ISIS

VƠ TRỤ VÀ CON NGƯỜI

Tác giảNGUYỄN VĂN HUẤN và NGUYỄN THỊ HAI

1957

Đánh máy: Điểm Dung

 

 

QUYỂN HAI

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI MỐT

 

Nhánh thứ nhứt của giống dân chánh thứ năm

Dân A ri den (Aryen) 

Người Ấn Độ 60.000 năm trước Chúa Giáng Sinh

      Một thiểu số di cư, 60.000 năm (trước Chúa Giáng Sinh) sanh ra một dân tộc đông đảo bao quanh biển Gobi. Dân tộc nầy xâm chiếm các nước lân cận. Trong số đó, có xứ của người Touranien đă sát hại tổ tiên họ xưa kia. Dân ấy là tổ tiên của giống dân da trắng Aryen.

      Nhánh đầu tiên là Indo Aryen để ám chỉ những người sang qua Ấn Độ để xâm chiếm. Họ là người Ấn Độ da trắng. Những dân chánh Aryen c̣n lại nơi mé biển Gobi lần lượt cũng bỏ quê hương mà theo mấy người Indo Aryen đến Ấn Độ lập nghiệp ít lâu trước trận Đại Hồng Thủy nhận ch́m xứ Poséidonis xuống đáy biển (9.564 năm trước Chúa Giáng Sinh), họ di cư đến đó cũng là do sự dắc dẫn của Đức Bàn Cổ để tránh tai nạn.

      Từ 60.000 tới 40.000 năm trước Chúa Giáng Sinh, giống dân chánh Aryen tiến triển phi thường cho tới cực độ vào 45.000 năm trước chúa Giáng Sinh. Dân Aryen xâm chiếm Trung Hoa và Nhựt Bổn nhứt là Mông Cổ, (là nhánh thứ bảy của giống dân chánh thứ tư) và tiến lên miền Bắc và Đông. Tới đây, v́ lạnh quá nên dừng lại.  Họ cũng chiếm luôn Formose và Siam là xứ của nhánh thứ tư và nhánh thứ nh́ của giống dân chánh thứ tư là người Touranien và Tlavatlis (La hoát li). Xong rồi, người Aryen c̣n chiếm thuộc địa ở Sumatra, Java, và những Cù Lao kế cận. Thường thường giống dân Aryen tới đâu, th́ thổ dân tiếp rước vui vẻ, v́ họ xem những người da trắng nầy như những thần thánh, tự nhiên họ yêu quư, chớ không đánh đuổi như kẻ địch thù.

      Tàn tích thuộc địa nầy c̣n roi dấu đến ngày nay, tại cù lao Célèbes ở miền Đông Bornéo.

       Dân Aryen c̣n lan tràn đến bán đảo Malaisie, đảo Philippines, Liou kiou, Papouasie, Úc châu và những đảo kế cận mà dân Lémuriens c̣n chiếm đóng.

      Các đế quốc to lớn phi thường ấy được Đức Bàn Cổ hay các vị ủy viên của Ngài cai trị dưới danh hiệu Đế Vương.

      Sự tiến hóa của giống dân nầy đáng cho ta t́m học. Một dân tộc đă trải qua mấy trăm ngàn năm tiến hóa ở Atlantide (At lăn tích) và mấy ngàn năm văn hiến, dưới sự điều khiển của Đức Bàn Cổ tại Á Rạp và Á Tế Á miền Bắc, th́ quả thật là không phải một giống người dă man, hoặc hủ lậu của đời thượng cổ.

      Toàn dân đều biết đọc và biết viết, Đức Bàn Cổ rán dạy cho họ sống t́nh huynh đệ với nhau, và đối đăi với nhau thật nhă nhặn và lịch sự. Nhơn đó mà họ tự biết ḿnh, và nh́n nhận sự cao thượng của vài kẻ khác. Đối với người đă làm ơn cho họ, họ hằng ghi nhớ. Họ không đem bản ngă của ḿnh mà cưỡng chế người. Họ t́m hiểu giá trị của người, chi nên ít gây gỗ. Nền văn minh của dân Aryen nhơn đó khác hẳn với nền văn minh của dân Atlantide rất phức tạp và loè loẹt, mà mỗi người t́m phương tiện cho đời sống riêng; họ nghi ngờ lẫn nhau, nên không khí không ḥa b́nh và huynh đệ chút nào. Thời bấy giờ dân Aryen rất trọng lời nói của ḿnh. Bằng ai không trọng lời ḿnh, th́ bị xem là người Aryen không xứng đáng. Mỗi người Aryen dường phải t́m hiểu một số đông người, điều nầy hữu ích cho sự tuyển chọn quan chức.

      Tuy nhiên, người Aryen không thực hành t́nh huynh đệ lan rộng ra với tất cả mọi người khác giống mà họ khinh, tỷ như họ không chịu t́nh huynh đệ với người Touraniens là người khác giống, lại gian xảo, mà luôn luôn họ phải đề pḥng. C̣n đối với những người không đồng chủng, nhưng tiến hóa cao, th́ họ vui mừng mà kết bạn và hợp tác.

      Họ tạo sẵn nơi cư trú, có rào riêng biệt, cho người ngoại quốc đến viếng xứ họ.  Họ ngờ vực người ngoại quốc, nên có khi họ đối đăi rất nghiêm khắc.

      Người Aryen tự cho ḿnh là quư phái, nên có lập một qui luật riêng. Trẻ con của họ được xem là quư tộc, sẵn sàng hành theo qui luật của nhà quư tộc.

      Nền văn minh Aryen thấm nhuần ánh sáng và vui tươi. Người ta đánh nhạc, khiêu vũ, c̣n tôn giáo, th́ đầy lời ca tụng và ân đức. Những tín đồ luôn luôn đọc kinh, xưng tụng công đức thiêng liêng và nh́n nhận sự hiện diện của Thiên thần ẩn sau mănh lực thiên nhiên. Mặt trời là mối tôn thờ thứ nhứt của họ.

      Một vài người Aryen học tận tường khoa huyền bí và được đoạt thành chí nguyện; họ mở đặng Thần nhăn, thấy h́nh tư tưởng. Họ biết phép hiện h́nh hoặc muốn bỏ xác chừng nào cũng được.

      Nhớ lại những tai hại của châu Atlantide khi xưa, mà các nhà giáo chủ, lấy làm thận trọng khi chọn đệ tử: Đức Bàn Cổ phái một ủy viên lo lắng sự nầy, để tuyển chọn người xứng đáng trong từng lớp dân chúng ở xă hội.

      Thời ấy không có báo chí, nhưng mấy vị có Thần nhăn biết đặng tất cả sự xảy ra khắp nước, cũng như ngày nay ta dùng dây thép hay vô tuyến điện mà biết biết vậy.

      Có khi gấp rút, khó cho Đức Bàn  Cổ truyền lịnh nơi xa. Ngài mới sai một vị đệ tử biết xuất vía cho ra khỏi xác đến tận nơi, rồi hiện h́nh để truyền tin của Ngài cho vị thủ lănh nọ. Nhơn đó mà Đức Bàn Cổ quả thật là một vị Đế Vương khắp cơi, không nơi nào mà Ngài không thấu và không biết.

Người ta khắc chữ với vật nhọn trên cây, trên lá, trên loại kim, rồi người ta đổ lên làn khắc ấy chất nước, hễ khô th́ đặc lại. Máy móc đơn sơ hơn đời Atlantide và phần nhiều đồ vật đều làm bằng tay: v́ Đức Manou muốn cho dân sự tránh sự xa hoa, quá lố như đời Atlantide. Đến năm 40.000 năm trước Chúa Giáng Sinh, đế quốc khởi sụp đổ. Những cù lao và tỉnh ở xa khởi sự giành độc lập một cách dă man. Đức Bàn Cổ thỉnh thoảng đầu thai xuống thế, nhưng thường chỉ huy những việc cơi trên. Dù vậy Trung tâm đế quốc vẫn giữ nền văn minh huy hoàng ấy hơn 25.000 năm sau; trong khi đó những giống dân phụ chót rải rác khắp nơi.

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI HAI

Nhánh thứ hai Aryen

Người A Rạp 40.000 năm trước Chúa Giáng Sinh

      Bấy giờ Đức Bàn Cổ mới tạo ra bốn nhánh của giống dân chánh thứ năm (là giống dân Aryen) trong bốn trũng núi dọc theo mé biển Gobi, mà ta đă nói ở trước. Ngài chọn, nguời tiến hoá Aryen, vài gia đ́nh bằng ḷng hợp tác với các nhà hướng đạo, từ giă Thành Bông (Ville du Pont) [[1] để đến đồng cát đặng di cư lập nghiệp. Phần đông mấy người nầy, ngày nay là các hướng đạo Thông Thiên Học. Họ làm công việc nhọc nhằn và cũng là bạc bẽo nữa, nhưng họ cho là cần yếu.

      Vào thời đại thứ ba Mars và Mercure cùng vài vị tiến hóa cao sanh vào gia quyến nầy để làm kiểu mẫu cho giống dân mới. Khi có linh hồn tiến hóa đầu thai, th́ dân kiểu mẫu sau nầy nên hết sức tốt đẹp: Thời ấy gọi là thời vàng. Xung quanh mấy người kiểu mẫu, lại có nhiều linh hồn đến đầu thai đặng cộng tác, nhưng tự nhiên là họ chưa đủ khả năng.

      Những người c̣n ở lại “Thành Bông”, th́ cho những kẻ di cư, nơi bốn trũng núi ấy, là vô trí thức. Họ chế nhạo rằng “Ai bỏ cảnh văn minh tốt đẹp như vầy, để đến đồng cát hoang vu mà khai khẩn?” Nhưng những người nơi trũng núi cứ việc tiếp tục nhiệm vụ: là tạo giống dân mới, tốt đẹp hơn. Họ sanh sản và càng ngày dân càng đẹp, càng thanh, cho đến 40.000 năm trước Chúa Giáng Sinh, Đức Bàn Cổ mới nhứt định đem họ di cư khắp thế giới. Dưới sự điều khiển của Mars, họ trở lại đường cũ, mà xưa kia tổ tiên họ đă đi đặng đến xứ Arabie, tạo ra giống dân lai với người A Rạp, mà họ cho là có nhiều tánh quí nhất.  

      Về sau, Đức Bàn Cổ tự ḿnh cầm đầu đoàn di cư. Ngài mới điều đ́nh thân ái với một dân tộc tử tế và mạnh mẽ của xứ ph́ nhiêu, mà ngày nay ta gọi là Xứ Perse (Ba Tư) và Mésopotamie, để đi ngang qua được đến Arabie. Đoàn dân di cư nầy đếm lối 150.000 tráng sĩ và 100.000 đàn bà và con nít. Trước khi lên đường, Đức Bàn Cổ có cho người sứ giả đến Arabie đặng xin phép di dân tại đó.

      Vị thủ lănh Á Rạp ban đầu không bằng ḷng, nhưng rốt cuộc, ông cho phép đoàn di cư đến cư trú, trong một cái trũng núi lớn hoang vu, trên biên giới nước ông.

      Không bao lâu, trũng núi được khai phá, người ta đào sông, rạch; rồi nơi chốn hoang vu ấy, người ta thấy một con sông đem mạch sống cho đất được ph́ nhiêu.  Không đầy một năm, trọn biên giới đều trồng tỉa sung túc. Trong ba năm khai phá, dân cư trở nên phong phú, và tự túc đặng.

      Nhưng vị thủ lănh Á Rạp phát lên ganh tỵ. Ông mới rán đưa Đức Bàn Cổ vào cuộc tranh đấu giữa ông với kẻ nghịch thù láng giềng. Đức Bàn Cổ không chịu giúp; vị thủ lănh Á rạp bèn thương thuyết kư ḥa b́nh với kể nghịch; và xong rồi, ông mới t́m thế đuổi người di cư ra khỏi lảnh thổ. Nhưng Đức Bàn Cổ chống lại và giết người thủ tướng của giặc. Đoạn Ngài bành trướng lănh thổ. Dân Á Rạp phải chịu dưới quyền cai trị của Đức Bàn Cổ. Chẳng bao lâu, họ thấy ḿnh được sung sướng và cường thạnh nhờ sự cai trị khôn khéo, nên qui phục và phối hiệp với đoàn di cư, tạo ra giống dân Aryen.

      Thời bấy giờ, đế quốc Arabie rất thạnh hành và oai thế. Đức Bàn Cổ mới chiếm lần lần khóm nầy đến khóm khác, bằng cách ḥa b́nh và không đổ máu. Bốn mươi năm sau, trước khi Đức Bàn Cổ từ trần, th́ hơn phân nửa miền Bắc Á Rạp đều đặt dưới sự cai trị của Ngài, chỉ c̣n phần miền Nam chống lại mà thôi. Trong lúc chiến tranh kéo dài, Đức Mahâgourou (tiền kiếp của Phật Thích  Ca) đầu thai trong giống dân phụ thứ hai của giống dân chánh Aryen đặng truyền một tôn giáo mới, mà Ngài đă dạy ở Ai Cập.

      Trong lúc đó, lối 40.000 năm trước Chúa Giáng Sinh, đế quốc Atlantide đă sáng lập ở Ai Cập. Dân sự văn minh tuyệt vời. Họ cất đền thờ đồ sộ, nghi lễ huy hoàng.  Các nhà sư có một giáo lư cao thâm.

      Dân Ai Cập là dân rất mộ đạo và có linh tánh. Khi ông Osiris từ trần, tất cả quần chúng đều khóc ông nức nở, và cầu nguyện cho ông đầu thai lại trần ở với họ. Đức Mahâgourou đầu thai lấy tên là Tehouti hay Thoth, rồi sau người Hy Lạp gọi là Hermès.

      Đức Mahâgourou dạy giáo lư chánh đại về “Ánh sáng Tâm hồn”. Ánh sáng ấy là điểm linh quang ẩn trong muôn loài vạn vật. Nó là sự sống thiêng liêng. Nó ở tận đáy ḷng con người. Muốn thấy nó, th́ con người phải trở lại bên trong, ḍm lại ḷng ḿnh.  Nơi đây Ánh sáng không xa vậy. Tất cả nghi lễ đều hướng về đó. Bởi vậy nghi lễ không đặng băi bỏ. Khi con người đă hiểu biết rồi, th́ nghi lễ không c̣n cần ích nữa.  Con người sẽ đến Osiris, đến Ánh sáng tức là Amoun Ra. Tại đền thờ Pharaon, nhà vua viết câu tiêu ngư nầy: “Người hăy t́m Ánh sáng.” Và chỉ khi nào một nhà vua thấy đặng ánh sáng ẩn trong ḷng mỗi người, th́ chừng ấy sự cai trị của Ngài mới được tốt đẹp cho. Nhà vua c̣n tặng cho dân chúng câu tiêu ngữ nầy: “Người là ánh sáng vậy. Cầu xin ánh sáng nầy tỏ rạng!”. Nhà vua khắc câu ấy trên cột đền thờ và trên cửa của nhà dân dă. C̣n câu tiêu ngữ rất được người ưa thích nữa là “Người hăy theo ánh sáng”. Về sau người ta đổi nó ra câu nầy: “Người hăy theo Vua.” Hiện nay hội bàn tṛn (Table Rounde) lấy nó làm tiêu ngữ.  Dân chúng tập nói với người khuất mặt như vầy: “Người tử về với Ánh sáng”. 

      Sau nhiều thế kỷ, có một vị vua tham tàn lên ngôi, dẫn binh sĩ tới Océan và tự xưng là Hoàng Đế Arabie.

       Một số dân Á Rạp miền Nam thấy bổn phận chống cự lại, nhưng nễ lời của một vị tiên tri, họ bỏ xứ đến ngự tại băi biển Somalis, trước Arabie. Họ sanh đẻ và sống như vậy nhiều thế kỷ, cho đến khi vị tiên tri đang trị nước lúc bấy giờ lại yêu một người mọi. Điều nầy làm phản động ḷng dân, và trái luật nước: v́ người bổn xứ không thể cưới vợ hay gă chồng với người ngoại quốc. Nhưng vị thủ hiến nói rằng: người mọi cái nầy đă bị đem bán, th́ được xem như một món hàng, chớ chẳng phải coi là người ngoại quốc được. Tuy trước lư luận ấy, dân t́nh cũng phản động. Họ mới vầy đoàn đi xứ khác. Họ đi dài theo vịnh Aden, đi qua biển Mer Rouge và vô lănh thổ Ai Cập.  Vua Ai Cập biết nguyên nhân của sự di cư nầy, mới bằng ḷng giúp họ và cho họ sống trên lănh thổ xa thủ đô. Về sau v́ nhà vua Ai Cập khác lên ngôi mới buộc họ đóng thuế và phù dịch; họ xem như ḿnh bị uy hiếp, bị xâm phạm quyền lợi, nên nhứt định cùng nhau di cư nữa. Và lần nầy họ đến xứ Palestine, chính họ là dân Do Thái (Juifs) c̣n đến ngày nay.

      Do nhân quả mà người Do Thái thuộc về giống dân luôn luôn chia rẽ với giống dân khác; và những linh hồn người Do Thái cứ đầu thai lên xuống trong nhóm của ḿnh. Họ thường không trụ một chỗ, và cho ḿnh cao hơn tất cả. Về sau họ bị giam tại Babylone là nơi rất văn minh. Họ nghe thuyết về Đấng Thiêng Liêng duy nhứt và rán hợp nhứt vị Thần Minh của họ với Đấng ấy, nhưng không kết quả.

      Đức Giáo chủ Gia tô là Đức Jésus đầu thai lấy xác thịt của người Do Thái.

      Một số đông người c̣n ở lại tại bờ biển Somalis, th́ bị người ruồng bắt để đem bán mọi, nên họ phải bỏ nhà cửa mà di cư, sau khi đồng bào của họ bị mất cả muôn người. Họ lại di cư vào Arabie nữa. Họ được người Á Rạp tiếp rước thân t́nh.

      Nhánh thứ hai của giống dân chánh thứ năm đă sanh ra trong nhiều thế kỷ và tràn lan gần khắp Phi Châu, trừ một khoảng đất thuộc về Ai Câp. Về sau họ chiếm và cai trị một thời gian, dưới danh từ Vua Hyksos.

      Thần “Mars” lại đầu thai làm vua Phi Châu miền Nam. Người ta cất nhà và lầu đài đồ sộ, cao lớn. Nền văn minh của họ được tốt đẹp và xứng đáng. Những hố chia rẽ giữa những thổ dân Phi Châu với người Á Rạp xâm chiếm đă quá sâu rộng, nên không thể lấp hẳn được. Về sau người Á Rạp bị dân Phi Châu đuổi ra khỏi xứ. Họ mới sang chiếm Madagascar.

      Khi đế quốc Perse, Mésopotamie và Turkestan bị chia rẽ làm nhiều khóm hung tợn, th́ một vị vua Á Rạp, sau 20 năm chiến đấu, thành công làm chủ tất cả xứ Perse.  Triều đ́nh Perse lập lối 200 năm, luôn luôn bị nạn chiến tranh. Một vị vua Á Rạp ham mộ sự giàu có của Ần Độ mới truyền một hạm đội sang chiếm. Nhưng hạm đội bị tiêu diệt và những chiến sĩ lớp th́ bị giết, lớp th́ bị cầm tù. Sau khi Đế quốc Á Rạp, Perse và Chaldée bị sụp đổ, th́ cả trăm năm ly loạn làm khổ sở dân t́nh khôn xiết.  Muốn cứu văn t́nh thế, Đức Bàn Cổ mới nhứt định giúp họ bằng cách đem đến giữa họ một giống dân phụ thứ ba đầu thai, để lập lại thái b́nh. Giống dân nầy sáng lập đế quốc Persans lai Iraniens.

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BA

Nhánh thứ ba của giống dân chánh thứ năm Aryen

      Sau khi sanh nhánh thứ nh́ và trước khi nhánh thứ ba ra đời, th́ 10.000 năm đă trôi qua. Lúc bấy giờ là 30.000 năm trước Chúa Giáng Sinh Thành Bông (Ville du Pont) luôn luôn lộng lẫy, dù lần lần kém vẻ huy hoàng hơn trước.

      Những người có trách nhiệm tạo ra nhánh thứ ba đều được huấn luyện trong nhiều thế kỷ, Đức Bàn Cổ để họ ở riêng nơi một trong bốn cái trũng núi, cho tới chừng nào xác thân họ trở nên tốt đẹp đặc biệt mới cho họ di cư. Lúc ở Atlantide, trong khi lựa chọn giống người, Đức Bàn Cổ có đưa đến một số người tốt của nhánh thứ sáu Atlantide, tức là người Akkadiens. Bấy giờ Ngài chọn những gia quyến có máu Akkadien và đưa những linh hồn hướng đạo đến đầu thai. Một hay hai gia quyến có máu Akkadien được Ngài đưa qua Phương Tây.

      Nhân dân thuộc về nhánh non nớt thứ ba của giống dân chánh Aryen đều là người mục súc, chớ chẳng phải là kẻ nông gia. Họ có nhiều bầy trừu, ḅ và ngựa.

      Lúc ấy, Đức Bàn Cổ, đổi sắc diện rất nhiều. Qua đời thứ năm Ngài đầu thai trong nhánh thứ ba và để dân sự tăng thêm trong vài ngàn năm, cho tới khi có một đạo binh với 30.000 chiến sĩ. Ngài mới sai Mars, Corona và những người tấn hóa cao xuống đầu thai cầm đầu đạo binh ấy; c̣n Ngài giữ quyền kiểm soát tất cả. Trong khi đạo binh đi chinh phục, th́ đàn bà và con nít đều ở lại trũng núi.

      Đạo binh oai dũng nầy, dùng chĩa, gươm, búa và ná. Họ phải trải qua nhiều dặm xuyên sơn hiểm trở. Trong lúc đi đường tại Kashgar Đức Bàn Cổ đánh đuổi dễ dàng đám du mục, phục kích. Nhiều làng xă, đă bao năm bị áp chế, tàn sát và cướp giựt, nay rất vui mừng đón tiếp những người hùng dũng, đem lại sự ḥa b́nh cho họ.

      Đức Bàn Cổ chiếm xứ Perse trong ṿng hai năm không khó khăn ǵ. Ngài cũng chiếm luôn Mésopotamie, rồi mới lập đồn liên tiếp và chia xứ ra giao các quan thủ lănh cai trị. Nhiều đồn vững chắc được cất lên; ban đầu làm bằng đất, sau bằng đá.  Những đồn nầy biến thành một tấm tường kiên cố để ngăn ngừa người sơn giả xâm lăng. Nhờ sự bảo hộ của đội binh mạnh mẽ, mà dân sự đặng an cư lạc nghiệp; chừng ấy Đức Bàn Cổ mới gọi những người đàn bà con nít c̣n ở đọng lại trũng núi đến với Ngài. Ngài đặt để những gia quyến của Ngài lên làm quan thủ hiến. Thần Mars kế vị Ngài, c̣n Thần Corona, th́ làm vua độc lập đối với xứ Perse.

      Bây giờ nhánh thứ ba nẩy nở mau lẹ. Vài thế kỷ sau, nó tràn qua miền Tây Á Tế Á. Từ biển Méditerranée tới Pamir; và từ vịnh Persique tới biển Aral.

      Nhánh thứ ba có lối một triệu người, khi lan qua Perse và Mésopotamie.

      Đế Quốc của Đức Bàn Cổ kéo dài tới 28.000 năm. Xứ Perse và Mésopotamie phần nhiều đều do những vị thủ lănh khác nhau cai trị. Có lúc hai xứ nầy chia ra từ lănh thổ nhỏ; mỗi lănh thổ có vị thủ hiến riêng. Những xứ đó đều bị nạn xâm lăng của những người man di miền Sơn cước. Dân sự tránh chiến tranh với Ấn Độ. Họ không sợ Arabie: v́ có đồng cát lớn cách xa hai xứ. Họ là người buôn bán, làm đồ xưởng. Họ an tĩnh và rơ đạo lư hơn nhánh thứ hai Aryen. Người Parsis tấn hóa bấy giờ là kiểu mẫu dân tộc của nhánh thứ ba Aryen. Người Parsis có máu giống của dân ấy nhiều, dù họ là người lai Á Rập. Người Kourdes, Afghans và Baluchis phần đông là con cháu của nhánh thứ ba Aryen.

      Lối 27.900 năm trước Chúa Giáng Sinh, Đức Mahâgourou (tiền kiếp của Phật Thích Ca) đầu thai trong nhánh thứ ba Aryen dưới danh hiệu là Đức ZARATHOUSTRA (tức là Đức Giáo chủ của Hỏa giáo). Con trai thứ nh́ của Mars là vua thứ 10 của triều Corona được chọn làm trung gian tinh thần giữa nhơn loại và Bồ Tát Sourya (tiền kiếp Đức Di Lạc Maitreya) lúc bấy giờ là một nhà sư có tiếng trong nước. Uy thế của Ngài vô biên, một là do tài đức của Ngài hay là ḍng máu hoàng tộc của Ngài. Thần Mercure đầu thai để dọn đường vinh diệu cho Ngài.

      Đức Mahâgourou từ thành Shamballa, đến bằng thể thanh (mắt người không thấy được) mới nhập vào xác Mercure là thái tử.

      Trong một cuộc lễ huy hoàng, người ta thấy, bên mặt, nhà vua dưới cây Long Đỉnh bằng vàng, bên trái, nhà sư đại đức Sourya, dưới cây Long Đỉnh khác cẩn ngọc chói ḷa. Chính giửa hai Ngài là Thái tử Mercure ngồi trên kiệu bằng vàng. Đám người rước lễ ngừng trước đền thờ. Ba nhà chánh khách bước vào. Sourya bèn tuyên bố rằng: “Vị ngồi giữa trên ngai chẳng phải là Hoàng tử mà là tướng trời sai xuống, là con của Hỏa Thần ở từ Phương Đông đến. Với danh hiệu vị mục sư, tôi khiêm nhượng vái chào.”

       Đức Mahâgourou [[2]]  mới nói về sứ mạng của Ngài do các Đấng Thiêng Liêng Ánh Sáng (tứa là Thần Lửa) đă phó cho Ngài. Ngài có bổn phận đem thiên cơ bộc lộ để đánh thức tâm phàm. Ngài mới giải ư nghĩa của “Lửa” và cho rằng: Lửa dùng để tẩy trược, và để lọc cho trong, chi nên nó là tượng trưng bằng sự Cao cả ẩn trong ḷng người, cũng như trong vạn vật. Lửa là Hơi Nóng, là Ánh sáng, là Sức Mạnh. Nhờ lửa mà vạn vật mới sống và hoạt động. Ngài khuyên tất cả mọi người nên thấy Lửa ẩn trong muôn loài. Đoạn Ngài, cầm cây phát lịnh bên tay hữu đưa lên, Lửa trong cây pháp lịnh xẹt ra sáng ngời. Ngài đưa cây pháp lịnh qua bên phía Đông, đọc thần chú, th́ liền đó trên trời hiện ra một đám lửa hồng và một ngôi sao sáng rỡ trên đầu Ngài.  Tức th́ nhà sư và dân chúng qú lạy. Sourya và nhà vua cũng qú gối, cúi đầu dưới chơn Ngài.

      Cuộc nghinh lễ trở về đền vua. Hai bên lề đường, dân sự đua nhau hứng những chiếc hoa từ trên bàn thờ rải xuống như mưa. Họ đem bông về, cất kỹ lưỡng, và xem như một gia tài quư báu để lưu truyền cho con cháu.

      Đức Mahâgourou mỗi ngày đi đến đền thờ đặng dạy dỗ các nhà sư, và các vị đệ tử Tiên Thánh. Ngài dạy dân sự phải chăm lo học hành để mở tâm trí. Ngài căn dặn tất cả thảy nên theo Sourya, sau khi Ngài thăng hà: bởi Sourya sẽ là Đấng Giáo chủ thế cho Ngài.

      Sau khi Đức Mahâgourou từ giả cơi trần, th́ dân sự đều tiếp tục thờ Lửa và lập đạo Hỏa Giáo tới ngày nay. 

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BỐN

Nhánh thứ tư của giống dân chánh Aryen

Người Sen tờ (Celtes)

20.000 năm trước Chúa Giáng Sinh

      Lúc bấy giờ, giống dân chánh ở miền trung châu Á Tế Á gần đến tàn tạ, nhưng Đức Bàn Cổ rán duy tŕ sự mạnh mẽ, sự cao thượng của nhánh thứ tư và thứ năm.  Ngài mới gom vài gia quyến có giáo dục nhứt của thành phố cho di cư tại một trong bốn trũng núi (đă nói ở trước) riêng biệt với người đời. Nhơn đó mới có một giống người tốt đẹp sanh ra. Đức Bàn  Cổ rèn luyện cho họ những đức tánh mới mẻ mà họ chưa có như: mỹ thuật, nghệ thuật, âm nhạc, văn chương, thi phú.

      Những người chuyên về mỹ thuật, th́ không làm việc nông gia, cày sàu cuốc bẩm nhọc nhằn đặng. Những ai có thiên tư về nghệ thuật, th́ được ở riêng đặng luyện tập thêm. Đức Bàn Cổ rán mở tánh hăng hái của dân chúng, và tập họ hy sinh cho vị lănh đạo của họ. Nhờ sự cố gắng của Ngài mà những đức tánh nầy trở thành đặc tánh của người Celtes ngày nay.

      Nơi trũng núi ấy, dân sự phần đông chuyên về tất cả môn mỹ thuật. Mỹ thuật thấm nhuần tâm trí họ nên họ rất thanh nhả và tốt đẹp. Họ lấy làm tự đắc. Mười ngàn năm sau, sự di cư của nhánh thứ ba, nghĩa là 20.000 năm trước Chúa Giáng Sinh, nhánh thứ tư Aryen mới được lịnh trở lên biên giới miền bắc xứ Ba Tư (Perse) và chiếm núi Caucase, là nơi trú ngụ của người man di và lũ lu la.

       Đức Bàn Cổ chẳng những được vua Ba Tư cho phép đoàn di cư của Ngài đi ngang qua xứ, mà c̣n được giúp vật thực và một quân đội hùng mạnh để trừ người sơn cước cường khấu. Dù nhờ binh sĩ và lương thực của nhà vua, Đức Bàn Cổ cũng phải trải qua nỗi khó khăn: v́ nhóm người sơn cước và lu la mặc dầu dễ mà đánh lui được với binh gia hùng tráng, nhưng khó mà chống lại với sự du kích của họ, trong các đám giặc cḥm. Nhưng rốt cuộc cường khấu phải lui gót.

      Đoàn di cư lập nghiệp trước hết tại khu Erivan, trên mé hồ Sévanga, nhưng về sau, một ngày một đông, họ lan chiếm trọn cả xứ Géorgie và Mingrélie. Hai ngàn năm sau, họ chiếm Arménie, Koudistan, Phrygie rồi tất cả Asie Mineure và Caucase. Bấy giờ đoàn di cư trở nên một quốc gia cường thạnh.

      Nước họ chia từ khu, khó mà lưu thông với nhau, nên họ lập ra một liên bang hơn là một quốc gia. Về sau, dù họ khởi chiếm mé biển Méditerranée, họ xem Caucase là nơi chôn nhau cắt rún của họ.

      Đến 10.000 năm trước Chúa Giáng Sinh, họ khởi đi từng đoàn về miền tây. Rốt lại, họ lần đến Âu Châu là xứ thiệt thọ của họ sau nầy. Họ để lại sau họ nhiều đồng bào đang tiếp tục nghề canh nông. Những người đồng bào nầy phối hiệp với người Sémites sanh ra người Géorgien c̣n lưu giống đến ngày nay. Đoàn di cư thứ nhứt từ giả Asie Mineure sang qua Âu Châu làm người Hy Lạp thượng cổ. Người Hy Lạp đầu tiên làm chúa đảo Chypre và Crête. Họ có thương thuyền vĩ đại đi khắp toàn cầu.  Nhơn đó đảo Crète ngày nay c̣n nổi tiếng văn minh rực rỡ. Sự văn minh ấy kéo dài nhiều ngàn năm như vậy cho đến 2.800 năm trước Chúa Giáng Sinh, thời oanh liệt của họ cũng c̣n chưa phai nhạt!

      Nếu người Hy Lạp (Grecs) thượng cổ có sang lập nghiệp tại Âu Châu là do sự tấn công của vua Poséidonis.

      Số là trong nhiều thế kỷ, bờ biển và đảo Méditerranée thuộc về tay các tiểu quốc.  Hoàng Đế Poséidonis muốn xâm chiếm. Nhờ có nhiều chiến thuyền và binh sĩ đông, nên hoàng đế Poséidonis chiếm đảo lớn Algérie, đánh phá bờ biển Espagne, Portugal, Italie và bắt dân t́nh hàng phục, Ai Cập ít binh sĩ, nên cũng sắp sửa đầu hàng.

      Những người lính thủy Hy Lạp miền đông lại căm tức trước khi hăm dọa chung, dù chiến thuyền họ nhỏ hơn và không được nhiều bằng chiến thuyền Hy Lạp, nhưng chạy nhanh không thua ǵ thuyền khổng lồ của Hoàng Đế Poséidonis. Nhờ sự can đảm và nhờ thời tiết thuận tiện, nên người Hy Lạp phá đặng nửa tàu chiến của kẻ nghịch. Hoàng Đế Poséidonis trốn thoát qua Sicile. Cái tin đồn thất thủ của Hoàng Đế Poséidonis khiến cho các nước bại trận đứng lên phản công, Hoàng Đế Poséidonis phải vạch con đường máu, xuyên qua trọn Ư Quốc (Ilalie) mới về thành đặng. Rồi từ đó, Ngài giả thường dân sang miền Nam Pháp Quốc; sau cùng Ngài trở về xứ bằng chiếc thương thuyền.

      Hoàng Đế Poséidonis vô cùng tức giận, thề quyết trả thù dân Hy Lạp, nhưng không thành công.

      Nhờ thắng đặng Hoàng Đế Poséidonis, mà người Hy Lạp được nổi tiếng; và địa thế của họ nơi biển Méditerranée được muôn phần thắng lợi. Và không đầy 50 năm, họ chiếm nhiều trung điểm trên bờ biển ấy.

      Lúc 9.546 năm trước Chúa Giáng Sinh, có xảy ra trận điạ chấn, Cù Lao Poséidonis bị ch́m xuống đáy biển, nhiều thành phố Hy Lạp cũng xụp đổ tan tành; biển Gobi và biển Sahara lại trở thành đồng cát. Thề mới thật là tang thương biến  đổi!

      Tiếng kêu cứu lan thấu tới miền Caucase là nơi ít bị ảnh hưởng của Địa Chấn.  Tức th́ người Caucase tổ chức cứu tế một cách đắc lực.

      Khi biển Sahara nổi cát lên, th́ cù lao lớn Algérie lại dính với đất liền, làm thành ranh giới miền bắc của Phi Châu (Afrique). Hầu hết đường thủy đều không đi được.  Người Hy Lạp bị trận Địa Chấn nầy chết hết; chỉ trừ vài nhóm nhỏ c̣n sót lại bị bắt làm tôi mọi. Dân Asie Mineure (Caucase ) mới rán mở đường thủy đến cứu những người đồng chủng (hiện nay là người Hy Lạp) đang bị cầm cố dưới ách ngoại bang.

      Người Hy Lạp được giải thoát hiệp với người Asie Mineure làm thành một nhóm dân Hy Lạp hùng cường. Họ chiếm lại những địa thế trọng đại trên bờ biển Méditerranée, và hầu hết sự  buôn bán nơi mé biển thuộc về tay họ trong nhiều thế kỷ.  Người Hy Lạp lần ṃ tràn qua miền đông đến Java và lập một thuộc địa để được liên lạc trong nhiều năm. Về sau người Phéniciens và Carthaginois chia với người Hy Lạp mối lợi ở biển Méditerranée. Người Phéniciens thuộc về nhánh thứ tư và thứ năm Atlantide). C̣n người Cartaginois vốn người Akkadiens có máu Á Rạp và mọi.    

      Đoàn di cư cứ tiếp tục đi qua Âu Châu không dứt. Người ta có thể nói rằng: “đoàn Hy Lạp di cư lần thứ nhứt, đoàn Albanis di cư lần thứ nh́; đoàn Italie di cư lần thứ ba. Về sau đoàn thứ tư di cư là Celtes; họ choán một ít miền bắc Ư Quốc (Italie) trọn cả xứ Pháp Quốc, Thụy Sĩ miền tây, Anh Quốc và Đức Quốc chi phía tây sông Rhin.  Đoàn di cư thứ năm miền bắc Phi Châu. 

      Đoàn di cư thứ sáu choán xứ Irelande. Đoàn nầy lai với nhánh thứ năm Aryen nên h́nh vóc rất đẹp. Sử chép rằng: họ rất lịch sự, nên được gọi là Tuatha de Danaan và cho là thần thánh lâm phàm, chớ chẳng phải là người thế gian. Người Tuatha de Danaan mặt trái xoan, da trắng, mắt xanh, hay tím, tóc đen, có khi đỏ lợt, có người mắt xám mà ngày nay là ta c̣n thấy ở người Irelande. Người Tuatha de Danaan nổi tiếng là người khôn ngoan và đạo đức hơn người bổn xứ nhiều. Thời kỳ của họ đô hộ là thời kỳ vàng: Xứ Irelande bấy giờ văn minh hơn cả xứ Âu Châu, trong khi Anh Quốc bị những rừng hoang vu bao phủ. Nhưng về sau người Tuatha de Danaan bị người Milésiens ở Espagne đến đánh và đô hộ; dù những người sau nầy ít tấn hóa hơn nhưng lực lưỡng hơn và tà thuật hơn. Người Milésiens h́nh dáng xấu xa: đầu tṛn như viên đạn, bộ tịch cộc cằn, thô lỗ, tóc đỏ hoe. Hiện nay người ta c̣n thấy ḍng dơi họ sanh sản trong gia đ́nh người Irelande ở rẫy bái. 

      Người Anh Quốc kịch cợm và thực tế hơn người Irelande. Mấy người nầy giàu t́nh cảm có nhiều trí tưởng tượng và có vẻ thi thơ, nho nhă. Người nhà quê Anh Quốc bực trung sống hoàn toàn theo vật chất, Người nhà quê Irelande bực trung, miền Nam và miền Tây, th́ sống mơ mộng. Họ mơ tưởng những chuyện trên cơi Thiên Đàng có Tiên Đồng và Ngọc Nữ  v…v…

      Nhánh thứ tư Aryen thường thường tóc đen, mắt đen, đầu tṛn, nhỏ thó. Họ có trí tưởng tượng dồi dào, ngôn ngữ lưu loát, ưa làm thi phú và chơi âm nhạc. Họ có tánh cam đảm cực kỳ, nhưng hay ngă ḷng rũn chí. Họ thiếu thực tế.

      Sau địa chấn, 9564 năm trước Chúa Giáng Sinh, vài người Hy Lạp cổ thời đến lập nghiệp tại Hellade. Thành phố Athènes thứ nhứt cất 8.000 năm trước Chúa Giáng Sinh. Về sau người ta cất Athènes cũng tại chỗ đó 1.000 năm trước Chúa Giáng Sinh và cất Panthénon 480 năm trước Chúa Giáng Sinh.Chính tại Panthénon mà đức Mahâgourou đầu thai lấy xác Orphée sáng lập khoa huyền bí tuyệt diệu. Trước Chúa Giáng Sinh 7.000 năm, với tư cách một danh ca, Ngài gom đệ tử trong rừng, thích sống với vạn vật thiên nhiên, xa lánh bụi trần phàm tục.

      Ngài dạy người bằng giọng ca và tiếng đờn của cây đờn năm dây, có lẽ đờn ấy là tổ mẫu của cây đờn thất huyền. Nhờ nhạc điệu của cây đờn mà Ngài sửa đổi vía, trí của người đệ tử và làm cho họ trở nên thanh khiết. Sự rung động huyền bí của âm thinh làm cho Ngài có thể hấp dẫn cái vía ĺa khỏi xác, để thả nó cảm thông với những cơi cao. Ông Orphée dùng nhạc điệu làm mấy trung tâm điểm của các luân xa cái phách trở nên linh hoạt. Ngài trải ra trước mắt đồ đệ những quang cảnh linh động do âm thinh tạo thành. Ngài cho rằng: “Vạn vật đều có âm điệu. Nếu con người là nguồn Điều Ḥa thiêng liêng th́ nó sẽ biểu lộ ngay qua con người rồi tràn lan tứ phía và tạo ra nền hạnh phúc cho muôn loài vạn vật ”.

      Xung quanh Orphée người ta dệt ra biết bao nhiêu chuyện thần thoại hoang đàng cũng có, mà hữu lư cũng có.

      Chuyện thần thoại có nói rằng:

      “Ngày xưa, vào thời Thượng Cổ, có một nhạc sĩ siêu việt tên là Orphée. Chàng là con của Thần Apollon và Clio. Lần nọ vào rừng, thú dữ bao quanh, chàng đă dùng tiếng đàn du dương thanh nhă, xoa dịu thú tánh và hàng phục được bọn chúng.

      Một lần khác, chàng xuống tuyền đài, dùng tiếng hát siêu linh cám dỗ được quỉ sứ và cứu vợ ra khỏi tay Tử thần.

      Giọng đàn, tiếng hát của Orphée là tượng trương cho đài minh triết thiêng liêng, cho làn sóng nhả từ một tấm ḷng nghệ sĩ mênh mang tỏa ra khắp bốn phương, để cảm hóa chúng sanh. Và đó là tiếng đàn linh diệu, v́ nó phản ảnh một Chơn lư muôn đời, và Chơn lư của muôn loài trong vũ trụ: “lấy ác đối ác, th́ sẽ không bao giờ thành công:  lấy từ bi đối ác th́ mới mong thành đạt được”.

Cây đàn linh diệu của Orphée

      1.                        Rừng u tịch, cây rừng cao ṿi vọi,

                                  Lá cành xao, nặng trĩu một mùi tanh…

                                  Thú rừng đang khát máu chạy loanh quanh

                                  Chực vồ xé, mồi tan thành mảnh nhỏ.

 

      2.                        Đây thần hổ lượn ḿnh qua sắc đỏ

                                  Gầm vang lên chuyển động gió tưng bừng,

                                  Gầm vang lên khủng khiếp cả khu rừng

                                  Trong sát khí, máu hồng lai láng chảy

 

      3.                        Ḱa sư tử vung nanh lồng lộng nhảy….

                                  Mỗi bước chân giết hại một đàn hươu !

                                  Mỗi bước chân gieo rắc vạn căm thù !

                                  Lấy thịt sống, máu tươi làm bản thú [[3]]

 

4.                      Rừng xào xạc, đàn voi về cả lũ

                                Cùng gấm beo, heo gấu nặc mùi hôi…

                                Chúng lùa qua, lượn lại bắt hơi mồi…

                                Gầm hét lớn, bẻ cành xao động lá…

 

5.                     Cảnh hỗn độn muôn tràng rơi rộn –ră…

                         Rừng âm ư thành tử địa vô h́nh !..

                         Rừng hoang vu chưa lọt điệu đàn linh

                         Nên ác thú vô t́nh xâu xé măi !

 

6.                     Rồi một sớm, Ô phe dừng bước lại…

                         Tưởng rằng đây suối mộng chốn Đào Nguyên,

                         Tưởng rằng đây cung điện của muôn tiên, 

                          Đang mơ đẹp, thú rừng san sát dội !

 

7.                      Chàng b́nh tĩnh, không vội vàng bối rối,

                          Không dùng gươm, dùng súng diệt phe thù,

                          Chỉ dùng đàn linh diệu tận thiên thu,

                          Đàn minh triết, khoan dung và bác ái.

 

8.                      Thú gầm dữ, chàng không buồn sợ hăi,

                          Thong thả đưa ngón ngọc vuốt đàn linh,

                           Nh́n trời mây, vui hát với b́nh minh,

                           Nghêu ngao dạo tiếng đàn trong gió sớm.

 

9.                       Đàn theo gió lan vào ṿng ghê tởm !

                           Xé tan dần hắc khí chốn rừng u…

                           Dịu nguôi dần sát khí của phe thù,

                           Và ngân nhẹ trong tàn hương tuyệt diệu.

 

10.                     Đây là tiếng của cây đàn muôn điệu…

                           Có âm thanh cao vút diệu huyền say…

                           Có dư hương ngào ngạt suốt đêm ngày,

                           Dâng đến tận ngàn muôn vạn thuở.

 

11.                     Bỗng những tiếng hét gầm tan tác vỡ,

                           Loài thú cầm lũ lượt đến bên chàng…

                           Loài thú cầm im lặng lắng nghe đàn…

                           Phục quỳ xuống, ngất say mùi hương lạ.

 

12.                     Đàn đồng vọng xa xăm xuyên khóm lá…

                           Chàng Ô phê lửng thửng nhẹ lâng lâng…

                           Muôn thú rừng chen chúc bước theo chân,

                           T́m ánh sáng trên đồi, xa hắc ám.

 

13.                     Giờ đă hết cảnh tranh hung thê thảm !

                           Không c̣n nghe tiếng rú, tiếng đau thương

                           Không c̣n đâu mắt đỏ đứng bên đường

                           Lườm khách lạ chực xông vào xé xác !

 

14.                     Loài hổ báo chưa hẳn là độc ác…

                           Chỉ v́ chưa nghe được giọng siêu linh…

                           Chỉ v́ chưa nghe được tiếng vô thinh,

                           Và thưởng được huyền âm đàn linh diệu.

 

15.                     Nên mới phải sống cuộc đời nặng trĩu,

                           Măi quay cuồng trong lớp sóng đau thương !

                           Măi tương tàn, tương sát bến thê lương !

                           Nay mới được đàn Ô Phê cải hoán.

 

16.                     Đàn nương gió bốn phương t́m vạn bạn…

                           Vuốt ve êm như gió thoảng cung tiên

                           Gật gù say, dă thú bước hồn nhiên…

                           Theo song nhă của cung đàn linh diệu.

FONG HẢI

      Đức Mahâgourou đầu thai trong nhiều nhánh dân, khi th́ lấy xác thân Vyâsa, Hermès, khi lấy xác thân Zarathoustral và Orphée. Ngài dạy về Ánh sáng, Lửa và Âm Thinh. Tất cả đều tượng trương cho sự sống Duy Nhứt, cho t́nh Bác Ái tuyệt đối.

      Từ Hy Lạp, các đệ tử Ngài đi qua Ai Cập, và làm bạn với những nhà sư Ánh Sáng.  Có vài người lại c̣n đến Java lập nghiệp nữa.

       Gần 7.000 năm sau, Đức Mahâgourou đầu thai tại Ấn Độ lần chót, trong ḍng vua chúa, lấy xác thân của Thái Tử Sĩ Đạt Ta, tu đắc quả Phật (tức là Phật Thích Ca).

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI LĂM

Người Teutons 20.000 năm trước Chúa Giáng Sinh

 

   Trở lại 20.000 năm trước Chúa Giáng Sinh, ta thấy rằng: nhánh thứ năm sanh ra đồng thời với nhánh thứ tư, nhưng cách khác hơn. Đức Bàn Cổ chọn một ít người tốt đẹp, da trắng, vóc cao, cho ở riêng biệt nơi trũng núi, xa với Thành Bông “Ville du Pont”. Ngài bèn đầu thai làm con cháu mấy người ấy. Nhưng mỗi lần Ngài đầu thai, th́ Ngài đổi h́nh dạng tốt đẹp hơn, cho tới chừng nào giống với h́nh kiểu mẫu của Ngài phóng ra mới thôi.

      Chi nên người thuộc về giống dân nhánh thứ năm Aryen, th́ rất mạnh mẽ, rất bền dẻo, và lớn hơn người nhánh thứ tư. Vóc cao, da trắng, đầu hơi dài, tóc vàng, mắt xanh. Nhánh thứ năm Aryen rất khác với người Celtes (thuộc về nhánh thứ tư). Người Teutons cứng đầu, nhẫn nại, thực tế hơn là mơ mộng.

      Nhánh thứ tư và thứ năm Aryen từ giă trũng núi một lượt lúc 20.000 năm trước Chúa Giáng Sinh. Họ đồng đi qua xứ Ba Tư (Perse).

      Nhánh thứ năm, ít hơn, đi dài theo mé biển Caspienne, rồi lập nghiệp tại Daghestân, trong mấy ngàn năm. Họ sanh sản thêm rồi tràn qua triền bắc núi Caucase chiếm khu Terek và Pouban. Nhánh nầy một ngày một mạnh, nên 1.000 năm sau Địa Chấn 9.564 trước Chúa Giáng Sinh họ xâm chiếm thế giới. Nơi miền trung Âu châu bấy giờ có nhiều đầm đ́a ở không đặng nữa. Người ta mới di cư lên tây bắc đến Cracovie tại xứ Bồ Đào Nha (Pologne). Họ ở đó nhiều thế kỷ, chính tại Cracovie (Pologne) mà nhánh thứ năm mới chia nhiều tốp di cư. Tớp Slavons đi qua Nga. Tớp Croates, Serbes và Bosniaques đi xuống phía nam. Tớp Lettons đi không xa. Tớp Germains đi qua Đức Quốc: người miền Nam gọi là Goths và Scandinaves.

      Lịch sử hiện đại chỉ cho ta thấy người Scandinaves đi xuống Normandie, c̣n người Goths lại sang miền Nam Âu Châu. Nhánh thứ năm Aryen cũng tràn lan qua Úc Châu, Bắc Mỹ Châu. Nam Phi Châu và Ấn Độ là gốc của giống dân chánh thứ năm Aryen.

Chữ “Bí Mật” của giống dân chánh thứ năm Aryen là “OM” và chữ “Bí Mật” của giống của giống chánh thứ tư Atlantide là “Tau”. Người ta cho biết rằng: mỗi giống dân chánh đều có một chữ bí mật riêng, nhưng nếu hiệp lại th́ thành lời “Sấm Thiêng Liêng”. Mỗi giống dân chánh phải tập mở một đức tánh đặc biệt. Đức tánh đặc biệt của giống dân chánh thứ năm Aryen là “Manas”  nghĩa là “Trí tuệ” mà người Ấn Độ gọi là “Chit ”.

  

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI SÁU

Nhánh thứ sáu Aryen

 

      Nhánh thứ sáu của giống dân chánh thứ năm Aryen đă khởi sanh tại Úc châu và Californie (ở Mỹ Châu) nhưng chỉ một thiểu số thôi. Nhiều vị nhơn viên Hội Thông Học đầu thai trong nhánh thứ sáu nầy, mặc dầu có những vị bằng ḷng ở trong nhánh thứ năm, để giúp đồng loại tiến hóa.

      Tự nhiên, một nhánh dân phụ, mới sanh ra, cần phải sửa đổi h́nh thể cho thanh đẹp hơn. Đức Bàn Cổ rán sức sửa đổi xác thịt trẻ em. Có nhiều vị đệ tử Tiên lâm phàm, đầu thai trong gia đ́nh đạo đức để lo về đức dục và trí dục của họ cho hạp cơ tiến hóa. Cái trách nhiệm của các Ngài thật là lớn lao! Các Ngài rán làm sao cho các giống dân của các Ngài thực hiện đặng t́nh Huynh đệ Đại đồng và ḷng Bác Ái để đi đến “Trực Giác”. Sự làm việc nầy tiến triển rất chậm chạp, nhưng trong vài thế kỷ tới, nhánh thứ sáu sẽ tỏ rạng, đáng làm Đàn Anh của Nhơn loại. H́nh vóc họ càng ngày, càng đẹp đẽ, điều ḥa, dù nam nhi hay phụ nữ. Tóc họ đen hay vàng, mắt xanh hay đen, tay chơn tuyệt đẹp, mũi cao đều đặn, nét mặt thanh kỳ, da trắng hồng hào.

      Trẻ con của nhánh thứ sáu Aryen có dồi dào thiện cảm, và ḷng từ bi trước sự hoạn nạn của kẻ khác. Chúng nó sẵn sàng giúp đỡ và hy sinh. Chúng nó ưa sự thật và hiểu một cách mau lẹ không sai chơn lư. Chúng nó rất công b́nh, chánh trực. Nhánh thứ sáu Aryen tỏ dấu ghê tởm trước đồ ăn bằng thịt máu.

      Đặc tính của giống dân nhánh thứ sáu là sẵn sàng hiệp nhứt với người trong ṿng huynh đệ. Mà muốn thực hiện t́nh huynh đệ, th́ phải có hai đức tánh cần kíp là; ḷng nhơn ái và t́nh hy sinh. Nhánh thứ sáu Aryen đang đổi hạ trí ra thượng trí: bởi v́ chỗ nào có hạ trí, th́ chỗ ấy chia rẽ; c̣n thượng trí luôn luôn hướng về hiệp nhứt. Tất cả cái ǵ hẹp ḥi, nhỏ mọn, hay quá lố, tất cả cái ǵ chia rẽ người nầy với người kia, đều là sái với đặc tính của nhánh thứ sáu.

      Giống dân nầy có bộ óc rất mảnh mai, nên dễ cảm xúc, dễ bị đụng chạm do hoàn cảnh bên ngoài. Một đứa trẻ sẽ đau đớn nhiều, nếu xung quanh nó có những lằn rung động xấu xa. Chi nên người giống dân mới, cần phải có một hoàn cảnh an lành, thanh nhả và vui tươi, cũng như hoa hường vi cần phải có miếng đất phù hạp đặc biệt mới nẩy nở được, chớ chẳng phải như cỏ dại chỗ nào cũng mọc, dù là trong kẹt đá hay chốn đồng hoang. Những cuộc đấu tranh, những đẳng cấp xă hội, những sự cạnh tranh thương măi, đều hại cho sự phát triển của bộ óc thanh bai của giống dân mới tiến hóa.  Vậy người cha mẹ nào hiểu Đạo, nên đào tạo hoàn cảnh điều ḥa, an ninh cho sự phát triển tinh thần của con cái ḿnh.  

      Ngành hoạt động của người nhánh thứ sáu là quay về sự HIỆP NHỨT, để đem lại sự hoà khí cho một số đông người, chớ chẳng phải để cai trị và cưỡng chế, bắt kẻ khác phải tuân lịnh ḿnh. Những nhà lănh tụ của họ dắc dẫn quần chúng, chẳng phải bằng ư chí, mà bằng t́nh thương, tính thiện cảm và lư hiểu biết. T́nh thương là biểu hiệu sức mạnh. Nó chỉ ḥa với người, và làm việc chung với người, chớ không phải để chống lại. Nhánh thứ sáu có tính tổng quát, và có biệt tài gom tất cả cái ǵ dị đẳng, để ḥa hiệp lại một đơn vị bất khả chia ly.  

      Sự nóng nảy của người nhánh thứ năm sẽ trở thành tính yêu đương, và ḷng bảo bọc của người nhánh thứ sáu. Sự thương xót ngoài đầu môi chót lưỡi không đem lại điều tốt đẹp, mà nó là tấm màn giả dối; nó chẳng phải là sự thương xót thật sự, v́ sự thương xót thật sự xui con người giúp đỡ và hy sinh một cách sáng suốt và hiểu biết.

      Nhánh thứ sáu Aryen c̣n có vài phép linh nhờ hạch giữa hai mắt của họ nở lớn, khiến cho họ tri thức đặng tánh cái vía của người khác.

      Tóm lại, họ sẽ đi đến trực giác và sự Minh triết một cách dễ dàng. Chúng ta nói ở trước rằng: nhiều người Hội viên Thông Thiên Học thuộc về nhánh thứ sáu Aryen, bởi v́ hội Thông Thiên Học phù hạp với sự tiến hóa của họ. Mụch đích Thông Thiên Học chẳng phải lo mở hạ trí con người, mà nó lo mở thượng trí để đi đến Bác Ái.  Nếu có t́nh thương thực sự, th́ mới đi đến Huynh đệ Đại Đồng đặng.

      Hiện nay nhơn loại đă tiến đến nhánh thứ sáu Aryen là tột bực, nhánh thứ bảy Aryen chưa ra đời.

  

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BẢY

Nói về giống dân chánh thứ sáu Và thứ bảy ở tương lai

( Lời tiên tri của Ông C.W. Leadbeater    nhà có nhăn quang )

       Theo bản đồ khái quát, đă vẽ ở trước, hễ nhánh thứ sáu của giống chánh thứ năm ra đời, th́ Đức Bàn Cổ khởi sanh ra giống dân chánh thứ sáu.

      Giống dân chánh thứ sáu nầy sẽ chiếm một Châu riêng biệt. Nó sẽ ở từ Thái B́nh Dương nổi lần lên. Trong nhiều ngàn năm sau nầy, Bắc Mỹ Quốc sẽ chia ra từ khoảnh.  Miếng đất miền Tây (Californie) (mà giống dân thứ sáu sẽ cư ngụ) ở ném về miền đông của Châu mới nổi lên. Đó là tương lai.

      Trong khi giống dân thứ sáu đang sanh, th́ giống dân chánh thứ năm sẽ tiến hóa tuyệt đích; nhơn loại sẽ biết đặng thời kỳ vinh quang và tất cả thế giới đều lưu tâm đến giống dân ấy. Thần “Mars”, mà ta nói ở trước, hiện nay là Đức Đế Quân Morya sẽ trở nên Đức Bàn Cổ của giống dân chánh thứ sáu, và Thần “Mercure” hiện nay là Đức Đế Quân Kout Houmi, và Ngài sẽ là Đấng Bồ Tát sau nầy.

      Hội Thông Thiên Học, ngoài ra tôn chỉ chánh đại của nó là sưu tầm những chơn lư của khoa Pháp Môn huyền bí, sẽ có nhiệm vụ gom vào ḷng nó những người thiện tâm, thiện chí (có ít nhiều đặc tánh cần kíp) để giúp đỡ Đức Bàn Cổ Morya sau nầy lập ra giống dân chánh thứ sáu. Vậy ai là người Thông Thiên Học ngay bây giờ phải cần đào luyện ḿnh, một cách kỹ lưỡng và nghiêm khắc. Muốn vậy, trước nhứt phải biết hy sinh và tin cậy nơi sự Minh Triết của các nhà lănh tụ.                             

      Những học giả khoa Pháp Môn cho rằng: người ta có thể dùng nhăn quang biết đặng tương lai một cách rơ rệt và có khi với nhiều chi tiết. Ông Giám Mục C.W. Leadbeater có nhăn quang quả quyết rằng: “Với nhăn quang, ông có thể thấy rơ cách sanh sản đại khái của giống dân chánh thứ sáu sau nầy. Trong quyển “L’homme d’où il vient,où il va”. (Con người ở đâu đến và đi đâu?) ông có miêu tả một cách lư thú và đầy đủ. Chúng ta xin toát yếu lại sau đây: [[4]] 

   Giống dân chánh thứ sáu sẽ tràn lan tại Californie trong 700 năm nữa. Nước ấy trở nên to lớn hơn và tốt đẹp hơn. Đức Bàn Cổ và những vị đệ tử Ngài sẽ đầu thai làm người lănh tụ. Các Ngài sẽ cất nhà cửa lầu đài, lộng lẫy và mỹ lệ hơn bây giờ. Chính giữa thành sẽ có một đền thờ, xung quanh có lối 400 biệt thự rộng răi để làm nơi nhóm hợp, làm thơ viện và bảo tàng viện. Người ta sẽ để nhiều máy móc phức tạp và tập làm những vật nhu cầu, chớ không cần phải mua ở ngoại quốc. Những đoàn người tần hóa nầy sẽ liên lạc với hoàn cầu và t́m “biết những sự phát minh mới mẻ của thế giới.

      Đức Bàn Cổ sẽ tự ḿnh xuống đầu thai trong giống dân ấy đặng sửa chữa cho thêm tốt đẹp về vật chất, lẫn tinh thần, y theo h́nh kiểu mẫu của Ngài đă vẽ sẵn trong trí.  Lối 500 năm về sau, giống dân chánh thứ sáu sẽ được 100.000 người mà hầu hết đều là con cháu chánh thức của Đức Bàn Cổ. Đức Bàn Cổ sẽ có 12 người con, mỗi người sanh vào một trong 12 cung Hoàng Đạo. Con đông là luật chung của giống dân ấy và không có trẻ em nào chết cả.

      Khu nộp thuế cho chánh phủ, rồi chánh phủ để ‘khu’ tự quyền hoạt động. Dân sự ngoài đời thấy thái độ của nhóm dân kiểu mẫu ấy rất kính trọng: v́ họ cho là tốt đẹp, mặc dầu có vài phần tử lánh trần kỳ dị. Người trong “khu” được phép viếng thăm bạn tác ngoài xă hội, nhưng không được phép cưới hỏi người ngoài “khu”, cốt yếu để chọn giống ṇi.

      Nhũng người trong “khu” là một giống người được tuyển chọn hết sức kỹ. Họ hiểu thật rơ những ư niệm của nhà lănh tụ của họ là Đức Bàn Cổ, nên hy sinh phụng sự Ngài trong việc tạo một giống dân mới. Họ tin cậy Đức Bàn Cổ hoàn toàn và sẵn sàng bỏ những ǵ thuộc về cá nhơn để làm theo ư Ngài.

      Quyền lực của Ngài tuyệt đối. Dưới tay Ngài có 12 đệ tử cao cấp, mà một vài vị đắc quả Chơn Tiên. Tất cả các Ngài đều lo cho giống dân mới được tốt đẹp.

      Không có lính cảnh sát, toà án, ngục tù: v́ không có một ai phạm tội sát nhơn, hay cướp bóc, hoặc hung dữ. Chỉ có một cách trừng phạt, nếu ai có phạm lỗi, là trục xuất họ ra khỏi “khu”. Nhưng không một ai phải lâm vào cảnh đó. Mỗi người đều mở đặng ít nhiều thần thông, nên nhận định đặng vai tuồng trọng hệ của ḿnh trong bàn cờ Tạo Hóa, dưới sự chỉ huy sáng suốt của các nhà lănh tụ thiêng liêng.

      Người ta sẽ dùng Thông Thiên Học làm vấn đề luận bàn đạo lư. Có nhiều điểm Thông Thiên Học, mà ngày nay ta không hiểu, sẽ hóa ra dễ dàng cho giống dân chánh thứ sáu như: bên kia cửa tử, và những cơi hư không, đều là sự thực nghiệm của hầu hết mỗi người. Một vài người lo học triết lư cao siêu hay là khoa siêu h́nh học; nhưng phần đông tỏ ḷng mộ đạo trong các đền thờ (sẽ tả về sau). Họ rất thực tế; đối với họ th́ tôn giáo và khoa học đều thích hợp với nhau, chớ không đối chọi lẫn nhau; cả hai đồng đi đến mục đích chung là: Phụng Sự. Nhiều người, mỗi buổi sáng, đều làm lễ “Mặt Trời” họ cho mặt trời là tượng trưng Đức Chí Tôn, chớ chẳng phải v́ họ sợ.

      Nhiều vị Thiên Thần ở xung quanh họ, và ưa cộng tác với họ. Nhờ điễn lực và lời cảm dụ của Thiên Thần, mà họ tấn hóa mau lẹ. Đức Đế Quân Kout Houmi sẽ lănh nhiệm vụ làm nhà sư kiểm soát về Tôn Giáo và Giáo dục. Có 4 đền thờ chánh thuộc về Tứ Đạo là: Bác “Ái, Hy Sinh, Thiện Cảm và Trí Tuệ, với mục đích là mở nơi người cái đức đồng tính dễ cảm thông đến Thượng Đế. Mỗi đền thờ đều có trách nhiệm đặc biệt. Tỷ như đền thờ Bác Ái, th́ tất cả nghi lễ đều có mục đích mở t́nh Bác Ái của tín đồ: người ta dùng những vật dụng có màu Bác Ái là màu hồng sậm (Cramoisi). Sự rung động của màu khiêu gợi một cách vô h́nh t́nh thương vô tư của những người xung quanh.  

      Đền thờ Bác Ái cất kiểu ṿng nguyệt, có một phần nóc không lợp ngói. Những tín đồ ngồi dưới đất nhắm mắt lại, tưởng trong trí những màu sắc thuộc về Bái Ái. Mỗi người tưởng theo thứ tự những màu đă định trước. Điều nầy thế cho sự đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, hầu cho tâm trí yên tịnh điều ḥa với hoàn cảnh bác ái. Trong lúc ấy, luôn luôn có Thiên Thần hiện ra chói ngời, mặc y phục màu đỏ sậm, đứng chính giữa thánh điện. Thiên Thần hóa ra một dải màu chói trên đầu ḿnh để tượng trưng tư tưởng Bác Ái.

      Mỗi tín đồ nhớ kỹ dải màu tốt đẹp ấy, và rán dùng tư tưởng tạo ra trước mặt ḿnh một dải màu khác nhỏ hơn, nhưng giống hệt; Thiên Thần mới đem thần lực ḿnh mà tăng cường đức tánh của tín đồ. Một khi vị Thiên Thần hữu trách hiện ra, và đem thần lực ḿnh ban rải cho toàn thể, th́ tự nhiên các Thiên Thần khác ở cơi cao cũng hiệp lại phóng một luồng từ điễn, từ cơi Thượng thiên xuống phàm trần, hóa thành một vầng hào quang bao trọn đền thờ và nhơn vật, khiến cho ai nấy đều có T́nh thương vô tư dồi dào. Vị Thiên Thần hữu trách bèn gom tất cả làn sóng yêu thương trong sạch ấy làm thành một luồng Bác Ái vô cùng vĩ đại, ḥa nhịp với Trạng Thái Bác Ái của ngôi Thái Cực. Tức th́ ngôi Thái Cực hạ thần lực xuống cho những vị cầm đầu để tung rải ra khắp nơi, khắp chốn. Đó là cách hành lễ hằng ngày trong đền thờ của giống dân chánh thứ sáu. Cái ảnh hưởng quư báu và thiêng liêng chẳng những cảm đặng mấy vị tín đồ mà c̣n lan ra vùng lân cận.

      Trong lúc làm lễ người ta đốt trầm, hương bảy thứ khác nhau, mục đích để kích thích cái phách của tín đồ.

      Trong đền thờ màu xanh dợt thuộc về sự hy sinh người ta dùng âm thinh để cảm hóa chớ không dùng màu sắc. Mỗi tín đồ đem theo cây đờn của ḿnh đă được nhà sư ban điễn lành. Cây đờn ấy giống như cây phong cầm tṛn, dây làm bằng chỉ bạc hay bằng thứ kim khí chói. Người ta đờn để rút thần lực cơi trên. Hoàn cảnh đều thấm nhuần từ điển của thần Âm nhạc. Mỗi mọi tiếng đờn trổi lên là một tâm linh rung động ḥa nhịp với Mỹ Lệ và Điều Ḥa của Trời Đất. Nghi lễ của đền thờ xanh dợt là làm cho kích thích cái vía và thể bồ đề của tín đồ.

      Đền thờ vàng thuộc về trí tuệ. Những nghi lễ cốt nhất là tạo ra h́nh Tư Tưởng để sửa đổi hạ trí và kích thích chân thân (corps causal). Thượng trí của tín đồ được kích thích cực độ, khiến cho họ mở trực giác mau lẹ. Có nhiều người trong lúc hành lễ, hồn xuất ra khỏi xác, có người lại bước liền qua đại định. 

      Trong đền thờ ấy người ta cốt nhất là lo mở ư chí của tín đồ; v́ ư chí có mănh lực to tát đối với óc của xác thịt.

      Đền thờ xanh lá cây thuộc về t́nh thiện cảm. Tín đồ thực hành phép Karma Yoga (nghĩa là đi đường thiêng liêng bằng sự làm vô tư).

      C̣n đền thờ xanh dợt và đỏ sậm chỉ con đường Bhakti Yoga (là con đường đi đến Trời bằng sự tôn thờ, kính tin).

      Đền thờ vàng chỉ con đường Jnana Yoga (là con đường mở trí tuệ).

      Những tín đồ trong đền thờ xanh sậm (lá cây) hành lễ có tư cách liên quan với thực tế. Người trên đường đó có ư niệm giúp đỡ kẻ trần bằng nhiều cách khác nhau.  Lại nữa tín đồ đền thờ nầy có thể viếng đền thờ kia, không chút ǵ ganh tỵ. Một vài người không đến đền thờ nào cả; nhưng không v́ lẽ đó mà họ bị cho là không đạo đức hay thấp kém. Mỗi người đều hoàn toàn tự do hành động.

      Ta biết rằng Đức Đế Quân Kout Houmi [[5]lo một lượt về tôn giáo và giáo dục.  Ngài đi viếng các đền thờ và thường thay thế cho vị Thiên Thần hữu trách.

      Trong “khu” người ta cho vấn đề giáo dục là trọng hệ nhất. Muốn đạt mục đích, người ta dùng tất cả vật phụ thuộc: như màu sắc, ánh sáng, mùi hương, âm thinh, h́nh thể và điện khí. Thiên Thần hữu trách về giáo dục dùng những đội binh tinh linh (esprits de la nature) tấn hóa trong vơ trụ. Những giáo sư nam, nữ đều có nhăn quang.  Những vị Thiên Thần thường hiện h́nh đặng dạy học.

      Người trong “khu” thác rồi, th́ đầu thai lại liền. Nhiều người nhớ lại kiếp xưa, chi nên trẻ em tuổi c̣n thơ mà đă nhận định đặng tôn chỉ và trách nhiệm của “khu”.  Người ta thường dùng bửu bối đặng giúp trẻ nhớ lại dĩ văng.

      Trong đền thờ người ta có dành riêng một cuộc hành lễ cho trẻ con. Trong lúc ấy, chúng nó ca hát, đờn và múa. Chúng nó có khi cũng đóng tṛ làm dăy hành tinh cử động xung quanh mặt trời. Chúng nó thích chơi như vậy lắm và cũng không quên rằng: ḿnh đang hành lễ theo tôn giáo. Trẻ con c̣n tập một điệu múa lạ lùng, khiến khi ḍm vào, người sẽ thấy sự sống của Bầu Nhựt Tinh truyền sang qua dăy Địa Cầu.  Người ta dạy trẻ con về Đạo lư bằng những cuộc chơi tôn giáo. Trẻ con ăn mặc đồ dịu và chói, để múa hát những điệu nghê thường tuyệt diệu và rất khó tập. Đức Bàn Cổ làm thế nào mà giáo dục và tôn giáo ḥa hợp, khắn chặt với nhau. Người thuộc về giống dân chánh thứ sáu sẽ không bịnh hoạn. Hầu hết đều chết già. Nhiều người sống trên trăm tuổi và trước 80 chưa thấy vẻ già nua. Thường thường người ta chết là tự ư muốn bỏ xác, khi thấy xác ḿnh hết hữu ích nữa, chớ không phải tự nhiên mà chết như người bây giờ. Khi một người trong “khu” thấy xác ḿnh già yếu và vô dụng, mới đi t́m một người cha và một người mẹ tương lai (thuộc về kiếp tới). Nếu hai người nầy ưng thuận, th́ kẻ sắp chết giao cho họ một cái bửu bối thấm nhuần từ điển của y, thường là một món nữ trang, và quần áo mà y muốn có lại trong kiếp sau. Đoạn y dọn ḿnh bước qua âm cảnh. Y nhắm mắt lại, tỏ ư muốn chết, th́ trong giấc ngủ y ĺa khỏi xác một cách êm ái, an lành không chút ǵ đau đớn. Thường y đến nhà cha mẹ tương lai của y đă chọn đặng chết.

      Người ta không cử hành đám táng; cho chí thân bằng, quyến thuộc cũng không đến dự: “v́ người ta cho sự chết là thường, tỷ như chiếc áo mặc vào, cổi ra, có chi là lạ? Xác chết nhờ “chất toan thủy và một thứ điễn lực, giống như điễn khí, làm tiêu tan ra tro bụi. Giống dân “chánh thứ sáu tự ư chọn lựa hoàn cảnh đầu thai của ḿnh. Rất ít khi Đức Bàn Cổ xen vào.

      Kẻ làm cha mẹ thường lập thế có 10 hay 12 đứa con mà phần nhiều số nam bằng số nữ. Có khi hai năm sanh sản một lần và sanh đôi, sanh ba không ít. Không có đứa nào bị tàn tật cả. Người sản phụ dường như không đau đớn ǵ.

      Đời nay, người ta v́ ái t́nh mà cưới nhau, chớ giống dân chánh thứ sáu lại để bổn phận đối với “khu” trên hết. Các thú tính dâm dục không hề có. Người ta cốt yếu có vợ chồng để tạo ra con cái, chính đó là điều Đạo Lư phải làm. Người ta chỉ được cưới hỏi nhau là khi nào Đức Bàn Cổ bằng ḷng. Rất lắm khi, một cặp vợ chồng chưa cưới hỏi nhau mà đă có vài ba linh hồn chực hờ đầu thai. Không bao giờ có sự để bỏ giữa vợ chồng. Sự ngoại t́nh và đa thê chẳng hề có.  

      Điều hạnh phúc nhất là được sanh trong gia đ́nh Đức Bàn Cổ mà chính tự tay Ngài chọn lựa con cháu Ngài.

      Người thuộc về giống dân chánh thứ sáu, th́ da trắng, tóc sậm, mắt sậm, vóc cao lớn lối 1 thước tám, đờn bà cũng cao bằng đàn ông, thân h́nh đều đặn, dịu dàng xinh đẹp. Mỗi tiểu “khu” có đền thờ, trường học, công đường riêng: Nhà cửa thường cất trong vườn rộng răi, tối không đóng cửa: v́ chẳng trộm cướp. Mái nhà thường tṛn, đủ kiểu, và đủ cỡ. Nhà không có góc: v́ pḥng tṛn hay có h́nh bầu dục. Trong nhà đâu đâu cũng chưng bông và h́nh tượng. Tối lại trên mái nhà tṛn thấp đèn sáng trưng, đổi màu xanh, đỏ tự ư.

      Nhà có rất ít bàn ghế. Người ta ngồi hay nằm trên gối để dưới đất có lót gạch bông hay cẩm thạch; áo quần giản dị mà đẹp đẽ giống với y phục của người Ấn Độ hay người Hy Lạp.

      Giống dân chánh thứ sáu ăn chay ṛng. Họ thường ăn trong nhà hàng nóc trần.  Người ta ăn trái rất nhiều. Người ta lọc nước biển một số khổng lồ để làm nước uống mát rất giải khát.

      Trọn cả đời sống đều thấm nhuần mỹ thuật: mỗi một vật dụng nhỏ mọn nào cũng đều được tạo tác với mỹ thuật. Không có hát xướng, v́ hát xướng được xem như đồ chơi của trẻ con. C̣n những điệu múa, th́ chỉ để hành lễ trong đền thờ, chớ chẳng phải là một tṛ giải trí.

      Phụ nữ cũng như nam nhi đều thích tập thể thao. Những vị tinh linh giúp giống dân nầy rất nhiều. Chính các vị nầy đem thiên lịnh truyền xuống, mà thường thường truyền cho con nít tiếp dễ hơn người lớn.

      Người trong “khu” làm đủ vật nhu cầu để tự sống. Một hai khi muốn mua đồ nước ngoài, th́ họ dùng phép kim đơn mà tạo ra tiền bạc và nữ trang để trả hàng ngoại quốc như sách vở, đồ mỹ nghệ v.v. bởi v́ trong xứ họ không dùng tiền đổi chác. Mỗi người tự do chọn lựa việc làm của ḿnh trong sự ích lợi chung. Sau ngày làm việc, người ta lănh những tấm bông (bon) dùng để đổi đồ vật thực v.v…Máy móc làm rất tinh vi, không nghe tiếng động. Thường thường mấy cô gái dệt hàng vải với máy dệt chạy êm ru. Nhà máy sạch sẽ tinh khiết như nhà ở. Tất cả máy đều tự động khỏi cần người điều khiểu, cho chí sự nấu ăn cũng khỏi cần người: cứ bấm nút là có đồ ăn nấu chín đưa ra vừa ư ḿnh.  

      Không có việc làm nào dơ bẩn và thô bỉ cả. Người ta không làm nghề mỏ: v́ có thể lấy phép kim đơn mà tạo ra kim khí. Với kim khí nhân tạo người ta trộn thành nhiều chất khác nhau. Tất cả nghề canh nông nhờ máy tự động làm cả, khỏi ai điều khiển, cho đến nỗi máy móc tự tạo ra máy móc, không cần người. Khỏi cần đổ rác, v́ mỗi nhà có “máy biến chất” bằng hóa học đổi đồ dơ ra tro. Không có ai ở mướn và cũng không ai cần có người ở mướn nữa: V́ không có chi phải nhờ họ làm. Nếu cần, người nầy nhờ lẫn người kia.  

      Không có ai có tài sản riêng cho ḿnh, bởi v́ luật của “khu” là phát bông (bon) cho những người làm việc để đổi vật dụng. Đường sá rất rộng răi, lót đá tốt, nghè láng như cẩm thạch. Có nhiều đường đổ đá hường, đá xanh lá cây dợt. Mỗi bữa sáng người ta đổ nước ngoài lộ tràn trề, thành thử đường không có chút bụi. Bởi đâu đâu cũng sạch sẽ, lót đá và trồng cỏ xanh mềm, nên dân sự đều đi chơn không. Luôn luôn trước cửa ngơ mỗi nhà đều có một bồn nước để rửa chơn cho mát trước khi vào nhà.

      Mỗi nhà đều có thứ xe nhẹ nhàng làm bằng kim khí giống như xe của bịnh nhân dùng; bánh bằng cao su nhỏ chạy rất mau và êm. Máy th́ là một b́nh hơi do nhà máy “xạt” (charge) đầy. Không có xe hàng to, người ta dùng máy bay chở đồ. Người ta không cần đi máy bay để du lịch: v́ mỗi người có thể tự xuất vía, đi đây, đi đó dễ dàng, trong nhà trường có dành một lớp để dạy xuất vía.

      Khí hậu của xứ thật tốt, dường như trọn năm không có mùa đông. Bông đủ màu, đủ thứ, trồng khắp nơi nhiều thứ cây có trái. Tất cả xứ đều đào mương, xẻ rạch cho nước lưu thông. Người ta trồng nhiều thứ cây có trái; cho đến đỗi cây hạp với miền nhiệt đới cũng trồng đặng nữa: v́ người ta xịt hơi nóng vào.

    Lúc giống dân chánh thứ sáu ra đời phồn thạnh, th́ toàn cả thế giới đều tiến hóa nhiều. Đức Giáo chủ sẽ ra đời và các Tôn giáo hiệp lại làm một Tôn giáo duy nhứt.  Trên điạ cầu sẽ có một nền chánh trị chung và không c̣n ai nghèo nàn hay bị áp chế.  Cảnh giặc giả sẽ không có nữa. Có một thứ tiếng Quốc tế là tiếng Anh, nhưng viết bằng nét mau lẹ như chữ tốc kư. Nền văn minh thực sự thấm nhuần thế giới, thành  thử không c̣n ai được xem là kẻ man di. Mỗi nước đều giữ nước ḿnh với vẻ đẹp của nó, không c̣n tính xâm lấn ai. Họ hoàn toàn tin cậy lẫn nhau, do đó mà t́nh huynh đệ đại đồng được thực hiện rơ ràng.

      Tôn giáo duy nhứt sẽ phát triển rất mạnh mẽ. Tôn giáo và khoa học tương trợ lẫn nhau và bắt tay nhau cùng đi tới một mục đích chung là giúp nhơn loại tiến hóa.

      Bởi không c̣n kẻ nghèo, nên các cơ quan phước thiện trở nên vô dụng.

      Chừng ấy xứ Ấn Độ sẽ không c̣ nạn đói nữa. Sự phân chia giai cấp sẽ dứt hẳn.

      Xứ Thibet được lưu thông dễ dàng. Hội Thông Thiên Học sẽ phát triển mạnh mẽ.  Hội sẽ chỉ lo thực hiện hai mục đích chót mà thôi, v́ mục đích thứ nhứt đă gần đạt đặng. Hội sẽ có một cái Đại học học đường tại trung ương với nhiều chi nhánh rải rác khắp hoàn cầu. Tổng bản dinh của Hội Thánh Thông Thiên Học tại Adyar sẽ thay thế bằng một dinh thự lớn, với nóc tṛn to. Trong dinh sẽ có một pḥng để luyện kim đơn, Quyển “Giáo Lư Nhiệm Mầu” (La “doctrine secrete) sẽ c̣n tồn tại và người ta sẽ dịch nó ra bằng một thứ tiếng quốc tế. Hội sẽ sản xuất nhiều sách vở về Đạo Lư ngh́n xưa.  Adyar sẽ c̣n là nơi thánh địa và khách viễn phương cũng tiếp tục lui tới viếng thăm, ông Olcott sẽ đầu thai tại Californie (Mỹ quốc) làm việc dưới sự chỉ huy của Đức Bàn Cổ; ông sẽ là Chánh Hội Trưởng danh dự của Hôi Thông  Thiên Học sau nầy. Ít nhứt hai năm ông đến viếng Adyar một lần. 

      Giống dân chánh thứ sáu đầu thai liền, sau khi tử, để làm nhiệm vụ cho mau rồi.  Mỗi lần đầu thai lại là mỗi lần gần giống với h́nh kiểu mẫu mà Manou đă vẽ sẵn trong trí Ngài. Đó là một công tŕnh cực nhọc để đúc nắn nhơn loại tương tợ với Trời.

      Mỗi người chúng ta đều có khả năng góp vào công việc đó. Điều chúng ta nói ở trước chỉ là buổi đầu của giống dân chánh thứ sáu mới ra đời. Chúng ta không biết c̣n bao lâu nữa xứ Mỹ sẽ bị địa chấn chia ra từ mảnh và nơi Thái B́nh Dương một Châu mới nổi lên, để làm nơi trú ngụ của giống dân chánh thứ sáu. Châu mới nầy sẽ nổi ngay chỗ Châu Lémurie sụp xuống biển từ ngàn xưa như ta đả nói trước.

      Tự nhiên là giống dân chánh thứ sáu sẽ có bảy nhánh. Khi nhánh thứ bảy của nó ra đời th́ giống chánh thứ bảy mới bắt đầu sanh ra.

      Giống dân chánh thứ bảy sẽ lo mở về “Sat” nghĩa là Trạng Thái Thượng Đế.

      Khi giống dân chánh thứ bảy đă sanh ra đủ bảy nhánh và đă làm tṛn phận sự, th́ trái đất chúng ta sẽ bắt đầu ngơi nghỉ như mặt trăng bây giờ, và tất cả sinh linh trên mặt đất đều chuyển sang qua bầu Thủy Tinh (Mercure). Đời sống trên bầu Thủy Tinh sẽ ít vật chất hơn ở bầu Trái Đất và nhơn loại tự nhiên sẽ có thần nhăn.

       Khi bầu Mercure ngơi nghỉ, th́ tất cả sinh linh đều sang qua bầu F. và G. (như đă nói ở trước). Hễ nhơn loại đầu thai qua bầu Mercure rồi, th́ cuộc tuần hườn thứ năm sẽ bắt đầu, rồi kế cuộc tuần huờn thứ sáu và thứ bảy. Khi hết cuộc tuần huờn thứ bảy, th́ dăy địa cầu chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Sinh linh sẽ chuyển qua dăy hành tinh kế đó.  

 

 

PHẦN THỨ BA 

VƠ TRỤ VÀ CON NGƯỜI

TIỂU THIÊN ĐỊA

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI TÁM

TIỂU THIÊN ĐỊA

Chơn thần giáng lâm

      Ở trước đă nói phớt qua về Chơn Thần; bây giờ ta hăy đi sâu vào vấn đề. Chơn Thần có thể gọi là: “đơn vị tinh thần” (unité de conscience) hay là “Điểm Linh Quang” của Thượng Đế phát sanh tại cơi Tối Đại Niết Bàn, mà trú tại cơi Đại Niết Bàn. Trước khi ngôi thứ ba tạo ra 5 cơi dưới, th́ ngôi thứ nhứt đă sanh ra Chơn Thần rồi. Thế th́ Chơn Thần là linh hồn vạn vật, đă được Đức Thái Dương Thượng Đế sanh ra trước khi lập thành Thái Dương Hệ (đồ h́nh số 33). Nó phải tiến triển ở tưong lai.

      Ấy vậy muôn triệu vạn ức linh hồn vốn do Đấng Duy Nhứt mà ra.

 

 

Quyển Giáo Lư Nhiệm mầu có chép một đoạn sách Phần Pháp Môn về những điểm Linh Quang như vầy: “ Hỡi Đệ Tử, hăy ngước mặt lên, con sẽ thấy trên đầu con một hay vô số yến sáng chói loà trên gầm trời đen tối, giữa đêm trường tịch mịch chăng ?”

“Bạch Sư Phụ, Đệ Tử trả lời, con cảm thấy một ngọn lửa với vô số tia sáng từ trong túa ra, cả hai vẫn không ĺa nhau”.

Ngọn lửa ấy là Đức Thượng Đế. C̣n những tia sáng là: những Chơn Thần. Nên lưu ư đến chữ không ĺa v́ nó chỉ rằng: “Chơn Thần vốn là Thượng Đế vậy”

Người ta có thể gọi Chơn Thần là hiện thân của Đức Thượng Đế tại cơi thấp.  Mặc dầu Chơn Thần được tự do hoạt động như một cá nhơn riêng biệt chớ Nó vẫn liên kết với Đức Thượng Đế bằng một đường quang tuyến phi thường.

Thông Thiên Học gọi là Chơn Thần là Jivàtmà, Kinh Samkya gọi là Purusha, kinh Phệ Đà (Védànta) gọi là Chơn ngă đặc biệt. Phật giáo gọi là Tâm Phật. Người ta c̣n gọi Chơn thần bằng nhiều danh từ nữa là:

      Nguơn Thần

      Chơn Như

      Tam giác nguyên thủy

      Khán quan yên lặng

      Cha ở trên trời.

Trong lúc Chơn Thần ở tại cơi Đại Niết Bàn chờ cơ hội thuận tiện để phóng tia xuống cơi dưới, th́ ngôi thứ ba lại làm việc không ngừng để tạo ra những miếng đất lành cho những cây quí hậu lai. Một khi ngôi thứ ba đă tạo ra cơ sở rồi [[6]và ngôi thứ nh́ đă dệt xong những h́nh thể, th́ Chơn Thần mới phân thân bằng cách phóng tia để đi sâu vào biển vật chất, nhập trong h́nh sắc đặng tiến hóa. Những tia sáng thiêng liêng ấy phải chinh phục vật chất và kinh nghiệm tất cả sự rung động của 5 cơi dưới.  Chúng nó phải đào luyện chất khí các cơi ấy, để làm những h́nh thể thích hợp. C̣n Chơn Thần luôn luôn ở trên cơi Đại Niết Bàn, chúng nó vẫn ở vĩnh viển trong ḷng Đức “Từ Phụ”. Mặc dầu, chúng nó có đủ đức tánh của Thượng Đế, nhưng chỉ trong thời kỳ phôi thai thôi; chúng nó cần phải trải qua “sự khổ để trở nên toàn thiện như Đức Từ Phụ vậy”.

 Kinh Corinthieu có nói rằng: “Mỗi Chơn Thần phải đi sâu vào vật chất, đặng làm chủ vật chất. Lúc giáng lâm th́ yếu, mà lúc trở về lại mạnh”.

 Toàn tri, toàn lực ở cơi Đại Niết Bàn, chớ ở mấy cơi dưới Chơn Thần lại vô tri, vô giác. Bởi muốn được toàn tri, toàn lực đủ các cơi, nghĩa là có thể đáp lại những sự rung động những cơi ấy, mà chơn thần phải phân thân học hỏi. Phải tự khoác trên tia sáng trong sạch của ḿnh những chiếc áo thô kịch của vật chất. Một khi tia sáng ấy đă hoàn toàn minh triết, th́ nó sẽ trở về nhập một với Chơn Thần trường tồn, thanh tịnh đời đời. Ấy là lúc con người đă đắc quả Toàn Giác.

 Có hai hạng Chơn Thần:

       A.    Một hạng không chịu chế phục vật chất ở cơi thấp, cứ ở tại cơi Đại Niết Bàn, cọng tác với Đức Thượng Đế mà thôi.

      B.    Một hạng t́nh nguyện xuống mấy cơi dưới để học hỏi và kinh nghiệm hầu chinh phục vật chất các giới, và trở nên những vị Thượng Đế mai sau.

Đây là con đường tiến hóa của Chơn Thần:

 

 

Chơn Thần nhập vật chất, nghĩa là bao bọc lấy ḿnh những chất khí các cơi mà nó phải đi ngang qua. Tỷ như đi ngang cơi trí là cơi (Thượng thiên) nó lấy chất Thượng Thanh khí mà làm ra cái thể trí (corps mental). Khi nó đi ngang cơi vía (là cơi Trung Giới) nó lấy chất thanh khí mà làm ra cơi vía. Khi nó đi ngang qua cơi trần, nó lấy chất hồng trần mà làm ra cái phách và xác thịt. Khi Chơn Thần nhập vào Kim Thạch là nó xuống thấp hơn hết. Bấy giờ nó mới khởi trở lên, để về Nguyên Bổn.

 

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI CHÍN

Bảy Cung

        Trong Thái Dương Hệ có biết bao nhiêu Chơn thần, song chỉ có 7 hạng (hay 7 cung) khác nhau mà thôi; cũng như những chất kết thành vơ trụ có 7 thứ vậy (đồ h́nh số 34).

 

 

Ba trạng thái của Chơn thần là Ư chí, Minh triết và Bác ái. Ở trước ta đă thấy ba trạng thái nầy liên quan với ba trạng thái của vật chất là: Động (Rajas), Tịnh (Tamas) và Nhịp (Sattva) (xem đồ h́nh 17).

 Chúng ta đă nói rằng: mỗi Chơn Thần đều thuộc về một cung, nhưng thật ra mỗi Chơn Thần đều có 7 tánh của bảy cung mà trong đó có 1 cung chói rạng hơn các cung khác. Không có một Chơn Thần mà không liên kết với một trong bảy vị Huyền Thiên Thượng Đế (7 logois planétaires) là 7 đường Kinh chuyển sang thần lực của Đức Thái Dương Thượng Đế là “Cha chung” vạn vật nơi Thái Dương Hệ của Ngài. Bởi vậy, mỗi sự vận động nhỏ nhứt của một Đấng ấy, đều có ảnh hưởng đến những Chơn thần, v́ chúng nó là sớ thịt của sớ thịt của Ngài, là tia sáng của Ngọn Lửa Ngài. Do đó, mà các nhà chiêm tinh mới đoán số đặng.

 Lại nữa, Chơn Thần nào do một Đấng Huyền Thiên Thượng Đế sanh ra [[7]th́ luôn luôn trên đường tiến hóa rán thực hiện đặng nhiều đức tánh của Đấng Tạo hóa ḿnh hơn là các Đấng khác. Chi nên ta mới dễ phân biệt đặng người thuộc cung nào.

Thường thường th́ mỗi chơn thần đều cứ măi ở tại Cung của ḿnh, cho tới khi ḿnh đi mút đường tiến hóa, hiệp nhứt với Đấng Huyền Thiên Thượng Đế đă sanh ra ḿnh.

Tuy vậy, Chơn thần cũng có thể thay đổi Cung, nhờ sự trung gian của một trong bảy vị Huyền Thiên Thượng Đế.

Ta đă nói tất cả chơn thần đều thuộc về bảy cung. Bảy cung ấy là:

                    Cung thứ nhứt,  coi về  Chánh trị.

                    Cung thứ nh́,  coi về  Tôn giáo.

                    Cung thứ ba,  coi về  Thiên văn.

                    Cung thứ tư,  coi về  Mỹ thuật.

                    Cung thứ năm, về  Khoa học.

                    Cung thứ sáu,  về  Tín ngưỡng.

                    Cung thứ bảy,  về  Pháp môn và Phù thủy.

 Mỗi Cung chia ra làm 7 “Chi”. Không có Cung nào cao hay Cung nào thấp cả. Mỗi người chúng ta đều thuộc về một trong bảy Cung ấy. Nhưng khó mà biết được một người thường nhơn thuộc về Cung nào, v́ người ấy bị ch́m đắm trong vật chất làm mất bản tánh đi, và đă gây ra nhiều quả báo làm lu lờ đặc tính của chơn nhơn. Có khi trọn kiếp cũng chưa t́m đặng cái Cung chính của ḿnh. Nhưng đối với người đă để chơn lên đường Đạo và đă tiến hóa nhiều, th́ tức nhiên biểu lộ một cách rơ ràng cái đặc tính của Cung ḿnh; cái đặc tính ấy hướng dẫn sự hành động và dắc d́u ḿnh đến thọ giáo với một Chơn sư thuộc về Cung đó.   

 

CHƯƠNG THỨ BỐN MƯƠI

Đặc tính của mỗi Cung

Người thuộc về Cung thứ nhứt sẽ đoạt đặng mục đích là nhờ Nghị lực mạnh mẽ của ḿnh, chớ không cần t́m hiểu phải dùng phương –pháp nào. .

Người thuộc về Cung thứ nh́ cũng dùng Nghị lực vậy, nhưng nhờ sự Minh triết nên biết trước rất rơ ràng những phương pháp tốt đẹp hơn hết để đoạt thành ư nguyện.

Người thuộc về Cung thứ ba, th́ dùng mănh lực của Cơi Thượng Giới và rán chọn lựa kỹ lưởng ngày giờ tốt (nghĩa là để ư đến khoa Thiên văn) có ảnh hưởng thuận tiện cho mục đích của ḿnh.

Người thuộc về Cung thứ tư, th́ dùng mănh lực cũa cơi Hồng trần tức là mănh lực của Tinh khí (ether).

Người thuộc về Cung thứ năm, th́ dùng mănh lực của cơi Trung giới tức là làm ánh sáng gọi là thanh khí quang tuyến.

Người thuộc về Cung thứ sáu, th́ dùng mănh lực của đức tin đối với Đấng Thiêng Liêng và ḷng mộ đạo của ḿnh để đoạt ư nguyện.

Người thuộc về Cung thứ bảy, th́ dùng những câu thần chú và nhờ sự giúp đỡ của các vị ấy.

Nếu ta xem phương pháp chữa bệnh th́ sẽ biết người thuộc về Cung nào rất dễ.

Người thuộc về Cung thứ nhứt: th́ rút sức mạnh của trời đất đặng trị bệnh.

Người thuộc về Cung thứ nh́ th́ biết rơ căn bản của tật bệnh, và biết dùng ư chí để đoạt thành mục đích.

 Người thuộc về Cung thứ ba th́ chọn lúc nào điễn lực của hành tinh thuận lợi mới cho uống thuốc, hoặc làm thuốc.

 Người thuộc về Cung thứ tư lại công dụng phương pháp ngoại khoa (thuộc về thể chất) để chữa bệnh như đấm, bóp, chà, cạo gió v.v..

Người thuộc về Cung thứ năm lại ưa dùng thuốc luôn.

Người thuộc về Cung thứ sáu lại trị bệnh bằng đức tin.

Người thuộc về Cung thứ bảy, th́ dùng thần chú và cách cầu đảo Thánh Thần để nhờ giúp sức.  

Người chữa bệnh có thể dùng một lượt hai ba phương pháp đă kể trên, nhưng người ấy tự thấy cái phương pháp hạp với Cung của ḿnh là hiệu lực. 

 

1   Đặc tánh của Cung thứ Nhứt là : Ư CHÍ

Đức Đế Quân Morya đứng đầu Cung thứ nhứt. Tiền kiếp Ngài là một vị vua nước Radiputana (Bắc Ấn Độ). Ngài có một bộ râu đen rẽ làm hai, tóc màu nâu, ḷng thồng hai bên vai, đôi mắt đen và sắc sảo đầy vẻ oai hùng. Ngài cao sáu thước (6 thước mộc). Ngài nói năng gọn gàng nghiêm trang và vắn tắt, khiến ai cũng phải phục tùng và vầng lời tức khắc. Ngài tượng trưng sự uy lực vô cùng mănh liệt và sức mạnh tinh thần. Đức Morya sẽ kế vị Đức Bàn cổ Vaivasvata để làm Đức Bàn cổ cho giống dân chánh thứ sáu; giống dân nầy sẽ sanh ra trong 700 năm nữa. Hiện giớ Ngài c̣n giữ xác phàm ở xứ Tây Tạng.

Ngài tạo lập các quốc gia, rèn đúc những bực anh hùng liệt sĩ, khuyến khích các nhà lănh đạo lập nền chánh quốc cho hợp với thời thế duy tân. Ngài hướng dẫn loài người. Trong bao nhiêu thế kỷ, ngài nuôi dưỡng những đức tánh của một giống dân và đợi đúng thời kỳ, ngài giúp chúng nó nảy nở trong giống dân phụ.

Các vị vua chúa, các thủ tướng, các nhà ngoại giao, các quân nhơn đều thuộc về Cung thứ nhứt.

 

2   Đặc tánh của Cung thứ Nh́ là:  BÁC ÁI  và  MINH TRIẾT

 Đức Đế Quân Koot Hoomi (hay Đức Kout Thoumi) chưởng quản cung thứ nh́.  Tiền kiếp Ngài là Đức Pythagore. Ngài đầu thai lần chót lấy xác người Bà la môn ở xứ Cachemire. Mặc dầu đă đắc quả làm một vị Đế quân (trên Chơn Tiên một bực). Ngài vẫn giữ xác phàm tại cơi trần nơi triền núi Himalaya [[8]. Xác Ngài vẫn như thế măi không già, tuổi Ngài độ 45, mặt Ngài sáng rỡ như phần đông người Anh Cát Lợi.  Tướng mạo hiền từ và đức hạnh. Đôi mắt Ngài màu xanh chứa chan t́nh Bái ái và sự Phúc lạc. Tóc râu Ngài đen dợt, lấp lánh ánh vàng, khi có mặt trời chiếu vào. Gương mặt của Ngài khó tả ra cho đúng: v́ nét nó thay đổi liền liền, nhứt là lúc Ngài nở nụ cười. Sống mũi tuyệt đẹp như chạm, và đôi mắt to, màu trong xanh lạ thường!

Trong nhiều tiền kiếp: khi Ngài làm vị Mục sư ở Ai cập tên Sarthou, khi làm đại Mục sư tại đền thờ Agadé ở Tiểu Á Tế Á (Asie Mineure). Nơi đây, sau một cuộc binh đao, khói lửa, Ngài bị giết, nhưng Ngài lập tức nhập vào xác của người chài lưới Hy Lạp, đang trầm ḿnh tự tử, rồi Ngài qua xứ Ba tư giúp đỡ Đức Zoroastre trong việc lập Hoả Giáo. Kế đó Ngài là Mục sư tại đền Jupiter ở La mă. Sau cùng, Ngài là vị Đại Đức Nagarjuna bên Phật giáo. 

Ngày sau, Đức Koot Hoomi sẽ kế vị Đức Di Lặc Bồ tát, cầm cây Pháp lịnh chưởng giáo thế gian.

Ngài chăm nom nền Đạo Đức. Những người thuộc về Cung Ngài đều là những vị có ḷng Bác ái, lo d́u dắc sinh linh vào đường Đạo hạnh như các vị tu sĩ, hoà thượng, linh mục, mấy vị hiền triết, chơn sư v.v…

 

3   Đặc tính cung thứ Ba là: Sự THÍCH NGHI và khoa THIÊN VĂN

 

Vị Chưởng quản Cung nầy là Đức Đế Quân Vénitien. Ngài sanh tại thành Vénise thuộc về nước Ư (Italie). Có lẽ Ngài là đẹp hơn hết trong Quần Tiên Hội. Mạnh dạn và to lớn. Ngài có hàm râu dợn sóng, một mớ tóc phấp phơ. Đôi mắt trong xanh, tuyệt đẹp.

Ngài coi về khoa Thiên văn, là một môn học nghiên cứu về năm, tháng, ngày, giờ nào thuận tiện để rút thần lực thiêng liêng của vơ trụ, hầu giúp đỡ nhơn loại hơn là tránh những điều khó khăn xảy đến.

Những người thuộc về Cung thứ Ba, th́ có biệt tài thích hợp. Nhờ vậy mà họ hiểu người, mà có hiểu mới có thể giúp đắc lực đặng. Biểu hiệu của họ là: “mỗi người, mỗi chuyện”, họ luôn luôn hành động một cách khéo léo; họ có tài ngoại giao cùng thích ứng mau lẹ với mọi hoàn cảnh. Họ ưa học Thiên văn, Địa lư và Bói khoa.

 

4    Đặc tánh Cung thứ Tư là: Sự ĐIỀU H̉A và THẨM MỸ

 Vị chưởng quản Cung thứ Tư là Đức Đế Quân Sérapis. Ngài sanh tại Hy lạp tuy rằng công nghiệp của Ngài đều lập ở xứ Ai cập. Ngài lớn người, tóc vàng dợt. Ngài như một thầy tu tịnh giới. Tánh t́nh rất hiền lành và thanh nhă. Ngài hơi giống như Đức Hồng y Newman.

Buổi sơ khai của Hội Thông Thiên Học, chúng ta thường nghe đến Ngài v́ Ngài tạm giáo hóa ông Olcott [[9] trong khi Sư phụ của Ông là Đức Morya mắc việc.

Các Đấng Tiên trưởng thường thay đổi học tṛ để dạy.

Người thuộc về Cung nầy, th́ thích sự điều ḥa và đẹp đẽ. Họ phải ở chỗ ḥa khí mới thuận tiện cho sự tấn hóa của họ. Đời họ là đời mỹ thuật. Mấy vị tài tử, mấy nhà họa sĩ, mỹ nghệ đều thuộc về Cung thứ Tư.

 

5   Đặc tánh Cung thứ Năm là: Sự ĐÚNG ĐẮN của KHOA HỌC

 Vị chưởng quản Cung nầy là Đức Đế Quân Hilarion. Ngài là người nước Hy Lạp. Sóng mũi hơi cong quấp, trán thấp và rộng. Ngài cũng đẹp lộng lẫy và dường như c̣n trẻ. Ngài có cái tính đúng đắn của khoa học. Ngài lăo thông những khoa bí truyền.  Thuở xưa Ngài là nhà hiền triết Jamblique của trường Tân Bờ La Tông (École platonicienne) rất giỏi về khoa thi phú văn chương. Ngài đem thần lực giúp bà Mabel Collins viết quyển “La lumière sur le Sentier” và “L’Idylle du Lotus Blanc”. Theo bà Annie Besant th́ lời Ngài rất thanh nhă và thi vị. Ngài giúp các vị thông thái rất nhiều.  Ngài làm cho họ thấy khoa học một cách đúng đắn, không sai một ly nào. Ngài c̣n áp dụng thần lực của vơ trụ ẩn trong con người nữa. Ngài biết rằng: t́nh cảm và tư tưởng của con người đều có tiếng dội trong vơ trụ: nếu một người vui vẻ và an lạc ở giữa đám đông, th́ mọi người nơi đây sẽ được nhờ lây, và lại các vị Thiên Thần sẽ theo pḥ trợ để tăng thêm hạnh phúc.

Nhưng người tấn hóa về Cung nầy có biệt tài quan sát mọi việc một cách đúng đắn lạ lùng. Họ là những nhà bác học, những vị chuyên môn về khoa học.

 6   Đặc tánh của Cung thứ Sáu làSự TÍN NGƯỠNG và sự TÔN THỜ

Vị chưởng quản Cung thứ Sáu là Đức Đế Quân Jésus. Ngài sanh trưởng tại Palestine và đă lập nên Cơ Đốc Giáo. Trước kia Ngài là Apollonices de Tyane, sau là Sri Râmanujacharya cải cách tôn giáo ở miền Nam Ấn độ.

Những người thuộc về Cung thứ Sáu, th́ ưa thờ phượng, có ḷng mộ đạo dồi dào.  Nếu họ tấn hóa cao, th́ họ là những nhà thần bí học của tất cả tôn giáo.

 

7   Đặc tánh Cung thứ Bảy là: Sự  CÚNG TẾ có LỄ NGHI và PHÙ THỦY

Vị chưởng quản Cung nầy là Đức Đế Quân Comte de Saint Germain mà ta gọi là Đức Thầy Rakoczi. Tiền kiếp của Ngài thuộc về vua chúa. Về thế kỷ 17, th́ Ngài đầu thai lấy tên là Francis Bacon và Lord Vérulam. Hồi thế kỷ thứ 16 th́ Ngài là Thầy tu Robertus; và ở thế kỷ thứ 15, Ngài là Hungadi. Ngài cũng là Christian Rosencreuz lúc thế kỷ thứ 14; và lúc thế kỷ 13, Ngài là Roger Bacon tức là Adepta Hongrois của khoa Thần bí. Ngài cũng là nhà Triết học Proclus của phái Tân Bờ La Tông và Saint Alban (vị tuẩn giáo) ở nước Anh hồi thế kỷ 4.

Đức Saint Germain có vẻ huy hoàng của một nhà vua hồi thế kỷ thứ 18 và cốt cách của một vị vơ tướng. Tướng mạo vương giả và hiền lành của Ngài thâu phục nhơn tâm. Đôi mắt to lớn và nâu sậm của Ngài đầy vẻ từ bi, bác ái. Sắc mặt của Ngài trắng dợt, với mớ tóc màu sậm hớt ngắn, rẽ ngay giữa đầu và chải từ trán ra sau ót.

Ngày thường ngự trong cái đền đài ở nước Hung gia lợi là gia sản của tổ phụ để lại, cách đây nhiều thế kỷ. Trong lúc Ngài hành lễ, th́ thường mặc y phục nhiều màu sắc và mang nhiều nữ trang quí giá và tốt đẹp vô cùng. Ngài có một bộ đồ dệt bằng chỉ vàng, trước kia thuộc về Hoàng đế La mă. Trên choàng lại có một cái kẹp nhận hột xoàng, h́nh ngôi sao 7 nhánh. Có khi Ngài mặc áo màu tím thật đẹp.

Công việc của Đức Saint Germain là làm theo lễ giáo của Thần quyền và Thần bí, v́ Ngài coi về khoa Pháp môn và Phù thủy. Ngài thường sai khiến các vị Thiên Thần, và những vị nầy vui ḷng tận tụy thi hành mạng lịnh của Ngài. Ngài là Chúa tể của những nghi lễ và cúng kiến. Ngài lo về sự văn chương cho các nước Âu Châu và chấn hưng nền khoa học siêu h́nh. Ngài cũng lo lắng về chánh trị quốc tế và sự khai hóa các quốc gia trên thế giới.

*

Bởi mỗi người thuộc về mỗi Cung trên đây nên phải t́m coi ḿnh hạp với Cung nào rồi rán mở đức tánh cung ấy. Đây là những tư tưởng kiểu mẫu của mỗi Cung do ông C.W. Leadbeater viết ra cho những người có chí nguyện trau ḿnh để giúp đời. 

Tư tưởng về:

      1   Cung thứ nhứt là:  MĂNH LỰC.

          “ Tôi sẽ mạnh mẽ, gan dạ và bền chí trong việc phụng sự ”

Tư tưởng về:

      2   Cung thứ nh́ là:  MINH TRIẾT.

           “ Tôi sẽ đoạt đặng sự Minh Triết bằng cách mở rộng ḷng bác ái, từ bi ”.

Tư tưởng về :

      3   Cung thứ ba là:  THÍCH NGHI hay NHĂ NHẶN.

           “ Tôi rán mở năng lực hành động và nói năng tùy theo cơ hội thích nghi và thuận tiện. Tôi rán đến với mọi người trên con đường riêng của họ, hầu giúp đỡ họ một cách đắc lực hơn ”.

Tư tưởng về:

      4   Cung thứ tư là:  Sự ĐẸP ĐẺ và sự ĐIỀU HÓA.

           “ Tôi rán hết sức ḿnh đem sự Đẹp Đẻ và sự Điều Ḥa để vào cuộc sống của tôi và của người xung quanh tôi. Tôi tập quan sát sự đẹp đẽ của vạn vật, hầu phụng sự đắc lực hơn ”.

Tư tưởng về:

     5   Cung thứ Năm là:  KHOA HỌC.

          “ Tôi mở rộng sự hiểu biết của tôi và tập tánh đúng đắn, phân minh, để giúp đời ”.

Tư tưởng về:

     6   Cung thứ Sáu là:  Ḷng SÙNG ĐẠO.

           “Tôi mở mang ḷng Sùng Đạo để d́u dắc kẻ khác ”.

Tư tưởng về:

      7   Cung thứ Bảy là:  Sự CÚNG TẾ có LỄ NGHI

          “ Tôi sẽ lấy lễ nghi mà cúng tế Trời Đất, hầu cầu được ơn lành để ban cho sanh chủng ”.

Mỗi người nên mở đức tánh của Cung ḿnh trước, rồi sau sẽ lần lượt mở đức tánh của Cung khác. V́ lẽ chúng ta cần phải rán sức làm cho điều ḥa những đức tánh khác nhau.

Những vị trong Quần Tiên Hội đều chia ra 7 cung rất rơ ràng, và màu sắc hào quang các Ngài đều phân minh lắm. Đặc tánh của các Ngài hướng dẫn Công Việc của các Ngài.

Vậy Quần Tiên Hội là ǵ?   Là một Cơ Quan để phụng sự Đức Thái Dương Thượng Đế đặng thi hành Thiên ư. Ấy là “Bộ Tổng Tham Mưu” của Đức Thượng Đế vậy. Nhơn viên của bộ Tổng Tham mưu thiêng liêng nầy gồm các Tiên Thánh, từ bực La Hán (4 lần điểm đạo) sắp lên. Trong ấy có những vị đă bỏ xác phàm và c̣n giữ xác phàm (như những vị Đế quân mà ta vừa kể trên [[10]. Các Ngài thuộc về hoàn cầu, chớ chẳng phải thuộc về xứ Tây tạng hay đỉnh núi Hy Mă Lạp Sơn ở Ấn Độ như nhiều người lầm tưởng. Các Ngài nhờ những vị đệ tử giao thông với Trần.

      Đây là bản đồ để chỉ ngôi thứ của các Đấng Thiêng liêng trong Quần Tiên Hội :

 

 

 BẢY      CUNG

 

CHƯƠNG THỨ BỐN MƯƠI MỐT

Những  loài   khác  trong  Vơ Trụ

Tinh linh  hay  Ngũ hành  ( Esprit  de  la  Nature )

      Những tinh linh có đường tiến hóa khác xa với đường tiến hóa của nhơn loại [[11].   Chúng nó cũng do Đức Thượng Đế sanh ra, nó cũng sanh, cũng tử, mặc dầu chúng nó chẳng có xác phàm: bởi v́ chúng nó chẳng hề đầu thai vào hàng nhơn loại. Đến ngày cuối cùng, các tinh linh cũng sẽ trở về Hiệp nhứt với Đấng “Từ Phụ” như chúng ta vậy. Trông vào đồ h́nh số 35, ta thấy sự sống tiến triển trên thang tiến hóa, trải qua các h́nh dạng, bằng chất đặc, chất lỏng, chất hơi, chất tinh khí (matière étherique), thanh khí (matière astrale) và chất thượng thanh khí (matière mentale). Trong đồ h́nh, ta thấy có 6 đường tiến hóa khác nhau; nhưng chỉ có một đường tiến hóa về nhơn loại (đường thứ 6) c̣n 5 đường kia (đường thứ 1, 2, 3, 4, 5,) về hàng Thiên Thần (Dévas).  Song tất cả 6 đường đều qui về hoặc nơi Tiên Thánh, hoặc nơi Thiên Thần ở cơi Vô Sắc Giới.

      Tiên Thánh và Thiên Thần đều nhập vào hàng Đại Thiên Thần (Dhyan Chohans).  Loài tinh linh tấn hóa khác với chúng ta rất nhiều. Chúng ta có liên lạc với các loài ấy: v́ chúng ta tạm thời ở chung với chúng nó trong một bầu hành tinh, th́ chúng nó như kẻ láng giềng tạm của chúng ta vậy.

      Loài tinh linh có thể gọi là loài tinh hoa cũng được, chúng nó ví như loại cầm thú trên đường tấn hóa của nhơn loại.

  

 

      TOÁT YẾU.    Ḍm vào đồ h́nh ta thấy sự tiến hóa chia ra là 6 đường khác nhau: đường thứ 1, 2, 3, 4, 5, th́ thuộc về hàng Thiên Thần, c̣n đường thứ 6 th́ thuộc về nhơn loại.

      Tuy là con đường tiến hóa khác nhau nhưng tất cả đều gom về một mối là trở thành các bậc Đại Thiên Thần (Dhyan Chohans) và cao nữa.

      XIN LƯU Ư.   Nhơn loại chỉ choán một phần nhỏ của Địa Cầu, chớ những loài tinh linh th́ đông hơn vô số, lan tràn khắp sông, núi, nước, lửa, đất, khí, trùng trùng, điệp điệp, chung ngang qua tất cả các chất hồng trần.

 

      Tinh linh thổ địa thường sống trong cái phách của qủa địa cầu. H́nh dáng ốm nhom, coi dị kỳ, giống như thây ma.

      Tinh linh có vẻ mặt già khằn, tay chơn dài quá độ, da mặt nhăn, mắt nhỏ và đen hơi xéo hai bên.

      Vị tinh linh nầy (H́nh số 36) dường như tượng trưng giống người Lê mu rien[[12].

      Tinh linh thổ địa không phải thuộc về loại dễ chịu.

                              (Theo nhăn quang của ông G. Hodson).

      Ta nên nhớ rằng: nhơn loại chỉ choán một phần nhỏ của điạ cầu, chớ những loài tinh linh đông hơn vô số: lớp th́ ở trên mặt và dưới đất, trên sông, trên đồng ruộng, trong không khí, đá, lửa, trùng trùng, điệp điệp. Bởi thế chúng nó làm bằng chất thanh khí, chun ngang qua tất cả các chất hồng trần, nước, lửa, sắt, đá, v.v.  không làm trở ngại sự lưu thông của chúng nó được. Trong h́nh vẽ số 35 ta thấy có nhiều thứ tinh linh như: hoả tinh, thủy tinh, vân tinh, thiên tinh, v.v… Các tinh linh cao ta gọi là các vị Thần. Tinh linh có vài đặc tánh giống như đặc tánh của loài tinh hoa các chất, nhưng phần đông tấn hóa cao hơn. Chúng nó chia làm 7 hạng chánh trong 7 chất hồng trần. Ấy là:

1.)  Hai hạng tinh linh của đất hay là thổ tinh hoặc thổ thần (H́nh số 36 và 37).

2.)  Hai hạng tinh linh của nước hay thủy tinh (H́nh số 38). Tinh linh tấn hóa gọi là Thủy thần. Ông G. Hodson, nhà có nhăn quang, thấy đặng một vị Thủy Thần miền Nam Hải.

Vị Thủy Thần nầy ngự trị trọn vùng Nam Hải từ bờ biển Java đến Úc Châu.

Ngài rút thần lực từ trên không trung vào ḿnh rồi ban rải khắp nơi trên mặt biển, để ban bố tinh lực cấu tạo mọi h́nh thức sanh hoạt dưới nước như cá, ốc, ṣ, hến và các thứ cây mọc dưới biển, cùng là kích động tâm thức của mỗi nguyên tử, tế bào các sinh vật li ti, nhỏ bé treo lơ lửng trong gịng nước mặn.

        Vị Thủy Thần nầy hoạt động dưới sự chỉ huy của một vị Thần lớn hơn, cai quản tất cả mặt biển Thái B́nh Dương. Ở trên c̣n một vị lớn hơn nữa, tức là Thủy Long Vương chỉ huy tất cả bốn biển đại dương trên địa cầu.

      3.) Một hạng tinh linh của không khí hay là Vân tinh hoặc Thiên tinh (h́nh số 39)

      4.) Mấy hạng tinh linh của lửa hay hỏa tinh (đồ h́nh số 40). Mấy hạng tinh linh nầy là những sinh vật thanh khí (entités astrales).   

 

 

      Vị tinh linh Thổ địa nầy dường như lấy h́nh người Lê mu rien là người thuộc về giống dân chánh thứ ba.

(Theo nhăn quang của ông G. Hodson).

 

 

      Vị Thủy Tinh nầy ngụ tại hồ Thirlmere cao lối 2 thước 13. Thần thường bay luyện trên mặt nước, có khi Thần cũng bay chơi trên mặt đất nữa. Trông Thần giống như con đại điều bay thật mau. Mặt mũi Thần thấy không rơ, chỉ thấy vùng hào quang sáng rực mà thôi.  (Theo nhăn quang của ông G. Hodson).

 

 

      Vị Thiên tinh nầy ở tại Lancashire lấy h́nh người. Thiên tinh hay bay từng đoàn rất mau trên không khí, kêu gọi nhau giống như tiếng gió reo. Thiên Tinh có cặp cánh to, dài và đẹp đi từ vai tới chơn.

      Ông Hodson nói rằng: “Tôi có nh́n xem một đoàn thiên linh bay thật mau trên ṿm trời xanh thấm, màu sắc chói ngời, biến đổi luôn luôn, nhưng hầu hết đều có những màu đại khái như sau: xanh dợt, hường, xám, vàng…”

      Tôi có trông thấy tại triền núi Helvellyn một đoàn thiên tinh bay trước một vầng mây đen kịch, triệu chứng băo tố. Nhiều Thiên tinh đổi màu đen, vẻ mặt khó nh́n dường như họ đem đến cho ta cái cảm tưởng sấm sét, dữ dằn. (Theo nhăn quang của ông G. Hodson)

 

 

        Thần lửa không có h́nh dáng nhứt định, luôn luôn thay đổi, biến hóa, nên rất khó mô tả cho rơ ràng. Tuy nhiên gương mặt có thể thấy rơ. Mặt Thần lửa giống như mặt người, khi nào không bị hào quang của ngọn lửa che lấp. V́ lửa là một yếu tố phá hoại, nên gương mặt Hỏa Thần đôi khi hiện ra sát khí, và đôi mắt long lanh một tia sáng độc ác. Tuy h́nh dáng giống người, nhưng toàn thân của Thần Lửa sáng rực như một cái hỏa ḷ, và mỗi tế bào trong châu thân dường như làm bằng chất lửa, với những ngọn lửa hồng luôn luôn bao phủ quanh ḿnh.  (Theo nhăn quang của ông G. Hodson)

      Một đôi khi người ta miểu tả loài tinh linh trong hang đá, nhứt là ở thời kỳ thượng cổ. Thể chất chúng nó là thanh khí, mắt phàm thấy không đặng, trừ khi hai trường hợp nầy: Một là: khi chúng hiện h́nh bằng cách rút chất khí hồng trần: Hai là: khi người xem chúng nó có đôi chút uy lực thần bí thấy đặng chất thanh khí. Vả lại loài tinh linh hiện h́nh rất dễ: v́ lẽ chúng nó ở cận tầm con mắt con người. Bởi vậy, người ta thường thấy chúng nó. Tinh linh ở hang đá tiến hóa cao, coi sóc một dăy núi, người ta gọi là Sơn thần.

      Tinh linh có nhiều h́nh dạng khác nhau thường hay lấy h́nh người, nhưng cơ thể nhỏ hơn. Chúng nó cũng như tất cả nhơn vật và sanh vật ở cơi Trung giới, có thể biến h́nh theo ư muốn. Mỗi hạng tinh linh đều đặt dưới quyền cai quản một vị Đại Thiên Thần mà người Ấn Độ gọi là: Indra, Agni, Pavana, Vanura, hay Kisshiti. Ta đă nói ở trên, loài tinh linh không tiến hóa theo đường của nhơn loại, nghĩa là: không đầu thai làm cây cỏ, thú cầm, v.v.  Tuy nhiên, cũng có vài trường hợp bất thường là có một vài thứ nhập vào thảo mộc và thú cầm, trước khi tách qua đường khác. Tỷ như dưới biển, có loài tinh linh vừa thoát kiếp Kim Thạch lại nhập vào Hải thảo (algues) rồi sang qua san hô, bông đá và Đầu Túc Loại (cépholopodes) mới đến loài cá lớn, để tẻ qua đường tiến hóa của Thủy tinh (Đồ h́nh số 35). Có loài tinh linh của đất tức là Thổ tinh, trước cũng đầu thai trong thảo mộc (nấm nhỏ) đến vi trùng, các loại sâu bọ, loài ḅ sát thứ nhỏ, rồi mới đến chim chóc xinh đẹp để tẻ qua đường tiến hóa của Tiên nữ vui tươi (H́nh số 41).  Có loài tinh linh, mà cơ thể làm bằng chất tinh khí (gọi là Tiểu sanh vật Tinh khí) trước cũng đầu thai làm mễ cốc (loại thảo mộc), làm ong, kiến (loài thú vật) rồi mới tẻ qua đường tiến hóa của Tiểu sanh vật Tinh khí sống trên mặt trái đất.  Chúng nó giống như h́nh chim sâu, bay liệng trên bông hoa, cây cỏ (H́nh số 42) để giúp cho loại thảo mộc nầy sanh sản và tiến hóa. Những Tiểu sanh vật ngộ nghĩnh nầy không bao giờ đầu thai làm người. Về sau chúng nó lần lần tiến hóa mới lấy h́nh các Tiên nữ xinh tươi, rồi mới chuyển di làm Thiên Tinh nghĩa là cơ thể của chúng nó không bằng chất tinh khí nữa (matière éthérique), mà lại làm bằng chất thanh khí (matière astral). Từ đây Thiên tinh sẽ lần bước lên nấc thang Thiên Thần vậy.

Thần vui cao lối 1 thước 22.

      H́nh dáng mảnh mai, dịu dàng. Thần ḍm chúng ta với cặp mắt vừa mơn trớn, vừa vuốt ve, đượm vè vui mừng trong nụ cười khả ái. Hào quang của Thần sáng ḷa rực rỡ, màu sắc pha lẫn nhau xem rất đẹp. Người ta thấy có màu xanh da trời lộn với màu hường dợt, xám tro.

      Hễ thần ở gần ai th́, tự nhiên chuyền điễn vui cho họ (Theo nhăn quang của ông G. Hodson)

 

 

      Trên đồng cỏ có biết bao nhiêu là tinh linh bay luyện vởn vơ; yểu điệu dịu dàng. Tinh linh thường lấy h́nh Tiên Nữ với vẻ mặt kiều diễm và ngây thơ, khả ái như trẻ con. Thần cỏ thường bay từng đoàn, mặc y phục thước tha, hường dợt hay trắng tinh. Cả thảy đều vui vẻ xinh tươi. (Theo nhăn quang của ông G. Hodson).

       Ở đây ta nên phân biệt hai loài tinh linh lo giúp thảo mộc:

      1.    Một loài là Tiểu sanh vật Tinh khí giống loài ong hay chim sâu như ta thấy đó. Chúng nó có nhiều thứ khác nhau, rập rờn trên những chiếc hoa đẹp.

      2.    Một loài là: những bóng h́nh tư tưởng của các Thiên Thần có bổn phận săn sóc thảo mộc. Mặc dầu loài tinh linh bằng tư tưởng nầy xinh đẹp, nhưng không thể gọi là sinh vật: v́ chúng nó không phải là vật sống;  và chúng nó hoạt động trong một thời gian, rồi phải tan ră trong không  khí, chớ đầu thai chẳng đặng.

      Mỗi khi sự sống đi từ loại nầy sang loại khác, tỷ như lúc cây cỏ thành thú vật, thú vật thành loài người, v.v… th́ ta thấy có nhiều loại nhảy cấp, cũng như học tṛ giỏi nhảy lớp vậy; đáng lẽ sự sống ở cây cỏ đầu thai làm thú vật, bắt đầu từ loài nhỏ đến loài to, nhưng không phải thế: chơn thần (tức là sự sống) ở trong loài cây to không bao giờ đầu thai làm thú vật nhỏ, mà làm thú vật nhà hoặc loại ḅ sát lớn. Cũng như chơn thần của cây da hoặc cây bồ đề không bao giờ đầu thai làm ruồi, muỗi hoặc chuột cùng các loài thú nhỏ khác bao giờ. Chính là những đóa hoa cúc và hoa bồ công anh (Pissenlit) sẽ thành mấy loài ấy? Những tiểu sanh vật như loại ḅ sát, không bao giờ bước sang qua loài người liền. C̣n thú vật nhà mà tấn hóa cao, được thoát kiếp thú đầu thai làm người lần thứ nhứt, th́ không cần phải bắt buộc lấy xác người dă man.  Tuy lược đồ tiến hóa số 35 đă chỉ thế, nhưng sự tiến hoá chia ra biết bao nhiêu đường phụ thuộc, chẳng bao giờ tả cho đủ đặng. Song ta đă thấy tất cả con đường tiến hóa đều gom về một mối, để đi đến bậc Đại Thiên Thần (Dhyan Chohan).

      Tiên Thánh có trước mặt 7 đường tiến hóa, nhưng một trong 7 đường là con đường Đại Thiên Thần  [[13] .

      Tất cả 7 con đường ấy đều qui về Đức Thượng Đế

      Tinh linh mà thành được thiên thần là khi nào nó tiếp đặng luồng sóng sanh hoạt thứ ba của ngôi thứ nhứt; cũng giống như thú vật muốn thành người th́ phải tiếp luồng sóng ấy mới có thể làm một cá nhơn riêng biệt (xem đồ h́nh “Ba luồng sóng sinh hoạt”  số 24).    

      Thú vật muốn thành người th́ phải ở gần người, c̣n tinh linh, muốn thành Thiên thần, th́ cũng phải phụng sự Thiên thần để biết nhiệm vụ các Ngài.

      Tinh linh tiến hóa cao nhứt cũng không hơn đặng con người sống trong cái phách, hoặc trong cái vía, mặc dầu có khi nó hơn bậc thường nhơn nhiều điểm: v́ lẽ tinh linh chưa phải là một chơn thần riêng biệt; (nó ở vào trạng thái giống như trạng thái của thú vật trong hồn khóm), nó cần phải tiếp luồng sóng sanh hoạt thứ ba, như đă nói ở trên, mới rứt ra khỏi khóm mà thành chơn thần riêng biệt đặng.  Vậy tinh linh có thể hơn một con thú sống trong cái phách hay cái vía mà thôi. Có thứ tinh linh chưa tấn hóa, trí khôn của chúng nó chỉ bằng trí khôn của chim sâu hoặc ong, bướm, mà chúng nó thường lấy h́nh giống hệt. Một vài con tinh linh h́nh trạng mập mờ kỳ quái giống như một vật lù lù, miệng hả tàng hoạc, đỏ ḷm, trông thấy rợn người! Chúng nó bu xung quanh các hàng thịt, nhứt là chỗ nào có máu chảy, thịt hôi: v́ chúng chỉ sống là nhờ hưởng hơi những vật ghê tởm ấy. Trên những dĩa cá, tô thịt chúng bay liệng chập chờn không ngớt, như bầy ruồi xanh trên thây chết! Ông C. W. Leadbeater có huệ nhăn thấy đặng chúng nó, mà Ngài gọi là bầy quỉ trùng. Ngài có tả chúng nó trong  “Le côté caché des choses” (quyển I trương 84).

      Trong quyển II trang 12, Ngài c̣n nói rằng: “Cái tập quán ăn thịt cá thu hút một số tinh trùng ghê tởm, miệng đỏ ḷm, hả tàng hoạc, dường như để hút máu. Thật là cảnh tượng năo ḷng, đau thương cho ai có thần nhăn trông vào một phụ nữ xinh đẹp, diễm lệ (mà cho là tử tế và đức hạnh) đi vào một ḷ thịt để chọn lựa, rờ rẫm, vuốt ve những thây ma, máu nhượm đỏ ḷm! Chúng nó là những nạn nhơn của con người v́ miếng ăn, mà trở thành hung tợn, đang tâm hành quyết các chơn linh ẩn trú trong h́nh hài thú vật.

      Người phụ nữ kiều diễm nầy vô t́nh không biết ḿnh đang bị đoanh vây bởi vô số tinh linh, h́nh thù quỉ quái, và ghê gớm ấy! Chúng nó bay luyện xung quanh nàng dường như những con lằn xanh đoanh theo miếng thịt thúi! Nàng có ngờ đâu: Một ngày kia, những ai đă nhúng tay vào sự sát hại các linh hồn thú vật sẽ đứng trước mặt Đấng Chí Tôn muôn đời, và sẽ kinh khủng mà nghe lời Sấm của Ngài như vầy: “Các ngươi đă hại một đứa con Ta, th́ quả là các ngươi làm hại Ta vậy! ”

      Những tinh linh nầy cũng ưa đến những quán rượu, và tẩm ḿnh trong  hào quang (aura) của kẻ say rượu, hoặc hung tợn, dâm đảng, tục tằn, giận dữ, ganh ghết, v.v… Chúng nó nhảy múa, vui mừng, thỏa thích trong chất phách, vía của những người bạc phước nầy! Nếu ai có nhăn quang trông vào cái cảnh tượng ấy sẽ ghê gớm vô cùng!  Người vô t́nh không biết rằng: ḿnh đă bị bọn quỉ trùng phủ vây tứ phía, và chúng đang rán sức khêu gợi sự xúc cảm hèn của nạn nhơn, để được một cơn thỏa thích.

      Ḍm vào bọn quỉ trùng nầy, chúng ta khó mà tưởng tượng rằng: chúng nó cũng cùng một loại với những tinh linh đẹp đẽ, thanh nhă mà ta sẽ nói đến: ấy là các vị Tiên nữ (les fées).

      Tiên nữ là những tinh linh thường ở trên mặt đất, mặc dầu có thể tự ư đi ngang qua ruột trái đất đặng: v́ cơ thể làm bằng chất tinh khí (matière éthérique)—là chất dễ nắn. Tiên nữ có thể dùng tư tưởng mà thay h́nh, đổi dạng rất dễ dàng. H́nh thể tiên nữ giống h́nh thể con người, nhưng nhỏ hơn và thật xinh đẹp, hoặc có khi lớn thái quá. Tiên nữ lấy màu sắc và h́nh thể tùy theo đặc tính riêng; cũng như khi ta trông vào lông cánh, vóc giạc và màu sắc của chim, th́ ta biết nó thuộc về loài ǵ.

      Tiên nữ có biết bao nhiêu hạng, (H́nh số 43) từ bực thấp tới bực cao giống như loài người và tùy theo tánh nết và trí hóa mà sống chung với nhau, cũng như một dân tộc của một nước. Tiên nữ cũng như các loài tinh linh khác đều có sanh và có tử: có hạng sống lâu hơn loài người, có hạng sống chừng vài chục năm. Nhưng sự luân hồi của tinh linh không giống với sự luân hồi của loài người. Một tinh linh sanh ra với một cơ thể hoàn toàn mở mang, y như loại côn trùng; dù đời của nó vắn hay dài, nó cũng không lộ vẻ ǵ mệt nhọc, dù khi gần lâm chung nó cũng chẳng hề già. Nhưng đến giờ phút cuối cùng, th́ thần lực của nó dường như rút lần ra khỏi cơ thể, xác nó càng thêm trong trẻo, phai mờ trong khí của cơi Trung giới. Chừng ấy, nó sống chung với loài tinh linh thanh khí một ít lâu, rồi nhập vô hồn khóm, nếu nó chưa đủ điều kiện để làm một cá nhơn riêng biệt. Ở với hồn khóm một thời gian, tinh linh lại muốn đầu thai. Chừng ấy ư muốn đầu thai của nó kích thích tinh chất (matière éthérique) và thanh chất (matière astral) để làm ra cơ thể của nó.

 

 

Tiên nữ với vẻ đẹp tuyệt vời (Theo nhăn quang của ông G. Hodson)

 

      Ta đă thấy, sự sanh và sự tử của tinh linh thật hết sức giản dị và không hề đau đớn.  Loại tinh linh không có nam nữ, chúng không bịnh hoạn, không chiến đấu để mưu cầu sự sống, chi nên chúng nó thoát đặng sự khổ của người đời. Một hai khi, chúng nó cũng giận hờn, ghen ghét nữa, nhưng chỉ trong chốc lát mà thôi. Chúng rất vui mừng thấy ánh sáng mặt trời, và ưa nhảy múa dưới trăng thanh (xem h́nh  Thần vui số 41).  Chúng rất sung sướng khi giọt mưa thấm nhuần cây cỏ, sau cơn nắng gắt. Chúng cũng sung sướng, khi tuyết phất phơ sa và ưa ngă ḿnh trên làn gió nhẹ thổi hiu hiu. Loài tinh linh thích xem hoa nở, ngắm cây lên và ưa nh́n cầm thú nô đùa. Nhơn đó mà chúng có thiên trách điểm tô màu sắc và giống ṇi của thảo mộc, và thú cầm như Thần Cỏ (H́nh sồ 42) .  Thần Hoa (H́nh số 44).

 

 

      Thần hoa hường có hào quang hường pha vàng. Thần hoa có nhiều huyệt bí yếu tập trung nơi đầu, mũi, ngực chói ḷa ánh sáng. Vùng ánh sáng nầy tỏa ra giống như nhụy hoa.

      Vị Thần hoa hường nầy cao độ 3 thước 65 tượng trưng t́nh bác ái thiêng liêng.  (Theo nhăn quang của ông G. Hodson).

 

      Mặc dầu loài tinh linh không ăn uống nhưng chúng nó cũng ưa hưởng hơi của hoa thơm và hít tinh khí vào ḿnh như người ăn vật thực vậy. Mùi hương thấm từ nguyên tử của cơ thể chúng nó, chớ chẳng phải chỉ kích thích khứu giác mà thôi. Không có cái chi làm cho thân thể của chúng nó bị thương tích đặng, và sự nóng, lạnh không làm cho chúng nó khổ cực được. Có loài hỏa tinh c̣n ưa thích ngọn lửa là khác, chúng nó nhảy múa sung sướng trong lửa như người tắm ở hồ tắm. (H́nh số 40). Phần đông tinh linh không ưa con người, và t́m cách trốn tránh luôn, v́ con người thường phóng trên không những luồng sóng dục t́nh xấu xa làm kích động chúng nó măi. Con người đối với chúng nó là một vị quỉ vương phá hại: bởi con người đi tới đâu là giết, là chặt, là gieo sự đau khổ đến đó: nào là đốn cây, ngắt hoa ṿ nát, nào là bắt thú cầm, banh da xẻ thịt để ăn, nào là hủy hoại cảnh vật thiên nhiên, để trám vào những xưởng kêu rầm rầm ngày đêm không ngớt, cùng với những nhả máy khói mịt trời, làm cho không khí hóa ra khó thở. Cái ǵ của loài tinh linh quí trọng, nâng niu, đều bị con người vày đạp, thảo nào chúng không ghê sợ mà lánh xa. Như vậy chẳng phải nói loài tinh linh tiến hóa hơn loài người: chúng chỉ như các trẻ con sung sướng, giản dị, vui vẻ và vô trách nhiệm; và có khi sự khôn  ngoan chúng nó c̣n thua thú vật nhà của ta nữa; nhưng chúng nó có nhiều đức tánh thanh cao, mà người phàm chưa có. Nhờ năng lực quyến rủ, tinh linh thực hiện nhiều tṛ chơi tinh quái đối với con người rất dễ dàng. Nạn nhơn chỉ thấy và nghe những điều chúng nó muốn, cũng như người bị thôi miên, chỉ cảm, thấy và nghe những điều ám thị của nhà truyền thần vậy. Loài tinh linh không đủ năng lực chế ngự ư chí của con người, ngoại trừ ư chí của kẻ yếu đuối hoặc bị tê liệt, bởi sợ hăi. Chúng nó có thể ám thị giác quan của một số đông người. Nhiều tṛ ảo thuật của các nhà đạo sĩ Fakir Ấn Độ dược thực hiện là nhờ sự giúp đỡ của những tinh linh mà mắt mấy người xung quanh. Các vị Bàn Môn Tả Đạo thường sai khiến chúng nó bằng bùa chú, để thi hành công việc; các vị Tiên Thánh dùng chúng nó trong việc giúp đời. Một khi chế phục đặng chúng nó rồi, th́ chúng nó làm tṛn phận sự một cách trung tín và chắc chắn.   

      Trong vài rừng núi vắng vẻ, chúng nó “mà mắt” những lữ khách đi về trễ, làm cho các người nầy thấy nhà cửa, nhơn vật bằng ảo ảnh, rồi cứ đi tới. Thời hạn ảo ảnh ấy không phải chỉ trong chốc lát, nó thường kéo dài rất lâu. Đến khi hết bị ám thị, người lữ khách cô đơn, bổng nhiên kinh ngạc thấy ḿnh đang ở giữa cảnh mồ hoang, cỏ loáng, hoặc giữa một cánh đồng xa lạ tứ bề vắng vẻ quạnh hiu!.

      Tuy chúng nó tinh quái và ưa giỡn cợt, nhưng ít khi có tánh hung ác, trừ khi nào bị khiêu khích. Chúng nó thường tạo ra những h́nh dạng ghê gớm đặng nhát những người vừa mới thức tỉnh trên Trung giới. Nhưng nếu con người có đạo tâm vững chắc, mà mạnh mẽ không kinh sợ, th́ chúng nó sẽ rút lui ngay.

      Một đôi khi tinh linh muốn kinh nghiệm sự sống của người đời nên ám ảnh một người đang sống ở cơi trần. V́ thế mới có những câu chuyện hồ ly, yêu quái v.v…  Nhưng trường hợp nầy ít khi xảy ra lắm: v́ tŕnh độ con người càng ngày càng cao, tinh linh không thể chế ngự hoặc ám ảnh đặng.

      Đôi khi chúng nó cũng kết bạn thân mật với con người, và giúp đỡ con người tùy theo tài sức. T́nh thân thiện như thế ít xảy ra. Chúng nó ưa chơi giỡn với linh hồn trẻ con vừa bỏ xác phàm. Có hạng tinh linh trang nghiêm hơn hết, được người đời thờ phượng, như thần rừng, thần đ́nh, thần làng, thần gió, thần mưa, thần nông v.v…Các tinh linh nầy ưa sự tôn sùng của con người, nên sẵn sàng giúp ích tùy theo tài sức.

      Hạng tinh linh tấn hóa cao hơn hết là những thiên tinh (sylphes) ở trong không khí. Cái thể thấp của chúng nó chẳng phải làm bằng tinh chất, (chất tinh khí éther thuộc về cơi phàm để làm ra cái phách), mà bằng chất thanh chất tức là cái vía. Trí hóa của nó cao hơn hạng tinh linh khác, và ngang hàng với trí hóa của con người, nhưng chúng nó chưa có linh hồn cá tính; chúng nó c̣n thuộc về hồn khóm. Bởi chúng nó tấn hóa khá cao, nên rán sức đoạt cho kỳ được một cái linh hồn riêng biệt vĩnh viễn, có thể luân hồi được, hầu trở nên một vị Thiên Thần.

      Mỗi vị Thiên Thần ở cơi Trung giới đều có một nhóm tinh linh theo hầu và chịu huấn lịnh.

Thiên Thần mỏ vàng tại Nam Phi Châu

 

 

      Vị Thiên Thần mỏ vàng nầy có dáng người phụ nữ, màu sắc tốt đẹp phi thường. Những lằn sáng là những đường thần lực. Hào quang của Thiên Thần hẹp bề ngang, mà nở lớn bề đứng. H́nh dạng Thiên Thần (nơi trung tâm) xem rất nhỏ đối với hào quang to lớn. Song kỳ thật, Thiên Thần mỏ vàng có một cái thân vĩ đại.

Geoffrey Hodson (The kingdom of the Gods)

Một  vị Thiên Thần tại  núi  Catle Rock  Cape  Province

 

 

    Tôi thấy vị Thiên Thần nầy ngự trị tại dăy núi Catle Rock thuộc vùng bán đảo Le Cape ở Nam Phi Châu.

      Ngài có phận sự chỉ huy sự tiến hóa của loài kim thạch ở dăy núi ấy. Tinh lực sáng tạo của vũ trụ, do hào quang của Ngài phóng ra, cấu tạo những h́nh thể theo qui mô phép tắc kỷ hà học, để cho loài khoáng vật và cả loài thảo mộc trên dăy núi nương theo đó mà sanh hoạt và biểu lộ tánh chất của chúng.

 Geoffrey Hodson  (The kingdom of the Gods)

 

CHƯƠNG THỨ BỐN HAI

Thiên Thần  (Dévas)

     Người Ấn Độ gọi Thiên Thần là Dévas, hoặc Suras, hay là “quang thần” (êtres lumineux). Bên Gia Tô Giáo gọi các Ngài Thiên Thần (Anges) và Đại Thiên Thần (Archanges). Hỏa Giáo cũng gọi các Ngài là Péristhas. Tiền kiếp các Ngài là tinh linh, nên đường tiến hóa khác hẳn với đường tiến hóa của nhơn loại. Các Ngài không bắt buộc ở măi một dăy hành tinh nào. Con đường tiến hóa của các Ngài là phải vượt qua một hệ thống vĩ đại gồm bảy dăy hành tinh.

      Có nhiều hạng Thiên Thần:

      a)  Thiên Thần ở cơi trung giới (dévas de l’astral) tấn hóa cao hơn người dă man, nhưng kém hơn nhơn loại bực thường.

      b)  Thiên Thần ở Hạ Thiên (dévas du mental inférieur) tấn hóa ngang hàng với nhơn loại bực cao.

      c)  Thiên Thần ở cơi Thượng Thiên (dévas du mental supérieur) tấn hóa ngang hàng với những đệ tử Chơn Tiên được hai hoặc ba lần điểm đạo.

      Hai cơi trên: Niết Bàn và Bồ Đề cũng có Thiên Thần vậy. Song các Ngài tiến hóa hơn các Thiên Thần ở cơi dưới nhiều.

      Các Ngài ở cơi nào dùng chất khí cơi ấy mà làm một cái thể để hoạt động, nhưng luôn luôn có năng lực tạo ra một cái thể ở cơi thấp tạm thời. Tỷ như Thiên Thần ở cơi Thượng Thiên có thể lấy chất cơi Hạ Thiên để làm một cái thể tại cơi ấy. Chi nên Thiên Thần có vô số h́nh dạng.

      Một phần rất ít nhơn loại trí hóa cao, có năng lực nhập vào hạng Thiên Thần.

      Có 330 triệu Thiên Thần chia ra làm ba hạng:

      1.   Thiên Thần cơi Dục giới (Kamadévas) là cơi Trung giới.

      2.   Thiên Thần cơi Sắc giới (Rupadévas).

      3.   Thiên Thần cơi Vô Sắc Giới (Arupadévas) hoạt động ở các cơi Thượng Thiên, Bồ Đề và Niết Bàn.

      Ấn Độ cũng chia Thiên Thần làm ba hạng chánh, mỗi hạng chánh gồm ba hạng nhỏ. Cả thảy là chín hạng.

      Cơ Đốc Giáo chia Thiên Thần làm chín PhẩmThiên Sứ.

      Đạo Giáo gọi là Cửu Phẩm Thần Tiên.

      Phật Giáo gọi là Cửu Phẩm Liên Đài. 

      Thiên Thần có 5 đường tiến hóa mục đích cuối cùng là hiệp nhứt với Đức Thượng Đế, cũng như loài người khi đắc quả rồi cũng được Phản Bổn Hườn Nguyên hiệp nhứt với Ngài vậy.

      Bởi thân thể Thiên Thần làm bằng tinh chất của cơi các Ngài đang hoạt động, nên sáng ḷa và rực rỡ muôn màu. Thiên Thần có thể dùng ư chí mà đổi màu sắc và h́nh thể rất dễ dàng. Nếu thể nầy không đẹp, th́ các Ngài bỏ tức th́, và rút tinh chất khác thanh đẹp hơn để làm ra thể mới tinh xảo và chói sáng hơn.

      Ở cơi Thượng Thiên, Thiên Thần làm ra tinh chất hạp với những tư tưởng trừu tượng, những quan niệm cao thượng.

      Ở cơi Hạ Thiên, các Ngài tạo ra tinh chất hạp với những tư tưởng cụ thể.

      Ở cơi Trung Giới, các Ngài tạo ra tinh chất hạp với dục vọng.

      Đại Thiên Thần là những Đấng cao siêu hơn hết. Các Ngài ở Thái Dương Hệ khác qua giúp Thái Dương Hệ của ta. Các Ngài cai quản tất cả Thiên Thần khác từ những Thiên Thần  của Ngũ Hành cho tới Thiên Tinh, tinh linh và các loài tinh hoa.

      Có 7 vị Đại Thiên Thần nhưng chỉ có 5 vị hoạt động trong Thái Dương Hệ mà thôi. Năm vị ấy là :

      1   Indra, Đại Thiên Thần của tinh khí.

      2   Agni, Đại Thiên Thần của Lửa,

      3   Vayau hay Pavana, Đại Thiên Thần của không khí.

      4   Vanura, Đại Thiên Thần của Nước,

      5   Kishiti hay Kubira, Đại Thiên Thần của Đất.

      Toàn thể Thái Dương Hệ là trường tiến hóa của các Ngài, mà các Ngài có bổn phận d́u dắc.

      Kế Đại Thiên Thần là Thiên Thần kiến trúc ở ba cơi Thượng Thiên (Vô Sắc Giới), Hạ Thiên (Sắc Giới) và Trung Giới (Dục Giới)

      Thiên Thần cơi Vô Sắc Giới có nhiệm vụ cai quản những thế giới, những giống dân hay những quốc gia.

      Thiên Thần cơi Sắc Giới lo lắng về sự cấu tạo hạ trí. Trong hạng Thiên Thần cơi Sắc Giới có những nhạc sư, và vũ sư thiêng liêng, để điều khiển sự điều ḥa và tiết điệu.

      Thiên Thần ở cơi Dục Giới lo lắng về sự cấu tạo của loài kim thạch, thảo mộc, thú cầm và loài người. Các Ngài tiến hóa cao hơn nhơn loại rất nh́ều. Những người cao siêu có thể tiến hóa cao hơn một vài Thiên Thần ở cơi Dục Giới. Kế Thiên Thần Kiến Trúc là Thiên Thần coi về Nhơn Quả. Các Ngài lo lắng về sự tiến hóa của quốc gia và của con người. Người ta gọi các Ngài là Seigneurs Lipikas hay là những vị Nam Tào Bắc Đẩu. Dưới quyền chỉ huy các Ngài có bốn vị Đại Thiên Vương (thật ra có 7 vị) ấy là:

      a)    Đại Thiên Thần coi về Phương Đông (Dhritarashtra).

      b)    Đại Thiên Thần coi về Phương Nam (Virudhaka).

      c)    Đại Thiên Thần coi về Phương Tây (Virupaksha).

      d)    Đại Thiên Thần coi về Phương Bắc (Vaishravana).

      Các Ngài coi về vận mạng con người, và ban cho con người những cơ hội tiến hóa mau lẹ trên đường Đạo.

      Thân thể của Thiên Thần thâu vô, giản ra rất dễ dàng. Hào Quang các Ngài phóng ra ngoài   từ đường trực kính 300 thước đến 3.000 thước. (H́nh số 45 46)

      Hào Quang của con người giống như đám mây nhẹ nhàng và chói sáng, c̣n Hào Quang của Thiên Thần, th́ rực rỡ như ngọn lửa hồng, có muôn ngàn màu sắc khác nhau và biến đổi măi giống như cái mống xinh đẹp vô cùng (H́nh số 47). Ở trung tâm Hào quang của Thiên Thần có h́nh dạng người ta.(H́nh số 48)

      Có khi Thiên Thần hiện ra h́nh người cao lớn phi thường. (H́nh số 49).  Các Ngài làm việc với một sự cẩn thận, một sự tinh xảo đúng theo qui tắc, trong khi tạo một h́nh ảnh bé nhỏ như chơn con ḅ chét hay một bầu hành tinh. Các Ngài điều khiển vạn vật, và lo thực hiện những hiện tượng thiên nhiên một cách đều đặn và đúng đắn không thể tưởng tượng đặng. Các Ngài có phận sự d́u dắc sự tiến hóa cho phù hạp với Thiên cơ và và giúp đỡ những người đi khá xa trên đường Đạo. Các Ngài lo nắn những h́nh dạng cần thiết cho sự biểu lộ của đời sanh hoạt.

      Thiên Thần giúp các linh hồn đầu thai, bằng cách làm ra xác thân, vía, trí cho con người. Người Việt Nam gọi các Ngài là “Mụ Bà” (H́nh số 50). Các Ngài đưa đến cho linh hồn những vật liệu cần ích để làm ra xác thân, rồi giúp cho linh hồn biết cách chi dụng. Linh hồn tấn hóa nhiều chừng nào, th́ Thiên Thần ít cực chừng nấy. Đối với loài cầm thú, th́ Thiên Thần làm gần hết các việc. C̣n đối với loài kim thạch và thảo mộc, th́ mọi việc đều tự ḿnh làm cả.

      Thế th́, Thiên Thần là  “Tôi đắc lực” của Đức Thượng Đế thi hành Thiên lịnh từ chi tiết, giúp muôn triệu sinh linh trên đường tiến hóa, bằng cách chỉ vật liệu cho linh hồn để làm cơ thể ḿnh.

 

Thiên thần của Cape Province Tại  Nam  Phi Châu

         Vị Thiên Thần nầy có hào quang to lớn phi thường, có thể bao trùm nhiều ngàn dặm thước vuông. Ngài ngự tại vùng cận bắc với băi Sa mạc Karoo. Cái ảnh hưởng của Ngài to tác vô cùng. Ngài làm trung gian cho luồng thần lực từ Nam cực đến Nam Phi Châu. Thiên Thần nầy có hai trọng trách. Ngài trợ giúp sự nảy nở h́nh hài, và tâm thức của loài kim thạch tại sa mạc, đồng nội, và núi non. Đồng thời, Ngài bảo tồn và đưa thần lực từ Nam Cực đến các sinh linh dưới quyền bảo trợ của Ngài. Tôi thấy bề cao của Thiên Thần nầy ít nhứt là 30 thước 48 phân, trong khi hào quang của Ngài có thể nới dăn ra xa muôn dặm

Geoffrey Hodson (The Kingdom of the Gods)

 

Thiên Thần miền Nam Thái B́nh Dương

      Vị Thiên Thần Đại Hải nầy được trông thấy tại bờ biển Java. Hào Quang của Ngài bao trùm Đại Hải Thái B́nh Dương từ Java đến Úc Châu.

      Vị Thiên Thần nầy rất cao lớn. Những lằn sáng trong hào quang là những luồng thần lực thiêng liêng xạ xuống Ngài, rồi xuyên qua Ngài, mà chuyền xuống đại hải, để sanh dưỡng các loài thủy tộc.

      Dưới nhiều đáy biển, tôi thấy có nhiều vị tinh linh to lớn phi thường, giống như con cá voi.

      Thủy quốc thật là mênh mông; tất nhiên nó phải có một vị Thủy Vương cai quản mới đặng.

Geoffrey Hodson (The Kingdom of the Gods)

 

     

Thiên Thần ở Java

      Tại cù lao Java có một cái Chùa linh diệu phi thường, gọi là Borobudor. Chùa ấy đă cất hơn 1800 năm. Nó là một tảng đá khổng lồ, người khoét làm nhiều gian pḥng tốt đẹp. Hai bên vách của bốn hành lang rộng lớn. Người ta có chạm trỗ trên đá nhiều h́nh nổi tuyệt đẹp, để tả lại những khoản đời sống của Đức Phật Thích Ca. Cái chùa nầy đă biến thành một thánh địa cho những vị hành hương. Nhiều người xem nó là trung tâm uy lực siêu linh.

      Theo sự tham cứu của tôi, th́ tôi thấy có một vị tối đại Thiên Thần đem hào quang rực rỡ của Ngài để bao trùm cái chùa ấy. Ngài có trách nhiệm bảo tồn và phân phát thần lực cho chùa. Ngài cũng là nguồn Thiên lực phóng tỏa từ chùa lan ra khắp đảo Java và bao trùm các biển xung quanh.

Geoffrey Hudson (The Kingdom of the Gods)

 

Thiên Thần với sự sanh sản

      Mỗi khi tôi thâm cứu về sự sanh sản, th́ luôn luôn tôi thấy có một nhóm Thiên Thần (mà người Việt gọi là Mụ Bà) đảm nhiệm hai trọng trách:

      1.)  Các Ngài làm các thể mới:  phách. xác, vía, trí cho thai nhi.

      2.)  Các Ngài đưa linh hồn đến nhập xác.

      Dù tôi không thể theo dỏi đặng linh hồn từ lúc mới phát sinh cho đến lúc đi đầu thai, lấy thể xác, nhưng tôi tưởng các vị Thiên Thần nầy có hữu trách đối với sự tiến triển của giống dân.

      Dù xét kỷ về sự hoạt động của các Ngài, tôi nhận thấy các Ngài là Thiên Thần để lo việc sanh sản của Tạo Vật. Theo Triết lư bí truyền, th́ các Ngài là những vị phụ trách cho Đức Mẹ Thế Giới.  GeoffreyHodson (The Kingdom of the Gods)

 

 

ĐỨC  MẸ  THẾ  GIỚI

(LA  MÈRE  DU  MONDE)

      Đức Mẹ Thế giới (H́nh số 51) là một trạng thái của Ngôi thứ hai của Đức Thượng Đế. Ngài có nhiều danh hiệu khác nhau. Bên phương Tây, người ta kính Ngài là Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Trong kinh Devi Bhagavata (Ấn Độ) người ta xưng tụng Ngài là Đức Devi Bhagava, hayJavadambâ hay Avalokiteshvara. Bên phương Đông Ngài được tôn là Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Bên Cao Đài giáo tôn Ngài là Đức Diêu Tŕ Thánh Mẫu.  Ngài thường liên lạc chặc chẽ với Đức Phật và Đức Di Lạc. Đối với người Ấn Độ Đức Mẹ Thế giới chẳng những hiện thân chí thượng của ḷng đậm đà nhứt và kỳ diệu nhứt, mà cũng là Đấng Quyền Lực vô song và Uy Nghiêm cực kỳ. Ngài luôn luôn đầy ân huệ, chứa chan niềm Bác Ái, Từ Bi để đáp lại liền những tiếng kêu la cầu cứu của chư Thiên và Nhơn loại.

      Đức Mẹ Thế Giới là Chúa tể các vị Thiên Thần. Ngài ngự trong thâm tâm của các môn hạ Ngài. Trong mỗi tầng đẳng cấp cơi trời và cơi phàm, Ngài đều có đại diện. H́nh số 52 chỉ cho ta thấy một vị Thiên Thần đang thọ lịnh Ngài để ban ân huệ cho một đứa trẻ yếu đuối. Sự hoạt động của Ngài rất đổi bao la, trí phàm không tưởng tượng nổi. Dù nhiệm vụ của Ngài là giúp đỡ tất cả sinh linh, nhưng Ngài rất chú tâm đến thiếu nhi và phụ nữ, nhứt là lúc sanh sản, v́ hai hạng nầy yếu đuối cần phải bảo bọc và thương yêu nhiều. Đức Mẹ Thế Giới luôn luôn ôm áp họ và ban cho họ sự che chở, sự nương nhờ cần kíp, để xô đuổi những nét nguy nan, sầu khổ đang lăng văng quanh ḿnh họ.

      Hễ biết ai đau khổi th́, khi tham thiền xong, hăy nguyện cầu Ngài giúp đở người đó.  Muốn biết thêm về Đức Mẹ Thế Giới, nên đọc quyển “Le feu créateur” của Vander Leuw.

Bài  Cầu Nguyện                                  

Khẩn đầu quỳ dưới bệ tiền,

Tâm thành kính lạy Mẹ hiền tối cao.

Hào quang muôn trượng làu làu,

Cung Tiên Mẹ rải xiết bao ḷng từ.

Độ người khuya sớm sầu tư,

Độ người thoát khổ, diệt trừ nghiệp căn.

Ví như bóng nguyệt đêm rằm,

Vàng gieo khắp chốn, đâu rằng trược thanh. 

Miễn sao sung sướng mạnh lành,

Là ḷng Mẹ được thỏa t́nh mến yêu.

Mẹ ơi: thương Mẹ trăm chiều,

Làm sao giúp Mẹ dắc d́u trẻ thơ?

Phải chăng ḷng chẳng chần chờ,

Trước cơn đau khổ, mắt mờ lệ châu.

Ra tay đập ngă, thành sầu,

Cho đời đau khổ nhuộm màu vui tươi?

Như hoa muôn nét xuân cười,

Trong ngh́n tia sáng, dưới trời quang minh.

Con xin hiến trọn thân ḿnh,

Làm “Tôi” cho Mẹ oai linh đời đời.

Nguyện cầu Đức Mẹ chứng lời:

Điễn linh ban xuống tăng thời chí con.

Dù cho biển cạn, non ṃn

Chông gai há nệ, ḷng son một bề.

Nguyện cầu già trẻ đề huề,

Làm lành, lánh dữ hướng về cảnh Tiên.

Trần ai dũ sạch bụi phiền;

Tiêu diêu theo Mẹ, nghiệp duyên dứt rồi.

Nguyện cầu thế giới nơi nơi,

An cư lạc nghiệp Đạo Trời lần phăng.

Hiệp ḥa huynh đệ ḷng hằng,

Năng niu, dạy dỗ, trăm phần xót thương. 

Nguyện cầu bịnh khổ tai ương,

Nhành Dương Mẹ rưới khỏi vương họa sầu.

Mạnh lành, tiến bước đạo mầu,

Đường tu mở lối, hoàn cầu chuyển lây.

Nguyện cầu dạ đói được đầy,

Lộc trời no ấm, thân gầy nở nang.

Cung tiên, cảnh Phật một đàng.

Thái b́nh, lạc thú, an nhàn thiên thu.

Nguyện cầu người ở ngụ tù,

Tự do sớm được, ngúc mù tỏ lên.

Ví như đêm tối có đèn,

Quang minh sáng tỏ, ḷng liền ăn năn.

Nguyện cầu những kẻ cô thân,

Có người đùm bọc, đở nâng bước đường.

Có Thần Tiên giúp qua truông,

Đặng sau có dịp t́m đường về Ngôi.

Mẹ ơi lạy mẹ cung trời,

Xót thương trần thế chơi vơi bể sầu.

Hướng về đức Mẹ vọng cầu,

Mong chừa lỗi trước, đạo mầu lần đi.

Mẹ lành bác ái, từ bi,

Cam lồ nước Nhược giải nguy người đời.

Làm cho thấy đặng cơ trời,

Lư chơn sáng tỏ, tan thời ngúc mây.

Cầu xin nguyện giúp một tay,

Gánh trần nhẹ đở, một vài đôi phân.

Đường xa vui bước rán lần,

Trong hào quang mẹ muôn phần đẹp thanh…..

THI  RẰNG:

                                             Ngọc khiết, băng thanh, đẹp tuyệt vời,

                                             Mẹ lành chói rạng khắp nơi nơi.

                                             Từ bi vô lượng gồm non nước,

                                             Bác ái bao la chứa đất trời.

                                             Vạn vật gội nhuần ơn cứu thế,

                                             Sinh linh bái phục đức thương đời,

                                             Diêu Cung Mẹ măi chờ con trẻ,

                                             Thoát gánh trần ai sớm phản hồi.

 

      Ta thấy một vị Thiên Thần đang ban sức khỏe cho đứa trẻ yếu đuối ngồi chơi dưới đất. Phương pháp thông thường của Ngài là trước nhất đem thần lực xạ ngay vào hào quang của đứa bé đau yếu ấy, làm cho tản mất những vết ứ động xấu xa trong phách và cái vía của nó, Ngài đuổi ra ngoài những chất hại cho sức khỏe và làm cho cái xác và các thanh thể đặng điều ḥa. (Việc làm của Ngài tựa như các nhà thôi miên thuật truyền thần). Việc nầy được hiệu quả nhiều là khi con người hữu ư hợp sức với Ngài hầu trợ lực Ngài.

Geoffrey Hodson (The Kingdom of the Gods)

 

CHƯƠNG THỨ BỐN MƯƠI BA

Trọng trách của Thiên Thần

       Thiên Thần có trọng trách đối với Chơn Thần tại cơi Đại Niết Bàn.

      Như ta thấy ở trước, Chơn Thần có ba trạng thái: Ư chí, Minh triết, và Hoạt động [[14]] . Nhưng theo ư tôi tưởng th́: Minh Triết và Bác Ái là một trạng thái mà thôi: v́ biểu tượng của Minh Triết là Bác Ái; Bác Ái có cái uy lực gom các sự phân ly đặng đem về nơi Hiệp Nhứt (rút trong quyển “Etude sur la Conscience” của bà  A. Besant nơi trang 7).

      Tóm lại, người ta có thể gọi ba trạng thái cao là: “Ư Chí, Minh Triết và Hoạt Động” hay là “ Ư Chí, Minh Triết và Bác Ái” tùy theo ư nghĩa người ta hiểu mỗi trạng thái. Khi th́ giờ tiến hóa đă đến, Chơn Thần mới phân thân bằng cách phóng tia xuống cơi dưới làm rung động những nguyên tử trong ba cơi kế là:  Niết Bàn, Bồ Đề và Thượng giới (Atmâ, Buddhi, Manas).

      Thiên Thần, có trách nhiệm lo về sự phân thân. Các Ngài đă kinh nghiệm sự nầy rồi, từ khi c̣n ở dăy hành tinh khác: các Ngài mới đưa làn điễn thuộc về trạng thái thứ nhứt của Chơn Thần là Ư Chí, hiệp với Nguyên tử Atmâ của cơi Niết Bàn. Nguyên tử Atma mới dính liền với Chơn thần, mà hóa ra hột nguyên tử trường tồn Atmâ; (nó trường tồn là v́ nó chẳng bao giờ bị tiêu diệt, mặc dầu trải muôn triệu kiếp luân hồi).

      Khi hột nguyên tử Atmâ đă làm xong, Thiên Thần mới đưa làn điễn thuộc về trạng thái thứ nh́ của Chơn Thần là Minh triết hiệp với nguyên tử Buddhi của cơi Bồ Đề. Nguyên tử Buddhi mới dính liền với Chơn Thần mà hóa ra hột nguyên tử trường tồn Buddhi.

      Khi hột nguyên tử Buddhi đă làm xong, Thiên Thần mới đưa làn điễn thuộc về trạng thái thứ ba của chơn thần là Hoạt Động hiệp với nguyên tử Manas của cơi Thượng Giới, Nguyên tử Manas mới dính liền với Chơn Thần mà hóa ra hột nguyên tử trường tồn Manas (thuộc về thượng trí).

      Nhơn đó mà người ta gọi là “Atmâ—Buddhi   Manas” là “tia sáng của Chơn Thần” xẹt xuống ba cơi dưới là: Niết Bàn, Bồ Đề và Thượng Giới (đồ h́nh số 53).

      Tia sáng “Atmâ—Buddhi   Manas” được gọi bằng nhiều danh từ là :

      Ba ngôi cao của Chơn thần

      Tam thể Thượng

      Ba ngôi Trí Huệ

      Atmâ—Buddhi   Manas

      Jivâtmâ

      Chơn tâm

      Chơn ngă

      Chơn thần

      Thiên tánh

      Anh hồn

      Chơn nhơn

 

 

      Chơn Thần cứ ở măi trên cơi Đại Niết Bàn và sanh sống ở các cơi dưới nhờ tia sáng  “Atmâ—Buddhi—Manas”

      Tại sao Chơn Thần không tự ḿnh xuống ba cơi dưới lại phóng tia xuống mà thôi?—V́ bản thể Chơn Thần quá tinh anh, xuống mấy cơi thấp không chịu nổi với những sự rung động không được thanh.

Tia sáng “Atmâ—Buddhi—Manas”  hay là Chơn Nhơn có tánh chất giống hệt với Chơn Thần, nhưng kém mănh lực hơn (đồ h́nh số 54).

      Trên cơi Đại Niết Bàn, Chơn Thần đủ thần lực, ư thức và linh hoạt; nhưng ở ba cơi dưới, nó chỉ là một hột giống, một bào thai vô tri giác, bị bỏ rơi và bất lực. Nó chỉ sống và hành động bằng ba hột nguyên tử trường tồn “Atmâ—Buddhhi—Manas” đă chiếm được.

      Ấy vậy Chơn Thần toàn trí toàn năng ở cơi Đại Niết Bàn, nhưng khi xuống ba cơi dưới th́ chỉ là một hột giống yếu ớt, vụng về. Bị chất cơi dưới áp phục, nó phải tự vùng vẫy, hoạt động, uốn nắn lần lần đặng xuất hiện nguyên h́nh, có thể tạo ra một bầu Vơ Trụ khác như Đức Thượng  Đế vậy.

 

 


[[1]]  Xin xem bản đồ số 4.

[[2]lấy xác Thái Tử Mercure.

[[3]]  Bản thú: là thú vui riêng của chính ḿnh

 

[[4]Ông C.W. Leadbeater có nhăn quang nên thấy đặng bản đồ thiêng liêng đă vẽ sẵn trên thiên đ́nh.

 

[[5]]Tiền kiếp của Đức Đề Quân Kout Houmi là ông Pythagore.

[[6]]  là 5 cơi thấp

[[7]]  Ta đă nói ở trước: mỗi linh hồn (tức là chơn thần) đều do Đấng Duy Nhứt của Thái Dương Hệ là Thái Dương Thượng Đế sanh ra. Đó là Nguyên lư căn bản. Nhưng ta cũng có thêm rằng: dưới tay Ngài có 7 vị Huyền Thiên Thượng Đế hay Hành Tinh Thượng Đế phụ trách, có nhiệm vụ thay Ngài trong sự sanh hóa, bằng cách rút thần lực ở nguồn Thần lực Duy Nhứt của Ngài. Vậy ta lấy làm lạ sao ở đây lại nói chơn thần nhờ 1 Đức Huyền Thiên Thượng Đế sanh ra.

[[8]Bà Blavastky vị sáng lập hội Thông Thiên Học, đă đến tận triền núi ấy và đă gặp Ngài trong xác thịt.

[[9]]  Ông Olcott là vị Chánh Hội Trưởng đầu tiên của Hội Thông Thiên Học.  

[[10]]  Ông Leadbeater, trong quyển “Les Maitres et le Sentier” có nói về các vị Đế quân c̣n giữ xác phàm mà chúng tôi đă phỏng dịch đoạn trên đây.  (Lời tác giả).

[[11]]  Đường tiến hóa nhân loại: đi từ ba loài tinh hoa của ba cơi: Thượng Thiên, Hạ Thiên và Trung giới đến loài Kim Thạch tại Hạ giới; rồi trở lên làm cây, cỏ, thú, cầm, mới đến loài người. Loài người bước từ bước một trên nấc thang tiến hóa, và lần lần đi đến địa vị Thánh, Tiên, Phật … vinh diệu phi thường.  

[[12]Muốn biết giống dân Lê mu rien xin đọc đoạn “mấy giống dân” ở trước. ( Lémurien cổ thời ).

 

[[13]]  Bảy đường tiến hóa của Chơn Tiên :

      1.    Đường thứ nhứt: Các Ngài nhập vào cơi Niết Bàn hầu có thể trở nên, trong một bầu thế giới vị lai, một sự hóa thân của Đức Thượng Đế. Tiếng Phạn gọi các Ngài là Dharmakayas.

      2.    Đường thứ nh́: Các Ngài nhập vào cơi Niết Bàn đặng tiến hóa thêm nữa. Tiếng Phạn gọi các Ngài Sambhogakàyas.

      3.    Đường thứ ba: Các Ngài không chịu nhập vào cơi Niết Bàn, vẫn ở cơi thấp, không giữ chức trên Thiên đ́nh các Ngài lấy xác phàm, chỉ ban rải thần lực cho nhơn loại. Tiếng Phạn gọi các Ngài là: Nirmanakàyas.

      4.    Đường thứ tư: Các Ngài giữ xác phàm, ở cơi trần, giúp nhơn loại và lănh chức trong Quần Tiên Hội.

      5.    Đường thứ năm: Các Ngài hiệp sức với Thiên Thần lo tạo dăy hành tinh mới, khi một dăy hành tinh kia sắp bị tan ră.

      6.    Đường thứ sáu: Các Ngài nhập vào đường tiến hóa của các vị Đại Thiên thần.

      7.    Đường thứ bảy: Các Ngài phụng sự Đức Thái Dương Thượng Đế, đem chỉ dụ Đức Chí Tôn trong khắp mười dăy hành tinh.      

[[14]]  Xin chú ư:  Ba trạng thái của Chơn Thần có thể gọi là: “Ư Chí, Minh Triết và Bác Ái” chúng nó cũng chỉ ba trạng thái của tam thể thượng. Nhưng trong ba trạng thái nầy, tôi (là bà A. Besant) thấy trạng thái Hoạt Động bị bỏ rơi, và trạng thái Bác Ái lại lập hai lần, chỉ trừ khi nào người ta hiểu Bác Ái và Hoạt Động là Một, bởi thật ra Bác Ái quả là Hoạt Động vậy.

      Nhưng theo ư tôi tưởng th́: Minh Triết và Bác Ái là một trạng thái mà thôi: v́ biểu tượng của Minh Triết là Bác Ái; Bác Ái có cái uy lực gom các sự phân ly đặng đem về nơi Hiệp Nhứt (rút trong quyển “Etude sur la Conscience” của bà  A. Besant nơi trang 7).

      Tóm lại, người ta có thể gọi ba trạng thái cao là: “Ư Chí, Minh Triết và Hoạt Động” hay là “Ư Chí, Minh Triết và Bác Ái” tùy theo ư nghĩa người ta hiểu mỗi trạng thái.