Họp Thông Thiên Học ngày 11 tháng 3 năm 2017

http://thongthienhoc.net/sach/GiangLyTiengNoiVoThinh.htm

Không ai nghĩ đến việc chối bỏ sự khác biệt lớn lao về giai cấp, nhưng mỗi người cần phải có cơ hội tốt để vươn lên về mặt xă hội cũng như đạo đức, tuỳ theo khả năng ḿnh. Dĩ nhiên, trong một thời gian ngắn người ta không thể thay đổi địa vị của hàng triệu người. Người ta không thể nâng hạng người Panchama lên địa vị người Bà La Môn, nhưng luôn luôn vẫn có thể chứng tỏ  ḷng ưu ái và sự quan tâm đặc biệt đối với những người nầy, và giúp đỡ tất cả những người mà chúng ta có thể giúp đỡ.

           243. Nếu con không muốn bị chúng hại con, th́ những ǵ do con tạo ra, con cũng phải làm cho chúng trở nên vô hại, những đứa con của tư tưởng con, tuy vô h́nh, không sờ mó được, nhưng chúng vẫn quây quần cả bầy chung quanh Nhân Loại, chúng là con cháu và là những kẻ kế thừa của con người và là di hài của họ để lại dưới Thế Gian. Con phải nghiên cứu sự trống rỗng của cái dường như đầy đủ, và sự đầy đủ của cái dường như trống rỗng.

            Sự đầy đủ của cái dường như trống rỗng là một lối diễn tả đầy ư nghĩa. Trước hết người ta nghĩ đến chất Koilon, chất Dĩ Thái trong Không Gian. Quan niệm chung cho rằng Không Gian trống rỗng, nhưng sự thật nó chứa đầy Chất Khí mà tỷ trọng hầu như không thể tưởng tượng nỗi. Đó là Chất, bề ngoài tuy đặc, nhưng “trống rỗng,” Chất có thể thấy được, trong thực tế gồm những lỗ trong Chất Khí thật, được thổi phồng thành bọt trong Koilon. Như một Nhà Bác Học Pháp mới đây đă nói: “Không phải vật chất nữa, mà chỉ là những lỗ trong Chất Dĩ Thái.” Tiếng nói tối hậu của Khoa Học liên hệ đến Chất Dĩ Thái trong Không Gian cho rằng tỷ trọng của nó lớn bằng 10.000 lần tỷ trọng của nước và khoảng 500 lần lớn hơn kim loại nặng nhất; thật không thể tưởng tượng được Chất ǵ nặng hơn nữa.

            Người Ấn Độ nói về nguồn gốc của vật chất hay Mulaprakriti, mà tôi tưởng chất Koilon là một h́nh thức đông đặc lại. Họ nói rằng khi Đức Thượng Đế thị hiện chính Ngài cũng khác Đấng Tuyệt Đối, và khi nh́n lại sau về phía Đấng Tuyệt Đối, th́ không thấy Ngài nữa, v́ có một tấm màn bao phủ Ngài và tấm màn đó là Mulaprakriti. Trong “Bộ Giáo Lư Bí Truyền” Bà Blavatsky trưng dẫn lời của Đức T. Subba Row về vấn đề nầy như sau:

            “Vừa khi Ngài [nghĩa là Đức Thượng Đế  < . . . sự biểu hiện đầu tiên hay trạng thái của Đấng Tối Đại Phạn Vương (Parabraman)>] bắt đầu sống có ư thức, … theo quan điểm khách quan của Ngài, th́ Đấng Parabraman hiện ra cho Ngài thấy như là Mulaprakriti. Tôi xin bạn hăy nhớ kỹ điều nầy . . . v́ nguyên nhân của tất cả những sự khó khăn về vấn đề Purusha và Prakriti mà nhiều Tác Giả khi luận giải về Triết Lư Phệ Đà đă gặp phải . . . Mulaprakriti đó là vật chất đối với Ngài (the Logos), cũng như một vật bằng vật chất đối với chúng ta. Mulaprakriti đó cũng chưa phải là Parabraman, mà sự kết hợp của những đặc tính tượng trưng cho một cây trụ lại không phải chính là cây trụ đó. Parabraman là một thực tại vô điều kiện và tuyệt đối, c̣n Mulaprakriti là một thứ màn phủ lên đó. Chính Parabraman không thể thấy được như Ngài đang hiện hữu. Đức Thượng Đế đă thấy được Ngài qua một tấm màn bao phủ lên Ngài, và tấm màn đó như đại dương mênh mông của vật chất trong Vũ Trụ ...”

            Đức Thượng Đế được đề cập ở đây là Đức Thượng Đế của Vũ Trụ chúng ta gồm hàng triệu Thái Dương Hệ - chứ không phải Đức Thượng Đế của một Thái Dương Hệ duy nhất. Chính hơi thở của Ngài đă thấm vào vật chất nguyên thuỷ tạo thành những cái lỗ trong không gian để sinh ra Vũ Trụ. Mười bốn ngàn triệu bọt đó tạo thành một hạt nguyên tử Hồng Trần, và 18 hạt nguyên tử đó tạo thành một nguyên tử Khinh Khí, là nguyên tố nhẹ nhất trong các nguyên tố Hoá Học.

            Vậy đây là một sự thật mà tất cả những ǵ chúng ta cho là vật chất, tựu trung chỉ là những lỗ trong vật chất thật sự. Áp lực của vật chất nguyên thuỷ đó mỗi Pouce nặng đến cả mấy triệu tấn. Nếu chúng ta phá huỷ được áp lực đó, chúng ta có thể sử dụng năng lực kỳ diệu ấy làm sức phát động; chúng ta có thể dùng năng lực của Đức Thượng Đế sẵn có ở hạt nguyên tử chống lại áp lực vĩ đại đó. Nhưng năng lực đầu tiên có thể dùng được là năng lực do sự phân tán hạt nguyên tử Hồng Trần cung cấp.

            Sự đầy đủ của cái trống rỗng bề ngoài và sự trống rỗng của cái đầy đủ bên ngoài có thể nghiên cứu được nhờ những kinh nghiệm khác biệt thông thường. Tư tưởng của những người khác và những sinh linh khác đều tràn đầy trong không gian. Như trong Bộ “Thế Giới Huyền Bí’ đă nói:

            “Mỗi tư tưởng do con người phát ra đều đi vào thế giới bên trong và trở thành một thực thể linh động bằng cách kết hợp, bám chặt - nếu chúng ta có thể nói như thế - vào Tinh  Linh, nghĩa là một trong những mănh lực bán tiến hoá (semi-intelligent) của thế giới vô h́nh. Nó tồn tại như một trí khôn linh hoạt - tạo vật do Cái Trí sinh ra – trong một thời gian lâu hay mau tuỳ theo cường độ tác động đầu tiên của bộ óc sản xuất ra nó.”

            Người ta có thể tham thiền trong một gian pḥng trống không, hoặc trong một gian pḥng có nhiều người khác. Trong trường hợp thứ hai, gian pḥng có thể trống rỗng đối với chúng ta, v́ những người đó không làm rộn chúng ta nhiều. Tuy nhiên trong trường hợp thứ nhứt, gian pḥng có thể chứa đầy sự hiện diện và ảnh hưởng của những sức mạnh vô h́nh bị lôi cuốn đến đó do sự tham thiền và bề ngoài chúng ta chỉ có một ḿnh nên họ cố gắng trút đổ thần lực của họ xuống cho chúng ta.

[6:13:59 PM] Thuan Thi Do: Trong nhiều trường hợp khác của cuộc sống, cũng có nhiều sự việc tương tự như thế. Nhiều biến cố bề ngoài xem ra rất quan trọng, đă xảy ra, nhưng lại không đụng chạm đến chúng ta, trái lại, một sự kiện nhỏ nhặt lại có thể phương hại đến toàn thể cuộc sống của chúng ta. Một người thân của chúng ta qua đời hay sản nghiệp của chúng ta bị tiêu tan, chúng ta cho là quan trọng cho đến nỗi khi mới xảy ra chúng ta nghĩ là nó sẽ luôn luôn ảnh hưởng đến suốt đời ḿnh, nhưng sau cùng sự việc lại khác hẳn. Tôi đă gặp kinh nghiệm đó. Khi c̣n là thanh niên, năm 1866 tôi bị mất một số tiền khá to trong cuộc thất bại lớn về tài chánh. Trong thời kỳ đó, biến cố xảy ra có vẻ trầm trọng đối với tôi; tuy nhiên sự kiện đó không làm tôi đau khổ. Nhưng sự gặp gỡ bất ngờ với một người đă nói cho tôi biết về Bà Blavatsky lại gieo một ảnh hưởng quan trọng trong cuộc đời tôi. Sự gặp gỡ nầy dường như t́nh cờ, nhưng nó được tính toán và sắp đặt trước, trong cái trống không bề ngoài thật sự là đầy đủ tất cả.

Một thí dụ khác: Một buổi sáng Chúa Nhật, trong khi tôi đang đàm thoại cùng vài Huynh Đệ Thông Thiên Học tại Adyar, một vị Thiên Thần đi ngang qua đă ghé lại tôi. Ngài chỉ cho tôi biết vài cách thức trong buổi đầu của Giống Dân Chánh Thứ Sáu các vị Thiên Thần sẽ dùng Tôn Giáo ảnh hưởng đến con người như thế nào. Trong lúc đó tôi chỉ thấy đây là một hành động tốt của một người bạn qua đường, ngày nay tôi tin chắc rằng đó chính là sự lợi lạc lớn lao hơn những hậu quả của sự hiểu biết. Như thế việc ấy đă tiết lộ nhiều chi tiết về bước đầu của Giống Dân mới. Những sự sưu tầm về vấn đề nầy đă được dùng làm nền tảng cho Phần thứ Hai của quyển sách “Con Người: Từ đâu đến và đi về đâu.” Sau đó ít lâu, những sự sưu tầm của Bà Annie Besant và tôi được thu thập lại để làm thành Phần thứ Nhứt của tác phẩm đó. Sự quan sát cộng đồng trong tương lai cho thấy rằng kỷ niệm Bà Bác Sĩ Besant sẽ sống măi nhờ quyển sách nầy. Khi tất cả những tác phẩm trước của Bà đều bị lảng quên, nhưng tác phẩm căn bản mà lịch sử sẽ giữ ǵn như kư ức vẫn c̣n phải viết thêm.

Hỡi thí sinh dũng cảm, hăy xem kỹ tận đáy ḷng sâu thẳm của con và hăy trả lời. Con có biết những quyền năng của Chơn Ngă chăng, hỡi kẻ đă nhận thấy bóng tối của bên ngoài?

Sự tinh khiết có một giá trị rất lớn lao, nhưng vẫn chưa đầy đủ. Trẻ con rất tinh khiết v́ nó chưa biết điều lành và điều ác. Kiến thức cũng cần thiết để giúp chúng ta hành động, và ư chí cũng thế, nó biến đổi kiến thức ấy thành ra hành động. Thú vật tinh khiết hơn con người; nhưng thảo mộc c̣n tinh khiết hơn nữa. Chúng không có tưởng tượng đă đẩy con người đi t́m thú vui vật chất và bất chấp hay không chịu nh́n nhận những Định Luật Thiên Nhiên. Tuy nhiên, con người phải trải qua kinh nghiệm vật chất để thu hoạch kiến thức và sau đó lại trở về với Nguồn Cội Thiêng Liêng mà Y đă đi xuống từ đó hầu t́m lại sự khiết bạch đầu tiên của ḿnh. Con người phát sinh từ Đức Thượng Đế như một Đám Mây Thiêng Liêng, nhưng khi trở về với Ngài Y đă trở thành một Nhân Vật Thiêng Liêng có những quyền năng nhất định.

Con người khi dấn thân trên Đường Đạo đều nhận biết ḿnh là một Nhân Vật Thiêng Liêng; Y thoát khỏi ảnh hưởng của Cơi tối tăm. Thực tại tối tăm ấy chỉ tương đối và có lúc phải biến mất so với thực thể của đời sống nội tại là sân trường của kinh nghiệm có ư thức, vô cùng rộng lớn hơn sự kích thích do sự đụng chạm của những sự vật bên ngoài gây ra. Con người cứ cho rằng những bóng tối có thật, tuyệt đối thật, c̣n thật hơn tất cả những thứ khác và cứ tưởng như thế trong không biết bao nhiêu kiếp Luân Hồi dài đăng đẳng. Nhưng mọi điều nầy đều cần thiết, v́ không có sức thu hút của chúng, không bao giờ con người tỉnh ngộ, không bao giờ Y chịu chú ư, không bao giờ Y học hỏi được cái ǵ.

244. Nếu con chưa biết, con sẽ lâm nguy.

245. Bởi v́ trên đường thứ tư, ngọn gió thoảng nhẹ của nhiệt vọng hoặc tham dục cũng sẽ làm lay chuyển ánh sáng yên tịnh trên vách và tinh anh của Linh Hồn. Làn sóng nhỏ li ti nhất của nguyện vọng hay luyến tiếc đối với danh lợi hảo huyền của Ma Vương cũng làm gợn sóng Antahkarana - con đường nối liền Tinh Thần với Bản Ngă của con, đại lộ của những cảm giác, sự kích thích khó chịu của Ahamkara - mọi tư tưởng dù nhanh như chớp cũng sẽ làm cho con mất hết ba phần thưởng mà con đă nhận được.

Ở đây Đức Aryasanga đề cập đến đức tính Vairagya (Từ Bỏ hay Đoạn Tuyệt), Ngài nói, khi hành giả muốn hoạch đắc đức tính Vairagya một cách hoàn toàn mà c̣n để ư một chút đến những đối tượng hấp dẫn hay chỉ mảy may ham muốn thụ hưởng đối tượng ấy, th́ Y liền rơi ngay vào trạng thái của hạng người vọng động. Điều nầy gợi lên sự so sánh Linh Hồn như mặt nước hồ trong suốt trên núi cao, được mô tả trong Phần thứ Hai. Bây giờ Ngài lại so sánh Linh Hồn như ngọn đèn để diễn tả sự cố định, mà chúng ta phải đạt đến. Một tư tưởng bất ngờ hiện ra cũng đủ ném chúng ta ra phía sau; thật thế, nhưng chúng ta nên nhớ rằng đây là một tư tưởng của chính ḿnh. Như tôi đă giải thích, nếu đó chỉ là phản ảnh tư tưởng của kẻ khác, một h́nh tư tưởng vởn vơ nào đó làm chúng ta chú ư đến nhưng không thích hợp, th́ sự tinh khiết, sự an tịnh và tính đoạn tuyệt của chúng ta sẽ không bị vẩn đục.

Nhiều người xuất chúng đôi khi cũng bị những tư tưởng trôi giạt gây khốn khổ. Họ có cảm tưởng là người nào có những ư tưởng như thế ắt phải thật hung dữ. Nhưng nếu họ tránh đừng tiếp nhận chúng, không dung dưỡng, không tăng cường chúng và sau đó đừng phân phát chúng ra, giúp thêm nọc độc cho chúng, th́ những người đó quả thật không phạm lỗi nào. Có thể chúng ta không ư thức đến một tư tưởng xấu hay bất tịnh, nếu nó không gặp một nguyên lư tương tự như thế ở chúng ta, nhưng điều đó có nghĩa là chúng ta chưa được hoàn toàn. Nếu có một tư tưởng thuộc loại ấy đi qua Cái Trí của một Vị Chơn Tiên, Ngài cũng không để ư đến nó, nhưng nếu nó vây quanh Ngài quá nhiều, có thể Ngài cảm thấy cần phải đuổi nó như người ta đuổi ruồi, muỗi vậy. Như..
 
[6:45:47 PM] Thuan Thi Do:
Ở đây Antahkarana được gọi là đại lộ của giác quan; đó là phương tiện huyền bí để những đối tượng vật chất kích thích tâm thức; đó cũng là con kinh nối liền đối tượng và chủ thể; nhờ con kinh đó, mà một đối tượng chạm đến giác quan được biểu lộ thành một cảm giác trong tâm thức. Một cảm giác hay tri giác trực tiếp như thế c̣n linh động hơn tất cả những sự mô tả bằng ngôn từ. Nghe thấy, cảm nhận một vật sẽ cho chúng ta một cảm thức về thực tại ấy cao hơn cảm thức đạt được bằng cách chỉ nghĩ đến nó. Đó là lư do tại sao tri giác bằng Thần Nhăn ở các Cơi khác có giá trị hơn những sự mô tả mà chúng ta có thể nghe được và tại sao các tác phẩm Yoga nói về tất cả những chứng cớ của người khác, về những ư kiến của họ đối với những sự vật mà người chí nguyện chưa từng thấy, nên Y phải thay thế nó bằng chính sự tri giác trực tiếp của Y, chỉ có việc đó mới cho Y thấy sự thật rơ ràng.

Những cảm giác ở đây được gọi là những kích thích khó chịu của Ahamkara. Aham nghĩa là “Tôi” và Kara là “Làm”; vậy Ahamkara có nghĩa là “Kẻ tạo ra Cái Tôi.” Sự linh hoạt của chính kinh nghiệm trực tiếp nầy tạo ra sự linh động t́nh cảm của cuộc sống của chúng ta. Và, v́ sự hoạt động nầy tái diễn măi trên mọi tŕnh độ, nên nó tăng cường Phàm Nhơn hăo huyền bao lâu con người c̣n sống trên Thế Gian. Khi con người đă cương quyết dấn thân trên Đường Đạo và ảo ảnh của Phàm Nhơn đă hoàn toàn tan ră, nó mới chịu nhắc đến Chơn Ngă, Atma, ư chí trong con người Tinh Thần.

Trong Phần thứ Nhứt chúng ta đă nghiên cứu h́nh thức cao cả nầy của Ahamkara mà Triết Học Ấn Độ thường đề cập đến.

246. Bởi v́, con nên hiểu, Đấng Vĩnh Cửu không biết đến sự thay đổi.

Tóm lại, chúng ta phải chấp nhận hy sinh Tiểu Ngă cho Đại Ngă. Người ta không thể đem theo những sự nghiệp Thế Gian lên Cơi Trời. Những quy luật và những điều kiện của Cơi cao siêu không bao giờ biến đổi để ch́u theo sự ham muốn của bất cứ một người chí nguyện nào.

247. Con hăy vĩnh viễn dứt bỏ tám thứ khổ ách. Nếu không chắc chắn con sẽ không thể đạt được Minh Triết và sự giải thoát, đó là lời dạy của Đức Thế Tôn, Đấng Như Lai toàn thiện, Đấng đă theo dấu các bậc tiền bối của Ngài.

Tám thứ khổ ách đó là: Tà tâm, lănh đạm, kiêu hănh, nghi ngờ, ham muốn, ảo tưởng, vô minh và những kiếp lai sinh. Sự khổ năo cuối cùng ấy ban đầu có vẻ kỳ dị, nhưng nó có nghĩa hiển nhiên như thế: Đời sống trên Thế Gian nầy là một sự đau khổ so với những ǵ chúng ta được thụ hưỏng trên các Cơi cao.

Danh hiệu Như Lai được dịch ở đây là “Đấng đă theo dấu các bậc tiền bối.” Ở Tích Lan người ta cho chúng tôi biết nghĩa của danh từ ấy là “Đấng được biệt phái đi”; nghĩa là một nhân vật do Quần Tiên Hội phái xuống Trần như một Sứ Giả. Do đó lịch sử Điểm Đạo trong các truyền thống của nhiều dân tộc khác nhau đều ít sai biệt, nhất là dưới h́nh thức của cái mà người ta gọi là Thần Thoại về Ngôi Mặt Trời.

248. Hạnh Vairagya rất nghiêm khắc và đúng mực. Nếu con muốn được bảo đảm trên con đường của ḿnh, con phải giữ ǵn tinh thần và tri giác của con trong sạch hơn trước, đối với mọi hành động tệ hại.

249. Con phải thấm nhuần Alaya tinh khiết hợp thành một với Tư Tưởng Linh Hồn của vạn vật. Nếu con hợp nhất với nó, th́ không ǵ có thể thắng con được; nếu con chia ĺa với nó, con sẽ là sân chơi tự do của Samvriti, là nguồn gốc của tất cả ảo mộng ở đời.
[6:53:05 PM] Thuan Thi Do: Sau đây là một chú thích dài về danh từ Samvriti:

Samvriti là một trong hai Chân Lư thuyết minh tính chất ảo mộng hay trống không của mọi vật. Đó là một Chân Lư tương đối trong trường hợp nầy. Phái Đại Thừa có dạy sự dị biệt giữa hai thứ Chân Lư đó – Paramarthasatya và Samvritisatya (Satya, Chân Lư). Đó là chỗ tranh chấp giữa Phái Madhyamikas (Trung Quán) và Phái Yogacharyas (Duy Thức), Phái thứ nhứt phủ nhận và Phái thứ nh́ cho rằng mọi vật hiện hữu nhờ một nguyên nhân trước hay là do sự duyên sinh liên tục. Phái Madhyamikas chủ trương sự hư vô và phủ nhận, đối với Tông Phái nầy tất cả đều là Parikalpita, là một ảo ảnh và một sự lầm lạc trong thế giới tư tưởng và trong vũ trụ chủ quan cũng như khách quan. Phái Yogacharyas là Học Thuyết Duy Tâm. Vậy Samvriti về mặt Chân Lư tương đối là nguồn gốc sinh ra ảo tưởng.

Đây là tính phân biện, đức tính đầu thuộc về bốn đức tính bắt buộc phải có, nó luôn luôn giúp chúng ta phận biện sự chân thật với sự tương đối mà đôi khi chúng ta gọi là sự giả (the unreal). Mỗi khi nh́n xuyên qua cái giả, chúng ta sẽ thấy sự thật, điều nầy rất dễ thực hiện lại, v́ cái mà chúng ta nhận là sự thật, chính là Đức Thượng Đế ở trong ḷng chúng ta. Chân lư nầy càng hiển lộ, chúng ta càng dễ nhận ra cứu cánh của nó trong mọi vật và sự sống của nó trong đồng loại của chúng ta.

Alaya tinh khiết vừa ở trong chúng ta và vừa ở sau Thần Trí Thiêng Liêng hiện diện trong khắp Thiên Nhiên. Những người có Thần Nhăn trong các Tôn Giáo đều nhận biết được nó. Tôi xin nêu ra câu châm ngôn của nhà thông thái Hồi Giáo mà nhiều người đều biết: “La ilaha illa’llah,” câu nầy không có nghĩa là “Không có Thượng Đế nào khác hơn Thượng Đế nữa” như người ta thường dịch, mà có nghĩa là “Chỉ có Đức Thượng Đế hiện hữu.” Ông giải thích cho tôi nghe, trong tiếng Á Rập, đối với người theo nghĩa từng chữ có thể hiểu nghĩa thứ nhứt, nhưng nghĩa thứ hai là ư nghĩa Huyền Bí, được mật truyền cho Tín Đồ. Đó là sự tŕnh bày chủ nghĩa Nhất Thần một cách đúng đắn. Không thể có nhiều Thượng Đế, mà chỉ có một Đức Thượng Đế duy nhất xứng đáng với danh hiệu ấy và sự tôn thờ của chúng ta. Nếu sự giải thích theo Bí Truyền đó đúng, nó sẽ hợp thành một sợi dây liên lạc mật thiết với Ấn Độ Giáo là một Tôn Giáo nói về “Đấng Độc Nhất vô nhị,” Đấng Độc Nhất vừa có cái hữu (being) và cái vô (non-being) trong đó.
[7:05:39 PM] Thuan Thi Do: GLTVT 15; 30:38


http://thongthienhoc.net/sach/TriBenhTronghuyenmon.htm
[7:07:54 PM] Thuan Thi Do: d. Đan điền là huyệt ở trong thể dĩ thái, nhờ đó nhân loại (người thường, người chưa được khai ngộ) sống, hoạt động và hiện tồn. Nhân loại bị chi phối bởi ước muốn – ước muốn tốt lành, ước muốn ích kỷ, ước muốn sai lầm và ước muốn tinh thần. Đó là bí huyệt mà qua đó hầu hết các năng lượng lưu chuyển làm cho con người tiến bộ v́ y có tham vọng, ích kỷ v́ các ước muốn cá nhân của con người đều quan trọng, và hay thay đổi v́ lẽ được an trụ về mặt cảm dục. Nhờ nó mà "ánh sáng rực rỡ phát sinh trong thời Atlantis" được tuôn vào, và ánh sáng cảm dục được tiếp xúc. Đó là bí huyệt mà hầu hết các phương tiện tác động qua đó và những kẻ có nhăn thông hoạt động nhờ đó. Về sau, những kẻ này sẽ học cách tác động như là những kẻ trung gian, một cách hữu thức và một cách sáng suốt, bằng cách dùng các năng lực của họ; họ sẽ có được tri giác rơ rệt và tri giác này sẽ thay thế cho nhăn thông. Lúc bấy giờ, họ sẽ an trụ vào huyệt ấn đường. V́ vậy cho nên đó là một bí huyệt xáo trộn nhất trong cơ thể và là một nguyên nhân cơ bản của đa số các bệnh bao tử và các rối loạn liên hệ tới gan. Toàn thể vùng nằm ngay dưới cách mô thường xuyên ở trạng thái xáo trộn, nơi mà kẻ thường nhân có liên quan đến; điều này do bởi các nguyên nhân riêng và nguyên nhân chung.
Ở đây, thật là lư thú mà ghi nhớ rằng cũng như huyệt ấn đường (tổng hợp các sức mạnh phàm ngă, khi được phát triển cao độ) là một tác nhân hướng dẫn và phân phối lớn, cũng thế, huyệt đan điền (tổng hợp của các năng lượng phàm ngă đă phát triển của thường nhân, có trước tiến tŕnh hợp nhất), là một trung tâm gom góp, qui tụ tất cả các năng lượng thấp và sau rốt là một tụ điểm cho phương hướng và sự phân phối các năng lượng tổng hợp này – trao lại cho chúng các bí huyệt có khả năng tiếp nhận cao của chúng:
1. Các năng lượng của huyệt đan điền chính nó phải được hướng vào bí huyệt tim.
173

2. Các năng lượng của bí huyệt xương cùng phải được chuyển vào bí huyệt cổ họng.
3. Các năng lượng của bí huyệt ở chót xương sống phải được chuyển vào bí huyệt đầu. Sau cuộc điểm đạo thứ ba, các năng lượng cơ bản này được nâng lên, kiềm chế hay là phân phối bằng một tác động của ư chí của Tam Thượng Thể Tinh Thần. Bấy giờ "ánh sáng phát sinh vào thời Lemuria" (ánh sáng của bí huyệt xương cùng), và "ánh sáng phát sinh vào thời Atlantis" (ánh sáng của huyệt đan điền) sẽ tàn tạ, và hai bí huyệt này sẽ đơn thuần là nơi tiếp nhận các năng lượng tinh thần từ trên cao. Chúng sẽ không có ánh sáng trực tiếp, cố hữu của riêng chúng; ánh sáng mà chúng sẽ truyền đi sẽ đến với chúng từ các nguồn tổng hợp trên các cơi dĩ thái.
[7:12:20 PM] Thuan Thi Do: Ngoại hiện bằng vật chất trọng trược của bí huyệt này là tụy tạng, với một ngoại hiện phụ ở trong bao tử. Trong mối liên hệ với huyệt đan điền, có một liên hệ kỳ thú vốn được tượng trưng cả trong h́nh thức và trong hàm ư. Các bạn có:

174

Ở đây lại nảy sinh chủ đề về bí huyệt của sức mạnh tinh thần (v́ lực cảm dục về bản chất là sức mạnh tinh thần) và ba biểu hiện của nó. Tất cả ba ngoại hiện trọng trược này được cung cấp và bảo dưỡng bằng thần lực và năng lượng của huyệt đan điền. Ở đây, tôi xin nêu ra một sự kiện rất quan trọng cho những kẻ có hứng thú trong việc nghiên cứu y học theo khía cạnh huyền bí: khi được đánh giá một cách đúng đắn, nó sẽ đưa đến việc hiểu biết về thuật chữa trị. Kiềm chế huyệt đan điền và tiếp nhận và phóng rải đúng lúc các năng lượng được tập trung trong bí huyệt đó, sẽ mang lại một sự thanh lọc chủ yếu, một sự tăng cường mạnh mẽ và một che chở thiết yếu đối với ba cơ quan rất quan trọng nằm trong lĩnh vực của bộ máy hồng trần của con người.
Như tôi đă nêu ra trước kia, bí huyệt này là một cơ quan tổng hợp và qui tụ vào chính nó mọi năng lượng thấp ở một mức độ nào đó trong phát triển cao siêu của con người. Sự thật, đó là một khí cụ (khi được hiểu đúng và điều khiển đúng) sẽ giúp vào việc hội nhập của sự sống phàm ngă. Vấn đề chính của người đă phát triển cao nhưng chưa có khuynh hướng tinh thần là vấn đề dục vọng. Các mục tiêu của y là ǵ? Các mục đích của y được hướng đến ǵ? Bản chất các hoài băo đă được hiểu rơ của y là ǵ? Y mong mỏi những ǵ? Tùy theo bản chất của các sức mạnh và các năng lượng mà cuộc sống tư tưởng của y mang lại cho huyệt đan điền, thế nên, quyết tâm của y để tiến tới theo con đường ánh sáng, để giữ vững mức duy ngă, hay để chọn đường lối thấp vốn sẽ dẫn đến việc giũ sạch ánh sáng của linh hồn.
Như chúng ta đă thấy, các cánh hoa của huyệt đan điền hướng lên đến bí huyệt tim. Trong thực tế, điều này có nghĩa là năng lượng xúc cảm, dục vọng và tham vọng (mà toàn thể nhân loại đều có) đang nỗ lực hướng về con đường cao cả.
175

Ở đây, cần ghi nhớ rằng việc chuyển di năng lượng ở huyệt đan điền tự nó là bổn phận của tất cả những người t́m đạo tiến vào Con Đường Đệ Tử vào thời điểm đặc biệt này, cộng với sự khơi hoạt từ từ của bí huyệt tim. Các thành viên đầu tiên của gia đ́nh nhân loại muốn trở nên có tập thể thức, dĩ nhiên là những người t́m đạo và các đệ tử, và những người này dẫn đầu cho nhân loại c̣n lại. Họ đạt được điều này bằng áp lực của chính sự sống và của hoàn cảnh chung quanh, chứ không phải bằng việc noi theo các qui luật đă đặt ra hay lối thiền định đặc biệt nào. Sau này, trước khi có một cuộc điểm đạo chủ yếu nào đó, các qui luật và các biện pháp như thế có thể được áp dụng để mang lại cho điểm đạo đồ sự kiềm chế hữu thức và tức khắc khắp thể cảm dục và tụ điểm của nó để tiến vào thể xác, huyệt đan điền, và lần nữa, vào lúc mà các sự chuyển di chính yếu được thực hiện một cách hữu thức. Trong các chuyển di này có ba loại có tầm quan trọng hàng đầu:
1. Từ ba bí huyệt dưới cách mô đi vào tim, cổ họng và bí huyệt ấn đường.
2. Từ hai bí huyệt trên cách mô – bí huyệt tim và bí huyệt cổ họng – vào bí huyệt ấn đường và hoa sen ngh́n cánh ở trên đầu.
3. Từ bí huyệt ấn đường vào bí huyệt đầu, có nghĩa là sự hợp nhất hoàn toàn của mọi năng lượng khắp toàn bộ thể dĩ thái, vào tụ điểm trung ương duy nhất để phân phối – dưới sự kiểm soát trực tiếp của Tam Thượng Thể Tinh Thần.
[7:28:48 PM] Thuan Thi Do: Các tiến tŕnh liên quan đến ba kinh nghiệm lớn này (mỗi kinh nghiệm được đi trước bằng nhiều thử thách và thực nghiệm) dĩ nhiên là đặt một căng thẳng trên thể xác và là nguyên nhân của nhiều trong số các bệnh mà các đệ tử phải kế thừa.
176

Thí dụ, điều hiển nhiên đối với bạn là sự chuyển di của mọi năng lượng tích tụ trong huyệt đan điền đi vào bí huyệt tim sẽ gây ra khó khăn rất thường có bản chất trầm trọng; đây là lư do giải thích tại sao ngày nay rất nhiều người tiến hóa, lại chết v́ bệnh tim. Trong chu kỳ dài của sự sống và kinh nghiệm của linh hồn, đây chỉ là một thời gian tương đối nhỏ; trong chu kỳ ngắn của đời sống cá biệt của đệ tử, đó là một khó khăn lớn và thường là bi thảm. Tương tự, việc chuyển di năng lượng của năm bí huyệt trên xương sống vào các bí huyệt đầu sẽ mang theo nó các vấn đề riêng của nó. Việc kích thích huyệt ấn đường bằng sự tập trung các năng lượng này có thể đưa đến các vấn đề tâm lư tai hại. Một người có thể trở thành một người cực kỳ ích kỷ (ego-maniac) tạm thời (tất cả chỉ là tạm thời trong cuộc sống trường cửu của linh hồn !) và trở thành một quái vật của loài người như Hitler và những kẻ khác cùng loại như ông ta mặc dầu ở mức độ thấp hơn; có thể cũng có các t́nh trạng động kinh dữ dội, hay là thị lực có thể bị tác động và người ấy trở nên mù ḷa. Tất cả các điểm này biện minh cho ư tưởng cẩn thận.
6. Bí huyệt xương cùng. Bí huyệt này nằm ở phần dưới vùng thắt lưng và là một bí huyệt rất mạnh, đang kiểm soát đời sống tính dục. Một trong các điều lư thú về bí huyệt này đó là nó vẫn luôn luôn là một bí huyệt mạnh cho đến khi hai phần ba nhân loại được điểm đạo, v́ tiến tŕnh sinh sản phải tiếp tục và vẫn hoạt động để cung cấp thể xác cho các linh hồn mới đến. Nhưng khi nhân loại tiến hóa, bí huyệt này sẽ được kiềm chế và các hoạt động của họ sẽ được xúc tiến một cách sáng suốt do hiểu biết sâu rộng và do các tiếp xúc cao siêu hơn và tinh tế hơn, chứ không phải do dục vọng không giới hạn và thiếu kiềm chế, như trường hợp hiện nay. Tôi không thể quảng diễn thêm về vấn đề này v́ chủ đề quá rộng lớn. Tuy nhiên, tôi có thể làm cho bạn chú ư những ǵ tôi đă viết và gợi ư rằng kẻ nào đó với sự quan tâm và theo thời gian sẽ gom góp tất cả những điều tôi đă nói trong tất cả các sách của tôi liên quan đến vấn đề phái tính để cho một tập sách nhỏ về đề tài này có thể được biên soạn.
a. Bí huyệt xương cùng tương ứng với mặt trời hồng trần, tức nguồn sinh lực và là tác nhân ban phát sự sống trên hành tinh ta.
177

b. Cách h́nh tượng hóa của bí huyệt xương cùng có liên quan trước tiên với thai kỳ trước khi sinh, và sự hiểu biết đúng về nó có thể được truy nguyên và khai triển rộng ra toàn thể câu chuyện về sự hoài thai, về sự kiến tạo h́nh hài và dù đó là h́nh hài vật chất của một người, dạng thức của một ư tưởng, một hệ thống được tạo ra chung quanh một chân lư trung ương, dạng thức của một hành tinh hay của một thái dương hệ. Có lẽ trên mọi điều khác, bí huyệt mà nhờ đó các mănh lực của Vô Ngă sau rốt phải tự biểu lộ, và toàn bộ vấn đề nhị nguyên phải được giải quyết. Giải pháp và cách giải thích biểu tượng phải xuất phát từ lănh vực trí tuệ, nhờ đó việc kiềm chế phản ứng xác thân và dồn hết th́ giờ vào các mục tiêu chớ không phải với dục vọng. Hăy suy gẫm về điều này. Khi đă hiểu rơ như vậy, bấy giờ, chúng ta sẽ đạt tới tŕnh độ mà sự chuyển di lớn sẽ có thể xảy ra vào bí huyệt sáng tạo cao hơn, tức bí huyệt cổ họng.
[7:35:17 PM] Thuan Thi Do: c. Do đó, bí huyệt xương cùng có liên quan chặt chẽ với vật chất, và có một ḍng năng lượng giữa ba điểm trong phần dưới của cơ thể:
1. Lá lách, cơ quan của prana hay là của sự sống vật chất, xuất phát từ thái dương.
2. Bí huyệt xương cùng, tác nhân sắp xếp hướng về sự sinh sản vật chất.
3. Bí huyệt ở chót xương sống mà (cho đến khi trạng thái ư chí xuất phát trong con người) nuôi dưỡng nguyên khí ban phát sự sống,ư-chí-muốn-sống, đến khắp các phần của cơ thể.
Các điểm này tạo ra một tam giác lực vĩ đại, liên quan đến vật chất, đến chất liệu nguyên thủy, tạo h́nh, sáng tạo, sức sống và sự bền vững trong h́nh hài. Tam giác này là phản ánh của một tam giác c̣n cao hơn, gồm có:
1. Bí huyệt cổ họng, tương ứng với bí huyệt xương cùng.
178

2. Tuyến yên, tương ứng với bí huyệt lá lách.
3. Tuyến tùng quả tương ứng với bí huyệt căn bản.
Trong sự liên quan của hai tam giác này có ẩn manh mối đối với bản năng tự bảo toàn, sự tồn tại của các thể tinh anh sau khi chết, và nguyên khí bất tử được đặt trong linh hồn và tác động khi sự tự bảo toàn và sự sống c̣n không c̣n chế ngự nữa. Điều này tạo thành một bộ ba về ư tưởng, cần phải nghiên cứu một cách thật cẩn thận và – tôi tạm diễn tả như thế – đem lại bí quyết cho hoạt động tâm linh.
d. Cuối cùng, bí huyệt xương cùng cũng liên kết với bí huyệt ấn đường. Cả hai cùng tạo thành một nhị nguyên hoạt động vốn tạo ra tính chất tinh anh mà chúng ta gọi là phẩm cách (personality). Có một lănh vực t́m ṭi rộng lớn trong chủ đề phẩm cách với vai tṛ một tổng thể phối kết và trong tính chất của phàm ngă, vốn là hương vị, ảnh hưởng, hiệu quả và bức xạ của phàm ngă. Tôi nêu ra các ư tưởng này cho các đạo sinh, hy vọng rằng một số điều t́m kiếm có thể noi theo vốn sẽ liên kết vấn đề các bí huyệt với các sự kiện được nhận thức về sự kết hợp, hội nhập và các hiệu quả của chúng trong việc tạo ra sự vĩ đại.
Đối với các bạn nào có nghiên cứu Giáo Lư Bí Nhiệm, có nhiều điều cần khai mở liên quan tới mối liên hệ của các "Nguyệt Tinh Quân", tức Barishad Pitris, đối với Thái Dương Thiên Thần. Lănh vực tác động của Nguyệt tinh quân là bí huyệt xương cùng; lănh vực hoạt động của Thái Dương Thiên Thần là bí huyệt cổ họng.
179

e. Bí huyệt xương cùng thể hiện năng lượng thuộc Ngôi Ba của Thượng Đế, cũng như bí huyệt đan điền thể hiện năng lượng Ngôi Hai và bí huyệt căn bản thể hiện năng lượng Ngôi Một. Ở đây, bạn lại có các bí huyệt thấp đang phản chiếu là bí huyệt cổ họng, tim và đầu và như thế bổ sung cho biểu lộ cao và thấp của Ba Ngôi thiêng liêng trong con người. Vào thời Lemuria cổ xưa, bí huyệt này được khơi hoạt và hoạt động đầy đủ trong giống dân thứ nhất; năng lượng của nó là năng lượng của Chúa Thánh Thần, đang che chở chất liệu nguyên trạng (virgin substance). Ở đây, chúng ta lại cũng thấy một phản ảnh thiêng liêng khác như sau:
[7:41:41 PM] Thuan Thi Do:


Sau cùng, trong Lưỡng Tính Thiêng Liêng (xuất hiện sau này) bạn sẽ có một phối hợp khác:


Hỡi huynh đệ, bạn lại sẽ chú ư làm thế nào mà khoa học về các tam giác đang chế ngự cấu trúc con người dưới mọi trạng thái của nó, cũng như cấu trúc của thái dương hệ. Điều này đang được mong đợi.
180

f. Ngoại hiện của thể xác trọng trược của bí huyệt này nằm trong các tuyến sinh dục, các cơ quan sinh sản của con người – khi xét chúng như là đơn vị căn bản, dù là tạm thời tách biệt trong biểu lộ lưỡng phân hiện tại của con người. Cần phải nhớ rằng sự phân ly này nuôi dưỡng xung lực mạnh mẽ hướng về sự dung hợp, và sự thôi thúc để phối hợp này, chúng ta gọi là dục tính. Thực ra, dục tính là bản năng hướng về sự hợp nhất: trước nhất là hợp nhất thể xác. Đó là nguyên lư bẩm sinh (dù cho có nhiều hiểu sai) của thần bí học, vốn là danh xưng mà chúng ta gán cho sự thôi thúc để hợp nhất với thiêng liêng. Giống như mọi cái khác mà người kém phát triển đă tiếp xúc, chúng ta đă làm sai lệch méo mó thiên ư và coi thường sự thúc đẩy vô h́nh đối với ước muốn vật chất. Chúng ta đă đảo ngược chiều hướng của năng lượng ở bí huyệt xương cùng đưa đến bản chất thú tính quá phát triển và các chức năng của nhân loại bậc trung.
Có nhiều điều cần thiết mà tôi có thể thêm vào ở trên, nhưng đề tài đ̣i hỏi nhiều phân tích cẩn thận, làm sáng tỏ và diễn tả mà thời gian không cho phép, nếu không, sự thăng bằng được tạo ra của bộ luận này sẽ không c̣n nữa.
181

Cũng có một ít điều mà tôi có thể nói liên quan đến bí huyệt chót xương sống. Tuy nhiên, trước hết, tôi đề cập đến chi tiết nào có kết quả hay có thể được, tôi muốn nêu ra sơ đồ trên trang 162 (Anh văn – ND) mô tả tŕnh độ tiến hóa của một đệ tử chứ không phải của một điểm đạo đồ đă tiến hóa cao. Nó cũng không mô tả một người tầm thường bậc trung. Điều này được nêu ra do sự kiện là phản ảnh của bí huyệt tim trong đầu đang xoay lên để đáp ứng với hoạt động tăng lên của chính bí huyệt tim, và rằng định nghĩa của bí huyệt ấn đường th́ rơ ràng và chính xác, chứng tỏ một phàm ngă hội nhập, phối kết. Do đó, đây không phải là sơ đồ các bí huyệt của người b́nh thường hay chưa phát triển. Đối với các sơ đồ như thế, không thể làm ǵ nhiều hơn là đưa ra một số điểm hoàn thiện, nhưng cần nhớ rằng các điểm hoàn thiện này không phải là các thành tựu không thay đổi mà mỗi một thành tựu đó đă được đi trước bằng các giai đoạn và thời kỳ hoạt động vốn tạo ra các kết quả luôn thay đổi và là các trạng thái không ổn định của các bí huyệt; đến lượt chúng, các trạng thái này được nối tiếp bằng các chu kỳ hoạt động khác, với thay đổi và với việc phóng rải năng lượng đă được đổi mới. Hậu quả của các nguyên nhân ẩn sâu trong chính chúng trở thành các lư do, v́ trong chu kỳ biểu lộ, không có ǵ tĩnh tại hoặc cố định hoặc sau rốt được xác định cả. Đây là một điểm cực kỳ quan trọng. Do đó, đừng nên để bị đánh lừa bởi những thời điểm thành đạt bề ngoài. Chúng chỉ là các mở đầu để thay đổi, v́ đó là Định Luật Tồn Tại.



[8:28:33 PM] Thuan Thi Do: Thoạt đầu vốn được xem là đồng nghĩa với Thiên
Nhiên, tức “Thượng Đế”, Đấng Tạo Hoá, sau này lại biến
thành một Đấng sáng tạo ra nó. Pascal giải quyết vấn đề nan
giải này một cách rất tài t́nh bằng cách nói như sau:
Thiên nhiên có những điều hoàn mỹ để chứng tỏ rằng ḿnh
là h́nh ảnh của Thượng Đế, Thiên Nhiên cũng có những điều
khiếm khuyết để chứng tỏ rằng ḿnh là h́nh ảnh duy nhất của
Ngài.
1 Sáng Thế Kư. Vi, 2.
Giáo Lư Bí Nhiệm
238
Càng ngược ḍng quá khứ trở lại thời kỳ tiền sử bao nhiêu
th́ Quỷ Vương, sau này mới xuất hiện, lại càng có h́nh dáng
nguyên kiểu đầy ư nghĩa triết học bấy nhiêu. “Đối thủ”
(“Adversary”) đầu tiên với h́nh hài cá nhân hiện diện trong
Thánh kinh Purănas chính là một trong các Thánh Triết
(Rishis) và các đạo sĩ Yaga lỗi lạc nhất – đó là Nărada với biệt
hiệu là “Kẻ Phá-thối” (“Strife-maker”).
Y chính là con của Brahmă, Đấng trượng phu (the male)
Chúng ta sẽ xét đến y sau. Muốn biết “Kẻ đại dối gạt” (the
great “Deceiver”) thực sự là ai, chúng ta chỉ cần khách quan,
vô tư t́m kiếm tông tích y trong mọi vũ trụ khởi nguyên luận
và mọi Thánh kinh cổ.
Khi được xét tách riêng khỏi Đại Đoàn các Đấng Sáng
Tạo, (có thể nói rằng Ngài là đại biểu và tổng hợp của các
Đấng này) Ngài chính là hoá công nhân h́nh, Đấng Sáng Tạo
ra Trời và Đất. Ngài chính là Thượng Đế trong các Thần học
hiện nay. “Có muốn th́ mới suy nghĩ”. Thỉnh thoảng một biểu
tượng triết học lại bị phó mặc cho thiên hạ thêm hoang tưởng
lệch lạc; sau đó, nó biến thành một Thượng Đế quỷ quái, lừa
phỉnh, xảo quyệt và ghen tuông.
V́ rải rác trong tác phẩm này đều có mô tả các Con
Rồng và các Thiên Thần Sa Đoạ khác, nên chỉ nói như thế về
Quỷ Vương (vốn bị nói xấu rất nhiều) cũng đă đủ rồi. Môn
sinh nên nhớ rằng đến nay, đối với mọi người, ngoại trừ các
quốc gia theo Thiên Chúa giáo, Ma Quỷ (Devil) đâu có ǵ là
tồi tệ hơn trạng thái đối nghịch trong bản chất lưỡng phân
của cái gọi là Đấng Sáng Tạo. Điều này cũng tự nhiên thôi.
Người ta không thể xem Thượng Đế như là tổng hợp của
toàn thể Vũ Trụ, Toàn Hiện (Omnipresent), Toàn tri và Vô
Cực (Omniscient and Infinite), và rồi lại cách ly Ngài với điều
131
239
Ma Quỷ là mặt trái của Thượng Đế
Ác. V́ trên thế giới, Ác vượt xa Thiện, nên hệ quả hợp lư là
Thượng Đế hoặc phải bao hàm cả Ác, hoặc Ngài phải trực
tiếp sinh ra nó; nếu không chẳng hoá ra là Tuyệt Đối chịu tự
nhận như vậy sao? Người xưa hiểu rất rơ điều này đến nỗi
mà các triết gia của họ (nay lại đến các tín đồ Do Thái Bí giáo
nối gót) đă định nghĩa Ác như là “lớp vải lót” (“lining”) của
Thiện hay Thượng Đế. Ma Quỷ là mặt trái của Thượng Đế là
một ngạn ngữ rất xưa. Thật vậy, Ác chẳng qua chỉ là một
kháng lực mù quáng trong Thiên Nhiên, đó là sức phản động,
đối kháng, tương phản – xấu đối với người này, nhưng lại tốt
đối với người kia. Chẳng có ǵ là tuyệt đối ác, mà chỉ có Bóng
Ánh Sáng (Shadow of Light); không có nó, Ánh Sáng chẳng
tồn tại được ngay cả trong tri giác của chúng ta. Nếu Ác biến
mất, th́ Thiện cũng sẽ chẳng c̣n trên trần thế. “Con Rồng
Cũ” (“Old Dragon”) chính là Tinh Thần thuần tuư trước khi
biến thành Vật Chất, thụ động trước khi trở thành chủ động.
Trong Pháp thuật Syro-Chaldea cả Ophis lẫn Ophiomorphos
đều được liên kết với cung Hoàng Đạo bán thư bán hùng Xử
Nữ Hổ Cáp (the Androgyne Virgo-Scorpio). Trước khi đoạ thế,
“Thần Xà” chính là Ophis-Christos, sau khi đoạ thế, nó trở lại
thành Ophiomorphos-CHRESTOS. Đâu đâu, các tín đồ Do Thái
Bí giáo cũng thuyết lư, xem Ác như là THẦN LỰC (FORCE) đối
lập nhưng đồng thời lại cốt yếu đối với Thiện, v́ Ác cùng tồn
tại với Thiện nên không có Ác th́ chẳng có Thiện. Nếu không
có Tử th́ làm sao có Sinh (theo nghĩa hăo huyền); nếu không
có huỷ diệt th́ làm sao có phục sinh và tái tạo. Nếu trời cứ
nắng măi th́ cây cối ắt sẽ tàn úa hết; cũng vậy, con người sẽ
trở thành người máy nếu không có tự do ư chí. Nếu y chẳng
có ǵ ngoại trừ ánh sáng, th́ dù cho y có khao khát ánh nắng
này đến đâu đi nữa nó cũng trở thành chẳng có giá trị ǵ đối
với y. Thiện chỉ có tính chất vô cực và vĩnh cửu chừng nào
Giáo Lư Bí Nhiệm
mà nó c̣n luôn luôn ẩn tàng đối với chúng ta, v́ thế, chúng
ta mới tưởng rằng nó thật là vĩnh cửu. Trên các cảnh giới biểu
lộ, cái này cân bằng với cái kia. Chẳng có mấy kẻ hữu thần,
tin tưởng vào Thượng Đế nhân h́nh, mà lại không biến Quỷ
Vương thành h́nh bóng của Thượng Đế. Chẳng có mấy kẻ
nào lẫn lộn Quỷ Vương với Thượng Đế mà lại không tin rằng
ḿnh có quyền cầu nguyện với thần tượng, xin nó phù hộ để
được miễn tội cho hành động làm ác của họ. Hằng ngày,
hàng triệu con tim của các tín đồ Thiên Chúa giáo cứ khấn
nguyện với “Cha trên Trời” chứ không phải Ma Quỷ như
sau: “Xin đừng đưa chúng con vào ṿng mê ảo.” Họ lặp lại
từng lời thốt ra từ miệng của Đấng Cứu Thế, song họ chẳng
thèm đoái hoài đến sự kiện là nó có ư nghĩa mâu thuẫn với
lời của James, “huynh đệ của Chúa” như sau:
Khi bị quyến rũ, con người đừng nói rằng, ta bị Thượng Đế
quyến rũ, v́ Thượng Đế không thể bị điều ác mê hoặc, và Ngài
cũng chẳng dụ dỗ bất cứ người nào. (1)
[8:29:15 PM] Thuan Thi Do:
Vậy th́, tại sao cứ nói rằng chính Ma Quỷ quyến rũ
chúng ta, trong khi mà dựa vào uy quyền của Đức Christ, Giáo
hội cứ dạy rằng chính Thượng Đế mới làm như vậy? Cứ mở
bất cứ quyển kinh nào ra (trong đó người ta định nghĩa từ
ngữ “quyến rũ” theo ư nghĩa thần học), chúng ta sẽ thấy ngay
hai định nghĩa:
(1) Các đau thương và phiền muộn mà Thượng Đế dùng
để thử thách các con dân của Ngài.
(2) Các phương tiện và các mồi nhử mà Ma Quỷ dùng để
dụ dỗ và quyến rũ nhân loại.
1 James. I, 13.
132
241
 
[9:33:14 PM] Thuan Thi Do: kỳ sau học trang 241