Alice A. Bailey - (Treatise on cosmic fire)
1. LUẬN VỀ LỬA CÀN KHÔN (A TREATISE ON COSMIC FIRE) ALICE A. BAILEY TẬP I Lucis
Publishing Company New York Lucis Press L.T.D London
2
3. LỜI GIỚI THIỆU Câu chuyện trong nhiều năm về công tác viễn cảm của Chân Sư
Tây Tạng với bà Alice A.Bailey được tiết lộ trong tập sách Tự Truyện Dở Dang của
bà được xuất bản năm 1951. Sách này nêu ra các trường hợp về lần tiếp xúc đầu
tiên của bà với Đức Thầy, trên cơi trần, xảy ra ở California vào tháng 11 –
1919. Công việc của ba mươi năm đă được hoạch định. Khi công việc này đă được
hoàn tất, trong ṿng ba mươi ngày sau giai đoạn đó, bà Bailey được giải thoát
khỏi các hạn chế của thể xác. Quyển Tự Truyện cũng có một số phát biểu của Chân
Sư Tây Tạng liên quan đến công việc của Ngài, và một số thông tin về lư do tại
sao công việc đó được tiến hành. Vào các giai đoạn ban đầu, công việc có liên
quan tới sự quan tâm kỹ lưỡng vào các điều kiện của cơi trần sao cho có thể
thuận tiện nhất để giúp cho tiến tŕnh viễn cảm (thần giao cách cảm) được thành
công. Nhưng sau nhiều năm, kỹ thuật được hoàn thiện và cơ cấu dĩ thái của bà A.
A. B. được điều hợp và hiệu chỉnh một cách khéo léo đến nỗi toàn bộ tiến tŕnh
thật sự không cần một chút nỗ lực nào, c̣n thực tế và sự hữu ích thực tiễn của
sự tương tác viễn cảm đă được chứng tỏ là đạt đến tŕnh độ độc nhất vô nhị. Các
chân lư thiêng liêng được bàn đến liên quan đến nhiều trường hợp mà cách diễn tả
bằng hạ trí cụ thể (thường là với các hạn chế không thể vượt qua của Anh ngữ)
đối với các ư tưởng trừu tượng và cho đến bây giờ là các ư niệm về các thực tại
thiêng liêng đó hoàn toàn không được hiểu rơ. Giới hạn không thể vượt qua này
của chân lư thường được kêu gọi đến sự chú ư của các độc giả quyển sách được tạo
ra như thế, nhưng rất thường bị quên đi. Việc luôn luôn nhớ lại điều đó sẽ tạo
ra trong các năm sắp đến một trong các yếu tố hàng đầu để ngăn chận sự co cụm
lại của giáo lư, nhờ thế khỏi gây ra một sự tôn thờ có tính cách giáo điều và bè
phái. VI
4. 4 Quyển sách này, bộ , được xuất bản lần đầu
năm 1925, là quyển thứ ba được ra đời bằng cách kết hợp và đưa bằng chứng hiển
nhiên rằng nó sẽ đóng vai tṛ là phần chủ yếu, và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của
các giáo lư trong ba mươi năm qua, tuy rằng cũng có sự sâu sắc và sự hữu ích của
các quyển sách được xuất bản trong loạt sách có tựa đề Luận về Bảy Cung hay của
bất cứ sách nào khác. Qua lộ tŕnh dài của công việc, các thể trí của Chân Sư
Tây Tạng và A.A.B. đă trở nên điều hợp rất chặt chẽ đến nỗi chúng tạo được hiệu
quả - xét về các tác phẩm giáo lư có liên hệ - một cơ cấu hợp tác đơn thuần được
dự trù. Ngay vào lúc kết thúc, A.A.B. thường nói đến sự ngạc nhiên của bà trước
cái nh́n thoáng qua mà bà nhận được qua sự tiếp xúc với thể trí của Chân Sư Tây
Tạng, với viễn cảnh vô giới hạn của các chân lư thiêng liêng mà bà không thể có
cách nào khác hơn để tiếp nhận, và thường là với một tính chất mà bà không thể
diễn tả. Kinh nghiệm này là nền tảng của sự xác quyết thường được công bố của bà
nhưng thường thường ít được hiểu biết, đó là mọi giáo lư mà bà đang giúp để tạo
ra, thực ra chỉ là A B C của kiến thức huyền bí, và như vậy trong tương lai bà
rất sẵn ḷng từ bỏ bất luận tuyên bố chính thức nào trong giáo lư hiện hữu, khi
bà t́m được giáo lư huyền bí hiện có nào đúng hơn và thâm sâu hơn. Dù trong sáng
và sâu sắc như là giáo huấn hiện tại đang hiện hữu trong các sách được xuất bản
dưới tên của bà, các chân lư được truyền đạt chỉ có một phần và tuỳ thuộc vào
cách khai mở và quăng diễn rằng sự kiện này, nếu được ghi nhớ thường xuyên, sẽ
mang lại cho chúng ta một sự bảo vệ thứ hai rất cần có để chống lại tính chất
của thể trí cụ thể vốn thường có khuynh hướng tạo ra khuynh hướng bè phái. Vào
ngay lúc nỗ lực hợp tác và sau khi xem xét cẩn thận, một quyết tâm được đưa ra
giữa Đức Thầy Tây Tạng (D.K.) và A.A.B. rằng bà với tư cách là một đệ tử hoạt
động ở ngoại cảnh VI
5. Lời giới thiệu 5 giới, sẽ gánh vác càng nhiều càng tốt trách nhiệm về nghiệp
quả trên cảnh giới đó, và như vậy giáo lư sẽ đến được với quần chúng qua chữ kư
của bà trên sách. Điều này bao hàm cái gánh nặng ở vị thế lănh đạo trong lănh
vực huyền bí và sự tấn công và lên án từ phía những người và các tổ chức mà vị
thế và các hoạt động của họ thiên về cung Song Ngư và có tính chất độc đoán.
Toàn bộ nền tảng mà giáo lư huyền môn dựa vào, ngày nay đang hiện ra trước quần
chúng, đă được thoát khỏi các giới hạn và các dại dột của huyền bí, ảo cảm, đ̣i
hỏi và không áp dụng / thi hành được, bởi vị thế đă có của Chân Sư Tây Tạng và
A.A.B. Lập trường chống lại sự khẳng định có tính cách giáo điều đă giúp để tạo
ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phóng khoáng tâm trí cho các nhà nghiên cứu với
việc tiết lộ dần dần Minh Triết Ngàn Đời. Phương pháp xưa cũ để đạt đến chân lư
bằng cách chấp nhận uy quyền mới và so sánh chúng với các triết lư đă được lập
ra trước đây, trong khi đối với giá trị chắc chắn trong việc luyện trí đang từ
từ bị vượt qua. Trong vị trí của nó đang xuất hiện trong cả hai thế giới tôn
giáo và triết lư một năng lực mới để chiếm một vị thế khoa học hơn. Giáo lư
thiêng liêng sẽ được chấp nhận ngày càng nhiều như là một giả thuyết phải được
chứng minh ít ra bởi hệ thống triết học kinh viện, nền móng lịch sử và uy quyền
của lịch sử, và thêm nữa bằng các kết quả của hiệu quả của nó trên sự sống đă
trải qua và sự hữu ích thực tiễn của nó trong việc giải quyết các vấn đề của
nhân loại. Trước đây, giáo lư huyền môn tiên tiến hầu như luôn luôn chỉ có thể
nhận được bằng sự chấp nhận thẩm quyền vị đạo sư của môn sinh, các tŕnh độ khác
nhau của sự tuân thủ cá nhân đối với vị huấn sư đó và các lời thề giữ bí mật.
Khi sự sắp đặt mới mẻ của Kỷ Nguyên Bảo B́nh tiến triển, th́ các giới hạn này sẽ
biến mất. Mối liên hệ cá nhân giữa đệ tử với Đức Thầy vẫn VII
6. 6 tồn tại, nhưng việc dạy dỗ đệ tử đă được thực hiện
trong cách thành lập nhóm. Việc ghi nhận một kinh nghiệm như thế và thực hành
phương pháp của kỷ nguyên mới này đă được đưa ra cho công chúng trong quyển sách
có tựa Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới, sách này đưa ra các giáo huấn cá nhân trực
tiếp của Chân Sư Tây Tạng cho một nhóm đệ tử được chọn lựa. Trong bộ , Đức Thầy Tây Tạng đă đưa ra cho chúng ta những ǵ mà bà H.P. Blavatsky
tiên đoán Ngài sẽ đưa ra, đó là ch́a khoá tâm lư học đưa đến Sự Sáng Tạo Vũ Trụ.
H.P.B. phát biểu rằng trong thế kỷ 20, một đệ tử sẽ xuất hiện, người đó sẽ đưa
ra ch́a khoá tâm lư học, cho tác phẩm vĩ đại của chính bà, bộ Giáo Lư Bí Nhiệm,
bộ Luận mà Đức Thầy Tây Tạng đă làm việc với bà; và Alice A. Bailey đă làm việc
bằng sự nhận thức hoàn toàn về công việc của chính bà theo tŕnh tự này.
Tunbridge WeLs Tháng 12 – 1950 Foster Bailey
7. Hieán daâng vôùi loøng tri aân daønh cho Helena Petrovna Blavatsky. Vị Đại Đệ
Tử Đă Thắp Sáng Ngọn Đuốc Của Bà Ở Đông Phương và Mang Ánh Sáng Đến Âu Châu và
Mỹ Châu năm 1875.
8. Trích Phát Biểu của Chân Sư Tây Tạng --***-- Bảo rằng tôi là một đệ tử Tây
Tạng ở một tŕnh độ nào đó, th́ điều này không giúp cho bạn biết ǵ nhiều, v́ lẽ
mọi người đều là đệ tử, từ người t́m đạo thấp thỏi nhất trở đi và lên trên chính
Đức Christ nữa. Tôi sinh hoạt trong một thể xác (c̣n mang xác phàm) giống như
bao người khác, trên các biên giới Tây Tạng, và đôi khi (theo quan điểm ngoại
môn) điều khiển một nhóm lớn các Lạt Ma Tây Tạng khi ít vướng bận vào các nhiệm
vụ. Chính sự việc này khiến người ta đồn đăi rằng tôi là Tu Viện trưởng của Lạt
Ma Viện đặc biệt này. Những ai có hợp tác với tôi trong công việc của Thánh Đoàn
(tất cả các đệ tử đích thực đều hợp tác trong công việc này) c̣n biết tôi bằng
một danh xưng và chức vị khác. A.A.B. biết rơ tôi là ai và nhận ra tôi theo hai
danh xưng của tôi. Tôi là một huynh đệ của các bạn, kẻ đă bước trên Thánh Đạo xa
hơn là đạo sinh bậc trung một ít và do đó đă gánh vác các trách nhiệm lớn lao
hơn. Tôi là kẻ đă đấu tranh và mở đường tiến vào một phạm vi ánh sáng rộng lớn
hơn là người t́m đạo, tức là kẻ sẽ đọc được đoạn này, và do đó, tôi phải hành
động như là kẻ truyền đạt ánh sáng, dù với giá nào. Tôi không phải là kẻ luống
tuổi theo số tuổi thường thấy nơi số các huấn sư, tuy nhiên tôi không non trẻ
hay thiếu kinh nghiệm. Công việc của tôi là giảng dạy và truyền bá tri thức của
Minh Triết Muôn Thuở nơi nào mà tôi có thể t́m được sự đáp ứng, tôi đă đang làm
việc này từ nhiều năm qua. Tôi cũng đă t́m cách để giúp Chân Sư M. và Chân Sư
K.H. khi có cơ hội, v́ từ lâu, tôi đă liên kết với các Ngài và với công việc của
các Ngài. Qua các điều nêu trên, tôi đă nói với bạn nhiều điều, tuy nhiên, đồng
thời tôi không nói với bạn điều ǵ cả, để có thể đưa bạn đến chỗ nghe IX
9. Trích phát biểu của Chân Sư Tây Tạng 9 theo tôi một cách mù quáng và tôn sùng
cuồng nhiệt mà người t́m đạo giàu t́nh cảm bảy tỏ với vị Guru và Chân Sư, Đấng
mà cho đến nay, y chưa có thể giao tiếp được. Người t́m đạo cũng sẽ không tạo
được sự tiếp xúc theo mong ước cho đến khi nào y chuyển ḷng tôn sùng do t́nh
cảm thành việc phụng sự không ích kỷ cho nhân loại - chớ không phải cho Đức
Thầy. Các sách do tôi viết, được đưa ra mà không đ̣i hỏi được chấp nhận. Chúng
có thể đúng hoặc không đúng - hữu ích hoặc không hữu ích. Chính bạn mới có thể
xác nhận sự chính xác của chúng do thực hành đúng và do luyện được trực giác. Cả
tôi lẫn A.A.B. đều không quan tâm bao nhiêu đến việc xem các sách đó như là các
tác phẩm tạo ra do linh hứng, hoặc được người nào đó nói đến chúng (một cách háo
hức) như là công tŕnh của một trong các Đức Thầy. Nếu các sách này tŕnh bày
chân lư theo cách nào mà chân lư đó lại theo đúng tŕnh tự đă được đưa ra trong
các giáo lư trên thế giới, nếu điều tŕnh bày trong các sách đó nâng cao được
đạo tâm và ư chí phụng sự từ cơi t́nh cảm lên cơi trí (là cơi mà các Chân Sư có
thể hoạt động) th́ bấy giờ chúng đă đạt được mục tiêu. Nếu giáo huấn này tạo
được sự đáp ứng nơi các thể trí giác ngộ của kẻ hành đạo trên thế gian và giúp
cho trực giác của y loé sáng, th́ bấy giờ hăy chấp nhận giáo lư đó. Bằng không
th́ thôi. Nếu các phát biểu này đáp ứng với bằng chứng sau rốt hay là được cho
rằng đúng dưới sự thử thách của Định Luật Tương Ứng, bấy giờ chúng mới có giá
trị. Nhưng nếu không được như thế th́ đạo sinh đừng chấp nhận những ǵ đă được
đưa ra. Tháng 8 – 1934 X
10. LỜI NÓI ĐẦU Bộ “ ” này nhắm vào năm mục tiêu: Thứ
nhất: cung cấp một phác thảo thu gọn và ṇng cốt cho một hệ thống về Vũ Trụ học,
triết học và tâm lư học mà có lẽ có thể dùng được cho một thế hệ với cương vị là
một nguồn tham khảo và một sách giáo khoa, và có thể dùng làm một khung sườn mà
theo đó giáo huấn tỉ mỉ hơn có thể được kiến tạo sau này, khi trào lưu vĩ đại
của học thuyết tiến hoá tuôn chảy vào. Thứ hai: để diễn tả những ǵ thuộc nội
tâm bằng các thuật ngữ có thể hiểu được, và để đưa ra giai đoạn tiến tới kế tiếp
trong việc t́m hiểu tâm lư học đích thực. Chính việc giải thích mối liên hệ hiện
có giữa Tinh Thần với Vật Chất, mối liên hệ này biểu lộ dưới h́nh thức tâm thức.
Người ta cũng thấy rằng Bộ Luận này trước tiên bàn đến khía cạnh trí tuệ đến tâm
thức và bàn đến tâm lư học cao siêu, và ít bàn đến vật chất theo như chúng ta
biết về nó trên cơi trần. Nguy hại liên quan đến việc đưa ra thông tin về đủ
loại năng lượng của chất liệu nguyên tử th́ quá lớn, và cho đến nay, nhân loại
c̣n quá ích kỷ không thể giao phó cho các sức mạnh này. Qua công việc có thể có
của các nhà khoa học, con người đă t́m ra tri thức cần thiết với mức nhanh chóng
thích hợp. Trong sách này, tầm quan trọng sẽ được đặt vào các mănh lực này,
chúng chịu trách nhiệm cho sự biểu lộ ra bên ngoài của một Thái Dương Thượng Đế
và của một con người và chỉ trong tiết thứ nhất mà sự chỉ dẫn được đưa ra về bản
chất của các năng lượng này vốn được ràng buộc chặt chẽ vào cơi trần. Thứ Ba:
cho thấy sự phát triển có mạch lạc của tất cả những ǵ được t́m thấy bên trong
một Thái Dương hệ; chứng XI
11. Lời nói đầu 11 minh rằng mọi sự vật đều tồn tại và tiến hoá (từ h́nh hài
thấp nhất của sự sống ở mức kết khối nặng nhất, lên tới biểu lộ bền dai nhất và
cao siêu nhất) và mọi h́nh hài đó chỉ là biểu hiện của một Sự Hiện Tồn kỳ diệu
và thiêng liêng. Sự biểu lộ này được tạo ra bởi sự phối hợp của hai trạng thái
thiêng liêng qua ảnh hưởng của một trạng thái thứ ba, và tạo ra sự biểu lộ mà
chúng ta gọi là một h́nh tướng, thúc đẩy nó bắt đầu chu kỳ tiến hoá của nó trong
thời gian và không gian. Như vậy h́nh hài được tạo ra ở điểm mà nơi đó trở thành
một môi trường thích hợp cho sự biểu hiện của thiên nhiên về những ǵ mà ta gọi
là Thượng Đế. Thứ tư: đưa ra thông tin thực tiễn liên quan đến các điểm tập
trung năng lượng vốn có trong các thể dĩ thái của Thái Dương Thượng Đế, tức Đại
Thiên Địa, và của con người tức Tiểu Thiên Địa. V́ lớp nền bằng chất dĩ thái vốn
là chất liệu thực sự nằm bên dưới mọi dạng thức hữu h́nh quen thuộc, nên một số
cuộc cách mạng lớn lao sẽ được mang lại trong các lănh vực khoa học, y khoa và
hoá học. Chẳng hạn việc nghiên cứu y khoa, sau rốt sẽ được bắt đầu theo một quan
điểm mới và việc thực hành y khoa sẽ được thành lập dựa vào sự hiểu biết về các
định luật phát xạ, các ḍng từ lực và các trung tâm lực nằm trong các thể của
con người và các liên hệ của chúng đối với các trung tâm lực và các luồng thần
lực của Thái Dương Hệ. Thứ năm: đưa ra một số thông tin mà từ trước đến giờ
không được phổ biến ra bên ngoài về vị trí và công việc của vô số các sinh linh
hữu t́nh vốn hợp thành bản thể của biểu lộ ngoại cảnh; nêu ra bản chất của các
Huyền Giai các Đấng Cao Cả, các Ngài tạo ra bằng chính chất liệu của các Ngài
tất cả những ǵ nh́n thấy được và nhận biết được, và các Ngài chính là Linh Hoả
và nguyên nhân của tất cả các hiện tượng
12. 12 về nhiệt, hơi ấm, sự sống và chuyển động trong vũ
trụ. Theo cách này, tác động của Lửa trên Nước, của Nhiệt trong Vật Chất, dù là
xét về mặt đại thiên địa hay tiểu thiên địa, cũng sẽ được giải quyết và một ít
ánh sáng được chiếu rọi vào Định Luật Nhân Quả (Luật Karma) và ư nghĩa của nó
trong Thái Dương hệ. Để tổng kết vần đề, giáo lư trong sách này sẽ có khuynh
hướng đưa đến sự mở rộng về tâm thức, và sẽ mang lại một nhận thức đầy đủ, dưới
h́nh thức một nền tảng tạm đủ, về mặt khoa học lẫn tôn giáo, cho sự giải thích
đó đối với các tiến tŕnh của thiên nhiên vốn được đưa ra cho chúng ta qua các
trí tuệ của Chân Sư thuộc mọi thời đại. Tiến tŕnh đó sẽ có khuynh hướng mang
lại một phản ứng có thiện cảm với một hệ thống triết học, hệ thống này sẽ nối
liền cả về Tinh Thần lẫn Vật Chất, đồng thời chứng minh sự hợp nhất bản thể của
ư niệm về khoa học và tôn giáo. Hiện giờ, cả hai có phần nào tách rời nhau, c̣n
chúng ta chỉ mới bắt đầu ḍ dẫm bằng con đường trí tuệ của chúng ta lối thoát ra
khỏi các hố sâu của cách diễn dịch theo vật chất. Tuy nhiên, đừng nên quên rằng,
dưới Định Luật Tác Động và Phản Tác Động, giai đoạn dài của tư tưởng duy vật đă
là một giai đoạn cần thiết cho nhân loại, bởi v́ thuyết huyền bí của Thời Trung
Cổ (1 ) đă dẫn chúng ta đi quá xa vào hướng ngược lại. Hiện giờ chúng ta đang có
khuynh hướng tiến đến một quan điểm thăng bằng hơn, và người ta hy vọng rằng bộ
luận này có thể tạo thành một phần của tiến tŕnh mà nhờ đó sự thăng bằng được
đạt đến. 1 Thời Trung Cổ (Middle Ages): giai đoạn của lịch sử Châu Âu, kéo dài
từ lúc biến mất Đế quốc La Mă (Năm 476 của Công Nguyên) đến lúc sụp đổ thành
Constantinople (1453). (Tự Điển La Rousse 1995)
13. Lời nói đầu 13 Khi nghiên cứu bộ luận này, đạo sinh nên ghi nhớ vài điều: a.
Đó là khi bàn đến các đề tài này, chúng ta quan tâm tới bản thể (essence) của
những ǵ hiện ra ngoại cảnh, với khía cạnh bên trong của biểu lộ, đồng thời với
việc xem xét về lực và năng lượng. Hầu như không thể rút gọn các quan niệm như
thế thành các công thức cụ thể và diễn tả các quan niệm đó theo một cách sao cho
chúng có thể trở thành hiểu được đối với thường nhân. b. Đó là khi chúng ta dùng
các từ ngữ, các nhóm từ và diễn tả bằng thuật ngữ của cách nói hiện đại, tất
nhiên toàn bộ vấn đề trở nên bị hạn chế và bị làm cho nhỏ lại, v́ lẽ đó nhiều
chân lư bị mất đi. c. Đó là tất cả những ǵ trong bộ luận này được tŕnh bày
trong một tinh thần không giáo điều, mà chỉ với tư cách một đóng góp cho khối ư
tưởng dựa vào chủ đề các cội nguồn thế giới và cho dữ liệu đă được tích luỹ về
bản chất của con người. Điều hay nhất mà con người có thể đưa ra như là một giải
đáp cho vấn đề thế giới, tất yếu phải khoác lấy một h́nh thức kép và sẽ minh
chứng qua một cách sống phụng sự tích cực, có khuynh hướng việc cải thiện các
điều kiện chung quanh và qua một tŕnh bày về một hệ thống vũ trụ nào đó hay kế
hoạch vốn sẽ t́m cách giải thích càng nhiều càng hay về các t́nh trạng như chúng
được thấy hiện hữu. Luận cứ mà con người đưa ra hiện nay đến từ nền tảng của các
nguyên nhân được biết rơ và đă được chứng minh, và bỏ lại các nguyên nhân không
được biết đến hoặc chưa giải thích được, v́ các nguyên nhân ăn sâu này phải được
coi như là đang tạo ra các nguyên nhân đă thấy và biết, mọi giải đáp mà cho đến
nay vẫn thất bại và sẽ tiếp tục thất bại trong mục tiêu của chúng.
14. 14 d. Đó là mọi cố gắng để diễn đạt bằng ngôn từ những
ǵ phải được cảm nhận và c̣n tồn tại (lived) ngơ hầu được hiểu một cách trung
thực, nhất định phải được chứng minh là một đau khổ không cần thiết. Tất cả
những ǵ có thể được nói đến, sau rốt sẽ chỉ là các phát biểu từng phần của Đại
Chân Lư hăy c̣n bị che giấu, và phải được đưa ra cho độc giả và người nghiên cứu
dưới h́nh thức chỉ là một giả thuyết thích hợp và là một giải thích gợi ư. Đối
với nhà nghiên cứu đă mở trí và người đang lưu giữ được hồi ức trong trí rằng
chân lư được tiết lộ từng nấc một, th́ điều hiển nhiên là cách diễn đạt chân lư
đầy đủ nhất chỉ có thể có được vào bất cứ một lúc nào sẽ được nhận ra sau này
chỉ là một phần của một tổng thế, và sau này vẫn c̣n được nhận ra chỉ là các
phần nhỏ của một sự thật và như vậy trong chính nó là một sự lệch lạc của thực
tại. Bộ luận này được đưa ra với hy vọng rằng nó có thể tỏ ra hữu ích cho tất cả
những người đi t́m chân lư có tâm trí mở rộng, đồng thời nó cũng có giá trị cho
tất cả các nhà sưu khảo vào Cội Nguồn bên trong của tất cả những ǵ biểu lộ hữu
h́nh ra bên ngoài. Nó nhắm vào việc cung cấp một kế hoạch hợp lư thuộc cơ tiến
hoá của Thái Dương Hệ và nhắm vào việc nêu ra cho con người cái phần mà con
người phải tham dự với tư cách một đơn vị nguyên tử trong một Tổng Thể vĩ đại và
có kết hợp. Trong công cuộc xoay chuyển bánh xe tiến hoá, đoạn này của Giáo Lư
Bí Nhiệm xuất hiện trước thế gian mà không đ̣i hỏi nào về cội nguồn của nó, hiệu
quả tuyệt đối của nó hoặc là độ chính xác trong chi tiết của các phát biểu của
nó. Không một quyển sách nào lấy được bất cứ ǵ từ các đ̣i hỏi hoặc các tuyên
ngôn có tính cách giáo điều đối với giá trị thẩm quyền của cội nguồn đem lại
linh hứng của nó. Nó sẽ đứng vững hoặc là rơi một ḿnh vào cái nền tảng của
chính XV
15. Lời nói đầu 15 cái giá trị tồn tại bên trong của chính nó, dựa vào giá trị
của các gợi ư được tạo ra, và sức mạnh của nó để thúc đẩy sự sống tâm linh và sự
thấu hiểu về mặt trí tuệ của người đọc. Nếu bộ luận này có trong nó bất cứ chân
lư nào và bất cứ sự thực nào, th́ nó sẽ làm tṛn công việc của nó một cách hiển
nhiên và tất yếu, ấy là mang được thông điệp của nó, và như vậy đến được tâm và
trí của các nhà t́m kiếm chân lư ở khắp nơi. Nếu nó không có được chút giá trị
nào, và không có được căn bản sự thật nào, th́ nó sẽ không c̣n hiện hữu nữa và
sẽ chết, hiển nhiên là thế. Tất cả những ǵ được đ̣i hỏi từ nơi nhà nghiên cứu
bộ luận này, là một sự tiếp cận với tinh thần đồng cảm, một sự sẵn ḷng xem xét
các quan điểm được đưa ra cùng với sự trung thực và thành tâm về tư tưởng, nó sẽ
có khuynh hướng đưa đến sự phát triển trực giác, đến sự chẩn đoán thiêng liêng,
và một sự phân biện vốn sẽ đưa đến việc bác bỏ điều giả và chấp nhận điều chân.
Ở đây, các lời của Đức Phật được đánh giá cao sâu nhất, có được chỗ đứng của nó,
và trở thành một kết luận thích hợp cho các nhận xét mở đầu này : Đức Phật có
nói: Rằng chúng ta đừng nên tin vào một điều ǵ được nói ra chỉ v́ nó được nói
mà thôi; đừng tin vào các truyền thống v́ chúng đă được truyền xuống từ thời xa
xưa; đừng tin vào các đồn đăi như thế; cũng không tin vào các câu viết của các
vị thánh, v́ các thánh đó đă viết ra các câu ấy; cũng đừng tưởng rằng chúng ta
có thể nghi ngờ khi được một Thiên Thần gợi hứng nơi chúng ta (nghĩa là, trong
những ǵ được cho là có chứa hứng cảm tâm linh); cũng đừng tin vào các suy đoán
được rút ra từ một giả định không cẩn trọng nào đó mà chúng ta có thể đưa ra;
cũng như không v́ những ǵ có vẻ như một sự tương đồng tất yếu; cũng không chỉ
dựa vào
16. 16 thẩm quyền của các huấn sư hoặc các bậc thầy của
chúng ta. Nhưng chúng ta phải tin khi nào bài viết, lư thuyết hoặc châm ngôn
được chứng thực bằng chính lư lẽ và ư thức của chúng ta. Để kết luận, Ngài nói:
“V́ lẽ đó, ta khuyên con đừng nên tin chỉ v́ con đă nghe, mà hăy nên tin vào ư
thức của con, rồi hăy hành động cho thật phù hợp với điều đă biết”. Giáo Lư Bí
Nhiệm II, 401 Mong cho đây là thái độ của mọi độc giả của Bộ “ ” này. Alice A. Bailey Ghi chú: Các cước chú của toàn thể Bộ Luận này, Bộ
“Giáo Lư Bí Nhiệm” của bà H.P.Blavatsky, có ghi rơ bằng các chữ đầu S.D. Các
trang qui chiếu thuộc về “Ấn bản Thứ ba có duyệt lại” Minh giải của người dịch
về tựa sách Sở dĩ chữ “cosmic” ở đây được dịch ra “Càn Khôn là v́ theo vua Phục
Hi (Fohi), quẻ Càn ( ) tượng trưng trời, quẻ Khôn ( ) tượng trưng đất. Đây là vũ
trụ, trong có chứa bầu trời và trái đất của chúng ta, tức là Vũ trụ thu hẹp
trong Thái Dương Hệ của chúng ta, khác với vũ trụ bao la, có đến 100 tỉ thiên
hà, mỗi thiên hà chứa ít nhất 100 tỉ mặt trời (Giai Điệu Bí Ẩn của Trịnh Xuận
Thuận, nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật, Hà Nội, 2000). Quả vậy, các sự việc được
Chân Sư D.K bàn đền trong BỘ Luận này hầù hết chỉ nằm trong phạm vi Thái Dương
Hệ chúng ta mà thôi. XVI
17. LỬA “Giáo lư nội môn nói ǵ về Lửa ?” Lửa là h́nh ảnh hoàn hảo nhất và không
bị pha trộn, trên Trời cũng như dưới thế, của Ngọn Linh Hoả Duy Nhất. Đó là sự
sống và cái chết, Cội nguồn và Kết thúc của mọi đối tượng vật chất. Đó là Chất
Liệu Thiêng Liêng”. Giáo Lư Bí Nhiệm I, 146. Địa cầu của chúng ta và con người
chúng ta đều là sản phẩm của Ba Loại Lửa. GLBN
I, 258. Lửa và Ngọn Lửa huỷ diệt
thân thể của một La Hán; tinh hoa của các Ngài biến Ngài thành bất tử. GLBN I,
35 Ba Loại Lửa I. Lửa Bên Trong hay Lửa do Ma Sát “Có nhiệt bên trong và nhiệt
bên ngoài trong mọi nguyên tử, hơi thở của Cha (Tinh Thần) và hơi thở (hay
nhiệt) của Mẹ (vật chất) “ GLBN I, 112 I. Lửa của Trí Tuệ hoặc Lửa Thái Dương
“Lửa tri thức đốt hết mọi hành động trên cơi trần của ảo tưởng, do đó những
người có được Lửa đó và được giải phóng th́ được gọi là “Lửa”. GLBN I , 114
II.
Lửa Tinh Thần hay Lửa Điện “Hỡi đệ tử, hăy ngẩng cao đầu, ngươi sẽ thấy ánh sáng
duy nhất hoặc vô số ánh sáng bên trên ngươi, đang bừng cháy trong bầu trời tối
đen nửa đêm hay không?” “Hỡi Thiên Thần Đạo Sư, con cảm nhận được Ngọn Lửa duy
nhất; con thấy vô số linh quang tách rời đang chiếu sáng trong đó”. GLBN I, 145
18.
MỤC LỤC
Trang (Anh ngữ) Các định đề mở đầu
.3 Các Đoạn Thiền
Kinh
.11 Tiết Một Các
Nhận Xét Mở Đầu
.37 I.
Lửa trong Đại Thiên Địa
.37 I.
Lửa trong Tiểu Thiên Địa
.45 II.
Lửa trong Biểu Lộ
.48 Đoạn A . Lửa Nội Tại
của các Thể
.55 I. Ba Vận Hà
.55 I.
Hoả tinh linh và Hoả Thiên Thần
.65 Đoạn B. Cung
Phàm Ngă và Lửa Thứ Nhất
.69 I. Công việc của ba cung I. Cung
phàm ngă và các nguyên tử thường tồn
.71 II. Cung phàm ngă và Luật
Nghiệp quả
73 Đoạn C. Thể Dĩ Thái và Prana
.77 I. Bản chất của thể dĩ thái
.77 1. Mục đích thể dĩ thái – Mô tả
.78 2. Tám phát biểu
.81 I. Bản chất của Prana
.87 1. Prana thái dương
.90 2. Prana hành tinh
.91 3. Prana của h́nh hài
.93 II. Chức năng của thể dĩ thái
.97 1. Đó là nơi tiếp nhận prana
.97 2. Đó là nơi đồng hoá prana
.99 3. Đó là nơi truyền prana
.101 4. Các xáo trộn của thể dĩ thái
Dĩ thái trong Đại Thiên Địa và Tiểu Thiên Địa
.
111
1. Hành Tinh Thượng Đế và các dĩ thái .
111 2. Dĩ thái vũ trụ
và thái dương hệ
.116 3. Mục đích che chở của thể
dĩ thái
.122 V. Sự chết và thể dĩ thái
.128 Đoạn D – Kundalini và xương sống
.134 I. Kundalini và ba tam giác
.135 1. Trong đầu
.135 2. Trong cơ thể
.135 3. Ở chót xương sống
.135 I. Việc đi lên của Kundalini
.139 Đoạn E - Chuyển động trên cơi trần
và cơi cảm dục .
141 I. Các nhận xét mở đầu
.141 I. Các hiệu quả của chuyển động
quay
.152 II. Các tính chất của chuyển động quay
.157 IV. Chuyển động quay và biểu tượng học
.
159 V. Chuyển động và các trung tâm lực
.161 1. Bản chất các trung tâm lực
.163 2. Các trung tâm lực và các cung
.173 3. Các trung tâm lực và Kundalini
.183 4. Các trung tâm lực và các giác quan
.185 5. Các trung tâm lực và điểm đạo
.207 Đoạn F - Định Luật Tiết Kiệm
.214 I. Hiệu quả của Định Luật Tiết Kiệm
trong vật chất .
214 I. Các định luật phụ của Định Luật Tiết Kiệm
.219 1. Định Luật Rung Động
.219 2. Định Luật Thích Nghi
.219 3. Định Luật Đẩy
. 219 4. Định Luật Ma Sát
. 219 Tiết Hai
20. 20 Các câu hỏi mở đầu
.223 I. Liên hệ ǵ của Con với
Mặt Trời ?
.225 I. Sự tiến hoá là ǵ và nó nối
tiếp như thế nào? .
231 II. Tại sao Thái Dương hệ tiến hoá theo
đường lối nhị nguyên ?
.
237 IV. Tâm thức là ǵ và vị trí của nó trong hệ thống là ǵ?.
243 V. Có sự
tương đồng trực tiếp giữa một Thái dương hệ, một hành tinh, một con người và một
nguyên tử hay không ?.
245 VI. Trạng thái trí tuệ là ǵ ? Ai là con của Trí Tuệ
?
. 259 VI. Tại sao có sự tiến hoá theo chu kỳ ?
.
273 VII. Tại sao có sự hiểu biết cả công truyền và bí truyền ?.
285 IX. Mối
liên hệ ǵ giữa: a/ 10 hệ thống- b/ 7 hành tinh thánh thiện- c/ 7 dăy trong một
hệ thống – d/ 7 bầu hành tinh trong một dăy – e/ 7 cuộc tuần hoàn trên một bầu
hành tinh – f/ 7 căn chủng và phụ chủng. Đoạn A - Bản chất của Manas hay là Trí
Tuệ
.308 I. Ba biểu lộ của trí tuệ
.308 I. Vài định nghĩa của Manas hay trí
tuệ
.309 1. Manas là nguyên khí thứ năm
.309 2. Manas là điện
.310 3. Manas là cái tạo ra sự cố kết
.332 4. Manas là ch́a khoá đưa đến giới
thứ 5 trong thiên nhiên
.334
5. Manas là tổng hợp của 5 cung
. 336 6. Manas
là Ư chí thông tuệ hay thiên ư của một Đấng
337 Đoạn B. Manas dưới h́nh thức một
yếu tố vũ trụ, thái dương hệ và con người.
. 342 I. Cội nguồn của
manas hay trí tuệ
.343 1. Manas vũ trụ
.343 a. Tiến tŕnh
biệt ngă hoá
b. Phương pháp khai mở
.348 2. Manas hành tinh
.350 a. Tâm thức và sự hiện tồn
.350 b. Ư chí và thiên cơ an bài
.353 3. Manas con người
.355 a. Con người và Hành Tinh Thượng Đế
.356 b. Thượng Đế của hệ thống Địa cầu
.360 c. Kim Tinh và dăy Địa cầu
.367 4. Manas và dăy Địa Cầu
.378 a. Dăy Địa cầu và các Chân Thần lâm phàm
.379 b. Giới thứ tư và Huyền Giai Hành Tinh
.386 c.
Một tiên đoán
.389 d. Tóm tắt
.393 I. Vị thế của Manas
.395 1. Manas và Karma
.395 2. Manas và mục tiêu nghiệp quả
.397 II. Giai đoạn hiện tại của sự phát triển
manas
.401 1. Trong các hành tinh
.402 2. Trong hệ thống
.408 3. Trên Địa Cầu
.412 IV. Tương lai của manas
.417 1. Các đặc điểm của manas hay trí tuệ
.418 a. Sự phân biện
.418 b. Hoạt động đă an bài
.421 c. Tính thích nghi
.423 2. Phát triển của trí người
.424 a. Hiệu quả của cung
.427 b. Con vật, con người và các cung
.457 c. Loại nghiệp quả
.469 3. Manas trong các cuộc tuần hoàn cuối
22. 22 a. Tiến tŕnh chuyển hoá
.475 b. Tổng hợp
.498 Đoạn C . Cung Chân Ngă và Lửa Thái
Dương
.504 I. Bản chất của thể Chân Ngă hay thể nguyên nhân
.505 1.
Hợp thành bởi sự tiếp xúc của hai Lửa
.505 2. Được tạo ra vào
lúc biệt ngă hoá
.506 I. Bản chất của các nguyên
tử thường tồn
.507 1. Mục tiêu của chúng
.507 2. Vị trí của chúng trong thể Chân
Ngă
510 a. Nguyên tử thường tồn thể t́nh cảm
.510 b. Tam giác nguyên tử
.513 3. Loa tuyến và cung chân ngă
.515 a. Thành phần của nguyên tử thường
tồn
.515 b. Các cơi và năng lượng Lửa
.518 c. Ba loại Lửa
.522 4. Tóm lược
.530 II. Hoa Sen Chân Ngă
.536 1. Luân Xa hay các trung tâm năng
lượng
.537 a. Các trung tâm lực
.537 b. Thể nguyên nhân
.538 2. Hoa Sen mười hai cánh
.538 a. Ba cánh hoa kiến thức
.539 b. Ba cánh hoa bác ái
.540 c. Ba cánh hoa hy sinh
.541 3. Tóm lược Đoạn D – H́nh tư tưởng
và Hoả tinh linh
.550 I. H́nh tư tưởng
.551 1. Chức năng của h́nh tư tưởng
.551 a. Đáp ứng với rung động
.552 b. Cung cấp các hiện thể cho các ư
tưởng .556
23. Mục lục 23 c. Thi hành các mục tiêu đặc biệt
.560 2. Các định luật về tư tưởng
.567 a. Ba định luật cấp vũ trụ
.567 b. Bảy định luật cấp thái dương hệ
.569 I. Các h́nh tư tưởng và thiên thần
.601 1. Thần cai quản Lửa, Agni
.601 a. Agni và Thái Dương Thượng Đế
.601 b. Agni và cơi trí
.604 c. Agni và ba loại Lửa
.606 2. Hoả thiên thần, các vị Kiến Tạo
Vĩ Đại
.612 a. Các phát biểu mở đầu
.612 b. Chức năng của các thiên thần
.620 c. Thiên thần và các cơi
.627 3. Các Thái Dương Thiên Thần, các
AgnishvaTas
.679 Dẫn nhập
.679 A. Về nguyên khí thứ năm
.689 a. Xét về mặt vũ trụ
.689 b. Xét về mặt vật hoạt luận
.693 c. Thái Dương Thiên Thần và Nguyên Khí
thứ Năm
.698
B. Về sự biệt ngă hoá
.707 a. Công việc của
Thái Dương Thiên Thần
.707 b. Biệt ngă hoá và các giống dân
.714 c. Phương pháp biệt ngă hoá
.717 d. Các Avatara, bản chất và công việc
của các Ngài
721 e. Biệt ngă hoá, một h́nh thức điểm đạo
.729
C. Về sự luân hồi
.732 a. Luân hồi về mặt vũ
trụ, hành tinh và con người
732 b. Bản chất của chu kỳ qui nguyên
.734 c. Các kiểu mẫu luân hồi của con người
.744
24. 24 d. Sự tái lâm sau này của Đấng Avatar
.747 e. Sự thôi thúc và sự luân hồi
.760 f. Hoạt động của các Pitris
.773 g. Công việc kiến tạo h́nh hài
.783 h. Luân hồi và Karma
.791 D. Về việc kiến tạo thể nguyên nhân
.807 a. Các nhận xét mở đầu
.807 b. Tiến hoá của các cánh hoa
.816 c. Các tên gọi của hoa sen chân ngă
.840 d. Các cánh hoa và các trung tâm lực dĩ thái
.857 e. Điểm đạo và các cánh hoa
.868
4. Hoả tinh linh, các nhà kiến tạo thứ yếu
.887 a. Mở đầu
.887 b. Các tinh linh cơi trần
.889 c. Tinh linh và các dĩ thái
.910 d. Tinh linh và tiểu thiên địa
.936 II. Con người, một kẻ sáng tạo trong chất
trí
.947 1. Sáng tạo các h́nh tư tưởng
.947 2. Tạo ra h́nh tư tưởng trong ba cơi thấp
.958 IV. Con người và các hoả chơn linh
.963 1. Trạng thái ư chí và sự sáng tạo
.963 a. Điều kiện của nhà huyền thuật
964 b. Xây dựng các h́nh tư tưởng
.968 c. Ư nghĩa huyền linh của ngôn từ
.977 2. Bản chất của huyền thuật
.982 a. Ma thuật và huyền linh thuật
.984 b. Cội nguồn của ma thuật
.989 c. Các điều kiện đối với huyền linh thuật
.993 3. Mười lăm qui luật cho huyền thuật
.996 a.
Sáu qui luật đối với cơi trí
25 b. Năm qui luật đối với cơi cảm dục
.1008 c.
Bốn qui luật đối với cơi trần
.1021 Đoạn E - Chuyển
động trên cơi trí
.1027 I. Các nhận xét mở đầu
.1027 I. Bản chất của chuyển động này
.1032 II. Các kết quả hoạt động của nó
.1039 1. Định luật về sự mở rộng
.1040 2. Định luật về sự trở về của Chân Thần
.1046 3. Định Luật về sự tiến hoá thái dương
.1054
4. Định Luật về bức xạ
.1060 IV. Sự trở lại
của bánh xe
.1083 V. Chuyển động và
khía cạnh kiến tạo h́nh hài 1. Chuyển động và thể trí 2. Chuyển động trong thể
nguyên nhân
.1109 VI. Các hậu quả của chuyển động tổng hợp
.1128 1. Các nhận xét mở đầu
.1128 2. Nguyên nhân của biểu lộ có chu kỳ
.1132 3. Tạo ra khoen nối h́nh tam giác
.1152 4. Tạo ra mối liên hệ giữa ba trung tâm lực
.1155 Đoạn F - Định Luật Hút
.1166 I. Các định luật phụ
.1168 1. Định Luật về
Ái Lực Hoá học
.1168 2. Định Luật về Tiến Bộ
.1168 3. Định Luật về Tính Dục
.1168 4. Định Luật về Từ Điển
.1169 5. Định Luật về Phát xạ
.1170 6. Định Luật về Liên
Hoa
1171 7. Định Luật về Màu sắc
1171 8. Định Luật về Trọng Lực
.1172 9. Định Luật về Ái Lực Hành Tinh
.1172
26. 26 10. Định Luật về Hợp Nhất Thái Dương
.1173
11. Định Luật về các Trường Phái
.1173 I. Các
hậu quả của Luật Hút
.1185 1. Sự liên
kết
.1185 2. Tạo
h́nh tướng
.1186 3. Sự
thích nghi của h́nh hài với sự sống
.1188 4. Sự hợp nhất tập thể
.1211 II. Các liên hệ của nhóm
.1213 1. Ba liên hệ về nguyên tử
.1215 2. Bảy định luật cho công việc tập thể
.1216 3. Hai mươi mốt phương pháp tương tác
.1222 Tiết Ba Lửa Điện của Tinh Thần Đoạn A. Một vài nguyên tác
cơ bản
.1229 Đoạn B. Bản chất Bảy Vũ Trụ Đạo
.1241 Đoạn C. Bảy Đoạn Kinh huyền bí
CÁC LƯỢC ĐỒ 1. Tiến hoá của vật chất trang 56 2. Thượng Đế của một Thái dương hệ
94 3. Cấu tạo của con người 117 4. Pleroma 226 5. Tiến hoá của một Thái Dương
Thượng Đế 344 6. Đồ h́nh thất phân của Thái Dương 373 7. Hệ thống địa cầu 385 8.
Hoa sen Chân ngă và các trung tâm lực 817 9. Hoa sen Chân ngă 823 10. Khoa học
về tham thiền 961
27 11. Nguyên tử 1181 12. Parabrahm 1230 13. Huyền giai Thái dương
và Hành tinh 1238 Bảng biểu nguyên trang 1. Lửa và các trạng thái trang 42 2.
Tiến hoá trong Vũ trụ 293 3. Các Trạng Thái và Sự Tiến Hoá 444 4. Các Thực Thể
Thông Linh Kiến Tạo 565 5. Hoả Tinh Quân 607 6. Các Sinh Linh và mục tiêu 844 7.
Các Năng Lượng
1187
28. CÁC ĐỊNH ĐỀ MỞ ĐẦU Giảng
huấn được đưa ra trong bộ “ ” này có thể được phát biểu trong
các thuật ngữ sau. Các định đề này chỉ là các quăng diễn về ba điểm căn bản ở
trong lời tựa của quyển I bộ Giáo Lư Bí Nhiệm (The Secret Doctrine) của bà H.P.
Blavatsky. Đạo sinh được khuyến cáo nên nghiên cứu chúng một cách thận trọng;
bằng cách đó, việc t́m hiểu của đạo sinh về bộ Luận này sẽ được trợ giúp rất
nhiều. I. Có một Bản Nguyên Vô Hạn Bất Di Dịch (Boundless IMutable Principle);
một Thực Tại Tuyệt Đối vốn có trước mọi Đấng biểu lộ hữu hạn. Bản Nguyên đó vượt
ngoài tầm và phạm vi hiểu biết của bất luận ư tưởng hay cách diễn đạt nào của
con người. Vũ trụ biểu lộ được chứa đựng trong Thực Tại Tuyệt Đối này và là một
biểu tượng có hạn định của Thực Tại Tuyệt Đối đó. Trong toàn thể Vũ Trụ biểu lộ
này, có ba trạng thái được nhận thức. 1. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Một, vô ngă và vô
hiện, có trước Vũ Trụ Biểu Lộ. 2. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Hai, Tinh Thần -Vật
Chất, Sự Sống, Tinh Thần của Vũ Trụ. 3. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Ba, Thiên Ư Hồng
Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Đại Đồng.
Từ các nguyên lư sáng tạo căn bản này, trong phát
triển kế tiếp, có xuất phát theo tŕnh tự được an bài. Vô số Vũ Trụ gồm hằng hà
sa số các Tinh Tú Biểu Lộ và các Thái Dương Hệ. Mỗi Thái Dương hệ là sự biểu lộ
của năng lượng và sự sống của một Đấng Vũ Trụ vĩ đại, Đấng mà v́ thiếu một danh
xưng hoàn hảo hơn, chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế. Thái Dương Thượng đế
lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian của một Thái Dương Hệ. Thái Dương hệ này là
xác thể hay sắc tướng của Đấng Vũ Trụ và chính Đấng này tam phân (itself
triple). Thái Dương hệ tam phân này có thể được mô tả bằng tên gọi có ba trạng
thái (three aspects), hay là (theo như Thần học Cơ Đốc giáo) là ba Ngôi (three
Persons). LỬA ĐIỆN hay TINH THẦN Ngôi Một: Chúa Cha, Sự Sống. Ư chí. Thiên Ư.
Năng lượng dương LỬA THÁI DƯƠNG hay LINH HỒN Ngôi Hai: Chúa Con. Tâm Thức. Bác
Ái Minh Triết. Năng lượng thăng bằng. LỬA do Ma Sát hay Xác Thể hay Vật Chất.
Ngôi Ba: Chúa Thánh Thần. Sắc tướng. Thông tuệ hoạt động. Năng lượng âm. Mỗi
Ngôi lại biểu lộ tam phân, do đó tạo ra 9 tiềm lực (potencies) hay Phân thân. 9
Sephiroth. 9 nguyên nhân Điểm Đạo. Các Ngôi này, với toàn thể biểu lộ hay Tổng
Thể, tạo ra 10 của biểu lộ hoàn hảo hay Con Người hoàn thiện. 4
Ba trạng thái của Tổng Thể này hiện diện trong mỗi
sắc tướng. a. Thái dương hệ tam phân, biểu lộ qua ba Ngôi nói trên. b. Một con
người cũng tam phân, biểu lộ thành Tinh Thần, Linh Hồn và Xác thể, hay Chân
Thần, Chân Ngă và Phàm Ngă. c. Nguyên tử của nhà khoa học cũng tam phân, được
tạo thành bằng một nhân dương, các âm điện tử và toàn thể sự biểu lộ bên ngoài
kết quả của sự liên lạc của hai thành phần kia. Ba trạng thái của mỗi h́nh hài
đều có liên quan hỗ tương và có thể trao đổi nhau (intercourse), v́ a. Năng
lượng ở trạng thái chuyển động và tuần hoàn. b. Mọi h́nh hài trong Thái dương hệ
đều là một phần tử của Tổng Thể và không phải là các đơn vị biệt lập. c. Đây là
nền tảng của t́nh huynh đệ, của sự thông công của các Thánh và của chiêm tinh
học. Ba trạng thái này của Thượng Đế, tức Thái Dương Thượng Đế, và Năng Lượng
Trung Ương hay Thần Lực (v́ các tên gọi đều đồng nghĩa về phương diện huyền
linh) biểu lộ xuyên qua bảy trung tâm lực – 3 trung tâm lực chính yếu và 4 trung
tâm lực thứ yếu. Bảy trung tâm này của Thiên Lực được tạo nên để hợp thành các
Thực Thể Thông Linh kết hợp. Các Đấng này được biết dưới danh xưng: a. Bảy Hành
Tinh Thượng Đế. b. Bảy Tinh Quân trước Thiên Toà. c. Bảy Cung (Rays). d. Bảy
Thiên Đế (Heavenly Men). 5
Bảy Hành Tinh Thượng Đế là hiện thân của 7 loại thần
lực khác nhau và trong Bộ Luận này được nói đến dưới danh hiệu là các Huyền Cung
Tinh Quân (Lords of the Rays). Tên gọi của các Cung là: Cung I : Cung Ư Chí hay
Quyền Năng Ngôi Một Cung I : Cung Bác Ái Minh Triết Ngôi Hai Cung
II : Cung
Trí Tuệ Hoạt Động Ngôi Ba Đây là các Cung chính yếu. Cung IV : Cung Hài Hoà, Mỹ
Lệ và Nghệ Thuật. Cung V : Cung Kiến Thức Cụ thể hay Khoa Học. Cung VI : Cung
Sùng Tín hay Lư Tưởng Trừu Tượng. Cung VI : Cung Nghi Lễ Huyền Thuật hay Trật
Tự. I. Có một định luật căn bản được gọi là Định Luật Chu Kỳ (Law of
Periodicity). 1. Định luật này chi phối mọi biểu lộ, dù là biểu lộ của một Thái
Dương Thượng Đế qua một Thái Dương hệ, hay là biểu lộ của con người qua h́nh
hài. Định luật này cũng kiểm soát trong mọi giới của thiên nhiên. 2. Có một số
định luật khác trong Thái Dương Hệ được liên kết với định luật này; một số định
luật đó như sau : a. Định luật Tiết Kiệm (Law of Economy)… định luật chi phối
vật chất, Ngôi Ba. b. Định luật hấp dẫn (Law of ATraction)… định luật chi phối
Linh hồn, Ngôi Hai. c. Định luật Tổng hợp (Law of Synthesis)… định luật chi phối
tinh thần, hay Ngôi Một. 3. Ba định luật này là định luật vũ trụ. Có 7 định luật
thuộc Thái Dương Hệ đang chi phối sự biểu lộ của Thái Dương Thượng Đế chúng ta:
a. Định luật Rung động (Law of Vibration) 6
b. Định luật Kết hợp (Law of Cohesion) c. Định luật
Phân tán (Law of Disintegration) d. Định luật Kiểm soát Từ điển (Magnetic
Control) e. Định luật Qui định (Law of Fixation) f. Định luật Bác Ái (Law of
Love) g. Định luật Hy sinh và Tử Vong (Law of Sacrifice and Death) 4. Mỗi một
trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một cơi này, hoặc cơi khác trong 7
cơi của Thái dương hệ. 5. Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cơi có chu
kỳ biểu lộ và chu kỳ qui nguyên của nó. 6. Mỗi sự sống biểu lộ đều có 3 chu kỳ
lớn : Khai sinh (Birth) Linh hoạt (Life) Tử Vong (Death) Xuất hiện Tăng trưởng
Biến mất Giáng hạ tiến hoá Thăng thượng tiến hoá Qui nguyên Bất động Hoạt động
Chuyển động nhịp nhàng Sự sống tĩnh tại Sự sống sinh động Sự sống nhịp nhàng 7.
Việc hiểu biết về các chu kỳ bao gồm việc hiểu biết về con số, âm thanh và màu
sắc. 8. Chỉ có các Chân Sư hoàn thiện mới có được sự hiểu biết đầy đủ về bí
nhiệm của các chu kỳ. II. Mọi linh hồn đều tương tự với Đại hồn (Oversoul). 1.
Thượng Đế của Thái dương hệ là Đại thiên địa (Macrocosm). Con người là Tiểu
thiên địa (Microcosm). 2. Linh hồn là một trạng thái của mỗi h́nh hài của sự
sống từ một Thượng Đế đến một nguyên tử. 7
. Sự liên quan giữa mọi linh hồn với Đại Hồn tạo
thành nền tảng cho sự tin tưởng khoa học vào t́nh huynh đệ. T́nh huynh đệ là một
sự thực trong thiên nhiên chớ không phải là một lư tưởng. 4. Định luật Tương Ứng
sẽ giải thích các chi tiết của mối liên quan này. Định luật Tương Ứng hay Tương
Đồng này là định luật giải thích của Thái dương hệ và giải thích Thượng Đế cho
con người. 5. Giống như Thượng Đế là Đại thiên địa đối với mọi giới trong thiên
nhiên, cũng thế con người là Đại thiên địa đối với mọi giới dưới nhân loại. 6.
Mục tiêu tiến hoá của nguyên tử là ngă thức như được minh hoạ trong giới nhân
loại. Mục tiêu tiến hoá của con người là tập thể thức như được tiêu biểu bởi một
Hành Tinh Thượng Đế. Mục tiêu đối với Hành Tinh Thượng Đế là Thiên Thức / Thượng
Đế thức (God consciousness), như được tiêu biểu bởi Thái Dương Thượng Đế. 7.
Thái Dương Thượng Đế là toàn thể mọi trạng thái tâm thức trong Thái dương hệ.
34. CÁC ĐOẠN THIỀN KINH (DZYAN) Đoạn kinh I Bí nhiệm của Linh Hoả ẩn
tàng trong chữ thứ hai của Thánh Ngữ. Bí mật của sự sống được ẩn giấu trong tim.
Khi điểm hạ đẳng rung động, khi tam giác thánh thiện toả chiếu, khi linh điểm,
điểm giữa và chóp đỉnh, nối tiếp và ṿng quanh Linh Hoả, khi ba chóp đỉnh cùng
bùng cháy, lúc đó hai tam giác - cả lớn và nhỏ - hoà nhập thành một ngọn lửa duy
nhất thiêu đốt tổng thể. Đoạn kinh II ((SSTANzzA II)) Đấng Đại Hùng thốt ra và
ngân lên Linh Từ “AUM”. Bảy làn sóng vật chất tự dung giải và các h́nh hài đa
dạng xuất hiện. Mỗi h́nh hài chiếm vị trí của nó, mỗi h́nh hài ở trong cơi ấn
định. Chúng chờ đợi triều nước thiêng để tiến nhập và lấp đầy. Các Đấng Kiến Tạo
đáp ứng với linh âm. Trong sự hợp tác êm ái, các Ngài chờ lúc hành động. Các
Ngài kiến tạo trong nhiều cơi, bắt đầu bằng cơi thứ ba. Trên cơi này, công việc
của các Ngài đă bắt đầu. Các Ngài kiến tạo linh thể (sheath of atma) và kéo dài
nó đến cái Nguyên Sơ của nó. Đấng Đại Hùng thốt ra “AUM, giờ đây hăy để công
việc nối tiếp. Hăy để các Đấng Kiến Tạo của không trung tiếp tục kế hoạch”. Đại
Thiên Thần và các Đấng Tạo Tác trên cơi không (plane of air) hoạt động với các
h́nh hài bên trong cơi đó vốn được kể như là cơi chủ yếu của các Ngài. Các Ngài
hành động cho sự hợp nhất, mỗi Ngài ở trong nhóm đă định.
Các khuôn mẫu trở nên vững vàng dưới bàn tay các Ngài. Cơi nối tiếp thiêng
liêng, cơi lớn thứ tư, trở thành cơi trong ṿng tṛn lớn đánh dấu mục tiêu cho
con người. Đấng Đại Hùng thốt ra “AUM”, Ngài truyền sinh khí cho cơi thứ năm,
cơi vốn là vùng đất nóng, chỗ gặp gỡ của Lửa. Lần này một nốt vũ trụ được nghe
thấy bên dưới âm thanh của thái dương hệ. Lửa trong, lửa ngoài, gặp gỡ với lửa
đang lên. Vị canh giữ Lửa vũ trụ, thiên thần của nhiệt từ Fohat bao giờ cũng
trông chừng h́nh hài đang ở t́nh trạng vô dạng thức, đang chờ đúng thời cơ. Các
vị tạo tác cấp thấp, tức các thiên thần đang hoạt động với vật chất, chế tác các
h́nh hài. Các Ngài đứng ở đẳng cấp thứ tư. Trên các cơi thứ ba là các h́nh hài ở
trong im lặng trống không. Các Ngài rung động, các Ngài đáp ứng với chủ âm, tuy
đứng đó một cách vô dụng và bỏ không. Đấng Đại Hùng phán bảo : “AUM, nước hăy
tuôn ra”. Các thần kiến tạo của cơi nước, các cư dân của ẩm ướt, tạo ra các h́nh
hài để di chuyển trong thiên giới của Đại Thuỷ Thần (Varuna). Các vị này phát
triển và tăng bội lên. Các Ngài tác động vào ḍng chảy bất biến. Mỗi thuỷ triều
của chuyển động vũ trụ làm tăng lên ḍng chảy không ngừng. Cơn gợn sóng của các
h́nh hài được nhận ra. Đấng Đại Hùng phán bảo: “AUM, hăy để cho các Thần Kiến
Tạo xử trí với vật chất”. Chất chảy ra đông đặc lại. H́nh hài rắn đặc được tạo
thành. Lớp vỏ nguội lại. Nham thạch rắn đặc lại. Thần tạo tác hoạt động trong
xáo trộn để tạo ra các dạng hăo huyền. Khi các lớp đá được làm xong, công việc
trở nên hoàn tất. Các thần kiến tạo cấp thấp nhất báo tin công việc kết thúc. 13
Từ lớp nham thạch lộ ra lớp phủ kế tiếp. Các thần
kiến tạo cấp hai đồng ư với công việc được làm xong. Thần kiến tạo thứ nhất và
thứ hai trên con đường hướng thượng đứng về phía trước trong sắc tướng tứ phân.
Năm vị bên trong được nh́n thấy một phần nào bởi kẻ có nhăn quang sắc bén.
“AUM”, Đấng Đại Hùng thốt ra và gom lại trong Hơi Thở (Breath) của Ngài. Linh
quang bên trong giống dân thứ ba được thôi thúc phát triển thêm. Các thần kiến
tạo h́nh hài thấp nhất vận dụng cái hăo huyền dày đặc nhất phối trộn sản phẩm
của họ với các h́nh hài được tạo ra bằng các sản phẩm chứa nước. Vật chất và
nước hoà lẫn tạo ra sản phẩm thứ ba vào đúng thời điểm. Việc thăng lên tiến
triển như thế. Các thần kiến tạo làm việc trong sự thống nhất. Các Ngài kêu gọi
các vị canh giữ vùng đất nóng cháy. Vật chất và nước trộn lại với lửa, tia lửa
thiêng bên trong h́nh hài được trộn lẫn hoàn toàn. Đấng Đại Hùng nh́n xuống. Các
h́nh hài đáp ứng sự chuẩn nhận của Ngài. Tiếng kêu gọi có thêm ánh sáng được đưa
ra. Ngài lại gom góp âm thanh. Ngài kéo về phía các cơi cao các tia sáng yếu ớt.
Một âm điệu (tone) khác được nghe thấy, âm của Lửa Vũ trụ, ẩn giấu trong Các Con
của Trí Tuệ. Các Ngài kêu gọi đến Các Nguyên Sơ của các Ngài. Bốn thấp, ba cao,
c̣n cái thứ năm, thuộc vũ trụ đáp ứng với hơi thở vào vĩ đại. Một lớp vỏ khác
được tạo thành. Đoạn kinh III ((SSTANzzA III)) Bánh Xe lớn
xoay quanh chính nó. Bảy bánh xe nhỏ vội vàng xuất lộ. Chúng xoay ṿng giống Mẹ
chúng, chung quanh, vào trong và tới trước. Tất cả đều hiện hữu. 14 15
Các bánh xe thuộc nhiều loại khác nhau và hợp nhất
thành một. Khi Bánh Xe lớn tiến hoá, lửa bên trong bùng cháy. Nó chạm vào bánh
xe sự sống thứ nhất. Nó chạy ṿng quanh. Hàng triệu ngọn lửa bốc lên. Tính chất
của vật chất trở nên đậm đặc hơn, nhưng h́nh hài th́ không. Các Con của Thượng
Đế chổi dậy, quét qua chiều sâu của Linh Hoả, lấy khỏi tâm của nó Viên Hoả Thạch
Linh thiêng, và tiếp tục tiến tới. Trong lần quay kế tiếp Bánh Xe Lớn chuyển
động lần thứ hai. Ngọn Lửa lại bùng lên, chọn Đá Thiêng làm tâm của nó, và tiếp
tục quay. Các Con của Thượng Đế lại xuất hiện và được t́m thấy bên trong ngọn
lửa. Chúng nói “H́nh hài chưa đầy đủ, hăy dời chuyển ra ngoài ngọn lửa”. Bánh Xe
lớn quay nhanh hơn, ngọn lửa trắng xanh hiện ra. Các Con của Thượng Đế lại tiến
xuống và một bánh xe nhỏ bắt đầu quay. Bảy lần quay, bảy lần sức nóng nhiều hơn.
Khối vô định h́nh trở nên rắn đặc hơn, Đá Thiêng ch́m sâu hơn. Đến tâm của Lửa
trong cùng, Đá Thiêng rơi xuống. Lần này công việc hoàn thành tốt đẹp, sản phẩm
càng hoàn thiện hơn. Ở ṿng quay thứ bảy, bánh xe thứ ba đáp lại Đá Thiêng. H́nh
hài tăng gấp ba, ánh sáng nhuộm hồng, nguyên khí vĩnh cửu tăng gấp bảy. Từ bên
ngoài Bánh Xe Lớn, ṿm trời hạ xuống, ánh sáng tiến vào bánh xe nhỏ được tính là
cái thứ tư. Các Chơn Linh (Lhas) vĩnh hằng nh́n xuống và các con của Thượng Đế
đă đến. Xuống đến điểm tận cùng của tử vong các Ngài ném ra Đá Thiêng (Linh
Thạch). Sự tán thành của các Chohans nổi lên. Công việc chuyển sang bước ngoặt.
Từ hốc tối bên ngoài, các Ngài gom lại Linh Thạch, giờ đây đă đục mờ và thuần
khiết, có màu hồng và xanh lơ. 16
Bánh Xe thứ năm quay và tác động của nó lên Đá
Thiêng làm cho nó vừa vặn hơn. Màu vàng pha trộn, ngọn lửa trong màu cam, c̣n
màu vàng, hồng và xanh lơ trộn lẫn các sắc thái tinh anh của chúng. Bốn bánh xe
cùng với bánh xe lớn tác động trên Linh Thạch như thế, cho đến khi các Con của
Thượng Đế tán thưởng và nói: “Công việc được thành toàn”.
Đoạn kinh IV Trong ṿng quay thứ năm của Bánh Xe Lớn, giai đoạn sắp xếp đă đạt
được. Bánh xe nhỏ, vốn đáp ứng với ṿng quay lớn thứ năm, vượt qua chu kỳ đi vào
an b́nh. Các bánh xe nhỏ xuất hiện và cũng làm công việc của chúng. Bánh Xe Lớn
gom lại đàng sau các tia sáng đang toả ra. Năm bánh xe giải quyết công việc, chỉ
hai cái nhỏ hoạt động với chi tiết. Linh Thạch gom lửa lại, nó toả ra ánh lửa
bập bùng. Lớp Vỏ ngoài không đáp ứng với nhu cầu cho tới khi bánh xe thứ sáu và
thứ bảy vượt qua được nó xuyên qua lửa các bánh xe. Các Con của Thượng Đế lộ ra
khỏi nguồn của chúng, chú mục vào bảy công việc và cho rằng điều đó là đúng.
Linh Thạch được đặt riêng. Trong ṿng quay thứ hai, Bánh Xe Lớn chuyển động.
Tinh Quân thứ tư trong số Mười Hai vị vĩ đại hơn vận dụng công việc của lửa thất
phân. Ngài phán: “Điều đó không thích hợp, ngươi hăy nhập Linh Thạch này bên
trong bánh xe, nó bắt đầu quay”. Các Tinh Quân của bảy Bánh Xe Lớn lao Linh
Thạch vào trong bánh xe đang chuyển động. Các Tinh Quân của Bánh Xe thứ năm và
thứ sáu cũng phóng ra Linh Thạch của các Ngài.
Bên trong lửa, sâu tận lớp trong cùng, Bánh Xe Lớn
quay tít qua không gian, mang theo bảy bánh xe nhỏ, cả hai phối hợp lại. Bánh xe
thứ tư, thứ năm, thứ sáu hoà lại, phối hợp và trộn vào nhau. Các thời kỳ dài kết
thúc, công việc được thành toàn. Các Tinh cầu vẫn trụ lại. Từ bầu trời sâu thẳm
các Đấng vĩnh cửu thốt ra: “Công việc lộ ra. Các Linh Thạch rút ra”. Và rồi Các
Linh Thạch hợp nhất. Đoạn kinh V Kỳ Khai Nguyên mà mọi Tam Vị
Nhất Thể đă đợi, giờ đánh dấu điểm tiếp nối huy hoàng đă đến trong phạm vi thời
gian, và ḱa công việc được hoàn tất. Thời điểm cho bảy nhóm nguyên khí, mỗi
nhóm rung động theo tiếng ngân của Linh Từ, t́m cách gia thêm quyền năng, chờ
đợi hàng thiên niên kỷ, trôi qua trong ánh chớp thời gian, thế rồi công việc
được thành toàn. Cấp đẳng đầu tiên được cổ vũ mạnh mẽ, cho rằng thời giờ thuận
tiện được ngân lên ba lần trong ba tiếng vang. Tiếng vọng thấu đến mục tiêu. Ba
lần các Ngài đưa nó ra. Khối cầu màu xanh không ngừng cảm thấy rung động và đáp
ứng, tự thức động và được thúc đẩy theo tiếng gọi. Cấp đẳng thứ hai, với sự kiên
tŕ khôn khéo, nghe được tiếng ngân vang của Cấp thứ nhất, biết được giờ cũng đă
đến, vọng lại âm thanh trên nốt quảng bốn. Tiếng vang tứ phân này chạy ṿng theo
thang âm của các bầu hành tinh. Nó được đưa ra trở lại. Ba lần âm điệu được phát
ra, ngân vang qua bầu trời. Vào lần thứ ba, tiếng ngân đáp ứng với tiếng gọi.
Nhờ rung động dưới h́nh thức chủ âm được điều hợp,
Nguyên Sơ vĩnh cửu đáp trả. Cái màu xanh đối với cái trọng trược được chất vấn và đáp ứng với nhu cầu. Nhờ rung động, bầu hành tinh nghe được nốt thứ ba, chọn lấy âm điệu, ngân nó lên, hợp âm đủ âm điệu đập vào tai các Đấng Trông Nom Linh Hoả. Các Hoả Tinh Quân đứng lên, chính các Ngài chuẩn bị. Giờ quyết định đă đến. Bảy vị Chúa của bảy bầu hành tinh không ngừng xem xét thành quả. Vị Chúa vĩ đại của bầu thứ tư đang chờ xuất hiện. Cái hạ đẳng được chuẩn bị xong. Cái thượng đẳng sẵn sàng chấp nhận. Năm cái vĩ đại đang chờ ở điểm đẳng cách hợp lại. Nốt căn bản hướng lên. Thái uyên đáp ứng với thái uyên. Hợp âm ngũ phân chờ đáp ứng từ các Đấng đến lúc tái lâm. Bóng tối trở thành không gian giữa các bầu hành tinh. Hai quả cầu trở nên rực rỡ. Ba lần ba mươi lăm, t́m thấy khoảng cách đúng, chớp loé lên như ngọn lửa chập chờn, và thế là công việc được thành toàn. Bầu Năm vĩ đại đáp ứng với Ba và Bốn. Điểm trung gian được đạt tới. Giờ hy sinh, hy sinh của Linh Hoả, đă đến, thời gian vô tận kéo dài. Đấng phi thời gian nhập vào thời gian. Các Đấng Quán Sát đă bắt đầu công việc các Ngài, thế rồi công việc tiếp diễn. Đoạn kinh VI Trong hang tối, cái tứ phân ḍ dẫm để mở rộng và nhận thêm ánh sáng. Không có ánh sáng bên trên và chung quanh cái tranh tối tranh sáng đang bao phủ. Bóng tối đen đang bao quanh nó. Đến tận trung tâm sâu nhất, có rung động mà không có Ánh Sáng Ấm, lan toả trong cái lạnh giá băng của bóng tối sâu thẳm.
Bên trên hang tối, ánh sáng bạch nhật toả chiếu. Tuy
nhiên, cái tứ phân không thấy nó, cũng không có ánh sáng lan tràn. Việc tách
chia của hang sâu đi trước ánh sáng của ngày. Kế đó cái lớn là cái xáo trộn.
Không có sự trợ giúp nào bên trong hang, cũng không có ánh sáng bị che khuất
nào. Chung quanh cái tứ phân có ẩn cái ṿm đá, bên dưới nó cội ngồn của hắc ám
đe doạ; bên ngoài và bên trên nó không có ǵ trừ ra cái tương tự được nh́n thấy.
Các Đấng Quán Sát biết và thấy. Giờ đây tứ phân đă sẵn sàng. Công việc đông đúc
được hoàn tất, chiếc xe được chuẩn bị. Tiếng kèn gây xáo động nổi lên. Mănh lực
của ngọn lửa đang đến làm loá mắt. Trận địa chốn thần bí làm rung chuyển hang
sâu; các Linh Hoả bùng cháy xua tan hăo huyền, thế rồi công việc được thành
toàn. Tranh tối tranh sáng và bóng tối qua đi; mái của hang sâu bị xé rách. Ánh
Sáng của sự sống toả chiếu; hơi ấm lan ra; Các Tinh Quân đứng bên ngoài nh́n
thấy công việc bắt đầu. Cái tứ phân trở thành bảy. Tiếng ngợi ca của những kẻ
đốt lửa nổi lên theo mọi sáng tạo. Thời điểm thành tựu đă đạt được. Công việc
tiếp diễn trở lại. Việc sáng tạo tiếp tục, trong khi ánh sáng bên trong hang lớn
dần. Đoạn kinh VII Hang Mỹ Lệ hiện ra, với sắc cầu vồng. Các tường
được chiếu sáng với màu thiên thanh, tắm ḿnh trong ánh sáng hồng. Sắc xanh pha
trộn toả chiếu tổng thể và tất cả được hoà lẫn trong ánh lấp lánh. 21 22
42. 42 Bên trong hang sâu có màu cầu vồng, trong ṿng tṛn
uốn cong của nó là Đấng ngũ phân cần thêm ánh sáng. Ngài đấu tranh để mở rộng,
Ngài chiến đấu hướng về bạch nhật. Năm cái đ̣i hỏi Cái Thứ Sáu và Thứ Bảy vĩ đại
hơn. Cái mỹ lệ bao quanh chưa đáp ứng cho nhu cầu. Hơi ấm bên trong đủ trừ phi
để cung ứng sự thôi thúc về Lửa. Hoả Tinh Quân nh́n lên; các Ngài xướng to:
“Thời cơ đang đến, đó là lúc chúng ta mong chờ. Hăy để cho Ngọn Lửa trở thành
Lửa và để cho ánh sáng toả chiếu”. Nỗ lực của Ngọn Lửa bên trong hang pha lê trở
nên lớn hơn bao giờ. Tiếng kêu phát ra cho trợ giúp khác từ các Linh Hồn đắm
ch́m trong Lửa khác. Sự đáp ứng đang đến. Hoả Tinh Quân, Đấng Thái Cổ, Tinh Quân
Quyền Năng của Lửa, Điểm Thanh Thiên bên trong viên Kim Cương ẩn giấu, Đấng
Thanh Xuân của Thiên Kỷ Vô Thời Gian, dự vào công việc. Ánh Sáng bùng cháy bên
trong và lửa đang chờ bên ngoài – cùng với Quyền Trượng - gặp gỡ trên quả cầu
thuỷ tinh và thế là công việc đă xong. Thuỷ tinh tan vỡ và rung rinh. Công việc
tiếp diễn bảy lần. Bảy lần nỗ lực được đưa ra. Bảy lần đặt sát Thần Trượng, do
Hoả Tinh Quân nắm giữ. Ba lần tiếp xúc thứ yếu; bốn lần trợ giúp thiêng liêng. Ở
lần thứ tư cuối cùng công việc đă xong, toàn thể hang sụp đổ. Ngọn lửa chiếu
sáng bên trong trải rộng khắp bức tường nứt vỡ. Nó leo lên tới Cội Nguồn của nó.
Một lửa khác hoà nhập; một điểm xanh khác t́m được vị trí của nó bên trong vương
miện của Thượng Đế. Đoạn kinh VIII
Ba Bánh Xe lớn, mỗi cái có bảy bánh xe nhỏ, trong
ṿng tiến hoá xoắn ốc, quay ṿng trong Hiện Tại phi thời gian và chuyển động như
là một. Các Tinh Quân vũ trụ từ chốn cao thâm của các Ngài, nh́n vào quá khứ,
kiểm soát Hiện Tại và suy tưởng về Ngày Hợp Nhất với Thượng Đế. Các Chơn Linh
của Âm thanh bất diệt, sản phẩm của thời gian xuất hiện, vượt qua biểu lộ thất
phân. Bên trong Ṿng Hạn Định, Linh Từ Bác Ái ngân lên. Các Tinh Quân của bảy
bầu tiếp tục rung dộng chính xác để xúc tiến công việc. Các Ngài phát khởi mỗi
vị một âm trong hợp âm thâm diệu của Thượng Đế. Mỗi vị đều có ghi nhận đúng đối
với Tinh Quân cao cả hơn của Ngài. Trong Linh Khí trang trọng phát ra, các h́nh
hài được kiến tạo, màu sắc được phân chia đúng, và ngọn nội hoả tự hiện ra với
ánh sáng tăng lên măi. Thiên Thanh Tinh Quân gom tất cả trong ṿng cung Tuệ
giác, phát ra nốt của Ngài. Sáu vị kia trở lại cội nguồn của các Ngài, phối hợp
các màu khác nhau bên trong cái Nguyên Sơ của các Ngài. Màu xanh thêm vào màu
lục sự hoàn thành xảy ra nhanh chóng. Rung động của cái thứ ba được thêm vào cái
thứ nhất. Màu xanh trộn vào màu cam, và với cách pha trộn khéo léo của chúng, hệ
thống ổn cố. Vàng trộn với đỏ, với tím và cuối cùng là rung động của cái thứ bảy
được điều chỉnh theo cái Nguyên Thuỷ. Mỗi vị trong số bảy Tinh Quân, bên trong
bảy hệ thống của các Ngài, được điều chỉnh với ṿng nghiệp quả thứ hai, trộn lẫn
các khối cầu di chuyển của các Ngài và hoà trộn với vô số nguyên tử của các
Ngài. 25
Các h́nh hài mà các Ngài tác động qua đó, hàng triệu
khối cầu nhỏ, nguyên nhân của phân chia và nguyền rủa của các Asuras, vỡ ra, khi
Thánh ngữ ngân lên trong một điểm ấn định. Sự sống Thượng Đế dâng lên. Các ḍng
sắc màu tan hoà cùng nhau. Các h́nh hài bị bỏ lại sau và Parabrahm trụ lại hoàn
toàn. Tinh Quân của vũ trụ thứ Ba phát ra một Linh Từ bất khả tri. Linh Từ thất
phân thứ yếu hợp thành một phần của hợp âm lớn hơn. Cái Hiện Tại trở thành thời
gian đă qua. Thời gian vô tận nhập vào không gian. Linh Từ Chuyển Động đă được
nghe thấy. Linh Từ Bác Ái nối tiếp. Quá Khứ chi phối h́nh hài. Hiện Tại khai mở
ra sự sống. Bạch Nhật sắp đưa ra Quyền Lực Từ. H́nh hài đă hoàn thiện và sự sống
tiến hoá nắm giữ cái bí mật thứ ba của Bánh Xe Lớn. Đó là bí mật c̣n ẩn giấu của
chuyển động sinh tồn. Cái bí mật thất tung trong Hiện Tại nhưng được biết rơ đối
với Tinh Quân Ư Chí Vũ Trụ. Đoạn kinh IXX Ba mươi ngàn triệu vị
Quán sát không chịu lưu ư đến tiếng gọi. Họ nói: “Chúng ta không nhập vào h́nh
hài cho đến thời vô tận thứ bảy”. Hai phần ba ngàn triệu lắng nghe tiếng gọi và
chọn lấy h́nh hài đă định. Những kẻ nổi loạn vui cười hoan hỉ và t́m được an
b́nh ngơi nghỉ cho đến thời vô tận thứ bảy. Nhưng bảy Tinh Quân vĩ đại kêu gọi
đến các Chohans cao cấp hơn và với các Đấng Lhas hằng hữu của bầu trời thứ ba đi
vào thảo luận. Kế đó phán quyết được đưa ra. Những kẻ chậm chạp trong bầu cao
nhất nghe thấy phán quyết đó vang lên qua hệ thống “Không chờ đến thời vô tận thứ bảy, mà ở ṿng
thứ mười bốn, thời vô tận thứ bảy sẽ có cơ may tiến vào ṿng tuần hoàn trở lại.
Cái đầu tiên sẽ là cái cuối cùng và thời gian sẽ bị mất trong nhiều thời vô
tận”. Các Con của Trí Tuệ nhờ tuân lệnh nên tiếp cận với Các Con Của Tâm, và
tiến hoá theo ṿng xoắn ốc trên đường của ḿnh. Các Con của Quyền Năng ở lại vị
trí ấn định của chúng, mặc dầu nghiệp quả vũ trụ thúc đẩy một nhóm nhỏ gia nhập
vào Các Con của Tâm. Ở ṿng thứ mười bốn của thời vô lượng thứ bảy, các con của
Trí và Tâm, bị thu hút bởi lửa vô tận, sẽ nhập vào Các Con của Ư Chí trong cuộc
biểu lộ thời khai nguyên. Bánh xe sẽ quay ba lần. Ở trung tâm là các Hoạt Động
Phật, được các Tinh Quân Bác Ái trợ giúp và noi theo công việc lưỡng phân của
các Ngài sẽ tiến đến các Tinh Quân Quyền Năng toả chiếu. Các Sáng Thế Phật từ
quá khứ đă đến. Các Từ Bi Phật hiện đang tụ hợp. Các Ư Chí Phật ở ṿng cuối của
bánh xe chính thứ ba sẽ bước vào hiện tồn. Việc kết thúc bấy giờ sẽ hoàn tất.
Đoạn kinh XX Bầu thứ năm phát triển và từ các dấu vết c̣n lại của Bầu Thứ Tư
được nhân bội lên và sản sinh trở lại. Nước dâng lên. Mọi vật bị ch́m xuống. Ở
chỗ đă định, dấu vết thiêng liêng nhô khỏi mặt nước ra khỏi vùng an toàn vào một
ngày sau này. Nước biến mất. Đất rắn đặc hiện ra ở một vài chỗ ấn định. Bầu Thứ
Năm bao giờ cũng chạy về Thánh Địa, và trong các nhóm ngũ phân của
chúng, Bầu Thứ Năm hạ đẳng phát triển. Chúng vượt qua từ giai đoạn này đến giai
đoạn khác. Các Đấng Quán Sát nhận biết các sắc tướng được tạo thành, đưa ra một
dấu hiệu cho Bầu Thứ Tư đang luân chuyển và nó tăng tốc trên đường đi. Khi Bầu
thứ yếu Thứ Năm đă vượt được nửa đường và cả bốn bầu thứ yếu có người trên mặt
đất, các Tinh Quân có Ư Định Hắc Ám xuất hiện. Họ nói: “Sức mạnh sẽ không đến.
H́nh hài và Sắc Tướng của Bầu thứ ba và thứ tư, bên trong Bầu Thứ Năm tương ứng,
cũng tiến thật gần đến nguyên h́nh. Công việc diễn ra quá tốt đẹp”. Các Ngài
kiến tạo các h́nh hài khác. Các Ngài kêu gọi đến lửa vũ trụ. Bảy hố sâu của địa
ngục phun ra các vong linh linh hoạt. Bầu thứ bảy đang đến hạ giảm cấp đẳng mọi
h́nh hài - trắng, đen, đỏ và nâu sẩm. Giai đoạn huỷ diệt trải dài đến mặt khác.
Công việc bị hư hỏng thảm hại. Các Chohans thuộc các cơi cao nhất lặng yên chú
tâm vào công việc. Các Asuras và Chaitans, Các Con của Tà Lực Vũ trụ và các
Rishis của các cḥm sao đen tối nhất gom lại các đạo quân thứ yếu của họ, các
mầm mống đen tối nhất của địa ngục. Họ làm tối đen khắp cả không gian. Do sự
xuất hiện của Đấng ban phước, hoà b́nh văn hồi trên mặt đất. Hành tinh chao đảo
và phát ra lửa. Nơi nổi lên, nơi sụp xuống. H́nh dạng thay đổi. Hàng triệu sinh
linh khoác các h́nh hài khác hoặc tiến lên chỗ ấn định để chờ. Chúng nán lại cho
đến giờ tiến hoá sẽ lại phát ra cho chúng. *************** Bầu thứ ba ban đầu
tạo ra các quái vật, đại thú và các h́nh hài xấu xí. Chúng ŕnh rập trên mặt
hành tinh.
Bầu thứ tư thuộc nước được tạo ra trong khối cầu nước, loài ḅ sát và trứng (có danh xấu), sản phẩm của quả báo của chúng. Nước kéo đến và cuốn đi con cháu của loài trứng nước. Bầu thứ năm riêng biệt được tạo trong bầu sắc tướng các h́nh tư tưởng cụ thể. Chúng ném các h́nh tư tưởng đó ra. Chúng chứa bốn loại người hạ đẳng, và giống như đám mây đen độc hại che ánh dương quang. Ba hạng người cao cấp c̣n ẩn tàng. **************** Chiến tranh trên hành tinh được tiến hành. Cả hai phía đều sa xuống địa ngục. Kế đó đến Kẻ Chinh Phục h́nh hài. Ngài nhờ đến Lửa Thiêng và thanh lọc các cơi sắc tướng. Lửa huỷ diệt các vùng đất vào các ngày của Bầu Thứ Sáu thứ yếu. Khi Bầu Thứ Sáu xuất hiện, đất đai đă thay đổi. Bề mặt của bầu hành tinh chạy ṿng qua một chu kỳ khác. Người của Bầu Thứ Năm cao cấp hơn chế ngự ba bầu thấp hơn. Công việc được chuyển lên cơi mà kẻ Hành Hương đă đứng. Tam giác nhỏ bên trong noăn hào quang thấp trở thành tâm điểm của bất hài hoà vũ trụ. Đoạn kinh XXI Bánh xe sự sống xoay chuyển bên trong bánh xe của h́nh hài bên ngoài. Chất liệu của Fohat chạy ṿng quanh và lửa của nó làm rắn đặc mọi h́nh hài. Bánh xe không được thoáng thấy đă quay nhanh bên trong cái khung ngoài chậm hơn cho đến khi nó bao phủ h́nh hài. Bốn mươi chín ngọn lửa bùng cháy ở tâm. Ba mươi lăm xoáy lửa chạy quanh bành trướng theo chu vi. Giữa cả hai di chuyển theo tŕnh tự đă định là các ngọn lửa có màu khác nhau. Các Tam Giác lớn, trong sự sắp xếp chính xác của chúng, nắm giữ cái bí mật của bánh xe sự sống. Lửa vũ trụ xạ ra giống như được điều khiển từ bầu thứ hai, được kiểm soát bởi vị Cai Quản của cung hoá nhập. Các đội quân của bầu thứ ba đang vây quanh bằng các hàng dăy khác nhau ghi dấu ba bầu thứ yếu. Bánh Xe sự sống vẫn chuyển động bên trong h́nh hài. Các thiên thần của bầu thứ tư nối tiếp với ba mươi lăm ngọn lửa và trộn lẫn chúng với bốn mươi chín ngọn lửa ở giữa. Ở bên trên, chúng tác động, t́m cách hoà nhập với tổng thể. Chúng cố hướng lên, bằng vô số các h́nh hài của chúng, chúng quay ṿng bên trong các bánh xe có độ sáng nhỏ hơn. Toàn thể là một, tuy nhiên trên các bầu kém quan trọng hơn chỉ có các h́nh hài xuất hiện. Trong các phân đoạn của chúng, chúng dường như nhiều hơn người ta hiểu hoặc là gặp. Nhiều bầu xoay ṿng. Các h́nh hài được tạo ra, trở nên quá vững chắc, bị phá vỡ bởi sự sống và luân lưu trở lại. Một vài bầu xoay ṿng, nắm giữ nhiều sinh linh trong nhiệt của chuyển động. Cái độc nhất bao gồm tất cả, và đưa tất cả từ hoạt động lớn vào tâm an b́nh của vũ trụ. Đoạn kinh XXII Các Đấng Chí Phúc che giấu bản thể tam phân của các Ngài, nhưng cho thấy ba tinh hoa của các Ngài bằng ba nhóm nguyên tử lớn. Ba là các nguyên tử và tam phân là bức xạ. Nhân bên trong của Lửa che giấu chính nó và chỉ biết được nhờ sự phát xạ và những ǵ đă phát xạ. Chỉ sau khi ngọn lửa tàn lụi và sức nóng không c̣n được cảm thấy nữa, người ta mới có thể biết được lửa. Đoạn kinh XXIII Qua dải màu tím đang bao bọc các Bầu Trời, tinh cầu với màu tía thẩm đi qua. Nó đi qua hẳn và không quay lại. Nó bắt đầu mê thích màu xanh. Ba lần màu xanh bao bọc và khi chu kỳ được hoàn tất, màu tía tàn tạ, được trộn lẫn vào hồng, và con đường lần nữa được vượt qua. Ba lần các màu quan trọng trong chu kỳ được kể như bầu thứ tư, tím, xanh và hồng với màu tía căn bản đang quay. Bốn là các màu phụ thuộc trong chu kỳ phân biệt trong đó xảy ra hiện tượng quay. Nó chạy ṿng đến điểm giữa và vượt qua một phần. Dải màu vàng đă đến, dải màu cam bị mây che khuất c̣n dải màu lục để đem lại sinh lực. Tuy nhiên chưa đến lúc. Nhiều lửa đang chạy ṿng; nhiều cuộc tuần hoàn đang diễn tiến, nhưng chỉ khi nào các màu bổ sung nhận biết cội nguồn của chúng và toàn thể tự điều chỉnh với bảy bầu, bấy giờ mới thấy được sự hoàn tất. Bấy giờ sẽ thấy được mỗi màu được hiệu chỉnh đúng, và ṿng quay chấm dứt.
Chúng tôi trù định trong vài nhận xét mở đầu này sẽ đặt nền tảng cho quyển “ ”, và xem xét chủ đề lửa về cả hai phương diện đại và tiểu thiên địa, như vậy bàn đến Lửa theo quan điểm Thái Dương hệ và con người. Điều này sẽ cần đến một vài chuyên môn sơ khởi có thể dường như là trước hết nghiên cứu những ǵ hơi trừu tượng và phức tạp, nhưng khi được suy gẫm và nghiên cứu, rốt cuộc có thể làm tỏ ngộ và có bản chất minh giải, và khi chính trí óc đă quen thuộc với một số các chi tiết, nó cũng có thể đạt tới mức được xem như cung cấp được một giả thiết hợp lư liên quan đến bản chất và nguồn gốc của năng lượng. Đâu đó trong một quyển sách trước đây, chúng tôi có đề cập đến vấn đề này một cách sơ sài, nhưng chúng tôi mong ước tóm lược và khi bàn rộng ra sẽ xây dựng một nền tảng rộng rải mà dựa vào đó chủ đề có thể được dựng nên và cung cấp một nét khái quát sẽ được dùng để chỉ rơ giới hạn cho các cuộc bàn thảo của chúng ta. V́ vậy, chúng ta hăy xem xét đề tài về mặt đại vũ trụ và rồi vạch ra những nét tương đồng trong tiểu vũ trụ hay con người.
I.. LỬA TRONG ĐẠI THIÊN ĐỊA Trong bản chất cốt yếu của nó, lửa có ba
phần (threefold), nhưng khi biểu lộ ra, lửa có thể được coi như có năm phần
(fivefold) và được lư giải như sau: 1. Lửa do ma sát (cọ xát) hay lửa sinh động
nội tại. 37 38
51. Nhận xét mở đầu 51 Các lửa này làm linh hoạt và đem lại sức sống cho Thái
Dương hệ đang biểu lộ. Chúng là toàn bộ hoả xà của Thượng Đế khi hoạt động của
Thái Dương hệ được đầy đủ. 2. Lửa thái dương hay lửa của cơi trí vũ trụ. Đây là
phần của cơi trí vũ trụ vốn được dùng làm sinh động thể trí của Thượng Đế. Lửa
này có thể được xem như là toàn bộ các tia lửa của trí tuệ, các lửa của hạ trí
và nguyên khí sinh động của các đơn vị tiến hoá của nhân loại trong ba cơi thấp.
3. Lửa điện, hay là Lửa Thiêng của Thượng Đế. Lửa này là dấu hiệu phân biệt của
Thượng Đế chúng ta và chính lửa này làm cho Ngài khác với tất cả các Thượng Đế
khác; đó là đặc điểm nổi bật của Ngài, và là dấu hiệu của vị trí của Ngài trong
cơ tiến hoá vũ trụ. Ba loại lửa này có thể được diễn tả bằng thuật ngữ chỉ về
cung như sau: Thứ nhất, chúng ta có các lửa làm sinh động của Thái Dương hệ, đó
là các lửa của cung nguyên thuỷ, cung của vật chất linh động sáng suốt; các lửa
này tạo thành năng lượng của Brahma, Ngôi Ba của Thượng Đế. Kế đến là lửa của
Cung thiêng liêng, Cung Bác Ái Minh triết, cung của bác ái sáng suốt, tạo thành
năng lượng của trạng thái Vishnu, Ngôi Hai của Thượng Đế (1 ). Sau cùng là lửa
của cơi trí vũ trụ, vốn là 1 Cái nhập vào vạn hữu, vishanti, là Vishnu; Đấng bao
hàm, vây bọc, đảm trách tất cả là Brahma; Đấng tiềm ẩn trong mọi vật là Shiva.
Shiva hôn thụy, ẩn tàng trong mọi vật dưới h́nh thức mối liên hệ (nexus), ràng
buộc, đây là bản chất của dục vọng. Vriniti có nghĩa là bao bọc, phủ bằng một
lớp vỏ, ranh giới của các giới hạn hay là chu vi, và như thế có sự h́nh thành
hoặc sáng tạo (của mọi h́nh hài); và đây là tác động do Brahma chủ tŕ. Vishanti
sarvani chỉ rằng vạn vật nhập vào Nó (It) và Nó nhập vào vạn vật, và đó là lửa của cung ư chí vũ trụ. Chúng có thể được mô tả
như là các cung ư chí sáng suốt và là biểu lộ của Ngôi Một Thượng Đế, trạng thái
Mahadeva (1 ). Do đó chúng ta có ba cung vũ trụ đang biểu lộ: Cung hoạt động
sáng suốt: Bản Ngă (Self) nối tiếp với nhận thức và Vishnu. Toàn thể của những
cái này là Maha-Vishnu. “Maha-Vishnu” là “Chúa tể” của mọi hệ thống thế giới
này, được mô tả như là Ishvara, màu trắng, có bốn tay, trang điểm bằng vỏ ốc tù
và, cái dĩa, cây gậy, hoa sen, ṿng hoa và viên ngọc Kanstubha, toả chiếu phủ
xanh và vàng, h́nh hài bất diệt, vô thuộc tính tuy có linh hồn và ẩn dưới mọi
thuộc tính. Ở đây h́nh dung từ Ishvara chỉ qui luật; bốn cánh tay chỉ bốn hoạt
động nhận thức v..v.., sự lộng lẫy màu trắng là sự giác ngộ của mọi vật; shankha
tức vỏ ốc tù và hoặc vỏ ṣ chỉ mọi âm thanh và chakra hay bánh xe hay dĩa chỉ
mọi thời gian, có một nối tiếp giữa cả hai; gada hay cây gậy (đang quay) là
phương pháp xoắn ốc của tŕnh tự thế giới, c̣n hoa sen là toàn bộ tŕnh tự đó.
Vanamala là ṿng hoa rừng chỉ sự ghép thành chuỗi lại với nhau của tất cả các
vật thành một đơn vị và sự cần thiết. Nila-pit-ambara, lớp bọc xanh và vàng, là
sự tăm tối và ánh sáng. Ngọc Kanstubha chỉ sự nối nhau không thể tách rời với
vạn hữu. Nirguna, vô thuộc tính, cho thấy sự hiện hữu của tính chất Phủ Định;
trong khi saguna, đầy thuộc tính, hàm chứa sự chiếm hữu danh và h́nh tướng. Tiến
tŕnh Thế Giới (như được tiêu biểu trong hệ thống thế giới chúng ta) là kết quả
của sự h́nh thành ư tưởng của Maha-Vishnu”. Pranava-Vada, trang 72 – 74, 94 –
95. 1 Mahadeva theo nguyên nghĩa là “đại thiên thần” (“great Deva”. Danh xưng
thường được dùng cho Ngôi thứ Nhất của Tam nguyên biểu lộ (the manifested
Trinity), cho Shiva, trạng thái Huỷ diệt (the Destroyer aspect), Đấng Sáng Tạo
(the Creator).
53. Nhận xét mở đầu 53 Đây là một cung rất rạng rỡ và ở mức độ phát triển cao
hơn hai cung kia, vốn là sản phẩm của một đại thiên kiếp có trước, hay là một
Thái Dương hệ trước (1). 1 “Một ngày v́ cuộc sống dài này của Brahma được gọi là
Kalpa, Kalpa là một thời gian chen vào giữa một sự giao hội (conjunction) của
tất cả các hành tinh trên chân trời của Lanka ở điểm đầu tiên của cḥm sao Dương
Cưu (Aries) và một sự giao hội tương tự tiếp sau. Một Kalpa bao gồm sự ngự trị
của mười bốn vị Bàn Cổ và các khoảng tạm nghỉ của các Ngài. Mỗi vị Bàn Cổ ở giữa
hai thời khoảng tạm nghỉ (sandhies). Mỗi triều đại của một vị Bàn Cổ có 71 Maha
yugas, mỗi Maha yuga có 4 yugas, đó là Krita, Treta, Dwapara và Kali; độ dài của
mỗi một trong 4 yugas này theo thứ tự là 4, 3, 2 và 1. Số năm thiên văn (sideral
years) nằm trong các chu kỳ khác nhau đă nói ở trước như sau: Năm thế nhân
(mortal year) 360 ngày của chúng sinh tạo thành một năm ……………………
1 Krita yuga có …………………………………………….. 1.728.000 năm
Treta yuga có …………………………………………….. 1.296.000 năm
Dwapara yuga có ………………………………………… 864.000 năm
Kali yuga có …………………………………………….. 432.000 năm
Tổng số 4 yuga nói trên hợp thành Mahayuga ……….. 4.320.000 năm
Maha yugas hợp thành giai đoạn trị v́ của một Bàn Cổ …………………………………………… 306.720.000 năm
Thời gian trị v́ của 14 vị Bàn Cổ có 994 Mahayugas Tương đương với ………………………………….... 4.294.080.000 năm
Cộng thêm với các sandhies, nghĩa là thời gian giữa triều đại của mỗi vị Bàn Cổ lên tới 6 Maha yugas bằng …………... 25.920.000 năm
Tổng cộng các thời trị v́ và thời gian giữa các giai đoạn trị
v́ (inteRegnums) của 14 vị Bàn Cổ là 1.000 Maha yugas, tạo thành 1 kalpa, nghĩa
là 1 ngày của Brahma tương đương …. 4.320.000.000 năm
Nó biểu hiện cho sự rung động căn bản của Thái Dương hệ này và là lửa nội tại vĩ đại của nó, làm linh hoạt và sinh động toàn thể và thấm nhập từ trung tâm đến ngoại vi. Đó là nguyên nhân của chuyển động quay và do đó của dạng thức gần như h́nh cầu của mọi vật hiện tồn. Cung bác ái thông tuệ. Đây là cung biểu hiện cho độ rung động cao nhất mà Thái Dương Thượng Đế của chúng ta có thể có được trong Thái Dương hệ này. Nó chưa rung động một cách thích hợp, cũng không đạt đến tột đỉnh hoạt động của nó. Đó là căn bản của chuyển động xoắn ốc theo chu kỳ của cơ thể Thượng Đế V́ đêm của Brahma bằng với ngày,
nên một ngày và đêm của Brahma sẽ có ………………………………………….. 8.640.000.000 năm
Như thế 360 ngày và đêm Brahma tạo thành 1 năm của Brahma tương đương với ………………... 3.110.400.000.000 năm thế nhân.
100 năm như thế tạo thành toàn bộ giai đoạn của đời (age) của Brahma, tức là Maha kalpa …………………. 311.040.000.000.000 năm
Các con số này không phải là tưởng tượng, mà là được thiết lập
trên các dữ kiện thiên văn học, đă được ông Davis chứng minh trong Asiatic
Researches; và điều này về sau được sự phối hợp do các sưu tầm về địa chất học
và các tính toán của Tiến Sĩ Hunt, trước kia là Chủ Tịch của Hội Nhân Chủng học
(Anthropological Society), và cũng ở trong số các điều khảo cứu của Giáo sư
Ifuxley. Thời kỳ của một đại thiên kiếp dường như vĩ đại, chúng ta chắc chắn
rằng hàng nhiều ngàn triệu đại thiên kiếp như thế đă trôi qua cũng như nhiều đại
thiên kiếp nữa sẽ đến (Vide Brahma-Vaivarta và Bhavishyre Puranas; và Linga
Purana, chương 171, câu 107), và điều này theo ngôn ngữ thông thường có nghĩa là
thời gian quá khứ th́ vô tận và thời gian tương lai cũng vô tận. Vũ trụ được tạo
lập, tan ră và tái tạo với một sự nối tiếp không xác định được. (Bhagava- Gita,
VII, 19) Tạp chí Theosophist quyển VI, trang 115). và cũng như định luật Tiết Kiệm là định luật chi phối lửa
nội tàng của hệ thống, cũng vậy định luật Hút và định luật Đẩy của Vũ Trụ là
định luật căn bản của Cung thiêng liêng này. Cung ư chí thông tuệ. Cho đến nay,
cung này ít được nói đến. Đó là cung của trí tuệ vũ trụ và trong sự tiến hoá, nó
đi song song với cung bác ái vũ trụ, tuy nhiên, cho đến nay, rung động của nó
trở nên chậm hơn và sự phát triển của nó c̣n chậm hơn nữa. Điều này th́ dứt
khoát và có chủ tâm là như thế do bởi các mục đích căn bản và sự chọn lựa ẩn bên
dưới của Thái Dương Thượng Đế, trên cơi cao của Ngài (giống như các phản ánh của
Ngài, tức là các con của nhân loại, đang làm), Ngài ra sức hoàn thành sự phát
triển đầy đủ hơn, và do đó Ngài tập trung vào sự phát triển t́nh thương vũ trụ
trong chu kỳ lớn hơn này. Cung này bị chi phối bởi Định Luật Tổng Hợp và là căn
bản của chuyển động của Thái Dương hệ, nó có thể được mô tả rơ nhất như là
chuyển động tiến tới qua không gian hay luỹ tiến. Ít điều có thể được dự đoán
liên quan đến cung này và sự biểu lộ của nó. Nó kiểm soát các chuyển động của
toàn thể ṿng giới hạn có liên hệ tới trung tâm vũ trụ của nó (1). 1 Thuật ngữ
“ṿng giới hạn”(ring-pass-not) được dùng trong tác phẩm về huyền linh học để chỉ
chu vi của vùng ảnh hưởng của bất cứ mănh lực sống động trung ương nào và cũng
được áp dụng cho mọi nguyên tử, từ nguyên tử vật chất mà các nhà vật lư học hay
hoá học đă nói tới, qua các nguyên tử nhân loại và hành tinh, đến các nguyên tử
vĩ đại của một Thái Dương hệ. Ṿng giới hạn của thường nhân có dạng hơi h́nh cầu
với thể trí của y, nó mở rộng một cách đáng kể ra ngoài thể xác và giúp cho y
tác động trên các cơi phụ thấp của cơi trí. 41
56. 56 Bảng sau đây có thể khiến cho các ư kiến trên rơ
ràng hơn một ít : Bảng I Lửa Cung Trạng thái Biểu lộ Định luật Tính chất 1. Nội
tại. Nguyên thủy. H.động Thông tuệ. Chuyển động quay. Tiết kiệm. Lửa do ma sát.
2. Về trí tuệ . Bác ái. Bác ái sáng suốt. Chuyển động xoắn ốc theo chu kỳ. Hấp
dẫn. Lửa thái dương. 3. Ngọn lửa thiêng. Ư chí. Ư chí sáng suốt. Luỹ tiến. Tổng
hợp. Lửa điện. Ba biểu lộ này của Sự Sống thiêng liêng có thể được xem như diễn
đạt ba cách biểu lộ. Thứ nhất, vũ trụ biểu lộ hay hữu h́nh; thứ hai, thế giới
nội tâm hay sắc tướng; thứ ba, trạng thái tinh thần phải được t́m thấy ở tâm mọi
vật (1 ). 1 1. Cái Nguyên Thuỷ là Cung và là phân thân trực tiếp của Tứ Linh
Diệu. (Giáo Lư Bí Nhiệm I, 115, 116) Tứ Linh Diệu là : Nhất Nguyên (Unity) a.
Cha … Mahadeva …. Thượng Đế Ngôi Một … Ư chí Tinh thần Nhị nguyên (Duality) b.
Con … Vishnu ……… Thượng Đế Ngôi Hai ….Bác ái Minh triết Tam Nguyên (Trinity) c.
Mẹ …. Brahma ……. Thượng Đế Ngôi Ba … Trí tuệ Hoạt động Tứ Linh Diệu (Sacred
Four) d. Biểu lộ hợp nhất của cả ba - Đại vũ trụ
Các lửa nội tại làm linh hoạt và sinh động, tự chúng lộ
ra theo hai cách : Thứ nhất dưới h́nh thức tiềm nhiệt (latent heat). Đây là nền
tảng của chuyển động quay và nguyên nhân của sự biểu lộ cố kết tựa h́nh cầu của
mọi sự sống, từ nguyên tử Thượng Đế, ṿng giới hạn Thái dương, xuống đến nguyên
tử nhỏ nhất của nhà hoá học hay nhà vật lư học. Thứ hai, dưới h́nh thức là hoạt
nhiệt (active heat). Điều này đưa đến kết quả là sự hoạt động và tiến về phía
trước của sự tiến hoá vật chất. Trên cơi cao nhất, sự phối hợp của ba yếu tố
(hoạt nhiệt, tiềm nhiệt và chất liệu nguyên thuỷ mà chúng làm cho linh động)
được biết dưới dạng thức ‘biển lửa’, trong đó tiên thiên khí (akasha) là biến
phân thứ nhất của vật chất tiền căn nguyên (pregenetic maTer). Trong lúc biểu
lộ, Akasha tự biểu hiện ra dưới h́nh thức Fohat hay năng lượng thiêng liêng
(divine Energy) và Fohat trên các cơi khác nhau được biết như là hậu thiên khí
(aether), không khí (air), lửa, nước, điện, dĩ thái, sinh khí và các tên gọi đại
loại như vậy (1) 2. Tứ nguyên biểu lộ và 7 Đấng Kiến Tạo (seven Builders) xuất
phát từ Mẹ . (GLBN, 402) a/ 7 Đấng Kiến Tạo là Trí Tinh Quân (Manasaputras), các
con sinh ra từ Trí của Brahma, Ngôi Ba. (GLBN II, 540) b/ Các Ngài biểu lộ để
phát triển Ngôi Hai. (GLBN I, 108) c/ Phương pháp của các Ngài là biểu lộ ra
ngoại cảnh. 3. Năng lượng được khơi hoạt lại phóng vào không gian. a/ Chúng là
sự tổng hợp c̣n ẩn giấu (GLBN I, 362) b/ Chúng là toàn thể mọi biểu lộ (GLBN I,
470) c/ Chúng là tiền vũ trụ (GLBN I, 152, 470) 1 Akasha : Định nghĩa GLBN
I,
538 43
58. 58 (1)(2). Đó là tổng hợp của dĩ thái GLBN I, 353, 354
Đó là nguyên thể (essence) của dĩ thái GLBN I, 366 Đó là dĩ thái nguyên thuỷ
(primordial ether) GLBN I, 585 Đó là Thượng Đế Ngôi Ba đang biểu lộ GLBN I, 377
1 H.P.B. định nghĩa Akasha theo các thuật ngữ sau GLBN
I, 538 Akasha - tinh tú
quang có thể được định nghĩa bằng vài từ ngữ: đó là Linh hồn vũ trụ (Universal
soul), cái Khuôn (Matrix) của vũ trụ, Bí Nhiệm Huyền Linh (Mysterium Magicum) từ
đó mọi vật vốn hiện tồn được sinh ra do sự phân ly hay biến phân. Trong các sách
huyền học khác, nó được gọi bằng các danh xưng khác nhau và có lẽ là sẽ có giá
trị nếu chúng ta kê khai ra đây một vài trong số các danh xưng đó: có hai yếu tố
chung duy nhất với các biến phân của nó. Đồng nhất (homogeneous) Phân hoá
(differentiated) 1) Vật chất nguyên thuỷ vũ trụ chưa phân hoá 1) Tinh tú quang
(astral Light) 2) Dĩ thái nguyên thuỷ 2) Biển lửa (Sea of fire) 3) Thực thể
nguyên thuỷ có mang điện 3) Điện năng (electricity) 4) Akasha 4) Prakriti 5)
Siêu tinh quang 5) Vật chất nguyên tử 6) Hoả xà (Fiery serpent) 6) Tà xà
(Serpent of evil) 7) Mulaprakriti 7) Dĩ thái với 4 tiểu phân của nó: Phong, hoả,
thuỷ, địa 8) Vật chất tiền căn nguyên 2 Fohat là tư tưởng thiêng liêng hay năng
lượng (Shakti) khi đă biểu lộ trên bất cứ cơi vũ trụ nào. Đó là tác dụng hỗ
tương giữa tinh thần và vật chất. Bảy biến phân của Fohat là :
Đó là toàn bộ những ǵ tích cực, linh hoạt hay được làm
cho có sinh khí và của tất cả những ǵ liên quan đến sự thích ứng của sắc tướng
với các nhu cầu của lửa bên trong của sự sống. Ở đây có lẽ sẽ hữu ích khi chỉ ra
rằng từ lực là hiệu quả của cung thiêng liêng khi biểu lộ, với cùng ư nghĩa rằng
điện năng là hiệu quả biểu lộ của cung nguyên thuỷ của thông tuệ linh hoạt. Nên
ngẫm nghĩ kỹ về điều này v́ nó nắm giữ một bí nhiệm. Lửa của cơi trí cũng biểu
lộ theo hai cách: Trước nhất, dưới h́nh thức Lửa Trí Tuệ, căn bản của mọi biểu
lộ và theo một ư nghĩa đặc biệt huyền bí, là toàn thể các sự sống. Nó cung ứng
sự liên quan giữa sự sống với h́nh hài, gữia tinh thần với vật chất và là nền
tảng của chính tâm thức. Thứ hai, dưới h́nh thức là Hành khí của Lửa (Elementals
of Fire) hay là toàn bộ biểu lộ tích cực của tư tưởng, chính nó biểu lộ xuyên
qua trung gian của các thực thể này, theo chính nguyên thể (essence) của chúng,
chính là lửa. 1. Cơi của sự sống thiêng liêng ……….. Adi……… Bể lửa 2. Cơi của sự
sống Chân Thần ………Anupadaka… Akasha 3. Cơi của Tinh thần .………..Atma……… Aether 4.
Cơi của trực giác ...………Bồ đề……… Phong (Air) 5. Cơi của Trí tuệ ………..Trí tuệ………
Hoả 6. Cơi của dục vọng ……….Cảm dục…… Tinh tú quang 7. Cơi trọng trược
.......…Hồng trần…… Dĩ thái GLBN I, 105, 134, 135, 136. 44
60. 60 Các nhị nguyên biểu lộ này tạo thành 4 yếu tố cần thiết trong
tứ hạ thể Thượng Đế (logoic quaternary) (1 ), hay là bản chất hạ đẳng của Thượng
Đế khi ta xét sự biểu lộ của Ngài theo quan điểm huyền bí; về phương diện ngoại
môn, chúng là toàn bộ của tứ hạ thể Thượng Đế, cộng thêm nguyên khí thứ năm của
Thượng Đế, tức thể trí vũ trụ. Điểm Linh Quang (divine spark) đến nay vẫn chưa
biểu lộ (cũng như hai lửa khác), dưới h́nh thức một nhị nguyên, mặc dù, những ǵ
ẩn giấu trong chu kỳ sau này chỉ có sự tiến hoá mới hé lộ. Lửa thứ ba này cùng
với hai lửa kia, tạo thành bộ năm thiết yếu cho sự phát triển tiến hoá Thượng Đế
và bởi sự phối hợp hoàn hảo của nó với hai lửa kia khi diễn tŕnh tiến hoá tiếp
diễn, ta thấy được mục tiêu của sự thành đạt của Thượng Đế cho chu kỳ lớn hơn
này hay chu kỳ của Thái Dương hệ này. Khi cung nguyên thuỷ, tức cung của hoạt
động sáng suốt, cung thiêng liêng tức cung bác ái sáng suốt và cung vũ trụ thứ
ba tức cung ư chí sáng suốt gặp nhau, phối hợp, hoà nhập và rực sáng. Thượng Đế
sẽ nhận được cuộc điểm đạo thứ 5 của Ngài như vậy thành toàn được một trong các
chu kỳ của Ngài. Khi chuyển động quay ṿng, tiến tới trước và xoắn ốc có chu kỳ,
tác động trong sự tổng hợp hoàn hảo, lúc bấy giờ rung động mong muốn sẽ được đạt
đến. Khi ba định luật Tiết Kiệm, Hấp Dẫn và Tổng Hợp tác động lẫn nhau một cách
chính xác hoàn hảo, lúc bấy giờ thiên nhiên sẽ phô bày 1 Tứ hạ thể (the
quaternary) được bao gồm bốn nguyên khí thấp (lower principles) và các lớp vỏ
(sheaths, thể) mà qua đó các nguyên khí thấp này biểu lộ như một đơn vị chặt
chẽ, được giữ chung lại với nhau trong khi biểu lộ bởi sức sống của thực thể ở
bên trong. một cách hoàn toàn sự vận hành cần thiết và sự thích ứng
chính xác của h́nh hài vật chất đối với tinh thần nội tại, của vật chất đối với
sự sống và của tâm thức đối với hiện thể của nó. II.. LỬA TRONG TIỂU THIÊÊN ĐỊỊA Bây giờ, chúng ta hăy xem xét một cách vắn tăt về sự
tương hợp giữa tổng thể vĩ đại và đơn vị con người; và kế đó, phác hoạ chủ đề
của chúng ta một cách chi tiết và xem xét các phần nhỏ trong đó, sẽ là sáng suốt
nếu phân chia nó ra. Lửa trong Tiểu thiên địa về cơ bản cũng có ba phần và biểu
lộ làm năm. 1. Lửa Nội Tại truyền sinh lực: tương ứng với lửa do ma sát. Đây là
toàn bộ của hoả xà cá nhân, nó làm linh hoạt xác thân và cũng biểu lộ theo hai
cách: Thứ nhất, dưới h́nh thức nhiệt tiềm ẩn (tiềm nhiệt) nó là căn bản của sự
sống của tế bào tựa h́nh cầu, hay nguyên tử, và điều chỉnh sự quay của tế bào
này so với tất cả tế bào khác. Thứ hai, dưới h́nh thức hoạt nhiệt hay prana;
nhiệt này làm linh hoạt vạn vật và là lực phát động (driving force) của h́nh hài
đang tiến hoá. Nó tự biểu lộ trong bốn loại dĩ thái và trong trạng thái hơi, ở
đây, người ta t́m thấy sự tương ứng trên cơi hồng trần liên quan tới con người
so với Akasha và biểu lộ ngũ phân của nó trên cơi của Thái dương hệ. Lửa này là
sự rung động cơ bản của hệ thống nhỏ trong đó Chân Thần hay Tinh Thần nhân loại
là Thượng Đế, và nó nắm giữ phàm ngă hay con người vật chất hạ đẳng biểu lộ ra
bên ngoài; như vậy, cho phép đơn vị tinh thần này tiếp xúc với cơi vật chất
trọng trược nhất. Nó có sự tương ứng của nó trong cung hoạt động sáng suốt và
được kiểm soát bởi Định Luật Tiết Kiệm ở một trong các tế phân của định luật này
tức 46
62. 62 là Định Luật Thích Nghi Thời gian (Law of Adaptation
in Time). 2. Kế tiếp là Lửa hay Tia Lửa của Trí Tuệ tương ứng với Lửa Thái dương
trong con người. Lửa này tạo thành đơn vị suy tư hữu ngă thức hay là linh hồn.
Lửa của trí tuệ này bị chế ngự bởi Định Luật Hút như là sự tương ứng lớn hơn của
nó. Sau này, chúng ta có thể bàn rộng về điểm này. Chính tia lửa trí tuệ này
trong con người, biểu lộ như hoạt động xoắn ốc có chu kỳ, nó đưa đến sự bành
trướng và rốt cuộc trở về trung tâm của hệ thống nó, tức Chân Thần - nguồn cội
và mục tiêu cho Chân Thần nhập thế tức là con người. V́ trong đại vũ trụ, lửa
này cũng biểu lộ theo hai cách. Nó biểu lộ dưới h́nh thức ư chí sáng suốt, nối
liền Chân Thần hay Tinh Thần với điểm tiếp xúc thấp nhất của nó là phàm ngă, tác
động qua một hiện thể hồng trần. Cho đến nay, nó cũng biểu lộ một cách thiếu
hoàn hảo dưới h́nh thức yếu tố đem sinh lực trong các h́nh tư tưởng do chủ thể
tư tưởng tạo ra. Cho đến nay, tương đối có ít h́nh tư tưởng, có thể nói là do
trung tâm của tâm thức, tức chủ thể tư tưởng, tức Chân ngă tạo ra. Đến nay, rất
ít người được giao tiếp chặt chẽ với thượng ngă (higher self) hay Chân ngă của
họ, mà họ có thể kiến tạo vật chất của cơi trí thành một h́nh hài, h́nh hài này
có thể được nói đến một cách đích thực là một biểu lộ của các tư tưởng, mục tiêu
hay ước vọng của Chân Ngă của họ, tác động qua bộ óc hồng trần. Đa số các h́nh
tư tưởng hiện nay đang lưu chuyển có thể nói là các kết hợp vật chất được kiến
tạo thành h́nh hài với sự trợ giúp của trí cảm (tức là của dục vọng pha trộn
chút ít trí tuệ, như vậy tạo ra sự pha trộn chất cảm dục với chất trí, mà hầu
hết là chất cảm dục), và phần lớn là do bởi tác động phản xạ của
hành khí. Các nhị nguyên biểu lộ này là : 1. Lửa linh hoạt hay prana. Tiềm nhiệt
hay thân nhiệt (bodily heat). 2. Năng lượng trí tuệ trong thể trí. Các h́nh tư
tưởng thuần tuư của thể trí, được làm cho sống động bởi lửa tự phát sinh, hay là
bởi nguyên khí thứ năm và do đó là một phần của khu vực hay hệ thống kiểm soát
của Chân Thần. Hai điều này hợp thành một tứ nguyên huyền bí (esoteric
quaternary), với yếu tố thứ năm, tức là điểm linh quang của ư chí sáng suốt, tạo
thành năm của biểu lộ Chân Thần - biểu lộ trong trường hợp này có nghĩa là một
biểu lộ nội tâm thuần tuư v́ không hẳn là tinh thần, cũng không hẳn là vật chất.
3. Cuối cùng có Ngọn Lửa Chân Thần Thiêng Liêng. Ngọn Lửa này biểu hiện rung
động cao nhất mà Chân Thần có thể có được, bị chế ngự bởi định luật Tổng hợp và
là nguyên nhân của chuyển động luỹ tiến của Nguyên sinh khí (Jiva) đang tiến
hoá. Cuối cùng chúng ta đến điểm hoà nhập hay đến cuối sự biểu lộ và đến tuyệt
đích xét về mặt Chân Thần, của đại chu kỳ hay manvantara. Do đó chúng ta sẽ t́m
thấy được ǵ? Cũng như trong đại thiên địa, sự pha trộn của ba loại lửa chính
yếu của vũ trụ đánh dấu mức độ thành đạt của Thượng Đế, cũng vậy, trong sự pha
trộn các lửa chính yếu của tiểu thiên địa, chắc chắn chúng ta cũng đạt đến sự
toàn mỹ của thành tựu của con người trong chu kỳ này. 47
64. 64 Khi tiềm hoả của phàm ngă pha trộn với lửa của trí
tuệ, tức lửa của Chân Ngă, và cuối cùng hợp nhất (merge) với Ngọn Lửa Thiêng,
lúc bấy giờ con người được điểm đạo lần thứ năm trong Thái dương hệ này và đă
hoàn tất được một trong các chu kỳ lớn của con người (1 ). Khi cả ba toả chiếu
như một lửa duy nhất, sự giải thoát khỏi vật chất hay khỏi h́nh hài vật chất
được thành tựu. Vật chất đă được hiệu chỉnh một cách thật đúng đối với tinh thần
và sau cùng sự sống bên trong thoát ra khỏi lớp vỏ của nó mà hiện giờ chỉ tạo
thành một vận hà cho sự giải thoát.
II LỬA BIỂU LỘ Để nối tiếp sự
khảo sát của chúng ta về các loại lửa đang duy tŕ cấu trúc của Thái dương hệ
hữu h́nh và của con người hữu h́nh biểu lộ ra ngoại cảnh, chính con người này
tạo ra sự phát triển tiến hoá và vốn là căn bản của mọi nở rộ ra ngoại cảnh, nên
ghi nhớ rằng chúng biểu lộ như là toàn bộ sự sống sinh động của một Thái dương
hệ, của một hành 1 Các thuật ngữ Phàm ngă (Lower self), Thượng ngă (Higher
Self), Linh Ngă (Divine Self) dễ khiến ta nhầm lẫn cho đến khi đạo sinh hiểu rơ
các đồng nghĩa khác nhau liên quan đến chúng. Bảng sau đây có thể hữu ích : Cha
...........................Con ..................................... Mẹ Tinh
thần .................Linh hồn ............................ Xác thân Sự Sống
....................Tâm thức ............................ Sắc tướng Chân
Thần................Chân ngă............................ Phàm ngă Linh ngă
...................Thượng ngă ....................... Phàm ngă Tinh
thần..................Biệt ngă(Individuality)…. Phàm ngă Điểm (The
Point).....Tam nguyên (Triad)……. Tứ nguyên (Quaternary) Chân
thần.................Thái Dương Thiên Thần... Nguyệt Tinh Quân 48
65. Nhận xét mở đầu 65 tinh, của toàn thể cấu trúc của con người hoạt động linh
hoạt trên cơi hồng trần và của nguyên tử của vật chất. Nói một cách rộng hơn,
chúng tôi muốn nói rằng Lửa thứ nhất hoàn toàn liên quan đến : a. Hoạt động của
vật chất. b. Chuyển động quay của vật chất. c. Sự phát triển của vật chất bằng
ma sát, theo định luật tiết kiệm. Bà H.P.B. đề cập đến điều này trong bộ Giáo Lư
Bí Nhiệm (xem quyển I, trang 169, 562, 567, 569, I, 258, 390, 547, 551, 552).
Lửa thứ nh́ là lửa từ cơi trí vũ trụ, liên quan tới : a. Sự biểu lộ tiến hoá của
trí tuệ tức manas. b. Sinh khí của linh hồn. c. Sự biểu lộ tiến hoá của linh hồn
khi nó biểu hiện dưới h́nh thức là một điều khó hiểu nó đưa tới sự tổng hợp của
vật chất. Khi cả hai sát nhập lại bằng yếu tố năng lượng hoạt động này, th́ cái
được gọi là tâm thức xuất hiện (1). 1 Trong quyển “Khảo cứu về Tâm Thức” (Study
of Consciousness), bà Besant nói (trang 37) : “Tâm thức là thực tại duy nhất
theo ư nghĩa đầy đủ nhất của cách nói được dùng nhiều đó; hệ quả của điều này là
bất cứ thực tại nào được t́m thấy ở bất cứ nơi đâu đều xuất phát từ tâm thức. Do
đó, mọi vật vốn là tư tưởng đều hiện hữu. Loại Tâm thức, mà trong ấy mọi vật
hiện hữu, mọi vật, theo sát nghĩa, “có thể” cũng như “có thực” (“actual”) –
“thực thể có thực” là những ǵ được nghĩ đến như là đang tồn tại bởi một tâm
thức riêng biệt trong thời gian và không gian, c̣n “thực thể có thể” là tất cả
những ǵ vốn không được nghĩ đến như vậy ở bất cứ giai đoạn nào trong thời gian
và bất cứ điểm nào trong không gian – chúng ta gọi là Tâm Thức Tuyệt Đối
(Absolute Consciousness). Đó
66. 66 Khi sự phối hợp tiếp diễn và lửa trở nên ngày càng thêm tổng
hợp, toàn thể của biểu lộ đó mà chúng ta xem như cuộc sống hữu thức trở nên ngày
càng hoàn hảo hơn. d. Lửa này vận hành theo Định Luật Hút. e. Kết quả tiếp theo
trong chuyển động xoắn ốc có chu kỳ mà chúng ta gọi là sự tiến hoá của thái
dương, trong thái dương hệ, nhưng nó là sự tiệm tiến (theo quan điểm của một vũ
trụ) của hệ thống chúng ta đến tâm điểm của nó. Điều này phải được xem xét theo
quan điểm thời gian (1 ). là cái Tổng Thể (the AL), cái Vĩnh Cửu (the Eternal),
cái Vô hạn (the Infenite), cái Thường Tồn (the Changeless). Tâm thức xét theo
thời gian và không gian và của tất cả các h́nh thức như đang hiện tồn trong
chúng kế tiếp và đúng chỗ, là Tâm thức của Thượng Đế (Universal Consciousness),
Đấng Duy Nhất mà người Ấn giáo gọi là Saguna Brahman - Đấng Vĩnh cửu với các
thuộc tính - Đấng Pratyag-Atma - Nội ngă (the INer Self); theo người Parsi là
Hormuzd; theo người Hồi giáo là ALah. Tâm thức liên quan với một thời gian rơ
rệt dù dài hay ngắn, với một không gian xác định, dù rộng lớn hay có giới hạn,
là thuộc cá nhân, tâm thức của một Thực Thể cụ thể (concrete Being), một Đấng
của nhiều vũ trụ, hay một vũ trụ, hay của bất luận cái gọi là một phần nào của
một vũ trụ, phần của Đấng ấy và đối với Ngài do đó là một vũ trụ - các thuật ngữ
này thay đổi tuỳ tầm mức năng lực của tâm thức; biết bao nhiêu là tư tưởng đại
đồng như là một tâm thức riêng rẽ có thể hoàn toàn suy nghĩ, nghĩa là trên đó
Ngài có thể áp đặt chính thực tại của Ngài, có thể được xét đến như là thực tại
giống với chính Ngài, là vũ trụ của Ngài”. 1 Tâm thức đại đồng, được biểu lộ như
là tâm thức trong thời gian và không gian, đúng như bà Besant diễn tả nó một
cách tài t́nh biết bao, gồm mọi h́nh thức hoạt động, và sự tiến hoá theo chu kỳ
xoắn
Lửa thứ ba liên quan đến : a. Tiến hoá của tinh thần: Ở
giai đoạn này, một cách thực tiễn, không ǵ có thể được truyền đạt liên quan tới
cuộc tiến hoá này. Sự phát triển của tinh thần, cho đến nay, chỉ có thể được
diễn tả liên quan đến tiến hoá vật chất và chỉ qua sự thích ứng của hiện thể và
qua sự thích hợp của lớp vỏ, tức xác thân hay sắc tướng mới có thể đạt được
tŕnh độ phát triển tinh thần bằng bất cứ cách nào. Một lời cảnh báo nên được
đưa vào ở đây: Giống như trên cơi trần, hiện thể vật chất, không thể biểu hiện
đầy đủ toàn thể tŕnh độ phát triển của chân ngă hay thượng ngă, cũng vậy, ngay
cả chân ngă cũng không thể cảm nhận đầy đủ và biểu hiện được tính chất của tinh
thần. V́ vậy, tâm thức con người hoàn toàn không thể đánh giá được một cách đúng
đắn sự sống của tinh thần hay Chân Thần. b. Tác động của ngọn lửa thiêng theo
định luật Tổng Hợp - một thuật ngữ chung mà rốt cuộc ta sẽ thấy là nó bao gồm
hai định luật khác dưới h́nh thức các tế phân. c. Kết quả theo sau của chuyển
động luỹ tiến - một chuyển động quay tṛn, theo chu kỳ và tiến tới. Toàn thể vấn
đề được bàn đến trong Bộ Luận này liên quan đến nguyên thể bên trong (subjective
essence) của Thái dương hệ, chủ yếu không phải về khía cạnh bên ngoài cũng không
phải về khía cạnh tâm linh. Nó liên quan đến các Đấng Cao Cả ngự trong h́nh hài
sắc tướng, các Ngài biểu lộ dưới h́nh thức các yếu tố sống động qua trung gian
vật chất và trước nhất thông qua chất dĩ thái. Các Ngài đang phát triển ốc theo
quan điểm của sự tiến hoá vũ trụ và có liên quan tới tâm thức tuyệt đối, lại có
thể là xoay quanh. 50
68. 68 một năng lực thứ hai, tức là lửa trí tuệ và về bản thể, chính
các Ngài là các điểm lửa (points of fire), tách ra qua sự cọ xát vũ trụ, được
tạo thành bởi sự quay của bánh xe vũ trụ, bị lôi cuốn vào biểu lộ nhất thời có
giới hạn và rốt cuộc phải trở về trung tâm vũ trụ của các Ngài. Các Ngài sẽ trở
lại gia thêm các kết quả của sự tăng trưởng tiến hoá và nhờ sự đồng hoá, các
Ngài sẽ làm mạnh thêm bản chất căn bản và sẽ là lửa tinh thần cộng với lửa trí
tuệ. Lửa bên trong của vật chất, mà trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm được gọi là “lửa
do ma sát”. Đó là một hậu quả chứ không phải nguyên nhân. Nó được tạo ra bởi hai
thứ lửa tinh thần và trí tuệ (lửa điện và lửa thái dương) tiếp xúc với nhau qua
trung gian vật chất. Năng lượng này biểu lộ trong chính vật chất dưới h́nh thức
lửa bên trong của mặt trời và của các hành tinh và có được một phản ảnh trong
các lửa bên trong của con người. Con người là Ngọn Lửa Thiêng và lửa của trí tuệ
tiếp xúc được với nhau qua trung gian của vật chất hay h́nh hài. Khi sự tiến hoá
chấm dứt, lửa của vật chất th́ không thể nhận biết được. Nó chỉ tồn tại khi hai
thứ lửa kia được kết hợp lại và nó không tồn tại khi chính nó tách ra khỏi chính
vật chất. Bây giờ chúng ta hăy nhận xét vắn tắt vài sự kiện có liên quan đến lửa
trong vật chất và chúng ta hăy xem xét chúng một cách thứ tự, để mặc thời gian
làm sáng tỏ ư nghĩa của chúng. Trúơc nhất, chúng ta có thể nói rằng lửa bên
trong vừa tiềm tàng vừa linh động, tự nó biểu lộ như là cái tổng hợp của các lửa
được thừa nhận của Thái dương hệ, và thí dụ, biểu lộ dưới h́nh thức bức xạ mặt
trời và sự cháy bên trong hành tinh. Đề tài này có phần nào được bao gồm bởi
khoa học và được ẩn giấu dưới bí nhiệm của điện ở cơi hồng trần, vốn là một biểu hiện của lửa bên trong linh hoạt
của Thái dương hệ và của hành tinh giống y như sự cháy bên trong là một biểu
hiện của lửa bên trong tiềm tàng. Các lửa sau này vốn ở bên trong của mỗi bầu
hành tinh và là cơ bản của mọi sự sống biểu lộ ở cơi trần. Thứ hai là, chúng ta
có thể ghi nhận rằng lửa bên trong là căn bản của sự sống trong ba giới thấp của
thiên nhiên, và trong giới thứ tư hay giới nhân loại có liên quan tới hai hiện
thể thấp. Lửa của trí tuệ, khi phối hợp với các lửa bên trong, là căn bản của sự
sống trong giới thứ tư, và khi được phối hợp (hiện nay chỉ mới một phần, c̣n sau
này sẽ toàn thể), chúng sẽ kiểm soát con người tam phân hạ đẳng hay là phàm ngă;
sự kiểm soát này kéo dài cho đến cuộc điểm đạo thứ nhất. Cuối cùng là lửa Tinh
thần, khi được phối trộn với hai lửa kia (sự phối trộn bắt đầu trong con người ở
lần điểm đạo thứ nhất), hợp thành một căn bản của sự sống tinh thần. Khi cuộc
tiến hoá nối tiếp trong giới thứ năm hay giới tinh thần, ba lửa này bùng cháy
cùng lúc, tạo ra sự toàn giác (perfected consciousness). Sự bùng cháy này đưa
tới kết quả là cuối cùng tạo nên sự thanh luyện vật chất và sự thoả đáng theo
sau của nó; vào lúc kết thúc cuộc biểu lộ, cuối cùng nó đưa đến sự huỷ diệt sắc
tướng, sự tan biến của sắc tướng và kết thúc sự sống như được hiểu trên các cơi
thấp. Theo thuật ngữ thần học Phật giáo, nó tạo ra sự tịch diệt (aNihilation);
điều này bao hàm không những sự mất tự thể (identity) mà c̣n là sự chấm dứt việc
biểu lộ ra ngoại cảnh và sự đào thoát của Tinh Thần, cộng với trí tuệ vào trung
tâm vũ trụ của nó. Nó có sự tương đồng của nó trong cuộc điểm đạo mà khi đó vị
52
70. 70 cao đồ (adept) thoát khỏi các giới hạn của vật chất trong ba
cơi thấp. Lửa bên trong của Thái dương hệ, của hành tinh, và của con người gồm
có ba : 1. Lửa bên trong ở trung tâm của khối cầu, các ḷ lửa bên trong này tạo
nên sự ấm áp. Đây là tiềm hoả. 2. Lửa bức xạ : Loại lửa này có thể được diễn tả
dưới tên là điện của cơi trần, các tia sáng, và năng lượng dĩ thái. Đây là lửa
linh hoạt. 3. Lửa thiết yếu hay là hoả hành khí, chính chúng sẽ là tinh hoa của
lửa. Phần lớn, chúng được chia thành hai nhóm : a. Hoả thiên thần (Fire devas)
hay các thực thể tiến hoá thăng thượng. b. Hoả tinh linh (Fire elementals) hay
các thực thể tiến hoá giáng hạ. Sau này chúng ta sẽ thêm chi tiết về đề tài này
khi xét đến lửa của trí tuệ và bàn đến bản chất của các hành khí biết suy tư.
Tất cả các hành khí và thiên thần này đều ở dưới sự kiểm soát của Hoả Tinh Quân
(the Fire Lord), tức là Agni. Khi nói đến Ngài và thiên giới của Ngài, đề tài
cần phải được xét rộng hơn. Tuy nhiên, nơi đây, chúng ta có thể vạch ra rằng hai
tŕnh bày đầu tiên của chúng ta liên quan đến lửa bên trong, diễn tả hiệu quả mà
các hoả thực thể (fire entities) có được đối với môi trường bao quanh chúng.
Nhiệt và phát xạ là các tên gọi khác có thể được dùng theo nghĩa này. Mỗi một
trong các hiệu quả này tạo ra một loại hiện tượng khác nhau. Tiềm hoả gây nên sự
tăng trưởng tích cực của những ǵ mà nó được lồng vào trong đó, và gây nên sự
thúc đẩy hướng thượng, sức thúc đẩy này đưa vào biểu lộ tất cả những ǵ được t́m
thấy trong các giới của thiên nhiên. Lửa phát xạ gây nên sự
tăng trưởng liên tục của những ǵ đă đang phát triển, dưới ảnh hưởng của tiềm
hoả, tới một mức độ có thể tiếp nhận được lửa bức xạ. Chúng ta hăy lập bảng biểu
về việc đó như sau : Thái dương hệ hay Đại thiên địa : Thái Dương Thượng Đế hay
Đại Thiên Đế. Tiềm hoả hay nội hoả tạo ra nhiệt bên trong nó làm cho Thái dương
hệ sản sinh ra mọi h́nh thái của sự sống. Đó là hơi ấm có sẵn (inherent warmth)
gây nên mọi sự thụ tinh dù là nơi người, động vật hoặc thực vật. Lửa linh hoạt
hay lửa bức xạ vẫn có trong sự sống và tạo ra sự tiến hoá của mọi vật vốn đă
phát triển thành biểu lộ ngoại cảnh bằng tiềm hoả. Hành Tinh Thượng Đế : Những
ǵ được đề ra liên hệ đến thái dương hệ, nói chung có thể được khẳng định đối
với tất cả các hành tinh mà trong bản chất của chúng phản ảnh cho vầng Thái
Dương, huynh trưởng của chúng. Nhân loại hay Con Người Tiểu Thiên Địa: T́ềm hoả
của nhân loại, tức là nhiệt ở bên trong thân người, tạo ra các h́nh thức khác
nhau của sự sống, như là : 1. Các tế bào của thể xác. 2. Các cơ quan được nuôi
dưỡng bởi tiềm nhiệt. 3. Sự sinh sôi nảy nở của chính nó trong các h́nh hài con
người khác, tức cơ bản của chức năng tính dục. Tuy nhiên, bức xạ của con người
hay lửa linh hoạt (active fire), cho đến nay vẫn là một yếu tố ít được hiểu biết
nhất. Nó liên quan tới hào quang sức khoẻ và liên quan tới bức xạ từ thể dĩ thái
vốn làm cho một người thành một kẻ chữa bệnh và có thể truyền nhiệt linh hoạt
(hoạt nhiệt).
72. 72 Cần phải phân biệt giữa bức xạ từ thể dĩ thái vốn là một bức
xạ của prana với từ điển, vốn là một sự phóng phát từ một thể tinh anh (thường
là thể cảm dục) và có liên quan với sự biểu lộ của Ngọn Lửa Thiêng trong lớp vỏ
vật chất. Ngọn Lửa Thiêng được tạo ra trên cơi thứ hai, tức cơi Chân Thần, và từ
điển (vốn là một phương pháp để giải thích lửa bức xạ), do đó được cảm nhận một
cách tối thượng trên cơi thứ tư và thứ sáu hay là xuyên qua thể Bồ Đề và thể cảm
dục. Như chúng ta biết, các cơi này có liên quan chặt chẽ với cơi thứ nh́. Sự
phân biệt này rất quan trọng và phải được nhận ra một cách cẩn thận. Do đó, sau
khi đă tŕnh bày như trên, chúng ta có thể tiếp tục đề cập một cách chi tiết hơn
về lửa bên trong của các hệ thống, tiểu và đại thiên địa.
TIẾT MỘT ĐOẠN A CÁC NỘI HOẢ CỦA CÁC THỂ I.. BA VẬN HÀ ĐỐỐI VỚI
LUỒỒNG HOẢẢ Do việc thường dùng tên gọi “lớp vỏ” (“sheath”), nên
cần phải chú ư rằng chúng ta khảo sát các luồng hoả đang biểu lộ qua trung gian
của các lớp ngoài này đối với các màn vật chất đang che giấu Thực Tại bên trong,
Ở đây chúng ta sẽ không đề cập đến đề tài về các lớp vỏ trên các cơi cao, mà chỉ
bàn đến luồng hoả làm linh hoạt ba hiện thể thấp - tức thể xác trong hai tế phân
của nó (tức là thể dĩ thái và nhục thân), thể t́nh cảm hay thể cảm dục và thể hạ
trí. Các đạo sinh không cẩn trọng thường bỏ qua sự kiện rằng cả hai thể cảm dục
và thể hạ trí đều là vật chất, và cũng là vật chất theo cách riêng của nó, giống
như là nhục thân và chất liệu mà chúng được tạo thành cũng được làm cho linh
hoạt bởi lửa tam phân y như thể xác. Trong thể xác, chúng ta có các luồng hoả
của phàm ngă (về mặt con vật) tập trung ở đáy xương sống. Chúng nằm ở một điểm
có liên hệ với thể xác giống như mặt trời hồng trần so với Thái dương hệ. Điểm
nhiệt trung ương này toả ra theo mọi hướng, dùng cột xương sống như là động mạch
chính của nó, nhưng tác động có liên quan chặt chẽ với vài hạch Đồ h́nh I 55 56
74. 74 ThöôïngÑeácuûamoäThaùidöôngheä
ThöôïngÑeáNgoâiMoät:2cöïcTinhThaàn-VaätChaát,khoângtaùchra,chöaphaânhoùa
ThöôïngÑeáNgoâiHai:PhaânchiathaønhTinhThaànvaøVaätChaáTamas,TónhTaïi
ThöôïngÑeáNgoâiBa:Ñemlaïi3gunas(thuoäctính)choVaätChaátGoác:Rajas,HoaïtÑoäng
Ishvara,ThöôïngÑeá,keáñoùphaùtra:SaTva,HaøiHoøa
ÑeänhaáTanmatra,söùcmaïnHoaëcrungñoäng,dothayñoåitaâmthöùCuûaNgaøi.
AdiTava.DosöïkeáthôïpuûaVaätChaátViTöû,6coơiphuïthaápcuûacoơicaonhaátñöôïctaïothaønhCoơithöù7
caùCoơiphuï2,3,4,5,6,7.(Mahaparanirvanic)
AnupadakataTva(Vaätchaátvitöûcoơithöù6)Coơithöù6
caùCoơiphuï2,3,4,5,6,7.(Paranirvanic)
AkashataTva(Vaätchaátvitöûcoơithöù5)Coơithöù5
caùCoơiphuï2,3,4,5,6,7.(Nirvanic) VayutaTva(VaätchaátVitöûcoơithöù4)Coơithöù4
caùCoơiphuï2,3,4,5,6,7.(Buddhic) AgnitaTva(VaätchaátVitöûcoơithöù3Coơithöù3
caùCoơiphuï2,3,4,5,6,7.(Manasic) ApastaTva(VaätchaátVitöûcoơithöù2)Coơithöù2
caùCoơiphuï2,3,4,5,6,7.(Astral) PrithivitaTva(vitöûhoàngtraàn)Coơithöù1
caùCoơiphuï2,3,4,5,6,7.(Physical) Tríchtừtạpchí"TheTheosophist",thaùng12,1899
Ghichuù:TaTvahaylaøVaätchaátVitöû(Atomic
MaTer)cuûamoätcoơilaøkeátquaûcuûamoätxoaùylöïc
(vortex)taïoneânbôûiTaTvacuûacoơikeátreântrong
taäphôïpthoâtröôïcnhaátcuûacoơicaokeáñoù,xoaùy
löïcnaøyñöôïctaïorabôûimoäTanmatramôùido Iswarañöara. TIEÁNHOAÙCUÛAVAÄTCHAÁT
NaênglöôïngnaøycuûaThöôïngÑeá,trongkhixoaynhanhkhoângtheåtöôûng,ñaøocaùcloătrongkhoânGian"trongVaätChaátGoácvaø
xoaùysöïsoángnaøyñöôïcphuûtronglôùpbaocuûaVaätChaátGoác,laønguyeântöûnguyeânsô,goïilaø:
c Kết quả Kết quả Kết quả Kết quả Kết quả Kết quả 1st Tanmatra 2ndTanmatra
4thTanmatra 5thTanmatra 6thTanmatra 3rdTanmatra
75. Các nội hỏa của các thể 75 thần kinh trung ương nằm bất cứ nơi đâu và có sự
kết hợp đặc biệt với lá lách. Trong thể dĩ thái, vốn là một mô phỏng đúng y như
đối phần trọng trược của nó, chúng ta có cơ quan của lửa linh hoạt hay lửa bức
xạ, và, như được biết rơ, đó là hiện thể của prana. Chức năng của nó là tích
chứa các tia sáng bức xạ và nhiệt nhận được từ mặt trời và truyền chúng, qua lá
lách, đến mọi phần của thể xác. Vậy th́, trong tương lai, người ta sẽ đi đến chỗ
nhận ra rằng xương sống và lá lách cực kỳ quan trọng cho t́nh trạng sức khoẻ thể
xác của con người, và khi cột xương sống nằm thật đúng và thật thẳng và khi lá
lách không bị sung huyết và trong t́nh trạng khoẻ mạnh, sẽ có ít sự xáo trộn
trong nhục thân. Khi ḷ lửa vật chất cháy sáng và khi nhiện liệu của thể xác
(tức tia prana) được đồng hoá một cách thích ứng, xác thân con người sẽ vận hành
như ư muốn. Vấn đề về việc phối hợp hai luồng hoả này vốn đầy đủ ở một người
b́nh thường và khoẻ mạnh, sẽ thu hút sự chú ư của các nhà y học hiện đại. Lúc
ấy, chính y sẽ quan tâm tới việc loại bỏ sự tắc nghẽn thần kinh hay tắc nghẽn
vật chất để chừa lại một vận hà thông suốt cho hơi ấm bên trong. Sự phối hợp
này, hiện nay đang là một sự tăng trưởng tự nhiên và thông thường trong mỗi
người, là một trong các dấu hiệu của thành tựu hay sự khai mở trong một Thái
dương hệ trước. Giống như việc điểm đạo và giải thoát được ghi dấu trong Thái
dương hệ này bằng sự phối hợp các luồng hoả của thể xác, của trí tuệ và của Tinh
Thần, cũng vậy, trong một chu kỳ trước, sự thành tựu được đánh dấu bằng sự phối
hợp các lửa tiềm tàng của vật chất với lửa bức xạ hay lửa linh hoạt và kế đó là
sự phối hợp hai lửa này với lửa của trí tuệ. Trong chu kỳ trước các hiệu quả
trong sự biểu lộ của Lửa Thiêng th́ quá 57
76. 76 xa xăm và kín đáo đến nỗi mà hiếm khi nhận ra được,
dù là nhận ra một cách lờ mờ ở đó. Sự tương đồng của nó có thể được nh́n thấy
trong giới động vật, trong đó bản năng nắm giữ trực giác đang tiềm tàng c̣n Tinh
thần đang ứng linh một cách lờ mờ. Tuy nhiên, tất cả chỉ là một phần của tổng
thể thiêng liêng. Đề tài về nhiệt bức xạ của hệ thống đại và tiểu thiên địa sẽ
được bàn đến chi tiết về sau này. Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến tiềm hoả bên trong
của : a. Thái dương. b. Hành tinh. c. Con người. d. Nguyên tử. Chúng ta phải nhớ
rằng trong cả hai thể cảm dục và trí tuệ có các đối phần của các trung tâm lực
như đă thấy trong thể xác. Các trung tâm này liên quan đến vật chất và sự tiến
hoá của nó. Một phát biểu căn bản có thể được đưa ra liên quan đến lửa bên trong
của cả bốn (thái dương, hành tinh, con người và nguyên tử): Trong Thái dương,
hành tinh, con người và trong nguyên tử có một điểm nhiệt trung tâm, hay là (tôi
tạm dùng một thuật ngữ có giới hạn và không thích hợp) một hang lửa trung ương,
hay cái nhân của nhiệt và cái nhân trung ương này đạt tới giới hạn của vùng ảnh
hưởng của nó, tức là ṿng giới hạn của nó, bằng một vận hà tam phân (1 ). 1 “Bản
chất thiêng liêng đang tràn ngập khắp toàn thể vũ trụ gồm nhiều triệu thái dương
hệ được mặt trời chúng ta bắt kịp và vượt qua bằng một h́nh thức biểu lộ đến các
ranh giới xa nhất của thái dương hệ chúng ta, thế nên nguyên thể biểu lộ này có
thể là vùng đất căn bản của sự tăng trưởng, bảo tồn và huỷ diệt của thế giới 58
77. Các nội hỏa của các thể 77 a) Thái dương : Bên trong mặt trời, ngay giữa tâm
là một biển lửa hay nhiệt, nhưng không phải là một biển lửa ngọn. Ở điểm này sự
phân biệt có lẽ sẽ không có ư nghĩa đối với một số người. Đó là trung tâm của
khối cầu và là điểm cháy rực bên trong ghê gớm nhất, nhưng có ít liên quan đến
các ngọn lửa hay chất khí đang cháy (bạn muốn dùng thuật ngữ nào cũng được) vốn
thường được hiểu là sẽ hiện hữu khi nào mặt trời được xét đến. Đó là điểm cháy
rực mạnh mẽ nhất và khối cầu lửa bên ngoài chỉ là sự biểu lộ của sự cháy bên
trong đó. Nhiệt trung ương này toả ra sức nóng của nó tới mọi phần của Thái
dương hệ bằng một vận hà tam phân hay là xuyên qua các “Tia Tiếp Cận” (“Rays of
AProach”) của nó vốn ở trong toàn bộ của chúng gợi cho chúng ta ư tưởng về “sức
nóng của mặt trời”. 1. Akasha chính là vật chất sinh khí, hay là vật chất được
kích động bởi tiềm nhiệt. 2. Điện lực tức là chất liệu của một cực và được
truyền sinh lực bằng một trong ba ngôi Thượng Đế. Để diễn tả điều đó một cách
huyền linh hơn người ta nói đó là chất liệu biểu hiện cho đặc tính của các Tinh
Quân Vũ Trụ mà đó chính là năng lượng của Ngài. chúng ta, bản chất thiêng liêng
đó chỉ là Nadam của triết lư yoga của chúng ta và Nadam đó hay là OM sau đó tự
biểu lộ dưới h́nh thức bảy ḍng (Streams). Cái chưa biểu lộ trở thành cái biểu
lộ bởi hay là được sinh ra bởi sự phân nhánh tiếp theo sau. Các ḍng này là bảy
nguyên âm hay bảy nốt. Bảy nguyên âm và nốt này phải có các mối tương quan đặc
biệt với bảy âm vận của kinh Veda giống như các con tuấn mă của “bản thể mặt
trời”. Some Thoughts on the Gita, trang 74 59
78. 78 3. Các Tia sáng của trạng thái Prana, một số các tia
đó hiện giờ đă được các nhà khoa học hiện đại nhận biết. Chúng chỉ là các trạng
thái nhiệt tiềm tàng của mặt trời khi mặt trời tiến đến gần Địa Cầu bằng một
đường đặc biệt có ít sự đối kháng nhất. Khi thuật ngữ “vận hà hay tia tiếp cận”
được dùng, nó có nghĩa là sự tiến từ trung tâm của bức xạ mặt trời đến ngoại
biên. Những ǵ gặp được trong sự tiếp cận đó – thí dụ như là các thể của hành
tinh - sẽ bị tác động bởi luồng akasha, luồng diện hay luồng Prana theo một
đường lối nào đó. Nhưng tất cả các luồng này chỉ là các lửa bên trong của Thái
dương hệ khi được nh́n từ một điểm nào đó trong không gian của vũ trụ, chứ không
phải không gian của mặt trời. Do đó điều hiển nhiên là vấn đề lửa này cũng phức
tạp như vấn đề các cung. Lửa bên trong của Thái dương hệ trở thành Lửa bên ngoài
và Lửa phát xạ khi xét theo quan điểm một hành tinh; trong khi lửa bên trong của
hành tinh sẽ tác động vào con người dưới h́nh thức bức xạ theo đúng cùng một
cách thức như là các phóng phát prana của thể dĩ thái – con người tác động vào
một thể xác khác dưới h́nh thức bức xạ. Điểm cần phải hiểu rơ trong tất cả các
trạng thái này và tất cả có liên quan với vật chất chớ không phải liên quan với
trí tuệ hay Tinh Thần. b) Hành tinh. Sâu trong tâm của hành tinh – thí dụ như
địa cầu – là các nội hoả đang nằm giữa bầu hành tinh, hay là các hang động –
đang tràn ngập với lửa cháy rực – làm cho sự sống trên bầu hành tinh khó mà có
được chút xíu nào. Các lửa bên trong của nguyệt cầu thực tế đă tắt và do đó
nguyệt cầu không chiếu sáng, trừ việc soi sáng nhờ vào phản chiếu, do chỗ không
c̣n lửa bên trong để phối hợp và trộn lẫn với ánh sáng bên ngoài. Các lửa bên
trong này của địa cầu có thể 60
79. Các nội hỏa của các thể 79 được thấy tác động, như là trong thái dương,
xuyên qua ba vận hà chính : 1. Chất liệu tạo tác hay là vật chất của hành tinh
được nhiệt làm cho sinh động. Nhiệt và vật chất này cũng tác động giống như mẹ
của vạn vật để làm nẩy mầm, và dưới h́nh thức kẻ bảo vệ cho mọi vật đang trú ẩn
tại đó và trên đó. Chất này tương tự với akasha, tức là chất linh hoạt đem lại
sinh lực của Thái dương hệ vốn đang bảo dưỡng mọi vật như là một từ mẫu. 2. Lưu
chất mang điện (Electrical fluid), một lưu chất tiềm tàng trong hành tinh, nhưng
cho đến nay vẫn ít được nhận ra. Có lẽ hay hơn là diễn tả bằng thuật ngữ “từ
điển sinh động” (“animal magnetism”). Đó là đặc tính phân biệt của bầu khí quyển
của một hành tinh, hay là ṿng giới hạn có mang điện của nó. Đó là đối cực so
với lưu chất mang điện của mặt trời, và sự tiếp xúc của cả hai và việc vận dụng
đúng các lưu chất đó là mục đích – có lẽ chưa được nhận ra - của mọi nỗ lực khoa
học trong lúc này. 3. Tia phóng phát (emanation) bức xạ của hành tinh mà chúng
ta có thể gọi là Prana hành tinh. Đó cũng là những ǵ được nói tới khi người ta
nói đến các tính chất đem lại sức khoẻ của Mẹ Thiên Nhiên và đó là mặt sau của
lời kêu gọi của người thầy thuốc hiện tại, khi y nói một cách khôn ngoan “Hăy
hướng về Địa Cầu” (“Back to the Earth”). Chính ḍng phóng phát Prana này tác
động trên thể xác, mặc dù trong trường hợp này không xuyên qua thể dĩ thái. Nó
được hấp thụ hoàn toàn qua lớp da và các lỗ chân lông là con đường dễ dàng nhất
của nó. c) Con người. Ở đáy xương sống có tàng ẩn lửa của hệ thống con người hay
là các lửa bên trong của tiểu thiên địa. 61
80. 80 Trung tâm lực nằm ở đó và từ đó, các bức xạ tiến về
phía trước dọc theo ba vận hà có thể nhận thấy được trong xương sống. 1. Hơi ấm
của thân thể, vận hà mà dọc theo đó nhiệt toả ra và có mục tiêu chú tâm của nó
là sưởi ấm cho cơ thể. Sức sống này của chất đặc của cơ thể t́m thấy sự tương
ứng của nó trong Akasha của Thái dương hệ và trong chất liệu tạo tác của hành
tinh. 2. Sự ứng đáp của thần kinh (Nervous response). Đây là lưu chất bền bĩ
mang sinh lực, chính nó dùng vào việc kích thích các trung tâm thần kinh và
chính nó tạo ra đáp ứng về điện cho sự tiếp xúc giữa thần kinh và năo bộ. Ngày
nay, nên khảo cứu kỹ lưỡng hơn về điều này. Nó tương ứng với điện của Thái dương
hệ và điện của hành tinh. 3. Bức xạ Prana. Xuyên qua thể dĩ thái của con người,
bức xạ này tương ứng với Prana thái dương và Prana hành tinh. Bức xạ này chủ yếu
là lộ ra trong hào quang sức khoẻ và không có liên quan ǵ với các tính chất từ
điển, như thường được diễn dịch khi xem phàm ngă hay con người như một đơn vị.
Tôi đă lặp lại điều này v́ rất cần thiết rằng không nên có sự nhầm lẫn trong tâm
trí giữa từ điển vốn là một bức xạ về tinh thần với những ǵ thuần khiết là động
vật. Ở đây có thể là khôn ngoan mà nêu ra rằng sự biểu lộ tam phân này của lửa
cũng lộ ra trong thể cảm dục và thể trí, có liên quan với chất liệu của những
thể kia. Chúng ta có thể tŕnh bày lửa này trong cách biểu lộ tam phân của nó
như là toàn bộ của lửa chính yếu hay hoạt động sự sống của Thượng Đế Ngôi Ba.
Nên cẩn thận ghi nhớ rằng sự biểu lộ công tác của Ba Ngôi Thượng Đế là biểu lộ
của trí tuệ của một Thực Thể vũ trụ nào đó. Cũng thế, bảy Thực Thể Thông Linh
Hành 62
81. Các nội hỏa của các thể 81 Tinh, tức bảy Hành Tinh Thượng Đế, là bảy vị
Thượng Đế (cũng là các Đấng Vũ Trụ) trong toàn thể, các Ngài hợp thành Cơ Thể
của Thượng Đế Ba Ngôi. Do đó, chúng ta có : 1. Thượng Đế không biến phân (The
undifferen–tiated Logos), một Thực Thể Thông Linh Vũ Trụ. 2. Thượng Đế, với biểu
lộ Ba Ngôi : a. Tinh Quân Ư Chí Quyền Năng vũ trụ. b. Tinh Quân Bác Ái và Minh
Triết vũ trụ. c. Tinh Quân Trí Tuệ Hoạt Động vũ trụ. 3. Thượng Đế ba ngôi, khi
biểu lộ thất phân, nghĩa là bảy vị Hành Tinh Thượng Đế (1 )(2 ) 1 Ông RuBa Rao
có viết ở trang 20 của quyển “Esoteric Writings” : “Theo một qui tắc tổng quát,
khi nào bảy thực thể được ghi nhận trong khoa huyền linh học cổ xưa của Ấn Độ về
bất cứ phương diện nào, bạn phải nghĩ rằng bảy thực thể đó sở dĩ có được là do
ba thực thể đầu tiên và đến phiên ba thực thể này lại tiến hoá từ một thực thể
đơn nhất hay chân thần. Lấy một thí dụ quen thuộc, bảy tia có màu trong ánh sáng
mặt trời tiến hoá từ ba tia có màu nguyên thuỷ; và ba màu nguyên thuỷ đồng hiện
tồn với bốn màu thứ yếu trong ánh sáng mặt trời. Tương tự như thế, ba thực thể
nguyên thuỷ đă khai sinh ra con người đồng hiện tồn trong y, cùng với bốn thực
thể thứ yếu vốn phát xuất từ các kết hợp khác nhau của ba thực thể nguyên thuỷ”…
Trong thuật ngữ Thiên Chúa giáo các Thực Thể này là Ba Ngôi (Three Persons) của
Tam Vị Nhất Thể (Trinity) và Bảy Tinh Quân trước Thiên Toà. So sánh với câu:
“Đức Chúa Trời chúng ta là đám lửa hay thiêu đốt” (Heb. 12. 29).(Bản dịch Thánh
kinh của nhà XB Tôn giáo Hà Nội 2.003) 2 “Tôi có nói khi nhắc đến Đức Thượng Đế
này, rằng hoàn toàn có thể là chính Thượng Đế hiện ra dưới dạng của Đức Dhyan
Chohan đầu tiên, hay Hành Tinh Thượng Đế, khi sự tiến hoá của con người
82. 82 (1 ). Mỗi một trong số các Thực Thể Thông Linh vũ
trụ này là Lửa, trong nguyên thể chính yếu của Ngài. Mỗi vị biểu lộ dưới h́nh
thức lửa theo ba cách. Theo quan điểm thời gian, Tinh Quân vũ trụ của Trí Tuệ
linh hoạt, xét theo quan điểm tiến hoá vũ trụ, th́ tiến hoá hơn hai huynh đệ của
Ngài. Ngài là sự sống của vật chất, Lửa bên trong tiềm tàng của vật chất. được
bắt đầu lại sau thời kỳ bất hoạt động cuối cùng trên hành tinh này, như có nói
đến trong sách của ông SiNeT, quyển Esoteric Buddhism, và sau khi đặt luồng
tiến hoá vào chuyển động, rút lui khỏi b́nh diện tinh thần thích hợp với bản
chất của riêng nó và đă xem xét qua sự chú tâm của nhân loại, và đôi khi xuất
hiện liên quan đến một con người cá biệt đối với sự tốt lành của nhân loại. Hoặc
là bạn có thể nh́n vào Thượng Đế tiêu biểu bởi Đức Krishna như thuộc về cùng một
đẳng cấp như Thượng Đế. Khi nói đến chính Ngài, Đức Krishna nói (chương X câu
6): “Bảy đại Rishis, bốn vị có trước Bàn Cổ, chia sớt bản thể của ta, được sinh
ra từ trí ta : từ các vị đó mà sinh ra nhân loại và thế giới”. Ngài nói đến bảy
Rishis và đến các vị Manus như là các Manasaputras của Ngài, hay là Các Đấng Con
do trí tuệ sinh ra, mà họ sẽ trở thành nếu Ngài được gọi là Prajapati, Đấng xuất
hiện trên hành tinh này và đă khởi sự công tŕnh tiến hoá”. Tạp chí Theosophist,
quyển VII, trang 443. 1 Nên ghi nhớ biểu đồ sau đây : 7 chủng chi (branch race)
tạo thành… một giống dân phụ (subrace) 7 giống dân phụ tạo thành ………….. một căn
chủng (rOtrace) 7 căn chủng tạo thành …….một chu kỳ thế gian (one world period)
7 chu kỳ thế gian tạo thành ………….một ṿng tiến hoá (round) 7 ṿng tiến hoá tạo
thành ……………một chu kỳ dăy (chain period) 7 chu kỳ dăy tạo thành … một hệ thống
hành tinh (planetary scheme) 10 hệ thống hành tinh tạo thành …… một thái dương
hệ 63
83. Các nội hỏa của các thể 83 Bản chất của Ngài là bản chất của lửa đang nằm ở
tâm của mặt trời, của hành tinh và của các h́nh hài vật chất của con người. Ngài
là toàn bộ của quá khứ. Tinh Quân Bác Ái Vũ trụ hiện nay đang t́m cách hợp nhất
với Huynh Đệ của Ngài, và, theo quan điểm thời gian tiêu biểu cho mọi Hiện tại.
Ngài là toàn bộ của tất cả những ǵ được tiêu biểu; Ngài là Sự Sống hữu thức.
Ngài là Đấng Con Thiêng và sự sống cùng bản chất Ngài tiến hoá xuyên qua mọi
h́nh thức hiện hữu. Đấng Tinh Quân Ư Chí Vũ Trụ nắm giữ tương lai trong thiên cơ
và tâm thức của Ngài. Tất cả ba Đấng là Các Con của một Từ Phụ, cả ba là các
trạng thái của Thượng Đế Duy Nhất (One God) cả ba Đấng là Tinh Thần, cả ba Đấng
là Linh Hồn và cả ba Đấng là các Tia (Rays) xuất phát từ một trung tâm vũ trụ.
Cả ba Đấng đều là chất liệu nguyên thuỷ, nhưng trong quá khứ một Đấng là Con
Trưởng, hiện tại một Đấng khác giữ địa vị lănh đạo, và trong tương lai c̣n một
Đấng nữa. Nhưng điều này chỉ xảy ra trong Thời Gian. Theo quan điểm Hiện Tại
Vĩnh Cửu, không một vị nào cao hơn hay thấp hơn một vị nào v́ Đấng cuối cùng sẽ
là đầu tiên và Đấng đầu tiên sẽ là cuối cùng. Lúc không biểu lộ, thời gian sẽ
không có, khi không biểu lộ ra ngoại cảnh, các trạng thái tâm thức đều là hư vô.
Lửa Tinh Thần là lửa chủ yếu của Thượng Đế Ngôi Một, Ngôi Ư Chí, cộng với lửa
của Thượng Đế Ngôi Hai, Ngôi Bác Ái. Cả hai Thực Thể Thông Linh vũ trụ này trộn
lẫn, phối hợp nhau và biểu lộ như Linh Hồn, sử dụng sự trợ giúp của Thượng Đế
Ngôi Ba để biểu lộ. Ba thứ lửa trộn lẫn và phối hợp. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư
và trên bầu thứ tư của hệ thống hành tinh chúng ta, các lửa của Thượng Đế Ngôi
Ba, của vật chất thông tuệ trộn lẫn ít nhiều với lửa của trí tuệ vũ64
84. 84 trụ, biểu lộ dưới h́nh thức ư chí hay quyền năng và
làm linh hoạt Chủ Thể Tư Tưởng trên mọi cơi. Mục tiêu của sự hợp tác của các
Ngài là sự biểu lộ hoàn hảo của Đấng Bác ái vũ trụ. Điều này nên được suy gẫm v́
nó tiết lộ một bí nhiệm. Sự phối hợp của ba lửa, sự hoà lẫn của ba Linh Quang và
sự hợp tác của Ba Ngôi Thượng Đế (vào lúc này và trong Thái dương hệ này) có mục
đích là phát triển Nguyên Thể (Essence) của Tinh Quân Bác Ái vũ trụ. Ngôi Hai
trong Ba Ngôi Thượng Đế. Sớm hay muộn hơn đều không được, chỉ ngay lúc này thôi.
Khi nh́n từ cơi trí vũ trụ, cả Ba Ngôi cấu thành Phàm Ngă của Thượng Đế và được
thấy đang vận hành như một. Đó là cái bí nhiệm (được nhận ra như là sự thực, dù
không hiểu rơ được) của sức nóng quá độ được diễn tả một cách huyền bí, của thể
cảm dục hay thể trung ương của phàm ngă tam phân. Nó làm linh hoạt và kiểm soát
thể xác, c̣n các ước muốn của nó thống trị trong đa số các trường hợp; nó biểu
lộ trong thời gian và không gian sự tương tự của việc hợp nhất tạm thời của tinh
thần và vật chất, các lửa của bác ái vũ trụ và lửa của vật chất được phối hợp.
Một sự tương đồng như thế được t́m thấy trong sức nóng hiện ra bên ngoài trong
Thái dương hệ thứ hai này. d. Nguyên tử. Các lửa bên trong của nguyên tử cũng có
thể được thấy tác động theo các đường tương tự, các nhà khoa học cũng đă nhận ra
ít nhiều bằng chứng của chúng. Điều này vốn dĩ như thế, không cần đi sâu hơn vào
chi tiết (1 ). 1 Cần nên nhớ rằng, chỉ có tỷ lệ th́ không phải là quan trọng, v́
độ lớn, và độ nhỏ về cơ bản chỉ có tính cách tương đối. Số phận của mỗi nguyên
tử là để tạo ra một Brahmanda. Brahmanda tương tự hoặc nhỏ hơn, hoặc lớn hơn cái
của chúng ta được giữ chung lại bởi một mặt trời, vốn hiện hữu trong mỗi nguyên
tử. Vishvas, hệ thống
85. Các nội hỏa của các thể 85 II.. HOẢẢ
TINH LINH VÀ HOẢẢ THIÊÊN THẦẦN Bây giờ, chúng ta có thể xem xét một cách vắn tắt về vấn đề
hoả tinh linh và hoả thiên thần, và rồi bàn về sự liên quan của cung phàm ngă
đối với lửa bên trong này của Thái dương hệ trong biểu lộ tam phân của nó. Một
số sự kiện được nhận ra liên quan với hoả chơn linh (nếu chúng có thể được gọi
như thế). Sự kiện căn bản phải được nhấn mạnh ở đây là Agni, tức Hỏa Tinh Quân
(Lord of Fire), cai quản khắp các hoả tinh linh và hoả thiên thần trên ba cơi
tiến hoá nhân loại là hồng trần, cảm dục và hạ trí, và thống ngự chúng không
những trên địa cầu này mà c̣n trên ba cơi giới trong mọi phần của Thái dương hệ.
Ngài là một trong số bảy Huynh Đệ (dùng một diễn tả quen thuộc đối với các nhà
nghiên cứu bộ Giáo Lư Bí Nhiệm) mỗi vị tượng trưng cho một trong bảy nguyên khí
hay chính các vị là bảy trung tâm lực trong cơ thể của Hoả Tinh Quân vũ trụ mà
bà Blavatsky gọi là “Fohat”. Ngài là Đấng Thông Tuệ linh hoạt của lửa, là cơ bản
của các lửa bên trong của Thái dương hệ. Mỗi một trong số các Đấng này thống ngự
trên mỗi cơi và ba vị Huynh Trưởng (luôn luôn là ba vị hiển lộ và sau đó là bảy
vị, các Ngài rốt cuộc sẽ phối hợp thành ba nguyên thuỷ) ngự trị trên cơi 1, 3,
và 5 hay là trên cơi Tối Đại Niết Bàn (adi), cơi thế giới lớn, có trong một
nguyên tử, và các nguyên tử lại tồn tại trong các vishvas này. Đây là ư nghĩa
của “cái đa tạp từ cái duy nhất” (“many from one”); khi nào chúng ta thấy cái
duy nhất, chúng ta cũng sẽ nhận ra cái đa tạp và ngược lại. Sau khi cố đạt được
năng lực và sau đó thực sự tạo ra được một brahmanda, giai đoạn kế tiếp là tạo
ra một jagat, kế đó một vishva, tiếp theo là một maha-vishva và v.v.., cho tới
khi trạng thái maha-vishnu được đạt tới”. Bhagavan Das in the Pranava Vada,
trang 94. 65
86. 86 Niết Bàn (atma) (1) và cơi trí (manas). Ở đây, chúng
ta cần nhớ rằng các Ngài là lửa được xét trong trạng thái thứ ba, tức lửa của
vật chất. Trong toàn thể của các Ngài, bảy Đấng này hợp thành tinh hoa của Tinh
Quân vũ trụ mà các sách huyền linh gọi là Fohat (2). 1 Như bạn đều biết, Atma
hàm ư là bản ngă (self) hay là ego hay là một trung tâm ư thức được biệt ngă hoá
mà mọi kinh nghiệm trần gian ở trạng thái nhị nguyên của chúng tức là kinh
nghiệm bên trong và bên ngoài tụ lại thành nhóm và tự chúng sắp xếp lại chung
quanh đó như đó là một trong các điểm hội tụ từ đó xuất hiện các tia sáng để soi
sáng các ḍng nước vũ trụ (cosmic waters) và trong đó cũng hội tụ các tia sáng
(rays) được các ḍng nước này gửi trở lại. Trong các tác phẩm về Minh Triết
Thiêng Liêng, nó được gọi là biệt ngă hữu ngă thức (the selfconscious
individuality) hay là Thượng Trí (Higher Manas). Theo quan điểm này, bạn sẽ thấy
rằng Thượng Trí là nguyên khí quan trọng nhất hay là trực trung tâm (central
pivot) của cấu tạo con người hay là linh hồn đích thực. Đó là tuyến mà người nào
muốn biết chân lư và nâng chính ḿnh ra khỏi t́nh trạng hiện tồn bị chi phối này
nên nắm giữ. Có khi người ta lại bài bác rằng Atma đại diện cho nguyên khí thứ
bảy theo cách chia thất phân của Minh Triết Thiêng Liêng, và Manas th́ thấp hơn
nhiều trong hệ thống phân chia đó. Nhưng câu trả lời rơ ràng là nguyên khí thứ
bảy là trạng thái cuối cùng mà bản ngă có thể đạt tới sau khi vượt qua đại dương
của cuộc sống bị chi phối hay là bánh xe luân hồi (samsara). Trích từ Some
Thoughts on the Gita, trang 26. 2 Fohat hay điện là một Thực Thể Thông Linh
(Entity). Ngài là Thực Thể Thông Linh Nguyên Thuỷ có mang điện. GLBN I, 105.
Ngài là …. Ư Chí (WiL) GLBN I, 136 Ngài là ……Bác ái Minh triết GLBN I, 100,
144, 155. Ngài là ……Thông Tuệ Hoạt Động GLBN I, 136 Do đó Ngài là Thượng Đế GLBN
I, 167. 66
87. Các nội hỏa của các thể 87 Cũng thế, theo cùng nghĩa như là bảy vị Chohans
(1 ) với các nhóm môn đồ gắn bó của các Ngài, hợp thành bản thể (essence) hay
các trung tâm lực trong cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế. Đến phiên các Đấng
này lại hợp thành bản thể của Thái Dương Thượng Đế. Mỗi một trong số bảy Hoả
Tinh Quân (2 ) này được phân hoá ra thành nhiều nhóm hoả thực thể, từ các Thiên
Thần Tinh Quân (Deva-Lords) của một cơi giới xuống đến các hoả tinh linh nhỏ bé
của các ḷ lửa trong nhà. Chúng ta không bàn đến các tinh chất của lửa (fiery
essences) thuộc các cơi giới cao ở giai đoạn này trong cuộc thảo luận của chúng
ta. Chúng ta sẽ chỉ kể ra một cách vắn tắt một số trong các nhóm được biết nhiều
nhất như đă được tiếp xúc trong ba cơi thấp. 1. Cơi hồng trần: Hoả tinh linh
(Salamanders), các hoả tinh linh nhỏ bé mà người ta có thể thấy đang nhảy múa
trong mọi ngọn lửa, chăm sóc lửa của ḷ sưởi, của nhà ở và lửa của xưởng máy.
Ngài là toàn bộ năng lượng của bảy Spirits Ngài là toàn bộ của Thượng Đế GLBN I,
169. 1 Chohan (tiếng Tây Tạng). Một Tinh Quân (Lord) hay Chân Sư (Master). Một
Bậc Điểm Đạo cao (a high Adept). Một Đấng Điểm Đạo đă được hơn năm lần điểm đạo
chủ yếu (five major Initiations) làm cho Ngài trở thành “Chân Sư Minh Triết”. 2
Bảy Huynh Trưởng (seven Brothers). Xem GLBN I, 105. Bảy vị này là bảy biến phân
(differentiations) của năng lượng điện nguyên thuỷ (primordial electric energy).
Cơi (plane). Khi được dùng trong huyền bí học, thuật ngữ này chỉ phạm vi hay mức
độ của một trạng thái tâm thức nào đó hoặc của năng lực nhận thức của một tập
hợp các giác quan đặc biệt hoặc tác động của một mănh lực đặc biệt, hoặc trạng
thái vật chất tương ứng với bất cứ thứ loại nào nói ở trên.
88. 88 Chúng cùng một nhóm với các thần lửa bậc thấp, các
thần lửa này có thể được giao tiếp ở sâu trong trung tâm cháy rực của hành tinh.
Hoả thần thấp (Fire spirits) tiềm ẩn trong mọi điểm tập trung nhiệt, chính chúng
là tinh chất của hơi ấm và có thể được tiếp xúc trong nhiệt của cơ thể, hoặc của
con người hay con thú và chúng cũng là hơi ấm địa cầu. Hoả thần cao
(Agnichaitans), một hạng hoả thần cao cấp, các vị này tạo thành một đám xoáy lửa
khi xét trên một mức độ lớn, như là trong các hoả sơn và các đám cháy gây huỷ
diệt lớn. Nhóm này liên kết chặt chẽ với một nhóm thiên thần c̣n quan trọng hơn
nữa, để tạo thành lớp vỏ cháy rực của mặt trời. Tinh linh Prana (Pranic
elementals) các tinh chất lửa nhỏ bé này có khả năng thấm nhập vào cấu trúc của
cơ thể người, của cây cối hay của tất cả những ǵ có thể t́m thấy trong giới
nhân loại, thực vật và động vật, nhóm này trộn lẫn với các lửa của các hệ thống
tiểu vũ trụ. Một vài giới thiên thần có thể được mô tả như là đem lại linh hồn
(ensouling) cho các tia sáng vĩ đại và chính các Ngài là tinh hoa của các tia
đó. Các h́nh thức khác của các sự sống tinh linh và của các nhóm thiên thần như
thế có thể được liệt kê ra, nhưng bảng ở trên cũng đủ cho mục đích hiện tại của
ta. 2. Cơi cảm dục Các tinh chất lửa của cơi giới này khó cho ta hiểu rơ hơn, v́
cho đến nay, ta không thấy được trên cơi đó. Chính chúng là hơi ấm và sức nóng
của thể xúc cảm và của thể cảm giác. Nhóm này thuộc về một đẳng cấp thấp khi ở
trên con đường dục vọng, và thuộc đẳng cấp cao hơn khi ở 67
89. Các nội hỏa của các thể 89 trên con đường đạo tâm v́ lúc bấy giờ tinh linh
chuyển hoá thành thiên thần. Đẳng cấp và hàng ngũ của chúng th́ nhiều, nhưng
danh tính của chúng không thành vấn đề, ngoại trừ trong một trường hợp duy nhất.
Có lẽ sẽ có lợi khi biết danh hiệu áp dụng cho các hoả thiên thần mà phận sự của
họ là giữ ǵn các lửa để sau này sẽ phá huỷ thể nguyên nhân. Chúng ta cần nhớ
rằng chính sự đi lên của tiềm hoả của vật chất và sự hoà nhập của nó với hai lửa
khác gây nên sự tàn phá. Các tinh linh và thiên thần này được gọi là cảm dục
thiên thần (Agnisuryans) và trong toàn bộ của các Ngài là tinh chất lửa của thể
bồ đề, do đó, sự biểu lộ thấp nhất của các Ngài là ở trên cơi thứ sáu, tức cơi
cảm dục. Chi tiết thêm về sự sống của các thiên thần này sẽ được t́m thấy ở phần
sau trong Bộ Luận này, nơi mà các vị đó được bàn đến nhiều hơn.
90. TIẾT MỘT ĐOẠN B CUNG PHÀM NGĂ VÀ LỬA DO MA SÁT I.. CÔÔNG
VIỆC CỦỦA BA CUNG :: Nơi đây, chúng ta đề cập đến một vấn đề vô cùng lư thú,
tuy nhiên vấn đề này cũng rất ít được t́m hiểu. Tôi muốn nói đến vấn đề các
nguyên tử thường tồn (permanent atom) (1 ). 1 Nguyên tử thường tồn : Một điểm
chiếm hữu của nguyên tử vật chất. Một trung tâm lực rất nhỏ hợp thành yếu tố
trung ương và cơ chế phương tiện thu hút xung quanh đó các thể của Chân Thần lâm
phàm được thành lập. Các thể này được xỏ xâu như các viên ngọc trên sutratma hay
là sợi chỉ (thread). Cung (ray): Một ḍng thần lực hay một phân thân (an
emanation). Thái Dương Thượng Đế hay là Đại thiên địa, biểu lộ qua ba cung chính
yếu và bốn cung thứ yếu. Chân Thần hay tiểu thiên địa cũng biểu lộ qua ba cung
như đă nói đến ở trên. Tất cả các cung biểu hiện một loại thần lực đặc biệt được
chuyên hoá. Triad (Tam thượng thể). Theo sát nghĩa, đây là Atma-buddhi- manas,
tức biểu lộ của Chân Thần, giống như phàm ngă là biểu lộ của Chân Ngă. Chính
Chân Thần tự biểu lộ qua Tam Thượng Thể và trong trạng thái thấp nhất của nó hay
trạng thái thứ ba tạo thành Chân ngă thể hay Thể nguyên nhân, đó là Chân ngă thơ
ấu hay Chân ngă phôi thai. Tương tự, chính Chân ngă tự biểu lộ qua con người tam
phân hạ đẳng, đó là hạ trí, thể cảm dục và thể dĩ thái (các thể này là phản ánh
của Tam thượng thể) và ba thể này tạo ra biểu lộ vật chất trọng trược. 69
91. Cung phàm ngă và lửa do ma sát 91 Mỗi thể hay h́nh hài mà Tinh Thần hoạt
động trong đó, với điểm tập trung của nó trên mỗi cơi, đều có một nguyên tử làm
bằng vật chất của cơi phụ nguyên tử của mỗi cơi chính. Nguyên tử này được dùng
như một trung tâm để phân phối thần lực, để bảo tồn năng lực, để đồng hoá kinh
nghiệm và để bảo tồn kư ức. Các nguyên tử này có liên lạc trực tiếp với một hay
các nguyên tử khác trong ba cung lớn liên hệ với tiểu vũ trụ : a/ Cung Chân
Thần, tức cung tổng hợp của tiểu thiên địa. b/ Cung Chân ngă c/ Cung phàm ngă
Mỗi một trong các cung này liên hệ với một trong các nguyên tử thường tồn trong
con người tam phân hạ đẳng và có một tác động trực tiếp trên các loa tuyến
(spiriLae) (1 ) nằm trong nguyên tử đó. 1 Loa tuyến (hay ṿng xoắn ốc): “Để
khảo sát cấu trúc của nguyên tử, một khoảng không được tạo ra một cách nhân tạo,
lúc bấy giờ, nếu một lỗ hở xoi vào vách được tạo ra như thế, lực bao quanh đổ xô
vào và ba đường trôn ốc (whorls) tức khắc xuất hiện, bao quanh “lỗ” với ba ṿng
xoắn ốc của chúng gồm hai cuộn rưỡi và trở lại nguồn cội của chúng bằng một ṿng
xoắn bên trong nguyên tử. Các ṿng xoắn này tức khắc được noi theo bằng bảy ṿng
xoắn ốc nhỏ hơn, nó chạy theo đường trôn ốc của ba ṿng đầu tiên ở mặt ngoài và
trở về chỗ ban đầu của chúng bằng một ṿng xoắn bên trong đó, đổ xô về hướng đối
diện, tạo thành xà dực trượng (caduceus, tức là cây gậy (trượng) có hai con rắn
(xà) quấn quanh, đầu gậy có hai cánh (dực) – ND)) với ba ṿng đầu tiên. Mỗi một
trong số ba ṿng xoắn thô hơn, xẹp xuống tạo thành một ṿng khép kín; mỗi một
trong số bảy ṿng nhuyễn hơn, xẹp xuống một cách tương tự tạo thành một ṿng
khép kín. Các thần lực tuôn chảy trong chúng lần nữa, đến từ ‘bên ngoài’, theo
một không gian có 70
92. 92 Chúng ta ghi nhận trong tác phẩm “Thư Về Tham Thiền
Huyền Linh” rằng các nguyên tử của con người tam phân hạ đẳng trải qua một tiến
tŕnh gồm hai phần: Trước nhất, chúng được truyền sinh khí trong khi quay và mỗi
nguyên tử chứa giữ ánh sáng theo tŕnh tự đă được an bài cho đến khi tam giác
bên dưới hoàn toàn được chiếu sáng. Rốt lại, sự chuyển hoá xảy ra, hay là (nói
cách khác) sự an trụ sau rốt di chuyển vào ba nguyên tử thường tồn của Tam
thượng thể và ra khỏi ba nguyên tử thường tồn của tam giác ở dưới. Nguyên tử
thường tồn hồng trần bị vượt qua và sự an trụ tập trung vào thể trí, nguyên tử
thường tồn cảm dục bị vượt qua và sự an trụ tập trung vào thể bồ đề, trong khi
nguyên tử thường tồn hạ trí được thay thế bằng nguyên tử thường tồn của cơi năm,
tức cơi Niết Bàn. Tất cả các điều này xảy ra bởi tác động của ba cung vào các
nguyên tử và vào sự sống trong mỗi nguyên tử. Sự liên quan giữa ba cung này và
các nguyên tử thường tồn có thể được tóm tắt như sau: Cung Phàm ngă có tác động
trực tiếp trên nguyên tử thường tồn hồng trần (physical permanent atom). Cung
Chân ngă có tác động tương tự trên nguyên tử thường tồn cảm dục. bốn chiều đo.
Mỗi một trong các ṿng trôn ốc nhuyễn hợp thành bảy ṿng c̣n nhu nhuyễn hơn nữa,
được đặt theo thứ tự thẳng góc đối với nhau, mỗi cái nhỏ hơn cái trước nó, chúng
ta gọi các ṿng này là loa tuyến. Mỗi loa tuyến được làm sinh động bởi sinh lực
của một cơi và bốn loa tuyến hiện nay đang hoạt động b́nh thường, mỗi loa tuyến
ứng với một cuộc tuần hoàn. Hoạt động của chúng trong một cá nhân có thể được
thúc đẩy sớm hơn do việc thực hành yoga” Hoá Học Huyền Bí, trang 28. 71
93. Cung phàm ngă và lửa do ma sát 93 Cung Chân Thần có liên hệ chặt chẽ với
nguyên tử thường tồn hạ trí. Tác dụng của chúng gồm ba mặt, nhưng không đồng
thời, bao giờ chúng cũng tác động như mọi vật đă tác động như thế trong Thiên
Nhiên, theo các chu kỳ đă an bài. Thí dụ, sự kích hoạt vốn là kết quả của tác
động của Cung Chân Thần trên nguyên tử thường tồn hạ trí, chỉ được cảm thấy khi
người t́m đạo bước lên Thánh Đạo, hay là sau khi y đă được điểm đạo lần một. Tác
động của cung Chân ngă trên nguyên tử thường tồn cảm dục được cảm thấy ngay khi
Chân ngă có thể tạo nên liên lạc thông suốt với bộ năo vật chất; khi điều này
diễn ra như thế, cung chân ngă bắt đầu tác động vào nguyên tử một cách mạnh mẽ
và liên tục; điều này xảy ra khi một người tiến hoá cao và tiến gần đến Thánh
Đạo. Thần lực tam phân này được cảm thấy theo cách sau: Thứ nhất. Nó tác động
lên bức tường của nguyên tử dưới h́nh thức một lực bên ngoài và ảnh hưởng đến
tác động quay ṿng và rung động của nguyên tử đó. Thứ hai. Nó kích thích lửa bên
trong của nguyên tử và làm cho ánh sáng của nguyên tử đó chiếu ngày càng chói
lọi. Thứ ba. Nó tác động lên các loa tuyến và đưa chúng dần dần đi vào hoạt
động. II.. CUNG PHÀM NGĂĂ VÀ NGUYÊÊN TỬ THƯƯỜỜNG
TỒỒN.. Cung phàm ngă có liên hệ tới bốn ṿng xoắn đầu tiên và là nguồn kích
thích bốn ṿng xoắn đó. Ở đây chúng ta để ư sự tương đồng đối với tứ hạ thể
(lower quaternary) và sự kích hoạt nó bằng Chân ngă. Chính cung Chân ngă liên
quan tới ṿng xoắn thứ năm và thứ sáu và là nguyên nhân của việc xuất lộ
(emerging) từ tiềm tàng thành ra hoạt động. Cung Chân thần là nguồn kích thích
ṿng xoắn thứ bảy. 72
94. 94 Có một sự lư thú lớn liên quan với đề tài này và tầm
mức rộng lớn của tư tưởng và phạm vi rộng răi để nghiên cứu mở ra trước mắt
người khảo cứu nhiệt tâm. Tác động tam phân này thay đổi theo thời điểm và hiệu
quả tuỳ theo chính cung mà Chân Thần đang ngự, nhưng đề tài này quá rộng lớn
không thể bàn đến trong lúc này. Khi xem xét vấn đề theo quan điểm về lửa, ư
tưởng có thể được hiểu rơ một ít qua sự nhận thức rằng lửa tiềm tàng của vật
chất trong nguyên tử được làm cho sáng rực và trở nên hữu dụng do tác động của
cung phàm ngă, cung này phối hợp với lửa này và có cùng vị trí đối với nguyên tử
thường tồn trong tiểu thiên địa giống như là Fohat trên cơi vũ trụ. Lửa tàng ẩn
ở đó trong phạm vi (dù là phạm vi Thái dương hệ hoặc là phạm vi nguyên tử) và
cung phàm ngă ở trong một trường hợp, mặt khác, Fohat tác động như là thần lực,
đưa trạng thái tiềm tàng sang trạng thái linh hoạt và tiềm năng thành năng lực
biểu lộ. Sự tương tự này nên được suy xét và phán đoán cẩn thận. Giống như Fohat
có liên quan với sự biểu lộ linh động hay biểu lộ ra ngoại cảnh, cũng vậy, cung
phàm ngă có liên quan tới trạng thái thứ ba hay trạng thái hoạt động trong tiểu
thiên địa. Công việc của Thượng Đế Ngôi Ba là sắp xếp vật chất của thái dương hệ
sao cho rốt cuộc có thể kiến tạo được thành h́nh hài qua quyền năng của Thượng
Đế Ngôi Hai. Sự tương đồng xảy ra như sau. Bởi lẽ sự sống trên cơi hồng trần
(vốn là sự sống mà trong đó nguyên tử thường tồn hồng trần biểu lộ đầy đủ) vật
chất được sắp xếp và tách ra sao cho cuối cùng phải được kiến tạo thành Thánh
điện Solomon, tức Chân ngă thể, qua trung gian của sự sống Chân ngă, trạng thái
thứ hai. Trong mỏ đá của sự sống phàm ngă là các tảng đá được chuẩn bị cho Đại
Thánh
95. Cung phàm ngă và lửa do ma sát 95 Điện. Trong sự sống trên cơi trần và trong
sự sống biểu lộ ra ngoài của phàm ngă th́ kinh nghiệm thu được đó biểu lộ dưới
h́nh thức năng lực trong chân ngă. Những ǵ được nêu ra ở đây sẽ đáp lại đầy đủ
sự chú ư chặt chẽ nhất của chúng ta và khai mở trước mắt ta các tầm mức tư tưởng
mà sau rốt sẽ đưa đến một nhận thức khôn ngoan hơn, một phán đoán hợp lư hơn và
một khích lệ lớn lao hơn để hành động.
III.. CUNG PHÀM NGĂĂ VÀ NGHIỆP QQUẢẢ Ở đây có thể là khôn khéo mà tóm tắt vài điều để gợi nhớ lại
những ǵ có thể trở thành căn bản cho việc t́m hiểu sâu xa hơn. Trước tiên,
chúng ta bàn về ba thứ lửa của hệ thống thuộc đại và tiểu thiên địa, và sau khi
đă nêu ra vài giả thiết, chúng ta chuyển sang việc xem xét trước hết các lửa vốn
có sẵn trong vật chất. Nhờ khảo cứu ít nhiều về lửa dưới h́nh thức biểu lộ tam
phân của nó trong các phần khác nhau của Thái dương hệ, kể cả con người, chúng
ta đă bàn đến đề tài cung phàm ngă và liên quan của cung này với lửa thứ ba. Ở
đây, chúng ta phải nhớ rằng tất cả những ǵ được bàn đến đều có liên hệ với vật
chất và đối với toàn thể tiết I này, ư tưởng ấy phải được thận trọng ghi nhớ.
Trong tiết I, chúng ta sẽ xem xét mọi việc theo quan điểm trí tuệ và trong tiết
cuối, theo quan điểm của Cung Thiêng Liêng. Nơi đây, chúng ta bàn đến những ǵ
bà H.P. Blavatsky gọi là cung nguyên thuỷ và các biểu lộ của nó trong vật chất
(Xem GLBN I, 108, I, 596). Tất cả các cung Trí Tuệ Vũ Trụ, Hoạt Động Nguyên
Thuỷ và Cung Bác Ái Minh Triết Thiêng Liêng này chỉ là đặc tính chủ yếu biểu lộ
qua phương tiện của một yếu tố nào đó. Cung Nguyên Thuỷ là tính chất của chuyển
động, biểu lộ qua vật chất. 73
96. 96 Cung Trí Tuệ là tính chất của tổ chức sáng suốt,
biểu lộ qua sắc tướng, vốn là sản phẩm của chuyển động và vật chất. Cung Bác Ái
– Minh triết là tính chất của động lực cơ bản, vốn dùng cho cơ cấu sáng suốt của
vật chất đang chuyển động để biểu lộ trong một tổng thể tổng hợp tức trạng thái
Bác ái vĩ đại của Thượng Đế (GLBN I, 99,108;
I, 596). Đường lối tư tưởng này có
thể cũng được vạch ra một cách tương xứng trong Tiểu thiên địa và sẽ cho thấy
làm thế nào mà con người cá biệt được đưa vào cùng một loại công việc trên một
qui mô nhỏ hơn so với Thái Dương Thượng Đế. Ở điểm này trong Bộ luận, chúng ta
giới hạn sự lưu tâm của chúng ta vào Cung Vật Chất Linh Hoạt, hay là vào nhiệt
tiềm tàng trong chất liệu vốn ẩn dưới hoạt động của nó và là nguyên nhân chuyển
động của nó. Nếu chúng ta biết nghĩ một cách thẳng thắn và sáng suốt, chúng ta
sẽ thấy các vị Lipika hay Nghiệp Quả Tinh Quân đă hợp tác chặt chẽ như thế nào
với công tác này. Ba trong các vị này liên hệ chặt chẽ với karma giống như karma
liên hệ đến một trong ba cung lớn hay ba Lửa, trong khi vị Lipika thứ tư tổng
hợp công việc của ba Huynh đệ Ngài và chăm lo sự phối trộn và hoà lẫn ba loại
lửa. Trên địa cầu chúng ta, các Ngài t́m thấy điểm xúc tiếp của các Ngài qua ba
vị “Hoạt Động Phật” (sự tương ứng nên được ghi nhận ở đây) và Đấng Kumara thứ
tư, tức Đấng Chưởng Quản Địa Cầu. Do đó chúng ta đi đến nhận thức rằng Cung phàm
ngă, trong sự liên quan của nó với lửa của vật chất, đă chịu ảnh hưởng trực tiếp
và được hiệu chỉnh trong công việc của nó bởi một trong các Hoạt Động Phật (1 ).
1 “Hoạt Động Phật” (“Buddhas of Activity”), “Độc Giác Phật” (“Pratyeka
Buddhas”). Đây là một cấp độ duy nhất thuộc về 74
97. Cung phàm ngă và lửa do ma sát 97 Nghiệp quả (1 ),( 2 ), Trường Phái
Yogacharya, tuy nhiên đó chỉ là một trong các phát triển trí tuệ cao siêu mà
không có tính chất duy linh đích thực… Đó là một trong ba con đường đưa đến Niết
Bàn, và là con đường thấp nhất, trong đó một yogi –“không có thầy và không có
các thứ khác bù đắp”- chỉ bằng sức mạnh của ư chí và các tuân thủ có phương
pháp, mà đạt đến một loại Phật quả trên danh nghĩa tự lực”. Theosophical
Glossary 1 “Theo quan điểm xét về Karma như tôi đă đưa ra, bạn sẽ thấy rằng
không một cơi duy linh cao nhất nào, dù là cơi của các Đấng nhập Niết Bàn đi
nữa, ở ngoài bánh xe nghiệp quả và khi điều đó được nói đến trong các tác phẩm
Bắc Phạn và ngay trong kinh Bhagavat Gita cũng ghi rằng con người phải vượt qua
đại dương nghiệp quả, điều đó phải được hiểu với một ít cân nhắc. Các Đấng mà
ngày nay đă thành công trong việc vượt thoát được bánh xe nghiệp quả, đă làm như
sau, đó là chỉ khi nào bánh xe đó được lấy đi như là bánh xe đang xoay hiện giờ.
Vũ trụ không tiến hoá như trong một cái khe suốt đời của Brahma, mà đang tiến
tới t́nh trạng ngày càng cao khi nó làm tṛn nhiệm vụ của nó. Những ai đă đạt
đến sự an nghỉ trong một t́nh trạng tâm linh, không thể đạt đến hiện nay, do đó
sẽ ở trong một ngày sắp đến dưới ảnh hưởng tác động của bánh xe nghiệp quả có
thể có một h́nh phạt cho các bổn phận lớn lao đă bị chểnh mảng từ rất lâu”. Some
Thoughts on the Gita, trang 40. 2 Lipika là các Đấng Cao Cả của Vũ Trụ. Các Ngài
có liên quan với Định Luật Nghiệp Quả (Karma) và là các Đấng Ghi Chép nghiệp
quả. Từ ngữ Lipika xuất phát từ ngữ căn “Lipi” có nghĩa là biên chép (writing).
Muốn biết thêm về các Đấng Lipika, xin xem GLBN I, trang 152, 153. Các Hoạt Động
Phật chính là Triad, các Đấng thân cận nhất với Đức Sanat Kumara, tức Đấng
Chưởng Quản Thế Gian. Các hoạt động Phật là các tương ứng về mặt hành tinh với
ba Trạng Thái 75
98. 98 ( 1 ) của chính vật chất là một vấn đề khó hiểu mà
cho đến nay ít được đề cập đến. Tuy nhiên, nghiệp quả đó được phối hợp chặt chẽ
với nghiệp quả của cá nhân. Nó bao hàm sự kiểm soát mức tiến hoá của tinh hoa
Chân Thần (monadic essence), tinh hoa hành khí (elemental essence) và của vật
chất nguyên tử của cơi; nó liên quan với sự phát triển của bốn ṿng xoắn ốc, với
sự hoạt động của chúng, với sự ràng buộc vào sắc tướng khi ở trạng thái nguyên
tử và với sự phát triển của tiềm nhiệt bên trong và với sự tăng gia độ nóng từ
từ cho đến khi chúng ta có trong nguyên tử sự lặp lại những ǵ được thấy trong
linh hồn thể: đó là việc phá huỷ chu vi của nguyên tử bằng cách bùng cháy. Nó
liên quan đến vấn đề kiến tạo vật chất thành h́nh hài sắc tướng bởi sự tương tác
của hai cung, Cung Thiêng Liêng và Cung Nguyên Thuỷ, bằng cách ấy tạo nên lửa do
ma sát hướng về sự sống và sự hợp nhất. Nghiệp quả của h́nh hài sắc tướng cũng
là một vấn đề rộng lớn, quá phức tạp đối với sự hiểu biết của kẻ thường
(Aspects) của Ngôi Ba Thượng Đế và có liên quan với thần lực đàng sau biểu lộ
của hành tinh. Tinh hoa Chân Thần (Monadic Essence), tức vật chất của cơi phụ
nguyên tử (hay là cơi cao nhất) của mỗi cơi chính. Tinh hoa Hành Khí (Elemental
Essence), tức vật chất của sáu cơi phụ phi nguyên tử. Đó là vật chất phân tử. 1
“Karma có thể được định nghĩa là mănh lực phát sinh bởi một trung tâm con người
khi hành động ở ngoại giới (exterior world) và ảnh hưởng do phản ứng trở lại mà
đến lượt nó phát sinh từ thế giới bên ngoài khi tác động lên con người, có thể
được gọi là ảnh hưởng nghiệp quả và kết quả thấy được vốn được tạo ra bởi ảnh
hưởng này theo các t́nh huống thích hợp có thể được gọi là hậu quả của nghiệp
(karmic fruit)”. Some Thoughts on the Gita, trang 53. 76
99. Cung phàm ngă và lửa do ma sát 99 nhân, nhưng là một yếu tố thực sự quan
trọng không nên bỏ qua khi xét về sự tiến hoá của một thế giới, sự tổng hợp các
thế giới hay của một thái dương hệ khi được nh́n từ các mức độ cao hơn. Trong
toàn thể của nó, mọi việc là kết quả của hành động được thực hiện bởi các Tinh
Hoa vũ trụ và các Thực Thể Thông Linh vũ trụ trong các Thái dương hệ trước, hiện
đang tác động qua các nguyên tử cá biệt và qua các khối nguyên tử mà chúng ta
gọi là h́nh hài sắc tướng. Trong thực tế, v́ lẽ đó, hiệu quả của cung phàm ngă
trên các lửa bên trong là kết quả của ảnh hưởng của Hành Tinh Thượng Đế của bất
luận cung nào có dính líu vào, khi Ngài thanh toán phần nghiệp quả mà Ngài phải
gánh vác trong một chu kỳ nào đó dù lớn hay nhỏ. Như vậy, Ngài gây ra và rốt
cuộc biến đổi các hậu quả của nguyên nhân mà Ngài phát khởi trước kia liên quan
đến sáu Huynh đệ của Ngài, tức là các Hành Tinh Thượng Đế khác. Chúng ta được
một minh hoạ song hành về kết quả mà một cá nhân sẽ có đối với một kẻ khác trong
sự giao tiếp thế gian, trong việc tạo khuôn mẫu và gây ảnh hưởng, trong việc
thúc đẩy hay tŕ hoăn. Chúng ta phải nhớ rằng tất cả mọi ảnh hưởng căn bản và
hiệu quả được nhận thấy trên cơi cảm dục và từ đó tác động xuyên qua chất dĩ
thái đến vật chất hồng trần trọng trược, bằng cách ấy đặt vật chất dưới phạm vi
ảnh hưởng của nó, tuy nhiên, chính nó không bắt nguồn trên cơi hồng trần.
100. TIẾT MỘT ĐOẠN C THỂ DĨ THÁI (1) VÀ PRANA (2) 1 Dĩ thái: Khoa học
hiện thời cho rằng trong vũ trụ có thứ vật chất hư vô, vi diệu chứa đầy cả trong
khoảng không, gọi là dĩ thái, dịch âm chữ ether (Anh), éther (Pháp). (Trích Hán
Việt Từ Điển, Đào Duy Anh) (dĩ: nhân v́, bởi v́; thái: lớn, đến chỗ tuyệt cao) –
ND - Dĩ thái là dạng thô trược nhất của Akasha. GLBN I, 78 - Có bốn loại chất dĩ
thái, lấy tên theo cơi phụ của cơi trần. a. Cơi phụ thứ nhất của cơi trần (cơi
phụ cao nhất) chứa chất dĩ thái 1. b. Cơi phụ thứ nh́ của cơi trần chứa chất dĩ
thái 2, ánh sáng cơi trần sử dụng dĩ thái 2 làm phương tiện truyền đi. c. Âm
thanh tác động qua chất dĩ thái thứ 3. d. Màu sắc có liên kết với chất dĩ thái
thứ 4. - Dĩ thái thứ tư là chất mà nhờ đó, đa số thể dĩ thái của con người được
tạo thành. (Trích : LVLCK, trang 320, 326)(Chú giải của ND) 2 “Prana hay là
nguyên sinh khí/ nguyên khí sự sống (vital principle)là mối liên hệ đặc biệt của
Atma với một h́nh thức vật chất nào đó mà bởi sự liên quan của Atma, h́nh thức
vật chất đó tổ chức và kiến tạo nên một phương tiện để thu thập kinh nghiệm. Mối
liên hệ đặc biệt này tạo nên Prana cá biệt (individual Prana) trong cơ thể cá
biệt. Prana vũ trụ thấm nhuần vạn vật không phải là Prana theo ư nghĩa thô
thiển, mà là một tên gọi dành cho Brahman dưới h́nh thức là người sáng tạo Prana
cá nhân… Chúng sinh, dù là Devatas, con người hay là con thú, chỉ tồn tại chừng
nào 77
101. Thể dĩ thái và Prana 101 I.. BảảN CHấấT
CủủA THểể ddĩĩ THÁI..
Trong việc xem xét về lửa bên trong của Thái dương hệ, chúng ta sẽ thấy nhiều
thích thú đối với thế hệ tư tưởng gia sắp đến v́ ba lư do chính có thể được kể
ra sau đây : 1. Mục đích và mô tả thể dĩ thái. Trước nhất. Trong việc khảo cứu
thể dĩ thái có ẩn giấu (đối với các khoa học gia và những kẻ chuyên về y khoa)
một hiểu biết đầy đủ các định luật vật chất và định luật về sức khoẻ. Danh từ
sức khoẻ đă trở nên quá khu biệt trong quá khứ và nghĩa của nó bị hạn chế vào sự
lành mạnh của thể xác, vào hoạt động kết hợp của các nguyên tử của xác thân con
người và vào sự biểu lộ đầy đủ các sức mạnh của hành khí hồng trần. Trong những
ngày sắp đến, người ta sẽ hiểu rơ rằng sức khoẻ của con người tuỳ thuộc vào sức
khoẻ của mọi tiến hoá có kết hợp, và tuỳ thuộc vào hoạt động hợp tác và biểu lộ
sung măn của vật chất của hành tinh và của hành khí hành tinh, mà chính nó là sự
biểu lộ phức hợp của hành khí hồng trần của toàn thể thiên nhiên biểu lộ. Thứ
hai. Trong việc khảo cứu thể dĩ thái và prana có ẩn tàng sự tiết lộ các hậu quả
của ánh sáng, mà (v́ thiếu tên gọi rơ ràng hơn) chúng ta gọi là sự ‘bức xạ sinh
khí thái dương’ (‘solar pranic cmanations’). Các bức xạ sinh khí thái dương này
là hậu quả được tạo ra của nhiệt trung tâm của thái dương trong khi tiến gần đến
các thiên thể khác trong Thái dương hệ do một trong ba vận hà tiếp xúc chính và
lúc bấy giờ, tạo ra trên các thiên thể đó, một số hiệu quả hơi khác với mà Prana
c̣n ở trong cơ thể. Nó là kỳ gian sống c̣n (life duration) của vạn vật… Prana
hay sức sống/ sinh khí (vitality), là chức năng chung của trí tuệ và mọi giác
quan.” Serpent Power, trang 94, 95 78
102. 102 hiệu quả tạo ra bởi các bức xạ khác. Các hiệu quả
này có thể được xem như rơ ràng có tính cách kích thích và kiến tạo, và (qua đặc
tính chủ yếu của chúng), như là đang tạo ra các điều kiện đẩy mạnh sự tăng
trưởng của tế bào chất (ceLular maTer) và liên kết sự hiệu chỉnh của nó với
các điều kiện chung quanh; chúng cũng liên can tới sự lành mạnh bên trong (đang
biểu lộ dưới h́nh thức nhiệt của nguyên tử và đưa đến kết quả là sự hoạt động
của nguyên tử đó) và sự phát triển cùng lúc của h́nh hài mà nguyên tử vật chất
đặc biệt đó hợp thành một thành phần. Prana phóng phát liên quan chẳng bao nhiêu
với sự kiến tạo h́nh hài; đó không phải là lănh vực hoạt động của nó, nó chỉ duy
tŕ h́nh hài qua sự bảo tồn sức khoẻ của các thành phần cấu tạo. Các tia khác
của thái dương tác động một cách khác dựa vào các h́nh thể và dựa vào bản chất
của chúng. Một số tia đảm nhiệm công việc của Chủ Thể Huỷ Diệt h́nh hài, một số
khác xúc tiến việc cố kết và thu hút; công việc của Đấng Huỷ Diệt và Đấng Bảo
Tồn được tiến hành theo định luật hút và đẩy. Một số tia rơ ràng là tạo ra
chuyển động gia tốc, một số tia khác tạo ra sự tŕ trệ. Các tia mà chúng ta bàn
đến ở đây – bức xạ sinh khí thái dương – tác động trong bốn chất dĩ thái, tức là
loại vật chất mà (dù thuộc cơi trần) cho đến nay không thể thấy được ở ngoại
cảnh đối với mắt người. Chúng là cơ bản của mọi sự sống trên cơi trần được xem
như là độc nhất liên quan đến sự sống của các nguyên tử vật chất thuộc cơi trần,
liên quan đến sức nóng có sẵn của chúng và liên quan đến chuyển động quay của
chúng. Các bức xạ này là nền tảng của lửa do “ma sát” - vốn đang biểu lộ trong
hoạt động của vật chất. Cuối cùng, trong việc khảo cứu về thể dĩ thái và prana,
đưa đến việc hiểu được phương pháp biểu lộ của Thượng Đế, 79
103. Thể dĩ thái và Prana 103 và v́ lẽ đó có nhiều lư thú đối với nhà siêu h́nh
học và mọi tư tưởng gia trừu tượng. Thể dĩ thái con người ẩn giấu cái bí nhiệm
về sự biểu hiện ra ngoại cảnh của nó. Nó có sự tương ứng trên cơi nguyên h́nh –
tức là cơi mà chúng ta gọi là cơi của biểu lộ thiêng liêng, tức cơi thứ nhất của
Thái dương hệ chúng ta, cơi Tối Đại Niết Bàn (Adi). Vật chất của cơi cao nhất đó
thường được gọi là “bể lửa” và nó là cội rễ của tiên thiên khí, danh xưng dùng
cho chất liệu của cơi biểu lộ thứ nh́. Chúng ta hăy phác hoạ thêm một vài tương
đồng về chi tiết, v́ trong sự lĩnh hội đúng đắn của nó, người ta sẽ t́m thấy
nhiều sự tỏ ngộ, và nhiều điều sẽ dùng để làm sáng tỏ các vấn đề về đại thiên
địa và tiểu thiên địa. Chúng ta sẽ bắt đầu với con người và thể dĩ thái của con
người. Thể dĩ thái được mô tả như là một mạng lưới, được thấu nhập bằng lửa, hay
là như một mạng lưới được làm cho linh hoạt bằng kim quang (golden light). Trong
Thánh kinh nó được nói đến như là “chén vàng”. Nó là một tổng hợp (composition)
của loại vật chất thuộc cơi trần mà chúng ta gọi là chất dĩ thái, h́nh dáng của
nó được tạo ra bởi các tao (sợi) nhỏ kết lại với nhau bằng chất dĩ thái này nhờ
vào hoạt động của các nhà kiến tạo hạ đẳng, chất dĩ thái này được kiến tạo thành
h́nh dạng hay cái khuôn mà sau này nhục thân có thể dựa vào đó để được nắn
khuôn. Theo Định Luật Hút, vật chất trọng trược của cơi trần được làm cho kết
hợp với h́nh hài chứa sức sống này và dần dần được kiến tạo xung quanh nó, và
bên trong nó, cho đến khi sự xâm nhập vào nhau trở nên hoàn hảo đến nỗi hai h́nh
hài tạo thành một đơn vị độc nhất; bức xạ prana của chính thể dĩ thái tác dụng
lên nhục thân cùng một cách như là bức xạ prana của vầng thái dương tác dụng lên
thể dĩ thái. Tất cả 80
104. 104 chỉ là một hệ thống rộng lớn để truyền chuyển và
để phụ thuộc lẫn nhau bên trong Thái dương hệ. Tất cả nhận vào để ban phát ra và
để chuyển qua những ǵ thấp kém hơn hay không tiến hoá bằng. Diễn tiến này có
thể được nhận thấy trên mỗi cơi. Như vậy, thể dĩ thái tạo thành cơi nguyên h́nh
so với nhục thân. Trên cơi riêng của ḿnh chủ thể tư duy, đối với thể xác, có vị
trí như là Thượng Đế đối với Thái dương hệ của Ngài. Trong sự tổng hợp tư tưởng,
điều đó có thể được diễn tả như thế này: chủ thể tư tưởng trên cơi cảm dục, tức
cơi của ham muốn và đ̣i hỏi, có vị trí đối với thể xác như là Thượng Đế trên cơi
cảm dục vũ trụ có vị trí đối với Thái dương hệ của Ngài. Khi tiếp tục khảo cứu,
chúng ta sẽ vạch ra sự tương hợp trong vũ trụ, Thái dương hệ, và trong ba cơi
thấp, v́ chúng ta cần ghi nhớ rằng sự tương đồng phải được hoàn hảo. 1. Con
người, tức Tiểu thiên địa, tức Chân Thần biểu lộ hay Đấng Độc Nhất (One). 2.
Hành Tinh Thượng Đế, tức là nhóm biểu lộ (manifesting group). 3. Thái Dương
Thượng Đế, tức Đại Thiên Địa, biểu lộ của tất cả mọi nhóm và của mọi tiến hoá
trong Cơ Thể Ngài, tức Thái Dương Hệ. Tất cả các cơ thể này – cơ thể của một con
người, của một Hành Tinh Thượng Đế, và một Thái Dương Thượng Đế - đều là sản
phẩm của dục vọng bắt nguồn từ trên các cơi trí tuệ trừu tượng, dù là thuộc về
vũ trụ, thuộc Thái dương hệ hay trí tuệ trong ba cơi thấp, dù là trí dục vọng vũ
trụ hay trí dục vọng con người, và tất cả các thể của chúng đều là “Các Con 81
105. Thể dĩ thái và Prana 105 Thiết Yếu” (“Sons of Necessity”) như bà H.P.
Blavatsky diễn tả một cách rất thích đáng. (GLBN I, 74). (1 ) 1 “Toàn bộ Thái
dương hệ này được quan niệm như là một cơ cấu rộng lớn với sự hiệu chỉnh tinh tế
các thành phần của nó trong mọi chi tiết chủ yếu, chỉ là biểu hiện hồng trần của
Vishnu, hay là chất tinh anh căn bản, theo như hiện nay chúng ta hiểu thuật ngữ
này. Mọi sự hài hoà quan sát được trong vũ trụ biểu lộ chỉ là kết quả của các
năng lượng hoạt động một cách hài hoà để phân giải chất dĩ thái thành biểu hiện
mà chúng ta nhận biết được. Mọi hành tinh, bầu thế giới, con người v.v… chỉ là
các thành phần của cơ thể, mỗi cái vận hành phụ thuộc vào thiên luật đang chi
phối tổng thể. Sự tiến hoá, bảo tồn và huỷ diệt của thế giới, do đó là một diễn
tiến rộng lớn được gọi là Yagna, vốn xảy ra trong cơ thể của Yagna Purusha, hay
là thể tâm linh (the psychical body) của thiên nhiên. Xét chung, nhân loại là
tim và óc của Purusha (Bản Thể Thiêng Liêng) này và do đó mọi nghiệp quả đều
phát sinh bởi nhân loại, về thể chất, trí tuệ hoặc tâm linh, xác định chủ yếu
đặc điểm của tiến tŕnh Yagna này. … Do đó Đức Shri Krishna gọi tiến tŕnh này
là sự sống Yagna mà Ngài đă ban ra cho Arjuna dưới h́nh thức Yoga (Thi kinh thứ
nhất, chương thứ tư). Thực ra Yoga và Yagna có liên quan rất chặt chẽ và thậm
chí không thể tách rời, mặc dầu ở thời hiện đại con người dường như tách rời cả
hai. Yoga xuất phát từ ngữ căn Yuj : nối liền, hàm ư một hành động nối liền.
Hiện nay v́ tim là trung tâm lớn trong con người, cũng như yogee của tim giữ vị
trí trung tâm của nó trong vũ trụ và do đó của biệt ngă con người. Biệt ngă hay
là Thượng Trí (Higher Manas) vốn là cái trục của cấu tạo con người hay là trung
tâm mà trên đó hai bán cầu của sự sống cao và thấp xoay quanh như tôi đă nói,
Yogee của tim có một ṿm trời bên trên và hố sâu trần gian bên dưới và môn yoga
của Ngài có hiệu quả hai mặt. Ngài gắn liền chính Ngài vào sự việc bên trên bằng
thiền định và sự việc bên dưới bằng hành động. Từ ngữ Yagna xuất phát từ
106. 106 2. Tám trần thuyết (statements). Chúng ta đang bàn
tới thể dĩ thái của vạn vật và bàn về việc prana đem lại sinh khí cho chúng (dù
là thuộc vũ trụ, thái dương, hành tinh hay con người), với các cơ quan tiếp nhận
và với nền tảng của các bức xạ (emanations). Do đó, ở đây, chúng ta có thể đi
đến một số quả quyết (dicta) liên quan tới thể dĩ thái mà với mục đích làm sáng
tỏ, có thể liệt kê như sau: Thứ nhất. Thể dĩ thái là cái khuôn của thể xác. Thứ
hai. Thể dĩ thái là nguyên h́nh mà dựa vào đó nhục thân được tạo thành, dù đó là
h́nh thể của Thái dương hệ hay là của cơ thể con người trong bất cứ lần luân hồi
nào. Thứ ba. Thể dĩ thái là một mạng lưới gồm các vận hà mảnh dẻ bện lại làm
bằng chất liệu của bốn loại dĩ thái và được kiến tạo thành một h́nh dạng đặc
sắc. Nó tạo thành một điểm tập trung đối với các phóng phát bức xạ nào đó, vốn
làm sinh động, kích thích và tạo ra chuyển động quay của vật chất. Thứ tư. Các
bức xạ prana này khi được tập trung và tiếp nhận, sẽ tác động trên vật chất
trọng trược được kiến tạo trên cái giàn và khung bằng chất dĩ thái. Thứ năm.
Trong khi luân hồi, mạng lưới dĩ thái này tạo thành một chướng ngại giữa cơi
hồng trần và cơi cảm dục, chỉ có thể vượt qua được khi tâm thức phát triển đầy
đủ cho phép thoát ra. Điều này có thể được nhận thấy ở cả tiểu và đại thiên địa.
Khi một người mở rộng tâm thức ḿnh đến một ngữ căn Yaj – cũng dùng với ư nghĩa
phụng sự hai mặt, việc phụng sự được làm cho việc ở bên trên xuyên qua việc
phụng sự được làm đối với biểu hiện của nó tức là sự việc bên dưới”. Some
Thoughts on the Gita, trang 18, 134. 82
107. Thể dĩ thái và Prana 107 tŕnh độ nào đó nhờ tham thiền và định trí, y có
thể biết đến các cơi tinh anh hơn và mới thoát qua được bên kia ranh giới của
mạng lưới phân chia. Các cơi phụ của cơi trần Các cơi của Thái dương hệ 1. Dĩ
thái 1. Cơi nguyên tử … Tối Đại Niết Bàn, Cơi Thiêng Liêng. Bể Lửa Dĩ thái vũ
trụ thứ nhất. 2. Dĩ thái 2. Á nguyên tử (sub-atomic) … Cơi Đại Niết Bàn. Cơi
Chân Thần. Tiên thiên khí. Dĩ thái vũ trụ thứ hai. 3. Dĩ thái 3. Siêu dĩ thái
(super-etheric) … Cơi Niết Bàn. Cơi tinh thần. Hậu thiên khí (Aether). Dĩ thái
vũ trụ thứ ba. 4. Dĩ thái 4. Siêu khí (super- gaseous) … Cơi Bồ đề. Cơi trực
giác. Khí (air) Dĩ thái vũ trụ thứ tư. Cơi trần trọng trược Các cơi của nhân
loại 5. Chất hơi. Dĩ thái phụ. … Trí tuệ. Lửa. Chất hơi vũ trụ. 6. Chất lỏng
(liquid). … Cảm dục. Cơi t́nh cảm. Nước. Chất lỏng vũ trụ. 7. Chất đặc
(Earthly). Trọng trược (dense) … Cơi trần. Đất. Chất đặc vũ trụ. Khi Thượng Đế
mở rộng Tâm Thức của Ngài trên các phân cảnh vũ trụ, lúc bấy giờ Ngài có thể
siêu việt được lưới dĩ thái Thượng Đế (logoic etheric web) và vượt quá ṿng giới
hạn biểu lộ ngoại cảnh của Ngài. Khi suy tư về sự tương 83
108. 108 đồng này chúng ta phải ghi nhớ kỹ càng sự kiện
rằng bảy cơi chính của Thái dương hệ chúng ta là bảy cơi phụ của cơi hồng trần
vũ trụ hay cơi vũ trụ thấp nhất. Ở đây, chúng ta nên ghi nhớ việc vạch ra chính
xác về sự tương ứng trong vật chất và sự tương ứng về bức xạ cũng chính xác như
thế. Thứ sáu. Trong cả ba thể – thuộc con người, hành tinh và thái dương hệ hay
Thượng Đế – sẽ được t́m thấy một cơ quan lớn bên trong cơ thể vốn tác động như
là chủ thể thu nhận prana. Cơ quan này có biểu lộ bằng chất dĩ thái của nó và có
tương ứng vật chất trọng trược của nó. Trong Thái dương hệ. Trong Thái dương hệ,
cơ quan của prana vũ trụ, của lực đem sinh khí cho vật chất là mặt trời trung
ương, vốn là nơi tiếp nhận trực tiếp và là nơi phân phát trực tiếp bức xạ vũ
trụ. Đây là một trong ba phân chia của Cung Nguyên Thuỷ, Cung Trí tuệ linh hoạt.
Mỗi một trong các Cung vũ trụ đều có bản chất tam phân, một sự kiện thường không
được nhận thấy, dù là hiển nhiên về phương diện lư luận, mỗi Cung là hiện thể
đối với một Thực Thể vũ trụ và mọi sự hiện tồn đều biểu lộ làm ba phần. Mặt Trời
trung ương có trong chu vi của nó một trung tâm tiếp nhận với một bức xạ ngoài
mặt. Trong Hành Tinh. Trong hành tinh có một cơ quan tương tự hay nơi tiếp nhận
nằm trong thể dĩ thái của nó, vị trí của cơ quan này không được công khai phổ
biến và do đó không thể được tiết lộ. Nó tiếp cận với vị trí của hai cực bắc và
nam và là trung tâm quanh đó bầu hành tinh quay, và là nguồn cội của truyền
thuyết về một mảnh đất ph́ nhiêu linh thiêng trong phạm vi của các ảnh hưởng ở
cực. Mảnh đất huyền thoại cực kỳ ph́ nhiêu tươi tốt và tăng trưởng phi 84
109. Thể dĩ thái và Prana 109 thường, thực vật, động vật và con người sẽ tự
nhiên nằm ở nơi nào nhận được prana. Đó là Ngôi Vườn Địa Đàng huyền bí, mảnh đất
hoàn thiện của cơi trần. Bức xạ bề mặt, sau khi được phân phối, biểu lộ dưới
h́nh thức prana hành tinh. Trong con người. Cơ quan tiếp nhận là lá lách qua đối
phần dĩ thái của nó. Sau khi phân phối trên khắp cơ thể xuyên qua (via) lưới dĩ
thái, nó biểu lộ thành bức xạ ở mặt ngoài dưới h́nh thức hào quang sức khoẻ. Thứ
bảy. Như thế, trong khắp ba thể, mối tương đồng sẽ được nhận thấy rơ rệt và cách
thể hiện trong sự tương ứng hoàn hảo có thể được chứng minh dễ dàng : PRANA CỦỦA
THÁI DDƯƯƠƠNG HỆ THÁI ddưươơNG Hệệ Đấng biểu lộ
................................ Thái dương Thượng Đế Thể biểu lộ
................................. Thái Dương hệ Trung tâm tiếp nhận
.................. Cực của Mặt Trời Trung ương Bức xạ ngoài mặt hay
................. Prana của thái dương sự phóng phát Chuyển động được tạo ra
......... Sự quay của Thái dương hệ Hiệu quả phân phối .................. Bức xạ
dĩ thái của thái dương (Distributive effect) (nhận được về phương diện vũ trụ)
Hành tinh Đấng biểu lộ ………......................Một Hành Tinh Thượng Đế Thể biểu
lộ…................................ Một hành tinh Trung tâm tiếp
nhận................... Cực hành tinh Bức xạ bề mặt hay sự .................
Prana của hành tinh phóng phát Chuyển động được tạo ra……. Sự quay của hành tinh
110. 110 Hiệu quả phân phối ................... Bức xạ dĩ
thái hành tinh (được cảm nhận bên trong thái dương hệ). Con người Thực thể biểu
lộ ......................... Chủ thể tư tưởng, một vị Dhyan Chohan. Thể biểu lộ
................................. Thể xác Trung tâm tiếp nhận...................
Lá lách Bức xạ bề mặt ............................. Hào quang sức khoẻ Chuyển
động được tạo ra ………Sự quay của nguyên tử Hiệu quả phân phối....................
.Bức xạ dĩ thái của con người (cảm nhận được nhờ môi trường) Nguyên tử của vật
chất Thực thể biểu lộ ......................... Một sự sống hành khí Thể biểu lộ
.................................. Khối cầu nguyên tử Trung tâm tiếp nhận
................. Cực của nguyên tử Bức xạ bề mặt ..............................
Đóng góp của nguyên tử vào hào quang sức khoẻ hợp nhất của cơ thể. Chuyển động
được tạo ra ......... Sự quay của nguyên tử Hiệu quả phân phối
.................. Bức xạ dĩ thái của nguyên tử (được cảm nhận trong h́nh hài
vật chất) Thứ tám. Khi “ư chí sinh tồn” (“wiL to live”) tan biến, lúc bấy giờ
các “Đứa Con Thiết Yếu” (tức Thái dương hệ - ND) chấm dứt biểu lộ ra ngoại cảnh.
Về mặt luận lư th́ điều này không thể tránh được và sự thể hiện của nó có thể
được nhận thấy trong mỗi trường hợp biểu lộ ra bên ngoài thành thực thể
(entified objectivity). Khi Chủ Thể Tư duy trên cơi riêng rút sự chú ư của nó ra
khỏi hệ thống bé nhỏ của nó trong ba cơi thấp và qui tụ vào chính nó mọi thần
lực; lúc bấy giờ sự sống trên cơi trần đi đến chỗ chấm dứt, và tất cả trở lại
111. Thể dĩ thái và Prana 111 trong tâm thức của thể nguyên nhân; đây là một sự
hườn hư (trừu xuất) trong ba cơi thấp của Chủ Thể Tư Tưởng giống như Đấng Tuyệt
Đối ở trong Thái dương hệ tam phân của Thượng Đế. Điều này biểu lộ trên cơi trần
bằng sự triệt thoái ra khỏi đỉnh đầu của thể dĩ thái đang toả chiếu và đưa đến
kết quả là sự phân huỷ của thể xác. Cái khung sườn sụp đổ và h́nh hài vật chất
trọng trược tan ră; sự sống của prana bị tách ra khỏi lớp vỏ trọng trược của xác
thân và sự kích thích lửa vật chất chấm dứt. Lửa tiềm tàng của nguyên tử vẫn c̣n
lại; lửa ấy vốn có sẵn, nhưng h́nh hài được tạo ra bởi tác động của hai thứ lửa
vật chất - hoạt động và tiềm tàng, phóng ra và thu lại - được trợ giúp bởi lửa
của Thượng Đế Ngôi Hai và khi chúng được tách ra, h́nh hài sẽ tan ră. Đây là một
minh hoạ thu nhỏ về lưỡng nguyên cốt yếu (essential duality) của mọi vật do
Fohat tác động lên. Có một sự nối liền chặt chẽ giữa lá lách với đỉnh đầu liên
quan đến thể dĩ thái. Cơ quan lá lách có một tương quan kỳ thú với dây rún đang
nối liền thai nhi với bà mẹ để nuôi dưỡng và được tách rời ra lúc sinh nở. Khi
một người bắt đầu sống bằng cuộc sống có sự ham muốn cố ư riêng của ḿnh, khi
một người được sinh ra trong một thế giới mới có một h́nh thức sự sống tinh tế
hơn, sợi dây đan bằng chất dĩ thái đó (vốn nối y với thể xác của y) bị tách ra;
“sợi chỉ bạc lỏng ra” và con người cắt đứt sự liên lạc của ḿnh với nhục thân và
ĺa trần xuyên qua trung tâm lực cao nhất của thể xác, thay v́ thấp nhất, bước
vào sự sống trong một cơi cao hơn và một chiều đo khác. Thế nên, điều đó sẽ được
t́m thấy trong mọi thể và các lớp vỏ của tiểu thiên địa, v́ sự tương đồng sẽ tồn
tại trên mọi cơi trong khi biểu lộ. Khi nhiều kiến thức khoa học hơn được thu
thập, người ta sẽ thấy rằng cùng một diễn 86
112. 112 tiến trên một mức độ rộng lớn hơn, xảy ra trong sự
biểu lộ của hành tinh. Một hành tinh chỉ là cơ thể của một Hành Tinh Thượng đế,
cơ thể ấy bằng chất dĩ thái và Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua đó và kiến tạo
trên cái giàn dĩ thái một hiện thể để biểu lộ. Nguyệt cầu đă có lần là thể biểu
lộ đối với một trong các vị Thượng Đế; Địa cầu hiện nay cũng thế, các chu kỳ
thay đổi liên tục. Trung tâm đào thoát cho thể dĩ thái cũng được t́m thấy trong
một hành tinh bằng vật chất, ngân quang tuyến của hành tinh nới lỏng ra vào lúc
đă định; nhưng các kỳ hạn và chu kỳ, lúc khởi đầu và kết thúc của chúng lại ẩn
dưới các bí mật về điểm đạo và không có liên hệ đến chúng ta. Lại nữa, trong
chính Thái dương hệ, tác động tương tự sẽ xảy ra vào lúc kết thúc Chu kỳ Đại
Khai Nguyên, Thượng đế sẽ thu lại trong chính Ngài, tách ra ba nguyên khí chính
yếu của Ngài (1). Thể biểu lộ của Thượng Đế - tức là Thái dương và bảy Hành Tinh
thánh thiện, tất cả đều hiện tồn trong chất dĩ thái - sẽ rút ra khỏi sự biểu lộ
bên ngoài và trở nên mờ tối. Theo quan điểm hồng trần thông thường, ánh sáng của
Thái dương hệ sẽ tắt đi. Việc này sẽ được nối tiếp bằng một luồng nội khí vận
(inbreathing) từ từ đi vào cho đến khi Ngài sẽ gom lại vạn hữu vào chính Ngài;
thể dĩ thái sẽ không c̣n tồn tại và mạng lưới sẽ không c̣n nữa. Tâm thức đầy đủ
sẽ được đạt đến và trong phút giây thành tựu, sự tồn tại tức sự biểu lộ thành
thực thể sẽ chấm dứt. Vạn vật sẽ được tái hấp thu vào 1 Nguyên khí (Principles),
tức là các biến phân căn bản (basic differentiations), các tính chất cốt yếu
(essential qualities) hay các loại năng lượng mà dựa vào đó mọi vật được kiến
tạo; chúng đem lại bản chất khác nhau của mọi h́nh hài. 87
113. Thể dĩ thái và Prana 113 trong Tuyệt Đối; chu kỳ qui nguyên (pralaya) (1)
hay sự nghỉ ngơi vũ trụ sẽ xảy ra, sau đó Tiếng Vô Thinh không c̣n được nghe
thấy nữa. Sự vang dội của Linh Từ sẽ tắt đi và “Sự Im Lặng của Chốn Cao Thâm” sẽ
ngự trị tuyệt đối. II.. BẢẢN CHẤẤT
CỦỦA PRANA Khi bàn về vấn đề
thể dĩ thái và chức năng của nó với vai tṛ là một tác nhân đồng hoá và tác nhân
phân phối prana, chúng ta đă bàn đến thể dĩ thái theo quan điểm vị trí của nó
trong cách mà các sự việc diễn ra. Chúng ta đă xem xét chất dĩ thái này ở góc độ
về các tương ứng và đă vạch ra các tương đồng trong Thái dương hệ, trong hành
tinh và trong con người. Chúng ta đă thấy rằng nó tạo thành nền tảng của h́nh
hài vật chất trọng trược và chính nó cấu thành một khoen nối quan trọng giữa: a.
Con người hồng trần với cơi cảm dục. b. Hành Tinh Thượng Đế với tính chất t́nh
cảm chính yếu. c. Thượng Đế, Thái Dương Thượng Đế với cơi cảm dục vũ trụ. Bây
giờ chúng ta thu hẹp đề tài lại để nghiên cứu thể dĩ thái của con người và không
đề cập chút nào đến các tương ứng với các sự việc liên quan đến Thái dương hệ
hoặc vũ trụ, dù điều đó có thể là cần thiết để nhắc nhở chính chúng ta rằng đối
với các nhà nghiên cứu khôn khéo, con đường đưa đến minh triết vẫn là một; kẻ
nào tự biết chính ḿnh (trong biểu lộ ra bên ngoài, tính chất cốt yếu và việc
phát triển hiểu 1 Pralaya: Một giai đoạn ẩn khuất (obscuration) hay nghỉ ngơi
(repose) - thuộc hành tinh, thái dương hệ hoặc thuộc vũ trụ. Một thời kỳ chuyển
tiếp (interlude) giữa hai chu kỳ biểu lộ. 88
114. 114 biết) cũng nhận biết Tinh Quân (Lord) của cung
ḿnh và Thượng Đế của Thái dương hệ ḿnh. Lúc bấy giờ chỉ có vấn đề là áp dụng,
mở rộng tâm thức, liên kết với việc sáng suốt không tin vào giáo điều vơ đoán và
nhận thức được rằng sự tương ứng nằm trong tính chất và phương pháp nhiều hơn
trong việc bám chặt vào chi tiết đối với một hành động đặc biệt ở bất cứ thời
điểm đă định nào trong cơ tiến hoá. Tất cả những ǵ có thể được đưa ra ở đây là
tài liệu nếu được cân nhắc một cách đúng đắn, có thể đem lại kết quả là có được
lối sống thực tiễn, sáng suốt hơn theo ư nghĩa huyền bí của thuật ngữ “lối sống”
(“living”), nếu khảo cứu một cách khoa học, một cách cẩn thận và một cách b́nh
thản, tài liệu có thể dẫn đến việc thúc đẩy các mục tiêu của diễn tŕnh tiến hoá
trong chu kỳ nhỏ hơn ngay trước mắt. Do đó, mục đích của chúng ta là làm cho thể
phụ thuộc của con người trở nên hiện thực hơn và để biểu lộ một số chức năng của
nó và làm thế nào nó có thể rốt cuộc được đem một cách sáng suốt vào trong tầm
mức của sự giác ngộ tinh thần. Như chúng ta biết, khoa học đang nhanh chóng đi
tới chỗ bắt buộc phải thừa nhận sự thực về thể dĩ thái, bởi v́ có nhiều khó khăn
khi không chịu thừa nhận nó, công nhận là có thể dĩ thái c̣n dễ hơn là cho rằng
không có nó. Các nhà khoa học đă thừa nhận sự thật về chất dĩ thái; sự thành
công của nỗ lực thu h́nh đă chứng minh sự thực về cái mà cho đến nay vẫn bị xem
như là không có thực, v́ không thể nắm bắt được (theo quan điểm vật chất). Các
hiện tượng xảy ra vào mọi lúc được giữ lại trong địa hạt siêu nhiên trừ phi được
giải thích qua trung gian của chất dĩ thái, và, trong sự lo âu của các nhà khoa
học để chứng minh những người theo thuyết duy linh là sai lầm, các nhà khoa học
đă giúp cho
115. Thể dĩ thái và Prana 115 chính nghĩa của chủ thuyết duy linh chân chính và
cao hơn bằng cách dùng đến thực tại, và sự thật về thể dĩ thái, dù là họ xem nó
như một thể phóng phát bức xạ - v́ quan tâm tới hiệu quả và chưa xác định được
nguyên nhân. Các nhà y học đang bắt đầu khảo cứu (cho đến nay vẫn c̣n mù mờ) về
vấn đề sinh lực (vitality), hiệu quả của các tia nắng trên cơ thể vật chất và
các định luật nằm bên dưới về nhiệt bức xạ và có sẵn. Họ đang bắt đầu gán cho lá
lách các chức năng mà cho đến nay vẫn không được nhận biết, họ bắt đầu khảo sát
hiệu quả sự tác động của các tuyến cùng sự liên quan của chúng với sự đồng hoá
các tinh chất thiết yếu của cơ thể. Họ đang ở trên con đường đúng và chẳng bao
lâu nữa (có lẽ trong ṿng thế kỷ này) (tức thế kỷ XX – ND) sự thực về thể dĩ
thái và chức năng cơ bản của nó sẽ được thiết lập, vượt qua mọi sự tranh căi, và
toàn thể mục tiêu của y học về dự pḥng và chữa trị, sẽ được nâng lên đến một
mức độ cao hơn. Tất cả những ǵ chúng ta có thể làm ở đây là đưa ra một cách đơn
giản và dưới một h́nh thức cô đọng một vài sự kiện vốn có thể hối thúc ngày nhận
biết và thúc đẩy sự quan tâm của kẻ t́m ṭi chân chính. V́ lẽ đó, tôi xin phát
biểu một cách ngắn gọn những ǵ được bàn đến về ba điểm c̣n lại : - Các chức
năng của thể dĩ thái. - Liên hệ giữa thể dĩ thái và thể xác trong sự sống. - Các
đau đớn (iLs) hay bệnh hoạn (diseases) của thể dĩ thái (thận trọng ghi nhớ
nghĩa nguyên thuỷ của từ “bệnh hoạn”). - T́nh trạng sau khi chết của thể dĩ
thái. Điều này sẽ bao hàm tất cả những ǵ cho đến nay vẫn c̣n thực dụng. C̣n
nhiều điều nữa sau này sẽ có ích cho chúng ta nếu điều hiện giờ được phổ biến
cho mọi người mà được 89
116. 116 noi theo một cách thận trọng và nếu những kẻ
nghiên cứu khảo sát vấn đề quan trọng này một cách khôn ngoan đúng mức và rộng
răi. Khi bản chất và các chức năng của thể dĩ thái nhân loại đảm nhận đúng vị
trí của chúng trong mối tư duy của người đời, và khi người ta nhận thức rằng thể
dĩ thái quan trọng hơn hết trong số hai thể hồng trần, con người sẽ có được sự
tiếp xúc hữu thức chặt chẽ hơn với các sự tiến hoá khác đang xảy ra trong chất
dĩ thái, đúng y như con người đang tiến hoá trong nhục thân vậy. Có một số đông
các thiên thần gọi là “thiên thần của bóng tối” hay là thiên thần tím (violet
devas) đang liên kết chặt chẽ với sự phát triển tiến hoá của thể dĩ thái con
người, các thiên thần này truyền đạt cho con người các bức xạ thái dương và hành
tinh. Thể dĩ thái của con người nhận được prana bằng nhiều cách khác nhau và với
nhiều loại khác nhau, tất cả các cách này làm cho con người tiếp xúc với các
thực thể khác nhau. 1. Prana thái dương. Đây là lưu chất sinh lực và từ điển toả
ra từ thái dương và được truyền tới thể dĩ thái của con người, do tác động của
một vài thiên thần thuộc một đẳng cấp rất cao và có màu hoàng kim. Lưu chất đó
được truyền qua cơ thể của các thiên thần và được phát ra như các bức xạ mạnh
được áp trực tiếp qua một vài bí huyệt (plexi) ở phần trên cùng của thể dĩ thái,
đầu và hai vai và được truyền xuống phần tương ứng bằng chất dĩ thái của cơ quan
vật chất, tức lá lách và từ đó được truyền một cách mạnh mẽ vào chính lá lách.
Các sinh linh mang prana có màu hoàng kim này ở trong không khí bên trên chúng
ta và đặc biệt linh hoạt trong những phần trên thế giới như California, ở các xứ
nhiệt đới nơi mà không khí 90
117. Thể dĩ thái và Prana 117 trong sạch và khô ráo, các tia nắng được thừa nhận
như là đặc biệt có lợi. Liên hệ giữa con người với các nhóm thiên thần này rất
chặt chẽ, nhưng cho đến nay đầy nguy hiểm cho con người. Các thiên thần này
thuộc về một loại rất mạnh và theo đường lối riêng của họ, họ c̣n tiến hoá hơn
chính con người. Con người không được bảo vệ phải chịu dưới quyền điều khiển của
họ. Thí dụ, việc thiếu sự che chở cũng như thiếu hiểu biết của con người đối với
những định luật về sự đối kháng từ điển hay lực đẩy thái dương (solar repulsion)
dẫn đến nguy cơ trúng nắng. Khi thể dĩ thái và các tiến tŕnh đồng hoá của nó
được hiểu một cách khoa học, lúc bấy giờ con người sẽ tránh khỏi các nguy cơ do
bức xạ mặt trời gây ra. Con người sẽ tự bảo vệ ḿnh bằng cách áp dụng các định
luật chế ngự xung lực và thu hút từ điển; và không phải là bằng cách mặc y phục
và t́m nơi trú ẩn. Đó chủ yếu là vấn đề phân cực. Một gợi ư được nêu ra ở đây:
khi con người hiểu biết sự tiến hoá thiên thần khá chính xác hơn và nhận thức
công việc của họ theo một vài đường lối liên quan đến Thái Dương và hiểu được
rằng họ tiêu biểu cho cực âm trong khi chính họ đại diện cho phái nam (Huyền
giai Sáng Tạo thứ tư là dương) (1) họ sẽ hiểu sự liên quan hỗ tương và chế ngự
sự liên quan đó bằng định luật. Các Thái dương Thiên thần này nhận các tia bức
xạ mặt trời từ trung tâm mặt trời đi tới vùng ngoại biên theo một 1 GLBN I,
232-238. Toàn thể vũ trụ được hướng dẫn, kiểm soát và làm linh hoạt bởi một loạt
vô tận các Huyền giai (Hierarchies) các Đấng hữu t́nh (sentient Beings), mỗi
Đấng có một nhiệm vụ phải hoàn thành. GLBN I, 293. Trong số các Huyền Giai này,
Huyền Giai của Chân Thần nhân loại có một vị trí riêng biệt. 91
118. 118 trong ba vận hà tiếp cận, chuyển các tia bức xạ đó
qua cơ thể của các Ngài và tập trung chúng ở đó. Các Thái dương thiên thần này
tác động gần giống như tấm kính thu nhiệt đang tác động. Các tia này lúc bấy giờ
được phản chiếu hay được truyền đến thể dĩ thái con người và được con người tiếp
nhận và đồng hoá trở lại. Khi thể dĩ thái đang ở trong trật tự ổn định và đang
vận hành chính xác, sinh lực này được hấp thụ đầy đủ để giữ cho h́nh hài được ổn
định. Đây là toàn thể mục đích sự vận hành của thể dĩ thái và là một điểm không
thể được nhấn mạnh đầy đủ. Phần c̣n lại được loại ra dưới h́nh thức bức xạ động
vật hay từ điển xác thân - mọi tên gọi đều diễn tả cùng một ư. Do đó, con người
lặp lại ở một mức độ nhỏ hơn công việc của đại thái dương thiên thần, và đến
phiên con người lại cộng thêm phần bức xạ đă được tái tập trung hay tái từ hoá
vào toàn bộ hào quang của hành tinh. 2. Prana hành tinh Đây là lưu chất cần cho
sự sống (vital fluid) phóng phát từ bất cứ hành tinh nào, nó tạo nên màu sắc hay
tính chất căn bản của hành tinh đó và được tạo ra do sự lặp lại bên trong hành
tinh với cùng diễn tiến mà nó trải qua có liên quan với con người và sinh khí
thái dương. Hành tinh (Địa Cầu hay bất cứ một hành tinh nào khác) hấp thụ Prana
mặt trời, đồng hoá những ǵ cần thiết và toả ra những ǵ không cần yếu cho t́nh
trạng khoẻ mạnh của nó dưới h́nh thức bức xạ hành tinh. Do đó, prana hành tinh
là prana thái dương đă đi qua khắp hành tinh, đă lưu chuyển qua thể dĩ thái hành
tinh, đă được truyền tới hành tinh hồng trần trọng trược và đă bị loại bỏ dưới
h́nh thức bức xạ có cùng đặc tính chính yếu như prana thái dương, cộng thêm tính
chất riêng tư và đặc thù của hành tinh đặc biệt có liên hệ. Điều này lại tái lập
tiến tŕnh được 92
119. Thể dĩ thái và Prana 119 trải qua trong cơ thể người. Các bức xạ từ xác
thân của con người khác nhau tuỳ theo đặc tính của thể xác họ. Điều đó cũng
giống như vậy với một hành tinh. Prana phóng phát của hành tinh (như trong
trường hợp prana thái dương) được thu lấy và truyền xuyên qua một nhóm thiên
thần đặc biệt gọi là “thiên thần bóng tối”, vốn là các thiên thần dĩ thái có màu
tím nhạt. Các thể của họ được tạo thành bằng vật chất của một trong bốn chất dĩ
thái, họ tập trung và cô đọng bức xạ của hành tinh và của tất cả mọi h́nh hài
trên hành tinh. Họ có liên hệ đặc biệt chặt chẽ với con người nhờ sự kiện là có
sự tương đồng chủ yếu của chất liệu cấu tạo thể xác họ với chất dĩ thái của con
người và v́ họ truyền cho con người từ điển của “Đất Mẹ” (“Mother Earth”) như ta
thường gọi. Do đó chúng ta thấy rằng có hai nhóm thiên thần hoạt động liên hệ
tới con người : a. Thái dương Thiên thần truyền lưu chất cần cho sự sống, chất
này tuần hoàn trong thể dĩ thái. b. Hành tinh thiên thần có màu tím, có liên kết
với thể dĩ thái con người và các Ngài truyền prana của địa cầu hay là prana của
bất luận hành tinh nào mà con người có thể đang hoạt động trên đó trong thời
gian lâm phàm trên cơi trần. Một câu hỏi rất thích hợp có thể được nêu ra ở đây
và dù chúng ta không thể giải thích đầy đủ về cái bí ẩn, một vài gợi ư có thể
được nêu ra. Chúng ta có thể hỏi: điều ǵ gây nên sự chết bên ngoài của Nguyệt
cầu? Có sự sống thiên thần trên đó hay không? Phải chăng prana thái dương không
có tác dụng ǵ trên đó? Điều ǵ tạo nên sự khác nhau giữa sự chết bề ngoài của
nguyệt cầu và một hành tinh có sự sống như Địa cầu? (GLBN I, 170 – 180). 93
120. 120 Nơi đây chúng ta đề cập đến một bí nhiệm c̣n ẩn
giấu câu giải đáp sẽ hiện ra cho những kẻ t́m kiếm, đó là sự kiện con người và
một vài nhóm thiên thần không c̣n được t́m thấy trên Nguyệt cầu nữa. Không phải
con người không sống trên Nguyệt cầu v́ Nguyệt cầu đă chết và do đó không thể
bảo bọc cho cuộc sống con người, mà sở dĩ Nguyệt cầu chết là v́ con người và các
nhóm thiên thần này đă tách ra khỏi mặt Nguyệt cầu và tách khỏi vùng ảnh hưởng
của nguyệt cầu. (GLBN I, 179) Con người và các thiên thần hoạt động trên mỗi
hành tinh như là kẻ trung gian hay là như môi giới truyền đạt. Nơi nào không có
con người và thiên thần, ở đó một số hoạt động vĩ đại không thể có được và sự
tan ră bắt đầu. Lư do của việc dời đổi này nằm trong Định Luật Nhân Quả Vũ Trụ
hay là nghiệp quả vũ trụ, và trong lịch sử phức hợp song vẫn cá biệt của nghiệp
quả vũ trụ đó, một trong các Hành Tinh Thượng Đế mà cơ thể của Ngài, tức Mặt
Trăng hay bất cứ hành tinh chết nào khác, có thể xảy đến bất cứ lúc nào. 3.
Prana của h́nh hài: Trước nhất cần phải nêu ra rằng các h́nh hài tất nhiên gồm
có hai loại, mỗi loại có vị trí khác nhau trong thiên cơ (scheme): Các h́nh hài
chính là kết quả của công tŕnh của Ngôi Ba và Ngôi Hai Thượng Đế và sự sống hợp
nhất của các Ngài. Các h́nh hài đó là các đơn vị trong giới thực vật, động vật
và khoáng vật. H́nh hài là kết quả của tác động hợp nhất của ba ngôi Thượng Đế
và bao gồm các h́nh hài hoàn toàn của thiên thần và con người.
121. Thể dĩ thái và Prana 121 Chúa Cha Sat Shiva Vô hiện Tối hữu (Thực hữu) Chúa
Con Ananda Vishnu Tinh thần-Vật chất Toàn phúc, Bác ái Chúa Thánh Thần Chit
Brahma Minh triết-Sáng tạo Trí tuệ Vật chất vi tử = AditaTva Dĩ thái I Dĩ thái
II Dĩ thái IV CƠI TỐI ĐẠI Hơi (Gas) NIẾT BÀN Lỏng (Liquid) Đặc (Solid) Vật chất
vi tử = CƠI ĐẠI NIẾT BÀN Vật chất vi tử = AkâshataTva CƠI Dĩ thái (Ether) NIẾT
BÀN Vật chất vi tử = VayutaTva Thể chí phúc Phong (Air) (Bliss body) Vật chất vi
tử = AgnitaTva Hỏa (Fire) Vật chất vi tử = ApastaTva Thủy (Water) Vị giác
(Taste) Vật chất vi tử = PrithivitaTva Dĩ thái I Dĩ thái II Dĩ thái IV Địa
(Earth) Hơi (Gas) Lỏng (Liquid) Đặc (Solid) tương ứng với 6 cơi phụ thấp như
trên 6 cơi phụ thấp như trên 6 cơi phụ thấp như trên 6 cơi phụ thấp như trên 6
cơi phụ thấp như trên Khứu giác (SmeL) tương ứng với tương ứng với Giới khoáng
chất (Điểm rẽ) TrungtâmTríTuệ củasựtiếnhóa củachúngta, khôngcóphản ảnh Dĩ thái
h́nh Thể xác trọng trược Dụcvọng,Đam mê;phảnảnh củaBácáitrên cơiBồĐề
Thựctạikhách quan,phảnảnh củaHiệntồntrên cơiNiếtBàn Sinh khí Prana Thượng trí
(Phản ảnh của Thượng Đế Ngôi Ba) THƯỢNG ĐẾ CỦA MỘT THÁI DƯƠNG HỆ Thể trí (của
giới nhân loại và c̣n sơ khai trong giới động vật) Thể cảm dục (của giới nhân
loại và giới động vật, c̣n phôi thai trong giới thực vật) Atma Linh hồn thể tạo
ra do sự phối hợp 2 luồng sóng sinh hoạt 2 và 3 Anupadaka- taTva Giới tinh hoa
chất 1 Giới tinh hoa chất 2 Giới tinh hoa chất 3 Thượng Đế Ngôi Một Thượng Đế
Ngôi Hai Thượng Đế Ngôi Ba BảNgătamphân tương ứng với Xúc giác (Touch) tương ứng
với Aâm thanh (Sound) Aùnh sáng (Light) (Giớinhânloại) (LVLCK, 94) Arma (Phản
ảnh của Thượng Đế Ngôi Một) Trực giác (Phản ảnh của Thượng Đế Ngôi Hai)
BácAùi,phảnảnh dướih́nhthứcDục vọng,đaMêtrên cơicảmdục SựSốngHiệntồn
thựcsự,đượcphản ảnhnhưthựctại kháchquantrêncơi hồngtrần Thể xác (của giới nhân
loại, động vật và thực vật) Hạ trí (Lower mind) Cảm thể (Kama)
LuồngsóngsinHoạtba,PhânthâncủaTinhthần LuồngsóngsinHoạtmột,TiếnhóacủaVậtchất
LuồngsóngsinHoạthai,TiếnhóacủaH́nhtướng CƠI HONG TRÀN CƠI CẢM DỤC 4 Cơi phụ hữu
sắc tướng của CƠI TRÍ 3 Cơi phụ vô sắc tướng của CƠI TRÍ CƠI BỒ ĐỀ 94
122. C̣n có h́nh hài đơn giản hơn được tiêu biểu trong chất liệu nguyên thuỷ
(substance) mà từ đó mọi h́nh hài khác được tạo thành. Vật chất này nói đúng ra
là vật chất nguyên tử và phân tử và được làm cho linh hoạt bằng sự sống hoặc
năng lượng của Thượng Đế Ngôi Ba. Khi bàn về nhóm h́nh hài thứ nhất; cần phải
chú ư rằng các bức xạ prana toả ra bởi các đơn vị của giới động vật và thực vật
(sau khi chúng đă hấp thụ prana thái dương và prana hành tinh) đương nhiên là sự
phối hợp của cả hai và được truyền đạt bằng phương tiện bức xạ bề mặt (surface
radiation) như trong prana thái dương và hành tinh, đến vài nhóm thiên thần nhỏ
hơn thuộc một cấp không cao lắm, các nhóm thiên thần này có sự liên quan kỳ lạ
và phức tạp với hồn tập thể/ hồn khóm, của động vật hay thực vật phát xạ. Vấn đề
này không thể bàn ở đây được. Các thiên thần này cũng có màu tím, nhưng là một
màu nhạt gần như xám; họ đang ở trong một t́nh trạng chuyển tiếp và phối trộn
với một sự lộn xộn dữ dội với các nhóm thực thể hầu hết đang ở trên cung giáng
hạ tiến hoá (involutionary arc)(1)(2), (1) Cung giáng hạ tiến hoá là tên gọi áp
dụng cho phần thứ nhất của diễn tŕnh tiến hoá. Nó bao hàm “đường giáng hạ”
(“path of descent”) hay là sự giáng xuống của Tinh Thần vào trong vật chất bao
giờ cũng trọng trược cho đến khi đạt tới điểm thấp nhất, tức điểm cụ thể trọng
trược nhất. Nửa phần sau của diễn tiến được gọi là thăng thượng tiến hoá và đánh
dấu việc đi lên hay trở lại nguồn cội Tinh Thần của nó, cộng thêm các điều thu
hoạch được trong diễn tŕnh thăng thượng tiến hoá (evolutionary process). (2) Ba
Luồng Phân Thân (“Three Outpourings”) Trong sơ đồ trang 94, “các biểu tượng của
Ba Ngôi (của Thượng Đế) được đặt ở ngoài thời gian và không gian, chỉ có các
ḍng 95
123. Thể dĩ thái và prana 123 (1). (streams) ảnh hưởng từ các biểu tượng đó đi
xuống, vào hệ thống các cơi của chúng ta… Theo đúng qui định chúng tượng trưng
cho những ǵ thường được gọi là Ba Ngôi của Tam Vị Nhất Thể (three Persons of
the Trinity)… Ta nhận thấy rằng mỗi một trong Ba Ngôi là một phân thân của sự
sống hay là thần lực được phóng xuất vào các cơi bên dưới. Luồng thứ nhất theo
thứ tự là đường thẳng (ở giữa – ND) giáng xuống từ Ngôi Ba. Đường thứ hai là
phần ph́nh ra h́nh oval nằm bên trái chúng ta - luồng này giáng xuống từ Ngôi
Hai cho đến khi nó chạm điểm thấp nhất trong vật chất, và bấy giờ đi lên trở lại
(bên phải chúng ta) cho đến khi nó đạt đến phân cảnh hạ trí (chỗ các dấu chấm –
ND). Cần để ư rằng trong cả hai luồng phân thân này, sự sống thiêng liêng trở
nên tối tăm hơn và bị che giấu nhiều hơn khi sự sống đó giáng xuống vật chất,
đến khi ở điểm thấp nhất, chúng ta có thể hầu như không nhận ra nó dưới h́nh
thức sự sống thiêng liêng chút nào. Nhưng khi nó đi lên trở lại, khi nó vượt qua
điểm thấp nhất (nadir) của nó, nó tự hiển lộ một cách rơ ràng hơn ít nhiều.
Luồng phân thân thứ ba đi xuống từ Ngôi cao nhất của Thượng Đế, khác với hai
luồng kia ở chỗ nó không cách nào bị che khuất bởi vật chất khi đang đi xuyên
qua đó, mà vẫn giữ lại sự trinh khiết của nó và vẻ huy hoàng không giảm độ sáng
của nó. Cần nên ghi nhận rằng luồng phân thân này chỉ giáng xuống tới cơi Bồ Đề
(cơi thứ tư) và rằng khoen nối giữa hai luồng đó được tạo thành bằng một tam
giác trong một ṿng tṛn, tiêu biểu cho linh hồn cá biệt của con người - tức
Chân ngă luân hồi. Ở đây tam giác được góp phần bằng luồng phân thân thứ ba và
ṿng tṛn bởi luồng thứ hai… “ The Christian Creed, của C.W. Leadbeater, trang
39, 40. (1 )Xem GLBN I, 98, 99, 100, 103 1. Căn nguyên của sự sống đang ở trong
mỗi giọt của đại dương bất tử. Mỗi nguyên tử trong vật chất đều được thấm nhuần
bằng sự sống của Thượng Đế.
124. 124 2. Đại dương là ánh sáng toả chiếu. Nó chính là
Lửa, Nhiệt, Chuyển động. Cả ba đều là sự sống nội tại đang biểu lộ ra ngoại
cảnh. Lửa : tinh hoa của Thượng Đế Ngôi Một. Lửa điện. Tinh thần. Nhiệt: Lưỡng
nguyên tính (duality). Tinh hoa của Thượng Đế Ngôi Hai. Lửa thái dương. Ngôi
Con. Tâm thức. Chuyển động: tinh hoa của Thượng Đế Ngôi Ba. Lửa do ma sát. Vật
chất. Đại Thiên Địa Thượng Đế Ngôi Một…… Lửa …….Ư muốn linh hoạt hay ư chí hiện
tồn. Điện. Thượng Đế Ngôi Hai…… Nhiệt….. Lưỡng nguyên tính, hay là Bác ái giữa
hai. Thái dương Thượng Đế Ngôi Ba…. Chuyển động.........Lửa của trí tuệ. Liên
quan giữa Lửa do ma sát. Đây là biểu lộ nội tại. Thái dương …………………………………. Ư chí
hay quyền năng Kim tinh Thuỷ tinh (Venus-Mercury) ….. Bác ái và Minh triết Thổ
tinh (Saturn)………………………… Hoạt động hay Thông tuệ. Đây là biểu lộ ngoại cảnh. Tiểu
thiên địa Chân thần……….. Lửa điện………….. Ư chí hay quyền năng. Chân ngă………… Lửa
thái dương….. Bác ái và minh triết Phàm ngă………… Lửa do ma sát…… Hoạt động hay
thông tuệ. Đây là biểu lộ bên trong. Thể hạ trí………… Ư chí hay quyền năng….. Lửa
Thể cảm dục…….. Bác ái - Minh triết ………. Nhiệt Thể xác………….. Hoạt động thông
tuệ…….. Chuyển động Đây là biểu lộ ngoại cảnh Thể xác Năo bộ………… Chân thần…Ư chí
hay quyền năng. Lửa điện. Tim…………… Chân ngă…. Bác ái-Minh triết. Lửa thái dương.
Các cơ quan thấp… Phàm ngă… Hoạt động thông tuệ.
125. Thể dĩ thái và prana 125 Khi bàn về nhóm thứ hai, xác thân con người chuyển
các bức xạ phóng phát đến đẳng cấp thiên thần cao hơn nhiều. Các thiên thần này
có màu sắc rơ rệt hơn, và sau khi đồng hoá thích hợp bức xạ con người, các thiên
thần này truyền nó phần lớn cho giới động vật, như vậy chứng tỏ có sự liên quan
chặt chẽ giữa hai giới. Nếu điều giải thích trên về sự liên quan hỗ tương phức
tạp giữa mặt trời với các hành tinh, giữa các hành tinh với các h́nh hài đang
tiến hoá trên các hành tinh ấy, giữa chính các h́nh hài nơi ư nghĩa quan trọng
là bao giờ cũng đi xuống, không chứng tỏ ǵ hơn là sự tương thuộc tế nhị của mọi
sự sống, lúc bấy giờ nhiều điều sẽ được đạt đến. Một sự kiện khác cũng hiển lộ
ra là sự liên quan chặt chẽ giữa tất cả các tiến hoá này của thiên nhiên, từ
ngôi mặt trời vĩ đại xuống đến cây hoa tím khiêm nhường nhất xuyên qua sự tiến
hoá thiên thần đang tác động như là thần lực chuyển hoá đang truyền khắp cả hệ
thống. Sau rốt, tất cả đều tác động với lửa. Lửa bên trong có sẵn và tiềm tàng;
lửa phát xạ và phóng phát; lửa phát sinh, đồng hoá và bức xạ; lửa đem lại sức
sống, kích thích và phá huỷ; lửa truyền ra, phản chiếu và hấp thụ; lửa, cơ bản
của mọi đời sống; lửa tinh hoa của mọi sự sống; lửa, các phương tiện phát triển
và xung lực đàng sau mọi diễn tŕnh tiến hoá; lửa, kẻ kiến tạo, kẻ bảo tồn và kẻ
xây dựng; lửa, tác nhân sáng tạo, diễn tiến và mục tiêu; lửa, tác nhân thanh lọc
và tác nhân tiêu huỷ. Hoả Thần và lửa của Thượng Đế tác động lẫn nhau, cho đến
khi mọi lửa phối hợp và bùng cháy, và cho đến khi mọi vật hiện tồn được chuyển
ngang qua lửa - từ một Thái dương hệ đến một con kiến – và hiện ra như một sự
hoàn hảo tam phân. Lúc bấy giờ, lửa vượt qua ṿng giới hạn như là tinh 96 97
126. 126 hoa hoàn hảo, dù là tinh hoa xuất phát từ ṿng giới hạn con
người, ṿng giới hạn hành tinh hay ṿng giới hạn thái dương. Bánh xe lửa (hoả
luân) quay tṛn và tất cả những ǵ nằm trong bánh xe đó đều tuỳ thuộc vào ngọn
lửa tam phân và cuối cùng trở nên hoàn hảo. III.. CHỨỨC NĂĂNG CỦỦA THỂ DDĨĨ
THÁI Bây giờ, chúng ta sẽ tiếp tục bàn về thể dĩ
thái và xem xét chức năng của nó, cũng như sự liên quan của nó với thể xác. Sẽ
là khôn ngoan nếu xét chung cả hai với nhau, v́ sự liên quan lẫn nhau chặt chẽ
đến nỗi không thể bàn về chúng một cách riêng rẽ. Đầu tiên, chức năng của thể dĩ
thái gồm có 3: 1. Đó là nơi nhận prana. 2. Đó là nơi đồng hoá prana. 3. Đó là
nơi truyền chuyển prana. 1/ Nơi tiếp nhận prana. V́ lẽ đó, thể dĩ thái có thể
được mô tả như là âm tính hay dễ thu nhận đối với ánh nắng, và như là dương tính
và có tính xua đuổi đối với nhục thân. Chức năng thứ hai - chức năng đồng hoá -
được làm cho cân xứng một cách chặt chẽ hay thuộc về bên trong. Như đă nói ở
trên, prana do mặt trời phóng ra được thể dĩ thái hấp thụ, xuyên qua vài trung
tâm lực phần lớn nằm phía trên cơ thể, từ đó chúng được hướng xuống dưới đến
trung tâm lực gọi là lá lách (bằng chất) dĩ thái, v́ lá lách này là phần tương
ứng (counterpart) trong chất dĩ thái của cơ quan đó. Hiện nay, trung tâm lực
chính để tiếp nhận prana là trung tâm lực giữa các xương vai. Một trung tâm lực
khác đă trở nên yên nghỉ phần nào trong con người qua sự lạm dụng của cái gọi là
văn minh và nằm hơi lệch về phía trên đan điền (mạng lưới thần kinh ở bụng, theo
y học – ND). Trong căn chủng sắp tới và ngày càng nhiều 98
127. Thể dĩ thái và prana 127 trong giống dân này, đó là việc cần đưa hai trung
tâm lực này đến với ánh nắng sẽ thấy rơ là có một cải thiện tương ứng về sinh
lực cho xác thân và khả năng thích ứng của thể xác. Cả ba trung tâm lực này : 1.
Giữa các xương bă vai, 2. Trên cách mô, 3. Và lá lách, hợp thành một tam giác dĩ
thái toả rực (nếu người ta có thể thấy), tam giác này là nguồn thúc đẩy sự lưu
thông sau này của prana khắp toàn bộ hệ thống. Thể dĩ thái thực sự là một mạng
lưới các đường vận chuyển nhỏ, chúng là các bộ phận cấu thành của một sợi dây
mảnh mai bện vào nhau – mà một đoạn của dây này là khoen nối bằng từ điển, nối
liền thể xác và thể cảm dục, nó bị cắt đứt hay gián đoạn sau khi thể dĩ thái rút
ra khỏi nhục thân vào lúc bỏ thể xác. Ngân quang tuyến bị lỏng ra, như Thánh
Kinh diễn tả (Thánh Kinh EC: XI, 6.), và đây là căn bản của truyền thuyết về
người chị em định mệnh cắt đứt tuyến sinh lực bằng cái kéo khủng khiếp. Mạng
lưới dĩ thái được tạo thành bằng sự đan dệt phức tạp của dây mang sinh lực này
(vitalised cord) và ngoại trừ bảy trung tâm lực bên trong mạng lưới (tương ứng
với các trung tâm lực thánh thiện mà trong đó lá lách thường được kể là một) có
hai trung tâm lực được nhắc đến ở trên – cùng với lá lách – chúng hợp thành một
tam giác hoạt động. Lưới dĩ thái của Thái dương hệ có bản chất tương đồng và
cũng có ba trung tâm để tiếp nhận prana vũ trụ. Dải băng bí mật trên trời mà
chúng ta gọi là Dải Ngân Hà (GLBN I, 250) có liên quan chặt chẽ với prana vũ
trụ hay là sức sống vũ trụ (cosmic vitality) hay sự bảo dưỡng đem lại sinh lực
cho hệ thống dĩ thái của mặt trời. 99
128. 128 2/ Nơi đồng hoá prana. Diễn biến đồng hoá được xúc
tiến trên tam giác này và prana đi vào bất cứ trung tâm lực nào, chạy ṿng ba
lần xung quanh tam giác trước khi được truyền đến mọi phần của thể dĩ thái và từ
đó đến nhục thân. Cơ quan chính của sự đồng hoá là lá lách – trung tâm lực dĩ
thái và cơ quan xác thịt. Bản thể sự sống (vital essence) từ mặt trời được
truyền vào lá lách bằng chất dĩ thái và ở đó, nó chịu một tiến tŕnh làm mạnh
thêm hay làm giảm sinh lực tuỳ theo t́nh trạng mạnh khoẻ hay không của cơ quan
đó. Nếu con người ở t́nh trạng khoẻ mạnh, bức xạ nhận được sẽ được tăng gia bằng
chính rung động cá nhân của y và tốc độ rung động sẽ được khích động trước khi
nó được chuyển vào lá lách xác thân hoặc là nó sẽ bị tŕ chậm lại và giảm thấp
nếu con người ở trong t́nh trạng sức khoẻ yếu kém. Ba trung tâm lực này có h́nh
dạng như tất cả các trung tâm lực khác, đó là h́nh dĩa trũng xuống, hơi giống
h́nh các xoáy nước nhỏ thu hút vào trong phạm vi ảnh hưởng của chúng các ḍng
prana đang tiến tới. Các trung tâm lực này nên được mô tả như các xoáy cuốn tṛn
với vận hà tam phân đan lại, chạy từ trung tâm này đến trung tâm khác và tạo
thành một hệ thống tuần hoàn hầu như riêng biệt. Hệ thống này có điểm phát xuất
của nó cho toàn bộ hệ thống ở mặt bên kia của lá lách so với phía mà prana nhập
vào. Lưu chất sinh lực lưu chuyển qua và giữa ba trung tâm lực này ba lần, trước
khi nó được chuyển ra tới ngoại biên của hệ thống bé nhỏ của nó. Sự lưu chuyển
cuối cùng này mang prana xuyên qua các vận hà mảnh mai đan bện vào nhau, đến mọi
bộ phận của cơ thể, có thể nói là chúng trở nên hoàn toàn thấm nhuần bởi các bức
xạ này. Cuối cùng các bức 100
129. Thể dĩ thái và prana 129 xạ này t́m đường thoát ra khỏi hệ thống dĩ thái
bằng các bức xạ bề mặt. Tinh chất prana thoát ra khỏi chu vi của ṿng giới hạn
tạm thời của nó dưới h́nh thức prana phóng phát của con người, vốn là cùng loại
prana đă nhận được trước kia, cộng thêm với tính chất đặc thù mà bất cứ một cá
nhân nào cũng có thể truyền thụ cho nó trong khi có sự lưu chuyển tạm thời. Tinh
chất thoát ra, cộng với tính chất cá nhân. Nơi đây, người ta có thể thấy sự
tương ứng đối với sự thoát ra khỏi của mọi tinh chất từ bên trong bất cứ ṿng
giới hạn nào khi chu kỳ được hoàn tất. Vấn đề thể dĩ thái là một vấn đề rất thực
tiễn lư thú, và khi tầm quan trọng của nó được nhận thức rơ ràng hơn, con người
sẽ dự vào việc phân phối prana trong cơ thể với sự chú ư chặt chẽ hơn và sẽ thấy
rằng sự tiếp sinh lực của cơ thể qua ba trung tâm lực sẽ tiến hành thông suốt
hơn. Tất nhiên, vấn đề đă được vận dụng một cách hời hợt và chỉ có những nét
chính và các ẩn ngôn ở rải rác mới có thể được đưa ra. Tuy nhiên, nếu điều giảng
dạy này được khảo cứu cẩn thận nó sẽ đưa đến sự hiểu biết chân lư mà phẩm chất
và nội dung của nó sẽ tỏ ra vô giá và thuộc một loại mà từ trước đến nay chưa
được nêu ra. Vị trí của thể dĩ thái như là chỗ phân chia hay ṿng giới hạn và
chức năng của nó với cương vị là nơi thu nhận và phân phát prana được bàn đến ở
đây theo một nghĩa rộng hơn cho đến nay, và đề tài có thể được bàn rộng ra sau
này. Hai chân lư căn bản nổi bật lên từ tập hợp các sự kiện được bàn qua ở đây :
Thứ nhất. Cơi phụ dĩ thái thứ tư của cơi trần có liên hệ trực tiếp đến: a. Con
người, tức Tiểu thiên địa. 101
130. 130 b. Hành Tinh Thượng Đế. c. Thái Dương Thượng Đế.
Thứ hai. Trong dăy thứ tư và cuộc tuần hoàn thứ tư, chất dĩ thái thứ tư đang bắt
đầu được nghiên cứu và -được xem như một mạng lưới riêng biệt - thỉnh thoảng nó
để cho tách ra (exit) đối với của những kẻ có tần số rung động thích hợp. 3. Nơi
truyền đạt prana. Chúng ta chỉ đề cập đến một ít về vấn đề lửa, mục đích của thể
dĩ thái là vận chuyển và phân phối lửa đến khắp các phần của hệ thống của nó.
Chúng ta đă nghiền ngẫm các sự kiện vốn có thể kích thích sự quan tâm và nhấn
mạnh vào sự hữu ích của thể chứa prana này. Một số sự kiện cần nhấn mạnh và xem
xét khi chúng ta khảo sát ṿng tĩnh tại này (static ring) và các lửa luân chuyển
của nó. Tôi xin tóm gọn với mục đích làm sáng tỏ : Thái dương hệ nhận prana từ
các nguồn vũ trụ xuyên qua ba trung tâm lực và tái phân phối nó đến tất cả các
phần thuộc về ảnh hưởng mở rộng của nó, hay là đến các biên giới của mạng lưới
dĩ thái thái dương. Prana vũ trụ này trở nên đổi màu do tính chất mặt trời và
tiến đến ranh giới xa nhất của Thái dương hệ. Nhiệm vụ của nó có thể được mô tả
như là đem lại sinh khí (vitalisation) cho hiện thể vốn là biểu lộ vật chất hồng
trần của Thái Dương Thượng Đế. Hành tinh nhận prana từ trung tâm thái dương và
tái phân phối prana đó xuyên qua ba trung tâm tiếp nhận đi đến tất cả các phần
thuộc phạm vi ảnh hưởng của nó. Prana thái dương này trở nên đổi màu do tính
chất hành tinh và được hấp thụ bởi mọi cuộc tiến hoá trong ṿng giới hạn hành
tinh. Nhiệm vụ của nó có thể được mô tả như là đem sinh khí cho
131. Thể dĩ thái và prana 131 hiện thể, vốn là biểu lộ vật chất hồng trần của
một trong bảy Hành Tinh Thượng Đế. Tiểu thiên địa nhận prana từ thái dương sau
khi prana đó đă thấm nhuần thể dĩ thái hành tinh, cho nên đó là prana thái dương
thêm vào với tính chất hành tinh. Mỗi hành tinh là biểu hiện (embodiment) của
một trạng thái cung nào đó và tính chất của hành tinh đó được ghi nhận rơ rệt
hơn trên mọi tiến hoá của nó. Do đó, prana chính là nhiệt bức xạ linh hoạt, thay
đổi mức rung động và tính chất của nó tuỳ theo Đấng Cao Cả thu nhận. Con người,
để cho prana đi qua thể dĩ thái của ḿnh, tô màu nó bằng tính chất đặc thù của
ḿnh và như thế truyền nó lại cho những sinh linh kém cỏi hơn đang hợp thành hệ
thống nhỏ của con người. Thế nên, tác động hỗ tương lớn lao tiếp tục và tất cả
các phần đều phối hợp, trộn lẫn, tuỳ thuộc lẫn nhau; và tất cả các phần thu
nhận, tô màu, định phẩm chất và truyền đi. Một sự lưu chuyển không ngừng tiếp
tục vốn không có khởi đầu có thể hiểu được, mà cũng không có kết thúc có thể có
được theo quan điểm của con người hữu hạn, v́ thuỷ và chung của nó đều ẩn giấu
trong cội nguồn vũ trụ không thể hiểu được. Nếu ở khắp nơi, các điều kiện đều
hoàn hảo, th́ sự lưu chuyển này sẽ diễn tiến không bị cản trở và có thể đưa đến
một t́nh trạng hầu như kéo dài vô tận, nhưng giới hạn và sự kết thúc xảy ra dưới
h́nh thức các hậu quả của sự không hoàn thiện sẽ nhường chỗ cho một sự hoàn
thiện dần dần. Mọi chu kỳ đều khởi đầu từ một chu kỳ khác với một sự tương đối
đầy đủ hơn, và bao giờ cũng sẽ nhường chỗ cho một ṿng xoắn ốc cao hơn; như vậy
đưa tới các giai đoạn tương đối hoàn hảo bên ngoài, dẫn đến những ǵ c̣n vĩ đại
hơn nữa. 102
132. 132 Như chúng ta biết, mục đích đối với chu kỳ lớn lao
này là phối hợp hai lửa vật chất, tiềm tàng và hoạt động, và sự phối hợp của
chúng với lửa trí tuệ và tinh thần cho đến khi chúng ch́m đắm trong ngọn lửa đại
đồng (general flame); lửa trí tuệ và tinh thần thiêu rụi vật chất và do đó đem
lại sự giải thoát cho hiện thể đang bị giam hăm. Thánh đường của Địa cầu là nơi
phát sinh của tinh thần, là kẻ giải phóng nó ra khỏi từ mẫu (vật chất), và là
lối tiến nhập của nó vào các lănh vực cao hơn. Do đó, khi thể sinh lực hoạt động
một cách hoàn hảo trong cả ba nhóm, nhân loại, hành tinh và thái dương, th́ sự
kết hợp với tiềm hoả sẽ được thành toàn. Nơi đây tàng ẩn lư do về tầm quan trọng
được đặt vào sự thiết yếu đó là kiến tạo các hiện thể vật chất đă được tinh
luyện và làm cho trong sạch. H́nh hài càng được tinh luyện và cải thiện bao
nhiêu, th́ sự tiếp nhận prana sẽ càng hoàn hảo và càng ít có sự đề kháng lúc hoả
xà đi lên vào thời điểm ấn định. Vật chất thô trược và các thể hồng trần c̣n non
nớt là cái phiền toái đối với nhà huyền linh học và không có một nhà có nhăn
thông chân chính nào mà có cơ thể đầy những tính chất thô trược. Các nguy hiểm
của t́nh trạng rối loạn th́ quá to tát và sự đe doạ bị tan ră bởi lửa th́ quá
khủng khiếp. Đă có lần trong lịch sử nhân loại (vào thời Lemuria) t́nh trạng này
được thấy trong việc huỷ diệt nhân loại và lục địa bằng lửa (1). Các vị Lănh Đạo
nhân loại vào thời ấy, chính các Ngài đă lợi dụng đúng sự việc đó để đưa đến
việc chấm dứt một h́nh 1 Trong GLBN I, trang 437, phần cước chú, sự huỷ diệt
châu Lemuria bằng lửa được nhắc đến, và trong GLBN
I, trang 149, phần cước chú
có các từ: “Châu Lemuria không bị nhận ch́m, mà là bị huỷ diệt do tác động của
hoả sơn và sau đó đă ch́m xuống”. 103
133. Thể dĩ thái và prana 133 hài không thích hợp. Tiềm hoả của vật chất (ví dụ
như ta thấy trong sự phun trào của hoả sơn), và lửa phát xạ của Thái dương hệ
được phối hợp. Hoả xà hành tinh và bức xạ thái dương ồ ạt kết hợp nhau và công
tŕnh huỷ diệt được hoàn tất. Cùng sự việc ấy có thể được thấy trở lại, chỉ ở
trong chất liệu của chất dĩ thái thứ nh́, và các hiệu quả do đó sẽ bớt trầm
trọng do việc hiếm có chất dĩ thái này và sự tinh lọc tương đối nhiều của các
hiện thể. Nơi đây, chúng ta nên chú ư một sự kiện đáng quan tâm, mặc dù cho đến
nay là một vấn đề bí hiểm không giải quyết được đối với đa số chúng ta, đó là
các sự huỷ diệt bởi lửa này là một phần của các thử thách bằng lửa của một cuộc
điểm đạo của một trong các Hành Tinh Thượng Đế mà nghiệp quả các Ngài gắn bó với
địa cầu chúng ta. Mỗi sự huỷ diệt một phần của mạng lưới đưa đến kết quả là tạo
ra một năng lực lớn hơn để đào thoát và trong thực tế (khi nh́n từ các cơi cao
hơn) là một bước tiến tới và là một sự bành trướng. Việc lặp lại điều này cũng
xảy ra trong thái dương hệ vào các chu kỳ đă định. 4. Các rối loạn của thể dĩ
thái. Bây giờ chúng ta sẽ khảo sát thể dĩ thái cùng các bệnh hoạn của nó cũng
như là t́nh trạng sau khi chết của nó. Vấn đề này chỉ có thể được đề cập đến một
cách vắn tắt. Tất cả những ǵ hiện giờ có thể được nêu ra là một ư tưởng tổng
quát về những ốm đau căn bản mà thể dĩ thái có thể phải chịu và khuynh hướng mà
y học ứng dụng có thể chọn sau này khi các định luật huyền linh được hiểu rơ
hơn. Một sự việc cần phải được nêu ra ở đây – sự kiện mà ít kẻ hiểu rơ. Đây là
sự kiện có ư nghĩa: các bệnh tật của thể dĩ thái, trong trường hợp tiểu thiên
địa, cũng giống như là trong đại thiên 104
134. 134 địa. Nơi đây tàng ẩn sự hiểu biết vốn thường dùng
để giải thích những thống khổ bề ngoài của thiên nhiên. Một số trong các tệ hại
lớn trên thế gian có nguồn gốc trong các ốm đau ở thể dĩ thái, khi mở rộng các ư
tưởng về chất dĩ thái tới các điều kiện của hành tinh và ngay cả tới thái dương.
Khi chúng ta đề cập đến nguyên nhân của các khổ đau ở thể dĩ thái trong con
người, các tương đồng và các phản ứng thuộc hành tinh và thái dương có lẽ nên
được hiểu rơ. Chúng ta cần ghi nhớ cẩn thận rằng khi khảo cứu về chất dĩ thái
này, đó là tất cả các bệnh tật của thể dĩ thái liên quan với ba mục đích của nó
và hoặc là: a. Thuộc chức năng (functional) và do đó ảnh hưởng đến sự nắm bắt
prana của nó, b. Về cơ quan (organic) do đó ảnh hưởng đến sự phân phối prana của
nó, c. Về tĩnh tại (static) do đó ảnh hưởng đến mạng lưới, khi chỉ nh́n từ giác
độ cung cấp một ṿng giới hạn bằng chất hồng trần và tác động như là vật tách
biệt giữa thể xác với thể cảm dục. Ba nhóm chức năng hay mục đích khác nhau này,
mỗi nhóm đều có lợi ích tối thượng đưa tới các kết quả hoàn toàn khác nhau và
tác động theo cách khác nhau cả bên ngoài lẫn bên trong. Xét theo quan điểm hành
tinh cùng các điều kiện sẽ được nhận thức và thể dĩ thái hành tinh (về căn bản
chính là hiện thể trong trường hợp các hành tinh thánh thiện, trong số đó địa
cầu không phải là một), sẽ có các rối loạn về chức năng của nó mà rối loạn này
sẽ có ảnh hưởng đến việc tiếp nhận prana của nó, sẽ hứng chịu các rối loạn về cơ
cấu vốn có thể tác động đến sự phân phối của nó và các sự rối loạn này vốn 105
135. Thể dĩ thái và prana 135 tạo ra các rối rắm trong mạng lưới dĩ thái, nó tạo
thành ṿng giới hạn cho Hành Tinh Thượng Đế liên hệ. Nơi đây tôi muốn nói rơ
rằng trong trường hợp các Hành Tinh Thượng Đế đang ở trên ṿng cung tiến hoá
thiêng liêng, các Hành Tinh Thượng Đế mà cơ thể các Ngài là các hành tinh, mạng
lưới dĩ thái không tạo thành chướng ngại, nhưng (giống như các Nghiệp Quả Tinh
Quân trên một cơi cao hơn) các Ngài có tự do hành động ngoài các giới hạn của
mạng lưới hành tinh trong chu vi của ṿng giới hạn thái dương (1). Lại nữa, về
phương diện Thái dương hệ, cùng các hiệu quả này có thể quan sát được, về mặt
chức năng, lần này có liên hệ với trung tâm vũ trụ; về mặt cơ cấu, v́ có liên
quan đến toàn bộ các hệ thống hành tinh, c̣n về mặt tĩnh tại, v́ có liên hệ đến
ṿng giới hạn thái dương hay ṿng giới hạn Thượng Đế. Bây giờ, với mục đích làm
sáng tỏ, chúng ta có thể chọn ba nhóm này một cách riêng rẽ và đề cập đến chúng
một cách vắn tắt và bóng bẩy (v́ sẽ không nói nhiều hơn được) đến các phương
pháp điều trị và hiệu chỉnh. a. Các rối loạn về chức năng tiểu thiên địa. Các
rối loạn này có liên quan với sự tiếp nhận các lưu chất prana của con người,
xuyên qua các trung tâm lực cần thiết. Chúng ta phải 1 Planetary Spirit là tên
gọi khác dành để chỉ Thượng Đế của hành tinh chúng ta, một trong “Bảy Tinh Quân
trước Thánh Toà” và do đó là một trong bảy Hành Tinh Thượng Đế. Ngài đang ở trên
ṿng cung thăng thượng tiến hoá (evolutionary arc) của vũ trụ và đă vượt xa nhân
loại. Thực Thể Hành Tinh (The planetary Entity) đang ở trên ṿng cung giáng hạ
tiến hoá và là một Chân Linh có đẳng cấp rất thấp. Ngài là toàn bộ mọi sự sống
hành khí của hành tinh. 106
136. 136 luôn luôn ghi nhớ và như thế giữ sự phân biệt rơ
ràng rằng các bức xạ prana này có liên quan với tiềm nhiệt trong vật chất; khi
được tiếp nhận và vận hành xuyên qua thể dĩ thái một cách chính xác, chúng hợp
tác với hơi ấm tiềm tàng tự nhiên trong cơ thể, và (phối hợp thêm vào) giữ cho
cơ thể ở trong t́nh trạng đầy sinh lực, áp đặt lên trên vật chất của cơ thể một
mức độ rung động nào đó, để đưa đến hoạt động cần thiết của thể xác và vận hành
đúng các cơ quan của thể xác đó. Do đó, rơ ràng là ngay từ đầu, sức khoẻ xác
thân được giấu kín trong việc tiếp nhận đúng prana, và một trong các thay đổi cơ
bản phải được thực hiện trong cuộc sống của con người (chính là trạng thái mà
hiện giờ chúng ta đang bàn đến) sẽ là ở trong các điều kiện sinh hoạt thông
thường. Ba trung tâm lực căn bản mà nhờ đó sự tiếp nhận xảy ra phải được phép
vận hành một cách tự do hơn và ít hạn chế hơn. Hiện giờ do bởi nhiều thế kỷ sống
sai lầm và do các lầm lẫn căn bản (xuất phát từ thời Lemuria), ba bí huyệt nhận
prana của con người không hoạt động hữu hiệu theo thứ tự. Trung tâm lực ở bả vai
đang ở t́nh trạng tiếp nhận hữu hiệu nhất, dù do bởi t́nh trạng kém cỏi của cột
xương sống (trong rất nhiều người nó không được chỉnh hợp chính xác) vị trí của
nó ở sau lưng thường không nằm đúng chỗ. Trung tâm lực lá lách ở gần cách mô có
kích thước dưới b́nh thường và rung động của nó không chính xác. Trong trường
hợp các thổ dân ở các địa phương như vùng Nam Hải, họ có thể dĩ thái ở t́nh
trạng hoàn hảo hơn; cách sống của họ được b́nh thường hơn bất cứ nơi nào khác
trên thế giới (theo quan điểm linh động). Nhân loại phải chịu một vài sự thiếu
năng lực có thể được mô tả như sau:
137. Thể dĩ thái và prana 137 Thứ nhất: Không thể thu nhận luồng prana, do biết
bao nhiêu người sống không lành mạnh. Điều này liên quan tới việc cắt đứt nguồn
cung cấp và hậu quả là các trung tâm lực tiếp nhận bị suy nhược và co rút lại.
Điều này được nhận thấy ở h́nh thức thái quá nơi trẻ con ở các khu chật chội,
của bất cứ thành phố lớn nào, và ở những cư dân bị kém sức khoẻ v́ thiếu máu,
sống ở các khu “nhà ổ chuột”. Cách chữa trị thuộc về bên ngoài, đó là đem lại
các điều kiện sống tốt đẹp hơn, mặc quần áo thích hợp hơn cũng như chấp nhận và
theo một cách sống tốt lành và phóng khoáng hơn. Khi các tia prana có thể thong
thả đi tới vai và cách mô, th́ t́nh trạng kém b́nh thường của lá lách của người
thường, sẽ tự động được điều chỉnh. Thứ hai. Quá khả năng tiếp nhận các luồng
sinh khí. Kiểu mẫu đầu tiên của sự hỗn loạn chức năng rất thông thường và phổ
quát. Mặt trái của nó có thể được nhận thấy nơi mà các điều kiện sống làm cho
các trung tâm lực (qua việc hứng chịu bức xạ mặt trời quá trực tiếp và kéo dài)
trở nên quá mức chịu đựng, rung động quá nhanh và tiếp nhận prana quá nhiều.
Điều này hiếm khi xảy ra, nhưng lại có ở một số nước nhiệt đới và bị qui cho là
đưa tới t́nh trạng suy nhược mà dân chúng trong các xứ này phải hứng chịu. Thể
dĩ thái tiếp nhận prana hay tia nắng quá nhanh, chuyển prana đi qua và ra ngoài
hệ thống một cách quá mạnh. Điều này làm cho nạn nhân lâm vào t́nh trạng ù ĺ
(inertia) và mất sinh lực. Nói cách khác thể dĩ thái trở nên lười biếng, giống
như một mạng lưới chùng xuống hay là (dùng một h́nh ảnh rất mộc mạc) nó giống
như cái vợt đánh quần vợt đă quá dăn và đă mất tính đàn hồi. Tam giác nội truyền
các bức xạ prana quá nhanh chóng, không có đủ th́ giờ để hấp thụ thêm và do đó
toàn hệ 107
138. 138 thống bị mất mát. Sau nữa, cần nhận ra rằng nhiều
bệnh mà người Âu Châu sống ở Ấn Độ, ngay từ đầu đă hứng chịu, phát sinh theo
cách này; và do đó bằng việc chú trọng tới lá lách và bằng việc kiểm soát khôn
ngoan các điều kiện sinh sống, một số phiền toái có thể tránh được. Khi đề cập
đến các điều kiện tương tự trong hành tinh, cả hai loại phiền toái này có thể
xảy ra. C̣n nhiều điều nữa không thể nói hết được, nhưng khi khảo sát một cách
khéo léo bức xạ thái dương trên bề mặt hành tinh liên quan đến chuyển động quay
của nó, một số qui luật về sức khoẻ tập thể có thể được lĩnh hội và tuân theo.
Chơn linh của hành tinh (hay thực thể hành tinh – xem định nghĩa chữ này ở cước
chú trang 105) cũng có các chu kỳ của Ngài và trong việc hấp thụ prana hành tinh
cùng việc phân phối đúng prana đó, có tàng ẩn bí nhiệm về sự ph́ nhiêu và thực
vật miền ôn đới. Nhiều điều trong sự việc này c̣n ẩn giấu trong những huyền
thoại về cuộc chiến giữa lửa và nước, vốn có cơ sở của nó trong phản ứng của
tiềm hoả trong vật chất với lửa toả ra bên ngoài của vật chất và tác động lên
vật chất. Trong thời khoảng trôi qua trong khi cả hai đang ở trong diễn tŕnh
phối hợp, có xảy đến các giai đoạn mà do sự kế thừa về nghiệp quả, việc tiếp
nhận không ổn định và việc phân phối không điều hoà. Khi mức cân bằng của nhân
loại được đạt đến, sự cân bằng hành tinh cũng sẽ đạt đến và trong thành tựu của
hành tinh, sẽ xuất hiện sự cân bằng phải xảy ra giữa các hành tinh của thái
dương. Khi chúng đạt đến sự cân bằng hỗ tương và tác dụng hỗ tương, lúc bấy giờ
Thái dương hệ được ổn định và sự hoàn hảo được đạt đến. Sự phân phối đồng đều
prana sẽ diễn ra song đôi với sự thăng bằng này trong con người, trong giống
dân, trong hành tinh và trong Thái dương hệ. Đây chỉ 108
139. Thể dĩ thái và prana 139 là một cách khác để nói rằng sự rung động đồng
nhất sẽ được đạt đến. b. Sự xáo trộn về cơ cấu của tiểu thiên địa. Có hai xáo
trộn căn bản. -Xáo trộn do sự tắt nghẽn. -Sự huỷ hoại mô do bởi việc quá hấp thụ
prana, hay là sự phối hợp quá nhanh của prana với lửa vật chất tiềm tàng. Chúng
ta có một h́nh ảnh lư thú của cả hai h́nh thức xáo trộn này ở việc trúng nắng
(sun stroke) và trúng nhiệt (heat stroke). Mặc cho giả thiết mà các y sĩ đă
hiểu, thật ra tất cả các hiện tượng này chỉ là các xáo trộn dĩ thái (etheric
disorders). Khi bản chất của thể dĩ thái được hiểu rơ hơn và sự thận trọng khôn
ngoan đối với thể đó được tuân theo, cả hai loại xáo trộn này sẽ ngừa trước
được. Chúng do bởi bức xạ prana của thái dương; trong một trường hợp, hậu quả
của bức xạ này là gây ra cái chết hoặc bệnh nặng do sự tắt nghẽn của một vận hà
dĩ thái, trong khi đó, ở trường hợp khác cùng một kết quả xảy ra do sự phá huỷ
chất dĩ thái. Minh hoạ nêu trên được dùng với mục đích rơ rệt, nhưng cần nêu ra
rằng sự tắt nghẽn dĩ thái có thể đưa đến nhiều h́nh thức bệnh tật và kém khả
năng trí tuệ. Sự tắt nghẽn dĩ thái đưa đến việc mạng lưới bị dày lên một cách
bất thường, và việc dày lên này có thể cản trở chẳng hạn việc tiếp xúc với
Thượng ngă hay các nguyên khí cao, dẫn đến hậu quả là đần độn và mất quân b́nh
trí tuệ. Nó có thể đưa đến việc phát triển da thịt một cách bất thường, việc trở
nên dày của một số cơ quan nội tại, và do đó áp suất tăng quá mức; một phần của
thể dĩ thái bị tắt nghẽn có thể đưa đến t́nh trạng toàn bộ thể xác bị đảo lộn,
hậu quả là sinh ra nhiều bệnh khác nhau. 109
140. 140 Sự huỷ hoại mô có thể dẫn đến nhiều loại điên
cuồng, nhất là những loại bị coi là không thể chữa được. Việc đốt cháy mạng lưới
có thể để cho nhiều luồng cảm dục bên ngoài đi vào mà con người không chống lại
được; mô năo, theo sát nghĩa có thể bị huỷ hoại bởi áp lực này và sự rối loạn
trầm trọng có thể xảy ra do ṿng giới hạn dĩ thái đă bị huỷ hoại ở một chỗ nào
đó. Một t́nh trạng về các sự việc tương tự như thế có thể được thấy có liên hệ
tới hành tinh. Sau này, chi tiết có thể được đưa ra, điều mà hiện nay c̣n được
che giấu; việc đó cho thấy rằng toàn thể nhân loại sẽ bị ảnh hưởng và một vài
giới trong thiên nhiên bị rối loạn do việc tắt nghẽn dĩ thái hay là sự tiêu huỷ
mô dĩ thái hành tinh. Chúng ta đă bàn đến các bệnh liên quan đến chức năng và
cấu tạo của thể dĩ thái, nêu ra một số chỉ dẫn để mở rộng quan niệm đến các lănh
vực khác hơn là lănh vực thuần tuư nhân loại. Ch́a khoá nằm trong giới nhân
loại, nhưng xoay ch́a khoá đó để mở cánh cửa hầu có được hiểu biết rộng răi hơn
về các bí nhiệm của thiên nhiên. Dù ch́a khoá đó phải được xoay bảy lần, tuy
nhiên, chỉ một lần thôi cũng đủ tiết lộ các con đường chưa được nói đến về sự
hiểu biết tối hậu (1), (1) Ch́a khoá Giáo Lư Bí Nhiệm (The keys to the Secret
Doctrine), của bà H.P.Blavatsky. Xem GLBN I, 343, I, 551. 1. Mọi biểu tượng
(symbol) và ẩn từ (aLegory) đều có bảy ch́a khoá. GLBN
I, 567, II, 3. 2. Chỉ
có ba ch́a khoá hữu dụng trong thế kỷ XIX. GLBN I, 543, đối chiếu với
I, 617,
842. 3. Có bảy ch́a khoá dẫn đến cửa vào các Bí Nhiệm. GLBN
II, 178. So với I,
346, I, 330, I 668, I, 731. 4. Các ch́a khoá như bà Blavatsky đề cập đến là :
141. Thể dĩ thái và prana 141 (1). Chúng ta đă xem xét về sự tiếp nhận và phân
phối bức xạ prana trong con người, trong hành tinh và trong Thái dương hệ và đă
thấy được những ǵ gây ra sự rối loạn tạm thời và sự mất sinh lực hay quá đầy
sinh lực (over-vitalisation) của các a. Về tâm lư học (Psychological). GLBN
I,
25, chú thích I, 389. b. Về thiên văn học (Astronomical). GLBN
I, 25, chú
thích. c. Về vật lư hay sinh lư học. GLBN I, 25, chú thích; II, 198. d. Về
siêu h́nh học (Metaphysical) GLBN I, 25 chú thích e. Về nhân chủng học . GLBN
I, 389, II, 198 f. Về chiêm tinh học (Astrological). GLBN I , 343 g. Về h́nh
học (Geometrical). GLBN I, 494, II, 176 h. Về huyền học (Mystical). GLBN I,
401 I. Về biểu tượng học (Symbolical), GLBN I, 561 j. Về số học (Numerical).
GLBN I, 198 5. Mỗi ch́a khoá phải được xoay bảy lần, GLBN I, 22 6. Chính người
Do Thái đă lợi dụng được hai trong số bảy ch́a khoá. 7. Ch́a khoá siêu h́nh học
có thể hữu dụng. GLBN I, 338. Đối chiếu với
II, 198. (1) “Bảy ch́a khoá mở ra
các bí nhiệm, quá khứ và tương lai, của bảy căn chủng lớn và của bảy thiên kiếp
(kalpas)”. Mọi sách vở huyền linh học, biểu tượng và hoán dụ (aLegory) có thể
phải được diễn giải theo bảy lối. Có ba ổ khoá phải được mở. Bảy ch́a khoá. Mỗi
quyển sách có thể được đọc theo lối ngoại môn (exotoricaLy), theo chủ quan
(subjectively) và theo phương diện tinh thần. Mọi ch́a khoá đều chưa khả dụng.
(Xem GLBN I, 330, 343). Có ch́a khoá sinh lư học, tâm lư học, chiêm tinh học và
ch́a khoá siêu h́nh học. Ch́a khoá thứ năm là h́nh học. 110
142. 142 h́nh thể cơ quan. Bấy giờ chúng ta có thể xem xét
vấn đề ở khía cạnh thứ ba và do đó khảo sát: c. Các rối loạn về tĩnh tại của
tiểu thiên địa, hay là việc xem xét thể dĩ thái liên quan với việc cung ứng một
ṿng giới hạn từ chất hồng trần thuần tuư đến chất đẩu tinh. Như đă nói trong cả
sách này lẫn trong các sách của H.P.B. ṿng giới hạn (1) là bức tường hạn chế
vốn tác động như một tác nhân cách biệt hay một sự phân chia giữa một hệ thống
và những ǵ ở ngoài hệ thống đó. Điều này, như được thấy ở trên, có sự liên quan
thú vị khi chủ đề được xem xét đến (khi chúng ta phải nỗ lực một cách bền bĩ để
xem xét nó) theo quan điểm của một con người, một hành tinh và một hệ thống,
luôn luôn nhớ rằng những ǵ mà chúng ta đang bàn đến về thể dĩ thái đều có liên
quan đến vật chất hồng trần. Điều này phải được thận trọng ghi nhớ. Do đó, một
yếu tố tối thượng sẽ được t́m thấy trong mọi nhóm và mọi cơ cấu, và đây là sự
kiện mà ṿng giới hạn tác động chỉ như là một chướng ngại vật đối với những
thành đạt nho nhỏ trong sự tiến hoá, nhưng không tạo thành chướng ngại đối với
các tiến bộ lớn hơn. Toàn thể vấn đề tuỳ thuộc vào hai sự việc, đó là nghiệp quả
của con người, Hành Tinh Thượng Đế, và Thái Dương Thượng Đế, 1 “Ṿng giới hạn”
(“ring-pass-not”). Chu vi của phạm vi ảnh hưởng của bất cứ trung tâm nào của sự
sống tích cực. Chu vi này bao hàm khối cầu lửa của công tác từ điển, của quả cầu
thái dương, được xem như là thể biểu lộ của một Thái Dương Thượng Đế và bao gồm
cả toàn thể thái dương hệ. Thuật ngữ này cũng được dùng cho phạm vi hoạt động
của một Hành Tinh Thượng Đế hay cho một hệ thống hành tinh và cũng có thể áp
dụng đối với phạm vi hoạt động của Chân ngă nhân loại. GLBN I, 346 111
143. Thể dĩ thái và prana 143 cùng là sự ưu thắng (dominance) của thực thể tinh
thần nội tại trên hiện thể của nó. IV.. CHẤẤT DDĨĨ THÁI CỦỦA
ĐẠI VÀ TIỂU THIÊÊN ĐỊỊA 1. Hành Tinh Thượng Đế và các Dĩ thái. Con
người, chủ thể tư tưởng nội tâm, vào ban đêm, vượt qua ṿng giới hạn bằng chất
dĩ thái của ḿnh và hoạt động ở một nơi khác. Do đó, theo định luật, Hành Tinh
Thượng Đế cũng có thể vượt qua ṿng giới hạn của Ngài vào các mùa đă ấn định,
các mùa này tương ứng trong hành tinh với các giờ nghỉ ngơi tạm thời của con
người hay là pralaya. Thái Dương Thượng Đế cũng hành động giống như thế trong
các chu kỳ ấn định, vốn không phải là các chu kỳ nối tiếp các chu kỳ, mà chúng
ta gọi là chu kỳ qui nguyên thái dương, mà là những chu kỳ nhỏ hơn nối tiếp
“ngày của Brahma” hay các giai đoạn hoạt động ngắn hơn xét về mặt chu kỳ. Tất cả
các điều này đều do nghiệp quả chế ngự và cũng như chính chân nhân áp dụng luật
nghiệp quả đối với hiện thể của ḿnh, và trong hệ thống bé nhỏ của ḿnh là sự
tương ứng đối với nhóm thực thể nghiệp quả thứ tư mà chúng ta gọi là Nghiệp Quả
Tinh Quân; Ngài áp dụng định luật đối với phàm ngă tam phân của Ngài. Nhóm Thực
Thể Thông Linh ngoại vũ trụ thứ tư mà vị trí các Ngài là phụ trợ ba vị Vũ Trụ
Thượng Đế, các vị Thượng Đế này là toàn bộ tam phân của bản thể Thượng Đế, có
thể vượt qua các giới hạn của ṿng giới hạn thái dương trong các chu kỳ đă được
ấn định của các Ngài. Đây là một bí nhiệm sâu xa và tính chất phức tạp của nó
càng gia tăng do việc nhớ lại rằng Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư của Chân Thần nhân
loại và các Nghiệp Quả Tinh Quân trong ba nhóm của các Ngài (nhóm thứ nhất, thứ
nh́ và bốn vị Maharajahs, hợp thành toàn thể các đấng 112
144. 144 cai quản nghiệp quả tam phân, (các Ngài đang đứng
giữa Thái Dương Thượng Đế và bảy vị Hành Tinh Thượng Đế), đang kết hợp chặt chẽ
hơn với các Huyền Giai khác và vận mệnh của các Ngài được gắn bó mật thiết với
nhau. Thêm một mắt xích trong sợi xích này được đưa ra để xem xét, đó là sự kiện
bốn cung trí tuệ (vốn có liên hệ tới nghiệp quả của bốn vị Hành Tinh Thượng Đế)
trong toàn thể, cai quản diễn tŕnh tiến hoá hiện tại của các Ngài đối với con
người, xét con người như là Chủ Thể Tư Tưởng. Bốn Đấng này cùng với bốn Nghiệp
Quả Tinh Quân, làm việc trong sự hợp tác chặt chẽ nhất. Do đó, chúng ta có các
nhóm tương tác sau: Thứ nhất. Bốn vị Maharajahs tức là các Nghiệp Quả Tinh Quân
thứ yếu (1), các Ngài áp dụng nghiệp quả đă qua và thể hiện nó ở hiện tại. Thứ
hai. Bốn vị Lipikas của nhóm thứ hai mà bà Blavatsky đề cập đến như là các vị
bận rộn trong việc vận dụng nghiệp quả tương lai và điều hành vận mệnh sắp tới
của các giống dân. Công việc của nhóm một trong bốn Đức Lipikas Vũ Trụ c̣n huyền
bí và chỉ được tiết lộ rất ít vào cuộc 1 Bốn Nghiệp Quả Tinh Quân đứng giữa cơi
thứ nhất và thứ hai. GLBN I , 155 a. Các Ngài có thể vượt qua ṿng giới hạn.
GLBN I, 157 b. Các Ngài liên hệ với nghiệp quả. GLBN I, 153 c. Các Ngài liên hệ
với Đấng Tương Lai (the Hereafter) GLBN I, 151 d. Các Ngài ở trong ba nhóm. GLBN
I, 153 e. Các Ngài là các Chơn Linh Vũ Trụ (the spirits of the Universe). GLBN
I, 153.
145. Thể dĩ thái và prana 145 điểm đạo thứ tư (ngay cả lúc bấy giờ cũng chỉ được
nói qua thôi) thế nên điều đó không được đề cập đến nơi đây. Thứ ba. Huyền Giai
Sáng Tạo thứ tư của Chân Thần nhân loại được duy tŕ bằng định luật nghiệp quả
tứ phân dưới sự hướng dẫn của các Đức Lipikas. Thứ tư. Bốn vị Hành Tinh Thượng
Đế (1) lo về Hài Hoà, Tri Thức, Tư Tưởng Trừu Tượng và Nghi Lễ, các Ngài xét
chung vốn là Tứ Nguyên Trí Tuệ trong khi có diễn tŕnh tiến hoá, và các Ngài
chuyển sang dưới ảnh hưởng của các Ngài mọi đứa con nhân loại. Thứ năm. Các
Thiên Thần Tinh Quân ở bốn cơi, đó là cơi Bồ Đề hay cơi Trực Giác tâm linh, cơi
Trí, cơi Cảm dục và cơi trần, các Ngài cũng có liên hệ với sự tiến hoá nhân loại
theo nghĩa chặt chẽ hơn ba cơi cao. Thêm một sự tương đồng lư thú nữa nằm trong
các sự kiện sau mà hiện giờ đang trong tiến tŕnh phát triển: 1 Bốn cung về trí
tuệ là bốn cung thứ yếu, 4 cung này hợp thành Tứ Nguyên của Thượng Đế (logoic
Quaternary) và sau rốt được tổng hợp thành cung thứ 5, cung chính yếu thứ 3 của
trí tuệ hoạt động hay khả năng thích ứng. Danh xưng của các cung như sau: Ba
cung chính yếu: 1. Cung Ư chí hay Huyền năng. 2. Cung Bác ái hay Minh triết 3.
Cung Trí tuệ Hoạt động Bốn cung thứ yếu: 4. Cung Mỹ Lệ, Hài Hoà, Mỹ Thuật hay
Nhịp nhàng 5.Cung Kiến thức cụ thể hay Khoa học 6. Cung Lư tưởng trừu tượng 7.
Cung Trật tự nghi lễ hay Tổ chức. 113
146. 146 Cơi thứ tư, tức cơi Bồ Đề, là cơi mà các vị Hành
Tinh Thượng Đế bắt đầu thoát ra khỏi ṿng giới hạn hành tinh của các Ngài hay ra
khỏi mạng lưới dĩ thái mà đối phần của nó có trên mọi cơi. Theo nghĩa hẹp, khi
con người bắt đầu phối kết được hiện thể Bồ đề, hay là nói một cách khác, khi y
đă phát triển năng lực tiếp xúc, dù rằng rất sơ sài với cơi Bồ đề, lúc bấy giờ,
một cách đồng thời và một cách hữu thức, con người bắt đầu đạt được khả năng
thoát khỏi mạng lưới dĩ thái trên cơi trần. Sau đó y thoát ra được phần tương
ứng của nó trên cơi cảm dục và sau cùng thoát ra phần tương ứng trên cơi phụ thứ
tư của cơi trí, lần này xuyên qua nguyên tử thường tồn hạ trí. Điều này, sau rốt
đưa đến việc vận dụng thể thượng trí, hay đưa đến khả năng an trụ vào và trở nên
linh hoạt trong hiện thể của chân ngă, vốn biểu hiện cho trạng thái bác ái và
minh triết của Chân Thần. Ở đây, nên ghi nhớ chỗ tương đồng với sự kiện đă được
chứng minh, đó là nhiều người hiện nay có thể vượt thoát khỏi thể dĩ thái và
hoạt động trong thể cảm dục của họ, đó là phản ảnh của phàm ngă của cùng trạng
thái thứ hai. Khi một người đạt mức điểm đạo thứ tư, th́ người đó hoạt động
trong hiện thể thuộc cơi thứ tư, tức thể Bồ Đề, và thường xuyên thoát khỏi ṿng
giới hạn phàm ngă, trên cơi phụ thứ tư của cơi trí. Y không c̣n bị giữ lại trong
ba cơi thấp nữa. Ở cuộc điểm đạo thứ nhất, y thoát khỏi ṿng giới hạn theo một ư
nghĩa tạm thời, nhưng y vẫn chưa thoát khỏi ba cơi phụ cao của cơi trí vốn là
phần tương ứng của cơi trí với các chất dĩ thái cao và cần phải phát triển tâm
thức đầy đủ trên ba cơi phụ cao này. Ở đây chúng ta có một sự tương ứng đối với
công việc phải làm của điểm đạo đồ sau khi y đă đạt 114
147. Thể dĩ thái và prana 147 đến cơi thứ tư của thái dương hệ, tức cơi Bồ đề.
Tuy nhiên, vẫn c̣n có sự phát triển tâm thức đầy đủ trên ba cơi tinh thần cao
hơn, trước khi y có thể thoát ra khỏi ṿng giới hạn thái dương, điều này chỉ có
thể đạt đến ở cuộc điểm đạo thứ bảy, xảy ra ở một nơi nào đó trong Thái dương
hệ, hay là trong sự tương ứng vũ trụ của nó được đạt tới bằng ngân quang tuyến
vũ trụ hay là sinh mệnh tuyến vũ trụ (1). Dăy địa cầu thứ tư này là một trong
các dăy quan trọng nhất về phương diện này, v́ đó là địa điểm ấn định đối với sự
chi phối thể dĩ thái bằng Chân Thần con người cùng mục đích nhắm vào cả hai sự
đào thoát của con người và hành tinh ra khỏi các hạn chế. Dăy địa cầu này mặc dù
không phải là một trong bảy dăy hành tinh thánh thiện, lại có tầm quan trọng tối
yếu vào lúc này đối với Hành Tinh Thượng Đế. Ngài tạm dùng nó như là một phương
tiện nhập thể và phương tiện biểu lộ. Cuộc tuần hoàn thứ tư này t́m được câu
giải đáp về sự sống bền bĩ và hỗn độn trong sự việc rất đơn giản là phá tan mạng
lưới dĩ thái để đem lại giải thoát và cho phép sử dụng một h́nh hài thích hợp
hơn sau này. Một loạt ư tưởng bổ túc có thể được theo dơi bằng cách ghi nhớ kỹ
rằng chất dĩ thái thứ tư hiện giờ đang được các nhà khoa học của con người
nghiên cứu và phát triển, và đă được khai thác phần nào để phụng sự con người;
rằng cơi 1 Sutratma: “Ngân quang tuyến” (“silver thread”) trải qua luân hồi từ
lúc bắt đầu một chu kỳ biểu lộ cho đến lúc chấm dứt, các viên ngọc của kiếp sống
con người được xâu vào chính tuyến này. Đó là tuyến năng lượng nối phàm nhơn với
Từ phụ của y trên trời xuyên qua Chân ngă, tức nguyên khí trung gian. Trên sợi
ngân quang này có các điểm tập trung năng lượng mà chúng ta gọi là các nguyên tử
thường tồn. 115
148. 148 phụ thứ tư của cơi cảm dục là phạm vi vận hành
b́nh thường của thường nhân và rằng trong cuộc tuần hoàn này, sự thoát ly khỏi
thể dĩ thái đang được thực hiện; cơi phụ thứ tư của cơi trí là mục tiêu nỗ lực
hiện nay của ¼ gia đ́nh nhân loại; chu kỳ khai nguyên thứ tư sẽ thấy ṿng giới
hạn thái dương đưa ra lối thoát cho những ai đă đạt đến mức cần thiết; bốn vị
Hành Tinh Thượng Đế sẽ hoàn thành việc thoát ly của các Ngài khỏi vùng hành tinh
của các Ngài và sẽ hoạt động một cách rất dễ dàng trên cơi cảm dục vũ trụ, song
hành trên các phân cảnh vũ trụ, có việc thành toàn của các đơn vị nhân loại vốn
là các tế bào trong các thể của các Ngài. Thái Dương Thượng Đế của chúng ta, vốn
là vị Thượng Đế ở cấp đẳng thứ tư, sẽ bắt đầu phối kết thể bồ đề vũ trụ của Ngài
và trong khi Ngài phát triển thể trí vũ trụ, nhờ sự trợ lực của thể trí đó, Ngài
sẽ dần dần đạt được khả năng tiếp xúc với cơi bồ đề vũ trụ. Các khả năng và các
tương ứng này đă phần nào được nghiền ngẫm, v́ điều cần cho chúng ta là nhận
thức được công việc phải làm liên quan đến mạng lưới dĩ thái trước khi chúng ta
đề cập vấn đề các nguyên nhân khác nhau vốn có thể ngăn cản sự tiến bộ mong muốn
và ngăn ngừa sự vượt thoát ấn định và sự giải thoát được dự tính. Sau này, chúng
ta sẽ xét đến mạng lưới dĩ thái và t́nh trạng tĩnh tại của nó. Điều này sẽ đ̣i
hỏi việc nhớ lại hai điều: Thứ nhất, điều kiện tĩnh tại này chỉ như thế khi xét
theo quan điểm con người hiện nay và chỉ gọi như thế để làm sáng tỏ hơn những sự
thay đổi phải được thực hiện và những nguy cơ phải được hoá giải. Theo quan điểm
con người, việc tiến hoá diễn ra chậm chạp đến nỗi hầu như đứng một chỗ nhất là
ở nơi nào có liên hệ đến sự tiến hoá dĩ thái. 116
149. Thể dĩ thái và prana 149 Thứ hai, chúng ta chỉ quan tâm đến thể dĩ thái
hồng trần, chớ không để ư tới các tương ứng của nó trên mọi cơi. Sở dĩ có việc
này chỉ v́ Thái dương hệ chúng ta đang ở trên các cơi phụ dĩ thái vũ trụ và do
đó quan trọng nhất đối với chúng ta. 2. Các dĩ thái vũ trụ và Thái dương hệ: V́
lợi ích cho những kẻ đọc bộ luận này và v́ cần lặp lại liên tục các sự kiện để
tạo sự rơ ràng, chúng ta hăy kê khai ngắn gọn ra đây một vài giả thuyết căn bản
vốn có một quan hệ rơ ràng đối với vấn đề đang bàn và điều có thể giúp làm sáng
tỏ sự mơ hồ hiện nay có liên quan đến vật chất của Thái dương hệ. Một số sự kiện
có nói đến ở trên đă được biết rơ, một số khác đang được suy diễn, trong khi một
số là sự biểu hiện các tương ứng xưa cũ và đích thực được diễn đạt bằng một h́nh
thức hiện đại hơn. a. Cơi vũ trụ thấp nhất là cơi hồng trần vũ trụ và đó là cơi
duy nhất mà thể trí hữu hạn của con người có thể hiểu được bằng bất cứ cách nào.
b. Cơi hồng trần vũ trụ này hiện hữu trong vật chất đă phân hoá thành bảy tính
chất, nhóm, cấp độ hay rung động. c. Bảy biến phân này là bảy cơi chính của Thái
dương hệ chúng ta. Với mục đích làm sáng tỏ, chúng ta có thể kê khai ra đây dưới
các đề mục thuộc hồng trần, Thái dương hệ và thuộc vũ trụ, để cho mối quan hệ và
các tương ứng có thể trở nên rơ ràng và sự liên hệ đối với những ǵ ở trên và ở
dưới, hay là tất cả có thể được nh́n thấy một cách rơ ràng. d. Bảy cơi chính này
của Thái dương hệ chúng ta chỉ là bảy cơi phụ của cơi hồng trần vũ trụ, v́ vậy
cho nên chúng ta có thể thấy lư do khiến cho bà Blavatsky nhấn mạnh rằng vật
chất và chất dĩ thái là các tên gọi đồng nghĩa, và rằng chất dĩ
150. 150 117
151. Thể dĩ thái và prana 151 Các Cơi (The Planes) Cơi hồng trần Các cơi của
Thái dương hệ Các cơi của vũ trụ 1.- Cơi nguyên tử. Dĩ thái 1 Thiêng Liêng. Tối
Đại Niết Bàn Vật chất nguyên thuỷ. Cơi nguyên tử. Dĩ thái 1 2.- Hạ nguyên tử
Chân Thần. Đại Niết Bàn. Tiên thiên khí Hạ nguyên tử. Dĩ thái 2 3.- Siêu dĩ thái
(super-etheric) Tinh thần. Niết Bàn. Dĩ thái Dĩ thái 3. Cơi Hợp Nhất hay Nhất
Quán 4.- Dĩ thái Trực giác . Bồ đề. Khí (Phong) Dĩ thái thứ 4 vũ trụ Ba cơi thấp
5.- Chất khí Cơi Trí. Lửa Chất hơi. Hạ dĩ thái 6.- Chất lỏng Cơi cảm dục. Xúc
cảm Chất lỏng 7.- Chất đặc Cơi hồng trần Chất đặc thái này được t́m thấy trong
một số h́nh thức này hoặc h́nh thức khác trên mọi cơi và chỉ là một phân cấp của
vật chất nguyên tử vũ trụ, khi chưa biến phân, được gọi là nhất nguyên khí
(mulaprakriti) hay chất liệu nguyên thuỷ tiền căn nguyên (primordial pre-genetic
substance) và khi được Fohat làm biến phân (hay là Đấng truyền sinh lực( tức
Thượng Đế Ngôi Ba hay Brahma) nó được gọi là prakriti hay vật chất đă biểu lộ
(maTer) (1). 1 Mulaprakriti. Nguồn gốc Thái cực Thượng đế (The Parabrahmic
rOt), nguyên khí âm thiêng liêng trừu tượng - vật chất chưa biến phân
(undifferentiated subtance). Tiên thiên khí. Theo nguyên
152. 152 e. Thái dương hệ chúng ta là cái được gọi là một
hệ thống ở cấp thứ tư; nghĩa là nó có vị trí của nó trên cơi dĩ thái vũ trụ thứ
4, luôn luôn được tính từ trên xuống dưới. f. Vậy th́ cơi dĩ thái vũ trụ thứ tư
này tạo thành nơi gặp gỡ cho quá khứ và tương lai và chính là hiện tại. g. Do
đó, cũng thế, cơi bồ đề hay cơi trực giác (tương ứng trong Thái dương hệ của dĩ
thái vũ trụ thứ tư) là nơi gặp gỡ hay là cơi hợp nhất đối với những ǵ thuộc
nhân loại và đối với những ǵ sẽ là siêu nhân loại, và nối liền quá khứ với
những ǵ đang hiện hữu. h. Các tương ứng theo sau sớm hay muộn ǵ cũng sẽ đáp
lại với việc chuyên tâm thiền định. Chúng được căn cứ trên việc nhận thức về mối
tương giao giữa chất dĩ thái vũ trụ thứ tư, cơi bồ đề, và cơi phụ dĩ thái hồng
trần thứ tư. Cơi phụ thứ tư của cơi trí, tức phần tương ứng trên cơi trí của cơi
phụ dĩ thái hồng trần cũng là một điểm chuyển tiếp từ một cơi phụ thấp vào một
cơi phụ cao hơn, và là vị trí chuyển tiếp vào một thể cao hơn. Cơi phụ thứ tư
của cơi Chân Thần, theo thật đúng nghĩa, là vị trí chuyển tiếp khỏi cung chơn
ngă (có thể bất cứ cung nào) đến cung Chân Thần; ba cung chính yếu này được cấu
tạo trên ba cơi phụ cao của cơi Chân thần theo cùng một cách mà ba cơi phụ trừu
tượng của cơi trí là nhóm chuyển tiếp khỏi cung phàm ngă đến cung chơn ngă. Bốn
cung thứ yếu phối hợp với ba cung chính yếu, tức cung thông tuệ linh hoạt trên
cơi trí và trên cơi Niết Bàn. Bốn Thượng Đế hay các Đấng Hành Tinh hoạt động như
là một trên cơi Niết Bàn. nghĩa, “cội nguồn của Thiên nhiên” (Prakriti) tức là
vật chất đă biểu lộ (maTer). 119
153. Thể dĩ thái và prana 153 i. Một sự tổng hợp khác xảy ra trên cung tổng hợp
thứ hai ở trên cơi phụ thứ hai của cơi Bồ đề và cơi Chân thần, trong khi tương
đối là có ít Chân Thần ư chí hay quyền năng được tổng hợp trên cơi phụ nguyên tử
của cơi Chân Thần. Tất cả ba nhóm Chân Thần đều hoạt động dưới h́nh thức tam
phân trên cơi trí dưới quyền Đức Văn Minh Bồ Tát, Đức Bàn Cổ và Đức Bồ Tát (tức
Đức Christ); trên cơi thứ nh́ hay cơi Chân Thần, các Chân Thần hoạt động dưới
h́nh thức một đơn vị, chỉ chứng tỏ công tác lưỡng phân của các Chân Thần đó trên
cơi Chân thần và tính chất tam phân cốt yếu của các Chân Thần trên cơi Bồ đề
(1). 1 Các Chân Thần của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, tức các Chân Thần con
người, gồm ba nhóm chính : a. Các Chân Thần ư chí (The Monads of WiL). b. Các
Chân Thần Bác ái (The Monads of Love). c. Các Chân Thần Hoạt động (The Monads of
Activity) Đức Mahachohan. (Văn Minh Bồ Tát). Một Đấng trong Thánh Đoàn hành tinh
chúng ta. Ngài chủ tŕ các hoạt động được xúc tiến trong 4 cung thứ yếu và cung
tổng hợp thứ 3. Ngài có liên quan đến nền văn minh, đến sự vun trồng trí tuệ các
giống dân và với năng lượng thông tuệ, Ngài là vị lănh đạo các Thánh sư. Đức Bồ
Tát (BodhisaTva). Đấng tiêu biểu (the exponent) cho thần lực cung 2, Đấng Giáo
huấn các Thánh sư con người và thiên thần. Chức vụ này lúc đầu do Đức Phật nắm
giữ, nhưng (sau khi Đức Phật trở nên Toàn Giác) th́ Đức Christ lên thay cho
Ngài. Công việc của Đức Bồ Tát có liên quan đến các tôn giáo trên thế gian và
liên quan đến Bản Thể tâm linh trong con người. Đức Bàn Cổ : (The Manu) Đấng chủ
tŕ cơ tiến hoá của các chủng tộc. Ngài là con người lư tưởng. Ngài phải làm
việc với các h́nh hài mà xuyên qua đó Tinh thần phải biểu lộ; Ngài huỷ diệt và
xây dựng lại. 120
154. 154 Cơi dĩ thái thứ tư nắm giữ ch́a khoá chế ngự vật
chất và nên chú ư rằng: Trên chất dĩ thái hồng trần thứ tư, con người bắt đầu
phối kết thể cảm dục hay thể t́nh cảm của y và vượt thoát ngày càng thường xuyên
hơn khỏi hiện thể đó. Sự liên tục tâm thức được đạt đến khi con người chế ngự
được bốn chất dĩ thái. Trên cơi phụ thứ tư của cơi trí, con người bắt đầu kiểm
soát thể thượng trí hay Chân ngă thể của ḿnh và trụ tâm thức của ḿnh vào đó
cho đến khi sự an trụ được hoàn toàn. Lúc bấy giờ, y hành động một cách hữu thức
trên cơi đó khi y đă chế ngự được các tương ứng đối với các chất dĩ thái trên
cơi trí. Trên cơi bồ đề (cơi dĩ thái thứ tư của vũ trụ), Hành Tinh Thượng Đế
(hay là tâm thức tập hợp của Chân Thần nhân loại và Chân Thần thiên thần) bắt
đầu tác động và sau rốt thoát khỏi các cơi dĩ thái vũ trụ. Khi ba chất dĩ thái
vũ trụ này được chế ngự, việc vận hành được hoàn tất, sự an trụ được tập trung
trong các hiện thể Chân Thần và bảy Hành Tinh Thượng Đế đă thành đạt được mục
tiêu của các Ngài. j. Do đó, trên các cơi phụ dĩ thái này, Thượng Đế của Thái
dương hệ chúng ta, với tư cách một đại tổng thể, Ngài lặp lại các kinh nghiệm
của các phản ảnh bé nhỏ của Ngài trên các cơi hồng trần; Ngài kết hợp thể cảm
dục vũ trụ của Ngài và đạt được sự liên tục tâm thức khi Ngài đă chế ngự được ba
chất dĩ thái vũ trụ. Ba Đấng này chủ tŕ ba Bộ Môn (Departments) mà Thánh Đoàn
được phân chia và do đó tiêu biểu trong lănh vực đặc biệt của các Ngài ba trạng
thái biểu lộ thiêng liêng. 121
155. Thể dĩ thái và prana 155 k. Cần phải nhận xét rằng, giống như trong con
người, nhục thân trong ba cấp độ của nó - đặc, lỏng và hơi – không được xem như
một nguyên khí (principle), cũng vậy, theo ư nghĩa vũ trụ các cơi vật chất
(đặc), cảm dục (lỏng) và trí tuệ (hơi) cũng được xem như không hiện tồn và Thái
dương hệ có vị trí của nó trên chất dĩ thái thứ tư. Bảy hành tinh thánh thiện
được cấu tạo bằng vật chất của dĩ thái thứ tư này và bảy Hành Tinh Thượng Đế mà
các thể của các Ngài là các hành tinh tác động một cách b́nh thường trên cơi thứ
tư của Thái dương hệ, tức cơi bồ đề hay cơi dĩ thái thứ tư vũ trụ. Khi con người
đă đạt đến tâm thức của cơi Bồ đề, th́ y đă nâng tâm thức của y đến tâm thức của
Hành Tinh Thượng Đế mà trong cơ thể của Ngài, y là một tế bào. Điều này được
thành đạt vào cuộc điểm đạo thứ tư, cuộc điểm đạo khai phóng (the liberating
initiation). Vào cuộc điểm đạo thứ năm, cùng với Hành Tinh Thượng Đế, người vượt
lên cơi thứ năm (theo quan điểm nhân loại (tức cơi Niết bàn và vào cuộc điểm đạo
thứ sáu, người chế ngự được chất dĩ thái vũ trụ thứ hai và có được chân thần
thức (monadic consciousness) cùng sự liên tục trong chức năng. Vào cuộc điểm đạo
bảy, Ngài chế ngự toàn thể lĩnh vực vật chất được chứa trong cơi vũ trụ thấp
nhất, thoát khỏi mọi sự xúc tiếp dĩ thái và hoạt động trên cơi cảm dục vũ trụ.
Thái dương hệ trước đă chứng kiến sự vượt qua ba cơi thấp nhất của cơi hồng trần
vũ trụ, xét theo quan điểm vật chất và sự phối kết của nhục thể gồm ba phần,
trong đó có đủ mọi sự sống, chất đặc, chất lỏng, chất hơi. Ở đây có thể thấy
156. 156 được sự tương ứng trong công việc đă được hoàn
thành trong ba căn chủng đầu tiên (1)(2). 1 Căn chủng (ROtrace). Bộ GLBN dạy
chúng ta rằng trong cuộc tiến hoá này hay ṿng tiến hoá trên hành tinh này,
Jivatma - tức nhân hồn - trải qua bảy kiểu mẫu chính (main types) hay là 7 “căn
chủng”. Trong trường hợp hai căn chủng trước là “căn chủng Adam” và căn chủng
“Hyperborean”, các h́nh hài được làm cho linh hoạt lần lượt là cảm dục (astral)
và dĩ thái (etheric) “khổng lồ và không rơ ràng”, chúng gắn liền với trạng thái
tâm thức thấp hay là tâm thức hướng ngoại tác động qua một giác quan duy nhất
(thính giác) mà giống dân thứ nhất đă có, hoặc là qua hai giác quan (thính giác
và xúc giác) mà giống dân thứ hai đă có. Nhưng qua giống dân thứ ba, tức
Lemurian, một kiểu mẫu đậm đặc hơn và giống h́nh người hơn được phát triển, kiểu
mẫu này trở nên hoàn thiện hơn trong giống dân thứ tư hay giống Atlantis. Giống
dân thứ 5, tức Aryan, hiện nay, đang tiếp tục con đường của ḿnh trên bầu này,
đồng thời với một phần lớn của giống dân thứ tư và một ít c̣n lại của giống dân
thứ ba. Nên chú ư rằng, mặc dầu mỗi giống dân khai sinh ra giống dân tiếp theo,
cả hai lại trùng lắp trong thời gian, cùng tồn tại, trong nhiều kỷ nguyên. Trong
số các dân tộc hiện đang c̣n tồn tại, dân Tartars, Trung Hoa và Mông Cổ thuộc về
giống dân thứ tư, thổ dân Úc Châu và người HoTentots thuộc về giống dân thứ ba.
2 Trong cách phối kết các hiện thể thuộc Chân Thần, thuộc Linh Thể và thuộc Bồ
Đề của Hành Tinh Thượng Đế, các hiện thể của sự sống tinh thần, tức là sự tương
ứng huyền bí cao siêu so với luồng prana xuyên qua phản ảnh thấp, thể dĩ thái
hồng trần, điểm tổng hợp luôn luôn ở trên cơi phụ nguyên tử và hiện thể thứ sáu
hoà lẫn và trở nên hiện thể thứ 7. Trong Thái dương hệ này, cơi tổng hợp không
được bao gồm trong hệ thống tiến hoá. Đó là cơi tích tụ và là cơi ngơi nghỉ.
Trong Thái dương hệ trước, chất dĩ thái thứ tư ở vào vị trí này, so với các đơn
vị tiến hoá của thuở ấy, nó cũng giống
157. Thể dĩ thái và prana 157 3. Mục đích bảo vệ của thể dĩ thái. Sau khi ra
ngoài đề hơi dài ḍng, bây giờ chúng ta hăy gác lại những sự việc về vũ trụ khó
hiểu, mà đi vào sự tiến hoá thực tiễn và khảo cứu về vấn đề thể dĩ thái con
người cùng là các mối nguy hại vốn có thể phát sinh cho con người nếu thể đó (do
sự vi phạm thiên luật) không c̣n làm tṛn chức năng bảo vệ của nó nữa. Trước
hết, chúng ta hăy xem xét các chức năng bảo vệ này là những ǵ : Thứ nhất: Mạng
lưới dĩ thái tác động như là vật ngăn cách hay là mạng lưới phân chia giữa thể
cảm dục và nhục thể (xác thân). Thứ hai: Nó lưu chuyển sức sống nhập vào, tức là
lưu chất prana, và xúc tiến công việc của nó ở ba giai đoạn. như là cơi nguyên
tử hiện giờ, là điểm thành đạt cao nhất. Mục tiêu đối với mọi người là cơi Bồ đề
hay là hậu thiên khí vũ trụ thứ 4. Ba cơi khác là mục tiêu hiện giờ - cơi Bồ đề,
Niết Bàn và Đại Niết Bàn, mỗi lần ba cơi và tổng hợp sau cùng của chúng. Trong
Thái dương hệ sắp đến, chất hậu thiên khí thuộc nguyên tử hồng trần vũ trụ (cơi
Tối Đại Niết Bàn trong Thái dương hệ hiện nay) sẽ là điểm khởi đầu và ba cơi
phải được chế ngự sẽ là ba cơi cảm dục vũ trụ thấp nhất. Con người bắt đầu ở nơi
mà y đang dừng lại, với chất liệu hồng trần vũ trụ hoàn hảo. Do đó, thể thấp
nhất của con người sẽ là thể Chân Thần hay là thể bằng chất hậu thiên khí vũ trụ
thứ hai. Thể này, lúc bấy giờ sẽ không được kể như là một nguyên khí cũng chẳng
khác nào nhục thân có ba phần của con người hiện nay không được xem như là một
nguyên khí. Thái dương hệ hiện tại sẽ chứng kiến sự vượt trội ba cơi hồng trần
vũ trụ kế tiếp, chất hậu thiên khí (aethers) thứ tư, thứ ba và thứ hai cùng sự
phối kết của thể dĩ thái vũ trụ. 122
158. 158 Giai đoạn một là giai đoạn mà lưu chất prana và
các bức xạ thái dương được thu nhận và luân lưu ba lần chung quanh tam giác, do
đó được phân phối đến chu vi của cơ thể, làm linh hoạt và đem lại sinh lực cho
khắp các cơ quan vật chất và đưa đến các hoạt động tự động trong tiềm thức của
nhục thể. Khi thực hiện hoàn hảo mục tiêu của nó, nó bảo vệ khỏi bệnh hoạn, c̣n
các ốm đau của xác thịt sẽ không xảy đến với người nào hấp thụ và phân phối
prana một cách chính xác. Ẩn ư này được nhắc nhở đối với mọi y sĩ và khi được
thấu hiểu rơ ràng, sẽ đưa đến kết quả thay đổi căn bản trong y khoa, từ nền tảng
chữa bệnh chuyển sang nền tảng pḥng bệnh. Giai đoạn hai là giai đoạn mà các lưu
chất prana bắt đầu phối hợp với luồng hoả ở đáy xương sống và dẫn luồng hoả đó
từ từ đi lên, vận chuyển nhiệt từ các trung tâm lực dưới đan điền đến ba trung
tâm lực cao – đó là trung tâm lực ở tim, cổ họng và đầu. Đây là một diễn tiến
lâu dài và chậm chạp khi để cho một ḿnh lực thiên nhiên mà không có sự trợ
giúp, nhưng ở đây chính là (trong một số ít trường hợp) việc được phép gia tốc
tiến tŕnh để trang bị cho những người hoạt động trong lănh vực phụng sự nhân
loại. Đây là mục tiêu của tất cả mọi tập luyện về huyền học. Khía cạnh vật chất
này sẽ được đề cập tới một cách tường tận hơn khi chúng ta đi đến điểm kế tiếp
về “Hoả xà và xương sống”. Giai đoạn ba là giai đoạn mà chất phóng phát linh
động (active radiatory) hay là prana được phối hợp một cách hoàn hảo hơn với lửa
tiềm tàng trong vật chất; việc này đem lại kết quả (như sẽ được nêu ra sau này)
là tạo ra được một số hiệu ứng. Điều đó cũng tạo ra việc gia tốc tần số rung
động b́nh thường của thể xác để cho thể xác sẵn sàng đáp ứng hơn với 123
159. Thể dĩ thái và prana 159 nốt cao siêu của chân ngă, và tạo nên sự tiến lên
vững vàng của các luồng hoả phối hợp xuyên qua vận hà tam phân trong cột xương
sống. Trong giai đoạn hai, luồng hoả phối hợp đem lại sinh lực này đạt đến trung
tâm lực giữa phần dưới của hai bả vai, vốn là điểm tiếp nối và là điểm phối hợp
toàn hảo, của luồng hoả từ đáy cột xương sống và luồng hoả luân lưu dọc theo tam
giác prana. Cần nhớ một điểm của tam giác này xuất phát từ đó như thế nào. Khi
luồng hoả căn bản tam phân và luồng hoả tam phân chứa prana gặp nhau và hợp
nhất, bấy giờ sự tiến hoá diễn ra với vận tốc rất nhanh. Điều này rất rơ ràng ở
cuộc điểm đạo một khi sự an trụ trở nên cố định ở một trong ba trung tâm lực
cao, trung tâm nào th́ c̣n tuỳ thuộc vào cung của người ấy. Kết quả của sự phối
hợp này là đưa đến sự thay đổi hoạt động của các trung tâm lực. Chúng trở nên
“các bánh xe tự quay quanh chính chúng”, và từ chuyển động quay thuần tuư, trở
thành tác động theo chiều thứ tư và hiện ra như các trung tâm lửa sinh động toả
rực đang xoay tít. Ba trung tâm lực chính ở đầu (tŕnh tự thay đổi tuỳ theo
cung) trở nên linh hoạt và một diễn tiến tương tự được tiến hành giữa chúng cũng
như đă được tiến hành trong tam giác chứa prana. Đang là ba trung tâm lực tác
động một cách yếu ớt đối với rung động lẫn nhau (do việc cảm thấy sức ấm và nhịp
nhàng của nhau, dù là riêng rẽ) luồng hoả nhảy từ trung tâm lực này đến trung
tâm lực khác, và mỗi bánh xe đang xoay được liên kết bằng một sợi xích lửa, cho
đến khi có một tam giác lửa xuyên qua đó, luồng hoả xà và luồng hoả chứa prana
xạ ra từ chỗ này đến chỗ kia. Sự lưu thông cũng được tiếp tục. Lửa của hoả xà
tạo ra nhiệt của trung tâm lực và sự 124
160. 160 chói lọi mănh liệt của nó, trong khi luồng hoả
chứa bức xạ prana tạo ra sự hoạt động và quay ngày càng gia tăng. Theo thời gian
trôi qua giữa cuộc điểm đạo thứ nhất và thứ tư, vận hà tam phân trong xương sống
và toàn bộ thể dĩ thái dần dần trở nên tinh khiết và được thanh lọc bởi tác động
của luồng hoả cho đến khi tất cả ‘cặn bă’ (theo cách diễn tả của Cơ Đốc giáo) bị
thiêu đốt hết và không c̣n ǵ lưu lại để ngăn trở sự tiến tới của ngọn lửa này.
Trong khi lửa của hoả xà và prana tiếp tục công việc của chúng, vận hà trở nên
ngày càng tinh khiết hơn, các trung tâm lực linh hoạt hơn và cơ thể tinh khiết
hơn, ngọn lửa tinh thần, hay lửa từ chân ngă đi xuống một cách linh hoạt hơn cho
đến khi ngọn lửa thực sự chói lọi phát xuất từ đỉnh đầu. Ngọn lửa này bùng lên
xuyên qua các thể, hướng về phía nguồn cội của nó, tức thể nguyên nhân (causal
body). Đồng thời với sự hoạt động của các lửa vật chất và tinh thần này, lửa của
trí tuệ hay manas bùng cháy mănh liệt. Các lửa này là lửa được phú cho vào lúc
đầu thai làm người. Chúng được liên tục nuôi dưỡng bằng lửa vật chất và nhiệt
của chúng được tăng cường bằng lửa phóng phát của thái dương, vốn xuất phát trên
các cơi trí vũ trụ. Chính trạng thái lửa trí tuệ này phát triển dưới các h́nh
thức bản năng, tức trí nhớ nơi động vật (animal memory) và sự hồi ức chức năng
(functional recoLec -tion) vốn lộ rơ ràng nơi kẻ ít tiến hoá. Thời gian qua,
lửa trí tuệ càng cháy sáng hơn và như vậy đạt đến điểm mà nó bắt đầu thiêu đốt
hết cả mạng lưới dĩ thái - phần của mạng lưới có nhiệm vụ bảo vệ trung tâm lực ở
ngay đỉnh đầu và để luồng sóng tinh thần tuôn tràn xuống. Nhờ đó có thể xảy ra
một số sự việc sau : 125
161. Thể dĩ thái và prana 161 Luồng hoả xà được điều khiển và kiểm soát một cách
hữu thức bằng trí tuệ hay trạng thái ư chí từ cơi trí. Hai luồng hoả của vật
chất do sức mạnh của thể trí con người trước nhất được phối hợp với nhau và kế
đó với lửa thể trí. Kết quả hợp nhất của sự phối hợp này là sự phá huỷ (theo qui
luật và trật tự) mạng lưới dĩ thái và kết quả là tạo ra sự liên tục tâm thức và
đưa vào sự sống cá biệt của con người “cách sống phong phú hơn” tức là lửa thứ
ba của Tinh Thần. Việc giáng hạ của Tinh Thần và việc thăng lên của các nội hoả
vật chất (được kiểm soát và điều khiển bởi tác động hữu thức của lửa trí tuệ)
tạo nên các kết quả tương ứng trên cùng mức độ ở cơi cảm dục và cơi trí, khiến
cho sự tiếp xúc song song xảy ra và công việc khai phóng vĩ đại diễn ra theo
cách đă được sắp xếp. Ba cuộc điểm đạo đầu tiên chứng kiến các kết quả này được
hoàn hảo và đưa đến cuộc điểm đạo thứ tư, lúc mà sức mạnh của các lửa hợp nhất
đưa đến việc hoàn toàn thiêu huỷ mọi chướng ngại và việc giải thoát của Tinh
Thần do nỗ lực được điều khiển một cách hữu thức từ lớp vỏ tam phân hạ đẳng của
nó. Con người mang lại sự giải thoát cho chính ḿnh một cách hữu thức. Các kết
quả này do chính con người tự đem lại cho ḿnh, v́ y đă được giải phóng khỏi ba
cơi thấp, và đă làm gián đoạn được bánh xe luân hồi, thay v́ bị ngă quỵ trên
bánh xe ấy. Hiển nhiên là do sự sáng tỏ này mà sự quan trọng cực độ của hiện thể
dĩ thái với cương vị là tác nhân chia tách các lửa đă được nêu ra và do đó chúng
ta nên chú ư đến các nguy hiểm phải xảy ra nếu con người làm xáo trộn một cách
thiếu cân nhắc, thiếu sáng suốt hay một cách bướng bỉnh các luồng hoả này. 126
162. 162 Nếu người nào, nhờ sức mạnh của ư chí hay là do sự
khai mở quá độ về mặt trí tuệ trong cá tính của y, y đạt được năng lực phối hợp
các luồng hoả vật chất này và điều khiển chúng tiến lên, y sẽ đứng trước nguy cơ
bị nhập xác (1), điên cuồng, chết về mặt hồng trần (physical death) hay là đau
đớn mănh liệt ở một số nơi trong cơ thể, và y cũng có nguy cơ phát triển quá
đáng xung lực tính dục, do sự điều khiển thần lực tiến lên thiếu đồng đều, hay
là bắt buộc bức xạ của nó đi đến các trung tâm lực ngoài ư muốn. Lư do của việc
này ở chỗ là vật chất trong cơ thể y không đủ tinh khiết để chịu đựng việc hợp
nhất các luồng hoả, v́ vận hà đi lên xương sống vẫn c̣n bị bế tắc, ngăn trở, do
đó tác động như là một bức tường làm đổi hướng luồng hoả về phía sau và xuống
phía dưới, và v́ đó luồng hoả (đang được kết hợp bằng năng lực của trí tuệ, và
không được kèm theo bởi một luồng năng lực hướng xuống cùng một lúc, từ cơi tinh
thần cho phép đi vào qua các ḍng dĩ thái mạnh mẽ, và ngay cả các thực thể nữa,
với các mănh lực không mong muốn và ở bên ngoài. Chúng tàn phá, đập vỡ và làm hư
hoại những ǵ c̣n lại của thể dĩ thái, của mô năo và ngay cả của chính nhục thân
nữa. Kẻ không thận trọng v́ không biết rơ Cung của ḿnh, do đó không biết dạng
h́nh học riêng biệt của tam giác vốn là phương pháp chính xác để lưu chuyển từ
trung tâm lực này đến trung tâm lực khác, sẽ điều khiển luồng hoả tiến tới không
đúng phương pháp và như vậy đốt cháy các mô; lúc bấy giờ điều này sẽ đưa tới hậu
quả (ước sao không có ǵ tệ 1 Hiện tượng bị nhập xác hay bị ám (obsession) được
giải rơ trong “Sự Hiển Lộ của Thánh Đoàn” trang 307 – 308, và trong ”Thư về Tham
Thiền Huyền Linh” trang 124 – 126. (Có trích dẫn trong “Thuật Ngữ Huyền Học”
trang 380 – 381) ND 127
163. Thể dĩ thái và prana 163 hại hơn) là làm thoái bộ trong nhiều kiếp sống mức
tiến hoá của y, v́ y sẽ phải mất nhiều th́ giờ để kiến tạo lại nơi nào mà y đă
tàn phá, và đi trở lại trên đúng các đường lối mà mọi việc phải được thi hành.
Nếu một người từ kiếp này đến kiếp khác cứ khăng khăng theo đường lối hoạt động
này, nếu y thờ ơ với việc phát triển tâm linh của ḿnh, và tập trung vào nỗ lực
trí óc, hướng sang việc vận dụng vật chất vào các mục đích ích kỷ, nếu y cứ tiếp
tục điều này mà không kể đến sự thúc đẩy của nội ngă của ḿnh, và không chú ư
đến sự cảnh báo có thể được đưa tới cho y từ các Đấng Quán Sát; và nếu điều này
được tiếp tục trong một thời gian dài, th́ y có thể đưa chính ḿnh đến chỗ huỷ
diệt, đó là cái chung cục trong chu kỳ khai nguyên này. Do sự hợp nhất hai lửa
vật chất và sự biểu lộ kép của lửa trí tuệ, y có thể thành công trong việc phá
huỷ hoàn toàn nguyên tử thường tồn hồng trần và do đó cắt đứt sự giao tiếp của y
với thượng ngă trong các thời kỳ rất dài. Bà Blavatsky có đề cập sơ sài về điều
này khi nói đến việc “mất linh hồn” (“lost soul”) (Xem Isis Unveiled, vol.
I,
trang 368; GLBN I, 255 và II, 513 – 516). Ở đây, chúng ta phải nhấn mạnh thực
tại về tai hoạ thảm khốc này, và gióng lên một tiếng chuông báo động cho những
kẻ tiến đến vấn đề các luồng hoả vật chất với mọi nguy cơ tiềm tàng của nó. Sự
phối hợp các luồng hoả này phải là kết quả của sự hiểu biết đă được tinh thần
hoá, và phải được hướng dẫn duy nhất bởi Ánh Sáng của Tinh Thần. Ánh Sáng này
tác động qua t́nh thương và chính là t́nh thương, kẻ nào t́m kiếm sự hợp nhất và
sự phối hợp hoàn toàn không chiều theo ư thích của giác quan, hay sự hài ḷng về
vật chất, mà chỉ mong muốn sự giải thoát và sự thanh
164. 164 luyện, để việc hợp nhất cao cả với Thượng Đế có thể được
thực hiện; sự hợp nhất này phải được ưa thích, không phải v́ các mục đích ích
kỷ, mà bởi v́ sự hoàn hảo tập thể là mục tiêu và cơ hội cho việc phụng sự lớn
lao hơn đối với nhân loại phải được hoàn thành. V.. SSỰ CHẾT VÀ THỂ DDĨĨ
THÁI Mục đích chúng tôi không phải là nêu ra các sự kiện để cho
khoa học chứng thực, hay ngay cả đưa ra đường lối cho các giai đoạn tiến tới kế
tiếp cho các nhà nghiên cứu khoa học; sở dĩ chúng tôi làm như thế chỉ là v́ ngẫu
nhiên và thuần tuư là phụ thuộc. Những ǵ mà chúng ta t́m kiếm phần lớn là nêu
ra những chỉ dẫn về sự phát triển và sự tương ứng của tổng thể tam phân đang làm
cho Thái dương hệ hiện ra theo đúng thực tướng của nó - hiện thể mà qua đó một
Đấng vĩ đại của vũ trụ tức Thái Dương Thượng Đế, biểu lộ sự thông tuệ linh hoạt
với mục đích đă định, là biểu lộ một cách hoàn hảo khía cạnh bác ái của bản thể
của Ngài. Tuy nhiên, đàng sau đồ án đó có thêm một mục đích huyền bí và kín đáo
khác nữa, ẩn giấu trong Tâm Thức Ư Chí của Đấng Tối Cao, mà tất yếu sẽ được
chứng minh sau này khi mục tiêu hiện tại được đạt đến. Sự luân phiên hai chiều
của biểu lộ ngoại tại và qui nguyên nội tại, luồng ngoại linh khí
(out-breathing) theo chu kỳ, được nối tiếp bằng luồng nội linh khí của tất cả
những ǵ được tiến hành qua sự tiến hoá, trong Thái dương hệ, biểu hiện cho một
trong các rung động cơ bản của vũ trụ, và chủ âm của Thực Thể Thông Linh vũ trụ
mà chúng ta là một phần trong cơ thể Ngài. Nhịp tim đang đập của Thượng Đế (nếu
điều đó có thể được diễn tả một cách không thích hợp như thế) là cội nguồn của
mọi tiến hoá có chu kỳ, và do đó, sự quan trọng liên quan đến trạng thái phát
triển được gọi là 128
165. Thể dĩ thái và prana 165 ‘tâm’ (‘heart’) hay “trạng thái bác ái” và sự quan
tâm vốn được khơi dậy do việc nghiên cứu về sự nhịp nhàng. Điều này không những
đúng về khía cạnh vũ trụ và đại thiên địa mà c̣n đúng trong việc khảo sát con
người. Dưới mọi ư nghĩa vật chất liên quan đến nhịp nhàng, rung động, chu kỳ và
nhịp tim, có ẩn tàng sự tương đồng bên trong của chúng – bác ái, cảm thông, xúc
động, ước muốn, hài hoà, tổng hợp và chuỗi sự việc được an bài, và đàng sau các
tương đồng này ẩn tàng cội nguồn của vạn vật, tự thể của Đấng Tối Cao đang biểu
lộ chính Ngài như thế đó. Do đó, việc nghiên cứu chu kỳ qui nguyên hay là triệt
thoái của sự sống ra khỏi hiện thể dĩ thái sẽ giống như nhau cho dù người ta
đang khảo sát sự triệt thoái của thể dĩ thái con người, sự triệt thoái của thể
dĩ thái hành tinh hoặc sự triệt thoái của thể dĩ thái Thái dương hệ. Hiệu quả
giống nhau và kết quả cũng tương tự. Kết quả của việc triệt thoái này là ǵ, hay
đúng hơn điều ǵ gây nên cái mà chúng ta gọi là sự chết hay qui nguyên? V́ chúng
ta theo đuổi một cách chặt chẽ theo kiểu sách giáo khoa trong quyển khái luận
này, chúng ta sẽ tiếp tục phương pháp lập bảng biểu. Sự triệt thoái của thể dĩ
thái con người, hành tinh và Thái dương hệ do các nguyên nhân sau đây: a. Chấm
dứt ham muốn. Việc chấm dứt này sẽ là kết quả của mọi tiến tŕnh tiến hoá. Theo
định luật, cái chết thực sự xảy ra do việc đạt đến mục đích và do đó bằng việc
ngưng khát vọng. Khi chu kỳ hoàn hảo đi đến chỗ kết thúc, điều này sẽ đúng đối
với con người cá biệt, với Hành Tinh Thượng Đế và với chính Thái Dương Thượng
Đế. b. Do việc làm chậm đi và dừng lại từ từ của sự nhịp nhàng có chu kỳ, rung
động thích hợp được đạt đến, và công tác 129
166. 166 được hoàn thành. Khi sự rung động hay nốt được cảm
nhận hay được phát ra một cách đầy đủ, nó tạo nên (ở điểm tổng hợp với các rung
động khác) sự tan ră hoàn toàn các h́nh hài. Như chúng ta biết, sự chuyển động
được biểu thị bằng ba tính chất : a. Yên tịnh (Inertia) b. Hoạt động (Mobility)
c. Nhịp nhàng (Rhythm) Ba đặc tính này được trải qua theo đúng tŕnh tự như trên
và bao hàm một thời kỳ hoạt động chậm chạp, nối tiếp bằng một trong các chuyển
động quá mức. Thời kỳ giữa này ngẫu nhiên tạo ra (khi nốt và tốc độ chính xác
được t́m thấy) các chu kỳ của hỗn mang, của thực nghiệm, kinh nghiệm, và của
nhận thức. Tiếp nối hai mức độ chuyển động này (vốn là đặc điểm của nguyên tử,
Con người, của Hành Tinh Thượng Đế hay tập thể và của Thượng Đế hay Tổng Thể là
thời kỳ điều hoà và ổn cố mà điểm thăng bằng được đạt đến. Do bởi lực cân bằng
các cặp đối hợp và nhờ thế tạo được sự thăng bằng, chu kỳ qui nguyên là tŕnh tự
tất phải xảy ra. c. Bằng sự tách biệt thể hồng trần ra khỏi thể tinh anh trên
các nội cơi, do sự tan ră của mạng lưới. Điều này tạo nên hiệu quả ba mặt
(threefold effect): Thứ nhất. Sự sống đă làm linh hoạt h́nh hài vật chất (cả
chất đặc lẫn chất dĩ thái) và nó bắt đầu trong nguyên tử thường tồn và từ đó
“tràn ngập khắp vật di động và vật không di động” (trong Thái Dương Thượng Đế,
Hành Tinh Thượng Đế, và con người cũng như trong nguyên tử vật chất) được triệt
thoái hoàn toàn vào trong nguyên tử trên cơi trừu xuất. ‘Cơi trừu xuất’ này là
một cơi khác hẳn đối với các thực thể tiến hoá : 130
167. Thể dĩ thái và prana 167 1. Đối với nguyên tử thường tồn hồng trần, đó là
mức độ nguyên tử. 2. Đối với con người, đó là thể thượng trí. 3. Đối với Hành
Tinh Thượng Đế, đó là cơi thứ nh́ của sự sống Chân Thần, trú sở của Ngài. 4. Đối
với Thượng Đế, đó là cơi Tối Đại Niết Bàn. Tất cả các điều này đánh dấu các mức
độ đối với việc mất hết h́nh tướng vào chu kỳ qui nguyên. Ở đây chúng ta cần nhớ
rằng đó luôn luôn là kỳ qui nguyên khi xét từ bên dưới. Do nơi linh thị cao,
người ta thấy rằng chất tinh tế hơn tiếp tục che chở chất trọng trược vào lúc
không biểu lộ ra ngoại cảnh, chu kỳ qui nguyên chỉ là t́nh trạng bên trong
(subjectivity) và không phải “cái ǵ thuộc hư không” (“which is not”) mà chỉ là
những ǵ thuộc nội môn (esoteric). Thứ hai: Thể dĩ thái của một người, một Hành
Tinh Thượng Đế và một Thái Dương Thượng Đế, bị tan vỡ, trở nên thiếu tập trung
đối với chủ thể ở bên trong của nó, và do đó để xảy ra sự thoát ly. Nó (diễn tả
theo một cách khác) không c̣n là một nguồn thu hút, cũng không c̣n là một điểm
tập trung từ lực. Nó trở thành không có sức thu hút, và định luật lớn là Luật
Hấp Dẫn ngừng kiểm soát nó; do đó t́nh trạng tiếp theo sau của h́nh hài là tan
ră. Chân ngă không c̣n bị sắc tướng của nó thu hút trên cơi hồng trần, và, tiếp
theo đó luồng nội linh khí, triệt thoái sự sống của nó ra khỏi lớp vỏ. Chu kỳ
tiến đến chỗ kết thúc, kinh nghiệm đă được thu đạt, mục tiêu (mục tiêu tương đối
từ kiếp này đến kiếp khác, và từ cuộc luân hồi này đến cuộc luân hồi khác) đă
hoàn thành và không c̣n ǵ để ham muốn nữa; chân ngă hay là thực thể biết suy
tư, do đó, không c̣n quan tâm vào sắc tướng và 131
168. 168 hướng sự chú ư của nó vào trong. Sự an trụ của nó
thay đổi và cuối cùng h́nh hài tan ră. Hành Tinh Thượng Đế, trong đại chu kỳ của
Ngài, (tổng hợp hay là tập hợp các chu kỳ nhỏ của các tế bào trong cơ thể Ngài)
cũng theo đuổi cùng chương tŕnh; Ngài không c̣n bị thu hút xuống dưới hay ra
ngoài và chuyển sự chú tâm của Ngài vào trong; Ngài gom vào bên trong toàn bộ
các sinh linh nhỏ bé hơn bên trong cơ thể Ngài, tức hành tinh, và cắt đứt sự
liên hệ. Sự thu hút bên ngoài chấm dứt và tất cả hướng về trung tâm thay v́ rải
ra chung quanh cơ thể Ngài. Trong Thái dương hệ, Thái Dương Thượng Đế cũng theo
đuổi cùng tiến tŕnh như thế; từ chốn trừu xuất cao thâm của Ngài, Ngài không
c̣n bị thu hút bởi thể biểu lộ của Ngài. Ngài rút lại sự chú tâm của Ngài và hai
cặp đối hợp, tinh thần và vật chất của hiện thể, tách ra. Với sự tách ra này,
Thái dương hệ, tức “Đứa Con Thiết Yếu” hay “Đứa Con Hoài Vọng” ngưng hiện tồn và
vượt ra khỏi sự sống biểu lộ ra ngoại cảnh. Thứ ba. Sau cùng điều này đưa đến
việc tung rải (scaTering) các nguyên tử của thể dĩ thái vào t́nh trạng nguyên
thuỷ của chúng. Sự sống nội tâm tức là tổng hợp của ư chí và bác ái khoác lấy
h́nh hài linh hoạt, được triệt thoái. T́nh trạng đối tác/cộng tác (partnership)
bị tan ră. H́nh hài lúc bấy giờ phân ră; từ lực để giữ nó ở dạng thể kết hợp
không c̣n nữa và biến mất hoàn toàn. Vật chất vẫn c̣n, nhưng h́nh hài không c̣n
nữa. Công việc của Thượng Đế Ngôi Hai chấm dứt và công cuộc hoá thân thiêng
liêng của Ngôi Con kết thúc. Nhưng khả năng hay tính chất có sẵn của vật chất
cũng tồn tại và ở cuối mỗi chu kỳ biểu lộ (dù được phân bổ lại dưới dạng thức
132
169. Thể dĩ thái và prana 169 đầu tiên của nó) vật chất trở thành chất liệu
thông tuệ linh hoạt, cộng thêm việc đạt được tính chất biểu hiện ra ngoại cảnh
(objectivity) và sự phát xạ tăng lên cùng hoạt động tiềm tàng tăng lên mà nó đă
có được nhờ kinh nghiệm. Chúng ta hăy minh hoạ: vật chất của Thái dương hệ, khi
chưa biến phân, là vật chất thông tuệ linh hoạt và đó là tất cả những ǵ có thể
được xác định về vật chất đó. Chất liệu linh hoạt thông tuệ này trở thành chất
liệu được phẩm định bằng một kinh nghiệm trước đây và được nhuốm màu bằng cuộc
luân hồi trước. Giờ đây, vật chất này đang khoác lấy h́nh hài (in form) tức là
Thái dương hệ không ở vào chu kỳ qui nguyên mà là ở thời kỳ biểu lộ ra ngoại
cảnh, - thời kỳ biểu lộ này được dự kiến cộng thêm đặc tính khác cho cái hàm
chứa của Thượng Đế (logoic content), đó là đặc tính bác ái và minh triết. Do đó
vào chu kỳ qui nguyên sắp tới của thái dương hệ, lúc kết thúc 100 năm của
Brahma, vật chất của Thái dương hệ sẽ được tô điểm thêm bằng sự thông tuệ linh
hoạt, và bằng bác ái linh hoạt. Điều này theo nghĩa đen là toàn bộ vật chất
nguyên tử của thái dương hệ sau rốt sẽ rung động với một bí quyết/ chủ điểm
(key) khác hơn là nó đă rung động vào buổi b́nh minh đầu tiên của cuộc biểu lộ.
Chúng ta có thể suy diễn rằng điều này có liên hệ đến Hành Tinh Thượng Đế và con
người v́ sự tương đồng vẫn đúng. Chúng ta có sự tương ứng trên một phạm vi rất
nhỏ nơi sự kiện rằng mỗi giai đoạn trong kiếp sống con người, con người lại có
được một thể xác tiến hoá hơn, có tính chất ứng đáp nhiều hơn, được điều hợp với
một khoá cao hơn, với sự tinh vi và thích hợp hơn, rung động với một mức độ khác
hơn. Ba ư tưởng này hàm chứa nhiều thông tin nếu chúng được nghiên cứu cẩn thận
và quảng diễn một cách hợp lư.
170. 170 d. Bằng sự chuyển hoá màu tím thành màu xanh.
Chúng ta không thể nói rộng hơn về điều này, chúng ta chỉ tŕnh bày một cách đơn
sơ, và dành sự khai thác điều đó cho những kẻ nghiên cứu mà nghiệp quả cho phép,
và những ai có đủ trực giác. e. Do việc triệt thoái sự sống, h́nh hài sẽ dần dần
tan ră. Ở đây, tác động phản xạ được chú ư ghi nhận v́ các Đấng Kiến Tạo vĩ đại
và các Thiên Thần là các tác nhân hoạt động trong thời kỳ biểu lộ, các Ngài duy
tŕ sắc tướng ở dạng cố kết, biến đổi, áp dụng và lưu chuyển các bức xạ prana,
cùng lúc làm mất sức thu hút của bức xạ đó, đối với vật chất của h́nh hài và
xoay sự chú tâm của các Ngài sang nơi khác. Trên con đường của ngoại linh khí
(dù là đối với nhân loại, hành tinh hoặc Thượng Đế), các thiên thần kiến tạo này
(trên cùng một Cung như là đơn vị muốn được biểu lộ hay là trên một Cung bổ túc)
được thu hút bởi ư chí và ước muốn, và hoàn thành chức vụ kiến tạo của các Ngài.
Trên con đường nội linh khí (dù là đối với nhân loại, hành tinh hoặc Thượng Đế)
các Ngài không c̣n thu hút nữa, và h́nh hài bắt đầu tan ră. Các Ngài rút lại sự
chú tâm và các mănh lực đó (cũng là các thực thể), chúng là các tác nhân phá
huỷ, có nhiệm vụ xúc tiến công việc cần thiết của các Ngài để phá vỡ h́nh hài;
các Ngài tung rải nó – như được diễn tả về mặt huyền linh – cho “bốn phương
trời” hay là cho các vùng của bốn hơi thở - chia ra và phân phối làm bốn. Ở đây
có một ẩn ngôn được nêu ra cần nên xem xét cẩn thận. Mặc dù không có h́nh ảnh
nào được phác hoạ về các cảnh tượng lúc lâm chung, cũng không có h́nh ảnh về sự
thoát ra đầy ấn tượng của thể dĩ thái đang rung động khỏi trung tâm lực trên
đầu, như có thể được báo trước, tuy nhiên 133
171. Thể dĩ thái và prana 171 một số qui luật và mục đích chi phối sự triệt
thoái này đă được nhắc đến. Chúng ta đă thấy mục đích của mỗi kiếp sống như thế
nào (dù là đối với nhân loại, hành tinh hoặc thái dương) sẽ mang lại hiệu quả và
tiến bộ với một mục tiêu rơ rệt. Mục tiêu này là sự phát triển của một h́nh hài
thích hợp hơn để cho tinh thần sử dụng; và khi mục tiêu này được đạt đến, lúc
bấy giờ Chủ Thể Nội Tâm xoay sự chú ư của ḿnh đi nơi khác và h́nh hài sẽ tan ră
sau khi đă được dùng cho nhu cầu của Chủ Thể đó. Điều này không phải lúc nào
cũng xảy ra trong mọi kiếp sống con người, mà cũng không nằm trong mỗi chu kỳ
hành tinh. Bí mật của nguyệt cầu là bí mật về sự thất bại, điều này khi được
hiểu rơ sẽ đưa đến một đời sống xứng đáng và đem lại một mục tiêu xứng đáng cho
nỗ lực có hiệu quả nhất của chúng ta. Khi nào khía cạnh chân lư này được nhận
thức một cách rộng rải, cũng như khi sự sáng suốt của nhân loại đă đầy đủ, lúc
bấy giờ sự tiến hoá sẽ tiếp diễn một cách chắc chắn và sự thất bại sẽ ít đi.
172. TIẾT MỘT ĐOẠN D HOẢ XÀ (1)(2)VÀ XƯƠNG SỐNG 1 “Kundalini, tức quyền
năng hoả xà hay luồng hoả thần bí; nó được gọi mănh lực ngoằn ngoèo hay mănh lực
đi ṿng do cách hoạt động giống h́nh xoắn ốc hay là tiến lên theo h́nh xoắn ốc
trong cơ thể người tu khổ hạnh đang phát triển quyền năng trong chính ḿnh. Đó
là một năng lực huyền bí có liên quan với điện và luồng hoả, tức là năng lực
liên quan với vũ trụ lực (fohatic power), mănh lực vĩ đại nguyên sơ vốn ẩn dưới
mọi vật chất hữu cơ và vô cơ”. H.P. Blavatsky. 2 “KundaliNi là h́nh thức tĩnh
tại của năng lượng sáng tạo trong các cơ thể (bodies) vốn là cội nguồn của mọi
năng lượng kể cả Prana… “Thuật ngữ này phát xuất từ tính từ Kundalin, hay là
“cuộn tṛn” (“coiled”). Sở dĩ gọi là “cuộn tṛn” bởi v́ nó đang yên ngủ
(sleeping), nằm cuộn tṛn; và v́ bản chất năng lực của nó đi theo đường xoắn
(spiraline)… ”Nói cách khác, thần lực (shakti) Kundalini này là thần lực mà, khi
hoạt động để tự biểu lộ, nó xuất hiện như là Vũ Trụ (Universe). Khi nói rằng nó
“cuộn tṛn”, đó là nói nó đang ở trạng thái yên nghỉ (at rest), đó là ở dưới
h́nh thức năng lượng tĩnh tại tiềm tàng… Thần lực hỏa xà trong các cơ thể cá
nhân là sức mạnh ở trạng thái yên nghỉ, hay là trung tâm tĩnh tại mà mọi h́nh
thức sự sống, dưới h́nh thức mănh lực chuyển động, đang xoay quanh”. Trích:
“Mănh Lực Hoả Xà, của Arthur Avalon. 134
173. Hỏa xà và xương sống 173 Do việc không thể tiết lộ nhiều về chủ đề tất yếu
rất là nguy hiểm này, chúng ta sẽ xem xét về chủ đề hoả xà và xương sống một
cách vắn tắt. Ở đây chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đang bàn về phần tương ứng
bằng chất dĩ thái của xương sống, chớ không phải bàn về cấu trúc của bộ xương mà
chúng ta gọi là cột xương sống. Đây là một sự kiện không được nhận ra đầy đủ bởi
những kẻ nghiên cứu vấn đề. Nhiều điều được nhấn mạnh về ba vận hà ở xương sống
tạo thành ba phần của cột xương sống. Ba vận hà này rất quan trọng có liên hệ
đến thần kinh hệ của con người, nhưng trong việc liên quan đến vấn đề đang xét,
trước hết chúng không quá quan trọng như là vận hà dĩ thái vốn là đơn vị đang
vây quanh ba vận hà này. Do đó chúng ta phải nhớ kỹ rằng chúng ta đang bàn tới
a. Vận hà dĩ thái (the etheric chaNel). b. Luồng hoả đi khắp vận hà. c. Sự liên
kết của luồng hoả này với luồng hoả bức xạ mang năng lượng của thể xác ở điểm
giữa hai bả vai. d. Việc hợp nhất tiến lên đầu của chúng. e. Sự phối hợp sau
cùng của chúng với lửa trí tuệ tiếp sinh lực cho ba trung tâm lực đỉnh đầu.
I.. HOẢẢ XXÀ VÀ BA TAM GIÁC Luồng hoả tiếp sinh lực cho tam giác trên
đầu là tương ứng cao hơn so với tam giác sinh khí, ở giữa trong cơ thể và phản
ảnh thấp của nó ở đáy xương sống. Do đó, trong con người, chúng ta có ba tam
giác quan trọng: 1. Ở đầu: tam giác gồm ba trung tâm lực chính a. Tuyến tùng quả
(pineal gland) b. Tuyến yên (pituitary body) 135
174. 174 c. Trung tâm lực trên tuỷ sống (alta major
centre). 2. Ở cơ thể : tam giác prana a. Giữa hai vai b.Trên cách mô c. Lá lách
3. Ở đáy xương sống: Ba trung tâm lực thấp a. Một điểm ở đáy cột xương sống b.
và c. Hai cơ quan sinh dục chính ở nam và nữ (1). Sự phối hợp các luồng hoả vật
chất và các luồng hoả trí tuệ đưa đến kết quả là đem lại sinh lực cho toàn thể
các nguyên tử vật chất của cơ thể. Đây là bí mật của sức chịu đựng rộng lớn của
các nhà đại tư tưởng và các người làm việc cho nhân loại. Sự phối hợp đó cũng
tạo nên kết quả trong việc kích động rất mạnh mẽ ba trung tâm lực cao trong cơ
thể là đầu, tim, cuống họng và trong việc điện hoá (electrification) vùng này
của cơ thể. Ba trung tâm lực cao này lúc bấy giờ tạo thành một trường hấp dẫn
cho luồng hoả thứ ba đi xuống, đó là lửa Tinh thần. Trung tâm lực nhiều cánh hoa
trên đỉnh đầu trở nên cực kỳ linh hoạt. Đó là trung tâm lực tổng hợp trên đầu và
là toàn bộ các trung tâm lực khác. Việc kích thích các trung tâm lực khắp cơ thể
được tiến hành song song hay tăng gấp đôi bởi việc làm sinh động cùng lúc của
hoa sen nhiều cánh. Đó là điểm tụ tập của ba luồng hoả, luồng hoả của xác thân,
của trí tuệ và của Tinh thần. Việc 1 Tôi không có ư định nhấn mạnh về khía cạnh
sinh dục của vấn đề này, v́ các cơ quan này không có liên can ǵ với các nhà
huyền linh học cả. Do đó, tôi sẽ không đưa chúng vào chi tiết. Tôi chỉ muốn nêu
ra rằng, trong sự chuyển hóa của luồng hoả ở đáy xương sống và việc xoay hướng
chú ư vào hai tam giác cao hơn đưa đến sự cứu chuộc của con người. 136
175. Hỏa xà và xương sống 175 nhất quán với chơn ngă được thành toàn khi nơi đó
được kích thích đầy đủ và việc bốc cháy xảy ra nơi đó; điều này được tăng gấp
đôi trong các hiện thể tinh anh và gây nên sự toàn mỹ cuối cùng và sự giải thoát
của Tinh Thần. Sự phối hợp các luồng hoả vật chất là kết quả của sự tăng trưởng
tiến hoá, khi được để b́nh thường, lúc ấy sự phát triển sẽ chậm chạp. Việc tiếp
nối (junction) hai luồng hoả vật chất đă được thực hiện sớm trong lịch sử con
người, và là nguyên nhân của sức khoẻ tráng kiện mà một người có đời sống trong
sạch và biết suy tư cao thượng, sẽ hưởng được một cách b́nh thường. Khi các
luồng hoả vật chất tiến qua (hợp nhất) suốt dọc vận hà dĩ thái của xương sống,
chúng tiếp xúc với lửa của trí tuệ khi lửa đó toả ra từ trung tâm lực cuống
họng. Ở đây, sự sáng sủa của tư tưởng là điều tối yếu và cần phải giải thích qua
vấn đề khá trừu tượng này. 1. Ba trung tâm lực chính ở đỉnh đầu (theo quan điểm
hồng trần) là a. Trung tâm trên tuỷ sống. b. Tuyến tùng quả. c. Tuyến yên. 2.
Chúng hợp thành tam giác trí tuệ, sau khi chúng nối tiếp với hai luồng hoả của
hai tam giác thấp hơn, nghĩa là, khi chúng trở thành tổng hợp. 3. Nhưng tam giác
trí tuệ thuần tuư trước kia phối hợp là a. Trung tâm lực cổ họng b. Tuyến tùng
quả c. Tuyến yên đây là trong giai đoạn khi con người có ư mong mỏi và tập trung
ư chí của y về khía cạnh tiến hoá, như thể kiến tạo cuộc đời của y. 137
176. 176 Luồng hoả vật chất khác (luồng hoả kép) được thu
hút lên trên, và phối hợp với luồng hoả trí tuệ qua một chỗ nối, được tạo ra ở
trung tâm lực trên tuỷ sống. Trung tâm lực này nằm ở đáy xương sọ và có một chỗ
gián đoạn mỏng manh, giữa trung tâm lực này với điểm mà nơi đó các luồng hoả vật
chất thoát ra từ vận hà xương sống. Phần công việc mà người đang phát triển năng
lực tư tưởng phải làm là tạo nên một vận hà tạm thời trong chất dĩ thái để vượt
qua chỗ gián đoạn. Vận hà này là phản ảnh trong chất hồng trần của giác tuyến
(1) mà chân ngă phải kiến tạo, để bắc qua chỗ gián đoạn giữa hạ trí với thượng
trí, giữa thượng trí (thể nguyên nhân) trên cơi phụ thứ ba của cơi trí với
nguyên tử thường tồn thượng trí trên cơi phụ thứ nhất. Đây là công việc mà tất
cả các tư tưởng gia tiến bộ đang thực hiện một cách vô thức hiện giờ. Khi chỗ
gián đoạn được hoàn toàn nối liền, cơ thể con người trở nên được phối hợp 1 A.
“Linh Hồn Thống Soái (the Master-soul) là Alaya, tức linh hồn vũ trụ (universal
soul) hay Atma, mỗi người đang có một tia như thế trong ḿnh và được giả định là
có thể tự đồng nhất hoá nó với chính ḿnh và hoà nhập chính ḿnh vào đó. B. Giác
tuyến (antaskarana) là hạ trí, con đường thông thương hay liên lạc giữa phàm ngă
với thượng trí hay nhân hồn . V́ là con đường hay là phương tiện truyền đạt, nên
lúc ĺa trần, giác tuyến bị huỷ diệt, và tàn tích của nó tồn tại dưới một h́nh
thức là Kama-rupa – tức là ma h́nh (the sheL)”. Tiếng Nói Vô Thinh, trang 71.
“Giác tuyến là con đường tưởng tượng giữa phàm ngă và vô ngă (impersonal self)
và là đường cảm giác; đó là chiến trường để chiếm ưu thế trên phàm ngă. Đó là
con đường ước vọng và khi mà ḷng ao ước sự thánh thiện c̣n tồn tại th́ giác
tuyến vẫn c̣n” Tiếng Nói Vô Thinh, trang 50, 55, 56, 88. 138
177. Hỏa xà và xương sống 177 với thể hạ trí. Lúc đó, các luồng hoả trí tuệ và
luồng hoả vật chất được hoà lẫn. Nó bổ sung cho sự hoàn hảo của sự sống phàm
ngă, và như đă nói ở trên, sự hoàn hảo này đưa con người tới cửa điểm đạo - điểm
đạo là ấn chứng đặt trên công việc đă được hoàn thành; nó đánh dấu sự kết thúc
của một chu kỳ phát triển thứ yếu và bắt đầu sự di chuyển toàn thể công việc vào
một ṿng xoắn ốc cao hơn. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng các luồng hoả từ đáy
xương sống và tam giác lá lách là các luồng hoả của vật chất (fires of maTer).
Chúng ta đừng quên điều này mà cũng đừng lầm lẫn. Chúng không có tác dụng tinh
thần và chính chúng chỉ liên hệ với vật chất ở nơi nào có các trung tâm lực. Các
trung tâm lực này luôn luôn được hướng dẫn bởi trí tuệ hay bởi sự cố gắng có ư
thức của thực thể thông linh ở bên trong; nhưng thực thể thông linh đó bị giữ
lại với các hiệu quả mà y t́m kiếm để thực hiện cho đến khi các hiện thể mà
xuyên qua đó y đang mưu t́m biểu lộ, và các trung tâm điều khiển, đem lại năng
lượng, tạo ra đáp ứng thích đáng. Vậy chỉ khi nào có sự tiến hoá thích hợp và
khi vật chất của các hiện thể này được cấp đủ năng lượng do chính các tiềm hoả
của nó để y có thể hoàn thành mục đích được duy tŕ lâu dài của y. Do đó, trở
lại sự cần thiết của việc đi lên của luồng hoả vật chất tới vị trí riêng của nó,
và việc phục hồi của nó do việc nằm yên lâu ngày và h́nh như băng hoại trước khi
nó có thể được hợp nhất với Cha Trên Trời, Thượng Đế Ngôi Ba. Ngài chính là Đấng
Thông Tuệ của chính vật chất. Lần nữa, sự tương ứng vẫn đúng. Ngay đến nguyên tử
của cơi trần cũng có mục tiêu của nó, các khai mở của nó và sự thành đạt cuối
cùng của nó. Các khía cạnh khác của vấn đề này như là các trung tâm lực và mối
liên quan của chúng với trí tuệ, lửa của Tinh Thần
178. 178 và trí tuệ, và sự phối hợp cuối cùng của ba lửa này sẽ được
bàn đến trong hai đoạn chính sắp tới. Trong đoạn này, chính chúng ta hạn chế
việc khảo sát vật chất và lửa, và đừng nên ra ngoài đề nếu không sẽ có sự lầm
lẫn. II.. VIỆC TIẾN LÊÊN CỦỦA HOẢẢ XXÀ Làm sao luồng hoả
ở đáy xương sống có thể đi lên, h́nh thức đi lên của luồng hoả (tuỳ theo Cung),
sự phối hợp của luồng hoả với lửa prana (pranic fire) và việc tiến lên hợp nhất
của chúng sau đó, là những việc thuộc về quá khứ đối với nhiều người, và may
thay, đối với nhân loại, công việc được hoàn thành mà không cần tập trung nỗ
lực. Pha trộn thứ hai với lửa trí tuệ, phải được thực hiện. Cho đến nay, hiếm có
người nào đă thành công trong việc điều khiển luồng hoả đi lên nhiều hơn một
trong số ba vận hà của cột xương sống; do đó 2/3 hiệu quả của nó trong đa số con
người vẫn c̣n bị ràng buộc vào sự kích thích của các cơ quan nhân giống của nhân
loại. Chỉ khi nào luồng hoả chạy ṿng để lên một vận hà khác không bị ngăn trở,
th́ sự phối hợp hoàn toàn với lửa trí tuệ được thực hiện, và chỉ khi luồng hoả
tiến lên theo dạng h́nh học khắp cả ba vận hà với tác động đồng thời và với rung
động đồng nhất – th́ luồng hoả xà thực sự mới được khơi hoạt đầy đủ, và do đó có
thể hoàn thành công việc thanh lọc của nó qua việc đốt cháy mạng lưới giam giữ
và việc đốt các cấu tử tách rời. Khi điều này được thành đạt, vận hà tam phân
trở thành vận hà duy nhất. Đó là điều nguy hiểm. Không c̣n điều ǵ liên quan đến
đề tài này có thể được truyền đạt thêm. Kẻ nào hướng các nỗ lực của ḿnh vào
việc kiểm soát các luồng hoả vật chất (chắc chắn là có nguy hiểm), là đang đùa
với lửa, theo nghĩa đen, việc đó có thể huỷ diệt y. Y không nên liếc mắt nh́n ra
sau, mà nên nâng tầm mắt lên 139
179. Hỏa xà và xương sống 179 các cơi, nơi mà Tinh Thần bất tử của y đang ngự,
và lúc bấy giờ bằng kỷ luật tự giác, kiểm soát trí tuệ và dứt khoát thanh luyện
các thể vật chất, dù là thuộc thể tinh anh hoặc thể hồng trần, làm cho chính
ḿnh thích hợp để trở thành một hiện thể cho sự giáng sinh thiêng liêng và dự
vào cuộc Điểm Đạo đầu tiên. Khi Chúa – hài - đồng (Christ-child) (theo cách diễn
tả hoa mỹ của Thiên Chúa giáo) được sinh ra trong tâm- động (cave of the heart)
lúc bấy giờ vị khách thiêng liêng đó có thể kiểm soát một cách hữu hiệu các thể
vật chất thấp bằng tâm trí được thánh hoá. Chỉ khi nào thể Bồ đề đă ngày càng
kiểm soát được phàm ngă, xuyên qua cơi trí tuệ (do đó cần kiến tạo giác tuyến),
phàm ngă sẽ đáp ứng với những ǵ ở bên trên, và các luồng hoả bên dưới tiến lên,
phối hợp với hai luồng hoả trên. Chỉ khi nào Tinh Thần, do quyền năng của tư
tưởng, kiểm soát được các hiện thể vật chất, th́ sự sống nội tâm mới chiếm lấy
đúng vị trí của nó, bấy giờ, Thượng Đế nội tâm mới toả chiếu và rực sáng cho đến
khi h́nh hài bị che mất đi, “Thánh đạo ngày càng chiếu diệu cho đến lúc Ngày huy
hoàng thuộc về chúng ta” 140
180. TIẾT MỘT ĐOẠN E CHUYỂN ĐỘNG TRÊN CƠI TRẦN VÀ CƠƠI CẢẢM DDỤỤC I.. CÁC NHẬN XXÉÉT SSƠƠ KKHỞỞI Tôi xin nêu ra một cách sơ lược và
nhấn mạnh sự kiện rằng hoạt động mà chúng ta đang xét đến là hoạt động do ở lửa
tiềm tàng trong chính vật chất, một hoạt động vốn là đặc điểm hàng đầu và là
tính chất cơ bản của Cung Nguyên Thuỷ, tức cung Thông Tuệ Linh Hoạt. Nói cách
khác đó là khả năng nổi bật của Thượng Đế Ngôi Ba, của Brahma được xem như Đấng
Sáng Tạo và khả năng này là sản phẩm hay là kết quả của cuộc biểu lộ trước đây.
Mỗi một trong ba Ngôi Thượng Đế, khi ở vào thời kỳ biểu lộ và hiện thân như thế,
sẽ tiêu biểu cho một tính chất nào đó chiếm ưu thế hơn các tính chất khác. Mỗi
Ngôi Thượng Đế, dù nhiều dù ít cũng tiêu biểu cho Ba Ngôi, nhưng mỗi Ngôi biểu
thị cho một trong Ba Ngôi một cách sâu xa, để rồi có thể được nhận ra như là
chính Ngôi đó. Chẳng hạn với đường lối như nhau, các Chân Thần lâm phàm khác
nhau đón nhận một rung động vốn nằm trong giới hạn chính yếu của các Chân Thần
đó, dù Chân Thần cũng có thể có được các rung động thấp hơn phụ 141 142
181. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 181 thuộc vào chúng. Chúng ta hăy
nhận thức rơ điều này, v́ chân lư được biểu hiện chính là chân lư căn bản. 1.
Mục đích tam phân 2. Chức năng tam phân 3. Cách hoạt động tam phân. Thượng Đế
Ngôi Ba tức là Brahma, được tiêu biểu bằng trí tuệ linh hoạt; phương cách hành
động của Ngài là những ǵ mà chúng ta gọi là sự quay, hay sự xoay ṿng có tính
toán của vật chất thuộc Thái dương hệ, trước nhất dưới h́nh thức một tổng thể vĩ
đại, phát khởi chuyển động loại vật chất bị hạn chế bởi toàn bộ ṿng giới hạn và
thứ hai là phân hoá nó, theo bảy tốc độ hay bảy mức rung động thành ra bảy cơi.
Ở mỗi một trên các cơi này, tiến tŕnh được nối tiếp và vật chất của bất cứ cơi
nào trong ṿng giới hạn của cơi đó, trước tiên biểu lộ dưới h́nh thức tổng thể,
rồi kế đó dưới h́nh thức bảy biến phân. Biến phân vật chất này được tiến hành do
chuyển động quay và được kiểm soát bởi Định Luật Tiết Kiệm (một trong các định
luật vũ trụ) mà chúng ta sẽ bàn tới sau này, chỉ tạm ngừng ở đây để nói rằng
Định Luật Tiết Kiệm này có thể được xem như yếu tố kiểm soát trong sự sống của
Thượng Đế Ngôi Ba. Do đó : a. Mục tiêu của Ngài là phối hợp hoàn hảo giữa Tinh
thần và vật chất. b. Chức năng của Ngài là vận dụng vật chất đă biểu lộ
(prakriti) để làm cho nó thích hợp hay tương xứng với sự đ̣i hỏi và các nhu cầu
của Tinh thần. c. Phương cách hành động của Ngài là nhờ chuyển động quay
(rotary) hay là nhờ sự xoay (revolution) của vật chất để 143
182. 182 tăng thêm tính linh động/ tính hoạt động và nhờ đó
khiến cho vật chất dễ uốn nắn hơn(1). Tất cả ba quan niệm này đều do Định luật
Tiết Kiệm chi phối, đó là Định luật Thích Nghi (Law of Adap-tation) trong thời
gian và không gian, hay là cách làm dễ nhất. Cách làm dễ nhất này là những ǵ
được t́m kiếm và theo đuổi ở khía cạnh vật chất của cuộc sống. Một cách ngẫu
nhiên, Brahma biểu lộ Ư chí, bởi v́ Ngài là thiên ư (purpose) và Bác ái, bởi v́
trong Thái dương hệ này bác ái là đường lối ít đối kháng nhất. Quả thật đây là
một ư tưởng huyền bí đáng được xem xét, tuy nhiên phải nhớ rằng Ngài chủ yếu là
hoạt động và thông tuệ với mục đích thích nghi và đó là đặc điểm chính của Ngài.
Thượng Đế Ngôi Hai tức là Vishnu, Cung Minh Triết Thiêng Liêng, nguyên khí Bồ đề
vĩ đại đang t́m cách phối hợp với nguyên khí Thông Tuệ được đặc trưng bởi Bác
Ái. Hoạt động của Ngài là hoạt động mà chúng ta có thể gọi là xoắn ốc theo chu
kỳ (spiral cyclic). Chính Ngài tận dụng chuyển động quay của mọi nguyên tử, Ngài
đưa thêm vào đó h́nh thức chuyển động riêng của Ngài hay là chuyển động xoắn ốc
có định kỳ, và do sự tuần hoàn theo một quỹ đạo hay là một đường gần h́nh cầu
(đường này chạy ṿng theo một điểm tập trung ở giữa bằng một ṿng xoắn ốc bao
giờ cũng đi lên), hai kết quả được tạo ra: a. Ngài tập hợp các nguyên tử lại
thành h́nh hài. 1 Có lẽ nhờ thiên tính do Ngôi Ba đem lại này mà khi nhiệt độ
của vật chất tăng cao (tức là chuyển động quay chung quanh nhân của âm điện tử
tăng lên) thân tre cong được uốn thẳng lại khi hơ nóng; kim loại nấu chảy được
đúc thành h́nh dạng theo ư muốn…. (ND)
183. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 183 b. Nhờ bởi các h́nh hài này,
Ngài có được sự tiếp xúc cần thiết và phát triển tâm thức đầy đủ trên năm cơi
tiến hoá của con người, dần dần cải thiện và thanh luyện các h́nh hài khi mà
Tinh Thần Bác Ái hay là Ngọn Lửa Thiêng bao giờ cũng tiến lên theo h́nh xoắn ốc,
hướng về mục tiêu của nó, mục tiêu đó cũng chính là cội nguồn từ đó nó phát
xuất. Các h́nh hài này là toàn thể mọi khối cầu (spheres) hay các nguyên tử
trong Thái dương hệ hay trong ṿng giới hạn thái dương và trong bảy biến phân
chính yếu của chúng, chúng là các bầu của bảy Chơn Linh (Spirits), hay bảy Hành
Tinh Thượng Đế. Tất cả các bầu nhỏ hơn ở cấp độ dưới các bầu chính yếu này, gồm
mọi mức độ biểu lộ xuống đến tinh hoa hành khí trên cung giáng hạ tiến hoá (1).
Chúng ta cần nhớ rằng trên Đường Tiến Hoá giáng hạ, tác động của Brahma được cảm
nhận đầu tiên, khi đang t́m kiếm con đường dễ nhất. Trên Đường Tiến Hoá Thăng
Thượng, công việc của Thượng Đế Ngôi Hai được cảm nhận bắt đầu từ một điểm trong
thời gian và không gian đang ẩn giấu bí nhiệm của dăy thứ hai, nhưng đang t́m
thấy điểm rung động được gia tốc của nó, hay là sự hợp nhất của hai cách biểu lộ
- chuyển động quay xoắn ốc có chu kỳ - ở phần giữa của những ǵ chúng ta gọi là
dăy thứ ba. Điều này, sau hết, chính là sự phối hợp hoạt động của Brahma với
diễn 1 Tinh hoa Hành khí được xem như bao gồm mọi tập hợp vật chất (aGregations
of maTer), ở một trong sáu cơi phụ phi nguyên tử của cơi trí và cơi dục vọng –
chính các tập hợp này không được dùng như là các h́nh hài dành cho bất cứ thực
thể nào ẩn bên trong, mà được dùng như là vật chất nhờ đó các h́nh hài này có
thể được tạo thành. 144
184. 184 tŕnh hướng thượng của Vishnu. Chúng ta có sự
tương ứng với điều này trong toàn bộ các hiệu quả xảy ra trong các căn chủng thứ
hai và thứ ba. Hoạt động của Thượng Đế Ngôi Hai được xúc tiến theo Định Luật Hút
của vũ trụ. Đối với một trong các phân chi của nó, Định Luật Tiết Kiệm có một
định luật phụ về sự phát triển nổi bật, mệnh danh là Định Luật Đẩy. Do đó, Định
Luật Hút và Định Luật Tiết Kiệm vũ trụ là lư do tồn tại (nh́n từ một khía cạnh)
của sự đẩy vĩnh cửu đang diễn ra v́ Tinh Thần bao giờ cũng tự t́m cách thoát ly
ra khỏi h́nh hài. Trạng thái vật chất luôn luôn đi theo con đường dễ dàng nhất
và đẩy lùi mọi khuynh hướng tạo thành nhóm, trong khi đó, Tinh Thần, do Định
Luật Hút chế ngự, bao giờ cũng t́m cách tự tách ḿnh ra khỏi vật chất, bằng
phương pháp thu hút một loại vật chất ngày càng thích hợp hơn, trong tiến tŕnh
phân biệt giữa thực với hư và đi từ ảo ảnh này đến ảo ảnh khác cho đến khi các
nguồn vật chất đă được tận dụng đầy đủ. Sau rốt, Chủ Thể Nội Tâm của h́nh hài
cảm nhận được sự thôi thúc hoặc sức lôi cuốn hấp dẫn của chính Bản Ngă của nó.
Thí dụ, Chân Thần nhập thế lạc mất vào trạng thái hỗn độn của ảo ảnh, cuối cùng
bắt đầu nhận ra (dưới Định Luật Thu Hút) tần số rung động của chính Chân Ngă của
nó có vai tṛ đối với nó y như Thượng Đế của chính hệ thống của Ngài, tức là vị
Thượng Đế riêng của nó trong ba cơi thu thập kinh nghiệm. Sau này, khi mà chính
Chân Ngă thể được nhận ra như ảo ảnh, khi mà tần số rung động của Chân Thần được
cảm nhận và sự sống thiêng liêng (jiva) đang tác động theo cùng một định luật,
vạch lại con đường riêng của nó xuyên qua vật chất của hai cơi tiến hoá siêu
nhân loại, cho đến khi nó hoà nhập vào trong chính bản thể của nó. 145
185. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 185 Do đó : a. Mục tiêu của Thượng
Đế Ngôi Hai là tạo ra tâm thức, phải được hoàn thành trong việc hợp tác với
Thượng Đế Ngôi Ba. b. Chức năng của Ngài là kiến tạo các h́nh hài để trở thành
các dụng cụ thu thập kinh nghiệm của Ngài. c. Phương cách hành động của Ngài là
tiến hành công việc theo chu kỳ và theo đường xoắn ốc, ṿng quay của bánh xe sự
sống trong các chu kỳ được sắp xếp sẵn cho một mục đích đặc biệt và sự tiến
triển của các bầu vật chất này chung quanh một trung tâm cố định, bên trong phạm
vi thái dương. Ba quan niệm này do Định luật Hút chế ngự hay là định luật đang
chế ngự sự tương tác, hay là tác động và phản tác động. a. Giữa Thái Dương và
sáu huynh đệ của Thái Dương. b. Giữa bảy cơi xoay quanh của Thái Dương hệ. c.
Giữa mọi vật trong chất liệu của mọi h́nh hài, chính các bầu vật chất và tập hợp
của các bầu đó đang là hiện thân trong các h́nh hài của các bầu khác nữa. Thượng
Đế Ngôi Một (The First Logos). Thượng Đế Ngôi Một là Cung Ư Chí Vũ Trụ. Phương
cách hoạt động của Ngài theo nghĩa đen là tiến về trước của ṿng giới hạn thái
dương xuyên qua không gian, và cho đến cuối kỳ đại khai nguyên này hay ngày của
Brahma (chu kỳ Thượng Đế) chúng ta sẽ không thể nhận thức được trạng thái thứ
nhất tức trạng thái ư chí hay quyền năng theo đúng bản chất của nó. Ngày nay,
chúng ta biết trạng thái đó dưới h́nh thức ư chí tồn tại (wiL to exist), biểu
lộ qua vật chất của các h́nh hài (Cung Nguyên Thuỷ và Cung Thiêng Liêng), và
chúng ta biết trạng thái đó 146
186. 186 như là những ǵ mà theo một cách huyền bí nào đó,
nối liền Thái dương hệ với trung tâm vũ trụ của Thái dương hệ. Theo một cách mà
chúng ta không thể nhận thức được, Thượng Đế Ngôi Một thu nhặt ảnh hưởng của các
tinh toà (cḥm sao) khác. Khi trạng thái thứ nhất này được hiểu rơ hơn (trong kỳ
đại khai nguyên sắp đến) công việc của bảy Đấng Rishis của cḥm Đại Hùng Tinh
(Great Bear)(1) và ảnh hưởng tối thượng của sao Sirius sẽ được hiểu rơ ; trong
kỳ biểu lộ hiện tại của Đấng Con, hay trạng thái Vishnu, chúng ta liên hệ chặt
chẽ hơn với Cḥm Sao Rua (Pleiades) và ảnh hưởng của chúng xuyên qua Thái dương,
và liên hệ với hành tinh chúng ta qua Kim Tinh (Venus). Vấn đề về Thượng Đế Ngôi
Một, chỉ biểu lộ liên quan với hai Ngôi kia trong Thái dương hệ là một bí nhiệm
sâu xa mà ngay cả những Đấng đă đạt đến mức điểm đạo thứ sáu cũng không hiểu
được tường tận. Thượng Đế Ngôi Một biểu hiện cho “ư chí muốn sống”(“wiL to
live”) và chính là qua phương tiện của Ngài mà các Trí Tinh Quân (Manasaputras)
xuất hiện ra ngoại cảnh liên quan đến các huyền giai nhân loại và thiên thần.
Trong Thái dương hệ này, sự phối hợp của Cung Minh Triết Thiêng Liêng và Cung
Nguyên Thuỷ, tức cung chất liệu thông tuệ hợp thành cuộc tiến hoá song đôi vĩ
đại; bối cảnh của cả hai Thực Thể Thông Linh vũ trụ này là một Thực Thể Thông
Linh khác, Ngài là hiện thân của ư chí và Ngài là vị 1 “Người theo Ấn giáo đặt
bảy vị Thánh Triết (Rishis) cổ sơ trong cḥm sao Đại Hùng (Great Bear). Các
nguyên mẫu (prototypes) hay cội nguồn làm sinh động của bảy Hành Tinh Thượng Đế,
được xem như là bảy Đấng Cao Cả (Existences) đang tác động qua bảy Ngôi sao của
Cḥm Sao Con Gấu”. GLBN I, 668.
187. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 187 vận dụng h́nh hài – dù không
phải là h́nh hài của bất cứ thực thể nào khác hơn là các Đại Thiên Thần Kiến Tạo
và các huyền giai nhân loại trong thời gian và không gian. Ngài là nguyên khí
sinh động; trạng thái ư chí muốn sống của bảy Huyền giai. Tuy nhiên, bảy Huyền
giai này (như bà Blavatsky nói) là tia sáng minh triết thất phân, con rồng dưới
bảy dạng thể (GLBN I, 100-108) (1). Đây là một bí nhiệm sâu xa và chỉ một đầu
mối về điều đó có thể được con người t́m thấy vào lúc này trong việc chiêm
ngưỡng chính bản thể của ḿnh trong ba thế giới biểu lộ của con người. Giống như
Thượng Đế chúng ta đang t́m cách biểu lộ ra ngoại cảnh qua Thái dương hệ của
Ngài dưới h́nh thức tam phân của nó, trong đó Thái dương hệ hiện nay là Thái
dương hệ thứ hai, cũng vậy, con người mưu t́m sự biểu lộ ra bên ngoài qua ba thể
của ḿnh – thể xác, thể cảm dục và thể hạ trí. Hiện nay, con người đang an trụ
vào thể cảm dục, hay là vào trạng thái thứ hai của y, giống như Thượng Đế chưa
phân hoá đang an 1 Trong tác phẩm Five Years of Theosophy, trang 102, SuBa Row
nói: “Theo qui tắc chung, khi nào bảy thực thể được nhắc đến trong khoa học
huyền bí cổ Ấn Độ có liên quan đến bất luận cái ǵ, bạn phải giả dụ rằng bảy
thực thể này xuất hiện từ ba thực thể đầu tiên; và khi đó một lần nữa các thực
thể này tiến hoá ra từ một thực thể duy nhất hay là Chân Thần. Lấy một thí dụ
quen thuộc, bảy tia sáng màu trong tia sáng Mặt trời tiến hoá ra từ ba tia có
màu nguyên thuỷ; ba màu nguyên thuỷ này cùng hiện hữu (coexist) với bốn màu thứ
cấp trong tia sáng mặt trời. Một cách tương tự, ba thực thể nguyên thuỷ vốn đưa
con người vào hiện tồn, cùng hiện hữu trong con người với bốn thực thể thứ cấp,
các thực thể này xuất phát từ các kết hợp khác với ba thực thể nguyên thuỷ”.
GLBN I, 190, 191) 147
188. 188 trụ vào trạng thái thứ hai/ ngôi hai của Ngài.
Theo thời gian và không gian, như hiện nay chúng ta nhận thấy, toàn thể các Chân
Thần nhập thế đều bị chế ngự bởi cảm giác, xúc động và dục vọng chứ không phải
bởi ư chí, tuy thế, đồng thời trạng thái ư chí thống ngự sự biểu lộ, v́ Chơn
ngă, là cội rễ của phàm ngă, biểu lộ ư chí bác ái. Điều khó hiểu là ở chỗ thể
trí hữu hạn không thể hiểu được ư nghĩa của sự biểu lộ tam phân này, nhưng mà
bằng sự trầm tư nghiền ngẫm về Phàm ngă và mối liên hệ giữa Phàm ngă với Chân
ngă vốn là trạng thái bác ái và mặc dù có liên quan với sự biểu lộ trong ba cơi
thấp, chân ngă cũng là trạng thái ư chí, sẽ hiện ra một ít ánh sáng yếu ớt trên
cùng các vấn đề được nêu lên về Thượng Đế (Deity), hay là được mở rộng từ các
phạm vi tiểu vũ trụ đến phạm vi đại vũ trụ. Trạng thái Đại Thiên Thần hay Thượng
Đế Ngôi Một (biểu hiện cho ư chí vũ trụ) được kiểm soát bởi Định Luật Tổng Hợp,
tức định luật vũ trụ chi phối khuynh hướng hợp nhất; chỉ trong trường hợp này,
không phải là sự hợp nhất của vật chất và Tinh Thần, mà là sự hợp nhất của 7
thành 3 rồi thành 1. Ba h́nh ảnh này chủ yếu thay thế cho Tinh Thần, cho phẩm
tính, cho nguyên khí chớ không phải chủ yếu cho vật chất, mặc dù vật chất vốn
được truyền linh hứng bằng tinh thần, lại phù hợp hơn hết. Định luật Tổng hợp có
liên hệ trực tiếp với Đấng Duy Nhất, Đấng này c̣n cao cả hơn Thượng Đế của chúng
ta và là định luật kiểm soát được Ngài áp dụng vào Thượng Đế của Thái dương hệ
chúng ta. Đây là một mối liên quan về tinh thần hướng tới ư niệm trừu tượng hay
là hướng đến sự tổng hợp các yếu tố tinh thần sẽ đưa đến kết quả trong việc trở
về có ư thức của chúng (toàn thể điểm then chốt ẩn dưới từ ngữ “có ư thức”). Đối
với điểm tổng hợp 148
189. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 189 vũ trụ hay là điểm hợp nhất
với cội nguồn của các Ngài. Cội nguồn của các Ngài là Đấng Bất Khả Tư Nghị (One
About Whom Naught May Be Said - tức Vũ Trụ Thượng Đế -ND), như trước đây chúng
ta đă thấy. Do đó, liên quan đến Thượng Đế Ngôi Một, chúng ta có thể tóm tắt như
đă tóm tắt với các Thượng Đế Ngôi khác : a. Mục tiêu của Ngài là tổng hợp các
Chơn Linh (Spirits) đang hoạch đắc tâm thức qua sự biểu lộ, c̣n Ngài, nhờ kinh
nghiệm trong vật chất, đang có được phẩm đức (quality). b. Chức năng của Ngài là
nhờ vào ư chí, giữ cho các Chơn Linh đó biểu lộ trong thời kỳ mong muốn, và sau
đó tách các Chơn Linh này ra, và phối hợp lại với nguồn cội tinh thần của các
Ngài. Do đó về căn bản, cần nhớ rằng Thượng Đế Ngôi Một kiểm soát các Thực Thể
vũ trụ hay các Thực Thể ngoài Thái dương hệ; Thượng Đế Ngôi Hai kiểm soát các
thực thể thuộc thái dương (solar entities), Thượng Đế Ngôi Ba kiểm soát các thực
thể thuộc thái âm (lunar entities) và các thực thể tương ứng của các thực thể
này ở nơi khác trong Thái dương hệ. Không nên đi quá xa vào chi tiết ở qui tắc
này chừng nào mà trí tuệ con người c̣n ở mức độ hiện tại. Bí nhiệm ẩn dưới việc
hiểu được tất cả những ǵ được xúc tiến trong sự hợp tác thiêng liêng vốn có nền
tảng của nó bên ngoài Thái dương hệ. Như thế, Thượng Đế Ngôi Một cũng được gọi
là Đấng Huỷ Diệt v́ Ngài là ư niệm trừu tượng khi xét từ dưới lên. Công việc của
Ngài là tổng hợp Tinh thần với Tinh thần, sự trừu xuất cuối cùng của tinh thần
ra khỏi vật chất và sự hợp nhất của tinh thần với cội nguồn vũ trụ của chúng.
Như vậy, Ngài cũng là Đấng tạo ra chu kỳ qui nguyên, hay là sự tan ră h́nh hài –
h́nh hài mà từ đó Tinh Thần đă tách ra. 149
190. 190 Nếu chúng ta đưa sự tương đồng xuống đến tiểu
thiên địa, để có một cái nh́n thoáng qua về cùng ư tưởng, và nhờ đó, có khả năng
nhận thức dễ dàng hơn nhiều. Chân Ngă (đối với con người trên cơi trần cũng là
những ǵ mà Thượng Đế có được đối với Thái dương hệ của Ngài) cũng là ư chí linh
hoạt, kẻ phá huỷ h́nh hài, tác nhân tạo nên tan ră và là Đấng Duy Nhất triệt
thoái con người tâm linh nội tại ra khỏi ba thể của y; y thu hút chúng vào chính
y, trung tâm của hệ thống bé nhỏ của y. Chơn ngă nằm bên ngoài vũ trụ xét về con
người ở trên cơi trần và khi hiểu được điều này, có thể đưa đến việc làm sáng tỏ
vấn đề vũ trụ thực sự, bao hàm Thượng Đế và “các linh hồn trong ngục tù” (“the
spirits in prison”) như Cơ Đốc giáo đă diễn tả. c. Cách hành động của Ngài là
luỹ tiến; ư chí nằm sau sự phát triển tiến hoá là ư chí của Ngài và chính Ngài
hướng dẫn Tinh Thần tiến lên thông qua vật chất cho đến khi rốt cuộc Tinh Thần
thoát khỏi vật chất, nhờ hoàn thành được hai việc: Thứ nhất, gia thêm phẩm chất
vào phẩm chất, và do đó nổi bật lên, cộng thêm với khả năng thu lượm được mà
kinh nghiệm đă sản sinh ra. Thứ hai, tăng gia độ rung động của chính vật chất
bằng năng lượng riêng của nó, để cho vật chất vào thời qui nguyên và lẩn khuất
sẽ có được hai đặc tính chính, - đó là tính hoạt động, tức là kết quả của Định
Luật Tiết Kiệm và tính thu hút kép (dual magnetism), vốn sẽ là kết quả của Định
Luật Thu Hút. Cả ba quan niệm này đều do Định Luật Tổng Hợp chế ngự, đó là định
luật về ư chí hiện tồn có mạch lạc, không những kéo dài trong thời gian và không
gian mà c̣n trong một chu kỳ rộng lớn hơn. 150
191. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 191 Các phát biểu sơ khởi này đă
được đưa ra với nỗ lực chứng tỏ sự tổng hợp của tổng thể. Khi sử dụng ngôn từ,
ta ắt phải chịu hạn chế và không thể tŕnh bày hết ư tưởng, các từ ngữ theo
nghĩa đen đều che giấu các ư tưởng, làm giảm sự trong sáng của chúng và làm cho
chúng mơ hồ do cách diễn tả. Công việc của Thượng Đế Ngôi Hai và Thượng Đế Ngôi
ba (hiện là việc tạo ra biểu lộ ngoại cảnh của Tinh Thần bản thể) nói chung th́
dễ hiểu hơn là công việc huyền bí của Thượng Đế Ngôi Một, vốn là công việc của ư
chí làm sinh động. Trong các thuật ngữ nói về lửa, một khía cạnh diễn tả khác có
thể làm sáng tỏ. Thượng Đế Ngôi Ba là lửa trong vật chất. Ngài cháy bằng sự ma
sát và đạt tốc độ và gia tốc mức rung động bằng sự quay của các khối cầu, như
vậy, sự tương tác của chúng tạo nên sự ma sát lẫn nhau. Thượng Đế Ngôi Hai là
lửa Thái Dương. Ngài là lửa của vật chất và lửa điện của Tinh Thần, được trộn
lẫn, tạo ra trong thời gian và không gian, loại lửa mà chúng ta gọi là lửa thái
dương. Ngài là đặc tính của lửa ngọn (flame), hay là ngọn lửa chính yếu được tạo
ra bởi sự phối hợp này. Sự tương ứng với lửa này có thể nhận thấy được trong lửa
bức xạ của vật chất, thí dụ, trong sự phóng phát từ mặt trời trung ương, từ một
hành tinh hay từ con người, mà sự phóng phát sau cùng này được chúng ta gọi là
từ điển. Sự phóng phát của con người, hay rung động đặc biệt, là kết quả của sự
phối hợp tinh thần và vật chất, cùng với sự thích ứng tương đối của vật chất,
hay h́nh hài, đối với sự sống bên trong. Thái dương hệ biểu lộ hay mặt trời đang
biểu lộ là kết quả sự phối hợp của Tinh Thần (lửa điện) với vật chất (lửa do ma
sát) và
192. 192 sự phóng phát của Đấng Con, trong thời gian và
không gian, th́ tuỳ thuộc vào sự thích ứng của vật chất và của h́nh hài đối với
sự sống bên trong. Thượng Đế Ngôi Một là lửa điện, lửa của Tinh Thần thuần
khiết. Tuy nhiên, trong lúc biểu lộ, Ngài là Đấng Con, do sự phối hợp với vật
chất (Mẹ) Con được tạo ra bởi Đấng ta đă biết. “Ta và Cha Ta là Một” (Thánh
Kinh. John 10:30) là câu phát biểu huyền linh nhất trong Thánh Kinh Cơ Đốc giáo,
v́ không những liên quan đến sự hợp nhất của con người với cội nguồn của y, tức
là Chân Thần, xuyên qua Chân ngă, mà c̣n liên quan đến sự hợp nhất của mọi sự
sống với cội nguồn của nó, tức trạng thái ư chí, hay Thượng Đế Ngôi Một. Bây giờ
chúng ta sẽ nỗ lực để hạn chế chính chúng ta một cách chặt chẽ vào vấn đề lửa
trong vật chất, và tác dụng tích cực của nó trên các thể mà nó là yếu tố linh
động, và trên các trung tâm lực đầu tiên đến dưới sự kiểm soát của nó. Theo
chúng ta được chỉ dạy, và theo nhận thức thông thường, tác dụng của nhiệt trong
vật chất là tạo ra hoạt động mà chúng ta gọi là sự quay hay là xoay ṿng của các
khối cầu. Một số cổ thư, trong đó có vài quyển mà phương Tây chưa biết đến, có
dạy rằng toàn thể ṿm trời là một bầu bao la, đang xoay ṿng một cách chậm chạp
giống như một bánh xe kỳ diệu và trong lúc xoay tṛn, mang theo với nó, toàn thể
các cḥm sao và các vũ trụ được chứa bên trong. Đây là một phát biểu không thể
được kiểm chứng bằng trí óc hữu hạn của con người ở giai đoạn hiện nay, và với
các thiết bị khoa học hiện nay của con người, nhưng, (giống như tất cả các phát
biểu về huyền học) nó chứa đựng trong đó hột giống của tư tưởng, mầm mống của
các chân lư và manh mối đưa đến bí nhiệm của vũ trụ. Ở đây, chỉ cần nói rằng,
chuyển 151
193. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 193 động quay của các bầu hành
tinh trong chu vi Thái dương hệ là một sự kiện về huyền học đă được nhận biết và
các chỉ dẫn đều có giá trị để chứng tỏ rằng chính khoa học cũng nêu lên giả
thuyết rằng ṿng hạn định thái dương cũng quay một cách tương tự trong địa điểm
ấn định của nó giữa các cḥm sao. Nhưng vào lúc này, chúng ta sẽ không bàn đến
khía cạnh này của vấn đề, mà sẽ khảo sát chuyển động quay của các bầu hành tinh
trong Thái dương hệ và của cái tích chứa của nó - tức là tất cả các bầu nhỏ hơn
ở mọi cấp độ - luôn luôn nhớ phân biệt một cách rơ ràng trong trí rằng hiện nay
chúng ta chỉ đơn thuần bàn về đặc tính cố hữu của chính vật chất, chớ không bàn
về vật chất trong sự hợp tác với đối cực của nó, tức Tinh Thần, sự hợp tác này
đưa đến chuyển động xoắn ốc có chu kỳ.
II.. CÁC HIỆU QQUẢẢ CỦỦA CHUYỂN ĐỘNG QQUAY.. Mọi bầu thế giới trong cơ thể đại thiên địa đều
xoay tṛn. Chuyển động quay này tạo nên một số hiệu quả có thể được kể ra như
sau : 1. Sự phân ly sinh ra do chuyển động quay. Bằng tác động này, mọi bầu hành
tinh trở nên phân hoá, và như chúng ta biết, tạo thành các đơn vị nguyên tử như
sau : a. Thái dương hệ, được nhận thức như một nguyên tử vũ trụ, tất cả cái được
gọi là nguyên tử trong chu vi của nó được xem như là phân tử (molecular). b. Bảy
“planes”, được xem như bảy bầu hành tinh bao la, đang quay theo vĩ độ
(latitudinaLy) bên trong chu vi mặt trời. c. Bảy cung, được xem như bảy h́nh
thức che giấu của các Chơn Linh (Spirits), chính các dải màu gần như h́nh cầu
đang quay theo kinh độ (longitudinaLy) và tạo thành (liên quan 152
194. 194 với bảy planes, một mạng lưới rộng lớn đan kết vào
nhau. Hai tập hợp các bầu hành tinh này (gồm các planes và các cung) hợp thành
toàn thể Thái dương hệ và tạo ra dạng thức gần h́nh cầu của nó. Vào lúc này,
chúng ta hăy đưa tư tưởng chúng ta ra khỏi các tâm thức đang làm linh hoạt ba
loại bầu hành tinh này và tập trung chú tâm của chúng ta vào việc nhận thức rằng
mỗi “plane” là một bầu vật chất rộng lớn được kích hoạt bằng tiềm nhiệt và đang
tiến về hay đang quay theo một hướng riêng biệt. Mỗi tia sáng bất luận là màu ǵ
cũng là một bầu vật chất vô cùng nhỏ đang quay theo một hướng đối nghịch với
hướng của các bầu vật chất rộng lớn. Do tác động hỗ tương của chúng, các tia này
tạo ra hiệu quả phát xạ lên lẫn nhau. Như thế, do sự tới gần của tiềm nhiệt
trong vật chất và sự tương tác của nhiệt đó trên các bầu hành tinh khác mà toàn
bộ được tạo ra những ǵ mà chúng ta gọi là “lửa do ma sát”. Liên quan với hai
loại bầu hành tinh này, bằng cách minh hoạ và với mục đích minh giải, chúng ta
có thể nói rằng: a. Các bầu vật chất (planes) lớn xoay từ đông sang tây. b. Các
tia sáng (rays) xoay từ bắc đến nam. Ở đây, các nhà nghiên cứu phải ghi nhớ kỹ
rằng, chúng ta không xét các điểm theo không gian, chúng ta chỉ đơn thuần phân
biệt và dùng các từ để làm cho một ư tưởng trừu tượng trở thành dễ hiểu hơn.
Theo quan điểm về toàn thể các tia sáng và các bầu vật chất rộng lớn, không có
bắc, nam, đông, tây ǵ cả. Nhưng ở điểm này xảy ra một sự tương ứng và một điểm
thực sự lư thú, dù là cũng phức tạp. Do sự rất phối hợp này, công việc của Bốn
Nghiệp Quả Tinh Quân có thể thành tựu; tứ nguyên (the quaternary) và toàn bộ bốn
vị 153
195. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 195 có thể được xem như là một
trong các phối hợp căn bản của vật chất, tạo ra bằng hai sự xoay ṿng của các
bầu vật chất rộng lớn và các tia sáng (planes and rays). Bảy bầu vật chất lớn,
tương tự các nguyên tử xoay trên trục riêng của chúng, và phù hợp với những điều
được đ̣i hỏi của mọi sự sống nguyên tử. Bảy phạm vi (spheres) của bất cứ cơi
(plane) nào mà chúng ta gọi là cơi phụ (subplanes) cũng tương ứng với hệ thống;
mỗi hệ thống có bảy bánh xe của nó đang quay hay các bầu vật chất to lớn xoay
ṿng nhờ năng lực có sẵn riêng của chúng, do bởi tiềm nhiệt - tức là nhiệt của
vật chất mà theo đó chúng được tạo thành. Các h́nh cầu hay các nguyên tử của bất
luận h́nh thể nào, từ h́nh thể Thượng Đế, mà chúng ta đă bàn đến phần nào, xuống
đến cực nguyên tử hồng trần (ultimate physical atom) và vật chất phân tử đang
kiến tạo thể xác, tỏ ra có các tương ứng và tương đồng. Tất cả các h́nh cầu này
đều phù hợp với một số qui tắc nào đó, đáp ứng với một số điều kiện và được đặc
trưng bởi cùng các tính chất căn bản. Sau này, chúng ta sẽ xem xét các điều kiện
này, nhưng hiện giờ phải tiếp tục với hiệu quả của tác động quay. 2. Động lượng
(momentum), do đó đưa đến kết quả là lực đẩy (repulsion) được tạo ra bởi chuyển
động quay. Chúng ta đă đề cập đến Định Luật về Xung lực (Law of Repulsion) như
là một trong các nhánh phụ của đại định luật Tiết Kiệm đang khống chế vật chất.
Xung lực được gây ra bởi chuyển động quay và là cơ bản của sự phân ly, sự phân
ly này đang ngăn cản sự tiếp xúc của bất cứ nguyên tử nào với bất cứ nguyên tử
nào khác, chính nó giữ cho các hành tinh ở các điểm cố 154
196. 196 định trong không gian và tách khỏi nhau một cách
ổn định; sự phân ly này đang giữ cho chúng ở một khoảng cách nào đó từ trung tâm
Thái dương hệ của chúng và cũng giữ cho các cơi và cơi phụ không mất tính đồng
nhất về vật chất của chúng. Nơi đây, chúng ta có thể thấy khởi nguyên của cuộc
thư hùng dai dẳng giữa Tinh Thần với Vật Chất, vốn là đặc điểm của biểu lộ, một
trạng thái đang tác động dưới Định Luật Hút và trạng thái kia bị chế ngự bởi
Định Luật Đẩy. Từ vô lượng thời đến vô lượng thời, sự xung đột tiếp diễn, vật
chất trở nên kém uy lực. Dần dần (dần dần đến nỗi bị coi như là không có khi
nh́n từ cơi hồng trần) mănh lực hút của Tinh Thần đang làm suy yếu sự đối kháng
của vật chất, cho đến khi vào cuối các đại chu kỳ thái dương, sự huỷ diệt (như
thường được gọi) sẽ xảy ra và Định luật Đẩy bị Định luật Hút vượt qua. Đó là sự
huỷ diệt h́nh hài chớ không phải huỷ diệt chính vật chất, v́ vật chất vốn không
thể bị huỷ diệt. Điều này ngày nay có thể được nhận thấy trong sự sống tiểu
thiên địa và là nguyên nhân của sự tan ră h́nh hài đang tồn tại như là một đơn
vị riêng rẽ bằng chính phương pháp đẩy mọi h́nh hài khác. Điều đó có thể được
nhận thấy đang được tiến hành một cách từ từ và không đáng kể liên quan với
Nguyệt cầu, mặt trăng không c̣n đẩy địa cầu nữa và trao lại chính vật chất của
nó cho hành tinh này. H.P.Blavatsky có nói bóng bẩy đến điều này trong bộ Giáo
Lư Bí Nhiệm. C̣n tôi nêu ra đây định luật mà theo đó mọi sự đều phải diễn tiến
như vậy (1). 1 “Nguyệt cầu (vệ tinh của chúng ta) đang tuôn đổ vào trong bầu
thấp nhất của dăy hành tinh chúng ta (bầu D tức “Địa cầu”) tất cả năng lượng và
sức mạnh của nó, đồng thời chuyển chúng đến một trung tâm mới, Nguyệt cầu hầu
như đang trở thành một hành tinh
197. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 197 3. Hiệu ứng ma sát trên mọi
thể nguyên tử khác, tạo ra: a. Sức sống của nguyên tử. b. Sự cố kết của nguyên
tử. c. Khả năng hoạt động. d. Nhiệt cung cấp cho h́nh hài hỗn hợp, trong đó nó
có thể hợp thành một phần chắp vá, dù đó là nhiệt cung cấp bởi sự quay của một
hành tinh, bên trong h́nh hài đại thiên địa, hay là sự quay của tế bào trong thể
xác bên trong h́nh hài của tiểu thiên địa. e. Sự thiêu rụi hay sự phân huỷ cuối
cùng khi các lửa tiềm tàng và phát xạ đă hoàn thành một giai đoạn đặc biệt. Đây
là bí nhiệm của sự che khuất cuối cùng và của chu kỳ qui nguyên, nhưng không thể
tách ra khỏi hai yếu tố khác của lửa thái dương và lửa điện. 4. Sự thu hút qua
chỗ lơm vốn được nh́n thấy trong mọi khối cầu xoáy tṛn của vật chất nguyên tử ở
bất cứ bề mặt nào trong khối cầu, phù hợp với điểm mà trong một hành tinh được
gọi là cực Bắc. Một số ư tưởng mà tôi dự định t́m cách truyền đạt có thể được
hiểu rơ, do sự khảo cứu nguyên tử như đă được phác hoạ trong tác phẩm của
BaBiT “Các Nguyên Lư về ánh sáng và màu sắc” (“Principles of light and
colour”) và về sau, trong “Hoá học huyền bí” (OCult Chemistry) của bà Besant.
Chỗ trũng này được tạo ra bởi các bức xạ đang phát ra ngược với chiều quay của
khối cầu và đi xuống từ hướng bắc nam đến trung điểm. Từ đó, chúng có khuynh
hướng gia tăng tiềm nhiệt, tạo ra động lượng phụ và đem lại tính chất đặc thù
tuỳ theo nguồn cội mà từ đó bức xạ phát ra. Sự thu hút ngoại bức xạ gần như h́nh
cầu này là bí chết trong đó, từ khi bầu hành tinh chúng ta ra đời, chuyển động
quay đă chấm dứt”. GLBN I, 179 155
198. 198 nhiệm của sự tuỳ thuộc của một khối cầu này vào
một khối cầu khác và có sự tương ứng của nó trong sự xoay quanh của một tia sáng
xuyên qua bất cứ bầu vật chất nào. Mọi nguyên tử, dù được đặt tên là h́nh bầu
dục, chính xác hơn đều là một khối cầu hơi lơm ở một chỗ, đó là vị trí mà thần
lực đang làm linh hoạt vật chất của khối cầu, đang tuôn qua. Điều này đúng cho
mọi khối cầu, từ mặt trời xuống đến các nguyên tử vật chất mà chúng ta gọi là tế
bào trong thể xác. Qua chỗ lơm trong nguyên tử vật chất, lực làm sinh động từ
bên ngoài đang chảy vào. Mọi nguyên tử cả dương lẫn âm; nó có tính tiếp thu hay
là âm tính nơi nào có liên hệ đến mănh lực đi vào, và dương tính hay phát xạ ở
nơi nào có liên hệ đến các bức xạ của chính nó và liên hệ đến hiệu quả trên môi
trường của nó. Điều này có thể cũng được xác định đối với toàn thể ṿng giới hạn
của Thái dương hệ liên hệ đến phạm vi vũ trụ của nó. Thần lực tuôn tràn vào Thái
dương hệ từ ba hướng xuyên qua ba vận hà: a. Mặt Trời Sirius, b. Cḥm sao Rua
(Pleiades), c. Cḥm Đại Hùng Tinh (The Great Bear). Ở đây, tôi muốn nêu ra sự
liên quan hay tương ứng trong phát biểu này với một phát biểu, trước khi nói đến
bức xạ thái dương và các vận hà mà qua đó nó có thể được nhận ra. Các luồng hay
bức xạ này chúng ta gọi là : a. Luồng tiên thiên khí (akashic). b. Luồng điện
(electrical). c. Luồng sinh khí (pranic). Khi xét về ư nghĩa huyền bí của những
ǵ được gợi ra ở đây, có một điểm cần làm sáng tỏ có thể được đưa ra, chừa lại
199. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 199 phần tŕnh bày về hai mối liên
hệ khác cho người nghiên cứu. Đối với Thái dương hệ, cḥm sao Rua là nguồn điện
năng và cũng như mặt trời chúng ta là hiện thân của trái tim hay trạng thái bác
ái của Thượng Đế (chính Ngài là tim của Đấng Bất Khả Tư Nghị), cũng vậy, cḥm
sao Rua là cực âm của Brahma. Hăy suy gẫm điều này, v́ nhiều ư tưởng nằm trong
phát biểu này. Một số phát biểu rộng răi hơn được nêu ra đây liên quan đến sự
quay của vật chất và các kết quả tạo ra trong các bầu vật chất khác nhau do việc
quay đó. Những ǵ được khẳng định về bất cứ một bầu hay nguyên tử nào cũng có
thể được xác nhận cho tất cả, nếu bằng bất cứ cách nào, điều đó là một phát biểu
huyền linh về sự kiện, và chúng ta sẽ có thể hoàn thành bốn hiệu quả này: 1.
Phân ly hay là hiệu quả phản kháng, 2. Xung lượng hay là hiệu quả bên trong, 3.
Ma sát, hiệu quả chung quanh, 4. Thu hút, hiệu quả tiếp nhận hay hiệu quả thu
hút, trong mọi mức độ và mọi kiểu mẫu nguyên tử - một Thái dương hệ, một mặt
trời, một hành tinh, một bầu vật chất, một tia sáng, thể của Chơn ngă, hay một
tế bào trong cơ thể vật chất. III.. CÁC TÍNH CHẤẤT
CỦỦA CHUYỂN ĐỘNG QQUAY Mỗi bầu vật chất đang quay đều được biểu thị bằng
ba tính chất: tĩnh tại (inertia), chuyển động (mobility) và hoà nhịp (rhythm).
Tĩnh tại. Tính chất này biểu thị đặc điểm mỗi nguyên tử vào lúc bắt đầu biểu lộ,
tức là lúc bắt đầu một chu kỳ thái dương hay chu kỳ đại khai nguyên (hay 100 năm
của Brahma), vào lúc khởi đầu một dăy, một bầu hành tinh hay 157
200. 200 bất cứ một dạng thức gần như h́nh cầu nào mà không
có ngoại lệ. Do đó, phát biểu này bao hàm toàn thể các dạng thức đang biểu lộ
bên trong Thái dương hệ. Chúng ta cần nhớ rơ là chúng ta chỉ xem xét ba tính
chất của chính vật chất chớ không xem xét tâm thức. Tĩnh tại là kết quả của sự
thiếu hoạt động và sự tương đối yên lặng của lửa vật chất. Các lửa này, trong kỳ
qui nguyên, mặc dù tiềm tàng, đă thoát khỏi sự kích động phát xuất từ khối
nguyên tử tác động vào h́nh hài và sự tương tác tất nhiên của các h́nh hài lên
nhau. Nơi nào có h́nh hài và các Định Luật Đẩy và Hút đang đi vào hoạt động, do
đó có thể tạo nên bức xạ, lúc ấy sự kích thích sẽ xảy ra, hiệu ứng phóng phát,
và sự gia tốc từ từ sau rốt từ trong chính nguyên tử, do bởi chính chuyển động
quay của nó, sẽ tạo ra đặc tính kế tiếp. 2. Chuyển động. Các lửa vốn có của vật
chất tạo ra chuyển động xoay. Rốt cuộc, việc xoay này đưa đến bức xạ. Bức xạ của
vật chất, kết quả của hai loại nhiệt của nó, tất nhiên sẽ tạo nên một hiệu quả
trên các nguyên tử khác ở quanh nó (không có ǵ quan trọng dù chung quanh đó là
không gian của vũ trụ, không gian của Thái dương hệ hay là chu vi thể xác con
người) và tác động hỗ tương cũng như sự tương tác này tạo nên Lực đẩy và lực hút
(cự lực và hấp lực) tuỳ theo cực của vũ trụ, của Thái dương hệ hay của nguyên tử
hồng trần. Rốt cuộc, điều này tạo nên sự cố kết của h́nh hài; các thể hay là tập
hợp các nguyên tử bắt đầu h́nh thành hay biểu lộ và vẫn c̣n tồn tại trong suốt
các chu kỳ lớn hay nhỏ cho đến khi tính chất thứ ba được nhận biết rơ ràng. 3.
Nhịp nhàng, hay là đạt đến điểm cân bằng hoàn hảo và giữ được thăng bằng. Điểm
cân bằng hoàn hảo này lúc bấy giờ tạo nên các hiệu quả đặc biệt nào đó có thể
được kê khai 158
201. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 201 ra và suy gẫm, dù là đối với
thể trí hữu hạn của chúng ta, chúng có thể dường như nghịch thường và mâu thuẫn.
Giới hạn là ở nơi chúng ta cùng là việc sử dụng các ngôn từ, chớ không phải ở
chỗ không chính xác thực sự nào cả. Các hiệu quả này là: a. Tan ră h́nh hài. b.
Giải phóng tinh hoa mà h́nh hài đang giới hạn. c. Các phân ly của Tinh thần và
vật chất. d.Kết thúc một chu kỳ, dù là thuộc hành tinh, nhân loại hay thuộc thái
dương. e. Tạo ra sự qui nguyên và kết thúc sự biểu lộ. f. Tái hấp thụ của bản
thể và phối trộn trở lại vật chất đă phân hoá với căn nguyên của vật chất. g.
Kết thúc thời gian và không gian như chúng ta hiểu. h. Hợp nhất ba luồng hoả và
gây ra sự tự bốc cháy (spontanecus combustion), nếu người ta có thể nói như thế.
i. Hoạt động tổng hợp của vật chất trong ba loại chuyển động – xoay tṛn
(rotary), xoắn ốc theo chu kỳ (spiraLing cyclic) và tiến tới trước (onward
progression), - nó hợp nhất chuyển động sẽ được tạo ra bởi sự tương tác của các
lửa của vật chất, của trí tuệ và của Tinh Thần với nhau. Khi điểm hoà nhịp hay
cân bằng được đạt đến trong một Thái dương hệ, trong một bầu hành tinh, trong
một tia sáng, trong một linh hồn thể và trong thể xác, lúc bấy giờ kẻ chiếm hữu
h́nh hài được nới lỏng khỏi ngục tù; y có thể rút về cội nguồn nguyên thuỷ của y
và được thoát khỏi lớp vỏ mà từ trước đến giờ tác động như một ngục tù; và y có
thể thoát khỏi môi trường mà y đă dùng để thu thập kinh nghiệm và 159
202. 202 như là chiến trường giữa các cặp đối hợp. Lúc bấy giờ, lớp
vỏ hay h́nh hài thuộc bất cứ loại nào đều tự động tan ră. IV.. CHUYỂN ĐỘNG QQUAY
VÀ BIỂU TƯƯỢỢNG HỌỌC Mọi bầu vật chất
đang quay đều có thể được minh hoạ bằng cách dùng các biểu tượng vũ trụ tổng
quát như được dùng miêu tả cơ tiến hoá. Ṿng tṛn (The circle) Ṿng này tượng
trưng cho ṿng giới hạn của vật chất chưa phân hoá. Nó thay cho một Thái dương
hệ hay cơ thể của Thái Dương Thượng Đế, xét về phương diện tinh anh; nó thay cho
một hành tinh hay cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế, xét về phương diện khinh
thanh; nó tượng trưng cho cơ thể con người, cũng xét về phương diện khinh thanh
và nó thay thế cho tất cả các thể đó vào thời kỳ biểu lộ mới nhất. Sau cùng, nó
tượng trưng cho một tế bào đơn lẻ trong hiện thể của nhân loại và cho nguyên tử
của nhà hoá học hay vật lư học. 2. Ṿng tṛn có tâm điểm. Ṿng này hàm ư là việc
tạo ra nhiệt trong tâm của vật chất; hoả điểm, “moment” của chuyển động quay đầu
tiên, điểm căng thẳng thứ nhất của nguyên tử, được tiềm nhiệt kích động, trở
thành vùng ảnh hưởng của nguyên tử khác. Hiện tượng này tạo nên bức xạ đầu tiên,
lực hút đầu tiên và hậu quả tất nhiên là tạo nên lực đẩy và do đó tạo ra : 3.
Ṿng tṛn chia hai. Ṿng này đánh dấu sự quay tích cực và sự khởi đầu chuyển
động của nguyên tử vật chất và tạo nên sự trải rộng tiếp theo sau ảnh hưởng của
dương điểm (positive point) trong nguyên tử vật chất cho đến khi vùng ảnh hưởng
của nó trải dài từ tâm đến ngoại biên. Ở điểm nối tiếp với ngoại biên, nó tiếp
xúc với ảnh hưởng của các nguyên tử trong vùng xung quanh nó, bức xạ phát sinh
và 160
203. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 203 chỗ lơm xuất hiện đánh dấu sự
nhập vào và thoát ra của ḍng thần lực hay nhiệt. Ở đây, chúng ta chỉ nêu ra
việc áp dụng các biểu tượng vũ trụ đối với vật chất và không bàn đến sự biểu lộ
từ bất cứ khía cạnh nào khác hơn khía cạnh thuần tuư vật chất. Thí dụ, chúng ta
đang áp dụng biểu tượng của điểm trong ṿng tṛn đối với bầu hành tinh vật chất
và điểm tiềm nhiệt. Ở điểm này, chúng ta không vận dụng vật chất như đă được làm
linh hoạt bởi một thực thể thông linh, đối với vật chất, khi làm linh hoạt như
thế, thực thể thông linh trở thành một điểm của sự sống hữu thức. Chúng ta chỉ
đang bàn về vật chất và tiềm nhiệt, với kết quả tạo ra bởi chuyển động quay của
nhiệt bức xạ và sự tương tác theo sau của các thể nguyên tử. Do đó, chúng ta bàn
về điểm mà chúng ta khởi sụ xem xét trong khi nghiên cứu đoạn thứ năm, chuyển
động trong các thể. 4. Ṿng tṛn chia làm bốn. Đây là ṿng tṛn vật chất thực
sự, thập giá cánh bằng của Chúa Thánh Thần. Ngài là hiện thân của chất liệu
thông tuệ linh hoạt. Ṿng tṛn này chỉ ra tính chất chiều thứ tư của vật chất và
sự xuyên thấu của lửa theo bốn chiều, bức xạ tam phân của nó được tượng trưng
bằng các tam giác hợp thành bởi thập giá tứ phân. Ṿng này mô tả việc quay theo
bốn chiều của bất cứ nguyên tử nào. Điều này không có nghĩa là bất cứ nguyên tử
nào cũng có khả năng quay bốn ṿng, song nó chỉ có ư nói tới tính chất chiều đo
thứ tư của sự quay vốn là mục tiêu được nhắm vào, và hiện nay, điều đó đang trở
nên quen thuộc trong vật chất vào cuộc tuần hoàn thứ tư này và trong dăy thứ tư
này. Khi loa tuyến thứ năm hay là luồng thần lực thứ năm trong một nguyên tử trở
nên phát triển và khi con người có thể nhận 161
204. 204 thức chuyển động quay theo chiều thứ tư, sự chính xác của
biểu tượng này sẽ được nhận ra. Lúc bấy giờ, người ta sẽ nhận thấy rằng tất cả
các thể trong sự tiến triển của chúng từ tĩnh tại đến nhịp nhàng xuyên qua
chuyển động, trải qua mọi giai đoạn, dù chúng là các thể của Thượng Đế, các tia
sáng che giấu chính các Hành Tinh Thượng Đế, các bầu vật chất hiện đang tạo
thành các thể của một số thực thể thái dương, linh hồn thể (hay là các thể của
Chân ngă trên cơi trí, thể xác của con người trong cấu tạo dĩ thái của nó, hay
là một tế bào trong thể dĩ thái đó. Tất cả mọi h́nh hài vật chất này (hiện hữu
trong chất dĩ thái vốn là chất liệu đích thực của mọi h́nh hài) đều là h́nh
trứng nguyên thuỷ chưa phân hoá, lúc bấy giờ chúng trở nên xoay ṿng tích cực
hay là biểu lộ tiềm nhiệt; kế đó chúng biểu lộ nhị nguyên tính, hay lửa tiềm
tàng và lửa bức xạ; sự biểu lộ của hai lửa này tạo nên kết quả trong chuyển động
theo chiều thứ tư, hay là bánh xe, hay là h́nh hài tự quay trên chính nó. 5. Chữ
vạn (swastika), hay là lửa trải dài, chẳng những từ ngoại biên đến trung tâm
theo bốn hướng, mà c̣n từ từ luân chuyển và phóng phát ra khỏi cũng như chung
quanh toàn thể ngoại biên. Điều này hàm ư hoạt động hoàn hảo trong mọi bộ môn
vật chất cho đến khi cuối cùng chúng ta có một bánh xe cháy rực, xoay theo mọi
cách, với các vận hà lửa từ trung tâm đến ṿng giới hạn , - lửa bên trong, bên
ngoài và chung quanh đến khi bánh xe bị thiêu rụi và không c̣n lại ǵ cả trừ ra
lửa hoàn toàn. V.. CHUYỂN ĐỘNG VÀ CÁC TRUNG TÂÂM LỰC
Chúng ta có thể bàn đến vấn đề các trung tâm lực theo ba đường lối. Nhiều điều
đă được viết ra và thảo luận có liên quan đến các trung tâm lực và nhiều bí
nhiệm hiện hữu đă
205. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 205 khêu gợi sự ṭ ṃ của kẻ vô
minh và đă cám dỗ nhiều người xen vào những ǵ không liên quan đến họ. Tôi t́m
cách minh giải phần nào và nêu ra một góc nh́n mới để xem xét các vấn đề trừu
tượng này. Dù ǵ đi nữa, tôi không có ư định xét đến vấn đề ở khía cạnh như là
truyền đạt các qui tắc và chi tiết sẽ giúp cho người muốn làm linh hoạt các
trung tâm này và đưa chúng vào hoạt động. Ở đây, tôi xin đưa ra một lời cảnh cáo
trang nghiêm. Con người hăy tự ḿnh thực hành một đời sống vị tha cao độ, hăy
thực hành một kỷ luật giúp cho sự thanh luyện và làm khuất phục các hiện thể
thấp của y và hăy nỗ lực bền bĩ để thanh lọc và kiểm soát các thể của ḿnh. Khi
y đă thực hành điều này và đă vừa nâng cao, vừa làm ổn định sự rung động của y,
y sẽ thấy rằng sự phát triển và vận hành của các trung tâm lực đă được theo đuổi
song hành và rằng (tách khỏi sự tham gia sống động của y) công việc đă diễn tiến
theo các đường lối mong muốn. Nhiều nguy hiểm và tai hoạ khủng khiếp đang chờ
đợi kẻ nào khơi dậy các trung tâm lực này bằng những phương pháp bất chính, và
kẻ nào thực nghiệm với các luồng hoả trong cơ thể mà không có được hiểu biết
chuyên môn cần thiết. Do các cố gắng của ḿnh, y có thể thành công trong việc
khơi hoạt các luồng hoả và làm mạnh lên hoạt động của các trung tâm lực, nhưng y
sẽ phải trả giá cho sự vô minh bằng việc huỷ hoại thể chất, khi đốt cháy thể xác
hay là bộ óc, trở thành điên cuồng, và khi mở cánh cửa cho các trào lưu và các
sức mạnh bất hảo lại có tính cách huỷ diệt. Đó không phải là thiếu can đảm,
trong các vấn đề liên hệ đến sự sống nội tâm, nên hành động một cách thận trọng,
dè dặt, đó là chỗ phải thận trọng. V́ vậy, người t́m đạo có ba điều phải làm :
162
206. 206 1. Thanh luyện, tuân theo kỷ luật và chuyển hoá
phàm ngă gồm ba phần của ḿnh. 2. Phát triển kiến thức của chính ḿnh và kiện
toàn hạ trí của ḿnh; kiến tạo linh hồn thể bằng các hành vi và tư tưởng tốt
lành. 3. Phụng sự nhân loại bằng sự hoàn toàn quên ḿnh. Trong khi thực hành
điều này, y hoàn toàn tuân theo thiên luật, y tự đưa ḿnh vào đúng điều kiện để
luyện tập, làm cho chính ḿnh trở nên thích hợp với việc sau cùng được Điểm Đạo
trượng (Trượng: gậy, roi) đặt vào và như thế làm giảm thiểu nguy cơ, vốn đi kèm
với việc khơi hoạt luồng hoả. Tất cả những ǵ được dự tính thực hành trong thiên
khái luận này là đưa ra thêm ánh sáng về các trung tâm lực này, để chứng tỏ sự
liên hệ hỗ tương của chúng và để phác hoạ các hiệu quả được tạo ra do sự phát
triển thích đáng của chúng. Để thực hiện điều này, như đă phát biểu trước, đề
tài sẽ được chia thành các đoạn như sau : 1. Bản chất các trung tâm lực 2. Các
trung tâm lực và các cung 3. Các trung tâm lực và hoả xà 4. Các trung tâm lực và
các giác quan 5. Các trung tâm lực và điểm đạo Như người ta thấy ở bảng trên, đề
tài không những bao quát rộng lớn mà c̣n trừu tượng nữa. Điều này chủ yếu là do
sự kiện rằng cho đến khi nhân loại có được nhăn thông một cách thông thường,
không phải ở vị thế thẩm tra lại những ǵ được nói đến và phải thừa nhận các
phát biểu của những kẻ tự nhận là hiểu biết. Sau này, khi con người có thể thấy
và tự chứng minh lấy, người ta có thể kiểm chứng được những 163
207. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 207 phát biểu này; thời gian vẫn
chưa thích hợp ngoại trừ với một ít người. 1. Bản chất của các trung tâm lực.
Chúng ta hăy xét điểm thứ nhất : Tôi muốn kể ra các trung tâm lực được bàn đến
trong Bộ luận này, duy tŕ sự kê khai chặt chẽ đối với những ǵ được đưa ra
trước đây và không bàn đến tất cả các trung tâm lực, mà chỉ bàn về những ǵ liên
quan chặt chẽ với sự tiến hoá gồm năm phần của con người. Như đă nói ở trước,
con người, vào lúc kết thúc cuộc hành hương dài dằng dặc của ḿnh, phải trải qua
năm giới trong thiên nhiên, trên con đường trở về với cội nguồn của ḿnh: 1.
Giới khoáng chất (mineral kingdom) 2. Giới thực vật (vegetable kingdom) 3. Giới
động vật (animal kingdom) 4. Giới nhân loại (human kingdom) 5. Giới siêu nhân
hay giới tinh thần (spiritual kingdom) và sẽ phát triển tâm thức đầy đủ trên năm
cơi : 1. Cơi trần 2. Cơi cảm dục 3. Cơi trí 4. Cơi trực giác hay cơi bồ đề 5.
Cơi tâm linh hay Niết bàn. bằng năm giác quan và các mối tương quan của chúng
trên cả năm cơi : thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác và thị giác. Theo
thời gian, cuộc tuần hoàn thứ năm sẽ đến, 3/5 gia đ́nh nhân loại sẽ đạt đến
tŕnh độ này và sẽ có năm giác quan hoạt động đầy đủ trên ba cơi thuộc ba cơi
thấp; hai cơi c̣n lại sẽ phải chinh phục trong hai cuộc tuần hoàn c̣n lại. Tôi
xin 164
208. 208 nêu ra đây một sự kiện ít được hiểu đến, đó là
trong cuộc tiến hoá gồm năm phần này của con người và trong Thái dương hệ này,
hai cuộc tuần hoàn c̣n lại trong bất cứ chu kỳ hành tinh nào, căn chủng thứ sáu
và thứ bảy trong các chu kỳ này đều luôn luôn có tính chất tổng hợp; nhiệm vụ
của họ là qui tụ và tổng hợp những ǵ đă được thành toàn trong năm giống dân
trước. Thí dụ, trong căn chủng này, phụ chủng (sub- races) sáu và bảy sẽ tổng
hợp và phối trộn những ǵ mà năm phụ chủng trước đă thực hiện. Sự tương đồng là
trong Thái dương hệ này hai cơi cao nhất (Cơi Thượng Đế và cơi Chân Thần) đều có
tinh chất tổng hợp. Một cơi là cơi tổng hợp đối với Thượng Đế từ đó Ngài rút
tinh hoa khi biểu lộ; cơi kia là cơi tổng hợp đối với Chân Thần, từ đó Chân Thần
tách ra và tích chứa các kết quả của biểu lộ. Do đó, ở đây, chúng ta sẽ chỉ quan
tâm tới các trung tâm lực có liên quan tới cuộc tiến hoá của các thể tinh anh,
sự tiến hoá tâm linh, chớ không quan tâm tới các trung tâm lực liên hệ với cuộc
tiến hoá và sự sinh sôi nảy nở của nhục thể. Có năm trung tâm lực loại này : 1.
Trung tâm lực ở đáy xương sống, trung tâm lực duy nhất có liên quan với những ǵ
có một hiệu quả vật chất. 2. Trung tâm lực đan điền, trung tâm lực quan trọng
nhất trong cơ thể theo quan điểm cơi cảm dục. 3. Trung tâm lực cổ họng quan
trọng nhất theo quan điểm cơi trí. 4. Trung tâm lực nơi vùng tim vốn có mối liên
hệ huyền bí với cơi Bồ đề. 5. Trung tâm lực đỉnh đầu, có liên quan với cơi Niết
Bàn. Chúng ta không bàn đến các trung tâm lực thấp, tức các trung tâm lực liên
quan tới sinh sản, mà cũng không nhắc tới 165
209. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 209 trung tâm lực lá lách có liên
quan trực tiếp với thể dĩ thái và là nơi truyền prana, chúng đă được bàn đến ở
phần trước rồi. Các trung tâm lực trong con người, về căn bản liên quan đến
trạng thái Lửa trong con người hay với tinh thần thiêng liêng. Chúng dứt khoát
là liên hệ với Chân Thần, với trạng thái ư chí, với sự bất tử, sự sống, với ư
chí muốn sống và với các quyền năng có sẵn của Tinh Thần. Chúng không liên quan
với việc biểu hiện ra ngoại cảnh và sự biểu lộ, mà liên quan với thần lực
(force), hay các quyền năng của sự sống thiêng liêng. Sự tương ứng trong Đại vũ
trụ có thể được nhận thấy trong thần lực đang vận dụng khối tinh vân vũ trụ, và
bởi chuyển động quay xoáy tṛn của nó, mà sau rốt thần lực đó sẽ kiến tạo các
tinh vân thành các hành tinh, hay các thể gần h́nh cầu (spheroidal bodies). Mỗi
một trong các hành tinh này là một biểu lộ của “ư muốn linh hoạt” của một Đấng
vũ trụ nào đó, và là thần lực xoáy lộn, làm xoay tṛn, kiến tạo, củng cố và tiếp
tục duy tŕ trong dạng thức cố kết, là thần lực của một Đấng Vũ Trụ nào đó. Thần
lực này có cội nguồn từ trên các cơi trí vũ trụ, từ một số điểm tập trung vĩ
đại, ở đó, xuống đến cơi cảm dục vũ trụ, tạo thành các điểm tập trung tương ứng
của vũ trụ, và trên cơi phụ dĩ thái vũ trụ thứ tư (tức cơi Bồ đề của Thái dương
hệ chúng ta) t́m thấy lối thoát của nó (outlet) trong một số trung tâm lực lớn.
Các trung tâm lực này lại được phản chiếu hay tái tạo lại trong ba cơi nỗ lực
của nhân loại. Do đó, các Hành Tinh Thượng Đế có các trung tâm lực trên ba cơi
thuộc thái dương, một điều cần nên nhớ: a. Trên cơi Chân Thần, cơi của bảy cung.
166
210. 210 b. Trên cơi Bồ đề, nơi mà các Chân Sư và đệ tử các
Ngài tạo thành 49 trung tâm lực trong các thể của Bảy Hành Tinh Thượng Đế. c.
Trên cơi dĩ thái thứ tư của cơi trần, nơi mà các hành tinh thánh thiện, các thể
trọng trược bằng chất dĩ thái của Hành Tinh Thượng Đế, được t́m thấy. Ở đây,
chúng ta lại có thể truy nguyên ra sự tương ứng tiểu thiên địa : trong con
người, các trung tâm lực được t́m thấy trên cơi trí, từ đó phát sinh ra xung lực
cho sự sống trên cơi trần, hay là ư muốn luân hồi; từ đó chúng có thể được truy
nguyên cho tới cơi cảm dục, và sau rốt đến các phân cảnh dĩ thái, đối với chất
dĩ thái thứ tư, nơi mà chúng thực sự trải qua cùng mức tiến hoá mà các trung tâm
lực hành tinh đi xuyên qua, và là khí cụ trong việc đem lại sự biểu lộ bên
ngoài, vốn là các trung tâm lực. Các trung tâm lực tạo thành toàn thể các ḍng
thần lực từ Chân ngă trút xuống, thần lực đó được truyền xuống từ Chân Thần. Nơi
đây chúng ta có bí nhiệm về sự rung động dần dần tăng nhanh của các trung tâm
lực khi Chân ngă lần đầu tiên bắt đầu kiềm chế, hay hoạt động, và sau đó (sau
khi điểm đạo) đến lượt Chân Thần, như vậy đem lại các thay đổi và sức sống gia
tăng trong phạm vi của luồng hoả hay của mănh lực của sự sống trong sạch. Do đó,
các trung tâm lực, khi vận dụng một cách thích hợp, tạo thành “thể lửa” (‘body
of fire’) mà sau rốt chính là tất cả những ǵ bị bỏ lại, trước nhất đối với con
người trong ba cơi thấp và sau đó tới Chân Thần. Thể lửa này là “thể không thể
hư nát” (Thánh Kinh I, Cor. XV, 53) hay là không thể bị huỷ hoại, như Thánh Paul
đă nói và là sản phẩm của sự tiến hoá, của sự phối hợp hoàn hảo ba loại lửa, mà
sau rốt sẽ 167
211. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 211 phá huỷ sắc tướng. Khi sắc
tướng bị huỷ diệt, thể tinh thần vô h́nh của lửa c̣n lại nơi đó, ngọn lửa tinh
khiết duy nhất, được phân biệt bằng bảy trung tâm lực sáng chói sẽ cháy mănh
liệt hơn. Lửa điện này là kết quả của việc đem hai cực lại với nhau và biểu lộ
vào lúc nhất quán hoàn toàn, chân lư huyền bí của câu nói “Đức Chúa Trời chúng
ta là đám Lửa hay thiêu đốt” (Thánh Kinh Deut. IV, 24; Hebrews XI, 29). Ba
trong số các trung tâm lực này được gọi là các trung tâm lực chính yếu, v́ chúng
tượng trưng ba trạng thái của Chân Thần tam phân – Ư chí, Bác Ái và Trí Huệ : 1.
Trung tâm lực đỉnh đầu … Chân Thần. Ư chí hay Quyền năng. 2. Trung tâm lực ở tim
…….. Chân ngă. Bác Ái và Minh triết 3. Trung tâm lực cổ họng ….. Phàm ngă. Hoạt
động hay Trí Huệ Hai trung tâm lực khác có liên quan trước tiên với thể dĩ thái
và với cơi cảm dục. Trung tâm lực cổ họng tổng hợp toàn bộ sự sống của phàm ngă
và rơ rệt có liên hệ với cơi trí, - ba cơi này và hai cơi cao hơn, và ba trung
tâm lực với hai trung tâm lực khác, tim và đầu. Tuy nhiên, chúng ta đừng nên
quên rằng trung tâm lực ở đáy xương sống cũng là nơi tổng hợp, như thường được
mong đợi, nếu thừa nhận rằng cơi thấp nhất của mọi biểu lộ là điểm phản chiếu
sâu xa nhất. Trung tâm lực thấp nhất này do sự tổng hợp hoả xà và các lửa prana,
rốt cuộc phối hợp và pha trộn với lửa trí tuệ và sau đó với lửa của Tinh Thần,
tạo nên sự cháy rụi như thế ấy. Chúng ta phải gạt bỏ ư tưởng sai lầm trong trí
rằng các trung tâm lực này là các sự vật hồng trần (physical things). Chúng là
các xoáy lực đang cuốn chất dĩ thái, chất cảm dục 167
212. 212 và chất trí vào một loại hoạt động nào đó. V́ là
chuyển động quay, kết quả được tạo ra trong vật chất là một hiệu ứng xoay tṛn
có thể nhận thấy được bằng nhăn thông dưới h́nh dạng các bánh xe lửa nằm ở : 1.
Trong vùng thấp nhất của xương sống. 2. Giữa các xương sườn ngay dưới cách mô.
3. Trong vùng ngực bên trái. 4. Trong trung tâm của cổ họng. 5. Ngay trên đỉnh
đầu. Tôi xin mô tả các trung tâm lực này đầy đủ chi tiết hơn, bàn về chúng như
được nh́n thấy trong chất dĩ thái và đặt nền tảng cho những ǵ mà tôi nói đến
tương tự như ông C. W. Leadbeater đề cập trong tác phẩm “Cuộc Sống Nội Tâm”
(“INer Life”), quyển I, trang 447- 460 Chúng ta sẽ chú ư màu sắc và các cánh
hoa : 1. Trung tâm lực ở đáy xương sống, 4 cánh. Các cánh này có h́nh dạng một
thập giá, toả ra lửa vàng cam. 2. Trung tâm lực đan điền, 10 cánh, màu hồng pha
lục. 3. Trung tâm lực ở tim, 12 cánh, vàng rực. 4. Trung tâm lực cổ họng, 16
cánh, xanh dương ánh bạc, nhưng xanh dương trội hơn. 5. Trung tâm lực đỉnh đầu
chia làm hai : a. Giữa lông mày, gồm 96 cánh, ½ của hoa sen là hồng và vàng, nửa
kia xanh và tím. b. Ngay đỉnh đầu. Một trung tâm lực gồm 12 cánh hoa chính màu
trắng và vàng, 960 cánh phụ xếp chung quanh 12 cánh ở giữa. Điều này tạo nên
tổng số 1068 cánh trong 2 trung tâm lực ở đầu (tạo thành một trung tâm lực duy
nhất) hay là 356 lần 3. Tất cả các con số này đều có một ư nghĩa huyền bí. 168
213. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 213 Cũng như Chân thần là toàn bộ
của cả ba trạng thái và của bảy nguyên khí con người, trung tâm lực đỉnh đầu
cũng là một bản sao của trung tâm lực này, và trong phạm vi ảnh hưởng của nó, có
bảy trung tâm lực khác với chính nó là cái tổng hợp. Bảy trung tâm lực này cũng
được chia thành ba trung tâm lực chính và bốn trung tâm lực phụ, sự hợp nhất và
thành toàn của chúng được nhận thấy trong trung tâm lực rực rỡ vượt lên và bao
khắp chúng. Cũng có ba trung tâm lực hồng trần được gọi là : a. Trung tâm lực
trên tuỷ sống b. Tuyến tùng quả c. Tuyến yên với bốn trung tâm lực thứ yếu. Bốn
trung tâm lực thứ yếu này được phối hợp trong trung tâm lực trên tuỷ sống và
không có liên hệ với chúng ta. Nơi đây, tôi cũng xin vạch ra rằng có một liên hệ
chặt chẽ : a. Giữa trung tâm lực trên tuỷ sống với trung tâm lực cổ họng. b.
Giữa trung tâm lực đỉnh đầu với tuyến yên. c. Giữa trung tâm lực ở tim với tuyến
tùng quả. Thật là bơ công cho nhà nghiên cứu nào chiêm ngưỡng sự kế tục lư thú
của các tam giác đang được t́m thấy và cách thức mà chúng phải được nối liền
bằng sự tiến tới của luồng hoả trước khi luồng hoả ấy có thể làm cho chúng sinh
động hoàn toàn và bấy giờ chuyển qua các chuyển hoá khác. Chúng ta có thể liệt
kê ra một số các tam giác này, luôn luôn nhớ rằng tuỳ theo cung mà luồng hoả
tiến lên theo dạng h́nh học và tuỳ theo cung mà các điểm được tiếp xúc theo
tŕnh tự được an bài. Ở đây, tàng ẩn một trong các bí mật về điểm đạo 169
214. 214 và nơi đây cũng có một số nguy hiểm kèm theo trong
việc phổ biến quá nhanh chi tiết liên hệ đến các cung. 1. Tam giác sinh khí
(pranic triangle) a. Trung tâm lực ở vai. b. Trung tâm lực gần cách mô. c. Lá
lách. 2. Người được kiểm soát từ cơi cảm dục a. Đáy xương sống b. Đan điền. c.
Tim 3. Người được kiểm soát từ cơi trí a. Đáy xương sống b. Tim c. Cổ họng 4.
Người được Chân ngă kiểm soát phần nào, người tiến hoá. a. Tim b. Cổ họng c.
Đầu, nghĩa là bốn trung tâm lực thứ yếu và tổng hợp của chúng, trung tâm lực
trên tuỷ sống. 5. Người tâm linh đến lần điểm đạo 3 a. Tim b. Cổ họng c. Bảy
trung tâm lực trên đầu 6. Người tâm linh đến lần điểm đạo 5 a. Tim b. Bảy trung
tâm lực ở đầu c. Hai hoa sen nhiều cánh Tất cả các giai đoạn khác nhau này biểu
lộ sự rực rỡ của các tam giác khác nhau. Từ điều đó chúng ta đừng nên phỏng đoán
rằng khi luồng hoả được tập trung trong một tam giác 170
215. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 215 th́ nó không hiện ra trong các
tam giác khác. Một khi luồng hoả được tự do đi qua bất cứ tam giác nào, nó bốc
cháy một cách liên tục, nhưng luôn luôn có một tam giác chói rực hơn các tam
giác khác và chính từ các tam giác ánh sáng chói lọi này, xuất phát từ các luân
xa và các xoáy lửa mà kẻ có nhăn thông và các huấn sư của nhân loại có thể đánh
giá vị thế của con người trong việc sắp đặt sự việc và phán đoán sự thành đạt
của y. Ở điểm cao nhất của kinh nghiệm sống và khi con người đă đạt đến mục tiêu
của ḿnh, mỗi tam giác là một đường lửa toả chiếu và mỗi trung tâm lực là một
bánh xe thần lực sống động, cháy rực đang quay với tốc độ khủng khiếp; ở giai
đoạn này, trung tâm lực không những chỉ quay theo một hướng đặc thù, mà c̣n,
theo sát nghĩa, xoay trên chính nó nữa, tạo thành một khối cầu lửa sống động
chiếu lóng lánh với lửa tinh khiết và giữ lại trong nó một dạng h́nh học nào đó,
tuy cũng rung động nhanh đến nỗi hiếm khi mà mắt thấy được. Trên hết, ở đỉnh
đầu, người ta thấy lửa hiện ra dường như làm cho tất cả các trung tâm lực khác
trở thành vô nghĩa, từ tâm của hoa sen nhiều cánh này phát ra một ngọn lửa với
màu căn bản thuộc về cung của người đó. Ngọn lửa này tiến lên và dường như kéo
xuống một dải ánh sáng điện, vốn là luồng giáng lưu (downflow: luồng đi xuống)
từ tinh thần trên cơi cao nhất. Điều này đánh dấu sự phối hợp các luồng hoả và
sự giải thoát con người ra khỏi lưới vật chất. Bây giờ chúng ta nên chú ư rằng
sự tiến hoá của các trung tâm lực này có thể được mô tả, không những bằng lời
nói, mà c̣n ở dưới năm biểu tượng rất thường có trong cách giải thích vũ trụ. 1.
Ṿng tṛn. Ở giai đoạn này, trung tâm lực được nh́n thấy chỉ giống như một chỗ
lơm h́nh dĩa (theo cách diễn tả
216. 216 của ông Leadbeater) với ngọn lửa chiếu mờ mờ, lửa
khuếch tán khắp nơi nhưng thực sự không mănh liệt. Bánh xe quay chậm, chậm đến
nỗi gần như không đáng kể. Điều này tương ứng với giai đoạn kém phát triển và
với căn chủng Lemuria lúc đầu, và vào thời đó con người chỉ là động vật; tất cả
các điều tạo thành đó là một môi trường để cho tia lửa trí tuệ xuất hiện. 2.
Ṿng tṛn có tâm điểm. Trung tâm lực được nh́n thấy ở đây với một điểm lửa sáng
rực nằm giữa chỗ lơm h́nh dĩa, chuyển động quay trở nên nhanh hơn. Điều này
tương ứng với giai đoạn mà trí tuệ bắt đầu được cảm nhận và vào giai đoạn sau
của thời Lemuria. 3. Ṿng tṛn chia hai. Vào giai đoạn này, điểm ánh sáng ở
trung tâm của xoáy lửa trở nên linh hoạt hơn; chuyển động quay khiến cho nó cháy
sáng hơn và phóng các tia lửa ra hai hướng, dường như tách xoáy lửa ra làm hai;
chuyển động được gia tốc thêm nhiều và ngọn lửa tách ra trong ổ xoáy, lao tới,
lui, kích thích độ chói sáng của chính trung tâm lực, cho đến khi một điểm sáng
chói được đạt tới rất to. Điều này tương ứng với thời Atlantis. 4. Ṿng tṛn
chia làm bốn. Bây giờ chúng ta đến điểm mà trung tâm lực cực kỳ linh hoạt, với
chữ thập bên trong chu vi của nó đang xoay cũng như chính luân xa, tạo nên một
hiệu quả rất mỹ lệ và linh hoạt. Con người đă đạt đến một giai đoạn phát triển
rất cao về trí tuệ, tương ứng với căn chủng thứ năm, hay là với ṿng tuần hoàn
thứ năm trong chu kỳ lớn hơn; y có ư thức về hai hoạt động trong chính y, tượng
trưng bằng luân xa đang xoay và thập giá đang quay bên trong. Y cảm nhận được
tinh thần, dù là đang tác động một 172
217. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 217 cách linh hoạt trong sự sống
phàm ngă, và sự phát triển đă đạt đến đỉểm mà y đang ở gần Con Đường Dự Bị. 5.
Chữ Vạn. Ở giai đoạn này trung tâm lực trở nên có chiều đo thứ tư; thập giá đang
quay bên trong bắt đầu xoay trên trục của nó, và hướng vùng ngoại biên sáng rực
vào mọi mặt, để cho trung tâm lực được mô tả như là một khối cầu lửa, đúng hơn
là một bánh xe. Nó đánh dấu giai đoạn của Thánh Đạo thành hai phân đoạn của nó,
v́ tiến tŕnh tạo ra hiệu quả được mô tả như là bao trùm toàn thể giai đoạn của
Thánh Đạo. Vào lúc kết thúc, các trung tâm lực được nh́n thấy như là các khối
cầu rực lửa với các nan hoa của bánh xe (hay là sự tiến hoá của thập giá từ
trung điểm) phối hợp và tan hoà vào “lửa thiêu đốt toàn thể”. Một câu vắn tắt
được nêu ra nơi đây do bởi sự liên hệ của nó với vấn đề này. Một câu khác cũng
cần được nói thêm vào, mà nếu suy gẫm kỹ, sẽ chứng minh giá trị thực sự và sẽ có
một hiệu quả xác định trên một trong các trung tâm lực, c̣n trung tâm lực nào
th́ đó là phần mà chính người nghiên cứu tự t́m lấy. Hai câu này như sau: “Bí
mật của Lửa ẩn trong chữ (leTer) thứ hai của Linh Từ (Sacred Word). Bí nhiệm
của sự sống ẩn giấu trong tim. Khi điểm hạ đẳng rung động, khi Tam Giác Thiêng
chiếu sáng, khi điểm, trung tâm lực ở giữa, và đỉnh cùng bừng cháy, lúc bấy giờ
hai tam giác - lớn và nhỏ - hoà hợp thành ngọn lửa duy nhất thiêu rụi toàn thể”.
“Lửa bên trong lửa thứ yếu t́m thấy sự tiến triển của nó được thúc đẩy nhiều,
khi ṿng tṛn của chuyển động và bất động, của bánh xe nhỏ trong bánh xe lớn
chuyển động không phải trong Thời gian, t́m được nhiều lối thoát hai phía; bấy
giờ nó chiếu sáng với vẻ huy hoàng của Đấng nhị bội và
218. 218 Huynh đệ lục bội của Ngài (sixfold brother). Fohat
chạy khắp không gian. Ngài t́m kiếm sự bổ sung cho Ngài. Linh khí của Đấng bất
động và lửa của Đấng Duy Nhất đang t́m cái Tổng Thể từ khởi thuỷ, đổ xô để gặp
gỡ nhau và bầu thế giới bất động trở thành bầu hoạt động”. Chúng ta xét tiếp
điểm thứ hai về các trung tâm lực: 2. Các trung tâm lực liên quan với các Cung.
Điều này sẽ mang lại cho chúng ta một phạm vi rộng lớn của vấn đề được bàn đến
và nhiều tài liệu cần suy nghiệm, phỏng đoán và ước đoán khôn ngoan. Tất cả
những ǵ được nêu lên ở đây chỉ đơn giản là các sự kiện căn bản mà nhờ đó có thể
dựng lên được một sự phỏng đoán và suy luận hợp lư, bằng cách dùng sự tưởng
tượng và do đó có tác động đến hai việc: Các điều này là một khả năng bành
trướng quan niệm trí tuệ chúng ta, và tạo ra giác tuyến hay loại cầu nối mà mọi
người t́m cách để hoạt động, trong hiện thể Bồ đề, phải tạo ra giữa thượng trí
và hạ trí, do đó cần vận dụng trí tưởng tượng (vốn là sự tương đồng tinh anh so
với sự phân biện bằng trí tuệ) và sự chuyển hoá sau cùng của nó thành trực giác.
Tất cả các bậc đạo sư đă thu nhận môn đồ để huấn luyện và vị nào t́m cách dùng
các môn đồ vào việc phụng sự thế gian, đều tuân theo phương pháp này để truyền
đạt sự kiện (thường bị ẩn giấu trong các ngôn từ và bị làm cho mơ hồ bằng biểu
tượng) và lúc bấy giờ để cho môn đồ noi theo chính các suy luận của ḿnh. Nhờ
đó, tính phân biện được phát triển và phân biện là phương pháp chính để nhờ đó
Tinh Thần thoát ra khỏi các cản trở của vật chất và nhận rơ giữa ảo ảnh với
những ǵ bị ảo ảnh che khuất. 173
219. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 219 Nơi đây, nhiều điều không thể
được truyền đạt, v́ có những đề tài nếu bàn đến đầy đủ, sẽ đưa ra quá nhiều
thông tin cho những kẻ có thể lạm dụng nó. Như chúng ta biết, tiến hoá của các
trung tâm lực là một diễn biến chậm chạp và từ từ, nên tiến hành theo các chu kỳ
đă định, thay đổi tuỳ theo cung Chân Thần của con người. Cuộc đời của kẻ hành
hương có thể được chia thành ba giai đoạn chính : 1. Giai đoạn mà trong đó y ở
dưới ảnh hưởng của cung phàm ngă. 2. Giai đoạn mà y tiến vào dưới ảnh hưởng của
cung Chân ngă. 3. Giai đoạn mà Cung Chân Thần thống ngự. Giai đoạn một là giai
đoạn kéo dài nhất, bao trùm sự tiến bộ rộng lớn của nhiều thế kỷ, trong đó trạng
thái hoạt động của bản ngă tam phân đang được phát triển. Hết kiếp sống này đến
kiếp sống khác trôi qua, trong khi trạng thái trí tuệ diễn tiến một cách chậm
chạp và con người ngày càng đi vào lănh vực kiểm soát của trí tuệ, đang tác động
qua bộ óc hồng trần của y. Giai đoạn này có thể được xem như là phù hợp với giai
đoạn của Thái dương hệ thứ nhất, trong đó Thượng Đế Ngôi Ba, trạng thái Brahma,
Trí Tuệ, đang tiến đến điểm thành toàn (1). Lúc bấy giờ, trạng thái thứ hai bắt
đầu trong 1 Khi chu kỳ cuối cùng có người ở đă được trái đất màu mỡ này hoàn
tất, th́ nhân loại đă đến giai đoạn làm Phật ở dạng tập thể, và chuyển ra khỏi
cách hiện hữu nơi ngoại cảnh, để tiến vào bí mật của Niết Bàn – lúc bấy giờ “đă
đến lúc” cái hữu h́nh trở thành vô h́nh, cái cụ thể bắt đầu phân tán thành từng
nguyên tử, trước khi chu kỳ của nó bắt đầu lại. 174 175
220. 220 Nhưng các thế giới đă chết mà xung lực đang tiến
tới bị bỏ lại sau vẫn không tiếp tục chết. Chuyển động là trật tự vĩnh cửu của
các sự vật, và ái lực hay sức hút là người đỡ đần của nó trong mọi công việc.
Rung động của sự sống sẽ lại tái kết hợp nguyên tử và nó sẽ khơi dậy trở lại bầu
hành tinh tŕ trệ khi đến lúc. Mặc dù mọi lực của nó vẫn ở nguyên trạng và hiện
giờ đang hôn thuỵ; tuy nhiên dần dần nó sẽ - khi đến thời điểm - tụ tập lại cho
một chu kỳ mới khai sinh ra con người, và khai sinh ra một điều ǵ đó c̣n cao
siêu hơn các kiểu mẫu vật chất, và đạo đức so với chu kỳ khai nguyên trước đó.
Và “các nguyên tử vũ trụ đă ở trong trạng thái biến đổi” (khác hẳn về chuyển
động và hiệu quả - trong việc tạo ra lực theo nghĩa cơ học) vẫn ở nguyên trạng
cũng như các bầu hành tinh và mọi cái khác trong tiến tŕnh tạo lập. “Đó là “giả
thuyết hoàn toàn hợp với chú giải của con, cũng như của ta”. Sở dĩ có như vậy là
v́ sự phát triển hành tinh cũng tiến theo sự tiến hoá của con người, hoặc của
giống dân; tới lúc Chu Kỳ Qui Nguyên sẽ bắt kịp chuỗi thế giới ở các giai đoạn
tiến hoá kế tiếp; (nghĩa là) mỗi thế giới đă đạt đến một trong các thời kỳ tiến
hoá – th́ mỗi thế giới sẽ dừng lại ở đó, cho đến khi xung lực bên ngoài của kỳ
khai nguyên tới khởi động nó từ chính điểm đó - giống như đồng hồ ngưng chạy
được lên dây trở lại. V́ lẽ đó Chân Sư đă dùng từ ngữ “bị biến đổi”
(“differentiatect”). Đến Chu Kỳ Qui Nguyên, không có con người, con thú hoặc
thảo mộc nào sẽ c̣n sống để thấy được nó, mà sẽ chỉ có các địa cầu hay các bầu
hành tinh với các giới khoáng thạch của chúng; và tất cả các hành tinh này sẽ bị
tan ră về mặt h́nh hài trong kỳ Qui Nguyên, tuy nhiên không bị huỷ diệt; v́
chúng vẫn có vị trí của chúng trong tŕnh tự tiến hoá và “vốn liếng riêng” của
chúng xuất hiện trở lại từ nội cảnh, khi chúng t́m được điểm chính xác để từ đó
tiến lên theo chuỗi “h́nh hài đă biểu lộ”. Như ta đă biết, điều này được lặp lại
không ngưng nghỉ, suốt từ Thời Gian Vô Cùng (Eternity). Mỗi người chúng ta đều
trải qua ṿng tiến hoá bất tận
221. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 221 Thái dương hệ hiện tại này
được phối hợp lại và tác động xuyên qua nó. Nhiều thế kỷ trôi qua, con người trở
nên thông minh, linh hoạt hơn bao giờ và môi trường sinh hoạt của y càng thích
hợp hơn cho việc tiến đến trạng thái thứ hai. Sự phù hợp nằm trong sự tương đồng
chớ không phải trong chi tiết như đă thấy trong thời gian và không gian. Nó bao
trùm giai đoạn của ba tam giác đầu tiên đă được bàn ở trước. Chúng ta đừng nên
quên rằng, để được rơ ràng, nơi đây chúng ta phân biệt giữa các trạng thái khác
nhau và xét sự phát triển riêng rẽ của chúng, một điều chỉ chấp nhận được trong
thời gian và không gian hay trong diễn tŕnh tiến hoá mà không thể chấp nhận
được nếu đứng trên quan điểm Hiện Tại Vĩnh Cửu và trên quan điểm Hợp Nhất của
Toàn Ngă (the AL-Self). Vishnu hay trạng thái Bác ái – Minh triết đang tiềm
tàng trong bản ngă và là một phần của cái chứa đựng trong Chân Thần, nhưng trạng
thái Brahma, trạng thái Trí Tuệ Hoạt động có trước sự biểu lộ của nó trong thời
gian. Miếu thờ ở vùng hoang vu có trước toà nhà của Thánh điện Solomon; nhân của
lúa ḿ phải nằm trong bóng râm của Đất Mẹ trước khi người ta có thể thấy được
bông lúa vàng hoàn hảo và cây sen phải đâm rễ xuống bùn trước khi sinh ra vẻ đẹp
của hoa. Giai đoạn hai, giai đoạn mà cung Chân ngă thống ngự, tương đối không
dài lắm; nó bao trùm giai đoạn mà các tam giác thứ tư và thứ năm được truyền
sinh lực và đánh dấu các này và sẽ lặp lại măi măi. Việc đi lệch khỏi lộ tŕnh
của mỗi người và tốc độ tiến tới của y từ kỳ Niết Bàn này đến Niết Bàn khác đều
bị chi phối bởi các nguyên nhân mà chính y tạo ra do những hoàn cảnh ngặt nghèo
mà y bị vướng vào đó”. The Mahatma LeTer, Thư 46 (ML 12), trang 67.
222. 222 sự sống trong đó con người tập trung mănh lực của
ḿnh vào khía cạnh tiến hoá, khép cuộc sống của ḿnh vào kỷ luật, tiến bước trên
đường đệ tử dự bị và nối tiếp đến cuộc điểm đạo 3. Dưới ảnh hưởng của cung phàm
ngă, con người tiến lên trên năm cung để làm việc một cách hữu thức với Thượng
Trí (Mind), giác quan thứ sáu, trước nhất lướt qua bốn cung thứ yếu và sau rốt
trên cung thứ ba. Y hoạt động trên cung thứ ba hay cung Trí tuệ linh hoạt và từ
đó tiến đến một trong các cung phụ của hai cung chính khác, nếu cung thứ ba này
không phải là cung chân ngă của y. Câu hỏi có thể tự nhiên nảy sinh, liệu cung
chân ngă có tất yếu phải là trong số ba cung chính không, và liệu Điểm đạo đồ và
các Đức Thầy một số không ở trên cung trí tuệ, 4 cung thứ yếu. Câu trả lời nằm ở
đây: cung chân ngă có thể luôn luôn là một trong bảy cung, nhưng chúng ta cần
nhớ rằng trong Thái dương hệ thuộc cảm dục Bồ đề này mà bác ái và minh triết
đang được biểu lộ, đa số các Chân Thần đều ở trên cung bác ái minh triết. Do đó,
sự kiện nó là cung tổng hợp có một ư nghĩa rộng lớn. Đây là Thái dương hệ của
Đấng Con, có tên là Bác ái. Đây là sự hoá thân thiêng liêng của Vishnu. Con Rồng
minh triết đang biểu lộ và Ngài đưa vào hoá thân các Thực Thể Thông Linh vũ trụ
có bản chất tương đồng với chính Ngài. Sau cuộc điểm đạo 3, mọi người tự thấy
ḿnh ở trên cung Chân Thần; trên một trong ba cung chính yếu và sự kiện các Chân
Sư và Điểm đạo đồ được thấy ở trên mọi cung là do hai yếu tố sau đây: Thứ nhất.
Mỗi cung đều có các cung phụ, các cung phụ này tương ứng với cả bảy cung. 176
223. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 223 Thứ hai. Nhiều vị hướng dẫn
nhân loại chuyển từ cung này đến cung khác khi nào các Ngài thấy cần và khi công
việc có thể đ̣i hỏi. Khi một trong các Chân Sư hay Điểm đạo đồ được chuyển vị,
điều đó tạo nên một sự tái điều chỉnh hoàn toàn. Khi một Chân Sư rời huyền giai
của hành tinh chúng ta để nhận công tác nơi khác, cần phải có sự tái tổ chức
hoàn toàn và thu nhận các thành viên mới vào Thánh Đoàn. Tuy nhiên, các sự kiện
này ít được hiểu rơ. Ở đây, chúng ta cũng có cơ hội nêu ra rằng chúng ta không
bàn đến các điều kiện ở địa cầu khi chúng ta xét các cung, chúng ta cũng không
chỉ quan tâm đến tiến hoá của các Chân Thần trên hành tinh này, mà cũng quan tâm
tới Thái dương hệ trong đó địa cầu chúng ta giữ một địa vị cần thiết nhưng không
tối thượng. Địa cầu là một cơ cấu nằm trong một cơ cấu c̣n lớn hơn và sự kiện
này cần được nhận thức rộng răi hơn. Các con của nhân loại trên hành tinh này
rất thường xem toàn thể Thái dương hệ như thể là địa cầu đang ở trong vị trí của
thái dương, trung tâm của cơ cấu thái dương. Dưới sự giám sát của Chân ngă, cung
của Chân ngă có thể thống ngự. Cung này chỉ là một phản ảnh trực tiếp của Chân
Thần và tuỳ thuộc vào trạng thái của tam thượng thể tinh thần mà đối với con
người, ở bất cứ lúc nào cũng là đường lối ít bị đối kháng nhất. Bởi đó, chúng ta
phải hiểu rằng, đôi khi trung tâm lực của một cung sẽ là trạng thái Niết Bàn,
đôi khi là trạng thái Bồ đề, và khi khác là trạng thái trí tuệ. Dù tam thượng
thể có ba phần, tuy nhiên các tiền đồn chân ngă của nó (nếu người ta có thể diễn
tả như thế) sẽ hoặc là thuộc Niết Bàn, hoặc là có ưu thế về Bồ đề hay về thượng
trí. Nơi đây, tôi muốn mọi người lưu ư rằng sự biểu lộ tam
224. 224 phân này có thể được nhận thấy dưới ba h́nh thức,
tất cả tạo thành một sự lựa chọn gồm chín phần của các cung đối với Chân ngă :
Trạng thái Niết Bàn 1. Niết Bàn - Niết Bàn 2. Niết Bàn - Bồ đề 3. Niết Bàn -
Thượng trí Trạng thái Bồ đề 1. Bồ đề - Niết bàn 2. Bồ đề - Bồ đề 3. Bồ đề -
Thượng trí. Trạng thái thượng trí 1. Thượng trí - Niết Bàn 2. Thượng trí - Bồ đề
3. Thượng trí - Thượng trí Theo nguyên văn, điều này có nghĩa là ba cung chính
yếu, mỗi cung có thể được chia nhỏ ra (liên quan với Chân ngă) thành ba phần. Sự
kiện này cũng ít được đánh giá đúng đắn. Giai đoạn 3, trong đó cung Chân Thần
làm cho chính nó được cảm nhận trên cơi hồng trần, giai đoạn này ngắn hơn nhiều
và bao trùm giai đoạn mà trong đó tam giác thứ sáu thống ngự. Nó đánh dấu thời
kỳ thành đạt, giải thoát và do đó, mặc dù là giai đoạn ngắn nhất khi xét từ dưới
lên, đó là giai đoạn tương đối dài khi xét từ cơi Chân Thần. Nó bao hàm toàn thể
thời gian c̣n lại trong 100 năm của Brahma hay là phần c̣n lại của tiến tŕnh
biểu lộ. Do đó, khi chúng ta nghiên cứu về tập hợp các tam giác được đề cập tới
trước kia và các giai đoạn của cung thống ngự, chúng ta sẽ t́m được nhiều đề tài
cho tư tưởng. Tuy 178
225. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 225 nhiên, tôi xin nêu ra đây rằng
sáu nhóm tam giác tất cả chỉ c̣n năm, nếu chúng ta loại ra tam giác sinh khí vốn
có liên quan với chính vật chất và không được kể tới, cũng chẳng khác nào chất
hồng trần trọng trược không được tính như một nguyên khí. Do đó, chúng ta có: a.
Hai tam giác do cung phàm ngă đem lại sinh khí. b. Hai tam giác do cung chơn ngă
đem lại sinh khí. c. Tam giác tổng hợp của Chân Thần. Tuy nhiên, chúng ta phải
nhớ rằng sự phức tạp lại tăng thêm do sự kiện là các tam giác phàm ngă sẽ được
hoạt động đầy đủ tuỳ theo cung Chân Thần hay Tinh Thần. Do đó, không một qui tắc
cứng rắn hay chặt chẽ nào có thể được đưa ra cho sự phát triển. Các tam giác
Chân ngă tuỳ thuộc phần lớn vào phản ảnh trong phàm ngă của sức sống tinh thần.
Chúng là trung điểm, cũng như linh hồn thể hay chân ngă thể là điểm truyền đạt
(khi được tập hợp và kiến tạo một cách đầy đủ) giữa cao và thấp. Các nguyên tử
thường tồn được bao kín trong chu vi của linh hồn thể, tuy nhiên, thể tương đối
thường tồn đó được kiến tạo và phóng đại, bành trướng và đào luyện thành một
trạm tiếp nhận và phóng phát trung ương (dùng các từ không thích đáng để gợi một
ư niệm huyền linh) bằng tác động trực tiếp của các trung tâm lực ở trên cao.
Giống như sức mạnh tinh thần hay trạng thái ư chí đang tạo ra Thái dương hệ,
cũng thế, mănh lực đó trong con người đang kiến tạo linh hồn thể. Bằng việc đặt
chung lại tinh thần và vật chất (Cha- Mẹ) trong đại thiên địa và sự hợp nhất của
chúng qua tác động của ư chí, Thái dương hệ biểu lộ hay là Con, được tạo thành -
Đứa Con đó của dục vọng có đặc tính là bác ái và bản chất là trực giác hay minh
triết tinh thần. Bằng việc đặt chung 179
226. 226 nhau (trong tiểu thiên địa) Tinh thần và vật chất
và sự phối hợp của chúng bằng thần lực (hay ư chí tinh thần) mà hệ thống biểu
lộ, tức linh hồn thể, được tạo ra; đó là sản phẩm của dục vọng được chuyển hoá,
mà đặc tính (khi biểu lộ đầy đủ) sẽ là bác ái, sự biểu lộ cuối cùng trên cơi
trần của thể bồ đề. Linh hồn thể chỉ là thể/ lớp vỏ của Chân ngă. Thái dương hệ
chỉ là cái thể/ lớp vỏ của Đấng Con. Trong cả hai hệ thống lớn và nhỏ, các trung
tâm lực hiện hữu vốn có tính chất tạo ra biểu lộ ngoại cảnh. Các trung tâm lực
trong con người là các phản ảnh trong ba cơi của các trung tâm lực cao hơn.
Truớc khi tiếp tục đề tài về hoả xà và trung tâm lực, tốt hơn là nên giải thích
rộng ra chi tiết được nêu trên, từ ư nghĩa đầu tiên đối với con người như là ư
nghĩa có liên hệ với chính y tới Thái dương hệ, tức đại thiên địa rồi tới vũ
trụ. Những ǵ có thể được khẳng định về tiểu thiên địa là sự thật tất nhiên của
đại thiên địa và của vũ trụ. Không thể nêu ra các tam giác của Thái dương hệ, v́
chi tiết mù mờ đến nỗi ngoại trừ đối với những kẻ có kiến thức huyền linh và
trực giác được phát triển, thực tế sẽ là không hữu ích về phương diện tinh thần,
nhưng một số điều có thể được nêu ra liên quan đến những ǵ cần được lưu ư. Thái
dương hệ. Chúng ta có thể xem xét ngắn gọn về Thái dương hệ này đứng trên quan
điểm các trung tâm lực của Hành Tinh Thượng Đế và của Thái Dương Thượng Đế. Các
Hành Tinh Thượng Đế: Trong chính Hành Tinh Thượng Đế có tàng ẩn các trung tâm
lực cũng tác động như trong con người và trên chính cơi riêng của các Ngài, có
thể t́m thấy các trung tâm lực này. Chúng ta cần nhớ lại rằng các trung tâm lực
này ở trên các mức độ vũ trụ và khi biểu lộ qua Thái dương hệ ngoại tại, chúng
hiện ra như là các trung tâm 180
227. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 227 lực vĩ đại mà bất cứ nhóm Chân
Sư đặc biệt nào và các môn đồ các Ngài là các tiêu biểu. Mọi nhóm Chân Sư và tất
cả những người đang luân hồi hay không luân hồi - họ đang ở trong phạm vi của
tâm thức ḿnh – là các trung tâm lực thuộc một loại hay tính chất đặc biệt nào
đó. Đây là một sự kiện thường được nhận thấy, nhưng các nhà nghiên cứu cần được
khuyến cáo để liên kết sự kiện này với chi tiết được phổ biến về các trung tâm
lực của con người và xem coi có điều ǵ được học hỏi bằng cách ấy hay không. Các
trung tâm lực này sẽ biểu lộ trên các cơi phụ dĩ thái và trên các cơi tinh anh
hơn giống như chúng biểu lộ trong con người và chúng sẽ được làm sinh động như
là các trung tâm lực của người bởi hoả xà hành tinh đang tiến lên trong các tam
giác theo như sự mong muốn. Hai ẩn ngữ có thể được nêu ra ở đây để thận trọng
xem xét. Liên hệ với một trong các Hành Tinh Thượng Đế (mà người ta không thể
nêu ra vào lúc này), chúng ta có một tam giác lực cần được xét đến trong ba
trung tâm lực sau đây: a. Trung tâm lực mà trong đó Đức Bàn Cổ (Manu) và nhóm
của Ngài là biểu hiện. b. Trung tâm lực mà trong đó Đức Bồ Tát hay Đức Christ và
các vị cộng tác với Ngài là điểm tập trung. c. Trung tâm lực mà trong đó Đức Văn
Minh Bồ Tát và các môn đệ của Ngài là các vị tiêu biểu. Ba nhóm này hợp thành ba
trung tâm lực trong một tam giác vĩ đại - một tam giác chưa hoàn toàn được sinh
động ở giai đoạn phát triển tiến hoá hiện nay. Một tam giác khác liên quan đến
chính Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta là tam giác được tạo thành bởi bảy vị
Thiên Tôn (Kumaras), bốn vị Thiên Tôn ngoại môn tương 181
228. 228 ứng với bốn trung tâm lực thứ yếu trên đầu và ba
vị Thiên Tôn nội môn tương ứng với ba trung tâm lực chính yếu trên đầu (1). Ẩn
ngữ thứ hai mà tôi t́m cách nêu ra, nằm trong tam giác hợp thành bởi Địa Cầu,
Hoả Tinh và Thuỷ Tinh. Liên quan với tam giác này có sự tương đồng ở sự việc là
Thuỷ Tinh và trung tâm lực ở đáy xương sống trong con người được kết hợp chặt
chẽ. Thuỷ Tinh tiêu biểu cho luồng hoả xà đang hoạt động sáng suốt, trong khi
Hoả Tinh tượng trưng cho Hoả xà đang tiềm tàng. Sự thực nằm trong hai biểu tượng
chiêm tinh học của chúng. Trong sự chuyển hoá và trắc lượng hành tinh, bí nhiệm
có thể được tiết lộ. Thái Dương Thượng Đế. Bảy Hành Tinh Thượng Đế là bảy trung
tâm lực trong cơ thể của Thái Dương Thượng Đế, có chung với Ngài một mối liên hệ
mà các Chân Sư và các nhóm liên kết của các Chân Sư đang có đối với một Hành
Tinh Thượng Đế nào đó. Luồng hoả xà của Thái dương hệ tiến lên để làm sinh động
các trung tâm lực này và ở giai đoạn phát triển này, một số trung tâm lực được
kết hợp chặt chẽ hơn các trung tâm lực khác. Cũng liên hệ với Hành Tinh Thượng
Đế của chúng ta, ba hành tinh bằng chất dĩ thái của dăy chúng ta 1 Có bảy vị
Thiên Tôn (Kumaras) liên quan đến cuộc tiến hoá của Hành Tinh chúng ta mà trong
các Ngài có bốn vị là ngoại môn; bốn vị thuộc ngoại môn này có các hiện thể
trong chất dĩ thái; ba vị thuộc nội môn có các hiện thể ở trong các chất liệu
c̣n tinh anh hơn. Sanat Kumara, tức Đấng Chưởng Quản Địa Cầu, là vị tiêu biểu
trên địa cầu cho các thần lực đă chuyển hoá của Hành Tinh Thượng Đế; sáu vị
Kumaras khác truyền đạt năng lượng từ sáu hệ thống hành tinh khác.
229. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 229 - đó là Địa Cầu, Thuỷ tinh và
Hoả tinh (1) - hợp thành một tam giác rất quan trọng, v́ thế có thể nói ra ở đây
rằng ở mức hiện tại trong sự tiến hoá của các trung tâm lực Thượng Đế, Kim Tinh,
Địa Cầu và Thổ Tinh (Saturn) hợp thành một tam giác rất lư thú. Đó là một tam
giác mà vào lúc này đang trải qua việc làm sinh động thông qua tác động của hoả
xà; hậu quả là tăng thêm khả năng rung động của các trung tâm lực, chúng đang từ
từ trở nên có chiều đo thứ tư. Chưa được phép nêu ra các tam giác khác trong số
các tam giác vĩ đại, nhưng về phần các trung tâm lực, chúng ta có thể đưa ra ở
đây hai gợi ư: Thứ nhất. Kim tinh tương ứng với trung tâm lực ở tim trong cơ thể
Thượng Đế và do đó có một liên hệ hỗ tương với tất cả các trung tâm lực khác
trong Thái dương hệ, nơi mà trạng thái tâm là trạng thái nổi bật. Thứ hai. Thổ
tinh tương ứng với trung tâm lực cổ họng, hay là với hoạt động sáng tạo của Ngôi
Ba. Trong khi sự tiến hoá tiếp diễn, các trung tâm lực khác đạt đến một rung
động rơ rệt hơn và luồng hoả (đang chạy ṿng theo tam giác) sẽ đưa chúng nổi bật
lên hơn; tuy nhiên, hai điều nhắc đến ở trên, vào lúc này, thuộc hàng quan trọng
nhất. Cả hai, cùng với tam giác kém quan trọng hơn trong dăy chúng ta, tạo thành
các điểm tập trung năng lượng xét theo quan điểm hành tinh của chúng ta. 1 Các
dăy của bất cứ hệ thống hành tinh nào, đều thường được gọi bằng tên của bảy hành
tinh thánh thiện khiến cho việc khảo sát Định luật tương đồng dễ dàng hơn; một
cách tương tự, các bầu hành tinh của bất cứ dăy nào đều được gọi bằng các tên
của hành tinh đó, như trường hợp ở đây. Có các hệ thống hành tinh được gọi là
Hoả tinh và Thuỷ tinh. 182
230. 230 Cần thêm vào đây một vài ẩn ngữ liên quan đến các
trung tâm lực của tiểu và đại thiên địa, chúng ta có thể nêu ra ở đây các sự
tương ứng vũ trụ có thể được ám chỉ tới. Vũ trụ. Thái dương hệ chúng ta, với
cḥm sao Rua và một trong các ngôi sao của cḥm Đại Hùng Tinh, hợp thành một tam
giác vũ trụ hay một tập hợp ba trung tâm lực trong cơ thể của Vũ Trụ Thượng Đế.
Bảy ngôi trong cḥm Đại Hùng tinh tương ứng với bảy bí huyệt đầu trong cơ thể
của Đấng ấy, c̣n vĩ đại hơn Thượng Đế của chúng ta. Lại nữa, hai Thái dương hệ
khác, khi kết hợp với Thái dương hệ và cḥm sao Rua, tạo thành tứ nguyên thấp
(lower quaternary) mà sau rốt tổng hợp thành bảy trung tâm lực ở đầu giống như
trong con người sau lần điểm đạo thứ tư. 1. Đáy xương sống 2. Đan điền 3. Tim 4.
Cổ họng Đến lượt trung tâm lực thất phân trên đầu t́m được biểu hiện tối hậu
trong cổ họng, trung tâm lực nhị phân trên đỉnh đầu và quanh đầu. Tương tự thế,
ngoài các cḥm sao được đặt tên như trên ra, vẫn c̣n trung tâm lực vũ trụ khác.
Tên của trung tâm lực này là một trong các bí mật của cuộc điểm đạo cuối, tức
điểm đạo thứ bảy. Các điều này chỉ là các tương ứng mà cho đến nay mới được phép
truyền đạt. Điều ǵ ở bên ngoài ṿng giới hạn thái dương có thể là có tầm quan
trọng về tinh thần (GLBN I, 545, 726; I, 581, 582, 654) nhưng đối với các mục
đích tiến hoá của tiểu vũ trụ, đó là một vấn đề không có ư nghĩa rộng lớn. 3.
Các trung tâm lực và hoả xà 183
231. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 231 Như đă nói ở trên, không thể
nói nhiều về hoả xà. Tuy nhiên, có thể là hữu ích mà kể ra một cách vắn tắt
những ǵ nên nói: a. Hoả xà nằm ở đáy xương sống và nơi một người b́nh thường,
chức năng chính của nó là làm sinh động cơ thể. b. Hoả xà tạo nên ba sự nhất
quán trong thời kỳ tiến hoá: - Với lửa phát xạ của cơ thể hay prana ở điểm giữa
các bả vai. - Với các lửa trí tuệ ở điểm ngay chót xương sống, trong trung tâm
lực phía sau cổ họng. - Với lửa của tinh thần ở điểm nơi mà hai luồng hoả hợp
nhất của vật chất và trí tuệ phát ra từ đỉnh đầu. c. Mỗi một trong ba vận hà nằm
trong cột xương sống có mục đích đặc biệt là phối hợp các luồng hoả tam phân
này. Chúng ta cần ghi nhớ rằng các luồng hoả chạy ṿng quanh và rằng vào lúc
thành toàn, mỗi tam giác trong cơ thể đều được sinh động, mỗi trung tâm lực vận
hành đầy đủ và hoả lộ (đường đi của luồng hoả) tam phân có thể nhận thấy trải
dài khắp chiều dài xương sống. d. Khi hoả xà được phối hợp với lửa prana, các
trung tâm lực trở nên có ba chiều đo. Khi nó phối hợp với trí tuệ hay lửa thái
dương và cả hai lửa được hoàn toàn hợp nhất, các trung tâm lực trở nên có chiều
đo thứ tư. Khi hoả xà phối hợp với lửa điện của tinh thần thuần tuư sau kỳ điểm
đạo thứ ba, các trung tâm lực đảm nhiệm nhiều hơn hai chiều đo. e. Khi tiến lên,
hoả xà làm tăng mức rung động một cách ổn định, không những ở các trung tâm lực
mà c̣n ở mọi nguyên tử vật chất trong khắp các thể - dĩ thái, cảm dục và trí 184
232. 232 tuệ. Việc đẩy mạnh hoạt động này có hiệu quả gấp
đôi với các điều lợi to tát sau: 1. Nó tạo nên sự thải bỏ mọi vật chất thô
trược, không thích hợp và ném ra một cách chính xác giống như một bánh xe đang
quay nhanh ném mọi vật ra khỏi mặt của nó vậy. 2. Nó lôi cuốn vào vùng ảnh hưởng
của nó loại vật chất, vốn thích hợp cho chính rung động của nó và đưa vật chất
đó vào trong cái tích chứa rung động của nó (vibratory content). Đây chỉ là một
h́nh ảnh của tác động của Thượng Đế trong việc tạo ra biến dị cho vật chất của
Thái dương hệ. Hoả xà cũng là lửa hay là mănh lực của vật chất và do đó là sự
sống của Thượng Đế Ngôi Ba. f. Hoả xà có hai tác dụng vào mạng lưới dĩ thái như
nó thường được gọi. - Do việc tăng hoạt động từ từ, nó thanh lọc h́nh hài dĩ
thái và tẩy sạch h́nh hài đó khỏi “chất cặn bă” theo cách diễn tả của Cơ Đốc
giáo. - Sau rốt, khi hai loại lửa vật chất và lửa trí tuệ bắt đầu phối hợp (một
diễn tiến chậm chạp và từ từ), chính mạng lưới bị phá huỷ và vào lúc đạt tới
cuộc điểm đạo thứ ba, con người sẽ có được tâm thức liên tục. Điều này là như
thế trừ phi đối với một số công việc và đối với một vài mục đích đặc biệt, con
người đi trước một cách có ư thức và một cách quyết tâm, đó là đốt cháy mạng
lưới, một việc rất có thể xảy ra bởi tác động hữu thức của ư chí. 4. Các trung
tâm lực và các giác quan, b́nh thường và siêu thường. Trước khi bàn ít nhiều về
các trung tâm lực và các tương quan của chúng đối với các giác quan, trước tiên
cần vạch ra 185
233. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 233 một số sự kiện lư thú liên
quan đến các nghĩa này (1) và để cho nền tảng được sáng tỏ hầu đi sâu vào chi
tiết hơn. 1 Bảy giác quan hay các con đường của tri giác. GLBN I, 489, 490. Đấng
Sáng Tạo thứ ba hay Indriya Sáng Tạo GLBN II, 567. Indriya (Căn) Cách kiểm soát
các giác quan trong việc thực hành yoga. Đây là 10 tác nhân bên ngoài; năm giác
quan được dùng để tri giác được gọi là “Jnana-indriya” và năm giác quan dùng để
hành động là “karma-indriya”. Từ Điển Thuật Ngữ Minh Triết Thiêng Liêng
(Theosophical glossary). “Jnana-indriya” (Thức căn) theo nghĩa đen là các giác
quan tri giác (knowledge-senses)… nhờ đó kiến thức (knowledge) được thu thập…
Chúng là các con đường hướng nội (avenues inward). “Karma-indriya” (Hành căn)
theo nghĩa đen là các giác quan hành động (action senses)… các giác quan này tạo
nên hành động. Chúng là các con đường hướng ngoại. “Khảo Cứu về Tâm Thức” (Study
in Consciousness) trang 166 – 167. 1. Cảm giác vốn tiềm tàng trong mỗi nguyên tử
của vật chất. GLBN I, 710. 2. Thái dương là tâm của Thái dương hệ và cảm giác
phát xuất ra từ đó. Nó là do bức xạ thái dương. GLBN I, 590, 662. 3. Tri thức là
mục tiêu của giác quan. GLBN I, 300. 4. Có một tập hợp kép của giác quan, tinh
thần và vật chất. GLBN I, 582; GLBN I, 307- 308 Tập hợp này t́m được phản ảnh
của nó trong tập hợp kép của các giác quan hồng trần được ghi nhận trong việc
định nghĩa các căn (indriyas). 5. Các giác quan có thể được kể ra như sau : GLBN
I, 583, và chú thích 123; GLBN I, 600, 674, 675, 676. 6. Các hành (elements) là
tiền bối (progenitors) của giác quan. GLBN I, 112, 113. a. Aether….Thính
giác…Âm thanh…………………. Cơi Chân Thần b. Phong… Xúc giác… Âm thanh, xúc
giác……………….Cơi Bồ đề
234. 234 Giác quan là ǵ? Có bao nhiêu giác quan? Chúng có
liên quan ǵ đến con người nội tâm, Chủ Thể Suy Tư, Trí Tinh Quân thiêng liêng
không? Các câu hỏi này có tầm quan trọng rất thiết yếu và muốn hiểu chúng một
cách thích đáng, nên đi theo con đường tri thức một cách khôn ngoan. Các giác
quan có thể được định nghĩa như là các cơ quan, nhờ đó con người biết được chung
quanh ḿnh. Có lẽ chúng ta nên diễn tả chúng không phải như là các cơ quan mà
như là phương tiện (v́ sau rốt, một cơ quan là một h́nh hài vật chất, tồn tại v́
một mục đích nào đó), nhờ đó Chủ Thể Suy Tưởng (tức Linh Hồn – ND) tiếp xúc được
với môi trường quanh ḿnh. Chúng là các phương tiện nhờ đó con người học hỏi
được trên cơi hồng trần thô trược; chúng là phương tiện nhờ đó con người đổi
chác được kinh nghiệm của ḿnh, nhờ đó y khám phá ra những ǵ mà y muốn biết,
nhờ đó y trở nên hiểu biết và nhờ đó y mở rộng được tâm thức. Ở đây, chúng ta
đang bàn đến năm giác quan mà con người thường dùng. Nơi con vật, năm giác quan
này cũng có, nhưng v́ thiếu khả năng liên kết suy tưởng, v́ “liên hệ giữa” ngă
với phi ngă chỉ phát triển ít, chúng ta sẽ không liên kết giữa chúng ta với c.
Hoả…..... Thị giác…. Âm thanh, xúc giác, thị giác……….. Cơi trí d. Thuỷ….. Vị
giác…… Âm thanh, xúc giác, thị giác… Cơi cảm dục vị giác. e. Thổ…. Khứu giác….
Âm thanh, xúc giác, thị giác, ………Cơi trần vị giác , khứu giác. 7. Mọi giác quan
đều thấm nhập (pervades) giác quan khác. GLBN II, 569. Không có trật tự đại
đồng. Tất cả đều ở trên mọi cơi. GLBN
II, 550. 8. Các giác quan tương ứng với
mọi giác quan thất phân khác trong thiên nhiên. Xem GLBN II, 448. So với GLBN
II, 497. 186
235. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 235 chúng ở chỗ này được. Các giác
quan trong giới động vật là quan năng tập thể (group faculty) và biểu lộ dưới
h́nh thức bản năng duy tŕ ṇi giống. C̣n giác quan trong người tài sản của cá
nhân và biểu lộ : a. Dưới h́nh thức nhận thức riêng rẽ của ngă thức. b. Dưới
h́nh thức năng lực để khẳng định tính cách cá nhân. c. Dưới h́nh thức phương
tiện hữu ích cho sự tiến hoá ngă thức. d. Dưới h́nh thức một cội nguồn của tri
thức. e. Dưới h́nh thức năng lực chuyển hoá hướng về việc kết thúc sự sống trong
ba cơi thấp. Như chúng ta biết, có năm giác quan và theo thứ tự phát triển như
sau : a.Thính giác b. Xúc giác c. Thị giác d. Vị giác e. Khứu giác Mỗi một trong
năm giác quan này có liên quan rơ rệt với cơi này hay cơi khác và cũng có một
tương ứng trên mọi cơi. Trước tiên, chúng ta hăy đề cập đến một trong số các
giác quan này, nêu ra một số sự việc lư thú liên quan với chúng và nêu sự tương
ứng về cơi phụ của chúng. Cơi Giác quan 1. Hồng trần Thính giác 2. Cảm dục Xúc
giác hay cảm giác 3. Trí Thị giác 4. Bồ đề Vị giác 5. Niết Bàn Khứu giác 187
236. 236 Ở hai trong số ba cơi thấp - tức cảm dục và hồng
trần – th́ năm cơi phụ của nỗ lực con người là năm cơi phụ cao nhất. Hai cơi phụ
thấp nhất, tức cơi phụ 6 và 7 là cơi mà chúng ta có thể diễn tả như là “thấp lè
tè” (“below the threshold”) và liên hệ với các h́nh thức sự sống thấp dưới toàn
thể nhân loại. Chúng ta có một sự tương đồng được củng cố trong sự kiện rằng hai
căn chủng có trước nhất trong cuộc tuần hoàn này dứt khoát không phải là nhân
loại và rằng chính căn chủng thứ ba mới thực sự là nhân loại lần đầu tiên. Do
đó, đếm từ dưới lên trên, th́ chỉ cơi phụ thứ ba trên cơi trần và cơi cảm dục
mới đánh dấu sự khởi đầu cho cố gắng của nhân loại, c̣n lại năm cơi phụ thấp
phải được chinh phục. Trên cơi trí, năm cơi phụ thấp phải được chinh phục trong
cuộc tiến hoá thuần tuư nhân loại. Khi tâm thức được tập trung trên cơi phụ 5
(tính từ dưới lên) lúc bấy giờ các cơi trừu tượng – theo quan điểm con người
trong ba cơi thấp - bất ngờ xảy đến hai cơi phụ tổng hợp, biểu lộ qua sự tổng
hợp của năm giác quan. Trong cuộc tiến hoá của Hành Tinh Thượng Đế, chúng ta có
cùng một sự kiện: 5 cơi nỗ lực, tức 5 cơi thấp của Thái dương hệ và hai cơi trừu
tượng cao hơn, tức cơi tinh thần hay cơi Chân Thần và cơi thiêng liêng hay cơi
Thượng Đế. TIẾN HOÁ GIÁC QQUAN TRONG TIỂU THIÊÊN ĐỊỊA Cơi Hồng trần… 1. Thính giác…….. thứ 5…. thể hơi 2. Xúc giác, cảm giác…..
thứ 4…… dĩ thái 1 3. Thị giác ……. thứ 3… …. siêu dĩ thái 4. Vị giác …….. thứ
2…….. á nguyên tử 5. Khứu giác … ….. thứ 1 …… nguyên tử Cơi cảm dục… 188
237. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 237 1. Nhĩ thông…………… thứ 5 2.
Trắc lượng tâm lư….. thứ 4 3. Nhăn thông ………… thứ 3 4. Tưởng tượng ……….. thứ 2
5. Lư tưởng cảm xúc ….. thứ 1 Trí tuệ… 1. Nhĩ thông bậc cao …………........ thứ 7
2. Trắc lượng tâm lư hành tinh …… thứ 6 sắc 3. Nhăn thông bậc cao …………….. thứ 5
tướng 4. Phân biện ………………………. .. thứ 4 5. Phân biện tinh thần ………….. thứ 3 vô 6.
Đáp ứng với rung động tập thể…. thứ 2 sắc 7. Viễn cảm tinh thần ………………. thứ 1
tướng Bồ đề… 1. Thấu hiểu (comprehension)….. thứ 7 2. Hàn gắn (healing) …………….
thứ 6 3. Huệ nhăn thông (Divine vision)... thứ 5 4. Trực giác …………………… thứ 4 5.
Chủ nghĩa lư tưởng (Idealism) … thứ 3 Niết bàn…(Atmic) 1. Toàn phúc ………………… thứ
7 2. Phụng sự linh hoạt ……….. thứ 6 3. Hiện thực ……………..…… thứ 5 4. Hoàn thiện
………………… thứ 4 5. Toàn tri (aL knowledge) …. thứ 3 Cần ghi nhớ rằng chúng ta
không tổng kết hai cơi trừu tượng trên cơi Niết Bàn và Bồ đề, lư do là v́ chúng
đánh dấu một tŕnh độ nhận thức, vốn là điều sở đắc của các điểm đạo đồ ở cấp
bậc cao hơn cấp bậc của Chân Sư, và vượt quá quan189
238. 238 niệm của mẫu người tiến hoá đang là đối tượng của
Bộ luận này. Với mục đích làm sáng tỏ, chúng ta có thể nêu lên ở đây biểu đồ về
năm trạng thái khác nhau của 5 giác quan trên năm cơi, để cho các tương đồng của
chúng có thể sẵn sàng h́nh dung được bằng cách dùng bảng trên làm cơ sở: a. Giác
quan thứ nhất … Thính giác 1. Thính giác hồng trần 2. Nhĩ thông 3. Nhĩ thông cao
4. Sự lĩnh hội đối với bốn âm thanh 5. Toàn phúc b. Giác quan thứ 2 …………. Xúc
giác hay cảm giác 1. Xúc giác hồng trần 2. Trắc lượng tâm lư 3. Trắc lượng tâm
lư hành tinh 4. Hàn gắn (healing) 5. Phụng sự linh hoạt (active service) c. Giác
quan thứ 3…………. Thị giác (Sight) 1. Thị giác hồng trần 2. Nhăn thông. 3. Nhăn
thông cao 4. Huệ nhăn thông (Divine vision) 5. Nhận thức d. Giác quan thứ 4………….
Vị giác 1. Vị giác hồng trần 2. Trí tưởng tượng 3. Phân biện 4. Trực giác 5.
Hoàn thiện
239. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 239 e. Giác quan thứ 5…………. Khứu
giác 1. Khứu giác hồng trần 2. Lư tưởng xúc cảm 3. Nhận thức tinh thần 4. Chủ
nghĩa lư tưởng 5. Toàn tri Giờ chúng ta hăy đi vào từng chi tiết một trong các
giác quan này: a. Thính giác. Đây là giác quan đầu tiên được biểu lộ một cách
rất thích hợp; trạng thái biểu lộ thứ nhất là trạng thái âm thanh, do đó, tất
nhiên là chúng ta thường tin tưởng âm thanh là cái đầu tiên mà con người để ư
đến trên cơi trần, cơi biểu lộ trọng trược nhất và có các hiệu quả âm thanh đáng
ghi nhận nhất được xem là yếu tố sáng tạo. Một cách nổi bật, cơi trần là cơi của
thính giác và như thế là giác quan được gán cho cơi tiến hoá thấp nhất và của
mỗi một trong 5 cơi. Trên cơi thứ bảy hay cơi thấp nhất, con người phải tiến đến
chỗ nhận thức đầy đủ về hiệu quả của Linh Từ, v́ nó ở trong tiến tŕnh phát ra
âm thanh. Khi âm thanh vang dội suốt cả Thái dương hệ, nó đưa vật chất vào chỗ
đă định của vật chất, và trên cơi trần, nó t́m được điểm có tính vật chất sâu
kín nhất và biểu lộ cụ thể nhất. Bí quyết đối với con người là khám phá và trở
lại liên hệ chính nó với sự tiết lộ về bí nhiệm của: a. Chính âm thanh của y b.
Âm thanh của huynh đệ y c. Âm thanh của nhóm y d. Âm thanh của một trong các
Hành Tinh Thượng Đế mà y có liên hệ với Ngài. e. Âm thanh của Thượng Đế, hay âm
thanh của thiên nhiên, của Thái dương hệ của Thái Dương Thượng Đế. 190
240. 240 Do đó, chúng ta ghi nhận rằng trên cơi trần, con
người phải t́m ra chính nốt của ḿnh, phải t́m nốt đó dù cho h́nh hài có trọng
trược đến đâu. a. Trên cơi trần, con người đang t́m kiếm nốt của riêng ḿnh. b.
Trên cơi cảm dục, con người đang t́m kiếm nốt của huynh đệ y, qua sự tương đồng
về cảm xúc, con người tiến đến chỗ nhận được sự tương đồng của huynh đệ y. c.
Trên cơi trí, y đang bắt đầu t́m được nốt của nhóm y. d. Trên cơi Bồ đề hay cơi
minh triết, con người bắt đầu t́m thấy nốt của Hành Tinh Thượng Đế của y. e.
Trên cơi Niết bàn hay cơi Tinh Thần, nốt của Thượng Đế bắt đầu ngân lên trong
tâm thức y. Tôi phân tích như thế với mục đích làm sáng tỏ. Trong chính sự tiến
hoá, do bởi trạng thái song song của thiên nhiên, các phân biệt không được rơ
ràng như thế, và cung của một người, mức độ phát triển, công việc được thành
toàn sớm hơn, các giới hạn nhất thời của y và các nguyên nhân khác dường như tạo
ra sự mơ hồ, nhưng trong đại hệ thống, nh́n từ trên xuống, công việc diễn tiến
như đă mô tả. Thính giác trên cơi cảm dục thường được gọi là nhĩ thông và có
nghĩa là khả năng nghe được âm thanh của cơi cảm dục. Đó là một năng khiếu biểu
lộ khắp toàn bộ thể cảm dục, con người nghe được qua khắp hiện thể của y chứ
không phải chỉ thông qua cơ quan chuyên hoá là hai tai, sản phẩm của tác động và
phản tác động trên cơi trần. Điều này tất nhiên là như thế, do bởi bản tính dễ
lưu chuyển của thể cảm dục. Con người trên cơi trần, nghe cùng lúc một phạm vi
âm thanh nào đó, và chỉ có một âm giai (gamut) rung động nhỏ 191
241. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 241 và đặc biệt mới tác động trên
tai y. Có nhiều âm thanh yếu ớt trong thiên nhiên hoàn toàn thoát khỏi y, trong
khi âm thanh của các nhóm chính đều không khác nhau chút nào. Khi sự tiến hoá
tiếp tục, cảm giác bên trong của tai trở nên nhạy, các âm thanh khác của cơi
trần cũng sẽ ở trong phạm vi hiểu biết của con người, và y sẽ nhận biết một cách
tinh nhạy về mọi âm thanh trên cơi cảm dục và cơi trần - điều mà hiện giờ nếu có
thể xảy ra, sẽ đưa đến kết quả làm vỡ tan cơ thể. Thí dụ, nếu nốt của thiên
nhiên chỉ tác động một lần thôi trên tai của một người (một nốt làm bằng toàn
thể các rung động sinh ra bởi mọi h́nh hài vật chất trọng trược) thể xác của y
sẽ hoàn toàn bị phá vỡ. Y chưa sẵn sàng đón nhận một biến cố như vậy; tai trong
chưa được chuẩn bị thích đáng. Chỉ khi nào thính giác gồm ba phần được hoàn
thiện, bấy giờ trên cơi trần con người mới được phép có thính giác hoàn hảo.
Thính giác trên cơi trí chỉ là một sự mở rộng khả năng phân biệt âm thanh. Thính
giác được bàn đến trên các cơi này là thính giác có liên quan với h́nh hài, vốn
có liên quan với rung động của vật chất và có dính dáng với phi ngă. Nó không
liên quan tới tâm linh (psyche) hay là truyền đạt viễn cảm vốn xuất phát từ trí
đến trí, mà là liên quan với âm thanh của h́nh hài hay mănh lực mà nhờ đó một
đơn vị tâm thức riêng rẽ nhận biết được một đơn vị khác không phải là chính nó.
Hăy nhớ kỹ điều này. Khi việc phát triển thính giác trở thành những ǵ có liên
quan đến tâm linh, lúc bấy giờ chúng ta gọi đó là viễn cảm, hay là sự truyền đạt
không bằng lời nói (wordless coMunication) vốn là tổng hợp của thính giác trên
ba cơi thấp và được Chân ngă nhận biết trong linh hồn thể trên các cơi phụ vô
sắc tướng của cơi trí. 192
242. 242 Trên cơi Bồ đề, thính giác (hiện giờ có tính chất
tổng hợp gọi là viễn cảm) biểu lộ như sự toàn thông v́ nó liên quan đến hai sự
việc: 1. Hiểu biết và nhận ra được âm thanh cá nhân. 2. Hiểu biết tương đồng về
âm thanh của nhóm, và sự hợp nhất hoàn toàn của chúng. Điều này tạo nên sự toàn
thông đầy đủ nhất (most perfect compre–hension) và là bí nhiệm về quyền năng của
Chân Sư. Trên cơi Niết bàn, thính giác hoàn hảo này được xem như là toàn phúc
(beatitude). Âm thanh, nền tảng của sự sống; âm thanh, phương pháp hiện tồn; âm
thanh, chủ thể hợp nhất cuối cùng (final unifier); do đó, âm thanh được xem như
là lư do tồn tại (the raison d’être), như là phương pháp tiến hoá và do đó như
là toàn phúc (1). 1 … “Cơ nguyên chính yếu, nhờ đó bánh xe của Tạo Hoá chuyển
động theo một hướng của cơi hiện tượng là âm thanh (sound). Âm thanh là trạng
thái thứ nhất của ngũ giác biểu lộ (manifested pentagon) v́ đó là một đặc tính
của dĩ thái được gọi là Akas và như tôi có nói cái dẫn chứng của kinh Vedas là
Yagnam cao siêu nhất chứa trong chính nó mọi Yagnams nhỏ và đưa tới khuynh hướng
bảo tồn ngũ giác biểu lộ theo trật tự thích hợp. Theo ư kiến của các triết gia
cổ của chúng ta, âm thanh hoặc lời nói, kế tiếp với tư tưởng, là tác nhân nghiệp
quả cao nhất được con người vận dụng. Trong số các cơ nguyên nghiệp quả đủ loại
do con người tạo ra theo cách rập khuôn chính ḿnh và chung quanh ḿnh, âm thanh
hoặc lời nói là quan trọng nhất, v́ lẽ, khi nói là tác động trong chất dĩ thái
mà dĩ nhiên đang chi phối 4 yếu tố (tứ đại) thấp gồm có phong, hoả, thuỷ, thổ.
Âm thanh hay ngôn ngữ con người, do đó, chứa mọi yếu tố có tính thúc đẩy các
hạng Thiên Thần khác nhau và các yếu tố này dĩ nhiên là các nguyên âm và các phụ
âm. Các chi tiết của môn triết lư về âm thanh trong mối liên hệ của nó với các
243. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 243 b. Xúc giác. Khi đề cập đến
vấn đề giác quan thứ hai, tức xúc giác, chúng ta phải ghi nhớ rằng giác quan này
là giác quan rất quan trọng, vượt trên các giác quan khác trong Thái dương hệ
thứ hai này - tức Thái dương hệ của tâm thức cảm dục tuệ giác (1). Mỗi một trong
các giác quan này, sau khi đạt đến một tŕnh độ nào đó, bắt đầu tổng hợp với các
giác quan khác bằng một cách hầu như không thể biết được nơi bắt đầu và nơi kết
thúc. Xúc giác là sự nhận thức bằng cách tiếp xúc qua sự luyện tập của trí tuệ
theo ba cách : - Dưới h́nh thức nhận thức (recognition) - Dưới h́nh thức trí nhớ
(memory) - Dưới h́nh thức tiên đoán (anticipation) Mỗi một trong năm giác quan
này, khi kết hợp với trí tuệ sẽ phát triển ở bên trong chủ thể một ư niệm biểu
hiện cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Do đó, khi một người tiến hoá rất cao,
sẽ siêu việt được thời gian (như đă biết trong ba cơi thấp), và do đó có thể
nh́n thấy ba cơi thấp này theo quan điểm Hiện Tại Vĩnh Cửu, người đó đă thay thế
các giác quan bằng tâm thức linh hoạt đầy đủ. Người đó trở nên thông suốt
(knows) và không cần các giác quan để dẫn dắt y đến bất cứ tri thức nào nữa.
Nhưng sớm hay muộn và trong ba cơi thấp, mỗi giác quan trên mỗi cơi được dùng để
truyền đạt cho Linh thiên thần chủ tŕ cơi giới tinh anh, tuỳ thuộc vào địa hạt
của Mantra Sastra dĩ nhiên nằm trong tay của những kẻ hiểu biết”. Some Thoughts
on the Gita, trang 72 1 Tâm thức cảm dục tuệ giác (astral–buddhic consciousness)
là thuật ngữ được dùng cho tâm thức cơ bản trong Thái dương hệ chúng ta. Nó được
tiêu biểu bằng sự cảm xúc (emotion), bằng sự nhạy cảm (by feeling), cảm giác, mà
sau rốt phải được biến đổi thành trực giác, tri giác tâm linh (spiritual
perception) và hợp nhất. 193
244. 244 Hồn một khía cạnh/ trạng thái nào đó của phi ngă,
và bằng sự trợ giúp của trí tuệ, bấy giờ Chủ Thể Suy Tưởng có thể hiệu chỉnh mối
liên giao của ḿnh vào đó. Thính giác đem lại cho y một ư tưởng về phương hướng
tương đối và giúp cho một người xác định vị trí ḿnh trong cơ tiến hoá và định
hướng cho chính ḿnh. Xúc giác đem lại cho y một ư tưởng về số lượng tương đối
và cho phép y xác định giá trị tương đối có liên quan đến các thể khác bên ngoài
chính y. Thị giác đem lại cho y ư tưởng về sự cân xứng và cho phép y hiệu chỉnh
cử động của y so với cử động của các kẻ khác. Vị giác đem lại cho y ư tưởng về
giá trị, cho phép y xác định trên đó những ǵ đối với y có vẻ tốt nhất. Khứu
giác mang lại cho y ư tưởng về tính chất nội tại cho phép y t́m thấy những ǵ
hấp dẫn y như thể cùng tính chất hoặc bản thể như chính y. Trong tất cả các định
nghĩa này, cần phải nhớ rằng toàn bộ vấn đề về giác quan là tiết lộ phi ngă và
nhờ đó cho phép Bản ngă phân biện giữa thực và hư (1). 1 Các cảm giác được khơi
dậy bằng các đối tượng của giác quan được kinh qua bằng các dụng cụ bên ngoài
của Vị Chúa của Cơ Thể (Lord of the Body) hay là các giác quan (Indriya) vốn là
các đường lối mà qua đó Chân Thần nhập thế (Jiva) thu nhận kinh nghiệm trần
gian. Có 10 giác quan gồm hai loại: a. 5 cơ quan cảm
giác................................ Jnanendriya 1. Tai
..................................................Thính giác 2. Da
.................................................... Cảm nhận bằng xúc giác 3.
Mắt ................................................. Thị giác 4. Lưỡi
................................................ Vị giác 194
245. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 245 Trong sự tiến hoá của các giác
quan, thính giác là cái ǵ mơ hồ nhất, nó gợi sự chú ư của bản ngă không sáng
suốt bên ngoài. a. Đối với rung động khác. 5. Mũi
................................................ Khứu giác b. 5 cơ quan hành
động............................. Karmendriya 1. Miệng
........................................... Nói 2. Tay
............................................... Nắm 3. Chân
............................................. Đi 4. Hậu
môn....................................... Bài tiết 5. Bộ phận sinh dục
........................ Sinh sản Các cơ quan cảm giác là sự đáp ứng trở lại
những ǵ mà Bản ngă cảm nhận. Các cơ quan hành động là những cơ quan mà qua đó
hiệu quả được mang lại cho các ước muốn của Jiva. “Indriya hay giác quan không
phải là cơ quan vật chất mà là khả năng của trí tuệ tác động xuyên qua cơ quan
đó như là khí cụ của nó. Các cơ quan bên ngoài giác quan này là các phương tiện
thông thường nhờ đó trên cơi trần, các chức năng nghe v.v.. được hoàn thành.
Nhưng v́ chúng chỉ là các dụng cụ và sức mạnh của chúng phát xuất từ thể trí,
nên một vị yogi có thể hoàn thành chỉ bằng thể trí tất cả những ǵ có thể làm
được bằng các cơ quan vật chất này mà không dùng đến cơ quan vật chất… [“Chúng
ta có thể làm đổ cái ly chỉ bằng sức mạnh của ư chí mà không đụng tới cái ly.
Quả thật một người quen của tôi (Ông Leadbeater) đă từng thí nghiệm điều này và
đă thành công”. Trích “Chơn Sư và Thánh Đạo” quyển I, trang 105. ND] Ba chức
năng về chú ư, chọn lựa và tổng hợp, tức đường phân phối kín đáo của các giác
quan, là các chức năng tuỳ thuộc vào trạng thái của thể trí, tác nhân bên trong,
gọi là Manas. Cũng như manas cần cho các giác quan, giác quan cũng cần cho
manas… Như vậy manas là giác quan hướng dẫn (leading indriya, trong đó các giác
quan là các mănh lực”. Serpent Power của Arthur Avalon. 195
246. 246 b. Đối với những ǵ phát xuất từ bên ngoài chính
nó. c. Đối với ư niệm về cái bên ngoài (externality). Khi âm thanh được tiếp xúc
trước nhất, tâm thức lần đầu tiên trở nên biết được những ǵ bên ngoài. Nhưng
tất cả những ǵ mà tâm thức hôn thụy (dormant consciousness) hiểu được (bằng
giác quan duy nhất là thính giác) là sự thật về một điều ǵ đó xa lạ với chính
nó và về chiều hướng mà trong đó một điều ǵ đó ẩn tàng. Cuối cùng, sự nắm bắt
này làm nảy sinh ra một giác quan khác, đó là xúc giác. Định luật Thu Hút tác
động, tâm thức di chuyển một cách chậm chạp từ bên ngoài hướng về những ǵ được
nghe thấy; và khi sự tiếp xúc được thiết lập với phi ngă, nó được gọi là xúc
giác. Xúc giác này truyền đạt các ư tưởng khác đến cho tâm thức đang ḍ dẫm, các
ư tưởng về kích thước, về cấu trúc bên ngoài và về các sự dị biệt mặt ngoài; như
thế quan niệm của Chủ Thể Suy Tưởng được nới rộng dần dần. Y có thể nghe và cảm
nhận, nhưng cho đến nay không biết đầy đủ về các mối tương quan cũng như về tính
danh. Khi y thành công trong việc định danh, y đă tiến được một bước dài. Do đó,
ở đây chúng ta có thể ghi nhận rằng các biểu hiện vũ trụ có trước tiên được áp
dụng cho các giác quan như là nơi khác: Điểm trong ṿng tṛn – tâm thức và phi
ngă ở một mức độ mà chỉ một ḿnh âm thanh mới mô tả được. Ṿng tṛn phân đôi –
tâm thức biết được phi ngă nhờ một nhận thức kép. Kết quả của việc này là thị
giác, tức giác quan thứ ba, và là giác quan ghi rơ sự tương giao của các ư tưởng
hay là sự tương quan giữa chúng; nó xảy ra song song với Trí Tuệ cả trong thời
gian và chức năng. Chúng ta nghe, tiếp xúc hay cảm nhận và tiếp theo là nh́n.
Liên quan với sự tương ứng 196
247. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 247 đó, cần chú ư là thị giác đến
cùng với căn chủng thứ ba trong cuộc tuần hoàn này, và giống dân thứ 3 cũng
chứng kiến việc thể Trí xuất hiện. Ngă và phi ngă có liên quan trực tiếp và được
phối kết với nhau. Sự cộng tác chặt chẽ của chúng trở thành một sự kiện hoàn hảo
và mức tiến hoá được đẩy nhanh bằng sức thôi thúc mới. Ba giác quan chính này
(tôi tạm mô tả như thế) kết hợp nhau rất rơ ràng, mỗi giác quan với một trong Ba
Ngôi Thượng Đế: Thính giác - Nhận thức được ngôn từ tứ phân, hoạt động của vật
chất, Thượng Đế Ngôi Ba. Xúc giác - Nhận thức được Đấng Kiến Tạo H́nh Hài thất
phân, tụ tập lại các h́nh hài, sự tiếp cận và quan hệ hỗ tương của chúng, Thượng
Đế Ngôi Hai. Định luật Thu Hút giữa Ngă với phi ngă bắt đầu tác động. Thị giác -
Nhận ra được tính chất toàn thể, tổng hợp của tất cả, hiểu được Đấng Duy Nhất
trong Muôn Loài, Thượng đế Ngôi Một. Định Luật Tổng Hợp, đang tác động giữa mọi
h́nh hài mà bản ngă đang chiếm hữu và nhận ra được tính duy nhất cốt yếu của mọi
biểu lộ nhờ vào thị giác. Về phần vị giác và khứu giác, chúng ta có thể gọi
chúng là các giác quan thứ yếu, v́ chúng được kết hợp chặt chẽ với giác quan
trọng yếu là xúc giác. Thực sự chúng phụ thuộc cho giác quan này. Giác quan thứ
hai này và mối liên hệ của nó với Thái dương hệ thứ 2 nên được thận trọng nghiền
ngẫm. Đó là giác quan có ưu thế liên hệ chặt chẽ nhất với Thượng Đế Ngôi Hai.
Điều này đưa ra một gợi ư rất có giá trị nếu được xem xét một cách thích đáng.
Thật là hữu ích mà nghiên cứu các phần mở rộng của cơi trần có liên quan với các
cơi khác và xem chúng ta được đưa đến đâu. Đó là khả
248. 248 năng cho phép chúng ta đạt đến bản thể nhờ việc
nhận ra lớp vỏ che phủ. Nó giúp cho Chủ Thể Suy Tưởng vận dụng quan năng đó một
cách đầy đủ để đặt chính ḿnh liên quan chặt chẽ với bản thể của mọi bản ngă ở
mọi tŕnh độ và do đó để trợ giúp trong sự tiến hoá thích hợp của lớp vỏ và để
phụng sự một cách linh hoạt. Đấng Từ Bi là một Đấng (bằng xúc giác) được cảm
nhận được với đầy đủ hiểu biết và hiểu được cách để hàn gắn và hiệu chỉnh các
nhược điểm của phi ngă và như thế để phụng sự cơ tiến hoá một cách linh động.
Trong sự liên hệ này, chúng ta cũng sẽ nghiên cứu giá trị của xúc giác được các
nhà chữa trị cho nhân loại (những kẻ đang đi theo con đường của Bồ Tát) (1).
Chứng minh và hiệu quả của Định Luật Hút và Đẩy khi được họ vận dụng như thế.
Các nhà nghiên cứu từ nguyên học ghi nhận rằng căn nguyên của từ ngữ xúc giác có
phần mù mờ, nhưng có lẽ hàm ư “kéo theo với chuyển động nhanh”. Ở đây có tàng ẩn
toàn bộ bí nhiệm của Thái dương hệ biểu lộ này và nơi đây sẽ được chứng minh sự
gia tăng rung động bằng xúc giác. Tĩnh tại, chuyển động, nhịp nhàng là các tính
chất biểu lộ bởi phi ngă. Nhịp nhàng, thăng bằng và rung động ổn cố được đạt đến
bằng chính khả năng tiếp xúc hay cảm nhận này. Tôi xin minh hoạ vắn tắt để làm
cho vấn đề sáng tỏ hơn một ít. Trong việc thiền định, các kết quả ǵ được tạo ra
? Do bởi cố gắng bền bĩ và do bởi sự chú tâm thích đáng vào các qui tắc được đưa
ra, người t́m đạo thành công trong việc tiếp xúc được với loại vật chất có một
tính chất hiếm hoi hơn là theo thói quen thông thường của y. Y giao tiếp được
với linh hồn thể của y, cuối cùng y 1 Con đường của Bồ Tát là con đường của Bác
ái Minh triết và của khoa học tỉ mỉ (detailed science) về linh hồn; đó là con
đường giáo dục và là con đường mà sau rốt mọi người đều phải vượt qua.
249. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 249 tiếp xúc với vật chất của cơi
Bồ đề. Nhờ vào tiếp xúc này, rung động của riêng y tăng lên một cách tạm thời và
ngắn ngủi. Về mặt cơ bản, chúng ta trở lại vấn đề mà chúng ta bàn đến trong Bộ
luận này. Tiềm hoả của vật chất thu hút về chính nó loại lửa vốn tiềm tàng trong
các h́nh hài khác. Chúng tiếp xúc, nhận ra và biết được tiếp theo. Lửa của trí
tuệ bùng cháy liên tục và được nuôi dưỡng bằng những ǵ có tính hút và đẩy. Khi
cả hai phối hợp, sự kích thích gia tăng mạnh mẽ và khả năng tiếp xúc được tăng
cường. Định luật Thu Hút vẫn duy tŕ tác động của nó cho đến khi lửa khác được
lôi cuốn và tiếp xúc; và sự phối hợp tam phân được hoàn thành. Trong sự liên
quan này đừng quên bí nhiệm của Điểm Đạo Thần Trượng (1). Sau này khi chúng ta
xem xét đề tài về các trung tâm lực và Điểm đạo, cần phải nhớ rằng chúng ta đang
khảo sát một cách rơ ràng về một khía cạnh của quan năng huyền bí của xúc giác,
tức huyền năng của Thượng Đế Ngôi Hai, vận dụng định luật Thu Hút. Bây giờ chúng
ta hăy chấm dứt những ǵ có thể truyền đạt về ba giác quan c̣n lại - thị giác,
vị giác, khứu giác – và kế đó tổng kết vắn tắt về các liên hệ của chúng với các
trung tâm lực và tác động hỗ tương cùng ảnh hưởng lẫn nhau của chúng. Lúc bấy
giờ chừa lại hai điểm cần bàn đến trong đoạn I của quyển
này và một bảng tổng kết. Kế đó chúng ta sẽ tiếp tục một đoạn của thiên khái
luận 1 Các cuộc Điểm Đạo được nói đến trong Bộ Luận này là các cuộc điểm đạo
chính đưa đến việc mở rộng tâm thức, chính nó dẫn đến sự giải thoát; các cuộc
điểm đạo này xảy ra trong linh hồn thể và từ đấy phản chiếu vào thể xác; Điểm
Đạo đồ không bao giờ nói ra mức điểm đạo của ḿnh.
250. 250 bàn về lửa trí tuệ và sự phát triển của các Trí
Tinh Quân (1) về cả hai mặt cộng đồng cũng như cá nhân. Chủ đề này có tầm quan
trọng cần thiết nhất v́ nó bàn đến toàn bộ con người, Chân ngă, Chủ thể Suy
Tưởng và nêu lên sự phối hợp về vũ trụ của lửa vật chất và trí tuệ và việc sử
dụng chúng bằng Ngọn Lửa nội tại (indweLing Flame). Thị giác: Như đă nói ở
trước, giác quan này là giác quan liên hệ tối thượng của Thái dương hệ. Dưới
định luật Tiết Kiệm, con người nghe được. Âm thanh thấu nhập vật chất và là căn
bản của tính không đồng nhất tiếp theo sau của nó. Dưới Định Luật Hút, con người
đụng chạm và tiếp xúc với những ǵ thu hút sự chú ư của y xuyên qua các làn sóng
hoạt động của âm thanh. Điều này đưa đến một t́nh trạng đẩy và hút lẫn nhau giữa
Chủ Thể tri giác và những ǵ được tri giác. Nhờ tri giác và kế đó là tiếp xúc,
tầm mắt y được mở rộng và y nhận ra được vị trí của ḿnh trong toàn thể trật tự
dưới Định luật Tổng Hợp. Thính giác …….. Đơn nhất (Unity) Xúc giác ………. Lưỡng
nguyên (Duality) Thị giác ……. Tam nguyên (Triplicity) Món quà (the present) được
tóm tắt cho chúng ta trong 3 giác quan này. Công việc của tiến hoá là nhận thức,
sử dụng, phối kết và chi phối toàn thể cho đến khi Bản Ngă nhờ ba giác quan này
mà trở nên hiểu biết một cách linh hoạt về mọi 1 Trí tinh quân (Manasaputras):
các Vị này là Con của Thể Trí (Sons of Mind), nguyên khí biệt ngă (individual
principle) trong con người, Chân ngă, Thái dương Thiên thần, trong chính thể xác
của Ngài trên các phân cảnh trừu tượng của cơi trí (mental plane). 199
251. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 251 sắc tướng, mọi rung động và
mọi nhịp đập (pulsation) của phi ngă; rồi nhờ sự sắp xếp năng lực trí tuệ, mục
đích của bản ngă sẽ là t́m ra chân lư, hay là trung tâm trong ṿng tṛn biểu lộ,
đối với Bản Ngă, vốn là trung tâm thăng bằng và là điểm duy nhất mà sự phối kết
được hoàn hảo, lúc bấy giờ Bản Ngă có thể tự ḿnh tách ra khỏi mọi bức màn, mọi
sự tiếp xúc và mọi giác quan. Trong mỗi biểu lộ điều này dẫn đến ba loại phân
cách : Giáng hạ tiến hoá. Sự phân ly của vật chất, hay cái đơn nhất trở thành
cái đa tạp. Các giác quan được phát triển, bộ máy được Bản Ngă làm cho hoàn
thiện để vận dụng vật chất. Điều này xảy ra dưới Định Luật Tiết Kiệm. Thăng
thượng tiến hoá. Cho đến lúc ở trên đường đệ tử dự bị. Sự hoà nhập Tinh Thần và
Vật Chất, và việc vận dụng các giác quan trong một sự đồng nhất hoá luỹ tiến của
Bản ngă với mọi h́nh hài từ cái thấp nhất đến những h́nh hài tương đối được
thanh lọc. Điều này xảy ra dưới Định luật Hút. Thăng thượng tiến hoá trên Thánh
đạo. Tinh thần lại tách ra khỏi vật chất, tinh thần đồng hoá với Đấng Duy Nhất
và sau đó là sự loại bỏ sắc tướng. Lúc bấy giờ các giác quan được tổng hợp thành
khả năng hoạch đắc, c̣n Bản Ngă không c̣n hữu dụng thêm nữa cho phi ngă. Nó phối
hợp với Toàn Ngă (AL-Self). Điều này xảy ra dưới Định Luật Tổng Hợp. Nếu điều
này được ghi nhận trong trí, nó đưa đến việc hiểu được rằng sự phân ly của Tinh
thần ra khỏi hiện thể vật chất bao hàm hai trạng thái của Đấng Đại Toàn Duy Nhất
(the One Great AL); nơi đây hiện ra công tŕnh của Đấng Sáng Tạo, Đấng Bảo Tồn
và Đấng Huỷ Diệt. Khi giác quan thứ ba, tức thị giác, tiến đến chỗ hoàn thiện
cuối cùng, thuật ngữ được dùng là thuật ngữ hoàn toàn 200
252. 252 không thích hợp, đó là sự nhận thức (realisation).
Đăo sinh hăy nghiên cứu kỹ càng sự biểu lộ thấp nhất và cao nhất của các giác
quan như đă được nêu ra trong bảng trước đây và ghi nhận ư nghĩa huyền bí của
các diễn đạt được dùng trong phần tổng kết. Thính giác….. Toàn phúc. Điều này
được thực hiện qua phi ngă. Xúc giác …… Phụng sự. Thành toàn của công việc của
Bản Ngă đối với phi ngă. Thị giác …….. Nhận thức. Nhận biết về bộ ba cần trong
biểu lộ hay tác động phản xạ của bản ngă và phi ngă. Vị giác ……… Hoàn thiện.
Tiến hoá hoàn toàn xuyên qua việc sử dụng phi ngă và sự thích hợp được hiểu rơ
của nó. Khứu giác ….. Kiến thức hoàn hảo. Nguyên khí trí tuệ trong hoạt động
phân biệt của nó, hoàn thiện việc liên quan hỗ tương giữa Ngă với phi ngă. Tất
cả mọi điều này có liên hệ đến phàm ngă hoàn thiện đă được nhận thức. Trong mọi
hoàn thiện được nhận ra này, tri thức về Bản Ngă và tiến tŕnh đồng nhất hoá
theo cấp độ, sử dụng, vận dụng và sau cùng thải hồi phi ngă bằng Bản Ngă, bấy
giờ được nhận biết một cách rơ rệt. Y nghe được nốt của thiên nhiên và nốt của
Chân Thần của ḿnh; y nhận thức được sự tương đồng của chúng, sử dụng sự rung
động của chúng và chuyển chúng một cách nhanh chóng qua ba giai đoạn: Sáng Tạo,
Bảo Tồn và Huỷ Diệt.
253. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 253 Y tiếp nhận được hay cảm nhận
được mức rung động của h́nh hài hay phi ngă trong mọi mức độ khác nhau, nhận ra
được sự đồng nhất của y trong thời gian và không gian, đồng thời với các mục
đích hiện tồn hoặc hiện hữu và bằng ba Định Luật Tiết Kiệm, Thu Hút và Tổng Hợp,
y vận dụng, phối hợp và sau rốt tách ra chính ḿnh. Y nhận ra diễn tŕnh tiến
hoá tam phân và bằng cách phát triển nội nhăn thông, thấy được trong tâm của hệ
thống đại và tiểu thiên địa, cái Ngă duy nhất dưới nhiều h́nh thức và sau rốt
đồng nhất hoá chính y với cái Ngă duy nhất ấy, bằng cách cố ư thải bỏ cái phi
ngă sau khi đă hoàn toàn chinh phục và sử dụng nó. d. Vị giác. Y nếm rồi cuối
cùng phân biện, v́ vị giác là giác quan trọng yếu bắt đầu có ảnh hưởng trong
tiến tŕnh phân biện vốn xảy ra vào lúc mà bản chất hư huyễn của vật chất dần
dần được nhận ra. Sự phân biện là diễn biến có tính cách giáo dục mà chính Bản
Ngă lệ thuộc vào trong lúc mở trực giác - loại quan năng mà nhờ đó Bản Ngă nhận
ra được bản thể riêng của nó ở trong và dưới mọi h́nh thể. Sự phân biện liên
quan đến nhị nguyên tính của bản chất, Bản Ngă và phi ngă, và là phương tiện
phân biệt của chúng trong tiến tŕnh trừu xuất; trực giác liên hệ đến sự hợp
nhất và là khả năng của Bản Ngă để tiếp xúc với các Bản Ngă khác, và không phải
là một quan năng mà nhờ đó phi ngă được tiếp xúc. Do đó, ít có được trực giác
vào lúc này, do bởi sự biệt ngă hoá mạnh mẽ của Chân ngă và sự đánh đồng của
Chân ngă với h́nh hài - một sự đánh đồng cần thiết vào thời điểm đặc biệt này.
V́ vị giác trên các cơi cao được phát triển, nó đưa đến một trong các dị biệt tế
nhị hơn bao giờ, mà cho đến nay điều đó sau rốt, qua h́nh hài, đưa đến đúng tâm
của bản chất con người. 201
254. 254 e. Khứu giác là quan năng nhận thức bén nhạy mà
sau rốt đưa con người về lại cội nguồn của ḿnh, tức cơi nguyên h́nh (1), cơi
này mới là chỗ ở đích thực của con người. Một nhận thức về sự dị biệt được bồi
đắp đă tạo nên một bất măn thiêng liêng trong tâm của kẻ hành hương ở viễn xứ;
đứa con đi hoang (2) rút ra được các so sánh; y đă phát triển bốn giác quan khác
và y vận dụng được chúng. Bây giờ đến quan năng nhận thức rung động đối với rung
động quen thuộc (home vibration) nếu có thể diễn tả được như thế. Đó là đối phần
tâm linh (spiritual counterpart) của loại giác quan, mà ở thú vật, bồ câu và các
loại chim khác, giác quan đó hướng dẫn chúng trở về đúng địa điểm quen thuộc mà
nơi đó chúng đă đến lúc đầu. Đó là việc hiểu được rung động của Bản Ngă và việc
quay về nhanh chóng nhờ loại bản năng đưa đến cội nguồn ban đầu. Việc nghiên cứu
đề tài này khơi dậy nhận thức về sự bao la của lănh vực tư tưởng liên hệ - tức
lănh vực phát triển tiến hoá toàn bộ của con người. Tuy nhiên, tất cả những ǵ
có được ở đây cũng như ở nơi khác là vạch ra đường lối tư tưởng cho việc cân
nhắc cẩn thận và nhấn mạnh một vài ư tưởng có thể dùng như các tư tưởng căn bản
cho hoạt động trí tuệ trong tương lai của thế hệ ngay trước mắt. Các sự kiện sau
đây cũng phải được ghi nhớ khi nghiên cứu về vật chất : a. Đó là các giác quan
đă được bàn đến trong đoạn này của quyển v́ chúng có liên
hệ đến h́nh hài vật chất. Nó đúng ra, 5 giác quan, theo như chúng ta 1 Cơi
nguyên h́nh tức là cơi Adi (xem lại trang 79, phần Anh ngữ. ND) 2 Đứa con đi
hoang (prodigal son) tức là linh hồn (Trích “Light of the Soul” trang 173. ND)
202
255. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 255 biết, là các phương tiện tiếp
xúc được thiết lập bởi Chủ Thể Suy Tưởng (đă an trú vào thể dĩ thái của y) và
t́m được biểu lộ của chúng trong h́nh hài vật chất ở các trung tâm thần kinh,
các tế bào năo, các trung khu thần kinh (ganglia) và đám rối (plexus) mà khoa
học ngoại môn nhận biết được. b. Đó là các giác quan dùng cho tất cả các mục
đích biểu lộ hiện nay, điểm tập trung của chúng ở trên cơi cảm dục và do đó chủ
yếu là ở dưới tác động kích thích của đan điền - điểm tập trung lớn đó ở trung
tâm cơ thể vốn là tác nhân kích thích đối với hầu hết gia đ́nh nhân loại vào lúc
này. c. V́ lẽ tam giác cao bắt đầu phát huy tác dụng và sự an trụ tiến tới các
bí huyệt cao, nên các giác quan bắt đầu làm cho chính chúng được cảm nhận ở trên
cơi trí và con người bắt đầu có tri giác trên cơi đó. Trong cơ thể con người,
chúng ta có một phản ảnh đáng chú ư về sự chuyển đổi sự an trụ từ Phàm ngă đến
Chân ngă hay là vào tận linh hồn thể trong cách phân chia hiện có giữa cơi
thượng trí và cơi hạ trí và đường phân chia của cách mô giữa phần trên và phần
dưới của cơ thể. Dưới cách mô, chúng ta có 4 trung tâm lực thấp : 1. Đan điền 2.
Lá lách 3. Cơ quan sinh sản 4. Đáy xương sống Phía trên là 3 trung tâm lực cao:
1. Tim 2. Cổ họng 3. Đầu Trong tiểu thiên địa, chúng ta có 4 thể thấp, (tứ hạ
thể) tách biệt với Ba Thể Cao (Tam Thượng Thể) theo cùng một cách thức và sự
tương đồng này cần được suy ngẫm. Do đó, 203
256. 256 bằng sự thận trọng trong tư tưởng, chúng ta có thể
tạo nên tác động phản xạ của các trung tâm lực và các giác quan theo quan điểm
các cơi khác nhau, nên nhớ rằng khi các trung tâm lực được khơi hoạt, tiến tŕnh
diễn ra theo ba giai đoạn : Thứ nhất: Giai đoạn khơi hoạt trên cơi trần và các
trung tâm lực từ từ tăng gia hoạt động, cho đến khi đạt đến con đường Đệ tử Dự
bị. Giai đoạn này diễn ra song song bằng việc tăng thêm sự hữu dụng của các giác
quan và việc vận dụng thường xuyên các giác quan để nhận ra Chân ngă và các lớp
vỏ của nó. Thứ nh́. Giai đoạn thức tỉnh trên cơi cảm dục và hoạt động từ từ tăng
lên của các trung tâm lực, cho đến khi đạt được Điểm Đạo thứ nhất. Điều này diễn
ra song song bằng việc vận dụng các giác quan vô cùng bén nhạy cho các mục đích
phân biệt giữa Ngă với phi ngă. Thứ ba. Giai đoạn thức tỉnh trên cơi trí và sự
tăng gia hoạt động dần dần của các trung tâm lực và các giác quan. Hiệu quả
trong cả hai trường hợp đều đưa đến việc đồng nhất hoá của Bản Ngă với bản thể
riêng của nó trong mọi nhóm và thải bỏ các lớp vỏ và các h́nh hài. Sự phát triển
này diễn ra song song trên hai cơi cao đồng thời cũng ở trong cơi thấp và v́ các
giác quan thuộc thể cảm dục bắt đầu hoạt động hoàn hảo, các trung tâm lực tương
ứng trên cơi Bồ đề bắt đầu hoạt động cho đến khi sự tương tác về rung động giữa
cả hai trở nên hoàn hảo, mănh lực của Tam Thượng Thể có thể được cảm nhận một
cách rơ rệt trong phàm ngă xuyên qua thể cảm dục. Lần nữa, các xoáy lực tương
ứng trên cơi Niết Bàn bắt đầu rung động một cách linh hoạt v́ các trung tâm lực
thuộc 204
257. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 257 thể trí trở nên có chiều đo
thứ tư, cho đến khi chúng ta có sự hoạt động của luồng hoả kỳ diệu hiện ra trên
ba cơi giới. Theo quan điểm về luồng hoả (1), tạm thời không xét về hào quang và
màu sắc của nó; sự phát triển tiến hoá cũng đánh dấu bằng một tiến tŕnh cũng rơ
ràng như thế. 1 Lửa của vũ trụ biểu lộ chia làm 7 (septenary). Thượng Đế Ba Ngôi
biểu lộ qua 7 Lửa: 1. Lửa điện …..……. 7 Hành Tinh Thượng Đế 2. Lửa thái dương …
Tiến hoá của 7 Thực thể Thông Linh qua các hiện thể của các Ngài phát triển
thành 7 nguyên khí. 3. Lửa do ma sát …… 7 dăy hành tinh. Chúng là 7 trung tâm
lực của Thượng Đế. Một Hành Tinh Thượng Đế biểu lộ qua một dăy hành tinh. 1.
Ngài là lửa điện ………….. 7 Thực Thể Thông Linh thái dương làm linh hoạt mỗi bầu
hành tinh. 2. Ngài là lửa thái dương….. Tiến hoá của sự sống qua các h́nh hài,
phát triển ra 7 nguyên khí. 3. Ngài là lửa do ma sát …… 7 bầu hành tinh Mỗi Hành
Tinh Thượng Đế có 7 nguyên khí. Con người, tức Tiểu thiên địa, biểu lộ qua các
hiện thể của y: 1. Y là lửa điện ………… Chân Thần, một Thực Thể Thông Linh thái
dương 2. Y là lửa thái dương …….Tiến hoá của Sự sống qua các hiện thể để phát
triển 7 nguyên khí. 3. Y là lửa do ma sát …….... 7 thể (sheaths) 1. Linh thể
(Atmic) 2. Thể Bồ đề 3. Linh hồn thể 4. Thể trí 5. Cảm dục thể 6. Dĩ thái thể 7.
Thể xác Con người của cơi trần biểu lộ trong ba cơi thấp : 1. Lửa điện ……………..
Chân ngă 2. Lửa thái dương……… 7 trung tâm lực 205
258. 258 a. Làm cho sinh động nội nhiệt của các thể, hay là
các điểm lửa rất nhỏ tiềm tàng trong mỗi nguyên tử cá biệt của vật chất. Tiến
tŕnh này diễn ra trong cả ba thể, đầu tiên chậm chạp, sau đó nhanh hơn và cuối
cùng xảy ra đồng thời và một cách tổng hợp. b. Đưa vào hoạt động từ trạng thái
tiềm tàng của 7 trung tâm lực trên mọi cơi giới, bắt đầu từ dưới lên trên, cho
đến khi các trung tâm lực (tuỳ theo cung và loại) được liên hệ hỗ tương và được
phối hợp. Có 35 xoáy lửa lộ ra trong một vị Chân Sư hoàn thiện - tất cả đều có
hoạt động toả chiếu (radiant activity) và tất cả đều có tính tương tác. c. Các
xoáy hay các luân xa (wheels) với ngọn lửa sáng dịu được nối nhau bằng các tam
giác lửa lưu chuyển từ tam giác này sang tam giác khác. Cho đến khi chúng ta có
một mạng gồm các tuyến lửa, nối liền các trung tâm của lửa linh hoạt và chứng
thực cho câu nói rằng Các Con của Trí Tuệ là các Ngọn Lửa. d. Các trung tâm này
đạt đến t́nh trạng hoàn thiện như trạng thái Tinh Thần hay trạng thái Ư chí bao
giờ cũng được kiểm soát đầy đủ. Các tam giác hợp nhất được tạo ra bởi tác động
của lửa trí tuệ, trong khi lửa vật chất giữ chặt h́nh hài với nhau theo một
tŕnh tự đă được an bài. Thế nên sự phụ thuộc lẫn nhau của vật chất, trí tuệ và
Tinh Thần có thể thấy được và hiện ra dưới con mắt người có nhăn thông như là sự
phối hợp của 3 thứ lửa. e. Trong Hành Tinh Thượng Đế và cơ thể của Ngài, một dăy
các bầu hành tinh (1) cũng có thể được nh́n thấy và ở đây 3. Lửa do ma sát ………
các thể. 1 Các Dăy Hành Tinh là
259. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 259 7 Hành Tinh Thượng Đế … Sắc
tướng, mặt trời và 7 hành tinh thánh thiện (GLBN I, 100, 155) Một số danh xưng
và đặc tính của các Ngài là : a. 7 Hành Tinh Thượng Đế hay 7 Tinh Quân trước
Thiên Toà. b. 7 vị Thiên Tôn (Kumaras) … (GLBN II, 59, 327) c. 7 Thần Thái
Dương (solar deities) GLBN I, 114, 228, I 92, 257 d. 7 Đấng Nguyên Thuỷ (The
primordial seven) GLBN I, 116 e. 7 Đấng Kiến Tạo (Builders).. GLBN I, 152, 153.
f. 7 Linh Khí Tinh Thần (inteLectual Breaths) GLBN I 332. g. 7 Đức Bàn Cổ
(Manus) GLBN I, 488 h. Các Linh Hoả (the Flames) GLBN I, 258. Các Ngài đến từ
các thiên kiếp trước GLBN I, 99 Bản chất các Ngài là tri thức và bác ái GLBN
I, 275, 619 7 Hành Tinh thánh thiện là 1. Thổ tinh (Saturn) .. 2. Mộc tinh
(Jupiter) 3. Hoả tinh (Mars) … 4. Thái dương (Sun)(thay cho hành tinh khác) 5.
Kim Tinh (Venus) 6. Thuỷ tinh (Mercury) 7. Nguyệt cầu (MOn)(thay cho một hành
tinh khác). Hải Vương tinh (Neptune) và Thiên vương tinh (Uranus) không được kể
ra ở đây, hành tinh Vulcan cũng thế. Quỹ đạo của Hải Vương tinh hiển nhiên bao
gồm toàn thể ṿng giới hạn. Hành tinh Vulcan ở trong ṿng quỹ đạo của Thuỷ tinh.
Mỗi vị Hành Tinh Thượng Đế biểu lộ qua một dăy gồm 7 bầu hành tinh. Tất cả 7
Hành Tinh Thượng Đế đều có ảnh hưởng đến một dăy, nhưng chỉ một trong các Ngài
là Thực Thể Thông Linh hoá thân (incarnating Entity). Các Ngài có ảnh hưởng trên
: a. Một bầu nào đó trong dăy b. Một cơi nào đó c. Một cuộc tuần hoàn nào đó d.
Một chu kỳ thế giới nào đó e. Một căn chủng nào đó f. Một phụ chủng nào đó g.
Một chi chủng nào đó h. Một nhóm nào đó
260. 260 ta cần nhớ kỹ rằng 7 dăy của một hệ thống hành
tinh là biểu hiện của một Hành Tinh Thượng Đế. Các Hành Tinh Thượng Đế đang tự
biểu lộ thông qua một hệ thống gồm 7 dăy và có lẽ, sự nhấn mạnh được đưa ra
không đúng lúc vào hành tinh hồng trần trọng trược, trong bất cứ dăy đặc thù
nào. Điều này tạo ra sự kiện là sự quan trọng của dăy có phần nào bị bỏ qua. Mỗi
một trong số 7 dăy có thể được xem như là mô phỏng 7 trung tâm lực của một trong
các Hành Tinh Thượng Đế. Tuy nhiên, ư tưởng về các nhóm Chân Ngă hợp thành các
trung tâm lực trong Hành Tinh Thượng Đế lại đúng, nhưng trong sự liên quan này
điều quan hệ nằm ở các trung tâm lực trên cơi Bồ đề và Niết Bàn (1). Liên hệ với
điều này có một điểm cơ bản đừng bao giờ quên: 7 Hành Tinh Thượng Đế này có thể
được xem như đang lâm phàm ở cơi trần qua trung gian một hành tinh hồng trần và
ở đây có ẩn bí mật về sự tiến hoá hành tinh. Ở đây tàng ẩn bí mật của hành tinh
chúng ta, bí mật nhất trong tất cả các hành tinh. Cũng như nghiệp quả cá nhân
khác xa với nghiệp quả của các Thượng Đế khác, và nghiệp quả của Hành Tinh
Thượng Đế chúng ta là một nghiệp nặng và giấu trong bí mật của phàm ngă vào lúc
này. Lại nữa, tuỳ theo các trung tâm lực hoạt động hay bất động, sự biểu lộ cũng
khác nhau và sự khảo sát mở ra một thích thú to tát và trừu tượng liên quan đến
Thái dương hệ. 5. Các trung tâm lực và sự Điểm đạo i. Một đơn vị nhân loại nào
đó. 1 Trong GLBN, các Con của Trí Tuệ được nói đến như là các ngọn lửa. Trong
câu kinh VI, 4 “Đây là lửa ba ngọn với 4 bấc. Bấc là các tia lửa từ ngọn lửa
chẽ ba, phóng ra bởi 7 ngọn lửa. Tia lửa treo trên ngọn lửa bằng sợi Fohat tinh
anh nhất”. 206 207
261. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 261 Chúng ta đă bàn vắn tắt về
tiến hoá của các trung tâm lực, với chức năng, cơ cấu và hoạt động dần dần tăng
gia của chúng từ mức độ tương đối bất động cho đến khi chúng hoàn toàn hoạt
động. Kế đó, chúng hoàn toàn trở thành các hoả luân (bánh xe lửa) sinh động,
phân biệt bằng một chuyển động kép ở ngoại biên và ở các luân xa đang xoay tṛn
bên trong và do một hiệu quả của chiều đo thứ 4, đầu tiên tạo nên sự chỉnh hợp
của các xoáy lực tinh anh bên trong với các trung tâm lực dĩ thái tương ứng ở
bên ngoài. Sự chỉnh hợp này xảy ra sau cùng vào lúc điểm đạo. Vào lúc cuộc điểm
đạo xảy ra, tất cả các trung tâm lực đều linh hoạt và 4 trung tâm lực thấp
(tương ứng với phàm ngă) bắt đầu chuyển luồng hoả vào ba trung tâm lực cao. Sự
quay kép trong các trung tâm lực thấp được nh́n thấy rơ ràng và 3 trung tâm lực
cao bắt đầu trở nên linh hoạt tương tự. Do việc đặt sát vào Điểm Đạo Trượng
trong Lễ Điểm Đạo, một số kết quả được đạt đến liên quan với các trung tâm lực
có thể được liệt kê như sau: a. Luồng hoả ở đáy xương sống được hướng rơ rệt về
bất cứ trung tâm lực nào là mục tiêu được chú tâm đặc biệt. Điều này thay đổi
tuỳ theo cung hay công tác chuyên biệt hoá của Điểm đạo đồ. b. Trung tâm lực có
hoạt động tăng lên, tốc độ tiến hoá của nó cũng gia tăng, và một số trong các
nan giữa của bánh xe trở nên rực rỡ linh hoạt hơn. Các nan này, mà một số nhà
nghiên cứu c̣n gọi là cánh của hoa sen, có liên quan chặt chẽ với các loa tuyến
(spiriLae, ṿng xoắn ốc) khác nhau trong các nguyên tử thường tồn. Qua sự kích
thích của chúng, nơi đó có một hay nhiều loa tuyến tương ứng trong các nguyên tử
thường tồn, bắt đầu hoạt động trên 3 cơi thấp. Sau cuộc 208
262. 262 điểm đạo thứ ba, một sự kích thích tương tự xảy ra
trong các nguyên tử thường tồn của Tam Thượng Thể dẫn đến sự phối hợp của hiện
thể Bồ đề và chuyển đổi từ sự an trụ thấp thành sự an trụ cao. c. Bằng việc đặt
sát vào Điểm Đạo Trượng, mănh lực giáng xuống từ Chân ngă đến phàm ngă được tăng
gấp ba, hướng của mănh lực đó tuỳ thuộc vào nơi mà các trung tâm lực nhận được
sự chú tâm là thể dĩ thái hoặc thể cảm dục ở các cuộc điểm đạo 1 và 2, hay là
Điểm đạo đồ đang đứng trước Đấng Chưởng Quản Địa Cầu. Trong trường hợp sau, các
trung tâm lực ở thể trí của y hay các xoáy lực, tương ứng của chúng trên các
phân cảnh cao sẽ nhận được kích thích. Khi Đức Chưởng Giáo chủ lễ trong cuộc
Điểm đạo 1 và 2, chiều hướng của thần lực từ Tam Thượng Thể được xoay về phía
làm sinh động quả tim, đồng thời trung tâm lực cổ họng và năng lực tổng hợp thần
lực của các trung tâm lực thấp được gia tăng mạnh mẽ. Khi Đấng Điểm Đạo Độc Tôn
(The One Initiator) đặt sát Thần Lực Trượng của Ngài, th́ luồng thần lực từ Chân
Thần đi xuống, và mặc dù cổ họng và tim gia tăng mức rung động theo sự đáp ứng,
th́ hướng chính của thần lực cũng là tiến về bảy trung tâm lực trên đầu và sau
cùng (vào lúc được giải thoát) đến trung tâm lực toả chiếu trên đỉnh đầu và tổng
hợp 7 trung tâm lực thứ yếu trên đầu. d. Vào lúc điểm đạo, các trung tâm lực
nhận được một cơ hội mới, đó là có được khả năng rung động và sức mạnh, điều này
đưa đến kết quả như sau trong cuộc sống bên ngoài: Thứ nhất. Tăng mức nhạy cảm
và thanh lọc các hiện thể, mà trước tiên có thể đưa đến kết quả là gây nhiều đau
đớn cho điểm đạo đồ, nhưng lại tạo được khả năng đáp ứng để hứng chịu cái đau
khổ phụ xảy ra nặng nề hơn. 209
263. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 263 Thứ hai. Việc phát triển khả
năng tâm thông có thể lại đưa đến phiền muộn nhất thời, nhưng rốt cuộc tạo nên
được nhận thức về Bản ngă duy nhất trong Vạn ngă (aL selves), vốn là mục tiêu
phải nỗ lực. Thứ ba. Do sự đi lên từ từ của hoả xà, mà có việc bừng cháy và tiến
tới chính xác theo dạng h́nh học của hoả xà, qua mạng lưới dĩ thái. Kết quả của
sự đi lên này là tạo ra được sự liên tục về tâm thức giúp cho điểm đạo đồ vận
dụng thời gian một cách có ư thức như là một yếu tố trong các kế hoạch tiến hoá.
Thứ tư. Dần dần hiểu được Định Luật Rung Động như là một trạng thái của định
luật kiến tạo căn bản; điểm đạo đồ học hỏi một cách có ư thức để kiến tạo, để
vận dụng chất liệu tư tưởng, để hoàn thành các kế hoạch của Thượng Đế, để làm
việc với bản chất tinh thần và để áp dụng định luật trên các cơi trí tuệ và nhờ
đó tác động vào cơi trần. Chuyển động xuất phát từ vũ trụ trên các cơi trí vũ
trụ và trong tiểu thiên địa cũng sẽ được nhận thấy theo cùng một trật tự như
thế. Nơi đây có một ẩn ngôn huyền bí (oCult hint) sẽ tiết lộ nhiều điều nếu
được suy gẫm. Trong lễ điểm đạo, lúc đặt sát Thần Trượng, điểm đạo đồ sẽ hiểu
được một cách thấu đáo ư nghĩa của Định Luật Hút trong việc kiến tạo h́nh hài và
trong việc tổng hợp 3 loại lửa. Khả năng của y để lưu giữ những điều thu thập
được và việc chính y áp dụng định luật sẽ tuỳ thuộc vào năng lực và sự tiến bộ
của y. e. Do việc đặt sát Thần Trượng, hoả xà sẽ đi lên và việc tiến lên của
luồng hoả được hướng dẫn. Luồng hoả ở đáy xưong sống và luồng hoả của thể trí
được điều khiển dọc theo một số đường hay tam giác do tác động của Thần Trượng
khi Thần Trượng di động theo một cách thức đặc 210
264. 264 biệt. Theo Định Luật Điện Khí (the Laws of
Electricity), có một lư do huyền bí rơ ràng đàng sau sự kiện đó là, mỗi điểm đạo
đồ khi được tŕnh ra với Đấng Điểm Đạo, được hai Chân Sư đi kèm theo, các Ngài
đứng hai bên điểm đạo đồ. Cả ba vị hợp thành một tam giác giúp cho công việc có
thể diễn tiến. f. Sức mạnh của Thần Trượng có hai phần, c̣n huyền năng của Thần
trượng rất khủng khiếp. Tách riêng ra một ḿnh, điểm đạo đồ không thể nhận lượng
điện thế truyền sang mà không vô cùng nguy hiểm, nhưng khi lập thành dạng tam
giác, lực truyền trở nên an toàn. Hai Đức Thầy đỡ đầu cho điểm đạo đồ; tượng
trưng cho hai cực của Tổng Điện (the electric AL); do đó phần việc của mỗi Chân
Sư là chống chịu với mọi ứng viên điểm đạo, khi các ứng viên này đến trước Đấng
Điểm Đạo. Khi các Điểm Đạo Trượng được giữ trong tay của Đấng Điểm Đạo ở vị thế
hành lễ của Ngài và vào các mùa được ấn định, chúng tác động như tác nhân truyền
điện lực từ các mức độ rất cao – thực ra cao đến nỗi “Viên Kim Cương cháy rực”
vào lúc các cuộc điểm đạo cuối cùng (thứ 6 và thứ 7) truyền thần lực, xuyên qua
Thượng Đế, hoàn toàn từ bên ngoài Thái dương hệ. Chúng ta cần nhớ rằng Thần
Trượng chính yếu này là Thần Trượng được dùng trên hành tinh này, nhưng trong
Thái dương hệ có nhiều Thần Trượng như thế và chúng được nhận ra ở 3 cấp, nếu có
thể diễn tả như thế. Thứ nhất. Điểm Đạo Trượng được dùng cho 2 cuộc điểm đạo đầu
và được Đức Chưởng Giáo, tức Đức Christ sử dụng. Nó được từ điển hoá bằng việc
đặt vào “Viên Kim Cương Cháy Rực”, - việc từ điển hoá được lặp lại khi mỗi vị
Tân Chưởng Giáo nhậm chức. Có một nghi thức huyền diệu được hoàn thành vào lúc
mà một Tân Chưởng Giáo đảm nhận
265. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 265 công tác của Ngài. Trong buổi
lễ, Ngài nhận Thần Trượng – cũng là Thần Trượng được dùng từ lúc thành lập Thánh
Đoàn của hành tinh chúng ta – và dâng Thần Trượng này ra trước Đấng Chưởng Quản
Địa Cầu, Ngài cho Thần Trượng này tiếp xúc với Thần Trượng riêng của Ngài khiến
cho điện năng của nó được tái nạp mới lại. Nghi lễ này diễn ra tại ShambaLa (1)
(2). Thứ hai. Điểm Đạo Trượng được biết như là “Viên Kim Cương Cháy Rực” và được
Đức Sanat Kumara, Đấng Điểm Đạo độc tôn, trong Thánh kinh gọi là Đấng Thái Cổ
(Ancient of Day). Thần Trượng này được tàng trữ ở ‘Đông Phương’ và nắm giữ tiềm
hoả đang toả chiếu ra từ Tôn giáo Minh Triết. Thần Trượng này được Đấng Chưởng
Quản Địa Cầu mang đến khi Ngài khoác lấy sắc tướng và giáng lâm vào hành tinh
chúng ta cách đây 18.000.000 năm. Trong mỗi chu kỳ thế gian, mỗi khi Thần Trượng
lệ thuộc vào một diễn tiến tương tự như diễn tiến của Thần 1 ShambaLa. Đảo
Thiêng (the Sacred Island) trong sa mạc Gobi. Ở giữa Trung Á (central Asia) nơi
mà Đức Ngọc Đế (tức Đấng Chưởng Quản Địa Cầu đặt Bản Doanh của Ngài. H.P.B. nói
đó là một địa điểm rất huyền bí v́ bởi các liên kết về sau này của nó. GLBN
I,
413. 2 Đức Chưởng Giáo (The World Teacher) nhận nhiệm sở theo chu kỳ. Các Chu kỳ
của Ngài không ăn khớp với các chu kỳ của Đức Bàn Cổ v́ Đức Bàn Cổ giữ nhiệm sở
cho toàn thể căn chủng. Đức Chưởng Giáo ban ra chủ âm (key note) cho các tôn
giáo khác nhau, và là nguồn phát ra các xung lực tôn giáo theo chu kỳ. Kỳ gian
(duration) các chu kỳ của Ngài không được công bố. Đức Phật giữ nhiệm sở trước
Đức Chưởng Giáo hiện tại và do sự Đắc Pháp (ILumination) của Phật, nhiệm sở của
Ngài được Đức Di Lặc (Lord Maitreya) thay thế, Đấng mà người Tây phương gọi là
Đức Christ. 211
266. 266 Trượng thứ yếu chỉ vào lúc này nó được nạp điện
lại bằng tác động trực tiếp của chính Thượng Đế, tức Thái Dương Thượng Đế. Chỉ
có Đức Chưởng Quản Địa Cầu mới biết được nơi cất giữ Thần Trượng này, c̣n các vị
Chohan của các Cung và (vốn là linh phù của cuộc tiến hoá này), vị Chohan của
Cung thứ hai - dưới Đấng Chưởng Quản Địa Cầu - là vị bảo quản chính của Thần
Trượng này, có các Thiên Thần cao cấp của cơi thứ 2 trợ giúp. Các Hoạt Động Phật
chịu trách nhiệm coi sóc Thần Trượng và dưới các Ngài là các Đế Quân (Chohan)
của các cung. Điều đó xảy ra chỉ vào lúc ấn định khi nào công tác đặc biệt đă
được hoàn thành. Thần Trượng được dùng chẳng những vào lúc con người được điểm
đạo, mà c̣n dùng cho một vài chức năng của hành tinh, các chức năng đó, cho đến
nay không được nêu ra. Thần Trượng có vị trí và chức năng trong một số nghi lễ
liên quan với ṿng tiến hoá bên trong (1) và với tam giác hợp thành bởi Địa cầu,
Hoả tinh và Thuỷ tinh. Nhưng điều đó chưa được phép nói nhiều hơn vào lúc này.
Thứ ba. Điểm Đạo Trượng được Thái Dương Thượng Đế vận dụng trong số các vật khác
được gọi là “Linh Hoả Thất Bội” (‘Sevenfold Flaming Fire’). Thần Trượng này được
Thượng Đế của sao Sirius (Thiên Lang) giao cho Thượng Đế của chúng ta và gởi đến
Thái dương hệ chúng ta từ mặt trời toả chiếu đó. Một trong các mục tiêu của Thần
Trượng là để dùng trong các trường hợp khẩn cấp. Linh phù vĩ đại này chưa bao
giờ được dùng trong cách đặc biệt này, dù là gần 1 Ṿng tiến hoá bên trong
(iNer round) là một chu kỳ huyền bí ít được nhắc đến. Nó không liên quan với
việc biểu lộ qua bảy hệ thống hay các bầu hành tinh, nhưng có liên quan với vài
trạng thái của Sự Sống bên trong hay linh hồn. 212
267. Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục 267 hai lần được dùng như thế, -
một lần vào thời Atlantis, và một lần trong năm thứ ba của cuộc chiến tranh vừa
qua. Thần Trượng này được dùng vào lúc điểm đạo của bảy Hành Tinh Thượng Đế trên
các cơi vũ trụ. Nó cũng được dùng trong các cuộc điểm đạo của các nhóm, điều mà
hầu như chúng ta không thể hiểu được. Thần Trượng được đặt sát vào các trung tâm
lực của bảy Hành Tinh Thượng Đế giống như Thần Trượng nhỏ hơn được đặt sát vào
các trung tâm lực của con người, hiệu quả cũng như nhau, chỉ có điều là ở trên
một mức độ rộng lớn hơn. Không cần phải nói, điều này là một vấn đề bao la, trừu
tượng và không liên hệ đến các con của nhân loại. Nó chỉ được đề cập đến, v́ sự
kê khai các Điểm Đạo Trượng sẽ không đầy đủ nếu không kể đến nó, và nó dùng để
chứng tỏ sự tổng hợp kỳ diệu của toàn thể, và vị trí của Thái dương hệ trong một
hệ thống c̣n vĩ đại hơn nữa. Trong mọi sự việc vũ trụ ta đều thấy có định luật
và trật tự hoàn hảo, và sự phân chi của thiên cơ có thể thấy được trên mọi cơi
chính cũng như mọi cơi phụ. Thần Trượng vĩ đại nhất này ở trong sự chăm sóc của
nhóm vĩ đại thứ nhất của các Nghiệp Quả Tinh Quân. Nó được mô tả như là Thần
Trượng mang một điện thế của thần lực Fohat thuần tuư từ các cơi vũ trụ. Hai
Thần Trượng nhỏ mang các sức mạnh Fohat khác nhau. Thần Trượng của Thượng Đế
được giữ bên trong Thái dương và chỉ được nạp điện lại lúc bắt đầu mỗi 100 năm
của Brahma. Lư do tại sao Thần Trượng được bàn đến ở đây là v́ chúng có liên
quan nhất định đến các trung tâm lực vốn là các xoáy lực trong vật chất (force
vortices in maTer) và (dẫu rằng các vận hà cho sức mạnh tinh thần hay các trung
tâm lực trong đó “ư chí hiện tồn” t́m cách biểu lộ) và biểu lộ dưới h́nh 213
268. 268 thức hoạt động trong vật chất. Chúng là các trung
tâm của sự sống, và cũng như người ta không thể, trong khi biểu lộ tách ra 2 cực
Tinh Thần và vật chất, cũng vậy người ta không thể, trong khi điểm đạo, đặt sát
Thần Trượng mà không đem đến các hiệu quả rơ rệt giữa hai cực. Các Thần Trượng
được tích điện bằng Fohat vốn là lửa của vật chất cộng với lửa điện, đó là hiệu
quả của các Thần Trượng. Bí mật không thể được giải thích rơ ràng hơn v́ các bí
mật về điểm đạo không thể được truyền đạt. Nơi đây, c̣n nhiều điều nữa về vấn đề
này được phổ biến mặc dù có nhiều kẻ đă nghe thấy các việc này.
269. TIẾT MỘT ĐOẠN F ĐỊNH LUẬT TIẾT KIỆM
I.. HIỆU QQUẢẢ CỦỦA ĐỊỊNH LUẬT TRONG VẬT CHẤẤT.. Đây là định luật chi phối trạng
thái biểu lộ của vật chất, và là định luật tiêu biểu cho công việc của Thượng Đế
Ngôi Ba, và của các Đấng Cao Cả vốn là hiện thân của ư chí Ngài và là các tác
nhân của các mục tiêu của Ngài. Mỗi một trong các Đại Thực Thể Thông Linh Vũ Trụ
khoác h́nh thức dưới dạng Ba Ngôi Thượng Đế, được phân biệt bằng các phương pháp
hoạt động khác nhau có thể được mô tả như sau: Ngôi Ba hay trạng thái Brama của
các hoạt động của các Đấng Cao Cả này vốn là biểu lộ của Ngài, được đặc trưng
bằng phương pháp trong việc phân phối vật chất mà chúng ta gọi là Định Luật Tiết
Kiệm. Đó là định luật chi phối sự phân bố các nguyên tử vật chất và cách tách
biệt chúng ra khỏi nhau, phân bố rộng răi, rung động nhịp nhàng, tính dị trạng
và đặc tính cùng chuyển động quay cố hữu của chúng. Định Luật Tiết Kiệm (Law of
Economy) khiến cho vật chất luôn luôn đi theo con đường ít đối kháng nhất và là
căn bản của tác động phân ly của chất liệu nguyên tử. Nó chi phối vật chất, tức
là đối cực của tinh thần. 214 215
270. 270 Trạng thái thứ hai, tức trạng thái kiến tạo hay
trạng thái Vishnu, do Định Luật Thu Hút chi phối; các hoạt động của các Đấng Cao
Cả là hiện thân của trạng thái này được hướng đến việc thu hút vật chất cho Tinh
thần và sự tiếp cận dần dần của hai cực. Nó đưa đến kết quả trong việc kết hợp,
trong việc tạo ra các khối nguyên tử trong các sự h́nh thành khác nhau và sự thu
hút này được tạo ra bởi mănh lực thu hút của chính Tinh Thần. Chính nó biểu lộ
trong: 1. Sự kết hợp (Association), 2. Sự kiến tạo h́nh hài (form building), 3.
Sự thích ứng của h́nh hài đối với rung động, 4. Tính đồng nhất tương đối của sự
hợp nhất các nhóm, 5. Chuyển động xoắn có chu kỳ. Cách làm dễ nhất không phải là
định luật đối với trạng thái này. Mănh lực thu hút của tinh thần trong việc kiến
tạo h́nh hài, và trong việc thích ứng của h́nh hài đối với nhu cầu, là bí ẩn của
đau khổ và sự đối kháng trên thế gian; đau khổ chỉ bị tạo nên bởi sự đối kháng,
và là một giai đoạn cần thiết trong diễn tŕnh tiến hoá. Định luật thu hút này
là định luật chế ngự Tinh thần, đối cực của vật chất. Trạng thái thứ nhất, hay ư
chí hiện tồn, được chi phối bởi Định Luật Tổng hợp và các hoạt động của các Thực
Thể Thông Linh vũ trụ, vốn là các hiện thân của nó được chi phối bởi định luật
hợp nhất được củng cố (law of enforced unity) và của tính đồng nhất bản thể. Đó
là định luật mà sau rốt sẽ bắt đầu có hiệu lực, sau khi tinh thần và vật chất
được phối hợp và tự chúng thích ứng với nhau; nó chi phối sự tổng hợp sau rốt
của Bản ngă với Bản ngă, và cuối cùng với Toàn Ngă (AL-Self), và cũng của bản
thể với bản thể trong sự tương
271. Định luật tiết kiệm 271 phản khi tổng hợp vật chất và Tinh Thần. Nó biểu lộ
dưới h́nh thức : 1. Sự trừu xuất (abstraction). 2. Sự giải thoát tinh thần
(Spiritual liberation) 3. Huỷ diệt h́nh hài qua sự triệt thoái của Tinh Thần
(trạng thái Huỷ Diệt). 4. Tính thuần trạng tuyệt đối và hợp nhất bản thể tuyệt
đối. 5. Chuyển động luỹ tiến. Như vậy, có thể nh́n thấy sự tổng hợp kỳ diệu xảy
đến do tác động tiến hoá của 3 định luật vũ trụ này - mỗi một trong các định
luật ấy đang biểu hiện cho cách tác động của một số Thực Thể Thông Linh hay các
Đấng Cao Cả vũ trụ. Hai định luật cuối cùng sẽ được nói tới đúng chỗ của chúng.
Bây giờ chúng ta chỉ sẽ đề cập một cách ngắn gọn về định luật vật chất, tức là
định luật Tiết Kiệm. Đây là định luật ẩn sau những ǵ đă được các tác giả đạo
giáo gọi một cách sai lầm là sự “Sa Đoạ” (‘The FaL’), v́ trong thực tế nó được
định nghĩa là diễn tŕnh giáng hạ tiến hoá, xét về phương diện vũ trụ. Nó dẫn
đến sự phân hoá thất phân trong vật chất của Thái dương hệ. Cũng như định luật
Thu Hút đưa đến sự phân hoá tâm linh thất phân của các Con của Trí Tuệ và định
luật Tổng hợp đem lại kết quả trong sự hoàn hảo thất phân của cùng các Trí Tinh
Quân, thế nên, chúng ta có sự liên hệ lư thú giữa : 7 cơi hay 7 cấp độ vật chất.
7 Hành Tinh Thượng Đế, 7 Trí Tinh Quân Thiêng Liêng, hay 7 kiểu mẫu minh triết
bác ái. 216
272. 272 7 tính chất của minh triết, vốn được tạo ra bởi
các thực thể thông linh vũ trụ, các Thiên Tôn (Kumaras), bằng sự trợ giúp tri
thức qua trung gian của vật chất. Định luật Tiết Kiệm này có nhiều định luật phụ
thuộc vốn chi phối các hiệu quả của nó trên các mức độ vật chất khác nhau. Như
đă nói trước đây, đây là định luật đi vào hoạt động bằng các âm thanh mà Thượng
Đế đă phát ra. Linh Từ hay Diệu âm được phát ra của Đấng Sáng Tạo, tồn tại dưới
các h́nh thức khác nhau, và trong thực tế, dù chỉ có một Linh Từ, nhưng có nhiều
vần (syLabes). Các Vần này cùng hợp chung lại thành một nhóm từ của thái dương
(a solar phrase); nếu được tách riêng ra, chúng tạo thành một số huyền lực từ
(words of power) tạo ra các hiệu quả khác nhau (1). 1 “…. Kinh Veda, tức là khúc
ca thế giới bằng âm thanh con người được đưa ra cho con người sử dụng về mặt
siêu h́nh theo quan điểm về ư nghĩa của nó, và về mặt ma thuật theo quan đỉểm
ngâm diễn thích hợp của nó. Khúc ca thế giới này tuân theo một số luật về các
cân xứng hay là luật số học Pythagore và tạo ra hiệu quả kích động của nó cho
lĩnh vực chất liệu vũ trụ, đă đưa chất liệu này vào một tiến tŕnh kết tinh, mà
triết gia Plato gọi là h́nh học của vũ trụ. Các h́nh khác nhau vốn dĩ được quan
sát từ một phân tử của tinh thể muối so với cơ cấu phức tạp một cách kỳ diệu của
cơ thể con người, tất cả đều là cấu trúc của nhà h́nh học vĩ đại của vũ trụ được
biết dưới tên là Viswakarma, vị thiên thần kiến trúc (deva carpenter) trong các
kinh Puranas của chúng ta. Kinh Veda được tiết lộ mà chức năng của nó là lần ra
vũ trụ từ chất liệu âm thanh căn bản duy nhất được tượng trưng bằng Om, tất
nhiên tự tách ra thành ba nốt đầu tiên, tiếp theo sau bảy nguyên âm, và kế đó
thành bảy nốt và sau đó thành bảy kết hợp (combinations) của bảy nốt dựa vào ba
nốt căn bản, và thành thánh 217
273. Định luật tiết kiệm 273 Đại Linh Từ (great Word) ngân lên suốt 100 năm của
Brahma hay kéo dài trong sự vang dội khắp Thái dương hệ là ca. Tất cả các cái
này rơi vào lănh vực vật chất của các phụ âm, dần dần tạo ra các h́nh thức kết
tinh biểu lộ mà về mặt tổng hợp được xem như là vũ trụ. Đối với một tư tưởng
gia, thế giới là chuyển động huyền diệu được tạo ra bởi ca sĩ Orphée hay là
Saraswati của Ấn giáo…” “Trong kinh Vishnu Purana, phần 2, bạn sẽ thấy rằng sức
mạnh vốn có ở mặt trời được tượng trưng dưới h́nh thức sức mạnh có 3 mặt theo
kinh Veda : đó là sức mạnh như Rik sáng tạo, như Yajus bảo tồn và như Sama huỷ
diệt. Do đó Rik là khúc ca sáng tạo của Thiên Thần dưới mặt trời. Yajus là khúc
ca bảo tồn, c̣n Sama là khúc ca huỷ diệt của Thiên Thần dưới mặt trời, và khúc
ca kiến tạo của thiên thần dưới mặt trăng. Do đó Rik là khúc ca của Thiên Thần
c̣n Sama là khúc ca của Pitris và Yajus là khúc ca trung gian. Dĩ nhiên, các
chức năng của Vedas phải thay đổi tuỳ theo quan điểm. Nếu bạn chọn Pitris, Sama
là khúc ca kiến tạo của chúng th́ Rik là âm điệu (note) huỷ diệt của chúng. Ba
kinh Vedas này tương ứng với mọi bộ ba (trinity) trong Thiên Nhiên, và tôi đề
nghị các bạn nên t́m thêm chi tiết trong nhiều kinh Puranas bị lạm dụng..” “Về
các lực gây tác động nghiệp quả khác nhau do con người tạo ra theo cách rập
khuôn chính ḿnh và môi trường xung quanh, âm thanh hoặc ngôn từ là quan trọng
nhất, v́ hành động nói là tác động trong chất dĩ thái, dĩ nhiên chất này chi
phối bộ bốn thấp (lower quaternary) hay là các yếu tố phong, hoả, thuỷ, địa. Âm
thanh hay ngôn ngữ con người, do đó chứa đủ mọi yếu tố cần có để thúc đẩy các
tầng lớp thiên thần khác nhau và các yếu tố này, dĩ nhiên, là các nguyên âm và
phụ âm. Các chi tiết của khoa triết lư về âm thanh trong mối liên hệ của nó với
các thiên thần đang chủ tŕ thế giới tinh anh, tuỳ thuộc vào lănh vực của Mantra
Sastra, mà dĩ nhiên ở trong tay của các bậc thức giả”. Trích Some Thoughts on
the Gita.
274. 274 linh âm AUM. Trong sự biến phân và như được nghe
thấy trong không gian và thời gian, mỗi một trong ba chữ bí nhiệm này thay cho
chữ thứ nhất của một nhóm từ phụ thuộc, gồm nhiều âm khác nhau. Một từ với một
chuỗi 4 âm, tạo thành rung động hay nốt của Brahma, vốn là trạng thái thông tuệ
chiếm ưu thế trong vật chất. Do đó bí nhiệm ẩn trong h́nh ngũ giác trong nguyên
khí thứ 5, tức nguyên khí trí tuệ và trong 5 cơi tiến hoá của nhân loại. Năm từ
này khi được ngân lên đúng âm điệu, sẽ đem lại ch́a khoá cho bản chất đích thực
của vật chất cũng như cho sự kiểm soát nó, - sự kiểm soát này được căn cứ trên
sự diễn dịch đúng đắn của Định Luật Tiết Kiệm. Một nhóm từ khác, lần này có 7 kư
tự hay mỗi kư tự cho mỗi một trong số bảy Hành Tinh Thượng Đế, biểu hiện cho âm
hay nốt của trạng thái Vishnu, tức Ngôi Hai của Thượng Đế, tức trạng thái kiến
tạo h́nh hài. Bằng cách ngân lên chính xác hoặc một phần của nó, do bởi sự vang
lên đầy đủ hoặc không đầy đủ của nó, mà các h́nh hài được tạo ra và được thích
ứng. Định luật Hút t́m cách biểu lộ trong sự vận dụng vật chất và sự hàn gắn
thành h́nh hài cho việc sử dụng của Tinh Thần. Kế đến là Linh Từ thứ ba hay nhóm
từ được thêm vào hai từ khác, bổ túc cho toàn bộ Linh Từ Thượng Đế, và tạo nên
sự thành toàn (consuMation). Đó là một Linh Từ gồm 9 kư tự, do đó tạo thành 21
âm ( 5 + 7+ 9 ) của Thái dương hệ này. 9 âm cuối cùng tạo ra sự tổng hợp tinh
thần và sự tách biệt của tinh thần ra khỏi h́nh hài. Chúng ta có sự tương ứng
trong 9 cuộc Điểm Đạo, mỗi cuộc điểm đạo đánh dấu một sự hợp nhất hoàn hảo hơn
của Bản Ngă với Toàn Ngă và sự tách ra xa hơn các trở ngại vật chất. 218
275. Định luật tiết kiệm 275 Khi thính giác trên mọi cơi được hoàn thiện (vốn
được mang lại do việc am hiểu đúng đắn Định Luật Tiết Kiệm), ba Đại Linh Từ hay
nhóm từ này sẽ được biết đến. Chủ thể Tri Giác sẽ thốt ra Linh Từ theo đúng ch́a
khoá riêng của ḿnh, như vậy, phối trộn chính âm thanh riêng của Ngài với toàn
khối rung động, và do đó bất ngờ đạt được việc nhận thức về sự tương đồng thiết
yếu của Ngài với các Đấng phát ra các linh từ này. Khi âm của vật chất hay của
Brahma ngân lên trong tai của y trên mọi cơi, y sẽ thấy mọi h́nh hài dưới h́nh
thức ảo tưởng và sẽ được giải thoát, nhờ biết được chính y như là hiện hữu ở
khắp nơi. Khi âm của Vishnu vang dội trong chính y, y biết được chính y là minh
triết hoàn hảo, và phân biệt nốt của bản thể y (hay là nốt của Đức Hành Tinh
Thượng Đế mà y đang chiếm một vị trí trong cơ thể Ngài) với các nốt của nhóm và
biết được chính y là toàn tri. Trong khi nốt của trạng thái thứ nhất hay trạng
thái Mahadeva, nối tiếp hai nốt khác, y nhận ra chính ḿnh là Tinh Thần thuần
khiết và ở trên sự thành toàn của hợp âm (chord) đang hoà nhập trong Bản Ngă hay
cội nguồn mà từ đó y xuất phát. Trí tuệ vốn là không, vật chất cũng không, không
có ǵ c̣n lại trừ ra Bản Ngă hoà nhập trong đại dương Bản Ngă. Ở mỗi tŕnh độ
đều có việc thành đạt tương đối, một trong các định luật thống ngự - trước nhất
là định luật vật chất, kế đó là định luật của nhóm, phải được nối tiếp bằng định
luật Tinh Thần và định luật khai phóng. II.. CÁC ĐỊỊNH LUẬT PHỤỤ
Có 4 định luật phụ ở dưới định luật Tiết Kiệm, liên quan với bộ bốn thấp : 219
276. 276 1. Định luật rung động (The Law of Vibration) liên
quan đến chủ âm (key note) hay phạm vi vật chất của mỗi cơi. Do việc hiểu biết
định luật này, vật chất của bất cứ cơi nào trong 7 tiểu phân của nó cũng có thể
được kiểm soát. 2. Định luật Thích Nghi (The Law of Adaptation) là định luật chi
phối chuyển động quay của bất cứ nguyên tử nào trên mọi cơi chính và cơi phụ. 3.
Định luật Đẩy (The Law of Repulsion) chi phối sự liên hệ giữa các nguyên tử, nó
đưa đến kết quả là việc không ràng buộc của các nguyên tử này và trong việc hoàn
toàn tách rời khỏi nhau; định luật này cũng giữ cho các nguyên tử quay ở các
điểm ấn định, tách khỏi bầu (globe) hay khối cầu (sphere) của đối cực. 4. Định
luật ma sát (The Law of Friction), chi phối trạng thái nhiệt (heat aspect) của
bất cứ nguyên tử nào, bức xạ của một nguyên tử và hiệu quả của bức xạ đó trên
bất cứ nguyên tử nào khác. Mỗi nguyên tử vật chất có thể được khảo sát ở 4 khía
cạnh và được chế ngự bởi định luật này hay định luật khác, hoặc là cả 4 định
luật được nhắc đến ở trên. a. Một nguyên tử rung động ở một mức độ nào đó. b. Nó
quay ở một vận tốc nào đó. c. Nó tác động và phản ứng lại trên các nguyên tử
xung quanh nó. d. Nó đưa thêm chỉ tiêu của nó (quota) vào nhiệt tổng quát của hệ
thống nguyên tử, bất luận thế nào. Các qui luật tổng quát này liên hệ đến các
thể của nguyên tử, có thể được nới rộng không những chỉ đối với các nguyên tử
của cơi trần, mà c̣n đối với tất cả các thể gần như 220
277. Định luật tiết kiệm 277 h́nh cầu trong Thái dương hệ và cũng bao gồm cả
Thái dương hệ, xem như là một nguyên tử vũ trụ. Nguyên tử rất nhỏ (tiny atom)
của cơi trần, tức là chính một cơi, một hành tinh và một Thái dương hệ, tất cả
tiến hoá theo các qui tắc này, và tất cả được chế ngự bởi Định Luật Tiết Kiệm ở
một trong bốn khía cạnh của nó. Để kết thúc, có thể thêm rằng định luật này là
định luật mà các vị được điểm đạo phải quán triệt, trước khi các Ngài có thể đạt
được sự giải thoát. Các Ngài cũng phải học cách vận dụng vật chất và phải làm
việc với năng lượng hay lực trong vật chất theo định luật này; các Ngài phải vận
dụng vật chất và năng lượng để hoàn thành được sự giải thoát Tinh Thần, và để
đem lại kết quả theo Thiên Ư trong diễn tŕnh tiến hoá.
278. TIẾT HAI CÁC CÂÂU HỎỎI DDẪẪN NHẬP 1. Sự liên quan của Con đối
với Thái Dương là ǵ? 2. Sự tiến hoá là ǵ và nó diễn tiến như thế nào? 3. Tại
sao Thái dương hệ tiến hoá theo đường lối nhị nguyên ? 4. Tâm thức (ư thức) và
vị trí của nó trong hệ thống là ǵ ? 5. Có sự tương đồng trực tiếp giữa một Thái
dương hệ, một hành tinh, một con người và một nguyên tử không ? 6. Trạng thái
trí tuệ là ǵ? Các Trí Tinh Quân là ai ? 7. Tại sao tiến hoá theo chu kỳ ? 8.
Thế nào là sự hiểu biết của cả ngoại môn lẫn nội môn ? 9. Có sự liên quan ǵ
giữa a. 10 hệ thống, b. 7 hành tinh thánh thiện, c. 7 dăy hành tinh trong một hệ
thống, d. 7 bầu hành tinh trong 1 dăy, e. 7 cuộc tuần hoàn trong 1 dăy hành
tinh. f. 7 căn chủng và phụ chủng là ǵ ? ************************** Trước khi
đề cập đến đề tài lửa trí tuệ theo bảng liệt kê đă được vạch ra, có thể là hữu
ích nếu một số sự kiện được nêu ra ở đây, và 1 hay 2 điểm được làm sáng tỏ. Vấn
đề mà chúng ta có trách nhiệm làm sáng tỏ là một trong các bí nhiệm sâu xa và là
cơ bản của mọi điều mà hiện giờ được 223
279. Các câu hỏi dẫn nhập 279 thấy và được biết, cả về phương diện khách quan
lẫn chủ quan. Chúng ta đă khảo cứu ít nhiều về cực biểu lộ (pole of
manifestation) gọi là vật chất. Đề tài mà hiện giờ chúng ta đang đi vào, có liên
hệ đến nhiều việc vốn có thể được xem xét dưới các thuật ngữ tổng quát như là ư
thức/ tâm thức, và bằng các thuật ngữ đặc biệt bao gồm các đề tài sau đây, đó là
điều quan trọng cơ bản. a. Khoa học về sự biểu lộ (objectivity). b. Sự biểu lộ
của Con qua Thái Dương và các bầu thế giới kèm theo, tức là thái dương hệ với
toàn bộ của nó. c. Sự phát triển tiến hoá của tâm thức trong thời gian và không
gian, do đó là sự tiến hoá của tinh thần và vật chất. Nếu 3 điểm căn bản ở trên
được nghiên cứu, cần để ư rằng chúng rất dễ hiểu và do đó, v́ sự mênh mông của
chủ đề, không thể nào cố gắng nhiều hơn nữa để đem lại sự sáng tỏ tổng quát cho
quan niệm về nét chính của tiến tŕnh, và đối với sự phát triển từ từ của ư
thức. V́ lư do làm sáng tỏ phần tiếp theo của vấn đề này, trước tiên có thể là
khôn ngoan khi đưa ra một số đề xuất – cho dù đă được biết và đánh giá cao - sẽ
giúp cho các nhà nghiên cứu dưới h́nh thức cái giàn theo đó để dựng lên cấu trúc
được dự kiến của tri thức. Nếu một đạo sinh của Minh Triết có thể hiểu rơ bản
chất của chủ đề tổng quát, lúc bấy giờ y có thể lắp một cách dễ dàng và chính
xác các thông tin chi tiết vào chỗ thích hợp của nó. Có lẽ kế hoạch hay nhất sẽ
là nêu ra một vài câu hỏi và kế đó tiếp tục trả lời các câu hỏi ấy – như thế các
câu trả lời để cụ thể hoá các đề xuất sẽ được đưa ra. Các câu hỏi này đương
nhiên hiện lên cho môn sinh của Giáo Lư Bí Nhiệm, khi y đă đạt đến tŕnh độ mà
kế hoạch lớn bắt đầu có thể thấy được đối với y, nhưng khối tài liệu đầy chi
tiết được tạo ra trong phần 224
280. 280 c̣n lại, cho đến nay hăy c̣n phôi thai. Các câu
hỏi mà chúng ta có thể hỏi và nghiên cứu như sau : 1. Sự liên quan của Con đối
với Thái Dương là ǵ ? 2. Sự tiến hoá là ǵ và nó diễn tiến như thế nào ? 3. …
(Xem lại từ số 1 đến số 9 của đoạn trên) Khi chúng ta đă nỗ lực để trả lời một
cách ngắn gọn và rơ ràng 9 câu hỏi này, và đă hiểu rơ chúng qua các câu trả lời,
điều này có mục đích nằm sau sự tiến hoá tâm thức của Con (với tất cả những ǵ
bao gồm trong việc diễn tả đó); chúng ta sẽ ở trong một vị thế trở nên sáng suốt
hơn để xem xét về thiên cơ, và để hiểu rơ hơn các giai đoạn ngay trước mắt phải
đạt đến, việc mà theo quan điểm hiện nay của chúng ta phải xem như là cơ bản.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng sự quan tâm tỉ mỉ và sự thấu hiểu sâu xa về
Thiên Cơ không có ǵ quan trọng đối với một người trừ phi người đó liên kết hiện
tại với những ǵ mà y tin rằng nằm trong tương lai, trừ phi y biết chắc chắn mức
độ hoàn thành và nhận thức trong đó những ǵ bao gồm công việc tức khắc phải đảm
nhiệm trong diễn tŕnh tiệm tiến để đạt được tâm thức đầy đủ. Đồ h́nh IV Sơ đồ
Pleroma theo Valentinus 226
281. Các câu hỏi dẫn nhập 281 Trước tiên dấu . (dấu chấm), Chân Thần, Bythus
(the Deep, Thái Uyên) Từ Phụ bất tri và bất khả tri, kế đó Δ (tam giác), Bythus
và cặp xuất phát thứ nhất hay Duad (Lưỡng Nguyên), Nous (Mind) và Ngày Sóc Vọng
Aletheia (Chân Lư). Kế đó (H́nh Vuông), cặp Lưỡng Nguyên (dual Dual),
Tetractys hay là Quarternary, hai nam ||, Thượng Đế (Ngôi Lời) và Anthrôpos
(Người), hai người nữ, các ngày sóc vọng (Syzygies) của chúng, = Zoê (sự sống)
và Ekklesia (Giáo Hội hay Tập Hợp), Bảy trong vạn vật. Tam giác Tiềm Năng của
Tinh Thần, H́nh Vuông Tiềm Năng của Vật Chất; Đường Thẳng Đứng Sức mạnh của Tinh
Thần, c̣n Đường Thẳng Nằm Ngang Sức mạnh của Vật Chất. Kế đến là Pentagram (Ngũ
Giác) (), Ngũ Phân, biểu tượng huyền bí của Manasaoutras hay là Con của Minh
Triết, hợp cùng các sóc vọng của chúng tạo thành 10, hay là Bộ Mười (Decad); và
cuối cùng, Hexalpha hay hai Tam Giác đan vào nhau , Lục Bộ, nó với các sóc vọng
tạo thành 12, hay Thập Nhị Bộ. Đó là các Tích Chứa của Pleroma hay Hoàn Thành, Ư
Niệm trong Thiên Trí, 28 trong tất cả, v́ Bythus hay Từ Phụ là sóc vọng
Christos-Pneuma (Christ và Chúa Thánh Thần); các cái này là hậu phóng phát, và,
v́ thế, từ một trạng thái, tiêu biểu cho sự giáng xuống của Tinh Thần vào h́nh
hài và Vật Chất tiến hoá, về mặt bản thể tiến hoá từ cùng một cội nguồn; và từ
một cái khác, giáng xuống hay nhập thể của các Kumaras hay là các Chân Ngă cao
siêu của nhân loại. Trích từ “Lucifer” tháng 5 - 1890 I.. CÓ LIÊÊN HỆ G̀ GIỮỮA
CON VỚI THÁI DDƯƯƠƠNG ??
282. 282 Trước tiên câu hỏi này đưa chúng ta đến một suy
tư, đó là Con là ai, và nhiệm vụ của Ngài là ǵ? Hai yếu tố được nhận biết một
cách phổ quát trong mọi hệ thống vốn xứng đáng với danh xưng triết học; chúng là
2 yếu tố của tinh thần và vật chất, của purusha và prakriti. Thỉnh thoảng có một
khuynh hướng gây lầm lẫn các thuật ngữ như “Sự sống và sắc tướng”, “ư thức và
hiện thể của ư thức” với các thuật ngữ “Tinh thần và vật chất”. Chúng được liên
kết một cách rơ ràng với quan điểm mà sẽ trở nên dễ dàng nếu được thấy rơ trước
khi biểu lộ, hay là đối với sự khai sinh một Thái dương hệ, đúng hơn khi sử dụng
các từ ngữ Tinh Thần và vật chất. Khi cả hai được liên kết nhau trong khi biểu
lộ và sau khi chấm dứt chu kỳ qui nguyên hay chuyển tiếp giữa hai hệ thống, lúc
bấy giờ các thuật ngữ sự sống và sắc tướng, tâm thức và các hiện thể của tâm
thức, mới chính xác hơn, v́ trong giai đoạn trừu xuất (khi có có vật chất nhưng
không có tri giác –ND), tâm thức vốn không có, sắc tướng cũng không có, c̣n sự
sống, biểu lộ dưới h́nh thức một nguyên khí thực sự, cũng không có nốt. Có chất
liệu Tinh Thần (Spirit- substance) nhưng ở trạng thái bất động, có tính hoàn
toàn trung lập, có tính tiêu cực và có tính thụ động. Khi biểu lộ cả hai gần
tương tự, chúng tác động lên nhau; sự hoạt động thay thế sự bất động; tính tích
cực thay cho tính tiêu cực; chuyển động thay cho thụ động và hai yếu tố nguyên
thủy không c̣n trung hoà nhau nữa, mà hút và đẩy, tương tác và hữu dụng. Bấy giờ
và chỉ bấy giờ thôi, chúng ta mới có thể có được h́nh hài, được sự sống làm cho
sinh động và tâm thức biểu lộ qua các hiện thể thích hợp. Điều này có thể được
diễn tả như thế nào? Trong các thuật ngữ về lửa, khi hai điện cực được tiếp xúc
với nhau, chúng ta có sự biểu lộ, theo đường lối nhăn quang và cảm giác huyền
linh, cả về nhiệt lẫn ánh sáng. Mối liên hệ này được tạo ra và hoàn thiện trong
diễn tŕnh tiến hoá. Nhiệt và ánh sáng được tạo ra bởi sự kết hợp của hai cực,
hay bởi sự phối ngẫu huyền bí của dương và âm, của Tinh thần (cha) với 227
283. Các câu hỏi dẫn nhập 283 vật chất (mẹ). Theo các thuật ngữ của cơi trần, sự
phối hợp này tạo ra Thái dương hệ biểu lộ, Con của Cha và Mẹ. Theo các thuật ngữ
chủ quan, điều đó tạo ra Thái Dương như là toàn thể các tính chất của ánh sáng
và nhiệt. Theo các thuật ngữ về lửa, do sự hợp nhất hay nhất quán của lửa điện
(Tinh thần) và lửa do ma sát (vật chất mang năng lượng) lửa thái dương được tạo
ra. Lửa Thái dương này được phân biệt trước nhất với mọi lửa khác, bằng sự phát
triển tiến hoá của nó và do bởi sự tăng thêm dần dần của nhiệt được cảm nhận và
ánh sáng thấy được. Để hiểu rơ hơn về vật chất trừu tượng này, chúng ta có thể
xét tiểu thiên địa hay là con người đang tiến hoá trong ba cơi thấp. Con người
là sản phẩm của sự tiến gần lại (hiện c̣n bất toàn) của hai cực là Tinh Thần
(Cha trên Trời) và vật chất (Mẹ). Kết quả của sự phối hợp này là một Đấng Con
của Thượng Đế tiến lên làm người, hay là đơn vị Linh Ngă (divine Self) một mô
phỏng thu nhỏ chính xác trên cơi thấp nhất của Con vĩ đại của Thượng Đế, tức
Toàn Ngă, ở trong chính Ngài là toàn thể của mọi đứa con thu nhỏ của mọi Bản Ngă
đă biệt ngă hoá và của mọi đơn vị. Tiểu thiên địa, diễn tả theo các thuật ngữ
khác hay theo quan điểm chủ quan, là một thái dương thu nhỏ, được phân biệt bằng
các tính chất của nhiệt và ánh sáng. Hiện tại, ánh sáng đó c̣n “giấu kín”, hay
là c̣n bị che lấp sâu dưới một màn vật chất, nhưng vào lúc tiến hoá thích hợp,
nó sẽ toả chiếu đến mức mà các bức màn vốn bị che khuất khỏi tầm mắt sẽ trở nên
cực kỳ rực rỡ. Hiện nay, nhiệt của tiểu thiên địa c̣n ở mức độ nhỏ, hay là bức
xạ từ điển giữa các đơn vị tiểu thiên địa chỉ được cảm nhận yếu ớt (theo ư nghĩa
huyền bí của thuật ngữ), nhưng theo thời gian qua, các bức xạ nhiệt, – do sự
mạnh lên của ngọn lửa bên
284. 284 trong, kết hợp với bức xạ đă được đồng hoá của các
đơn vị khác – sẽ tăng gia và trở nên cân xứng đến nỗi tác động hỗ tương giữa các
Bản Ngă đă biệt ngă hoá sẽ đem lại kết quả trong việc phối hợp để hoàn thiện
ngọn lửa bên trong mỗi Bản Ngă và một sự phối trộn của nhiệt; điều này sẽ tiếp
diễn cho đến khi có “một ngọn lửa với vô số tia” bên trong nó cho đến khi sức
nóng trở nên b́nh thường và có thăng bằng. Khi nào xảy ra trường hợp này và mỗi
Con của Thượng Đế là một Thái Dương hoàn thiện, được phẩm định bằng ánh sáng và
nhiệt biểu lộ một cách hoàn hảo, lúc bấy giờ toàn thể Thái dương hệ, tức Con vĩ
đại của Thượng Đế, sẽ là Thái Dương hoàn hảo. Thái dương hệ lúc bấy giờ sẽ được
đặc trưng bằng một “ngọn lửa chói lọi” và bằng một bức xạ sẽ nối liền nó với tâm
vũ trụ và như vậy đem lại sự giải thoát cho Con và việc quay trở về cội nguồn xa
xưa nơi mà xung lực nguyên thuỷ xuất phát. Do đó, hăy ghi nhớ : Thứ nhất; rằng
con là kết quả rực rỡ của sự phối hợp Tinh Thần và Vật Chất, và có thể được xem
như là toàn thể Thái dương hệ, Mặt Trời và 7 hành tinh thánh thiện. Thứ hai,
rằng Con biểu lộ qua đặc tính của ánh sáng và nhiệt của nó, giống như Mặt Trời
thái dương (the solar Sun) biểu lộ vậy. Thứ ba; rằng Con là sản phẩm sự phối hợp
về điện của “lửa do ma sát” và lửa điện, và chính Con là ‘lửa thái dương’ hay là
biểu lộ của hai lửa khác, v́ thế đó là những ǵ được nhận thấy và những ǵ được
cảm thấy. Cuối cùng, do đó Con là biểu lộ trung gian và được tạo ra bởi những ǵ
ở trên và những ǵ ở dưới, theo nghĩa huyền bí. Do đó, Con ở trên chính cơi của
Con (cơi trí vũ trụ) là Chân 229
285. Các câu hỏi dẫn nhập 285 Ngă thể của Thượng Đế, theo cùng nghĩa như Chân
ngă thể của tiểu thiên địa là sản phẩm của sự kết hợp của Chân Thần, hay Tinh
Thần với vật chất. Cũng như Chân ngă thể của con người (c̣n được gọi là linh hồn
thể) đang ở trong tiến tŕnh h́nh thành và vẫn chưa hoàn hảo, thế nên chúng ta
có thể khẳng định cũng như Thái dương hệ, v́ nó biểu hiện cho Sự Sống của Thượng
Đế. Nó đang ở trong tiến tŕnh hoàn thiện. Con biểu lộ qua Thái Dương và phạm vi
ảnh hưởng của Thái Dương, tuy nhiên đang ở trong trạng thái phát triển từ từ, và
không phải cho đến khi mỗi tế bào trong cơ thể Ngài đầy sức sống và rung động
theo một phạm vi đồng nhất, Ngài sẽ “trưởng thành đầy đủ” và thành toàn. Không
phải cho đến khi bức xạ của Ngài và sự toả chiếu ánh sáng của Ngài được hoàn
toàn nhận thấy và cảm nhận, vị trí của Ngài trong các cḥm sao (Con của Thượng
Đế theo ư nghĩa vũ trụ) sẽ được viên măn. Không phải cho đến khi mỗi tế bào
trong cơ thể Ngài là một bầu toả rực - ngọn lửa và ánh sáng và một nguồn bức xạ
từ điện hay nhiệt, diễn tả theo huyền linh học, Con trên Bầu Trời sẽ ”toả
chiếu”. Như chúng ta biết, theo quan điểm vũ trụ, mặt trời của chúng ta chỉ ở
cấp đẳng thứ tư và ở trên cơi vũ trụ thấp nhất. Khi nào qua Mặt Trời, Đứa Con
đạt đến biểu lộ đầy đủ (nghĩa là sự biểu lộ ánh sáng và nhiệt lực của Ngài đă
hoàn hảo) bấy giờ Ngài sẽ toả chiếu trên một cơi khác, cơi trí vũ trụ. Chúng ta
có sự tương đồng trong tiểu thiên địa hay con người. Khi nào ánh sáng của một
người chiếu diệu đầy đủ, khi bức xạ từ điển của y đă đạt đến giai đoạn tương tác
sinh động hay hoạt động tập thể, lúc bấy giờ y đă đạt đến độ tự biểu lộ đầy đủ
và đă nằm trong phạm vi ảnh hưởng của y và kiểm soát được cảnh trí. Lúc bấy giờ
y 230
286. 286 được xem như một Chân Sư. Y cũng ở trong cấp đẳng
thứ tư; y là tứ nguyên. Cơi dĩ thái là trung tâm sự sống của y trong giác quan
hồng trần, cũng như chúng ta được dạy rằng mặt trời và các hành tinh về phương
diện nội môn được xem như hiện tồn trong chất dĩ thái. Trên sao, dưới vậy, đó là
định luật huyền linh. Do đó, sự tương quan của Con, của Cha và của Mẹ đối với
Thái Dương cũng giống như sự tương quan của con người đối với hiện thể qua đó y
đang vận dụng. Đó là cách hành động của Ngài, hiện thể biểu lộ của Ngài; đó là
h́nh hài mà cuộc sống của Ngài đang làm sinh động cho mục đích đặc biệt để: a.
Thu lấy kinh nghiệm, b. Tạo sự tiếp xúc, c. Phát triển đầy đủ sự tự tri, d. Đạt
được sự chế ngự hay kiểm soát đầy đủ. e. Đạt được “mức trưởng thành” (“manhOd”)
về phương diện vũ trụ. Christ vũ trụ phải đạt “được tầm thước vóc dạc trọn vẹn
của Đấng Christ” như đă được diễn tả trong Thánh Kinh Cơ Đốc Giáo (Bile. Ep.,
4:13). (Bản dịch TK 2003). f. Mở rộng tâm thức của Ngài. Tất cả các giai đoạn
này phải được hoàn thành trên các cơi vũ trụ đúng nghĩa như tiểu thiên địa, trên
các cơi Thái dương hệ, cũng như nỗ lực cho các lư tưởng tương tự.
II.. SSỰ TIẾN HOÁ LÀ G̀ VÀ NÓ DDIỄỄN TIẾN THẾ NÀO ?? 1. Các
chu kỳ sống. Tôi không dự tính bàn đến diễn tŕnh tiến hoá ở đây, bằng bất cứ
cách nào khác hơn là vắn tắt nêu ra rằng, toàn thể phương pháp tiến hoá chỉ đơn
giản là hiệu chỉnh khía cạnh vật chất so với khía cạnh Tinh thần, sao cho khía
cạnh vật 231
287. Các câu hỏi dẫn nhập 287 chất tỏ ra hoàn toàn thích hợp như là một thể biểu
lộ cho khía cạnh tinh thần. Chu kỳ sống của Con là 100 năm của Brahma, theo cùng
ư nghĩa giống như con người có một chu kỳ sống gồm một số năm tuỳ theo nghiệp
quả của y. Trong kiếp sống của một người, y biểu lộ những ǵ có trong y vào giai
đoạn đặc biệt của ḿnh, và dần dần phát triển từ giai đoạn tiền sinh (ante-natal
period) trong đó Bản Ngă ứng linh trạng thái vật chất, cho đến khi Chân ngă sở
hữu hoàn toàn h́nh hài đă được chuẩn bị. Giai đoạn này thay đổi tuỳ theo cá
nhân. Từ lúc ngă thức đầy đủ được t́m thấy, và con người (nếu tiến bộ một cách
b́nh thường) tự biểu lộ qua h́nh hài một cách thích hợp hơn bao giờ hết. Mỗi sự
sống có chu kỳ nhỏ trong đại chu kỳ của Chân ngă hay Bản Ngă, thấy được sự biểu
lộ đó đầy đủ hơn, mang lại cho h́nh hài, dưới sự kiểm soát và phát triển nhiều
hơn một nhận thức hữu thức của Chân ngă, cho đến khi xảy ra một chu kỳ lên đến
cực điểm của các kiếp sống trong đó Bản ngă bên trong chi phối nhanh chóng, và
có đầy đủ uy lực. H́nh hài trở nên hoàn toàn thích ứng; sự phối hợp 2 cực Tinh
thần và vật chất được tạo ra đầy đủ; ánh sáng (lửa) và nhiệt (bức xạ) được nh́n
thấy và cảm nhận một cách có hệ thống. Lúc bấy giờ, h́nh hài hoặc là được vận
dụng một cách hữu thức cho các mục đích đặc biệt, hoặc là bị rời bỏ và con người
được giải thoát. Lửa điện và lửa do ma sát được hoà nhập và kết quả là lửa thái
dương bùng cháy rực rỡ. Trải rộng ư tưởng này từ con người, một đơn vị tâm thức
đă biệt ngă hoá, đến Thái Dương Thượng Đế, ở một trong các thể của Ngài mà con
người là một tế bào. Thể biểu lộ của mỗi Hành Tinh Thượng Đế là một trong các
hành tinh thánh thiện, và các Ngài cũng nhắm vào cùng mục tiêu như con người -
đạt đến biểu lộ đầy đủ trên cơi riêng của các Ngài, và 232
288. 288 cách phát triển các hiện thể của tâm thức của các
Ngài đến một tŕnh độ mà Tinh Thần có thể tỏa sáng dưới h́nh thức linh quang, và
dưới h́nh thức nhiệt. Nhiệt này toả ra một cách hữu thức và với sức thu hút từ
điện mănh liệt giữa tất cả 7 nhóm trong Thái dương hệ hay hệ thống hành tinh. Từ
trường tác động của chúng sẽ bao hàm phạm vi hành tinh của một và tất cả. Đưa ư
tưởng này đi xa hơn đến Đấng Con và toàn thể Thái dương hệ mà Ngài đang làm sinh
động; cố gắng của Ngài là t́m cách biểu lộ đầy đủ trong đó, để cho, sau cùng và
một cách hữu thức, ánh sáng của Ngài có thể được nh́n thấy và nhiệt của Ngài hay
là bức xạ từ điện, có thể được cảm nhận bên ngoài phạm vi ảnh hưởng trực tiếp
của Ngài, tức ṿng giới hạn Thượng Đế. Cả hai, ánh sáng và nhiệt của Đứa Con
phải được cảm nhận bằng đối cực vũ trụ, mà tinh toà vốn là cực từ lực của hệ
thống chúng ta. 2. Mục tiêu của các đơn vị tâm thức. Như vậy, ư tưởng hợp nhất
và phối hợp nằm dưới toàn thể hệ thống tiến hoá; con người, Hành Tinh Thượng Đế
và Vũ Trụ Nhân (tức là Con của Cha và Mẹ) phải a. Phát ra nhiệt huyền linh vượt
ngoài ṿng giới hạn đă được biệt ngă hoá riêng của chúng. b. Tỏa chiếu về mặt
huyền linh và biểu lộ ánh sáng hay khách quan tính của lửa. c. Mở rộng để bao
hàm những ǵ nằm bên ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp riêng của chúng. d. Phối hợp
và hoà lẫn 2 loại lửa để tạo ra lửa trung ương một cách hoàn hảo, tức lửa thái
dương. e. Phối hợp Tinh Thần và vật chất, sao cho một thể được tạo ra, thể đó sẽ
biểu lộ Tinh Thần một cách thích hợp.
289. Các câu hỏi dẫn nhập 289 f. Phối hợp bản thể bên trong h́nh hài, vốn được
phẩm định về mặt huyền linh trong thời kỳ tiến hoá với bản thể trong mọi h́nh
hài – theo ư nghĩa hành tinh, về phương diện con người và phương diện vũ trụ. g.
Đạt được mức trưởng thành về mặt con người, Thái dương hệ và vũ trụ. h. Đạt được
việc chế ngự trên ba cơi của Thái dương hệ, nói về mặt con người. i. Đạt được
việc chế ngự trên 5 cơi của Thái dương hệ, khi nói về một Hành Tinh Thượng Đế.
j. Đạt được việc chế ngự trên 3 cơi vũ trụ khi nói đến Christ vũ trụ, Đấng Con,
hay Thượng Đế biểu lộ ra bên ngoài. 3. Các Đơn Vị Tâm Thức Đang Biểu Lộ (1) 1
“Nên nhớ rằng vật chất là toàn bộ Hữu Thể (Existence) trong vũ trụ (kosmos)
thuộc bên trong bất cứ cơi nào có thể nhận thức được”, GLBN I, 560. Các Hữu Thể
này có thể được kể ra như sau: I. Bảy Hành Tinh Thượng Đế. Trong toàn thể, các
Ngài hợp thành cơ thể của Thái Dương Thượng Đế. Các danh xưng khác dành cho các
Đấng Cao Cả (Beings) này là : a. 7 Hành Tinh Thượng Đế hay Tinh Quân (Spirits)
b. Các Prajapatis. c. 7 Đấng Chủ Quản của các Cung d. Các Dyhan Chohans e. 7
Tinh Quân trước Thiên Toà f. 7 Nhất Đẳng Thiên Thần (Archangels) g. 7 Thiên Đế
(seven Logoi) h. 7 Đấng Kiến Tạo (Builders). GLBN I, 115,130,152,535. Các Ngài
là các Đấng làm linh hoạt Cung Thiêng Liêng, cung của Thượng Đế Ngôi Hai, cùng ư
nghĩa như Fohat và 7 Huynh Đệ của Ngài là toàn thể của cung Nguyên Thuỷ. GLBN I,
100, 108, 155. 233
290. 290 a. Vật chất được làm cho phong phú bởi Cung Thông
Tuệ Nguyên Thuỷ. Đây là anima mundi, linh hồn của thế giới. b. Cung Nguyên Thuỷ
là hiện thể đối với Cung Bác ái và Minh Triết Thiêng Liêng. Sự phối hợp cả hai
cung là mực tiêu tiến hoá. c. Cung Thiêng Liêng th́ thất phân. Nó đưa vào 7 Thực
Thể Thông Linh. d. 7 Thực Thể Thông Linh này là : 1. Thượng Đế của Ư Chí hay
Huyền Năng 2. Thượng Đế của Bác ái và Minh Triết 3. Thượng Đế của Hoạt Động 4.
Thượng Đế của Hài Hoà 5. Thượng Đế của Khoa Học Cụ Thể 6. Thượng Đế của Sùng Tín
hay Lư Tưởng Trừu Tượng. 7. Thượng Đế của Định Luật Nghi Thức hay trật tự.
I.
Nhân loại, Chân Thần, các Đơn Vị Tâm Thức. Trong toàn thể, chúng hợp thành các
thể của 7 Hành Tinh Thượng Đế. Mỗi Chân Thần thuộc về 1 trong 7 cung. GLBN I,
197, 285, 624, I, 85, 176, 196. II. Thiên Thần . GLBN I, 308, I, 107. Các
Thiên thần như : a. Tinh Quân Thiên Thần của 1 cảnh giới. Phạm vi của cơ thể
Ngài là toàn thể cảnh giới. b. Các nhóm Thiên thần kiến tạo IV. Các Thực Thể
Thông Linh đă tiến hoá trong các giới khoáng chất, thực vật và động vật. GLBN I,
210, 298. a. Sự Sống của Thượng Đế Ngôi Ba – nguyên tử vật chất. b. Sự sống của
Thượng Đế Ngôi Hai – các nhóm nguyên tử được kiến tạo thành h́nh hài, thực vật
và động vật. c. Sự sống của Thượng Đế Ngôi Một – H́nh hài được chiếm ngự bởi các
Tinh Quân Cao Cả nhất. V. Tinh Quân của một hành tinh. GLBN I, 178,
I, 251,
500.
291. Các câu hỏi dẫn nhập 291 Nếu các mục tiêu nói ở trên được xem xét cẩn thận,
nó sẽ được nhận ra làm cách nào mà mỗi mục tiêu đều có vị trí trong thiên cơ, và
cách nào sự tiến hóa chỉ là một thuật ngữ, được dùng để diễn tả sự phát triển
dần dần trong thời gian và không gian, của năng lực có sẵn của con người, của
một Hành Tinh Thượng Đế, và của Thái Dương Thượng Đế. Vị trí và vị thế của một
và cả thảy so với nhau phải được ghi nhớ, v́ không có ai phát triển được mà
không cần đến kẻ khác. Như thế, chúng có được ǵ ? a. Đấng Con, Thái Dương
Thượng Đế. Ngài biểu lộ qua thái dương và 7 hành tinh thánh thiện, mỗi một trong
các Ngài biểu hiện cho một trong 7 nguyên khí, cũng như Ngài trong toàn thể biểu
hiện cho một trong các nguyên khí của 1 Thực Thể Thông Linh vũ trụ c̣n vĩ đại
hơn nữa. b. Một Hành Tinh Thượng Đế. Ngài biểu lộ qua 1 hành tinh, và là hiện
thân của một trong các nguyên khí của Đấng Con, Thượng Đế. Chính Ngài cũng đang
phát triển qua 7 nguyên khí, vốn là nguồn cội của sự hợp nhất bản thể của Ngài
với tất cả các Hành Tinh Thượng Đế khác. Xét về phương diện vũ trụ, Đấng Con
đang phát triển nguyên khí của một Đấng vũ trụ vĩ đại hơn, nguyên khí mà chúng
ta gọi là bác ái minh triết. Đó là tính chất căn bản mà Ngài phải phát triển
trong chu kỳ sống của Ngài. Do đó, mỗi Hành Tinh Thượng Đế là hiện thân trội
nhất của một nguyên khí phụ Ngài là toàn thể của nhiều sinh linh đang tiến hoá
trên một hành tinh. VI. Nguyên Tử. GLBN I, 559, 620, 622. Tổng kết: Về thiên ư
(purpose) và mục tiêu goal) xem GLBN I, 70, 132. 234
292. 292 thuộc của nguyên khí căn bản. Tương tự, chính Ngài
cũng có 6 nguyên khí phụ cũng như Đấng Con vậy. c. Con người. Biểu lộ trên cơi
trần qua h́nh hài và cũng có 7 nguyên khí; trong mỗi chu kỳ sống, y làm việc để
phát triển các nguyên khí đó. Con người cũng có màu sắc nguyên thuỷ, tuỳ theo
nguyên khí căn bản biểu hiện bởi Hành Tinh Thượng Đế vốn là cội nguồn nguyên
thuỷ của y. Như thế, chúng ta có: THƯỢNG ĐẾ Cha – Tinh Thần …………………….. Mẹ – Vật
Chất tạo ra Đấng Con hay Thái Dương Thượng Đế, Chân ngă Thượng Đế hữu thức đang
tiến hoá qua Mặt Trời và 7 hành tinh thánh thiện, mỗi hành tinh biểu hiện một
Nguyên khí vũ trụ, trong 6 biến phân bằng phương pháp: a. Mở rộng, kích thích
rung động, tương tác từ điện hay định luật hút và đẩy. b. Luỹ tiến theo chu kỳ,
lặp lại sự quay, nối kết với sự tiến lên theo h́nh xoắn ốc, và đang phát triển :
- Đặc tính bác ái – minh triết, qua việc sử dụng h́nh hài bằng trí tuệ linh
hoạt. - Ngă thức đầy đủ, - Một Thái dương hệ hoàn hảo, hay h́nh hài, thích ứng
cho các nhu cầu của tinh thần nội tại. Nơi đây một bảng biểu tương đồng có thể
được thực hiện, để chứng minh sự tương đồng của diễn tŕnh, trong trường hợp của
một Hành Tinh Thượng Đế và một con người. Nếu chúng ta hỏi tại sao 10 hệ thống
và trong 10 hành tinh được thực hiện (gồm 7 thánh thiện và 3 ẩn tàng) bởi v́ 7
235 236
293. Các câu hỏi dẫn nhập 293 hành tinh thánh thiện sau rốt nhập thành 3 và sau
cùng 3 thành 1. Điều này có thể được vạch ra theo đường lối tương đồng như khi
chúng ta xét đến 7 cung. 7 cung đang biểu lộ đều khác nhau, sau rốt được tổng
hợp lại. Chúng ta được dạy là, 4 cung thứ yếu được phối hợp thành cung chính thứ
3, và sau rốt, 3 cung chính yếu phối hợp thành 1 cung tổng hợp, cung Bác ái Minh
triết (Minh Triết Long, huyền linh xà đang nuốt đuôi của nó) (1). Điều này được
H.P. Blavatsky nêu ra. Do đó chúng ta có 3 cung ở trên đỉnh; chỉ có 7 cung thấy
được trong diễn tŕnh tiến hoá. Liên hệ với các Hành Tinh Thượng Đế, hoạt động
qua các hành tinh, do đó có 3 hành tinh được xem như hành tinh tổng hợp, và 4
hành tinh sau rốt được phối hợp, cho đến khi cả ba đă thu hút được tinh hoa của
4; sau rốt 1 hấp thụ tinh hoa của 3 và công tác được thành toàn. Diễn tŕnh này
kéo dài nhiều ngàn năm trước, trong giai đoạn không thể tránh được của sự qui
nguyên dần dần của Thái dương hệ chúng ta. Bốn trong các Hành Tinh Thượng Đế
đang mưu t́m các đối cực - từ điện của các Ngài, và phối hợp cùng pha trộn.
Trước tiên điều này xảy ra giữa các Ngài, các cung âm và dương phối hợp cùng pha
trộn, kế đó từ 4 tạo thành 2. Hai lại phối hợp nhau lần nữa, tạo thành tổng thể
hợp nhất và như vậy 1 được tạo ra phối hợp với cung chính thứ ba, trạng thái
thông tuệ, - cung được tượng trưng cho Thánh Đoàn hành tinh chúng ta bởi Đức
Mahachohan. Thế nên sự phối hợp sẽ diễn tiến cho đến khi sự hợp nhất tối hậu
được đạt đến trong Thái dương hệ và Đấng Con đă thành toàn được Thiên Ư. Ngài là
bác ái minh triết tuyệt hảo; ánh sáng của Ngài toả chiếu ra vũ trụ; phạm vi từ
lực của Ngài 1 Con rắn đang nuốt đuôi của nó. GLBN I, 704,
I, 531.
294. 294 nối tiếp với chu vi của đối cực vũ trụ của Ngài và
cuộc phối ngẫu của Đấng Con đă được thực hiện. Cả hai đơn vị vũ trụ phối hợp.
Đương nhiên, nếu ở đây chúng ta hỏi đơn vị vũ trụ nào là đối cực thái dương của
chúng ta, chúng ta sẽ được cho biết rằng câu hỏi đó hiện tại c̣n bị che giấu, dù
là nó có được ám chỉ đến trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm và trong các Thánh kinh khác.
Một ẩn ngôn c̣n được giữ kín về mối liên quan của cḥm sao Rua đối với Địa cầu
chúng ta, nhưng không đợi đến khi có 1 tuế sai (precession) xa hơn của phân điểm
(equinoxes) mới thấy được đầy đủ mối liên quan đúng đắn nào được bao hàm (1).
III.. TẠI SSAO THÁI DDƯƯƠƠNG HỆ NÀY TIẾN HOÁ THEEO ĐƯƯỜỜNG
LỐỐI NHỊỊ NGUYÊÊN ?? 1. Vấn đề hiện tồn. Câu hỏi thứ ba bao
hàm một trong các vấn đề khó khăn nhất trong siêu h́nh học, và bao hàm trong
việc nghiên cứu nó toàn thể bí nhiệm phức tạp, về lư do tại sao có khách quan
tính ở mọi vật. Đó là vấn đề được nêu lên dưới nhiều h́nh thức khác nhau, bởi
nhiều người của mọi trường phái tư tưởng - bởi những kẻ tín ngưỡng, họ nêu câu
hỏi: “Tại sao Thượng Đế tạo nên vạn vật? Tại sao sự sống tác động lên một và tất
cả?”; bởi v́ các nhà khoa học trong khi t́m kiếm chân lư tối hậu, và họ nỗ lực
để t́m ra động cơ thúc đẩy của tất cả những ǵ được nh́n thấy, và để giải thích
cho sự sống thiên về giác 1 Nhà nghiên cứu có thể so sánh với các dẫn chiếu sau
đây và bấy giờ rút ra các kết luận cho chúng. GLBN, I, 711, chú thích 545 , 439,
I, 811, 830, 581 , 582, 426, 454, 654, 371. 237
295. Các câu hỏi dẫn nhập 295 quan; bởi các triết gia trong sự sưu khảo nhiều
công phu của họ về tính chủ quan làm linh hoạt (animating subjectivity) vốn đang
tự nó biểu lộ qua mọi khoa học về luân lư và đạo đức, trong mọi nền văn minh và
trong mọi dân tộc; bởi nhà sinh vật học trong việc áp dụng bền bĩ để khám phá
nguồn cội sự sống, và trong nỗ lực không ngừng để giải thích nguyên lư sự sống
mà bao giờ cũng thấy như trốn tránh các t́m ṭi của nhà sinh vật học; bởi nhà
toán học, kẻ đang bàn về khía cạnh h́nh thể của biểu lộ trong mọi đẳng cấp toán
học, nhà toán học này cho rằng Thượng Đế vạch ra h́nh thể, rằng định luật và
phép tắc phổ cập khắp nơi, rằng cái đơn nhất (one) hiện hữu nhờ bởi cái đa hợp
(many), và tuy vậy, kẻ nào không thể giải quyết vấn đề như đối với những kẻ mà
sự tương đồng h́nh học có thể vạch ra. Thế nên, vấn đề kéo dài và nhiều đường
lối tiến tới (trong nỗ lực t́m cách để giải quyết) lại kết thúc trong ngơ cụt
của giả thuyết và trong việc nhận biết điều tối hậu có bản chất khó hiểu đến nỗi
con người, dường như bị bắt buộc căn cứ vào một nguồn năng lượng, một nguồn
sống, một nguồn thông tuệ và gọi nó bằng các tên khác nhau tuỳ khuynh hướng (tôn
giáo, khoa học hoặc triết học) theo trí của họ. Thượng Đế, Toàn Linh Trí
(Universal Mind), Năng lượng, Huyền lực, Đấng Tuyệt Đối, Đấng Vô Danh, các danh
xưng này và nhiều danh xưng khác được thốt ra từ môi của những kẻ, mà do khía
cạnh h́nh hài, t́m kiếm Đấng Ngự trong h́nh hài, mà cho đến nay không thể t́m
thấy Ngài. Thất bại trong việc t́m kiếm Ngài là do bởi các giới hạn của bộ óc
hồng trần, và do việc thiếu phát triển trong bộ máy mà nhờ đó tinh thần có thể
nhận biết và sau rốt, nhờ đó mà Ngài có thể được nhận ra.
296. 296 Vấn đề nhị nguyên tính là vấn đề tự nó hiện hữu,
và không thể được giải quyết bởi kẻ nào từ chối thừa nhận sự khả hữu của hai sự
kiện huyền linh sau : 1. Toàn thể Thái dương hệ là biểu hiện cho ư thức của một
Thực Thể Thông linh, Đấng này xuất phát từ trên các cơi hoàn toàn ở ngoài ṿng
giới hạn thái dương. 2. Sự biểu lộ th́ theo chu kỳ và Định Luật Tái Sinh là
phương pháp mà sự tiến hoá diễn ra liên quan đến một con người, một Hành Tinh
Thượng Đế và một Thái Dương Thượng Đế. Đây là điều được nhấn mạnh trong Lời tựa
của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm về ba điều căn bản (GLBN I, 42, 44). a. Bản nguyên Bất
biến Vô giới hạn. b. Tính tuần hoàn của vũ trụ. c.Tính đồng nhất của mọi linh
hồn với Đại Hồn. Khi các nhà khoa học nhận thức 2 sự kiện này, lúc bấy giờ các
lư giải của họ sẽ có một đường lối khác và chân lư, theo đúng thực chất của nó,
sẽ bắt đầu soi sáng lư luận của họ. Tuy nhiên, có ít người sẵn sàng chấp nhận sự
soi sáng này, chỉ v́ ánh sáng của trực giác bị chận đứng do các bức tường mà
quan năng lư luận đă dựng nên. Lưỡng nguyên tính của thái dương hệ rốt cuộc sẽ
được thừa nhận tuỳ vào các yếu tố sau: a. Chính sự hiện tồn. b. Thời gian và
không gian. c. Tính chất của dục vọng hoặc nhu cầu. d. Khả năng thích thu nhận
có sẵn trong chính sự sống. Khả năng này, nhờ bởi sự vận chuyển, gom góp vào
chính nó chất liệu mà nhờ đó nó tạo ra được h́nh hài, qua đó sự diễn đạt được
t́m thấy, và nhờ đó nó giới hạn chính nó trong ngục tù của các thể để thu thập
kinh nghiệm. 239
297. Các câu hỏi dẫn nhập 297 Giả sử rằng lư thuyết này coi như là đúng, một
Đấng Thông Tuệ đại hùng tác động qua một Thiên Cơ được sắp xếp như thế, và Ngài
chiếm ngự h́nh hài một cách hữu thức và hoá thân để thực hiện các mục tiêu đặc
biệt của chính Ngài. Nhưng giả thuyết này chỉ là sự kiện căn bản đang ẩn dưới
giáo huấn Đông phương, và là sự kiện được thừa nhận một cách rộng răi, mặc dù
được diễn tả một cách trái ngược và được xem xét bởi các tư tưởng gia của mọi
trường phái tư tưởng khắp thế giới. Cho dù quan niệm này chỉ tŕnh bày phần nào
về ư tưởng thực tế đi nữa, nhưng do bởi các giới hạn của con người ở tŕnh độ
tiến hoá này, nó cũng đủ làm cơ sở cho việc con người có thể dựng nên thánh điện
chân lư của y. Đấng Cao Cả này mà chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế, không
mang ư nghĩa như Thượng Đế nhân h́nh (personal God) của Cơ Đốc giáo, vị Thượng
Đế sau này chính là con người không hơn không kém, đă phát triển thành một Đấng
có huyền năng khủng khiếp, và lệ thuộc vào các đức tính cùng là tật xấu của
chính con người. Thái Dương Thượng Đế vượt lên trên con người, v́ Ngài là toàn
thể mọi cuộc tiến hoá trong toàn bộ Thái dương hệ, kể cả con người, đó là một
cuộc tiến hoá nằm ở điểm giữa có liên quan với các cuộc tiến hoá khác. Về một
phương diện, Ngài được sắp vào số các Đấng vượt trên con người, và trong thiên
kiếp (kalpa) vừa qua, Ngài đă đạt được và vượt quá tŕnh độ của con người hiện
giờ; ở mặt khác là vô số sinh linh thuộc về các cuộc tiến hoá dưới nhân loại,
các sinh linh này, trong các thiên kiếp sắp tới sẽ đạt tới giai đoạn nhân loại.
Con người đứng giữa hai nhóm và đang ở điểm thăng bằng; cái khó khăn của con
người nằm ở đây. Con người không tham dự
298. 298 toàn thể các khía cạnh vật chất của cuộc tiến hoá,
y cũng không là toàn thể sự biểu lộ của Thượng Đế Ngôi Ba, trạng thái Brahma,
Ngài là biểu hiện của năng lượng thuần tuư hay sự thông tuệ, đang thúc đẩy cái
mà ta gọi là chất liệu nguyên thuỷ (subtance). Con người không phải là toàn thể
Tinh Thần, biểu hiện của Thượng Đế Ngôi Một, trạng thái Mahadeva, vốn là một
biểu lộ của ư chí thuần khiết hay dục vọng cấp thiết, đang thúc đẩy biểu lộ. Đó
chính là động cơ căn bản hay ư chí hiện tồn vĩ đại. Con người là sản phẩm của sự
hợp nhất cả hai; y là nơi hội tụ của vật chất hay chất liệu trí tuệ linh hoạt và
của Tinh Thần hay ư chí căn bản. Y là con sơ sinh của cuộc phối ngẫu của cả hai
hay là sự nhất quán. Y khoác lấy tính khách quan để biểu lộ những ǵ ở trong mỗi
một của hai đối cực, cộng thêm kết quả sự hoà nhập của chúng trong chính y. 2.
Bản chất và nhị nguyên tính của nó. Trong các thuật ngữ chỉ tính chất chúng ta
có ǵ? Trí tuệ linh hoạt hợp nhất với ư chí hay huyền năng tạo thành ‘Đứa Con
Tất Yếu’ (như H.P.B. diễn tả) (GLBN I, 74) vốn biểu hiện cho trí tuệ, ư chí hay
dục vọng và sự biểu lộ kết hợp tiềm tàng của chúng là bác ái minh triết. Bằng
thuật ngữ Lửa, chúng ta có thể diễn tả một tư tưởng tương đồng như thế nào? Lửa
tiềm tàng trong vật chất – chính lửa là sản phẩm của cuộc biểu lộ trước của cùng
Thực Thể Thông Linh, hay là tính chất tương đối hoàn hảo được hoàn thành bởi
Đấng này trong một lần lâm phàm trong vũ trụ trước kia - lại bắt đầu hoạt động
bởi ước vọng của cùng Đấng đó để vận chuyển bánh xe luân hồi lần nữa. ‘Lửa do ma
sát’ đó tạo ra nhiệt và bức xạ, đồng thời gây ra một phản ứng từ phía ‘lửa điện’
đối nghịch hay tinh thần. Ở đây, chúng ta 241
299. Các câu hỏi dẫn nhập 299 có ư tưởng về cung đang tác động qua vật chất v́
phản ứng của lửa điện là bao giờ cũng tiến tới, như đă nói ở trên. Tia “lửa
điện” duy nhất rơi vào vật chất. Đây là cuộc phối ngẫu trong hệ thống của Cha và
Mẹ. Kết quả là sự pha trộn của hai lửa và sản phẩm hợp nhất của sự biểu lộ của
lửa đó được chúng ta gọi là ‘lửa thái dương’. Như thế Đấng Con được tạo ra. Trí
Tuệ linh hoạt và Ư chí được hợp nhất và bác ái minh triết, khi được hoàn thiện
qua cuộc tiến hoá, sẽ tạo nên kết quả. Lửa điện hay Tinh Thần, hợp nhất với lửa
do ma sát (nhiệt) tạo nên lửa thái dương hay ánh sáng. Như vậy, khi Thực Thể
Thông Linh Vũ Trụ khoác lấy h́nh hài, cộng thêm vào trí tuệ linh hoạt vốn là sản
phẩm của lần hoá thân trước của Ngài, có thêm một đặc tính nữa, vốn có sẵn và
tiềm tàng, đó là đặc tính bác ái minh triết. Đây là khả năng để yêu thương những
ǵ đang biểu lộ hay là phi ngă, và cuối cùng sử dụng sắc tướng một cách minh
triết. Ư chí thuần tuư, cho đến nay là một điều trừu tượng và chỉ sẽ được phát
triển đầy đủ trong một lần hoá thân khác của Thượng Đế. Trí tuệ hay sự thông tuệ
không phải là điều trừu tượng; đó là một cái ǵ Hiện Hữu. Bác ái minh triết cũng
không phải là điều trừu tượng. Nó ở trong diễn tŕnh phát triển hay biểu lộ và
là trạng thái của Đấng Con. Những điều đă nói ở trên không có ǵ là mới mẻ cả,
nhưng các ư tưởng về lưỡng nguyên bản thể này được gom chung lại với nhau, để
nhắc nhở trí tuệ chúng ta cần xem xét các điều này, theo quan điểm đối với vị
trí của chúng trong hệ thống vũ trụ, chớ không theo quan điểm của riêng cuộc
tiến hoá hành tinh của chúng ta và của chính con người. Nhân loại là cuộc tiến
hoá qua đó trạng thái Con là để biểu lộ chính nó
300. 300 một cách hoàn hảo nhất trong hoá thân vũ trụ này.
Con người phối hợp các cặp đối hợp và 3 loại lửa hội nhập trong y. Con người là
biểu hiện hoàn hảo nhất của nguyên khí trí tuệ, và có thể được xem như, theo một
quan điểm rất lư thú là kiệt tác của Brahma. Con người là lớp vỏ cho sự sống của
Thượng Đế; con người là tâm thức đă biệt ngă hoá của Thượng Đế, biểu lộ qua 7
Manasaputras thiêng liêng hay Hành Tinh Thượng Đế, mà trong cơ thể của Ngài mỗi
đơn vị của gia d́nh nhân loại đều t́m thấy vị trí. Con người là trạng thái
Vishnu trong tiến tŕnh phát triển qua trí tuệ của Brahma, được thúc đẩy bởi ư
chí của Mahadeva (Đại Thiên thần). Do đó, theo một nghĩa đặc biệt, con người rất
quan trọng v́ y là vị trí nhất quán cho cả ba trạng thái, tuy nhiên, y không
quan trọng tí nào v́ y không phải là đỉnh của tam giác, mà chỉ là trung điểm,
nếu chúng ta xét tam giác như thế này : Tinh Thần – Cha Con hay nhân loại. Vật
chất - Mẹ. Sự tiến hoá của Con hay sự hoá thân vũ trụ của Christ rất là quan
trọng trong các kế hoạch của Đấng c̣n vĩ đại hơn Thái Dương Thượng Đế, Đấng Vũ
Trụ Thượng Đế. Các nguyên khí sinh động của các cḥm sao kết hợp và các hệ thống
chứng kiến sự tiến triển cơ tiến hoá của Đấng Con một cách vô cùng chăm chú.
Cũng như địa cầu được xem như điểm chuyển hướng hay chiến trường giữa Tinh Thần
và Vật Chất, do đó vô cùng quan trọng, Thái dương hệ của chúng ta cũng chiếm một
vị trí tương tự như thế trong hệ thống vũ trụ. Vũ Trụ nhân tức Arjuna thái
dương, đang tranh đấu cho ngă thức đă được biệt ngă hoá hoàn hảo của Ngài, và
cho tự do và thoát khỏi h́nh
301. Các câu hỏi dẫn nhập 301 hài ; thoát khỏi phi ngă. Cũng thế, con người trên
hành tinh này cũng chiến đấu cho các lư tưởng tương tự trên mức độ vô cùng bé
nhỏ của y; Michael và các Thiên Thần của Ngài, hay là các Hành Tinh Thượng Đế
thiêng liêng cũng chiến đấu như thế trên trời, vấn đề của các Ngài cũng tương tự
nhưng ở trên mức độ cao hơn. Lưỡng nguyên tính và sự tương tác giữa cả hai tạo
ra: a. Khách quan tính hay là Đấng Con biểu lộ hay Thái Dương. b. Chính sự tiến
hoá. c. Sự phát triển đức tính. d. Thời gian và không gian. Các câu hỏi mà hiện
giờ chúng ta đang bận tâm giải đáp hàm chứa một số khía cạnh biểu lộ căn bản,
chủ yếu là được xét theo khía cạnh chủ quan hay tâm linh. IV.. TÂÂM THỨỨC
LÀ G̀ ?? TÂÂM THỨỨC CÓ VỊỊ TRÍ G̀ TRONG HỆ THỐỐNG
CÁC SSỰ VIỆC ?? Tâm thức có thể được định nghĩa như là khả năng lĩnh hội
và liên hệ trước tiên đến sự liên kết giữa Ngă với Phi ngă, giữa Chủ Thể Nhận
Thức với Điều Được Nhận Thức, và giữa Chủ Thể Suy Tưởng với điều được suy tưởng.
Tất cả các định nghĩa này có liên quan đến việc chấp nhận ư tưởng về lưỡng
nguyên tính, thừa nhận những ǵ khách quan và những ǵ ẩn sau tính cách khách
quan (1).Tâm thức biểu hiện những ǵ có 1 Tâm thức (consciousness) là chủng tử
vũ trụ của toàn tri siêu vũ trụ. Nó có tiềm năng nảy nở thành tâm thức thiêng
liêng. GLBN II, 555. Vũ trụ là một tập hợp các trạng thái tâm thức. GLBN
II,
633 Tâm thức đại để có thể được chia thành: 243
302. 302 thể được xem như trung điểm trong sự biểu lộ. Nó
hoàn toàn không liên quan đến cực của Tinh Thần. Nó được tạo ra bởi sự kết hợp
hai cực và diễn tiến tương tác cùng là sự thích ứng cần thiết xảy ra sau đó.
Trong nỗ lực để h́nh dung được rơ ràng có thể kê khai như sau: Cực thứ nhất Điểm
hợp nhất Cực thứ hai Thượng Đế Ngôi 1…Thượng Đế Ngôi 2… Thượng Đế Ngôi 3.
Mahadeva ………… Vishnu ……………. Brahma Ư chí ………………. Minh triết –Bác ái .…Trí tuệ
linh hoạt. Tinh thần …………... Tâm thức ……………Vật chất. Cha …………………..Con …………………
Mẹ. Chân Thần …………. Chân Ngă ………...... Phàm Ngă. Bản ngă …………..... Sự liên hệ ở
giữa……Phi Ngă. Chủ Thể Tri Thức…..Tri Thức ……………. Cái được tri thức. 1. Tâm thức
Tuyệt đối hay Thượng Đế thức … Thượng Đế không biểu lộ. “Ta là Linh ngă” (“I am
that I am”) 2. Tâm thức đại đồng hay tập thể thức……… Thượng Đế biểu lộ. “Ta là
Cái Đó” (“I am That”) Tâm thức của Hành Tinh Thượng Đế. 3. Tâm thức cá nhân hay
Ngă Thức ……...….. Tâm thức con người. “Tôi hiện hữu” (“I am”) 4. Tâm thức hay
tâm thức nguyên tử ……Tâm thức dưới nhân loại. Mục tiêu của tâm thức đối với: 1.
Một Hành Tinh Thượng Đế …….... Tuyệt đối thức. 2. Con người ……………………... Tập thể
thức. 3. Nguyên tử ……… …………….. Ngă thức. Thượng Đế là Đại Thiên Địa đối với Con
Người. GLBN I, 288, 5 Con người là Đại Thiên Địa đối với nguyên tử… Tổng kết: Sự
sống và các sự sống. GLBN I, 281, 282 244
303. Các câu hỏi dẫn nhập 303 Sự sống ……………. Nhận thức ……..….. H́nh hài. Con
người có thể tiếp tục đưa ra vô số danh xưng, nhưng các tên gọi trên đây cũng đủ
để chứng tỏ mối liên hệ giữa Thượng Đế Ba Ngôi, trong khi biểu lộ. Cần phải nhấn
mạnh sự kiện rằng Thái dương hệ biểu hiện cho mối liên hệ Thượng Đế kể trên
trong sự tiến hoá ngoại cảnh và toàn thể mục tiêu phát triển tiến hoá là mang
lại cho Con của Cha và Mẹ, đến mức nhận thức viên măn, đến chỗ có ngă thức hoàn
toàn và đến tri thức đầy đủ và linh hoạt. Về mặt khách quan, Đấng Con này là
Thái dương hệ, về mặt nội tại là ư chí hay quyền năng, về mặt chủ quan Ngài là
bác ái minh triết. Đặc tính sau cùng này đang ở trong diễn tŕnh phát triển
xuyên qua việc vận dụng trí tuệ hoạt động. Ba Ngôi biểu lộ của Tam Vị Nhất Thể
Thượng Đế, mưu t́m sự phát triển đầy đủ bằng cách giúp nhau. Ư chí hiện tồn của
trạng thái Mahadeva, đang t́m kiếm với sự trợ giúp của trí thông tuệ của Brahma,
để phát triển bác ái minh triết, hay trạng thái Con, trạng thái Vishnu. Trong hệ
thống tiểu thiên địa, phản ảnh của Thượng Đế Ba Ngôi, con người đang nỗ lực qua
ba hiện thể để đạt đến cùng mức phát triển trên chính cơi của y. Trên các cơi
cao, các Hành Tinh Thượng Đế (qua atma-buddhi-manas) nhắm vào cùng sự phát triển
tương tự. Cả hai, tức Hành Tinh Thượng Đế cộng với các đơn vị trong các thể của
Ngài, tạo thành các Chân Thần của thiên thần và con người, trong toàn thể của
các Ngài, hợp thành Thái Dương Thượng Đế. Khi con người thành toàn, lúc bấy giờ
các Hành Tinh Thượng Đế cũng hoàn thành; khi các Ngài đạt đến sự phát triển và
có được ngă thức trên mọi cơi, lúc bấy giờ Đấng Con cũng thành toàn và Thái
dương hệ (thể biểu lộ và kinh nghiệm của Ngài) đă đáp ứng được mục tiêu của nó.
245
304. 304 Đấng Con được giải thoát. Hăy nới rộng ư niệm về
sự phát triển tâm thức tam phân này đến Thượng Đế trong một chu kỳ lớn hơn (đối
với chu kỳ của 3 Thái dương hệ trong số ấy đây là Thái dương hệ trung gian) và
chúng ta đă lặp lại trên các cơi vũ trụ liên quan đến Thượng Đế, diễn tŕnh phát
triển của nhân loại trong 3 cơi thấp. ĐẠI THIÊN ĐỊA (MACROCOSM) Thái dương hệ
thứ nhất…đă biểu hiện…… Nguyên khí “Ta là” (the “I am” principle.) Thái dương hệ
thứ hai… đang biểu hiện… Nguyên khí “Ta là Cái Đó”. Thái dương hệ thứ ba…. sẽ
biểu hiện …Nguyên khí “Ta là Linh Ngă” TIỂU THIÊN ĐỊA Biểu lộ thứ nhất, Phàm
Ngă, biểu hiện Nguyên khí “Ta là” Biểu lộ thứ hai, Chân Ngă, đang biểu hiện
nguyên khí “Ta là cái ấy” Biểu lộ thứ ba, Chân Thần, sẽ biểu hiện Nguyên khí “Ta
là Linh Ngă” Như vậy, các yếu tố khác nhau góp phần vào kế hoạch tổng quát của
các sự vật, và tất cả đều có liên hệ với nhau và tất cả đều là các phần và các
thành viên gây hứng thú cho các phần khác. V.. CÓ SSỰ TƯƯƠƠNG
ĐỒỒNG TRỰC TIẾP GIỮỮA SSỰ PHÁT TRIỂN CỦỦA MỘT HỆ
THỐỐNG,, MỘT HÀNH TINH,, MỘT CON NGƯƯỜỜI VÀ MỘT NGUYÊÊN TỬ KKHÔÔNG?? Với câu hỏi này, nếu sự ước muốn biểu lộ một cách
chính xác, th́ câu giải đáp phải là: Không, sự tương đồng không bao giờ đúng ở
chi tiết mà chỉ ở trong một số tương ứng cơ bản rộng rải. Trong tất cả 4 yếu tố,
có các điểm tương đồng không thể thay đổi, nhưng việc phát triển các giai đoạn
tăng trưởng có thể không hiện ra cùng trong sự tiến hoá trong chi tiết, xét theo
quan điểm con người trong ba cơi thấp, bị cản246
305. Các câu hỏi dẫn nhập 305 trở v́ y bị hạn chế trong sự hiểu biết. Các điểm
tương đồng giữa cả 4 có thể được tóm tắt như sau, chọn nguyên tử trên cơi trần
như là khởi điểm và phát triển quan niệm từ giai đoạn này đến giai đoạn khác.
Một nguyên tử (1). a. Một nguyên tử gồm một dạng gần h́nh cầu chứa trong chính
nó một nhân của sự sống. b. Một nguyên tử chứa trong chính nó các phân tử đă
biến phân, hợp thành chính nguyên tử trong toàn thể của nó. 1 Liên quan với
nguyên tử, GLBN viết : 1. Trí tuệ tuyệt đối rung động qua mọi nguyên tử. GLBN I,
298 2. Nơi nào có một nguyên tử vật chất, nơi đó có sự sống. GLBN I, 245 3.
Nguyên tử là một biểu lộ cụ thể của Năng Lượng Vũ Trụ GLBN I, 201 4. Cũng thế,
các sự sống vô h́nh bao gồm các nguyên tử v..v.. GLBN I, 281 5. Mọi nguyên tử
trong vũ trụ đều có ngă thức tiềm tàng. GLBN I, 132 6. Các nguyên tử và linh hồn
đều đồng nghĩa theo ngôn ngữ của điểm đạo đồ. GLBN I, 620 7. Nguyên tử hoàn toàn
tuỳ thuộc vào lănh vực của siêu h́nh học. GLBN I, 559. 8. Thượng Đế tính ở trong
mọi nguyên tử GLBN I, 89, 183. 9. Mọi nguyên tử đều chịu biến phân không ngừng
GLBN I, 167. 10. Mục tiêu tiến hoá của nguyên tử là con người. GLBN I, 206 11.
Một mầm mống hiện hữu ở tâm của mọi nguyên tử. GLBN I, 87,
I, 622 12. Trong mọi
nguyên tử đều có nhiệt (sức nóng) GLBN I, 112 13. Mỗi nguyên tử đều có 7 cơi
hiện tồn. GLBN I, 174 14. Các nguyên tử đều là các rung động. GLBN I, 694
306. 306 Thí dụ, chúng ta được biết rằng nguyên tử hồng
trần chứa trong chu vi của nó 14 tỉ nguyên tử nguyên h́nh (archetypal atoms),
tuy nhiên, hàng tỉ nguyên tử nguyên h́nh này biểu lộ như là một. c. Một nguyên
tử được phân biệt bằng hoạt động và biểu thị các tính chất về: - Chuyển động
quay. - Năng lực phân biện. - Khả năng phát triển. d. Chúng ta được biết rằng
một nguyên tử chứa trong chính nó ba ṿng xoắn ốc chính yếu và 7 ṿng thứ yếu
(1), cả 10 ṿng đang ở trong diễn tŕnh tạo sinh lực, nhưng chưa đạt được hoạt
động đầy đủ. Chỉ có 4 là đang hoạt động ở tŕnh độ này và cái thứ 5 đang ở trong
tiến tŕnh phát triển. e. Một nguyên tử được Định Luật Tiết Kiệm chi phối, đang
từ từ rơi vào ảnh hưởng của Định Luật Hút, và sau rốt rơi vào ảnh hưởng của Định
Luật Tổng Hợp. f. Một nguyên tử nằm đúng vị trí của nó trong mọi h́nh hài; chính
sự kết hợp của các nguyên tử tạo nên h́nh hài. g. Sự đáp ứng của nó đối với sự
kích thích bên ngoài: - Kích thích do điện, ảnh hưởng đến h́nh hài biểu lộ ra
ngoại cảnh. - Kích thích do từ lực; tác động trên sự sống bên trong. - Hiệu quả
hợp nhất của hai loại kích thích này tạo nên sự tăng trưởng và sự phát triển nội
tại. Do đó một nguyên tử được phân biệt bằng: 1 “Sự Sống Nội Tâm” : quyển
I,
177, 179. Hoá Học Huyền Bí, trang 22. Hoá Học Huyền Bí: Phụ bản
I và II.
BaBiT: Ánh Sáng và Màu Sắc, trang 79 – 101. 247
307. Các câu hỏi dẫn nhập 307 1. Dạng thức gần h́nh cầu của nó. Ṿng giới hạn
của nó được xác định và nhận thấy. 2. Sự sắp xếp bên trong của nó, bao gồm phạm
vi ảnh hưởng của bất cứ nguyên tử đặc thù nào. 3. Hoạt động sống động của nó,
hay là mức độ đưa đến những ǵ mà sự sống ở trung tâm làm sinh động nguyên tử,
một điều có liên quan ở tŕnh độ này. 4. Cơ cấu tổ chức thất phân bên trong của
nó đang trong diễn tŕnh tiến hoá. 5. Sự tổng hợp sau cùng của nó ở bên trong từ
7 thành 3. 6. Sự liên hệ tập thể của nó. 7. Sự phát triển tâm thức của nó hay sự
đáp ứng. Dựa vào các sự kiện trên của nguyên tử, chúng ta có thể nới rộng ư kiến
hiện giờ đến con người theo cùng nét chính như sau : Con Người. a. Con người có
dạng gần h́nh cầu, y có thể được thấy như một ṿng giới hạn tṛn, một h́nh cầu
vật chất với cái nhân sự sống ở trung tâm. Trong khi xác nhận điều này, chúng ta
xem xét con người thực ở vị trí căn bản của nó như là Chân Ngă, với phạm vi biểu
lộ của y, linh hồn thể, - thể đó vốn hợp thành trung điểm giữa Tinh Thần với vật
chất. b. Con người chứa trong chính ḿnh các nguyên tử đă biến phân, mà trong
toàn thể chúng tạo thành h́nh hài biểu lộ của con người trên các cơi biểu lộ của
y. Tất cả được làm cho linh hoạt bằng sự sống của y, bằng ư chí hiện tồn bền bĩ
của y; tất cả đều rung động theo mức độ được đạt tới bằng sự tiến hoá của con
người. Như được thấy từ trên các cơi cao, con người biểu lộ như một khối cầu
(hay các khối cầu) với vật chất đă biến phân, rung động với một mức độ nào đó,
nhuộm 248
308. 308 một màu sắc nào đó và xoay đối với một chủ điểm cố
định – chủ điểm thuộc chu kỳ sống của y. c. Con người được phân biệt bởi hoạt
động trên một hay nhiều cơi trong ba cơi thấp, và biểu lộ đặc tính của : 1.
Chuyển động quay hay sự xoay ṿng riêng biệt của y trên bánh xe cuộc sống, quanh
cực chân ngă của y. 2. Khả năng phân biện hay là năng lực chọn và thu hoạch kinh
nghiệm. 3. Khả năng tiến hoá, tăng gia rung động và tạo sự tiếp xúc. d. Con
người chứa trong chính y 3 nguyên khí chính yếu: ư chí, bác ái - minh triết, trí
tuệ linh hoạt hay khả năng thích ứng – và biến phân của chúng thành 7 nguyên
khí. Các nguyên khí này sau rốt tạo thành 10 trong số biểu lộ hoàn hảo, đang ở
trong diễn tŕnh đem lại sinh khí, nhưng chưa đạt đến mức phát triển đầy đủ. Chỉ
có 4 nguyên khí trong con người là linh hoạt, và con người đang ở trong tiến
tŕnh phát triển nguyên khí thứ năm hay nguyên khí trí tuệ. Chú ư đến sự tương
đồng hoàn hảo như thế nào giữa con người, xét theo 4 thể thấp đang phát triển
nguyên khí trí tuệ, và nguyên tử với 4 loa tuyến của nó linh hoạt, c̣n loa tuyến
thứ 5 đang ở trong tiến tŕnh kích thích. e. Con người bị chế ngự bởi Định Luật
Hút, đă tiến hoá qua Định Luật Tiết Kiệm và đang ở dưới Định Luật Tổng Hợp. Sự
tiết kiệm chế ngự tiến tŕnh vật chất, mà với tiến tŕnh này con người không có
liên hệ hữu ư nhiều lắm; sự thu hút chế ngự sự liên hệ của nó với các đơn vị
khác hay các nhóm khác và sự tổng hợp là định luật của Chân ngă con người, với
sự sống bên trong h́nh hài. 249
309. Các câu hỏi dẫn nhập 309 f. Con người thấy được vị trí của ḿnh bên trong
h́nh hài tập thể. Các nhóm Chân ngă và Hành Tinh Thượng Đế được tạo thành do sự
tập hợp của các đơn vị con người và thiên thần. g. Sự đáp ứng của con người đối
với sự kích thích bên ngoài : - Kích thích điện, tác động vào h́nh hài bên ngoài
hay sự đáp ứng sinh khí. - Kích thích từ lực, tác động trên sự sống bên trong
của y. Kích thích này xuất phát từ nhóm Chân ngă của y và về sau, từ Hành Tinh
Thượng Đế mà y là một tế bào trong cơ thể Ngài. - Hiệu quả kết hợp của hai kích
thích này đem lại sự tăng trưởng và phát triển vững vàng. Do đó, con người được
phân biệt bởi : 1. Dạng thức gần h́nh cầu của y. Ṿng giới hạn của y được xác
định và được nhận ra. 2. Sự sắp xếp bên trong của y; toàn thể phạm vi ảnh hưởng
của y ở trong tiến tŕnh phát triển. Hiện nay phạm vi đó bị giới hạn và lănh vực
hoạt động của y c̣n bé nhỏ. Khi Chân Ngă thể đă phát triển, nhân của sự sống ở
trung tâm tăng gia phạm vi kiểm soát của nó cho đến khi toàn thể đi vào khuôn
phép. 3. Sự hoạt động sống động hay phạm vi mà vào bất cứ lúc nào đă định, y
biểu lộ ngă thức hay kiểm soát phàm ngă của y. 4. Cơ cấu tổ chức thất phân bên
trong của y; sự phát triển 7 nguyên khí của y. 5. Sự tổng hợp bên trong sau rốt
của y, dưới tác động của 3 định luật, từ 7 thành 3 và sau đó trở thành 1. 250
310. 310 6. Sự liên quan tập thể của y. 7. Sự phát triển
tâm thức của y, đáp ứng với tiếp xúc, do đó tăng gia tri thức. Hành Tinh Thượng
Đế (1). Mỗi Hành Tinh Thượng Đế cũng được xem như có dạng gần h́nh cầu. Ngài có
ṿng giới hạn của Ngài như nguyên tử 1 Các Hành Tinh Thượng Đế là : 1. Tổng hợp
của tâm thức GLBN I, 626 2. Các Đấng Sáng Tạo .. GLBN I, 477, 481-485 so với
GLBN I 244. a. Các Ngài là 7 sáng tạo nguyên thuỷ, hay là khoác lấy thể dĩ thái
bởi một Heavenly Man. b. Các Ngài là 7 sáng tạo thứ yếu hay là khoác lấy h́nh
hài vật chất trọng trược. Truy nguyên điều này trong Tiểu thiên địa và công việc
của các thiên thần dĩ thái trong việc kiến tạo các thể. c. Tập hợp trí tuệ
thiêng liêng GLBN I, 488 d. Các Con sinh từ trí của Brahma GLBN I, 493,
I,610,618 Các Ngài là Tứ Nguyên Thượng Đế, Năm và bảy. e. 7 Cung GLBN I, 561,
I, 210. Các Ngài là 7 con đường trở về với Thượng Đế...Tinh Thần. Các Ngài là 7
nguyên khí về phương diện siêu h́nh. Các Ngài là 7 giống dân về phương diện vật
chất. f. Các Đấng của sự tôn sùng không ngừng nghỉ và không mệt mỏi GLBN
I, 92
g. Các thất bại của Thái Dương Hệ, trước GLBN
I, 243 h. Các đối cực đối với
cḥm sao Rua GLBN I, 579, 581. Về phương diện huyền linh, Thái dương hệ chúng
ta là dương và cḥm sao Rua là âm. Một Hành Tinh Thượng Đế trong hệ thống hành
tinh của Ngài sáng tạo một cách tương tự. Xem GLBN
I, 626
311. Các câu hỏi dẫn nhập 311 và con người đang có. Ṿng giới hạn này bao gồm
toàn thể hệ thống hành tinh; bầu vật chất trọng trược của bất cứ một dăy hành
tinh nào, cũng tương tự trong trường hợp của Ngài, so với thể vật chất của bất
cứ người nào và so với nguyên tử trên cơi trần. Mỗi hệ thống tiến hoá gồm 7 dăy
hành tinh là sự biểu hiện cuộc sống của một Thực Thể Thông Linh, Ngài chiếm ngự
nó như con người chiếm một thể của y, v́ mục đích biểu lộ là để thu đoạt kinh
nghiệm. b. Một Hành Tinh Thượng Đế chứa bên trong chính Ngài những ǵ tương ứng
với các tế bào bên trong các hiện thể biểu lộ của con người. Các nguyên tử hay
tế bào trong cơ thể Ngài được làm bằng toàn thể các đơn vị thiên thần và con
người, rung động theo chủ âm của Ngài và đáp ứng với phạm vi sự sống của Ngài.
Tất cả được giữ lại với nhau và được làm sinh động bởi ư chí hiện tồn của Ngài;
và tất cả đều rung động theo tŕnh độ mà Ngài đă đạt được trong cuộc tiến hoá.
Theo quan điểm vũ trụ; một Hành Tinh Thượng Đế có thể được xem như một bầu sự
sống kỳ diệu, vốn bao gồm bên trong phạm vi ảnh hưởng của nó, năng lực rung động
của toàn thể hệ thống hành tinh. Ngài tạo rung động tới một mức độ nào đó có thể
được ước đoán bằng hoạt động của sự sống đang đập nhịp ở trung tâm bầu hành
tinh; toàn bộ hệ thống hành tinh được tô điểm bằng một màu sắc nào đó; đang xoay
quanh một chủ điểm cố định, vốn là chủ điểm của chu kỳ sống của Ngài bên trong
kỳ đại khai nguyên hay chu kỳ Thượng Đế. c. Một Hành Tinh Thượng Đế được phân
biệt do hoạt động của Ngài trên một trong các cơi mà chúng ta gọi là Triadal hay
Atma-Buddhi-Manas, giống như con người được phân biệt bởi hoạt động của y trên
một trong các cơi trong 3 251
312. 312 cơi thấp, tức là cơi hạ trí, cảm dục, hồng trần.
Sau rốt, con người có được ngă thức trên cả ba. Cuối cùng Hành Tinh Thượng Đế có
ngă thức đầy đủ trên ba cơi cao hơn. Mọi chuyển động luỹ tiến hay gia tăng sức
sống trong toàn thể con người trong ba cơi thấp, đi song hành với một hoạt động
tương tự trên ba cơi cao. Tác động và sự tương tác giữa sự sống đang làm sinh
động các nhóm hay các Hành Tinh Thượng Đế, và sự sống làm sinh động các nguyên
tử hay con người vốn hợp thành các đơn vị trong các nhóm vừa bí mật vừa kỳ diệu.
Một Hành Tinh Thượng Đế trên các cơi riêng của Ngài cũng biểu lộ các đặc tính
của chuyển động quay hay hoạt động có chu kỳ đặc thù của Ngài, chung quanh bánh
xe sự sống của Ngài, một hệ thống hành tinh, và như thế chung quanh cực Chân ngă
của Ngài. – Khả năng phân biện hay là năng lực chọn lựa và do đó thu thập kinh
nghiệm. Các Ngài là hiện thân của trí tuệ hay năng lực thông tuệ (do đó các Ngài
được gọi là Trí Tinh Quân thiêng liêng), vốn thông hiểu, chọn lọc và tách ra,
như vậy đạt được kiến thức và ngă thức. Các Ngài phát triển năng khiếu trí tuệ
này trong các thiên kiếp trước hay các thái dương hệ trước. Mục đích của các
Ngài hiện giờ là sử dụng những ǵ đă phát triển để đem lại một số hiệu quả đặc
biệt và để đạt được một số mục tiêu đặc biệt. – Năng lực tiến hoá, gia tăng rung
động, thu thập tri thức và tạo nên sự tiếp xúc. Rung động được gia tăng này có
tính cách tiệm tiến và trật tự tiến hoá cùng các diễn tiến từ trung tâm này đến
trung tâm khác như nó đang xảy ra trong con người và như nó tác động trong
trường hợp của các loa tuyến của nguyên tử. Mục đích của các Ngài là đạt được sự
tiếp xúc đồng đều với nhau và sau rốt để phối hợp các chủ 252
313. Các câu hỏi dẫn nhập 313 thể riêng rẽ của các Ngài thành Thực Thể Duy Nhất,
đồng thời giữ lại ngă thức đầy đủ hay có được cái ngă đă được biệt ngă hoá. d.
Một Hành Tinh Thượng Đế chứa đựng trong Ngài 3 nguyên khí chính: ư chí, bác ái –
minh triết, thông tuệ, và sự biểu lộ của chúng qua 7 nguyên khí, rất thường được
bàn đến trong văn chương huyền linh của chúng ta. Các nguyên khí này tạo thành
10 trong cái hoàn thiện tối hậu của Ngài, v́ 7 được phân giải thành 3 và 3 thành
1. Dĩ nhiên, mỗi Hành Tinh Thượng Đế đều có sắc thái hay nguyên khí sơ khởi của
Ngài, giống như con người và nguyên tử đang có. Đối với sắc thái hoặc nguyên khí
nguyên thuỷ con người cũng có những ǵ của Hành Tinh Thượng Đế, v́ con người là
một đơn vị trong cơ thể Ngài. Con người cũng có 2 nguyên khí chính khác (như
Hành Tinh Thượng Đế hiện có) và biến phân của chúng thành 7 như đă nói trên. Đối
với sắc thái hay nguyên khí nguyên thuỷ, nguyên tử có những ǵ thuộc cung Chân
ngă của con người, v́ trong cơ thể của người, nó có vị trí của nó. Dĩ nhiên điều
này có liên quan tới nguyên tử hồng trần trong cơ thể người. Sắc thái này biểu
lộ dưới h́nh thức rung động tạo nên mức đo lường của 3 loa tuyến chính và 7 loa
tuyến phụ. Cho đến nay chỉ có 4 nguyên khí trong Hành Tinh Thượng Đế là đang
biểu lộ đến một mức độ nào đó, mặc dù một trong các Hành Tinh Thượng Đế có phần
tiến hoá hơn các vị khác và có được nguyên khí thứ 5 rung động một cách thích
ứng, trong khi một số các vị khác đang ở trong tiến tŕnh hoàn thiện nguyên khí
thứ 4. Hành Tinh Thượng Đế của dăy chúng ta đang rung động ít nhiều đối với
nguyên khí thứ 5, hay đúng hơn ở trong tiến tŕnh đưa nó vào hoạt động. 253
314. 314 Mức rung động thứ 4 hay nguyên khí thứ 4 của Ngài
trong cuộc tuần hoàn hay chu kỳ thứ 4 ,và trên bầu hành tinh thứ tư này, được
đánh thức, dù là không tác động như nó sẽ tác động trong cuộc tuần hoàn thứ 5.
Nhiều phiền toái hiện có trong hành tinh vào lúc này phát xuất từ việc đi vào
hoạt động của rung động cao hay là rung động thứ 5, vốn sẽ được hoàn tất và vượt
qua trong chu kỳ sắp tới hay chu kỳ thứ 5. Sự tương đồng giống như trong con
người và nguyên tử, lại được duy tŕ tốt đẹp nhưng không ở trong chi tiết chính
xác. e. Hành Tinh Thượng Đế bị chế ngự bởi Định Luật Thu Hút, đă vượt qua định
luật Tiết Kiệm và nhanh chóng tiến vào dưới Định Luật Tổng Hợp. Do đó, cần chú ư
bước tiệm tiến của việc kiểm soát và sự kiện sau: Thứ 1. Định Luật Tiết Kiệm là
định luật sơ khởi của nguyên tử. Định luật Thu Hút bắt đầu kiểm soát nguyên tử.
Định Luật Tổng Hợp chỉ mới được cảm nhận phần nào bởi sự sống của nguyên tử. Đó
là định luật về đời sống. Thứ 2. Định luật Thu Hút là định luật sơ khởi của con
người. Định luật Tiết Kiệm là định luật phụ đối với con người. Nó chi phối vật
chất của các hiện thể của nó. Định luật Tổng Hợp đang bắt đầu dần dần được cảm
nhận. Thứ 3. Định Luật Tổng Hợp là định luật sơ khởi của một Hành Tinh Thượng
Đế. Định Luật Thu Hút thống ngự đầy đủ. Định Luật Tiết Kiệm đă bị vượt qua. Nhục
thân không phải là một nguyên khí đối với Hành Tinh Thượng Đế, do đó Định Luật
Tiết Kiệm bị vượt qua. Định luật Thu Hút chế ngự tiến tŕnh vật chất trong việc
kiến 254
315. Các câu hỏi dẫn nhập 315 tạo h́nh hài. Định luật Tổng Hợp là định luật của
Bản Thể của Ngài. f. Một Hành Tinh Thượng Đế đang t́m vị trí của Ngài bên trong
các nhóm Thượng Đế, và đang t́m cách thực hiện vị thế của Ngài trong số 7 vị, và
bằng việc thực hiện sự hợp nhất gần đúng. g. Sự đáp ứng của Ngài đối với kích
thích bên ngoài. Điều này được xét theo quan điểm có giới hạn của con người đang
đạt đến các lănh vực không thể đạt tới được bởi trí tuệ con người cho đến nay.
Nó liên quan đến : Kích thích điện và liên hệ đến sự đáp ứng với bức xạ thái
dương và song hành với bức xạ hành tinh. Kích thích từ điện đang tác động trên
cuộc sống bên trong của Ngài. Bức xạ này phóng phát từ các nguồn bên ngoài toàn
thể hệ thống. Chúng ta nên ghi nhớ các sự kiện sau: - Kích thích từ điện của
nguyên tử hồng trần tỏa ra từ con người trên các phân cảnh cảm dục, và sau đó từ
các phân cảnh Bồ đề. - Kích thích từ lực của con người phát ra từ các Hành Tinh
Thượng Đế trên các phân cảnh Bồ đề và sau đó trên các phân cảnh Đại Niết Bàn. -
Kích thích từ lực của Một Hành Tinh Thượng Đế phát ra bên ngoài hệ thống, từ cơi
cảm dục vũ trụ, hiệu quả kết hợp của các kích thích này đưa đến sự phát triển
vững vàng bên trong. Do đó, một Hành Tinh Thượng Đế được phân biệt bằng : 1.
Dạng thức gần h́nh cầu của Ngài. Ṿng giới hạn của Ngài, trong khi biểu lộ, được
xác định và nhận thấy.
316. 316 2. Sự sắp đặt bên trong của Ngài và phạm vi ảnh
hưởng của Ngài, hay hoạt động đang làm sinh động dăy hành tinh. 3. Việc kiểm
soát sự sống tinh thần của Ngài vào bất cứ giai đoạn định trước nào. Đó là huyền
năng mà nhờ đó Ngài làm sinh động bản chất thất phân của Ngài. Nên chú ư sự gia
tăng ảnh hưởng khi so sánh với phạm vi tam phân của con người. 4. Sự tổng hợp
sau rốt của Ngài từ 7 thành 3 và từ 3 thành 1. Điều này bao hàm chu kỳ che khuất
của các bầu hành tinh và việc phối hợp thành đơn vị của 7 nguyên khí mà mỗi bầu
đang tiến hoá. 5. Sự tiến hoá của Ngài theo định luật và sự phát triển tất nhiên
phải có. 6. Sự liên quan tập thể của Ngài. 7. Sự phát triển tâm thức và tri thức
của Ngài. Sau cùng chúng ta phải mở rộng các ư tưởng này đến Thái Dương Thượng
Đế ,và xét xem sự tương đồng kéo dài hoàn hảo như thế nào. Đoạn văn bàn về sự
kích thích, về từ và điện, không thể tránh khỏi đưa chúng ta trở lại việc xem
xét về lửa, căn bản và cội nguồn của mọi sự sống. Thái Dương Thượng Đế. a. Thái
Dương Thượng Đế cũng có dạng thức gần h́nh cầu. Ṿng giới hạn của Ngài gồm toàn
thể chu vi của Thái dương hệ, và tất cả nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Mặt
Trời. Mặt Trời giữ một vị trí tương tự như hạt nhân của sự sống ở tâm nguyên tử.
Lĩnh vực này bao hàm trong chu vi của nó 7 dăy hành tinh với 3 dăy tổng hợp, tạo
thành 10 của biểu lộ Thượng Đế. Mặt Trời là thể hồng trần của Thái Dương Thượng
Đế, thể biểu lộ của Ngài, và sự sống của Ngài trải 255
317. Các câu hỏi dẫn nhập 317 qua 7 hệ thống theo chu kỳ với cùng ư nghĩa như sự
sống của một Hành Tinh Thượng Đế lướt qua 7 lần chung quanh hệ thống 7 dăy của
Ngài. Mỗi dăy giữ một vị trí tương đồng với một bầu trong một dăy hành tinh. Ghi
nhận sự mỹ lệ của mối tương đồng này, tuy đồng thời thiếu sự tương đồng trong
chi tiết. (GLBN I, 136). b. Một Thái Dương Thượng Đế chứa đựng trong chính Ngài,
dưới h́nh thức các nguyên tử trong thể biểu lộ của Ngài, tất cả các nhóm của mỗi
loài, từ hồn tập thể tiến hoá giáng hạ, đến các nhóm Chân ngă trên cơi trí. Ngài
có (đối với các trung tâm linh hoạt của cơ thể Ngài) 7 nhóm chính yếu hay 7
Thiên Nhân (Heavenly Men), các vị này đang toả ra ảnh hưởng đến khắp nơi thuộc
phạm vi Thượng Đế và các Ngài biểu hiện trong chính các Ngài tất cả các cuộc
sống nhỏ, các nhóm thứ yếu, các đơn vị con người và thiên thần, các tế bào, các
nguyên tử và phân tử. Nh́n từ các cơi vũ trụ, lĩnh vực của Thượng Đế có thể được
h́nh dung như một quả cầu lửa đang rung động với ánh sáng huy hoàng, chứa bên
trong ṿng ảnh hưởng của nó các bầu hành tinh cũng đang làm rung động các quả
cầu lửa. Thái Dương Thượng Đế làm ngân lên với mức độ ngày càng tăng và bền bĩ,
toàn thể Thái dương hệ đang nhuốm một màu sắc nào đó, màu của sự sống của Thượng
Đế, tức Cung Thiêng Liêng Duy Nhất; c̣n Thái dương hệ xoay chuyển với một mức độ
nào đó, vốn là ch́a khoá của đại thiên kiếp hay chu kỳ thái dương và xoay ṿng
chung quanh cực thái dương trung ương của nó. Thái Dương Thượng Đế được phân
biệt bởi hoạt động của Ngài trên mọi cơi của Thái dương hệ; Ngài là toàn thể mọi
biểu lộ, từ nguyên tử hồng trần trọng trược và thấp thỏi 256
318. 318 nhất đến Đấng Dhyan Chohan cao tột trong vũ trụ.
Mức độ rung động thất phân này là ch́a khoá của cơi vũ trụ thấp nhất và tỉ lệ
nhịp nhàng của nó có thể được cảm thấy trên cơi cảm dục vũ trụ, với một đáp ứng
yếu ớt trên cơi trí vũ trụ. Thế nên, sự sống của Bản Thể Thượng Đế trên các phân
cảnh vũ trụ, có thể diễn ra song song với sự sống của con người trong ba cơi
thấp, cơi thấp nhất trong các cơi Thái dương hệ. Trên các cơi riêng của Ngài,
Thượng Đế cũng biểu lộ: Thứ 1. Chuyển động quay. Sự sống của Ngài trong khi nó
quay ṿng theo chu kỳ qua 1 ngày của Brahma có thể xem như đang xoắn chung quanh
bánh xe vĩ đại của Ngài, 10 hệ thống tiến hoá của một Thái dương hệ. Thứ 2. Năng
lực phân biện. Như chúng ta biết, hành động trước tiên của Ngài là phân biệt hay
chọn chất liệu cần cho sự biểu lộ. Sự chọn lựa đó được kiểm soát bởi : - Nghiệp
quả vũ trụ. - Khả năng rung động. - Sắc thái hay tính chất đáp ứng. - Các yếu tố
bằng số có liên quan trong toán học vũ trụ. Ngài là hiện thân của thể trí vũ
trụ, và qua việc sử dụng khả năng này, Ngài t́m kiếm - bằng h́nh hài linh hoạt -
để kiến tạo nên linh hồn thể vũ trụ của Ngài, một tính chất song song của bác ái
– minh triết. Thứ 3. Năng lực tiến bộ, tăng gia rung động và thu được đầy đủ ngă
thức trên các mức độ vũ trụ. d. Thái Dương Thượng Đế chứa trong chính Ngài 3
nguyên khí hay trạng thái chính yếu, biến phân chúng thành 7 nguyên khí. Các
nguyên khí này tạo nên 10 của sự hoàn thiện cuối cùng của Ngài và sau rốt được
tổng hợp thành một nguyên khí hoàn hảo, tức nguyên khí bác ái - minh triết. 257
319. Các câu hỏi dẫn nhập 319 Nguyên khí sau rốt này là sắc thái nguyên thuỷ của
Ngài. Mỗi nguyên khí được biểu hiện vào một trong các hệ thống, và được thể hiện
qua một trong các Hành Tinh Thượng Đế. Cho đến nay chỉ có 4 nguyên khí được biểu
lộ với bất luận mức độ nào, v́ sự tiến hoá của Thái Dương Thượng Đế diễn ra song
hành với sự tiến hoá của Hành Tinh Thượng Đế. e. Thái Dương Thượng Đế bị chi
phối bởi Định Luật Tổng Hợp. Ngài nắm giữ tất cả trong sự hợp nhất tổng hợp hay
tính đồng nhất (homogeneity). Sự sống bên trong của Ngài được chi phối bởi Định
Luật Hút; h́nh hài vật chất của Ngài được chi phối bởi Định Luật Tiết Kiệm. Ngài
đang tiến vào một định luật vũ trụ khác mà cho đến nay con người chưa hiểu được,
định luật đó chỉ được tiết lộ với các vị điểm đạo cao nhất. f. Thái Dương Thượng
Đế đang ở trong tiến tŕnh xác minh vị trí của Ngài trong đại hệ thống, trong đó
Ngài đang giữ một vị trí tương đồng với vị trí của một Hành Tinh Thượng Đế trong
một Thái Dương hệ. Trước hết, Ngài t́m cách để thấy được điều bí nhiệm của sự
hiện tồn riêng của Ngài và để hoàn thành đầy đủ Ngă Thức; thứ hai là để xác minh
vị thế và nơi chốn của đối cực của Ngài; thứ ba là để phối hợp và hoà lẫn với
đối cực đó. Đây là cuộc phối ngẫu vũ trụ của Thượng Đế. g. Một Thái Dương Thượng
Đế được phân biệt bằng sự đáp ứng của Ngài với kích thích bên ngoài. Chính điều
này liên quan đến: - Kích thích điện hay sự đáp ứng của Ngài với điện lực Fohat,
phát ra từ các trung tâm tinh tú khác và kiểm soát phần lớn tác động của Thái
dương hệ chúng ta và các chuyển 258
320. 320 động của Thái dương hệ trong không gian liên quan
đến các tinh toà khác. - Kích thích bằng từ lực, tác động trên Sự Sống bên
trong/ riêng tư của Ngài, và xuất phát từ một số trung tâm vũ trụ đă được nói
đến trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm. Các trung tâm này có cội nguồn trên các cơi Bồ đề
vũ trụ. Chính hiệu ứng hợp nhất của chúng đưa đến sự phát triển vững vàng. Thái
Dương Thượng Đế được phân biệt : 1. Bởi h́nh giống cầu thể (spheroidicity) của
Bản Thể biểu lộ của Ngài. Ṿng giới hạn thái dương của Ngài được xác định và
nhận thấy. Cho đến nay, điều này chỉ có thể được chứng tỏ bằng sự nỗ lực để xác
định mức độ của sự kiểm soát bên trong, bởi phạm vi của vùng ảnh hưởng thái
dương hay là sự thu hút từ điển của Mặt Trời đối với các thể ít quan trọng khác
mà nó giữ lại trong chuyển động ṿng quanh chính nó. 2. Bởi sự hoạt động của sự
sống đang làm sinh động 10 hệ thống. 3. Bởi mức độ kiểm soát được tác động bởi
Thượng Đế ở bất cứ thời kỳ ấn định nào. 4. Bởi sự tổng hợp cuối cùng của 7 hệ
thống thành 3 và 3 thành 1. Điều này bao hàm việc tiến vào thời kỳ lẩn khuất của
các hệ thống và sự hợp nhất của 7 nguyên khí mà chúng biểu hiện. 5. Bởi sự chinh
phục của Ngài đối với Định Luật Hiện tồn của Ngài. 6. Bởi sự liên quan tập thể
của Ngài.
321. Các câu hỏi dẫn nhập 321 7. Bởi sự khai mở t âm thức của Ngài, yếu tố thời
gian được kiểm soát bởi mức độ khai mở của tất cả các đơn vị hữu thức trong cơ
thể Ngài. Nơi đây, chúng ta đă phác hoạ vắn tắt một số điểm tương đồng giữa bốn
yếu tố được nói ở trên và đă trả lời câu hỏi một cách ngắn gọn. Các điểm này nếu
được nghiền ngẫm sẽ t́m t hấy sự trợ giúp thực sự trong việc phát triển nhận
thức tinh thần của đạo sinh và trong việc tăng gia sự thấu hiểu về cái đẹp của
toàn thể Thái dương hệ. VI.. TRẠNG THÁI TRÍ TUỆ LÀ G̀ ??
TẠI SSAO NGUYÊÊN KKHÍ TRÍ TUỆ QQUAN TRỌỌNG NHƯƯ THẾ ?? CÁC
TRÍ TINH QQUÂÂN LÀ AI?? Bây giờ chúng ta đề cập
đến bí nhiệm sâu kín nhất của toàn b ộ Thái dương hệ biểu lộ - bí nhiệm được
H.P.Blavatsky nói đến như là bí nhiệm của điện khí (GLBN I, 439, 221, 107). Điều
đó có liên hệ mật thiết đến sự sống của Thượng Đế như đă được chứng minh qua 7
trung tâm lực của Ngài, 7 Hành Tinh Thượng Đế, Trí Tinh Quân Thiêng Liêng. Cho
đến nay, vấn đề này không thể giải quyết được về mặt công truyền và chỉ có thể
được tiết lộ rất ít cho quảng đại quần chúng. Điều này có 3 l ư do: Thứ nhất,
tŕnh độ con người ngày nay không cho phép y hiểu các điều trừu tượng này một
cách chính xác. Thứ hai, phần lớn chỉ có thể giải thích được cho các điểm đạo đồ
trải qua lần điểm đạo thứ 3, và ngay cả đối với các điểm đạo đồ này cũng được
thận trọng giữ ǵn. Thứ ba, việc tiết lộ về mối liên quan chặt chẽ giữa trí với
fohat hoặc năng lượng, hay là giữa mănh lực tư tưởng với hiện tượng điện – hiệu
quả của xung lực fohat trên vật chất – th́ đầy hiểm nguy và các khoen khiếm
khuyết (tạm gọi thế) 259
322. 322 trong chuỗi lư luận từ hiện tượng đến xung lực mở
đầu của nó, chỉ có thể được truyền đạt một cách an toàn, khi nhịp cầu giữa hạ
trí với thượng trí được kiến tạo thích hợp. Khi hạ trí ở dưới sự kiểm soát của
thượng trí, hay là khi 4 thể thấp được phối hợp với 3 thể cao; lúc bấy giờ con
người mới có thể được giao cho 4 nguyên lư cơ bản c̣n lại. Ba trong các cơ bản
này được đưa ra cho chúng ta trong lời tựa của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm (quyển I, 42,
44) và với khái niệm tiến hoá của tâm lư học, tạo nên 3 điều được tiết lộ, c̣n
cái thứ tư đang hé mở. Ba điều khác thuộc về nội môn và phải được giữ lại như
thế cho đến khi mỗi người phải tự làm việc với sự phát triển tinh thần của ḿnh,
tạo nhịp cầu giữa thượng trí và hạ trí, sửa soạn đền thờ trong Thánh điện
Solomon, t́m kiếm Linh Quang của Thượng Đế và chuyển các hoạt động của ḿnh vào
sự giúp đỡ vị tha trong cơ tiến hoá của Thượng Đế. Khi các tính chất này đảm
trách vị trí quan trọng nhất và khi con người đă biểu lộ ư chí hoàn toàn phụng
sự của ḿnh, lúc ấy manh mối sẽ được đặt vào tay y và y sẽ t́m được phương pháp
nhờ đó xung lực điện, biểu lộ dưới h́nh thức nhiệt, ánh sáng và chuyển động,
được kiềm chế và vận dụng; y sẽ khám phá ra nguồn gốc của xung lực nguyên thuỷ
từ các trung tâm ngoài Thái dương hệ và khám phá ra nhịp điệu cơ bản. Lúc ấy, và
chỉ lúc ấy thôi, y mới sẽ là kẻ hợp tác sáng suốt và (thoát khỏi việc kiềm chế
của thiên luật trong 3 cơi thấp), vận dụng chính định luật trong các lĩnh vực
thấp. 1. Bản chất của biểu lộ. Đây là 3 câu hỏi quan trọng phải được bàn đến như
là một, tất cả đều mang cùng một chủ đề và tất cả có liên quan đến sự kiện của
chính tính khách quan sáng suốt. Có lẽ nếu chúng ta diễn giải ba câu hỏi này, và
đưa nó vào ngoại biên
323. Các câu hỏi dẫn nhập 323 của tiểu thiên địa, vấn đề có thể không phức tạp
như thế. Chúng ta có thể diễn tả như sau : Trạng thái tư tưởng của con người là
ǵ? Tại sao thể trí của y và diễn biến tinh thần lại quan trọng như thế? Chủ Thể
Suy Tưởng là ai ? Trong tinh hoa cốt yếu, con người là Ba thể cao biểu lộ qua
một h́nh hài đang tiến hoá dần dần, tức chân ngă thể hay linh hồn thể, và đang
sử dụng phàm ngă gồm ba thể thấp như là phương tiện tiếp xúc với ba cơi thấp.
Tất cả đều có mục đích phát triển ngă thức hoàn hảo. Trên Ba thể cao (triad) là
Chân Thần hay Cha Trên Trời – một điểm trừu tượng đối với con người khi con
người nh́n vấn đề từ cơi trần. Chân Thần trụ tại nơi y ở vị trí Đấng Tuyệt Đối,
theo cùng ư nghĩa như Thượng Đế chưa biến phân tượng trưng cho Tam Vị Nhất Thể,
so với Ba Ngôi của Thượng Đế biểu lộ. Điều so sánh vẫn đúng. 1. Chân Thần 2. Tam
Vị Nhất Thể tức Atma-Buddhi-Manas hay ư chí tinh thần, trực giác và thượng trí.
3. Chân ngă thể hay thể nguyên nhân, thánh điện đối với nguyên khí Bồ đề. Thể
này được kiến tạo bằng sức mạnh của trí tuệ. Đó là sự biểu lộ của ba thể . 4.
Bản chất tam phân hạ đẳng, điểm biểu lộ ra ngoài trọng trược nhất. 5. Về cơ bản,
bản chất tam phân hạ đẳng này là tứ hạ thể - tức là thể dĩ thái, sự sống sinh
động hay prana, trí- cảm và hạ- trí. Manas hay nguyên khí thứ 5, tạo thành khoen
nối giữa hạ trí và thượng trí. (GLBN I, 107) Do đó chúng ta có 4 thể thấp, 3 thể
cao và liên quan giữa chúng, tức nguyên khí trí tuệ. Nơi đây, chúng ta có 7 được
261
324. 324 tạo thành bởi sự hợp nhất của 3 và 4, cùng với 1
yếu tố khác, tạo thành 8. Sau rốt, bảy sẽ được nhận thấy khi buddhi và manas
được hợp nhất. Nhiều điều được ám chỉ trong một vài huyền thư nói về cơi thứ 8.
Tôi muốn nhắc nhở rằng trong yếu tố liên kết này của trí thông minh, chúng ta có
một đầu mối cho bí mật. Khi trí tuệ trở nên phát triển quá đáng và ngưng kết nối
thượng và hạ trí, th́ nó tạo thành một lănh vực của riêng nó. Đây là tai hoạ lớn
nhất có thể đột nhiên xảy đến cho con người. Do đó, chúng ta có : Chân Thần, cái
tuyệt đối của tiểu thiên địa. – Tinh thần thuần tuư – Đơn nhất và độc nhất. Tam
Vị Nhất thể Chân thần. – Trạng thái 1….. Atma hay ư chí tinh thần. – Trạng thái
2 … Buddhi, nguyên khí Christ – Trạng thái 3 … Manas hay thượng trí. Trạng thái
Con đang biểu lộ – Chân ngă thể hay linh hồn thể. Bốn thể thấp 1. Thể hạ trí. 2.
Thể cảm dục hoặc thể t́nh cảm. 3. Prana hay năng lượng sinh động. 4. Dĩ thái thể
(1). 1 Kamamanas (trí cảm). Phối hợp của yếu tố trí tuệ và yếu tố dục vọng tạo
ra phàm ngă hay trí năo thông minh thông thường của con người. “Các năng lượng
tự chúng biểu lộ qua các loại vật chất thấp của thể trí, được nó biến đổi thành
các rung động chậm chạp hơn vốn được đáp ứng bằng chất cảm dục mà 2 thể đang
tiếp tục rung động với
325. Các câu hỏi dẫn nhập 325 Tiểu thiên địa tái tạo lại Thái dương hệ thu nhỏ.
Phần trên bàn về các h́nh hài biểu lộ, tương ứng với thái dương và 7 hành tinh
thánh thiện. Nhưng h́nh hài lộ ra bên ngoài được đi song song bằng một phát
triển tâm linh mà chúng ta gọi là 7 nguyên khí. Con người đang phát triển bảy
nguyên khí được liệt kê như sau: CÁC NGUYÊÊN KKHÍ
CỦỦA TIỂU THIÊÊN ĐỊỊA ((11 )) nhau và trở nên xen lẫn nhau một cách chặt chẽ”. Minh
Triết Ngh́n Xưa, của bà A. Besant. 1 1. Có 2 nguyên lư chính của vũ trụ trong
thiên nhiên: a. Hoạt động và thụ động, dương và âm. GLBN
I, 556, I, 46 b.
Buddhi và Mahat GLBN I, 357, I, 649, II, 273 2. Các nguyên khí cao này hợp
nhất tạo thành 3 và 7. GLBN I, 46 a. Chúng được gọi là 3 Cung Bản Thể và 4 Trạng
Thái. GLBN I, 147. b. Chúng có thể được gọi là 3 Hiện Thể với 3 Trạng Thái của
chúng và Atma. GLBN I, 182 c. Chúng cũng c̣n được gọi là Linh Hỏa có ba ngọn với
4 Tim Bấc. GLBN I, 257 Điều này đúng thực về phương diện vũ trụ và nhân loại.
Các nguyên khí của Thượng Đế .. 7 Hành Tinh Thượng Đế GLBN I, 358, 365. Các
nguyên khí của Hành Tinh Thượng Đế .. .. Hiện thể được gọi là một dăy. GLBN I,
194, 196 Các nguyên khí của con người…. Các hiện thể khác nhau. Cũng ghi nhận
GLBN I, 176, 177, I, 630, 631. Tổng kết GLBN II, 475. 4. Thiên ư hồng nguyên
(Cosmic Ideation), tập trung trong một nguyên khí có kết quả như ư thức của cá
nhân. GLBN I, 351
326. 326 Hai nguyên khí cao : 1/ Trí tuệ linh hoạt. 2/ Bác
ái – minh triết tiềm tàng. (Bản chất thông linh của Chân Thần có tính nhị phân).
1. Nguyên khí atma. Bản chất tâm linh. Ư chí, 2. Nguyên khí bồ đề. Bản chất bác
ái. Minh triết. 3. Nguyên khí trí tuệ. Bản chất sáng suốt, Hoạt động. Nơi đây
cần chú ư rằng 3 nguyên khí trong thuật ngữ Triad với 2 nguyên khí tổng hợp trên
cơi Chân thần tạo thành 5 nguyên khí và mang lại bí quyết về cách ghi số của
H.P.B. ở một số nơi. Như thế, chúng ta có thể diễn tả: I. Đấng Tuyệt Đối (The
Absolute) .… Chân Thần I. 1. Prakriti ……………Trí tuệ linh hoạt. Manasaputra
Thiêng Liêng. 2. Purusha ………… Bác ái-Minh triết. Trạng thái Vishnu Trên cơi biểu
lộ II. 3. Atma (Linh thể) 4. Buddhi (Tuệ giác thể) 5. Manas (Thượng Trí) Theo
quan điểm tiến hoá, chúng ta xem 2 thể cao và thể cao nhất như là tương ứng với
Đấng Tuyệt Đối, khi Ngài biểu lộ thành nhị nguyên (duality). Điều này có trước
đối với sự . Sự chuẩn nhận do cá nhân của một hiện thể tạo nên việc phô trương
năng lượng của bất cứ cơi đặc biệt nào. Năng lượng này sẽ có màu sắc và tính
chất riêng biệt tuỳ theo cơi có liên quan. 5. Bảy nguyên khí là biểu lộ của Linh
Hỏa duy nhất. GLBN I, 45, II, 374 Cũng chú ư chức năng của các Thượng Đế trong
việc ban cấp cho con người các nguyên khí của y. GLBN I, 308 Tam thượng thể (The
Triad) 263
327. Các câu hỏi dẫn nhập 327 biểu lộ (objectivity) vốn cần đến sự hiện hữu của
cả ba. Trong lúc biểu lộ, chúng ta có thể xem các nguyên khí như sau: Nguyên khí
1 …. Phạm vi biểu lộ, Chân thần noăn (monadic eG). Nguyên khí 2 ….. Atma …… Ư
chí Nguyên khí 3 ….. Buddhi ….. Lư trí thuần tuư, minh triết Nguyên khí 4 ….
Manas ….. Trí thuần tuư, thượng trí Nguyên khí 5 ….. Manas ….. Hạ trí (lower
mind) Nguyên khí 6 …. Trí cảm (Kama-manas) Nguyên khí 7 ….. Cảm giác thuần tuư
hay xúc cảm Đây là các nguyên khí đối với tiểu thiên địa coi như đă vượt trên
tất cả các thể hồng trần và như thế bảng biểu này hoàn toàn có liên hệ với sự
sống bên trong hay là sự phát triển của tâm hay linh hồn . Điều này phải được
ghi nhớ kỹ, nếu không sẽ có sự lầm lẫn. Trong bảng liệt kê trên, chúng ta đă bàn
đến nơi đây về khía cạnh chưa biểu lộ chớ không phải đến sắc tướng. Do đó, chúng
ta đă xem xét : a. Tính chất biểu lộ thất phân …… h́nh hài vật chất. b. Tính
chất chưa biểu lộ thất phân …… tiến hoá tâm linh. c. Tính chất tâm linh thất
phân …… sự sống của Thực Thể . Chúng ta cũng sẽ ghi nhận rằng trong bảng biểu
trên về sự sống tâm linh của Chân Thần, chúng ta xem nó là năm phần. Điều này
rất cần trong cuộc tiến hoá có 5 phần này, nhưng 2 nguyên khí c̣n lại có thể
được xem như : 6. Sự sống của Hành Tinh Thượng Đế mà trong cơ thể của Ngài, Chân
Thần nhân loại chiếm một vị trí. 264
328. 328 7. Sự sống của Thượng Đế mà trong cơ thể Ngài,
Hành Tinh Thượng Đế chiếm một vị trí. Ở đây, có thể là hữu ích khi xem xét một
biểu liệt kê khác về các nguyên khí của con người (1) trong khi con người đang
biểu lộ trong 3 cơi thấp, các cơi mà trên đó ngoại giới và nội giới được hợp
nhất. Nơi đó chúng ta có ǵ? Chúng ta hăy bắt đầu nơi mà con người bắt đầu, với
cái thấp nhất : 7. Thể dĩ thái …………….. 1. Thể sinh lực (vital body). 6. Sinh khí
thể (Prana) …….. 2. Sinh lực (vital force). 5. Cảm dục thể (kama manas).. 3. Trí
dục vọng (desire mind). 1 Liệt kê các nguyên khí. GLBN I, 627, 631. Nguyên khí
1…….. Nhục thân. Sthula sharira. Nguyên khí 2 ….… Thể dĩ thái. Linga sharira.
Nguyên khí 3 …….. Prana. Năng lượng sinh động Nguyên khí 4 …… Kama rupa. Năng
lượng của dục vọng. GLBN I, 136. (Đây là 4 nguyên khí thấp). Nguyên khí 5 …
Manas Năng lượng của tư tưởng Nguyên Khí giữa GLBN
I, 83, 84, 332, 669. Nguyên
khí 6… Buddhi. Năng lượng bác ái. GLBN I, 649, 676 Nguyên khí 7…Atma. Nguyên
khí tổng hợp GLBN I, 357, 201 Xem GLBN II, 201, chú thích a. Buddhi là hiện thể
đối với Atma b. Manas là hiện thể đối với buddhi. c. Kamarupa là hiện thể đối
với manas. GLBN I, 131 d. Thể dĩ thái là hiện thể đối với prana. Cũng nên nhớ :
Rằng thể xác (physical body) không phải là một nguyên khí GLBN
I, 652, II,
652. Rằng Linh thể (Atma) không phải là một nguyên khí. GLBN
II, 62, 63, 293.
(Các liệt kê khác, dị biệt ở một số đặc điểm sẽ thấy trong : GLBN I, 177, 181,
685. I, 669. II, 476, 560. Cái sau vẫn c̣n nội môn). 265
329. Các câu hỏi dẫn nhập 329 4. Hạ trí (lower mind)……... 4. Trí cụ thể (concret
mind). 3. Thượng trí (Manas)………5. Thượng trí hay trí trừu tượng 2. Tuệ giác thể
(Buddhi) ….. 6. Minh triết, mănh lực Christ, trực giác. 1. Linh thể (Atma)
................ 7. Ư chí tinh thần Đây là bảng liệt kê thấp nhất cho kẻ ít tiến
hoá hiện giờ. Theo quan điểm Chân ngă chúng ta có thể thấy ǵ? I. Tuyệt đối (The
Absolute) …. Ư- chí- hiện- tồn thuần tuư I. Lưỡng nguyên (The Duad) 1. Buddhi
….. Lư trí thuần tuư, minh triết. 2. Manas ….. Trí thuần tuư (Pure mind)
II.
Tam nguyên (The Triad) 3. Linh hồn thể. 4. Hạ trí 5. Kama-manas 6. Prana 7. Thể
dĩ thái Trong các bảng liệt kê các nguyên khí khác nhau này, chúng ta đang bàn
đến chúng (như H.P.B. đă nêu ra chúng phải được bàn đến) (1) theo các quan điểm
khác nhau tuỳ tŕnh độ đạt đến và khía cạnh xem xét. Như thế chúng ta xem 1
H.P.B. nói trong GLBN về các nguyên khí. a. Rằng rất có thể có các lầm lẫn trong
việc phân loại. GLBN I, 677. b. Rằng chúng ta phải t́m hiểu ư nghĩa huyền bí,
GLBN I, 652. Rằng thực sự có 6 chớ không phải 7 nguyên khí. c. Rằng có nhiều
cách phân loại. GLBN II, 374, 466. d. Rằng bảng liệt kê nội môn không tương ứng
với ngoại môn. GLBN II, 476 e. Rằng việc đếm các nguyên khí là một vấn đề tiến
bộ tinh thần. GLBN II, 456, 460 266
330. 330 xét chúng để trả lời câu hỏi thứ 6, v́ chúng ta
t́m cách nhấn mạnh và tạo ấn tượng rơ ràng trong đầu rằng 3 đường lối phát triển
phải được ghi nhớ, khi xét đến sự tiến hoá của các Manasaputras. 2. Sự phát
triển ra ngoài (The Objective Development). Sự phát triển này có bảy phần trong
tiến hoá và trong thời gian; có 9 phần trong thời qui nguyên, và có 10 phần vào
lúc tan ră. Đại càn khôn 1. 7 Hành tinh thánh thiện của Thái dương hệ 2. Hai c̣n
ẩn tàng vốn là các hành tinh tổng hợp. 3. Một hành tinh tổng hợp cuối cùng duy
nhất - Mặt Trời, 7 + 2 + 1 = 10 Có 10 trung tâm lực trong Thái Dương Thượng Đế.
Hành tinh Thượng Đế 7 dăy của 1 hệ thống. 2 dăy tổng hợp. 1 dăy cuối cùng. Có 10
trung tâm lực trong một Hành Tinh Thượng Đế. Tiểu càn khôn 1. 7 hiện thể được
dùng : a- Linh thể (The atmic sheath). b- Hiện thể bồ đề (buddhic vehicle). c-
Linh hồn thể hay chân ngă thể (egoic body). d- Trí thể (mental body). e- Cảm dục
thể. f- Dĩ thái thể. g- Nhục thân. 2. Hai thể tổng hợp: 267
331. Các câu hỏi dẫn nhập 331 a. Linh hồn thể (causal body). b. Thể xác
(physical body). 3. Thể tổng hợp duy nhất : a. Thể Chân Thần (monadic sheath).
Có 7 trung tâm lực trong hiện thể vật chất tương ứng với các thể này, với các
trung tâm lực tổng hợp ở tim và cuống họng; lúc bấy giờ đầu là chỗ tổng hợp sau
cùng. Điều này hoàn toàn liên hệ đến khía cạnh h́nh hài và với các hiện thể ở
trong của Thượng Đế, Manasaputra và của con Người. 3. Sự phát triển bên trong
(The subjective Development) Phát triển này cũng có 7 phần : 1- Astral ……….. dục
vọng thuần tuư, cảm xúc, cảm giác. 2- Kama-manas …trí dục vọng. 3- Manas ………. hạ
trí cụ thể. 4- Higher manas .. trí trừu tượng hay trí thuần tuư. 5- Buddhi ……….
lư trí thuần tuư, trực giác. 6- Atma ……..…. ư chí thuần tuư, nhận thức,
(realisation) 7- Monadic …….…Ư chí, bác ái - minh triết, thông tuệ Phát triển
này liên quan đến phát triển thất phân của bác ái – minh triết có sẵn do sự trợ
giúp của thể trí. Sự phát triển này diễn tiến về phương diện đại càn khôn qua 7
Hành Tinh Thượng Đế, Ngài là trí tuệ linh hoạt, bác ái cố hữu, và về phương diện
bên ngoài được nh́n thấy qua các h́nh hài của các Ngài, tức các hệ thống hành
tinh. Trong tổng thể của các Ngài, các Ngài là Thượng Đế, Thái Dương Thựợng Đế.
Trong trường hợp của Hành Tinh Thượng Đế, sự phát triển diễn tiến qua 7 nhóm
thực thể nhân loại, hợp thành các trung tâm tinh thần của các Ngài. Các nhóm này
ở trên b́nh diện riêng của chúng đang phát triển sự thông tuệ, là bác ái cố hữu
và có thể tiếp xúc được về phương diện bên ngoài, trên 7 dăy 268
332. 332 của một hệ thống. Trong trường hợp con người, sự
phát triển diễn tiến qua 7 trung tâm lực của y, vốn là bí quyếy cho sự tiến hoá
tâm linh. Con người cũng đang phát triển sự thông tuệ, là bác ái cố hữu và về
mặt bên ngoài, được nh́n thấy qua thể này hoặc thể khác của y. Điều mà tôi t́m
cách nhấn mạnh là sự kiện về phát triển tâm linh, và cũng chính tiến hoá bên
trong là mối bận tâm chính của Thái Dương Thượng Đế, của một Hành Tinh Thượng Đế
và của con người. Bác ái sáng suốt linh hoạt (phát xuất từ sự tiềm tàng của tính
chất bác ái cố hữu, bằng việc áp dụng sáng suốt khả năng trí tuệ) sẽ là kết quả
của diễn tŕnh tiến hoá. Giống như phần ngoại cảnh chia làm hai, tức sự sống
h́nh hài, th́ phần nội tâm cũng chia làm hai là trí tuệ-bác ái; và sự phối hợp
cả hai tạo nên tâm thức. Chỉ có Tinh Thần là đơn nhất và không phân chia; sự
phát triển của Tinh Thần (hay giả định của nó về các kết quả của tiến hoá) chỉ
được thực hiện và xảy ra khi sự tiến hoá song đôi của h́nh hài và tâm linh được
hoàn thành. Lúc bấy giờ tinh thần tích chứa kết quả của tiến hoá, và gom vào
chính nó các tính chất đă được đào luyện trong khi biểu lộ, - lúc bấy giờ bác ái
hoàn hảo và trí tuệ hoàn hảo biểu lộ ra dưới h́nh thức bác ái - minh triết, sáng
suốt, linh hoạt. Do đó, chúng ta có thể trả lời câu hỏi : “Trạng thái Trí Tuệ là
ǵ, và tại sao nó quan trọng như thế ?” bằng cách nói rằng trạng thái trí tuệ
thực ra là khả năng, hay năng lực của Bản Thể Thượng Đế (logoic Existence) để
suy tư, để hành động, để kiến tạo và để tiến hoá hầu phát triển khả năng bác ái
linh hoạt. Khi Thượng Đế, Đấng Thông Tuệ linh hoạt, đă qua hết chu kỳ hoạt động
của Ngài rồi, Ngài cũng sẽ biểu lộ đầy đủ bác ái qua Vạn Vật. Điều này cũng có
thể được xác 269
333. Các câu hỏi dẫn nhập 333 nhận đối với một Hành Tinh Thượng Đế trong phạm vi
của Ngài, và đối với con người trong chu kỳ bé nhỏ của y. Thế nên sự trọng hệ
của Manas (trí tuệ) có thể được nhận thấy đầy đủ. Đó là phương tiện mà nhờ đó sự
tiến hoá mới xảy ra được, sự thấu triệt được đạt tới và hoạt động được phát sinh
và hữu dụng. Bây giờ chúng ta hăy xem câu hỏi này có thể được diễn tả bằng các
thuật ngữ về lửa như thế nào : Khách quan Chủ quan (Subjectivity) 1. Bể
lửa….......... 1. Thượng Đế chúng ta là … Ư chí được tiếp (sea of fire) lửa hay
thiêu rụi sinh lực. 2. Akasha ……. 2. Ánh sáng của Thượng Đế … Trạng thái h́nh
hài 3. Aether …….. 3. Nhiệt của vật chất ..….Trạng thái hoạt động 4. Chất khí
…….4. Sự tỏ ngộ của trực giác. 5. Lửa ………... 5. Lửa của trí tuệ. 6. Tinh quang
…6. Nhiệt của các xúc động (emotions) 7. Điện của cơi trần…… 7. Hoả xà và prana.
Phương diện tâm linh (SpirituaLy) Điều này tàng ẩn trong ba bí nhiệm : 1. Bí
nhiệm về điện. 2. Bí nhiệm về 7 tinh toà. 3. Bí nhiệm về Đấng vượt trên Thượng
Đế. 4. Hành Tinh Thượng Đế và Con Người. Phần cuối cùng của câu hỏi 6 là các
Manasaputras là ai ? Điều này được bàn đến với đầy đủ chi tiết có liên quan đến
hành tinh chúng ta khi đề cập đến đề tài về sự giáng lâm của các Hoả Tinh Quân.
Hiện nay thật là đáng mong ước khi tạo ra một số sự kiện rơ ràng, chúng phải tạo
thành nền tảng của bất cứ ư tưởng nào về đề tài này.
334. 334 Các Manasaputras Thiêng Liêng (1)(1), trong GLBN,
Ngài được nói đến bằng nhiều tên khác nhau, đó là các Con được sinh ra từ Trí
của Brahma, ngôi ba của Thượng Đế. 1 Trong GLBN, các Hành Tinh Thượng Đế được
nói đến như 1. Các tác nhân sáng tạo. Các Ngài là toàn thể biểu lộ. GLBN I, 470
2. Các Ngài thuộc về tiền vũ trụ (pre-cosmic) GLBN I, 470 3. Các Ngài là toàn
thể các thực thể thái dương và thái âm. GLBN I, 152, 470. So với
I, 374. 4. Các
Ngài là 7 Nhất Đẳng Thiên Thần trong Thánh Kinh. Các Ngài là 7 Thần lực hay
Quyền Năng sáng tạo. Các Ngài là 7 Tinh Quân trước Thánh Toà. Các Ngài là 7 Tinh
Quân của các Hành Tinh. GLBN I, 472, 153. 5. Trong Tổng Thể của các Ngài, các
Ngài là Tôn Danh Bí Nhiệm Bất Khả Thuyết GLBN I, 473 6. Các Ngài là các Dhyan
Chohans tổng hợp GLBN I, 477 7. Các Ngài là 7 Kumaras. 7 Rishis. GLBN I, 493 8.
Các Ngài là các Con của Ánh Sáng. GLBN I, 521, 522 9. Các Ngài là Huyền Giai của
các Quyền Năng sáng tạo GLBN I, 233 10. Các Ngài là tổng hợp c̣n ẩn giấu I, 362
11. Các Ngài là chính các Hành Tinh Thượng Đế; I, 153 12. Các Ngài là toàn thể
nhân loại, sản phẩm của các thế giới khác GLBN I, 132 13. Các Ngài có liên hệ
chặt chẽ với 7 ngôi sao của cḥm Đại Hùng Tinh. GLBN I, 488,
I, 332, 579, 668.
II, 195. 14. Các Ngài được tượng trưng bằng các ṿng tṛn GLBN
I, 582. 15. Các
Ngài là tổng hợp các Thiên Thần thất bại (faLen Angels) GLBN
I, 284, 541. 270
335. Các câu hỏi dẫn nhập 335 Các Ngài là 7 Hành Tinh Thượng Đế và là các Đấng
Chủ Quản của các Cung. Các Ngài phát triển trạng thái Trí Tuệ trong Thái dương
hệ thứ nhất, trạng thái mà trong đó Đấng Brahma là tối thượng, và trong chính
Ngài bản thể biểu lộ được biểu hiện. Ngài tạo ra điều này với cùng ư nghĩa như
là ư nghĩa, trong đó trạng thái thứ hai (trạng thái Vishnu hay trạng thái Rồng
Minh Triết) là toàn bộ của cuộc sống trong Thái dương hệ thứ hai này. Các tế bào
trong cơ thể của các Ngài được làm bằng các đơn vị tiến hoá của nhân loại và
thiên thần, theo cùng cách thức (chỉ trên ṿng xoắn cao) như các thể của con
người, được làm bằng các sinh vật sống, các tế bào sinh động khác nhau hay là
các sự sống thứ yếu. Đây là một sự kiện cơ bản trong huyền linh học, và sự liên
quan giữa các tế bào trong các hiện thể con người, với các tế bào trong cơ thể
của một Hành Tinh Thượng Đế, sẽ trở nên sáng tỏ nếu được khảo sát kỹ càng. Cũng
như con người có một nguồn cội tức Chân thần, và một hiện thể bán thường tồn,
tức linh hồn thể, chỉ biểu lộ xuyên qua các nguyên khí thấp của ḿnh (trong đó
nhục thân không được kể là một), cũng thế, một Hành Tinh Thượng Đế có một nguồn
cội, Chân Thần của Ngài, một thể bán thường tồn trên các cơi Chân thần của Thái
dương hệ, nhưng biểu lộ qua 3 thể thấp, thuộc cơi Niết Bàn, Bồ đề và Thượng trí
của chúng ta. Ngài không liên quan ǵ đến cơi cảm dục và hồng trần, giống như
con người có liên quan với cơi 1 Các Con của Trí Tuệ (Sons of Mind) được biết
bằng nhiều tên khác nhau như : Manasaputras, các Prajapatis, các Kumaras, 7 Đấng
Nguyên Thuỷ, các Rudras, các Hành Tinh Thượng Đế, các Rishis, các Tinh Quân
trước Thiên toà. 271
336. 336 trần đâu. Con người mang lại sinh lực cho thể xác
bằng sức mạnh hay nhiệt của ḿnh, nhưng về phương diện huyền linh y không coi
thể đó như là một nguyên khí (1). Thế nên Hành Tinh Thượng Đế ở bên ngoài đối
với hai cơi biểu lộ thấp, mặc dù Ngài đem sinh khí cho hai cơi này bằng thần lực
của Ngài. Con người nhận thức được mối liên quan của y (như là một tế bào trong
cơ thể) đối với Hành Tinh Thượng Đế chỉ khi nào y phát triển được tâm thức của
Chân ngă trên cơi riêng của nó. Nếu có thể diễn tả được như thế, các nhóm linh
hồn thể là các h́nh thức thấp nhất mà qua đó một Hành Tinh Thượng Đế biểu lộ,
cũng như thể xác là thể thấp nhất, mà qua đó con người biểu lộ, và thể này có
hàm ư là thể dĩ thái ở trong nó. Cần nên nhớ rằng các Đấng biểu lộ (manifesting
Existences) tiêu biểu cho một số cơi, và có các mức liên can sâu nhất của các
Ngài ở các mức độ khác nhau: a. Một Người có cội nguồn trên cơi Chân thần, có
điểm tập trung chính của y trên mức (level) thứ 5, tức cơi trí, nhưng đang mưu
t́m sự phát triển có ư thức đầy đủ trên 3 cơi thấp là hạ trí, cảm dục và hồng
trần. b. Một Hành Tinh Thượng Đế có nguồn cội của Ngài bên ngoài Thái dương hệ
(giống như con người ở ngoài 3 cơi nỗ lực của y) có điểm tập trung chính của
Ngài trên cơi thứ hai của Thái dương hệ, cơi Chân Thần, và đang t́m kiếm tâm
thức trên các cơi của Triad, điều này có liên hệ với mọi tế bào trong cơ thể
Ngài. Ngài phát triển tâm thức trên 3 cơi thấp của 3 thế giới (worlds) trong
Thái dương hệ thứ nhất, lại có liên hệ đến các tế bào trong cơ thể Ngài. Con
người đang lặp 1 Nguyên khí (Principle) là các cách thức để biểu lộ sự sống.
(Trích “Minh Triết Ngh́n Xưa” trang 89). 272
337. Các câu hỏi dẫn nhập 337 lại nỗ lực của Ngài cho đến cuộc điểm đạo thứ 5,
cuộc điểm đạo này sẽ đem lại cho y một tŕnh độ tâm thức, do một Hành Tinh
Thượng Đế đạt được trong một kỳ đại khai nguyên trước đây rất lâu. Liên quan với
các cuộc điểm đạo, điều này nên được thận trọng ghi nhớ. a. Một Thái Dương
Thượng Đế có nguồn cội của Ngài trên một mức độ vũ trụ c̣n cao hơn nữa, Ngài có
điểm tập trung chính trên cơi trí vũ trụ, nhưng chính Ngài tự biểu lộ qua ba cơi
vũ trụ thấp hơn, cũng như con người đang mưu t́m sự biểu lộ chính ḿnh trong ba
cơi thấp. Do đó, 7 cơi chính của Thái dương hệ có cùng mối liên quan đối với
Ngài về phương diện vũ trụ, như là cơi trần có liên hệ đối với con người. Chúng
hợp thành các thể dĩ thái và thể trọng trược của Ngài. Có thể nói rằng: 1. Ngài
đem lại sinh lực cho chúng bằng sự sống và sức nóng của Ngài. 2. Ngài làm linh
hoạt chúng. 3. Ngài có ư thức đầy đủ qua chúng. 4. Thể dĩ thái là nguyên khí
thấp nhất của Ngài trong thời gian, nhưng thể hồng trần trọng trược không được
kể đến. Thể hồng trần trọng trược vũ trụ, được tạo bằng chất liệu của ba cơi
thấp của Thái dương hệ là cơi hạ trí, cảm dục và cơi trần. Tất nhiên cơi Bồ đề
là cơi dĩ thái thứ tư của vũ trụ. d. Các Hành Tinh Thượng Đế hợp thành 7 trung
tâm lực trong cơ thể của Thái Dương Thượng Đế. Do đó, các Ngài là các quả cầu
lửa đang làm linh hoạt cơ thể Thượng Đế, và mỗi một trong các Hành Tinh Thượng
Đế, biểu hiện một h́nh thức của mănh lực biểu lộ của Thượng Đế, tuỳ theo vị trí
của các Hành Tinh Thượng Đế trong cơ thể.
338. 338 e. Con người, khi được tập trung trong các nhóm
của họ trên cơi thượng trí, sẽ hợp thành một trong bảy trung tâm lực trong cơ
thể của một Hành Tinh Thượng Đế. f. Thái Dương Thượng Đế hợp thành một trung tâm
lực trong cơ thể của một Thực Thể Thông Linh vũ trụ c̣n vĩ đại hơn. Do đó, con
người thuộc vào 1 trong 49 trung tâm lực (không phải các nhóm, v́ một trung tâm
có thể được hợp thành bằng nhiều nhóm, tương ứng với các phần khác nhau) của 7
Hành Tinh Thượng Đế. Một Hành Tinh Thượng Đế với 7 trung tâm lực của Ngài, tạo
thành một trung tâm lực trong cơ thể của Thái Dương Thượng Đế. Ở đây, tôi cần
nêu ra cho các bạn rơ sự liên hệ chặt chẽ hiện có giữa 7 Đấng Rishis của cḥm
sao Đại Hùng với 7 Hành Tinh Thượng Đế. 7 Đấng Rishis của Đại Hùng Tinh đối với
các Hành Tinh Thượng Đế cũng như là Chân Thần đối với con người đang tiến hoá.
VII.. TẠI SSAO DDIỄỄN TR̀NH TIẾN HOÁ LẠI THEEO CHU KKỲỲ?? Câu hỏi này là câu tất nhiên sẽ làm chúng ta kinh ngạc sửng sốt.
Do đó, chúng ta hăy bàn về câu hỏi trên như sau: một số ư kiến có liên quan đến
ư tưởng về sự tiến hoá có chu kỳ, chúng ta nên suy gẫm kỹ về các ư tưởng này. 1.
Ư tưởng về sự lặp lại: Sự lặp lại này có liên quan đến các yếu tố sau: a. Lặp
lại trong thời gian: Ư tưởng về sự hoạt động theo chu kỳ cần phải có các kỳ gian
dài ngắn khác nhau – các chu kỳ lớn hoặc nhỏ - nhưng (tuỳ theo độ dài của chúng)
với mức độ đồng nhất. Một manvantara, hay Ngày của Brahma, luôn luôn có độ dài
nhất định và một mahamanvantara) cũng thế. Các chu kỳ trong đó nguyên tử của bất
cứ cơi nào xoay quanh trên trục của nó đều đồng nhất trên cơi riêng của nó. 273
339. Các câu hỏi dẫn nhập 339 b. Lặp lại trong sự kiện: điều này kéo theo ư
tưởng về mức chủ đạo, hay âm thanh của bất cứ nhóm nguyên tử đặc biệt nào, đi
vào thành phần của bất cứ h́nh hài đặc thù nào. Nhóm các nguyên tử này sẽ có
khuynh hướng tạo nên một loạt trường hợp đặc thù, và sẽ lặp lại mức độ hay âm
thanh, khi một yếu tố làm linh hoạt được kèm theo chúng. Khi mănh lực làm sinh
động được xúc tiếp ở các giai đoạn ấn định đối với một nhóm nguyên tử nào đó,
mănh lực đó sẽ gợi ra từ các nguyên tử đó một âm thanh đặc thù vốn sẽ biểu lộ ra
bên ngoài như các trường hợp xung quanh. Nói cách khác, sự tương tác giữa Ngă và
phi ngă, bao giờ cũng có bản chất tuần hoàn. Tính chất tương đồng trong âm điệu
(tone) sẽ được Bản Ngă phát huy khi nó ẩn trong h́nh hài, nhưng chủ âm sẽ dần
dần tăng lên. Đó là điểm tương đồng đối với các hậu quả tạo ra, khi ḍ đúng cùng
chủ âm trong các bát độ khác nhau, bắt đầu từ căn bản. c. Tái diễn trong không
gian quan niệm này có liên hệ sâu xa với quan niệm chính yếu về nghiệp quả, đó
thực sự là định luật chi phối vật chất của Thái dương hệ, và đă khởi đầu công
việc của nó trong các Thái dương hệ trước. Do đó, chúng ta có các chu kỳ theo
thứ bậc và sự tái diễn theo một ṿng xoắn ốc bao giờ cũng đi lên, theo định luật
rơ ràng. Như vậy, các ư tưởng được truyền đạt có thể được diễn tả như sau: a.
Thái dương hệ lặp lại hoạt động của nó ……………. Lặp lại trong Không Gian. b. Một
dăy hành tinh lặp lại hoạt động của nó …… Lặp lại trong Thời Gian. c. Sự vang
dội liên tục không dứt của một nốt của cơi, của một nốt thuộc 274
340. 340 cơi phụ và của tất cả những ǵ được đưa vào biểu
lộ bởi nốt đó …Lặp lại của cơi. d. Khuynh hướng của các nguyên tử để kéo dài măi
măi hoạt động của chúng và như thế tạo ra sự tương đồng về trường hợp, về môi
trường và về hiện thể …. Sự lặp lại h́nh thể. Khi chúng ta đưa các ư tưởng này
lên đến mọi cơi trong Thái dương hệ, và từ đó đến các cơi vũ trụ, chúng ta mở ra
cho chính chúng ta một qui mô vô cùng lớn. 2. Lặp lại hành động theo chu kỳ được
chế ngự bởi 2 Định Luật : Có lẽ sẽ chính xác hơn khi nói rằng điều đó được chế
ngự bởi một định luật, định luật nguyên thuỷ và bổ sung. Điều này đưa đến hai
loại chu kỳ tổng quát, và có liên hệ đến chính bản chất của Ngă và phi ngă. Sự
tương tác của cả hai do sự trợ giúp của thể trí, tạo ra điều mà chúng ta gọi là
hoàn cảnh hay môi trường. Định luật tổng quát vốn tạo ra hiệu quả theo chu kỳ là
Định Luật Hút và Đẩy, trong đó định luật bổ sung là định luật Chu kỳ và định
luật Tái Sinh. Sự tiến hoá theo chu kỳ, hoàn toàn là kết quả hoạt động của vật
chất, và của Ư Chí hay Tinh thần. Điều đó được tạo ra bởi sự tương tác của vật
chất linh hoạt và Tinh thần un đúc. Mỗi h́nh hài đều ẩn giấu một sự sống. Mọi sự
sống thường xuyên vươn tới sự sống tương tự tiềm tàng trong các h́nh hài khác.
Khi Tinh thần và vật chất ngân cùng một nốt, sự tiến hoá sẽ kết thúc. Khi nốt
được ngân lên bởi h́nh hài mạnh hơn nốt của Tinh thần, chúng ta có sự thu hút
giữa các h́nh hài. Khi nốt được ngân lên bởi Tinh thần mạnh hơn nốt của vật chất
và h́nh hài, chúng ta có 275
341. Các câu hỏi dẫn nhập 341 Tinh thần đang đẩy lui h́nh hài. Nơi đây, chúng ta
có cơ sở cho chiến trường của sự sống và vô số các giai đoạn trung gian của nó;
có thể được diễn tả như sau : a. Giai đoạn thống ngự của nốt h́nh hài là giai
đoạn tiến hoá hướng hạ. b. Giai đoạn mà Tinh thần xua được h́nh hài là giai đoạn
của chiến trường của 3 cơi thấp. c. Giai đoạn thu hút giữa Tinh thần và Tinh
thần, cùng là việc triệt thoái sau đó ra khỏi h́nh hài là giai đoạn của Thánh
Đạo. d. Giai đoạn chế ngự của nốt Tinh thần, là giai đoạn của các cơi cao trên
đường tiến hoá thăng thượng. Sự đồng bộ của các nốt hay là sự thiếu đồng bộ, có
thể qui vào tất cả những ǵ xảy ra trong các chu kỳ thế gian. Như vậy, chúng ta
tạo ra sự hài hoà; trước tiên, nốt căn bản của vật chất, kế đến nốt của Tinh
thần dần dần vượt qua nốt thấp, và thu hút sự chú ư cho đến khi dần dần nốt của
Tinh thần áp đảo tất cả các nốt khác. Tuy nhiên, nên ghi nhớ rằng đó là nốt của
sự sống đang giữ cho h́nh hài chung lại với nhau. Thí dụ, nốt của Thái dương,
duy tŕ đúng sức thu hút các bầu đang xoay quanh, tức là các hành tinh. Các nốt
đồng bộ và hài hoà cho đến khi giai đoạn thích hợp được đạt đến, và giai đoạn
không có ư thức (abstraction). Sự tiến hoá theo chu kỳ tiếp diễn. Tương tự thế,
con người (bằng nốt của y) nắm giữ các nguyên tử của 3 thể chung lại với nhau,
đối với chúng như là mặt trời trung ương đối với các hành tinh. Tuy nhiên, trước
tiên có thể thừa nhận rằng định luật hút là minh chứng của các quyền năng Tinh
Thần, trong khi định luật Đẩy chi phối h́nh hài. Tinh Thần thu hút Tinh Thần
suốt đại chu kỳ. Trong các chu kỳ nhỏ, Tinh Thần tạm thời thu hút vật chất. 276
342. 342 Khuynh hướng của Tinh Thần là hoà nhập và hài ḥa
với Tinh Thần. H́nh hài xua đẩy h́nh hài, và như thế đem đến sự phân ly. Nhưng –
trong chu kỳ tiến hoá lớn – khi yếu tố thứ ba là trí tuệ nhập cuộc, và khi điểm
cân bằng là mục tiêu, sự biểu hiện theo chu kỳ của sự tương tác giữa Tinh Thần
và sắc tướng được nhận thấy, và kết quả là các chu kỳ được an bài của các hành
tinh, của con người và của nguyên tử. Thế nên, nhờ sự lặp lại tâm thức được phát
triển và năng lực đáp ứng được gợi ra. Khi năng lực này có bản chất mà nó trở
thành một phần cố hữu của vốn liếng hữu hiệu của Thực Thể Thông Linh, điều đó
phải diễn ra trên mọi cơi, và lần nữa, tác động có chu kỳ là định luật, và do đó
sự tái sinh trở đi trở lại là phương pháp thực hành. Khi quan năng hiểu biết có
sẵn của mỗi đơn vị tâm thức, trở nên phối kết dưới h́nh thức vận cụ của Thượng
Đế trên mỗi cơi của Thái dương hệ, lúc bấy giờ và chỉ lúc bấy giờ sự tiến hoá
theo chu kỳ sẽ chấm dứt, chuyển động quay trên mỗi cơi của cơi hồng trần vũ trụ
trở thành một rung động đồng nhất, đến nỗi tạo ra được tác động trên cơi vũ trụ
kế tiếp, cơi cảm dục vũ trụ. 3. Quan niệm thứ ba có liên quan là những ǵ thuộc
về hai loại chu kỳ. 1. Sự xoay trên trục: điều này phải được nhận thấy, dù là
chúng ta đang bàn đến một nguyên tử rất nhỏ của vật chất, bàn đến một hành tinh
đang xoay trên trục của nó, hoặc bàn đến sự xoay của linh hồn thể, hay là sự
xoay của một Thái dương hệ. a. Liên hệ đến con người, điều này có thể được xem
như sự xoay của các lớp vỏ khác nhau, chung quanh tâm thức trung ương trong bất
cứ lần luân hồi nào. 277
343. Các câu hỏi dẫn nhập 343 b. Liên hệ đến một Hành Tinh Thượng Đế, điều đó có
thể được xem như sự quay của một bầu hành tinh trong một dăy hay là giai đoạn
của một lần luân hồi. c. Liên hệ đến một Thái Dương Thượng Đế, điều đó có thể
được xem như sự quay hoàn hảo của Mặt Trời trong không gian, với tất cả những ǵ
bao gồm bên trong ṿng giới hạn. 2. Sự quay quanh một quỹ đạo. Đây là sự quay
của một bầu Sự sống, không những chỉ trên trục của nó mà c̣n suốt dọc đường đi
gần h́nh cầu, hay quỹ đạo chung quanh một tâm điểm. a. Liên hệ với con người,
điều này có thể được xem như sự quay của ṿng sinh tử luân hồi, hay đoạn đường
của một thực thể qua ba cơi thấp đi vào luân hồi và trở lại. b. Liên quan với
một Hành Tinh Thượng Đế điều đó có thể được xem như chu kỳ mà chúng ta gọi là
cuộc tuần hoàn trong đó sự sống của một Hành Tinh Thượng Đế chu lưu khắp cả 7
bầu hành tinh. c. Liên quan với Thái Dương Thượng Đế đó là sự quay hoàn hảo của
Thái dương hệ, quanh trung tâm vũ trụ của nó. Ở điểm này cần chú ư rằng, ư tưởng
được bàn đến có liên quan với chu kỳ tiến hoá không thể tách ra khỏi ư niệm về
tâm thức. Các ư tưởng về thời gian, không gian và về hoạt động (theo quan điểm
nhà huyền linh học), chỉ có thể được nhận thức như là tương đối với một số thực
thể có ư thức, đối với một số Chủ Thể Suy Tưởng. Thời gian đối với nhà huyền
linh học là loại chu kỳ, dù lớn hay nhỏ, trong đó một sự sống nào đó, trải qua
đoạn đường riêng biệt nào đó, trong ấy một giai đoạn đặc biệt nào 278
344. 344 đó bắt đầu, tiếp tục và chấm dứt, liên quan đến sự
nhận thức của một Thực Thể nào đó chỉ được nhận thức theo thời gian, khi mà kiếp
sống tham gia đă đạt đến một tŕnh độ nhận thức đáng kể. Thời gian được xác định
như là một sự kế tục các trạng thái ư thức (1) và do đó có thể được khảo cứu
theo quan điểm của : 1 GLBN viết : 1. Trong thực tế vũ trụ chỉ là một tập hợp
khổng lồ các trạng thái tâm thức GLBN I, 633 , I, 70, 626. 2. Tinh thần và tâm
thức là các danh từ đồng nghĩa I, 43, 125 3. Mọi nguyên tử trong vũ trụ đều được
phú cho tâm thức. I, 105, I, 709. 4. Sáu loại tâm thức như được biểu hiện trong
giới thiên nhiên trên 5 cơi tiến hoá nhân loại I, 125, I 678. a. Giới khoáng
chất 1. Hoạt động thông tuệ, Mọi nguyên tử đều có khả năng chọn lọc, phân biện
một cách sáng suốt dưới Định luật Hút và Đẩy. GLBN I, 295 b. Giới thực vật 2.
Hoạt động thông tuệ cộng với cảm giác hay nhận thức phôi thai. c. Giới động vật
3 Hoạt động thông tuệ, cảm giác cộng với bản năng hay tính chất trí tuệ c̣n phôi
thai . GLBN II, 573 3 điểm này tượng trưng cho tâm thức dưới nhân loại. d. Tâm
thức nhân loại 4. Hoạt động thông tuệ, bác ái hay cảm giác hoàn hảo hay nhận
thức và ư chí, hay mục đích sáng suốt. 3 trạng thái. GLBN I, 215, 231,
I, 552,
II, 579. Đây là Ngă Thức – trung điểm - GLBN I, 297. e. Tâm thức Tinh thần 5.
Nhận thức của tuệ giác thể. Đơn vị nhận ra nhóm của ḿnh. Đơn vị tách biệt đồng
nhất hoá chính nó với cung hay loại của nó.
345. Các câu hỏi dẫn nhập 345 a. Thượng Đế thức (Logoic consciousness) hay là
các trạng thái kế tiếp, của sự nhận thức thiêng liêng trong phạm vi thái dương.
b. Hành tinh thức (Planetary consciousness) hay tâm thức của một Hành Tinh
Thượng Đế, khi Ngài tiếp tục chu kỳ suốt cả hệ thống. c. Chân ngă thức : hay sự
mở rộng kế tiếp đối với nhận thức sáng suốt của một người từ kiếp sống này đến
kiếp sống khác. d. Nhân loại thức : hay sự nhận thức của con người trên cơi
trần, và tiếp theo trên cơi cảm dục và cơi trí. e. Ư thức động vật, thực vật và
khoáng chất. Khác với ư thức nhân loại trong nhiều chi tiết, trước tiên trong
những ǵ nó không phối hợp hay suy diễn, và nhận ra chủ thể riêng rẽ. Nó tương
tự với nhân loại thức ở chỗ nó bao hàm sự đáp ứng với các tiếp xúc nối tiếp của
các đơn vị, bao gồm trong các chu kỳ nhỏ của chúng. f. Nguyên tử thức. Biểu lộ
qua các trạng thái kế tiếp của lực đẩy và lực hút. Trong định nghĩa cuối cùng
này có tàng ẩn ch́a khoá cho các trạng thái tâm thức khác. II, 572. I, 183,
623. f. Linh thức 6: Ư thức của đơn vị của Thái dương hệ thất phân. GLBN
I,
673, 741. Cả hai ư thức này tượng trưng cho siêu thức. Loại thứ 7 bao hàm tất cả
các thức và là Thượng Đế thức (God Consciousness). GLBN
I, 740 chú thích. Cũng
nên xem GLBN I, 300, 301, 183, 221, 623. I, 32 chú thích, 741, 552 chú thích.
GLBN II, 573, 574, 558, 557, 584.
346. 346 Một nguyên tử xoay trên trục của nó (tạm gọi là A
– ND). Trong khi xoay, nguyên tử A tiến vào lănh vực hoạt động của các nguyên tử
khác (tạm gọi là B. ND). Lúc đó nguyên tử A hoặc là thu hút và xoay chuyển
trường hoạt động riêng của nó, hoặc nó đẩy và hướng các nguyên tử B ra bên ngoài
phạm vi hoạt động của nó, gây nên sự phân ly. Một điều cần phải ghi nhớ về sự
thu hút lẫn nhau này, là sự duy tŕ tính đồng nhất trong sự cố kết. Một con
người trong khi biểu lộ ra bên ngoài, cũng xoay trên chính trục của ḿnh hay là
quanh trung điểm của ḿnh, động cơ chính của sự sinh động của con người; điều
này đưa y vào trong phạm vi hoạt động của những người khác; những nguyên tử nhân
loại khác. Sự tương đồng này hoặc là có khuynh hướng đưa đến sự hợp tác hay cố
kết, hoặc là đưa đến sự phân ly hay đẩy ra xa. Lần nữa cần phải nhớ rằng, ngay
đến sự đồng nhất trong việc kết hợp cũng được duy tŕ. Một Hành Tinh Thượng Đế.
Qua h́nh hài của một dăy hành tinh, cũng xoay trên trục của Ngài và một hiện
tượng giống như thế có thể quan sát được. Một hành tinh đẩy một hành tinh có
mang điện giống nó, v́ đó là định luật đă được biết rơ; đó là các hạt giống nhau
đẩy lẫn nhau, nhưng về mặt huyền linh, đó là một định luật đă được biết rơ, đó
là sau rốt chúng sẽ hút lẫn nhau khi mức rung động trở nên đủ mạnh. Một hành
tinh âm sẽ bị hút bởi một hành tinh dương và cứ thế tiếp diễn xuyên qua mọi h́nh
hài. Đây là sự biểu lộ giới tính trong chất liệu nguyên thuỷ của mọi loài, từ
nguyên tử rất nhỏ trong cơ thể đến dăy hành tinh bao la, và đây là nền tảng của
hoạt động. Hoạt động phát xạ chỉ đơn thuần là sự tương tác giữa dương và âm, và
điều này có thể nhận thấy được trong nguyên tử vật chất của nhà khoa học, giữa
người 280
347. Các câu hỏi dẫn nhập 347 nam và người nữ và trong nguyên tử lớn hơn của
Thái dương hệ trong khi Thái dương hệ rung động với đối cực vũ trụ của nó. Do
đó, chúng ta có thể xem thời gian như là diễn tiến của hoạt động hay là tiến bộ
trong sự phát triển, trong đó tâm thức bên trong đang t́m đối cực của nó và đi
vào dưới định luật hút, định luật này đưa đến sự phối hợp chặt chẽ của nguyên
tử, của nhân loại, của hành tinh, của tinh thần, của thái dương và của vũ trụ. Ư
tưởng này tương đối đơn giản có liên quan đến con người và có thể được thấy lộ
ra hằng ngày, trong sự tiếp xúc của con người với người khác; thí dụ, các tiếp
xúc này bị chế ngự rất lớn do sự thương và ghét của con người. Tất cả các lực
hút và lực đẩy này đều tuân theo thiên luật và nguyên nhân của chúng tồn tại
trong chính h́nh hài. Xúc cảm về thương hoặc ghét không ǵ khác hơn là sự nhận
thức của thực thể hữu thức, về sự thay đổi đột ngột phạm vi thu hút của một dạng
nguyên tử mà y được dẫn đến, bởi chính định luật về bản thể của chính y, đối với
sự hút hoặc đẩy. Chỉ khi nào h́nh hài được siêu việt và Tinh thần t́m thấy Tinh
thần, hiện tượng đẩy sẽ chấm dứt. Đây sẽ là kết thúc không thể tránh được vào
lúc chấm dứt cơ tiến hoá thái dương, và điều đó sẽ đưa đến kỳ qui nguyên
(pralaya). Kỳ gian định trước của sự tương tác, giai đoạn t́m kiếm Tinh thần cho
Tinh thần và diễn tŕnh rung động cần thiết do việc vận dụng h́nh hài, điều mà
chúng ta gọi là Thời gian, dù là có liên hệ đến một người, một Hành Tinh Thượng
Đế, hoặc Thái Dương Thượng Đế. Mặt khác, không gian được bao gồm trong ư niệm về
tâm thức và việc vận dụng vật chất của không gian đó. Đối với Thái Dương Thượng
Đế, không gian theo nghĩa đen là h́nh 281
348. 348 thái (the form), mà trong đó các hoạt động hữu
thức của Ngài và thiên ư của Ngài, được hoàn thành - tức ṿng giới hạn thái
dương. Không gian mà trong đó một Hành Tinh Thượng Đế thể hiện thiên cơ của
Ngài, tương tự như hầu hết các không gian thái dương khi tâm thức của Ngài đủ
phát triển để vận dụng. Con người lại lặp lại diễn tŕnh và ṿng giới hạn của y
được bao hàm trong phạm vi tâm thức của y, và rất có thể được giới hạn như trong
trường hợp của người kém tiến hoá, hay là có thể bao gồm một phần không gian
hành tinh rất rộng lớn, và ngay cả trong trường hợp của kẻ tiến hoá rất cao có
thể bắt đầu tiếp xúc đến ngoại biên của vùng ảnh hưởng của Hành Tinh Thượng Đế,
mà trong cơ thể Ngài, y là một tế bào. Đối với nguyên tử (thí dụ nguyên tử trong
thể xác con người), không gian sẽ là phạm vi của h́nh thể, mà trong ấy người ta
thấy được trung tâm lớn hơn của tâm thức mà h́nh thể đó là một phần, và không
gian sẽ bị hút cũng như bị đẩy – hút và kiến tạo thành h́nh hài của Sự Sống vĩ
đại hơn, c̣n đẩy và bằng cách đó, ngăn ngừa khỏi sự xê dịch ra khỏi một điểm nào
đó trong h́nh thể đó. Ở đây, chúng ta nên bàn một chút về thời gian và không
gian trong mối liên quan của chúng đối với một trung tâm tâm thức đặc biệt;
chúng ta đă thấy rằng chúng đơn thuần là các h́nh thức của các ư tưởng để biểu
lộ hoạt động theo chu kỳ của một thực thể. Vấn đề quá trừu tượng, do bởi tŕnh
độ thấp của trí tuệ con người, mà cho đến nay, v́ quá bận tâm đến khía cạnh
khách quan hay vật chất của biểu lộ, mà sự thu hút hiện đang có giữa Tinh Thần
với Tinh Thần, ít hay nhiều vẫn là một khái niệm. Khi có nhiều người hơn nữa
trong gia đ́nh nhân loại có trung tâm ư thức trong Chân ngă và do đó bận 282
349. Các câu hỏi dẫn nhập 349 rộn với công việc loại trừ vật chất, và bận tâm
với sự triệt thoái của Tinh Thần ra khỏi h́nh hài, chỉ lúc bấy giờ, tiến tŕnh
biến đổi sẽ được hiểu rơ, chỉ bấy giờ, thời gian (như được biết trong ba cơi
thấp) mới bị vượt qua, và chỉ bấy giờ, không gian (như đă biểu lộ với con người
qua 3 cơi thấp hay 18 cơi phụ) mới bị coi như là một chướng ngại. Cùng một phát
biểu này có thể được khẳng định là đúng với 7 Thượng Đế và với Thái Dương Thượng
Đế, nới rộng ư tưởng đến các cơi khác, thuộc thái dương và vũ trụ. Cũng có thể
thu hẹp xuống đến các sinh linh dưới nhân loại, và đến các sinh linh giáng hạ
tiến hoá, luôn luôn nhớ rằng khi tâm thức càng bị giam hăm và hạn chế, do việc
thiếu đáp ứng và giới hạn của bức xạ, sẽ xảy ra sự tŕ độn (inertia). Bằng cách
xem xét kỹ càng biểu đồ số V, hiển nhiên là vấn đề Thượng Đế tàng ẩn trong đó,
và nơi nào có sự chính xác về sự tương ứng giữa Ngài và phản ảnh của Ngài là con
người. Thứ 1. Cả hai ở trong trạng thái biểu lộ ngoại tại trên cơi hồng trần.
Thứ 2. Cả hai đều ở vào điểm giáng hạ tiến hoá sâu nhứt. Thứ 3. Cả hai đều bị
hạn chế bởi vật chất và đang phát triển tâm thức (chân ngă thức) trên cơi trần –
con người trên cơi trần thuộc Thái dương hệ, c̣n Thượng Đế trên cơi hồng trần vũ
trụ. Thứ 4. Con người phải đưa vào sự kiểm soát hữu thức đầy đủ, Thượng Đế nội
tâm. Qua sự kiểm soát đó, y phải chế ngự hoàn cảnh, tạo cho môi trường chung
quanh ḿnh trở thành vận cụ và chất liệu sử dụng cho y. Trên các cơi vũ trụ
Thượng Đế cũng hành động giống như thế. Cả hai đều c̣n xa điểm thành đạt.
350. 350 Thứ 5. Cả hai tác động trong, với và bởi sức mạnh
của điện. Thứ 6. Cả hai đều ở dưới các định luật chế ngự sắc tướng, và do đó cả
hai được kiểm soát trong thời gian và không gian, bởi karma vốn là Định Luật về
sắc tướng. Định Luật đó có liên quan với tính chất, trong khi mănh lực có liên
quan với sự rung động. Thứ 7. Cả hai tác động qua các h́nh hài được làm bằng :
a. Ba loại h́nh thức chính: Một h́nh thức trí tuệ, trạng thái biểu lộ thứ nhất;
một h́nh thức cảm dục, trạng thái thứ hai và h́nh thức xác thân, trạng thái thứ
ba. Rung động trí tuệ tạo nên phạm vi then chốt, cùng là t́m cách sử dụng và
phối kết thể xác bằng ư chí. Nó liên quan đến hay là liên kết tâm thức vào ba
dạng thức theo một phương hướng duy nhất; nó đẩy lùi và tạo nên sự phân ly theo
hướng khác. Rung động cảm dục liên quan đến tính chất, đến phạm vi thu hút. Đó
là yếu tố tâm linh. Xác thân là nơi hội nhập của ư thức với h́nh hài vật chất.
Cái sau cùng này là kết quả được tạo ra, bởi sự kết hợp của nhịp điệu then chốt
và tính chất của âm điệu (tone). b. 7 trung tâm lực duy tŕ ba h́nh thức trong
một tổng thể cố kết duy nhất, và tạo nên sức sống và sự phối kết của chúng.
Chúng đặt đơn vị tam phân vào mối liên hệ với trung tâm tâm thức chính yếu của
chúng trên các cơi cao, dù cho trung tâm đó là linh hồn thể của con người, của
một Hành Tinh Thượng Đế hay của một Thái Dương Thượng Đế. c. Hàng triệu tế bào
vô cùng nhỏ, mỗi tế bào biểu hiện cho một sự sống thứ yếu, mỗi tế bào ở t́nh
trạng hoạt động thường xuyên, và mỗi tế bào đẩy các tế bào khác để duy tŕ ngă
tính (individuality) hay đồng nhất tính, tuy nhiên, mỗi tế 283
351. Các câu hỏi dẫn nhập 351 bào thu hút tế bào khác bằng lực hút ở tâm. Như
thế, chúng ta tạo ra h́nh hài biểu lộ của một tinh thể, một thực vật, một động
vật, một con người, một hành tinh, một hệ thống. Do đó, sau cùng cả hai tác động
song đôi nhau, và mỗi tế bào đều có cả lực hút lẫn lực đẩy. Sức hút của vật chất
vào Tinh Thần và việc kiến tạo h́nh hài để cho Tinh Thần sử dụng, là kết quả của
điện năng trong vũ trụ, mà trong mỗi trường hợp đưa các sự sống thứ yếu hay các
khối cầu vào phạm vi ảnh hưởng của nó. Lực hút, tức sự sống của Thượng Đế qui tụ
vào thể biểu lộ của Ngài. Từ lực của Hành Tinh Thượng Đế qui tụ ngoài ṿng giới
hạn thái dương, những ǵ mà Ngài cần cho mỗi cuộc lâm phàm. Từ lực của Chân ngă,
vào mỗi lúc tái sinh, gom góp chất liệu trong lănh vực riêng biệt hay hệ thống
trong đó Chân ngă chiếm chỗ. Cứ tiếp tục đi xuống, chúng ta thấy cái nhỏ lúc nào
cũng theo đuổi cuộc tuần hoàn của nó trong cái lớn hơn. Do đó, chúng ta có
(trong giai đoạn hút và đẩy, hay là một chu kỳ sự sống) những ǵ mà chúng ta gọi
là thời gian và không gian; và điều này cùng chứa đựng sự thật như nhau trong
chu kỳ sinh hoạt của một Thượng Đế hoặc một con kiến, hoặc một tinh thể. Có
nhiều chu kỳ hoạt động trong vật chất, do bởi ư chí có nghị lực và lúc bấy giờ
Thời gian và Không gian mới được biết đến. Có nhiều chu kỳ của phi hữu thể
(non-being) khi thời gian và không gian là hư vô và năng lượng Ư Chí đă triệt
thoái. Nhưng chúng ta đừng quên rằng điều này chỉ là tương đối, và chỉ khi nào
được xem xét theo quan điểm cuộc sống riêng biệt hay thực thể có liên quan và
giai đoạn hiểu biết đặc biệt đă đạt được. Tất cả phải được giải thích bằng các
thuật ngữ về ư thức. 284 284
352. 352 Loại chu kỳ thứ nhất hay là giai đoạn có liên quan
đến toàn bộ một ṿng quay của một bầu chung quanh trung tâm ư thức của chính nó,
đối với Thực Thể đặc biệt có liên quan (có thể là Thượng Đế hoặc con người), là
một chu kỳ thứ yếu. Loại chu kỳ thứ hai hay là giai đoạn liên quan đến sự quay
ṿng hoàn hảo của một quỹ đạo, hay là sự quay của một bầu quanh trung tâm của
những ǵ chính là một phần không thể thiếu, mà chúng ta có thể xem như một chu
kỳ lớn hơn. Loại chu kỳ thứ ba không có liên quan nhiều đến sự chuyển tiếp của
h́nh hài, qua một vị trí nào đó trong không gian mà chỉ v́ chu kỳ vốn bao gồm cả
hai chu kỳ lớn và nhỏ. Nó có liên quan đến sự đáp ứng của Đấng Cao Cả, mà đối
với Ngài, Thái Dương Thượng Đế của chúng ta chỉ là một trung tâm trong Cơ Thể
của Ngài, đối với các sự tiếp xúc được tạo ra trên trung tâm đó và trên đối cực
vũ trụ của nó. Hai trung tâm này, thí dụ Thái dương hệ chúng ta và đối cực vũ
trụ của nó, trong sự tương tác của chúng, tạo ra một chu kỳ có liên quan tới
“Đấng Vượt Trên Thượng Đế chúng ta”. Dĩ nhiên, điều này nằm ngoài sự hiểu biết
của con người, nhưng phải được bao gồm trong bảng liệt kê của chúng ta về các
chu kỳ, nếu muốn đạt được sự chính xác.
VIII.. TẠI SSAO TRI THỨỨC
((11 )) VỪỪA CÔÔNG TRUYỀỀN VỪỪA BÍ TRUYỀỀN ?? 1 Trong GLBN,
chúng ta được giảng dạy rằng có 7 nhánh tri thức được ghi nhận trong kinh
Puranas. GLBN I, 192. Các tương ứng được nhắc đến ở đây có liên hệ với : a. Bảy
cung, các Đấng Hy Sinh, Bác Ái và Tri Thức. b. 7 trạng thái tâm thức. c. 7 trạng
thái vật chất hay cơi. 285
353. Các câu hỏi dẫn nhập 353 Bây giờ chúng ta có thể đề cập đến vấn đề theo thứ
tự: “Tại sao chúng ta xem một số khía cạnh tri thức thuộc về bí truyền và một số
khía cạnh khác là công truyền ?” Câu trả lời cho điều này thực sự bao hàm trong
việc nhận thức rằng một số tri thức liên quan đến khía cạnh bên trong của sự
sống, c̣n loại tri thức khác liên quan đến khía cạnh bên ngoài; có một loại tri
thức liên hệ đến năng lượng và lực (do đó có nguy hiểm khi vội vàng tiết lộ
không đúng lúc) và một loại tri thức khác nữa có liên quan đến những ǵ thuộc về
d. 7 loại lực. e. 7 bậc điểm đạo và nhiều thất phân khác. Gnosis tức Tri Thức ẩn
tàng, là nguyên khí thứ 7, sáu trường phái triết học Ấn Độ là 6 nguyên khí. GLBN
I, 299. 6 trường phái này là: a. Trường phái Luận Lư………. Chứng cớ của tri giác
đúng. b. Trường phái nguyên tử ….. Hệ thống các đặc thù (The atomic schOl) Các
yếu tố . Luyện đan và hóa học. c. Trường phái số luận ……. Hệ thống các số.
Trường phái (The Sankhya schOl) duy vật. Lư thuyết về 7 trạng thái vật chất hay
prakriti. d. Trường phái yoga …… Hợp nhất. Qui tắc sống hằng ngày. Thần bí
thuyết. e. Trường phái nghi lễ ………. Nghi thức. Thờ phụng thiên thần hoặc tôn
giáo. Các Thần. f. Trường phái Vedanta ……... Có liên quan với phi nhị nguyên.
Bàn đến liên hệ của Atma trong con người với Thượng Đế. Phái Gnosis hay tri thức
ẩn tàng tương tự như Atma Vidya hay Minh Triết Thiêng Liêng (Theosophy) và bao
gồm 6 trường phái khác.
354. 354 năng lượng. Do đó, điều hiển nhiên là cho đến khi
có được khả năng để xác minh thông tin từ bên trong, th́ toàn bộ các sự thật nên
giữ lại bên ngoài tầm ư thức của đa số con người. Theo như chúng ta được dạy,
mục đích của tiến hóa là đạt được tâm thức trên tất cả các cơi; do việc đạt được
tiến hóa ít oi của nhân loại mà cho đến nay chỉ có cơi hồng trần, mới ở dưới sự
kiểm soát hữu thức. Tri thức (knowledge) liên quan đến cơi giới, trong khi thông
tin (information) có liên quan đến biểu hiện ngoại cảnh trọng trược nhất, toàn
thể các sự kiện có liên hệ đến năm cơi phụ thấp của cơi trần (theo quan điểm
huyền linh) đều được xem là công truyền. Trong hai giống dân kế tiếp, hai cơi
phụ khác sẽ được chế ngự và toàn thể khối tri thức liên quan đến chất hồng trần
và chất dĩ thái, đến năng lượng, h́nh hài và kinh nghiệm trên cơi trần, sẽ dễ
dàng trở nên hữu ích đối với con người, và chỉ liên quan đến năm giác quan vật
chất của con người. Thông tin và tri thức về sự sống đang tiến hóa qua các h́nh
hài, trong một thời gian khá lâu, sẽ được xem như là thuộc về nội môn
(esoteric), cũng giống như sự lĩnh hội (aPrehension) và sự thông hiểu
(comprehen -sion) về trạng thái vật chất và các định luật đang chi phối năng
lượng trên cơi cảm dục và trên cơi trí cũng thuộc loại đó. Phát biểu này có liên
hệ đến thường nhân, tức là những người thông thường trong nhân loại. Thông tin
bên ngoài hay công truyền, mà phần lớn con người thu lượm hay xác minh trong
Pḥng Học Tập, bằng ngũ quan và bằng kinh nghiệm. Thực nghiệm đúng lúc và sau
nhiều chu kỳ luân hồi được chuyển hóa thành kinh nghiệm và điều này sau rốt tạo
nên cái mà chúng ta gọi là bản năng, hay là phản ứng quen thuộc của 286
355. Các câu hỏi dẫn nhập 355 một loại tâm thức nào đó, đối với một tập hợp các
trường hợp hay hoàn cảnh. Hai yếu tố về giác quan và về sự tiếp xúc do thực
nghiệm này, có thể được thấy đang xảy ra trong giới động vật và giới nhân loại;
sự dị biệt giữa hai giới ở chỗ là con người có khả năng ghi nhớ một cách hữu
thức, lĩnh hội, tiên đoán, sử dụng các kết quả của những kinh nghiệm đă qua, và
như thế ảnh hưởng đến hiện tại cùng là chuẩn bị cho tương lai. Con người dùng bộ
óc vật chất cho mục đích này. Con vật cũng có trí nhớ do bản năng (instinctual
memory), có sự hiểu biết và khả năng tiên đoán c̣n phôi thai, nhưng, (v́ thiếu
thể trí) nó không thể điều chỉnh các kinh nghiệm đúng các trường hợp theo ư
nghĩa sắp xếp trước, và thiếu khả năng để vận dụng một cách hữu thức, và như vậy
gặt hái được lợi ích của các biến cố đă qua, và do kinh nghiệm học được cách
thức mà con người hành động. Con vật dùng bí huyệt đan điền theo cùng một cách
thức mà con người dùng bộ óc, đó là cơ quan của bản năng. Tất cả những ǵ có
được do bản năng và do việc sử dụng trí cụ thể, đang tác động qua bộ óc vật chất
và có thể được xem như có liên hệ đến điều mà chúng ta gọi là công truyền. Như
thế, hiển nhiên là tầm mức của sự kiện sẽ khác nhau tùy theo: a. Tuổi của linh
hồn. b. Kinh nghiệm đă được phát triển và đă được vận dụng. c. T́nh trạng của
năo bộ và của thể xác. d. Hoàn cảnh và môi trường. Theo thời gian qua và con
người đạt đến trạng thái tiến hóa khả quan, trí phát triển nhanh hơn và một yếu
tố mới dần dần nảy sinh. Từ từ, trực giác hay trí siêu việt 287
356. 356 (trancendental mind) bắt đầu tác động và sau rốt
thay thế hạ trí hay trí cụ thể. Lúc bấy giờ trực giác sử dụng bộ óc vật chất như
là một âm bản tiếp nhận, nhưng cùng lúc phát triển được một số trung tâm lực
trên đầu, và như thế chuyển di hoạt động của nó từ bộ óc vật chất, đến các trung
tâm cao hơn ở đầu, tồn tại trong chất dĩ thái. Đối với đa số nhân loại, điều này
sẽ xảy ra trong khi khai mở các cơi phụ dĩ thái trong hai giống dân sắp tới.
Việc này diễn ra song hành trong giới động vật do sự di chuyển dần dần vùng hoạt
động từ bí huyệt đan điền lên bộ óc c̣n thô sơ, và sự phát triển từ từ của nó do
sự trợ lực của manas. Khi chúng ta xem xét các điểm này, điều hiển nhiên là các
trạng thái hiểu biết huyền bí thực sự là những vùng tâm thức vẫn chưa bị chinh
phục và đưa vào tầm kiểm soát của Thực Thể thông linh nội tại (indweLing
Entity). Điểm cần được nhấn mạnh là ở chỗ khi điều này được hiểu rơ, th́ ư nghĩa
thực sự của huyền bí và huyền linh sẽ được đánh giá cao, và nỗ lực của mọi Chủ
Thể Tri Thức (Knowers) sẽ được đưa vào lănh vực tri thức của họ các đơn vị khác
vốn sẵn sàng cho sự mở rộng tâm thức tương tự. Trong ư tưởng này có hàm ẩn bí
quyết cho sự hoạt động của Thánh Đoàn. Do huyền lực của các Ngài, các Ngài thu
hút vào một số lănh vực nhận thức và nỗ lực, và do bởi sự thu hút đó và sự đáp
ứng của các nguyên tử nhân loại vốn đă sẵn sàng, hồn tập thể ở trên ṿng cung đi
lên, hay là một trung tâm đặc biệt của một Hành Tinh Thượng Đế, được phối kết.
Cùng cách đó, động vật ở một tŕnh độ nào đó, được đưa vào vùng ảnh hưởng của
các con thứ yếu của trí tuệ; tức con người, họ vốn là anh cả của động vật, cũng
như các Chân Sư Minh Triết là các Huynh Trưởng đối với nhân loại. Sự phối 288
357. Các câu hỏi dẫn nhập 357 hợp chặt chẽ và sự phân chia trách nhiệm diễn tiến
như thế đó. IXX.. CÓ SSỰ LIÊÊN HỆ G̀ GIỮỮA :: A.. 1100 Hệệ
THốốNG HÀNH TINH ?? B.. 77 HÀNH TINH THÁNH THIệệN ?? C..
77 DDăăY TRONG MộộT Hệệ THốốNG ?? dd.. 77
BầầU TRONG MộộT DDăăY ?? ee.. 77 CUộộC TUầầN HOÀN TRêêN MộộT
BầầU ??
ff.. 77 CăăN CHủủNG VÀ 77 PHụụ CHủủNG ?? Trong câu hỏi này chúng
ta có rất nhiều vấn đề phải bàn đến, và điều mà chúng ta không thể làm nhiều hơn
là nhận được ư kiến rộng răi tổng quát. Vấn đề quá bao quát và sự lĩnh hội các
điểm liên hệ rộng lớn đến nỗi chúng ta sẽ chỉ hiểu rơ nếu chúng ta giới hạn sự
chú ư của chúng ta vào một số ư niệm rộng răi tổng quát, dành lại các điểm phụ
thuộc cần được minh giải một cách chi tiết hơn ở giai đoạn sau. 1. Các phần liên
quan hỗ tương. Trước tiên, tôi muốn gợi ư rằng chúng ta chỉ xét vấn đề này ở
phần liên quan đến một Hành Tinh Thượng Đế, chúng ta bỏ qua các điều tính toán
trực tiếp của chúng ta trong việc xem xét về thành phần tế bào của cơ thể Ngài
(các đơn vị tâm thức riêng rẽ mà chúng ta gọi là thiên thần và con người) và
chúng ta xét vấn đề theo những ǵ đối với con người, quan niệm tập thể chớ không
phải cá nhân. Toàn thể đoạn giữa của Bộ Luận về các Lửa này có liên quan đến sự
phát triển tâm thức một Hành Tinh Thượng Đế và việc Ngài áp dụng các tri thức
thu lượm được (nhờ sự trợ giúp của manas hay trí) trong một Thái dương hệ trước,
so 289
358. 358 với sự hoạch đắc minh triết nhờ sự biểu hiện ra
ngoại cảnh, và so với sự chuyển hóa năng lực có được trước kia thành Bác Ái thực
dụng. Đây là công việc của Ngài mang cùng ư nghĩa mà công việc của các tế bào
trong cơ thể Ngài là phát triển nguyên khí trí tuệ. Khi nào nhờ kinh nghiệm
trong ba cơi thấp, con người thành toàn được điều này, lúc bấy giờ họ có thể -
qua các cuộc điểm đạo cuối cùng – thu lượm được một điều ǵ đó của ư niệm tập
thể, hay là nhận thức rơ rệt về vị trí và về hoạt động tiếp sinh lực bên trong
ṿng giới hạn của Hành Tinh Thượng Đế đặc thù của họ. Do đó, chúng ta có thể xem
xét các điểm sau đây: Thứ 1 : công tác của các đơn vị cấu tạo nên một Hành Tinh
Thượng Đế đặc thù. Điều này có bản chất ba mặt: a. Đạt được ư thức về sự kiểm
soát đă được nhận biết của ṿng giới hạn cá nhân riêng biệt của chúng, hay là
của riêng phạm vi hoạt động của chúng. Điều này bao hàm giai đoạn tiến hóa cho
đến lần điểm đạo thứ nhất, hay là sự tiến nhập của chúng trên Thánh Đạo (Path),
và như thế tiến vào giới Tinh thần. Điều đó liên hệ đến sự khơi hoạt tâm thức
trên ba cơi thấp. b. Đạt được tâm thức của trung tâm đặc biệt trong cơ thể của
một trong các Hành Tinh Thượng Đế - mà trung tâm đó tượng trưng cho hoạt động
tập thể của các Ngài. Điều này đưa họ tới lần điểm đạo thứ 5 và hàm chứa giai
đoạn mà trong đó tâm thức được tỉnh thức trên năm cơi tiến hóa. c. Có được tâm
thức về trung tâm lực trong cơ thể của Thượng Đế, mà bất cứ Hành Tinh Thượng Đế
đặc biệt nào cũng nằm trong đó. Điều này đưa họ đến cuộc điểm đạo thứ 7 và bao
hàm giai đoạn khơi hoạt tâm thức trên cả 7 cơi của Thái dương hệ. 290
359. Các câu hỏi dẫn nhập 359 Các sự mở rộng này được đạt đến do sự trợ giúp của
thể trí, được chuyển hóa đúng lúc thành bác ái – minh triết, đ̣i hỏi sự kiểm
soát hữu thức của toàn thể 7 cơi của Thái dương hệ hay của cơi vũ trụ thấp nhất.
Thứ 2: Công tác của các Hành Tinh Thượng Đế, các Ngài là 7 trung tâm lực trong
cơ thể của Thái Dương Thượng Đế. Công tác này lại gồm ba phần : a. Đạt đến ngă
thức đầy đủ hay là đạt đến tâm thức cá nhân trên 5 cơi; rung động với hoạt động
hữu thức trong chính ṿng giới hạn riêng của các Ngài, tức một hệ thống hành
tinh. Điều này bao gồm một giai đoạn trong hệ thống tiến hóa giáng hạ, và thuộc
về giai đoạn trong đó tŕnh độ tiến hóa bao gồm trong ba cuộc tuần hoàn đầu, cho
đến khi tiến nhập vào cuộc tuần hoàn thứ 4. b. Đạt đến tâm thức của Thái Dương
Thượng Đế mà trong cơ thể Ngài, các Hành Tinh Thượng Đế tạo thành các trung tâm
lực. Điều đó đ̣i hỏi một Hành Tinh Thượng Đế đạt đến một tập thể thức có bản
chất thất phân, hay là đạt đến liên hệ rung động chính xác với các Hành Tinh
Thượng Đế khác, các Đấng này đang hợp thành các trung tâm lực khác. Điều đó mang
theo với nó khả năng có được sự kiểm soát hữu thức đầy đủ trên 7 cơi của Thái
dương hệ, và bao hàm giai đoạn phát triển vốn được trải qua trong một dăy hành
tinh trong các cuộc tuần hoàn thứ 4, 5 và 6. Nên nhớ rằng sự nhận thức song song
nên được nêu ra ở đây, đối với sự kiện rằng Thái Dương Thượng Đế đang giữ một vị
thế tương tự trong cơ thể của một Thực Thể Thông Linh vũ trụ, cũng như một Hành
Tinh Thượng Đế đang nắm giữ trong cơ thể một Thái Dương Thượng Đế.
360. 360 c. Đạt đến tâm thức của một trung tâm lớn hơn trên
các cơi vũ trụ. Điều này bao hàm giai đoạn của cuộc tuần hoàn thứ 7, và đem đến
cho một Hành Tinh Thượng Đế (khi các cuộc tuần hoàn này được xét dưới ánh sáng
của Hiện Tại Vĩnh Cửu, chớ không theo quan điểm thời gian và không gian) tâm
thức của cơi cảm dục vũ trụ, hay là cơi thấp thứ nh́ trong các cơi vũ trụ. Môt
số lớn vấn đề được nhận thấy đang chậm chạp diễn ra vào lúc này, do bởi sự kiện
rằng sự kiểm soát của Hành Tinh Thượng Đế mà hệ thống của chúng ta là cơ thể
Ngài cho đến nay chỉ mới được một phần, và kinh nghiệm vũ trụ của Ngài cho đến
nay hăy c̣n bất toàn. Điều này hẳn nhiên là tác động vào các tế bào trong cơ thể
Ngài theo cùng một cách như việc thiếu kiểm soát thể cảm dục, trong trường hợp
con người đang có ảnh hưởng đến hiện thể của y. Ở đây có thể nêu ra rằng sự tiến
hóa của Hành Tinh Thượng Đế hăy c̣n thiếu đồng bộ, và rằng Hành Tinh Thượng Đế
của chúng ta không có được sự kiểm soát mà, chẳng hạn, Hành Tinh Thượng Đế của
dăy Kim Tinh đă đạt được. Trong mỗi cuộc tuần hoàn, có một cơi phụ của cơi cảm
dục vũ trụ được đưa vào sự kiểm soát, và tâm thức của Hành Tinh Thượng Đế mở
rộng để bao hàm thêm một cơi phụ nữa. Hành Tinh Thượng Đế của Kim tinh đă chinh
phục và kiểm soát 5 cơi phụ và đang hoạt động trên cơi phụ thứ 6. C̣n Hành Tinh
Thượng Đế của chúng ta chỉ tiến hành công tác tương tự trên cơi phụ 4 và 5. Như
trong tất cả mọi chu kỳ, công việc trùng lấp lên nhau và điều này có thể được
giải thích như sau : Ngài đang hoàn thành việc kiểm soát cơi phụ thứ 4 trên cơi
cảm dục vũ trụ, và gần hoàn thành được điều đó. Ngài 291
361. Các câu hỏi dẫn nhập 361 đang bắt đầu tác động vào sự kiểm soát cơi phụ 5 –
sự kiểm soát này sẽ được thành toàn trong cuộc tuần hoàn thứ 5. Ngài đang cảm
nhận và đáp ứng với rung động của cơi phụ thứ 6, nhưng cho đến nay vẫn chưa có
tâm thức đầy đủ trên cơi phụ đó. Chúng ta có một h́nh ảnh tương tự đối với điều
này trong căn chủng 4 và 5 trên hành tinh này, trong đó cảm dục thức của chu kỳ
thời Atlantis đang được thành toàn, nguyên khí thứ 5 đang được phát triển, c̣n
nguyên khí thứ 6 đang từ từ được cảm nhận. Điều này đáng được xem xét chu đáo
hơn. Thứ 3 : Công việc của một Thái Dương Thượng Đế lại có một bản chất tương
ứng : a. Ngài phải đạt đến tâm thức đầy đủ cho toàn thể ṿng giới hạn của Ngài
hay là cho 7 cơi của Thái dương hệ. Điều này bao hàm một giai đoạn mà trong đó 5
trong số các Hành Tinh Thượng Đế hay là 5 trong các trung tâm lực của Ngài, do
đó là 5 hệ thống tiến hóa, đạt đến một tŕnh độ đáp ứng chính xác cho việc tiếp
xúc và kích thích. b. Ngài phải đạt đến tâm thức của Vũ Trụ Thượng Đế mà bên
trong cơ thể của Đấng này, Ngài là một trung tâm. Bằng kinh nghiệm, Ngài phải
t́m ra vị trí của Ngài trong nhóm vũ trụ, mà Ngài là một thành phần trong đó,
bằng nhiều cách giống như một Hành Tinh Thượng Đế đang đeo đuổi một tiến tŕnh
tương tự. Điều này được thành toàn khi mà tất cả các Hành Tinh Thượng Đế, hay là
mỗi một trong số 7 trung tâm lực được khơi hoạt, và hoạt động một cách hữu thức
và tự do, với sự quan hệ hỗ tương giữa các hệ thống của các Ngài được hiệu chỉnh
và kiểm soát bởi Định Luật Tác Động và Phản Tác Động. Định luật này đưa vào
trong ṿng kiểm soát của Ngài không những 7 cơi phụ của cơi hồng trần 292
362. 362 vũ trụ (tức bảy cơi chính của Thái dương hệ chúng ta) mà
tất nhiên cũng có đưa vào cơi cảm dục vũ trụ nữa. c. Đạt đến tâm thức của trung
tâm trong cơ thể của Vũ Trụ Thượng Đế. Trung tâm này được tạo thành bởi phạm vi
ảnh hưởng của một Vũ Trụ Thượng Đế. Trong cơ thể của một Vũ Trụ Thượng Đế, th́
một Thái Dương Thượng Đế là một trung tâm. Chúng ta phải ghi nhớ rằng điều kể ra
trên đây được đưa ra theo quan điểm của hiện tại, và theo góc độ quan sát (tương
đối có giới hạn) của Hành Tinh Thượng Đế của hệ thống đặc biệt của chúng ta, và
do đó bị hạn chế bởi các điều kiện đặc thù của Ngài, vốn đang khống chế sự hiểu
biết của các tế bào trong cơ thể Ngài; điều đó được đưa ra theo quan điểm riêng
rẽ chớ không phải tổng hợp. Sự thu hút tổng hợp diễn ra sau rốt liên hệ đến tất
cả các Đấng cao siêu này, và mỗi Đấng trải qua một tiến tŕnh diễn ra song song
trên mức độ riêng của Ngài, mà Tiểu Thiên địa đang trải qua; trong trường hợp
Tiểu thiên địa, linh hồn thể hay thể của Chân ngă tác động như là chủ thể tổng
hợp, đối với năng lượng của Tứ hạ thề hay Phàm Ngă, và lớp vỏ Tinh thần hay thể
Chân thần với vai tṛ là kẻ tổng hợp 7 nguyên khí, như vậy tạo nên 3, 7 và 10.
BIỂU II SSỰ TIẾN HÓA TRONG VŨŨ TRỤỤ.. Thực Thể Hiện
thể Trung tâm Không gian Thời gian Tinh ṭa Thượng Đế… 7 Tinh ṭa… Vũ Trụ Th. Đế
… 5 cơi Vũ trụ Một Vũ trụ Th.Đế… 7 Thái dương hệ… Thái Dương Thượng Đế… 4 cơi vũ
trụ Một Thái Dương Thượng Đế… 7 hệ thống hành tinh… Hành Tinh Thượng Đế… 3 cơi
vũ trụ… Chu kỳ gồm 3 Thái Dương hệ 294 293
363. Các câu hỏi dẫn nhập 363 Một Hành Tinh Thượng Đế… 7 dăy hành tinh… Các vị
Chohans và các nhóm… 2 cơi vũ trụ… Chu kỳ của một Thái Dương hệ Một con người… 7
trung tâm lực dĩ thái… 1 Nguyên khí… 1 cơi vũ trụ… Chu kỳ gồm 1 hệ thống hành
tinh Để kết thúc, tôi xin nêu ra rằng thể trí phải được cẩn trọng ngăn ngừa để
không hạ tất cả mọi ư tưởng này xuống một quan niệm hoàn toàn duy vật. Phải ghi
nhớ một cách nghiêm túc rằng chúng ta đang bàn đến sự sống bên trong, chứ không
phải bàn đến h́nh hài bên ngoài và rằng chúng ta đang xem xét, chẳng hạn, sự
tổng hợp các nguyên khí hay là các năng lượng định tính chứ không phải sự tổng
hợp h́nh hài. Qua mỗi trung tâm lực dĩ thái, con người đang mang lại rung động
hoàn hảo cho một nguyên khí duy nhất, hay tính chất mà qua đó cuộc sống bên
trong có thể tự biểu lộ. Qua mỗi dăy trong một hệ thống tiến hóa, một Hành Tinh
Thượng Đế đang nỗ lực hoạt động y như thế. Qua mỗi hệ thống tiến hóa trong một
Thái Dương hệ, Thái Dương Thượng Đế cũng đang tác động như thế; mục tiêu là tính
chất tổng hợp chớ không phải trước tiên là sự hoàn thiện h́nh hài. Sự đáp ứng
của h́nh hài mang năng lượng đối với sự sống định tính là điều dĩ nhiên – theo
thiên luật – tương đương với sự đ̣i hỏi, nhưng điều này chỉ có tầm quan trọng
phụ chớ không phải là mục tiêu được nhắm vào. Chúng ta đă thấy rằng công việc
phải được hoàn thành trong tất cả mọi trường hợp trên cần phải có ba mặt : Thứ
nhất. Phát triển tâm thức cá nhân. Thứ hai. Phát triển tâm thức tập thể.
364. 364 Thứ ba. Phát triển Thượng Đế thức, đối với tâm
thức đó, trong mỗi trường hợp vốn tượng trưng cho Cội Nguồn tinh thần cao cả
nhất, và vốn được nhận thức như là tương đồng về bản chất, v́ Thượng Đế ở bên
trong cá nhân dù là con người hay Thái Dương Thượng Đế. Quan niệm này phải được
tất cả những kẻ suy tư nên suy ngẫm, và sự tổng hợp của nó cần được nhấn mạnh.
Sự liên hệ của tế bào đối với nhóm lớn, của nhóm đối với tập hợp các nhóm, và
của tất cả chúng đối với Thực Thể Thông Linh nội tại đang nắm giữ chúng trong sự
liên quan tổng hợp bằng định luật hút và đẩy rất là quan trọng. Hai ư tưởng
chính luôn luôn phải được ghi nhớ : Đó là các thuật ngữ “tế bào, nhóm hoặc tập
hợp các nhóm”; hoàn toàn có liên hệ đến h́nh tướng của hiện thể và như thế đến
khía cạnh vật chất. Đó là ư tưởng về một Thực Thể Thông Linh đang tổng hợp ra
các nhóm, và là sự sống linh hoạt của tế bào phải tác động với khía cạnh tinh
thần. Hai quan niệm này cần thiết để dẫn đến quan niệm thứ 3, quan niệm về phát
triển tâm thức, vốn đang từ từ mở rộng để hiểu được Chủ thể Nội Tâm (IndweLer)
trong h́nh hài, việc Bản ngă hiểu rơ được sự liên hệ của h́nh hài với chính nó
và về việc sử dụng và kiểm soát nó một cách từ từ. Điều này kéo dài cho đến khi
việc nhận thức đó bao hàm tế bào, nhóm và toàn thể các nhóm. Các ư tưởng này có
thể được áp dụng đối với ba bậc tâm thức liên hệ. Đó là : Con người, loại tâm
thức kết hợp thấp nhất (dùng từ “tâm thức” theo nghĩa thực của nó như là “kẻ
biết” [one who knows]) chỉ là một tế bào, một nguyên tử rất nhỏ trong một nhóm.
295
365. Các câu hỏi dẫn nhập 365 Một Hành Tinh Thượng Đế tiêu biểu cho một nhóm kết
hợp có ư thức. Một Thái Dương Thượng Đế trên cơi riêng của Ngài giữ một vị trí
tương tự như vị trí của một Hành Tinh Thượng Đế trong một Thái dương hệ, và theo
một quan điểm c̣n cao hơn nữa so với quan điểm của con người trong Thái dương
hệ. Khi vị trí của các cơi của thái dương hệ trong hệ thống vũ trụ được am hiểu
một cách đúng đắn, điều đó sẽ hiểu là trên các mức độ vũ trụ ở một đẳng cấp cao,
Thái Dương Thượng Đế là một Đấng Thông Tuệ tương đối thấp theo đẳng cấp của vũ
trụ thức, giống như con người so với tâm thức thuộc thái dương hệ vậy (solar
consciousness). Thái Dương Thượng Đế chỉ là một tế bào (ceL) trong cơ thể của
Đấng Bất Khả Tư Nghị (tức Vũ Trụ Thượng Đế - ND). Công việc của Ngài trên các
mức độ vũ trụ diễn ra song song với công việc của nhân loại, trên các cơi của
thái dương hệ. Trên ba cơi thấp của vũ trụ, Ngài phải trải qua một diễn tŕnh
phát triển sự hiểu biết về môi trường chung quanh của Ngài với cùng bản chất
giống như con người trong ba cơi thấp. Tất cả các môn sinh phải ghi nhớ sự kiện
này thuộc về đoạn giữa của đề tài chúng ta; trên hết, sự tương đồng giữa các cơi
hồng trần thuộc vũ trụ và các cơi hồng trần thuộc thái dương hệ phải được cân
nhắc. Nó nắm giữ bốn bí mật : 1. Bí mật về Akasha. 2. Bí mật về cuộc tuần hoàn
thứ 5. 3. Ư nghĩa huyền bí của Thổ tinh (Saturn), hành tinh thứ ba. 4. Bản chất
huyền bí của hỏa xà vũ trụ hay điện lực của thái dương hệ. 296
366. 366 Một gợi ư về điểm thứ 4 này có thể được đưa ra để
xem xét một cách khôn ngoan. Khi sự tương tác về điện giữa các hành tinh được
xác minh rơ ràng hơn (và do điều này, tôi muốn ám chỉ sự tương tác âm hay dương
của chúng) bấy giờ điều sẽ được tiết lộ vốn có liên quan đến và vốn ở gần điểm
thăng bằng. Tôi xin nêu ra một cách vắn tắt một số sự kiện, không dừng lại để
chi tiết hóa hoặc để minh giải thêm, mà chỉ đưa ra các phát biểu khác nhau mà –
khi kiến thức con người tăng lên – sẽ có được đúng chỗ của chúng trong hệ thống
đă ấn định. Lúc bấy giờ chúng sẽ được nhận thấy như là có tính soi sáng và tiết
lộ tŕnh tự phát triển cần thiết. 2. Công tác của các Đơn Vị Nguyên Tử : a. Bảy
Hành Tinh Thượng Đế, được xem như có liên quan đến Đấng Cao Cả mà Thái Dương
Thượng Đế là một phản ảnh của Ngài, có vai tṛ như là bảy trung tâm lực trong
thể xác con người. Điều này sẽ được hiểu rơ khi sự tương đồng giữa cơi hồng trần
vũ trụ và cơi hồng trần Thái dương hệ được nghiên cứu. b. Do đó, ba trong các
trung tâm lực này - Liên hệ đến các trung tâm lực thấp của Đấng Vũ Trụ. - Có sự
tương đồng của chúng trên các cơi chất đặc, chất lỏng và chất hơi. - Hiện nay
đang là mục tiêu chú tâm của hỏa xà vũ trụ. c. Một trong các trung tâm lực này
tương ứng với bí huyệt đan điền, và là nơi tổng hợp của 3 trung tâm lực thấp,
như thế tạo thành một bộ bốn. d. Trung tâm lực nào tương đồng với trung tâm lực
ở đáy xương sống, hay là nơi chứa hỏa xà sẽ có tính lâu dài vốn 297
367. Các câu hỏi dẫn nhập 367 không nhận thấy được trong hai trung tâm lực thấp
khác. Hành Tinh Thượng Đế biểu hiện cho nguyên khí này, và là cội nguồn của
nhiệt sinh ra đối với các Huynh Đệ của Ngài, phải được t́m kiếm bằng sự trợ lực
của trực giác. Hạ trí sẽ không hữu ích ở đây. e. Ba trung tâm lực cao hay là các
Hành Tinh Thượng Đế tương ứng với đầu, tim và cổ họng của Thái Dương Thượng Đế,
có các tương đồng dĩ thái của các Ngài trên ba phân cảnh dĩ thái cao của cơi
hồng trần vũ trụ, cũng như Hành Tinh Thượng Đế, Đấng biểu hiện cho bí huyệt đan
điền của Thượng Đế, t́m được nguồn cội biểu lộ của Ngài trên phân cảnh dĩ thái
thứ tư. f. Hành Tinh Thượng Đế này với xoáy lực dĩ thái của Ngài hay là bánh xe
lực trên chất dĩ thái vũ trụ thứ tư, trong cuộc tuần hoàn thứ tư này, là một yếu
tố sinh động trong cuộc tiến hóa hành tinh. g. Khi Hành Tinh Thượng Đế, Đấng
hiện nay đang biểu lộ qua hệ thống địa cầu, đă thành công trong việc tiếp sinh
lực cho trung tâm lực giữa của Ngài, hay là trong việc điều khiển mănh lực hỏa
xà hành tinh, tách khỏi các trung tâm lực thấp đi đến trung tâm lực đan điền,
một chu kỳ mới sẽ được đạt đến và nhiều đau khổ hiện tại sẽ chấm dứt. Công việc
của Ngài cho đến nay vẫn c̣n trong t́nh trạng phôi thai, và hơn hai rưỡi (2,5)
chu kỳ nữa phải diễn ra trước khi Ngài hoàn thành công việc cần thiết. Khi nào
điều đó được thực hiện, kết quả liên quan đến nhân loại trong việc luân hồi sẽ
có ba mặt : - Sự kích thích tính dục (sex stimulation) như hiện nay người ta
hiểu, sẽ chứng tỏ một khuynh hướng biểu lộ trong việc sáng tạo trên cơi hồng
trần không nhiều bằng trên