Họp Thông Thiên Học ngày 1  tháng 12 năm 2018

  Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/sach/GiangLyTiengNoiVoThinh.htm

 
CHƯƠNG 9

BẢY THỨ ÂM THANH
41. Trước khi đặt chân lên nấc thang cao tột của âm giai thần bí, con phải nghe đủ bảy thứ tiếng của Thượng Đế bên trong con (Chơn Ngă).

C.W.L.- Như chúng tôi đă nói, Tiếng Nói Vô Thinh phải được dùng để hướng dẫn thí sinh cho đến Cuộc Điểm Đạo lần thứ Tư. Về Điểm Đạo nầy tâm thức của y được nâng lên đến nguyên lư thứ bảy và bắt đầu hoạt động tại Cơi Niết Bàn (The Atmic or Nirvanic Plane). Chừng đó con người mới sẵn sàng đặt chân lên chỗ mà ở đây gọi là nấc thang cao tột và được chuẩn bị Điểm Đạo lần thứ Năm - Cuộc Điểm Đạo của Quả Vị Chơn Tiên. Đường Đạo chia làm hai phần bằng nhau, có thể gọi là những bậc thấp và bậc cao của chiếc thang.

Người được Điểm Đạo phải nghe bảy thứ tiếng nói của Đức Thượng Đế ngự trong ḷng y. Trong thời kỳ bấy giờ, Đức Thượng Đế nội tâm đó là Chơn Ngă cao siêu, là Bồ Đề Tâm hay nguyên lư thứ hai. Trong khi tham thiền người chí nguyện có thể nghe hoặc không nghe được một loạt bảy thứ âm thanh, chứng tỏ rằng y đă đạt đến bảy Cảnh của Cơi Bồ Đề; điểm nầy tùy thuộc bản tánh tâm linh của y. Nhưng trong mọi trường hợp y phải làm cho ảnh hưởng của Bồ Đề Tâm đi xuống trong đời sống của y và tận tới Cơi thấp, để cho sự hoạt động của tất cả các nguyên lư của y được điều khiển, và như thế, Đức Thượng Đế ngự bên trong y luôn luôn hiện diện trong đời sống của y.

Trong thời kỳ thứ hai được gọi là “Chiếc thang của những âm giai thần bí, ” có lẽ đúng như thế, v́ đó là những âm giai của Tiếng Nói Vô Thinh, ẩn tàng trong Atma hay Đại Ngă cao siêu. Trong bản văn nầy, chúng ta hăy coi chừng đừng hiểu quá xa nghĩa đúng đắn của một chữ Anh thông thường nào, v́ đây là một bản dịch. Trong nguyên bản, mỗi chữ Sanskrit hay Pali đều dẫy đầy những ư nghĩa chuyên môn. Tuy nhiên tiếng thần bí mà ngữ văn có nghĩa là “gần con mắt” (to close the eyes), ở đây nó chỉ vài âm thanh không hề lẫn lộn với đời sống ly tán mà chỉ đưa ra những mệnh lệnh dường như phát xuất từ trên cao bằng đường lối của tâm thức thuần túy gọi là ex cathedra. Bản văn cho biết là những âm thanh kê ra đều có thể nghe được chứ không có ǵ là “Thần Bí” trong bất cứ trường hợp nào, đối với thí sinh trong thời kỳ trên. Lương tâm thật sự không nói cho bạn biết bạn phải làm ǵ như người ta thường tưởng, nhưng nó chỉ ra lệnh để bạn theo con đường mà bạn biết là hay hơn hết, khi cái trí của bạn t́m cách bào chữa để theo con đường khác; nó nói bằng uy quyền của ư chí thiêng liêng để bắt buộc đời sống của chúng ta phải theo một chiều hướng nào đó. Đó không phải là Atma, mà chính là Bồ Đề Tâm hay nguyên lư thứ hai, nó mang đến cho chúng ta kiến thức thuộc về trực giác và điều thiện cũng như điều ác.

42. Tiếng thứ nhứt giống như tiếng êm ái của Chim Quyên hát cho chim mái nghe một ca khúc khởi hành.

43. Tiếng thứ nh́ giống như tiếng chập choă bằng bạc của các vị Thiên Tôn (Dhyanis) đánh thức các ngôi sao lấp lánh.

44. Tiếng kế đó như tiếng than thở nhẹ nhàng của con Thủy Quái bị nhốt trong vỏ.

45. Tiếp theo là tiếng của đàn vina.

46. Tiếng thứ năm giống như tiếng sáo trúc xoáy vào tai.

47. Kế đó nó biến thành tiếng kèn chát chúa.

48. Tiếng chót hết rung chuyển như tiếng gầm điếc tai trong đám mây của cơn băo tố.

49. Tiếng thứ bảy át cả mấy tiếng kia.

Chúng im lặng hết và người ta không c̣n nghe chi nữa.

Bảy loại âm thanh được đề cập ở đây đă khích động mănh liệt tính hiếu kỳ của tất cả những độc giả đă suy tư về những trang của quyển sách nầy. Trước hết chúng ta hăy chú ư đến đặc tính của các âm thanh; rồi chúng ta sẽ thấy rằng chúng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo thứ tự được sắp xếp, chúng càng lúc càng tăng thêm tính cách vật chất và mất hẳn bản tính tiềm nhập của chúng. Chẳng hạn chúng ta nhận thấy sự khác nhau giữa đàn vina và kèn Ấn Độ theo kiểu xưa. Có thể là trong một gian pḥng rộng răi đầy thính giả, khi được nghe lần đầu tiên những âm thanh huyền diệu tinh vi của tiếng đàn Vina, người Âu Châu hầu như luôn luôn lấy làm ngạc nhiên mà nhận thấy rằng không có một tác dụng mạnh mẽ nào đối với họ, các âm thanh ấy đi vào những góc kẹt xa xôi và mang đến ấn tượng những âm điệu gần như xa lạ đối với Cơi Vật Chất.7:03 PMLoại âm thanh cao hơn hết được so sánh với tiếng hát của Chim Quyên. Người ta nói rằng có nhiều trường hợp giọng hát của nó vút lên đến một độ cao nào đó rồi ngưng luôn không c̣n nghe được bởi thính giác chúng ta nữa, mặc dù những rung động của tiếng hát c̣n hiển nhiên trong cuống họng của con chim. Sự hiện hữu của những âm thanh cao như thế đều được các Sinh Viên Khoa Học biết rơ. Chẳng hạn âm thanh của một cái c̣i, dưới sự gia tăng áp lực của không khí hay hơi nước có thể vang lên chát chúa đến nỗi những người nghe cho biết đến mức độ nào đó họ hết nghe được nữa. Muốn gọi những con chó săn Đức, người ta có một thứ c̣i đặc biệt. Dụng cụ nầy giống như một cái c̣i b́nh thường, khi sử dụng nó, người ta không nghe được một âm thanh nào, nhưng con chó đang ở trong một pḥng khác hoặc ở một nơi nào đó, liền vảnh tai lên rồi phóng chạy đúng đến nơi tiếng c̣i phát ra.

Có hai cách giải thích các thứ âm thanh. Âm thanh thứ nhứt được ghi trong bản kê có thể tiêu biểu cho âm thanh chót mà thí sinh nghe được. Các âm thanh được liệt kê từ trên xuống dưới như thứ tự phát sinh ra chúng theo sự sử dụng của người Đông Phương, âm thanh thứ nhứt đă tạo ra được xếp vào hàng thứ bảy khi người chí nguyện đến gần Đấng sáng tạo ra âm thanh đó. Tiếng gầm điếc tai của một đám mây trước cơn băo đến trước tiên; nó tiêu biểu hay liên hệ với nguyên lư vật chất trong con người. Ở khoảng giữa là tiếng đàn Vina tượng trưng cho Antahkarana (theo sự phân loại của Bà Blavatsky). Tiếng hát của Chim Quyên đến sau cùng; nó tiêu biểu cho Atma, sự tĩnh lặng. Âm thanh thứ bảy là tiếng không thể nghe được tiếp theo những tiếng khác, khi mấy tiếng nầy chạm đến nó, chúng tắt lịm và không c̣n nghe được nữa, sự tượng trưng thật đúng như thế. Người chí nguyện phải đạt đến chỗ nghe được Đức Thượng Đế trong tiếng gầm thét điếc tai tại Cơi Hồng Trần, rồi trong tiếng kèn trên Cơi Trung Giới, kế đó là âm thanh của Cơi Hạ Thiên được so sánh với tiếng Sáo Trúc, và cứ như thế cho đến Cơi của nguyên lư cao hơn hết.

Theo một điểm khác, chính các âm thanh đó có thể tượng trưng cho cường độ, tiếng nói của Chơn Ngă cao siêu mà người chí nguyện nghe được. Tiếng nói đó chỉ là một nhưng người ta nghe bằng bảy cách khác nhau. Lúc đầu nó tinh vi và êm ái như tiếng hát của Chim Quyên và thường biến mất trong yên lặng; kế đó là trở nên mănh liệt và giống như tiếng chập chơa bằng bạc của các vị Thiên Tôn. Nó gia tăng không ngừng; sau cùng nó vang lên măi và tràn đầy không khí như tiếng gầm thét điếc tai của đám mây trong cơn băo tố. Ban đầu tiếng nói của Chơn Ngă cao diệu dường như tiến triển một cách mỏng manh và mơ hồ đối với chúng ta, nhưng sau đó trở nên hoàn toàn giống như tiếng sét thật.

Trong bản văn, chúng ta cũng nên ghi nhớ là sự chỉ định các thứ âm thanh khác nhau được mô tả khi Kundalini được đưa lên từ Luân Xa nầy đến Luân Xa khác. Hơn nữa năng lực đó được đánh thức ở bảy nơi thâm sâu trong bảy mức độ khác nhau, để phát sinh những kết quả vật lư được đề cập đến với một sức mạnh càng ngày càng gia tăng. Do đó khi Kundalini đi đến Luân Xa ở giữa chân mày, tiếng nói sẽ được nghe theo bảy cường độ, tượng trưng bằng bảy âm thanh kể trên.

Chúng ta nên nhớ, tự nhiên trên Cơi Hồng Trần dày đặc hơn hết, thí sinh chỉ nghe tiếng nội tâm một cách yếu ớt như tiếng hát của Chim Quyên. Khi được lên đến Cơi kế tiếp, nơi mà Thể của Chơn Ngă nội tại ít dày đặc hơn, y sẽ nghe được tiếng nói của Chơn Ngă một cách dễ dàng. Sau cùng, khi đạt đến nguyên lư cao siêu, tiếng nói sẽ giống như tiếng gầm thét của đám mây trong cơn băo tố. Nếu chúng ta cho rằng các vật ở trên cao phải tinh vi, th́ ảo ảnh của các Cơi thấp là nguyên nhân duy nhất của nó vậy; sau rốt chúng ta phải công nhận là chúng biểu thị cho toàn khối và tiếng sấm sét thật sự.

Các sự giải thích nầy không mâu thuẫn nhau; thí sinh có thể cùng một lúc thu thập được tất cả những kinh nghiệm do chúng gây ra.7:13 PMVề các âm thanh đó, trong những buổi đàm đạo của chúng tôi trên sân thượng ở Adyar, tôi c̣n nhớ một câu hỏi đă được nêu ra; Bà Hội Trưởng chúng tôi đă giải đáp như sau :

A.B.- Trong lúc tham thiền, một trong các âm thanh đầu tiên mà tôi nghe được (thật rơ ràng), giống như tiếng trống trong làng quê xứ Ấn Độ. Khi mô tả âm thanh đó cho Bà Blavatsky nghe, Bà nói: “Tốt lắm, cứ tiếp tục đi.” Kế đó tôi nghe như một tiếng nhạc êm dịu, rồi giống như tiếng chuông bạc. Một âm thanh khác giống như tiếng chuông ngân trong thánh điện, mà người ta thường nghe ở Benares. Theo ư tôi, các âm thanh nầy chứng tỏ rằng, tôi bắt đầu nghe được trên Cơi Trung Giới. Tôi không bao giờ nhận thấy chúng có ư nghĩa ǵ khác hơn.

Ở Ấn Độ có người thành lập một ngôi trường về phép tu nầy được Đức Thầy M. khen ngợi. Sau một thời gian tu học, học viên của trường nghe rất rơ ràng tiếng nói nhiều thứ âm thanh, nhưng tôi không bao giờ thấy sự tiến bộ của họ được mau chóng. Ở miền Bắc Ấn người ta thường đến hỏi tôi về ư nghĩa của những âm thanh đă nghe được. Tôi đáp: “Đó là lúc khởi đầu của Thần Nhĩ, không hơn không kém.”

Tôi không bao giờ nhận định được rơ rệt bảy thứ âm thanh do Bà Blavatsky đề cập đến. Chúng có thể giảng giải là bạn phải đánh thức lần lượt tâm thức của bạn trên mỗi Cơi, cũng như dưới Thế Gian âm Fa là sự phối hợp của nhiều âm thanh tại Cơi vật chất. Nhưng việc nầy không giải thích được điều ǵ đáng kể.

C.W.L.- Tôi không thể làm cho chúng tương ứng với các Cơi được. Cũng có thể chúng phải tiêu biểu cho những âm thanh khi Kundalini đánh thức bảy trung tâm, v́ âm thanh là một trong các hiện tượng phát sinh trong trường hợp đặc biệt nầy. Tôi chẳng bao giờ biết thật chắc chắn chúng có nghĩa ǵ. Người ta sẵn sàng tin rằng tiếng chập choă bằng bạc, theo những âm điệu khác, có thể thay thế tất cả những âm thanh được mô tả. Tiếng sấm dường như không chắc được xếp đúng vị trí của nó.

A.B.- Dĩ nhiên vài âm thanh được nghe trong đầu chúng ta hoàn toàn thuộc về mạch Hệ. Khi một người nghe được chúng thật rơ ràng chính v́ y đang lâm vào trạng thái thiếu máu rất nguy hiểm.

Các âm thanh không có tánh chất luỹ tiến. Bà Blavatsky thường hay làm việc một cách ḷng ḍng; có khi Bà bắt đầu bằng con số bốn và kế đó tiếp tục qua hai bên. Cũng có thể Bà không theo thứ tự nào cả. Người ta có thể bắt đầu bằng tiếng sấm, tiếng kèn và tiếng của con Thủy Quái; rồi tiếp tiếng chập choă có thể biểu thị cho âm thanh thứ tư, tiếng Sáo Trúc thứ năm và tiếng đàn Vina, có âm thanh êm dịu hơn là tiếng thứ sáu, sau cùng, tiếng Chim Quyên sẽ làm âm thanh thứ bảy, tột đỉnh của cả loạt âm thanh.

C.W.L.- Nếu chúng ta sắp xếp chúng nó lại như thế, th́ chúng bắt đầu có ư nghĩa rơ rệt.

A.B.- Khi được hỏi về Cơi Trung Giới, Bà Blavatsky đáp: “Nếu ta hiểu tất cả chúng nó theo cách đó th́ thật là vô lư! Quư huynh có thể xếp đặt chúng như thế nầy: tiếng sấm, tiếng kèn, tiếng Thủy Quái, tiếng chập chơa, tiếng sáo, tiếng đàn Vina, tiếng chim quyên.” Bà nói chúng ta chấp vào mặt chữ thật tệ hại.”

C.W.L.- Trong nhiều tác phẩm chữ Phạn cũng có nhiều bảng kê tượng tự như thế. Đây là một thí dụ rút trong Kinh Shiva Samhita.

Âm thanh thứ nhứt giống như tiếng kêu vo ve của con ong bị say mật; âm thanh thứ hai giống như tiếng sáo, âm thanh thứ ba như tiếng đàn hạc (harp). Kế đó, khi lần lượt thực hành phương pháp Yoga để diệt trừ những sự hôn ám dưới Thế Gian, người ta sẽ nghe được âm thanh như tiếng chuông, rồi như tiếng sấm vang rền. Khi con người thoát khỏi sự lo sợ, chú định hoàn toàn vào âm thanh cuối cùng nầy, y sẽ đạt đến chỗ hợp nhất. Hỡi Đức Thượng Đế kính mến! Khi cái trí của Nhà Yogi đắm ch́m trong âm thanh nầy, y quên tất cả ngoại giới và mê man trong âm thanh đó.

50. Khi tiếng thứ sáu đă lặn mất và được đặt dưới chân Sư Phụ, th́ Đệ Tử nhập vào Nhất Thể, trở nên Nhất Thể ấy và sống trong đó.

Đây là lời giải thích của Bà Blavatsky về sáu âm thanh đó:

Sáu nguyên lư đầu tiên, có nghĩa là khi Phàm Nhơn bị tiêu diệt và cá thể bên trong bị ch́m đắm và biến mất trong nguyên lư thứ bảy hay tinh thần.

Về Nhất Thể được đề cập trong bản văn Bà nói:

Vị Đệ Tử hợp nhất với Brahman hay Atma.

Khi sáu nguyên lư bị tiêu diệt; nói cách khác, khi chúng không c̣n độc lập nữa mà trở nên hoàn toàn phục tùng ư chí của Chơn Ngă, th́ chừng đó người chí nguyện sống trong Nhất Thể. Tiếng nói thứ bảy, âm thanh của Bồ Đề Tâm, sẽ làm cho đạt đến Atma. Bà Blavatsky dùng danh từ Brahman để chỉ Atma của con người theo lối loại suy. Brahman (vô tính) là Nhất Thể chứa đựng Tam Thể. Cũng giống như thế, khi con người trở nên vị La Hán sống được trong tinh thần Tam Thể.

51. Trước khi vào được con đường nầy, con phải diệt trừ Thể Vía, chùi sạch Thể Trí và rửa ḷng con cho trong sạch.

Về “Thể Vía”, Bà Blavatsky chú thích thêm như sau:

Nguyên lư Kamic tạo ra dục thể gọi là Kama Rupa, hay thể ham muốn.

Về danh từ “Thể Trí” Bà phê b́nh như sau:

Manasa Rupa, Thể thứ nhứt, chỉ là Cái Vía hay Tư Ngă; Thể thứ nh́ chỉ cá tính hay Chơn Nhơn chịu luân hồi, mà tâm thức tại Cơi Trần của chúng ta hay Hạ Trí phải chịu bất lực.

Bà Blavasky không chú ư đến các Cơi nhiều như các Nhà Thông Thiên Học ngày nay. Bà chỉ chú ư đến các Nguyên Lư hơn, và Bà thấy vật chất trên các Cơi đều nhờ ảnh hưởng của chúng mới có h́nh dạng. Ở đây Bà nói về “Cơi của chúng ta,” có nghĩa là vùng của sự sống cá thể, tức là Cơi Hồng Trần, Trung Giới và Hạ Thiên. “Thể Trung Giới” không hẳn là có nghĩa là Thể Vía, nhưng là h́nh dạng cá thể được thiết lập trong các vùng chủ quan của đời sống cá nhân chúng ta (Cơi Trung giới và Cơi Hạ Thiên), v́ lẽ h́nh thể thân xác, cũng như t́nh cảm và tư tưởng của cá nhân đều phù hợp với các Cơi ấy. Trong quyển sách nhỏ nhan đề “Cơi Thiên Đường” (The Devachanic Plane) của tôi và trong quyển “Minh Triết Cổ Truyền” (Ancient Wisdom) của Bà Bác sĩ Besant có đề cập đến bốn mẫu đời sống được quan sát tại Cơi Trời: 1)- T́nh bằng hữu ích kỷ, 2)- Ḷng sùng tín hạn hẹp, 3)- Tinh thần truyền giáo chân chánh, 4 )- Sinh hoạt của nhân loại. Tất cả đều có đặc tính thuộc về t́nh cảm - mặc dù là thanh khiết, không xen chút ích kỷ; chúng không vương chút tư ngă nào, nhưng c̣n ham muốn. Chúng mặc lấy h́nh thể của đặc tính kinh nghiệm thu thập được tại Cơi Trần. Chỉ có Hạ Trí trong sạch mới sẽ là Antahkarana nó là Cái Trí của Linh Hồn chứ không phải cái trí của xác thân. Sự sinh hoạt của nó chỉ được khích động từ chốn cao siêu. Bây giờ nó phải thanh lọc tất cả dục vọng, để trở nên một vận hà hoàn toàn cho Linh Hồn.

Bạn nên hiểu rơ t́nh trạng Thể Vía của một người tiến hóa cao. Nó không đáp ứng với những sự đụng chạm đến từ bên ngoài. Trong tự thân nó, nó đă được giải thoát đối với đời sống Thế Gian: Nó không c̣n có đời sống riêng rẽ nữa; nó đă bị “hủy diệt.” Nếu một người thường nào đó bị đánh, chắc chắn lửa giận sẽ bùng cháy tức khắc trong Thể Vía của y. Đối với người tiến hóa cao, sự việc xảy ra không giống như thế. Trong trường hợp đó, sự đụng chạm xuyên qua Thể Vía vào đến bên trong Thể Bồ Đề và Thể nầy đáp ứng lại theo bản chất của nó; sự đụng chạm trên Thể Vía sẽ làm nảy sinh ra trong đó những sắc thái tốt đẹp của những cảm xúc liên hệ với t́nh thương và trong Thể ấy, nó sẽ phù hợp với Thể Bồ Đề. Như Bà Bác sĩ Besant thường giải thích, hào quang Thể Vía của một người tiến hóa cao không có màu sắc, hoặc đúng hơn nó có màu trắng hơi giống sữa, khi y an tĩnh; trái lại tất cả những màu sắc đẹp đẽ hơn cả trên Cơi Trung Giới do các nhân vật cao cả tại thế giới bên ngoài đưa đến sẽ được y đáp ứng lại.

52. Nước tinh anh trong suốt của sự sống trường tồn, không thể lẫn lộn vào trong ḍng nước đầy bùn sau cơn băo tố của gió mùa.

53. Giọt sương chiếu sáng trong tia nắng ban mai giữa cánh hoa sen, biến thành cục đất sét khi rơi xuống đất; thế là ḥn ngọc đă hóa ra bùn.

54. Hăy chiến đấu với những tư tưởng ô trược khi nó chế ngự được con. Hăy xử sự với chúng như chúng đă xử sự với con vậy; nếu con dung dưỡng chúng, để cho chúng mọc rễ và đâm chồi; th́ con nên biết những tư tưởng đó sẽ quật ngă con và sẽ giết con chết. Hỡi Đệ Tử, hăy đề pḥng, dù cái bóng của chúng cũng đừng để đến gần con, v́ nếu con để nó lớn, mạnh, vật hắc ám đó sẽ thâm nhập vào người con, trước khi con nhận rơ được h́nh thù ghê gớm của con quái vật ô trược đó.

Dưới Thế Gian nầy, nhiều người tưởng họ có thể kéo lê một cuộc sống thấp hèn mà lại tiến bộ trên Đường Đạo; đôi khi họ cũng tưởng rằng khi dấn thân vào những h́nh thức khích động xấu xa, họ có thể tạo ra một năng lực đáng kể giúp họ tiến bước và vươn lên. Khi trấn áp được hoàn toàn những sinh hoạt thấp kém, họ lại sợ không c̣n màu sắc trong Thể Vía. Người ta nói rằng chắc chắn người có hào quang không màu sắc là người tốt, nhưng yếu đuối, không thể tiến bộ. Trong Thiên Khải Huyền, Đấng Thánh Linh có nói: “Cầu xin Thượng Đế hăy ban cho con được lạnh lùng hoặc đầy nhiệt huyết,” “bởi v́ nếu con hững hờ, không lạnh lùng cũng không hăng hái, Ta sẽ phun con ra khỏi miệng Ta.”

Đoạn kinh trên tŕnh bày thật rơ các sự kiện những người có hy vọng nhiều nhất theo thứ tự ưu tiên như sau: 1)- Người có ư chí và lương thiện, 2)- Người có ư chí và xấu xa, 3)- Người lương thiện và tầm thường. Không ai có thể là một kẻ sát nhân cố ư trừ phi đă mở mang một cách đáng kể vài đặc tính thiêng liêng. Nguyên nhân hành động độc ác của y là do sự mất thăng bằng - chẳng hạn y có một ư chí mạnh mẽ, một tính can đảm phi thường, một trí thông minh xuất chúng, nhưng lại thiếu t́nh thương đối với đồng loại. Một t́nh thương vĩ đại và một ư chí dũng mănh nhưng thiếu thông minh, cũng có thể biến con người thành một kẻ nguy hiểm và tà vạy, v́ y có thể trở nên một lănh tụ cuồng tín của những kẻ bất măn. Nếu chỉ là người tốt nhưng ư chí, trí thông minh và t́nh thương đều chưa phát triển cũng sẽ tiến bộ rất chậm chạp, dù sự tiến bộ của y vẫn đều đặn. Bậc vĩ nhân có nhiều tật xấu lớn lao, nhưng họ có thể sửa đổi nhanh chóng; kẻ tầm thường có nhiều tật xấu nhỏ song chúng thường tồn tại lâu dài.

Nhưng trong mọi trường hợp không hề có một sự khuyến khích con người sống một cuộc đời xấu xa. Người ta thấy rằng chỉ xóa bỏ những khuynh hướng thấp hèn cũng chưa đủ bảo đảm những sự tiến bộ nhanh chóng, mà phải đi t́m những cố gắng tích cực và quyết liệt để biểu lộ những ǵ cao thượng và tốt lành. Tuy nhiên những cố gắng đó cũng có thể đưa đến sự sa ngă. Ư chí dũng mănh hay kiến thức, hoặc t́nh thương do y cố gắng rèn luyện được có thể làm cho té ngă nặng nề và ghê gớm hơn, nếu y mất thăng bằng. Do đó tội lỗi nặng nề của y có thể là một điềm lành về sự tiến bộ nhanh chóng; nhưng sự tiến bộ mau lẹ đó chỉ bắt đầu khi nào v́ ảnh hưởng của sự đau khổ do Nhân Quả mà con người hiểu được lỗi lầm của ḿnh và xóa sạch được những vết nhơ của sự sa ngă. Bao lâu sự thanh lọc nầy chưa hoàn tất, th́ hầu như không tiến bộ được. Về phương diện nầy Bà Blavatsky đă tŕnh bày một cách quả quyết trong quyển “Những bước đầu tiên trên đường Huyền Bí Học” như sau:

Có nhiều người quan năng suy luận bị ảnh hưởng bên ngoài làm cho sai lạc đến nỗi tưởng rằng những thú tánh có thể trở nên tuyệt vời và cao thượng như sức mạnh và ḷng nhiệt thành của họ - nếu người ta có thể nói như thế - sẽ được chuyển hướng vào nội tâm; chúng được chất chứa và giữ ǵn trong đó cho đến khi năng lực của chúng không bị hao ṃn, mà hướng đến những đối tượng cao siêu và thánh thiện hơn, nghĩa là cho đến khi nào năng lực được súc tích cho phép họ bước vào Thánh Điện thật sự của Linh Hồn và hiện diện trước Chơn Sư, tức Đại Ngă cao siêu. V́ lư do đó mà họ không muốn tranh đấu với dục vọng của ḿnh để tiêu diệt chúng. Họ chỉ muốn dập tắt ngọn lửa hung bạo bằng sự cố gắng mănh liệt của ư chí và để nó tàn lụn trong tâm ḿnh, chỉ chừa cục than hồng chôn vùi dưới lớp tro mỏng. Họ vui ḷng chịu khuất phục để cho họ bị vày ṿ như cậu thiếu niên của thành Spartan, ưng cho con chồn xâu xé ruột gan hơn là xa ĺa nó. Ôi! Đáng thương thay kẻ ảo tưởng mù quáng!

Cũng như hy vọng rằng một đám thợ chùi ống khói say sưa kia, với quần áo lọ lem v́ công việc, có thể được ẩn thân trong Thánh Điện giăng toàn lụa trắng và thay v́ sự hiện diện của họ biến chúng thành một mớ vải tả tơi dơ bẩn, th́ chúng sẽ được biến đổi bằng cách đưa vào một góc linh thiêng, và sau cùng chúng vẫn biểu lộ sự tinh khiết như Thánh Điện vậy. Tại sao chúng tôi không tưởng tượng cũng có một lố da chồn đem cất trong không khí trong sạch của một Thánh Điện, khi đem xa tất cả điều được thấm nhuần mùi trầm hương trong đó. Lạ kỳ thay lư trí sai lầm của nhân loại.

 


http://thongthienhoc.net/sach/HuyenLinhThuat.htm

Một mối quan hệ sau này, vốn không liên quan chút nào đến chúng ta, được thiết lập sau cuộc điểm đạo thứ ba giữa linh hồn với Chân Thần (monad), và trong suốt diễn tŕnh tiến hóa của vũ trụ, các mối liên hệ này sẽ xuất hiện. Tuy thế, nhân loại nói chung chỉ quan tâm đến việc thiết lập một mối liên hệ giữa linh hồn với thể xác, và không cần đi quá điều này. Khi con người t́m cách đạt đến sự kiểm soát thể trí, th́ đến lượt linh hồn trở nên năng nổ một cách tích cực hơn. Công việc của Thái Dương Thiên Thần (solar Angel) cho đến bây giờ phần lớn vẫn ở trong thế giới riêng của Ngài, và liên quan đến mối liên hệ của Ngài với tinh thần, và đối với điều này, con người đang làm việc qua các chu kỳ của ḿnh trên cơi trần, đă không có sự dính líu nào. Sự tiêu phí năng lượng chính của linh hồn có tính khái quát, và hướng ra ngoài đi vào giới thứ năm. Hiện nay, Thái Dương Thiên Thần đang đến gần một thời điểm bước ngoặt (time of crisis) và tái định hướng. Trong lịch sử ban đầu của nhân loại đă có một bước ngoặt lớn mà chúng ta gọi là sự biệt-ngă-hóa (individualisation). Vào thời điểm đó, các Thái Dương Thiên Thần (solar Angels), khi đáp ứng với một đ̣i hỏi hoặc một sức hút từ chủng tộc người-thú (nói chung, hăy lưu ư điều đó), đă gửi một phần năng lượng của các Ngài, hiện thân cho tính chất trí-tuệ-hóa (mentalisation), đến những người-thú (animal-men) này. Các Ngài đă làm phong phú (fecundated), Tôi tạm diễn tả như thế, cho bộ óc (the brain). Thế là nhân loại được sinh ra. Tuy nhiên, mầm mống này mang trong nó hai tiềm năng khác, tiềm năng bác ái thiêng liêng và tiềm năng sự sống thiêng liêng. Các tiềm năng này phải được xuất hiện đúng lúc.

Sự phát triển hoàn toàn của thể trí trong con người, mà thời đại hiện tại nhận biết như thế, tỏ lộ cho Thái Dương Thiên Thần một bước ngoặt thứ hai, mà bước ngoặt đầu tiên chỉ là sự tượng trưng. Điều mà Thái Dương Thiên Thần tồn tại (exists) v́ nó, là làm cho sự hiện hữu của ngài được cảm nhận trong nhân loại, và một sức hút mạnh mẽ khác đang được tác động vào Thái Dương Thiên Thần, mà lần này sẽ tạo ra một sự phong phú hóa (fecundation) thứ hai. Điều này sẽ cung cấp cho con người những phẩm chất vốn sẽ cho phép con người vượt qua các giới hạn của nhân loại, và trở thành một thành phần của Giới thứ năm, hay Giới tinh thần trong thiên nhiên. Nỗ lực đầu tiên của Thái Dương Thiên Thần đă chuyển đổi người-thú thành con người, nỗ lực thứ hai sẽ biến đổi nhân-loại thành các thực thể tâm linh, cộng thêm các thu đạt kinh nghiệm trong gia đ́nh nhân loại. Về điều này, Thái Dương Thiên Thần, tức linh hồn (soul), đang tự sắp xếp, và tái định hướng chính ḿnh sao cho sức mạnh của ngài có thể được chuyển hướng vào giới nhân loại. Sự tiếp xúc phải được linh hồn thực hiện giữa khía cạnh thấp của bản thể tam phân của ngài với khía cạnh vốn đă t́m thấy trú sở trong bộ óc của con người. Sự hoạt động thông tuệ và bác ái minh triết phải được hợp nhất, và sự phối hợp (union) phải diễn ra trên cơi trần. Để thực hiện điều này, linh hồn đang bước vào “sự thiền định thâm sâu”, trong sự ḥa hợp với tất cả các linh hồn khác, những linh hồn đă có thể đưa công cụ của họ vào một trạng thái đáp ứng. Đây là sự thiền định tập-thể cơ-bản, và khi một người thành tựu điều mà các Kinh sách phương Đông gọi là “sự đại định” (“samadhi”), người ấy đă thành công trong việc tham gia, với tư cách một linh hồn, vào sự thiền định tập thể này, và bắt đầu chu kỳ phụng sự vốn tự biểu lộ thông qua Thánh Đoàn (Hierarchy) hành tinh. Hạ trí và thượng trí (rational mind and abstract mind) hoạt động với tư cách là một đơn vị, và nguyên khí thúc đẩy là bác ái. Linh hồn, thể hiện cho bác ái và trí tuệ trừu tượng, là một với biểu hiện của nó trên cơi trần thông qua bộ năo, và, trong trường hợp này, phàm nhân đă đồng-bộ sự thiền định của nó với sự thiền định của linh hồn.

Đây là mục tiêu hoạt động của chúng ta. Để điều này không bị lăng quên, và để cho mọi nỗ lực được thực hiện ngơ hầu đưa thể trí và bộ năo vào một t́nh trạng hoạt động sao cho một người có thể lướt ra khỏi sự thiền định riêng của ḿnh và (không c̣n thấy các tư tưởng của riêng ḿnh) trở thành linh hồn, chủ-thể tư-tưởng trong giới linh hồn.

Đó có lẽ là một tư tưởng mới đối với một số người là linh hồn đang tự sắp xếp cho sự nỗ lực, tái định hướng các sức mạnh của ḿnh, và đang chuẩn bị cho một sự thúc đẩy mới và mạnh mẽ, nhưng điều đó là thế. Mọi h́nh thức sự sống dưới ảnh hưởng của mănh lực tiến hóa, đi từ sự khởi đầu này đến sự khởi đầu khác, và linh hồn cũng không được miễn trừ đối với tŕnh tự này. Cũng như linh hồn của ngườithú bắt đầu hợp nhất với một nguyên khí thiêng liêng khác, và v́ thế mà giới thứ tư xuất hiện trong thiên nhiên, cũng vậy, linh hồn trong nhân loại đang t́m cách tiếp xúc với một trạng thái thiêng liêng khác. Khi sự tiếp xúc đó được thực hiện, Giới Thần Thánh (Kingdom of God) sẽ xuất hiện trên trái đất; cơi trần do đó sẽ được chuyển hóa, và giai đoạn đặc biệt đó, được đưa ra một cách biểu tượng dưới thuật ngữ thời đại hoàng kim (millennium), sẽ đến.