Họp Thông Thiên Học ngày 18 tháng 2 năm 2017

[6:01:07 PM] *** Group call ***
[6:06:36 PM] Thuan Thi Do: 228. Con đă hoà hợp tâm hồn con với sự đau khổ lớn lao của Nhân Loại chưa, hỡi Đệ Tử sắp vào trong ánh sáng?

229. Nếu con đă thực hiện rồi, con có thể vào. Tuy nhiên trước khi đặt chân trên con đường đau khổ, tốt hơn con nên biết trước những băi lầy của con đường đó.

Ở đây vẫn c̣n ư niệm về con đường đau khổ. Nhưng trên con đường nầy không có ǵ là đau khổ cả. Trong khi làm việc người ta cũng t́m thấy hạnh phúc lớn lao hơn hết bên cạnh sự cố gắng liên tục. Nhiều vị Huấn Sư đă nói về sự an vui nầy, với kết quả ấy mà đôi khi Đệ Tử của các Ngài gặp những khó khăn đầu tiên đă chán nản. Dĩ nhiên là Đức Aryasanga không hề muốn mê hoặc các Đệ Tử của Ngài, nên Ngài đă nhấn mạnh đến những nỗi khó khăn.

C̣n một giai đoạn khó khăn mà mọi người đều phải trải qua, nó tạo thành khoảng cách giữa hai sự xác thực. Trong thời kỳ đó nhiều người không c̣n chút thích thú nào đối với những sự vật Trần Gian. Nếu họ có tiền, có nhà tốt, quần áo đẹp chẳng hạn, th́ điều đó đối với họ cũng không mấy quan trọng. Nếu tiền của đến với họ, th́ đó là một trách nhiệm mà họ phải đảm nhận như một trách nhiệm nào khác, song họ cũng được thoả măn, nhu cầu của họ được bảo đảm, thế thôi. Dưới con mắt của họ, những đối tượng thấp kém không làm cho họ thích thú nữa, c̣n những đối tượng cao cả chỉ là vấn đề tin tưởng, chứ không phải kiến thức hay kinh nghiệm. Trong t́nh trạng đó, chắc chắn con người phải sống một cuộc đời buồn tẻ và đôi khi khốn khổ. Cuộc sống ấy có thể kéo dài lâu hay mau, hoặc c̣n tái diễn nhiều lần.

Trong khi mục đích cao cả xuất hiện một cách rơ ràng, tất cả đều thay đổi và hạnh phúc chiếu rực rỡ trên Đường Đạo. Huynh hăy xem Bà Hội Trưởng (Besant) của chúng ta; nếu Bà hy sinh cho mục đích Thế Gian tất cả th́ giờ và tài năng của Bà, chắc chắn Bà sẽ tự tạo cho Bà một địa vị sáng chói cùng mọi thứ khác; nhưng nếu Huynh thử hỏi xem Bà có vui ḷng bỏ công việc đă chọn để theo đuổi những tham vọng Trần Gian chăng, chắc chắn Bà sẽ trả lời: “Dĩ nhiên là không; tại sao tôi phải làm như thế. Không có ǵ có thể so sánh với hạnh phúc khi được phụng sự Đức Thầy.”

Không có cuộc sống Trần Tục nào có thể đem đến nhiều an lạc như đời sống của vị Đệ Tử, dù hoàn cảnh có thi vị đến đâu. Vị Đệ Tử từ bỏ tất cả mọi thứ chiếm hữu riêng tư, nhưng Y từ bỏ như thế để làm ǵ? Bên Ấn Độ thường xảy ra chuyện một nhân vật vĩ đại, có thể là một Cựu Thủ Tướng của một quốc gia độc lập, có nhiều uy thế, danh vọng và tài sản, rồi một ngày đẹp trời nào đó bỗng nhiên người từ bỏ tất cả mọi thứ ấy, đắp một mảnh y vàng rồi rời bỏ gia đ́nh không giữ lại bất cứ món ǵ. Sở dĩ quyết định như thế v́ ông hoàn toàn hiểu biết về hai lối sống và ông thấy rất rơ rằng đời sống bị từ bỏ sẽ ít an vui và lợi lạc hơn cuộc sống của một nhà ẩn tu hay vị tu sĩ khổ hạnh đi ta bà. Thường đó cũng là trường hợp của một nhân vật có địa vị cao, như một vị Hoàng Đế cuối cùng của nước Nga, lâm vào hoàn cảnh gần như không thể giúp ích ǵ được cho Nhân Loại. Người nào ở trong t́nh trạng như thế không có hy vọng bước vào con đường Huyền Bí Học. Tôi nhớ lại trường hợp của một Sinh Viên rất tiến bộ được phép lựa chọn: Hoặc là sống trong sự âm thầm vô danh hoặc vượt lên một địa vị cao siêu trong một những quốc gia lớn nhất trên Thế Giới. Ông đă chọn lối sống thứ hai và sau cùng trở nên một vị Thủ Tướng Anh Cát Lợi. Trong địa vị nầy ông đă bị kiệt quệ v́ thế lực và quyền lợi ích kỷ và bị Giáo Hội chống đối. Khuất phục trước trách nhiệm nặng nề, ông đành phải giải quyết vấn đề bằng đ̣n Chính Trị hoà giải. Mặc dù mục tiêu của ông là đem lại tự do cho dân tộc và củng cố Đế Quốc - và ông đă lựa chọn lối sống thứ nh́ - ông luôn luôn hối tiếc sự lựa chọn đó và đă chết trong sự thất vọng, tuy nhiên đó cũng là sự lựa chọn hoàn toàn vị tha.
[6:27:37 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/sach/GiangLyTiengNoiVoThinh.htm


[6:39:39 PM] Thuan Thi Do:
BA CỬA THỨ NHỨT

230. Vơ trang bằng ch́a khoá Bố Thí, Bác Ái và T́nh Thương dịu dàng, con có thể an tâm trước cửa Dana, cánh cửa dựng lên ở đầu Đường Đạo.

C.W.L.- Đức Aryasanga c̣n trở lại một lần nữa với bảy cánh Cửa Đạo. Theo Ngài chúng đánh dấu nhiều giai đoạn trên Đường Đạo, được nh́n từ quan điểm đặc biệt như những cái bẫy đầy nguy hiểm đối với người chí nguyện. Trong lúc đó Ngài chưa nghĩ đến việc thí sinh cần phải nhận lănh ánh sáng, sự khích lệ và sức mạnh. Người thí sinh tự nhớ lấy điều ấy là việc rất hay, nếu không, sự buồn thảm vô cùng chắc chắn sẽ hiện đến.

Như chúng tôi đă giải thích Dana không chỉ có nghĩa là bố thí tài vật thôi, cũng không phải là ḷng thiện cảm suông; Dana c̣n bao hàm sự hiến dâng vô giới hạn chính bản thân ḿnh cho công việc phụng sự Nhân Loại.

231. Hăy nh́n xem, hỡi kẻ hành hương hữu phước! Cánh cửa trước mặt con cao và rộng, dường như rất dễ đi vào. Con đường đi xuyên qua đó thẳng tấp, phẳng ĺ và xanh mướt như khoảng rừng thưa ngập nắng giữa một cánh rừng tối mịt, một điểm ở Thế Giới Cực Lạc của Phật A Di Đà phản chiếu xuống Trần Gian. Nơi đây, những con chim quyên của hy vọng, những con chim cánh lông rực rỡ cũng hót trong những lùm cây xanh tươi khúc ca chào mừng sự thành công của những người hành hương dũng cảm. Chúng ca hát năm hạnh của Vị Bồ Tát, năm ngọn suối của năng lực Bồ Đề, và bảy bước trên đường tri thức.

232. Con hăy bước qua! Con đă có ch́a khoá; con sẽ được an toàn.

Đoạn văn nầy mô tả quang cảnh tuyệt đẹp và đầy thi vị của Con Đường Đạo như đang hiện ra trước mắt kẻ hành hương hữu phước. Lúc đầu, y cảm thấy đầy vui tươi đẹp đẽ và dễ đi. Khi Thánh Grail hiện ra trước mắt chúng ta, rất dễ mà từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Nhưng chẳng bao lâu cái nh́n của chúng ta có thể bị phai mờ, sự phấn khởi đầu tiên rơi mất và chúng ta thấy chán nản. Bản tính con người lúc nào cũng khao khát sự thay đổi. Bạn hăy xem những kẻ t́m kiếm sự mới lạ; sự thích thú của họ tiêu tan rất mau, việc theo đuổi của họ trở nên buồn tẻ và sự chú ư của họ lại xoay qua hướng khác.

Khi t́m hiểu những kiếp sống của Alcyone, thường chúng ta thấy những sự tiến bộ diễn ra rất chậm, dù trong một loạt 20 hay 30 kiếp. Trong tập tài liệu về các kiếp sống, khi đă biết Y mang tên ǵ và biết rằng trong 50.000 năm trước Y vẫn gần giống như bây giờ, một người kia đă viết thư cho tôi: “Nếu người ta nói với tôi rằng trong 20.000 năm về trước tôi chỉ là một người dă man sống trong rừng, tôi không tin điều đó.” Tôi sẽ trả lời rằng: “Nếu 20.000 năm trước Anh là một người dă man sống trong rừng, có lẽ ngày nay Anh vẫn c̣n dă man.”

Nhưng khi con người có ḷng nhiệt thành với mục đích tinh thần, Y sẽ tiến bộ nhanh chóng. Nếu Y để cho nhiệt tâm của ḿnh suy giảm th́ thật đáng tiếc, nhưng trong khi Y tiến bộ chắc chắn là có cái ǵ đă dành sẵn cho Y trong kiếp nầy. Nếu thêm vào ư kiến tiến thủ của chúng ta, lại có những kiến thức rộng răi giúp chúng ta tiến tới, th́ các lợi thế nầy sẽ ngăn cản không cho chúng ta rơi lại phía sau.

Chúng ta phải luôn luôn cố gắng giữ vững ḷng nhiệt thành và đừng bao giờ để cho nỗi phiền muộn nhất thời cảm nhiễm đến chúng ta, sao cho chúng ta không bị lệ thuộc vào ảnh hưởng của Cơi Vật Chất và các Cơi Tâm Linh. Khi Bà Blavatsky qua đời, ḷng nhiệt thành của chúng tôi bị một sự thử thách thật lớn lao; khi Bà rời bỏ chúng tôi, tôi đă nhớ lại cách nó muốn thối lui. Bà có tài năng giữ ǵn sự hoạt động cho tất cả chúng tôi và sau khi Bà ra đi chúng tôi cảm thấy không c̣n năng lực nữa, mặc dù vài người trong chúng tôi có thể liên lạc trực tiếp với các Đấng Chơn Sư.
[7:09:46 PM] Thuan Thi Do: GLTVT 14 29:15



[7:10:59 PM] Thuan Thi Do: e. Bí huyệt cổ họng, một cách đặc biệt, là cơ quan của Linh Từ sáng tạo. Nó ghi nhận ư định hay mục tiêu sáng tạo của linh hồn, được truyền đạt cho nó bằng ḍng năng lượng đi vào từ bí huyệt ấn đường. Sự phối hợp của hai năng lượng xảy ra như thế sẽ đưa tới một số kiểu mẫu hoạt động sáng tạo. Đây là sự tương ứng cao hơn đối với tính sáng tạo của bí huyệt xương cùng. Trong bí huyệt đó, các năng lượng sáng tạo âm và dương được biểu hiện trong các cơ thể nam và nữ riêng biệt và đưa tới mối liên hệ trong tác động sáng tạo, được đảm nhận một cách hữu thức, dù rằng cho đến nay không có nhiều mục tiêu rơ rệt.
f. Thể hiện ra ngoài bằng vật chất trọng trược của bí huyệt này là tuyến giáp trạng. Tuyến này được xem như có tầm quan trọng tối thượng cho t́nh trạng khỏe mạnh của kẻ thường nhân ngày nay. Mục đích của nó là bảo vệ sức khỏe, quân b́nh hóa sự thăng bằng của cơ thể trong một số khía cạnh quan trọng của bản chất hồng trần, và nó tượng trưng cho Ngôi Ba, Ngôi Thông Tuệ, và có chất liệu thấm nhuần bằng trí tuệ. Trong thực tế, nó có liên hệ với Ngôi Thánh Thần hay là trạng thái thiêng liêng thứ ba khi biểu lộ, "phù tŕ" (như Thánh Kinh diễn tả), Đức Mẹ Mary Đồng Trinh. Các tuyến phó giáp trạng (parathyroids) là biểu tượng của Mary và Joseph và sự liên giao mà chúng nắm giữ đối với Ngôi Thánh Thần đang phù tŕ (overshadowing). Cuối cùng, nó sẽ được xác định rằng có một liên hệ sinh lư chặt chẽ xảy ra giữa tuyến giáp trạng với tuyến tùng quả, giữa các tuyến phó giáp trạng với hai thùy của tuyến yên, như vậy, đem lại một hệ thống liên kết duy nhất cho toàn thể vùng cổ họng và đầu.
155

g. Giống như đầu tượng trưng cho bản chất lưỡng nguyên chủ yếu của Thượng Đế biểu lộ, cũng thế bí huyệt cổ họng tượng trưng cho bản chất tam phân của biểu lộ thiêng liêng. Bản chất lưỡng phân xuất hiện, phối hợp và trộn lẫn trong đầu trong mối tương quan giữa hai bí huyệt và hai phản ảnh hồng trần trọng trược của chúng. Ba năng lượng vĩ đại vốn tác động trong hoạt động sáng tạo thiêng liêng được hợp nhất trong hoạt động bằng sự biểu lộ đầy đủ của năng lượng đang tuôn đổ qua bí huyệt cổ họng, qua bộ máy phát âm và hai lá phổi. Trong mối liên hệ này bạn có: Sự Sống hay Linh Khí (Breath), Thánh Ngữ hay Linh hồn, và bí huyệt cổ họng của Chất Liệu Nguyên Thủy đang hoạt động.
h. Hoa sen này của cổ họng, trong các giai đoạn đầu của cuộc tiến hóa, bị đảo ngược xuống, và các cánh của nó đạt đến hai vai và bao hàm hai lá phổi hay là các phần của chúng. Trong chu kỳ sống của linh hồn, nó tự đảo ngược một cách chậm chạp và các cánh của nó bấy giờ hướng về hai tai và gồm tủy sống kéo dài và tuyến động mạch cổ. Tuyến này có liên hệ chặt chẽ với tuyến giáp trạng hơn là hai tuyến khác trong đầu.
156

Như thế, điều hiển nhiên đối với bạn là làm thế nào toàn thể các vùng của cơ thể vật chất có thể đi vào vận hành linh hoạt và chính xác, có thể được bồi bổ sinh khí và được giữ ở t́nh trạng tốt và chính xác bằng hoạt động dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác của bí huyệt gần nhất với vùng của cơ thể đang được xem xét. Điều cũng hiển nhiên đối với bạn là sự khiếm khuyết và bệnh tật có thể là do sự không hoạt động của một bí huyệt.
4. Bí huyệt tim. Bí huyệt này nằm ở giữa hai bả vai và – trong thời đại này – là bí huyệt đang nhận được sự chú tâm nhiều nhất từ những Đấng có trách nhiệm về việc khai mở tâm thức nhân loại. Hỡi huynh đệ, có thể nói thật rằng sự khai mở nhanh chóng của hoa sen này là một trong các lư do giải thích tại sao chiến tranh thế giới không thể tránh khỏi. Theo một ư nghĩa khác, đó là một biến cố cần thiết (căn cứ vào tính ích kỷ mù quáng của đa số nhân loại) bởi v́ cần phế bỏ đi mọi h́nh thức cũ kỹ của cách cai trị, của tôn giáo và của đẳng cấp xă hội đă được cô đọng. Nhân loại ngày nay đă đạt đến một tŕnh độ hiểu biết tập thể và tương tác tập thể bằng một loại tâm linh sâu sắc, và các h́nh thức mới được đ̣i hỏi mà qua đó tinh thần mới mẻ này có thể tác động một cách thích hợp hơn.
a. Bí huyệt tim tương ứng với "tâm của mặt trời" và do đó với cội nguồn tâm linh của ánh sáng và t́nh thương.
157

b. Nó được khơi hoạt sau kỳ điểm đạo thứ hai. Lần điểm đạo đó đánh dấu sự hoàn thành tiến tŕnh mà nhờ đó bản chất xúc cảm (với tính chất dục vọng nổi bật của nó) được đặt dưới sự kiềm chế của linh hồn, và dục vọng của phàm ngă được chuyển hóa thành t́nh thương. Đó là cơ quan để phân phối năng lượng của Thánh Đoàn, tuôn đổ qua linh hồn vào bí huyệt tim của mọi kẻ t́m đạo, đệ tử và điểm đạo đồ; bằng cách này, năng lượng đó được làm cho khả dụng và đem lại hai kết quả:
1. Hoán cải nhân loại qua t́nh thương
2. Liên hệ được thiết lập một cách vững chăi giữa một nhân loại đang phát triển nhanh chóng với Thánh Đoàn. Bằng cách này, hai trung tâm vĩ đại của hành tinh – Thánh Đoàn và Nhân Loại – được đưa vào tiếp xúc và liên giao chặt chẽ.
Theo lời Thánh Kinh: "T́nh thương của Thượng Đế được rải khắp nơi" trong tâm nhân loại, c̣n năng lực bức xạ, có sức thu hút và đang biến đổi của nó th́ rất thiết yếu cho việc xây dựng lại thế gian và cho sự thiết lập trật tự mới trên thế giới. Về sự khai mở bí huyệt tim, và về mối liên giao sáng suốt của nhân loại với Thánh Đoàn, với sự đáp ứng tất nhiên của con người đối với năng lượng t́nh thương vào lúc này, mọi đệ tử được đ̣i hỏi phải suy tư và nghiền ngẫm, v́ "con người nghĩ trong ḷng như thế nào, th́ y trở nên như thế ấy". Việc suy tưởng trong ḷng chỉ có thể xảy ra đích thực khi năng lực trí tuệ được phát triển thích hợp và đă đạt đến một tŕnh độ khai mở khá cao. Cảm nghĩ (feeling) trong tâm thường bị lầm lộn với suy tư (thinking). Khả năng suy tư trong tâm là kết quả của tiến tŕnh chuyển hóa dục vọng thành t́nh thương trong nhiệm vụ nâng cao sức mạnh của huyệt đan điền vào bí huyệt tim.
[7:20:05 PM] Thuan Thi Do: của mọi kẻ t́m đạo, đệ tử và điểm đạo đồ; bằng cách này, năng lượng đó được làm cho khả dụng và đem lại hai kết quả:
1. Hoán cải nhân loại qua t́nh thương
2. Liên hệ được thiết lập một cách vững chăi giữa một nhân loại đang phát triển nhanh chóng với Thánh Đoàn. Bằng cách này, hai trung tâm vĩ đại của hành tinh – Thánh Đoàn và Nhân Loại – được đưa vào tiếp xúc và liên giao chặt chẽ.
Theo lời Thánh Kinh: "T́nh thương của Thượng Đế được rải khắp nơi" trong tâm nhân loại, c̣n năng lực bức xạ, có sức thu hút và đang biến đổi của nó th́ rất thiết yếu cho việc xây dựng lại thế gian và cho sự thiết lập trật tự mới trên thế giới. Về sự khai mở bí huyệt tim, và về mối liên giao sáng suốt của nhân loại với Thánh Đoàn, với sự đáp ứng tất nhiên của con người đối với năng lượng t́nh thương vào lúc này, mọi đệ tử được đ̣i hỏi phải suy tư và nghiền ngẫm, v́ "con người nghĩ trong ḷng như thế nào, th́ y trở nên như thế ấy". Việc suy tưởng trong ḷng chỉ có thể xảy ra đích thực khi năng lực trí tuệ được phát triển thích hợp và đă đạt đến một tŕnh độ khai mở khá cao. Cảm nghĩ (feeling) trong tâm thường bị lầm lộn với suy tư (thinking). Khả năng suy tư trong tâm là kết quả của tiến tŕnh chuyển hóa dục vọng thành t́nh thương trong nhiệm vụ nâng cao sức mạnh của huyệt đan điền vào bí huyệt tim. Việc suy tưởng trong tâm cũng là một trong các chỉ dẫn rằng trạng thái cao của bí huyệt tim, hoa sen 12 cánh được t́m thấy ở chính trung tâm của hoa sen ngàn cánh, đă đạt đến một mức độ hoạt động thực sự. Việc suy tư, với tư cách là kết quả của cảm nghĩ đúng đắn, lúc bây giờ được thay thế bằng sự nhạy cảm cá nhân. Nó cũng mang lại cho chúng ta các chỉ dẫn yếu ớt đầu tiên, của trạng thái hiện tồn vốn là đặc trưng của Chân Thần và vốn không thể được gọi là tâm thức – theo như chúng ta hiểu về thuật ngữ này.
[7:27:23 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/sach/TriBenhTronghuyenmon.htm
[7:32:44 PM] Thuan Thi Do: c. Bí huyệt tim trở nên có liên quan thiết yếu với phàm ngă khi tiến tŕnh chỉnh hợp với linh hồn được am hiểu. Tiến tŕnh này ngày nay được giảng dạy trong mọi trường phái huyền bí mới mẻ hơn và có uy tín hơn, và đă được nhấn mạnh trong Trường Arcane từ thuở ban đầu; chính cách đó (phân biệt bằng định hướng, định trí và tham thiền đúng) nó nối liền phàm ngă với linh hồn và như thế với Thánh Đoàn. Mối giao tiếp với Thánh Đoàn tự động xảy ra khi sự chỉnh hợp này tiếp diễn và sự tiếp xúc trực tiếp của linh hồn nhờ đó được thiết lập. Phàm ngă thức được thay thế bằng tập thể thức, và ḍng năng lượng đi vào của Thánh Đoàn noi theo như một hậu quả tự nhiên, v́ mọi linh hồn chỉ là các trạng thái của Thánh Đoàn. Chính mối liên giao được thiết lập này, với sự tương tác tiếp theo sau của nó (về từ điện và về bức xạ, đưa tới sự hủy diệt sau cùng của linh hồn thể khi mối liên lạc đạt tới tŕnh độ cao nhứt của sự nhận thức mạnh hơn.
d. Do đó, trong thể xác, Thánh Đoàn tác động qua bí huyệt đó; nó cũng là tác nhân hoạt động của linh hồn. Ở đây, khi dùng từ ngữ "linh hồn", không những tôi đề cập đến linh hồn cá biệt của con người mà cũng nói đến linh hồn của Hành Tinh Thượng Đế nữa, cả hai là kết quả của sự phối hợp của tinh thần và vật chất của trạng thái Cha và trạng thái Mẹ. Đây là một bí nhiệm lớn mà chỉ có cuộc điểm đạo mới có thể tiết lộ được.
e. Bí huyệt tim biểu lộ năng lượng bác ái. Ở đây; có thể nói rằng, sau cùng, khi antakarana đă được kiến tạo, ba trạng thể của Tam Thượng Thể Tinh thần, mỗi trạng thể sẽ t́m thấy một điểm tiếp xúc bên trong cơ cấu dĩ thái của điểm đạo đồ đang hoạt động trên cơi trần. Vị điểm đạo đồ giờ đây là một dung hợp của linh hồn và phàm ngă mà qua đó, sự sống tràn đầy của Chân Thần có thể tuôn đổ xuống.
159

1. Bí huyệt đầu trở nên điểm tiếp xúc cho ư chí tinh thần tức Atma.
2. Bí huyệt tim trở nên tác nhân cho ḷng bác ái tinh thần, tức Buddhi.
3. Bí huyệt cổ họng trở thành biểu hiện của Toàn Linh Trí, tức Manas.
Trong công tác của điểm đạo đồ, khi y thể hiện Thiên ư theo Thiên Cơ, bí huyệt ấn đường trở thành tác nhân hướng dẫn hay là nơi phân phối các năng lượng được phối hợp của Chân Ngă. Bí huyệt tim tương ứng với "lửa thái dương" bên trong thái dương hệ và có tính chất từ điện và tính chất phát xạ trong hoạt động. Đó là cơ quan của năng lượng vốn đem lại tính chất bao quát.
160

f. Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của nó là tuyến ức. Hiện nay, tuyến này chưa được biết đến nhiều, dù là nhiều điều cần được học hỏi khi kẻ nghiên cứu chấp nhận và thử nghiệm với các giả thuyết mà khoa huyền linh học đưa ra, và khi bí huyệt tim phát triển và tuyến ức được trở lại với hoạt động của người trưởng thành. Đến nay, trường hợp này chưa xảy ra. Bản chất của chất tiết ra của tuyến đó vẫn chưa được xác minh, c̣n các hiệu ứng của tuyến này đă được biết rơ theo khía cạnh tâm lư hơn là theo khía cạnh vật chất. Tâm lư học hiện đại, khi được kết hợp với y học, sẽ nhận thức ra rằng tuyến này khi quá năng động, sẽ tạo ra người tắc trách và phi luân lư. Khi nhân loại biết rơ bản chất của trách nhiệm, chúng ta sẽ có các dấu hiệu đầu tiên về sự chỉnh hợp của linh hồn, về phá ngă chấp (personality decentralisation) và về tập thể thức, và kế đó – song song với sự phát triển này – chúng ta sẽ thấy tuyến ức trở nên hoạt động chính xác. Hiện nay, sự mất quân b́nh chung của hệ thống nội tiết làm cản trở sự an toàn và sự vận hành đầy đủ của tuyến ức trong người trưởng thành. Cho đến nay, có một liên hệ chưa được hiểu rơ hiện hữu giữa tuyến tùng quả và tuyến ức, cũng như giữa cả hai tuyến này với bí huyệt ở chót xương sống. Khi Tam Thượng Thể Tinh Thần trở nên hoạt động qua trung gian phàm ngă, cả ba bí huyệt này và ba ngoại hiện của chúng sẽ tác động trong sự tổng hợp, chi phối và điều khiển toàn thể con người. Khi tuyến tùng quả quay trở lại với sự vận hành đầy đủ ở người trưởng thành (v́ đây không phải là trường hợp của người trưởng thành) ư-chí-hành-thiện thiêng liêng sẽ tự biểu lộ và thiên ư được đạt thành; tương tự như thế, khi tuyến ức trở nên linh hoạt ở người trưởng thành, thiện chí sẽ trở nên rơ ràng và thiên cơ sẽ bắt đầu được thể hiện. Đây là giai đoạn đầu tiên hướng về t́nh thương, các tương quan đúng của con người và sự yên b́nh. Thiện chí này đă xuất hiện trong thế giới ngày nay, cho thấy bí huyệt tim đang đi vào hoạt động, và chứng tỏ rằng bí huyệt tim ở trong đầu đang bắt đầu khai mở như là kết quả của hoạt động đang tăng trưởng của bí huyệt tim trên xương sống.
[7:48:35 PM] Thuan Thi Do: https://www.google.com/search?q=chakras&newwindow=1&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ved=0ahUKEwjw1obRn5vSAhXCjVQKHe4qDw0Q_AUICCgB&biw=1097&bih=543#imgrc=P78hKRodp0uiwM:
[7:59:27 PM] Thuan Thi Do: https://www.youtube.com/watch?v=ZtLkzg8bFgA&t=522s
[8:20:09 PM] Thuan Thi Do: http://news.zing.vn/nguoi-dan-ong-mu-di-xe-may-hang-tram-km-muu-sinh-post337537.html



[8:25:20 PM] Thuan Thi Do: Vả lại,
vốn không biết về các Bí pháp thực sự mà Huyền bí học tiết
lộ, từ đầu chí cuối ắt các nhà biểu tượng học và nhà Đông
phương học hiện đại chẳng thể thấy được ǵ ngoài trừ giai
đoạn cuối cùng này. Nếu bảo rằng cách thức sinh sôi nảy nở
này (nay trên Trái Đất đều như thế cả) chẳng qua chỉ là một
giai kỳ phù du, một phương tiện vật chất để cung ứng các
điều kiện sống và tạo ra các hiện tượng sống, và nếu bảo rằng
nó sẽ thay đổi theo Căn chủng (Root-Race) này và biến mất
theo Căn chủng tới, th́ họ sẽ cười cho rằng đó là một ư niệm
mê tín dị đoan, phản khoa học. Nhưng các nhà Huyền bí học
thông thái nhất đều khẳng định điều này, v́ họ đă biết quá rồi.
Thế giới sinh vật (tất cả đều sinh sản ra các chủng loại của
ḿnh) là một bằng chứng sống động của nhiều cách thức sinh
sản khác nhau trong cuộc tiến hóa của các giống người và
giống thú. Nhà thiên nhiên học phải trực nhận được chân lư
này, cho dù chưa chứng minh được nó. Với các lối tư tưởng
hiện nay th́ y làm sao được bây giờ! Các mốc cổ sử trong quá
khứ thật là ít ỏi và hiếm có, c̣n các khoa học gia lại lầm lẫn
các mốc mà họ đă vượt qua là các cột mốc của kỷ nguyên bé
nhỏ của chúng ta. Ngay cả cái gọi là “Lịch sử thế giới (?)”
cũng chỉ bao hàm một lănh vực nhỏ trong khoảng không gian
hầu như vô tận của các vùng c̣n chưa được thăm ḍ của Căn
chủng mới nhất tức là Căn chủng thứ Năm. V́ thế mọi cột
mốc mới, mọi h́nh tượng mới được t́m ra của quá khứ xa
xưa, đều được thêm vào kho kiến thức cũ, đều được thuyết
minh theo các đường lối giống như các quan niệm sẵn có,
chúng không có liên quan ǵ tới chu kỳ tư tưởng đặc biệt mà
h́nh tượng đặc thù này thuộc về. Nếu không thay đổi
phương pháp th́ làm sao mà Chân Lư có thể xuất lộ nổi !
[8:27:25 PM] hueloc nguyen nguyen: anh phuc oi cho H loc xin so phon viber hoac Facetime de tien lien lac
[8:27:27 PM] Thuan Thi Do: anh Hai coi lại cái loa
[8:27:36 PM] Thuan Thi Do: anh Văn đang nói chuyện mà
[8:29:25 PM] Thuan Thi Do: Anh Dong oi day la facebook của Phúc
[8:29:28 PM] Thuan Thi Do: https://www.facebook.com/kdanguyen
[8:29:41 PM] hueloc nguyen nguyen: ok tks
[8:45:10 PM] Thuan Thi Do: V́ thế, lúc mới bắt đầu cùng nhau tồn tại như là một
h́nh tượng của Đấng Bất Diệt, Cây và Rắn đều thật sự là các
h́nh tượng thiêng liêng. Các Cây lại mọc ngược, nó bắt rễ ở
trên Thiên Đàng và lớn lên từ Cội Nguồn Vô Thuỷ của Toàn
Hiện (the Rootless Root of All-Being). Thân nó cứ lớn lên,
băng qua các cảnh giới thiêng liêng, các cành lá sum sê, cứ
tua tủa trổ ra, trước hết là trên cảnh giới vật chất ít bị biến
phân, măi tới khi nó xuống tới cơi trần. Trong Chí Tôn Ca có
nói rằng Cây Trường Sinh Ashvattha (chỉ cần diệt được nó là
bất tử), mọc ngược, rễ ở trên, cành lại ở dưới.(1) Rễ tiêu biểu
cho Đấng Tối Cao (the Supreme Being), tức Nguyên Nhân
Bản Sơ (First Cause), THƯỢNG ĐẾ (the LOGOS); nhưng
người ta phải giải thoát các rễ cây để hợp nhất với Krihna.
Arjuna cho rằng Krishna c̣n “vĩ đại hơn Brahman và
Nguyên Nhân Bản Sơ …kim cang bất hoại (indestructible),
hiện tồn, chẳng hiện tồn và c̣n hơn nữa”.(2) Các cành của nó
chính là Kim Noăn (Hiranyagarbha) (theo Shrĩdhara Svămin
và Madhusũdana, đó là biểu lộ cao siêu nhất của Brahmă hay
Brahman) các Thiền Định Đế Quân (Dhyăn Chohans) tức các
Thiên Thần cao cả nhất. Bộ kinh Vedas là các lá cây. Kẻ nào
vượt thoát khỏi các rễ cây sẽ chẳng bao giờ trở lại nữa, tức là sẽ
không có tái sinh luân hồi trong “Thời kỳ” của Brahmă.
Chỉ khi nào mà các cành tinh khiết của nó đă bị dính
bùn thế tục của vườn Địa Đàng vào thời Căn chủng thứ Nhất,
th́ cây này mới nhiễm trược và mất đi sự tinh khiết ban đầu;
bấy giờ Con Rắn Vĩnh Cửu tức Thượng Đế sinh trên Thiên
Giới mới rốt cuộc bị bại hoại. Ngày xưa, vào thời các Triều đại
thiêng liêng trên Trần Thế, con vật ḅ sát (mà ai cũng sợ) được
1 Diễn từ xv, v 1, 2.
2 Diễn từ xi, v. 37.
123
225
Sự tôn thờ cây, rắn và cá sấu
coi như là chùm tia sáng đầu tiên xạ ra từ vực thẳm Bí nhiệm
thiêng liêng. Người ta đă khoác cho nó nhiều h́nh thức khác
nhau và đă thích ứng nhiều biểu tượng tự nhiên cho nó, khi
nó băng qua vô lượng thời. Từ chính Thời gian Vô cực (Kăla),
nó lọt vào trong không gian và thời gian phát xuất từ sự suy
đoán của con người. Các h́nh thức này có tính chất vũ trụ và
thiên văn, hữu thần và phiếm thần, trừu tượng và cụ thể. Đến
lượt chúng lại trở thành cḥm sao Thiên Long ở Cực (the
Polar Dragon) và cḥm sao Chữ Thập ở phía Nam (the
Southern Cross), Alpha Draconis của Kim tự tháp và Long
Thần của các Phật Tử Ấn Độ (the Hindu-Buddhist Dragon),
nó luôn luôn đe doạ, song chẳng bao giờ nuốt chửng Mặt
Trời vào những kỳ nhật thực. Cho tới lúc đó, Cây Trường
Sinh vẫn xanh tươi măi v́ người ta rải Sinh Thuỷ (the Water
of Life) lên nó, Đại Long (the great Dragon) vẫn c̣n thiêng
liêng măi, chừng nào người ta vẫn c̣n giữ được nó ở trong
phạm vi của các tinh tú hoạt trường (the sidereal fields).
Nhưng Cây Trường sinh cứ lớn lên măi đến khi rốt cuộc các
cành thấp của nó chạm tới vùng địa ngục – tức Trần gian. Bấy
giờ Đại Xà Nidhogg – nó đang ngấu nghiến xác chết của
những kẻ ác ở trong “Pḥng Địa Ngục” (“Hall of Misery”)
(kiếp nhân sinh), ngay khi họ bị nhúng vào vạc dầu sôi
“Hwergelmir” (các thị dục của con người) – mới gặm nhấm
Cây Thế gian (World-Tree) mọc ngược. Các con sâu vật chất
lúc nhúc ở trên các rễ cây lành mạnh, rồi cứ leo cao măi lên
trên thân cây. Trong khi đó, Con Rắn Midgard (the Midgard-
Snake) đang nằm cuộn ở dưới đáy biển quấn lấy Địa Cầu,
phà hơi độc làm cho Trái Đất nhũn ra không có sức đề kháng.
Theo ẩn dụ, Rồng, Rắn thời xưa đều có bảy đầu – “mỗi đầu
tương ứng với một Giống dân, mỗi đầu có bảy sợi tóc”. Từ
Ananta (from Ananta), Con Rắn Vĩnh Cửu cơng (carries)
[8:55:44 PM] Thuan Thi Do: GLBN 225
[9:18:14 PM] TrúcLâm: Xin được phép dự thính
[9:32:28 PM] Thuan Thi Do: October 2010
THE REMARKABLE HEALING POWERS OF COL. HENRY STEEL OLCOTT
Theosophical historians remember Col. Henry Steel Olcott for his capable administrative and
executive abilities. During the formative years of the Theosophical Society, his organizational
skills proved to be invaluable. But there was another more mysterious side to Colonel Olcott
that is sometimes overlooked. In addition to his executive skills, he possessed an amazing
ability to heal the sick and did so on numerous occasions.
The second volume of Olcott’s Old Diary Leaves describes a number of such instances, which
took place during 1882 – 1883. Olcott had been familiar with the phenomenon of mesmeric
healing for over thirty years but had never done more than dabble with it. While traveling in
Ceylon (now Sri Lanka) during August 1882, he began exercising his latent power of healing
with astonishing results. After having had some initial success curing dozens of patients
with limb paralysis, he noted, “With the rapid growth of confidence in myself, my magnetic
power multiplied itself enormously, and what I had needed days to accomplish with a
patient, at the commencement, could now be done within a half hour.”
Being a matter-of-fact person, Colonel Olcott also described the nuisance factor which
accompanied these miraculous healings. “Within a week or so my house was besieged by
sick persons from dawn until late at night, all clamoring for the laying on of my hands. They
grew so importunate at last that I was at my wit’s end how to dispose of them . . . They
would besiege me in my bedroom before I was dressed, dog my every step, give me no time
for meals, and keep pressing me, no matter how tired and exhausted I might be.”
Henry Steel Olcott was a man who could take minor inconveniences in stride without losing
his greater sense of purpose. He demonstrated this over and over again, and we could all
take a lesson from him in this regard. Throughout his many years of service to the
Theosophical Society, his one overriding motivation was to serve the Masters of Wisdom and
through them, humanity.

David P. Bruce is the National Secretary of the Theosophical Society in America.
[9:56:47 PM] Thuan Thi Do: http://nangluongcuocsong.com.vn/ReadMessage.php?news=214&boy=15&it8x=27&title=Than-nhan---Khai-mo-Than-nhan.html#.WKkzVFUrKUk