hoặc rót một giọt rượu để tỏ ḷng tôn kính đối với Hoàng Đế. Những cử
chỉ này cũng giống như việc dở nón chào tại Luân Đôn khi Nhà Vua đi qua. Đế
Quốc La Mă khoan dung nhất trên đời đối với những Tôn Giáo khác. Người La Mă
rất ít thắc mắc để t́m hiểu người ta thờ vị Thần Thánh nào, v́ họ không tin
vào sự hiện hữu của vị nào cả. Họ có xây một vạn Thần Miếu vĩ đại nơi đó họ
lập đền thờ tất cả những Thần Thánh và khi họ thấy Đấng Christ được người ta
tôn thờ, họ lập tức dựng h́nh Ngài. Nói chung sự khoan dung của họ chỉ là
tính lănh đạm mà thôi.
Đa số những người La Mă thuở xưa đă đầu thai vào Giống Dân của nước Anh. Hiện
nay có nhiều người khoan dung đối với mọi h́nh thức tín ngưỡng, v́ họ không
tin tưởng cái ǵ cả. Họ xem Tôn Giáo như một huyền thoại lư thú để giúp vui
cho nữ giới, c̣n đối với phái nam, th́ dĩ nhiên Tôn Giáo không phải là chuyện
đúng đắn. Mục đích của chúng ta không phải là sự khoan dung như thế. Đức
khoan dung của chúng ta phải căn cứ trên sự thừa nhận những tín ngưỡng của kẻ
khác cũng đưa đến chỗ cao siêu. Khi vào Đền Thờ hay Giáo Đường của một Tôn
Giáo khác với Tôn Giáo của ḿnh, người thật có tinh thần khoan dung sẽ tuân
theo những nghi thức đă được đặt ra, chẳng phải v́ kính trọng tục lệ mà thôi,
nhưng c̣n v́ sự kính trọng đối với những tín đồ khác và đối với Tôn Giáo khác
với Tôn Giáo của y. Có nhiều người khi vào Nhà Thờ lại từ chối việc bái chào
trước Bàn Thờ và họ c̣n cẩn thận quay lưng lại. Tôi biết có những người thử
đi vào một Giáo Đường Hồi Giáo mà không cởi giày. Người ta không có việc ǵ
phải làm trong Nhà Thờ hoặc Đền Thờ của một Tôn Giáo khác, nếu người ta từ
chối việc giữ ǵn hạnh kiểm cách nào mà không làm mếch ḷng những Tín Đồ. Nếu
bạn nghĩ qú gối trước Bàn Thờ Chúa là vi..
[6:12:48 PM] Thuan Thi Do: là việc không hay, th́ không ai cấm bạn ở ngoài,
nếu bạn cảm thấy việc cởi giày là một cái tội, th́ không ai ép buộc bạn phải
bước vào Giáo Đường của người Hồi Giáo.
Tất cả những người trên Thế Gian là những biểu hiện của Đại Ngă Duy Nhất. Vậy
h́nh thức hoài vọng của kẻ khác đều phải được kính trọng. Lắm khi sự biểu lộ
này có tính cách trẻ con, nhưng không một người nào tính t́nh tốt mà lại nghĩ
đến việc đưa nó ra giễu cợt hoặc cho nó là một điều tệ hại. Làm sao một trí
khôn kém mở mang chia sớt được cái thấy tự nhiên của một trí khôn đă phát
triển cao hơn nó nhiều. Đức khoan dung khiến chúng ta nói theo quan niệm của
người La Mă thuở xưa như sau: “Tôi là người, vậy không có cái chi thuộc về
người, lại xa lạ với tôi” và nó cũng khiến chúng ta cố gắng t́m hiểu quan
điểm của kẻ đồng loại với ḿnh. Ở đây như là sự luyện tập có tính cách cá
nhân, nhưng phương pháp này chẳng bao lâu sẽ cho chúng ta thấy rằng Thể Trí
con người có thể phản chiếu ánh sáng Chân Lư với nhiều khía cạnh khác nhau.
Thế Gian sẽ trở nên buồn tẻ, nếu mỗi việc đều phải làm một cách như nhau! Nó
sẽ giống cái ngục mà tất cả đều chỉ hoạt động cùng một giờ và cùng một cách
thức.
Như bạn đă biết, chẳng hạn có vài điều phân biệt chính yếu giữa tâm trạng của
người Thiên Chúa Giáo và người theo Đạo Tin Lành. Mỗi bên xem xét Đạo của
Chúa theo quan điểm riêng của ḿnh, và đa số Tín Đồ hai phe đều hoàn toàn
không hiểu nhau. Người Thiên Chúa Giáo áp dụng nguyên tắc cho rằng sự thờ
phượng cử hành với nhiều nghi thức, về mọi phương diện, nó phải được uy
nghiêm đúng mức để làm vinh hiển Đức Chúa Trời mà họ tôn thờ và cũng để gây
sự cảm xúc trong ḷng các Tín Đồ. Họ có cảm tưởng thật rơ rệt rằng lễ giáo,
những nghi thức và vẻ huy hoàng của khung cảnh chung quanh đều có tác dụng
trợ giúp mạnh nhất cho ḷng sùng tín. Trái lại, những Tín Đồ Đạo Tin Lành cho
rằng tất cả những điều này đều xấu xa và ghê tởm, v́ làm như thế trí khôn con
người hiểu sai lầm ư nghĩa thâm sâu. Có lẽ, nếu phải dự tất cả những nghi lễ
này, tâm trí của những người theo Đạo Tin Lành không thể nào giữ được ư niệm
bên trong. Điều nào có thể gây tác dụng sâu xa đối với người Công Giáo, có
thể là một sự phiền phức, một sự xáo trộn, một nguyên nhân hỗn loạn cho ḷng
sùng tín của người Tín Đồ Đạo Tin Lành.
[6:39:10 PM] Thuan Thi Do: Nhiều người nh́n nhận rằng ḷng sùng tín và sự
khát vọng của họ c̣n mơ hồ, không vững chắc khi chỉ sử dụng phương thức thờ
phượng trong tâm tư. Đối với họ h́nh thức bên ngoài là một trợ giúp lớn lao,
tại sao không lợi dụng nó? Những người t́m thấy trong nghi lễ, h́nh tượng
tranh ảnh, trong sự biểu lộ vật chất, một sự thỏa thích, một nguồn cảm hứng
tuyệt vời, chắc chắn họ thuộc về một trong bảy Cung vĩ đại của sự sống, một
trong bảy con đường lớn lao đưa khát vọng con người đến Ngôi Thượng Đế. Những
người nào không thích chi cả trong mấy chuyện ấy, chỉ thấy trong đó sự bứt
rứt, phiền hà và giải trí, họ theo con đường riêng của họ. Vậy họ hăy vui
thích với con đường của họ. Tại sao lại khuấy rối họ?
Mỗi người vẫn nói ngôn ngữ của ḿnh từ thời thơ ấu. Người ta cũng có thể nói,
mỗi người diễn đạt ngôn ngữ đạo đức riêng của họ. Đó chính là phương thức mà
những tư tưởng, t́nh cảm và khát vọng của y tự biểu lộ ra một cách dễ dàng
nhất. Khinh khi một người Pháp, v́ ngôn ngữ của y khác với ngôn ngữ của chúng
ta là một thái độ vô cùng phi lư. Điều này cũng phi lư như việc khinh khi một
người khác Tôn Giáo với chúng ta. Người Pháp gọi “cái nhà” là “maison,” thay
v́ nói “house.” Ư nghĩa vẫn đồng nhất. Nếu y cho rằng danh từ này hơn danh từ
kia thật là vô nghĩa. Điều này khiến chúng ta nhớ đến ông Lillyvick, sau khi
học tiếng Pháp thấy chữ “l’eau” nghĩa là “nước,” th́ ông tuyên bố rằng tiếng
Pháp là ngôn ngữ nghèo nàn. Người ta cũng thuật lại trong thời kỳ chiến tranh
Nă-Phá-Luân, một bà lăo kia cầu xin Chúa cho người Anh thắng trận, và có một
người kia nhắc bà rằng bên kia trời, người ta cũng cầu nguyện cho người Pháp
được thắng trận, bà đáp rằng: “Cái đó không có nghĩa ǵ hết. Làm sao Chúa
hiểu được họ, khi họ nói những điều ngu xuẩn như thế?”
[6:40:30 PM] Thuan Thi Do: Không lư do ǵ mỗi người lại không thể theo đuổi
con đường thích hợp nhất với ḿnh. Đó chính là con đường ngay hơn hết đưa họ
đến Đức Thượng Đế. Sự bằng an và điều ḥa chỉ có được khi nào cả đôi bên đều
chấp nhận sự kiện này. Mỗi người phải nói rằng: “Tôi thích con đường của tôi,
nhưng tôi hoàn toàn muốn cho mọi người cũng có đặc quyền như tôi và chọn lựa
con đường tốt nhất đối với họ.” Đ̣i hỏi như thế dường như không đáng kể,
nhưng ít người bằng ḷng như thế. Mỗi người phải tin rằng cái ǵ tốt nhất cho
ḿnh cũng phải tốt nhất cho kẻ khác. Một tâm trạng rộng răi hơn phải nhận
thấy rằng có nhiều con đường dẫn tới đỉnh núi và mọi người phải được tự do
chọn con đường hấp dẫn nhất đối với ḿnh.
[6:48:00 PM] Thuan Thi Do: Tôi phải thú nhận rằng, có một tâm trạng mà riêng
cá nhân tôi, tôi khó ḷng hiểu được, đó là lối sùng tín hướng về Thượng Đế
một cách rườm rà với đủ thứ danh từ mơn trớn lấy trong thi ca t́nh tứ và tiểu
thuyết. Điều đó làm cho tôi khó chịu, và tạo một cảm tưởng bất kính, vô lễ
trong ḷng tôi, dù tôi biết rơ những điều đó vốn chân thành và có dụng tâm
tốt. Những người ưa thích sự sùng tín đó chắc chắn cho rằng tôi lănh đạm và
không hiểu ư nghĩa của câu văn v́ tôi suy xét mọi việc theo lương tri, tôi
suy luận và t́m hiểu về chúng.
Mọi Tôn Giáo, những tác phẩm viết về ḷng sùng tín cho một hạng người tư
tưởng cao siêu đều giống nhau rơ rệt. Chẳng hạn bạn so sánh những tác phẩm
quen thuộc của người Công Giáo La Mă với những tác phẩm thường dùng của những
Tín Đồ Đức Ramanujacharya th́ bạn sẽ nhận thấy chúng thật giống nhau. Vả lại,
đời sống của một người Thiên Chúa Giáo tốt lành cũng như đời sống của một
người Ấn Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo hay đời sống của một người tốt thuộc về
bất cứ Tôn Giáo nào, tất cả đều thực hành những đức tính tốt giống nhau và
chừa bỏ những tật xấu như nhau.
[7:23:17 PM] Thuan Thi Do: tŕnh bày tác phẩm “Thiên Khải” của ḿnh một cách
ẩn dụ.
Do đó ông cho rằng:
Khi mà thoạt tiên Cha nó [của Tứ Nguyên]… Đấng Bất
Khả Tư Nghị, Vô hiện, Vô giới tính [Ain Soph của Do Thái Bí
giáo] muốn rằng Đấng Huư Kỵ (Ineffable) của nó [Thượng
Đế Ngôi Một, tức Phân Thân –Aeon] phải được sinh ra và
Đấng Vô H́nh của nó (Its Invisible) phải được khoác lấy h́nh
hài. Nó đă mở miệng (Its mouth opened) và thốt ra Huyền
Âm giống như chính Nó. Huyền Âm này (Thượng Đế) gần
như biểu lộ được chân tướng của nó và biểu lộ nơi h́nh hài
của Đấng Vô H́nh. Nay tới việc thốt ra [Huư] Danh [thông
qua Huyền Âm] theo lối này. Nó [Thượng Đế Tối Cao] đă
thốt ra Từ ngữ đầu tiên của Danh xưng nó,… đó là sự phối
hợp [vần] của bốn yếu tố [chữ]. Rồi sự phối hợp thứ hai (cũng
là bốn yếu tố) được thêm vào. Rồi tới sự phối hợp thứ ba, gồm
có mười yếu tố; và sau đó từ ngữ thứ tư được thốt ra, nó bao
gồm mười hai yếu tố. Như thế, sự thốt ra toàn bộ Danh xưng
gồm có ba mươi yếu tố và bốn phép phối hợp. Mỗi yếu tố có
các chữ, đặc tính, cách phát âm, nhóm và các yếu tố tương
cận của riêng nó; nhưng không một yếu tố nào biết được h́nh
dáng của cái bao hàm nó, mà cũng chẳng hiểu được cách
phát âm của yếu tố lân cận nó, nó chỉ hiểu được những ǵ mà
mỗi yếu tố trổi lên, khi trổi lên tất cả những ǵ [có thể được]
mà nó nghĩ là cần để kêu gọi tổng thể … Chúng là các âm
thanh biểu lộ dưới h́nh thức Đấng Phân Thân Vô hiện và Bất
khả sinh hoá và đó là các h́nh hài được gọi là các Thiên Thần,
đang luôn luôn chiêm ngưỡng gương mặt của Từ Phụ
(Father),(1) [Thượng Đế, “Đấng Thần Linh Thứ Nh́,” xếp
[7:25:50 PM] Thuan Thi Do: hàng kế Đấng Thần Linh “Bất Khả Tư Nghị”
(“Inconceivable”), theo Philo]. (1)
Nội môn bí giáo cổ truyền đă cố gắng tŕnh bày nó giản
dị hết mức như thế đó. Nó cũng như Thánh kinh Do Thái Bí
giáo, mặc dù ít bí ẩn hơn Thánh kinh Zohar; trong Thánh kinh
này, các danh xưng hay các thuộc tính huyền nhiệm cũng là
các từ ngữ có bốn, mười hai, bốn mươi hai và thậm chí cả bảy
mươi hai vần nữa! Tứ nguyên chứng tỏ cho Marcus CHÂN LƯ
nơi h́nh hài của một phụ nữ khoả thân, và đặt tên bằng chữ
cho mọi chi của h́nh này, gọi đầu là A Ω, cổ là B ψ, vai và tay
là Χ, v.v… chúng ta nhận ra dễ dàng Sephira trong vấn đề
này, đầu hay Đỉnh, Kether, được đánh số 1; năo hay
Chokmah, số 2; Tâm hay Trí, Binah số 3; và bảy Sephiroth
khác tượng trưng cho các chi của cơ thể. Cây Sephiroth là Vũ
Trụ, Adam Kadmon (Thiên Đế) tượng trưng cho nó ở
phương Tây, cũng như Brahmă tượng trưng cho nó ở Ấn Độ.
Ở khắp nơi, mười Sephiroth đều được tŕnh bày như là
chia thành Tam Nguyên thượng Tinh Thần và Thất Nguyên
hạ. Ư nghĩa nội môn chân chính của con số Bảy linh thiêng,
mặc dù được ẩn giấu khéo léo trong Thánh kinh Zohar, vẫn
t́nh cờ bị tiết lộ bởi hai cách viết từ ngữ “Thoạt đầu – in the
Beginning” tức Berasheeth và Be-raishath, cách viết sau có
nghĩa là “Minh Triết Thượng Đẳng” (“Higher, or Upper
Wisdom”). Theo S.L. Mac Gregor Mathers (2) và Isaac Myer
(3) cả hai tín đồ Do Thái Bí giáo này đều được các giới có
thẩm quyền nhất thời xưa ủng hộ, các từ ngữ này có một ư
nghĩa kép và bí nhiệm. Braisheet barah Elohim có nghĩa là sáu
[7:28:14 PM] Thuan Thi Do: Sephira, phía trên có Sephira thứ bảy, thuộc về
giai cấp vật
chất hạ đẳng, hoặc theo lối nói của tác giả: “Bảy … được áp
dụng cho Tạo Vật Hạ Đẳng, và Ba được áp dụng cho Con
Người Tinh Thần, Adam Nguyên kiểu Thiên giới, tức là
Adam bản sơ.”
[7:33:06 PM] Thuan Thi Do: a god or goddess (in a polytheistic religion).
"a deity of ancient Greece"
synonyms: god, goddess, divine being, supreme being, divinity, immortal; More
divine status, quality, or nature.
"a ruler driven by delusions of deity"
the creator and supreme being (in a monotheistic religion such as
Christianity).
noun: Deity; noun: the Deity
[7:35:20 PM] Thuan Thi Do: A deity (Listeni/ˈdiː.ᵻti/ or
Listeni/ˈdeɪ.ᵻti/)[1] is a concept conceived in diverse ways in various
cultures, typically as a natural or supernatural being considered divine or
sacred.[2] Monotheistic religions accept only one Deity (predominantly
referred to as God),[3] polytheistic religions accept and worship multiple
deities,[4] henotheistic religions accept one supreme deity without denying
other deities considering them as equivalent aspects of the same divine
principle,[5][6] while several non-theistic religions deny any supreme
eternal creator deity but accept a pantheon of deities which live, die and
are reborn just like any other being.[7][8] A male deity is a god, while a
female deity is a goddess.
[7:52:46 PM] Thuan Thi Do: Khi các nhà Minh Triết Thiêng Liêng và các nhà
Huyền
bí học bảo rằng Thượng Đế chẳng phải là THỰC THỂ (BEING),
v́ Nó (It) là Chân Không (Nothing, NO-THING), đứng về mặt
tôn giáo, họ c̣n tỏ ra tôn kính Thượng Đế hơn là những kẻ
gọi THƯỢNG ĐẾ là NGÀI (HE), và như thế biến Ngài thành một
ĐẤNG NAM NHI vĩ đại.
Kẻ nào đă từng nghiên cứu Thánh kinh Do Thái Bí giáo,
chẳng mấy chốc sẽ phát giác được ư niệm giống như vậy
trong tư tưởng tối hậu của tác giả, tức các đại Điểm đạo đồ
người Hebrew thời sơ khai, các Ngài được các Đạo Trưởng
người Chaldea truyền thụ cho Minh Triết Bí Nhiệm này ở xứ
Babylonia, cũng như Moses được truyền thụ đạo pháp ở Ai
Cập. Chúng ta không thể thẩm định đúng đắn về hệ thống
Thánh kinh Zohar dựa vào các bản dịch sau này ra tiếng La
Tinh và các ngôn ngữ khác, khi mà các ư tưởng chứa đựng
trong đó đă được linh động biến cải cho thích hợp với quan
điểm và chính sách của các tín đồ Thiên Chúa giáo hiệu đính
nó; v́ các ư tưởng nguyên bản của nó đều đồng nhất với các ư
tưởng của mọi hệ thống tôn giáo khác. Nhiều vũ trụ khởi
nguyên luận khác nhau chứng tỏ rằng mọi quốc gia cổ sơ đều
xem Linh Hồn Vũ Trụ như là “Thần Trí” (“Mind”) của Đấng
Tạo Hoá; tín đồ phái Ngộ Đạo gọi nó là Từ Mẫu, Sophia, tức
Minh Triết âm; người Do Thái gọi nó là Sephira; người Ấn Độ
gọi nó là Sarasvatĩ hay Văch; Thánh Thần cũng là một Nguyên
Khí âm (Holy Ghost also being a female Priciple).
[7:55:04 PM] Thuan Thi Do: V́ thế, đối với người Hy Lạp, Thượng Đế, tức
Kurios,
vốn được nó sinh ra, chính là “Đấng Thần Linh, Bản Trí”
(Nous). Trong Cratylus, Plato dạy: “Nay Koros (Kurios)…[có
nghĩa là] bản chất thuần tuư của trí năng [Minh Triết]; và
Kurios là Thuỷ Tinh (Mercurius, Mar-kurios), Minh Triết
Thiêng Liêng, và “Thuỷ Tinh là Sol [Mặt Trời],(1) Thot-
Hermes được Ngài truyền thụ cho Minh Triết Thiêng Liêng
này. Trong khi mà các vị Thượng Đế của mọi xứ sở và tôn
giáo đều tương hệ xét về khía cạnh tính dục – với Linh Hồn
âm của Thế giới, tức là “Thái Uyên” (“Great Deep”), Đấng
Thần Linh, Lưỡng Nguyên trong Nhất Nguyên này phát sinh
từ đó. Thái Uyên này bao giờ cũng ẩn khuất và được gọi là
Đấng Ẩn Tàng (the Hidden One); nó chỉ liên hệ gián tiếp với
“Sự Sáng Tạo,”(2) v́ nó chỉ có thể tác động qua Thần Lực
Lưỡng Phân xuất phát từ Bản Thể Vĩnh Cửu. Theo các tác giả
cổ điển thời xưa, ngay cả Aesculapius, vốn được gọi là “Đấng
Cứu Rỗi vạn hữu” (“Saviour of all”), cũng đồng nhất với
Thần Ai Cập Ptah, Trí Năng Sáng Tạo, tức Minh Triết Thiêng
Liêng, và đồng nhất với chư thần Apollo, Baal, Adonis và
Hercules.(3) Một trong các trạng thái của Ptah là Linh Hồn Vũ
Trụ của Plato, “Tinh Thần Thiêng Liêng” của người Ai Cập,
“Thánh Thần” (“Holy Ghost”) của các tín đồ Thiên Chúa giáo
thời sơ khai và tín đồ phái Ngộ Đạo (Gnostics), Tiên thiên khí
của người Ấn Độ và trong trạng thái hạ đẳng, là cả Tinh Tú
Quang nữa. V́ Ptah có gốc là “Tử Thần” (“God of the Dead”),
1 Arnobius, VI, xii.
2 Chúng ta dùng từ ngữ như là một từ ngữ đă được chấp nhận và
thừa nhận v́ được sử dụng rộng răi, do đó, độc giả thấy dễ hiểu
hơn.
3 Xem Dunlap, Sód: Các Bí nhiệm về Adoni, trang 23.
68
Giáo Lư Bí Nhiệm
120
Đấng tiếp dẫn người chết, v́ thế mới có Địa Ngục (Limbus)
của tín đồ Thiên Chúa giáo người Hy Lạp, tức Tinh Tú
Quang. Măi về sau này người ta mới xếp Ptah vào hàng các
Nhật Thần (Sun-Gods), tên Ngài có nghĩa là “Đấng khai hoá”
v́ Ngài tỏ ra là người đầu tiên làm bộc lộ khuôn mặt của xác
chết đă ướp và hấp dẫn Linh Hồn đến sống trong ḷng Ngài (1).
Kneph, Đấng Vô Hiện Vĩnh Cửu, được tượng trưng bởi biểu
hiện con rắn vĩnh cửu quấn quanh vạc nước, đầu nó chờn
vờn trên “Mặt Nước,” mà nó hà hơi ấp ủ - đó là một h́nh thức
khác của ư niệm nguyên bản duy nhất và “U
Minh”(“Dakness”), xạ ra một Tia di chuyển trên Mặt Nước
v.v…. Với tư cách “Thượng Đế-Linh Hồn” (“Logos-Soul”) sự
biến hoá này được gọi là Ptah, với tư cách Thượng Đế-Đấng
Sáng Tạo, Ngài trở thành Imhotep, con Ngài; “vị Thần có dung
mạo tuấn tú.” Trong tính cách sơ khai, cả hai Lưỡng nguyên
Vũ Trụ đầu tiên, Noot, Không gian tức “Bầu Trời” và Noon,
“Bản Sơ Thuỷ” (“Primodial Waters”), Nhất Nguyên bán thư
bán hùng, phía trên là THẦN KHÍ Ẩn tàng (the Concealed
BREATH) của Kneph. Và tất cả đều có các con thú và cây cối
sống dưới nước, linh thiêng đối với chúng, con c̣ lửa, con
thiên nga, con ngỗng, con sấu và hoa sen.
[8:52:34 PM] Thuan Thi Do:
http://thongthienhoc.net/sach/NhanThong.htm
[9:12:57 PM] Thuan Thi Do: CHƯƠNG THỨ MƯỜI
HĂY TRỞ NÊN ĐƯỜNG ĐẠO
Con không thể đi trên Đường Đạo, trước khi chính con trở nên con đường đó.
C. W. L. Câu nầy được chú thích thêm như sau :
Con đường nầy được đề cập đến trong mọi tác phẩm thần bí như Đức Krishna nói
trong Kinh Jnaneshvari : "Khi con đường nầy được nh́n thấy dù người ta có
tiến về phương đông lúc b́nh minh hoặc tiến về phương tây lúc hoàng hôn, th́
hỡi người chiến sĩ mang cung, không lay chuyển, như thế là đang thực hiện
cuộc du hành trên đường đó vậy. Trên đường nầy, dù người ta muốn đến nơi nào,
nơi đó cũng sẽ trở nên chính người ấy vậy". "Con là Đường Đạo" là câu mà vị
Đạo Sư Đắc Pháp được nghe, và cũng là câu mà vị Sư Phụ được nói lại với đệ tử
sau khi được Điểm Đạo. Một vị Chơn Sư khác cũng nói : "Ta là lối đi và là con
đường".
Trong quyển Giảng Lư Dưới Chơn Thầy chúng tôi đă giải thích là tư tưởng và
t́nh cảm ban đầu khó nắm lấy và giữ ǵn, nhưng sau cùng lại trở nên rất dễ
dàng. Khi người chí nguyện được huấn luyện nghiêm chỉnh và đă mở mang, đến
khi quan điểm về Bồ Đề và cách đáp ứng của y đối với đời sống trở nên hoàn
toàn tự nhiên và nhanh chóng, chúng ta có thể nói chính y đă trở nên con
đường rồi vậy. Kết quả đạt được bằng sự cố gắng và sự thực hành đều đặn một
cách kiên nhẫn như thế, đôi khi người ta gọi là "bản tánh thứ hai" ; chỉ có
thành ngữ đó mới cho chúng ta có cảm tưởng rằng những đức tính mới đă được
hoạch đắc và sau đó chúng sẽ trở thành thói quen. Thật đáng tiếc. Nó chính là
bản tánh nguyên thủy của chúng ta, là bản tánh tuyệt diệu, bản tánh cao
thượng hơn cả, được biểu lộ trong đời sống cao siêu ; nếu sự biểu hiện nầy có
vẻ mới lạ đối với chúng ta chỉ v́ từ trước đến nay nó bị che lấp trong vỏ vật
chất của chúng ta và v́ áp lực của hoàn cảnh trong cơi giới phàm nhơn của
chúng ta.
Lời chú thích chứa đựng một chân lư siêu h́nh thật lư thú. Sự tiến hóa của
chúng ta không phải là một sự chuyển vận, cũng không phải là một sự tăng
trưởng. Nó không nhắm đưa chúng ta đến nơi nào, cũng không làm cho chúng ta
trở nên to lớn hơn. Nó là một sự phát triển những tiềm năng của đời sống
chúng ta. Chúng tôi xin lập lại điều nầy, trên cơi Chơn Nhơn, tính cách duy
vật chiếm hàng thứ nh́ ; các quan năng của tâm thức - ư chí, minh triết và sự
hoạt động ( hay ư chí, t́nh thương và tư tưởng ) - hầu như chế ngự vật chất
của các cơi một cách tuyệt đối. Như vậy không gian không phải là kẻ giám mục
dưới trần thế, và tâm thức không cần phải đi xuyên qua nó để hiện ra ở nơi
khác. Cuộc đàm thoại được kể ra đây giữa một vị Đạo Sư và vị đệ tử của người
có thể làm sáng tỏ điều ấy. Vị Đạo Sư bảo đệ tử đi qua pḥng bên, rồi hỏi y :
"Anh đang làm ǵ ? Anh có đang cử động không ? "
Sau khi suy nghĩ, vị đệ tử trả lời như sau, và được nh́n nhận là đúng :
" Bạch Thầy, không, không phải con đang cử động. Con thấy xác thân cử động.
Con không suy tư, không cảm giác, không ham muốn. Chỉ có xác thân con cử động
" [28].
Đối với chúng ta, đó chính là sự thật. Khi dùng giác quan để quan sát, như
khi chúng ta thực tập nghiên cứu một đối vật nào đó, chúng ta sẽ được biết
rằng chỉ có thân xác cử động mà thôi. Cảm giác chuyển động nhanh chóng được
nhận thấy trong một chiếc xe hơi không đóng cửa bằng một luồng gió mănh liệt
và một cảm thức mạnh mẽ do trí tưởng tượng tác động tạo ra một sự khoan khoái
thể chất, khi chúng ta nhắm mắt lại. Một kinh nghiệm giống như thế cũng có
thể đạt được nhờ máy móc thích hợp như máy quạt và chuyển động, mà không cần
phải di chuyển đến đâu cả. Một thí dụ khác : nhiều hành khách phải ngủ đêm
trên những ghế nằm ( couchettes ) của các toa xe Pullman, khi thức giấc họ tự
hỏi không biết họ nằm theo chiều hướng xe đang chạy hay ngừng, và thường muốn
biết chắc họ phải vén màn lên, rồi nhờ ánh sáng và bóng tối họ mới xét đoán
được chiều hướng đi.
Thật ra muốn đi từ nơi nầy đến nơi khác, Chơn Nhơn không cần phải xê dịch,
điều đó được chứng tỏ bằng cách linh hồn có thể đồng thời hiện ra trong những
h́nh ảnh thuộc cơi trời của tất cả các hạng người trên cơi Hạ Thiên ở bất cứ
nơi nào trên thế giới. Tuy nhiên ở tŕnh độ phát triển hàm tàng trong giáo lư
nầy, chẳng những thí sinh phải lo căi thiện phàm nhơn thôi, mà đồng thời,
công việc thuộc nội giới của y cũng gồm cả sự phát triển đặc biệt về Thể Bồ
Đề, tức linh hồn siêu việt. Nói cách khác, y phải vươn lên đến cơi Bồ Đề. Y
phải trở nên Đường Đạo, và chứng tỏ điều ấy bằng thiện cảm vĩ đại và t́nh
thương đối với tha nhân, như lời dạy trong câu châm ngôn sau đây :
Hăy để Hồn con lắng tai nghe mọi tiếng đau khổ, như hoa sen nở lớn để hứng
ánh triều dương.
Con chớ để cho ánh sáng gay gắt làm khô một giọt nước mắt đau khổ nào, trước
khi chính con lau ráo lệ cho cặp mắt người buồn khổ.
[9:22:06 PM] Thuan Thi Do:
Con hăy để cho tất cả nước mắt của nhân loại nóng bỏng rơi vào ḷng con và
đọng lại ở đó, và đừng bao giờ chùi đi, trước khi nguyên nhân gây ra đau khổ
biến mất.
Hỡi con, người đầy ḷng từ bi, những giọt lệ đó là những ḍng suối tưới mát
cánh đồng từ thiện bất diệt. Chính trên những miếng đất đó trổ bông nửa đêm
của Phật, thứ hoa khó t́m, khó gặp hơn hoa của cây Vogay nữa. Đó là hột giống
thoát đọa luân hồi. Nó tách vị La Hán ra ngoài ṿng, và dắt người băng qua
những cánh đồng thực tại để đến nơi an lạc và toàn phúc, chỉ biết được ở cơi
tịch mịch, hư vô.
Khi Đức Christ nói : " Ta là Đường Đạo là Chân Lư và là Sự Sống ; không ai
đến với Chúa Cha mà không nhờ Ta " [29] . Ngài đă diễn đạt một chân lư thần
bí, v́ Đấng Christ là một với trạng thái Bồ Đề của tâm thức phổ biến. Chỉ có
một tâm thức duy nhất thôi. Khi vừa nhận biết sự kiện ấy một cách trọn vẹn,
người đạo đồ có thể trở thành một vị La Hán, nhưng nếu y không trải qua
nguyên lư Bồ Đề đó, y không thể đến với Chúa Cha, tức là Atma cao siêu hơn.
Chân lư nầy được tŕnh bày với một cảm hứng phi thường và sáng tỏ trong quyển
Thiên Chúa giáo bí truyền của Bác sĩ Annie Besant, tuy nhiên nó chỉ biểu hiện
một khía cạnh vấn đề, bởi Đức Christ giáng sinh lấy xác phàm để thể hiện
nguyên lư đó trong đời sống nội tâm của Ngài tại Palestine đă ảnh hưởng đến
hàng triệu người, v́ Ngài không nao núng trước đau khổ. Thường người ta t́m
cách trốn tránh sự đau khổ được bao nhiêu hay bấy nhiêu, nhưng Đấng Christ
lại chấp nhận sự đau khổ riêng của Ngài và cả sự đau khổ của nhân loại nữa.
Những người theo đuổi con đường Bồ Đề khi gặp những thử thách đă hỏi một cách
tự nhiên : " Biết bao người đang chịu đau khổ ; tại sao ta lại muốn trốn
thoát nó. Hơn nữa, trong ḷng tràn đầy thiện cảm, họ cảm nhận các sự đau khổ
khác đến tột độ, trước khi đạt đến sự yên tịnh như một vị La Hán, trước khi
sự giác ngộ giúp họ thắng đoạt tử thần và mang lại sự an vui tự tại, th́ dù
sự đau khổ của họ ra sao cũng mặc. Một sự giải thoát như thế chỉ đem lại sự
an nghỉ vô vị, nếu con người có thể đạt được nó trước khi kinh nghiệm sự đau
khổ của Đấng Christ, trong sự đau khổ nầy, khổ h́nh phải mang cây thánh giá
không có ǵ đáng kể so với ḷng từ bi của Ngài trong sự đáp ứng tiếng kêu
thống khổ của thế gian. Sau cùng đến lúc người nói : " Dù tôi có khổ hay
không, điều đó có ǵ quan trọng ? " Ước muốn phụng sự làm cho y say mê đến
đỗi y không c̣n bao nhiêu th́ giờ nghĩ đến chính ḿnh nữa.
Chỉ có những người chịu suy tư về những thực tại siêu h́nh mới hiểu được một
thành ngữ như "sự bằng an và sự toàn phúc chỉ nhận thức được ở cơi tịch tịnh
hư không" . Nhiều thành ngữ Đông phương thuộc loại đó được đặt nền tảng trên
ư niệm căn bản là Đức Thượng Đế phổ quát được biểu hiện như Sat, Chit và
Ananda, nghĩa là như hữu thể (that is), tâm thức (consciousness ) và toàn
phúc ( bliss ).
Hữu thể rất dễ hiểu; mỗi người đều thấy nó ở chung quanh ḿnh; tâm thức được
người ta nhận biết bằng kinh nghiệm; c̣n hạnh phúc th́ người ta theo đuổi.
Mọi người đều t́m kiếm chính ḿnh. Hạnh phúc không phải là cái ǵ để bắt lấy,
đạt được hay sở hữu; nó chính là trạng thái b́nh thường của Chơn Ngă. Tuy
nhiên, cao hơn vật chất và tâm thức, có một đời sống nội tâm thực sự; đời
sống ấy là quan điểm bên ngoài của sự tĩnh lặng và hư vô, thật ra nó là toàn
phúc của hữu thể chơn thật.
[9:37:48 PM] Thuan Thi Do: Con hăy diệt ḷng ham muốn ; nhưng nếu con giết nó
rồi, con cũng phải đề pḥng sợ e nó sống lại.
Con hăy diệt ḷng tham sống, tuy nhiên con chớ nên v́ lẽ khao khát đời sống
vĩnh cửu mà diệt ḷng khao khát sự sống, nhưng là v́ muốn đem cái bất diệt
trường cửu thay thế cái biến đổi, vô thường.
Chớ ham muốn điều chi, không nên phẩn uất đối với Nghiệp Báo, hoặc đối với
luật bất biến của thiên nhiên. Con chỉ nên chiến đấu với cái riêng tư, cái
tạm thời, cái phù du và cái hư hoại.
Sự ham muốn thông thường là ưa thích những sự vật hồng trần để t́m những
khoái lạc về t́nh cảm hay vật chất. Chúng ta thấy rằng vị đệ tử không nên t́m
kiếm những khoái lạc thuộc loại ấy ; trái lại y phải tận dụng tất cả năng lực
của phàm nhơn - thuộc về thể xác, t́nh cảm và trí tuệ - vào công việc tiến
hóa tinh thần và phụng sự đời sống nội tâm cho chính ḿnh và kẻ khác.
Tanha là cội rễ của những dục vọng ấy, v́ nó là sự khao khát đời sống cảm
giác. Trên cơi của nó, Chơn Nhơn chưa có ư thức đầy đủ, nhưng tâm thức mà nó
hiện có tạo cho nó một sự thích thú mănh liệt và khêu gợi ở nó sự khao khát
một đời sống trọn vẹn hơn. Thật ra đó là lư do thế gian lớn tiếng đ̣i hỏi đời
sống ấy. Như chúng tôi đă giải thích, các năng lực tại cơi Thượng Thiên đi
xuyên qua nhân thể hầu hết không tác động đối với nó trong trường hợp ở những
người thường, Chơn Nhơn c̣n chưa phát triển và chưa tập luyện để đáp ứng với
sự vật khác hơn là một ít rung động, đặc biệt trên cơi riêng của nó. Tại cơi
Thượng Thiên không có sự rung động thô kệch như rung động mà Chơn Nhơn có thể
đáp ứng lại trong buổi thiếu thời; do đó Chơn Nhơn phải đi xuống các cơi thấp
hầu cảm thấy sự sống mănh liệt hơn. V́ thế mà từ lâu rồi tâm thức của nó linh
động một cách đặc biệt trước những sự vật thuộc cơi hồng trần. Sau nầy th́
bản chất Thể Vía được đánh thức, những khoái lạc tại cơi nầy mới chứng tỏ một
sự lôi cuốn mạnh hơn.
Ở trong xác phàm, con người không thể biết được những khoái lạc của đời sống
cơi Trung Giới mănh liệt đến mức độ nào; đó là điểm mà sự sự khoái lạc chuyển
hướng và thường giữ lại những người đă chế ngự được những sự thỏa măn tương
tự tại cơi trần. Nhưng sự nguy hiểm đó không lớn lao đối với người sống tại
cơi trần mà biết t́m kiếm những sự lợi lạc trên Đường Đạo, nếu họ là những
người đạt được một tŕnh độ tiến hóa nào đó, v́ họ có khả năng thưởng thức
những lạc thú c̣n cao hơn và vô cùng hấp dẫn hơn. Trên mỗi cơi, cũng lần lượt
giống như thế.
Tuy nhiên vị đệ tử cũng phải giữ ǵn ḿnh khi từ bỏ những lạc thú thấp kém
chỉ v́ muốn đánh đổi những lạc thú cao hơn ; y không bao giờ được quên mục
đích đầy lư tưởng cao siêu hơn mọi khoái lạc tạm thời. Y cũng không nên khao
khát hạnh phúc lâu dài tại cơi Thiên Đường, mà phải từ bỏ tất cả những ǵ giả
tạm và riêng tư. Nên một mặt y không t́m kiếm những sự vật đáng ham muốn, mặt
khác y cũng không lẫn tránh những bài học mà Nghiệp Quả đưa đến cho y ; y
không ao ước một trường kinh nghiệm nào khác hơn là môi trường của y. Y biết
rằng nhờ sự bất biến của những định luật thiên nhiên, y có thể dùng những
kinh nghiệm của ḿnh để phát triển. Nếu không có một trật tự ngự trị trên thế
gian, trí thông minh sẽ không tăng trưởng, con người sẽ không thể sử dụng
những năng lực của ḿnh. Như vậy vị đệ tử sẽ không phẫn uất đối với Nghiệp
Quả là sự biểu hiện của Định Luật.
[10:06:15 PM] Thuan Thi Do: GLTVT 8; 33:35
[10:13:10 PM] Phuc: Có 1 câu hỏi:
1. What is the ray that Humanity is on? What is your understanding of how
that works out for us?
Như vậy:
-Chữ Humanity trong câu hỏi này có tương đương với Humanity trong phần so
sánh bên trên không ? hay ư nghĩa khác ?
-Chữ "Ray" trong câu trên chắc có nghĩ là 7 Rays ? Tại v́ trước đó trong bài
đọc thêm chưa nói ǵ về 12 Cung hoàng đạo
[10:32:15 PM] Phuc: Week 2: There is no rush, no hurry. And yet there is no
time to lose. Each pilgrim, knowing this, presses his footsteps forward, and
finds himself surrounded by his fellowmen.
• Why is there no rush and no hurry in treading the Path? Why is there no
time to lose?
*For the beginner on the Path, (that I name “inexperienced soul” or “young
soul”)
-He should not hurry on the Path, since the three lower bodies (mental,
astral, and physical bodies) through many ignorant lives have low vibrations.
The meditation methods will raise those vibrations, but it cannot be done in
some days, and if he hurries, he might wreck them, and it takes a long time
to fix them.
Example: the bodies are like a car, if it run for too long without changing
oil, and stopping to cool the engines, then it will break before coming to
the target.
But, if we run it regularly, and take good care of it, then we will be
certain to reach the goal.
-However, if the “young souls” don’t organize and use the time wisely to
raise the vibration, then their old habits will dominate them, and pull them
back to low vibrations. The principle is to meditate slowly and every day.
*for the “old souls”, they relearn very fast old lessons, so they advance
quickly on the Path, in order to learn new lessons.
If we can distiguish those two cases, we can calmly advance.
Also, “Hurrying” and “rushing” suggest an off-center state of being, and
often create a condition where the work has to be re-done. The eventual
victory of spirit is inevitable (though the forces of materialism can create
delays), thus steady, well-considered effortis the most effective method.
[10:38:52 PM] *** Call ended, duration 4:29:25 ***