Họp Thông Thiên Học qua Skype ngày 11 tháng 7 năm 2015

Xin bấm vào đây để download âm thanh

[7/11/2015 6:08:42 PM] *** Group call ***
[7/11/2015 6:20:52 PM] Thuan Thi Do: Ảo Cảm, Một Vấn Đề Thế Giới
 

Bạn không thể thấy bằng cách nào mà năng lực để nghiên cứu, để giải thích, để hiểu thấu ư nghĩa này sẽ thúc đẩy cho bạn tăng trưởng về mặt tâm linh sao? Bạn có thể nào tin rằng nhờ dùng phương pháp này mà bạn có thể học được cách làm việc một cách sáng suốt hơn với Thiên Cơ và trở thành kẻ trợ giúp hữu hiệu hơn cho huynh đệ của bạn không?

Có điều ǵ trong cơi biểu lộ này mà không phải là biểu tượng không thích hợp của Thiên Ư? Chúng ta có được điều ǵ trong biểu hiện bên ngoài của chúng ta ngoại trừ dấu hiệu có thể thấy được (ở một giai đoạn nào đó trong mục tiêu tiến hóa) của cơ Sáng Tạo của Đấng Tối Cao? Chính bạn là ǵ, nếu không là biểu lộ ngoại tại của Thiên Ư? Chúng ta phải học cách thấy các biểu tượng ở khắp nơi chung quanh chúng ta và kế đó xuyên qua sau biểu tượng đến tận ư tưởng mà nó sẽ diễn đạt.

Tuy nhiên có một kỹ thuật nghiên cứu có thể giúp ích cho bạn khi bạn cố gắng đạt đến một ư tưởng và như vậy nghiên cứu về mặt khái niệm nhiều biểu tượng đang bao quanh chúng ta. Đó là phần lớn kỹ thuật mà nhờ đó sự thiền định sẽ phải chuẩn bị cho bạn. Sự khác nhau giữa kỹ thuật này với việc thiền định phần lớn là sự khác nhau giữa sự an trụ với mục tiêu. Khi nghiên cứu các biểu tượng về mặt khái niệm, tâm thức được an trụ vào thể trí và không một cố gắng nào được tạo ra rơ rệt để tiếp xúc hoặc lôi cuốn linh hồn hay chân ngă. Ở đây có ẩn sự phân biệt giữa giai đoạn thứ hai này khi giải thích biểu tượng, với sự thiền định thông thường. Bạn đă tận dụng phương pháp để làm cho chính ḿnh quen với khía cạnh h́nh thể của biểu tượng và bạn biết 14 rơ nơi tiếp giáp và hiển lộ ra ngoài của nó. Bạn cũng biết rơ   rằng một chuỗi đường nét đặc biệt (thí dụ như là ba đường tạo thành một tam giác) tượng trưng cho một ư tưởng hay chân lư hay giáo huấn nào đó. Điều này ghi nhận trong trí óc bạn, nhờ đến các tháo vát của kư ức bạn. Việc ghi nhận thông tin và kiến thức cổ xưa liên quan đến các con số trong một biểu tượng dùng để đưa tâm thức bạn vượt lên đến cơi trí và tập trung nó ở đó trong thế giới ư niệm hay là thế giới khái niệm. Các khái niệm này đă đang có sẵn trên các phân cảnh giới cụ thể của cơi trí. Đó là di sản thuộc trí tuệ và chủng tộc của bạn và là các h́nh tư tưởng xưa cũ mà giờ đây bạn có thể sử dụng để đạt tới ư nghĩa và ẩn ư.

Đó là một phát biểu xưa cũ diễn đạt một sự thật mà hiền giả Plutarch  đưa ra cho chúng ta bằng các lời lẽ quen thuộc: “Một ư niệm là một Thực Thể vô h́nh (a Being incorporeal), chính nó không tồn tại nhưng lại ban cấp con số và h́nh hài cho chất vô h́nh (shapeless matter) và trở thành nguyên nhân của biểu lộ”. Con số và h́nh dạng mà bạn ghi nhận bằng bộ óc và được nhớ lại, cũng như hoạt động của nó trong thời gian và không gian, cùng với khả năng có sẵn của nó để tạo nên h́nh dạng và qua h́nh dạng đó, biểu lộ thành một quan niệm hoặc ư tưởng. Khi hoạt động hướng vào nội tâm, bạn cũng sẽ biết được bản chất của ư tưởng đang thúc đẩy nhờ nghiên cứu h́nh dạng của nó và hoạt động đă được chứng tỏ của nó, đồng thời bạn đang khám phá ra lănh vực của các ư tưởng có bản chất tương đồng, mà trong đó, ư tưởng được biểu hiện thành biểu tượng sở trường của ḿnh. Lănh vực ư tưởng này, vốn có liên quan với nhau, giải thích cho nhau, giờ đây đang mở ra cho bạn và bạn sẽ ngày càng thấy sở trường của ḿnh ở vị trí nào để hành động trong thế giới ư niệm này một cách tự do. Làm việc và sống trong thế giới ư tưởng giờ đây trở thành mục tiêu và nỗ lực chính yếu của bạn. Bạn tự luyện tập để nhận biết các ư tưởng và các khái niệm khi chúng ẩn sau mọi h́nh thể; bạn bắt đầu suy tư một cách rơ ràng về chúng để thấy được phương hướng mà chúng dẫn dắt bạn đến và trong Thiên Cơ Vĩnh Cửu, chúng sẽ thích hợp ở chỗ nào.

Nếu người t́m đạo quyết tâm làm ba điều:

a.− Mở được khả năng h́nh dung (visualise, quán tưởng),

b.− Tập cho thể trí biết được thực tại bằng trực giác,

c.− Giải thích đúng những ǵ được nh́n thấy, th́ họ có thể cung cấp được một pḥng thí nghiệm điển h́nh cho các Nhà Quan Sát lăo luyện trên thế giới. Một trong những điều mà trực giác đă phát triển có thể làm được là phá tan ảo cảm và ảo tưởng đang xâm chiếm sự sống. Một trong các điều mà một nhóm người t́m đạo – tức những kẻ đă lập được sự tương tác trực giác − có thể đạt được là giúp vào việc làm tan ảo cảm thế gian. Có thể làm được việc đó khi bạn đă mở được trực giác và khi sự cảm thông liên kết lẫn nhau của bạn được vững chắc và đúng đắn. Thánh Đoàn sẽ có thể dùng những người t́m đạo trên thế giới như là khí cụ để dập tan ảo cảm tập thể có bất cứ ở đâu. Tôi đề cập đến sự khả hữu này để thúc giục tất cả các bạn tiến tới nhanh hơn và cố gắng không ngừng.  

Bạn được chỉ dẫn rằng một trong các nhu cầu trước mắt người t́m đạo là đạt đến việc hiểu biết bằng trực giác và cảm   thông sáng suốt đối với ảo cảm, cả về mặt cá nhân lẫn hành tinh, để cho họ hành động một cách dứt khoát hầu xua tan ảo cảm. Sự cảm thông đó tất nhiên chỉ là tương đối, nhưng trong ṿng vài năm tới đây, sự hiểu biết của bạn về đề tài đó và các phương pháp mà nhờ đó ảo cảm có thể bị xua tan có thể tăng lên một cách đáng kể. Điều này phải xảy ra nếu bạn bắt tay vào việc một cách có chủ tâm trong các kiếp sống riêng của bạn, đồng thời cũng cố gắng để hiểu được lư thuyết ẩn bên dưới.

Từ trước đến giờ, rất ít điều được viết ra hoặc giảng dạy về chủ đề ảo cảm và chủ đề này có thể hàm ư nhiều điều có giá trị nếu chúng ta xem xét chủ đề này, xem xét các nguyên nhân và hậu quả của nó và cũng bàn đến kỹ thuật mà nhờ đó nó có thể bị làm cho tan biến và bị xua đuổi. Điều hiển nhiên là tôi không thể bàn đến chủ đề này một cách đầy đủ trong một chỉ dẫn duy nhất, do đó, chúng ta sẽ chọn hai hoặc ba năm sắp tới để bàn bạc và nghiên cứu vấn đề quan trọng này vốn đang phát sinh từ nhu cầu hiện nay và sự nhạy cảm ngày càng tăng của nhân loại đối với các ấn tượng tinh vi hơn. Cho đến nay tôi không thể làm được điều này, v́ việc tập hợp chưa đầy đủ và sự liên kết bên trong cần được củng cố. Giờ đây tôi có thể làm như thế v́ các thành viên trong nhóm đang hoạt động chung với nhau, với mối liên hệ bên trong ngày càng tăng, và một “tinh thần bác ái” được gieo rắc trong các bạn do phản ứng của nhóm đối với nhu cầu của mỗi kẻ khác trong giai đoạn ảo cảm gần đây.

Do đó, tôi có ư định thay đổi một ít công việc của bạn, giữ lại những phần có tính cách tượng trưng dưới h́nh thức bài tập để cho bạn tập nhận thức bằng trực giác, nhưng gạt bỏ việc xem xét các biểu tượng thấy được và thiên về h́nh   thức nhiều hơn. Bạn không thu thập được từ các h́nh thức tượng trưng này những ǵ đă hy vọng, v́ hạ trí của đa số các thành viên trong nhóm chỉ tăng thêm ở mặt h́nh thức, c̣n những thành viên c̣n lại không cần phương hướng giáo huấn và phát triển này. Chúng ta sẽ thay đổi điểm chú tâm vào việc nghiên cứu sâu xa hơn về ảo cảm. Ở đây có ẩn tàng việc phụng sự của bạn v́ khi bạn biết suy tưởng thực sự và dùng sự sáng suốt đă khai mở của bạn (nếu bạn có thể đạt được điều này, hỡi huynh đệ) vào đúng lúc bạn có thể giúp làm hai điều:

1.− Minh giải cho thể trí của nhóm về chủ đề này. Ở đây tôi không đề cập đến nhóm đặc biệt của bạn, mà chỉ đề cập đến ư thức của thế gian.

2.− Giúp làm tan đại ảo tưởng đă cầm giữ và vẫn c̣n cầm giữ các con của nhân loại trong cảnh nô lệ.

Do đó, tôi muốn các bạn phụng sự theo các đường lối nầy và tôi cũng muốn rằng các bạn ngày càng nên chú ư vào kỳ trăng tṛn để giao tiếp với chính tôi. Nhóm này sẽ có khả năng đặc biệt để làm việc theo đường lối xua tan ảo cảm vào kỳ trăng tṛn. Thiết lập việc giao tiếp trên các cảnh giới khác nhau tùy theo cách tập trung các thể thanh của từng người trong nhóm, và nhóm này giao tiếp với tôi trên các cơi phụ cao của cơi cảm dục. Đó là việc minh giải các phản ứng của họ và sự phong phú của các ghi nhận đầy đủ của họ. Cũng thế, ở đây sau rốt có ẩn tàng việc phụng sự của họ, v́ sau đó họ có thể (tuy chưa phải trong một thời gian lâu dài) dùng những ngày tiếp xúc và “lúc thấu nhập” (như đôi khi người ta gọi) cho công việc rơ rệt là xua tan một số ảo tưởng thế   gian. Tuy nhiên, trước tiên phải có khả năng xua tan ảo tưởng trong đời sống cá nhân của mỗi người trong các bạn.  

 Một nhóm khác giao tiếp với tôi trên các cơi phụ của cơi trí, nơi sẽ là lănh vực phụng sự của họ. Cho đến nay, vẫn c̣n các nhóm khác c̣n ở giai đoạn phôi thai. Nhân sự của các nhóm đó vẫn c̣n thiếu và sự hội nhập của nhóm chỉ mới ở trong tiến tŕnh được thành lập.

Do đó, tôi sẽ đ̣i hỏi các bạn tăng thêm nỗ lực mỗi tháng vào kỳ trăng tṛn và t́m cách củng cố sự liên kết của các bạn với chính tôi và với các thành viên thuộc nhóm các huynh đệ của bạn. Chỉ có một lời nhắc nhở mà tôi sẽ đưa ra. Sự thành công theo đường lối này sẽ mang theo nó cả phần thưởng lẫn các khó khăn. Bạn sẽ phải xem xét cẩn thận về sự kích thích không đúng chỗ của bản chất t́nh cảm hay cảm dục của bạn, tất nhiên có ảo cảm theo sau. Bạn sẽ phải tập xem xét một cách kỹ càng vào nỗ lực để hành động như thế trên cơi cảm dục, đồng thời giữ thái độ của kẻ quán sát trên cơi cao của linh hồn. Không có việc kiến tạo nào và không có việc phụng sự vô cùng thiết yếu nào có thể làm được trong lănh vực hoạt động khó khăn này trừ phi có được thái độ dứt bỏ và phóng khoáng. Bạn bắt buộc phải hành động ở một trong các lănh vực hoạt động khó khăn nhất – có lẽ nên gọi là khó khăn nhất đối với một đệ tử − và do đó cần khôn khéo để hoạt động trong việc thành lập nhóm. Tôi hết sức nhấn mạnh rằng các bạn phải làm việc với tư cách một nhóm chớ không phải với tư cách cá nhân.

Có ba biến cố lớn nằm sẵn trong ư thức thế gian ngày nay:

1.− Sự phát triển và hiểu biết về công tác viễn cảm.  

2.− Hiểu biết và t́m ṭi một cách khoa học về ảo tưởng và ảo cảm thế gian.

3.− Tăng thêm các phương pháp chữa trị đúng cách. Nếu được như thế, bạn có thể thấy việc các nhóm đệ tử đang đóng góp vào công cuộc thiên khải đang xuất hiện tốt đẹp biết là bao và việc phụng sự hiến dâng của chúng ta thật là hữu ích biết bao. Hỡi huynh đệ, tôi dùng từ ngữ “của chúng ta” một cách thận trọng, v́ tôi đang quyết tâm làm việc hướng về ba mục đích này như là một phần của việc phụng sự đă được giao phó cho tôi (tự tôi giao phó). Tôi đ̣i hỏi sự hợp tác và tham gia của bạn. Ảnh hưởng vững vàng của tư tưởng đúng đắn trên ư thức nhân loại của các nhóm tư tưởng gia lăo luyện là phương pháp có thể được áp dụng thành công nhất vào lúc này, và ở đây các nhóm này có thể trợ giúp được rất nhiều.

Một trong các điều sẽ hiện ra rơ rệt nhất trong ba hay bốn thập niên sắp tới là công việc mà các nhóm có thể làm trên các cảnh giới khác hơn là cơi trần. Việc phụng sự tập thể và nỗ lực hợp nhất hướng đến phúc lợi tập thể đă diễn ra từ hai thế kỷ nay trên Địa Cầu trong mọi lănh vực nỗ lực của con người – chính trị, từ thiện và giáo dục. Việc phụng sự tập thể trên cơi cảm dục cũng đă được bắt đầu từ năm 1875, nhưng nỗ lực hợp nhất để xua đuổi ảo cảm thế gian th́ hiện nay chỉ mới trong tiến tŕnh h́nh thành và nhóm này có thể là một phần của nỗ lực phối kết hướng về mục tiêu này và tăng thêm số người tham gia vào đó. Do đó, bạn hăy tự luyện tập và học cách hoạt động như thế nào. Tất nhiên sự nhạy bén về viễn cảm là mục tiêu của mọi nhóm đệ tử, nhưng đó cũng là mục tiêu chính của nhóm mà chúng ta có thể gọi là Những 19 Kẻ Giao Tiếp Bằng Viễn Cảm (Telepathic Communicators); ở  đây họ có thể làm cho việc phụng sự có hiệu quả hơn. Các nhóm người nhạy cảm thuộc loại này có thể tạo nên một đoàn thể hoạt động trung gian và truyền đạt kiến thức cùng giáo huấn mới cho nhân loại; họ có thể uốn nắn dư luận quần chúng và thay đổi luồng tư tưởng của con người. Dĩ nhiên, tất cả các nhóm nhỏ đều đạt đến mối liên giao bằng viễn cảm giữa chính họ và giữa nhân viên của các nhóm tương tự, và đây là điều nên được mong muốn, nuôi dưỡng và sẽ tăng thêm một cách vững chăi và đúng cách. Nhưng khi độ nhạy bén về viễn cảm của bạn tăng lên, bảo đảm chắc chắn là bạn không bị lệch ra khỏi mục tiêu chính trong nhóm của bạn, mà phải nghiên cứu và hiểu được ư nghĩa của ảo cảm và các định luật làm tan biến ảo cảm. Hăy ghi nhớ và chú ư đến mọi hoạt động và hiện tượng viễn cảm và học cách hành động theo lối này, nhưng xem đó như là vấn đề phụ cho bạn vào lúc này.  

Từ những bản chất khác nhau (1) được phối hợp một cách kỳ diệu…’

“ (2) Phục hồi; bây giờ con người đă đạt tới điểm [do sự tương đồng, với vai tṛ là Giống dân thứ Ba trong cuộc Tuần Hoàn thứ Tư] mà tính thiêng liêng nguyên uỷ [của ‘con người thiên thần’ (‘the angel’ – man’s)] của họ bị cái trí mới sinh của con người che giấu và làm lu mờ, và c̣n có lối tường thuật xác thực về bài lược thuật của con… “

Đó là những lời dạy của Sư Phụ; những đoạn kinh (text) những ngôn từ (words) và những câu kinh ở trong ngoặc kép, và những chú thích cuối trang. Ta nên hiểu rằng phải có một sự dị biệt lớn lao trong những danh từ như là “khách thể” (“objectivity”) và “chủ thể” (“subjectivity”), “vật chất” (“materiality”) và “tâm linh” (“spirituality”), khi mà những danh từ này được áp dụng cho những cơi giới khác nhau về phương diện sinh hoạt và tri thức. Tất cả đều phải được hiểu theo ư nghĩa tương quan, tương đối mà thôi. V́ vậy, nếu phó mặc cho y suy cứu, th́ người ta cũng chỉ có một chút ngạc nhiên, khi một tác giả, dù khao khát muốn học hỏi, nhưng vẫn rơi vào sự lầm lạc, v́ chưa đủ kinh nghiệm để học hỏi những giáo lư trừu tượng này. Trong những bức thư đă nhận được, người ta cũng chưa xác định một cách rơ ràng được sự khác nhau giữa những cuộc tuần hoàn và 1 Ở đây có nghĩa là những bản chất của bảy Hệ cấp hay là bảy hạng Tinh Quân (Classes of Pitris) và Thiền Định Đế Quân, hợp thành bản chất và các thể của chúng ta.  các giống dân, v́ không có một thứ ǵ thuộc loại đó đă được cần dùng trước, như một đệ tử b́nh thường người Đông phương đă khám phá ra được sự dị biệt này trong giây lát. Ngoài ra, chúng tôi xin trích dẫn thêm một bức thư của Đức Thầy này:

“Những giáo lư này được đưa ra trong hoàn cảnh bị phản đối … có thể nói, những giáo lư này là những món hàng buôn lậu (smuggled goods)… khi tôi c̣n đối diện với một thông tín viên, th́ người kia, Ông…đến nay đă xào bài lên hết (the cards into confusion) đến nỗi chỉ có một ít điều được nói ra là không vi phạm các định luật”.

Những người nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng “hữu quan” sẽ hiểu nó có nghĩa là ǵ. Kết quả của tất cả các điều này là trong những bức thư này, không có cái ǵ bảo đảm chắc chắn rằng Giáo lư huyền môn đă từng dạy, hoặc bất cứ một vị Chân Sư đă tin vào cái thuyết hiện đại phi lư về sự sinh ra của con người từ một vị tổ tiên chung với loài khỉ - đó là giống khỉ người của loài thú đích thực. Đến nay, ở khắp trên thế gian có đầy “những con người giống khỉ”, nhiều hơn ở trong rừng có “những con khỉ giống người”. Ở Ấn Độ, con khỉ là một sinh vật thiêng liêng, bởi v́ những người được Điểm Đạo biết rơ nguồn gốc của giống vật này, dù cho nguồn gốc này c̣n được giấu kín dưới một bức màn ẩn ư dày đặc. Hanumana (vị thần khỉ) là con của thần Pavana (cũng là Vayu, “Thần Gió”), do thần Anjana (là con rắn), vợ một con quái vật có tên là Kesari, dù phổ hệ của loài  này thay đổi măi măi. Độc giả nào nhớ điều này sẽ thấy tất cả những giải thích về điều ngụ ư khéo léo này ở nhiều chỗ trong quyển ba và bốn. “Con người” của Giống dân thứ Ba, (họ đă tách rời ra) chính các vị Thần Linh (Gods), nhờ tinh thần và sự trong sạch của họ, dù họ chưa có giác quan, và đến nay vẫn chưa có cái trí như con người.

Những “Người” của Giống dân thứ Ba, tổ tiên của dân Atlante, cũng là những người khổng lồ, h́nh thù giống khỉ và vô tri thức như những người tiêu biểu cho nhân loại trong cuộc Tuần Hoàn thứ Ba. Vô trách nhiệm về phương diện luân lư, chính con người thuộc Giống dân thứ Ba này, qua sự giao phối hỗn tạp với những loài động vật thấp kém hơn, đă tạo nên một giống dân đặc biệt gọi là cái khoen dang dở (missing link), giống người này, trong nhiều thế hệ về sau (chỉ trong thời kỳ đệ tam kỳ) đă trở nên tổ tiên xa xôi của loài khỉ đột như ta thấy hiện nay.

Nếu điều cho người ta thấy có sự chống đối lại lời phát biểu chỉ rơ rằng con thú xuất hiện sau con người, th́ độc giả sẽ được yêu cầu nên nhớ rằng, giống thú này chỉ có nghĩa là loài động vật có vú, có nhau. Trong thời đại ấy, đó chính là những loài thú mà khoa động vật học trong thời đại của riêng ta chưa mơ tới nữa; và những cách sinh sản của loại này th́ không giống với những quan niệm mà khoa sinh lư học hiện đại đă có được vấn đề này. Thật không hoàn toàn thích hợp để cho người ta đề   cập đến những câu hỏi ấy trước đại chúng, nhưng bất cứ việc ǵ trong vấn đề này cũng không phải là không thể có được hoặc không có sự mâu thuẫn.

Như vậy, những giáo lư đầu tiên này, dù là có khuyết điểm, mơ hồ và rời rạc, cũng không dạy về sự tiến hoá của “con người” từ “con khỉ”. Tác giả quyển Phật Giáo Bí Truyền cũng không xác nhận nó ở bất cứ chỗ nào trong tác phẩm của ông bằng nhiều ngôn từ như thế, nhưng v́ có khuynh hướng về khoa học tiến bộ nên ông dùng thứ ngôn ngữ có thể chứng minh một lời suy diễn như vậy. Con người có trước Giống dân thứ Tư, tức là giống Atlante, dù có thể có h́nh giống như một “con khỉ không lồ” – “là một sự giả dạng của con người chưa có đời sống của một con người” - vẫn là một người biết suy tư và biết nói tiếng người. Người Lemuro-Atlantean, là một giống dân có tŕnh độ văn minh cao, và nếu người ta nh́n nhận truyền thuyết – th́ truyền thuyết này là một huyền sử hay hơn cả huyền thoại suy lư, mà bây giờ xuất hiện dưới cái tên này - họ cao hơn chúng ta về cả phương diện khoa học và cả về nền văn minh thoái hoá hiện nay (degraded civilization) của chúng ta; trong bất cứ trường hợp nào, người Lemuro-Atlantean cũng là Giống dân chót của Giống dân chánh thứ Ba.

 Lời b́nh luận về Bảy đoạn Thánh Kinh

 5. CÁI THỨ TƯ (1) (a), CÁC CON NHẬN LỆNH PHẢI SÁNG TẠO RA H̀NH ẢNH CỦA HỌ. MỘT PHẦN BA TỪ CHỐI, HAI PHẦN BA VÂNG LỜI. LỜI NGUYỀN RỦA PHÁT RA (b): HỌ PHẢI RA ĐỜI TRONG CÁI THỨ TƯ, SẼ ĐAU KHỔ VÀ GIEO RẮC SỰ ĐAU KHỔ, ĐÓ LÀ TRẬN CHIẾN THỨ NHẤT (FIRST WAR) (c).

Người ta chỉ có thể quán triệt được trọn vẹn ư nghĩa của câu kinh này sau khi đă đọc những lời giải thích bổ túc với đầy đủ chi tiết trong phần có những Giảng lư về Nhân sinh khởi nguyên luận trong các quyển 3 và 4. Giai đoạn này và Giai đoạn 4 là diễn tŕnh tiến hoá của những thế hệ lâu dài, và bây giờ là bắt đầu chớm nở buổi b́nh minh, mở màn cho thế hệ khác. Vở kịch diễn biến trên Địa Cầu của chúng ta ở vào lúc khởi đầu màn thứ tư, nhưng để hiểu rơ hơn toàn thể vở kịch, độc giả sẽ quay trở lại những màn trước đây trước khi tiếp tục. V́ câu trên thuộc về phần Vũ Trụ Khai Tịch Luận đại cương được tŕnh bày trong những quyển sách cổ, c̣n Quyển 2 tŕnh bày cuộc diễn tiến từng chi tiết của Cơ Sáng Tạo hay nói đúng hơn là sự h́nh thành giống người đầu tiên, kế đó là giống người cấp hai, rồi tới cấp ba, hay nói theo danh từ huyền môn là Giống dân thứ Nhất, thứ Hai và thứ Ba. Cũng như Địa Cầu bắt đầu thành h́nh như là 1 Sự luân lưu Sự Sống (Life) và Thực Thể (Being) chung quanh “bảy Bánh Xe nhỏ hơn” (“seven smaller Wheels”). một quả cầu bằng lửa lỏng, bụi lửa nguyên h́nh chất chứa cô đọng, th́ con người cũng vậy.

=============

(a) Điều gọi là “cái thứ Tư” được giải thích như là cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, theo uy tín Thiên b́nh luận. Nó cũng có thể được hiểu là Chu kỳ thứ Tư, cũng như cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, hay thậm chí là Bầu thứ Tư (Trái Đất). Như sẽ được chỉ dẫn liên tục sau đây, đó là Bầu thứ Tư trên cơi thứ tư hay cơi thấp nhất của sự sống vật chất. Và nhân loại nay đang ở vào cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, ở điểm giữa cuộc tuần hoàn là giai đoạn mà thế quân b́nh tuyệt đối giữa Tinh Thần và Vật Chất phải được thực hiện.

==========

Như độc giả sẽ thấy, chính ở vào giai đoạn này (trong thời kỳ phát triển cực điểm của nền văn minh, kiến thức, trí tuệ thông linh của giai đoạn thứ Tư (Atlante) và do bởi cơn khủng hoảng cuối cùng của sự điều chỉnh sinh lư và tâm linh của các Giống dân – mà nhân loại chia làm hai phái theo hai đường đối lập rơ rệt: con đường Hữu phái (chánh đạo) và Tả phái (tà đạo). Thiên b́nh luận viết :

Những mầm mống của hai phái Chánh và Tà đạo được gieo rắc trong nhân loại vào thời kỳ đó. Những mầm mống ấy tiềm ẩn trong một thời gian để rồi lại phát triển trong giai đoạn đầu của Giống dân thứ Năm, tức là chủng tộc văn minh hiện tại.

Các thanh niên thánh thiện (Thần minh) [the Gods] từ khước sinh sản để tạo nên hậu duệ ḍng giống thần tiên như họ. Họ không phải là những h́nh thể thích hợp với chúng ta. Họ phải trưởng thành. Họ từ khước không nhập vào những h́nh bóng (Chhayas) của những kẻ thấp kém hơn. Như thế, tư tưởng ích kỷ đă ngự trị ngay từ lúc đầu, dù rằng trong giới thần tiên, và họ đă bị đoạ lạc dưới nhăn quan của các Đấng cầm cân nghiệp quả (Lipikas).

Họ phải chịu đau khổ về việc đó trong những kiếp tương lai. Có một sự tin tưởng theo truyền thống chung là trước khi có sự “đoạ lạc” sinh lư (physiological “Fall”) th́ sự sinh sản để truyền giống, dù là trong loài người hay loài động vật, được thể hiện do Ư CHÍ của các Đấng Tạo Tác (the WILL of the Creators) hay hậu duệ của các Ngài. Đó là sự Đoạ Lạc của Tinh Thần (the Fall of Spirit) chứ không phải sự Đọa lạc của Con người phàm tục (the Fall of mortal Man). Ở trên đă nói rằng để trở nên một Tinh Thần có ư thức tự ngă (Self-Conscious), Tinh Thần đó phải trải qua mọi chu kỳ sinh hoạt, tự hữu để tiến lên giai đoạn cực điểm trên trái đất trong Con người. Tinh Thần tự nó vốn là một TRỪU TƯỢNG (ABSTRACTION) tiêu cực và vô thức. Sự thuần khiết của nó vốn nội tại chứ không thể đạt được bằng sự cố gắng hay tài giỏi. Bởi đó, như đă giải thích, muốn trở nên một Thiền Định Đế Quân cao cả nhất (the highest Dhyan Chohan), mỗi linh hồn cần đạt tới ư thức tự ngă viên măn trong con người, nghĩa là một nhân vật tự hữu có thể ư thức được tổng hợp thành con người. Những vị đạo sĩ bí pháp Do Thái (Jewish Kabalists) lư luận rằng, không có Linh Hồn (Spirit) nào có thể thuộc về Hệ cấp thiêng liêng (the divine Hierarchy) trừ phi linh khí (Ruach) (Spirit) hợp nhất với Cảm Dục sinh khí thể (Nephesh) (Linh hồn c̣n sống – Living Soul), họ cũng chỉ lặp lại Giáo Lư Bí truyền Đông phương mà thôi:

Một Đấng tự giác (Dhyani) phải là một Tiên Thể Kim Thân (Atma-Buddhi). Một khi Kim Thân-Trí Tuệ (Buddhi- Manas) rời khỏi Tiên Thể (Atma) bất diệt, mà nó (Buddhi) là cái thể bọc ngoài, th́ Atma bước vào giai đoạn BẤT TẠI (NON-BEING) cũng là Thực Tại Tuyệt Đối (Absolute Being). Đó có nghĩa là trạng thái Niết Bàn thuần tuư; là diễn biến của Tinh Thần trở vô trạng thái trừu tượng lư tưởng của Thực Tại (Beness), nó vốn không có liên hệ ǵ đến cơi giới trên đó Vũ Trụ đang thực hiện chu kỳ sinh hoạt của nó.

b) “Lời nguyền được thốt lên” ở đây không có nghĩa là do một vị Thần minh hay Đấng Cao Cả nào thốt ra, mà chỉ có nghĩa là nguyên nhân tạo nên nghiệp xấu đă được gây ra, và những hậu quả của một nguyên nhân tạo nghiệp chỉ có thể đưa những vị nào hành động trái với định luật thiên nhiên làm ngăn trở cái đà tiến hoá tự nhiên của Trời Đất, bước vào những kiếp đầu thai đầy đau khổ.

c) “Chiến tranh” ở đây là nói về những sự tranh đấu trong việc điều chỉnh về mọi mặt tâm linh vũ trụ và càn tượng (astronomical), nhưng trên hết là nói về sự huyền nhiệm trong cơ tiến hoá của con người như trong giai đoạn hiện tại. Những Quyền năng hay những Tinh hoa thuần tuư “được người ta nói tới là để sáng tạo” – như người ta đă nói – có liên quan đến một điều bí mật đă được giải thích ở một chỗ khác trong bộ sách này. Chẳng những đó là một trong những bí mật kín đáo nhất của Thiên Nhiên – bí mật của sự sinh sản mà các nhà phôi thai học, để giải quyết nó, đă phối trí với nhau một cách hoài công – mà nó cũng có một thiên chức bao gồm sự bí mật vĩ đại về tín ngưỡng hoặc đúng hơn là sự bí mật của giáo điều độc đoán tức là sự “Sa ngă” của các Thiên Thần (như người ta đă gọi). Con Quỷ cám dỗ (Satan) và bè lũ nổi loạn của nó, như vậy sẽ không nhận lấy nhiệm vụ tạo ra con người bằng thể xác mà chỉ muốn trở thành trực tiếp những Đấng Cứu Thế và những Đấng Sáng Tạo của “Con người thiêng liêng” (Saviours and Creators of “divine Man”) (khi ư nghĩa về điều ngụ ư này đă được giải thích). Giáo lư về biểu tượng này c̣n hơn mức huyền bí và sự tôn sùng như chúng ta sẽ thấy sau này, giáo lư này hoàn toàn thuộc về khoa học. Đó là v́, thay v́ vốn chỉ là một phương tiện hoạt động mù quáng do ĐỊNH LUẬT thâm sâu dẫn dắt và thúc đẩy, vị Thiên Thần “nổi loạn” (the “rebellious” Angel) lại đ̣i hỏi thi hành quyền phán đoán và ư nghĩa độc tôn, quyền tự do hoạt động và trách nhiệm, v́ Con Người và Thiên Thần đều bị Định Luật Nhân Quả chi phối.

 Để giải thích quan điểm của các nhà bí pháp Kabal tác giả quyển Những Hiện Trạng mới của Đời Sống (New Aspects of Life) đă nói về những vị Thiên Thần sa ngă là:

Theo giáo ư của biểu tượng học … linh hồn (spirit) đó chỉ là một nhân vật thừa hành của Thượng Đế (God) nên tự ư phát huy hành động, nó lấy ư muốn riêng để thay thế cho ḷng ham muốn Thiêng Liêng cho riêng phần nó, nên nó bị sa ngă. Do đó, loài tinh linh và sự hoạt động của các tinh linh vốn là sản phẩm của ḷng ham muốn của linh hồn, bèn ở bên ngoài chống lại hành động của Thượng Đế và thế giới của linh hồn (trang 233).

Như vậy, rất đúng; nhưng tác giả muốn nói ǵ khi bảo:

Khi con người được tạo ra, y có cấu tạo của nhân loại, có những t́nh cảm của nhân loại, có những hy vọng và nguyện vọng của nhân loại. Từ t́nh trạng này, y sa ngă thành kẻ tàn ác và dă man. Đó là sự đối lập trực tiếp với giáo lư phương Đông của chúng ta, cũng như đối với quan niệm của tín đồ Do Thái Bí giáo theo như chúng ta hiểu, nó cũng đối lập với cả Thánh kinh Thiên Chúa giáo (Bible). Điều này giống như chủ nghĩa Bản Thể (Corporealism) và Duy Vật Chủ Nghĩa (Substantialism), mang màu sắc của Triết Lư Thực Nghiệm (Positive Philosophy), mặc dù hơi khó để người ta có thể hoàn toàn cảm thông được chắc chắn tác giả định nói ǵ. Tuy nhiên, một sự sa ngă “từ cái tự nhiên đến cái siêu nhiên và đến con thú” – trong trường hợp này, cái siêu nhiên có nghĩa là linh hồn thuần tuư bao hàm cái mà chúng ta đề xướng. Kinh Tân Ước có nói đến một trong những “Cuộc chiến tranh” này như sau: Đă có nhiều cuộc chiến tranh ở trên cơi Thiên Đàng; Thánh Micheal và những vị thiên thần của người đă chiến đấu để chống lại con Rồng (Dragon); con Rồng cũng đă xáp chiến, nhưng nó không thắng nổi các vị thiên thần; nên người ta không t́m thấy có bất cứ chỗ nào để cho chúng ở lại cơi Thiên Đàng. Con Rồng khổng lồ này nay bị đuổi ra khỏi cơi Thiên Đàng. Nó chính là con xà tinh cổ lổ (old serpent), nó được gọi là loài Yêu Tinh (Devil) và Quỷ Quái (Satan) để phỉnh lừa mọi người” (1).

Lối tường thuật của người Kabal về cùng cốt truyện ấy đă được đưa ra trong quyển Codex Nazaraeus là một quyển kinh của môn đồ Nazarenes, là những tín đồ Ky Tô giáo thần bí chân chính của Thánh John Baptist, là những vị được điểm đạo của Đức Chúa Trời (Christos), là Đấng Toàn Thiện. Đấng Bahak Zivo, là “Cha đẻ của các vị Thần Linh” (“Father of the Genii”), được lệnh tạo ra các sinh vật (sáng tạo). Nhưng v́ Ngài “không biết ǵ về Địa ngục không đáy” (“ignorant of Orcus”) nên Ngài bị thất bại và kêu gọi đến Đấng Hoá Công thấp hèn (Fetahil), một linh hồn trong sạch hơn để giúp ḿnh, nhưng rồi, y c̣n bị thất bại tồi tệ hơn. Đó một sự nhắc lại về sự sa ngă của các “Đức Cha” (“Father”), những Đấng Cao Cả của Ánh Sáng, các Ngài đă thất bại, hết Đấng này tới Đấng kia (1).

Bây giờ chúng tôi xin trích dẫn một vài đoạn trong những quyển sách trước kia của chúng tôi (2). Rồi đến giai đoạn tạo ra “tinh linh” (“spirit”) - của Địa Cầu như người ta đă gọi, hay là Linh Hồn, Hồn thú (Psyche) mà Thánh James gọi là những “loài yêu tinh” (“devilsh”) - phần thấp của Linh Hồn thế gian (Anima Mundi) hay là Tinh Tú quang (Astral Light) [xem phần chót của câu kinh này]. Theo những tín đồ Nazarenes và các tín đồ phái Ngộ Đạo (Gnostics) th́ loài Tinh Linh này có đặc tính nữ. Như vậy, Tinh Linh của Trái Đất thấy rằng đối với Đấng Tạo Hoá thấp hèn (Fetahil) (3) con người mới nhất (newest man), sự vinh diệu đă “đổi thay”,

===============================

 1 Xem Quyển 3, Câu kinh 17. 2 Bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện, trang 299, 300. Cũng cần đối chiếu với những quyển “Những Bí Mật của Tôn giáo”, Con cái của Nhân Loại, của S.F. Dunlap, trang 50 và kế tiếp (1861). 3 Fetahil giống như nhóm các vị Nguyệt Tinh Quân (Pitris) “tạo ra con người” với vai tṛ là chỉ có một “lớp vỏ” mà thôi. Những người Nazarenes nói rằng Người là Vua của Ánh Sáng (King of Light) và là Đấng Tạo Hoá (Creator); nhưng trong trường hợp này, Người chỉ là Prometheus bất hạnh không giữ được Ngọn Lửa Sống Động (Living Fire) cần cho sự sáng tạo Linh Hồn Thiêng Liêng (Divine Soul), v́ Người không biết được danh hiệu bí mật, danh hiệu không thể tả được, danh hiệu không thể truyền đạt được của những tín đồ Do Thái Bí giáo.

=============================

và đối với sự vinh diệu này, “sự suy tàn và sự sụp đổ” đă xuất hiện, bèn đánh thức tinh linh có ḷng ham muốn mù quáng (Karabtanos) (1), “loài tinh linh này th́ cuồng dại, không có ư thức và sự suy xét”, và nói với y là: “Ngươi hăy dậy đi, hăy xem ḱa, sự vinh diệu (Ánh Sáng) của Con người mới nhất này (Fetahil) đă thất bại (để sinh ra hay tạo ra con người) và người ta thấy rơ sự vinh diệu này đă bị giảm dần. Ngươi hăy đứng lên rồi đến Mẹ ngươi (Spiritus) và giải thoát ngươi khỏi những giới hạn đă giữ chặt lấy ngươi, những giới hạn rộng lớn hơn toàn thế gian”. Sau đó là sự kết hợp của thứ vật chất cuồng dại và mù quáng đó, nó để cho những sự ám chỉ của Linh Hồn điều khiển (không phải là Hơi Thở Thiêng Liêng, mà là Linh Hồn của Thể Phách (Astral Spirit), mà do bản chất nhị phân, đă bị vật chất làm cho hư hỏng) và khi quà tặng của người Mẹ đă được nhận, Spiritus quan niệm ra “Bảy Mặt” (“Seven Figures”) và Bảy Ngôi Sao (Seven Stellars) (Hành Tinh – Planets), chúng cũng tượng trưng cho bảy tội lỗi chính, là con cái của một Linh Hồn đẩu tinh (Astral Soul) đă tách rời khỏi nguồn gốc thiêng liêng của nó (tinh thần), và vật chất, con quỷ dâm dục mù quáng. Khi thấy điều này, Đấng Tạo Hoá thấp hèn (Fetahil) nới rộng ṿng tay của người đến tận vực thẳm vật chất, và nói: “Hăy để cho trái đất xuất hiện, cũng như nơi đây những Quyền năng đă biểu hiện”.  

[7/11/2015 7:57:50 PM] Thuan Thi Do: trang 543 GLBN
[7/11/2015 8:44:39 PM] Thuan Thi Do: http://www.slideshare.net/Huongclass/07vlun-v-la-cn-khn
[7/11/2015 8:52:07 PM] Thuan Thi Do: http://thongthienhoc.net/sach/LuaCanKhon.htm
[7/11/2015 9:39:37 PM] *** Call ended, duration 3:30:32 ***