LUẬN VỀ LỬA CÀN KHÔN

(A TREATISE ON COSMIC FIRE)

ALICE A. BAILEY

TẬP I

Lucis Publishing Company New York Lucis Press L.T.D London

Luận về lửa càn khôn

LỜI GIỚI THIỆU

Câu chuyện trong nhiều năm về công tác viễn cảm của Chân Sư Tây Tạng với bà Alice A.Bailey được tiết lộ trong tập

VI sách Tự Truyện Dở Dang của bà được xuất bản năm 1951. Sách này nêu ra các trường hợp về lần tiếp xúc đầu tiên của bà với Đức Thầy, trên cơi trần, xảy ra ở California vào tháng 11 – 1919. Công việc của ba mươi năm đă được hoạch định. Khi công việc này đă được hoàn tất, trong ṿng ba mươi ngày sau giai đoạn đó, bà Bailey được giải thoát khỏi các hạn chế của thể xác. Quyển Tự Truyện cũng có một số phát biểu của Chân Sư Tây Tạng liên quan đến công việc của Ngài, và một số thông tin về lư do tại sao công việc đó được tiến hành. Vào các giai đoạn ban đầu, công việc có liên quan tới sự quan tâm kỹ lưỡng vào các điều kiện của cơi trần sao cho có thể thuận tiện nhất để giúp cho tiến tŕnh viễn cảm (thần giao cách cảm) được thành công. Nhưng sau nhiều năm, kỹ thuật được hoàn thiện và cơ cấu dĩ thái của bà A. A. B. được điều hợp và hiệu chỉnh một cách khéo léo đến nỗi toàn bộ tiến tŕnh thật sự không cần một chút nỗ lực nào, c̣n thực tế và sự hữu ích thực tiễn của sự tương tác viễn cảm đă được chứng tỏ là đạt đến tŕnh độ độc nhất vô nhị. Các chân lư thiêng liêng được bàn đến liên quan đến nhiều trường hợp mà cách diễn tả bằng hạ trí cụ thể (thường là với các hạn chế không thể vượt qua của Anh ngữ) đối với các ư tưởng trừu tượng và cho đến bây giờ là các ư niệm về các thực tại thiêng liêng đó hoàn toàn không được hiểu rơ. Giới hạn không thể vượt qua này của chân lư thường được kêu gọi đến sự chú ư của các độc giả quyển sách được tạo ra như thế, nhưng rất thường bị quên đi. Việc luôn luôn nhớ lại điều đó sẽ tạo ra trong các năm sắp đến một trong các yếu tố hàng đầu để ngăn chận sự co cụm lại của giáo lư, nhờ thế khỏi gây ra một sự tôn thờ có tính cách giáo điều và bè phái.

Quyển sách này, bộ Luận Về Lửa Càn Khôn, được xuất bản lần đầu năm 1925, là quyển thứ ba được ra đời bằng cách kết hợp và đưa bằng chứng hiển nhiên rằng nó sẽ đóng vai tṛ là phần chủ yếu, và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của các giáo lư trong ba mươi năm qua, tuy rằng cũng có sự sâu sắc và sự hữu

VII ích của các quyển sách được xuất bản trong loạt sách có tựa đề Luận về Bảy Cung hay của bất cứ sách nào khác. Qua lộ tŕnh dài của công việc, các thể trí của Chân Sư Tây Tạng và A.A.B. đă trở nên điều hợp rất chặt chẽ đến nỗi chúng tạo được hiệu quả -xét về các tác phẩm giáo lư có liên hệ -một cơ cấu hợp tác đơn thuần được dự trù. Ngay vào lúc kết thúc,

 

A.A.B. thường nói đến sự ngạc nhiên của bà trước cái nh́n thoáng qua mà bà nhận được qua sự tiếp xúc với thể trí của Chân Sư Tây Tạng, với viễn cảnh vô giới hạn của các chân lư thiêng liêng mà bà không thể có cách nào khác hơn để tiếp nhận, và thường là với một tính chất mà bà không thể diễn tả. Kinh nghiệm này là nền tảng của sự xác quyết thường được công bố của bà nhưng thường thường ít được hiểu biết, đó là mọi giáo lư mà bà đang giúp để tạo ra, thực ra chỉ là A B C của kiến thức huyền bí, và như vậy trong tương lai bà rất sẵn ḷng từ bỏ bất luận tuyên bố chính thức nào trong giáo lư hiện hữu, khi bà t́m được giáo lư huyền bí hiện có nào đúng hơn và thâm sâu hơn. Dù trong sáng và sâu sắc như là giáo huấn hiện tại đang hiện hữu trong các sách được xuất bản dưới tên của bà, các chân lư được truyền đạt chỉ có một phần và tuỳ thuộc vào cách khai mở và quăng diễn rằng sự kiện này, nếu được ghi nhớ thường xuyên, sẽ mang lại cho chúng ta một sự bảo vệ thứ hai rất cần có để chống lại tính chất của thể trí cụ thể vốn thường có khuynh hướng tạo ra khuynh hướng bè phái.

 

Vào ngay lúc nỗ lực hợp tác và sau khi xem xét cẩn thận, một quyết tâm được đưa ra giữa Đức Thầy Tây Tạng (D.K.) và

 

A.A.B. rằng bà với tư cách là một đệ tử hoạt động ở ngoại cảnh

 

giới, sẽ gánh vác càng nhiều càng tốt trách nhiệm về nghiệp quả trên cảnh giới đó, và như vậy giáo lư sẽ đến được với quần chúng qua chữ kư của bà trên sách. Điều này bao hàm cái gánh nặng ở vị thế lănh đạo trong lănh vực huyền bí và sự tấn công và lên án từ phía những người và các tổ chức mà vị thế và các hoạt động của họ thiên về cung Song Ngư và có tính chất độc đoán.

Toàn bộ nền tảng mà giáo lư huyền môn dựa vào, ngày nay đang hiện ra trước quần chúng, đă được thoát khỏi các giới hạn và các dại dột của huyền bí, ảo cảm, đ̣i hỏi và không áp dụng / thi hành được, bởi vị thế đă có của Chân Sư Tây Tạng và A.A.B. Lập trường chống lại sự khẳng định có tính cách giáo điều đă giúp để tạo ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phóng khoáng tâm trí cho các nhà nghiên cứu với việc tiết lộ dần dần Minh Triết Ngàn Đời.

VIII Phương pháp xưa cũ để đạt đến chân lư bằng cách chấp nhận uy quyền mới và so sánh chúng với các triết lư đă được lập ra trước đây, trong khi đối với giá trị chắc chắn trong việc luyện trí đang từ từ bị vượt qua. Trong vị trí của nó đang xuất hiện trong cả hai thế giới tôn giáo và triết lư một năng lực mới để chiếm một vị thế khoa học hơn. Giáo lư thiêng liêng sẽ được chấp nhận ngày càng nhiều như là một giả thuyết phải được chứng minh ít ra bởi hệ thống triết học kinh viện, nền móng lịch sử và uy quyền của lịch sử, và thêm nữa bằng các kết quả của hiệu quả  của nó trên sự sống đă trải qua và sự hữu ích thực tiễn của nó trong việc giải quyết các vấn đề của nhân loại. Trước đây, giáo lư huyền môn tiên tiến hầu như luôn luôn chỉ có thể nhận được bằng sự chấp nhận thẩm quyền vị đạo sư của môn sinh, các tŕnh độ khác nhau của sự tuân thủ cá nhân đối với vị huấn sư đó và các lời thề giữ bí mật. Khi sự sắp đặt mới mẻ của Kỷ Nguyên Bảo B́nh tiến triển, th́ các giới hạn này sẽ biến mất. Mối liên hệ cá nhân giữa đệ tử với Đức Thầy vẫn

tồn tại, nhưng việc dạy dỗ đệ tử đă được thực hiện trong cách thành lập nhóm. Việc ghi nhận một kinh nghiệm như thế và thực hành phương pháp của kỷ nguyên mới này đă được đưa ra cho công chúng trong quyển sách có tựa Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới, sách này đưa ra các giáo huấn cá nhân trực tiếp của Chân Sư Tây Tạng cho một nhóm đệ tử được chọn lựa.

Trong bộ Luận Về Lửa Càn Khôn, Đức Thầy Tây Tạng đă đưa ra cho chúng ta những ǵ mà bà H.P. Blavatsky tiên đoán Ngài sẽ đưa ra, đó là ch́a khoá tâm lư học đưa đến Sự Sáng Tạo Vũ Trụ. H.P.B. phát biểu rằng trong thế kỷ 20, một đệ tử sẽ xuất hiện, người đó sẽ đưa ra ch́a khoá tâm lư học, cho tác phẩm vĩ đại của chính bà, bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, bộ Luận mà Đức Thầy Tây Tạng đă làm việc với bà; và Alice A. Bailey đă làm việc bằng sự nhận thức hoàn toàn về công việc của chính bà theo tŕnh tự này.

Tunbridge Wells Tháng 12 – 1950   Foster Bailey

Hiến dâng với ḷng tri ân dành cho Helena Petrovna Blavatsky.

Vị Đại Đệ Tử Đă Thắp Sáng Ngọn Đuốc Của Bà Ở Đông Phương và Mang Ánh Sáng Đến Âu Châu và Mỹ Châu năm 1875.

Trích Phát Biểu của Chân Sư Tây Tạng

--***-­

Bảo rằng tôi là một đệ tử Tây Tạng ở một tŕnh độ nào đó, th́ điều này không giúp cho bạn biết ǵ nhiều, v́ lẽ mọi người đều là đệ tử, từ người t́m đạo thấp thỏi nhất trở đi và lên trên chính Đức Christ nữa. Tôi sinh hoạt trong một thể xác (c̣n mang xác phàm) giống như bao người khác, trên các biên giới Tây Tạng, và đôi khi (theo quan điểm ngoại môn) điều khiển một nhóm lớn các Lạt Ma Tây Tạng khi ít vướng bận vào các nhiệm vụ. Chính sự việc này khiến người ta đồn đăi rằng tôi là Tu Viện trưởng của Lạt Ma Viện đặc biệt này. Những ai có hợp tác với tôi trong công việc của Thánh Đoàn (tất cả các đệ tử đích thực đều hợp tác trong công việc này) c̣n biết tôi bằng một danh xưng và chức vị khác. A.A.B. biết rơ tôi là ai và nhận ra tôi theo hai danh xưng của tôi.

Tôi là một huynh đệ của các bạn, kẻ đă bước trên Thánh Đạo xa hơn là đạo sinh bậc trung một ít và do đó đă gánh vác các trách nhiệm lớn lao hơn. Tôi là kẻ đă đấu tranh và mở đường tiến vào một phạm vi ánh sáng rộng lớn hơn là người t́m đạo, tức là kẻ sẽ đọc được đoạn này, và do đó, tôi phải hành động như là kẻ truyền đạt ánh sáng, dù với giá nào. Tôi không phải là kẻ luống tuổi theo số tuổi thường thấy nơi số các huấn sư, tuy nhiên tôi không non trẻ hay thiếu kinh nghiệm. Công việc của tôi là giảng dạy và truyền bá tri thức của Minh Triết Muôn Thuở nơi nào mà tôi có thể t́m được sự đáp ứng, tôi đă đang làm việc này từ nhiều năm qua. Tôi cũng đă t́m cách để giúp Chân Sư M. và Chân Sư K.H. khi có cơ hội, v́ từ lâu, tôi đă liên kết với các Ngài và với công việc của các Ngài. Qua các điều nêu trên, tôi đă nói với bạn nhiều điều, tuy nhiên, đồng thời tôi không nói với bạn điều ǵ cả, để có thể đưa bạn đến chỗ nghe

theo tôi một cách mù quáng và tôn sùng cuồng nhiệt mà người t́m đạo giàu t́nh cảm bảy tỏ với vị Guru và Chân Sư, Đấng mà cho đến nay, y chưa có thể giao tiếp được. Người t́m đạo cũng sẽ không tạo được sự tiếp xúc theo mong ước cho đến khi nào y chuyển ḷng tôn sùng do t́nh cảm thành việc phụng sự không ích kỷ cho nhân loại -chớ không phải cho Đức Thầy.

Các sách do tôi viết, được đưa ra mà không đ̣i hỏi được chấp nhận. Chúng có thể đúng hoặc không đúng -hữu ích hoặc không hữu ích. Chính bạn mới có thể xác nhận sự chính xác của chúng do thực hành đúng và do luyện được trực giác. Cả tôi lẫn

A.A.B. đều không quan tâm bao nhiêu đến việc xem các sách đó như là các tác phẩm tạo ra do linh hứng, hoặc được người nào đó nói đến chúng (một cách háo hức) như là công tŕnh của một trong các Đức Thầy. Nếu các sách này tŕnh bày chân lư theo cách nào mà chân lư đó lại theo đúng tŕnh tự đă được đưa ra trong các giáo lư trên thế giới, nếu điều tŕnh bày trong các sách đó nâng cao được đạo tâm và ư chí phụng sự từ cơi t́nh cảm lên cơi trí (là cơi mà các Chân Sư có thể hoạt động) th́ bấy giờ chúng đă đạt được mục tiêu. Nếu giáo huấn này tạo được sự đáp ứng nơi các thể trí giác ngộ của kẻ hành đạo trên thế gian và giúp cho trực giác của y loé sáng, th́ bấy giờ hăy chấp nhận giáo lư đó. Bằng không th́ thôi. Nếu các phát biểu này đáp ứng với bằng chứng sau rốt hay là được cho rằng đúng dưới sự thử thách của Định Luật Tương Ứng, bấy giờ chúng mới có giá trị. Nhưng nếu không được như thế th́ đạo sinh đừng chấp nhận những ǵ đă được đưa ra.

Tháng 8 – 1934

LỜI NÓI ĐẦU

Bộ “Luận Về Lửa Càn Khôn” này nhắm vào năm mục tiêu:

Thứ nhất: cung cấp một phác thảo thu gọn và ṇng cốt cho một hệ thống về Vũ Trụ học, triết học và tâm lư học mà có lẽ có thể dùng được cho một thế hệ với cương vị là một nguồn tham khảo và một sách giáo khoa, và có thể dùng làm một khung sườn mà theo đó giáo huấn tỉ mỉ hơn có thể được kiến tạo sau này, khi trào lưu vĩ đại của học thuyết tiến hoá tuôn chảy vào.

Thứ hai: để diễn tả những ǵ thuộc nội tâm bằng các thuật ngữ có thể hiểu được, và để đưa ra giai đoạn tiến tới kế tiếp trong việc t́m hiểu tâm lư học đích thực. Chính việc giải thích mối liên hệ hiện có giữa Tinh Thần với Vật Chất, mối liên hệ này biểu lộ dưới h́nh thức tâm thức. Người ta cũng thấy rằng Bộ Luận này trước tiên bàn đến khía cạnh trí tuệ đến tâm thức và bàn đến tâm lư học cao siêu, và ít bàn đến vật chất theo như chúng ta biết về nó trên cơi trần. Nguy hại liên quan đến việc đưa ra thông tin về đủ loại năng lượng của chất liệu nguyên tử th́ quá lớn, và cho đến nay, nhân loại c̣n quá ích kỷ không thể giao phó cho các sức mạnh này. Qua công việc có thể có của các nhà khoa học, con người đă t́m ra tri thức cần thiết với mức nhanh chóng thích hợp. Trong sách này, tầm quan trọng sẽ được đặt vào các mănh lực này, chúng chịu trách nhiệm cho sự biểu lộ ra bên ngoài của một Thái Dương Thượng Đế và của một con người và chỉ trong tiết thứ nhất mà sự chỉ dẫn được đưa ra về bản chất của các năng lượng này vốn được ràng buộc chặt chẽ vào cơi trần.

Thứ Ba: cho thấy sự phát triển có mạch lạc của tất cả những ǵ được t́m thấy bên trong một Thái Dương hệ; chứng

minh rằng mọi sự vật đều tồn tại và tiến hoá (từ h́nh hài thấp nhất của sự sống ở mức kết khối nặng nhất, lên tới biểu lộ bền dai nhất và cao siêu nhất) và mọi h́nh hài đó chỉ là biểu hiện của một Sự Hiện Tồn kỳ diệu và thiêng liêng. Sự biểu lộ này được tạo ra bởi sự phối hợp của hai trạng thái thiêng liêng qua ảnh hưởng của một trạng thái thứ ba, và tạo ra sự biểu lộ mà chúng ta gọi là một h́nh tướng, thúc đẩy nó bắt đầu chu kỳ tiến hoá của nó trong thời gian và không gian. Như vậy h́nh hài được tạo ra ở điểm mà nơi đó trở thành một môi trường thích hợp cho sự biểu hiện của thiên nhiên về những ǵ mà ta gọi là Thượng Đế.

Thứ tư: đưa ra thông tin thực tiễn liên quan đến các điểm tập trung năng lượng vốn có trong các thể dĩ thái của Thái Dương Thượng Đế, tức Đại Thiên Địa, và của con người tức Tiểu Thiên Địa. V́ lớp nền bằng chất dĩ thái vốn là chất liệu thực sự nằm bên dưới mọi dạng thức hữu h́nh quen thuộc, nên một số cuộc cách mạng lớn lao sẽ được mang lại trong các lănh vực khoa học, y khoa và hoá học. Chẳng hạn việc nghiên cứu y khoa, sau rốt sẽ được bắt đầu theo một quan điểm mới và việc thực hành y khoa sẽ được thành lập dựa vào sự hiểu biết về các định luật phát xạ, các ḍng từ lực và các trung tâm lực nằm trong các thể của con người và các liên hệ của chúng đối với các trung tâm lực và các luồng thần lực của Thái Dương Hệ.

Thứ năm: đưa ra một số thông tin mà từ trước đến giờ không được phổ biến ra bên ngoài về vị trí và công việc của vô số các sinh linh hữu t́nh vốn hợp thành bản thể của biểu lộ ngoại cảnh; nêu ra bản chất của các Huyền Giai các Đấng Cao Cả, các Ngài tạo ra bằng chính chất liệu của các Ngài tất cả những ǵ nh́n thấy được và nhận biết được, và các Ngài chính là Linh Hoả và nguyên nhân của tất cả các hiện tượng

về nhiệt, hơi ấm, sự sống và chuyển động trong vũ trụ. Theo cách này, tác động của Lửa trên Nước, của Nhiệt trong Vật Chất, dù là xét về mặt đại thiên địa hay tiểu thiên địa, cũng sẽ được giải quyết và một ít ánh sáng được chiếu rọi vào Định Luật Nhân Quả (Luật Karma) và ư nghĩa của nó trong Thái Dương hệ.

Để tổng kết vần đề, giáo lư trong sách này sẽ có khuynh hướng đưa đến sự mở rộng về tâm thức, và sẽ mang lại một nhận thức đầy đủ, dưới h́nh thức một nền tảng tạm đủ, về mặt khoa học lẫn tôn giáo, cho sự giải thích đó đối với các tiến tŕnh của thiên nhiên vốn được đưa ra cho chúng ta qua các trí tuệ của Chân Sư thuộc mọi thời đại. Tiến tŕnh đó sẽ có khuynh hướng mang lại một phản ứng có thiện cảm với một hệ thống triết học, hệ thống này sẽ nối liền cả về Tinh Thần lẫn Vật Chất, đồng thời chứng minh sự hợp nhất bản thể của ư niệm về khoa học và tôn giáo. Hiện giờ, cả hai có phần nào tách rời nhau, c̣n chúng ta chỉ mới bắt đầu ḍ dẫm bằng con đường trí tuệ của chúng ta lối thoát ra khỏi các hố sâu của cách diễn dịch theo vật chất. Tuy nhiên, đừng nên quên rằng, dưới Định Luật Tác Động và Phản Tác Động, giai đoạn dài của tư tưởng duy vật đă là một giai đoạn cần thiết cho nhân loại, bởi v́ thuyết huyền bí của Thời Trung Cổ (1) đă dẫn chúng ta đi quá xa vào hướng ngược lại. Hiện giờ chúng ta đang có khuynh hướng tiến đến một quan điểm thăng bằng hơn, và người ta hy vọng rằng bộ luận này có thể tạo thành một phần của tiến tŕnh mà nhờ đó sự thăng bằng được đạt đến.

1 Thời Trung Cổ (Middle Ages): giai đoạn của lịch sử Châu Âu, kéo dài từ lúc biến mất Đế quốc La Mă (Năm 476 của Công Nguyên) đến lúc sụp đổ thành Constantinople (1453). (Tự Điển La Rousse 1995)

Khi nghiên cứu bộ luận này, đạo sinh nên ghi nhớ vài điều:

Đó là khi bàn đến các đề tài này, chúng ta quan tâm tới bản thể (essence) của những ǵ hiện ra ngoại cảnh, với khía cạnh bên trong của biểu lộ, đồng thời với việc xem xét về lực và năng lượng. Hầu như không thể rút gọn các quan niệm như thế thành các công thức cụ thể và diễn tả các quan niệm đó theo một cách sao cho chúng có thể trở thành hiểu được đối với thường nhân.

Đó là khi chúng ta dùng các từ ngữ, các nhóm từ và diễn tả bằng thuật ngữ của cách nói hiện đại, tất nhiên toàn bộ vấn đề trở nên bị hạn chế và bị làm cho nhỏ lại, v́ lẽ đó nhiều chân lư bị mất đi.

Đó là tất cả những ǵ trong bộ luận này được tŕnh bày trong một tinh thần không giáo điều, mà chỉ với tư cách một đóng góp cho khối ư tưởng dựa vào chủ đề các cội nguồn thế giới và cho dữ liệu đă được tích luỹ về bản chất của con người. Điều hay nhất mà con người có thể đưa ra như là một giải đáp cho vấn đề thế giới, tất yếu phải khoác lấy một h́nh thức kép và sẽ minh chứng qua một cách sống phụng sự tích cực, có khuynh hướng việc cải thiện các điều kiện chung quanh và qua một tŕnh bày về một hệ thống vũ trụ nào đó hay kế hoạch vốn sẽ t́m cách giải thích càng nhiều càng hay về các t́nh trạng như chúng được thấy hiện hữu.

 

Luận cứ mà con người đưa ra hiện nay đến từ nền tảng của các nguyên nhân được biết rơ và đă được chứng minh, và bỏ lại các nguyên nhân không được biết đến hoặc chưa giải thích được, v́ các nguyên nhân ăn sâu này phải được coi như là đang tạo ra các nguyên nhân đă thấy và biết, mọi giải đáp mà cho đến nay vẫn thất bại và sẽ tiếp tục thất bại trong mục tiêu của chúng.

d. Đó là mọi cố gắng để diễn đạt bằng ngôn từ những ǵ phải được cảm nhận và c̣n tồn tại (lived) ngơ hầu được hiểu một cách trung thực, nhất định phải được chứng minh là một đau khổ không cần thiết. Tất cả những ǵ có thể được nói đến, sau rốt sẽ chỉ là các phát biểu từng phần của Đại Chân Lư hăy c̣n bị che giấu, và phải được đưa ra cho độc giả và người nghiên cứu dưới h́nh thức chỉ là một giả thuyết thích hợp và là một giải thích gợi ư. Đối với nhà nghiên cứu đă mở trí và người đang lưu giữ được hồi ức trong trí rằng chân lư được tiết lộ từng nấc một, th́ điều hiển nhiên là cách diễn đạt chân lư đầy đủ nhất chỉ có thể có được vào bất cứ một lúc nào

XV sẽ được nhận ra sau này chỉ là một phần của một tổng thế, và sau này vẫn c̣n được nhận ra chỉ là các phần nhỏ của một sự thật và như vậy trong chính nó là một sự lệch lạc của thực tại. Bộ luận này được đưa ra với hy vọng rằng nó có thể tỏ ra hữu ích cho tất cả những người đi t́m chân lư có tâm trí mở rộng, đồng thời nó cũng có giá trị cho tất cả các nhà sưu khảo vào Cội Nguồn bên trong của tất cả những ǵ biểu lộ hữu h́nh ra bên ngoài. Nó nhắm vào việc cung cấp một kế hoạch hợp lư thuộc cơ tiến hoá của Thái Dương Hệ và nhắm vào việc nêu ra cho con người cái phần mà con người phải tham dự với tư cách một đơn vị nguyên tử trong một Tổng Thể vĩ đại và có kết hợp. Trong công cuộc xoay chuyển bánh xe tiến hoá, đoạn này của Giáo Lư Bí Nhiệm xuất hiện trước thế gian mà không đ̣i hỏi nào về cội nguồn của nó, hiệu quả tuyệt đối của nó hoặc là độ chính xác trong chi tiết của các phát biểu của nó.

Không một quyển sách nào lấy được bất cứ ǵ từ các đ̣i hỏi hoặc các tuyên ngôn có tính cách giáo điều đối với giá trị thẩm quyền của cội nguồn đem lại linh hứng của nó. Nó sẽ đứng vững hoặc là rơi một ḿnh vào cái nền tảng của chính

cái giá trị tồn tại bên trong của chính nó, dựa vào giá trị của các gợi ư được tạo ra, và sức mạnh của nó để thúc đẩy sự sống tâm linh và sự thấu hiểu về mặt trí tuệ của người đọc. Nếu bộ luận này có trong nó bất cứ chân lư nào và bất cứ sự thực nào, th́ nó sẽ làm tṛn công việc của nó một cách hiển nhiên và tất yếu, ấy là mang được thông điệp của nó, và như vậy đến được tâm và trí của các nhà t́m kiếm chân lư ở khắp nơi. Nếu nó không có được chút giá trị nào, và không có được căn bản sự thật nào, th́ nó sẽ không c̣n hiện hữu nữa và sẽ chết, hiển nhiên là thế. Tất cả những ǵ được đ̣i hỏi từ nơi nhà nghiên cứu bộ luận này, là một sự tiếp cận với tinh thần đồng cảm, một sự sẵn ḷng xem xét các quan điểm được đưa ra cùng với sự trung thực và thành tâm về tư tưởng, nó sẽ có khuynh hướng đưa đến sự phát triển trực giác, đến sự chẩn đoán thiêng liêng, và một sự phân biện vốn sẽ đưa đến việc bác bỏ điều giả và chấp nhận điều chân.

Ở đây, các lời của Đức Phật được đánh giá cao sâu nhất, có được chỗ đứng của nó, và trở thành một kết luận thích hợp cho các nhận xét mở đầu này :

Đức Phật có nói:

Rằng chúng ta đừng nên tin vào một điều ǵ được nói ra chỉ v́ nó được nói mà thôi; đừng tin vào các truyền thống v́ chúng đă được truyền xuống từ thời xa xưa; đừng tin vào các đồn đăi như thế; cũng không tin vào các câu viết của các vị thánh, v́ các thánh đó đă viết ra các câu ấy; cũng đừng tưởng rằng chúng ta có thể nghi ngờ khi được một Thiên Thần gợi hứng nơi chúng ta (nghĩa là, trong những ǵ được cho là có chứa hứng cảm tâm linh); cũng đừng tin vào các suy đoán được rút ra từ một giả định không cẩn trọng nào đó mà chúng ta có thể đưa ra; cũng như không v́ những ǵ có vẻ như một sự tương đồng tất yếu; cũng không chỉ dựa vào

XVI thẩm quyền của các huấn sư hoặc các bậc thầy của chúng ta. Nhưng chúng ta phải tin khi nào bài viết, lư thuyết hoặc châm ngôn được chứng thực bằng chính lư lẽ và ư thức của chúng ta. Để kết luận, Ngài nói: “V́ lẽ đó, ta khuyên con đừng nên tin chỉ v́ con đă nghe, mà hăy nên tin vào ư thức của con, rồi hăy hành động cho thật phù hợp với điều đă biết”. Giáo Lư Bí Nhiệm  III,  401 Mong cho đây là thái độ của mọi độc giả của Bộ “Luận Về Lửa Càn Khôn” này. Alice A. Bailey

Ghi chú: Các cước chú của toàn thể Bộ Luận này, Bộ “Giáo Lư Bí Nhiệm” của bà H.P.Blavatsky, có ghi rơ bằng các chữ đầu S.D. Các trang qui chiếu thuộc về “Ấn bản Thứ ba có duyệt lại”

Minh giải của người dịch về tựa sách

Sở dĩ chữ “cosmic” ở đây được dịch ra “Càn Khôn là v́ theo vua Phục Hi (Fohi), quẻ Càn ( ) tượng trưng trời, quẻ Khôn ( ) tượng trưng đất. Đây là vũ trụ, trong có chứa bầu trời và trái đất của chúng ta, tức là Vũ trụ thu hẹp trong Thái Dương Hệ của chúng ta, khác với vũ trụ bao la, có đến 100 tỉ thiên hà, mỗi thiên hà chứa ít nhất 100 tỉ mặt trời (Giai Điệu Bí Ẩn của Trịnh Xuận Thuận, nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật, Hà Nội, 2000).

Quả vậy, các sự việc được Chân Sư D.K bàn đền trong BỘ Luận này hầù hết chỉ nằm trong phạm vi Thái Dương Hệ chúng ta mà thôi.

LỬA

“Giáo lư nội môn nói ǵ về Lửa ?”

Lửa là h́nh ảnh hoàn hảo nhất và không bị pha trộn, trên Trời cũng như dưới thế, của Ngọn Linh Hoả Duy Nhất. Đó là sự sống và cái chết, Cội nguồn và Kết thúc của mọi đối tượng vật chất. Đó là Chất Liệu Thiêng Liêng”. Giáo Lư Bí Nhiệm  I, 146.

Địa cầu của chúng ta và con người chúng ta đều là sản phẩm của Ba Loại Lửa. GLBN  II, 258.

Lửa và Ngọn Lửa huỷ diệt thân thể của một La Hán; tinh hoa của các Ngài biến Ngài thành bất tử. GLBN  I, 35

Ba Loại Lửa

I. Lửa Bên Trong hay Lửa do Ma Sát

Có nhiệt bên trong và nhiệt bên ngoài trong mọi nguyên tử, hơi thở của Cha (Tinh Thần) và hơi thở (hay nhiệt) của Mẹ (vật chất) “ GLBN  I, 112

II. Lửa của Trí Tuệ hoặc Lửa Thái Dương

Lửa tri thức đốt hết mọi hành động trên cơi trần của ảo tưởng, do đó những người có được Lửa đó và được giải phóng th́ được gọi là “Lửa”. GLBN I , 114

III. Lửa Tinh Thần hay Lửa Điện

Hỡi đệ tử, hăy ngẩng cao đầu, ngươi sẽ thấy ánh sáng duy nhất hoặc vô số ánh sáng bên trên ngươi, đang bừng cháy trong bầu trời tối đen nửa đêm hay không?”

“Hỡi Thiên Thần Đạo Sư, con cảm nhận được Ngọn Lửa duy nhất; con thấy vô số linh quang tách rời đang chiếu sáng trong đó”.

GLBN  I, 145

MỤC LỤC

Trang (Anh ngữ) Các định đề mở đầu .............................................................3 Các Đoạn Thiền Kinh ...........................................................11

Tiết Một Các Nhận Xét Mở Đầu ........................................................37

I. Lửa trong Đại Thiên Địa .................................................37

II. Lửa trong Tiểu Thiên Địa ...............................................45

III. Lửa trong Biểu Lộ                     .......................................48 Đoạn A .  Lửa Nội Tại của các Thể  ....................................55 I. Ba Vận Hà ........................................................................55 II. Hoả tinh linh và Hoả Thiên Thần  ...............................65 Đoạn B.  Cung Phàm Ngă và Lửa Thứ Nhất  ...................69

I. Công việc của ba cung

II. Cung phàm ngă và các nguyên tử thường tồn ..........71

III. Cung phàm ngă và Luật Nghiệp quả   .......................73 Đoạn C.  Thể Dĩ Thái và Prana      ......................................77 I. Bản chất của thể dĩ thái ........................................77

1. Mục đích thể dĩ thái – Mô tả ....................................78

2. Tám phát biểu    .......................................81

II.  Bản chất của Prana .......................................87

1. Prana thái dương                  ......................................90

2. Prana hành tinh ......................................91

3. Prana của h́nh hài ......................................93

III. Chức năng của thể dĩ thái ......................................97

1. Đó là nơi tiếp nhận prana    ......................................97

2. Đó là nơi đồng hoá prana    ......................................99 

3. Đó là nơi truyền prana      .........................................101

4. Các xáo trộn của thể dĩ thái .....................................104

IV. Dĩ thái trong Đại Thiên Địa và Tiểu Thiên Địa ..........111

1. Hành Tinh Thượng Đế và các dĩ thái .....................111

2. Dĩ thái vũ trụ và thái dương hệ  ..............................116

3. Mục đích che chở của thể dĩ thái ............................122

V. Sự chết và thể dĩ thái ........................................128 Đoạn D – Kundalini và xương sống ..................................134

I. Kundalini và ba tam giác          ........................................135   

1. Trong đầu                             ........................................135

2. Trong cơ thể       ........................................135

3. Ở chót xương sống              ........................................135

II. Việc đi lên của Kundalini ........................................139 Đoạn E -Chuyển động trên cơi trần và cơi cảm dục .......141

I. Các nhận xét mở đầu              ........................................141

II. Các hiệu quả của chuyển động quay ..........................152

III. Các tính chất của chuyển động quay  .........................157

IV. Chuyển động quay và biểu tượng học  ......................159

V. Chuyển động và các trung tâm lực ...........................161

1. Bản chất các trung tâm lực .........................................163

2. Các trung tâm lực và các cung ...................................173

3. Các trung tâm lực và Kundalini ...............................183         

4. Các trung tâm lực và các giác quan .........................185

5. Các trung tâm lực và điểm đạo   ................................207 Đoạn F -Định Luật Tiết Kiệm      ........................................214

I. Hiệu quả của Định Luật Tiết Kiệm trong vật chất ....214

II. Các định luật phụ của Định Luật Tiết Kiệm ..............219

1. Định Luật Rung Động         .........................................219  

2. Định Luật Thích Nghi ...........................................219

3. Định Luật Đẩy      ............................................ 219

4. Định Luật Ma Sát              ............................................. 219

Tiết Hai

Các câu hỏi mở đầu           ................................................223

I. Liên hệ ǵ của Con với Mặt Trời ?  .................................225 II. Sự tiến hoá là ǵ và nó nối tiếp như thế nào? ...............231 III. Tại sao Thái Dương hệ tiến hoá theo đường lối nhị nguyên ? .................................................................................. 237 IV. Tâm thức là ǵ và vị trí của nó trong hệ thống là ǵ?... 243  V. Có sự tương đồng trực tiếp giữa một Thái dương hệ, một hành tinh, một con người và một nguyên tử hay không ?...245 VI. Trạng thái trí tuệ là ǵ ? Ai là con của Trí Tuệ ? ....... 259 VII. Tại sao có sự tiến hoá theo chu kỳ ?   ........................ 273 VIII. Tại sao có sự hiểu biết cả công truyền và bí truyền ?.. 285

IX. Mối liên hệ ǵ giữa: a/ 10 hệ thống-b/ 7 hành tinh thánh thiện-c/ 7 dăy trong một hệ thống – d/ 7 bầu hành tinh trong một dăy – e/ 7 cuộc tuần hoàn trên một bầu hành tinh – f/ 7 căn chủng và phụ chủng. Đoạn A -Bản chất của Manas hay là Trí Tuệ ...............308

I. Ba biểu lộ của trí tuệ              ........................................308

II. Vài định nghĩa của Manas hay trí tuệ   .....................309

1. Manas là nguyên khí thứ năm    ................................309

2. Manas là điện         .......................................310

3. Manas là cái tạo ra sự cố kết .......................................332

4. Manas là ch́a khoá đưa đến giới thứ 5 trong thiên nhiên ..................................................................................................334

5. Manas là tổng hợp của 5 cung  .................................. 336

6. Manas là Ư chí thông tuệ hay thiên ư của một Đấng 337 Đoạn B. Manas dưới h́nh thức một yếu tố vũ trụ, thái dương hệ và con người. ....................................................... 342

I. Cội nguồn của manas hay trí tuệ ..............................343

1. Manas vũ trụ  ..............................................................343 

a. Tiến tŕnh biệt ngă hoá     .........................................343

b. Phương pháp khai mở    ..........................................348       

2. Manas hành tinh    .....................................350

a. Tâm thức và sự hiện tồn  .........................................350 

b. Ư chí và thiên cơ an bài .........................................353

3. Manas con người .....................................355   

a. Con người và Hành Tinh Thượng Đế   ..................356

b. Thượng Đế của hệ thống Địa cầu   .........................360

c. Kim Tinh và dăy Địa cầu ........................................367

4. Manas và dăy Địa Cầu            ....................................378

a. Dăy Địa cầu và các Chân Thần lâm phàm .............379

b. Giới thứ tư và Huyền Giai Hành Tinh  .................386

c. Một tiên đoán                      .........................................389

d. Tóm tắt                                 ........................................393  

II. Vị thế của Manas ........................................395

1. Manas và Karma   ......................................395

2. Manas và mục tiêu nghiệp quả ..................................397

III. Giai đoạn hiện tại của sự phát triển manas  ..............401

1. Trong các hành tinh                ......................................402

2. Trong hệ thống      ......................................408

3. Trên Địa Cầu          ......................................412

IV. Tương lai của manas .......................................417

1. Các đặc điểm của manas hay trí tuệ   ........................418

a. Sự phân biện        .......................................418

b. Hoạt động đă an bài .......................................421

c. Tính thích nghi ......................................423

2. Phát triển của trí người .....................................424

a. Hiệu quả của cung ......................................427

b. Con vật, con người và các cung   .............................457

c. Loại nghiệp quả   ......................................469

3. Manas trong các cuộc tuần hoàn cuối .......................475

a. Tiến tŕnh chuyển hoá           .....................................475

b. Tổng hợp                                ......................................498 Đoạn C . Cung Chân Ngă và Lửa Thái Dương   ..........504

I. Bản chất của thể Chân Ngă hay thể nguyên nhân .....505

1. Hợp thành bởi sự tiếp xúc của hai Lửa  ...................505

2. Được tạo ra vào lúc biệt ngă hoá  ..............................506

II. Bản chất của các nguyên tử thường tồn   ....................507

1. Mục tiêu của chúng               .......................................507

2. Vị trí của chúng trong thể Chân Ngă  .......................510              

a. Nguyên tử thường tồn thể t́nh cảm   ..................510

b. Tam giác nguyên tử         ........................................513

3. Loa tuyến và cung chân ngă .......................................515

a. Thành phần của nguyên tử thường tồn   .............515

b. Các cơi và năng lượng Lửa   ..................................518

c. Ba loại Lửa       ........................................522

4. Tóm lược                                   ......................................530

III. Hoa Sen Chân Ngă                  .......................................536

1. Luân Xa hay các trung tâm năng lượng ....................537

a. Các trung tâm lực ........................................537

b. Thể nguyên nhân               ........................................538

2. Hoa Sen mười hai cánh          ........................................538

a. Ba cánh hoa kiến thức ........................................539

b. Ba cánh hoa bác ái .........................................540

c. Ba cánh hoa hy sinh ........................................541

3. Tóm lược Đoạn D – H́nh tư tưởng và Hoả tinh linh ....................550

I. H́nh tư tưởng ........................................551

1. Chức năng của h́nh tư tưởng .................................551

a. Đáp ứng với rung động     ........................................552

b. Cung cấp các hiện thể cho các ư tưởng ...................556                

c. Thi hành các mục tiêu đặc biệt ................................560

2. Các định luật về tư tưởng .......................................567

a. Ba định luật cấp vũ trụ       .........................................567

b. Bảy định luật cấp thái dương hệ   ............................569    

II. Các h́nh tư tưởng và thiên thần   ..................................601

1. Thần cai quản Lửa, Agni .........................................601

a. Agni và Thái Dương Thượng Đế   ............................601

b. Agni và cơi trí ........................................604

c. Agni và ba loại Lửa              ........................................606

2. Hoả thiên thần, các vị Kiến Tạo Vĩ Đại ......................612

a. Các phát biểu mở đầu          .......................................612

b. Chức năng của các thiên thần    ................................620

c. Thiên thần và các cơi .........................................627      

3. Các Thái Dương Thiên Thần, các Agnishvattas .........679  Dẫn nhập ............................................679

A. Về nguyên khí thứ năm           ..................................689

a. Xét về mặt vũ trụ                  ......................................689

b. Xét về mặt vật hoạt luận ......................................693

c. Thái Dương Thiên Thần và Nguyên Khí thứ Năm ..................................................................................................698

B. Về sự biệt ngă hoá                   ....................................707

a. Công việc của Thái Dương Thiên Thần  ................707

b. Biệt ngă hoá và các giống dân    ..............................714

c. Phương pháp biệt ngă hoá  ......................................717

d. Các Avatara, bản chất và công việc của các Ngài 721          

e. Biệt ngă hoá, một h́nh thức điểm đạo ...................729

C. Về sự luân hồi ....................................732

a. Luân hồi về mặt vũ trụ, hành tinh và con người 732

b. Bản chất của chu kỳ qui nguyên    ........................734

c. Các kiểu mẫu luân hồi của con người ................744

d. Sự tái lâm sau này của Đấng Avatar ................747   

e. Sự thôi thúc và sự luân hồi ...................................760

f. Hoạt động của các Pitris       ...................................773

g. Công việc kiến tạo h́nh hài ...................................783 

h. Luân hồi và Karma                ..................................791

D. Về việc kiến tạo thể nguyên nhân ...........................807 

a. Các nhận xét mở đầu             ..................................807

b. Tiến hoá của các cánh hoa    ..................................816

c. Các tên gọi của hoa sen chân ngă  ........................840

d. Các cánh hoa và các trung tâm lực dĩ thái .........857

e. Điểm đạo và các cánh hoa    ..................................868  

4. Hoả tinh linh, các nhà kiến tạo thứ yếu    ....................887

a. Mở đầu                  ................................887

b. Các tinh linh cơi trần             ................................889

c. Tinh linh và các dĩ thái ................................910

d. Tinh linh và tiểu thiên địa    ................................936

III. Con người, một kẻ sáng tạo trong chất trí .................947

1. Sáng tạo các h́nh tư tưởng ..................................947

2. Tạo ra h́nh tư tưởng trong ba cơi thấp    ..............958

IV. Con người và các hoả chơn linh      ..............................963

1. Trạng thái ư chí và sự sáng tạo    ............................963

a. Điều kiện của nhà huyền thuật   .......................964

b. Xây dựng các h́nh tư tưởng .............................968

c. Ư nghĩa huyền linh của ngôn từ   ......................977

2. Bản chất của huyền thuật         ...............................982   

a. Ma thuật và huyền linh thuật   .........................984

b. Cội nguồn của ma thuật        .............................989

c. Các điều kiện đối với huyền linh thuật  ..........993

3. Mười lăm qui luật cho huyền thuật   ....................996

a. Sáu qui luật đối với cơi trí .............................997

b. Năm qui luật đối với cơi cảm dục  ...................1008

c. Bốn qui luật đối với cơi trần  .............................1021 Đoạn E -Chuyển động trên cơi trí ..................................1027

I. Các nhận xét mở đầu           ..........................................1027

II. Bản chất của chuyển động này   ..................................1032

III. Các kết quả hoạt động của nó     .................................1039

1. Định luật về sự mở rộng ...................................1040

2. Định luật về sự trở về của Chân Thần  ...............1046

3. Định Luật về sự tiến hoá thái dương   ................1054

4. Định Luật về bức xạ             ...................................1060

IV. Sự trở lại của bánh xe     ..........................................1083

V. Chuyển động và khía cạnh kiến tạo h́nh hài

1. Chuyển động và thể trí

2. Chuyển động trong thể nguyên nhân  ................1109

VI. Các hậu quả của chuyển động tổng hợp ....................1128

1. Các nhận xét mở đầu            ...................................1128

2. Nguyên nhân của biểu lộ có chu kỳ  ....................1132

3. Tạo ra khoen nối h́nh tam giác  ...........................1152

4. Tạo ra mối liên hệ giữa ba trung tâm lực ............1155 Đoạn F -Định Luật Hút .......................................................1166

I. Các định luật phụ  ..........................................................1168

1. Định Luật về Ái Lực Hoá học .................................1168

2. Định Luật về Tiến Bộ ...............................................1168 

3. Định Luật về Tính Dục .............................................1168

4. Định Luật về Từ Điển ...............................................1169

5. Định Luật về Phát xạ ................................................1170

6. Định Luật về Liên Hoa..............................................1171

7. Định Luật về Màu sắc ..............................................1171

8. Định Luật về Trọng Lực       .....................................1172

9. Định Luật về Ái Lực Hành Tinh .............................1172

10. Định Luật về Hợp Nhất Thái Dương  ....................1173

11. Định Luật về các Trường Phái ................................1173

II. Các hậu quả của Luật Hút     .........................................1185

1. Sự liên kết .................................................................1185      

2. Tạo h́nh tướng ..........................................................1186

3. Sự thích nghi của h́nh hài với sự sống  .................1188

4. Sự hợp nhất tập thể ...................................1211

III. Các liên hệ của nhóm             .........................................1213

1. Ba liên hệ về nguyên tử         ....................................1215

2. Bảy định luật cho công việc tập thể  ......................1216

3. Hai mươi mốt phương pháp tương tác .................1222

Tiết Ba Lửa Điện của Tinh Thần Đoạn A. Một vài nguyên tác cơ bản ...................................1229 Đoạn B. Bản chất Bảy Vũ Trụ Đạo .....................................1241 Đoạn C. Bảy Đoạn Kinh huyền bí ......................................1267

Mục lục .................................................................................1285

CÁC LƯỢC ĐỒ

1. Tiến hoá của vật chất                                                trang 56

2. Thượng Đế của một Thái dương hệ  94

3. Cấu tạo của con người 117

4. Pleroma  226

5. Tiến hoá của một Thái Dương Thượng Đế 344

6. Đồ h́nh thất phân của Thái Dương    373

7. Hệ thống địa cầu 385

8. Hoa sen Chân ngă và các trung tâm lực       817

9. Hoa sen Chân ngă  823

10. Khoa học về tham thiền                                 961

 

 

11. Nguyên tử                                                                  

1181

12. Parabrahm

1230

13. Huyền giai Thái dương và Hành tinh        

1238

Bảng biểu nguyên trang

 

1. Lửa và các trạng thái

trang 

42

2. Tiến hoá trong Vũ trụ 

 

293

3. Các Trạng Thái và Sự Tiến Hoá  

 

444

4. Các Thực Thể Thông Linh Kiến Tạo           

 

565

5. Hoả Tinh Quân        

 

607

6. Các Sinh Linh và mục tiêu                           

 

844

7. Các Năng Lượng

 

1187

 

 

CÁC ĐỊNH ĐỀ MỞ ĐẦU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Giảng huấn được đưa ra trong bộ “Luận Về Lửa Càn Khôn” này có thể được phát biểu trong các thuật ngữ sau. Các định đề này chỉ là các quăng diễn về ba điểm căn bản ở trong lời tựa của quyển I bộ Giáo Lư Bí Nhiệm (The Secret Doctrine) của bà H.P. Blavatsky. Đạo sinh được khuyến cáo nên nghiên cứu chúng một cách thận trọng; bằng cách đó, việc t́m hiểu của đạo sinh về bộ Luận này sẽ được trợ giúp rất nhiều.

I. Có một Bản Nguyên Vô Hạn Bất Di Dịch (Boundless Immutable Principle); một Thực Tại Tuyệt Đối vốn có trước mọi Đấng biểu lộ hữu hạn. Bản Nguyên đó vượt ngoài tầm và phạm vi hiểu biết của bất luận ư tưởng hay cách diễn đạt nào của con người.

Vũ trụ biểu lộ được chứa đựng trong Thực Tại Tuyệt Đối này và là một biểu tượng có hạn định của Thực Tại Tuyệt Đối đó.

Trong toàn thể Vũ Trụ biểu lộ này, có ba trạng thái được nhận thức.

 

1. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Một, vô ngă và vô hiện, có trước Vũ Trụ Biểu Lộ.

 

2. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Hai, Tinh Thần -Vật Chất, Sự Sống, Tinh Thần của Vũ Trụ.

 

3. Vũ Trụ Thượng Đế Ngôi Ba, Thiên Ư Hồng Nguyên Vũ Trụ, Linh Hồn Vũ Trụ Đại Đồng.

 

Từ các nguyên lư sáng tạo căn bản này, trong phát triển kế tiếp, có xuất phát theo tŕnh tự được an bài. Vô số Vũ Trụ gồm hằng hà sa số các Tinh Tú Biểu Lộ và các Thái Dương Hệ.

Mỗi Thái Dương hệ là sự biểu lộ của năng lượng và sự sống của một Đấng Vũ Trụ vĩ đại, Đấng mà v́ thiếu một danh xưng hoàn hảo hơn, chúng ta gọi là Thái Dương Thượng Đế.

Thái Dương Thượng đế lâm phàm hay biểu lộ qua trung gian của một Thái Dương Hệ. Thái Dương hệ này là xác thể hay sắc tướng của Đấng Vũ Trụ và chính Đấng này tam phân (itself triple).

Thái Dương hệ tam phân này có thể được mô tả bằng tên gọi có ba trạng thái (three aspects), hay là (theo như Thần học Cơ Đốc giáo) là ba Ngôi (three Persons).

LỬA ĐIỆN hay TINH THẦN Ngôi Một: Chúa Cha, Sự Sống. Ư chí. Thiên Ư. Năng lượng dương LỬA THÁI DƯƠNG hay LINH HỒN Ngôi Hai: Chúa Con. Tâm Thức. Bác Ái Minh Triết. Năng lượng thăng bằng. LỬA do Ma Sát hay Xác Thể hay Vật Chất. Ngôi Ba: Chúa Thánh Thần. Sắc tướng. Thông tuệ hoạt động. Năng lượng âm.

Mỗi Ngôi lại biểu lộ tam phân, do đó tạo ra 9 tiềm lực (potencies) hay Phân thân. 9 Sephiroth. 9 nguyên nhân Điểm Đạo.

Các Ngôi này, với toàn thể biểu lộ hay Tổng Thể, tạo ra 10 của biểu lộ hoàn hảo hay Con Người hoàn thiện.

CÁC ĐỊNH ĐỀ MỞ ĐẦU

Ba trạng thái của Tổng Thể này hiện diện trong mỗi sắc tướng.

Thái dương hệ tam phân, biểu lộ qua ba Ngôi nói trên.

Một con người cũng tam phân, biểu lộ thành Tinh Thần, Linh Hồn và Xác thể, hay Chân Thần, Chân Ngă và Phàm Ngă.

Nguyên tử của nhà khoa học cũng tam phân, được tạo thành bằng một nhân dương, các âm điện tử và toàn thể sự biểu lộ bên ngoài kết quả của sự liên lạc của hai thành phần kia. Ba trạng thái của mỗi h́nh hài đều có liên quan hỗ tương

 

và có thể trao đổi nhau (intercourse), v́

 Năng lượng ở trạng thái chuyển động và tuần hoàn.

 Mọi h́nh hài trong Thái dương hệ đều là một phần tử của Tổng Thể và không phải là các đơn vị biệt lập.

Đây là nền tảng của t́nh huynh đệ, của sự thông công của các Thánh và của chiêm tinh học. Ba trạng thái này của Thượng Đế, tức Thái Dương

 

Thượng Đế, và Năng Lượng Trung Ương hay Thần Lực (v́ các tên gọi đều đồng nghĩa về phương diện huyền linh) biểu lộ xuyên qua bảy trung tâm lực – 3 trung tâm lực chính yếu và 4 trung tâm lực thứ yếu. Bảy trung tâm này của Thiên Lực được tạo nên để hợp thành các Thực Thể Thông Linh kết hợp. Các Đấng này được biết dưới danh xưng:

Bảy Hành Tinh Thượng Đế.

Bảy Tinh Quân trước Thiên Toà.

Bảy Cung (Rays).

Bảy Thiên Đế (Heavenly Men).

 

Luận về lửa càn khôn

Bảy Hành Tinh Thượng Đế là hiện thân của 7 loại thần lực khác nhau và trong Bộ Luận này được nói đến dưới danh hiệu là các Huyền Cung Tinh Quân (Lords of the Rays). Tên gọi của các Cung là:

Cung I : Cung Ư Chí hay Quyền Năng  Ngôi Một Cung II :   Cung Bác Ái Minh Triết  Ngôi Hai Cung III :  Cung Trí Tuệ Hoạt Động          Ngôi Ba

Đây là các Cung chính yếu. Cung IV :  Cung Hài Hoà, Mỹ Lệ và Nghệ Thuật. Cung V : Cung Kiến Thức Cụ thể hay Khoa Học. Cung VI :  Cung Sùng Tín hay Lư Tưởng Trừu Tượng. Cung VII : Cung Nghi Lễ Huyền Thuật hay Trật Tự.

II. Có một định luật căn bản được gọi là Định Luật Chu Kỳ (Law of Periodicity).

 

1. Định luật này chi phối mọi biểu lộ, dù là biểu lộ của một Thái Dương Thượng Đế qua một Thái Dương hệ, hay là biểu lộ của con người qua h́nh hài. Định luật này cũng kiểm soát trong mọi giới của thiên nhiên.

 

2. Có một số định luật khác trong Thái Dương Hệ được liên kết với định luật này; một số định luật đó như sau :

 

Định luật Tiết Kiệm (Law of Economy)… định luật chi phối vật chất, Ngôi Ba.

Định luật hấp dẫn (Law of Attraction)… định luật chi phối Linh hồn, Ngôi Hai.

Định luật Tổng hợp (Law of Synthesis)… định luật chi phối tinh thần, hay Ngôi Một.

 

3. Ba định luật này là định luật vũ trụ. Có 7 định luật thuộc Thái Dương Hệ đang chi phối sự biểu lộ của Thái Dương Thượng Đế chúng ta:

a. Định luật Rung động (Law of Vibration)

CÁC ĐỊNH ĐỀ MỞ ĐẦU

 

 Định luật Kết hợp (Law of Cohesion)

 Định luật Phân tán (Law of Disintegration)

 Định luật Kiểm soát Từ điển (Magnetic Control)

 Định luật Qui định (Law of Fixation)

 Định luật Bác Ái (Law of Love)

Định luật Hy sinh và Tử Vong (Law of Sacrifice and Death)

 

 

4. Mỗi một trong các định luật này biểu lộ chủ yếu trên một cơi này, hoặc cơi khác trong 7 cơi của Thái dương hệ.

 

5. Mỗi định luật hoạt động theo chu kỳ và mỗi cơi có chu kỳ biểu lộ và chu kỳ qui nguyên của nó.

 

6. Mỗi sự sống biểu lộ đều có 3 chu kỳ lớn :

 

Khai sinh (Birth) Linh hoạt (Life) Tử Vong (Death) Xuất hiện Tăng trưởng Biến mất Giáng hạ tiến hoá Thăng thượng tiến Qui nguyên

hoá Bất động Hoạt động Chuyển động nhịp nhàng Sự sống tĩnh tại Sự sống sinh động Sự sống nhịp nhàng

 

7. Việc hiểu biết về các chu kỳ bao gồm việc hiểu biết về con số, âm thanh và màu sắc.

 

8. Chỉ có các Chân Sư hoàn thiện mới có được sự hiểu biết đầy đủ về bí nhiệm của các chu kỳ.

 

III. Mọi linh hồn đều tương tự với Đại hồn (Oversoul).

 

1. Thượng Đế của Thái dương hệ là Đại thiên địa (Macrocosm). Con người là Tiểu thiên địa (Microcosm).

2. Linh hồn là một trạng thái của mỗi h́nh hài của sự sống từ một Thượng Đế đến một nguyên tử.

3. Sự liên quan giữa mọi linh hồn với Đại Hồn tạo thành nền tảng cho sự tin tưởng khoa học vào t́nh huynh đệ. T́nh huynh đệ là một sự thực trong thiên nhiên chớ không phải là một lư tưởng.

4. Định luật Tương Ứng sẽ giải thích các chi tiết của mối liên quan này. Định luật Tương Ứng hay Tương Đồng này là định luật giải thích của Thái dương hệ và giải thích Thượng Đế cho con người.

5. Giống như Thượng Đế là Đại thiên địa đối với mọi giới trong thiên nhiên, cũng thế con người là Đại thiên địa đối với mọi giới dưới nhân loại.

6. Mục tiêu tiến hoá của nguyên tử là ngă thức như được minh hoạ trong giới nhân loại. Mục tiêu tiến hoá của con người là tập thể thức như được tiêu biểu bởi một Hành Tinh Thượng Đế.

 

Mục tiêu đối với Hành Tinh Thượng Đế là Thiên Thức / Thượng Đế thức (God consciousness), như được tiêu biểu bởi Thái Dương Thượng Đế.

 

7. Thái Dương Thượng Đế là toàn thể mọi trạng thái tâm thức trong Thái dương hệ.

Luận về lửa càn khôn

CÁC ĐỊNH ĐỀ MỞ ĐẦU

 

CÁC ĐOẠN THIỀN KINH (DZYAN)

11

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí nhiệm của Linh Hoả ẩn tàng trong chữ thứ hai của Thánh Ngữ. Bí mật của sự sống được ẩn giấu trong tim. Khi điểm hạ đẳng rung động, khi tam giác thánh thiện toả chiếu, khi linh điểm, điểm giữa và chóp đỉnh, nối tiếp và ṿng quanh Linh Hoả, khi ba chóp đỉnh cùng bùng cháy, lúc đó hai tam giác -cả lớn và nhỏ -hoà nhập thành một ngọn lửa duy nhất thiêu đốt tổng thể.

12

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đấng Đại Hùng thốt ra và ngân lên Linh Từ “AUM”. Bảy làn sóng vật chất tự dung giải và các h́nh hài đa dạng xuất hiện. Mỗi h́nh hài chiếm vị trí của nó, mỗi h́nh hài ở trong cơi ấn định. Chúng chờ đợi triều nước thiêng để tiến nhập và lấp đầy.

Các Đấng Kiến Tạo đáp ứng với linh âm. Trong sự hợp tác êm ái, các Ngài chờ lúc hành động. Các Ngài kiến tạo trong nhiều cơi, bắt đầu bằng cơi thứ ba. Trên cơi này, công việc của các Ngài đă bắt đầu. Các Ngài kiến tạo linh thể (sheath of atma) và kéo dài nó đến cái Nguyên Sơ của nó.

Đấng Đại Hùng thốt ra “AUM, giờ đây hăy để công việc nối tiếp. Hăy để các Đấng Kiến Tạo của không trung tiếp tục kế hoạch”.

Đại Thiên Thần và các Đấng Tạo Tác trên cơi không (plane of air) hoạt động với các h́nh hài bên trong cơi đó vốn được kể như là cơi chủ yếu của các Ngài. Các Ngài hành

động cho sự hợp nhất, mỗi Ngài ở trong nhóm đă định. Các khuôn mẫu trở nên vững vàng dưới bàn tay các Ngài.

Cơi nối tiếp thiêng liêng, cơi lớn thứ tư, trở thành cơi trong ṿng tṛn lớn đánh dấu mục tiêu cho con người. Đấng Đại Hùng thốt ra “AUM”, Ngài truyền sinh khí cho cơi thứ năm, cơi vốn là vùng đất nóng, chỗ gặp gỡ của Lửa. Lần này một nốt vũ trụ được nghe thấy bên dưới âm thanh của thái dương hệ. Lửa trong, lửa ngoài, gặp gỡ với lửa đang lên. Vị canh giữ Lửa vũ trụ, thiên thần của nhiệt từ Fohat bao giờ

13 cũng trông chừng h́nh hài đang ở t́nh trạng vô dạng thức, đang chờ đúng thời cơ. Các vị tạo tác cấp thấp, tức các thiên thần đang hoạt động với vật chất, chế tác các h́nh hài. Các Ngài đứng ở đẳng cấp thứ tư. Trên các cơi thứ ba là các h́nh hài ở trong im lặng trống không. Các Ngài rung động, các Ngài đáp ứng với chủ âm, tuy đứng đó một cách vô dụng và bỏ không. Đấng Đại Hùng phán bảo : “AUM, nước hăy tuôn ra”. Các thần kiến tạo của cơi nước, các cư dân của ẩm ướt, tạo ra các h́nh hài để di chuyển trong thiên giới của Đại Thuỷ Thần (Varuna). Các vị này phát triển và tăng bội lên. Các Ngài tác động vào ḍng chảy bất biến. Mỗi thuỷ triều của chuyển động vũ trụ làm tăng lên ḍng chảy không ngừng. Cơn gợn sóng của các h́nh hài được nhận ra. Đấng Đại Hùng phán bảo: “AUM, hăy để cho các Thần Kiến Tạo xử trí với vật chất”. Chất chảy ra đông đặc lại. H́nh hài rắn đặc được tạo thành. Lớp vỏ nguội lại. Nham thạch rắn đặc lại. Thần tạo tác hoạt động trong xáo trộn để tạo ra các dạng hăo huyền. Khi các lớp đá được làm xong, công việc trở nên hoàn tất. Các thần kiến tạo cấp thấp nhất báo tin công việc kết thúc.

CÁC ĐOẠN THIỀN KINH

Từ lớp nham thạch lộ ra lớp phủ kế tiếp. Các thần kiến tạo cấp hai đồng ư với công việc được làm xong. Thần kiến tạo thứ nhất và thứ hai trên con đường hướng thượng đứng về phía trước trong sắc tướng tứ phân. Năm vị bên trong được nh́n thấy một phần nào bởi kẻ có nhăn quang sắc bén.

“AUM”, Đấng Đại Hùng thốt ra và gom lại trong Hơi Thở (Breath) của Ngài. Linh quang bên trong giống dân thứ ba được thôi thúc phát triển thêm. Các thần kiến tạo h́nh hài thấp nhất vận dụng cái hăo huyền dày đặc nhất phối trộn sản phẩm của họ với các h́nh hài được tạo ra bằng các sản phẩm chứa nước. Vật chất và nước hoà lẫn tạo ra sản phẩm thứ ba vào đúng thời điểm. Việc thăng lên tiến triển như thế. Các thần kiến tạo làm việc trong sự thống nhất. Các Ngài kêu gọi

14 các vị canh giữ vùng đất nóng cháy. Vật chất và nước trộn lại với lửa, tia lửa thiêng bên trong h́nh hài được trộn lẫn hoàn toàn. Đấng Đại Hùng nh́n xuống. Các h́nh hài đáp ứng sự chuẩn nhận của Ngài. Tiếng kêu gọi có thêm ánh sáng được đưa ra. Ngài lại gom góp âm thanh. Ngài kéo về phía các cơi cao các tia sáng yếu ớt. Một âm điệu (tone) khác được nghe thấy, âm của Lửa Vũ trụ, ẩn giấu trong Các Con của Trí Tuệ. Các Ngài kêu gọi đến Các Nguyên Sơ của các Ngài. Bốn thấp, ba cao, c̣n cái thứ năm, thuộc vũ trụ đáp ứng với hơi thở vào vĩ đại. Một lớp vỏ khác được tạo thành.

15

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bánh Xe lớn xoay quanh chính nó. Bảy bánh xe nhỏ vội vàng xuất lộ. Chúng xoay ṿng giống Mẹ chúng, chung quanh, vào trong và tới trước. Tất cả đều hiện hữu.

Luận về lửa càn khôn

Các bánh xe thuộc nhiều loại khác nhau và hợp nhất thành một. Khi Bánh Xe lớn tiến hoá, lửa bên trong bùng cháy. Nó chạm vào bánh xe sự sống thứ nhất. Nó chạy ṿng quanh. Hàng triệu ngọn lửa bốc lên. Tính chất của vật chất trở nên đậm đặc hơn, nhưng h́nh hài th́ không. Các Con của Thượng Đế chổi dậy, quét qua chiều sâu của Linh Hoả, lấy khỏi tâm của nó Viên Hoả Thạch Linh thiêng, và tiếp tục tiến tới.

Trong lần quay kế tiếp Bánh Xe Lớn chuyển động lần thứ hai. Ngọn Lửa lại bùng lên, chọn Đá Thiêng làm tâm của nó, và tiếp tục quay. Các Con của Thượng Đế lại xuất hiện và được t́m thấy bên trong ngọn lửa. Chúng nói “H́nh hài chưa đầy đủ, hăy dời chuyển ra ngoài ngọn lửa”.

Bánh Xe lớn quay nhanh hơn, ngọn lửa trắng xanh hiện ra. Các Con của Thượng Đế lại tiến xuống và một bánh xe nhỏ bắt đầu quay. Bảy lần quay, bảy lần sức nóng nhiều hơn. Khối vô định h́nh trở nên rắn đặc hơn, Đá Thiêng ch́m sâu hơn. Đến tâm của Lửa trong cùng, Đá Thiêng rơi xuống. Lần này công việc hoàn thành tốt đẹp, sản phẩm càng hoàn thiện hơn. Ở ṿng quay thứ bảy, bánh xe thứ ba đáp lại Đá Thiêng. H́nh hài tăng gấp ba, ánh sáng nhuộm hồng, nguyên khí vĩnh cửu tăng gấp bảy.

Từ bên ngoài Bánh Xe Lớn, ṿm trời hạ xuống, ánh sáng tiến vào bánh xe nhỏ được tính là cái thứ tư. Các Chơn Linh (Lhas) vĩnh hằng nh́n xuống và các con của Thượng Đế đă đến. Xuống đến điểm tận cùng của tử vong các Ngài ném ra Đá Thiêng (Linh Thạch). Sự tán thành của các Chohans nổi lên. Công việc chuyển sang bước ngoặt. Từ hốc tối bên ngoài, các Ngài gom lại Linh Thạch, giờ đây đă đục mờ và thuần khiết, có màu hồng và xanh lơ.

CÁC ĐOẠN THIỀN KINH

Bánh Xe thứ năm quay và tác động của nó lên Đá Thiêng làm cho nó vừa vặn hơn. Màu vàng pha trộn, ngọn lửa trong màu cam, c̣n màu vàng, hồng và xanh lơ trộn lẫn các sắc thái tinh anh của chúng. Bốn bánh xe cùng với bánh xe lớn tác động trên Linh Thạch như thế, cho đến khi các Con của Thượng Đế tán thưởng và nói: “Công việc được thành toàn”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong ṿng quay thứ năm của Bánh Xe Lớn, giai đoạn

sắp xếp đă đạt được. Bánh xe nhỏ, vốn đáp ứng với ṿng

quay lớn thứ năm, vượt qua chu kỳ đi vào an b́nh.

Các bánh xe nhỏ xuất hiện và cũng làm công việc của chúng. Bánh Xe Lớn gom lại đàng sau các tia sáng đang toả ra. Năm bánh xe giải quyết công việc, chỉ hai cái nhỏ hoạt động với chi tiết. Linh Thạch gom lửa lại, nó toả ra ánh lửa bập bùng. Lớp Vỏ ngoài không đáp ứng với nhu cầu cho tới khi bánh xe thứ sáu và thứ bảy vượt qua được nó xuyên qua lửa các bánh xe.

Các Con của Thượng Đế lộ ra khỏi nguồn của chúng, chú mục vào bảy công việc và cho rằng điều đó là đúng. Linh Thạch được đặt riêng. Trong ṿng quay thứ hai, Bánh Xe Lớn chuyển động. Tinh Quân thứ tư trong số Mười Hai vị vĩ đại hơn vận dụng công việc của lửa thất phân. Ngài phán: “Điều đó không thích hợp, ngươi hăy nhập Linh Thạch này bên trong bánh xe, nó bắt đầu quay”.

Các Tinh Quân của bảy Bánh Xe Lớn lao Linh Thạch vào trong bánh xe đang chuyển động. Các Tinh Quân của Bánh Xe thứ năm và thứ sáu cũng phóng ra Linh Thạch của các Ngài.

Luận về lửa càn khôn

Bên trong lửa, sâu tận lớp trong cùng, Bánh Xe Lớn quay tít qua không gian, mang theo bảy bánh xe nhỏ, cả hai phối hợp lại. Bánh xe thứ tư, thứ năm, thứ sáu hoà lại, phối hợp và trộn vào nhau.

Các thời kỳ dài kết thúc, công việc được thành toàn. Các Tinh cầu vẫn trụ lại. Từ bầu trời sâu thẳm các Đấng vĩnh cửu thốt ra: “Công việc lộ ra. Các Linh Thạch rút ra”. Và rồi Các Linh Thạch hợp nhất.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kỳ Khai Nguyên mà mọi Tam Vị Nhất Thể đă đợi, giờ

đánh dấu điểm tiếp nối huy hoàng đă đến trong phạm vi thời

gian, và ḱa công việc được hoàn tất.

Thời điểm cho bảy nhóm nguyên khí, mỗi nhóm rung động theo tiếng ngân của Linh Từ, t́m cách gia thêm quyền năng, chờ đợi hàng thiên niên kỷ, trôi qua trong ánh chớp thời gian, thế rồi công việc được thành toàn.

Cấp đẳng đầu tiên được cổ vũ mạnh mẽ, cho rằng thời giờ thuận tiện được ngân lên ba lần trong ba tiếng vang. Tiếng vọng thấu đến mục tiêu. Ba lần các Ngài đưa nó ra. Khối cầu màu xanh không ngừng cảm thấy rung động và đáp ứng, tự thức động và được thúc đẩy theo tiếng gọi.

Cấp đẳng thứ hai, với sự kiên tŕ khôn khéo, nghe được tiếng ngân vang của Cấp thứ nhất, biết được giờ cũng đă đến, vọng lại âm thanh trên nốt quảng bốn. Tiếng vang tứ phân này chạy ṿng theo thang âm của các bầu hành tinh. Nó được đưa ra trở lại. Ba lần âm điệu được phát ra, ngân vang qua bầu trời. Vào lần thứ ba, tiếng ngân đáp ứng với tiếng gọi. Nhờ rung động dưới h́nh thức chủ âm được điều hợp,

CÁC ĐOẠN THIỀN KINH

Nguyên Sơ vĩnh cửu đáp trả. Cái màu xanh đối với cái trọng trược được chất vấn và đáp ứng với nhu cầu.

Nhờ rung động, bầu hành tinh nghe được nốt thứ ba, chọn lấy âm điệu, ngân nó lên, hợp âm đủ âm điệu đập vào tai các Đấng Trông Nom Linh Hoả.

Các Hoả Tinh Quân đứng lên, chính các Ngài chuẩn bị. Giờ quyết định đă đến. Bảy vị Chúa của bảy bầu hành tinh không ngừng xem xét thành quả.

19 Vị Chúa vĩ đại của bầu thứ tư đang chờ xuất hiện. Cái hạ đẳng được chuẩn bị xong. Cái thượng đẳng sẵn sàng chấp nhận. Năm cái vĩ đại đang chờ ở điểm đẳng cách hợp lại. Nốt căn bản hướng lên. Thái uyên đáp ứng với thái uyên. Hợp âm ngũ phân chờ đáp ứng từ các Đấng đến lúc tái lâm. Bóng tối trở thành không gian giữa các bầu hành tinh. Hai quả cầu trở nên rực rỡ. Ba lần ba mươi lăm, t́m thấy khoảng cách đúng, chớp loé lên như ngọn lửa chập chờn, và thế là công việc được thành toàn. Bầu Năm vĩ đại đáp ứng với Ba và Bốn. Điểm trung gian được đạt tới. Giờ hy sinh, hy sinh của Linh Hoả, đă đến, thời gian vô tận kéo dài. Đấng phi thời gian nhập vào thời gian. Các Đấng Quán Sát đă bắt đầu công việc các Ngài, thế rồi công việc tiếp diễn.

20

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong hang tối, cái tứ phân ḍ dẫm để mở rộng và nhận thêm ánh sáng. Không có ánh sáng bên trên và chung quanh cái tranh tối tranh sáng đang bao phủ. Bóng tối đen đang bao quanh nó. Đến tận trung tâm sâu nhất, có rung động mà không có Ánh Sáng Ấm, lan toả trong cái lạnh giá băng của bóng tối sâu thẳm.

Luận về lửa càn khôn

Bên trên hang tối, ánh sáng bạch nhật toả chiếu. Tuy nhiên, cái tứ phân không thấy nó, cũng không có ánh sáng lan tràn.

Việc tách chia của hang sâu đi trước ánh sáng của ngày. Kế đó cái lớn là cái xáo trộn. Không có sự trợ giúp nào bên trong hang, cũng không có ánh sáng bị che khuất nào. Chung quanh cái tứ phân có ẩn cái ṿm đá, bên dưới nó cội ngồn của hắc ám đe doạ; bên ngoài và bên trên nó không có ǵ trừ ra cái tương tự được nh́n thấy.

Các Đấng Quán Sát biết và thấy. Giờ đây tứ phân đă sẵn sàng. Công việc đông đúc được hoàn tất, chiếc xe được chuẩn bị.

Tiếng kèn gây xáo động nổi lên. Mănh lực của ngọn lửa đang đến làm loá mắt. Trận địa chốn thần bí làm rung chuyển hang sâu; các Linh Hoả bùng cháy xua tan hăo huyền, thế rồi công việc được thành toàn.

Tranh tối tranh sáng và bóng tối qua đi; mái của hang sâu bị xé rách. Ánh Sáng của sự sống toả chiếu; hơi ấm lan ra; Các Tinh Quân đứng bên ngoài nh́n thấy công việc bắt đầu.

21 Cái tứ phân trở thành bảy. Tiếng ngợi ca của những kẻ đốt lửa nổi lên theo mọi sáng tạo. Thời điểm thành tựu đă đạt được. Công việc tiếp diễn trở lại. Việc sáng tạo tiếp tục, trong khi ánh sáng bên trong hang lớn dần.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

22

Hang Mỹ Lệ hiện ra, với sắc cầu vồng. Các tường được chiếu sáng với màu thiên thanh, tắm ḿnh trong ánh sáng hồng. Sắc xanh pha trộn toả chiếu tổng thể và tất cả được hoà lẫn trong ánh lấp lánh.

CÁC ĐOẠN THIỀN KINH

Bên trong hang sâu có màu cầu vồng, trong ṿng tṛn uốn cong của nó là Đấng ngũ phân cần thêm ánh sáng. Ngài đấu tranh để mở rộng, Ngài chiến đấu hướng về bạch nhật. Năm cái đ̣i hỏi Cái Thứ Sáu và Thứ Bảy vĩ đại hơn. Cái mỹ lệ bao quanh chưa đáp ứng cho nhu cầu. Hơi ấm bên trong đủ trừ phi để cung ứng sự thôi thúc về Lửa.

Hoả Tinh Quân nh́n lên; các Ngài xướng to: “Thời cơ đang đến, đó là lúc chúng ta mong chờ. Hăy để cho Ngọn Lửa trở thành Lửa và để cho ánh sáng toả chiếu”.

Nỗ lực của Ngọn Lửa bên trong hang pha lê trở nên lớn hơn bao giờ. Tiếng kêu phát ra cho trợ giúp khác từ các Linh Hồn đắm ch́m trong Lửa khác. Sự đáp ứng đang đến.

Hoả Tinh Quân, Đấng Thái Cổ, Tinh Quân Quyền Năng của Lửa, Điểm Thanh Thiên bên trong viên Kim Cương ẩn giấu, Đấng Thanh Xuân của Thiên Kỷ Vô Thời Gian, dự vào công việc. Ánh Sáng bùng cháy bên trong và lửa đang chờ bên ngoài – cùng với Quyền Trượng -gặp gỡ trên quả cầu thuỷ tinh và thế là công việc đă xong. Thuỷ tinh tan vỡ và rung rinh.

Công việc tiếp diễn bảy lần. Bảy lần nỗ lực được đưa ra. Bảy lần đặt sát Thần Trượng, do Hoả Tinh Quân nắm giữ. Ba

23        lần tiếp xúc thứ yếu; bốn lần trợ giúp thiêng liêng. Ở lần thứ tư cuối cùng công việc đă xong, toàn thể hang sụp đổ. Ngọn lửa chiếu sáng bên trong trải rộng khắp bức tường nứt vỡ. Nó leo lên tới Cội Nguồn của nó. Một lửa khác hoà nhập; một điểm xanh khác t́m được vị trí của nó bên trong vương miện của Thượng Đế.

24       

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Luận về lửa càn khôn

Ba Bánh Xe lớn, mỗi cái có bảy bánh xe nhỏ, trong ṿng tiến hoá xoắn ốc, quay ṿng trong Hiện Tại phi thời gian và chuyển động như là một. Các Tinh Quân vũ trụ từ chốn cao thâm của các Ngài, nh́n vào quá khứ, kiểm soát Hiện Tại và suy tưởng về Ngày Hợp Nhất với Thượng Đế.

Các Chơn Linh của Âm thanh bất diệt, sản phẩm của thời gian xuất hiện, vượt qua biểu lộ thất phân. Bên trong Ṿng Hạn Định, Linh Từ Bác Ái ngân lên.

Các Tinh Quân của bảy bầu tiếp tục rung dộng chính xác để xúc tiến công việc. Các Ngài phát khởi mỗi vị một âm trong hợp âm thâm diệu của Thượng Đế. Mỗi vị đều có ghi nhận đúng đối với Tinh Quân cao cả hơn của Ngài. Trong Linh Khí trang trọng phát ra, các h́nh hài được kiến tạo, màu sắc được phân chia đúng, và ngọn nội hoả tự hiện ra với ánh sáng tăng lên măi.

Thiên Thanh Tinh Quân gom tất cả trong ṿng cung Tuệ giác, phát ra nốt của Ngài. Sáu vị kia trở lại cội nguồn của các Ngài, phối hợp các màu khác nhau bên trong cái Nguyên Sơ của các Ngài.

Màu xanh thêm vào màu lục sự hoàn thành xảy ra nhanh chóng. Rung động của cái thứ ba được thêm vào cái thứ nhất. Màu xanh trộn vào màu cam, và với cách pha trộn khéo léo của chúng, hệ thống ổn cố. Vàng trộn với đỏ, với tím và cuối cùng là rung động của cái thứ bảy được điều chỉnh theo cái Nguyên Thuỷ.

Mỗi vị trong số bảy Tinh Quân, bên trong bảy hệ thống

25        của các Ngài, được điều chỉnh với ṿng nghiệp quả thứ hai, trộn lẫn các khối cầu di chuyển của các Ngài và hoà trộn với vô số nguyên tử của các Ngài.

CÁC ĐOẠN THIỀN KINH

Các h́nh hài mà các Ngài tác động qua đó, hàng triệu khối cầu nhỏ, nguyên nhân của phân chia và nguyền rủa của các Asuras, vỡ ra, khi Thánh ngữ ngân lên trong một điểm ấn định.

Sự sống Thượng Đế dâng lên. Các ḍng sắc màu tan hoà cùng nhau. Các h́nh hài bị bỏ lại sau và Parabrahm trụ lại hoàn toàn. Tinh Quân của vũ trụ thứ Ba phát ra một Linh Từ bất khả tri. Linh Từ thất phân thứ yếu hợp thành một phần của hợp âm lớn hơn.

Cái Hiện Tại trở thành thời gian đă qua. Thời gian vô tận nhập vào không gian. Linh Từ Chuyển Động đă được nghe thấy. Linh Từ Bác Ái nối tiếp. Quá Khứ chi phối h́nh hài. Hiện Tại khai mở ra sự sống. Bạch Nhật sắp đưa ra Quyền Lực Từ.

H́nh hài đă hoàn thiện và sự sống tiến hoá nắm giữ cái bí mật thứ ba của Bánh Xe Lớn. Đó là bí mật c̣n ẩn giấu của chuyển động sinh tồn. Cái bí mật thất tung trong Hiện Tại nhưng được biết rơ đối với Tinh Quân Ư Chí Vũ Trụ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ba mươi ngàn triệu vị Quán sát không chịu lưu ư đến tiếng gọi. Họ nói: “Chúng ta không nhập vào h́nh hài cho đến thời vô tận thứ bảy”. Hai phần ba ngàn triệu lắng nghe tiếng gọi và chọn lấy h́nh hài đă định.

Những kẻ nổi loạn vui cười hoan hỉ và t́m được an b́nh ngơi nghỉ cho đến thời vô tận thứ bảy. Nhưng bảy Tinh Quân vĩ đại kêu gọi đến các Chohans cao cấp hơn và với các Đấng Lhas hằng hữu của bầu trời thứ ba đi vào thảo luận.

Kế đó phán quyết được đưa ra. Những kẻ chậm chạp trong bầu cao nhất nghe thấy phán quyết đó vang lên qua hệ

Luận về lửa càn khôn

thống “Không chờ đến thời vô tận thứ bảy, mà ở ṿng thứ mười bốn, thời vô tận thứ bảy sẽ có cơ may tiến vào ṿng tuần hoàn trở lại. Cái đầu tiên sẽ là cái cuối cùng và thời gian sẽ bị mất trong nhiều thời vô tận”.

Các Con của Trí Tuệ nhờ tuân lệnh nên tiếp cận với Các Con Của Tâm, và tiến hoá theo ṿng xoắn ốc trên đường của ḿnh. Các Con của Quyền Năng ở lại vị trí ấn định của chúng, mặc dầu nghiệp quả vũ trụ thúc đẩy một nhóm nhỏ gia nhập vào Các Con của Tâm.

Ở ṿng thứ mười bốn của thời vô lượng thứ bảy, các con của Trí và Tâm, bị thu hút bởi lửa vô tận, sẽ nhập vào Các Con của Ư Chí trong cuộc biểu lộ thời khai nguyên. Bánh xe sẽ quay ba lần.

Ở trung tâm là các Hoạt Động Phật, được các Tinh Quân Bác Ái trợ giúp và noi theo công việc lưỡng phân của các Ngài sẽ tiến đến các Tinh Quân Quyền Năng toả chiếu.

Các Sáng Thế Phật từ quá khứ đă đến. Các Từ Bi Phật

27        hiện đang tụ hợp. Các Ư Chí Phật ở ṿng cuối của bánh xe chính thứ ba sẽ bước vào hiện tồn. Việc kết thúc bấy giờ sẽ hoàn tất.

28       

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bầu thứ năm phát triển và từ các dấu vết c̣n lại của Bầu Thứ Tư được nhân bội lên và sản sinh trở lại. Nước dâng lên. Mọi vật bị ch́m xuống. Ở chỗ đă định, dấu vết thiêng liêng nhô khỏi mặt nước ra khỏi vùng an toàn vào một ngày sau này.

Nước biến mất. Đất rắn đặc hiện ra ở một vài chỗ ấn định. Bầu Thứ Năm bao giờ cũng chạy về Thánh Địa, và

CÁC ĐOẠN THIỀN KINH

trong các nhóm ngũ phân của chúng, Bầu Thứ Năm hạ đẳng phát triển.

Chúng vượt qua từ giai đoạn này đến giai đoạn khác. Các Đấng Quán Sát nhận biết các sắc tướng được tạo thành, đưa ra một dấu hiệu cho Bầu Thứ Tư đang luân chuyển và nó tăng tốc trên đường đi. Khi Bầu thứ yếu Thứ Năm đă vượt được nửa đường và cả bốn bầu thứ yếu có người trên mặt đất, các Tinh Quân có Ư Định Hắc Ám xuất hiện. Họ nói: “Sức mạnh sẽ không đến. H́nh hài và Sắc Tướng của Bầu thứ ba và thứ tư, bên trong Bầu Thứ Năm tương ứng, cũng tiến thật gần đến nguyên h́nh. Công việc diễn ra quá tốt đẹp”.

Các Ngài kiến tạo các h́nh hài khác. Các Ngài kêu gọi đến lửa vũ trụ. Bảy hố sâu của địa ngục phun ra các vong linh linh hoạt. Bầu thứ bảy đang đến hạ giảm cấp đẳng mọi h́nh hài -trắng, đen, đỏ và nâu sẩm.

Giai đoạn huỷ diệt trải dài đến mặt khác. Công việc bị hư hỏng thảm hại. Các Chohans thuộc các cơi cao nhất lặng yên chú tâm vào công việc. Các Asuras và Chaitans, Các Con của

29 Tà Lực Vũ trụ và các Rishis của các cḥm sao đen tối nhất gom lại các đạo quân thứ yếu của họ, các mầm mống đen tối nhất của địa ngục. Họ làm tối đen khắp cả không gian. Do sự xuất hiện của Đấng ban phước, hoà b́nh văn hồi trên mặt đất. Hành tinh chao đảo và phát ra lửa. Nơi nổi lên, nơi sụp xuống. H́nh dạng thay đổi. Hàng triệu sinh linh khoác các h́nh hài khác hoặc tiến lên chỗ ấn định để chờ. Chúng nán lại cho đến giờ tiến hoá sẽ lại phát ra cho chúng.

*************** Bầu thứ ba ban đầu tạo ra các quái vật, đại thú và các h́nh hài xấu xí. Chúng ŕnh rập trên mặt hành tinh.

Luận về lửa càn khôn

Bầu thứ tư thuộc nước được tạo ra trong khối cầu nước, loài ḅ sát và trứng (có danh xấu), sản phẩm của quả báo của chúng. Nước kéo đến và cuốn đi con cháu của loài trứng nước.

Bầu thứ năm riêng biệt được tạo trong bầu sắc tướng các h́nh tư tưởng cụ thể. Chúng ném các h́nh tư tưởng đó ra. Chúng chứa bốn loại người hạ đẳng, và giống như đám mây đen độc hại che ánh dương quang. Ba hạng người cao cấp c̣n ẩn tàng.

****************

Chiến tranh trên hành tinh được tiến hành. Cả hai phía đều sa xuống địa ngục. Kế đó đến Kẻ Chinh Phục h́nh hài. Ngài nhờ đến Lửa Thiêng và thanh lọc các cơi sắc tướng. Lửa huỷ diệt các vùng đất vào các ngày của Bầu Thứ Sáu thứ yếu.

Khi Bầu Thứ Sáu xuất hiện, đất đai đă thay đổi. Bề mặt của bầu hành tinh chạy ṿng qua một chu kỳ khác. Người của Bầu Thứ Năm cao cấp hơn chế ngự ba bầu thấp hơn.

30        Công việc được chuyển lên cơi mà kẻ Hành Hương đă đứng. Tam giác nhỏ bên trong noăn hào quang thấp trở thành tâm điểm của bất hài hoà vũ trụ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

31

Bánh xe sự sống xoay chuyển bên trong bánh xe của h́nh hài bên ngoài.

Chất liệu của Fohat chạy ṿng quanh và lửa của nó làm rắn đặc mọi h́nh hài. Bánh xe không được thoáng thấy đă quay nhanh bên trong cái khung ngoài chậm hơn cho đến khi nó bao phủ h́nh hài.

Bốn mươi chín ngọn lửa bùng cháy ở tâm. Ba mươi lăm xoáy lửa chạy quanh bành trướng theo chu vi. Giữa cả hai di

CÁC ĐOẠN THIỀN KINH

chuyển theo tŕnh tự đă định là các ngọn lửa có màu khác nhau.

Các Tam Giác lớn, trong sự sắp xếp chính xác của chúng, nắm giữ cái bí mật của bánh xe sự sống. Lửa vũ trụ xạ ra giống như được điều khiển từ bầu thứ hai, được kiểm soát bởi vị Cai Quản của cung hoá nhập. Các đội quân của bầu thứ ba đang vây quanh bằng các hàng dăy khác nhau ghi dấu ba bầu thứ yếu.

Bánh Xe sự sống vẫn chuyển động bên trong h́nh hài. Các thiên thần của bầu thứ tư nối tiếp với ba mươi lăm ngọn lửa và trộn lẫn chúng với bốn mươi chín ngọn lửa ở giữa. Ở bên trên, chúng tác động, t́m cách hoà nhập với tổng thể. Chúng cố hướng lên, bằng vô số các h́nh hài của chúng, chúng quay ṿng bên trong các bánh xe có độ sáng nhỏ hơn. Toàn thể là một, tuy nhiên trên các bầu kém quan trọng hơn chỉ có các h́nh hài xuất hiện. Trong các phân đoạn của chúng, chúng dường như nhiều hơn người ta hiểu hoặc là gặp.

Nhiều bầu xoay ṿng. Các h́nh hài được tạo ra, trở nên quá vững chắc, bị phá vỡ bởi sự sống và luân lưu trở lại. Một vài bầu xoay ṿng, nắm giữ nhiều sinh linh trong nhiệt của chuyển động. Cái độc nhất bao gồm tất cả, và đưa tất cả từ hoạt động lớn vào tâm an b́nh của vũ trụ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Các Đấng Chí Phúc che giấu bản thể tam phân của các

Ngài, nhưng cho thấy ba tinh hoa của các Ngài bằng ba nhóm

nguyên tử lớn. Ba là các nguyên tử và tam phân là bức xạ.

Nhân bên trong của Lửa che giấu chính nó và chỉ biết được nhờ sự phát xạ và những ǵ đă phát xạ. Chỉ sau khi

Luận về lửa càn khôn

ngọn lửa tàn lụi và sức nóng không c̣n được cảm thấy nữa, người ta mới có thể biết được lửa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Qua dải màu tím đang bao bọc các Bầu Trời, tinh cầu với màu tía thẩm đi qua. Nó đi qua hẳn và không quay lại. Nó bắt đầu mê thích màu xanh. Ba lần màu xanh bao bọc và khi chu kỳ được hoàn tất, màu tía tàn tạ, được trộn lẫn vào hồng, và con đường lần nữa được vượt qua.

Ba lần các màu quan trọng trong chu kỳ được kể như bầu thứ tư, tím, xanh và hồng với màu tía căn bản đang quay.

Bốn là các màu phụ thuộc trong chu kỳ phân biệt trong

đó xảy ra hiện tượng quay. Nó chạy ṿng đến điểm giữa và

vượt qua một phần.

Dải màu vàng đă đến, dải màu cam bị mây che khuất c̣n dải màu lục để đem lại sinh lực. Tuy nhiên chưa đến lúc.

Nhiều lửa đang chạy ṿng; nhiều cuộc tuần hoàn đang diễn tiến, nhưng chỉ khi nào các màu bổ sung nhận biết cội nguồn của chúng và toàn thể tự điều chỉnh với bảy bầu, bấy giờ mới thấy được sự hoàn tất. Bấy giờ sẽ thấy được mỗi màu được hiệu chỉnh đúng, và ṿng quay chấm dứt.

 

CÁC ĐOẠN THIỀN KINH

37 TIẾT I

NHẬN XÉT MỞ ĐẦU

Chúng tôi trù định trong vài nhận xét mở đầu này sẽ đặt nền tảng cho quyển “Luận về Lửa Càn Khôn”, và xem xét chủ đề lửa về cả hai phương diện đại và tiểu thiên địa, như vậy bàn đến Lửa theo quan điểm Thái Dương hệ và con người. Điều này sẽ cần đến một vài chuyên môn sơ khởi có thể dường như là trước hết nghiên cứu những ǵ hơi trừu tượng và phức tạp, nhưng khi được suy gẫm và nghiên cứu, rốt cuộc có thể làm tỏ ngộ và có bản chất minh giải, và khi chính trí óc đă quen thuộc với một số các chi tiết, nó cũng có thể đạt tới mức được xem như cung cấp được một giả thiết hợp lư liên quan đến bản chất và nguồn gốc của năng lượng. Đâu đó trong một quyển sách trước đây, chúng tôi có đề cập đến vấn đề này một cách sơ sài, nhưng chúng tôi mong ước tóm lược và khi bàn rộng ra sẽ xây dựng một nền tảng rộng rải mà dựa vào đó chủ đề có thể được dựng nên và cung cấp một nét khái quát sẽ được dùng để chỉ rơ giới hạn cho các cuộc bàn thảo của chúng ta.

V́ vậy, chúng ta hăy xem xét đề tài về mặt đại vũ trụ và rồi vạch ra những nét tương đồng trong tiểu vũ trụ hay con người.

38

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trong bản chất cốt yếu của nó, lửa có ba phần (threefold), nhưng khi biểu lộ ra, lửa có thể được coi như có năm phần (fivefold) và được lư giải như sau:

1. Lửa do ma sát (cọ xát) hay lửa sinh động nội tại.

Các lửa này làm linh hoạt và đem lại sức sống cho Thái

Dương hệ đang biểu lộ. Chúng là toàn bộ hoả xà của Thượng

Đế khi hoạt động của Thái Dương hệ được đầy đủ.

 

2. Lửa thái dương hay lửa của cơi trí vũ trụ. Đây là phần của cơi trí vũ trụ vốn được dùng làm sinh động thể trí của Thượng Đế. Lửa này có thể được xem như là toàn bộ các tia lửa của trí tuệ, các lửa của hạ trí và nguyên khí sinh động của các đơn vị tiến hoá của nhân loại trong ba cơi thấp.

 

3. Lửa điện, hay là Lửa Thiêng của Thượng Đế. Lửa này là dấu hiệu phân biệt của Thượng Đế chúng ta và chính lửa này làm cho Ngài khác với tất cả các Thượng Đế khác; đó là đặc điểm nổi bật của Ngài, và là dấu hiệu của vị trí của Ngài trong cơ tiến hoá vũ trụ.

 

Ba loại lửa này có thể được diễn tả bằng thuật ngữ chỉ về cung như sau:

Thứ nhất, chúng ta có các lửa làm sinh động của Thái Dương hệ, đó là các lửa của cung nguyên thuỷ, cung của vật chất linh động sáng suốt; các lửa này tạo thành năng lượng của Brahma, Ngôi Ba của Thượng Đế. Kế đến là lửa của Cung thiêng liêng, Cung Bác Ái Minh triết, cung của bác ái sáng suốt, tạo thành năng lượng của trạng thái Vishnu, Ngôi Hai

39 của Thượng Đế (1). Sau cùng là lửa của cơi trí vũ trụ, vốn là

1 Cái nhập vào vạn hữu, vishanti, là Vishnu; Đấng bao hàm, vây bọc, đảm trách tất cả là Brahma; Đấng tiềm ẩn trong mọi vật là Shiva. Shiva hôn thụy, ẩn tàng trong mọi vật dưới h́nh thức mối liên hệ (nexus), ràng buộc, đây là bản chất của dục vọng. Vriniti có nghĩa là bao bọc, phủ bằng một lớp vỏ, ranh giới của các giới hạn hay là chu vi, và như thế có sự h́nh thành hoặc sáng tạo (của mọi h́nh hài); và đây là tác động do Brahma chủ tŕ. Vishanti sarvani chỉ rằng vạn vật nhập vào Nó (It) và Nó nhập vào vạn vật, và đó là

lửa của cung ư chí vũ trụ. Chúng có thể được mô tả như là các cung ư chí sáng suốt và là biểu lộ của Ngôi Một Thượng Đế, trạng thái Mahadeva (1).

Do đó chúng ta có ba cung vũ trụ đang biểu lộ:

Cung hoạt động sáng suốt:

Bản Ngă (Self) nối tiếp với nhận thức và Vishnu. Toàn thể của những cái này là Maha-Vishnu. “Maha-Vishnu” là “Chúa tể” của mọi hệ thống thế giới này, được mô tả như là Ishvara, màu trắng, có bốn tay, trang điểm bằng vỏ ốc tù và, cái dĩa, cây gậy, hoa sen, ṿng hoa và viên ngọc Kanstubha, toả chiếu phủ xanh và vàng, h́nh hài bất diệt, vô thuộc tính tuy có linh hồn và ẩn dưới mọi thuộc tính. Ở đây h́nh dung từ Ishvara chỉ qui luật; bốn cánh tay chỉ bốn hoạt động nhận thức v..v.., sự lộng lẫy màu trắng là sự giác ngộ của mọi vật; shankha tức vỏ ốc tù và hoặc vỏ ṣ chỉ mọi âm thanh và chakra hay bánh xe hay dĩa chỉ mọi thời gian, có một nối tiếp giữa cả hai; gada hay cây gậy (đang quay) là phương pháp xoắn ốc của tŕnh tự thế giới, c̣n hoa sen là toàn bộ tŕnh tự đó. Vanamala là ṿng hoa rừng chỉ sự ghép thành chuỗi lại với nhau của tất cả các vật thành một đơn vị và sự cần thiết. Nila-pit-ambara, lớp bọc xanh và vàng, là sự tăm tối và ánh sáng. Ngọc Kanstubha chỉ sự nối nhau không thể tách rời với vạn hữu. Nirguna, vô thuộc tính, cho thấy sự hiện hữu của tính chất Phủ Định; trong khi saguna, đầy thuộc tính, hàm chứa sự chiếm hữu danh và h́nh tướng. Tiến tŕnh Thế Giới (như được tiêu biểu trong hệ thống thế giới chúng ta) là kết quả của sự h́nh thành ư tưởng của Maha-Vishnu”.

Pranava-Vada, trang 72 – 74,  94 – 95. 1 Mahadeva theo nguyên nghĩa là “đại thiên thần” (“great Deva”. Danh xưng thường được dùng cho Ngôi thứ Nhất của Tam nguyên biểu lộ (the manifested Trinity), cho Shiva, trạng thái Huỷ diệt (the Destroyer aspect), Đấng Sáng Tạo (the Creator).  

Đây là một cung rất rạng rỡ và ở mức độ phát triển cao hơn hai cung kia, vốn là sản phẩm của một đại thiên kiếp có trước, hay là một Thái Dương hệ trước (1).

1 “Một ngày v́ cuộc sống dài này của Brahma được gọi là Kalpa, Kalpa là một thời gian chen vào giữa một sự giao hội (conjunction) của tất cả các hành tinh trên chân trời của Lanka ở điểm đầu tiên của cḥm sao Dương Cưu (Aries) và một sự giao hội tương tự tiếp sau. Một Kalpa bao gồm sự ngự trị của mười bốn vị Bàn Cổ và các khoảng tạm nghỉ của các Ngài. Mỗi vị Bàn Cổ ở giữa hai thời khoảng tạm nghỉ (sandhies). Mỗi triều đại của một vị Bàn Cổ có 71 Maha yugas, mỗi Maha yuga có 4 yugas, đó là Krita, Treta, Dwapara và Kali; độ dài của mỗi một trong 4 yugas này theo thứ tự là 4, 3, 2 và 1.

Số năm thiên văn (sideral years) nằm trong các chu kỳ khác nhau đă nói ở trước như sau:

Năm thế nhân (mortal year) 360 ngày của chúng sinh tạo thành một năm ……………………  1 Krita yuga có ……………………………………………..  1.728.000 Treta yuga có ……………………………………………..  1.296.000 Dwapara yuga có …………………………………………  864.000 Kali yuga có ……………………………………………..  432.000 Tổng số 4 yuga nói trên hợp thành Mahayuga ………..  4.320.000 71 Maha yugas hợp thành giai đoạn trị v́ của một Bàn Cổ ……………………………………………  306.720.000 Thời gian trị v́ của 14 vị Bàn Cổ có 994 Mahayugas Tương đương với …………………………………....  4.294.080.000 Cộng thêm với các sandhies, nghĩa là thời gian giữa triều đại của mỗi vị Bàn Cổ lên tới 6  Maha yugas bằng …………...  25.920.000 Tổng cộng các thời trị v́ và thời gian giữa các giai đoạn trị v́ (interregnums) của 14 vị Bàn Cổ là 1.000 Maha yugas, tạo thành 1 kalpa, nghĩa là 1 ngày của Brahma tương đương ….  4.320.000.000

Nó biểu hiện cho sự rung động căn bản của Thái Dương hệ này và là lửa nội tại vĩ đại của nó, làm linh hoạt và sinh động toàn thể và thấm nhập từ trung tâm đến ngoại vi. Đó là nguyên nhân của chuyển động quay và do đó của dạng thức gần như h́nh cầu của mọi vật hiện tồn.

Cung bác ái thông tuệ.

Đây là cung biểu hiện cho độ rung động cao nhất mà Thái Dương Thượng Đế của chúng ta có thể có được trong Thái Dương hệ này. Nó chưa rung động một cách thích hợp, cũng không đạt đến tột đỉnh hoạt động của nó. Đó là căn bản của chuyển động xoắn ốc theo chu kỳ của cơ thể Thượng Đế

V́ đêm của Brahma bằng với ngày, nên một ngày và đêm của Brahma sẽ có …………………………………………..  8.640.000.000          Như thế 360 ngày và đêm Brahma tạo thành 1 năm của Brahma tương đương với ………………...  3.110.400.000.000 năm thế nhân.

100 năm như thế tạo thành toàn bộ giai đoạn của đời (age) của Brahma, tức là Maha kalpa ………………….  311.040.000.000.000

Các con số này không phải là tưởng tượng, mà là được thiết lập trên các dữ kiện thiên văn học, đă được ông Davis chứng minh trong Asiatic Researches; và điều này về sau được sự phối hợp do các sưu tầm về địa chất học và các tính toán của Tiến Sĩ Hunt, trước kia là Chủ Tịch của Hội Nhân Chủng học (Anthropological Society), và cũng ở trong số các điều khảo cứu của Giáo sư Ifuxley.        Thời kỳ của một đại thiên kiếp dường như vĩ đại, chúng ta chắc chắn rằng hàng nhiều ngàn triệu đại thiên kiếp như thế đă trôi qua cũng như nhiều đại thiên kiếp nữa sẽ đến (Vide Brahma-Vaivarta và Bhavishyre Puranas; và Linga Purana, chương 171, câu 107), và điều này theo ngôn ngữ thông thường có nghĩa là thời gian quá khứ th́ vô tận và thời gian tương lai cũng vô tận. Vũ trụ được tạo lập, tan ră và tái tạo với một sự nối tiếp không xác định được. (Bhagava-Gita,  VIII, 19) Tạp chí Theosophist quyển VII, trang 115).       

và cũng như định luật Tiết Kiệm là định luật chi phối lửa nội tàng của hệ thống, cũng vậy định luật Hút và định luật Đẩy của Vũ Trụ là định luật căn bản của Cung thiêng liêng này.

Cung ư chí thông tuệ.

Cho đến nay, cung này ít được nói đến. Đó là cung của trí tuệ vũ trụ và trong sự tiến hoá, nó đi song song với cung bác ái vũ trụ, tuy nhiên, cho đến nay, rung động của nó trở nên chậm hơn và sự phát triển của nó c̣n chậm hơn nữa. Điều này th́ dứt khoát và có chủ tâm là như thế do bởi các mục đích căn bản và sự chọn lựa ẩn bên dưới của Thái Dương Thượng Đế, trên cơi cao của Ngài (giống như các phản ánh của Ngài, tức là các con của nhân loại, đang làm),

41 Ngài ra sức hoàn thành sự phát triển đầy đủ hơn, và do đó Ngài tập trung vào sự phát triển t́nh thương vũ trụ trong chu kỳ lớn hơn này. Cung này bị chi phối bởi Định Luật Tổng Hợp và là căn bản của chuyển động của Thái Dương hệ, nó có thể được mô tả rơ nhất như là chuyển động tiến tới qua không gian hay luỹ tiến. Ít điều có thể được dự đoán liên quan đến cung này và sự biểu lộ của nó. Nó kiểm soát các chuyển động của toàn thể ṿng giới hạn có liên hệ tới trung tâm vũ trụ của nó (1).

1 Thuật ngữ “ṿng giới hạn”(ring-pass-not) được dùng trong tác phẩm về huyền linh học để chỉ chu vi của vùng ảnh hưởng của bất cứ mănh lực sống động trung ương nào và cũng được áp dụng cho mọi nguyên tử, từ nguyên tử vật chất mà các nhà vật lư học hay hoá học đă nói tới, qua các nguyên tử nhân loại và hành tinh, đến các nguyên tử vĩ đại của một Thái Dương hệ. Ṿng giới hạn của thường nhân có dạng hơi h́nh cầu với thể trí của y, nó mở rộng một cách đáng kể ra ngoài thể xác và giúp cho y tác động trên các cơi phụ thấp của cơi trí.

Bảng sau đây có thể khiến cho các ư kiến trên rơ ràng hơn

 

một ít :

Bảng 

I

Lửa

Cung

Trạng thái

Biểu lộ

Định luật

Tính chất

             

 

 

1. Nội

Nguyên

H.động

Chuyển

Tiết

Lửa do ma

tại.

thủy.

Thông

động quay.

kiệm.

sát.

 

 

tuệ.

 

 

 

2. Về trí

Bác ái.

Bác ái

Chuyển

Hấp

Lửa thái

tuệ .

 

sáng

động xoắn ốc

dẫn.

dương.

 

 

suốt.

theo chu kỳ.

 

 

 

 

3. Ngọn

Ư chí.

Ư chí

Luỹ tiến.

Tổng

Lửa điện.

lửa

 

sáng

 

hợp.

 

thiêng.

 

suốt.

 

 

 

 

Ba biểu lộ này của Sự Sống thiêng liêng có thể được xem như diễn đạt ba cách biểu lộ. Thứ nhất, vũ trụ biểu lộ hay hữu h́nh; thứ hai, thế giới nội tâm hay sắc tướng; thứ ba, trạng thái tinh thần phải được t́m thấy ở tâm mọi vật (1).

1. Cái Nguyên Thuỷ là Cung và là phân thân trực tiếp của Tứ

Linh Diệu. (Giáo Lư Bí Nhiệm I, 115, 116)    Tứ Linh Diệu là :

Nhất Nguyên (Unity)

a. Cha …  Mahadeva ….  Thượng Đế Ngôi Một … Ư chí Tinh thần

Nhị nguyên  (Duality)

b. Con …  Vishnu ……… Thượng Đế Ngôi Hai ….Bác ái Minh triết

Tam Nguyên (Trinity)

c. Mẹ ….   Brahma …….  Thượng Đế Ngôi Ba … Trí tuệ Hoạt động

Tứ Linh Diệu  (Sacred Four)

d. Biểu lộ hợp nhất của cả ba  -Đại vũ trụ

Các lửa nội tại làm linh hoạt và sinh động, tự chúng lộ ra theo hai cách :

Thứ nhất dưới h́nh thức tiềm nhiệt (latent heat). Đây là nền tảng của chuyển động quay và nguyên nhân của sự biểu lộ cố kết tựa h́nh cầu của mọi sự sống, từ nguyên tử Thượng Đế, ṿng giới hạn Thái dương, xuống đến nguyên tử nhỏ nhất của nhà hoá học hay nhà vật lư học.

Thứ hai, dưới h́nh thức là hoạt nhiệt (active heat). Điều này đưa đến kết quả là sự hoạt động và tiến về phía trước của sự tiến hoá vật chất. Trên cơi cao nhất, sự phối hợp của ba yếu tố (hoạt nhiệt, tiềm nhiệt và chất liệu nguyên thuỷ mà chúng làm cho linh động) được biết dưới dạng thức ‘biển lửa’, trong đó tiên thiên khí (akasha) là biến phân thứ nhất của vật chất tiền căn nguyên (pregenetic matter). Trong lúc biểu lộ, Akasha tự biểu hiện ra dưới h́nh thức Fohat hay năng lượng thiêng liêng (divine Energy) và Fohat trên các cơi khác nhau được biết như là hậu thiên khí (aether), không khí (air), lửa, nước, điện, dĩ thái, sinh khí và các tên gọi đại loại như vậy (1)

2. Tứ nguyên biểu lộ và 7 Đấng Kiến Tạo (seven Builders) xuất

phát từ Mẹ .                 (GLBN, 402) a/ 7 Đấng Kiến Tạo là Trí Tinh Quân (Manasaputras), các con sinh ra từ Trí của Brahma, Ngôi Ba.          (GLBN III,  540) b/ Các Ngài biểu lộ để phát triển Ngôi Hai. (GLBN I, 108) c/ Phương pháp của các Ngài là biểu lộ ra ngoại cảnh.

3. Năng lượng được khơi hoạt lại phóng vào không gian. a/ Chúng là sự tổng hợp c̣n ẩn giấu (GLBN I, 362) b/ Chúng là toàn thể mọi biểu lộ (GLBN I, 470) c/ Chúng là tiền vũ trụ (GLBN  I, 152, 470)    

1 Akasha : Định nghĩa                        GLBN II, 538

(1)(2).

Đó là tổng hợp của dĩ thái GLBN I, 353, 354

 

Đó là nguyên thể (essence) của dĩ thái

GLBN I,  366

Đó là dĩ thái nguyên thuỷ (primordial ether)

  GLBN I, 585     

Đó là Thượng Đế Ngôi Ba đang biểu lộ

GLBN  I, 377

 

1 H.P.B. định nghĩa Akasha theo các thuật ngữ sau

GLBN  II, 538 Akasha -tinh tú quang có thể được định nghĩa bằng vài từ ngữ: đó là Linh hồn vũ trụ (Universal soul), cái Khuôn (Matrix) của vũ trụ, Bí Nhiệm Huyền Linh (Mysterium Magicum) từ đó mọi vật vốn hiện tồn được sinh ra do sự phân ly hay biến phân. Trong các sách huyền học khác, nó được gọi bằng các danh xưng khác nhau và có lẽ là sẽ có giá trị nếu chúng ta kê khai ra đây một vài trong số các danh xưng đó: có hai yếu tố chung duy nhất với các biến phân của nó.

Đồng nhất (homogeneous) Phân hoá (differentiated)

1) Vật chất nguyên thuỷ vũ trụ 1) Tinh tú quang (astral Light) chưa phân hoá 2) Dĩ thái nguyên thuỷ 2) Biển lửa (Sea of fire) 3) Thực thể nguyên thuỷ có 3) Điện năng (electricity) mang điện 4) Akasha 4) Prakriti 5) Siêu tinh quang 5) Vật chất nguyên tử 6) Hoả xà (Fiery serpent) 6) Tà xà (Serpent of evil) 7) Mulaprakriti 7) Dĩ thái với 4 tiểu phân của nó:

Phong, hoả, thuỷ, địa 8) Vật chất tiền căn nguyên

2 Fohat là tư tưởng thiêng liêng hay năng lượng (Shakti) khi đă biểu lộ trên bất cứ cơi vũ trụ nào. Đó là tác dụng hỗ tương giữa tinh thần và vật chất. Bảy biến phân của Fohat là :

Đó là toàn bộ những ǵ tích cực, linh hoạt hay được làm cho có sinh khí và của tất cả những ǵ liên quan đến sự thích ứng của sắc tướng với các nhu cầu của lửa bên trong của sự sống.

Ở đây có lẽ sẽ hữu ích khi chỉ ra rằng từ lực là hiệu quả của cung thiêng liêng khi biểu lộ, với cùng ư nghĩa rằng điện năng là hiệu quả biểu lộ của cung nguyên thuỷ của thông tuệ linh hoạt. Nên ngẫm nghĩ kỹ về điều này v́ nó nắm giữ một bí nhiệm.

Lửa của cơi trí cũng biểu lộ theo hai cách:

Trước nhất, dưới h́nh thức Lửa Trí Tuệ, căn bản của mọi biểu lộ và theo một ư nghĩa đặc biệt huyền bí, là toàn thể các sự sống. Nó cung ứng sự liên quan giữa sự sống với h́nh hài, gữia tinh thần với vật chất và là nền tảng của chính tâm thức.

Thứ hai, dưới h́nh thức là Hành khí của Lửa (Elementals of Fire) hay là toàn bộ biểu lộ tích cực của tư tưởng, chính nó biểu lộ xuyên qua trung gian của các thực thể này, theo chính nguyên thể (essence) của chúng, chính là lửa.

 

1. Cơi của sự sống

………..

Adi………

Bể lửa

thiêng liêng

 

 

2. Cơi của sự sống

………Anupadaka…

Akasha

Chân Thần

 

 

3. Cơi của Tinh thần

.………..Atma………

Aether

4. Cơi của trực giác

...………Bồ đề………

Phong (Air)

5. Cơi của Trí tuệ

………..Trí tuệ………

Hoả

6. Cơi của dục vọng

……….Cảm dục……

Tinh tú quang

7. Cơi trọng trược

.......…Hồng trần……

Dĩ thái

 

GLBN  I, 105, 134, 135, 136.

Các nhị nguyên biểu lộ này tạo thành 4 yếu tố cần thiết trong tứ hạ thể Thượng Đế (logoic quaternary) (1), hay là bản chất hạ đẳng của Thượng Đế khi ta xét sự biểu lộ của Ngài theo quan điểm huyền bí; về phương diện ngoại môn, chúng là toàn bộ của tứ hạ thể Thượng Đế, cộng thêm nguyên khí thứ năm của Thượng Đế, tức thể trí vũ trụ.

Điểm Linh Quang (divine spark) đến nay vẫn chưa biểu lộ (cũng như hai lửa khác), dưới h́nh thức một nhị nguyên, mặc dù, những ǵ ẩn giấu trong chu kỳ sau này chỉ có sự tiến hoá mới hé lộ. Lửa thứ ba này cùng với hai lửa kia, tạo thành bộ năm thiết yếu cho sự phát triển tiến hoá Thượng Đế và bởi sự phối hợp hoàn hảo của nó với hai lửa kia khi diễn tŕnh tiến hoá tiếp diễn, ta thấy được mục tiêu của sự thành đạt của Thượng Đế cho chu kỳ lớn hơn này hay chu kỳ của Thái Dương hệ này.

Khi cung nguyên thuỷ, tức cung của hoạt động sáng suốt, cung thiêng liêng tức cung bác ái sáng suốt và cung vũ trụ thứ ba tức cung ư chí sáng suốt gặp nhau, phối hợp, hoà nhập và rực sáng. Thượng Đế sẽ nhận được cuộc điểm đạo thứ 5 của Ngài như vậy thành toàn được một trong các chu kỳ của Ngài. Khi chuyển động quay ṿng, tiến tới trước và xoắn ốc có chu kỳ, tác động trong sự tổng hợp hoàn hảo, lúc bấy giờ rung động mong muốn sẽ được đạt đến. Khi ba định luật Tiết Kiệm, Hấp Dẫn và Tổng Hợp tác động lẫn nhau một cách chính xác hoàn hảo, lúc bấy giờ thiên nhiên sẽ phô bày

1 Tứ hạ thể (the quaternary) được bao gồm bốn nguyên khí thấp (lower principles) và các lớp vỏ (sheaths, thể) mà qua đó các nguyên khí thấp này biểu lộ như một đơn vị chặt chẽ, được giữ chung lại với nhau trong khi biểu lộ bởi sức sống của thực thể ở bên trong.

một cách hoàn toàn sự vận hành cần thiết và sự thích ứng chính xác của h́nh hài vật chất đối với tinh thần nội tại, của vật chất đối với sự sống và của tâm thức đối với hiện thể của nó.

 

 

Bây giờ, chúng ta hăy xem xét một cách vắn tăt về sự tương hợp giữa tổng thể vĩ đại và đơn vị con người; và kế đó, phác hoạ chủ đề của chúng ta một cách chi tiết và xem xét các phần nhỏ trong đó, sẽ là sáng suốt nếu phân chia nó ra.

Lửa trong Tiểu thiên địa về cơ bản cũng có ba phần và biểu lộ làm năm.

1. Lửa Nội Tại truyền sinh lực: tương ứng với lửa do ma sát. Đây là toàn bộ của hoả xà cá nhân, nó làm linh hoạt xác thân và cũng biểu lộ theo hai cách:

Thứ nhất, dưới h́nh thức nhiệt tiềm ẩn (tiềm nhiệt) nó là

căn bản của sự sống của tế bào tựa h́nh cầu, hay nguyên tử,

và điều chỉnh sự quay của tế bào này so với tất cả tế bào khác.

Thứ hai, dưới h́nh thức hoạt nhiệt hay prana; nhiệt này làm linh hoạt vạn vật và là lực phát động (driving force) của h́nh hài đang tiến hoá. Nó tự biểu lộ trong bốn loại dĩ thái và trong trạng thái hơi, ở đây, người ta t́m thấy sự tương ứng trên cơi hồng trần liên quan tới con người so với Akasha và biểu lộ ngũ phân của nó trên cơi của Thái dương hệ.

Lửa này là sự rung động cơ bản của hệ thống nhỏ trong đó Chân Thần hay Tinh Thần nhân loại là Thượng Đế, và nó

46        nắm giữ phàm ngă hay con người vật chất hạ đẳng biểu lộ ra bên ngoài; như vậy, cho phép đơn vị tinh thần này tiếp xúc với cơi vật chất trọng trược nhất. Nó có sự tương ứng của nó trong cung hoạt động sáng suốt và được kiểm soát bởi Định Luật Tiết Kiệm ở một trong các tế phân của định luật này tức

là Định Luật Thích Nghi Thời gian (Law of Adaptation in Time).

2. Kế tiếp là Lửa hay Tia Lửa của Trí Tuệ tương ứng với Lửa Thái dương trong con người. Lửa này tạo thành đơn vị suy tư hữu ngă thức hay là linh hồn. Lửa của trí tuệ này bị chế ngự bởi Định Luật Hút như là sự tương ứng lớn hơn của nó. Sau này, chúng ta có thể bàn rộng về điểm này. Chính tia lửa trí tuệ này trong con người, biểu lộ như hoạt động xoắn ốc có chu kỳ, nó đưa đến sự bành trướng và rốt cuộc trở về trung tâm của hệ thống nó, tức Chân Thần -nguồn cội và mục tiêu cho Chân Thần nhập thế tức là con người. V́ trong đại vũ trụ, lửa này cũng biểu lộ theo hai cách.

Nó biểu lộ dưới h́nh thức ư chí sáng suốt, nối liền Chân Thần hay Tinh Thần với điểm tiếp xúc thấp nhất của nó là phàm ngă, tác động qua một hiện thể hồng trần.

Cho đến nay, nó cũng biểu lộ một cách thiếu hoàn hảo dưới h́nh thức yếu tố đem sinh lực trong các h́nh tư tưởng do chủ thể tư tưởng tạo ra. Cho đến nay, tương đối có ít h́nh tư tưởng, có thể nói là do trung tâm của tâm thức, tức chủ thể tư tưởng, tức Chân ngă tạo ra. Đến nay, rất ít người được giao tiếp chặt chẽ với thượng ngă (higher self) hay Chân ngă của họ, mà họ có thể kiến tạo vật chất của cơi trí thành một h́nh hài, h́nh hài này có thể được nói đến một cách đích thực là một biểu lộ của các tư tưởng, mục tiêu hay ước vọng của Chân Ngă của họ, tác động qua bộ óc hồng trần. Đa số các h́nh tư tưởng hiện nay đang lưu chuyển có thể nói là các kết hợp vật chất được kiến tạo thành h́nh hài với sự trợ giúp của trí cảm (tức là của dục vọng pha trộn chút ít trí tuệ, như vậy tạo ra sự pha trộn chất cảm dục với chất trí, mà hầu hết là

chất cảm dục), và phần lớn là do bởi tác động phản xạ của hành khí. Các nhị nguyên biểu lộ này là :

 

1. Lửa linh hoạt hay prana. Tiềm nhiệt hay thân nhiệt (bodily heat).

 

2. Năng lượng trí tuệ trong thể trí.

 

Các h́nh tư tưởng thuần tuư của thể trí, được làm cho sống động bởi lửa tự phát sinh, hay là bởi nguyên khí thứ năm và do đó là một phần của khu vực hay hệ thống kiểm soát của Chân Thần.

Hai điều này hợp thành một tứ nguyên huyền bí (esoteric quaternary), với yếu tố thứ năm, tức là điểm linh quang của ư chí sáng suốt, tạo thành năm của biểu lộ Chân Thần -biểu lộ trong trường hợp này có nghĩa là một biểu lộ nội tâm thuần tuư v́ không hẳn là tinh thần, cũng không hẳn là vật chất.

3. Cuối cùng có Ngọn Lửa Chân Thần Thiêng Liêng. Ngọn Lửa này biểu hiện rung động cao nhất mà Chân Thần có thể có được, bị chế ngự bởi định luật Tổng hợp và là nguyên nhân của chuyển động luỹ tiến của Nguyên sinh khí (Jiva) đang tiến hoá.

Cuối cùng chúng ta đến điểm hoà nhập hay đến cuối sự biểu lộ và đến tuyệt đích xét về mặt Chân Thần, của đại chu kỳ hay manvantara. Do đó chúng ta sẽ t́m thấy được ǵ? Cũng như trong đại thiên địa, sự pha trộn của ba loại lửa chính yếu của vũ trụ đánh dấu mức độ thành đạt của Thượng Đế, cũng vậy, trong sự pha trộn các lửa chính yếu của tiểu thiên địa, chắc chắn chúng ta cũng đạt đến sự toàn mỹ của thành tựu của con người trong chu kỳ này.

Khi tiềm hoả của phàm ngă pha trộn với lửa của trí tuệ, tức lửa của Chân Ngă, và cuối cùng hợp nhất (merge) với Ngọn Lửa Thiêng, lúc bấy giờ con người được điểm đạo lần thứ năm trong Thái dương hệ này và đă hoàn tất được một trong các chu kỳ lớn của con người (1).

Khi cả ba toả chiếu như một lửa duy nhất, sự giải thoát khỏi vật chất hay khỏi h́nh hài vật chất được thành tựu. Vật chất đă được hiệu chỉnh một cách thật đúng đối với tinh thần và sau cùng sự sống bên trong thoát ra khỏi lớp vỏ của nó mà hiện giờ chỉ tạo thành một vận hà cho sự giải thoát.   

Để nối tiếp sự khảo sát của chúng ta về các loại lửa đang duy tŕ cấu trúc của Thái dương hệ hữu h́nh và của con người hữu h́nh biểu lộ ra ngoại cảnh, chính con người này tạo ra sự phát triển tiến hoá và vốn là căn bản của mọi nở rộ ra ngoại cảnh, nên ghi nhớ rằng chúng biểu lộ như là toàn bộ sự sống sinh động của một Thái dương hệ, của một hành

1 Các thuật ngữ Phàm ngă (Lower self), Thượng ngă (Higher Self), Linh Ngă (Divine Self) dễ khiến ta nhầm lẫn cho đến khi đạo sinh hiểu rơ các đồng nghĩa khác nhau liên quan đến chúng. Bảng sau đây có thể hữu ích : Cha ...........................Con .....................................Mẹ Tinh thần .................Linh hồn ............................Xác thân Sự Sống ....................Tâm thức............................Sắc tướng ChânThần................Chânngă............................Phàm ngă Linh ngă...................Thượng ngă.......................Phàm ngă Tinh thần..................Biệt ngă(Individuality)…. Phàm ngă Điểm (The Point).....Tam nguyên (Triad)……. Tứ nguyên

(Quaternary) Chânthần.................Thái Dương Thiên Thần...Nguyệt Tinh Quân

tinh, của toàn thể cấu trúc của con người hoạt động linh hoạt trên cơi hồng trần và của nguyên tử của vật chất.

Nói một cách rộng hơn, chúng tôi muốn nói rằng Lửa thứ nhất hoàn toàn liên quan đến :

Hoạt động của vật chất.

Chuyển động quay của vật chất.

Sự phát triển của vật chất bằng ma sát, theo định luật tiết kiệm. Bà H.P.B. đề cập đến điều này trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm (xem quyển I, trang 169, 562, 567, 569, II, 258, 390, 547, 551, 552). Lửa thứ nh́ là lửa từ cơi trí vũ trụ, liên quan tới :

Sự biểu lộ tiến hoá của trí tuệ tức manas.

Sinh khí của linh hồn.

Sự biểu lộ tiến hoá của linh hồn khi nó biểu hiện dưới h́nh thức là một điều khó hiểu nó đưa tới sự tổng hợp của vật chất. Khi cả hai sát nhập lại bằng yếu tố năng lượng hoạt động này, th́ cái được gọi là tâm thức xuất hiện (1).

 

1 Trong quyển “Khảo cứu về Tâm Thức” (Study of Consciousness), bà Besant nói (trang 37) : “Tâm thức là thực tại duy nhất theo ư nghĩa đầy đủ nhất của cách nói được dùng nhiều đó; hệ quả của điều này là bất cứ thực tại nào được t́m thấy ở bất cứ nơi đâu đều xuất phát từ tâm thức. Do đó, mọi vật vốn là tư tưởng đều hiện hữu. Loại Tâm thức, mà trong ấy mọi vật hiện hữu, mọi vật, theo sát nghĩa, “có thể” cũng như “có thực” (“actual”) – “thực thể có thực” là những ǵ được nghĩ đến như là đang tồn tại bởi một tâm thức riêng biệt trong thời gian và không gian, c̣n “thực thể có thể” là tất cả những ǵ vốn không được nghĩ đến như vậy ở bất cứ giai đoạn nào trong thời gian và bất cứ điểm nào trong không gian – chúng ta gọi là Tâm Thức Tuyệt Đối (Absolute Consciousness). Đó

Khi sự phối hợp tiếp diễn và lửa trở nên ngày càng thêm

tổng hợp, toàn thể của biểu lộ đó mà chúng ta xem như cuộc

sống hữu thức trở nên ngày càng hoàn hảo hơn.

 Lửa này vận hành theo Định Luật Hút.

Kết quả tiếp theo trong chuyển động xoắn ốc có chu kỳ mà chúng ta gọi là sự tiến hoá của thái dương, trong thái dương hệ, nhưng nó là sự tiệm tiến (theo quan điểm của một vũ trụ) của hệ thống chúng ta đến tâm điểm của nó. Điều này phải được xem xét theo quan điểm thời gian (1).

 

là cái Tổng Thể (the All), cái Vĩnh Cửu (the Eternal), cái Vô hạn (the Infenite), cái Thường Tồn (the Changeless). Tâm thức xét theo thời gian và không gian và của tất cả các h́nh thức như đang hiện tồn trong chúng kế tiếp và đúng chỗ, là Tâm thức của Thượng Đế (Universal Consciousness), Đấng Duy Nhất mà người Ấn giáo gọi là Saguna Brahman -Đấng Vĩnh cửu với các thuộc tính -Đấng Pratyag-Atma -Nội ngă (the Inner Self); theo người Parsi là Hormuzd; theo người Hồi giáo là Allah. Tâm thức liên quan với một thời gian rơ rệt dù dài hay ngắn, với một không gian xác định, dù rộng lớn hay có giới hạn, là thuộc cá nhân, tâm thức của một Thực Thể cụ thể (concrete Being), một Đấng của nhiều vũ trụ, hay một vũ trụ, hay của bất luận cái gọi là một phần nào của một vũ trụ, phần của Đấng ấy và đối với Ngài do đó là một vũ trụ -các thuật ngữ này thay đổi tuỳ tầm mức năng lực của tâm thức; biết bao nhiêu là tư tưởng đại đồng như là một tâm thức riêng rẽ có thể hoàn toàn suy nghĩ, nghĩa là trên đó Ngài có thể áp đặt chính thực tại của Ngài, có thể được xét đến như là thực tại giống với chính Ngài, là vũ trụ của Ngài”. 1 Tâm thức đại đồng, được biểu lộ như là tâm thức trong thời gian và không gian, đúng như bà Besant diễn tả nó một cách tài t́nh biết bao, gồm mọi h́nh thức hoạt động, và sự tiến hoá theo chu kỳ xoắn

Lửa thứ ba liên quan đến :

a. Tiến hoá của tinh thần:

Ở giai đoạn này, một cách thực tiễn, không ǵ có thể được truyền đạt liên quan tới cuộc tiến hoá này. Sự phát triển của tinh thần, cho đến nay, chỉ có thể được diễn tả liên quan đến tiến hoá vật chất và chỉ qua sự thích ứng của hiện thể và

50 qua sự thích hợp của lớp vỏ, tức xác thân hay sắc tướng mới có thể đạt được tŕnh độ phát triển tinh thần bằng bất cứ cách nào. Một lời cảnh báo nên được đưa vào ở đây: Giống như trên cơi trần, hiện thể vật chất, không thể biểu hiện đầy đủ toàn thể tŕnh độ phát triển của chân ngă hay thượng ngă, cũng vậy, ngay cả chân ngă cũng không thể cảm nhận đầy đủ và biểu hiện được tính chất của tinh thần. V́ vậy, tâm thức con người hoàn toàn không thể đánh giá được một cách đúng đắn sự sống của tinh thần hay Chân Thần.

Tác động của ngọn lửa thiêng theo định luật Tổng Hợp -một thuật ngữ chung mà rốt cuộc ta sẽ thấy là nó bao gồm hai định luật khác dưới h́nh thức các tế phân.

Kết quả theo sau của chuyển động luỹ tiến -một chuyển động quay tṛn, theo chu kỳ và tiến tới.

 

Toàn thể vấn đề được bàn đến trong Bộ Luận này liên quan đến nguyên thể bên trong (subjective essence) của Thái dương hệ, chủ yếu không phải về khía cạnh bên ngoài cũng không phải về khía cạnh tâm linh. Nó liên quan đến các Đấng Cao Cả ngự trong h́nh hài sắc tướng, các Ngài biểu lộ dưới h́nh thức các yếu tố sống động qua trung gian vật chất và trước nhất thông qua chất dĩ thái. Các Ngài đang phát triển

ốc theo quan điểm của sự tiến hoá vũ trụ và có liên quan tới tâm thức tuyệt đối, lại có thể là xoay quanh.

một năng lực thứ hai, tức là lửa trí tuệ và về bản thể, chính các Ngài là các điểm lửa (points of fire), tách ra qua sự cọ xát vũ trụ, được tạo thành bởi sự quay của bánh xe vũ trụ, bị lôi cuốn vào biểu lộ nhất thời có giới hạn và rốt cuộc phải trở về trung tâm vũ trụ của các Ngài. Các Ngài sẽ trở lại gia thêm các kết quả của sự tăng trưởng tiến hoá và nhờ sự đồng hoá, các Ngài sẽ làm mạnh thêm bản chất căn bản và sẽ là lửa tinh thần cộng với lửa trí tuệ.

Lửa bên trong của vật chất, mà trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm được gọi là “lửa do ma sát”. Đó là một hậu quả chứ không phải nguyên nhân. Nó được tạo ra bởi hai thứ lửa tinh thần và trí tuệ (lửa điện và lửa thái dương) tiếp xúc với nhau qua trung gian vật chất. Năng lượng này biểu lộ trong chính

51 vật chất dưới h́nh thức lửa bên trong của mặt trời và của các hành tinh và có được một phản ảnh trong các lửa bên trong của con người. Con người là Ngọn Lửa Thiêng và lửa của trí tuệ tiếp xúc được với nhau qua trung gian của vật chất hay h́nh hài. Khi sự tiến hoá chấm dứt, lửa của vật chất th́ không thể nhận biết được. Nó chỉ tồn tại khi hai thứ lửa kia được kết hợp lại và nó không tồn tại khi chính nó tách ra khỏi chính vật chất. Bây giờ chúng ta hăy nhận xét vắn tắt vài sự kiện có liên quan đến lửa trong vật chất và chúng ta hăy xem xét chúng một cách thứ tự, để mặc thời gian làm sáng tỏ ư nghĩa của chúng. Trúơc nhất, chúng ta có thể nói rằng lửa bên trong vừa tiềm tàng vừa linh động, tự nó biểu lộ như là cái tổng hợp của các lửa được thừa nhận của Thái dương hệ, và thí dụ, biểu lộ dưới h́nh thức bức xạ mặt trời và sự cháy bên trong hành tinh. Đề tài này có phần nào được bao gồm bởi khoa học và được ẩn giấu dưới bí nhiệm của điện ở cơi hồng

trần, vốn là một biểu hiện của lửa bên trong linh hoạt của Thái dương hệ và của hành tinh giống y như sự cháy bên trong là một biểu hiện của lửa bên trong tiềm tàng. Các lửa sau này vốn ở bên trong của mỗi bầu hành tinh và là cơ bản của mọi sự sống biểu lộ ở cơi trần.

Thứ hai là, chúng ta có thể ghi nhận rằng lửa bên trong là căn bản của sự sống trong ba giới thấp của thiên nhiên, và trong giới thứ tư hay giới nhân loại có liên quan tới hai hiện thể thấp. Lửa của trí tuệ, khi phối hợp với các lửa bên trong, là căn bản của sự sống trong giới thứ tư, và khi được phối hợp (hiện nay chỉ mới một phần, c̣n sau này sẽ toàn thể), chúng sẽ kiểm soát con người tam phân hạ đẳng hay là phàm ngă; sự kiểm soát này kéo dài cho đến cuộc điểm đạo thứ nhất.

Cuối cùng là lửa Tinh thần, khi được phối trộn với hai lửa kia (sự phối trộn bắt đầu trong con người ở lần điểm đạo thứ nhất), hợp thành một căn bản của sự sống tinh thần. Khi cuộc tiến hoá nối tiếp trong giới thứ năm hay giới tinh thần, ba lửa này bùng cháy cùng lúc, tạo ra sự toàn giác (perfected

52        consciousness). Sự bùng cháy này đưa tới kết quả là cuối cùng tạo nên sự thanh luyện vật chất và sự thoả đáng theo sau của nó; vào lúc kết thúc cuộc biểu lộ, cuối cùng nó đưa đến sự huỷ diệt sắc tướng, sự tan biến của sắc tướng và kết thúc sự sống như được hiểu trên các cơi thấp. Theo thuật ngữ thần học Phật giáo, nó tạo ra sự tịch diệt (annihilation); điều này bao hàm không những sự mất tự thể (identity) mà c̣n là sự chấm dứt việc biểu lộ ra ngoại cảnh và sự đào thoát của Tinh Thần, cộng với trí tuệ vào trung tâm vũ trụ của nó. Nó có sự tương đồng của nó trong cuộc điểm đạo mà khi đó vị

cao đồ (adept) thoát khỏi các giới hạn của vật chất trong ba

cơi thấp. Lửa bên trong của Thái dương hệ, của hành tinh, và của

con người gồm có ba :

 

1. Lửa bên trong ở trung tâm của khối cầu, các ḷ lửa bên trong này tạo nên sự ấm áp. Đây là tiềm hoả.

 

2. Lửa bức xạ : Loại lửa này có thể được diễn tả dưới tên là điện của cơi trần, các tia sáng, và năng lượng dĩ thái. Đây là lửa linh hoạt.

 

3. Lửa thiết yếu hay là hoả hành khí, chính chúng sẽ là tinh hoa của lửa. Phần lớn, chúng được chia thành hai nhóm :

 

Hoả thiên thần (Fire devas) hay các thực thể tiến hoá thăng thượng.

Hoả tinh linh (Fire elementals) hay các thực thể tiến hoá giáng hạ.

 

Sau này chúng ta sẽ thêm chi tiết về đề tài này khi xét đến lửa của trí tuệ và bàn đến bản chất của các hành khí biết suy tư. Tất cả các hành khí và thiên thần này đều ở dưới sự kiểm soát của Hoả Tinh Quân (the Fire Lord), tức là Agni. Khi nói đến Ngài và thiên giới của Ngài, đề tài cần phải được xét rộng hơn.

Tuy nhiên, nơi đây, chúng ta có thể vạch ra rằng hai tŕnh bày đầu tiên của chúng ta liên quan đến lửa bên trong, diễn tả hiệu quả mà các hoả thực thể (fire entities) có được đối với môi trường bao quanh chúng. Nhiệt và phát xạ là các tên gọi khác có thể được dùng theo nghĩa này. Mỗi một trong các

53        hiệu quả này tạo ra một loại hiện tượng khác nhau. Tiềm hoả gây nên sự tăng trưởng tích cực của những ǵ mà nó được lồng vào trong đó, và gây nên sự thúc đẩy hướng thượng, sức thúc đẩy này đưa vào biểu lộ tất cả những ǵ được t́m thấy

trong các giới của thiên nhiên. Lửa phát xạ gây nên sự tăng trưởng liên tục của những ǵ đă đang phát triển, dưới ảnh hưởng của tiềm hoả, tới một mức độ có thể tiếp nhận được lửa bức xạ. Chúng ta hăy lập bảng biểu về việc đó như sau :

Thái dương hệ hay Đại thiên địa : Thái Dương Thượng Đế hay Đại Thiên Đế.

Tiềm hoả hay nội hoả tạo ra nhiệt bên trong nó làm cho Thái dương hệ sản sinh ra mọi h́nh thái của sự sống. Đó là hơi ấm có sẵn (inherent warmth) gây nên mọi sự thụ tinh dù là nơi người, động vật hoặc thực vật.

Lửa linh hoạt hay lửa bức xạ vẫn có trong sự sống và tạo ra sự tiến hoá của mọi vật vốn đă phát triển thành biểu lộ ngoại cảnh bằng tiềm hoả.

Hành Tinh Thượng Đế : Những ǵ được đề ra liên hệ đến thái dương hệ, nói chung có thể được khẳng định đối với tất cả các hành tinh mà trong bản chất của chúng phản ảnh cho vầng Thái Dương, huynh trưởng của chúng.

Nhân loại hay Con Người Tiểu Thiên Địa:

T́ềm hoả của nhân loại, tức là nhiệt ở bên trong thân người, tạo ra các h́nh thức khác nhau của sự sống, như là :

 

1. Các tế bào của thể xác.

 

2. Các cơ quan được nuôi dưỡng bởi tiềm nhiệt.

 

3. Sự sinh sôi nảy nở của chính nó trong các h́nh hài con người khác, tức cơ bản của chức năng tính dục.

 

Tuy nhiên, bức xạ của con người hay lửa linh hoạt (active fire), cho đến nay vẫn là một yếu tố ít được hiểu biết nhất. Nó liên quan tới hào quang sức khoẻ và liên quan tới bức xạ từ thể dĩ thái vốn làm cho một người thành một kẻ chữa bệnh và có thể truyền nhiệt linh hoạt (hoạt nhiệt).

Cần phải phân biệt giữa bức xạ từ thể dĩ thái vốn là một bức xạ của prana với từ điển, vốn là một sự phóng phát từ

54 một thể tinh anh (thường là thể cảm dục) và có liên quan với sự biểu lộ của Ngọn Lửa Thiêng trong lớp vỏ vật chất. Ngọn Lửa Thiêng được tạo ra trên cơi thứ hai, tức cơi Chân Thần, và từ điển (vốn là một phương pháp để giải thích lửa bức xạ), do đó được cảm nhận một cách tối thượng trên cơi thứ tư và thứ sáu hay là xuyên qua thể Bồ Đề và thể cảm dục. Như chúng ta biết, các cơi này có liên quan chặt chẽ với cơi thứ nh́. Sự phân biệt này rất quan trọng và phải được nhận ra một cách cẩn thận. Do đó, sau khi đă tŕnh bày như trên, chúng ta có thể tiếp tục đề cập một cách chi tiết hơn về lửa bên trong của các hệ thống, tiểu và đại thiên địa.  

 

 

 

ĐOẠN A

55 CÁC NỘI HOẢ CỦA CÁC THỂ

  

 

Do việc thường dùng tên gọi “lớp vỏ” (“sheath”), nên cần phải chú ư rằng chúng ta khảo sát các luồng hoả đang biểu lộ qua trung gian của các lớp ngoài này đối với các màn vật chất đang che giấu Thực Tại bên trong, Ở đây chúng ta sẽ không đề cập đến đề tài về các lớp vỏ trên các cơi cao, mà chỉ bàn đến luồng hoả làm linh hoạt ba hiện thể thấp -tức thể xác trong hai tế phân của nó (tức là thể dĩ thái và nhục thân), thể t́nh cảm hay thể cảm dục và thể hạ trí. Các đạo sinh không cẩn trọng thường bỏ qua sự kiện rằng cả hai thể cảm dục và thể hạ trí đều là vật chất, và cũng là vật chất theo cách riêng của nó, giống như là nhục thân và chất liệu mà chúng được tạo thành cũng được làm cho linh hoạt bởi lửa tam phân y như thể xác. Trong thể xác, chúng ta có các luồng hoả của phàm ngă (về mặt con vật) tập trung ở đáy xương sống. Chúng nằm ở một điểm có liên hệ với thể xác giống như mặt trời hồng trần so với Thái dương hệ. Điểm nhiệt trung ương này toả ra theo mọi hướng, dùng cột xương sống như là động mạch chính của nó, nhưng tác động có liên quan chặt chẽ với vài hạch

56 Đồ h́nh I

TIE ÁN HOA Ù CUÛA VA ÄT CHA ÁT

Thöôïng Ñeá cuûa moät Thaùi döông heä

âng taùch ra, chöa phaân hoùa

 

Vaät Chaát

Tamas, Tónh Taïi

t Chaát Goác :

Rajas, Hoaït Ñoäng

Sattva, HaøiHoøa

åi taâm thöùc cuûa Ngaøi.

töôûng, ñaøo caùc loă trong khoâng gian" trong Vaät Chaát Goá

c vaø

t Goác, laø nguyeân töû nguyeân sô, goïi laø :

ơi phuï thaáp cuûa coơi cao nhaát ñöôïc taïo thaønh Coơi thöù 7 (Maha paranirvanic)

i thöù 6) Coơi thöù 6

(Paranirvanic)

i thöù 5) Coơi thöù 5

(Nirvanic)

û coơi thöù 4) Coơi thöù 4 (Buddhic)

t chaát Vi töû coơi thöù 3 Coơi thöù 3

 

2, 3, 4, 5, 6, 7. (Manasic)

Ghi chuù

Apastattva (Vaät chaát Vi töû coơi thöù 2) Coơi thöù 2

caùc coơi phuï 2, 3, 4, 5, 6, 7. (Astral)

Matter) cuûa moät coơi laø keát quaû cuûa moät xoaùy löïc (vortex) taïo neân bôûi Tattva cuûa coơi keá treân trong

Prithivitattva (vi töû hoàng traàn) Coơi thöù 1

 

taäp hôïp thoâ tröôïc nhaát cuûa coơi cao keá ñoù, xoaùy

löïc naøy ñöôïc taïo ra bôûi moät Tanmatra môùi do Iswara ñöa ra.

caùc coơi phuï 2, 3, 4, 5, 6, 7. (Physical)

Trích từ tạp chí "The Theosophist", thaùng 12, 1899

thần kinh trung ương nằm bất cứ nơi đâu và có sự kết hợp đặc biệt với lá lách.

Trong thể dĩ thái, vốn là một mô phỏng đúng y như đối phần trọng trược của nó, chúng ta có cơ quan của lửa linh hoạt hay lửa bức xạ, và, như được biết rơ, đó là hiện thể của prana. Chức năng của nó là tích chứa các tia sáng bức xạ và nhiệt nhận được từ mặt trời và truyền chúng, qua lá lách, đến mọi phần của thể xác. Vậy th́, trong tương lai, người ta sẽ đi đến chỗ nhận ra rằng xương sống và lá lách cực kỳ quan trọng cho t́nh trạng sức khoẻ thể xác của con người, và khi cột xương sống nằm thật đúng và thật thẳng và khi lá lách không bị sung huyết và trong t́nh trạng khoẻ mạnh, sẽ có ít sự xáo trộn trong nhục thân. Khi ḷ lửa vật chất cháy sáng và khi nhiện liệu của thể xác (tức tia prana) được đồng hoá một cách thích ứng, xác thân con người sẽ vận hành như ư muốn.

Vấn đề về việc phối hợp hai luồng hoả này vốn đầy đủ ở một người b́nh thường và khoẻ mạnh, sẽ thu hút sự chú ư của các nhà y học hiện đại. Lúc ấy, chính y sẽ quan tâm tới việc loại bỏ sự tắc nghẽn thần kinh hay tắc nghẽn vật chất để chừa lại một vận hà thông suốt cho hơi ấm bên trong. Sự phối hợp này, hiện nay đang là một sự tăng trưởng tự nhiên và thông thường trong mỗi người, là một trong các dấu hiệu của thành tựu hay sự khai mở trong một Thái dương hệ trước. Giống như việc điểm đạo và giải thoát được ghi dấu trong Thái dương hệ này bằng sự phối hợp các luồng hoả của thể xác, của trí tuệ và của Tinh Thần, cũng vậy, trong một chu kỳ trước, sự thành tựu được đánh dấu bằng sự phối hợp các lửa tiềm tàng của vật chất với lửa bức xạ hay lửa linh hoạt và kế đó là sự phối hợp hai lửa này với lửa của trí tuệ. Trong chu kỳ trước các hiệu quả trong sự biểu lộ của Lửa Thiêng th́ quá

xa xăm và kín đáo đến nỗi mà hiếm khi nhận ra được, dù là nhận ra một cách lờ mờ ở đó. Sự tương đồng của nó có thể được nh́n thấy trong giới động vật, trong đó bản năng nắm

58 giữ trực giác đang tiềm tàng c̣n Tinh thần đang ứng linh một cách lờ mờ. Tuy nhiên, tất cả chỉ là một phần của tổng thể thiêng liêng. Đề tài về nhiệt bức xạ của hệ thống đại và tiểu thiên địa sẽ được bàn đến chi tiết về sau này. Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến tiềm hoả bên trong của :

Thái dương.

Hành tinh.

Con người.

Nguyên tử.

 

Chúng ta phải nhớ rằng trong cả hai thể cảm dục và trí tuệ có các đối phần của các trung tâm lực như đă thấy trong thể xác. Các trung tâm này liên quan đến vật chất và sự tiến hoá của nó. Một phát biểu căn bản có thể được đưa ra liên quan đến lửa bên trong của cả bốn (thái dương, hành tinh, con người và nguyên tử):

Trong Thái dương, hành tinh, con người và trong nguyên tử có một điểm nhiệt trung tâm, hay là (tôi tạm dùng một thuật ngữ có giới hạn và không thích hợp) một hang lửa trung ương, hay cái nhân của nhiệt và cái nhân trung ương này đạt tới giới hạn của vùng ảnh hưởng của nó, tức là ṿng giới hạn của nó, bằng một vận hà tam phân (1).

1 “Bản chất thiêng liêng đang tràn ngập khắp toàn thể vũ trụ gồm nhiều triệu thái dương hệ được mặt trời chúng ta bắt kịp và vượt qua bằng một h́nh thức biểu lộ đến các ranh giới xa nhất của thái dương hệ chúng ta, thế nên nguyên thể biểu lộ này có thể là vùng đất căn bản của sự tăng trưởng, bảo tồn và huỷ diệt của thế giới

a) Thái dương : Bên trong mặt trời, ngay giữa tâm là một biển lửa hay nhiệt, nhưng không phải là một biển lửa ngọn. Ở điểm này sự phân biệt có lẽ sẽ không có ư nghĩa đối với một số người. Đó là trung tâm của khối cầu và là điểm cháy rực bên trong ghê gớm nhất, nhưng có ít liên quan đến các

59        ngọn lửa hay chất khí đang cháy (bạn muốn dùng thuật ngữ nào cũng được) vốn thường được hiểu là sẽ hiện hữu khi nào mặt trời được xét đến. Đó là điểm cháy rực mạnh mẽ nhất và khối cầu lửa bên ngoài chỉ là sự biểu lộ của sự cháy bên trong đó. Nhiệt trung ương này toả ra sức nóng của nó tới mọi phần của Thái dương hệ bằng một vận hà tam phân hay là xuyên qua các “Tia Tiếp Cận” (“Rays of Approach”) của nó vốn ở trong toàn bộ của chúng gợi cho chúng ta ư tưởng về “sức nóng của mặt trời”.

 

1. Akasha chính là vật chất sinh khí, hay là vật chất được kích động bởi tiềm nhiệt.

 

2. Điện lực tức là chất liệu của một cực và được truyền sinh lực bằng một trong ba ngôi Thượng Đế. Để diễn tả điều đó một cách huyền linh hơn người ta nói đó là chất liệu biểu hiện cho đặc tính của các Tinh Quân Vũ Trụ mà đó chính là năng lượng của Ngài.

 

chúng ta, bản chất thiêng liêng đó chỉ là Nadam của triết lư yoga của chúng ta và Nadam đó hay là OM sau đó tự biểu lộ dưới h́nh thức bảy ḍng (Streams). Cái chưa biểu lộ trở thành cái biểu lộ bởi hay là được sinh ra bởi sự phân nhánh tiếp theo sau. Các ḍng này là bảy nguyên âm hay bảy nốt. Bảy nguyên âm và nốt này phải có các mối tương quan đặc biệt với bảy âm vận của kinh Veda giống như các con tuấn mă của “bản thể mặt trời”.

Some Thoughts on the Gita, trang 74

3. Các Tia sáng của trạng thái Prana, một số các tia đó hiện giờ đă được các nhà khoa học hiện đại nhận biết. Chúng chỉ là các trạng thái nhiệt tiềm tàng của mặt trời khi mặt trời tiến đến gần Địa Cầu bằng một đường đặc biệt có ít sự đối kháng nhất.

Khi thuật ngữ “vận hà hay tia tiếp cận” được dùng, nó có nghĩa là sự tiến từ trung tâm của bức xạ mặt trời đến ngoại biên. Những ǵ gặp được trong sự tiếp cận đó – thí dụ như là các thể của hành tinh -sẽ bị tác động bởi luồng akasha, luồng diện hay luồng Prana theo một đường lối nào đó. Nhưng tất cả các luồng này chỉ là các lửa bên trong của Thái dương hệ khi được nh́n từ một điểm nào đó trong không gian của vũ trụ, chứ không phải không gian của mặt trời. Do đó điều hiển nhiên là vấn đề lửa này cũng phức tạp như vấn đề các cung. Lửa bên trong của Thái dương hệ trở thành Lửa bên ngoài và Lửa phát xạ khi xét theo quan điểm một hành tinh; trong khi lửa bên trong của hành tinh sẽ tác động vào con người dưới h́nh thức bức xạ theo đúng cùng một cách thức như là các phóng phát prana của thể dĩ thái – con người tác động vào một thể xác khác dưới h́nh thức bức xạ. Điểm cần phải hiểu

60        rơ trong tất cả các trạng thái này và tất cả có liên quan với vật chất chớ không phải liên quan với trí tuệ hay Tinh Thần.

b) Hành tinh. Sâu trong tâm của hành tinh – thí dụ như địa cầu – là các nội hoả đang nằm giữa bầu hành tinh, hay là các hang động – đang tràn ngập với lửa cháy rực – làm cho sự sống trên bầu hành tinh khó mà có được chút xíu nào. Các lửa bên trong của nguyệt cầu thực tế đă tắt và do đó nguyệt cầu không chiếu sáng, trừ việc soi sáng nhờ vào phản chiếu, do chỗ không c̣n lửa bên trong để phối hợp và trộn lẫn với ánh sáng bên ngoài. Các lửa bên trong này của địa cầu có thể

được thấy tác động, như là trong thái dương, xuyên qua ba vận hà chính :

 

1. Chất liệu tạo tác hay là vật chất của hành tinh được nhiệt làm cho sinh động. Nhiệt và vật chất này cũng tác động giống như mẹ của vạn vật để làm nẩy mầm, và dưới h́nh thức kẻ bảo vệ cho mọi vật đang trú ẩn tại đó và trên đó. Chất này tương tự với akasha, tức là chất linh hoạt đem lại sinh lực của Thái dương hệ vốn đang bảo dưỡng mọi vật như là một từ mẫu.

 

2. Lưu chất mang điện (Electrical fluid), một lưu chất tiềm tàng trong hành tinh, nhưng cho đến nay vẫn ít được nhận ra. Có lẽ hay hơn là diễn tả bằng thuật ngữ “từ điển sinh động” (“animal magnetism”). Đó là đặc tính phân biệt của bầu khí quyển của một hành tinh, hay là ṿng giới hạn có mang điện của nó. Đó là đối cực so với lưu chất mang điện của mặt trời, và sự tiếp xúc của cả hai và việc vận dụng đúng các lưu chất đó là mục đích – có lẽ chưa được nhận ra -của mọi nỗ lực khoa học trong lúc này.

 

3. Tia phóng phát (emanation) bức xạ của hành tinh mà chúng ta có thể gọi là Prana hành tinh. Đó cũng là những ǵ được nói tới khi người ta nói đến các tính chất đem lại sức khoẻ của Mẹ Thiên Nhiên và đó là mặt sau của lời kêu gọi của người thầy thuốc hiện tại, khi y nói một cách khôn ngoan “Hăy hướng về Địa Cầu” (“Back to the Earth”). Chính ḍng phóng phát Prana này tác động trên thể xác, mặc dù trong trường hợp này không xuyên qua thể dĩ thái. Nó được hấp thụ hoàn toàn qua lớp da và các lỗ chân lông là con đường dễ dàng nhất của nó.

 

c) Con người. Ở đáy xương sống có tàng ẩn lửa của hệ thống con người hay là các lửa bên trong của tiểu thiên địa.

Trung tâm lực nằm ở đó và từ đó, các bức xạ tiến về phía trước dọc theo ba vận hà có thể nhận thấy được trong xương sống.

 

1. Hơi ấm của thân thể, vận hà mà dọc theo đó nhiệt toả ra và có mục tiêu chú tâm của nó là sưởi ấm cho cơ thể. Sức sống này của chất đặc của cơ thể t́m thấy sự tương ứng của nó trong Akasha của Thái dương hệ và trong chất liệu tạo tác của hành tinh.

 

2. Sự ứng đáp của thần kinh (Nervous response). Đây là lưu chất bền bĩ mang sinh lực, chính nó dùng vào việc kích thích các trung tâm thần kinh và chính nó tạo ra đáp ứng về điện cho sự tiếp xúc giữa thần kinh và năo bộ. Ngày nay, nên khảo cứu kỹ lưỡng hơn về điều này. Nó tương ứng với điện của Thái dương hệ và điện của hành tinh.

 

3. Bức xạ Prana. Xuyên qua thể dĩ thái của con người, bức xạ này tương ứng với Prana thái dương và Prana hành tinh. Bức xạ này chủ yếu là lộ ra trong hào quang sức khoẻ và không có liên quan ǵ với các tính chất từ điển, như thường được diễn dịch khi xem phàm ngă hay con người như một đơn vị. Tôi đă lặp lại điều này v́ rất cần thiết rằng không nên có sự nhầm lẫn trong tâm trí giữa từ điển vốn là một bức xạ về tinh thần với những ǵ thuần khiết là động vật.

 

Ở đây có thể là khôn ngoan mà nêu ra rằng sự biểu lộ tam phân này của lửa cũng lộ ra trong thể cảm dục và thể trí, có liên quan với chất liệu của những thể kia. Chúng ta có thể tŕnh bày lửa này trong cách biểu lộ tam phân của nó như là toàn bộ của lửa chính yếu hay hoạt động sự sống của Thượng

62        Đế Ngôi Ba. Nên cẩn thận ghi nhớ rằng sự biểu lộ công tác của Ba Ngôi Thượng Đế là biểu lộ của trí tuệ của một Thực Thể vũ trụ nào đó. Cũng thế, bảy Thực Thể Thông Linh Hành

Tinh, tức bảy Hành Tinh Thượng Đế, là bảy vị Thượng Đế (cũng là các Đấng Vũ Trụ) trong toàn thể, các Ngài hợp thành Cơ Thể của Thượng Đế Ba Ngôi. Do đó, chúng ta có :

 

1. Thượng Đế không biến phân (The undifferen–tiated Logos), một Thực Thể Thông Linh Vũ Trụ.

 

2. Thượng Đế, với biểu lộ Ba Ngôi :

 

 Tinh Quân Ư Chí Quyền Năng vũ trụ.

 Tinh Quân Bác Ái và Minh Triết vũ trụ.

 Tinh Quân Trí Tuệ Hoạt Động vũ trụ.

 

3. Thượng Đế ba ngôi, khi biểu lộ thất phân, nghĩa là bảy vị Hành Tinh Thượng Đế (1)(2)

1 Ông Rubba Rao có viết ở trang 20 của quyển “Esoteric Writings” : “Theo một qui tắc tổng quát, khi nào bảy thực thể được ghi nhận trong khoa huyền linh học cổ xưa của Ấn Độ về bất cứ phương diện nào, bạn phải nghĩ rằng bảy thực thể đó sở dĩ có được là do ba thực thể đầu tiên và đến phiên ba thực thể này lại tiến hoá từ một thực thể đơn nhất hay chân thần. Lấy một thí dụ quen thuộc, bảy tia có màu trong ánh sáng mặt trời tiến hoá từ ba tia có màu nguyên thuỷ; và ba màu nguyên thuỷ đồng hiện tồn với bốn màu thứ yếu trong ánh sáng mặt trời. Tương tự như thế, ba thực thể nguyên thuỷ đă khai sinh ra con người đồng hiện tồn trong y, cùng với bốn thực thể thứ yếu vốn phát xuất từ các kết hợp khác nhau của ba thực thể nguyên thuỷ”… Trong thuật ngữ Thiên Chúa giáo các Thực Thể này là Ba Ngôi (Three Persons) của Tam Vị Nhất Thể (Trinity) và Bảy Tinh Quân trước Thiên Toà. So sánh với câu: “Đức Chúa Trời chúng ta là đám lửa hay thiêu đốt” (Heb. 12. 29).(Bản dịch Thánh kinh của nhà XB Tôn giáo Hà Nội 2.003) 2 “Tôi có nói khi nhắc đến Đức Thượng Đế này, rằng hoàn toàn có thể là chính Thượng Đế hiện ra dưới dạng của Đức Dhyan Chohan đầu tiên, hay Hành Tinh Thượng Đế, khi sự tiến hoá của con người

(1).

Mỗi một trong số các Thực Thể Thông Linh vũ trụ này là Lửa, trong nguyên thể chính yếu của Ngài. Mỗi vị biểu lộ dưới h́nh thức lửa theo ba cách. Theo quan điểm thời gian, Tinh Quân vũ trụ của Trí Tuệ linh hoạt, xét theo quan điểm tiến hoá vũ trụ, th́ tiến hoá hơn hai huynh đệ của Ngài. Ngài là sự sống của vật chất, Lửa bên trong tiềm tàng của vật chất.

được bắt đầu lại sau thời kỳ bất hoạt động cuối cùng trên hành tinh này, như có nói đến trong sách của ông Sinnett, quyển Esoteric Buddhism, và sau khi đặt luồng tiến hoá vào chuyển động, rút lui khỏi b́nh diện tinh thần thích hợp với bản chất của riêng nó và đă xem xét qua sự chú tâm của nhân loại, và đôi khi xuất hiện liên quan đến một con người cá biệt đối với sự tốt lành của nhân loại. Hoặc là bạn có thể nh́n vào Thượng Đế tiêu biểu bởi Đức Krishna như thuộc về cùng một đẳng cấp như Thượng Đế. Khi nói đến chính Ngài, Đức Krishna nói (chương X câu 6): “Bảy đại Rishis, bốn vị có trước Bàn Cổ, chia sớt bản thể của ta, được sinh ra từ trí ta : từ các vị đó mà sinh ra nhân loại và thế giới”.

Ngài nói đến bảy Rishis và đến các vị Manus như là các Manasaputras của Ngài, hay là Các Đấng Con do trí tuệ sinh ra, mà họ sẽ trở thành nếu Ngài được gọi là Prajapati, Đấng xuất hiện trên hành tinh này và đă khởi sự công tŕnh tiến hoá”.

Tạp chí Theosophist, quyển VIII, trang 443. 1 Nên ghi nhớ biểu đồ sau đây : 7 chủng chi (branch race) tạo thành… một giống dân phụ (subrace)        7 giống dân phụ tạo thành ………….. một căn chủng (rootrace) 7 căn chủng tạo thành …….một chu kỳ thế gian (one world period)     7 chu kỳ thế gian tạo thành ………….một ṿng tiến hoá (round) 7 ṿng tiến hoá tạo thành ……………một chu kỳ dăy (chain period) 7 chu kỳ dăy tạo thành … một hệ thống hành tinh (planetary scheme) 10 hệ thống hành tinh tạo thành …… một thái dương hệ

Bản chất của Ngài là bản chất của lửa đang nằm ở tâm của mặt trời, của hành tinh và của các h́nh hài vật chất của con người. Ngài là toàn bộ của quá khứ.

Tinh Quân Bác Ái Vũ trụ hiện nay đang t́m cách hợp nhất với Huynh Đệ của Ngài, và, theo quan điểm thời gian tiêu biểu cho mọi Hiện tại. Ngài là toàn bộ của tất cả những ǵ được tiêu biểu; Ngài là Sự Sống hữu thức. Ngài là Đấng Con Thiêng và sự sống cùng bản chất Ngài tiến hoá xuyên qua mọi h́nh thức hiện hữu. Đấng Tinh Quân Ư Chí Vũ Trụ nắm giữ tương lai trong thiên cơ và tâm thức của Ngài. Tất cả ba Đấng là Các Con của một Từ Phụ, cả ba là các trạng thái của Thượng Đế Duy Nhất (One God) cả ba Đấng là Tinh Thần, cả ba Đấng là Linh Hồn và cả ba Đấng là các Tia (Rays) xuất phát từ một trung tâm vũ trụ. Cả ba Đấng đều là chất liệu nguyên thuỷ, nhưng trong quá khứ một Đấng là Con Trưởng, hiện tại một Đấng khác giữ địa vị lănh đạo, và trong tương lai c̣n một Đấng nữa. Nhưng điều này chỉ xảy ra trong Thời Gian. Theo quan điểm Hiện Tại Vĩnh Cửu, không một vị nào cao hơn hay thấp hơn một vị nào v́ Đấng cuối cùng sẽ là đầu tiên và Đấng đầu tiên sẽ là cuối cùng. Lúc không biểu lộ, thời gian sẽ không có, khi không biểu lộ ra ngoại cảnh, các trạng thái tâm thức đều là hư vô.

Lửa Tinh Thần là lửa chủ yếu của Thượng Đế Ngôi Một, Ngôi Ư Chí, cộng với lửa của Thượng Đế Ngôi Hai, Ngôi Bác Ái. Cả hai Thực Thể Thông Linh vũ trụ này trộn lẫn, phối hợp nhau và biểu lộ như Linh Hồn, sử dụng sự trợ giúp của Thượng Đế Ngôi Ba để biểu lộ. Ba thứ lửa trộn lẫn và phối hợp. Trong cuộc tuần hoàn thứ tư và trên bầu thứ tư của hệ thống hành tinh chúng ta, các lửa của Thượng Đế Ngôi Ba,

64 của vật chất thông tuệ trộn lẫn ít nhiều với lửa của trí tuệ vũ

trụ, biểu lộ dưới h́nh thức ư chí hay quyền năng và làm linh hoạt Chủ Thể Tư Tưởng trên mọi cơi. Mục tiêu của sự hợp tác của các Ngài là sự biểu lộ hoàn hảo của Đấng Bác ái vũ trụ. Điều này nên được suy gẫm v́ nó tiết lộ một bí nhiệm.

Sự phối hợp của ba lửa, sự hoà lẫn của ba Linh Quang và sự hợp tác của Ba Ngôi Thượng Đế (vào lúc này và trong Thái dương hệ này) có mục đích là phát triển Nguyên Thể (Essence) của Tinh Quân Bác Ái vũ trụ. Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thượng Đế. Sớm hay muộn hơn đều không được, chỉ ngay lúc này thôi. Khi nh́n từ cơi trí vũ trụ, cả Ba Ngôi cấu thành Phàm Ngă của Thượng Đế và được thấy đang vận hành như một. Đó là cái bí nhiệm (được nhận ra như là sự thực, dù không hiểu rơ được) của sức nóng quá độ được diễn tả một cách huyền bí, của thể cảm dục hay thể trung ương của phàm ngă tam phân. Nó làm linh hoạt và kiểm soát thể xác, c̣n các ước muốn của nó thống trị trong đa số các trường hợp; nó biểu lộ trong thời gian và không gian sự tương tự của việc hợp nhất tạm thời của tinh thần và vật chất, các lửa của bác ái vũ trụ và lửa của vật chất được phối hợp. Một sự tương đồng như thế được t́m thấy trong sức nóng hiện ra bên ngoài trong Thái dương hệ thứ hai này.

d. Nguyên tử. Các lửa bên trong của nguyên tử cũng có thể được thấy tác động theo các đường tương tự, các nhà khoa học cũng đă nhận ra ít nhiều bằng chứng của chúng. Điều này vốn dĩ như thế, không cần đi sâu hơn vào chi tiết (1).

1 Cần nên nhớ rằng, chỉ có tỷ lệ th́ không phải là quan trọng, v́ độ lớn, và độ nhỏ về cơ bản chỉ có tính cách tương đối. Số phận của mỗi nguyên tử là để tạo ra một Brahmanda. Brahmanda tương tự hoặc nhỏ hơn, hoặc lớn hơn cái của chúng ta được giữ chung lại bởi một mặt trời, vốn hiện hữu trong mỗi nguyên tử. Vishvas, hệ thống  

 

 

Bây giờ, chúng ta có thể xem xét một cách vắn tắt về vấn đề hoả tinh linh và hoả thiên thần, và rồi bàn về sự liên quan của cung phàm ngă đối với lửa bên trong này của Thái dương hệ trong biểu lộ tam phân của nó.

Một số sự kiện được nhận ra liên quan với hoả chơn linh (nếu chúng có thể được gọi như thế). Sự kiện căn bản phải được nhấn mạnh ở đây là Agni, tức Hỏa Tinh Quân (Lord of Fire), cai quản khắp các hoả tinh linh và hoả thiên thần trên ba cơi tiến hoá nhân loại là hồng trần, cảm dục và hạ trí, và thống ngự chúng không những trên địa cầu này mà c̣n trên ba cơi giới trong mọi phần của Thái dương hệ. Ngài là một trong số bảy Huynh Đệ (dùng một diễn tả quen thuộc đối với các nhà nghiên cứu bộ Giáo Lư Bí Nhiệm) mỗi vị tượng trưng cho một trong bảy nguyên khí hay chính các vị là bảy trung tâm lực trong cơ thể của Hoả Tinh Quân vũ trụ mà bà Blavatsky gọi là “Fohat”. Ngài là Đấng Thông Tuệ linh hoạt của lửa, là cơ bản của các lửa bên trong của Thái dương hệ. Mỗi một trong số các Đấng này thống ngự trên mỗi cơi và ba vị Huynh Trưởng (luôn luôn là ba vị hiển lộ và sau đó là bảy vị, các Ngài rốt cuộc sẽ phối hợp thành ba nguyên thuỷ) ngự trị trên cơi 1, 3, và 5 hay là trên cơi Tối Đại Niết Bàn (adi), cơi

thế giới lớn, có trong một nguyên tử, và các nguyên tử lại tồn tại trong các vishvas này. Đây là ư nghĩa của “cái đa tạp từ cái duy nhất” (“many from one”); khi nào chúng ta thấy cái duy nhất, chúng ta cũng sẽ nhận ra cái đa tạp và ngược lại. Sau khi cố đạt được năng lực và sau đó thực sự tạo ra được một brahmanda, giai đoạn kế tiếp là tạo ra một jagat, kế đó một vishva, tiếp theo là một maha-vishva và v.v.., cho tới khi trạng thái maha-vishnu được đạt tới”. Bhagavan Das in the Pranava Vada, trang 94.

Niết Bàn (atma) (1) và cơi trí (manas). Ở đây, chúng ta cần nhớ rằng các Ngài là lửa được xét trong trạng thái thứ ba, tức

66        lửa của vật chất. Trong toàn thể của các Ngài, bảy Đấng này hợp thành tinh hoa của Tinh Quân vũ trụ mà các sách huyền linh gọi là Fohat (2).

1 Như bạn đều biết, Atma hàm ư là bản ngă (self) hay là ego hay là một trung tâm ư thức được biệt ngă hoá mà mọi kinh nghiệm trần gian ở trạng thái nhị nguyên của chúng tức là kinh nghiệm bên trong và bên ngoài tụ lại thành nhóm và tự chúng sắp xếp lại chung quanh đó như đó là một trong các điểm hội tụ từ đó xuất hiện các tia sáng để soi sáng các ḍng nước vũ trụ (cosmic waters) và trong đó cũng hội tụ các tia sáng (rays) được các ḍng nước này gửi trở lại. Trong các tác phẩm về Minh Triết Thiêng Liêng, nó được gọi là biệt ngă hữu ngă thức (the selfconscious individuality) hay là Thượng Trí (Higher Manas). Theo quan điểm này, bạn sẽ thấy rằng Thượng Trí là nguyên khí quan trọng nhất hay là trực trung tâm (central pivot) của cấu tạo con người hay là linh hồn đích thực. Đó là tuyến mà người nào muốn biết chân lư và nâng chính ḿnh ra khỏi t́nh trạng hiện tồn bị chi phối này nên nắm giữ. Có khi người ta lại bài bác rằng Atma đại diện cho nguyên khí thứ bảy theo cách chia thất phân của Minh Triết Thiêng Liêng, và Manas th́ thấp hơn nhiều trong hệ thống phân chia đó. Nhưng câu trả lời rơ ràng là nguyên khí thứ bảy là trạng thái cuối cùng mà bản ngă có thể đạt tới sau khi vượt qua đại dương của cuộc sống bị chi phối hay là bánh xe luân hồi (samsara).

Trích từ Some Thoughts on the Gita, trang 26. 2 Fohat hay điện là một Thực Thể Thông Linh (Entity). Ngài là Thực Thể Thông Linh Nguyên Thuỷ có mang điện.             GLBN  I, 105. Ngài là …. Ư Chí (Will)       GLBN  I, 136 Ngài là ……Bác ái Minh triết GLBN I,  100, 144, 155. Ngài là ……Thông Tuệ Hoạt Động GLBN  I, 136 Do đó Ngài là Thượng Đế GLBN  I, 167.

Cũng thế, theo cùng nghĩa như là bảy vị Chohans (1) với các nhóm môn đồ gắn bó của các Ngài, hợp thành bản thể (essence) hay các trung tâm lực trong cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế. Đến phiên các Đấng này lại hợp thành bản thể của Thái Dương Thượng Đế.

Mỗi một trong số bảy Hoả Tinh Quân (2) này được phân hoá ra thành nhiều nhóm hoả thực thể, từ các Thiên Thần Tinh Quân (Deva-Lords) của một cơi giới xuống đến các hoả tinh linh nhỏ bé của các ḷ lửa trong nhà. Chúng ta không bàn đến các tinh chất của lửa (fiery essences) thuộc các cơi giới cao ở giai đoạn này trong cuộc thảo luận của chúng ta. Chúng ta sẽ chỉ kể ra một cách vắn tắt một số trong các nhóm được biết nhiều nhất như đă được tiếp xúc trong ba cơi thấp.

1. Cơi hồng trần:

Hoả tinh linh (Salamanders), các hoả tinh linh nhỏ bé mà người ta có thể thấy đang nhảy múa trong mọi ngọn lửa, chăm sóc lửa của ḷ sưởi, của nhà ở và lửa của xưởng máy.

Ngài là toàn bộ năng lượng của bảy Spirits Ngài là toàn bộ của Thượng Đế GLBN  I, 169. 1 Chohan (tiếng Tây Tạng). Một Tinh Quân (Lord) hay Chân Sư (Master). Một Bậc Điểm Đạo cao (a high Adept). Một Đấng Điểm Đạo đă được hơn năm lần điểm đạo chủ yếu (five major Initiations) làm cho Ngài trở thành “Chân Sư Minh Triết”. 2 Bảy Huynh Trưởng (seven Brothers). Xem GLBN I, 105. Bảy vị này là bảy biến phân (differentiations) của năng lượng điện nguyên thuỷ (primordial electric energy). Cơi (plane). Khi được dùng trong huyền bí học, thuật ngữ này chỉ phạm vi hay mức độ của một trạng thái tâm thức nào đó hoặc của năng lực nhận thức của một tập hợp các giác quan đặc biệt hoặc tác động của một mănh lực đặc biệt, hoặc trạng thái vật chất tương ứng với bất cứ thứ loại nào nói ở trên.

Chúng cùng một nhóm với các thần lửa bậc thấp, các thần lửa này có thể được giao tiếp ở sâu trong trung tâm cháy rực của hành tinh.

Hoả thần thấp (Fire spirits) tiềm ẩn trong mọi điểm tập trung nhiệt, chính chúng là tinh chất của hơi ấm và có thể 67 được tiếp xúc trong nhiệt của cơ thể, hoặc của con người hay

con thú và chúng cũng là hơi ấm địa cầu.

Hoả thần cao (Agnichaitans), một hạng hoả thần cao cấp, các vị này tạo thành một đám xoáy lửa khi xét trên một mức độ lớn, như là trong các hoả sơn và các đám cháy gây huỷ diệt lớn. Nhóm này liên kết chặt chẽ với một nhóm thiên thần c̣n quan trọng hơn nữa, để tạo thành lớp vỏ cháy rực của mặt trời.

Tinh linh Prana (Pranic elementals) các tinh chất lửa nhỏ bé này có khả năng thấm nhập vào cấu trúc của cơ thể người, của cây cối hay của tất cả những ǵ có thể t́m thấy trong giới nhân loại, thực vật và động vật, nhóm này trộn lẫn với các lửa của các hệ thống tiểu vũ trụ.

Một vài giới thiên thần có thể được mô tả như là đem lại linh hồn (ensouling) cho các tia sáng vĩ đại và chính các Ngài là tinh hoa của các tia đó. Các h́nh thức khác của các sự sống tinh linh và của các nhóm thiên thần như thế có thể được liệt kê ra, nhưng bảng ở trên cũng đủ cho mục đích hiện tại của ta.

2. Cơi cảm dục

Các tinh chất lửa của cơi giới này khó cho ta hiểu rơ hơn, v́ cho đến nay, ta không thấy được trên cơi đó.

Chính chúng là hơi ấm và sức nóng của thể xúc cảm và của thể cảm giác. Nhóm này thuộc về một đẳng cấp thấp khi ở trên con đường dục vọng, và thuộc đẳng cấp cao hơn khi ở

trên con đường đạo tâm v́ lúc bấy giờ tinh linh chuyển hoá thành thiên thần.

Đẳng cấp và hàng ngũ của chúng th́ nhiều, nhưng danh tính của chúng không thành vấn đề, ngoại trừ trong một trường hợp duy nhất. Có lẽ sẽ có lợi khi biết danh hiệu áp dụng cho các hoả thiên thần mà phận sự của họ là giữ ǵn các lửa để sau này sẽ phá huỷ thể nguyên nhân. Chúng ta cần nhớ rằng chính sự đi lên của tiềm hoả của vật chất và sự hoà nhập của nó với hai lửa khác gây nên sự tàn phá. Các tinh linh và thiên thần này được gọi là cảm dục thiên thần (Agnisuryans) và trong toàn bộ của các Ngài là tinh chất lửa của thể bồ đề, do đó, sự biểu lộ thấp nhất của các Ngài là ở trên cơi thứ sáu, tức cơi cảm dục.

Chi tiết thêm về sự sống của các thiên thần này sẽ được t́m thấy ở phần sau trong Bộ Luận này, nơi mà các vị đó được bàn đến nhiều hơn

 

 

ĐOẠN B

CUNG PHÀM NGĂ VÀ LỬA DO MA SÁT

 

 

Nơi đây, chúng ta đề cập đến một vấn đề vô cùng lư thú,

tuy nhiên vấn đề này cũng rất ít được t́m hiểu. Tôi muốn nói

đến vấn đề các nguyên tử thường tồn (permanent atom) (1).

1 Nguyên tử thường tồn : Một điểm chiếm hữu của nguyên tử vật chất. Một trung tâm lực rất nhỏ hợp thành yếu tố trung ương và cơ chế phương tiện thu hút xung quanh đó các thể của Chân Thần lâm phàm được thành lập. Các thể này được xỏ xâu như các viên ngọc trên sutratma hay là sợi chỉ (thread).

Cung (ray): Một ḍng thần lực hay một phân thân (an emanation). Thái Dương Thượng Đế hay là Đại thiên địa, biểu lộ qua ba cung chính yếu và bốn cung thứ yếu. Chân Thần hay tiểu thiên địa cũng biểu lộ qua ba cung như đă nói đến ở trên. Tất cả các cung biểu hiện một loại thần lực đặc biệt được chuyên hoá.

Triad (Tam thượng thể). Theo sát nghĩa, đây là Atma-buddhi­manas, tức biểu lộ của Chân Thần, giống như phàm ngă là biểu lộ của Chân Ngă. Chính Chân Thần tự biểu lộ qua Tam Thượng Thể và trong trạng thái thấp nhất của nó hay trạng thái thứ ba tạo thành Chân ngă thể hay Thể nguyên nhân, đó là Chân ngă thơ ấu hay Chân ngă phôi thai. Tương tự, chính Chân ngă tự biểu lộ qua con người tam phân hạ đẳng, đó là hạ trí, thể cảm dục và thể dĩ thái (các thể này là phản ánh của Tam thượng thể) và ba thể này tạo ra biểu lộ vật chất trọng trược.

Mỗi thể hay h́nh hài mà Tinh Thần hoạt động trong đó, với điểm tập trung của nó trên mỗi cơi, đều có một nguyên tử làm bằng vật chất của cơi phụ nguyên tử của mỗi cơi chính. Nguyên tử này được dùng như một trung tâm để phân phối thần lực, để bảo tồn năng lực, để đồng hoá kinh nghiệm và để

70 bảo tồn kư ức. Các nguyên tử này có liên lạc trực tiếp với một hay các nguyên tử khác trong ba cung lớn liên hệ với tiểu vũ trụ : a/ Cung Chân Thần, tức cung tổng hợp của tiểu thiên địa. b/ Cung Chân ngă c/ Cung phàm ngă Mỗi một trong các cung này liên hệ với một trong các nguyên tử thường tồn trong con người tam phân hạ đẳng và có một tác động trực tiếp trên các loa tuyến (spirillae) (1) nằm trong nguyên tử đó.

1 Loa tuyến (hay ṿng xoắn ốc): “Để khảo sát cấu trúc của nguyên tử, một khoảng không được tạo ra một cách nhân tạo, lúc bấy giờ, nếu một lỗ hở xoi vào vách được tạo ra như thế, lực bao quanh đổ xô vào và ba đường trôn ốc (whorls) tức khắc xuất hiện, bao quanh “lỗ” với ba ṿng xoắn ốc của chúng gồm hai cuộn rưỡi và trở lại nguồn cội của chúng bằng một ṿng xoắn bên trong nguyên tử. Các ṿng xoắn này tức khắc được noi theo bằng bảy ṿng xoắn ốc nhỏ hơn, nó chạy theo đường trôn ốc của ba ṿng đầu tiên ở mặt ngoài và trở về chỗ ban đầu của chúng bằng một ṿng xoắn bên trong đó, đổ xô về hướng đối diện, tạo thành xà dực trượng (caduceus, tức là cây gậy (trượng) có hai con rắn (xà) quấn quanh, đầu gậy có hai cánh (dực) – ND)) với ba ṿng đầu tiên. Mỗi một trong số ba ṿng xoắn thô hơn, xẹp xuống tạo thành một ṿng khép kín; mỗi một trong số bảy ṿng nhuyễn hơn, xẹp xuống một cách tương tự tạo thành một ṿng khép kín. Các thần lực tuôn chảy trong chúng lần nữa, đến từ ‘bên ngoài’, theo một không gian có

Chúng ta ghi nhận trong tác phẩm “Thư Về Tham Thiền Huyền Linh” rằng các nguyên tử của con người tam phân hạ đẳng trải qua một tiến tŕnh gồm hai phần:

Trước nhất, chúng được truyền sinh khí trong khi quay và mỗi nguyên tử chứa giữ ánh sáng theo tŕnh tự đă được an bài cho đến khi tam giác bên dưới hoàn toàn được chiếu sáng.

Rốt lại, sự chuyển hoá xảy ra, hay là (nói cách khác) sự an trụ sau rốt di chuyển vào ba nguyên tử thường tồn của Tam thượng thể và ra khỏi ba nguyên tử thường tồn của tam giác ở dưới. Nguyên tử thường tồn hồng trần bị vượt qua và sự an trụ tập trung vào thể trí, nguyên tử thường tồn cảm dục bị vượt qua và sự an trụ tập trung vào thể bồ đề, trong khi

71 nguyên tử thường tồn hạ trí được thay thế bằng nguyên tử thường tồn của cơi năm, tức cơi Niết Bàn. Tất cả các điều này xảy ra bởi tác động của ba cung vào các nguyên tử và vào sự sống trong mỗi nguyên tử. Sự liên quan giữa ba cung này và các nguyên tử thường tồn có thể được tóm tắt như sau: Cung Phàm ngă có tác động trực tiếp trên nguyên tử thường tồn hồng trần (physical permanent atom). Cung Chân ngă có tác động tương tự trên nguyên tử thường tồn cảm dục.

bốn chiều đo. Mỗi một trong các ṿng trôn ốc nhuyễn hợp thành bảy ṿng c̣n nhu nhuyễn hơn nữa, được đặt theo thứ tự thẳng góc đối với nhau, mỗi cái nhỏ hơn cái trước nó, chúng ta gọi các ṿng này là loa tuyến. Mỗi loa tuyến được làm sinh động bởi sinh lực của một cơi và bốn loa tuyến hiện nay đang hoạt động b́nh thường, mỗi loa tuyến ứng với một cuộc tuần hoàn. Hoạt động của chúng trong một cá nhân có thể được thúc đẩy sớm hơn do việc thực hành yoga”   

Hoá Học Huyền Bí, trang 28.

Cung Chân Thần có liên hệ chặt chẽ với nguyên tử thường tồn hạ trí.

Tác dụng của chúng gồm ba mặt, nhưng không đồng thời, bao giờ chúng cũng tác động như mọi vật đă tác động như thế trong Thiên Nhiên, theo các chu kỳ đă an bài. Thí dụ, sự kích hoạt vốn là kết quả của tác động của Cung Chân Thần trên nguyên tử thường tồn hạ trí, chỉ được cảm thấy khi người t́m đạo bước lên Thánh Đạo, hay là sau khi y đă được điểm đạo lần một. Tác động của cung Chân ngă trên nguyên tử thường tồn cảm dục được cảm thấy ngay khi Chân ngă có thể tạo nên liên lạc thông suốt với bộ năo vật chất; khi điều này diễn ra như thế, cung chân ngă bắt đầu tác động vào nguyên tử một cách mạnh mẽ và liên tục; điều này xảy ra khi một người tiến hoá cao và tiến gần đến Thánh Đạo. Thần lực tam phân này được cảm thấy theo cách sau:

Thứ nhất. Nó tác động lên bức tường của nguyên tử dưới h́nh thức một lực bên ngoài và ảnh hưởng đến tác động quay ṿng và rung động của nguyên tử đó.

Thứ hai. Nó kích thích lửa bên trong của nguyên tử và làm cho ánh sáng của nguyên tử đó chiếu ngày càng chói lọi. Thứ ba. Nó tác động lên các loa tuyến và đưa chúng dần dần đi vào hoạt động.  

 

Cung phàm ngă có liên hệ tới bốn ṿng xoắn đầu tiên và là nguồn kích thích bốn ṿng xoắn đó. Ở đây chúng ta để ư

72        sự tương đồng đối với tứ hạ thể (lower quaternary) và sự kích hoạt nó bằng Chân ngă. Chính cung Chân ngă liên quan tới ṿng xoắn thứ năm và thứ sáu và là nguyên nhân của việc xuất lộ (emerging) từ tiềm tàng thành ra hoạt động. Cung Chân thần là nguồn kích thích ṿng xoắn thứ bảy.

Có một sự lư thú lớn liên quan với đề tài này và tầm mức rộng lớn của tư tưởng và phạm vi rộng răi để nghiên cứu mở ra trước mắt người khảo cứu nhiệt tâm. Tác động tam phân này thay đổi theo thời điểm và hiệu quả tuỳ theo chính cung mà Chân Thần đang ngự, nhưng đề tài này quá rộng lớn không thể bàn đến trong lúc này.

Khi xem xét vấn đề theo quan điểm về lửa, ư tưởng có thể được hiểu rơ một ít qua sự nhận thức rằng lửa tiềm tàng của vật chất trong nguyên tử được làm cho sáng rực và trở nên hữu dụng do tác động của cung phàm ngă, cung này phối hợp với lửa này và có cùng vị trí đối với nguyên tử thường tồn trong tiểu thiên địa giống như là Fohat trên cơi vũ trụ. Lửa tàng ẩn ở đó trong phạm vi (dù là phạm vi Thái dương hệ hoặc là phạm vi nguyên tử) và cung phàm ngă ở trong một trường hợp, mặt khác, Fohat tác động như là thần lực, đưa trạng thái tiềm tàng sang trạng thái linh hoạt và tiềm năng thành năng lực biểu lộ. Sự tương tự này nên được suy xét và phán đoán cẩn thận. Giống như Fohat có liên quan với sự biểu lộ linh động hay biểu lộ ra ngoại cảnh, cũng vậy, cung phàm ngă có liên quan tới trạng thái thứ ba hay trạng thái hoạt động trong tiểu thiên địa. Công việc của Thượng Đế Ngôi Ba là sắp xếp vật chất của thái dương hệ sao cho rốt cuộc có thể kiến tạo được thành h́nh hài qua quyền năng của Thượng Đế Ngôi Hai. Sự tương đồng xảy ra như sau. Bởi lẽ sự sống trên cơi hồng trần (vốn là sự sống mà trong đó nguyên tử thường tồn hồng trần biểu lộ đầy đủ) vật chất được sắp xếp và tách ra sao cho cuối cùng phải được kiến tạo thành Thánh điện Solomon, tức Chân ngă thể, qua trung gian của sự sống Chân ngă, trạng thái thứ hai. Trong mỏ đá của sự sống phàm ngă là các tảng đá được chuẩn bị cho Đại Thánh

Điện. Trong sự sống trên cơi trần và trong sự sống biểu lộ ra ngoài của phàm ngă th́ kinh nghiệm thu được đó biểu lộ dưới h́nh thức năng lực trong chân ngă. Những ǵ được nêu ra ở đây sẽ đáp lại đầy đủ sự chú ư chặt chẽ nhất của chúng ta và khai mở trước mắt ta các tầm mức tư tưởng mà sau rốt sẽ đưa đến một nhận thức khôn ngoan hơn, một phán đoán hợp lư hơn và một khích lệ lớn lao hơn để hành động.

 

Ở đây có thể là khôn khéo mà tóm tắt vài điều để gợi nhớ lại những ǵ có thể trở thành căn bản cho việc t́m hiểu sâu xa hơn. Trước tiên, chúng ta bàn về ba thứ lửa của hệ thống thuộc đại và tiểu thiên địa, và sau khi đă nêu ra vài giả thiết, chúng ta chuyển sang việc xem xét trước hết các lửa vốn có sẵn trong vật chất. Nhờ khảo cứu ít nhiều về lửa dưới h́nh thức biểu lộ tam phân của nó trong các phần khác nhau của Thái dương hệ, kể cả con người, chúng ta đă bàn đến đề tài cung phàm ngă và liên quan của cung này với lửa thứ ba. Ở đây, chúng ta phải nhớ rằng tất cả những ǵ được bàn đến đều có liên hệ với vật chất và đối với toàn thể tiết I này, ư tưởng ấy phải được thận trọng ghi nhớ.

Trong tiết II, chúng ta sẽ xem xét mọi việc theo quan điểm trí tuệ và trong tiết cuối, theo quan điểm của Cung Thiêng Liêng. Nơi đây, chúng ta bàn đến những ǵ bà H.P. Blavatsky gọi là cung nguyên thuỷ và các biểu lộ của nó trong vật chất (Xem GLBN I, 108, II, 596). Tất cả các cung Trí Tuệ Vũ Trụ, Hoạt Động Nguyên Thuỷ và Cung Bác Ái Minh Triết Thiêng Liêng này chỉ là đặc tính chủ yếu biểu lộ qua phương tiện của một yếu tố nào đó.

Cung Nguyên Thuỷ là tính chất của chuyển động, biểu lộ qua vật chất.

 Cung Trí Tuệ là tính chất của tổ chức sáng suốt, biểu lộ qua sắc tướng, vốn là sản phẩm của chuyển động và vật chất. Cung Bác Ái – Minh triết là tính chất của động lực cơ bản, vốn dùng cho cơ cấu sáng suốt của vật chất đang chuyển động để biểu lộ trong một tổng thể tổng hợp tức trạng thái Bác ái vĩ đại của Thượng Đế (GLBN I, 99,108; II, 596). Đường lối tư tưởng này có thể cũng được vạch ra một cách tương xứng trong Tiểu thiên địa và sẽ cho thấy làm thế nào mà con người cá biệt được đưa vào cùng một loại công việc trên một qui mô nhỏ hơn so với Thái Dương Thượng Đế. Ở điểm này trong Bộ luận, chúng ta giới hạn sự lưu tâm của chúng ta vào Cung Vật Chất Linh Hoạt, hay là vào nhiệt tiềm tàng trong chất liệu vốn ẩn dưới hoạt động của nó và là nguyên nhân chuyển động của nó. Nếu chúng ta biết nghĩ một cách thẳng thắn và sáng suốt, chúng ta sẽ thấy các vị Lipika hay Nghiệp Quả Tinh Quân đă hợp tác chặt chẽ như thế nào với công tác này. Ba trong các vị này liên hệ chặt chẽ với karma giống như karma liên hệ đến một trong ba cung lớn hay ba Lửa, trong khi vị Lipika thứ tư tổng hợp công việc của ba Huynh đệ Ngài và chăm lo sự phối trộn và hoà lẫn ba loại lửa. Trên địa cầu chúng ta, các Ngài t́m thấy điểm xúc tiếp của các Ngài qua ba vị “Hoạt Động Phật” (sự tương ứng nên được ghi nhận ở đây) và Đấng Kumara thứ tư, tức Đấng Chưởng Quản Địa Cầu. Do đó chúng ta đi đến nhận thức rằng Cung phàm ngă, trong sự liên quan của nó với lửa của vật chất, đă chịu ảnh hưởng trực tiếp và được hiệu chỉnh trong công việc của nó bởi một trong các Hoạt Động Phật (1).

1 “Hoạt Động Phật” (“Buddhas of Activity”), “Độc Giác Phật” (“Pratyeka Buddhas”). Đây là một cấp độ duy nhất thuộc về

Nghiệp quả (1),( 2),

Trường Phái Yogacharya, tuy nhiên đó chỉ là một trong các phát triển trí tuệ cao siêu mà không có tính chất duy linh đích thực… Đó là một trong ba con đường đưa đến Niết Bàn, và là con đường thấp nhất, trong đó một yogi –“không có thầy và không có các thứ khác bù đắp”-chỉ bằng sức mạnh của ư chí và các tuân thủ có phương pháp, mà đạt đến một loại Phật quả trên danh nghĩa tự lực”.

Theosophical Glossary 1 “Theo quan điểm xét về Karma như tôi đă đưa ra, bạn sẽ thấy rằng không một cơi duy linh cao nhất nào, dù là cơi của các Đấng nhập Niết Bàn đi nữa, ở ngoài bánh xe nghiệp quả và khi điều đó được nói đến trong các tác phẩm Bắc Phạn và ngay trong kinh Bhagavat Gita cũng ghi rằng con người phải vượt qua đại dương nghiệp quả, điều đó phải được hiểu với một ít cân nhắc. Các Đấng mà ngày nay đă thành công trong việc vượt thoát được bánh xe nghiệp quả, đă làm như sau, đó là chỉ khi nào bánh xe đó được lấy đi như là bánh xe đang xoay hiện giờ. Vũ trụ không tiến hoá như trong một cái khe suốt đời của Brahma, mà đang tiến tới t́nh trạng ngày càng cao khi nó làm tṛn nhiệm vụ của nó. Những ai đă đạt đến sự an nghỉ trong một t́nh trạng tâm linh, không thể đạt đến hiện nay, do đó sẽ ở trong một ngày sắp đến dưới ảnh hưởng tác động của bánh xe nghiệp quả có thể có một h́nh phạt cho các bổn phận lớn lao đă bị chểnh mảng từ rất lâu”.

Some Thoughts on the Gita, trang 40. 2 Lipika là các Đấng Cao Cả của Vũ Trụ. Các Ngài có liên quan với Định Luật Nghiệp Quả (Karma) và là các Đấng Ghi Chép nghiệp quả. Từ ngữ Lipika xuất phát từ ngữ căn “Lipi” có nghĩa là biên chép (writing). Muốn biết thêm về các Đấng Lipika, xin xem GLBN I, trang 152, 153. Các Hoạt Động Phật chính là Triad, các Đấng thân cận nhất với Đức Sanat Kumara, tức Đấng Chưởng Quản Thế Gian. Các hoạt động Phật là các tương ứng về mặt hành tinh với ba Trạng Thái

( 1) của chính vật chất là một vấn đề khó hiểu mà cho đến nay ít được đề cập đến. Tuy nhiên, nghiệp quả đó được phối hợp chặt chẽ với nghiệp quả của cá nhân. Nó bao hàm sự kiểm soát mức tiến hoá của tinh hoa Chân Thần (monadic essence), tinh hoa hành khí (elemental essence) và của vật chất nguyên tử của cơi; nó liên quan với sự phát triển của bốn ṿng xoắn ốc, với sự hoạt động của chúng, với sự ràng buộc vào sắc tướng khi ở trạng thái nguyên tử và với sự phát triển của tiềm nhiệt bên trong và với sự tăng gia độ nóng từ từ cho đến khi chúng ta có trong nguyên tử sự lặp lại những ǵ được thấy trong linh hồn thể: đó là việc phá huỷ chu vi của nguyên tử bằng cách bùng cháy. Nó liên quan đến vấn đề kiến tạo vật chất thành h́nh hài sắc tướng bởi sự tương tác của hai cung, Cung Thiêng Liêng và Cung Nguyên Thuỷ, bằng cách ấy tạo nên lửa do ma sát hướng về sự sống và sự hợp nhất.

Nghiệp quả của h́nh hài sắc tướng cũng là một vấn đề 76 rộng lớn, quá phức tạp đối với sự hiểu biết của kẻ thường

(Aspects) của Ngôi Ba Thượng Đế và có liên quan với thần lực đàng sau biểu lộ của hành tinh. Tinh hoa Chân Thần (Monadic Essence), tức vật chất của cơi phụ nguyên tử (hay là cơi cao nhất) của mỗi cơi chính. Tinh hoa Hành Khí (Elemental Essence), tức vật chất của sáu cơi phụ phi nguyên tử. Đó là vật chất phân tử. 1 “Karma có thể được định nghĩa là mănh lực phát sinh bởi một trung tâm con người khi hành động ở ngoại giới (exterior world) và ảnh hưởng do phản ứng trở lại mà đến lượt nó phát sinh từ thế giới bên ngoài khi tác động lên con người, có thể được gọi là ảnh hưởng nghiệp quả và kết quả thấy được vốn được tạo ra bởi ảnh hưởng này theo các t́nh huống thích hợp có thể được gọi là hậu quả của nghiệp (karmic fruit)”.

Some Thoughts on the Gita, trang 53.

nhân, nhưng là một yếu tố thực sự quan trọng không nên bỏ qua khi xét về sự tiến hoá của một thế giới, sự tổng hợp các thế giới hay của một thái dương hệ khi được nh́n từ các mức độ cao hơn. Trong toàn thể của nó, mọi việc là kết quả của hành động được thực hiện bởi các Tinh Hoa vũ trụ và các Thực Thể Thông Linh vũ trụ trong các Thái dương hệ trước, hiện đang tác động qua các nguyên tử cá biệt và qua các khối nguyên tử mà chúng ta gọi là h́nh hài sắc tướng. Trong thực tế, v́ lẽ đó, hiệu quả của cung phàm ngă trên các lửa bên trong là kết quả của ảnh hưởng của Hành Tinh Thượng Đế của bất luận cung nào có dính líu vào, khi Ngài thanh toán phần nghiệp quả mà Ngài phải gánh vác trong một chu kỳ nào đó dù lớn hay nhỏ. Như vậy, Ngài gây ra và rốt cuộc biến đổi các hậu quả của nguyên nhân mà Ngài phát khởi trước kia liên quan đến sáu Huynh đệ của Ngài, tức là các Hành Tinh Thượng Đế khác. Chúng ta được một minh hoạ song hành về kết quả mà một cá nhân sẽ có đối với một kẻ khác trong sự giao tiếp thế gian, trong việc tạo khuôn mẫu và gây ảnh hưởng, trong việc thúc đẩy hay tŕ hoăn.

Chúng ta phải nhớ rằng tất cả mọi ảnh hưởng căn bản và hiệu quả được nhận thấy trên cơi cảm dục và từ đó tác động xuyên qua chất dĩ thái đến vật chất hồng trần trọng trược, bằng cách ấy đặt vật chất dưới phạm vi ảnh hưởng của nó, tuy nhiên, chính nó không bắt nguồn trên cơi hồng trần.

 

ĐOẠN C

THỂ DĨ THÁI (1) VÀ PRANA (2)

1 Dĩ thái: Khoa học hiện thời cho rằng trong vũ trụ có thứ vật chất hư vô, vi diệu chứa đầy cả trong khoảng không, gọi là dĩ thái, dịch âm chữ ether (Anh), éther (Pháp). (Trích Hán Việt Từ Điển, Đào Duy Anh) (dĩ: nhân v́, bởi v́; thái: lớn, đến chỗ tuyệt cao) – ND

-           Dĩ thái là dạng thô trược nhất của Akasha. GLBN I, 78

-           Có bốn loại chất dĩ thái, lấy tên theo cơi phụ của cơi trần.

Cơi phụ thứ nhất của cơi trần (cơi phụ cao nhất) chứa chất dĩ thái 1.

Cơi phụ thứ nh́ của cơi trần chứa chất dĩ thái 2, ánh sáng cơi trần sử dụng dĩ thái 2 làm phương tiện truyền đi.

Âm thanh tác động qua chất dĩ thái thứ 3.

Màu sắc có liên kết với chất dĩ thái thứ 4. -Dĩ thái thứ tư là chất mà nhờ đó, đa số thể dĩ thái của con người được tạo thành.

 

(Trích : LVLCK, trang 320, 326)(Chú giải của ND) 2 “Prana hay là nguyên sinh khí/ nguyên khí sự sống (vital principle)là mối liên hệ đặc biệt của Atma với một h́nh thức vật chất nào đó mà bởi sự liên quan của Atma, h́nh thức vật chất đó tổ chức và kiến tạo nên một phương tiện để thu thập kinh nghiệm. Mối liên hệ đặc biệt này tạo nên Prana cá biệt (individual Prana) trong cơ thể cá biệt. Prana vũ trụ thấm nhuần vạn vật không phải là Prana theo ư nghĩa thô thiển, mà là một tên gọi dành cho Brahman dưới h́nh thức là người sáng tạo Prana cá nhân… Chúng sinh, dù là Devatas, con người hay là con thú, chỉ tồn tại chừng nào

 

Trong việc xem xét về lửa bên trong của Thái dương hệ, chúng ta sẽ thấy nhiều thích thú đối với thế hệ tư tưởng gia sắp đến v́ ba lư do chính có thể được kể ra sau đây :

1. Mục đích và mô tả thể dĩ thái.

Trước nhất. Trong việc khảo cứu thể dĩ thái có ẩn giấu (đối với các khoa học gia và những kẻ chuyên về y khoa) một hiểu biết đầy đủ các định luật vật chất và định luật về sức khoẻ. Danh từ sức khoẻ đă trở nên quá khu biệt trong quá khứ và nghĩa của nó bị hạn chế vào sự lành mạnh của thể xác, vào hoạt động kết hợp của các nguyên tử của xác thân con người và vào sự biểu lộ đầy đủ các sức mạnh của hành khí hồng trần. Trong những ngày sắp đến, người ta sẽ hiểu rơ rằng sức khoẻ của con người tuỳ thuộc vào sức khoẻ của mọi tiến hoá có kết hợp, và tuỳ thuộc vào hoạt động hợp tác và biểu lộ sung măn của vật chất của hành tinh và của hành khí hành tinh, mà chính nó là sự biểu lộ phức hợp của hành khí hồng trần của toàn thể thiên nhiên biểu lộ.

Thứ hai. Trong việc khảo cứu thể dĩ thái và prana có ẩn tàng sự tiết lộ các hậu quả của ánh sáng, mà (v́ thiếu tên gọi rơ ràng hơn) chúng ta gọi là sự ‘bức xạ sinh khí thái dương’ (‘solar pranic cmanations’). Các bức xạ sinh khí thái dương này là hậu quả được tạo ra của nhiệt trung tâm của thái dương trong khi tiến gần đến các thiên thể khác trong Thái dương hệ do một trong ba vận hà tiếp xúc chính và lúc bấy giờ, tạo ra trên các thiên thể đó, một số hiệu quả hơi khác với

mà Prana c̣n ở trong cơ thể. Nó là kỳ gian sống c̣n (life duration) của vạn vật… Prana hay sức sống/ sinh khí (vitality), là chức năng chung của trí tuệ và mọi giác quan.” Serpent Power, trang 94, 95

hiệu quả tạo ra bởi các bức xạ khác. Các hiệu quả này có thể được xem như rơ ràng có tính cách kích thích và kiến tạo, và (qua đặc tính chủ yếu của chúng), như là đang tạo ra các điều kiện đẩy mạnh sự tăng trưởng của tế bào chất (cellular matter) và liên kết sự hiệu chỉnh của nó với các điều kiện chung quanh; chúng cũng liên can tới sự lành mạnh bên trong (đang biểu lộ dưới h́nh thức nhiệt của nguyên tử và đưa đến kết quả là sự hoạt động của nguyên tử đó) và sự phát triển cùng lúc của h́nh hài mà nguyên tử vật chất đặc biệt đó hợp thành một thành phần. Prana phóng phát liên quan chẳng bao nhiêu với sự kiến tạo h́nh hài; đó không

79 phải là lănh vực hoạt động của nó, nó chỉ duy tŕ h́nh hài qua sự bảo tồn sức khoẻ của các thành phần cấu tạo. Các tia khác của thái dương tác động một cách khác dựa vào các h́nh thể và dựa vào bản chất của chúng. Một số tia đảm nhiệm công việc của Chủ Thể Huỷ Diệt h́nh hài, một số khác xúc tiến việc cố kết và thu hút; công việc của Đấng Huỷ Diệt và Đấng Bảo Tồn được tiến hành theo định luật hút và đẩy. Một số tia rơ ràng là tạo ra chuyển động gia tốc, một số tia khác tạo ra sự tŕ trệ. Các tia mà chúng ta bàn đến ở đây – bức xạ sinh khí thái dương – tác động trong bốn chất dĩ thái, tức là loại vật chất mà (dù thuộc cơi trần) cho đến nay không thể thấy được ở ngoại cảnh đối với mắt người. Chúng là cơ bản của mọi sự sống trên cơi trần được xem như là độc nhất liên quan đến sự sống của các nguyên tử vật chất thuộc cơi trần, liên quan đến sức nóng có sẵn của chúng và liên quan đến chuyển động quay của chúng. Các bức xạ này là nền tảng của lửa do “ma sát” -vốn đang biểu lộ trong hoạt động của vật chất. Cuối cùng, trong việc khảo cứu về thể dĩ thái và prana, đưa đến việc hiểu được phương pháp biểu lộ của Thượng Đế,

và v́ lẽ đó có nhiều lư thú đối với nhà siêu h́nh học và mọi tư tưởng gia trừu tượng. Thể dĩ thái con người ẩn giấu cái bí nhiệm về sự biểu hiện ra ngoại cảnh của nó. Nó có sự tương ứng trên cơi nguyên h́nh – tức là cơi mà chúng ta gọi là cơi của biểu lộ thiêng liêng, tức cơi thứ nhất của Thái dương hệ chúng ta, cơi Tối Đại Niết Bàn (Adi). Vật chất của cơi cao nhất đó thường được gọi là “bể lửa” và nó là cội rễ của tiên thiên khí, danh xưng dùng cho chất liệu của cơi biểu lộ thứ nh́. Chúng ta hăy phác hoạ thêm một vài tương đồng về chi tiết, v́ trong sự lĩnh hội đúng đắn của nó, người ta sẽ t́m thấy nhiều sự tỏ ngộ, và nhiều điều sẽ dùng để làm sáng tỏ các vấn đề về đại thiên địa và tiểu thiên địa. Chúng ta sẽ bắt đầu với con người và thể dĩ thái của con người.

Thể dĩ thái được mô tả như là một mạng lưới, được thấu nhập bằng lửa, hay là như một mạng lưới được làm cho linh hoạt bằng kim quang (golden light). Trong Thánh kinh nó được nói đến như là “chén vàng”. Nó là một tổng hợp

80 (composition) của loại vật chất thuộc cơi trần mà chúng ta gọi là chất dĩ thái, h́nh dáng của nó được tạo ra bởi các tao (sợi) nhỏ kết lại với nhau bằng chất dĩ thái này nhờ vào hoạt động của các nhà kiến tạo hạ đẳng, chất dĩ thái này được kiến tạo thành h́nh dạng hay cái khuôn mà sau này nhục thân có thể dựa vào đó để được nắn khuôn. Theo Định Luật Hút, vật chất trọng trược của cơi trần được làm cho kết hợp với h́nh hài chứa sức sống này và dần dần được kiến tạo xung quanh nó, và bên trong nó, cho đến khi sự xâm nhập vào nhau trở nên hoàn hảo đến nỗi hai h́nh hài tạo thành một đơn vị độc nhất; bức xạ prana của chính thể dĩ thái tác dụng lên nhục thân cùng một cách như là bức xạ prana của vầng thái dương tác dụng lên thể dĩ thái. Tất cả

chỉ là một hệ thống rộng lớn để truyền chuyển và để phụ thuộc lẫn nhau bên trong Thái dương hệ. Tất cả nhận vào để ban phát ra và để chuyển qua những ǵ thấp kém hơn hay không tiến hoá bằng. Diễn tiến này có thể được nhận thấy trên mỗi cơi.

Như vậy, thể dĩ thái tạo thành cơi nguyên h́nh so với nhục thân. Trên cơi riêng của ḿnh chủ thể tư duy, đối với thể xác, có vị trí như là Thượng Đế đối với Thái dương hệ của Ngài. Trong sự tổng hợp tư tưởng, điều đó có thể được diễn tả như thế này: chủ thể tư tưởng trên cơi cảm dục, tức cơi của ham muốn và đ̣i hỏi, có vị trí đối với thể xác như là Thượng Đế trên cơi cảm dục vũ trụ có vị trí đối với Thái dương hệ của Ngài.

Khi tiếp tục khảo cứu, chúng ta sẽ vạch ra sự tương hợp trong vũ trụ, Thái dương hệ, và trong ba cơi thấp, v́ chúng ta cần ghi nhớ rằng sự tương đồng phải được hoàn hảo.

 

1. Con người, tức Tiểu thiên địa, tức Chân Thần biểu lộ hay Đấng Độc Nhất (One).

 

2. Hành Tinh Thượng Đế, tức là nhóm biểu lộ (manifesting group).

 

3. Thái Dương Thượng Đế, tức Đại Thiên Địa, biểu lộ của tất cả mọi nhóm và của mọi tiến hoá trong Cơ Thể Ngài, tức Thái Dương Hệ.

 

Tất cả các cơ thể này – cơ thể của một con người, của một Hành Tinh Thượng Đế, và một Thái Dương Thượng Đế -đều là sản phẩm của dục vọng bắt nguồn từ trên các cơi trí tuệ trừu tượng, dù là thuộc về vũ trụ, thuộc Thái dương hệ hay trí tuệ trong ba cơi thấp, dù là trí dục vọng vũ trụ hay trí dục vọng con người, và tất cả các thể của chúng đều là “Các Con

Thiết Yếu” (“Sons of Necessity”) như bà H.P. Blavatsky diễn tả một cách rất thích đáng. (GLBN I, 74). (1)

1 “Toàn bộ Thái dương hệ này được quan niệm như là một cơ cấu rộng lớn với sự hiệu chỉnh tinh tế các thành phần của nó trong mọi chi tiết chủ yếu, chỉ là biểu hiện hồng trần của Vishnu, hay là chất tinh anh căn bản, theo như hiện nay chúng ta hiểu thuật ngữ này. Mọi sự hài hoà quan sát được trong vũ trụ biểu lộ chỉ là kết quả của các năng lượng hoạt động một cách hài hoà để phân giải chất dĩ thái thành biểu hiện mà chúng ta nhận biết được. Mọi hành tinh, bầu thế giới, con người v.v… chỉ là các thành phần của cơ thể, mỗi cái vận hành phụ thuộc vào thiên luật đang chi phối tổng thể. Sự tiến hoá, bảo tồn và huỷ diệt của thế giới, do đó là một diễn tiến rộng lớn được gọi là Yagna, vốn xảy ra trong cơ thể của Yagna Purusha, hay là thể tâm linh (the psychical body) của thiên nhiên. Xét chung, nhân loại là tim và óc của Purusha (Bản Thể Thiêng Liêng) này và do đó mọi nghiệp quả đều phát sinh bởi nhân loại, về thể chất, trí tuệ hoặc tâm linh, xác định chủ yếu đặc điểm của tiến tŕnh Yagna này. … Do đó Đức Shri Krishna gọi tiến tŕnh này là sự sống Yagna mà Ngài đă ban ra cho Arjuna dưới h́nh thức Yoga (Thi kinh thứ nhất, chương thứ tư). Thực ra Yoga và Yagna có liên quan rất chặt chẽ và thậm chí không thể tách rời, mặc dầu ở thời hiện đại con người dường như tách rời cả hai. Yoga xuất phát từ ngữ căn Yuj : nối liền, hàm ư một hành động nối liền. Hiện nay v́ tim là trung tâm lớn trong con người, cũng như yogee của tim giữ vị trí trung tâm của nó trong vũ trụ và do đó của biệt ngă con người. Biệt ngă hay là Thượng Trí (Higher Manas) vốn là cái trục của cấu tạo con người hay là trung tâm mà trên đó hai bán cầu của sự sống cao và thấp xoay quanh như tôi đă nói, Yogee của tim có một ṿm trời bên trên và hố sâu trần gian bên dưới và môn yoga của Ngài có hiệu quả hai mặt. Ngài gắn liền chính Ngài vào sự việc bên trên bằng thiền định và sự việc bên dưới bằng hành động. Từ ngữ Yagna xuất phát từ

2. Tám trần thuyết (statements).

Chúng ta đang bàn tới thể dĩ thái của vạn vật và bàn về việc prana đem lại sinh khí cho chúng (dù là thuộc vũ trụ, thái dương, hành tinh hay con người), với các cơ quan tiếp nhận và với nền tảng của các bức xạ (emanations). Do đó, ở đây, chúng ta có thể đi đến một số quả quyết (dicta) liên quan tới thể dĩ thái mà với mục đích làm sáng tỏ, có thể liệt kê như sau:

Thứ nhất. Thể dĩ thái là cái khuôn của thể xác. Thứ hai. Thể dĩ thái là nguyên h́nh mà dựa vào đó nhục 82 thân được tạo thành, dù đó là h́nh thể của Thái dương hệ hay là của cơ thể con người trong bất cứ lần luân hồi nào.

Thứ ba. Thể dĩ thái là một mạng lưới gồm các vận hà mảnh dẻ bện lại làm bằng chất liệu của bốn loại dĩ thái và được kiến tạo thành một h́nh dạng đặc sắc. Nó tạo thành một điểm tập trung đối với các phóng phát bức xạ nào đó, vốn làm sinh động, kích thích và tạo ra chuyển động quay của vật chất.

Thứ tư. Các bức xạ prana này khi được tập trung và tiếp nhận, sẽ tác động trên vật chất trọng trược được kiến tạo trên cái giàn và khung bằng chất dĩ thái.

Thứ năm. Trong khi luân hồi, mạng lưới dĩ thái này tạo thành một chướng ngại giữa cơi hồng trần và cơi cảm dục, chỉ có thể vượt qua được khi tâm thức phát triển đầy đủ cho phép thoát ra. Điều này có thể được nhận thấy ở cả tiểu và đại thiên địa. Khi một người mở rộng tâm thức ḿnh đến một

ngữ căn Yaj – cũng dùng với ư nghĩa phụng sự hai mặt, việc phụng sự được làm cho việc ở bên trên xuyên qua việc phụng sự được làm đối với biểu hiện của nó tức là sự việc bên dưới”.

Some Thoughts on the Gita, trang 18,  134.

Luận về lửa càn khôn

tŕnh độ nào đó nhờ tham thiền và định trí, y có thể biết đến các cơi tinh anh hơn và mới thoát qua được bên kia ranh giới của mạng lưới phân chia.

Các cơi phụ của cơi trần Các cơi của Thái dương hệ

 

1. Dĩ thái         1. Cơi nguyên tử … Tối Đại Niết Dĩ thái vũ trụ Bàn, Cơi thứ nhất. Thiêng Liêng. Bể Lửa

 

2. Dĩ thái 2. Á nguyên tử …    Cơi Đại Niết Dĩ thái vũ trụ

 

(sub-atomic)    Bàn. Cơi thứ hai. Chân Thần. Tiên thiên khí.

 

3. Dĩ thái 3. Siêu dĩ thái …     Cơi Niết Bàn. Dĩ thái vũ trụ

 

(super-etheric)            Cơi tinh thần. thứ ba. Hậu thiên khí (Aether).

 

4. Dĩ thái         4. Siêu khí … Cơi Bồ đề. Dĩ thái vũ trụ (super-Cơi trực giác. thứ tư. gaseous) Khí (air)

 

Cơi trần trọng trược Các cơi của nhân loại

 

5. Chất hơi.      Dĩ thái phụ. … Trí tuệ. Lửa. Chất hơi vũ trụ.

 

6. Chất lỏng (liquid).   … Cảm dục. Cơi Chất lỏng vũ t́nh cảm. trụ. Nước.

 

7. Chất đặc Trọng trược … Cơi trần. Đất. Chất đặc vũ (Earthly). (dense) trụ.

 

Khi Thượng Đế mở rộng Tâm Thức của Ngài trên các phân cảnh vũ trụ, lúc bấy giờ Ngài có thể siêu việt được lưới dĩ thái Thượng Đế (logoic etheric web) và vượt quá ṿng giới hạn biểu lộ ngoại cảnh của Ngài. Khi suy tư về sự tương

đồng này chúng ta phải ghi nhớ kỹ càng sự kiện rằng bảy cơi chính của Thái dương hệ chúng ta là bảy cơi phụ của cơi hồng trần vũ trụ hay cơi vũ trụ thấp nhất.

Ở đây, chúng ta nên ghi nhớ việc vạch ra chính xác về sự tương ứng trong vật chất và sự tương ứng về bức xạ cũng chính xác như thế.

Thứ sáu. Trong cả ba thể – thuộc con người, hành tinh và thái dương hệ hay Thượng Đế – sẽ được t́m thấy một cơ quan lớn bên trong cơ thể vốn tác động như là chủ thể thu nhận prana. Cơ quan này có biểu lộ bằng chất dĩ thái của nó và có tương ứng vật chất trọng trược của nó.

Trong Thái dương hệ. Trong Thái dương hệ, cơ quan của prana vũ trụ, của lực đem sinh khí cho vật chất là mặt trời trung ương, vốn là nơi tiếp nhận trực tiếp và là nơi phân phát trực tiếp bức xạ vũ trụ. Đây là một trong ba phân chia của Cung Nguyên Thuỷ, Cung Trí tuệ linh hoạt. Mỗi một trong các Cung vũ trụ đều có bản chất tam phân, một sự kiện thường không được nhận thấy, dù là hiển nhiên về phương diện lư luận, mỗi Cung là hiện thể đối với một Thực Thể vũ trụ và mọi sự hiện tồn đều biểu lộ làm ba phần. Mặt Trời trung ương có trong chu vi của nó một trung tâm tiếp nhận với một bức xạ ngoài mặt.

Trong Hành Tinh. Trong hành tinh có một cơ quan tương tự hay nơi tiếp nhận nằm trong thể dĩ thái của nó, vị trí của cơ quan này không được công khai phổ biến và do đó không thể được tiết lộ. Nó tiếp cận với vị trí của hai cực bắc và nam và là trung tâm quanh đó bầu hành tinh quay, và là nguồn cội của truyền thuyết về một mảnh đất ph́ nhiêu linh 84 thiêng trong phạm vi của các ảnh hưởng ở cực. Mảnh đất huyền thoại cực kỳ ph́ nhiêu tươi tốt và tăng trưởng phi

thường, thực vật, động vật và con người sẽ tự nhiên nằm ở nơi nào nhận được prana. Đó là Ngôi Vườn Địa Đàng huyền bí, mảnh đất hoàn thiện của cơi trần. Bức xạ bề mặt, sau khi được phân phối, biểu lộ dưới h́nh thức prana hành tinh.

Trong con người. Cơ quan tiếp nhận là lá lách qua đối phần dĩ thái của nó. Sau khi phân phối trên khắp cơ thể xuyên qua (via) lưới dĩ thái, nó biểu lộ thành bức xạ ở mặt ngoài dưới h́nh thức hào quang sức khoẻ.

Thứ bảy. Như thế, trong khắp ba thể, mối tương đồng sẽ được nhận thấy rơ rệt và cách thể hiện trong sự tương ứng hoàn hảo có thể được chứng minh dễ dàng

 

Đấng biểu lộ ................................ Thái dương Thượng Đế Thể biểu lộ ................................. Thái Dương hệ Trung tâm tiếp nhận .................. Cực của Mặt Trời Trung ương Bức xạ ngoài mặt hay ................. Prana của thái dương sự phóng phát Chuyển động được tạo ra ......... Sự quay của Thái dương hệ Hiệu quả phân phối .................. Bức xạ dĩ thái của thái dương (Distributive effect) (nhận được về phương diện vũ trụ)

Hành tinh

Đấng biểu lộ ………......................Một Hành Tinh Thượng Đế Thể biểu lộ…................................ Một hành tinh Trung tâm tiếp nhận................... Cực hành tinh Bức xạ bề mặt hay sự ................. Prana của hành tinh

phóng phát Chuyển động được tạo ra……. Sự quay của hành tinh

Hiệu quả phân phối ................... Bức xạ dĩ thái hành tinh (được cảm nhận bên trong thái dương hệ).

Con người

Thực thể biểu lộ  ......................... Chủ thể tư tưởng, một vị

Dhyan Chohan. Thể biểu lộ   ................................. Thể xác Trung tâm tiếp nhận................... Lá lách Bức xạ bề mặt  ............................. Hào quang sức khoẻ Chuyển động được tạo ra ………Sự quay của nguyên tử Hiệu quả phân phối.................... .Bức xạ dĩ thái của con người

(cảm nhận được nhờ môi trường)

Nguyên tử của vật chất Thực thể biểu lộ  ......................... Một sự sống hành khí Thể biểu lộ  .................................. Khối cầu nguyên tử Trung tâm tiếp nhận ................. Cực của nguyên tử Bức xạ bề mặt .............................. Đóng góp của nguyên tử

vào hào quang sức khoẻ

hợp nhất của cơ thể. Chuyển động được tạo ra ......... Sự quay của nguyên tử Hiệu quả phân phối .................. Bức xạ dĩ thái của nguyên tử

(được cảm nhận trong h́nh hài vật chất)

Thứ tám. Khi “ư chí sinh tồn” (“will to live”) tan biến, lúc bấy giờ các “Đứa Con Thiết Yếu” (tức Thái dương hệ ­ND) chấm dứt biểu lộ ra ngoại cảnh. Về mặt luận lư th́ điều này không thể tránh được và sự thể hiện của nó có thể được nhận thấy trong mỗi trường hợp biểu lộ ra bên ngoài thành thực thể (entified objectivity). Khi Chủ Thể Tư duy trên cơi riêng rút sự chú ư của nó ra khỏi hệ thống bé nhỏ của nó trong ba cơi thấp và qui tụ vào chính nó mọi thần lực; lúc bấy giờ sự sống trên cơi trần đi đến chỗ chấm dứt, và tất cả trở lại

trong tâm thức của thể nguyên nhân; đây là một sự hườn hư (trừu xuất) trong ba cơi thấp của Chủ Thể Tư Tưởng giống như Đấng Tuyệt Đối ở trong Thái dương hệ tam phân của Thượng Đế. Điều này biểu lộ trên cơi trần bằng sự triệt thoái ra khỏi đỉnh đầu của thể dĩ thái đang toả chiếu và đưa đến kết quả là sự phân huỷ của thể xác. Cái khung sườn sụp đổ và h́nh hài vật chất trọng trược tan ră; sự sống của prana bị tách ra khỏi lớp vỏ trọng trược của xác thân và sự kích thích lửa vật chất chấm dứt. Lửa tiềm tàng của nguyên tử vẫn c̣n lại; lửa ấy vốn có sẵn, nhưng h́nh hài được tạo ra bởi tác động của hai thứ lửa vật chất -hoạt động và tiềm tàng, phóng ra và thu lại -được trợ giúp bởi lửa của Thượng Đế Ngôi Hai và khi chúng được tách ra, h́nh hài sẽ tan ră. Đây là một minh hoạ thu nhỏ về lưỡng nguyên cốt yếu (essential duality) của mọi vật do Fohat tác động lên.

Có một sự nối liền chặt chẽ giữa lá lách với đỉnh đầu liên quan đến thể dĩ thái. Cơ quan lá lách có một tương quan kỳ thú với dây rún đang nối liền thai nhi với bà mẹ để nuôi dưỡng và được tách rời ra lúc sinh nở. Khi một người bắt đầu sống bằng cuộc sống có sự ham muốn cố ư riêng của ḿnh, khi một người được sinh ra trong một thế giới mới có một h́nh thức sự sống tinh tế hơn, sợi dây đan bằng chất dĩ thái đó (vốn nối y với thể xác của y) bị tách ra; “sợi chỉ bạc lỏng ra” và con người cắt đứt sự liên lạc của ḿnh với nhục thân và ĺa trần xuyên qua trung tâm lực cao nhất của thể xác, thay v́ thấp nhất, bước vào sự sống trong một cơi cao hơn và một chiều đo khác. Thế nên, điều đó sẽ được t́m thấy trong mọi thể và các lớp vỏ của tiểu thiên địa, v́ sự tương đồng sẽ tồn tại trên mọi cơi trong khi biểu lộ. Khi nhiều kiến thức khoa học hơn được thu thập, người ta sẽ thấy rằng cùng một diễn

tiến trên một mức độ rộng lớn hơn, xảy ra trong sự biểu lộ của hành tinh. Một hành tinh chỉ là cơ thể của một Hành Tinh Thượng đế, cơ thể ấy bằng chất dĩ thái và Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua đó và kiến tạo trên cái giàn dĩ thái một hiện thể để biểu lộ. Nguyệt cầu đă có lần là thể biểu lộ đối với một trong các vị Thượng Đế; Địa cầu hiện nay cũng thế, các chu kỳ thay đổi liên tục. Trung tâm đào thoát cho thể dĩ thái cũng được t́m thấy trong một hành tinh bằng vật chất, ngân quang tuyến của hành tinh nới lỏng ra vào lúc đă định; nhưng các kỳ hạn và chu kỳ, lúc khởi đầu và kết thúc của chúng lại ẩn dưới các bí mật về điểm đạo và không có liên hệ đến chúng ta.

Lại nữa, trong chính Thái dương hệ, tác động tương tự sẽ xảy ra vào lúc kết thúc Chu kỳ Đại Khai Nguyên, Thượng đế sẽ thu lại trong chính Ngài, tách ra ba nguyên khí chính yếu của Ngài (1).

87 Thể biểu lộ của Thượng Đế -tức là Thái dương và bảy Hành Tinh thánh thiện, tất cả đều hiện tồn trong chất dĩ thái ­sẽ rút ra khỏi sự biểu lộ bên ngoài và trở nên mờ tối. Theo quan điểm hồng trần thông thường, ánh sáng của Thái dương hệ sẽ tắt đi. Việc này sẽ được nối tiếp bằng một luồng nội khí vận (inbreathing) từ từ đi vào cho đến khi Ngài sẽ gom lại vạn hữu vào chính Ngài; thể dĩ thái sẽ không c̣n tồn tại và mạng lưới sẽ không c̣n nữa. Tâm thức đầy đủ sẽ được đạt đến và trong phút giây thành tựu, sự tồn tại tức sự biểu lộ thành thực thể sẽ chấm dứt. Vạn vật sẽ được tái hấp thu vào

1 Nguyên khí (Principles), tức là các biến phân căn bản (basic differentiations), các tính chất cốt yếu (essential qualities) hay các loại năng lượng mà dựa vào đó mọi vật được kiến tạo; chúng đem lại bản chất khác nhau của mọi h́nh hài.

trong Tuyệt Đối; chu kỳ qui nguyên (pralaya) (1) hay sự nghỉ ngơi vũ trụ sẽ xảy ra, sau đó Tiếng Vô Thinh không c̣n được nghe thấy nữa. Sự vang dội của Linh Từ sẽ tắt đi và “Sự Im Lặng của Chốn Cao Thâm” sẽ ngự trị tuyệt đối.

Khi bàn về vấn đề thể dĩ thái và chức năng của nó với vai tṛ là một tác nhân đồng hoá và tác nhân phân phối prana, chúng ta đă bàn đến thể dĩ thái theo quan điểm vị trí của nó trong cách mà các sự việc diễn ra. Chúng ta đă xem xét chất dĩ thái này ở góc độ về các tương ứng và đă vạch ra các tương đồng trong Thái dương hệ, trong hành tinh và trong con người. Chúng ta đă thấy rằng nó tạo thành nền tảng của h́nh hài vật chất trọng trược và chính nó cấu thành một khoen nối quan trọng giữa:

 Con người hồng trần với cơi cảm dục.

Hành Tinh Thượng Đế với tính chất t́nh cảm chính yếu.

 Thượng Đế, Thái Dương Thượng Đế với cơi cảm dục vũ trụ.

 

Bây giờ chúng ta thu hẹp đề tài lại để nghiên cứu thể dĩ thái của con người và không đề cập chút nào đến các tương ứng với các sự việc liên quan đến Thái dương hệ hoặc vũ trụ, dù điều đó có thể là cần thiết để nhắc nhở chính chúng ta

88        rằng đối với các nhà nghiên cứu khôn khéo, con đường đưa đến minh triết vẫn là một; kẻ nào tự biết chính ḿnh (trong biểu lộ ra bên ngoài, tính chất cốt yếu và việc phát triển hiểu

1 Pralaya: Một giai đoạn ẩn khuất (obscuration) hay nghỉ ngơi (repose) -thuộc hành tinh, thái dương hệ hoặc thuộc vũ trụ. Một thời kỳ chuyển tiếp (interlude) giữa hai chu kỳ biểu lộ. biết) cũng nhận biết Tinh Quân (Lord) của cung ḿnh và Thượng Đế của Thái dương hệ ḿnh. Lúc bấy giờ chỉ có vấn đề là áp dụng, mở rộng tâm thức, liên kết với việc sáng suốt không tin vào giáo điều vơ đoán và nhận thức được rằng sự tương ứng nằm trong tính chất và phương pháp nhiều hơn trong việc bám chặt vào chi tiết đối với một hành động đặc biệt ở bất cứ thời điểm đă định nào trong cơ tiến hoá.

Tất cả những ǵ có thể được đưa ra ở đây là tài liệu nếu được cân nhắc một cách đúng đắn, có thể đem lại kết quả là có được lối sống thực tiễn, sáng suốt hơn theo ư nghĩa huyền bí của thuật ngữ “lối sống” (“living”), nếu khảo cứu một cách khoa học, một cách cẩn thận và một cách b́nh thản, tài liệu có thể dẫn đến việc thúc đẩy các mục tiêu của diễn tŕnh tiến hoá trong chu kỳ nhỏ hơn ngay trước mắt. Do đó, mục đích của chúng ta là làm cho thể phụ thuộc của con người trở nên hiện thực hơn và để biểu lộ một số chức năng của nó và làm thế nào nó có thể rốt cuộc được đem một cách sáng suốt vào trong tầm mức của sự giác ngộ tinh thần.

Như chúng ta biết, khoa học đang nhanh chóng đi tới chỗ bắt buộc phải thừa nhận sự thực về thể dĩ thái, bởi v́ có nhiều khó khăn khi không chịu thừa nhận nó, công nhận là có thể dĩ thái c̣n dễ hơn là cho rằng không có nó. Các nhà khoa học đă thừa nhận sự thật về chất dĩ thái; sự thành công của nỗ lực thu h́nh đă chứng minh sự thực về cái mà cho đến nay vẫn bị xem như là không có thực, v́ không thể nắm bắt được (theo quan điểm vật chất). Các hiện tượng xảy ra vào mọi lúc được giữ lại trong địa hạt siêu nhiên trừ phi được giải thích qua trung gian của chất dĩ thái, và, trong sự lo âu của các nhà khoa học để chứng minh những người theo thuyết duy linh là sai lầm, các nhà khoa học đă giúp cho

chính nghĩa của chủ thuyết duy linh chân chính và cao hơn bằng cách dùng đến thực tại, và sự thật về thể dĩ thái, dù là

89 họ xem nó như một thể phóng phát bức xạ -v́ quan tâm tới hiệu quả và chưa xác định được nguyên nhân. Các nhà y học đang bắt đầu khảo cứu (cho đến nay vẫn c̣n mù mờ) về vấn đề sinh lực (vitality), hiệu quả của các tia nắng trên cơ thể vật chất và các định luật nằm bên dưới về nhiệt bức xạ và có sẵn. Họ đang bắt đầu gán cho lá lách các chức năng mà cho đến nay vẫn không được nhận biết, họ bắt đầu khảo sát hiệu quả sự tác động của các tuyến cùng sự liên quan của chúng với sự đồng hoá các tinh chất thiết yếu của cơ thể. Họ đang ở trên con đường đúng và chẳng bao lâu nữa (có lẽ trong ṿng thế kỷ này) (tức thế kỷ XX – ND) sự thực về thể dĩ thái và chức năng cơ bản của nó sẽ được thiết lập, vượt qua mọi sự tranh căi, và toàn thể mục tiêu của y học về dự pḥng và chữa trị, sẽ được nâng lên đến một mức độ cao hơn. Tất cả những ǵ chúng ta có thể làm ở đây là đưa ra một cách đơn giản và dưới một h́nh thức cô đọng một vài sự kiện vốn có thể hối thúc ngày nhận biết và thúc đẩy sự quan tâm của kẻ t́m ṭi chân chính. V́ lẽ đó, tôi xin phát biểu một cách ngắn gọn những ǵ được bàn đến về ba điểm c̣n lại : -Các chức năng của thể dĩ thái. -Liên hệ giữa thể dĩ thái và thể xác trong sự sống. -Các đau đớn (ills) hay bệnh hoạn (diseases) của thể dĩ thái (thận trọng ghi nhớ nghĩa nguyên thuỷ của từ “bệnh hoạn”). -T́nh trạng sau khi chết của thể dĩ thái. Điều này sẽ bao hàm tất cả những ǵ cho đến nay vẫn c̣n thực dụng. C̣n nhiều điều nữa sau này sẽ có ích cho chúng ta nếu điều hiện giờ được phổ biến cho mọi người mà được

noi theo một cách thận trọng và nếu những kẻ nghiên cứu khảo sát vấn đề quan trọng này một cách khôn ngoan đúng mức và rộng răi.

Khi bản chất và các chức năng của thể dĩ thái nhân loại đảm nhận đúng vị trí của chúng trong mối tư duy của người đời, và khi người ta nhận thức rằng thể dĩ thái quan trọng hơn hết trong số hai thể hồng trần, con người sẽ có được sự

90        tiếp xúc hữu thức chặt chẽ hơn với các sự tiến hoá khác đang xảy ra trong chất dĩ thái, đúng y như con người đang tiến hoá trong nhục thân vậy. Có một số đông các thiên thần gọi là “thiên thần của bóng tối” hay là thiên thần tím (violet devas) đang liên kết chặt chẽ với sự phát triển tiến hoá của thể dĩ thái con người, các thiên thần này truyền đạt cho con người các bức xạ thái dương và hành tinh. Thể dĩ thái của con người nhận được prana bằng nhiều cách khác nhau và với nhiều loại khác nhau, tất cả các cách này làm cho con người tiếp xúc với các thực thể khác nhau.

1. Prana thái dương.

Đây là lưu chất sinh lực và từ điển toả ra từ thái dương và được truyền tới thể dĩ thái của con người, do tác động của một vài thiên thần thuộc một đẳng cấp rất cao và có màu hoàng kim. Lưu chất đó được truyền qua cơ thể của các thiên thần và được phát ra như các bức xạ mạnh được áp trực tiếp qua một vài bí huyệt (plexi) ở phần trên cùng của thể dĩ thái, đầu và hai vai và được truyền xuống phần tương ứng bằng chất dĩ thái của cơ quan vật chất, tức lá lách và từ đó được truyền một cách mạnh mẽ vào chính lá lách. Các sinh linh mang prana có màu hoàng kim này ở trong không khí bên trên chúng ta và đặc biệt linh hoạt trong những phần trên thế giới như California, ở các xứ nhiệt đới nơi mà không khí

trong sạch và khô ráo, các tia nắng được thừa nhận như là đặc biệt có lợi. Liên hệ giữa con người với các nhóm thiên thần này rất chặt chẽ, nhưng cho đến nay đầy nguy hiểm cho con người. Các thiên thần này thuộc về một loại rất mạnh và theo đường lối riêng của họ, họ c̣n tiến hoá hơn chính con người. Con người không được bảo vệ phải chịu dưới quyền điều khiển của họ. Thí dụ, việc thiếu sự che chở cũng như thiếu hiểu biết của con người đối với những định luật về sự đối kháng từ điển hay lực đẩy thái dương (solar repulsion) dẫn đến nguy cơ trúng nắng. Khi thể dĩ thái và các tiến tŕnh đồng hoá của nó được hiểu một cách khoa học, lúc bấy giờ con người sẽ tránh khỏi các nguy cơ do bức xạ mặt trời gây

91 ra. Con người sẽ tự bảo vệ ḿnh bằng cách áp dụng các định luật chế ngự xung lực và thu hút từ điển; và không phải là bằng cách mặc y phục và t́m nơi trú ẩn. Đó chủ yếu là vấn đề phân cực. Một gợi ư được nêu ra ở đây: khi con người hiểu biết sự tiến hoá thiên thần khá chính xác hơn và nhận thức công việc của họ theo một vài đường lối liên quan đến Thái Dương và hiểu được rằng họ tiêu biểu cho cực âm trong khi chính họ đại diện cho phái nam (Huyền giai Sáng Tạo thứ tư là dương) (1) họ sẽ hiểu sự liên quan hỗ tương và chế ngự sự liên quan đó bằng định luật. Các Thái dương Thiên thần này nhận các tia bức xạ mặt trời từ trung tâm mặt trời đi tới vùng ngoại biên theo một

1 GLBN I, 232-238. Toàn thể vũ trụ được hướng dẫn, kiểm soát và làm linh hoạt bởi một loạt vô tận các Huyền giai (Hierarchies) các Đấng hữu t́nh (sentient Beings), mỗi Đấng có một nhiệm vụ phải hoàn thành.  GLBN  I, 293. Trong số các Huyền Giai này, Huyền Giai của Chân Thần nhân loại có một vị trí riêng biệt.

trong ba vận hà tiếp cận, chuyển các tia bức xạ đó qua cơ thể của các Ngài và tập trung chúng ở đó. Các Thái dương thiên thần này tác động gần giống như tấm kính thu nhiệt đang tác động. Các tia này lúc bấy giờ được phản chiếu hay được truyền đến thể dĩ thái con người và được con người tiếp nhận và đồng hoá trở lại. Khi thể dĩ thái đang ở trong trật tự ổn định và đang vận hành chính xác, sinh lực này được hấp thụ đầy đủ để giữ cho h́nh hài được ổn định. Đây là toàn thể mục đích sự vận hành của thể dĩ thái và là một điểm không thể được nhấn mạnh đầy đủ. Phần c̣n lại được loại ra dưới h́nh thức bức xạ động vật hay từ điển xác thân -mọi tên gọi đều diễn tả cùng một ư. Do đó, con người lặp lại ở một mức độ nhỏ hơn công việc của đại thái dương thiên thần, và đến phiên con người lại cộng thêm phần bức xạ đă được tái tập trung hay tái từ hoá vào toàn bộ hào quang của hành tinh.

2. Prana hành tinh Đây là lưu chất cần cho sự sống (vital fluid) phóng phát từ bất cứ hành tinh nào, nó tạo nên màu sắc hay tính chất căn

92        bản của hành tinh đó và được tạo ra do sự lặp lại bên trong hành tinh với cùng diễn tiến mà nó trải qua có liên quan với con người và sinh khí thái dương. Hành tinh (Địa Cầu hay bất cứ một hành tinh nào khác) hấp thụ Prana mặt trời, đồng hoá những ǵ cần thiết và toả ra những ǵ không cần yếu cho t́nh trạng khoẻ mạnh của nó dưới h́nh thức bức xạ hành tinh. Do đó, prana hành tinh là prana thái dương đă đi qua khắp hành tinh, đă lưu chuyển qua thể dĩ thái hành tinh, đă được truyền tới hành tinh hồng trần trọng trược và đă bị loại bỏ dưới h́nh thức bức xạ có cùng đặc tính chính yếu như prana thái dương, cộng thêm tính chất riêng tư và đặc thù của hành tinh đặc biệt có liên hệ. Điều này lại tái lập tiến tŕnh được

trải qua trong cơ thể người. Các bức xạ từ xác thân của con người khác nhau tuỳ theo đặc tính của thể xác họ. Điều đó cũng giống như vậy với một hành tinh.

Prana phóng phát của hành tinh (như trong trường hợp prana thái dương) được thu lấy và truyền xuyên qua một nhóm thiên thần đặc biệt gọi là “thiên thần bóng tối”, vốn là các thiên thần dĩ thái có màu tím nhạt. Các thể của họ được tạo thành bằng vật chất của một trong bốn chất dĩ thái, họ tập trung và cô đọng bức xạ của hành tinh và của tất cả mọi h́nh hài trên hành tinh. Họ có liên hệ đặc biệt chặt chẽ với con người nhờ sự kiện là có sự tương đồng chủ yếu của chất liệu cấu tạo thể xác họ với chất dĩ thái của con người và v́ họ truyền  cho con người từ điển của “Đất Mẹ” (“Mother Earth”) như ta thường gọi. Do đó chúng ta thấy rằng có hai nhóm thiên thần hoạt động liên hệ tới con người :

Thái dương Thiên thần truyền lưu chất cần cho sự sống, chất này tuần hoàn trong thể dĩ thái.

Hành tinh thiên thần có màu tím, có liên kết với thể dĩ thái con người và các Ngài truyền prana của địa cầu hay là prana của bất luận hành tinh nào mà con người có thể đang hoạt động trên đó trong thời gian lâm phàm trên cơi trần.

 

Một câu hỏi rất thích hợp có thể được nêu ra ở đây và dù chúng ta không thể giải thích đầy đủ về cái bí ẩn, một vài gợi

93        ư có thể được nêu ra. Chúng ta có thể hỏi: điều ǵ gây nên sự chết bên ngoài của Nguyệt cầu? Có sự sống thiên thần trên đó hay không? Phải chăng prana thái dương không có tác dụng ǵ trên đó? Điều ǵ tạo nên sự khác nhau giữa sự chết bề ngoài của nguyệt cầu và một hành tinh có sự sống như Địa cầu? (GLBN  I, 170 – 180).

Nơi đây chúng ta đề cập đến một bí nhiệm c̣n ẩn giấu câu giải đáp sẽ hiện ra cho những kẻ t́m kiếm, đó là sự kiện con người và một vài nhóm thiên thần không c̣n được t́m thấy trên Nguyệt cầu nữa. Không phải con người không sống trên Nguyệt cầu v́ Nguyệt cầu đă chết và do đó không thể bảo bọc cho cuộc sống con người, mà sở dĩ Nguyệt cầu chết là v́ con người và các nhóm thiên thần này đă tách ra khỏi mặt Nguyệt cầu và tách khỏi vùng ảnh hưởng của nguyệt cầu. (GLBN I, 179)

Con người và các thiên thần hoạt động trên mỗi hành tinh như là kẻ trung gian hay là như môi giới truyền đạt. Nơi nào không có con người và thiên thần, ở đó một số hoạt động vĩ đại không thể có được và sự tan ră bắt đầu. Lư do của việc dời đổi này nằm trong Định Luật Nhân Quả Vũ Trụ hay là nghiệp quả vũ trụ, và trong lịch sử phức hợp song vẫn cá biệt của nghiệp quả vũ trụ đó, một trong các Hành Tinh Thượng Đế mà cơ thể của Ngài, tức Mặt Trăng hay bất cứ hành tinh chết nào khác, có thể xảy đến bất cứ lúc nào.

3. Prana của h́nh hài:

Trước nhất cần phải nêu ra rằng các h́nh hài tất nhiên gồm có hai loại, mỗi loại có vị trí khác nhau trong thiên cơ (scheme):

Các h́nh hài chính là kết quả của công tŕnh của Ngôi Ba và Ngôi Hai Thượng Đế và sự sống hợp nhất của các Ngài. Các h́nh hài đó là các đơn vị trong giới thực vật, động vật và khoáng vật.

H́nh hài là kết quả của tác động hợp nhất của ba ngôi Thượng Đế và bao gồm các h́nh hài hoàn toàn của thiên thần và con người.

121

THƯỢNG ĐẾ CỦA MỘT THÁI DƯƠNG HỆ

Thể dĩ thái và Prana

C̣n có h́nh hài đơn giản hơn được tiêu biểu trong

95 chất liệu nguyên thuỷ (substance) mà từ đó mọi h́nh hài khác được tạo thành. Vật chất này nói đúng ra là vật chất nguyên tử và phân tử và được làm cho linh hoạt bằng sự sống hoặc năng lượng của Thượng Đế Ngôi Ba. Khi bàn về nhóm h́nh hài thứ nhất; cần phải chú ư rằng các bức xạ prana toả ra bởi các đơn vị của giới động vật và thực vật (sau khi chúng đă hấp thụ prana thái dương và prana hành tinh) đương nhiên là sự phối hợp của cả hai và được truyền đạt bằng phương tiện bức xạ bề mặt (surface radiation) như trong prana thái dương và hành tinh, đến vài nhóm thiên thần nhỏ hơn thuộc một cấp không cao lắm, các nhóm thiên thần này có sự liên quan kỳ lạ và phức tạp với hồn tập thể/ hồn khóm, của động vật hay thực vật phát xạ. Vấn đề này không thể bàn ở đây được. Các thiên thần này cũng có màu tím, nhưng là một màu nhạt gần như xám; họ đang ở trong một t́nh trạng chuyển tiếp và phối trộn với một sự lộn xộn dữ dội với các nhóm thực thể hầu hết đang ở trên cung giáng hạ tiến hoá (involutionary arc)(1)(2),

 

(1) Cung giáng hạ tiến hoá là tên gọi áp dụng cho phần thứ nhất của diễn tŕnh tiến hoá. Nó bao hàm “đường giáng hạ” (“path of descent”) hay là sự giáng xuống của Tinh Thần vào trong vật chất bao giờ cũng trọng trược cho đến khi đạt tới điểm thấp nhất, tức điểm cụ thể trọng trược nhất. Nửa phần sau của diễn tiến được gọi là thăng thượng tiến hoá và đánh dấu việc đi lên hay trở lại nguồn cội Tinh Thần của nó, cộng thêm các điều thu hoạch được trong diễn tŕnh thăng thượng tiến hoá (evolutionary process).

 

(2) Ba Luồng Phân Thân (“Three Outpourings”) Trong sơ đồ trang 94, “các biểu tượng của Ba Ngôi (của Thượng Đế) được đặt ở ngoài thời gian và không gian, chỉ có các ḍng

 

(1).

(streams) ảnh hưởng từ các biểu tượng đó đi xuống, vào hệ thống các cơi của chúng ta… Theo đúng qui định chúng tượng trưng cho những ǵ thường được gọi là Ba Ngôi của Tam Vị Nhất Thể (three Persons of the Trinity)… Ta nhận thấy rằng mỗi một trong Ba Ngôi là một phân thân của sự sống hay là thần lực được phóng xuất vào các cơi bên dưới. Luồng thứ nhất theo thứ tự là đường thẳng (ở giữa – ND) giáng xuống từ Ngôi Ba. Đường thứ hai là phần ph́nh ra h́nh oval nằm bên trái chúng ta -luồng này giáng xuống từ Ngôi Hai cho đến khi nó chạm điểm thấp nhất trong vật chất, và bấy giờ đi lên trở lại (bên phải chúng ta) cho đến khi nó đạt đến phân cảnh hạ trí (chỗ các dấu chấm – ND). Cần để ư rằng trong cả hai luồng phân thân này, sự sống thiêng liêng trở nên tối tăm hơn và bị che giấu nhiều hơn khi sự sống đó giáng xuống vật chất, đến khi ở điểm thấp nhất, chúng ta có thể hầu như không nhận ra nó dưới h́nh thức sự sống thiêng liêng chút nào. Nhưng khi nó đi lên trở lại, khi nó vượt qua điểm thấp nhất (nadir) của nó, nó tự hiển lộ một cách rơ ràng hơn ít nhiều. Luồng phân thân thứ ba đi xuống từ Ngôi cao nhất của Thượng Đế, khác với hai luồng kia ở chỗ nó không cách nào bị che khuất bởi vật chất khi đang đi xuyên qua đó, mà vẫn giữ lại sự trinh khiết của nó và vẻ huy hoàng không giảm độ sáng của nó. Cần nên ghi nhận rằng luồng phân thân này chỉ giáng xuống tới cơi Bồ Đề (cơi thứ tư) và rằng khoen nối giữa hai luồng đó được tạo thành bằng một tam giác trong một ṿng tṛn, tiêu biểu cho linh hồn cá biệt của con người -tức Chân ngă luân hồi. Ở đây tam giác được góp phần bằng luồng phân thân thứ ba và ṿng tṛn bởi luồng thứ hai… “

The Christian Creed, của C.W. Leadbeater, trang 39, 40. (1 )Xem GLBN I, 98, 99, 100, 103

 

1. Căn nguyên của sự sống đang ở trong mỗi giọt của đại dương bất tử. Mỗi nguyên tử trong vật chất đều được thấm nhuần bằng sự sống của Thượng Đế.

2. Đại dương là ánh sáng toả chiếu. Nó chính là Lửa, Nhiệt, Chuyển động. Cả ba đều là sự sống nội tại đang biểu lộ ra ngoại cảnh. Lửa : tinh hoa của Thượng Đế Ngôi Một. Lửa điện. Tinh thần. Nhiệt: Lưỡng nguyên tính (duality). Tinh hoa của Thượng Đế Ngôi Hai. Lửa thái dương. Ngôi Con. Tâm thức. Chuyển động: tinh hoa của Thượng Đế Ngôi Ba. Lửa do ma sát. Vật chất.

Đại Thiên Địa

Thượng Đế Ngôi Một…… Lửa …….Ư muốn linh hoạt hay ư chí hiện tồn. Điện. Thượng Đế Ngôi Hai…… Nhiệt….. Lưỡng nguyên tính, hay là Bác ái giữa hai. Thái dương Thượng Đế Ngôi Ba…. Chuyển động.........Lửa của trí tuệ. Liên quan giữa Lửa do ma sát.

Đây là biểu lộ nội tại. Thái dương …………………………………. Ư chí hay quyền năng Kim tinh ­Thuỷ tinh (Venus-Mercury) ….. Bác ái và Minh triết Thổ tinh (Saturn)………………………… Hoạt động hay Thông tuệ.

Đây là biểu lộ ngoại cảnh.

Tiểu thiên địa

Chân thần……….. Lửa điện………….. Ư chí hay quyền năng. Chân ngă………… Lửa thái dương….. Bác ái và minh triết Phàm ngă………… Lửa do ma sát…… Hoạt động hay thông tuệ.

Đây là biểu lộ bên trong. Thể hạ trí………… Ư chí hay quyền năng…..  Lửa Thể cảm dục…….. Bác ái -Minh triết ……….  Nhiệt Thể xác………….. Hoạt động thông tuệ…….. Chuyển động

Đây là biểu lộ ngoại cảnh

Thể xác

Năo bộ………… Chân thần…Ư chí hay quyền năng. Lửa điện. Tim……………  Chân ngă…. Bác ái-Minh triết.  Lửa thái dương. Các cơ quan thấp… Phàm ngă… Hoạt động thông tuệ.

96 Khi bàn về nhóm thứ hai, xác thân con người chuyển các bức xạ phóng phát đến đẳng cấp thiên thần cao hơn nhiều. Các thiên thần này có màu sắc rơ rệt hơn, và sau khi đồng hoá thích hợp bức xạ con người, các thiên thần này truyền nó phần lớn cho giới động vật, như vậy chứng tỏ có sự liên quan chặt chẽ giữa hai giới. Nếu điều giải thích trên về sự liên quan hỗ tương phức tạp giữa mặt trời với các hành tinh, giữa các hành tinh với các h́nh hài đang tiến hoá trên các hành tinh ấy, giữa chính các h́nh hài nơi ư nghĩa quan trọng là bao giờ cũng đi xuống, không chứng tỏ ǵ hơn là sự tương thuộc tế nhị của mọi sự sống, lúc bấy giờ nhiều điều sẽ được đạt đến. Một sự kiện khác cũng hiển lộ ra là sự liên quan chặt chẽ giữa tất cả các tiến hoá này của thiên nhiên, từ ngôi mặt trời vĩ đại xuống đến cây hoa tím khiêm nhường nhất xuyên qua

97 sự tiến hoá thiên thần đang tác động như là thần lực chuyển hoá đang truyền khắp cả hệ thống. Sau rốt, tất cả đều tác động với lửa. Lửa bên trong có sẵn và tiềm tàng; lửa phát xạ và phóng phát; lửa phát sinh, đồng hoá và bức xạ; lửa đem lại sức sống, kích thích và phá huỷ; lửa truyền ra, phản chiếu và hấp thụ; lửa, cơ bản của mọi đời sống; lửa tinh hoa của mọi sự sống; lửa, các phương tiện phát triển và xung lực đàng sau mọi diễn tŕnh tiến hoá; lửa, kẻ kiến tạo, kẻ bảo tồn và kẻ xây dựng; lửa, tác nhân sáng tạo, diễn tiến và mục tiêu; lửa, tác nhân thanh lọc và tác nhân tiêu huỷ. Hoả Thần và lửa của Thượng Đế tác động lẫn nhau, cho đến khi mọi lửa phối hợp và bùng cháy, và cho đến khi mọi vật hiện tồn được chuyển ngang qua lửa -từ một Thái dương hệ đến một con kiến – và hiện ra như một sự hoàn hảo tam phân. Lúc bấy giờ, lửa vượt qua ṿng giới hạn như là tinh

hoa hoàn hảo, dù là tinh hoa xuất phát từ ṿng giới hạn con người, ṿng giới hạn hành tinh hay ṿng giới hạn thái dương. Bánh xe lửa (hoả luân) quay tṛn và tất cả những ǵ nằm trong bánh xe đó đều tuỳ thuộc vào ngọn lửa tam phân và cuối cùng trở nên hoàn hảo.   

 

 

Bây giờ, chúng ta sẽ tiếp tục bàn về thể dĩ thái và xem xét chức năng của nó, cũng như sự liên quan của nó với thể xác. Sẽ là khôn ngoan nếu xét chung cả hai với nhau, v́ sự liên quan lẫn nhau chặt chẽ đến nỗi không thể bàn về chúng một cách riêng rẽ. Đầu tiên, chức năng của thể dĩ thái gồm có 3:

 

1. Đó là nơi nhận prana.

 

2. Đó là nơi đồng hoá prana.

 

3. Đó là nơi truyền chuyển prana. 1/ Nơi tiếp nhận prana. V́ lẽ đó, thể dĩ thái có thể được mô tả như là âm tính hay

 

98        dễ thu nhận đối với ánh nắng, và như là dương tính và có tính xua đuổi đối với nhục thân. Chức năng thứ hai -chức năng đồng hoá -được làm cho cân xứng một cách chặt chẽ hay thuộc về bên trong. Như đă nói ở trên, prana do mặt trời phóng ra được thể dĩ thái hấp thụ, xuyên qua vài trung tâm lực phần lớn nằm phía trên cơ thể, từ đó chúng được hướng xuống dưới đến trung tâm lực gọi là lá lách (bằng chất) dĩ thái, v́ lá lách này là phần tương ứng (counterpart) trong chất dĩ thái của cơ quan đó. Hiện nay, trung tâm lực chính để tiếp nhận prana là trung tâm lực giữa các xương vai. Một trung tâm lực khác đă trở nên yên nghỉ phần nào trong con người qua sự lạm dụng của cái gọi là văn minh và nằm hơi lệch về phía trên đan điền (mạng lưới thần kinh ở bụng, theo y học – ND). Trong căn chủng sắp tới và ngày càng nhiều

trong giống dân này, đó là việc cần đưa hai trung tâm lực này đến với ánh nắng sẽ thấy rơ là có một cải thiện tương ứng về sinh lực cho xác thân và khả năng thích ứng của thể xác. Cả ba trung tâm lực này :

 

1.         Giữa các xương bă vai,

 

2.         Trên cách mô,

 

3. Và lá lách, hợp thành một tam giác dĩ thái toả rực (nếu người ta có thể thấy), tam giác này là nguồn thúc đẩy sự lưu thông sau này của prana khắp toàn bộ hệ thống. Thể dĩ thái thực sự là một mạng lưới các đường vận chuyển nhỏ, chúng là các bộ phận cấu thành của một sợi dây mảnh mai bện vào nhau – mà một đoạn của dây này là khoen nối bằng từ điển, nối liền thể xác và thể cảm dục, nó bị cắt đứt hay gián đoạn sau khi thể dĩ thái rút ra khỏi nhục thân vào lúc bỏ thể xác. Ngân quang tuyến bị lỏng ra, như Thánh Kinh diễn tả (Thánh Kinh Ecc: XII, 6.), và đây là căn bản của truyền thuyết về người chị em định mệnh cắt đứt tuyến sinh lực bằng cái kéo khủng khiếp.

 

Mạng lưới dĩ thái được tạo thành bằng sự đan dệt phức tạp của dây mang sinh lực này (vitalised cord) và ngoại trừ

99        bảy trung tâm lực bên trong mạng lưới (tương ứng với các trung tâm lực thánh thiện mà trong đó lá lách thường được kể là một) có hai trung tâm lực được nhắc đến ở trên – cùng với lá lách – chúng hợp thành một tam giác hoạt động. Lưới dĩ thái của Thái dương hệ có bản chất tương đồng và cũng có ba trung tâm để tiếp nhận prana vũ trụ. Dải băng bí mật trên trời mà chúng ta gọi là Dải Ngân Hà (GLBN II, 250) có liên quan chặt chẽ với prana vũ trụ hay là sức sống vũ trụ (cosmic vitality) hay sự bảo dưỡng đem lại sinh lực cho hệ thống dĩ thái của mặt trời.

2/ Nơi đồng hoá prana.

Diễn biến đồng hoá được xúc tiến trên tam giác này và prana đi vào bất cứ trung tâm lực nào, chạy ṿng ba lần xung quanh tam giác trước khi được truyền đến mọi phần của thể dĩ thái và từ đó đến nhục thân. Cơ quan chính của sự đồng hoá là lá lách – trung tâm lực dĩ thái và cơ quan xác thịt. Bản thể sự sống (vital essence) từ mặt trời được truyền vào lá lách bằng chất dĩ thái và ở đó, nó chịu một tiến tŕnh làm mạnh thêm hay làm giảm sinh lực tuỳ theo t́nh trạng mạnh khoẻ hay không của cơ quan đó. Nếu con người ở t́nh trạng khoẻ mạnh, bức xạ nhận được sẽ được tăng gia bằng chính rung động cá nhân của y và tốc độ rung động sẽ được khích động trước khi nó được chuyển vào lá lách xác thân hoặc là nó sẽ bị tŕ chậm lại và giảm thấp nếu con người ở trong t́nh trạng sức khoẻ yếu kém.

Ba trung tâm lực này có h́nh dạng như tất cả các trung tâm lực khác, đó là h́nh dĩa trũng xuống, hơi giống h́nh các xoáy nước nhỏ thu hút vào trong phạm vi ảnh hưởng của chúng các ḍng prana đang tiến tới.

Các trung tâm lực này nên được mô tả như các xoáy cuốn tṛn với vận hà tam phân đan lại, chạy từ trung tâm này đến trung tâm khác và tạo thành một hệ thống tuần hoàn hầu như

100      riêng biệt. Hệ thống này có điểm phát xuất của nó cho toàn bộ hệ thống ở mặt bên kia của lá lách so với phía mà prana nhập vào. Lưu chất sinh lực lưu chuyển qua và giữa ba trung tâm lực này ba lần, trước khi nó được chuyển ra tới ngoại biên của hệ thống bé nhỏ của nó. Sự lưu chuyển cuối cùng này mang prana xuyên qua các vận hà mảnh mai đan bện vào nhau, đến mọi bộ phận của cơ thể, có thể nói là chúng trở nên hoàn toàn thấm nhuần bởi các bức xạ này. Cuối cùng các bức

xạ này t́m đường thoát ra khỏi hệ thống dĩ thái bằng các bức xạ bề mặt. Tinh chất prana thoát ra khỏi chu vi của ṿng giới hạn tạm thời của nó dưới h́nh thức prana phóng phát của con người, vốn là cùng loại prana đă nhận được trước kia, cộng thêm với tính chất đặc thù mà bất cứ một cá nhân nào cũng có thể truyền thụ cho nó trong khi có sự lưu chuyển tạm thời. Tinh chất thoát ra, cộng với tính chất cá nhân.

Nơi đây, người ta có thể thấy sự tương ứng đối với sự thoát ra khỏi của mọi tinh chất từ bên trong bất cứ ṿng giới hạn nào khi chu kỳ được hoàn tất.

Vấn đề thể dĩ thái là một vấn đề rất thực tiễn lư thú, và khi tầm quan trọng của nó được nhận thức rơ ràng hơn, con người sẽ dự vào việc phân phối prana trong cơ thể với sự chú ư chặt chẽ hơn và sẽ thấy rằng sự tiếp sinh lực của cơ thể qua ba trung tâm lực sẽ tiến hành thông suốt hơn.

Tất nhiên, vấn đề đă được vận dụng một cách hời hợt và chỉ có những nét chính và các ẩn ngôn ở rải rác mới có thể được đưa ra. Tuy nhiên, nếu điều giảng dạy này được khảo cứu cẩn thận nó sẽ đưa đến sự hiểu biết chân lư mà phẩm chất và nội dung của nó sẽ tỏ ra vô giá và thuộc một loại mà từ trước đến nay chưa được nêu ra. Vị trí của thể dĩ thái như là chỗ phân chia hay ṿng giới hạn và chức năng của nó với cương vị là nơi thu nhận và phân phát prana được bàn đến ở đây theo một nghĩa rộng hơn cho đến nay, và đề tài có thể được bàn rộng ra sau này.

Hai chân lư căn bản nổi bật lên từ tập hợp các sự kiện được bàn qua ở đây : 101 Thứ nhất. Cơi phụ dĩ thái thứ tư của cơi trần có liên hệ trực tiếp đến:

 

 Con người, tức Tiểu thiên địa.

 Hành Tinh Thượng Đế.

 Thái Dương Thượng Đế.

Thứ hai. Trong dăy thứ tư và cuộc tuần hoàn thứ tư, chất dĩ thái thứ tư đang bắt đầu được nghiên cứu và -được xem như một mạng lưới riêng biệt -thỉnh thoảng nó để cho tách ra (exit) đối với của những kẻ có tần số rung động thích hợp.

3. Nơi truyền đạt prana.

Chúng ta chỉ đề cập đến một ít về vấn đề lửa, mục đích của thể dĩ thái là vận chuyển và phân phối lửa đến khắp các phần của hệ thống của nó. Chúng ta đă nghiền ngẫm các sự kiện vốn có thể kích thích sự quan tâm và nhấn mạnh vào sự hữu ích của thể chứa prana này. Một số sự kiện cần nhấn mạnh và xem xét khi chúng ta khảo sát ṿng tĩnh tại này (static ring) và các lửa luân chuyển của nó. Tôi xin tóm gọn với mục đích làm sáng tỏ :

Thái dương hệ nhận prana từ các nguồn vũ trụ xuyên qua ba trung tâm lực và tái phân phối nó đến tất cả các phần thuộc về ảnh hưởng mở rộng của nó, hay là đến các biên giới của mạng lưới dĩ thái thái dương. Prana vũ trụ này trở nên đổi màu do tính chất mặt trời và tiến đến ranh giới xa nhất của Thái dương hệ. Nhiệm vụ của nó có thể được mô tả như là đem lại sinh khí (vitalisation) cho hiện thể vốn là biểu lộ vật chất hồng trần của Thái Dương Thượng Đế.

Hành tinh nhận prana từ trung tâm thái dương và tái phân phối prana đó xuyên qua ba trung tâm tiếp nhận đi đến tất cả các phần thuộc phạm vi ảnh hưởng của nó. Prana thái dương này trở nên đổi màu do tính chất hành tinh và được hấp thụ bởi mọi cuộc tiến hoá trong ṿng giới hạn hành tinh. Nhiệm vụ của nó có thể được mô tả như là đem sinh khí cho

hiện thể, vốn là biểu lộ vật chất hồng trần của một trong bảy Hành Tinh Thượng Đế.

Tiểu thiên địa nhận prana từ thái dương sau khi prana đó đă thấm nhuần thể dĩ thái hành tinh, cho nên đó là prana thái dương thêm vào với tính chất hành tinh. Mỗi hành tinh là biểu hiện (embodiment) của một trạng thái cung nào đó và tính chất của hành tinh đó được ghi nhận rơ rệt hơn trên mọi tiến hoá của nó.

Do đó, prana chính là nhiệt bức xạ linh hoạt, thay đổi mức rung động và tính chất của nó tuỳ theo Đấng Cao Cả thu nhận. Con người, để cho prana đi qua thể dĩ thái của ḿnh, tô màu nó bằng tính chất đặc thù của ḿnh và như thế truyền nó lại cho những sinh linh kém cỏi hơn đang hợp thành hệ thống nhỏ của con người. Thế nên, tác động hỗ tương lớn lao tiếp tục và tất cả các phần đều phối hợp, trộn lẫn, tuỳ thuộc lẫn nhau; và tất cả các phần thu nhận, tô màu, định phẩm chất và truyền đi. Một sự lưu chuyển không ngừng tiếp tục vốn không có khởi đầu có thể hiểu được, mà cũng không có kết thúc có thể có được theo quan điểm của con người hữu hạn, v́ thuỷ và chung của nó đều ẩn giấu trong cội nguồn vũ trụ không thể hiểu được. Nếu ở khắp nơi, các điều kiện đều hoàn hảo, th́ sự lưu chuyển này sẽ diễn tiến không bị cản trở và có thể đưa đến một t́nh trạng hầu như kéo dài vô tận, nhưng giới hạn và sự kết thúc xảy ra dưới h́nh thức các hậu quả của sự không hoàn thiện sẽ nhường chỗ cho một sự hoàn thiện dần dần. Mọi chu kỳ đều khởi đầu từ một chu kỳ khác với một sự tương đối đầy đủ hơn, và bao giờ cũng sẽ nhường chỗ cho một ṿng xoắn ốc cao hơn; như vậy đưa tới các giai đoạn tương đối hoàn hảo bên ngoài, dẫn đến những ǵ c̣n vĩ đại hơn nữa.

Như chúng ta biết, mục đích đối với chu kỳ lớn lao này là phối hợp hai lửa vật chất, tiềm tàng và hoạt động, và sự phối hợp của chúng với lửa trí tuệ và tinh thần cho đến khi chúng ch́m đắm trong ngọn lửa đại đồng (general flame); lửa trí tuệ và tinh thần thiêu rụi vật chất và do đó đem lại sự giải thoát cho hiện thể đang bị giam hăm. Thánh đường của Địa cầu là nơi phát sinh của tinh thần, là kẻ giải phóng nó ra khỏi từ mẫu (vật chất), và là lối tiến nhập của nó vào các lănh vực cao hơn.

Do đó, khi thể sinh lực hoạt động một cách hoàn hảo trong cả ba nhóm, nhân loại, hành tinh và thái dương, th́ sự kết hợp với tiềm hoả sẽ được thành toàn. Nơi đây tàng ẩn lư

103 do về tầm quan trọng được đặt vào sự thiết yếu đó là kiến tạo các hiện thể vật chất đă được tinh luyện và làm cho trong sạch. H́nh hài càng được tinh luyện và cải thiện bao nhiêu, th́ sự tiếp nhận prana sẽ càng hoàn hảo và càng ít có sự đề kháng lúc hoả xà đi lên vào thời điểm ấn định. Vật chất thô trược và các thể hồng trần c̣n non nớt là cái phiền toái đối với nhà huyền linh học và không có một nhà có nhăn thông chân chính nào mà có cơ thể đầy những tính chất thô trược. Các nguy hiểm của t́nh trạng rối loạn th́ quá to tát và sự đe doạ bị tan ră bởi lửa th́ quá khủng khiếp. Đă có lần trong lịch sử nhân loại (vào thời Lemuria) t́nh trạng này được thấy trong việc huỷ diệt nhân loại và lục địa bằng lửa (1). Các vị Lănh Đạo nhân loại vào thời ấy, chính các Ngài đă lợi dụng đúng sự việc đó để đưa đến việc chấm dứt một h́nh

1 Trong GLBN I, trang 437, phần cước chú, sự huỷ diệt châu Lemuria bằng lửa được nhắc đến, và trong GLBN II, trang 149, phần cước chú có các từ: “Châu Lemuria không bị nhận ch́m, mà là bị huỷ diệt do tác động của hoả sơn và sau đó đă ch́m xuống”.

hài không thích hợp. Tiềm hoả của vật chất (ví dụ như ta thấy trong sự phun trào của hoả sơn), và lửa phát xạ của Thái dương hệ được phối hợp. Hoả xà hành tinh và bức xạ thái dương ồ ạt kết hợp nhau và công tŕnh huỷ diệt được hoàn tất. Cùng sự việc ấy có thể được thấy trở lại, chỉ ở trong chất liệu của chất dĩ thái thứ nh́, và các hiệu quả do đó sẽ bớt trầm trọng do việc hiếm có chất dĩ thái này và sự tinh lọc tương đối nhiều của các hiện thể.

Nơi đây, chúng ta nên chú ư một sự kiện đáng quan tâm, mặc dù cho đến nay là một vấn đề bí hiểm không giải quyết được đối với đa số chúng ta, đó là các sự huỷ diệt bởi lửa này là một phần của các thử thách bằng lửa của một cuộc điểm đạo của một trong các Hành Tinh Thượng Đế mà nghiệp quả các Ngài gắn bó với địa cầu chúng ta.

Mỗi sự huỷ diệt một phần của mạng lưới đưa đến kết quả là tạo ra một năng lực lớn hơn để đào thoát và trong thực tế (khi nh́n từ các cơi cao hơn) là một bước tiến tới và là một sự bành trướng. Việc lặp lại điều này cũng xảy ra trong thái dương hệ vào các chu kỳ đă định.

104 4. Các rối loạn của thể dĩ thái. Bây giờ chúng ta sẽ khảo sát thể dĩ thái cùng các bệnh hoạn của nó cũng như là t́nh trạng sau khi chết của nó. Vấn đề này chỉ có thể được đề cập đến một cách vắn tắt. Tất cả những ǵ hiện giờ có thể được nêu ra là một ư tưởng tổng quát về những ốm đau căn bản mà thể dĩ thái có thể phải chịu và khuynh hướng mà y học ứng dụng có thể chọn sau này khi các định luật huyền linh được hiểu rơ hơn. Một sự việc cần phải được nêu ra ở đây – sự kiện mà ít kẻ hiểu rơ. Đây là sự kiện có ư nghĩa: các bệnh tật của thể dĩ thái, trong trường hợp tiểu thiên địa, cũng giống như là trong đại thiên

địa. Nơi đây tàng ẩn sự hiểu biết vốn thường dùng để giải thích những thống khổ bề ngoài của thiên nhiên. Một số trong các tệ hại lớn trên thế gian có nguồn gốc trong các ốm đau ở thể dĩ thái, khi mở rộng các ư tưởng về chất dĩ thái tới các điều kiện của hành tinh và ngay cả tới thái dương. Khi chúng ta đề cập đến nguyên nhân của các khổ đau ở thể dĩ thái trong con người, các tương đồng và các phản ứng thuộc hành tinh và thái dương có lẽ nên được hiểu rơ. Chúng ta cần ghi nhớ cẩn thận rằng khi khảo cứu về chất dĩ thái này, đó là tất cả các bệnh tật của thể dĩ thái liên quan với ba mục đích của nó và hoặc là:

Thuộc chức năng (functional) và do đó ảnh hưởng đến sự nắm bắt prana của nó,

Về cơ quan (organic) do đó ảnh hưởng đến sự phân phối prana của nó,

Về tĩnh tại (static) do đó ảnh hưởng đến mạng lưới, khi chỉ nh́n từ giác độ cung cấp một ṿng giới hạn bằng chất hồng trần và tác động như là vật tách biệt giữa thể xác với thể cảm dục.

 

Ba nhóm chức năng hay mục đích khác nhau này, mỗi nhóm đều có lợi ích tối thượng đưa tới các kết quả hoàn toàn khác nhau và tác động theo cách khác nhau cả bên ngoài lẫn bên trong.

Xét theo quan điểm hành tinh cùng các điều kiện sẽ được

105      nhận thức và thể dĩ thái hành tinh (về căn bản chính là hiện thể trong trường hợp các hành tinh thánh thiện, trong số đó địa cầu không phải là một), sẽ có các rối loạn về chức năng của nó mà rối loạn này sẽ có ảnh hưởng đến việc tiếp nhận prana của nó, sẽ hứng chịu các rối loạn về cơ cấu vốn có thể tác động đến sự phân phối của nó và các sự rối loạn này vốn

tạo ra các rối rắm trong mạng lưới dĩ thái, nó tạo thành ṿng giới hạn cho Hành Tinh Thượng Đế liên hệ. Nơi đây tôi muốn nói rơ rằng trong trường hợp các Hành Tinh Thượng Đế đang ở trên ṿng cung tiến hoá thiêng liêng, các Hành Tinh Thượng Đế mà cơ thể các Ngài là các hành tinh, mạng lưới dĩ thái không tạo thành chướng ngại, nhưng (giống như các Nghiệp Quả Tinh Quân trên một cơi cao hơn) các Ngài có tự do hành động ngoài các giới hạn của mạng lưới hành tinh trong chu vi của ṿng giới hạn thái dương (1).

Lại nữa, về phương diện Thái dương hệ, cùng các hiệu quả này có thể quan sát được, về mặt chức năng, lần này có liên hệ với trung tâm vũ trụ; về mặt cơ cấu, v́ có liên quan đến toàn bộ các hệ thống hành tinh, c̣n về mặt tĩnh tại, v́ có liên hệ đến ṿng giới hạn thái dương hay ṿng giới hạn Thượng Đế.

Bây giờ, với mục đích làm sáng tỏ, chúng ta có thể chọn ba nhóm này một cách riêng rẽ và đề cập đến chúng một cách vắn tắt và bóng bẩy (v́ sẽ không nói nhiều hơn được) đến các phương pháp điều trị và hiệu chỉnh.

a. Các rối loạn về chức năng tiểu thiên địa. Các rối loạn này có liên quan với sự tiếp nhận các lưu chất prana của con người, xuyên qua các trung tâm lực cần thiết. Chúng ta phải

1 Planetary Spirit là tên gọi khác dành để chỉ Thượng Đế của hành tinh chúng ta, một trong “Bảy Tinh Quân trước Thánh Toà” và do

106 đó là một trong bảy Hành Tinh Thượng Đế. Ngài đang ở trên ṿng cung thăng thượng tiến hoá (evolutionary arc) của vũ trụ và đă vượt xa nhân loại. Thực Thể Hành Tinh (The planetary Entity) đang ở trên ṿng cung giáng hạ tiến hoá và là một Chân Linh có đẳng cấp rất thấp. Ngài là toàn bộ mọi sự sống hành khí của hành tinh.

luôn luôn ghi nhớ và như thế giữ sự phân biệt rơ ràng rằng các bức xạ prana này có liên quan với tiềm nhiệt trong vật chất; khi được tiếp nhận và vận hành xuyên qua thể dĩ thái một cách chính xác, chúng hợp tác với hơi ấm tiềm tàng tự nhiên trong cơ thể, và (phối hợp thêm vào) giữ cho cơ thể ở trong t́nh trạng đầy sinh lực, áp đặt lên trên vật chất của cơ thể một mức độ rung động nào đó, để đưa đến hoạt động cần thiết của thể xác và vận hành đúng các cơ quan của thể xác đó. Do đó, rơ ràng là ngay từ đầu, sức khoẻ xác thân được giấu kín trong việc tiếp nhận đúng prana, và một trong các thay đổi cơ bản phải được thực hiện trong cuộc sống của con người (chính là trạng thái mà hiện giờ chúng ta đang bàn đến) sẽ là ở trong các điều kiện sinh hoạt thông thường.

Ba trung tâm lực căn bản mà nhờ đó sự tiếp nhận xảy ra phải được phép vận hành một cách tự do hơn và ít hạn chế hơn. Hiện giờ do bởi nhiều thế kỷ sống sai lầm và do các lầm lẫn căn bản (xuất phát từ thời Lemuria), ba bí huyệt nhận prana của con người không hoạt động hữu hiệu theo thứ tự. Trung tâm lực ở bả vai đang ở t́nh trạng tiếp nhận hữu hiệu nhất, dù do bởi t́nh trạng kém cỏi của cột xương sống (trong rất nhiều người nó không được chỉnh hợp chính xác) vị trí của nó ở sau lưng thường không nằm đúng chỗ. Trung tâm lực lá lách ở gần cách mô có kích thước dưới b́nh thường và rung động của nó không chính xác. Trong trường hợp các thổ dân ở các địa phương như vùng Nam Hải, họ có thể dĩ thái ở t́nh trạng hoàn hảo hơn; cách sống của họ được b́nh thường hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới (theo quan điểm linh động).

Nhân loại phải chịu một vài sự thiếu năng lực có thể được mô tả như sau:

Thứ nhất: Không thể thu nhận luồng prana, do biết bao nhiêu người sống không lành mạnh. Điều này liên quan tới việc cắt đứt nguồn cung cấp và hậu quả là các trung tâm lực tiếp nhận bị suy nhược và co rút lại. Điều này được nhận thấy ở h́nh thức thái quá nơi trẻ con ở các khu chật chội, của bất cứ thành phố lớn nào, và ở những cư dân bị kém sức khoẻ v́ thiếu máu, sống ở các khu “nhà ổ chuột”. Cách chữa trị thuộc về bên ngoài, đó là đem lại các điều kiện sống tốt đẹp

107 hơn, mặc quần áo thích hợp hơn cũng như chấp nhận và theo một cách sống tốt lành và phóng khoáng hơn. Khi các tia prana có thể thong thả đi tới vai và cách mô, th́ t́nh trạng kém b́nh thường của lá lách của người thường, sẽ tự động được điều chỉnh. Thứ hai. Quá khả năng tiếp nhận các luồng sinh khí. Kiểu mẫu đầu tiên của sự hỗn loạn chức năng rất thông thường và phổ quát. Mặt trái của nó có thể được nhận thấy nơi mà các điều kiện sống làm cho các trung tâm lực (qua việc hứng chịu bức xạ mặt trời quá trực tiếp và kéo dài) trở nên quá mức chịu đựng, rung động quá nhanh và tiếp nhận prana quá nhiều. Điều này hiếm khi xảy ra, nhưng lại có ở một số nước nhiệt đới và bị qui cho là đưa tới t́nh trạng suy nhược mà dân chúng trong các xứ này phải hứng chịu. Thể dĩ thái tiếp nhận prana hay tia nắng quá nhanh, chuyển prana đi qua và ra ngoài hệ thống một cách quá mạnh. Điều này làm cho nạn nhân lâm vào t́nh trạng ù ĺ (inertia) và mất sinh lực. Nói cách khác thể dĩ thái trở nên lười biếng, giống như một mạng lưới chùng xuống hay là (dùng một h́nh ảnh rất mộc mạc) nó giống như cái vợt đánh quần vợt đă quá dăn và đă mất tính đàn hồi. Tam giác nội truyền các bức xạ prana quá nhanh chóng, không có đủ th́ giờ để hấp thụ thêm và do đó toàn hệ

thống bị mất mát. Sau nữa, cần nhận ra rằng nhiều bệnh mà người Âu Châu sống ở Ấn Độ, ngay từ đầu đă hứng chịu, phát sinh theo cách này; và do đó bằng việc chú trọng tới lá lách và bằng việc kiểm soát khôn ngoan các điều kiện sinh sống, một số phiền toái có thể tránh được.

Khi đề cập đến các điều kiện tương tự trong hành tinh, cả hai loại phiền toái này có thể xảy ra. C̣n nhiều điều nữa không thể nói hết được, nhưng khi khảo sát một cách khéo léo bức xạ thái dương trên bề mặt hành tinh liên quan đến chuyển động quay của nó, một số qui luật về sức khoẻ tập thể có thể được lĩnh hội và tuân theo. Chơn linh của hành tinh (hay thực thể hành tinh – xem định nghĩa chữ này ở cước chú trang 105) cũng có các chu kỳ của Ngài và trong việc hấp thụ

108      prana hành tinh cùng việc phân phối đúng prana đó, có tàng ẩn bí nhiệm về sự ph́ nhiêu và thực vật miền ôn đới. Nhiều điều trong sự việc này c̣n ẩn giấu trong những huyền thoại về cuộc chiến giữa lửa và nước, vốn có cơ sở của nó trong phản ứng của tiềm hoả trong vật chất với lửa toả ra bên ngoài của vật chất và tác động lên vật chất. Trong thời khoảng trôi qua trong khi cả hai đang ở trong diễn tŕnh phối hợp, có xảy đến các giai đoạn mà do sự kế thừa về nghiệp quả, việc tiếp nhận không ổn định và việc phân phối không điều hoà. Khi mức cân bằng của nhân loại được đạt đến, sự cân bằng hành tinh cũng sẽ đạt đến và trong thành tựu của hành tinh, sẽ xuất hiện sự cân bằng phải xảy ra giữa các hành tinh của thái dương. Khi chúng đạt đến sự cân bằng hỗ tương và tác dụng hỗ tương, lúc bấy giờ Thái dương hệ được ổn định và sự hoàn hảo được đạt đến. Sự phân phối đồng đều prana sẽ diễn ra song đôi với sự thăng bằng này trong con người, trong giống dân, trong hành tinh và trong Thái dương hệ. Đây chỉ

là một cách khác để nói rằng sự rung động đồng nhất sẽ được đạt đến.

b. Sự xáo trộn về cơ cấu của tiểu thiên địa. Có hai xáo trộn

căn bản. -Xáo trộn do sự tắt nghẽn. -Sự huỷ hoại mô do bởi việc quá hấp thụ prana, hay là sự

phối hợp quá nhanh của prana với lửa vật chất tiềm tàng.

Chúng ta có một h́nh ảnh lư thú của cả hai h́nh thức xáo trộn này ở việc trúng nắng (sun stroke) và trúng nhiệt (heat stroke). Mặc cho giả thiết mà các y sĩ đă hiểu, thật ra tất cả các hiện tượng này chỉ là các xáo trộn dĩ thái (etheric disorders). Khi bản chất của thể dĩ thái được hiểu rơ hơn và sự thận trọng khôn ngoan đối với thể đó được tuân theo, cả hai loại xáo trộn này sẽ ngừa trước được. Chúng do bởi bức xạ prana của thái dương; trong một trường hợp, hậu quả của bức xạ này là gây ra cái chết hoặc bệnh nặng do sự tắt nghẽn của một vận hà dĩ thái, trong khi đó, ở trường hợp khác cùng một kết quả xảy ra do sự phá huỷ chất dĩ thái.

Minh hoạ nêu trên được dùng với mục đích rơ rệt, nhưng

109      cần nêu ra rằng sự tắt nghẽn dĩ thái có thể đưa đến nhiều h́nh thức bệnh tật và kém khả năng trí tuệ. Sự tắt nghẽn dĩ thái đưa đến việc mạng lưới bị dày lên một cách bất thường, và việc dày lên này có thể cản trở chẳng hạn việc tiếp xúc với Thượng ngă hay các nguyên khí cao, dẫn đến hậu quả là đần độn và mất quân b́nh trí tuệ. Nó có thể đưa đến việc phát triển da thịt một cách bất thường, việc trở nên dày của một số cơ quan nội tại, và do đó áp suất tăng quá mức; một phần của thể dĩ thái bị tắt nghẽn có thể đưa đến t́nh trạng toàn bộ thể xác bị đảo lộn, hậu quả là sinh ra nhiều bệnh khác nhau.

Sự huỷ hoại mô có thể dẫn đến nhiều loại điên cuồng, nhất là những loại bị coi là không thể chữa được. Việc đốt cháy mạng lưới có thể để cho nhiều luồng cảm dục bên ngoài đi vào mà con người không chống lại được; mô năo, theo sát nghĩa có thể bị huỷ hoại bởi áp lực này và sự rối loạn trầm trọng có thể xảy ra do ṿng giới hạn dĩ thái đă bị huỷ hoại ở một chỗ nào đó.

Một t́nh trạng về các sự việc tương tự như thế có thể được thấy có liên hệ tới hành tinh. Sau này, chi tiết có thể được đưa ra, điều mà hiện nay c̣n được che giấu; việc đó cho thấy rằng toàn thể nhân loại sẽ bị ảnh hưởng và một vài giới trong thiên nhiên bị rối loạn do việc tắt nghẽn dĩ thái hay là sự tiêu huỷ mô dĩ thái hành tinh.

Chúng ta đă bàn đến các bệnh liên quan đến chức năng và cấu tạo của thể dĩ thái, nêu ra một số chỉ dẫn để mở rộng quan niệm đến các lănh vực khác hơn là lănh vực thuần tuư nhân loại. Ch́a khoá nằm trong giới nhân loại, nhưng xoay ch́a khoá đó để mở cánh cửa hầu có được hiểu biết rộng răi hơn về các bí nhiệm của thiên nhiên. Dù ch́a khoá đó phải được xoay bảy lần, tuy nhiên, chỉ một lần thôi cũng đủ tiết lộ các con đường chưa được nói đến về sự hiểu biết tối hậu (1),

(1) Ch́a khoá Giáo Lư Bí Nhiệm (The keys to the Secret Doctrine), của bà H.P.Blavatsky.                 Xem GLBN I, 343,  II, 551.

 

1. Mọi biểu tượng (symbol) và ẩn từ (allegory) đều có bảy ch́a khoá.                GLBN  II, 567, III, 3.

 

2. Chỉ có ba ch́a khoá hữu dụng trong thế kỷ XIX. GLBN  II, 543, đối chiếu với II,  617, 842.

 

3. Có bảy ch́a khoá dẫn đến cửa vào các Bí Nhiệm. GLBN  III, 178. So với I, 346,  II, 330,  II 668,  II, 731.

 

4. Các ch́a khoá như bà Blavatsky đề cập đến là :

 

(1).

110 Chúng ta đă xem xét về sự tiếp nhận và phân phối bức xạ prana trong con người, trong hành tinh và trong Thái dương hệ và đă thấy được những ǵ gây ra sự rối loạn tạm thời và sự mất sinh lực hay quá đầy sinh lực (over-vitalisation) của các

 Về tâm lư học (Psychological). GLBN  II, 25, chú thích I, 389.

 Về thiên văn học (Astronomical).   GLBN II, 25, chú thích.

 Về vật lư hay sinh lư học. GLBN  II, 25, chú thích;  III, 198.

 

 

d. Về siêu h́nh học (Metaphysical) 

GLBN  II, 25 chú thích

e. Về nhân chủng học .   

       GLBN  I, 389, III, 198

f. Về chiêm tinh học (Astrological).        

           GLBN II , 343

g. Về h́nh học (Geometrical).

 GLBN  II, 494,  III, 176

h. Về huyền học (Mystical).

GLBN I, 401

I. Về biểu tượng học (Symbolical), 

         GLBN II, 561

j. Về số học (Numerical).

        GLBN II, 198

 

 

5. Mỗi ch́a khoá phải được xoay bảy lần,      GLBN I, 22

 

6. Chính người Do Thái đă lợi dụng được hai trong số bảy ch́a khoá.

 

7. Ch́a khoá siêu h́nh học có thể hữu dụng.  GLBN  I, 338. Đối chiếu với  III, 198.

 

(1) “Bảy ch́a khoá mở ra các bí nhiệm, quá khứ và tương lai, của bảy căn chủng lớn và của bảy thiên kiếp (kalpas)”. Mọi sách vở huyền linh học, biểu tượng và hoán dụ (allegory) có thể phải được diễn giải theo bảy lối. Có ba ổ khoá phải được mở. Bảy ch́a khoá. Mỗi quyển sách có thể được đọc theo lối ngoại môn (exotorically), theo chủ quan (subjectively) và theo phương diện tinh thần. Mọi ch́a khoá đều chưa khả dụng. (Xem GLBN I, 330, 343). Có ch́a khoá sinh lư học, tâm lư học, chiêm tinh học và ch́a khoá siêu h́nh học. Ch́a khoá thứ năm là h́nh học.

h́nh thể cơ quan. Bấy giờ chúng ta có thể xem xét vấn đề ở khía cạnh thứ ba và do đó khảo sát:

c. Các rối loạn về tĩnh tại của tiểu thiên địa, hay là việc xem xét thể dĩ thái liên quan với việc cung ứng một ṿng giới hạn từ chất hồng trần thuần tuư đến chất đẩu tinh. Như đă nói trong cả sách này lẫn trong các sách của H.P.B. ṿng giới hạn

(1) là bức tường hạn chế vốn tác động như một tác nhân cách biệt hay một sự phân chia giữa một hệ thống và những ǵ ở ngoài hệ thống đó. Điều này, như được thấy ở trên, có sự liên quan thú vị khi chủ đề được xem xét đến (khi chúng ta phải nỗ lực một cách bền bĩ để xem xét nó) theo quan điểm của một con người, một hành tinh và một hệ thống, luôn luôn nhớ rằng những ǵ mà chúng ta đang bàn đến về thể dĩ thái

111     đều có liên quan đến vật chất hồng trần. Điều này phải được thận trọng ghi nhớ. Do đó, một yếu tố tối thượng sẽ được t́m thấy trong mọi nhóm và mọi cơ cấu, và đây là sự kiện mà ṿng giới hạn tác động chỉ như là một chướng ngại vật đối với những thành đạt nho nhỏ trong sự tiến hoá, nhưng không tạo thành chướng ngại đối với các tiến bộ lớn hơn. Toàn thể vấn đề tuỳ thuộc vào hai sự việc, đó là nghiệp quả của con người, Hành Tinh Thượng Đế, và Thái Dương Thượng Đế,

1 “Ṿng giới hạn” (“ring-pass-not”). Chu vi của phạm vi ảnh hưởng của bất cứ trung tâm nào của sự sống tích cực. Chu vi này bao hàm khối cầu lửa của công tác từ điển, của quả cầu thái dương, được xem như là thể biểu lộ của một Thái Dương Thượng Đế và bao gồm cả toàn thể thái dương hệ. Thuật ngữ này cũng được dùng cho phạm vi hoạt động của một Hành Tinh Thượng Đế hay cho một hệ thống hành tinh và cũng có thể áp dụng đối với phạm vi hoạt động của Chân ngă nhân loại.           GLBN  I, 346

cùng là sự ưu thắng (dominance) của thực thể tinh thần nội tại trên hiện thể của nó.    

 

1. Hành Tinh Thượng Đế và các Dĩ thái.

Con người, chủ thể tư tưởng nội tâm, vào ban đêm, vượt qua ṿng giới hạn bằng chất dĩ thái của ḿnh và hoạt động ở một nơi khác. Do đó, theo định luật, Hành Tinh Thượng Đế cũng có thể vượt qua ṿng giới hạn của Ngài vào các mùa đă ấn định, các mùa này tương ứng trong hành tinh với các giờ nghỉ ngơi tạm thời của con người hay là pralaya.

Thái Dương Thượng Đế cũng hành động giống như thế trong các chu kỳ ấn định, vốn không phải là các chu kỳ nối tiếp các chu kỳ, mà chúng ta gọi là chu kỳ qui nguyên thái dương, mà là những chu kỳ nhỏ hơn nối tiếp “ngày của Brahma” hay các giai đoạn hoạt động ngắn hơn xét về mặt chu kỳ. Tất cả các điều này đều do nghiệp quả chế ngự và cũng như chính chân nhân áp dụng luật nghiệp quả đối với hiện thể của ḿnh, và trong hệ thống bé nhỏ của ḿnh là sự tương ứng đối với nhóm thực thể nghiệp quả thứ tư mà chúng ta gọi là Nghiệp Quả Tinh Quân; Ngài áp dụng định luật đối với phàm ngă tam phân của Ngài. Nhóm Thực Thể Thông Linh ngoại vũ trụ thứ tư mà vị trí các Ngài là phụ trợ ba vị Vũ Trụ Thượng Đế, các vị Thượng Đế này là toàn bộ tam phân của bản thể Thượng Đế, có thể vượt qua các giới hạn của ṿng giới hạn thái dương trong các chu kỳ đă được ấn định của các Ngài. Đây là một bí nhiệm sâu xa và tính chất phức tạp của nó càng gia tăng do việc nhớ lại rằng Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư của Chân Thần nhân loại và các Nghiệp 112 Quả Tinh Quân trong ba nhóm của các Ngài (nhóm thứ nhất, thứ nh́ và bốn vị Maharajahs, hợp thành toàn thể các đấng cai quản nghiệp quả tam phân, (các Ngài đang đứng giữa Thái Dương Thượng Đế và bảy vị Hành Tinh Thượng Đế), đang kết hợp chặt chẽ hơn với các Huyền Giai khác và vận mệnh của các Ngài được gắn bó mật thiết với nhau.

Thêm một mắt xích trong sợi xích này được đưa ra để xem xét, đó là sự kiện bốn cung trí tuệ (vốn có liên hệ tới nghiệp quả của bốn vị Hành Tinh Thượng Đế) trong toàn thể, cai quản diễn tŕnh tiến hoá hiện tại của các Ngài đối với con người, xét con người như là Chủ Thể Tư Tưởng. Bốn Đấng này cùng với bốn Nghiệp Quả Tinh Quân, làm việc trong sự hợp tác chặt chẽ nhất. Do đó, chúng ta có các nhóm tương tác sau:

Thứ nhất. Bốn vị Maharajahs tức là các Nghiệp Quả Tinh Quân thứ yếu (1), các Ngài áp dụng nghiệp quả đă qua và thể hiện nó ở hiện tại.

Thứ hai. Bốn vị Lipikas của nhóm thứ hai mà bà Blavatsky đề cập đến như là các vị bận rộn trong việc vận dụng nghiệp quả tương lai và điều hành vận mệnh sắp tới của các giống dân. Công việc của nhóm một trong bốn Đức Lipikas Vũ Trụ c̣n huyền bí và chỉ được tiết lộ rất ít vào cuộc

1 Bốn Nghiệp Quả Tinh Quân đứng giữa cơi thứ nhất và thứ hai. GLBN  I , 155

 Các Ngài có thể vượt qua ṿng giới hạn.          GLBN  I, 157

 Các Ngài liên hệ với nghiệp quả.                   GLBN  I, 153

 Các Ngài liên hệ với Đấng Tương Lai (the Hereafter)  GLBN  I, 151

 Các Ngài ở trong ba nhóm.                  GLBN I,  153

 Các Ngài là các Chơn Linh Vũ Trụ (the spirits of the Universe). GLBN  I, 153.

 

điểm đạo thứ tư (ngay cả lúc bấy giờ cũng chỉ được nói qua thôi) thế nên điều đó không được đề cập đến nơi đây.

Thứ ba. Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư của Chân Thần nhân loại được duy tŕ bằng định luật nghiệp quả tứ phân dưới sự hướng dẫn của các Đức Lipikas.

Thứ tư. Bốn vị Hành Tinh Thượng Đế (1) lo về Hài Hoà, Tri Thức, Tư Tưởng Trừu Tượng và Nghi Lễ, các Ngài xét

113 chung vốn là Tứ Nguyên Trí Tuệ trong khi có diễn tŕnh tiến hoá, và các Ngài chuyển sang dưới ảnh hưởng của các Ngài mọi đứa con nhân loại. Thứ năm. Các Thiên Thần Tinh Quân ở bốn cơi, đó là cơi Bồ Đề hay cơi Trực Giác tâm linh, cơi Trí, cơi Cảm dục và cơi trần, các Ngài cũng có liên hệ với sự tiến hoá nhân loại theo nghĩa chặt chẽ hơn ba cơi cao. Thêm một sự tương đồng lư thú nữa nằm trong các sự kiện sau mà hiện giờ đang trong tiến tŕnh phát triển:

1 Bốn cung về trí tuệ là bốn cung thứ yếu, 4 cung này hợp thành Tứ Nguyên của Thượng Đế (logoic Quaternary) và sau rốt được tổng hợp thành cung thứ 5, cung chính yếu thứ 3 của trí tuệ hoạt động hay khả năng thích ứng. Danh xưng của các cung như sau:

Ba cung chính yếu:

 Cung Ư chí hay Huyền năng.

 Cung Bác ái hay Minh triết

 Cung Trí tuệ Hoạt động Bốn cung thứ yếu:

 Cung Mỹ Lệ, Hài Hoà, Mỹ Thuật hay Nhịp nhàng 5.Cung Kiến thức cụ thể hay Khoa học

 

 Cung Lư tưởng trừu tượng

 Cung Trật tự nghi lễ hay Tổ chức.

 

Cơi thứ tư, tức cơi Bồ Đề, là cơi mà các vị Hành Tinh Thượng Đế bắt đầu thoát ra khỏi ṿng giới hạn hành tinh của các Ngài hay ra khỏi mạng lưới dĩ thái mà đối phần của nó có trên mọi cơi.

Theo nghĩa hẹp, khi con người bắt đầu phối kết được hiện thể Bồ đề, hay là nói một cách khác, khi y đă phát triển năng lực tiếp xúc, dù rằng rất sơ sài với cơi Bồ đề, lúc bấy giờ, một cách đồng thời và một cách hữu thức, con người bắt đầu đạt được khả năng thoát khỏi mạng lưới dĩ thái trên cơi trần. Sau đó y thoát ra được phần tương ứng của nó trên cơi cảm dục và sau cùng thoát ra phần tương ứng trên cơi phụ thứ tư của cơi trí, lần này xuyên qua nguyên tử thường tồn hạ trí. Điều này, sau rốt đưa đến việc vận dụng thể thượng trí, hay đưa đến khả năng an trụ vào và trở nên linh hoạt trong hiện thể của chân ngă, vốn biểu hiện cho trạng thái bác ái và minh triết của Chân Thần. Ở đây, nên ghi nhớ chỗ tương đồng với sự kiện đă được chứng minh, đó là nhiều người hiện nay có

114 thể vượt thoát khỏi thể dĩ thái và hoạt động trong thể cảm dục của họ, đó là phản ảnh của phàm ngă của cùng trạng thái thứ hai. Khi một người đạt mức điểm đạo thứ tư, th́ người đó hoạt động trong hiện thể thuộc cơi thứ tư, tức thể Bồ Đề, và thường xuyên thoát khỏi ṿng giới hạn phàm ngă, trên cơi phụ thứ tư của cơi trí. Y không c̣n bị giữ lại trong ba cơi thấp nữa. Ở cuộc điểm đạo thứ nhất, y thoát khỏi ṿng giới hạn theo một ư nghĩa tạm thời, nhưng y vẫn chưa thoát khỏi ba cơi phụ cao của cơi trí vốn là phần tương ứng của cơi trí với các chất dĩ thái cao và cần phải phát triển tâm thức đầy đủ trên ba cơi phụ cao này. Ở đây chúng ta có một sự tương ứng đối với công việc phải làm của điểm đạo đồ sau khi y đă đạt

đến cơi thứ tư của thái dương hệ, tức cơi Bồ đề. Tuy nhiên, vẫn c̣n có sự phát triển tâm thức đầy đủ trên ba cơi tinh thần cao hơn, trước khi y có thể thoát ra khỏi ṿng giới hạn thái dương, điều này chỉ có thể đạt đến ở cuộc điểm đạo thứ bảy, xảy ra ở một nơi nào đó trong Thái dương hệ, hay là trong sự tương ứng vũ trụ của nó được đạt tới bằng ngân quang tuyến vũ trụ hay là sinh mệnh tuyến vũ trụ (1).

Dăy địa cầu thứ tư này là một trong các dăy quan trọng nhất về phương diện này, v́ đó là địa điểm ấn định đối với sự chi phối thể dĩ thái bằng Chân Thần con người cùng mục đích nhắm vào cả hai sự đào thoát của con người và hành tinh ra khỏi các hạn chế. Dăy địa cầu này mặc dù không phải là một trong bảy dăy hành tinh thánh thiện, lại có tầm quan trọng tối yếu vào lúc này đối với Hành Tinh Thượng Đế. Ngài tạm dùng nó như là một phương tiện nhập thể và phương tiện biểu lộ. Cuộc tuần hoàn thứ tư này t́m được câu giải đáp về sự sống bền bĩ và hỗn độn trong sự việc rất đơn

115 giản là phá tan mạng lưới dĩ thái để đem lại giải thoát và cho phép sử dụng một h́nh hài thích hợp hơn sau này. Một loạt ư tưởng bổ túc có thể được theo dơi bằng cách ghi nhớ kỹ rằng chất dĩ thái thứ tư hiện giờ đang được các nhà khoa học của con người nghiên cứu và phát triển, và đă được khai thác phần nào để phụng sự con người; rằng cơi

1 Sutratma: “Ngân quang tuyến” (“silver thread”) trải qua luân hồi từ lúc bắt đầu một chu kỳ biểu lộ cho đến lúc chấm dứt, các viên ngọc của kiếp sống con người được xâu vào chính tuyến này. Đó là tuyến năng lượng nối phàm nhơn với Từ phụ của y trên trời xuyên qua Chân ngă, tức nguyên khí trung gian. Trên sợi ngân quang này có các điểm tập trung năng lượng mà chúng ta gọi là các nguyên tử thường tồn.

phụ thứ tư của cơi cảm dục là phạm vi vận hành b́nh thường của thường nhân và rằng trong cuộc tuần hoàn này, sự thoát ly khỏi thể dĩ thái đang được thực hiện; cơi phụ thứ tư của cơi trí là mục tiêu nỗ lực hiện nay của ¼ gia đ́nh nhân loại; chu kỳ khai nguyên thứ tư sẽ thấy ṿng giới hạn thái dương đưa ra lối thoát cho những ai đă đạt đến mức cần thiết; bốn vị Hành Tinh Thượng Đế sẽ hoàn thành việc thoát ly của các Ngài khỏi vùng hành tinh của các Ngài và sẽ hoạt động một cách rất dễ dàng trên cơi cảm dục vũ trụ, song hành trên các phân cảnh vũ trụ, có việc thành toàn của các đơn vị nhân loại vốn là các tế bào trong các thể của các Ngài.

Thái Dương Thượng Đế của chúng ta, vốn là vị Thượng Đế ở cấp đẳng thứ tư, sẽ bắt đầu phối kết thể bồ đề vũ trụ của Ngài và trong khi Ngài phát triển thể trí vũ trụ, nhờ sự trợ lực của thể trí đó, Ngài sẽ dần dần đạt được khả năng tiếp xúc với cơi bồ đề vũ trụ.

Các khả năng và các tương ứng này đă phần nào được nghiền ngẫm, v́ điều cần cho chúng ta là nhận thức được công việc phải làm liên quan đến mạng lưới dĩ thái trước khi chúng ta đề cập vấn đề các nguyên nhân khác nhau vốn có thể ngăn cản sự tiến bộ mong muốn và ngăn ngừa sự vượt thoát ấn định và sự giải thoát được dự tính. Sau này, chúng ta sẽ xét đến mạng lưới dĩ thái và t́nh trạng tĩnh tại của nó. Điều này sẽ đ̣i hỏi việc nhớ lại hai điều:

Thứ nhất, điều kiện tĩnh tại này chỉ như thế khi xét theo quan điểm con người hiện nay và chỉ gọi như thế để làm sáng

116      tỏ hơn những sự thay đổi phải được thực hiện và những nguy cơ phải được hoá giải. Theo quan điểm con người, việc tiến hoá diễn ra chậm chạp đến nỗi hầu như đứng một chỗ nhất là ở nơi nào có liên hệ đến sự tiến hoá dĩ thái.

Thứ hai, chúng ta chỉ quan tâm đến thể dĩ thái hồng trần, chớ không để ư tới các tương ứng của nó trên mọi cơi. Sở dĩ có việc này chỉ v́ Thái dương hệ chúng ta đang ở trên các cơi phụ dĩ thái vũ trụ và do đó quan trọng nhất đối với chúng ta.

2. Các dĩ thái vũ trụ và Thái dương hệ:

V́ lợi ích cho những kẻ đọc bộ luận này và v́ cần lặp lại liên tục các sự kiện để tạo sự rơ ràng, chúng ta hăy kê khai ngắn gọn ra đây một vài giả thuyết căn bản vốn có một quan hệ rơ ràng đối với vấn đề đang bàn và điều có thể giúp làm sáng tỏ sự mơ hồ hiện nay có liên quan đến vật chất của Thái dương hệ. Một số sự kiện có nói đến ở trên đă được biết rơ, một số khác đang được suy diễn, trong khi một số là sự biểu hiện các tương ứng xưa cũ và đích thực được diễn đạt bằng một h́nh thức hiện đại hơn.

Cơi vũ trụ thấp nhất là cơi hồng trần vũ trụ và đó là cơi duy nhất mà thể trí hữu hạn của con người có thể hiểu được bằng bất cứ cách nào.

Cơi hồng trần vũ trụ này hiện hữu trong vật chất đă phân hoá thành bảy tính chất, nhóm, cấp độ hay rung động.

Bảy biến phân này là bảy cơi chính của Thái dương hệ chúng ta.

 

Với mục đích làm sáng tỏ, chúng ta có thể kê khai ra đây dưới các đề mục thuộc hồng trần, Thái dương hệ và thuộc vũ trụ, để cho mối quan hệ và các tương ứng có thể trở nên rơ ràng và sự liên hệ đối với những ǵ ở trên và ở dưới, hay là tất cả có thể được nh́n thấy một cách rơ ràng.

d. Bảy cơi chính này của Thái dương hệ chúng ta chỉ là bảy cơi phụ của cơi hồng trần vũ trụ, v́ vậy cho nên chúng ta có thể thấy lư do khiến cho bà Blavatsky nhấn mạnh rằng vật chất và chất dĩ thái là các tên gọi đồng nghĩa, và rằng chất dĩ

 

Các Cơi (The Planes)

 

Cơi hồng trần

 

Các cơi của Thái dương hệ

 

Các cơi của vũ trụ

1.-Cơi nguyên tử. Dĩ thái 1

 

Thiêng Liêng. Tối Đại Niết Bàn Vật chất nguyên thuỷ.

 

Cơi nguyên tử. Dĩ thái 1

2.-Hạ nguyên tử

 

Chân Thần. Đại Niết Bàn. Tiên thiên khí

 

Hạ nguyên tử. Dĩ thái 2

3.-Siêu dĩ thái (super-etheric)

 

Tinh thần. Niết Bàn. Dĩ thái

 

Dĩ thái 3.

 

Cơi Hợp Nhất hay Nhất Quán

 

4.-Dĩ thái

 

Trực giác . Bồ đề. Khí (Phong)

 

Dĩ thái thứ 4 vũ trụ

 

Ba cơi thấp

 

5.-Chất khí

 

Cơi Trí. Lửa

 

Chất hơi. Hạ dĩ thái

6.-Chất lỏng

 

Cơi cảm dục. Xúc cảm

 

Chất lỏng

7.-Chất đặc

 

Cơi hồng trần

 

Chất đặc

           

 

thái này được t́m thấy trong một số h́nh thức này hoặc h́nh thức khác trên mọi cơi và chỉ là một phân cấp của vật chất nguyên tử vũ trụ, khi chưa biến phân, được gọi là nhất nguyên khí (mulaprakriti) hay chất liệu nguyên thuỷ tiền căn nguyên (primordial pre-genetic substance) và khi được Fohat làm biến phân (hay là Đấng truyền sinh lực( tức Thượng Đế Ngôi Ba hay Brahma) nó được gọi là prakriti hay vật chất đă biểu lộ (matter) (1).

1 Mulaprakriti. Nguồn gốc Thái cực Thượng đế (The Parabrahmic root), nguyên khí âm thiêng liêng trừu tượng -vật chất chưa biến phân (undifferentiated subtance). Tiên thiên khí. Theo nguyên

 

 Thái dương hệ chúng ta là cái được gọi là một hệ thống ở cấp thứ tư; nghĩa là nó có vị trí của nó trên cơi dĩ thái vũ trụ thứ 4, luôn luôn được tính từ trên xuống dưới.

Vậy th́ cơi dĩ thái vũ trụ thứ tư này tạo thành nơi gặp gỡ cho quá khứ và tương lai và chính là hiện tại.

Do đó, cũng thế, cơi bồ đề hay cơi trực giác (tương ứng trong Thái dương hệ của dĩ thái vũ trụ thứ tư) là nơi gặp gỡ hay là cơi hợp nhất đối với những ǵ thuộc nhân loại và đối với những ǵ sẽ là siêu nhân loại, và nối liền quá khứ với những ǵ đang hiện hữu.

Các tương ứng theo sau sớm hay muộn ǵ cũng sẽ đáp lại với việc chuyên tâm thiền định. Chúng được căn cứ trên việc nhận thức về mối tương giao giữa chất dĩ thái vũ trụ thứ tư, cơi bồ đề, và cơi phụ dĩ thái hồng trần thứ tư.

 

Cơi phụ thứ tư của cơi trí, tức phần tương ứng trên cơi trí của cơi phụ dĩ thái hồng trần cũng là một điểm chuyển tiếp từ một cơi phụ thấp vào một cơi phụ cao hơn, và là vị trí chuyển tiếp vào một thể cao hơn.

Cơi phụ thứ tư của cơi Chân Thần, theo thật đúng nghĩa, là vị trí chuyển tiếp khỏi cung chơn ngă (có thể bất cứ cung nào) đến cung Chân Thần; ba cung chính yếu này được cấu tạo trên ba cơi phụ cao của cơi Chân thần theo cùng một cách mà ba cơi phụ trừu tượng của cơi trí là nhóm chuyển tiếp khỏi cung phàm ngă đến cung chơn ngă.

Bốn cung thứ yếu phối hợp với ba cung chính yếu, tức cung thông tuệ linh hoạt trên cơi trí và trên cơi Niết Bàn. Bốn Thượng Đế hay các Đấng Hành Tinh hoạt động như là một trên cơi Niết Bàn.

nghĩa, “cội nguồn của Thiên nhiên” (Prakriti) tức là vật chất đă biểu lộ (matter).

i. Một sự tổng hợp khác xảy ra trên cung tổng hợp thứ hai ở trên cơi phụ thứ hai của cơi Bồ đề và cơi Chân thần, trong khi tương đối là có ít Chân Thần ư chí hay quyền năng được tổng hợp trên cơi phụ nguyên tử của cơi Chân Thần. Tất cả ba nhóm Chân Thần đều hoạt động dưới h́nh thức tam phân trên cơi trí dưới quyền Đức Văn Minh Bồ Tát, Đức Bàn Cổ và Đức Bồ Tát (tức Đức Christ); trên cơi thứ nh́ hay cơi Chân Thần, các Chân Thần hoạt động dưới h́nh thức một

120      đơn vị, chỉ chứng tỏ công tác lưỡng phân của các Chân Thần đó trên cơi Chân thần và tính chất tam phân cốt yếu của các Chân Thần trên cơi Bồ đề (1).

1 Các Chân Thần của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, tức các Chân Thần con người, gồm ba nhóm chính :

Các Chân Thần ư chí (The Monads of Will).

Các Chân Thần Bác ái (The Monads of Love).

Các Chân Thần Hoạt động (The Monads of Activity) Đức Mahachohan. (Văn Minh Bồ Tát). Một Đấng trong Thánh Đoàn hành tinh chúng ta. Ngài chủ tŕ các hoạt động được xúc tiến trong 4 cung thứ yếu và cung tổng hợp thứ 3. Ngài có liên quan đến nền văn minh, đến sự vun trồng trí tuệ các giống dân và với năng lượng thông tuệ, Ngài là vị lănh đạo các Thánh sư. Đức Bồ Tát (Bodhisattva). Đấng tiêu biểu (the exponent) cho thần lực cung 2, Đấng Giáo huấn các Thánh sư con người và thiên thần. Chức vụ này lúc đầu do Đức Phật nắm giữ, nhưng (sau khi Đức Phật trở nên Toàn Giác) th́ Đức Christ lên thay cho Ngài. Công việc của Đức Bồ Tát có liên quan đến các tôn giáo trên thế gian và liên quan đến Bản Thể tâm linh trong con người. Đức Bàn Cổ : (The Manu) Đấng chủ tŕ cơ tiến hoá của các chủng tộc. Ngài là con người lư tưởng. Ngài phải làm việc với các h́nh hài mà xuyên qua đó Tinh thần phải biểu lộ; Ngài huỷ diệt và xây dựng lại.

 

Cơi dĩ thái thứ tư nắm giữ ch́a khoá chế ngự vật chất và nên chú ư rằng:

Trên chất dĩ thái hồng trần thứ tư, con người bắt đầu phối kết thể cảm dục hay thể t́nh cảm của y và vượt thoát ngày càng thường xuyên hơn khỏi hiện thể đó. Sự liên tục tâm thức được đạt đến khi con người chế ngự được bốn chất dĩ thái.

Trên cơi phụ thứ tư của cơi trí, con người bắt đầu kiểm soát thể thượng trí hay Chân ngă thể của ḿnh và trụ tâm thức của ḿnh vào đó cho đến khi sự an trụ được hoàn toàn. Lúc bấy giờ, y hành động một cách hữu thức trên cơi đó khi y đă chế ngự được các tương ứng đối với các chất dĩ thái trên cơi trí.

Trên cơi bồ đề (cơi dĩ thái thứ tư của vũ trụ), Hành Tinh Thượng Đế (hay là tâm thức tập hợp của Chân Thần nhân loại và Chân Thần thiên thần) bắt đầu tác động và sau rốt thoát khỏi các cơi dĩ thái vũ trụ. Khi ba chất dĩ thái vũ trụ này được chế ngự, việc vận hành được hoàn tất, sự an trụ được tập trung trong các hiện thể Chân Thần và bảy Hành Tinh Thượng Đế đă thành đạt được mục tiêu của các Ngài.

j. Do đó, trên các cơi phụ dĩ thái này, Thượng Đế của

121      Thái dương hệ chúng ta, với tư cách một đại tổng thể, Ngài lặp lại các kinh nghiệm của các phản ảnh bé nhỏ của Ngài trên các cơi hồng trần; Ngài kết hợp thể cảm dục vũ trụ của Ngài và đạt được sự liên tục tâm thức khi Ngài đă chế ngự được ba chất dĩ thái vũ trụ.

Ba Đấng này chủ tŕ ba Bộ Môn (Departments) mà Thánh Đoàn được phân chia và do đó tiêu biểu trong lănh vực đặc biệt của các Ngài ba trạng thái biểu lộ thiêng liêng.

k. Cần phải nhận xét rằng, giống như trong con người, nhục thân trong ba cấp độ của nó -đặc, lỏng và hơi – không được xem như một nguyên khí (principle), cũng vậy, theo ư nghĩa vũ trụ các cơi vật chất (đặc), cảm dục (lỏng) và trí tuệ (hơi) cũng được xem như không hiện tồn và Thái dương hệ có vị trí của nó trên chất dĩ thái thứ tư. Bảy hành tinh thánh thiện được cấu tạo bằng vật chất của dĩ thái thứ tư này và bảy Hành Tinh Thượng Đế mà các thể của các Ngài là các hành tinh tác động một cách b́nh thường trên cơi thứ tư của Thái dương hệ, tức cơi bồ đề hay cơi dĩ thái thứ tư vũ trụ. Khi con người đă đạt đến tâm thức của cơi Bồ đề, th́ y đă nâng tâm thức của y đến tâm thức của Hành Tinh Thượng Đế mà trong cơ thể của Ngài, y là một tế bào. Điều này được thành đạt vào cuộc điểm đạo thứ tư, cuộc điểm đạo khai phóng (the liberating initiation). Vào cuộc điểm đạo thứ năm, cùng với Hành Tinh Thượng Đế, người vượt lên cơi thứ năm (theo quan điểm nhân loại (tức cơi Niết bàn và vào cuộc điểm đạo thứ sáu, người chế ngự được chất dĩ thái vũ trụ thứ hai và có được chân thần thức (monadic consciousness) cùng sự liên tục trong chức năng. Vào cuộc điểm đạo bảy, Ngài chế ngự toàn thể lĩnh vực vật chất được chứa trong cơi vũ trụ thấp nhất, thoát khỏi mọi sự xúc tiếp dĩ thái và hoạt động trên cơi cảm dục vũ trụ.

Thái dương hệ trước đă chứng kiến sự vượt qua ba cơi thấp nhất của cơi hồng trần vũ trụ, xét theo quan điểm vật chất và sự phối kết của nhục thể gồm ba phần, trong đó có đủ mọi sự sống, chất đặc, chất lỏng, chất hơi. Ở đây có thể thấy

được sự tương ứng trong công việc đă được hoàn thành trong ba căn chủng đầu tiên (1)(2).

1 Căn chủng (Rootrace). Bộ GLBN dạy chúng ta rằng trong cuộc tiến hoá này hay ṿng tiến hoá trên hành tinh này, Jivatma -tức nhân hồn -trải qua bảy kiểu mẫu chính (main types) hay là 7 “căn chủng”. Trong trường hợp hai căn chủng trước là “căn chủng Adam” và căn chủng “Hyperborean”, các h́nh hài được làm cho linh hoạt lần lượt là cảm dục (astral) và dĩ thái (etheric) “khổng lồ và không rơ ràng”, chúng gắn liền với trạng thái tâm thức thấp hay là tâm thức hướng ngoại tác động qua một giác quan duy nhất (thính giác) mà giống dân thứ nhất đă có, hoặc là qua hai giác quan (thính giác và xúc giác) mà giống dân thứ hai đă có. Nhưng qua giống dân thứ ba, tức Lemurian, một kiểu mẫu đậm đặc hơn và giống h́nh người hơn được phát triển, kiểu mẫu này trở nên hoàn thiện hơn trong giống dân thứ tư hay giống Atlantis. Giống dân thứ 5, tức Aryan, hiện nay, đang tiếp tục con đường của ḿnh trên bầu này, đồng thời với một phần lớn của giống dân thứ tư và một ít c̣n lại của giống dân thứ ba. Nên chú ư rằng, mặc dầu mỗi giống dân khai sinh ra giống dân tiếp theo, cả hai lại trùng lắp trong thời gian, cùng tồn tại, trong nhiều kỷ nguyên. Trong số các dân tộc hiện đang c̣n tồn tại, dân Tartars, Trung Hoa và Mông Cổ thuộc về giống dân thứ tư, thổ dân Úc Châu và người Hottentots thuộc về giống dân thứ ba. 2 Trong cách phối kết các hiện thể thuộc Chân Thần, thuộc Linh Thể và thuộc Bồ Đề của Hành Tinh Thượng Đế, các hiện thể của sự sống tinh thần, tức là sự tương ứng huyền bí cao siêu so với luồng prana xuyên qua phản ảnh thấp, thể dĩ thái hồng trần, điểm tổng hợp luôn luôn ở trên cơi phụ nguyên tử và hiện thể thứ sáu hoà lẫn và trở nên hiện thể thứ 7. Trong Thái dương hệ này, cơi tổng hợp không được bao gồm trong hệ thống tiến hoá. Đó là cơi tích tụ và là cơi ngơi nghỉ. Trong Thái dương hệ trước, chất dĩ thái thứ tư ở vào vị trí này, so với các đơn vị tiến hoá của thuở ấy, nó cũng giống

122 3. Mục đích bảo vệ của thể dĩ thái. Sau khi ra ngoài đề hơi dài ḍng, bây giờ chúng ta hăy gác lại những sự việc về vũ trụ khó hiểu, mà đi vào sự tiến hoá thực tiễn và khảo cứu về vấn đề thể dĩ thái con người cùng là các mối nguy hại vốn có thể phát sinh cho con người nếu thể đó (do sự vi phạm thiên luật) không c̣n làm tṛn chức năng bảo vệ của nó nữa. Trước hết, chúng ta hăy xem xét các chức năng bảo vệ này là những ǵ : Thứ nhất: Mạng lưới dĩ thái tác động như là vật ngăn cách hay là mạng lưới phân chia giữa thể cảm dục và nhục thể (xác thân). Thứ hai: Nó lưu chuyển sức sống nhập vào, tức là lưu chất prana, và xúc tiến công việc của nó ở ba giai đoạn.

như là cơi nguyên tử hiện giờ, là điểm thành đạt cao nhất. Mục tiêu đối với mọi người là cơi Bồ đề hay là hậu thiên khí vũ trụ thứ 4. Ba cơi khác là mục tiêu hiện giờ -cơi Bồ đề, Niết Bàn và Đại Niết Bàn, mỗi lần ba cơi và tổng hợp sau cùng của chúng. Trong Thái dương hệ sắp đến, chất hậu thiên khí thuộc nguyên tử hồng trần vũ trụ (cơi Tối Đại Niết Bàn trong Thái dương hệ hiện nay) sẽ là điểm khởi đầu và ba cơi phải được chế ngự sẽ là ba cơi cảm dục vũ trụ thấp nhất.

Con người bắt đầu ở nơi mà y đang dừng lại, với chất liệu hồng trần vũ trụ hoàn hảo. Do đó, thể thấp nhất của con người sẽ là thể Chân Thần hay là thể bằng chất hậu thiên khí vũ trụ thứ hai. Thể này, lúc bấy giờ sẽ không được kể như là một nguyên khí cũng chẳng khác nào nhục thân có ba phần của con người hiện nay không được xem như là một nguyên khí.

Thái dương hệ hiện tại sẽ chứng kiến sự vượt trội ba cơi hồng trần vũ trụ kế tiếp, chất hậu thiên khí (aethers) thứ tư, thứ ba và thứ hai cùng sự phối kết của thể dĩ thái vũ trụ.

Giai đoạn một là giai đoạn mà lưu chất prana và các bức

123 xạ thái dương được thu nhận và luân lưu ba lần chung quanh tam giác, do đó được phân phối đến chu vi của cơ thể, làm linh hoạt và đem lại sinh lực cho khắp các cơ quan vật chất và đưa đến các hoạt động tự động trong tiềm thức của nhục thể. Khi thực hiện hoàn hảo mục tiêu của nó, nó bảo vệ khỏi bệnh hoạn, c̣n các ốm đau của xác thịt sẽ không xảy đến với người nào hấp thụ và phân phối prana một cách chính xác. Ẩn ư này được nhắc nhở đối với mọi y sĩ và khi được thấu hiểu rơ ràng, sẽ đưa đến kết quả thay đổi căn bản trong y khoa, từ nền tảng chữa bệnh chuyển sang nền tảng pḥng bệnh. Giai đoạn hai là giai đoạn mà các lưu chất prana bắt đầu phối hợp với luồng hoả ở đáy xương sống và dẫn luồng hoả đó từ từ đi lên, vận chuyển nhiệt từ các trung tâm lực dưới đan điền đến ba trung tâm lực cao – đó là trung tâm lực ở tim, cổ họng và đầu. Đây là một diễn tiến lâu dài và chậm chạp khi để cho một ḿnh lực thiên nhiên mà không có sự trợ giúp, nhưng ở đây chính là (trong một số ít trường hợp) việc được phép gia tốc tiến tŕnh để trang bị cho những người hoạt động trong lănh vực phụng sự nhân loại. Đây là mục tiêu của tất cả mọi tập luyện về huyền học. Khía cạnh vật chất này sẽ được đề cập tới một cách tường tận hơn khi chúng ta đi đến điểm kế tiếp về “Hoả xà và xương sống”. Giai đoạn ba là giai đoạn mà chất phóng phát linh động (active radiatory) hay là prana được phối hợp một cách hoàn hảo hơn với lửa tiềm tàng trong vật chất; việc này đem lại kết quả (như sẽ được nêu ra sau này) là tạo ra được một số hiệu ứng. Điều đó cũng tạo ra việc gia tốc tần số rung động b́nh thường của thể xác để cho thể xác sẵn sàng đáp ứng hơn với

nốt cao siêu của chân ngă, và tạo nên sự tiến lên vững vàng của các luồng hoả phối hợp xuyên qua vận hà tam phân trong cột xương sống. Trong giai đoạn hai, luồng hoả phối hợp đem lại sinh lực này đạt đến trung tâm lực giữa phần dưới của hai bả vai, vốn là điểm tiếp nối và là điểm phối hợp

124 toàn hảo, của luồng hoả từ đáy cột xương sống và luồng hoả luân lưu dọc theo tam giác prana. Cần nhớ một điểm của tam giác này xuất phát từ đó như thế nào. Khi luồng hoả căn bản tam phân và luồng hoả tam phân chứa prana gặp nhau và hợp nhất, bấy giờ sự tiến hoá diễn ra với vận tốc rất nhanh. Điều này rất rơ ràng ở cuộc điểm đạo một khi sự an trụ trở nên cố định ở một trong ba trung tâm lực cao, trung tâm nào th́ c̣n tuỳ thuộc vào cung của người ấy. Kết quả của sự phối hợp này là đưa đến sự thay đổi hoạt động của các trung tâm lực. Chúng trở nên “các bánh xe tự quay quanh chính chúng”, và từ chuyển động quay thuần tuư, trở thành tác động theo chiều thứ tư và hiện ra như các trung tâm lửa sinh động toả rực đang xoay tít. Ba trung tâm lực chính ở đầu (tŕnh tự thay đổi tuỳ theo cung) trở nên linh hoạt và một diễn tiến tương tự được tiến hành giữa chúng cũng như đă được tiến hành trong tam giác chứa prana. Đang là ba trung tâm lực tác động một cách yếu ớt đối với rung động lẫn nhau (do việc cảm thấy sức ấm và nhịp nhàng của nhau, dù là riêng rẽ) luồng hoả nhảy từ trung tâm lực này đến trung tâm lực khác, và mỗi bánh xe đang xoay được liên kết bằng một sợi xích lửa, cho đến khi có một tam giác lửa xuyên qua đó, luồng hoả xà và luồng hoả chứa prana xạ ra từ chỗ này đến chỗ kia. Sự lưu thông cũng được tiếp tục. Lửa của hoả xà tạo ra nhiệt của trung tâm lực và sự

chói lọi mănh liệt của nó, trong khi luồng hoả chứa bức xạ prana tạo ra sự hoạt động và quay ngày càng gia tăng.

Theo thời gian trôi qua giữa cuộc điểm đạo thứ nhất và thứ tư, vận hà tam phân trong xương sống và toàn bộ thể dĩ thái dần dần trở nên tinh khiết và được thanh lọc bởi tác động của luồng hoả cho đến khi tất cả ‘cặn bă’ (theo cách diễn tả của Cơ Đốc giáo) bị thiêu đốt hết và không c̣n ǵ lưu lại để ngăn trở sự tiến tới của ngọn lửa này.

Trong khi lửa của hoả xà và prana tiếp tục công việc của chúng, vận hà trở nên ngày càng tinh khiết hơn, các trung tâm lực linh hoạt hơn và cơ thể tinh khiết hơn, ngọn lửa tinh

125 thần, hay lửa từ chân ngă đi xuống một cách linh hoạt hơn cho đến khi ngọn lửa thực sự chói lọi phát xuất từ đỉnh đầu. Ngọn lửa này bùng lên xuyên qua các thể, hướng về phía nguồn cội của nó, tức thể nguyên nhân (causal body). Đồng thời với sự hoạt động của các lửa vật chất và tinh thần này, lửa của trí tuệ hay manas bùng cháy mănh liệt. Các lửa này là lửa được phú cho vào lúc đầu thai làm người. Chúng được liên tục nuôi dưỡng bằng lửa vật chất và nhiệt của chúng được tăng cường bằng lửa phóng phát của thái dương, vốn xuất phát trên các cơi trí vũ trụ. Chính trạng thái lửa trí tuệ này phát triển dưới các h́nh thức bản năng, tức trí nhớ nơi động vật (animal memory) và sự hồi ức chức năng (functional recollec -tion) vốn lộ rơ ràng nơi kẻ ít tiến hoá. Thời gian qua, lửa trí tuệ càng cháy sáng hơn và như vậy đạt đến điểm mà nó bắt đầu thiêu đốt hết cả mạng lưới dĩ thái ­phần của mạng lưới có nhiệm vụ bảo vệ trung tâm lực ở ngay đỉnh đầu và để luồng sóng tinh thần tuôn tràn xuống. Nhờ đó có thể xảy ra một số sự việc sau :

Luồng hoả xà được điều khiển và kiểm soát một cách hữu thức bằng trí tuệ hay trạng thái ư chí từ cơi trí. Hai luồng hoả của vật chất do sức mạnh của thể trí con người trước nhất được phối hợp với nhau và kế đó với lửa thể trí.

Kết quả hợp nhất của sự phối hợp này là sự phá huỷ (theo qui luật và trật tự) mạng lưới dĩ thái và kết quả là tạo ra sự liên tục tâm thức và đưa vào sự sống cá biệt của con người “cách sống phong phú hơn” tức là lửa thứ ba của Tinh Thần.

Việc giáng hạ của Tinh Thần và việc thăng lên của các nội hoả vật chất (được kiểm soát và điều khiển bởi tác động hữu thức của lửa trí tuệ) tạo nên các kết quả tương ứng trên cùng mức độ ở cơi cảm dục và cơi trí, khiến cho sự tiếp xúc song song xảy ra và công việc khai phóng vĩ đại diễn ra theo cách đă được sắp xếp.

Ba cuộc điểm đạo đầu tiên chứng kiến các kết quả này

126 được hoàn hảo và đưa đến cuộc điểm đạo thứ tư, lúc mà sức mạnh của các lửa hợp nhất đưa đến việc hoàn toàn thiêu huỷ mọi chướng ngại và việc giải thoát của Tinh Thần do nỗ lực được điều khiển một cách hữu thức từ lớp vỏ tam phân hạ đẳng của nó. Con người mang lại sự giải thoát cho chính ḿnh một cách hữu thức. Các kết quả này do chính con người tự đem lại cho ḿnh, v́ y đă được giải phóng khỏi ba cơi thấp, và đă làm gián đoạn được bánh xe luân hồi, thay v́ bị ngă quỵ trên bánh xe ấy. Hiển nhiên là do sự sáng tỏ này mà sự quan trọng cực độ của hiện thể dĩ thái với cương vị là tác nhân chia tách các lửa đă được nêu ra và do đó chúng ta nên chú ư đến các nguy hiểm phải xảy ra nếu con người làm xáo trộn một cách thiếu cân nhắc, thiếu sáng suốt hay một cách bướng bỉnh các luồng hoả này.

Nếu người nào, nhờ sức mạnh của ư chí hay là do sự khai mở quá độ về mặt trí tuệ trong cá tính của y, y đạt được năng lực phối hợp các luồng hoả vật chất này và điều khiển chúng tiến lên, y sẽ đứng trước nguy cơ bị nhập xác (1), điên cuồng, chết về mặt hồng trần (physical death) hay là đau đớn mănh liệt ở một số nơi trong cơ thể, và y cũng có nguy cơ phát triển quá đáng xung lực tính dục, do sự điều khiển thần lực tiến lên thiếu đồng đều, hay là bắt buộc bức xạ của nó đi đến các trung tâm lực ngoài ư muốn. Lư do của việc này ở chỗ là vật chất trong cơ thể y không đủ tinh khiết để chịu đựng việc hợp nhất các luồng hoả, v́ vận hà đi lên xương sống vẫn c̣n bị bế tắc, ngăn trở, do đó tác động như là một bức tường làm đổi hướng luồng hoả về phía sau và xuống phía dưới, và v́ đó luồng hoả (đang được kết hợp bằng năng lực của trí tuệ, và không được kèm theo bởi một luồng năng lực hướng xuống cùng một lúc, từ cơi tinh thần cho phép đi vào qua các ḍng dĩ thái mạnh mẽ, và ngay cả các thực thể nữa, với các mănh lực không mong muốn và ở bên ngoài. Chúng tàn phá, đập vỡ và làm hư hoại những ǵ c̣n lại của thể dĩ thái, của mô năo và ngay cả của chính nhục thân nữa.

Kẻ không thận trọng v́ không biết rơ Cung của ḿnh, do đó không biết dạng h́nh học riêng biệt của tam giác vốn là 127 phương pháp chính xác để lưu chuyển từ trung tâm lực này đến trung tâm lực khác, sẽ điều khiển luồng hoả tiến tới không đúng phương pháp và như vậy đốt cháy các mô; lúc bấy giờ điều này sẽ đưa tới hậu quả (ước sao không có ǵ tệ

1 Hiện tượng bị nhập xác hay bị ám (obsession) được giải rơ trong “Sự Hiển Lộ của Thánh Đoàn” trang 307 – 308, và trong ”Thư về Tham Thiền Huyền Linh” trang 124 – 126. (Có trích dẫn trong “Thuật Ngữ Huyền Học” trang 380 – 381) ND

hại hơn) là làm thoái bộ trong nhiều kiếp sống mức tiến hoá của y, v́ y sẽ phải mất nhiều th́ giờ để kiến tạo lại nơi nào mà y đă tàn phá, và đi trở lại trên đúng các đường lối mà mọi việc phải được thi hành.

Nếu một người từ kiếp này đến kiếp khác cứ khăng khăng theo đường lối hoạt động này, nếu y thờ ơ với việc phát triển tâm linh của ḿnh, và tập trung vào nỗ lực trí óc, hướng sang việc vận dụng vật chất vào các mục đích ích kỷ, nếu y cứ tiếp tục điều này mà không kể đến sự thúc đẩy của nội ngă của ḿnh, và không chú ư đến sự cảnh báo có thể được đưa tới cho y từ các Đấng Quán Sát; và nếu điều này được tiếp tục trong một thời gian dài, th́ y có thể đưa chính ḿnh đến chỗ huỷ diệt, đó là cái chung cục trong chu kỳ khai nguyên này. Do sự hợp nhất hai lửa vật chất và sự biểu lộ kép của lửa trí tuệ, y có thể thành công trong việc phá huỷ hoàn toàn nguyên tử thường tồn hồng trần và do đó cắt đứt sự giao tiếp của y với thượng ngă trong các thời kỳ rất dài. Bà Blavatsky có đề cập sơ sài về điều này khi nói đến việc “mất linh hồn” (“lost soul”) (Xem Isis Unveiled, vol. II, trang 368; GLBN I, 255 và III, 513 – 516).

Ở đây, chúng ta phải nhấn mạnh thực tại về tai hoạ thảm khốc này, và gióng lên một tiếng chuông báo động cho những kẻ tiến đến vấn đề các luồng hoả vật chất với mọi nguy cơ tiềm tàng của nó. Sự phối hợp các luồng hoả này phải là kết quả của sự hiểu biết đă được tinh thần hoá, và phải được hướng dẫn duy nhất bởi Ánh Sáng của Tinh Thần. Ánh Sáng này tác động qua t́nh thương và chính là t́nh thương, kẻ nào t́m kiếm sự hợp nhất và sự phối hợp hoàn toàn không chiều theo ư thích của giác quan, hay sự hài ḷng về vật chất, mà chỉ mong muốn sự giải thoát và sự thanh

luyện, để việc hợp nhất cao cả với Thượng Đế có thể được thực hiện; sự hợp nhất này phải được ưa thích, không phải v́ các mục đích ích kỷ, mà bởi v́ sự hoàn hảo tập thể là mục tiêu và cơ hội cho việc phụng sự lớn lao hơn đối với nhân loại phải được hoàn thành.   

 

Mục đích chúng tôi không phải là nêu ra các sự kiện để cho khoa học chứng thực, hay ngay cả đưa ra đường lối cho các giai đoạn tiến tới kế tiếp cho các nhà nghiên cứu khoa học; sở dĩ chúng tôi làm như thế chỉ là v́ ngẫu nhiên và thuần tuư là phụ thuộc. Những ǵ mà chúng ta t́m kiếm phần lớn là nêu ra những chỉ dẫn về sự phát triển và sự tương ứng của tổng thể tam phân đang làm cho Thái dương hệ hiện ra theo đúng thực tướng của nó -hiện thể mà qua đó một Đấng vĩ đại của vũ trụ tức Thái Dương Thượng Đế, biểu lộ sự thông tuệ linh hoạt với mục đích đă định, là biểu lộ một cách hoàn hảo khía cạnh bác ái của bản thể của Ngài. Tuy nhiên, đàng sau đồ án đó có thêm một mục đích huyền bí và kín đáo khác nữa, ẩn giấu trong Tâm Thức Ư Chí của Đấng Tối Cao, mà tất yếu sẽ được chứng minh sau này khi mục tiêu hiện tại được đạt đến. Sự luân phiên hai chiều của biểu lộ ngoại tại và qui nguyên nội tại, luồng ngoại linh khí (out-breathing) theo chu kỳ, được nối tiếp bằng luồng nội linh khí của tất cả những ǵ được tiến hành qua sự tiến hoá, trong Thái dương hệ, biểu hiện cho một trong các rung động cơ bản của vũ trụ, và chủ âm của Thực Thể Thông Linh vũ trụ mà chúng ta là một phần trong cơ thể Ngài. Nhịp tim đang đập của Thượng Đế (nếu điều đó có thể được diễn tả một cách không thích hợp như thế) là cội nguồn của mọi tiến hoá có chu kỳ, và do đó, sự quan trọng liên quan đến trạng thái phát triển được gọi là  ‘tâm’ (‘heart’) hay “trạng thái bác ái” và sự quan tâm vốn được khơi dậy do việc nghiên cứu về sự nhịp nhàng. Điều này không những đúng về khía cạnh vũ trụ và đại thiên địa mà c̣n đúng trong việc khảo sát con người. Dưới mọi ư nghĩa vật chất liên quan đến nhịp nhàng, rung động, chu kỳ và nhịp tim, có ẩn tàng sự tương đồng bên trong của chúng – bác ái, cảm thông, xúc động, ước muốn, hài hoà, tổng hợp và chuỗi sự việc được an bài, và đàng sau các tương đồng này ẩn tàng cội nguồn của vạn vật, tự thể của Đấng Tối Cao đang biểu lộ chính Ngài như thế đó.

Do đó, việc nghiên cứu chu kỳ qui nguyên hay là triệt thoái của sự sống ra khỏi hiện thể dĩ thái sẽ giống như nhau

129 cho dù người ta đang khảo sát sự triệt thoái của thể dĩ thái con người, sự triệt thoái của thể dĩ thái hành tinh hoặc sự triệt thoái của thể dĩ thái Thái dương hệ. Hiệu quả giống nhau và kết quả cũng tương tự. Kết quả của việc triệt thoái này là ǵ, hay đúng hơn điều ǵ gây nên cái mà chúng ta gọi là sự chết hay qui nguyên? V́ chúng ta theo đuổi một cách chặt chẽ theo kiểu sách giáo khoa trong quyển khái luận này, chúng ta sẽ tiếp tục phương pháp lập bảng biểu. Sự triệt thoái của thể dĩ thái con người, hành tinh và Thái dương hệ do các nguyên nhân sau đây:

Chấm dứt ham muốn. Việc chấm dứt này sẽ là kết quả của mọi tiến tŕnh tiến hoá. Theo định luật, cái chết thực sự xảy ra do việc đạt đến mục đích và do đó bằng việc ngưng khát vọng. Khi chu kỳ hoàn hảo đi đến chỗ kết thúc, điều này sẽ đúng đối với con người cá biệt, với Hành Tinh Thượng Đế và với chính Thái Dương Thượng Đế.

Do việc làm chậm đi và dừng lại từ từ của sự nhịp nhàng có chu kỳ, rung động thích hợp được đạt đến, và công tác

 

được hoàn thành. Khi sự rung động hay nốt được cảm nhận hay được phát ra một cách đầy đủ, nó tạo nên (ở điểm tổng hợp với các rung động khác) sự tan ră hoàn toàn các h́nh hài.

Như chúng ta biết, sự chuyển động được biểu thị bằng ba tính chất :

Yên tịnh (Inertia)

Hoạt động (Mobility)

Nhịp nhàng (Rhythm)

 

Ba đặc tính này được trải qua theo đúng tŕnh tự như trên và bao hàm một thời kỳ hoạt động chậm chạp, nối tiếp bằng một trong các chuyển động quá mức. Thời kỳ giữa này ngẫu nhiên tạo ra (khi nốt và tốc độ chính xác được t́m thấy) các chu kỳ của hỗn mang, của thực nghiệm, kinh nghiệm, và của nhận thức. Tiếp nối hai mức độ chuyển động này (vốn là

130      đặc điểm của nguyên tử, Con người, của Hành Tinh Thượng Đế hay tập thể và của Thượng Đế hay Tổng Thể là thời kỳ điều hoà và ổn cố mà điểm thăng bằng được đạt đến. Do bởi lực cân bằng các cặp đối hợp và nhờ thế tạo được sự thăng bằng, chu kỳ qui nguyên là tŕnh tự tất phải xảy ra.

c. Bằng sự tách biệt thể hồng trần ra khỏi thể tinh anh trên các nội cơi, do sự tan ră của mạng lưới. Điều này tạo nên hiệu quả ba mặt (threefold effect):

Thứ nhất. Sự sống đă làm linh hoạt h́nh hài vật chất (cả chất đặc lẫn chất dĩ thái) và nó bắt đầu trong nguyên tử thường tồn và từ đó “tràn ngập khắp vật di động và vật không di động” (trong Thái Dương Thượng Đế, Hành Tinh Thượng Đế, và con người cũng như trong nguyên tử vật chất) được triệt thoái hoàn toàn vào trong nguyên tử trên cơi trừu xuất. ‘Cơi trừu xuất’ này là một cơi khác hẳn đối với các thực thể tiến hoá :

 

Đối với nguyên tử thường tồn hồng trần, đó là mức độ nguyên tử.

Đối với con người, đó là thể thượng trí.

Đối với Hành Tinh Thượng Đế, đó là cơi thứ nh́ của sự sống Chân Thần, trú sở của Ngài.

Đối với Thượng Đế, đó là cơi Tối Đại Niết Bàn.

 

Tất cả các điều này đánh dấu các mức độ đối với việc mất hết h́nh tướng vào chu kỳ qui nguyên. Ở đây chúng ta cần nhớ rằng đó luôn luôn là kỳ qui nguyên khi xét từ bên dưới.

Do nơi linh thị cao, người ta thấy rằng chất tinh tế hơn tiếp tục che chở chất trọng trược vào lúc không biểu lộ ra ngoại cảnh, chu kỳ qui nguyên chỉ là t́nh trạng bên trong (subjectivity) và không phải “cái ǵ thuộc hư không” (“which is not”) mà chỉ là những ǵ thuộc nội môn (esoteric).

Thứ hai: Thể dĩ thái của một người, một Hành Tinh Thượng Đế và một Thái Dương Thượng Đế, bị tan vỡ, trở nên thiếu tập trung đối với chủ thể ở bên trong của nó, và do đó để xảy ra sự thoát ly. Nó (diễn tả theo một cách khác) không c̣n là một nguồn thu hút, cũng không c̣n là một điểm tập trung từ lực. Nó trở thành không có sức thu hút, và định luật

131      lớn là Luật Hấp Dẫn ngừng kiểm soát nó; do đó t́nh trạng tiếp theo sau của h́nh hài là tan ră. Chân ngă không c̣n bị sắc tướng của nó thu hút trên cơi hồng trần, và, tiếp theo đó luồng nội linh khí, triệt thoái sự sống của nó ra khỏi lớp vỏ. Chu kỳ tiến đến chỗ kết thúc, kinh nghiệm đă được thu đạt, mục tiêu (mục tiêu tương đối từ kiếp này đến kiếp khác, và từ cuộc luân hồi này đến cuộc luân hồi khác) đă hoàn thành và không c̣n ǵ để ham muốn nữa; chân ngă hay là thực thể biết suy tư, do đó, không c̣n quan tâm vào sắc tướng và

hướng sự chú ư của nó vào trong. Sự an trụ của nó thay đổi và cuối cùng h́nh hài tan ră.

Hành Tinh Thượng Đế, trong đại chu kỳ của Ngài, (tổng hợp hay là tập hợp các chu kỳ nhỏ của các tế bào trong cơ thể Ngài) cũng theo đuổi cùng chương tŕnh; Ngài không c̣n bị thu hút xuống dưới hay ra ngoài và chuyển sự chú tâm của Ngài vào trong; Ngài gom vào bên trong toàn bộ các sinh linh nhỏ bé hơn bên trong cơ thể Ngài, tức hành tinh, và cắt đứt sự liên hệ. Sự thu hút bên ngoài chấm dứt và tất cả hướng về trung tâm thay v́ rải ra chung quanh cơ thể Ngài.

Trong Thái dương hệ, Thái Dương Thượng Đế cũng theo đuổi cùng tiến tŕnh như thế; từ chốn trừu xuất cao thâm của Ngài, Ngài không c̣n bị thu hút bởi thể biểu lộ của Ngài. Ngài rút lại sự chú tâm của Ngài và hai cặp đối hợp, tinh thần và vật chất của hiện thể, tách ra. Với sự tách ra này, Thái dương hệ, tức “Đứa Con Thiết Yếu” hay “Đứa Con Hoài Vọng” ngưng hiện tồn và vượt ra khỏi sự sống biểu lộ ra ngoại cảnh.

Thứ ba. Sau cùng điều này đưa đến việc tung rải (scattering) các nguyên tử của thể dĩ thái vào t́nh trạng nguyên thuỷ của chúng. Sự sống nội tâm tức là tổng hợp của ư chí và bác ái khoác lấy h́nh hài linh hoạt, được triệt thoái. T́nh trạng đối tác/cộng tác (partnership) bị tan ră. H́nh hài lúc bấy giờ phân ră; từ lực để giữ nó ở dạng thể kết hợp không c̣n nữa và biến mất hoàn toàn. Vật chất vẫn c̣n, nhưng h́nh hài không c̣n nữa.

Công việc của Thượng Đế Ngôi Hai chấm dứt và công

132      cuộc hoá thân thiêng liêng của Ngôi Con kết thúc. Nhưng khả năng hay tính chất có sẵn của vật chất cũng tồn tại và ở cuối mỗi chu kỳ biểu lộ (dù được phân bổ lại dưới dạng thức

đầu tiên của nó) vật chất trở thành chất liệu thông tuệ linh hoạt, cộng thêm việc đạt được tính chất biểu hiện ra ngoại cảnh (objectivity) và sự phát xạ tăng lên cùng hoạt động tiềm tàng tăng lên mà nó đă có được nhờ kinh nghiệm. Chúng ta hăy minh hoạ: vật chất của Thái dương hệ, khi chưa biến phân, là vật chất thông tuệ linh hoạt và đó là tất cả những ǵ có thể được xác định về vật chất đó. Chất liệu linh hoạt thông tuệ này trở thành chất liệu được phẩm định bằng một kinh nghiệm trước đây và được nhuốm màu bằng cuộc luân hồi trước. Giờ đây, vật chất này đang khoác lấy h́nh hài (in form) tức là Thái dương hệ không ở vào chu kỳ qui nguyên mà là ở thời kỳ biểu lộ ra ngoại cảnh, -thời kỳ biểu lộ này được dự kiến cộng thêm đặc tính khác cho cái hàm chứa của Thượng Đế (logoic content), đó là đặc tính bác ái và minh triết. Do đó vào chu kỳ qui nguyên sắp tới của thái dương hệ, lúc kết thúc 100 năm của Brahma, vật chất của Thái dương hệ sẽ được tô điểm thêm bằng sự thông tuệ linh hoạt, và bằng bác ái linh hoạt. Điều này theo nghĩa đen là toàn bộ vật chất nguyên tử của thái dương hệ sau rốt sẽ rung động với một bí quyết/ chủ điểm (key) khác hơn là nó đă rung động vào buổi b́nh minh đầu tiên của cuộc biểu lộ.

Chúng ta có thể suy diễn rằng điều này có liên hệ đến Hành Tinh Thượng Đế và con người v́ sự tương đồng vẫn đúng. Chúng ta có sự tương ứng trên một phạm vi rất nhỏ nơi sự kiện rằng mỗi giai đoạn trong kiếp sống con người, con người lại có được một thể xác tiến hoá hơn, có tính chất ứng đáp nhiều hơn, được điều hợp với một khoá cao hơn, với sự tinh vi và thích hợp hơn, rung động với một mức độ khác hơn. Ba ư tưởng này hàm chứa nhiều thông tin nếu chúng được nghiên cứu cẩn thận và quảng diễn một cách hợp lư.

 

Bằng sự chuyển hoá màu tím thành màu xanh. Chúng ta không thể nói rộng hơn về điều này, chúng ta chỉ tŕnh bày một cách đơn sơ, và dành sự khai thác điều đó cho những kẻ nghiên cứu mà nghiệp quả cho phép, và những ai có đủ trực giác.

Do việc triệt thoái sự sống, h́nh hài sẽ dần dần tan ră. Ở đây, tác động phản xạ được chú ư ghi nhận v́ các Đấng Kiến Tạo vĩ đại và các Thiên Thần là các tác nhân hoạt động trong

 

133      thời kỳ biểu lộ, các Ngài duy tŕ sắc tướng ở dạng cố kết, biến đổi, áp dụng và lưu chuyển các bức xạ prana, cùng lúc làm mất sức thu hút của bức xạ đó, đối với vật chất của h́nh hài và xoay sự chú tâm của các Ngài sang nơi khác. Trên con đường của ngoại linh khí (dù là đối với nhân loại, hành tinh hoặc Thượng Đế), các thiên thần kiến tạo này (trên cùng một Cung như là đơn vị muốn được biểu lộ hay là trên một Cung bổ túc) được thu hút bởi ư chí và ước muốn, và hoàn thành chức vụ kiến tạo của các Ngài. Trên con đường nội linh khí (dù là đối với nhân loại, hành tinh hoặc Thượng Đế) các Ngài không c̣n thu hút nữa, và h́nh hài bắt đầu tan ră. Các Ngài rút lại sự chú tâm và các mănh lực đó (cũng là các thực thể), chúng là các tác nhân phá huỷ, có nhiệm vụ xúc tiến công việc cần thiết của các Ngài để phá vỡ h́nh hài; các Ngài tung rải nó – như được diễn tả về mặt huyền linh – cho “bốn phương trời” hay là cho các vùng của bốn hơi thở -chia ra và phân phối làm bốn. Ở đây có một ẩn ngôn được nêu ra cần nên xem xét cẩn thận.

Mặc dù không có h́nh ảnh nào được phác hoạ về các cảnh tượng lúc lâm chung, cũng không có h́nh ảnh về sự thoát ra đầy ấn tượng của thể dĩ thái đang rung động khỏi trung tâm lực trên đầu, như có thể được báo trước, tuy nhiên

một số qui luật và mục đích chi phối sự triệt thoái này đă được nhắc đến. Chúng ta đă thấy mục đích của mỗi kiếp sống như thế nào (dù là đối với nhân loại, hành tinh hoặc thái dương) sẽ mang lại hiệu quả và tiến bộ với một mục tiêu rơ rệt. Mục tiêu này là sự phát triển của một h́nh hài thích hợp hơn để cho tinh thần sử dụng; và khi mục tiêu này được đạt đến, lúc bấy giờ Chủ Thể Nội Tâm xoay sự chú ư của ḿnh đi nơi khác và h́nh hài sẽ tan ră sau khi đă được dùng cho nhu cầu của Chủ Thể đó. Điều này không phải lúc nào cũng xảy ra trong mọi kiếp sống con người, mà cũng không nằm trong mỗi chu kỳ hành tinh. Bí mật của nguyệt cầu là bí mật về sự thất bại, điều này khi được hiểu rơ sẽ đưa đến một đời sống xứng đáng và đem lại một mục tiêu xứng đáng cho nỗ lực có hiệu quả nhất của chúng ta. Khi nào khía cạnh chân lư này được nhận thức một cách rộng rải, cũng như khi sự sáng suốt của nhân loại đă đầy đủ, lúc bấy giờ sự tiến hoá sẽ tiếp diễn một cách chắc chắn và sự thất bại sẽ ít đi.

 

 

ĐOẠN D

HOẢ XÀ (1)(2)VÀ XƯƠNG SỐNG

1 “Kundalini, tức quyền năng hoả xà hay luồng hoả thần bí; nó được gọi mănh lực ngoằn ngoèo hay mănh lực đi ṿng do cách hoạt động giống h́nh xoắn ốc hay là tiến lên theo h́nh xoắn ốc trong cơ thể người tu khổ hạnh đang phát triển quyền năng trong chính ḿnh. Đó là một năng lực huyền bí có liên quan với điện và luồng hoả, tức là năng lực liên quan với vũ trụ lực (fohatic power), mănh lực vĩ đại nguyên sơ vốn ẩn dưới mọi vật chất hữu cơ và vô cơ”. H.P. Blavatsky. 2 “Kundalinni là h́nh thức tĩnh tại của năng lượng sáng tạo trong các cơ thể (bodies) vốn là cội nguồn của mọi năng lượng kể cả Prana… “Thuật ngữ này phát xuất từ tính từ Kundalin, hay là “cuộn tṛn” (“coiled”). Sở dĩ gọi là “cuộn tṛn” bởi v́ nó đang yên ngủ (sleeping), nằm cuộn tṛn; và v́ bản chất năng lực của nó đi theo đường xoắn (spiraline)…

”Nói cách khác, thần lực (shakti) Kundalini này là thần lực mà, khi hoạt động để tự biểu lộ, nó xuất hiện như là Vũ Trụ (Universe). Khi nói rằng nó “cuộn tṛn”, đó là nói nó đang ở trạng thái yên nghỉ (at rest), đó là ở dưới h́nh thức năng lượng tĩnh tại tiềm tàng… Thần lực hỏa xà trong các cơ thể cá nhân là sức mạnh ở trạng thái yên nghỉ, hay là trung tâm tĩnh tại mà mọi h́nh thức sự sống, dưới h́nh thức mănh lực chuyển động, đang xoay quanh”.

Trích: “Mănh Lực Hoả Xà, của Arthur Avalon.

Do việc không thể tiết lộ nhiều về chủ đề tất yếu rất là nguy hiểm này, chúng ta sẽ xem xét về chủ đề hoả xà và xương sống một cách vắn tắt.

Ở đây chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đang bàn về phần tương ứng bằng chất dĩ thái của xương sống, chớ không phải bàn về cấu trúc của bộ xương mà chúng ta gọi là cột xương sống. Đây là một sự kiện không được nhận ra đầy đủ bởi những kẻ nghiên cứu vấn đề. Nhiều điều được nhấn mạnh về ba vận hà ở xương sống tạo thành ba phần của cột xương sống.

Ba vận hà này rất quan trọng có liên hệ đến thần kinh hệ

135      của con người, nhưng trong việc liên quan đến vấn đề đang xét, trước hết chúng không quá quan trọng như là vận hà dĩ thái vốn là đơn vị đang vây quanh ba vận hà này. Do đó chúng ta phải nhớ kỹ rằng chúng ta đang bàn tới

 Vận hà dĩ thái (the etheric channel).

 Luồng hoả đi khắp vận hà.

Sự liên kết của luồng hoả này với luồng hoả bức xạ mang năng lượng của thể xác ở điểm giữa hai bả vai.

 Việc hợp nhất tiến lên đầu của chúng.

Sự phối hợp sau cùng của chúng với lửa trí tuệ tiếp sinh lực cho ba trung tâm lực đỉnh đầu.

 

Luồng hoả tiếp sinh lực cho tam giác trên đầu là tương ứng cao hơn so với tam giác sinh khí, ở giữa trong cơ thể và phản ảnh thấp của nó ở đáy xương sống. Do đó, trong con người, chúng ta có ba tam giác quan trọng:

1. Ở đầu: tam giác gồm ba trung tâm lực chính

 

 Tuyến tùng quả (pineal gland)

 Tuyến yên (pituitary body)  Trung tâm lực trên tuỷ sống (alta major centre).

2. Ở cơ thể : tam giác prana

 Giữa hai vai b.Trên cách mô

 Lá lách

 

3. Ở đáy xương sống: Ba trung tâm lực thấp

 Một điểm ở đáy cột xương sống

 và c. Hai cơ quan sinh dục chính ở nam và nữ (1).

 

Sự phối hợp các luồng hoả vật chất và các luồng hoả trí tuệ đưa đến kết quả là đem lại sinh lực cho toàn thể các nguyên tử vật chất của cơ thể. Đây là bí mật của sức chịu đựng rộng lớn của các nhà đại tư tưởng và các người làm việc cho nhân loại. Sự phối hợp đó cũng tạo nên kết quả trong việc kích động rất mạnh mẽ ba trung tâm lực cao trong cơ thể là đầu, tim, cuống họng và trong việc điện hoá (electrification) vùng này của cơ thể. Ba trung tâm lực cao này lúc bấy giờ tạo thành một trường hấp dẫn cho luồng hoả thứ ba đi xuống, đó là lửa Tinh thần. Trung tâm lực nhiều cánh hoa trên đỉnh đầu trở nên cực kỳ linh hoạt. Đó là trung tâm lực tổng hợp trên đầu và là toàn bộ các trung tâm lực khác. Việc kích thích các trung tâm lực khắp cơ thể được tiến hành song song hay tăng gấp đôi bởi việc làm sinh động cùng lúc của hoa sen nhiều cánh. Đó là điểm tụ tập của ba luồng hoả, luồng hoả của xác thân, của trí tuệ và của Tinh thần. Việc

1 Tôi không có ư định nhấn mạnh về khía cạnh sinh dục của vấn đề này, v́ các cơ quan này không có liên can ǵ với các nhà huyền linh học cả. Do đó, tôi sẽ không đưa chúng vào chi tiết. Tôi chỉ muốn nêu ra rằng, trong sự chuyển hóa của luồng hoả ở đáy xương sống và việc xoay hướng chú ư vào hai tam giác cao hơn đưa đến sự cứu chuộc của con người.

nhất quán với chơn ngă được thành toàn khi nơi đó được kích thích đầy đủ và việc bốc cháy xảy ra nơi đó; điều này được tăng gấp đôi trong các hiện thể tinh anh và gây nên sự toàn mỹ cuối cùng và sự giải thoát của Tinh Thần.

Sự phối hợp các luồng hoả vật chất là kết quả của sự tăng trưởng tiến hoá, khi được để b́nh thường, lúc ấy sự phát triển sẽ chậm chạp. Việc tiếp nối (junction) hai luồng hoả vật chất đă được thực hiện sớm trong lịch sử con người, và là nguyên nhân của sức khoẻ tráng kiện mà một người có đời sống trong sạch và biết suy tư cao thượng, sẽ hưởng được một cách b́nh thường. Khi các luồng hoả vật chất tiến qua (hợp nhất) suốt dọc vận hà dĩ thái của xương sống, chúng tiếp xúc với lửa của trí tuệ khi lửa đó toả ra từ trung tâm lực cuống họng. Ở đây, sự sáng sủa của tư tưởng là điều tối yếu và cần phải giải thích qua vấn đề khá trừu tượng này.

1. Ba trung tâm lực chính ở đỉnh đầu (theo quan điểm hồng trần) là

 Trung tâm trên tuỷ sống.

 Tuyến tùng quả.

 Tuyến yên.

 

 

2. Chúng hợp thành tam giác trí tuệ, sau khi chúng nối tiếp với hai luồng hoả của hai tam giác thấp hơn, nghĩa là, khi chúng trở thành tổng hợp.

 

3. Nhưng tam giác trí tuệ thuần tuư trước kia phối hợp là

 

 Trung tâm lực cổ họng

 Tuyến tùng quả

 Tuyến yên đây là trong giai đoạn khi con người có ư mong mỏi và tập trung ư chí của y về khía cạnh tiến hoá, như thể kiến tạo cuộc đời của y.

 

Luồng hoả vật chất khác (luồng hoả kép) được thu hút lên trên, và phối hợp với luồng hoả trí tuệ qua một chỗ nối, được tạo ra ở trung tâm lực trên tuỷ sống. Trung tâm lực này nằm ở đáy xương sọ và có một chỗ gián đoạn mỏng manh, giữa trung tâm lực này với điểm mà nơi đó các luồng hoả vật chất thoát ra từ vận hà xương sống. Phần công việc mà người đang phát triển năng lực tư tưởng phải làm là tạo nên một vận hà tạm thời trong chất dĩ thái để vượt qua chỗ gián đoạn. Vận hà này là phản ảnh trong chất hồng trần của giác tuyến

(1) mà chân ngă phải kiến tạo, để bắc qua chỗ gián đoạn giữa hạ trí với thượng trí, giữa thượng trí (thể nguyên nhân) trên cơi phụ thứ ba của cơi trí với nguyên tử thường tồn thượng trí trên cơi phụ thứ nhất.

Đây là công việc mà tất cả các tư tưởng gia tiến bộ đang thực hiện một cách vô thức hiện giờ. Khi chỗ gián đoạn được 138 hoàn toàn nối liền, cơ thể con người trở nên được phối hợp

1 A. “Linh Hồn Thống Soái (the Master-soul) là Alaya, tức linh hồn vũ trụ (universal soul) hay Atma, mỗi người đang có một tia như thế trong ḿnh và được giả định là có thể tự đồng nhất hoá nó với chính ḿnh và hoà nhập chính ḿnh vào đó.

B. Giác tuyến (antaskarana) là hạ trí, con đường thông thương hay liên lạc giữa phàm ngă với thượng trí hay nhân hồn .

V́ là con đường hay là phương tiện truyền đạt, nên lúc ĺa trần,

giác tuyến bị huỷ diệt, và tàn tích của nó tồn tại dưới một h́nh thức

là Kama-rupa – tức là ma h́nh (the shell)”.

Tiếng Nói Vô Thinh, trang    71.

“Giác tuyến là con đường tưởng tượng giữa phàm ngă và vô ngă (impersonal self) và là đường cảm giác; đó là chiến trường để chiếm ưu thế trên phàm ngă. Đó là con đường ước vọng và khi mà ḷng ao ước sự thánh thiện c̣n tồn tại th́ giác tuyến vẫn c̣n”

Tiếng Nói Vô Thinh, trang 50, 55, 56, 88.

với thể hạ trí. Lúc đó, các luồng hoả trí tuệ và luồng hoả vật chất được hoà lẫn. Nó bổ sung cho sự hoàn hảo của sự sống phàm ngă, và như đă nói ở trên, sự hoàn hảo này đưa con người tới cửa điểm đạo -điểm đạo là ấn chứng đặt trên công việc đă được hoàn thành; nó đánh dấu sự kết thúc của một chu kỳ phát triển thứ yếu và bắt đầu sự di chuyển toàn thể công việc vào một ṿng xoắn ốc cao hơn.

Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng các luồng hoả từ đáy xương sống và tam giác lá lách là các luồng hoả của vật chất (fires of matter). Chúng ta đừng quên điều này mà cũng đừng lầm lẫn. Chúng không có tác dụng tinh thần và chính chúng chỉ liên hệ với vật chất ở nơi nào có các trung tâm lực. Các trung tâm lực này luôn luôn được hướng dẫn bởi trí tuệ hay bởi sự cố gắng có ư thức của thực thể thông linh ở bên trong; nhưng thực thể thông linh đó bị giữ lại với các hiệu quả mà y t́m kiếm để thực hiện cho đến khi các hiện thể mà xuyên qua đó y đang mưu t́m biểu lộ, và các trung tâm điều khiển, đem lại năng lượng, tạo ra đáp ứng thích đáng. Vậy chỉ khi nào có sự tiến hoá thích hợp và khi vật chất của các hiện thể này được cấp đủ năng lượng do chính các tiềm hoả của nó để y có thể hoàn thành mục đích được duy tŕ lâu dài của y. Do đó, trở lại sự cần thiết của việc đi lên của luồng hoả vật chất tới vị trí riêng của nó, và việc phục hồi của nó do việc nằm yên lâu ngày và h́nh như băng hoại trước khi nó có thể được hợp nhất với Cha Trên Trời, Thượng Đế Ngôi Ba. Ngài chính là Đấng Thông Tuệ của chính vật chất. Lần nữa, sự tương ứng vẫn đúng. Ngay đến nguyên tử của cơi trần cũng có mục tiêu của nó, các khai mở của nó và sự thành đạt cuối cùng của nó.

Các khía cạnh khác của vấn đề này như là các trung tâm lực và mối liên quan của chúng với trí tuệ, lửa của Tinh Thần

và trí tuệ, và sự phối hợp cuối cùng của ba lửa này sẽ được bàn đến trong hai đoạn chính sắp tới. Trong đoạn này, chính chúng ta hạn chế việc khảo sát vật chất và lửa, và đừng nên ra ngoài đề nếu không sẽ có sự lầm lẫn.

 

Làm sao luồng hoả ở đáy xương sống có thể đi lên, h́nh thức đi lên của luồng hoả (tuỳ theo Cung), sự phối hợp của luồng hoả với lửa prana (pranic fire) và việc tiến lên hợp nhất của chúng sau đó, là những việc thuộc về quá khứ đối với nhiều người, và may thay, đối với nhân loại, công việc được hoàn thành mà không cần tập trung nỗ lực. Pha trộn thứ hai với lửa trí tuệ, phải được thực hiện. Cho đến nay, hiếm có người nào đă thành công trong việc điều khiển luồng hoả đi lên nhiều hơn một trong số ba vận hà của cột xương sống; do đó 2/3 hiệu quả của nó trong đa số con người vẫn c̣n bị ràng buộc vào sự kích thích của các cơ quan nhân giống của nhân loại. Chỉ khi nào luồng hoả chạy ṿng để lên một vận hà khác không bị ngăn trở, th́ sự phối hợp hoàn toàn với lửa trí tuệ được thực hiện, và chỉ khi luồng hoả tiến lên theo dạng h́nh học khắp cả ba vận hà với tác động đồng thời và với rung động đồng nhất – th́ luồng hoả xà thực sự mới được khơi hoạt đầy đủ, và do đó có thể hoàn thành công việc thanh lọc của nó qua việc đốt cháy mạng lưới giam giữ và việc đốt các cấu tử tách rời. Khi điều này được thành đạt, vận hà tam phân trở thành vận hà duy nhất. Đó là điều nguy hiểm.

Không c̣n điều ǵ liên quan đến đề tài này có thể được truyền đạt thêm. Kẻ nào hướng các nỗ lực của ḿnh vào việc kiểm soát các luồng hoả vật chất (chắc chắn là có nguy hiểm), là đang đùa với lửa, theo nghĩa đen, việc đó có thể huỷ diệt y. Y không nên liếc mắt nh́n ra sau, mà nên nâng tầm mắt lên các cơi, nơi mà Tinh Thần bất tử của y đang ngự, và lúc bấy giờ bằng kỷ luật tự giác, kiểm soát trí tuệ và dứt khoát thanh luyện các thể vật chất, dù là thuộc thể tinh anh hoặc thể hồng trần, làm cho chính ḿnh thích hợp để trở thành một hiện thể cho sự giáng sinh thiêng liêng và dự vào cuộc Điểm Đạo đầu tiên. Khi Chúa – hài -đồng (Christ-child) (theo cách diễn tả hoa mỹ của Thiên Chúa giáo) được sinh ra trong tâm-động (cave of the heart) lúc bấy giờ vị khách thiêng liêng đó có thể kiểm soát một cách hữu hiệu các thể vật chất thấp bằng tâm

140      trí được thánh hoá. Chỉ khi nào thể Bồ đề đă ngày càng kiểm soát được phàm ngă, xuyên qua cơi trí tuệ (do đó cần kiến tạo giác tuyến), phàm ngă sẽ đáp ứng với những ǵ ở bên trên, và các luồng hoả bên dưới tiến lên, phối hợp với hai luồng hoả trên. Chỉ khi nào Tinh Thần, do quyền năng của tư tưởng, kiểm soát được các hiện thể vật chất, th́ sự sống nội tâm mới chiếm lấy đúng vị trí của nó, bấy giờ, Thượng Đế nội tâm mới toả chiếu và rực sáng cho đến khi h́nh hài bị che mất đi, “Thánh đạo ngày càng chiếu diệu cho đến lúc Ngày huy hoàng thuộc về chúng ta”

 

 

ĐOẠN E

CHUYỂN ĐỘNG TRÊN CƠI TRẦN

Tôi xin nêu ra một cách sơ lược và nhấn mạnh sự kiện rằng hoạt động mà chúng ta đang xét đến là hoạt động do ở lửa tiềm tàng trong chính vật chất, một hoạt động vốn là đặc điểm hàng đầu và là tính chất cơ bản của Cung Nguyên Thuỷ, tức cung Thông Tuệ Linh Hoạt. Nói cách khác đó là khả năng nổi bật của Thượng Đế Ngôi Ba, của Brahma được

142      xem như Đấng Sáng Tạo và khả năng này là sản phẩm hay là kết quả của cuộc biểu lộ trước đây. Mỗi một trong ba Ngôi Thượng Đế, khi ở vào thời kỳ biểu lộ và hiện thân như thế, sẽ tiêu biểu cho một tính chất nào đó chiếm ưu thế hơn các tính chất khác. Mỗi Ngôi Thượng Đế, dù nhiều dù ít cũng tiêu biểu cho Ba Ngôi, nhưng mỗi Ngôi biểu thị cho một trong Ba Ngôi một cách sâu xa, để rồi có thể được nhận ra như là chính Ngôi đó. Chẳng hạn với đường lối như nhau, các Chân Thần lâm phàm khác nhau đón nhận một rung động vốn nằm trong giới hạn chính yếu của các Chân Thần đó, dù Chân Thần cũng có thể có được các rung động thấp hơn phụ

thuộc vào chúng. Chúng ta hăy nhận thức rơ điều này, v́ chân lư được biểu hiện chính là chân lư căn bản.

 

1. Mục đích tam phân

 

2. Chức năng tam phân

 

3. Cách hoạt động tam phân.

 

Thượng Đế Ngôi Ba tức là Brahma, được tiêu biểu bằng trí tuệ linh hoạt; phương cách hành động của Ngài là những ǵ mà chúng ta gọi là sự quay, hay sự xoay ṿng có tính toán của vật chất thuộc Thái dương hệ, trước nhất dưới h́nh thức một tổng thể vĩ đại, phát khởi chuyển động loại vật chất bị hạn chế bởi toàn bộ ṿng giới hạn và thứ hai là phân hoá nó, theo bảy tốc độ hay bảy mức rung động thành ra bảy cơi.

Ở mỗi một trên các cơi này, tiến tŕnh được nối tiếp và vật chất của bất cứ cơi nào trong ṿng giới hạn của cơi đó, trước tiên biểu lộ dưới h́nh thức tổng thể, rồi kế đó dưới h́nh thức bảy biến phân. Biến phân vật chất này được tiến hành do chuyển động quay và được kiểm soát bởi Định Luật Tiết Kiệm (một trong các định luật vũ trụ) mà chúng ta sẽ bàn tới sau này, chỉ tạm ngừng ở đây để nói rằng Định Luật Tiết Kiệm này có thể được xem như yếu tố kiểm soát trong sự sống của Thượng Đế Ngôi Ba. Do đó :

Mục tiêu của Ngài là phối hợp hoàn hảo giữa Tinh thần và vật chất.

Chức năng của Ngài là vận dụng vật chất đă biểu lộ (prakriti) để làm cho nó thích hợp hay tương xứng với sự đ̣i hỏi và các nhu cầu của Tinh thần.

Phương cách hành động của Ngài là nhờ chuyển động quay (rotary) hay là nhờ sự xoay  (revolution) của vật chất để

 

tăng thêm tính linh động/ tính hoạt động và nhờ đó khiến cho vật chất dễ uốn nắn hơn(1).

Tất cả ba quan niệm này đều do Định luật Tiết Kiệm chi phối, đó là Định luật Thích Nghi (Law of Adap-tation) trong thời gian và không gian, hay là cách làm dễ nhất. Cách làm dễ nhất này là những ǵ được t́m kiếm và theo đuổi ở khía cạnh vật chất của cuộc sống. Một cách ngẫu nhiên, Brahma biểu lộ Ư chí, bởi v́ Ngài là thiên ư (purpose) và Bác ái, bởi v́ trong Thái dương hệ này bác ái là đường lối ít đối kháng nhất. Quả thật đây là một ư tưởng huyền bí đáng được xem xét, tuy nhiên phải nhớ rằng Ngài chủ yếu là hoạt động và thông tuệ với mục đích thích nghi và đó là đặc điểm chính của Ngài.

Thượng Đế Ngôi Hai tức là Vishnu, Cung Minh Triết Thiêng Liêng, nguyên khí Bồ đề vĩ đại đang t́m cách phối hợp với nguyên khí Thông Tuệ được đặc trưng bởi Bác Ái. Hoạt động của Ngài là hoạt động mà chúng ta có thể gọi là xoắn ốc theo chu kỳ (spiral cyclic). Chính Ngài tận dụng chuyển động quay của mọi nguyên tử, Ngài đưa thêm vào đó h́nh thức chuyển động riêng của Ngài hay là chuyển động xoắn ốc có định kỳ, và do sự tuần hoàn theo một quỹ đạo hay là một đường gần h́nh cầu (đường này chạy ṿng theo một điểm tập trung ở giữa bằng một ṿng xoắn ốc bao giờ cũng đi lên), hai kết quả được tạo ra:

a. Ngài tập hợp các nguyên tử lại thành h́nh hài.

1 Có lẽ nhờ thiên tính do Ngôi Ba đem lại này mà khi nhiệt độ của vật chất tăng cao (tức là chuyển động quay chung quanh nhân của âm điện tử tăng lên) thân tre cong được uốn thẳng lại khi hơ nóng; kim loại nấu chảy được đúc thành h́nh dạng theo ư muốn…. (ND)

b. Nhờ bởi các h́nh hài này, Ngài có được sự tiếp xúc cần thiết và phát triển tâm thức đầy đủ trên năm cơi tiến hoá của con người, dần dần cải thiện và thanh luyện các h́nh hài khi mà Tinh Thần Bác Ái hay là Ngọn Lửa Thiêng bao giờ cũng tiến lên theo h́nh xoắn ốc, hướng về mục tiêu của nó, mục tiêu đó cũng chính là cội nguồn từ đó nó phát xuất.

Các h́nh hài này là toàn thể mọi khối cầu (spheres) hay các nguyên tử trong Thái dương hệ hay trong ṿng giới hạn thái dương và trong bảy biến phân chính yếu của chúng, chúng là các bầu của bảy Chơn Linh (Spirits), hay bảy Hành

144 Tinh Thượng Đế. Tất cả các bầu nhỏ hơn ở cấp độ dưới các bầu chính yếu này, gồm mọi mức độ biểu lộ xuống đến tinh hoa hành khí trên cung giáng hạ tiến hoá (1).

Chúng ta cần nhớ rằng trên Đường Tiến Hoá giáng hạ, tác động của Brahma được cảm nhận đầu tiên, khi đang t́m kiếm con đường dễ nhất. Trên Đường Tiến Hoá Thăng Thượng, công việc của Thượng Đế Ngôi Hai được cảm nhận bắt đầu từ một điểm trong thời gian và không gian đang ẩn giấu bí nhiệm của dăy thứ hai, nhưng đang t́m thấy điểm rung động được gia tốc của nó, hay là sự hợp nhất của hai cách biểu lộ -chuyển động quay xoắn ốc có chu kỳ -ở phần giữa của những ǵ chúng ta gọi là dăy thứ ba. Điều này, sau hết, chính là sự phối hợp hoạt động của Brahma với diễn

1 Tinh hoa Hành khí được xem như bao gồm mọi tập hợp vật chất (aggregations of matter), ở một trong sáu cơi phụ phi nguyên tử của cơi trí và cơi dục vọng – chính các tập hợp này không được dùng như là các h́nh hài dành cho bất cứ thực thể nào ẩn bên trong, mà được dùng như là vật chất nhờ đó các h́nh hài này có thể được tạo thành.

tŕnh hướng thượng của Vishnu. Chúng ta có sự tương ứng với điều này trong toàn bộ các hiệu quả xảy ra trong các căn chủng thứ hai và thứ ba.

Hoạt động của Thượng Đế Ngôi Hai được xúc tiến theo Định Luật Hút của vũ trụ. Đối với một trong các phân chi của nó, Định Luật Tiết Kiệm có một định luật phụ về sự phát triển nổi bật, mệnh danh là Định Luật Đẩy. Do đó, Định Luật Hút và Định Luật Tiết Kiệm vũ trụ là lư do tồn tại (nh́n từ một khía cạnh) của sự đẩy vĩnh cửu đang diễn ra v́ Tinh Thần bao giờ cũng tự t́m cách thoát ly ra khỏi h́nh hài. Trạng thái vật chất luôn luôn đi theo con đường dễ dàng nhất và đẩy lùi mọi khuynh hướng tạo thành nhóm, trong khi đó, Tinh Thần, do Định Luật Hút chế ngự, bao giờ cũng t́m cách tự tách ḿnh ra khỏi vật chất, bằng phương pháp thu hút một loại vật chất ngày càng thích hợp hơn, trong tiến tŕnh phân biệt giữa thực với hư và đi từ ảo ảnh này đến ảo ảnh khác cho đến khi các nguồn vật chất đă được tận dụng đầy đủ.

Sau rốt, Chủ Thể Nội Tâm của h́nh hài cảm nhận được sự thôi thúc hoặc sức lôi cuốn hấp dẫn của chính Bản Ngă của nó. Thí dụ, Chân Thần nhập thế lạc mất vào trạng thái hỗn độn của ảo ảnh, cuối cùng bắt đầu nhận ra (dưới Định Luật Thu Hút) tần số rung động của chính Chân Ngă của nó có vai tṛ đối với nó y như Thượng Đế của chính hệ thống của Ngài, tức là vị Thượng Đế riêng của nó trong ba cơi thu thập kinh nghiệm. Sau này, khi mà chính Chân Ngă thể được nhận ra như ảo ảnh, khi mà tần số rung động của Chân Thần được cảm nhận và sự sống thiêng liêng (jiva) đang tác động theo cùng một định luật, vạch lại con đường riêng của nó xuyên qua vật chất của hai cơi tiến hoá siêu nhân loại, cho đến khi nó hoà nhập vào trong chính bản thể của nó.

Do đó :

Mục tiêu của Thượng Đế Ngôi Hai là tạo ra tâm thức, phải được hoàn thành trong việc hợp tác với Thượng Đế Ngôi Ba.

Chức năng của Ngài là kiến tạo các h́nh hài để trở thành các dụng cụ thu thập kinh nghiệm của Ngài.

Phương cách hành động của Ngài là tiến hành công việc theo chu kỳ và theo đường xoắn ốc, ṿng quay của bánh xe sự sống trong các chu kỳ được sắp xếp sẵn cho một mục đích đặc biệt và sự tiến triển của các bầu vật chất này chung quanh một trung tâm cố định, bên trong phạm vi thái dương.

 

Ba quan niệm này do Định luật Hút chế ngự hay là định luật đang chế ngự sự tương tác, hay là tác động và phản tác động.

 Giữa Thái Dương và sáu huynh đệ của Thái Dương.

Giữa bảy cơi xoay quanh của Thái Dương hệ.

Giữa mọi vật trong chất liệu của mọi h́nh hài, chính các bầu vật chất và tập hợp của các bầu đó đang là hiện thân trong các h́nh hài của các bầu khác nữa.

 

Thượng Đế Ngôi Một (The First Logos). Thượng Đế Ngôi

Một là Cung Ư Chí Vũ Trụ. Phương cách hoạt động của Ngài

theo nghĩa đen là tiến về trước của ṿng giới hạn thái dương

146      xuyên qua không gian, và cho đến cuối kỳ đại khai nguyên này hay ngày của Brahma (chu kỳ Thượng Đế) chúng ta sẽ không thể nhận thức được trạng thái thứ nhất tức trạng thái ư chí hay quyền năng theo đúng bản chất của nó. Ngày nay, chúng ta biết trạng thái đó dưới h́nh thức ư chí tồn tại (will to exist), biểu lộ qua vật chất của các h́nh hài (Cung Nguyên Thuỷ và Cung Thiêng Liêng), và chúng ta biết trạng thái đó

như là những ǵ mà theo một cách huyền bí nào đó, nối liền Thái dương hệ với trung tâm vũ trụ của Thái dương hệ. Theo một cách mà chúng ta không thể nhận thức được, Thượng Đế Ngôi Một thu nhặt ảnh hưởng của các tinh toà (cḥm sao) khác. Khi trạng thái thứ nhất này được hiểu rơ hơn (trong kỳ đại khai nguyên sắp đến) công việc của bảy Đấng Rishis của cḥm Đại Hùng Tinh (Great Bear)(1) và ảnh hưởng tối thượng của sao Sirius sẽ được hiểu rơ ; trong kỳ biểu lộ hiện tại của Đấng Con, hay trạng thái Vishnu, chúng ta liên hệ chặt chẽ hơn với Cḥm Sao Rua (Pleiades) và ảnh hưởng của chúng xuyên qua Thái dương, và liên hệ với hành tinh chúng ta qua Kim Tinh (Venus).

Vấn đề về Thượng Đế Ngôi Một, chỉ biểu lộ liên quan với hai Ngôi kia trong Thái dương hệ là một bí nhiệm sâu xa mà ngay cả những Đấng đă đạt đến mức điểm đạo thứ sáu cũng không hiểu được tường tận.

Thượng Đế Ngôi Một biểu hiện cho “ư chí muốn sống”(“will to live”) và chính là qua phương tiện của Ngài mà các Trí Tinh Quân (Manasaputras) xuất hiện ra ngoại cảnh liên quan đến các huyền giai nhân loại và thiên thần. Trong Thái dương hệ này, sự phối hợp của Cung Minh Triết Thiêng Liêng và Cung Nguyên Thuỷ, tức cung chất liệu thông tuệ hợp thành cuộc tiến hoá song đôi vĩ đại; bối cảnh của cả hai Thực Thể Thông Linh vũ trụ này là một Thực Thể Thông Linh khác, Ngài là hiện thân của ư chí và Ngài là vị

1 “Người theo Ấn giáo đặt bảy vị Thánh Triết (Rishis) cổ sơ trong cḥm sao Đại Hùng (Great Bear). Các nguyên mẫu (prototypes) hay cội nguồn làm sinh động của bảy Hành Tinh Thượng Đế, được xem như là bảy Đấng Cao Cả (Existences) đang tác động qua bảy Ngôi sao của Cḥm Sao Con Gấu”.              GLBN  II, 668.

vận dụng h́nh hài – dù không phải là h́nh hài của bất cứ thực thể nào khác hơn là các Đại Thiên Thần Kiến Tạo và các huyền giai nhân loại trong thời gian và không gian. Ngài là nguyên khí sinh động; trạng thái ư chí muốn sống của bảy Huyền giai. Tuy nhiên, bảy Huyền giai này (như bà Blavatsky nói) là tia sáng minh triết thất phân, con rồng dưới bảy dạng thể (GLBN I, 100-108) (1). Đây là một bí nhiệm sâu 147 xa và chỉ một đầu mối về điều đó có thể được con người t́m thấy vào lúc này trong việc chiêm ngưỡng chính bản thể của ḿnh trong ba thế giới biểu lộ của con người. Giống như Thượng Đế chúng ta đang t́m cách biểu lộ ra ngoại cảnh qua Thái dương hệ của Ngài dưới h́nh thức tam phân của nó, trong đó Thái dương hệ hiện nay là Thái dương hệ thứ hai, cũng vậy, con người mưu t́m sự biểu lộ ra bên ngoài qua ba thể của ḿnh – thể xác, thể cảm dục và thể hạ trí. Hiện nay, con người đang an trụ vào thể cảm dục, hay là vào trạng thái thứ hai của y, giống như Thượng Đế chưa phân hoá đang an

1 Trong tác phẩm Five Years of Theosophy, trang 102, Subba Row nói: “Theo qui tắc chung, khi nào bảy thực thể được nhắc đến trong khoa học huyền bí cổ Ấn Độ có liên quan đến bất luận cái ǵ, bạn phải giả dụ rằng bảy thực thể này xuất hiện từ ba thực thể đầu tiên; và khi đó một lần nữa các thực thể này tiến hoá ra từ một thực thể duy nhất hay là Chân Thần. Lấy một thí dụ quen thuộc, bảy tia sáng màu trong tia sáng Mặt trời tiến hoá ra từ ba tia có màu nguyên thuỷ; ba màu nguyên thuỷ này cùng hiện hữu (coexist) với bốn màu thứ cấp trong tia sáng mặt trời. Một cách tương tự, ba thực thể nguyên thuỷ vốn đưa con người vào hiện tồn, cùng hiện hữu trong con người với bốn thực thể thứ cấp, các thực thể này xuất phát từ các kết hợp khác với ba thực thể nguyên thuỷ”. 

GLBN  I, 190, 191)

trụ vào trạng thái thứ hai/ ngôi hai của Ngài. Theo thời gian và không gian, như hiện nay chúng ta nhận thấy, toàn thể các Chân Thần nhập thế đều bị chế ngự bởi cảm giác, xúc động và dục vọng chứ không phải bởi ư chí, tuy thế, đồng thời trạng thái ư chí thống ngự sự biểu lộ, v́ Chơn ngă, là cội rễ của phàm ngă, biểu lộ ư chí bác ái.

Điều khó hiểu là ở chỗ thể trí hữu hạn không thể hiểu được ư nghĩa của sự biểu lộ tam phân này, nhưng mà bằng sự trầm tư nghiền ngẫm về Phàm ngă và mối liên hệ giữa Phàm ngă với Chân ngă vốn là trạng thái bác ái và mặc dù có liên quan với sự biểu lộ trong ba cơi thấp, chân ngă cũng là trạng thái ư chí, sẽ hiện ra một ít ánh sáng yếu ớt trên cùng các vấn đề được nêu lên về Thượng Đế (Deity), hay là được mở rộng từ các phạm vi tiểu vũ trụ đến phạm vi đại vũ trụ.

Trạng thái Đại Thiên Thần hay Thượng Đế Ngôi Một (biểu hiện cho ư chí vũ trụ) được kiểm soát bởi Định Luật Tổng Hợp, tức định luật vũ trụ chi phối khuynh hướng hợp nhất; chỉ trong trường hợp này, không phải là sự hợp nhất của vật chất và Tinh Thần, mà là sự hợp nhất của 7 thành 3 rồi thành 1. Ba h́nh ảnh này chủ yếu thay thế cho Tinh Thần, cho phẩm tính, cho nguyên khí chớ không phải chủ yếu cho

148      vật chất, mặc dù vật chất vốn được truyền linh hứng bằng tinh thần, lại phù hợp hơn hết. Định luật Tổng hợp có liên hệ trực tiếp với Đấng Duy Nhất, Đấng này c̣n cao cả hơn Thượng Đế của chúng ta và là định luật kiểm soát được Ngài áp dụng vào Thượng Đế của Thái dương hệ chúng ta. Đây là một mối liên quan về tinh thần hướng tới ư niệm trừu tượng hay là hướng đến sự tổng hợp các yếu tố tinh thần sẽ đưa đến kết quả trong việc trở về có ư thức của chúng (toàn thể điểm then chốt ẩn dưới từ ngữ “có ư thức”). Đối với điểm tổng hợp

vũ trụ hay là điểm hợp nhất với cội nguồn của các Ngài. Cội nguồn của các Ngài là Đấng Bất Khả Tư Nghị (One About Whom Naught May Be Said -tức Vũ Trụ Thượng Đế -ND), như trước đây chúng ta đă thấy.

Do đó, liên quan đến Thượng Đế Ngôi Một, chúng ta có thể tóm tắt như đă tóm tắt với các Thượng Đế Ngôi khác :

Mục tiêu của Ngài là tổng hợp các Chơn Linh (Spirits) đang hoạch đắc tâm thức qua sự biểu lộ, c̣n Ngài, nhờ kinh nghiệm trong vật chất, đang có được phẩm đức (quality).

Chức năng của Ngài là nhờ vào ư chí, giữ cho các Chơn Linh đó biểu lộ trong thời kỳ mong muốn, và sau đó tách các Chơn Linh này ra, và phối hợp lại với nguồn cội tinh thần của các Ngài. Do đó về căn bản, cần nhớ rằng Thượng Đế Ngôi Một kiểm soát các Thực Thể vũ trụ hay các Thực Thể ngoài Thái dương hệ; Thượng Đế Ngôi Hai kiểm soát các thực thể thuộc thái dương (solar entities), Thượng Đế Ngôi Ba kiểm soát các thực thể thuộc thái âm (lunar entities) và các thực thể tương ứng của các thực thể này ở nơi khác trong Thái dương hệ.

 

Không nên đi quá xa vào chi tiết ở qui tắc này chừng nào mà trí tuệ con người c̣n ở mức độ hiện tại. Bí nhiệm ẩn dưới việc hiểu được tất cả những ǵ được xúc tiến trong sự hợp tác thiêng liêng vốn có nền tảng của nó bên ngoài Thái dương hệ. Như thế, Thượng Đế Ngôi Một cũng được gọi là Đấng Huỷ Diệt v́ Ngài là ư niệm trừu tượng khi xét từ dưới lên. Công việc của Ngài là tổng hợp Tinh thần với Tinh thần, sự trừu

149      xuất cuối cùng của tinh thần ra khỏi vật chất và sự hợp nhất của tinh thần với cội nguồn vũ trụ của chúng. Như vậy, Ngài cũng là Đấng tạo ra chu kỳ qui nguyên, hay là sự tan ră h́nh hài – h́nh hài mà từ đó Tinh Thần đă tách ra.

Nếu chúng ta đưa sự tương đồng xuống đến tiểu thiên địa, để có một cái nh́n thoáng qua về cùng ư tưởng, và nhờ đó, có khả năng nhận thức dễ dàng hơn nhiều. Chân Ngă (đối với con người trên cơi trần cũng là những ǵ mà Thượng Đế có được đối với Thái dương hệ của Ngài) cũng là ư chí linh hoạt, kẻ phá huỷ h́nh hài, tác nhân tạo nên tan ră và là Đấng Duy Nhất triệt thoái con người tâm linh nội tại ra khỏi ba thể của y; y thu hút chúng vào chính y, trung tâm của hệ thống bé nhỏ của y. Chơn ngă nằm bên ngoài vũ trụ xét về con người ở trên cơi trần và khi hiểu được điều này, có thể đưa đến việc làm sáng tỏ vấn đề vũ trụ thực sự, bao hàm Thượng Đế và “các linh hồn trong ngục tù” (“the spirits in prison”) như Cơ Đốc giáo đă diễn tả.

c. Cách hành động của Ngài là luỹ tiến; ư chí nằm sau sự phát triển tiến hoá là ư chí của Ngài và chính Ngài hướng dẫn Tinh Thần tiến lên thông qua vật chất cho đến khi rốt cuộc Tinh Thần thoát khỏi vật chất, nhờ hoàn thành được hai việc:

Thứ nhất, gia thêm phẩm chất vào phẩm chất, và do đó nổi bật lên, cộng thêm với khả năng thu lượm được mà kinh nghiệm đă sản sinh ra.

Thứ hai, tăng gia độ rung động của chính vật chất bằng năng lượng riêng của nó, để cho vật chất vào thời qui nguyên và lẩn khuất sẽ có được hai đặc tính chính, -đó là tính hoạt động, tức là kết quả của Định Luật Tiết Kiệm và tính thu hút kép (dual magnetism), vốn sẽ là kết quả của Định Luật Thu Hút.

Cả ba quan niệm này đều do Định Luật Tổng Hợp chế ngự, đó là định luật về ư chí hiện tồn có mạch lạc, không 150 những kéo dài trong thời gian và không gian mà c̣n trong

một chu kỳ rộng lớn hơn.

Các phát biểu sơ khởi này đă được đưa ra với nỗ lực chứng tỏ sự tổng hợp của tổng thể. Khi sử dụng ngôn từ, ta ắt phải chịu hạn chế và không thể tŕnh bày hết ư tưởng, các từ ngữ theo nghĩa đen đều che giấu các ư tưởng, làm giảm sự trong sáng của chúng và làm cho chúng mơ hồ do cách diễn tả. Công việc của Thượng Đế Ngôi Hai và Thượng Đế Ngôi ba (hiện là việc tạo ra biểu lộ ngoại cảnh của Tinh Thần bản thể) nói chung th́ dễ hiểu hơn là công việc huyền bí của Thượng Đế Ngôi Một, vốn là công việc của ư chí làm sinh động.

Trong các thuật ngữ nói về lửa, một khía cạnh diễn tả khác có thể làm sáng tỏ.

Thượng Đế Ngôi Ba là lửa trong vật chất. Ngài cháy bằng sự ma sát và đạt tốc độ và gia tốc mức rung động bằng sự quay của các khối cầu, như vậy, sự tương tác của chúng tạo nên sự ma sát lẫn nhau.

Thượng Đế Ngôi Hai là lửa Thái Dương. Ngài là lửa của vật chất và lửa điện của Tinh Thần, được trộn lẫn, tạo ra trong thời gian và không gian, loại lửa mà chúng ta gọi là lửa thái dương. Ngài là đặc tính của lửa ngọn (flame), hay là ngọn lửa chính yếu được tạo ra bởi sự phối hợp này. Sự tương ứng với lửa này có thể nhận thấy được trong lửa bức xạ của vật chất, thí dụ, trong sự phóng phát từ mặt trời trung ương, từ một hành tinh hay từ con người, mà sự phóng phát sau cùng này được chúng ta gọi là từ điển. Sự phóng phát của con người, hay rung động đặc biệt, là kết quả của sự phối hợp tinh thần và vật chất, cùng với sự thích ứng tương đối của vật chất, hay h́nh hài, đối với sự sống bên trong. Thái dương hệ biểu lộ hay mặt trời đang biểu lộ là kết quả sự phối hợp của Tinh Thần (lửa điện) với vật chất (lửa do ma sát) và

sự phóng phát của Đấng Con, trong thời gian và không gian, th́ tuỳ thuộc vào sự thích ứng của vật chất và của h́nh hài đối với sự sống bên trong.

Thượng Đế Ngôi Một là lửa điện, lửa của Tinh Thần thuần khiết. Tuy nhiên, trong lúc biểu lộ, Ngài là Đấng Con, do sự phối hợp với vật chất (Mẹ) Con được tạo ra bởi Đấng ta đă

151 biết. “Ta và Cha Ta là Một” (Thánh Kinh. John 10:30) là câu phát biểu huyền linh nhất trong Thánh Kinh Cơ Đốc giáo, v́ không những liên quan đến sự hợp nhất của con người với cội nguồn của y, tức là Chân Thần, xuyên qua Chân ngă, mà c̣n liên quan đến sự hợp nhất của mọi sự sống với cội nguồn của nó, tức trạng thái ư chí, hay Thượng Đế Ngôi Một. Bây giờ chúng ta sẽ nỗ lực để hạn chế chính chúng ta một cách chặt chẽ vào vấn đề lửa trong vật chất, và tác dụng tích cực của nó trên các thể mà nó là yếu tố linh động, và trên các trung tâm lực đầu tiên đến dưới sự kiểm soát của nó. Theo chúng ta được chỉ dạy, và theo nhận thức thông thường, tác dụng của nhiệt trong vật chất là tạo ra hoạt động mà chúng ta gọi là sự quay hay là xoay ṿng của các khối cầu. Một số cổ thư, trong đó có vài quyển mà phương Tây chưa biết đến, có dạy rằng toàn thể ṿm trời là một bầu bao la, đang xoay ṿng một cách chậm chạp giống như một bánh xe kỳ diệu và trong lúc xoay tṛn, mang theo với nó, toàn thể các cḥm sao và các vũ trụ được chứa bên trong. Đây là một phát biểu không thể được kiểm chứng bằng trí óc hữu hạn của con người ở giai đoạn hiện nay, và với các thiết bị khoa học hiện nay của con người, nhưng, (giống như tất cả các phát biểu về huyền học) nó chứa đựng trong đó hột giống của tư tưởng, mầm mống của các chân lư và manh mối đưa đến bí nhiệm của vũ trụ. Ở đây, chỉ cần nói rằng, chuyển

động quay của các bầu hành tinh trong chu vi Thái dương hệ là một sự kiện về huyền học đă được nhận biết và các chỉ dẫn đều có giá trị để chứng tỏ rằng chính khoa học cũng nêu lên giả thuyết rằng ṿng hạn định thái dương cũng quay một cách tương tự trong địa điểm ấn định của nó giữa các cḥm sao. Nhưng vào lúc này, chúng ta sẽ không bàn đến khía cạnh này của vấn đề, mà sẽ khảo sát chuyển động quay của các bầu hành tinh trong Thái dương hệ và của cái tích chứa của nó -tức là tất cả các bầu nhỏ hơn ở mọi cấp độ -luôn luôn nhớ phân biệt một cách rơ ràng trong trí rằng hiện nay chúng ta chỉ đơn thuần bàn về đặc tính cố hữu của chính vật chất, chớ không bàn về vật chất trong sự hợp tác với đối cực

152      của nó, tức Tinh Thần, sự hợp tác này đưa đến chuyển động xoắn ốc có chu kỳ.

 

Mọi bầu thế giới trong cơ thể đại thiên địa đều xoay tṛn.

Chuyển động quay này tạo nên một số hiệu quả có thể được kể ra như sau :

1. Sự phân ly sinh ra do chuyển động quay. Bằng tác động này, mọi bầu hành tinh trở nên phân hoá, và như chúng ta biết, tạo thành các đơn vị nguyên tử như sau :

Thái dương hệ, được nhận thức như một nguyên tử vũ trụ, tất cả cái được gọi là nguyên tử trong chu vi của nó được xem như là phân tử (molecular).

Bảy “planes”, được xem như bảy bầu hành tinh bao la, đang quay theo vĩ độ (latitudinally) bên trong chu vi mặt trời.

Bảy cung, được xem như bảy h́nh thức che giấu của các Chơn Linh (Spirits), chính các dải màu gần như h́nh cầu đang quay theo kinh độ (longitudinally) và tạo thành (liên quan

 

với bảy planes, một mạng lưới rộng lớn đan kết vào nhau. Hai tập hợp các bầu hành tinh này (gồm các planes và các cung) hợp thành toàn thể Thái dương hệ và tạo ra dạng thức gần h́nh cầu của nó.

Vào lúc này, chúng ta hăy đưa tư tưởng chúng ta ra khỏi các tâm thức đang làm linh hoạt ba loại bầu hành tinh này và tập trung chú tâm của chúng ta vào việc nhận thức rằng mỗi “plane” là một bầu vật chất rộng lớn được kích hoạt bằng tiềm nhiệt và đang tiến về hay đang quay theo một hướng riêng biệt. Mỗi tia sáng bất luận là màu ǵ cũng là một bầu vật chất vô cùng nhỏ đang quay theo một hướng đối nghịch với hướng của các bầu vật chất rộng lớn. Do tác động hỗ tương của chúng, các tia này tạo ra hiệu quả phát xạ lên lẫn nhau. Như thế, do sự tới gần của tiềm nhiệt trong vật chất và sự tương tác của nhiệt đó trên các bầu hành tinh khác mà toàn bộ được tạo ra những ǵ mà chúng ta gọi là “lửa do ma sát”.

Liên quan với hai loại bầu hành tinh này, bằng cách minh hoạ và với mục đích minh giải, chúng ta có thể nói rằng:

 Các bầu vật chất (planes) lớn xoay từ đông sang tây.

 Các tia sáng (rays) xoay từ bắc đến nam.

 

Ở đây, các nhà nghiên cứu phải ghi nhớ kỹ rằng, chúng ta không xét các điểm theo không gian, chúng ta chỉ đơn thuần phân biệt và dùng các từ để làm cho một ư tưởng trừu tượng trở thành dễ hiểu hơn. Theo quan điểm về toàn thể các tia sáng và các bầu vật chất rộng lớn, không có bắc, nam, đông, tây ǵ cả. Nhưng ở điểm này xảy ra một sự tương ứng và một điểm thực sự lư thú, dù là cũng phức tạp. Do sự rất phối hợp này, công việc của Bốn Nghiệp Quả Tinh Quân có thể thành tựu; tứ nguyên (the quaternary) và toàn bộ bốn vị

có thể được xem như là một trong các phối hợp căn bản của vật chất, tạo ra bằng hai sự xoay ṿng của các bầu vật chất rộng lớn và các tia sáng (planes and rays).

Bảy bầu vật chất lớn, tương tự các nguyên tử xoay trên trục riêng của chúng, và phù hợp với những điều được đ̣i hỏi của mọi sự sống nguyên tử.

Bảy phạm vi (spheres) của bất cứ cơi (plane) nào mà chúng ta gọi là cơi phụ (subplanes) cũng tương ứng với hệ thống; mỗi hệ thống có bảy bánh xe của nó đang quay hay các bầu vật chất to lớn xoay ṿng nhờ năng lực có sẵn riêng của chúng, do bởi tiềm nhiệt -tức là nhiệt của vật chất mà theo đó chúng được tạo thành.

Các h́nh cầu hay các nguyên tử của bất luận h́nh thể nào, từ h́nh thể Thượng Đế, mà chúng ta đă bàn đến phần nào, xuống đến cực nguyên tử hồng trần (ultimate physical atom) và vật chất phân tử đang kiến tạo thể xác, tỏ ra có các tương ứng và tương đồng.

Tất cả các h́nh cầu này đều phù hợp với một số qui tắc nào đó, đáp ứng với một số điều kiện và được đặc trưng bởi cùng các tính chất căn bản. Sau này, chúng ta sẽ xem xét các

154      điều kiện này, nhưng hiện giờ phải tiếp tục với hiệu quả của tác động quay.

2. Động lượng (momentum), do đó đưa đến kết quả là lực đẩy (repulsion) được tạo ra bởi chuyển động quay. Chúng ta đă đề cập đến Định Luật về Xung lực (Law of Repulsion) như là một trong các nhánh phụ của đại định luật Tiết Kiệm đang khống chế vật chất. Xung lực được gây ra bởi chuyển động quay và là cơ bản của sự phân ly, sự phân ly này đang ngăn cản sự tiếp xúc của bất cứ nguyên tử nào với bất cứ nguyên tử nào khác, chính nó giữ cho các hành tinh ở các điểm cố

định trong không gian và tách khỏi nhau một cách ổn định; sự phân ly này đang giữ cho chúng ở một khoảng cách nào đó từ trung tâm Thái dương hệ của chúng và cũng giữ cho các cơi và cơi phụ không mất tính đồng nhất về vật chất của chúng. Nơi đây, chúng ta có thể thấy khởi nguyên của cuộc thư hùng dai dẳng giữa Tinh Thần với Vật Chất, vốn là đặc điểm của biểu lộ, một trạng thái đang tác động dưới Định Luật Hút và trạng thái kia bị chế ngự bởi Định Luật Đẩy. Từ vô lượng thời đến vô lượng thời, sự xung đột tiếp diễn, vật chất trở nên kém uy lực. Dần dần (dần dần đến nỗi bị coi như là không có khi nh́n từ cơi hồng trần) mănh lực hút của Tinh Thần đang làm suy yếu sự đối kháng của vật chất, cho đến khi vào cuối các đại chu kỳ thái dương, sự huỷ diệt (như thường được gọi) sẽ xảy ra và Định luật Đẩy bị Định luật Hút vượt qua. Đó là sự huỷ diệt h́nh hài chớ không phải huỷ diệt chính vật chất, v́ vật chất vốn không thể bị huỷ diệt. Điều này ngày nay có thể được nhận thấy trong sự sống tiểu thiên địa và là nguyên nhân của sự tan ră h́nh hài đang tồn tại như là một đơn vị riêng rẽ bằng chính phương pháp đẩy mọi h́nh hài khác. Điều đó có thể được nhận thấy đang được tiến hành một cách từ từ và không đáng kể liên quan với Nguyệt cầu, mặt trăng không c̣n đẩy địa cầu nữa và trao lại chính vật chất của nó cho hành tinh này. H.P.Blavatsky có nói bóng bẩy đến điều này trong bộ Giáo Lư Bí Nhiệm. C̣n tôi nêu ra đây định luật mà theo đó mọi sự đều phải diễn tiến như vậy (1).

1 “Nguyệt cầu (vệ tinh của chúng ta) đang tuôn đổ vào trong bầu thấp nhất của dăy hành tinh chúng ta (bầu D tức “Địa cầu”) tất cả năng lượng và sức mạnh của nó, đồng thời chuyển chúng đến một trung tâm mới, Nguyệt cầu hầu như đang trở thành một hành tinh

3. Hiệu ứng ma sát trên mọi thể nguyên tử khác, tạo ra:

 Sức sống của nguyên tử.

 Sự cố kết của nguyên tử.

 Khả năng hoạt động.

Nhiệt cung cấp cho h́nh hài hỗn hợp, trong đó nó có thể hợp thành một phần chắp vá, dù đó là nhiệt cung cấp bởi sự quay của một hành tinh, bên trong h́nh hài đại thiên địa, hay là sự quay của tế bào trong thể xác bên trong h́nh hài của tiểu thiên địa.

Sự thiêu rụi hay sự phân huỷ cuối cùng khi các lửa tiềm tàng và phát xạ đă hoàn thành một giai đoạn đặc biệt. Đây là bí nhiệm của sự che khuất cuối cùng và của chu kỳ qui nguyên, nhưng không thể tách ra khỏi hai yếu tố khác của lửa thái dương và lửa điện.

 

4. Sự thu hút qua chỗ lơm vốn được nh́n thấy trong mọi khối cầu xoáy tṛn của vật chất nguyên tử ở bất cứ bề mặt nào trong khối cầu, phù hợp với điểm mà trong một hành tinh được gọi là cực Bắc. Một số ư tưởng mà tôi dự định t́m cách truyền đạt có thể được hiểu rơ, do sự khảo cứu nguyên tử như đă được phác hoạ trong tác phẩm của Babbitt “Các Nguyên Lư về ánh sáng và màu sắc” (“Principles of light and colour”) và về sau, trong “Hoá học huyền bí” (Occult Chemistry) của bà Besant. Chỗ trũng này được tạo ra bởi các bức xạ đang phát ra ngược với chiều quay của khối cầu và đi xuống từ hướng bắc nam đến trung điểm. Từ đó, chúng có khuynh hướng gia tăng tiềm nhiệt, tạo ra động lượng phụ và đem lại tính chất đặc thù tuỳ theo nguồn cội mà từ đó bức xạ phát ra. Sự thu hút ngoại bức xạ gần như h́nh cầu này là bí

chết trong đó, từ khi bầu hành tinh chúng ta ra đời, chuyển động quay đă chấm dứt”.            GLBN  I, 179

nhiệm của sự tuỳ thuộc của một khối cầu này vào một khối cầu khác và có sự tương ứng của nó trong sự xoay quanh của một tia sáng xuyên qua bất cứ bầu vật chất nào. Mọi nguyên tử, dù được đặt tên là h́nh bầu dục, chính xác hơn đều là một khối cầu hơi lơm ở một chỗ, đó là vị trí mà thần lực đang làm linh hoạt vật chất của khối cầu, đang tuôn qua. Điều này đúng cho mọi khối cầu, từ mặt trời xuống đến các nguyên tử vật chất mà chúng ta gọi là tế bào trong thể xác. Qua chỗ lơm trong nguyên tử vật chất, lực làm sinh động từ bên ngoài đang chảy vào. Mọi nguyên tử cả dương lẫn âm; nó có tính tiếp thu hay là âm tính nơi nào có liên hệ đến mănh lực đi vào, và dương tính hay phát xạ ở nơi nào có liên hệ đến các bức xạ của chính nó và liên hệ đến hiệu quả trên môi trường của nó.

Điều này có thể cũng được xác định đối với toàn thể ṿng giới hạn của Thái dương hệ liên hệ đến phạm vi vũ trụ của nó. Thần lực tuôn tràn vào Thái dương hệ từ ba hướng xuyên qua ba vận hà:

Mặt Trời Sirius,

Cḥm sao Rua (Pleiades),

Cḥm Đại Hùng Tinh (The Great Bear).

 

Ở đây, tôi muốn nêu ra sự liên quan hay tương ứng trong phát biểu này với một phát biểu, trước khi nói đến bức xạ thái dương và các vận hà mà qua đó nó có thể được nhận ra. Các luồng hay bức xạ này chúng ta gọi là :

 Luồng tiên thiên khí (akashic).

 Luồng điện (electrical).

 Luồng sinh khí (pranic).

 

Khi xét về ư nghĩa huyền bí của những ǵ được gợi ra ở đây, có một điểm cần làm sáng tỏ có thể được đưa ra, chừa lại

phần tŕnh bày về hai mối liên hệ khác cho người nghiên cứu. Đối với Thái dương hệ, cḥm sao Rua là nguồn điện năng và cũng như mặt trời chúng ta là hiện thân của trái tim hay trạng thái bác ái của Thượng Đế (chính Ngài là tim của Đấng Bất Khả Tư Nghị), cũng vậy, cḥm sao Rua là cực âm của Brahma. Hăy suy gẫm điều này, v́ nhiều ư tưởng nằm trong phát biểu này.

Một số phát biểu rộng răi hơn được nêu ra đây liên quan đến sự quay của vật chất và các kết quả tạo ra trong các bầu

157      vật chất khác nhau do việc quay đó. Những ǵ được khẳng định về bất cứ một bầu hay nguyên tử nào cũng có thể được xác nhận cho tất cả, nếu bằng bất cứ cách nào, điều đó là một phát biểu huyền linh về sự kiện, và chúng ta sẽ có thể hoàn thành bốn hiệu quả này:

Phân ly hay là hiệu quả phản kháng,

Xung lượng hay là hiệu quả bên trong,

Ma sát, hiệu quả chung quanh,

Thu hút, hiệu quả tiếp nhận hay hiệu quả thu hút, trong mọi mức độ và mọi kiểu mẫu nguyên tử -một Thái dương hệ, một mặt trời, một hành tinh, một bầu vật chất, một tia sáng, thể của Chơn ngă, hay một tế bào trong cơ thể vật chất.

 

Mỗi bầu vật chất đang quay đều được biểu thị bằng ba tính chất: tĩnh tại (inertia), chuyển động (mobility) và hoà nhịp (rhythm).

Tĩnh tại. Tính chất này biểu thị đặc điểm mỗi nguyên tử vào lúc bắt đầu biểu lộ, tức là lúc bắt đầu một chu kỳ thái dương hay chu kỳ đại khai nguyên (hay 100 năm của Brahma), vào lúc khởi đầu một dăy, một bầu hành tinh hay bất cứ một dạng thức gần như h́nh cầu nào mà không có ngoại lệ. Do đó, phát biểu này bao hàm toàn thể các dạng thức đang biểu lộ bên trong Thái dương hệ.

Chúng ta cần nhớ rơ là chúng ta chỉ xem xét ba tính chất của chính vật chất chớ không xem xét tâm thức. Tĩnh tại là kết quả của sự thiếu hoạt động và sự tương đối yên lặng của lửa vật chất. Các lửa này, trong kỳ qui nguyên, mặc dù tiềm tàng, đă thoát khỏi sự kích động phát xuất từ khối nguyên tử tác động vào h́nh hài và sự tương tác tất nhiên của các h́nh hài lên nhau. Nơi nào có h́nh hài và các Định Luật Đẩy và Hút đang đi vào hoạt động, do đó có thể tạo nên bức xạ, lúc ấy sự kích thích sẽ xảy ra, hiệu ứng phóng phát, và sự gia tốc từ từ sau rốt từ trong chính nguyên tử, do bởi chính chuyển động quay của nó, sẽ tạo ra đặc tính kế tiếp.

 

2. Chuyển động. Các lửa vốn có của vật chất tạo ra chuyển động xoay. Rốt cuộc, việc xoay này đưa đến bức xạ. Bức xạ của vật chất, kết quả của hai loại nhiệt của nó, tất nhiên sẽ tạo nên một hiệu quả trên các nguyên tử khác ở quanh nó (không có ǵ quan trọng dù chung quanh đó là không gian của vũ trụ, không gian của Thái dương hệ hay là chu vi thể xác con người) và tác động hỗ tương cũng như sự tương tác này tạo nên Lực đẩy và lực hút (cự lực và hấp lực) tuỳ theo cực của vũ trụ, của Thái dương hệ hay của nguyên tử hồng trần. Rốt cuộc, điều này tạo nên sự cố kết của h́nh hài; các thể hay là tập hợp các nguyên tử bắt đầu h́nh thành hay biểu lộ và vẫn c̣n tồn tại trong suốt các chu kỳ lớn hay nhỏ cho đến khi tính chất thứ ba được nhận biết rơ ràng.

 

3. Nhịp nhàng, hay là đạt đến điểm cân bằng hoàn hảo và giữ được thăng bằng. Điểm cân bằng hoàn hảo này lúc bấy giờ tạo nên các hiệu quả đặc biệt nào đó có thể được kê khai

 

ra và suy gẫm, dù là đối với thể trí hữu hạn của chúng ta, chúng có thể dường như nghịch thường và mâu thuẫn.

Giới hạn là ở nơi chúng ta cùng là việc sử dụng các ngôn

từ, chớ không phải ở chỗ không chính xác thực sự nào cả. Các

hiệu quả này là:

Tan ră h́nh hài.

Giải phóng tinh hoa mà h́nh hài đang giới hạn.

Các phân ly của Tinh thần và vật chất.

Kết thúc một chu kỳ, dù là thuộc hành tinh, nhân loại hay thuộc thái dương.

Tạo ra sự qui nguyên và kết thúc sự biểu lộ.

Tái hấp thụ của bản thể và phối trộn trở lại vật chất đă phân hoá với căn nguyên của vật chất.

Kết thúc thời gian và không gian như chúng ta hiểu.

Hợp nhất ba luồng hoả và gây ra sự tự bốc cháy (spontanecus combustion), nếu người ta có thể nói như thế.

Hoạt động tổng hợp của vật chất trong ba loại chuyển động – xoay tṛn (rotary), xoắn ốc theo chu kỳ (spiralling cyclic) và tiến tới trước (onward progression), -nó hợp nhất chuyển động sẽ được tạo ra bởi sự tương tác của các lửa của vật chất, của trí tuệ và của Tinh Thần với nhau.

 

Khi điểm hoà nhịp hay cân bằng được đạt đến trong một Thái dương hệ, trong một bầu hành tinh, trong một tia sáng, trong một linh hồn thể và trong thể xác, lúc bấy giờ kẻ chiếm hữu h́nh hài được nới lỏng khỏi ngục tù; y có thể rút về cội nguồn nguyên thuỷ của y và được thoát khỏi lớp vỏ mà từ trước đến giờ tác động như một ngục tù; và y có thể thoát khỏi môi trường mà y đă dùng để thu thập kinh nghiệm và

như là chiến trường giữa các cặp đối hợp. Lúc bấy giờ, lớp vỏ hay h́nh hài thuộc bất cứ loại nào đều tự động tan ră.

 

Mọi bầu vật chất đang quay đều có thể được minh hoạ bằng

cách dùng các biểu tượng vũ trụ tổng quát như được dùng miêu tả

cơ tiến hoá.

Ṿng tṛn (The circle) Ṿng này tượng trưng cho ṿng giới hạn của vật chất chưa phân hoá. Nó thay cho một Thái dương hệ hay cơ thể của Thái Dương Thượng Đế, xét về phương diện tinh anh; nó thay cho một hành tinh hay cơ thể của một Hành Tinh Thượng Đế, xét về phương diện khinh thanh; nó tượng trưng cho cơ thể con người, cũng xét về phương diện khinh thanh và nó thay thế cho tất cả các thể đó vào thời kỳ biểu lộ mới nhất. Sau cùng, nó tượng trưng cho một tế bào đơn lẻ trong hiện thể của nhân loại và cho nguyên tử của nhà hoá học hay vật lư học.

2. Ṿng tṛn có tâm điểm. Ṿng này hàm ư là việc tạo ra nhiệt trong tâm của vật chất; hoả điểm, “moment” của chuyển động quay đầu tiên, điểm căng thẳng thứ nhất của nguyên tử, được tiềm nhiệt kích động, trở thành vùng ảnh hưởng của nguyên tử khác. Hiện tượng này tạo nên bức xạ

160      đầu tiên, lực hút đầu tiên và hậu quả tất nhiên là tạo nên lực đẩy và do đótạora :

3. Ṿng tṛn chia hai. Ṿng này đánh dấu sự quay tích cực và sự khởi đầu chuyển động của nguyên tử vật chất và tạo nên sự trải rộng tiếp theo sau ảnh hưởng của dương điểm (positive point) trong nguyên tử vật chất cho đến khi vùng ảnh hưởng của nó trải dài từ tâm đến ngoại biên. Ở điểm nối tiếp với ngoại biên, nó tiếp xúc với ảnh hưởng của các nguyên tử trong vùng xung quanh nó, bức xạ phát sinh và chỗ lơm xuất hiện đánh dấu sự nhập vào và thoát ra của ḍng thần lực hay nhiệt.

Ở đây, chúng ta chỉ nêu ra việc áp dụng các biểu tượng vũ trụ đối với vật chất và không bàn đến sự biểu lộ từ bất cứ khía cạnh nào khác hơn khía cạnh thuần tuư vật chất. Thí dụ, chúng ta đang áp dụng biểu tượng của điểm trong ṿng tṛn đối với bầu hành tinh vật chất và điểm tiềm nhiệt. Ở điểm này, chúng ta không vận dụng vật chất như đă được làm linh hoạt bởi một thực thể thông linh, đối với vật chất, khi làm linh hoạt như thế, thực thể thông linh trở thành một điểm của sự sống hữu thức.

Chúng ta chỉ đang bàn về vật chất và tiềm nhiệt, với kết quả tạo ra bởi chuyển động quay của nhiệt bức xạ và sự tương tác theo sau của các thể nguyên tử. Do đó, chúng ta bàn về điểm mà chúng ta khởi sụ xem xét trong khi nghiên cứu đoạn thứ năm, chuyển động trong các thể.

4. Ṿng tṛn chia làm bốn. Đây là ṿng tṛn vật chất thực sự, thập giá cánh bằng của Chúa Thánh Thần. Ngài là hiện thân của chất liệu thông tuệ linh hoạt. Ṿng tṛn này chỉ ra tính chất chiều thứ tư của vật chất và sự xuyên thấu của lửa theo bốn chiều, bức xạ tam phân của nó được tượng trưng bằng các tam giác hợp thành bởi thập giá tứ phân. Ṿng này mô tả việc quay theo bốn chiều của bất cứ nguyên tử nào. Điều này không có nghĩa là bất cứ nguyên tử nào cũng có khả năng quay bốn ṿng, song nó chỉ có ư nói tới tính chất chiều đo thứ tư của sự quay vốn là mục tiêu được nhắm vào, và hiện nay, điều đó đang trở nên quen thuộc trong vật chất vào

161      cuộc tuần hoàn thứ tư này và trong dăy thứ tư này. Khi loa tuyến thứ năm hay là luồng thần lực thứ năm trong một nguyên tử trở nên phát triển và khi con người có thể nhận

thức chuyển động quay theo chiều thứ tư, sự chính xác của biểu tượng này sẽ được nhận ra. Lúc bấy giờ, người ta sẽ nhận thấy rằng tất cả các thể trong sự tiến triển của chúng từ tĩnh tại đến nhịp nhàng xuyên qua chuyển động, trải qua mọi giai đoạn, dù chúng là các thể của Thượng Đế, các tia sáng che giấu chính các Hành Tinh Thượng Đế, các bầu vật chất hiện đang tạo thành các thể của một số thực thể thái dương, linh hồn thể (hay là các thể của Chân ngă trên cơi trí, thể xác của con người trong cấu tạo dĩ thái của nó, hay là một tế bào trong thể dĩ thái đó. Tất cả mọi h́nh hài vật chất này (hiện hữu trong chất dĩ thái vốn là chất liệu đích thực của mọi h́nh hài) đều là h́nh trứng nguyên thuỷ chưa phân hoá, lúc bấy giờ chúng trở nên xoay ṿng tích cực hay là biểu lộ tiềm nhiệt; kế đó chúng biểu lộ nhị nguyên tính, hay lửa tiềm tàng và lửa bức xạ; sự biểu lộ của hai lửa này tạo nên kết quả trong chuyển động theo chiều thứ tư, hay là bánh xe, hay là h́nh hài tự quay trên chính nó.

5. Chữ vạn (swastika), hay là lửa trải dài, chẳng những từ ngoại biên đến trung tâm theo bốn hướng, mà c̣n từ từ luân chuyển và phóng phát ra khỏi cũng như chung quanh toàn thể ngoại biên. Điều này hàm ư hoạt động hoàn hảo trong mọi bộ môn vật chất cho đến khi cuối cùng chúng ta có một bánh xe cháy rực, xoay theo mọi cách, với các vận hà lửa từ trung tâm đến ṿng giới hạn , -lửa bên trong, bên ngoài và chung quanh đến khi bánh xe bị thiêu rụi và không c̣n lại ǵ cả trừ ra lửa hoàn toàn.

 

Chúng ta có thể bàn đến vấn đề các trung tâm lực theo ba đường lối. Nhiều điều đă được viết ra và thảo luận có liên quan đến các trung tâm lực và nhiều bí nhiệm hiện hữu đă khêu gợi sự ṭ ṃ của kẻ vô minh và đă cám dỗ nhiều người xen vào những ǵ không liên quan đến họ. Tôi t́m cách minh

162      giải phần nào và nêu ra một góc nh́n mới để xem xét các vấn đề trừu tượng này. Dù ǵ đi nữa, tôi không có ư định xét đến vấn đề ở khía cạnh như là truyền đạt các qui tắc và chi tiết sẽ giúp cho người muốn làm linh hoạt các trung tâm này và đưa chúng vào hoạt động. Ở đây, tôi xin đưa ra một lời cảnh cáo trang nghiêm. Con người hăy tự ḿnh thực hành một đời sống vị tha cao độ, hăy thực hành một kỷ luật giúp cho sự thanh luyện và làm khuất phục các hiện thể thấp của y và hăy nỗ lực bền bĩ để thanh lọc và kiểm soát các thể của ḿnh. Khi y đă thực hành điều này và đă vừa nâng cao, vừa làm ổn định sự rung động của y, y sẽ thấy rằng sự phát triển và vận hành của các trung tâm lực đă được theo đuổi song hành và rằng (tách khỏi sự tham gia sống động của y) công việc đă diễn tiến theo các đường lối mong muốn. Nhiều nguy hiểm và tai hoạ khủng khiếp đang chờ đợi kẻ nào khơi dậy các trung tâm lực này bằng những phương pháp bất chính, và kẻ nào thực nghiệm với các luồng hoả trong cơ thể mà không có được hiểu biết chuyên môn cần thiết. Do các cố gắng của ḿnh, y có thể thành công trong việc khơi hoạt các luồng hoả và làm mạnh lên hoạt động của các trung tâm lực, nhưng y sẽ phải trả giá cho sự vô minh bằng việc huỷ hoại thể chất, khi đốt cháy thể xác hay là bộ óc, trở thành điên cuồng, và khi mở cánh cửa cho các trào lưu và các sức mạnh bất hảo lại có tính cách huỷ diệt. Đó không phải là thiếu can đảm, trong các vấn đề liên hệ đến sự sống nội tâm, nên hành động một cách thận trọng, dè dặt, đó là chỗ phải thận trọng. V́ vậy, người t́m đạo có ba điều phải làm :

 

 

1. Thanh luyện, tuân theo kỷ luật và chuyển hoá phàm ngă gồm ba phần của ḿnh.

 

2. Phát triển kiến thức của chính ḿnh và kiện toàn hạ trí của ḿnh; kiến tạo linh hồn thể bằng các hành vi và tư tưởng tốt lành.

 

3. Phụng sự nhân loại bằng sự hoàn toàn quên ḿnh.

 

Trong khi thực hành điều này, y hoàn toàn tuân theo thiên luật, y tự đưa ḿnh vào đúng điều kiện để luyện tập, làm cho chính ḿnh trở nên thích hợp với việc sau cùng được Điểm Đạo trượng (Trượng: gậy, roi) đặt vào và như thế làm giảm thiểu nguy cơ, vốn đi kèm với việc khơi hoạt luồng hoả.

Tất cả những ǵ được dự tính thực hành trong thiên khái luận này là đưa ra thêm ánh sáng về các trung tâm lực này, để chứng tỏ sự liên hệ hỗ tương của chúng và để phác hoạ các hiệu quả được tạo ra do sự phát triển thích đáng của chúng. Để thực hiện điều này, như đă phát biểu trước, đề tài sẽ được chia thành các đoạn như sau :

 Bản chất các trung tâm lực

 Các trung tâm lực và các cung

 Các trung tâm lực và hoả xà

 Các trung tâm lực và các giác quan

 Các trung tâm lực và điểm đạo

 

Như người ta thấy ở bảng trên, đề tài không những bao quát rộng lớn mà c̣n trừu tượng nữa. Điều này chủ yếu là do sự kiện rằng cho đến khi nhân loại có được nhăn thông một cách thông thường, không phải ở vị thế thẩm tra lại những ǵ được nói đến và phải thừa nhận các phát biểu của những kẻ tự nhận là hiểu biết. Sau này, khi con người có thể thấy và tự chứng minh lấy, người ta có thể kiểm chứng được những

phát biểu này; thời gian vẫn chưa thích hợp ngoại trừ với một ít người.

1. Bản chất của các trung tâm lực.

Chúng ta hăy xét điểm thứ nhất : Tôi muốn kể ra các trung tâm lực được bàn đến trong Bộ luận này, duy tŕ sự kê khai chặt chẽ đối với những ǵ được đưa ra trước đây và không bàn đến tất cả các trung tâm lực, mà chỉ bàn về những ǵ liên quan chặt chẽ với sự tiến hoá gồm năm phần của con người.

Như đă nói ở trước, con người, vào lúc kết thúc cuộc hành hương dài dằng dặc của ḿnh, phải trải qua năm giới trong thiên nhiên, trên con đường trở về với cội nguồn của ḿnh:

 

1. Giới khoáng chất (mineral kingdom)

 

2. Giới thực vật (vegetable kingdom)

 

3. Giới động vật (animal kingdom)

 

4. Giới nhân loại (human kingdom)

 

5. Giới siêu nhân hay giới tinh thần (spiritual kingdom) và sẽ phát triển tâm thức đầy đủ trên năm cơi :

 

 Cơi trần

 Cơi cảm dục

 Cơi trí

 Cơi trực giác hay cơi bồ đề

 Cơi tâm linh hay Niết bàn. bằng năm giác quan và các mối tương quan của chúng trên cả năm cơi : thính giác, vị giác, khứu giác, xúc giác và thị giác.

 

Theo thời gian, cuộc tuần hoàn thứ năm sẽ đến, 3/5 gia đ́nh nhân loại sẽ đạt đến tŕnh độ này và sẽ có năm giác quan hoạt động đầy đủ trên ba cơi thuộc ba cơi thấp; hai cơi c̣n lại sẽ phải chinh phục trong hai cuộc tuần hoàn c̣n lại. Tôi xin

nêu ra đây một sự kiện ít được hiểu đến, đó là trong cuộc tiến hoá gồm năm phần này của con người và trong Thái dương hệ này, hai cuộc tuần hoàn c̣n lại trong bất cứ chu kỳ hành tinh nào, căn chủng thứ sáu và thứ bảy trong các chu kỳ này đều luôn luôn có tính chất tổng hợp; nhiệm vụ của họ là qui tụ và tổng hợp những ǵ đă được thành toàn trong năm giống dân trước. Thí dụ, trong căn chủng này, phụ chủng (sub­races) sáu và bảy sẽ tổng hợp và phối trộn những ǵ mà năm phụ chủng trước đă thực hiện. Sự tương đồng là trong Thái dương hệ này hai cơi cao nhất (Cơi Thượng Đế và cơi Chân Thần) đều có tinh chất tổng hợp. Một cơi là cơi tổng hợp đối với Thượng Đế từ đó Ngài rút tinh hoa khi biểu lộ; cơi kia là cơi tổng hợp đối với Chân Thần, từ đó Chân Thần tách ra và tích chứa các kết quả của biểu lộ.

Do đó, ở đây, chúng ta sẽ chỉ quan tâm tới các trung tâm lực có liên quan tới cuộc tiến hoá của các thể tinh anh, sự tiến hoá tâm linh, chớ không quan tâm tới các trung tâm lực liên hệ với cuộc tiến hoá và sự sinh sôi nảy nở của nhục thể. Có năm trung tâm lực loại này :

 

1. Trung tâm lực ở đáy xương sống, trung tâm lực duy nhất có liên quan với những ǵ có một hiệu quả vật chất.

 

2. Trung tâm lực đan điền, trung tâm lực quan trọng nhất trong cơ thể theo quan điểm cơi cảm dục.

 

3. Trung tâm lực cổ họng quan trọng nhất theo quan điểm cơi trí.

 

4. Trung tâm lực nơi vùng tim vốn có mối liên hệ huyền bí với cơi Bồ đề.

 

5. Trung tâm lực đỉnh đầu, có liên quan với cơi Niết Bàn.

 

Chúng ta không bàn đến các trung tâm lực thấp, tức các trung tâm lực liên quan tới sinh sản, mà cũng không nhắc tới

trung tâm lực lá lách có liên quan trực tiếp với thể dĩ thái và là nơi truyền prana, chúng đă được bàn đến ở phần trước rồi.

Các trung tâm lực trong con người, về căn bản liên quan đến trạng thái Lửa trong con người hay với tinh thần thiêng liêng. Chúng dứt khoát là liên hệ với Chân Thần, với trạng thái ư chí, với sự bất tử, sự sống, với ư chí muốn sống và với các quyền năng có sẵn của Tinh Thần. Chúng không liên quan với việc biểu hiện ra ngoại cảnh và sự biểu lộ, mà liên quan với thần lực (force), hay các quyền năng của sự sống thiêng liêng. Sự tương ứng trong Đại vũ trụ có thể được nhận thấy trong thần lực đang vận dụng khối tinh vân vũ trụ, và bởi chuyển động quay xoáy tṛn của nó, mà sau rốt thần lực đó sẽ kiến tạo các tinh vân thành các hành tinh, hay các thể gần h́nh cầu (spheroidal bodies). Mỗi một trong các hành tinh này là một biểu lộ của “ư muốn linh hoạt” của một Đấng vũ trụ nào đó, và là thần lực xoáy lộn, làm xoay tṛn, kiến tạo, củng cố và tiếp tục duy tŕ trong dạng thức cố kết, là thần lực của một Đấng Vũ Trụ nào đó.

Thần lực này có cội nguồn từ trên các cơi trí vũ trụ, từ một số điểm tập trung vĩ đại, ở đó, xuống đến cơi cảm dục vũ trụ, tạo thành các điểm tập trung tương ứng của vũ trụ, và trên cơi phụ dĩ thái vũ trụ thứ tư (tức cơi Bồ đề của Thái dương hệ chúng ta) t́m thấy lối thoát của nó (outlet) trong

166      một số trung tâm lực lớn. Các trung tâm lực này lại được phản chiếu hay tái tạo lại trong ba cơi nỗ lực của nhân loại. Do đó, các Hành Tinh Thượng Đế có các trung tâm lực trên ba cơi thuộc thái dương, một điều cần nên nhớ:

 

 Trên cơi Chân Thần, cơi của bảy cung.

Trên cơi Bồ đề, nơi mà các Chân Sư và đệ tử các Ngài tạo thành 49 trung tâm lực trong các thể của Bảy Hành Tinh Thượng Đế.

Trên cơi dĩ thái thứ tư của cơi trần, nơi mà các hành tinh thánh thiện, các thể trọng trược bằng chất dĩ thái của Hành Tinh Thượng Đế, được t́m thấy.

Ở đây, chúng ta lại có thể truy nguyên ra sự tương ứng tiểu thiên địa : trong con người, các trung tâm lực được t́m thấy trên cơi trí, từ đó phát sinh ra xung lực cho sự sống trên cơi trần, hay là ư muốn luân hồi; từ đó chúng có thể được truy nguyên cho tới cơi cảm dục, và sau rốt đến các phân cảnh dĩ thái, đối với chất dĩ thái thứ tư, nơi mà chúng thực sự trải qua cùng mức tiến hoá mà các trung tâm lực hành tinh đi xuyên qua, và là khí cụ trong việc đem lại sự biểu lộ bên ngoài, vốn là các trung tâm lực.

Các trung tâm lực tạo thành toàn thể các ḍng thần lực từ Chân ngă trút xuống, thần lực đó được truyền xuống từ Chân Thần. Nơi đây chúng ta có bí nhiệm về sự rung động dần dần tăng nhanh của các trung tâm lực khi Chân ngă lần đầu tiên bắt đầu kiềm chế, hay hoạt động, và sau đó (sau khi điểm đạo) đến lượt Chân Thần, như vậy đem lại các thay đổi và sức sống gia tăng trong phạm vi của luồng hoả hay của mănh lực của sự sống trong sạch.

Do đó, các trung tâm lực, khi vận dụng một cách thích hợp, tạo thành “thể lửa” (‘body of fire’) mà sau rốt chính là tất cả những ǵ bị bỏ lại, trước nhất đối với con người trong ba cơi thấp và sau đó tới Chân Thần. Thể lửa này là “thể không thể hư nát” (Thánh Kinh I, Cor. XV, 53) hay là không thể bị huỷ hoại, như Thánh Paul đă nói và là sản phẩm của sự tiến hoá, của sự phối hợp hoàn hảo ba loại lửa, mà sau rốt sẽ

phá huỷ sắc tướng. Khi sắc tướng bị huỷ diệt, thể tinh thần vô h́nh của lửa c̣n lại nơi đó, ngọn lửa tinh khiết duy nhất, được phân biệt bằng bảy trung tâm lực sáng chói sẽ cháy mănh liệt hơn. Lửa điện này là kết quả của việc đem hai cực lại với nhau và biểu lộ vào lúc nhất quán hoàn toàn, chân lư huyền bí của câu nói “Đức Chúa Trời chúng ta là đám Lửa hay thiêu đốt” (Thánh Kinh  Deut. IV, 24; Hebrews XII, 29).

Ba trong số các trung tâm lực này được gọi là các trung

tâm lực chính yếu, v́ chúng tượng trưng ba trạng thái của

Chân Thần tam phân – Ư chí, Bác Ái và Trí Huệ :

 

1.         Trung tâm lực đỉnh đầu  … Chân Thần. Ư chí hay Quyền năng.

 

2. Trung tâm lực ở tim   …….. Chân ngă. Bác Ái và Minh triết

 

3. Trung tâm lực cổ họng         ….. Phàm ngă. Hoạt động hay Trí Huệ

 

Hai trung tâm lực khác có liên quan trước tiên với thể dĩ thái và với cơi cảm dục. Trung tâm lực cổ họng tổng hợp toàn bộ sự sống của phàm ngă và rơ rệt có liên hệ với cơi trí, -ba cơi này và hai cơi cao hơn, và ba trung tâm lực với hai trung tâm lực khác, tim và đầu. Tuy nhiên, chúng ta đừng nên quên rằng trung tâm lực ở đáy xương sống cũng là nơi tổng hợp, như thường được mong đợi, nếu thừa nhận rằng cơi thấp nhất của mọi biểu lộ là điểm phản chiếu sâu xa nhất. Trung tâm lực thấp nhất này do sự tổng hợp hoả xà và các lửa prana, rốt cuộc phối hợp và pha trộn với lửa trí tuệ và sau đó với lửa của Tinh Thần, tạo nên sự cháy rụi như thế ấy.

Chúng ta phải gạt bỏ ư tưởng sai lầm trong trí rằng các trung tâm lực này là các sự vật hồng trần (physical things). Chúng là các xoáy lực đang cuốn chất dĩ thái, chất cảm dục

và chất trí vào một loại hoạt động nào đó. V́ là chuyển động quay, kết quả được tạo ra trong vật chất là một hiệu ứng xoay tṛn có thể nhận thấy được bằng nhăn thông dưới h́nh dạng các bánh xe lửa nằm ở :

 

1. Trong vùng thấp nhất của xương sống.

 

2. Giữa các xương sườn ngay dưới cách mô.

 

3. Trong vùng ngực bên trái.

 

4. Trong trung tâm của cổ họng.

 

5. Ngay trên đỉnh đầu.

 

Tôi xin mô tả các trung tâm lực này đầy đủ chi tiết hơn, bàn về chúng như được nh́n thấy trong chất dĩ thái và đặt nền tảng cho những ǵ mà tôi nói đến tương tự như ông C.

W. Leadbeater đề cập trong tác phẩm “Cuộc Sống Nội Tâm” (“Inner Life”), quyển I, trang 447-460 Chúng ta sẽ chú ư màu sắc và các cánh hoa :

 

1. Trung tâm lực ở đáy xương sống, 4 cánh. Các cánh này có h́nh dạng một thập giá, toả ra lửa vàng cam.

 

2. Trung tâm lực đan điền, 10 cánh, màu hồng pha lục.

 

3. Trung tâm lực ở tim, 12 cánh, vàng rực.

 

4. Trung tâm lực cổ họng, 16 cánh, xanh dương ánh bạc, nhưng xanh dương trội hơn.

 

5. Trung tâm lực đỉnh đầu chia làm hai :

 

Giữa lông mày, gồm 96 cánh, ½ của hoa sen là hồng và vàng, nửa kia xanh và tím.

Ngay đỉnh đầu. Một trung tâm lực gồm 12 cánh hoa chính màu trắng và vàng, 960 cánh phụ xếp chung quanh 12 cánh ở giữa. Điều này tạo nên tổng số 1068 cánh trong 2 trung tâm lực ở đầu (tạo thành một trung tâm lực duy nhất) hay là 356 lần 3. Tất cả các con số này đều có một ư nghĩa huyền bí.

 

Cũng như Chân thần là toàn bộ của cả ba trạng thái và của bảy nguyên khí con người, trung tâm lực đỉnh đầu cũng là một bản sao của trung tâm lực này, và trong phạm vi ảnh hưởng của nó, có bảy trung tâm lực khác với chính nó là cái tổng hợp. Bảy trung tâm lực này cũng được chia thành ba trung tâm lực chính và bốn trung tâm lực phụ, sự hợp nhất và thành toàn của chúng được nhận thấy trong trung tâm lực rực rỡ vượt lên và bao khắp chúng. Cũng có ba trung tâm lực hồng trần được gọi là :

 Trung tâm lực trên tuỷ sống

 Tuyến tùng quả

 Tuyến yên với bốn trung tâm lực thứ yếu. Bốn trung tâm lực thứ yếu này được phối hợp trong trung tâm lực trên tuỷ sống và không có liên hệ với chúng ta. Nơi đây, tôi cũng xin vạch ra rằng có một liên hệ chặt chẽ :

Giữa trung tâm lực trên tuỷ sống với trung tâm lực cổ họng.

Giữa trung tâm lực đỉnh đầu với tuyến yên.

Giữa trung tâm lực ở tim với tuyến tùng quả.

 

Thật là bơ công cho nhà nghiên cứu nào chiêm ngưỡng sự kế tục lư thú của các tam giác đang được t́m thấy và cách thức mà chúng phải được nối liền bằng sự tiến tới của luồng hoả trước khi luồng hoả ấy có thể làm cho chúng sinh động hoàn toàn và bấy giờ chuyển qua các chuyển hoá khác. Chúng ta có thể liệt kê ra một số các tam giác này, luôn luôn nhớ rằng tuỳ theo cung mà luồng hoả tiến lên theo dạng h́nh học và tuỳ theo cung mà các điểm được tiếp xúc theo tŕnh tự được an bài. Ở đây, tàng ẩn một trong các bí mật về điểm đạo

và nơi đây cũng có một số nguy hiểm kèm theo trong việc phổ biến quá nhanh chi tiết liên hệ đến các cung.

1. Tam giác sinh khí (pranic triangle)

 Trung tâm lực ở vai.

 Trung tâm lực gần cách mô.

 Lá lách.

 

2. Người được kiểm soát từ cơi cảm dục

Đáy xương sống

Đan điền.

 Tim

 

3. Người được kiểm soát từ cơi trí

Đáy xương sống

 Tim

 Cổ họng

 

4. Người được Chân ngă kiểm soát phần nào, người tiến hoá.

 Tim

 Cổ họng

Đầu, nghĩa là bốn trung tâm lực thứ yếu và tổng hợp của chúng, trung tâm lực trên tuỷ sống.

 

5. Người tâm linh đến lần điểm đạo 3

 Tim

 Cổ họng

 Bảy trung tâm lực trên đầu

 

6. Người tâm linh đến lần điểm đạo 5

 Tim

 Bảy trung tâm lực ở đầu

 Hai hoa sen nhiều cánh

 

Tất cả các giai đoạn khác nhau này biểu lộ sự rực rỡ của các tam giác khác nhau. Từ điều đó chúng ta đừng nên phỏng đoán rằng khi luồng hoả được tập trung trong một tam giác

th́ nó không hiện ra trong các tam giác khác. Một khi luồng hoả được tự do đi qua bất cứ tam giác nào, nó bốc cháy một cách liên tục, nhưng luôn luôn có một tam giác chói rực hơn các tam giác khác và chính từ các tam giác ánh sáng chói lọi này, xuất phát từ các luân xa và các xoáy lửa mà kẻ có nhăn thông và các huấn sư của nhân loại có thể đánh giá vị thế của con người trong việc sắp đặt sự việc và phán đoán sự thành đạt của y. Ở điểm cao nhất của kinh nghiệm sống và khi con người đă đạt đến mục tiêu của ḿnh, mỗi tam giác là một đường lửa toả chiếu và mỗi trung tâm lực là một bánh xe thần lực sống động, cháy rực đang quay với tốc độ khủng khiếp; ở giai đoạn này, trung tâm lực không những chỉ quay theo một hướng đặc thù, mà c̣n, theo sát nghĩa, xoay trên chính nó nữa, tạo thành một khối cầu lửa sống động chiếu lóng lánh với lửa tinh khiết và giữ lại trong nó một dạng h́nh học nào đó, tuy cũng rung động nhanh đến nỗi hiếm khi mà mắt thấy được. Trên hết, ở đỉnh đầu, người ta thấy lửa hiện ra dường như làm cho tất cả các trung tâm lực khác trở thành vô nghĩa, từ tâm của hoa sen nhiều cánh này phát ra một ngọn lửa với màu căn bản thuộc về cung của người đó. Ngọn lửa này tiến lên và dường như kéo xuống một dải ánh sáng điện, vốn là luồng giáng lưu (downflow: luồng đi xuống) từ tinh thần trên cơi cao nhất. Điều này đánh dấu sự phối hợp các luồng hoả và sự giải thoát con người ra khỏi lưới vật chất.

Bây giờ chúng ta nên chú ư rằng sự tiến hoá của các trung tâm lực này có thể được mô tả, không những bằng lời nói, mà c̣n ở dưới năm biểu tượng rất thường có trong cách giải thích vũ trụ.

1. Ṿng tṛn. Ở giai đoạn này, trung tâm lực được nh́n thấy chỉ giống như một chỗ lơm h́nh dĩa (theo cách diễn tả

của ông Leadbeater) với ngọn lửa chiếu mờ mờ, lửa khuếch tán khắp nơi nhưng thực sự không mănh liệt. Bánh xe quay chậm, chậm đến nỗi gần như không đáng kể. Điều này tương ứng với giai đoạn kém phát triển và với căn chủng Lemuria lúc đầu, và vào thời đó con người chỉ là động vật; tất cả các điều tạo thành đó là một môi trường để cho tia lửa trí tuệ xuất hiện.

2. Ṿng tṛn có tâm điểm.

Trung tâm lực được nh́n thấy ở đây với một điểm lửa sáng rực nằm giữa chỗ lơm h́nh dĩa, chuyển động quay trở nên nhanh hơn. Điều này tương ứng với giai đoạn mà trí tuệ bắt đầu được cảm nhận và vào giai đoạn sau của thời Lemuria.

 

3. Ṿng tṛn chia hai. Vào giai đoạn này, điểm ánh sáng ở trung tâm của xoáy lửa trở nên linh hoạt hơn; chuyển động quay khiến cho nó cháy sáng hơn và phóng các tia lửa ra hai hướng, dường như tách xoáy lửa ra làm hai; chuyển động được gia tốc thêm nhiều và ngọn lửa tách ra trong ổ xoáy, lao tới, lui, kích thích độ chói sáng của chính trung tâm lực, cho đến khi một điểm sáng chói được đạt tới rất to. Điều này tương ứng với thời Atlantis.

 

4. Ṿng tṛn chia làm bốn. Bây giờ chúng ta đến điểm mà trung tâm lực cực kỳ linh hoạt, với chữ thập bên trong chu vi của nó đang xoay cũng như chính luân xa, tạo nên một hiệu quả rất mỹ lệ và linh hoạt. Con người đă đạt đến một giai

 

172      đoạn phát triển rất cao về trí tuệ, tương ứng với căn chủng thứ năm, hay là với ṿng tuần hoàn thứ năm trong chu kỳ lớn hơn; y có ư thức về hai hoạt động trong chính y, tượng trưng bằng luân xa đang xoay và thập giá đang quay bên trong. Y cảm nhận được tinh thần, dù là đang tác động một

cách linh hoạt trong sự sống phàm ngă, và sự phát triển đă đạt đến đỉểm mà y đang ở gần Con Đường Dự Bị.

5. Chữ Vạn. Ở giai đoạn này trung tâm lực trở nên có chiều đo thứ tư; thập giá đang quay bên trong bắt đầu xoay trên trục của nó, và hướng vùng ngoại biên sáng rực vào mọi mặt, để cho trung tâm lực được mô tả như là một khối cầu lửa, đúng hơn là một bánh xe. Nó đánh dấu giai đoạn của Thánh Đạo thành hai phân đoạn của nó, v́ tiến tŕnh tạo ra hiệu quả được mô tả như là bao trùm toàn thể giai đoạn của Thánh Đạo. Vào lúc kết thúc, các trung tâm lực được nh́n thấy như là các khối cầu rực lửa với các nan hoa của bánh xe (hay là sự tiến hoá của thập giá từ trung điểm) phối hợp và tan hoà vào “lửa thiêu đốt toàn thể”.

Một câu vắn tắt được nêu ra nơi đây do bởi sự liên hệ của nó với vấn đề này. Một câu khác cũng cần được nói thêm vào, mà nếu suy gẫm kỹ, sẽ chứng minh giá trị thực sự và sẽ có một hiệu quả xác định trên một trong các trung tâm lực, c̣n trung tâm lực nào th́ đó là phần mà chính người nghiên cứu tự t́m lấy. Hai câu này như sau:

“Bí mật của Lửa ẩn trong chữ (letter) thứ hai của Linh Từ (Sacred Word). Bí nhiệm của sự sống ẩn giấu trong tim. Khi điểm hạ đẳng rung động, khi Tam Giác Thiêng chiếu sáng, khi điểm, trung tâm lực ở giữa, và đỉnh cùng bừng cháy, lúc bấy giờ hai tam giác -lớn và nhỏ -hoà hợp thành ngọn lửa duy nhất thiêu rụi toàn thể”.

“Lửa bên trong lửa thứ yếu t́m thấy sự tiến triển của nó được thúc đẩy nhiều, khi ṿng tṛn của chuyển động và bất động, của bánh xe nhỏ trong bánh xe lớn chuyển động không phải trong Thời gian, t́m được nhiều lối thoát hai phía; bấy giờ nó chiếu sáng với vẻ huy hoàng của Đấng nhị bội và

Huynh đệ lục bội của Ngài (sixfold brother). Fohat chạy khắp không gian. Ngài t́m kiếm sự bổ sung cho Ngài. Linh khí của

173 Đấng bất động và lửa của Đấng Duy Nhất đang t́m cái Tổng Thể từ khởi thuỷ, đổ xô để gặp gỡ nhau và bầu thế giới bất động trở thành bầu hoạt động”. Chúng ta xét tiếp điểm thứ hai về các trung tâm lực:

2. Các trung tâm lực liên quan với các Cung.

Điều này sẽ mang lại cho chúng ta một phạm vi rộng lớn của vấn đề được bàn đến và nhiều tài liệu cần suy nghiệm, phỏng đoán và ước đoán khôn ngoan. Tất cả những ǵ được nêu lên ở đây chỉ đơn giản là các sự kiện căn bản mà nhờ đó có thể dựng lên được một sự phỏng đoán và suy luận hợp lư, bằng cách dùng sự tưởng tượng và do đó có tác động đến hai việc:

Các điều này là một khả năng bành trướng quan niệm trí tuệ chúng ta, và tạo ra giác tuyến hay loại cầu nối mà mọi người t́m cách để hoạt động, trong hiện thể Bồ đề, phải tạo ra giữa thượng trí và hạ trí, do đó cần vận dụng trí tưởng tượng (vốn là sự tương đồng tinh anh so với sự phân biện bằng trí tuệ) và sự chuyển hoá sau cùng của nó thành trực giác.

Tất cả các bậc đạo sư đă thu nhận môn đồ để huấn luyện và vị nào t́m cách dùng các môn đồ vào việc phụng sự thế gian, đều tuân theo phương pháp này để truyền đạt sự kiện (thường bị ẩn giấu trong các ngôn từ và bị làm cho mơ hồ bằng biểu tượng) và lúc bấy giờ để cho môn đồ noi theo chính các suy luận của ḿnh. Nhờ đó, tính phân biện được phát triển và phân biện là phương pháp chính để nhờ đó Tinh Thần thoát ra khỏi các cản trở của vật chất và nhận rơ giữa ảo ảnh với những ǵ bị ảo ảnh che khuất.

Nơi đây, nhiều điều không thể được truyền đạt, v́ có những đề tài nếu bàn đến đầy đủ, sẽ đưa ra quá nhiều thông tin cho những kẻ có thể lạm dụng nó. Như chúng ta biết, tiến hoá của các trung tâm lực là một diễn biến chậm chạp và từ từ, nên tiến hành theo các chu kỳ đă định, thay đổi tuỳ theo cung Chân Thần của con người.

174 Cuộc đời của kẻ hành hương có thể được chia thành ba giai đoạn chính :

 

1. Giai đoạn mà trong đó y ở dưới ảnh hưởng của cung phàm ngă.

 

2. Giai đoạn mà y tiến vào dưới ảnh hưởng của cung Chân ngă.

 

3. Giai đoạn mà Cung Chân Thần thống ngự.

 

175      Giai đoạn một là giai đoạn kéo dài nhất, bao trùm sự tiến bộ rộng lớn của nhiều thế kỷ, trong đó trạng thái hoạt động của bản ngă tam phân đang được phát triển. Hết kiếp sống này đến kiếp sống khác trôi qua, trong khi trạng thái trí tuệ diễn tiến một cách chậm chạp và con người ngày càng đi vào lănh vực kiểm soát của trí tuệ, đang tác động qua bộ óc hồng trần của y. Giai đoạn này có thể được xem như là phù hợp với giai đoạn của Thái dương hệ thứ nhất, trong đó Thượng Đế Ngôi Ba, trạng thái Brahma, Trí Tuệ, đang tiến đến điểm thành toàn (1). Lúc bấy giờ, trạng thái thứ hai bắt đầu trong

1 Khi chu kỳ cuối cùng có người ở đă được trái đất màu mỡ này hoàn tất, th́ nhân loại đă đến giai đoạn làm Phật ở dạng tập thể, và chuyển ra khỏi cách hiện hữu nơi ngoại cảnh, để tiến vào bí mật của Niết Bàn – lúc bấy giờ “đă đến lúc” cái hữu h́nh trở thành vô h́nh, cái cụ thể bắt đầu phân tán thành từng nguyên tử, trước khi chu kỳ của nó bắt đầu lại.

Nhưng các thế giới đă chết mà xung lực đang tiến tới bị bỏ lại sau vẫn không tiếp tục chết.

Chuyển động là trật tự vĩnh cửu của các sự vật, và ái lực hay sức hút là người đỡ đần của nó trong mọi công việc. Rung động của sự sống sẽ lại tái kết hợp nguyên tử và nó sẽ khơi dậy trở lại bầu hành tinh tŕ trệ khi đến lúc. Mặc dù mọi lực của nó vẫn ở nguyên trạng và hiện giờ đang hôn thuỵ; tuy nhiên dần dần nó sẽ -khi đến thời điểm -tụ tập lại cho một chu kỳ mới khai sinh ra con người, và khai sinh ra một điều ǵ đó c̣n cao siêu hơn các kiểu mẫu vật chất, và đạo đức so với chu kỳ khai nguyên trước đó. Và “các nguyên tử vũ trụ đă ở trong trạng thái biến đổi” (khác hẳn về chuyển động và hiệu quả -trong việc tạo ra lực theo nghĩa cơ học) vẫn ở nguyên trạng cũng như các bầu hành tinh và mọi cái khác trong tiến tŕnh tạo lập. “Đó là “giả thuyết hoàn toàn hợp với chú giải của con, cũng như của ta”. Sở dĩ có như vậy là v́ sự phát triển hành tinh cũng tiến theo sự tiến hoá của con người, hoặc của giống dân; tới lúc Chu Kỳ Qui Nguyên sẽ bắt kịp chuỗi thế giới ở các giai đoạn tiến hoá kế tiếp; (nghĩa là) mỗi thế giới đă đạt đến một trong các thời kỳ tiến hoá – th́ mỗi thế giới sẽ dừng lại ở đó, cho đến khi xung lực bên ngoài của kỳ khai nguyên tới khởi động nó từ chính điểm đó -giống như đồng hồ ngưng chạy được lên dây trở lại. V́ lẽ đó Chân Sư đă dùng từ ngữ “bị biến đổi” (“differentiatect”). Đến Chu Kỳ Qui Nguyên, không có con người, con thú hoặc thảo mộc nào sẽ c̣n sống để thấy được nó, mà sẽ chỉ có các địa cầu hay các bầu hành tinh với các giới khoáng thạch của chúng; và tất cả các hành tinh này sẽ bị tan ră về mặt h́nh hài trong kỳ Qui Nguyên, tuy nhiên không bị huỷ diệt; v́ chúng vẫn có vị trí của chúng trong tŕnh tự tiến hoá và “vốn liếng riêng” của chúng xuất hiện trở lại từ nội cảnh, khi chúng t́m được điểm chính xác để từ đó tiến lên theo chuỗi “h́nh hài đă biểu lộ”. Như ta đă biết, điều này được lặp lại không ngưng nghỉ, suốt từ Thời Gian Vô Cùng (Eternity). Mỗi người chúng ta đều trải qua ṿng tiến hoá bất tận

Thái dương hệ hiện tại này được phối hợp lại và tác động xuyên qua nó. Nhiều thế kỷ trôi qua, con người trở nên thông minh, linh hoạt hơn bao giờ và môi trường sinh hoạt của y càng thích hợp hơn cho việc tiến đến trạng thái thứ hai. Sự phù hợp nằm trong sự tương đồng chớ không phải trong chi tiết như đă thấy trong thời gian và không gian. Nó bao trùm giai đoạn của ba tam giác đầu tiên đă được bàn ở trước. Chúng ta đừng nên quên rằng, để được rơ ràng, nơi đây chúng ta phân biệt giữa các trạng thái khác nhau và xét sự phát triển riêng rẽ của chúng, một điều chỉ chấp nhận được trong thời gian và không gian hay trong diễn tŕnh tiến hoá mà không thể chấp nhận được nếu đứng trên quan điểm Hiện Tại Vĩnh Cửu và trên quan điểm Hợp Nhất của Toàn Ngă (the All-Self). Vishnu hay trạng thái Bác ái – Minh triết đang tiềm tàng trong bản ngă và là một phần của cái chứa đựng trong Chân Thần, nhưng trạng thái Brahma, trạng thái Trí Tuệ Hoạt động có trước sự biểu lộ của nó trong thời gian. Miếu thờ ở vùng hoang vu có trước toà nhà của Thánh điện Solomon; nhân của lúa ḿ phải nằm trong bóng râm của Đất Mẹ trước khi người ta có thể thấy được bông lúa vàng hoàn hảo và cây sen phải đâm rễ xuống bùn trước khi sinh ra vẻ đẹp của hoa.

Giai đoạn hai, giai đoạn mà cung Chân ngă thống ngự, tương đối không dài lắm; nó bao trùm giai đoạn mà các tam giác thứ tư và thứ năm được truyền sinh lực và đánh dấu các

này và sẽ lặp lại măi măi. Việc đi lệch khỏi lộ tŕnh của mỗi người và tốc độ tiến tới của y từ kỳ Niết Bàn này đến Niết Bàn khác đều bị chi phối bởi các nguyên nhân mà chính y tạo ra do những hoàn cảnh ngặt nghèo mà y bị vướng vào đó”.

The Mahatma Letter, Thư 46  (ML 12), trang 67.

sự sống trong đó con người tập trung mănh lực của ḿnh vào khía cạnh tiến hoá, khép cuộc sống của ḿnh vào kỷ luật, tiến bước trên đường đệ tử dự bị và nối tiếp đến cuộc điểm đạo 3. Dưới ảnh hưởng của cung phàm ngă, con người tiến lên trên năm cung để làm việc một cách hữu thức với Thượng Trí (Mind), giác quan thứ sáu, trước nhất lướt qua bốn cung thứ yếu và sau rốt trên cung thứ ba. Y hoạt động trên cung thứ ba

176 hay cung Trí tuệ linh hoạt và từ đó tiến đến một trong các cung phụ của hai cung chính khác, nếu cung thứ ba này không phải là cung chân ngă của y. Câu hỏi có thể tự nhiên nảy sinh, liệu cung chân ngă có tất yếu phải là trong số ba cung chính không, và liệu Điểm đạo đồ và các Đức Thầy một số không ở trên cung trí tuệ, 4 cung thứ yếu. Câu trả lời nằm ở đây: cung chân ngă có thể luôn luôn là một trong bảy cung, nhưng chúng ta cần nhớ rằng trong Thái dương hệ thuộc cảm dục Bồ đề này mà bác ái và minh triết đang được biểu lộ, đa số các Chân Thần đều ở trên cung bác ái minh triết. Do đó, sự kiện nó là cung tổng hợp có một ư nghĩa rộng lớn. Đây là Thái dương hệ của Đấng Con, có tên là Bác ái. Đây là sự hoá thân thiêng liêng của Vishnu. Con Rồng minh triết đang biểu lộ và Ngài đưa vào hoá thân các Thực Thể Thông Linh vũ trụ có bản chất tương đồng với chính Ngài. Sau cuộc điểm đạo 3, mọi người tự thấy ḿnh ở trên cung Chân Thần; trên một trong ba cung chính yếu và sự kiện các Chân Sư và Điểm đạo đồ được thấy ở trên mọi cung là do hai yếu tố sau đây: Thứ nhất. Mỗi cung đều có các cung phụ, các cung phụ này tương ứng với cả bảy cung.

Thứ hai. Nhiều vị hướng dẫn nhân loại chuyển từ cung này đến cung khác khi nào các Ngài thấy cần và khi công việc có thể đ̣i hỏi. Khi một trong các Chân Sư hay Điểm đạo đồ được chuyển vị, điều đó tạo nên một sự tái điều chỉnh hoàn toàn.

Khi một Chân Sư rời huyền giai của hành tinh chúng ta để nhận công tác nơi khác, cần phải có sự tái tổ chức hoàn toàn và thu nhận các thành viên mới vào Thánh Đoàn. Tuy nhiên, các sự kiện này ít được hiểu rơ. Ở đây, chúng ta cũng có cơ hội nêu ra rằng chúng ta không bàn đến các điều kiện ở địa cầu khi chúng ta xét các cung, chúng ta cũng không chỉ quan tâm đến tiến hoá của các Chân Thần trên hành tinh này, mà cũng quan tâm tới Thái dương hệ trong đó địa cầu chúng ta giữ một địa vị cần thiết nhưng không tối thượng. Địa cầu là một cơ cấu nằm trong một cơ cấu c̣n lớn hơn và sự kiện này cần được nhận thức rộng răi hơn. Các con của nhân loại trên hành tinh này rất thường xem toàn thể Thái dương hệ như thể là địa cầu đang ở trong vị trí của thái dương, trung tâm của cơ cấu thái dương.

Dưới sự giám sát của Chân ngă, cung của Chân ngă có thể thống ngự. Cung này chỉ là một phản ảnh trực tiếp của Chân Thần và tuỳ thuộc vào trạng thái của tam thượng thể tinh thần mà đối với con người, ở bất cứ lúc nào cũng là đường lối ít bị đối kháng nhất. Bởi đó, chúng ta phải hiểu rằng, đôi khi trung tâm lực của một cung sẽ là trạng thái Niết Bàn, đôi khi là trạng thái Bồ đề, và khi khác là trạng thái trí tuệ. Dù tam thượng thể có ba phần, tuy nhiên các tiền đồn chân ngă của nó (nếu người ta có thể diễn tả như thế) sẽ hoặc là thuộc Niết Bàn, hoặc là có ưu thế về Bồ đề hay về thượng trí. Nơi đây, tôi muốn mọi người lưu ư rằng sự biểu lộ tam

phân này có thể được nhận thấy dưới ba h́nh thức, tất cả tạo thành một sự lựa chọn gồm chín phần của các cung đối với Chân ngă :

Trạng thái Niết Bàn

 

1. Niết Bàn -Niết Bàn

 

2. NiếtBàn-Bồđề

 

3. Niết Bàn -Thượng trí

 

Trạng thái Bồ đề

 

1. Bồđề-Niếtbàn

 

2. Bồđề-Bồđề

 

3. Bồ đề -Thượng trí.

 

Trạng thái thượng trí

 

1. Thượng trí -Niết Bàn

 

2. Thượng trí -Bồ đề

 

3. Thượng trí -Thượng trí

 

Theo nguyên văn, điều này có nghĩa là ba cung chính yếu, mỗi cung có thể được chia nhỏ ra (liên quan với Chân ngă) thành ba phần. Sự kiện này cũng ít được đánh giá đúng đắn.

Giai đoạn 3, trong đó cung Chân Thần làm cho chính nó được cảm nhận trên cơi hồng trần, giai đoạn này ngắn hơn nhiều và bao trùm giai đoạn mà trong đó tam giác thứ sáu thống ngự. Nó đánh dấu thời kỳ thành đạt, giải thoát và do đó, mặc dù là giai đoạn ngắn nhất khi xét từ dưới lên, đó là giai đoạn tương đối dài khi xét từ cơi Chân Thần. Nó bao hàm toàn thể thời gian c̣n lại trong 100 năm của Brahma hay là phần c̣n lại của tiến tŕnh biểu lộ.

Do đó, khi chúng ta nghiên cứu về tập hợp các tam giác được đề cập tới trước kia và các giai đoạn của cung thống ngự, chúng ta sẽ t́m được nhiều đề tài cho tư tưởng. Tuy

nhiên, tôi xin nêu ra đây rằng sáu nhóm tam giác tất cả chỉ c̣n năm, nếu chúng ta loại ra tam giác sinh khí vốn có liên quan với chính vật chất và không được kể tới, cũng chẳng khác nào chất hồng trần trọng trược không được tính như một nguyên khí. Do đó, chúng ta có:

 Hai tam giác do cung phàm ngă đem lại sinh khí.

 Hai tam giác do cung chơn ngă đem lại sinh khí.

 Tam giác tổng hợp của Chân Thần.

 

Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng sự phức tạp lại tăng thêm do sự kiện là các tam giác phàm ngă sẽ được hoạt động đầy đủ tuỳ theo cung Chân Thần hay Tinh Thần. Do đó, không một qui tắc cứng rắn hay chặt chẽ nào có thể được đưa ra cho sự phát triển. Các tam giác Chân ngă tuỳ thuộc phần lớn vào phản ảnh trong phàm ngă của sức sống tinh thần. Chúng là trung điểm, cũng như linh hồn thể hay chân ngă thể là điểm truyền đạt (khi được tập hợp và kiến tạo một cách đầy đủ) giữa cao và thấp.

Các nguyên tử thường tồn được bao kín trong chu vi của linh hồn thể, tuy nhiên, thể tương đối thường tồn đó được

179      kiến tạo và phóng đại, bành trướng và đào luyện thành một trạm tiếp nhận và phóng phát trung ương (dùng các từ không thích đáng để gợi một ư niệm huyền linh) bằng tác động trực tiếp của các trung tâm lực ở trên cao. Giống như sức mạnh tinh thần hay trạng thái ư chí đang tạo ra Thái dương hệ, cũng thế, mănh lực đó trong con người đang kiến tạo linh hồn thể. Bằng việc đặt chung lại tinh thần và vật chất (Cha­Mẹ) trong đại thiên địa và sự hợp nhất của chúng qua tác động của ư chí, Thái dương hệ biểu lộ hay là Con, được tạo thành -Đứa Con đó của dục vọng có đặc tính là bác ái và bản chất là trực giác hay minh triết tinh thần. Bằng việc đặt chung

nhau (trong tiểu thiên địa) Tinh thần và vật chất và sự phối hợp của chúng bằng thần lực (hay ư chí tinh thần) mà hệ thống biểu lộ, tức linh hồn thể, được tạo ra; đó là sản phẩm của dục vọng được chuyển hoá, mà đặc tính (khi biểu lộ đầy đủ) sẽ là bác ái, sự biểu lộ cuối cùng trên cơi trần của thể bồ đề. Linh hồn thể chỉ là thể/ lớp vỏ của Chân ngă. Thái dương hệ chỉ là cái thể/ lớp vỏ của Đấng Con. Trong cả hai hệ thống lớn và nhỏ, các trung tâm lực hiện hữu vốn có tính chất tạo ra biểu lộ ngoại cảnh. Các trung tâm lực trong con người là các phản ảnh trong ba cơi của các trung tâm lực cao hơn.

Truớc khi tiếp tục đề tài về hoả xà và trung tâm lực, tốt hơn là nên giải thích rộng ra chi tiết được nêu trên, từ ư nghĩa đầu tiên đối với con người như là ư nghĩa có liên hệ với chính y tới Thái dương hệ, tức đại thiên địa rồi tới vũ trụ. Những ǵ có thể được khẳng định về tiểu thiên địa là sự thật tất nhiên của đại thiên địa và của vũ trụ. Không thể nêu ra các tam giác của Thái dương hệ, v́ chi tiết mù mờ đến nỗi ngoại trừ đối với những kẻ có kiến thức huyền linh và trực giác được phát triển, thực tế sẽ là không hữu ích về phương diện tinh thần, nhưng một số điều có thể được nêu ra liên quan đến những ǵ cần được lưu ư.

Thái dương hệ. Chúng ta có thể xem xét ngắn gọn về Thái 180 dương hệ này đứng trên quan điểm các trung tâm lực của Hành Tinh Thượng Đế và của Thái Dương Thượng Đế.

c Hành Tinh Thượng Đế: Trong chính Hành Tinh Thượng Đế có tàng ẩn các trung tâm lực cũng tác động như trong con người và trên chính cơi riêng của các Ngài, có thể t́m thấy các trung tâm lực này. Chúng ta cần nhớ lại rằng các trung tâm lực này ở trên các mức độ vũ trụ và khi biểu lộ qua Thái dương hệ ngoại tại, chúng hiện ra như là các trung tâm

lực vĩ đại mà bất cứ nhóm Chân Sư đặc biệt nào và các môn đồ các Ngài là các tiêu biểu. Mọi nhóm Chân Sư và tất cả những người đang luân hồi hay không luân hồi -họ đang ở trong phạm vi của tâm thức ḿnh – là các trung tâm lực thuộc một loại hay tính chất đặc biệt nào đó. Đây là một sự kiện thường được nhận thấy, nhưng các nhà nghiên cứu cần được khuyến cáo để liên kết sự kiện này với chi tiết được phổ biến về các trung tâm lực của con người và xem coi có điều ǵ được học hỏi bằng cách ấy hay không. Các trung tâm lực này sẽ biểu lộ trên các cơi phụ dĩ thái và trên các cơi tinh anh hơn giống như chúng biểu lộ trong con người và chúng sẽ được làm sinh động như là các trung tâm lực của người bởi hoả xà hành tinh đang tiến lên trong các tam giác theo như sự mong muốn.

Hai ẩn ngữ có thể được nêu ra ở đây để thận trọng xem xét. Liên hệ với một trong các Hành Tinh Thượng Đế (mà người ta không thể nêu ra vào lúc này), chúng ta có một tam giác lực cần được xét đến trong ba trung tâm lực sau đây:

Trung tâm lực mà trong đó Đức Bàn Cổ (Manu) và nhóm của Ngài là biểu hiện.

Trung tâm lực mà trong đó Đức Bồ Tát hay Đức Christ và các vị cộng tác với Ngài là điểm tập trung.

Trung tâm lực mà trong đó Đức Văn Minh Bồ Tát và các môn đệ của Ngài là các vị tiêu biểu.

 

Ba nhóm này hợp thành ba trung tâm lực trong một tam

giác vĩ đại -một tam giác chưa hoàn toàn được sinh động ở

giai đoạn phát triển tiến hoá hiện nay.

181      Một tam giác khác liên quan đến chính Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta là tam giác được tạo thành bởi bảy vị Thiên Tôn (Kumaras), bốn vị Thiên Tôn ngoại môn tương

ứng với bốn trung tâm lực thứ yếu trên đầu và ba vị Thiên Tôn nội môn tương ứng với ba trung tâm lực chính yếu trên đầu (1).

Ẩn ngữ thứ hai mà tôi t́m cách nêu ra, nằm trong tam giác hợp thành bởi Địa Cầu, Hoả Tinh và Thuỷ Tinh. Liên quan với tam giác này có sự tương đồng ở sự việc là Thuỷ Tinh và trung tâm lực ở đáy xương sống trong con người được kết hợp chặt chẽ. Thuỷ Tinh tiêu biểu cho luồng hoả xà đang hoạt động sáng suốt, trong khi Hoả Tinh tượng trưng cho Hoả xà đang tiềm tàng. Sự thực nằm trong hai biểu tượng chiêm tinh học của chúng. Trong sự chuyển hoá và trắc lượng hành tinh, bí nhiệm có thể được tiết lộ.

Thái Dương Thượng Đế. Bảy Hành Tinh Thượng Đế là bảy trung tâm lực trong cơ thể của Thái Dương Thượng Đế, có chung với Ngài một mối liên hệ mà các Chân Sư và các nhóm liên kết của các Chân Sư đang có đối với một Hành Tinh Thượng Đế nào đó. Luồng hoả xà của Thái dương hệ tiến lên để làm sinh động các trung tâm lực này và ở giai đoạn phát triển này, một số trung tâm lực được kết hợp chặt chẽ hơn các trung tâm lực khác. Cũng liên hệ với Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta, ba hành tinh bằng chất dĩ thái của dăy chúng ta 

1 Có bảy vị Thiên Tôn (Kumaras) liên quan đến cuộc tiến hoá của Hành Tinh chúng ta mà trong các Ngài có bốn vị là ngoại môn; bốn vị thuộc ngoại môn này có các hiện thể trong chất dĩ thái; ba vị thuộc nội môn có các hiện thể ở trong các chất liệu c̣n tinh anh hơn.

Sanat Kumara, tức Đấng Chưởng Quản Địa Cầu, là vị tiêu biểu trên địa cầu cho các thần lực đă chuyển hoá của Hành Tinh Thượng Đế; sáu vị Kumaras khác truyền đạt năng lượng từ sáu hệ thống hành tinh khác.

-đó là Địa Cầu, Thuỷ tinh và Hoả tinh (1) -hợp thành một tam giác rất quan trọng, v́ thế có thể nói ra ở đây rằng ở mức hiện tại trong sự tiến hoá của các trung tâm lực Thượng Đế, Kim Tinh, Địa Cầu và Thổ Tinh (Saturn) hợp thành một tam

182 giác rất lư thú. Đó là một tam giác mà vào lúc này đang trải qua việc làm sinh động thông qua tác động của hoả xà; hậu quả là tăng thêm khả năng rung động của các trung tâm lực, chúng đang từ từ trở nên có chiều đo thứ tư. Chưa được phép nêu ra các tam giác khác trong số các tam giác vĩ đại, nhưng về phần các trung tâm lực, chúng ta có thể đưa ra ở đây hai gợi ư: Thứ nhất. Kim tinh tương ứng với trung tâm lực ở tim trong cơ thể Thượng Đế và do đó có một liên hệ hỗ tương với tất cả các trung tâm lực khác trong Thái dương hệ, nơi mà trạng thái tâm là trạng thái nổi bật. Thứ hai. Thổ tinh tương ứng với trung tâm lực cổ họng, hay là với hoạt động sáng tạo của Ngôi Ba. Trong khi sự tiến hoá tiếp diễn, các trung tâm lực khác đạt đến một rung động rơ rệt hơn và luồng hoả (đang chạy ṿng theo tam giác) sẽ đưa chúng nổi bật lên hơn; tuy nhiên, hai điều nhắc đến ở trên, vào lúc này, thuộc hàng quan trọng nhất. Cả hai, cùng với tam giác kém quan trọng hơn trong dăy chúng ta, tạo thành các điểm tập trung năng lượng xét theo quan điểm hành tinh của chúng ta.

1 Các dăy của bất cứ hệ thống hành tinh nào, đều thường được gọi bằng tên của bảy hành tinh thánh thiện khiến cho việc khảo sát Định luật tương đồng dễ dàng hơn; một cách tương tự, các bầu hành tinh của bất cứ dăy nào đều được gọi bằng các tên của hành tinh đó, như trường hợp ở đây. Có các hệ thống hành tinh được gọi là Hoả tinh và Thuỷ tinh.

Cần thêm vào đây một vài ẩn ngữ liên quan đến các

trung tâm lực của tiểu và đại thiên địa, chúng ta có thể nêu ra

ở đây các sự tương ứng vũ trụ có thể được ám chỉ tới.

Vũ trụ. Thái dương hệ chúng ta, với cḥm sao Rua và một trong các ngôi sao của cḥm Đại Hùng Tinh, hợp thành một tam giác vũ trụ hay một tập hợp ba trung tâm lực trong cơ thể của Vũ Trụ Thượng Đế. Bảy ngôi trong cḥm Đại Hùng tinh tương ứng với bảy bí huyệt đầu trong cơ thể của Đấng ấy, c̣n vĩ đại hơn Thượng Đế của chúng ta. Lại nữa, hai Thái dương hệ khác, khi kết hợp với Thái dương hệ và cḥm sao Rua, tạo thành tứ nguyên thấp (lower quaternary) mà sau rốt tổng hợp thành bảy trung tâm lực ở đầu giống như trong con người sau lần điểm đạo thứ tư.

 

1. Đáy xương sống

 

2. Đan điền

 

3. Tim

 

4. Cổ họng

 

Đến lượt trung tâm lực thất phân trên đầu t́m được biểu hiện tối hậu trong cổ họng, trung tâm lực nhị phân trên đỉnh đầu và quanh đầu. Tương tự thế, ngoài các cḥm sao được đặt tên như trên ra, vẫn c̣n trung tâm lực vũ trụ khác. Tên của trung tâm lực này là một trong các bí mật của cuộc điểm đạo cuối, tức điểm đạo thứ bảy. Các điều này chỉ là các tương ứng mà cho đến nay mới được phép truyền đạt. Điều ǵ ở bên ngoài ṿng giới hạn thái dương có thể là có tầm quan trọng về tinh thần (GLBN I, 545, 726; II, 581, 582, 654) nhưng đối với các mục đích tiến hoá của tiểu vũ trụ, đó là một vấn đề không có ư nghĩa rộng lớn.

3. Các trung tâm lực và hoả xà

Như đă nói ở trên, không thể nói nhiều về hoả xà. Tuy

nhiên, có thể là hữu ích mà kể ra một cách vắn tắt những ǵ

nên nói:

Hoả xà nằm ở đáy xương sống và nơi một người b́nh thường, chức năng chính của nó là làm sinh động cơ thể.

Hoả xà tạo nên ba sự nhất quán trong thời kỳ tiến hoá: -Với lửa phát xạ của cơ thể hay prana ở điểm giữa các bả vai. -Với các lửa trí tuệ ở điểm ngay chót xương sống, trong trung tâm lực phía sau cổ họng.

 

-Với lửa của tinh thần ở điểm nơi mà hai luồng hoả hợp nhất của vật chất và trí tuệ phát ra từ đỉnh đầu.

c. Mỗi một trong ba vận hà nằm trong cột xương sống có mục đích đặc biệt là phối hợp các luồng hoả tam phân này.

184      Chúng ta cần ghi nhớ rằng các luồng hoả chạy ṿng quanh và rằng vào lúc thành toàn, mỗi tam giác trong cơ thể đều được sinh động, mỗi trung tâm lực vận hành đầy đủ và hoả lộ (đường đi của luồng hoả) tam phân có thể nhận thấy trải dài khắp chiều dài xương sống.

Khi hoả xà được phối hợp với lửa prana, các trung tâm lực trở nên có ba chiều đo. Khi nó phối hợp với trí tuệ hay lửa thái dương và cả hai lửa được hoàn toàn hợp nhất, các trung tâm lực trở nên có chiều đo thứ tư. Khi hoả xà phối hợp với lửa điện của tinh thần thuần tuư sau kỳ điểm đạo thứ ba, các trung tâm lực đảm nhiệm nhiều hơn hai chiều đo.

Khi tiến lên, hoả xà làm tăng mức rung động một cách ổn định, không những ở các trung tâm lực mà c̣n ở mọi nguyên tử vật chất trong khắp các thể -dĩ thái, cảm dục và trí

 

tuệ. Việc đẩy mạnh hoạt động này có hiệu quả gấp đôi với các điều lợi to tát sau:

 

1. Nó tạo nên sự thải bỏ mọi vật chất thô trược, không thích hợp và ném ra một cách chính xác giống như một bánh xe đang quay nhanh ném mọi vật ra khỏi mặt của nó vậy.

 

2. Nó lôi cuốn vào vùng ảnh hưởng của nó loại vật chất, vốn thích hợp cho chính rung động của nó và đưa vật chất đó vào trong cái tích chứa rung động của nó (vibratory content). Đây chỉ là một h́nh ảnh của tác động của Thượng Đế trong việc tạo ra biến dị cho vật chất của Thái dương hệ. Hoả xà cũng là lửa hay là mănh lực của vật chất và do đó là sự sống của Thượng Đế Ngôi Ba.

 

f. Hoả xà có hai tác dụng vào mạng lưới dĩ thái như nó thường được gọi.

-Do việc tăng hoạt động từ từ, nó thanh lọc h́nh hài dĩ

thái và tẩy sạch h́nh hài đó khỏi “chất cặn bă” theo cách diễn

tả của Cơ Đốc giáo.

-Sau rốt, khi hai loại lửa vật chất và lửa trí tuệ bắt đầu phối hợp (một diễn tiến chậm chạp và từ từ), chính mạng

185      lưới bị phá huỷ và vào lúc đạt tới cuộc điểm đạo thứ ba, con người sẽ có được tâm thức liên tục. Điều này là như thế trừ phi đối với một số công việc và đối với một vài mục đích đặc biệt, con người đi trước một cách có ư thức và một cách quyết tâm, đó là đốt cháy mạng lưới, một việc rất có thể xảy ra bởi tác động hữu thức của ư chí.

4. Các trung tâm lực và các giác quan, b́nh thường và siêu thường.

Trước khi bàn ít nhiều về các trung tâm lực và các tương quan của chúng đối với các giác quan, trước tiên cần vạch ra

một số sự kiện lư thú liên quan đến các nghĩa này (1) và để cho nền tảng được sáng tỏ hầu đi sâu vào chi tiết hơn.

1 Bảy giác quan hay các con đường của tri giác. GLBN I, 489, 490. Đấng Sáng Tạo thứ ba hay Indriya Sáng Tạo GLBN III, 567.

Indriya (Căn) Cách kiểm soát các giác quan trong việc thực hành yoga. Đây là 10 tác nhân bên ngoài; năm giác quan được dùng để tri giác được gọi là “Jnana-indriya” và năm giác quan dùng để hành động là “karma-indriya”. Từ Điển Thuật Ngữ Minh Triết Thiêng Liêng (Theosophical glossary).

Jnana-indriya” (Thức căn) theo nghĩa đen là các giác quan tri giác (knowledge-senses)… nhờ đó kiến thức (knowledge) được thu thập… Chúng là các con đường hướng nội (avenues inward).

Karma-indriya” (Hành căn) theo nghĩa đen là các giác quan hành động (action senses)… các giác quan này tạo nên hành động. Chúng là các con đường hướng ngoại. “Khảo Cứu về Tâm Thức” (Study in Consciousness) trang 166 – 167.

 

1. Cảm giác vốn tiềm tàng trong mỗi nguyên tử của vật chất. GLBN  II, 710.

 

2. Thái dương là tâm của Thái dương hệ và cảm giác phát xuất ra từ đó. Nó là do bức xạ thái dương. GLBN I, 590, 662.

 

3. Tri thức là mục tiêu của giác quan.  GLBN I, 300.

 

4. Có một tập hợp kép của giác quan, tinh thần và vật chất. GLBN  I, 582;   GLBN  II, 307-308

 

Tập hợp này t́m được phản ảnh của nó trong tập hợp kép của các giác quan hồng trần được ghi nhận trong việc định nghĩa các căn (indriyas).

 

5. Các giác quan có thể được kể ra như sau : GLBN I, 583, và chú thích 123;  GLBN  II, 600, 674, 675, 676.

 

6. Các hành (elements) là tiền bối (progenitors) của giác quan. GLBN  II, 112, 113.

 

 Aether….Thính giác…Âm thanh…………………. Cơi Chân Thần

 Phong… Xúc giác…  Âm thanh, xúc giác……………….Cơi Bồ đề

 

Giác quan là ǵ? Có bao nhiêu giác quan? Chúng có liên quan ǵ đến con người nội tâm, Chủ Thể Suy Tư, Trí Tinh Quân thiêng liêng không? Các câu hỏi này có tầm quan trọng rất thiết yếu và muốn hiểu chúng một cách thích đáng, nên đi theo con đường tri thức một cách khôn ngoan.

Các giác quan có thể được định nghĩa như là các cơ quan, nhờ đó con người biết được chung quanh ḿnh. Có lẽ chúng ta nên diễn tả chúng không phải như là các cơ quan mà như là phương tiện (v́ sau rốt, một cơ quan là một h́nh hài vật chất, tồn tại v́ một mục đích nào đó), nhờ đó Chủ Thể Suy Tưởng (tức Linh Hồn – ND) tiếp xúc được với môi trường quanh ḿnh. Chúng là các phương tiện nhờ đó con người học hỏi được trên cơi hồng trần thô trược; chúng là phương tiện nhờ đó con người đổi chác được kinh nghiệm của ḿnh, nhờ đó y khám phá ra những ǵ mà y muốn biết, nhờ đó y trở nên hiểu biết và nhờ đó y mở rộng được tâm thức. Ở đây, chúng ta đang bàn đến năm giác quan mà con người thường dùng. Nơi con vật, năm giác quan này cũng có, nhưng v́ thiếu khả năng liên kết suy tưởng, v́ “liên hệ giữa” ngă với phi ngă chỉ phát triển ít, chúng ta sẽ không liên kết giữa chúng ta với

 Hoả…..... Thị giác….  Âm thanh, xúc giác, thị giác……….. Cơi trí

 Thuỷ….. Vị giác…… Âm thanh, xúc giác, thị giác… Cơi cảm dục vị giác.

 Thổ…. Khứu giác…. Âm thanh, xúc giác, thị giác, ………Cơi trần vị giác , khứu giác.

 

 

7. Mọi giác quan đều thấm nhập (pervades) giác quan khác. GLBN III, 569. Không có trật tự đại đồng. Tất cả đều ở trên mọi cơi. GLBN  III, 550.

 

8. Các giác quan tương ứng với mọi giác quan thất phân khác trong thiên nhiên. Xem GLBN III, 448. So với GLBN III, 497.

 

chúng ở chỗ này được. Các giác quan trong giới động vật là quan năng tập thể (group faculty) và biểu lộ dưới h́nh thức bản năng duy tŕ ṇi giống. C̣n giác quan trong người tài sản của cá nhân và biểu lộ :

 Dưới h́nh thức nhận thức riêng rẽ của ngă thức.

Dưới h́nh thức năng lực để khẳng định tính cách cá nhân.

Dưới h́nh thức phương tiện hữu ích cho sự tiến hoá ngă thức.

 Dưới h́nh thức một cội nguồn của tri thức.

Dưới h́nh thức năng lực chuyển hoá hướng về việc kết thúc sự sống trong ba cơi thấp. Như chúng ta biết, có năm giác quan và theo thứ tự phát

 

triển như sau : a.Thính giác

 Xúc giác

 Thị giác

 Vị giác

 Khứu giác Mỗi một trong năm giác quan này có liên quan rơ rệt với cơi này hay cơi khác và cũng có một tương ứng trên mọi cơi.

 

Trước tiên, chúng ta hăy đề cập đến một trong số các giác quan này, nêu ra một số sự việc lư thú liên quan với chúng và nêu sự tương ứng về cơi phụ của chúng.

Cơi  Giác quan

 Hồng trần  Thính giác

 Cảm dục  Xúc giác hay cảm giác

 Trí Thị giác

 Bồ đề  Vị giác

 Niết Bàn  Khứu giác

 

Ở hai trong số ba cơi thấp -tức cảm dục và hồng trần – th́ năm cơi phụ của nỗ lực con người là năm cơi phụ cao nhất. Hai cơi phụ thấp nhất, tức cơi phụ 6 và 7 là cơi mà chúng ta có thể diễn tả như là “thấp lè tè” (“below the threshold”) và liên hệ với các h́nh thức sự sống thấp dưới toàn thể nhân loại. Chúng ta có một sự tương đồng được củng cố trong sự kiện rằng hai căn chủng có trước nhất trong cuộc tuần hoàn này dứt khoát không phải là nhân loại và rằng chính căn chủng thứ ba mới thực sự là nhân loại lần đầu tiên. Do đó, đếm từ dưới lên trên, th́ chỉ cơi phụ thứ ba trên cơi trần và cơi cảm dục mới đánh dấu sự khởi đầu cho cố gắng của nhân loại, c̣n lại năm cơi phụ thấp phải được chinh phục. Trên cơi trí, năm cơi phụ thấp phải được chinh phục trong cuộc tiến hoá thuần tuư nhân loại. Khi tâm thức được tập trung trên cơi phụ 5 (tính từ dưới lên) lúc bấy giờ các cơi trừu tượng – theo quan điểm con người trong ba cơi thấp ­bất ngờ xảy đến hai cơi phụ tổng hợp, biểu lộ qua sự tổng hợp của năm giác quan. Trong cuộc tiến hoá của Hành Tinh Thượng Đế, chúng ta có cùng một sự kiện: 5 cơi nỗ lực, tức 5 cơi thấp của Thái dương hệ và hai cơi trừu tượng cao hơn, tức cơi tinh thần hay cơi Chân Thần và cơi thiêng liêng hay cơi Thượng Đế.

 

Cơi Hồng trần…

 Thính giác…….. thứ 5…. thể hơi

 Xúc giác, cảm giác….. thứ 4…… dĩ thái 1

 Thị giác ……. thứ 3… …. siêu dĩ thái

 Vị giác …….. thứ 2…….. á nguyên tử

 Khứu giác … ….. thứ 1 …… nguyên tử

 

Cơi cảm dục…

 

 

1. Nhĩ thông…………… thứ 5

 

2. Trắc lượng tâm lư….. thứ 4

 

3. Nhăn thông ………… thứ 3

 

4. Tưởng tượng ……….. thứ 2 

 

5. Lư tưởng cảm xúc ….. thứ 1

 

Trí tuệ…

 

1. Nhĩ thông bậc cao  …………........ thứ 7

 

2. Trắc lượng tâm lư hành tinh …… thứ 6

 

sắc   

Nhăn thông bậc cao ……………..  thứ 5

 

tướng

Phân biện ………………………. .. thứ 4

 

Phân biện tinh thần      ………….. thứ 3

 

Đáp ứng với rung động tập thể…. thứ 2

 

sắc

Viễn cảm tinh thần ………………. thứ 1

 

tướng

Bồ đề…

 Thấu hiểu   (comprehension)…..  thứ 7

 Hàn gắn  (healing)  ……………. thứ 6

 Huệ nhăn thông (Divine vision)... thứ 5

 Trực giác …………………… thứ 4

 Chủ nghĩa lư tưởng (Idealism) … thứ 3

 

Niết bàn…(Atmic)

 Toàn phúc ………………… thứ 7

 Phụng sự linh hoạt ……….. thứ 6

 Hiện thực ……………..…… thứ 5

 Hoàn thiện ………………… thứ 4

 Toàn tri (all knowledge) …. thứ 3

 

Cần ghi nhớ rằng chúng ta không tổng kết hai cơi trừu

tượng trên cơi Niết Bàn và Bồ đề, lư do là v́ chúng đánh dấu

một tŕnh độ nhận thức, vốn là điều sở đắc của các điểm đạo

189 đồ ở cấp bậc cao hơn cấp bậc của Chân Sư, và vượt quá quan

niệm của mẫu người tiến hoá đang là đối tượng của Bộ luận này.

Với mục đích làm sáng tỏ, chúng ta có thể nêu lên ở đây biểu đồ về năm trạng thái khác nhau của 5 giác quan trên năm cơi, để cho các tương đồng của chúng có thể sẵn sàng h́nh dung được bằng cách dùng bảng trên làm cơ sở:

a. Giác quan thứ nhất         … Thính giác

 Thính giác hồng trần

 Nhĩ thông

 Nhĩ thông cao

 Sự lĩnh hội đối với bốn âm thanh

 Toàn phúc

 

b. Giác quan thứ 2 …………. Xúc giác hay cảm giác

 Xúc giác hồng trần

 Trắc lượng tâm lư

 Trắc lượng tâm lư hành tinh

 Hàn gắn (healing)

 Phụng sự linh hoạt (active service)

 

c. Giác quan thứ 3…………. Thị giác (Sight)

 Thị giác hồng trần

 Nhăn thông.

 Nhăn thông cao

 Huệ nhăn thông (Divine vision)

 Nhận thức

 

d. Giác quan thứ 4………….  Vị giác

 Vị giác hồng trần

 Trí tưởng tượng

 Phân biện

 Trực giác

 Hoàn thiện

 

e. Giác quan thứ 5………….  Khứu giác

 Khứu giác hồng trần

 Lư tưởng xúc cảm

 Nhận thức tinh thần

 Chủ nghĩa lư tưởng

 Toàn tri

 

Giờ chúng ta hăy đi vào từng chi tiết một trong các giác quan này:

Thính giác. Đây là giác quan đầu tiên được biểu lộ một cách rất thích hợp; trạng thái biểu lộ thứ nhất là trạng thái âm thanh, do đó, tất nhiên là chúng ta thường tin tưởng âm thanh là cái đầu tiên mà con người để ư đến trên cơi trần, cơi biểu lộ trọng trược nhất và có các hiệu quả âm thanh đáng ghi nhận nhất được xem là yếu tố sáng tạo. Một cách nổi bật, cơi trần là cơi của thính giác và như thế là giác quan được gán cho cơi tiến hoá thấp nhất và của mỗi một trong 5 cơi. Trên cơi thứ bảy hay cơi thấp nhất, con người phải tiến đến chỗ nhận thức đầy đủ về hiệu quả của Linh Từ, v́ nó ở trong tiến tŕnh phát ra âm thanh. Khi âm thanh vang dội suốt cả Thái dương hệ, nó đưa vật chất vào chỗ đă định của vật chất, và trên cơi trần, nó t́m được điểm có tính vật chất sâu kín nhất và biểu lộ cụ thể nhất. Bí quyết đối với con người là khám phá và trở lại liên hệ chính nó với sự tiết lộ về bí nhiệm của:

 Chính âm thanh của y

Âm thanh của huynh đệ y

Âm thanh của nhóm y

Âm thanh của một trong các Hành Tinh Thượng Đế mà y có liên hệ với Ngài.

Âm thanh của Thượng Đế, hay âm thanh của thiên nhiên, của Thái dương hệ của Thái Dương Thượng Đế.

 

Do đó, chúng ta ghi nhận rằng trên cơi trần, con người

phải t́m ra chính nốt của ḿnh, phải t́m nốt đó dù cho h́nh

hài có trọng trược đến đâu.

Trên cơi trần, con người đang t́m kiếm nốt của riêng ḿnh.

Trên cơi cảm dục, con người đang t́m kiếm nốt của huynh đệ y, qua sự tương đồng về cảm xúc, con người tiến đến chỗ nhận được sự tương đồng của huynh đệ

 

 Trên cơi trí, y đang bắt đầu t́m được nốt của nhóm y.

Trên cơi Bồ đề hay cơi minh triết, con người bắt đầu t́m thấy nốt của Hành Tinh Thượng Đế của y.

Trên cơi Niết bàn hay cơi Tinh Thần, nốt của Thượng Đế bắt đầu ngân lên trong tâm thức y.

 

Tôi phân tích như thế với mục đích làm sáng tỏ. Trong chính sự tiến hoá, do bởi trạng thái song song của thiên nhiên, các phân biệt không được rơ ràng như thế, và cung của một người, mức độ phát triển, công việc được thành toàn sớm hơn, các giới hạn nhất thời của y và các nguyên nhân khác dường như tạo ra sự mơ hồ, nhưng trong đại hệ thống, nh́n từ trên xuống, công việc diễn tiến như đă mô tả.

Thính giác trên cơi cảm dục thường được gọi là nhĩ thông và có nghĩa là khả năng nghe được âm thanh của cơi cảm dục. Đó là một năng khiếu biểu lộ khắp toàn bộ thể cảm dục, con người nghe được qua khắp hiện thể của y chứ không phải chỉ thông qua cơ quan chuyên hoá là hai tai, sản phẩm của tác động và phản tác động trên cơi trần. Điều này tất nhiên là như thế, do bởi bản tính dễ lưu chuyển của thể cảm dục. Con người trên cơi trần, nghe cùng lúc một phạm vi âm thanh nào đó, và chỉ có một âm giai (gamut) rung động nhỏ

và đặc biệt mới tác động trên tai y. Có nhiều âm thanh yếu ớt trong thiên nhiên hoàn toàn thoát khỏi y, trong khi âm thanh của các nhóm chính đều không khác nhau chút nào. Khi sự tiến hoá tiếp tục, cảm giác bên trong của tai trở nên nhạy, các âm thanh khác của cơi trần cũng sẽ ở trong phạm vi hiểu biết của con người, và y sẽ nhận biết một cách tinh nhạy về mọi âm thanh trên cơi cảm dục và cơi trần -điều mà hiện giờ nếu có thể xảy ra, sẽ đưa đến kết quả làm vỡ tan cơ thể. Thí dụ, nếu nốt của thiên nhiên chỉ tác động một lần thôi trên tai của một người (một nốt làm bằng toàn thể các rung động sinh ra bởi mọi h́nh hài vật chất trọng trược) thể xác của y sẽ hoàn

192 toàn bị phá vỡ. Y chưa sẵn sàng đón nhận một biến cố như vậy; tai trong chưa được chuẩn bị thích đáng. Chỉ khi nào thính giác gồm ba phần được hoàn thiện, bấy giờ trên cơi trần con người mới được phép có thính giác hoàn hảo. Thính giác trên cơi trí chỉ là một sự mở rộng khả năng phân biệt âm thanh. Thính giác được bàn đến trên các cơi này là thính giác có liên quan với h́nh hài, vốn có liên quan với rung động của vật chất và có dính dáng với phi ngă. Nó không liên quan tới tâm linh (psyche) hay là truyền đạt viễn cảm vốn xuất phát từ trí đến trí, mà là liên quan với âm thanh của h́nh hài hay mănh lực mà nhờ đó một đơn vị tâm thức riêng rẽ nhận biết được một đơn vị khác không phải là chính nó. Hăy nhớ kỹ điều này. Khi việc phát triển thính giác trở thành những ǵ có liên quan đến tâm linh, lúc bấy giờ chúng ta gọi đó là viễn cảm, hay là sự truyền đạt không bằng lời nói (wordless communication) vốn là tổng hợp của thính giác trên ba cơi thấp và được Chân ngă nhận biết trong linh hồn thể trên các cơi phụ vô sắc tướng của cơi trí.

Trên cơi Bồ đề, thính giác (hiện giờ có tính chất tổng hợp gọi là viễn cảm) biểu lộ như sự toàn thông v́ nó liên quan đến hai sự việc:

 Hiểu biết và nhận ra được âm thanh cá nhân.

 Hiểu biết tương đồng về âm thanh của nhóm, và sự hợp nhất hoàn toàn của chúng. Điều này tạo nên sự toàn thông đầy đủ nhất (most perfect compre–hension) và là bí nhiệm về quyền năng của Chân Sư.

 

Trên cơi Niết bàn, thính giác hoàn hảo này được xem như là toàn phúc (beatitude). Âm thanh, nền tảng của sự sống; âm thanh, phương pháp hiện tồn; âm thanh, chủ thể hợp nhất cuối cùng (final unifier); do đó, âm thanh được xem như là lư do tồn tại (the raison d’être), như là phương pháp tiến hoá và do đó như là toàn phúc (1).

1 … “Cơ nguyên chính yếu, nhờ đó bánh xe của Tạo Hoá chuyển động theo một hướng của cơi hiện tượng là âm thanh (sound). Âm thanh là trạng thái thứ nhất của ngũ giác biểu lộ (manifested pentagon) v́ đó là một đặc tính của dĩ thái được gọi là Akas và như tôi có nói cái dẫn chứng của kinh Vedas là Yagnam cao siêu nhất chứa trong chính nó mọi Yagnams nhỏ và đưa tới khuynh hướng bảo tồn ngũ giác biểu lộ theo trật tự thích hợp. Theo ư kiến của các triết gia cổ của chúng ta, âm thanh hoặc lời nói, kế tiếp với tư tưởng, là tác nhân nghiệp quả cao nhất được con người vận dụng. Trong số các cơ nguyên nghiệp quả đủ loại do con người tạo ra theo cách rập khuôn chính ḿnh và chung quanh ḿnh, âm thanh hoặc lời nói là quan trọng nhất, v́ lẽ, khi nói là tác động trong chất dĩ thái mà dĩ nhiên đang chi phối 4 yếu tố (tứ đại) thấp gồm có phong, hoả, thuỷ, thổ. Âm thanh hay ngôn ngữ con người, do đó, chứa mọi yếu tố có tính thúc đẩy các hạng Thiên Thần khác nhau và các yếu tố này dĩ nhiên là các nguyên âm và các phụ âm. Các chi tiết của môn triết lư về âm thanh trong mối liên hệ của nó với các

193 b. Xúc giác. Khi đề cập đến vấn đề giác quan thứ hai, tức xúc giác, chúng ta phải ghi nhớ rằng giác quan này là giác quan rất quan trọng, vượt trên các giác quan khác trong Thái dương hệ thứ hai này -tức Thái dương hệ của tâm thức cảm dục tuệ giác (1). Mỗi một trong các giác quan này, sau khi đạt đến một tŕnh độ nào đó, bắt đầu tổng hợp với các giác quan khác bằng một cách hầu như không thể biết được nơi bắt đầu và nơi kết thúc. Xúc giác là sự nhận thức bằng cách tiếp xúc qua sự luyện tập của trí tuệ theo ba cách : -Dưới h́nh thức nhận thức (recognition) -Dưới h́nh thức trí nhớ (memory) -Dưới h́nh thức tiên đoán (anticipation) Mỗi một trong năm giác quan này, khi  kết hợp với trí tuệ sẽ phát triển ở bên trong chủ thể một ư niệm biểu hiện cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Do đó, khi một người tiến hoá rất cao, sẽ siêu việt được thời gian (như đă biết trong ba cơi thấp), và do đó có thể nh́n thấy ba cơi thấp này theo quan điểm Hiện Tại Vĩnh Cửu, người đó đă thay thế các giác quan bằng tâm thức linh hoạt đầy đủ. Người đó trở nên thông suốt (knows) và không cần các giác quan để dẫn dắt y đến bất cứ tri thức nào nữa. Nhưng sớm hay muộn và trong ba cơi thấp, mỗi giác quan trên mỗi cơi được dùng để truyền đạt cho Linh

thiên thần chủ tŕ cơi giới tinh anh, tuỳ thuộc vào địa hạt của Mantra Sastra dĩ nhiên nằm trong tay của những kẻ hiểu biết”.

Some Thoughts on the Gita, trang 72 1 Tâm thức cảm dục tuệ giác (astral–buddhic consciousness) là thuật ngữ được dùng cho tâm thức cơ bản trong Thái dương hệ chúng ta. Nó được tiêu biểu bằng sự cảm xúc (emotion), bằng sự nhạy cảm (by feeling), cảm giác, mà sau rốt phải được biến đổi thành trực giác, tri giác tâm linh (spiritual perception) và hợp nhất.

194 Hồn một khía cạnh/ trạng thái nào đó của phi ngă, và bằng sự trợ giúp của trí tuệ, bấy giờ Chủ Thể Suy Tưởng có thể hiệu chỉnh mối liên giao của ḿnh vào đó. Thính giác đem lại cho y một ư tưởng về phương hướng tương đối và giúp cho một người xác định vị trí ḿnh trong cơ tiến hoá và định hướng cho chính ḿnh. Xúc giác đem lại cho y một ư tưởng về số lượng tương đối và cho phép y xác định giá trị tương đối có liên quan đến các thể khác bên ngoài chính y. Thị gi