Dịch thuật
GIÁO LƯ BÍ NHIỆM
(THE SECRET DOCTRINE)
(TỔNG
HỢP KHOA HỌC,TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC)
TÁC GIẢ
H.P.BLAVATSKY
QUYỂN 3
NHÂN SINH KHỞI NGUYÊN LUẬN
(ANTHROPOGENESIS)
PHẦN I
MỤC LỤC
QUYỂN
3
Trang
CÁC CHÚ THÍCH SƠ BỘ về các Đoạn Kinh cổ và Bốn
Lục địa Thời tiền sử …………………………………………………..
|
21 |
Giáo Lư Bí Nhiệm tŕnh bày ba Vấn đề
mới: (a) Sự Tiến Hóa Đồng Thời của
Bảy Nhóm Người trên Bảy Phần khác nhau của
Địa Cầu. (b) Dĩ thái thể sinh ra trước
Thể Xác. (c) Trong Cuộc Tuần Hoàn này, Con Người
có trước mọi con thú thuộc loại Hữu
nhũ – Các giống người Vô giới tính và
Lưỡng tính – Nguyên kiểu của các Nam tử
đầu tiên nơi chư Thần Linh Bí nhiệm
của người Phoenicia, v..v.. – Các Ẩn dụ
Ngoại môn dựa vào các Bí pháp Nội môn – Bảy vị
Thần Linh, mỗi Vị Sáng tạo ra một Nhóm
người – Ư nghĩa của Hai “Cuộc Sáng Tạo” –
Năm Lục địa: (1) Thánh Địa Bất
Diệt; (2) Lục địa Bắc Cực; (3) Châu
Lemuria; (4) Châu Atlantis; (5) Châu Âu – Con Người đă
tồn tại cách đây 18.000.000 năm – Các Thời
Kỳ Địa Chất – Chí Tuyến ở Cực. |
|
PHẦN 1. NHÂN
SINH KHỞI NGUYÊN LUẬN |
|
MƯỜI HAI ĐOẠN
KINH TRONG THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH …………………………………………………………….. |
41 |
PHẦN GIẢNG LƯ |
|
ĐOẠN KINH 1 – KHỞI
ĐẦU CUỘC SỐNG HỮU H̀NH ... |
52 |
Ư nghĩa của từ ngữ “Lha” – Sự
khởi thủy của Chiêm tinh học và Tục sùng bái
tinh tú – Chư Thiên và Loài người đều bắt
nguồn từ cùng một Điểm, NHẤT NGUYÊN
Tuyệt Đối – Huyền Âm là Cơ Sở của
khía cạnh Nội Tâm của Bản Thể Biểu
Lộ - Hỗn nguyên khí là nền tảng của Khía
cạnh Ngoại cảnh của Vạn vật – Thần
Lực nối tiếp Hỗn nguyên khí – Adam-Kadmon –
Rồng và Rắn – Bí nhiệm Huyền Linh của
Thủy Tinh và Kim Tinh – Bảy Đấng Hành Tinh Chơn
Quân và các Hành Tinh – Các Đấng Quản trị Thiên
giới của Nhân loại – Quả Địa Cầu
Thập tự giá – Shukra, tức Kim Tinh và Địa
Cầu – Huyền học Nhiệm mầu bàn về
Đấng Chưởng Quản Hành Tinh – Đấng
Độc Tôn, Đấng Đa Nguyên và các Đấng
Thông Tuệ làm linh hoạt nhiều Trung Tâm Hiện
Tồn khác nhau – H́nh mười hai mặt của Vũ
Trụ - Ba loại Ánh sáng – Các Con số Sáng Tạo –
Một Đấng Thánh Linh Nội Vũ Trụ là một
Tất Yếu triết học – Tiến Hóa nhờ vào các
Linh từ - Vạn hữu được sản sinh ra
trong Thế giới lư tưởng – Adam-Kadmon và Adam -Admi –
Ngôi Sao hoặc Hành Tinh nào cũng có người ở -
Trận Chiến tranh Đầu tiên trên Trời – Căn
chủng Đầu tiên thật là Tinh anh – Nay chúng ta
đang ở vào Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư. |
|
HAI NHÀ THIÊN VĂN HỌC
TRƯỚC THỜI ĐẠI HỒNG THỦY: |
|
Nărada và Asuramaya ………………………………….. |
98 |
Chiếc gương hậu lai – Các dữ
kiện suy ra từ các tác phẩm huyền bí học bí
nhiệm. |
|
ĐOẠN KINH 2 – THIÊN NHIÊN KHÔNG
ĐƯỢC TRỢ GIÚP SẼ THẤT BẠI …………………………………………… |
105 |
Các Bầu hành tinh thay đổi Hoàn cảnh
Địa chất và Khí quyển – Các Con quái vật
thời Hỗn mang – Các Thể tinh anh Sơ khởi
của Con người – Thiên nhiên cần được
trợ giúp trong việc tạo ra Con Người Thiêng
liêng và Thông tuệ - Chư Thần Linh Ư chí bổ túc cho
Con người. |
|
SỰ SÁNG TẠO CÁC
ĐẤNG THIÊNG LIÊNG THEO GIÁO LƯ NGOẠI MÔN ………………………………………………
|
117 |
Linh Hồn của Vũ Trụ là Nguồn
cội của Ngă Thức – Sự sáng tạo Sơ
cấp và Cuộc tiến hóa Thứ cấp của
Thế giới biểu lộ hữu h́nh – “Ngày” và
“Đêm” của Brahmă – Các Thiên Thần Nổi Loạn – Dân
Babylon tường thuật về “Cuộc Sáng Tạo” –
Quan điểm của các Tín đồ phái Ngộ
Đạo. |
|
ĐOẠN KINH 2 – Tiếp theo ……………………………………. |
126 |
Các “Linh Hỏa” là một Đại Đoàn
Chơn Linh – Mặt Trăng có nguồn gốc xưa
hơn Trái Đất nhiều – Thời gian tạo ra
vỏ Quả Đất – Nước là Biểu
tượng của Yếu tố Nữ - Kỳ gian
của các Thời kỳ địa chất. |
|
NIÊN ĐẠI CỦA
NGƯỜI BÀ LA MÔN ……………………... |
131 |
“Bạch Đảo” là một Danh xưng
biểu tượng – Các số liệu của Ấn
Độ về các Thời kỳ tiến hóa Vũ
Trụ - Các Chu Kỳ Thiên kiếp và các Chu kỳ Chủng
tộc – Các Người khổng lồ lương
hảo và các Người lùn Tồi bại – Các thời
kỳ Địa Chất theo kiến nghị của Khoa
học – Tầm quan trọng của Niên đại
Đông phương – Vũ Trụ khởi nguyên luận
là một Thiên Cơ sáng suốt – Chúng ta đang ở
điểm Thấp nhất của một Chu kỳ. |
|
ĐOẠN KINH 3 – CÁC TOAN
TÍNH THỬ TẠO RA CON NGƯỜI …………………………………………………………..
|
147 |
Các Nguyệt Tinh Quân – Câu chuyện Abram dựa
vào câu chuyện Brahmă – Nhiều loại Đấng Sáng
Tạo khác nhau – Các Agnishvătta và Barhishad Pitris – Lửa Tinh
Thần sống động – Định nghĩa Chơn
Ngă con người – Các cuộc Tái sinh Vũ Trụ,
tức Chuyển động xoáy ốc Vĩnh cửu
của Vũ Trụ - Con người là một Thần
Linh trong một h́nh hài Động vật – Giáo lư Huyền
bí đặc biệt liên kết Nărada với các Chu kỳ
Thiên kiếp Bí nhiệm – Lửa, Đốm Lửa và
Ngọn Lửa – Dĩ thái thể có trước thể
xác – Giống dân Đầu tiên biến mất trong
Giống dân thứ Nh́ – Tử cung người là một
phản ánh của Khuôn viên Thế giới, “Thánh Đô”. |
|
ĐOẠN KINH 4 – SỰ
SÁNG TẠO RA CÁC GIỐNG DÂN ĐẦU TIÊN ………………………………………………………
|
166 |
Huyền bí học dạy rằng Giống
người đầu tiên được các Đấng
Cao Cả Thiêng Liêng phóng chiếu ra từ Bản Thể của
Ḿnh – Có một Cuộc tiến hóa Tinh Thần, một
Cuộc tiến hóa Tâm Linh, một Cuộc tiến hóa Trí
Tuệ và một Cuộc tiến hóa Thú Dục – Bảy
loại Tổ phụ: 3 loại Phi thể và 4 loại
Hữu thể - Mười hai Đại Thiên Thần
phụ tá Brahmă trong Công Tŕnh Sáng Tạo – Nguồn gốc của
từ ngữ “Bàn Cổ” –
Các Nhật Tinh Quân là “Tâm” của Đoàn thể Thiền
Định Đế Quân – Tại sao “Chư Thiên” lại
không chịu sáng tạo và bị “Đọa đày” –
Prometheus tiêu biểu cho cái ǵ? – Các “Đấng Sáng Tạo”
và “H́nh bóng”của họ - Các Đấng Sáng Tạo trong
thần thoại Bắc Âu – Chữ Vạn, Biểu
tượng thiêng liêng và Huyền nhiệm – Cây Búa của
Thần Thor và cây Búa Tam Điểm – Chhăya là H́nh bóng tinh anh
– Các Tổ phụ của Chơn Nhơn tinh anh – Con
người Sơ thủy là một Thất bại – Các
“Kẻ Nổi Loạn Thiêng Liêng” cứu rỗi chúng ta – Ư
nghĩa của Con Rồng, Nguyên khí Nam – Hydrogen thực
sự là ǵ? – Bí nhiệm về Cuộc sáng tạo Thiên Tôn
– Diệu Âm tức Bản quang Shekinah – Cuộc tiến
hóa của Ngũ hành và Ngũ quan – Tŕnh tự Giáng hạ
Tiến hóa Nội Môn. |
|
ĐOẠN KINH 5 – SỰ
TIẾN HÓA CỦA GIỐNG DÂN THỨ NH̀ ……………………………………………………………..
|
210 |
Lửa Tinh
Thần và Chơn Ngă – TOÀN LỰC vốn có sẵn
nơi Chơn Thần – Chơn Ngă thống ngự
được Phàm Ngă sau ba Căn chủng rưỡi –
Bảy Trú sở hay Bảy vùng Địa Cầu – Con
người có sẵn Mănh lực siêu việt
được các Năng lực Thiên Thần – Tinh
Thần Thiêng Liêng được tiêu biểu bởi
Mặt Trời hay Lửa – Linh Hồn được tiêu
biểu bởi Nước và Mặt Trăng – Nhân Hồn
tức Thể Trí được tiêu biểu bởi Gió
tức Phong – Giống dân thứ Nhất có Tam Hành,
nhưng không có Sinh Hỏa – Hỏa, Phong và Thái Dương
là Ba mức độ Huyền bí của Lửa –
Giống dân thứ Nhất là Dĩ Thái thể của các
Tổ phụ - Luật tiến hóa thúc đẩy các
Nguyệt Tinh Quân trải qua mọi dạng Tồn
tại trên Địa Cầu – Giống dân thứ Nh́ Vô
giới tính và Hăn sinh – Các cách thức sinh sản – Các Phân
Thân (Đứa Con) của Yoga tức Giống
người tinh anh nguyên thủy – Bảy giai đoạn
Sinh dục trong mỗi giống dân – Các giống
người Bán thư bán hùng nguyên thủy là một
Sự kiện trong Thiên Nhiên – “Phôi Chủng nguyên thủy”,
Bản Thể Thiền Định Đế Quân tức
Đối Thể của các Tổ phụ - “Các
Đứa Con Tranh tối tranh sáng” – Giống Dân thứ Nhất
bị hấp thụ vào Giống dân thứ Nh́ – Con
người phát triển một Thể Xác - Ẩn dụ
về Leda, Castor và Pollux. |
|
ĐẤNG BÁN THƯ BÁN HÙNG
THIÊNG LIÊNG …………. |
238 |
Vấn đề Bí ẩn về Sphinx (Nhân
Sư) – Đấng Bán thư bán hùng Thiêng liêng phân thành
Đàn ông, Đàn bà, Cain và Abel – Jah-Hovah, Đấng Bán
thư bán hùng – So sánh Thánh kinh với kinh Purănas – Jah-Hovah là
một Danh xưng chung của Đại Đoàn Thiên
Thần Sáng Tạo Hành Tinh – Cain Nội Môn – So sánh các
Thần nhân luận của dân Aryan và dân Semite – Tôn danh
Thượng Đế của người Do Thái. |
|
ĐOẠN KINH 6 – SỰ
TIẾN HÓA CỦA GIỐNG NGƯỜI HĂN SINH …………………………………………………….. |
250 |
Nhân loại thuộc Giống dân thứ Ba
biến thành Lưỡng tính – Giống dân thứ Tư
nếm mùi Trái Cây Thiện Ác – Giống dân thứ Năm
chúng ta nhanh chóng tiến tới Hành thứ Năm – Căn
chủng thứ Nhất không thể bị tổn thương
hay Diệt vong – Giống dân thứ Nh́ bị tiêu diệt
trong Cơn quằn quại vĩ đại đầu
tiên của Cuộc tiến hóa và sự Củng cố
quả Địa Cầu trong Thời kỳ Nhân loại. |
|
SƠ
LƯỢC VỀ CÁC TRẬN ĐẠI HỒNG THỦY
VÀ NOAHS ….
|
265 |
Hóa Thân Cá (Matsya-Avatăra) – Trận Lụt Vũ
Trụ Đầu tiên liên quan tới cuộc Sáng tạo
Nguyên thủy – Trận Lụt thời Châu Atlantis –
“Đại Hồng Thủy” là một truyền thuyết
Đại đồng Thế giới – Các Biểu
tượng của dân Arkite – Noah người Do Thái và Nuah
người Chaldea – Trận Lụt thứ nh́ ảnh
hưởng đến Căn chủng thứ Tư –
“Bạch Đảo”- Các ư nghĩa của Ilă. |
|
CON NGƯỜI CÓ THỂ
TỒN TẠI CÁCH ĐÂY 18.OOO.OOO NĂM KHÔNG ? ………………………………
|
284 |
Sự dị biệt giữa Khoa học
Thế tục và Nội môn Bí giáo tùy thuộc vào việc
chứng minh sự tồn tại của Dĩ thái
thể bên trong Thể Xác – Nhân loại Vật chất
đă tồn tại trên Trái Đất từ 18.000.000
năm nay – Adam-Galatea – Thoạt tiên Loài người nguyên
thủy có một Thể tinh anh Khổng Lồ - Sự
tiến hóa chỉ áp dụng cho Phàm Nhơn – Tương tự là Luật
chỉ đạo trong Thiên Nhiên – Một “Cơ thể
không có các Cơ quan” – Con người là Động
vật hữu nhũ đầu tiên trong các Cuộc
Tuần Hoàn này – Thời kỳ phát triển Tính Dục,
Vật Chất, Cảm Dục và Tinh Thần chiếm
rất nhiều Thời gian – Sự sinh sản Tự phát
– Thượng Đế biểu lộ chẳng qua
chỉ là Một phần của Toàn thể - Hoàn cảnh
Vật Chất cần thiết cho các Giống dân Sơ
Khai. |
|
ĐOẠN KINH 7 – TỪ CÁC
GIỐNG NGƯỜI BÁN THIÊNG LIÊNG XUỐNG TỚI CÁC
GIỐNG NGƯỜI ĐẦU TIÊN ….
|
306 |
Cái gọi là “Sự sa đọa của các
Thiên Thần” là Ch́a khóa để giải Bí nhiệm
về điều Ác – Măi cho tới Giữa cuộc
Tuần Hoàn này, Con Người chỉ là một
Động vật, xét về mặt Trí Tuệ - Thể
Trí chỉ phát triển trọn vẹn trong cuộc
Tuần Hoàn sắp tới – “Lửa Đen” là “Ánh Sáng”
Tuyệt đối tức Minh Triết – Lucifer là Chơn
Linh của Toàn giác và tự do Tư tưởng –
Nhiều cuộc Sáng tạo khác nhau – Nguyên khí Thiêng Liêng,
Lưỡng diện, xung đột nơi Con
người – Các giống dân nối tiếp nhau kể
từ Giống dân tự sinh tự tại : (1) Giống
dân tự sinh; (2) Giống dân thứ Nh́: Hăn Sinh; (3)
Giống dân Lưỡng tính (Bán thư bán hùng) – Các cách
thức Sinh sản sơ khởi: (1) Liệt phân, (2)
Nảy chồi, (3) Bào tử, (4) Bán thư bán hùng trung gian,
(5) Tính giao thực sự - Chơn Thần và các cuộc
Tuần hoàn – Sự tiến hóa là một Chu kỳ
biến dịch Vĩnh cửu – Sự Sa đọa
của các Thiên Thần có liên quan tới các Lư do sinh lư
hơn là các Lư do siêu h́nh – Chư thiên là Loài người
được Thần thánh hóa – Các Thiên Tôn do Quyền
năng hiếu động sáng tạo ra – Sinh ra từ
H́nh bóng (Bào ảnh sinh) là một cách thức sinh sản Vô
giới tính sơ khởi – Thể Trí được phát
triển sau khi con người nếm mùi Trái Cây Minh
triết – Cảm dục và T́nh dục – Daksha là Cha của
các Tổ phụ giống như Người đầu
tiên – Ư nghĩa Nội môn của Liên Tŕ Quan Thế Âm
(Padmapăni Avalokiteshvara) – Xét về mặt Nội môn, Liên Tŕ
(Padmapăni) là Đấng gánh vác các Thiên kiếp. |
|
ĐOẠN KINH 8 – SỰ
TIẾN HÓA CỦA CÁC ĐỘNG VẬT HỮU NHŨ :
SỰ SA ĐỌA ĐẦU TIÊN ……………………….
|
339 |
Tinh Thần và Vật Chất được
quân b́nh hóa nơi Con người – Con người là
Tổ phụ của các Con thú – Các Thánh Hiền và
những Hậu duệ - Shiva là sự Tiến hóa và
Tiến bộ được nhân cách hóa – Daksha tiêu
biểu cho Giống dân Thứ Ba sơ khai – Động
vật học Cổ sơ – Tội lỗi của
những Người Vô Trí. |
|
NGƯỜI TA CÓ THỂ
PHẢN ĐỐI NHỮNG ĐIỀU NÓI TRÊN RA SAO ? ………………………………………………... |
348 |
Chơn Thần chỉ không c̣n có tính chất
con người khi nó đă trở nên Hoàn Toàn Thiêng Liêng – Những người theo
thuyết |
|
ĐOẠN KINH 9 – SỰ
TIẾN HÓA TỐI HẬU CỦA CON NGƯỜI …………………………………………………………..
|
358 |
Huyền bí học đă giải thích Các chi
tiết trước khi có “Sự sa đọa” như
thế nào? Con người không hề mang Ḍng máu Khỉ -
Giống người Không xương – Các bậc Thánh
Vương và Thánh Sư của Giống dân thứ ba –
Tính Đơn Nhất chuyên biệt của Nhân loại
cũng có Ngoại lệ - Địa chất học,
Thực vật học và Động vật học
ủng hộ Nội môn Bí giáo – Các Giống dân và Luật
tŕ trệ - Sự phân chia Giới tính – Giống dân
thứ Tư phát triển Ngôn ngữ - Độc âm
ngữ, Giao kết ngữ và Biến cách ngữ - Sự
biến đổi của Địa cầu. |
|
VƯỜN ĐỊA
ĐÀNG, RẮN VÀ RỒNG ………………………. |
378 |
Vườn Địa Đàng là một
Trường học – Sự sinh sản của Con người
bắt đầu trong phần Sơ khai nhất của
Thời đại Trung Sinh – Các con Lạc đà bay – Các
quốc gia thời xưa mô tả các con Quái vật mà
họ đă thấy – Các câu chuyện về Con Rồng –
Con Rắn đồng của Moses – Quỷ Vương có
thực không? Hai trường phái Pháp thuật – Con
Rồng trong các Thần học Cổ truyền – Ánh sáng và
Bóng tối thường trụ, tức Thiện và Ác – Cây
Minh Triết Thiện và Ác mọc từ Rễ cây
Trường sinh – Các Con Rồng bay. |
|
CÁC “CON CỦA THƯỢNG
ĐẾ” VÀ “ĐẢO THIÊNG” …... |
411 |
Một vài thành
phố được xây bên trên các Đô thị và Mê
lộ cổ dưới đất – Hai Lục
địa đă thất tung – Một vài Đảo là di
tích của các Xứ sở bao la trước kia – Các di
tích của đảo Easter về các Con người
Khổng lồ bản sơ – “Các Con của Thượng
Đế” và các Thầy phù thủy uy dũng – Nghệ thuật
và Văn hóa của dân Ấn Độ và dân Babylon. |
|
ĐOẠN KINH 10 – LỊCH
SỬ CỦA GIỐNG DÂN THỨ TƯ ..
|
425 |
Nghiệp quả của các Đứa Con Minh
Triết đă tŕ hoăn sự lâm phàm của Ḿnh cho tới
Giống dân thứ Tư – Chân ư nghĩa của giáo lư
dạy về các “Thiên Thần Sa Đọa” – Mọi
Điểm đạo đồ đều phải chế ngự
được U Minh giới tức Địa ngục –
“Chư Thiên” chuyển sang lâm phàm – Quan điểm Nội
môn Chân chính về Quỷ Vương – Minh Triết Ai
Cập dạy về Ánh sáng Sinh hóa của Thượng
Đế - Bí nhiệm về Trọng lượng, Kích
thước và Số mục – Thượng Đế
của người Do Thái và “Thiên Thần Vật Chất”
– Tài liệu Thánh kinh và các Tài liệu khác bàn về
Lịch sử Vũ Trụ của Địa Cầu –
Các Hậu quả Vũ Trụ của tính Ích kỷ và Ngă
chấp – Muốn Đào luyện Thế giới Hữu
cơ cần phải có các Đấng Thông Tuệ -
Một “Mặt Trời Trung Ương” và Ba Mặt
Trời thứ yếu trong mỗi Thái Dương Hệ
- Các “Kẻ Nổi Loạn” đă không tạo ra những
Con người Vô tội – Lucifer báo trước Ánh Sáng –
Quỷ Vương bị Đọa đày – Con
người biến thành Đấng Sáng Tạo ra chính
ḿnh và là một Thần Linh Bất Tử - Sự hy sinh
của các Hỏa Thiên Thần có bản chất là “Minh
Triết” và “Bác Ái” – Ư nghĩa Siêu h́nh của “Lửa Ma
Sát” – Chơn Nhơn chính là Bản Thể của các
Đấng Thông Tuệ Cao Cả - Mô tả các Thiên Tôn –
Màu da của các Căn chủng – Hoàn cảnh vật
chất của Con Người và Thiên Nhiên vào thời
Giống dân Lemuria-Atlantis. |
|
GIÁO LƯ CỔ SƠ TRONG KINH
PURĂNAS VÀ SÁNG THẾ KƯ. SỰ TIẾN HÓA VẬT
CHẤT ………………………. |
472 |
Kinh Purănas bàn về Lịch sử Tự Nhiên
– Khoa học bàn về “Lớp Vỏ” của Con
người – Cuộc Tiến Hóa Vũ Trụ
được lập lại trong Thời kỳ Thai nghén
(Gestation) – Khi Loài ḅ sát đạt tới Cao tột Phát
triển – Cũng như tất cả các Động
vật khác, Con người bắt nguồn từ một
Tế bào và chuyển sang Loài người – Luật cố
hữu Phát triển tiệm tiến – Con khỉ giống
người là một sự Sáng tạo Ngẫu nhiên -
Ẩn dụ về Lilith. |
|
TOÀN CẢNH CÁC GIỐNG DÂN
SƠ KHAI ……………… |
493 |
Biểu tượng kư về Uranus và Kronos –
Người Nữ đầu tiên – Các Giống dân trong
Thần thoại Hy Lạp. |
|
ĐOẠN KINH 10 - Tiếp theo ………………………………….. |
509 |
Tôn giáo của các Giống dân thứ Ba và
thứ Tư – Thời đại Hoàng Kim – Nguồn
gốc Bí nhiệm của mọi Tôn giáo sau này – Các Thiên
Thần Sa Đọa chính là Nhân
Loại – Con người Thiêng
Liêng ngự nơi Người thú – Cuộc Chiến
tranh đầu tiên mà toàn Thế giới đều
biết. |
|
CÁC NGƯỜI KHỔNG
LỒ CÓ PHẢI LÀ ĐIỀU BỊA ĐẶT KHÔNG
? ………………………………………………………
|
519 |
Các khoa Địa chất, Tinh đẩu và
Thánh kinh có thể cung ứng các Bằng chứng cần
thiết – Bằng chứng về các Tác giả Ngẫu
tượng giáo Thời xưa – Vào thời Giống dân
thứ Tư, Con người quay về tục Sùng bái
cơ thể, Sùng bái sinh thực khí – Các người
Khổng lồ thuộc Giống dân thứ Tư – Các Bí
nhiệm về Thiên Địa được thiên
khải cho Giống dân thứ Ba – Bốn Đấng Thiên
Tôn Thiêng Liêng – Các Con của Thượng Đế
cưới các Con gái của Nhân Loại – Các Thánh Hiền,
các Prajăpati, các vị Bàn Cổ, quư Phu nhân và những
Hậu duệ là Mầm mống của Loài người –
Sự cấu hợp giữa Người và Thú – Các Con
vật biết nói – Người câm đi bằng Bốn
chân. |
|
CÁC GIỐNG NGƯỜI CÓ
“CON MẮT THỨ BA” ………… |
541 |
Con người Thiêng
Liêng là Kiểu Mẫu
mới vào lúc Bắt đầu mọi cuộc
Tuần Hoàn – Cái Bè chỉ có nghĩa là Con người – Kỳ gian của một Ngày
ở Cực – Những người Khổng lồ
độc nhăn, các Thế nhân Ba mắt – Sự giáng
hạ Tiến hóa Tinh thần và Tâm linh diễn tiến
song song với cuộc Tiến hóa Vật chất – Các
tạo vật Con người Bốn chân có một
Đầu song lại có ba Con mắt thời sơ khai –
Mắt thứ ba thụt vào bên
trong – Sinh lư học Huyền linh – Ư nghĩa của Tùng
quả tuyến – Vào giai đoạn này, Tùng quả
tuyến đă bị mất công dụng Vật chất –
Sự Tiến hóa của Mắt – Sự Phát triển
Trọn vẹn của Thể Trí trong cuộc Tuần Hoàn
thứ Năm – “Mắt thứ Ba” nay là một Tuyến -
Mắt thứ Ba và Quan hệ của nó với Nghiệp
Quả - Số Chơn Thần bị giới hạn –
Nghiệp quả là một Định luật Tuyệt
đối và Vĩnh cửu trong Thế giới Biểu
lộ. |
|
CÁC VỊ BÀN CỔ BẢN
SƠ CỦA NHÂN LOẠI …………… |
574 |
Bảy và Mười bốn vị Bàn Cổ -
Danh xưng của Mười bốn vị Bàn Cổ -
Vị Bàn Cổ Sơ khai sinh ra mọi vị Bàn Cổ
khác – Svăyambhuva, Đơn Nguyên Vũ Trụ, biến thành
một Trung Tâm Lực từ trong đó xuất lộ ra
một Dăy Hành Tinh - Ẩn dụ về trận
Đại Hồng Thủy thời Bàn Cổ Vaivasvata – Ư
nghĩa Nội môn của Con Cá – Sự khởi
đầu của Lục địa thứ Tư – Ư
nghĩa của các lớp “Xiêm y” trong kinh Zohar. |
|
ĐOẠN KINH 11 – NỀN
VĂN MINH VÀ SỰ DIỆT VONG CỦA CÁC GIỐNG DÂN
THỨ TƯ VÀ THỨ BA …………..
|
591 |
Các Triều đại Thiêng liêng có trước các Quốc vương
của Nhân loại – Các
Đô thị bằng Đá và các Dinh thự Khổng
lồ đầu tiên của dân Lemuria – Các Triều
đại Thiêng liêng phát khởi các nền Văn minh
đầu tiên, trau dồi Nghệ thuật và Khoa học –
Sự suy đồi của Nhân loại – Ư nghĩa
của Bảy Châu, Bảy Dăy Hành Tinh và cái gọi là
Bảy Lục Địa – Nhân loại chúng ta bắt
đầu sinh hoạt trên Địa Cầu với
vị Bàn Cổ Vaivasvata – Xét về mặt Nội môn,
Krishna, Nărada và Garuda là Biểu tượng của các Chu
kỳ và là Ch́a khóa để giải các Ẩn dụ -
Những Kẻ tiên phong của Giống dân thứ Tư
chính là người Lemuria – Cấu tạo của Lục
địa của Giống dân thứ Ba – Các Lục
địa cũ sẽ tái xuất hiện – Biên giới
của Ấn Độ vào thời Tiền sử -
Đảo Easter thuộc về nền Văn minh xưa
nhất của Giống dân thứ Ba – Các sự biến
đổi Khí hậu – Bốn sự Đổi trục
đă làm thay đổi hoàn toàn Bộ Mặt của Trái
Đất – Các Chu kỳ bên trong các Chu kỳ - Sau khi Châu
Lemuria bị hủy diệt, vóc dáng của Con
người đă nhỏ dần lại – Trận Lụt
ở Châu Atlantis cách đây 850 000 năm – Các di tích của
một Lục địa Atlantis – Các Niên Sử Bí
nhiệm c̣n ghi lại đầy đủ sự Phát
triển của các Giống dân – Chỉ có Kư âm pháp Tôn giáo Huyền
bí mới biết được Ư nghĩa của các
Cổ danh – Các chứng cớ hiện hữu về các
Lục địa bị ch́m – Các tượng khổng
lồ Bamian – Năm pho tượng là một tài liệu
lưu trữ Nội môn về sự Tiến hóa dần
dần của các Giống dân. |
|
CÁC TÀN TÍCH CỦA GIỐNG
NGƯỜI KHỔNG LỒ MỘT MẮT VÀ CÁC TẢNG
ĐÁ KHỔNG LỒ VỚI TƯ CÁCH LÀ CHỨNG CỚ
VỀ NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ…………… |
635 |
Các Tảng đá linh hoạt – Các Di tích
của người Druid – Các Tảng đá lắc lư
ở Âu Châu – Các Tảng đá sống động,
Biết nói và Cử động – Các “Tổ Tiên” của
chúng ta biến thành Thần
Linh trước khi biến thành Người – Mọi
Lục địa đều bị Diệt vong – Các
người khổng lồ bị diệt vong, chỉ có
một ít là được cứu sống. |
|
ĐOẠN KINH 12 – GIỐNG
DÂN THỨ NĂM VÀ CÁC BẬC THÁNH SƯ …………………………………………………….
|
654 |
Đại Long và các Rắn Minh Triết – Các
Kim Tự Tháp nhắc nhở chúng ta nhớ tới
trận Đại Hồng Thủy ở Châu Atlantis – Các
Địa cực đă bị đảo ngược ba
lần. |
|
RẮN VÀ RỒNG TRONG
NHIỀU BIỂU TƯỢNG KƯ KHÁC NHAU ………………………………………………………….. |
660 |
Danh xưng của Con Rồng ở Chaldea và
Cung Hoàng Đạo thứ Mười – Rắn tiêu
biểu cho Đấng Điểm Đạo – Chư Thần Linh mà loài
người gọi là các Con
Rồng – Con Rồng của Thánh John là Hải
Vương Tinh. Biểu tượng của Pháp thuật Atlantis. |
|
CÁC H̀NH TƯỢNG VŨ
TRỤ VÀ TINH ĐẨU ……………. |
663 |
Các Cao đồ gọi Ngân Hà v.v.. là các “Con
Rắn” – Các Thánh kinh Bái hỏa giáo có nguồn gốc
rất xa xưa – Người Ai Cập đă
tượng trưng Càn Khôn như thế nào? – Hai Cực
Huyền bí – Mỗi bậc Đại Cải Cách Thế
Giới là một Phân thân trực tiếp của Thiên
Đạo – Thượng Đế và Thế giới
được nhân h́nh hóa – Hai Đấng Kabiri là hiện thân của Đối
Cực – Từ nguyên thực sự của danh xưng
Lares – Enoch và những Người khác là ai? – Kabiri là các
Đại Thần Linh Vũ Trụ, Bảy và Bốn
mươi chín Linh Hỏa – Các cực và số Thiên
giới – Sự phát sinh của các Chữ, Luật Lệ,
Thuật lập pháp, Thuật Kiến trúc, các Phương
thức pháp thuật và Công dụng của Y học
của Cây cỏ - Sự sản xuất Ngũ Cốc hay
Lúa ḿ – Rắn là Biểu tượng của bậc Cao
đồ. |
|
CÁC ĐẤNG GIÁO HÓA THIÊNG
LIÊNG CỦA CHÚNG TA ……………………………………………………………….
|
680 |
Các Giống dân chúng ta đă bắt nguồn
từ các Giống dân Thiêng Liêng – Năm kỳ Tái lâm
của Hermes – Các Bảng đồng bộ của Ai
Cập – Hoàng Đạo Dendera – Bhărata là Vùng đất
được tuyển chọn Thời xưa – Plato
đề cập tới các Triều đại Thiêng liêng
– Ư niệm về điều Ác của Plato – Các
Đấng minh triết đă mang Trái cây và Cốc
loại tới Địa Cầu – Các “Con của Thượng
Đế” đă Tồn
tại và vẫn đang
Tồn tại – Các “Con của Thượng Đế”
sống trà trộn với Thế nhân – Bí nhiệm về
Azazel (Thần Khải Hoàn) – Thực ra Quỷ Vương
là Chơn Linh Cao Cả nhất, Minh Triết Huyền Bí
trên Trần Thế - Xét về mặt ngoại môn; Quỷ
Vương bị xem như là điều Ác. |
|
NGUỒN GỐC CỦA
THẦN THOẠI QUỶ VƯƠNG ………. |
706 |
Ai Cập cung cấp Nguồn gốc Tây
phương của ḿnh – Chúng ta phải t́m Nguồn
gốc Thế tục Ẩn dụ về trận
chiến trên Trời nơi các Thánh điện
Điểm đạo – Các Đạo Trưởng Ai
Cập tự xưng là các “Con của Thần Rắn”-
Người Druids tự xưng là Rắn – Các thần
thoại Rắn và Rồng khác – Hỏa Thần Agni và các Ẩn
dụ Ma Quỷ - Apollo là Nhật Thần – Cuộc
đấu tranh giữa các Cao đồ Ăryan của
Giống dân thứ Năm mới ra đời và các nhà Phù
thủy của Châu Atlantis – Những con Quỷ của Thái
Uyên – Các Quyền Năng biểu lộ, “các Đứa Con
và Đàn Thê tử” – Nhật Thần tức là các
Quyền năng Sáng tạo –
Minh Triết, Sophia thiêng liêng – Jehovah là “Địch
thủ”của mọi Thần linh khác – Jehovah biến thành
Nhân loại – Sự cần thiết của Điều Ác
– Các giáo phái Ngộ Đạo do các Điểm
Đạo đồ lập nên. |
|
NOAH LÀ MỘT KABIR, V̀
THẾ, Y ẮT PHẢI LÀ MỘT CON QUỶ ………………………………………………………
|
728 |
Tubal Cain là một Kabir – Noah đồng
nhất với Melchisedek-Adam, Cain, Mars với tư cách là
một điều Nhân cách hóa – Cuộc Đại
Hồng Thủy thời Noah chưa bao giờ xảy ra. |
|
CÁC TRUYỀN THUYẾT
XƯA NHẤT CỦA BA TƯ VỀ CÁC LỤC
ĐỊA Ở CỰC VÀ CÁC LỤC ĐỊA BỊ
CH̀M ……… |
734 |
Các huyền thoại của Ba Tư (Irăn) –
Thời hạn mà dân Atlantis sau này bị diệt vong – Niên
đại kư Nội môn của Plato và các Điểm
đạo đồ khác – Các Truyền thuyết của
Ba Tư về Hai Giống dân – Con Phượng Hoàng Ba
Tư – Núi Kaf là ǵ? – Các Lục địa ở Bắc
Cực – Huyền bí học chứng tỏ rằng
Bắc Á Châu có nguồn gốc cũng xa xưa như
Giống dân thứ Hai – Khi Lục địa Bắc
Cực biến mất. |
|
CÁC SUY LƯ CỦA TÂY
PHƯƠNG DỰA VÀO CÁC TRUYỀN THUYẾT CỦA
NGƯỜI HY LẠP VÀ KINH PURĂNAS
………………………………………………………
|
750 |
Người Ấn Độ chia Địa
Cầu ra thành Bảy Vùng v.v.., xét về mặt
Địa lư; Bảy Địa Ngục và Bảy
Tầng Trời, xét về mặt Ẩn dụ - Căn
cứ của Chư Thần và Chư Quỷ - Bốn
Lục địa này đă Hết thời rồi – Các
Lục Địa Tương lai được tŕnh bày
Biểu tượng – Vĩ độ và Kinh độ
của Ḥn Đảo đă Thất tung – Châu Atlantis
của Plato – Núi Hermon và các Con Rồng có cánh. |
|
SỰ “ĐỌA ĐÀY”
THEO QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC ………. |
763 |
Các Quyền Năng sáng tạo là một
Năng khiếu thiên phú của Minh Triết Thiêng Liêng – Trong
Sáng Thế Kư Adam và Eva ám
chỉ Giống dân thứ Ba và thứ Tư – Sự sa
đọa thực sự - Nhật Tinh Quân và các
Đấng Cứu Thế Thiêng Liêng khác – Tội lỗi Nguyên Thủy và sự
lạm dụng Trí Tuệ Hồng Trần – Bí nhiệm
về Prometheus – Đấng Christ có liên hệ với
Epaphos – Một Giống dân của Phật và Chúa – Biểu
tượng kư Giống dân không gợi ra sự chính xác
về mặt Địa h́nh – Nguồn gốc của Dân
tộc tiên phong Ethiopia – Aeschylus có được
Điểm đạo không? – Dionysus đă và sẽ là ai? –
Thiên tài của Prometheus – Con người sẽ biến
thành Người Khổng lồ Tự do. |
|
CÁC ĐOẠN BỔ SUNG
TRÍCH TỪ MỘT GIẢNG LƯ VỀ CÁC CÂU THƠ CỦA
ĐOẠN KINH 12 …………………… |
788 |
Các “Đức Phật Xưng tội” – Hoài
niệm tập thể không bao giờ bỏ Linh Hồn
Thiêng Liêng – Các Tài liệu lưu trữ Xưa nhất
về Châu Atlantis – Nơi cung cấp Minh triết nhiệm
mầu cho những người Ăryan Sơ khai – Sự
Diệt vong của Châu Atlantis – Sự Vĩ đại
của nền văn minh Atlantis – Thiên văn học và
Biểu tượng Gia truyền của Atlantis – Thời
kỳ xuất hiện của Đại Kim Tự Tháp –
Ba thứ Hoàng Đạo – Các Phân chủng của các
Căn chủng – Cây phổ hệ của Giống dân chúng
ta – Chu kỳ Mạt Pháp – Hoàng Đạo Ai Cập và Hoàng
Đạo Hy Lạp. |
|
KẾT LUẬN …………………………………………………….
|
813 |
Lịch sử “Ghi nơi các Ngôi Sao” – Senzar là
thứ Mật mă Tượng h́nh sơ khai – Khi Viết là
một Nghệ thuật Bí mật – Thiên nhiên diễn
tiến theo Chu kỳ - Giống dân Mới sắp tới
– Giống dân thứ Năm chồng chéo lên Giống dân
thứ Sáu – Nhân loại tương lai của Tân Thế
giới – Tiến tŕnh Tự nhiên chịu ảnh
hưởng của Luật Nghiệp Quả. |
|
CÁC CHÚ THÍCH BỔ SUNG ……………………………….. |
832 |
Chú thích: Trong Quyển II,
ấn bản 1893, không có chú thích cuối trang nào
được chuyển sang bản văn. Quyển II
(của cả ấn bản 1893) là Quyển 3 và 4 của
ấn bản này. Ban
biên tập. |
|
Giáo
lư của tôi đâu phải của tôi,
mà
chính là của Đấng biệt phái tôi.
Thánh
thư JOHN, vii, 16.
KHOA HỌC
HIỆN ĐẠI
nhấn mạnh tới thuyết tiến hóa; lư trí con
người và Giáo Lư Bí Nhiệm cũng vậy. Ư
tưởng này được bổ chứng bởi các
huyền thoại và thần thoại cổ truyền,
thậm chí bởi cả Thánh
kinh nữa (khi người ta thuyết minh nó theo “ư
tại ngôn ngoại”). Chúng ta thấy đóa hoa phát triển
dần dần từ cái búp, đến lượt cái búp
lại phát triển từ cái mầm. Nhưng cái mầm
(với tất cả chương tŕnh tiền định
về sự biến hóa vật chất chung với các
lực vô h́nh – do đó có tính chất tinh thần – dần dần sẽ phát triển
h́nh dáng, màu sắc và mùi hương của nó) ở đâu
ra đây? Từ ngữ sự
tiến hóa tự nó cũng đủ nói lên điều
đó rồi. Mầm mống của giống người
hiện nay ắt đă phải tồn tại trước
nơi tổ tiên của giống người này, chẳng
khác nào cái mầm (trong đó ẩn tàng đóa hoa của mùa
hè tới) được phát triển trong cái vỏ bao
của đóa hoa tổ phụ; tổ phụ chỉ có
thể khác chút ít, nhưng nó
vẫn c̣n khác con cháu tương lai của nó. Tổ
phụ thời tiền đại hồng thủy của
con voi và con thằn lằn hiện nay có lẽ là con
khổng tượng và xà đầu long (plesiosaurus):
thế th́ tại sao tổ tiên của nhân loại chúng ta
lại không phải là những “người
khổng lồ” trong kinh Vedas,
Thánh thi Voluspa và Sáng Thế Kư? Trong khi thật
là cực kỳ ngớ ngẩn nếu tin tưởng
rằng sự “biến hóa chủng loại” đă diễn
ra theo một vài quan điểm duy vật hơn của những
kẻ theo thuyết tiến hóa, th́ cũng tự nhiên thôi
nếu cho rằng mỗi loài (bắt đầu với
loài nhuyễn thể và chấm dứt với người
khỉ) đă biến đổi so với h́nh dạng riêng
biệt nguyên thủy của nó. – NỮ THẦN ISIS LỘ
DIỆN, I, 152 -153.
15
CÁC CHÚ THÍCH SƠ BỘ
VỀ
CÁC ĐOẠN KINH CỔ VÀ BỐN
LỤC ĐỊA THỜI TIỀN SỬ
Mặc dù
thiên biến vạn hóa, bộ mặt (dáng vẻ) của
toàn vũ trụ bao giờ
cũng y nguyên như vậy.
Spinoza( [1])
CÁC ĐOẠN KINH với phần Giảng lư trong quyển
này cũng được trích ra từ các Văn kiện
lưu trữ cổ sơ giống như các ĐOẠN KINH bàn về Vũ trụ khởi nguyên luận trong
Quyển 1 và 2. Chúng đă được dịch sát
nghĩa hết mức; nhưng một vài ĐOẠN KINH quá tối nghĩa nên không thể hiểu
được nếu không giải thích. Do đó, cũng
như Quyển 1 và 2, trước hết, chúng
được tŕnh bày nguyên văn, rồi khi xét từng
câu thơ một cùng với phần Giảng lư, chúng ta
thử làm cho chúng rơ ràng hơn bằng cách thêm vào các lời
giảng trong các chú thích cuối trang, trước khi
giải thích tỉ mỉ hơn trong phần Giảng lư.
Về phần sự Tiến
hóa của nhân loại, Giáo Lư Bí Nhiệm đưa ra ba
vấn đề mới, chúng đối nghịch trực
tiếp với khoa học hiện đại cũng
như là các giáo điều hiện hành. Nó dạy rằng:
(a) Bảy Nhóm người tiến hóa đồng thời
trên bảy phần khác nhau của địa cầu. (b) dĩ thái thể (the astral) sinh ra trước thể xác, dĩ thái thể là
khuôn mẫu của thể xác. (c) Trong cuộc Tuần Hoàn
này, con người có trước mọi động
vật hữu nhũ ([2])
kể cả những loài giống người.
16
Đâu
phải chỉ có một ḿnh Giáo Lư Bí Nhiệm đề
cập tới những NGƯỜI nguyên thủy sinh ra đồng thời trên
bảy phân khu của Địa Cầu. Trong Pymander Thiêng Liêng của Hermes
Trismegistus, chúng ta cũng thấy bảy Người nguyên
thủy ([3])
phát sinh từ Thiên Nhiên và Thiên Đế, theo nghĩa
tập thể của từ này, tức là các Chơn Linh
Sáng Tạo. Trong các áng văn của các bảng Chaldea (do
George Smith sưu tập) – trên đó có ghi huyền thoại
về sự Sáng Tạo của dân Babylon – trong một
cột đầu tiên của bảng Cutha, cũng có
đề cập tới bảy Nhân vật “mặt
quạ” (nghĩa là có nước da ngăm ngăm đen)
mà Đại Thần Linh đă tạo ra. Hoặc là trong các
hàng 16, 17, 18 cũng có lời giải thích như sau :
Bảy
vị vua, vốn là huynh đệ thuộc cùng một hoàng
gia,
Phát
triển và tăng trưởng số lượng giữa
trần thế. ([4])
Đó là Bảy Thánh Vương
Bảy Thánh Vương
huynh đệ sinh con đẻ cái với số thần
dân 6.000. Thần Nergas [tử thần] tiêu diệt chúng. “Ngài
đă tiêu diệt chúng như thế nào?” Bằng cách quân
b́nh hóa những kẻ chưa hề tồn tại. ([6])
Trên cương vị
một Giống dân, họ bị tiêu diệt bằng cách
trộn lẫn với hậu duệ của chính ḿnh
(bằng cách rịn ra). Điều này có nghĩa là
Giống dân vô giới tính tái sinh (một cách tiềm tàng
trong Giống dân lưỡng
tính; Giống dân lưỡng tính lại tái sinh trong
Giống dân bán thư bán hùng, đến lượt
Giống dân bán thư bán hùng lại tái sinh trong giống dân
hữu giới tính tức là Giống dân thứ Ba sau này.
Nếu người ta bớt cắt xén các bảng này
đi, th́ chúng ta có thể thấy trong đó có phần
tường thuật giống y như phần
được tŕnh bày trong các văn kiện lưu trữ
cổ sơ và tác phẩm của Hermes, ít ra cũng liên quan
đến các sự kiện cơ bản, nếu không
muốn nói là xét về các tiểu tiết; ấy là v́ tác
phẩm của Hermes đă bị xuyên tạc bởi các
bản dịch sai lầm.
17
Hoàn toàn
chắc chắn rằng mặc dù có tính cách ẩn dụ,
cái thuyết siêu nhiên biểu kiến của các giáo lư này
vẫn hoàn toàn đối nghịch với các lời phát
biểu chấp nê văn tự của Thánh kinh ([7])
cũng như các giả thuyết mới nhất của
khoa học, đến nỗi mà nó sẽ khiến cho
người ta lồng lên chối bỏ kịch liệt.
Tuy nhiên, các nhà Huyền bí học đều biết
rằng các truyền thuyết của Triết học
Đông phương ắt phải đúng, lư do đơn
giản v́ chúng là các truyền thuyết hợp lư nhất và
dung ḥa được mọi vấn đề khó khăn.
Vả lại, chúng ta c̣n có Thánh
Thư Thoth và Tử Vong kinh
của Ai Cập, kinh Purănas
của Ấn Độ với bảy vị Bàn Cổ,
cũng như là các tài liệu bằng ngói của
người Chaldea-Assyria, chúng đề cập tới
bảy Người nguyên thủy, tức các Adams (chúng ta có
thể xác định được chân ư nghĩa của
các danh xưng này nhờ vào Thánh kinh Kabalah). Những kẻ nào có biết chút ít ǵ
về các Bí pháp Samothrace, đều cũng sẽ nhớ ra
rằng tôn danh chung của Kabiri là “Linh Hỏa” (“Holy Fire”),
chúng được tạo ra trên bảy địa
điểm của đảo Electria tức Samothrace, “Kabir
sinh ở đảo thiêng Lemnos” – đảo thiêng của
thần Vulcan.
Theo Pindar, Kabir này (mà danh
xưng là Adamas) ([8])
là kiểu mẫu của người sơ khai sinh ra
từ trong ḷng Trái Đất, theo các truyền thuyết
của
18
Trong các
huyền thoại này, từ ngữ Adam, vốn
được dùng để chỉ con người
đầu tiên, hiển nhiên không
phải là tên riêng, mà chỉ được dùng như
một từ ngữ để chỉ nhân loại. Trong
Sáng Thế Kư, Adam
được tŕnh bày như một tên riêng; nhưng trong
một vài đoạn, chắc chắn là Adam chỉ
được dùng theo cùng nghĩa với từ ngữ
của dân
Vả lại, cả trận
Đại Hồng Thủy của người Chaldea
lẫn trận Đại Hồng Thủy trong Thánh kinh,
với các câu chuyện về Xisuthrus và Noah, đều không
hề dựa vào các trận Đại Hồng Thủy
thế giới, hoặc ngay cả các trận Đại
Hồng Thủy thời Châu Atlantis nữa, được
ghi lại trong ẩn dụ Ấn Độ của Bàn
Cổ Vaivasvata. Chúng là các ẩn
dụ ngoại môn dựa vào các Bí pháp Nội môn của
1. Giống dân bắt đầu sinh hóa
trước tiên là giống dân hắc chủng (zalmat-qaqadi),
họ gọi là Adamu tức U Minh Chủng (Dark Race), và Sarku
tức Quang Minh Chủng (Light Race), nó vẫn c̣n thuần
chủng trong một thời gian dài sau đó.
2. Người
Babylon công nhận là có hai
Giống dân chính vào lúc có sự sa đọa, Giống
dân của các Thần Linh, Dĩ Thái H́nh (the Ethereal Doubles)
của các Pitris đă có trước hai Giống dân này.
Đây là ư kiến của H. Rawlinson. Các Giống dân này chính
là Giống dân thứ Hai và thứ Ba của chúng ta.
19
3.
Bảy Thần Linh, mỗi Đấng tạo ra một Người hoặc một
Nhóm người, chính là “chư Thần Linh bị tù đày
hay lâm phàm”. Chư Thần Linh này gồm có: Thần Zi;
Thần Zi-ku (Cuộc sống Cao cả, Chưởng
quản sự Thanh khiết); Thần Mir-ku (Vương
miện Cao quư), “cứu thoát chư Thần Linh bị tù
đày sau này”, tự tay “sáng tạo ra các hắc chủng”;
Thần Libzu, “minh triết so với chư Thần Linh khác”;
Thần Nissi; Thần Minh Triết và Thái Uyên (Deep),
đồng nhất hóa với Oannes-Dagon vào lúc có sự sa
đọa, được mệnh danh, xét gộp lại,
là Hóa Công tức Đấng Sáng Tạo ([11]).
Trong các mảnh vụn
của dân Babylon, có hai cái gọi là “Cuộc Sáng Tạo”, và
v́ Sáng Thế Kư theo sát với điều này, nên chúng ta
thấy hai chương đầu của nó nổi bật
lên như là các cuộc Sáng tạo của Elohim và Jehovah. Tuy
nhiên, tŕnh tự riêng của chúng không được duy tŕ
trong hai chương này hoặc trong bất cứ tác
phẩm ngoại môn nào khác. Nay theo Giáo lư Huyền bí, các
“Cuộc Sáng Tạo” này lần lượt đề
cập tới việc các Tổ Phụ, Pitris hoặc Elohim
tạo ra bảy Người
nguyên thủy, và sự tạo thành các Nhóm người sau
khi có sự Sa Đọa.
Tất cả các
điều này sẽ được chúng ta dần dần
xét tới dưới ánh sáng của khoa học và những
điều so sánh rút ra từ các Thánh kinh của mọi
quốc gia cổ xưa (kể cả Thánh kinh). Trong khi
đó, trước khi quay sang phần Nhân Sinh Khởi Nguyên Luận
của các Giống dân thời tiền sử, chúng ta nên
thỏa thuận với nhau về các danh xưng
được gán cho các lục địa mà bốn
Giống dân lớn trước Giống dân Adam của chúng
ta đă sinh ra, tồn tại và chết đi trên đó.
Chúng có rất nhiều danh xưng cổ sơ và Nội
môn, thay đổi tùy theo ngôn ngữ của quốc gia
đề cập tới chúng trong các niên sử và Thánh kinh của
ḿnh. Chẳng hạn như điều mà Vendĩdăd gọi
là Airyana Vaẽjơ ([12]),
mà Zoroaster bản sơ ([13])
chào đời ở đó, lại được gọi
là Bạch Đảo (Shveta Dvĩpa), Núi Tu Di (Mount Meru),
chỗ ngự của Vishnu, v.v… Trong Giáo Lư Bí Nhiệm, nó
chỉ được gọi là “Thánh Địa của
Thần Linh” dưới quyền lănh đạo của các
Huynh Trưởng, các “Chơn Linh của Hành Tinh này”.
Do đó, xét v́ t́nh h́nh có
thể, thậm chí rất có thể lộn xộn, nên chúng
ta thấy cần chọn cho mỗi một trong số
bốn lục địa thường được
đề cập tới, một danh xưng quen thuộc
hơn với độc giả có học thức. V́
thế, đề nghị gọi lục địa
thứ nhất, hoặc đúng hơn là vùng đất liền thứ nhất, mà các
Tổ Phụ thánh linh đă phát triển Giống dân
thứ Nhất trên đó là:
1. Thánh Địa Bất
Diệt (The Imperishable Sacred Land).
20
Lư do tại
sao có danh xưng này là v́ (điều này đă
được khẳng định): “Thánh Địa
Bất Diệt” này không bao giờ chia sẻ số phận
của các lục địa khác, v́ đó là lục
địa duy nhất có số phận là sẽ tồn
tại từ đầu đến cuối Chu Kỳ Khai
Nguyên trong suốt mỗi cuộc Tuần Hoàn. Đó là cái
nôi của người đầu tiên và chỗ ở
của thế nhân thiêng liêng
cuối cùng, được chọn làm một Shishta cho
mầm mống tương lai của nhân loại. Chẳng
thể đề cập nhiều tới vùng đất
thiêng liêng và bí nhiệm này, có lẽ ngoại trừ
việc phát biểu, theo một lối diễn đạt
thơ mộng trong một Giảng lư, rằng: “Sao Bắc Đẩu cứ
đăm đăm nh́n nó từ lúc b́nh minh tới lúc nhá
nhem tối của một Ngày ĐẠI
LINH KHÍ”([14]).
2.
Lục
Địa Bắc Cực (The Hyperborean).
Đó sẽ là danh xưng
được chọn cho lục địa thứ nh́,
vùng đất trải rộng các mũi đất của
nó từ Bắc Cực ra phía Nam và phía Tây để đón
nhận Giống dân thứ Hai và bao gồm toàn bộ vùng
đất nay được biết như là vùng Bắc Á.
Đó là danh xưng mà những người Hy Lạp xưa
nhất đă dành cho vùng đất xa xăm và bí nhiệm,
nơi mà Thần Apollo Bắc Cực tuần du qua hằng
năm, theo truyền thuyết của họ. Về
phương diện thiên văn, Apollo dĩ nhiên là Mặt Trời;
khi rời bỏ các Thánh điện Hy Lạp của ḿnh,
hằng năm, Ngài ưa thích đến tham quan vùng
đất xa xăm, nơi mà người ta bảo
rằng Mặt Trời không bao giờ lặn trong nửa
năm. Một câu thơ trong Odyssey đă dạy: “Ngày đêm cứ xuất hành
quanh quẩn thôi !”([15])
Nhưng xét về mặt lịch sử, hoặc có
lẽ tốt hơn, xét về mặt dân tộc học và
địa chất học, ư nghĩa lại khác hẳn.
Vùng đất Bắc Cực, cái xứ sở trải
rộng ra quá Boreas, vị Thần băo tuyết với tâm
hồn băng giá, chỉ thích nằm lim dim ngủ trên
rặng Núi Rhipaeus, chẳng phải là một xứ sở
lư tưởng như các nhà thần thoại học
phỏng đoán, cũng chẳng phải là một vùng
đất ở gần Scythia và sông Danube ([16]).
Đó là một vùng lục địa có thực, một
vùng đất lương
hảo (a bona fide land);
thời xưa nó không hề có mùa đông mà cũng chẳng
có các di tích tồi tàn hơn một ngày đêm trong ṿng
một năm (ngay cả hiện nay). Người Hy
Lạp bảo ngày đêm không bao giờ buông xuống trên
nó, v́ nó là xứ sở của chư Thần Linh, trú sở
yêu quư của Alpollo, Thần Ánh Sáng, c̣n cư dân của nó
lại là các lễ sư và thuộc hạ thân yêu của
Ngài. Nay điều này có thể được xem như là
chân lư được thi vị hóa.
3. Châu Lemuria.
21
Chúng tôi đề
nghị gọi lục địa thứ ba này là Lemuria. Danh
xưng này là do ông P.L. Sclater đề ra; trong khoảng
thập niên 1850-1860, dựa vào các cơ sở động
vật học, ông đă quả quyết rằng vào
thời tiền sử, đích thực là có tồn tại
một lục địa mà ông đă vạch rơ là đă
trải dài từ Madagascar tới Tích Lan và Sumatra. Nó bao
gồm cả một vài phần của vùng đất nay
là Phi Châu; nhưng mặt khác, lục địa khổng
lồ này, đă trải dài từ Ấn Độ tới
Úc, nay đă hoàn toàn biến mất bên dưới Thái B́nh
Dương, chỉ để lại rải rác đó
đây một vài đỉnh cao nguyên, nay là các ḥn
đảo. Theo ông Charles Gould, nhà tự nhiên học
A.R.Wallace đă:
Mở rộng Úc Châu vào thời Đệ tam
kỷ tới tận New Guinea và Quần đảo Solomon,
và có lẽ tới tận Fiji; xuất phát từ các loài
hữu đại (thú có túi) của nó, ông đă quy ra
một mối liên hệ với lục địa
phương Bắc trong thời Đệ nhị kỷ ([17]).
Chủ đề này
được bàn nhiều ở nơi khác ([18]).
4. Châu Atlantis.
Chúng tôi gọi lục
địa thứ tư như thế đấy. Nó ắt
là vùng đất lịch sử đầu tiên, nếu
người ta quan tâm tới các truyền thuyết của
Cổ nhân nhiều hơn mức từ trước
đến nay. Ḥn đảo nổi tiếng của Plato
mang tên này chẳng qua chỉ là một mảnh vụn
của lục địa vĩ đại này ([19]).
5. Âu Châu.
Lục địa thứ
năm là Mỹ Châu; nhưng v́ nó tọa lạc ở các Điểm
Đối Chân (Antipodes), nên chính Âu Châu và Tiểu Á, hầu
như đồng thời với nó, mới thường
được các nhà Huyền bí học Ấn -Ăryan
đề cập tới như là lục địa
thứ năm. Nếu giáo lư của họ tiếp nối
sự xuất hiện của các lục địa theo tŕnh
tự địa chất và địa lư, th́ sự phân
loại này sẽ phải bị thay đổi. Nhưng v́
người ta xếp thứ tự các lục địa
theo tŕnh tự tiến hóa của các Giống dân, từ
Giống dân đầu tiên tới Giống dân thứ
Năm (Căn chủng Ăryan chúng ta), nên Âu Châu phải
được gọi là đại lục địa
thứ năm. Giáo Lư Bí Nhiệm không kể tới các
đảo và bán đảo, nó cũng không tuân theo sự
phân bố địa lư hiện đại của
đất liền và biển cả. Từ ngày có giáo lư
cổ nhất và từ lúc Châu Atlantis bị diệt vong,
bộ mặt của Trái Đất đă bị thay
đổi nhiều lần. Vùng châu thổ Ai Cập và
Bắc Phi đă có lúc thuộc về Âu Châu, trước khi
Eo biển Gibraltar được tạo nên và một
sự xáo động lục địa thêm nữa đă
biến đổi hoàn toàn bộ mặt của bản
đồ Âu Châu. Sự biến đổi nghiêm trọng
vừa qua diễn ra cách đây độ 12 000 năm ([20])
tiếp theo sau là sự ch́m đắm của đảo
Atlante nho nhỏ của Plato; ông gọi đó là Atlantis
bắt chước theo đảo thủy tổ của
nó. Ngày xưa, Địa lư học là một phần
của các Bí pháp. Kinh Zohar dạy:
22
Các
bí nhiệm [về đất liền và biển cả] này
được tiết lộ cho các nhà huyền bí, chứ không phải là cho các nhà
địa lư học ([21]).
Dĩ nhiên, việc
khẳng định rằng con người hồng
trần thoạt tiên là một người khổng lồ
trước thời đệ tam kỷ và y đă tồn
tại cách đây 18 000 000 năm, ắt phải có vẻ là
phi lư đối với những kẻ ngưỡng mộ
tin tưởng vào khoa học hiện đại. Toàn
thể các nhà sinh học sẽ lờ đi cái quan niệm
về người khổng lồ thuộc Giống dân
thứ Ba thời đệ nhị kỷ này, y sẵn sàng
chiến đấu hữu hiệu chống lại các con
quái vật khổng lồ đương thời ở
trên không trung, dưới biển cả và trên đất
liền, cũng như các tổ phụ của y – các nguyên
kiểu tinh anh của người Atlantis – đâu có sợ
những ǵ có thể làm hại được họ. Nhà
nhân chủng học hiện đại cứ tha hồ
cười nhạo những người Khổng lồ của
chúng ta, cũng như y đă chế nhạo Adam trong Thánh
kinh, và cũng chẳng khác nào nhà Thần học chế
nhạo tổ phụ thuộc loài khỉ của nhà nhân
chủng học. Đến lúc này nhà Huyền bí học và
những kẻ chỉ trích cay nghiệt, mới có thể
cảm thấy rằng họ đă “ăn miếng trả
miếng” thật là thích đáng. Dù sao đi nữa,
Huyền bí học vẫn tuyên bố ít hơn và tŕnh bày
nhiều hơn nhân loại học theo thuyết
Niên đại kư Nội
môn lẽ ra cũng chẳng làm ai phải sợ v́ về
phần các số liệu, các tài liệu có thẩm
quyền nhất đương thời cũng dao
động và bấp bênh chẳng kém ǵ các đợt sóng
Địa Trung Hải. Riêng chỉ về phần kỳ
gian của các địa kỳ thôi, các bậc học
giả thuộc Hội Hoàng Gia đều lúng túng một
cách tuyệt vọng, và nhảy từ một triệu
năm tới năm trăm triệu năm một cách
dễ dàng như chúng ta sẽ thấy điều này
nhiều lần trong phần so sánh này.
Để phục vụ cho
mục đích hiện nay của chúng ta, hăy thử xét
một ví dụ: đó là các phép tính toán của Tiến
sĩ Jame Croll, Hội viên Hội Hoàng Gia. Theo nhân vật có
thẩm quyền này, cho dù “2.500.000 năm có tiêu biểu cho
thời gian từ khi bắt
đầu Đệ Tam Kỷ hay Thủy tân” (theo
một nhà địa chất học người Mỹ ([22]),
hoặc cho dù Tiến sĩ Croll có “chấp nhận thời
gian mười lăm triệu năm từ khi bắt
đầu kỷ Thủy tân (the Eocene period), theo trích
dẫn của một nhà địa chất học
người Anh ([23]), cả
hai loạt số liệu này đều bao trùm những
điều khẳng định của Giáo Lư Bí Nhiệm ([24]).
Ấy là v́ theo Giáo
23
Lư Bí
Nhiệm, giữa cuộc tiến hóa khởi thủy và
tối hậu của Căn chủng thứ Tư trên các
lục địa Lemuria-Atlantis là một thời gian từ
bốn tới năm triệu năm; một triệu
năm đă trôi qua từ lúc có Giống dân thứ Năm
(Giống dân Ăryan) tới thời nay; và chừng 850.000
năm đă trôi qua từ khi bán đảo lớn cuối
cùng của Châu Atlantis bị ch́m – tất cả các
điều này có thể đă dễ dàng xảy ra trong ṿng
15.000.000 năm mà Tiến sĩ Croll đă chấp nhận
cho Đệ Tam Kỷ. Nhưng nói về mặt niên
đại kư, kỳ gian của địa kỷ chỉ có
tầm quan trọng thứ yếu; thế mà, sau rốt một
vài nhà khoa học Mỹ lại trông cậy vào nó. Các nhân
vật thượng lưu này (vẫn thản nhiên
trước sự kiện các lời khẳng định
của họ bị xem là không những đáng nghi ngờ
mà c̣n phi lư nữa) vẫn chủ trương rằng con
người đă tồn tại từ Đệ Nhị
Kỷ (the Secondary Age). Họ đă t́m thấy các dấu
chân của con người trên những tảng đá
địa tằng này; vả lại, ông de Quatrefages
chẳng thấy lư do có giá trị khoa học nào giải
thích tại sao con người con người không hề
tồn tại trong thời kỳ Đệ Nhị Kỷ.
Thật ra, các địa
kỷ là những từ ngữ thuần túy ước
lệ, v́ chúng chỉ được phác họa một cách
đại khái; vả lại, chẳng có hai nhà địa
chất học tự nhiên nào mà lại đồng ư
với nhau về các số liệu. Như vậy, học
giới (the learned fraternity) đă tŕnh bày với các nhà
Huyền bí học một biên tế rất rộng (wide
margin) để tha hồ mà chọn lựa. Liệu chúng ta
có nên chọn ông T. Mellard Reda là một trong những kẻ
ủng hộ chúng ta không? Trong một tài liệu về
“Đá vôi được coi như là một Chỉ số
về Thời gian Địa chất” được tŕnh
bày tại Hội Hoàng Gia năm 1878, nhân vật
thượng lưu này cho rằng thời gian tối thiểu cần
để tạo thành các trầm tích và loại trừ
chất vôi tính tṛn 600 triệu năm ([25]).
Hoặc liệu chúng ta có nên t́m kiếm sự ủng
hộ niên đại kư của ḿnh nơi các tác phẩm
của ông Darwin, trong đó (theo thuyết của ông), ông
đ̣i hỏi là các sự biến đổi hữu cơ
phải mất từ 300 đến 500 triệu năm?
Charles Lyell và Giáo sư Houghton đều thỏa măn với việc
xác định lúc khởi đầu Kỷ Địa
Tằng (the Cambrian Age) tối cổ lần lượt là
200 triệu năm và 240 triệu năm. Các nhà địa
chất học và động vật học xác định
thời gian tối đa, mặc dù ông Huxley đă từng
xác định là vỏ trái đất bắt đầu
đông cứng cách đây 1.000 triệu năm và không
chịu bớt đi một triệu năm nào hết.
24
Nhưng đối
với chúng ta, điều chủ yếu không phải
ở nơi sự
đồng ư kiến của các nhà tự nhiên học
về kỳ gian của các địa kỷ, mà đúng
hơn là ở nơi sự hoàn toàn đồng ư về cùng
một điểm (thật là
kỳ diệu) v́ đây là một điều rất quan
trọng. Tất cả đều đồng ư rằng
trong thời Trung Tân Thế - dù là cách đây một hay
mười triệu năm –
….trong thời Trung tân thế, Greenland (ở 70
độ Bắc vĩ độ) đă phát triển
được vô số cây cỏ, chẳng hạn như
cây thủy tùng, cây vạn niên thanh (Redwood), cây cù tùng có liên
hệ với giống California, cây giẻ gai, cây
dương ngô đồng, cây liễu, cây bạch
dương, cây hồ đào, cũng như là một cây
mộc lan và một cây tang mễ (Zamia).([26])
Tóm lại, Greenland có các
cây ở vùng phía
Nay tự nhiên là
người ta phải nảy ra một câu hỏi: nếu
người Hy Lạp thời Homer đă biết tới
một xứ sở ở Bắc Cực nghĩa là một
Thánh Địa ở ngoài phạm vi của Boreas (Thần
mùa đông băo tố), một vùng đất lư tưởng
mà người Hy Lạp và các tác giả sau này đă hoài công
định vị ở bên ngoài Scythia, một xứ
với đêm ngắn ngày dài; ngoài ra, đó c̣n là một
xứ mà Mặt Trời không bao giờ lặn và cây cọ
mọc um tùm – nếu họ đă biết các điều
ấy, th́ bấy giờ ai dạy họ những
điều đó?
CHÚ Ư
Xin độc
giả nhớ cho là các Tiết sau đây không nối
tiếp nhau một cách nghiêm chỉnh theo tŕnh tự
thời gian. Trong Phần I của Quyển này, người
ta tŕnh bày các ĐOẠN KINH tạo thành phần dàn bài, b́nh
luận và giải thích một vài điều quan trọng.
Trong Quyển 4, ở các Tiết tiếp theo của
Phần 2 và 3, người ta thu thập lại nhiều chi
tiết bổ sung khác nhau và thử giải thích chủ
đề này một cách trọn vẹn hơn.
PHẦN I
NHÂN SINH KHỞI NGUYÊN LUẬN
(ANTHROPOGENESIS)
MƯỜI
HAI ĐOẠN KINH BAO GỒM BỐN MƯƠI CHÍN TIẾT
THƠ DỊCH TỪ
QUYỂN
THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH
(BOOK
OF DZYĂN)
VỚI PHẦN GIẢNG LƯ
Thoạt đầu có
một nàng trinh nữ
Đứa con gái yêu kiều
của Ether
Sống hàng bao nhiêu thời
đại,
Trên trời rộng thênh thang.
………………………..
Nàng rong chơi la cà bảy trăm
năm,
…………………………
Nàng quằn
quại đau đẻ bảy trăm năm
Trước khi hạ sinh
đứa con đầu ḷng.
………………………..
Trước khi một con vịt
mái diễm lệ hấp tấp,
Xà xuống bà mẹ nước,
……………………
Nó rón rén qú xuống,
T́m thấy một cái tổ thích
hợp,
Để đẻ trứng
một cách an toàn.
……………….
Nó thoải mái đẻ trứng,
Ở đó, nó đẻ ra sáu
quả trứng vàng,
Rồi tới quả trứng
thứ bảy, một quả trứng bằng sắt
Kalevela , Bài thơ ẩn tự Bắc Âu 1. CRAWFORD)
27
NHÂN SINH KHỞI NGUYÊN LUẬN
THEO
CÁC ĐOẠN KINH
TRONG
THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH ([27])
ĐOẠN
KINH 1
1.
Đấng Lha xoay chuyển
Bầu thứ Tư tùng phục các Đấng Lha của
Thất Nguyên; khi xoay ṿng, chúng đánh xe chung quanh
Đấng Chí Tôn, Đấng Độc Nhăn [của Thế
giới chúng ta]. Linh khí của Ngài ban Sự Sống cho
Thất Nguyên. Nó ban sự sống cho Bầu thứ
Nhất.
2. Địa Cầu nói: “Hỡi
Đấng Bạch Diện (Lord of the Shining Face), Nhà tôi sao
quá trống trải … Hăy phái các Con của Ngài đến
Diệu Luân này (this Wheel). Ngài đă phái Bảy Con tới cho
Đấng Minh Triết. Y thấy Ngài gần với y
hơn bảy lần, y cảm thấy Ngài bảy lần
hơn nữa. Ngài đă cấm ngặt các Thuộc hạ
của Ngài, các Vành nhỏ (the small Rings), không
được chiếm lấy Ánh Sáng và Nhiệt của
Ngài, ḷng Đại Lượng của Ngài chắn
đường nó. Nay hăy gửi cho Thuộc hạ của
Ngài y như vậy”.
28
3. Đấng Bạch
Diện phán: “Ta sẽ gửi đến cho con một Linh
Hỏa khi con bắt đầu làm việc. Con hăy
đưa tiếng nói của con lên tới tận các Cảnh
giới khác; con hăy cầu xin Cha con, Liên Hoa Tinh Quân (the Lord of
the Lotus), ban cho con các Quư Tử của Ngài… Dân chúng của
con sẽ được các Từ Phụ trị v́. Nhân
loại của con sẽ hữu hoại. Nhân loại
của Đấng Minh Triết, chứ không phải là các
Con của Soma, sẽ bất tử. Đừng có phàn nàn
nữa. Con vẫn c̣n chưa khoác lấy Bảy Lớp Da …
Con vẫn c̣n chưa sẵn sàng.
4. Sau những cơn thống khổ
đọa đày, nàng đă lột bỏ được
Lớp da cũ và khoác lấy Bảy Lớp Da mới và
nghiễm nhiên ở trong lớp da thứ nhất của
ḿnh.
ĐOẠN KINH 2
5. Diệu Luân (Wheel) quay ṿng trong ba trăm triệu
năm nữa. Nó kiến tạo các Rũpas; Đá mềm
hóa cứng, Cây cứng hóa mềm. Các côn trùng và các Vi sinh
vật, từ vô h́nh biến thành hữu h́nh. Nàng giũ
chúng rớt ra khỏi lưng ḿnh bất cứ khi nào chúng
tràn ngập Từ Mẫu … Sau ba trăm triệu năm,
nàng xoay tṛn. Nàng nằm ngửa, rồi nằm nghiêng … Nàng
chẳng muốn kêu gọi tới các Con của
Thượng Đế, nàng cũng chẳng đ̣i hỏi
các Con của Minh Triết. Nàng đă sáng tạo từ chính
Ḷng ḿnh. Nàng đă khai sinh ra các Thủy Nhân (Water-Men) gớm
ghiếc.
6. Chính Nàng đă tạo ra các Thủy Nhân
gớm ghiếc từ di tích của các giới khác. Nàng
đă tạo ra chúng từ cặn bă và bùn nhớt của
kỳ thứ Nhất, thứ Nh́ và thứ Ba. Các Thần
Quân đă giáng lâm và thưởng ngoạn … các Đấng
Thần Quân xuất phát từ Phụ Mẫu quang huy,
từ các Bạch khu, từ các Trú sở của các Thế
nhân Bất tử (the Immortal Mortals).
7. Họ bất măn. “Cân nhục (our Flesh)
của chúng ta chưa có sẵn. Không có các H́nh hài sắc
tướng thích hợp cho các Huynh đệ thuộc
Giống dân thứ Năm của chúng ta. Chẳng có Chỗ
trú cho chúng sinh. Họ phải uống Nước trong
chứ không phải Nước đục. Chúng ta hăy làm cho
chúng khô đi”.
8. Các Ngọn lửa giáng lâm. Các Linh Hỏa
với các Điểm Linh Quang; Lửa Đêm và Lửa Ngày.
Chúng làm cạn khô Nước đục ngầu. Chúng dùng
nhiệt để làm tắt. Các Đấng Lha
Thượng giới và các Lhamayin Hạ giới giáng lâm.
Chúng tiêu diệt các H́nh hài sắc tướng lưỡng
diện và tứ diện. Chúng tập kích những
Người Dê (the Goat-men), Người Đầu Chó và
người ḿnh cá.
9. Thủy Mẫu (Mother-Water), tức
Đại Hải (the
10. Khi chúng bị tiêu diệt, Địa
Mẫu vẫn trần trụi. Nàng đ̣i ḿnh phải
được khô khan.
29
ĐOẠN KINH 3
11. Đấng Chí Tôn giáng lâm. Ngài tách Nước
ra khỏi Cơ Thể ḿnh, đó là Tầng Trời bên
trên, Tàng Trời thứ Nhất.
12. Các Đại Đế Quân gọi các
Nguyệt Tinh Quân có các Thể Khinh Thanh. “Hăy đem những
Người có bản chất như quí vị lại. Hăy
ban cho chúng các H́nh hài bên trong. Nàng sẽ kiến tạo các
Lớp vỏ bên ngoài. Chúng sẽ Bán thư bán hùng. Các
Hỏa Tinh Quân cũng…”
13. Họ lên đường, mỗi
người đến vùng Đất được
cấp cho ḿnh: Bảy vị, mỗi vị đến
Địa hạt của ḿnh. Các Hỏa Tinh Quân vẫn
ở đàng sau. Các Ngài chẳng đi đâu hết, các
Ngài chẳng hề sáng tạo.
ĐOẠN KINH 4
14. Bảy Tập Đoàn các “Đấng Chí
Sinh” (“Will-Born Lords”), được Tinh Thần Phú Sinh (the
Spirit of Life-Giving) thúc đẩy, tách Nhân loại ra khỏi
ḿnh, mỗi vị ở Khu vực riêng của ḿnh.
15. Bảy lần bảy H́nh bóng của Nhân
loại Tương lai được sinh ra, mỗi
thứ thuộc một Loại riêng biệt và có Màu da riêng
biệt. Mỗi thứ đều thấp kém hơn Từ
Phụ của ḿnh. Các Từ Phụ, Không có Xương,
không thể ban Sự Sống cho các Thực Thể có
Xương. Hậu duệ của họ là Bhũta, vốn
chẳng có H́nh hài, mà cũng chẳng có Thể Trí. Do đó,
họ được gọi là Giống dân Bào ảnh (the
Chhăyă Race).
16. Các Đấng Mănushya sinh ra như
thế nào ? Các Đấng Bàn Cổ có trí tuệ
được tạo ra như thế nào ? Các Từ
Phụ cầu cứu tới Lửa của chính ḿnh, đó
là Lửa cháy trong Địa Cầu. Chơn Linh Trái
Đất cầu cứu tới Lửa Mặt Trời. Ba
thứ này chung sức nỗ lực tạo ra một H́nh
hài tốt đẹp. Nó có thể đi, đứng
chạy nhảy, nằm dài hoặc bay lượn. Song nó
vẫn chỉ là một Chhăyă, một Bào ảnh không có Giác
quan…
30
17. Linh khí cần có một
H́nh hài; các Từ Phụ ban cấp cho nó. Linh khí cần có
một Thể thô trược; Địa Cầu đào
luyện ra nó. Linh khí cần có Sinh khí; các Đấng
Thần Linh Thái Dương phà nó vào trong h́nh hài. Linh khí
cần có một chiếc Gương phản chiếu
Cơ thể; các Thần Quân phán: “Chúng ta sẽ lấy cái
của ḿnh ban cho nó !” Linh khí cần có Cảm dục
thể; các Đấng hút cạn Nước bảo: “Nó
sẽ có”. Nhưng Linh khí cần có một Thể Trí
để quán thông Vũ Trụ, các Từ Phụ bảo:
“Chúng ta không thể ban cấp cái đó !” Chơn Linh Trái
Đất bảo: “Ta chưa bao giờ có cái đó !”
Đại hỏa phán: “H́nh hài sẽ bị thiêu rụi
nếu Ta ban cái của ta cho nó !”… Con người vẫn c̣n
là một H́nh tướng rỗng tuếch, vô tri vô giác…
Như thế, Đấng Vô Cốt (Boneless) đă ban
Sự Sống cho những kẻ trở thành những
Người có xương trong Giống dân thứ Ba.
ĐOẠN KINH 5
18. Giống dân thứ Nhất là Con của
Yoga. Các con của chúng là con của Cha Vàng và Mẹ Trắng.
19. Giống dân thứ Hai sinh ra do sự
nảy chồi và bành trướng, cái Phi giới tính
xuất phát từ cái Vô giới tính [28].
Hỡi đệ tử ! Giống dân thứ Hai
được tạo ra như thế đó.
20. Các Tổ Phụ của họ vốn
Tự sinh tự tại. Những Đấng Tự Sinh
Tự Tại là những Bào ảnh xuất phát từ các
Thể quang huy của các Tinh Quân, các Tổ Phụ, các
Đứa Con của Tranh sáng tranh tối (the Sons of Twilight).
21. Khi Giống dân đă già, Nước
cũ trộn lẫn với Nước mới. Khi các
Giọt nước trở thành đục ngầu, nó
biến mất vào Ḍng nước mới, trong Ḍng Suối
nóng của Sự Sống. Cái Bên ngoài của cái Đầu
Tiên trở thành cái Bên Trong của cái Thứ Nh́. Cánh cũ
biến thành H́nh Bóng mới, H́nh Bóng mới của cái Cánh.
ĐOẠN KINH 6
31
22. Kế đó Giống dân
thứ Hai tiến hóa thành Giống dân thứ Ba, Giống
Noăn sinh. Mồ hôi tăng trưởng, các Giọt mồ
hôi tăng trưởng, biến thành cứng và tṛn. Mặt
Trời sưởi ấm nó; Mặt Trăng làm cho nó
nguội và có h́nh thể; Gió nuôi dưỡng nó cho
đến khi chín muồi. Con Thiên Nga Trắng từ trên Ṿm
trời lấp lánh ánh sao phủ bóng giọt Mồ hôi
lớn. Quả Trứng của Giống dân Vị lai, con
Nhân Nga (Man-swan) của Giống dân thứ Ba sau này.
Trước tiên là đực-cái (male-female), và kế đó
là
23. Những Kẻ tự sinh là các H́nh bóng
phóng xuất từ Các thể của các Đứa Con Tranh
sáng tranh tối. Cả nước lẫn lửa
đều không hủy diệt được họ. [Các
con của họ đă bị hủy diệt].
ĐOẠN KINH 7
24. Các Đứa Con của Minh Triết, các
Con của Đêm tối, (xuất phát từ Thánh Thể
Brahmă trong
25. Các Trí Tinh Quân (the Mănasa), các Con Minh
Triết hành động như thế nào? Các vị
loại bỏ kẻ Tự sinh (không xương). Chúng
chưa sẵn sàng. Các vị cũng loại bỏ kẻ
Hăn sinh. Chúng chưa hoàn toàn sẵn sàng. Các vị không
muốn nhập vào kẻ Noăn sinh đầu tiên.
26. Khi những kẻ Hăn sinh đă tạo ra
những kẻ Noăn sinh lưỡng phái. Những giống
người khỏe mạnh, có xương, các Đấng
Minh Triết phán: “Bây giờ chúng ta hăy sáng tạo”.
27. Giống dân thứ Ba đă trở thành
Hiện Thể (Văhan) của các Đấng Minh Triết. Nó
tạo nên những “Con của Ư Chí và Yoga”, bằng
phương pháp Kriyăshakti, nó tạo nên các vị ấy, các
Cha Thánh Thiện, Thủy Tổ của các vị La Hán …
ĐOẠN KINH 8
28. Những loài động vật
đầu tiên (của cuộc Tuần Hoàn hiện tại)
được tạo ra từ những giọt mồ hôi,
từ chất cặn bă phế thải và cát bụi
của những xác chết cùng là thú cầm của cuộc
Tuần Hoàn thứ Ba trước.
32
29. Những loài vật có
xương, các con rồng ở vực sâu, và các loài
Rắn (Sarpas) biết bay được tạo thêm vào các
loài ḅ sát. Các loài ḅ sát dưới đất lại mọc
cánh. Những loài vật cổ dài sống dưới
nước trở thành thủy tổ của loài chim trên
không trung.
30. Trong Giống dân thứ Ba, loài vật
không xương trưởng thành và biến đổi h́nh
thể; chúng trở thành loài vật có xương, những
H́nh bóng của chúng trở nên rắn chắc.
31. Những loài vật phân chia trước
tiên thành đực và cái. Chúng bắt đầu sinh nở.
Con người lưỡng phái kế đó cũng phân chia
nam nữ. Y nói: “Chúng ta hăy làm như chúng; chúng ta hăy phối
hợp và sinh sản”. Họ đă làm ….
32. Những kẻ không có Đốm Lửa
(những kẻ đầu hẹp) phối hợp với
loài vật giống cái. Chúng sinh ra các giống người
câm. Chính họ (những kẻ đầu hẹp) cũng
là giống người câm. Nhưng lưỡi của
họ tách rời. Lưỡi của con cháu họ vẫn
c̣n nguyên. Chúng sinh ra những quái vật. Một giống
quái vật tóc đỏ, h́nh thù co quắp đi trên bốn
chân. Một giống câm để giấu sự nhục
nhă cho khỏi bị tiết lộ.
ĐOẠN KINH 9
33. Nh́n thấy tội lỗi của họ
(v́ đă phối hợp với loài thú), các Đấng
Thần Minh, Con của Minh Triết (Lhas) là những vị
từ chối không chịu sáng tạo nên con người,
khóc và nói:
34. “Những Kẻ không có trí khôn (Amănasa)
đă làm ô uế những nơi cư trú tương lai
của chúng ta. Đây đúng là Nghiệp Quả. Chúng ta hăy
trú ngụ trong những kẻ khác. Chúng ta hăy dạy dỗ
họ cẩn thận hơn, để tránh những
điều tai hại hơn nữa có thể xảy ra”.
Các vị đă làm …
35. Thế rồi, tất cả con
người đều được ban cho Trí Khôn (Manas).
Họ nh́n thấy tội lỗi của kẻ vô trí.
36. Giống dân thứ Tư phát triển
ngôn ngữ.
37. Một [thư hùng lưỡng phái]
trở thành Hai, và tất cả các loài ḅ sát vẫn c̣n là
một; loài cá khổng lồ, chim và rắn lớn cũng
vậy.
ĐOẠN KINH 10
33
38. Như vậy, cứ hai
lần hai, trên Bảy Khu Vực, Giống dân thứ Ba sinh
ra Giống dân thứ Tư; các Thần Linh (Sura) trở
thành Phi Thần Linh (A-sura).
39. Giống thứ Nhất trên mỗi Vùng
có nước da màu mặt trăng (vàng nhạt); Giống
thứ Hai sắc da màu vàng; Giống thứ Ba màu
đỏ; Giống thứ Tư màu nâu, nó trở thành màu
đen v́ tội lỗi. Bảy chi chủng đầu tiên
khi khởi thủy đều có cùng một màu da. Bảy
phụ chủng kế tiếp bắt đầu pha
trộn màu da với nhau.
40. Kế đó Giống dân thứ Ba và
Giống dân thứ Tư trở nên kiêu căng. “Chúng ta là
vua, chúng ta là thần linh”.
41. Họ lấy những người
vợ xinh đẹp dễ nh́n. Những người
vợ này thuộc giống người đầu hẹp,
vô trí. Họ sinh ra những giống quái vật, những
loài quỷ sống, nam và nữ. Họ cũng sinh ra loài
nữ yêu (dăkinĩ) với ít trí khôn.
42. Họ dựng đền thờ cho
thể xác con người. Họ chiêm bái người nam và
nữ. Khi đó con Mắt thứ Ba không c̣n hoạt
động nữa.
ĐOẠN KINH 11
43. Giống dân thứ Ba [Lemuria] tạo
dựng những thành phố vĩ đại. Họ xây
cất bằng những vật liệu và kim loại
hiếm có lấy trong phún thạch của núi lửa.
Họ dùng cẩm thạch và đá đen để tạc
tượng của chính họ với h́nh dáng và vóc vạc
giống y như họ, rồi họ thờ những h́nh
tượng đó.
44. Giống người Atlantis tạo
những pho tượng khổng lồ cao 27 feet (8,22m),
bằng tầm vóc của thân h́nh họ. Lửa nội
tại đă hủy diệt đất của Tổ
Phụ họ (Giống người Lemurians). Nạn
nước lụt đe dọa Giống dân thứ Tư.
45. Những Trận Nước Lụt
đầu tiên đă xảy ra. Chúng nhận ch́m Bảy Ḥn
Đảo Lớn.
46. Tất cả những người Thánh
thiện đều được cứu thoát, những
kẻ bất hảo bị diệt vong. Cùng bị tiêu
diệt với những người này là hầu hết
các con thú khổng lồ, được tạo ra từ
mồ hôi của Trái Đất.
ĐOẠN KINH 12
47. Ít người c̣n lại. Một số
người da vàng, một số da nâu và đen, và một
số da đỏ đă ở lại. Những
người da màu mặt trăng đă đi luôn không c̣n
trở lại.
48. Giống dân thứ Năm
được tạo ra từ Nguồn gốc thiêng liêng
đă ở lại; Giống dân này được cai
trị bởi những vị Thánh Vương đầu
tiên.
49. ….[Các Con Rắn] đă giáng lâm trở
lại, đă làm ḥa với Giống dân thứ Năm,
đă dạy dỗ và giáo hóa nó…
35
GIẢNG LƯ
MƯỜI HAI ĐOẠN KINH VÀ CÁC TỪ
NGỮ THEO SỐ THỨ TỰ TRONG CÁC ĐOẠN KINH VÀ
CÁC TIẾT THƠ
ĐOẠN KINH 1
KHỞI ĐẦU CUỘC
SỐNG HỮU H̀NH
(BEGINNINGS OF
SENTIENT LIFE)
1. Lha, tức
Chơn linh Trái Đất. 2. Trái Đất kêu cầu
tới Mặt Trời. 3. Mặt Trời đáp ứng. 4.
Sự biến đổi của Trái Đất.
1. ĐẤNG LHA (a) XOAY CHUYỂN BẦU THỨ
TƯ ([29]) TÙNG PHỤC
CÁC ĐẤNG LHA CỦA THẤT NGUYÊN ([30]) (b); KHI XOAY V̉NG, CHÚNG ĐÁNH XE CHUNG
QUANH ĐẤNG CHÍ TÔN, ĐẤNG ĐỘC NHĂN ([31])
CỦA THẾ GIỚI CHÚNG TA. LINH KHÍ CỦA NGÀI BAN SỰ
SỐNG CHO THẤT NGUYÊN ([32]).
NÓ BAN SỰ SỐNG CHO BẦU THỨ NHẤT.
Giảng lư dạy thêm: “Tất cả các Ngài đều
là Rồng Minh Triết”.
a. Ở các vùng xuyên Hy Mă
Lạp Sơn, Lha là một từ ngữ cổ để
chỉ “Chơn Linh” (“Spirit”), tức bất kỳ Thực
Thể siêu nhân hoặc thiên
giới nào. Nó bao gồm hàng loạt các đại đoàn
thiên giới, từ một Tổng Thiên Thần, tức
Thần Quân, xuống tới một Thiên Thần bóng
tối tức Vong Linh trần thế..
36
b. Nói cho rơ
ràng, thành ngữ này tŕnh bày là Đấng Chơn Linh
Chưởng quản Bầu Hành tinh của chúng ta (vốn
là Bầu thứ Tư trong Dăy Hành Tinh) tùng phục
Đấng Chơn Linh (tức Thần Linh) chính yếu
trong số Bảy Chơn Linh Hành Tinh. Như đă giải
thích, trong hàng loạt chư Thần, Cổ nhân có bảy
Thần Linh Bí Nhiệm chính yếu; thủ lănh của
họ (xét về mặt ngoại
môn) là Mặt Trời hữu h́nh, tức Thần Linh
thứ tám và (xét về mặt nội
môn) là Thượng Đế Ngôi Hai tức Hóa Công.
Bảy Đấng này – trong Thiên Chúa giáo, các Ngài biến
thành “Bảy Mắt của Chúa” – là các Đấng Chưởng
Quản của bảy hành tinh chính
yếu; nhưng không được kể đến
các hành tinh này theo lối liệt kê được chế
ra sau này bởi những kẻ đă quên mất hoặc
chỉ có một ư niệm kém thỏa đáng về các Bí nhiệm thực sự, chúng
không hề bao gồm Mặt Trời, Mặt Trăng
hoặc Trái Đất. Xét về mặt ngoại môn,
Mặt trời cầm đầu mười hai
Đại Thần Linh tức mười hai cḥm sao Hoàng
Đạo. Xét về mặt nội môn, nó lại là
Đấng Cứu Thế, Christos – Đấng
được Đại Linh Khí (the Great Breath) tức ĐẤNG
ĐỘC TÔN (the ONE) phong thánh- xung quanh có
mười hai quyền năng phụ thuộc; đến
lượt chúng lại phụ thuộc vào một trong
bảy “Thần Linh Bí Nhiệm” của các hành tinh.
Một giảng lư nêu rơ: “Bảy Đấng Thượng
Thừa làm cho Bảy Chơn Linh (Lhas) sáng tạo ra Thế
giới”. Điều này có ư nghĩa là Trái Đất
của chúng ta (bỏ qua phần c̣n lại) được
các Chơn Linh Trần Thế sáng tạo hoặc cấu
thành, các “Đấng Chưởng Quản” chỉ là
những Vị giám sát. Đây là mầm mống đầu
tiên của cái sau này sẽ phát triển thành Cây Chiêm tinh
học và sùng bái Tinh đẩu. Các Đấng Thượng
Thừa (the Higher Ones) là các Đấng
Kiến Tạo Vũ Trụ, xây dựng Thái Dương
Hệ của chúng ta. Điều này được xác
nhận bởi tất cả các vũ trụ khởi nguyên
luận của Hermes, của dân Chaldea, của dân Ăryan,
của dân Ai Cập, thậm chí của cả dân Do Thái
nữa. Các cung Hoàng Đạo (các “Con thú linh thiêng” tức “Vành đai trên Trời”) là
B’ne Alhim (các Con của chư Thiên tức Elohim) chẳng khác
nào các Chơn Linh của Địa Cầu nhưng cao
cấp hơn. Soma và Sin,
c. “Linh khí của Ngài ban
Sự Sống cho Thất Nguyên” nhằm nói tới Mặt
trời (đang ban sự sống cho các hành tinh) cũng
như là “Mặt Trời Thượng Đẳng” (“the High
One”), Mặt Trời Tinh
Thần, đang ban sự sống cho toàn thể Càn Khôn.
Chúng ta chỉ có thể t́m thấy ch́a khóa thiên văn
học và chiêm tinh học để mở cánh cổng
dẫn tới các bí nhiệm về Thần phổ học
trong các phần ngữ giải kèm theo các ĐOẠN KINH.
37
Trong các Tiết thơ
khải huyền của các tài liệu lưu trữ Cổ
sơ, người ta dùng lối nói biểu tượng,
giống như kinh Purănas nhưng ít có tính cách thần
thoại hơn nó. Nếu không có các Giảng lư sau này (do hàng
thế hệ Cao đồ biên soạn), làm sao chúng ta
hiểu nổi ư nghĩa của nó một cách chính xác. Trong
vũ trụ khởi nguyên luận cổ truyền, các
bầu thế giới hữu h́nh và vô h́nh là các mối liên
kết lưỡng phân của cùng một dăy hành tinh. Thiên
Đạo Vô H́nh, cùng với Bảy Đại Đoàn –
mỗi đại đoàn được tiêu biểu
hoặc nhân cách hóa bởi Thiên Thần chính yếu tức
Thiên Thần Chưởng Quản của nó – tạo thành
một Quyền Năng duy nhất, nội tại và vô h́nh;
cũng vậy, trong thế giới H́nh hài sắc
tướng, Mặt Trời và bảy hành tinh chính yếu
cấu thành mănh lực chủ động và hữu h́nh; có
thể nói là “Đại đoàn” vừa nêu là Thiên
Đạo hữu h́nh và ngoại cảnh của các Thiên
Thần Vô H́nh và (ngoại trừ ở những
đẳng cấp thấp) hằng nội tại.
Như thế, để tiên
liệu một chút nhờ vào sự minh họa – người
ta bảo rằng trong khi tiến hóa, mỗi Giống dân
đều sinh ra dưới ảnh hưởng trực
tiếp của một trong các hành tinh. Giống dân thứ
Nhất nhận được sinh khí từ Mặt
Trời (chúng ta sẽ thấy điều này sau). Trong khi
đó, được biết Giống dân thứ Ba –
những kẻ bắt đầu sinh hóa, từ bán thư
bán hùng biến thành các thực thể riêng biệt, nam và
nữ - chịu ảnh hưởng trực tiếp
của Kim Tinh, “’ngôi mặt
trời bé nhỏ’ và vầng thái dương tích trữ ánh
sáng của ḿnh trong đó”.
Phần tổng kết các ĐOẠN KINH trong Quyển 1 ([33])
đă chứng tỏ rằng chư Thiên và loài người
đă phát nguyên ([34]) trong và
từ cùng một điểm duy nhất, đó là NHẤT NGUYÊN Tuyệt Đối, Vĩnh
Cửu, Thường Trụ và Đại Đồng
Thế Giới. Trong trạng thái biểu lộ ban sơ,
chúng ta thấy nó biến thành : (1) CHẤT LIỆU và THẦN LỰC NGUYÊN THỦY ( hướng tâm và ly tâm,
dương và âm, thư và hùng, v..v…) trong lĩnh vực
ngoại cảnh vật lư; (2) TINH THẦN CỦA VŨ TRỤ ( tức Thiên Ư Hồng Nguyên, mà một vài
người gọi là THIÊN ĐẠO)
trong thế giới siêu h́nh.
Thiên Đạo này là
đỉnh của Tam giác Pythagoras. Khi Tam giác này đă hoàn
chỉnh, nó biến thành Tứ Linh Diệu, tức Tam giác
trong H́nh vuông, và biểu tượng lưỡng phân
của Tứ Linh Tự trong Vũ Trụ biểu lộ,
và Tia gốc tam phân của nó trong vũ trụ chưa
biểu lộ - Thực Tượng của nó.
Nói một cách siêu h́nh hơn, sự
phân loại các cứu cánh Vũ Trụ được tŕnh
bày ở đây chỉ là để cho tiện, hơn là có
tính cách chính xác tuyệt đối về mặt triết
học. Vào lúc khởi đầu một Đại Chu
Kỳ Khai Nguyên, Thái Cực Thượng Đế biểu
lộ như là Hỗn nguyên khí, rồi như Thiên
Đạo. Thiên Đạo này tương đương
với “Toàn Linh Trí Vô Thức” (the “Unconscious Universal Mind”)
v.v.. của các tín đồ Phiếm Thần Tây
phương. Nó cấu thành Nền tảng của khía cạnh
NỘI
TÂM của Hiện
Tồn biểu lộ, và là cội nguồn của mọi
biểu lộ của biệt thức. Hỗn nguyên khí
tức Càn Khôn Chất Nguyên Thủy là nền tảng
của khía cạnh NGOẠI CẢNH của vạn vật –nền tảng
của mọi cuộc tiến hóa và Vũ trụ khai
tịch ngoại cảnh. Thế th́, Thần Lực đâu
có cùng với Chất liệu Nguyên thủy xuất lộ
từ trạng thái tiềm tàng của Thái Cực
Thượng Đế. Đó là
sự biến đổi thành năng lượng của
tư tưởng siêu thức của Thiên Đạo,
được thấm nhuần (tạm gọi như
vậy) vào trong việc ngoại cảnh hóa Thiên Đạo
xuất phát từ trạng thái tiềm tàng trong Thực
Tại Duy Nhất. V́ thế mới có các luật Vật
Chất kỳ diệu; v́ thế mới có “dấu ấn
bản sơ” mà Giám mục Temple đă bàn tới một
cách mơ hồ. Như thế, Thần Lực không hề xảy ra đồng
thời với sự ngoại cảnh hóa bản sơ
của Hỗn nguyên khí. Tuy nhiên, v́ không có Thần
Lực, Hỗn nguyên khí cũng hoàn toàn là và tất nhiên là
bất động (chỉ là
một thứ trừu
xuất) nên không cần phải phân biệt quá tỉ
mỉ tŕnh tự của các Cứu cánh Vũ Trụ.
Thần Lực nối tiếp Hỗn nguyên khí; nhưng
loại trừ Thần Lực ra, Hỗn nguyên khí cũng
không thể tồn tại ([35]),
xét về mặt thực tế.
38
“Thiên
Đế”(“Heavenly Man”) tức Tứ Linh Tự, vốn là
Protogonos, Tikkoun, Đấng Bản Sơ xuất phát từ
Đấng Thánh Linh thụ động và biểu lộ
bản sơ của H́nh bóng của Đấng Thánh Linh này,
là H́nh Tướng và Ư Niệm Vũ trụ, nó sinh ra Thiên
Đạo Biểu Lộ; Adam Kadmon tức biểu
tượng tứ tự (trong kinh Kabalah) của chính Vũ Trụ, cũng
được gọi là Thượng Đế Ngôi Hai. Tam
giác thứ Nh́ bắt nguồn từ Tam giác thứ Nhất
và phát triển Tam giác thứ Ba ([36]);
CON
NGƯỜI
được sản sinh ra từ Tập Đoàn Thiên
Thần hạ đẳng cuối cùng. Hiện nay, chúng ta
sẽ bàn tới Ngôi Ba này.
Độc giả phải
nhớ rằng Thiên Đạo khác xa Hóa Công (Demiourgos), v́
một đàng là Tinh Thần
(Spirit), một đàng là Linh
Hồn (Soul). Tiến
sĩ Wilder đă diễn tả điều đó như
sau:
Dianoia
đồng nghĩa với Thiên Đạo (Logos), Nous cao
siêu hơn và gần gũi với Ṭ’agathóv, một đàng
là sự lĩnh hội cao siêu, một đáng là sự quán
triệt – một đàng thuộc về trí năng (noetic),
một đàng thuộc về trí tuệ (phrenic).
Vả lại, trong nhiều
giáo hệ, Con Người được xem như là
Thượng Đế Ngôi Ba. Ư nghĩa nội môn của
từ ngữ Thiên Đạo
(Huyền Âm) là việc diễn đạt tư
tưởng ẩn tàng ra bên ngoài (giống như trong
một tấm ảnh). Thiên Đạo là một tấm
gương phản chiếu THIÊN TRÍ
c̣n Vũ Trụ là tấm gương của Thiên
Đạo, mặc dù Thiên Đạo là bản thể
của Vũ Trụ đó. Thiên Đạo phản ánh tất cả trong Vũ
Trụ Thái cực, cũng vậy, con người phản
ánh nơi chính ḿnh tất cả những ǵ mà y trông thấy
và t́m thấy trong Thế giới của ḿnh, tức Trái Đất. Đó là Tam
Thủ (Three Heads) của Thánh kinh Kabalah –“cái này ở trong cái kia và cái này ở trên cái kia” ([37]). Giáo lư dạy: “Mọi Vũ
Trụ (thế giới hoặc hành tinh) đều có Thiên
Đạo riêng của ḿnh. Mặt Trời luôn luôn
được người Ai Cập gọi là “Mắt
của Osiris”, và chính Thiên Đạo, Đấng Bản
Lai, tức Ánh Sáng được bộc lộ ra cho
thế giới “vốn là Thể Trí (Mind) và Thiên trí (divine
Intellect) của Đấng Vô Hiện”. Chỉ có cách
nhờ vào Tia thất phân của Ánh Sáng này chúng ta mới có
thể tri thức được Thiên Đạo qua Hóa Công
(xem Hóa Công như là “Đấng Sáng Tạo” của hành tinh
chúng ta và mọi vật thuộc về nó, c̣n Thiên
Đạo là Thần Lực điều động
của “Đấng Sáng Tạo” đó) – vừa thiện
vừa ác, nguồn gốc của cả thiện lẫn
ác. Chính “Đấng Sáng Tạo” này chẳng thiện mà
cũng chẳng ác, nhưng các trạng thái biến phân của
nó trong Thiên Nhiên làm cho nó có một trong các tính chất này.
Chẳng Nhật Thần nào có
liên quan một chút ǵ với Thế giới vô h́nh và xa
lạ vốn rải rác khắp không gian. Ư niệm này
được tŕnh bày rất minh bạch trong các Thánh
thư của Hermes cũng như là trong mọi kho tàng học thuật dân gian cổ
truyền. Nó thường được tiêu biểu
bởi Con Rồng và Con Rắn – Thiện Long và Ác Xà
được tượng trưng trên Trần Thế
bởi Huyền linh thuật và Ma thuật. Trong bài anh hùng
thi của Phần Lan, Kalevala
([38]); có tŕnh bày nguồn gốc của Ác Xà:
nó sinh ra từ nước dăi của Suoyatar (Ác Quỷ
bản sơ) và được Nguyên khí Ác Hisi phú cho Linh Hồn.
Nó mô tả cuộc đấu tranh giữa “điều ác”,
Con Rắn tức thầy Phù Thủy và Ahti, Con Rồng
tức Huyền linh thuật sĩ, Lemminkainen. Lemminkainen là
một trong bảy đứa con của Ilmatar, nàng trinh
nữ “con gái của phong” (daughter of the air”), “nàng rớt
từ trên trời xuống biển”, trước khi có
sự Sáng Tạo, nghĩa là Tinh Thần biến thành
Vật Chất của cuộc sống sắc dục. Vài
ḍng sau đây (do Tiến sĩ J.M. Crawford dịch ra thật
là tuyệt vời) bao hàm biết bao nhiêu là ư nghĩa và
tư tưởng Huyền bí. Anh hùng Lemminkainen
39
Đẽo bức tường bằng
sức mạnh của pháp thuật,
Phá
tan tành bờ giậu,
Đốn
vụn nát bảy chiếc cọc,
Băm
vằm bức tường rắn độc.
……….
Khi
con quái vật lơ đăng,
…………..
Há
hốc miệng đầy nọc độc ra ngoạm
Vào
đầu Lemminkainen;
Nhưng
anh hùng sực nhớ ngay ra,
Thốt
lên những linh từ minh triết,
Các
linh từ có từ xửa từ xưa,
Các linh từ mà
tổ tiên đă truyền dạy cho chàng…
d. Ở Trung Hoa, người
Fohi, tức “Thiên Đế” được gọi là
Thập Nhị Thiên Hoàng (Tien-Hoang), mười hai đại đoàn các Thần Quân
hoặc Thiên Thần, mặt người, ḿnh rồng (Con
Rồng tượng trưng cho Minh
Triết Thiêng Liêng([39]) tức Tinh Thần); các Ngài
đă sáng tạo ra con người bằng cách lâm
40
phàm trong
bảy h́nh hài bằng đất sét – đất và
nước – được uốn nắn theo h́nh dạng
của các Thiên Hoàng này, đó là ẩn dụ thứ ba ([40]).
Mười hai Aesers (Thần Lực sáng tạo
được nhân cách hóa) trong bộ “Eddas” của Bắc
Âu cũng như vậy. Trong Giáo Lư Vấn Đáp Bí
Nhiệm của giáo phái Druses ở Syria – một huyền
thoại được các bộ lạc xung quanh sông
Euphrates lặp lại nguyên văn – con người
được các “Con của Thượng Đế” sáng
tạo ra; sau khi giáng thế và thu thập bảy cây Nhân sâm lại, làm cho rễ
của chúng linh hoạt, rồi lập tức biến thành
người ([41]).
Tất cả các ẩn
dụ này đều nhắm vào cùng một nguồn gốc
duy nhất; bản chất lưỡng phân và tam phân
của con người; lưỡng phân như nam và nữ;
tam phân, như là một bản thể tâm linh và tinh thần
ở nội tâm và một h́nh hài vật chất ở
ngoại cảnh.
2. ĐỊA CẦU NÓI: “HỠI ĐẤNG
BẠCH DIỆN ([42]),
NHÀ TÔI SAO QUÁ TRỐNG TRẢI … HĂY PHÁI CÁC CON CỦA NGÀI
ĐẾN DIỆU LUÂN NÀY ([43]). NGÀI ĐĂ PHÁI BẢY CON TỚI CHO
ĐẤNG MINH TRIẾT (a). Y
THẤY NGÀI GẦN VỚI Y HƠN BẢY LẦN, Y CẢM
THẤY NGÀI BẢY LẦN HƠN NỮA (b). NGÀI ĐĂ CẤM NGẶT CÁC
THUỘC HẠ CỦA NGÀI, CÁC VÀNH NHỎ, KHÔNG
ĐƯỢC CHIẾM LẤY ÁNH SÁNG VÀ NHIỆT CỦA
NGÀI, L̉NG ĐẠI LƯỢNG CỦA NGÀI CHẮN
ĐƯỜNG NÓ. NAY HĂY GỬI CHO THUỘC HẠ CỦA
NGÀI Y NHƯ VẬY”.
a. Đấng “Minh
Triết” là thần Mercury tức Budha.
b. Giảng lư hiện
đại giải thích câu này, xem như đó là nhắm vào
một sự kiện thiên văn trứ danh, đó là
“Thủy Tinh nhận được ánh sáng và nhiệt xuất
phát từ Mặt Trời bảy lần nhiều hơn
Trái Đất, hoặc nhiều hơn cả Kim Tinh
kiều diễm, nó chỉ nhận được số
lượng ánh sáng và nhiệt hai lần nhiều hơn
Bầu hành tinh bé bỏng của chúng ta. Chúng ta có thể suy
ra xem liệu người thời xưa có biết sự
kiện này không, bằng cách xét lời cầu khẩn
của “Chơn Linh Trái Đất” đối với
Mặt Trời như được tŕnh bày trong bản
văn ([44]).
Tuy nhiên, Mặt Trời không chịu gởi người
tới Địa Cầu, v́ đến nay, nó vẫn
chưa sẵn sàng để nhận sự sống.
41
Trên
cương vị một hành tinh chiêm tinh, Thủy Tinh c̣n có
tính cách Huyền linh và bí nhiệm hơn Kim Tinh. Nó
đồng nhất với Mithra (Thần Linh Bái Hỏa
Giáo) “được lập nên giữa ‘Mặt Trời’
Minh Triết”. Pausannias (Quyển v) tŕnh bày Ngài có một bàn
thờ chung với Thần Jupiter. Ngài có đôi cánh
để biểu thị sự kiện Ngài tháp tùng Mặt
trời trong cuộc tuần du; Ngài được gọi
là Nuntius và Nhật lang (Sun-wolf), chia sẻ ánh sáng Mặt
Trời. Ngài lănh đạo và trục triệu các Linh Hồn,
Ngài là Đại Pháp Sư và Đạo Trưởng. Virgil
mô tả Ngài cầm cây đũa thần trục triệu
các linh hồn bị đắm ch́m trong Orcus: “Rồi Ngài vồ lấy cây
thần trượng và trục triệu linh hồn ra
khỏi Orcus (hố sâu thăm thẳm)”([45]).
Ngài là thần Mercury màu Hoàng kim, Hermes Kim diện mà các Đạo
Trưởng không cho mệnh danh. Trong thần thoại Hy
Lạp, Ngài được tiêu biểu bởi một trong
các con “chó” (canh giữ), chúng coi chừng Tập đoàn Thiên
giới (Minh Triết Huyền Linh) tức Hermes Anubis,
tức Thiên Thần. Ngài là Argus (người khổng lồ
trăm mắt) canh chừng Địa Cầu và bị
Địa Cầu tưởng lầm là chính Mặt
Trời. Hoàng Đế Julian mỗi đêm đă cầu
nguyện với Mặt Trời Huyền Linh nhờ vào
sự can thiệp của Thần Mercury v́ theo Vossius :
Mọi nhà
thần học (theologians) đều quả quyết
rằng Thần Mercury và
Thần Thái Dương chỉ là một… Ngài là vị
thần minh hùng biện nhất và minh triết nhất,
điều này chẳng có ǵ là lạ, v́ Thần Mercury gần gũi với Minh Triết và
Huyền Âm của Thượng Đế [Thái
Dương] đến nỗi mà Ngài bị lầm lẫn
với cả hai ([46]).
Ở đây Vossius đă phát
biểu một chân lư Huyền bí hơn mức mà ông
tưởng. Hermes của người Ai Cập có liên
hệ mật thiết với Saramă và Sărameya ([47])
của người Ấn Độ, kẻ canh gác thiêng
liêng, ‘y trông chừng các cḥm sao và các chùm tia sáng mặt
trời màu hoàng kim’.
Giảng lư tŕnh bày
bằng những lời lẽ rơ ràng hơn :
Bầu
hành tinh, do Chơn Linh Trái Đất và sáu vị Phụ tá
thúc đẩy, thu được tất cả các sinh
lực, sự sống và quyền năng xuất phát
từ Tinh Thần thái Dương (Spirit of Sun) xuyên qua
bảy hành tinh Thần Quân (planetary Dhyănis). Họ là các
sứ giả Ánh sáng (messengers of Light) và Sự Sống
của Ngài.
42
Mỗi một trong Bảy Vùng trên
Địa Cầu, mỗi một trong bảy ([48])
Giống dân bản sơ [các nhóm người nguyên thủy]
đều nhận ánh sáng và sự sống từ
Đấng Thần Quân riêng biệt của ḿnh (về
mặt tinh thần) và từ cung điện [Trú sở, Hành
Tinh] của Đấng Thần Quân (về mặt vật
chất); bảy Giống dân lớn phải sinh ra trên
đó cũng vậy. Giống thứ Nhất sinh ra
dưới Mặt Trời; Giống thứ Nh́ dưới
Brihaspati [Mộc Tinh]; Giống thứ Ba dưới Lohitănga
[Hỏa Tinh, “Hỏa thể”(“Fiery-bodied”), c̣n dưới
cả Kim Tinh tức Shukra nữa; Giống thứ
Tư dưới Soma [Mặt
Trăng, cũng như Bầu hành tinh của chúng ta,
bầu hành tinh sinh ra dưới và từ Mặt Trăng]
và Shani (Thổ Tinh), Krũra-lochana [Ác nhăn] và Asita [U minh];
Giống thứ Năm dưới Budha [Thủy Tinh].
Con
người và mọi “nhân khí”[nguyên khí] nơi con
người cũng đều như thế cả.
Mỗi người thu được đặc tính
của ḿnh từ Đấng Bản Sơ [Chơn Linh Hành
Tinh] của ḿnh, do đó mỗi người là một
thất nguyên [hoặc một tổ hợp các nguyên khí,
mỗi nguyên khí có nguồn gốc nơi một tính
chất của Đấng Thần Quân chuyên biệt
đó]. Mọi quyền năng hoặc quyền lực tác
động của Địa Cầu đều
đến với nó từ một trong bảy Đấng
Tinh Quân. Ánh sáng được truyền qua Shukra [Kim Tinh], nó
được cung cấp ba phần song chỉ ban cho Trái
Đất một phần ([49]).
Do đó, hai Hành Tinh này được gọi là “Chị em
sinh đôi”(“Twin-sisters”), nhưng Chơn Linh Địa
Cầu lại phục tùng “Đấng Tinh Quân” của
Shukra. Các bậc hiền triết của chúng ta tŕnh bày tiêu
biểu hai Bầu hành tinh, một bầu ở trên, một
bầu ở dưới Kư hiệu lưỡng phân
[chữ Vạn nguyên thủy không có bốn cánh, tức là
thập tự giá +
]([50]).
Mọi môn sinh Huyền bí
học đều biết rằng “kư hiệu lưỡng
phân” là biểu tượng của các nguyên khí thư và hùng
trong Thiên Nhiên, của âm và dương, v́ chữ Vạn
tức là tất cả những
điều đó và c̣n nhiều hơn thế nữa.
Từ khi thiên văn học – nó được một trong
các Thánh Vương của triều đại thiêng liêng
truyền thụ cho Giống dân thứ Tư – cũng
như là chiêm tinh học ra đời, mọi tác giả
thời xưa đều tŕnh bày tiêu biểu Kim Tinh trong các
bản thiên văn là một Bầu
tựa thăng bằng bên trên một Thập tự giá
c̣n Trái Đất là một Bầu
bên dưới một Thập tự giá. Ư nghĩa
nội môn của điều này là Trái Đất bắt
đầu sinh hóa, tức là sản xuất ra các giống
loài nhờ sự giao phối. Nhưng các quốc gia Tây
phương sau này đâu phải không thể giải thích
nó được theo một lối khác hẳn. Qua các nhà
Huyền học, vốn được dắt dẫn
bởi ánh sáng của giáo hội La Tinh, họ đă
giải thích kư hiệu này có nghĩa là Trái Đất chúng
ta và tất cả những ǵ trên đó đều
được Thập tự giá cứu rỗi, trong khi Kim
Tinh – hay nói khác đi, là Lucifer, tức Quỷ Vương –
đang giày xéo lên nó. Kim Tinh là hành tinh Huyền bí, uy dũng
và huyền linh nhất; đó là Hành Tinh có tác dụng và liên
hệ nhiều nhất với Địa Cầu. Trong Bà La
Môn giáo ngoại môn, Venus tức Shukra – một nam thần –
là con trai của Bhrigu, một trong các Đấng Prajăpatis và
là một nhà Hiền Triết trong kinh Veda, và là Daitya Guru
tức Đạo Sư của các người khổng
lồ nguyên thủy. Trong kinh Purănas, toàn bộ lịch
sử của Shukra nhằm nói tới Giống dân thứ Ba
và thứ Tư. Giảng lư dạy :
43
Những
kẻ lưỡng tính “bán thư bán hùng” của [Căn chủng
thứ Ba] đă thoát thai từ giống dân “Hăn
sinh”(“Sweat-born”) đầu tiên không qua Shukra. Do đó, nó
được tŕnh bày tượng trưng với biểu
tượng [ṿng tṛn và
đường kính], trong khi có [Giống dân] thứ Ba và trong khi có Giống dân
thứ Tư.
Điều này cần
được giải thích. Khi nằm đơn
độc trong một ṿng tṛn, đường
kính tượng trưng cho Thế giới âm tính,
Thế giới lư tưởng
bản sơ, tự sinh tự
tại và được tự thấm nhuần bởi
Sinh khí lan tràn khắp vũ trụ - do đó nó cũng
nhằm nói tới Căn chủng sơ khai. Nó biến thành
bán thư bán hùng khi các Giống dân và tất cả những
thứ khác trên Địa Cầu phát triển ra thành các h́nh
hài vật chất. Bấy giờ, biểu tượng biến
thành một ṿng tṛn có một đường kính với
một đường thẳng đứng xuất phát
từ đó chạy xuống, biểu thị thư và hùng,
đến nay vẫn c̣n chưa phân tách – đó là chữ Tau
bản sơ của Ai Cập ; sau đó biến thành tức thư hùng phân biệt ([51])
và bắt đầu sinh hóa. Kim Tinh được tiêu
biểu bởi kư hiệu một bầu tựa trên một
thập tự giá, điều đó chứng tỏ
rằng Hành Tinh này chủ tŕ sự sinh sản tự nhiên
của con người. Người Ai Cập tiêu biểu
Ankh, “sự sống”, bằng thập tự giá có quai
tức , nó chỉ một
dạng khác của Venus (Isis),
, và, xét về mặt nội môn, có nghĩa là nhân
loại và mọi động vật đă được
bước ra khỏi ṿng thiêng liêng và bắt đầu
sinh sản nam nữ. Từ cuối Giống dân thứ Ba,
dấu hiệu này có cùng ư nghĩa sùng bái sinh thực khí
như “Cây Trường Sinh” trong vườn Địa
Đàng. Anouki, một dạng của Isis, là Nữ Thần
Sự Sống; c̣n Ankh được người Hebrew vay
mượn của người Ai Cập. Nó đă
được Moses (vốn rất hiểu biết về
Minh Triết của các lễ sư Ai Cập), du nhập
vào ngôn ngữ với nhiều từ ngữ huyền bí
khác. Trong tiếng Hebrew, từ ngữ Ankh với tiếp
vĩ ngữ nhân xưng, có nghĩa là “sự sống
của tôi”- sự hiện tồn của tôi – “đó là nhân
xưng đại danh từ Anochi”, thoát thai từ tôn danh
của Nữ Thần Ai Cập Anouki ([52]).
Trong một trong các Sách Vấn Đáp giáo
lư xưa nhất ở Nam Ấn Độ, Bang Madras,
Nữ Thần bán thư bán hùng Ardhanărĩ ([53])
đeo chiếc Thập tự giá có quai (chữ Vạn,
“dấu hiệu thư và hùng”) ngang ở phần trung tâm,
để biểu thị trạng thái trước khi có
giới tính của Giống dân thứ Ba. Trong một trong
các h́nh chạm trổ xưa nhất, người ta tŕnh
bày Vishnu (nay Ngài được tŕnh bày tiêu biểu với
một hoa sen mọc ra từ rốn – tức Thế giới
của Brahmă thoát thai từ trung tâm điểm, Nara) là
Đấng lưỡng tính (Vishnu và Lakshmi) đứng trên
một lá sen nổi lềnh bềnh trên mặt
nước, nước dâng lên theo h́nh bán nguyệt và tuôn
đổ qua chữ Vạn, “cội nguồn của
sự sinh hóa của con người”.
44
Pythagoras
gọi Shukra - Kim Tinh là “Mặt trời khác nữa”. Trong
số “Bảy cung của Mặt trời”, cung Lucifer-Venus là
cung thứ ba trong kinh Kabalah của Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo;
kinh Zohar cho rằng nó là chỗ ngự của Samael. Theo Giáo
lư Huyền bí, Hành Tinh này là hành tinh bản sơ của Địa Cầu, nguyên
kiểu tinh thần của nó. V́ thế, người ta
mới bảo xe của Shukra (Kim Tinh-Lucifer) được
kéo bởi một bầy Tám
“con ngựa trên trần thế”,
trong khi những con ngựa kéo xe của các Hành Tinh khác
lại không giống như vậy.
Mọi
tội lỗi phạm phải trên Địa Cầu
đều được Ushanas-Shukra cảm thấy.
Bậc Đạo Sư của các Daitytas (người
Khổng lồ) là Chơn Linh bảo vệ của
Địa Cầu và Loài người. Mọi sự
biến đổi trên Kim Tinh đều được
Trái Đất cảm thấy và phản ánh.
Như vậy, Shukra
tức Kim Tinh được tŕnh bày tượng trưng
như là Huấn Sư của các Daityas (các người
khổng lồ thuộc Giống dân thứ Tư); trong
ẩn dụ Ấn Độ, các vị này sẽ xưng
hùng xưng bá trên Địa Cầu và đánh bại các
Tiểu Thần. Các người Khổng lồ trong các
ẩn dụ Tây phương cũng có liên hệ mật
thiết với Venus-Lucifer, mà các tín đồ Thiên Chúa giáo
sau này đă đồng nhất hóa với Quỷ
Vương. Và v́ Venus cùng với Isis được tŕnh bày
tiêu biểu với các sừng ḅ trên đầu, biểu
tượng của Thiên Nhiên huyền bí – nó có thể thay
đổi và có nghĩa là Mặt Trăng, v́ tất cả
thứ này đều là các Nữ Thần nguyệt tinh – nên
nay các nhà thần học đă xác định vị thế
của Hành Tinh này giữa những chiếc sừng của
Lucifer huyền bí ([54]). Chính v́
lối thuyết minh hoang đường về truyền
thuyết cổ sơ này (nó
khẳng định rằng xét về mặt địa
chất, Kim Tinh thay đổi đồng thời với
Địa Cầu) vốn cho rằng bất cứ
điều ǵ diễn ra trên hành tinh này cũng đều
xảy ra trên hành tinh kia và các cuộc biến đổi
của chúng đă diễn ra nhiều lần và thật sâu
sắc; chính v́ các lư do này nên Thánh Augustine mới lặp
lại nó, áp dụng nhiều biến đổi về h́nh
thể, màu sắc (thậm chí cả về quỹ
đạo nữa) vào các tính cách có thêu dệt thêm thần
học ấy của Kim Tinh-Lucifer. Trong cơn hoang
tưởng mộ đạo, ông c̣n đi xa đến
mức liên hệ các biến đổi vừa qua của
Hành Tinh với trận Đại hồng thủy huyền
thoại Noah mà người ta cứ cho rằng đă
diễn ra vào năm 1796 trước T.C. ([55]).
45
V́ Kim
Tinh không có vệ tinh nên người ta phát biểu một
cách ẩn dụ rằng Ăsphujit (“hành tinh” này) nhận Trái
Đất (hậu duệ của Mặt Trăng, “lớn nhanh hơn cha mẹ
khiến người ta phải quan ngại” làm con nuôi –
điều này nhằm nói tới mối liên hệ
Huyền bí giữa hai hành tinh. Đấng Chưởng
Quản (của hành tinh) Shukra ([56])
thương đứa con nuôi của ḿnh đến
nỗi mà Ngài đă lâm phàm trên cương vị Ushanas và ban
cho nó các luật lệ tuyệt hảo, để rồi
sau này bị khinh thường và bác bỏ. Trong Harivamsha, có
một ẩn dụ khác cho rằng Shukra bệ kiến
Shivayêu cầu ngài che chở các môn đệ của y,
Daityas và Asuras) chống lại chư Thần Linh chiến
đấu. Để xúc tiến mục tiêu của ḿnh,
Ngài thi thố một nghi thức Yoga, “thấm nhuần khói trấu khi cúi đầu xuống
trong 1.000 năm”. Điều này nhằm nói tới sự
kiện trục của Kim Tinh bị nghiêng rất nhiều
– tới 50 độ - và nó luôn luôn bị mây bao phủ.
Nhưng nó chỉ liên quan tới cấu tạo vật
chất của hành tinh này. Huyền học Nhiệm mầu
phải bàn về Đấng Chưởng Quản,
Thiền Định Đế Quân làm linh hoạt nó. Ẩn
dụ xác định rằng Shukra đày Vishnu phải tái sinh bảy lần trên
Địa Cầu để trừng phạt Ngài đă
giết thân mẫu của Shukra, bao hàm biết bao nhiêu là ư
nghĩa Huyền bí học. Nó không nhằm nói tới các Hóa
Thân của Vishnu, v́ có tới chín Hóa Thân – Hóa Thân thứ
mười vẫn chưa giáng thế - mà lại là ám
chỉ các Giống dân trên Địa Cầu. Kim Tinh, tức Lucifer (tức Shukra hay Ushanas)
đem ánh sáng lại cho Địa Cầu, theo cả ư
nghĩa vật chất lẫn ư nghĩa huyền nhiệm.
Các tín đồ Thiên Chúa giáo thời sơ khai biết
rất rơ điều này, v́ một trong các Đức Giáo
Hoàng La Mă xưa nhất có thánh danh là Lucifer.
Mọi
bầu thế giới đều có Ngôi sao Tổ Phụ và
Hành Tinh tỉ muội của ḿnh. Như vậy Địa
Cầu là con nuôi và em của Kim Tinh, nhưng dân cư
của nó lại thuộc giống người của riêng
nó …Tất cả chúng hữu t́nh hoàn chỉnh [con
người thất phân hoàn bị và các thực thể cao
siêu hơn] thoạt đầu đều được
cung ứng các h́nh hài và cơ thể hoàn toàn ḥa hợp
với bản chất và t́nh trạng của Bầu hành
tinh mà họ ở trên đó ([57]).
46
Các Thế giới Hiện tồn, tức
Trung tâm Sinh hoạt (vốn là các hạt nhân biệt lập
đang nuôi dưỡng loài người và loài thú) thật
là hằng hà sa số; chẳng bầu nào có hậu duệ
riêng biệt của ḿnh giống với bầu đồng
hành tỉ muội của ḿnh hoặc bất cứ bầu
nào khác ([58]).
Tất
cả đều có một bản chất lưỡng
phân: tinh thần và vật chất.
Các
tiểu hạch (nucleoles) thật là vĩnh cửu,
thường tồn; các hạt nhân lại có tính cách
định kỳ và hữu hạn. Các tiểu hạch
tạo thành một phần của Đấng Tuyệt
Đối. Chúng là những lỗ châu mai của các pháo
đài đen x́ không thể thâm nhập vào được,
nó bao giờ cũng bị che giấu cho khuất mắt
con người cũng như Đấng Thần Quân. Các
hạt nhân là ánh sáng vĩnh cửu thoát ra từ đó.
Chính
ÁNH
SÁNG ấy đă cô đọng lại thành ra h́nh hài
của “Các Đấng Hiện Tồn”, các Đấng
Bản Sơ và cao siêu nhất xét gộp lại chính là JĨVĂTMĂ
tức Pratyagătmă [mà
người ta đă nói bóng gió là xuất phát từ Paramătmă.
Đó là Thiên Đạo của các triết gia Hy Lạp,
giáng lâm vào lúc khởi đầu mỗi
Như
vậy, chỉ có mỗi một Upădhi [Cơ sở]
Tuyệt Đối theo nghĩa tinh thần; hằng hà sa
số trung tâm căn bản đă được kiến
tạo cho các mục tiêu trong
Những
kẻ ở bên kia dăy Hy Mă Lạp Sơn ([59])
đă đề cập bừa
băi tới các Đấng Thông Tuệ đang làm linh hoạt
các Trung tâm Hiện tồn khác nhau này, như là các
Đấng Bàn Cổ, Thánh Hiền, Tổ Phụ ([60]),
Prajăpatis v..v.. C̣n ở bên này Dăy Trường Sơn,
người ta lại gọi các Ngài là các Thiền
Định Phật, các Đế Quân, các Melhas [Hỏa
Thần], các Bồ Tát ([61])
v.v.. Kẻ thật sự vô minh gọi các Ngài là chư
Thần Linh; kẻ phàm tục có học thức gọi
đó là Thần Linh Duy Nhất; c̣n các Điểm
đạo đồ minh triết chỉ tôn vinh các Ngài là
các biểu lộ trong Chu kỳ Khai Nguyên của CÁI ĐÓ; Đấng
mà các Đấng Sáng Tạo ra chúng ta [các Thiền
Định Đế Quân] cũng như là các tạo
vật chẳng thể nào nghĩ bàn được. ĐẤNG
TUYỆT ĐỐI
không thể xác định
được, chẳng có thế nhân hoặc bậc
bất tử nào đă từng trông thấy hoặc
thấu hiểu được nó trong các thời kỳ
tồn tại. Cái vô thường không thể biết
được cái thường trụ, chúng sinh không
thể tri giác được Sự Sống Tuyệt
Đối.
47
“Do
đó, con người không thể biết được
các thực thể cao siêu hơn các Tổ Phụ của
chính ḿnh”. “Y cũng sẽ tôn
thờ các Ngài”, nhưng y phải biết
được nguyên ủy của ḿnh.
Số Bảy, con số
cơ bản trong mọi hệ thống quốc giáo,
từ vũ trụ khởi nguyên luận xuống tới
con người, ắt phải có lư do tồn tại của
nó. Nó nổi bật lên trong số người Mỹ
thời xưa cũng như trong số người Ăryan và
Ai Cập cổ sơ. Vấn đề này sẽ
được bàn luận rốt ráo trong Quyển 4,
Phần 2; trong khi chờ đợi, chúng ta có thể tŕnh
bày một vài sự kiện ở đây. Tác giả của
Các Bí Pháp Thiêng Liêng trong số
người Mayas và Quichés, cách đây 11.500 năm ([62]) đă
cho rằng:
Số bảy
dường như đă là con số linh thiêng vô cùng đối với tất cả các
quốc gia văn minh thời xưa. Tại sao vậy? Câu
hỏi này chưa bao giờ được giải đáp
thỏa đáng. Mỗi dân tộc riêng biệt lại
đưa ra một lời giải thích khác, tùy theo các giáo
điều đặc thù của tôn giáo [ngoại môn]
của họ. Chắc chắn đó là con số vô
thượng đối với những kẻ
được điểm đạo vào các bí pháp thiêng
liêng. Pythagoras … gọi nó là “Hiện thể của sự
sống”, bao hàm h́nh tướng và linh hồn, v́ nó
được tạo thành bởi một tứ nguyên,
đó là Minh Triết và Trí
Năng, và một tam nguyên, tức tác động và vật
chất. Trong Matrem và Oratio ([63]), Hoàng Đế
Julian tŕnh bày như sau: “Nếu tôi đề cập tới
sự điểm đạo và trong các bí nhiệm huyền
linh mà dân Chaldea đă tửu thần hóa (bacchized) liên quan
tới thần linh thất cung
(the sevenrayed god), thắp sáng
linh hồn xuyên qua Ngài, th́ tôi sẽ đề cập
tới những điều mà các quần thần không
hề biết tới, song các nhà Thông thần thánh thiện
lại biết rất rơ”. ([64])
Kẻ nào đă quen
thuộc với kinh Purănas, Tử Vong Kinh, kinh Zendavesta, các
tài liệu ghi trên ngói của dân Assyria và cuối cùng là Thánh
kinh Thiên Chúa giáo, và đă quan sát thấy con số bảy này
cứ xuất hiện măi trong các tài liệu lưu trữ
của dân gian từ thời xa xưa nhất, mà lại có
thể xem sự kiện sau đây (mà cũng kẻ thám
hiểm các Bí Pháp cổ truyền ấy đă tŕnh bày) là
một điều trùng hợp? Khi đề cập
tới sự thịnh hành của con số bảy trên
cương vị một con số Huyền nhiệm trong
số cư dân ở “Lục địa phương Tây”
của Mỹ Châu, ông c̣n nói thêm rằng nó không thể
bớt nổi bật. Ấy là v́ :
Nó thường
hiện diện trong Thánh thư Popul-Vuh. Ngoài ra, chúng ta c̣n
thấy nó trong bảy gia
đ́nh mà Sahagun và Clavigero bảo là đă đi theo nhân
vật huyền bí được mệnh danh là Votan, nổi danh v́ đă
lập nên đại đô thị Nachan mà một số
người đă đồng nhất hóa với làng Palenque;
trong bảy cái hang ([65]) mà người
ta cho rằng tổ tiên của nhóm người Nahuatls
đă xuất lộ từ đó; trong bảy đô thị Cibola mà Coronado và Niza đă mô
tả… trong bảy ḥn
đảo Antilles; trong bảy
vị anh hùng được biết là đă thoát
khỏi trận Đại hồng thủy.
48
Vả lại, chúng ta
thấy là số “Anh hùng” đều như nhau trong mọi
câu chuyện về trận Đại hồng thủy –
từ bảy Đấng Thánh Hiền được
cứu thoát cùng với Đức Bàn Cổ Vaivasvata,
xuống tới chiếc bè của Noah, trong đó, thú
vật, chim muông và các sinh vật đều được
đem theo mỗi thứ “bảy con”. Như vậy, chúng ta
thấy những con số 1, 3, 5,7 thật là hoàn toàn, v́ vô
cùng huyền bí; đó là các con số giữ một vai tṛ
nổi bật trong mọi vũ trụ khởi nguyên
luận và cuộc tiến hóa của Chúng sinh. Ở Trung
Hoa, 1, 3, 5, 7 được gọi là các “Thiên số” trong
Kinh Dịch cũng như là trong “cuộc tiến hóa”.
Việc giải thích nó sẽ
rơ ra ngay khi chúng ta xét tới các Biểu tượng cổ
truyền: tất cả các biểu tượng này
đều được dựa vào và xuất phát từ
số liệu được tŕnh bày theo Bản thảo
cổ sơ của Lời nói đầu của Quyển
1. ,
biểu tượng của sự tiến hóa và việc
bắt đầu sinh hóa tức Vật Chất,
được phản ánh trong các tác phẩm điêu
khắc hoặc hội họa của Mễ Tây Cơ,
cũng như nơi Sephiroth của Do Thái Bí giáo và Tau
của người Ai Cập. Xét bản thảo của
Mễ Tây Cơ (Bản thảo bổ sung, Viện Bảo
Tàng Anh, 9789) [66];
bạn sẽ thấy trong đó có một cái cây, xung quanh
thân cây có mười trái mà một
người nam và một người nữ (mỗi
người ở một bên thân cây) chỉ chực hái.
Trong khi đó, từ ngọn của thân cây có hai nhánh
mọc ngang ra về phía bên phải và bên trái, thế là
hợp thành một chữ (Tau) hoàn chỉnh; ngoài ra, hai
đầu nhánh, mỗi đầu có lủng lẳng
một chùm ba trái, với một con chim – con chim bất
tử, Ătmă tức Tinh Thần Thiêng Liêng – đậu ở
giữa, như vậy tạo thành yếu tố thứ bảy. Điều này
tŕnh bày ư niệm giống y như Cây Sephiroth, tất cả có mười,
song khi phân cách với tam thượng thể, th́ chỉ c̣n
lại bảy. Đó là
mười trái cây thiên giới tức , thoát thai từ hai hạt
giống thư hùng vô h́nh, hợp thành 12, tức H́nh
mười hai mặt của Vũ Trụ. Hệ thống
huyền nhiệm bao gồm trung tâm điểm; 3 tức ; 5 tức ;
và 7 tức ,
hoặc ; tam giác trong h́nh vuông và điểm
tổng hợp trong các tam giác kép đan vào nhau. Điều
này dành riêng cho thế giới nguyên h́nh. Hiện
tượng giới đạt được tột
đỉnh và phản ánh tất cả nơi CON NGƯỜI. Do đó, y là h́nh vuông
huyền bí – xét về phương diện siêu h́nh – tức
Tứ Linh Diệu và biến thành khối vuông đă khai
triển ([67])
và 6 biến thành 7 tức , 3 NGANG
(thư) và 4 dọc. Đó chính là con người tột
đỉnh của thánh linh trên trần thế, có cơ
thể là h́nh chữ thập xác thịt; y cứ hành h́nh và
xử tử Thiên Đạo tức CHƠN NGĂ trong và thông qua đó. Mọi
triết thuyết về vũ trụ khởi nguyên
luận đều dạy:
Vũ Trụ có một
Đấng Chưởng Quản [các Đấng
Chưởng Quản xét chung] trị v́ nó, Ngài
được mệnh danh là Huyền Âm (THIÊN ĐẠO); Tinh Thần tạo tác là
Nữ Hoàng của nó: hai Đấng này là Quyền Năng Bản Sơ sau Đấng ĐỘC TÔN.
49
Đó
là Tinh Thần và Thiên Nhiên; cả hai tạo thành Vũ
Trụ Hăo Huyền của chúng ta. Cả hai vẫn bất
khả phân ly trong Thế
giới Ư niệm chừng
nào mà nó c̣n tồn tại, và rồi lại biến nhập
vào Thái Dương Thượng Đế, Đấng
Độc Tôn thường trụ. “Đấng Chơn
Linh, có bản thể thật là vĩnh cửu, duy nhất
và tự sinh tự tại” xạ ra một Ánh Sáng tinh anh
thuần túy (một ánh sáng lưỡng phân mà các giác quan thô
sơ không thể tri giác được) – theo kinh Purănas,
Thánh kinh Thiên Chúa giáo, Thánh thư Sepher Yetzireh, các bài Thánh ca Hy
Lạp và La Tinh, Thánh thư Hermes, Số Mục Thánh Thư
của dân Chaldes, Nội môn Bí giáo của Lăo Tử và ở
đâu đó nữa. Trong kinh Kabalah, kinh giải thích ư
nghĩa bí nhiệm của Sáng Thế Kư, Ánh Sáng này là CON NGƯỜI
LƯỠNG TÍNH,
tức các Thiên Thần bán thư bán hùng (hơn là Vô giới
tính) mà danh xưng chung là ADAM KADMON. Chính họ đă hoàn thành con người,
h́nh hài tinh anh của y được xạ ra bởi các
Thực Thể khác thiêng liêng nhưng thấp hơn
nhiều, họ dùng đất sét, hoặc “bụi
dưới đất” để làm cho cơ thể
rắn chắc lại – đây đúng là một ẩn
dụ, nhưng nó cũng có tính cách khoa học chẳng kém
ǵ bất cứ thuyết tiến hóa nào của Darwin và c̣n xác thực hơn nữa.
Tác giả của Nguồn
gốc các Kích thước cho rằng kinh Kabalah và tất
cả các thánh thư huyền bí của nó đều
đặt nền tảng trên mười
Sephiroth, đó là một chân lư cơ bản. Ông tŕnh bày
Mười Sephiroth hay 10 Thần số này như sau:
Ṿng tṛn là số không; đường
kính thẳng đứng của nó là NHẤT NGUYÊN bản
sơ [Thiên Đạo tức Huyền Âm], từ đó
mới nảy sinh ra 2, 3 v.v.. cho tới 9, giới hạn
của các chữ số. Số 10 là biểu lộ Thiêng
Liêng Bản Sơ ([68]), nó bao hàm
mọi năng lực khả hữu nhằm biểu
diễn chính xác sự cân xứng – Jod linh thiêng. Kinh Kabbalah đă dạy cho chúng ta
biết rằng các Sephiroth này là các con số hoặc phân thân của Linh Quang (20612
tới 6561), các Ngài là 10 linh
50
Nay trong
Huyền bí học cũng như trong kinh Kabalah có ba loại
ánh sáng. 1) Ánh Sáng Trừu Tượng và Tuyệt
Đối, vốn là Bóng Tối; 2) Ánh Sáng của
Đấng Biểu Hiện – Vô Hiện mà một vài
người gọi là Thiên Đạo (Logos); và 3) Ánh Sáng nêu
trên phản ánh nơi các Thiền Định Đế
Quân, các Thiên Đế thứ yếu – các Elohim xét chung –
đến lượt các Ngài lại ban rải nó ra cho
Thế giới ngoại cảnh. Nhưng trong kinh Kabalah
(được các tín đồ Do Thái Bí giáo thế kỷ
mười ba tái bản và hiệu đính kỹ
lưỡng cho phù hợp với các giáo điều Thiên
Chúa giáo), ba thứ Ánh Sáng này được mô tả như
sau; 1) Ánh sáng trong trẻo xuyên thấu, Ánh Sáng của Jehovah;
2) Ánh sáng phản chiếu; 3) Ánh sáng trong thế giới trừu tượng.
Xét về mặt trừu
tượng (theo ư nghĩa siêu h́nh và trừu tượng),
Ánh Sáng chính là Alhim (Elohim, Thánh Linh), trong khi Ánh Sáng trong
trẻo xuyên thấu là Jehovah. Ánh sáng của Alhim thuộc
về thế giới xét chung trong trạng thái toàn vẹn,
c̣n ánh sáng của Jehovah thuộc về tạo vật chính
yếu nhất, tức con người, nó xuyên thấu qua
và tạo thành con người.([70])
Tác giả của
Nguồn gốc các Kích thước đă giới thiệu
độc giả tham khảo một cách thỏa đáng
tác phẩm Các Tín ngưỡng Cổ truyền thể
hiện trong các Danh xưng Cổ truyền, ii, 648, của
Inman. Trong đó một h́nh chạm trổ
Vầng hào quang
h́nh bầu dục nhọn bao quanh Đức Mẹ Mary và
biểu hiện nữ giới, mô phỏng theo một
quyển kinh lần tràng hạt của Đức Mẹ
Đồng Trinh Mary được ấn hành tại
và
do đó, theo nhận xét của Inman, “khi được Truy
tà Pháp đ́nh (the Inquisition) và do đó chính thống giáo cho
phép” sẽ cho độc giả thấy năng lực
xuyên thấu của ánh sáng và các hiệu quả của nó
“có ư nghĩa như thế nào đối với Giáo hội
La Tinh. Theo lối thuyết minh của Thiên Chúa giáo, (khi
được áp dụng vào các quan niệm thần nhân
đồng h́nh thô thiển nhất) các ư niệm cao cả
nhất về Thượng Đế của triết
học Đông phương đă bị xuyên tạc
biết là dường nào !
Các nhà Huyền bí học
ở phương Đông gọi Ánh Sáng này là Daiviprakriti (Huyền Quang
Thượng Đế), c̣n các nhà Huyền bí học ở
phương Tây gọi nó là Ánh Sáng của Christos. Đó là Diệu Quang THƯỢNG
ĐẾ (the Light
of the LOGOS), phản ánh trực tiếp
của Đấng Hằng Bất Khả Tri trên cảnh
giới Biểu lộ của Vũ Trụ. Nhưng sau
đây là lối thuyết minh điều này
được các tín đồ Thiên Chúa giáo hiện
đại tŕnh bày theo kinh Kabalah. Tác giả vừa
được trích dẫn như trên đă tuyên bố
như sau:
Từ ngữ
Elohim-Jehovah áp dụng cho toàn thế giới xét chung với
phần tử chính yếu là con người. Trong các
đoạn trích từ Thánh kinh Sohar, để chứng
tỏ rằng ngoài các điều khác ra, kinh Cabbalah c̣n tŕnh
bày giáo lư về Ba Ngôi, Tiến sĩ Cassell (một giáo
sĩ Do Thái Bí giáo) đă cho rằng “Jehovah chính là Elohim
(Alhim)”… Đấng Thánh Linh (Alhim) và Jehovah đều như
nhau theo ba cấp, và mặc
dù cách biệt, các Ngài đều cùng là Đấng
Độc Tôn ([71]).
Cũng vậy, Vishnu biến
thành Mặt Trời, biểu tượng hữu h́nh
của Đấng Thánh Linh Vô Ngă. Người ta mô tả là
Vishnu “bước ba
bước qua bảy vùng Thế giới”. Nhưng
đối với người Ấn Độ, đó là
lối thuyết minh ngoại
môn, một giáo điều phiến diện và ẩn
dụ, trong khi các tín đồ Do Thái Bí giáo lại tŕnh bày
nó như là có ư nghĩa nội môn và chung quyết. Song chúng
ta hăy tiếp tục :
51
Nay
như đă tŕnh bày, Ánh Sáng là 20612 đối với 6561;
đó là việc phát biểu chính xác hệ thức toàn
phần số học của đường kính
đối với chu vi một ṿng tṛn. Đấng Thánh Linh
(Alhim), nghĩa là 31415 đối với Một, biến
thể của điều trên, là sự ước
lược điều này để có được
một đơn vị tiêu chuẩn Duy nhất, dùng làm cơ sở (nói chung) cho mọi
phép tính toán và đo lường. Nhưng đối với
việc tạo ra đời sống động vật và
đối với việc đo
lường thời gian
một cách đặc biệt, tức năm âm lịch, cái
ảnh hưởng vốn tạo ra sự thụ thai và
sự phát triển của bào thai, các con số kích
thước Jehovah (kích thước “con người thậm chí cả Jehovah” nữa) –
nghĩa là 113 đối với 355 – phải
được chuyên biệt hóa ([72]).
Nhưng tỷ số nêu trên chẳng qua chỉ là một
biến dạng của Ánh Sáng, tức 20612 đối
với 6561, chẳng khác nào một trị số của pi, chỉ là một biến
thiên của điều đó (nghĩa là 20612 đối
với 6561 cũng chính là 31415 đối với một, và
355 đối với 113 chính là 31415 tức Alhim tức
Đấng Thánh Linh) sao cho điều này có thể qui
về hoặc thoát thai từ điều kia: - đó là ba
bước khiến chúng ta có thể chứng tỏ
được tính Đơn
nhất của các Thánh danh. Điều này có nghĩa là
cả hai chẳng qua chỉ là các biến thiên của cùng
một tỷ số, đó là tỷ số pi. Mục tiêu của phần giảng lư này là
để chứng tỏ rằng công dụng đo
lường biểu tượng đối với kinh
Cabbalah (như được giảng dạy) chúng
giống như công dụng của Ba Thiên Ước trong
Thánh kinh và công dụng của Hội Tam Điểm (như
chúng ta vừa nhận xét).
Như thế, trước
hết các Sephiroth được mô tả là Ánh Sáng; điều này nghĩa
là chính các Ngài là một hàm số của (thực ra th́
cũng giống y như là) biểu lộ của Ain Soph.
Đó là v́ “Ánh Sáng” tŕnh bày
tiêu biểu tỷ số 20612 đối với 6561 như
là một phần của các “Linh Từ” DBRIM, 41224, hoặc
như là đối với các Linh Từ, Dabar, 206 (=10 cubit).
Kinh Cabbalah có sứ mệnh giải thích Sephiroth theo “Ánh Sáng”
đến nỗi mà tác phẩm nổi tiếng nhất bàn
về kinh Cabbalah được gọi là Sohar, tức “Ánh Sáng”.
Chúng ta thấy điều này có ư muốn nói như sau: “Vô
cực hoàn toàn bất khả tri và không tỏa sáng
trước khi điểm sáng bừng lóe lên”. “Khi Ngài
thoạt khoác lấy h́nh hài (của đỉnh đầu
tức Sephira thứ nhất). Ngài đă khiến cho 9 ánh
sáng rực rỡ tỏa ra theo mọi hướng”.
Điều này có nghĩa là 9 ánh sáng này cùng với một
ánh sáng của Ngài (như trên, đó là cội nguồn
của 9 ánh sáng) hợp thành 10, đó là , tức …… Thập linh
diệu (số mục tức Sephiroth) tức Jod, các con số này chính là “Ánh Sáng”. Chẳng khác nào trong
Phúc Âm của Thánh John, Đấng Thánh Linh (Alhim, 31415
đối với một) là Ánh Sáng này (20612 đối
với 6561); vạn vật được tạo ra
bằng Ánh Sáng này ([73]).
Trong Sepher Yetzireh tức “Số Mục
Sáng Tạo Thánh Thư”, toàn bộ diễn tŕnh tiến hóa
được tŕnh bày bằng con số. Trong “ba
mươi hai con đường Minh Triết của nó”,
số 3 được lặp lại bốn lần, c̣n
số 4 được lặp lại năm lần. Do
đó Minh Triết thiêng liêng được bao hàm trong các
số mục (Sephrim hoặc Sephiroth) v́ Sepher (hoặc S-ph-r
khi bỏ nguyên âm) có nghĩa là “tính toán”. Cũng v́ thế,
chúng ta thấy Plato phát biểu rằng Đấng Thánh Linh
đă “h́nh học hóa” khi tạo ra Vũ Trụ.
Thánh thư Sepher Yetzireth
của Do Thái Bí giáo mở đầu với một lời
phát biểu về minh triết ẩn tàng của Alhim
nơi Sephrim, tức Elohim nơi Sephiroth.
Minh triết
ẩn tàng lập nên Jah, JHVH, Tzabaoth, Elohim của Do Thái,
Alhim của Sự Sống, El của Thiên Ân và Từ Bi nơi
ba mươi hai con đường. Đấng ngự trên
cao là Thánh Vương vĩnh cửu, có thánh danh nơi Ba
Sephrim, đó là :
B - S’ph-r, V - S’ph-r, V -
Siph – o - r.
Ông Ralston Skinner tiếp
tục tŕnh bày :
Phần giảng
lư này tŕnh bày “minh triết
ẩn tàng” của nguyên bản bằng minh triết
ẩn tàng, nghĩa là bằng cách dùng các từ ngữ có bao
hàm một loạt các con số và một cú pháp chuyên
biệt, nó sẽ tŕnh bày chính hệ thống giải thích
mà chúng ta thấy thích hợp một cách chính xác biết bao
trong Thánh kinh Hebrew … Khi tŕnh bày hệ thống của ḿnh,
để áp dụng nó và kết thúc phần tŕnh bày chi
tiết của ḿnh thành ra một định đề
tổng quát – nghĩa là từ ngữ duy nhất “Sephrim” (Sephiroth) của con
số Jezirah, tác giả giải thích việc phân cách từ
ngữ này thành ba từ ngữ phụ thuộc là một tṛ
chơi chữ thông thường, s –ph-r, tức con số.
52
Ông hoàng
Al-Chazari ([74])
nói với giáo sĩ Do Thái: “Nay tôi mong rằng Ngài sẽ
truyền thụ cho tôi một số nguyên chủ yếu
của Triết học Tự nhiên; theo Ngài, thời xưa
các Đấng Minh Triết đă soạn thảo ra nó”. Giáo
sĩ Do Thái đă trả lời như sau: “Con số Sáng
tạo của Đấng Abraham (tổ phụ của
giống dân chúng ta) thuộc về các nguyên lư đó” (đó
là Abram và Abraham, tức các con số 41224 và 41252). Rồi Ngài
bảo rằng “Số Mục Thánh Thư” này bàn về
việc giảng dạy tính chất Alhim và tính chất Đơn
nhất xuyên qua (DBRIM) nghĩa là con số của từ
ngữ “Các Linh Từ”.
Điều này nghĩa là nó dạy về việc sử
dụng tỷ số 31415 đối với Một, xuyên
qua 41224; theo lời mô tả của Cái Tráp Thiên Ước
(Ark of the Covenant), nó được chia thành hai phần
bởi hai phiến đá, trên đó khắc DBRIM tức
41224, tức 20612 x 2. Rồi Ngài b́nh giảng về ba
từ ngữ được sử dụng một cách
phụ thuộc này và chú ư tới một trong ba từ
ngữ để b́nh giảng, “và Alhim (31415 đối với Một) phán: “Hăy có
lấy Ánh Sáng” (20612 đối với 6561).
Các từ ngữ
được tŕnh bày trong bản văn là ....([75]).
Khi b́nh giảng chúng, Giáo sĩ Do Thái bảo: “Nó dạy
về tính cách Alhim (31415) và tính Đơn Nhất
(đường kính đối với Alhim) xuyên qua Linh
Từ (DBRIM = 41224). Nhờ thế, một mặt chúng ta có
sự biểu hiện vô tận nơi các sự sáng
tạo dị trạng, mặt khác chúng ta lại có một
khuynh hướng hài ḥa tối hậu nhắm tới Nhất Nguyên (mọi
người đều biết rằng đó chính là hàm
số pi trong học
đường, nó đo lường, cân và đếm các
ngôi sao trên trời, song lại phân giải chúng thành ra
sự đơn nhất tối hậu của Vũ
Trụ) xuyên qua các Linh Từ. Sự ḥa hợp chung cuộc
của chúng được thành toàn nơi cái Nhất Nguyên
an bài chúng, nó gồm có… ([76])
Điều này có nghĩa là trong phần giảng lư
đầu tiên, giáo sĩ Do Thái đă bỏ sót Jod tức i của một trong các từ ngữ, trong khi mà
sau này ông lại phục hồi nó. Nếu chúng ta xét tới
trị số của các từ ngữ phụ thuộc này,
chúng ta thấy chúng sẽ là 340, 340 và 346;-tính gộp lại
là 1026, việc chia từ ngữ tổng quát thành ra các
từ ngữ phụ thuộc này ắt đă phải
tạo ra các con số này – do T’mura, chúng có thể bị
biến đổi do nhiều cách khác nhau, v́ nhiều
mục đích khác nhau” ([77]).
53
Xin
độc giả hăy giở lại ĐOẠN KINH 4 trong quyển 1, Tiết
thơ 3 cùng với phần Giảng lư ([78])
để thấy rằng 3,4 (7), và 3 lần 7 tức 1065,
(con số của Jehovah) chính là con số 21 Prajăpati
được đề cập tới trong Mahăbhărata,
tức ba Sephrim (chữ số). Sự so sánh này giữa các
Quyền năng Sáng tạo của Triết học Cổ
sơ và Đấng Sáng Tạo nhân h́nh của Do Thái giáo ngoại môn (v́ Nội môn bí giáo của dân Do Thái cũng tỏ ra
giống y như Giáo Lư Bí Nhiệm) sẽ khiến cho môn
sinh nhận thấy và khám phá ra rằng, thật ra, Jehovah
chẳng qua chỉ là một Thần Linh “sinh hóa”,
“nguyệt tinh”. Bất cứ người nào tận tâm
nghiên cứu kinh Kabalah đều biết rơ rằng càng thâm
cứu nó, y càng cảm thấy tin chắc rằng trừ
phi kinh Kabalah – hoặc phần c̣n được lưu
truyền của nó – được thuyết minh
dưới ánh sáng của Nội môn Bí giáo Đông
phương, việc nghiên cứu nó chỉ khiến chúng ta
khám phá ra rằng cứ theo vết xe đổ của Do
Thái giáo và Thiên Chúa giáo ngoại môn, th́ thuyết độc
thần của cả hai chẳng có ǵ cao siêu hơn bái tinh
thuật cổ truyền (ancient astrolatry) mà nay thiên văn
học biện minh cho. Các tín đồ Do Thái Bí giáo không
ngừng nhắc đi nhắc lại rằng Bản Trí thật là bất
khả tư nghị và bất khả định vị,
do đó, nó vẫn phải vô danh tính và tiêu cực. V́
thế, người ta đă tưởng rằng Ain Soph (“ĐẤNG
BẤT KHẢ TRI”
và “BẤT
KHẢ MỆNH DANH”
v́ không thể làm cho nó biểu lộ) xạ ra các Quyền
năng Biểu lộ. Trí
người phải và chỉ có thể bàn về các Phân
Thân của nó mà thôi. Sau khi đă bác bỏ thuyết Phân
Thân và thay thế chúng bằng
các sự sáng tạo trực tiếp và hữu thức
của các Thiên Thần và chẳng
c̣n ǵ nữa, nay Thần học Thiên Chúa giáo cảm
thấy ḿnh chới với một cách tuyệt vọng
giữa thuyết Siêu nhiên tức phép lạ và Chủ
nghĩa duy vật. Một Thượng Đế ngoại vũ trụ thật
là một đ̣n chí tử đối với triết
học; một Đấng Thánh Linh nội vũ trụ - nghĩa là Tinh Thần và
Vật Chất bất khả phân ly với nhau – là một
điều cần thiết đối với triết
học. Tách rời Tinh Thần với Vật Chất ra th́
chỉ c̣n lại một điều mê tín dị đoan thô
thiển núp dưới chiêu bài của chủ nghĩa duy
cảm (emotionalism). Nhưng tại sao lại “h́nh học
hóa” (chẳng hạn như Plato), tại sao lại tŕnh bày
tiêu biểu các Phân Thân này dưới dạng một
bản số học khổng lồ? Tác giả vừa
được trích dẫn như trên đă giải đáp
thỏa đáng câu hỏi này như sau :
Để
biến thành các tri giác hồng trần, tri giác trí tuệ
phải có nguyên khí vũ trụ Ánh
Sáng; do đó ṿng trí tuệ của chúng ta phải trở
nên hữu h́nh nhờ vào ánh sáng; hoặc để biểu
lộ được hoàn toàn, ṿng này phải là ṿng hữu
h́nh trên cảnh giới hồng trần, tức là chính Ánh
Sáng.
Khi được đào
luyện như vậy, các quan niệm đó đă biến
thành nền tảng của khoa triết học về
biểu lộ thiêng liêng trong vũ trụ ([79]).
Triết học là thế
đấy. Nó sẽ khác đi khi chúng ta thấy Giáo sĩ
Do Thái dạy trong Al-Chazari:
Bên dưới
s’ph-r chúng ta phải hiểu là
phép tính toán và cân đo các
vật thể được sáng tạo ra. Ấy là v́ xét
cho cùng, phép tính toán (nhờ đó một
vật thể phải được dựng nên một
cách chỉnh tề và tương ứng với mục tiêu
thiết kế) chỉ gồm có số mục, kích thước,
khối lượng và
trọng lượng; sự liên hợp của các
chuyển động, rồi tới sự hài ḥa của âm
nhạc, phải hoàn toàn gồm bằng
số mục; đó là s’ph-r. Các từ ngữ của
Alhim [206 - 1 tức 31415 đối với một] phải
được hiểu là Sippor (s’phor), bộ khung hoặc
dạng kiến trúc phải liên kết hoặc thích ứng
với bảng thiết kế; chẳng hạn như –
người ta đă phán “Hăy có lấy Ánh Sáng”. Công tác
biến dịch khi các linh
từ được thốt ra, tức là khi các con
số của công tác đă xuất hiện ([80]).
54
Đây chính
là việc duy vật hóa tinh
thần một cách táng tận lương tâm. Nhưng
kinh Kabalah đâu phải lúc nào cũng bị biến
cải theo các quan niệm độc thần nhân h́nh như
vậy. Chúng ta thử so sánh kinh này với bất kỳ
trường phái nào trong số sáu trường phái ở
Ấn Độ. Chẳng hạn như trong Triết
thuyết Số luận của Kapila, trừ phi, nói một
cách ẩn dụ, Tinh Thần cưỡi trên vai Vật
Chất, c̣n Vật Chất th́ vẫn cứ phi lư, trong khi Tinh
Thần vẫn cứ bất động nếu không có
Vật Chất. Do đó, Vũ Trụ (nơi con
người) phải trở thành một sự phối
hợp của Tinh Thần với Vật Chất
trước khi y lộ rơ chân tướng của ḿnh; Tinh
Thần tiềm tàng trong Vật Chất phải
được dần dần làm cho linh hoạt và mẫn
tiệp. Chơn Thần phải trải qua các h́nh hài khoáng
vật, thực vật và động vật trước
khi Diệu Quang (Light) của Thượng Đế
được khơi hoạt nơi người thú. V́
thế, cho tới lúc đó, chúng ta không thể xem
người thú như là “CON NGƯỜI”, mà phải xem nó như là
một Chơn Thần bị giam hăm trong các h́nh
tướng vô thường. Trong các triết thuyết
ở phương Đông, thậm chí trong cả các tài
liệu lưu trữ ngoại môn của chúng nữa,
đều có ghi nhận sự
tiến hóa, (chứ không
phải sự sáng tạo)
nhờ vào các LINH
TỪ. Ánh sáng phát
xuất từ phương Đông. Bất chấp sự
phủ nhận của Giáo sư Max Muller, ngay cả danh
xưng của con người Bản sơ trong Thánh kinh
của Moses cũng có nguồn gốc Ấn Độ.
Người Do Thái kế thừa Adam của dân Chaldea; c̣n
Adam Admi là một hợp từ và do đó là một biểu
tượng đa phân, cũng như là đă chứng
tỏ các giáo điều Huyền bí.
Đây đâu phải là
chỗ để nghị luận về ngôn ngữ
học. Nhưng xin độc giả nhớ dùm cho là trong
tiếng Bắc Phạn, từ ngữ Ădi có nghĩa là “bản sơ”; trong tiếng Aram,
nó có nghĩa là “một” (A-ad
là “duy nhất”); trong tiếng Assyria, nó có nghĩa là “Cha”, do
đó mới có Ak-ad tức
là “Đấng Cha Lành Sáng Tạo” ([81]).
Và một khi người ta thấy phát biểu này thật
là chính xác, th́ cũng khó ḷng giới hạn Adam chỉ vào Thánh kinh Moses mà thôi, và thấy
đó chỉ là một tôn danh Do Thái ([82]).
Người ta thường
lẫn lộn các thuộc tính và phổ hệ của
Chư Thần Linh trong các Thần phổ hệ, Thủy và
Chung của các tài liệu lưu trữ của khoa biểu
tượng học mà các tác giả được
điểm đạo nửa vời về Bà La Môn giáo và
Thánh kinh đă tŕnh bày với thế giới. Thế
nhưng, các quốc gia sơ khai nhất, các hậu duệ
và đệ tử của các Đấng Thánh Sư, không
thể lẫn lộn như thế được. Ấy
là v́ các thuộc tính (attributes) lẫn các phổ hệ
đều liên kết bất khả phân ly với các
biểu tượng vũ trụ khởi nguyên luận,
chư “Thần Linh” là sự sống và “nguyên khí linh
hồn” của nhiều vùng khác nhau trong Vũ Trụ. Không
người nào dám suy lư vượt
quá phạm vi của
chư Thần Linh biểu
lộ này ở bất cứ nơi đâu. Đối
với mọi quốc gia, Nhất Nguyên vô biên vẫn là
một vùng cấm địa mà tư tưởng của
con người với suy lư vô ích chưa hề dám đá
động đến. Người ta chỉ dám đề
cập đến nó với cái quan niệm thô thiển
về tính chất thu tâm và trương tâm (lúc tim giăn),
về tính bành trướng và co rút tuần hoàn. Trong Vũ
trụ, với hằng hà sa số các Hệ thống
Thế giới biến mất và tái xuất hiện trong
vĩnh cửu, các Quyền năng được nhân h́nh
hóa hoặc chư thiên (Linh hồn của chúng) phải
biến mất với các thể của ḿnh. Giáo lư Vấn
Đáp có dạy: “Linh khí
trở về cơi ḷng Vĩnh cửu, nó thở ra và hít chúng
vào”.
55
Vũ
Trụ Lư Tưởng, Không gian Trừu Tượng và
vạn vật trong Vũ Trụ được sản sinh
ra một cách bí nhiệm và vô h́nh trong đó đều chính
là khía cạnh thư (âm) của năng lực sinh sản
trong Thiên Nhiên, trong vũ trụ khởi nguyên luận Veda
cũng như trong mọi vũ trụ khởi nguyên luận
khác. Tiên Thiên Huyền Nữ (Aditi) chính là Sephira và Sophia
của các tín đồ phái Ngộ Đạo, cũng
như là
Như thế, chúng ta cũng
dễ dàng giải thích được lư do tại sao
Adam-Adami lại có mặt trong Thánh kinh của dân Chaldea,
chắc chắn là trước Thánh thư của Moses. Trong
tiếng Assyria, Ad là “Cha”, c̣n
tiếng Aram, Ad là “một,
c̣n Ad-ad là “duy nhất”, trong
khi đó, Ak là Đấng
Sáng Tạo trong tiếng Assyria. Như thế Ad-am-ak-ad-mon biến thành
Adam-Kadmon trong kinh Kabalah (Zohar), vốn có nghĩa là “(Con Trai)
Độc Nhất của Đấng Từ Phụ thiêng
liêng, tức Đấng Sáng Tạo”, v́ có lúc các từ
ngữ am và om đă có nghĩa là Đấng thiêng liêng tức Đấng Thánh linh trong hầu hết mọi thứ
tiếng. Như vậy, Adam-Kadmon và Adam-Adami trở thành có
nghĩa là: “Phân Thân bản sơ của Phụ Mẫu
tức Bản Chất Thiêng Liêng” và theo sát nghĩa là
“Đấng Thánh Linh bản sơ”. Chúng ta cũng dễ
dàng thấy rằng Ad-Arga
(tức Aster’t, Nữ Thần Syria, phu nhân của Ad-on, Đức Chúa Trời
của Syria, tức Adonai của Do Thái giáo), và Venus, Isis,
Ister, Mylitta, Eve v..v.. đều giống y như là Tiên Thiên
Huyền Nữ và Văch của người Ấn Độ.
Tất cả đều là “Mẹ của chúng sinh” và
“Mẹ của Chư Thiên”. Mặt khác, xét về mặt
vũ trụ và thiên văn, tất cả các Thần Linh nam
giới đều trước hết biến thành
“Nhật Thần”, rồi tới, xét về mặt thần
học, các “Mặt Trời Công Lư”(“Suns of Righteousness”) và các
vị Thượng Đế, tất cả đều
tiêu biểu bởi Mặt Trời ([83]).
Tất cả đều là các Protogonoi (Đấng Bản
Sơ) và Mikroproposoi (Đấng Tiểu Diện).
Đối với người Do Thái, Adam-Kadmon chẳng khác
nào Athamaz, Tamaz hoặc Thần Adonis của người Hy
Lạp – ”Đấng Độc Tôn với và của
Cha Ngài” – trong các Giống dân sau này, “Từ Phụ” biến
thành Helios (Thái Dương), chẳng hạn như Apollo
Karneios ([84]),
Ngài vốn “Nhật sinh”(“Sun-born”); Osiris, Ormazd v.v…
đều được nối tiếp bởi và sau này
biến thành các kiểu mẫu c̣n trần tục hơn
nữa (chẳng hạn như Prometheus, bị hành h́nh trên
núi Kajbee, Hercules và biết bao nhiêu là các Nhật Thần và
anh hùng khác) cho đến khi tất cả chẳng c̣n ư
nghĩa nào khác hơn là các biểu tượng sùng bái sinh
thực khí.
56
Trong kinh Zohar có dạy:
Con người
được Sephiroth (cũng như Elohim-Javeh) tạo ra;
họ dùng quyền năng thông thường để
tạo ra Adam trần thế.
Do đó, trong Sáng Thế Kư,
Elohim mới phán: “Xem ḱa! Con Người bị đồng nhất với ta ([85]).
Nhưng trong vũ trụ khởi nguyên luận hay “Sáng
Tạo” của Ấn Độ, Brahmă –Prajăpati tạo ra Virăj và các Thánh
Hiền mới được gọi riêng là các
“Đứa Con Trí Sinh của Brahmă”. Cách thức sinh sản chuyên biệt này
đă chặn đứng được mọi ư
tưởng sùng bái sinh thực khí, ít ra cũng là trong các
quốc gia của các giống người sơ khai. Ví
dụ này đă minh họa được tính cách tâm linh của từng quốc
gia một trong số hai quốc gia.
3. ĐẤNG BẠCH DIỆN PHÁN: “TA SẼ
GỬI ĐẾN CHO CON MỘT LINH HỎA KHI CON BẮT
ĐẦU LÀM VIỆC. CON HĂY ĐƯA TIẾNG NÓI CỦA
CON LÊN TỚI TẬN CÁC CẢNH GIỚI KHÁC; CON HĂY CẦU
XIN CHA CON, LIÊN HOA TINH QUÂN (THE LORD OF THE LOTUS) ([86]) (a), BAN CHO CON
CÁC QUƯ TỬ CỦA NGÀI … DÂN CHÚNG CỦA CON SẼ
ĐƯỢC CÁC TỪ PHỤ ([87])
TRỊ V̀. NHÂN LOẠI CỦA CON SẼ HỮU HOẠI. NHÂN
LOẠI CỦA ĐẤNG MINH TRIẾT ([88]),
CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ CÁC CON CỦA SOMA SẼ BẤT
TỬ. ĐỪNG CÓ PHÀN NÀN NỮA. (b) CON VẪN C̉N CHƯA KHOÁC
LẤY BẢY LỚP DA … CON VẪN C̉N CHƯA SẴN SÀNG”.
(c)
(a) Kumuda – Pati là Mặt Trăng,
Tổ Phụ của Trái Đất, ở vùng Soma-loka
(Nguyệt giới). Mặc dù các Pitris (tức các Tổ
Phụ) là Con của chư Thần Linh, ngoài ra c̣n là Con
của Brahmă và cả các Thánh hiền nữa, song các Ngài
thường được nhận diện là các
Nguyệt Tinh Quân.
(b) Pitri- Pati là Đấng Chúa
Tể của các Pitris, Diêm Vương (God of Death), Yama,
Tử Thần, Đấng cầm cân nảy mực
dưới âm ti. Xét về mặt ẩn dụ, nhân
loại của Budha, Thủy Tinh, được bất
tử nhờ vào Minh Triết của ḿnh. Đó là niềm
tin tưởng chung của những người cho
rằng mọi ngôi sao hoặc hành tinh đều có
người ở. Có các nhà khoa học (trong số đó có
C. Flammarion) tin tưởng nhiệt thành như vậy
dựa vào các dữ kiện luận lư cũng như là thiên
văn học. V́ Mặt Trăng là một thiên thể
hạ đẳng (ngay cả so với Trái Đất,
chứ đừng nói so với các hành tinh khác) nên các
thế nhân do các Con của nó (các Nguyệt Tinh Quân) tạo
ra từ lớp vỏ hoặc cơ thể của nó, không
thể nào bất tử được. Chúng chẳng
thể nào có triển vọng trở thành những con
người thông tuệ và hữu thức thực sự,
trừ phi chúng được thành
toàn, tạm gọi như vậy, bởi các Đấng
Sáng Tạo khác. Như thế, trong huyền thoại Purăna,
con của Mặt Trăng (Soma) chính là Budha (Thủy Tinh),
Đấng Thông Tuệ và Minh Triết, v́ y là hậu
duệ của Soma, Đấng Chưởng Quản
Mặt Trăng hữu h́nh, chớ không phải là Indu,
Mặt Trăng hồng trần. Như vậy, Thủy Tinh
là anh của Trái Đất (xét về mặt ẩn
dụ)- có thể nói đó là anh cùng cha khác mẹ của
Trái Đất, v́ nó là sản phẩm của Tinh Thần –
c̣n Trái Đất lại là sản phẩm của sắc
tướng. Các ẩn dụ này có một ư nghĩa
57
thâm sâu và khoa
học (xét về mặt thiên văn và địa chất
học) hơn mức các nhà vật lư hiện đại
sẵn sàng chịu chấp nhận. Toàn bộ chu kỳ
“Cuộc chiến tranh Thiên giới” đầu tiên
(Tăraka-Maya) đều đầy dẫy các chân lư triết
học, vũ trụ khởi nguyên luận cũng như là
thiên văn học. Trong đó, người ta có thể truy
nguyên được tiểu sử của tất cả
các hành tinh xuyên qua lịch sử của chư Thần Linh
và các Đấng Chưởng Quản chúng. Ushanas (Shukra
tức Kim Tinh), bạn thâm t́nh (the bosom –friend) của Soma,
kẻ thù không đội trời chung (the foe) của
Brihaspati (Mộc Tinh), “Thiên Thần Đạo Sư” (“Instructor
of the Gods”), vợ Ngài tức Tără hay Tărakă đă bị
Mặt Trăng (Soma) dắt đi, để rồi “sinh ra
Thủy Tinh (Budha)” cũng giữ một vai tṛ tích cực
trong cuộc chiến tranh chống lại “chư Thiên” này
và lập tức bị thoái hóa thành ra một Thần
Quỷ (Asura) và vẫn c̣n như thế cho đến ngày
nay ([89]).
Ở đây, từ
ngữ “nhân loại” nhằm nói tới những
người Thiên giới (bên Ấn Độ gọi là
Pitris) tức các Thủy tổ của loài người. V́
có các giả thuyết hiện đại nên điều
trên cũng không giúp chúng ta giải tỏa được
t́nh thế khó khăn đang đe dọa các giáo lư vốn
tŕnh bày rằng các Thủy tổ này tạo ra những
người Adam đầu tiên từ bên hông, họ chỉ
là các h́nh bóng tinh anh. Mặc dù đă có tiến bộ so
với câu chuyện chiếc xương sườn
của Adam, nó vẫn c̣n bị gặp khó khăn về
mặt địa chất và khí hậu. Tuy nhiên, Huyền bí
học dạy như thế !
(c) Trong mỗi Giống dân,
cơ thể con người đều phải thích
ứng với môi trường xung quanh. Căn chủng
thứ Nhất tinh anh bao nhiêu th́ chúng ta lại vật
dục bấy nhiêu. Hậu duệ của bảy Đấng
Sáng Tạo (vốn tạo ra Bảy Người Bản
Sơ) ([90])
chắc chắn là không cần phải thở khí tinh
lọc và sống trong đó. V́ thế, cho dù các kẻ hâm
mộ khoa học hiện đại có nhấn mạnh
tới việc giáo lư này không thể có được, nhà
Huyền bí học vẫn chủ trương rằng
trường hợp này đă diễn ra (đúng như
đă nói ở trên) hàng vô lượng thời
trước khi có cuộc tiến hóa của giống dân
Lemuria (giống người có xác phàm đầu tiên) đă
xảy ra cách đây 18 000 000 năm.
58
Thánh kinh
cổ sơ dạy rằng vào lúc khởi đầu
mỗi Thiên Kiếp địa phương tức cuộc
Tuần Hoàn, Trái Đất bắt đầu tái sinh. Trong
một quyển
THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH (BOOK OF DZYĂN) và phần Giảng lư kèm
theo, cuộc tiến hóa sơ khai được mô tả
như sau:
“Khi
thác sinh vào ḷng một bà mẹ mới, Nguyên sinh khí nơi
con người [Chơn Thần] lại khoác lấy một
thể xác mới; Nguyên sinh khí của Trái Đất
cũng vậy. Cứ mỗi cuộc Tuần Hoàn là nó
lại khoác lấy một lớp vỏ hoàn hảo và
rắn chắc hơn sau khi tái xuất lộ từ trong
ḷng không gian để biểu lộ ra ngoại cảnh”.
Dĩ nhiên là kèm theo
tiến tŕnh này phải có các cơn đau đẻ
quằn quại, tức các biến động địa
chất.
Điều này đă
được đề cập tới trong một câu
thơ của THIỀN
ĐỊNH CHÂN KINH
như sau:
4. SAU NHỮNG CƠN THỐNG KHỔ ĐỌA
ĐÀY, NÀNG ([91]) ĐĂ LỘT BỎ
ĐƯỢC LỚP DA CŨ VÀ KHOÁC LẤY BẢY
LỚP DA MỚI VÀ NGHIỄM NHIÊN Ở TRONG LỚP DA
THỨ NHẤT CỦA M̀NH.
Câu này nói về sự
trưởng thành của Địa Cầu; mặt khác,
trong ĐOẠN
KINH nói về
cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất, Giảng lư cổ
dạy:
“Sau khi Thế giới [Bản thể, Sadaikarũpa]
thường trụ [Avikăra], bất di bất dịch,
đă thức tỉnh và biến đổi [biến phân]
thành ra [một trạng thái] liên hệ nhân quả [Avyakta]
từ nhân [Kărana] biến thành quả riêng biệt [Vyakta],
từ trạng thái vô h́nh biến thành hữu h́nh. Cái
cực vi [anĩyănsam anĩyăsam] trở nên nhất nguyên và
đa nguyên [Ekănekarũpa]; trong khi tạo thành Vũ Trụ,
nó cũng tạo nên Thế giới thứ tư [Trái
Đất] trong cái ṿng gồm bảy hoa sen. Bấy
giờ, kẻ không hề Sa đọa (Achyuta) biến thành
kẻ Sa đọa (Chyuta)”([92]).
Câu “Trái Đất bỏ ba Lớp Da cũ” ám chỉ ba
cuộc Tuần Hoàn mà nó đă trải qua, c̣n cuộc
tuần hoàn hiện nay là cuộc Tuần Hoàn thứ Tư
trong số bảy cuộc tuần hoàn. Vào lúc bắt
đầu mỗi cuộc Tuần Hoàn mới, sau một
thời kỳ “triều nguyên” (“obscuration”), Trái Đất
(cũng như sáu bầu hành tinh khác trong “Dăy Địa
Cầu”) cởi bỏ hoặc coi như là cởi bỏ
những Lớp Da cũ, chẳng khác nào Con Rắn lột
da. V́ thế, trong Aitareya-Brăhmana, người ta gọi Trái
Đất là Sarparăjni, “Nữ Hoàng Rắn”, “Mẹ của
loài động vật”([93]). “Bảy
Lớp Da” (hiện nay nó ở trong lớp da đầu
tiên) ám chỉ bảy cơn biến động địa
chất đi kèm theo và tương ứng với sự
tiến hóa của Bảy Căn Chủng Nhân Loại.
59
ĐOẠN
KINH 2 (vốn nói
về cuộc Tuần hoàn hiện nay) bắt đầu
với một vài tài liệu nói về tuổi của Trái
Đất. Niên đại kư sẽ được tŕnh bày
theo đúng chỗ của nó. Trong phần Giảng lư kèm theo
Đoạn Kinh, có hai nhân vật (Nărada và Asuramaya)
được đề cập đến, nhất là nhân
vật sau. Tất cả các phép tính toán đều
được gán cho hai nhân vật trứ danh thời
xưa này; những điều sau đây sẽ giúp cho
độc giả làm quen sơ qua với một vài nhân
vật này.
HAI NHÀ THIÊN VĂN HỌC
TRƯỚC
THỜI ĐẠI HỒNG THỦY.
Các môn sinh Huyền bí
học Đông phương đều biết tới hai
nhân vật có liên hệ mật thiết với thiên văn
học Huyền bí, niên đại kư và các chu kỳ của
chúng. Bất cứ khi nào phải đề cập tới
các Chu kỳ và các Thiên Kiếp, th́ y đều thấy
xuất hiện trong trí ḿnh Hai nhân vật cao cả và bí
nhiệm, nổi bật lên như hai kẻ khổng lồ
thời cổ đại. Chẳng có bao nhiêu người
trên thế giới biết hoặc có thể biết
đích xác (theo yêu cầu của niên đại kư chính xác)
được họ đă sống vào thời kỳ
tiền sử nào. Thời kỳ đó có thể cách đây
100 000 năm, cũng có thể cách đây 1 000 000 năm,
việc đó không thể nào biết được. Tây
phương huyền bí và Hội Tam Điểm cứ
lớn tiếng nói về Enoch và Hermes. C̣n Đông
phương huyền bí lại luôn nhắc đến Nărada
(bậc Thánh Hiền phái cổ Veda) và Asuramaya (người Atlantis).
Người ta ám chỉ
rằng trong số các nhân vật khó hiểu trong Mahăbhărata
và Purănas, Nărada, con trai của Brahmă trong Matsya Purăna, hậu
duệ của Kashyapa (Ca Diếp) ([94]),
con gái của Daksha trong Vishnu Purăna, là nhân vật huyền bí
nhất. Ngài được Parăshara tôn xưng là Deva-Rishi
(bậc Đại Thánh Hiền Thiêng Liêng hơn là Bán
Thần), thế nhưng Ngài lại bị Daksha (và cả
Brahmă nữa) nguyền rủa. Ngài đă báo cáo cho Kansa
biết rằng Bhagavăn (Đấng Thế Tôn) tức Vishnu
trong ngoại môn hiển giáo – sẽ lâm phàm làm đứa
con thứ tám của Devaki và như thế là sẽ trút
cơn thịnh nộ của vua Herod Ấn Độ lên
trên thân mẫu của
60
Pesh-Hun
có tính cách chung chứ đâu phải của riêng Ấn
Độ. Ngài là quyền năng thông tuệ chỉ
đạo, vốn thúc đẩy và điều khiển
xung lực của các Chu kỳ, các Thiên Kiếp và các
biến cố vũ trụ ([95]).
Ngài là Đấng điều chỉnh Nghiệp Quả trên
một qui mô bao quát: Ngài cảm ứng và lănh đạo các
bậc đại anh hùng trong
Nărada thực sự là ǵ? Điều này không thể
giải thích được bằng giấy trắng
mực đen; các thế hệ phàm tục hiện nay
cũng không hiểu được ǵ nhiều. Nhưng
chúng ta có thể nhận xét như sau, nếu trong số
chư Thần Linh Ấn Độ có một Đấng
Thánh Linh nào giống Jehovah “khêu gợi” ư nghĩa và “làm chai
đá” tâm hồn của những kẻ vốn là những
công cụ và các nạn nhân, th́ đó là Nărada. Có điều
là Nărada đâu có muốn kiếm cớ “quấy nhiễu”
thiên hạ để ra oai: “Ta
là Đức Chúa Trời”. Cũng chẳng phải v́
Ngài có bất kỳ một động cơ thúc
đẩy ích kỷ hoặc đầy tham vọng nào; mà
thực ra, đó là v́ Ngài đang phụng sự và
hướng dẫn cuộc tiến hóa của vũ
trụ.
61
Trong kinh
Purănas, ngoại trừ một vài Thần Linh, Nărada là
một trong những thiểu số nhân vật lỗi
lạc đă đi tham quan cái gọi là vùng địa
ngục (Pătăla). Cho dù Ngài có giao du với Sesha, [Con Rắn
ngàn đầu đội Bảy Tầng Địa
Ngục (the Seven Pătălas) và toàn thế giới trên đầu
như một chiếc vương miện, nó dạy thiên
văn học ([98]) cho Nărada
biết hết] hay không đi chăng nữa, chắc
chắn là Ngài cũng hiểu biết về các chu kỳ
phức tạp nhiều hơn Sư Phụ của Garga.
Chính Ngài phụ trách về sự tiến bộ của
chúng ta cùng với chuyện phúc, họa của quốc gia.
Chính Ngài phát khởi chiến tranh và kết thúc nó. Trong các ĐOẠN KINH cổ, người ta tin là
Pesh-Hun đă tính toán và ghi lại tất cả các
Trong số các Thánh thư Bí
nhiệm, có một tác phẩm tên là Gương Vị Lai (Mirror of Futurity), trong đó có
ghi tất cả các Thiên Kiếp và các
Niên đại kư và các tính
toán của các Điểm đạo đồ Bà La Môn
đều dựa vào các tài liệu về Hoàng Đạo
của Ấn Độ; các tác phẩm của các nhân
vật nêu trên đều có đề cập tới nhà
thiên văn học và Pháp sư Asuramaya. Các tài liệu về
Hoàng Đạo của dân Atlantis không thể nào sai lầm
được, v́ chúng được soạn ra
dưới sự chỉ đạo của những
vị đă dạy thiên văn học (và các điều
khác) cho nhân loại ngay từ lần đầu.
Nhưng ở đây, chúng ta
lại cố t́nh và liều lĩnh đương
đầu với một khó khăn mới. Nhân danh một
người được xem như là một nhân vật
rất có thẩm quyền (ở Tây phuong) về mọi
đề tài văn chương Bắc Phạn (Giáo sư
Albrecht Weber ở Bá Linh), người ta sẽ bảo rằng
các lời phát biểu của chúng ta thật là phản khoa học. Rất tiếc là
không sao tránh khỏi điều này; song chúng tôi vẫn
sẵn sàng khẳng định những ǵ được
phát biểu hiện nay. Giáo sư Weber đă đồng nhất
hóa Asuramaya – truyền thuyết anh hùng ca đă xem Ngài là nhà
thiên văn học sơ khai nhất ở Aryavarta (Bắc
Ấn Độ); chính Giáo sư Weber cũng xác định
là “đích thân Nhật Thần đă truyền thụ thiên
văn học cho Ngài” – với “Ptolemaios” của
người Hy Lạp một cách thật là huyền bí.
Chẳng có lư do nào biện minh cho sự đồng
nhất hóa này có giá trị hơn lư do sau đây:
Theo như chúng ta
thấy trong bản khắc của Piyadăsi, danh xưng
Ptolemaios biến thành Turamaya của Ấn Độ, từ
đó mới có thể dễ dàng nảy sinh ra danh xưng Asuramaya ([100]).
Chắc chắn là nó “có
thể” rồi, nhưng vấn đề có tầm quan
trọng sinh tử là: có bằng chứng hiển nhiên nào là
nó nảy sinh như thế không? Bằng chứng duy
nhất được tŕnh bày là nó ắt phải như thế:
... Maya này
được gán riêng cho Romaka-pura ở phương Tây([101])
62
Maya th́ hiển nhiên
rồi, v́ không có người Âu Tây nào nghiên cứu tiếng
Bắc Phạn có thể giải thích được xem
Romaka-pura ở đâu, (thật ra, họ chỉ biết nó
ở đâu đó “ở phương Tây”). Dù sao đi
nữa, v́ đâu có hội viên của Hội Á Châu hoặc
nhà Đông phương học người Tây phương
nào, chịu nghe theo một giáo lư Bà La Môn, nên cũng không
cần xét tới các lời phản đối của các
nhà Đông phương học Âu Tây. Romaka-pura chắc
chắn là ở phương Tây, v́ nó là một phần lục
địa Atlantis đă thất tung. Cũng chắc
chắn rằng đó là Châu Atlantis, mà kinh Purănas của
Ấn Độ đă gán cho là nơi sinh của Asuramaya,
“một nhà Chiêm tinh học, một nhà thiên văn học và
một pháp sư đại tài”. Vả lại Giáo sư
Weber c̣n không chịu công nhận là Hoàng Đạo Ấn
Độ có nguồn gốc rất xa xưa, vả
lại c̣n có khuynh hướng cho rằng người
Ấn Độ chưa hề biết tới một Hoàng
Đạo nào hết cho tới khi “họ đă vay
mượn một Hoàng Đạo của người Hy
Lạp” ([102]).
Phát biểu này mâu
thuẫn với các truyền thuyết xưa nhất
của Ấn Độ, nên chúng ta phải lờ đi thôi
([103]).
Chúng ta lại càng có lư do để lờ nó đi, v́ chính
vị Giáo sư thông thái người Đức cũng
tŕnh bày trong phần nhập đề của tác phẩm
ḿnh như sau:
… ngoài các
chướng ngại tự nhiên ngăn cản cuộc
điều nghiên [ở Ấn Độ] ra, c̣n có một
màn sương mù dày đặc các thành kiến và các tiên
kiến lởn vởn trên xứ sở này, và bao trùm nó
như một bức màn ([104]).
Chúng ta cũng chẳng
lấy ǵ làm lạ khi thấy Giáo sư Weber đă bị
đưa đẩy tới các sai lầm do vô ư như
vậy, v́ chính ông cũng đang bị vướng mắc
trong bức màn này. Chúng ta cũng hy vọng rằng nay ông
đă biết rơ hơn.
Bây giờ, cho dù Asuramaya có
được xem là một huyền thoại hiện
đại, một nhân vật đă sinh hoạt vào thời
người Hy Lạp Macedonia, hoặc một nhân vật
nào đó theo lời khẳng định của các nhà
Huyền bí học, th́ trong bất cứ trường
hợp nào, các phép tính toán của ông cũng hoàn toàn phù
hợp với các phép tính toán của các tài liệu bí
nhiệm (Secret Records).
63
Theo các áng
văn trích từ các tác phẩm tối cổ mà
người ta gán cho các nhà thiên văn học người Atlantis
và t́m thấy ở
ĐOẠN
KINH 2
THIÊN NHIÊN KHÔNG
ĐƯỢC TRỢ GIÚP ĐĂ THẤT BẠI
(NATURE UNAIDED FAILS)
5. Sau những
thời kỳ dài đăng đẳng. Địa
Cầu đă tạo ra các quái vật. 6. Các “Đấng Sáng
Tạo” bất măn. 7. Họ làm khổ Trái Đất. 8.
Họ hủy diệt các h́nh hài. 9. Các đợt thủy
triều lớn đầu tiên. 10. Vỏ trái đất
bắt đầu cứng lại.
5. DIỆU LUÂN ( WHEEL) QUAY V̉NG TRONG BA TRĂM
TRIỆU NĂM NỮA ([106]). NÓ KIẾN TẠO CÁC RŨPAS
([107]) ; ĐÁ MỀM HÓA CỨNG ([108]), CÂY CỨNG HÓA MỀM. ([109]) CÁC
CÔN TRÙNG VÀ CÁC VI SINH VẬT ([110])
, TỪ VÔ H̀NH BIẾN THÀNH HỮU H̀NH. NÀNG ([111])
GIŨ CHÚNG RỚT RA KHỎI LƯNG M̀NH BẤT CỨ KHI
NÀO CHÚNG TRÀN NGẬP TỪ MẪU (a) … SAU BA TRĂM TRIỆU
NĂM, NÀNG XOAY TR̉N. NÀNG NẰM NGỬA, RỒI NẰM
NGHIÊNG … NÀNG CHẲNG MUỐN KÊU GỌI TỚI CÁC CON CỦA
THƯỢNG ĐẾ, NÀNG CŨNG CHẲNG Đ̉I HỎI
CÁC CON CỦA MINH TRIẾT. NÀNG ĐĂ SÁNG TẠO TỪ CHÍNH
L̉NG M̀NH. NÀNG ĐĂ KHAI SINH RA CÁC THỦY NHÂN (WATER-MEN) GỚM
GHIẾC (b).
(a) Câu này nói về cái
trục nghiêng của Trái Đất (có nhiều lần
nghiêng trục như vậy) hậu quả là trận
Đại hồng thủy (deluge) và t́nh trạng hỗn
mang (chaos) trên Địa Cầu (tuy nhiên, nó không ám chỉ
t́nh trạng Hỗn Mang Bản Sơ), do đó, sinh ra các
quái vật nửa người nửa thú. Chúng ta thấy nó
được đề cập tới trong Tử Vong kinh
(Book of Dead), cũng như trong Cutha Thần Biểu (Cutha
Tables), tường thuật về sự Sáng Tạo theo dân
Chaldea, mặc dù bị cắt xén bớt.
64
Nó không
phải là ẩn dụ. Ở đây, chúng ta có các sự
kiện được lặp đi lặp lại trong
bản tường thuật Pymander cũng như trong các
thần biểu bàn về sự sáng tạo của dân
Trong các Vũ Trụ
khởi nguyên luận cổ sơ nhất, không hề có
“Tạo Vật U Minh”(“Dark Creation”), không hề có “Ác Long”
(“Evil Dragon”) bị một Nhật Thần khuất
phục. Thậm chí, đối với người Akkad,
Thái Uyên – Vực Nước sâu thăm thẳm (Waterry Abyss),
tức Không gian – đă là sinh quán và trú sở của Ea, Minh
Triết, Đấng Thánh Linh vô cực bất khả
tư nghị. Nhưng đối với người Semite
và người Chaldea sau này, Thái Uyên Minh Triết biến
thành Vật Chất thô trược, chất liệu ô
trược, và Ea bị biến thành Tiamat, Con Rồng
bị Merodach (tức Quỷ Vương) giết chết
trong các đợt sóng tinh anh.
Trong kinh Purănas của
Ấn Độ, chúng ta thấy Brahmă (Đấng Sáng
Tạo) bắt đầu lại nhiều “Cuộc Sáng
Tạo” sau biết bao nhiêu là thất bại. Nó có đề
cập tới hai “Cuộc Đại Sáng Tạo” ([112]):
Padma và Varăha (cuộc sáng tạo hiện tại); trong đó
Brahmă kéo Địa Cầu lên khỏi mặt nước
dưới dạng một con Heo Rừng, tức hóa thân
Varăha. Người ta tŕnh bày cuộc sáng tạo như là
một tṛ tiêu khiển (Lĩlă) của Thần Linh Sáng
Tạo. Kinh Zohar có đề cập tới các thế
giới nguyên thủy, chúng vừa mới ra đời là
bị tịch diệt ngay tức khắc. Trong kinh Midraish
cũng tŕnh bày như vậy. Giáo sĩ Do Thái Abahu giải
thích minh bạch ([113]) là
“Đấng Thánh Linh” đă lần lượt tạo ra và
hủy diệt nhiều Thế giới khác nhau
trước khi thành công nơi thế giới hiện nay.
Điều này không chỉ liên hệ tới các Thế
giới khác trong Không gian, mà c̣n liên hệ tới một bí
nhiệm của chính Địa Cầu bao hàm trong ẩn
dụ về các “Thánh Vương Edom”. Ấy là v́ câu
“Điều này làm tôi hài ḷng”, cứ được lặp
đi lặp lại trong Sáng Thế Kư ([114])
mặc dù đă bị xuyên tạc như thường
lệ. Các áng văn vũ trụ khởi nguyên luận
của dân
65
(b) Oannes (tức Dagon,
“Người Cá” của dân
Belus giáng lâm và
chẻ người phụ nữ ra làm đôi; y dùng một
nửa để tạo nên đất, một nửa
để tạo nên trời; đồng thời, y hủy
diệt những con thú ở bên trong nàng ([117]).
Isaac Myer đă nhận xét
thật là thích đáng như sau:
Đối
với người
-
tức là sùng bái sinh thực khí. Đối với
người Ăryan và người
6. CHÍNH NÀNG ĐĂ TẠO RA CÁC THỦY NHÂN (THE
WATER-MEN) GỚM GHIẾC TỪ DI TÍCH CỦA CÁC GIỚI
KHÁC ([119]).
NÀNG ĐĂ TẠO RA CHÚNG TỪ CẶN BĂ VÀ BÙN NHỚT
CỦA KỲ THỨ NHẤT, THỨ NH̀ VÀ THỨ BA ([120]). CÁC
THẦN QUÂN ĐĂ GIÁNG LÂM VÀ THƯỞNG NGOẠN… CÁC
ĐẤNG THẦN QUÂN ([121])
XUẤT PHÁT TỪ PHỤ MẪU QUANG HUY, TỪ CÁC BẠCH
KHU ([122]),
TỪ CÁC TRÚ SỞ CỦA CÁC THẾ NHÂN BẤT TỬ (THE
IMMORTAL MORTALS) (a).
66
(a) Các
điều giải thích được tŕnh bày trong các ĐOẠN KINH của chúng ta c̣n rơ rệt
hơn nhiều so với các điều giải thích
được tŕnh bày trong huyền thoại về sự
sáng tạo của thần biểu Cutha, cho dù nó có hoàn
hảo đi nữa. Tuy nhiên, những ǵ được
bảo tồn trong đó sẽ bổ chứng cho chúng.
Ấy là v́, trong thần biểu, “Đấng Chúa Tể
của các Thiên Thần” đă tiêu diệt loài người
trong vực sâu, sau khi họ bị tàn sát th́ cũng bị
“mất xác luôn”. Sau đó, chư Đại Thần Linh
đă sáng tạo ra những người có thân thể
của loài chim ở sa mạc, “bảy Thánh Vương
cũng thuộc một Hoàng gia”… (điều này ám chỉ
tính cơ động của các thể tinh anh nguyên thủy
của con người, chúng có thể bay cũng như
đi đứng ([123]), nhưng
họ bị “tiêu diệt” v́ họ không được
“toàn bích”, nghĩa là họ “vô giới tính, giống như
các Thánh Vương Edom”.
Nếu dẹp qua một
bên các ẩn dụ, th́ khoa học sẽ bảo sao đây
về ư niệm sự sáng tạo nguyên thủy của các
chủng loại này? Nó sẽ phản đối là các “Thiên
Thần” và các Chơn Linh không hề liên quan tới
điều đó; nhưng nếu Thiên Nhiên và luật
tiến hóa vật chất chính là các Đấng Sáng Tạo
ra tất cả những ǵ hiện hữu trên Địa
Cầu, th́ tại sao lại không thể có “vực sâu như
thế”, khi Trái Đất bị bao phủ bởi vùng
nước mà vô số quái vật được sản
sinh ra trong đó? Phải chăng người ta phản
đối việc có những “con người” và các con thú
có đầu người và hai mặt? Nhưng nếu con
người chỉ là một động vật cao
cấp, và đă từ loài thú tiến hóa ra qua hằng hà sa
số sự tiến hóa th́ tạo sao “cái khoen khuyết
tịch” (“missing links”) lại không thể có đầu
người gắn trên ḿnh thú hoặc có hai đầu, có
đầu thú và ngược lại, trong các nỗ lực
sơ khởi của Thiên Nhiên? Người ta đă
chẳng tŕnh bày với chúng ta những con thằn lằn,
có cánh chim, những con vật đầu rắn ḿnh thú,
trong các địa kỷ, trong các thời đại
của loài ḅ sát và loài động vật hữu nhũ
đấy ư? ([124]) Và
luận chứng theo quan điểm khoa học, chẳng
lẽ giống người hiện đại của chúng
ta đôi khi chẳng sản xuất ra các kiểu mẫu
quái vật (những đứa trẻ hai đầu.
những loài đầu người ḿnh thú, những em bé
đầu chó v.v…) hay sao? Điều này chứng tỏ
rằng nếu hiện nay, sau khi đă ổn định
được trật tự của công cuộc tiến
hóa trong hàng bao nhiêu thời đại, mà thiên nhiên vẫn
c̣n sản xuất ra những quái thai như vậy, th́ trong
chương tŕnh sơ bộ cũng có thể có những
quái vật, giống như Berosus đă mô tả. Xưa kia,
khả năng ấy có thể đă tồn tại như
là một định luật, trước khi thiên nhiên
sắp xếp các giống loại của ḿnh và bắt
đầu công tác thường xuyên của ḿnh đối
với chúng. Nay điều này được thực
sự công nhận là một bằng chứng xác
định do có sự kiện “Sự Hoàn nghịch”
(“Reversion”) theo lối diễn đạt của khoa
học.
Đây chính là những ǵ
mà Triết giáo đă dạy và chứng minh với nhiều
bằng chứng khác nhau. Nhưng chúng ta đâu cần
đợi đến lúc được thần học
giáo điều hoặc khoa học duy vật tán thành, mà
cứ tiến hành công việc với các ĐOẠN KINH
thôi. Chúng ta cứ việc tŕnh bày các đoạn kinh này,
với sự thuyết minh của phần giảng lư và
giải thích; c̣n khía cạnh khoa học của các vấn
đề này th́ sẽ được xét sau.
67
Như thế, chúng ta thấy
rằng Thiên Nhiên đă thất bại nếu cứ
để cho nó đơn phương tự động
tạo nên loài vật và loài người. Nó có thể
tạo nên hai giới đầu tiên và loài động
vật hạ đẳng, nhưng về việc sáng
tạo nên con người, phải cần đến
những quyền năng tâm linh, thông tuệ và cá biệt,
ngoài những lớp “áo da” và “linh khí của cuộc
sống động vật” ra. Các Chơn Thần con
người của các cuộc Tuần Hoàn trước
đây cần có một cái ǵ cao siêu hơn những chất
liệu thuần vật chất để cấu tạo
nên các phàm ngă của ḿnh; nếu không, họ c̣n kém hơn
bất kỳ con quái vật nào của “Frankenstein” ([125]).
7. HỌ BẤT MĂN. “CÂN NHỤC (OUR FLESH) CỦA
CHÚNG TA CHƯA CÓ SẴN ([126]).
KHÔNG CÓ CÁC H̀NH HÀI SẮC TƯỚNG THÍCH HỢP CHO CÁC HUYNH
ĐỆ THUỘC GIỐNG DÂN THỨ NĂM CỦA CHÚNG
TA. CHẲNG CÓ CHỖ TRÚ CHO CHÚNG SINH ([127]).
HỌ PHẢI UỐNG NƯỚC TRONG CHỨ KHÔNG PHẢI
NƯỚC ĐỤC (a). CHÚNG TA HĂY LÀM CHO CHÚNG KHÔ ĐI” ([128]).
(a) Giảng lư (Vấn
Đáp Giáo lư) dạy:
Những
vị tạo nên con người thể chất mỗi Chu
kỳ Khai Nguyên mới, xuất phát từ những Thế
giới vật chất. Đó là các Lha [Thần Linh] hạ
đẳng, có một thể lưỡng phân gồm có
một Cảm dục thể bên trong một Dĩ thái
thể. Họ là những vị uốn nắn và tạo
tác nên cái ẩn thể của con người…
Hai
Linh Tự ([129])
[Chơn Thần cũng được gọi là “Con
Rồng Lưỡng Phân”] giáng từ những cơi Kỳ
vọng ([130])
để sáp nhập vào những h́nh thể do các Thủy
Tổ (Pitris) phóng chiếu ra. Nhưng chúng giống như
nóc nhà không có vách và cột để chống đỡ….
68
Con người cần có bốn Ngọn
Lửa và ba Linh Hỏa để trở nên người
trên Trái Đất, y cần có tinh hoa của bốn
mươi chín Linh Hỏa ([131])
để được toàn bích. Chính những vị
đă từ bỏ những cơi cao, những vị Thần
của Ư Chí ([132])
đă hoàn tất Manu hăo huyền. Ấy là v́ “Con Rồng
Lưỡng Phân” không hề bám lấy cái h́nh thể
đơn thuần. Nó giống như ngọn gió hiu hiu
thổi không có cây hoặc cành lá để nhận lấy
và dung dưỡng nó. Nó không thể ảnh hưởng
đến h́nh hài sắc tướng nào mà không có một
tác nhân truyền đạt [Manas, “Thể Trí”] và h́nh thể
không biết nó.
Trên
các cảnh giới cao nhất, ba là một ([133]),
trên Trần Thế [trước
tiên] một thành hai. Chúng giống như hai cạnh của
một tam giác đă mất cạnh đáy – đó là Linh
Hỏa thứ ba ([134]).
Nay chúng ta phải giải
thích điều này một chút trước khi tiếp
tục. Nhất là để phục vụ cho các huynh
đệ Ăryan-Ấn của chúng ta – các lối thuyết
minh nội môn của họ có thể khác với các lối
thuyết minh của chính chúng ta – chúng ta sẽ phải
giải thích cho họ phần trên bằng một vài
đoạn trong các tác phẩm ngoại môn của chính
họ (tức là kinh Purănas). Trong các ẩn dụ của
kinh Purănas, Brahmă (vốn là Thần Lực Sáng Tạo
của Vũ Trụ, xét gộp lại) được mô
tả như sau:
Vào lúc khởi đầu các
Yugas [Chu kỳ]… v́ muốn và có quyền năng sáng tạo,
bị thúc đẩy bởi các mănh lực của cái
phải được sáng tạo, vào lúc bắt
đầu một Thiên kiếp, Ngài lại phát khởi
một cuộc sáng tạo tương tự ([135]).
Nay đề nghị
độc giả hăy thử xét lối thuyết minh
ngoại môn trong Vishnu Purănas và thử xem nó có thể
đồng ư hoặc bất đồng ư kiến với
lối thuyết minh Huyền bí học của chúng ta
đến mức nào.
SỰ SÁNG TẠO RA CÁC ĐẤNG THIÊNG LIÊNG
THEO CÁC TÁC PHẨM
NGOẠI MÔN
Trong Vishnu Purăna (đó chắc
là kinh Purănas xưa nhất) cũng như trong các kinh
điển khác, chúng ta thấy Brahmă (trên cương vị
là Thần nam giới) đă khoác lấy ‘bốn Thể có ba
tính chất’ ([136])
để tiến hành công cuộc sáng tạo.
Được biết:
Như thế, Di
Lặc, Jyotsnă (b́nh minh), Rătri (đêm), Ahan (ngày) và Sandhyă (hoàng
hôn) là bốn thể của Brahmă ([137]).
69
Theo Parăshara,
khi Brahmă muốn tái tạo thế giới và tạo nên các
hậu duệ nhờ vào ư chí
của ḿnh, trong t́nh trạng tứ phân (tức là
bốn Đẳng cấp Thực Thể, đó là chư Thiên
(Thiền Định Đế Quân), chư Quỷ ([138])
(nghĩa là các Thiên Thần có tính cách vật chất
hơn), các Thủy Tổ
(Pitris) và loài người, “Ngài thu thập hết trí lực
b́nh sinh lại” ([139]).
Kỳ lạ thay, Ngài lại
bắt đầu sáng tạo ra CHƯ QUỶ trước, như vậy
chúng đă được ưu tiên so với chư Thiên.
Điều này chẳng có ǵ là sai quấy, cũng chẳng
có ǵ là mâu thuẫn, mà giống như các điều khác,
lại có một ư nghĩa nội môn thâm thúy, hoàn toàn rơ
rệt đối với kẻ nào không hề có các thành
kiến của thần học Thiên Chúa giáo. Kẻ nào
cứ nhớ rằng nguyên khí Toàn Linh Trí, Trí Tuệ Vũ
Trụ (theo sát nghĩa là “Đại Trí”) mà Nội môn Bí
giáo giải thích như là “Toàn tri biểu lộ”- sản
phẩm đầu tiên của Hồng mông nhất khí, Vật
Chất Nguyên Thủy (theo Vishnu Purăna), nhưng lại là
trạng thái Vũ Trụ đầu tiên của Thái Cực
Thượng Đế, tức BẢN THỂ TỐI LINH Nội Môn (Esoteric SAT), Linh
Hồn Vũ Trụ ([140]) theo
Huyền bí học – vốn là nguồn cội của ngă
thức (SELF-Consciousness), kẻ đó sẽ hiểu
được lư do tại sao. Cái gọi là chư Quỷ -
xét về mặt nội môn, đó là Nguyên khí vị kỷ
và chủ động về mặt trí thức – chính là cực dương của sự
sáng tạo (tạm gọi như vậy); v́ thế,
chúng mới được tạo ra trước tiên. Trên
đây, chúng ta tóm lược tiến tŕnh được
tường thuật bằng ẩn dụ trong kinh Purănas.
Sau khi đă
tập trung hết trí lực b́nh sinh lại và Tính chất
U minh đă thấm nhuần thể mà Brahmă khoác lấy, Ngài
xạ chư A Tu La ra khỏi Đùi (Thigh) trước tiên;
sau đó, bỏ thể này, họ biến thành Đêm
([141]).
Trong các đoạn trên có
hai điều quan trọng:
a.Thoạt tiên, trong kinh Rig Veda,
các A Tu La được tŕnh bày là các Thực Thể tinh thần thiêng liêng; từ nguyên
của nó là Asu, linh khí, “Linh
khí của Thượng Đế”; họ cũng có
nghĩa là Chơn Linh Vô Thượng tức Ahura của Bái
Hỏa giáo. Sau này, v́ các mục đích thần học và
giáo điều, người ta tŕnh bày là họ xuất phát
từ Đùi của Brahmă và danh xưng của họ
bắt đầu có từ nguyên là a (không có) và Sura
(Thần Linh) tức là “phi
Thần Linh” (“not-a-God”) và
họ biến thành các kẻ thù của chư Thiên.
70
b. Tất cả các thần
phổ học cổ truyền – từ thần phổ
học của dân Ăryan và Ai Cập xuống tới thần
phổ học của Hesiod – theo tŕnh tự tiến hóa
vũ trụ khởi nguyên luận, đều tŕnh bày
Đêm trước Ngày; ngay cả Sáng Thế Kư cũng
dạy: “bóng tối ở trên mặt vực sâu” (I, 2)
trước khi có “ngày đầu tiên” (I, 5). Ấy là v́
vũ trụ khởi nguyên luận – ngoại trừ trong
Giáo Lư Bí Nhiệm – đều bắt đầu bởi cái
gọi là cuộc “Sáng Tạo Thứ yếu” (nghĩa là
Vũ Trụ Biểu Lộ).
Sự khởi thủy của vũ trụ biểu lộ
phải bắt đầu bởi một sự phân
biệt rơ rệt giữa Ánh Sáng vĩnh cửu của
cuộc “Sáng tạo Chủ
yếu” – bí nhiệm của nó bao giờ cũng phải
“Tối đen” đối với trí năng và quan niệm
hữu hạn xoi mói của kẻ phàm tục – và cuộc
Tiến hóa Thứ yếu của Vũ trụ biểu
lộ hữu h́nh. Bộ kinh Veda bao hàm toàn bộ triết
học thuộc loại này, song chưa bao giờ
được các nhà Đông phương học giải
thích chính xác, v́ họ chưa
bao giờ hiểu được nó.
Khi tiếp tục sáng tạo,
Brahmă khoác lấy một dạng khác, dạng Ngày và dùng Linh
khí tạo ra chư Thiên, phú cho Tính Thiện (Thụ
động) ([142]).
Trong t́nh trạng kế
tiếp của Ngài, Tính chất cực kỳ thụ
động chiếm phần ưu thắng (đó cũng
chính là tính thiện tiêu cực) và từ hông Ngài xạ ra các
Pitris (các Thủy Tổ của loài người) v́ theo kinh
điển “[trong diễn tŕnh đó], Brahmă xem ḿnh là cha
của thế giới” ([143]).
Đó là Quyền năng hiệu động, một
quyền năng Yoga đă
được giải thích ở đâu đó. Khi bị
vứt bỏ, h́nh thể này của Brahmă biến thành
Sandhyă, Nhá Nhem Tối, thời gian giữa Ngày và Đêm.
Cuối cùng, Brahmă khoác lấy
h́nh dạng sau chót có thấm nhuần Tính chất Xú Uế
(the Quality of Foulness).
Và con người được
tạo ra từ h́nh dạng này, nó bị thống ngự
bởi tính xú uế (tức thị dục).
Khi bị vứt bỏ, h́nh thể này biến thành
B́nh minh, tức lúc Nhá Nhem sáng – lúc Tranh sáng tranh tối
của Nhân loại. Ở đây, xét về mặt nội
môn, Brahmă tiêu biểu cho các Thủy Tổ. Xét gộp
lại, Ngài là Pită, “Từ Phụ”.
Nay chúng ta phải giải thích
chân ư nghĩa nội môn của ẩn dụ này. Ở
đây, cá nhân Brahmă tiêu biểu cho Tập thể các
Đấng Sáng Tạo ra Thế giới và Loài người
(Vũ Trụ với vô số tạo vật di động
và – dường như là – bất động) ([144]).
Ngài là tập hợp các Đấng Prajă- patis, Đấng
Hiện Tồn; c̣n bốn thể của Ngài tiêu biểu
cho bốn loại Quyền Năng Sáng Tạo (tức
Thiền Định Đế Quân) đă được mô
tả trong phần Giảng lư Quyển 1, ĐOẠN KINH 7, Tiết thơ 1. Toàn
bộ triết thuyết và cái gọi là “Sự Sáng Tạo”
ra điều thiện và điều ác trong Thế giới
này và toàn bộ Chu kỳ Khai Nguyên các kết quả của
nó, đều tùy thuộc vào sự hiểu thấu đúng
đắn bốn thể này của Brahmă.
71
Nay độc giả phải
chuẩn bị thấu hiểu chân ư nghĩa nội môn
của những điều sau đây. Vả lại, có một
điều quan trọng cần được minh
giải. Sau khi quyết định một cách độc
đoán, thần học Thiên Chúa giáo đă nhất trí là
Quỷ Vương (Satan) cùng với các Thiên thần Sa
Đọa thuộc về cuộc sáng tạo xưa
nhất. Quỷ Vương là vị Tổng Thiên Thần
đẹp nhất, minh triết nhất và được
tạo ra trước nhất; thế là chủ
điểm đă được vạch ra. Từ nay
trở đi, tất cả các Thánh kinh Ngoại đạo
đều bị gán cho cùng một ư nghĩa và đều
bị chứng tỏ là ma quỷ; người ta đă
khẳng định rằng chân
lư và sự thật
thuộc về và chỉ bắt đầu với Thiên Chúa
giáo. Ngay cả các nhà Đông phương học và các nhà
thần thoại học (một số không hề theo Thiên
Chúa giáo, mà chỉ là kẻ vô tín ngưỡng, tức các nhà
khoa học) cũng bước vào lề lối thần
học một cách vô thức chỉ v́ liên tưởng và
thói quen.
Các nhận xét thuần túy Bà La Môn giáo, dựa và tham
vọng về quyền lực, đă khiến cho
quần chúng vẫn c̣n mù
tịt về các đại chân lư. Cũng chính những
nguyên do ấy đă khiến cho các Điểm đạo
đồ trong các tín đồ Thiên Chúa giáo buổi sơ
khai vẫn phải im lặng, trong khi những kẻ
chẳng biết ǵ về chân lư lại xuyên tạc
đẳng cấp các sự vật, xét Đại Đoàn
“Thiên Thần” theo dạng ngoại môn. Do đó, cũng
như A Tu La đă biến thành các tiểu Thần nổi
loạn chống lại các Thần Linh cao cả (theo các tín
ngưỡng b́nh dân); trong thần học, Tổng Thiên
Thần tối cao, thật là phúc thần (Agathodeamon),
Diệu Âm lương hảo niên trưởng nhất
cũng biến thành “Đối thủ” (the “Adversary”)
tức Quỷ Vương.
Nhưng điều này có được bảo đảm
bởi lối thuyết minh đúng đắn bất
cứ Thánh kinh cổ truyền nào hay không? Xin đáp: chắc chắn là không. Cũng như các Thánh kinh
Bái Hỏa giáo (Zend Avesta, Vendĩdăd và các Thánh kinh khác) đă
chỉnh đốn và vạch trần cái tṛ mập mờ
khéo léo của các Thần Linh Ấn Độ, và nhờ vào
Ahura, trả lại các A Tu La địa vị chính
thống của ḿnh trong thần phổ học; cũng
vậy, các khám phá mới đây của các thần biểu
Chaldea đă biện minh cho thanh danh của các Phân thân
bản sơ của Thượng Đế. Muốn
chứng tỏ điều này th́ cũng dễ. Thiên
thần học của Thiên Chúa giáo chỉ trực tiếp
thoát thai từ thiên thần học (angelology) của
người Pharisee, họ lại du nhập các giáo
điều của ḿnh từ
72
Nay các tác phẩm bàn về sự “Sáng
Tạo” của dân
Như thế, trên một
mảnh vụn vẫn c̣n nguyên vẹn khiến chúng ta không
thể nghi ngờ lối thuyết minh được,
người ta đă tŕnh bày rơ ràng hết mức là các “Thiên
Thần Nổi Loạn” đă được tạo ra
ở các “tầng trời
thấp”. Điều này có nghĩa là họ đă và
ắt thuộc về một cảnh giới tiến hóa
vật chất, mặc dù đó không phải là cảnh
giới mà chúng ta nhận biết được nhờ vào
các giác quan; nói chung, nó vẫn vô h́nh đối với chúng
ta, và do đó bị xem là nội giới. Như thế,
liệu các tín đồ phái Ngộ đạo có sai lầm
chăng khi khẳng định rằng Thế giới
hữu h́nh này (nhất là Trái Đất) đă
được các Thiên Thần hạ
đẳng (các Đấng Elohim hạ đẳng) sáng
tạo ra – theo họ, Thần Linh của Do Thái là một
trong các Thiên Thần đó? Xét về mặt thời gian, các
tín đồ phái Ngộ Đạo c̣n gần gũi
với các tài liệu lưu trữ cổ sơ của Giáo
Lư Bí Nhiệm (và do đó, phải được phép
biết tới những ǵ bao hàm trong đó) nhiều hơn
các tín đồ Thiên Chúa giáo chưa được
điểm đạo – họ đă tiếp nhận nó hàng
trăm năm sau đó để rồi tự tiện thêm thắt vào những
điều được tŕnh bày. Nhưng chúng ta hăy
thử xem Thần biểu ấy nói ǵ thêm nữa.
Rồi tới
đoạn mô tả các hung thần này, vị thứ tư
là một “con rắn”, biểu tượng sùng bái sinh
thực khí của Giống dân thứ Tư trong cuộc Tiến
hóa nhân loại.
15. Bảy hung
thần là sứ giả của Thần Anu, Đấng
chưởng quản họ.
73
Anu là một trong Ba Ngôi
của dân
Có nhiều lối
thuyết minh, v́ có tới bảy ch́a khóa để giải
bí nhiệm về “Sự Sa Đọa”. Vả lại, trong
thần học có tới hai “Sự Sa Đọa”: cuộc
nổi loạn của các Tổng Thiên Thần và “Sự Sa
Đọa” của họ, cùng với “Sự Sa Đọa”
của Adam và Eve. Như thế, cả các Đại
Đoàn thượng đẳng lẫn các Đại
Đoàn hạ đẳng đều bị tố cáo
về một tội ác giả định. Từ ngữ
“giả định” (“supposed”) thật là chính xác, v́ trong
cả hai trường hợp nó đều dựa vào quan
niệm sai lầm. Trong Huyền bí học, cả hai
đều được xem như là nghiệp quả, và
cả hai đều thuộc về luật Tiến Hóa
(một đàng là về trí tuệ và tinh thần, một
đàng là về vật chất và tâm linh). “Sự Sa
Đọa” là một ẩn dụ vũ trụ. Ở
một đầu của thang tiến hóa, nó tŕnh bày “sự
nổi loạn”, nghĩa là tác động của tri
thức phân biện, tức ư thức, trên nhiều
cảnh giới khác nhau, ra sức kết hợp với
Vật Chất. Ở đầu dưới thang tiến
hóa, nó lại tŕnh bày sự nổi loạn của Vật
Chất chống lại Tinh Thần, tức là sự
nổi loạn của tác động chống lại quán
tính của tinh thần. Đây là mầm mống của
một điều sai lầm đă có tác dụng tai hại
biết bao đối với tŕnh độ trí thức
của các xă hội văn minh trong hơn 1 800 năm. Trong
ẩn dụ nguyên thủy, chính Vật Chất – do đó là
các Thiên Thần có tính cách vật chất hơn – bị xem
như là kẻ chinh phục Tinh Thần, tức là các
Tổng Thiên Thần bị đọa xuống cảnh
giới này.
Các Đấng có ngọn gươm rực
lửa [tức là các thú dục] đă đánh
đuổi các Vong Linh Bóng Tối.
Thế mà, chính các Vong Linh
Bóng Tối lại đấu tranh muốn thắng
lướt được tinh thần thiêng liêng và hữu
thức trên Trần Thế; chúng đă bị thất
bại và đầu hàng trước thế lực của
Vật Chất. Nhưng trong các giáo điều của
thần học, chúng ta thấy ngược lại. Chính
Michael, “Đấng cũng giống như là Thượng
Đế”, đại diện cho Jehovah, mới Lănh
đạo các Thiên Binh Thần Tướng (the Celestial
Hosts)- cũng như Lucifer lănh đạo các Âm Binh trong
chuyện giả tưởng của Milton - mới
chiến thắng được Quỷ Vương.
Đúng là bản chất của Michael tùy thuộc vào
bản chất của Đấng Sáng Tạo và Chủ nhân
(Master) của Ngài. Muốn biết Đấng Sáng Tạo
đó là ai, chúng ta chỉ cần nghiên cứu kỹ
lưỡng ẩn dụ về “Trận Chiến Tranh Thiên
Giới” với ch́a khóa thiên văn học, Bentley đă
chứng tỏ rằng “Cuộc chiến của những
người Khổng lồ chống lại chư Thiên”
trong các tác phẩm của Hesiod, cũng như là Cuộc
chiến của các A Tu La, tức Tărakamaya, chống lại
chư Thiên trong huyền thoại Purănas, đều
chẳng khác ǵ nhau, ngoại trừ các danh xưng. Giác
cự của các ngôi sao –Bentley xem năm 945 trước T.C.
là thời kỳ gần với sự giao hội này
nhất – chứng tỏ rằng :
Mọi hành tinh,
ngoại trừ Thổ Tinh, đều ở cùng bên của
bầu trời với Mặt Trời và Mặt trăng.
74
Và v́ thế mới có
các đối thủ. Thế mà chính Thổ Tinh (Nguyệt
Thần của Do Thái giáo) lại được cả
Hesiod lẫn Moses (chẳng ai hiểu được hai
vị này muốn nói ǵ) tŕnh bày là đang thắng thế.
Thế là, ư nghĩa thực sự của nó đă bị
xuyên tạc.
8. CÁC NGỌN LỬA GIÁNG LÂM. CÁC LINH HỎA
VỚI CÁC ĐIỂM LINH QUANG; LỬA ĐÊM VÀ LỬA NGÀY
(a). CHÚNG LÀM CẠN KHÔ NƯỚC ĐỤC NGẦU. CHÚNG
DÙNG NHIỆT ĐỂ LÀM TẮT. CÁC ĐẤNG LHA ([147])
THƯỢNG GIỚI VÀ CÁC LHAMAYIN ([148])
HẠ GIỚI GIÁNG LÂM (b). CHÚNG TIÊU DIỆT CÁC H̀NH HÀI SẮC
TƯỚNG LƯỠNG DIỆN VÀ TỨ DIỆN. CHÚNG
TẬP KÍCH NHỮNG NGƯỜI DÊ (THE GOAT-MEN), NGƯỜI
ĐẦU CHÓ VÀ NGƯỜI M̀NH CÁ.
a) Các “Ngọn Lửa” là
một Đại Đoàn Thần Linh tương
đương (nếu không muốn nói là đồng
nhất) với những Hỏa Thần Saraph (Seraphim)
được đề cập tới trong kinh Isaiah ([149]).
Theo thần phổ học Hebrew, đó là các Đấng
chờ đợi trước “Thánh Ṭa của Đấng
Chí Tôn Đại Hùng Đại Lực”. Melha là Đấng
Chúa Tể của các “Ngọn Lửa”. Theo một huyền
thoại dân gian, khi Giáng thế, Ngài khoác lấy phàm ngă
của một Đức Phật. Ngài là một trong các
vị thần xưa nhất và được tôn kính
nhiều nhất, một vị Thánh Michael của Phật
giáo.
b) “”Hạ giới” không có
nghĩa là cảnh giới địa ngục, mà chỉ có
nghĩa là một vị Thần hạ đẳng, v́
ở gần Trần Thế hay chỉ ở cao hơn Cơi
Trần có một bậc. C̣n những vị Lha là Thần
Linh ở các cơi cao tột (do đó mới có danh xưng
Lhassa, thủ đô của Tây Tạng).
Ngoài lời diễn
giải có tính cách thuần vật chất và thuộc
về sự tiến hóa trên Địa Cầu, câu kinh này
c̣n có một hay nhiều ư nghĩa bóng bẩy ẩn dụ
khác. Các “NGỌN LỬA” hay “Linh Hỏa” tiêu biểu cho Tinh Thần hay nguyên tố
dương, c̣n “Thủy” tiêu biểu cho Vật Chất hay
nguyên tố âm. Ở đây, ngoài ư nghĩa là một sự
kiện khoa học trong vũ trụ ra, câu nói về tác
động của Tinh Thần tiêu diệt h́nh thể
thuần vật chất, ám chỉ cuộc xung đột
trường kỳ giữa Tinh Thần và Vật Chất
trên các cảnh giới hồng trần và tâm linh. Ấy là
v́ câu kế có nói :
9. THỦY MẪU (MOTHER-WATER), TỨC ĐẠI
HẢI (THE
Câu này có ư nghĩa là ǵ?
Phải chăng nó muốn nói đến tác động
của thủy triều trong giai đoạn đầu
của lịch sử trái đất trong cuộc Tuần
Hoàn thứ Tư. Gần đây, các nhà khảo cứu
hiện đại đă bận suy lư về các đợt
thủy triều dâng thuộc Cổ sinh thế đại.
Theo lư thuyết của ông G. H. Darwin, Mặt Trăng đă
xuất phát từ khối vật chất mềm dẻo
của Trái Đất vào khoảng 52 000 000 năm về
trước và có lẽ c̣n nhiều hơn nữa. Xuất
phát từ mức khảo cứu dở dang của Helmholtz,
Ferrel, William Thomson và nhiều người khác, ông đă truy
nguyên tiến tŕnh chậm trễ thủy triều của
chuyển động quay của Trái Đất tới
tận thời kỳ xa xưa nhất, và định
vị Mặt Trăng vào lúc hành tinh chúng ta c̣n non trẻ
ở khoảng cách “chỉ bằng một phần của
khoảng cách hiện nay”. Tóm lại, theo thuyết của
ông, chính Mặt Trăng đă tách ra khỏi Trái Đất.
Sự dâng cao do thủy triều xảy ra đồng thời
với sự dao động của khối vật
chất địa cầu – bấy giờ, khuynh
hướng ly tâm gần như cân bằng với trọng
lực - nên đă thắng
được trọng lực và khối vật chất
do thủy triều hút cao lên đă có thể hoàn toàn tách
rời khỏi Trái Đất.([150])
75
Nhưng giáo lư
Huyền bí dạy ngược lại. Mặt Trăng già
hơn Trái Đất rất nhiều (điều này đă
được giải thích trong Quyển 1), chính Trái Đất
do Mặt Trăng sinh ra, cho dù các khoa thiên văn và
địa chất học có giải thích sự kiện này
như thế nào đi chăng nữa. Do đó, mới có
thủy triều và hấp lực của Mặt Trăng,
làm cho mực nước biển của đại
dương luôn luôn cao dường như muốn lên tới
Mặt Trăng. Đó chính là ư nghĩa của câu kinh:
“Thủy Mẫu ngoi lên, nàng biến mất trong Mặt
trăng; nó đă kéo nàng lên, đă khai sinh ra nàng”.
10. KHI CHÚNG ([151])
BỊ TIÊU DIỆT,
ĐỊA MẪU VẪN TRẦN TRỤI ([152]).
NÀNG Đ̉I M̀NH PHẢI ĐƯỢC KHÔ KHAN ([153]).
Đă đến lúc
vỏ Trái Đất cứng lại. Nước đă tách
ra và tiến tŕnh bắt đầu. Một cuộc
sống mới bắt đầu. Đây là điều mà
một ch́a khóa sẽ tiết lộ cho chúng ta biết.
Một ch́a khóa khác dạy về nguồn gốc của Thủy,
việc nó trộn lẫn với Hỏa – được
gọi là “Lưu Hỏa” (“Liquid Fire”) và bắt đầu
mô tả về mặt Luyện kim đan, sản phẩm
của hai thứ trên: đó là hai chất đặc như
là khoáng chất (minerals) và đất đá (earths). Từ
“Không Gian Thủy”(“Waters of Space”), sản phẩm của
Lửa Tinh Thần dương và (hơi) Nước âm đă biến thành
Đại Dương bao la trên Địa Cầu. Thần
Varuna bị kéo từ Không Gian vô cực xuống để
ngự trị như là thần
76
Nước là biểu
tượng của Yếu tố Âm ở khắp nơi;
Mẹ (Mater), chữ M thoát thai từ đó bắt nguồn
từ ^^^, xét về mặt minh họa, vốn là một
chữ tượng h́nh của nước. Đó là Khuôn
viên Vũ Trụ (Universal Matrix) tức “Thái Uyên”(“Great Deep”).
Venus, Đức Mẹ Đồng Trinh cao cả, xuất
phát từ sóng biển, c̣n Cupid tức Eros là con trai nàng. Nhưng
trong kho tàng thần thoại sau này, Venus lại là biến
thể của Gaea, Gaia, Địa Cầu. Trong trạng
thái cao, Gaia lại là Tiên Thiên Huyền Nữ, thậm chí là
cả Hỗn Nguyên khí (Mũlaprakriti), Nguồn gốc
của Prakriti, thực tượng của nó nữa.
V́ thế, Cupid tức T́nh Yêu
theo nghĩa nguyên thủy, là Eros, Thiên Chí (the Divine Will),
tức Ư muốn biểu
lộ xuyên qua sự Sáng Tạo hữu h́nh. V́ thế, Vô
Cực điện, nguyên kiểu của Eros, mới
biến thành Đại Quyền năng “Sinh điện”
tức Thần Linh “ban cấp sự sống” (Spirit of
“Life-giving”) trên Trần Thế. Chúng ta nên nhớ kỹ
thần phổ học Hy Lạp và quán triệt
được tinh thần của triết lư này.
Người Hy Lạp dạy chúng ta rằng vạn hữu
(kể cả các Thần Linh) đều thoát thai từ
Thần Đại Dương và phu nhân là Tethys (Tethys chính
là Gaea, Địa Cầu tức Thiên Nhiên). Nhưng Thần Đại Dương
là ai? Thần Đại Dương là Không gian vô biên – Tinh
Thần trong trạng thái Hỗn mang – tức Đấng
Thánh Linh; và Tethys chẳng phải là Địa Cầu, mà là
vật Chất Nguyên Thủy đang được tạo
ra. Trong trường hợp này, Tiên Thiên Huyền Nữ Gaea
không c̣n khai sinh ra Ouranos tức Varuna (Đấng Ăditya chính
yếu trong số bảy Hành Tinh Thần Quân) nữa, mà
chính Vật Chất (Prakriti) đă thể hiện và
định vị, mới thực hiện điều này.
Chỉ trong khía cạnh vũ trụ không thôi, Mặt
Trăng vốn có tính cách dương trong thần phổ
học, mới là nguyên khí sinh hóa âm, cũng như Mặt
Trời là biểu hiện dương của nguyên khí
đó. Thủy là sản phẩm của Nguyệt Tinh, một
thần linh bán thư bán hùng đối với mọi
quốc gia.
Sự tiến hóa diễn ra
theo luật tương tự trong Càn Khôn cũng như
trong sự tạo thành Bầu hành tinh nhỏ nhất.
Như thế, đoạn trên vốn áp dụng cho cách thức tác động vào
lúc Vũ trụ xuất hiện, cũng được áp
dụng vào trường hợp sự tạo thành Trái
Đất của chúng ta.
ĐOẠN KINH mà chúng ta đang b́nh giảng,
mở đầu bằng cách đề cập tới 300
000 000 năm. Chúng ta có thể hỏi: Làm thế nào mà
cổ nhân biết được kỳ gian của các
địa kỷ, khi không một nhà khoa học hoặc nhà
toán học hiện đại nào có thể tính toán
được kỳ gian của chúng một cách gần
đúng như vậy? Cho dù người Bà La Môn thời
xưa có các phương tiện tốt hơn hay không
đi chăng nữa – người ta quả quyết là
họ có các phương tiện đó, bằng chứng là
họ có các Hoàng Đạo của ḿnh – nay chúng ta sẽ
tŕnh bày niên đại kư của họ một cách trung
thực hết mức.
NIÊN ĐẠI KƯ CỦA
NGƯỜI BÀ LA MÔN
Trong khoa học, không có
vấn đề nào cực kỳ nan giải bằng câu
hỏi sau đây: Mặt Trời và Mặt Trăng, Trái
Đất và Con Người đă được bao nhiêu
tuổi (cho dù chỉ là gần đúng)? Khoa học hiện
đại có biết ǵ chăng về kỳ gian của
Thời đại Thế giới, hoặc thậm chí
của các địa kỷ nữa? Tuyệt nhiên không.
77
Nếu chúng ta quay sang
khoa học để t́m hiểu về niên đại
kư, chúng ta sẽ
được những người thẳng thắn và
thành thực (chẳng hạn như ông Pengelly, nhà
địa chất học lỗi lạc) cho biết là
“Chúng tôi không biết” ([154]). Chúng ta
sẽ được biết rằng cho đến nay,
người ta không thể đưa ra một ước
tính đáng tin cậy nào về tuổi tác của Thế
giới và Con người, cả địa chất
học lẫn nhân loại học đều đang
bối rối. Thế nhưng, khi một môn sinh Nội môn
Bí giáo, dám liều lĩnh tŕnh bày Giáo lư Huyền bí, y sẽ
bị gạt phắt đi ngay. Tại sao lại có
thể như thế được, trong khi mà (nếu
chỉ hạn chế trong các phương pháp vật
chất của ḿnh), các nhà khoa học đại tài
nhất đều không thể đạt được
một sự thỏa thuận với nhau cho dù chỉ
gần đúng?
Thật ra, chúng ta cũng
khó ḷng có thể trách cứ khoa học về điều
đó. Thật vậy, trong bóng tối mịt mù của
thời tiền sử, các nhà thám hiểm đều
quờ quạng trong một mê lộ, mà các hành lang lớn
đều không có lối thoát giúp chúng ta nh́n thấu vào
thời quá khứ xa xưa. Cứ quờ quạng trong
mớ ḅng bong những điều suy lư đầy mâu
thuẫn với nhau, cứ luôn luôn bác bỏ chứng
cứ của truyền thuyết Đông phương mà
lại không được một manh mối hoặc
cột mốc nào dẫn dắt, các nhà địa chất
học và nhân loại học c̣n biết làm sao bây giờ,
ngoài việc vớ lấy sợi chỉ mỏng manh
của Ariadne ([155]), khi
thoạt thấy nó rồi th́ theo liều xem
được đến đâu? Do đó, trước
hết chúng ta được biết rằng hiện nay
khoa nhân loại học thường xem nhật kỳ xa
xưa nhất mà tài liệu c̣n ghi lại được chẳng
qua chỉ là “thời điểm nổi bật xa xưa
nhất của thời tiền sử”- theo lời của
người viết bài đăng trong Bách Khoa Từ
Điển Britannica. Đồng thời, người ta c̣n
thú nhận rằng “ngược ḍng thời gian
vượt quá thời kỳ này, c̣n có biết bao nhiêu là
thời đại tiền sử”.
Chúng ta sẽ bắt
đầu với các “thời đại” chuyên biệt này.
Chúng chỉ là “tiền sử” đối với mắt
phàm mà thôi. Đối với linh nhăn của nhà Thần nhăn
(Seer) và nhà Tiên Tri trên khắp hoàn cầu, sợi chỉ
Ariadne trải dài qua “thời kỳ hữu sử” một
cách liên tục, đưa chúng ta về tận thời
kỳ xa xưa một cách thật là bảo đảm và
đều đặn. Kẻ theo vết nó cũng chưa
đến nỗi mỏi mệt để rồi bỏ
cuộc giữa đường. Các tài liệu lưu
trữ vẫn tồn tại, cho dù chúng có thể bị
kẻ phàm tục bác bỏ. Tuy nhiên, thật ra nhiều tài
liệu đă được các triết gia và các học
giả mặc nhiên chấp nhận, và chỉ bị
tập đoàn khoa học chính
thống khăng khăng chối bỏ. Và v́ khoa học
chính thống không chịu tŕnh bày một ư niệm nào (cho dù
chỉ là gần đúng) về kỳ gian của các
địa kỷ – ngoại
trừ một vài giả thuyết mâu thuẫn và trái
ngược nhau – nên chúng ta hăy thử xem triết học Ăryan
có thể dạy chúng ta được điều ǵ không.
Như đă nói, các phép tính
toán được tŕnh bày trong kinh Manu và Purănas – ngoại
trừ những chuyện nói quá lố, lặt vặt và cố ư một cách rơ ràng
nhất – đều hầu như là đồng nhất
với những phép tính toán được giảng dạy
trong Nội môn Bí giáo. Chúng ta có thể thấy rơ
điều này bằng cách so sánh hai phép tính toán ấy trong
bất kỳ niên lịch nào của Ấn Độ đă
được công nhận là chính thống.
78
Hiện nay,
theo lời xác nhận của các học giả Bà La Môn
ở Nam Ấn, niên lịch hay nhất và hoàn chỉnh
nhất chính là niên lịch Tamil Tirukkanda
Panchanga ([156]) đă
được đề cập đến. Theo chỗ
chúng tôi biết, nó đă được soạn thảo
từ và hoàn toàn theo các dữ kiện rời rạc bí
nhiệm của Asuramaya, người ta bảo là nhà thiên
văn học đại tài nhất; thiên hạ c̣n xầm
x́ rằng ông cũng là “Pháp sư” (“Sorcerer”) có thế
lực nhất ở Bạch
Đảo (nó đă bị tội lỗi biến thành HẮC ÁM) tức là các ḥn đảo
của Châu Atlantis.
“Bạch Đảo” (“
Các số liệu sau
đây được trích ra từ niên lịch vừa nêu;
một chú thích cuối trang sẽ ghi nhận các
điểm bất đồng với các số liệu
của trường phái Ărya Samăj:
I.
Từ lúc khởi đầu
cuộc Tiến Hóa Vũ Trụ ([158]) cho tới
năm Tarana của Ấn Độ (năm 1887) ………. 1 955 884
687 năm.
II.
Để tiến hóa, các giới
khoáng vật, thực vật và động
vật
(tinh anh) măi cho tới
Con
người đă phải mất ………............. 300 000 000 năm. ([159])
79
III.
Thời gian từ lúc “Nhân Loại” (trên dăy Hành Tinh
của chúng ta)
bắt đầu xuất hiện ….. 1 664 500 987 năm. ([160])
IV. Số năm
đă trôi qua từ khi có
Khai Nguyên Vaivasvata
([161]) tức thời kỳ nhân
loại,
cho tới năm
1887, vừa đúng ……………… 18 618 728 năm.
V. Toàn bộ thời kỳ của
một
Nguyên là ………………………………… 308 448 000 năm.
VI.
Mười bốn
Brahmă, tức
một
tức ………………………………………. 4 320 000 000 năm.
Do đó, một
Đại
Từ lúc bắt
đầu
tới năm
1887 gồm có …………………………………. 4 989 năm
Để làm cho điều
này có các tiểu tiết rơ rệt hơn nữa, Rao Bahadur
P. Sreenivas Row đă tŕnh bày các phép tính toán sau đây trong
Tạp Chí Theosophist, số tháng 11 năm 1885.
NĂM THẾ NHÂN
360 ngày của
thế nhân hợp thành một năm 1
Krita Yuga (
Tretă Yuga gồm
có................................................ 1 296 000
Dvăpara Yuga gồm
có .......................................... 864 000
Kali Yuga (
Tổng cộng
bốn
Đại
Bảy
mươi mốt Đại
của một
vị Bàn Cổ ................................................ 306 720 000
Thời
gian trị v́ của mười bốn vị Bàn Cổ bao
hàm kỳ gian
của 994 Đại
Cộng
thêm các Sandhis, tức là các thời khoảng
xen giữa
thời gian trị v́ của mỗi vị Bàn Cổ, nó dài
80
bằng
sáu Đại
Tổng số
thời kỳ trị v́ và thời khoảng xen vào
giữa các
thời kỳ trị v́ của mười bốn vị
Bàn Cổ,
dài bằng 1 000
Đại
Kiếp tức
là một Ngày của Brahmă ....................... 4
320 000 000
V́ Đêm
của Brahmă cũng dài bằng như vậy, nên một
Ngày và Đêm
của Brahmă sẽ gồm có .................. 8 640 000 000
360 ngày và
đêm như vậy hợp thành một
Năm của
Brahmă, tức là bằng ………………
3 110 400 000 000
100 Năm
như thế hợp thành toàn bộ thời kỳ
một Đời của Brahmă,
tức là Đại Thiên
Kiếp (Mahă Kalpa) ………………………… 311 040 000
000 000
Đó là các số liệu
ngoại môn được chấp nhận khắp Ấn
Độ, chúng gần như ăn khớp hoàn toàn với
các số liệu của các Tác phẩm Bí nhiệm. Vả
lại, các số liệu của các Tác phẩm Bí nhiệm
c̣n khuếch trương chúng bằng cách chia ra thành một
số Chu kỳ Nội môn, chưa bao giờ
được đề cập tới trong các tác phẩm
b́nh dân Bà La Môn (chẳng hạn như là việc chia các chu
kỳ thành ra các Chu Kỳ Chủng Tộc, được
tŕnh bày ở đâu đó). Các chi tiết của phần
c̣n lại dĩ nhiên là chưa bao giờ được
công bố. Tuy nhiên, mọi tín đồ Bà La Môn đă
được “Cải tử hoàn sinh” (“Twice-born”) (Dvija,
tức là đă được Điểm đạo)
đều biết tới chúng; kinh Purănas cũng có đề
cập tới một vài điều này bằng lối
ẩn dụ, mà không một nhà Đông phương học
thực tế đă từng nỗ lực nhận ra và y
cũng không có thể nhận ra được.
Các Chu kỳ Thiên Văn này có
nguồn gốc thật là xa xưa; như chúng ta đă nói,
hầu hết đều thuộc về phép tính toán của
Nărada và Asuramaya. Asuramaya đă lừng danh là một
người Khổng Lồ và một Pháp sư. Nhưng
đâu phải người Khổng Lồ trước
Đại hồng thủy nào (các Gibborim trong Thánh kinh)
cũng đều tà vạy và là các Phù Thủy theo như
thần học Thiên Chúa giáo (nó xem Huyền bí học nào
cũng là tay sai của phe Tà Đạo) đă diễn
tả; họ cũng chẳng hề tồi bại hơn
nhiều “đứa con trung kiên của Giáo hội”. Nhân danh
Sư phụ, một kẻ như Torquemada và Catherine de Médicis
chắc chắn c̣n làm hại vào lúc đương thời
nhiều hơn bất kỳ người Atlantis nào
hoặc Bán Thần (Demigod) thời cổ đại nào (cho
dù họ được mệnh danh là Cyclops, hay Medusa hay
Titan hay Ephialtes (con quái vật chân rắn). Thời xưa có
những “Người Khổng Lồ” thiện, cũng như thời nay có những
“kẻ tí hon” ác; đám quỷ
La sát (Răkshasas) và Dọa xa (Yakshas) ở đảo Lankă
đâu có tồi tệ hơn những kẻ chuyên môn phá
hoại hiện nay, cũng như một vài viên
tướng văn minh theo Thiên Chúa giáo trong các cuộc
chiến tranh hiện đại. Chúng cũng đâu
phải là các sinh linh thần thoại.
Một văn sĩ
hiện đại đă nhận xét ở đâu đó:
Kẻ nào đă
chế nhạo Briareus và Orion ắt không được
đi tới, hoặc thậm chí đề cập tới
Karnac hoặc
V́ các số liệu Bà La
Môn nêu trên cũng gần đúng như là các phép tính toán
cơ bản của Hệ thống Nội môn của chúng
ta, nên yêu cầu độc giả hăy nhớ kỹ lấy
chúng.
81
Trong Bách Khoa Từ Điển
Britannica, chúng ta thấy khoa học đă dứt khoát
khẳng định là con người chỉ có nguồn gốc xa xưa “vào khoảng
hàng chục ngàn năm”. Hiển nhiên là các số liệu này
có thể thay đổi từ 10 000 tới 100 000 nên chúng chẳng có ư
nghĩa bao nhiêu (nếu không muốn nói là chẳng có ư
nghĩa ǵ hết) và chỉ làm cho vấn đề này càng
thêm mơ hồ. Vả lại, việc khoa học xác định
con người sinh ra vào lúc trước hay sau thời
kỳ băng hà cũng có nghĩa ǵ đâu, nếu
đồng thời chúng ta lại được biết
rằng cái gọi là “Kỷ Băng Hà” (“Ice Age”) chỉ là
một chuỗi dài các thời đại
đă biến đổi lần
hồi chứ không hề bất thần biến
đổi thành ra cái gọi là thời kỳ nhân sinh
tức thời kỳ hiện đại … từ hồi nào
đến giờ, việc các địa kỷ chồng
chéo lên nhau vẫn là qui luật. ([163])
“Qui luật” vừa nêu
chỉ có kết quả là một kiến thức c̣n làm
hoang mang hơn nữa (cho dù thật là chính xác và hợp khoa
học) như sau:
Ngay cả
hiện nay, con người cũng đồng thời
với kỷ băng hà trong các thung lũng ở dăy Alpes và
ở Fimmark. ([164])
Như thế, nếu
không v́ các bài học được rao giảng trong Giáo Lư
Bí Nhiệm (thậm chí trong cả Ấn Độ giáo
ngoại môn và các truyền thuyết của nó nữa), th́
đến nay, chúng ta ắt đă bị rời cái phao
để rồi tha hồ loay hoay với các thời
đại vô tận của một trường phái khoa
học, “hàng chục ngàn năm” của một
trường phái khoa học khác, và 6 000 năm của các nhà
thuyết minh Thánh kinh. Đây là một trong nhiều lư do
tại sao chúng ta bắt buộc phải lờ đi các
kết luận của các học giả thời nay về
mọi vấn đề liên quan tới nguồn gốc xa
xưa thời tiền sử.
Dĩ nhiên là địa
chất học và nhân loại học hiện đại
ắt không đồng ư với các quan điểm của
chúng ta. Nhưng Huyền bí học sẽ t́m ra nhiều
vũ khí chống lại hai khoa học này cũng như nó
đă chống lại các thuyết thiên văn và vật lư, bất
chấp sự kiện ông Laing đă bảo đảm
rằng:
Chẳng có
một lư thuyết nào trong
các phép tính toán [niên đại] thuộc loại này [liên quan
tới các hệ địa tầng xa xưa này], chúng
đều dựa vào các sự kiện xác thực, và
chỉ bị hạn chế bởi một lượng sai
số nào đó. ([165])
Dựa vào các lời thú
nhận sẵn có của khoa học, Huyền bí học
sẽ chứng minh rằng địa chất học
đă sai lầm rất nhiều, thậm chí nhiều khi c̣n
sai lầm hơn cả thiên văn học. Trong chính
đoạn này của ông Laing (nó cho rằng địa
chất chính xác hơn thiên văn học), chúng ta lại
thấy một đoạn mâu thuẫn rơ rệt với các
điều đă được chính các nhà địa
chất học đại tài nhất công nhận. Tác
giả cho rằng:
Tóm lại, các
kết luận của địa chất học (ít ra
cũng là tới kỷ Silua (the Silurian period), ([166]) khi trật
tự sự vật hiện nay đă được khai
mào một cách tốt đẹp) là các sự kiện
gần đúng (thật vậy) chứ không phải là các
thuyết. Trong khi đó, các kết luận của thiên văn
học là thuyết dựa vào các dữ kiện bấp bênh
đến nỗi mà trong khi có những trường
hợp chúng cho chúng ta những kết quả ngắn vô cùng
…th́ cũng có những trường hợp chúng cho chúng ta
những kết quả hầu như dài vô cùng. ([167])
82
Sau đó, người
ta đă khuyên độc giả rằng “tiến tŕnh an toàn
nhất”
Dường như là phải
giả sử rằng địa chất học đă
thực sự chứng tỏ được là kỳ gian
của trật tự sự vật hiện tại cũng
phải trên 100 triệu năm; c̣n thiên văn học
lại tŕnh bày một thời gian vô tận (mặc dù
bất khả tri) về phần quá khứ và tương
lai của sự “thành, trụ, hoại, không” của thái
dương hệ, trong đó trái đất chúng ta chỉ
là một thiên thể bé nhỏ đang chuyển sang giai
đoạn có thể ở được. ([168])
Khi xét theo kinh nghiệm đă
qua, chúng ta tin chắc rằng một khi được yêu
cầu đáp lại “các lời khẳng định
cực kỳ vô lư và phản khoa học của niên
đại kư Ăryan ngoại môn (cũng như nội môn)”,
nhà khoa học với “các kết quả vô cùng ngắn”
(nghĩa là chỉ có 15 000 000 năm) và nhà khoa học “yêu
cầu tới 600 000 000 năm”, cùng với những kẻ
chấp nhận con số 1 000 000 000 ([169])
của ông Huxley “từ khi sự trầm tích bắt
đầu ở Âu Châu”, đều với thái độ
giáo điều chẳng khác ǵ nhau. Chúng cũng chẳng
thể không nhắc nhà Huyền bí học và tín đồ Bà
La Môn nhớ rằng chính các nhà khoa học hiện
đại mới tiêu biểu cho khoa học chính xác với
sứ mệnh là đấu tranh chống lại sự thiếu chính xác và ḷng mê tín dị đoan.
Trái Đất chỉ đang
chuyển sang giai đoạn có thể ở
được đối với trật tự các sự vật hiện nay (xét về nhân loại hiện tại)
với các “lớp áo bằng da” và phosphor đối với
xương và óc.
Chúng ta sẵn sàng chấp
nhận con số 100 triệu năm mà địa chất
học đă đưa ra, v́ chúng ta đă được
dạy rằng giống người và vật chất
hiện nay – tức Loài người Vaivasvata – chỉ
mới bắt đầu tồn tại cách đây
mười tám triệu năm. Nhưng như đă tŕnh
bày, thực ra địa chất học cũng chẳng
tŕnh bày sự kiện nào về kỳ gian của các
địa kỷ, như thế là cũng chẳng hơn
ǵ thiên văn học. Bức thư đích xác của ông W.
Pengelly Hội viên Hội Hoàng Gia (đă được trích
dẫn ở đâu đó) đă bảo rằng:
Hiện nay (và có
lẽ là măi măi) chúng ta không thể rút gọn (ngay cả
một cách gần đúng) thời gian địa chất
thành ra hàng năm hoặc ngay cả hàng ngh́n năm.
Và đến nay, sau khi
đă chưa bao giờ khai quật được một
người hóa thạch nào khác hơn là h́nh dạng
hiện nay, liệu địa chất học có biết ǵ
về y chăng? Nó đă theo dấu các đới hoặc
các địa tầng cùng với cuộc sống
động vật nguyên thủy tới tận kỷ Silua.
Chừng nào mà nó cũng truy nguyên được con
người tới tận h́nh dạng nguyên sinh bản
sơ th́ chúng ta mới chịu thừa nhận rằng nó
có thể biết một điều ǵ về con
người nguyên thủy. Nếu (theo ông S. Laing),
Việc con
người đă tồn tại trong một t́nh trạng
thường xuyên (mặc dù dần dần) tiến hóa trong
50 000 năm cuối của một thời kỳ 15
triệu năm, hoặc trong 500 000 năm cuối của
thời kỳ 150 triệu năm ([170])
83
cũng
chẳng “quan trọng ǵ đối với ảnh
hưởng của các khám phá khoa học hiện
đại đối với tư tưởng hiện
đại”, th́ nó lại rất quan trọng đối
với các lời khẳng định của các nhà
Huyền bí học. Nếu các nhà Huyền bí học không
chứng tỏ rằng có thể (nếu không muốn nói là
hoàn toàn chắc chắn) là con người đă sinh tồn
cách đây mười tám triệu năm, th́ ắt hẳn
người ta vẫn c̣n chưa viết ra bộ Giáo Lư Bí Nhiệm. Do đó, chúng ta phải thử
một lần theo chiều hướng này; chính các nhà
địa chất học hiện đại và các nhà khoa
học nói chung sẽ phải kiểm chứng lại
sự kiện này trong Phần 3 Quyển 4. Trong khi đó,
bất chấp sự kiện niên đại kư Ấn Độ
bao giờ cũng bị các nhà Đông phương học
tŕnh bày như là một điều bịa đặt không
dựa vào phép tính toán thực sự nào ([171]), mà chỉ là “một lời huênh hoang khoác
lác ấu trĩ”, nó lại thường bị xuyên tạc
để thích ứng với các thuyết của Tây
phương. Chẳng có con số nào đă từng bị
can thiệp vào và xuyên tạc nhiều hơn là các con số
4, 3, 2 nổi tiếng, kèm theo sau là các con số 0 (cypher),
của các Chu kỳ và các đại Chu kỳ (the Yuga and
mahă Yuga).
V́ toàn bộ Chu kỳ
(Cycle) các biến cố thời tiền sử (chẳng
hạn như là sự tiến hóa và sự biến hóa
của các Giống dân và nguồn gốc tối cổ
của con người, đều tùy thuộc vào niên
đại kư nêu trên, nên việc kiểm tra nó lại
bằng phép tính toán sẵn có khác trở thành cực kỳ
quan trọng. Nếu niên đại kư Đông phương
mà bị bác bỏ, th́ ít ra chúng ta cũng sẽ tự
lấy làm an ủi khi chứng tỏ được
rằng chẳng có niên đại kư nào khác – cho dù là theo các
số liệu của khoa học hay các số liệu
của giáo hội – đáng tin cậy hơn chút nào. Theo
lối nói của Giáo sư Max Muller, kể ra cũng
thật là hữu ích nếu chứng tỏ được
rằng một sự vật không phải là ǵ cũng
như nó có thể là ǵ. Một khi chúng ta đă thành công trong
việc chứng tỏ sự trá ngụy của các phép tính
toán của cả khoa học lẫn của Thiên Chúa giáo –
bằng cách cho chúng có một cơ may được so sánh
với niên đại kư của chúng ta – th́ cả hai
đều sẽ không có một cơ sở hợp lư nào
để tuyên bố rằng các số liệu nội môn
không đáng tin cậy bằng các số liệu của
chính họ.
Ở đây, chúng tôi xin
giới thiệu độc giả tham khảo tác phẩm
trước đây của chúng tôi, Nữ Thần Isis Lộ Diện ([172])
để có được một vài nhận xét liên quan
tới các số liệu đă được trích dẫn
ở các trang trên.
84
Ngày nay, chúng
ta có thể thêm một vài sự kiện nữa vào mớ
kiến thức đă được tŕnh bày trong đó, mà
mọi nhà Đông phương học đều biết rồi.
Sự linh thiêng của chu kỳ 4 320 (có bổ sung thêm các
con số 0) chính là do sự kiện khi xét riêng rẽ
hoặc hợp lại theo nhiều tổ hợp khác nhau,
mỗi một và tất cả các con số hợp thành nó
đều tiêu biểu cho các bí nhiệm vĩ đại
nhất trong Thiên Nhiên. Thật vậy, cho dù chúng ta xét riêng
số 4, hoặc riêng số 3, hoặc cả hai gộp
lại thành số 7, hoặc ba số 4, 3, 2 cộng lại
thành 9, th́ tất cả các con số này đều
được áp dụng vào các vấn đề thiêng liêng
và Huyền bí nhất, và đều biểu thị các tác
động của Thiên Nhiên trong các hiện tượng
tuần hoàn vĩnh cửu. Đối với kẻ nào
nghiên cứu các bí nhiệm của Thiên Nhiên, chúng là các con
số không bao gờ sai lầm, lặp đi lặp
lại măi và có tính cách tiết lộ. Đó đúng là
một Hệ thống thiêng liêng, một thiên cơ thông
tuệ trong vũ trụ khởi nguyên luận, nó tạo ra
các phân đoạn tự nhiên trong vũ trụ về
thời gian, mùa màng, các tác dụng vô h́nh, các hiện
tượng thiên văn, cùng với tác động và
phản tác động của chúng đối với cơi
trần (và cả thế giới đạo đức
nữa), đối với “sinh, lăo, bệnh, tử”.
Tất cả các biến cố tự nhiên này đều
dựa vào và tùy thuộc vào các tiến tŕnh tuần hoàn trong
chính Càn Khôn, tạo ra các tác nhân tuần hoàn. Khi tác dụng
từ bên ngoài, các tác nhân này ảnh hưởng tới Trái
Đất và tất cả chúng sinh trên đó, từ
đầu chí cuối, bất cứ Chu kỳ Khai Nguyên nào,
nhân và quả đều có tính chất nội môn, tạm gọi như vậy.
Trong Nữ Thần Isis Lộ
Diện, chúng tôi đă tŕnh bày mà nay xin lặp lại: “Chúng ta đang ở vào
điểm thấp nhất của một chu kỳ và
hiển nhiên là đang ở trong một t́nh trạng
chuyển tiếp”. Plato chia sự tiến bộ trí
thức của Vũ Trụ trong mỗi
ĐOẠN
KINH 3
NHỮNG
TOAN TÍNH SÁNG TẠO RA CON NGƯỜI
(ATTEMPTS
TO CREATE MAN)
11. Hóa Công giáng lâm.
12. Các Nguyệt Tinh được lệnh sáng
tạo. 13. Chư thần linh
thượng đẳng từ chối.
85
11. ĐẤNG CHÍ TÔN GIÁNG LÂM, NGÀI TÁCH
NƯỚC RA KHỎI CƠ THỂ M̀NH, ĐÓ LÀ TẦNG
TRỜI BÊN TRÊN, TẦNG TRỜI THỨ NHẤT. ([173])
Ở đây, truyền
thuyết lại trở thành có tính cách Đại
đồng thế giới. Lối thuyết minh
trước nhất (được lặp lại trong
kinh Purănas) ra sao, th́ lối thuyết minh thứ nhất
của Moses cũng vậy. Thoạt tiên, trước
hết:
Khi bầu thế giới
đă biến thành một đại dương,
Đấng Thánh Linh [Vị Thần có h́nh dáng của Brahmă]
quyết định đặt lục địa bên trong
các đại dương và muốn nâng nó lên [tách nó ra],
tự tạo ra ḿnh trong một h́nh dạng khác. Cũng
như trong Thiên Kiếp [
Trong cuộc “sáng tạo” duy
Elohim ([175]),
“Thượng Đế” tạo ra “một bầu trời
giữa nước” và phán “đất
khô hăy xuất hiện ra đi”. Nay tới truyền
thuyết vốn là mấu chốt của phần Nội
môn của lối thuyết minh theo Do Thái Bí giáo.
12. CÁC ĐẠI
ĐẾ QUÂN ([176])
GỌI CÁC NGUYỆT TINH QUÂN CÓ CÁC THỂ KHINH THANH: “HĂY
ĐEM NHỮNG NGƯỜI ([177]) CÓ
BẢN CHẤT NHƯ QUÍ VỊ LẠI. HĂY BAN CHO CHÚNG ([178])
CÁC H̀NH HÀI BÊN TRONG. NÀNG ([179])
SẼ KIẾN TẠO CÁC LỚP VỎ BÊN NGOÀI ([180]). CHÚNG
SẼ BÁN THƯ BÁN HÙNG, CÁC HỎA TINH QUÂN CŨNG…”
Các vị “Nguyệt Tinh Quân”
là ai? Ở Ấn Độ, các Ngài được gọi
là Pitris hay “Thủy Tổ Nguyệt Cầu”, nhưng theo các
cổ thư Hebrew, th́ chính Jehovah lại là vị “Nguyệt
Tinh Quân”, vừa là Tập thể các cấp đẳng
thiên thần, vừa là một trong các Đấng Elohim.
Mặt Trăng đă điều chỉnh thiên văn
học của người Hebrew và “nghi thức thời gian” của họ. Sau
khi đă chứng tỏ rằng “Daniel … đă nêu ra sự
Thiên hựu (God’s providence) vào các lúc
đă định”, và Thánh
thư Khải Huyền ([181])
của Thánh John “đề cập tới một đô
thị (được đo lường thể tích
kỹ lưỡng) từ trên trời giáng xuống” v..v…
một tín đồ Do Thái Bí giáo đă nói thêm:
Nhưng quyền
năng làm linh hoạt của Thiên giới chủ yếu là
do nơi mặt trăng…
Đó là Jehovah của người Hebrew – và Thánh Paul ra
lệnh: “Đừng để cho kẻ nào phán xét con v́ con
tôn thờ ngày thứ bảy và ngày trăng non (new moon) - đó
là một h́nh bóng của các điều vị lai; song
cơ thể (hay bản thể) lại thuộc về
Đức Christ” nghĩa là Jehovah – quyền năng này có
chức năng biến người đàn bà hiếm
muộn thành ra bà mẹ hân hoan với đàn con – “v́ chúng là
ân huệ của Jehovah” … đó là một manh mối
để cho người chồng phản đối
việc bà vợ ở Shunam cứ đến với
người Trời: “v́ đó đâu phải là ngày thứ
bảy hoặc ngày trăng
non”. ([182]) Các quyền
năng sinh động của các cḥm sao đă có các cuộc
xung đột mănh liệt được đánh dấu
bởi chuyển động và vị trí của các ngôi sao
và các hành tinh, và nhất là được xem như là
kết quả của sự giao hội của mặt
trăng, trái đất và mặt trời. Bentley b́nh
luận về “cuộc chiến giữa chư thiên và
những người khổng lồ” của Ấn Độ,
nó biểu hiện nơi kỳ nhật thực vào lúc
tiết điểm của mặt trăng, năm 945
trước T.C.[!] vào lúc Sri
86
sinh
ra ([183]) hoặc
được tạo ra từ dưới biển. SRI
(Sarai, S-r-i, phu nhân của Abram ([184]) người
Hebrew) vốn là Venus-Aphroditus (sic) của người Tây
phương, biểu hiện của năm âm lịch -
dương lịch tức mặt trăng [v́ Sri là phu nhân
của Nguyệt Tinh; xem chú thích cuối trang], nữ
thần tăng trưởng ([185])… [Do đó], lâu
đài và cột mốc vĩ đại của thời
kỳ chính xác của năm và tháng âm lịch – nhờ
đó, chúng ta có thể tính toán được chu kỳ này
[gồm 19 năm thái dương và 235 ṿng quay của
mặt trăng] – chính là Núi Sinai, Đức Jehovah đă
giáng lâm trên đó…[rồi] Thánh Paul nói như là một
đạo sĩ khi đề cập tới người
đàn bà được giải phóng và người đàn
bà nô lệ của Abraham: “Ấy là v́ nàng Hagar này
(người đàn bà nô lệ của Abraham) chính là Núi Sinai
ở Ả Rập”. Làm thế nào mà người đàn bà
có thể là trái núi được? và lại là trái núi
như thế nữa chứ! Thế nhưng theo một ư
nghĩa nào đó … nàng lại đúng là một trái núi
một cách thật là kỳ diệu. Nàng tên là Nagar, có các con
số là 235, trong phép đo lường chính xác, đó chính
là số tháng âm lịch (bằng 19 năm thái dương)
để hoàn thành chu kỳ này và hoàn thiện sự
tương tự. Trong ngôn ngữ minh triết nội môn
này, Núi Siani là lâu đài của thời gian chính xác của
năm và tháng âm lịch, nhờ đó, chúng ta có thể tính
toán được chu kỳ làm linh hoạt tinh thần này;
thật vậy, núi này được (Fuerst) gọi là Núi Nguyệt
Tinh (Sin)”. Cũng thế, Sarai (SRI), phu nhân của Abram,
chẳng thể nào có con cho đến khi tên nàng đổi
thành Sarah, khiến cho nàng có được tính chất
của tác dụng nguyệt tinh này.([186])
Điều này có thể
được xem như là một sự lạc
đề, nhưng nó lại rất cần thiết
đối vói các độc giả Thiên Chúa giáo. Ấy là v́
sau khi đă lần
lượt nghiên cứu một cách vô tư các huyền
thoại về Abram (tức Abraham, Sarai, tức Sarah mỹ
miều), và các huyền thoại về Brahmă và Sarasvastĩ
(tức Shrĩ, Lakshmi- Venus) với các quan hệ của
tất cả các thứ này với Nguyệt Tinh và Thủy:
và nhất là khi đă hiểu được chân ư nghĩa
Do Thái Bí giáo của danh xưng Jehovah và quan hệ của nó
với Nguyệt Tinh – c̣n ai dám nghi ngờ việc “câu
chuyện Abram được dựa vào câu chuyện Brahmă”,
hoặc Sáng Thế Kư được viết theo các
đường lối cũ mà mọi quốc gia xưa
đều đă dùng? Tất cả mọi điều trong
các Thánh kinh đều có tính ẩn dụ, tất cả
đều dựa vào và liên kết bất khả phân ly
với thiên văn học và tục sùng bái vũ trụ.
13. HỌ ([187])
LÊN ĐƯỜNG, MỖI NGƯỜI ĐẾN VÙNG
ĐẤT ĐƯỢC CẤP CHO M̀NH; BẢY
87
Giáo Lư Bí
Nhiệm dạy rằng Đấng Thủy Tổ thiêng
liêng sáng tạo nên con người trên bảy vùng của
Trái Đất, mỗi vị “trên phần đất riêng
của ḿnh”- nghĩa là mỗi vị tạo nên một
Giống người khác nhau về cả bên ngoài lẫn
bên trong và trên những Khu vực khác nhau. Thuyết nhân
chủng đa nguyên này sẽ được xét tới
ở đâu đó trong ĐOẠN KINH 7. Nhưng các Đấng Sáng Tạo đó là
ai? Huyền bí học chia những Đấng Sáng Tạo ra
làm mười hai hạng, trong số đó bốn hạng
đă đạt được giải thoát cho đến
khi kết liễu Đại Kiếp của Brahmă; hạng
thứ năm sắp đạt được giải
thoát, nhưng vẫn c̣n hoạt động trên các cơi trí
tuệ. Trong khi đó, bảy hạng sau cùng hăy c̣n chịu
ảnh hưởng chi phối trực tiếp của
Định Luật nghiệp quả. Những hạng sau
này hoạt động trên các bầu thế giới có
người ở của dăy Địa Cầu.
Kinh điển ngoại môn
của Ấn Độ có nêu ra Bảy hạng Pitris, trong
số đó có hai hạng Thủy Tổ (hay Tổ Tiên
của nhân loại) riêng biệt; đó là các Đấng
Barhishad (Nguyệt Tinh Quân), tức là những Đấng có
lửa thiêng và những Đấng không c̣ lửa thiêng. Nghi
thức Ấn Độ dường như liên kết các
Ngài với các lửa tế thần và với các tín
đồ Bà La Môn Grihastha ([188])
trong các kiếp trước. Đó là các Đấng đă
và không quan tâm đến các
lửa thiêng giữ nhà của ḿnh trong các kiếp
trước. Như đă nói, sự phân biệt này bắt
đầu từ kinh Veda. Xét về mặt nội môn,
hạng Nhật Tinh Quân đầu tiên và cao siêu nhất
được tŕnh bày tiêu biểu trong ẩn dụ
ngoại môn là Grihastha, tức là các gia trưởng Bà La Môn.
Trong các kiếp đă qua trong các
Nội môn Bí giáo giải
thích rằng các phẩm tính bản sơ này là do sự
dị biệt về bản chất của hai Hạng: các
Nhật Tinh quân không có lửa (tức là ḷng ham muốn sáng
tạo) bởi v́ các Ngài quá tinh anh và thiêng liêng, c̣n các
Nguyệt Tinh Quân, v́ có liên hệ chặt chẽ hơn
với Trần Thế, nên biến thành các Đấng Elohim
sáng tạo h́nh hài sắc tướng hay Adam bằng cát
bụi.
Ẩn dụ bảo
rằng Sanandana và các Vedas khác, Con của Brahmă, hậu
duệ của ḿnh:
V́ vô dục vô
cầu và được cảm ứng bởi minh
triết thiêng liêng, nên đă tách rời khỏi vũ
trụ và không muốn sinh sinh
hóa hóa ([189]).
Chính câu kinh “họ không
chịu sáng tạo” cũng nhằm nói tới điều
này, nó được giải thích như sau:
“Các
Phân Thân Nguyên Thủy thoát thai từ Quyền Năng Sáng
Tạo, quá gần gũi với các Nguyên Nhân Tuyệt
Đối. Chúng chính là các lực chuyển tiếp,
tiềm tàng và chỉ phát triển trong các bước
kế tiếp”.
Điều này khiến nó
cũng dễ hiểu. V́ thế, được biết
Brahmă cũng tức giận khi thấy rằng:
88
Các Chơn
Linh hóa thân, vốn từ tứ chi của Ngài [gătra] hóa
hiện ra lại không chịu sinh sôi nảy nở.
Theo ẩn dụ, sau đó
Ngài tạo ra bảy Đứa Con Trí Sinh ([190])
khác, đó là: Marĩchi, Atri. Angiras,
Đó là lư do tại sao các
Nhật Tinh Quân, v́ không có lửa
sáng tạo thô
trược, nên không thể tạo nên con người
thể chất phàm trần. Các Ngài không có Dĩ thái h́nh (Double or Astral Body) để phóng
chiếu; v́ vốn không có h́nh
hài sắc tướng, nên các Ngài được
ngoại môn hiển giáo gọi một cách ẩn dụ là
Yogi, Kum ă ras (trai tân) và biến thành những vị A Tu La
“nổi loạn” chống lại các Thần Linh ([191])…
Tuy nhiên, chỉ có các Ngài là những Đấng Duy Nhất
có thể tạo nên một con người một cách hoàn
hảo, tức làm cho y trở nên một Thực Thể ngă
thức, gần như là một Đấng Thiêng Liêng,
một Đấng Thánh Linh trên Trần Thế. Các
Nguyệt Tinh Quân, mặc dù có “lửa sáng tạo”, lại
thiếu hẳn yếu tố TOÀN LINH TRÍ thượng đẳng. V́ ở trên cùng
một cảnh giới với các “Nguyên khí” thấp – chúng
có trước vật chất ngoại cảnh thô
trược – nên họ chỉ có thể tạo ra con
người thể chất ngoại cảnh hay đúng
hơn là tạo nên dĩ thái thể làm khuôn mẫu
tượng h́nh cho thể xác. Như thế, tuy các Ngài
được Brahmă – biểu hiện của tập
thể Toàn Linh Trí – giao phó
cho công tác ấy, “Điều bí nhiệm của Cơ sáng
tạo” vẫn lại tái diễn trên Trần Thế, có
điều là bị đảo ngược lại
giống như h́nh khi soi
gương.
Chính những vị không có
khả năng tạo nên con người tâm linh bất diệt,
mới phóng chiếu ra dĩ thái thể làm kiểu mẫu
vô tri vô giác cho con người thể chất, và chính các
vị không muốn sinh sôi nảy nở, mới tự hy
sinh cho hạnh phúc và sự giải thoát của Nhân
loại. Ấy là v́, muốn hoàn thành con người thất phân, muốn thêm vào ba Nguyên
khí hạ của y và kết hợp chúng với Chơn
Thần Thiêng Liêng – nó bao giờ cũng ngự trong h́nh hài
sắc tướng trong trạng
thái tuyệt đối tiềm tàng – th́ cần phải
có hai “Nguyên khí” trung gian; Thể Trí (Manas) và Cảm Dục
(Kăma). Điều này cần có
một Lửa Thiêng sống động của Nguyên khí
trung gian phát xuất từ trạng thái thứ Năm và
thứ Ba của Thái Cực (Pleroma). Nhưng Lửa Thiêng
này là sở hữu của những h́nh Tam giác, chứ không phải của những Khối vuông (hoàn toàn) vốn
tiêu biểu cho các vị Thiên Thần ([192]).
Tục truyền rằng từ Cơ Sáng Tạo
Đầu Tiên, các tam giác đă có nó và cứ khư khư
bám lấy nó (chẳng hạn như trong ngụ ngôn của
Prometheus). Đó là các thực thể chủ động, và
v́ thế - trên Thiên giới – không c̣n là các Đấng
thuần khiết nữa. Họ đă biến thành các
Đấng Thông Tuệ độc lập và tự do, mà
mọi khoa thần phổ học đă diễn tả
như là phải chiến đấu mới giành
được độc lập tự do; và do đó,
hiểu theo nghĩa thông thường – họ đă nổi
dậy chống lại “thiên luật thụ động”.
Như thế, đó là các Ngọn Lửa – các Nhật Tinh
Quân – mà câu kinh 13 nói là “vẫn ở lại đàng sau” thay
v́ cùng đi với những vị khác để sáng
tạo ra con người trên Trần Thế. Nhưng chân ư
nghĩa Nội môn lại như sau: hầu hết các
Đấng này đều có nhiệm vụ lâm phàm tên
cương vị là các Chơn
Ngă của lớp Nhân loại sắp tới.
89
Chơn Ngă (Ego) không phải là Linh giác (Ătma)
hay Tuệ giác (Buddhi), mà là Thượng
Trí (the Higher Manas); kết
quả và tinh hoa của hoạt động trí tuệ trong
Cá thể hữu ngă thức (hiểu theo ư nghĩa tâm linh).
Các cổ thư gọi đó là Kărana
Sharĩra (Linh Hồn thể) trên cảnh giới
của Linh tuyến (Sũtrătmă), vốn là kim quang tuyến
xỏ xâu qua các Phàm Ngă khác nhau của Chơn Ngă (giống như xâu chuỗi). Nếu
cứ chiếu theo các ẩn dụ bán nội môn, th́ độc giả sẽ
được biết rằng các Thực Thể này là các
Đấng đă nhập Niết Bàn từ các Đại
“Kim
quang tuyến vốn bất diệt và chỉ biến
nhập vào Niết Bàn, tái xuất lộ từ Niết Bàn
một cách trọn vẹn vào lúc mà Đại Luật thôi
thúc vạn vật hoạt động lại”.
Do đó, v́ các Pitris tức các
Thiên Tôn thượng đẳng không chịu nhúng tay vào
việc tạo ra con người thể chất, nên chúng ta
thấy Con người Sơ khai – vốn xuất phát
từ các hạ thể của các Thủy Tổ “thiếu
linh hỏa” – có h́nh thể khinh thanh, không chắc chắn và
không có trí khôn. Y không có
một Nguyên khí trung gian để làm môi giới giao
tiếp giữa những nguyên khí cao nhất và thấp
nhất – Chơn Nhơn và năo bộ phàm trần – v́ y
thiếu Thể Trí. Các
Chơn Thần lâm phàm trong những cái Vỏ trống
rỗng đó vẫn cứ vô ư thức như khi tách
rời các hạ thể bất toàn của ḿnh trước
kia. Trên cơi hồng trần, một Tinh Thần thuần khiết không có
tiềm năng Sáng tạo tức Hữu ngă thức,
trừ phi bản chất quá ư thuần trạng, hoàn
hảo – v́ thiêng liêng – của nó được hợp
với và tăng cường bởi một tinh chất
đă biến phân rồi (tạm gọi như vậy). Duy
chỉ cạnh đáy của h́nh Tam giác – tượng
trưng cho Tam Nguyên bản sơ (the first Triad) xuất phát
từ NHẤT
NGUYÊN Vũ Trụ
(the Universal MONAD) – mới có thể cung
cấp trạng thái ư thức này trên cảnh giới Vũ
Trụ biểu lộ. Nhưng làm thế nào mà các Phân
Thần thuần khiết đó – dựa vào nguyên tắc
này, thoạt tiên ắt là chúng cũng vô ư thức (theo nghĩa mà chúng ta hiểu) –
lại có thể cung cấp được nguyên khí cần
thiết ấy, khi chính chúng cũng c̣n khó ḷng mà có
được nó?
90
Câu trả
lời thật khó hiểu trừ phi người ta đă
thấu triệt được triết lư siêu h́nh của
hàng loạt chu kỳ Tái tạo vô thủy vô chung của
Vũ Trụ, và đă thấm nhuần, quen thuộc
với cái định luật bất di bất dịch
của
Giữa loài người và
loài vật – mà Chơn Thần hay Jĩvas, cơ bản là
như nhau – có một hố sâu cách biệt không thể
vượt qua được, đó là Trí Tuệ và Ngă
Thức. Trí Tuệ con người là ǵ? Nó có xuất xứ
ở đâu nếu nó chẳng phải là một phần
của bản thể - trong một vài trường hợp
lâm phàm hy hữu, nó c̣n là chính
bản thể - của một Đấng Cao Cả,
xuất phát từ một cảnh giới cao siêu và thiêng liêng?
Có thể nào con người – một vị Thần trong
h́nh hài con vật – chỉ là sản phẩm của thế
giới vật chất do sự tiến hóa không mà thôi
chăng? Con vật tuy khác con người về h́nh dáng bên
ngoài, nhưng đâu có khác về phần chất liệu
cấu tạo nên thể xác hồng trần, và cũng
được một Chơn
Thần làm linh hoạt, mặc dù chưa phát triển, có
điều là tiềm năng trí tuệ của hai bên
lại khác nhau một trời một vực. Vậy th́ cái
ǵ đă tạo ra sự dị biệt đó, nếu
chẳng phải là việc con người là một
động vật có thêm
một vị Thượng Đế sống động bên trong cái xác phàm hữu
hoại? Chúng ta cứ suy gẫm và nghiêm chỉnh tự
vấn thôi chứ đừng đếm xỉa làm chi
tới những ư tưởng ngông cuồng và các điều
ngụy biện của cả khoa học duy vật lẫn
tâm lư học hiện đại.
91
Trong một chừng
mực nào đó phải thừa nhận rằng: ngay
cả Nội môn Bí giáo cũng có tính cách ẩn dụ.
Để cho kẻ có trí khôn b́nh thường có thể
hiểu được Nội môn Bí giáo, người ta
cần phải dùng tới các biểu tượng
để tŕnh bày nó dưới một dạng có thể
hiểu được. V́ thế mới có các ẩn
dụ và bán thần thoại trong ngoại môn hiển giáo,
và các lối tŕnh bày khách quan và bán siêu h́nh trong Nội môn Bí
giáo. Ấy là v́ các quan niệm tinh thần thuần túy và
siêu việt chỉ là phỏng theo tri giác của các
Đấng
“không
thấy bằng mắt phàm, không nghe bằng tai phàm và không cảm
giác bằng các cơ quan phàm tục”,
theo
lối diễn đạt sinh động của Giảng
lư. Nhà lư tưởng quá khắc khổ tha hồ mà thần
thánh hóa giáo điều, trong khi tâm lư hiện đại
chỉ việc ra sức làm biến mất Nhân Hồn “sa
đọa” song vẫn c̣n linh thiêng của chúng ta – thiêng
liêng v́ c̣n liên kết với Tuệ giác (Buddhi).
Bí nhiệm gắn
liền với các Thủy tổ rất thiêng liêng của
Con người Thánh Linh bên trong con người phàm trần,
thật là lớn vô cùng. Sự sáng tạo lưỡng phân
của y được ám chỉ trong Purănas, mặc dù
người ta chỉ đề cập tới ư nghĩa
Nội môn của nó bằng cách đối chiếu
nhiều lối tŕnh bày khác nhau, và thuyết minh chúng theo tính
cách biểu tượng và ẩn dụ. Trong Thánh kinh
(cả trong Sáng Thế Kư lẫn trong Sứ Đồ
Thư của Thánh Paul cũng đều như thế
cả. Ấy là v́ Đấng Sáng tạo, vốn
được mệnh danh là “Đức Chúa Trời” trong
chương 2 của Sáng thế Kư, thoạt đầu
lại là Elohim, tức các Thần Linh (Tinh Quân) xét theo
số nhiều. Trong khi một Đấng Elohim tạo ra
Adam bằng Cát bụi trên trần thế, th́ một
Đấng khác lại phà Sinh khí vào y, c̣n Đấng
thứ ba biến y thành một Linh Hồn; tất cả
các lối thuyết minh này đều được ám
chỉ nơi số nhiều của từ ngữ Elohim ([193]).
Lại nữa, Thánh Paul đă dạy:
Người
đầu tiên ở trên trần thế … người
thứ nh́ (người cuối cùng, hay đúng hơn là
người cao siêu nhất) là Chúa Trời. ([194])
Trong ẩn dụ Ăryan,
tất cả các con của Brahmă nổi loạn đều
được tŕnh bày tiêu biểu như là các tu sĩ
khổ hạnh và các Đạo sĩ Yoga thánh thiện.
Được tái sinh trong mỗi Thiên Kiếp, họ
thường ra sức cản trở việc sinh sôi
nảy nở của nhân loại. Khi Daksha (Đấng
Prajăpati tức Đấng Sáng Tạo chính yếu) sinh ra 10
000 người con với mục đích cung cấp dân
số cho thế giới, th́ Nă rada – một đứa con
của Brahmă, Đấng Đại Thánh Hiền, trong
thực tế được xem là một Thiên Tôn, nếu
không muốn nói Ngài chính là như vậy trên danh nghĩa –
lại can thiệp vào và hai lần phá mục tiêu của
Daksha, bằng cách thuyết phục những Đứa Con
này cứ việc tu khổ hạnh và từ chối
việc hôn nhân. Để trả đủa, Daksha
nguyền rủa Nărada phải tái
sinh làm người. Trước đó, Brahmă cũng
nguyền rủa Nărada v́ y cứ từ chối kết hôn,
Ngài phán: “Bỏ cái h́nh dáng [Thiên Thần] hiện nay của
ngươi đi; và rồi chui vào trong tử cung” –
nghĩa là, biến thành người. ([195])
92
Mặc dù có nhiều
lối tường thuật mâu thuẫn nhau về cùng
một câu chuyện ấy, chúng ta cũng dễ thấy
rằng Nărada thuộc về Hạng “Con đầu ḷng”
của Brahmă đă dám nổi dậy chống lại
luật sinh sôi nảy nở của động vật, v́
thế họ phải chuyển kiếp làm người.
Như đă tŕnh bày, trong tất cả các Đấng Thánh
Hiền trong kinh Veda, Nărada là vị khó hiểu nhất, v́
Ngài có liên hệ mật thiết với các Giáo lư Huyền
bí, nhất là với các Chu kỳ và Thiên Kiếp Bí
Nhiệm.
Một vài phát biểu mâu
thuẫn về Đấng Thánh Hiền này đă làm cho các
nhà Đông phương học hoang mang rất nhiều.
Người ta tŕnh bày Ngài đă kiên quyết không chịu
“sáng tạo”, thậm chí c̣n tố cáo cha đẻ của
ḿnh (Brahmă) là “ngụy sư” (“false teacher”) v́ đă khuyên
bảo Ngài mắc vào ṿng hôn phối (điều này đă
được tường thuật trong Nărada-Pancha-Rătra;
thế mà người ta lại xem Ngài như là một trong
các Đấng Prajăpati (Đấng Thủy Tổ)! Trong kinh
Năradĩya Purăna, Ngài mô tả các qui luật và các bổn
phận của các Cao đồ vẫn độc thân. V́
người ta không thấy các bổn phận Huyền bí
này trong áng văn gồm có 3 000 Đoạn kinh mà các
Viện Bảo Tàng ở Âu Châu c̣n lưu trữ
được, nên thiên hạ tố cáo là người Bà La
Môn nói dối. Các nhà Đông phương học đă quên
mất rằng người ta tin là Năradĩya có tới
25000 Đoạn kinh, và rất có thể là các Bản
thảo như vậy lại bị lọt vào tay kẻ
phàm tục Ấn Độ, để rồi chịu mai
một đi. Chỉ cần nói rằng Nărada là Deva-Rishi
của Huyền bí học nhiệm
mầu, và nhà Huyền bí học nào không chịu suy
gẫm, phân tích và nghiên cứu Nărada theo bảy phương
diện nội môn, th́ đừng hy vọng phăng ra
được vài Bí nhiệm về nhân loại học,
niên đại kư, thậm chí cả về vũ trụ
nữa. Nghệ thuật là một trong các Linh Hỏa nêu
trên và giữ một vai tṛ nào đó trong cuộc tiến hóa
của Thiên Kiếp này, từ đầu chí cuối. Ngài là
một diễn viên cứ xuất hiện trong từng
hồi liên tiếp (tức các Căn chủng) của
vở kịch
93
Chúng
được phát biểu rơ rệt trong
429. Một
Ngọn Lửa rực rỡ xuất phát từ một
Nguồn Sáng chói lọi không ai hiểu nổi [một trong
Bảy Hành Tinh Thánh Thiện], các điểm linh quang
(vốn là các thế giới trước) vọt ra như
một cây búa khổng lồ, dũng mănh.
430. Các
điểm linh quang này ḥa lẫn và phối hợp với
nhau và chỉ ḥa hợp với dĩ thái tinh anh nhất khi chúng kết hợp nhuần
nhuyễn với nhau
(thậm chí với cả Đại Từ Phụ và
Đại Từ Mẫu nữa).
431. Từ
Phụ, xuất phát từ chính Hoa
là AB; Ruach, Tinh Thần, xuất phát từ chính Hoa. Ruach được ẩn
tàng trong Đấng Vô Lượng Thọ, dĩ thái ấy
cũng được ẩn tàng trong đó.
432. Nó liên hệ
với một nguồn sáng [một Hành Tinh và Thiên Thần
chưởng quản nó], Nguồn sáng này xuất phát từ
Nguồn sáng chói lọi không ai chịu nổi, nó
được ẩn tàng trong ḷng của Aima, Đại
Từ Mẫu. ([196])
Đoạn sau đây trích
từ trong kinh Zohar ([197])
với đầu đề “Các Thánh Vương Thời
Tiền Adam”, cũng bàn về Bí nhiệm đó:
Trong Siphrah
D’Tzniootha, chúng ta cũng được biết rằng
trước khi chế ra H́nh hài, At-tee’kah D’A’t-tee’keen,
Đấng Thái Cổ, đă dựng nên, chạm trổ và
phác họa ra các thánh vương [con người,
“vua”của loài vật] nhưng họ không thể tồn
tại được: cho đến khi Ngài dẹp họ
đi và giấu kín họ trong
một thời gian, v́ thế người ta mới
bảo: “Đó là các Thánh Vương trị v́ ở xứ
Edom”… Họ không thể tồn tại được cho
đến khi Resha’ Hiv’rah, Đấng Bạch Thủ (the
White Head), At’-tee’-kah D’At’tee’keen, Đấng Thái Cổ, đă
chấn chỉnh lại. Khi chấn chỉnh ḿnh lại,
Ngài tạo ra mọi h́nh hài sắc tướng Bên trên và Bên
dưới… Trước khi Ngài chấn chỉnh ḿnh
lại trong H́nh hài của ḿnh, tất cả những ǵ mà
Ngài muốn tạo ra đều chưa hề tồn
tại, và mọi bầu thế giới đều đă
bị hủy diệt… Chúng đă không ở đúng vị
trí của ḿnh v́ h́nh hài của các thánh vương chưa
được tạo ra như mong muốn và Thánh Đô (
Hai bài nghị luận có tính
cách ẩn dụ và siêu h́nh này chỉ có nghĩa như sau:
Theo luật tiến hóa, các Bầu thế giới và con
người lần lượt thành rồi hoại,
bắt nguồn từ vật liệu có sẵn, cho
đến khi cả các Hành Tinh lẫn con người, Trái
Đất với các loài vật và loài người,
đều biến thành t́nh trạng hiện nay – các lực
đối cực, một tập hợp quân b́nh gồm có
Tinh Thần và Vật Chất, dương và âm, thư và
hùng. Trước khi con người trở nên có thể chất nam và nữ,
nguyên kiểu của y (Đấng Elohim sáng tạo)
phải chấn chỉnh H́nh hài của ḿnh lại (về
mặt cảm dục) trên
cảnh giới tính dục này. Điều này có nghĩa là
khi giáng vào trong cảnh giới biến phân đă
định sẵn này, các Nguyên tử và các lực hữu
cơ phải được sắp xếp theo trật
tự mà
94
Được
biết, “Họ phát triển song song với nhau, giống
này mất đi th́ giống khác lại kế vị”. ([199])
Tại sao vậy? Bởi
v́ “Thánh Đô chưa được sửa soạn xong”.
Thế th́ Thánh Đô là cái ǵ? Đó là Ma-qom-Mật
địa, tức Thánh Điện, trên Trần Thế. Nói
cách khác, đó là tử cung của con người, vật
mô phỏng và phản ánh Khuôn viên Thiên giới trong tiểu
thiên địa (Khuôn viên Thiên giới là Không gian âm tính
tức Hỗn mang, Tinh Thần dương tính làm thụ
thai mầm mống của Con – tức Vũ Trụ hữu
h́nh – trong đó) ([200]).
Đến nỗi mà trong đoạn “Phân thân của các
Nguyên khí Thư và Hùng” trong kinh Zohar, người ta có dạy
rằng trên Địa Cầu này, Minh Triết xuất phát
từ “Đấng Thánh Cổ” “sẽ không tỏa chiếu
ngoại trừ nơi nam và nữ”.
(‘Hokhmah
Minh Triết là Từ Phụ, c̣n Binah
Trí Huệ là Từ Mẫu).
… Khi kết
hợp với nhau, chúng tạo ra, phổ biến và xạ
ra Chân lư. Chúng ta được biết điều này theo
lời của giáo sĩ Do Thái Ye-yeva,
Đây cũng chính là “sự
viên măn” của tục sùng bái sinh thực khí của các giáo
sĩ Do Thái (sự phát triển tột đỉnh của
nó), khi cái thiêng liêng bị hạ bệ thành ra cái thô tục
của trần thế. Trong Huyền bí học Đông
phương, cũng như trong kinh Kabalah nguyên thủy –
Số Mục Thánh Thư của dân
Chúng tôi nhận
thấy các tác giả Thiên Chúa chẳng khôn ngoan chút nào khi
tức giận lên trước những câu như sau: “Trong
vô số chùa chiền, tượng đá để sùng bái
bao giờ cũng có dạng tục tĩu của sinh thực khí nam (lingham)…
chẳng khác nào batylos
của người Hy Lạp… Đại Thiên Thần (Mahă
Deva)”. Trước khi phỉ báng một biểu
tượng có ư nghĩa siêu h́nh cực kỳ thâm thúy
đối với những kẻ hiện nay ủng hộ
cái thứ tôn giáo vô cùng
đắm say thú dục, Thiên Chúa giáo La Mă (Roman Catholicism),
họ có bổn phận phải dẹp tan các giáo
đường xưa nhất và thay đổi h́nh
dạng của các nóc ṿm Thánh Điện của chính ḿnh.
Mahadeo ở Elephanta, Tháp tṛn ở Bhagulpore, các tháp ở giáo
đường Hồi giáo (dù là tṛn hay nhọn) đều
là nguyên dạng của cột tháp chuông ở San Marco,
95
Dù sao đi nữa, kinh
Kabalah cũng chứng minh đầy đủ
được sự kiện cho rằng tất cả các
Đấng Elohim, các Điểm Linh Quang (Sparks) và Tiểu
Thiên Sứ (Cherubs) này của người Hebrew đều
giống y như là các Thiên Thần (Devas), Thánh Hiền
(Rishis), Linh Hỏa (Fires), Ngọn Lửa (Flames), Rudras
(Thần Băo Lửa) và bốn mươi chín Agni (Hỏa
Thần) của người Ărya thời xưa.
ĐOẠN
KINH 4
SỰ SÁNG TẠO RA CÁC GIỐNG DÂN
ĐẦU TIÊN
(CREATION OF THE FIRST RACES)
14. Sự sáng
tạo ra con người. 15. Họ là các h́nh bóng trống
rỗng. 16. Các Đấng Sáng Tạo băn khoăn không
biết làm sao sáng tạo ra một con người BIẾT
SUY TƯ. 17. Muốn tạo ra một Con người toàn
bích cần phải có những ǵ.
Họ phóng chiếu ra các “H́nh
bóng” tức các Dĩ Thái
Thể (Astral Bodies)
(nếu người ta cho rằng một vị “Nguyệt
Tinh Quân” có thể có một Dĩ Thái Thể, ngoài một
Thể khá tinh anh ra).
96
Câu này –
“Họ là h́nh bóng của những H́nh Bóng”- cần
được giải thích thêm một ít nữa.
Phương thức tiến hóa đầu tiên này của
nhân loại dễ có thể được chấp
nhận hơn nhiều so với diễn tŕnh tiếp theo
sau đó. Mặc dù vậy, tất cả các tiến tŕnh như
vậy sẽ bị bác bỏ và nghi ngờ ngay cả
bởi một vài tín đồ Do Thái Bí giáo, nhất là
những người Tây phương, họ nghiên cứu
các hiệu quả hiện tại mà lại bỏ qua không
chịu nghiên cứu các nguyên nhân sơ khởi. Tác giả
cũng cảm thấy ḿnh không đủ khả năng
giải thích một lối sinh sản khó hiểu như
vậy (ngoại trừ đối với một nhà
Huyền bí học Đông phương). Do đó, ở
đây chẳng có ích lợi ǵ mà lại đi sâu vào các chi
tiết của tiến tŕnh này, mặc dù nó đă
được mô tả tỉ mỉ trong các tác phẩm
Mật Tông, v́ điều này chỉ tổ khiến chúng ta
đề cập tới các sự kiện đến nay
vẫn c̣n xa lạ với giới phàm tục, và v́ thế
ắt sẽ bị hiểu lầm. Một ông “
97
Như đă
giải thích ở trên, Huyền bí học dạy rằng
con người đă không hề được sáng tạo
ra một cách hoàn hảo như hiện nay, mặc dù y vẫn
c̣n rất bất toàn. Có một diễn tŕnh tiến hóa tinh
thần, tâm linh, trí tuệ và thú dục từ mức cao
nhất cho tới mức thấp nhất, từ trạng
thái giản dị đơn thuần tiến lên trạng
thái phức tạp hơn, mặc dù không hẳn đúng theo
những đường lối mà các nhà Tiến hóa
luận hiện đại đă vạch ra cho chúng ta.
Cuộc tiến hóa song đôi theo hai chiều hướng
đối nghịch này, phải cần đến
nhiều thế hệ, nhiều tính chất cùng với
nhiều tŕnh độ tâm linh và trí tuệ khác nhau,
để cấu tạo nên thực thể gọi là con
người như ngày nay. Hơn nữa, có một
định luật duy nhất, tuyệt đối, luôn
luôn tác động và không bao giờ lầm lạc, vẫn
theo những đường lối như nhau từ Chu
kỳ Vĩnh Cửu (tức Chu kỳ Khai Nguyên) này sang
BÀN VỀ SỰ ĐỒNG
NHẤT VÀ DỊ BIỆT
CỦA CÁC QUYỀN NĂNG LÂM PHÀM
(ON
THE IDENTITY AND DIFFERENCES
OF
THEO INCARNATING POWERS)
Các Thủy Tổ của
Con Người (ở Ấn Độ gọi là các Tổ
Phụ, Pitaras hay Pitris) đă “Sáng Tạo” ra cơ thể và
các nguyên khí hạ đẳng của chúng ta. Các Ngài chính là
chúng ta (trên cương vị các phàm ngă đầu tiên) và
chúng ta chính là các Ngài. Con người nguyên thủy ắt
phải được tạo nên “bằng xương
thịt của các Ngài” (nếu các Ngài có xương
thịt). Như đă nói, đó là các “Nguyệt Tinh Quân”.
Các Đấng ban cho con
người CHƠN
NGĂ bất tử,
hữu thức chính là các “Thái Dương Thiên Thần”, dù
là xét về mặt ẩn dụ hay theo sát nghĩa. Có
biết bao nhiêu là bí nhiệm về vấn đề
Chơn Ngă Hữu Thức tức Nhân Hồn. Theo sát
nghĩa, tôn danh Nội môn của các Thái Dương Thiên
Thần này là các “Đấng” (Năth) “tận tụy kiên tŕ”
(Pranidhăna). Do đó, các Đấng thuộc Nguyên khí thứ Năm (Trí Tuệ)
dường như có liên quan với hoặc phát nguyên
từ hệ thống các đạo sĩ Yoga xem Pranidhăna là
giới luật thứ năm
của ḿnh ([206]).
Người ta đă giải thích, tại sao các nhà Huyền
bí học xuyên Hy Mă Lạp Sơn lại xem các Ngài
đương nhiên là đồng nhất với các
Đấng được người Ấn Độ
mệnh danh là Thiên Tôn, Nhật Tinh Quân và Nguyệt Tinh Quân.
Khi định nghĩa Linh
Hồn là sự phối hợp giữa cái đồng nhất và cái dị biệt, Plato đă diễn đạt chính
xác biết là chừng nào, và nhận xét của ông về
Chơn Ngă có một ư nghĩa triết lư thâm thúy biết là
dường nào. Thế nhưng, ẩn ngôn này đă
chẳng được thấu triệt bao nhiêu, v́ thiên
hạ cứ tưởng rằng điều này có ư
muốn nói Linh Hồn là Linh khí của Thượng
Đế (Jehovah). Nó chính là “cái đồng
nhất và cái dị biệt”
đúng như bậc đại sư triết học gia
được Điểm đạo đă nói. Ấy là v́
Chơn ngă – “Linh Ngă” (“Higher Self”) khi ḥa hợp với và trong
Chơn Thần Thiêng Liêng – chính là Chơn Nhơn, tuy giống mà lại “khác”; Đấng Thiên Thần
lâm phàm nơi y có cùng bản thể với toàn Linh Trí. Các
đại tác giả và các đại triết gia cổ
điển đă cảm nhận được chân lư này
khi cho rằng:
Bên trong chúng ta
phải có một cái ǵ tạo ra các tư tưởng
của chúng ta. Đó là một thứ tinh anh; đó là
một linh khí; lửa; dĩ thái; tinh chất; một h́nh
ảnh mong manh; một tiến tŕnh suy tư; một con
số; đó là sự hài ḥa.([207])
98
Tất cả
đều là các Đấng Mănas (Trí Tinh Quân) và Răjasa
(Cảm Dục Tinh Quân); các Thiên Tôn, A Tu La, các Đấng
Chưởng Quản và Thủy Tổ khác, các Ngài đă lâm
phàm trong Giống dân thứ Ba và dùng nhiều phương
pháp khác nhau để ban cấp Thể Trí cho con
người.
Có Bảy Hạng Thủy
Tổ (điều này sẽ được tŕnh bày sau), ba
hạng Vô thể chất và bốn hạng Hữu thể
chất; có hai loại thủy tổ là Nhật Tinh Quân và
Nguyệt Tinh Quân. Chúng ta có thể nói thêm rằng, cũng
như có hai loại Thủy Tổ, có một tập
hợp lưỡng phân và tam phân gồm các Nguyệt Tinh
Quân và các Nhật Tinh Quân. Sau khi đă sinh ra các Dĩ Thái
H́nh, các Nguyệt Tinh Quân tái sinh làm Con của Atri, và là
“Thủy Tổ của Chư Quỷ” (tức các
Đấng Hữu thể chất), dựa vào thẩm
quyền của Đức Bàn Cổ. Trong khi đó, các
Nhật Tinh Quân tái sinh làm các con của Marĩchi, một
đứa Con của Brahmă, và là “Thủy Tổ của
chư Thần Linh”.([208])
Văyu Purăna cho rằng thoạt
tiên, bảy hạng Thủy Tổ đă là chư thần linh
bản sơ (Vairăjas). Với linh nhăn Yoga, Brahmă đă
chiêm ngưỡng họ trong cảnh giới vĩnh
cửu. Đó là các thần linh
vô thượng… Matsya Purăna…
thêm rằng chư thần linh đă tôn thờ họ ([209]).
Harivamsha phân biệt các
Đấng Vairăjas, xem như chỉ là một hạng
Thủy Tổ thôi ([210]).
Điều này cũng được Giáo huấn Bí
nhiệm bổ chứng, tuy nhiên giáo huấn này lại
đồng nhất hóa các Đấng Vairăjas với các
Nhật Tinh Quân trưởng thượng ([211])
và các Răjasas hay Abhũtarăjasas; đó là các Đấng vô
thể chất, thậm chí không có cả một dĩ thái
h́nh nữa. Hầu hết các Bản thảo đều cho
rằng Vishnu đă lâm phàm nơi và xuyên qua các Ngài.
Trong thời kỳ Tộc Trưởng [Chu
kỳ Khai Nguyên] Raivata, Hari, Đấng Chí Tôn, lại sinh ra
bằng Sambhũti, làm Trí Tinh Quân thiêng liêng – phát xuất cùng
với các vị thần được gọi là Răjasas ([212]).
Sambhũti là con gái của
Daksha và là phu nhân của Marĩchi (Cha của các Nhật Tinh
Quân). Các Nhật Tinh Quân cùng với các Răjasas bao giờ
cũng liên minh với các Trí Tinh Quân. Ông Fitzedward Hall, một
nhà nghiên cứu tiếng Bắc Phạn có tài hơn
Mănasa đâu
phải là một danh xưng thích hợp dành cho một
thần linh liên kết với các Răjasas. Dường như
trong đó, chúng ta có mănasam
(cũng giống như manas)
với sự thay đổi ngữ vĩ (termination)
cần thiết để biểu thị nhân vật nam ([213]).
Theo Nĩlakantha, tất cả các Con của Virăja, đều là Trí Tinh Quân. C̣n Virăja lại là Brahmă; do đó, các Thủy Tổ vô thể chất được xem là Vairăjas, v́ chính là các con của Virăja (theo Văyu Purăna).
99
Chúng ta có
thể cứ đưa ra bằng chứng măi măi, nhưng như thế cũng đủ
rồi. Kẻ minh triết sẽ hiểu được ư
chúng tôi, c̣n kẻ thiếu minh triết th́ lại không
cần. Ở Ấn Độ có tới ba trăm ba
mươi triệu Thần Linh. Tất cả đều
có thể là devas, nhưng không phải vị nào cũng là
“thần linh” (“god”) theo ư nghĩa tâm linh cao cả mà
người ta gán cho từ này. Nhưng bậc học
giả diễn giảng về Chí Tôn Ca đă nhận xét
như sau:
Đây là một
lỗi lầm tệ hại mà dân Âu Tây thường
mắc phải. Deva là một loại thực thể tâm
linh (spiritual being) và v́ trong ngôn ngữ thông thường,
từ ngữ này cũng được dùng để
chỉ thần linh, nên không được suy ra rằng
chúng ta có và tôn thờ ba trăm ba mươi triệu
thần linh. Dĩ nhiên là chúng ta có thể suy ra rằng các
thực thể này có một
mối tương đồng
nào đó đối với một trong ba upădhis [các nguyên khí căn
bản] tạo ra con người ([214]).
Tôn danh của các thần
linh thuộc một hạng huyền bí nào đó thay
đổi tùy theo mỗi
Đúng vậy, ngoài các
Đấng này ra, cũng như loài Dạ Xoa (Yakshas),
Ganddharvas (Nhạc Thần), Kinnaras v..v…, các Đấng này
cũng đă biệt lập
ngă tính và ở nơi Cảnh Giới Cảm Dục, c̣n
các Devas (Thiên Thần) thực sự, gồm có các Ădityas,
Vairăjas (Thiên Thần), A Tu La và tất cả các Thực
Thể Thiên giới cao cấp mà giáo lư Huyền bí gọi là
Manasvin (Đấng Minh Triết trác tuyệt). Các Ngài ắt
đă biến tất cả mọi người thành ra các
Thực Thể thông tuệ, hữu ngă thức như mong
muốn, nếu các Ngài đă không bị “nguyền rủa”
(“crused”) phải sa vào ṿng sinh sinh hóa hóa, phải tái sinh làm
thế nhân v́ lơ là bổn phận của ḿnh.
100
a. Như
đă nhận xét, Manu có
từ nguyên là man, suy
nghĩ, và v́ thế, nó có nghĩa là một “nhà tư
tưởng”. Rất có thể từ ngữ Bắc
Phạn này đă đẻ ra các từ ngữ mens (Trí) của La Tinh, Menes (“Trí Thống
Soái”-“Master-Mind”) của Ai Cập, monas (đơn vị suy tư hữu thức
cũng như là tâm trí) của Pythagoras, thậm chí cả manas (thể trí), nguyên khí
thứ năm nơi con người nữa; v́ thế, các
H́nh bóng này được gọi là Amănasa (Vô trí).
Đối với Thánh
kinh Brăhmanas, các Pitris, rất linh thiêng, v́ các Ngài là Thủy
Tổ ([225])
của con người – các Đấng Mănushyas đầu
tiên trên Địa Cầu này – người Bà La Môn
thường tế lễ các Ngài khi hạ sinh
được một đứa con. Các Ngài
được tôn trọng hơn và việc tôn thờ các
Ngài lại quan trọng hơn việc tôn thờ Thần
Linh ([226]).
Nay chúng ta thử t́m
hiểu về ư nghĩa triết học nơi nhóm Thủy
Tổ lưỡng phân này.
Các vị Thủy Tổ
được chia làm bảy
Hạng (seven Classes) và
đây cũng là con số thần bí. Hầu hết các Thánh
kinh Purănas đều đồng ư rằng ba hạng trong đó
là những vị Vô sắc tướng (Arũpa), không có
h́nh thể, c̣n bốn hạng kia th́ có H́nh hài thể
chất. Ba hạng trên là hạng trí tuệ và tâm linh, c̣n
bốn hạng dưới thuộc về vật chất
không có trí khôn. Xét về mặt Nội môn, chính các A Tu La tạo
thành ba Hạng Thủy Tổ đầu tiên – “sinh ra trong
Thể Đêm” (“Born in the Body of Night”) – trong khi bốn
hạng khác lại được tạo ra từ “thể
Tranh tối tranh sáng” (“Body of Twilight”). Theo Văyu Purăna, các
Tổ Phụ của họ bị nguyền phải sinh ra
làm những người đầu tiên trên Trần Thế.
Người ta đă cố t́nh trộn lẫn các huyền
thoại với nhau khiến chúng trở thành rất mù
mờ; trong một huyền thoại, các Pitris là các Con của
chư Thiên; trong một huyền thoại khác, các Ngài
lại là các Con của Brahmă; trong khi đó, một huyền
thoại thứ ba lại biến các Ngài thành ra các
Đấng giáo huấn chính các Tổ Phụ của ḿnh.
Chính Tập Đoàn (Host) bốn Hạng vật chất
đă đồng loạt sáng tạo ra con người trên
bảy Vùng.
Nói về bảy Hạng
Pitris, mỗi hạng lại được chia ra làm
bảy, điều này sẽ được các môn sinh xem
là hiển nhiên, trong khi kẻ phàm tục lại chất
vấn. Trong trường phái chúng ta, các “Hạng Hỏa
Thiên Tôn” (the “Fire Dhyănis”), mà chúng ta hoàn toàn có đủ cơ
sở để đồng nhất hóa với các Nhật
Tinh Quân, được gọi là “Tâm” của Đoàn
thể Thiền Định Đế Quân. Nghe nói các Ngài
đă lâm phàm trong Giống dân thứ Ba và hoàn thiện hóa
giống dân đó. Đạo pháp Nội môn đề
cập tới mối liên hệ bí nhiệm giữa bản
chất thất phân Tâm thiên thần này và tim con
người. Mọi cơ quan thể chất, mỗi
chức năng tinh thần và tâm linh của con
người, đều là một phản ánh (tạm
gọi như vậy), một bản sao trên cơi trần
của nguyên kiểu ở bên
trên. Người ta ắt sẽ hỏi tại sao trong
cấu tạo cơ thể con người lại có
một sự trùng lặp kỳ diệu của con số
bảy như vậy? Tại sao tim lại có bốn xoang ở dưới và
ba xoang ở trên, tương ứng một cách kỳ
diệu với cấu tạo thất phân của các nguyên
khí con người (vốn được chia ra thành hai nhóm
trên và dưới)? Tại sao phép phân chia đó cũng
hiện hữu trong nhiều hạng Pitris khác nhau, nhất
là trong các Hỏa Thiên Tôn? Ấy là v́, như đă tŕnh bày,
các Đấng này được biến thành bốn Nguyên
khí (quí vị muốn gọi chúng là ǵ th́ gọi) Hữu
thể chất hay thô trược, và ba Nguyên khí Vô thể
chất tinh anh. Tại sao bảy tùng thần kinh trong cơ
thể lại tỏa ra bảy tia? Tại sao lại có
bảy tùng thần kinh này và tại sao da người
lại có bảy lớp riêng biệt?
101
Giảng lư
dạy:
Sau
khi đă phóng chiếu các H́nh bóng của ḿnh và dùng Hành duy
nhất [Dĩ Thái] tạo nên con người, các vị
Thủy Tổ lại thăng lên cơi Đại Thiên (Mahă-
Loka). Mỗi khi Thế giới lại đổi mới,
các Ngài lại từ cơi ấy giáng lâm một cách
định kỳ để khai sinh ra những
Người mới.
Những
Thể tinh anh ấy vẫn không có trí khôn [Manas] cho
đến khi các Thần Linh (Suras) xuất hiện
để rồi lại được gọi là A Tu La
[Phi Thần].
Có lẽ đó chỉ là “Phi Thần Linh”(“Not-Gods”)
đối với người Bà La Môn, chứ c̣n
đối với nhà Huyền bí học, đó lại là các
“Linh khí” cao siêu nhất. Ấy là v́ các vị Thủy Tổ
vô sắc tướng và có trí tuệ không chịu cấu
tạo nên con người, mà chỉ ban cho y trí khôn, c̣n
bốn hạng hữu thể chất chỉ tạo nên
thể xác.
Điều này đă
được tŕnh bày minh bạch trong nhiều kinh
điển khác nhau của bộ Rig Veda (được xem
như có thẩm quyền nhất đối với một
người Ấn Độ thuộc bất kỳ giáo
phái nào). Trong bộ kinh đó Asuras có nghĩa là “thiêng liêng”
và được xem như là đồng nghĩa với
tinh thần vô thượng; c̣n từ ngữ Asuras theo
nghĩa một “Thần Linh”, được áp dụng cho
Varuna, Indra và nhất là Agni. Thời xưa, ba Vị này là ba
vị Thần cao siêu nhất,
trước khi thần thoại học Bà La Môn đă xuyên
tạc ư nghĩa chân thực của hầu hết mọi
điều trong các Thánh kinh Cổ sơ. Nhưng v́ bí
quyết này đă thất truyền, nên các A Tu La rất
hiếm khi được đề cập tới.
Trong Thánh kinh
Các tác phẩm ngoại môn
cũng đă tŕnh bày rằng “Chư Thần Linh” này không
chịu tạo ra con người chẳng phải v́ các Ngài
quá kiêu ngạo nên không chịu chia sẻ quyền năng
thiêng liêng của Bản Thể ḿnh cho các Con của
Trần Thế, mà v́ các lư do đă nêu trên. Tuy nhiên, ẩn
dụ cứ mải mê với các điều hoang
tưởng vô tận, v́ đâu đâu thần học
cũng lọi dụng điều đó để phản
kháng lại các Đấng Bản Sơ tức các vị
Thượng Đế này, và khiến cho kẻ vô minh và
dễ tin cứ đinh ninh rằng đó là một chân lư.([228])
Đâu phải chỉ có
hệ thống Thiên Chúa giáo mới hạ thấp các
thần linh này thành ra loài Ma Quỷ. Bái Hỏa giáo và cả
Bà La Môn giáo nữa, cũng đă lợi dụng điều
này để làm lung lạc tâm trí thiên hạ. Ngay cả trong
ngoại môn hiển giáo của dân
Tuy nhiên, Nội môn Bí giáo
dạy rằng một phần
ba ([229]) các Đấng Thần Quân –
nghĩa là ba Hạng Thủy Tổ vô sắc tướng
và có trí thông tuệ, “vốn là một linh khí vô h́nh gồm
có các chất trí tuệ
chứ không phải là các chất ngũ hành” – vẫn c̣n
phải đầu thai chuyển kiếp xuống thế
gian ([230]) theo sự chi phối của Định luật Nghiệp
Quả và Tiến Hóa. Một số Đấng này là các Hóa Thân từ các
103
Như
thế, cái gọi là những kẻ “Nổi loạn”
(“Rebels”) chỉ là những vị bị nghiệp quả
bắt buộc phải nếm mùi cay đắng từ
đầu chí cuối, tức là phải tái lâm phàm, biến
những dĩ thái h́nh trơ trơ (do các Thần hạ
đẳng phóng chiếu ra) thành các thực thể biết
suy tư và có trách nhiệm. Tục truyền là một vài
vị đă từ chối v́ họ không có thứ chất
liệu cần thiết – nghĩa là dĩ thái thể - v́
bản chất các Ngài vốn không có h́nh thể. Những
vị khác cũng đă từ chối v́ các Ngài đă
từng là các bậc Cao đồ và các Đạo sĩ
chân tu trong những
C̣n nói về những vị
Tổ Tiên cấu tạo ra họ - tức những vị
Thiên Thần nghiêm chỉnh chấp hành Thiên Luật – các Ngài
hẳn là phải đồng nhất với các
Đấng Nguyệt Tinh Quân tức Pitris-Devatăs, nghĩa là
những Đấng có lửa
sáng tạo vật chất. Các Ngài chỉ có thể sáng
tạo hay đúng hơn là bao bọc các Chơn Thần con
người với những dĩ thái thể của ḿnh,
nhưng các Ngài không thể tạo ra con người theo h́nh
ảnh của ḿnh và giống y như ḿnh. Khi
được giao phó cho việc tạo ra loài động
vật hạ đẳng – nhưng cao siêu hơn ([231])
– các Thần Linh Sáng Tạo
đă tự nhủ: “Con người không được
giống bất cứ kẻ nào trong chúng ta”. Việc
cấu tạo nên h́nh người bằng Bản Thể
thiêng liêng của chính ḿnh có ư nghĩa ẩn tàng là chính các
Ngài đă trở nên Giống dân thứ Nhất, để
chia sớt định mệnh và sự tiến hóa
tương lai của giống dân này. Các Ngài không muốn, chỉ v́ các Ngài không thể ban cho con
người cái điểm linh quang sẽ bùng cháy và nở
rộ thành ra lư trí và ngă thức của con người, v́
các Ngài có nó không phải để cho. Công việc này
được giao cho Cấp đẳng Thiên Thần mà
người Hy Lạp tượng trưng bằng
Prometheus, các vị này chẳng dính dáng ǵ đến thể
xác, nhưng lại có liên hệ khắng khít với Chơn
Nhơn.
104
Mỗi
Hạng các Đấng Sáng Tạo ban cho con người
những ǵ mà các Ngài có thể ban cho: một hạng cấu
tạo h́nh thể bên ngoài, một hạng khác ban cho y cái
bản thể về sau sẽ biến thành Chơn Ngă con
người do sự cố
gắng tự bản thân của đương sự.
Nhưng các Ngài không thể tạo nên con người hoàn
toàn vô tội như chính ḿnh (vô tội, v́ mới chỉ có
các thuộc tính sơ sài, lờ mờ và tất cả
đều hoàn thiện – theo quan điểm con
người – trắng trong, tinh khiết và lạnh như
băng tuyết trinh bạch). Không phấn đấu th́
làm ǵ có công lao. Người ta đâu có dự định là
nhân loại phàm trần sẽ được tạo nên
bởi những vị Thiên Thần của Linh khí Bản
sơ. Do đó, người ta mới bảo rằng các
Ngài đă không chịu sáng tạo và con người phải
cam chịu để cho các vị Sáng tạo thấp
thỏi hơn ([232])
cấu tạo nên. Đến lượt các vị này
cũng chỉ có thể ban cấp những ǵ có sẵn
trong bản chất cá biệt của ḿnh mà thôi chứ
đâu c̣n ǵ hơn nữa. Bị khống chế bởi
định luật trường cửu, các vị Thần
Linh chỉ có thể phóng chiếu ra khỏi ḿnh những h́nh bóng con người có
đôi chút kém tinh anh và kém tâm linh, kém thiêng liêng và ít kiện
toàn hơn các Ngài (bản thân các Ngài vẫn c̣n là h́nh
bóng). Như vậy, Nhân loại đầu tiên là một
bản sao lờ mờ mô phỏng theo các vị Thủy
Tổ của ḿnh; họ hăy c̣n có tính cách quá vật chất
(cho dù trong trạng thái tinh anh) nên không thể
được xem là một cấp đẳng Thần
Linh; họ vẫn c̣n có tính cách quá tâm linh và tinh khiết nên
không thể được xem là NGƯỜI THƯỜNG
(bẩm sinh đă
được phú cho mọi sự toàn thiện tiêu
cực (nirguna). Để được trọn
vẹn như vậy, sự toàn thiện phải
được sinh ra từ sự bất toàn, sự vô
nhiễm phải phát triển từ sự ô trược,
cái trước dùng cái sau như là hiện thể, căn
bản và đối cực. Ánh sáng tuyệt đối là
Bóng tối tuyệt đối và ngược lại. Thật vậy, trong lĩnh
vực Chân lư, không hề có Ánh sáng hoặc Bóng tối.
Thiện và Ác là một cặp, sản phẩm của Không
gian và Thời gian, dưới thế lực của Hăo
Huyền. Phân ly chúng ra bằng cách phân biệt cái này với
cái kia, cả hai đều sẽ bị diệt vong ngay. Không
cái nào tự nó tồn tại được, v́ cái này
phải được cái kia sinh ra để có thể
tự tại tự tồn. Cả hai đều phải
được biết rơ và thẩm định
trước khi biến thành các đối tượng
của tri giác. V́ thế, đối với trí phàm, chúng
phải được phân cách rơ rệt.
Tuy nhiên, v́ sự phân biệt
hăo huyền vẫn tồn tại, nên cần phải có
một Đẳng cấp Thiên Thần Sáng Tạo hạ
đẳng để “tạo ra” các Bầu thế giới
có người ở (nhất là bầu thế giới
của chúng ta) hoặc là để đối phó với
Vật Chất trên cơi trần này. Trong thời hữu
sử, các triết gia phái Ngộ Đạo là những
người đầu tiên nghĩ như vậy và đă
phát sinh ra nhiều hệ thống khác nhau dựa vào
thuyết này. Do đó, trong các cơ sáng tạo của
họ, người ta luôn luôn thấy các Đấng Sáng Tạo chiếm một vị trí
ở ngay chót thang Hiện Tồn Tinh Thần. Đối
với họ, những kẻ tạo ra Địa Cầu
chúng ta và thế nhân được đặt ngay tít mù
giới hạn của Vật Chất hăo huyền. Người ta dạy các tín
đồ suy nghĩ – các Đức Cha Giáo hội rất
căm ghét điều này – rằng không có Đấng Thiêng
Liêng cao cả nào ngoại trừ các Thiên Thần hạ
đẳng ([233]) trong số đó có Jehovah,
Thượng Đế Do Thái giáo, chịu trách nhiệm sáng
tạo ra các giống dân khốn khổ (theo một ư
nghĩa tinh thần đạo đức) đă làm vinh
dự cho bầu hành tinh của chúng ta.
105
Tất cả các
vũ trụ khởi nguyên luận cổ truyền
đều có đề cập tới các nhân loại khác
với hiện nay. Trong Phaedrus, Plato có đề cập
tới một giống người “có cánh”. Trong tác
phẩm Bữa Tiệc của Plato, Aristophanes có đề
cập tới một giống người bán thư bán
hùng và có cơ thể tṛn trĩnh. Trong Pymander, tất
cả giới động vật đều lưỡng
tính. Được biết:
Một ṿng đă
được hoàn thành, cái gút
đă được gỡ ra … và tất cả các con
thú (chúng cũng bán thư bán hùng) được tách ra [phân ly] cùng với con người … [v́] …nhân phải
tạo ra quả trên trần thế ([234]).
Vả lại, trong Popol
Vuh, bản thảo cổ truyền của Quiché – cố tu
sĩ Brasseur de Bourbourg xuất bản – những
người đầu tiên được mô tả như
là một giống dân “có tầm nh́n vô hạn và biết
hết mọi chuyện ngay tức khắc”; như
vậy, họ đă chứng tỏ rằng ḿnh không
phải là thế nhân qua minh triết thiêng liêng của các
Thần Linh mà họ biểu lộ. Khi hiệu đính
những điều quá lố tất yếu trong trí
tưởng tượng của những quảng
đại quần chúng, Giáo Lư Bí Nhiệm đă tŕnh bày các
sự kiện theo đúng như những ǵ được
ghi lại trong các biểu tượng cổ sơ.
b. Những “H́nh bóng” này
được sinh ra, “mỗi cái có màu sắc riêng và
thuộc một loại riêng”, mỗi cái cũng “kém cỏi
hơn Tổ Phụ” tức Đấng sáng tạo ra nó, v́
vị sáng tạo này là một đấng Kiện Toàn so
với đồng loại của ḿnh. Giảng lư giải
thích câu đầu tiên nói về màu da của mỗi giống
người được cấu tạo nên trong cuộc
sinh hóa nêu trên. Trong Pynander, Bảy Người Nguyên Thủy
do Thiên Nhiên tạo ra từ “Thiên Đế”, đều có
các tính chất của Bảy Đấng Chưởng
Quản vốn yêu thương con người (phản ánh
và tổng hợp của chính họ).
Trong các huyền thoại
Bắc Âu, người ta nhận thấy Asgard (chỗ trú
của chư Thiên) cũng như chính các Ases là Cảnh
giới huyền nhiệm và các nhân vật được
thêu dệt thành ra các thần thoại b́nh dân, điều
này chẳng khác nào Giáo Lư Bí Nhiệm của chúng ta. Chúng ta
cũng thấy chúng trong kinh Veda, kinh Purănas, các Thánh kinh Bái
Hỏa giáo và kinh Kabalah. Như vậy, các Ases của
Bắc Âu (các Đấng chưởng quản Thế
giới trước Thế giới chúng ta, danh xưng
của các Ngài có nghĩa đen là “Các cột trụ
chống đỡ Thế giới”) lại đồng
nhất
106
với các
Đấng Cosmocratores của Hy Lạp, bảy “Công Tŕnh
Sư” hay bảy Đấng Chủ Quản của Pymander,
bảy Thánh Hiền và Thủy Tổ của Ấn
Độ, bảy Thần Linh và Vong Linh của người Chaldea, bảy
Sephiroth (do Tam Nguyên thượng tổng hợp lại)
của Thánh kinh Kabalah, thậm chí cả bảy hành tinh
Thượng Đế của các nhà Huyền học Thiên
Chúa giáo nữa. Các Ases tạo ra trời, đất,
biển, mây mưa, toàn bộ thế giới hữu h́nh, bằng
tàn dư của người khổng lồ Ymir đă
bị giết chết; song các Ngài không tạo ra CON NGƯỜI, mà chỉ tạo ra h́nh hài
của y bằng cây Tần b́ (Ask or Ash tree). Chính Odin đă
ban cho y sự sống và linh hồn, sau khi Lodur đă ban
cho y máu xương; cuối
cùng, chính Honir đă cấp cho y trí khôn (Manas) và các giác quan tri
thức ([235]).
Cây Ask của Bắc Âu, cây Tần b́ của Hesiod (những
người thuộc thời đại đồ
đồng – Căn chủng thứ Ba – thoát thai từ
đó) và cây Tsité trong
Pippala là trái
ngọt của cái cây mà các thần linh yêu thích khoa học ngự trên đó,
nơi mà chư thần linh tạo ra tất cả các phép
lạ.
Điều này chẳng khác
nào “Con Rắn” ngự nơi cây Gogard trong đám cành lá sum
suê của tất cả các Cây Thế gian này. Nhưng trong
khi Cây Đại Thiên Địa là Con Rắn Vĩnh
Cửu và chính Minh Triết tuyệt đối, th́ những
Con Rắn ngự nơi cây Tiểu Thiên Địa, lại
là các Con Rắn Minh Triết Biểu Lộ. Một đàng
là Nhất Nguyên và Tổng Thể; một đàng là các
bộ phận phản ánh
của nó. Cái “Cây” dĩ nhiên chính là con người, c̣n con
rắn ngự nơi mỗi cây chính là Trí Tuệ hữu
thức, liên kết Tinh Thần với Vật Chất,
Đất với Trời.
107
Đâu
đâu cũng đều như thế cả. Các Quyền
năng Sáng tạo cấu
thành con người, nhưng không đạt
được mục tiêu tối hậu của ḿnh.
Tất cả các Đấng Cao Cả này đều ra
sức phú cho con người Tinh Thần hữu thức
bất tử, chỉ phản ánh nơi thể trí không thôi.
Họ đă thất bại, và người ta đă tŕnh bày
là tất cả các Ngài đều đă bị trừng
phạt v́ đă thất bại, nếu chẳng phải là
v́ mới mưu toan. H́nh phạt này có bản chất
như thế nào? Đó là bản án cấm cố trong
hạ giới (tức Trái
Đất, Bầu hành tinh trọng
trược nhất Dăy hành tinh) trong “Thời gian vô cùng”-
nghĩa là kỳ gian của
Các biểu tượng cao
siêu khác cũng cùng chung số phận.
108
Các
ngọn lửa của Surtur đă không hủy diệt
họ, ḍng nước lũ cuồn cuộn [của nhiều
trận lụt] cũng chưa hủy diệt
được họ… Có… các con của Thần Thor. Họ
mang theo Miolnir, chẳng phải như là một vũ khí, mà
như là khí cụ [cây búa] để hiến dâng trời
mới và đất mới. ([239])
Các ư nghĩa của nó
thật là vô số! Trong công tác đại
thiên địa, chiếc “BÚA SÁNG TẠO”với bốn cách uốn
thẳng góc với nhau, nhằm nói tới chuyển động liên tục và sự xoay ṿng
của Vũ Trụ Thần lực vô h́nh. Trong công tŕnh
của Vũ Trụ biểu lộ và Địa Cầu, nó
nhằm nói tới sự quay trong các Chu kỳ Thời gian
của các trục và vành xích đạo của thế
giới; hai đường tạo thành chữ Vạn nghĩa là Tinh Thần và Vật
Chất, bốn cái mốc gợi ra chuyển động trong các chu kỳ xoay ṿng. Khi
được áp dụng vào tiểu thiên địa, Con
Người, nó cho thấy y là một mối liên kết
giữa Trời và Đất; bàn tay phải đưa cao
lên đầu một cánh tay duỗi ngang, bàn tay trái chỉ
xuống đất. Trong Ngọc Bích Thần Biểu
của Hermes, bàn tay phải giơ cao lên có khắc chữ
“Dung giải”(“Solve”), c̣n bàn tay trái có khắc chữ “Đông
kết”(“Coagula”). Nó đồng thời là một dấu
hiệu Luyện kim đan, Vũ trụ khởi nguyên
luận, Nhân loại học và Pháp thuật; ư nghĩa
nội tại của nó có tới bảy ch́a khóa. Cũng chẳng
có ǵ là quá đáng nếu bảo rằng biểu
tượng kư liên hợp của dấu hiệu
đại đồng thế giới và gợi ư nhất
bao hàm ch́a khóa giải bảy đại bí nhiệm Vũ Trụ.
Được khai sinh ra trong các quan niệm huyền
học của những người Ăryan cổ sơ và
được họ đặt ngay lúc khởi đầu
chu kỳ vĩnh cửu, trên đầu con rắn Ananta, nó
đă bị diệt vong về mặt tinh thần khi các tín
đồ thần nhân đồng h́nh thời Trung cổ
thuyết minh nó theo lối kinh viện. Đó là Thủy và
109
Các bài ca của ba
Nữ Thần Bắc Âu có tính cách tiên tri biết là
dường nào! Khi bay lượn xung quanh cái tổ
bằng pha lê bên dưới ḍng sông đang lững lờ
trôi, các con quạ của Odin th́ thầm kể cho ba Nữ
Thần này nghe câu chuyện quá khứ và tương lai.
Tất cả các bài ca đều được ghi lại
trong “Minh Triết Thánh Thư”, có nhiều tài liệu đă
bị thất truyền nhưng một số vẫn c̣n
được lưu truyền cho tới nay; dưới
h́nh thức ẩn dụ thi ca, chúng lặp lại các giáo lư
của các Thời đại Cổ sơ. Ở đây, xin
tŕnh bày tóm lược đoạn trích dẫn trong “Asgard và
Chư Thiên” của Tiến sĩ Wagner, liên quan tới
sự “Đổi Đời” (“Renewal of the World”), đó là
lời tiên tri về Giống dân thứ Bảy của
cuộc Tuần Hoàn hiện nay được tŕnh bày
dưới dạng quá khứ.
Miolnir đă làm tṛn bổn
phận của ḿnh trong cuộc Tuần Hoàn này và:
Trên Hoạt
trường Ida, hoạt trường phục sinh [dành cho
cuộc Tuần Hoàn thứ Năm], các con của chư
thần linh cao cấp tụ họp lại; tổ phụ
của họ [Chơn Ngă của tất cả các kiếp
quá khứ của họ] lại xuất lộ nơi
họ. Họ cùng nhau nói về Quá khứ và
Kẻ nào biết các giáo
lư của Minh Triết Nội Môn (mặc dù đến nay,
nó chỉ mới được phác họa một cách
bất toan, sẽ thấy rơ được ẩn dụ
bao hàm trong đoạn trên.
Độc giả sẽ
hiểu ư nghĩa triết học của nó nhiều hơn
nữa nếu y suy đi gẫm lại thần thoại
về Prometheus. Nó sẽ được xem xét nhiều
hơn nữa dưới ánh sáng của Pramantha [bị
khuấy đảo] của Ấn Độ. Một vài nhà
Đông phương học đă làm bại hoại nó thành
ra một biểu tượng thuần túy sinh lư và chỉ
xét đến lửa trần thế không thôi. Lối
thuyết minh của họ xúc phạm tới mọi tôn
giáo (kể cả Thiên Chúa giáo); như thế bí nhiệm
vĩ đại nhất của Thiên Chúa giáo đă bị
nhận ch́m vào trong Vật Chất. Sự “cọ xát”
của Pramantha [que nhóm lửa] và Arani ([241])
thiêng liêng chỉ có thể được gợi ra theo h́nh
ảnh này đối với quan niệm thô tục của
các nhà Duy vật Đức [chẳng có ǵ đồi
bại hơn họ]. Đúng là Hài nhi Thánh thiện (the
Divine Babe), Agni đối với Giống dân nói tiếng
Bắc Phạn; Ngài biến thành Ignis đối với
người La Tinh, sinh ra do sự phối hợp Pramantha
với Arani – chữ Vạn- trong lễ tế thần.
Nhưng sao thế? Tvashtri (Vishvakarman) là “họa sĩ và thợ mộc thiêng
110
liêng” ([242])
và cũng là Cha của
Tạo” trong kinh Veda. Biểu
tượng xa xưa và thiêng liêng đến nỗi mà
hiếm có cuộc khai quật nào được thực
hiện bên cạnh các đô thị cổ mà lại không t́m
thấy nó. Tiến sĩ Schliemann t́m thấy một số
đĩa bằng đất sét tên là fusaieles, bên dưới các tàn tích của đô
thị
và
đều
được khai quật lên rất nhiều; sự
hiện diện của chúng, một lần nữa
chứng tỏ rằng người dân ở
c. Như đă
được giải thích Chhăyă là h́nh bóng tinh anh. Nó có
nghĩa như vậy trong các tác phẩm tiếng Bắc
Phạn. Như vậy, người ta tŕnh bày là Sanjnă (Linh
Thức, phu nhân của Mặt Trời, Sũrya) đă mai
danh ẩn tích trong thâm sơn cùng cốc và để
lại cho chồng H́nh bóng của ḿnh.
16. CÁC ĐẤNG MĂNUSHYA ([243])
SINH RA NHƯ THẾ NÀO? CÁC ĐẤNG BÀN CỔ CÓ TRÍ
TUỆ ĐƯỢC TẠO RA NHƯ THẾ NÀO? (a) CÁC
TỪ PHỤ ([244])
CẦU CỨU TỚI LỬA CỦA CHÍNH M̀NH ([245]),
ĐÓ LÀ LỬA CHÁY TRONG ĐỊA CẦU. CHƠN LINH TRÁI
ĐẤT CẦU CỨU TỚI LỬA MẶT TRỜI ([246])
. BA THỨ NÀY ([247])
a. Ở đây, lại
cần có một điều giải thích dưới ánh
sáng và với sự giúp đỡ của các Thánh kinh
ngoại môn, cộng thêm các Thánh kinh Nội môn. Trong câu này,
các từ ngữ Mănushyas (Con người) và Manus có nghĩa
tương đương với từ ngữ
111
b. Mưu toan
này cũng là một thất bại nữa. Nó ngụ ư là
những toan tính của thiên nhiên thuần vật chất
để cấu tạo nên một con thú (mà không có
ngoại viện) cũng đă thất bại thê thảm
rồi chớ đừng nói chi tới việc cấu
tạo con người. Ấy là v́ các “Từ Phụ”,
tức các Thiên Thần Hạ Đẳng (the
Chúng ta sẽ thấy
Đoạn kinh này có ngụ ư rất sâu xa. Nó giải thích
được bí mật và lấp bằng được
hố cách biệt giữa Nguyên khí Phú linh nơi con
người – Linh Ngă tức Chơn Thần Con Người
– và Chơn Thần Động Vật, cả hai cũng là
một và như nhau, tuy rằng Chơn Thần con
người có hàm súc trí tuệ thiêng liêng, c̣n Chơn
Thần động vật chỉ hàm súc bản năng mà
thôi. Làm sao giải thích được sự dị
biệt đó và sự hiện diện của Linh Ngă
ấy nơi con người ?
Giảng lư dạy :
Các
Phân Thân của TOÀN LINH TRÍ
thúc đẩy Cây nhân loại. Các Ngài là những ḍng Nước
rơi xuống mảnh đất cằn cỗi của
sự sống tiềm tàng và Điểm Linh Quang làm
sống động Con thú người. Các Ngài là những
Đấng cai quản Sự sống Toàn linh Trường
cửu…Thoạt đầu [trong Giống dân thứ Hai],
một vài [Đấng Tinh Quân] chỉ truyền thụ tinh
hoa của ḿnh cho con người (Mănushya), c̣n một vài
vị lại lấy con người làm nơi trú ngụ.
Điều này chứng
tỏ rằng không phải tất cả mọi
người đều là hiện thân của các “Kẻ
Nổi Loạn Thiêng Liêng”, mà chỉ có một số ít thôi.
Kỳ dư, chỉ có Nguyên khí thứ năm
được khích động bởi điểm linh quang
được truyền vào đó. Điều này giải
thích sự dị biệt lớn lao giữa các năng
lực trí tuệ của con người và của các
giống dân. Nếu nói một cách bóng bẩy, các “Con
của Toàn Linh Trí” không đốt giai đoạn mà bỏ
qua các cơi trung gian trong khi bị thúc đẩy tiến
tới do sự tự do của trí tuệ, th́ con
người thú dục có lẽ không bao giờ vượt
lên khỏi mức độ vật chất thấp
thỏi của thế gian và đạt tới mục
đích cùng tột do sự công phu cố gắng tự
bản thân. Cuộc hành hương tuần hoàn có lẽ
đă phải được thực hiện trải qua
tất cả những cảnh giới sinh tồn trong
trạng thái bán vô thức, nếu không muốn nói là hoàn toàn
vô thức (như trong trường hợp loài động
vật). Chính v́ sinh hoạt trí tuệ phản kháng lại
sự bất động bệnh hoạn của tinh thần
thuần túy, nên chúng ta mới được như ngày nay
(tức là những người hữu ngă thức, biết
suy tư, có sẵn các năng lực và thuộc tính –
thiện cũng như ác – của chư Thần Linh). V́
thế, những KẺ
NỔI LOẠN là các
Đấng Cứu Rỗi chúng ta. Bậc triết gia
cứ thử suy gẫm kỹ về điều này đi,
rồi một số điều bí hiểm sẽ trở
nên sáng tỏ đối với y. Chỉ có hấp lực
của những điều tương phản mới có
thể kết hợp hai đối cực – Tinh Thần và
Vật Chất – lại với nhau trên Trần Thế, nung
nấu chúng trong ngọn lửa của kinh nghiệm
hữu ngă thức và đau khổ, hợp nhất chúng lại
trong vô cùng tận. Điều này sẽ tiết lộ ư
nghĩa của nhiều ẩn dụ mà đến nay không
ai hiểu nổi và đă bị gọi một cách điên
rồ là “các chuyện hoang đường”.([250])
112
Xin bắt
đầu với lời phát biểu trong Pymander. Nó
giải thích rằng Thiên Đế, “Con của Từ
Phụ” (vốn có dự phần vào bản chất của
Bảy Đấng Chưởng Quản hoặc Sáng
Tạo ra Thế Giới Vật Chất).
Nh́n trộm qua
sự hài ḥa, đột phá được [Bảy] Ṿng
[Lửa], thế là cũng đủ bộc lộ
được bản chất thấp hèn ([251]).
Nó giải thích mọi câu
thơ trong câu chuyện Hermes cũng như ẩn dụ
về Prometheus của người Hy Lạp. Quan trọng
hơn hết là việc nó giải thích nhiều câu chuyện
về các “Trận chiến trên Trời”, kể cả
trận chiến trong Thánh Thư Khải Huyền liên quan
đến tín điều của Thiên Chúa giáo về các
“Thiên Thần Sa Đọa”. Nó giải thích sự “nổi
loạn” cảu các Thiên Thần xưa nhất và cao siêu
nhất, cũng như là ư nghĩa của việc họ
bị ném từ trên Thiên Đàng xuống Địa
Ngục thăm thẳm khôn ḍ tức là Vật Chất.
Thậm chí nó c̣n giải quyết được mối
băn khoăn của các nhà nghiên cứu Assyria, họ
đă bày tỏ điều thắc mắc của ḿnh qua
ông George Smith đă quá cố như sau :
Về phần
[sự nổi loạn] này, thoạt tiên, tôi cho rằng
đó là cuộc chiến tranh với các quyền năng
gian tà trước khi có
sự Sáng Tạo; nay tôi cho rằng nó tiếp nối câu
chuyện về sự Sa đọa ([252]).
Cũng trong các tác phẩm
đó,([253])
ông George Smith có tŕnh bày một h́nh chạm trổ (trên
một ống H́nh trụ có khắc chữ nêm của
người
Trong Sáng Thế
Kư theo dân
113
Đây là
một sai lầm. Con Rồng là nguyên khí hùng, tức Phallus
được nhân cách hóa hay đúng hơn là thú dục hóa; c̣n Tiamat,
“hiện thân của tinh thần hỗn mang” của Thái Uyên
(
Rơ ràng là Con
Rồng cũng không thoát khỏi số phận bị
nguyền rủa, c̣n các thần linh [các Đấng Elohim
ghen tức khi thấy đến lượt con
người – cũng như tất cả các con thú –
bằng đất sét biến thành một Đấng Sáng
Tạo] liền cầu mong cho mọi điều ác cứ
việc trút xuống đầu con người. Càng hiểu
biết th́ y càng chuốc lấy tai họa, gia đ́nh y
sẽ bị xào xáo, y sẽ rên xiết dưới ách
thống trị của một bạo chúa, y sẽ chọc
giận chư thiên … y sẽ lâm vào t́nh trạng bất
đắc chí, y sẽ hoài hơi mà cầu nguyện… y
sẽ phạm tội trong tương lai. Chắc chắn
là các ḍng sau nữa sẽ tiếp nối các đề
mục này, nhưng xin tạm ngưng câu chuyện ở
đây. Nó chỉ sẽ bắt đầu lại ở
chỗ chư Thiên đang chuẩn bị chiến
đấu chống lại thế lực tà vạy do Tiamat
(nữ nhân) cầm đầu. ([255])
Trong Sáng Thế Kư,
để bao che cho thuyết độc thần, phần
tường thuật này đă bị cắt xén đi.
Nhưng thật là một chính sách sai lầm – chắc chắn
là v́ sợ hăi, v́ chiếu cố đến tôn giáo
đầy dẫy giáo điều mê tín dị đoan – khi
chúng ta ra sức dùng Sáng Thế Kư để phục hồi
các áng văn của dân Chadea, trong khi chính các áng văn Chaldea
mới dùng để giải thích Sáng Thế Kư (vốn
cận đại hơn nhiều so với bất cứ
áng văn nào).
17. LINH KHÍ ([256])
CẦN CÓ MỘT H̀NH HÀI; CÁC TỪ PHỤ BAN CẤP CHO NÓ.
LINH KHÍ CẦN CÓ MỘT THỂ THÔ TRƯỢC; ĐỊA
CẦU ĐÀO LUYỆN RA NÓ. LINH KHÍ CẦN CÓ SINH KHÍ; CÁC
ĐẤNG THẦN LINH THÁI DƯƠNG PHÀ NÓ VÀO TRONG H̀NH HÀI.
LINH KHÍ CẦN CÓ MỘT CHIẾC GƯƠNG PHẢN
CHIẾU CƠ THỂ ([257]);
CÁC THẦN QUÂN PHÁN: “CHÚNG TA SẼ LẤY CÁI CỦA M̀NH BAN
CHO NÓ !” LINH KHÍ CẦN CÓ CẢM DỤC THỂ ([258]);
CÁC ĐẤNG HÚT CẠN NƯỚC ([259])
BẢO: “NÓ SẼ CÓ”. NHƯNG LINH KHÍ CẦN CÓ MỘT
THỂ TRÍ ĐỂ QUÁN THÔNG VŨ
V́ câu này đă được
giải thích rốt ráo trong phần Giảng lư của ĐOẠN KINH 5, nên nay chúng ta cần nói thêm
vài điều là đủ. “Cha” của con người
thể chất nguyên thủy (tức là xác thân của y) là
Nguyên sinh khí Điện lực của Mặt Trời.
Mặt Trăng là “Mẹ” y, v́ trong Mặt Trăng có cái
năng lực huyền bí có tác dụng quyết
định đối với cơ năng thụ thai và
sinh sản. Năng lực của mặt trăng
điều chỉnh cơ năng này cũng như là
ảnh hưởng đến sự tăng trưởng
của loài động vật và thực vật. Trong
trường hợp này, “Phong” tức Dĩ Thái tiêu biểu
cho tác nhân truyền đạt các ảnh hưởng nêu
trên từ hai vầng nhật nguyệt xuống và ban
rải cho thế gian. Nó được mệnh danh là
“Điều dưỡng viên” (“Nurse”) ([264]);
c̣n “Lửa Tinh Thần” chỉ biến con người thành
một thực thể thiêng liêng và hoàn thiện.
114
Thế
th́, thứ “Lửa Tinh Thần” ấy là cái ǵ? Trong khoa
Luyện kim đan, nó chính là Hydrogen nói chung, c̣n trong Nội
môn Bí giáo, nó lại là phân thân hay Tia sáng phát xuất từ Thực Tượng,
“Đấng Thần Quân của Nguyên tố Bản sơ”.
Hydrogen chỉ là một chất khí trên cơi hồng trần.
Nhưng ngay cả trong hóa học, hydrogen cũng là dạng
vật chất duy nhất tồn tại – theo ư nghĩa mà
chúng ta gán cho từ ngữ này – và hầu như lúc nào
cũng liên can tới nguyên h́nh
chất, tức là Layam.
Có thể nói, nó là cha đẻ, hay đúng hơn là Upădhi
(căn bản) của cả Phong lẫn Thủy và là
“hỏa, phong và thủy”, thật vậy, đó là ba
phương diện của một
duy nhất; v́ thế mới có tam vị nhất thể
của hóa học và khoa luyện kim đan. Trong cơi biểu
lộ hay cơi Vật Chất, nó là biểu tượng
ngoại cảnh và phân thân vật chất của Thực
Thể nội giới thuần tâm linh trong cơi Thực
Tượng vô vi. Godfrey Higgins đă so sánh và đồng
nhất hóa hydrogen với TO ON, “Đấng Độc Tôn”
của người Hy Lạp. Ấy là v́ ông đă nhận
thấy rằng Hydrogen không phải
là nước, mặc dù nó sản sinh ra nước; hydrogen
không phải là lửa, mặc dù nó biểu lộ hay
tạo ra lửa; nó cũng chẳng phải là không khí,
mặc dù không khí có thể xem
như là sản phẩm của sự kết hợp
nước và lửa (v́ chúng ta thấy hydrogen trong hành
thủy của bầu khí quyển). Nó đúng là tam vị
nhất thể.
Nếu nghiên cứu thần
phổ học (theogony) đối chiếu, người ta
sẽ dễ dàng thấy rằng bí nhiệm về các
loại “Lửa” này được dạy trong các Bí pháp
của mọi dân tộc thời xưa, nhất là ở
115
Những
điều nêu trên toàn là các bí nhiệm phải
được để cho môn sinh tự lực dùng
trực giác giải quyết, hơn là được mô
tả tỉ mỉ. Nếu muốn biết một
điều bí mật nào đó về các LINH HỎA, y cứ việc tham khảo
các tác phẩm của các nhà Luyện kim đan, họ đă
tỏ ra chí lư khi liên kết Lửa với mọi Hành
(chẳng khác nào các nhà Huyền bí học). Độc
giả phải nhớ rằng Cổ nhân xem tôn giáo và các
ngành khoa học tự nhiên cùng với triết học,
như là có liên hệ mật thiết và bất khả phân
ly với nhau. Aesculapius vừa là Con của
Một công lư Huyền bí
dạy: “Lửa lỏng phát
xuất từ Lửa cố kết.
Ṿng
tṛn là TƯ
TƯỞNG, Đường kính hoặc
đường thẳng là Huyền Âm, c̣n sự kết
hợp của chúng chính là SỰ
SỐNG”.
Trong kinh Kabalah,
“Ta là Tư
Tưởng của con, Thần Linh của con, kỳ
cựu hơn Nguyên khí Ẩm ướt, Ánh Sáng tỏa chiếu trong Bóng Tối [Hỗn
Mang] và Huyền Âm chói lọi của Thượng
Đế [Âm thanh] của Con của Đấng Thánh Linh. ([267])
116
Như
thế, chúng ta phải thâm cứu “Cơ Sáng Tạo Chủ
Yếu” trước khi có thể hiểu được
Cơ Sáng Tạo Thứ Yếu. Giống dân thứ
nhất bao hàm ba Hành sơ
cấp và c̣n chưa có
Hỏa; ấy là v́ đối với Cổ nhân, sự
tiến hóa của con người và sự tăng
trưởng của các giác quan vật chất và tinh
thần của y đều phụ thuộc vào sự
tiến hóa của Ngũ Hành trên cảnh giới của
Vũ Trụ của Địa Cầu này. Tất cả
đều xuất phát từ Prabhavăpyaya, sự tiến hóa
của các nguyên khí sáng tạo và cảm dục nơi
chư Thiên (thậm chí của cả cái gọi là
Đấng Thánh Linh sáng tạo nữa). Chúng ta thấy
điều này nơi các tôn danh của
Sau đây là bảng kê
sự tương quan song hành trong cơ tiến hóa của
Ngũ Hành và Ngũ quan, tức là trong Phàm Nhơn vũ
trụ (tức “Tinh Thần”) và phàm nhơn hữu hoại.
1. Dĩ Thái ....................... Thính giác …Thinh.
2. Không khí .................. Xúc giác ....... Thinh và Xúc.
3. Lửa hay Ánh sáng ...... Thị giác ...... Thinh, Xúc và Sắc
4. Nước .......................... Vị giác ........ Thanh, Xúc, Sắc, Vị .
5. Đất ............................ Khứu giác ... Thinh, Xúc, Sắc, Vị và
Hương.
Như đă thấy
ở trên, mỗi Nguyên tố thêm vào những đặc
tính riêng của nó những đặc tính của nguyên
tố trước đó, cũng như mỗi Giống dân
lại có thêm giác quan đặc biệt của Giống dân
trước đó. Điều này cũng áp dụng cho
sự “sáng tạo” (“creation”) thất phân của con người, y vốn tiến
hóa tuần tự trong bảy giai đoạn và cũng noi
theo các nguyên tắc trên.
117
Như
vậy, trong khi các Thần Linh tức Thiền Định
Đế Quân (Thiên Thần) xuất phát từ Nguyên nhân
Bản sơ – nó không phải là Thái Cực Thượng
Đế, v́ Thái Cực Thượng Đế (
Sau khi đă được
gọi là Brahmă vĩnh cửu, bất
khả tri (trung tính hay trừu tượng),
Pundarĩkăksha ([269])
“vinh quang tối cao và bất diệt”, thay v́ là
Sadaika-rũpa, Thế giới thường trụ, Ngài
lại được tôn xưng là Ekănekarũpa, “vừa
đơn thuần vừa đa tạp”, Ngài (vốn là
Nguyên nhân) lại ḥa nhập vào hậu quả của chính
ḿnh. Nếu sắp theo thứ tự thấp dần
của Nội môn Bí giáo, các danh xưng của Ngài như
sau:
Mahăpurusha hay Paramătman………. |
Tinh Thần Tối Cao. |
Atman hay Purvaja (Protologos) ……... |
Tinh thần sống động
của Thiên Nhiên. |
Indriyătman hay Hrishĩkesha ………… |
Linh Hồn thiêng liêng hay có trí khôn
(hợp nhất với giác quan) |
Bhũtătman .……………………………. |
Cái Sống Động hay Linh
Hồn của Đời sống. |
Kshetrajna ……………………………… |
Linh Hồn mang xác thịt hay
Vũ Trụ của Tinh Thần và Vật Chất. |
Bhrăntidarshanatah ……………………. |
Bị nhận thức sai lầm
– Vũ Trụ Vật Chất ([270]). |
Định nghĩa
cuối cùng là một điều ǵ tri giác hoặc quan
niệm ra thành một h́nh hài vật chất (do sự
lĩnh hội sai lầm), nhưng thật ra chỉ là Hăo
Huyền, chẳng khác nào vạn vật trong thế
giới vật chất của chúng ta.
Sự tiến hóa của các
bản thể Thiền Định Đế Quân diễn
ra hoàn toàn tương tự như các thuộc tính của
Đấng Brahmă này cả trong thế giới tinh thần
lẫn trong thế giới vật chất. Đến
lượt các đặc tính của các Bản thể
Thiền Định Đế Quân lại được
phản ánh nơi con người xét chung và nơi từng
nguyên khí của y. Theo một
tŕnh tự tiến triển như nhau, mỗi Bản
thể Thiền Định Đế Quân lại bao hàm
một phần của nhiều loại “Lửa” và Hành khác
nhau.
ĐOẠN
KINH 5
SỰ TIẾN HÓA CỦA GIỐNG DÂN
THỨ HAI
(THE EVOLUTION OF THE SECOND RACE)
18. Các con của
Yoga. 19. Giống dân thứ Hai Vô giới tính. 20. Các Con
của “các Con Tranh tối tranh sáng”. 21. “H́nh Bóng”, tức
Thể Dĩ Thái (Phách) rút vào bên trong và con người phát
triển một Thể Xác.
18. GIỐNG DÂN THỨ NHẤT LÀ CON CỦA YOGA. CÁC CON CỦA CHÚNG LÀ CON CỦA CHA VÀNG VÀ MẸ TRẮNG.
Trong thiên b́nh luận, câu
này được diễn dịch như sau:
Các
con của Mặt Trời và Mặt Trăng, con thơ
của Dĩ Thái [hay của “Gió”] (a)…
Họ
là h́nh bóng của các H́nh Bóng của các Đấng (b).
Những h́nh bóng ấy nới rộng thêm. Các Tinh Linh
của Trái Đất mặc áo cho chúng; Thần Thái
Dương sưởi ấm cho chúng [tức là bảo
tồn Lửa Sinh Khí trong những H́nh thể vật
chất mới sinh]. Chơn Thần con người có sự
sống nhưng không có sự hiểu biết. Chúng không có
Lửa hay Nước riêng của chúng (c).
a. Về điểm này,
chúng ta hăy nhớ chuyện Smaragdine Tablet của Hermes mà ư
nghĩa ẩn giấu có bảy ch́a khóa để hiểu
nó. Các môn sinh đều thừa biết ư nghĩa thiên
văn hóa học của nó, bây giờ có thể tŕnh bày ư
nghĩa nhân loại học. “Vật Duy Nhất” nêu ra trong
đó là Con Người. Có chỗ nói:
Cha của
Vật Duy Nhất ấy là Mặt trời; Mẹ nó là
Mặt Trăng; Gió mang nó ở trong ḷng, và Trái Đất
nuôi dưỡng nó.
Trong lời giải thích
Nội môn của câu này có thêm: “và Lửa Tâm Linh là Thầy của nó”.
Lửa này là Chơn Ngă
tức là Linh Hồn luôn luôn đầu thai chuyển kiếp
dưới ảnh hưởng của những Phàm Ngă
thấp kém, những phàm ngă này luôn luôn đổi mới
với mỗi kiếp tái sinh, có đầy dẫy sự
khát vọng (Tanha) hay ḷng khao khát muốn sống. Thật là
một định luật lạ lùng trong Thiên Nhiên mà
thấy rằng trên cơi thấp, tính chất tâm linh cao
cả lại bị lệ thuộc phần tính chất
thấp hèn. Trừ phi Chơn Ngă t́m nơi ẩn trú trong
Tinh Thần linh diệu (Ătman) và hoàn toàn thể nhập
với tinh hoa của nó, cái phàm ngă luôn luôn t́m cách thúc
đẩy nó đi vào con đường đau khổ.
Điều này không thể hoàn toàn hiểu rơ, trừ phi
người học đạo đă quen thuộc với
sự bí nhiệm của cơ tiến hóa, nó diễn
tiến trên ba con đường tâm linh: Tâm Linh, Tinh
Thần và Thể Chất.
Động cơ thúc
đẩy định luật tiến hóa hành động,
tức là bắt buộc sự tăng trưởng và phát
triển nơi con người đi đến mục
đích toàn thiện là (a) Chơn Thần hay là cái ǵ tác
động một cách vô thức trong điểm Chơn
Thần xuyên qua Sức mạnh nội tại; và (b) Hạ
thể hay Phàm Ngă. V́ nó
vốn đồng thể với Đại Ngă của
vũ trụ, v́ một phần của Đại Ngă
vốn nội tại và tiềm ẩn bên trong, nên
điểm Chơn Thần được TOÀN NĂNG trên cơi Vô sắc
tướng. Trên cơi trần, tinh hoa của nó, v́ quá tinh anh
thuần khiết, nên vẫn có tiềm lực toàn năng,
nhưng trên phương diện cá biệt, nó hoàn toàn bất
động, cũng ví như những tia sáng Mặt
Trời, tuy có góp phần ảnh hưởng vào sự
tăng trưởng của cây cỏ, nhưng không lựa
chọn riêng một cây nào để ban phát ánh nắng. Hăy
thử bứng cây đó lên và đem nó trồng ở
một mảnh đất mà ánh sáng mặt trời không
rọi tới được, th́ ánh sáng này sẽ không
ảnh hưởng tới cái cây. Ătman cũng thế,
trừ phi Chơn Ngă hướng về ngôi Mặt Trời
của nó (tức điểm Chơn Thần), th́ Phàm Ngă sẽ tung hoành tác
hại trong mọi trường hợp. Đó là v́ Phàm Ngă,
với thái độ ích
119
kỷ mănh
liệt và ḷng khao khát muốn sống một đời
sống vô ư nghĩa (Tanha), chính nó đă xây đắp nên
h́nh hài giam hăm linh hồn, như Đức Thích Ca đă nói
trong kinh Pháp Cú (Dhammapăda) ([271]).
Do đó mới có câu nói các Tinh Linh của Trái Đất
mặc áo cho các h́nh bóng và phóng đại chúng. Đẩu
tinh thể của con người (the human Astral Selves)
tạm thời thuộc về loại các “Tinh Linh” này, và
chúng tạo nên cái thể xác con người để cho
Chơn Thần và cái nguyên khí có ư thức, tức là Thể
Trí (Manas) dùng làm nơi nương tựa, trú ngụ.
Nhưng các Thần Linh của “Mặt Trời” sưởi
ấm các H́nh Bóng (Shadows). Điều này thật là đúng
theo ư nghĩa vật chất, c̣n theo ư nghĩa siêu h́nh, hay
trên b́nh diện tâm linh và tinh thần, th́ cũng đúng là
chỉ có Ătman sưởi
ấm Con người Nội tại (the
Chỉ cần người ta
hiểu được ư nghĩa của các ẩn ngôn bí
hiểm th́ sẽ thấy toàn bộ hệ thống ở
trong Số Mục Thánh Thư của dân
120
Các Ngài ngự nơi (hoặc
làm linh hoạt) cơi này với vai tṛ là các Đấng thông
tuệ [và các thực thể] bản thể, c̣n các vị
tương hệ và các vị đối lư với các Ngài
lại ngự nơi cơi khả trú thứ ba, tên là Asiah.
Các vị “đối
nghịch” (“contraries”) này được gọi là các “Ma
h́nh” (“Shells”) hay Ma Quỷ ([273]);
họ ở nơi bảy vùng tên là Sheba Hachaloth; đó
chỉ là bảy Châu của Địa Cầu ([274]).
Trong kinh Kaba -lah, chúa tể của họ được
gọi là Samael, Tử Thần, cũng là Quỷ
Vương, Con Rắn Cám Dỗ. Nhưng Quỷ
Vương này cũng là Lucifer, Thiên Thần Ánh sáng chói
lọi, mang lại Sự Sống và Ánh Sáng, “Linh Hồn” xa
ĺa các Đấng Thiêng Liêng, các Thiên Thần khác và (trong
một thời gian) đă đi trước thời gian khi
đến lượt họ phải chuyển kiếp
giáng trần.
Minh Triết Bửu Giám
(Book of Wisdom) đă dạy rằng:
Mọi
Linh Hồn [Chơn Thần]([275])
đều tồn tại trước trong các Phân Thân.
C̣n kinh Zohar dạy rằng
bên trong “Linh Hồn” có Chơn Nhơn tức là Chơn ngă
thức: Trí Tuệ.
Josephus đă lặp
lại tín ngưỡng của giáo phái Essenes như sau:
Linh Hồn từ không khí thuần khiết giáng xuống để bị trói buộc vào sắc tướng ([276]).
C̣n Philo lại nêu rơ
rằng:
Không khí có
đầy dẫy Linh Hồn; các linh hồn gần
địa cầu nhất giáng xuống để bị
ràng buộc vào các h́nh tướng hữu hoại, quay
về với sắc tướng, muốn ngự nơi
chúng. ([277])
Trong cái h́nh hài của con
người, Linh Hồn tiến
hóa nhiều, c̣n Thiên Thần th́ có bản chất quá hư không (intransitive). V́
vậy, nên con người có tiềm lực vượt cao
hơn những khả năng của các Thiên Thần. V́
vậy nên các vị đă được Điểm
đạo ở Ấn Độ nói : những ai đă sinh
ra lần thứ Hai, nghĩa là những người Bà La
Môn, sẽ xét xử các Thiên Thần; và chính
Nhà ngươi
hăy biết rằng những vị đă được
Điểm đạo sẽ xét xử các Thiên Thần ? ([278])
121
Cuối cùng,
trong mọi Thánh kinh và vũ trụ khởi nguyên luận
cổ truyền, người ta đều có tŕnh bày
rằng con người tiến hóa chủ yếu như là thể quang huy vô tướng.
Bên trên thể này, cũng như đồng thau nóng chảy
được đổ vào khuôn của nhà điêu khắc,
cái khung xác thịt của cơ thể y cũng
được kiến tạo bởi, do và từ các h́nh
hài và các kiểu mẫu hạ đẳng của sự
sống động vật thế tục. Kinh Zohar dạy:
Khi giáng trần,
Linh Hồn và Sắc tướng khoác lấy một
lớp vỏ thế tục.
Thể nguyên sinh của y
đă không hề được tạo ra từ cái
loại vật chất cấu thành những cái khung hữu
hoại của chúng ta.
Khi Adam ở trong Địa
Đàng, y không khoác lấy một lớp vỏ thiêng liêng
bằng linh quang … ánh sáng
của cái loại ánh sáng được dùng trong
vườn Địa Đàng.([279])
Mười Sephiroth thuộc Cơi Jetzirath đă tạo ra con người [Adam
Thiêng Liêng], c̣n bảy Thiên Thần thuộc một Cơi
thấp hơn nữa đă dùng quyền
năng thông thường của ḿnh để tạo ra
Adam thế tục. Thiên thần Samael đầu tiên sa
đọa, rồi đánh
lừa (?) con người, khiến y cũng sa
đọa theo.
b. Câu “Họ là h́nh bóng của
những H́nh Bóng của các Đấng”- tức là những
vị Thủy Tổ sáng tạo nên con người bằng
thể Dĩ Thái của các Ngài – cũng giải thích
một điều tin tưởng thông thường. Ở
phương Đông, người ta tin rằng các vị
Thiên Thần không “rọi bóng”, và đó là dấu hiệu chắc
chắn của một Đấng tốt lành thánh thiện.
c. Tại sao chúng “không có
Lửa hay Nước riêng của chúng”?([280])
Bởi v́ Khinh khí (hydrogen) có
liên hệ như thế nào đối với những
nguyên tố và chất hơi trên cơi trần, th́ các thực
thể của nó cũng thế trên cơi trí tuệ hay cơi
hiện tượng chủ thể, bởi v́ tính chất
tam nguyên tiềm ẩn của nó phản ánh trong ba trạng
thái phóng phát tích cực từ ba nguyên khí cao trong con
người (gọi là Tam Thể thượng) tức là Linh
thể (Ătmă), Bồ Đề và Trí Tuệ hay Tinh Thần,
Linh Hồn và Trí Tuệ. Đó là căn bản tâm linh và
cũng là căn bản vật chất của con
người. Con người sơ khai được nuôi
dưỡng bằng “Không khí” hay “Gió”, về sau trở nên
con người toàn thiện. Khi đó, với sự phát
triển của Lửa Tâm Linh, tức cái thực thể “Ba mà Một” trong Chơn ngă, y
hoạch đắc do Chơn ngă hay bậc Thầy của
y, sự Minh Triết của Tâm Thức cá biệt, mà y không
có sở hữu từ lúc đầu. Như vậy, ở
đây Tinh Thần Thiêng Liêng lại được
tượng trưng bằng Mặt Trời hay là Lửa;
Linh Hồn Thiêng Liêng được tượng trưng
bằng Nước và Mặt Trăng, cả hai đều
tượng trưng cho Cha và Mẹ của Pneuma (Hồn
người, tức Trí Tuệ), được
tượng trưng bằng Phong, v́ Pneuma có nghĩa là
“Hơi Thở” (“Breath”).
122
V́ thế, trong Ngọc
Bích Thần Biểu mà các tín đồ Thiên Chúa giáo đă
xuyên tạc:
Thượng
cấp và thuộc hạ đều nhất trí thực thi
công tŕnh thực sự tuyệt vời duy nhất ấy –
[đó là Con Người].
Đó là v́ Công tác Bí
nhiệm của Chiram, tức Vua Hiram trong kinh Kabalah, “Tam
Vị Nhất Thể”, chính là Tác nhân Vũ Trụ tức
Kim đan. Tuyệt đích của Công tác Bí nhiệm là Con
người thiêng liêng toàn bích ở một đầu
của tuyến, c̣n sự phối hợp của ba nguyên
tố lại làm Dung môi Huyền bí trong “Linh Hồn Thế
Giới”, Vũ Trụ Hồn tức Tinh Tú Quang, ở
đầu kia. C̣n trên cơi Vật Chất, đó là Hydrogen liên
hệ với các chất khí khác. Đó chính là TO ON
“Đấng mà ngoại trừ Con ra, không ai thấy
được”; câu này áp dụng cho cả Vũ Trụ
siêu h́nh lẫn Vũ Trụ vật chất, cho cả Con
người tinh thần lẫn Con người vật
chất. Đó là v́ làm thế nào mà con người có
thể hiểu được TO ON, “Đấng Cha Duy
Nhất”; nếu Trí Tuệ, “Con” của y không “hợp
nhất với Cha”, và nhờ vào sự hấp thụ này,
nhận được sự khai ngộ của “Huấn
Sư” thiêng liêng tức Ătmă- Buddhi ?
Giảng lư dạy :
Hỡi
đệ tử, nếu chưa hiểu cái gọi là Sáng Tạo THỨ YẾU,
trước hết, con nên nghiên cứu quan hệ của nó
với cuộc
Sáng Tạo CHỦ
YẾU.([281])
Giống dân thứ Nhất có
ba Nguyên Tố (Elements) song không có Sinh Hỏa (Living Fire). Tại sao thế ?
Bởi v́:
Đức Hermes Ba lần
vĩ đại dạy: “Con ơi, ta nói bốn Nguyên tố, song phải có ba”. “Trong Ṿng Tṛn
nguyên thủy”, tức cuộc Sáng Tạo, cái
được kư hiệu là ,
có nghĩa là “Gốc rễ”, trong cuộc Sáng Tạo
thứ yếu cũng vậy.
Như vậy, trong khoa
luyện kim đan hay Bí giáo Tây phương một biến
thể của Nội môn Bí giáo Đông phương – chúng ta
thấy:
X
X
Lưu
huỳnh Ngọn lửa Tinh
Thần (Spiritus)
Thủy ngân
(Mercury) ([282]) Thiên Nhiên
Nước (Aqua)
Muối Mẹ (Mater) Máu (Sanguis)
Cả ba đều là các
tứ nguyên được hoàn chỉnh bởi Hỏa,
Gốc của chúng. Bên ngoài Thế giới biểu lộ,
Tinh Thần là Hỏa LINH KHÍ dưới dạng Nhất
Nguyên tuyệt đối. Trong Thế giới biểu
lộ, nó là Mặt trời Tinh Thần Trung Ương,
Lửa điện của Vạn Hữu. Trong Thái
Dương Hệ chúng ta, nó là Mặt Trời hữu h́nh,
Tinh Thần của
123
Aeswar (Ĩshvara)
ngự nơi mọi vật hữu hoại, và dùng các
quyền năng siêu phàm của ḿnh để khơi
động mọi vật đang bị cuốn theo ḍng
thời gian.
Đó đúng là
Đấng Sáng Tạo và Hủy Diệt.
Người ta giả sử
rằng nguyên Hỏa có một sự háu ăn khôn nguôi.
Maximus of Tyre thuật lại rằng người cổ Ba
Tư ném vào lửa các nhiên liệu khóc thút thít: Lạy Ngài cứ việc xé xác
con đi! Theo tiếng Ái Nhĩ Lan easam hay asam, có
nghĩa là tạo ra hay sáng tạo ra.
[Và] Aeser([283]) cũng là danh hiệu của
một trong các vị cổ thần của Ái Nhĩ Lan;
từ ngữ này có nghĩa đen là “nhóm lửa”.
Các môn đồ Do Thái Bí
giáo, Thiên Chúa giáo và các nhà Biểu tượng học
vốn xuyên tạc Pymander – nổi bật trong số đó
là Giám mục ở Ayre vào thế kỷ 16, Francois de Tours –
chia các nguyên tố ra như sau :
Tứ
Đại được tạo ra từ các Chất
liệu thiêng liêng và các Chơn Linh của các Muối Thiên
Nhiên được tiêu biểu bởi:
Thánh Matthew Thiên
Thần-Người Nước (Jesus-
Christ, Thần Nhân, Mikael).
A - W Thánh Mark Sư Tử Hỏa
E - ¡ Thánh Luke
I – O Thánh John Chim Ưng Phong ([284])
H Tinh túy, ‘HΦΟΛΟ [He Phlos], Flamma - Virgo [Dầu Trinh Nguyên],
Flamma Durissima, Virgo, Lucis Aeterna
Mater.
124
Như
thế, Giống dân thứ Nhất chỉ là các H́nh Bóng, Thể
Dĩ Thái (Thể Phách) của các Tổ Phụ của
họ, họ chỉ là bậc tiên phong tức là các
Thực Thể tiên tiến nhất xuất phát từ
một Bầu trước kia mặc dù kém tiến hóa hơn cái vỏ c̣n
lại của nó ngày nay là Mặt Trăng. Nhưng ngay
cả cái vỏ này cũng hoàn toàn tiềm tàng, v́ ngay khi
Mặt Trăng đă khai sinh ra bóng
ma của ḿnh là Trái Đất, Trái Đất liền
dùng ái lực từ tính để thu hút, chiêu mộ các
cư dân đầu tiên của ḿnh tức là các con quái
vật tiền nhân loại. Để yên tâm về
điều này, môn sinh lại phải quay sang áng văn
Luật tiến hóa
khiến cho các Nguyệt Tinh Quân (dưới dạng
Chơn Thần) bắt buộc phải trải qua mọi
h́nh thức sinh hoạt và tồn tại trên Địa Cầu.
Nhưng vào lúc cuối cuộc Tuần Hoàn thứ Ba, họ
đă thành người với bản chất thiêng liêng, và
do đó được mời tới để sáng
tạo ra các h́nh hài hầu để đào luyện ra các
Thánh Điện của các Chơn Thần chậm tiến
hơn đă đến lượt lâm phàm. Các “H́nh hài” này
được gọi là “các Con của Yoga”, v́ Yoga – xét về
mặt ngoại môn là sự hợp nhất với Brahmă –
là trạng thái tối cao của Đấng Thánh Linh vô
cực thụ động, do nó bao hàm mọi năng
lượng thiêng liêng và là bản thể của Brahmă, nghe
nói trên cương vị là Brahmă, Ngài đă sáng tạo ra
vạn vật nhờ vào Quyền năng Yoga; theo một
kinh điển Purănas, Brahmă, Vishnu và Shiva là các năng
lượng mănh liệt nhất của Thượng
Đế, Brahmă (trung tính). Ở đây, Yoga cũng
tương tự như Dhyăna (Thiền), từ ngữ này
lại đồng nhất với Yoga trong kinh điển
Tây Tạng, trong đó, “các Con của Yoga” được
gọi là “các Con của Dhyăna”. Dhyăna là sự thiền
trừu tượng, nhờ đó các vị Thiền
Định Phật sáng tạo ra các đứa con thiêng
liêng tức là các Thiền Định Bồ Tát.
Mỗi tạo vật trên
thế giới đều có một thượng cấp.
Thượng cấp này thầm đắc chí khi phân thân thành
ra chúng, nên vị thượng cấp này không thể
truyền thụ luồng lưu xuất nếu chúng
chưa chịu phụng thờ [nghĩa là tham thiền giống
như khi hành pháp môn Yoga].([286])
19. GIỐNG DÂN THỨ HAI SINH RA DO SỰ NẢY
CHỒI VÀ BÀNH
125
Điều sẽ
bị các giới khoa học phản đối nhiều
nhất là Giống dân thứ Hai không có nam hay nữ tính,
mệnh danh là Cha của những người “Hăn sinh”, và có
lẽ c̣n bị phản đối nhiều hơn nữa
là Giống dân thứ Ba, những người “Noăn sinh”(sinh
ra bằng trứng) bán nam bán nữ. Hai cách thức sinh
sản này thật là khó hiểu nhất, đặc
biệt là đối với đầu óc Tây phương.
Hiển nhiên là chẳng dại ǵ mà thử giải thích cho
những kẻ không phải là môn sinh Siêu h́nh học
Huyền bí. Ngôn ngữ Âu Tây chẳng có từ ngữ nào
diễn đạt những điều mà Thiên Nhiên không c̣n
lặp lại nữa vào giai đoạn tiến hóa này, v́ vậy,
đó là những điều chẳng thể có ư nghĩa ǵ
đối với Nhà duy vật. Nhưng cũng có những
điều tương tự. Không ai phủ nhận
rằng vào lúc bắt đầu cơ tiến hóa ắt
phải có những phương thức trong Thiên Nhiên,
chẳng hạn như sự tự nhiên sinh hóa các
phương thức ấy ngày nay đă tuyệt diệt,
nhưng lại được tái diễn dưới
những h́nh thức khác. Chúng ta được biết,
những cuộc sưu tầm về vi trùng đă chứng
minh rằng không có một phương thức sinh sản
nào là trường cửu vĩnh viễn.
Một cơ phận sinh
dục có thể trải qua nhiều lần thay h́nh
đổi dạng trong chu kỳ sinh hoạt của nó.
Trong những lần đó, nó có khi hữu phái, có khi vô phái,
nghĩa là nó có thể sinh sản bằng cách phối
hợp giữa hai sinh vật có phái tính khác nhau, hoặc có
khi sinh sản bằng cách nứt nẻ và mọc mầm
hay nảy chồi do một sinh vật vô phái đơn
phương mà thôi.([288])
“Nảy chồi” chính là
danh từ được dùng trong các ĐOẠN KINH. Làm sao H́nh Bóng của những con
người sơ khai đó có thể sinh sản bằng
cách nào khác, tức là sinh sản ra Giống dân thứ Hai, v́
chúng vốn khinh thanh, vô sắc, vô phái, thậm chí cũng
chưa có được một thể cảm dục,
thể này chỉ phát triển trong Giống dân thứ Ba mà
thôi? Những H́nh Bóng đó sinh ra Giống dân thứ Hai
một cách vô ư thức giống như một vài loại
cây cỏ hay như là một loại biến h́nh trùng
nhưng trên một qui mô rộng lớn hơn và tinh tế
hơn. Thật vậy, nếu thuyết tế bào cũng
được áp dụng vào thực vật học và
động vật học, rồi lại được
mở rộng trong h́nh thể học cũng như là sinh
lư học, nếu khoa học nh́n thấy vi khuẩn như
những sinh vật cá biệt, độc lập, cũng
như Huyền môn nh́n vào những “Sinh vật sống
động”([289])
th́ không khó ǵ mà quan niệm phương thức sinh sản
của con người sơ khai.
Xét các giai đoạn
đầu tiên của sự phát triển một tế bào
mầm. Nhân của nó
tăng trưởng biến đổi và tạo ra một
h́nh nón kép hay thoi bên trong tế bào và một
nửa của nó ḷi ra dưới dạng của cái
được gọi là các “tế bào cực”. Nay các
tế bào cực này chết đi và các phôi liền phát
triển ra do sự tăng trưởng và liệt phân
của phần nhân c̣n lại, nó được chất
tế bào nuôi dưỡng.
Thế th́, vào lúc đầu của cuộc tiến hóa của loài người hữu
nhũ, tại sao các sinh vật lại không thể
sống như vậy và được tạo ra như
thế ?
Phương thức sinh
sản của các loại tế bào vi khuẩn có thể là
một thí dụ so sánh để giúp cho chúng ta có ư niệm
về phương thức sinh hóa ra Giống dân thứ Hai
từ Giống dân thứ Nhất.
127
Thể Phách
(Dĩ Thái) phủ lên Chơn Thần xưa nay vẫn
được bao quanh bởi một bầu hào quang h́nh trứng, ở đây, nó
tương ứng với chất của tế bào mầm
tức Noăn. Chính Thể Phách xưa nay vẫn là nhân tràn
đầy Nguyên sinh khí.
Khi mùa sinh dục
đến, thể phách mọc ra một mẫu thu nhỏ
của nó xuất phát từ bầu hào quang h́nh trứng bao
quanh. Mầm mống này tăng trưởng và sống bám
vào hào quang cho đến lúc trưởng thành, khi nó dần
dần tách khỏi tổ phụ, mang theo bầu hào quang
của chính ḿnh, chẳng khác nào các tế bào sống sinh
sản bằng cách tăng trưởng và sau đó phân làm
đôi.
Sự tương tự
với các “tế bào cực” dường như vẫn
đúng, v́ sự chết của chúng nay tương ứng với sự thay
đổi do sự phân chia phái tính, khi sự thai nghén nội tế bào đă trở
thành qui luật.
Giảng lư dạy:
Những
người trong đợt đầu tiên của Giống
dân thứ Hai là Cha của người “Hăn sinh”; c̣n
đợt sau chính người “Hăn sinh”.
Câu này trong Thiên b́nh
luận đề cập tới diễn tŕnh tiến hóa
từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc
của một Giống dân. Các “Con của Yoga” hay Giống
người sơ khai, khinh thanh, vô sắc có bảy giai
đoạn tiến hóa về phương diện chủng
tộc hay tập thể cũng như mỗi cá nhân trong
tập thể ấy. Đâu phải chỉ có Shakespeare là
chia tuổi con người ra hàng loạt từng bảy
tuổi một mà chính Thiên Nhiên cũng vậy. Như
vậy, những Phụ chủng đầu tiên của
Giống dân thứ Hai được sinh ra trước
hết bằng phương pháp nảy chồi đă nói
trên, trong khi những Phụ chủng sau cùng bắt
đầu một cách tuần tự bằng cách phát
triển thể xác được cấu tạo bằng
cách khác. Phương thức sinh sản cũng có bảy
giai đoạn trong mỗi Giống dân, mỗi giai
đoạn trải qua những thế hệ, thời gian
kéo dài hàng triệu năm. Có nhà sinh lư hay nhà sinh học nào
dám hỏi liệu cách thức sinh sản hiện nay,
với mọi giai đoạn thai nghén, là xưa hơn
nửa triệu năm hay cùng lắm là một triệu
năm, v́ chu kỳ quan sát của họ chỉ mới
bắt đầu cách đây nửa thế kỷ ?
127
Những người
bán nam bán nữ ban sơ là một sự kiện trong Thiên
Nhiên mà Cổ nhân vẫn từng biết rơ, hiện
tượng này là một trong những điều bí
hiểm khó hiểu nhất của Darwin. Tuy nhiên, nó không
phải là một việc không thể có, mà trái lại
rất có thể là hiện tượng bán nam bán nữ này
đă từng có trong diễn tŕnh tiến hóa của
những Giống dân đầu tiên. Mặt khác, căn
cứ trên định luật “tương đồng lư
tính” và định luật tiến hóa thể chất, nó tác
động một cách đại đồng và vô tư
trong sự cấu tạo các loài cây cỏ, động
vật và loài người, th́ lẽ đương nhiên là
sự kiện ấy phải như vậy. Các lư thuyết
sai lầm về Đơn phái sinh dục (Monogenesis) và
thuyết con người là ḍng dơi của loài nhũ
động vật thay v́ trái ngược lại, thật
là nguy hại cho sự hoàn bị của thuyết tiến
hóa như đang được giảng dạy ở các
trường hiện đại theo đường
lối của Darwin và phải được loại
bỏ v́ những khó khăn chướng ngại rất
lớn không thể vượt qua mà chúng đang gặp
phải. Chỉ có truyền thống giáo lư Huyền môn
mới có thể ḥa hợp những điểm bất
đồng và lấp bằng hố chia rẽ dị
biệt (nếu xét về mặt chi tiết đặc thù
này, người ta lại chối bỏ Khoa học và Minh
Triết thời cổ sơ). Một công lư trong Do Thái Pháp
Điển dạy:
Nếu bạn muốn
biết cơi vô h́nh, th́ hăy mở to mắt ra nh́n vào cơi hữu
h́nh.
Trong quyển Thủy
Tổ Loài Người (Descent of Man) có đoạn trích ra sau
đây, nó chỉ rằng
Người ta
biết rằng trong loài động vật có xương
sống, một con đực hay con cái (thuộc về
một phái nhất định) có mang dấu vết
của một vài bộ phận phụ thuộc liên can
tới cơ năng sinh sản của con thú thuộc
về phái đối lập… vài giống thủy tổ xa
xôi của toàn thể loài động vật có xương
sống dường như có tính chất thư hùng
lưỡng phái ([290]).
Nhưng đây lại là
một điều khó khăn lạ lùng. Trong loài
nhũ động vật, con đực có mang dấu
vết tử cung với những ống dẫn phụ
cận trong nhiếp hộ tuyến. Chúng cũng mang
dấu vết của cặp vú, vài con đực thuộc
loại mang túi, cũng có mang dấu vết của túi
đựng con. Người ta có thể kể thêm nhiều
sự kiện tương tự khác nũa. Như vậy,
phải chăng chúng ta nên đặt giả thuyết
rằng một số loài nhũ động vật
thời thái cổ vẫn tiếp tục là thư hùng
lưỡng phái sau khi chúng đă hoạch đắc
được những đặc tính riêng của loại
ḿnh, và bởi đó, sau khi chúng đă tách rời khỏi những
giống thấp kém hơn của những loại có
xương sống? Điều này dường như không
thể có, ([291])
v́ chúng ta phải xem xét loài cá là loài thấp kém nhất,
để t́m xem có những h́nh thức thư hùng
lưỡng phái nào c̣n tồn tại không.([292])
Chúng ta có thể
giải thích việc nhiều cơ quan phụ thuộc,
khác nhau riêng cho mỗi phái, lại hiện diện trong
một t́nh trạng sơ khai nơi phái đối
nghịch, là do các cơ quan ấy đă dần dần
được một phái thủ đắc rồi
lại truyền cho phái kia trong một trạng thái ít
nhiều bất toàn.([293])
128
Ông đơn cử
trường hợp “cựa, lông vũ và các màu sắc
rực rỡ mà các con chim trống thủ đắc
được để lâm chiến hay trang điểm”
đă được các chim mái hậu duệ chỉ
kế thừa một phần. Tuy nhiên, trong vấn
đề mà chúng ta đang đề cập đến,
hiển nhiên là cần có một lời giải thích
thỏa măn hơn, các sự kiện có tính cách nổi
bật và quan trọng hơn hẳn chính các chi tiết
hời hợt mà
Dù sao đi nữa, chúng ta
có thể so sánh một cách có lợi Giáo lư Huyền môn
với các học thuyết của các khoa học gia phóng
khoáng nhất, họ đă thuyết lư về nguồn
gốc của con người đầu tiên.
Từ trước
Lực tiến
hóa đă hoàn chỉnh hóa các giống loài từ dạng nhân
loại ấu trùng này. Để hoàn thành hiện
tượng vĩ đại này, Adam đă phải trải
qua một giai đoạn bất động và vô thức,
rất tương tự như trạng thái nhộng
trần (the nymphal state) của các con thú đang bị
biến h́nh. ([294])
Tuy nhiên, đối với nhà
thực vật học lỗi lạc ấy,
vẫn ẩn
tàng bên trong một cơ thể tạm thời, đă phân
biệt với các cơ thể khác và không thể liên minh
với bất kỳ cơ thể nào khác.
Ông chứng tỏ
rằng sự phân biệt giới tính đă
được hoàn thành bởi
một tiến
tŕnh nảy mầm tương tự như loài sứa và
loài hải tiêu.
Được cấu
tạo về mặt sinh lư như vậy, nhân loại
sẽ duy tŕ
được một lực tiến hóa đủ
để nhanh chóng tạo ra nhiều giống người
vĩ đại khác nhau.
Trong tác phẩm Các Giống
Người, De Quatrefages, đă chỉ trích lập
trường này. Theo ông, các lư tưởng của Naudin
thật là phản khoa học,
hoặc nói đúng hơn là “không hợp thành một
thuyết khoa học”, v́ trong thuyết của ông, chất
phôi chủng nguyên thủy có liên hệ với Nguyên nhân Bản sơ, ông tin
rằng: Nguyên nhân bản sơ đă ngấm ngầm
tạo ra mọi thực thể quá khứ, hiện tại
và tương lai trong chất phôi thủng, như thế,
nó đă thực sự tạo
ra tất cả các thực thể này. Vả lại,
Naudin thậm chí cũng chẳng xét đến các Nguyên nhân thứ nh́ tức là
tác động của chúng trong cuộc tiến hóa này
của thế giới hữu cơ. Như thế, vốn
chỉ quan tâm tới “các nguyên nhân thứ hai”, khoa học
ắt “chẳng có ǵ để nói về thuyết của
ông Naudin”. ([295])
129
Nó cũng
sẽ chẳng có ǵ nữa để nói về Huyền bí
học mà Naudin đă tiếp cận được. Đó
là v́, nếu chúng ta chỉ xem “chất phôi chủng nguyên
thủy”(“primordial Blastema”) của ông là Bản Thể
Thiền Định Đế Quân. Chhăyă hay H́nh Bóng (Thể
Phách) của chư Tinh Quân – nó bao hàm tiềm năng của
vạn tướng – th́ chúng ta sẽ hoàn toàn đồng ư.
Nhưng giáo lư của Naudin và giáo lư của chúng ta quả
thật có hai điểm dị biệt có tầm quan
trọng sinh tử. Ông Naudin cho rằng sự tiến hóa
đă diễn ra bằng những bước đột
biến nhảy vọt, thay v́ trải ra trong hàng triệu
năm, c̣n chất phôi chủng nguyên thủy của ông
lại chỉ có các bản năng mù quáng – một loại
Nguyên nhân Bản sơ vô
thức trong Càn Khôn biểu lộ -, đây thật là
một điều phi lư. Trong khi đó chính Bản Thể
Thiền Định Đế Quân của chúng ta – mỗi nhân quả của Nguyên Nhân Bản Sơ vẫn
tạo ra phàm nhơn –
lại là cái loại Vật Chất sinh động,
hoạt động và tiềm tàng (bản thân nó lại súc
tích một loại tâm thức động vật
thượng đẳng, chẳng hạn như loại
hiện diện nơi con kiến và con hải ly) tạo ra
hàng loạt các sự biến phân sinh lư. Trừ điều
đó ra, “tiến tŕnh sáng
tạo tổng quát và cổ truyền” từ các cơ
thể nguyên h́nh của ông cũng có tính cách Huyền bí
chẳng kém ǵ bất cứ thuyết nào của
Vả lại, các tác
phẩm Do Thái Bí giáo đều có đầy dẫy
bằng chứng của điều này. Chẳng hạn
như kinh Zohar đă dạy rằng mọi kiểu mẫu
trong Thế giới hữu h́nh đều có nguyên kiểu
trong Thế giới vô h́nh.
Mọi vật tồn
tại trong Cơi thấp đều hiện diện trên các
Cơi cao. Cơi thấp và Cơi cao tác động và phản tác
động lẫn nhau ([296]).
20. CÁC TỔ PHỤ CỦA HỌ VỐN TỰ SINH TỰ TẠI. NHỮNG ĐẤNG TỰ SINH TỰ TẠI LÀ NHỮNG BÀO ẢNH XUẤT PHÁT TỪ CÁC THỂ QUANG HUY CỦA CÁC TINH QUÂN, CÁC TỔ PHỤ, CÁC ĐỨA CON CỦA TRANH SÁNG TRANH TỐI (THE SONS OF TWILIGHT).
Các “H́nh Bóng” hay Chhăyăs
được gọi là Con của các Đấng Tự
Sinh, danh hiệu này được dùng để chỉ
tất cả những vị Thần linh và những vị
sinh ra bởi ư chí, gồm các vị Thần hay Tiên Thánh
(Adept). Các Homunculi của Paracelsus có lẽ cũng
được dành cho danh hiệu này, mặc dù tiến
tŕnh sau diễn ra trên một cơi vật chất hơn
nhiều. Danh hiệu “Các con của Tranh tối tranh sáng”,
chứng tỏ rằng các Thủy Tổ “Tự sinh”
của giáo lư chúng ta cũng giống y như các Tinh Quân
Pitris trong hệ thống Bà La Môn giáo, v́ danh hiệu này ám
chỉ cách thức sinh sản của họ. Kinh Purănas có
nêu rơ là các Tinh Quân này đă xuất phát từ “Thể Tranh
tối tranh sáng” của Brahmă.
21. KHI GIỐNG DÂN ĐĂ GIÀ, NƯỚC CŨ
TRỘN LẪN VỚI NƯỚC MỚI (a). KHI CÁC
GIỌT NƯỚC TRỞ THÀNH ĐỤC NGẦU, NÓ
BIẾN MẤT VÀO D̉NG NƯỚC MỚI, TRONG D̉NG SUỐI
NÓNG CỦA SỰ SỐNG. CÁI BÊN NGOÀI CỦA CÁI ĐẦU
TIÊN TRỞ THÀNH CÁI BÊN TRONG CỦA CÁI THỨ NH̀ (b). CÁNH
CŨ BIẾN THÀNH H̀NH BÓNG MỚI, H̀NH BÓNG MỚI CỦA CÁI
CÁNH (c).
a. Giống dân Sơ khai
sáp nhập và hỗn hợp làm một với Giống dân
thứ Hai.
130
b. Đây là
phương thức bí nhiệm của sự biến
đổi và tiến hóa của nhân loại. Chất
liệu của những H́nh thể đầu tiên –thanh
nhẹ tinh tế như h́nh bóng và tiêu cực, thụ
động – bị thu hút hay là thể nhập với các
h́nh thể mới của Giống dân thứ Hai. Thiên b́nh
luận giải thích câu này nói rằng v́ thành phần
Giống dân thứ Nhất chỉ có những H́nh Bóng làm
bằng Dĩ thái thể của những vị Thủy
Tổ sáng tạo, lẽ tất nhiên là không có một
thể dĩ thái hay thể xác riêng biệt của họ,
nên Giống dân ấy không bao
giờ chết, người của giống dân ấy
tan ră dần dần và bị thu hút vào thể xác của
những con cháu “Hăn sinh” của họ có thể xác rắn
chắc hơn. Cái H́nh thể cũ đă biến mất và
thể nhập với h́nh thể mới có cơ cấu
vật chất hơn và giống h́nh người hơn.
Thời đó c̣n là một thời kỳ phúc lạc yên vui
hơn của Hoàng kim thời đại, nên vốn không có
sự chết; nhưng cái chất liệu đầu tiên
được dùng để cấu tạo nên những
hạ thể của những người mới là con cháu
của giống người đầu tiên sơ khai.
c. Khi cái “H́nh Bóng” rút lui,
nghĩa là khi dĩ thái thể được bao phủ
bởi chất xương thịt rắn chắc hơn,
th́ con người đă phát triển một xác thân vật
chất, cái “Cánh” ám chỉ cái H́nh thể khinh thanh đă
tạo nên H́nh ảnh của nó, trở nên cái H́nh Bóng
của Thể Dĩ Thái và hậu duệ của chính nó sinh
ra. Lối diễn đạt này thật là kỳ quặc
và độc đáo.
V́ có thể sau này không c̣n
dịp đề cập tới bí nhiệm này nữa, nên
thiết tưởng cũng cần vạch ngay ra ư
nghĩa nhị phân bao hàm trong thần thoại Hy Lạp có
ảnh hưởng tới giai đoạn tiến hóa
đặc biệt này. Chúng ta thấy nó trong nhiều
biến thể của chuyện ẩn dụ về Leda
cùng với hai con: Castor và Pollux, mỗi biến thể có
một ư nghĩa đặc biệt. Như thế, trong
quyển XI cảu bộ Odyssey, người ta bảo Leda
là phu nhân của Tyndarus, vị phu quân đă khiến bà sinh
ra “hai đứa con trai dũng cảm”: Castor và Pollux.
Thần Jupiter ban cho chúng một đặc tài và một
đặc quyền kỳ diệu. Chúng có tính chất
bất tử; chúng thay phiên nhau sống và chết luân
chuyển từng ngày ([297]).
Với vai tṛ là Tyndaridae, hai anh em sinh đôi là một
biểu tượng thiên văn tượng trưng cho ngày
và đêm; hai người vợ của họ, Phoebe và
Hilaeira, con gái của thần Apollo và Thần Thái
Dương là hiện thân của buổi b́nh minh và Tranh
tối tranh sáng ([298]).
Lại nữa, trong câu chuyện ẩn dụ mà
người ta tŕnh bày Zeus là Cha của hai vị anh hùng –
sinh ra từ cái Trứng mà Leda đă hạ sinh – huyền
thoại này có tính cách thần phổ học. Nó có liên quan
tới cái nhóm chuyện ẩn dụ vũ trụ trong
đó người ta mô tả là thế giới sinh ra
từ cái Trứng. Đó là Leda đă khoác lấy h́nh
dạng của một con thiên nga trắng khi hợp
nhất với con Thiên Nga Thiêng Liêng (tức Brahma-Kala -hamsa).
Như thế, theo truyền thuyết của nhiều dân
tộc khác nhau thuộc giống dân Aryan, Leda chính là con chim
huyền thoại mà thiên hạ đă gán cho nhiều
loại chim khác nhau, tất cả đều đẻ
trứng vàng ([299]).
Trong Kalevala, Anh Hùng Thi của Phần Lan, đứa con gái
yêu kiều của Dĩ Thái,
131
“Mẫu Thủy” (“Water
-Mother”), đă sáng tạo ra Thế giới với một
con “Vịt cái” – một dạng khác của con Thiên Nga hay con
Ngỗng, Kalahamsa – nó đẻ ra sáu quả trứng vàng và
quả thứ bảy “bằng sắt” trong ḷng ḿnh.
Nhưng chúng ta chỉ thấy một biến thể
của chuyện ẩn dụ Leda- nó có đề cập
trực tiếp tới con người thần bí – nơi
thi sĩ Piadar ([300])
cùng với một sự đề cập sơ sài tới
nó trong các Thánh ca của Homer ([301]).
Chính Castor và Pollux không c̣n là Dioskouroi của Apollodorus nữa;
([302])
mà trở thành biểu tượng đầy ư nghĩa
của con người nhị phân, hữu hoại và
bất tử. Chẳng thế mà họ c̣n là biểu
tượng của Giống dân thứ Ba và sự biến
đổi nó từ Người thú thành ra một
người Trời (God-man) chỉ có một thể xác.
Pindar cho biết rằng trong
cùng một đêm, Leda kết hợp với chồng ḿnh
rồi lại kết hợp với cả Cha của
chư Thiên–thần vương Zeus nữa. Như vậy,
Castor là con của Kẻ hữu hoại, c̣n
132
Phải
chăng đây chỉ là một điều tưởng
tượng thi vị? Hay đó là ẩn dụ, một
trong các lối thuyết minh “thần thoại thái
dương” mà không một nhà Đông phương học
nào có thể bay vút lên cao hơn được? Thật ra,
nó c̣n hơn thế nhiều. Ở đây, chúng ta có một
điều ám chỉ Giống dân thứ Ba “Noăn sinh”,
nửa đầu tiên của Giống dân này hữu
hoại, nghĩa là vô thức trong
Đó là ư nghĩa
Huyền bí của khía cạnh siêu h́nh của chuyện
ẩn dụ. Cách thuyết minh hiện đại và
phổ biến về nó – theo Plutarch([308]),
thời xưa, nó vẫn nổi tiếng là biểu
tượng của t́nh thương anh em – nghĩa là cho
rằng đó là h́nh ảnh của Mặt Trăng và
Mặt Trời được vay mượn từ phong
cảnh Thiên Nhiên, thật là kém và không đủ thỏa
đáng để giải thích ư nghĩa bí mật. Ngoại
trừ sự kiện là đối với người Hy
Lạp, Mặt Trăng có nữ tính trong thần thoại
học ngoại môn và do đó, khó có thể được
xem là Castor, đồng thời lại được
đồng nhất hóa với Diana, các nhà biểu
tượng học thời xưa, vốn xem Mặt
Trời (Vua của mọi tinh đẩu) là h́nh ảnh
hữu h́nh của Thượng Đế, ắt đă
không nhân cách hóa nó là Pollux, vốn chỉ là một bán
thần. ([309])
Nếu từ thần
thoại học Hy Lạp, chúng ta chuyển sang các ẩn
dụ và biểu tượng kư của Moses, th́ chúng ta
sẽ thấy một sự bổ chứng nổi bật
hơn nữa cũng về giáo điều đó
dưới dạng khác. Nếu không thể truy nguyên
được giống “Noăn sinh” trong đó, chắc
chắn là chúng ta sẽ c̣n t́m ra trong bốn chương
đầu của Sáng Thế Kư các Giống bán thư bán
hùng và Ba giống dân đầu tiên của Giáo Lư Bí Nhiệm,
ẩn tàng dưới khoa biểu tượng tài t́nh
nhất.
ĐẤNG BÁN THƯ BÁN HÙNG
THIÊNG LIÊNG
(THE
DIVINE HERMAPHRODITE)
133
Một bức màn bí
mật hoàn toàn bao trùm những Giáo lư Huyền môn
được giảng dạy sau cuộc Đại
Hồng Thủy nhận ch́m những người sống
sót cuối cùng của giống dân Atlane vào khoảng 12 000
năm nay để cho khỏi lọt vào tầm tay của
những kẻ không xứng đáng, hầu khỏi bị
ô nhiễm. Trong số các Khoa học này có nhiều khoa
học nay đă trở nên công truyền- chẳng hạn
như thiên văn học, dưới các dạng thuần
túy toán học và vật lư. Nhưng người ta đă quên
hết các giáo điều của chúng (tất cả
đều được tượng trưng và chỉ
c̣n được duy tŕ trong chuyện ngụ ngôn và
truyện ẩn dụ) và v́ thế nên ư nghĩa của
chúng đă bị xuyên tạc. Tuy nhiên, người ta
thấy Đấng Lưỡng Tính trong các Thánh kinh và các
truyền thuyết của hầu hết mọi quốc
gia; và nếu phát biểu ấy chỉ là điều
tưởng tượng th́ tại sao lại có một
sự nhất trí như vậy?
Chính sự bảo mật
đó đă đưa Giống dân thứ Năm đến
việc thiết lập hay đúng hơn là tái lập
những Tổ chức Huyền môn, trong đó những chân
lư cổ truyền được giảng dạy cho
thế hệ tương lai dưới bức màn che
dấu của những khoa biểu tượng và của
những ngôn ngữ ẩn dụ bóng bẩy. Chúng ta hăy xem
bằng chứng của sự tiến hóa của các
Giống người Thiêng liêng, và nhất là từ
Giống người Bán thư bán hùng; đó là con Nhân sư
Ai Cập, câu đố bí hiểm của mọi thời
đại ! Minh Triết thiêng liêng lâm phàm và bắt buộc
phải nếm trái đắng của kinh nghiệm
thương đau của phàm ngă, chỉ được
sản sinh ra trên Trần Thế dưới bóng cây Tri
Thức Thiện và Ác – đó là một điều bí
mật mà thoạt tiên chỉ có Đấng Elohim, “Chư
Thần Linh Thượng Đẳng” Tự sinh tự
tại biết mà thôi. ([310])
Trong Thánh Thư Enoch, chúng ta có
Người
nam và nữ tạo ra họ; … và gọi tên họ là Adam.([315])
Rồi nó nói tiếp:
Và Adam … sinh ra
một người con giống y như ḿnh, phỏng theo
h́nh ảnh của ḿnh và đặt tên nó là Seth. ([316])
134
Sau đó, y
sinh ra các người con trai và con gái khác, như thế,
chứng tỏ rằng Cain và Abel là các hoán vị ẩn
dụ của chính y. Adam tượng trưng cho Giống
người nguyên sơ, nhất là theo ư nghĩa tinh
đẩu. Tuy nhiên, theo ư nghĩa thần linh nhân loại
học th́ lại không phải như vậy. Danh xưng
phức hợp kết hợp Jehovah hay Jah-Hovah có nghĩa là
sự sống nam giới và nữ giới – thoạt tiên
là bán thư bán hùng, rồi phân thành các phái- được
dùng theo nghĩa này trong Sáng Thế Kư, từ chương V
trở đi. Tác giả của Nguồn Gốc Các Kích
Thước cho rằng:
Hai từ ngữ
cấu thành Jehovah tạo ra
ư niệm độc đáo về thư hùng, với vai tṛ
là kẻ khai sinh.([317])
Đó là v́ theo tiếng Hebrew,
chữ Jod có nghĩa là cơ quan sinh dục nam, c̣n Hovah
là Eve, mẹ của chúng sinh, tức kẻ sinh thành
Địa Cầu và Thiên Nhiên. Do đó tác giả tin
tưởng rằng:
Chúng ta thấy
rằng kẻ hoàn thiện
[ṿng tṛn âm toàn bích, tức Yoni, xét về mặt số
mục là 20612], với vai tṛ khai
sáng ra các kích thước, cũng có dạng là nguồn
gốc của sự sinh
sản, giống như kẻ
bán thư bán hùng; v́ thế mới có dạng và việc
sử dụng tượng sinh thực khí.
Đúng vậy, có điều
là dạng và việc sử dụng tượng
dương vật đă xuất hiện sau đó biết
bao nhiêu lâu; c̣n ư nghĩa nguyên thủy của Enos (con của
Seth) chính là Giống dân
đầu tiên sinh ra từ người đàn ông và
người đàn bà theo cách thức thông thường
hiện nay,v́ Seth không phải là con người, mà là
một giống dân.
Trước thời y sống, nhân loại có tính cách bán
thư bán hùng. Trong khi mà Seth là kết quả đầu tiên
(xét về mặt sinh lư sau khi có sự “Sa đọa” th́ y
cũng là con người
đầu tiên; do đó, con trai y (Enos) được
gọi là “Con của Người”(“Son
of Man”). Seth tiêu biểu cho
Giống dân thứ Ba sau này.
Để che giấu danh
xưng thực sự bí nhiệm của Ain Soph – Hư không
Vô biên vô tận – các môn đồ Do Thái Bí giáo đă
đề ra danh hiệu thuộc tính phức hợp
của một trong các Đấng Elohim Sáng Tạo nhân h́nh,
có danh xưng là Yak hay Jah- các chữ i, j, hay y có thể
thay thế lẫn cho nhau – tức Jah-Hovah, nghĩa là nam và nữ ([318]),
Jah-Eve một kẻ bán thư bán hùng, tức là h́nh thức nhân loại bản sơ, Adam
nguyên thủy của trần thế chứ không phải là
Adam Kadmon, vốn có người “Con Trí sinh” là Jah-Hovah
thế tục, xét về mặt thần bí. V́ biết
thừa điều này, nên các giáo sĩ Do Thái và môn
đồ Do Thái Bí giáo quỷ quyệt đă đặt ra
cho nó một danh hiệu bí
mật đến đỗi mà sau này y chẳng thể
nào tiết lộ nó mà không bộc lộ toàn bộ hệ
thống, v́ thế mà y bắt buộc phải làm cho nó thiêng liêng.
135
Chỉ
cần so sánh đối chiếu Thánh kinh với kinh Purănas,
chúng ta cũng thấy Brahmă-Prajăpati và Jehovah – Sephiroth, Brahmă-
Virăj và Jehovah-Adam gần giống nhau biết là dường
nào. Nếu được phân tích và thuyết minh
dưới cùng ánh sáng đó th́ chúng sẽ minh chứng hùng
hồn rằng chúng là hai bản sao của cùng một nguyên
bản, được thực hiện vào hai thời
kỳ khác nhau xa. Về đề tài này, chúng ta hăy thử
so sánh một lần nữa Sáng Thế Kư iv, 1 và 26 với
Luật Bàn Cổ, I, 32, cả hai đều tŕnh bày ư
nghĩa của chúng. Trong Luật Bàn Cổ, cũng như
Jehovah hay Adam trong Sáng Thế Kư (vốn vừa là
người vừa là Thần và chia cơ thể ḿnh ra
thành nam và nữ), Brahmă (theo ư nghĩa Nội môn)
tượng trưng cho biểu tượng nhân cách hóa
của quyền năng sáng tạo và sản sinh, cả về mặt thiêng liêng lẫn
con người. Kinh Zohar c̣n minh chứng điều này
một cách hùng hồn hơn nữa, trong khi một số
giáo sĩ Do Thái đă lặp lại nguyên văn một vài
thành ngữ nguyên thủy trong kinh Purănas, nghĩa là trong các
kinh Bà La Môn, sự “sáng tạo” ra thế giới
thường được xem là Lĩlă, sự khoái chí đùa
giỡn, tṛ giải trí của Đấng Tạo Hóa
Tối Cao.
Như thế, Vishnu, vốn
là chất liệu cố kết và rời rạc, tinh
thần và thời gian, đùa giỡn như một
đứa trẻ mải chơi (bạn sẽ biết
điều này khi thấy Ngài đùa giỡn (frolics) ([319]).
Nay chúng ta hăy so sánh
điều này với những ǵ được tŕnh bày
trong tác phẩm Nobeleth Hokhmah:
Các môn đồ
Do Thái Bí giáo cho rằng các cơi đă được khai sinh
ra một cách thú vị trong cái Ain Soph [? !] hí hửng lóe lên
và cười toe toét từ Chính ḿnh tới Chính ḿnh …
tất cả đều được gọi là nỗi niềm
hoan hỉ ([320]).
Như vậy, đó không
phải là “một ư tưởng kỳ diệu của các
môn đồ Do Thái Bí giáo” như tác giả vừa nhận
xét, mà là một ư tưởng thuần túy của kinh Purănas
của dân Ăryan. Có điều là tại sao chúng ta lại xem
Ain Soph là một Đấng Sáng Tạo ?
Thế th́ “Đấng
Lưỡng Tính Thiêng Liêng” chính là Brahmă Văch Virăj, c̣n
Đấng đó của người Semit, hay đúng
hơn là của người Do Thái, chính là Jehovah-Cain-Abel. Có
điều là người “Ngoại đạo” đă và
đang thành thật và ngay thẳng hơn những
người Do Thái và các giáo sĩ Do Thái sau này, họ
nhất định là biết được chân ư nghĩa
của vị thần linh ngoại môn của ḿnh. Các tín
đồ Do Thái Bí giáo xem danh hiệu dành cho họ – Yahoudi –
là một điều sỉ nhục. Thế nhưng,
nhất định là họ có (ắt hẳn phải có
miễn là họ muốn) quyền tự gọi ḿnh là
Yahoudi cổ truyền (“Jahhovians”), cũng như
người Bà La Môn phải gọi ḿnh là Brăhmăns theo vị thần linh quốc gia
của ḿnh. Đó là v́ Jah-Hovah là danh hiệu chung của
cái Tập Đoàn Thiên Thần Hành Tinh Sáng Tạo mà quốc
gia họ đă tiến hóa dưới Ngôi sao của các
vị này. Ngài là một trong các Đấng Elohim Hành Tinh
của Tập Đoàn Chưởng Quản Thổ Tinh.
Nếu được thuyết minh một cách đúng
đắn, th́ chỉ nội câu thơ 26 thuộc
chương iv của sáng Thế Kư cũng đủ ban cho
họ quyền năng được như thế
rồi v́ nó gọi Giống người mới – nảy
sinh ra từ Seth và Enos – là Jehovah,
một điều khác hẳn bản dịch
được chấp nhận trong Thánh kinh như sau:
Y cũng hạ
sinh được một người con (Enos); bấy
giờ, thiên hạ bắt đầu tự xưng là Jah
hay Yah-hovah,
nghĩa
là đàn ông và đàn bà, các
“Đấng Sáng Tạo”. Người ta phải đọc
câu thơ nêu trên trong nguyên bản kinh điển Hebrew và
dưới ánh sáng của kinh Kabalah, th́ mới thấy
rằng, thay v́ là những câu mà người ta đă
dịch ra như hiện nay, bản dịch chính xác
phải là:
Bấy giờ
thiên hạ bắt đầu tự xưng là Jehovah.
136
Chứ không phải là :
Bấy giờ,
con người bắt đầu cầu khẩn danh
hiệu của Chúa.
câu
sau cùng là một câu dịch sai, dù vô t́nh hay cố ư. Lại
nữa, đoạn nổi tiếng:
Ta đă
được Chúa ban cho một con người,
phải
được đọc là:
Ta đă
được một con người, ngay cả Jehovah
nữa. ([321])
Luther dịch đoạn
này một cách, c̣n các tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă lại
dịch khác hẳn. Giám mục Wordsworth dịch là:
Ta đă được Cain, từ Kă’ nithi. ([322])
Luther:
Ta đă
được một con người – ngay cả Chúa
[Jehovah] nữa.
C̣n tác giả của
Nguồn Gốc các Kích Thước dịch như sau:
Ta đă đo lường được
một con người, ngay cả Jehovah nữa.
Câu dịch cuối cùng là
chính xác v́ (a) một giáo sĩ Do Thái nổi tiếng,
một môn đồ Do Thái Bí giáo đă giải thích
đoạn này cho bút giả một cách chính xác, và (b) cách
dịch này dồng nhất với cách dịch trong Nội
môn Bí giáo Đông phương liên quan tới Brahmă.
Trong Nữ Thần
Cain … là con
của “Chúa”(“Lord”), chứ không phải của Adam.([324])
“Chúa” là
Y tạo ra
người nam và người nữ… và gọi là Adam.
Các câu thơ trong Sáng Thế
Kư từ Chương I đến chương v đă
được cố ư trộn lẫn với nhau v́ lư do
liên quan tới Do Thái Bí giáo. Sau CON NGƯỜI trong Sáng Thế Kư I, 26, và
Enos, Con của Người (Son of Man) trong Sáng Thế Kư iv,
26; sau Adam, người bán thứ bán hùng đầu tiên; sau
Adam Kadmmon – Thượng Đế vô giới tính (bản
sơ) – một khi Adam và Eve đă phân cách, rốt cuộc
sẽ tới Jehovah-Eve VÀ Cain-Jehovah. Các vị này tiêu
biểu cho các Căn chủng riêng biệt, v́ từ vị
này tới vị kia là hàng triệu năm đă trôi qua.
137
Do đó, thần linh
nhân loại học của dân Ăryan và dân Semit là hai chiếc
lá trên cùng một cọng cây; các nhân vật riêng biệt và
biểu tượng của chúng có liên hệ với nhau
như sau:
1. Cái Bất Khả Tri mà
người ta đề cập tới bằng nhiều
cách khác nhau trong câu thơ của kinh Rig Veda, chẳng
hạn như “Hư Không tồn tại”(“Nought was”), sau này
được gọi là Thái Cực Thượng
Đế (Parabrahman)- Ain, Thái Không (No-thing), tức Ain Soph
của các tín đồ Do Thái Bí giáo – và “Tinh Thần”
(của Thượng Đế) di chuyển trên mặt
Nước, trong Sáng Thế Kư. Tất cả đều
như nhau. Vả lại, trong Sáng Thế Kư I, cũng
như câu thơ 1, câu thơ 2 được đặt
trong các kinh điển Do Thái Bí giáo bí nhiệm, sau đó là các Đấng Elohim “khai
Thiên tịch Địa”. Việc cố ư đảo
lộn thứ tự các câu thơ thật là cần
thiết cho các mục tiêu độc
thần và Do Thái Bí giáo. Lời nguyền của Jeremiah
đối với các Elohim (các Thần) đă không khai Thiên
tịch Địa ([325]),
chứng tỏ rằng có các Đấng Elohim đă khai
thiên tịch địa.
2. Đức Bàn
Cổ Svăyambhuva thiêng liêng, vốn xuất phát từ Svayambhă
Nărăyana, Đấng Tự Sinh Tự Tại, Adam Kadmon
của các môn đồ Do Thái Bí giáo, và CON NGƯỜI bán
thư bán hùng của Sáng Thế Kư I, cũng đều
như nhau.
3. Đức Bàn
Cổ Svăyambhuva chính là Brahmă tức Thiên Đạo; Ngài
cũng chính là Adam Kadmon trong Sáng Thế Kư, iv, 5, phân thân ra làm
đôi (nam và nữ), như vậy là biến thành Jad-Hovah
hay Jehovah-Eve. Bàn Cổ Svăyambhuva, tức Brahmă, đă phân thân
ra thành “Brahmă-Virăj và Văch-Virăj”, nam và nữ. Tất cả
mọi kinh điển và các bản dịch khác đều
là những bức b́nh phong.
4. Văch là con gái của Brahmă và được mệnh danh là Shata-Rũpă “kẻ thiên biến vạn hóa”, và Săvitrĩ, Đấng Sinh Thành, Mẹ của chư Thiên và chúng sinh. Nàng cũng giống như Eve, “Mẹ [của các Thần Linh hoặc] của vạn hữu”. Ngoài ra, c̣n có nhiều ư nghĩa Huyền bí khác.
Mặc dù tản mạn
và được diễn đạt một cách rất dè
đặt vào lúc đó, song những ǵ được tŕnh
bày trong Nữ Thần Isis Lộ Diện về đề
tài này đều chính xác.
Khi giải thích Bánh xe
của Ezekiel theo nội môn, người ta đề
cập tới Johhevah hay Jehovah như sau :
138
Khi
được xét vào lúc khởi đầu Tứ Linh
Tự, Tam Nguyên biểu thị sự Sáng Tạo Thiêng Liêng
xét về mặt tinh thần
(nghĩa là không có bất kỳ tội lỗi xác thịt
nào), khi được xét vào lúc cuối, nó biểu thị
phần sau và có tính cách nữ. Danh xưng của Eva gồm
có ba chữ, danh xưng của Adam nguyên thủy hay thiêng
liêng được viết bằng một chữ Jod hay
Yod, do đó, chúng ta không được đọc nó là
Jehovah mà phải đọc là Ieva hay Eve. Adam trong
chương thứ nhất là Adam Kadmon thiêng liêng, do đó,
hoàn toàn bán thư bán hùng. Khi người đàn bà xuất
phát từ xương sườn trái của Adam thứ hai
(bằng cát bụi) Xử Nữ khiết bạch tách ra và
sa vào “ṿng sinh hóa” hay chu kỳ giáng hạ, biến thành
Hổ Cáp, biểu hiệu của tội lỗi vật
chất. Trong khi đó, chu kỳ thăng thượng
biểu thị các Giống dân thuần túy Tâm Linh, tức
mười vị Tộc Trưởng tiền Đại
Hồng Thủy, các Đấng Prajăpati và Sephiroth,
được Đấng Thánh Linh sáng tạo đích thân
dẫn dắt. Đấng Thánh Linh sáng tạo chính là Adam
Kadmon tức là Yodcheva [xét về mặt tinh thần];
Đấng Thánh Linh hạ đẳng [Jehovah] là
Đấng Thánh Linh của các Giống dân Thế tục,
do Enoch tức Libra, Cung thứ bảy chỉ đạo. V́
Enoch có tính cách nửa thiêng liêng nửa thế tục, nên
người ta bảo y đă được Thượng
Đế sống động chế ngự. Enoch, hoặc
Hermes hay Libra, đều như nhau.([326])
Đây chỉ là một trong
nhiều ư nghĩa. Thiết tưởng chẳng cần
nhắc quí độc giả ắt cũng nhớ rằng
Hổ Cáp là cung chiêm tinh của các cơ quan sinh dục,
cũng như Thánh Hiền Ấn Độ, con số các
Tộc Trưởng đều có thể thay đổi.
Tùy theo đề tài liên hệ, chúng biến thành
mười, mười hai, bảy hoặc năm, thậm
chí mười bốn, chúng
cũng có ư nghĩa Nội môn như các vị Bàn Cổ hay
như Thánh Hiền.
Vả lại, chúng ta có
thể chứng tỏ rằng Jehovah có vô số từ
nguyên, nhưng trong kinh Kabalah chỉ có những từ nguyên xác thực, Ieve là từ ngữ
trong kinh Cựu Ước và được phát âm là Ya-va.
Inman gợi cho chúng ta nghĩ rằng nó được rút
gọn từ hai từ ngữ Yaho-Iah, Jaho-Jah, hoặc Jaho
là Jah. Nếu được đánh dấu chấm câu, nó
sẽ là (chữ tượng h́nh), tuy nhiên, các giáo sĩ Do
Thái thật ngông cuồng khi liên kết nó với danh
hiệu Adoni, cũng có
những dấu chấm giống như vậy. Thật là kỳ
lạ và khó quan niệm được là người Do
Thái thời xưa đọc danh hiệu này là Adoni, khi có
biết bao nhiêu là danh xưng mà Jeho,
Jah và Iah chỉ là một
phần. Nhưng đúng là như vậy đó; Philo Byblus
(kẻ đă tŕnh bày với chúng ta cái gọi là áng văn
của Sanchuniathom) đă đánh vần theo các chữ Hy
Lạp ΙΕ¡W, Jaho tức là Jevo. Theodoret cho
rằng người
139
Khi thấy
tiếng Bắc Phạn có những vần như là Jah và
Yah nghĩa là Jăh-navi (Hằng hà) và Jagam-nătha (Đức
Chưởng Quản Thế Gian) thật hiển nhiên
tại sao ông Rawlinson lại rất tin tưởng trong các
tác phẩm của ông về ảnh hưởng của
Ăryan hoặc kinh Veda đối với thần thoại
cổ sơ của dân Babylon. Chúng ta cũng chẳng nên quá
thắc mắc trước sự kiện giả
định là mười bộ lạc Do Thái đă
biến mất trong thời kỳ bị giam giữ, mà
không lưu lại một vết tích nào, khi mà chúng ta
lại được biết rằng người Do Thái
thực ra chỉ có hai bộ lạc: bộ lạc Judah và
bộ lạc Levi. Vả lại, người Levi chẳng
phải là một bộ lạc ǵ cả mà chỉ là
một giai cấp tu sĩ. Những hậu duệ chỉ
đi theo các bậc tiền bối của ḿnh (nhiều
tộc trưởng khác nhau)
vào trong bầu không khí loăng của các tinh tú. Thật
vậy, thời xưa, trước khi người Do Thái
đầu tiên sinh ra, đă có Brahms
và A-brahms. Mọi quốc gia
đều xem vị Thần đầu tiên và chư
Thần Linh là bán thư bán hùng; cũng như chẳng
thể nào khác hơn được; v́ họ xem các tổ
phụ sơ khai xa xưa của ḿnh (các vị tổ
phụ lưỡng tính) là Đấng thiêng liêng và các
thần linh cũng như người Trung Hoa cho
đến tận ngày nay. Họ có tính cách thiêng liêng (theo
một nghĩa nào đó) cũng như những hậu
duệ nhân loại đầu tiên, loài người nguyên
thủy “trí sinh”, họ chắc chắn là lưỡng tính
(mọi biểu tượng và truyền thuyết xa xưa
hơn đều chứng tỏ như vậy).
Tiềm tàng bên dưới các
biểu hiện và thuật ngữ kỳ quặc của
giới tu sĩ thời xưa là các ẩn ngôn của các
khoa học c̣n chưa được khám phá ra trong ṿng chu
kỳ hiện tại. Cho dù một học giả có quen
thuộc với lối viết tượng h́nh và hệ
thống chữ tượng h́nh của người Ai
Cập đến đâu đi chăng nữa,
trước hết y cũng phải học cách gạn
lọc các tài liệu của họ. Trong khi tay lăm
lăm cầm com-pa và thước kẻ, y phải biết
chắc rằng loại chữ tượng h́nh mà y đang
xem xét thích ứng (theo một cách thức nào đó) với một vài h́nh học nhất
định, vốn là những ch́a khóa ẩn tàng
giải các tài liệu đó, trước khi y dám thuyết
minh.
Nhưng có những thần
thoại tự minh giải được vấn
đề. Chúng ta có thể bao gồm trong loại này các
Đấng sáng tạo lưỡng tính bản sơ
của mọi vũ trụ khởi nguyên luận. Đó là
thần Zeus-Zên (Hậu thiên khí) của người Hy
Lạp và và Chthonia (Đất Hỗn Mang) và Metis (Thủy)
là những quí phu nhân của Ngài; Osiris và Isis-Latona – Osiris
cũng tiêu biểu cho Hậu thiên khí, phân thân thứ
nhất của Đấng Thánh Linh Tối Cao Amun, cội
nguồn của Ánh Sáng; rồi lại tới Nữ
Thần Đất và Nước. Mithras, vị Thần
thạch sanh (the rockborn God), biểu tượng của
Lửa dương ở trần thế, tức là Bản
Quang hiện thân, và Mithra, Nữ Thần Lửa, vừa là
mẹ vừa là vợ của Ngài; hành Hỏa thuần túy
(nguyên khí dương chủ động) được xem
như là ánh sáng và nhiệt, cùng với Thổ và Thủy,
tức Vật Chất (yếu tố âm hay thụ
động của sự sinh hóa vũ trụ). ([328])
Tất cả những điều này đều là tài liệu bàn về Đấng Lưỡng Tính thiêng liêng bản sơ.
ĐOẠN
KINH 6
SỰ TIẾN HÓA CỦA
“GIỐNG NGƯỜI HĂN SINH”
(THE
EVOLUTION OF THE “SWEAT-BORN”
22. Ba Giống dân
tiếp tục tiến hóa. 23. Giống dân thứ Hai
tạo ra Giống dân thứ Ba rồi suy vong.
22. KẾ ĐÓ GIỐNG DÂN THỨ HAI TIẾN HÓA
THÀNH GIỐNG DÂN THỨ BA, GIỐNG NOĂN SINH. MỒ HÔI
TĂNG TRƯỞNG, CÁC GIỌT MỒ HÔI TĂNG
TRƯỞNG, BIẾN THÀNH CỨNG VÀ TR̉N. MẶT TRỜI
SƯỞI ẤM NÓ; MẶT TRĂNG LÀM CHO NÓ NGUỘI VÀ CÓ
H̀NH THỂ; GIÓ NUÔI DƯỠNG NÓ CHO ĐẾN KHI CHÍN
MUỒI. CON THIÊN NGA TRẮNG TỪ TRÊN V̉M TRỜI LẤP
LÁNH ÁNH SAO ([329])
PHỦ BÓNG GIỌT MỒ HÔI LỚN. QUẢ TRỨNG
CỦA GIỐNG DÂN VỊ LAI, CON NHÂN NGA (MAN-SWAN) CỦA
GIỐNG DÂN THỨ BA SAU NÀY (a). TRƯỚC TIÊN LÀ
ĐỰC-CÁI (MALE-FEMALE), VÀ KẾ ĐÓ LÀ
140
a. ĐOẠN KINH này ngụ ư rằng bào thai
con người được nuôi dưỡng thêm bằng
Năng Lực Vũ Trụ và “Phụ Mẫu” dường
như cung cấp mầm sống nó trở nên chín muồi.
Rất có thể đó là một “quả trứng do mồ
hôi sinh ra”, c̣n phải nở do một phương thức
bí ẩn nào đó để tách rời khỏi phụ
mẫu “song đôi”. Chúng ta có thể quan niệm khá dễ
dàng một nhân loại noăn sinh, v́ thậm chí cho đến
ngày nay, hiểu theo một ư nghĩa, con người
vẫn c̣n được sinh ra từ một “cái trứng”.
Vả lại, trong tác phẩm Sinh Lư Học Sơ Cấp
Yếu Lược có nêu ra
Một
trường hợp cuống rún đă đứt và hoàn toàn
thành sẹo,
mà
đứa trẻ vẫn sống khi chào đời và
hỏi một cách thích đáng: Trong cơ quan này, sự
tuần hoàn đă diễn ra như thế nào? Ở trang
tiếp đó, ông cho rằng: Hiện nay, chúng ta chẳng
biết ǵ về sự tiêu hóa nơi thai nhi. C̣n về
sự dinh dưỡng của nó, ông đă đưa ra câu
hỏi sau đây: Như vậy, chúng ta có thể nói ǵ
về sự dinh dưỡng của bào thai? Các tác phẩm
sinh lư học chỉ phỏng
đoán một cách mơ hồ về điều này.
Kẻ hoài nghi có thể
nhấn mạnh: “Nhưng tác phẩm của Magendie lại
thuộc về thế hệ vừa qua, từ ngày đó
khoa học đă tiến những bước dài
đến nỗi mà vết ô nhục của sự dốt
nát không c̣n in hằn trên nó nữa”. Thật vậy, thế
th́ chúng ta hăy quay sang một nhân vật có rất nhiều
thẩm quyền về sinh lư học. Sir Michael Foster, chúng ta
sẽ thấy ông phát biểu ư kiến thật là bất
lợi cho khoa học hiện đại như sau :
Chúng ta hầu
như chẳng biết ǵ về sự trỗi dậy và
sự phát triển của các hoạt động chức
năng của bào thai. Chúng ta hầu như chẳng
biết ǵ về nhiều bước khác nhau nhờ đó
các tính chất cơ bản của nguyên sinh chất của
noăn bị biến phân thành ra cá hiện tượng
phức tạp mà chúng ta thử giải thích trong quyển
sách này.
Nay các sinh viên ở
trường Trinity, Viện Đại Học Cambridge, nên
kéo màn phủ trước tượng Hygeia và bịt
mắt các pho tượng bán thân của Galen và Hippocrates, kẻo
họ sẽ quắc mắt lên khiển trách đám hậu
sinh suy đồi. Chúng ta c̣n phải lưu ư thêm một
sự kiện nữa. Sir Michael Foster đă thận
trọng im lặng về trường hợp cuống
rốn bị đứt mà bạn đồng nghiệp cao
cả của ông đă nêu ra.
b. Đây là một câu hỏi
rất lạ lùng, như lời B́nh luận đă giải
thích. Nói rơ hơn, Giống dân thứ Nhất sinh ra
Giống dân thứ Hai bằng phương pháp nảy
chồi hay mọc nhánh như đă giải thích
trước đây. Giống dân thứ Hai sinh ra Giống
dân thứ Ba – Giống dân này chia ra làm ba hạng rơ rệt,
gồm những người được cấu tạo
bằng những phương pháp sinh sản khác nhau. Hai
hạng đầu tiên do phương pháp noăn sinh. C̣n
những phụ chủng đầu tiên của Hạng nhân
loại thứ Ba sinh sản truyền giống bằng cách
từ thân ḿnh phóng xuất ra một chất lỏng
sệt (như mồ hôi). Những giọt chất lỏng
này cô đọng lại và h́nh thành một bầu tṛn
như quả trứng (hay đó là quả trứng
thật?). Quả trứng này có tác dụng như một
cái thể phụ thuộc để tượng h́nh trong
đó có bào thai và hài nhi. Trong những giống dân sau này,
phương pháp sinh sản đă thay đổi. Trẻ
sơ sinh của các giống dân phụ đầu tiên hoàn
toàn vô phái; ([330])
c̣n trẻ sơ sinh của giống dân phụ về sau th́
thư hùng lưỡng phái. Chính trong Giống dân thứ Ba
mới bắt đầu có sự phân chia nam nữ. Từ
trạng thái vô phái trước đây, nhân loại trở nên
lưỡng phái hay bán nam bán nữ và sau cùng, những
quả trứng truyền giống đă bắt đầu
sinh nở một cách tuần tự và hầu như
lặng lẽ âm thầm trong sự phát triển của nó
để sinh ra trước tiên những người có
tính này trội hơn tính kia, và sau rốt, những
người nam và nữ rơ rệt. Nay chúng ta hăy t́m cách
bổ chứng cho các phát biểu này nơi các huyền
thoại của phương Đông và phương Tây.
Trước hết, chúng ta thử xét “Giống
người Noăn sinh”. Chúng ta thử nghĩ đến Ca
Diếp (Kashyapa), vị hiền triết Veda, và là
Đấng sáng tạo nảy nở mau nhất. Ngài là con
của Marĩchi, Đứa Con Trí sinh của Brahmă; ngoài các
thực thể khác ra, Ngài cũng c̣n bị biến thành cha
của các Năgas, tức là Rắn. Xét về mặt ngoại
môn, Năgas là các thực thể bán linh có mặt người,
đuôi rắn. Thế nhưng, có một giống Năgas mà
nghe nói chỉ có một ngàn vị, sinh ra, hoặc đúng
hơn xuất phát từ Kadrũ, vợ của Ca Diếp,
ngơ hầu cư ngụ tại
Pătăla, nó nhất định là Châu Mỹ, như ta
sẽ chứng minh sau này; có một Năga-Dvipa, một trong
bảy phần của Bhăratavarsha, Ấn Độ, nơi
trú ngụ của một dân tộc có cùng tên. Ngay cả
một vài nhà Đông phương học cũng cho là dân
tộc này có tính cách lịch sử và đă lưu lại
nhiều vết tích cho đến tận ngày nay.
141
Điểm
cần nhấn mạnh hiện nay là dù rằng nguồn
gốc loài người như thế nào, sự tiến hóa
của nhân loại diễn ra theo trật tự sau đây:
1) Vô phái (sexless) cũng như tất cả mọi h́nh
thể sơ khai; 2) Thư hùng lưỡng phái do một
chuyển biến tự nhiên ở giai đoạn giao
thời, y trở nên một người bán nam bán nữ; và
3) do sự phân chia nam nữ, y trở nên một người
như ngày nay. Khoa học dạy chúng ta rằng mặc dù vô
giới tính, mọi dạng nguyên sơ “vẫn c̣n duy tŕ
được khả năng trải qua các tiến tŕnh
sinh sôi nảy nở phi giới tính”; thế th́ tại sao
con người lại không bị định luật thiên
nhiên này chi phối? Sự sinh sản lưỡng tính là
một sự tiến hóa, một dạng chuyên biệt và
toàn bích trên qui mô Vật Chất của mọi hoạt
động liệt phân của sự sinh sản. Giáo lư
Huyền bí học chủ yếu là theo thuyết tha sinh, và
lịch sử sơ khai của nhân loại chỉ ẩn
tàng “đối với thường nhân thế tục”.
Lịch sử của các Giống dân nguyên sơ không hề
bị chôn vùi dưới nấm mộ thời gian
đối với các Đạo đồ như
trường hợp với khoa học thế gian. Do
đó, vốn được ủng hộ một mặt
bởi cái khoa học đă cho chúng ta thấy sự phát
triển tiệm tiến và một nguyên nhân ngoại
tại là một định luật trong Thiên Nhiên; mặt
khác, bởi một miềm tin âm thàm vào Minh Triết –
thậm chí chúng ta có thể nói là Toàn Triết – của các
triết thuyết đại đồng thế giới mà
các Điểm đạo đồ - tức là những
kẻ đă làm cho chúng hoàn thiện hầu như toàn bích –
đă thu thập lại và ǵn giữ, chúng tôi xin đánh
bạo phát biểu giáo lư một cách minh bạch.
142
Trong
một bài tuyệt vời được viết ra cách
đây chừng mười lăm năm; ông bạn thông
thái và khả kính của chúng tôi, Giáo sư Alexander Wilder
ở Nữu Ước, đă chứng tỏ rằng
việc tin tưởng vào “Giống Dân Sơ Khai
Lưỡng Tính” là hoàn toàn hợp lư và cần thiết, ông
c̣n tŕnh bày một số lư do khoa học khiến
người ta tin như vậy ([331]).
Thoạt tiên ông luận chứng rằng một phần
lớn tạo vật cây cỏ đều phô bày hiện
tượng lưỡng tính, như vậy là phép nhân
loại của Linnaeus đă liệt kê hầu hết
mọi cây cỏ. Đó là trường hợp các họ
thượng đẳng của giới thực vật
cũng như là các dạng hạ đẳng, từ cây gai
cho tới cây bạch dương
Các nhà Hiền Triết
thời xưa đă dạy những ǵ ? Trong tác phẩm
Banquet (Bữa Tiệc) của Plato, Aristophanes có nói như
sau:
Bản chất
của chúng ta thời xưa không hề giống như bây
giờ. Con người thuở đó ái nam ái nữ… H́nh dáng họ .. tṛn, khi đi th́
họ lăn ([332]).
Họ mạnh kinh khủng và có nhiều tham vọng. V́
vậy thần Zeus mới chia họ thành hai mảnh cho
họ yếu bớt đi. Thần Apollo, theo chỉ
thị của thần vương Zeus, khâu kín da họ
lại.
Đối với
người Cổ Ba Tư, Meshia và Meshiane chẳng qua
chỉ là một nhân vật duy nhất.
Họ cũng dạy rằng
con người là Cây Trường Sinh, mọc thành từng
cặp bán thư bán hùng, cho đến khi chúng bị phân
cách ra vào một kỳ biến đổi tiếp theo
của h́nh dạng con người.
Trong Quyển Gia Phổ
(Toledoth) của Adam, nếu được thuyết minh
theo lối nội môn, câu thơ:
Thượng
Đế sáng tạo (bara,
sinh ra) con người theo h́nh ảnh của ḿnh, Ngài
tạo ra y theo h́nh ảnh của Thượng Đế,
Ngài tạo ra chúng, người nam và nữ.
143
Các
Đấng Elohim [các Thần] tạo ra con người
bằng cách biến đổi chính ḿnh, theo h́nh ảnh
của ḿnh …họ tạo ra y [tập thể Nhân loại
tức Adam], Ngài [tập thể Đấng Thánh Linh]
tạo ra họ, nam và
nữ.([333])
Điều này sẽ
chứng tỏ Quan điểm Nội môn. Giống dân Vô giới tính là Sản phẩm đầu tiên của họ,
một biến thể và từ
chính họ, các Thực Thể Tinh Thần thuần túy;
đó chính là Adam đơn
độc. Rồi tới Giống dân thứ Hai: Adam-Eve tức Jod Heva, Bán thư bán hùng
và bất động; cuối cùng là Giống dân thứ Ba tức “Giống bán
thư bán hùng đă tách ra”, Cain và Abel, họ tạo ra
Giống dân thứ Tư, Seth-Enos, v..v… Chính Giống dân
thứ Ba, Giống dân bán tinh thần cuối cùng này,
cũng là hiện thể cuối cùng của Minh Triết
thiêng liêng và bẩm sinh nơi Enochs, các nhà Linh thị
của Giống người đó. Giống dân thứ
Tư vốn đă nếm Trái Thiện và Ác – Minh Triết
đă kết hợp với trí tuệ thế tục ([334])
và do đó ô trược – v́ thế phải thủ
đắc được Minh Triết đó nhờ vào
sự điểm đạo và sự đấu tranh
quyết liệt. Trong các tác phẩm của Hermes,
người ta gọi sự kết hợp của Minh
Triết và Trí Tuệ (minh triết chủ trị trí
tuệ) là “vị Thần Linh có sức sinh nở nhị
phân của cả hai phái”.
Xét về mặt thần
bí, Đức Jesus được xem là bán thư bán hùng.
Cũng vậy, chúng ta thấy trong các bài Thánh ca Orpheus,
được hát lên trong khi có các Bí pháp, đoạn sau
đây: “Zeus là một vị đàn ông, Zeus là một cô gái
bất tử”. Thần Ammon của Ai Cập có một
nửa khác là Nữ Thần Neith. Thần Jupiter lại có
một bộ ngực của đàn bà, c̣n một vài pho
tượng thần Venus lại có râu ria xồm xoàm, Nữ
Thần Ilă cũng là thần Su-dyumma (ánh quang huy) với
tư cách là hậu duệ của Vaivasvata.
Giáo sư Wilder cho
rằng:
Bản thân danh
hiệu Adam, tức con
người, hàm ư dạng tồn tại nhị phân này. Nó
đồng nhất với Athamas,
tức Thomas (tiếng Tamil
là Tam), mà người Hy
Lạp dịch là didumos, con
sinh đôi. Do đó, nếu người đàn bà
đầu tiên được tạo ra sau người
đàn ông đầu tiên, nàng phải được “trích
ra từ người đàn ông” (đây là một
điều tất yếu về mặt luận lư
học). Do đó, chúng ta mới thấy:…”Và cạnh sườn mà Đức Chúa Trời
[Elohim] đă trích ra từ người đàn ông, đă
biến thành một người đàn bà”. Ở đây,
người ta dùng từ ngữ Hebrew tzala, nó được dịch là cạnh
sườn như vừa được tŕnh bày. Thật
chẳng khó khăn ǵ khi truy nguyên huyền thoại này
nơi Berosus, ông bảo rằng Thalatth
(Omorơka tức là Bà Urka) là khởi đầu của
sự sáng tạo. Nàng cũng là Telita [? Melita], nữ hoàng
của Mặt Trăng…
Hai cặp anh em sinh đôi
đáng ghi nhớ trong Sáng Thế Kư (cặp Cain Abel và
cặp Esau-Jacob) cũng phản ánh ư niệm đó. Danh
xưng Hebel cũng giống
như Eve và các đặc tính dường như là nữ.
Chúa dạy Cain: “Ư muốn của y sẽ thuộc về mi
và mi sẽ cai trị y”. Ngài cũng dạy Eve như
vậy: “Ư muốn của con sẽ dành cho chồng con và y
sẽ khống chế con”. ([335])
144
Như
vậy, sự đơn nhất lưỡng tính nguyên
sơ của Căn chủng thứ Ba là một công lư trong
Giáo Lư Bí Nhiệm. Những nhân vật trinh nguyên của nó
được nâng lên hàng “Thần Thánh” v́ Giống dân
đó tiêu biểu cho “Triều đại Thiêng Liêng” của
họ. Những người hiện đại đều
thỏa măn với việc tôn thờ các vị nam anh hùng
của Giống dân thứ Tư, họ đă tạo ra các
Thần Linh theo h́nh ảnh tính dục của riêng họ,
trong khi mà các Thần Linh của nhân loại sơ khai
lại là “nam và nữ”.
Như đă nêu rơ trong
Quyển 1 và 2, những đợt Nhân loại thuộc các
chủng tộc khác nhau đều phát triển đồng
loạt và trên những đường lối song song
với bốn Nguyên tố, mỗi Giống dân mới
đều ḥa hợp về phương diện sinh lư
để thích ứng với ngoại cảnh khi thiên nhiên
lại có thêm một Nguyên tố mới vừa xuất
hiện. Giống dân thứ Năm của chúng ta đang
tiến gần một cách mau lẹ đến Nguyên tố
thứ Năm có thể gọi là “liên tinh dĩ
thái”(interstellar ether), tuy nhiên, nguyên tố này có liên hệ
đến tâm lư nhiều hơn vật lư. Con người
đă tập sống được ở mọi khí
hậu lạnh lẽo hay nóng bức, nhưng hai Giống
dân đầu tiên không hề biết ǵ về khí hậu hay
chịu lệ thuộc vào sự thay đổi thời
tiết. Chúng ta được biết rằng con
người vẫn sống trong t́nh trạng đó cho
đến lúc chấm dứt Giống dân thứ Ba. Trong
thời kỳ đó, mùa xuân trường cửu ngự
trị trên khắp thế gian, cũng giống như thời
tiết mà nhân vật trên bầu Jupiter đang hưởng
được hiện nay.
Ông Camiller Flammarion nói:
Mộc Tinh
(Jupiter) không có bốn mùa, không nóng lạnh thất
thường; mà có mùa xuân
bất tận, nên có đủ các kho tàng phong phú. ([336])
Xin mời các nhà thiên văn
học nào đang chủ trương rằng Mộc Tinh
đang ở trong t́nh trạng nóng chảy (theo nghĩa mà
chúng ta hiểu từ ngữ này) hăy đấu lư với nhà
thiên văn học thông thái người Pháp này ([337]).
Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng “mùa xuân trường
cửu” nói trên chỉ là một trạng thái thời
tiết ghi nhận theo cảm giác của người
Mộc Tinh, chứ không phải là mùa xuân như chúng ta được biết.
Trong sự dè dặt này chúng ta thấy sự dung ḥa
giữa hai thuyết được nêu ra ở đây.
Cả hai đều bao hàm một
phần chân lư.
145
Như vậy, trên
toàn thế giới đều có truyền thuyết cho
rằng nhân loại đă tiến hóa dần dần thành ra
t́nh trạng hiện nay từ một t́nh trạng cấu
trúc hầu như là trong suốt, không phải bằng phép
lạ, mà cũng không phải bằng sự phối
hợp. Vả lại, điều này cũng hoàn toàn phù
hợp với các triết thuyết cổ truyền,
từ triết thuyết của Ai Cập và Ấn
Độ, với các triều đại Thiêng Liêng,
xuống măi tới triết thuyết của Plato. Và
tất cả mọi tín ngưỡng đại
đồng thế giới này phải được xếp
vào loại các “linh cảm” và các “quan niệm ngoan cố” (có
một vài thứ không thể nào quét sạch
được) trong các tín ngưỡng b́nh dân. Theo nhận
xét của Louis Figuier,
Các tín ngưỡng như
thế thường là kết quả của minh triết
và sự quan sát của vô số thế hệ con
người… [Đó là v́], một truyền thuyết vốn
tồn tại một cách đồng đều trên toàn
thế giới, ắt phải có đủ mọi tầm
quan trọng của bằng chứng khoa học. ([338])
Thế mà, trong các
chuyện ẩn dụ Purănas, lại có hơn một
truyền thuyết như thế như ta đă chứng
tỏ rồi. Hơn nữa, giáo lư cho rằng Giống
người Đầu tiên được tạo ra từ
các H́nh Bóng tinh anh (Chăyăs) của các Tinh Quân, lại
được bổ chứng hoàn toàn trong kinh Zohar:
Ngài tạo ra Adam
(con người), theo Tzelem, h́nh bóng của các Đấng
Elohim [các Tinh Quân]. ([339])
146
Người
ta sẽ phản đối đi phản đối
lại rằng mặc dù tư tưởng siêu h́nh ở
cổ Ấn đă đạt đến một tŕnh
độ rất cao, song người Cổ Ai Cập
chẳng có ǵ để khoe khoang, ngoại trừ tục
sùng bái thần tượng và sùng bái súc vật thô lậu.
Theo giả định, Hermes là tác phẩm của các nhà
Thần bí Hy Lạp sống ở Ai Cập. Chúng ta có
thể giải đáp điều này như sau: có một
bằng chứng trực tiếp cho thấy rằng
người Ai Cập tin tưởng vào Giáo Lư Bí Nhiệm,
đó là: nó đă được giảng dạy cho họ
vào lúc Điểm đạo. Xin vị nào phản
đối hăy trở lại tác phẩm Eclogae Physicae et Ethicae của Stobaeus, người Hy
Lạp chuyên biên soạn các áng văn cổ sống vào
thế kỷ thứ năm sau T.C. Sau đây là một
đoạn do ông sao lại từ một áng cổ văn
của Hermes, tŕnh bày thuyết linh hồn của Ai Cập.
Nó được dịch theo sát nghĩa như sau:
Từ cái
Đại Hồn Duy Nhất nảy sinh ra muôn vàn linh
hồn khác rải rác khắp thế gian. Chúng biến
chuyển nhiều lần; sinh vật ḅ sát thành các sinh
vật ở dưới nước; những giống thú
chạy trên đất là do những sinh vật sống
dưới nước mà ra. Loài chim phát sinh từ giống
thú, loài người phát sinh từ chư Thiên. Khi lên làm
người, chúng nhận được cái yếu tố
nhận thức tức là yếu tố bất tử, rồi từ vị trí con
người, chúng trở thành những vị Trời,
Thần.
23. NHỮNG KẺ TỰ SINH LÀ CÁC H̀NH BÓNG PHÓNG XUẤT TỪ CÁC THỂ CỦA CÁC ĐỨA CON TRANH SÁNG TRANH TỐI. CẢ NƯỚC LẪN LỬA ĐỀU KHÔNG HỦY DIỆT ĐƯỢC HỌ. CÁC CON CỦA HỌ ĐĂ BỊ HỦY DIỆT.
Câu này không thể hiểu
được nếu không tham khảo Thiên b́nh luận. Nó
có nghĩa là Giống dân thứ Nhất, những “H́nh
Bóng”của các vị Thủy Tổ phóng xuất ra, không
thể bị gây thương tích hay hủy diệt
bằng sự chết. Vốn dĩ có một thể
chất khinh thanh và không giống như người phàm,
họ không thể bị ảnh hưởng hủy
diệt của một nguyên tố nào, dù nước
lụt hay lửa cháy. Tuy nhiên, “Các Con” của họ (là
Giống dân thứ Hai) có thể đă bị hủy
diệt bởi nước và lửa. Cũng như
những vị Thủy Tổ hoàn toàn sáp nhập với
những Thể Dĩ Thái là con cháu của các Ngài, th́
những con cháu này cũng bị thu hút và thể nhập
với các hậu duệ của chúng là những
người “Hăn sinh”. Những người này là thành
phần của Giống dân thứ Hai, gồm những quái
vật khổng lồ nửa người nửa thú,
với những h́nh thái vô cùng phức tạp. Đó là
những biến thái đầu tiên trong những dự tính
của thiên nhiên để cấu tạo nên thể xác con
người. Những vùng đất cỏ cây hoa lá xanh
tươi của Lục địa thứ Hai (gồm
đảo
MỘT VÀI LỜI VỀ CÁC
TRẬN “ĐẠI HỒNG THỦY”
VÀ
CÁC “NOAHS”
147
Cũng
như các điều khác, các bài tường thuật trong
nhiều kinh Purănas khác nhau về các Thủy Tổ của
chúng ta đều có nhiều chi tiết mâu thuẫn nhau.
Như vậy, trong khi mà kinh Rig Veda, Idă hay Ilă
được gọi là Sư mẫu của Bàn Cổ
Vaivasvata, th́ Săyana lại biến thành một Nữ Thần
chủ tŕ Trái Đất, và kinh Shapapatha Brăhmana tŕnh bày nàng
là con gái của Bàn Cổ, một hậu duệ do sự hy sinh của Ngài và sau
này là phu nhân của Ngài (Vaivasvata),
nhờ đó Ngài mới sinh ra
ṇi giống các vị Bàn Cổ. Trong kinh Purănas, nàng
lại là con gái của Vaivasvata, song lại là vợ của
Budha (Minh Triết), đứa con hoang của Nguyệt Tinh
(Soma) và vợ của Jupiter (Brihaspati), tức Tără. Tất
cả các điều này, vốn dường như là
một mớ hỗn độn đối với kẻ
phàm tục, song lại đầy ư nghĩa triết
học đối với nhà Huyền bí. Chúng ta có thể
nhận ra một ư nghĩa bí mật và thiêng liêng ngay khi
mới thoạt nh́n vào bảng tường thuật; tuy
nhiên, các chi tiết đă cố t́nh bị xáo trộn
đến nỗi mà chỉ có cặp mắt lăo luyện
của bậc Cao đồ mới có thể theo dơi chúng
được và xếp đặt các biến cố theo
đúng thứ tự.
Câu chuyện được tŕnh bày trong Măhăbharata
đă nêu bật được chủ điểm, thế
nhưng, nó cần được giải thích theo ư
nghĩa bí mật bao hàm trong Chí Tôn Ca. Đó chính là tiền
đề của vở kịch do Giống dân thứ
Năm chúng ta đạo diễn. Trong khi Vaivasvata đang
công phu sùng tín trên bờ sông, một con cá bèn cầu xin Ngài
che chở nó thoát khỏi nanh vuốt của con cá lớn
hơn. Ngài bèn cứu nó rồi bỏ nó vào một cái
hũ; ở đó khi càng ngày càng lớn lên, nó bèn thông báo cho
Ngài tin tức về trận Đại Hồng Thủy
sắp tới. Con Cá này chính là Hóa Thân Cá nổi tiếng, Hóa
Thân thứ nhất của Vishnu, Dagon ([341])
của người Chaldea Xisuthrus, và nhiều điều
khác nữa. Câu chuyện đó quá nổi tiếng nên chúng ta
cũng chẳng cần nhắc lại. Vishnu đặt
đóng một chiếc tàu mà Đức Bàn Cổ cùng
với bảy Thánh Hiền được cứu thoát trong
đó (theo Ma hă b hă rata); tuy nhiên, trong các kinh điển khác
lại không có điều này. Ở đây, bảy Thánh
Hiền tượng trưng cho bảy Giống dân, bảy
Nguyên khí và nhiều điều khác nữa, v́ ẩn dụ
đa tạp này lại bao hàm một bí nhiệm nhị
phân.
Chúng tôi có nói ở đâu
đó rằng trận Đại Hồng Thủy có
nhiều ư nghĩa, và cũng như sự SA ĐỌA
(FALL), nó đề
cập tới các biến cố về cả tinh thần
lẫn vật chất, về cả vũ trụ lẫn
trái đất: trên sao dưới vậy. Tóm lại, cái Tàu
hay Bè – Navis – là biểu tượng của Nguyên khí âm sinh
sản, nó được tiêu biểu trên trời bằng
Mặt Trăng và dưới Trần Thế bằng
Tử Cung. Cả hai đều chứa các mầm mống
của sự sống và sự tồn tại, và Mặt
Trời tức Vishnu, Nguyên khí dương, làm linh hoạt và
đơm bông kết trái. Trận Lụt Vũ Trụ
Đầu Tiên ám chỉ cuộc sống Sáng tạo Nguyên
Thủy, tức là sự khai thiên tịch địa, trong
trường hợp này, Hỗn Mang và Thái Uyên tượng
trưng
148
cho “Trận
Lụt” và Mặt Trăng tượng trưng cho “Mẹ”,
vốn phát sinh ra mọi mầm mống ([342]).
Nhưng trận Đại Hồng Thủy trên Địa
Cầu và câu chuyện về nó cũng áp dụng
được cho hai trường hợp. Trong một
trường hợp, nó nhằm nói tới cái điều bí
mật khi nhân loại được cứu thoát khỏi
sự tận diệt; do người đàn bà thế
tục bị biến thành vật chứa đựng
mầm mống của con người vào lúc cuối
Giống dân thứ Ba ([343]).
Trong trường hợp khác, nó ám chỉ sự Đắm
ch́m Châu Atlantis vốn có thực trong lịch sử. Trong
cả hai trường hợp, “Tập Đoàn”- tức
vị Bàn Cổ cứu vớt mầm mống”- đều
được gọi là Bàn Cổ Vaivasvata. V́ thế kinh
Purănas nói khác với những bản kinh khác. Trong khi đó,
trong “Shapapatha Brăhmana”, Vaivasvata lại tạo ra một
đúa con và từ nàng sinh ra ḍng giống của Bàn Cổ.
Điều này nhằm nói tới các vị Nănushyas nhân
loại đầu tiên, họ đă phải tạo ra
phụ nữ bằng ư chí (Kriyăshakti), trước khi
tự nhiên sinh ra những người bán thư bán hùng
như là một phái độc lập, và do đó được
xem như là “con gái” của các Đấng Sáng Tạo. Kinh
Purănas biến Idă, tức Ilă, thành vợ của Budha (Minh
Triết). Cách thuyết minh này nhằm nói tới các
biến cố của trận lụt thời Châu Atlantis,
khi Vaivasvata, vị đại Thánh trên Trần Thế,
cứu Căn chủng thứ Năm cùng với số tàn
dư của Căn chủng thứ Tư khỏi bị
tiêu diệt.
Điều này
được tŕnh bày rất minh bạch trong Chí Tôn Ca,
Đức
Bảy
Đấng Thánh Hiền, bốn Đấng Bàn Cổ
tiền nhiệm, đă tham dự vào bản thể của
chúng ta và đều sinh ra từ trí chúng ta: nhân loại và
thế giới đều sinh ra từ các vị này ([344])
Ở đây, bốn
vị Bàn Cổ tiền nhiệm trong số bảy vị,
là bốn Giống dân ([345])
đă tồn tại, v́ Krishna thuộc về Giống dân
thứ Năm, sự tịch diệt của Ngài đă khai
mở
149
“Đại
Hồng Thủy” là một truyền thống đại
đồng dân gian không thể phủ nhận hay chối
căi. Những “Thời kỳ Băng giá” có nhiều cũng
như Đại Hồng Thủy v́ nhiều lư do khác nhau.
Các nhà bác học Stockwell và Croll kể ra có đến
nửa tá những Thời kỳ Băng giá và những
cơn ngập lụt kế tiếp, mà lần xưa
nhất ở vào khoảng 850 000 năm nay, c̣n lần
cuối cùng khoảng 100 000 năm nay.([346])
Nhưng c̣n trận Đại Hồng Thủy của chúng
ta là ǵ ? Chắc hẳn là cơn thiên tai cổ nhất cho
đến nay vẫn c̣n được ghi chép, giữ ǵn
trong những truyền thống của tất cả
mọi dân tộc kể từ thời đại cổ
nhất. Chính cơn Đại Hồng Thủy này đă
nhận ch́m xuống biển những vùng đất
cuối cùng của Châu Atlantis, bắt đầu với hai
ḥn đảo Ruta và Daitya và kết thúc với ḥn
đảo tương đối nhỏ hơn mà triết
gia Plato có tường thuật lại trong các sách của
ông. Điều này được xác nhận bởi sự
trùng hợp và đồng nhất của vài chi tiết
trong tất cả các huyền thoại xưa. Đó
cũng là cơn Đại Hồng Thủy cuối cùng có
tính cách vĩ đại và qui mô rộng lớn thuộc
loại đó. C̣n cơn ngập lụt loại nhỏ mà
Nam Tước Bunsen t́m thấy các dấu vết ở Trung
bộ Á Châu và qui định thời gian của nó vào
khoảng 10 000 năm trước T. C., vốn không có liên
hệ ǵ đến cơn Đại Hồng Thủy nói
trong Kinh Thánh với chiếc Tàu của ông Noé (Anh ngữ:
Noah) (đó chỉ là một huyền thoại ngụ ngôn
ẩn dụ phản ánh những truyền thống
cổ), hay chỉ đến sự ch́m đắm của
ḥn đảo Atlantis cuối cùng; hoặc ít nhất là
chỉ liên hệ với chúng về mặt đạo
đức.
Trong Giống dân thứ
Năm của chúng ta, những người không hiểu
biết giáo lư huyền môn, nghe nói đến nhiều
cơn Đại Hồng Thủy th́ thường hay lẫn
lộn, nhưng bây giờ th́ chỉ biết có một
cơn Đại Hồng Thủy thật sự mà thôi.
Cơn này làm thay đổi toàn thể cuộc diện
Địa Cầu, với những cuộc biến
động xê dịch của các vùng lục địa và
đại dương.
Chúng ta có thể so sánh với truyền thuyết
của người
Bảy giống
dân Incas đă ở trên trái đất sau Đại
Hồng Thủy.([347])
Humboldt đề cập tới
lối thuyết minh Mễ Tây Cơ của huyền
thoại ấy, nhưng lại hơi lẫn lộn các chi
tiết của huyền thoại vẫn c̣n được
lưu truyền liên quan tới Noah của Châu Mỹ. Tuy
nhiên, nhà vạn vật học lỗi lạc đề
cập tới hai lần
bảy người bạn đồng hành và con chim thiêng liêng bay
trước chiếc thuyền của người Aztec, và
như vậy là hợp thành mười lăm kẻ
được tuyển chọn, thay v́ bảy và
mười bốn. Điều này có lẽ được
viết ra theo một sự hồi tưởng vô ư nào
đó của Moses, nghe nói ông đă đề cập tới
mười lăm người cháu của Noah, chúng đă
thoát nạn cùng với tổ tiên. Rồi lại tới
Xisuthrus, Noah của dân Chaldea, được cứu
sống và đem lên trời – giống như Enoch – cùng
với bảy vị Thần, Kabirim, tức bảy
người Khổng lồ thiêng liêng. Lại nữa,
người Trung Hoa Yao có bảy
tấm h́nh cùng lướt sóng với ḿnh, khi đổ
bộ lên đất liền, ông sẽ làm cho chúng linh hoạt để dùng làm
“mầm mống của con người”. Khi xuống
chiếc Bè Thái Dương, Osiris đă mang theo bảy Tia Sáng v..v…
150
Sanchuniathon
để cho Aletae tức những người Khổng
Lồ (Kabirim) sinh hoạt đồng thời với
Agruerus, vị Thần Linh vĩ đại của
người Phoenicia – Faber lại ra sức đồng
nhất hóa vị thần linh này với Noah. ([348])
Hơn nữa, người ta nghi ngờ rằng danh
hiệu “Titans” lại bắt nguồn từ Tit-Ain –
nguồn cội của vực thẳm hỗn mang” ([349])
(Tit-Theus tức Tityus là “trận đại hồng thủy
thiêng liêng”). Và nếu thế th́ người ta đă
chứng tỏ rằng bảy
người Khổng Lồ Titans liên quan tới Trận
lụt và bảy Thánh Hiền mà Bàn Cổ Vaivasvata đă
cứu thoát. ([350])
Các người Khổng
Lồ Titans này là con của Kronos, Thời gian, và Rhea,
Thổ; và Agruerus, Saturn và Sydyk là cùng một nhân vật và v́
nghe nói bảy Đấng Kabiri cũng là con của Sydyk
tức Kronos-Saturn, nên các Kabiri và Titans đều như nhau.
Đó là v́ kẻ sùng đạo Faber đă từng có
lần chí lư khi kết luận rằng:
Tôi tin rằng
Đấng Titans hay Kabiri cũng chẳng khác ǵ bảy
Đấng Thánh Hiền của thần thoại Ấn
Độ (?) mà nghe nói là đă trốn thoát vào trong một
chiếc thuyền cùng với Menu, vị gia trưởng
(?).([351])
Nhưng ông đă suy lư
một cách hồ đồ khi nói rằng:
Trong các huyền thoại hoang
đường, người Ấn Độ đă xuyên
tạc khá nhiều lịch
sử của Noachidae (?!), thế nhưng, đáng chú ư là
xét về mặt tôn giáo, dường như họ đă
gắn bó với con số bảy.([352])
V́ thế Đại Úy Wilford thật là chí lư khi nhận xét
rằng: “có lẽ bảy vị Menus, bảy Brahmădicas và
bảy Đấng Thánh Hiền đều như nhau và
chỉ là bảy nhân vật cá biệt ([353]).
Bảy Đấng Brahmădica là các Đấng Prajăpatis, tức là chúa tể
của các tạo vật
(prajas). Nhân loại do các Ngài sinh ra, các Ngài có lẽ
cũng giống như bảy Đấng Menus… Bảy
vị đại thủy tổ của loài người này
đă được… tạo ra để làm cho trái
đất lại đầy dẫy dân cư” ([354]).
Sự giống nhau của các Kabiri, Titans, Thánh Hiền và gia
đ́nh Noetic thật quá rơ rệt nên không thể chỉ là
kết quả của sự ngẫu nhiên. ([355])
151
Faber đă mắc
phải sai lầm này, và sau đó đă xây dựng toàn
bộ lư thuyết về các Kabiri của ông dựa trên
sự kiện là danh hiệu của Japhet trong Thánh kinh
cũng có trong danh sách các người khổng lồ Titans
bao hàm trong một câu thơ của các Thánh ca Orpheus. Theo
Orpheus, các danh xưng của bảy người khổng
lồ Arkite Titans – mà Faber không
chịu đồng nhất hóa với các vị Titans báng
bổ (the impious Titans), hậu duệ của họ - là
Koios, Kroios, Phorcus, Đấng Đại Hùng, Kronos, Okeanos;
Hyperion và Iapetos. ([356])
Nhưng tại sao
người Babylon Ezra lại không thể chọn danh
xưng của một trong các người con của Noah là
Iapetus? Theo Arnobius, các Kabiri vốn chính là các vị Titans,
cũng được gọi là Manes và thân mẫu của
họ được gọi là Mania ([357]).
Do đó, người Ấn Độ có thể khẳng
định một cách hợp lư hơn nhiều là Manes có
nghĩa là các vị Bàn Cổ của họ, c̣n Mania là
vị nữ thần Bàn
Cổ trong Rămăyana. Mania là Ilă
tức Idă, phu nhân và con gái của Bàn Cổ Vaivastara, “Ngài
sinh ra ḍng giống Bàn Cổ từ đó”. Cũng như
Rhea, mẹ của các Titans, nàng là Thổ - Săyana biến nàng
thành Nữ Thần Trái Đất – nàng chẳng qua chỉ
là hậu thân của Văch. Cả Idă lẫn Văch đều
bị biến thành những người nam và nữ, Idă
trở thành Su-dyumna, c̣n Văch trở thành Virăj nữ, rồi
biến thành một người đàn bà để
trừng phạt các Nhạc Thần, lối thuyết minh
này nhằm nói tới Thần phổ học vũ trụ
và thiêng liêng, c̣n lối thuyết minh kia ám chỉ thời
sự sau này, Nanes và Mania của Arnobius là các danh xưng có
nguồn gốc Ấn Độ bị người Hy
Lạp và La Tinh chiếm hữu rồi xuyên tạc.
Như vậy,
điều này đâu phải là do ngẫu nhiên, mà là kết
quả của một giáo lư cổ sơ, đại
đồng thế giới mà người Do Thái – là
những kẻ phóng tác gần đây nhất. So với tài
sản của các dân tộc khác, chúng có tính cách mộc mạc
đến nỗi mà Berosus giả mạo (Pseudo-Berosus) ([358])
đă chứng tỏ rằng Titaea – mà Diodorus Siculus ([359])
biến nàng thành mẹ của các Titans trong thời
Đại Hồng Thủy – là phu nhân của Noah. Faber
gọi y là Berosus giả, song
vẫn chấp nhận dữ kiện đó
để ghi lại thêm một bằng chứng nữa cho
rằng người ngoại đạo đă vay
mượn người Do Thái tất cả chư Thần
của ḿnh bằng cách biến đổi tư liệu
của các tộc trưởng. Theo thiển ư của chúng
tôi, đây là một trong những minh chứng hùng hồn
nhất cho điều có thể là hoàn toàn ngược lại.
Nó chứng tỏ rơ rệt là chính các nhân vật giả
trong Thánh kinh mới đều được vay
mượn từ các thần thoại ngoại đạo (nếu
chúng ắt phải là các thần thoại). Dù sao đi
nữa, nó cũng chứng tỏ rằng Berosus biết
thừa nguồn gốc của Sáng Thế Kư, mà nó cũng
có đặc tính thiên văn vũ trụ như các chuyên
ẩn dụ về Isis-Osiris, chiếc Bè và các “biểu
tượng khác liên quan đến chiếc “Bè”. Đó là v́
Besorus cho rằng “Titaea Magna” sau đó được
gọi là Aretia ([360])
và được tôn thờ cùng với Trái Đất.
Điều này lại đồng nhất hóa Titaea (phu nhân
của Noah) với Rhea, Mẹ của các vị Titans,cũng
như là với Idă. Cả hai đều là các Nữ
Thần chủ tŕ Địa Cầu và là Mẹ của các
vị Bàn Cổ và Manes tức là Titan-Kabiri. Berosus cũng cho
rằng Titae - Aretia được tôn thờ là Horchia;
đây lại là một tôn danh của Vesta, Nữ Thần
Địa Cầu.
152
Sicanus
thần thánh hóa Aretia và gọi nàng là Horchia, thuộc ḍng dơi
Janus. ([361])
Hầu như chẳng có
thi sĩ thời tiền sử hay hữu sử nào mà không
đề cập tới sự đắm ch́m của hai
lục địa – thường được gọi là
đảo – dưới một dạng này hay một
dạng khác. Do đó, ngoài châu Atlantis ra, c̣n có sự diệt
vong của Đảo Phlegyan. Cả Pausanias và Nonnus
đều tường thuật cách thức mà:
Từ đáy sâu
của đảo Phlegyan, Thần Neptune khắc nghiệt
làm rung chuyển và nhận ch́m đắm đám dân trên
đảo dưới sóng cả.([362])
Feber tin chắc đảo
Phlegyan ([363])
là Châu Atlantis. Nhưng tất cả các ẩn dụ này
đều là các phản ánh bị xuyên tạc ít nhiều
của truyền thuyết Ấn Độ về
đại Thảm họa đă xảy tới cho Giống
dân thứ Tư thực sự là người, mặc dù
khổng lồ, đó là giống dân trước giống
dân Ăryan. Thế nhưng, như vừa nói, cũng như
mọi huyền thoại khác, huyền thoại về
trận Đại Hồng Thủy đâu phải chỉ
có một ư nghĩa. Trong Thần phổ học, có ám
chỉ các cuộc biến
đổi tiên thiên, các sự tương hệ tinh
thần- cho dù từ ngữ này nghe có vẻ ngớ
ngẩn đối với một nhà khoa học đến
đâu đi chăng nữa – cũng như là Vũ trụ
khởi nguyên luận tiếp theo. Nó cũng nhằm nói
tới trận ĐẠI
HỒNG THỦY
(Vật Chất) trong HỖN MANG,
được khơi dậy và làm cho đơm bông
kết trái bởi những Cung Tinh Thần ô uế và
bị tiêu diệt nơi
sự biến phân bí nhiệm – một điều bí
mật tiên thiên, tiền đề của vở kịch
hiện tồn. Anu, Bel và Noah có trước Adam Kadmon, Adam
Đỏ (Adam the Red) và Noah; chẳng khác nào Brahmă, Vishnu và
Shiva có trước Vaivasvata và những vị khác. ([364])
Tất cả các
điều này đều có khuynh hướng chứng
tỏ rằng cơn ngập lụt lớn mà khoa
địa chất học đă biết – thời kỳ
băng giá đầu tiên – hẳn phải xảy ra vào
thời gian mà Giáo lư Huyền môn qui định là vào
khoảng 200 000 năm nay, sau lúc khởi đầu
Giống dân thứ Năm của chúng ta, hoặc là vào
thời gian mà các ông Croll và Stockwell qui định cho
Thời kỳ Băng giá đầu tiên, tức là
độ 850.000 năm nay. Các nhà địa chất học
và thiên văn học cho rằng lư do gây nên cơn
Đại Hồng Thủy này là “tính cách bất
thường đến mức tột điểm của
quỹ đạo trái đất”. Giáo lư Huyền môn
cũng xác nhận lư lẽ trên, nhưng lại có thêm
một yếu tố khác nữa là sự dời
đổi vị trí của trục Địa Cầu –
chúng ta có thể t́m thấy một bằng chứng của
điều đó trong Thánh thư Enoch [365].
Những sự kiện này dường như chỉ
rằng cổ nhân đă biết ít nhiều về những
điều khám phá của khoa học hiện đại.
Khi đề cập đến “độ nghiêng lớn lao
của Trái Đất”, vốn đang hoạt động,
Enoch thật là hoàn toàn minh bạch và có ư nghĩa.
153
Điều
này không hiển nhiên sao? Nuah là Noah, nổi lềnh bềnh trên mặt nước trong
chiếc bè, chiếc bè là biểu hiện của Argha
tức Mặt Trăng, nguyên khí âm; Noah là “Tinh thần” sa vào
Vật Chất. Ngay khi giáng xuống Trái Đất, chúng ta
thấy y trồng một vườn nho, uống
rượu vang, và thế là say tít cung thang, nghĩa là Tinh
Thần thuần túy bị nhiễm độc ngay khi
rốt cuộc nó bị giam cầm trong Vật Chất.
Chương thứ bảy của Sáng Thế Kư chỉ là
một lối thuyết minh khác của chương thứ
nhất. Như thế, trong chương thứ nhất
tŕnh bày: “Thế là bóng tối buông xuống trên mặt
vực thẳm. Thế là tinh thần của Thượng
Đế di chuyển trên mặt nước”; th́
chương thứ bảy lại tŕnh bày: “Thế rồi
nước chiếm phần ưu thắng, thế rồi
chiếc Bè [cùng với
Trong các “Thần Biểu”
(“Tablets”), Geogre Smith ghi lại trước hết là sự
sáng tạo ra mặt Trăng, rồi tới sự sáng
tạo ra mặt trời: “Người ta ca tụng vẻ
mỹ miều và toàn bích của nó, sự đều
đặn của quỹ đạo nó, khiến nó
được xem là kiểu mẫu của một phán quan
và kẻ điều chỉnh thế gian”. Nếu câu
chuyện này liên quan tới một tai biến vũ trụ
khởi nguyên luận-thậm chí nữ thần Istar tức
Ashteroth (mặt trăng) lại đề cập tới sự sáng tạo ra mặt
trời sau khi có trận đại hồng thủy?
Nước có thể dâng cao lên tận núi Nizir trong lối
thuyết minh Chaldea, hay Jebel Djudi (núi bị ngập lụt
trong huyền thoại Á Rập) hay núi Ararat trong Thánh kinh, và
ngay cả Hy Mă Lạp Sơn trong truyền thuyết Ấn
Độ, thế nhưng, nó vẫn chưa dâng lên tới
Mặt Trời; thậm chí Thánh kinh cũng dừng ngang
lại nơi một phép lạ như thế. Hiển nhiên
là trận đại hồng thủy đối với những
người thoạt tiên ghi nhận nó, đă có một ư
nghĩa khác, ít khả nghi hơn và có ư nghĩa triết
học thâm thúy nhiều hơn ư nghĩa của một
trận đại hồng thủy toàn thế giới, mà chúng ta không hề thấy
bất cứ kỳ tích nào.([367])
V́ mọi thảm họa
như thế đều có tính cách tuần hoàn, và v́ Bàn
Cổ Vaivasvata hiện diện như là một đặc
tính chung trong nhiều t́nh huống và biến cố khác nhau,
nên dường như chẳng ai buồn phản
đối giả định cho rằng trận
đại hồng thủy đầu tiên có một ư
nghĩa ẩn dụ cũng như là một ư nghĩa
vũ trụ, và nó đă diễn ra vào lúc kết liễu Chu
kỳ Chánh Pháp (Satya Yuga), khi Căn chủng thứ Hai; “Các
vị Bàn Cổ có xương” (“the Manu with bones”), xuất
hiện trước tiên như là giống “Hăn sinh”.
154
Trận
Lụt thứ Hai (cái gọi là trận lụt “toàn thế
giới”) - vốn có ảnh hưởng tới Căn
chủng thứ Tư – nay bị thần học tự
tiện gọi là “giống người khổng lồ
bị chèn ép’, những người Cainite và “các Con của
Ham”- chính là trận lụt mà địa chất học
đă nhận ra trước tiên. Nếu cẩn thận
đối chiếu các lối tường thuật trong
nhiều huyền thoại khác nhau của người
Của ḥn
đảo [Plato chỉ đề cập tới
đảo cuối cùng của nó] nằm ngoài các cột
trụ của Hercule, ở trong Đại Tây Dương,
từ đó, người ta có thể dễ dàng chuyển
sang các đảo khác ở gần một đại lục khác [Châu Mỹ].
155
Chính “Châu Atlantis” này có
liên hệ tới “Bạch Đảo” và Bạch
Đảo này chính là Ruta; nhưng nó không phải là Atala và
“Bạch Quỷ” của Đại tá Wilford ([370])
như đă từng được chỉ rơ. Ở
đây, chúng ta có thể nhận xét là theo các kinh điển
Bắc Phạn, Chu kỳ Dvăpara kéo dài 864 000 năm; nếu
Thế rồi, Shatapatha lại cho chúng ta
biết rằng có một phụ nữ đă
được tạo ra, bà đến với Đức
Bàn Cổ và tự xưng là con
gái Ngài, Ngài chung sống
với bà và sinh ra hậu duệ của Bàn Cổ. Điều
này nhằm nói tới sự biến đổi sinh lư
của các phái trong ṿng Căn chủng thứ Ba. Ẩn
dụ này thật là quá minh bạch, nên chúng ta không cần
giải thích nhiều. Dĩ nhiên là, như đă nhận xét
khi phân chia giới tính, người ta giả sử
rằng một thực thể bán thư bán hùng phân chia thành
hai nửa như trong trường hợp Brahmă và Văch,
thậm chí cả
Idă chủ
yếu là thực phẩm, đồ dinh dưỡng hay là
sữa tế thần; do đó, nó là một tràng lời khen
được nhân cách hóa thành nữ thần ngôn ngữ.
Tuy nhiên, người ta không
cho kẻ “phàm tục” biết lư do tại sao “Sữa
tế thần” hoặc “tràng lời khen” lại có thể
lần lượt là nam và nữ, trừ phi thật ra,
có một “bằng chứng nội tại” nào đó mà các
nhà Huyền bí học không thể nhận ra
được.
156
Theo ư nghĩa thần bí
nhất, sự kết hợp của Bàn Cổ Svăyam -bhuva
với Văch-Shata-Rũpa, con gái của chính Ngài – nàng là sự
“thần thánh hóa con người” đầu tiên của
nguyên khí nhị phân mà Bàn Cổ Vaivasvata và Ilă là một
dạng thứ ba và thứ yếu – là biểu tượng
vũ trụ của Nguồn Sống, Mầm mống phát
sinh ra mọi Thái Dương Hệ, Thế giới, chư
Thiên, chư Thần. Đó là v́ Vishnu đă dạy :
Mọi tạo
vật, chư thần, Thần Quỷ và con người,
đều phải được tạo ra từ
Đức Bàn Cổ;
Thế giới
bất động và di động phải được
Ngài tạo ra.
Nhưng chúng ta có thể
thấy những đối thủ c̣n tồi tệ hơn
cả các nhà khoa học và các nhà Đông phương học
Âu Mỹ. Nếu người Bà La Môn có thể đồng
ư với giáo lư của chúng ta về vấn đề
số liệu, th́ chúng ta cũng không chắc rằng
những kẻ bảo thủ chính thống có thể
phản đối các cách thức sinh sản mà
người ta gán cho các vị Pitris Devatăs của họ.
Nếu bị tố cáo là đă chế ra những tác
phẩm mà chúng ta trích dẫn, th́ chúng ta xin mời họ hăy
đọc kinh Purănas của chính họ cẩn thận thêm
một tí nữa và có để mắt tới ư nghĩa
nội môn của nó. Chúng tôi xin nhắc lại là
đến lúc bây giờ họ sẽ thấy rằng bên
dưới bức màn che ít nhiều trong suốt của các
ẩn dụ, mọi phát biểu nơi đây đều
được các tác phẩm của chính họ minh
chứng. Người ta đă đưa ra một, hai ví
dụ về sự xuất hiện của Giống dân thứ
Hai, nó được gọi là Giống dân “Hăn sinh”. Ẩn
dụ này được xem như là một câu chuyện
thần tiên, thế nhưng, nó vẫn che giấu một
hiện tượng tâm sinh lư và một trong các bí nhiệm
lớn nhất của Thiên Nhiên.
Nhưng khi xét đến
những phát biểu niên đại kư nơi đây, cũng
là điều tự nhiên thôi nếu đặt câu hỏi :
PHẢI CHĂNG LOÀI
NGƯỜI ĐĂ CÓ TỪ
18 000 000 NĂM TRƯỚC ?
157
Đáp
lại câu hỏi này, Huyền môn khẳng định là có,
mặc cho tất cả mọi sự chống đối
của khoa học. Vả lại, thời gian trên chỉ
liên quan tới con người của Đức Bàn Cổ
Vaivasvata, nghĩa là con người sau khi có phân chia nam
nữ rơ rệt. C̣n 2,5 Giống dân đi trước giai
đoạn trên có thể đă sống vào khoảng 300 000
000 năm về trước nữa. Đó là v́ không thể
có vấn đề khó khăn về phương diện
vật chất đối với Giáo lư huyền môn nói về
Con người sơ khai nguyên
thủy với một thể vô h́nh và thanh nhẹ
như dĩ thái. Toàn thể vấn đề tranh
luận giữa Khoa học Phàm trần và Giáo lư Huyền môn
tùy nơi sự tin tưởng và chứng minh sự
hiện diện của một Thể Dĩ Thái ở bên
trong và hoàn toàn độc lập đối với Thể
xác. Triết gia theo thuyết thực nghiệm
Giáo lư Huyền môn chủ
trương rằng, mặc dù có thiên tai, địa
chấn làm đảo lộn vỏ Địa Cầu
một cách khủng khiếp rùng rợn hơn nhiều so
với những cơn biến động tương
tự trong ba cuộc Tuần Hoàn trước, Nhân loại
đă từng xuất hiện trên trái đất cách đây
18 000 000 năm ([372]).
Trước thời kỳ đó đă có một thời
kỳ tiến hóa trải qua 300 000 000 năm của các
loại khoáng thạch và thảo mộc. Tất cả
những người nào từ chối không chấp
nhận “lư thuyết nói về con người không
xương” mà chỉ có một thể khinh thanh nhẹ
nhàng như h́nh bóng, sẽ phản đối giáo lư nói trên.
Khoa học, vốn chỉ biết có cơ thể vật
chất, ắt sẽ tức giận, và thần học duy
vật lại c̣n tức giận hơn nữa. Khoa học
sẽ phản đối dựa vào lư luận và tiên
kiến cho rằng mọi cơ thể động vật
đă luôn luôn tồn tại trên cùng cơi vật chất trong
mọi thời đại; c̣n thần học duy vật
phản đối dựa vào toàn là những chuyện hoang
đường phi lư nhất. Các nhà thần học
thường đưa ra lời khẳng định
dựa vào giả dụ thực sự cho rằng nhân
loại (nghĩa là tín đồ Thiên Chúa giáo) trên hành tinh này
có vinh dự là những người duy nhất trong toàn
thể càn khôn được ở trên một bầu hành
tinh và do đó, thuộc loại thượng hạng. ([373])
158
Các nhà Huyền bí
vốn tin chắc vào giáo lư của Minh Triết Nguyên
thủy, ắt sẽ bác bỏ những lời phản
đối của cả các nhà thần học lẫn các
nhà khoa học. Về phía các nhà Huyền học, họ
chủ trương rằng trong những thời kỳ
đó, khi mà trái đất c̣n đang h́nh thành chưa xong,
với nhiệt độ c̣n nóng bỏng, dù rằng ở
lưỡng cực, với những cơn ngập lụt
liên tiếp, các vùng thung lũng và cao nguyên c̣n trồi
sụt, trào lưu thủy vận trên các đại
dương vẫn c̣n chuyển vận bất
thường, t́nh trạng đó vẫn không làm
chướng ngại cho sự sống và tổ chức
của loài người sơ khai. Tính chất hoang vu,
hiểm hóc của những vùng đất chưa
được ổn định hăy c̣n, dẫy đầy
những hơi độc hay những nguy cơ bất
thường của những lớp vỏ địa
cầu c̣n chưa rắn chắc, tất cả những
t́nh trạng đó đều không thể ngăn trở các
Giống dân thứ Nhất và thứ Hai xuất hiện, dù
trong t́nh trạng tối sơ của Trái Đất.
Như thế, các Chơn
Thần sẽ chuyển kiếp trong các Giống dân
tương lai đă sẵn sàng chịu sự thay
đổi mới. Chúng đă trải qua những giai
đoạn tiến hóa trong loài kim thạch, cây cỏ và
động vật, từ tŕnh độ thấp nhất
đến cao nhất và c̣n đang chờ đợi
những h́nh thể con người có đầy đủ
trí khôn hơn. Tuy nhiên, các Đấng Tạo Tác các kiểu
mẫu h́nh thể mọi loài có thể làm ǵ khác hơn là
tuân theo những định luật tiến hóa trong Thiên
Nhiên? Liệu họ theo sát văn tự của Thánh kinh có bắt
chước Đức Chúa Trời hay Pygmalion (trong
chuyện ẩn dụ Hy Lạp) mà tạo ra Adam-Galatea
bằng cát bụi của núi lửa và phà một “Linh
Hồn Sống Động” vào Con Người chăng?
Không, v́ Linh Hồn đă ở đó rồi, tiềm tàng
trong Chơn Thần và chỉ cần một lớp vỏ
bên ngoài. Theo các quan niệm đó, Pygmalion – vốn không
thể làm linh hoạt pho tượng của
ḿnh – và Bahak Zivo ([374])
của các tín đồ phái Ngộ Đạo Nazarean –
vốn không thể tạo nên một “hồn người
trong tạo vật”, đều có ư nghĩa khoa học và
triết học hơn hẳn Adam (xét theo sát nghĩa)
hoặc các Đấng Sáng Tạo. Elohim trong Thánh kinh
Nội môn Bí giáo – đang rao giảng thuyết “sinh sản
tự nhiên” sau khi Đấng Shista và Prajăpati đă gieo
mầm mống trên Địa Cầu – chứng tỏ
rằng cho dù được Thiên Nhiên trợ giúp, các Thiên
Thần Hạ Đẳng cũng chỉ có thể kiến
tạo được con người vật chất sau
khi đă đích thân phóng phát ra thể dĩ thái (thể
phách) và để cho thể xác phát triển lần lần
từ khuôn mẫu tinh anh (hoặc cái mà nay chúng ta có thể
gọi là khuôn mẫu bằng nguyên sinh chất) của nó.
Điều này sẽ lại
bị phản đối; thiên hạ sẽ lại bảo
rằng thuyết “sinh sản tự nhiên” là một
thuyết đă bị bác bỏ. Các thí nghiệm của
Pasteur đă thủ tiêu nó cách đây hai mươi năm và
Giáo sư Tyndall cũng chống đối nó.
Được rồi, giả sử ông phản đối
nó th́ ông cũng nên biết rằng nếu trong chu kỳ
thế giới hiện nay và hoàn cảnh hiện nay mà
người ta thực sự chứng tỏ
được là không thể có sự sinh sản tự nhiên – đây là điều
mà các nhà Huyền bí bác bỏ - th́ người ta vẫn c̣n
chưa chứng minh được là nó đă không thể
diễn ra trong t́nh huống vũ trụ khác, chẳng
những dưới biển vào Kỷ Laurent, mà c̣n ở
trên Quả Đất lúc bấy giờ đang biến
động. Chẳng biết làm thế nào mà khoa học có
thể biện minh cho sự xuất hiện của các
giống loài và sự sống (nhất là Con Người)
trên Trần Thế, một khi mà nó đă bác bỏ cả
giáo lư của Thánh kinh lẫn sự sinh sản tự nhiên.
Tuy vậy, các điều quan sát của Pasteur c̣n xa mới
hoàn chỉnh hoặc được minh chứng. Blanchard và
bác sĩ Lutand thật ra đă bác bỏ tầm quan
trọng của chúng và chứng tỏ rằng chúng
chẳng có ǵ là quan trọng. Cho đến nay, vấn
đề này cũng như vấn đề “sự
sống đă xuất hiện trên Địa Cầu vào lúc
nào?” vẫn c̣n chưa sáng tỏ. C̣n phần ư kiến cho
rằng đơn nguyên trùng của Haeckel – một dúm
muối ! - đă giải quyết được vấn
đề nguồn gốc của sự sống, th́
quả thật là vô lư vô cùng. Các kẻ duy vật, vốn có
159
khuynh
hướng chế nhạo thuyết “Kẻ tự sinh
tự tại”, “Thiên Nhiên tự sinh” được
tượng trưng là một Người tinh anh, ắt
phải xin lỗi cả một kẻ mới nghiên cứu
Huyền bí học khi đến lượt y lại
chế nhạo một vài điều suy lư của nền
tư tưởng hiện đại. Sau khi chứng
tỏ một cách vô cùng thông thái rằng mảnh nguyên sơ
của nguyên sinh chất
(đơn nguyên trùng) chẳng phải là thực vật hay
động vật, mà là cả hai, và thủy tổ của nó không hề là một trong
hai thứ này, v́ chính đơn nguyên trùng là khởi
điểm của mọi sinh vật hữu cơ,
cuối cùng, người ta lại cho biết rằng
đơn nguyên trùng là thủy
tổ của chính ḿnh.
Điều này có thể là rất hợp khoa học,
nhưng nó cũng rất siêu h́nh, ngay cả đối
với Nhà huyền bí.
Nếu ngày nay
phương pháp “tự động sinh sản” đă thay
đổi đến mức dường như không
thể nhận thấy, hồi thời ấy, nó hăy c̣n
phổ cập khắp mọi loài trong việc hóa sinh và
bảo tồn sự sống trên mặt đất. Sự
tác động của thiên nhiên có thể được
nhận thấy, thậm chí trong những h́nh thể
vật chất đơn thuần và trong sự tiến hóa
của các loài, các giống.Những quái vật khổng
lồ của thời tiền sử là những biến
thái của các giống thú cầm c̣n xưa hơn nữa mà
dấu vết c̣n được t́m thấy trong ḷng
đất của thời sơ kỳ. Ngược ḍng
thời gian, lùi về thời đại xa xôi hơn
nữa, để có một thời mà những quái vật
khổng lồ tiền sử này chỉ xuất hiện
dưới h́nh thức những giống trích trùng, không có
vỏ hay mai cứng, cũng chẳng có gân, xương,
bắp thịt, bộ phận hay cơ quan sinh sản và
chỉ truyền giống bằng phương pháp nảy
mầm cũng như tất cả mọi vi khuẩn khac.
Vậy th́ sao con người không gồm trong trường
hợp này? Tại sao sự trưởng thành của con
người lại không theo qui luật thiên nhiên ấy,
nghĩa là bằng phương pháp tuần tự cô
đọng thể chất trải qua thời gian
để lần hồi trở nên đông đặc,
cứng rắn hơn? Người học đạo tin
rằng Nhân loại Ban sơ có trước hết một
H́nh Thể khinh thanh như Dĩ Thái, hoặc là, nếu
họ muốn quan niệm như vậy, một Thể
lỏng sệt như sữa, do các Thần minh hay “Năng
lực thiên nhiên” cấu tạo nên. Cái thể này tăng
trưởng và cô đọng lần hồi trải qua hàng
triệu thế hệ và trở nên người khổng
lồ về thể chất, măi đến khi nó đúc
kết lại thành thể xác to lớn của Con
Người thuộc Giống dân thứ Tư.
Thuyết nội môn
của chúng ta cũng không hề mâu thuẫn với các
dữ kiện khoa học, ngoại trừ khi mới
thoạt nh́n. Trong một bức thư gửi cho tạp
chí Tri Thức ([375]),
Tiến sĩ A. Wilson, Hội Viên Hội Hoàng Gia, đă
nhận xét như sau:
Người ta
đă chỉ nghiên cứu sự tiến hóa – đúng hơn
là thiên nhiên, dưới ánh sáng của thuyết tiến hóa
– trong ṿng hai mươi lăm năm nay. Dĩ nhiên, đó
chỉ là một thời gian vi phân trong lịch sử
tư tưởng của nhân loại.
Và cũng v́ thế mà chúng
ta chưa hề tuyệt vọng khi tin rằng khoa học
duy vật sẽ thay đổi đường lối và
sẽ dần dần chấp nhận Nội môn Bí giáo – cho
dù thoạt tiên đă xa ĺa các yếu tố quá siêu h́nh
(đối với khoa học).
160
Liệu người ta
đă bàn rốt ráo về đề tài “Sự tiến hóa
của nhân loại” chưa ? Giáo sư Huxley cho rằng
:
Mỗi lời
giải đáp cho vấn đề vĩ đại đó
[vị trí thực sự của con người trong thiên
nhiên] vốn đă được những kẻ ủng hộ
người đề xướng ra nó (nếu không
muốn nói là chính y) khẳng định là hoàn chỉnh và
tối hậu – vẫn c̣n được trọng vọng
và trở thành một thẩm quyền cao tột có thể
là trong ṿng một thế kỷ hoặc hai mươi
thế kỷ. Tuy nhiên, nhất định thời gian
sẽ chứng tỏ rằng mỗi lời giải
đáp đều chỉ
gần đúng với chân lư – có thể được dung
nạp chủ yếu là v́ những người chấp
nhận nó c̣n dốt nát, và hoàn toàn không thể dung thứ
được khi chịu đựng sự trắc
nghiệm của tri thức lớn lao hơn của những
thế hệ mai sau.([376])
Liệu môn đồ lỗi
lạc này của phái Darwin có thừa nhận việc
“Tổ tông giống như khỉ” của ḿnh có thể
bị xếp vào loại “những niềm tin hoàn toàn không
thể dung thứ được“ trước “tri thức
lớn lao hơn” của các nhà Huyền bí chăng? Nhưng
sự dă man từ đâu ra đây? Chỉ riêng việc
“vươn lên tới t́nh trạng văn minh” không
đủ để giải thích được sự
tiến hóa của h́nh hài sắc tướng.
Cũng trong bức thư
Sự Tiến Hóa của Con Người, Tiến sĩ
“Liệu sự
tiến hóa có làm con người thay đổi chút nào
chăng? Nếu có th́ thay đổi như thế nào?
Nếu không th́ tại sao lại không?”… Nếu chúng ta không
chịu thừa nhận [như khoa học] rằng khi
mới được tạo ra, con người là một
sinh vật hoàn thiện rồi mới bị thoái hóa, th́
chỉ c̣n một giả thuyết khác, đó là giả
thuyết tiến hóa. Nếu con người đă
chuyển từ một t́nh trạng dă man sang một t́nh
trạng văn minh, th́ đó chắc chắn là sự
tiến hóa. Chúng ta vẫn c̣n
chưa biết rơ – v́ thật khó ḷng mà biết
được – liệu cơ cấu con người có
chịu những tác dụng giống y như cơ cấu
của các động vật hạ đẳng hay không.
Nhưng hầu như chắc chắn là tiến từ
cuộc sống dă man lên cuộc sống văn minh, hàm ư và
có nghĩa là “sự tiến hóa”, và tiến bộ một
cách đáng kể. Xét về mặt trí tuệ, chúng ta không
thể nghi ngờ được sự tiến hóa của
con người; phạm vi ngày càng mở rộng của
tư tưởng đă xuất phát từ những
bước đầu thô sơ và nhỏ bé, cũng như
chính ngôn ngữ vậy. Nhưng lối sống của con
người, năng lực thích ứng với môi
trường xung quanh và vô số hoàn cảnh khác của y,
đă khiến cho chúng ta thật khó ḷng mà truy nguyên
được các sự kiện và diễn tŕnh “tiến
hóa” của y.
Sự khó khăn này ắt
hẳn phải làm cho các nhà Tiến hóa luận tỏ ra
thận trọng hơn khi khẳng định các sự
việc. Nhưng tại sao lại không thể có sự
tiến hóa, nếu “con người khi mới
được tạo ra đă là một sinh vật hoàn
thiện rồi mới bị thoái hóa?” Cùng lắm th́ nó
chỉ có thể được áp dụng cho con người vật chất bên ngoài. Như
chúng ta đă nhận xét trong Nữ Thần Isis Lộ
Diện, thuyết tiến hóa của
Hầu hết
những kẻ khẳng định rằng họ đă
nghiên cứu bầu trời một cách đồng nhất
đều quả quyết rằng trái đất ở
trung tâm, nhưng các triết gia theo trường phái Ư, (nói
một cách khác, đó là các môn đồ phái Pythagoras)
lại giảng dạy ngược hẳn lại.
161
Đó là v́ các môn
đồ phái Pythagoras đều là các Điểm
đạo đồ và theo phương pháp diễn
dịch. Trong khi đó, Aristotle, cha đẻ của hệ
thống qui nạp, lại phàn nàn về những kẻ
dạy rằng:
Mặt trời
chiếm vị trí trung tâm của thái dương hệ
chúng ta, c̣n trái đất chỉ là một ngôi sao tạo ra
ngày và đêm bằng cách quay xung quanh cùng một trung tâm. ([377])
Đối với con
người cũng vậy. Học thuyết mà Giáo Lư Bí
Nhiệm giảng dạy và nay đem ra thuyết giải là
học thuyết duy nhất có thể giải thích được
sự xuất hiện của con người trên Trần
Thế mà không rơi vào sự phi lư của việc một
con người được phép lạ tạo ra từ
cát bụi hoặc sự hoang tưởng c̣n huyền
hoặc hơn nữa về việc con người
tiến hóa ra từ một dúm muối vôi, đơn nguyên trùng
đă từng là nguyên sinh chất. Người vô tư không
thành kiến có lẽ sẵn ḷng tin nơi thuyết ấy
hơn là thuyết sáng tạo con người bằng
một cục đất sét, hay thuyết nói rằng
tổ tiên con người là loài khỉ.
Luật Tương đồng nhất lư là định
luật phổ cập trong Thiên Nhiên. Đó là sợi
chỉ mỏng manh của Ariadne có thể dẫn chúng ta
băng qua những mê lộ trong ḷng thiên nhiên để
đạt tới các bí nhiệm nguyên sơ và tối
hậu của nó. Trong vị thế ba tiềm năng sáng
tạo, thiên nhiên vốn vô cùng và không một nhà vật lư
học nào có thể tự hào rằng ḿnh đă thấu
triệt được mọi phương pháp tác
động của thiên nhiên, dù rằng nó vẫn tuân theo
những định luật luôn luôn đồng nhất.
Chúng ta hăy thử quan niệm một bầu “mù sương
lửa” xoay tṛn trải qua hàng triệu năm trong không gian,
và lần lần trở nên một hành tinh phát quang sáng
rực và sau cùng ổn định lại thành một
Bầu Thế giới hay một Địa Cầu có người ở. Và chúng ta
thấy trên đó mọi vật đều tiến hóa
từ trạng thái một điểm nhỏ lỏng
sệt không có hạt nhân và trong như sữa,([378])
về sau trở thành nguyên sinh chất ([379])
và từ đó tiến lên thành một h́nh thể
động vật rồi tăng trưởng thành một
quái vật ḅ sát khổng lồ của thời tiền
sử. Kế đó, con quái vật khổng lồ này
từ từ thu h́nh nhỏ bớt lại thành con sấu
ở các hồ ao, sông biển vùng nhiệt đới,
rồi trải qua thời gian, nó lại thay h́nh đổi
dạng, trở nên nhỏ bớt dần và trở thành con
thằn lằn thông thường của thế giới
ngày nay ([380]).
Nếu sự thể diễn biến như vậy, làm sao
con người có thể đơn phương tránh
khỏi định luật chung? Chương Sáng Thế
(Genesis) ([381])
có nói: “Hồi thời đó có những người
khổng lồ trên thế giới”. Câu này cũng chỉ
lặp lại giáo điều của tất cả
những Thánh kinh cổ Đông phương và sự
thật về những người Khổng lồ (Titans)
vốn căn cứ trên sự kiện nhân chủng và sinh
lư.
162
Cũng như loài tôm cua
vỏ cứng đă có một thời kỳ chỉ là
một đốm đản bạch chất trong như
sữa và dính như keo, th́ con người ban sơ cũng
vậy, y có một lớp vỏ bên ngoài, nói bóng bẩy là
lớp “áo da” với một điểm Chơn Thần
thiêng liêng bất diệt và một thể tâm linh tạm
thời bên trong lớp vỏ đó. Con người ngày nay,
với một thể xác tráng kiện đầy bắp
thịt rắn chắc có thể chịu đựng
mọi khí hậu, hồi 25 000 000 năm trở về
trước, có lẽ cũng chỉ là một h́nh thể
đản bạch chất đơn thuần như Haecket
đă diễn tả’ một cơ thể không có bộ phận
và không có xương tủy làm ṇng cốt bên trong, chỉ
có một h́nh dáng con người bên ngoài.
Trong thế kỷ này,
không một nhà khoa học nào có quyền xem các số
liệu của người Bà La Môn là phi lư, đó là v́ các
phép tính toán của chính họ thường vượt xa
những ǵ mà Nội môn Bí giáo khẳng định. Chúng ta
có thể chứng tỏ điều này một cách dễ
dàng.
Helmholtz tính toán rằng
việc trái đất nguội đi từ một nhiệt
độ 2 000 xuống tới 200o C, ắt đă
phải mất đi một thời kỳ ít nhất là 350
000 000 năm. Khoa học Tây phương (kể cả
địa chất học) dường như
thường cho rằng Trái đất đă
được tổng cộng là 500 000 000 tuổi. Tuy
nhiên, William Thomson lại giới hạn thời gian xuất
hiện sự sống thực vật cách đây 100 000 000
năm – đó là một phát biểu mà các Tài liệu Cổ
sơ xin kính cẩn chối bỏ. Vả lại, trong lănh
vực khoa học, các cuộc suy lư thay đổi từng
ngày. Trong khi đó, một vài nhà địa chất học
lại kịch liệt phản đối sự giới hạn
như vậy. Volger tính rằng:
Thời gian
cần thiết cho sự trầm tích của các địa
tầng mà chúng ta biết ít ra phải lên tới 648
triệu năm.
Cả thời gian lẫn
không gian đều vô hạn và vĩnh cửu.
Trên cương vị là
một tồn tại vật chất, trái đất
hiện là vô hạn; chỉ có những biến đổi
mà nó trải qua mới có thể được xác
định bằng những thời kỳ hữu hạn…
Do đó, chúng ta phải
giả sử rằng bầu trời lấp lánh ánh sao,
chẳng những tồn tại trong không gian (chẳng có
nhà thiên văn học nào dám nghi ngờ điều này) mà c̣n
tồn tại trong thời gian, vô thủy vô chung. Chúng ta
cũng phải giả sử rằng nó bất sinh bất
diệt. ([382])
Czolbe lặp lại
đúng y những ǵ mà các nhà Huyền bí giảng dạy.
Nhưng chúng ta có thể được biết rằng các
nhà huyền bí người Ăryan chẳng biết ǵ về
các điều suy lư sau này. Coleman cho rằng:
Thậm chí
họ c̣n không biết là trái đất có dạng h́nh
cầu nữa.
Kinh Vishnu Purăna có lời
giải đáp cho vấn đề này, nó đă khiến cho
một vài nhà Đông phương học ắt phải sáng
mắt ra.
Hỡi Di
Lặc! Mặt trời luôn luôn được định
vị giữa thanh thiên bạch nhật, ngược
lại với nửa đêm, trên khắp mọi châu.
Nhưng sự mọc và lặn của mặt trời
cứ đối nghịch nhau măi. Cũng vậy, hỡi
Di Lặc (Maitreya)! khắp mọi phương điểm
chính và phương điểm giao, thiên hạ đều
đề cập tới sự mọc của mặt
trời ở nơi mà họ thấy nó, và nơi nào mà
mặt trời biến mất th́ họ cho rằng nơi
đó là mặt trời lặn. Mặt trời luôn luôn
như nhau và ở cùng một vị trí nên làm ǵ có mặt trời
lặn hay mọc; đó là v́ cái gọi là sự mọc và
lặn của mặt trời chỉ là việc thấy hay
không thấy mặt trời. ([383])
163
Fitzedward Hall nhận xét
về điều này như sau:
Trong
đoạn này, thuyết nhật tâm (the heliocentricism) đă
được dạy khá nhiều. Tuy nhiên, chút nữa,
người ta sẽ chối bỏ nó.([384])
Người ta đă cố t́nh chối bỏ nó v́
đó là một giáo lư bí nhiệm của thánh điện.
Martin Haug cũng nhận xét giáo lư đó trong một
đoạn khác. Thật chẳng ích ǵ mà vu khống
những người Ăryan thêm nữa.
Nay chúng ta hăy quay sang niên
đại kư của các nhà địa chất học và nhân
loại học. Chúng tôi sợ rằng khoa học chẳng
có cơ sở hợp lư nào để dựa vào đó mà
chống lại các quan điểm của các nhà Huyền bí
theo chiều hướng này. Ngoại trừ cơ sở
cho rằng người ta chưa hề t́m thấy vết
tích của con người – tạo vật hữu cơ
thượng đẳng nhất – nơi các địa
tầng đệ nhất kỷ; đến nay,
người ta chỉ có thể nhấn mạnh đến
cái gọi là lớp phù sa ở trên cùng. Một ngày kia, khoa
học sẽ bắt buộc phải thừa nhận
rằng con người không phải là thành viên cuối cùng
của họ động vật hữu nhũ, mà là thành viên đầu tiên trong
cuộc Tuần Hoàn này.
Ở Pháp, dựa vào những nhân vật có rất nhiều
thẩm quyền, người ta đă dị nghị
một quan điểm giống như vậy.
Nay Quatrefages ([385])
đă chứng minh được điều mà khoa học
không thể chối căi được là người ta có
thể chứng tỏ rằng con người đă
sống vào giữa Đệ Tam Kỷ và vào một
thời đại địa chất mà chưa hề có một mẩu đơn thuần
nhất nào của cái nay được biết là các loài
động vật hữu nhũ. Nhưng cho dù giả
sử là sự tồn tại của y trong Kỷ Hạ
Tân (the Eocene Period) vẫn c̣n chưa được
chứng tỏ, từ Phấn Kỷ (the Cretaceous Period)
đến nay đă mất bao nhiêu lâu rồi? Chúng ta đều
biết sự kiện là chỉ có các nhà địa
chất học táo bạo nhất mới dám cho rằng con
người đă xuất hiện trước cả
Thời kỳ Trung Tân. Nhưng chúng tôi xin hỏi các
thời đại và các địa kỷ này đă kéo dài
bao lâu rồi từ thời Trung Sinh? Về vấn
đề này, sau khi suy lư lan man và căi nhau, khoa học đành
im lặng, những nhân vật có thẩm quyền nhất
về đề tài này bắt buộc phải trả
lời rằng: “Chúng tôi không biết”. Điều này
phải chứng tỏ rằng về vấn đề này
các nhà khoa học chẳng có thẩm quyền ǵ hơn
người phàm tục. Nếu chiếu theo Giáo sư
Huxley, “chỉ một thời gian để tạo thành than
cũng mất sáu triệu năm” ([386])
th́ phải mất bao nhiêu triệu năm nữa để
bao gồm thời gian từ Kỷ Jura, tức là giữa
cái gọi là Thời đại Ḅ sát (Reptilian Age), - khi
Giống dân thứ Ba xuất hiện – cho đến đại
đa số Giống dân thứ Tư bị nhận ch́m? ([387])
Tác giả biết
rằng các chuyên viên có những phép tính tuổi Địa
Cầu và Con Người phóng khoáng nhất bao giờ
cũng bị đa số dè dặt hơn chống đối.
Nhưng điều này chẳng chứng tỏ ǵ hơn
được bao nhiêu, v́ về lâu về dài, đa số
hiếm khi (nếu đă có khi) tỏ ra chí lư. 164
Những kẻ biện
hộ cho việc tàu thủy băng qua Đại Tây
Dương đă từng có nguy cơ kết liễu
những ngày tàn của ḿnh trong một dưỡng trí viện.
Cho đến ngày nay, trong các bách khoa tự điển, cùng
với Cagliostro và St. Germain, Mesmer vẫn c̣n bị xếp
vào loại lang băm bịp bợm. Và nay, khi mà các ông
Charcot và Richet đă biện minh cho các điều khẳng
định của Mesmer và khoa học đă chấp
nhận Mesmer thuật với danh xưng là Thuật thôi miên
– một cái mũi giả trên một khuôn mặt đă quá
quen thuộc – th́ chúng ta cũng chẳng tôn trọng đa
số này thêm bao nhiêu, khi chúng ta thấy các thành viên của
nó bàn về “thuật thôi miên”, các ấn tượng
“thần giao cách cảm” và các hiện tượng khác
một cách dễ dăi và hờ hững. Tóm lại, họ
đề cập tới nó như thể họ đă tin
tưởng vào nó từ thời Đại Đế
Solomon, chứ không phải chỉ cách đây vài năm, họ
đă gọi những kẻ hâm mộ nó là điên khùng và
bịp bợm ! ([388])
Cũng biến động
tư tưởng ấy đang được dành sẵn
cho thời kỳ dài đăng đẳng mà Nội môn Bí
giáo xem là thời đại của nhân loại sinh lư và
hữu giới tính. Xin nhắc lại ĐOẠN KINH trên có nói rằng:
“Kẻ
không xương sinh bằng trí tuệ, sinh ra kẻ có
xương bằng ư chí” và nói thêm rằng sự
việc ấy diễn ra vào khoảng giữa của
Giống dân thứ Ba độ 18 000 000 năm về
trước; câu này có triển vọng được
chấp nhận bởi các nhà bác học trong tương
lai:
Đối với trào lưu
tư tưởng của thế kỷ mười chín th́
câu nói trên sẽ bị xem như vô lư. Đă như thế
th́ c̣n vô lư biết bao nhiêu khi chúng tôi nói thêm rằng thời
đại cổ xưa của Giống dân thứ Nhất lại c̣n thụt lùi về dĩ
văng thêm hàng bao nhiêu triệu năm nữa. Hiện thời,
các con số chính xác hăy c̣n được giữ bí mật
và người ta không thể nào xác định
được một cách chắc chắn sự tiến
hóa của những Chủng tộc Thiêng Liêng sơ khai
thuộc về thời đại Đệ nhị hay
Sơ kỳ của khoa địa chất học. Tuy
vậy nhưng có một điều rơ ràng là con số 18
000 000 năm chỉ bao gồm có thời gian tiến hóa
của con người thể
chất sau khi đă phân chia nam
nữ rơ rệt. Con số ấy sẽ c̣n phải
được tăng thêm nhiều nữa nếu phải
tính luôn toàn thể diễn tŕnh tiến hóa tâm linh, dục
tính và thể chất con người. Thật vậy,
nhiều nhà địa chất thấy rằng kỳ gian
của các thời đại Đệ tứ và Đệ
tam kỷ khiến người ta phải chấp nhận
một sự ước tính như thế, và hoàn toàn
chắc chắn là không một t́nh huống địa
cầu nào có thể phủ nhận được giả
thuyết về một con người thuộc thời
đại Hạ tân, nếu quả thật là sẽ có
bằng chứng về thực tại của y. Các nhà
Huyền bí vốn quả quyết rằng nhật kỳ
nêu trên sẽ đưa chúng ta trở về thời Đệ
nhị kỳ hay Thời đại “Ḅ Sát”; có thể tham
khảo ông De Quartrefages để bênh vực thuyết cho
rằng con người có thể tồn tại vào thời
kỳ xa xưa ấy. Nhưng xét về các Căn chủng
sơ khai nhất, th́ vấn đề lại khác hẳn.
Nếu đám hơi nước tích tụ dày đặc,
chứa đầy acid carbonic, vốn từ dưới
đất bốc lên hoặc lơ lửng trong bầu khí
quyển từ khi sự trầm tích bắt đầu, mà
lại là một trở ngại khốc hại cho sự
sống của các cơ thể con người như chúng
ta biết hiện nay, th́ người ta sẽ đặt
vấn đề là làm thế nào những người nguyên
sơ có thể tồn tại được? Nhận xét
này thật ra chẳng có ǵ đáng quan tâm. T́nh trạng sinh
hoạt của Trái Đất hồi thời kỳ đó
không có sự giao tiếp với cơi dĩ thái, trên đó
chẳng diễn ra sự tiến hóa của những
Giống người ban sơ
và thể chất được cấu tạo bằng chất
thanh khí nhẹ như dĩ thái. Chỉ trong những
thời kỳ địa chất tương đối
gần đây mà đường ṿng khu ốc của
định luật chu kỳ mới đưa nhân loại
xuống giai tầng thấp nhất của sự tiến
hóa thể chất tức cơi vật chất hồng
trần. Trong thời cổ, chỉ có sự phát triển
của thể dĩ thái (thể phách) là đang tiến
hành. Hai cơi dĩ thái và hồng trần tuy rằng vẫn
phát triển song song nhưng lại không có sự giao thông
trực tiếp với nhau. Hiển nhiên là con người
sơ khai thanh nhẹ như
h́nh bóng, do bởi cơ cấu thể chất đặc
biệt đó, chỉ có liên hệ đến cơi dĩ thái
là cơi cùng đồng một chất liệu với thể
dĩ thái căn bản của họ.
165
Có
lẽ là cặp mắt nh́n xa trông rộng – nhưng không thấy hết – của
các nhà vạn vật học hiện nay cũng c̣n bỏ sót
nhiều điều, thế nhưng, chính Thiên Nhiên lại
đảm nhận việc cung ứng những chiếc
khoen thiếu sót. Các nhà tư tưởng suy lư bất
khả tri phải chọn lựa giữa lối
tường thuật mà Giáo lư Bí Nhiệm Đông
phương tŕnh bày và lối tường thuật của
Thánh kinh, cũng như lối tường thuật duy
vật một cách tuyệt vọng của
166
Bây giờ,
chúng ta hăy trở lại vấn đề “tự
động sinh sản”. Như chúng ta đă biết, sự
sống không phải luôn luôn ngự trị trên địa
cầu. Có thời kỳ mà thậm chí đến một
đốm nhỏ nguyên sinh chất đơn thuần
cũng chưa xuất hiện ở dưới đáy
biển. Vậy do đâu mà có động lực thúc đẩy nó làm cho
những phân tử thán khí, dưỡng khí, đạm khí…
kết hợp với nhau thành chất cơ phận “trong
như sữa” ngày nay được gọi là nguyên sinh
chất? Kiểu mẫu ban sơ của nguyên sinh chất
ấy là ǵ? Ít nhất, chúng không thể rơi xuống Trái
Đất như một khối vẩn thạch từ
những bầu thế giới khác đă h́nh thành. Và
nếu chúng đă rơi xuống như thế, nếu Trái
Đất của chúng ta được cung cấp
những mầm mống từ những hành tinh khác th́ do
bởi ai, bởi đâu mà những mầm mống ấy
được đem tới những hành tinh kia? Về
vấn đề này trừ phi Giáo lư Huyền môn
được chấp nhận một lần nữa, chúng
ta lại bị bắt buộc phải đứng
trước một “phép lạ”, phải thừa nhận
giả thuyết một Thượng Đế nhân h́nh, cá biệt. Nhưng
tính chất và định nghĩa của phái Độc
thần đưa ra về vị Thượng Đế
này thật là hoàn toàn phản triết học và hạ
thấp lư tưởng của một nguyên lư tối cao vô
biên mà tính chất cao cả huy hoàng và bất khả tri làm
cho con người tài trí thông minh nhất cũng phải
cảm thấy ḿnh nhỏ bé vô cùng. Trong khi độc
đoán tự cho ḿnh đă đạt tới tuyệt
đỉnh của trí tuệ con người từ
trước đến nay, xin nhà triết học hiện
đại đừng tỏ ra là cho đến nay, ḿnh
vẫn c̣n các quan niệm tâm linh và trực giác kém hơn
cả những người Hy Lạp thời xưa,
đến lượt chính những người Hy Lạp này
lại kém hẳn các triết gia Ăryan Đông phương
thời cổ. Khi được thấu triệt về
mặt triết học, th́ Vật hoạt luận
(Hylozoism) chính là khía cạnh cao siêu nhất của thuyết
Phiếm Thần. Đó là đường lối duy
nhất giúp chúng ta có thể thoát khỏi chủ nghĩa vô
thần ngu xuẩn dựa vào tính cách duy vật “chết
người” và các quan niệm thần nhân đồng h́nh
c̣n ngu xuẩn hơn nữa của các tín đồ
Độc Thần; Vật hoạt luận đứng
giữa hai chủ nghĩa này trên cơ sở hoàn toàn trung
lập của riêng ḿnh. Vật hoạt luận chủ trương Tư
Tưởng Thiêng Liêng tuyệt đối đang thấm nhuần vô số
Thần lực tác động, sáng tạo, tức các
“Đấng Sáng Tạo” – đó là các Thực Thể bị Tư Tưởng Thiêng Liêng
phát động, chúng tồn tại nơi, từ và xuyên qua
Tư Tưởng Thiêng Liêng; tuy nhiên, Tư Tưởng
Thiêng Liêng chẳng có liên hệ cá nhân ǵ với chúng (hay các
sự sáng tạo của chúng) hơn là Mặt trời có
liên hệ riêng với hoa hướng dương và các
mầm mống của nó, hay là giới thực vật nói
chung. Người ta tin tưởng và biết rằng các
“Đấng Sáng Tạo” tác động đó tồn
tại, và Chơn Nhơn
nơi nhà Huyền bí tri giác và cảm nhận
được. Do đó, nhà Huyền bí mới bảo
rằng chúng ta không thể cho rằng một Đấng
Thánh Linh Tuyệt Đối, ắt phải là vô
điều kiện và bất lệ thuộc, mà
đồng thời là một vị Thần duy nhất
sống động, sáng tạo và chủ động, v́
như thế lư tưởng ấy sẽ tức khắc
bị suy đồi. ([389])
Một Đấng Thánh Linh biểu lộ trong Không gian và Thời gian – hai thứ này chỉ là hai dạng dưới CÁI ĐÓ vốn là TỔNG THỂ Tuyệt Đối – bất
quá chỉ có thể là một phần của Tổng
Thể. Và v́ “Tổng Thể” này có bản chất tuyệt
đối bất khả phân ly nên Đấng Sáng Tạo
(theo chúng tôi th́ đó là các Đấng Sáng Tạo)
được cảm nhận ấy bất quá cùng lắm
chỉ có thể là khía cạnh của Tổng Thể thôi.
Nếu vẫn dùng ẩn dụ nêu trên – nó không thỏa
đáng khi dùng để diễn đạt trọn vẹn
ư niệm, song lại rất thích hợp với trường
hợp đang xét – th́ các Đấng Sáng Tạo này
giống như nhiều tia sáng của mặt trời, nó
vẫn không quan tâm đến và không có ư thức ǵ về
công việc; trong khi đó, cứ mỗi mùa xuân (lúc bắt
đầu Chu kỳ Khai Nguyên của Trái Đất) các tia
sáng lại biến thành các phương tiện để
làm đơm bông kết trái và khơi hoạt sinh lực
hôn thụy (the dormant vitality) vốn có sẵn trong Thiên Nhiên
và vật chất biến phân của nó. Ngay từ thời
xưa, người ta đă hiểu rơ điều này
đến nỗi mà ngay cả triết gia chỉ mộ
đạo một cách vừa phải như Aristotle cũng
phải nhận xét rằng công việc sáng tạo trực
tiếp như thế hoàn toàn không thích hợp với
Thượng Đế. Plato và các triết gia khác cũng
dạy y như vậy: Thượng Đế không thể
nhúng tay vào việc sáng tạo [đích thân tạo ra vạn
vật]. Cudworth gọi điều này là “Vật hoạt
luận”. Laertius tin rằng Hoàng Đế Zeno thời
xưa đă bảo rằng :
167
Thiên
Nhiên là một thói quen tự vận động theo các nguyên
tắc mầm mống; nó hoàn thiện và bao hàm nhiều
điều mà nó đă tạo ra vào những lúc nhất
định, và tác động theo cái đă tiết ra nó.([390])
Nay chúng ta trở lại
đề tài của ḿnh, dừng lại suy gẫm nó.
Thật vậy, nếu đă có sự sống thực
vật trong các thời kỳ vốn có thể cấp
dưỡng cho các yếu tố độc hại lúc
bấy giờ, và nếu đă có cả sự sống
động vật vốn có thể phát triển
được cơ cấu thủy sinh bất chấp
giả sử là oxygen rất khan hiếm, th́ tại sao
lại không thể có sự sống của con
người, dưới dạng vật chất sơ khai,
nghĩa là trong một giống người thích ứng
với địa kỷ đó cùng với môi trường
sinh hoạt của nó? Vả lại, khoa học cũng thú
nhận rằng nó chẳng biết ǵ về kỳ gian
thực sự của các địa kỷ.
Nhưng vấn đề
chính yếu đối với chúng ta là liệu có hoàn toàn
chắc chắn rằng từ lúc cái gọi là Thời
đại Vô sinh đến nay đă từng có một
bầu khí quyển như các nhà vạn vật học
giả định chăng. Không phải nhà vật lư nào
cũng tán thành ư kiến này đâu. Nếu tác giả nóng
ḷng muốn dùng khoa học chính xác để tổ chức
cho các giáo điều của Giáo Lư Bí Nhiệm, th́ dựa
vào sự thừa nhận của hơn một nhà vật lư
học, đâu có khó ǵ mà chứng tỏ là bầu khí
quyển đă chẳng thay đổi bao nhiêu – nếu không
muốn nói là chẳng thay đổi ǵ hết – từ khi
các đại dương bắt đầu đông
đặc, nghĩa là từ Địa kỷ Laurent,
Thời đại Hỏa thạch. Dù sao đi nữa,
đó cũng là ư kiến của Blanchard, S. Meunier, thậm
chí cả Bischof nữa, các thí nghiệm của Bischof
với đá huyền vũ (basalts) đă chứng tỏ
điều này. Đó là v́, nếu chúng ta lắng nghe ư
kiến của đa số nhà khoa học về số
lượng các chất hơi chết người và các
nguyên tố hoàn toàn băo ḥa carbon và Nitrogen mà người ta
chứng tỏ là các giới thực vật và động
vật đă sống, sinh sôi nảy nở và phát triển
trong đó, th́ người ta ắt phải đi tới
một kết luận kỳ cục là vào thời đó,
đă có những đại dương acid carbonic lỏng
thay v́ nước. Với một yếu tố như
vậy, chúng ta cũng nghi ngờ chẳng biết liệu
loài cá vảy láng (ganoids), hoặc thậm chí loài tam điệp trùng nguyên sơ,
có thể sống được trong các đại
dương của thời Đệ nhất kỷ không,
chứ đừng nói tới sống trong các đại
dương do kỷ Silua như Blanchard đă chứng
tỏ.
168
T́nh trạng sinh
hoạt cần thiết cho Chủng tộc đầu tiên
của nhân loại không cần có những nguyên tố thiên
nhiên, dù đơn thuần hay kết hợp. Những ǵ
đă được phát triển từ lúc đầu
vẫn được xác nhận. Thực Thể tâm linh vô
sắc tướng sống trong Không gian bao la vô tận
trước khi đốm đản bạch chất
đầu tiên tượng h́nh trong Biển Vật Chất
tiên thiên của Vũ Trụ hàng tỷ năm trước
khi quả Địa Cầu được h́nh thành,
cũng không cần đến “nguyên tố”. Vị Thủy
Tổ xương mềm không cần đến chất
vôi và chất lân v́ vị ấy vốn không xương
(trừ phi nói với nghĩa bóng). Một mặt, thậm
chí đến những sinh vật cấu tạo bằng
nguyên sinh chất, dù cho rằng bộ phận của chúng
đơn thuần đến mức nào, vẫn cần có
những hoàn cảnh vật chất thuận lợi
để giúp cho sự tiến hóa của chúng. Mặt khác,
Nhân vật trở nên Con người Sơ khai và “Cha
của Loài người”, sau khi đă tiến hóa trên
những cơi mà khoa học không thể biết đến,
vẫn có thể bất khả xâm phạm đối
với mọi t́nh trạng khí hậu và không hề chịu
ảnh hưởng của thời tiết chung quanh. Trong
tác phẩm Popol Vuh cảu Brasseur de Bourbourg, vị Thủy
Tổ - theo các huyền thoại Mễ Tây Cơ – Ngài có
thể hoạt động và sống dưới nước
và dưới mặt đất cũng dễ dàng như
trên mặt đất, chỉ tương ứng với
Giống dân thứ Hai và Giống dân sơ khai thứ Ba
trong các kinh điển của chúng ta. Và nếu ba giới
trong Thiên Nhiên lại quá khác nhau như vậy trong các
thời tiền đại hồng thủy, th́ tại sao con
người lại không thể đă được
hợp thành bởi các vật liệu và các tổ hợp
nguyên tử mà khoa vật lư học nay đang hoàn toàn không
biết? Theo các giả thuyết khoa học, hầu hết
vô số loại cây cỏ và thú vật mà ngày nay chúng ta
biết, đều phát triển từ các dạng nguyên
sơ và kém hữu cơ
hơn nhiều. Tại sao cũng điều ấy
lại không xảy ra trong trường hợp con
người, các nguyên tố và các thứ khác? Giảng lư
dạy:
Sự
Sáng Thế khởi đầu từ Nhất Nguyên, phân hóa
thành Tam Nguyên, rồi tới Ngũ Nguyên và đạt
tột đỉnh nơi Thất Nguyên, rồi lại
trở về thành ra Tứ Nguyên, Tam Nguyên và Nhất Nguyên.
ĐOẠN
KINH 7
NGUỒN
GỐC SIÊU LINH CỦA CÁC
CHỦNG TỘC ĐẦU TIÊN
(FROM THE SEMI-DIVINE
DOWN TO
THE FIRST HUMAN RACES)
24. V́ kiêu
ngạo, các Đấng Sáng Tạo Thượng
Đẳng bác bỏ các h́nh hài mà các “Con của Yoga” đă
phát triển. 25. Họ sẽ không lâm phàm trong giống dân
“Noăn sinh” sơ khai. 26. Họ tuyển chọn những
người Bán thư bán hùng sau này. 27. Con người
đầu tiên có trí tuệ.
24. CÁC ĐỨA CON CỦA MINH TRIẾT, CÁC CON
CỦA ĐÊM TỐI, (XUẤT PHÁT TỪ THÁNH THỂ BRAHMĂ
TRONG
169
ĐOẠN
KINH này chứa
đựng ch́a khóa giải đáp những bí hiểm
của điều ác, cái gọi là sự Sa đọa
của các Thiên Thần, và nhiều vấn đề đă
làm nhức óc các triết gia từ khi mà con người
bắt đầu có trí nhớ. Nó giải đáp bí
quyết của những sự bất đồng về
khả năng của trí tuệ, thân thế hay địa
vị xă hội của con người và đưa ra
những giải thích hợp lư cho sự tác động
mầu nhiệm của nghiệp quả trải qua
những thế hệ thời gian tiếp theo sau. Xét
về đề tài này có nhiều điều khó hiểu,
nên nay chúng ta thử đưa ra lời giải thích tỉ
mỉ nhất mà chúng ta có thể tŕnh bày.
a. Kể từ trước
cho đến cuộc Tuần hoàn thứ Tư và chí
đến giai đoạn của Giống dân thứ Ba
trong cuộc Tuần Hoàn hiện tại, con người
chỉ là một động vật về phương
diện trí tuệ (nếu có thể miễn cưỡng
dùng tạm chữ Con
Người để chỉ những h́nh thể luôn
luôn thay đổi lớp bọc ngoài các Chơn Thần
trong ba cuộc Tuần hoàn đầu tiên và hai Giống dân
rưỡi đầu tiên của cuộc Tuần Hoàn
hiện tại. Chỉ có trong giai
đoạn giữa của cuộc Tuần Hoàn hiện
tại, con người mới hoàn toàn phát triển Nguyên khí
thứ Tư như một thể thích nghi cho Giống dân
thứ Năm. Nhưng Thể Trí
(Manas) chỉ được tương đối
phát triển hoàn toàn trong cuộc Tuần Hoàn tới,
chừng đó, nó sẽ có đủ cơ hội
để trở nên hoàn toàn thiêng liêng siêu phàm cho đến
khi chấm dứt chu kỳ sinh hoạt của Dăy
Địa Cầu hiện tại. Trong Horae Hebraicae v.v.., tín
đồ Thiên Chúa giáo Schoettgen cho rằng Adam thế
tục đầu tiên “chỉ có sinh khí” – Nephesh, chứ không phải Linh Hồn sống
động.
b. Đấy có nghĩa là
những Giống dân thấp
kém, ngày nay vẫn c̣n di tích vài giống người
tương tự, như những bộ lạc thổ dân
Úc Châu, nay đă suy tàn, vài bộ lạc thổ dân ở Phi
Châu và ở các hải đảo Thái B́nh Dương.
“Họ chưa sẵn sàng” nghĩa là những điểm
Chơn Thần này, v́ lư do nghiệp quả, chưa phát
triển đúng mức thích nghi để khoác lấy h́nh
thể con người được đầu thai vào các
Giống dân có trí tuệ mở mang hơn. Điều này
sẽ được giải thích sau.
170
c. Cái mà kinh
Zohar gọi là những “Lửa Đen” có nghĩa là Ánh Sáng
Minh Triết Tuyệt Đối. Nếu có kẻ nào bị
thành kiến thần học cổ hủ thúc đẩy
phát biểu rằng: các A Tu La là các Thiên Thần nổi
loạn, đối thủ
của Thần Linh – do đó là Ma Quỷ và các Vong linh tà
vạy – xin đáp: “Nội môn Bí giáo không thể thừa
nhận là bản thân thiện hay ác có thể tồn
tại độc lập trong Thiên Nhiên. Xét về Vũ
Trụ, chúng ta thấy cả hai đều có nguyên nhân là
cần có các điều đối lập; c̣n xét về con
người, nguyên nhân ở nơi bản chất của y
là vô minh và đam mê. Không có ma quỷ hoặc là những
kẻ cực kỳ tồi bại, v́ không có các Thiên
Thần toàn thiện toàn mỹ, mặc dù có thể có các
Chơn Linh Quang Minh và các Vong Linh U Minh. V́ vậy, LUCIFER – Chơn Linh Giác Ngộ Trí
Tuệ và Tự Do Tư Tưởng – xét về mặt
ẩn dụ chính là ngọn hải đăng soi
đường chỉ lối cho con người băng
qua vùng đá nhấp nhô và những băi cát tối tăm
của Cuộc đời, v́ Lucifer có khía cạnh cao là Thiên
Đạo, c̣n khía cạnh thấp là đối thủ
của Ngài, cả hai đều được phản ánh
nơi Chơn Ngă của chúng ta. Đề cập tới
Bản chất của Đức Christ, Lactantius cho rằng
Thiên Đạo (Logos), Huyền Âm là “anh cả của Quỷ Vương và anh cả
của vạn sinh”.([391])
Kinh Vishnu Purăna mô tả các
tạo vật bản sơ (Tiryaksrotas) này có các ống tiêu
hóa cong queo:
Chúng
được phú cho những biểu lộ bên trong,
nhưng không biết nhau về chủng
loại và bản chất.([392])
Hai mươi tám loại
Badhas hay là “khuyết điểm”, không hề áp dụng
(như Wilson đă lầm tưởng) cho các con thú mà nay
chúng ta biết – chúng đă được ông phân biệt rơ
– v́ chúng không thể tồn tại trong các địa
kỷ này. Trong tác phẩm vừa nêu, điều này hoàn toàn
rơ rệt, vật được tạo ra trước tiên
là tạo vật bất động “ngũ phân”([393]),
tức loài khoáng vật và thực vật, rồi tới
các con vật huyền hoặc (Tiryaksrotas, các con quái vật
dưới vực thẳm, bị các “Tinh Quân” trong các ĐOẠN KINH 2 và 3 giết chết; rồi
tới Ũrdhvasrotas, các thực thể thiêng liêng hạnh
phúc, chuyên uống nước cam lồ; và cuối cùng là
Arvăksrotas, con người, cái gọi là tạo vật
thứ bảy của Brahmă. Nhưng “các cuộc sáng
tạo” này, kể cả cuộc sáng tạo con
người, đă không diễn ra trên Địa Cầu, dù
chúng có thể đă diễn ra ở bất cứ nơi
nào khác. Đấng tạo ra sự vật và con
người trên Quả Đất này không phải là Brahmă,
mà là Đấng Chúa Tể của các Prajăpatis, các Tinh Quân
Hiện Tồn và sáng tạo ra Trái Đất. “Tuân theo
lệnh của Brahmă”, Daksha – tổng hợp hay tập
hợp của các Thủy Tổ và các Đấng Sáng
Tạo ra Trái Đất, kể cả các Pitris – chia mọi
vật ra thành thượng đẳng và hạ
đẳng (vara và avara) (ám chỉ putra, những
hậu duệ), thành loài hai chân
và loài bốn chân; sau đó
dùng ư chí [ám chỉ các Con của Ư Chí và Yoga] khai sinh ra
những con giống cái ([394])
- nghĩa là phân cách những kẻ bán thư bán hùng. Ở
đây, chúng ta có “loài hai chân” tức là con người,
được tạo ra trước loài bốn chân như
trong Nội môn Bí giáo.
171
V́ trong các lối
tường thuật ngoại môn, các A Tu La là những
Thực Thể đầu tiên được tạo ra
từ “Thể Đêm”(“Body of Night”), trong khi các Pitris lại
xuất phát từ “Thể tranh tối tranh sáng” (Twilight”);
c̣n trong kinh Vishnu Purăna, Parăshara lại đặt chư
Thần Linh giữa hai nhóm trên và chứng tỏ rằng các
Ngài xuất phát từ “Thể Ngày”(“Body of the Day”), nên chúng ta
cũng dễ dàng khám phá ra được một ư
đồ nhất định che giấu tŕnh tự sáng
tạo. Con người là tạo vật Arvăksrota xuất
phát từ “thể B́nh Minh” (Body of the Dawn”); ở đâu
đó, người ta lại ám chỉ con người khi
tŕnh bày rằng Đấng Sáng Tạo (Brahmă) “tạo ra
những thực thể hung dữ, chúng được
mệnh danh là Bhũtas và loài ăn thịt”, hoặc theo
lối diễn đạt của kinh điển “loài yêu
quỷ khủng khiếp v́ có màu da và ăn thịt”([395]).
Trong khi đó, loài La sát thường được
dịch là “các Vong linh tà vạy” và “kẻ thù của chư
Thần”, các danh hiệu này đồng nhất hóa với
các A Tu La. Trong Rămă-yana, khi Hanumăn đang do thám quân
địch ở Lankă, y thấy ở đấy có loài La
sát (Răkshasas), một số thật là gớm ghiếc, “trong
khi một số lại xinh đẹp tuyệt vời”.
C̣n trong kinh Vishnu Purăna, người ta có đề cập
trực tiếp tới việc chúng trở thành các
Đấng cứu rỗi Nhân loại hay cứu rỗi
Brahmă.
Ẩn dụ này thật
là tài t́nh. Trên đời này, thông minh quá và thông thái quá là
một con dao hai lưỡi; là phương tiện
để hành thiện cũng như làm ác. Khi
được phối hợp với ḷng ích kỷ, chúng
sẽ biến toàn thể nhân loại thành nấc thang
để cho chủ nhân ông của chúng tiến thân, và thành
một phương tiện để cho y thành đạt
được các mục tiêu của ḿnh. C̣n nếu
được áp dụng vào các mục đích nhân đạo,
vị tha, chúng có thể trở thành phương tiện
để cứu rỗi nhiều người. Dù sao đi
nữa, nếu không ngă thức và trí tuệ, con
người sẽ biến thành một kẻ đần
độn; một con thú trong h́nh dáng người. Brahmă
chính là Toàn Linh Trí, v́ thế, những La sát ích kỷ
nhất tỏ ra muốn chiếm hữu nó hết –
muốn “nuốt chửng” Toàn Linh Trí. Ẩn dụ này
thật là rơ rệt.
Dù sao đi nữa, Triết
học Huyền môn đồng hóa những vị Asuras,
Rudras,([396])
Răkshasas của Ấn giáo xưa và tất cả những
vị “Đối lập” với các Thần minh trong các
huyền thoại ẩn dụ, với những Linh Hồn
đầu thai vào làm những người hăy c̣n khờ
khạo chưa có trí khôn của Giống dân thứ Ba và làm
cho họ trở nên bất tử một cách có ư thức. Như vậy,
trong chu kỳ Đầu thai chuyển kiếp, họ là
Logos (Diệu Âm, sự biểu lộ ngoại tại
của ư niệm thiêng liêng) nhị nguyên thật sự
tức là cái Nguyên lư Thiêng liêng lưỡng diện và
đối nghịch với Con người. Câu b́nh luận
sau đây và các ĐOẠN
KINH sắp tới
có thể làm sáng tỏ hơn câu kinh rất khó hiểu này,
nhưng tác giả tự thấy không có đủ thẩm
quyền nói rơ hết tất cả ư nghĩa. Tuy nhiên, có các
đoạn kinh nói như sau về sự nối tiếp
của các Giống dân:
Trước
hết, các ĐẤNG
TỰ HỮU đến Trái Đất
này. Các vị là hiện thân của “Sự Sống Tâm Linh”
phóng xuất bởi Ư CHÍ
và ĐỊNH LUẬT
tuyệt đối, vào lúc bắt đầu Tái sinh của
các Bầu Thế giới. Những ĐẤNG
ấy là những “Sishta” thiêng liêng [các vị Bàn Cổ hay
Đấng Sáng Tạo và các Đấng Thủy Tổ nhân
loại].
Từ những
Đấng này mới xuất phát ra:
1. Giống
dân thứ Nhất, giống người “Tự sinh”, là
những h́nh bóng bằng Thể Dĩ Thái của các vị
Thủy Tổ, vốn không có trí khôn hiểu biết [trí
tuệ hay ư chí] Chơn Ngă Nội Tại [hay Chơn
Thần] tuy ở bên trong lớp vỏ bằng chất
hồng trần, lại không có liên lạc với nó. Cái
thể trung gian làm cái khoen liên lạc, tức là Thể Trí
[Manas] chưa có ở đó.
172
2. Từ Giống dân thứ
Nhất mới sinh ra Giống dân thứ Hai, gọi là
giống người “Hăn sinh”([397])
và giống người không xương. Đó là Giống
dân thứ Hai, được các Đấng Bảo Tồn
[Răkshasas]([398])
và những vị thần chuyển kiếp [Asuras và Kumaras]
ban cho Đốm Lửa (Spark) đầu tiên hăy c̣n sơ
khai và yếu ớt [mầm trí khôn]…
Và từ giống
người này mới sinh ra :
3. Giống
dân thứ Ba thư hùng lưỡng phái. Những nhóm
đầu tiên của Giống dân này là những cái vỏ
trống cho đến khi các vị Tinh Quân chuyển
kiếp và thể nhập vào nhóm cuối cùng.
173
Giống dân thứ Hai
như đă nói trên, v́ cũng không có tính nam hay nữ, vào lúc
khởi đầu đă sinh ra Giống dân thứ Ba thư
hùng lưỡng phái bằng một phương pháp tương
tự nhưng phức tạp hơn. Như đă nói trong
Lời b́nh luận, những người đầu tiên
của Giống dân ấy là :“Các
con của Yoga Tiêu Cực”.([399])
Họ xuất phát từ Giống dân thứ Hai và trở
nên noăn sinh trong những mùa sinh sản, thể xác của
họ phóng phát ra âm noăn. Các âm noăn này giống như
những hạt nhân nhỏ h́nh bầu tṛn phát triển thành
một thể lớn, giống h́nh quả trứng và
trở nên cứng rắn dần dần, sau mỗi
thời gian thai nghén, quả trứng ấy bể vỏ và
con thú người tự động chui ra giống như
gà vịt bây giờ.
Trước tiên là sự
sinh sản bằng phương pháp phân thân giống như
loài nguyên sinh chất. Kế đó, sau một giai
đoạn, là phương pháp noăn sinh như trong
trường hợp các loài ḅ sát và loài chim, sau cùng
đến loài có vú với phương pháp thai sinh.
Nếu từ ngữ
“đẻ trứng thai” (“ovoviviparous”) được áp
dụng cho một vài loài cá và loài ḅ sát, vốn ấp
trứng bên trong cơ thể ḿnh, th́ tại sao nó lại
không thể được áp dụng cho những
động vật hữu nhũ giống cái, kể cả
những người đàn bà ? Tiểu noăn mà phôi phát triển
trong đó sau khi thụ thai, chính là một cái trứng.
Dù sao đi nữa, quan
niệm này cũng c̣n có ư nghĩa triết học hơn
quan niệm Eve sinh ra Cain với một cái nhau đột
ngột được tạo ra, chỉ v́ “quả táo”,
trong khi mà loài thú có túi (loài động vật hữu nhũ
sơ khai nhất) cũng c̣n chưa có nhau.
Vả lại, sự
tuần tự tiến hóa của những phương pháp
sinh sản theo như khoa học đă tiết lộ
cũng đă xác nhận những phần thuộc về
nhân chủng học của Giáo lư Huyền môn. Dưới
đây là diễn tŕnh tiến hóa của các phương pháp
sinh sản. ([400])
1.
Phân thân (Fission)
a. Đó là cách sinh sản của điểm nguyên sinh chất đơn thuần, một điểm tự tách ra làm hai phần, như đơn nguyên trùng (moneron) hay là a-míp (amoebe)
b. Cách sinh sản của tế bào có nhân. Nhân của tế bào tách ra làm hai nhân nhỏ làm hai nhân nhỏ, mỗi nhân nhỏ này, hoặc là nảy nở trong chu vi tế bào gốc, hoặc phóng xuất ra ngoài tế bào gốc và sinh nở bên ngoài như các thực thể biệt lập (SS Giống dân thứ Nhất)
174
2. Nảy chồi (Budding)
Một phần nhỏ của cơ thể mẹ đâm chồi hay mọc mầm ra ngoài, mầm này lớn dần và sau cùng tách rời ra, tăng trưởng lên bằng cơ thể mẹ, như trường hợp của nhiều loài thảo mộc, của cây bạch đầu ông v. v.. (SS Giống dân thứ Hai).([401])
3. Bào tử (Spores)
Cơ thể mẹ phóng xuất ra một tế bào đơn độc, phát triển thành một cơ cấu đa bào (multicellular organism), tái tạo trở lại các đặc tính của cơ thể mẹ, như các loại vi khuẩn và rong rêu.
4.
Thư hùng lưỡng phái
(Intermediate
Hermaphroditism)
Một sinh vật có cả hai tính âm dương với những bộ phận sinh dục đực và cái chứa trong một cơ thể cá biệt, như trong nhiều loại cây cỏ, côn trùng và loài ốc… (SS Giống dân thứ Hai và giai đoạn đầu của Giống dân thứ Ba).
5.
Phối hợp nam nữ (True sexual Union)
(Đối chiếu giai
đoạn sau của Giống dân thứ Ba).
Giờ chúng ta đến
điểm quan trọng liên quan đến sự tiến
hóa song hành của con người. Các Con của Minh
Triết, tức các vị Spiritual Dhyanis, đă mở mang
trí tuệ do sự tiếp xúc với Vật Chất,
bởi v́ trong những chu kỳ chuyển kiếp
trước đây, các vị đă đạt tới tŕnh
độ trí thức khả quan, để trở nên
những thực thể hữu ngă thức trên cơi Vật
chất này. Các vị chỉ tái sinh v́ lư do nghiệp
quả. Các vị thể
nhập vào những người nào đă “sẵn sàng”,
và trở nên những vị La Hán hay Hiền Triết
như đă nói trên. Điều này cần được
giải thích.
Điều ấy không có
nghĩa là các Chơn Thần nhập vào những h́nh
thể trong đó đă có sự hiện diện của
những Chơn Thần khác. Đó là những Thực Thể
muốn trở nên càng hữu thức hơn nữa
bằng cách phối hợp với Vật Chất đă
tiến triển nhiều. Tinh hoa của các vị ấy
quá tinh khiết để có thể phân biệt với Tinh
hoa Vũ Trụ; nhưng “Chơn Ngă” (“Egos”) hay Trí Tuệ
của các vị (v́ các vị ấy được gọi
là Mănasaputras, nghĩa là sinh ra bởi Đại Trí Tuệ
(Mahat hay Brahmă) phải trải qua những kinh nghiệm
của loài người trên thế giới để
trở nên hoàn toàn minh triết và để có thể
bắt đầu chu kỳ tiến hóa trên con
đường phản bổn hoàn nguyên. Chơn Thần
không phải là những nguyên khí riêng rẻ, hữu hạn
hay lệ thuộc, mà
175
là những
tia sáng hay linh quang của cái Nguyên lư tuyệt đối duy nhất và đại
đồng. Việc một tia nắng nối tiếp
một tia khác đi xuyên qua cùng một khe hở để
lọt vào căn buồng tối tăm sẽ không tạo
thành hai tia nắng, mà chỉ
là một tia tăng cường. Định luật thiên
nhiên không có đặt để rằng con người
phải trở nên một vị siêu nhân toàn thiện đă
phát triển đầy đủ hoàn toàn Bảy Nguyên khí của y trước
thời kỳ Giống dân thứ Bảy trong cuộc
Tuần hoàn thứ Bảy. Tuy nhiên, y có đủ những
nguyên khí này trong trạng thái tiềm ẩn nơi y kể
từ khi mới sinh. Luật tiến hóa cũng không qui
định cho y phải phát triển hoàn toàn Nguyên khí
thứ Năm (Thể Trí) trước cuộc Tuần Hoàn
thứ Năm. Những kẻ phát triển trí tuệ quá
sớm như vậy (trên cơi
tâm linh) trong hàng ngũ nhân loại chúng ta, là những
người bất
thường. Đó là những vị mệnh danh là
những “Siêu nhân bậc Năm”. Dù cho trong Giống dân thứ
Bảy tới đây, vào lúc chấm dứt cuộc
Tuần hoàn thứ Tư hiện tại; trong khi bốn
thể thấp của chúng ta sẽ được hoàn toàn
phát triển, Thể Trí cũng chỉ phát triển theo
một tỷ lệ nào mà thôi. Tuy vậy, sự giới
hạn đó cũng chỉ áp dụng trên địa
hạt tiến hóa tâm linh. Trên cơi trần, con người
đă đạt tới tŕnh độ trí thức tột
đỉnh trong thời kỳ Giống dân thứ Tư.
Như vậy, những kẻ chỉ “sẵn sàng nửa
chừng”, những kẻ “chỉ nhận được
có một đốm lửa”, gồm thành phần nhân
loại trung b́nh, c̣n phải sở đắc trí tuệ
trong chu kỳ tiến hóa hiện tại, sau đó họ
mới được sẵn sàng để tiếp
nhận đầy đủ, hoàn toàn những “Đấng
Con của Minh Triết” trong chu kỳ tới đây. C̣n
những kẻ chưa sẵn sàng, những Chơn Thần
chậm tiến hóa, chưa tiến bước
được bao nhiêu từ những h́nh thể động
vật thấp kém vào lúc chấm dứt cuộc Tuần
Hoàn thứ Ba, là những người mà ĐOẠN KINH này gọi là những kẻ
“óc hẹp”. Điều này giải thích những tŕnh
độ trí thức khác nhau giữa những chủng
tộc ngay trong hiện tại, thí dụ sự sai biệt
về trí khôn giữa người dă man sống trong rừng
rậm với người Châu Âu hiện nay. Các bộ
lạc dă man này với những khả năng suy luận
không cao hơn tŕnh độ của loài thú, không phải là
những phần tử không được ưu đăi hay
nạn nhân của tạo hóa bất công như người
ta thường nghĩ. Họ chỉ là những kẻ
đến sau cùng trong số các điểm
Chơn Thần con người “chưa được
sẵn sàng”, và c̣n phải tiến hóa trong cuộc Tuần
hoàn thứ Tư hiện tại, cũng như trên ba
Bầu thế giới c̣n lại – tức là trên bốn cơi
sinh hoạt khác nhau – để đạt tới tŕnh
độ của hạng người trung b́nh khi họ
bước vào cuộc Tuần hoàn thứ Năm.
Đến đây có một điểm lư thú
được nêu ra để làm tài liệu suy gẫm
về vấn đề này. Chơn Thần của
những thành phần thấp kém nhất trong nhân loại –
chẳng hạn các giống người dă man óc hẹp
ở các hải đảo miền Nam Thái B́nh Dương,
Phi Châu, Úc Châu – không có Nghiệp
Quả phải thanh toán khi họ mới sinh ra làm
người lần đầu tiên như là những người
được ưu đăi về phần trí tuệ.
Họ chỉ bắt đầu gây Nhân tạo Quả từ
lúc này trở đi mà thôi. C̣n các giống người đă
mở trí thông minh, đang mang trên vai những gánh nặng
Nghiệp Quả của quá khứ, hiện tại và
tương lai. Về phương diện này, người
dă man thấp kém lại hữu phước hơn bậc
siêu tài lỗi lạc nhất của các xứ văn minh.
176
Chúng ta hăy dừng
lại trước khi tŕnh bày thêm bất kỳ giáo lư
kỳ lạ nào. Chúng ta hăy ra sức t́m xem bất kỳ
Thánh kinh cổ truyền nào (thậm chí cả khoa học
nữa) có công nhận khả năng (hay thậm chí bổ chứng rơ
rệt) các ư niệm hoang đường như trong Nhân
sinh khởi nguyên luận của chúng ta đến mức
nào.
Tóm lược lại
những điều đă tŕnh bày ở trên, chúng ta thấy
Giáo lư Huyền môn dạy rằng: (1) Con người có
một nguồn gốc sinh sản đa diện và phức
tạp; (2) Đă có nhiều phương pháp sinh sản
truyền giống trước khi có phương pháp thông
thường; (3) Sự tiến hóa của loài động
vật có vú tiếp theo sau thay v́ đi trước sự
tiến hóa của loài người. Điều này hoàn toàn
đối nghịch với những thuyết tiến hóa
và sự phát nguyên của con người từ một
thủy tổ thú vật mà hiện nay người ta
thường chấp nhận.
Để trả lại
cho Caesar những ǵ của Caesar, chúng ta hăy thử xét
trước hết là những cơ may dành cho thuyết nhân
chủng đa nguyên trong số các nhà khoa học.
Hiện nay, đa số
các nhà Tiến hóa luận theo thuyết Darwin có khuynh
hướng dùng thuyết nhân chủng đa nguyên
để giải thích nguồn gốc của các giống
người. Tuy nhiên, về vấn đề đặc
biệt này, cũng như trong nhiều trường
hợp khác, các nhà khoa học lại mâu thuẫn nhau lung
tung, họ đồng ư với nhau rồi lại không
đồng ư.
Con người phát nguyên ra
từ một cặp duy
nhất (thuyết nhân chủng đơn nguyên) hay nhiều cặp (thuyết nhân
chủng đa nguyên) ? Chừng nào người ta c̣n dám phát
biểu ư kiến về những ǵ mà chúng ta không tài nào
biết được [?] nếu không có bằng chứng
[?] th́ thuyết thứ hai vẫn c̣n khả hữu hơn
nhiều.([402])
Trong tác phẩm Ngôn
ngữ Khoa Học, khi luận chứng theo bằng
chứng mà một nhà điều nghiên ngôn ngữ có
sẵn, Abel Hovelacque cũng đạt tới một
kết luận tương tự.
Trong một bài thuyết
tŕnh tại Hiệp Hội Anh Quốc, Giáo sư W. Flower
nhận xét về vấn
đề này như sau:
Quan điểm
dường như phù hợp nhất với những ǵ mà
nay chúng ta biết về các đặc tính và sự phân
bố của các giống người .. chính là một biến
thái của thuyết nhân chủng đơn nguyên [!]. V́ không
muốn đi sâu vào vấn đề khó hiểu về cách
thức xuất hiện đầu tiên của con
người trên trần thế, nên chúng ta phải giả
sử là nó có nguồn gốc rất xa xưa, dù chúng ta
đo lường mọi biến cố của nó theo
bất kỳ tiêu chuẩn lịch sử nào. Nếu chúng ta đề cập
tới một tài liệu cổ sinh vật học hoàn
chỉnh, th́ chúng ta có thể xây dựng lại lịch
sử của con người, nhưng chúng ta không thể có
được điều ǵ liên quan tới tương lai.
177
Chúng ta phải xem
một sự thừa nhận như vậy là chí tử (fatal)
đối với chủ nghĩa giáo điều của
những kẻ theo thuyết tiến hóa vật chất, nó
đă mở ra một phạm vi rộng răi để cho
Huyền bí học tha hồ suy lư. Các đối thủ
của học thuyết
Nếu có điều thắc
mắc về việc con người có trước loài thú
trên trật tự tiến hóa th́ đây là một sự
giải đáp. Nếu con người quả thật là
một Tiểu Thiên Địa, một h́nh ảnh thu
nhỏ của Vũ Trụ th́ giáo điều trên rất
hợp lư. V́ con người lại trở thành Đại
Vũ Trụ đối với ba giới thấp hơn.
Xét về quan điểm vật chất, tất cả các
lài thấp kém hơn, trừ giới khoáng thạch –
vốn là ánh sáng kết tinh và cô đọng – từ loài cây
cỏ đến sinh vật có trước các động
vật có vú đầu tiên, tất cả đều
được củng cố trong cơ cấu thể
chất của chúng bằng những “chất bụi
phế thải” của các loài khoáng thạch nói trên và chất liệu phế thải
của thể xác con người, dù đó là những
thể xác sống hay chết, những chất liệu
phế thải này là đồ ăn dinh dưỡng và chất liệu cấu tạo
nên những thể xác bên ngoài của chúng. Về
phần con người, y trở nên có thể chất
mạnh mẽ, cứng rắn hơn bằng cách thâu
thập trở lại vào cơ thể y những ǵ đă
phóng xuất ra. Các chất liệu này đă được
biến hóa trong cơ thể động vật mà nó đi
xuyên qua. Hồi thời kỳ đó, có những
động vật dị kỳ mà các nhà sinh vật học
hiện đại không thể tưởng tượng
nổi. Những loài khỏe nhất trở thành con
người thể chất thô kệch, những
người khổng lồ của thời tiền sử,
những kẻ cường tráng hơn là các phân thân của
y. Một khi mà nhân loại thư hùng lưỡng phái đó
bắt đầu có sự phân chia nam nữ và
được thiên nhiên biến đổi thành những
cái máy sinh sản, họ không c̣n truyền giống bằng
cách nảy chồi mọc nhánh như trước nữa.
Nhưng trong khi con người c̣n dốt nát, không biết
ǵ về những quyền năng sinh sản của y trên
địa hạt nhân sinh – trước khi y bị sa
đọa, như kẻ tin tưởng vào Adam
thường nói – tất cả mọi năng lực sinh
động của y mà y gieo rắc bừa băi xa gần, đă
được thiên nhiên sử dụng để tạo
nên những h́nh thể các loài nhũ động vật
đầu tiên. Chúng ta được truyền dạy
rằng cơ tiến hóa là một cái ṿng biến chuyển trường kỳ, bất tận và
Bao hàm việc
càng ngày càng giống với hệ sinh vật (nhất là
trong loài có xương sống) càng ngày càng giống như
con người. con người là cứu cánh mà mọi
động vật cần hướng vào từ khi loài cá
cổ sinh nguyên sơ bắt đầu xuất hiện.([403])
Đúng vậy, nhưng “Loài
cá cổ sinh” lại thuộc về ṿng cung hạ
đẳng của cung tiến hóa h́nh hài, thuộc cuộc Tuần Hoàn này bắt
đầu bằng Con người Tinh anh, phản ánh của chư Thiền Định
Đế Quân, được gọi là các “Đấng
Kiến Tạo”. Con người là đầu và cuối của sự sáng tạo
ngoại cảnh. Trong Nữ Thần
Vạn vật
đều bắt nguồn từ Tinh Thần – thoạt
đầu, sự tiến hóa khởi đầu từ bên
trên và tiến xuống dưới, thay v́ ngược
lại như học thuyết
178
Do đó, khuynh
hướng mà nhà vạn vật học lỗi lạc nêu
trên (Agassiz) đă đề cập tới là một khuynh
hướng cố hữu nơi mọi nguyên tử. Có
điều là nếu người ta áp dụng nó cho cả
hai phương diện tiến hóa, th́ những điều
quan sát được sẽ gây trở ngại lớn lao
cho lư thuyết hiện đại mà nay hầu như đă
biến thành định luật Darwin.
Tuy nhiên, khi chúng ta trích dẫn
và tán thành đoạn trên trong tác phẩm của
25. CÁC TRÍ TINH QUÂN (THE MĂNASA), CÁC CON MINH TRIẾT HÀNH
ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO ? CÁC VỊ LOẠI BỎ
KẺ TỰ SINH.([405])
CHÚNG CHƯA SẴN SÀNG. CÁC VỊ CŨNG LOẠI BỎ
KẺ HĂN SINH.([406])
CHÚNG CHƯA HOÀN TOÀN SẴN SÀNG. CÁC VỊ KHÔNG MUỐN
NHẬP VÀO KẺ NOĂN SINH ĐẦU TIÊN.([407])
Đối với một
kẻ Hữu thần hoặc một tín đồ Thiên Chúa
giáo, câu kinh này sẽ gợi ra ư niệm khá giống như
Thần học: đó là sự Sa đọa của các Thiên
Thần v́ Kiêu ngạo. Tuy nhiên trong Giáo Lư Bí Nhiệm, các lư
do từ chối việc lâm phàm trong các thể xác chưa
được chuẩn bị sẵn sàng dường
như có liên hệ với các lư do sinh lư hơn là các lư do
siêu h́nh. Đâu phải tất cả mọi cơ thể
đều đă được chuẩn bị sẵn sàng
đúng mức. Các Quyền năng siêu phàm đă chọn
những trái chín nhất và gạt phắt đi phần c̣n
lại.
Do một sự trùng hợp
lạ kỳ, khi chọn một tên quen thuộc cho lục
địa mà một người Bán thư bán hùng
đầu tiên (Căn chủng thứ Ba) phân chia giới
tính trên đó, dựa vào các nhận xét về địa lư,
tác giả đă chọn danh xưng “Lemuria” do ông P.L. Sclater
chế ra. Chỉ sau này khi đọc tác phẩm Nhân
Phổ Học của Haeckel th́ mới phát giác ra rằng
“Nhà Thú dục luận” (“Animalist”) người Đức
ấy đă chọn danh xưng này cho lục địa
mới đây của ḿnh. Ông đă truy nguyên – một cách
thỏa đáng – trung tâm tiến hóa của nhân loại
tới tận Châu Lemuria, chỉ sửa đổi một
chút về mặt khoa học. Khi đề cập tới
nó như là “cái nôi của loài người”, ông đă phác họa
sự biến hóa dần dần của loài động
vật hữu nhũ giống người thành ra con
người dă man nguyên sơ !! Lại nữa Vogt c̣n cho
rằng ở Châu Mỹ, con người phát nguyên từ
một chi của loài khỉ mũi dẹt độc lập với các ḍng dơi gốc của
Á Châu và Phi Châu phát nguyên từ loài khỉ mũi dưới
của Cựu Thế giới. Như thường lệ,
các nhà nhân loại học đều bất đồng ư
kiến với nhau về vấn đề này cũng
như là nhiều vấn đề khác. Chúng ta sẽ xem xét
phát biểu này dưới ảnh hưởng của
Nội môn Bí giáo trong ĐOẠN KINH
8. Trong khi chờ đợi, chúng ta hăy dành ra chút ít th́
giờ để quan sát tới nhiều cách thức sinh
sản liên tiếp khác nhau theo các định luật
tiến hóa.
179
Chúng ta
hăy bắt đầu bằng cách thức sinh sản
của các phân chủng sau này của Giống dân thứ Ba.
Đó là những người thấy ḿnh được
phú cho “Linh Hỏa” phát xuất từ Điểm Linh Quang
của Đấng cao siêu hơn và độc lập, các
Đấng này là các Tổ Phụ, Tinh Thần và Tâm Linh
của Con Người, chẳng khác nào các Đấng Pitris
Devatăs (Pitris) hạ đẳng là Tổ Phụ của
thể xác y. Giống dân thứ Ba thánh thiện ấy
gồm những người mà khi phát triển tột
đỉnh, được mô tả là “những
người khổng lồ”, cao ngất ngưỡng và
đẹp đẽ như thiên thần, bao hàm mọi bí
nhiệm trong Trời Đất. Như vậy, nếu lâm
phàm là sa đọa th́ các
Ngài có bị “Sa đọa” chăng ?
Xong ngay ! Về phần các
vị này, chúng ta phải lưu ư là các vị Thần Linh và
Anh hùng chính yếu của Giống dân thứ Tư và
thứ Năm cũng như thời xưa, đều là những h́nh ảnh
được thần thánh hóa của những
người thuộc Giống dân thứ Ba này. Những
hậu duệ của họ vẫn c̣n khắc sâu trong tâm
khảm cái thời mà họ c̣n trinh nguyên về mặt tâm
lư rồi tới thời của cái gọi là sự Sa đọa
của họ. V́ thế, trong các tiểu sử do hậu
thế soạn ra, bản chất nhị phân của các
vị thần linh này (cả đức hạnh lẫn
tội lỗi) đều được đề cao
tột độ. Họ là các Giống dân Thiêng liêng Tiền Adam mà theo quan
điểm của thần học, đều là các
“giống dân Cain bị trù”, thế mà ngay cả thần
học bây giờ cũng quan tâm tới họ.
Nhưng trước
hết, chúng ta phải giải quyết tác dụng của
các vị “Tổ Phụ Thiêng Liêng” của giống dân
đó. Chúng ta phải giải thích một điều rất
khó hiểu và bí hiểm liên quan đến Câu kinh 26 và 27.
26. KHI NHỮNG KẺ HĂN SINH ĐĂ TẠO RA NHỮNG KẺ NOĂN SINH LƯỠNG PHÁI. ([408]) NHỮNG GIỐNG NGƯỜI KHỎE MẠNH, CÓ XƯƠNG, CÁC ĐẤNG MINH TRIẾT PHÁN: “BÂY GIỜ CHÚNG TA HĂY SÁNG TẠO”.
Tại sao “bây giờ” mà
không sớm hơn? Điều này được giải
thích trong Câu kinh sau đây.
27. GIỐNG DÂN THỨ BA ĐĂ TRỞ THÀNH HIỆN THỂ (VĂ HAN) CỦA CÁC ĐẤNG MINH TRIẾT. NÓ TẠO NÊN NHỮNG “CON CỦA Ư CHÍ VÀ YOGA”, BẰNG PHƯƠNG PHÁP KRIYĂSHAKTI, NÓ TẠO NÊN CÁC VỊ ẤY, CÁC CHA THÁNH THIỆN, THỦY TỔ CỦA CÁC VỊ LA HÁN…
180
Các vị sáng tạo bằng cách nào,
bởi lẽ các “Đấng Minh Triết” cũng giống
như các vị Thiên Thần của Ấn giáo là những
vị “từ chối” không chịu sáng tạo? Hẳn các
vị là những Đấng Kumăras trong Thánh kinh Purănas
của Ấn giáo, những vị Con Cả của Brahmă.
Do Đấng
Sáng Tạo sinh ra trong điềm tĩnh, thanh thản vô
dục vọng, và do đó cũng là những vị
khiết bạch, đầy minh triết thánh thiện và
không muốn truyền giống ([409])
Quyền năng mà các
vị sử dụng để sáng tạo, trước
hết lại chính là cái đă làm cho các vị bị sa
đọa từ một địa vị cao cả xuống
vị trí của những Ác Thần, của Quỷ Satan và
đồng bọn, và chính những ác thần, ác quỷ
cũng lại do óc tưởng tượng bệnh
hoạn của những tín ngưỡng mê muội, dị
đoan tạo ra. Quyền năng sáng tạo ấy gọi
là Kriyăshakti, một quyền năng thần bí và thiêng liêng
tiềm ẩn trong ư chí của mọi người.
Quyền năng ấy nếu không được thức
động, khêu gợi cho sống dậy hay phát triển
bằng phương pháp tu luyện Yoga, sẽ ngủ yên
trong đại đa số người và bị mai
một tàn tạ. Quyền năng ấy được
giải thích trong tập tài liệu nhan đề
“Mười hai cung Hoàng Đạo” như sau:
Kriyăshakti là quyền năng bí nhiệm
của tư tưởng có thể tạo nên những
hiện tượng ngoại tại, cụ thể do cái
năng lực tiềm ẩn, nội tại của nó.
Cổ nhân cho rằng mọi ư niệm sẽ biểu
lộ ra bên ngoài dưới h́nh thức cụ thể
nếu người ta tập trung tư tưởng hay ư
chí mănh liệt vào ư niệm ấy. Cũng y như thế,
một sự mong ước mănh liệt sẽ gây nên
kết quả mong muốn.
Người Yogi thường
tạo nên những hiện tượng phi thường
bằng những quyền năng ư chí hay quyền năng
tư tưởng.
Bằng cách đó, Giống
dân thứ Ba đă tạo nên những vị mệnh danh là CON CỦA Ư CHÍ VÀ
CON CỦA YOGA hay
những vị Tổ Tiên – Tổ Tiên Tâm Linh – của
tất cả những vị La Hán hay Đại Thánh
(Mahătmă) hiện tại và tương lai do bởi một
phương pháp hoàn toàn vô
nhiễm. Các vị này thực sự là được
sáng tạo, chứ không phải sinh sản như những
người Giống dân thứ
Ở đây, chúng ta
lại phải tạm dừng để giải thích
một vài điều khó hiểu (có rất nhiều
điều khó hiểu). Hầu như không thể tránh
được một sự gián đoạn như
vậy.([410])
Đó là trật tự
tiến hóa của những Chủng tộc Loài
người trong quyển 5 của Thiên B́nh Luận và
được nêu ra :
Giống
dân thứ Nhất là H́nh Bóng (1); Giống dân thứ Hai là
“Hăn Sinh” (2); Giống dân thứ Ba là Giống người
“Noăn sinh” và những Cha thánh thiện sinh ra bằng quyền
năng ư chí (3); Giống dân thứ Tư là con trẻ
của Hoa Sen (Padmapăni) (4).
181
Dĩ nhiên các cách
thức sinh sản nguyên sơ như thế - bằng
sự tiến hóa của h́nh ảnh ḿnh, bằng cách
rịn ra các giọt mồ hôi, sau đó bằng Yoga và
rồi bằng cái mà người ta sẽ xem là pháp
thuật (Kriyăshakti) – ngay từ đầu đă bị xem
là các chuyện thần tiên. Tuy nhiên, từ đầu chí
cuối, thực ra cách sinh sản này đâu có ǵ là phép
lạ, cũng đâu có ǵ không thể chứng tỏ là
tự nhiên. Chúng ta phải chứng tỏ điều này.
1. Cách sinh sản H́nh bóng,
tức cách sinh sản nguyên sơ vô giới tính đó có
thể nói là Giống dân thứ Nhất đă rịn ra từ cơ thể
của các Đấng Pitris – đă được ám
chỉ trong một ẩn dụ trong kinh Purănas. ([411])
Đó là câu chuyện ẩn dụ tuyệt vời về
Sanjnă, con gái của
Nhưng có lẽ ví dụ
này chẳng chứng tỏ được bao nhiêu, trừ
ra sự hoang tưởng tràn lan của các tác giả kinh
Purănas. Chúng ta cũng có sẵn một bằng chứng khác.
Nếu thay v́ biến đi, các h́nh hiện ra – mà đôi khi
chúng ta thấy xuất ra khỏi cơ thể của
một vài đồng tử - lại có thể
được cố định và làm cho rắn chắc,
th́ sự sáng tạo ra Giống dân thứ Nhất ắt
trở nên hoàn toàn dễ hiểu. Loại sinh sản này
không thể không gợi ư cho môn sinh. Sự bí nhiệm
cũng như tính chất bất khả hữu của
một cách thức sinh sản như thế chắc
chắn là chẳng có ǵ lớn hơn – trong khi mà nó c̣n
dễ hiểu hơn nhiều đối với tâm trí
của nhà tư tưởng siêu h́nh chân chính – bí nhiệm
về sự thụ thai, sự thai nghén và sự sinh ra
một đứa trẻ như chúng ta đă biết
hiện nay.
Nay chúng ta bàn tới
sự bổ chứng kỳ diệu và ít được
thấu hiểu trong kinh Purănas bàn về giống người
Hăn sinh.
182
2. Kandu là một bậc
hiền triết và một đạo sĩ Yoga nổi
bật về minh triết thánh thiện và sự khổ tu
sùng đạo. Những điều đó rốt cuộc
đă khơi dậy sự ganh tỵ của chư Thiên;
trong các Thánh kinh Ấn giáo, chư Thiên được tŕnh
bày là tranh chấp liên miên với các tu sĩ khổ
hạnh. Indra, “Chúa Tể của các Thần” ([412])
rốt cuộc đă phái một trong các vị Apsaras
(vợ của các chư Thần) tới cám dỗ bậc
hiền triết. Điều này chẳng khác ǵ việc
Jehovah phái Sarah vợ của Abraham, tới quyến rũ
Pharaoh. Nhưng thật ra, chính các Thần Linh này (và vị
Thần đó) họ cứ ra sức phá rối các tu sĩ
khổ hạnh – phải được xem là “lũ
quỷ cám dỗ” thay v́ từ ngữ này được áp
dụng cho các Rudras, Kumăras và A Tu La. Sự thánh thiện và
trinh khiết của các vị này dường như là
một lời khiển trách công khai đối với các
vị Thần Sở Khanh (Don Juanic Gods) của chư
Thần Ấn Độ. Nhưng trong mọi ẩn dụ
của kinh Purănas, chúng ta đều thấy ngược
lại mà không có một lư do nội môn nào thỏa đáng.
Vị Chúa Tể của các
Thần, tức
Nữ thần
chuyển từ cây này qua cây kia và lau khô chân tay bằng
những chiếc chổi đen tuốt trên ngọn cây…
đứa con mà nàng đă thụ thai với bậc Thánh
Hiền rịn ra từ lỗ chân lông, đọng trên da
nàng thành những giọt mồ hôi. Những chiếc lá cây
đón nhận những hạt sương sống
động; gió tụ tập chúng lại thành một
khối: Soma [Mặt Trăng] liền bảo: “Thế này
nhé, ta trưởng thành nhờ vào các tia sáng của ta; nó gia
tăng kích thước dần dần, cho tới khi mà bức
xạ (exhalation) c̣n lại trên các ngọn cây biến thành người
con gái mỹ miều tên là Mărishă”.([414])
183
Chính Kămadeva, Thần t́nh
ái và dục vọng, chứ không phải Indra – trong
trường hợp này, Ngài cũng hiện diện trong
kinh Purănas – đă phái Pramlochă giáng trần. Lư luận cũng
như là Nội môn Bí giáo chứng tỏ rằng nó ắt
phải như thế. Đó là v́ Kăma chính là Chúa Tể
của các nữ thần Apsaras (Pramlochă là một trong các
nữ thần đó); như thế, khi Kandu nguyền
rủa nàng và hét lên: “Mi đă thi hành công tác mà vị Chúa
tể của thần linh giao phó, cút đi !” Ngài ắt
muốn nói rằng vị Chúa tể đó là Kăma, chứ
không phải là Indra mà các nữ thần Apsaras không hề
thần phục. Đó là v́ trong kinh Rig Veda ([415])
Kăma là hiện thân của cái cảm giác hướng dẫn
và thúc đẩy tiến tới sự sáng tạo. Ngài là
Chuyển động Bản sơ đang kích động NHẤT NGUYÊN sáng tạo sau khi nó biểu lộ
từ Nguyên khí Trừu tượng thuần túy.
Thoạt tiên,
dục vọng phát khởi nơi NÓ, đó là Mầm
mống Nguyên sơ của trí tuệ. Khi dùng trí lực t́m
ṭi, các bậc Hiền Triết đă khám phá ra rằng NÓ
chính là mối liên kết ràng buộc Thực Thể
với Phi Thực Thể.
Một Thánh ca trong kinh
Atharva Veda tán dương Kăma là một vị Thần sáng
tạo tối cao và bảo:
Kăma sinh ra
trước tiên. Chẳng có vị Thần linh, Tổ
Phụ (Pitris) hoặc con người nào b́ kịp Ngài.
Kinh Atharva Veda đồng nhất
hóa Ngài với Agni, song
lại biến Ngài thành ra cao siêu hơn vị Thần Linh
đó. Tác phẩm Taitirĩya Brăhmana tŕnh bày (ẩn dụ)
Ngài là con của Dharma (bổn phận, ḷng sùng đạo và
công lư tôn giáo đạo đức) và Shraddhă (tín ngưỡng).
Ngoài ra, Kăma c̣n được sinh ra từ tâm của Brahmă;
do đó, Ngài chính là Ătmabhũ (Đấng Tự Sinh Tự
Tại) và Aja (Đấng Bất Sinh Bất Diệt).
Việc Ngài phái Pramlochă đi có một ư nghĩa triết
học sâu xa, nếu
Thế th́ đây là ẩn
dụ bàn về cách thức sinh sản của Giống dân
thứ Hai tức giống dân “Hăn sinh”. Khi Giống dân
thứ Ba phát triển đến mức tột cùng th́
cũng như vậy.
184
Nhờ có các nỗ
lực của Soma, các vị Prachetases, cũng là sản
phẩm của đứa con trí sinh của Brahmă ([416])
đă lấy Mărishă làm vợ. Từ các vị này (các
đứa con trí sinh), họ sinh ra tộc trưởng
Daksha – kinh Purănas giải thích và nói thêm rằng Ngài cũng là
một người con của Brahmă trong một Thiên
kiếp trước, để đánh lạc, song cũng
rao giảng chân lư.
3. Như vậy Giống dân
thứ Ba đă được h́nh thành từ các giọt
“Mồ hôi”, sau nhiều lần biến hóa các mồ hôi này
phát triển thành thân thể người ta. Điều này
cũng chẳng có ǵ khó tưởng tượng hoặc
lĩnh hội hơn sự tăng trưởng của
một bào thai từ mầm mống vi ti, rồi sau đó
phát triển thành một đứa trẻ và rồi thành
một người to lớn. Nhưng theo Giảng lư,
Giống dân thứ Ba lại c̣n thay đổi cách thức
sinh sản nữa. Nghe nói nó đă xạ ra một lực tạo h́nh, lực này biến các giọt mồ
hôi thành ra các giọt lớn hơn, chúng tăng
trưởng, bành trướng và biến thành các thể
h́nh trứng, các quả trứng khổng lồ. Bào thai con
người h́nh thành trong các thể h́nh trứng này
nhiều năm. Trong kinh Purănas. Mărishă, con gái của Hiền
Như thế, Giống
dân thứ Ba đă biến thành:
4. Giống dân Bán thư bán
hùng. Cách thức sinh sản con người này có lẽ
giải thích được lư do tại sao trong các tác
phẩm Bữa Tiệc của Plato, Aristophanes
lại mô tả là giống dân thời xưa có bản
chất “bán thư bán hùng”, mọi người đều
có h́nh dáng tṛn vo, “có lưng và cạnh sườn cong ṿng”,
họ “chạy bằng cách lăn tṛn” … họ mạnh
mẽ ghê gớm và đầy tham vọng ngông cuồng”. V́
vậy, để làm cho họ yếu đi, “Thần
vương Zeus đă chia họ [trong Căn chủng
thứ Ba] ra làm hai, c̣n thần
Dân
185
Ư nghĩa của
câu cuối cùng trong thiên B́nh luận về Đoạn 27 nói
rằng Giống dân thứ Tư là con của Padmapăni, có
thể giải thích như sau trong một bức thư
của Sư Phụ gởi cho tác giả quyển Phật
Giáo Nội Môn ([417])
Đa
số nhân loại thuộc về phụ chủng thứ
bảy của Giống dân thứ Tư gồm những
người Trung Hoa và các tiểu chủng và chi chủng
khác (người
Danh từ Padmapăni, Phạn
ngữ gọi là Avalokiteshvara, có nghĩa là Diệu Âm hay
Thượng Đế trong khía cạnh vô vi cao cả và
ngự trên các cơi thiêng liêng vô cực. Nhưng trên các cơi
biểu lộ, Ngài là Thủy Tổ của loài
người, hiểu theo ư nghĩa tâm linh. Padmapăni –
Avalokiteshvara được gọi một cách bí truyền
là Bồ Tát (Bodhisattva) (hay Thiền Định Đế
Quân)
– vật chất, đại
hồng thủy – c̣n trên trán Ngài có con mắt thứ ba, Thiên
Nhăn, Linh Nhăn. Ngài được mệnh danh là một
“Đấng Hộ tŕ” (của Tây Tạng), “Đấng
Cứu Thế”. Trong những trường hợp khác khi
Ngài chỉ có hai tay, Ngài chính là Đấng Thần Quân
Chenresi, Bồ tát,
186
Tuy nhiên,
Padmapăni chỉ là biểu tượng của Liên Tŕ (
ĐOẠN
KINH 8
TIẾN
HÓA CỦA LOÀI ĐỘNG VẬT HỮU NHŨ :
SỰ SA
ĐỌA ĐẦU TIÊN
(EVOLUTION OF THE
ANIMAL MAMMALIANS :
THE FIRST FALL)
187
28.
Các động vật hữu nhũ đầu tiên
được tạo ra như thế nào ? 29. Một
cuộc tiến hóa hầu như theo Darwin. 30. Các con thú có
được các thể rắn chắc. 31. Chúng phân chia
giới tính. 32. Tội lỗi đầu tiên của
những kẻ vô trí.
28. NHỮNG LOÀI ĐỘNG VẬT ĐẦU TIÊN (CỦA CUỘC TUẦN HOÀN HIỆN TẠI) ĐƯỢC TẠO RA TỪ NHỮNG GIỌT MỒ HÔI, TỪ CHẤT CẶN BĂ PHẾ THẢI VÀ CÁT BỤI CỦA NHỮNG XÁC CHẾT CÙNG LÀ THÚ CẦM CỦA CUỘC TUẦN HOÀN THỨ BA TRƯỚC.
Giáo lư Huyền môn dạy
rằng trong cuộc Tuần Hoàn hiện tại, loài
hữu nhũ động vật là sản phẩm của
cơ tiến hóa đến sau loài người. Cơ
tiến hóa diễn biến theo từng
188
Trật
tự tiến hóa đó cũng được diễn
tả trong chương Sáng Thế nếu người
đọc nhận xét nội môn bí truyền; v́
Chương I nói về lịch tŕnh diễn tiến
của Ba cuộc Tuần Hoàn đầu tiên cũng như
của Ba Giống dân đầu tiên của cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư cho đến khi Con Người
bắt đầu sống hữu thức dưới
sự d́u dắt, hướng dẫn của các
Đấng Minh Triết. Trong Chương đầu,
những loài động vật, loài cá, chim được
sáng tạo trước
Kinh Purănas, các áng văn của Chaldea và Ai Cập
cũng như là các truyền thuyết Trung Hoa đều
nhất trí với Giáo Lư Bí Nhiệm về diễn tŕnh và
tŕnh tự tiến hóa. Chúng ta thấy chúng bổ chứng
cho hầu hết mọi giáo lư của chúng ta; chẳng
hạn như phát biểu liên quan tới cách thức noăn
sinh của Giống dân thứ Ba, thậm chí có cả
một ẩn ngôn về cách thức sinh sản tội
lỗi hơn của các h́nh hài động vật hữu
nhũ đầu tiên.
Giảng lư dạy:
“Chúng
thật là khổng lồ, trong suốt, câm lặng và quái
gở”.
Về vấn đề
này, chúng ta hăy nghiên cứu các câu chuyện về nhiều
vị Thánh Hiền và những hậu duệ đa tạp
của họ. Pulastya là cha của tất cả Con Rắn
và Năgas – một lứa noăn sinh; nhờ có vợ Tămra, Ca
Diếp là tổ phụ của loài chim và Kim xí điểu,
vua của loài có lông vũ; trong khi đó, nhờ có vợ
Surabbĩ ([421]),
Ngài lại là tổ phụ của loài trâu ḅ v.v…
Trong Giáo Lư Bí Nhiệm,
những con khủng long đầu tiên (Năgas)- con vật
khôn ngoan hơn loài Rắn – là các “Con của Ư Chí và Yoga” sinh
ra trước khi có sự phân chia nam nữ, “trưởng
thành trong những quả trứng ([422])
tạo nên bởi quyền năng ư chí (Kriyashakti) của các
Đấng Minh Triết thánh thiện” của Giống dân
thứ Ba.([423])
“Các vị Chúa Tể của ba cơi cao – nhiều hạng Rudras khác nhau, vốn đă là các vị thần Tushitas, Jayas và Ădityas – đă đầu thai vào các thực thể này. Đó là v́ Parăshara đă giải thích như sau: “Có một trăm danh xưng của các Rudras vô cùng mạnh mẽ”.
189
Vài
đơn vị ḍng giống của con khủng long sơ
khai tức những Con Rắn Minh Triết, đă sống
tại Mỹ Châu, khi lục địa này trồi lên trong
những cuộc biến động của Châu Atlantis. Châu
Mỹ là Pătăla tức là các điểm đối chân
của Jambu-dvipa chứ không phải của Bhărata-varsha
(Ấn Độ). Mặt khác đâu là nguồn gốc
của các truyền thuyết và các huyền thoại – theo
Augustin Thierry, các huyền thoại bao giờ cũng xác thực hơn lịch sử
- và ngay cả sự đồng nhất danh hiệu
của một vài pháp sư và tu sĩ, họ c̣n tồn
tại ở Mễ Tây Cơ đến tận ngày nay? Chúng
ta phải đề cập tới các vị Pháp sư và
Pháp thuật mà các nhà truyền giáo gọi là “tục sùng bái
quỷ” (“devil-worship”).
Hầu hết mọi kinh
Purănas đều tŕnh bày câu chuyện về sự “Tế
thần của Daksha”, chúng ta thấy bản tường
thuật xưa nhất trong kinh Văyu Purănas. Mặc dù có tính
cách ẩn dụ, nó vẫn có ư nghĩa tiết lộ
về mặt sinh học đối với một nhà
vạn vật học hơn mọi điều bốc
đồng ngụy khoa học vốn dĩ được
xem là các lư thuyết và các giả thuyết thông thái.
Hơn nữa, Daksha vốn
được xem là vị Tổ Phụ chính, lại c̣n
được tŕnh bày là đă sáng tạo ra con
người vật chất, trong “ngụ ngôn” nói rằng
Ngài đă bị đầu ĺa khỏi xác trong cuộc
đấu tranh chung giữa chư Thiên và các Raumas. Theo bài
trường thi Kăshi Khanda [trong kinh Skanda Purănas] sau khi đă
bị lửa đốt cháy, cái đầu này liền
được thay thế bằng đầu của
một con cừu đực. Nay đầu cừu và
sừng bao giờ cũng là biểu tượng của
quyền năng sinh sản và lực sinh dục, do đó có
tính cách sùng bái sinh thực khí. Như đă tŕnh bày, chính
Daksha đă lập nên kỷ nguyên con người
được sinh ra bằng sự phối hợp. Tuy
nhiên, cách thức sinh sản không hề diễn ra một
cách đột ngột như chúng ta thường lầm
tưởng, mà phải mất nhiều thời đại
dài đăng đẳng trước khi nó tở thành
một cách thức “tự nhiên”. Do đó người ta
đă tŕnh bày rằng Shiva đă can thiệp vào sự
tế thần của Daksha – Shiva là ngôi Thánh Linh Hủy Diệt, hiện thân
của sự Tiến hóa và Tiến bộ, đồng
thời cũng là Ngôi phục
sinh, Ngài tiêu diệt mọi vật dưới một
dạng này song lại làm cho chúng hồi sinh dưới
một dạng khác hoàn hảo hơn. Shiva-Rudra tạo ra con
quái vật khủng khiếp Vĩrabhadra, “ngàn đầu,
ngàn tay”, sinh ra từ hơi thở của Ngài và
được Ngài giao cho việc tiêu diệt lễ tế
thần mà Daksha chuẩn bị. Thế rồi, ngự
nơi “cơi cao của quỷ” [những kẻ tinh anh]… Vĩrabhadra
tạo ra các vị Rauma ([424])
mạnh mẽ từ các lỗ
chân lông trên da ḿnh [Romakũpas]. Nay mặc dù ẩn dụ
trên có tính cách thần thoại, nhưng Măhabhărata ([425])
– nó cũng có tính cách lịch sử như Iliad – đă tŕnh bày là các vị thần Raumas và các
giống dân khác sinh ra từ lỗ chân lông một cách
tương tự như vậy. Sự mô tả ẩn
dụ này về “sự tế thần” của Daksha hết
sức có ư nghĩa đối với các môn sinh Giáo Lư Bí
Nhiệm đă từng biết tới giống “Hăn sinh”.
Vả lại, trong bản
tường thuật sự tế thần đó của
kinh Văyu Purăna, nghe nói lễ tế thần đă diễn ra
với sự hiện diện của các tạo vật sinh ra từ trứng, từ
hơi nước, cây cỏ, lỗ chân lông và cuối cùng
mới là từ tử cung.
190
Daksha tiêu
biểu cho Giống dân thứ Ba sơ khai, thánh thiện và
thanh khiết, đến nay vẫn c̣n chưa có Chơn Ngă
và chỉ có các quyền năng thụ động. Do
đó, Brahmă ra lệnh cho Ngài phải sáng tạo (trong các
kinh điển ngoại môn). Khi đó, Ngài tuân lệnh và
tạo ra các hậu duệ (Putra) “cao và thấp” (Avara và
Vara) có hai chân và bốn chân. Ngài c̣n dùng ư chí khai sinh ra phụ nữ,
chư Thiên, các vị Daityas (người khổng lồ
của Giống dân thứ Tư), các thần rắn, thú
vật trâu ḅ, các vị Dănavas (các người Khổng
lồ và các Pháp sư ma thuật) và các thực thể khác.
Từ thời kỳ đó
trở đi, chúng ra
đời do sự phối hợp. Trước thời
Daksha, chúng đă sinh sôi nảy nở bằng nhiều cách
khác nhau – bằng ư chí,
bằng thị giác, bằng xúc giác và bằng tác dụng
của các công phu khổ tu của các bậc hiền
triết sùng đạo và các vị thánh.([426])
Bây giờ bàn tới động vật đơn thuần.
29. NHỮNG LOÀI VẬT CÓ XƯƠNG, CÁC CON RỒNG Ở VỰC SÂU, VÀ CÁC LOÀI RẮN (SARPAS) BIẾT BAY ĐƯỢC TẠO THÊM VÀO CÁC LOÀI B̉ SÁT. CÁC LOÀI B̉ SÁT DƯỚI ĐẤT LẠI MỌC CÁNH. NHỮNG LOÀI VẬT CỔ DÀI SỐNG DƯỚI NƯỚC TRỞ THÀNH THỦY TỔ CỦA LOÀI CHIM TRÊN KHÔNG TRUNG.
Giáo lư huyền môn và khoa
sinh vật học hiện đại đă hoàn toàn thỏa
hiệp với nhau về điểm này. Những trạng
thái trung gian của sự biến thể giữa loài
rắn và loài chim biển hiện nhất trong vài loài ḅ sát,
nhất là trong loài chim Ornithoscelidae, chim Hesperornis và chim Thái
cổ của Voght.
30. TRONG GIỐNG DÂN THỨ BA, LOÀI VẬT KHÔNG XƯƠNG TRƯỞNG THÀNH VÀ BIẾN ĐỔI H̀NH THỂ; CHÚNG TRỞ THÀNH LOÀI VẬT CÓ XƯƠNG, NHỮNG H̀NH BÓNG CỦA CHÚNG TRỞ NÊN RẮN CHẮC.
Trước hết là loài
có xương sống rồi đến loài có vú.
Trước đó loài vật cũng chỉ là những
cơ phận thanh nhẹ như dĩ thái, giống như
con người.
31. NHỮNG LOÀI VẬT PHÂN CHIA TRƯỚC TIÊN
THÀNH ĐỰC VÀ CÁI. CHÚNG BẮT ĐẦU SINH NỞ. CON
NGƯỜI LƯỠNG PHÁI KẾ ĐÓ CŨNG PHÂN CHIA
32. NHỮNG KẺ KHÔNG CÓ ĐỐM LỬA (NHỮNG KẺ ĐẦU HẸP) PHỐI HỢP VỚI LOÀI VẬT GIỐNG CÁI. CHÚNG SINH RA CÁC GIỐNG NGƯỜI CÂM. CHÍNH HỌ (NHỮNG KẺ ĐẦU HẸP) CŨNG LÀ GIỐNG NGƯỜI CÂM. NHỮNG LƯỠI CỦA HỌ TÁCH RỜI ([427]). LƯỠI CỦA CON CHÁU HỌ VẪN C̉N NGUYÊN. CHÚNG SINH RA NHỮNG QUÁI VẬT. MỘT GIỐNG QUÁI VẬT TÓC ĐỎ, H̀NH THÙ CO QUẮP ĐI TRÊN BỐN CHÂN.([428]) MỘT GIỐNG CÂM ĐỂ GIẤU SỰ NHỤC NHĂ CHO KHỎI BỊ TIẾT LỘ.([429])
191
Sự kiện
về loài hữu nhũ bán thư bán hùng xưa kia rồi
sau đó mới phân chia giới tính ngày nay thật là không
thể bài bác được, ngay cả theo quan điểm
sinh vật học. Giáo sư Oscar Schmidt, một môn
đồ công khai của thuyết
Sự sử
dụng và sự phế bỏ, phối hợp với
sự tuyển lựa, đă minh giải [?] được sự phân chia
giới tính và sự tồn tại của các cơ quan
sinh dục sơ khai (nếu không có nó th́ chẳng ai
hiểu được sự tồn tại này). Nhất
là trong loài Động vật có xương sống, mỗi phái đều có các
vết tích riêng biệt của bộ máy sinh dục
đặc trưng cho phái kia, đến nỗi mà ngay
cả thời xưa, người ta cũng đă giả
sử rằng “thư hùng lưỡng phái” là một t́nh
trạng nguyên sơ tự nhiên của nhân loại … Các
cơ quan sinh dục sơ khai này được kế
thừa khá nhiều tính bền bĩ. Trong lớp
động vật hữu nhũ, người ta chưa
hề nghe nói tới hiện tượng thư hùng
lưỡng phái thực sự, mặc dù trong suốt
thời kỳ phát triển, chúng mang theo những tàn dư
này, do tổ tiên vô danh
của chúng tạo ra mà chẳng ai dám bảo là mất bao
lâu.([430])
Câu kinh 31 nói: “Loài vật phân chia
trước nhất”. Chúng ta nên nhớ rằng hồi thời
đó con người khác hẳn bây giờ, ngay cả
về mặt sinh lư, v́ ngày nay, con người đă
vượt qua khỏi điểm giữa của Giống
dân thú Năm. Chúng ta không được biết rơ những
”loài vật giống cái” nói trên là loài ǵ, nhưng chắc
chắn là chúng cũng khác hẳn những loài vật
như chúng ta được biết, cũng như con
người vậy.
Đó là sự “sa đọa”
đầu tiên của vài giống người thấp kém
thời kỳ đó. Như Câu kinh 24 đă nói, “Các Con
của Minh Triết” đă chê nhóm người đầu
tiên của Giống dân thứ Ba tức là những
người thấp kém chưa phát triển, và đầu
thai vào trong đợt sau cùng
của Giống dân thứ Ba, nhờ đó họ
được ban phát trí khôn. Những Giống
người không có “đốm lửa”, tức là
người không có trí khôn, không phải chịu trách
nhiệm ǵ và tội lỗi của họ rơi trên vai
những người không làm tṛn bổn phận để
giúp đỡ họ theo định đoạt nghiệp
quả.
NHỮNG LƯ LUẬN ĐỐI KHÁNG
192
Như vậy khoa
Huyền môn bác bỏ thuyết cho rằng con người
là do loài khỉ biến hóa mà thành, hay là có một tổ tiên
chung cho cả loài người và khỉ. Trái lại, Huyền
môn truy nguyên vài loài khỉ tiến hóa nhất đến
tận nguồn gốc là con người của Giống
dân thứ Ba thuộc thời kỳ sơ khởi của
nền văn minh Châu Atlantis. V́ giáo điều này sẽ
được chứng minh ở một đoạn khác
nên ở đây chỉ cần nói thêm vài lời. Tuy nhiên,
để cho được rơ ràng hơn, chúng tôi xin
lặp lại vắn tắt những điều đă
tŕnh bày trước đây trong Quyển I, ĐOẠN KINH
6.
Giáo lư huyền môn nói rằng
có một thời kỳ 193
người
trong cuộc Tuần hoàn thứ Tư hiện tại,
cũng như các động vật sống đồng
thời với Giống dân thứ Ba và loài nhũ
động vật có sau Giống dân thứ Ba và Giống
dân thứ Tư, tất cả đều đă trực
tiếp hoặc gián tiếp là sản phẩm (thể
chất) của Con Người. Trong kỳ Khai Nguyên
(Manvantara) hiện tại, tức là trong ba cuộc Tuần
Hoàn trước đây, con người đă tiến hóa
trải qua tất cả mọi loài trong
Những điều trên
đây giải thích về những cái gọi là “bằng
chứng sinh lư” do các nhà nhân chủng học đưa ra
để chứng minh con người là hậu duệ
của loài thú.
Điểm mà các nhà theo
thuyết Tiến hóa nhấn mạnh là “Lịch tŕnh
của bào thai là sự đúc kết lịch tŕnh của
một giống dân”. Trong bài thuyết tŕnh về : “Những
bằng chứng của sự tiến hóa”, nhà bác học
Haeckel có nói:
Mỗi cơ
phận động vật trong sự nảy nở
trưởng thành từ một quả trứng, đă
trải qua một loạt những h́nh thể khác nhau, mà
trong một diễn tŕnh liên tục tương tự,
tổ tiên của nó đă trải qua trong ḍng thời gian
dài của lịch sử địa cầu ([432]).
Lịch tŕnh của bào thai là h́nh ảnh thu nhỏ, phác
họa những nét chính lịch tŕnh của giống
người đă sinh ra nó. Quan
niệm này là trụ cốt của định luật
sinh hóa căn bản mà chúng tôi đặt lên hàng đầu
trong sự khảo cứu về định luật
căn bản của sự phát triển cơ năng sinh
vật.
194
Lư thuyết này
đă từng được các nhà Hiền Triết và
Đạo gia thời cổ biết rơ như một
sự thật và nói lên với một quan niệm triết
học sâu xa hơn. Ở đây, chúng ta có thể trích
dẫn một đoạn trong Nữ Thần Isis Lộ
Diện để cung ứng một vài điều so sánh.
Người ta hỏi rằng mặc dù thông thái đến
thế mà tại sao các nhà sinh lư học lại không thể
giải thích được hiện tượng quái h́nh ?
Bất cứ nhà giải
phẫu cơ thể học nào đă xem sự phát
triển và tăng trưởng của bào thai … là một
đề tài nghiên cứu chuyên môn; đều có thể
không động năo bao nhiêu mà cũng cho chúng ta biết
được những ǵ mà kinh nghiệm hằng ngày và
bằng chứng mắt thấy tai nghe chỉ ra cho ông –
nghĩa là măi cho tới một thời kỳ nào đó, bào
thai người là một sự mô phỏng của một
con ếch khi mới nở ra khỏi trứng, tức là
một con ṇng nọc. Nhưng dường như không có
một nhà sinh lư học nào hoặc nhà giải phẫu
cơ thể nào có ư áp dụng nội môn bí giáo về
sự luân hồi của Pythagoras (đang bị các nhà phê
b́nh thuyết minh một cách sai lạc) vào sự phát
triển của con người – từ lúc nó bắt
đầu xuất hiện như là một mầm mống
trên cơi trần cho tới khi nó rốt cuộc thành h́nh và
sinh ra. Ư nghĩa của Do Thái Bí giáo: “Một tảng đá
biến thành một cái cây; cái cây biến thành con thú; con thú
biến thành con người”,… được đề
cập ở một nơi khác liên quan tới sự
biến hóa vật chất và tinh thần của con
người trên Địa Cầu. Nay chúng ta sẽ nói thêm
một chút để cho vấn đề được
sáng tỏ hơn.
Đâu là h́nh dáng nguyên sơ
của con người tương lai ? Một vài nhà sinh lư
cho rằng đó là một hạt, một vi thể, c̣n
những kẻ khác lại cho rằng đó là một phân
tử, một noăn châu. Nếu chúng ta có thể phân tích nó –
bằng kính hiển vi hay bằng một phương
tiện khác – th́ chúng ta phải mong đợi là t́m thấy
nó cấu tạo bằng những ǵ? Tương tự,
chúng ta có thể đề cập tới một hạt
nhân của chất vô cơ, lắng đọng do sự
chu lưu vào lúc nảy mầm và kết hợp với
một chất hữu cơ lắng đọng. Nói cách
khác, hạt nhân cực vi của con người
tương lai này cũng gồm có các nguyên tố với
một tảng đá, cũng gồm có các nguyên tố
với Trái Đất mà con người có định
mệnh phải ở trên đó. Các tín đồ Do Thái Bí
giáo viện dẫn Moses là người có thẩm quyền
nhận định rằng cần phải có đất và
nước để tạo nên một sinh vật, và
như thế chúng ta có thể cho rằng, thoạt tiên, con
người xuất hiện như là một tảng đá.
Vào cuối ba hay bốn
tuần, noăn có h́nh dáng giống như một cái cây, một
đầu h́nh cầu, c̣n đầu kia thuôn nhọn như
là một củ cà rốt. Nếu cắt ra, chúng ta sẽ
thấy rằng, giống như củ hành, nó gồm có các
phiến hoặc lớp vỏ rất mảnh mai, bao quanh
một chất lỏng. Các phiến này sát lại gần
nhau ở đầu dưới, thai nhi treo lủng
lẳng từ những cọng rễ của rốn
gần giống như trái cây lủng lẳng trên cành. Do
“sự luân hồi”, tảng đá này đă biến thành cái
cây. Rồi thai nhi bắt đầu mọc tay chân từ
trong ra ngoài và phát triển các đặc điểm của
ḿnh. Mắt giống như hai chấm đen, tai, mũi và
miệng tạo thành những lỗ trũng, giống
như mắt của một trái thơm, trước khi
bắt đầu lồi ra. Thai nhi phát triển thành
một bào thai giống như thú vật – h́nh dáng một con
ṇng nọc – sống trong nước và phát triển từ
đó, giống như một con ḅ sát lưỡng cư.
Chơn Thần của nó c̣n chưa thành người hoặc
bất tử v́ các môn đồ Do Thái Bí giáo cho chúng ta
biết rằng điều này chỉ diễn ra vào
“giờ thứ tư”. Dần dần bào thai có
được các đặc tính của một con
người, luồng sinh khí bất tử đầu tiên
thoảng qua người nó: nó cử động; … và
bản thể thiêng liêng ngự nơi cơ thể mà hài
nhi sẽ ở đó cho tới chết, khi con người
trở thành một vong linh.
Các môn đồ Do Thái Bí giáo
gọi tiến tŕnh bí nhiệm chín tháng tạo h́nh này là
sự hoàn thành chu kỳ “tiến hóa cá nhân”. Cũng như
bào thai phát triển giữa đường mạc thủy
trong tử cung, cũng vậy, các Trái Đất nảy
mầm trong Dĩ Thái Vũ Trụ (tức Lưu Chất
Dĩ Thái) trong Tử Cung Vũ Trụ. Cũng như cư
dân tầm thường nhỏ bé, các đứa trẻ
vũ trụ này là những hạt nhân đầu tiên,
rồi thành các tiểu noăn, rồi dần dần
trưởng thành và trở thành mẹ; đến
lượt chúng lại phát triển các h́nh hài khoáng vật,
thực vật và nhân loại. Từ trung tâm tới
ngoại biên, từ tiểu
nang vi ti cho tới các cực biên của vũ trụ mà
chúng ta có thể quan niệm được, các nhà tư
tưởng lỗi lạc ấy (các nhà Huyền bí) đă
truy nguyên chu kỳ này biến nhập vào chu kỳ kia, bao
hàm và được bao hàm trong một chuỗi vô tận.
Bào thai phát triển trong phạm vi tiền sinh của ḿnh,
cá nhân phát triển trong gia đ́nh, gia đ́nh phát triển
trong quốc gia, quốc gia trong cộng đồng nhân
loại, trái đất torng Thái Dương Hệ, Thái
Dương Hệ trong NGUYÊN NHÂN DUY NHẤT –Vô Biên và Vô Tận.([433])
195
Như vậy,
chúng ta thấy triết lư về sự tiến hóa của
họ khác hẳn với triết thuyết của Haeckel.
Vạn vật
chẳng qua chỉ là các phần tử của một
tổng thể diệu kỳ,
Có cơ thể
là Thiên Nhiên và Linh Hồn là
Đó là các bằng chứng
của Huyền bí học, và chúng tôi đă bị khoa
học bác bỏ. Nhưng trong trường hợp này, làm
sao có thể giải thích sự cách biệt quá sâu xa
giữa trí khôn con người và loài thú ? Nếu loài khỉ
đột và loài người ban sơ cùng có một tổ
tiên chung th́ do bởi đâu mà hai loài lại khác nhau quá xa
về khả năng trí tuệ ? Thật ra, nhà Huyền
học có thể được cho biết rằng, trong
mọi trường hợp, khoa Huyền học thực
hành những ǵ khoa học lặp lại. Huyền môn cho rằng
có một tổ tiên chung cho
loài khỉ đột và loài người và cho thấy loài
khỉ đột thoát thai từ Con người Ban sơ.
Ấy thế, nhưng “Con người Ban sơ” đó
cũng chỉ là người trong cái h́nh thể bên ngoài. Y không có trí khôn và không có linh
hồn khi mà y phối hợp
với một loài quái vật giống cái để sinh ra
các tổ tiên của một loạt ḍng giống khỉ
đủ các loại. Điều này ít nhất cũng
hợp lư và lấp bằng hố sâu cách biệt giữa
trí khôn con người và loài thú. Như vậy, nó đă
giải thích điều từ trước đến nay
vẫn là bí hiểm và khó hiểu. Trong giai đoạn khoa
học tiến hóa hiện thời, khoa học hầu
như quả quyết chắc rằng sự phối
hợp giữa con người và loài thú không thể sinh ra
con cái. Sự kiện này sẽ được xem xét và
giải thích ở một đoạn sau.
Nay đâu là sự dị
biệt cơ bản giữa các kết luận
được chấp nhận (hay hầu như thế) -
mà “Nhân phổ học” đă phát biểu – cho rằng
người và khỉ có chung nhau một tổ tiên,và giáo lư
Huyền bí học, vốn dĩ chối bỏ kết
luận này và chấp nhận sự kiện là vạn
vật và chúng sinh đă phát nguyên từ một nguồn
gốc chung ? Khoa học duy vật cho rằng con
người dần dần tiến hóa đến t́nh
trạng hiện nay. Người ta cho rằng, xuất phát
từ đốm nguyên sinh chất bản sơ tên là
đơn nguyên trùng – chúng ta được biết
rằng cũng giống như những thứ khác,
đơn nguyên trùng đă phát nguyên trải qua hằng hà sa
số thời đại từ một vài (hoặc chỉ
một) h́nh dáng nguyên thủy đột
nhiên xuất lộ; nó đă tuân theo một định
luật tiến hóa duy nhất – con người đă
trải qua các kiểu mẫu “vô danh bất khả tri” măi
cho tới loài khỉ và từ đó tới loài
người. Chúng ta được biết có thể khám
phá ra các h́nh dáng chuyển kiếp ở đâu; lư do
đơn giản là v́ người ta chưa bao giờ tin
được các “khoen nối khiếm khuyết” giữa
con người và loài khỉ, mặc dù sự kiện này
không hề cản trở con người bắt
chước Haeckel tha hồ chế ra chúng.
196
Người
ta cũng sẽ chẳng bao giờ gặp được
chúng, đó là v́ người ta chỉ t́m kiếm cái khoen
nối kết con người với vị tổ phụ
thực sự của y nơi ngoại cảnh và thế
giới h́nh hài sắc tướng vật chất, trong khi
mà nó lại được che khuất an toàn đối
với kính hiển vi và con dao mổ bên trong thánh điện của chính xác thịt con
người. Chúng tôi xin lặp lại những ǵ ḿnh đă
nói trong Nữ Thần Isis Lộ Diện:
…Vạn vật
đều bắt nguồn từ Tinh Thần – sự
tiến hóa thoạt đầu đă bắt đầu
từ bên trên và tiến xuống dưới, thay v́
ngược lại như thuyết
Nhưng ḍng dơi
Thật vậy, như chúng
tôi đă tŕnh bày trong tác phẩm đầu tiên của ḿnh,
nếu chúng ta chấp nhận thuyết phát triển
giống loài của
ĐOẠN
KINH 9
SỰ
TIẾN HÓA CÙNG TỘT CỦA CON NGƯỜI
(THE FINAL EVOLUTION
OF MAN)
33. Các
Đấng Sáng Tạo hối hận, 34. Họ chuộc
tội v́ đă khinh xuất. 35. Con người
đượcphú cho trí tuệ.
36. Giống dân thứ Tư phát triển ngôn ngữ
hoàn hảo. 37. Mọi đơn vị bán thư bán hùng tách
ra và biến thành lưỡng tính.
197
33. NH̀N THẤY TỘI LỖI CỦA HỌ (V̀
ĐĂ PHỐI HỢP VỚI LOÀI THÚ), CÁC ĐẤNG
THẦN MINH, CON CỦA MINH TRIẾT (LHAS) LÀ NHỮNG VỊ
TỪ CHỐI KHÔNG CHỊU SÁNG TẠO NÊN CON NGƯỜI,
KHÓC VÀ NÓI :
34. “NHỮNG KẺ KHÔNG CÓ TRÍ KHÔN (AMĂNASA) ĐĂ LÀM
Ô UẾ NHỮNG NƠI CƯ TRÚ TƯƠNG LAI CỦA CHÚNG
TA. ĐÂY ĐÚNG LÀ NGHIỆP QUẢ. CHÚNG TA HĂY TRÚ NGỤ
TRONG NHỮNG KẺ KHÁC. CHÚNG TA HĂY DẠY DỖ HỌ
CẨN THẬN HƠN, ĐỂ TRÁNH NHỮNG ĐIỀU
TAI HẠI HƠN NỮA CÓ THỂ XẢY RA”. CÁC VỊ ĐĂ
LÀM …
35. THẾ RỒI, TẤT CẢ CON NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC BAN CHO TRÍ KHÔN (MANAS). HỌ NH̀N THẤY TỘI LỖI CỦA KẺ VÔ TRÍ.
Nhưng họ đă phân chia trước khi có lư trí
thiêng liêng soi sáng những vùng tối tăm u uẩn của
trí năo đă bị hôn trầm của họ và đă
phạm tội lỗi.
Như thế có nghĩa là họ đă phạm tội
một cách vô ư thức, bằng cách gây nên một ảnh
hưởng phản tự nhiên. Thế nhưng, cũng
như sáu giống dân huynh đệ nguyên sơ khác, ngay
cả giống dân thứ bảy từ nay bị sa
đọa cũng vậy, nó sẽ phải chờ thời
để rốt cuộc phát triển v́ tội lỗi đă phạm phải – ngay cả
giống dân này sau rốt
cũng sẽ ở trên một trong Bảy Con
đường. Đó là v́:
Các Đấng
Minh Triết ([437])
giữ nhà của trật tự thiên nhiên, các Ngài bí mật
khoác lấy h́nh hài tuyệt diệu. ([438])
Nhưng chúng ta phải xét
xem những loài thú mà họ đă phối hợp có phải
là cùng một loài với những loài thú thông thường
như khoa học thú cầm đă biết chăng ?
Sự “Sa đọa”
đă xảy ra, theo sự chứng minh của nền Minh
Triết cổ truyền và những tài liệu cổ, khi
Daksha – Đấng Sáng Tạo con người và vạn
vật, chuyển kiếp trong đợt đầu
của Giống dân thứ Ba – biến mất để
nhường chỗ cho cái phần nhân loại đă “phân
chia”. Thiên b́nh luận giải thích về những sự
việc xảy ra trước sự “sa đọa” như
sau :
198
Trong thời kỳ sơ khởi của
giai đoạn tiến hóa nhân loại, giới nhân loại
phân chia theo nhiều đường hướng khác nhau.
Cái h́nh thể bên ngoài của những giống người
đầu tiên không đồng nhất, v́ những
ngoại thể (lớp vỏ ở ngoài) h́nh quả
trứng, trong đó thể xác con người
được kết tinh và tượng h́nh, trước
khi được củng cố rắn chắc,
thường hay bị khuấy rối bởi những loài
thú to lớn, thuộc về loài mà ngày nay không ai
được biết và cũng thuộc về những
cố gắng của Thiên Nhiên. Kết quả là họ sinh
ra những giống quái vật nửa người nửa
thú. Nhưng v́ các giống này là những thất bại
của thiên nhiên, nên chúng không được để cho
sống c̣n và tồn tại lâu dài, tuy rằng quyền
năng tâm linh nội tại đối với cơi thiên nhiên
vật chất hăy c̣n rất yếu. Bởi đó, khi chúng
vừa ổn định, những con người “Noăn
sinh” ấy đă kết hợp với giống cái
đồng loại của họ và sinh ra những quái thai
khác nữa. Về sau, khi các loài thú và các giống
người đă tuần tự lập thế quân b́nh, th́
họ phân chia và không c̣n phối hợp với nhau nữa.
Con người không sáng tạo nữa mà là sinh sản.
Nhưng họ sinh ra loài thú lẫn loài người trong các
thời kỳ cổ xưa đó. Bởi vậy, các
bậc Hiền Triết đă nói rất đúng khi nói
về những người đực không c̣n sinh sản
bằng ư chí nữa mà sinh ra những loài thú và những quái
vật khổng lồ bằng cách phối hợp với
những giống cái khác – các con thú với vai tṛ là các
đứa con ngộ nhận của họ; chẳng
sớm th́ muộn, họ [các người nam] sẽ không
chịu bị xem là cha (ngộ nhận) của các tạo
vật câm – nh́n thấy sự trạng này, các vị Thánh
Vương của Giống dân thứ Ba và thứ Tư
cấm ngặt mọi sự phối hợp tội
lỗi v́ nó can thiệp vào Nghiệp Quả và tạo nên
Nghiệp Quả mới ([439]).
Các vị Thánh Vương làm cho những kẻ vi phạm
bị tuyệt ṇi và tiêu diệt những giống
người Đỏ và Xanh. ([440])
Trong một đoạn
khác có câu:
Thậm
chí, trong những thời gian về sau, cũng có những
người thú mặt xanh và đỏ không sinh ra bởi
sự phối hợp [giữa người và thú] mà do
sự truyền giống.
Một đoạn khác
nữa viết như sau:
Có
những người da sậm, tóc đỏ, ḅ trên bốn
chân, ngẩng lên và gập xuống, khi th́ đứng
thẳng trên hai chân sau, lúc lại gập người trên
bốn chân như cũ. Họ nói như ông cha bên nội (forefathers)
và chạy trên bốn chân như tổ tiên khổng lồ
bên ngoại (giant fore-mothers).
Những người theo
thuyết Haeckel có thể nhận thấy rằng những
giống người kỳ dị trên đây, không phải
là giống người ban sơ mà là tổ tiên của vài
bộ lạc dă man, như những thổ dân rừng rú
ở Úc Châu chẳng hạn. Tuy nhiên, chí đến
những giống người này cũng không phải là ḍng
dơi của loài khỉ đột, mà là con cháu của
những tổ tiên của cha người mẹ thú, hay nói
đúng hơn là ḍng dơi của những quái vật nửa
người, nửa thú, gọi là những “thất
bại” của Thiên Nhiên đă nêu trong Thiên b́nh luận.
Những loài khỉ đột thực sự mệnh danh
là Catarrhini và Platyrr -hini của Haeckel, măi về sau mới
xuất hiện, vào thời kỳ cuối cùng của Châu
Atlantis. Bốn loại khỉ đột giống như
người là các sản phẩm tiến hóa thuần
thể chất và mới nhất từ những loài
khỉ thấp kém hơn. Chúng có một điểm chơn
linh con người thuần khiết, trái lại, con
người không hề có một giọt máu của loài
khỉ ([441])
trong huyết quản. Đó là giáo lư của nền Minh Triết
cổ truyền và cũng của một truyền thống
xưa.
199
Có
người hỏi: “Sự phân chia nam nữ
được thực hiện bằng cách nào?” Chúng ta có
nên tin chăng câu chuyện ngụ ngôn cổ của Do Thái
nói rằng: “Thượng Đế móc cái xương
sườn của
Tuy nhiên, cho dù ẩn dụ có
ư nghĩa ǵ đi chăng nữa, th́ ngay cả ư nghĩa
ngoại môn của nó cũng cần tới một
Đấng thiêng liêng kiến tạo nên con người –
một vị “Tổ Phụ”. Thế th́ liệu chúng ta có
tin tưởng vào các Đấng siêu phàm như thế
chăng? Xin đáp: Không. Huyền bí học không bao giờ
tin tưởng vào bất cứ điều ǵ, dù là linh
động hay bất động, ở bên ngoài Vũ Trụ. Chúng ta cũng chẳng
phải là những kẻ sùng bái Vũ Trụ hoặc
Đa Thần v́ tin tưởng vào Thiên Nhiên và những
người Thiêng Liêng. Đó là v́ để bênh vực
luận cứ của ḿnh, chúng ta có bằng chứng tích
lũy của biết bao thời đại, với
chứng cớ bất di bất dịch về mọi
điều căn cốt: Minh Triết của
200
Không, nhất định là không.
Chúng ta không tin tưởng vào các trí thông tuệ siêu nhiên, mà chỉ tin
tưởng vào các trí thông tuệ siêu nhân hay đúng hơn là liên nhân. Người ta có thể dễ dàng
nhận thấy được một người có giáo
dục ắt sẽ cảm thấy miễn cưỡng
khi bị xếp vào hạng người mê tín dị
đoan và dốt nát. Thậm chí, người ta có thể
thấy rằng Renan đă phát biểu một chân lư vĩ
đại khi cho rằng :
Cái siêu nhiên đă
trở nên giống như tội lỗi nguyên thủy,
một t́ vết mà mọi người dường như
đều cảm thấy xấu hổ - ngay cả những
người sùng đạo nhất, ngày nay họ cũng
không chịu chấp nhận (cho dù chỉ là một chút)
phép lạ trong Thánh kinh dưới dạng thô thiển, và
ra sức thu gọn chúng tới mức tối thiểu, che
giấu nó trong những ngơ ngách xa xăm nhất của quá
khứ.([443])
Nhưng “cái siêu nhiên” của
Renan lại thuộc về giáo điều chấp nê
văn tự. Nó chẳng dính dáng ǵ tới tinh thần
của giáo điều cũng như là thực tại
của các sự kiện trong
Một nhà vạn vật học
nêu ra một điều khó hiểu khác. Loài người là
loài duy nhất có thể sinh ra nhau, mặc dù các giống
người không được b́nh đẳng. Các kẻ
chống lại thuyết
201
De Quatrefages và các
nhà vạn vật học khác, đang ra sức chứng
tỏ thuyết Nhân loại đồng nhuyên bằng chính
sự kiện là mỗi giống người đều có
thể pha giống với mọi giống người
khác, trong khi tính toán, đă bỏ qua các ngoại lệ, mà
trong trường hợp này, không hề xác nhận qui
luật. Sự pha giống người có thể đă là
một qui luật tổng quát từ thời phân chia
giới tính, nhưng điều này không hề ngăn
trở một định luật khác: đó là sự
bất thụ (không sinh sản) giữa hai giống người,
cũng như giữa hai giống thú vật thuộc
loại khác nhau, trong những trường hợp hy
hữu khi một người Âu Mỹ hạ cố
kết đôi với một người nữ thuộc
một bộ lạc dă man, ngẫu nhiên chọn một
thành viên của các bộ lạc hỗn hợp như
thế. ([444])
202
Thế nhưng, về
chi tiết này, địa chất học (thậm chí
cả thực vật học và động vật học
nữa) lại ủng hộ Nội môn Bí giáo. Nhiều nhà
dịa chất học đă gợi ư rằng thổ dân Úc
– cùng tồn tại với một hệ động
vật và một hệ thực vật cổ thời –
phải có một nguồn gốc rất xa xưa. Toàn
bộ môi trường sinh sống của giống
người bí mật này (mà khoa nhân chủng học vẫn
chưa rơ nguồn gốc) là một chứng cớ về
sự thật của lập trường nội môn. Jukes
cho rằng:
Có một sự
kiện rất kỳ diệu là chẳng những các con
vật thuộc loài hữu đại này [các động
vật hữu nhũ mà chúng ta thấy nơi các phiến
thạch của khu mỏ đá Oxfordshire] mà c̣n nhiều loài
ṣ hến – chẳng hạn như loài Trai ba góc và ngay cả
vài loại cây hóa thạch trong Đá trứng cá – lại
giống các loài nay đang sống ở Úc Châu hơn các sinh
vật ở bất kỳ nơi nào khác trên địa
cầu. Chúng ta có thể giải thích điều này dựa
vào giả định cho rằng từ kỷ Oolitic (Đá
trứng cá) [kỷ Jura], Úc ít
bị biến đổi hơn các nơi khác, do đó
hệ thực vật và động vật của Úc chắc
vẫn c̣n bảo tồn được một
điều đó thuộc loại đá trứng cá, trong khi nó đă hoàn toàn bị
thay thế ở các nơi khác trên địa cầu (!!). ([446])
Nay tại sao Úc lại ít
bị biến đổi hơn các nơi khác? Đâu là lư do tồn tại của một sự “nguyền
rủa tŕ trệ” như thế? Đó chỉ là v́ môi
trường thiên nhiên xung quanh phát triển song song với
giống dân liên hệ. Sự tương ứng khống
chế khắp nơi. Những người Lemuria sau này c̣n
sống sót, vốn đă tránh thoát được sự
diệt vong của đồng bọn khi lục
địa bị nhận ch́m, đă trở thành tổ tiên
của một phần của các bộ lạc thổ dân
hiện nay. Vốn là một phân chủng rất thấp
kém, thoạt tiên được sinh ra từ loài thú vật,
quái vật có các hóa thạch, nay vẫn c̣n nằm sâu
dưới đáy biển hàng dặm Anh, ḍng dơi của
họ từ đó đă tồn tại trong một môi
trường chịu ảnh hưởng nặng nề
của luật tŕ trệ.
Úc lại là một trong những vùng đất xa nhất,
nay c̣n nổi trên mặt nước, và đang trải qua
sự lăo suy của tuổi già mặc dù đất đai
của nó vẫn c̣n bị bỏ hoang. Nó chẳng thể
tạo ra được các h́nh hài mới mẻ nào trừ
phi có sự trợ lực của các giống dân mới
cùng với sự trồng trọt và chăn nuôi nhân
tạo.
Xin trở lại lịch
sử Giống dân thứ Ba, gồm những giống
người “Hăn sinh”, “Noăn sinh” và “Thư hùng lưỡng
tính”. Vốn gần như vô phái, không nam không nữ ngay
từ lúc đầu, giống dân ấy trở nên bán nam bán
nữ, lẽ tất nhiên là tuần tự từng giai
đoạn. Sự chuyển biến từ trạng thái
đầu tiên đến trạng thái sau này trải qua vô
số thời gian. Trong khi đó, tế bào đơn
thuần xuất phát từ vị tổ tiên xa xưa
nhất (hai trong một) trước hết phát triển
thành một sinh vật lưỡng phái, kế đó,
tế bào trở nên một quả trứng, rồi mới
sinh ra một nhân vật đơn tính. Nhân loại của
Giống dân thứ Ba là giống người bí hiểm
nhất trong tất cả năm Giống dân đă xuất
hiện từ trước tới nay. Ở đây, bí
mật của cách thức sinh sản của các giới
tính riêng biệt tất nhiên là phải rất mù mờ, v́
đó là công việc của một nhà phôi thai học và
một chuyên gia; tác phẩm này chỉ tŕnh bày những nét
khái quát của tiến tŕnh đó. Nhưng hiển nhiên là
những người của Giống dân thứ Ba bắt
đầu phân chia nam nữ ngay từ trong trứng ([447])
trước khi sinh ra và khi vừa chui ra khỏi vỏ
trứng th́ đă h́nh thành ngay các hài nhi nam nữ, nhiều
thế hệ sau sự xuất hiện của những
vị thủy tổ đầu tiên. Trải qua ḍng
thời gian, những phụ chủng mới sinh sau bắt
đầu mất các khả năng sinh nở của
họ. Vào cuối phụ
chủng thứ tư, đứa hài nhi sơ sinh mất
khả năng đi đứng tự nhiên khi vừa chui
ra khỏi vỏ, và đến cuối phụ chủng
thứ năm th́ loài người sinh ra dưới t́nh
trạng và phương thức sinh sản giống y
như những thế hệ lịch sử nhân loại
ngày nay. Lẽ dĩ nhiên tiến tŕnh tiến hóa này phải
trải qua nhiều triệu năm. Người ta đă
khiến cho độc giả làm quen với các số
liệu gần đúng; ít ra là theo phép tính toán ngoại môn. ([448])
203
Chúng ta đang
tiến gần tới khúc quanh của sự tiến hóa
của các Giống dân. Chúng ta hăy thử xem Huyền bí
học dạy về nguồn gốc của ngôn ngữ ra
sao.
36. GIỐNG DÂN THỨ TƯ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
Thiên b́nh luận giải thích
rằng Giống dân thứ Nhất – các con của Yoga, thanh
nhẹ như dĩ thái, cũng gọi là “Tự sinh”-
vốn không có ngôn ngữ hiểu theo giác quan của chúng ta,
v́ họ không có trí khôn. Giống dân thứ Hai có một “ngôn
ngữ âm thanh”, nghĩa là phát ra những âm thanh giống
như tiếng hát gồm những nguyên âm mà thôi. Giống
dân thứ Ba lúc đầu
phát triển một loại ngôn ngữ có tính chất
hơi khác hơn những âm thanh trong
204
1. Ngôn ngữ độc âm
(Monosyllabic speech): là ngôn ngữ của giống
người đầu tiên gần hoàn toàn phát triển vào
cuối thời kỳ Giống dân thứ Ba, những
người có sắc da màu vàng, sau khi phân chia nam nữ và
hoàn toàn mở trí khôn. Trước đó, họ giao tiếp
với nhau bằng cách mà ngày nay chúng ta gọi là “chuyển
di tư tưởng”. Trừ ra giống người
gọi là “Con của Ư Chí và Yoga” là giống người
đầu tiên trong đó các vị “Con của Minh Triết”
đầu thai chuyển kiếp, tư tưởng chỉ
phát triển rất ít trong loài người ban sơ vừa
mới có thể xác. Thể xác của họ thuộc
về Cơi Trần nhưng Chơn Thần vẫn hoàn toàn
ngự ở cơi trên. Ngôn ngữ không thể phát triển
đến mức khả quan trước khi các khả
năng suy luận của họ đă được
hoạch đắc và nảy nở hoàn toàn. Ngôn ngữ
độc âm này có thể nói là cái “nguyên âm phụ mẫu”
của những ngôn ngữ đơn âm pha lẫn với
những phụ âm cứng rắn, ngày nay vẫn c̣n
đắc dụng trong các chủng tộc da vàng mà các nhà
nhân chủng học đă biết. ([451])
2. Ngôn
ngữ chắp dính (Agglutinative speech) ([452])
là ngôn ngữ của vài giống người Atlantis, trong
khi những chủng tộc nguyên thủy khác của
Giống dân thứ Tư vẫn giữ tiếng mẹ
đẻ. Mọi ngôn ngữ đều có sự tiến
hóa theo định luật chu kỳ, có những giai
đoạn sơ sinh, trưởng thành pha lẫn với
ngôn ngữ khác, giai đoạn chín muồi suy thoái và
tiệt diệt. ([453])
Cũng y như thể ngôn ngữ lúc ban sơ của
phần nhiều chủng tộc văn minh Atlantis – ngôn
ngữ mà các tác phẩm Bắc Phạn thời xưa
gọi là Răkshasi Bhashā– đă trở nên suy tàn và hầu
như biệt tích. Trong khi thành phần ưu tú của
Giống dân thứ Tư ngày càng vượt lên mức
tột đỉnh của sự tiến hóa thể
chất và trí tuệ và để lại một di sản
ngôn ngữ tiến bộ đến mức thượng
đẳng cho Giống dân thứ Năm (Giống dân Ăryan)
đang lên th́ ngôn ngữ “chắp dính” đă suy vi và c̣n sót
lại như một thổ ngữ gần tàn, lẻ loi và
giới hạn trong các bộ lạc thổ dân ở
Mỹ Châu.
205
3. Ngôn ngữ trầm bổng
(Inflectional speech) ngôn ngữ đầu tiên là căn nguyên
của Bắc Phạn ngữ (Sanskrit) mà người ta
gọi một cách rất sai lầm là “chị hai” của
tiếng Hy Lạp, thay v́ là mẹ của nó (ngày nay là ngôn
ngữ bí mật của các bậc Đạo đồ
của Giống dân thứ Năm). Dù sao, những ngôn
ngữ Cận Đông là do những cách phát âm lệch
lạc của những biến thái đầu tiên của
các ngôn ngữ cổ Bắc Phạn. Huyền bí học
không chịu thừa nhận các phân ngành như là dân Ăryan và
dân Semite và chấp nhận ngay cả dân Turanian một cách
không dè dặt lắm. Người Cận Đông, nhất
là người Á Rập là một chi nhánh sau này của
chủng tộc Ăryan, tàn tạ về tâm linh và hoàn thiện
về mặt vật chất. Tất cả những
người Do Thái và Á Rập thuộc về phụ
chủng này. Chi chủng Do Thái là một bộ lạc
xuất phát từ giai cấp mạt hạng Chăndăla của
Ấn Độ, có nhiều người thuộc giai
cấp Bà
206
Trong khi chờ
đợi, chúng ta phải theo dơi (một cách chặt
chẽ trong mức độ cho phép của không gian hạn
hẹp) sự tiến hóa dần dần của các
chủng loại nay đang thực sự là người.
Chúng ta phải t́m kiếm nguồn gốc của các loài
khỉ giống người nơi sự tiến hóa
bị chặn lại th́nh ĺnh của một vài phân
chủng, và sự chuyển hướng cưỡng
chế và khốc liệt thành ra ḍng giống thuần túy
thú vật bằng sự pha giống nhân tạo; hoàn toàn
tương tự như sự lai giống mà nay chúng ta
đă học được để sử dụng trong
các giới thực vật và động vật.
Như chúng ta đă thấy, các “Đấng Minh Triết” đă không đầu thai trong các quái vật nhiều lông đỏ và tóc đỏ này, chúng là hậu quả của sự cẩu hợp bất tự nhiên giữa loài người và loài thú. Như vậy, qua một loạt biến hóa dài đăng đẳng do sự pha giống không tự nhiên – sự “tuyển lựa tính dục” không tự nhiên – các mẫu người thấp kém nhất rốt cuộc cũng sinh ra. Trong khi đó, thú tính thêm nữa và kết quả của các nỗ lực sinh dục động vật đầu tiên của họ đă sinh ra một chủng loại sẽ phát triển thành ra các con khỉ hữu nhũ hàng thời đại sau. ([455])
C̣n về sự phân chia
giới tính, nó đă không diễn ra đột ngột
như người ta thường lầm tưởng.
Thiên nhiên tiến triển dần dần trong bất kỳ
công việc nào.
37. MỘT (THƯ HÙNG LƯỠNG PHÁI) TRỞ
THÀNH HAI, VÀ TẤT CẢ CÁC LOÀI B̉ SÁT VẪN C̉N LÀ MỘT;
LOÀI CÁ KHỔNG LỒ, CHIM VÀ RẮN LỚN CŨNG VẬY.
Câu chuyện này tất
nhiên là nói về cái gọi là thời đại của loài
ḅ sát thủy tộc, trong những thời đại mà
khoa học nói rằng không có người ở ! Nhưng
cổ nhân đă có thể biết ǵ về các con thú và quái
vật tiền sử trước thời đại
hồng thủy? Tuy nhiên, trong Quyển VI của Thiên b́nh
luận có đoạn như sau:
Khi
Giống dân thứ Ba phân chia và sa vào tội lỗi bởi
việc sinh ra giống nửa người nửa thú,
giống thú này trở nên hung dữ và cùng với loài
người tàn sát lẫn nhau. Cho đến khi đó, không
hề có tội lỗi và sát sinh. Sau cuộc phân ly, thời
đại Satya [Yuga] đă chấm dứt. Mùa xuân
trường cửu trở nên thời tiết đổi
thay và bốn mùa luân phiên nối tiếp nhau. Tiết
trời lạnh lẽo bắt buộc con người xây
dựng nhà cửa và chế ra quần áo. Khi đó, con
người kêu gọi đến các Thiên Thần. Vị
Hóa Thân của loài Rồng Rắn thiêng liêng đến và các
vị tiền phong của Đấng Giác Ngộ
[Phật]. Các vị Thánh Vương giáng lâm và dạy loài
người những nghành khoa học và mỹ thuật, v́
con người không c̣n có thể sống trên mảnh
đất đầu tiên [Vườn Địa Đàng
của những Giống dân đầu tiên] đă trở
thành một vùng băng giá tuyết lạnh.
Đoạn trên thật là
gợi ư. Chúng ta sẽ thấy những ǵ có thể
được suy ra từ phát biểu ngắn gọn này.
Một số người có thể là có khuynh hướng
cho rằng nó bao hàm nhiều điều hơn những ǵ
đập vào mắt chúng ta khi thoạt nh́n nó.
207
VƯỜN ĐỊA ĐÀNG, RẮN VÀ RỒNG
Đâu là nguồn gốc
của ư niệm “Vườn Địa Đàng” và chân ư
nghĩa của nó? Tín đồ Thiên Chúa giáo ắt quả
quyết rằng Vườn Địa Đàng là Lạc
Viên thiêng liêng, nơi mà tội lỗi của Adam và Eve đă làm ô uế. Các nhà
Huyền bí ắt sẽ phủ nhận lối thuyết
minh chấp nê văn tự này và tŕnh bày ngược
lại. Chẳng cần tin rằng Thánh kinh là một
điều Thiên Khải th́ người ta cũng có thể
cho rằng nếu được thuyết minh theo lối
bí truyền, quyển cổ thư này cũng dựa vào các
truyền thuyết khác. Trong Nữ Thần
Vườn
Địa Đàng, với vai tṛ là một địa
điểm, chẳng có ǵ là thần thoại, nó là một
trong các cột mốc lịch sử đôi khi tiết
lộ cho môn sinh biết rằng Thánh kinh không phải
chỉ toàn là ẩn dụ. “
Mặc dù cũng bao hàm
một nền tảng chân lư nội môn như mọi vũ
trụ khởi nguyên luận cổ sơ, song Thánh kinh Hebrew
lại có dấu hiệu của một nguồn gốc
nhị phân. Sáng Thế Kư của nó thuần là một
hồi niệm về t́nh trạng nô lệ của xứ
208
Và nay, mười
năm sau khi viết ra điều này, chúng tôi thấy ḿnh
lại được Giáo sư Sayce bổ chứng. Trong
bài Thuyết tŕnh Hibbert đầu tiên của ḿnh, ông đă
cho rằng nền văn hóa của đô thị Eridu
của
Người Semite đă vay
mượn nhiều thuyết thần học của
Ở đây, như đă
nhấn mạnh trong Nữ Thần Isis Lộ Diện
(đó là một điều bổ chứng khác) dân Akkad
được gọi là phi Semite. Chúng ta cũng chẳng
đuối lư hơn khi luôn luôn quả quyết rằng
Thánh kinh Do Thái chỉ là một sự sưu tập các
sự kiện lịch sử của các dân tộc khác và
được sắp xếp vào trong lớp vỏ Do Thái –
ngoại trừ Sáng Thế Kư, vốn là Nội môn Bí giáo
thuần túy. Nhưng khoa học phải t́m hiểu cái nôi –
hay đúng hơn là một trong những cái nôi chính – của
nhân loại và các con của Ad-ah từ Euxine tới Kashmir và
vượt xa hơn nữa; nhất là về sau này, khi
Vườn Địa Đàng trên sông Euphrate trở thành
Trường học của các nhà Chiêm tinh và Pháp sư.
Nhưng “Trường” này và
Vườn Địa Đàng này thuộc về Giống
dân thứ Năm và chỉ là một hồi niệm mơ
hồ của Ădi – Varsha (Vườn Địa Đàng)
của Giống dân thứ Ba nguyên sơ. Đâu là ư nghĩa
từ nguyên của từ ngữ Vườn Địa Đàng? Trong tiếng Hy
Lạp, nó là
Nhưng đây không phải là
Vườn Địa Đàng trong Sáng
209
Dựa vào “các phép qui
nạp chắc chắn nhất” Renan và Barthélemy St. Hilaire cho
rằng không thể nghi ngờ ǵ nữa, và cả hai
đều xác định vị trí cái nôi của nhân
loại “ở vùng Timaus”. Cuối cùng, Tạp chí Á Châu
kết luận rằng:
Mọi truyền
thuyết của nhân loại đều tụ tập các
gia đ́nh nguyên thủy vào nguyên quán của họ, cho chúng
ta thấy rằng họ đă tụ tập lại quanh
các xứ mà truyền thuyết Do Thái xác định là
Vườn Địa Đàng, nơi mà người Ăryan
[các tín đồ Bái Hỏa giáo] lập nên Airyana Vaẽjơ
của ḿnh tức núi Tu Di (Meru) [?]. Chúng bị bao bọc
ở phía Bắc bởi các xứ nối liền hồ
Aral, c̣n phía
“Loài người nguyên sơ”
đó chính là Giống dân thứ Năm khi “Con Rồng
bốn miệng” (cái hồ), hiện nay c̣n lưu lại
rất ít di tích, chính là chỗ trú của các “Con Minh
Triết”, các Con Trí sinh đầu tiên của Giống dân
thứ Ba. Thế nhưng, nó không phải là cái nôi duy
nhất, cũng không phải là cái nôi bản sơ của
nhân loại, mặc dù nó đích thực là mô phỏng theo
cái nôi của Con người suy tư thiêng liêng đầu tiên. Đó là Paradesha, vùng cao nguyên của dân tộc nói tiếng
Bắc Phạn đầu tiên, Hedone,
xứ khoái lạc của người Hy Lạp, nhưng
đó không phải là “Nhà mát
dâm dục” của người Chaldea, v́ nhà mát ấy
chỉ là hồi niệm của nó; nó cũng không phải
là nơi mà sự Sa đọa
của con người đă diễn ra sau khi có sự
“phân cách”. Vườn Địa Đàng của
người Do Thái đă được mô phỏng theo bản sao của người
Cách đề cập
tới Con rắn (bản chất của nó được
giải thích trong kinh Zohar) của Thánh kinh đă chứng
tỏ rằng Con Người sa vào ṿng sinh hóa trong ṿng
thời khoảng sơ khai nhất của điều mà
khoa học gọi là thời đại Trung Sinh, tức
thời đại của loài ḅ sát. Vấn đề không
phải là liệu câu chuyện Eve với Con Rắn cám
dỗ có tính cách ẩn dụ hay là theo sát nguyên văn, v́
chẳng ai nghi ngờ tính cách ẩn dụ ấy; song le
vấn đề là chứng tỏ biểu tượng
hệ ấy rành rành là xưa cũ và nó không phải là
một ư niệm của Do Thái giáo mà là một ư niệm
đại đồng thế giới.
Nay chúng ta thấy trong kinh
Zohar có một lời khẳng định rất kỳ
lạ, người ta tính dùng nó để chọc
cười độc giả v́ nó thật là lố
bịch. Nó cho chúng ta biết con rắn mà Shammael (Quỷ
Vương giả định) dùng để cám dỗ Eve,
chính là loại “lạc đà bay” ([459]).
Một con “lạc đà bay”
thật là quá lắm đối với một hội viên
Hội Hoàng gia có đầu óc phóng khoáng nhất. Tuy nhiên,
kinh Zohar, mà chúng ta khó ḷng mong đợi là nó sử dụng
ngôn ngữ của một vị bác học như Cuvier,
đă mô tả thật là chính xác; v́ chúng ta thấy nó thu
thập các Bản thảo cổ của Bái Hỏa giáo
lại. Trong kinh Avesta, người ta tŕnh bày là sau khi Sa
đọa, Aschmogh đă bị mất bản chất và danh
xưng của ḿnh, và bị mô tả là một con măng xà
có cái cổ lạc đà.
210
Salverte
khẳng định rằng:
Chẳng có
rắn có cánh và thực ra cũng chẳng có rồng …
Người Hy Lạp vẫn gọi loài cào cào là rắn có
cánh; ẩn dụ này có thể tạo ra nhiều câu
chuyện về sự tồn tại của các con rắn
có cánh.([460])
Nay th́ không những
chẳng có lư do ǵ mà chúng lại không tồn tại trong
thời đại Trung Sinh; Cuvier, kẻ đă tái tạo
các bộ xương của chúng, đă chứng kiến
các “con lạc đà bay”. Sau khi đă t́m ra các hóa thạch
đơn giản của một vài loại thằn
lằn, nhà vạn vật học đă cho rằng:
Nếu bất
cứ điều ǵ có thể biện minh cho loài thủy
tức (the hydras) và các con quái vật khác mà các h́nh vẽ
được các sử gia thời Trung Cổ lặp
đi lặp lại măi, th́ đó nhất định là con
Xà cảnh long (Plesiosaurus).([461])
Chúng ta không biết liệu
Cuvier có nói thêm điều ǵ ngoài việc thú tội hay không, nhưng chúng ta có thể
tưởng tượng là ông sẽ bối rối v́
đă nói xấu những điều xác thực cổ
sơ, khi ông chứng kiến một con thằn lằn bay, con dực thủ long
(pterodactyl) ở Đức, dài 78 bộ (=23,77m) có
những cánh mạnh mẽ gắn liền với cơ
thể loài ḅ sát, tay nó có những ngón nhỏ dài để
mang một cánh dài có màng. Thế là ở đây, con “lạc
đà bay” của kinh Zohar đă được biện minh.
Đó là v́ chắc chắn là giữa cái cổ dài của
con xà cảnh long (the plesiosaurus) và cái cánh có màng của con
dực thủ long, hoặc đúng hơn là con thực
ngư long (mosasaurus), đă có đủ xác suất khoa
học để dựng nên một con “lạc đà bay”,
hay một con rồng cổ dài. Giáo sư Cope ở
Nay chúng ta xét tới
vấn đề chính. Người ta thừa biết
rằng cổ nhân không bao giờ cho rằng cổ sinh
vật học mô tả và cổ sinh học lại là
một trong các ngành nghệ thuật và khoa học của
ḿnh; họ cũng chưa hề có các bậc vĩ nhân
như Cuvier. Thế nên trên những tấm ngói ở
Babylonia, và nhất là trong các bức cổ họa của
Trung Hoa và Nhật Bản trong các chùa miếu, đền
đài xưa nhất, trong thư viện Hoàng gia ở
Bắc Kinh, nhiều du khách đă nhận thấy và
nhận ra những sự biểu diễn hoàn hảo
của các con xà cảnh long và dực thủ long nơi các
con rồng đa dạng của Trung Hoa. ([462])
Vả lại, trong Thánh kinh, các bậc Đạo Sư
đều đề cập đến các con rắn bay
bốc lửa ([463])
c̣n Job lại đề cập tới con Hải quái
(Leviathan). ([464])
Nay chúng ta xin đặt ngay ra các vấn đề sau
đây:
211
1. Làm thế
nào mà các quốc gia thời xưa lại có thể biết
ǵ về các con quái vật tuyệt chủng của các
thời đại Thạch thán (Carboniferous) và Trung Sinh
(thậm chí c̣n tŕnh bày và mô tả chúng bằng lời và
bằng h́nh vẽ nữa) nếu
họ chưa từng thấy tận mắt chính con quái vật
này hoặc là có
được các truyền thuyết mô tả chúng (thế
mà muốn mô tả chúng th́ phải có các nhân chứng sống động và thông
tuệ?).
2. Và nếu một khi mà
chúng ta đă thừa nhận các nhân chứng đó (trừ
phi người ta công nhận thuật thần nhăn nội
quan) th́ làm thế nào mà nhân loại và các người nguyên
sơ thời cổ thạch lại có thể xuất
hiện trước khoảng giữa thời Đệ
tam kỷ? Chúng ta phải nhớ rằng hầu hết các
nhà khoa học đều không chấp nhận là con
người đă xuất hiện trước Đệ
tứ kỷ, và như thế là đă loại con
người ra khỏi thời Tân sinh. Ở đây, chúng ta
có các loài thú đă tuyệt chủng, chúng đă biến
mất khỏi Địa cầu cách đây hàng triệu
năm; các quốc gia có nền văn minh (nghe nói) khó ḷng có
thể đă bắt đầu cách đây vài ngàn năm,
đă mô tả và biết tới chúng. Thế nghĩa là thế
nào? Hiển nhiên là hoặc người ta đă cho rằng
thời Trung sinh trùng lấp lên thời Đệ tứ
kỷ, hoặc con người phải sống cùng thời
với con dực thủ long và xà cảnh long.
Tuy nhiên, không
được suy ra rằng v́ các nhà Huyền bí tin
tưởng và bênh vực Minh Triết và Khoa Học Cổ
Truyền (cho dù các bản dịch của kinh Zohar có gọi
các con thằn lằn có cánh là các con “lạc đà bay”), nên
do đó chúng tôi cũng sẵn sàng tin tưởng vào mọi
câu chuyện thời Trung Cổ bàn về các con rồng
như thế. Các con dực thủ long và xà cảnh long đă
không c̣n tồn tại nữa cùng với đa số
Giống dân thứ Ba. V́ thế, khi các tác giả Thiên Chúa
giáo trân trọng yêu cầu chúng tôi tin vào các chuyện
lảm nhảm của Christopher Scherer và Cha Kircher cho
rằng họ đă trông thấy tận mắt các con
rồng sống động biết bay và bốc lửa,
lần lượt vào năm 1619 và 1669, th́ chúng tôi xin
mạn phép xem lời khẳng định của họ là
mơ mộng hoặc nói bịa. ([465])
Chúng tôi cũng sẽ xem câu chuyện của
212
Petrarch chẳng có ǵ khác
hơn là một sự “thất niêm, thất luật”.
Người ta tin rằng một ngày kia trong khi đi theo
nàng Laura vào trong rừng và đi qua cái hang, Petrarch đă t́m
thấy một con rồng. Ông đă dùng dao găm đâm
chết nó để ngăn con quái vật khỏi nuốt
nàng Laura. ([466])
Chúng tôi ắt sẵn ḷng tin tưởng vào câu chuyện
đó nếu Petrarch sống vào thời Châu Atlantis, khi các con
quái vật tiền hồng thủy như thế có thể
đă tồn tại. Ngày nay, chúng tôi xin chối bỏ
sự tồn tại của chúng. Con rắn biển là
một chuyện, c̣n con rồng lại là một chuyện
khác hẳn. Đa số mọi người phủ
nhận con rắn biển, v́ nó sống ở đáy
biển sâu thẳm, rất hiếm có và chỉ trồi lên
mặt nước khi bị bắt buộc có lẽ là v́
đói. Nếu bị giữ cho vô h́nh như vậy th́ nó có
thể tồn tại và vẫn c̣n bị phủ nhận.
Nhưng nếu đă có một điều như con
rồng vừa mô tả ở trên, th́ làm thế nào mà nó
không bị t́m ra? Đó là một tạo vật đồng
thời với Giống dân thứ Năm sơ khai nhất
và không c̣n tồn tại nữa.
Độc giả có
thể hỏi tại sao chúng tôi lại đề cập
tới rồng? Chúng tôi xin đáp: Một là v́ việc
hiểu biết về các con vật như thế chứng
tỏ được là loài người có nguồn gốc
rất xa xưa, hai là để chứng tỏ sự
dị biệt giữa ư nghĩa động vật
thực sự của các từ ngữ “Rồng”, “Năga” và
“Rắn”, và ư nghĩa ẩn dụ khi được dùng
về mặt biểu tượng. Bất cứ khi nào
thấy người ta đề cập tới một
trong các từ ngữ này, độc giả phàm phu vốn chẳng
biết ǵ về ngôn ngữ bí nhiệm, rất có thể
chấp nhận nó theo sát nghĩa. V́ thế mới có
những lời buộc tội lầm lẫn bất công.
Chỉ cần đơn cử hai thí dụ cũng
đủ rồi.
Sed
et Serpens? Đúng
vậy: nhưng đâu là bản chất con rắn? Các nhà
thần bí đă dùng trực giác thấy rằng con rắn
trong Sáng Thế Kư bao hàm một biểu hiệu động
vật và một bản thể tinh thần cao siêu. Đó là
một lực vũ trụ, siêu thông tuệ, một “ánh
sáng vĩ đại sa đọa” một chơn linh
vừa thuộc về tinh đẩu, vừa thuộc
về phong vừa thuộc thổ, “có ảnh hưởng
bao trùm cả địa cầu” (theo lời nói của De
Mirville, ([467])
một tín đồ Thiên Chúa giáo cuồng tín chấp nê
văn tự). Nó chỉ biểu lộ qua biểu hiện
vật chất nào phù hợp nhiều hơn với các ṿng
khoanh trí tuệ và đạo đức của ḿnh –
tức là dưới dạng con rắn.
213
Nhưng
liệu các tín đồ Thiên Chúa giáo sẽ tŕnh bày con
Rắn bằng Đồng thau, “Kẻ chữa bệnh
Thiêng liêng” ra sao, nếu con rắn lại bị xem là
biểu hiện của sự giảo quyệt và gian tà, là
“chính Kẻ gian tà”? Làm thế nào mà chúng ta có thể xác
định được ranh giới khi nó bị vạch
ra một cách độc đoán theo một tinh thần bè
phái thần học? Đó là v́, nếu người ta
dạy các tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă rằng Thần
Mercury và Thần y học Aesculapius (tức Asclepios) –
thật ra, cả hai vị này chỉ là một – là “ma
quỷ và con của ma quỷ”, là cây gậy thần và con
rắn của ma quỷ, th́ vấn đề con rắn
bằng Đồng thau của Moses ra sao? Mọi học
giả đều biết rằng cả chiếc “gậy
thần” của người ngoại
đạo và “con rắn” của tín đồ Do Thái giáo
đều chỉ là cùng một thứ, tức là Dực xà
trượng của Thần Mercury, con của thần
Apollo-Python. Chúng ta cũng dễ dàng hiểu được
lư do tại sao các tín đồ Do Thái lại chọn
dạng rắn là “kẻ cám dỗ” của ḿnh. Đối
với họ, nó có tính cách thuần túy sinh lư và sùng bái sinh
thực khí, về phần giáo hội Thiên Chúa La Mă, không
có lư luận thần học giải nghi nào có thể ban cho
nó ư nghĩa khác, một khi mà người ta đă tinh thông
ngôn ngữ bí nhiệm và thuyết minh các cuốn kinh Hebrew
theo các số mục. Các nhà Huyền bí biết rằng
Rắn, Năga và Rồng, mỗi thứ đều có một
ư nghĩa thất phân. Họ cũng biết rằng
Mặt Trời (chẳng hạn) là biểu hiện thiên văn và vũ trụ
của hai Ánh Sáng tương phản và hai con Rắn
thiện ác của các tín đồ phái Ngộ Đạo.
Họ cũng biết rằng khi được tổng quát hóa, kết
luận của cả khoa học lẫn thần học
đều bày ra hai cực đoan lố bịch nhất.
Đó là v́ khi khoa học bảo rằng chỉ cần truy
nguyên các huyền thoại về loài rắn tới tận
cội nguồn nguyên thủy (huyền thoại thiên
văn) và suy gẫm một cách chuyên chú về Mặt
trời, kẻ chinh phục con Trăn và Xử Nữ trên
cung Hoàng Đạo đẩy lùi được con
Rồng ngấu nghiến, nếu chúng ta có được
ch́a khóa giải mọi điều tiếp theo sau th́
cũng dễ thấy rằng thay v́ tổng quát hóa, tác
giả chỉ quan tâm tới Thiên Chúa giáo và kinh Thiên
Khải. Chúng tôi cho điều này là một cực đoan.
C̣n một cực đoan khác là thần học quyết
định lặp lại quyết định nổi
tiếng của Hội nghị
Từ khi con
người sa đọa cho đến khi y
được rửa tội, ma quỷ có toàn quyền
đối với y và có quyền ám ảnh y. ([468])
Huyền bí học xin đáp
lại điều này như sau: Trước hết cứ
chứng tỏ rằng Ma Quỷ tồn tại thực sự đi, rồi th́
chúng tôi mới có thể tin vào sự ám ảnh bẩm sinh
như thế. Chỉ cần một chút quan sát và hiểu
biết về bản chất con người cũng có
thể chứng tỏ được sự trá ngụy
của giáo điều thần học này. Nếu Quỷ
Vương có thực trong ngoại giới hay ngay cả
trong nội giới (theo nghĩa giáo phẩm) th́ đó chính
là con Quỷ hèn hạ sẽ bị kẻ độc ác (và
do đó đa số nhân loại) ám ảnh kinh niên. Chính nhân
loại, nhất là các giáo sĩ do Giáo hội La Mă kiêu
kỳ, tán tận lương tâm và nghiệt ngă lănh
đạo, đă khai sinh ra và nuôi dưỡng Kẻ Ác.
Nhưng chúng ta lại đang lạc đề.
Giáo hội đă khiển
trách toàn thể thế giới tư tưởng v́ đă
tôn thờ rắn.
214
Toàn thể
nhân loại đă thắp nhang lễ bái nó hay ném đá nó.
Các kinh Zends, Kings, Vedas, Edda… và Thánh kinh đều có
đề cập đến nó … đâu đâu, rắn thiêng
[Năga] cũng được tôn thờ và có các lễ sư;
ở La Mă chính trinh nữ Vestal… nấu bữa ăn cho nó
cũng cẩn thận như nàng săn sóc lửa thiêng.
Ở Hy Lạp, Thần y học Aesculapius không thể
chữa bệnh mà không được nó trợ lực.
Ngài đă giao phó các quyền năng của ḿnh cho nó.
Mọi người ắt đă nghe nói tới các Nguyên lăo
nghị viện phái một sứ bộ La Mă nổi
tiếng tới gặp Thần Y học, khi trở về,
sứ bộ này mang theo con rắn cũng
lừng danh không kém, nó tự ư tiến về ngôi
đền của chủ nó trên một trong các ḥn
đảo của sông Tiber. Không một nữ đồ
đệ nào của Tiểu Thần mà không quấn nó [con
rắn] trên đầu, không một Thầy bói nào mà không
cẩn thận vấn kế nó, không một Pháp sư chiêu
hồn nào mà các ngôi mộ lại không có nó hiện diện
ở đó! Những kẻ tôn thờ Cain và thờ Rắn
lại gọi nó là Đấng Sáng Tạo, trong khi vẫn
thừa nhận (như Schelling) rằng “chính con rắn có
bản chất thật là gian ác”.([469])
Đúng vậy, tác giả
thật là chí lư, nếu muốn có được một ư
niệm hoàn hảo về uy tín mà con rắn có
được ngày nay, th́ người ta phải nghiên
cứu vấn đề này ở Ấn Độ và t́m
học tất cả những ǵ mà thiên hạ tin
tưởng và vẫn c̣n gán cho các con Năga (hổ mang)
ở xứ đó;
người ta cũng phải đến thăm ḍ dân Phi
Châu ở Whydah, những kẻ Ma giáo ở Port-au-Prince và
Jamaica, các Pháp sư ở Mễ tây Cơ và Người
Rắn (Pă) ở Trung Hoa v.v.. Nhưng việc ǵ phải
thắc mắc khi con rắn vừa được tôn
thờ vừa bị nguyền rủa, v́ chúng ta đă
biết ngay từ đầu là nó chỉ là một biểu
tượng. Trong môi ngôn ngữ cổ truyền, từ
ngữ rồng (dragon) có
nghĩa là “long” theo tiếng
Trung Hoa hiện nay, tức là “kẻ thông minh tuyệt
trần” và dracon theo
tiếng Hy Lạp, tức là “quan sát viên”. ([470])
Liệu bất kỳ h́nh dung từ nào nêu trên có thể
được áp dụng cho con vật có tên gọi như
vậy chăng? Chẳng lẽ lại không hiển nhiên hay
sao khi sự mê tín dị đoan và sự quên lăng ư nghĩa
nguyên thủy có thể mang lại cho những người
dă man hiện nay các đặc tính nêu trên mà người ta
dự tính áp dụng cho con người nguyên thủy
vốn được tượng trưng bằng Rắn
và Rồng? Những người nguyên thủy này – cho
đến nay, ở Trung Hoa, họ được gọi
là “Rồng Minh Triết”- là các đệ tử đầu
tiên của các Thần Quân giáo huấn họ; tóm lại,
đó là các Cao đồ Bản Sơ của Giống dân
thứ Ba, và sau này của Giống dân thứ Tư và
Năm. Danh hiệu này đă trở nên phổ cập trên
thế giới và không một kẻ sáng suốt nào
trước kỷ nguyên Thiên Chúa lại lẫn lộn
người với biểu tượng.
Champollion cho rằng:
Ngoài các thứ
khác ra, biểu tượng Chnouphis tức Linh Hồn
Thế giới, là một con măng xà ở trên chân
người, con vật ḅ sát này, biểu hiệu của Siêu
tài Lương hảo (the Good Genius), là Thiên Thần thực
sự. Người ta thường tŕnh bày là nó có râu ria
xồm xoàm… Chúng ta thấy vật linh thiêng này vốn
đồng nhất với con rắn của những
kẻ thờ rắn, được chạm trổ tên
những tảng đá của phái Ngộ Đạo… Con
rắn có nhiều đầu khác nhau nhưng luôn luôn
được khắc các chữ Chnoubis.([471])
215
Thiên Thần
được phú cho “tri thức về thiện và ác”(nghĩa
là Minh Triết Thiêng Liêng) v́ không có Minh Triết Thiêng Liêng th́
không thể có tri thức về thiện và ác.([472])
Lặp lại lời
của Iamblichus, Champollion tŕnh bày Ngài là:
Vị thần
linh tên là Eichtơn tức là Lửa của chư Thiên –
Thot-Hermes Vĩ Đại, ([473])
mà Đức Hermes Ba Lần Vĩ Đại đă gán cho
việc phát minh ra pháp thuật.([474])
“Phát minh ra pháp thuật”! Dùng
một từ ngữ thật là kỳ dị, cứ như
thể là việc vén các bức màn bí mật vĩnh cửu
và thực sự của
216
Bộ Thánh kinh, từ
chương Sáng Thế kư đến chương Khải
Huyền, chẳng qua chỉ là một loạt tài liệu
lịch sử về trận đại chiến giữa
Huyền linh thuật và Ma Thuật, giữa các Cao
đồ Chánh đạo, các Tiên tri, và các Tà đạo,
nhóm bộ tộc Levi, giáo sĩ của quần chúng cục
súc (the brutal masses). Ngay cả các môn sinh Huyền bí học
(mặc dù một vài người có được các
bản thảo cổ sơ hơn và có thể dựa vào
sự giáo huấn trực tiếp), cũng thấy khó ḷng
mà phân biệt được Phe chánh với Phe tà. Sự
chia rẽ sâu xa giữa các con của Giống dân thứ Tư xuất
hiện ngay khi các Thánh điện và Điểm Đạo
sảnh đầu tiên đă được dựng nên theo
sự chỉ đạo của “các Con Thượng
Đế”, được ẩn dụ hóa nơi các Con
của Jacob. Những lời trối trăn của Jacob
đang hấp hối đă chứng tỏ rằng có hai
Phái pháp thuật, và nhóm bộ tộc Levi chính thống không
thuộc về phái thánh thiện. Ở đây, chúng ta nên
trích dẫn một vài câu trong Nữ Thần Isis Lộ Diện:
([475])
Jacob đang
hấp hối đă mô tả các con của ḿnh như sau:
“Dan sẽ là một con rắn bên đường, một
con rắn lục giữa đường, nó sẽ mổ
vào vó ngựa khiến cho vị kỵ sĩ sẽ ngă
ngửa ra đàng sau [nghĩa là y sẽ truyền lại Ma
thuật cho các ứng viên]. Lạy Chúa, con đă chờ mong
sự cứu rỗi của Ngài”. Vị tộc
trưởng nhận xét rằng Simeon và Levi là anh em, “nhà
họ chứa đầy các dụng cụ gây tội ác. Linh hồn ta ơi,
mi đừng xen vào điều bí mật của họ”. [476]
Nay trong nguyên bản, các từ ngữ “điều bí
mật của họ” lại được viết là “Sod
của họ”[477].
Và Sod là tên gọi các đại Bí nhiệm của các
thần Baal, Adonis và Bacchus, tất cả các Ngài đều
là Nhật Thần và có biểu tượng là các con
rắn. Các môn đồ Do Thái Bí giáo giải thích ẩn
dụ về các con rắn cháy rực bằng cách bảo
rằng đó là tên gọi dành cho bộ tộc Levi và Moses
là thủ lănh của các vị Sodales.([478])
Chúng ta phải truy nguyên ư
nghĩa nguyên thủy của các “Kẻ giết rồng”
tới tận các Bí pháp, vấn đề này sẽ
được bàn rốt ráo sau đây.
Trong khi đó, suy ra rằng
nếu Moses là Thủ lănh của các Bí pháp, th́ Ngài phải là
bậc Đại Đạo Trưởng của nó.
Hơn nữa, đồng thời nếu chúng ta thấy
các Đạo sư kịch liệt công kích “những
điều khả ố” của dân tộc Do Thái, th́ suy ra
rằng có hai Trường phái. Như thế, các “Con
rắn cháy rực” chỉ là h́nh dung từ dành cho bộ
tộc Levi thuộc giai cấp lễ sư, sau khi họ
đă bỏ Chánh pháp (các giáo
lư cổ truyền của Moses), và dành cho tất cả
những kẻ nào đi theo con đường Ma thuật. Khi đề
cập tới các “đứa con nổi loạn” sẽ
phải mang của cải vào trong các vùng đất vốn
dĩ là cội nguồn của loài “rắn độc và rắn
bay cháy rực” (tức xứ Chaldea và Ai Cập),([479])
và các Điểm đạo đồ đă thoái hóa ghê
gớm vào thời của ông, (năm 700 trước T.C.),
Isaiah có ư muốn nói tới các thầy phù thủy của
các xứ này.([480])
Nhưng chúng ta phải cẩn thận phân biệt các
vị này với các con “Rồng Minh Triết Bốc
Lửa” và các “Con của Sương Lửa”.
217
Sách Đại Bí
Nhiệm dạy chúng ta như sau:
Bảy
Đấng Tinh Quân tạo ra bảy Người: Ba
Đấng [Thiền Định Đế Quân hay Pitris]
thật là thánh thiện và lương hảo, bốn
Đấng kém thiêng liêng hơn và đầy thị
dục… Các Chhăyăs [bóng ma] của các Tổ Phụ cũng
giống như các Ngài.
Điều này giải thích cho các
sự dị biệt về bản chất của con
người, vốn được chia ra làm bảy
cấp độ thiện ác. Có bảy thánh điện
sẵn sàng đón tiếp các Chơn Thần trong nhiều
t́nh huống nghiệp quả khác nhau đến cư
ngụ. Dựa vào cơ sở này, Giảng lư đă
giải thích được sự kiện điều ác
lan tràn khắp nơi ngay khi H́nh dáng đă biến thành con
người thực sự. Tuy nhiên, trong các lối
tường thuật về Sáng Thế Kư của ḿnh,
một số triết gia thời xưa đă lờ đi
bảy vị và chỉ tŕnh bày có bốn vị. Do đó
Sáng Thế Kư địa phương của Mễ Tây
cơ có “bốn thiện nhân” được mô tả là
bốn vị tổ tiên thực sự của loài
người, “họ chẳng do chư Thiên sinh ra mà cũng
chẳng sinh ra từ cơ quan sinh dục nữ”. Sự
sáng tạo họ là một điều kỳ diệu
nhờ vào các Quyền năng Sáng tạo, họ chỉ
được tạo ra sau khi “bao
toan tính để tạo ra con người đă thất
bại”. Thần học Ai Cập chỉ có bốn “Con
của Thượng Đế”- trong khi mà Pymander lại
tŕnh bày bảy vị - nên
đă hoàn toàn tránh được việc đề cập
đến bản chất ác của con người. Tuy
nhiên khi từ địa vị một vị Thần
bị giáng thành ra Set-Typhon, Set bắt đầu
được gọi “người con thứ bảy”; có
lẽ v́ thế mới có niềm tin cho rằng
“người con thứ bảy của người con
thứ bảy” bao giờ cũng là một pháp sư
bẩm sinh – mặc dù, đầu tiên người ta
chỉ muốn nói tới một thầy phù thủy, Aker, con rắn của Set,
đă giết chết APAP (tượng trưng cho
điều ác) ([481])
do đó Set-Typhon không thể là điều ác ấy. Trong
Tử Vong Kinh, người ta khuyến cáo là Chương
clxiii nên được viết là “trước sự
hiện diện của một con rắn ḅ bằng hai
chân”, nghĩa là một bậc Điểm đạo
đồ cao cấp, một Đạo Trưởng, v́ cái
đĩa (the discus) và các sừng cừu ([482])
tô điểm cho cái đầu “con rắn” của Ngài
nơi các chữ tượng h́nh của tựa đề
chương nêu trên, biểu thị cho điều này. Phía
trên con rắn, người ta có tŕnh bày tượng
trưng cặp mắt thần bí của Ammon, ([483])
vị “Thần Linh Bí Nhiệm” ẩn tàng. Các đoạn
trên bổ chứng cho lời khẳng định của
chúng tôi và chứng tỏ thời xưa, từ ngữ
“rắn” có nghĩa là ǵ.
Nhưng c̣n về phần
các vị Pháp sư (Nagals và Nargals) do đâu mà có sự
tương tự về danh xưng giữa các Năgas của
Ấn Độ và các vị Nagals của Châu Mỹ ?
218
Nargal là
vị pháp sư [Rab-Mag] của dân Chaldea và Assyria, c̣n Nagal là
vị pháp sư của người Da đỏ Mễ Tây
Cơ. Cả hai đều có các danh xưng thoát thai từ
Nergal-Serezer, vị thần linh của dân Assyria và các Năgas
của Ấn Độ. Cả hai đều có các
quyền năng như nhau và có quyền có một vị
thần tùy tùng; họ hoàn toàn đồng nhất hóa ḿnh
với vị thần này. Vị Pháp sư của dân Chaldea
và Assyria giữ vị thần của ḿnh dưới
dạng một con thú nào đó được xem là linh
thiêng, ở bên trong thánh điện; vị Pháp sư
của dân da đỏ giữ vị pháp sư của ḿnh
ở bất cứ nơi nào có thể được -
ở vùng hồ
hay khu rừng lân
cận, hoặc ở trong nhà, dưới dạng một
con gia súc nào đó. ([484])
Chúng ta không thể gán cho
sự tương tự đó là một điều ngẫu nhiên. Một thế
giới mới được t́m ra và chúng ta thấy
rằng nó đă là một thế giới xưa rồi
đối với vị tổ phụ của Giống dân
thứ tư của chúng ta. Nghe nói Arjuna, bạn
đồng hành, bạn đồng hành và đệ tử
của
Nay chúng ta có thể hy
vọng là ḿnh đă chứng tỏ được ư
nghĩa rốt ráo của biểu hiện rắn. Nó không
phải là biểu hiệu của điều ác; lại
càng không phải là biểu hiệu của ma quỷ, mà
thật ra là Semes Eilam Abrasax, Mặt Trời Trung Ương
của mọi môn đồ Do Thái Bí giáo; trong một vài
đồ h́nh, nó được tượng trưng
bằng ṿng tṛn Tiphereth.
Ở đây, chúng tôi
lại xin trích dẫn các tác phẩm trước kia và
giải thích tỉ mỉ hơn.
Một ṿng tṛn
gồm những ṿng xoắn ốc xạ ra từ Vùng sâu
thăm thẳm này (Thái Uyên, Tiên Thiên Huyền Nữ, Shekinah,
Bức Màn che khuất lẽ huyền vi). Đó là Tiphereth,
theo ngôn ngữ biểu tượng kư, nó có nghĩa là
một Chu kỳ lớn bao gồm các
Nếu chỉ có ánh sáng
bất động và tuyệt đối, th́ trí
người không tài nào thẩm định được;
hay thậm chí nhận thức được nó. Bóng
tối chính là cái khiến cho ánh sáng biểu lộ thành
thực tại nơi ngoại cảnh. Do đó, Bóng
Tối đâu phải là điều ác, mà là hệ quả
thiết yếu bổ sung cho Ánh Sáng tức điều
Thiện; chính nó tạo ra
ánh sáng trên Trần Thế.
Theo quan điểm
của môn đồ phái Ngộ Đạo, hai nguyên khí này tức
Ánh Sáng và Bóng Tối đều phải bất biến;
Thiện và Ác thực ra chỉ là một và tồn tại
từ vô thủy, chúng vẫn cứ tồn tại măi,
chừng nào mà các thế giới biểu lộ vẫn c̣n
đó.
219
Biểu
tượng này giải thích cho việc giáo phái này tôn
thờ Rắn là Đấng Cứu Rỗi, đang
cuộn ḿnh quanh ổ bánh thánh hoặc một chữ Tau
(biểu tượng sùng bái sinh thực khí). Với vai tṛ
nhất nguyên, Ennoia và Ophis (Linh Xà) đều là Thiên
Đạo (Logos). Khi tách rời ra, một thứ là Cây
Trường Sinh Tâm Linh, c̣n thứ kia là Cây Tri Thức
Thiện và Ác. Do đó, chúng ta thấy Linh Xà xúi cặp nam
nữ đầu tiên (sản phẩm vật chất
của Ilda-baoth, nhưng kế thừa nguyên khí của
Sophia-Achamoth – ăn trái cấm, mặc dù Linh Xà tượng
trưng cho Minh Triết thiêng liêng.
Con Rắn, Cây Tri Thức
Thiện và Ác và cây Trường Sinh đều là biểu
tượng được du nhập từ đất
Ấn Độ. Cây đa Arasa-maram ([488]) rất linh thiêng theo người
Ấn Độ - v́ trong một kiếp lâm phàm,Vishnu đă
yên nghỉ dưới bóng mát rợp của nó, ở
đó, Ngài đă giảng dạy khoa học và triết
học của con người – được gọi là
Cây Tri Thức và Cây Trường Sinh. Dưới tán lá cây
che chở của loại cây chúa tể rừng xanh này,
bậc Đạo Sư đă giảng dạy cho các
đệ tử những bài học vỡ ḷng về
sự bất tử và điểm hóa họ vào trong các bí
nhiệm về sự sống và sự chết. Truyền
thuyết Chaldea cho rằng Java-Aleim của Giáo sĩ đoàn
đă dạy cho loài người biến thành giống
như một trong các vị đó. Cho tới nay, vị
Foh-tchou ([489])
trụ tŕ tại Foh-Maeyu (Phật Miếu) hay Phật
Điện của ḿnh trên đỉnh ngọn núi lớn
(Kouin-Long-Sang) Côn Lôn Sơn ([490])
vẫn hiển lộng các thần thông trác tuyệt
dưới một gốc cây mà tiếng Trung Hoa gọi là
Thông Minh Thọ (Sung-Ming-Shu) tức là Cây Tri Thức và Cây
Trường Sinh, v́ vô minh là chết, chỉ có tri thức
mới đem lại sự bất tử. Sự hiển lộ
thần thông này diễn ra cứ ba năm một lần,
khi hằng hà sa số Phật tử Trung Hoa tụ tập
lại hành hương tại Thánh địa.([491])
Nay chúng ta có thể hiểu
được lư do tại sao các Điểm đạo
đồ và các Cao đồ, tức “những Người
Minh Triết”, thời sơ khai nhất – người ta khẳng
định rằng các Ngài đă được TOÀN LINH TRÍ (được tượng
trưng bằng những Thiên Thần cao cấp nhất)
điểm hóa vào trong các Bí nhiệm của Thiên Nhiên –
lại được gọi là “Rắn Minh triết” và
“Rồng”. Chúng ta cũng có thể hiểu được
rằng làm thế nào mà cặp nam nữ hoàn hảo
đầu tiên về mặt sinh lư – sau khi đă
được điểm hóa vào Bí nhiệm về sự
Sáng Tạo Con người xuyên qua Ophis (Thiên Đạo Biểu lộ và Bán thư bán hùng)
bằng cách ăn trái cây tri thức – dần dần lại
bắt đầu bị tinh thần duy vật của
hậu thế tố cáo là đă phạm tội, đă không
tuân theo lệnh của “Đức Chúa Trời” và đă
bị con rắn cám dỗ.
Các tín đồ Thiên Chúa giáo
đầu tiên – họ đă tước đoạt Thánh
kinh của ḿnh từ tay người Do Thái – đă hiểu
bốn chương đầu của Sáng Thế Kư theo
nghĩa nội môn ít đến nỗi mà họ chưa bao
giờ nhận thức được rằng sự
bất tuân lệnh đó không hề hàm ư tội lỗi, mà
con “Rắn” lại c̣n là chính “Đức Chúa Trời”-
cũng như Linh Xà, Huyền Âm, bao hàm minh triết thiêng
liêng sáng tạo – Ngài đă dạy cho loài người
đến lượt họ trở thành các Đấng
Sáng Tạo. ([492])
Họ cũng chưa bao
220
giờ
nhận thấy rằng Thập
tự giá là do cái Cây và con rắn hóa thành, và như
thế đă trở nên sự
cứu rỗi nhân loại.
Do đó, nó ắt phải trở thành chính biểu
tượng cơ bản đầu tiên của Nguyên nhân
Sáng tạo, áp dụng vào h́nh học, số học, thiên văn
học, đo lường sự sinh dục của
động vật. Theo kinh Kabalah, sự nguyền rủa người đàn ông
diễn ra khi người đàn bà được tạo
ra. ([493])
Ṿng tṛn bị phân cách với đường kính của nó.
Sự phân cách nguyên khí nhị
phân được thực hiện từ nguyên khí
lưỡng vị nhất thể (tức là trạng thái
Bán thư bán hùng), bày ra hai đối cực, số
phận măi măi của chúng về sau là ra sức tái hợp
thành trạng thái đơn
nhất nguyên sơ. Sự chèn ép (curse) như sau: khi thúc
đẩy sự t́m kiếm, Thiên Nhiên đă tránh né kết
quả mong muốn bằng cách tạo ra một thực
thể mới, khác với sự tái hợp hay sự
đơn nhất mong muốn, do đó, sự khao khát
tự nhiên để khôi phục lại một t́nh
trạng đă mất, đă và đang bị phỉnh
lừa măi măi. Thiên nhiên sinh tồn do chính cái tiến tŕnh
nhử nhử này của sự chèn ép liên tục. ([494])
Xét về mặt nội môn, câu chuyện ẩn dụ Adam bị lôi ra khỏi Cây Trường Sinh có nghĩa là Giống dân mới bị phân cách đă lạm dụng và đă lôi bí nhiệm về sự sống xuống lănh vực thú dục. Đó là v́ theo kinh Zohar th́ Matronethah – Shekinah, phu nhân tượng trưng của Metatron –“chính là con đường dẫn tới Cây Trường Sinh vĩ đại, Cây Đại Hùng”, c̣n Shekinah là Thiên Ân (Divine Grace). Nghe đâu Cây này vươn lên đến tận thung lũng Thiên giới và bị che khuất giữa ba ngọn núi (ba Nguyên khí cao nơi con người). Từ ba ngọn núi này, cái Cây vươn lên cao (tri thức của bậc Cao đồ ao ước hướng về Thiên giới) rồi lại xà xuống dưới (vào trong Chơn Ngă của bậc Cao đồ trên trần thế). Cây này bộc lộ ra vào ban ngày và bị che khuất vào ban đêm, nghĩa là nó bộc lộ ra cho một trí tuệ giác ngộ và ẩn khuất đối với sự vô minh, vốn là bóng đêm. ([495]) Giảng lư dạy:
Cây
Tri Thức Thiện và Ác mọc ra từ rễ Cây
Trường Sinh.
Nhưng rồi, tác giả của Nguồn Gốc các Kích Thước lại cho rằng:
Trong kinh Kabalah,
chúng ta thấy rơ rằng “Cây Trường Sinh” là thập
tự giá có quai dưới khía cạnh tính dục, c̣n “Cây
Tri Thức” là sự phân cách và sự tập hợp lại
để hoàn thành định mệnh. Nếu tŕnh bày
điều này bằng số th́ trị số của các
chữ hợp thành từ ngữ “aiz” (cây) là 7 và 9; bảy
là thư số thiêng liêng, c̣n chín là con số của năng
lượng dương hay sùng bái sinh thực khí. Thập
tự giá có quai này là biểu tượng thư hùng của Ai Cập,
221
Đây
là quan điểm Do Thái Bí giáo của các nhà Huyền bí Tây
phương, nó khác hẳn các quan điểm có tính cách
triết lư hơn của dân Ăryan Đông phương về
đề tài này.([496])
Sự phân cách giới tính nằm trong chương tŕnh
của
Cách đây chừng ba
mươi năm, thật là táo bạo nếu một
kẻ nào nghĩ đến việc thuật lại cho công
chúng một tuyển tập các câu chuyện thường
nổi tiếng là hoang đường, và yêu cầu thiên
hạ phải xem là chúng có thực, hoặc biện hộ
cho các câu chuyện bịa đặt cổ kính là các sự
kiện có thực; hoặc (trong nhiều trường
hợp) xem các câu chuyện ru em là các huyền thoại
đă bị xuyên tạc ít nhiều nhắm mô tả các
thực thể hoặc các biến cố có thực. Ngày
nay, đó là một việc ít liều lĩnh hơn. ([497])
Phần dẫn nhập
của một tác phẩm mới đây (năm 1886) và lư thú
nhất của ông Charles Gould, tên là Các con quái vật
Thần thoại đă mở đầu như thế
đó. Ông đă táo bạo khẳng định niềm tin
của ḿnh vào hầu hết các con quái vật này. Ông
đề nghị là:
Nhiều cái
gọi là các con vật thần thoại – mà suốt bao
thời đại và ở mọi quốc gia đă là các
đề tài phong phú của những chuyện hoang
đường, bịa đặt – phải chính thống
ở trong phạm vi thực tế thông thường
của vạn vật học. Chúng ta có thể xem chúng không
phải là hậu quả của sự hoang tưởng, mà
là các tạo vật đă từng tồn tại thực
sự, tiếc thay, chỉ có những điều mô tả
chúng một cách bất toàn và thiếu chính xác đă
được lọc lừa xuống tới chúng ta, có
lẽ là đă bị khúc xạ rất nhiều qua đám sương
mù thời gian;… các truyền thuyết về các tạo
vật đă từng tồn tại với con
người, một vài tạo vật đó quái gở và
gớm ghiếc đến nổi mà thoạt nh́n,
dường như là chúng không thể tồn tại
được…
222
Đối
với tôi, đa số tạo vật này không phải là
những chuyện huyền hoặc, mà là các đối
tượng của sự nghiên cứu thuần lư. Thay v́ là
một tạo vật xuất phát từ trí tưởng
tượng của người Ăryan khi chiêm ngưỡng
tia chớp lóe qua các hang động mà y cư ngụ (theo
một số nhà thần thoại học), con rồng
lại là một con vật đă từng sống, kéo lê những
khúc cuộn nặng nề của ḿnh và có lẽ c̣n
biết bay nữa…
Đối
với tôi, sự tồn tại đặc biệt của
con kỳ lân (unicorn) dường như chẳng có ǵ là không
thể tin được và thật ra, nó c̣n khả hữu
hơn cái thuyết gán cho nó một nguồn gốc thần
thoại nguyệt tinh …([498])
Về phần
ḿnh, tôi hoài nghi việc cho rằng các huyền thoại nói
chung đều thoát thai từ “sự chiêm ngưỡng các
tác động hữu h́nh của ngoại cảnh”.
Dường như tôi có thể dễ dàng giả sử là
sự tê liệt của thời gian đă làm suy suyển
sự phát biểu các câu chuyện cũ rích này cho
đến ki thiên hạ hầu như không c̣n nhận ra
được dáng vẻ nguyên sơ của chúng nữa.
Điều trên c̣n dễ hơn là giả sử rằng những
kẻ dă man thất học có được các năng
lực tưởng tượng và sáng tạo thi ca
vượt xa năng lực của hầu hết các
quốc gia văn hiến nhất hiện nay. Dường
như tôi có thể dễ dàng tin rằng các câu chuyện
kỳ diệu bàn về các thần linh và các bán thần, người
khổng lồ và người lùn, rồng và đủ
loại quái vật này là các biến
thể hơn là các điều
bịa đặt. ([499])
Cũng nhà địa
chất học ấy đă tŕnh bày là:
… các nhà cổ
sinh vật học đă lần lượt truy nguyên sự
tồn tại của con người tới tận các
thời kỳ được ước tính biến thiên
từ ba mươi ngàn đến một triệu năm
lúc mà y c̣n tồn tại cùng với các con thú đă tuyệt
chủng từ lâu rồi… ([500])
Xin đơn cử một
vài thí dụ về con vật quái gở và gớm chiếc
này: (1) Loài Cidastes có
xương và xương sống khổng lồ chứng
tỏ rằng chúng đă dài tới gần 200 feet (= 60,96m),
Giáo sư Marsh đă t́m thấy tàn tích của những con
quái vật ấy (ít nhất phải hơn 10 con) ở vùng
đất xấu tại Colorado, rải rác trên các
đồng bằng. (2) Loài Vô
pháp long (Titanosaurus Montanus)
dài tới 50 hay 60 bộ. (3) Loài khủng
long (Dinosaurians) ở các
địa tằng kỷ Jura tại rặng núi Rocky c̣n có
kích thước khổng lồ hơn nữa. (4) Loài Atlantosaurus Immanis, chỉ
một cái xương đùi của nó cũng dài trên 6
bộ (=1,82m); như vậy nó ắt phải dài
trên 100 bộ. Nhưng như vậy vẫn chưa to
lắm, chúng tôi nghe nói người ta đă khám phá ra các di
tích có kích thước khổng lồ đến nỗi mà
một cái xương đùi cũng dài trên 12 bộ! [501]
Thế rồi chúng ta lại được biết con quái
vật Sivatherium ở Hy Mă
Lạp Sơn là một con hươu bốn sừng,
lớn như voi nhưng lại cao hơn cả voi
nữa; con Vô sỉ long (Megatherium) khổng lồ; con
thằn lằn bay khồng lồ, Dực thủ long
(Pterodactyli), có mơm cá sấu, đầu vịt v..v… Tất cả những con vật
này đều cùng tồn tại với con người,
rất có thể chúng và con người c̣n tấn công
lẫn nhau nữa. Thế mà người ta đă
bảo chúng ta phải tin rằng lúc bấy giờ, con
người nêu trên cũng chẳng có ǵ lớn hơn
hiện nay ! Có thể quan niệm được rằng khi
bị những con quái vật như trên bao quanh trong
223
Giáo sư Jukes, một
người rất bảo thủ, cho rằng:
Trước kia,
dường như những con rồng bay trong tiểu
thuyết lại có vẻ tồn tại thực sự.([503])
Rồi tác giả tiếp
tục hỏi:
Liệu lịch
sử giấy trắng mực đen của con
người bao gồm một vài năm có bao hàm trọn
vẹn diễn tŕnh tồn tại thông tuệ của y
không ? Hay là liệu chúng ta có được chăng các
dấu vết kỷ niệm mơ hồ của con
người tiền sử trải qua hàng trăm ngàn
năm trong các kỷ nguyên dài
đăng đẳng, được ghi lại trong
các niên đại kư của dân
Một vài con thú khổng
lồ c̣n sót lại, chẳng hạn như loài voi – chính
chúng cũng c̣n nhỏ hơn các tổ tiên của chúng là
loài Trụ nha tượng (Mastodons) – c̣n loài hải mă
(hippopotami), chỉ là các di tích c̣n sống sót và càng ngày càng có
khuynh hướng biến mất hoàn toàn. Nhưng ngay chính
chúng cũng đă có một vài loài tiền phong của các
chủng loại tương lai, và đă giảm kích
thước theo cùng tỷ lệ với con người.
Đó là v́ người ta đă t́m thấy các di tích của
một con voi lùn, E, Falconeri, ở các lớp trầm tích
nơi hang động của đảo
Những kẻ hoài nghi có
thể mỉm cười và tố cáo tác phẩm của
chúng tôi toàn là những điều vớ vẩn hay
những câu chuyện thần tiên. Nhưng khi làm như
thế, họ chỉ biện minh cho sự minh triết
của triết gia Trung Hoa Chuang, ông đă dạy rằng:
Nói về mặt
số mục, những điều mà người ta
hiểu biết tuyệt nhiên không thể so sánh
được với những điều mà người
ta không biết.([506])
Như thế họ
chỉ chế nhạo sự dốt nát của chính ḿnh.
CÁC “CON CỦA THƯỢNG ĐẾ” VÀ “ĐẢO
THIÊNG”
Sau đây là “huyền
thoại” được tŕnh bày trong Nữ Thần Isis
Lộ Diện ([507])
liên quan tới một phần của Địa Cầu mà
khoa học nay phải chịu thừa nhận là cái nôi
của nhân loại (mặc dầu thật ra nó chỉ là
một trong bảy cái nôi).
224
Theo tài
liệu của Thiền Định Chân Kinh (the BOOK OF DZYĂN), tục truyền là ngày
xưa trước thời Ad-am và người vợ He-va
ṭ ṃ, ở nơi mà ngày nay chỉ là các hồ muối và
vùng sa mạc hoang vu cằn cỗi có một biển
nội địa rộng mênh mông, nó trải dài qua vùng Trung
Á phía Bắc rặng Hy Mă Lạp Sơn hùng vĩ và phần
kéo dài phía Tây của nó. Trong biển ấy có một ḥn
đảo có một vẻ đẹp vô song trên thấ
giới, đảo này là nơi cư trú của số tàn
dư cuối cùng của giống dân trước giống
dân chúng ta.
“Tàn dư cuối cùng” có
nghĩa là “các Con của Ư Chí và Yoga” họ vẫn c̣n
sống sót với thời gian cùng với một vài bộ
lạc sau khi trận đại thảm họa xảy ra.
Ấy là v́ đó chính là Giống dân thứ Ba trên
Đại lục Lemuria, nó có trước Giống
người hoàn hảo thực sự - Giống dân thứ
Tư và thứ Năm. Do đó, trong Nữ Thần Isis
Lộ Diện có bảo rằng:
Giống dân này có
thể sống thoải mái ở trong nước, không khí
cũng như lửa, v́ nó kiềm chế được
các hành này một cách vô tận. Đó là “các Con của
Thượng Đế”; không phải là các vị đă
chiêm ngưỡng các con gái của nhân loại, mà là các
Đấng Elohim thực sự, mặc dù họ có một
danh xưng khác trong kinh Kabalah đông phương. Chính
họ đă truyền thụ các bí nhiệm kỳ quái
nhất của Thiên Nhiên cho con người và tiết
lộ cho họ “linh từ” khôn tả (ineffable) này đă thất truyền.
Người ta tin rằng
cho đến nay “Đảo” này vẫn c̣n tồn tại
như là một ốc đảo giữa sa mạc
Linh từ (word) này không
phải là từ ngữ ǵ cả, đă từng đi ṿng
quanh trái đất, và vẫn c̣n lần lữa (lingers)
như là một tiếng vang xa xăm tắt dần trong
tâm hồn của một vài người có đặc
quyền. Các vị đạo trưởng của mọi
Giáo sĩ đoàn đều biết rằng đảo này
tồn tại; nhưng chỉ có vị Java Aleim (theo một ngôn ngữ khác là Mahă Chohan),
tức vị đứng đầu của Giáo sĩ
đoàn, mới biết được linh từ và chỉ
truyền lại cho người kế vị khi từ
trần. Có nhiều Giáo sĩ đoàn như thế, và các tác
giả cổ điển đều đề cập
đến chúng…
Không thể giao
thông với ḥn đảo mỹ lệ này bằng
đường thủy, nhưng các hành lang ngầm
dưới đất (mà chỉ có các vị đạo
trưởng biết) giao thông với nó theo mọi
hướng.([508])
Truyền thuyết
khẳng định và khảo cổ học đă chấp
nhận chân lư của huyền thoại cho rằng có hơn
một đô thị nay đang phồn thịnh ở
Ấn Độ đă được xây dựng trên
nhiều đô thị khác, như thế là tạo thành
một đô thị dưới đất cao sáu, bảy
tầng. Dehli là một trong các đô thị đó, Allahabad
là một đô thị khác, chúng ta c̣n thấy các ví dụ
của điều này ở ngay cả Âu Châu, chẳng
hạn như ở Florence, nó được xây dựng
trên nhiều thành phố của xứ Etryscan và các đô thị
khác cũng đă bị diệt vong. Thế th́ tại sao
Ellora, Elephanta, Karli và Ajunta lại không thể đă
được xây dựng trên các mê lộ và các hành lang
ngầm dưới đất như người ta
thường tuyên bố? Dĩ nhiên là chúng tôi không ám chỉ
các hang động mà mọi người Âu Châu đều
biết do mắt thấy tai nghe, cho dù chúng có nguồn
gốc thật xa xưa (mặc dù ngay cả các
điều này cũng bị khảo cổ học hiện
đại bác bỏ); song chúng tôi ám chỉ một sự
kiện mà các Điểm đạo đồ Bà La Môn
ở Ấn Độ (nhất là các đạo sĩ Yoga) đều
biết, nghĩa là ở xứ này không có một Thánh
điện trong hang động mà chỉ có các hành lang
dưới đất chạy khắp mọi
hướng, đến lượt các hang động
dưới đất và các hành lang vô tận này lại có
các hang động và hành lang của ḿnh. Chúng tôi xin hỏi
tiếp:
225
Ai
dám bảo liệu Châu Atlantis đă thất tung – nó cũng
được Mật Thư (Secret Book) đề cập
đến, nhưng dưới một danh xưng khác, đặc thù đối
với ngôn ngữ thánh thiện – có c̣n tồn tại vào
thời đó chăng
?
Nhất định là nó
phải tồn tại, v́ nó đang gần đạt
tới thời vinh quang và văn minh nhất, khi phần
cuối cùng của lục địa Lemuria đă bị
diệt vong.
Đại lục đă
thất tung có lẽ ở vùng Nam Á, trải dài từ
Ấn Độ tới Tasmania. ([509])
Nếu giả thuyết này đă từng được
chứng nghiệm – hiện nay một vài tác giả thông
thái rất nghi ngờ và kịch liệt bác bỏ nó,
họ xem nó là một tṛ đùa của Plato – th́ bấy
giờ có lẽ các nhà khoa học sẽ tin rằng sự
mô tả lục địa vốn là chỗ trú của
thần linh, đâu phải hoàn toàn là một chuyện hoang
đường. ([510])
Và lúc bấy giờ họ có thể nhận thấy
rằng các ẩn ngôn của Plato và sự kiện ông gán câu
chuyện này cho Solon và các lễ sư Ai Cập chẳng qua
chỉ là một cách thức thận trọng để
truyền đạt sự kiện ấy cho thế gian.
Đồng thời bằng cách khéo léo kết hợp chân lư
với điều bịa đặt, ông đă đoạn
tuyệt với một câu chuyện mà các điều bó
buộc khi được điểm đạo không cho
phép ông tiết lộ …
Để tiếp lời
truyền thuyết, chúng ta phải thêm rằng đẳng
cấp đạo trưởng được chia thành hai
loại riêng biệt; ([511])
đó là những vị được “các Con của
Thượng Đế” trên đảo dạy dỗ và
được điểm đạo về giáo lư thiêng
liêng thuần túy khải huyền; c̣n những vị khác
ở lại Châu Atlantis đă thất tung – nếu tên
của nó ắt phải như thế - thuộc một giống
dân khác (được sinh ra do sự phối hợp của các tổ phụ thiêng liêng), bẩm sinh đă có một năng khiếu
thần nhăn nh́n thấu được mọi vật
ẩn tàng và bất chấp khoảng cách, chướng
ngại vật. Tóm lại, họ là Giống dân thứ
Tư đă được tác phẩm Popol Vuh đề
cập tới, họ có tầm nh́n vô hạn và biết
mọi chuyện ngay tức khắc.
Nói cách khác, họ là
những người Lemuria-Atlantis, những người
đầu tiên có một Triều đại Thánh
Vương, không phải là Âm Ma như một vài
người lầm tưởng ([512])
mà là các Bán Thần hay Thiên Thần thực sự sống
động; các vị này đă lâm phàm để trị v́
Giống dân này; đến lượt các Ngài lại
dạy khoa học và nghệ thuật cho họ. Có
điều là, v́ các Thần Quân này là các Vong Linh hữu
sắc tướng nên họ không nhất thiết là
thiện. Chúa Tể của họ (Thevatat) là một trong các
vong linh hữu sắc tướng; chính v́ chịu ảnh
hưởng xấu của vị Ma Vương này nên
Giống dân Atlantis mới biến thành một quốc gia
gồm toàn là các vị “pháp sư” ác độc.
226
Do đó
người ta đă tuyên chiến, câu chuyện chiến
tranh này quá dài nên chúng ta không thể thuật lại
được. Chúng ta có thể thấy bản chất
của nó trong các chuyện ẩn dụ bị xuyên tạc
của ḍng giống Cain, người khổng lồ, và ḍng
giống của Noah cùng với các gia tộc chính trực
của ông. Trận xung đột chấm dứt khi Châu
Atlantis bị ch́m, tương tự như câu chuyện
về trận lụt ở
Nếu hoàn toàn tin
tưởng vào truyền thuyết, th́ chúng ta cũng
phải tin thêm câu chuyện rằng do các con cháu của các
vị đạo trưởng trên đảo kết hôn với
các hậu duệ của Noah cảu người Atlantis, nên
mới sinh ra một giống dân hỗn hợp gồm
kẻ chính trực và độc ác. Một mặt, thế
gian có được các Enoch, Moses, nhiều loại
Phật giáo khác nhau, nhiều Đấng Cứu Thế và
các vị Đại Đạo Trưởng; mặt khác,
v́ không bị quyền năng linh giác kềm chế nên các
“pháp sư tự nhiên” đă làm bại hoại các năng
khiếu của ḿnh v́ các mục đích ích kỷ. ([514])
Chúng ta có thể bổ túc
điều này bằng chứng cứ của một vài tài
liệu lưu lại và truyền thuyết. Trong tác
phẩm Lịch sử của các Trinh Nữ: Các Dân Tộc
và các Lục Địa đă mất, Louis Jacolliot viết:
Một trong các
truyền thuyết xưa nhất của Ấn Độ,
đă được bảo tồn trong các thánh
điện bằng cách khẩu truyền và bút truyền, có
thuật lại rằng cách đây nhiều trăm ngàn
năm, ở trong Thái B́nh Dương có tồn tại
một lục địa bao la đă bị cơn
động đất hủy diệt. Chúng ta ắt
phải t́m thấy các mảnh vụn của nó ở
Theo giả
thuyết này, các cao nguyên ở Hindustăn và Á Châu đă chỉ
được tượng trưng trong các thời
đại xa xưa này bằng các ḥn đảo lớn
tiếp cận với lục địa trung ương …
Theo người Bà La Môn, xứ này đă đạt
được một nền văn minh cao tột, và bán
đảo Hindustăn, được mở rộng do sự
dời chỗ của biển cả vào lúc có trận
đại thảm họa, đă chỉ nối tiếp
hàng loạt các truyền thuyết nguyên sơ nảy sinh
ở nơi này. Các truyền thuyết này khiến cho
những người dân ở lục địa bao la
tại phân điểm này được mệnh danh là
Rutas, v́ ngôn ngữ của họ thoát
thai từ tiếng Bắc Phạn. Truyền thuyết
Ấn Độ-Hy Lạp (được bảo tồn
bởi giống dân thông minh nhất đă di cư ra
khỏi các vùng đồng bằng Ấn Độ)
cũng thuật lại sự tồn tại của
một lục địa và một dân tộc mà nó mệnh
danh là Châu Atlantis và dân Atlantides; nó xác định vị trí
của châu đó ở Đại Tây Dương, tại
phần phía Bắc của các chí tuyến.
Ngoài sự kiện này ra, việc
giả sử rằng có một lục địa cổ
truyền ở các vĩ độ này (chúng ta có thể
thấy các di tích của nó nơi các đảo có núi
lửa và bề mặt núi non lởm chởm của các
quần đảo Azores, Canaries và Cap de Verde) không có khả năng
tồn tại về mặt địa lư. Vả lại,
người Hy Lạp (vốn chẳng bao giờ dám
vượt ra ngoài các Cột trụ của Hercules v́ e
sợ Đại dương huyền bí) đă xuất
hiện quá trễ vào thời xưa khiến cho các câu
chuyện mà Plato đă bảo tồn chẳng c̣n ǵ khác
hơn là một tiếng vang của huyền thoại
Ấn Độ. Hơn nữa khi chúng ta liếc nh́n vào
một địa cầu đồ, khi thấy các ḥn
đảo và các đảo nhỏ rải rác từ
quần đảo Mă Lai tới Polynesia, từ các eo
biển Sunda tới đảo Phục Sinh, chúng ta không
thể cho rằng đó là phần quan trọng nhất
dựa vào giả thuyết là có nhiều lục địa
xuất hiện trước các lục địa mà chúng ta
đang ở trên đó.
227
Một tín
ngưỡng tôn giáo chung cho cả Malacca lẫn
Cho dù các truyền thuyết có
ra sao đi chăng nữa, cho dù nơi phát xuất ra
nền văn minh xưa hơn văn minh La Mă, Hy Lạp, Ai
Cập và Ấn Độ có ǵ đi chăng nữa,
chắc chắn là nền văn minh này đă tồn
tại và thật là quan trọng biết bao nếu khoa
học t́m lại được các dấu vết của
nó, mặc dù chúng có thể là sơ sài và phù du. ([515])
Truyền thuyết về
Đại dương này bổ chứng cho huyền
thoại được tŕnh bày theo các “Tài liệu của
Giáo Lư Bí Nhiệm”. Trận chiến giữa người da
vàng và người da đen ám chỉ cuộc đấu
tranh giữa “các Con của chư Thiên” và “các Con của
những người Khổng lồ” tức là dân cư
của Châu Atlantis.
Cuối cùng, tác giả có
đích thân đến viếng mọi ḥn đảo ở
Polynesia và dành ra nhiều năm để nghiên cứu
về tôn giáo, ngôn ngữ và các truyền thuyết của
hầu hết mọi dân tộc, đă kết luận
như sau :
Về phần lục
địa Polynesia (lục địa này đă biến
mất vào lúc có các thảm họa địa chất
cuối cùng, sự tồn tại của nó dựa vào những
bằng chứng hợp lư đến nỗi mà chúng ta không
c̣n có thể nghi ngờ ǵ được nữa.
Ba đỉnh lục
địa này tức quần đảo Sandwich, Tân Tây Lan và
đảo Phục Sinh, cách xa nhau từ 1 500 đến 1
800 dặm. C̣n chính các nhóm đảo trung gian, Viti(
Mọi nhà hàng hải
đều đồng ư với nhau rằng nhóm ở
cực điểm và nhóm ở giữa chưa bao giờ có
thể giao thông được với nhau xét v́ vị trí
địa lư thực tế của chúng và phương
diện thiếu thốn sẵn có của chúng. Trên cơi
trần, không thể vượt qua những khoảng cách
như thế trong một chiếc thuyền độc
mộc mà không có la bàn và đi du hành hàng tháng mà không có
lương thực dự trữ.
Mặt khác, thổ dân của
quần đảo Sandwich,Viti, Tân Tây Lan, quần đảo
trung ương Samoa, Tahiti v.v… chưa
bao giờ biết nhau, nghe nói tới nhau, trước
khi người Âu Mỹ đến đó. Thế nhưng, mỗi dân tộc này đều
khẳng định rằng ḥn đảo của họ đă
có thời là một thành phần của một dăy
đất bao la trải dài về phía Tây bên phía Á Châu. Và
chúng ta thấy tập hợp các dân tộc này đều
nói cùng một ngôn ngữ, có cùng một phong tục, tập
quán, tín ngưỡng. Và để đáp lại câu hỏi:
“Cái nôi của giống dân bạn ở đâu?”, tất
cả đều đưa tay
chỉ về phía mặt trời lặn”.([516])
Xét về mặt
địa lư, sự mô tả hơi nghịch với các
sự kiện trong các Tài liệu bí nhiệm, nhưng nó
cũng chứng tỏ sự tồn tại của các
truyền thuyết đó, và người ta chỉ cần
có thế thôi. Đó là v́, cũng như “không có lửa làm
sao có khói”, cũng vậy, một truyền thuyết
phải dựa vào một chân lư gần đúng nào đó.
228 229
Thế nào
cũng có lúc chúng ta chứng tỏ rằng khoa học
đă bổ chứng hoàn toàn cho các truyền thuyết nêu
trên và truyền thuyết khác của Giáo Lư Bí Nhiệm liên
quan tới hai lục địa đă thất tung.
Chẳng hạn các di tích của đảo Phục Sinh là
các kỷ vật kỳ lạ và hùng hồn nhất của
những người không lồ nguyên sơ. Chúng vĩ
đại bao nhiêu th́ cũng huyền bí bấy nhiêu;
người ta chỉ việc liếc xem những chiếc
đầu của các pho tượng khổng lồ
vẫn c̣n nguyên vẹn th́ sẽ nhận ra ngay các
đặc điểm của kiểu mẫu và đặc
tính mà người ta đă gán cho những người
khổng lồ thuộc Giống dân thứ Tư. Họ
dường như cùng một khuôn đúc, mặc dù có
những đặc điểm khác nhau – thuộc một
loại vật dục rơ rệt giống như các
đặc điểm của người Atlantis (Daityas và
“Atalantians”) mà các Thánh thư Nội môn của Ấn
Độ đă đề cập tới. Chúng ta hăy so sánh
những thứ này với khuôn mặt của một vài pho
tượng khổng lồ khác ở Trung Á – chẳng
hạn như các pho tượng ở gần Bamian –
tục truyền đó là các pho
tượng chân dung của các vị Phật thuộc
về các Chu kỳ Khai nguyên trước;
c̣n các vị Phật và các anh hùng đă được
nhắc tới trong các tác phẩm của Ấn Độ
và Phật giáo, cũng như là những người có kích
thước huyền hoặc ([517])
các huynh đệ thánh thiện của các anh em ruột
thịt độc ác nói chung, cũng như Răvana (quốc
vương khổng lồ Lankă) là anh em của Kumbhakarna,
tất cả đều thuộc ḍng dơi của chư Thiên
xuyên qua các Thánh Hiền, và như thế, cũng như
“Titan là lứa con đông đúc của Ngài”, tất cả
đều là các “Đấng Bản Sơ của Thiên
giới”. Mặc dù thường bị người ta làm
hại bằng cách tŕnh bày tượng trưng là các Ngài có
tai dài ḷng tḥng, các vị “Phật” này tỏ ra nổi
bật v́ có thần sắc khác hẳn các pho tượng
ở đảo Phục Sinh (chỉ cần liếc qua là
thấy ngay được điều này). Họ có
thể là thuộc cùng một giống dân, nhưng các
vị Phật là “Con của chư Thiên”, c̣n các pho
tượng là sản phẩm của các pháp sư hùng
mạnh. Tuy nhiên, tất cả đều lâm phàm, và ngoài các
điều ngoa ngoắt tất yếu trong truyền
thuyết hoang đường dân gian ra, họ đều
có tính cách lịch sử.([518])
Họ đă sinh hoạt vào lúc nào? Hai Giống dân thứ Ba
và thứ Tư đă sinh hoạt cách đây bao nhiêu lâu? Và
sau đó bao nhiêu lâu th́ các bộ tộc khác nhau của
Giống dân thứ Năm bắt đầu xung đột
với nhau (các cuộc đấu tranh giữa Thiện và
Ác) ? Các nhà Đông phương học đă đoan chắc
với chúng ta rằng trong kinh Purănas và các Thánh kinh khác
của Ấn Độ, niên đại kư vừa bị xáo
trộn lung tung, vừa bị phóng đại một cách
phi lư ? Chúng ta hoàn toàn sẵn sàng tán thánh lời tố cáo
đó. Tuy nhiên, nếu các tác giả Ăryan đôi khi có
để cho quả lắc niên đại kư của ḿnh
lệch về bên quá xa, vượt ra khỏi giới
hạn chính thống của sự kiện, th́ khi đem so
sánh độ lệch này với độ lệch của
các nhà Đông phương học theo chiều ngược
lại, chúng ta sẽ thấy phía Bà La Môn c̣n vừa phải
hơn. Về lâu về dài, chúng ta sẽ thấy học
giả Ấn trung thực hơn và gần gũi với
sự thật hơn là học giả Bắc Phạn. Công
luận Âu Mỹ xem sự cắt xén của học giả
Bắc Phạn – ngay cả khi người ta đă
chứng tỏ rằng nó đă được dùng tới
để thỏa măn một sở thích cá nhân – là “một sự
chấp nhận các sự kiện một cách
thận trọng”, c̣n trên giấy trắng mực đen,
học giả Ấn lại bị thô bạo coi là “kẻ nói dối”. Nhưng
chắc chắn đây không phải là lư do tại sao
mọi người bắt buộc phải xem xét sự
kiện này theo cùng một khía cạnh! Một quan sát viên vô
tư có thể xem xét nó khác đi. Y có thể tuyên bố
rằng cả hai đều là các sử gia tán tận
lương tâm, hoặc biện minh cho cả hai, lần
lượt dựa vào cơ sở của mỗi bên, và
bảo rằng người Ăryan Ấn viết cho các
Điểm đạo đồ (họ thuyết minh chân
lư theo lối ư tại ngôn ngoại) chứ không viết cho
quần chúng. Nếu họ đă xáo trộn các biến
cố và cố ư làm lẫn
lộn các Thời đại, th́ điều đó không
phải là để đánh lừa bất kỳ kẻ
nào, mà chỉ là để bảo tồn tri thức của
họ tránh khỏi cặp mắt xoi mói của
người ngoại quốc. Tuy nhiên, đối với
kẻ nào có thể tính được thế hệ ḍng dơi của các vị Bàn Cổ và hàng loạt các kiếp lâm phàm
trong trường hợp một vài anh hùng ([519])
trong kinh Purănas, th́ ư nghĩa và thứ tự niên đại
kư lại rất rơ ràng. C̣n về phần nhà Đông
phương học Âu Tây, y phải được khoan
thứ v́ tất nhiên là y chẳng biết ǵ về các
phương pháp mà Nội môn Bí giáo cổ sơ đă
sử dụng.
Nhưng các thành kiến
tồn tại như vậy phải nhượng bộ và
biến mất trước ánh sáng của các khám phá mới
trong ṿng chẳng bao lâu nữa. Các thuyết được
hâm mộ nhất của Giáo sư Weber và Giáo sư Max
Muller, nghĩa là thuyết cho rằng ngay cả vào thời
Pănini (!), ở Ấn Độ cũng chưa hề có
văn tự, và thuyết cho rằng người Ấn
Độ đă kế thừa toàn bộ các nghệ
thuật và khoa học của ḿnh – kể cả Hoàng
Đạo và thuật kiến trúc (Fergusson)- từ
người Hy Lạp Macedonia, và các giả thuyết không
thể tin được khác, đă có nguy cơ bị
sụp đổ tan tành. Chính bóng ma của xứ
230
Đô
thị của Ea là Kridu, nó đă đứng sững ở
trên bờ vịnh Ba Tư cách đây 6 000 năm. Danh
xưng này có nghĩa là “đô thị tốt đẹp”,
một địa điểm đặc biệt thiêng
liêng, v́ nó là trung tâm mà nền văn minh sơ khai nhất
đă xuất phát từ đó để mở
đường lên phía Bắc. V́ thần văn hóa
được tŕnh bày là phát nguyên từ biển cả, nên
có thể là nền văn hóa đóng đô ở Eridu đă
được du nhập từ nước ngoài. Nay chúng ta
biết rằng, từ xưa, xứ
Ở Chaldea, người ta
biết tên vải the (muslin), mà ngày nay nó nổi danh là
vải
ĐOẠN
KINH 10
LỊCH SỬ
CỦA GIỐNG DÂN THỨ TƯ
(THE HISTORY OF THE
FOURTH RACE)
38. Giống dân
thứ Tư (Atlantis) ra đời. 39. Các phân chủng
của Giống dân thứ Tư bắt đầu phân chia
và pha trộn nhau; họ tạo thành các Giống dân
đầu tiên hỗn hợp nhiều loại màu da. 40. Giống
dân Atlantis trội hơn các Giống dân khác. 41. Họ sa vào
ṿng tội lỗi, sinh ra con cái và các quái vật. 42. Các
mầm mống đầu tiên của thuyết thần nhân
đồng h́nh và tôn giáo tính dục. Họ bị mất
“con mắt thứ ba”.
38. NHƯ
VẬY, CỨ HAI LẦN HAI,
39. GIỐNG THỨ NHẤT TRÊN MỖI VÙNG CÓ NƯỚC DA MÀU MẶT TRĂNG (VÀNG NHẠT); GIỐNG THỨ HAI SẮC DA MÀU VÀNG; GIỐNG THỨ BA MÀU ĐỎ; GIỐNG THỨ TƯ MÀU NÂU, NÓ TRỞ THÀNH MÀU ĐEN V̀ TỘI LỖI. ([521]) BẢY CHI CHỦNG ĐẦU TIÊN KHI KHỞI THỦY ĐỀU CÓ CÙNG MỘT MÀU DA. BẢY PHỤ CHỦNG KẾ TIẾP BẮT ĐẦU PHA TRỘN MÀU DA VỚI NHAU.
231
Để hiểu rơ Câu
kinh 38, chúng ta cần phải đọc lại ba Câu kinh
trong ĐOẠN 9. Từ trước cho đến giai
đoạn tuần hoàn này, con người thuộc về
tính chất siêu h́nh hơn là Thể chất. Chỉ sau khi
xảy ra sự SA
ĐỌA mà các Giống dân mới
bắt đầu phát triển mau chóng thành h́nh người
thực sự. Để cho môn sinh có thể hiểu
được đúng đắn ư nghĩa rốt ráo
của sự Sa đọa – ư nghĩa thực sự
của nó vô cùng huyền bí và siêu việt – người ta
phải tŕnh bày cho y các chi tiết trước nó, xét v́
thần học hiện đại đă khiến cho
biến cố này trở thành một cột trụ mà các
giáo điều tín ngưỡng phi lư và độc hại
nhất quay quanh đó.
Độc giả ắt c̣n
nhớ Thiên b́nh luận có giải thích rằng trong số
các Cấp đẳng Thiên Thần khi đến
lượt phải chuyển kiếp như Chơn Thần ở hạ
giới, vài vị tức khắc tuân theo Luật
Tiến Hóa khi những người của Giống dân
thứ Ba trở nên sẵn sàng về phương diện
thể chất và sinh lư, nghĩa là khi họ đă có sự
phân chia nam nữ. Đó là những vị từ lúc sơ
khai đă xuất hiện và nay lại có cả kiến
thức và ư chí thêm vào bản chất tinh khiết thiêng liêng
của ḿnh, đă dùng quyền năng ư chí (Kriyăshakti)
để tạo nên
những người nửa tiên nửa phàm. Những
người này về sau sẽ trở nên mầm mống
của các vị Tiên Thánh trong tương lai trên Địa
Cầu. Mặt khác, những vị muốn bảo thủ
lấy sự tự do trí thức của ḿnh v́ chưa
hề bị hệ lụy sự trói buộc của
Vật Chất, nên nói: “Chúng ta có thể chọn lựa v́
chúng ta có minh triết”. ([522])
Các vị này đă tŕ hoăn để măi về sau mới
chịu chuyển kiếp, và bởi vậy phải
chịu sự trừng phạt đầu tiên của
nghiệp quả báo ứng. Họ đă thọ lănh
những thể xác bất toàn về mặt sinh lư và
thấp kém hơn những kiểu mẫu bằng Thể
Dĩ thái của họ, bởi v́ các H́nh Bóng (Chhăyăs) của
họ thuộc về những Thủy Tổ hạ
đẳng trong Bảy Cấp khác nhau. C̣n những vị
“Con của Minh Triết” đă tŕ hoăn sự chuyển
kiếp cho đến thời kỳ Giống dân thứ
Tư, Giống dân này đă bị ô nhiễm (về mặt
sinh lư) bởi tội lỗi và bất tinh khiết, các
vị ấy đă gây nên một nghiệp xấu kinh
khủng mà quả báo c̣n đè nặng và đeo đuổi
họ cho đến ngày nay. Nó đă được tạo
ra nơi chính họ, và họ ắt mang mầm mống
bất công ấy trong hàng vô lượng thời sắp
tới, v́ các cơ thể mà họ phải làm cho linh
hoạt đă bị ô uế v́ sự tŕ hoăn của chính
họ. ([523])
Đó là sự “Sa đọa
của Thiên Thần” và các vị ấy đă vi phạm
Luật nghiệp quả. C̣n sự “sa đọa của Con người” th́ không
phải là một điều tội lỗi v́ họ vô trách nhiệm. Nhưng v́
hệ thống nhị nguyên luận đă chế ra
rằng sự “sáng tạo” là đặc quyền của
Thượng Đế” – đó là thuộc tính chính thống được thần
học phê chuẩn nhân danh một đấng Thiêng Liêng vô cực (infinite Deity) do chính
họ chế ra – nên quyền năng Kriyăshakti (quyền
năng tạo tác) phải bị xem là “Ma Quỷ” và là
một sự tiếm đoạt các quyền năng
của Thượng Đế. Như vậy, dưới
ánh sáng của các quan điểm hẹp ḥi này, điều
nói trên dĩ nhiên phải bị xem là một điều nói
xấu khủng khiếp về con người,
“được tạo ra theo h́nh ảnh của
Thượng Đế” và c̣n là một sự báng bổ ghê
gớm hơn nữa, thách thức giáo điều chấp
nê văn tự.
Người ta đă
bảo các nhà Huyền bí rằng: “Giáo lư của quư vị
khiến cho con người được tạo ra từ
cát bụi giống như Thượng Đế, một
hiện thể của Ma Quỷ, ngay từ đầu”.
232
Chúng tôi xin
đáp: “Tại sao quư vị lại biến Thượng
Đế thành một Con Quỷ, hơn nữa, cả hai
đều được tạo ra theo h́nh ảnh của chính quư vị ?”
Tuy nhiên, chỉ cần
thuyết minh Thánh kinh theo lối bí truyền cũng
đủ bác bỏ sự bịa đặt có tính cách vu
khống này của thần học: Giáo Lư Bí Nhiệm
phải trở thành nghiệp quả công chính của các Giáo
hội – c̣n phản Thiên Chúa giáo hơn cả các hội
đồng đại biểu của các nhà Duy vật và Vô
thần trung kiên nhất.
Theo ư nghĩa tiến hóa và
niên đại học, chân ư nghĩa của giáo lư cổ
truyền về các “Thiên Thần Sa Đọa”
được bao hàm trong kinh Kabalah và giải thích được
Thánh kinh. Người ta thấy nó chủ yếu là ở
trong Sáng Thế Kư, khi chúng ta thuyết minh Thánh thư này
với một tinh thần t́m hiểu chân lư, không quan tâm
tới giáo điều và không có tiên kiến. Chúng ta có
thể chứng tỏ điều này một cách dễ
dàng. Trong Sáng 233
rằng tác
phẩm này đă được viết ra vào “đầu
kỷ nguyên T.C. khi … các phong tục và tôn giáo của
người Ai Cập đă bị suy đồi”! ([526])
Điều này thật khó có thể xảy ra, v́ trong
một bức Thánh thư ([527])
của ḿnh, Judes đă trích dẫn từ Thánh Thư Enoch, và
do đó, như Tổng Giám Mục Laurence (người
đă dịch Thánh Thư Enoch từ bản dịch
tiếng Ethiopia) đă nhận xét, nó “đă không thể là
sản phẩm của một tác giả sống sau hay
thậm chí đồng thời với” các tác giả
của kinh Tân Ước, trừ phi, thật ra, Judo và các
Phúc Âm cùng với tất cả những thứ tiếp
theo, cũng đều là sản phẩm của Giáo hội
đă được dựng nên rồi (đây là
điều mà một vài nhà phê b́nh cho là không thể
được). Nhưng nay chúng ta quan tâm tới các “Thiên
Thần Sa Đọa” của Enoch hơn là bản thân Enoch.
Trong nội môn hiển
giáo Ấn Độ, các Thiên Thần (Asuras) này cũng
bị tố cáo là các “kẻ thù của chư Thiên”,
những kẻ chống lại việc tế Thần.
Trong thần học Thiên Chúa giáo, người ta tha hồ
kêu gọi các Ngài là “Chơn Linh Sa Đọa”, các vị anh
hùng của nhiều huyền thoại mâu thuẫn nhau lung
tung, chúng được thu thập từ các nguồn
Ngoại đạo. “Con rắn ngoằn nghoèo” – nghe nói
đó là một đặc tính dẵ bắt nguồn
từ người Do Thái – có một ư nghĩa khác hẳn
trước khi Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă xuyên tạc nó;
ngoài các ư nghĩa khác ra, nó c̣n có một ư nghĩa thuần
túy thiên văn.
Người ta tin rằng “Con
Rắn” từ trên cao giáng xuống có các Ch́a khóa của Âm
Ty, cho tới khi Đức Jesus thấy nó “từ trên
trời sa xuống như chớp lóe”, bất chấp
lối thuyết minh của Thiên Chúa giáo La Mă về “cadebat ut fulgur”. Thật ra, nó có
nghĩa là ngay cả loài ma quỷ cũng tuân phục Thiên
Đạo, Ngài là Minh Triết nhưng cũng là đối
thủ của vô minh, Quỷ Vương tức Lucifer.
Nhận xét này ám chỉ Minh Triết thiêng liêng sa xuống
như tia chớp, và như thế, kích động trí
tuệ cảu những kẻ chiến đấu chống
lại ma quỷ vô minh và mê tín dị đoan. Chừng nào
Minh triết dưới dạng các Chơn Linh đang lâm
phàm của TOÀN
LINH TRÍ, c̣n chưa
từ trên cao giáng xuống để làm linh hoạt
Giống dân thứ Ba và khiến cho nó được
sự sống hữu thức thực sự, th́ Nhân
loại (nếu chúng ta có thể gọi một trạng
thái vô tri vô giác như thế) dĩ nhiên là vẫn có số
phận phải bị diệt vong về mặt đạo đức cũng
như là hồng trần. Người ta đề cập
đến các Thiên Thần bị sa vào ṿng sinh hóa một cách ẩn dụ là các Con Rắn và Rồng Minh Triết. Mặt khác, khi xét
dưới ánh sáng của Thiên Đạo, chúng ta có thể
nói rằng cũng như 234
nơi chúng
ta (Chơn Ngă được tạo ra do sự kết
hợp bất diệt của Tuệ Giác Thể (Buddhi) –
nguyên khí thứ sáu – và tinh hoa tâm linh của trí tuệ,
“nguyên khí” thứ năm. ([528])
Chúng tôi được tŕnh bày rằng “Thiên Đạo là
Minh Triết thụ động trên Trời và là Minh
Triết tự động hữu thức trên Trần
Thế”. Đó là sự phối ngẫu của “Thiên
Đế”(“Heavenly Man”) với “Đức Mẹ
Đồng Trinh của Thế gian” tức Thiên Nhiên như
tác phẩm Pymander đă mô
tả; nó có kết quả là sinh ra con người bất
tử. Đó chính là điều mà kinh Khải Huyền
của Thánh John gọi là sự phối ngẫu của Con
Cừu với Phu nhân. Nay v́ các sự thuyết minh vơ
đoán của các tín đồ nên “người vợ” này
bị đồng nhất hóa với Giáo hội Thiên Chúa
giáo La Mă. Nhưng họ dường như quên rằng xét
theo bề ngoài, Giáo hội có thể có vẻ “khiết
bạch” giống như nấm mồ quét vôi trắng,
nhưng sự thối nát đầy dẫy bên trong nó không
phải là sự ngay thẳng của chư Thánh ([529])
mà đúng hơn là máu của chư Thánh mà nó đă “giết
chết trên trần thế”.([530])
Như thế, điều nhận xét của bậc
Điểm đạo đồ trong Thánh thư Luke – ám
chỉ tia sáng giác ngộ và lư trí, sa xuống nhanh như
chớp từ trên cao trong tâm trí của những kẻ
cải đạo trong giáo lư huyền môn cổ truyền,
rồi lại được bậc Chơn Tiên Minh
Triết ở Galilée tŕnh bày dưới một dạng
mới ([531])
đă bị xuyên tạc khiến không c̣n ai nhận ra
nữa (cũng như chính phàm ngă của y) và
được làm cho thích nghi với một trong các tín
điều thần học tàn ác và độc hại
nhất.
235
Nhưng
nếu chỉ có thần học Tây phương là giữ
độc quyền về quỷ SATAN – với mọi sự khủng khiếp
theo giáo điều bịa đặt đó – th́ các
nước khác và các tôn giáo khác cũng đă phạm
phải sai lầm tương tự khi thuyết minh sai
lạc một giáo điều vốn là một trong các quan
niệm lư tưởng có ư nghĩa triết học thâm thúy
nhất của tư tưởng cổ truyền. Cả
hai đều xuyên tạc và ám chỉ ư nghĩa đúng
đắn của nó trong nhiều ẩn dụ bàn về
đề tài này. Các giáo điều bán bí nhiệm của
Ấn Độ giáo trong kinh Purănas cũng không quên chế
ra các biểu tượng và ẩn dụ rất gợi ư
liên quan tới các Thần sa đọa và nổi loạn.
Kinh Purănas đầy dẫy các điều này, chúng ta thấy
kinh
Có một Định luật
Luân hồi Trường Cửu và những kiếp tái sinh
được dẫn đầu ở mỗi Chu kỳ
Sáng tạo mới bởi những Đấng đă
được giải thoát khỏi luân hồi sinh tử
trong những
236
Quan điểm của
Nội môn chân chính về quỷ Satan, ư kiến mà toàn
thể triết gia thời xưa đă chủ trương
về đề tài này, được tŕnh bày một cách
đáng thán phục trong một Phụ lục (nhan
đề là “Bí nhiệm về Satan”) của ấn bản
kỳ hai của tác phẩm Con Đường Hoàn
Thiện.([534])
Không thể nào tŕnh bày cho các độc giả thông minh
một chỉ dẫn rơ rệt hơn và chính xác hơn, v́
vậy nó sẽ được trích dẫn nhiều
lần nơi đây :
1. Và vào ngày
thứ bảy [cơ sáng tạo thứ bảy của
người Ấn Độ], ([535])
từ Bản lai diện mục (presence) của
Thượng Đế xạ ra một Thiên Thần Đại Hùng,
hét ra lửa trong cơn thịnh nộ; Thượng
Đế bèn giao cho y quyền cai trị nội giới ([536]).
2. Vĩnh cửu
sinh ra Thời gian; Vô biên sinh ra Giới hạn, Hiện
tồn sa vào ṿng sinh hóa. ([537])
4. Trong số các
Thần Linh chẳng có ai giống y, họ được
giao phó cho các giới, quyền lực và vinh quang của các
thế giới.
5. Các ngai vàng và
các đế quốc, các triều đại của các
Thánh Vương ([538]),
sự sụp đổ của các quốc gia, sự khai
sinh ra các Giáo hội, sự khải hoàn của thời gian.
Đó là v́ Hermes đă
dạy rằng:
20. … Satan (Quỷ
Vương) là kẻ giữ cửa ở Thánh điện của Thánh Vương, y
đứng sừng sững ở cửa Thánh điện
Solomon: y giữ các Ch́a khóa
của Thánh điện;
21. Không ai có
thể nhập vào đó ngoại trừ kẻ
được phong Thánh, y vốn có được Bí
nhiệm của Hermes.([539])
Đối với dân Cổ
Ai Cập và các dân tộc văn minh khác đời xưa,
các câu thơ gợi ư và tuyệt mỹ này nhằm nói tới
Huyền Quang sáng tạo và sinh
hóa của Thiên Đạo – Horus, Brahmă, Ahura Nazsa v.v…
với vai tṛ là các biểu lộ nguyên sơ của Nguyên
khí hằng vô biên, dù được mệnh danh là Ain Soph,
Thái Cực Thượng Đế tức Zeruăna Akerne, hay
thời gian vô biên (Kăla) – nhưng ư nghĩa đó nay đă
bị thoái hóa trong kinh Kabalah. Đối với dân Do Thái,
“Đấng Thánh Thiện” (“Anointed”) – Ngài có được
các bí nhiệm về Hermes (tức Budha, Minh Triết) và là
kẻ duy nhất được giao phó cho các “Ch́a khóa
của Thánh điện”, Tử Cung của Thiên Nhiên,
để làm cho nó đơm bông kết trái và khơi
hoạt toàn thể Càn Khôn – đă trở thành Jehovah,
“Thần Sinh Hóa” trên núi Nguyệt Tinh – Núi Sinai, Núi của
Mặt Trăng tức Sin. Thật vậy, Thánh điện
đă biến thành “Mật Điện” và điều bí
nhiệm đă được nhân h́nh hóa, sùng bái sinh
thực khí và bị lôi xuống lănh vực vật chất.
Do đó mới có nhu cầu biến Con Rồng Minh
Triết thành “Con Rắn” trong Sáng Thế Kư; biến vị
Thần hữu thức – vốn cần một sắc
tướng để khoác lấy sự thánh thiện có
tính cách quá nội tâm – thành Quỷ Satan. Nhưng “hằng hà
sa số các hóa thân của Tinh Thần” và “Ḍng dục
vọng rộn ràng không ngừng nghỉ” ([540])
nhằm nói tới : (a) Một
là, giáo lư về các kỳ Tái sinh Luân hồi theo Nghiệp
quả của chúng ta; (b) Hai là, Eros không phải là vị
Thần ái t́nh sinh lư vật chất sau này, mà là Dục
vọng Thiêng liêng nơi các Thần Linh (cũng như trong khắp Vũ
Trụ) hầu tạo ra và làm linh hoạt các Thực
Thể. Các Tia sáng của ngọn lửa “Tối” duy
nhất (v́ vô h́nh và không thể hiểu được)
chỉ có thể thành đạt được
điều này bằng cách tự ḿnh giáng xuống Vật
Chất. Do đó, Phụ lục xv tiếp tục tŕnh bày
như sau:
237
12.
Nhiều danh xưng nhờ Thượng Đế ban cho y
[Satan] các danh hiệu bí mật và khủng khiếp.
13. … Đối
thủ, v́ Vật Chất đối nghịch với Tinh
Thần và Thời gian kết tội ngay cả chư Thánh
của Chúa (Lord).
28. Hăy kính sợ
y và đừng phạm tội, hăy run run thốt ra danh
hiệu của y …
29. V́ Satan là Phán
Quan của công lư của Thượng Đế [Nghiệp
Quả], y mang cái cân và thanh gươm.
31. Đó là v́ Trọng lượng, Kích
thước và Số mục được giao phó cho y.
Nếu so sánh câu cuối cùng
với những điều tŕnh bày của vị giáo sĩ
Do Thái khi ông giải thích kinh Kabalah cho ông Hoàng trong Thánh
thư Al Chazari, th́ chúng ta sẽ thấy rằng trong Sepher
Jetzireh, trọng lượng, Kích thước và Số
mục là các thuộc tính của Đấng Sephiroth (ba
Sephrim, tức con số) bao trùm toàn bộ số 10; Sephiroth
là tập thể Adam Kadmon, “Thiên Đế” tức Thiên
Đạo. Như thế nền tư tưởng cổ
truyền đồng nhất Quỷ Vương với
Đấng Thánh Thiện.
33. Do đó,
Quỷ Vương là Sứ giả của Thượng
Đế, Chúa Tể của bảy cơi Địa ngục,
Thiên Thần của các Ngoại giới.
Chính “Satan là Thần Linh
duy nhất của hành tinh chúng ta”, và điều này không
hề ám chỉ bóng gió tới sự độc ác và
tồi bại của nó. V́ y đồng nhất với Thiên
Đạo.
Là vị thần đầu
tiên và xưa nhất trong tŕnh tự tiến hóa [linh thiêng]
của tiểu thiên địa, Saturn (Satan)(xét về
mặt thiên văn) là vị thần thứ bảy và cuối cùng trong tŕnh tự phân
thân của đại thiên địa, là chu vi của cơi mà
Phoebus (minh triết) [Ánh sáng Minh Triết cũng chính là
Mặt Trời] là trung tâm.([541])
Thế th́, các tín đồ
phái Ngộ Đạo thật là chí lư khi gọi vị
Thượng Đế của Do Thái giáo là một “Thiên
Thần Vật Chất” tức là đấng phà sinh khí (hữu
thức) vào Adam và có Hành tinh là Saturn.
34. Thế là
Thượng Đế thắt một ṿng đai ngang hông y
[các ṿng của Saturn], và ṿng đai này tên là Sự chết.
238
Trong nhân phổ luận
(anthropogony), “ṿng đai” này là cơ thể con người
cùng với hai nguyên khí hạ đẳng. Ba thứ này
đều chết đi, c̣n Chơn Nhơn vẫn bất
tử. Nay chúng ta bắt dầu đề cập tới
“Bí nhiệm về Satan”.
37. …đối
với y [Satan] chỉ có điều
ô nhục về sự sinh hóa.
38. Y đă
đánh mất tư cách trinh nguyên của ḿnh [khi lâm phàm,
vị Thiên Tôn đă bị như thế]; khi bộc lộ
các bí nhiệm thiêng liêng, y đă bước vào ṿng nô
lệ.
39. Y bao hàm
vạn vật với các giới hạn…
42. Có hai
đạo quân của Thượng Đế; trên trời
là các đạo quân của
43. Đó là
Đấng Vô Hiện và Biểu Hiện; kẻ tự do và
nô lệ [trong Vật Chất]; kẻ trinh nguyên và kẻ sa
đọa.
44. Và cả hai
đều là các sứ giả của Từ Phụ, thi hành
Thiên Đạo.
Do đó:
55. Ngày Sabbat
của Thượng Đế thật là thiêng liêng và khả kính, danh hiệu của Thiên
Thần Địa Ngục [Satan] thật là thánh thiện.
Đó là v́:
41. Vinh quang
của Satan là h́nh bóng của Thượng Đế trong
cơi biểu lộ [Đức Chúa Trời]; ngai của Satan
là ghế đẩu để gác chân của
Do đó, khi Giáo hội
nguyền rủa Satan, nó đă nguyền rủa phản ánh
Vũ Trụ của Thượng Đế; nó đă
nguyền rủa Thượng Đế biểu lộ
trong Vật Chất hay nơi ngoại cảnh; nó đă
chửi rủa Thượng Đế (tức Minh
Triết huyền vi) bộc lộ thành Ánh sáng và Bóng
Tối, Thiện và Ác trong Thiên Nhiên, theo cách thức duy
nhất mà trí tuệ hạn hẹp của Con Người
có thể hiểu được.
Đây là lối thuyết
minh siêu h́nh và triết học chân chính về Samael hay Satan.
Đối thủ trong kinh Kabalah; chúng ta cũng thấy tinh
thần và các giáo điều giống như vậy trong các
lối thuyết minh ẩn dụ của mọi tôn giáo
cổ truyền khác. Tuy nhiên quan điểm triết
học này không hề can dự vào các tài liệu lịch
sử liên quan tới nó. Chúng tôi bảo là “lịch sử”,
v́ ẩn dụ và sự tô điểm thần thoại xung
quanh hạt nhân truyền thuyết không hề ngăn
trở việc hạt nhân này ghi lại các biến cố
có thực. Như thế, khi lặp lại các điều
tiết lộ cổ kính của lịch sử đại
đồng thế giới của Quả Đất và
sự tiến hóa của các Giống dân của nó, kinh
Kabalah đă tŕnh bày nó dưới dạng huyền thoại
của nhiều loại tài liệu khác nhau hợp thành Thánh
kinh. Nay nền tảng lịch sử của nó (mặc dù
dưới một dạng bất toàn) được tŕnh
bày trong các trang trích từ Giáo Lư Bí Nhiệm của
phương Đông. Như thế, chúng ta thấy ư
nghĩa ẩn dụ và biểu tượng của Con
Rắn trong Sáng Thế Kư được giải thích
bởi “các Con của Minh Triết” – tức các Thiên Thần
xuất phát từ các Cơi cao, mặc dù tất cả
đều thuộc về các cơi của Quỷ
Vương, tức Vật Chất – tiết lộ cho con
người các bí nhiệm của cơi Trời. Cũng v́
thế, chúng ta thấy mọi cái gọi là các thần
thoại của chư Thần Ấn Độ, Hy Lạp,
Chaldea và Do Thái, đều dựa vào sự thật. Các
Người Khổng Lồ trong Sáng Thế Kư chính là
những người Atlantis lịch sử ở Lankă và các
vị Titans ở Hy Lạp.
239
Hẳn chúng ta c̣n
nhớ rơ rằng xưa kia người ta đă tuyên bố
rằng Troy (thành Trois) là một thần thoại và Homer là
một nhân vật không hề tồn tại, c̣n sự
tồn tại của các đô thị như là Herculaneum và
Pompei lại bị chối bỏ và gán cho chỉ là các
huyền thoại thần tiên hoang đường? Thế
nhưng, Schlieman đă chứng tỏ tằng Troy đă
thực sự tồn tại, và hai đô thị nêu trên,
mặc dù đă bị chôn vùi dưới lớp dung nham
của núi lửa Vesuvius trong hàng thời đại dài
đăng đẳng, cũng đă có lúc phục sinh và
lại sinh hoạt trên mặt Địa Cầu. Chỉ
những kẻ nào đọc được các quyết
nghị của Định mệnh trong Tinh Tú Quang mới
dám bảo có bao nhiêu đô thị và địa điểm
nữa vốn bị xem là “huyền hoặc” sẽ
được phát hiện trong tương lai, và có bao nhiêu
nhân vật nữa, đă từ lâu bị xem là thần
thoại ([542]),
một ngày kia sẽ trở thành nhân vật lịch sử.
Tuy nhiên, v́ các giáo
điều của giáo lư Đông phương đă luôn luôn
được bảo mật, và v́ độc giả khó
ḷng hy vọng là người ta sẽ tŕnh bày nguyên bản
của ḿnh, trừ phi y trở thành một đệ
tử nhập môn, nên xin quư vị độc giả La Tinh
và Hy Lạp hăy quay sang các nguyên bản văn chương
của Hermes. Chẳng hạn như xin y hăy đọc
chăm chú các trang mở đầu tác phẩm Pynander
của Đức Hermes Ba lần vĩ đại, thế
là y sẽ thấy trong đó các điều bổ chứng
cho giáo lư chúng ta, mặc dù văn bản của nó có vẻ
rất huyền bí. Y cũng sẽ thấy trong đó
sự tiến hóa của Vũ Trụ, của Trái
Đất (được gọi là “Thiên Nhiên” trong Pymander)
cũng như của mọi thứ khác, phát sinh từ
“Nguyên khí Ẩm ướt” tức Thái Uyên, PHỤ MẪU – biến phân bản sơ trong Vũ
trụ biểu lộ. Thoạt tiên là “Toàn Linh Trí” mà
dịch giả Thiên Chúa giáo đă biến thành Đức
Chúa Cha trong bản dịch xưa nhất; rồi tới
“Thiên Đế”, ([543])
đại Tập đoàn Thiên Thần vốn dĩ quá thanh khiết nên không thể tạo ra
các hạ giới (tức là thế giới của loài
người trên Địa Cầu); tuy nhiên, lại sa vào
Vật Chất do cùng một cuộc tiến hóa đó,
như là Ngôi Hai của Thượng Đế “Chúa Cha”. ([544])
240
Xét một
cách tổng hợp; mọi Thiên Đạo Sáng Tạo,
tức là “Ngôi Con hợp nhất với Ngôi Cha”, đều
là chính Đại Đoàn các Đấng Chưởng
Quản thế gian. Ngay cả thần học Thiên Chúa giáo
cũng mô tả bảy “Thiên Thần Bản Lai Diện
Mục” là các Đức Hạnh, tức các thuộc tính
được nhân cách hóa, của Thượng Đế;
chúng được Ngài tạo ra, cũng như chư Bàn
Cổ được Brahmă tạo ra rồi biến thành
các Tổng Thiên Thần (Archangel). Chính Khoa biện thần
luận Thiên Chúa giáo La Mă đă thừa nhận rằng Huyền Âm Nguyên Sơ sáng tạo chính là Thủ lănh của các
Thiên Thần này và là Thiên Thần của đại
Trạng Sư (great Counsel), như thế là nó đă
thừa nhận rằng Đức Christ đồng
nhất với họ.
Kinh điển dạy: “Các vị Sura trở thành A-Sura”- Thần Linh trở thành Phi Thần Linh (No-God) – nghĩa là chư Thần Linh biến thành loài Yêu Quỷ (theo sát nghĩa là Satan). Nhưng nay, trong Giáo Lư Bí Nhiệm, người ta sẽ tŕnh bày rằng Satan được tượng trưng một cách ẩn dụ là Điều Thiện và sự Tế Thần, một vị Thần Minh Triết với nhiều danh xưng khác nhau.
Kinh Kabalah dạy rằng
sự Kiêu ngạo và sự Tự phụ, hai yếu tố
chính xúi giục người ta trở nên Ích kỷ và Ngă
chấp – là các nguyên nhân khiến cho Thiên Đàng mất
hết một phần ba cư dân thiêng liêng (xét về
mặt thần bí) và bầu trời mất hết một
phần ba ngôi sao (xét về mặt thiên văn); nói một
cách khác, phát biểu đầu là một ẩn dụ, c̣n
phát biểu sau là một sự kiện. Tuy nhiên, như
đă tŕnh bày, phát biểu đầu có liên hệ mật
thiết với nhân loại.
Đến lượt các nhà
Hoa Hồng Thập Tự - họ vốn đă quá quen
với ư nghĩa bí mật của truyền thuyết –
lại khư khư giữ lấy nó cho chính ḿnh và chỉ
dạy rằng toàn bộ sự sáng
tạo là do “Trận chiến tranh trên trời” huyền
hoặc vốn dĩ phát sinh từ sự nổi loạn của các Thiên Thần ([545])
chống lại Thiên Luật
Sáng Tạo tức Hóa Công. Phát biểu này thật là chính
xác, nhưng cho đến nay, ư nghĩa nội tại của nó vẫn c̣n là một bí
mật. Việc tránh né giải thích điều khó hiểu
này thêm nữa bằng cách cầu cứu tới sự bí
mật thiêng liêng (nghĩa là cầu cứu tới tội
xoi mói vào chính sách của nó) chính là chẳng nói ǵ hết
cả. Nó có thể thỏa măn được những
kẻ nào tin tưởng rằng Đức Giáo Hoàng không
thể sai lầm, nhưng sẽ làm thỏa măn
được kẻ có đầu óc triết học.
Thế nhưng, hầu hết các môn đồ Do Thái Bí giáo
cao cấp đều biết sự thật, song chưa có
ai trong số đó đă từng nói ra điều ấy.
Tất cả các môn đồ Do Thái Bí giáo và nhà biểu
tượng học đă tỏ ra vô cùng miễn
cưỡng khi phải thú nhận một ư nghĩa nguyên
thủy về sự Sa đọa của các Thiên Thần.
Nơi một tín đồ Thiên Chúa giáo, việc im hơi
lặng tiếng như vậy cũng là điều tự
nhiên. Không một nhà Luyện kim đan hoặc triết gia
thời Trung cổ nào có thể thốt ra điều này mà
([546])
theo quan điểm của thần học chính thống, là
một sự
241
báng bổ
khủng khiếp, v́ nó sẽ đưa họ thẳng
tới đài tử h́nh qua ngă Truy tà pháp đ́nh. Nhưng
đối với các môn đồ Do Thái Bí giáo hiện
đại và các nhà Tự Do Tư Tưởng th́ vấn
đề này lại khác hẳn. Về phần các nhà
Tự Do Tư Tưởng, chúng tôi e rằng đó chỉ
là một sự tự phụ, kiêu ngạo của con
người dựa vào một điều mê tín dị
đoan vẫn bị lớn tiếng bác bỏ nhưng
vẫn không trừ tận gốc được. Trong
cuộc đấu tranh với chủ nghĩa Manicheism, v́
Giáo hội đă chế ra Ma Quỷ và đă dùng thần
học để làm tắt ngấm vị Tinh Quân Lucifer
rực rỡ, “Con Người của Buổi Mai”, như
thế là đă tạo ra nghịch lư vĩ đại
nhất – một Ánh Sáng tối
tăm – nên huyền thoại đă bén rễ quá sâu vào
trong ḷng đất cuồng tín khiến cho trong thời
đại hiện nay, ngay cả những kẻ vốn
không mặc nhận các giáo điều của nó và chế
nhạo Quỷ Vương có sừng và có móng rẽ
của nó, cũng không thể hiên ngang ra mặt rao giảng
nguồn gốc xa xưa của mọi truyền thuyết
xưa nhất. Nói một cách ngắn gọn, th́ vấn
đề như sau: xét về mặt bán công truyền,
“Người Con đầu ḷng” của Thượng
Đế toàn năng – Fiat Lux
– tức các Thiên Thần Bản Quang, được
lệnh phải sáng tạo;
một phần ba nổi loạn và không chịu sáng tạo,([547])
c̣n những kẻ “tuân lệnh” như Fetahil đă thất bại một cách
vẻ vang.
Để nhận
định đúng đắn được ư nghĩa
vật chất của sự từ chối và sự
thất bại, người ta phải nghiên cứu và
thấu triệt được triết học Đông
phương, người ta phải làm quen với những
giáo điều thần bí cơ bản của phái Veda,
về phần sự cực kỳ trá ngụy khi gán
hoạt động chức năng cho Đấng Thánh Linh
Vô Cực Tuyệt Đối. Nội môn Bí giáo chủ
trương rằng trong các thời kỳ Tranh tối tranh
sáng, “Mặt Trời Trung Ương” phát ra Ánh Sáng Sáng
Tạo – có thể nói là một cách thụ động. Quan
hệ nhân quả c̣n tiềm tàng. Chỉ trong các thời
hoạt động của Hiện Tồn th́ nó mới sinh
ra một ḍng năng lượng không ngừng, có các
luồng rung động ngày càng hoạt động
mạnh mẽ hơn khi chúng đi xuống từng nấc
một của chiếc thang Hiện Tồn có bảy
nấc. V́ thế, chúng ta có thể hiểu được
làm thế nào mà tiến tŕnh “sáng tạo” hay đúng hơn
là tạo h́nh, Vũ trụ hữu cơ cùng với mọi
đơn vị của bảy giới lại cần
tới các Đấng Thông Tuệ. Tập thể các
Đấng này đă biến thành một Đấng
Thần Linh Sáng Tạo, đă biến phân từ Nhất
Nguyên Tuyệt Đối, không có quan hệ chẳng khác nào
nhất nguyên tuyệt đối so với “sự sáng
tạo” có điều kiện.([548])
242
Nay các
bản thảo ở Ṭa Thánh
Đối
với họ [cũng như đối với dân Ăryan]
mặt trời trung ương là một trung tâm yên nghỉ; trung tâm mà chuyển động
rốt cuộc đều được qui chiếu
về xung quanh mặt trời Trung Ương này … mặt
trời thứ nhất quay tṛn trên một mặt phẳng
cực, mặt trời thứ hai quay tṛn trên một
mặt phẳng xích đạo… [c̣n mặt trời thứ
ba chính là mặt trời hữu h́nh của chúng ta]. Bốn
nhật cầu này là các cơ
quan có tác dụng chi phối cái mà con người gọi là
sự sáng tạo, sự tiến hóa của cuộc
sống trên địa cầu. Họ [môn đồ Do
Thái Bí giáo] cho rằng các nhật cầu này dùng vào các
vận hà điện để chuyển tác dụng
tới quả đất. Năng lượng quang huy xuất
hiện từ mặt trời trung ương ([550])
đă khai sinh ra địa cầu là một bầu có
nước,… với vai tṛ là hạt nhân của một hành
tinh, nó phải có khuynh hướng nhảy xổ về
phía mặt trời (trung ương) … nó đă
được tạo ra bên trong phạm vi hấp dẫn
của mặt trời đó … Nhưng khi điện hóa
cả hai một cách tương tự, năng
lượng quang huy đă giữ cái này tách rời khỏi
cái kia, như thế là đă biến chuyển động
hướng về thành ra chuyển động xung quanh tâm
hấp dẫn mà hành tinh xoay ṿng quanh [trái đất]
đang ra sức đạt tới.
243
Mặt trời
hữu h́nh
t́m thấy khuôn viên của riêng ḿnh nơi tế bào hữu
cơ và dùng nó để tạo ra giới động
vật trong khi làm chín muồi giới thực vật.
Cuối cùng nó đặt con người đứng
đầu giới động vật, nhờ có tác
dụng khơi hoạt của giới đó, nó đă phát
sinh ra tế bào tâm linh. Nhưng con người
được đặt đứng đầu giới
động vật, đứng đầu cơ sáng
tạo, lại là con
người hữu hoại, vô hồn và đầy thú
tính … V́ thế, mặc dù có vẻ là tột đỉnh
của giới động vật, khi xuất hiện, con
người đă đánh dấu sự kết liễu
của cơ sáng tạo; đó là v́ vốn đạt tột
đỉnh nơi con người nên cơ sáng tạo
đă bắt đầu suy thoái khi con người bị
diệt vong. ([551])
Ở đây, quan điểm
của Do Thái Bí giáo được trích dẫn để
chứng tỏ nó có tinh thần hoàn toàn đồng nhất
với Giáo lư Đông phương. Cứ việc giải
thích hoặc bổ sung giáo lư về Bảy Mặt Trời
với bảy hệ thống Cảnh
giới Hiện tồn mà “Mặt Trời” là thiên
thể trung ương, chúng ta có bảy cơi Thiên Thần mà
“Tập đoàn” chính là các Thần Linh của cơi đó. ([552])
Đó là Nhóm Lănh Đạo được chia thành bốn
Lớp, từ lớp vô
sắc tướng xuống măi tới lớp bán
sắc tướng. Các lớp này có liên hệ trực
tiếp – mặc dù theo nhiều cách khác nhau, xét về
mối liên hệ tự nguyện và chức năng –
với nhân loại. Đó là ba lớp được
tổng hợp bởi lớp thứ tư, lớp bản
sơ và cao siêu nhất, nó được gọi là “Mặt
Trời Trung Ương” trong giáo lư Do Thái Bí giáo vừa
được trích dẫn. Đây là sự dị biệt
lớn lao giữa vũ trụ khởi nguyên luận
của dân Semite và dân Ăryan –
một đàng th́ vật chất hóa, nhân h́nh hóa các bí
nhiệm của
V́ mọi việc
đều diễn biến theo định luật chu
kỳ, sự tiến hóa của con người cũng
như tất cả mọi sự việc khác, trật
tự diễn biến về việc cấu tạo nên con
người được diễn tả đầy
đủ trong Giáo lư huyền môn Đông phương, c̣n
huyền môn kinh Kabalah th́ chỉ nói một cách ngụ ư
bằng những lời ẩn dụ bóng bẩy. THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH nói về con người nguyên thủy
khi vừa được phóng xuất từ cái thể
khinh thanh của “Đấng Không Xương” tức
Đấng Sáng Tạo Vô Sắc Tướng như sau:
244
Trước tiên là Khí Vận
(Breath), rồi tới Buddhi và Thể Xác được
“tạo ra”. Nhưng c̣n Nguyên khí trung gian, tức Thể Trí
(Manas) ở đâu? Con
người đành chịu bất lực. Khi đứng
riêng một ḿnh th́ cái Nguyên Tố chưa biểu lộ và
Buddhi – Nguyên nhân của cái Vô nguyên nhân – tách rời khỏi
sự sống biểu lộ.
Thiên b́nh luận giải thích
thêm: “Trừ phi nó
được hàn gắn rồi nối liền bởi
nguyên khí trung gian, cái thể của ư thức cá biệt
của Jiva”.
Nói cách khác, hai “nguyên khí” cao không thể có bản ngă trong
cuộc sống Thế gian và không thể là con người, trừ phi có:
(a) Thể Trí (Manas) để tự biết, để có
tri thức, và (b) Phàm Ngă gồm những dục vọng ích
kỷ và Ư Chí cá biệt để hàn gắn toàn bộ các
nguyên khí – ví như chung quanh một cái trục, giữa nó
quả thật như vậy – với thể xác con
người. Chính những “nguyên khí” thứ năm và
thứ tư ([553])
- tức Thể Trí và Thể Cảm Dục – chứa
đựng Cá tính lưỡng nguyên, c̣n Chơn Ngă bất
diệt, nếu nó đồng hóa với hai nguyên khí cao
hơn, và cái Phàm Ngă phù du giả tạm, thường
gọi là Uyển h́nh hay Anh Linh thể (Măyăvi or Astral Body)
tức là sinh nhân hồn
(animal-human Soul) cả hai đều kết hợp
chặt chẽ với nhau v́ mục đích thực
hiện một đời sống đầy đủ ở cơi trần gian. Chúng ta
hăy thử gán ghép một Chơn Thần Tâm Linh của
một nhà bác học như
Tuy nhiên, có những môn sinh
đă hiểu từ lâu rồi ư nghĩa triết học
đàng sau ẩn dụ - đă bị Giáo hội Thiên Chúa
giáo La Mă xuyên tạc biết bao – về các “Thiên Thần Sa
Đọa”.
Cơi vong linh và tác động
tâm linh, vốn bắt nguồn từ và là sản phẩm
của quyết ư tâm linh, ở bên ngoài và đối
nghịch với cơi linh hồn (thiêng liêng) và tác động
thiêng liêng.([554])
Lời b́nh luận nói:
245
Trong việc cấu tạo nên con
người, ḍng nào sinh ra giống nấy chứ không
hơn không kém, cơ tiến hóa với những
định luật tùy thuộc ngoại giới và hữu
hạn sẽ đến sau. Những Thực Thể
Tự hữu tự tại được gọi là
những “Công tŕnh sáng tạo” v́ các vị ấy xuất
hiện trong Cung Tinh Thần, biểu lộ xuyên qua tiềm
năng nội tại vốn hàm súc trong Tính chất BẤT
SINH của nó ở ngoài Thời gian và Không gian. Những
sản phẩm ở cơi trần dù hữu thức hay vô tri
bất động, gồm cả loài người
đều được gọi một cách sai lầm là
công tŕnh sáng tạo hay chúng sinh; chúng là sự tiến hóa
của những nguyên tố ẩn tàng.
Và kế đó là:
Vị
Thiên Thần tạo nên con người theo h́nh ảnh
của Ngài, đó là một ư niệm tâm linh tiếp theo
sự phân hóa đầu tiên và sự thức động
của chất liệu vũ trụ [biểu lộ]. H́nh
ảnh đó là H́nh bóng lư tưởng: đó là Con
Người của Giống dân thứ Nhất.
Để diễn tả rơ
ràng hơn và chỉ giới hạn sự giải thích trong
phạm vi Địa Cầu này mà thôi, th́ các vị Thiên
Thần có bổn phận gieo rắc vào Vật Chất
Nguyên Thủy cái động cơ tiến hóa và
hướng dẫn mọi khả năng cấu tạo
của nó trong việc uốn nắn, sáng tạo nên mọi
h́nh thể. Đó là điều mà các truyền thuyết
Đông phương cũng như Tây phương đă
đề cập đến trong câu: “Các vị Thiên
Thần được truyền lệnh hăy sáng tạo”.
Sau khi Trái Đất đă được chuẩn bị
sẵn sàng bởi những Quyền
năng thấp và vật chất hơn và ba Loài của
nó đă khởi sự đi trên đường “sinh
nở và truyền giống” th́ những Quyền lực cao
cả hơn, tức là những vị Thiên Sứ hay
Đại Thiên Thần, do Luật tiến hóa bắt
buộc phải hạ xuống Địa Cầu
để xây dựng nên cái thành quả tiến hóa của
nó: đó là Con Người. Như vậy, những
Đấng Tự Tại Tự Sinh và Tự Hữu đă
phóng xuất những H́nh bóng mờ ảo của các Ngài,
nhưng c̣n Nhóm thứ Ba là các Hỏa Thần, đă chống đối lại và từ chối không làm theo các vị
kia.
Ấn giáo công truyền
biểu thị các vị ấy như các Yogi bởi ḷng
sùng đạo mà từ chối không chịu “sáng tạo”,
v́ các vị muốn bước vượt bực lên Niết
Bàn và đạt tới giải thoát trước các bạn
đồng môn. Nhưng khoa
nội giáo bí truyền lại diễn đạt
ngược lại và cho rằng sự sáng tạo đó là
một sự tự hy sinh v́ ích lợi của nhân loại.
Những vị “Phản kháng” không muốn sáng tạo nên
những người không có ư chí, vô trách nhiệm, như
những vị thiên thần “tuân lệnh trên” đă làm. Các
vị ấy cũng không thể ban phát cho loài người chỉ có
sự phản ánh tạm thời những đặc tính
riêng của ḿnh mà thôi, bởi lẽ chí đến những
đặc tính này, v́ thuộc về một cơi ư thức cao
hơn nhiều nên không gây ảnh hưởng
được bao nhiêu, làm cho con người vẫn c̣n vô
trách nhiệm và do đó sẽ làm ngăn trở mọi
triển vọng tiến hóa của y. Đối với
những vị đă toàn thiện th́ không thể có sự
tiến hóa tâm linh hay tinh thần trên Cơi Trần là cơi
thấp nhất và nặng trọc nhất, v́ những
vị ấy không c̣n có thể thu hoạch gặt hái
một kết quả thiện cũng như ác nào nữa
ở cơi này. Về phần Con Người vẫn là cái H́nh
bóng nhạt mờ của sự toàn thiện bất
động, cứng nhắc không dời đổi, có
lẽ sẽ phải trải qua đời sống trên Trái
Đất như trong một giấc ngủ nặng
nề không mơ, và bởi vậy, y sẽ là một
sự
246
thất
bại ở cơi trần này. Các Đấng hay Đấng
được gọi chung là Elohim – các Ngài đă thốt ra
(nếu quả thực chúng đă được thốt
ra) những lời ác độc sau đây “Này, con
người phải trở nên đồng
nhất với chúng ta, biết được thiện
và ác; và này y phải ch́a tay ra,
cầm lấy cây trường sinh, ăn và sống măi…” –
ắt phải đích thực là Ildabaoth, Hóa Công của các
tín đồ Nazarene, nổi cơn
thịnh nộ và ghen ghét vật do chính ḿnh tạo ra,
phản ánh của nó đă tạo ra Linh Xà. Trong
trường hợp này, cũng tự nhiên thôi – ngay cả
theo quan điểm chấp nê văn tự – khi xem
Tác phẩm Các môn
đồ phái Ngộ Đạo và các Di Tích bàn về
Ildabaoth (mà nhiều giáo phái xem là Thượng Đế
của Moses) như sau:
Ildabaoth c̣n xa
lắm mới là một Chơn Linh thuần khiết, y có
cấu tạo đầy tham vọng và ḷng kiêu ngạo. Do
đó, y đă quyết định cắt đứt
mọi liên hệ với thân mẫu của ḿnh là Achamoth, và
tạo ra một thế giới hoàn toàn dành cho riêng ḿnh.
Được sáu Vong Linh của chính ḿnh trợ giúp, y
tạo ra Con Người và định dùng nó làm h́nh ảnh
của quyền năng của ḿnh; nhưng y hoàn toàn
thất bại trong công tác này, v́ Con Người của y
tỏ ra là một quái vật khổng lồ, vô hồn, ḅ
lê trên mặt đất. Sáu Vong Linh bắt buộc lại
phải đưa công tác ra tŕnh cha để
được khơi hoạt. Y làm thế bằng cách
truyền đạt tia Linh Quang mà chính y đă kế
thừa của Achamoth, v́ bị mất mát như vậy nên
Achamoth đă phạt y về tội kiêu căng và tự
măn.
Khi
được Achamoth ưu đăi như vậy làm
phương hại đến người con của chính
bà, con người đă đi theo xung lực Linh Quang mà bà
đă truyền cho y, thu thập thêm một phần cung
ứng từ cơ sáng tạo mà nó bị ḥa lẫn vào và
bắt đầu không tŕnh bày h́nh ảnh của
Đấng sáng tạo Ildabaoth, song đúng hơn là h́nh
ảnh của Đấng Tối Cao “Con Người Nguyên
sơ”. Khi thấy như vậy, Hóa công cuồng nộ và
ganh ghét v́ đă tạo ra một sinh linh cao cấp hơn
ḿnh biết bao. Được khêu gợi bởi các
thị dục đó, ánh mắt của y phản chiếu
trong một tấm gương, h́nh ảnh trở nên
sống động, và “Satan có h́nh dạng Rắn”, Linh Xà,
hiện thân của ganh tỵ và xảo quyệt liền
xuất hiện.([555])
Đây là lối thuyết
minh ngoại môn của các môn đồ phái Ngộ
Đạo, và mặc dù là một lối thuyết minh thiên
vị, ẩn dụ này thật là gợi ư và dường
như là đúng sự thật. Đó là sự suy diễn
tự nhiên sát nguyên văn của Chương iii Sáng
Thế Kư.
247
Do đó
mới có ẩn dụ về Prometheus, y đă ăn cắp
Lửa Thiêng để giúp con người có thể
tiến một cách hữu thức trên con đường
Tiến hóa Tâm linh, thế là biến đổi động vật hoàn hảo
nhất trên Trần Thế thành ra một vị
Thượng Đế tiềm tàng, và đề cho y tha
hồ “dùng bạo lực để chiếm lấy thiên
giới”. Cũng v́ thế mà Thần Vương Zeus
mới nguyền rủa Prometheus và Jehovah-Ildabaoth mới
nguyền rủa Satan, “người con nổi loạn
của ḿnh”. Núi tuyết băng trinh của rặng
Quỷ Vương [tức
Lucifer] tiêu biểu cho năng lượng chủ
động hoặc [theo lối nói của Jules Baissac]
Năng lượng ly tâm của Vũ Trụ [theo một ư
nghĩa vũ trụ]. Y là Lửa, Ánh sáng, Sự Sống, Sự
đấu tranh, Nỗ lực, Tư tưởng, Ư
thức, Sự tiến bộ, Văn minh, Tự do và
Độc lập. Đồng thời y cũng là Đau khổ, vốn là
Phản ứng của Lạc
thú, Hành động và Sự
chết – vốn là sự đổi đời (Quỷ
Vương nung nấu trong Địa ngục của chính
ḿnh, được tạo ra do cơn thịnh nộ
của chính động lực ḿnh) – sự tan ră bành
trướng của Tinh vân vốn phải tập trung vào
các Thế giới Mới. Và y cứ bị ngăn trở
bởi sự bất động đời đời
của Năng Lượng Thụ động Vũ
Trụ - “Ta là”(“I am”) bất
di bất dịch – Viên đá lửa xẹt ra các tia
lửa. Thế là … y và các tín đồ … được
giao phó cho “Bể Lửa” – v́ đó là Mặt Trời
[chỉ theo một ư nghĩa duy nhất trong ẩn dụ
vũ trụ], cội nguồn của Sự Sống trong
Thái Dương Hệ chúng ta,
nơi mà chúng được thanh luyện (nghĩa là do
đó bị phân ră) và khuấy tung lên để sắp
xếp chúng lại cho một
kiếp sống khác (sự phục sinh) – Ngôi Mặt
Trời mà, với vai tṛ Nguồn gốc và Nguyên khí Tác
động của Địa Cầu, tức khắc là Trú sở
và Cội nguồn của
Satan Thế tục …
Hơn nữa, người ta
biết rằng sức lạnh có một tác dụng
hướng tâm như thể để chứng tỏ
sự chính xác của thuyết tổng quát của Baissac
[trong tác phẩm Con Quỷ và Satan]. Khi bị Lạnh,
mọi vật đều co rúm lại … Khi bị Lạnh,
Sự Sống say sưa giấc ngủ đông miên hoặc chết dần, Tư
Tưởng đông lại và Lửa tắt ngúm. Satan
vốn bất tử trong Bể Lửa [Fire-Sea] của
riêng ḿnh – y chỉ không thể tồn tại trong “Nifl-Heim”
[Địa Ngục băng trong các thần thoại Eddas
của Bắc Âu] của “Ta
là”. Nhưng đối với tất cả mọi
điều đó, có loại Tồn tại bất tử
trong Nifl-Heim, và sự Tồn tại đó phải an lạc, v́ nó Vô thức và Bất động. Trong cơi
của JEHOVAH [nếu vị Thần này có
đủ mọi tính chất mà các tín đồ Do Thái giáo
và Thiên Chúa giáo thường khẳng định] không có
khốn khổ, chiến tranh, cưới hỏi, hôn nhân,
đổi chác và NGĂ
THỨC.([558])
Vạn vật đều được hấp thụ vào
tinh thần của Đấng Toàn Năng. Đó dứt khoát là một Cơi an b́nh và Phục tùng trung thành chẳng khác nào cơi
của “Chúa Tể Phản Nhân Loại” (“Arch-Rebel”) là cơi
Chiến tranh và Cách Mạng. Cơi nêu trên chính là cái mà Minh
Triết Thiêng Liêng gọi là Niết Bàn. Nhưng rồi Minh
Triết Thiêng Liêng lại dạy rằng một khi mà
sự Phân cách khỏi Cội nguồn Nguyên thủy đă diễn ra, th́ chúng ta
chỉ có thể đạt được sự Hợp
nhất bằng NỖ LỰC CỦA Ư CHÍ, nó rơ rệt là có
tính cách Satan theo nghĩa của bài tiểu luận này. ([559])
Nó có tính cách “Satan”, theo quan
điểm của Giáo hội La Mă chính thống, v́ nhờ
có nguyên kiểu của cái chẳng sớm th́ muộn
sẽ trở thành Ma Quỷ của Thiên Chúa giáo –
đối với các Tổng Thiên Thần, Thiền
Định Đế Quân quang huy, họ không chịu sáng
tạo v́ họ muốn Con Người trở thành Đấng sáng tạo ra chính ḿnh và là
một Thần Linh bất tử - mà con người
mới có thể đạt được Niết Bàn và
bến bờ An b́nh Thiêng liêng.
Để kết thúc phần
b́nh luận khá dài ḍng này, Giáo Lư Bí Nhiệm dạy rằng
các vị Hỏa Thần, Rudras và Kumăras hay “Thiên
Đồng” (các Thiên Thần 249
cơi trên
để giáng hạ xuống Trần suốt trong chu
kỳ của một Đại Thế (Mahăyuga) khoác
lấy một Bản Ngă cá biệt như những
người phàm và hy sinh niềm hạnh phúc siêu việt
của cơi trời để chuộc lấy sự đau
khổ của cuộc đời thế tục. Nhưng
khoa thần học công truyền xem sự t́nh nguyện hy
sinh của những vị Hỏa Thần đó (mà tính
chất của các vị ấy vốn là Hiểu biết và Bác
ái) như một việc sai lầm và diễn
đạt điều ấy trong một câu nói rằng
những “Thiên Thần phản kháng bị trục xuất
ra khỏi Thiên giới và bị đọa xuống
Địa ngục hắc ám (ám chỉ Cơi Trần chúng ta).
Triết học Ấn Độ nói bóng gió tới chân lư
ấy bằng cách dạy rằng các A Tu La bị Shiva xô
xuống, chỉ là một trạng thái trung gian trong đó
họ sửa soạn cho các mức độ thanh luyện
và cao siêu hầu thoát khỏi t́nh trạng khốn khổ.
Tuy nhiên, để áp đặt lời khẳng
định đó một cách nghịch lư, thần học
Thiên Chúa giáo vốn tự cho là ḿnh dựa vào nền tảng
bác ái, từ bi và công b́nh thiêng liêng của Đấng mà nó
xem là Đấng Cứu Thế của ḿnh – đă chế
ra giáo điều gớm ghiếc về Địa
ngục, cái đ̣n bẩy Archimede của triết học
Thiên Chúa giáo La Mă.
Trong khi đó, Minh Triết Do
Thái giáo – chẳng có ǵ duy thực, duy vật, thô tục
hơn nó, v́ nó nhận ch́m mọi vật vào các bí nhiệm
sinh lư – gọi các Đấng này là “Hung Thần”. C̣n các môn
đồ Do Thái Bí giáo lại gọi họ là
Tác giả xin giải thích ngay rằng chúng
tôi không bài bác lối thuyết minh đúng đắn kinh
Zohar hoặc bất kỳ thánh thư nào khác trong kinh Kabalah
– v́ nó đâu có khác ǵ lối thuyết minh của chúng tôi –
mà chỉ bài bác các lối thuyết minh thô lậu, nội
môn giả dối sau này, nhất là của các môn đồ
Do Thái Bí giáo Thiên Chúa.
Thiên b́nh luận viết:
Trái
đất và con người nguyên là sản phẩm của
ba loại Lửa.
Theo Bắc Phạn ngữ (Sanskrit)
ba loại Lửa này là Lửa
điện, Lửa Thái Dương, và Lửa gây nên bởi
sự Cọ xát. Giải thích trên b́nh diện Vũ
Trụ và nhân sinh, ba thứ Lửa này là Tinh Thần, Linh
Hồn và Thể Xác, tức là ba Nhóm căn bản cộng
thêm với bốn phân bộ nữa. Các nhóm này khác nhau tùy
theo Trường Phái và – tùy theo các áp dụng của chúng –
trở thành các hiện thể,
tức là các bản thể
của những thứ đó. Trong các lối tường
thuật ngoại môn, chúng được nhân cách hóa thành ra
“ba người con rực rỡ huy hoàng quá mức” của
Agni Abhimănin, Con Cả của Brahmă, Càn Khôn Thượng
Đế, thành ra Svăhă,
250
một trong
các con gái của Daksha. ([562])
theo ư nghĩa siêu h́nh, “Lửa cọ xát” có nghĩa là sự
hợp nhất giữa nguyên khí thứ sáu tức Buddhi và
nguyên khí thứ năm tức Thể Trí. Trong sự hợp
nhất đó, Thể Trí hỗn hợp và trở thành
một phần của Chơn Thần. Theo ư nghĩa
vật chất th́ Lửa cọ xát ấy có liên quan tới
đốm lửa sáng tạo
hay mầm sống là động lực hóa sinh ra con
người. Ba loại Lửa này, mà danh xưng là Păvaka,
Pavamăna và Shuchi, lại bị Vasishtha, đại Hiền
Triết, nguyền rủa “cứ phải sinh đi sinh
lại nhiều lần”.([563])
Điều này cũng đủ rơ rệt rồi.
Do đó, nghe nói các NGỌN LỬA – người ta đă
lẫn lộn các chức năng của họ trong các tác
phẩm ngoại môn, và gọi lẫn lộn họ là các
Đấng Prajăpati, Pitris, Bàn Cổ, A Tu La, Thánh Hiền,
Thiên Tôn ([564]),
v.v…- đă đích thân lâm phàm trong Căn chủng thứ Ba
và như thế, thấy ḿnh cứ “sinh đi sinh lại
măi”. Trong Nội môn Bí giáo, các Ngài thường
được mệnh danh là các A Tu La tức Asura Devată
(Thần Linh), v́ như đă nói, các Ngài là chư Thần Linh
bản sơ – và cao cấp nhất – trước khi
biến thành “Phi Thần Linh”, và đă từ địa
vị các Chơn Linh Thiên giới, sa xuống thành ra các Vong
Linh Trần Thế ([565])
- lưu ư và xét về mặt ngoại
môn, trong giáo điều chính thống.
Chẳng nhà thần học hoặc
nhà Đông phương học nào đă từng hiểu
được gia phả của các Đấng Prajăpati, Bàn
Cổ và Thánh Hiền, hoặc mối liên hệ trực
tiếp – mối tương quan th́ đúng hơn – của
các Ngài với các Thần Linh, trừ phi y có được
ch́a khóa giải vũ trụ khởi nguyên luận và thần
phổ học cổ sơ mà mọi quốc gia thoạt
tiên đă có chung. Chúng ta thấy mọi Đấng Thần
Linh và Bán Thần này đều tái sinh trên Trần Thế,
trong nhiều thiên kiếp khác nhau với nhiều tính cách
khác nhau; hơn nữa, mỗi
vị đều có Nghiệp Quả được truy
nguyên rành mạch và mọi hậu quả đều
được qui về đúng nguyên nhân.
251
Trước
khi có thể giải thích các ĐOẠN KINH khác, chúng ta có thể thấy
là nhất thiết cần phải nêu rơ ràng mặc dù
đồng nhất với các Tổng Thiên Thần mà
thần học đă quyết định gọi là “Các
Thiên Thần Sa Đọa”, các Con của “Minh Triết U
Mê”(“Dark Wisdom”), cũng thiêng liêng và thanh khiết như
(nếu không muốn nói là thanh khiết hơn) mọi
Đấng Michael, Gabriel mà các Giáo hội đă tâng bốc
quá đáng. Cổ thư cũng bàn về các chi tiết khác
nhau của cuộc sống ở Anh Linh giới (Astral Life),
mà trong t́nh trạng này, độc giả sẽ hoàn toàn
không hiểu biết ǵ hết. Do đó, chúng ta phải gác nó
lại để giải thích sau, và hiện nay chúng ta
sẽ chỉ quan tâm vừa đủ tới các Giống
dân thứ Nhất và thứ Hai. Giống dân thứ Ba th́
lại không như vậy – đó là Căn chủng đă
phân chia giới tính và là Căn chủng đầu tiên
đă được phú cho lư trí; con người tiến
hóa song song với
Địa Cầu, vấn đề Địa Cầu
đă đóng vỏ cứng hơn một trăm triệu
năm trước khi chi chủng thứ nhất chưa
kịp bắt đầu hiện h́nh hay đông đặc
lại, tạm gọi như vậy. Nhưng ĐOẠN KINH đă tŕnh bày như sau:
Chơn
Nhơn (Thực Thể hữu thức) đă không hề
tồn tại.
Huyền bí học cho
rằng thậm chí trong nhiều trường hợp,
“Thực Thể hữu thức” này xuất phát từ chính
bản thể của các Đấng Vô Cùng Thông Tuệ
đă bị luật tiến hóa nghiệp quả bất di
bất dịch bắt buộc phải tái sinh trong Chu
kỳ Khai Nguyên này.
b. Câu kinh 39 đặc
biệt nói về những sự phân chia chủng tộc.
Triết học Nội môn dạy rằng con người
có một nguồn gốc sáng tạo đa diện. Một
mặt, nhân loại vốn có một nguồn gốc duy
nhất, v́ lẽ tất cả những vị Thủy
Tổ hay các Đấng Sáng Tạo đều là những
vị Thiên Sứ, tuy ở nhiều tŕnh độ toàn
thiện khác nhau trong cấp đẳng Thiên Thần.
Mặt khác, con người vẫn sinh ra trên bảy trung tâm
hay địa phương khác nhau của lục địa
ban sơ hồi thời kỳ nguyên thủy. Tuy rằng,
tất cả nhân loại đều do cùng một gốc
sinh ra, nhưng v́ những lư do nêu trên, nên khả năng trí
tuệ, h́nh thể bên ngoài, cùng những tiềm năng tâm
linh và những đặc tính tương lai của họ
đều rất khác nhau.([566])
Về phần các sắc da của họ, có một ẩn
dụ gợi ư được tŕnh bày trong Linga Purăna. Các
Thiên Tôn – cái gọi là chư Thần Rudra – được
mô tả là các hiện thân của Shiva, Ngôi Hủy Diệt (các h́nh hài ngoại cảnh)
cũng được mệnh danh là Vămadeva với vai tṛ là
một Thiên Tôn “Đấng Độc Thân Đời
Đời”, Đấng Thanh Xuân Trinh Khiết, Vămadeva phát sinh từ Brahmă trong mỗi
đại Chu kỳ Khai Nguyên, và lại “hóa thành bốn”,
điều này nhằm nói tới bốn Giống dân chính – xét về sắc da và
mẫu người – và ba biến thái của các Giống
dân này. Thế là trong Thiên Kiếp thứ hai mươi chín
– trong trường hợp này, nó nhằm nói tới sự
biến hóa và tiến hóa của h́nh dạng người, mà
Shiva đă từng hủy diệt và uốn nắn lại
một cách định kỳ cho tới điểm quanh
của đại Chu Kỳ Khai Nguyên, vào khoảng giữa
Giống dân thứ Tư – với vai tṛ là Shvetalohita, vị
Thiên Tôn Căn Cốt, Shiva biến từ sắc da màu
mặt trăng thành ra da
trắng; trong kỳ biến hóa kế, Ngài có da đỏ (về
điều này, lối thuyết minh ngoại môn khác hẳn
Giáo lư Nội môn) trong kỳ biến hóa thứ ba, Ngài có da vàng, c̣n trong kỳ biến
hóa thứ tư, Ngài có da
đen.
252
Khoa huyền
môn sắp hạng bảy loại trên với bốn phân
bộ lớn, gồm lại thành ba giống dân ban sơ rơ
rệt, không kể Giống dân thứ Nhất v́ Giống
dân này không hề có loại hay sắc da, mà chỉ có
một h́nh bóng khinh thanh tuy rằng to lớn. Sự
tiến hóa của Giống người này, sự h́nh thành
và phát triển của họ diễn tiến trên những
đường hướng song đôi với sự
tiến hóa, h́nh thành và phát triển của ba giai tầng
địa chất và sắc da con người cũng tùy
đó mà xuất hiện, cũng như nó được
quyết định bởi khí hậu, thời tiết
của những khu vực liên hệ. Ba hạng giống
dân chính kể trên là những giống dân DA MÀU VÀNG
ĐỎ, DA ĐEN
và DA
TRẮNG NÂU.([567]) Họ có tŕnh độ cao
thấp khác nhau tùy theo nghiệp quả của những
Chơn Thần đầu thai. Các Chơn Thần này
vốn dĩ không thể có cùng một tŕnh độ tinh
khiết giống như nhau trong những kiếp cuối
cùng của họ trên những Bầu thế giới khác.
Đó là lư do của sự dị biệt chủng tộc,
tŕnh độ thấp kém của người dă man và
của vài giống người khác. Giống người
Ăryan chẳng hạn, hiện nay gồm nhiều sắc da
màu nâu sậm, gần như đen, màu nâu vàng chí đến
màu hồng bạch hay da trắng, nhưng tất cả
đều thuộc về một chủng tộc duy
nhất là Giống dân thứ Năm và xuất phát từ
một Thủy Tổ duy nhất, mà Ấn giáo công truyền mệnh danh là
Đức Bàn Cổ Vaivastava. Đấng này là vị
Hiền Triết mà truyền thuyết cho rằng đă
sống trên 18 000 000 năm và cách đây 850 000 năm vào
thời kỳ tai biến nhận ch́m những tàn tích
cuối cùng của Châu Atlantis,([568])
và hiện nay cũng c̣n
sống trong hàng ngũ nhân loại chúng ta. ([569])
Sắc da vàng tươi là màu da của giống
người đầu tiên có thể chất cứng rắn, xuất
hiện sau giai đoạn giữa của Giống dân
thứ Ba (sau sự sa
đọa để bước vào giai đoạn sinh
sản truyền giống như đă giải thích trên) và
đem đến những thay đổi cuối cùng.
Chỉ trong thời kỳ này mới xảy ra sự
biến thể cuối cùng, nó cấu tạo nên con
người dưới h́nh thức hiện nay, trên một
qui mô vĩ đại. Giống dân này sinh ra Giống dân
thứ Tư, Ngôi biến hóa dưới biểu
tượng thần Shiva biến đổi lần lần
để cải tạo thành phần Nhân loại “hắc
ám v́ tội lỗi” đó trở thành giống người
màu da đỏ vàng (dân Da đỏ ở Bắc Mỹ và
dân Mông Cổ là hậu duệ của giống dân này, và sau
cùng trở thành những người da màu nâu nhạt hay
đồng bạch). Giống người này cùng những
chủng tộc da vàng, gồm thành phần đa số
của nhân loại hiện nay. Ẩn dụ trong kinh Linga
Purăna thật là kỳ diệu, v́ nó chứng tỏ rằng
cổ nhân đă am hiểu rất nhiều về dân
tộc học.
253
Khi nghe nói
đến “sự biến đổi cuối cùng”,
độc giả hăy thử nghĩ xem nếu nó bắt
đầu xảy ra đă 18 000 000 năm nay th́ nó c̣n
phải cần đến bao nhiêu triệu năm nữa
mới đạt tới giai đoạn cuối cùng?
Nếu con người, trong sự tuần tự củng
cố thể chất của ḿnh, phát triển đồng
thời với Trái Đất th́ có đến bao nhiêu
triệu năm phải xảy ra trong thời kỳ các Giống dân thứ Nhất,
thứ Hai và nửa phần đầu của Giống
dân thứ Ba. V́ Trái
Đất c̣n ở trong trạng thái tương
đối khinh thanh trước khi đạt tới
trạng thái cô đọng cuối cùng. Vả lại, Giáo
lư xưa cho biết rằng trong thời kỳ trung gian
giữa hai Giống dân Lemuria và Atlantis, tức là ba Giống
dân ruỡi sau việc cấu tạo nên Con người Ban
sơ, Trái Đất, Con Người và vạn vật trên
Địa Cầu đă có một tính chất thô kệch và
nặng trược hơn, trong khi những loài san hô và ṣ
ốc vẫn c̣n ở trong trạng thái thanh nhẹ và
lỏng sệt. Những chu kỳ trung gian diễn ra
từ đó đến nay đă đưa con người
theo ḍng tiến hóa trên ṿng cung đối nghịch và đi
lên, và con người đă thực hiện vài bước
tiến bộ nhắm đến đích thăng hoa
khỏi trạng thái vật chất. Kể từ lúc
đó, Trái Đất, Con Người và vạn vật
đă lần lần trở nên mềm dẻo hơn,
thậm chí đến bộ năo của chúng ta cũng
thế. Nhưng có vài đạo hữu phản đối
rằng một Trái Đất khinh thanh, dù cho 15 hay 20 000 000
năm trước đây, không đúng khớp với khoa
địa chất học. Khoa học dạy rằng vào
thời kỳ đó đă có xuất hiện tất cả
các hiện tượng thiên nhiên như là gió, mưa, băo
tố, sóng ngầm ngoài khơi, núi cát di chuyển v.v…
cũng như ngày nay, nghĩa là những hiện
tượng ấy vẫn có từ những thời
đại cổ của thời kỳ địa
chất. Để giải đáp sự thắc mắc
đó, đây là những lời trả lời.
Trước hết, những thời đại
địa chất cổ đó, khoa học đă
ước định tḥi gian tính của chúng là bao nhiêu lâu
nay? Và kế đó, tại sao không thể có gió, mưa, băo
tố, sóng …trên một Trái Đất bán khinh thanh tức là
hăy c̣n nhầy nhụa sền sệt? Danh từ “khinh thanh”
theo ngôn ngữ Huyền môn không nhất thiết có nghĩa
là mờ ảo như sương khói mà là “chói sáng” hay “trong
vắt” với nhiều mức độ cô đọng và
thanh trọc khác nhau, từ trạng thái mờ ảo chí
đến trạng thái nhầy nhụa, đặc sệt
như đă diễn tả ở trên. Nhưng c̣n có một
sự phản đối khác nữa: “Làm sao Trái Đất
khinh thanh có thể ảnh hưởng đến hành tinh
khác trong Hệ thống hiện tại? Sự giải
đáp nằm trong câu hỏi ngược lại, có lẽ
toàn bộ hệ thống hành tinh phải bị bế
tắc hay chăng nếu một hấp dẫn lực
của một hành tinh đột nhiên tàn rụi và bị
loại? Sự phản đối hiển nhiên không
đứng vững, v́ Hệ thống hiện tại
gồm có nhũng hành tinh cũ cũng như mới, vài
hành tinh đă chết (như Mặt Trăng chẳng
hạn), những hành tinh khác c̣n đang trong trạng thái
h́nh thành bất luận tất cả những ǵ khoa thiên
văn học nói ngược lại. Khoa này, theo chúng tôi
biết, cũng chưa bao giờ khẳng định
rằng tất cả những thiên thể trong Hệ
thống hành tinh hiện tại đă xuất hiện và
tăng trưởng cùng một lúc. Giáo lư Huyền môn khác
với triết giáo Ấn Độ về điểm này.
Triết giáo Ấn Độ dạy rằng nhân loại
của Đức Bàn Cổ Vaivasvata đă có trên 18 000 000
năm nay. Chúng tôi đồng ư, nhưng đó là nói về
nhân loại thể chất
hay gần như thế, bắt đầu từ giai
đoạn cuối Giống dân thứ Ba trở đi. C̣n
thời kỳ trước đó, theo chúng tôi biết, Con
Người hay là cái h́nh bóng khinh thanh của nó có thể
đă từng xuất hiện từ 300 000 000 năm nay,
mặc dù chúng tôi không được truyền thụ cho
biết những con số chính xác, v́ điều này
được các Chơn Sư trong Huyền môn tuyệt
đối giữ bí mật, như đă có nói trong Phật
Giáo Bí Nhiệm.([570])
Hơn nữa, trong khi kinh Purănas của Ấn Độ có
đề cập tới một Đức Bàn Cổ
Vaivasvata duy nhất, th́ chúng tôi lại khẳng định
rằng có nhiều Đức Bàn Cổ và danh xưng này
chỉ là một tên gọi chung.
Bây giờ, chúng ta phải
tŕnh bày chút ít về sự tiến hóa vật chất
của con người.
254
GIÁO LƯ CỔ TRONG THÁNH KINH PURĂNAS
VÀ
CHƯƠNG SÁNG THẾ
Tác giả không thể
đưa ra quá nhiều
bằng chứng cho thấy rằng hệ thống Vũ
Trụ khởi nguyên luận và Nhân sinh khởi nguyên
luận nêu trên thực sự tồn tại, các tài liệu
lưu trữ của nó được bảo tồn và
chúng ta thấy nó được phản ánh ngay cả trong
những lối tường thuật hiện đại
của Thánh kinh cổ truyền.
Một mặt kinh Purănas,
c̣n mặt khác là Thánh kinh Do Thái đều dựa vào cùng
một hệ thống tiến hóa; nếu được
thuyết minh theo lối bí truyền và diễn đạt
bằng ngôn ngữ hiện đại, th́ hệ thống
tiến hóa này cũng tỏ ra hoàn toàn có tính cách khoa học
chẳng kém ǵ những thứ nay được xem là khám
phá rốt ráo mới đây. Giữa hai hệ thống có
một sự dị biệt duy nhất như sau: Kinh Purănas
quan tâm tới các nguyên nhân cũng chẳng kém ǵ (có lẽ
c̣n hơn) các hậu quả, nó ám chỉ tới các thời
kỳ Tiên Thiên hơn cái gọi là “cơ sáng tạo”; trong
khi đó, sau khi chỉ nói chút ít về thời kỳ tiên
thiên, Thánh kinh lại mê say trong sự sáng tạo vật
chất và trong khi bỏ sót các giống dân tiền Adam,
lại tiếp tục tŕnh bày các ẩn dụ liên quan
tới Giống dân thứ Năm.
Nay bất cứ sự công
kích nào đối với “tŕnh tự sáng tạo” trong Sáng
Thế Kư – và lối tường thuật chấp nê văn
tự của nó nhất định là sẽ dễ bị
chỉ trích ([571])
– thế là bất chấp các điều thêu dệt ẩn
dụ, kinh Purănas của Ấn Độ sẽ tỏ ra
hoàn toàn phù hợp với vật lư học.
Ngay cả điều (xét theo
bề ngoài) dường như là ẩn dụ hoàn toàn vô
nghĩa về việc Brahmă khoác lấy h́nh dạng một
con Heo rừng để cứu cho Địa Cầu khỏi
bị ngập lụt, cũng được giải thích
một cách hoàn toàn hợp khoa học trong các Giảng lư Bí
Truyền có thể liên hệ với nhiều sự dâng lên
và ch́m xuống, sự luân chuyển của đất
liền và biển cả từ các địa kỷ xa
xưa nhất, đến các địa kỷ cận
đại nhất của Địa Cầu. Đó là v́
khoa học nay dạy chúng ta rằng chín phần
mười các địa tầng của vỏ Địa
Cầu đă dần dần được kiến tạo
dưới nước, nơi đáy biển. Người
ta tin rằng dân Ăryan thời xưa chẳng biết ǵ
về vạn vật học, địa chất học
v.v… Mặt khác, ngay cả nhà phê b́nh nghiêm khắc nhất
cũng tuyên bố rằng dân Do Thái là một đối
thủ cố chấp của Thánh
kinh có công quan niệm ra thuyết độc thần
trước và nhớ nó kỹ hơn bất kỳ tôn giáo
nào vô luân hơn và ít có ư nghĩa triết học hợn (!!)
của cựu thế giới. ([572])
Có điều là trong khi mà Nội môn Bí giáo của Thánh kinh
cho chúng ta thấy các bí nhiệm sinh dục tượng
trưng cho (và chẳng có ǵ thêm nữa) một điều mà
chẳng cần tới chân
triết lư bao nhiêu, th́ trong kinh Purănas, chúng ta lại có
thể thấy sự “bắt đầu có cơ sáng
tạo” có tính cách khoa học và triết lư nhất. Nếu
ta phân tích và diễn đạt các ẩn dụ hoang
đường thành ra ngôn ngữ thông thường một
cách vô tư, th́ sự khởi đầu cơ sáng tạo
ấy đă chứng tỏ rằng động vật
học, địa chất học, thiên văn học
hiện đại và hầu như mọi ngành kiến
thức hiện đại, đều đă
được khoa học cổ truyền tiên liệu và
được các triết gia thời xưa biết
một cách khái quát, nếu không phải là biết tỉ
mỉ như hiện nay.
255
Ngay cả Bentley
cũng đă chứng tỏ rằng thiên văn học
trong kinh Purănas – vốn đă cố t́nh giấu giếm và
xáo trộn để cho kẻ phàm tục lầm
đường lạc lối – là một khoa học
thực sự. C̣n những kẻ tinh thông các bí nhiệm
của các bộ đại luận về thiên văn
học của Ấn Độ sẽ chứng tỏ
rằng các thuyết hiện đại về sự cô
đọng dần dần của các tinh vân, các sao và
mặt trời tinh vân, với các chi tiết tỉ mỉ
nhất về sự tiến hóa tuần hoàn của các cḥm
sao v́ mục đích niên đại và các mục đích khác
– chính xác hơn hẳn các thuyết hiện nay của Tây
phương – đă được quán triệt ở
Ấn Độ từ xa xưa rồi.
256
Nếu quay
sang địa chất học và động vật
học, chúng ta cũng thấy như vậy. Ngoại
trừ một bản tường thuật tỉ mỉ
về sự phát triển và tiến hóa của cơ sáng
tạo thú vật, hết loài này đến loài khác, đâu
là mọi huyền thoại và các phổ hệ vô tận
của bảy Đấng Prajăpati, các con của Ngài,
bảy Đấng Thánh Hiền hay Bàn Cổ cùng với
bầu đoàn thê tử của họ? Liệu những
người Ăryan có óc triết lư và siêu h́nh cao độ -
tác giả của những triết hệ tâm lư học siêu
việt hoàn hảo nhất của những bộ luật
luân lư của một khoa ngữ pháp như ngữ pháp
của Pănini, của các triết hệ (Số Luận và
Veda) của một bộ luật đạo đức
(Phật giáo) mà Max Muller cho là hoàn hảo nhất trần
gian – lại có thể điên rồ hay ấu trĩ
đến nỗi mất th́ giờ viết ra những
chuyện “thần tiên” như kinh Purănas (theo quan điểm
của những kẻ chẳng có một ư niệm nào
về Mật nghĩa của chúng) chăng? Đâu là
“chuyện thần thoại” phổ hệ và nguồn
gốc của Đức Ca Diếp, cùng mười hai
vị phu nhân mà nhờ họ
Ngài có được vô số và đủ loại hậu
duệ gồm loài rắn (Năgas), loài ḅ sát, chim chóc và mọi
loại sinh vật, vốn là “cha” của mọi loài thú vật,
ngoại trừ là một tài liệu ẩn giấu về tŕnh tự tiến hóa trong
cuộc Tuần Hoàn này?
Đến nay, chúng ta cũng chưa thấy bất kỳ
nhà Đông phương học nào có một quan điểm
lờ mờ về các chân lư ẩn tàng bên dưới các
ẩn dụ và các điều nhân cách hóa. Người ta
bảo rằng kinh Shatapatha Brăhmana tŕnh bày “một bài
tường thuật không
dễ hiểu lắm” về nguồn gốc của
Đức Ca Diếp.
Theo các tác
phẩm Mahăbhărata, Rămăyana và kinh Purănas, Ngài là con của
Marĩchi, con của Brahmă, cha của Vivasvat, cha của
Đức Bàn Cổ, thủy tổ nhân loại.
Theo kinh Shatapatha
Brăhmana, sau khi đă khoác lấy h́nh dạng một con rùa,
Prajăpati liền sinh con cái. Ngài đă làm những ǵ mà Ngài
đă tạo ra (akarot); v́
thế mới có từ ngữ kũrma (con rùa). Ca Diếp
(Kashyapa) có nghĩa là con rùa; v́ thế người ta mới
nói: “Mọi tạo vật đều là hậu duệ
của Ca Diếp”.([573])
Ngài là tất cả mọi
điều đó; Ngài cũng là cha của con chim Garula, “vua
của bộ tộc có lông vũ”, nó là hậu duệ và cũng là một ḍng dơi với loài ḅ sát, Năgas, và sau đó
trở thành kẻ tử thù của chúng. Đó là v́ Ngài
cũng là một chu kỳ,
một thời kỳ mà theo ḍng tiến hóa, các con chim
vốn phát triển từ loài ḅ sát trong cuộc
“đấu tranh sinh tồn” của chúng khiến cho “kẻ
nào thích ứng nhất mới sống sót” v.v… trở nên
được ưa chuộng bởi những loài phát
nguyên là chúng để rồi lại ngấu nghiến
chúng, có lẽ là bị thúc đẩy bởi luật thiên
nhiên, ngơ hầu nhường chỗ cho các loài khác hoàn
thiện hơn.
Trong quyển tóm
lược tuyệt vời Khoa Học Hiện Đại
và Tư Tưởng Hiện Đại, Gladstone đă tŕnh
bày một bài học vạn vật chứng tỏ rằng
Thánh kinh hoàn toàn bất đồng với nó. Tác giả
nhận xét rằng địa chất học đă truy
nguyên “sự khởi đầu cơ sáng tạo” theo
một đường lối khảo cứu khoa học:
bắt
đầu với vạn vật hóa thạch xưa
nhất đă từng biết (hóa thạch) Eozoon Canadense
thuộc kỳ Laurent và nối tiếp một dây xích qua
kỷ Silua, mọi khâu xích đều được
gắn chặt với vô số loài nhuyễn thể, giáp
xác và sâu bọ cũng như là dấu hiệu sơ
khởi của loài cá. Qua kỷ Devon, chúng lại
được gắn chặt với sự ưu
thắng của loài cá và sự xuất hiện sơ khởi
của loài ḅ sát. Qua thời Trung sinh, chúng được
liên kết với loài lưỡng thê. Trong các địa
tằng Đệ nhị kỷ, loài ḅ sát ngoài biển, trên
đất liền và trên không có ưu thế và các h́nh hài
tầm thường sơ khởi của các động
vật trên bộ thuộc loài có xương sống
bắt đầu xuất hiện. Cuối cùng trong
thời Đệ tam kỷ, cuộc sống thuộc loài
hữu nhũ đă phồn thịnh, và hết loài này
tiếp theo loài khác và hết dạng này đến dạng
khác, dần dần tự phân biệt và trở nên
đặc thù, qua các kỷ Hạ tân, Trung tân và
Thượng tân, cho đến khi chúng ta đạt tới
các thời đại Băng hà và Tiền sử và có
được bằng chứng xác thực về sự
tồn tại của con người. ([574])
257
Chúng ta cũng
thấy tŕnh tự đó, cộng
thêm sự mô tả các con thú mà khoa học hiện
đại không biết, trong các Giảng lư về kinh Purănas
nói chung, và nhất là trong THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH. Sau đây là điều
dị biệt duy nhất – chắc chắn đó là một
điều dị biệt trầm trọng, v́ nó hàm ư con
người có một bản chất thiêng liêng độc
lập với thể xác trong thế giới hăo huyền
này, trong đó khoa tâm lư học chính thống chỉ biết
tới phàm ngă hư ảo
và căn bản trí năo của nó. CON NGƯỜI đă từng xuất
hiện trên Địa Cầu trong cuộc Tuần Hoàn
hiện tại ngay từ lúc đầu, và trải qua
điều gọi là bảy “cơ sáng thế”, một câu
ẩn dụ ám chỉ bảy giai đoạn tiến hóa
hay bảy phụ chủng
của Giống dân thứ
Nhất trong Nhân Loại. Trong khi đă trải qua
tất cả mọi Loài trong Thiên Nhiên trong ba cuộc Tuần Hoàn trước đây,([575])
cái thể xác của y –
một thể xác thích ứng với những điều
kiện khí hậu của những thời kỳ xa xôi
đó, đă sẵn sàng chấp nhận điểm Chơn Thần thiêng liêng vào
lúc b́nh minh chớm nở của đời sống là vào
khoảng 18 000 000 năm về trước. Chỉ ở
vào điểm giữa Giống dân thứ Ba mà con
người mới bắt đầu có trí khôn (Manas). Khi
đă phối hợp với nhau, th́ Hai rồi đến Ba
mới nhập làm Một; tuy rằng những loài
động vật thấp kém, từ loài vi khuẩn chí
đến con người đều tiếp nhận
điểm Chơn Thần tự nó có chứa đựng
tiềm năng của mọi đặc tính cao cả
nhất. Tất cả những đức tính này
đều hăy c̣n tiềm tàng cho đến khi mỗi loài
đạt tới tŕnh độ con người. Trước
giai đoạn đó, Thể Trí vẫn chưa khai mở
trong các loài. Nơi thú vật, mọi Nguyên khí đều tê
liệt và ở trong một trạng thái phôi thai, ngoại
trừ Nguyên khí thứ hai, Sinh Khí (Vital), và Nguyên khí thứ
ba, Thể Dĩ Thái (Phách) và những yếu tố thô
sơ của Nguyên khí thứ tư (Dục vọng bản
năng), nó có cường độ và sự phát triển
thay đổi tùy theo các loài. Đối với nhà duy
vật cứ bám lấy thuyết Darwin th́ điều này
thật giống như một chuyện thần tiên,
thần bí hóa, c̣n đối với người tin
tưởng vào Chơn Nhơn th́ điều này chẳng có
ǵ là phản tự nhiên cả.
Giảng lư ix đă
dạy:
Con
người chỉ được hoàn chỉnh hóa trong ṿng
Chu kỳ thứ Ba chuyển sang Chu kỳ [Giống dân]
thứ Tư. Họ được tạo ra thành các
vị “Thần”(“Gods”) thiện và ác và chỉ có trách
nhiệm khi hai ṿng cung gặp nhau [sau ba cuộc tuần hoàn
rưỡi, vào lúc sắp chuyển sang Giống dân thứ
Năm]. Họ được như thế là do công lao
của Hóa Thân, các tàn dư thiêng liêng hay tinh anh của các
vị Rudras-Kumăras, “bị
đày phải tái sinh xuống
Trần” [nghĩa là theo định mệnh, họ có
khuynh hướng tự nhiên là tái sinh trên cung thăng
thượng của Chu kỳ địa cầu].
Nay nhất định là
tác giả sẽ bị thiên hạ nhao nhao lên phản đối.
Thiên hạ sẽ bảo chúng tôi rằng đường
lối phôi thai học và sự phát triển dần dần
của mọi sự sống cá biệt, và sự tiến
triển của cái mà chúng ta biết là đă diễn ra theo
tŕnh tự chuyên biệt hóa tiệm tiến đều
đối nghịch với ư niệm con người có
trước động vật hữu nhũ. Con
người khởi đầu là tạo vật h́nh sâu
bọ nguyên sơ và tầm thường nhất:
Từ
đốm nguyên sinh chất và tế bào có nhân vốn phát
sinh ra mọi sự sống … và được phát
triển qua các giai đoạn không thể phân biệt
được với các giai đoạn của loài cá, ḅ
sát và các động vật hữu nhũ cho đến khi
tế bào cuối cùng đạt tới sự phát triển
rất chuyệt của loài bốn chân và sau rốt là loài
người. ([576])
258
Điều
này hoàn toàn hợp khoa học và chúng ta chẳng việc ǵ
phải chống đối nó, đó là v́ nó hoàn toàn liên
hệ với lớp vỏ
của con người (cơ thể y); trong khi tăng
trưởng, dĩ nhiên là cũng như mọi thứ
khác, đă từng được gọi là đơn
vị h́nh thể, cơ thể này cũng phải bị
biến h́nh. Những kẻ đang giảng dạy sự
tiến hóa của nguyên tử khoáng vật do sự kết
tinh – nó cũng có chức năng và cùng quan hệ với cái
gọi là cơ sở vô cơ của nó, chẳng khác nào
sự tạo ra những tế bào đối với các
nhân hữu cơ, qua cây cỏ, sâu bọ, thú vật
để thành người – họ sẽ không bác bỏ
thuyết này v́ sau rốt nó sẽ đưa tới
việc thừa nhận một Đấng Thánh Linh Vũ
Trụ trong Thiên Nhiên, toàn hiện, hằng vô h́nh và bất
khả tri, cũng như là các Đấng Thần Linh
nội vũ trụ đă từng là người. ([577])
Nhưng xin hỏi, liệu
khoa học và các khám phá chính xác cùng với các thuyết công
lư hiện nay có chứng tỏ nghịch lại thuyết
Huyền bí của chúng tôi
không? Những kẻ tin tưởng vào luật tiến hóa
và sự phát triển dần dần từ một tế
bào – từ một tế bào sống, biến thành một
tế bào h́nh thể, cho đến cuối cùng nó khởi
hoạt với vai tṛ là nguyên sinh chất đơn
thuần – chắc chắn chẳng bao giờ có thể
giới hạn niềm tin của ḿnh vào một
đường lối tiến hóa duy nhất! Có hằng hà
sa số kiểu sống; vả lại sự tiến hóa
không hề có cùng tốc độ trong mọi loài. Cấu
tạo của vật chất nguyên thủy trong thời
Silua – chúng tôi có ư muốn nói tới vật chất “nguyên
thủy” của khoa học – đều như nhau về
mọi chi tiết thuộc bản thể, ngoại trừ
mức độ thô trược hiện tại, như
nguyên sinh chất ngày nay. Chúng ta cũng không thấy
điều mà lẽ ra phải được t́m thấy,
nếu thuyết tiến hóa chính thống hiện nay hoàn
toàn chính xác, nghĩa là một sự tiến bộ hằng
hằng (ever-flowing progress) trong mọi giống loài. Thay v́
thế, chúng ta thấy ǵ? Trong khi các nhóm thú vật trung gian
đều hướng về một kiểu mẫu
thượng đẳng, và trong khi mà các sự chuyên
biệt hóa, khi th́ theo kiểu này, khi th́ theo kiểu khác, phát
triển qua các địa kỷ, thay đổi h́nh
dạng, khoác lấy các h́nh thể mới, hiện ra
rồi biến mất nhanh như kính vạn hoa, theo sự
mô tả của các nhà cổ sinh vật học từ
thời kỳ này sang thời kỳ khác, th́ chỉ có hai
ngoại lệ đối với thông lệ chung, đó là các
ngoại lệ về hai đối cực của sự
sống và kiểu mẫu, nghĩa là CON NGƯỜI và các sinh vật hạ đẳng!
Một số chúng sinh rơ
rệt đă tồn tại qua các thời kỳ dài
đăng đẳng, chẳng những vẫn c̣n
sống sót sau khi chịu những biến đổi
về t́nh trạng vật chất, mà c̣n tồn tại
một cách tương đối thường trụ;
trong khi đó, các chúng sinh khác đă xuất hiện rồi
lại biến mất. Chúng ta có thể gọi các chúng sinh
đó là các “kiểu sinh vật trường tồn”; có
dẫy đầy ví dụ về các kiểu mẫu này
trong thế giới động vật lẫn thế
giới thực vật.([578])
259
Tuy nhiên,
người ta không thể tŕnh bày cho chúng ta bất kỳ
lư do thỏa đáng nào tại sao Darwin lại liên kết
loài ḅ sát, loài chim chóc, loài lưỡng cư, loài cá, loài
nhuyễn thể v..v…làm các hậu duệ của một
tổ phụ đơn nguyên trùng. Chúng ta không hề được
biết liệu loài ḅ sát chẳng hạn có phải là
hậu duệ trực hệ của loài cá, và loài cá là
hậu duệ trực hệ của h́nh hài hạ
đẳng chăng (chúng chắc chắn là như vậy).
Đó là v́ những Chơn Thần đă tiến hóa xuyên qua
tất cả các loài sinh vật cho đến Con
Người trên tất cả các Bầu thế giới
trong ba cuộc Tuần Hoàn trước đây; mỗi
cuộc Tuần Hoàn cũng như mỗi Bầu thế
giới từ bầu A tới bầu C, đă và vẫn
sẽ c̣n là trường sở của cơ tiến hóa
tương tự, nó chỉ có tái diễn mỗi lần
như vậy trên một căn bản vật chất
cứng rắn hơn mà thôi. Bởi đó, nên có câu hỏi,
có mối liên quan nào giữa những h́nh bóng kiểu
mẫu khinh thanh của cuộc Tuần Hoàn thứ Ba và
sự phát triển thể chất b́nh thường trong
diễn tŕnh tiến hóa các cơ phận sinh vật
trước loài động vật có vú? Câu hỏi này
cũng dễ trả lời: một loài này là h́nh bóng kiểu mẫu của
loài khác, cũng như nét phác họa thô sơ đầu
tiên quá mờ ảo chưa rơ rệt, trên một tấm
phông vải, sẽ lần lần tượng h́nh
để trở thành những h́nh ảnh nhất
định dưới cọ sơn của nhà họa
sĩ. Loài cá tiến hóa thành một sinh vật lưỡng
cư (sống hai nơi) như con ếch. Con người
cũng trải qua tất cả những giai đoạn
biến thể trên Địa Cầu trong cuộc Tuần
Hoàn thứ Ba cũng như cuộc Tuần Hoàn thứ
Tư hiện tại. Những kiểu mẫu của
cuộc Tuần Hoàn thứ Ba có đóng góp vào công việc
h́nh thành những kiểu mẫu người của
cuộc Tuần Hoàn này. Trên phương diện
tương đồng nhất lư, chu kỳ bảy
cuộc Tuần Hoàn trong việc tuần tự h́nh thành con
người xuyên qua mọi Loài trong Thiên Nhiên,
được tái diễn trên một qui mô cực nhỏ
bé trong bảy tháng đầu tiên của sự thai nghén
một hài nhi trong bụng mẹ. Người học
đạo hăy suy gẫm và t́m ra sự tương
đồng nhất lư này. Cũng như các bào thai mới được
bảy tháng, tuy đă sẵn sàng, nhưng c̣n phải
cần thêm hai tháng nữa để củng cố thể
chất và có đủ sức mạnh, th́ con người
cũng vậy. Sau khi đă hoàn tất cuộc tiến hóa
của ḿnh, trong bảy cuộc Tuần Hoàn, con
người c̣n phải trải qua hai chu kỳ nữa trong
ḷng Mẹ Thiên Nhiên trước khi người ấy ra
đời, hay đúng hơn tái sinh thành một Đấng
Thiền Ni (Dhyăni) c̣n hoàn thiện hơn là trước khi
người ấy phóng ra một Chơn Thần để
nhập thế trên một Dăy Hành Tinh vừa
được sáng tạo. Môn sinh hăy nghiềm ngẫm suy
tư về điều bí ẩn này, chừng đó, y
sẽ nhận định dễ dàng rằng vẫn có
những mối liên hệ về thể chất giữa
nhiều hạng sinh vật, và cũng y hệt như
thể có những lănh vực nhất định trong
đó, sự Tiến hóa thuộc cơi Cảm Dục (Trung
Giới) ḥa hợp với sự Tiến hóa Thể
chất hồng trần. Khoa học vẫn không hề
thố lộ một lời nào về điều này. Nó cho
rằng con người đă tiến hóa cùng với và
từ loài khỉ. Bây giờ, chúng ta hăy xét điều mâu
thuẫn đó.
Huxley tiếp tục nêu ra
các loại cây như dương xỉ, thạch tùng,
một số cây này thường đồng nhất
với các loài cây nay c̣n sống mà chúng ta đă gặp trong
kỷ Carbon, v́ :
Chúng ta khó ḷng có
thể phân biệt h́nh nón (cone) của cây Bách tán đá trứng cá với nón của các loài
hiện hữu … Các phân giới động vật cũng
sinh ra những ví dụ tương tự. Loài bảo cầu trùng ở vùng thềm lục địa
Đại Tây Dương cũng giống y như các loài
thuộc kỷ phấn trắng của cùng một
giống… loài san hô dẹp thuộc kỷ Silua giống
một cách kỳ lạ với loài thiên khổng ở các
vùng biển của chúng ta … Nhóm cao cấp của loài
nhện (nhóm bọ cạp) được tiêu biểu trong
than bởi một giống chỉ khác với các sinh
vật cùng loài nơi … cặp mắt. [v.v…]
260
Các
điều này có thể kết thúc bằng phát biểu có
thẩm quyền của Tiến sĩ Carpenter về loài Hữu Khổng Trùng:
Chẳng có
bằng chứng ǵ về bất cứ sự tiến hóa
hay tiến bộ cơ bản nào nơi loài hữu
khổng trùng từ thời cổ sinh cho đến
tận ngày nay… Hệ động vật hữu khổng
trùng thuộc lứa của chính ta có lẽ biến thiên
đủ loại nhiều hơn bất cứ thời nào
trước đó; nhưng chẳng
có dấu hiệu ǵ về bất cứ khuynh hướng
nào để thăng tiến lên một loại cao hơn.([579])
Nay cũng như trong loài
Hữu khổng trùng, các Nguyên sinh động vật
thuộc loài sinh vật hạ đẳng nhất, không có
miệng, mắt, chẳng có dấu hiệu thay đổi
nào ngoại trừ việc hiện nay chúng biến thiên
đủ loại nhiều hơn; cũng vậy, con
người, vẫn ở trên nấc cao tột của
thang hiện tồn, c̣n tỏ ra ít biến đổi
hơn nữa, như chúng ta đă từng thấy; thậm
chí, chúng ta thấy bộ xương của vị tổ
tiên thời cổ thạch của y c̣n có một vài khía
cạnh cao cấp hơn bộ xương hiện nay
của y. Thế th́ đâu là sự đồng nhất
của định luật mà người ta tuyên bố là
qui tắc tuyệt đối dành cho một loài đă tàn
thành ra một loài khác và thế là thành ra các loại cao
cấp hơn bằng mức độ không cảm
thấy? Chúng ta thấy Sir William Thomson thừa nhận là
400 000 000 năm đă trôi qua từ khi bề mặt của
Địa Cầu đủ nguội để cho các sinh
vật có thể tồn tại được ([580])
và trong thời gian dài dằng dặc đó của thời
kỳ đá trứng cá, riêng cái gọi là “Thời
đại Ḅ sát”, chúng ta đă thấy hằng hà sa số
biến thể của loài thằn lằn, loài lưỡng
cư đă phát triển
đến mức cao nhất. Chúng ta được
biết về loài ngư long và loài xà long sống nơi sông
hồ cũng như là loài sâu hay loài thằn lằn có cánh
bay lượn trên không. Sau đó, trong thời kỳ
đệ tam kỷ:
Chúng ta thấy
loài Hữu nhũ khác hẳn những dạng đă tồn
tại trước đó… loài trụ nha tượng, vô
sỉ long và các con thú kịch cỡm khác thời xưa đă
từng sống trên rừng thẳm hay ở miền
đồng bằng.
Và sau đó, chúng ta lại
được biết về :
Sự tiến
hóa dần dần của một trong các chi nhánh của
lớp Động vật bốn chân thành ra các sinh vật
mà chính Con Người nguyên sơ có thể tự cho là
đă được tiến hóa ra từ đó.([581])
Y có
thể, song chẳng ai, ngoại trừ nhà Duy vật, có
thể hiểu tại sao y lại phải như vậy,
v́ điều đó chẳng có ǵ là cần thiết, và
chẳng có sự kiện nào minh chứng cho một sự
tiến hóa như vậy, v́ những kẻ quan tâm nhất
tới các bằng chứng đó cũng thú nhận là
họ hoàn toàn thất bại khi muốn t́m ra chỉ
một sự kiện để bênh vực thuyết
của ḿnh. Hằng hà sa số kiểu sinh hoạt không
cần tiêu biểu cho các thành viên của dăy tiệm
tiến. Đó là “sản phẩm của nhiều sự
dị biệt tiến hóa khác nhau, diễn ra khi th́ theo
hướng này, khi th́ theo hướng khác”. Do đó chúng ta
không thể tỏ ra hữu lư khi cho rằng con khỉ
đă tiến hóa thành ra động vật bốn chân,
hơn là khi cho rằng con người nguyên sơ – vốn vẫn c̣n ngưng trệ
dưới dạng con người chuyên biệt từ khi
bộ xương hóa thạch đầu tiên đă
được t́m ra trong các địa tằng cổ
nhất và vẫn không hề biến dạng ngoại
trừ về màu da và kiểu
mặt đă phát triển từ một tổ tiên
chung với loài khỉ.
261
Một
giáo điều Huyền môn có từ vài ngàn năm
trước đă nói rằng con người cũng như
loài động vật, xuất phát từ một tế bào
và phát triển qua những giai đoạn không thể phân
biệt từ loài cá, loài ḅ sát và hữu nhũ, cho
đến khi tế bào ấy đạt tới giai
đoạn đặc biệt phát triển của loài
vật bốn chân và sau cùng
tới giai đoạn con
người. Ngạn ngữ huyền môn Kabalah nói
rằng: “Một tảng đá trở thành cái cây, cây thành con
thú, con thú thành người, con người thành một
Thượng Đế”, bao giờ cũng vẫn đúng
trải qua thời gian. Trong tác phẩm Sự Sáng Tạo,
Heackel đă tŕnh bày một h́nh vẽ kép, phác họa hai cái
phôi: phôi của một con thú sáu tuần và phôi của con
người tám tuần. Ngoại trừ một
điểm dị biệt nho nhỏ ở đầu (con
người có bộ óc lớn hơn), người ta không
thể phân biệt được hai phôi này.
Thật vậy, chúng ta có
thể cho rằng mọi người đều trải
qua giai đoạn cá và giai đoạn ḅ sát trước khi
đạt tới giai đoạn động vật
hữu nhũ và cuối cùng là giai đoạn con
người.
Nếu xét y vào giai
đoạn tiến hóa trong khi mà cái phôi đă trải qua
giai đoạn ḅ sát, chúng ta sẽ thấy rằng trong
một thời gian dài, đường lối phát triển
vẫn giống như cách thức của các loài
động vật hữu nhũ khác. Tứ chi sơ khai
giống y nhau, năm ngón tay và năm ngón chân cũng phát
triển một cách như nhau và sau bốn tuần tăng
trưởng đầu tiên, phôi con người và phôi con
chó giống nhau đến nỗi khó có thể phân biệt
được chúng. Ngay cả lúc được tám
tuần, phôi người vẫn là một con thú có đuôi
mà chúng ta khó có thể phân biệt với phôi của một
con chó.([582])
Thế th́ tại sao không
tŕnh bày là con người và con chó bắt nguồn từ một tổ
phụ chung tức là một loài ḅ sát – con rắn năga, thay
v́ ghép cặp con người với loài động vật
bốn chân? Điều này hẳn cũng hợp lư như
điều vừa nêu, nếu không muốn nói là c̣n hợp
lư hơn. Từ xa xưa, h́nh dạng và các giai đoạn
phát triển của phôi người vẫn không hề thay
đổi; Aesculapius và Hippocrates cũng đă biết
tới các ẩn dụ này như là ông Huxley. Như thế
là v́ các môn đồ Do Thái Bí giáo đă ghi nhận nó từ
thời tiền sử, nên nó không phải là phát minh mới.
([583])
V́ phôi người cũng
chẳng bao hàm yếu tố khỉ nhiều hơn bất
kỳ yếu tố động vật hữu nhũ nào
khác, mà lại bao hàm toàn bộ
các yếu tố trong thiên nhiên, và v́ nó dường
như là một loại “sinh vật trường tồn”
hơn hẳn cả loài hữu khổng trùng, nên
dường như là phi lư khi tŕnh bày y bắt nguồn
từ một con khỉ cũng như là truy nguyên y tới
tận con ếch hoặc là con chó. Cả Huyền bí
học lẫn triết học Đông phương đă
tin tưởng vào sự Tiến hóa mà Đức Bàn Cổ
và Kapila ([584])
Tŕnh bày c̣n minh bạch hơn nhiều so với bất
kỳ nhà khoa học nào hiện nay. Thiết tưởng
cũng chẳng cần nhắc lại những ǵ đă
được bàn rốt ráo trong Nữ Thần Isis Lộ
Diện, v́ độc giả có thể t́m thấy mọi
luận chứng này và sự mô tả vốn là cơ
sở của mọi giáo lư Tiến hóa của Đông
phương trong các tác phẩm trước kia của chúng
tôi. Nhưng không nhà Huyền bí nào có thể chấp nhận
được đề nghị vô lư cho rằng mọi
h́nh dạng hiện hữu, “từ
con a-mip cho tới con người” đều là các
hậu duệ trực hệ của các cơ thể đă
sống trong hàng triệu tiệu năm trước khi con
người sinh ra trong các thời kỳ trước
kỷ nguyên Silua, ở dưới biển hoặc trong
đất bùn. Các nhà Huyền bí đều tin tưởng
vào một luật phát triển tiệm tiến.([585])
Chính Darwin lại không hề dạy như thế; đó là
v́ chúng ta thấy ông vạch rơ rằng v́ một vi
động vật thảo mao trùng hoặc một con
lải chẳng có lợi ǵ… khi trở nên có cơ phận
cao cấp nên “sự chọn lọc tự nhiên”- vốn không nhất thiết bao
gồm sự phát triển tiệm tiến – vẫn
để yên con vi động vật và con lải là các
loại “trường tồn” ([586]).
262
Trong tác
động đó của Thiên Nhiên không hề có nhiều
định luật đồng dạng (uniform law), nó có vẻ
như tác động phân biện của một sự
tuyển lựa siêu trần nào đó; có lẽ là các khía
cạnh của nghiệp quả mà các nhà Huyền bí Đông
phương gọi là “Luật Tŕ Trệ”(“Law of Retardation”)
đă có thể dính dáng tới nó.
Nhưng có đủ lư do
để hoài nghi liệu chính Darwin có đánh giá cao
định luật của ḿnh như các môn đồ ngày
nay chăng. Người ta chẳng hiểu biết
được bao nhiêu về các loại sinh vật khác nhau
sống vào thời các địa kỷ đă qua. Những
lư do mà Tiến sĩ Bastian đă nêu ra để giải
thích điều này, thật là rất gợi ư:
Một là, v́
nhiều h́nh dạng có thể đă được tiêu
biểu một cách bất toàn trong các địa tằng
thuộc về địa kỷ đó; hai là v́ bản
chất cực kỳ hạn hẹp của cuộc
thăm ḍ đă được thực hiện trong các
địa tằng tiêu biểu bất toàn này; và ba là v́ chúng
ta hoàn toàn không thể có được biết bao nhiêu tài
liệu – hầu như toàn bộ những ǵ bên
dưới hệ thống Silua đă bị thời gian xóa
đi mất, c̣n hai phần ba mặt địa cầu –
nơi mà chúng ta thấy các địa tằng tồn
tại trong đó – nay lại bị biển cả bao
phủ. V́ thế Darwin mới cho: “Về phần ḿnh khi
theo ẩn dụ của Lyell, tôi xem tài liệu địa
chất là một lịch sử thế giới đă
được bảo tồn một cách bất toàn và
được viết bằng một thổ ngữ
biến thiên; chúng ta chỉ có
được quyển cuối cùng của bộ sử
này, liên quan tới hai hay ba xứ. Đây đó chỉ có ba chương ngắn
của quyển này c̣n được bảo tồn và
mỗi trang chỉ có đó đây một vài hàng”.([587])
263
Chắc
chắn là khoa học không thể kết luận rốt ráo
dựa vào các dữ kiện thô thiển như vậy.
Huyền bí học cũng không thể dựa vào bất
kỳ sự kiêu ngạo nào của con người,
hoặc niềm tin vô lư vào việc tŕnh bày con người
(ngay cả trên Trần Thế) – có lẽ là trong thời
kỳ của chúng ta – là loài sinh vật cao cấp nhất,
mà phủ nhận rằng mọi h́nh thức sống
trước kia của con người đều thuộc
về các loài kém hơn loại của chính ta, v́ sự
thật không hề như vậy. Tuy nhiên, đó chỉ là
v́ “cái khoen khuyết tịch” – nó sẽ chứng tỏ
thuyết hiện hữu này một cách không thể chối
căi được – sẽ chẳng bao giờ
được các nhà cổ sinh vật học t́m ra. Khi
chúng ta tin rằng con người đă tiến hóa trong
những cuộc Tuần Hoàn trước đây trải qua
những h́nh thức sinh hoạt thấp kém của các loài
cây cỏ và cầm thú trên Địa Cầu, th́ cái quan
niệm xem loài khỉ đột như tổ tiên của
cái thể chất bên ngoài của con người, không có ǵ
là quá hèn kém hay xấu hổ. Không những như vậy, mà
sự thật trái hẳn lại, v́ nó càng xác nhận Giáo lư
Huyền Môn về mọi sự tiến hóa của mọi
vật, rốt cuộc sẽ đạt tới mức
tột đỉnh nơi con người. Thậm chí,
người ta có thể hỏi rằng khi mà các nhà sinh
vật học và nhân chủng học đă quả quyết
chấp nhận lư thuyết nói rằng loài người là
con cháu loài khỉ, th́ tại sao cho đến nay, họ
vẫn không đề cập đến vấn đề
loài khỉ đột hiện nay trong tương lai sẽ
tiến hóa thành loài người? Điều này chỉ là
một kết luận hợp lư của lư thuyết trên,
trừ khi khoa học muốn nói rằng con người là
một sinh vật được ưu đăi và sự
tiến hóa của y là một trường hợp
đặc biệt, duy nhất chưa
từng có tiền lệ trong cơi Thiên Nhiên. Tuy nhiên, lư do
tại sao các nhà Huyền môn bác bỏ giả thuyết
của Darwin và nhất là Haeckel là bởi v́ chính loài khỉ
đột chứ không phải con người, thực ra mới
là một ví dụ đặc biệt và độc nhất
vô nhị. Loài khỉ đột là do một sáng tạo ngẫu nhiên, t́nh
cờ, một sự sinh trưởng gượng ép,
hậu quả của một phương pháp sinh sản
phản tự nhiên.
Chúng tôi nghĩ rằng
Giáo lư Huyền môn hợp lư hơn. Giáo lư ấy dạy
rằng có một Định Luật, theo chu kỳ cố
định trong Thiên Nhiên, và thiên nhiên không có một ư
đồ riêng tư đặc biệt nào, mà nó hành
động theo một kế hoạch đồng nhất
suốt trọn Chu kỳ sáng tạo, không phân biệt loài
nào, dù cho côn trùng hay loài người. Không một loài nào
đă tự ḿnh xuất lộ trong cuộc sinh tồn, do
đó, cả hai đều chịu đặt dưới
Luật Tiến Hóa, và cả hai đều phải tiến
hóa theo sự chi phối của Luật Nhân Quả. Cả
hai đều phát xuất từ một Nguồn Sống
Duy Nhất và phải trở về hỗn hợp với
nguồn sống ấy khi Chu kỳ sinh hoạt chấm
dứt.
Người ta không hề
phủ nhận rằng trong cuộc Tuần Hoàn
trước, con người là một tạo vật
khổng lồ giống như khỉ; khi đề
cập tới “con người” có lẽ chúng ta nên nói các
khuôn thô sơ đă được phát triển để
cho con người sử dụng trong cuộc Tuần hoàn
này thôi (chúng ta chỉ vừa đạt tới điểm
giữa hay điểm chuyển tiếp của cuộc
tuần hoàn này). Con người trong hai Căn chủng
rưỡi đầu tiên cũng không giống như
hiện nay. Như đă nói trước kia, con người
đă chỉ đạt tới điều này cách đây 18
000 000 năm, trong thời kỳ Đệ nhị kỷ,
như chúng tôi đă khẳng định.
264
Theo truyền thuyết và
Huyền bí học, cho tới lúc đó, y đă là “một
Thần Linh trên Trần Thế đă sa vào Vật Chất”
hay ṿng sinh hóa. Người ta có thể chấp nhận hay
bác bỏ điều này, v́ Giáo Lư Bí Nhiệm không hề
tự xưng là một giáo điều không thể sai
lầm, và v́ dù cho các tài liệu tiền sử của nó có
được chấp nhận hay bác bỏ đi nữa,
th́ nó cũng chẳng dính dáng ǵ với vấn đề
Chơn Nhơn và Bản chất nội tâm, sự Sa
đọa nêu trên chẳng hề lưu lại “tội
lỗi nguyên thủy” nơi Nhân loại. Nhưng chúng ta
đă bàn tới tất cả các điều này quá
đủ rồi.
Hơn nữa, chúng tôi
được cho biết rằng, những giai
đoạn biến đổi mà con người đă
trải qua trên ṿng cung đi xuống (vốn ly tâm
đối với Tinh Thần và hướng tâm đối
với Vật Chất) và những giai đoạn biến
đổi mà từ nay trở đi, y chuẩn bị
để vượt qua trên ṿng cung đi lên, ṿng cung này
sẽ đảo nghịch lại đường
hướng của hai mănh lực trên (Vật Chất
sẽ trở thành ly tâm, Tinh Thần sẽ hướng
tâm). Tất cả những sự biến đổi đó
cũng sẽ là cái phần
số dành cho loài khỉ
đột trong giai đoạn sắp tới. Dù sao
điều ấy cũng sẽ áp dụng cho loài khỉ
đột tiến hóa nhất đă đạt tới tŕnh
độ giống như loài người trong cuộc
Tuần Hoàn hiện tại và tất cả sẽ trở
thành người torng cuộc Tuần Hoàn thứ Năm,
cũng như con người bây giờ đă từng có
những h́nh thể giống khỉ đột trong
cuộc Tuần Hoàn thứ Ba trước đây.
Thế th́, hăy thử xem
nơi các cư dân hiện đại ở vùng rừng già
Sumatra các gương mẫu suy đồi lùn tịt – “các bản sao lu mờ”, theo lối nói
của Huxley – của chính chúng ta, khi chúng ta (đa số
nhân loại) đang thuộc về các phân chủng sơ
khai nhất của Căn chủng thứ Tư trong
thời kỳ của cái gọi là “sự Sa Đọa vào
ṿng sinh hóa”. Con khỉ mà chúng ta biết không phải là
sản phẩm của sự tiến hóa tự nhiên, mà là
một tai biến bất ngờ, một sự lai
giống giữa con thú và con người. Như đă tŕnh
bày trong quyển này, chính con thú câm mới khởi
đầu tính giao, v́ chính nó đă phân ly ra đực và cái
trước tiên. Thiên nhiên cũng không hề trù định
là con người sẽ noi gương con thú ấy – nay
điều này được chứng tỏ qua việc
sinh đẻ tương đối không đau đớn
của loài thú, và việc sinh sản nguy hiểm và đau
đớn khủng khiếp của người đàn bà.
Thật vậy, như đă nhận xét trong Nữ Thần
Isis Lộ Diện, con khỉ là:
…sự biến
hóa giống loài trực tiếp nhất liên quan tới
sự biến giống của gia đ́nh nhân loại –
một nhánh con hoang được ghép vào ḍng dơi của
chính họ trước khi gia đ́nh nhân loại đă
đạt tới sự hoàn hảo tối hậu.([588])
Loài dă nhân (apes) chỉ
xuất hiện vào khoảng vài triệu năm sau khi loài
người bắt đầu có ngôn ngữ và là những
vật sống đồng thời với Giống dân
thứ Năm. Như thế, thật là một điều
quan trọng mà nên nhớ rằng, các Linh Hồn của loài dă nhân là những thực
thể do nghiệp quả bắt buộc phải
đầu thai trong những h́nh thù động vật,
vốn là kết quả tạo ra bởi điều
gọi là thú tính (bestiality) của những giống
người ở vào giai đoạn cuối cùng của
Giống dân thứ Ba và giai đoạn đầu của
Giống dân thứ Tư. Chúng là những thực thể
đă đạt tới “giai đoạn con người”
(“human stage”) trước cuộc Tuần Hoàn hiện
tại. Bởi vậy, chúng là một thành phần riêng
biệt, một ngoại lệ đối với một
định luật chung. Vô số truyền thuyết
về các Dâm Thần (Satyrs) đâu phải là chuyện hoang
đường, mà là tŕnh bày một giống người
thú đă tuyệt chủng. Tổ mẫu của họ là
các bà “Eva” thú vật, c̣n tổ phụ của họ là
những ông “Adam” nhân loại; v́
thế mới có ẩn dụ trong Thánh kinh Kabalah về
Lilith, vợ đầu tiên của Adam; mà Do Thái pháp
điển mô tả là
265
một
phụ nữ “quyến rũ”, “tóc dài gợn sóng”. Đó là
một con thú cái đầy lông lá có tính cách mà ngày nay chúng ta
không biết; nó vốn là con thú cái mà các ẩn dụ trong
kinh Kabalah và Do Thái pháp điển gọi là phản ánh
nữ của Samael, Samael-Lilith, tức là người thú
hợp nhất, một thực thể mà kinh Zohar gọi là
Hayo Bischat tức là các con Ác
thú. Những con dă nhân hiện nay chính là do sự cẩu
hợp không tự nhiên này. Chúng thực sự là những
“người câm” và sẽ trở thành những loài vật
biết nói (speaking animals) hay hạng người thấp
kém trong cuộc Tuần Hoàn thứ Năm, một số Cao
đồ (Adepts) của một Môn phái nọ hy vọng
rằng vài Chơn Ngă của giống dă nhân thông minh hơn
sẽ tái xuất hiện vào giai đoạn cuối cùng
của Giống dân thứ Sáu, chúng sẽ có một h́nh
thể như thế nào chỉ là điều phụ
thuộc. H́nh thể chẳng là ǵ cả. Các loài và các
giống cây cỏ, động vật và con người
đă luôn luôn thay đổi h́nh thể không những trong
mỗi cuộc Tuần Hoàn, mà cũng trong các Giống dân
cũng như sau mỗi cơn thiên tai địa chất
kết thúc, hoặc đánh dấu một khúc quanh trong
diễn tŕnh tiến hóa của Giống dân ấy. Trong
Giống dân thứ Sáu
những bộ xương hóa thạch chôn vùi
dưới đất của loài khỉ đột (orang)
và một số khỉ lớn khác (gorilla and chimpanzee)
sẽ là bộ xương của các loài nhũ
động vật nay đă tuyệt diệt. Những h́nh
thể mới sẽ phát triển từ những kiểu
mẫu đă “phế thải” của chủng tộc
người khi mà họ lại một lần nữa
trở lại đời sống thanh nhẹ cơi cảm
dục sau khi đă kinh nghiệm cuộc sống xấu xa
ô trược của cơi trần. Tuy vậy, những h́nh
thể mới có sẽ ngày càng trở nên ít hơn và
thưa dần với thời gian qua khi gần đến
giai đoạn kết thúc của Chu kỳ sáng tạo.
Những h́nh thể đó sẽ biệt tích trước
khi Giống dân thứ Bảy xuất hiện. Nghiệp
quả sẽ d́u dắt những Chơn Thần lạc
hậu trong hàng ngũ nhân loại để cho chúng
đầu thai vào thể xác con người vừa mới
được phát triển từ loài khỉ.
Điều này lẽ
tất nhiên sẽ xảy ra trong hàng triệu năm về
sau. Diễn tŕnh tiến hóa theo định luật chu
kỳ bao gồm tất cả mọi loài hiện nay
đang sống trên Địa Cầu, mỗi loài tuần
tự diễn tiến khi đến lượt ḿnh, là
một h́nh ảnh thực sự của Cơ Sáng Tạo
và không cần đến một quyền năng tạo tác
đặc biệt hay một “phép mầu” nào để
tạo nên vạn vật và con người từ cái hư
vô.
Đó là lập luận
của Giáo lư Huyền môn để giải thích sự
thiếu sót một mối liên hệ trung gian giữa loài
khỉ và loài người (gọi là cái khoen biệt tích) và
để chứng minh rằng loài khỉ vốn do loài
người sinh ra.
TỔNG QUAN VỀ CÁC GIỐNG DÂN SƠ KHAI
Giữa giống
người “vô trí” đầu tiên và giống dân Lemuria
rất thông tuệ sau này có một thời kỳ hàng
triệu năm; giữa nền văn minh sơ khai
nhất của giống dân Atlantis và thời kỳ hữu
sử cũng có một thời kỳ như vậy.
266
Chỉ c̣n lại
một vài tài liệu câm lặng dưới dạng
nửa tá pho tượng khổng lồ đổ nát và các
di tích xưa của người khổng lồ một
mắt để làm chứng cho giống dân Lemuria, chúng ta
không thể cật vấn được chúng v́ chúng là
“sản phẩm của các lực tự nhiên mù quáng” (theo
một số người) và “hoàn toàn hiện đại”
(theo một số người khác). Truyền thuyết
đă bị kẻ hoài nghi và Duy vật bỏ bê xem
thường và bị những giáo sĩ cuồng nhiệt
đă cho Thánh kinh khống chế mọi trường hợp.
Tuy nhiên, bất cứ khi nào mà huyền thoại không
chịu phù hợp với thuyết Đại hồng
thủy Noah th́ nó bị giới sĩ Thiên Chúa xem là
“tiếng nói điên rồ của kẻ mê tín dị
đoan cổ hủ”. Châu Atlantis bị phủ nhận khi
không bị lẫn lộn
với Châu Lemuria và các lục địa đă thất thung
khác v́ có lẽ Châu Lemuria một phần là tạo vật
của khoa học hiện đại và do đó phải
được tin tưởng; c̣n Châu Atlantis của Plato
lại bị hầu hết các nhà khoa học xem là một
giấc mơ.
Những người tin
tưởng vào Plato thường mô tả Châu Atlantis là
một phần nối dài của Châu Phi. Người ta
cũng ngờ rằng một cựu lục địa
đă tồn tại trên bờ biển phía Đông. Nhưng
với vai tṛ là một lục địa, Châu Phi chưa bao
giờ là một phần của Châu Lemuria hoặc Châu
Atlantis, v́ chúng ta đă thỏa thuận gọi chúng là
Lục địa thứ Ba và thứ Tư. Người ta
chưa bao giờ đề cập tới các tên gọi
cổ sơ của chúng trong kinh Purănas cũng như ở
bất cứ noi nào khác. Nhưng chỉ cần có
được một trong các ch́a khóa nội môn th́ chúng ta
cũng có thể dễ dàng nhận diện được
các vùng đất đă bị mất này trong đám vô
số các “Xứ sở của chư Thiên” và Munis
được mô tả trong kinh Purănas là các Vùng, Châu và Khu
vực của họ. Trong buổi sơ khai của Châu
Lemuria, Thất đại châu đứng sừng sững
như là một đỉnh núi khổng lồ vươn
lên từ đáy biển; nước đă tràn ngập
giữa rặng núi Atlas và đảo Madagascar cho tới
thời kỳ đầu của Châu Atlantis, sau khi Châu
Lemuria đă biến mất, sau khi Châu Phi từ đáy
biển trồi lên và rặng núi Atlas đă bị ch́m
mất một nửa.
Dĩ nhiên là trong phạm vi của ngay cả nhiều quyển sách cũng không thể tŕnh bày một cách tỉ mỉ và tuần tự về sự tiến hóa của ba Giống dân đầu tiên – ngoại trừ việc t́nh bày một tổng quan về sự kiện đó mà ngày nay chúng ta đă thực hiện. Giống dân thứ Nhất chẳng hề có lịch sử của riêng ḿnh. Giống dân thứ Hai cũng có thể được nhận định như vậy. Do đó chúng ta chỉ sẽ quan tâm tới Giống dân Lemuria và Atlantis mà thôi; trước khi có thể thử tŕnh bày lịch sử của chính Giống dân thứ Năm.
Ngoài lục địa
của chính ḿnh ra, thử hỏi chúng ta biết ǵ về
các lục địa khác, và lịch sử biết hoặc
chấp nhận những điều ǵ về các Giống
dân sơ khai? Mọi điều nằm ngoài các điều
suy lư đáng tởm của khoa học duy vật
đều bị bôi lọ bằng từ ngữ “mê tín
dị đoan”. Những kẻ minh triết ngày nay sẽ
thấy chẳng tin
tưởng điều ǵ cả. Các giống người
có “cánh” và bán thư bán hùng
của Plato và Thời Hoàng kim của ông dưới sự
cai trị của Thần Saturn và chư Thiên đă bị
Haeckel lặng lẽ đưa về vị trí mới của chúng trong Thiên
Nhiên, các Giống dân Thiêng liêng của chúng ta được
tŕnh bày là hậu duệ của loài khỉ mũi
dưới (Catarrhine apes), c̣n tổ tiên của chúng ta là một
mẩu “bùn nhớt ở biển” !
Tuy nhiên, Faber đă phát
biểu rằng:
Các điều hư cấu (fictions)
trong cổ thi … cũng bao hàm một phần chân lư lịch
sử.
267
Cho dù nỗ
lực của các vị học giả thông thái của Luận đề về
các Bí nhiệm của Cabiri có thiên lệch đến đâu
đi nữa – trong suốt hai quyển sách của ông,
các nỗ lực đó đều có mục đích
cưỡng chế các thần thoại và biểu
tượng cổ điển của Ngoại giáo xa
xưa, “để chứng tỏ chân lư Thánh kinh”- thời
gian khảo cứu thêm nữa đă phục thù (ít ra là
một phần) “chân lư” đó bằng cách bộc lộ nó. Như thế, ngược
lại, chính sự phóng tác Thánh kinh một cách khéo léo đă
được dùng để chứng tỏ sự minh
triết tuyệt vời của Ngoại giáo Cổ
thời. Điều này đă bất chấp t́nh trạng
rối mù mà chân lư về Kabiri – các vị Thần bí
nhiệm nhất thời xưa – đă bị quăng vào do
các sự suy lư hoang đường, mâu thuẫn của Giám
mục Cumberland, Tiến sĩ Shuckford, Cudworth, Vallancey v.v… và
cuối cùng là Faber. Tuy nhiên, tất cả các học giả
này (từ đầu chí cuối) đă phải đạt
tới một kết luận nào đó do Faber xây dựng,
như sau:
Chúng ta chẳng
có lư do nào để cho rằng việc sùng bái ngẫu tượng
của thế giới phi Do Thái chỉ là một sự bày
đặt độc đoán; ngược lại,
dường như nó đă dựng (hầu như là
một cách đại đồng thế giới) một sự hồi
tưởng cổ truyền về một vài biến
cố có thực. Tôi biết rằng các biến cố này
là trận Đại hồng thủy tiêu diệt Giống
dân đầu tiên [theo Nội môn Bí giáo là Giống dân
thứ Tư] của nhân
loại.([589])
Faber c̣n nói thêm rằng:
Tôi tin rằng
truyền thuyết về sự ch́m của đảo
Phlegyan cũng giống y như truyền thuyết về
sự ch́m của đảo Atlantis. Đối với tôi,
dường như cả hai đều ám chỉ một
đại biến cố duy nhất, sự đắm ch́m
của toàn thế giới dưới nước trong
trận đại hồng thủy hay nước ở
trung tâm dâng lên nó, nếu chúng ta giả sử rằng ṿng
cung của quả đất vẫn ở nguyên vị trí
cũ của nó. Thật vậy, trong tác phẩm bàn về
Châu Alantis của Plato (tác phẩm này hiển nhiên là có
mục đích hạ bệ thẩm quyền của niên
đại kư Thánh kinh), ông Bailly đă khổ công chứng
tỏ rằng dân Atlantis thuộc về một quốc gia
rất xưa ở phía Bắc đă tồn tại
trước người Ấn Độ, Phoenicia và
người Ai Cập nhiều. ([590])
Về điều này, Faber
lại đồng ư với Bailly, ông đă tỏ ra thông
thái và có nhiều trực giác hơn những kẻ chấp
nhận niên đại kư Thánh kinh. Bailly cũng chẳng sai
lầm khi bảo rằng người Atlantis cũng
giống y như Titans và người Khổng lồ. ([591])
Faber lại càng sẵn ḷng chấp nhận ư kiến
của vị đồng nghiệp người Pháp, v́
Bailly đề cập tới Cosmas Indicopleustes, ông c̣n
bảo tồn được một truyền thuyết xa
xưa cho rằng Noah xưa kia đă ở trên đảo Atlantis. Cho dù
đảo này có là đảo “Poseidonis” được
đề cập trong Phật Giáo Bí Truyền ([592])
hay là Châu Atlantis đi nữa th́ cũng chẳng thành
vấn đề. Truyền thuyết vẫn cứ sờ
sờ ra đó, do một tín đồ Thiên Chúa giáo ghi
lại.
268
Chẳng nhà Huyền bí
nào muốn nghĩ tới việc truất hữu các
đặc quyền của Noah nếu người ta tuyên
bố ông là người Atlantis, v́ điều này sẽ
chỉ chứng tỏ rằng dân Do Thái đă chỉ
lặp lại câu chuyện về Bàn Cổ Vaivasvata,
Xisuthrus và biết bao nhiêu là người khác, và họ
chỉ việc thay đổi tên họ, điều mà
họ cũng có quyền làm như bất kỳ quốc
gia hoặc dân tộc nào khác. Chúng tôi chỉ phản đối
việc chấp nhận niên đại kư Thánh kinh theo sát
nghĩa, v́ nó thật phi lư và chẳng phù hợp với các
dữ kiện địa chất hoặc lư trí. Vả
lại, nếu Noah là một người Atlantis, th́ ông
ắt đă là một Titan, một người Khổng
lồ, như Faber đă chứng tỏ; và nếu ông
vốn là một người Khổng lồ th́ tại sao
trong Sáng Thế Kư lại không tŕnh bày ông như vậy ? ([593])
Bailly đă sai lầm khi bác
bỏ sự ch́m của Châu Atlantis và xem dân Atlantis chỉ
thuộc về một quốc gia hậu hồng thủy
ở phía bắc; tuy nhiên, theo ông, quốc gia này nhất
định là “cũng đă phồn vinh trước khi các
đế quốc Ấn Độ, Ai Cập và Phoenicia
được lập nên”. Về vấn đề này,
chỉ cần ông biết tới sự tồn tại
của cái mà chúng ta đă thỏa thuận gọi là Châu
Lemuria, th́ ắt hẳn ông cũng lại chí lư rồi.
Đó là v́ người Atlantis có tính cách hậu hồng
thủy so với người Lemuria và Châu Lemuria đă không
bị ch́m ngập như Châu Alantis, mà lại bị nhận ch́m dưới sóng
biển do các trận động đất và lửa
dưới đất (một ngày kia nước Anh và Âu
Châu cũng sẽ bị như vậy). Chính sự dốt
nát của các nhà khoa học chúng ta – họ sẽ chẳng
chấp nhận truyền thuyết cho rằng nhiều
lục địa đă bị ch́m, cũng chẳng
chấp nhận định luật tuần hoàn tác
động trong suốt Chu kỳ Khai Nguyên – mới là nguyên
nhân chính của mọi sự rối loạn. Bailly lại
cũng chẳng hề sai lầm khi quả quyết
với chúng ta rằng người Ấn Độ, Ai
Cập và Phoenicia xuất hiện sau người Atlantis, v́
người Atlantis thuộc về Giống dân thứ
Tư, trong khi mà người Ăryan và nhánh Semite thuộc
Giống dân thứ Năm. Khi lặp lại câu chuyện mà
các lễ sư Ai Cập đă tường thuật cho
Solon, Plato đă cố t́nh lẫn lộn – như tất
cả mọi Điểm
Đạo đồ - hai lục địa, và gán cho
ḥn đảo nhỏ (đă bị ch́m sau rốt) tất
cả mọi biến cố thuộc về hai lục
địa khổng lồ: lục địa tiền
sử và lục địa cổ truyền. Do đó, ông mô
tả cặp nam nữ đầu tiên – chính họ
đă cung cấp dân cư cho toàn thể ḥn đảo – là
được tạo ra từ Đất bụi. Khi nói
thế, ông không hề ám chỉ Adam và Eve, chứ
đừng nói là các tổ phụ Hy Lạp của chính ông.
Ông chỉ nói một cách ẩn dụ, và khi đề
cập đến “Đất”, ông có ư muốn nói tới
Vật Chất, v́ người Atlantis đích thực là
giống người thuần
túy phàm tục đầu
tiên – các Giống dân trước dân Atlantis có tính cách thiêng
liêng và tinh anh hơn là rắn chắc và có tính cách con
người.
269
Thế nhưng, cũng
như bất kỳ một Điểm đạo
đồ nào khác, Plato ắt là đă phải biết
tới lịch sử của Giống dân thứ Ba sau khi nó
“Sa đọa”, mặc dù là kẻ đă cam kết bảo
mật, ông đă không bao giờ phô bày sự hiểu
biết của ḿnh một cách dài ḍng như vậy. Tuy
nhiên, nay sau khi đă làm quen cả với niên đại kư
gần đúng của các quốc gia Đông phương –
tất cả các niên đại kư này đều dựa vào
và theo sát các phép tính toán của người Ăryan sơ khai –
chúng ta có thể nhận thức được một cách
dễ dàng hơn rằng các thời kỳ dài đăng
đẳng ắt đă phải trôi qua từ khi có sự
phân chia giới tính, không kể Căn chủng thứ
Nhất hoặc ngay cả Căn chủng thứ Hai. Và v́
những điều này ắt phải bất khả tư
nghị đối với các tâm trí được huấn
luyện để suy tư theo lối Tây phương, nên
chúng ta thấy chẳng có ích ǵ mà nói về Giống dân
thứ Nhất và thứ Hai, ngay cả Giống dân thứ
Ba trong giai đoạn sơ khai nhất nữa.([594])
Muốn cho độc giả chưa được
điểm đạo khỏi bị hoang mang một cách
tuyệt vọng, chúng ta chỉ có thể khởi sự khi
Giống dân thứ ba đă đạt tới thời
kỳ nhân loại đầy đủ.
GIỐNG DÂN
THỨ BA SA ĐỌA,
và không c̣n sáng tạo nữa, nó sinh
con cái. Hơn nữa, vốn vẫn c̣n vô trí vào thời
kỳ phân chia giới tính, nó đă sinh ra đám con cháu
dị thường, cho đến khi bản chất sinh lư
đă điều chỉnh các bản năng của nó theo
chiều hướng đúng đắn. Cũng như các
“Đức Chúa Trời” trong Thánh kinh, “các Con của Minh
triết”, các Thiền Định Đế Quân, đă
khuyến cáo nó để mặc trái cấm cho Thiên Nhiên,
nhưng lời khuyến cáo tỏ ra không có giá trị. Con
người đă nhận thức được sự
bất lợi – chúng ta không được bảo là
tội lỗi – của những điều mà họ đă
thực hiện, có điều là quá muộn sau khi các
Chơn Thần Thiêng Liêng từ các cơi cao đă đầu
thai vào họ và phú cho họ sự hiểu biết. Cho
tới lúc đó, họ chỉ có tính cách vật chất
giống như các con thú mà họ sản sinh ra. V́ đâu là
sự dị biệt? Giáo lư dạy rằng điều
dị biệt duy nhất giữa các sinh vật và các
vật vô tri vô giác trên Trần Thế, giữa một con
thú và một con người là như sau: một đàng có
nhiều”Linh Hỏa” khác nhau hăy c̣n tiềm tàng, một
đàng có các “Linh Hỏa” đang hoạt động. Các Sinh Hỏa (vital Fires) hiện diện trong
vạn vật và chẳng một nguyên tử nào mà không có
nó. Nhưng không một con thú nào có ba “nguyên khí” cao
được khơi hoạt, chúng chỉ tiềm tàng và
do đó, xem như không tồn
tại. Cho đến nay, những h́nh hài động
vật của con người ắt cũng như thế,
nếu khi phát xuất từ cơ thể của các tổ
phụ mà chúng là h́nh bóng, chúng lại bị bỏ mặc
cho phát triển chỉ nhờ vào các năng lực nội
tại của Vật Chất. Nhưng Pymander đă dạy
như sau:
Đây là một
Bí nhiệm mà đến nay vẫn c̣n được
giấu kín. Thiên Nhiên ([595])
ḥa lẫn với Con Người ([596])
đă tạo ra một phép lạ kỳ diệu, sự pha
trộn hài ḥa bản thể của Bảy Đấng
[Tinh Quân] với chính ḿnh; Lửa, Tinh Thần và Thiên Nhiên
[Thực Tượng của Vật Chất], sự pha
trộn đó tức khắc tạo ra bảy người
có giới tính đối nghịch nhau [âm và dương] tùy
theo bản thể của Bảy Đấng Tinh Quân. ([597])
270
Hermes, Điểm
đạo đồ ba lần vĩ đại,([598])
“Quyền năng của Tư Tưởng Thiêng Liêng” đă
dạy như thế. Thánh Paul, một Điểm
đạo đồ khác, đă gọi Thế giới
của chúng ta là “tấm gương soi bí hiểm của
chân lư thuần túy”, c̣n thánh Gregory of Nazianzen đă bổ
chứng cho Hermes bằng cách phát biểu:
Các sự vật
hữu h́nh chẳng qua chỉ là h́nh bóng và nét chấm phá
của các điều mà chúng ta không thể thấy
được.
Đó là một sự
phối hợp vĩnh cửu, và các h́nh ảnh
được lặp lại từ nấc cao xuống măi
tới các nấc thấp của Thang Hiện Tồn.
“Sự sa đọa của các Thiên Thần” và “Trận
chiến tranh trên Trời” được lặp lại
trên mọi cảnh giới, “chiếc gương”
dưới thấp làm méo mó h́nh ảnh của “chiếc
gương” trên cao và mỗi cái đều ghi lại theo
cách thức của riêng ḿnh. Như thế, các giáo
điều Thiên Chúa chẳng qua chỉ là cái hồi
niệm của các mẫu (paradigms) của Plato, ông đă nói
tới các điều này một cách thận trọng như
mọi Điểm đạo đồ khác. Nhưng đó
là tất cả những ǵ đă được diễn
đạt trong một vài câu sau đây của tác phẩm Desatir:
Chúa [Ormazd] phán: Vạn vật
trên trần thế đều là h́nh
bóng của một điều nào đó của các cơi cao.
Vật phát quang này [ánh sáng, lửa v.v…] là h́nh bóng của cái
c̣n sáng hơn chính nó và cứ như thế cho đến
khi nó đạt tới Ta, vốn là ánh sáng vô thượng
(the light of lights).
Trong tác phẩm Do Thái Bí
giáo, nhất là trong kinh Zohar, chúng ta thấy nổi bật
lên ư tưởng cho rằng mọi ngoại cảnh tern6
Trần Thế hay trong Vũ Trụ này đều là “H́nh
bóng” (Dyooknah) của Ánh Sáng hay Đấng Thánh Linh vĩnh
cửu.
Thoạt tiên Giống dân
thứ Ba chủ yếu là “H́nh bóng” rực rỡ của
các Thần Linh mà truyền thuyết đẩy xuống
Trần Thế sau khi có Trận chiến tranh ẩn dụ
trên Trời. Trên Trần Thế, điều này c̣n có tính
cách ẩn dụ hơn nữa, v́ đó là Trận chiến
giữa Tinh Thần và Vật Chất. Trận chiến này
sẽ c̣n măi cho đến khi mà Chơn Nhơn đă thích
ứng được phàm ngă với bản chất thiêng
liêng của chính ḿnh. Cho đến lúc đó các thị
dục cuồng si của phàm ngă sẽ thù địch măi
măi với Chủ nhân của nó tức là Chơn Nhơn.
Nhưng một ngày kia, con thú
sẽ được thuần hóa, v́ bản chất
của nó sẽ bị thay đổi, và sự hài ḥa
sẽ lại ngự trị một lần nữa giữa
hai bên cũng như trước khi có sự “Sa
đọa”, khi ngay cả con người hữu hoại
cũng được các Hành “tạo ra” chứ không
được sinh ra.
271
Điều trên được minh
giải trong khoa thần phổ học quan trọng,
nhất là thần phổ học Hy Lạp cũng như là
Thần phổ học Hesiod. Việc Kronos (con trai của
Uranus) cắt xẻo thân
phụ ḿnh và kết án là bất lực, chẳng bao
giờ được các nhà viết huyền thoại
hiện đại thấu hiểu. Thế nhưng nó
rất dễ hiểu, và v́ có tính cách đại
đồng thế giới ([599])
nên nó ắt phải bao hàm một ư tưởng triết
học vô cùng trừu tượng hay đă thất
truyền đối với các bậc hiền giả
thời đại. Thật vậy, sự trừng
phạt này trong ẩn dụ đánh dấu “một
thời kỳ mới, giai đoạn thứ hai trong
sự triển khai cơ sáng tạo”, như nhận xét
thật đúng đắn của Decharme, ([600])
tuy nhiên, ông lại không thử ráng giải thích nó. Uranus
đă ra sức cản trở sự phát triển hoặc
sự tiến hóa tự nhiên đó bằng cách tiêu diệt mọi người
con của ḿnh ngay khi chúng vừa mới sinh ra. Như
thế, người ta đă tŕnh bày là Uranus vốn là hiện thân của mọi quyền
năng sáng tạo của (và trong) Hỗn Mang – Không gian tức Đấng Thánh Linh Vô
Hiện – phải đền tội, đó là v́ chính các
quyền năng này đă khiến cho các Đấng Pitris
khai sinh ra những con
người nguyên thủy – cũng như sau đây,
đến lượt những người này lại sinh
con cái – mà không có ư thức hoặc ư muốn sinh sản.
Việc sinh sản đă bị đ́nh trệ trong một
thời gian, đă chuyển vào tay Kronos, Thời gian, ([601])
Ngài kết hợp với Rhea (Địa Cầu – theo
Nội môn Bí giáo, là Vật Chất nói chung) và như thế
đă tạo ra những người khổng lồ Tiatan
trên Thiên giới và hạ giới. Toàn bộ biểu
tượng kư này liên quan tới các bí nhiệm của
sự tiến hóa.
Ẩn dụ này là lối thuyết minh
ngoại môn của Nội môn Bí giáo dược tŕnh bày trong
phần này của tác phẩm. Đó là v́ chúng ta thấy
cũng câu chuyện ấy được lặp lại
nơi Kronos. Cũng như Uranus đă dùng Gaea (một
vị thần trong thế giới biểu lộ,
đồng nhất với Tiên Thiên Huyền Nữ, tức
Thái Uyên Vũ trụ) để diệt các con của ḿnh
bằng cách nhốt chúng trong ḷng Đất (Titaea), cũng
vậy, vào giai đoạn sáng tạo thứ hai này, Kronos
đă dùng Rhea để diệt các con ḿnh bằng cách
ngấu nghiến chúng. Điều này ám chỉ các nỗ
lực không có kết quả của Địa Cầu
thứ Thiên Nhiên, nhằm đơn độc tạo ra
những “con người”thực sự.([602])
Thời gian đă mất trọn công tŕnh không kết
quả của chính nó. Rồi tới Thần vương
Zeus, Jupiter, đến lượt Ngài lại truất ngôi
cha ḿnh. ([603])
Theo một ư nghĩa nào đó, Thần khổng lồ
Jupiter là Prometheus và khác hẳn với thần Zeus, bậc
“Đại Từ Phụ của chư Thần”. Trong
Pymander, Hermes gọi Ngài là “Thiên Nhân”, thậm chí trong Thánh
kinh, chúng ta cũng lại thấy Ngài có danh hiệu là Adam
và sau cùng – do sự chuyển hóa – là Ham. Thế nhưng,
tất cả đều là hiện thân của các “Con
của Minh Triết”. Chúng ta có thể thấy điều
minh chứng là Jupiter thuộc về Chu kỳ Atlantis thuần
túy nhân loại – nếu chúng ta thấy là Uranus và Kronos
(kẻ xuất hiện trước Ngài) c̣n chưa
đủ - trong tác phẩm của Hesiod, ông cho rằng:
272
Các
Đấng bất tử đă tạo ra giống dân
của Thời đại Vàng và Bạc [các Giống dân
thứ Nhất và Giống dân thứ Hai]; Jupiter đă
tạo ra thế hệ Đồng thau [một hỗn
hợp của hai nguyên
tố], thế hệ các Anh hùng và thế hệ của các
Thời đại Sắt.([604])
Sau đó Ngài gởi tặng
phẩm chết người của ḿnh (his fatal present), Pandora,
tới cho Epimetheus.([605])
Hesiod gọi tặng phẩm người
đàn bà đầu tiên này là một “tặng phẩm
chết người”. Ông giải thích rằng đó là
một h́nh phạt được giáng lên đầu con
người “v́ đă ăn cắp lửa [thiêng sáng ḷa]”.
Sự xuất hiện của nàng trên Trần Thế là
dấu hiệu của mọi tai họa. Trước khi
nàng xuất hiện, các giống người đă sống
hạnh phúc, không bị đau ốm và khổ sở
cũng như các giống người tương tự mà
người ta tŕnh bày là sống dưới sự trị
v́ của Yima trong tác phẩm Vendĩdăd của Bái Hỏa
giáo.
273
Theo
truyền thuyết của thế giới chúng ta cũng có
thể truy nguyên hai trận Đại hồng thủy
bằng cách so sánh kỹ lưỡng tác phẩm của
Hesiod, kinh Rig Veda, kinh Zend Avesta v.v…nhưng người ta
chưa bao giờ đề cập tới một con
người bản sơ trong bất kỳ thần
phổ học nào ngoại trừ Thánh kinh. ([606])
Bất cứ nơi đâu, con người thuộc
Giống dân chúng ta cũng
xuất hiện sau một trận thủy tai. Sau tai
biến này, truyền thuyết chỉ đề cập
tới nhiều danh hiệu của các lục địa và
các đảo bị ch́m dưới làn sóng biển khi
đúng lúc. ([607])
Theo Hesiod, ([608])
các Thần và Thế nhân có một nguồn gốc chung; và
Pindar đă lặp lại phát biểu đó. Deucalion và
Pyrrha, hai kẻ đă thoát được trận
Đại hồng thủy nhờ tạo ra một
chiếc bè giống như chiếc bè của Noah, ([609])
yêu cầu Jupiter làm linh hoạt lại giống
người mà Ngài đă khiến cho bị tiêu diệt trong
trận Đại hồng thủy. trong thần thoại
Slave, mọi người đều bị chết ch́m,
chỉ c̣n lại một cặp vợ chồng già. Thế
rồi, Pram’zimas, Đấng chưởng quản vạn
vật, khuyên họ nhảy bảy lần trên các tảng
đá của Địa cầu, và sinh ra bảy giống dân
(cặp) mới lạ; từ bảy giống dân này
lại sinh ra chín bộ tộc Lithuania.([610])
Tác giả của Thần Thoại Cổ Hy Lạp đă
thừa biết rằng Bốn Thời đại có
nghĩa là các thời kỳ và cũng là một ẩn
dụ ám chỉ các Giống dân. Ông bảo rằng :
Các giống dân
kế tiếp, bị hủy diệt và thay thế bởi
các giống dân khác mà không có bất cứ giai đoạn
chuyển tiếp nào, được đặc trưng
bởi các danh hiệu của các kim loại, để
biểu diễn giá trị ngày càng giảm của chúng. Vàng,
kim loại sáng chói và quí giá nhất, biểu tượng
của sự rực rỡ … là đặc tính của
giống dân thứ nhất… Những người thuộc
giống dân thứ hai, những người của
Thời đại Bạc, đă kém xa giống dân thứ
Nhất. Các tạo vật yếu ớt và bất
động mà cả cuộc đời chẳng có ǵ khác
hơn là một thời kỳ ấu trĩ dài dằng
dặc và ngu độn… Chúng đă biến mất
…Những người của Thời đại
Đồng thau th́ cường tráng và hung bạo [Giống
dân thứ Ba];… họ mạnh vô cùng. “Họ có vũ khí làm
bằng đồng thau, họ chẳng dùng ǵ ngoài
đồng thau ra. Sắt, kim loại đen, vẫn c̣n
chưa được biết tới. ([611])
Đối với Hesiod, giống dân thứ tư là
giống dân của những vị Anh hùng đă ngă gục
trước thành Thebes, ([612])
hoặc dưới các bức tường của thành Troy ([613])
(tiếng Pháp: Troie).
Như thế, v́ các thi
sĩ Hy Lạp xưa nhất cũng đề cập
tới bốn Giống dân, mặc dù rất lộn xộn
và sai lạc về niên biểu, nên các giáo lư của chúng ta
lại một lần nữa được bổ
chứng trong các Tác phẩm cổ điển. Nhưng
đây chỉ toàn là “thần thoại” và thi ca. Nhưng liệu
khoa học hiện đại có thể bảo sao đây
về một sự phong thần hóa các chuyện hư
cấu xưa cũ như thế? Việc tiên đoán phán quyết
của nó cũng chẳng khó khăn ǵ. Do đó chúng ta
thử rán giải đáp bằng cách tiên liệu và
chứng tỏ rằng các chuyện hư cấu và các
điều suy lư thực nghiệm đă chiếm lĩnh
địa hạt của cũng nền khoa học ấy
nhiều đến nỗi mà không một học giả nào
có chút quyền ǵ dùng cái nh́n nảy lửa của ḿnh
để bới lông t́m vết nhà Huyền bí, cho dù giả
sử rằng vết này không phải là một sản
phẩm của trí tưởng tượng của chính y.
40. KẾ ĐÓ GIỐNG DÂN THỨ BA VÀ GIỐNG DÂN THỨ TƯ TRỞ NÊN KIÊU CĂNG, “CHÚNG TA LÀ VUA; CHÚNG TA LÀ THẦN LINH” (a).
41. HỌ LẤY NHỮNG NGƯỜI VỢ XINH ĐẸP DỄ NH̀N. NHỮNG NGƯỜI VỢ NÀY THUỘC GIỐNG NGƯỜI ĐẦU HẸP, VÔ TRÍ. HỌ SINH RA NHỮNG GIỐNG QUÁI VẬT, NHỮNG LOÀI QUỶ SỐNG, NAM VÀ NỮ. HỌ CŨNG SINH RA LOÀI NỮ YÊU (DĂ KI NĨ) VỚI ÍT TRÍ KHÔN (b).
42. HỌ DỰNG ĐỀN THỜ CHO THỂ XÁC CON NGƯỜI. HỌ CHIÊM BÁI NGƯỜI NAM VÀ NỮ ©. KHI ĐÓ CON MẮT THỨ BA KHÔNG C̉N HOẠT ĐỘNG NỮA (d).
274
a. Đó là những con
người thể chất đầu tiên thực sự
mà đặc tính đầu tiên là kiêu căng. Đó là
Giống dân thứ Ba và Giống dân Atlantis khổng lồ,
mà kỷ niệm vẫn c̣n truyền tụng từ thế
hệ này sang thế hệ khác và giống người măi
từ thuở Moses, và đă t́m ra một h́nh hài ngoại
cảnh nơi những người iền đại
hồng thủy, những thầy phù thủy và pháp sư
khủng khiếp, mà Giáo hội Thiên Chúa La Mă đă bảo
tồn được các huyền thoại sống
động và đồng thời bị xuyên tạc về
họ. Bất cứ người nào đă đọc và
nghiên cứu các Giảng lư về Cổ giáo, sẽ dễ
dàng nhận ra trong một số những người Atlantis
này các nguyên kiểu của các thợ săn dũng mănh
Nimrods, những kẻ đă xây dựng Tháp Babel, số con
cháu của Ham và tất cả mớ hổ lốn “kư
ức đọa đày” (theo lối nói văn chương
thần học); tóm lại, đó là nguyên kiểu của
những kẻ đă cung ứng cho hậu thế các
kiểu mẫu Satan chính thống. Và dĩ nhiên là
điều này sẽ khiến chúng ta phải t́m hiểu
luân lư tôn giáo của các Giống dân sơ khai này, chúng có
thể có tính cách thần thoại.
Tôn giáo của Giống dân
thứ Ba và Giống dân thứ Tư là ǵ? Hiểu theo ư
nghĩa thông thường của danh từ này, th́ không
một giống dân nào trong hai giống dân trên có một tôn
giáo v́ họ không biết có một giáo điều nào
hoặc thấy cần phải có một tín ngưỡng.
Khi nhăn quan trí tuệ của con người vừa khai
mở để hiểu biết th́ Giống dân thứ Ba
đă cảm thấy hợp nhất làm một với cái
nguyên lư đại đồng tuyệt đối và
bất khả tri, tức Thượng Đế Độc
Tôn Duy Nhất. Vốn bẩm sinh đă có những quyền
năng thiên phú và cảm thấy tự nơi ḿnh có sự
hiện diện của Thượng Đế nội tại, mỗi
người đều cảm thấy ḿnh là một Nhân
vật Thiêng liêng trong cái bản chất tinh hoa, tuy là
một động vật trong cái phàm ngă vật chất,
sự xung đột giữa hai tính chất có ngay từ
ngày mà họ thưởng thức cái quả của cây Minh
Triết, một cuộc đấu tranh để sống
c̣n giữa tâm linh và tinh thần và giữa tinh thần
với vật chất. Kẻ nào chinh phục
được hạ thể bằng cách chế ngự
bản thân, gia nhập vào nhóm “Con của Ánh Sáng”. Những
kẻ không làm chủ được những thị
dục thấp hèn, trở nên nô lệ của Vật
Chất. Từ cương vị “Con của Ánh Sáng và Minh
Triết” nó đă rơi xuống thấp bằng cách
trở nên “Con của Bóng Tối”. Họ đă ngă gục
trong cuộc chiến đấu giữa Đời
sống phàm tục và Đời sống Siêu linh. Tất
cả những kẻ ngă gục đó trở nên mầm
giống của những hạng người đi theo bàng
môn tả đạo trong giống Atlantis tương lai.([614])
275
Như thế là
Giống dân thứ Ba, lúc bắt đầu khai mở ư
thức, vẫn không có một tín ngưỡng nào có thể
gọi là tôn giáo. Điều này nghĩa là y chẳng
những không biết ǵ về các “tôn giáo vui nhộn,
lộng lẫy, xa hoa” mà thậm chí c̣n không biết ǵ
về bất kỳ hệ thống tín ngưỡng
hoặc thờ cúng ngoại môn nào. Tuy nhiên nếu danh
từ này được hiểu theo ư nghĩa là sự qui
tụ của quần chúng, trong một h́nh thức tôn kính
đối với những vị mà người ta cảm
thấy rằng cao cả hơn ḿnh – chẳng khác nào t́nh
cảm mà một đứa trẻ biểu lộ với
một người thân – th́ chí đến những
người Lemuria đầu tiên cũng có một tôn giáo
rất đẹp, kể từ lúc bắt đầu
đời sống trí thức của họ. Phải
chăng họ tôn sùng những vị Thần cai quản
những sức mạnh Thiên
Nhiên ở chung quanh họ, ngay cả trong nội tâm của
họ? ([615])
Chẳng lẽ họ đă không trải qua thời niên
thiếu, được nuôi dưỡng và chăm sóc
bởi những vị đă khai sinh ra họ và ban cho
họ cuộc sống thông tuệ, hữu thức hay sao?
Chúng tôi được cho biết như vậy và chúng tôi
tin tưởng điều đó. Đó là v́ sự tiến
hóa của Tinh Thần bên trong lớp vỏ Vật Chất
không bao giờ có thể thực hiện được và
cũng không thể tiếp nhận được cái
động lực thúc đẩy đầu tiên của nó,
nếu những vị Thần minh rạng ngời không hy
sinh cái tinh hoa của các vị để làm sinh động
con người cát bụi bằng cách ban phát cho mọi
“nguyên khí” nội tại của y, một phần hay
đúng hơn là một phản ánh của cái tinh hoa đó.
Những vị Thiên Sứ của Bảy Cơi Trời
(tức bảy cơi sinh hoạt trong Thái Dương Hệ)
là Thực Thể vô vi của những Nguyên tố thiên nhiên
hiện tại và tương lai, cũng như các vị
Thiên Thần của Bảy Quyền Năng Thiên Nhiên
(những phương thức vận chuyển hay những
mănh lực tế vi theo quan điểm khoa học) là các
Thực Thể cao hơn của các Cấp đẳng c̣n
cao hơn nữa.
Đó là “Hoàng Kim Thời
Đại” xa xưa trong dĩ văng, tức là Thời
kỳ mà “Thần minh hạ giáng xuống Địa
Cầu và giao tiếp tự do với người trần
gian”. Kể từ khi đó các vị Thần đă ra đi
– nghĩa là trở về trạng thái vô h́nh – và những
thế hệ tương lai bắt đầu sùng bái
những nguyên tố thiên nhiên là địa hạt ngự
trị của các Đấng ấy.
Giống người Atlantis
là hậu duệ đầu tiên của giống
người bán thiêng liêng sau sự phân chia nam
nữ và bởi đó là những người thai sinh
đầu tiên và do người sinh ra. Chính họ đă
trở nên những “kẻ hy sinh” đầu tiên cho Thần Vật Chất (God of
Matter). Trong dĩ văng xa xôi lu mờ, họ là cái kiểu
mẫu tạo dựng nên biểu tượng Cain ([616])
như những người đầu tiên tôn thờ H́nh
tượng Vật chất dưới h́nh thức nhân
như (anthropomorphits). Sự thờ phụng này không bao lâu
đă biến thành sự tôn
thờ bản ngă, rồi từ đó đưa
đến việc tôn thờ năng lực sáng tạo
dưới h́nh thức nam nữ tính và những ǵ c̣n
tồn tại cho đến ngày nay trong những biểu
tượng các tôn giáo công truyền như nghi thức
lễ bái, tín điều và âm thanh sắc tướng. Adam
và Eve đă biến thành vật
chất hoặc cung ứng mảnh đất, Cain và
Abel – Abel là mảnh đất tạo ra sự sống, c̣n
Cain “là người cày mảnh đất hoặc cánh
đồng đó”.
Như thế là những
giống người Atlantis đầu tiên sinh
trưởng trên lục địa Lemuria phân chia làm hai
hạng, một hạng tôn thờ Thần minh của Thiên
Nhiên duy nhất và vô sắc tướng, mà con người
cảm nhận thấy một Tia linh quang nội tại
tiềm ẩn bên trong họ, c̣n một hạng
người khác tôn thờ một cách cuồng tín những
vị Thần của Trái Đất, những Quyền
năng hắc ám của Vũ Trụ dưới h́nh
thức nhân như, và họ kết liên với những
vị thần ấy. Đó là những vị Gibborim sơ
khai nhất, những “người dũng mănh … lừng
danh” vào thời đó,([617])
họ đă biến thành các Kabirim đối với
Giống dân thứ Năm như Kabiri đối với
người Ai Cập và Phoenicia, các vị khổng lồ
Titan đối với người Hy Lạp, các La Sát và
Daityas đối với các giống dân Ấn Độ.
276
Đó là nguồn
gốc bí nhiệm của mọi tôn giáo hiện đại
sau này, nhất là nguồn gốc của tục sùng bái
vị Thượng Đế bộ tộc của
những người Hebrew sau này. Đồng thời, tôn
giáo tính dục này lại có liên quan mật thiết, dựa
vào, và có thể nói là ḥa lẫn với các hiện
tượng thiên văn. Giống dân Lemuria. Giống dân
Lemuria bị thu hút về phía Bắc Cực, tức là cơi
trời của các Thủy tổ họ - Lục
địa Bắc Cực; c̣n giống dân Atlantis bị thu
hút về phía Nam Cực, “Địa Ngục”, theo quan
điểm vũ trụ và địa cầu – mà từ
đó các Tinh Linh vũ trụ, vốn ở nơi đó,
đă thổi phồng các thị dục nóng bỏng thành
các cơn giông tố. Hai Cực này được trấn
giữ bởi các Cổ nhân, Rồng và rắn – do đó là
đám Rồng, Rắn thiện và ác, và cũng là danh
hiệu dành cho “các Con của Thượng Đế “, các
Con của Tinh Thần và Vật Chất, các Pháp sư chính
đạo và tà đạo. Đó là nguồn gốc của
bản chất nhị phân nơi con người. Huyền
thoại về “các Thiên Thần Sa Đọa”, theo ư
nghĩa huyền môn có chứa đựng ch́a khóa giải
đáp cho những sự mâu thuẫn đa diện của
tính chất con người, nó vạch rơ điều bí
mật về tâm thức tự ngă của con người,
và chính nó là lịch sử của diễn tŕnh tiến hóa và
tăng trưởng của con người.
Sự hiểu biết vững
chắc về triết lư này tùy thuộc vào sự hiểu
biết chính xác về Nhân Sinh Khởi Nguyên Luận Bí
Nhiệm. Nó đem lại một manh mối cho vấn
đề nan giải về “Nguồn gốc của
Điều ác” và cho thấy bằng cách nào mà chính con
người là kẻ phân ly Cái Duy Nhất thành nhiều khía
cạnh mâu thuẫn khác nhau.
Do đó,độc giả
cũng đừng lấy làm lạ nếu chúng ta dành
nhiều chỗ như thế để thử rán minh
giải đề tài khó hiểu và mù mờ này mỗi khi mà
nó xuất hiện. Cần phải nói dài ḍng như thế
về khía cạnh biểu tượng của nó, v́ khi làm
như thế, các ẩn ngôn được đưa ra cho
các môn sinh thích suy tư để y đích thân điều
nghiên, và thế là chúng ta có thể gợi ra nhiều ư sáng
sủa hơn mức có thể truyền đạt một
lối tŕnh bày trang trọng và đầy triết lư hơn
bằng các thuật ngữ chuyên môn. Cái gọi là các “Thiên
Thần Sa Đọa” chính là Nhân
loại. Con Quỷ Kiêu Ngạo, Dâm Dục, Nổi
Loạn và Hận Thù đă chẳng
hề tồn tại trước khi mà con người hiểu
biết về vật chất xuất hiện. Chính con người
đă sản sinh ra và nuôi dưỡng ḷng thù hận, và
để cho nó phát triển trong tâm ḿnh; cũng chính y đă
làm ô uế vị Thượng Đế nội tâm trong
chính y bằng cách nối liền Tinh Thần thuần túy
với con Quỷ Vật Chất ô trược, và nếu
câu châm ngôn của Do Thái Bí giáo “Ma
Quỷ là mặt trái của Thượng Đế”
đă được bổ chứng về mặt siêu h́nh
và lư thuyết nơi Vũ trụ nhị phân biểu
lộ, th́ hẳn nhiên, chúng ta chỉ thấy áp dụng
thực tế của nó nơi Loài người mà thôi.
277
Như
thế, nay thật hiển nhiên là – chúng ta đă giả
định rằng (a) Con Người xuất hiện
trước các Động vật hữu nhũ khác,
thậm chí trước cả thời đại của
loài ḅ sát khổng lồ; (b) các trận Đại hồng
thủy định kỳ và các Thời kỳ Băng hà do
sự xáo trộn của trục trái đất theo
nghiệp quả; và nhất là (c) con người sinh ra
từ các Đấng Cao Cả, hoặc cái mà Chủ
nghĩa duy vật ắt gọi là một Đấng siêu nhiên, mặc dù nó chỉ có
tính cách siêu nhân – các giáo lư của chúng ta có rất ít cơ
may được lắng nghe một cách vô tư. Ngoài ra,
c̣n có chủ trương cho rằng một phần Nhân
loại trong Giống dân thứ Ba – tất cả mọi
Chơn Thần của những người nào đă
đạt tới tột đỉnh Công đức, và
Nghiệp quả trong Chu kỳ Khai Nguyên trước – thừa
hưởng các bản chất thuần lư và tâm linh của
các Đấng thiêng liêng đă thể hiện thành ra các
Nguyên khí thứ Năm của họ và Giáo Lư Bí Nhiệm
phải bị hạ bệ trước mắt chẳng
những Chủ nghĩa duy vật mà c̣n là Thiên Chúa giáo
độc đoán nữa. Đó là v́, ngay khi mà Thiên Chúa giáo
đă biết rằng các Thiên Thần này đồng
nhất với các Chơn Linh “Sa Đọa” của họ,
th́ người ta sẽ tuyên cáo rằng Nội môn Bí giáo
thật là tà đạo và độc hại.([618])
Con Người Thiêng Liêng
ngự trong loài vật, và bởi đó khi diễn ra sự
phân chia sinh lư theo triều lưu tiến hóa tự nhiên và
khi mà tất cả “cơ sáng tạo loài động
vật bị tách rời” và
giống đực bị hấp dẫn bởi giống cái,
th́ sự “sa đọa” không phải v́ chúng đă ăn Trái
Hiểu Biết và phân biệt điều Thiện với
điều Ác, mà bởi v́ không c̣n biết ǵ hay hơn
nữa. Do bản năng sáng tạo vô h́nh thức
đẩy, những phụ chủng ban sơ đă sinh ra
một giống người trung gian mà các ĐOẠN KINH đă ngụ ư rằng các
Đấng Thiền Định Đế Quân
thượng đẳng đă hóa thân chuyển kiếp
trong đó. Để đáp lại sự mời mọc
hăy làm giống như ḿnh của những huynh đệ
đồng chủng, những Con
của Ư Chí và Yoga nói “khi chúng ta học xong tầm
mức rộng lớn của vũ trụ và hiểu biết
hết tất cả những ǵ trong đó, chúng ta sẽ
truyền giống của chúng ta”. Điều đó có
nghĩa là các Đấng Tiên Thánh và các Đạo
đồ khổ hạnh sẽ “sinh sôi nẩy nở”
(“multiply”), nghĩa là lại một lần nữa, các
vị ấy tạo ra những người con “trí sinh” vô
nhiễm – trong Căn chủng thứ Bảy.
Người ta nên hiểu rơ như
thế trong các kinh Vishnu Purănas và Brahma Purănas, trong tác phẩm
Mahăbhărata ([619])
và Harivamsha. Hơn nữa, trong một phần của tác
phẩm Pushkara Măhătmya,
người ta đă ẩn dụ phân chia giới tính
bằng Daksha. Khi thấy là các con cháu sinh bằng ư chí
của ḿnh, “các Con của yoga thụ động” sẽ
không tạo ra con người, “Ngài
đă biến một nửa thân thể ḿnh thành ra một
phụ nữ mà Ngài dùng để sinh ra những người
con gái”, các phụ nữ tương lai của Giống dân
thứ Ba, họ đă sinh ra những người Khổng
lồ của dân Atlantis, thường đuợc gọi là
Giống dân thứ Tư. Trong kinh Vishnu Purănas người
ta chỉ nói rằng Daksha, tổ phụ của nhân
loại đă lập ra sự tính giao là phương
tiện cung cấp dân cư cho thế giới. ([620])
278
May
mắn thay cho Nhân loại, “Giống dân được
Tuyển chọn” (“Elect Race”) đă trở thành thể
biểu lộ của các Đấng Thần Quân cao cấp
nhất (về mặt tinh thần và trí tuệ)
trước khi Nhân loại đă trở nên hoàn toàn có tính
cách vật chất. Khi các chi chủng cuối cùng- trừ
một vài chi chủng thấp nhất – của Giống dân
thứ Ba đă bị diệt vong cùng với Đại
lục Lemuria, th́ “Các Mầm mống của Ba Ngôi Minh Triết” đă thủ đắc
được bí nhiệm của sự bất tử trên
Trần Thế, đó là sở năng khiến cho cũng
Đại Nhân chủng đó có thể mặc sức
chuyển từ một h́nh hài đă ṃn mỏi này sang
một h́nh hài mới.
b. Cuộc Chiến tranh
đầu tiên mà Thế gian được biết, sự
tranh chấp lưu huyết đầu tiên của loài
người, là do hậu quả của sự khai mở
các giác quan, nó làm cho con người thấy con gái của
đồng loại hơn con gái của ḿnh, và vợ
của họ cũng thế. Người ta đă phạm
tội hiếp dâm trước khi đám dân bộ lạc
Sabines bị hà hiếp và các quốc vương Menelauses
đă bị cướp mất vương phi Helens của
ḿnh trước khi Giống dân thứ Năm ra đời.
Những người Khổng lồ khỏe mạnh
hơn, c̣n các đối thủ của họ minh triết
hơn. Điều này đă diễn ra trong ṿng Giống dân
thứ Tư – Giống dân gồm những người
Khổng lồ.
Đó là v́ thật
vậy, xưa kia đă có “những người Khổng
lồ”.([621])
Hàng loạt sự tiến hóa của thế giới
động vật đă chứng tỏ rằng
điều đó cũng đă diễn ra trong nội
bộ các giống người. Trong tầng lớp tạo
vật c̣n thấp hơn nữa, chúng ta thấy các bằng
chứng của cùng một kích thước tỷ lệ
như vậy nơi hệ thực vật đi đôi
với hệ động vật. Những cây dương
xỉ xinh xắn mà chúng ta sưu tầm và ép khô giữa các
trang giấy của các quyển sách mà chúng ta ưa
chuộng nhất là ḍng dơi của các cây dương xỉ
khổng lồ đă mọc trong kỷ Carbon (kỷ
Thạch Thán).
Các Thánh kinh và các áng văn
của các tác phẩm khoa học và triết học – tóm
lại hầu như là mọi tài liệu cổ truyền
– đều đề cập tới những người
Khổng lồ. Chẳng ai mà không nhận ra những
người Atlantis trong Giáo Lư Bí Nhiệm chính là những La
Sát đảo Lankă, các đối thủ đă bị Răma
chinh phục. Phải chăng những lời tường
thuật này chẳng qua chỉ là sản phẩm của trí
tưởng tượng trống rỗng? Chúng ta hăy
thử dành ra chút ít th́ giờ quan tâm tới đề tài
này.
NGƯỜI
KHỔNG LỒ CÓ THẬT CHĂNG ?
279
Ở
đây, chúng ta lại xung đột với khoa học; cho
đến nay, khoa học vẫn c̣n phủ nhận
việc con người đă từng cao lớn hơn
nhiều so với một người vạm vỡ b́nh
thường mà nay đôi khi chúng ta vẫn gặp. Tiến
sĩ Henry Gregor tố cáo các truyền thuyết về
người Khổng lồ là dựa vào các sự kiện
khó tiêu (ill-digested facts), và người ta đă đơn cử
các thí dụ về những phán đoán sai lầm
để bác bỏ các truyền thuyết như thế.
Vậy mà vào năm 1613, ở một địa
điểm mà từ xưa được mệnh danh là
“Vùng của người Khổng lồ” ở Dauphiné
Hạ (Pháp) cách St. Romans bốn miles người ta t́m
thấy các khúc xương khổng lồ được vùi
sâu trong đất cát. Chúng bị gán cho là các hài cốt
người, thậm chí là hài cốt của Teutobodus,
thủ lănh dân Teuton bị Marius giết chết. Nhưng
về sau, sự khảo cứu của Cuvier đă
chứng tỏ chúng là các hài cốt hóa thạch của các
con thú khổng lồ dài 18 feet (5, 48 m).
Người ta đă dùng các dinh thự thời xưa
để chứng tỏ rằng các tổ tiên sơ khai
nhất của chúng ta không hề cao lớn hơn hẳn
chúng ta, các cửa ra vào lúc ấy có vẻ kích thước
cũng chẳng lớn hiện nay bao nhiêu. Chúng ta
được biết người cao nhất thời
xưa là Hoàng Đế La Mă Maximus, cũng chỉ cao
bảy feet rưỡi (2,28m). Tuy nhiên, thời nay càng ngày
chúng ta càng thấy có những người cao hơn mức
này. Người Hung Gia Lợi được triển lăm
ở gian hàng hội chợ Luân Đôn cao gần 9 feet (2,
74m). Ở Mỹ, người ta có tŕnh bày một
người khổng lồ cao 9 feet 6 inches; Montenegrin Danilo
cao 8 feet 7 inches. Ở Nga và Đức, người ta
thường thấy trong các giai cấp hạ lưu có
những người cao trên 7 feet. Nay v́ Darwin đă cho các lư
thuyết gia về khỉ biết rằng các loài thú phát
sinh từ sự lai giống luôn luôn bộc lộ một “khuynh hướng quay về
với kiểu mẫu nguyên thủy” nên họ cũng
phải áp dụng định luật đó cho loài
người. Nếu xưa kia không có mẫu người
khổng lồ th́ làm sao bây giờ có được
những người khổng lồ.
Tất cả các
điều này chỉ áp dụng được cho thời
kỳ hữu sử. Và
nếu cho đến nay, các bộ xương
thuộc loài tiền sử đă không thể chứng tỏ
một cách dứt khoát được (theo quan điểm
của khoa học) chủ trương được
đề xướng nơi đây, th́ đó chẳng qua
chỉ là vấn đề thời gian. Tuy nhiên, chúng ta dứt
khoát phủ nhận thực tại về sự thất
bại. Hơn nữa, như đă nêu rơ, vóc dáng
người chỉ thay đổi chút ít từ Chu kỳ
Chủng tộc vừa qua. Tất cả những
người khổng lồ thời xưa đều
bị chôn vùi dưới đáy biển, và hàng trăm ngàn
năm thường xuyên bị nước cọ xát ắt
đă làm tiêu tan thành tro bụi một pho tượng
bằng đồng thau, chứ đừng nói là một
bộ xương người. Và do đâu mà có chứng
cớ của các tác giả cổ điển nổi
tiếng, các triết gia và những kẻ, mặt khác,
chưa bao giờ nổi tiếng nói dối? Vả
lại, chúng ta nên nhớ rằng trước năm 1847,
khi Boucher de Perthes bắt buộc khoa học phải chú ư
tới điều đó, th́ người ta hầu như
chẳng biết ǵ về con người hóa thạch, v́ khảo
cổ học đă không biết ǵ về sự tồn
tại của y một cách tự măn. Chỉ có Thánh kinh là
đă tŕnh bày cho những kẻ minh triết ở Tây
phương về những người khổng lồ
đă hiện diện trên trần thế xưa kia; Hoàng
Đạo là một chứng cớ duy nhất mà người
ta kêu cầu tới để bổ chứng cho phát
biểu về Orion tức Atlas, nghe nói y đă gánh vác
thế giới trên đôi vai ḿnh.
280
Tuy nhiên, ngay cả những
người khổng lồ cũng không hề bị
bỏ mặc không có chứng cớ và người ta
cũng có thể xem xét cả hai khía cạnh của vấn
đề. Ba khoa học – địa chất học, vũ
trụ học và thánh kinh học (thánh kinh theo phương
diện vũ trụ của nó) – có thể cung cấp cho
chúng ta các bằng chứng cần thiết. Bắt
đầu là địa chất học; nó đă thú
nhận rằng các bộ xương khai quật càng
xưa cũ th́ cấu trúc của chúng càng to lớn và
mạnh mẽ. Đây là một bằng chứng chắc
chắn có sẵn. Mặc dù tin tưởng một cách sùng
tín vào Thánh kinh và chiếc bè của Noah, song le Frédéric de
Rougemont vẫn là một nhân chứng khoa học như
thường, ông đă cho rằng:
Tất cả
những khúc xương mà người ta đă t́m thấy
trong Tỉnh Gard ở Áo, Liège v.v…, các xương sọ này
nhắc người ta nhớ tới mẫu người
da đen… và v́ kiểu mẫu của chúng có thể bị
lầm lẫn với loài thú – đều đă thuộc
về người có vóc dáng cao
lớn.([622])
Lartet, một nhân vật
có thẩm quyền cũng lặp lại điều
đó, ông gán “một vóc dáng cao lớn” cho những kẻ
bị nhận ch́m trong trận Đại hồng thủy
– không nhất thiết là trận Đại hồng
thủy của Noah – và gán một vóc dáng nhỏ hơn cho
các giống người sau đó.
C̣n về phần
chứng cớ mà tác giả thời xưa cung cấp, chúng
ta không cần quan tâm tới chứng cớ của
Tertullian, ông quả quyết rằng vào thời ông, người
ta đă t́m thấy một số người khổng
lồ ở Carthage – v́ trước khi có thể chấp
nhận được bằng chứng của ông th́
người ta ắt phải chứng tỏ
được tung tích, ([623])
nếu không phải là sự tồn tại thực sự
của ông trước đă. Tuy nhiên, chúng ta có thể quay
sang các tài liệu năm 1858, nó đề cập tới
một “quan tài đá chứa những người khổng
lồ” mà người ta t́m thấy vào năm đó cũng
tại địa điểm của đô thị này. C̣n
về phần các tác giả Ngoại đạo thời
xưa, chúng ta có bằng chứng của Philostratus, ông này có
đề cập tới một bộ xương khác dài
22 cubits (khoảng hơn 10 m – LND) và một bộ
xương khác dài 12 cubits (khoảng 5,50m) mà chính ông đă
thấy trên mũi đất Sigaeum. Protesilaus tin rằng
bộ xương này có lẽ đă không phải của
người khổng lồ bị Apollo giết chết khi
thành Troy bị vây hăm; tuy nhiên đó là bộ xương
của người khổng lồ, cũng như bộ
xương của người khổng lồ khác mà Messecrate
of Stira ở Lemnos – “xem thật gớm ghiếc” (theo
Philostratus).([624])
Liệu có thể là thành kiến sẽ đưa khoa
học đi xa đến mức xếp tất cả
những người này vào hạng những kẻ điên
rồ hay dối trá chăng ?
Pliny có đề cập
tới một người khổng lồ mà ông cho rằng
ḿnh đă nhận ra nó là Orion, anh em của Ephialtes.([625])
Plutarch tuyên bố rằng Sertorius đă thấy ngôi mộ
của người Khổng lồ Antaeus; và Pausanias cũng
xác nhận sự tồn tại thực sự của các
ngôi mộ của Asterius và Geryon, hoặc của Hillus, con
của Hercules – tất cả đều là những
người Khổng lồ, Titans và những người
dũng mănh. Cuối cùng trong tác phẩm kỳ diệu Các
Núi Lửa của Hy Lạp, Linh Mục Pègues đă khẳng
định rằng:
Ở gần các
ngọn núi lửa thuộc đảo Thera, người ta
thấy những người khổng lồ với
xương sọ vĩ đại được xếp
dưới các ḥn đá khổng lồ. Muốn dựng
chúng lên ở đâu th́ phải cần dùng tới các
năng lượng lớn
lao, truyền thuyết ở mọi xứ đều liên kết
chúng với các ư niệm về những người
khổng lồ, núi lửa và pháp thuật.([626])
281
Cũng trong
tác phẩm nêu trên, tác giả thắc mắc không biết
làm sao mà trong Thánh kinh và truyền thuyết các vị Gibborim
(những người khổng lồ hay kẻ “dũng
mănh”) các Rephaim, những âm ma, và các Nephilim, hay “những
kẻ sa đọa”, lại được tŕnh bày
giống y nhau, mặc dù họ: “đều là người”, v́ Thánh kinh
gọi họ là những người nguyên sơ dũng
mănh, tức là Nimrod. Giáo Lư Bí Nhiệm giải thích sự bí
mật đó. Các danh hiệu này, đúng lư ra chỉ
thuộc về bốn Giống dân trước và Giống
dân thứ Năm vào thời kỳ sơ khai nhất, rơ ràng
là ám chỉ hai Giống dân Ma
(Tinh anh – Astral) đến Giống dân “Sa đọa”
(Giống dân thứ Ba) và Giống dân Atlantis Khổng lồ
(Giống dân thứ Tư) sau đó, “con người
bắt đầu giảm bớt vóc dáng”.
Bossuet thấy “tội lỗi
nguyên thủy” là nguyên nhân của tục sùng bái ngẫu
tượng trên thế giới sau này. Con Rắn trong Sáng
Thế Kư nói với Eve rằng: “Ngươi sẽ
giống như vị Thần”, như vậy là đă
tạo ra mầm mống đầu tiên của tục sùng
bái các vị thần giả.([627])
Ông cho rằng v́ thế mới có tục sùng bái ngẫu
tượng, các h́nh tượng người hay là
được nhân h́nh hóa. Nhưng nếu người ta
tŕnh bày là tục sùng bái ngẫu tượng đó dựa
vào điều này th́ hai Giáo hội – nhất là giáo hội
Hy Lạp và giáo hội La Tinh – cũng có tính cách sùng bái
ngẫu tượng chẳng kém ǵ bất cứ tôn giáo nào
khác. ([628])
Chỉ đến lúc có Giống dân thứ Tư th́ con
người, vốn đă mất hết quyền
được xem là thiêng liêng, mới cầu cứu
tới sự sùng bái cơ thể, nói cách khác là sùng bái sinh
thực khí. Cho tới lúc đó họ đă thực sự
là các Thần Linh, cũng thiêng liêng và thanh khiết như
các Tổ Phụ của họ, và lối tŕnh bày ẩn
dụ về “Con Rắn” (mà chúng tôi đă tŕnh bày trong các
trang trước) không hề ám chỉ sự “Sa
đọa” sinh lư của con người, mà lại ám
chỉ việc họ Biết được Thiện và
Ác, và họ có được sự hiểu biết này trước khi bị sa
đọa. Đừng nên quên rằng, chỉ sau khi bị
trục xuất khỏi vườn Địa Đàng th́
“Adam mới biết Eve là vợ ḿnh”. Tuy nhiên, chúng ta sẽ
không kiểm soát lại giáo điều của Giáo Lư Bí
Nhiệm bằng cách thuyết minh Thánh kinh Hebrew theo lối
chấp nê văn tự, mà đúng hơn là vạch ra các
điểm đại đồng của hai bên khi xét theo ư
nghĩa nội môn.
Chỉ sau khi rời bỏ
thuyết Tân Platon, th́ Clement ở Alexandria mới bắt
đầu diễn dịch những người khổng lồ là các con rắn và giải thích
rằng “rắn và người khổng lồ có nghĩa là
ma quỷ”.([629])
282
Chúng ta có thể bảo
rằng trước khi so sánh các giáo điều của ḿnh
với giáo điều của Thánh kinh, chúng ta phải
chứng tỏ được bằng chứng xác đáng
về sự tồn tại của những người
Khổng lồ thuộc Giống dân thứ Tư, hơn là
sự đề cập tới chúng mà chúng ta thấy trong
Sáng Thế Kư. Chúng tôi xin đáp rằng các bằng chứng
mà chúng tôi tŕnh bày thật là thỏa đáng (ít ra th́ cũng
được ủng hộ bởi nhiều bằng
chứng khoa học và văn chương) hơn là các
bằng chứng về trận Đại hồng thủy
Noah. Ngay cả các tác phẩm của Trung Hoa cũng
đầy dẫy các hồi niệm như vậy về
Giống dân thứ Tư. Trong bản dịch tiếng Pháp
của Kinh Thư (Shoo-King)([630])
chúng ta đọc thấy:
Khi Miao-tse
(giống dân sa đọa tiền đại hồng
thủy [chú thích của nhà b́nh giảng] xưa kia đă
ẩn cư trong các hang đá, nghe nói con cháu của họ
vẫn c̣n ở lân cận trong vùng Quảng Châu), ([631])
v́ bị Tchy-Yeoo quyến rũ
đă làm chấn động toàn thể địa cầu,
th́ nó trở thành đầy dẫy bọn đầu
trộm đuôi cướp (theo các tài liệu cổ truyền
của chúng ta)…Đấng Thánh Thượng (Chang ty
[một vị Thánh Vương của Triều đại
Thiêng liêng]) để mắt đến thần dân và
thấy họ chẳng c̣n chút dấu vết đức
hạnh nào hết. Thế là Ngài ra lệnh cho Tchong và Ly [hai
Thiền Định Đế Quân thấp] cắt
đứt liên lạc giữa cơi trời và hạ thế.
Từ đó, không c̣n có chuyện thăng
lên giáng xuống nữa !([632])
“Thăng lên giáng xuống”
nghĩa là một sự liên giao không bị chướng
ngại giữa hai Thế giới.
283
V́ không
tiện tŕnh bày thật đầy đủ từng chi
tiết lịch sử của Giống dân thứ Ba và
thứ Tư, chúng tôi chỉ có thể góp nhặt những
sự việc lẻ loi có liên quan đến những
giống dân trên trong tầm mức tối đa mà chúng tôi
có thể. Khi mà những “lớp áo da” của con
người càng ngày càng trở nên dày đặc và họ càng
ngày càng trở nên sa đọa v́ tội lỗi, th́ sự
giao tiếp giữa Con Người Vật Chất và Con Người
Thiêng Liêng bị gián
đoạn. Tấm Màn Vật Chất giữa hai cơi đă
trở nên quá nặng trọc không thể vượt qua
được cho dù bởi Con Người Nội Tại.
Các Bí Nhiệm của Trời và Đất gồm các Giáo Lư
Nhiệm mầu tiết lộ cho Giống dân thứ Ba
trong thời kỳ họ c̣n hồn nhiên, tinh khiết,
đă trở nên một trung tâm ánh sáng, mà tác động soi
đường dẫn lối đương nhiên bị
sút giảm ảnh hưởng khi nó được ban rải
trên một mảnh đất không thuận lợi v́
bị ch́m sâu trong vật chất. Trong đám quần chúng ô
hợp, những kiến thức đó dần dần
trở nên đồi trụy và biến thành tả
đạo bàng môn, rồi sau khoác lấy những h́nh
thức tôn giáo công truyền, tôn thờ h́nh tượng,
đầy dẫy những mê tín dị đoan, hoặc tôn
thờ cá nhân hay suy tôn người hùng. Chỉ có một
số ít người ban sơ c̣n giữ được
điểm Minh Triết Thiêng Liêng bừng sáng trong tâm
hồn, lại càng chói rạng mănh liệt hơn trong khi
chính điểm linh quang ấy càng lúc càng lu mờ trải
qua thời gian trong linh hồn những kẻ dùng nó vào
những mục đích tà vạy. Chỉ có những
người kể trên mới được giao phó trách
nhiệm do các Đấng Giáo Chủ Thiêng Liêng tiết
lộ cho nhân loại. Trong số đó, có những
người vẫn ở trong trạng thái hồn nhiên
của những vị Thiên Đồng vô nhiễm ngay
từ lúc đầu. Giáo lư Huyền môn cũng xác nhận
truyền thuyết nói rằng những vị có ân sủng
được chọn lựa và giao phó sứ mạng nói
trên là những mầm giống của một Đẳng
cấp thiêng liêng bất tử
kể từ thời đó trở về sau. Vấn
Đáp Giáo Lư của các Trường Nội Môn dạy:
Con
người Nội tại của ***([633])
Đầu tiên chỉ thỉnh thoảng mới thay
đổi thể xác. Người bao giờ cũng vậy,
không biết có nghỉ ngơi hay phúc lạc cơi Niết Bàn,
từ bỏ Devachan và luôn luôn ở lại thế gian
để cứu rỗi nhân loại… Trong bảy vị
Kumăra (Thiên Đồng)([634])
có bốn vị tự hy sinh v́ tội lỗi của con
người đời và v́ sự giáo hóa kẻ ngu dốt,
sẽ ở lại thế gian cho đến khi kết thúc
Chu kỳ sinh hoạt hiện tại. Tuy vô h́nh vô ảnh,
nhưng các vị luôn luôn hiện diện khắp nơi.
Khi thiên hạ nói về một trong các Đấng đó,
“Ngài đă chết” th́ xem ḱa, Ngài vẫn sống và khoác
lấy một h́nh hài khác. Đó là Trí, Tâm, Linh Hồn và Mầm
mống của Tri Thức bất tử (Jnăna). Hỡi
đệ tử, con đừng bao giờ đề
cập tới các Đấng Cao Cả này [ Ma hă…] ([635])
trước quần chúng, gọi đích danh các Ngài. Chỉ
có kẻ minh triết mới hiểu được.
Chính bốn vị Thiên
Thần này đă được diễn tả bằng
những biểu tượng và ẩn dụ trong kinh Linga
Purăna, kinh này khẳng định rằng với vai tṛ là
một vị Kumăra, Vămadeva (Shiva) tái sinh trong mỗi Thiên
Kiếp (trong trường hợp này là Giống dân) làm
bốn thanh niên – bốn người da trắng; bốn
người da đỏ; bốn người da vàng; và
bốn người da đen hay nâu. Chúng ta nên nhớ
rằng Shiva chủ yếu là một tu sĩ khổ
hạnh, bảo trợ cho mọi đạo sĩ Yoga và
Cao đồ, th́ chúng ta sẽ hiểu ngay được
ẩn dụ. Chính tinh thần của Minh Triết Thiêng Liêng và thuật
Khổ hạnh trinh khiết lâm phàm nơi các kẻ
được Tuyển định này. Chỉ sau khi đă kết hôn và bị các
Thần Linh kéo ra khỏi cuộc sống khổ hạnh
khủng khiếp, th́ Rudra mới biến thành Shiva, một
vị Thần – chứ không phải là một Đấng
thuộc loại đức hạnh hoặc từ bi
nhất – trong chư Thần Ấn Độ. Cao hơn
“bốn vị” này là một VỊ DUY NHẤT ở dưới Đất
cũng như trên Trời, tức Đấng Cao Cả
huyền bí và trầm lặng đă diễn tả trong
Quyển I.
284
Nay chúng ta phải
xét tới bản chất của “Các Con của Ngọn
Lửa” (“Sons of the Flames”) và “Minh Triết U Ám” (“Dark Wisdom”),
cũng như là các lư luận tán thành và phản đối
thuyết về Quỷ Satan.
Những câu rời rạc
như thế được trích ra từ các mảnh ngói
có khắc chữ mà George Smith gọi là “Sự đọa
đày sau khi Sa ngă”; ([636])
dĩ nhiên là chỉ có tính cách ẩn dụ; thế
nhưng, chúng cũng bổ chứng cho những
điều mà các sách của chúng tôi rao giảng về
thực chất của sự Sa đọa của các Thiên
Thần. Thế là nghe nói “Đấng Thổ Tinh gọi
đích danh Ngài là Cha Elu[Elohim]” và tuyên bố “đọa đày” Ngài, “Thần Hea nghe
thấy liền giận lên v́ con người [Chơn
Nhơn] đă làm ô uế sự thanh khiết của Ngài”.
V́ vậy, Thần Hea mới muốn rằng “minh triết và tri thức hăy
gây thiệt hại cho y [con người]”.([637])
Câu chót nêu rơ mối liên
lạc trực tiếp của lối tường
thuật Chaldea với Sáng Thế Kư. Trong khi mà thần Hea ra
sức xóa bỏ minh triết và tri thức mà con
người thủ đắc được, nhờ
năng lực sáng tạo một cách hữu thức về
mặt trí tuệ mà y mới đạt được – như
thế là khiến cho Thượng Đế (các Thần)
không c̣n giữ độc quyền sáng tạo nữa – th́
các Elohim cũng làm như vậy trong chương ba của
Sáng Thế Kư. Do đó, các Elohim mới đuổi y ra
khỏi vườn Địa Đàng (Eden).
Nhưng điều này
thật là vô ích. Đó là v́ Tinh Thần Minh Triết Thiêng
Liêng vốn ở trên và
ở trong con người –
đó thật đúng là Con Rắn Vĩnh Cửu và Toàn Tri,
trí tuệ tinh thần giúp y biết được bí nhiệm về sự “Sáng
Tạo” trên các cơi của quyền năng tạo tác, và bí
nhiệm của sự sinh hóa trên cơi Trần – đă tự
nhiên dẫn dắt y khám phá ra con đường bất
tử, bất chấp sự ganh tỵ của mọi
Thần Linh.
Những người
Lemuria-Atlantis sơ khai bị tố cáo là đă lấy các
người vợ thuộc giống dân thấp, nghĩa là
giống người cho đến nay vẫn c̣n vô trí (trong
khi họ là các hóa thân thiêng liêng). Mọi Thánh kinh cổ
truyền đều có một huyền thoại giống
như vậy và đă bị xuyên tạc ít nhiều.
Thoạt tiên là sự Sa đọa của các Thiên Thần,
nó đă biến “Con đầu ḷng” của Thượng
Đế thành các Asuras, hoặc thành ra Ahriman hay Typhon
của “kẻ Ngoại đạo”- nghĩa là nếu các
lối tường thuật trong Thánh Thư Enoch ([638])
trong tác phẩm của Hermes,
trong kinh Purănas và trong Thánh kinh được hiểu theo
nghĩa đen, th́ khi được thuyết minh theo
lối bí truyền, nó chỉ có nghĩa đơn giản
như sau:
285
Các
câu như “Trong cơn tham vọng, y [Satan] đưa tay
dọn Thánh điện của Thượng Đế” v.v…
phải được thuyết minh là : “Bị thúc
đẩy bởi một Luật Tiến Hóa Đời
Đời và Nghiệp Quả, Thiên Thần đă lâm phàm
nơi Con Người. Và v́ Minh Triết và Tri Thức
của y vẫn c̣n thiêng liêng, mặc dù H́nh hài sắc
tướng của y thuộc về trần tục, nên –
một cách ẩn dụ - y bị buộc tội là đă
tiết lộ các Bí nhiệm của cơi trời. Y phối
hợp và sử dụng hai thứ đó cho mục tiêu sinh
sản loài người, thay v́ là siêu nhân. Từ đó
trở đi, “con người sản
sinh chứ không sáng tạo”.([639])
Nhưng v́, khi làm thế, y phải dùng H́nh hài yếu ớt
của ḿnh làm phương tiện sinh sản, nên H́nh hài
ấy sẽ bị trừng phạt do việc đă
đem Minh Triết này từ Thiên Đàng xuống Trần
Thế; do đó, sự ô uế thể chất sẽ
trở thành sự đày đọa tạm thời.
Các môn đồ Do Thái Bí
giáo thời Trung Cổ thừa biết điều này, v́
một trong số người đó đă không ngần
ngại viết rằng:
Thoạt tiên kinh
Kabalah được chính Thượng Đế giảng
dạy cho một Hội đoàn tuyển định
chư Thiên, vốn hợp thành một trường phái minh
triết thiêng liêng trên Thiên Đàng. Sau khi có sự Sa
đọa, chư Thiên đă mở ḷng từ bi truyền
thụ giáo lư thiêng liêng này cho đứa trẻ ngỗ
nghịch trên Trần Thế, để cung cấp cho
những người nguyên sơ phương tiện
trở lại t́nh trạng cao thượng và toàn phúc nguyên
thủy.([640])
Điều này đă chứng
tỏ lối thuyết minh của các tín đồ Do Thái Bí
giáo Thiên Chúa về sự việc các Con của
Thượng Đế kết hôn với và truyền
thụ các Bí nhiệm Thiêng Liêng của cơi Trời cho các
người Con Gái của Nhân Loại – điều này
đă được Enoch tŕnh bày một cách ẩn dụ
trong chương sáu của Sáng Thế Kư – toàn bộ
thời kỳ này có thể được xem như là
thời kỳ tiền nhân
loại, thời kỳ Con Người Thiêng Liêng;
hoặc – theo lối nói hiện nay của thần học
Tin Lành linh động – thời kỳ Tiền Adam. Nhưng
ngay cả Sáng Thế Kư cũng mở đầu lịch
sử chân thật của ḿnh (chương vi) bằng
việc những người khổng lồ “thời
đó” và “các Con của Thượng Đế” lấy
vợ – các người “con gái nhân loại” – và dạy vợ.
286
Thời
kỳ này chính là thời kỳ được mô tả
trong kinh Purănas và v́ nó liên quan tới thời đại
thật sơ khai (v́ thế là thuộc về thời
tiền sử), nên làm sao mà bất kỳ nhà nhân loại
học nào có thể đoan chắc rằng liệu loài
người vào thời kỳ đó có hay không giống
như y biết hiện nay? Tất cả mọi Nhân
vật trong kinh Brăhmanas và Purănas – các Rishis, Prajăpati, Bàn Cổ
và thê tử của các Ngài – thuộc về thời kỳ
tiền nhân loại đó. Có thể nói tất cả các
vị này là Mầm mống của Nhân loại. Các bộ khung
xác thịt của chúng ta đă tăng trưởng tới
mức như hiện nay xung quanh các “Con của
Thượng Đế”, các người con “trí sinh” tinh anh
của Brahmă. Đó là v́ lịch sử (trong kinh Purănas)
của tất cả những người này là lịch
sử của các Chơn Thần chúng ta, trong vô số
kiếp lâm phàm khác nhau trên Cơi này và các Cơi khác; đó là các
biến cố mà “Thiên Nhân” của các nhà Linh thị thời
xưa – “Mắt thứ Ba” trong Thiền Định Chân Kinh
– đă tri giác được và mô tả một cách ẩn
dụ. Sau này, chúng đă bị xuyên tạc v́ các mục
đích giáo phái, mặc dù bị cắt xén nhưng chúng
vẫn c̣n giữ lại được một nền
tảng chân lư đáng kể. Trong các chuyện ẩn dụ
đó, triết lư cũng không kém phần thâm thúy v́ đă
bị che giấu kín do trí tưởng tượng phát sinh
quá đáng.
Nhưng với Giống dân
thứ Tư, chúng ta đă bước vào một thời kỳ
nhân loại thuần túy. Những vị từ trước
đến nay vẫn là những Đấng có nguồn
gốc thiêng liêng, bị giam hăm trong những thể xác
chỉ giống loài người ở phần h́nh thức
bên ngoài, đă trở nên biến đổi về mặt
sinh lư và kết hợp với những người vợ
hoàn toàn là người thế tục, nhưng thật
sự là hóa thân của những Thiên Thần bậc
thấp. Trong các lối tường thuật Nội môn, các
Đấng dưới dạng nữ này – trong các
truyền thuyết Do Thái, Lilith là nguyên kiểu của
họ - được gọi là Khado (Dăkinĩ, theo
tiếng Bắc Phạn). Các huyền thoại ẩn
dụ gọi vị thủ lănh của các Lilith này là Liliths
Sangye Khado (theo tiếng Bắc Phạn là Phật Dăkinĩ);
người ta tin rằng tất cả đều có
thuật “đằng vân” và “rất
từ bi đối với thế nhân”, nhưng không có trí
tuệ, chỉ có bản năng thú tính.([641])
c. Đây là giai đoạn
đầu của nghi thức thờ phụng mà trong
những thế hệ tương lai đă thoái hóa và
biến đổi thành sự thờ phụng tính dục
nam nữ. Nghi thức này bắt đầu bằng sự
chiêm ngưỡng thể xác con người –
được xem như là điều bí nhiệm nhất
trong các bí nhiệm – và kết thúc bằng sự thờ
phụng chiêm bái tính dục. Các tín đồ có vóc dáng
khổng lồ, nhưng họ lại không hiểu sâu
biết rộng, mặc dù kiến thức đă đến
với họ một cách dễ dàng hơn đến
với con người ngày nay. Họ có tài khoa học
bẩm sinh. Người Lemuria-Atlantis không cần khám phá và
khắc sâu vào tâm khảm những ǵ mà NGUYÊN KHÍ làm linh hoạt y đă biết vào lúc nó lâm phàm.
Chỉ có thời gian và sự tŕ độn của Vật
Chất mà các nguyên khí đă
khoác lấy, mới có thể một mặt làm họ quên
bớt mớ trí thức tiên thiên, mặt khác làm cùn nhụt
(và thậm chí làm tắt ngấm) mọi điểm linh quang
ẩn tàng nơi họ. Do đó, ngay từ đầu,
họ đă trở thành nạn nhân của các thú tính và
đă nuôi dưỡng những “con quái vật” – nghĩa là
những người khác họ về đủ mọi
phương diện.
287
Khi
đề cập tới những người Khổng
lồ, Creuzer đă mô tả họ một cách tài t́nh như
sau:
Các người
con của Trời và Đất này bẩm sinh đă
được các Quyền
năng Vô thượng (các Đấng sinh thành ra chúng)
phú cho các năng lực phi thường về mặt
đạo đúc lẫn thể chất. Họ điều khiển Ngũ hành, biết
được các bí nhiệm của Trời và Đất
của biển cả và toàn thể thế giới, và
biết được chuyện vị lai theo các v́ sao…
Thật vậy, dường như là khi thuyết giải
về các ngôi sao, người ta không hề bàn tới con người như chúng ta đây, mà phải bàn tới
các Ngũ Hành Thần Quân xuất phát từ trong ḷng của
Thiên Nhiên và hoàn toàn khống chế nó… Tất cả các
Đấng này đều nổi bật lên với một
đặc tính về pháp
thuật và phù thủy…
Và họ như thế
đấy, các Đấng nay là các bậc anh hùng thần
thoại của các giống dân tiền sử, vẫn c̣n
thực sự tồn tại. Trong thế hệ của
ḿnh, Greuzer thật là minh triết, v́ ông đă không khép
tội cố t́nh ngạo mạn, đần độn và
mê tín dị đoan cho vô số triết gia lừng danh,
họ đă đề cập tới các giống dân này và
khẳng định ngay cả vào thời họ, họ
đă thấy các vật hóa thạch của các giống dân
này. Xưa cũng như nay đều có những kẻ
hoài nghi, nhưng ngay cả một Lucian, một Democritus và
một Epicurus cũng phải chấp nhận bằng chứng
của các sự kiện và chứng tỏ năng lực
phân biện của các bậc đại trí thức chân
chính, vốn có thể phân biện với thực và chân lư
với điều phóng đại và trá ngụy. Các tác
giả thời xưa cũng đều rơ chẳng kém ǵ
những con người khôn ngoan hiện nay; đó là v́, tác
giả của “Giảng lư về Tâm lư học của
Aristotle Liên quan tới Tư Tưởng Hiện
đại” đă nhận xét một cách chí lư như sau:
Xét về mặt
tư duy, việc thiên hạ thường chia lịch
sử ra thành sử cổ đại và sử hiện
đại thật là … lầm lạc. Về nhiều
phương diện, người Hy Lạp vào thế
kỷ thứ tư trước T.C. là những
người hiện đại; nhất là xét về
chủ nghĩa hoài nghi của họ (chúng ta có thể nói
thêm như vậy). Họ rất có thể là không chịu
chấp nhận các huyền
thoại một cách dễ dàng như vậy.
Tuy nhiên, những giống
người Lemuria và Atlantis “Con của Trời và
Đất” thật sự đă biểu lộ rơ rệt
một tính chất tả
đạo bàng môn. Khoa
huyền môn lên án họ về đặc tính này và nếu
chuyện ấy có thể tin được, th́ nó sẽ
giải đáp những thắc mắc của khoa học
về vấn đề nguồn gốc con người,
hay đúng hơn, những sự tương đồng
về cơ năng thể chất giữa con người
và loài Khỉ đột.
Huyền môn lên án họ đă phạm tội ác đồi
trụy là phối hợp với “loài thú” và sinh ra một
giống khỉ ngày nay đă tuyệt diệt. Dĩ nhiên là
cũng như xét về vấn đề sự sinh sản
tự nhiên – Nội môn Bí giáo tin tưởng và dạy
điều này – khả năng con người pha giống
với bất kỳ loài thú nào sẽ bị phủ
nhận. Nhưng ngoại trừ việc xét rằng vào
thời sơ khai đó (như đă được
nhận xét) chẳng những người Khổng lồ Atlantis
cũng như con thú nào đă là những người hoàn
hảo về mặt sinh lư và những động vật
hữu nhũ mà chúng ta biết hiện nay, th́ các quan
niệm hiện tại về đề tài này – kể
cả quan niệm của các nhà sinh lư học – c̣n quá
bấp bênh và dao động khiến cho họ không thể
hoàn toàn phủ nhận một sự kiện như vậy
một cách tiên nghiệm (a
priori) được.
288
Khi lời
B́nh luận trên được phân tích tỉ mỉ,
người ta nghĩ rằng những vị Hóa Thân
mới chuyển kiếp trong các giống dân trên, đă
phối hợp với những sinh vật bị gọi là
“thú”. Gọi là “thú” không phải bởi v́ họ không
phải là người, mà bởi v́ họ hoàn toàn khác
về thể chất và trí khôn với những giống
người kiện toàn đă phát triển đầy
đủ về mặt sinh lư vào thời kỳ
trước đó. Chúng ta hăy nhớ ĐOẠN KINH 7 và những ǵ đă nói trong
Đoạn 24: “Khi “những Người Con của Minh
Triết” đầu thai lần đầu tiên, vài vị
đă đầu thai hoàn toàn, những vị khác chỉ
phóng xuất một Đốm sáng vào các h́nh thể, trong một
số H́nh bóng bị bỏ sót lại, sau khi
được săn sóc và kiện toàn cho đến
thời kỳ Giống dân thứ Tư. Thế là những
giống người này không có trí khôn và không có sự
hiểu biết vẫn ở măi măi trong h́nh tượng
đó, ngay cả sau khi có sự phân chia nam nữ. Chính
những người này đă phạm vào tội lỗi
hỗn giao như đă kể
trên và sinh ra các quái vật, và chính trong hàng con cháu và hậu
duệ của những giống người ấy mà
về sau người Atlantis đă chọn lấy làm
vợ. Người ta đă giả sử rằng Adam và
Eve, cùng với Cain và Abel là gia đ́nh nhân loại duy nhất trên Trần Thế. Thế
nhưng, chúng ta thấy Cain đi đến xứ sở
của Nod và lấy vợ ở đó. Hiển nhiên là
chỉ có một giống dân duy nhất mà người ta
giả sử là hoàn hảo đủ để
được gọi là nhân loại, và ngay cả thời
nay, khi mà người Tích Lan xem đám thổ dân Veddhas trong
vùng rừng rậm là những
con thú biết nói không hơn không kém, th́ một số
người Anh lại ngạo mạn tin chắc rằng
mọi gia đ́nh nhân loại – nhất là những
người Ấn Độ da đen – là một giống
người thấp kém.
Vả lại, có những nhà vạn vật học đă
nghiêm chỉnh xét vấn đề liệu một vài
bộ lạc dă man – chẳng hạn các thổ dân Nam Phi –
có thể được xem là người
chăng. Lời b́nh luận diễn tả những
giống thú “có nhan sắc dễ nh́n” ấy như là sinh
vật đi trên hai chân:
Chúng
có h́nh dáng của con người, nhưng phần
dưới thân ḿnh, từ bụng trở xuống lại
phủ đầy lông.
Có lẽ v́ thế có giống
người dâm đăng.
Nếu con người đă
có từ hai triệu năm nay, th́ cũng như loài thú,
họ hẳn phải có thể chất và cơ năng hoàn
toàn khác hẳn với ngày nay, và lúc đó cơ cấu
thể chất của họ gần với nhũ
động vật hơn là bây giờ. Dù sao, chúng ta
được biết rằng loài động vật
chỉ sinh sản truyền giống trong phạm vi cùng loài với chúng, kể từ
khi giống dân Atlantis xuất
hiện trên Địa Cầu. Tác giả của tác
phẩm tài t́nh Khoa Học
Hiện Đại và Tư Tưởng Hiện Đại
đă chứng tỏ rằng ngay cả hiện nay, ư
niệm về “sự từ chối pha giống với
loài khác” hoặc “sự không sinh sản đó là kết
quả duy nhất của sự pha giống như
thế”, dường như là một sự suy diễn
phiến diện hơn là một định luật
tuyệt đối. Ông chứng tỏ rằng:
Thật vậy,
nhiều loại khác nhau thường pha giống với
nhau, chúng ta có thể thấy điều này nơi thí
dụ quen thuộc về con ngựa và con lừa. Quả
thật là trong trường hợp này, con la bị
tuyệt tự… Nhưng qui luật này không có tính cách
phổ quát, và mới gần đây, người ta đă
tạo ra một giống lai mới, giống thỏ nhà lai
thỏ rừng (leporine or hare-rabbit) hoàn toàn mắn
đẻ.
289
Hậu
duệ của chó sói và chó nhà cũng là một ví dụ,
chẳng khác nào trường hợp nhiều gia súc khác,
chẳng hạn như chồn và chó. Rutimeyer đă chứng
tỏ rằng con ḅ Thụy Sĩ hiện nay là ḍng dơi
của ba loài ḅ hóa thạch riêng biệt: loài Bos primigenius, loài Bos longifrons và loài Bos frontosus”.([642])
Thế nhưng chúng ta được biết rằng
một số các loài này chẳng hạn như họ
khỉ (nó rất gần giống con người về
cấu trúc thể chất) bao hàm.
Nhiều chi, các chi
được phân cấp thành một chi khác, nhưng các
cực độ của chúng khác nhau c̣n nhiều hơn loài
người khác loài khỉ cao cấp nhất.
Chẳng hạn như con
đười ươi (gorilla) và con tinh tinh (chim panzee).
Như thế, nhận xét
của Darwin – hay liệu chúng ta nên bảo rằng nhận
xét của Linnaeus?- “Thiên Nhiên không tiến bằng cách
nhảy vọt”, không những được bổ
chứng bằng Nội môn Bí giáo, mà c̣n – nếu có bất
kỳ cơ may nào là chân lư sẽ được chấp
nhận bởi các tín đồ trực tiếp của nó –
dung ḥa thuyết tiến hóa hiện đại (về
nhiều phương diện nếu không phải là toàn
bộ) với các sự kiện, cũng như là với
sự thất bại hoàn toàn của các nhà nhân loại
học khi muốn hội ngộ với “cái khoen khuyết
tịch” trong các địa tằng thuộc cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư.
Chúng ta sẽ chứng tỏ
đâu đó rằng mặc dù vô thức, khoa học
hiện đại cho chúng ta thấy rằng các
điều thừa nhận của nó và De Quatrefages thật
là chí lư khi De Quatrefages gợi ư trong tác phẩm cuối cùng
của ông là người ta sẽ khám phá ra rằng con khỉ
giống người thoát thai
từ con người hơn là hai loài này có chung nhau
một vị tổ tiên huyền hoặc và không thể t́m
thấy nơi đâu. Như thế, ít ra cũng có một
nhà khoa học lỗi lạc chứng nhận cho sự minh
triết cho các nhà soạn Thiền Định Chân Kinh và nhà
Huyền bí thích tin vào những ǵ mà Giảng lư dạy,
như y đă từng làm như vậy, như sau:
Con
người là động vật hữu nhũ đầu
tiên và cao cấp nhất xuất hiện trong cơ sáng
tạo [cuộc Tuần Hoàn thứ Tư] này. Rồi
tới con thú c̣n khổng lồ hơn nữa; và sau hết
là người câm đi trên bốn chân. [Đó là v́] các La sát
[Quỷ Khổng Lồ] và Daityas [Titans] của Bạch
Đảo [Châu] đă làm ô uế tổ tiên của y
[người câm].
290
Vả lại, như
chúng ta thấy, có những nhà nhân loại học đă truy
nguyên con người tới tận thời kỳ xa xưa
đến mức phá tan bức rào biểu kiến giữa
các niên đại kư của khoa học hiện đại
và giáo lư cổ sơ. Quả thật là các nhà khoa học Anh
Quốc nói chung đă không chịu thừa nhận giả
thuyết về một con người ngay cả vào
thời Đệ tam kỷ. Họ đều đo
lường sự xưa cũ của Con người
nguyên sơ bằng sự hiểu biết và các thành
kiến của chính ḿnh. Thật vậy, Huxley dám suy lư
về khả năng có một con người vào thời
Thượng tân thế hoặc Trung tân thế. Giáo sư
Seeman và ông Grant Allen đă cho rằng ư xuất hiện vào
thời Thủy Tân (Eocene), nhưng nói chung, các nhà khoa
học Anh Quốc nhận thấy rằng chúng ta không
thể an toàn vượt ra khỏi Đệ tứ
kỷ. Rủi thay, sự thật lại không thích hợp
với sự dè dặt quá thận trọng của các nhà
khoa học này. Vốn dựa các quan điểm của ḿnh
vào các khám phá của Linh mục Bourgeois, Capellini v.v…,
trường phái nhân loại học của Pháp đă
chấp nhận (hầu như là không sót một
điều ǵ) học thuyết cho rằng chúng ta nhất
định phải t́m thấy các dấu vết của các
tổ tiên chúng ta trong thời Trung tân thế, c̣n ông De
Quatrefages sẵn sàng đưa ra định đề
về một con người vào thời Đệ nhị
kỷ. Sau này, chúng ta sẽ so sánh các ước tính đó
với các số liệu trong các tác phẩm Bà La Môn
ngoại môn gần giống với Nội môn Bí giáo.
d. “Khi Con Mắt thứ Ba không c̣n hoạt động nữa”,
như
Đoạn kinh diễn tả, bởi v́ CON NGƯỜI đă sa đọa và ch́m
đắm quá sâu trong bùn nhơ của Vật Chất.
Đâu là ư nghĩa của
phát biểu kỳ lạ trong Câu kinh 42, liên quan tới Con
Mắt thứ Ba của Giống dân thứ Ba (nó đă
mất đi và không c̣n hoạt động nữa) ?
Bây giờ phải tŕnh
bày vài Giáo lư Huyền bí học
nữa liên quan tới điểm này cũng như là
một số giáo lư khác. Chúng ta phải mở rộng giáo
lư của các Giống dân thứ Ba và thứ Tư
để cho nó có thể minh giải hơn nữa về
sự phát triển của loài người chúng ta hiện
nay, và để chứng tỏ cách thức mà các quyền
năng (vốn đă được sự thụ huấn
Huyền bí học khơi hoạt) trả lại cho con
người địa vị mà y đă chiếm
được trước kia liên quan tới tri giác và tâm
thức thiêng liêng. Nhưng phải giải thích hiện
tượng Mắt thứ Ba trước đă.
NHỮNG
GIỐNG NGƯỜI CÓ “CON MẮT THỨ BA”
Đề tài này thật
là khác thường, các đường lối mà chúng ta theo
đuổi thật là chằng chịt, đầy dẫy
hầm hố hiểm nghèo mà các thuyết đối
nghịch và thói chỉ trích phê b́nh đă giăng sẵn,
đến nỗi mà chúng ta phải tŕnh bày các lư do chính
đáng đối với mỗi bước đă
đạt được. Trong khi bật ánh sáng vào
hồng tâm, gọi là Nội môn Bí giáo, trên hầu hết
mọi tấc đất huyền bí mà chúng ta đă
vượt qua, chúng ta phải dùng thấu kính của nó
để phơi bày ra ngoại cảnh các vùng mà khoa
học chính xác phải thăm ḍ; điều này
được thực hiện chẳng những
để đối chiếu hai thứ, mà c̣n để
bênh vực lập trường của chúng ta.([643])
291
Một
số người có thể phàn nàn là đă nói quá ít về
khía cạnh thể chất, nhân
loại của các giống dân đă bị tuyệt
chủng trong lịch sử phát triển và tiến hóa
của họ. Nhất định là chúng ta có thể nói
nhiều hơn nữa nếu sự thận trọng không
làm cho chúng ta do dự khi sắp tiết lộ một
điều ǵ mới mẻ. Chúng ta đă tŕnh bày mọi điều
mà khoa học hiện đại có thể khám phá ra là các
mốc lịch sử; chúng ta đă giữ lại tất
cả những ǵ mà khoa học chính xác không thể biết
ǵ và không thể suy lư ǵ (và do đó không chịu thừa
nhận đó là một sự kiện trong thiên nhiên).
Nhưng ngay cả những
phát biểu chẳng hạn “con người có trước
nhất trong đám động vật hữu nhũ”, “con
người chính là tổ tiên gián tiếp của dă nhân” và y
lại là một loại người Độc nhăn
thời xưa – tất cả đều bị bác bỏ;
thế nhưng các nhà khoa học sẽ không bao giờ có
thể chứng tỏ được (ngoại trừ
việc để thỏa măn cho chính ḿnh) rằng nó không hề như vậy.
Họ cũng không thể thừa nhận rằng hai
Giống người đầu tiên có thể chất,
cơ thể và thậm chí cả h́nh dáng nữa, tinh anh và giống ma đến
nỗi mà chúng ta không thể gọi họ là những
người bằng vật chất được. Đó
là v́ nếu họ quả như thế th́ chúng ta sẽ
thấy rằng đây chính là một trong những lư do
tại sao chúng ta không bao giờ có thể trông mong là sẽ
khai quật được các di tích của họ trong
số các vật hóa thạch khác. Tuy nhiên, tất cả các
điều này vẫn được duy tŕ. Có thể nói
con người là “kho chứa” mọi
mầm mống của cuộc Tuần Hoàn này, thuộc
giới động vật cũng như thực vật. ([644])
Cũng như Ain Soph là “Nhất Nguyên, bất chấp vô số h́nh hài sắc tướng
ở nơi Ngài”, ([645])
cũng vậy, trên Trần Thế, con người là
tiểu thiên địa của đại thiên địa.
Ngay khi con người
xuất hiện, mọi vật đều đă hoàn
chỉnh… v́ vạn vật đều được bao hàm
trong con người. Y kết
hợp nơi ḿnh mọi h́nh hài sắc tướng.([646])
Bí nhiệm về con
người trần tục
có sau bí nhiệm về Thiên Nhân.([647])
Tác giả của Giáo Huấn
Nội Môn có nhận xét đầy trực giác rằng h́nh
hài con người – gọi thế v́ đó là hiện
thể (với bất cứ h́nh dạng nào của Con
Người Thiêng Liêng) – là kiểu mẫu mới, vào lúc
khởi đầu cuộc Tuần Hoàn.
Con người không bao
giờ có thể, cũng như là chưa bao giờ
biểu lộ trong một h́nh hài thực sự thuộc
về giới dộng vật, nghĩa là y chưa bao giờ
là thành phần của giới này. Vốn chỉ thoát thai
từ lớp hoàn chỉnh nhất của giới
động vật, một h́nh hài người mới
ắt luôn luôn phải là kiểu mẫu mới của chu
kỳ. Tôi cho rằng h́nh hài người trong một ṿng
tiến hóa [?] đă biến thành các lớp vỏ bị
vứt đi trong ṿng tiến hóa kế tiếp; sau đó,
nó đă bị chiếm hữu bởi loài cao cấp
nhất trong giới phụng sự hạ cấp.([648])
292
Nếu chúng
ta hiểu đúng ư tưởng mà tác giả muốn nói – v́
các “ṿng tiến hóa” mà người ta đề cập
tới có phần làm rối rắm vấn đề - th́
đó chính là Nội môn Bí giáo. Sau khi đă xuất hiện
vào buổi đầu, và lúc đầu cuộc sống
hữu tính và hữu thức, Con Người – con
người Tinh anh tức “Linh Hồn”, v́ kinh Zohar vốn
lặp lại Giáo lư Cổ sơ, đă tuyên bố dứt
khoát rằng “chơn linh là
linh hồn, c̣n bộ khung vật chất không phải là
thành phần của y” - Con Người đă trở thành
Đơn vị động vật linh hoạt, từ
đó các “lớp vỏ bị vứt bỏ” đă xác
định h́nh dáng của mọi sinh linh và động
vật trong cuộc Tuần Hoàn này.([649])
Như thế trong hàng
thời đại, một cách vô thức, y đă “tạo
ra” loài côn trùng,ḅ sát, chim chóc, thú vật, từ các tàn tích
của ḿnh thuộc các cuộc Tuần Hoàn thứ Ba và
thứ Tư. Ư tưởng và giáo lư đó cũng
được tŕnh bày minh bạch trong tác phẩm Vandĩdăd
của Bái Hỏa giáo, cũng như trong ẩn dụ
về chiếc Bè của Moses và dân Chaldea; tất cả
đều là thuyết minh của từng quốc gia
đối với huyền thoại nguyên thủy
được tŕnh bày trong các Thánh kinh của Ấn
Độ. Chúng ta thấy có trong chuyện ẩn dụ
về Bàn Cổ Vaivasvata và chiếc Bè cùng với Bảy
Thánh Hiền, người ta tŕnh bày rằng mỗi Thánh
Hiền là Tổ Phụ của các con thú, loài ḅ sát và các con
quái vật chuyên biệt, chẳng hạn như trong kinh
Vishnu Purănas và các kinh Purănas khác. Chúng ta hăy mở kinh
Vendĩdăd của Bái Hỏa giáo ra và thử xem Ahura Mazda ra lệnh
cho Yima, một Tinh Linh Địa Cầu, tiêu biểu cho ba
Giống dân, sau khi đă bảo y xây dựng mọt Vara –
“một hàng rào”, một Argha hay Cỗ xe.
Mi hăy mang tới
đó [vào trong chiếc Vara] các mầm mống của
đàn ông, đàn bà thuộc loại cao cả và tốt
đẹp nhất trên đời, mi hăy đem tới
đó mầm mống của mọi loại trâu ḅ v.v… Mi hăy
mang tất cả các mầm mống này, mỗi loại có
hai thứ được giữ không bao giờ hết
ở đó, chừng nào mà những người ấy
vẫn c̣n đang ở trong chiếc Vara.([650])
“Những người ấy”
trong chiếc Vara chính là các “Thủy Tổ”, các Thiên
Đế hay Thần Quân (Dhyănis), các Chơn Ngă tương
lai được giao phó cho việc làm linh hoạt nhân
loại. Đó là v́ Vara hay chiếc Bè, hay Cỗ xe, chỉ
có nghĩa là Con Người.([651])
Mi sẽ niêm kín
chiếc Vara ấy lại [sau khi đă chất đầy
mầm mống trên đó], rồi mi sẽ trổ một
cửa và một chiếc cửa sổ tự thắp sáng
ở bên trong [đó là Linh Hồn].([652])
Và khi Yima hỏi Ahura Mazda
cách thức làm sao để xoay sở ra chiếc Vara này, y
được trả lời như sau:
Nghiền nát
đất ra… rồi dùng tay nhào nặn nó, chẳng khác nào
người thợ làm đồ gốm nhào nặn
đất sét.([653])
293
Vị Thần
đầu cừu của Ai Cập đă tạo ra con
người bằng đất sét trên một cái bàn quay,
trong Sáng Thế Kư, các vị Elohim cũng đă đào
luyện ra con người như thế bằng thứ vật
liệu tương tự.
Hơn nữa, khi
người ta hỏi “Đấng Sáng Tạo ra thế
giới vật chất”, Ahura Mazda, xem cái ǵ sẽ soi sáng cho
“chiếc Vara mà Yima đă tạo ra”, th́ Ngài đáp:
Có những ánh
sáng bất sinh bất diệt và những ánh sáng hữu sinh
hữu hoại. Ở đó [ở Airyana Vaẽyơ, nơi
tạo ra chiếc Vara] người ta chỉ thấy các v́
sao, mặt trời, mặt trăng mọc và lặn
(mỗi năm) một lần và một năm dường
như chỉ là một ngày [ và đêm].([654])
Điều này rơ rệt
là muốn nói tới “Vùng đất của chư Thiên”,
tức là các Vùng cực (hiện nay). Hơn nữa, trong câu
thơ này cũng có một ẩn ngôn rơ rệt là ám chỉ
“các ánh sáng bất sinh bất diệt” sự sáng tạo cho
Chơn Nhơn – các “nguyên khí” của y. Mặt khác, chúng ta
chẳng thể thấy một ư nghĩa nào trong câu trả
lời của Ahura Mazda, tiếp theo ngay sau đó là câu sau:
Cứ mỗi
năm thứ bốn mươi, mỗi cặp (bán thư
bán hùng) lại sinh ra hai người, một nam, một
nữ.([655])
Câu này rơ rệt là phản
ánh của Giáo Lư Bí Nhiệm, thuộc về một câu kinh
dạy rằng:
Vào
lúc kết thúc mỗi bốn mươi Mặt Trời
[hàng năm], ở vào lúc chấm dứt mỗi Ngày thứ
bốn mươi, Đấng Lưỡng Tính trở thành
bốn; thư hùng hợp nhất, nơi cái thứ
nhất, thứ hai và thứ ba …
Điều này thật là
rơ ràng, v́ mỗi “Mặt Trời” nghĩa là trọn một
năm, bấy giờ, một năm gồm có một Ngày,
cũng như ở Ṿng Bắc Cực, hiện nay nó
gồm có sáu tháng. Theo giáo lư cổ truyền, trục Trái
Đất dần dần nghiêng về phía Hoàng Đạo,
và vào thời kỳ mà người ta đề cập tới,
nó nghiêng sao cho một Ngày ở Cực kéo dài trong suốt
thời kỳ Trái Đất quay xung quanh Mặt Trời,
khi một loại tranh tối tranh sáng rất ngắn
xảy ra; sau đó, vùng cực trở về ngay
dưới vị trí ánh nắng mặt trời.
Điều này có thể trái ngược với những ǵ
mà thiên văn học nay đang giảng dạy, nhưng ai
dám bảo những sự thay đổi chuyển
động của trái đất, vốn không xảy ra
hiện nay, lại không diễn ra cách đây hàng triệu
năm?
Chúng ta hăy quay lại
một lần nữa với phát biểu cho rằng VARA
nghĩa là CON
NGƯỜI thuộc cuộc Tuần
Hoàn thứ Tư cũng như Trái Đất hồi
đó, Mặt Trăng và ngay cả chiếc Bè của Noah
nữa (nếu người ta muốn thế), điều
này lại được tŕnh bày trong cuộc đối
thoại giữa Ahura Mazda và Zarathustra. Như thế, khi
Zarathustra hỏi:
Hỡi
Đấng Thiêng Liêng tạo ra thế giới vật
chất! Ai là kẻ đem Thiên luật của Mazda vào trong
cái Vara mà Yima đă làm ra?
Ahura Mazda đáp: “Hỡi Zarathustra thánh thiện ! Đó chính là con thần điểu Karshipta”.([656])
294
Và chú thích giải
nghĩa:
Con thần
điểu Karshipta ở trên cơi trời, nếu ở trên
trần thế, th́ nó sẽ là vua của loài chim. Nó mang Thiên
luật vào trong chiếc Vara của Yima, và tụng kinh Avesta
bằng ngôn ngữ của loài
chim.([657])
Đây lại là ẩn
dụ của biểu tượng mà chỉ có nhà
Đông phương học
mới hiểu lầm, họ thấy con chim này là “hiện
thân của tia chớp”, và thường cho rằng tiếng
hót của nó là “lời thiên khải của một vị
thần”, chứ không có ǵ khác nữa. Karshipta là Trí Tuệ
và Linh Hồn của con người và thần linh của
nó, được Khoa pháp thuật cổ truyền
tượng trưng bằng một con chim, cũng như
người Hy lạp tượng trưng nó bằng
một con bướm. Ngay khi Karshipta nhập vào chiếc
Vara tức Con Người, y liền hiểu
được Thiên luật của Mazda, tức Minh Triết
Thiêng Liêng. Trong “Bí Nhiệm Thánh Thư” có đề cập
tới Cây tri thức thiện và ác:
Những con chim
xây tổ và cư ngụ (các linh hồn và thiên thần
ngự trên các cành cây ấy).([658])
Do đó, đối
với các môn đồ Do Thái Bí giáo, nó cũng là một
biểu tượng giống như vậy. “Chim” là một
biểu tượng của Chaldea và đối với dân
Hebrew, nó đă là biểu tượng của và đồng
nghĩa với Thiên Thần, một Chơn Linh hoặc
Deva; c̣n “Tổ chim” là Thiên Đàng đối với cả
hai dân tộc trên, và là Cơi Ḷng của Thượng
Đế (God’s Bosom) trong kinh Zohar. Đấng Cứu
Thế hoàn thiện tiến vào Thiên Đàng (Eden)”trong các
chỗ được gọi là tổ chim”.([659])
“Giống như một con chim
đang ĺa tổ”, đó chính là Linh Hồn gắn liền
với She’kheen-ah [minh triết hay ân điển thiêng liêng].([660])
Giảng lư dạy:
Tổ
của Con chim Trường cửu đang vẫy cánh
tạo ra Sự sống chính là Không gian vô biên.
Con chim đó chính là Hamsa,
Chim của Minh Triết.
Adam Kadmon chính là cây Sephiroth
và đă biến thành “cây tri thức thiện ác”, xét về
mặt nội môn. Và “cây đó có quanh ḿnh bảy chiếc
cột [bảy cột trụ] của thế giới,
tức là các Đấng Thần Quân [cũng lại chính các
vị Thủy Tổ hay Sephiroth] lần lượt tác
động qua các đẳng cấp Thiên Thần trong các
cơi của bảy hành tinh”v.v…, một trong các đẳng
cấp đó sinh ra người Khổng lồ (Nephilim) trên
Thế giới.
295
Mọi người
thời xưa, ngoại đạo và theo Thiên Chúa giáo,
đều tin rằng nhân loại sơ khai nhất là
một giống người khổng lồ. Trong những
trường hợp cá biệt, một vài vụ khai
quật các g̣ đất và các hang động ở Châu
Mỹ đă phô bày các nhóm bộ xương cao tới chín feet
và mười hai feet.([661])
Những người này thuộc về các bộ lạc
của Giống dân thứ Năm sơ khai, nay suy biến
(degenerated) thành một người có kích thước trung
b́nh từ năm tới sáu bộ. Nhưng chúng ta có thể
dễ dàng tin rằng những người khổng lồ
Độc nhăn thời xưa thực sự thuộc
về giống Atlantis (Giống dân thứ Tư); mọi
huyền thoại và ẩn dụ sau này trong kinh Purănas
của Ấn Độ và các bài thơ Hy Lạp của
Hesiod và Homer đều dựa vào các hồi niệm lờ
mờ về những người Titans có thực –
những người có một sức mạnh thể
chất siêu nhân phi thường, khiến cho họ có
thể tự vệ và ngăn ngừa các con quái vật
khổng lồ thời Trung sinh (Mesozoic) và đầu
thời Tân sinh (Cenozoic) và những người Độc
nhăn thực sự tức những kẻ “có ba mắt”.
Các tác giả có óc quan sát
đă thường nhận xét rằng “hầu như luôn
luôn có thể truy nguyên nguồn gốc của mọi
thần thoại và huyền thoại dân gian tới tận
một sự kiện trong thiên nhiên”.
Trong các tạo vật
hoang đường có tính cách vô cùng chủ quan này, luôn luôn
có một yếu tố khách quan và chân thực. Trí
tưởng tượng của quần chúng, vốn dĩ
hỗn độn, không bao giờ có thể quan niệm và
chế ra (từ hư vô) quá nhiều quái thai, quá nhiều
chuyện phi thường như vậy, nếu nó không chính
ḿnh làm một hạt nhân trung ương và có lấy
những hoài niệm dật dờ, mơ hồ, nối
liền những khâu đứt đoạn của
chuỗi thời gian để cùng với chúng tạo ra
cơ sở mơ mộng bí nhiệm của ư thức
tập thể của chúng ta.([662])
Bằng chứng về những giống người khổng lồ mà ngày nay người ta được biết dưới danh hiệu là “Cyclopes” sẽ được tŕnh bày trong những Chương sau, khi nói về tàn tích của giống người này. Trong diễn tŕnh tiến hóa của Giống dân thứ Tư và trước khi có sự điều chỉnh cuối cùng của cơ thể con người, nó chỉ được trở nên kiện toàn và cân đối trong Giống dân thứ Năm, những phụ chủng ban sơ của Giống dân thứ Tư đă có đến ba con mắt, nhưng không nhất thiết là có con mắt thứ ba ở giữa đôi mày như những giống người Cyclopes huyền thoại. Dấu hiệu chứng minh hiện tượng này cũng đă được khoa học xác nhận.
Nhà Huyền bí học tin
rằng con đường nhập thế tâm linh diễn
tiến song đôi với sự tiến
hóa thể chất, và những giác quan tiềm ẩn
nội tại vốn bẩm sinh tự nhiên trong những
giống người ban sơ đă lần lần tàn
rụi với đà tăng trưởng của chủng
tộc và sự phát triển vật chất của
những giác quan bên ngoài. Đối với những vị
ấy và đối với những người khảo
cứu về khoa biểu tượng huyền môn, th́
hiện tượng nói trên không phải là một giả
thuyết mơ hồ, mà chỉ là một giai đoạn của định luật
tiến hóa, nói tóm tắt là một
sự kiện có đủ
bằng chứng xác thực. Đoạn sau này trong Thiên
b́nh luận nói rơ:
296
Vào buổi sơ khai của giống
người bán nam bán nữ, có những người
bốn tay, một đầu và ba mắt. Họ có thể
nh́n thấy trước mắt và sau lưng.([663])
Một Thiên Kiếp sau đó [sau việc phân chia nam nữ],
v́ con người đă đắm ch́m vào vật chất,
nhăn quan tâm linh của họ bị lu mờ, và bởi
đó con mắt thứ ba mất quyền năng hoạt
động … Khi Giống dân thứ Tư đạt
tới thời kỳ trung gian, Nhăn quan Tâm linh của họ phải
được thức tỉnh trở lại, bằng
phương pháp khích động nhân tạo, phương
pháp này đă từng được các bậc Hiền
giả xưa biết rơ ([664])…Con
Mắt thứ Ba dần dần chai cứng như đá ([665])
đă biến mất không c̣n hoạt động, c̣n
người hai mặt trở thành một mặt, con
mắt ấy thụt sâu vào bên trong và chôn lấp
dưới tóc. Trong sự hoạt động của Con
người Nội tại (trong những lúc xuất
thần đại định và những cơn linh
thị tâm linh) con mắt ấy sưng lên và nở lớn.
Vị La Hán cảm thấy và nhận được nó,
điều chỉnh tác động của nó theo ư muốn
…Người Đệ tử trong sạch không sợ
hiểm nguy, c̣n kẻ không giữ hạnh tinh khiết
[không chế ngự tính dục] th́ không thể sử
dụng được “Con Mắt Thần” (“Deva Eye”).
“Con Mắt Thần” không c̣n
tồn tại nữa đối với đa số nhân
loại. Con Mắt thứ Ba đă chết và không c̣n hoạt động, nhưng nó
c̣n để lại dấu vết làm bằng chứng cho
sự hiện hữu của nó trước kia. Bằng
chứng đó ngày nay là TUYẾN TÙNG QUẢ (PINEAL GLAND).
Đó là bí nhiệm về
mắt người mà một vài nhà khoa học đă
bắt buộc phải cầu cứu tới các sự
giải thích của Huyền bí học trong một nỗ
lực tuyệt vọng hầu như giải thích mọi
điều khó hiểu chung quanh sự tác động
của nó. Sự phát triển của đôi mắt con
người giúp thêm yếu tố xác nhận cho khoa Nhân
chủng học Huyền môn hơn là cho khoa sinh lư học.
Trong bào thai con người, đôi mắt tượng h́nh từ trong ra ngoài tức là
từ phía trong bộ óc mọc ra ngoài, chứ không liền
với da như trong loài côn trùng, sâu bọ và loài mực.
Giáo sư Lankester – nghĩ rằng năo bộ thật là
một chỗ thật sự kỳ quặc dành cho mắt
và thử ra sức giải thích hiện tượng này theo
các đường lối của Darwin – gợi ra quan
điểm kỳ quặc cho rằng thủy tổ
thuộc loài có xương sống của chúng ta là một
tạo vật “trong suốt”,
và v́ thế mắt ở đâu th́ cũng chẳng quan
hệ ǵ ! Và chúng ta được biết rằng con
người xưa kia cũng là “tạo vật trong
suốt”, và v́ thế thuyết chúng ta vẫn có giá trị.
Nhưng làm thế nào mà thuyết của Lankester lại phù
hợp được với quan điểm của Heackel,
vốn cho rằng mắt của loài động vật có
xương sống bắt nguồn từ những sự
biến đổi nơi biểu b́? Nếu mà nó phát
nguyên từ bên trong th́
thuyết của Heackel chỉ c̣n có nước bị
vứt vào sọt rác. Dường như phôi sinh học
đă chứng tỏ được điều này. Vả
lại, điều gợi ư – hay liệu có nên gọi là
sự thừa nhận? –của Giáo sư Lankester có lẽ
trở thành cần thiết cho nhu cầu của các nhà
tiến hóa luận. Huyền bí học, với giáo lư về
sự phát triển dần dần của các giác quan “từ bên trong ra bên ngoài”, từ các nguyên kiểu tinh anh,
ắt thỏa măn hơn nhiều. Mắt thứ Ba co rút vào
bên trong khi đă hết nhiệm kỳ - đó là một
điều khác nữa bênh vực cho Huyền bí học.
297
Ngôn
ngữ ẩn dụ của các đạo sĩ Ấn
Độ khi họ nói về “Con Mắt của Thần
Shiva”, vốn có một ư nghĩa huyền diệu, c̣n
sự chuyển di của tuyến tùng quả tức con
mắt thứ ba hồi xưa ra trước trán, chỉ
là một cách nói phỉnh lừa thuộc về phần
ngoại giáo công truyền. Điều này cũng rọi
một tia sáng vào điều bí hiểm không thể hiểu
được đối với một số
người, về mối liên hệ giữa Nhăn quan tâm
linh và sự tinh khiết về sinh lư (physiological purity)
của bậc có Nhăn Thông (Seer). Một câu hỏi
được nêu ra: “Tại sao một đời sống
độc thân (celibacy) và sự trinh khiết (chastity)
lại là một điều kiện tất yếu, và
một vài qui luật cố định của bậc
đệ tử huyền môn trên đường tu
luyện công phu để khai mở những quyền
năng tâm linh thần bí ? Lời giải đáp
được tŕnh bày trong Thiên b́nh luận. Mối liên
hệ tương quan ấy sẽ được hiểu
rơ khi chúng ta biết rằng con mắt thứ ba, trước
kia vốn là cơ phận sinh lư, nhưng về sau nó đă
teo lại khi tính chất tâm linh của nhân loại lần
lần bị lu mờ, bị suy thoái và bị dập
tắt bởi sự bành trướng của vật
chất, nó liền biến thành một cơ quan bị teo
tóp, mà các nhà sinh lư học ngày nay chỉ hiểu được
chút ít không hơn ǵ lá lách – khi
chúng ta biết được điều này th́ mối liên
hệ thật là rơ rệt. Trong đời sống của
hành giả, chướng ngại lớn nhất trên
đường tu luyện để phát triển tâm linh và
đặc biệt nhất là để sở đắc
được quyền năng bí nhiệm là sự
hoạt động của cơ năng sinh lư. Tác
động t́nh dục có liên quan chặt chẽ do tác
động hỗ tương với tủy xương
sống và chất xám của bộ óc. Bấy nhiêu đó
đủ rồi, không cần giải thích thêm nữa.
Dĩ nhiên t́nh trạng b́nh thường và bất
thường của năo bộ và mức độ hoạt
động của tủy
sống, sẽ tác dụng mạnh mẽ đối
với tùng quả tuyến. Đó là v́ do số “trung tâm”
trong vùng đó cho đến nay, vốn kiềm chế
đại đa số tác dụng sinh lư của cơ
cấu tổ chức động vật và cũng do hai
thứ đó gần gũi mật thiết với nhau, nên
tủy sống phải có một tác dụng “cảm
ứng” (“inductive”) rất mạnh đối với tùng
quả tuyến.
Tất cả các
điều này thật là giản dị đối với
nhà huyền bí nhưng rất mơ hồ theo quan
điểm của đa số độc giả.
Độc giả phải được chứng minh cho
thấy có thể có người ba mắt trong Thiên Nhiên,
trong các thời kỳ mà sự tạo thành của y vẫn
c̣n ở trong một t́nh trạng tương đối
hỗn mang. Chúng ta có thể suy ra một khả năng
như thế trước hết là từ kiến thức
về cơ thể học và động vật học,
rồi sau đó có thể dựa vào các giả định
của chính khoa học duy vật.
298
Dựa vào
thẩm quyền của khoa học và dựa vào chứng
cớ (lần này không phải chỉ là một điều
tưởng tượng của sự suy lư) người
ta đă khẳng định là nhiều con thú – nhất là
những con thuộc các bộ thấp của loài có
xương sống – có một con mắt thứ ba nay đă teo lại, nhưng tất
yếu là đă tác động tích cực vào lúc đầu.
([666])
Loài thằn lằn mỏ, một con thằn lằn
thuộc bộ thằn lằn mà người ta mới khám
phá ra ở Tân Tây Lan – lưu ư
rằng đó là một phần của cái gọi là Châu
Lemuria cổ truyền – đă phô bày đặc
điểm này một cách vô cùng khác thường, chẳng
những loài thằn lằn
mỏ (Hatteria punctata) mà cả loài cắc kè, một vài
loài ḅ sát và cả loài cá. Thoạt tiên, người ta
nghĩ rằng đó chẳng có ǵ khác hơn là phần kéo
dài của năo bộ; nó tận cùng bằng một
bướu nhỏ được gọi là đầu
xương, một chiếc xương nhỏ bị
ngăn cách với xương chính bởi một lớp
sụn mà người ta thấy trong mọi con vật.
Nhưng chẳng bao lâu sau, người ta thấy rằng
nó c̣n hơn thế nữa. Sự khai triển cấu trúc
và giải phẫu cơ thể của nó đă chứng
tỏ rằng nó tương tự như con mắt
đến nỗi mà chúng ta không thể thấy ǵ khác
nơi đó. Có những nhà cổ sinh vật học
đến nay vẫn c̣n tin chắc rằng thoạt
đầu, Mắt thứ ba này đă hoạt động
và họ nhất định là chí lư. Đó là v́ tác phẩm
Cơ Thể Học của Quain đă bàn về tùng quả
tuyến như sau:
Trong thời
kỳ sơ khai nhất, các thị nang đă
được phát triển từ phần này, thoạt tiên
cấu thành toàn bộ, và sau đó là phần sau nang năo nguyên
thủy trước, và phần trước là phần liên
kết với các bán cầu năo
và các phần kèm theo. Thị khươu của mỗi bên
được tạo ra do thành tủy dày lên ở một
bên, trong khi đó khoảng giữa, xuống tận tới
đáy, tạo thành xoang năo thất số ba với phần
kéo dài nơi mấu phễu, ở năo thùy. Sau đó giải
giao liên xám trải dài qua xương năo thất… Phần sau
của nó (năo thất) được phát triển, bởi
một tiến tŕnh đặc biệt, thành ra tùng quả
tuyến, sẽ được nhận xét sau, nó vẫn
kết hợp với thị khươu ở mỗi bên
bằng các cuống năo, c̣n đàng sau là mỗi dải ngang
được tạo thành dải giao liên sau.
Phiến cuối
tiếp tục kết thúc năo thất thứ ba ở
đàng trước bên dưới nó, điểm tiếp
hợp thị giác tạo thành sàn của năo thất ở
phía đàng sau nữa, mấu phễu tḥng xuống
để được kết hợp ở hố yên
với mô tiếp giáp thùy sau của năo thùy.
Hai thị khươu
được tạo ra từ phần sau và phần ngoài
của nang trước, trước hết là gồm có
một túi rỗng thần kinh chất; xoang này giao tiếp
(mỗi bên) ở phía trước của xoang với các bán
cầu năo, và ở phía sau với xoang của nang năo
giữa. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau do sự gia tăng
lắng đọng ở bên trong, đàng sau, bên
dưới và hai bên cạnh chúng, nên các thị khươu
trở nên rắn chắc và đồng thời bên giữa
chúng có xuất hiện một rănh hoặc khe nứt phía
trên, rồi đi sâu xuống tận xoang trong, nó tiếp
tục nở ra phần sau, đối diện với
đường rănh trung năo, rănh Sylvius. Rănh hay khe nứt này
chính là năo thất thứ ba.
Ở phía sau, hai thị khươu tiếp tục
được kết hợp bằng giải giao liên sau
(chúng ta có thể phân biệt nó vào cuối tháng thứ ba) và
bằng các cuống của tùng
quả tuyến…
299
Vào
thời kỳ đầu, chúng ta có thể nhận thấy
các chùm thị giác là các
đoạn rỗng nối dài từ phần ngoài của
vách thị khươu trong khi chúng vẫn c̣n thuộc
về nang năo. Vào khoảng tháng thứ tư, các chùm này được
tạo thành một cách rơ rệt. Sau đó, chúng
được nối dài về phía sau, liên kết với
nang năo giữa.
Sự tạo
thành tùng quả tuyến và tuyến yên bày ra một trong các
hiện tượng lư thú nhất liên quan tới sự phát
triển của gian năo (thalamencephalon). ([667])
Đoạn trên thật là
đặc biệt thú vị khi chúng ta nhớ rằng
nếu không v́ sự phát triển phần sau của các bán
cầu năo th́ chúng ta ắt sẽ hoàn toàn thấy
được tùng quả tuyến khi loại bỏ đi
các xương chỏm đầu. Cũng thật là vô cùng
thú vị khi nhận thấy mối liên hệ hiển nhiên
mà chúng ta có thể truy nguyên giữa chùm thị giác rỗng
nguyên thủy và cặp mắt ở phía trước
giữa tùng quả tuyến và các cuống ở phía sau,
giữa tất cả các thứ này và các thị
khươu. Thậm chí, các khám phá cận đại liên
quan tới mắt thứ ba của loài thằn lằn mỏ có một tác dụng rất
quan trọng đối với lịch sử phát triển
các giác quan của con người, và các điều
khẳng định của Huyền bí học trong bản
văn.
Mọi người
đều thừa biết là Descartes cho rằng tùng quả
tuyến là Chỗ ngự
của Linh Hồn, mặc dù ngày nay, những kẻ
vốn không c̣n tin tưởng vào sự tồn tại
của nguyên khí bất tử nơi con người, đă
xem đây là một điều tưởng tượng.
Ông cho rằng mặc dù Linh Hồn liên kết với
mọi bộ phận cơ thể, song Linh Hồn vẫn
hành sử các chức năng của ḿnh nơi một
bộ phận chuyên biệt của một cơ thể
đặc biệt hơn bất kỳ bộ phận nào
khác, và ông đă kết luận rằng v́ tim và óc không
thể là vị trí “đặc biệt” này, nên đó chính là
cái tuyến nhỏ gắn liền với năo bộ, song
vẫn có một tác dụng độc lập với nó, v́
nó có thể bị làm cho dao động một cách dễ
dàng “bởi các tinh linh thú
dục ([668])
vốn băng qua các xương sọ theo mọi
hướng”.
300
Cho dù
điều này có vẻ phản khoa học đối
với khoa học chính xác ngày nay, song Descartes vẫn c̣n
gần gũi với chân lư Huyền bí hơn bất kỳ
nhà Haeckel nào. Đó là v́, như đă tŕnh bày, tùng quả
tuyến c̣n liên quan mật thiết với Linh Hồn và
Tinh Thần hơn nhiều so với các giác quan sinh lư
của con người. Nếu các nhà khoa học xuất
chúng lờ mờ thấy được các tiến tŕnh chân thực mà Xung lực
Tiến hóa đă sử dụng và chu tŕnh xoắn ốc của Định luật vĩ
đại này, th́ họ sẽ biết
(thay v́ phỏng đoán) và sẽ cảm thấy chắc
chắn về sự tiến hóa vật chất
tương lai đang đón chờ nhân loại nhờ
biết được các dạng đă qua của nó.
Bấy giờ họ ắt thấy được sự
hư ảo và phi lư của các tiến tŕnh “cơ giới”
và “lực mù quáng” hiện đại của Thiên Nhiên;
nhờ biết được như vậy, họ ắt
sẽ nhận thấy rằng tùng quả tuyến nêu trên,
chẳng hạn, bất quá là không thể tác dụng
được trên cơi trần vào giai đoạn này của
Chu kỳ chúng ta. Nếu “mắt” lẻ (odd “eye”) nay đă
bị teo đi nơi con người, th́ đó là một
điều chứng tỏ nó đă từng hoạt
động tích cực (cũng như loại động
vật hạ đẳng, v́ Thiên Nhiên không bao giờ
tạo ra một h́nh hài sắc tướng nhỏ
nhất, vô nghĩa nhất mà không có một mục đích
hay công dụng nhất định nào. Theo chúng tôi, đó là
một cơ quan hoạt động tích cực vào giai
đoạn tiến hóa mà yếu tố tinh thần nơi
con người đă thống ngự các yếu tố trí
tuệ và tâm linh vừa mới sinh ra. Và khi chu kỳ
xuống măi tới thời điểm mà các giác quan sinh lư
được phát triển bởi và song hành với sự
tăng trưởng và củng cố của con
người thể chất – các sự thăng trầm
phiền năo vô tận và sự phức tạp của
sự phát triển động vật – th́ “mắt”
giữa này mới bị teo đi cùng với các đặc
tính tinh thần sơ khai và thuần khiết. Minh triết
dân gian ([669])
dạy rằng mắt là tấm gương và cũng là
cửa sổ của Linh Hồn, và ư dân là ư trời (Vox populi, vox Dei).
Lúc khởi thủy, tất
cả các loài, các giống sinh vật đều là thư
hùng lưỡng tính và có một mắt. Trong loài
động vật lúc đầu cũng chỉ có một
thể khinh thanh như con người, trước khi phát
triển từ trong ra ngoài
một thể xác vật chất gồm đủ các
bộ phận cơ thể với đủ cơ năng
sinh lư, th́ cũng giống như loài người lúc ban
sơ chỉ có Con Mắt thứ Ba là cơ quan thị giác
duy nhất. Hai con mắt đàng trước về sau
mới phát triển ([670])
trong cả hai loài người và thú. Trong loài người,
vào giai đoạn đầu của Giống dân thứ Ba,
cơ quan thị giác ở vào t́nh trạng giống như
của vài loại thú khiếm thị của thời bây
giờ tức là nằm dưới một lớp da dày
đặc. Những giai đoạn độc nhăn hay
một mắt thuở ban sơ, trong con người và loài
thú, ngày nay đă đảo ngược lại, v́ con
người đă vượt qua khỏi giai đoạn vô
tri thức của loài thú trong cuộc Tuần Hoàn thứ Ba
và ở vào mức độ tiến hóa cách biệt loài thú
đến trọn một cảnh giới ư thức (plane
of consciousness). Bởi vậy, trong khi con mắt thứ ba
xưa nay vẫn là một bộ phận của nhăn quan tâm linh trong con người, th́
trong loài vật, nó chỉ là cơ quan thị giác thông
thường. Con mắt đó, sau khi đă làm xong chức
năng của nó, trải qua trào lưu tiến hóa thể
chất, từ giản dị đến phức tạp,
nó được thay thế bằng hai con mắt và
được Thiên Nhiên tạm thời dự trữ
một chỗ để sẽ có dịp dùng đến trong
những thế hệ tương lai.
301
Điều đó
để giải thích tại sao Tuyến Tùng Quả
đạt đến mức phát triển tột
độ theo tỷ lệ tương đương
với tŕnh độ phát triển thể chất thấp
nhất. Trong động vật có xương sống,
tuyến tùng quả chiếm một vị trí nổi
bật và lộ ra ngoài. C̣n trong con người, nó có một
vị trí ẩn giấu kín đáo nhất và khó t́m thấy
nhất, trừ ra đối với nhà cơ thể
học. Sự kiện ấy cũng giải thích cả
vấn đề trạng thái vật chất, trí tuệ và
tâm linh của nhân loại trong tương lai, trong những
thời kỳ tương ứng song hành với những
thời kỳ khác trong quá khứ, và luôn luôn trên
đường hướng tiến hóa theo từng chu
kỳ trên những ṿng cung đi xuống và đi lên. Như
thế, vài thế kỷ trước Chu kỳ Hắc Ám
(Kali Yoga) đă bắt đầu gần 5 000 năm nay.
Thiên Cơ tiết lộ rằng:
Chúng
ta [Căn chủng thứ Năm] trong nửa phần
thời gian đầu trở đi [trên ṿng cung đi lên
của Chu kỳ] đang ở vào giai đoạn giữa
của Giống dân thứ Nhất và Giống dân thứ Hai
– rơi xuống thấp [nghĩa là các Giống dân này lúc
đó đang ở trên ṿng cung đi xuống của chu
kỳ]… Con hăy tính toán xem, Hỡi đệ tử.
302
Khi đă tính
toán như lời dạy, chúng tôi nhận thấy rằng
trong giai đoạn giao thời đó, nghĩa là trong
nửa phần sau giai đoạn tiến hóa của
Giống người khinh thanh đầu tiên, nhân loại
ấu trĩ không có yếu tố cân năo hay trí khôn, khi
họ ở trên ṿng cung đi
xuống. Và khi chúng ta
tiến lên ngang hàng với mức độ đó trong ṿng
cung đi lên, chúng ta
thiếu sót hẳn yếu tố tâm linh, yếu tố này
đang được thay thế bởi yếu tố trí
tuệ. Nên nhớ rằng v́ chúng ta đang ở vào giai
đoạn mở trí của Chu kỳ các Chủng tộc
tức là vào giai đoạn Giống dân thứ Năm, nên
chúng ta đă vượt qua điểm trung gian qua sự
điều chỉnh hoàn toàn giữa Tinh Thần và Vật
Chất, hay của thế quân b́nh giữa trí tuệ và
trực giác tâm linh. Tuy nhiên, cần ghi nhớ một
điều quan trọng, chúng ta chỉ mới ở trong
Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư và sự phát triển hoàn
toàn của trí tuệ như một tia sáng trực tiếp
của ĐẠI
TRÍ Vũ Trụ (MAHAT) - một tia sáng không bị
Vật Chất làm chướng ngại – chỉ có thể
đạt tới trong cuộc Tuần Hoàn thứ Năm.
Tuy nhiên, v́ mọi phân chủng (sub-race) và quốc gia
đều có các chu kỳ và giai đoạn phát triển
tiến hóa của ḿnh được lặp lại theo
một qui mô nhỏ hơn, nên nó ắt phải nhiều
hơn như thế nữa trong trường hợp
một Căn chủng. Như thế là Chủng tộc
chúng ta, trong vị thế của một căn chủng,
đă vượt qua con đường trung gian và đang
tiến tới trên khía cạnh tâm linh. Nhưng vài phụ
chủng của Giống dân thứ Năm vẫn ở trên
ṿng cung đi xuống của những chu kỳ quốc gia
liên hệ và c̣n những phụ chủng khác nữa –
những phụ chủng cổ xưa nhất – sau khi
đă vượt qua
điểm cốt yếu then
chốt vốn quyết định sự mất hay c̣n
của một chủng tộc, một quốc gia hay
một bộ lạc, đang ở tột đỉnh
của sự tiến hóa tâm linh.
Nay cũng là điều
dễ hiểu, tại sao Con Mắt thứ Ba lại
dần dần biến thành một tuyến đơn
giản, khi có sự sa đọa vật chất của
những kẻ mà chúng ta đồng ư gọi là
người Lemuria.
Có một sự kỳ
diệu là trong một con người, các bán cầu năo và
các nang năo bên đă đặc biệt phát triển, trong khi
mà chính thị khưu (optic
thalami), nang năo giữa và vân
thể lại là các bộ phận chính phát triển trong
các bộ óc của động vật hữu nhũ khác.
Hơn nữa, người ta đă khẳng định
rằng trong một chừng mực nào đó, trí tuệ
của một người có thể được đo
lường bằng sự phát triển của khúc cuộn
giữa và phần trước của các bán cầu năo.
Dường như một hệ luận tự nhiên
của điều này là nếu như chúng ta có thể xem
sự phát triển của tùng quả tuyến là một
dấu hiệu của các năng khiếu thần thông và
các khuynh hướng tâm linh của bất kỳ
người nào, th́ sẽ có một sự phát triển
tương ứng của phần xương sọ
đó, hoặc một sự gia tăng của tùng quả
tuyến gây thiệt hại cho phần sau của các bán
cầu năo. Đây là một điều suy lư kỳ diệu
và sẽ được xác nhận trong trường
hợp hiện nay. Ở bên dưới và phía sau, chúng ta
sẽ thấy tiểu năo mà người ta cho là trung tâm
của mọi khuynh hướng động vật của
con người mà khoa học cho là đại trung tâm
của mọi hoạt động sinh lư kết hợp
của cơ thể, chẳng hạn như là đi
đứng, ăn uống v.v… Ở đàng trước là
phần năo trước, các bán cầu năo, phần
đặc biệt có liên quan tới sự phát triển trí
năng con người. Và
ở phía giữa khống chế cả hai phần
kia và nhất là các chức năng động vật, là
tùng quả tuyến đă phát triển, liên hệ với
người tiến hóa cao hơn hoặc Chơn Nhơn.
303
Phải nhớ rằng
đây chỉ là các sự tương ứng vật
chất, cũng như óc người b́nh thường
chỉ là cơ quan ghi nhận kư ức chứ không phải
là chính kư ức.
Như thế, đây chính
là cơ quan đă sản sinh biết bao là huyền
thoại và truyền thuyết, kể cả huyền
thoại về con người có một đầu
nhưng hai mặt. Ngoài những chuyện đă được
đề cập trong các áng văn của Chaldea, chúng ta c̣n
có thể thấy các huyền thoại này trong nhiều tác
phẩm của Trung Hoa. Ngoài tác phẩm đă
được nêu, Sơn Hải Kinh, do Kung Chia biên soạn
từ những chữ khắc trên chín chiếc đỉnh
thời Vũ Đế, 2255 trước T.C. tạo ra,
chúng ta c̣n có thể thấy chúng trong một tác phẩm khác
tên là Trúc Thư (Bamboo Books), và trong một tác phẩm
thứ ba ‘Rh Ya, tục truyền rằng tác giả của
nó đă được “Điểm đạo đồ
Chow Kung, chú của Vũ Vương, vị Hoàng Đế
đầu tiên của triều Chu, 1122 trước T.C. Trúc
Thư bao hàm các niên sử cổ truyền của Trung Hoa,
nghe nói người ta đă t́m ra nó vào năm 279 sau T. C. khi
mở lăng Vua Seang nước Wei, Ngài đă băng hà
năm 295 trước T.C.”([671])
Cả hai tác phẩm này đều đề cập
tới những người có hai mặt trên một
đầu – một mặt trước, một mặt sau.
Bây giờ, môn sinh Huyền bí
học nên biết rằng “Con Mắt thứ Ba” có liên hệ chặt chẽ
với Nghiệp quả. Giáo điều huyền bí
đến nỗi rất ít người nghe nói đến
nó.
“Con Mắt Shiva” không hoàn toàn
teo lại trước khi kết thúc giai đoạn
của Giống dân thứ Tư. Khi mà lư tưởng tâm
linh và những quyền năng thiêng liêng cùng những
đặc tính thần tiên cao cả của Giống dân thứ
Ba đă bị lạm dụng và ô nhiễm bởi con
người thể chất đầy dục vọng và
thú tính, th́ Con Mắt Thần liền mất hết ảnh
hưởng thần diệu của nó. Nhưng đó là
luật tiến hóa, v́ nói đúng ra, đó không phải là
sự SA
ĐỌA. Tội
lỗi không phải là do việc sử dụng những quyền
năng mới phát triển, mà là do sự lạm dụng quyền năng, làm cho
phần thể chất con người đáng lẽ là
một ṭa linh điện chứa đựng vị
Thượng Đế bên trong, lại là một thứ khí
cụ của sự đọa lạc tâm linh. Sự lạm dụng quyền năng này
thật ra không phải là một tội lỗi mà thôi, nó c̣n
là vấn đề gây Nhân tạo Nghiệp ([672])
rất xấu. Các độc giả cảm thấy
thắc mắc về việc dùng danh từ “đọa
lạc tâm linh” này thay v́ dùng “đọa lạc thể
chất”, xin nhớ rằng không có vấn đề
gọi là đọa lạc thể chất. Thể xác
chỉ là một cơ phận vô trách nhiệm, một khí
cụ của linh hồn hay “Con người Tâm linh”. Trong
trường hợp của giống người Atlantis,
chính Cái phần Tâm linh của họ đă phạm tội
lỗi v́ chính Yếu tố Tinh Thần vẫn là nguyên
tắc “Chủ động” trong con người. Như
vậy, chính là ở trong thời kỳ đó mà Nghiệp
quả nặng nề nhất của Giống dân thứ
Năm do Chơn Thần của chúng ta tạo ra.
304
V́ câu này lại
khiến người ta có thể rối trí, nên tốt
hơn là chúng ta phải giải thích nó v́ lợi ích của
những kẻ chẳng biết ǵ về giáo lư Minh
Triết Thiêng Liêng.
Những vấn
đề của Quả báo và Luân hồi được
nêu ra và dường như có một sự lầm lẫn
to lớn về vấn đề này. Những người
theo đạo Cơ Đốc đă thấm nhuần cái ư
tưởng cho rằng Thượng Đế tạo ra
một Linh Hồn mới cho mỗi đứa trẻ
sơ sinh, thường là ở trong số những
người hoang mang nhất. Họ hỏi phải
chăng theo thuyết trên, th́ tổng số Linh Hồn
đầu thai trên Thế giới là có giới hạn và
họ được trả lời là đúng như
vậy. V́ theo quan niệm huyền môn, th́ tuy rằng
những Chơn Thần đầu thai chuyển kiếp
th́ vô số, nhưng tựu trung vẫn có giới hạn.
Dù cho chúng ta tính luôn rằng kể từ Giống dân
thứ Hai trở về sau, khi mà bảy Nhóm người
ban sơ của họ được ban cho thể xác,
đă có nhiều trường hợp sinh và tử xảy
ra trong mỗi giây đồng hồ kể từ đó
đến nay. Luật Nhân Quả điều chỉnh
mọi vật một cách rất thần t́nh, bởi
vậy, sự xuất hiện của các Chơn Thần
mới, chấm dứt khi Nhân loại vừa đạt
tới sự phát triển thể chất một cách
đầy đủ. Không có một Chơn Thần mới
nào c̣n đầu thai chuyển kiếp kể từ
điểm giữa của giống dân Atlantis cho
đến nay. Chúng ta nên nhớ rằng ngoại trừ
trường hợp trẻ con chết yểu và những
người bất đắc kỳ tử v́ lư do tai
nạn, không một Thực Thể Tâm Linh nào có thể tái
sinh trước khi một thời kỳ dài nhiều
thế kỷ trôi qua. Riêng một việc có những
khoảng cách như thế cũng chỉ rằng tổng
số Chơn Thần đầu thai đương nhiên có
giới hạn trong một phạm vi nhất định.
Vả lại, c̣n phải có một thời gian khá dài dành
riêng cho sự tiến hóa của những loài vật khác.
Bởi vậy mới có
sự quả quyết rằng nhiều người trong
chúng ta hiện nay đang phải thanh toán các Nghiệp
quả xấu mà họ đă gây ra trong những kiếp
trước khi c̣n mang thể xác của người Atlantis.
Luật Nhân Quả có liên đới chặt chẽ với
Luật Luân Hồi.
Sự hiểu biết
định luật này cho chúng ta nhận thấy những
kiếp tái sinh liên tục của cùng một Linh Hồn
suốt Chu kỳ Sinh hoạt; nó cho chúng ta thấy rằng
cũng bấy nhiêu CHƠN THẦN – trong đó có nhiều
vị Thiền Định Đế Quân hay chính các “Thiên
Thần” (“God”) – phải trải qua các “Chu kỳ Cần
thiết” và nhận lấy những sự thưởng
phạt tương xứng với Nghiệp quả đă
gây ra trong kiếp sống trước; chính các Chơn
Thần đó đă giáng lâm vào những lớp Vỏ
trống rỗng, vô tri giác, hay những H́nh Bóng khinh thanh do
những vị Thủy Tổ phóng xuất ra thành những
người đầu tiên trong Giống dân thứ
Nhất, những Chơn Thần ấy ngày nay đang có
mặt trong chúng ta, và có lẽ họ là chính chúng ta nữa;
chỉ có triết lư này mới có thể giải thích cho
chúng ta vấn đề bí hiểm của Thiện và Ác và
việc có vẻ như bất công khủng khiếp trong
đời sống con người. Chỉ có sự
hiểu biết đó mới xoa dịu ḷng công phẫn
của chúng ta đối với sự trái ngược éo
le của cuộc đời và dung ḥa chúng ta với ư
niệm công bằng thiêng liêng. Khi đă thấu hiểu
luật Luân Hồi, Nhân Quả và nh́n thấy chung quanh ḿnh
những chênh lệch bất b́nh đẳng về thân
thế, tài sản, về trí tuệ và khả năng,
người ta sẽ không c̣n ngạc nhiên nữa.
Người ta cũng sẽ không thắc mắc băn
khoăn khi thấy những kẻ xấu xa, độc ác
lại hưởng được danh vọng, giàu sang,
sung sướng, dường như được ưu
đăi. Trái lại, có những người khác thông minh,
đức hạnh cao quư – nói tóm lại hơn hạng
người trên về mọi phương diện –
thế mà lại lâm vào cảnh túng thiếu, cô đơn;
nh́n thấy những cảnh tượng như thế, mà
vô phương cứu giúp để làm nhẹ nỗi
đau khổ của người đời, th́ chỉ có
sự hiểu biết về Nghiệp quả mới giúp
cho chúng ta giữ được sự an nhiên, không
nguyền rủa cuộc đời, cũng như trách
tạo Hóa bất công.([673])
305
Trong
tất cả những điều báng bổ khủng
khiếp, và những điều thực đúng là những
lời kết tội vị Thượng Đế
của ḿnh của những kẻ theo thuyết độc
thần, không có ǵ nghiêm trọng, hoặc không thể tha
thứ được hơn là sự khiêm tốn giả
tạo (hầu như là bao giờ cũng vậy) khiến
cho các tín đồ Thiên Chúa giáo giả sử là “ngoan
đạo” khẳng định, khi giáp mặt với
điều ác và tai họa bất công, rằng “đó là ư muốn của Thượng
Đế” (“such is the will of
God”).
Thật là đần
độn và đạo đức giả ! Những
kẻ báng bổ và các tín đồ Pharisees bất kính nói
về ḷng từ bi bác ái vô tận về Thượng Đế
và Đấng Tạo Hóa đối với kẻ bơ
vơ, thế mà vị Thượng Đế đó lại đày đọa
người hiền, tạo vật đẹp nhất
của ḿnh, làm cho họ chảy
máu đến chết giống như một Thần Moloch
khát máu ! Congreve sẽ trả lời cho chúng ta về
điều này như sau:
Nhưng ai dám
trách móc Chân Lư Vĩnh Cửu ?
Chúng tôi xin đáp: Lư luận và lương tri.
Nếu người ta yêu cầu chúng ta tin tưởng vào
“tội lỗi nguyên thủy”, tin vào một kiếp sống duy
nhất trên Trần Thế dành cho mọi Linh Hồn và
tin vào một Đấng Thánh Linh Nhân H́nh (Ngài dường
như chỉ tạo ra một số người
để đủ thỏa măn cái thú kết án họ
phải chịu cảnh hỏa ngục đời
đời) – như vậy đó cho dù họ thiện hay
ác, theo những kẻ chủ trương thuyết
tiền định ([674])
- th́ tại sao bất kỳ người nào trong chúng ta
vốn được phú cho lư trí, đến lượt
ḿnh lại không kết án một vị Thánh Linh tồi
bại như vậy? Cuộc sống sẽ trở nên
hết chịu nỗi nếu người ta phải tin
tưởng vào vị Thượng Đế do sự
tưởng tượng bẩn thỉu của con
người tạo ra. May mắn thay vị Thượng
Đế này chỉ tồn tại trong các giáo điều
của con người, và trong trí tưởng tượng
bệnh hoạn của vài thi sĩ, họ tin tưởng
rằng ḿnh đă giải quyết được vấn
đề bằng cách ngỏ lời với Ngài như sau:
Hỡi
Đại Huyền Năng Bí Nhiệm, Ngài đă lôi cuốn
Niềm kiêu hănh
của minh triết con người, để làm bối rối
Sự xoi mói táo
tợn và chứng tỏ đức tin
Của các
tạo vật tự phụ
của ḿnh !
306
Thật vậy, cần
phải có một tín ngưỡng mănh liệt mới có
thể tin rằng chính “sự tự tiện” chất
vấn công lư của kẻ đă tạo ra con người
nhỏ bé bơ vơ song lại làm cho y “băn khoăn”
rồi lại trắc nghiệm “đức tin” của y,
là điều mà “Quyền Năng” đó có thể đă
quên, nếu không muốn nói đă lờ đi, không ban cho y,
điều này đôi khi vẫn xảy ra.
Hăy so sánh đức tin mù quáng
này với đức tin triết lư, dựa vào mọi
bằng chứng hữu lư và kinh nghiệm sống, vốn
tin vào Nghiệp quả tức Định Luật Báo
Ứng. Định luật này, dù Hữu thức hay Vô
thức, không đặt để cho ai hay bất cứ
vật ǵ số mệnh khắc khe cố định.
Định luật ấy có từ thuở Vô cùng và tự
tại trong cơi Vô cùng. Thật ra tự nó VÔ CÙNG (ETERNITY) vậy. Và như thế, v́
không một hành động nào có thể so sánh ngang bằng
với vô cùng cho nên không thể nói rằng định
luật ấy hành động bởi v́ chính nó vốn
dĩ đă là HÀNH
ĐỘNG rồi.
Không phải ngọn sóng
biển làm đắm người, mà chính là hành
động cá biệt
của kẻ bất hạnh, y cố ư đặt ḿnh
dưới sự hành động vô tư của những định luật cai
quản sự vận động của sóng biển. Định luật Karma không tạo
tác, cũng không thảo kế hoạch. Chính con
người mới thảo kế hoạch và tạo ra các
nguyên nhân, c̣n Luật ấy chỉ điều chỉnh
hậu quả (effects). Sự điều chỉnh này không
phải là một hành động, mà là sự điều
ḥa trong vũ trụ, luôn luôn có khuynh hướng lập
lại thế quân b́nh cũng giống như người
bắn cung, nếu giương cung một cách quá thẳng,
sẽ làm cho cây cung bật trở lại với
cường độ tương đương với
sức mạnh đă giương nó lên. Nếu rủi nó
làm trật gân tay của kẻ giương cung, th́ chúng ta
có nên nói rằng nguyên nhân là tại cái cung làm găy tay cung
thủ, hay là do nơi sự dại dột của
người ấy? Luật Karma không bao giờ t́m cách
hủy diệt sự tự do suy luận và sự tự
do cá nhân, như vị Thượng Đế do các kẻ
theo thuyết Độc Thần (Monotheists) chế ra. Nó
đă không cố ư âm thầm tự tiện quyết
định khiến cho con người băn khoăn; nó
cũng sẽ chẳng trừng phạt kẻ nào dám xoi mói
các bí nhiệm của nó. Trái lại, người này, do
sự suy cứu và suy gẫm, sẽ vén được
tấm màn bí nhiệm của luật nhân quả và làm sáng
tỏ tác dụng vô cùng kỳ diệu và uyên áo của nó
trên những ngơ ngách quanh co, sâu thẳm mà v́ vô minh, nên
biết bao người đă lầm đường
lạc lối và đắm ch́m vào mê cung của cuộc
đời, chính những kẻ ấy làm việc
để phụng sự nhân loại. Karma là một
Định Luật Tuyệt Đối và Trường
Cửu trong Vũ Trụ Biểu Lộ, và bởi v́
chỉ có thể có một Nguyên nhân tuyệt đối
trường cửu và Duy nhất luôn luôn tác động
không ngừng cho nên những người tin tưởng
nơi Karma không thể bị xem như Vô thần hay Duy
vật và lại càng không phải là những kẻ cả
tin nơi thuyết Định Mệnh
307
mù quáng, ([675])
v́ Karma vốn đồng hóa với đấng Bất
Khả Tri mà nó là một trạng thái, bằng các hậu
quả của nó trong cơi giới hiện tượng.
Có liên quan mật thiết
với Luật Nhân Quả là Luật Luân Hồi (Law of
Rebirth) hay tái sinh của một Cá Thể tâm linh trong một
loạt phàm ngă nối tiếp nhau trải qua ḍng thời
gian hầu như dài vô tận. Những phàm ngă này cũng ví
như những vai tṛ mà những bộ y phục khác nhau
của các nhân vật trong một vở kịch do một
diễn viên đóng vai diễn xuất trên sân khấu.
Kịch sĩ tự đồng hóa với vai tṛ ấy
mỗi đêm chỉ trong khoảng vài giờ. Kịch
sĩ - vốn là một người thật đóng vai
những nhân vật giả tạo ấy – vẫn luôn luôn
biết rằng y chỉ là một Hamlet trong thời gian vài
màn kịch thôi. Tuy nhiên, vài màn kịch này trên b́nh diện
ảo giác của con người lại tiêu biểu cho toàn
thể cuộc đời của Hamlet. Người
diễn kịch cũng biết rằng trên sân khấu hôm
trước đó y là Vua Lear, và y cũng lại là Othello
trong đêm trước nữa. Nhưng khi thủ những
vai tṛ ấy trên sân khấu, th́ y tạm thời quên đi
bản chất con người thật của y. Trong
cuộc đời thực tế, bất hạnh thay
sự “tạm quên” đó lại trở thành quá thật !
Tuy nhiên, cái Chơn Ngă bất diệt hoàn toàn biết rơ
điều đó, nhưng v́ nhăn quan tâm linh bị lu mờ
trong xác phàm nặng trọc, nên sự nhận thức
ấy không thể gieo ấn tượng rơ rệt trên ư
thức phàm trần của Phàm Ngă giả tạo.
Chúng tôi được
biết rằng, những người thuộc Căn
chủng thứ Ba đă chiếm hữu được
một Mắt thứ Ba hồng trần, măi cho đến
thời kỳ giữa phân chủng thứ ba của Căn
chủng thứ Tư khi sự cô đặc và hoàn
thiện bộ khung cơ thể con người đă
khiến cho nó biến mất khỏi cơ thể
ngoại cảnh của con người. Tuy nhiên, xét về
mặt tâm linh và tinh thần, thị giác và tri giác của nó
đă tồn tại đến cuối Giống dân thứ
Tư khi các chức năng của nó đă hoàn toàn bị
dứt tuyệt do loài người quá duy vật và
đồi trụy. Điều này xảy ra trước
khi toàn khối lục địa Atlantis bị nhận ch́m.
Nay chúng ta có thể quay lại các trận Đại
hồng thủy và nhiều “Noahs”.
Môn sinh phải nhớ rằng có nhiều trận Đại hồng thủy như trận được đề cập trong Sáng Thế Kư và ba trận Đại hồng thủy quan trọng hơn nhiều sẽ được đề cập và mô tả trong Quyển 4, Phần 3, Tiết 6, dành riêng cho đề tài “Các lục địa bị ch́m” thời tiền sử. Tuy nhiên, trong t́nh huống này cần phải có một lời giải thích mới để tránh những phỏng đoán sai lầm, liên quan tới lời tuyên bố rằng Nội môn Bí giáo có chung nhiều điều với các huyền thoại bao hàm trong các Thánh kinh Ấn Độ; rằng niên đại kư của các Thánh kinh Ấn Độ cũng hầu như là niên đại kư của Nội môn Bí giáo (có điều là được minh giải thêm) và cuối cùng tin tưởng rằng Bàn Cổ Vaivastava – thật đúng là một danh xưng chung chung ! – là Noah của dân Ăryan và nguyên kiểu của vị tộc trưởng trong Thánh kinh – các nhà Huyền bí cũng tin vào tất cả các điều này.
308
CÁC
VỊ BÀN CỔ NGUYÊN SƠ CỦA NHÂN LOẠI
Những kẻ nào
biết rằng “Đại Hồng Thủy” có liên quan
tới sự đắm ch́m của toàn thể một
lục địa (ngoại trừ một vài đảo)
đă không thể xảy ra cách đây mới khoảng 18
000 000 năm, và biết rằng Bàn Cổ Vaivasvata là Noah
của Ấn Độ liên quan tới Hóa Thân Cá của
Vishnu, có thể thấy băn khoăn trước sự
dị biệt biểu kiến xưa giữa các sự
kiện được nêu rơ và niên đại kư đă
được tŕnh bày trước kia. Nhưng thực ra
chẳng có ǵ là dị biệt. Xin độc giả hăy quay
sang Tạp chí Theosophist, số tháng 7 – 1883, đó là v́
nhờ nghiên cứu một bài trong đó nói về “Nguyên khí
Thất phân trong Nội môn Bí giáo”, y có thể
được minh giải về toàn bộ vấn
đề này. Tôi tin rằng các nhà Huyền bí khác với tín
đồ Bà La Môn ở lời giải thích trong đó.
Tuy nhiên, để giúp cho
những kẻ không có Tạp chí Theosophist thời đó,
một hai đoạn có thể được trích như
sau:
Đức Bàn
Cổ con của Đức Svayambhuva là ai? Giáo Lư Bí Nhiệm
dạy chúng ta rằng vị Bàn Cổ này không phải là
người mà là đại biểu của giống người
bản sơ, tiến hóa với sự trợ giúp của
các Thiền Định Đế Quân (Thiên Thần) vào lúc
khởi đầu cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất.
Nhưng Luật Bàn Cổ cho chúng ta biết có mười
bốn vị Bàn Cổ trong mỗi Thiên Kiếp, tức là
“thời khoảng từ cơ sáng tạo này sang cơ sáng
tạo khác”, đúng hơn là thời khoảng từ tiểu Chu kỳ Hỗn Nguyên
này sang tiểu Chu kỳ Hỗn Nguyên khác ([676])
và “trong Thiên Kiếp hiện nay, cho đến nay đă có bảy vị Bàn Cổ”. Nên
biết rằng có bảy cuộc Tuần Hoàn mà chúng ta
đă trải qua ba cuộc và nay đang ở vào cuộc
thứ Tư. Có bảy buổi B́nh minh và bảy kỳ
Tranh tối tranh sáng, tức mười bốn Chu kỳ
Khai Nguyên. Vào lúc khởi đầu mỗi cuộc Tuần
Hoàn, vào lúc kết liễu ở trên và ở giữa các
Bầu hành tinh, có một sự khơi hoạt đời
sống hăo huyền và
“sự khơi hoạt đời sống thực sự”. Hơn nữa, có các vị Bàn
Cổ Gốc và cái mà
309
chúng
ta đă dịch một cách vụng về là các vị Bàn Cổ
Mầm Mống (Seed-Manus) – mầm
mống của các giống người của cuộc
Tuần Hoàn sắp tới
(tức các Đấng Shishtas – những người thích
ứng nhất c̣n sống sót; ([677])
đây là một bí nhiệm chỉ được tiết
lộ cho những người được ba lần
Điểm đạo). Những kẻ nào được
biết những điều kể trên sẽ
được chuẩn bị kỹ lưỡng hơn
để hiểu được ư nghĩa của
những điều tiếp sau đây. Các Thánh kinh Ấn
Độ cho chúng ta biết rằng “Đức Bàn Cổ
bản sơ tạo ra sáu
vị Bàn Cổ khác [tổng cộng là bảy vị Bàn Cổ nguyên sơ], đến
lượt mỗi Đấng này lại tạo ra bảy
vị Bàn Cổ khác” ([678])
(Bhrgu, i, 61 – 63) – trong các bộ luận Huyền bí học,
việc tạo ra chư Bàn Cổ được tŕnh bày là
7 x 7. Như thế rơ ràng là Đức Bàn Cổ -
Đức Bàn Cổ vừa qua, thủy tổ của Nhân
loại thuộc cuộc Tuần Hoàn thứ Tư –
phải là Vị thứ
bảy, v́ chúng ta ở vào cuộc Tuần Hoàn thứ
Tư, ([679])
có một Bàn Cổ Gốc trên Bầu A và một Bàn Cổ Mầm Mống trên Bầu G.
Cũng như mỗi cuộc Tuần Hoàn của hành tinh
bắt đầu với sự xuất hiện của Bàn
Cổ Gốc (Thiền Định Đế Quân) và
chấm dứt với một Bàn Cổ Mầm Mống
lần lượt xuất hiện vào lúc khởi
đầu và lúc kết thúc chu kỳ nhân loại trên
bất kỳ Bầu hành tinh đặc biệt nào. ([680])
Từ phát biểu nêu trên, chúng ta sẽ dễ dàng thấy
rằng một Chu kỳ Khai Nguyên (Manu-antara) – theo hàm ư
của chính từ ngữ này – nghĩa là thời kỳ giữa hai lần xuất
hiện của hai vị Bàn Cổ tức Thiền
Định Đế Quân. V́ thế, một Tiểu chu
kỳ Khai Nguyên là thời kỳ của bảy Giống dân trên bất kỳ Bầu hành
tinh đặc biệt nào, c̣n một Đại chu kỳ
Khai Nguyên là thời kỳ của một cuộc Tuần
Hoàn nhân loại dọc theo Dăy Hành Tinh. Hơn nữa, v́ nghe
nói mỗi một trong bảy Đức Bàn Cổ lại
tạo ra 7 x 7 vị Bàn Cổ và có 49 Căn chủng trên
bảy Bầu hành tinh trong mỗi cuộc Tuần Hoàn, nên
mỗi Căn chủng đều có một vị Bàn
Cổ của ḿnh. Vị Bàn
Cổ thứ bảy hiện nay được gọi là
“Vaivasvata”, trong kinh điển ngoại môn, Ngài tượng
trưng cho vị Bàn Cổ ở Ấn Độ tiêu
biểu cho Xisuthrus của dân Babylonia và Noah của dân Do Thái.
Nhưng trong các tác phẩm nội môn, chúng ta
được biết rằng Bàn Cổ Vaivasvata, thủy
tổ của Giống dân thứ
Năm chúng ta – Ngài đă cứu nó thoát khỏi trận
lụt đă tiêu diệt gần hết giống dân Atlantis
thứ Tư – không phải là vị Bàn Cổ thứ
bảy được đề cập theo danh pháp của
các vị Bàn Cổ Gốc, mà là một trong 49 vị Bàn
Cổ xuất phát từ vị Bàn Cổ Gốc này.
310
Để
dễ hiểu hơn, ở đây chúng tôi xin tŕnh bày danh
xưng của 14 vị Bàn Cổ xếp theo thứ tự
liên quan tới mỗi cuộc Tuần Hoàn.
1. Cuộc
Tuần Hoàn thứ Nhất:
a. Bàn Cổ Nguyên căn (Gốc)
đầu tiên trên Bầu hành tinh A: Svăyambhuva.
b. Bàn Cổ Mầm Mống
đầu tiên trên Bầu hành tinh G: Svărochi hay Svrochisha.
2. Cuộc
Tuần Hoàn thứ Hai:
a. Bàn Cổ Nguyên căn thứ
hai trên Bầu hành tinh A: Auttami.
b. Bàn Cổ Mầm Mống
thứ hai trên Bầu hành tinh G: Tămasa.
3. Cuộc
Tuần Hoàn thứ Ba:
a. Bàn Cổ Nguyên căn thứ
Ba trên Bầu hành tinh A: Raivata.
b. Bàn Cổ Mầm Mống thứ
ba trên Bầu hành tinh G: Chăkshusha.
4. Cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư:
a. Bàn Cổ Nguyên căn thứ
Tư trên Bầu hành tinh A: Vaivasvata (Thủy Tổ chúng ta).
b. Bàn Cổ Mầm mống
thứ tư trên Bầu hành tinh G: Săvarna [cùng màu hay giai
cấp].
5. Cuộc
Tuần Hoàn thứ Năm:
a. Bàn Cổ Nguyên căn thứ
năm trên Bầu hành tinh A: Daksha
-săvarna.
b. Bàn Cổ Mầm mống
thứ năm trên Bầu G: Brahmă-săvarna.
6. Cuộc
Tuần Hoàn thứ Sáu:
a. Bàn Cổ Nguyên căn thứ
sáu trên Bầu A: Dharma-săvarna.
b. Bàn Cổ Mầm mống
thứ sáu trên Bầu G: Rudra- săvarna.
7. Cuộc
Tuần Hoàn thứ Bảy:
a. Bàn Cổ Nguyên căn thứ
bảy trên Bầu A: Rauchya-[daiva] săvarna.
b. Bàn Cổ Mầm mống
thứ bảy trên Bầu G: Bhautya.
Như thế, mặc dù là
thứ bảy trong thứ tự nêu trên, song Vaivasvata
lại là Bàn Cổ Nguyên căn của Làn sóng Nhân loại
thứ Tư của chúng ta (độc giả phải luôn
luôn nhớ rằng Bàn Cổ không phải là một
người mà là một tập thể nhân loại), c̣n
Vaivasvata của chúng ta
chẳng qua chỉ là một trong bảy vị Bàn Cổ Thứ yếu. Ngài
được chỉ định để chưởng
quản bảy Giống dân của Bầu hành tinh này.
Mỗi Đấng này phải chứng kiến một trong
các đại họa định kỳ và tuần hoàn (do
lửa và nước) sẽ kết liễu chu kỳ
của mọi Căn chủng, và chính vị Vaivasvata này –
hiện thân lư tưởng của Ấn Độ được
gọi lần lượt là Xisuthrus, Deucalion, Noah v.v.. – là
“Con Người” ẩn dụ đă cứu độ
Giống dân chúng ta, khi hầu hết dân số của
một bán cầu bị nước tiêu diệt, c̣n bán
cầu kia lại được khơi hoạt từ
trạng thái triều nguyên tạm thời.([681])
Như vậy,
người ta đă chứng tỏ rằng không có sự
dị biệt thực sự nào khi nói đến Chu kỳ
Khai Nguyên Vaivasvata (Manu-antara, nghĩa đen là “giữa hai
vị Bàn Cổ”) là cách đây 18 000 000 năm, khi Con
Người vật chất (hoặc thực sự là
người) thoạt tiên xuất hiện trong Ṿng tiến
hóa thứ Tư trên Địa Cầu này; và khi nói
đến các vị Vaivasvata khác, nghĩa là Bàn Cổ
của trận Đại hồng thủy Vũ Trụ hay
tinh đẩu (một bí nhiệm) hoặc Bàn Cổ
Vaivasvata của Châu Atlantis bị ch́m khi Đấng Vaivasvata
của chủng tộc đă cứu số Nhân loại
được tuyển định (Giống dân thứ
Năm) khỏi bị tuyệt diệt. V́ nhiều biến
cố hoàn toàn riêng biệt này được cố t́nh
trộn lẫn vào nhau trong kinh Vishnu Purăna và các kinh Purănas khác
thành một câu chuyện; nên độc giả phàm tục
có thể sẽ c̣n hoang mang nhiều. Do đó, v́ cần
phải minh giải măi nên xin độc giả miễn
thứ cho chúng tôi về việc cứ lặp đi
lặp lại. Các “b́nh phong” che giấu các bí nhiệm
thực sự của Nội môn Bí giáo thật là lớn lao
và làm rối trí và ngay cả hiện nay, chúng ta cũng không
thể tŕnh bày chân lư rốt ráo. Tuy nhiên, chúng ta có thể vén
màn che giấu lên một tí nữa, và nay chúng ta có thể
giải thích cho môn sinh chân chính một vài điều
trước kia vẫn c̣n bị giấu kín.
311
Nếu
chúng tôi không lầm th́ Đại Tá Vans Kennedy đă nhận
xét rằng “nguyên lư bản sơ trong triết lư tôn giáo
Ấn Độ là nhất
nguyên trong đa tạp”. Nếu tất cả các vị
Bàn Cổ và Thánh Hiền này được gọi bằng
một tên chung, th́ đó là v́ họ chỉ là một và
đều là các năng lượng biểu lộ của
cùng một Thiên Đạo duy nhất, là các Sứ giả
(Messengers) và Hoán vị (Permutations) trên trời dưới
đất của các Nguyên khí bao giờ cũng ở trong
trạng thái hoạt động – hữu thức trong
thời kỳ tiến hóa của Vũ trụ, vô thức
(theo quan điểm của chúng ta) trong khi Vũ Trụ Yên
Nghỉ - v́ Thiên Đạo (Logos) đă ngủ trong ḷng CÁI ĐÓ (THAT) vốn “chẳng ngủ nghê”,
cũng chẳng bao giờ thức tỉnh, v́ đó là Sat
tức là “Bản Thể” chứ không phải là Hữu
Thể. Chính NÓ đă xạ ra Thiên Đạo Vô H́nh, Ngài phát
sinh ra mọi Thiên Đạo khác; Đấng Bàn Cổ
Bản sơ khai sinh ra các vị Bàn Cổ khác, xạ ra
vũ trụ và vạn vật trong đó, và tập hợp
các Ngài tiêu biểu cho Thiên
Đạo Biểu Lộ.([682])
V́ thế Giảng lư dạy chúng ta rằng trong khi không
Thiền Định Đế Quân nào (kể cả
Đấng Cao Cả cao siêu nhất) có thể nhận
thức rốt ráo được.
T́nh
trạng của Cơ tiến hóa Vũ Trụ trước
… các vị Bàn Cổ vẫn nhớ kỹ các kinh nghiệm
của các Ngài trong mọi Cơ tiến hóa Vũ Trụ
suốt qua Vĩnh Cửu.
Điều này thật là
giản dị: vị Bàn Cổ đầu tiên
được gọi là Svăyambhuva, “Đấng tự
hiện” Con của Từ Phụ Vô Hiện. Chư Bàn
Cổ là các Đấng Sáng Tạo vô thượng của
Giống dân thứ Nhất chúng ta – tinh thần của nhân
loại – điều này không cản trở việc bảy
vị Bàn Cổ đă là những Người “tiền Adam”
trên Trần Thế.
Đức Bàn Cổ tuyên
bố rằng chính ḿnh được tạo ra bởi
Virăj ([683])
hay Vaishvănara, Tinh Thần của Nhân loại,([684])
điều này nghĩa là Chơn Thần của Ngài xạ
ra từ Nguyên khí hằng động (never resting Principle) vào
lúc khởi đầu mọi Hoạt Động Vũ
Trụ mới mẻ - cái Thiên Đạo hay CHƠN THẦN
VŨ TRỤ
(tập thể Elohim) vốn xạ từ bên trong ḿnh ra tất cả các Chơn
Thần Vũ Trụ đă trở thành các trung tâm hoạt
động – các vị Tổ Phụ của hằng hà sa
số Thái Dương Hệ của các Chơn Thần người chưa biến
phân của các Dăy Hành Tinh cũng như là của mọi sinh
linh trên đó. Svăyambhuva tức ĐẤNG BẢN LAI (SELF-BORN) là danh hiệu của mọi
Chơn Thần Vũ Trụ đă
trở thành Trung tâm Lực mà từ trong đó một Dăy
Hành Tinh xuất lộ (trong Thái Dương Hệ chúng ta
có bảy Dăy Hành Tinh như vậy). Và bức xạ của
Trung tâm này lại trở nên biết bao nhiêu là Bàn Cổ
Svăyambhuva (một danh hiệu chung huyền bí có ư nghĩa
nhiều hơn thoạt nh́n bên ngoài); với vai tṛ là
một Tập đoàn, mỗi Đấng này lại
biến thành Đấng Sáng Tạo ra Nhân loại của
chính ḿnh.
312
C̣n
về phần vấn đề bốn Giống
người riêng biệt có trước Giống dân thứ
Năm chúng ta, đề tài này chẳng có ǵ là huyền bí
ngoại trừ việc các thể tinh anh của các
Giống dân đầu tiên, đây là một vấn
đề huyền sử, song rất chính xác, huyền
thoại này có tính cách đại đồng thế
giới. Và nếu nhà bác
học Tây phương muốn thấy nó chỉ là
một thần thoại th́ cũng chẳng có ǵ khác chút nào.
Người Mễ Tây Cơ đă có và vẫn có truyền
thuyết về sự hủy diệt thế giới
tứ phân bằng thủy tai và hỏa tai, cũng chẳng
khác nào những truyền thuyết mà người Ai Cập
đă có và người Ấn Độ hiện có, cho
đến nay.
Khi ra sức biện minh
cho cộng đồng các huyền thoại mà dân Trung Hoa,
Chaldea, Ai Cập, Ấn Độ và Hy Lạp đă lưu
truyền từ xưa và biện minh cho sự khiếm
khuyết bất kỳ di tích văn minh nào xưa hơn
năm ngàn năm, tác giả của Các Con Quái Vật
Thần Thoại đă nhận xét rằng:
Chúng ta phải …
đừng lấy làm lạ nếu chúng ta không t́m ngay ra
được di tích của các dân tộc cách đây
mười, mười lăm hoặc hai mươi ngàn
năm. Với một kiến trúc phù du … (như ở trung
Hoa) vị trí của các thành phố lớn có thể đă
bị quên đi trong vài ngàn năm do sự hủy hoại
của thiên nhiên, và biết bao nhiêu là thảm họa nho
nhỏ đă xảy ra, chẳng hạn như các trận
lụt địa phương, các trận động
đất, sự trầm tích của tro núi lửa … sự
lan tràn của cát sa mạc, sự hủy diệt sinh
mệnh do trận dịch hạch chết người ghê
gớm, do lam sơn chướng khí, hoặc do khói lưu
huỳnh phun ra.([685])
Chúng ta có thể suy ra việc
thảm họa trên đă làm thay đổi toàn thể toàn
thể bộ mặt của quả đất đến
mức nào từ CÂU KINH sau đây của Giảng lư xxii.
Trong
ṿng 70 000 000 năm đầu tiên của Thiên Kiếp, Trái
Đất và hai Giới khoáng vật và thực vật –
một giới đă đạt tới ṿng thứ bảy,
c̣n một giới vừa mới sinh ra – đều chói sáng
và bán tinh anh, lạnh lẽo, không có sự sống và trong
mờ. Vào lúc được 110 triệu năm ([686])
Mẹ [Địa Cầu] trở nên mờ đục, và
vào lúc được 14
triệu năm ([687])
những nỗi thống khổ của tuổi thanh xuân
đă diễn ra. Những sự biến động này
của Thiên Nhiên [các biến động địa
chất] vẫn kéo dài liên tục cho tới khi
được hai trăm triệu năm, sau đó, chúng
trở thành định kỳ và cách quăng lâu dài.
313
Sự
biến động cuối cùng đă diễn ra cách đây
gần 120 000 000 năm. Nhưng Trái Đất với
mọi vật trên mặt đất trở thành nguội
lạnh, cứng rắn, và ổn định hàng thời
đại trước kia.
Như thế, nếu chúng ta
tin vào Nội môn Bí giáo, th́ những cơn biến
động địa chất vũ
trụ đă không diễn ra trong 120 triệu năm
vừa qua, nhưng ngay cả trước thời kỳ
đó, Trái Đất đă sẵn sàng đón nhận gia
đ́nh nhân loại. Tuy nhiên, như đă nêu rơ, sự
xuất hiện của gia đ́nh nhân loại (đă phát
triển trọn vẹn về thể chất) đă
chỉ diễn ra cách đây chừng 18 000 000 năm, sau khi
sự đại bại đầu tiên của Thiên Nhiên
nhằm tự lực tạo ra các sinh linh – nghĩa là không
có sự trợ giúp của các “Đấng Kiến Tạo”
thiêng liêng – đă được nối tiếp bởi
sự tiến hóa lần lượt của ba Giống dân
đầu tiên. ([688])
Ngoài các Điểm đạo đồ cao cấp ra th́
chẳng ai biết được kỳ gian thực
sự của hai Giống dân rưỡi đầu tiên. Lịch
sử của các Giống dân bắt đầu vào lúc phân
chia giới tính, khi giống dân noăn sinh bán thư bán hùng
trước đó đă nhanh chóng suy vong, và các phân chủng
sau đó của Căn chủng thứ Ba xuất hiện
với vai tṛ một giống dân mới về mặt sinh lư học. Chính sự “Diệt
vong” này đă được gọi một cách ẩn
dụ là “Trận Đại hồng thủy của Bàn
Cổ Vaivasvata”, khi người ta tường thuật là
Bàn Cổ Vaivasvata tức Nhân loại, vẫn ở lại
một ḿnh trên Trần Thế, trong chiếc Bè cứu
rỗi do Vishnu (dưới dạng một con cá quái gỡ)
kéo, cùng với Bảy Đấng Thánh Hiền. Ẩn
dụ này thật là minh bạch.
Trong biểu tượng
kư của mọi quốc gia, trận “Đại hồng
thủy” tượng trưng cho Vật Chất hỗn mang
chưa ổn định (chính Hỗn nguyên khí), c̣n
Nước tượng trưng cho Nguyên khí Âm – “Thái Uyên”.
Quyển từ điển Hy Lạp của Parkhurst đă
tŕnh bày như sau:
Archẽ
tương ứng với từ ngữ rasit tức Minh Triết của Hebrew … và
[đồng thời] tương ứng với biểu
hiện của năng lực sinh sản nữ giới, arg tức area, mầm mống của thiên nhiên [và của
nhân loại] nổi lềnh bềnh hoặc ấp
trứng trong đó, trên một vực nước rộng
mênh mông, trong thời khoảng diễn ra sau mỗi chu
kỳ thế giới [hay chủng tộc].
314
Archẽ
tức chiếc Bè cũng là bí danh của Tinh Thần Thiêng
Liêng của Sự Sống vốn ấp ủ trên Hỗn
Nguyên (Chaos). Nay Vishnu chính là Tinh Thần Thiêng Liêng, với vai
tṛ là một nguyên khí trừu tượng, cũng là
Đấng Bảo Tồn và Sinh Hóa, hoặc Đấng Ban
Cấp Sự Sống – Ngôi thứ Ba của Ba Ngôi – gồm
có Brahmă, Ngôi Sáng Tạo, Shiva, Ngôi Hủy Diệt và Vishnu,
Ngôi Bảo Tồn. Trong ẩn dụ, người ta tŕnh bày
Vishnu dưới dạng một Con
Cá, dẫn dắt chiếc Bè của Vaivasvata băng qua
Nước lụt. Thật là vô ích mà nói dài ḍng về ư
nghĩa nội môn của từ ngữ Cá (như Payne Knight, Inman, Gerald Nassey và những
người khác đă làm như vậy). Ư nghĩa thần
học của nó có tính cách sùng bái sinh thực khí, song ư
nghĩa siêu h́nh của nó lại có tính cách thiêng liêng.
Đức Jesus được gọi là Cá, cũng như
Vishnu được gọi là Tửu Thần (Bacchus); IHS, “Đấng Cứu nhân
độ thế”, chẳng qua chỉ là chữ kết
của Tửu Thần, Ngài cũng được gọi
là IXQ¡S, Cá. ([689])
Hơn nữa, Bảy Đấng Thánh Hiền trong
chiếc Bè tượng trưng cho bảy “nguyên khí”, chúng
chỉ trở nên hoàn chỉnh nơi con người, sau khi
đă phân cách ra và trở thành một con người như thế, y không c̣n là một
tạo vật thiêng liêng nữa.
Nhưng chúng ta hăy quay
về các Giống dân, chẳng có bao nhiêu chi tiết về
sự ch́m của lục địa mà Căn chủng
thứ Hai đă ở trên đó, người ta tŕnh bày
lịch sử của Châu thứ Ba Lemuria cũng như Châu
Atlantis, nhưng người ta chỉ nói bóng gió tới
lịch sử của các Châu khác. Nghe nói Châu Lemuria đă
bị diệt vong chừng 700 000 năm trước sự
khởi đầu của cái được gọi là
Đệ tam kỷ (Eocene). ([690])
Trong trận Đại hồng thủy này – lần này là
một trận Đại hồng thủy thực sự -
người ta cũng tŕnh bày một cách ẩn dụ là Bàn
Cổ Vaivasvata đă cứu nhân loại – thật ra chỉ
có một phần nhân loại, tức Giống dân thứ
Tư – cũng như Ngài đă cứu Giống dân thứ
Năm khi đám tàn dư cuối cùng của giống dân Atlantis
đă bị diệt vong cách đây 850 000 năm. ([691])
Sau đó không có sự ch́m ngập lớn nào cho tới
thời Châu Atlantis của Plato tức đảo Poseidonis;
chỉ có người Ai Cập là biết được
chuyện này v́ nó đă xảy ra tương đối
mới đây.
Chính sự đắm ch́m
của Châu Atlantis mới là điều thú vị lạ
nhất. Đây là thảm họa mà các tài liệu cổ,
chẳng hạn như trong Thánh Thư Enoch, cho rằng: “Các
đầu mút của Trái Đất bị bỏ lỏng
lẻo”; dựa vào đó, người ta đă dựng nên
những huyền thoại và ẩn dụ về Vaivasvata,
Xisuthrus, Noah, Deucalion và toàn bộ số người ưu
tú được cứu rỗi. V́ không đếm xỉa
ǵ đến các điều dị biệt giữa các
hiện tượng tinh đẩu và địa chất, nên truyền
thuyết đă gọi không phân biệt cả hai thứ này
là “Đại hồng thủy”. Thế nhưng, hai thứ
này lại khác hẳn nhau, đại họa vốn hủy
diệt lục địa kế vị nó (Lục
địa thứ Tư) được tạo ra do
những sự rối loạn liên tiếp trong sự quay
quanh trục trái đất. Nó đă bắt đầu vào
thời sơ khai nhất của Đệ tam kỷ và
tiếp tục trong hàng thời đại dài dằng
dặc, lần lượt cuốn đi các di tích cuối
cùng của Châu Atlanis, có lẽ là ngoại trừ Tích Lan và
một phần nhỏ của vùng này nay là Phi Châu. Nó đă
làm thay đổi bộ mặt của địa cầu
và các niên sử (ngoại trừ các Tài liệu thiêng liêng
của Đông phương) đă không ghi được
các lục địa và các ḥn đảo thịnh
vượng của nó, các nền văn minh và khoa học
của nó.
315
V́ thế, khoa
học hiện đại chối bỏ sự tồn
tại của Châu Atlantis, thậm chí nó c̣n phủ nhận
bất kỳ sự xáo trộn dữ dội nào của
trục Trái Đất, và qui sự thay đổi khí
hậu cho các nguyên nhân khác. Nhưng đây vẫn c̣n là những
vấn đề bỏ ngỏ. Nếu Tiến sĩ Croll
cho rằng mọi sự biến đổi như thế
có thể được giải thích bằng các tác
dụng của sự chương động và tuế
sai, th́ có những người khác, chẳng hạn như
Henry James và John Lubbock ([692])
lại có khuynh hướng chấp nhận ư kiến cho
rằng các sự biến đổi này là do sự thay
đổi trục quay của Trái Đất. Đa số
các nhà thiên văn đă phản đối ư kiến này.
Nhưng trước kia họ chẳng phủ nhận và
tố cáo cái ǵ – và chỉ chấp nhận nó sau này khi mà
giả thuyết trở thành sự kiện không thể
chối căi được ?
Trong phần phụ lục
của Quyển 4, chúng ta sẽ thấy thêm các số
liệu của chúng ta phù hợp (hay đúng hơn là không
phù hợp) với khoa học hiện đại
đến mức nào (trong phần phụ lục đó,
chúng ta sẽ cẩn thận đối chiếu
địa chất học và nhân loại học hiện
đại với các giáo lư của Khoa học Cổ sơ.
Dù sao đi nữa, thời kỳ mà Giáo Lư Bí Nhiệm gán cho
sự đắm ch́m của Châu Atlantis, dường như
không hề bất đồng quá nhiều với các phép
tính toán của khoa học hiện đại. Tuy nhiên,
bất cứ khi nào mà khoa học chấp nhận có một
lục địa bị đắm ch́m như vậy, th́
nó lại gọi Châu Atlantis là “Lemuria”. Hiện nay, chúng ta
chỉ có thể nói về thời kỳ tiền nhân
loại như sau: ngay cả trước khi Giống dân
thứ Nhất vô trí xuất hiện, Trái Đất đâu
phải là không có người ở. Song le, chúng ta có thể
nói thêm rằng cái mà khoa học, vốn chỉ thừa
nhận con người vật
chất thôi, có thể xem là thời kỳ tiền nhân loại, có thể được chấp nhận
là trải dài từ Giống dân thứ Nhất măi tới
phân nửa đầu tiên của Giống dân Atlantis, v́
chỉ có lúc bấy giờ th́ con người mới
biến thành một sinh vật hữu cơ hoàn chỉnh
như hiện nay. Và điều này ắt khiến cho Con
Người Adam nguyên sơ có nguồn gốc không xa hơn
vài triệu năm.([693])
Tác giả của kinh Qabbalah đă nhận xét một cách chí lư rằng: “Với vai tṛ là một cá nhân, con người ngày nay chỉ là chuỗi liên tiếp của tính cách thực thể (the being-hood) của kiếp, hay đúng hơn các kiếp người trước đó”.
316
Theo kinh
Qabbalah, các điểm linh quang bao hàm trong Adam chia thành ba
lớp chính tương ứng với ba người con
trai của y, đó là Hesed
(Habel); Ge’boor-ah (Qai-yin) và Ra’h-min (Seth). Ba lớp này
lại chia thành …70 loài, được gọi là các
nguồn cội của loài người.([694])
Giáo sĩ Do Thái
Yehudad hỏi: “Có bao nhiêu lớp vỏ [của con
người vô h́nh] đă được tôn vinh (từ khi
con người được tạo ra) ? Giáo sĩ Do Thái
El’azar đáp: “Các đỉnh cao của thế giới (các
vĩ nhân của thế hệ) đang thảo luận
điều này, nhưng có đủ ba lớp vỏ,
một lớp để cho chơn linh Rua’h (đang ở
trong vườn Địa Đàng) khoác lấy; một
lớp vỏ vốn quí giá vô song mà Neshamah khoác lấy trong Kiếp sống g̣ bó
giữa các thiên thần của các Thánh Vương…; và
lớp vỏ ngoài, vốn hiện tồn và chẳng
hiện tồn, hữu h́nh và vô h́nh. Nephesh khoác lấy
lớp vỏ đó, bay nhảy trong đó, đi đi
về về trên thế gian”.([695])
Điều này liên quan
tới các Giống dân, các “lớp vỏ” hay các mức
độ vật chất của chúng và ba “nguyên khí” của
con người trong ba hiện thể.
ĐOẠN
KINH 11
VĂN
MINH VÀ DIỆT VONG CỦA GIỐNG DÂN
THỨ BA VÀ THỨ
TƯ
(THE CIVILIZATION AND
DESTRUCTION
OF THE THIRD AND
FOURTH RACES)
43. Dân Lemuria – Atlantis
xây dựng các đô thị và truyền bá văn minh. Giai
đoạn đầu của thuyết thần nhân
đồng h́nh. 44. Các pho tượng là bằng chứng
về kích thước của người Lemuria-Atlantis. 45.
Châu Lemuria bị lửa hủy diệt, Châu Atlantis bị
nước tiêu diệt. Trận Đại hồng
thủy. 46. Sự diệt vong của Giống dân thứ
Tư và các con quái vật tiền đại hồng
thủy cuối cùng.
43. GIỐNG DÂN THỨ BA (LEMURIAN) TẠO DỰNG NHỮNG THÀNH PHỐ VĨ ĐẠI. HỌ XÂY CẤT BẰNG NHỮNG VẬT LIỆU VÀ KIM LOẠI HIẾM CÓ LẤY TRONG PHÚN THẠCH CỦA NÚI LỬA. HỌ DÙNG CẨM THẠCH VÀ ĐÁ ĐEN ĐỂ TẠC TƯỢNG CỦA CHÍNH HỌ VỚI H̀NH DÁNG VÀ VÓC VẠC GIỐNG Y NHƯ HỌ, RỒI HỌ THỜ NHỮNG H̀NH TƯỢNG ĐÓ.
V́ lịch sử của
hai giống dân đầu tiên (là đợt cuối cùng
của giống dân Lemurian và đợt đầu của
giống dân Atlantis tương lai) đang diễn tiến
nên ở giai đoạn này, chúng ta cần phồi hợp
cả hai lại làm một.
Cùng ở giai đoạn này
có đề cập đến những triều
đại các Thánh vương, mà các dân tộc Ai Cập,
Chaldea, Hy Lạp v.v.. đều có nhắc đến trong
lịch sử của họ là các Đấng Cao Cả
đă xuất hiện trước những vị Quốc
Vương phàm tục. Những người Ấn
Độ hiện đại vẫn c̣n tin tưởng vào
các điều này và liệt kê chúng trong các Thánh Thư
của ḿnh. Tuy nhiên, đến đúng lúc th́ chúng ta sẽ
bàn về điều này. C̣n một điều cần
phải chứng tỏ là các nhà địa chất học
hiện đại đă phải chấp nhận sự
thật hiển nhiên về những lục địa
bị chôn vùi dưới đáy biển. Nhưng việc
chấp nhận ấy không nhất thiết phải là
thừa nhận sự kiện có người ở trên
những lục địa ấy trong những thời
kỳ địa chất tối sơ ([696])
tức là những dân tộc và
317
những
quốc gia văn minh chứ không phải chỉ nói về
những giống người dă man thời tiền sử.
Dưới sự d́u dắt của những Thánh
Vương thiêng liêng,
những dân tộc văn minh ấy đă tạo dựng
nên những thành phố lớn, trau dồi các ngành nghệ
thuật và khoa học và đă từng phát triển các khoa
thiên văn, kiến trúc và toán học đến mức
tột đỉnh. Nền văn minh sơ khai ấy không
phải đă nối tiếp theo sau sự biến
đổi sinh lư của họ như người ta có
thể tưởng. Nhiều trăm ngh́n năm trôi qua
giữa sự tiến hóa sau cùng và việc xây dựng nên
thành phố đầu tiên bằng đá và phún thạch. ([697])
Một trong những thành phố lớn ấy
được xây cất toàn bằng phún thạch và đă
hoàn toàn bị hủy diệt bởi một loạt các
cơn tai biến do hỏa sơn gây nên, chừng ba
chục miles ở về phía Tây của nơi mà đảo
Phục Sinh (Easter Island) nay đang trải dài đất
cằn cỗi chật hẹp của ḿnh ra và bị hoàn
toàn hủy diệt bởi một loạt các núi lửa phun
trào. Tàn tích cổ nhất của những kiến trúc
của người Cyclop đều là công tŕnh xây cất
của các phụ chủng cuối cùng của dân Lemuria.
Bởi vậy, nhà Huyền
học không ngạc nhiên mà nghe nói rằng những di tích
bằng đá mà Đại úy Cook t́m thấy trên các
đảo Easter th́
318
Rất
giống như các vách tường của ngôi đền
Pachacamac hay những cảnh Hoang tàn Tia- Huanaco của xứ
Peru ([698])
và
tất cả đều có lối kiến trúc vĩ
đại của Thời Cyclope. Tuy nhiên, các thành phố
rộng lớn đầu tiên xuất hiện trên khu
vực lục địa mà nay gọi là đảo
Madagascar. Hồi thời đó có những dân tộc văn
minh và những giống người dă man cũng như bây
giờ. Luật tiến hóa thi hành công tŕnh hoàn thiện
đối với các dân tộc văn minh, và Luật Nhân Quả
thi hành tác động hủy diệt đối với
người dă man. Thổ dân Úc Châu và những thổ dân
tương tự là hậu duệ của những
giống người thay v́ làm sáng tỏ điểm
Chơn Linh mà các vị Hỏa Thần đă ban bố cho
họ, lại dập tắt ngọn lửa thiêng ấy
qua nhiều thế hệ sa đọa dục lạc
đầy thú tính. ([699])
Những dân tộc Ăryan có thể truy nguyên qua giống
người Atlantis đến tận nguồn gốc của
họ là những giống người tâm linh hơn
của giống dân Lemurian, những vị “Con của Minh
Triết” đă chuyển kiếp vào giống người
ấy. ([700])
Những nền văn minh
đầu tiên đă bắt đầu với sự
xuất hiện của những triều đại Thánh
Vương. Trong khi một phần nhân loại trên vài vùng
của trái đất thích sống một đời du
mục và tộc trưởng ở vài vùng khác, giống
người dă man c̣n chưa biết dùng lửa và tự
vệ chống thời
tiết nóng lạnh, mưa gió th́ đồng loại
của họ được Karma
ưu đăi hơn và được sự trợ giúp
của những trí lực thiêng liêng, đă tạo dựng
những thành phố, phát triển mỹ thuật và khoa
học. Tuy nhiên, bất chấp văn minh, trong khi những
huynh đệ thôn dă đă hưởng được các
quyền năng với tư cách quyền trưởng
thượng của ḿnh, th́ “các nhà kiến tạo” này
chỉ có thể đạt được các quyền
năng của ḿnh một cách từ từ, ngay cả các
quyền năng mà họ có được, nói chung cũng
chỉ được dùng để khuất phục
phần thể chất và các mục đích đê tiện,
ích kỷ. Văn minh đătừng phát triển yếu
tố thể chất và trí tuệ làm thiệt hại cho
yếu tố tâm linh và tinh thần. Đối với nhân
loại sơ khai, sự làm chủ và điều khiển
bản chất tâm linh của chính ḿnh, điều mà
những kẻ điên rồ hiện nay đang liên kết
với bản chất siêu nhiên, thật là bẩm sinh và
đến với con người cũng tự nhiên như
việc thức tỉnh và suy tư. Tác giả của tác
phẩm “Nàng” (“She”) đă triết lư rằng “chẳng có
điều ǵ là pháp thuật” – tác giả quên rằng “pháp
thuật” thời xưa c̣n có ư nghĩa đại KHOA HỌC MINH
TRIẾT và Ayesha
không biết ǵ về sự sa đọa hiện
đại của tư tưởng – “mặc dù có một
điều là tri thức về các điều bí mật
của Thiên Nhiên”,([701])
bà nói thêm như thế. Nhưng chúng đă chỉ trở
thành các “Điều bí mật” trong Giống dân chúng ta
hiện nay, và là của chung đối với Giống dân
thứ Ba.
319
Dần dần con
người có một tầm vóc thấp nhỏ hơn,
bởi v́ thậm chí trước thời kỳ của
Giống dân thứ Tư hay Atlantis, đa số nhân
loại đă sa đọa và tội lỗi, trừ ra
đẳng cấp của những bậc ưu tú,
những môn đệ của các “Con của Ư Chí và Yoga”,
về sau mệnh danh là “Con của Sương mù và
Lửa”.
Kế đó, đến
thời kỳ giống người Atlantis, một
giống người khổng lồ h́nh dung mỹ lệ,
sức khỏe đạt tới mức tột
đỉnh, theo luật tiến hóa qui định, vào giai
đoạn giữa của phụ chủng thứ tư.
Lời b́nh luận viết:
Những
kẻ sống sót cuối cùng của đứa con da
trắng của ḥn Bạch Đảo đă chết từ
nhiều thế kỷ trước. Những kẻ
được chọn của Châu Lemuria đă ẩn trú
trên Đảo Thiêng [ngày nay gọi là Shamballa trong sa mạc
Gobi]. C̣n một phần những giống người sa
đọa tách rời khỏi tập thể chính thống
nay đang sống trong những miền rừng núi và hang
động [“người ở hang”], khi đến lượt
Giống dân da vàng [Giống dân thứ Tư] trở nên
“đen v́ tội lỗi”. Từ cực trên đến
cực dưới Trái Đất đă thay đổi
cuộc diện đến lần thứ ba và không c̣n là
nơi cư ngụ của các Con của Bạch
Đảo Thánh Thiện, và Adbhitanya [?]([702])
ở phía Đông và Tây, bản sơ, duy nhất và thanh
khiết đă trở nên ô trược… Những vị Bán
Thần của Giống dân thứ Ba đă nhường
chỗ cho các kẻ Bán Quỷ của Giống dân thứ
Tư. Shveta-dvĩpa,([703])
Bạch Đảo, đă che phủ mặt nó. Các con
của nó nay đă sống trên Hắc Địa, trong
đó, sau này các Daityas từ Châu thứ bảy (Pushkara) và
các La Sát từ phong thổ thứ bảy đă thay thế
chư Thánh và các vị Tu sĩ khổ hạnh của
Thời đại thứ Ba, các Ngài đă giáng xuống
với họ từ các cơi cao khác …
320
Nếu xét
theo sát nghĩa, th́ nói chung, kinh Purănas giống như một
mớ chuyện kể ngớ ngẩn các chuyện thần
tiên phi lư, không hơn không kém. Và nếu người ta
đọc chương đầu Quyển II của kinh
Vishnu Purăna ([704])
và chấp nhận nguyên văn
phần địa lư, trắc địa học và dân
tộc học trong bản tường thuật về
việc bảy người con của Priyavrata
được cha chúng chia cho bảy Châu; sau đó, nếu
y tiếp tục nghiên cứu cách thức mà con út của y Agnĩdhra,
Chúa tể của Jambhu-dvĩpa, chia Châu này cho chín
người con của ḿnh; và rồi cách thức mà
đến lượt Năbhi (con của y) có một trăm
người con, lại chia đất cho tất cả các
con này, th́ rất có thể là y ném sách đi và tuyên bố
rằng đó chỉ là một mớ lộn xộn
những điều vớ vẩn. Nhưng môn sinh của Nội
môn Bí giáo ắt sẽ hiểu rằng khi viết ra kinh
Purănas, người ta có ư chỉ tŕnh bày rơ rệt chân ư
nghĩa của chúng cho các Điểm đạo đồ
Bà La Môn, v́ thế các soạn giả đă viết tác
phẩm này một cách ẩn dụ và sẽ không tŕnh bày
chân lư rốt ráo cho quần
chúng. Và y sẽ giải thích thêm cho các nhà Đông
phương học – từ Đại Tá Wilford cho
đến Giáo sư Weber, họ đă và vẫn làm cho nó
rối mù – rằng ba chương đầu đă cố ư
làm rối loạn các đề tài và biến cố sau
đây:
1. Người ta đă không bao giờ kể đến hàng loạt các Thiên Kiếp cũng như các Giống dân, và người ta đă để cho các biến cố diễn ra trong một Thiên Kiếp này song hành với các biến cố diễn ra trong một Thiên Kiếp khác. Thứ tự niên đại kư đă bị lờ đi. Điều này đă được nhiều nhà b́nh giải Bắc Phạn chứng minh, họ giải thích việc các biến cố và các phép tính toán không phù hợp với nhau bằng cách bảo rằng :
Bất cứ khi
nào nhận thấy điều mâu thuẫn nào trong các kinh
Purăna khác nhau, th́ người ta cũng qui chúng … cho các
sự dị biệt của các Thiên Kiếp v..v…
2. Người ta đă bảo mật nhiều ư nghĩa của các từ ngữ “Chu kỳ Khai Nguyên” và “Thiên Kiếp”, chỉ tŕnh bày ư nghĩa tổng quát.
3. Trong gia phả của các vị Vua và khoa địa lư về các vương quốc của họ, và Varsha (xứ), Dvĩpa đều được xem như là các vùng trên trần thế.
Nay không đi sâu vào các chi tiết quá tỉ mỉ, chúng ta có thể dễ dàng tŕnh bày sự dị biệt như sau:
a) Bảy Châu được chia
cho bảy đám con cháu của Priyavrata ám chỉ nhiều
địa điểm, trước hết là ám chỉ Dăy
Hành Tinh của chúng ta: chỉ có Trái Đất
được tiêu biểu nơi Jambu-dvĩpa (Nam Thiệm
bộ châu) này, c̣n sáu Châu khác là các Bầu đồng hành vô
h́nh (đối với chúng ta) của Dăy Hành Tinh.
Điều này đă được chứng tỏ bởi
chính bản chất của các điều mô tả ẩn
dụ và biểu tượng. Jambu-dvĩpa “ở trung tâm của tất cả các Châu này” và
được bao quanh bởi một biển nước mặn (Lavanta) – thường
được gọi là “Đảo Lục Địa”
(“Insular Continents”) – c̣n các Châu Plaksha, Shălmala, Kusha, Krauncha, Shăka
và Pushkara lần lượt được bao quanh “bởi
bảy biển lớn… nước mía, rượu nho,
bơ lọc, sữa nước cục, sữa” v.v… và
những danh xưng ẩn dụ giống như vậy.([705])
321
b) Trong đoạn mô
tả vị trí Vũ trụ của tất cả các Châu
này, Bhăskara Ăchărya, Ngài đă trích dẫn các Thánh Thư
của Giáo Lư Bí Nhiệm có đề cập tới
“biển sữa và biển sữa đóng cục” v.v..
nghĩa là dải Ngân Hà và nhiều Khối tinh vân khác nhau…
Hơn nữa, ông c̣n gọi cơi phía nam xích đạo là
Bhũr Loka và cơi ở phía Bắc là Bhuva, Svar, Mahar, Jana, Tapa
và Satya Loka. Ông c̣n nói thêm rằng “Người ta dần
dần đạt tới các cơi này bằng cách ngày càng trau
dồi phước đức”, nghĩa là các cơi này là nhiều
loại “Thiên Đường” khác nhau.([706])
c) Trong chính các kinh điển
nhà tường thuật kinh Purănas giải thích rằng
sự phân bố địa lư của bảy châu,
đảo, núi, biển và xứ sở ẩn dụ này,
không chỉ thuộc về cuộc Tuần Hoàn hoặc, hay
thậm chí các Giống dân chúng
ta mà thôi – bất chấp danh hiệu Bhărata-varsha (Ấn
Độ).
Bhărata [con của Năbhi, Ấn
Độ - Bhărata-varsha – được đặt tên theo
danh hiệu của Ngài]… ủy thác vương quốc cho
con ḿnh là Sumati…và từ trần tại…Shălagrăma. Sau đó,
Ngài lại tái sinh làm một người Bà La Môn, trong
một gia đ́nh tu sĩ khổ hạnh độc
đáo… Dưới triều đại của các ông hoàng
này [các con cháu của Bhărata-varsha được chia thành chín
phần, và hậu duệ của họ lần lượt
chiếm hữu xứ sở trong bảy mươi
mốt thời kỳ tập hợp của bốn chu
kỳ (hoặc trong thời trị v́ của một vị
Bàn Cổ) [tiêu biểu cho một Đại chu kỳ
gồm 4 320 000 000 năm] ([707]).
Nhưng sau khi đă nói dài
ḍng như vậy, Parăshara lại đột nhiên giải
thích rằng:
Đây là cơ
sáng tạo của Bàn Cổ Svăyambhuva, nhờ đó trái
đất đầy dẫy dân cư khi Ngài chủ tŕ
kỳ Khai Nguyên thứ nhất, trong Thiên Kiếp Varăha
[nghĩa là Hóa Thân Heo Rừng].
Nay mọi tín đồ Bà La
Môn đều biết rằng loài người chúng ta
chỉ bắt đầu xuất hiện trên Địa
Cầu này (hay cuộc Tuần Hoàn) với Bàn Cổ
Vaivasvata. Và nếu độc giả Tây phương
giở lại tiểu mục bàn về “Chư Bàn Cổ
Bản Sơ của Nhân Loại” ([708])
y sẽ thấy rằng Vaivasvata là vị Bàn Cổ thứ bảy trong số
mười bốn vị Bàn Cổ chủ tŕ Dăy Hành Tinh
của chúng ta trong Chu kỳ Sinh hoạt của nó. Nhưng
mỗi cuộc Tuần Hoàn có hai vị Bàn Cổ (một
Bàn Cổ Gốc và một Bàn Cổ Mầm Mống) nên Ngài
là Bàn Cổ Nguyên Căn (Gốc) của cuộc Tuần
Hoàn thứ Tư, do đó là vị Bàn Cổ thứ
bảy, Wilson chỉ thấy điều này đầy mâu
thuẫn và suy lư rằng:
Gia hệ tộc
trưởng xưa hơn hệ thống niên đại
Chu kỳ Khai Nguyên và Thiên Kiếp, và [như thế là]
đă được phân bố một cách khá vụng
về trong các thời kỳ khác nhau.
Không phải như thế
đâu, nhưng v́ các nhà Đông phương học
chẳng biết ǵ về Giáo Lư Bí Nhiệm nên họ cứ
khăng khăng xét mọi vật theo nghĩa đen rồi lại đổi ư xỉ
vả các tác giả về những điều mà họ
không hiểu !
322
Các phổ
hệ này bao gồm một thời kỳ ba cuộc Tuần Hoàn rưỡi,
chúng đề cập tới các thời kỳ tiền nhân loại, và
giải thích sự giáng lâm sinh hóa của mọi vị Bàn
Cổ - các điểm linh quang biểu lộ bản sơ
của Nhất Nguyên – hơn nữa, chúng c̣n chứng
tỏ rằng mỗi Điểm Linh Quang nhân loại này
lại chia thành (và sinh sôi nảy nở ra) thoạt tiên là
các Pitris, Tổ Phụ của nhân loại, rồi tới
các Giống người. Không một Thực Thể nào có
thể trở thành Thiên Thần, nếu y không trải qua
các Chu kỳ nhân loại. Do đó, Thiền Định Chân
Kinh mới dạy:
Hạnh phúc thay
cho những kẻ sinh ra đời là người, ngay
cả trạng thái tiềm tàng của các thần linh,
ở Bhărata Varsha, v́ đó là con đường dẫn
tới … sự giải thoát rốt ráo.([709])
Ở Nam Thiệm bộ châu,
Bhărata được xem là
phần đất tốt nhất v́ đó là phần đất của các
công tŕnh.
Sự nối tiếp bốn
Chu kỳ, Krita, Tretă, Dvăpara và Kali chỉ diễn ra nơi
đây.
Do đó khi bị
Đức Maitreya yêu cầu “mô tả Địa Cầu”,
Parăshara lại quay sang việc liệt kê các Châu với các
biển… giống y như những ǵ Ngài mô tả trong Chu
kỳ Khai Nguyên Svăyambhuva – đó chỉ là một bức
b́nh phong. Thế nhưng kẻ nào hiểu được
“ư tại ngôn ngoại” sẽ thấy rằng quả có
Bốn Giống dân lớn và Giống dân thứ Năm cùng
với các phân chủng, các đảo và các châu; người
ta gọi các châu này theo danh hiệu của các Cơi rời và
theo danh hiệu của các Bầu Hành Tinh khác. V́ thế,
thiên hạ mới lẫn lộn.
Tất cả các đảo
và vùng đất này đều bị các nhà Đông
phương học gọi là “thần thoại” và “hoang
đường”.([710])
Thật vậy, vài vùng không
thuộc về trái đất này, nhưng chúng vẫn
tồn tại. Dù sao đi nữa, Bạch Đảo và
Atala cũng chẳng phải là thần thoại, v́ Atala là
danh hiệu mà những kẻ tiên phong sơ khai nhất
của Giống dân thứ Năm đă đem áp dụng
một cách khinh miệt cho Vùng đất Tội lỗi –
Atlantis nói chung chớ không phải chỉ là một ḥn
đảo của Plato; và v́ Bạch Đảo chính là (a)
Shveta-dvĩpa trong thần phổ học, (b) Shăka-dvĩpa,
tức Châu Atlantis (đúng hơn là các phần sơ khai
nhất của nó) vào lúc khởi thủy. Điều này
diễn ra khi nó chưa có “bảy con sông thánh thiện
cuốn trôi mọi tội lỗi” và “bảy phân khu trong
đó không hề có sự xao lăng đức hạnh, sự
tranh biện và sự vô luân”, v́ lúc bấy giờ nó là trú
quán của giai cấp Magas, cái giai cấp mà ngay cả giai
cấp Bà La Môn cũng phải thừa nhận là không kém ǵ
chính ḿnh và là cái nôi của Đấng Zarathushtra bản
sơ. Người ta tŕnh bày là các tín đồ Bà La Môn
đang tham khảo ư kiến của Gauramukha về lời
khuyên của Nărada, ông bảo họ nên mời các Magas (các
lễ sư Thái Dương) tới thánh điện do Sămba
(con trai trứ danh của Krishna) xây dựng, v́ thật ra
Sămba làm ǵ có thánh điện nào. Về vấn đề
này, kinh Purănas có tính cách lịch sử (mặc dù là ẩn
dụ) c̣n Huyền bí học mới phát biểu các sự
kiện.
323
Toàn bộ
câu chuyện này được tŕnh bày trong Bhavishya Purăna.
Người ta nêu rơ rằng Shămba đă được
Sũrya (Thái Dương) chữa khỏi bệnh cùi, đă
xây dựng một thánh điện và dâng hiến nó cho
Đấng thiêng liêng. Nhưng khi y đang mong đợi
các tín đồ Bà La Môn ngoan đạo thi hành các nghi lễ
được qui định trong đó, và đón nhận
các lễ vật dành cho Thượng Đế, th́ Nărada
(vị Tu sĩ khổ hạnh trinh khiết mà lúc nào chúng ta
cũng thấy trong kinh Purănas) liền khuyên y đừng
làm như thế, v́ Đức Bàn Cổ đă cấm giai
cấp Bà La Môn nhận bổng lộc v́ đă thi hành các
nghi lễ tôn giáo, do đó, ông đề nghị Sămba nên tham
khảo ư kiến của Gauramukha (Bạch Diện), vị
Purohita, vị lễ sư riêng, của Ugrasena, vua xứ
Mathură, ông ta sẽ bảo y người mà y có thể
sử dụng hữu hiệu nhất. Vị lễ sư
hướng dẫn Sămba nên mời các vị Magas (những
kẻ thờ Thái Dương) thi hành bổn phận này.
Nhưng y không biết họ ở đâu, nên chính Thái
Dương mách cho Sămba đi tới Châu Shăka ở phía bên ngoài vùng nước mặn.
Thế rồi Sămba bèn thực hiện cuộc viễn du
bằng cách cưỡi lên lưng con Đại
Điểu (Great Bird) hiện thể của Vishnu và Krishna,
nó đưa y tới chỗ ở của Magas v.v…
Thế mà Krishna, Ngài đă
sống cách đây 5 000 năm và Nărada, Ngài luôn luôn tái sinh
trong mọi Chu kỳ hay Giống dân, cùng với con Garuda –
biểu tượng bí truyền của Đại chu
kỳ - chính là ch́a khóa để giải ẩn dụ này.
Tuy nhiên, các vị Magas chính là các Pháp sư của xứ
Chaldea, giai cấp và tục thờ cúng của họ đă
phát sinh trên Châu Atlantis sơ khai, ở Châu Shăka, Vô tội.
Tất cả mọi nhà Đông phương học
đều đồng ư rằng các vị Magas ở Châu Shăka
chính là tổ phụ của các tín đồ Bái Hỏa giáo.
Như vậy chúng ta tranh căi với họ v́ họ đă
thu ngắn các thời kỳ hàng trăm ngàn năm thành ra
chỉ c̣n vài thế kỷ, bất chấp Nărada và Sămba,
họ chỉ xác định biến cố này xảy ra vào
thời mà các tín đồ Bái Hỏa giáo đào thoát tới
Gujerat. Điều này thật là phi lư, v́ biến cố đó
chỉ diễn ra vào thế kỷ thứ tám sau T.C.
Thật vậy kinh Bhavishya Purăna cho rằng các vị Magas
vẫn c̣n sống ở Châu Shăka vào thời “con” của
Krishna, tuy nhiên, phần cuối cùng của lục
địa đó – Châu “Atlantis” của Plato – đă bị
tiêu diệt trước đó
6 000 năm. Họ chính là các vị Magas lúc
trước ở Châu Shăka vào thời đó sống ở
Chaldea. Điều này lại là một sự lẫn lộn
cố ư.
Những người
tiền phong sơ khai của Giống dân thứ Tư không
phải là người Atlantis cũng không phải là
những vị Asuras và Răkshasas mà họ chỉ trở nên
về sau này. Hồi thời đó, nhiều phần
của lục địa Atlantis tương lai vẫn c̣n
nằm dưới đáy biển. Lục địa Lemuria
là lục địa của Giống dân thứ Ba, thuở
ấy là một vùng rất rộng lớn ([711])
bao gồm toàn thể khu
324
vực chạy dài
từ chân dăy Himălayas – rặng này ngăn cách nó với
biển nội địa đang cuồn cuộn sóng trên
vùng nay là Tây Tạng, Mông Cổ và đại sa mạc Shamo
(Gobi)- từ Chittagong, nó trải dài về phía Tây tới
tận Hardwar và về phía Đông tới tận Assam
[?Annam]. Từ đó trải dài xuống miền Nam Ấn
Độ, Tích Lan và Sumatra; rồi từ đó gồm
trọn khu vực Ấn Độ dương với
đảo Madagascar ở phía tây và Úc Châu cùng Tasmania ở
phía Đông. Không những thế, lục địa ấy
c̣n chạy dài xuống trong ṿng Nam Cực; và từ Úc Châu
hồi đó chỉ là một phần đất của
toàn cơi lục địa bành trướng ra tận
giữa biển Thái b́nh, vượt quá Rapa-nui (Teapy tức
Đảo Easter), nay vốn nằm ở 260 vĩ
độ nam và 1100 Kinh
độ Tây.([712])
Điều này dường như khoa học xác nhận dù
rằng chỉ có một phần. Khi bàn về các khuynh
hướng của lục địa và chứng tỏ
rằng các khối ở dưới Bắc Cực
thường hướng theo kinh tuyến, th́ nhiều
lục địa cổ truyền đă được
đề cập tới mặc dù bằng cách suy luận.
Trong đó có “lục địa Mascarene”, nó bao gồm
Madagascar, trải dài ra phía bắc và phía nam, ngoài ra khoa
học cũng có nói đến sự hiện diện
của một lục địa khác nữa đă biệt
tích, chạy dài từ đảo Spitzbergen xuống tận
Eo biển Dover, vào thời kỳ mà phần lớn Châu Âu
ngày nay vẫn c̣n nằm dưới đáy biển”.([713])
Điều này phù hợp với giáo lư Huyền môn nói
rằng những vùng ở Bắc cực hiện nay
vốn là vùng cổ nhất trong bảy vùng xuất phát
của Nhân loại và là vùng chôn đa số Nhân loại
của vùng ấy trong thời Giống dân thứ Ba, khi mà
Lục địa Lemuria bắt đầu phân chia thành
nhiều châu nhỏ hơn. Thiên b́nh luận giải thích
điều đó là do sự giảm bớt tốc lực
vận động xoay tṛn của Trái Đất:
Khi
Bánh Xe vận chuyển theo tốc độ b́nh
thường, th́ hai đầu của nó hợp với Vùng
giữa [xích đạo] khi nó quay chậm hơn và nghiêng
về cả mọi hướng th́ có một sự xáo
trộn lớn trên b́nh diện Trái Đất. Nước
biển tràn lên hai đầu và vùng đất mới
trồi lên ở cái ṿng giữa [đất liền xích
đạo], trong khi các vùng đất cả hai cực
bị tràn ngập và hủy diệt…
Một đoạn khác
nói:
325
Như thế, cái Bánh Xe [Trái Đất]
chịu lệ thuộc và được điều
chỉnh bởi Tinh Quân của Mặt Trăng và sự
vận động của mực nước [thủy
triều] vào cuối thời kỳ của Giống dân
chính, những vị Thủy Tổ của Mặt Trăng
[the Fathers or Pitris] bắt đầu kéo mạnh hơn làm
cho Bánh Xe xẹp xuống ở cái Đai lưng của nó,
khi đó nó có chỗ sụp xuống, chỗ trồi lên.
Khi sự trồi lên xuất hiện ở hai cực th́
những vùng đất mới lại nổi lên, những
vùng đất cũ bị sụp lở và hút vào ḷng
đất.
Chỉ cần đọc các
tác phẩm thiên văn và địa chất học, chúng ta
cũng đủ thấy ư nghĩa của điều trên
một cách rơ ràng rồi. Các nhà khoa học – các chuyên gia hiện đại – đă
nhận thấy tác dụng của thủy triều
đối với sự phân bố địa chất
của đất và nước trên địa cầu và
đă ghi nhận được sự chuyên định của
các đại dương tương ứng với sự
nhô lên hay lún xuống của các lục địa hay các vùng
đất mới. Khoa học biết, hoặc nghĩ
rằng ḿnh biết, là điều này diễn ra
định kỳ. ([714])
Giáo sư Todd tin rằng ḿnh có thể truy nguyên hàng loạt
các sự dao động ngược về các thời
kỳ Trái Đất bắt đầu đóng vỏ
cứng. ([715])
V́ thế khoa học có vẻ dễ kiểm chứng
lại lời phát biểu bí truyền. Chúng tôi xin
đề nghị bàn thêm về điều này trong phần
phụ lục.
Một số nhà Minh
Triết Thiêng Liêng – vốn đă hiểu theo một vài
từ trong Phật Giáo Bí truyền rằng các “cựu
lục địa” đă bị ch́m sẽ tái xuất
hiện, đă hỏi như sau: “Khi trồi lên, Châu Atlantis
sẽ giống như một cái ǵ?” Ở đây lại có
một sự hiểu lầm nhỏ. Cũng những vùng
đất của Châu Atlantis vốn đă bị ch́m
ngập, mà lại trồi lên, th́ chúng ắt sẽ thực
sự bị khô cằn trong nhiều thời đại.
Nhưng v́ hiện nay đáy Đại Tây dương
lại bị bao phủ bởi một lớp đá vôi dày
chừng 5 000 feet, và c̣n nhiều lớp nữa đang
được tạo thành – thật vậy đó là
một “diệp tằng phấn kỷ” mới – nên
chẳng có lư do tại sao khi đến lúc một lục
địa mới xuất hiện th́ một cơn
biến động địa chất và dâng cao đáy
biển lại không sử dụng lớp đá vôi dày 5000
feet này để tạo thành một vài rặng núi, và
một lớp 5 000 feet nữa trồi lên mặt. Các
đại họa của Giống dân không phải là
một trận Đại hồng thủy của Noah trong
bốn mươi ngày, mà là một loại gió mùa ở
Bombay (Bombay monsoon).
Trong đoạn thu thập
lại tất cả mọi bằng chứng để
chứng tỏ rằng sự đắm ch́m và tái xuất
hiện của các lục địa khổng lồ (mà các
tác giả hiện đại gọi là Châu Atlantis và Châu Lemuria)
không phải là chuyện bịa đặt hoang
đường. Các tác phẩm bằng tiếng Tamil và
Bắc Phạn cổ sơ, có đầy dẫy các
điều đề cập tới cả hai lục
địa này. Bảy Đảo thiêng (Dvĩpa) được nhắc
đến trong Sũrya Siddhănta, tác phẩm thiên văn
học xưa nhất thế giới, và trong các tác phẩm
của Asura Maya, nhà thiên văn học Atlantis mà Giáo sư
Weber đă xác định là “tái sinh” nơi Ptolemy. Thế
nhưng, thật là sai lầm khi gọi các “Đảo
thiêng” này là Atlantid – như chúng ta đă làm; v́ giống
như mọi điều khác nữa trong các Thánh Thư
Ấn Độ; chúng được tŕnh bày như ám
chỉ nhiều điều di sản mà Priyavrata (Con của
Bàn Cổ Svăyambhuva) để lại cho bảy
người con của ḿnh, không phải là Châu Atlantis, cho dù
một hoặc hai đảo này vẫn c̣n tồn tại
sau khi các đảo khác đă bị ch́m và hàng thời
đại sau này, chúng đă cung ứng chỗ trú cho dân Atlantis,
vốn có lục địa của ḿnh đă đến
lượt bị ch́m. Khi được Parăshara
lần đầu tiên nhắc
đến trong kinh Vishnu Purăna, bảy đảo này
muốn nói tới một Giáo lư Nội môn sẽ
được giải thích sau này. Vấn đề này, trong
số bảy Đảo, Jamby-dvĩpa (Trái Đất) là
châu duy nhất có tính cách thế tục. Trong kinh Purănas khi
nói về miền Bắc núi Meru, đó là lời ẩn
dụ có liên quan đến ngọn núi Eldorado sơ khai, ngày
nay là vùng Bắc Cực đầy băng giá, tuyết lạnh
quanh năm, nhưng thời đó là một lục
địa ấm áp, trăm hoa đua nở. Khoa học có
nói về vùng lục địa cổ chạy dài từ
đảo Stipzbergen xuống đến Eo biển Dover. Giáo
Lư Bí Nhiệm dạy rằng trong những thời kỳ
địa chất xa xôi nhất, những vùng đó gồm
thành một lục địa h́nh cong như móng ngựa mà
một đầu gồm đảo Greenland, c̣n đầu
kia chứa vùng eo biển Behring, thời đó c̣n là vùng
đất liền và dẫn xuống phía Nam đến
tận đảo Anh quốc. Vùng này thời đó phải
nằm ngay chỗ đường cong phía dưới
của ṿng bán nguyệt. Lục địa này trồi lên
một lượt với cơn biến động làm
tràn ngập và sụp xuống biển những phần
đất vùng xích đạo của lục địa
Lemuria. Nhiều thế hệ về sau, vài phần
đất c̣n lại của Châu Lemuria lại tái hiện
trên mặt biển. Có thể nói mà không xa sự thật
rằng, Châu Atlantis gồm trong bảy ḥn đảo
lớn như những vùng lục địa thực
sự, và giống dân Atlantis có giữ lại vài di tích
của giống dân Lemurian, và khi họ định cư
trên những ḥn đảo, họ cũng gồm luôn
những đảo này trong toàn bộ các vùng đất
liền và lục địa của họ. Tuy vậy,
cũng cần nêu ra một sự dị biệt và
đưa ra một lời giải thích, khi mà sự
việc được tŕnh bày đầy đủ hơn
và chính xác hơn như trong quyển sách này. Vài giống
người Atlantis cũng đă chiếm cứ Đảo
Easter bằng cách đó. Khi họ chạy thoát khỏi
cơn tai biến xảy ra trên vùng đất của họ,
họ liền định cư trên đảo ấy,
vốn là một phần đất c̣n lại của Châu
Lemuria. Nhưng sau cùng, họ cũng đă tử vong khi
đảo ấy bị hủy diệt chỉ trong ṿng
một ngày bởi phún thạch và lửa của hỏa
sơn. Điều này có thể được một vài
nhà địa lư và nhà địa chất xem là bịa
đặt, tuy nhiên, đối với nhà Huyền bí, đó
lại là lịch sử.
Liệu khoa học có biết điều ǵ ngược
lại không?
Cho đến khi một
bản đồ xuất hiện và được phát hành
tại Basle vào năm 1522, trong đó danh xưng “Châu Mỹ”
xuất hiện lần đầu tiên, th́ người ta vẫn tưởng rằng Châu
Mỹ là một phần của Ấn Độ…Khoa
học từ chối không nh́n nhận giả thuyết nói
rằng có một thời kỳ mà bán đảo Ấn
Độ nối liền với Nam Mỹ Châu bởi
một ṿng đai quần đảo và lục địa.
Xứ Ấn Độ của thời tiền sử
được nối liền bằng hai ṿng đai song
đôi với Bắc và Nam Mỹ, những vùng đất
quê hương của người dân miền Bắc
Ấn chạy dài từ Kashmir đến tận sa mạc
Schamo ngày nay. Một người lữ hành đi bộ
từ miền Bắc có thể không dẫm chân xuống
nước để đi đến bán đảo Alaska
xuyên qua Măn Châu, vịnh Tartary, quần đảo Kurile và
Aleutian. Trong khi đó, một du khách khác đi bằng
thuyền từ miền Nam Ấn có thể vượt qua
Siam, Quần đảo Polynesi và cập bến bất
cứ nơi nào trên lục địa Nam Mỹ.([716])
327
Điều này
được viết theo lời một Chơn Sư –
một nhân vật có thẩm quyền khá ư là khả nghi
đối với các nhà Duy vật và những kẻ hoài
nghi. Nhưng ở đây, chúng ta lại có một kẻ
đồng loại với chính những người nói
trên, Ernst Haeckel, trong đoạn nói về sự phân bố
các giống dân, ông đă minh xác cho phát biểu trên hầu
như là nguyên văn:
Dường như
là vùng Đông Á hoặc Đông Phi [nhân tiện xin nói là nó
thậm chí chưa hề tồn tại khi Giống dân
thứ Ba đạt đến tột đỉnh phồn
vinh] hoặc Châu Lemuria chính vùng trên địa cầu đă
chứng kiến sự tiến hóa của những
người nguyên thủy từ loài
khỉ mũi dưới tương cận [!!]. Lemuria
là một lục địa cổ đă ch́m xuống
đáy Ấn Độ dương, nó nằm ở phía Nam
Châu Á ngày nay, một mặt trải về phía Đông
tới tận vùng Thượng Ấn Độ và
đảo Sunda, mặt khác trải dài về phía Tây tới
tận đảo Madagascar và Phi Châu.([717])
Vào thời kỳ mà chúng tôi
đang đề cập tới, lục địa Lemuria
đă bị sụp đổ ở nhiều nơi và phân
tán ra thành nhiều khu vực riêng biệt. Tuy nhiên, thời
đó không có Châu Phi và Châu Mỹ, lại càng không thể có
Châu Âu và tất cả đều c̣n nằm yên dưới
đáy biển. Phần lớn của Á Châu cũng chưa xuất
hiện v́ vùng Bắc của Himălaya vẫn c̣n là biển,
c̣n ở bờ biển bên kia là những vùng đất ngày
nay gọi là Greenland, Đông và Tây Siberia v.v… Lục
địa vĩ đại có thời ngự trị trên
khắp Ấn Độ dương, Đại Tây
dương, Thái B́nh dương, ngày nay có những ḥn
đảo lớn luân phiên nhau biệt tích lần lần,
cho đến khi cơn tai biến cuối cùng nhận ch́m
những tàn tích c̣n sót lại. Đảo Easter chẳng
hạn, thuộc về nền văn minh cổ nhất
của Giống dân thứ Ba bị ch́m đắm cùng
một lượt với những phần đất sau
cùng, một cơn địa chấn do núi lửa gây ra,
th́nh ĺnh đưa đáy biển trồi lên để
dội ḥn đảo ấy lên khỏi mặt nước
để ngày nay làm bằng chứng hùng hồn cho sự
có mặt của Châu Lemuria. Truyền thuyết cho rằng
vài bộ lạc thổ dân Úc Châu ngày nay là những tàn tích
cuối cùng của ḍng dơi sau cùng của Giống dân thứ
Ba.
Trong một chừng
mực nào đó, khoa học duy vật lại bổ
chứng cho chúng ta về điều này. Khi đề
cập tới người da nâu Blumen-bach tức giống
dân Mă Lai, dân Úc và dân Papua, Heackel đă nhận xét rằng:
Có nhiều
điểm giống nhau giữa những giống
người nêu trên và những thổ dân Polynesia (cái thế
giới đảo Úc Châu) đến nỗi mà dường như xưa kia chúng
đă từng hợp thành một lục địa
khổng lồ và liên tục. ([718])
Đó nhất định
là “một lục địa khổng lồ và liên tục”,
v́ trong ṿng Giống dân thứ Ba, nó đă trải dài ra phía
Đông và phía Tây, đến nơi chốn hiện nay
của hai miền Châu Mỹ. Châu Úc ngày nay chẳng qua
chỉ là một phần của nó, ngoài ra c̣n có một vài
đảo c̣n sót lại rải rác đó đây trên mặt
Thái b́nh dương và một dải đất rộng
California vốn thuộc về nó. Kỳ lạ thay, trong tác
phẩm kỳ dị Nhân phổ học, Haeckel đă
nhận xét rằng:
328
Với
vai tṛ là hậu duệ trực hệ, dân Úc hầu như
không khác ǵ [? !] nhánh thứ hai
của giống người nguyên thủy…vốn lan tràn
về phía Bắc, thoạt tiên chủ yếu là ở Á
Châu, xuất phát từ cái nôi của nhân loại thời
thơ ấu, và dường như đă là tổ phụ
của mọi giống người tóc thẳng khác
…Một giống người tóc quăn, di cư tới
vùng phía Tây [nghĩa là tới Phi Châu và về phía Đông
tới vùng Tân Guinea, như chúng ta đă nói, bấy giờ
các xứ này c̣n chưa tồn tại]… Giống
người tóc thẳng kia đă tiến xa hơn về
phía Bắc tới Á Châu và định cư ở Úc Châu.([719])
Một Chơn Sư
dạy:
Hăy xem di tích
của các quốc gia đă một thời cường
thịnh [Châu Lemuria của Giống dân thứ Ba] nơi
một số thổ dân đầu dẹt thuộc Úc Châu.([720])
Nhưng chúng thuộc về
các di tích cuối cùng của chi chủng thứ bảy
thuộc Giống dân thứ Ba. Giáo sư Haeckel ắt đă
phải mơ một giấc mơ và đă từng
thấy một linh ảnh thực
sự !
Chính ở thời kỳ này
người ta phải truy nguyên sự xuất hiện
đầu tiên của tổ tiên những người mà
chúng ta xem như những dân tộc cổ nhất trên
thế giới, ngày nay gọi là người Ăryan Ấn
Độ, người cổ Ai Cập, người cổ
Ba Tư, người Chaldea và người Phoenician v.v…
Những dân tộc này được cai quản
dưới những triều đại các bậc Thánh
Vương nghĩa là những bậc Vua Chúa, bề ngoài
tuy mang xác phàm như người trần gian nhưng
thực sự là những Đấng Cao Cả giáng
trần từ những Cơi cao hơn Cơi trần chúng ta
rất nhiều. Dĩ nhiên, thật chẳng ích ǵ mà
thử ra sức bắt những kẻ hoài nghi phải tin
tưởng vào sự tồn tại của những
Thực Thể như vậy, niềm kiêu hănh lớn
nhất của họ
cốt ở việc chứng tỏ tộc danh của ḿnh
là loài khỉ mũi dưới – một sự kiện mà
họ ra sức chứng tỏ dựa vào thẩm quyền
giả định của chiếc xương cụt
gắn vào trong xương mông ḿnh, nếu cái đuôi thô
sơ này mà đủ dài th́ họ ắt cũng sẽ vui
mừng vẫy nó măi, để tôn vinh nhà bác học lỗi
lạc đă khám phá ra nó. Những kẻ này sẽ vẫn
c̣n trung thành với các tổ tiên khỉ của ḿnh
chẳng khác nào tín đồ Thiên Chúa giáo trung thành với
ông Adam không có đuôi. Tuy nhiên, Giáo Lư Bí Nhiệm đặt
các nhà Minh Triết Thiêng Liêng và các môn sinh Huyền bí học
ngay đúng điểm này.
329
Nếu chúng
ta xem phần sau của Giống dân thứ Ba như
những giống người đầu tiên tiêu biểu cho nhân loại
thực sự với những thể xác rắn chắc
đông đặc và có xương, th́ giả thuyết
của Haeckel nói rằng sự tiến hóa của con
người ban sơ diễn ra, hoặc ở Nam bộ
Châu Á, hay trên lục địa Lemuria hay Phi Châu là khá đúng
nếu không phải là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên để cho
được chính xác, cũng như sự tiến hóa
của Giống dân thứ Nhất, phóng xuất từ các
thể của các vị Thủy Tổ, diễn ra trên
bảy khu vực khác nhau của Trái Đất ở vùng
Bắc Cực, th́ sự biến đổi rốt ráo
của Giống dân thứ Ba cũng diễn ra y như
vậy. Nó bắt đầu ở vùng Bắc Cực
vừa được diễn tả ở trên như gồm
luôn vùng Eo biển Behring và những vùng đất liền
khô ráo ở trung bộ Châu Á thời đó, khi mà khí hậu
c̣n ấm áp và bán nhiệt đới dù cho ở vùng Bắc
Cực và thích hợp nhất cho những nhu cầu ban
sơ của nhân loại c̣n ấu trĩ. Tuy nhiên, vùng
ấy đă nhiều lần thay đổi thời tiết,
khi th́ băng giá tuyết lạnh, khi lại có khí hậu
nhiệt đới kể từ khi loài người
xuất hiện. Thiên b́nh luận nói rằng Giống dân
thứ Ba chỉ ở vào khoảng giữa giai đoạn
tiến hóa của nó khi mà:
Cái
trục của Bánh Xe nghiêng lệch. Mặt Trời và
Mặt Trăng không c̣n chiếu sáng trên đầu của
những người Hăn sinh; loài người đă biết
có tuyết băng và giá lạnh, và loài người, cây
cỏ, cùng động vật đă giảm bớt kích
thước, tầm vóc đă nhỏ bớt. Những
kẻ không chết, c̣n lại những người nhỏ
bé ([721]) về tầm vóc và trí khôn. Đó là
chu kỳ hủy diệt thứ ba của các Chủng
tộc.([722])
Điều này cũng có
nghĩa là Địa Cầu phải trải qua bảy
cơn biến động toàn diện và định kỳ
diễn ra song đôi với các Chủng tộc. Giáo lư
Huyền môn dạy rằng: trong cuộc Tuần Hoàn
thứ Tư hiện tại, phải có bảy Chu kỳ hủy
diệt diễn ra trên Địa Cầu, trong đó có ba
cuộc hủy diệt gây nên bởi sự đổi
hướng nghiêng lệch của Trái Đất. Đó là
một định luật, nó tác động vào đúng
thời kỳ của nó, chứ không tác động một
cách mù quáng như khoa học đă tưởng, mà theo
một cách chặt chẽ và điều ḥa với
Định Luật Kărma. Trong Huyền môn, Luật ấy
được gọi là “LUẬT ĐIỀU CHỈNH thiêng liêng” (“great ADJUSTER”). Khoa học thú nhận là
ḿnh không biết nguyên nhân tạo ra những sự thay
đổi khí hậu, cũng như là những sự thay
đổi hướng trục Trái Đất, chúng luôn luôn
tạo ra những sụ biến thiên khí hậu này.
Thật vậy, khoa học dường như chẳng
đoan chắc ǵ về các sự đổi trục. V́
không thể giải thích được chúng, nên nó đă
chuẩn bị để phủ nhận hoàn toàn hiện
tượng đổi trục này, hơn là thừa
nhận bàn tay thông tuệ của Luật nghiệp quả
(chỉ có Luật này mới có thể giải thích
được những sự biến đổi
đột ngột này và những kết quả kèm theo
một cách hợp lư. Nó đă ra sức giải thích chúng
bằng nhiều sự suy lư ít nhiều hoang
đường; một trong các sự suy lư này (theo sự
tưởng tượng của Boucheporn) ắt là việc
Trái Đất th́nh ĺnh đụng phải một sao
chổi, như thế mới gây ra mọi sự biến
động địa chất. Nhưng chúng tôi vẫn thích
trung thành với lối giải thích nội môn của ḿnh,
v́ VÔ
CỰC ĐIỆN (FOHAT)
cũng đâu có kém ǵ bất kỳ sao chổi nào, đă
thế, nó c̣n được Trí Thông Tuệ vũ trụ
d́u dắt.
330
Như thế, kể
từ khi nhân loại của Đức Bàn Cổ Vaivasvata
xuất hiện trên Địa Cầu đă có tất
cả bốn cuộc tai biến do trục của trái
đất gây nên. Khi những lục địa cổ -
trừ lục địa thứ nhất – bị chôn vùi dưới
đáy biển, th́ những vùng đất khác lại
trồi lên, những dăy núi khổng lồ lại xuất
hiện ở những nơi mà trước kia chỉ là
b́nh địa, cuộc diện Trái Đất hoàn toàn thay
đổi trong biến động đó, nhờ có sự
trợ giúp kịp thời, những quốc gia và những
chủng tộc tốt lành nhất được sống
sót, c̣n những quốc gia và chủng tộc nào không
xứng đáng, tức là thất bại th́ bị hủy
diệt bằng cách bị quét sạch khỏi mặt
đất. Sự chọn lựa và chuyển dịch
như thế không diễn ra trong ṿng một ngày như
người ta thường lầm tưởng, mà cần
tới nhiều ngàn năm trước khi căn nhà mới
đă gọn gàng, ngăn nắp.
Các phụ chủng cũng
phải chịu cùng một phương thức tinh lọc
đó, và chi chủng cũng vậy. Xin bất cứ ai có
quen thuộc với thiên văn học và toán học hăy
thực hiện một phép nội quan vào trong khung cảnh
mờ mịt tranh tối tranh sáng của quá khứ. Xin y
hăy quan sát và lưu ư những ǵ mà y biết về lịch
sử của các dân tộc và các quốc gia, và lần
lượt đối chiếu các sự thăng trầm
của chúng với những ǵ mà chúng ta biết về các
chu kỳ thiên văn, nhất là đối chiếu với
Năm Vũ trụ (Sideral Year), nó bằng 25 868 năm
dương lịch ([723]).
Như thế, nếu quan sát viên có chút ít trực giác, th́ y
sẽ thấy chuyện họa phúc của các quốc gia có
liên hệ mật thiết biết bao với sự
khởi đầu và kết thúc của Chu kỳ Vũ
Trụ này. Thật vậy, kẻ không phải là nhà
huyền bí có nhược điểm là y không thể
dựa vào các thời kỳ xa xôi như vậy. Nhờ vào
khoa học chính xác, y chẳng biết ǵ về những
điều đă diễn ra cách đây gần 10.000 năm;
thế nhưng có thể tự an ủi bằng những
kiến thúc hoặc (nếu y thích) suy lư về số
phận của mọi quốc gia hiện đại mà y
biết sau đây chừng 16 000 năm. Ngụ ư của
chúng tôi thật là rơ ràng. Mỗi Năm Vũ Trụ, chí tuyến
lùi ra xa các cực bốn
độ trong mỗi ṿng quay xung quanh các phân điểm,
khi xích đạo quay qua các cḥm sao Hoàng Đạo. Nay
mọi nhà thiên van học đều biết rằng
hiện nay chí tuyến chỉ cách xích đạo chưa
đầy 23 0 5. V́ thế, nó c̣n phải di
chuyển thêm 205 (tức 2 0 30’) th́
mới hết Năm Vũ Trụ. Điều này ban cho
nhân loại nói chung và các giống dân văn minh chúng ta nói
riêng, một sự tŕ hoăn (reprieve) chừng 16 000 năm.
Sau cơn Đại
hồng thủy của Giống dân thứ Ba (Lemurian)
như Thiên b́nh luận viết:
Con người giảm sút tầm vóc rất nhiều và thời gian cuộc đời họ cũng rút ngắn bớt lại. Sau khi đă sa đọa về tính chất thiêng liêng, họ sống chung với loài thú và có sự chung lộn giữa những người khổng lồ với những giống người lùn… Nhiều người sở đắc kiến thức minh triết và cả những pháp môn bất chính và tự ư đi theo CON ĐƯỜNG TÀ.
331
Như
thế, đến lượt
người Atlantis tiến gần đến họa
diệt vong. Có ai biết cơn hủy diệt lần thứ tư này đă
phải cần đến bao nhiêu thời kỳ
địa chất mới thành tựu? Nhưng chúng ta
được biết rằng:
44. GIỐNG NGƯỜI ATLANTIS TẠO NHỮNG PHO TƯỢNG KHỔNG LỒ CAO 27 FEET (8,22m), BẰNG TẦM VÓC CỦA THÂN H̀NH HỌ (a). LỬA NỘI TẠI ĐĂ HỦY DIỆT ĐẤT CỦA TỔ PHỤ HỌ (GIỐNG NGƯỜI LEMURIANS). NẠN NƯỚC LỤT ĐE DỌA GIỐNG DÂN THỨ TƯ (b).
a) Cần ghi nhận
rằng phần nhiều những pho tượng khổng
lồ t́m thấy trên Đảo Easter, phần đất
cuối cùng c̣n lại của Lục địa Lemuria và
những pho tượng ở ven đồng cát Gobi,
trước kia đă từng là một vùng biển cả
trong vô lượng thế hệ. Tất cả đều
cao từ hai mươi đến ba mươi feet (từ
6m đến 9 m). Những pho tượng mà Đại Úy
Cook t́m thấy trên đảo Easter hầu hết
đều có hai mươi bảy feet chiều cao và tám feet
chiều ngang nơi vai. ([724])
Tác giả được biết rằng các nhà khảo
cổ học hiện đại quả quyết rằng
“các pho tượng này không cũ lắm”, như lời
tuyên bố của một trong các viên chức cao cấp
của Bảo Tàng Viện Anh Quốc. Nhưng đây là
một trong các quả quyết độc đoán của
khoa học hiện đại, không có giá trị bao nhiêu.
Được biết sau
cuộc hủy diệt Châu Lemuria bởi lửa trong ḷng
đất, tầm vóc con người lần lần
giảm bớt – diễn tŕnh này bắt đầu có sau
sự Sa đọa thể
chất của họ - sau cùng, vài triệu năm sau
đó, họ cao từ sáu đến bảy feet (1,82m
đến 2,13m – LND),
và bây giờ tầm vóc họ, cũng như các chủng
tộc Á Châu xưa đă sụt xuống gần năm feet
hơn là sáu feet (1,52m hơn là 1,82m). Nhà nhân chủng học
Pickering cho biết rằng giống người Mă Lai
(một phụ chủng của Giống dân thứ Tư)
có nhiều tầm vóc khác nhau. Dân quần đảo Polynesia
(như dân Tahiti, Samoa, Tonga có tầm
vóc cao nhất thế
giới, c̣n thổ dân các nước trên Đông
Dương (Indo-Chinese) có tầm vóc thấp hơn mức
trung b́nh. Điều này cũng dễ giải thích, dân
quần đảo Polynesia thuộc giống người
ban sơ nhất của những phụ chủng c̣n
sống sót, c̣n thổ dân khác thuộc về những
giống người mới xuất hiện sau cùng.
Cũng như dân Tasmania ngày nay đă hoàn toàn tuyệt
diệt, thổ dân Úc Châu cũng đang sắp sửa
biệt tích, những giống người cổ khác không
bao lâu cũng nối gót theo sau.
b) Thiên hạ có thể
vặn hỏi chúng ta: “Làm thế nào mà chúng ta có thể
bảo tồn được tài liệu này?” Ngay cả
việc người Ấn Độ có biết tới
Hoàng Đạo cũng bị các nhà Đông phương
học thông thái và tử tế phủ nhận; họ kết luận rằng
những người Ấn Độ Ăryan chẳng
biết ǵ về Hoàng Đạo trước khi
người Hy Lạp du nhập nó vào Ấn Độ.
Sự vu khống bất công này cũng đă bị Bailly
bác bỏ thêm nữa. Trong khi các Hoàng Đạo của Ai
Cập ([725])
vẫn c̣n bảo tồn được các bằng
chứng xác thực về các tài liệu bao hàm hơn ba
năm rưỡi vũ trụ – vào khoảng 87 000 năm –
th́ các phép tính toán của Ấn Độ lại bao hàm
gần ba mươi ba năm vũ trụ tức 850 000
năm. Các lễ sư Ai Cập đă đoan chắc
với Herodotus rằng xưa kia Trục Trái đất và
Trục Hoàng Đạo đă trùng nhau. Nhưng tác giả của
Sphinxiad đă nhận xét rằng:
332
Những
người Ấn Độ dốt
nát khốn khổ này đă ghi lại một kiến
thức về thiên văn học trong 25 000 năm từ
thời trận lụt [cục bộ cuối cùng ở Á
Châu], tức Thời đại Khủng khiếp.
Và họ cũng ghi
lại được những điểm quan sát từ
thời trận Đại hồng thủy đầu tiên
trong kỷ yếu sử Ăryan – Trận Lụt đă làm
đắm ch́m các phần cuối cùng của Châu Atlantis cách
đây 850 000 năm. Dĩ nhiên các Trận lụt
trước có tính cách truyền thuyết hơn là lịch
sử.
Việc nhận ch́m và
biến đổi của lục địa Lemuria bắt
đầu gần nơi Vùng Bắc Cực (Na Uy) và
Giống dân thứ Ba chấm dứt tại Lankă, hay
phần đất về sau gọi là Lankă dưới
thời giống dân Atlantis. Phần đất c̣n sót
lại mà ngày nay gọi là Tích Lan vốn là miền cao nguyên
phía Bắc của xứ Lankă thời xưa. C̣n ḥn
đảo khổng lồ Lankă dưới thời
giống dân Lemuria chính là lục địa đă diễn
tả trong những trang trước đây. Trong quyển
Triết giáo Nội môn, một vị Chơn Sư có nói:
Tại
sao các nhà địa chất học không nghĩ rằng
ở dưới những lục địa mà họ
đă thám hiểm và thăm ḍ … có thể rằng
dưới đáy biển sâu thẳm không thể đo
lường c̣n có những lục địa khác và cổ
hơn nhiều mà chưa ai hiểu. Có ngày những lục
địa ấy sẽ làm đảo lộn hoàn toàn
những thuyết hiện tại của họ chăng?
Tại sao không nh́n nhận rằng các lục địa
của chúng ta hiện nay, cũng như Lemuria và Atlantis
đă từng bị ch́m ngập dưới biển
nhiều lần và có lúc lại trồi lên để mang
những đợt nhân loại và các nền văn minh
mới ? Trong cơn biến động địa chất
đầu tiên của cuộc thiên tai tới đây trong
loạt những đợt thiên tai định kỳ
xảy ra từ lúc khởi đầu đến khi
chấm dứt mỗi cuộc tuần hoàn, các lục
địa đang có hiện nay cũng sẽ sụp
xuống biển, những lục địa Lemuria và
Atlantis lại sẽ trồi lên? ([726])
333
Lẽ
tất nhiên không phải là những lục địa
cũ, giống y như trước. Nhưng ở đây
cần có một lời giải thích. Chúng ta không nên lầm
lẫn về việc nêu ra danh từ Bắc Lemuria. Sự
nới rộng lục địa vĩ đại ấy
đến tận Bắc Đại tây dương không
hề trái ngược với dư luận chung về
địa phận của Châu Atlantis và cái này xác nhận cái
kia. Nên nhớ rằng Châu Lemuria vốn là nơi sinh
trưởng của Giống dân thứ Ba, không những bao
gồm một khu vực rộng lớn trong Thái b́nh
dương và Ấn Độ dương mà c̣n bành trướng
theo h́nh móng ngựa qua Madagascar ṿng quanh “Nam Phi” (thời
đó chỉ là một khu đất nhỏ c̣n đang h́nh
thành), đi xuyên qua Đại Tây Dương lên tận Na
Uy ở phía Bắc. Trầm
tích nước ngọt lớn của Anh tên là Wealden mà
mọi nhà địa chất học đều xem là
cửa của một ḍng sông lớn thời xưa, chính là
ḷng của ḍng chủ lưu thoát nước cho vùng Bắc
Lemuria vào thời Đệ nhỉ kỷ. Nếu sự
tồn tại thực sự xưa kia của ḍng sông này là
một sự kiện khoa học, th́ liệu các kẻ
ủng hộ khoa học có chịu thừa nhận
việc cần phải chấp nhận vùng Bắc Lemuria
vào thời Đệ nhị kỷ mà các dữ kiện này
đă đ̣i hỏi chăng? Giáo sư Berthold Seemann không
những chấp nhận sự thật về lục
địa vĩ đại ấy, mà c̣n xem Úc Châu và Âu Châu như những phần khác nhau của
một lục địa, và như thế là đă xác
nhận toàn bộ lư thuyết “ móng ngựa” như đă
giải bày ở trên. Một sự kiện độc
đáo xác nhận chủ thuyết về lục
địa Lemuria là một dăy núi ngầm trong ḷng
Đại tây dương cao trên 9 000 feet, chạy dài từ
hai hay ba ngàn miles về phía Nam từ một điểm
gần các đảo Anh quốc, trước hết nó
nghiêng về phần Nam Mỹ, kế đó nó đổi chiều và làm một
khúc quanh gần như một góc vuông theo một đường về hướng Đông Nam trực chỉ bờ
biển Phi Châu, rồi từ đó chạy về phía
Nam đến Tristan d’ Acunha. Dăy núi này là tàn tích của
một lục địa trên Đại tây dương và
nếu có thể truy nguyên xa hơn nữa, nó sẽ
chứng minh sự thật về một dăy cao nguyên
ngầm h́nh móng ngựa nối liền với một
lục địa cổ trong Ấn Độ dương.
([727])
Phần
đất trên Đại tây dương của Châu Lemuria
là căn cứ địa chất của miền lục
địa thường gọi là Châu Atlantis. Thật
vậy, Châu này phải được xem như sự phát
triển của phần đất trên Đại tây
dương của Châu Lemuria, hơn là một khu
đất hoàn toàn mới được cho trồi lên
để đáp ứng những nhu cầu đặc
biệt của Giống dân thứ Tư. Cũng như trong
sự tiến hóa Chủng tộc, việc biến thiên
dời đổi các khối lục địa to lớn
cũng vậy, không hề có một đường
lối cứng nhắc và bất di bất dịch
được đặt ra khi một nền trật
tự mới vừa chấm dứt và một nền
trật tự khác bắt đầu. Nguyên tắc liên
tục bao giờ cũng áp dụng trong những
phương pháp tác động của thiên nhiên. Như
vậy, giống dân Alante (Giống dân thứ Tư) phát sinh
ra từ một mầm mống của Giống dân thứ
Ba ở Bắc phần Lemuria tập trung ở một khu
vực mà vị trí ở khoảng giữa Đại tây
dương bây giờ. Lục địa Atlantis được
h́nh thành bằng sự phối hợp nhiều bán
đảo và ḥn đảo trồi lên mặt biển
trải qua ḍng thời gian, sau
cùng đă trở nên vùng đất sinh trưởng của
một Chủng tộc lớn mệnh danh là giống dân Atlantis.
Sau khi đă nhận thức rơ những điều kể
trên, người ta không c̣n có sự lầm lẫn giữa
hai Châu Lemuria và Atlantis, cũng như không ai lầm lẫn
Âu Châu với Mỹ Châu.([728])
334
Đoạn
nêu trên vốn xuất phát từ nguồn tin khoa học
chính thống bất tín nhiệm xiết bao, ắt sẽ
bị xem là một điều bịa đặt khá hay ho.
Ngay cả tác phẩm tài t́nh của Donnelly đă nêu trên
cũng bị dẹp qua một bên, dù nó phát biểu
những điều hoàn toàn ở trong khuôn khổ của
các bằng chứng khoa học nghiêm xác. Nhưng chúng tôi
viết cho tương lai. Các khám phá mới theo chiều
hướng này sẽ xác chứng lời tuyên bố
của các triết gia Á Châu cho rằng các quốc gia
tiền Đại hồng thủy (vốn đă sinh
hoạt hàng vô số thời đại trước đây)
đă theo học các môn khoa học (kể cả địa
chất học, dân tộc học và lịch sử).
Những “khám phá” tương lai sẽ biện minh cho tính
đúng đắn của các điều nhận xét
hiện nay của các nhân vật có đầu óc sắc
sảo như H.A. Taine và Renan. Taine chứng tỏ rằng
nền văn minh của các quốc gia cổ sơ như
Ai Cập, Chaldea, Trung Hoa và Assyria, Ăryan-Ấn là thành quả
của các nền văn minh trước đó đă
tồn tại “hàng vô số
thế kỷ”. ([729])
C̣n Renan th́ nói rằng:
Thoạt
đầu, Ai Cập dường như đă chín chắn
già dặn và hoàn toàn không có các thời đại thần
thoại và anh hùng, như thể là xứ này chưa hề
biết tới thanh xuân. Nền văn minh của chế
độ quân chủ thời xa xưa đă không bắt
đầu từ buổi sơ khai. Nó đă trưởng
thành rồi. ([730])
Giáo sư Owen c̣n nói thêm
rằng:
Người ta
ghi nhận rằng Ai Cập đă là một cộng
đồng văn minh có tôn ti trật tự trước
thời vua Menes.
Và Winchell đă vạch rơ
rằng:
Vào thời vua
Menes, dân tộc Ai Cập đă là một dân tộc văn
minh và thịnh vượng. Manetho cho chúng ta biết
rằng Athotis (con của vị quốc vương
đầu tiên Menes) đă xây dựng cung điện Memphis;
y là một vị y sĩ và đă để lại cho
hậu thế các tác phẩm
về cơ thể học.
Điều này rất là
tự nhiên, nếu chúng ta tin vào phát biểu của Herodotus.
Trong Euterpe (cxlii) ông ghi rằng thời hữu sử
của các lễ sư Ai Cập đă bắt đầu
trước thời ông khoảng 12 000 năm. Nhưng so
sánh với hàng triệu năm đă trôi qua từ thời
Châu Lemuria th́ 12 000 năm hay 120 000 năm đâu có nghĩa lư
ǵ! Tuy nhiên, mặc dù xa xưa, hàng triệu năm nêu trên
đâu phải là không có ǵ làm chứng cớ. Các tài liệu
hoàn chỉnh về sự phát triển sinh hoạt xă hội
và ngay cả chính trị của dân Lemuria, đă
được bảo tồn trong các niên sử bí
nhiệm. May mắn thay chẳng mấy người có
thể đọc được chúng và những
người có cơ hội học được chúng
cũng không thể hiểu được thứ ngôn
ngữ đó, trừ phi y đă biết rơ tất cả bảy
ch́a khóa biểu tượng kư của nó. Đó là v́ sự
thấu triệt Giáo lư Huyền linh tùy thuộc vào sự
quán triệt Bảy môn học, và các môn học này lại
biểu lộ nơi bảy lối ứng dụng khác nhau
của Nội môn Bí giáo vào các kinh điển ngoại môn.
Như vậy, chúng ta phải bàn tới các cách thức suy
tư trên bảy cơi lư tưởng khác nhau. Mọi kinh
điển đều có liên quan tới và phải
được diễn dịch theo một trong các quan
điểm sau đây:
1. Cơi Tư Tưởng Duy Thực.
2. Cơi Tư Tưởng Duy Tâm (Idealistic).
3. Cơi Tư Tưởng thuần túy thiêng liêng.
335
Các cơi khác vượt
quá xa tầm hiểu biết của tri thức thông
thường (nhất là các đầu óc duy vật) nên
người ta không thể thừa nhận sự tồn
tại của chúng ngay cả khi đă được tŕnh
bày bằng bút pháp thông thường. Không hề có yếu
tố thuần túy hoang đường nào trong bất kỳ
kinh điển tôn giáo cổ truyền nào, nhưng trong khi
thuyết minh, chúng ta phải t́m ra và trung thành với
đường lối suy tư biểu hiệu, một
lối suy tư mới hơn, mặc dù rất cổ;
lối suy tư ẩn dụ; lối suy tư biểu ư
tự; hoặc lối suy tư kư âm pháp tức là lối
suy tư khó hơn hết; mọi chữ, chẳng hạn
như trong tiếng Trung Hoa, đều tượng
trưng cho trọn cả một từ, hầu như
mọi danh hiệu riêng, dù là ở trong kinh Veda, Tử Vong
Kinh, hay là trong một chừng mực nào đó, trong Thánh
kinh – đều gồm có những chữ kư âm như
vậy. Không một kẻ nào chưa được
điểm hóa vào bí quyết về kư âm pháp tôn giáo Huyền
linh mà có thể tự cho là ḿnh biết được ư
nghĩa của một danh xưng trong bất kỳ áng
văn cổ truyền nào trước khi mà y đă thấu
đáo được ư nghĩa của mọi chữ
hợp thành nó. Làm thế nào chúng ta có thể mong đợi
là một nhà tư tưởng phàm tục, cho dù y có thể
thông thái xiết bao về biểu tượng kư chính
thống, tạm gọi như vậy, nghĩa là cái
loại biểu tượng kư chưa bao giờ có thể
thoát ra khỏi các khuôn khổ cổ hủ của thần
thoại thái dương và tục sùng bái tính dục –
lại có thể thâm nhập vào điều bí nhiệm
ẩn đàng sau bức màn che? Kẻ vốn chỉ bàn
về lớp vỏ từ chương và dốc hết th́
giờ vào sự thiên biến vạn hóa của các biểu
tượng từ ngữ khô khan, chẳng bao giờ có
thể thoát khỏi các cơn hứng ngông cuồng của
các nhà thần thoại học hiện đại.
Như thế, Vaivasvata,
Xisuthrus, Deucalion, Noah v.v.. tất cả các nhân vật
đứng đầu trong các trận Đại hồng
thủy Thế giới, khắp vũ trụ và từng
phần, thiên văn học hay địa chất học,
đều để lại tên tuổi của ḿnh như
là các nguyên nhân và hậu quả đưa đến
biến cố này (miễn là người ta có thể
đọc hết các tài liệu này). Tất cả các
trận Đại hồng thủy như thế
đều dựa vào các biến cố đă diễn ra
trong Thiên Nhiên, và do đó, đóng vai tṛ là tài liệu lịch sử - cho dù chúng có
tính cách vũ trụ, địa chất học hay thậm
chí chỉ là ẩn dụ - về một diễn biến
đạo đức trên các cơi cao khác. Chúng tôi tin rằng,
nay điều này đă được chứng tỏ
đúng mức trong sự giải thích dài ḍng mà các
đoạn Thiền Định Chân Kinh cần tới.
336
Kể cũng là một cách thức
hơi dị thường khi đề cập đến
một giống dân cao 27 feet (8,22m) trong một tác phẩm
tự cho là có một tính cách hợp khoa học hơn, có
thể nói là, câu chuyện “Jack, Kẻ giết người
Khổng lồ”(“Jack, the Giant-Killer”). Thiên hạ sẽ
vặn hỏi tác giả : “Đâu là các bằng chứng
của bạn?” Tác giả xin đáp: “Bằng chứng
ở trong lịch sử và truyền thuyết”. Mọi
nơi trên thế giới cũng đều có các truyền
thuyết về một giống người khổng
lồ thời xưa, chúng có mặt trong kho tàng học
thuật truyền khẩu và văn tự. Ấn
Độ có các Dănavas và Daityas; Tích lan có các La Sát (Răkshasas); Hy
Lạp có các Titans; Ai Cập có các Anh hùng khổng lồ;
xứ Chaldea có các Izdubar (Nimrod); và Do Thái có các Emims thuộc
vùng Moab, với những người khổng lồ
nổi tiếng Anakim. ([731])
Moses có đề cập đến Og, một vị
quốc vương có tấm ván lót giường dài chín
cubits (15 feet 4 inches), rộng bốn cubits (1,82m),([732])
c̣n Goliath cao 10 feet 7 inches. Điểm dị biệt duy
nhất giữa Thánh kinh Thiên khải và bằng chứng mà
Herodotus, Diodorus, Siculus, Homer, Pliny, Plutarch, Philostratus v.v… cung
cấp cho chúng ta là như sau: Trong khi những người
Ngoại đạo chỉ đề cập tới các
bộ xương người
khổng lồ đă
chết hàng vô số thời đại trước kia, các
di hài mà một số người trong đám họ đă thấy tận mắt,
th́ các nhà thuyết minh Thánh kinh lại không hổ thẹn
đ̣i hỏi rằng địa chất học và khảo
cổ học phải tin là vào thời Moses, các người
khổng lồ như thế đă ở nơi nhiều
xứ; đứng trước những người
khổng lồ đó, dân Do Thái chỉ như là con châu
chấu, những người khổng lồ ấy
vẫn c̣n tồn tại vào thời Joshua và David. Rủi
thay, niên đại kư của chính họ lại cản
đường. Hoặc là niên đại kư đó, hoặc
là những người khổng lồ phải bị
dẹp qua một bên.
Ngày nay, vẫn c̣n có vài
bằng chứng cụ thể để chứng minh cho
sự thật của những lục địa đă ch́m
dưới ḷng biển sâu và của các giống
người đă từng sống trên lục địa
ấy. Khảo cổ học khẳng định là có
nhiều người khổng lồ như vậy trên
Địa Cầu, mặc dù nó chưa bao giờ thử ra
sức nghiêm chỉnh giải quyết điều bí
mật “những người này có thể là ǵ?” Ngoài các pho
tượng của Đảo Easter đă nói trên, c̣n
những pho tượng người khổng lồ khác c̣n
đứng vững và nguyên vẹn gần Bamian mà các nhà
địa chất học cho rằng ở vào thế
kỷ đầu kỷ nguyên T.C. Nhưng họ đă
lầm về điều này cũng như trong nhiều
việc phỏng đoán khác. Chỉ cần vài lời mô tả
cũng đủ cho độc giả thấy
được đâu là những pho tượng của
cả Đảo Easter lẫn Đảo Bamian.
Trước hết chúng ta hăy xét xem khoa học chính
thống biết ǵ về chúng.
Teapi, Rapa-nui hay Đảo
Easter (Phục Sinh) là một địa điểm trơ
vơ cách bờ biển Nam Mỹ gần 2 000 miles… Nó dài
chừng mười hai miles, rộng bốn miles…Ở trung
tâm đảo có miệng núi lửa đă tắt, cao 1 050
feet (320m). Đảo có đầy dẫy những miệng
núi lửa, chúng đă bị tắt từ lâu lắm
rồi, chẳng c̣n truyền thuyết nào về hoạt
động của chúng. ([733])
Rất có thể là họ đă
ở đây khi những cư dân hiện nay [một nhóm
người Polynesia] kéo tới… Tay nghề của họ
đă đạt tới một
mức độ cao … và người ta đă tin rằng
giống dân tạo thành họ thường giao du với
thổ dân ở Peru và các vùng khác ở Nam Mỹ… Ngay cả
lúc Cook đến đây, một vài pho tượng cao 27
feet (8,22m), bề ngang vai rộng 8 feet (2,43m) c̣n đang
nằm chỏng gọng ra đó, trong khi những pho
tượng khác đang đứng có vẻ c̣n lớn
hơn nữa. Một trong các pho tượng đứng
cao đến nỗi mà bóng của nó đủ che
được ánh nắng cho một đoàn ba mươi
người. Những cái bục mà pho tượng khổng
lồ đứng trên đó trung b́nh dài từ ba mươi
đến bốn mươi feet (12m), rộng từ 12
đến 16 feet… tất cả đều được
xây bằng đá đẽo theo kiểu người
Khổng lồ độc nhăn, giống y như những
bức tường của đền Pachacamac hay là di tích
Tia –Huanaco ở Peru.([734])
337
“Không có lư do ǵ để tin
tưởng rằng người ta đă xây dựng
dần dần các pho tượng này, bằng cách dựng
dàn xung quanh chúng”, phê b́nh gia nêu trên đă nhận xét
một cách rất gợi ư như vậy mà không giải
thích làm sao người ta có thể xây dựng chúng bằng
cách nào khác được, nếu không phải là những
người khổng lồ cùng cỡ với chính các pho
tượng này đă tạo ra chúng. Hai trong số những
pho tượng khổng lồ này hiện nay đang ở
Viện Bảo Tàng Anh quốc. Có bốn pho tượng
đang ở Ronororaka, ba pho tượng ch́m sâu dưới
đất, c̣n một pho tượng nằm ngửa
đầu như một người đang ngủ.
Mặc dầu tất cả đều có đầu dài,
nhưng chúng thuộc về các mẫu người khác nhau;
thật hiển nhiên là như vậy, v́ chân dung của chúng
(chẳng hạn như mũi, miệng và cằm) đều
có h́nh dạng khác hẳn nhau. Hơn nữa kiểu nón
của họ - một loại nón bằng (flat cap) có
một mẫu đính kèm vào để che phần sau
của đầu – chứng tỏ rằng những
người nguyên sơ không phải là những kẻ dă man
thời đồ đá. Đúng là chúng ta có thể hỏi
rằng “Ai đă tạo ra chúng?” Nhưng rất có thể
là khảo cổ học và địa chất học không
thể trả lời được, dù cho địa
chất học có nhận ra đảo này là một
phần của lục địa bị ch́m.
Nhưng ai đă đẽo
những pho tượng c̣n khổng lồ hơn nữa
ở Bamian, các pho tượng cao nhất và khổng lồ
nhất trên thế giới?- đó là v́ “Pho Tượng
Nữ Thần Tự Do” của Bartholdi hiện nay ở
Nữu Ước, chỉ là một người lùn khi so sánh với pho tượng
lớn nhất trong số năm pho tượng. Burnes và
nhiều Tu sĩ thông thái ḍng Gia Tô đă đến thăm
chỗ đó, có nhắc đến một ngọn núi
“lỗ chỗ các ngăn khổng lồ” với hai
người khổng lồ được chạm trỗ
ở cùng một tảng đá. Chúng được xem
như những người Miaotse hiện đại (xem
chú thích ở phần trên ở đoạn trích dẫn
từ Shoo-King [Kinh Thư]) ([735])
những chứng cớ c̣n sống sót cuối cùng về
giống dân Miaotse vốn đă làm “xáo trộn địa
cầu”. Các tu sĩ ḍng Gia Tô thật là chí lư, c̣n các nhà
khảo cổ học, vốn cho rằng những pho
tượng lớn nhất này là các vị Phật,
thật là sai lầm. Đó là v́ tất cả những tàn
tích khổng lồ nhiều vô số được phát
hiện lần lần trong thời hiện đại,
tất cả những cảnh điêu tàn vĩ đại
ở chung quanh dăy Rocky Mountains tại Bắc Mỹ
đều là công tŕnh của giống người Cyclops khổng
lồ của thời cổ. Một du khách hiện
đại, trứ danh kể cho chúng tôi biết rằng
“Nhiều đống xương người khổng
lồ” đă được t́m thấy “ở Mỹ,
gần Munte [?]”, đúng ngay điểm mà truyền
thuyết địa phương nêu rơ địa
điểm đổ bộ của những người
khổng lồ đă tràn ngập ở Châu Mỹ khi châu này
vừa mới từ dưới nước trồi lên. ([736])
338
Những truyền
thuyết của Trung bộ Á Châu cũng nói như thế
về các pho tượng ở Bamian. Vậy những pho
tượng đó có ư nghĩa ǵ về địa
điểm, chúng ở đâu, nơi mà chúng đă
đứng trơ gan, trải qua vô lượng thế
hệ. thách thức cả thiên tai địa chấn ở
quanh vùng và ngay cả bàn tay hủy hoại của loài
người, chẳng hạn như các đạo quân Timur
và các chiến sĩ Vandal của Nadir Shah? Bamian là một
thị xă nhỏ, nghèo nàn và điêu tàn, hết một
nửa Trung bộ Á Châu giữa Kabul và Balkh, dưới chân
núi Koh-i-baba một ngọn núi lớn của dăy Hindu-Kush, cao
hơn mặt biển gần 3 000m. Thời xưa, Bamian là
một phần của thành phố cổ Djooljool bị tàn
phá và san bằng bởi quân Mông Cổ của Thành Cát Tư
Hăn thời thế kỷ mười ba. Toàn miền thung
lũng đều có núi non bao bọc chung quanh, có
đầy những hang động vừa thiên nhiên vừa
nhân tạo, có một thời dùng làm nơi trú ẩn
của các sư tăng Phật giáo đến lập
tịnh xá trong đó. Cho đến nay, chúng ta c̣n gặp
đầy dẫy các tịnh xá đó (Vihăras) trong các Thánh
điện đẽo trong đá ở Ấn Độ và
vùng thung lũng Jellălabăd. Chính ở nơi cửa vào của
vài hang động ấy có năm pho tượng khổng
lồ mà người ta nghĩ là tượng Phật
đă được phát hiện hay đúng hơn là tái phát
hiện trong thế kỷ này, v́ nhà du hành nổi tiếng
Trung Hoa là Huyền Trang (Hiouen Thsang) có nói đến việc
nh́n thấy các pho tượng đó khi ông đi viếng
Bamian vào thế kỷ thứ bảy.
Chúng ta có thể dễ dàng
chứng tỏ luận điệu cho rằng trên toàn
địa cầu không có pho tượng nào lớn hơn
nữa, dựa vào bằng chứng của mọi du khách
để xem xét và đo lường chúng. Như vậy,
pho tượng lớn nhất cao 173 feet (52,73m), tức là
cao hơn pho tượng Nữ Thần Tự Do ở
Nữu Ước 70 feet, v́ pho tượng này chỉ cao có
105 feet (32m). Chính pho tượng Khổng lồ Rhodes
trứ danh, mà những chiếc tàu lớn nhất thời
đó có thể đi qua dễ dàng giữa đôi chân
của nó, cũng chỉ cao từ 120 đến 130 feet. Pho
tượng lớn thứ nh́, cũng được
đẽo bằng đá như pho tượng thứ
nhất, chỉ cao có 120 feet, tức là cao hơn pho
tượng Nữ Thần Tự Do nói trên 15 feet. ([737])
Pho tượng thứ ba chỉ cao có 60 feet, hai pho
tượng khác c̣n nhỏ hơn nữa, c̣n pho
tượng cuối cùng th́ nhỏ hơn một chút so
với người cao b́nh thường thuộc Giống
dân chúng ta hiện nay. Pho tượng đầu tiên và
lớn nhất tŕnh bày một người khoác một
loại áo choàng La Mă, Hầu Tước Nadeylac cho rằng
dáng vẻ chung của khuôn mặt, các đường nét
của cái đầu, vải mặc và nhất là những
chiếc tai dài tḥng, là những dấu hiệu không thể
chối căi rằng người ta có ư biểu diễn
Đức Phật. Bất chấp sự kiện hầu
hết các tượng Phật hiện hữu, vốn
được biểu hiện trong tư thế
Đại định, đều có tai dài, song đây
chỉ là một sự canh cải và suy tưởng sau này.
Ư niệm nguyên sơ là do nơi ẩn dụ nội môn.
Những chiếc tai lớn phi thường tượng
trưng cho sự toàn tri của minh triết và ngụ ư
nhắc đến quyền năng của Đấng biết và nghe được
hết tất cả, ḷng từ bi bác ái và sự quan tâm
của Ngài bao trùm khắp vạn vật. Một câu
Thiền Định Chân Kinh có dạy:
Đấng
Giáo chủ từ bi nghe thấy tiếng kêu thống
khổ của sinh linh nhỏ bé nhất phía bên kia thung
lũng và núi non nên t́m đến giải thoát cho nó.
339
Đức Phật Thích
Ca (Gautama Buddha) là một người Ấn Ăryan, và
người ta chỉ thấy một lối đề
cập về những chiếc tai như thế trong
người Mông Cổ, Miến Điện và Xiêm La (Siamese),
cũng như ở Cochin, họ làm biến dạng tai
của ḿnh một cách nhân tạo. Các vị tăng lữ
Phật giáo, những kẻ đă biến các hang
động của giống người Miaotse thành ra các
tịnh xá và các gian pḥng, đă tới Trung Á vào khoảng
thế kỷ thứ nhất sau T.C. Do đó, khi nhắc
đến pho tượng khổng lồ, Ngài Huyền
Trang đă bảo rằng: “Vẻ rực rỡ của
lớp vàng trang trí phủ trên pho tượng thời đó
đă làm chói mắt người ta”, nhưng ngày nay không c̣n
vết tích nào về sự mạ vàng đó. Trái với
chính pho tượng, vốn được đẽo ra
từ tảng đá đứng sừng sững, lớp
vải khoác lại được làm bằng thạch cao
và được đắp lên trên pho tượng đá.
Talbot, kẻ đă xem xét tỉ mỉ nhất, thấy
rằng lớp xiêm y này thuộc về một thời
kỳ hăy c̣n cận đại hơn nhiều. Do đó,
chính pho tượng này phải được gán cho
một thời kỳ xa xưa hơn Phật giáo. Trong
trường hợp đó, chúng ta có thể hỏi là nó tiêu
biểu cho ai bây giờ?
Một lần nữa,
được các tài liệu giấy trắng mực
đen đem bổ chứng, truyền thuyết xin
giải đáp câu hỏi này và giải thích điều bí
mật. Những vị La Hán và sư tăng Phật giáo t́m
thấy năm pho tượng và nhiều pho tượng
khác nay đă bị tàn phá. Ba pho tượng đứng
trong các hốc khổng lồ và ở vào nơi trú
tương lai của chúng, chúng được đắp
bằng thạch cao, để từ những pho
tượng cũ, tạo ra những pho tượng
mới biểu hiện Đức Như Lai. Cho đến
nay, những bức tường bên trong những cái hốc
đều được che phủ bằng những
bức họa h́nh người sáng rực, và trong nhóm nào
cũng có thánh dung của Đức Phật. Cũng như
một vài pho tượng nhỏ và các bức tượng
trang trí này – chúng nhắc chúng ta nhớ tới kiểu
hội họa Byzantine – đều do ḷng sùng đạo
của các tu sĩ khổ hạnh. Nhưng năm pho
tượng khổng lồ này vốn là công tŕnh của
những vị Đạo đồ của Giống dân thứ Tư.
Những vị ấy, sau khi lục địa Atlantis
bị ch́m ngập, đă di tản đến Trung Bộ Á
Châu t́m nơi trú ẩn trong vùng núi non hẻo lánh. Hơn
nữa, năm pho tượng này là một tài liệu
bất diệt để lưu truyền Giáo lư Huyền
môn dạy về sự tuần tự tiến hóa của các
Chủng tộc loài người.
Pho tượng lớn nhất
tiêu biểu cho Giống dân thứ Nhất của nhân
loại. Cái thể khinh thanh được lưu niệm
trong khối đá bền bỉ, dùng cho sự học
hỏi của những thế hệ tương lai,
chứ nếu không th́ kư ức về điều ấy
không bao giờ tồn tại sau cơn Đại hồng
thủy nhận ch́m Châu Atlantis. Pho tượng thứ hai
cao 120 feet (36,57m), tiêu biểu cho Giống người Hăn
sinh; pho tượng thứ ba cao 60 feet (18,28m), tiêu biểu
cho Giống người đọa lạc. Giống
người đầu tiên có thể chất bằng
xương thịt do cha mẹ sinh ra, mà những hậu
duệ cuối cùng được h́nh dung bằng các pho
tượng t́m thấy trên đảo Easter. Tuy nhiên,
giống người này chỉ cao từ 20 đến 25
feet (6m tới 7,62m) vào thời Châu Lemuria bị ch́m ngập,
sau khi bị hủy diệt bởi lửa trong ḷng
đất do hỏa sơn phun lên. Giống dân thứ
Tư có tầm vóc c̣n nhỏ hơn nữa, tuy rằng c̣n
to gấp bội so với Giống dân thứ Năm chúng ta
ngày nay, Giống dân thứ
Năm hiện nay là mức tiến hóa thể chất cùng
tột của tất cả những giống dân
trước.
340
Thế th́, đó chính là
những “Người Khổng Lồ” thời xưa,
những vị Gibborim tiền Đại hồng thủy,
và hậu Đại hồng thủy trong Thánh kinh. Họ
đă sinh hoạt cách đây một triệu năm, hơn
là chỉ cách đây từ ba đến bốn ngàn năm.
Như thế, các vị Anakim của Joshua – so sánh với
tập đoàn các vị này th́ dân Do Thái chỉ như là
“châu chấu”- chỉ là một điều hoang
đường của dân Do Thái, trừ khi dân Do Thái cho
rằng Joshua có nguồn gốc xa xưa từ thời
Thủy Tân hoặc ít ra cũng từ thời Trung Tân, và
thay đổi hàng ngàn năm niên đại kư của ḿnh
thành ra hàng triệu năm.
Về mọi điều
thuộc về thời tiền sử, độc giả nên
nhớ kỹ những lời minh triết của Montaigne.
Triết gia xuất chúng người Pháp ấy đă
dạy rằng:
Thật là
một sự tự phụ ngu xuẩn mà khinh thường
và kết tội là sai lầm những ǵ dường
như không tỏ ra là đúng đắn hay có vẻ
đúng đối với chúng ta. Đó là một lồi
lầm thông thường của những kẻ tự cho
ḿnh là những kẻ biết nhiều hơn thường
nhân….
Nhưng lẽ
phải đă dạy cho tôi biết rằng cứ khăng
khăng kết án một điều là sai lầm hay không
thể có được, chính là tự xem ḿnh có ưu điểm
là biết được các giới hạn của Thiên Ư nắm
giữ quyền năng của Thiên Nhiên, bà mẹ chung
của chúng ta. Lẽ phải cũng dạy cho tôi biết
rằng thật không c̣n ǵ điên rồ hơn là thu gọn
chúng vào trong tầm mức khả năng và giới hạn
kiến thức của chúng ta…
Nếu chúng ta gọi sự
việc này là những con quái vật hay phép lạ mà lư trí
chúng ta không thể vươn tới được th́ hàng
ngày có bao nhiêu điều như thế vẫn xuất
hiện trước mắt chúng ta? Nếu chịu khó xem
xét xuyên qua những ǵ che khuất và bịt kín mắt ḿnh,
th́ chúng ta sẽ biết được hầu hết
mọi điều ở ngoài tầm tay của ḿnh.
Thật vậy, chúng ta sẽ thấy chính tập quán
hơn là khoa học đă tiếp nhận từ chúng ta
sự kỳ lạ của chúng, nếu các điều
đó mới xuất hiện trước chúng ta, th́ chúng ta
dứt khoát là sẽ xem chúng không thể có được
và không thể tin được chẳng kém ǵ bất
cứ thứ nào khác. ([738])
Trước khi phủ
nhận sự khả hữu của lịch sử cùng là
các tài liệu của chúng tôi, một học giả công minh
ắt phải lục lọi trong lịch sử hiện
đại, cũng như là truyền thuyết đại
đồng thế giới, rải rác khắp văn
học cổ truyền và hiện đại, để t́m
kiếm các dấu vết mà các giống dân sơ khai kỳ
diệu này đă để lại. Chẳng
mấy kẻ hoài nghi lại ngờ vực vô số
bằng chứng xác minh rải rác và bị chôn vùi ngay
cả trong Bảo Tàng Viện Anh Quốc. Xin quí độc
giả liếc nh́n một lần nữa vào nội dung
của vấn đề mà chúng ta bàn tới trong tiết
sau.
CÁC DI TÍCH TƯỢNG KHỔNG LỒ ĐỘC NHĂN
VÀ CÁC
TẢNG ĐÁ KHỔNG LỒ
VỚI VAI TR̉ LÀ BẰNG CHỨNG
NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ
Trong các tác phẩm vĩ
đại “Kỷ yếu đệ tŕnh lên Hàn lâm viện”,
khi tiến hành công việc chứng tỏ sự có thực
của Ma Quỷ và chứng tỏ là nó ngự nơi
mọi ngẫu tượng cổ truyền và hiện
đại, De Mirville đă thu thập được
nhiều trăm trang “chứng cớ lịch sử” cho
rằng “phép lạ”, cả các
pho tượng ngoại đạo với các pho
tượng trong Thánh kinh đă đi đứng, nói
năng, giảng sấm kư, thậm chí c̣n hát nữa.
Rốt cuộc, “tảng đá Christ”, “Tảng đá tâm
linh” nối tiếp nước Do Thái ([739])
đă “biến thành tảng đá Jupiter”, bị cha y là
Thần Saturn “nuốt gọn dưới dạng một
viên đá”. ([740])
Chúng ta sẽ không dừng lại để bàn về
sự lạm dụng hiển nhiên và duy vật hóa các
ẩn dụ trong Thánh kinh chỉ v́ muốn chứng tỏ
“Thuyết Ma Quỷ” (“Satanism”) về các ngẫu
tượng, mặc dù chúng ta có thể nói khá nhiều
điều ([741])
về đề tài này. Tuy nhiên, không cần tuyên bố
rằng các tảng đá của chúng ta có bất kỳ
chủ nghĩa tiêu dao hoặc thần thông bẩm sinh nào
như thế, đến lượt chúng ta cũng có
thể thu xếp được mọi bằng cớ
sẵn có để chứng tỏ rằng:
341
a) Nếu không có những người
khổng lồ để di chuyển các tảng đá
khổng lồ như vậy, th́ không bao giờ có một
kiến trúc như Stonehenge, Carnac (Brittany) hoặc các cấu
trúc Thần khổng lồ độc đáo khác (Cyclopean
structures).
b) Nếu không có điều ǵ như là Pháp Thuật (Magic) th́ chẳng bao giờ có thể có biết bao nhiêu là bằng chứng về các pho tượng “giảng sấm ngữ” (“oracular” and “speaking” stones).
Trong tác phẩm Achaica, chúng ta
thấy Pausanias thú nhận ở đầu tác phẩm
của ḿnh rằng ông đă xem dân Hy Lạp là cực
kỳ ngu đần “v́
cứ thờ các tảng đá”. Nhưng sau khi tới
Arcadia, ông nói thêm: “Tôi đă thay đổi lối suy tư
của ḿnh”.([742])
Do đó, dù không thờ phụng các viên đá hay
tượng đá, cũng như nhau thôi – một trọng
tội mà các tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă thật là
thiếu sáng suốt khi chê trách những kẻ ngoại
đạo – người ta cũng có thể
được phép tin tưởng vào điều mà
biết bao nhiêu là đại triết gia và thánh nhân đă tin
tưởng, mà vẫn không bị các vị Pausanias thời
nay gọi là “thằng ngốc”.
Nếu muốn nghiên
cứu đủ loại tính chất của các viên đá
lửa và đá cuội theo các quan điểm các quyền
năng pháp thuật thần thông, xin độc giả hăy
tham khảo Hàn lâm viện Văn nghệ. Trong một bài
thơ bàn về các “Viên đá” được gán cho Orpheus,
người đă chia các viên đá này thành “Xà thạch” (“Serpent-stone”)
và “Tinh thạch” (Star-stone”).
Xà thạch (Ophitēs) xù x́,
cứng rắn, nặng nề, đen đủi và có tài ăn nói; khi người
ta chuẩn bị vứt nó đi, th́ nó phát ra một âm thanh
giống như tiếng khóc của trẻ con. Chính từ
viên đá này mà Helenus đă tiên đoán được
sự sụp đổ của thành Troy, quê hương
của y.([743])
Khi đề cập
đến các “linh thạch” (“bétyles”) này, Sanchuniathon và Philo
Byblus đă gọi chúng là các “đá
có hồn” (“animated stones”). Photius lặp lại điều mà
Damascius, Asclepiades, Isidorus và y sĩ Eusebius đă khẳng
định với ông. Eusebius đặc biệt không bao
giờ rời bỏ các Xà thạch của ḿnh mà ông mang
trong ḷng, và đón nhận các sấm ngữ của nó,
được phát ra bằng
một giọng nho nhỏ
giống như tiếng huưt trầm (low whistling). ([744])
Arnobius, một thánh nhân – theo các tín đồ Thiên Chúa giáo th́
“từ một Người ngoại đạo, ông đă
trở thành một trong các ánh
sáng soi đường cho
Giáo hội” – thú nhận
rằng ông không bao giờ gặp một trong các viên đá
này mà không hỏi nó một câu, “đôi khi câu hỏi này
đă được giải đáp bằng một
tiếng nói nho nhỏ, rơ ràng và
lanh lảnh”. Thế th́, chúng tôi xin hỏi: “Đâu là
sự dị biệt giữa các Xà thạch của tín
đồ Thiên Chúa giáo và Người ngoại đạo ?”
342
Viên đá nổi
tiếng ở Westminster được gọi là liafail,
“viên đá biết nói”, và chỉ cất cao giọng
để nêu đích danh vị vua đă được
tuyển chọn. Trong tác phẩm Các Đền Đài
Celtiques, Cambry cho rằng ông đă thấy nó khi nó c̣n mang ḍng
chữ khắc: ([745])
Trừ
phi lời sấm truyền không đúng, c̣n th́ khi
người Tô Cách Lan t́m thấy viên đá này đặt
ở bất cứ nơi đâu, họ cũng sẽ
nắm được quyền cai trị.
Cuối cùng, Suidas có
nhắc đến một ông Heraescus nào đó chỉ
cần liếc mắt một cái là ông cũng có thể phân
biệt được những viên đá vô tri giác với
những viên đá di động; c̣n Pliny lại đề
cập đến những viên đá “co gị tẩu thoát khi
người ta chỉ mới sắp mó tay vào chúng”.([746])
De Mirville – ông đă ra sức
biện minh cho Thánh kinh – đă nêu ra một câu hỏi
thật thích đáng rằng tại sao các viên đá quái
gở của Stonehenge xưa kia lại được
gọi là chior-gaur hay “vũ
khúc của người khổng lồ” (từ nguyên cơr là “vũ khúc”, do đó
mới có từ ngữ chorea
và gaur, “người
khổng lồ”)? Thế rồi ông lại đưa các
độc giả đến chỗ đón nhận lời
giải đáp của ông phát xuất từ Giám mục St.
Gildas. Nhưng tác giả của các tác phẩm như Du hành
trong Quận Cornouailles, theo Vết những Người
khổng lồ, và các loại tác phẩm thông thái về các
di tích ở Stonehenge, ([747])
Carnac và Hoadley c̣n cung cấp cho chúng ta tin tức đầy
đủ đáng tin cậy hơn về đề tài
đặc biệt này. Trong các vùng này – thật đúng là
“các rừng đá”- chúng ta t́m thấy các đơn thạch
trụ khổng lồ, “một vài cái nặng trên 500 000
kilograms”. Người ta tin rằng các “viên đá lơ
lửng” ở Đồng bằng Salĩsbury là di tích
của đền thờ Druidical. Nhưng người
Druids là những người lịch sử, chứ đâu
phải là những người Khổng lồ độc
nhăn. Thế th́, nếu không
phải những người khổng lồ th́ ai có
thể nhấc các khối này lên, nhất là các khối
ở Carnac và West Hoadley – xếp chúng theo một trật
tự cân xứng đến nỗi mà chúng có thể
biểu diễn cầu đồ (Planisphere) và đặt
chúng ở một vị trí cân bằng kỳ diệu
đến nỗi mà chúng dường như chỉ hơi
đụng mặt đất, và mặc dù vẫn
chuyển động khi chỉ bị ngón tay đụng
nhẹ vào một cái, song chúng kháng lại được
nỗ lực của hai mươi người nếu
họ thử ra sức dịch chuyển chúng ?
343
Nay nếu chúng ta
bảo hầu hết các viên đá này là di tích của
những người Atlantis cuối cùng th́ thiên hạ
sẽ đáp lại chúng ta rằng mọi nhà địa
chất đều tuyên bố là chúng có một nguồn
gốc tự nhiên, một viên đá bị “phong hóa” (“wearthering”)
- nghĩa là mất dần dần bản chất của
ḿnh do tác dụng của thời tiết – sẽ có dạng
này, và các “đồi đá” (“tors”) ở miền Tây nước
Anh đang biểu diễn các h́nh dạng kỳ diệu
cũng được tạo ra do nguyên nhân này. Và như
thế, mọi nhà khoa học đều xem “các viên đá
đu đưa có nguồn gốc thuần túy tự nhiên,
mưa, gió v.v… gây ra sự tan ră của các tảng đá
thành các lớp”, nên phát biểu của chúng tôi sẽ bị
từ chối đích đáng, nhất là khi “chúng ta thấy
diễn tŕnh biến chất đá này ngày nay đang
diễn ra chung quanh chúng ta”. Chúng ta hăy xét trường
hợp này xem sao.
Trước hết, hăy
đọc điều mà địa chất học cho
biết, rồi bạn sẽ biết rằng các khối
khổng lồ này là những vật hoàn toàn xa lạ
với những xứ mà nay chúng định cư ở
đó; rằng các loại đá tương cận với
chúng về mặt địa chất, thường
thuộc về các địa tằng xa lạ với các
xứ đó, và chỉ có thể hiện diện ở
nơi hải ngoại. Khi suy lư về các khối đá hoa
cương khổng lồ rải rác khắp miền Nam
nước Nga và Siberia, William Tooke đă cho độc
giả biết không có các tảng đá hoặc núi non ở
vùng mà hiện nay chúng đang nằm trơ ra đó, vậy
là chúng ắt phải được mang lại “từ các
vùng xa diệu vợi bằng các nỗ lực phi
thường”.([748])
Charton có nhắc đến một mẫu tảng đá
như thế bắt nguồn từ Ái Nhĩ Lan, nó đă
được đệ tŕnh cho một nhà địa
chất lỗi lạc người Anh phân tích, ông đă gán
cho nó một nguồn gốc ngoại quốc có lẽ tận Phi Châu”.([749])
Đây thật là một trùng hợp kỳ lạ, v́
truyền thuyết Ái Nhĩ Lan cũng qui nguồn gốc
các viên đá tṛn của ḿnh cho một Phù thủy, y đă mang chúng từ Phi Châu sang đây. De
Mirville thấy vị Phù thủy này là “một người
Hamite bị đày”.([750])
Chúng ta thấy là một người Atlantis da đen,
hoặc thậm chí có lẽ là một người Lemuria nào
đó xa xưa hơn y và sống sót măi cho tới khi Anh
quốc ra đời - dù sao đi nữa đó cũng là
một người khổng lồ. ([751])
Cambry đă ngây thơ cho rằng:
Con người
chẳng dính dáng ǵ tới điều này… v́ năng lực
và sự khéo léo của con người chẳng bao giờ
có thể thực hiện được bất cứ điều
ǵ thuộc loại này. Thiên nhiên đă đơn độc
hoàn thành nó hết tất cả [!!] và một ngày kia, khoa
học sẽ chứng tỏ được điều
này [!!]”.([752])
Tuy nhiên, chính năng
lực của con người, dù là to tát, đă hoàn thành
điều này, chứ không phải là một ḿnh Thiên Nhiên,
hay Trời (God), Quỷ (Devil) ǵ cả.
344
“Khoa học” vốn
đă đảm trách việc chứng tỏ rằng ngay
cả trí tuệ và tinh thần của con người
cũng chỉ là sản phẩm của các “lực mù quáng”
(“blind forces”) hoàn toàn có thể chấp nhận nhiệm
vụ này. Có thể là vào một buổi sáng đẹp
trời nào đó, nó sẽ xuất hiện và ra sức
chứng tỏ rằng Thiên Nhiên đă một thân một
ḿnh xếp đặt các tảng đá khổng lồ
ở Stonehenge, vạch ra vị trí của chúng chính xác
như toán học, ban cho chúng dạng cầu đồ
Dendera và các cung Hoàng Đạo, và mang các tảng đá trên
một triệu pounds (450 000kg – LND) từ Phi Châu và Á Châu sang
Anh và Ái Nhĩ Lan!
Đúng là sau này Cambry
đă rút lại lời nói khi cho rằng:
Trong một
thời gian dài, tôi đă tin tưởng vào Thiên Nhiên,
nhưng tôi đă rút lại ư kiến này …v́ sự may
mắn ngẫu nhiên không thể tạo ra những sự
tổ hợp kỳ diệu như thế… và những
người nào đă đặt được những
tảng đá nêu trên ở vị trí cân bằng, cũng
giống y như những kẻ đă nâng cao các khối
đá di động ở ao nước Huelgoat, gần
Concarneau.
Khi đề cập tới
các tảng đá di động,
hoặc các “viên đá đu đưa” ở trên triền
đồi Golcar (“Kẻ Mê Hoặc”) Tiến sĩ John Watson
(mà cũng chính tác giả trên trích dẫn), cho rằng:
Chuyển
động kỳ diệu của các khối cân bằng này
đă khiến cho người Celt ví chúng với các Thần
Linh. ([753])
Trong tác phẩm Stonehenge,
Flinders Petrie có cho rằng:
Stonehenge
được xây bằng đá địa phương,
một loại sa thạch đỏ, tức “tảng cát
kết” (“sarsen”) mà dân địa phương quen gọi là
“cừu thiến màu xám” (“grey wethers”). Nhưng một vài viên
đá, nhất là các viên đá nghe nói là đă
được dành riêng cho các mục đích thiên văn,
đă được đem lại từ xa, có thể là
từ Bắc Ái Nhĩ Lan.
Để kết luận,
các điều suy gẫm của một nhà khoa học trong
một tài liệu bàn về đề tài được
công bố vào năm 1850 trong Tạp chí Khảo cổ
học, thật đáng được trích dẫn:
Mọi viên đá
là một khối lượng ắt làm cho các cỗ máy
mạnh nhất cũng phải mệt mỏi. Tóm lại,
rải rác trên khắp trái đất có những khối mà
đứng trước nó, từ ngữ vật liệu (materials) dường như không
thể giải thích được, khi trông thấy nó, trí
tưởng tượng cũng phải ngỡ ngàng, và nó
cũng phải được ban cho một tên cũng
vĩ đại như chính sự vật. Ngoài ra, các viên
đá đu đưa khổng
lồ này, đôi khi được gọi là vật đánh đuổi (routers)
đứng thẳng ngay
trên một cạnh cũng như là một điểm
của ḿnh, chúng cân bằng hoàn toàn đến nỗi mà
chỉ cần chạm nhẹ một chút cũng đủ
cho chúng bắt đầu chuyển động… tỏ ra có
một sự hiểu biết chắc chắn nhất
về tĩnh học. Đối chuyển động
(counter motion), các mặt, mặt phẳng lần
lượt lồi và lơm… đều liên kết chúng với
các đền đài khổng lồ của người
Cyclop, mà chúng ta có thể lặp lại lời của De la
Vega một cách chí lư rằng “các con quỷ dường
như đă tác động lên chúng hơn cả con
người”. ([754])
345
Đó là v́
chúng tôi đă từng đồng ư với các bạn và
kẻ thù của ḿnh, các tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă, và
hỏi liệu những điều kỳ diệu như
thế về tĩnh học và sự cân bằng, với
các khối nặng hàng triệu pounds, có thể là tác
phẩm của những kẻ dă
man thời Cổ thạch, của những người
ở hang động, cao lớn hơn người
thường của thế kỷ chúng ta, song vẫn là các
thế nhân thông thường như chúng ta chăng? Chúng tôi
không hề có ư định đề cập tới
đủ loại truyền thuyết gắn liền
với các viên đá đu đưa. Thế nhưng,
cũng nên nhắc các độc giả người Anh
nhớ tới Giraldus Cambrensis, ông có đề cập
tới một tảng đá như vậy trên Đảo
Mona, nó luôn luôn trở về vị trí nguyên thủy của
ḿnh, bất chấp mọi nỗ lực nhằm giữ nó
ở đâu đó. Vào thời Ái Nhĩ Lan bị vua Henry II
chinh phục, muốn kiểm nghiệm lại sự
thật về sự việc này, Bá Tước Hugo Cestrensis
đă cột viên đá Mona vào một tảng đá khác
lớn hơn nhiều và cho ném xuống biển. Sáng ngày hôm
sau, người ta thấy nó ở vị trí quen thuộc.
Nhà thông thái William ở Salisbury bảo đảm sự
kiện này bằng cách chứng nhận là nó đă hiện
diện ở bức tường của một nhà
thờ, nơi mà ông đă thấy vào năm 1554. Và
điều này nhắc chúng ta nhớ tới những
điều mà Pliny nói về viên đá bị các vị anh
hùng Argonaut bỏ lại tại Cyzicum, mà người dân
Cyzican đă để nó ở Prytaneum, “nó chạy trốn
khỏi chỗ đó nhiều lần, thế là họ
bắt buộc dùng ch́ đè nặng trên nó”.([755])
Ở đây, chúng ta có những viên đá khổng lồ mà
cổ nhân đều khẳng định là “linh hoạt
(living), di động (moving), nói năng (speaking) và tự
hành (self-perambulating)”. Dường như chúng cũng có
thể khiến cho người ta phải bỏ chạy
(run away) v́ chúng được gọi là vật đánh đuổi, phát xuất từ
động từ “rout”, nghĩa là “đánh đuổi”. C̣n
De Mousseaux lại tŕnh bày là chúng đều là các “viên đá điên” (“mad stones”). ([756])
Khoa học cũng
chấp nhận viên đá đu đưa (rocking stone).
Nhưng tại sao nó lại đu đưa? Không nên
nhắm mắt tin bừa rằng chuyển động này
là một phương tiện thêm nữa để bói toán,
và chính v́ lư do này mà chúng được gọi là “các viên
đá sự thật” (“stones of truth”).([757])
346
Đó là lịch sử, quá khứ của cái
thời tiền sử bảo đảm là những
thời đại sau này cũng vậy. Các Đền
thờ rồng, linh thiêng đối với Mặt Trăng
và Con Rắn, chính là những “tảng đá định mệnh”
cổ hơn của các quốc gia thời xưa. C̣n
chuyển động hay sự đu đưa của chúng là một qui luật hoàn toàn
rơ rệt đối với các lễ sư được
điểm đạo, chỉ các vị này là có ch́a khóa
giải lối viết
cổ truyền. Vormius và Olaus Magnus chứng tỏ rằng
các vị Quốc vương Bắc Âu đă
được tuyển chọn theo chỉ thị của
sấm giảng, nó nói điều đó xuyên qua “các tảng
đá vĩ đại được các quyền năng
vĩ đại của những người khổng
lồ [thời xưa] nâng lên”. Pliny cho rằng:
Ở Ấn
Độ và Ba Tư, các Pháp sư đă phải tham
khảo ư kiến của nàng (Otizoe của Ba Tư)
để tuyển chọn các vị quốc vương
của ḿnh.([758])
Ông c̣n mô tả thêm rằng có
một tảng đá che phủ Harpasa ở Á Châu, và ở
một vị trí sao cho “chỉ cần dùng một ngón tay
cũng có thể khiến cho nó kháng lại”.([759])
Thế th́ tại sao các viên đá đu đưa ở Ái
Nhĩ Lan, hoặc các viên đá Brimham ở Yorkshire lại
cũng không được dùng để bói toán hoặc
thông tri bằng sấm giảng giống như vậy? Các
tảng đá khổng lồ nhất hiển nhiên là di tích
của những người Atlantis; các tảng đá
nhỏ hơn, chẳng hạn như các Tảng đá Brimham
với các viên đá xoay ṿng ở trên đỉnh, chính là các
vật mô phỏng theo các linh thạch xa xưa hơn.
Nếu các Giám mục thời Trung Cổ không hủy
hoại các họa đồ của các Đền thờ rồng mà họ có thể t́m
thấy, th́ khoa học ắt c̣n biết nhiều hơn
nữa về các điều này. ([760])
Thực ra, chúng tôi biết rằng chúng sẽ
được dùng trên khắp thế giới trong các
thời kỳ tiền sử dài đăng đẳng, và
tất cả đều được dùng với cùng
một mục đích là tiên tri và PHÁP THUẬT. É. Biot,
một Viện sĩ của học viện Pháp, có ấn
hành trên quyển Đồ Cổ nước Pháp (Quyển
ix) một bài chứng tỏ rằng Chăttam-parambu ([761])
(“cánh đồng chết”, nghĩa là nghĩa địa
thời xưa ở Malabar) ở cùng địa
điểm với các ngôi mộ cổ ở Carnac; nghĩa
là “một g̣ đất và một nấm mồ ở trung
tâm”. Người ta t́m thấy hài cốt ở các nấm
mồ này, c̣n ông Halliwell cho
chúng ta biết rằng một vài hài cốt này thật là
khổng lồ, dân bản xứ gọi các nấm mồ
này là “chỗ ở của các La sát”, tức những
người khổng lồ. Người ta thấy
nhiều ṿng tṛn đá “xét công tŕnh của năm vị
Păndu, cũng như tất cả mọi đền đài
như thế ở Ấn Độ, nơi mà chúng thật
là đầy dẫy”, khi được mở ra theo
lệnh của Quốc vương Vasariddi, “đều
chứa các hài cốt
người có kích thước rất lớn”.([762])
347
Thế
là De Mirville lại chí lư khi tổng
quát hóa, nếu không phải là khi kết luận. V́ lư
thuyết đă từng được hâm mộ từ lâu
rồi cho rằng các Đền Thờ Rồng hầu
như đều là bằng chứng của các “đại
biến động địa chất trong thiên nhiên”
(Charton) và “công tŕnh của Thiên Nhiên” (Cambry) nay đă bị
bác bỏ, nên ông đă nhận xét chí lư rằng:
Chúng tôi khuyên khoa học
nên suy gẫm…và trên hết, không có xếp các vị Titan và
Người khổng lồ vào loại những huyền
thoại nguyên sơ. Đó là v́ công tŕnh của họ hăy c̣n
đó, sờ sờ ra trước mắt chúng ta, và các
khối đu đưa này dễ dao động trên các
đáy của ḿnh cho tới tận cùng thế giới
để giúp cho chúng nhận định được
một lần chót rằng người ta không phải hoàn
toàn là một ứng viên Charenton khi tin tưởng vào các
kỳ quan mà toàn thể thời xưa đă chứng
thực. ([763])
Đây chính là điều mà
chúng ta không thể lặp đi lặp lại măi, mặc
dù có thể là cả nhà Huyền bí, lẫn tín đồ
Thiên Chúa giáo La Mă đều đang kêu gào trong sa mạc. Tuy
nhiên, chẳng ai lại không thấy rằng khoa học
hiện đại cũng có những suy lư tiền hậu
bất nhất, không nói thêm đâu, chẳng khác ǵ
điều thuyết minh về cái gọi là Thánh Thư
Khải Huyền của thần học thời xưa và
thời Trung Cổ. Khoa học đă tŕnh bày loài
người thoát thai từ loài khỉ - một sự
biến đổi cần tới nhiều triệu năm
– thế nhưng nó lại không dám tŕnh bày là nhân loại có
nguồn gốc xa hơn 100 000 năm! Khoa học giảng
dạy sự biến hóa dần dần của các giống
loài, sự chọn lọc tự nhiên và sự tiến hóa
từ loài thấp nhất đến loài cao nhất,
từ loài nhuyễn thể đến loài cá, từ loài ḅ
sát tới loài chim và động vật hữu nhũ –
thế nhưng nó không chịu chấp nhận cho con
người, xét về mặt sinh lư, y chỉ là một
động vật hữu nhũ cao cấp, có h́nh hài
bị biến đổi như thế. Nhưng nếu con
quái vật kỳ đà long
(Iguanodon) ở Wealden có thể đă là tổ phụ
của con kỳ đà nhỏ bớt thời nay, th́
tại sao con người quái gở trong Giáo Lư Bí Nhiệm
lại không thể trở thành con người hiện nay –
nối liền con vật và thiên thần? Trong “thuyết”
này có ǵ là phản khoa học hơn thuyết không chịu
chấp nhận con người có một Chơn Ngă bất
tử, khiến y biến thành một người máy,
đồng thời xếp y vào một loại riêng
biệt trong Thiên Nhiên chăng? Huyền bí học có thể
không có tính cách khoa học bằng khoa học chính xác
hiện đại, tuy nhiên, chúng có giáo lư hợp lư và
“trước sau như một” hơn. Các lực vật lư
và ái lực tự nhiên của các nguyên tử đủ
để làm các yếu tố biến đổi một cây cỏ thành
một con thú. Thế nhưng chỉ riêng sự
tương tác giữa một vài tập hợp vật
chất và môi trường xung quanh thôi, không đủ
để khai sinh ra người
hữu thức trọn vẹn, cho dù thật ra y
chẳng có ǵ khác hơn là một nhánh nhóc giữa hai “anh em
bà con khốn khổ” (“Poor cousins”) của bộ
động vật bốn chân. Huyền bí học thừa
nhận với Haeckel rằng Sự Sống (hữu h́nh)
trên Địa Cầu “là một định đề
hợp lư của khoa vạn vật học”. Nhưng nó
lại nói thêm rằng việc bác bỏ sự giáng hạ
tiến hóa giống như vậy từ nội tâm ra ngoại cảnh của Sự
Sống Tinh Thần nội tâm vô h́nh – một Nguyên khí
Vĩnh cửu trong Thiên Nhiên- thật là vô lư, nếu có,
hơn việc bảo rằng Vũ trụ và tất
cả những ǵ bao hàm trong đó đều đă
được kiến tạo dần dần bởi “các
lực mù quáng” cố hữu nơi Vật Chất, mà không
có một sự ngoại
viện nào. Giả sử một nhà Huyền bí phải
tuyên bố rằng chiếc đại phong cầm
đầu tiên của một nhà thờ chính, thoạt tiên
đă ra đời như sau: thoạt đầu không gian
có một sự đào luyện dần dần và tiệm
tiến thành ra một vật liệu hữu cơ, kết
quả là tạo ra một trạng thái vật chất
được gọi là chất PROTEIN hữu cơ;
kế đó do tác dụng của các lực ngẫu nhiên,
các trạng thái này đă bị ném vào một giai
đoạn cân bằng không ổn định, chúng dần
dần uy nghi tiến hóa thành các tổ hợp mới
mẻ của gỗ chạm trổ và đánh bóng của kim
gút và kim bằng đồng thau, của da và ngà voi, khí
quản và ống bễ; sau đó, khi các bộ phận
của nó đă được điều chỉnh thành ra
một chiếc máy hài ḥa và cân xứng, chiếc phong
cầm đột nhiên trỗi lên bài Kinh cầu hồn
của Mozart; tiếp theo là một tấu khúc của Beethoven
v.v… cho tới vô tận, các phím đàn của nó tự
hoạt động, gió thổi vào trong các khí quản do
lực và sở thích cố hữu của riêng nó. Khoa
học ắt sẽ bảo sao về một thuyết
như vậy? Thế nhưng các nhà bác học duy vật bảo với chúng ta rằng
Vũ Trụ - với hàng triệu sinh linh và con
người, tột điểm tâm linh của nó – đă
được tạo ra như thế đấy.
348
Cho dù Herbert Spencer
thực ra trong thâm tâm có nghĩ ǵ đi chăng nữa, khi
viết về đề tài sự tiến hóa dần
dần của các giống loài, th́ các lời của ông cũng
áp dụng được cho giáo lư chúng ta.
Nếu giải thích theo khía
cạnh tiến hóa th́ mọi loại thực thể
đều được xem như là sản phẩm
của những sự tiến hóa được tạo ra
do những sự tiến triển nhỏ nhặt của một loại thực
thể đă tồn tại từ trước.([764])
Thế th́ trong trường
hợp này tại sao con người lịch sử lại
không phải là sản phẩm của một sự
biến đổi một loại người tiền
sử đă tồn tại từ trước, thậm chí
giả sử để tiện việc luận chứng
rằng bên trong hắn chẳng
có ǵ tồn tại lâu dài hơn, hoặc sinh hoạt
độc lập với thể xác của hắn?
Nhưng không phải như thế đâu! Đó là v́ khi
chúng tôi được dạy bảo rằng “các chất
hữu cơ được tạo ra trong pḥng thí
nghiệm bởi cái mà chúng ta có gọi theo sát nghĩa là
sự tiến hóa nhân tạo”
([765])
- chúng tôi xin trả lời vị triết gia lỗi
lạc người Anh rằng các nhà Luyện kim đan và
các Cao đồ đă làm giống như vậy, và thật
ra c̣n hơn thế nhiều, trước khi mà các nhà hóa
học đă “thử ra sức kiến tạo các nguyên
tố rời rạc thành các tổ hợp phức
tạp”. Những Người khổng lồ (Homunculi)
của Paracelsus là một sự kiện trong khoa Luyện
kim đan, và rất có thể là sẽ trở thành một
sự kiện trong hóa học, thế rồi con quái vật
Frankenstein của bà Shelly sẽ phải xem là một lời
tiên tri. Nhưng không một nhà hóa học hoặc Luyện
kim đan nào, sẽ phú cho con quái vật như vậy
một điều ǵ khác hơn là bản năng
động vật, trừ phi y thực sự làm
điều mà người ta tin rằng các “Thủy Tổ”
đă làm, nghĩa là bỏ Xác Phàm của chính ḿnh để
đầu thai vào “H́nh Hài Trống Rỗng” (“Empty Form”).
Nhưng ngay cả điều này cũng là một điều giả tạo,
chứ không phải là một người tự nhiên, v́
trong diễn tŕnh tiến hóa vĩnh cửu, các “Thủy
Tổ” của chúng ta phải trở thành các vị Thần trước khi họ
trở thành Con Người.
Phần lạc đề
trên đây – nếu đó thật sự là lạc
đề - là một toan tính để biện minh với
một vài người có suy tư của thế kỷ
sắp tới và những kẻ có thể đọc
được điều này.
349
Nó cũng
tŕnh bày lư do tại sao những người có xu
hướng tâm linh nhất hiện nay không c̣n thỏa măn
với cả khoa học lẫn thần học, và tại
sao họ thích bất kỳ “sự điên cuồng tâm linh”
nào hơn là những điều khẳng định giáo
điều của cả hai bên, v́ không bên nào tŕnh bày
điều ǵ khác hơn là đức tin mù quáng rằng ḿnh không hề sai lầm. Truyền
thuyết Đại đồng
thế giới là kim chỉ nam hết sức an toàn trong
cuộc sống. Và truyền thuyết đại
đồng thế giới chứng tỏ rằng Con
người Nguyên sơ đă sống trong hàng thời
đại cùng với các Đấng Sáng Tạo và các
vị Huấn Sư của ḿnh – Elohim - trong “Vườn
Địa Đàng” hay “Lạc Viên” của Thế giới.([766])
45. NHỮNG TRẬN NƯỚC LỤT
ĐẦU TIÊN ĐĂ XẢY RA. CHÚNG NHẬN CH̀M BẢY H̉N
ĐẢO LỚN (a).
46. TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI THÁNH
THIỆN ĐỀU ĐƯỢC CỨU THOÁT, NHỮNG
KẺ BẤT HẢO BỊ DIỆT VONG. CÙNG BỊ TIÊU
DIỆT VỚI NHỮNG NGƯỜI NÀY LÀ HẦU HẾT
CÁC CON THÚ KHỔNG LỒ, ĐƯỢC TẠO RA TỪ
MỒ HÔI CỦA TRÁI ĐẤT (b).
a. V́ đề tài này –
trận Đại hồng thủy thứ tư trên
Địa Cầu trong cuộc Tuần Hoàn này – sẽ
được bàn tới rốt ráo trong Tiết tiếp
theo ĐOẠN
KINH cuối cùng, nên
hiện nay, nói thêm một điều nào nữa ắt
chỉ là một sự đi trước mà thôi. Bảy Ḥn
Đảo Lớn (Dvĩpas) thuộc về Lục
địa Atlantis. Giáo lư Huyền môn cho biết rằng
cơn Đại hồng thủy đến với
Giống dân thứ Tư Khổng lồ không phải v́
sự sa đọa của họ, hay bởi v́ họ
trở nên “đen tối v́ tội lỗi”, mà đó chỉ
là v́ định mệnh của mỗi lục địa,
cũng như tất cả mọi vật ở
dưới bóng mặt trời phải trải qua những
giai đoạn thành, thịnh, suy, hủy. Việc xảy
ra khi Giống dân thứ Năm c̣n ấu trĩ.
b. Như thế, những
Người Khổng Lồ bị tiêu diệt – truyền
thuyết hoang đường của dân gian nói thêm rằng
đó là các Pháp sư và các Phù thủy. Nhưng “tất
cả những người thánh thiện được
cứu thoát”, chỉ có “những kẻ bất hảo là
bị hủy diệt”. Tuy nhiên, việc ấy cũng là do
sự tiên tri của
những người “thánh thiện”, họ vẫn c̣n
quyền năng sử dụng Con Mắt Thứ Ba của
họ, cũng như do Nghiệp Quả báo ứng và
Định Luật Thiên Nhiên. Nói về Giống dân kế tiếp,
Giống dân thứ Năm chúng ta, Thiên b́nh luận viết:
Chỉ
có một thiểu số những Kẻ được
chọn mà các Đấng Giáo Huấn của họ sẽ
giáng phàm trên Đảo Thiêng –“từ đó vị Cứu
Thế cuối cùng sẽ đến”- giữ cho nhân
loại khỏi giết hại lẫn nhau [như họ
đang làm trong thời buổi hiện tại –H.P.B.]. Nhân
loại trở nên chia rẽ. Hai phần ba nhân loại
bị cai trị bởi những Triều đại
của những Chơn Linh thấp kém, vật chất
của Trái Đất, họ chiếm lấy thể xác
để nhập vào; c̣n một phần ba vẫn trung kiên
và gia nhập với Giống dân thứ Năm đang
trưởng thành – các Đấng Hóa Thân Thiêng Liêng. Khi hai
Cực (của trái đất-LND) chuyển động
[lần thứ tư] điều này sẽ không ảnh
hưởng ǵ đến những người
được che chở và tách rời khỏi Giống dân
thứ Tư. Cũng như Giống dân Lemurians – chỉ có
những người Atlantis bất hảo, đọa
lạc mới bị diệt vong và “không c̣n thấy
nữa”…!
ĐOẠN KINH 12
350
GIỐNG DÂN THỨ NĂM VÀ
CÁC ĐẤNG CHƯỞNG GIÁO THIÊNG LIÊNG
(THE FIFTH RACE AND
ITS DIVINE INSTRUCTORS)
47. Các tàn dư
của hai Giống dân đầu tiên đă biến mất
măi măi. Các nhóm dân Atlantis khác nhau được cứu thoát
khỏi trận Đại Hồng thủy cùng với các
Thủy Tổ của Giống dân thứ Năm chúng ta
hiện nay. 48. Cội nguồn của Giống dân thứ
Năm hiện nay của chúng ta. Các Triều đại
Thiêng liêng đầu tiên. 49. Các tia sáng lờ mờ xa
xưa nhất trong lịch sử nay lại
được gắn liền vào một niên đại kư
ẩn dụ của Thánh kinh, và lịch sử “thế
giới” mù quáng đi theo nó. Bản chất các vị Giáo
huấn và Khai hóa tiền phong của nhân loại.
47. ÍT NGƯỜI C̉N LẠI. MỘT SỐ NGƯỜI DA VÀNG, MỘT SỐ DA NÂU VÀ ĐEN, VÀ MỘT SỐ DA ĐỎ ĐĂ Ở LẠI. NHỮNG NGƯỜI DA MÀU MẶT TRĂNG ĐĂ ĐI LUÔN KHÔNG C̉N TRỞ LẠI (a).
48. GIỐNG DÂN THỨ NĂM ĐƯỢC TẠO RA TỪ NGUỒN GỐC THIÊNG LIÊNG ĐĂ Ở LẠI; GIỐNG DÂN NÀY ĐƯỢC CAI TRỊ BỞI NHỮNG VỊ THÁNH VƯƠNG ĐẦU TIÊN.
49. … [CÁC CON RẮN] ĐĂ GIÁNG LÂM TRỞ LẠI, ĐĂ LÀM H̉A THUẬN VỚI GIỐNG DÂN THỨ NĂM, ĐĂ DẠY DỖ VÀ GIÁO HÓA NÓ (b)…
a. Câu kinh 47 này nói về
Giống dân thứ Năm. Lịch sử không bắt
đầu với Giống dân này, nhưng truyền
thống th́ vẫn luôn luôn nhắc đến nó. Lịch
sử - hay cái gọi là lịch sử - không đi xa hơn
những nguồn gốc hoang đường của
phụ chủng thứ năm của chúng ta, chỉ có “vài
ngàn năm” trở lại đây. Câu nói “một số
người da vàng, một số da nâu và đen, và một
số da đỏ ở lại” là nói về phân chi của
phụ chủng thứ nhất của Giống dân thứ
Năm. Những người “da màu mặt trăng”- tức
là Giống dân thứ Nhất và Giống dân thứ Hai –
đă đi luôn không để lại dấu vết. Lùi
về dĩ văng tới tận trận Đại hồng
thủy của dân Lemuria (Giống dân thứ Ba), đuôi con
“Rồng Lớn” quét sạch các quốc gia ra khỏi
mặt đất chỉ trong một cái chớp mắt.
Đó là ư nghĩa thực sự của câu kinh trong Thiên b́nh
luận sau:
CON RỒNG LỚN chỉ kiêng nể
có CON RẮN MINH TRIẾT
mà thôi, những Con Rắn mà hiện nay đang ở
dưới Tảng đá Ba góc.
Tức là “các Kim tự
tháp ở bốn phương của thế giới”.
351
b. Câu này nói rơ
điều đă được đề cập
đến nhiều lần trong Thiên b́nh luận, tức là
các bậc Tiên Thánh hay các Đấng Thông Tuệ của ba
Giống dân (thứ Ba, thứ Tư và thứ Năm)
ngụ trong những nơi trú ẩn dưới ḷng
đất, thường là ở dưới hầm
của một kiến trúc h́nh kim tự tháp, nếu không là
một kim tự tháp thực sự. Những “kim tự
tháp” ấy vốn có ở “bốn phương trời”
chứ không phải chỉ là độc quyền sở
hữu của quê hương các vị vua Pharaons (tiếng
Anh: Pharaohs), trước khi người ta t́m thấy các kim
tự tháp ấy ở rải rác khắp nơi tại Nam
Mỹ và Bắc Mỹ, trên mặt đất cũng như
dưới hầm, dưới ḷng đất và ở
những khu rừng thiêng chưa từng có chân người
đến, cũng như ở trên đồng bằng hay
thung lũng, th́ người ta vẫn tưởng rằng
chúng là những tài sản độc đáo của Ai
Cập mà thôi. Nếu những kim tự tháp thực sự
không c̣n được t́m thấy nữa ở các xứ
Châu Âu, th́ nhiều hang động khoét trong núi đá,
những tháp nhọn ba góc, h́nh bánh ít hay h́nh nón lá ở
xứ Morbihan và Brittany, nhiều tháp tương tự ở
Dan Mạch và chí đến những “ngôi mộ khổng
lồ” ở đảo Sardaigne (Sardinia) đều là
những bản sao ít vụng về của các kim tự
tháp. Phần lớn những tháp này là công tŕnh của
những người định cư trên lục
địa và trên những cù lao ở Châu Âu mới h́nh thành.
Họ là “một số người da vàng, một số da
nâu và đen, và một số da đỏ” đă sống sót
sau vụ tai biến nhận ch́m những lục
địa và cù lao cuối cùng của Châu Atlantis cách đây
850 000 năm và trước khi những người của
chủng tộc Ăryan xuất hiện. C̣n những ngọn
tháp khác là công tŕnh xây cất của những giống
người từ phương Đông đến
định cư tại đây. Những kẻ nào khó có
thể chấp nhận việc con người có nguồn
gốc xa xưa tới 57 000 năm, tuổi mà Tiến
sĩ Dowler đă gán cho bộ xương mà ông t́m thấy
ở New Orleans trên bờ sông Mississipi, dĩ nhiên, sẽ bác
bỏ các sự kiện này. Nhưng một ngày kia, có
thể họ sẽ thấy là ḿnh đă sai lầm. Chúng ta
có thể làm hạ giảm sự tự tôn vinh một cách
điên rồ của dân Arcad, giống dân này tự cho là
ḿnh “già hơn Mặt Trăng”, và dân tộc Attica, dân tộc
này tự cho là ḿnh đă tồn tại trước khi
Mặt Trời xuất hiện trên Bầu Trời –
nhưng không chối bỏ được nguồn gốc
xa xưa của họ. Chúng ta cũng không thể chế
nhạo niềm tin tưởng đại đồng
thế giới cho rằng chúng ta có các vị tổ tiên
khổng lồ. Sự kiện rằng hài cốt của
loài khổng tượng và trụ nha tượng, và có khi
là hài cốt của một con kỳ nhông khổng lồ,
đă bị nhầm lẫn là hài cốt người, không
hề dẹp tan được điều khó hiểu sau
đây: trong tất cả động vật hữu
nhũ, con người là loài duy nhất mà khoa học
sẽ không cho phép nhỏ bớt đi, giống như
tất cả những con thú khác, từ một
người khổng lồ thời Hồng Thủy (giant Homo
Diluvii) biến thành một tạo vật chỉ cao từ
năm đến sáu feet như hiện nay.
Nhưng các “Rắn Minh
Triết” đă bảo tồn kỹ lưỡng
được các tài liệu của ḿnh, và lịch sử
tiến hóa của loài người được truy nguyên
trên Trời cũng như trên các nhân loại và các v́ Sao có liên hệ chặt
chẽ với nhau, v́ có các Đấng
Thông Tuệ chưởng quản các v́ sao.
Các nhà biểu
tượng học hiện tại có thể chế
giễu các điều này và gọi là điều “hoang
đường”, nhưng Staniland Wake lại cho rằng :
Nhất
định trong huyền thoại của một vài dân
tộc Đông phương, trận Đại hồng
thủy đă từng liên hệ chẳng những với
các Kim tự tháp mà c̣n với các cḥm sao nữa. ([767])
“Cựu Long”(“Old Dragon”)
lại đồng nhất với trận “Đại
hồng thủy”. Ông Proctor cho rằng:
352
Chúng
ta biết rằng trong quá khứ, cḥm sao Thiên Long ở Cực,
hoặc chỗ lồi lên của Thiên cầu. Trong các
đền thờ sao … cḥm sao Thiên Long ắt là cḥm sao
tột đỉnh hoặc chủ quản … Thật là
kỳ diệu, khi những cḥm sao này … lại tương
quan vô cùng chặt chẽ từng phần một trong
chuỗi những sự kiện diễn tiến
được ghi nhận là liên quan tới trận
Đại hồng thủy [trong Thánh kinh]. ([768])
Tuy nhiên, , lư do của sự kỳ diệu này đă
được minh giải đầy đủ trong tác
phẩm này. Nó chỉ chứng tỏ rằng có nhiều trận Đại
hồng thủy lẫn lộn trong kư ức và truyền
thuyết của những phụ chủng của Giống
dân thứ Năm. Trận Lụt đầu tiên có ư
nghĩa về thiên văn và vũ trụ, c̣n những
trận lụt khác thuộc về địa cầu. Thế nhưng, ông bạn
Gerald Massey rất thông thái của chúng ta – một
người thực sự được điểm hóa
vào các bí nhiệm của Viện Bảo Tàng Anh Quốc, song
vẫn chỉ là một người tự điểm hóa
(self-initiate) – đă tuyên bố và nhấn mạnh rằng
sự đắm ch́m Châu Atlantis và trận Đại
hồng thủy chỉ là các điều tưởng
tượng được nhân cách hóa của người
thiếu hiểu biết, và Châu Atlantis chẳng có ǵ khác
hơn là một “ẩn dụ thiên văn”. Nhưng
đại ẩn dụ Hoàng Đạo lại dựa vào
các biến cố lịch sử và ẩn dụ khó ḷng có
thể dính dáng tới lịch sử; hơn nữa,
mọi môn sinh Huyền bí học đều biết ẩn
dụ thiên văn và hoàng đạo là ǵ. Tiến sĩ Smith
tŕnh bày chân ư nghĩa ẩn dụ trong bản Anh hùng ca
Nimrod của các thần biểu Assyria:
[Mười hai
đoạn thơ của nó] nhắm nói tới hành tŕnh
hằng năm của Mặt Trời qua mười hai
tháng trong một năm. Mỗi thần biểu tương
ứng với một tháng đặc biệt và một
điều đặc biệt ám chỉ các h́nh dạng thú
vật trong các Cung Hoàng Đạo… [đoạn thứ
mười một] dành riêng cho Rimmon, Thần mưa băo, và
tương ứng với cung Hoàng Đạo thứ
mười một – cung Bảo B́nh. ([769])
Nhưng trong các Tài liệu
cổ, trước cả điều này cũng có trận
Lụt tiền thiên văn, nó đă được ẩn
dụ hóa và biểu tượng hóa thành trận Đại
hồng thủy Noah hay Hoàng Đạo nêu trên. Nhưng
điều này chẳng dính dáng ǵ tới Châu Atlantis. Các Kim
Tự Tháp có liên quan chặt chẽ với những ư
niệm về cḥm sao Đại Long, các “Rồng Minh
Triết”, tức là các bậc đại Điểm
Đạo của Giống dân thứ Ba và Giống dân
thứ Tư, và những trận ngập lụt của
sông Nile được xem như một sự nhắc
nhở của thiêng liêng về trận Đại hồng
thủy ở Châu Atlantis. Tuy nhiên, những dữ kiện
về thiên văn của Lịch sử toàn diện của
Vũ Trụ được xem như bắt đầu
với phụ chủng thứ ba của Giống dân
thứ Tư hay Atlantis. Nó tồn tại từ bao giờ?
Giáo lư Huyền môn cho biết rằng kể từ thời
kỳ thiết lập những phương pháp tính toán
thiên văn theo Hoàng Đạo ở Ai Cập, hai cực của trái đất
đă trải qua ba lần đảo lộn.
353
Nay chúng ta sẽ trở
lại phát biểu này. Các biểu tượng
được biểu diễn bằng các Cung Hoàng
Đạo – một sự kiện mà các nhà Duy vật đă
dựa vào các thuyết và ư nghĩa một chiều (thiên
vị) của ḿnh vào đó – có một ư nghĩa quá thâm thúy
và các tác dụng quá quan trọng đối với Nhân
loại, nên chúng ta không thể bác bỏ bằng một ít
lời được. Trong khi đó, chúng ta phải xét
tới ư nghĩa của phát biểu trong Câu kinh 48 liên quan
tới các “Thánh Vương đầu tiên”, nghe nói các Ngài
đă “tái giáng lâm” dẫn dắt và giáo huấn Giống dân
thứ Năm chúng ta sau khi có trận Đại hồng
thủy cuối cùng! Chúng ta sẽ xét lời khẳng
định cuối cùng này về mặt lịch sử
trong các Tiết sắp tới, nhưng chúng ta phải
kết thúc bằng một vài chi tiết thêm nữa bàn
về đề tài “Rắn”.
Các giảng lư sơ
lược về các ĐOẠN
KINH Cổ sơ phải
chấm dứt ở đây, muốn minh giải thêm
nữa, cần phải có các bằng chứng rút ra từ
các tác phẩm thời xưa, thời nay và thời Trung
cổ vốn đă bàn về các đề tài này. Nay chúng ta
đă thu thập, đối chiếu và sắp xếp
tất cả các bằng chứng này lại cho có thứ
tự hơn, để độc giả bắt buộc
phải quan tâm tới các chứng cớ lịch sử này.
Và v́ chúng ta không bao giờ có thể quá nhấn mạnh
tới ư nghĩa đa tạp của biểu tượng
kỳ quặc và gợi ư (rất hay được
nhắc đến) về “kẻ quyến rũ con
người” – theo khía cạnh chính thống của Giáo
hội – nên dường như chúng ta cần phải bàn
rốt ráo về đề tài này trong giai đoạn này,
cho dù có nguy cơ là phải lặp đi lặp lại. Các
vị Khổng lồ Titan và Kabir bao giờ cũng
được các nhà thần học và một vài nhà
biểu tượng học ngoan đạo tŕnh bày là có liên
quan mật thiết với nhân vật quái gở
được mệnh danh là “Ma Quỷ”, và mọi bằng
chứng nghịch lại thuyết này cho đến nay bao
giờ cũng bị bác bỏ và lờ đi. Do đó, nhà
Huyền bí không được bỏ qua bất cứ
điều ǵ có thể có khuynh hướng phá rối âm
mưu vu khống này. Và v́ thế chúng tôi xin đề
nghị chia các đề tài bao hàm trong ba Câu kinh chót này thành
ra nhiều nhóm và xem xét chúng một cách cẩn thận và
rốt ráo hết mức. Như thế, chúng ta có thể ghi
thêm một vài chi tiết nữa vào các bằng chứng
tổng quát thời xưa dựa vào các giáo điều
bị dị nghị nhiều nhất của Huyền bí
học và Nội môn Bí giáo – tuy nhiên, chúng ta sẽ t́m
thấy đa số các điều đó trong Quyển 4,
Phần 2, bàn về Biểu tượng kư.
RẮN VÀ RỒNG TRONG
NHIỀU
BIỂU TƯỢNG KƯ KHÁC NHAU.
Ở Chaldea, tên của Con
Rồng không được viết ra để phát âm, mà
là được biểu diễn bằng hai chữ
kết, theo các nhà Đông phương học, hai chữ này
có nghĩa là “con vật có vảy”. G. Smith đă nhận xét
rất thích đáng rằng: “Dĩ nhiên là sự mô tả
này có thể áp dụng cho, hoặc là một con rồng
huyền thoại hoặc là một con rắn hay là một
con cá”. Chúng ta có thể nói thêm rằng về một
phương diện nào đó, điều này áp dụng cho
Makara, Cung Hoàng Đạo thứ mười, từ ngữ
Bắc Phạn để chỉ con vật lưỡng
cư khó tả, thường được gọi là con
sấu, nhưng thật ra có nghĩa là một điều
ǵ khác nữa. Thế th́, đây thực sự là một
sự công nhận rằng dù sao đi nữa, các nhà nghiên
cứu về Assyria chẳng biết ǵ chắc chắn
về t́nh trạng của Con Rồng ở cổ Chaldea.
Người Hebrew đă kế thừa biểu tượng
kư của Chaldea, có điều là sau đó các tín đồ
Thiên Chúa giáo đă cướp lấy nó, họ đă tŕnh
bày “con vật có vảy” là một thực thể sống
động và một quyền năng độc ác.
Chúng ta có thể thấy một kiểu mẫu Rồng “có cánh và có vảy” trong Viện Bảo Tàng Anh quốc. Cũng như nhân vật có thẩm quyền nêu trên trong việc tŕnh bày các biến cố này về sự Sa Đọa, cũng có hai gương mặt ngồi ở mỗi bên của một “cây” và cầm “trái táo” trên tay, trong khi ở đàng sau “cái cây” là Rồng-Rắn. Xét về mặt bí truyền, hai nhân vật này là hai “người Chaldea” sẵn sàng được Điểm đạo, Con Rắn tiêu biểu cho Đấng Điểm Đạo; c̣n các Thần ghen tỵ, đọa đày của ba vị trên, chính là hàng giáo phẩm thế tục ngoại môn. Bất cứ nhà Huyền bí nào cũng có thể thấy là ở đó chẳng có bao nhiêu “biến cố trong Thánh kinh” theo sát nghĩa !
354
ĐOẠN
KINH dạy:
“Đại Long chỉ tôn kính các Rắn Minh Triết”,
như thế là nó đă chứng minh rằng lời
giải thích của chúng tôi về hai nhân vật và “Con
Rắn” thật là chính xác.
“Các
Con Rắn đă tái lâm, … dạy dỗ” Giống dân
thứ Năm. Ngày nay liệu một người minh
mẫn nào có thể tin rằng ở đây người ta
muốn nói tới những con rắn thực sự? V́ thế mới có sự phỏng
đoán – nay hầu như đă trở thành một công lư
đối với các nhà khoa học – rằng cổ nhân
đă có viết về đủ loại Rồng và Rắn
thiêng liêng, đều hoặc là mê tín dị đoan, dễ
tin, hoặc là có khuynh hướng lừa gạt những
kẻ dốt nát hơn ḿnh. Thế nhưng, từ thời
Homer trở đi, từ ngữ trên ám chỉ một
điều ǵ mà kẻ phàm tục không tài nào hiểu
được.
“Khi các vị Thần biểu
lộ th́ họ thật là khủng khiếp”- đó là các
vị Thần mà loài
người gọi là Rồng.
Trong tác phẩm Bàn về Thế Giới Sinh Vật, khi
đề cập tới các biểu tượng rắn
này, Aelianus đă đưa ra một vài nhận xét chứng
tỏ rằng ông thừa hiểu bản chất của
những biểu tượng tối cổ này. Như
thế, khi nhắc đến câu thơ nói trên của Homer,
ông đă giải thích thật là thích đáng rằng:
Đó là v́, mặc dù linh thiêng
và được thờ phụng, song Con Rồng có bao hàm
một điều ǵ có bản chất c̣n thiêng liêng hơn
nữa mà tốt hơn là [những kẻ khác?] không nên
biết tới.([770])
Biểu tượng
“Rồng” có một ư nghĩa thất nguyên, và trong số ư
nghĩa này, chúng ta chỉ có thể tŕnh bày một ư
nghĩa cao nhất là “Đấng Tự Sinh”, Thiên
Đạo (Logos), Đấng Bất Sinh Bất Diệt
của Ấn Độ. Đối với các tín
đồ Thiên Chúa giáo theo phái Ngộ Đạo,
được mệnh danh là các kẻ thờ Rắn;
đó chính là Ngôi Hai của Ba Ngôi, tức là Ngôi Con. Ngài có
biểu tượng là cḥm sao Thiên Long.([771]) Bảy “Ngôi Sao” của nó là
bảy ngôi sao “Thủy và Chung” (“Alpha and Omega”) cầm trong
tay, theo Thánh Thư Khải Huyền. Theo ư nghĩa thế
tục nhất, từ ngữ “Rồng” được dùng
cho những người “Minh Triết”.
355
Phần biểu
tượng kư tôn giáo cổ truyền này rất bí hiểm
và huyền bí, và kẻ phàm tục ắt không thể
hiểu được. Ngày nay, bên tai các tín đồ Thiên
Chúa giáo, vẫn inh ỏi lời than phiền rằng
mặc dù thời hiện đại vẫn khoe rằng
ḿnh văn minh, song nó hầu như không thể không bị
xem là một sự tố cáo trực tiếp nhất
nhắm vào các giáo điều được ưa
chuộng nhất của Thiên Chúa giáo. Lấy công tâm mà nói,
th́ muốn bàn về một đề tài như thế,
cần phải có ng̣i bút và siêu tài của Milton; thi ca hư
cấu của ông ngày nay đă bén rễ trong Giáo hội
như là một giáo điều Thiên khải.
Liệu ẩn dụ
về Con Rồng và giả sử là người đă chinh
phục được nó ở trên Trời, có nguồn
gốc với Thánh John trong Thánh Thư Khải Huyền
chăng? Chúng tôi xin quả quyết rằng không. Con
Rồng của Thánh John là Thần Neptune, biểu
tượng của Pháp thuật Atlantis.
Để chúng tôi có
thể chứng minh sự phủ nhận này, xin
độc giả hăy xét biểu tượng kư về
Rắn hoặc Rồng với nhiều khía cạnh.
CÁC CHỮ TƯỢNG H̀NH VŨ TRỤ VÀ TINH
ĐẨU
(THE SIDEREAL AND COSMIC GLYPHS)
Mọi nhà thiên văn
học – không kể các nhà Huyền bí và nhà chiêm tinh –
đều biết rằng, nói một cách bóng bẩy, th́
Tinh Tú Quang, Ngân Hà, Đường đi của Mặt
Trời tới Bắc và Nam chí tuyến, cũng như là
các Ṿng của Năm Vũ Trụ hoặc Năm Thái
Dương, luôn luôn được gọi là “Rắn” trong
thuật ngữ ẩn dụ và thần bí của các Cao
đồ.
Điều này như
thế đấy, xét về mặt vũ trụ cũng
như là ẩn dụ. Poseidon là một “Con Rồng” – Con
Rồng “Clozzar, mà kẻ phàm tục gọi là Neptune” theo các
môn đồ phái Ngộ Đạo Peratae, “Linh Xà”,
Đấng Cứu Thế của những kẻ thờ
Rắn, biểu tượng trên trời của nó là cḥm sao
Thiên Long.
Nhưng chúng ta phải phân
biệt tính chất của những loại khác nhau của
biểu tượng này. Nay Nội môn Bí giáo của Bái
Hỏa giáo lại đồng nhất với Giáo Lư Bí
Nhiệm. Khi một nhà Huyền bí thấy trong tác phẩm
Vendĩdăd có những lời than phiền về “Rắn”,
các vết cắn của nó đă biến mùa xuân vĩnh
cửu tươi đẹp của Airyana Vaẽjơ thành ra
mùa đông, sinh ra bệnh tật và chết chóc, cũng
như là sự tàn phá trí tuệ và tâm linh - th́ y biết
rằng con Rắn đó ám chỉ Bắc Cực, cũng
như là Cực của các cơi Trời. ([772])
Hai trục này tạo ra các mùa tùy theo góc nghiêng của chúng
với nhau. Hai trục này không
c̣n song song với nhau nữa; v́ thế mùa xuân vĩnh
cửu của Airyana Vaẽjơ
“do ḍng sông hiền ḥa Dăitya” đă biến mất và vị
“pháp sư Ăryan Maggi phải di cư tới Sogdiana” – theo
lối tường thuật ngoại môn. Nhưng Nội
môn Bí giáo xác nhận rằng cực đă chuyển sang xích
đạo và “Lạc Cảnh Bồng Lai” (“Land of Bliss”)
của Giống dân thứ Tư mà nó đă kế thừa
của Giống dân thứ Ba nay đă trở thành vùng
đất hoang vu và buồn khổ. Chỉ riêng sự
kiện này cũng phải là một bằng chứng không
thể chối căi được về nguồn gốc
rất xa xưa của Thánh kinh Bái Hỏa giáo. Nhưng
người Tân Ăryan thuộc thời hậu Đại
hồng thủy dĩ nhiên là khó ḷng có thể nhận ra
được các ngọn núi mà trên đỉnh của chúng
các tổ phụ của họ đă giáp mặt với
Trận Lụt, và đàm thoại với các vị “Yazatas”
thuần khiết hay các Tinh Quân Ngũ Hành, mà họ đă
chia xẻ sự sống và trận lụt. Eckstein đă
chứng tỏ rằng:
356
Tác
phẩm Vendĩdăd dường như đă vạch ra
sự đổi thay triệt để trong bầu không
khí của Trung Á; các trận núi lửa phun dữ dội và
sự sụp đổ của toàn bộ một rặng
núi ở gần dăy núi Kara-Korum.([773])
Theo Eusebius, lạ lùng thay
ông đă từng tŕnh bày chân lư, người Ai Cập đă
tượng trưng Vũ Trụ bằng một ṿng tṛn
lớn rực cháy với một con rắn có một
đầu diều hâu nằm băng qua đường
kính của nó.
Ở đây, chúng ta thấy
cực của trái đất bên trong mặt phẳng
của Hoàng Đạo kèm theo mọi hậu quả nóng
bỏng ắt phải xuất phát từ một t́nh
trạng bầu trời như thế; trong khi hơn 25.000
năm toàn thể
Hoàng Đạo ắt đă phải “đỏ ửng v́
ánh quang huy của mặt trời” và mỗi cung ắt phải thẳng đứng so
với vùng cực. ([774])
Như đă giải thích
trước kia, Núi Tu Di (meru) Chỗ trú của chư Thiên,
được định vị ở Bắc Cực, c̣n
Pătăla (Địa Ngục) được giả sử là
hướng về phía Nam. V́ trong Nội môn Bí giáo, mỗi
biểu tượng đều có bảy ch́a khóa, nên xét về mặt địa lư,
Núi Tu Di và Địa Ngục có một ư nghĩa
tượng trưng cho các địa điểm, c̣n xét
về mặt thiên văn, chúng lại có một ư nghĩa
khác và ám chỉ “hai cực”. Ư nghĩa vừa nêu khiến cho
trong ngoại môn hiển giáo của các chi phái, người
ta thường gọi chúng là “Núi” và “Âm Phủ”, hoặc
Thiên Đường và Địa Ngục. Nếu hiện
giờ người ta chỉ xét tới ư nghĩa thiên
văn và địa lư, th́ chúng ta có thể thấy rằng
Cổ nhân đă biết tới thuật vẽ bản
đồ và bản chất của các vùng Bắc Cực và
Nam Cực c̣n nhiều hơn bất kỳ nhà thiên văn
học hiện đại nào. Họ cũng có lư lắm
chứ, v́ đă gọi một thứ là “Núi”, c̣n thứ kia là “Âm
Phủ”. Tác giả vừa dẫn đă giải thích
rằng Helion và Acheron cũng có nghĩa gần như nhau.
“Heli-on là Mặt Trời ở vị trí cao nhất”, Heli-os
hay Eli-os có nghĩa là “tối cao”, c̣n Acheron là 32 độ
ở trên cực và 32 độ ở dưới cực;
như thế người ta đă giả sử là con sông
ẩn dụ đă chạm tới chân trời phía bắc
vĩ độ 32 độ. Mặt lơm khổng lồ luôn
luôn khuất mắt chúng ta và bao quanh Nam Cực,
được các nhà thiên văn học đầu tiên
gọi là Âm Phủ, c̣n khi quan sát về phía Bắc Cực,
thấy rằng một mạch nào đó ở Thiên Giới
bao giờ cũng xuất hiện trên chân trời, th́
họ gọi là Núi. V́ Meru là chỗ trú cao ngất của
chư Thiên, nên nghe nói các Đấng này cứ lên xuống một cách tuần
hoàn; xét về mặt thiên văn, điều này ám chỉ
các vị Thần Hoàng Đạo
việc chuyển từ cực Bắc nguyên thủy
của Đất sang cực Nam của Trời.
357
Vào thời
kỳ này, vào lúc giữa trưa, Hoàng Đạo ắt
sẽ song song với kinh tuyến, và một phần
của Hoàng đới sẽ từ Bắc Cực giáng
xuống đường chân trời phía Bắc, băng qua
tám khúc cuộn của con rắn [tám năm
vũ trụ tức trên 200 000 năm dương lịch]
nó có vẻ giống như một cái thang tưởng tượng có tám nấc, bắt dưới đất lên
tới địa cực, nghĩa là ngai báu của Jove.
Thế là các Thần, nghĩa là các cung Hoàng Đạo
liền leo lên, leo xuống chiếc thang này. [Thang của
Jacob và các Thiên Thần]… Đă hơn 400 000 năm trôi qua
từ khi Hoàng Đạo tạo ra các cạnh bên của
thang này.
([775])
Đây là một sự
giải thích tài t́nh, cho dù nó vẫn đượm chút ít
sắc thái ngoại đạo huyền bí. Thế nhưng,
nó c̣n gần gũi với chân lư hơn nhiều
điều có tính cách khoa học và nhất là có tính cách
thần học. Như đă nói, thoạt tiên Ba Ngôi Thiên Chúa
có tính cách thuần túy thiên văn. Chính điều này đă
khiến cho Rutilius nhắc đến những kẻ phong
thần hóa nó như sau: “Dân Do
Thái cơ bản là ngu đần”
Những kẻ phàm phu,
nhất là những giáo dân Thiên Chúa cuồng tín cứ
mải mê t́m kiếm sự bổ chứng của khoa
học cho các kinh điển chấp nê văn tự của
ḿnh, cứ khăng khăng xem Thiên Cực là Con Rắn
thực sự trong Sáng Thế Kư, Satan, kẻ thù của nhân
loại, trong khi đó thực ra chỉ là một ẩn
dụ. Khi người ta bảo rằng các vị Thần
đă bỏ Trái Đất, điều này không những các
vị Thần, các vị Bảo Trợ và Giáo Huấn, mà
c̣n ám chỉ các vị tiểu Thần,
các Đấng chưởng quản các Cung Hoàng Đạo.
Các Thần, với vai tṛ là các Thực Thể khai sinh ra,
nuôi dưỡng và giáo huấn Nhân loại trong buổi
thiếu thời – xuất hiện trong mọi Thánh kinh
của Bái Hỏa giáo cũng như trong các kinh Phúc Âm Ấn
Độ. Ormazd tức Ahura Mazda, “Đấng Minh Triết”
là tổng hợp của các vị Amshaspends, tức là Amesha
Spentas, các “Ân nhân Bất tử”, ([776])
“Huyền Âm” tức Thiên Đạo và sáu khía cạnh cao siêu
nhất của nó trong Bái Hỏa giáo. Các “Ân nhân Bất
tử” này được mô tả như trong Zamyad Yasht
như sau:
Các vị Amesha
Spentas, các Đấng chói lọi, có cặp mắt hữu
hiệu, vĩ đại, ân cần, giúp đỡ …
bất tử và tinh khiết … tất cả bảy vị
đều suy nghĩ và nói năng như nhau, đều làm
như nhau… đó là các vị
sáng tạo ra và hủy diệt các tạo vật của
Ahura Mazda, các Đấng sáng tạo và giám thị chúng,
bảo vệ và cai trị chúng.
Một vài ḍng như trên
cũng đủ biểu thị tính cách nhị phân và
thậm chí tam phân của các Amshaspends, các Thiền
Định Đế Quân của chúng ta tức các “Rắn
Minh Triết”. Các Ngài đồng nhất với song vẫn
tách biệt với Ormazd (Ahura Mazda). Các Ngài cũng là các Tinh
Tú Thiên Thần của các tín đồ Thiên Chúa giáo – các
vị Yazatas tinh tú của Bái Hỏa giáo – cũng như là
bảy Hành Tinh (kể từ Mặt Trời) của
mọi tôn giáo. ([777])
H́nh dung từ “Đấng chói lọi, có đôi mắt
hữu hiệu” đă chứng tỏ điều này.
Điều này lại tồn tại trên cơi trần và cơi
tinh đẩu. Trên cơi tinh thần, đó là các Quyền
năng của Ahura Mazda, nhưng trên cơi tâm linh hay cảm
dục, đó lại là các “Đấng Kiến Tạo”, các
“Đấng Giám Thị”, các vị Pitris hay Thủy Tổ,
và các bậc Huấn Sư đầu tiên của Nhân
loại.
358
Khi thế
nhân đă tiến hóa đúng mức về mặt tinh
thần th́ sẽ không cần bắt buộc họ
phải hiểu biết đúng đắn về Minh
Triết cổ truyền nữa. Bấy giờ Con
Người sẽ biết rằng chưa bao giờ có
một Đấng cải cách
Thế giới nào có tên tuổi c̣n lưu truyền
đến tận thế hệ chúng ta mà lại (a) không
phải là phân thân trực tiếp của Thiên Đạo
(với bất kỳ danh xưng nào mà chúng ta biết),
nghĩa là một hóa thân bản
thể của một trong “Bảy Đấng” của
“Đấng Chơn Linh thất phân”; và (b) đă không
xuất hiện trước đó, trong các Chu kỳ quá
khứ. Bây giờ họ sẽ nhận ra nguyên nhân gây ra
một vài bí ẩn của các thời đại, trong
cả lịch sử lẫn niên đại kư, chẳng
hạn như lư do tại sao họ không thể qui bất
cứ nhật kư đáng tin cậy nào cho Zoroaster, Ngài đă
phân thân ra mười hai và mười bốn phần trong
tác phẩm Dabistăn; tại sao số lượng và cá tính
của các Thánh Hiền và các Bàn Cổ lại bị
trộn lẫn với nhau như thế; tại sao Krishna
và Đức Phật lại xem chính ḿnh là các tái sinh luân hồi,
Krishna đồng nhất ḿnh với Thánh Hiền Nărăyana,
c̣n Đức Phật Thích Ca lại tŕnh bày một loạt
các tiền kiếp của ḿnh; và nhất là tại sao
Krishna, vốn là “Brahmă tối
cao”, song vẫn được gọi là Amshămshăvatăra
(một phần của chỉ một phần) của
Đấng Vô Thượng trên Trần Thế; cuối
cùng, tại sao Osiris vừa là một Đại Thần
Linh, vừa là một “Thánh vương trên Trần Thế”,
Ngài tái lâm nơi Thot Hermas; và tại sao (xét theo Do Thái Bí giáo),
Đức Jesus (theo tiếng Hebrew là Joshua) ở Nazareth
lại được nhận ra nơi Joshua (con trai
của Nun) cũng như nơi các nhân vật khác. Nội
môn Bí giáo giải thích tất cả các điều này
bằng cách cho rằng mỗi Đấng này, cũng
như nhiều Đấng khác, thoạt tiên đă giáng
trần với vai tṛ là một trong Bảy Quyền Năng
của Thiên Đạo, được biệt lập ngă tính
thành một vị Thần (God) hay Thiên Thần (Angel)
(Sứ Giả). Thế rồi, sau khi đă vướng
ṿng tục lụy, đến lượt các Ngài lại
xuất hiện với vai tṛ là các bậc Đại
Hiền Triết và Huấn Sư “dạy dỗ” Giống
dân thứ Năm sau khi đă giáo hóa hai Giống dân
trước, đă trị v́ trong khoảng các Triều
đại Thiêng Liêng, và rốt cuộc đă hy sinh, tái sinh
trong nhiều loại hoàn cảnh khác nhau v́ ích lợi
của Nhân loại và để cứu nhân độ
thế vào một vài thời kỳ khủng hoảng. Măi
cho tới các kiếp cuối cùng th́ các Ngài mới thực
sự trở thành “các bộ phận của một
phần” trên Trần Thế, mặc dù thực ra là
Đấng Chí Tôn Duy Nhất trong Vũ Trụ.
Đây là siêu h́nh học
của khoa thần phổ học (theogony). Nay một khi mà
đă được biệt lập ngă tính th́ mọi
“Quyền Năng” trong số BẢY ĐẤNG này lại
chịu trách hiệm về một trong các yếu tố
sáng tạo và chưởng quản nó; ([778])
do đó mới có nhiều ư nghĩa trong mọi biểu
tượng. Trừ khi được thuyết minh theo các
phương pháp bí truyền, các ư nghĩa này thường
đưa tới ư nghĩa rối rắm mù mịt.
359
Liệu môn
đồ Do Thái Bí giáo Tây phương, vốn thường
là đối thủ của nhà Huyền bí Đông
phương, có đ̣i hỏi một bằng chứng không?
Xin y hăy mở quyển Lịch Sử Pháp Thuật ([779])
của Éliphas Lévi, và xem xét kỹ lưỡng bài
“Đại Biểu tượng Do Thái Bí giáo”, của ông rút
ra từ kinh Zohar. Trong một bức h́nh chạm trổ,
trong đó y sẽ thấy một h́nh khai triển “các tam
giác đan vào nhau”, một người đàn ông trắng ở trên, một
người đàn bà đen
và ngược ở dưới, chân nàng luồn qua
dưới hai cánh tay mở rộng của h́nh
người đàn ông và ḷi ra
ở đằng sau vai y, trong khi tay họ chắp lại
hợp thành một góc ở mỗi bên. Éliphas Lévi dùng
biểu tượng này để tŕnh bày Thượng
Đế và Vũ Trụ, tức là Thượng
Đế, “Ánh Sáng”, được phản chiếu nơi
Vũ Trụ và Vật Chất, “Bóng Tối”. Xét về
mặt biểu tượng và theo Do Thái Bí giáo th́ ông
thật chí lư, nhưng chỉ trong phạm vi vũ trụ
khởi nguyên luận biểu hiện mà thôi. Cả ông
lẫn các môn đồ Do Thái Bí giáo đều không thể
chế ra biểu tượng này. Tục truyền rằng
cả hai h́nh đá trắng và đen đă tồn tại
trong các đền thờ của Ai Cập từ xưa
rồi, và xét về mặt lịch sử, từ thời
Vua Cambyses, Ngài đă tận mắt trông thấy chúng. Do
đó, biểu tượng này ắt đă phải có
từ gần 2 500 năm nay. Ít nhất cũng là từ
thời Vua Cambyses, Ngài là con của Đại Đế
Cyrus và nối ngôi cha vào năm 529 trước T.C. Các h́nh này
là hai vị Kabiri, hiện thân của các đối cực.
Herodotus ([780])
thuật lại rằng khi Cambyses đi vào đền
thờ các Kabiri, Ngài bỗng phát lên cười măi không thôi,
khi thấy cái mà Ngài cho là một người đàn ông
đứng sừng sững và một người đàn bà
“trồng chuối ngược trước mặt y. Tuy
nhiên, đây là những cực có biểu tượng
được dự tính dùng để tưởng
niệm “việc Cực Bắc nguyên sơ của
Địa Cầu chuyển sang Cực Nam của các cơi
trời” theo nhận xét của Mackey. ([781])
Nhưng chúng cũng biểu diễn các cực bị
đảo ngược, do hậu quả của sự
lệch trục quá nhiều, cứ mỗi lần lệch
trục, th́ các đại dương lại bị dời
chỗ, các vùng đất ở cực lại bị ch́m,
sau đó th́ các lục địa mới ở vùng xích
đạo lại trồi lên và ngược lại. Các
Kabiri là các Thần Linh “Đại hồng thủy”.
360 361
Điều
này có thể giúp cho chúng ta t́m được ch́a khóa
giải t́nh trạng rối rắm dường như vô
vọng về vô số các danh xưng và tôn danh dành cho
cũng một vị Thần
và đẳng cấp Thần Linh. Vào lúc khởi đầu
thế kỷ này, Faber đă chứng tỏ rằng cũng
giống y như các vị Corybantes, Curetes, Dioskouroi, Anaktes,
Dii Magni, Idei Dactyli, Lares, Penates, Manes, ([782])
Titans và Aletae với Kabiri. Và chúng ta lại chứng tỏ
rằng các Kabiri giống y như các Bàn Cổ, Thánh Hiền
và các Thiền Định Đế Quân đă lâm phàm trong
số dân Ưu tú của Giống dân thứ Ba và Giống
dân thứ Tư. Như thế, trong khi theo Thần phổ
học, các Kabiri-Titan là bảy vị Đại Thần
Linh, th́ xét về mặt vũ trụ và thiên văn, các Titan
lại được gọi là các người Atlantis, v́
theo Faber, có lẽ họ có liên hệ tới at-al-as, “mặt trời thiêng
liêng”, và với tit, trận
“Đại hồng thủy”. Nhưng nếu đúng th́
điều này cũng chỉ là lối thuyết minh
ngoại môn. C̣n xét về mặt nội môn th́ ư nghĩa
về các biểu tượng của họ c̣n tùy thuộc
vào tôn danh được sử dụng. Bảy vị Thần
huyền bí, khả kính – các Dioshouroi, ([783])
các vị Thần được bao quanh bởi Bản
chất Huyền bí – đă trở thành các Pháp sư (Idei
Dactily) đối với các bậc Cao đồ chuyên
chữa bệnh bằng kim loại. Chúng ta phải t́m kiếm
từ nguyên đích xác của từ ngữ Lares, bây giờ
có nghĩa là “ma quỷ” nơi từ ngữ Etruria Lars
(người hướng dẫn). Sauchuniathon dịch
từ ngữ Aletae là “những kẻ thờ lửa”, c̣n
Faber tin rằng nó có từ nguyên là al-Orit (Thần lửa). Cả hai đều chí lư
v́ trong cả hai trường hợp, nó đều ám
chỉ Mặt Trời, vị Thần Linh “tối cao” mà các
Hành Tinh Thần Quân đều bị thu hút về (xét
về mặt thiên văn ẩn dụ) và đều tôn
thờ. Với vai tṛ là các vị Lares, họ thật
sự là các vị Thần Thái Dương, mặc dù từ
nguyên của Faber cho rằng “Lar là một tên viết
tắt của El-Ar, Thần Thái Dương”,([784])
thật ra không đúng lắm. Họ chính là các vị
“Lares”, các Đấng Dẫn Dắt nhân loại. Với vai
tṛ là các vị Aletae, họ
chính là bảy Hành Tinh, xét về mặt thiên văn; c̣n
với vai tṛ là các vị Lares,
họ chính là các Đấng Chưởng Quản các Hành
Tinh này, các Đấng Bảo Vệ và Cai Trị chúng ta, xét
về mặt thần bí. Đối với mục đích
ngoại môn hay sùng bái sinh thực khí, cũng như là xét
về mặt vũ trụ, họ chính là các Kabiri có các
thuộc tính và quyền năng nhị phân, được
chỉ bằng các danh hiệu của các vị lễ
sư thuộc đền thờ đó. Tuy nhiên, tất
cả các Đấng này đều thuộc về bảy
nhóm Thiền Định Đế Quân sáng tạo ra và làm
linh hoạt chúng sinh. Người Sabeans vốn tôn thờ
các vị “Chưởng Quản Bảy Hành Tinh”, cũng
như người Ấn Độ tôn thờ các Thánh
Hiền, đă xem Seth và con trai của y, Hermes (Enoch hay Enos)
là vị Hành Tinh Thần Quân tối cao, Seth và Enos
đều là sản phẩm vay mượn của
người Sabeans, rồi lại bị dân Do Thái xuyên
tạc (xét về mặt ngoại môn), nhưng ngay cả
trong Sáng Thế Kư, ([785])
chúng ta vẫn có thể t́m ra sự thật về các
vị này. Seth chính là “Thủy Tổ” của những
người sơ khai thuộc Giống
dân thứ Ba
mà các Hành Tinh Thần Quân đă đầu thai vào. Chính Ngài
cũng là một vị Thiền Định Đế Quân
và thuộc về nhóm chư Thần phú linh, c̣n Enos (Hanoch hay Enoch) tức Hermes, nghe
đâu chính là con trai của
Ngài – Enos là tên chung dành cho mọi Nhà linh thị thời
sơ khai (Enoichion). Do đó mới có tục thờ cúng. Tác
giả Á Rập Soyuti cho rằng các tài liệu xa xưa
gọi Seth tức Set là Đấng sáng lập ra Bái Tinh giáo
(Sabaism) và các kim tự tháp thể hiện hành tinh
được xem như là lăng tẩm của cả
Seth lẫn Idrus (Hermes hay Enoch). ([786])
Ông cũng cho rằng những người Sabeans (tín
đồ Bái Tinh giáo) đă hành hương đến
đó và cầu kinh mỗi ngày bảy
lần trong khi quay mặt
về hướng Bắc (Núi Tu Di, Kaph, Olympus v.v…) ([787])
Abd Allatif cũng cho chúng ta biết một vài điều kỳ
diệu về các tín đồ Bái Tinh giáo và các Thánh Thư
của họ. Eddin Ahmed Ben Yahya (ông này đă viết sách 200
năm sau đó) cũng vậy. Trong khi Eddin Ahmed Ben Yahya
đoan chắc rằng “mỗi kim tự tháp
được hiế dâng cho một v́ sao” (đúng hơn
là một Tinh Quân) th́ Abd Allatif lại quả quyết
với chúng ta rằng ông đă đọc thấy các
cổ thư của Bái Tinh giáo cho rằng “một Kim
tự tháp là ngôi mộ của Linh Xà, c̣n kim tự tháp kia là
nấm mồ của Hermes”.([788])
Agathodaemon
chẳng có ǵ khác hơn là Seth, và theo một vài tác giả,
Hermes là con trai của y,
Staniland Wake đă nói thêm
như trên trong Đại Kim
Tự Tháp. ([789])
Như thế, trong khi ở
Samothrace và các đền thờ Ai Cập xưa nhất,
Kabiri là các vị Đại Thần Linh Vũ Trụ -
Bảy và Bốn mươi
chín Linh Hỏa – th́ trong các
đền thờ Hy Lạp, các nghi lễ của họ,
hầu như đă biến thành tục sùng bái sinh thực
khí và do đó thật là tục tằn với kẻ phàm
tục. Trong trường hợp sau, họ có ba và bốn
hay bảy vị - nguyên khí âm và dương – thập tự có quai. Cách phân
chia này cho thấy lư do tại sao một vài tác giả
cổ điển cho rằng họ chỉ có ba vị, c̣n
các tác giả khác lại nêu tên bốn vị. Đó là:
1. Axieros (dưới trạng thái nữ Demeter);
2. Axiokersa (Persephone); ([790])
3. Axiokersos (Pluto hay Hades); và
4. Kadmos hay Kasmilos (Hermes – không phải là Hermes
có tính cách sùng bái sinh thực khí mà Herodotus có nhắc
đến, ([791])
mà là “Đấng Thiêng Liêng trong huyền thoại”, chỉ
được giải thích trong các Bí pháp Samothrace). Theo nhà
b́nh giải về Apolloius Rhodius ([792])
sự nhận diện này vốn do một sự khinh
xuất của Mnaseas, thực ra chẳng phải là sự
nhận diện ǵ cả, v́ chỉ riêng các danh xưng thôi
cũng chẳng tiết lộ được bao nhiêu. ([793])
Những người khác vốn chí lư theo đường
lối của riêng ḿnh, cũng đă quả quyết
rằng chỉ có hai vị Kabiri. Xét về mặt nội
môn, đó là hai vị Dioskouroi (Castor và Pollux) c̣n xét về
mặt ngoại môn, đó là Thần Jupiter và Tửu
Thần. Hai vị này là hiện thân của hai địa
cực (xét về mặt trắc địa) cực đất
và cực trời (xét về mặt thiên văn), cũng
như là phàm nhơn và chơn nhơn. Chúng ta chỉ cần
thuyết minh câu chuyện về Semele và Jupiter và sự ra
đời của Tửu Thần (Bacchus), Bimater, cùng với mọi hoàn cảnh kèm theo, th́
cũng đủ hiểu được ẩn dụ này
rồi. Trong biến cố này, vai tṛ mà Thủy, Hỏa,
Thổ v.v… nắm giữ theo nhiều lối thuyết
minh, sẽ cho chúng ta thấy cách thức mà người dùng
“Từ Phụ của chư Thiên” và vị “Tửu Thần
hoan hỉ” để thể hiện hai địa cực.
Tất cả các hành thổ, kim, từ, điện và
hỏa, tất cả đều nhắm nói tới tính cách
vũ trụ và thiên văn của thảm kịch
Đại hồng thủy. Trong thiên văn học, các
cực thực sự là “kích thước thiên giới”,
chẳng khác nào các Kabiri-Dioskouroi (điều này sẽ
được tŕnh bày sau) và các Kabiri-Titans, Diodorus đă gán
cho các vị này việc “phát minh ra Lửa” ([794])
và thuật chế tạo sắt. Hơn nữa, Pausanias ([795])
c̣n chứng tỏ rằng vị thần Kabiri nguyên
thủy chính là Prometheus.
362
Xét
về mặt thiên văn, các Titan-Kabirim cũng là những
Đấng Sinh sản ra và Điều chỉnh các Mùa, c̣n
xét về mặt vũ trụ, đó là các đại
Năng lượng núi lửa – các Thần chưởng
quản mọi kim loại và công việc trần thế.
Tuy nhiên, sự kiện trên vẫn không trấn át
được sự kiện – xét về bản chất
thiêng liêng – các Ngài là những Thực Thể phúc lợi
được tiêu biểu nơi Prometheus đem ánh sáng
đến cho thế gian phú cho Nhân loại trí năng và lư
trí. Trong mọi khoa thần phổ học – nhất là trong
thần phổ học Ấn Độ - các Ngài chủ
yếu là Ba, Bảy, hoặc Bốn mươi chín Linh
Hỏa, tùy theo nhu cầu của ẩn dụ. Chính danh
xưng của các Ngài cũng đủ chứng tỏ
điều đó rồi v́ các Ngài là các Con của Lửa
(Agni-putra) ở Ấn Độ và các vị Thần
Lửa (với nhiều danh xưng khác nhau, ở Hy Lạp
và ở bất cứ nơi nào khác). Welcker, Maury, và nay
Decharme đă chứng tỏ rằng danh xưng kabeiros có nghĩa là “dũng
mănh như lửa”, từ nguyên là tiếng Hy Lạp kaus (đốt cháy). Tiếng
Semit kabirim bao hàm về
“dũng mănh, vĩ đại”, tương ứng với
tiếng Hy Lạp meyalos, duvatos,
nhưng đây là những tôn danh sau này. Mọi nơi
người ta đều tôn thờ các vị Thần này và
nguồn gốc của họ lại tít mù trong thời gian
quá khứ xa xưa. Thế nhưng cho dù có được
làm cho dịu bớt ở Phrygia, Phoenicia, Troad, Tharaoe, Egypt,
Lemnos hay Sicily, th́ họ vẫn luôn luôn thờ Lửa, các
đền thờ của họ bao giờ cũng
được xây dựng ở những địa
điểm có nhiều núi lửa nhất; xét về mặt
sùng bái, ngoại môn, họ thuộc về các Vong linh âm
phủ Chthonian, do đó Thiên Chúa giáo đă tŕnh bày họ
như là các Thần Quỷ (Infernal Gods).
363
Họ đúng là “các
Thần vĩ đại, phúc thiện và dũng mănh”,
như Cassius Hermone đă gọi. ([796])
Ở Thebes, [Cors Korẽ hay Persephone] và Demeter, các Kabirim có
một thánh điện, ([797])
c̣n tại Memphis, các Kabiri có một đền thờ linh
thiêng đến nỗi mà ngoại trừ các lễ sư,
không ai được phép nhập vào các vành đai thánh
thiện của nó. ([798])
Nhưng đồng thời chúng ta không được quên
sự kiện tôn danh Kabiri là một tên gọi chung và các
Kabiri, các Thần dũng mănh, cũng như là thế nhân
đều có hai phái và cũng có tính cách trần thế,
thiên giới và vũ trụ. Chúng ta cũng không
được quên sự kiện là trong khi sau này với
tư cách là các Đấng chưởng quản các
quyền năng tinh đẩu và thế tục, hiện
tượng thuần túy địa chất – như người
ta đang xem nó hiện nay – lại được tiêu
biểu nơi các nhân vật lănh đạo này, th́ thoạt
đầu, họ cũng là những Đấng cai
quản Nhân loại. Khi đầu thai làm các Thánh Vương
của các “Triều đại Thiêng liêng”, họ đă ban
cho nền văn minh một xung lực sơ khởi, và
điều khiển trí tuệ mà họ đă phú cho con
người để phát minh ra và hoàn thiện mọi
nghệ thuật và khoa học. Như thế,
được biết Kabari đă xuất hiện với
vai tṛ là ân nhân của loài người, như thế họ
đă sống hàng thời đại trong kư ức của
các quốc gia. Người ta đă gán cho các vị Kabiri hay
Titans này phát minh ra văn tự (Deva-năgarĩ, tức là ngôn
ngữ và bộ mẫu tự của chư Thiên), luật
lệ và pháp chế, kiến trúc, cũng như là
đủ loại cái gọi là pháp thuật, công dụng
chữa bệnh của cây cỏ. Hermes, Orpheus, Cadmus,
Asclepios, tất cả các vị Bán Thần và Anh hùng đă
bị gán cho việc đă tiết lộ khoa học cho loài
người, Bryant, Faber, Giám mục Cumberland và biết bao
tác giả Thiên Chúa giáo khác (vốn quá nhiệt thành với sự
thật) ắt đă bắt buộc hậu thế
phải thấy các vị này chỉ là những bản mô
phỏng ngoại đạo của một nguyên kiểu
duy nhất được mệnh danh là Noah – tất
cả đều là những tên chung.
Người ta tin rằng
chính Kabiri đă tiết lộ mối lợi lớn về
nông nghiệp bằng cách sản
xuất ra lúa ḿ. Điều mà Isis-Osiris (các Kabirim đă
từng sống động) đă thực hiện ở Ai
Cập, cũng chính là những điều mà nghe nói Ceres
đă thực hiện ở Sicily; tất cả các vị
này đều thuộc về một tầng lớp.
364
Cây Dực xà
trượng của Thần Mercury, đồng nhất
với Thot, Thần Minh Triết, với Hermes v.v.., cũng
lại chứng tỏ rằng các con rắn bao giờ
cũng là biểu hiện của sự minh triết và
sự thận trọng. Hai con rắn quấn quanh cây
gậy chính là các biểu tượng sùng bái sinh thực khí
của Thần Jupiter và các vị Thần khác đă biến
ḿnh thành ra các con rắn để quyền rũ các Nữ
Thần – đó chỉ là theo óc tưởng tượng
bẩn thỉu của các nhà biểu tượng học
phàm tục. Con rắn bao giờ cũng là biểu
tượng của bậc Cao đồ, của quyền
năng bất tử và minh triết thiêng liêng của các
Ngài. Một ẩn dụ đơn giản và rất minh
bạch chính là việc Thần Mercury (với tư cách là
tâm linh bệ vệ) dùng cây Dực xà trượng
để linh hồn người chết vào Âm Phủ,
thậm chí c̣n có thể làm cho họ hồi sinh nữa. Nó
chứng tỏ quyền năng nhị phân của Minh
Triết Bí Nhiệm: Pháp thuật chánh đạo và Ma
thuật. Nó chứng tỏ rằng Minh Triết hiện
thân này tiếp dẫn Linh Hồn sau khi chết và hiển
lộng quyền năng làm hồi sinh những ǵ đă
chết – chúng ta chỉ cần suy đi gẫm lại ư
nghĩa của nó th́ cũng đủ thấy ẩn
dụ này rất thâm sâu. Tất cả, ngoại trừ
một, dân tộc thời xưa đều tôn thờ
biểu tượng này; dân tộc ngoại lệ này chính
là tín đồ Thiên Chúa giáo, họ đă quyết
định quên đi “con rắn đồng thau” của
Moses, thậm chí quên cả lời mặc nhận của
chính Đức Jesus về sự minh triết và sự
thận trọng của con rắn như sau: “Các con hăy khôn
ngoan như con rắn và hiền lành như con bồ câu”.
Người Trung Hoa, một trong các quốc gia xưa
nhất thuộc Giống dân thứ Năm chúng ta, đă
biến con rắn thành biểu tượng các vị Hoàng
đế của ḿnh, họ chính là các kẻ kế vị
suy đồi của các “Con Rắn” tức các Điểm
đạo đồ, các Ngài đă trị v́ các chi chủng
đầu tiên của Giống dân thứ Năm. Ngai vua là
“Long Ṭa”(“Dragon’s Seat”), c̣n Long Bào của Ngài được
thêu giống h́nh Con Rồng. Vả lại các câu châm ngôn
trong các tác phẩm cổ nhất của Trung Hoa lại nêu
rơ rằng Rồng là một người mặc dù là
một Thực Thể thiêng
liêng. Đề cập tới “Rồng Vàng” chúa tể
các loại Rồng, Twan-ying-t’u
đă bảo:
Y có trí thông
tuệ và đức hạnh vô biên… [y] chẳng đi chung
và chẳng sống trong tập đoàn [y là ẩn sĩ]… Y
đi lang thang ở những chốn hoang vu bên ngoài các cơi trời.
Y cứ đi đi về về, hoàn thành sứ mệnh
[Nghiệp Quả] vào những dịp thuận tiện;
nếu mọi việc đều hoàn hảo th́ y sẽ
giáng lâm, c̣n nếu không th́ y cứ vô h́nh.
C̣n Lu-lan lại khẳng định Khổng Tử dạy rằng “Con Rồng nuốt trọn Minh Triết thủy (water)[of Wisdom] tinh khiết và đùa giỡn trong Sinh thủy (water) [of Life] trong trẻo”. ([799])
CÁC HUẤN SƯ THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG TA
Nay Châu Atlantis và các
Đảo Phlegyan không phải là các di tích duy nhất
của trận Đại hồng thủy. Trung Hoa cũng
có truyền thuyết và câu chuyện về một
đảo hoặc một lục địa mà nó gọi là
Ma-li-ga-si-ma, c̣n Kaempfer và Faber phát âm là “Mauriga-sima”, v́ một
vài lư do phát âm bí mật của riêng họ. Trong tác phẩm
Nhật Bản ([800])
Kaempfer tŕnh bày truyền thuyết sau đây: Do sự
bất công của những người khổng lồ, ḥn
đảo đă ch́m xuống đáy đại
dương, và Quốc vương Peiruun, vị Noah của
Trung Hoa đă trốn thoát một ḿnh cùng với gia đ́nh
và do lời khuyến cáo của các Thần, xuyên qua hai
kẻ thần tượng (idols). Chính ông hoàng mộ
đạo ấy và các con cháu của ông đă cư ngụ
ở Trung Hoa. Cũng như bất kỳ quốc gia nào
khác, các truyền thuyết của Trung Hoa cũng đề
cập tới các Triều đại Thiêng Liêng của các
Thánh Vương.
Đồng thời không
có một áng văn cổ truyền nào mà không tỏ ra tin
tưởng vào một sự tiến hóa đa dạng và
ngay cả đa chủng của loài người – về
mặt tinh thần, tâm linh, trí tuệ và thể chất –
như tác phẩm này đă mô tả. Nay chúng ta phải xét
tới một vài lời khẳng định này.
365
Tất
cả sẽ chứng tỏ rằng các Giống dân chúng ta
đă bắt nguồn từ các Giống dân Thiêng liêng
(muốn gọi chúng là ǵ th́ gọi). Cho dù bàn đến các
vị Thánh Hiền hay Thủy Tổ của Ấn
Độ; bàn đến Chim-nang và Tchan-gy của Trung Hoa –
(“Thiên Nhân” và các vị Bán thần linh của họ; bàn
đến Dingir và Mul-lil của dân Akkad – Thần Sáng
Tạo và các “Thần của Âm Phủ”; bàn đến
Isis-Osiris và Thot của Ai Cập; bàn đến các Elohim
của Hebrew; hoặc bàn đến Manco-Capac và các hậu
duệ của người Peru – th́ mọi nơi câu
chuyện này cũng chỉ như thế mà thôi. Mọi
quốc gia đều có hoặc là bảy hoặc là mười
vị Rishis-Bàn Cổ và Prajăpatis; bảy và mười
vị Ki-y; hoặc mười
và bảy vị Amshaspends ([801])
(xét về mặt ngoại môn th́ có sáu); mười và
bảy vị Annedoti của dân Chaldea; mười và bảy
vị Sephiroth v.v… vị nào cũng phát xuất từ các
Thiền Định Đế Quân nguyên sơ của
Nội môn Bí giáo, tức là các “Đấng Kiến Tạo”
của các ĐOẠN Thiền Định Chân Kinh
trong Quyển I. Từ Đức Bàn Cổ, Thot-Hermes,
Oannes-Dagon và Edris-Enoch, xuống măi tới Plato Panodorus,
tất cả đều cho chúng ta biết có bảy
Triều đại Thiêng liêng, có bảy phần đất
thời Châu Lemuria và Châu Atlantis trên Địa Cầu; có bảy
vị Thần nguyên sơ và lưỡng phân từ trên Thiên
giới ([802])
giáng lâm và trị v́ trên Trần Thế, dạy cho nhân
loại về thiên văn học, thuật kiến trúc và
tất cả các khoa học khác đă được
truyền đạt cho chúng ta. Thoạt tiên, các Đấng
này xuất hiện với vai tṛ là các vị Thần và các
Đấng Sáng Tạo; rồi các Ngài biến nhập vào
con người mới sinh ra, để rồi cuối cùng
xuất lộ làm các “Thánh Vương và các vị
Chưởng Quản Thiêng Liêng”. Nhưng sự kiện này
đă bị lăng quên dần dần. Theo Basnage, chính
người Ai Cập cũng thú nhận rằng khoa
học đă chỉ phát triển cao độ ở xứ
họ và từ thời Isis-Osiris, các Đấng mà họ
tiếp tục tôn thờ làm các Thần Linh, “mặc dù các
Ngài đă biến thành các ông hoàng dưới dạng các con
người”. Và ông nói thêm về Đấng bán thư bán
hùng như sau:
Nghe nói ông hoàng này
[Isis-Osiris] đă xây dựng các đô thị ở Ai
Cập, ngăn chận ḍng nước lũ của sông
Nile; phát minh ra nông nghiệp, công dụng của rượu
nho, âm nhạc, thiên văn học và h́nh học.
Trong tác phẩm Lịch
Sử Tiền Hồi Giáo, ([803])
khi Abul Feda bảo rằng “ngôn ngữ Bái Tinh giáo”
được Seth và Edris (Enoch) lập nên th́ ông có ư
muốn nói tới thiên văn học. Trong tác phẩm Melelwa
Nahil, ([804])
Hermes được gọi là đệ tử của Linh
Xà (Agathodaemon). C̣n trong một bài tường thuật khác,([805])
Linh Xà lại được xem như một vị “Vua của Ai Cập”. Tác phẩm
Celepas Geraldinus tŕnh bày với chúng ta một vài truyền
thuyết kỳ quặc về Henoch, y được
gọi là “Người khổng lồ Thiêng liêng”. Trong sách “Thánh
Thư Về Đủ Loại Tên” của sông Nile, sử
gia Ai Cập đă cho chúng ta biết những người
Ả Rập Semite tin rằng Seth (sau này Ngài đă trở
thành Typhon, Set của Ai Cập) đă trở thành một
trong Bảy vị Thiên Thần hay Tộc Trưởng trong
Thánh kinh; rồi y lại biến thành một thế nhân và
con trai của Adam; sau đó, y truyền năng khiếu tiên
tri và thiên văn học cho Jared, ông lại truyền nó cho
con trai của ḿnh là Henoch. Nhưng Henoch (Idris) “tác giả
của ba mươi quyển sách” lại có nguồn
gốc Saba – nghĩa là thuộc về Saba một chiếc
“bánh Thánh”(“a Host”):
366
Sau
khi đă lập nên các nghi lễ thờ phụng nguyên
sơ, Ngài liền đi về phương Đông, nơi
đây Ngài kiến tạo một trăm bốn mươi
đô thị, torng đó Edessa là đô thị tầm
thường nhất, rồi Ngài lại quay về Ai
Cập và trở thành Quốc Vương của xứ này.
([806])
Như vậy, Ngài chính là
Hermes. Nhưng có tới năm vị Hermes – hoặc đúng
hơn là một vị xuất hiện với nhiều tính
cách khác nhau chẳng khác ǵ một vị Bàn Cổ và Thánh
Hiền. Trong tác phẩm Burham-i-Kati, Ngài được
gọi là Hormig, một danh hiệu của Thủy Tinh,
tức Budha; c̣n ngày Thứ Tư (Wednesday) lại linh thiêng
đối với cả Thot lẫn Hermes.([807])
Vị Hermes trong truyền thuyết Đông phương
được Phineatae tôn thờ và nghe nói là sau khi Argus qua
đời, Ngài đă thâm nhập vào Ai Cập, khai hóa nó
với danh hiệu là Thoth. ([808])
Nhưng dù với bất cứ tính cách nào, người ta
cũng luôn luôn tin rằng Ngài đă chuyển mọi khoa
học, từ trạng thái
tiềm tàng sang trạng thái hoạt động,
nghĩa là, Ngài đă là người đầu tiên dạy
pháp thuật cho Ai Cập và Hy Lạp trước thời
đại Hy Lạp và khi người Hy Lạp thậm chí
c̣n chưa phải là người cổ Hy Lạp (Hellenes).
Chẳng những Herodotus,
“cha đẻ của lịch sử”, cho chúng ta biết
rằng các Triều đại của các Thần Linh đă
có trước sự trị v́ của thế nhân, tiếp
theo sau là Triều đại của các vị Bán thần
linh, các vị Anh hùng và cuối cùng là con người mà hàng
loạt tác giả cổ điển cũng ủng hộ
ông. Diodorus, Eratosthenes, Plato, Manetho v.v… lặp lại y nguyên
câu chuyện mà chẳng bao giờ thay đổi về
tŕnh tự sẵn có.
Creuzer đă chứng
tỏ rằng:
Thật vậy,
minh triết đă giáng xuống cơi thấp từ các tinh
cầu, nơi cư trú của các thần ánh sáng… Trong
hệ thống các lễ sư thời xưa [các bậc
Đạo Trưởng và Cao đồ], tất cả
vạn vật, các Thần Linh, Thiên Thần, Linh Hồn
[Manes], toàn thế giới đều phát triển song song
với nhau trong không gian và thời gian. Kim tự tháp có
thể được xem như tập đoàn chơn linh
mỹ lệ này.([809])
Chính các sử gia hiện
đại – chủ yếu là các Hàn lâm viện sĩ
của Pháp; chẳng hạn như Renan – đă ra sức
thủ tiêu sự thật bằng cách lờ đi những
niên sử cổ truyền của các Thánh Vương,
nhiều hơn mức ăn khớp với ḷng ngay
thẳng. Nhưng ông Renan – không bao giờ có thể sẵn
ḷng hơn Eratosthenes (260 trước T.C.) – lại thấy
chính ḿnh bị bắt buộc phải thừa nhận
sự thật của nó. V́ thế, nhà thiên văn học
vĩ đại đă bị các bạn đồng
nghiệp của ḿnh 2 000 năm sau đó khinh thường
ra mặt. Đối với họ, Manetho đă trở
thành “một lễ sư mê tín sinh ra và được nuôi
dưỡng trong môi trường của các lễ sư láo
toét khác ở Heliopollis”. Nhà ma quỷ học (demonologist) De
Mirville đă nhận xét chí lư rằng:
367
Tất
cả các sử gia và lễ sư này đă thành thật biết bao khi lặp lại câu
chuyện về các thánh vương nhân loại và loài người, đột nhiên
lại trở thành vô cùng
ngờ vực ngay khi họ quay về với các thần linh của ḿnh.
Tuy nhiên, nhờ có thiên tài
của Champollion, nay niên biểu đối chiếu của
Abydos đă biện minh cho niềm tin chân chính của các lễ sư ở Ai Cập
(nhất là Manetho) và Ptolemy, nơi cuộn chỉ thảo
Turin, tài liệu đáng lưu ư hơn hết. Theo lời
nhà Ai Cập học De Rougé th́:
….Champollion
sửng sốt thấy rằng ḿnh đang chứng
kiến các di tích của hàng loạt các Triều
đại, bao gồm các thời kỳ thần thoại xa
xưa nhất, tức là Triều đại của các
thần và các vị Anh hùng… Chỉ cần thoạt nh́n
phần đầu của cuộn chỉ thảo kỳ
diệu này, chúng ta cũng đủ tin chắc rằng ngay
cả từ thời Ramses, các truyền thuyết thần
thoại và anh hùng này giống y như những ǵ mà Manetho
đă truyền cho chúng ta; chúng ta thấy trong đó có
một thời kỳ dài gồm nhiều thế kỷ
được gán cho sự trị v́ của mỗi vị
với vai tṛ là Vua Ai Cập, các Thần Seb, Osiris, Set, Horus,
Thot-Hermes và Nữ Thần Ma (the Goddess Ma). ([810])
Ngoại trừ việc
bị Eusebius xuyên tạc v́ các mục đích không trung
thực, các niên biểu đối chiếu này chưa bao
giờ vượt quá Manetho, Niên đại kư về các
Thánh Vương và các Triều đại Thiêng Liêng, cũng
như niên đại kư về thời đại nhân
loại đă từng được các lễ sư
nắm giữ và bảo mật tách khỏi kẻ phàm
tục.
Nay mặc dù nghe nói
với vai tṛ là một lục địa, Châu Phi xuất
hiện trước Châu Âu, tuy nhiên, nó lại xuất
hiện sau Châu Lemuria, và thậm chí sau cả Châu Atlantis
sơ khai nhất nữa. Toàn bộ vùng mà nay là Ai Cập,
và các sa mạc, xưa kia đă bị biển cả che
phủ. Điều này được tiết lộ
thoạt tiên là do Herodotus, Strabo, Pliny v.v… thứ đến
là do địa chất học. Abyssinia xưa kia đă là
một ḥn đảo và vùng châu thổ là vùng đầu tiên
mà những kẻ di cư tiên phong đă đặt chân
tới cùng với các vị Thần của ḿnh từ
hướng đông bắc.
Điều này đă
xảy ra từ bao giờ? Lịch sử vẫn im
lặng về đề tài này. May mắn thay chúng ta
lại có Hoàng Đạo Dendera (cầu đồ trên
trần nhà của một trong các đền thờ xưa
nhất ở Ai Cập) để ghi lại sự
kiện này. Với ba cung Trinh Nữ ở giữa cung Mănh
Sư và cung Thiên Xứng, Hoàng Đạo này đă t́m ra chàng
Oedipus của ḿnh để thấu hiểu được
việc bí hiểm về cung Hoàng Đạo và biện minh
cho sự chân thật của các lễ sư. Các vị này
đă bảo Herodotus rằng các Điểm đạo
đồ của họ đă dạy rằng (a) các cực
của Trái Đất và Hoàng Đạo xưa kia đă
trùng với nhau, và (b) ngay từ khi họ bắt
đầu ghi lại các tài liệu về Hoàng Đạo,
th́ các Địa cực đă tới ba lần ở bên
trong mặt phẳng của Hoàng Đạo.
368
Bailly thật không
biết dùng lời lẽ nào để bày tỏ sự kinh
ngạc của ḿnh khi thấy tất cả mọi
truyền thuyết như thế đều tŕnh bày
giống y nhau về các Giống dân Thiêng liêng và kêu lên
rằng:
Rốt cuộc,
tất cả các triều đại Thiên Thần Ấn
Độ và các Peris [của Ba Tư]; hoặc các triều
đại trong huyền thoại Trung Hoa; Thiên Hoàng (Tien-hoang)
khác hẳn với Địa Hoàng (Ti-hoang) và Nhân Hoàng
(Gin-hoang), những sự phân biệt này hoàn toàn phù hợp
với các phân biệt của người Hy Lạp và Ai
Cập khi liệt kê các Triều đại Thần Linh, Bán
thần linh và Thế nhân của ḿnh.([811])
Panodorus cho rằng:
Nay Triều đại của
Bảy vị Thần Linh chưởng quản thế
gian đă diễn ra trong ṿng hàng ngàn năm này [trước
trận Đại hồng thủy]. Chính trong thời
kỳ ấy, các bậc ân nhân đó của loài
người đă giáng thế
và dạy cho con người cách tính toán quỹ đạo
của mặt trăng và mặt trời bằng
mười hai cung Hoàng Đạo.([812])
Vào khoảng gần năm
trăm năm trước T.C., các lễ sư ở Ai
Cập đă chỉ cho Herodotus các pho tượng của
các vị Nhân Hoàng và Giáo Hoàng Piromis của ḿnh – các vị
Đại Đạo Sư (Mahă Chohans) của các Thánh
điện; Đấng này sinh
ra từ Đấng kia
mà không cần có đàn bà – đă trị v́ trước
thời Menes, các Nhân Hoàng (human
King) đầu tiên của họ. Theo ông, đây là các pho
tượng khổng lồ bằng gỗ, có tất
cả ba trăm bốn mươi lăm pho, mỗi tượng đều có
danh xưng, lịch sử và niên sử. Họ cũng
đoan chắc với Herodotus – trừ phi nay vị sử
gia trung thực nhất, “cha đẻ của lịch
sử”, bị kết tội là nói dối, chẳng hạn như trong trường hợp này – rằng chẳng sử
gia nào đă hiểu hoặc viết ra một bài
tường thuật về các vị Thánh Vương siêu
nhân này, nếu y chưa từng nghiên cứu và học hỏi
lịch sử về ba
Triều đại có trước Triều đại
loài người, đó là: TRIỀU ĐẠI THẦN LINH, Triều đại Bán
thần linh và Triều đại Anh hùng hay Người
Khổng lồ. ([813]) “Ba” Triều đại này chính là
ba Giống dân.
Nếu được
diễn dịch thành ngôn ngữ Nội Môn Bí giáo th́ ba
Triều đại này ắt cũng là ba Triều
đại của các Thiên Thần (Devas), các Kimpurushas và Dăn
vas và Daityas – nói cách khác là các Thần, Chơn Linh Cơi
Trời, và các Người Khổng Lồ. Trong Căn
Chủng thứ Ba, chính các Thần Linh lâm phàm đă kêu to lên
rằng: “May mắn thay cho những kẻ được
sinh ra, ngay cả từ trạng thái Thần Linh, làm
người ở Bhărata-varsha!” Bhărata thường là Ấn
Độ, nhưng trong trường hợp này, nó tiêu
biểu cho Vùng đất Tuyển định thời
đó, vốn là phần đất tốt nhất của
Nam Thiệm bộ châu, v́ đó là vùng đất của các
hoạt động (tinh thần) chủ động tuyệt hảo; vùng
đất của sự Điểm đạo và Minh
Triết Thiêng Liêng.([814])
369
Chúng ta không thể không
thừa nhận rằng Creuzer có rất nhiều năng
khiếu trực giác, khi mặc dù ông hầu như không quen
thuộc với các triết thuyết Ấn Độ Ăryan,
mà vào thời của ông, dường như chẳng ai
biết tới, chúng ta thấy ông viết rằng:
Những người Âu Châu
hiện nay của chúng ta cảm thấy ngạc nhiên khi
nghe nói đến các Nhật Tinh Quân, Nguyệt Tinh Quân v.v..
Nhưng chúng tôi xin lặp lại, lương tri tự nhiên và sự phán đoán
thẳng thắn của các dân tộc cổ truyền,
hoàn toàn xa lạ với ư niệm vô cùng duy vật của chúng ta về cơ học
và vật lư học… không thể thấy các ngôi sao và hành tinh
là ǵ ngoại trừ các khối ánh sáng đơn giản,
tức là các thiên thể mờ đục di chuyển theo
đường ṿng trong không gian tinh đẩu, chỉ tuân
theo luật sức hút và sức đẩy; họ thấy
chúng là các thiên thể linh
hoạt; chịu sự điều
động của các chơn linh, chẳng khác nào
những ǵ mà họ chứng kiến trong mọi giới
của thiên nhiên… Lư thuyết
về các Chơn Linh này, phù
hợp biết bao với thiên nhiên mà nó đă thoát thai
từ đó, đă tạo thành một quan niệm cao
cả và độc nhất, trong đó, tất cả các
khía cạnh thể chất, đạo đức và chính
trị đều ḥa lẫn với nhau.([815])
Chỉ có một quan
niệm như thế mới khiến cho con người
rút ra được một kết luận đúng
đắn về nguồn gốc của y và sự
khởi thủy của vạn vật trong Vũ Trụ -
sự khai tịch của Thiên và Địa mà y là một
mối liên kết sống động. Nếu không có
một mối liên kết tâm lư như thế và cảm giác
về sự hiện diện của nó th́ chẳng khoa
học nào có thể tiến bộ được, và chúng
ta phải giới hạn phạm vi tri thức chỉ vào
việc phân tích vật chất hồng trần mà thôi.
Các nhà huyền bí tin
tưởng và các “chơn linh”(“spirits”) v́ họ cảm thấy – và một
số người thấy được – chung quanh ḿnh
đều có các chơn linh ấy. ([816])
Các nhà duy vật lại không thấy. Họ sống trên Trái
Đất này chẳng khác nào một vài tạo vật,
trong thế giới côn trùng và thậm chí thế giới tôm
cá nữa, mà không thấy, hay không cảm thấy, hằng
hà sa số đồng loại xung quanh ḿnh. ([817])
370
Trong các tác giả
cổ điển, Plato là vị hiền triết
đầu tiên đă nói nhiều về các Triều
đại thiêng liêng. Ông định vị chúng trên một
đại lục mà ông gọi là Châu Atlantis. Bailly cũng
chẳng phải là người đầu tiên hay cuối
cùng tin vào điều này. Trước ông th́ Đức Cha Kircher,
nhà thông thái ḍng Jesuit cũng đă tiên liệu thuyết này;
trong tác phẩm Oedipus Aegyptiacus, Ngài đă cho rằng:
Tôi xin thú thật
rằng trong một thời gian dài, tôi đă xem tất
cả các điều này [các Triều đại Châu Atlantis]
toàn là những chuyện hoang đường, cho
đến ngày mà khi hiểu biết nhiều hơn về
các ngôn ngữ Đông phương, tôi đă nhận
định rằng sau hết, tất cả các huyền
thoại đó ắt đă chỉ là một sự khai
triển chân lư vĩ đại. ([818])
Theo De Rougemont, trong tác phẩm
Meropis, Theopompus đă tŕnh bày các lễ sư Phrygia và
Tiểu Á phát biểu giống y như các lễ sư
ở Sais khi họ tiết lộ cho Solon, lịch sử và
số phận của Châu Atlantis. Theo Theopompus, đó là
một lục địa độc nhất có kích
thước vô hạn bao gồm hai xứ có hai giống dân
cư ngụ - một giống người hiếu
chiến và một giống người trầm tư
mộ đạo ([819])
- mà theo Theopompus tượng trưng bằng hai đô
thị. ([820])
“Đô thị” ngoan đạo luôn
luôn được các vị thần đến viếng,
c̣n “đô thị” hiếu chiến lại là nơi cư
trú của nhiều thực thể khác nhau không thể
bị sắt thép làm tổn
thương mà chỉ có thể bị gỗ và đá làm thương tổn. ([821])
De Rougemont xem đây là một điều hoàn toàn bịa
đặt của Theopompus, thậm chí ông c̣n xem lời
khẳng định của vị lễ sư Sais là
một sự lừa bịp nữa. Các nhà Ma quỷ
học lại tố cáo điều này là vô lư. De Mirville
đă buông lời châm biếm như sau:
Một sự bịp bợm dựa vào
một niềm tin, sản phẩm của tín ngưỡng
của toàn thể cổ nhân; một
điều giả sử vẫn được dùng
để mệnh danh toàn thể một dăy núi (Atlas); nó qui
một cách chính xác nhất một vùng địa h́nh
(bằng cách xác định vùng đất này ở một
vị trí chỉ cách Cadiz và Eo biển Calpe có một quăng
ngắn), nó đă tiên tri (trước Columbus 2 000 năm)
về một đại
lục xuyên đại dương nằm ở phía bên
kia Châu Atlantis và nghe nói đă tiếp giáp với các Ḥn
đảo chẳng phải của Đấng Thánh Linh, mà
là của các Chơn Linh (các Ḥn đảo đầy
diễm phúc) – một điều giả sử như
thế thật chẳng có ǵ khác hơn là một
điều đại hăo
huyền! ([822])
371
Chắc
chắn rằng dù là “hăo huyền” hay thực tại, th́ các
lễ sư trên toàn thế giới cũng đă có
được nó từ cùng một nguồn – truyền
thuyết đại đồng thế giới về
đại lục thứ ba đă bị diệt vong cách
đây chừng 850 000 năm, ([823])
một lục địa vốn là nơi cư trú của
hai giống dân riêng biệt, khác nhau về mặt thể
chất và nhất là về mặt tinh thần, cả hai
đều tinh thông về minh triết bản sơ và bí
mật của thiên nhiên và đấu tranh chống lại
nhau trong diễn tŕnh tiến hóa song hành. Đó là v́ liệu
các giáo lư của Trung Hoa về đề tài này bắt
nguồn từ đâu nếu nó chẳng qua chỉ là
một “điều bịa đặt”? Chẳng lẽ nó
lại không ghi lại sự hiện diện xưa kia của
một Đảo Thiêng phía bên kia mặt trời, Tcheou, mà
vượt qua nó là vùng đất của những
Người bất tử
hay sao? ([824])
Chẳng lẽ họ lại không c̣n tin rằng giống
người c̣n sống sót trong số những Người
bất tử đó – họ
đă sống sót từ khi Đảo Thiêng trở nên
hắc ám v́ tội lỗi và bị diệt vong – đă lánh
nạn ở đại Sa mạc Gobi, nơi mà họ
vẫn c̣n ở đó, chẳng ai thấy và bị các
tập đoàn Chơn Linh cấm không cho lại gần hay
sao?
Chính kẻ vô tín
ngưỡng Boulanger đă cho rằng:
Nếu chúng ta
phải nghe theo các truyền thuyết, th́ trước
thời trị v́ của các Thánh Vương phải là
Triều đại của các Anh hùng và Bán thần linh,
trước nữa th́ truyền thuyết cho rằng đó
là Triều đại tuyệt vời của các vị
Thần và mọi huyền thoại về Thời
đại Hoàng Kim… Người ta cảm thấy ngạc
nhiên khi những niên sử lư thú như vậy lại
bị hầu hết các sử gia bác bỏ. Thế
nhưng các ư tưởng mà các niên sử này tŕnh bày đă
từng được cả thế giới thừa
nhận và trân trọng, không ít xứ vẫn c̣n trân
trọng chúng và biến chúng thành nền tảng sinh
hoạt hằng ngày của ḿnh. Những nhận xét như
thế cần tới một phán đoán cân nhắc
hơn…Cổ nhân là kẻ thừa kế các truyền
thuyết này từ cổ nhân và không c̣n chấp nhận
chúng nữa v́ chúng ta không c̣n
hiểu ǵ nữa, ắt cũng phải có nguyên do khi tin
tưởng vào chúng, vốn được cung ứng v́
họ rất gần gũi với các thời đại
ban sơ, mà khoảng cách đang ngăn cách chúng ta với
chúng đă không cho chúng ta lại gần… Trong quyển Pháp
Điển (Law) thứ tư, Plato đă cho rằng rất
lâu trước khi các đô thị đầu tiên
được dựng nên, Thần Saturn đă lập ra
trên trần thế một dạng chính quyền nào đó mà
con người rất hạnh phúc khi sống dưới
sự cai trị đó. Nay v́ ông ám chỉ Thời
đại Hoàng Kim hoặc các Triều đại Thần
Linh đă lừng danh biết bao trong các thần thoại
cổ… nên chúng ta hăy thử xem các ư tưởng mà ông tŕnh
bày về thời kỳ hạnh phúc đó, và đâu là
cơ hội mà ông phải du nhập thần thoại này vào một bộ luận
về chính trị. Theo Plato, để có được các
ư niệm chính xác và minh bạch về hoàng gia, nguồn
gốc và quyền lực của nó, người ta phải
quay về với các nguyên tắc bản sơ của
lịch sử và truyền thống. Ông cho rằng xưa
kia đă có biến đổi kinh
thiên động địa và t́nh trạng sự vật
hiện nay là một trong những kết quả của
điều này. Các truyền thuyết đă cho chúng ta
biết về nhiều điều kỳ diệu,
nhiều biến đổi đă diễn ra trong cuộc
hành tŕnh của mặt trời, về thời trị v́
của hàng ngàn các vấn đề khác hăy c̣n rải rác
trong kư ức của con người. Thế nhưng, người ta chưa bao
giờ nghe nói về bất cứ điều ǵ về
ĐIỀU ÁC đă tạo ra các cuộc cách mạng này,
cũng như là điều ác đă nối tiếp ngay sau
chúng. Thế nhưng… Điều Ác đó chính là nguyên lư
mà chúng ta phải nói đến, để có thể bàn
về hoàng gia và nguồn gốc của quyền lực.([825])
372
Dường
như Plato cho rằng Điều
Ác đó chính là sự giống nhau và đồng bản
thể của những người cai trị và những
kẻ bị trị, v́ ông bảo rằng từ lâu
rồi, vào Thời đại Hoàng kim trước khi loài
người xây dựng các đô thị của ḿnh, trên
Trần Thế chẳng có ǵ khác hơn là hạnh phúc, v́
không hề có nhu cầu. V́ cớ sao làm vậy? Đó là v́
Thần Saturn, biết rằng con người không thể
cai trị lẫn nhau mà không tức khắc làm cho vũ
trụ tràn đầy bất công do các cơn hứng ngông
cuồng của con người, nên đă không cho phép
bất cứ thế nhân nào có quyền hành ǵ với các
tạo vật đồng loại của ḿnh. Để
thực hiện điều này, Thượng Đế
cũng đă dùng những phương tiện mà chính chúng
ta đang dùng đối với đàn súc vật của
ḿnh. Chúng ta không thể cho một con ḅ đực hay
một con cừu đực cai quản bầy ḅ
đực và cừu đực của ḿnh, mà lại
cấp cho chúng một thủ lĩnh, một kẻ chăn
chiên, nghĩa là một thực
thể thuộc loại khác hẳn chúng, và có bản
chất cao cấp hơn. Đây chính là điều mà
Thần Saturn đă thực hiện. Ngài vốn yêu
thương nhân loại nên đâu chịu để cho nhân
loại bị một ông hoàng phàm phu cai trị, mà lại
dành quyền này cho các “Chơn Linh có một bản chất
thiêng liêng ưu việt hơn con người”.
Như vậy, chính
Thượng Đế (Thiên Đạo, tổng hợp
của Tập Đoàn Thiên Thần), đang chưởng
quản các vị Thần, đă trở thành Kẻ chăn
chiên và Lănh tụ đầu tiên của nhân loại. ([826])
Khi thế giới không c̣n được cai trị như
thế và các thần đă rút lui, th́ các con ác thú đă
nuốt chửng một phần nhân loại. Nếu
phải tự ḿnh xoay xở th́ các Nhà phát minh bấy
giờ xuất hiện lần lượt giữa nhân
quần và khám phá ra lửa, lúa ḿ, rượu nho; thế là
công chúng biết ơn bằng cách thần thánh hóa các Ngài. ([827])
Nhân loại thật là chí
lư, v́ lửa do ma sát là bí mật đầu tiên của thiên
nhiên, đặc tính chủ yếu và bản sơ của
vật chất được tiết lộ cho con
người.
Giảng lư dạy:
Các
“Đấng Minh Triết” đă mang từ các Cơi khác
đến đây các loại hoa quả, cốc loại mà
Địa Cầu, cho tới lúc đó, chưa hề
biết tới, v́ lợi ích của những kẻ mà các
Ngài cai trị.
Nay:
Các phát sinh sơ
khai nhất [?] của nhân loại chính là các phát minh kỳ
diệu nhất mà loài người đă thực hiện
được… Việc dùng
lửa lần đầu tiên,
sự khám phá ra các phương pháp để mồi
lửa; sự thuần hóa súc vật, và nhất là các
phương cách khiến cho chúng ta lần đầu tiên
phát triển được nhiều cốc loại khác
nhau từ một số loại cỏ dại [?] – tất
cả đều là các khám phá
mà xét về mặt tinh xảo và tầm quan trọng, th́
không một khám phá tiếp sau nào có thể b́ kịp.
Lịch sử chẳng hề biết ǵ về tất
cả các điều này, tất cả đều khuất
đi dưới ánh sáng của một
buổi b́nh minh chói lọi. ([828])
Thế hệ kiêu hănh của
chúng ta ắt sẽ nghi ngờ và chối bỏ
điều này. Nhưng nếu người ta quả
quyết rằng không có cốc loại và hoa quả nào mà địa cầu không biết
tới, th́ chúng ta có thể nhắc độc giả
nhớ rằng chưa bao
giờ lúa ḿ được t́m thấy ở trong trạng
thái hoang dại, nó không phải là một sản phẩm
của địa cầu. Tất cả các cốc
loại khác đă được truy nguyên tới dạng
tiên thiên của chúng nơi nhiều giống cỏ dại
khác nhau, nhưng cho đến nay, lúa ḿ đă thách thức
các nhà thực vật học ra sức truy nguyên nguồn
gốc của nó. Về vấn đề này, chúng ta nên
nhớ rằng giống cốc loại này thật là linh
thiêng biết bao đối với các lễ sư Ai
Cập, thậm chí lúa ḿ c̣n được đặt vào
các xác ướp của họ, và đă được t́m
thấy trong quan
373
tài của
họ hàng ngàn năm sau đó. Chúng ta hăy nhớ cách thức
mà các người giúp việc của Horus mót lúa ḿ nơi
cánh đồng Aanroo, lúa ḿ cao bảy
cubits (3,2m). ([829])
Nữ Thần Isis của
Ai Cập đă dạy:
Ta là Nữ Hoàng
của các vùng này, ta là người đầu tiên đă
tiết lộ cho loài người những điều bí
nhiệm của lúa ḿ và ngô (wheat and corn)… Ta là Nữ Thần
vươn lên trên cḥm sao Thiên Lang (Dog)… Hoan hỉ lên hỡi
Ai Cập ! vùng đất đă nuôi dưỡng ta. ([830])
Sirius được gọi
là cḥm sao Thiên Lang (Dog-star). Nó là sao của Mercury tức Budha,
được gọi là Đại Huấn Sư của
Nhân loại.
Kinh Dịch (Y-King) của
Trung Hoa gán việc khám phá ra nông nghiệp cho “sự giáo
huấn mà các thiên thần đă ban cho loài người”.
Đáng buồn thay cho những
kẻ chẳng biết ǵ, chẳng quan sát ǵ, cũng
chẳng thấy ǵ. Họ đều mù tịt cả, ([831])
v́ họ vẫn mù tịt về việc thế giới có
đầy dẫy các loại tạo vật vô h́nh khác nhau,
thậm chí chúng c̣n lúc nhúc cả ở những nơi
chốn linh thiêng nhất nữa. ([832])
“Các Con của Thượng
Đế” đă tồn
tại và vẫn đang
tồn tại. Từ “các Con của Brahmă” và “các Con của
Trí sinh” ở Ấn Độ, xuống tới B’ne Aleim
trong Thánh kinh Do Thái giáo, niềm tin của hàng thế kỷ
và truyền thuyết của đại đồng thế
giới đă khiến cho lư trí bắt buộc phải nh́n
nhận bằng chứng như thế. Cái gọi là
“sự phê b́nh độc lập” hoặc “bằng chứng
nội tại”- thường thường dựa vào
thị hiếu riêng của những nhà phê b́nh – liệu có
giá trị ǵ chăng khi giáp mặt với bằng chứng
đại đồng thế giới, vốn chẳng bao
giờ biến đổi trong suốt các chu kỳ
lịch sử? Chẳng hạn, chúng ta hăy thuyết minh
chương sáu của Sáng Thế Kư một cách bí
truyền, nó lặp lại các phát biểu của Giáo Lư Bí
Nhiệm, mặc dù hơi thay đổi h́nh thức
một chút, và rút ra một kết luận khác mâu thuẫn
với cả kinh Zohar nữa.
Thời kỳ
đó, trên trái đất có những người khổng
lồ và sau đó khi các con trai của Thượng
Đế [B’ne Aleim] đến chung chạ với các con gái
của nhân loại rồi sinh con cái, th́ các con này trở
thành những người khỏe mạnh, già
nua, những kẻ lừng danh [tức là những
người khổng lồ].([833])
374
Liệu câu
“và sau đó” có nghĩa là ǵ nếu không phải là: Có
những người Khổng lồ ở trên Trái
Đất trước đó,
nghĩa là trước khi có những người Con Vô
tội thuộc Giống dân thứ Ba; và sau đó, khi các người Con khác của
Thượng Đế, có bản chất thấp kém, khai
mào sự giao hợp trên Trần Thế - Daksha đă làm
như vậy khi thấy rằng các con Trí sinh của ḿnh
đă không chịu làm cho Trái Đất đầy dẫy
dân cư? Rồi đến một sự gián đoạn
dài ở chương này, giữa các câu thơ thứ 4 và
thứ 5. Đó là v́, chắc chắn rằng Thượng
Đế thấy rằng con người thật là
độc ác, chẳng phải nơi hay xuyên qua sự
độc ác của những người mạnh khỏe…
những kẻ lừng danh (trong số đó có Nimrod
người thợ săn dũng mănh trước mắt
Chúa), mà cũng chẳng phải nơi các kẻ xây dựng
tháp Babel, v́ điều này xảy ra sau trận Đại
hồng thủy. Ngài thấy như vậy nơi các con cháu
của những người Khổng lồ vẫn tạo
ra một vài con quái vật
thuộc giống người khổng lồ, những
con quái vật vốn là thủy tổ của những
người thấp kém, nay được đại
diện trên Trần Thế bởi một vài bộ lạc
khốn khổ đang chết lần ṃn và những con
khỉ giống người
khổng lồ.
Và nếu bị các nhà thần học (dù là Tin Lành hay Thiên Chúa giáo La Mă) trách cứ th́ chúng ta chỉ cần yêu cầu họ hăy tham khảo các kinh điển sát nguyên văn của chính ḿnh. Câu thơ nêu trên đă từng là một vấn đề khó xử, chẳng những đối với các nhà khoa học và các học giả Thánh kinh, mà c̣n đối với cả các giáo sĩ nữa. Đó là v́ Linh mục Péronne đă tŕnh bày như sau:
Hoặc là họ
(B’ne Aleim) là các Thiên Thần lương hảo, và trong
trường hợp như vậy, làm thế nào mà họ
có thể sa đọa được? Hoặc là họ là
các Thiên Thần tồi bại, và trong trường hợp đó, họ không thể
được gọi là B’ne Aleim, tức là các con của
Thượng Đế.([834])
Câu đố bí nhiệm trong
Thánh kinh – mà Fourmont đă thành thật thú nhận rằng
không tác giả nào đă từng hiểu được chân
ư nghĩa của nó ([835])
- chỉ có thể giải thích bằng Huyền bí học,
bằng kinh Zohar đối với người Tây
phương và THIỀN
ĐỊNH CHÂN KINH đối
với người Đông phương. Chúng ta đă
biết Thiền Định Chân Kinh dạy những ǵ, c̣n
kinh Zohar dạy chúng ta rằng B’ne Aleim là một danh xưng
chung dành cho Mahachim, các Thiên Sứ lương hảo, và
Ischins, các Thiên Thần hạ đẳng. ([836])
Chúng ta có thể nói thêm
một cách có lợi cho nhà Ma Quỷ học rằng trong
Thánh Thư Job, Satan, “Kẻ
đối địch”, lại được bao gồm
trong hàng ngũ các “con” của Thượng Đế
(tức B’ne Aleim), kẻ viếng thăm thân phụ của
họ. ([837])
Điều này sẽ được bàn sau.
375
Nay kinh Zohar
dạy rằng Ischins (các Con của Thượng Đế
mỹ lệ) không có tội
mà chỉ ăn ở lẫn lộn với người phàm tục, v́ họ được phái xuống trần thế
để làm như vậy. ([838])
Ở một chỗ khác, cũng tác phẩm này lại tŕnh
bày rằng các Con của Thượng Đế này lại
thuộc về phân bộ thứ mười của nhóm
“Thiên Thần vương vị” (“Thrones”). ([839])
Nó cũng giải thích rằng các Ischins – “các Chơn Linh-
người” ([840])
- nay con người không c̣n có thể thấy họ
được nữa, đă dùng tài khéo léo của ḿnh
để giúp cho các Pháp sư tạo ra “tiểu nhân” (“small
men”) (theo ư nghĩa là kẻ thấp
kém hơn con người). Cả hai đều xuất
hiện dưới dạng của các Ischins thời đó,
nghĩa là tinh anh và giống như hơi. Thủ lănh
của họ là Azazel.
Nhưng Azazel, Đấng mà
Giáo hội giáo điều cứ khăng khăng liên
kết với Satan, không hề giống như vậy.
Azazel là một điều bí
nhiệm (điều này đă được giải
thích ở đâu đó) và đă được Maimonides
diễn đạt như sau:
Có một bí
mật không thể thấu đạt được trong
câu chuyện liên quan tới Azazel. ([841])
Và quả có thế, Lanci,
một quản thủ thư viện ở Toà Thánh Vatican,
người mà chúng ta đă trích dẫn trước đây,
và ắt phải biết, cho rằng:
Qua ng̣i bút của
các học giả Thánh kinh, thánh danh khả kính này đă
trở thành một con quỷ, một hoang địa,
một quả núi và một con dê đực. ([842])
Do đó, dường
như thật là điên rồ khi cho rằng danh xưng này
thoát thai từ Azal (bị phân cách) và El (Thượng
Đế), v́ thế có nghĩa là “kẻ bị ngăn cách
với Thượng Đế” tức MA QUỶ, như
Spencer đă làm. Trong kinh Zohar, Azazel là “vật hy sinh
để tế thần” th́ đúng hơn là “địch
thủ chính thức của Jehovah” như Spencer đă
diễn đạt. ([843])
Nhiều tác giả cuồng
tín khác nhau đă tŕnh bày về chiếc “Bánh Thánh” này một
cách hoang đường và vô cùng hiểm độc. Azazel
và “Bánh Thánh” chỉ là Prometheus của người Hebrew và
phải được xét theo cùng một quan điểm
như vậy. Kinh Zohar tŕnh bày các Ischins bị xiềng vào
núi trong sa mạc. Điều này có tính cách ẩn dụ và
chỉ nói bóng gió tới các “Chơn Linh” này là bị
xiềng vào Quả Đất trong Chu kỳ Lâm phàm. Azazel
hay Azazyel, là một trong các thủ lănh của các Thiên
Thần “phạm tội” trong Thánh Thư Enoch, khi giáng
xuống Ardis, đỉnh núi Armon, họ đă tự ràng
buộc ḿnh bằng cách thề trung thành với nhau.
Được biết Azazyel đă dạy người ta
làm gươm, dao, khiên, chế tạo gương (?)
để cho người ta
thấy được những ǵ ở phía sau ḿnh,
nghĩa là những chiếc “gương thần”. Amazarak
đă dạy tất cả những phù thủy và những
kẻ chia rẽ để cho cây sinh sản: Amers dạy giải
pháp của pháp thuật; Barkayal dạy chiêm tinh học;
Akibeek dạy ư nghĩa của các điểm và các kư
hiệu; Tamiel dạy thiên văn học; và Asaraded dạy
về chuyển động của Mặt Trăng. ([844])
“Bảy vị này là các Huấn Sư đầu tiên của
con người thứ tư” (nghĩa là Giống dân thứ
Tư). Nhưng tại sao người ta lại luôn luôn
hiểu ẩn dụ theo ư nghĩa sát nguyên văn của nó
?
Đó là sự tŕnh bày
tượng trưng trận đại chiến giữa
Minh Triết Thiêng Liêng, Nous, và Phản ánh Thế tục
của nó, Psuche, tức là giữa Tinh Thần và Linh Hồn,
trên Trời và dưới Trần Thế. Trên Trời – là v́
Chơn Thần Thiêng Liêng đă tự ư lưu vong từ
đó để giáng xuống lâm phàm trên cảnh giới
thấp, và như thế, biến con vật bằng
đất sét thành một vị Thần
bất tử. Đó là v́ Éliphas Lévi đă cho chúng ta biết
rằng:
Các Thiên Thần mong
muốn được trở thành người, v́ Con
Người toàn thiện, Thiên Nhân (Man-God) c̣n cao siêu hơn
cả các Thiên Thần (Angels).
Dưới trần
thế - là v́ ngay khi tinh thần đă giáng lâm, nó liền
bị các cuộn dây vật chất chẹn cổ.
Lạ thay, Giáo lư Huyền bí lại đảo ngược các đặc tính trong trường hợp này, chính vị Tổng Thiên Thần nhân h́nh (đối với tín đồ Thiên Chúa giáo) và vị Thần giống người (đối với người Ấn Độ) mới tiêu biểu cho Vật Chất, c̣n con Rồng hay Rắn lại tiêu biểu cho Tinh Thần. Biểu tượng kư huyền linh cung ứng cho chúng ta ch́a khóa để giải điều bí nhiệm; c̣n biểu tượng kư thần học lại che giấu nó nhiều hơn nữa. Đó là v́ biểu tượng kư huyền linh giải thích được nhiều câu trong Thánh kinh, ngay cả trong Tân Ước nữa; mà đến nay vẫn c̣n không ai hiểu được. C̣n biểu tượng kư thần học, v́ giáo điều về Satan và sự nổi loạn của y nên đă làm hạ giá tính cách và bản chất của vị Thượng Đế lẽ ra phải là vô hạn và toàn thiện, và tạo ra điều ác và tự đọa đày tồi bại nhất trên Trần Thế - niềm tin vào con Quỷ nhân h́nh. Điều bí mật này nay đă được tiết lộ một phần. Ch́a khóa giải ư nghĩa thần học của nó lại tŕnh bày các Thần và Thiên Thần là biểu tượng của các tôn giáo chấp nê văn tự, giáo điều đang bày binh bố trận chống lại các chân lư thuần túy về Tinh Thần, trơ trụi và không hề được óc hoang đường tô điểm.
Trong Nữ Thần Isis
Lộ Diện, người ta đă đưa ra nhiều
ẩn ngôn theo chiều hướng này, và chúng ta c̣n có
thể t́m thấy c̣n nhiều điều ám chỉ bí nhiệm
này hơn nữa rải rác trong tác phẩm này. Xin nêu rơ điều này một
lần nữa cho trọn vẹn : cái mà giai cấp giáo
sĩ thuộc mọi tôn giáo có óc giáo điều, nhất
là Thiên Chúa giáo, nêu đích danh là Satan, kẻ thù của
Thượng Đế, thật ra lại là Tinh Thần
thiêng liêng vô thượng – Minh Triết Huyền Linh trên
Trần Thế - nó dĩ nhiên là đối địch
với mọi ảo tưởng phù du, trần tục,
kể cả các tôn giáo có tôn ti trật tự và có óc giáo
điều. Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă, vốn cố
chấp, mê tín (bigoted) và độc ác đối với
tất cả những kẻ nào không chịu làm nô lệ
của ḿnh, đă tự xưng là “cô dâu”(“bride”) của
Đức Christ, và đồng thời là kẻ thân tín
của Peter, kẻ đă bị Chúa quở trách một cách
thật là chí lư rằng: “Hỡi Satan, hăy theo sau ta !” C̣n Giáo
hội Tin Lành, trong khi tự xưng là Thiên Chúa giáo, lại
tỏ ra nghịch lư khi thay thế Tân Ước bằng
các Luật cổ hủ của Moses mà Đức Christ công
khai chối bỏ. Cả hai Giáo hội nêu trên đều
đang tranh đấu chống lại Chân lư thiêng liêng, khi
phủ nhận và vu khống Con Rồng Minh Triết Thiêng
Liêng Huyền Bí. Bất cứ khi nào mà họ nguyền
rủa thậm tệ Đấng Chnouphis Thái Dương
của phái Ngộ Đạo, Linh xà Christos, hay Con Rắn
Vĩnh Cửu của Minh Triết Thiêng Liêng, hoặc
thậm chí Con Rắn trong Sáng Thế Kư – th́ họ cũng
bị khích động bởi các tinh thần cuồng tín hắc
ám đă bị khích động của đám người
Pharisees nguyền rủa Jesus bằng những lời
lẽ sau đây: “Phải chăng chúng tôi không nên bảo
rằng Ngài có một con quỷ ?”
377
Chúng ta
hăy đọc lối tường thuật về Indra (Văyu)
trong kinh Rig Veda, tác phẩm Huyền bí tuyệt diệu của môn phái Ăryan, rồi so sánh
nó với cũng lối tường thuật ấy bên
trong kinh Purănas (lối thuyết minh ngoại môn của phái
Ăryan) và lối tường thuật cố ư xuyên tạc
về giáo lư huyền môn chân chính. Trong kinh Rig Veda, Indra là
vị Thần cao siêu và vĩ đại nhất, và
việc Ngài uống nước Soma ám chỉ bản
chất thiêng liêng cao cả của Ngài. Trong kinh Purănas, Indra
trở thành một kẻ trụy lạc, thường say
tít v́ uống nước Soma, theo lối thế tục
thường t́nh. Ngài chinh phục được mọi
“kẻ thù của chư Thiên”, các Daityas, Năgas (Rắn), Asuras,
mọi Thần Rắn, và của Vritra, Rắn Vũ
Trụ, Indra là thánh Michael của chư Thần Ấn
Độ - thủ lănh của đạo
quân Thiên Thần. Quay sang Thánh kinh, chúng ta thấy Satan,
một trong “các Con của Thượng Đế”, ([845])
trở thành Ma Quỷ theo lối thuyết minh ngoại môn,
và Con Rồng theo ư nghĩa tồi bại, tội lỗi.
Nhưng trong kinh Kabalah, ([846])
Samael vốn là Satan lại được tŕnh bày là
tương đồng với Thánh Michael, Kẻ Giết
Rồng. Thế là thế nào, khi nghe nói Tselem (H́nh ảnh)
phản chiếu Michael và Samael như nhau, cả hai vốn chỉ là một ? Người ta
đă dạy rằng cả hai đều xuất phát
từ Ruach (Tinh Thần), Neshama (Linh Hồn) và Nephesh (Sự
Sống). Trong số Mục Thánh Thư của dân Chaldea,
Samael chính là Minh Triết ẩn tàng (Huyền linh), c̣n Michael
là Minh Triết thượng đẳng thế tục, cả hai đều xuất phát
từ cùng một nguồn, nhưng lại rẽ ra sau khi
xạ ra từ Linh Hồn
Thế gian, mà trên Trần Thế vốn là Toàn Linh Trí (Mahat), sự
hiểu biết của trí tuệ tức Manas, chỗ trú của trí năng. Họ rẽ ra,
v́ một đàng (Michael) chịu tác dụng của Neshamah,
c̣n một đàng (Samael) lại vẫn không bị ảnh
hưởng. Giáo điều này đă bị đầu óc
giáo điều của Giáo hội làm cho bại hoại,
vốn ghê tởm Tinh Thần độc lập không
chịu ảnh hưởng của h́nh hài sắc
tướng, do đó bởi giáo điều, nó tức
khắc biến Samael – Satan – tinh thần minh triết và
thiêng liêng nhất – thành ra đối thủ của
Thượng Đế nhân h́nh và con người vật
dục tức Ma Quỷ !
NGUỒN GỐC CỦA HUYỀN THOẠI SATAN
Thế th́, chúng ta hăy
thử thâm cứu thêm sự sáng tạo của óc
tưởng tượng của các Linh mục về giáo lư
này và t́m kiếm nguyên kiểu của nó đối với những
người Ngoại đạo. Thật là dễ dàng mà
truy nguyên nguồn gốc của tân huyền thoại Satan.
Truyền thuyết về Con Rồng và Mặt Trời
vẫn c̣n vang dội ở khắp nơi trên thế
giới, cả ở những vùng văn minh lẫn
những vùng bán khai. Nó phát nguyên trong những lời th́
thầm về các cuộc Điểm đạo bí mật
trong trần tục, và đă từng được
lập nên trên khắp thế giới, xuyên qua tôn giáo
thờ mặt trời xưa kia có tính cách đại đồng
thế giới. Có một thời mà khắp nơi trên
thế giới cũng đầy dẫy các đền
thờ Mặt Trời và Rồng; Nhưng nay, sự
thờ cúng này được duy tŕ ở hầu hết các
xứ theo Phật giáo và Trung Hoa.
Bel và con Rồng
được phối ngẫu đồng đều
với nhau, c̣n vị lễ sư của tôn giáo Thờ
rắn th́ cũng đều giả danh vị Thần Linh
của ḿnh.([847])
Trong các tôn giáo thời
xưa, người ta phải t́m kiếm nguồn gốc
Tây phương của nó ở Ai Cập. Các kẻ Thờ
rắn kế thừa các nghi lễ của ḿnh từ Hermes
Trismegistus, và kế thừa tục sùng bái mặt trời
với các Nhật thần xâm nhập vào Ai Cập từ
Ấn Độ. Chúng ta thấy các vị Thần ở
Stonehenge, là các Thần ở Delphi và Babylon, lại là các
vị Thiên Thần ở các quốc gia có kinh Veda. Bel và Con
Rồng, Apollo và Python, Krishna và Kăliya, Osiris và Typhon,
đều chỉ là một dưới nhiều danh
xưng khác nhau – Osiris và Typhon chính là Michael và Xích Long (Red
Dragon), và Thánh George và Con Rồng của Ngài. V́ Michael là
“Đấng giống như Thượng Đế”,
hoặc phân thân của Ngài để thi hành các mục
đích thế gian, và một trong các Đấng Elohim, Thiên
Thần chiến đấu, nên Ngài chỉ là một hoán
vị của Jehovah. Cho dù biến cố vũ trụ hay
thiên văn thoạt tiên đă tạo ra các ẩn dụ
về “cuộc Chiến tranh trên Trời” có ra sao đi
chăng nữa, th́ chúng ta cũng phải t́m kiếm
nguồn gốc thế tục của nó nơi thánh
điện Điểm đạo và các hầm mộ
cổ sơ. Bằng chứng là chúng ta thấy rằng (a)
các lễ sư giả danh là chư Thần Linh mà họ
phụng sự; (b) suốt thời cổ sơ, các “Con
Rồng” được xem như là biểu tượng
của sự Bất Tử và Minh triết, của Tri
thức bí nhiệm và Vĩnh Cửu; (c) các Đạo
Trưởng ở Ai Cập, Babylon và Ấn Độ
thường tự xưng là “các Con của Rồng” và
“Rắn”; như thế điều này đă bổ
chứng cho Giáo Lư Bí Nhiệm.
Ở Ai Cập và Chaldea có
nhiều hầm mộ, một số hầm mộ này
rất lớn. Hầm mộ trứ danh nhất là các
hầm mộ dưới đất của Thebes và Memphis.
Các hầm mộ của Thebes, bắt đầu trên bờ
Tây của sông Nile trải rộng về phía sa mạc Lybia
và được biết là các hầm mộ hay hành lang
của Rắn. Chính ở đó đă diễn ra các Bí pháp
thiêng liêng của “Chu kỳ Tất yếu”(“Unavoidable Cycle”)
mà người ta thường biết là “Ṿng tṛn Tất
yếu”(“Circle of Necessity”), số phận tàn nhẫn đă
được áp đặt lên mọi Linh Hồn sau khi
thể xác đă chết, khi nó đă bị phán xét ở vùng
Luyện ngục (Amentian region).
Trong tác phẩm của De
Bourbourg, Votan, vị Bán thần linh Mễ Tây Cơ, khi
tường thuật cuộc hành tŕnh của ḿnh, đă mô
tả một hành lang ngầm, chạy dưới
đất và chấm dứt ở ṿm của cơi trời.
Ngài c̣n nói thêm rằng hành lang này là hang Rắn và Ngài
được nhận vào đó v́ chính Ngài là một “Con của Rắn”, tức là
một Con Rắn. ([848])
379
Thật vậy,
điều này rất gợi ư, v́ việc ông mô tả cái
“hang Rắn” chính là việc mô tả hầm mộ ở Ai
Cập như chúng ta đă nêu trên. Vả lại, trong khi thi
hành những Bí pháp, các vị Đạo Trưởng Ai
Cập cũng như Babylon, thường tự xưng là
“các Con của Thần Rắn” hay “các Con của Rồng”.
“Lễ sư Assyria luôn
luôn mang tên vị Thần của ḿnh”, theo Movers. Những
người Druids ở các vùng Celt-Bretagne cũng tự
xưng là Rắn. Họ kêu lên “Tôi là một Con Rắn, tôi
là một người Druid”. Karnak ở Ai Cập là anh em
sinh đôi của Carnac ở Bretagne, Carnac có nghĩa là Núi
Rắn. Các đền thờ Rồng đă từng
đầy dẫy trên mặt địa cầu, các
đền này thờ Rồng chỉ v́ đó là hiện tượng
của Mặt Trời, đến lượt Mặt
Trời lại là biểu tượng của vị
Thần Tối Cao – Elon hay Elion ở Phoenicia, Đấng mà
Abraham nhận ra là El Elion. ([849])
Ngoài tên họ là Rắn, họ cũng có danh xưng là các
“Đấng Kiến Tạo” hay”Kiến Trúc Sư”, v́ các
đền thờ và các đền đài của chúng
lớn đến nỗi mà ngay cả hiện nay, các di tích
vụn nát của chúng “cũng làm cho các kỹ sư của
chúng ta ngày nay kinh sợ khi phải tính toán, “theo lời
của Taliesin. ([850])
De Bourbourg nói bóng gió
rằng các vị đứng đầu có danh xưng Votan,
Quetzo-Cohuatl, tức là Thần Rắn của người
Mễ Tây Cơ, chính là con cháu của Ham và Canaan. Họ cho
rằng “Tôi là Hivim ([851]).
V́ là Hivim, nên thuộc về đại tộc Rồng
(Rắn). Tôi chính là một con Rắn, v́ tôi chính là Hivim”.
Hơn nữa, theo ư nghĩa
nào đó, “cuộc Chiến tranh trên Trời” muốn nói
tới những cuộc đấu tranh khủng khiếp
dành cho ứng viên Cao đồ - các cuộc đấu tranh
của chính vị này và các thị dục con người
được nhân cách hóa (bằng Pháp thuật) của
vị ấy, khi Chơn
Nhơn giác ngộ, hoặc là phải tiêu diệt chúng,
hoặc là thất bại. Trong trường hợp tiêu
diệt được chúng, th́ vị ấy trở thành
“Kẻ giết Rồng”, v́ đă may mắn khắc
phục được tất cả các sự cám dỗ,
và trở thành một “Con của Rắn”, và chính một Con
của Rắn, sau khi đă lột bỏ lớp da cũ
của ḿnh, và sinh ra trong cơ thể mới, trở thành
một Con của Minh Triết và Bất Tử trong Vĩnh
Cửu.
Seth, vị thủy tổ
trứ danh của Do Thái, chỉ là một sự nhái
lại của Do Thái giáo về Hermes, Thần Minh Triết
cũng được mệnh danh là Thoth, Tat, Seth, Set và
Satan. Ngài cũng là Typhon chẳng khác nào Apophis, Con Rồng
bị Horus giết chết; v́ Typhon cũng được
gọi là Set. Ngài chỉ là khía cạnh hắc ám của Osiris, anh Ngài, cũng như Angra
Mainyu là bóng đen của Ahura Mazda. Xét về mặt thế
tục, tất cả những ẩn dụ này đều
có liên quan tới những cuộc thử thách để
được Điểm đạo và đạt quả
vị Chơn Sư. Xét về mặt thiên văn, chúng có ư
nói tới các kỳ Nhật thựcc và Nguyệt thực, đến
nay, chúng ta có thể thấy những lời giải thích
thần thoại về điều này ở Ấn
Độ và Tích Lan, nơi mà bất kỳ người nào
cũng có thể nghiên cứu các chuyện ẩn dụ và
các truyền thuyết vẫn không đổi trong nhiều
ngàn năm.
380
Xét về mặt thần thoại, Răhu là
một Daitya – một Người khổng lồ, một
Bán thần linh có phần dưới của cơ thể
tận cùng bằng đuôi của một Con Rồng hay
Rắn. Trong khi Đại dương bị khuấy
đảo, khi chư Thiên tạo ra Nước cam lồ
trường sinh th́ y lấy cắp một ít để
uống và trở thành bất tử. Mặt Trời và
Mặt Trăng đă phát hiện ra việc y đánh
cắp, nên tố cáo y với Vishnu, Ngài liền nhốt y
vào các bầu tinh đẩu, phần trên của cơ
thể Ngài lại tiêu biểu cho đầu Rồng, c̣n
phần dưới (Ketu) tiêu biểu cho đuôi Rồng, hai
phần đó chính là các tiếp điểm lên và xuống.
Từ đó, Răhu liền trả thù Mặt Trăng và
Mặt Trời bằng cách thỉnh thoảng lại
nuốt chúng. Nhưng thần thoại có một ư nghĩa
huyền bí khác, và Răhu đầu Rồng đă giữ
một vai tṛ chủ yếu trong các Bí pháp Điểm
đạo của Mặt Trời (Vikartana), khi ứng viên
và Con Rồng đă chiến đấu quyết liệt.
Các hang của chư Thánh
Hiền, các chỗ trú của Teiresias và các nhà linh thị Hy
Lạp, được khuôn đúc theo các chỗ trú của
Xà Vương Ấn Độ (Năgas), họ vẫn ở
trong các hang đá dưới đất. Từ Shesha, Con
Rắn ngàn đầu mà Vishnu ngự trên đó, xuống măi
tới Python, Con Rồng và rắn
sấm truyền, tất cả đều vạch rơ ư
nghĩa bí mật của thần thoại này. Ở Ấn
Độ, chúng ta thấy sự kiện này được
đề cập trong các kinh Purănas sơ khai nhất. Các con
của Surăsă là những “Con Rồng” dũng mănh. Kinh Vayu
Purăna thay thế các Con Rồng Surasă trong kinh Vishnu Purăna
bằng Dănavas, thay thế hậu duệ của Danu
bằng Hiền triết Ca Diếp (Kashyapa). Các Dănavas này
chính là những Người khổng lồ Titan đă
chiến đấu chống lại các Thần Linh, như
thế, người ta đă chứng tỏ rằng họ
đồng nhất với các Con Rồng và Rắn Minh
Triết.
Chúng ta chỉ cần so
sánh các Nhật Thần của mọi xứ với nhau th́
cũng đủ thấy các chuyện ẩn dụ của
chúng hoàn toàn phù hợp với nhau. Biểu tượng
ẩn dụ càng Huyền bí, th́ các biểu tượng
của nó trong hệ thống ngoại môn lại càng phù
hợp với nó. Như thế, nếu chúng ta ngẫu nhiên
lựa ra nhiều Nhật Thần và Con Rồng từ ba
hệ thống khác nhau theo bề ngoài – hệ thống
cổ Ăryan, hệ thống cổ Hy Lạp, và các hệ
thống Thiên Chúa giáo hiện đại – th́ chúng ta sẽ
thấy rằng chúng đă được mô phỏng theo
nhau.
Chúng ta hăy thử xét
Hỏa Thần Agni, Thần bầu trời Indra và Kărtikeya
của người Ấn Độ; thần Apollo của
người Hy Lạp; và Michael, “Thiên Thần Mặt
Trời”, Phân thân bản sơ mà các tín đồ phái
Ngộ Đạo gọi là “Đấng Cứu Thế” –
và tiến hành công việc theo thứ tự.
381
1. Trong kinh
Rig Veda, Hỏa Thần Agni được gọi là
Vaishvănara. Nay Vaishvănara là một Dănava, một con Quỷ
khổng lồ, ([852])
hai con gái của nó (Pulomă và Kălakă) là mẹ của hằng hà
sa số Dănavas (30 triệu), chịu ơn sinh thành của
Đức Ca Diếp,([853])
và sống ở Hiranyapura, “kinh
đô màu vàng nổi lềnh bềnh trên không”.([854])
V́ thế, về phương diện nào đó th́ Indra là con
gái của hai vị này với vai tṛ là một người
con của Đức Ca Diếp; theo nghĩa này th́ Ca
Diếp đồng nghĩa với Hỏa Thần Agni hay
Mặt Trời (Ca Diếp-Ăditya). Cũng trong nhóm này c̣n có
Skanda hay Kărtikeya, Thần Chiến Tranh, thiên thể Mars sáu mặt xét về mặt
thiên văn, một vị Kumăra hay Trai tân, do Hỏa Thần
sinh ra ([855])
để tiêu diệt Con Quỷ khổng lồ Tăraka, cháu
của Ca Diếp, con của Hiranyăksha. ([856])
Những phép luyện yoga khắc khổ của Tăraka phi
thường đến nỗi mà chúng trở nên kinh
khủng đối với chư Thiên, họ e rằng
đó là một thế lực cạnh tranh với ḿnh. ([857])
Trong khi Indra, vị Thần chói lọi trên Bầu trời,
giết chết Vritra, tức Ahi, con Quỷ Rắn –
nhờ chiến công này nên Ngài mới được
gọi là Vritra-han, “Kẻ tiêu diệt Vritra”- th́ Ngài cũng
lănh đạo tập đoàn Thiên Thần chống lại
các vị Thần khác đang nổi loạn chống
với Brahmă, v́ thế Ngài mới có tên gọi là Jishnu,
“Thủ lănh của Đạo quân Thiên giới”. V́ giết
được con Quỷ khổng lồ Tăraka, nên Ngài
được gọi là Tăraka-jit, “Kẻ chinh phục
được Tăraha”,([858])
Kumăra Guha, “Đấng Thiên Tôn bí nhiệm”, Siddha-sena “Thủ
lănh của các Siddhas” và Shakti-dhara, “Kẻ cầm giáo”.
382
2. Nay chúng ta hăy xét Apollo,
Nhật Thần Hy Lạp, và việc dùng so sánh các lối
tường thuật thần thoại về Ngài để
xem Ngài có tương ứng chăng với cả Indra,
Kărtikeya lẫn Ca Diếp-Ăditya, đồng thời
tương ứng với Michael (với vai tṛ là dạng
Thiên Thần của Jehovah), “Thái Dương Thiên Thần”,
Ngài vốn “giống như và đồng nhất với
Thượng Đế”. Mặc dù được nâng lên
thành các giáo điều mà không ai được quyền
nghi ngờ, những lối thuyết minh tài t́nh sau này
với các mục đích độc thần, có lẽ
chẳng chứng tỏ được ǵ, ngoại trừ
sự lạm quyền của con người.
Apollo là Helios, Mặt Trời,
Phoibos-Apollo, “Ánh sáng của Sự Sống và Thế gian”, ([859])
Ngài phát sinh từ cái Ly có cánh bằng Vàng (Mặt Trời);
v́ thế, Ngài là Nhật Thần tuyệt
diệu. Ngay khi mới cất tiếng chào đời,
Ngài đă đ̣i chiếc cung để giết Python, con
Quỷ Rồng đă tấn công mẹ Ngài trước khi
Ngài ra đời ([860])
mà thiêng liêng ủy nhiệm cho Ngài tiêu diệt – cũng
như Kărtikeya được sinh ra đời để
giết Tăraka, Con Quỷ quá
thánh thiện và khôn ngoan.
Apollo ra đời trên một đảo tinh đẩu tên
là Asteria –“đảo sao vàng”, ([861])
“quả địa cầu nổi lềnh bềnh trên không”,
nó vốn là Hiranyapura hoàng kim
của Ấn Độ. Ngài được gọi là
Đấng Thanh Khiết, Agnus Dei, theo Tiến sĩ Kenealy
th́ đó chính là Hỏa Thần của Ấn Độ;
theo “thần thoại bản sơ th́ Ngài được
miễn khỏi mọi t́nh yêu nhục thể”.([862])
Do đó, Ngài là một vị Thiên Tôn giống như Kărtikeya
và cũng như Indra trong các kiếp trước. Hơn
nữa Python, “Xích Long”, liên kết Apollo với Michael, Ngài
chiến đấu với Con Rồng trong kinh Khải
Huyền, đang ra sức tấn công người đàn bà
đang sinh nở, cũng như Python tấn công thân mẫu
của Apollo. Thử hỏi có ai mà chẳng thấy sự
đồng nhất này không? Nếu W. E. Gladstone, kẻ
lấy làm tự phụ về tŕnh độ học
giả Hy Lạp và sự hiểu biết về tinh
thần của các chuyện ẩn dụ của Homer,
đă từng có được một khái niệm thực
sự về ư nghĩa nội
môn của Iliad và Odyssey,
th́ ắt ông đă hiểu được Thánh Thư Khải Huyền của Thánh John,
thậm chí cả Ngũ kinh Cựu Ước nhiều
hơn nữa. Đó là v́ con đường dẫn tới
Thánh kinh phải đi qua Hermes, Bel và Hormes, cũng như con
đường dẫn tới các vị này lại phải
đi qua các biểu tượng tôn giáo Ấn Độ và
Chaldea.
3. Chúng ta thấy việc
lặp lại các truyền thuyết cổ sơ này trong
chương xii, Thánh Thư Khải Huyền của Thánh
John, và chắc chắn là bắt nguồn từ huyền
thoại Babylon, mặc dù đến lượt câu
chuyện Babylon này lại bắt nguồn từ ẩn
dụ của người Ăryans. Đoạn văn mà George
Smith đă đọc được cũng đủ
để tiết lộ nguồn gốc của chương
Thánh Thư Khải Huyền này rồi. Nhà nghiên cứu
Assyria lỗi lạc ấy đă tŕnh bày như sau:
383
Áng
văn này đề cập tới sự sáng tạo ra loài
người tên Adam, như [con người] trong Thánh kinh, y
được tạo ra một cách hoàn chỉnh, … nhưng
sau đó, y cấu kết với con rồng dưới
vực sâu, con thú Tiamat, tinh thần hỗn mang để xúc
phạm tới vị thần linh của ḿnh. Ngài nguyền rủa y và trút
lên đầu y mọi tai họa của nhân loại. ([863])
Hậu quả của
việc này là cuộc chiến tranh giữa con rồng và các
thế lực ác, tức một đàng là hỗn mang, và
một đàng là các thần linh.
Các vị thần có các vũ
khí được rèn luyện cho ḿnh ([864])
c̣n Merodach [Tổng Thiên Thần Michael trong Khải Huyền,
xii, 7 và 8] đă cam kết lănh đạo đội quân
thiên giới chống lại con rồng. Trận chiến
tranh được mô tả một cách linh hoạt dĩ
nhiên là đă chấm dứt với sự chiến
thắng của nguyên khí thiện (principle of good). ([865])
Theo sự áp dụng
trần thế cuối cùng, cuộc chiến tranh này
giữa chư Thiên và các Thế lực Thái Uyên (the Deep)
cũng có ư nói tới cuộc Chiến tranh giữa các Cao đồ
Ăryan của Giống dân thứ Năm mới sinh ra và các
vị Phù thủy của Châu Atlantis, những Con Quỷ
dưới Vực thẳm, những người ở trên
Ḥn đảo có nước bao quanh và biến mất trong
trận Đại hồng thủy.
Như đă nêu rơ, các
biểu tượng về “Con Rồng” và “cuộc
Chiến tranh trên Trời” có hơn một ư nghĩa; các
biến cố tôn giáo, thiên văn và địa chất
đều được bao hàm trong một ẩn dụ
chung và duy nhất. Nhưng chúng cũng có một ư nghĩa
vũ trụ học. Ở Ấn Độ, một trong
các dạng của câu chuyện “Con Rồng” được
lặp lại trong các trận chiến của Indra với Vritra.
Trong kinh Veda, Ahi-Vritra này được gọi là Con Quỷ
Hạn Hán, Gió nóng khủng khiếp. Người ta tŕnh bày
là Indra thường xuyên đụng độ với nó,
nhờ có lửa tầm sét, vị thần này bắt
buộc Ahi-Vritra phải trút mưa xuống Trần
Thế, rồi giết y luôn. V́ thế Indra được
gọi là Vritra-han tức “Kẻ giết Vritra”, cũng
như Michael được gọi là Kẻ chinh phục và
“Kẻ giết Rồng”. Thế th́ cả hai kẻ thù đều
là “Cựu Long” (“Old Dragon”) lao xuống các vực thẳm
của Địa Cầu (theo một ư nghĩa nào đó).
Các Amshaspend trong kinh Avesta chính
là một đạo quân có một Lănh tụ giống
như Thánh Michael, và dường như là đồng
nhất với các đạo quân Thiên giới (nếu xét
theo lối tường thuật trong tác phẩm
Vendĩdăd). Như thế, trong Fargard xix, Ahura Mazda bảo
Zarathushtra hăy “cầu khẩn với Amesha Spentas,
chưởng quản bảy Karshvares ([866])
của Địa Cầu”. ([867])
Theo bảy áp dụng, các Karshvares này đều có ư nói
tới bảy Bầu của Dăy Hành Tinh chúng ta, bảy Hành
Tinh, bảy
384
Cơi Trời
v.v…, tùy theo ư nghĩa này được áp dụng cho
một Thế giới hồng trần, siêu phàm hay chỉ
là Thế giới tinh đẩu. Cũng trong Fargard đó,
trong lời khấn nguyện chống lại Angar Mainyu và
Đạo quân của y, Zarathushtra đă kêu gọi họ bằng
những lời lẽ sau đây: “Ta cầu nguyện
với bảy Sravah rực rỡ cùng với đoàn thê
tử của họ”.([868])
“Sravah” – một từ ngữ mà các nhà Đông phương
học đă xem là có “ư nghĩa không ai biết
được”- cũng có nghĩa là các vị Amshaspends
ấy, nhưng theo ư nghĩa Huyền bí cao siêu nhất,
Sravah là Bản thể của hiện tượng
Amshaspends, Tinh Thần hay Linh Hồn của các Quyền
năng biểu lộ này;
c̣n “đoàn thê tử” của họ là có ư nói tới các Thiên
Thần Hành Tinh và các tập đoàn tinh đẩu gồm
các ngôi sao và các cḥm sao. “Amshaspend” là từ ngữ ngoại
môn chỉ được dùng trong các sự phối hợp
và sự việc thế tục mà thôi. Zarathushtra
thường xuyên gọi Ahura Mazda là “Đấng tạo ra
thế giới vật chất”.
Ormazd là cha đẻ của Trái Đất (Spenta Ărmaiti), khi
hiện thân Trái Đất được gọi là
“người con gái xinh đẹp của Ahura Mazda” ([869])
cũng là Đấng Sáng Tạo ra Cây (Tri Thức và Minh
Triết Thiêng liêng huyền bí) vốn là cội nguồn
của cây Baresma bí nhiệm. Nhưng thánh danh Huyền bí
của vị Thần rực rỡ chưa bao giờ
được tuyên đọc bên ngoài thánh điện.
Samael tức Satan, Con Rắn
cám dỗ trong Sáng Thế Kư, là một trong các Thiên Thần
bản sơ nổi loạn, chính là danh xưng của “Xích
Long”. Y chính là Thiên Thần của Sự Chết, v́ Do Thái Pháp Điển dạy
rằng “Thiên Thần của Sự Chết và Satan
đều như nhau”. Y bị Michael giết chết, y c̣n
bị Thánh George cũng là
một Kẻ giết Rồng, giết chết một
lần nữa. Nhưng chúng ta hăy xem những sự biến
hóa của điều này. Samael đồng nhất với Simoon, gió nóng ở sa mạc; y
c̣n đồng nhất với Con Quỷ Hạn hán trong kinh
Veda tên là Vritra: “Simoon được gọi là Atabutos”, - Ma
Quỷ.
Typhon tức Con Rồng Apophis – Vị Tố Cáo (Accuser) trong Tử Vong Kinh (Book of the Dead) – bị Horus đánh bại (Horus đă đâm một chiếc giáo xuyên qua đầu đối thủ của ḿnh. C̣n Typhon lại là gió sa mạc tiêu diệt vạn vật, các phần tử nổi loạn làm cho mọi chuyện đều xáo trộn. Với vai tṛ là Set, y là bóng đêm tăm tối, kẻ ám sát Osiris, Ngài vốn là ánh sáng thanh thiên bạch nhật và Mặt Trời. Khảo cổ học chứng tỏ rằng Horus đồng nhất với Anubis ([870]) trên một đền đài Ai Cập,mặc áo giáp và cầm giáo giống như Michael và Thánh George. Người ta cũng tŕnh bày là Anubis giết chết một con Rồng có đầu và đuôi của một con Rắn. ([871])
385
Thế th́,
xét về mặt vũ trụ học, tất cả
những Con Rồng và Rắn mà bị những “Kẻ
giết chết” chúng, chinh phục, đều có nguồn
gốc là các nguyên khí hỗn độn náo loạn trong
Hỗn Mang (Chaos); được các Nhật Thần (Sun-gods)
tức các Quyền năng Sáng
tạo làm cho ổn định, thứ tự. Trong
Tử Vong kinh, các nguyên khí này được gọi là “Các Người
Con Nổi Loạn” (“Sons of Rebellion”).([872])
Đêm ấy, kẻ
áp chế, kẻ ám sát Osiris, c̣n được mệnh danh
là con rắn lừa phỉnh … gọi các Người Con
Nổi Loạn trên Không (Air),
và khi chúng đến phía Đông của các Cơi Trời, th́
cuộc Chiến tranh trên Trời và trên toàn Thế giới
diễn ra. ([873])
Trong tác phẩm Eddas
của Bắc Âu, “Trận Chiến” giữa các Ases với
các Hrimthurses hay những người khổng lồ
Sương giá, và giữa Asathor với các Jotuns, các Con
Rắn và Rồng và “Chó Sói” xuất lộ từ “U Minh”-
chính là sự lặp lại của cùng thần thoại
đó. “Các Vong Linh Gian Ác”, ([874])
thoạt đầu chỉ là các biểu hiệu của
Hỗn Mang đă được trở nên thần thoại
hóa (euhemerized) bởi sự mê tín dị đoan của
người phàm tục, cho đến khi rốt cuộc
họ đă giành được quyền công dân trong cái
được gọi là các giống dân văn minh và văn
hiến nhất từ khi nó ra đời, và đă trở
thành một giáo điều đối với các tín
đồ Thiên Chúa giáo. George Smith đă tŕnh bày như sau:
Các nguyên khí gian ác
[Vong Linh], biểu hiệu của Hỗn Mang [chúng ta
thấy chúng ở Chaldea và Assyria cũng như ở Ai
Cập], … chống lại sự thay đổi này và gây
chiến trên Mặt Trăng, con trai út của Bel, lôi kéo
Mặt Trời, Kim Tinh và Thần khí quyển Vul về phía
ḿnh. ([875])
Đây chỉ là một
lối thuyết minh khác về cuộc “Chiến tranh trên
Trời” của Ấn Độ, giữa Soma, Mặt
Trăng và các Thần Linh; Indra là Thần khí quyển, Vul-
điều này chứng tỏ rơ rệt rằng cả hai
đều là chuyện ẩn dụ về thiên văn
học và vũ trụ học được thêu dệt thành
và được rút ra từ thần phổ học sơ
khai nhất mà người ta đă dạy trong các Bí pháp.
386
Chúng ta có
thể thấy rơ nhất chân ư nghĩa của Con Rồng,
Rắn, Dê và tất cả những hiện tượng
khác về các Quyền năng mà nay chúng ta gọi là
điều Ác nơi giáo lư của các môn đồ phái
Ngộ Đạo. Đó là v́ chính họ đă dùng các giáo lư
của ḿnh để
tiết lộ bản chất Nội môn của
điều mà Do Thái giáo dùng thay thế cho AIN SOPH, các giáo sĩ Do Thái đă
giấu chân ư nghĩa của nó, c̣n các tín đồ Thiên Chúa
giáo, trừ một vài ngoại lệ, chẳng biết ǵ
về nó. Nếu con rắn là một biểu tượng
của Ác, th́ nhất định là Đức Jesus ở
Nazareth đă chẳng khuyên các tông đồ của ḿnh hăy
tỏ ra khôn ngoan như con
rắn. Và nếu loài ḅ sát này có liên hệ mật thiết
với Satan, th́ các tín đồ thờ rắn, những môn
đồ Ai Cập thông thái phái Ngộ Đạo thờ
rắn, đă chẳng tôn thờ một con rắn sống
làm biểu hiệu của MINH TRIẾT thiêng liêng, một loài toàn Thiện chứ
không phải toàn Ác. Thật ra th́ ngay cả với vai tṛ là
một con rắn thông thường, nó cũng từng là
một biểu tượng nhị phân, và với vai tṛ là
một con rồng, nó chưa bao giờ là một
điều ǵ khác hơn là một biểu tượng
của Đấng Thiêng Liêng Biểu Lộ thành Đại
Minh Triết. Con “rồng bay” của các họa sĩ
thời xưa, có thể là một h́nh ảnh quá đáng
của một con vật tiền Đại hồng
thủy đă tuyệt chủng, và những kẻ nào đă
tin vào các Giáo lư Huyền linh, đều cho rằng xưa
kia đă có những tạo vật như các con thằn
lằn khổng lồ có cánh đă được dùng làm
các nguyên kiểu của con Saraph của Moses và Con Rắn
lớn bằng đồng thau của Ngài. ([876])
Xưa kia, chính dân Do Thái đă tôn thờ thần
tượng rắn đồng thau, nhưng sau khí Hezekiah
đă tạo ra các sự cải cách tôn giáo, họ quay
ngoắt lại và gọi biểu tượng đó về
vị Đại Thần Linh của các quốc gia khác là
một Con Quỷ, c̣n kẻ tiếm vị của chính
họ là “Vị Thần Duy Nhất”. ([877])
Danh xưng Sa’tan, theo tiếng
Hebrew là Sătăn, một “Đối thủ” (do động
từ shatana, “đối
lập”, “ngược đăi tôn giáo”) đúng lư ra thuộc
về “Đối thủ” đầu tiên và độc ác
nhất của mọi Thần Linh khác – Jehovah,
chứ không thuộc về Con Rắn, nó chỉ thốt ra
những lời lẽ thiện cảm và minh triết và
tệ nhất (ngay cả trong giáo điều) là
“Đối thủ” của con
người. Giáo điều này, vốn dựa vào
chương 3 của Sáng Thế Kư bất công và vô lư bao
nhiêu th́ cũng nghịch lư bấy nhiêu. Đó là v́ ai là
kẻ đầu tiên đă tạo
ra người đàn bà, cái kẻ quyến rũ đàn
ông nguyên sơ và sau này có tính cách đại đồng
thế giới? Chắc chắn đó không phải là Con
Rắn mà là chính “Đức Chúa Trời”, v́ cho rằng
“Không để người đàn ông cô độc”, Ngài
tạo ra người đàn bà và đem nàng đến
với người đàn ông”.([878])
Nếu các sự việc nhỏ nhặt khó chịu
diễn ra sau đó đă và vẫn c̣n bị xem là “tội
lỗi nguyên thủy”, th́ nó quả chứng tỏ rằng
khả năng tiên tri thiêng liêng của tạo hóa thật là
tồi tệ. Tốt hơn là nên để cho ông Adam
đầu tiên của chương I hoặc là “bán thư bán hùng” hoặc là “côi
cút”. Rơ ràng Đức Chúa Trời mới là nguyên nhân
thực sự của mọi ác ư, “tác nhân khiêu khích”,
c̣n Con Rắn chỉ là nguyên kiểu của Azazel, “con
vật hy sinh cho tội lỗi của [vị Thượng
Đế của] Do Thái”, Con Dê đáng thương phải
đền tội cho sự lầm lẫn của Ông
chủ và vị Sáng tạo ra ḿnh. Dĩ nhiên là điều
này chỉ nhắm nói tới những kẻ nào chấp
nhận biến cố mở đầu cho thảm
kịch của nhân loại trong Sáng Thế Kư theo lối
chấp nê văn tự. Những kẻ nào thuyết minh
chúng theo lối nội môn, sẽ không hề thu gọn vào
các suy lư và giả thuyết hoang tưởng, họ
biết cách thuyết minh biểu tượng kư bao hàm trong
đó và không thể sai lầm.
387
Hiện nay, không cần phải
đề cập tới ư nghĩa thần bí và đa
tạp của danh hiệu Jehovah theo nghĩa trừu
tượng, một ư nghĩa độc lập
đối với Đấng
Thánh Linh mà danh xưng ấy đă gọi tên một cách
giả tạo. Đó là một “bức b́nh phong” mà các giáo
sĩ Do Thái đă cố ư tạo ra, một điều bí
mật mà họ đă duy tŕ cẩn mật sau khi các tín
đồ Thiên Chúa giáo đă cưỡng đoạt
của họ Thánh danh này, nó vốn là vật sở hữu
của chính họ. ([879])
Tuy nhiên, nay xin phát biểu như sau : Nhân vật mà trong
bốn chương đầu của Sáng Thế Kư,
người ta tùy tiện gọi là “Thượng
Đế” (“God”), “Đức Chúa Trời” (“Lord God”) hay
“Chúa” (“Lord”), không phải là cùng một nhân vật duy
nhất, đó nhất định không phải là Jehovah. Có
ba lớp hoặc nhóm Elohim riêng biệt được
mệnh danh là Sephiroth trong kinh Kabalah, Jehovah chỉ xuất
hiện trong chương iv của Sáng Thế Kư, trong câu
thơ thứ nhất của chương đó, y
được mệnh danh là Cain, và trong câu thơ chót, y
biến thành nhân loại, bán
thư bán hùng, Jah-veh. ([880])
Hơn nữa, Con Rắn không phải là Satan, mà là một
vị Thiên Thần rực rỡ, một trong các vị Elohim tỏa ánh sáng quang huy chói
lọi, kẻ mà – đă hứa với người đàn
bà rằng, nếu họ ăn trái cấm th́ “nhất
định là sẽ bất tử” – đă giữ đúng
lời hứa và làm cho con người bất tử về
bản chất bất hoại. Y chính là vị Iao
của Bí pháp, thủ lănh của các Đấng bán thư
bán hùng Sáng tạo ra con người. Xét về mặt
nội môn, chương iii bao hàm sự vén lên bức màn vô
minh đă che kín các tri giác của Con Người Thiên Thần,
được tạo ra theo h́nh ảnh của các Thần
Linh “không xương” và khai mở tri thức của y
về chân tướng của ḿnh. Như thế, nó đă
tŕnh bày vị Thiên Thần Chói Lọi (Lucifer) theo khía
cạnh một Đấng ban cấp sự Bất tử
và với vai tṛ là “Đấng Khai Ngộ”. C̣n việc Thiên
Thần thật sự sa vào ṿng sinh hóa và vật chất th́
chúng ta phải t́m trong chương iv. Trong đó, sau khi tách
rời khỏi Eve, Jehovah-Cain, phần nam tính của Adam con
người nhị phân,
tạo ra người đàn bà tự nhiên đầu tiên
nơi Abel ([881])
và làm đổ ḍng máu trinh
nguyên. Nay dựa vào thẩm quyền của việc
thuyết minh chính xác câu thơ đầu tiên trong
chương iv của Sáng Thế Kư theo nguyên bản Hebrew,
người ta tŕnh bày rằng Cain đồng nhất
với Jehovah. Các giáo sĩ Do Thái dạy rằng “Kin (Cain)
Gian Ác là Con của Eve và Samael, Con Quỷ tiếm vị
Adam”, ([882])
c̣n Do Thái Pháp Điển (Talmud) lại dạy thêm rằng
“Ác Quỷ, Satan, và Thiên Thần Tử Vong Samael đều
như nhau”.([883])
Do đó, chúng ta cũng dễ dàng thấy rằng Jehovah (nhân loại, tức Jah-hovah) và
Satan (v́ vậy là Con Rắn cám dỗ) đều là một
thứ và giống như nhau về mọi chi tiết
đặc thù. Không có Ma
Quỷ, không có Điều Ác nào bên ngoài nhân loại tạo
ra một Con Quỷ. Điều ác là một điều
tất yếu và là một trong những kẻ đỡ
đầu cho Vũ Trụ Biểu Lộ. Nó là một
điều cần thiết cho sự tiến bộ và
sự tiến hóa cũng cần có Đêm để tạo
ra Ngày, và cần có Sự Chết để tạo ra Sự
Sống – để cho con
người có thể sống măi măi.
388
Xét
về mặt siêu h́nh, Satan chỉ tiêu biểu cho phần nghịch đảo hay đối cực của
vạn vật trong Thiên Nhiên. ([884])
Xét về mặt ẩn dụ, y là “Đối Thủ”,
“Kẻ tàn sát” và “Đại địch thủ” của vạn vật, v́ chẳng có
ǵ trong toàn thể Vũ trụ mà không có hai mặt – các
mặt đối nghịch nhau của cùng một tấm
huy chương. Nhưng trong trường hợp đó, ánh
sáng, sự tốt lành, vẻ đẹp v.v… cũng có
thể gọi là Satan với vài đặc tính chẳng khác
ǵ Ma Quỷ, v́ chúng là các Điều đối nghịch
của bóng tối, sự tồi tệ và sự xấu xí.
Và bây giờ triết lư và căn bản luân lư của
một vài giáo phái Thiên Chúa sơ khai – xưa kia đă
từng bị xem là khả ố và bị gọi là tà đạo sẽ trở nên
dễ hiểu hơn. Chúng ta có thể hiểu
được làm thế nào mà môn phái SATAN lại trở nên thoái hóa và
bị giáo hội kết tội mà không hề có triển
vọng được minh oan trong tương lai v́ họ
đă bảo mật các giáo điều của ḿnh. Cũng
dựa vào nguyên tắc đó, chúng ta có thể hiểu
được làm thế nào mà các con cháu của Cain, và ngay
cả bọn (Judas) ISCARIOTES
nữa đă trở nên suy đồi; tính cách chân thực
của vị tông đồ phản
bội chưa bao giờ được tŕnh bày chính xác
trước ṭa án nhân loại.
Chúng ta cũng có ngay kết
quả là các giáo điều của những giáo phái Ngộ
Đạo cũng trở nên minh bạch. Mỗi giáo phái này
đều được một vị Điểm
đạo đồ lập nên, c̣n các giáo điều
của chúng đều được dựa vào tri
thức đúng đắn về biểu tượng kư
của mọi quốc gia. Như thế, chúng ta cũng
dễ dàng hiểu được lư do tại sao hầu
hết các giáo phái này đều xem Ilda-baoth là Thượng
Đế của Moses, là một vị Thần kiêu
ngạo, tham lam và ô trược, y đă lạm dụng
quyền hành của ḿnh bằng cách tiếm vị Vị Thần Tối Cao, mặc dù y không khá hơn,
thậm chí c̣n kém xa anh ḿnh là
Elohim về vài phương
diện nữa. Các Elohim chỉ tiêu biểu cho Đấng
thiêng liêng biểu lộ bao trùm vạn vật khi xét chung, v́
họ là những vị un đúc những biến phân
đầu tiên của Hỗn nguyên khí để tạo ra
hiện tượng giới. Do đó, Jehovah
được các môn đồ phái Ngộ Đạo
gọi là Đấng Sáng Tạo ra và đồng nhất
với Ophiomorphos, Con Rắn, Satan, hay ĐIỀU ÁC.([885])
Họ dạy rằng Iurbo và Adonai đều là các danh
xưng của Iao-Jehovah, Ngài vốn là một phân thân
của Ilda-baoth. ([886])
Theo lối nói của họ th́ điều này cũng
chẳng khác ǵ bảo rằng “Cain được Samael hay
Satan sinh ra”, như các Giáo sĩ Do Thái đă tŕnh bày một
cách bí ẩn hơn như thế.
389
Trong mọi
hệ thống cổ truyền, các Thiên Thần Sa
Đọa đều được xem là các nguyên kiểu
của những người sa
đọa – xét về mặt ẩn dụ, và chính những người này –
xét về mặt nội môn. Như thế, theo các truyền
thuyết Semite, Elohim vào lúc sáng tạo đă trở thành các
Beni-Elohim, các con của Thượng Đế, trong số
đó có Satan. Theo Burnouf, cuộc chiến tranh trên trời
giữa Thrẽtaona và Ashi-dahaka, Con Rắn hủy diệt,
chấm dứt trên Trần Thế trong trận đấu
giữa những người ngoan đạo chống
lại thế lực Ác “của các tín đồ Ba Tư
với các tín đồ Bà La Môn Ăryan của Ấn
Độ”. C̣n cuộc xung đột của các Thần
Linh với các Asuras được lặp lại trong
trận Đại chiến – Mahăbhărata. Trong tôn giáo gần
đây nhất, Thiên Chúa giáo, mọi chiến sĩ, các
Thần và Quỷ, các đối thủ trong cả hai phe, nay
đều được biến thành Rồng và Satan,
chỉ để liên hệ điều Ac được
nhân cách hóa với Con Rắn trong sáng thế Kư, và thế là
minh chứng được tân giáo điều.
NOAH LÀ MỘT VỊ KABIR, V̀
THẾ, Y ẮT PHẢI LÀ
MỘT
CON QUỶ
Vấn đề liệu Isis
hay Ceres, Kabiria hay Kabiri đă dạy nghề nông cho loài
người chẳng có chi là quan trọng; nhưng vấn
đề rất quan trọng là ngăn cản những
kẻ cuồng tín độc chiếm mọi sự
kiện trong lịch sử và huyền thoại, và gán
việc họ xuyên tạc sự thật lịch sử và
huyền thoại cho một người duy nhất. Noah hay
là một nhân vật thần
thoại như trăm ngàn nhân vật khác, hoặc là
một nhân vật mà nhân loại dựa vào truyền
thuyết về các Kabiri và Tiatan như người ta đă
giảng dạy ở Samothrace; do đó cả tín đồ
Do Thái giáo và tín đồ Thiên Chúa giáo đều không có
quyền độc chiếm y. Faber đă mất bao nhiêu
công lao học hỏi và khảo cứu hầu ra sức
chứng tỏ rằng Noah là một người Atlantis và
một vị Titan, c̣n gia đ́nh của y là các Kabiri tức
những Người khổng lồ Titans ngoan đạo
v.v… - niên đại kư Thánh kinh đă tự đào huyệt
chôn ḿnh cùng với tất cả các Tổ Phụ - các
vị Titans tiền Đại hồng thủy và Tiền
Alante. Nay người ta đă khám phá ra và chứng tỏ
rằng Cain là Mars, Thần quyền
lực sinh hóa, Thần của sự đổ máu (tính
dục) đầu tiên. ([887])
Tubal-Cain là một Kabir “bậc thầy của mọi
người thợ làm đồ bằng đồng thau và
sắt”, hoặc là Ngài đồng nhất với Nephaestus
hay Vulcan – điều này xem ra dễ nghe hơn. Jabal cũng
được lấy ra từ Kabiri, các bậc huấn
sư về nông nghiệp “chẳng hạn như nuôi ḅ”,
c̣n Jubal là “cha của mọi kẻ sử dụng thụ
cầm”, người hoặc những
người chế tạo thụ cầm cho Kronos và cây
chĩa ba cho cho Poseidon. ([888])
390
Lịch sử hay các
“thần thoại” về các Telchines bí nhiệm – các thần
thoại phản ánh từng biến cố cổ sơ
một trong các Nội môn Bí giáo của ch1ung ta – cung ứng
cho chúng ta một ch́a khóa giải nguồn gốc gia phả
của Cain trong chương ba của Sáng Thế Kư. Chúng
tŕnh bày lư do tại sao Giáo hội Thiên Chúa La Mă lại
đồng nhất hóa “ḍng máu bị đọa đày”
của Cain và Ham với Thuật phù thủy và khiến nó
phải chịu trách nhiệm về trận Đại
hồng thủy. Người ta đă lập luận
rằng phải chăng các Telchines là những người
thợ rèn Rhodes bí nhiệm, những kẻ đầu tiên
dựng tượng cho các Thần Linh, cung cấp vũ khí
cho họ và cung cấp các khoa pháp thuật cho loài
người? Và phải chăng họ đă bị tiêu
diệt trong trận Đại hồng thủy theo
lệnh của Zeus, cũng như con cháu của Cain bị
Đại hồng thủy tiêu diệt theo lệnh của
Jehovah ?
Các Telchines chỉ là các
Kabiri và các Titans dưới một dạng khác. Họ
cũng là những người Atlantis. Decharme dạy:
Cũng như Lemnos và
Samothrace, Rhodes, sinh quán của các Telchines là một ḥn
đảo có cấu tạo núi lửa.([889])
Tục truyền rằng
đảo Rhodes đă đột nhiên nhô lên trên biển
cả sau khi đă bị Đại dương nhận
ch́m trước đó. Cũng như đảo Samothrace
của các Kabiri, nó có liên hệ với các huyền thoại
về Đại hồng thủy theo kư ức của loài
người. Tuy nhiên, v́ đă bàn khá đầy đủ
về đề tài này nên hiện nay chúng ta có thể gác nó
lại.
Nhưng chúng ta có thể nói
thêm một chút nữa về Noah, vị đại biểu
Do Thái giáo của hầu hết mọi vị Thần
Ngoại đạo theo một tính cách nào đó.
Dưới dạng thi ca, các bài ca của Homer bao hàm tất
cả các thần thoại sau này bàn về các vị Tộc
Trưởng, tất cả các vị này đều là các
biểu tượng và kư hiệu tinh đẩu vũ
trụ và số mục. Các toan tính để tách rời hai
gia phả của Seth và Cain, ([890])
và toan tính, cũng vô ích không kém, để chứng tỏ
họ là hai nhân vật có
thật trong lịch sử đă chỉ đưa
tới những việc điều tra nghiêm chỉnh
hơn nữa về lịch sử của thời quá
khứ và đưa tới những khám phá măi măi làm
phương hại cho sự
thiên khải giả định. Chẳng hạn như
nếu chúng ta xác định được tông tích của
Noah và Melchizedek; th́ chúng ta cũng chứng tỏ
được sự đồng nhất của Melchizedek,
tức Từ phụ Sadik, với Thần Kronos-Saturn.
Điều đó cũng
có thể được chứng minh dễ dàng. Bất
kỳ tác giả Thiên Chúa giáo nào cũng không thể phủ
nhận điều này. Bryant ([891])
đồng ư với tất cả những kẻ nào có ư
kiến cho rằng Sydic hay Sadic là Tộc trưởng Noah
và cũng là Melchizedek và tên gọi của y, Sadic,
tương ứng với tính cách mà người ta gán cho y
trong Sáng Thế Kư.([892])
391
Y là Sadic, một con người công chính,
và thuộc về một thế hệ hoàn hảo. Mọi
khoa học và mọi nghệ thuật hữu ích đều
bị gán cho y và lưu truyền cho hậu thế xuyên qua
các con y.
Nay chính Sanchuniathhon đă cho
thế giới biết rằng các Kabiri là các con của
Sydic tức Zedek (Melchi-Zedek). Thật ra v́ kiến thức
này đă được lưu truyền cho chúng ta xuyên qua Phúc Âm Nhập Môn của
Eusebius, nên chúng ta có thể hoài nghi nó một chút, v́ rất
có thể là ông đă bàn tới tác phẩm của
Sanchuniathon, cũng chẳng khác nào bàn tới các niên biểu
đối chiếu của Manetho. Nhưng chúng ta hăy giả
sử rằng sự đồng nhất hóa của Sydic.
Kronos, tức Saturn với Noah và Melchizedek, là dựa vào
một trong các giả thuyết sùng đạo của
Eusebius. Chúng ta hăy chấp nhận nó như thế cùng
với đặc tính của Noah với vai tṛ là một người công chính và
nhân vật bản sao giả định (supposed duplicate)
của y, Mechizedek bí nhiệm, “vua của Salem và lễ
sư của Thượng Đế”, theo “lệnh của
chính Ngài”; ([893])
và cuối cùng sau khi đă thấy tất cả những
vị này đều là ǵ, xét về mặt tinh thần,
thiên văn, tâm linh và vũ trụ, nay chúng ta hăy xem họ
trở thành ǵ xét theo quan điểm của các giáo sĩ Do
Thái và Do Thái Bí giáo.
Nói về Adam, Cain, Mars v.v…
với vai tṛ là các hiện thân, chúng ta thấy, tác giả
của Nguồn gốc các Kích Thước đă phát
biểu chính Nội môn Bí giáo của chúng ta trong các cuộc
khảo cứu Do Thái Bí giáo của ông. Ông dạy như sau:
Nay Mars là Tinh Quân của sự sinh, sự tử, của sinh hóa, tiêu diệt, sự cày
bừa, sự xây dựng, điêu khắc hay đẽo đá, thuật
kiến trúc… tóm lại, là tất cả những ǵ
được bao hàm trong từ ngữ NGHỆ THUẬT. Ngài là nguyên khí bản sơ, phân hóa thành ra biến thái của hai đối cực để
sinh sản. Xét về
mặt thiên văn, Ngài cũng nắm vững sinh quán
của ngày và năm, ([894])
nơi mà nó tăng gia sức
mạnh, cung Bạch Dương (Aries), cũng như
nơi mà nó bị diệt vong, cung Hổ Cáp (Scorpio). Ngài
chưởng quản cung của Venus và cung Hổ Cáp.
Với vai tṛ là sự sinh,
Ngài đúng là Thiện;
với vai tṛ là sự chết,
Ngài là Ác. Với vai tṛ Thiện, Ngài là ánh sáng;
với vai tṛ ác, Ngài là bóng đêm. Với vai tṛ thiện, Ngài là đàn ông; với vai tṛ ác, Ngài là đàn bà. Ngài chưởng quản bốn
hướng chính, với vai tṛ Cain
tức Vulcan ([895])
hay Pater Sadic hay Melchizedek, Ngài chưởng
quản hoàng đạo,
tức sự quân b́nh,
tức đường
hiệu chỉnh, và do đó là Đấng Công Chính. Cổ nhân chủ
trương rằng có bảy hành tinh hay đại
thần linh bắt nguồn từ hành tinh thứ tám, và
Pater Sadic, Đấng Công Chính,
chưởng quản hành tinh thứ tám là Mẹ Đất (Mater Terra). ([896])
Điều này khiến
cho các chức năng của họ, sau khi đă bị thoái
hóa, trở nên khá rơ ràng, và đă xác định
được tông tích.
392
Người
ta đă chứng tỏ rằng trận Đại hồng
thủy Noah, khi
được mô tả theo lối chấp nê văn tự
và trong thời kỳ niên đại kư Thánh kinh, chưa bao
giờ tồn tại. Do đó, giả thuyết mộ
đạo song rất độc đoán của Giám mục
Cumberland chỉ c̣n có cách nối gót trận Đại
hồng thủy đó đi vào vùng đất hoang
tưởng. Thật vậy, đối với bất kỳ
quan sát viên vô tư nào, dường như thật là khá hoang
tưởng khi bảo rằng:
Có hai giống
Cabiri riêng biệt, giống thứ nhất gồm có Ham và
Mizraim, mà ông quan niệm là Jupiter và Dionusus of Mnaseas, c̣n
giống thứ hai gồm những người con của
Shem, vốn là vị Cabiri của Sanchoniatho, trong khi cha chúng
Sydyk do đó là Shem trong Thánh kinh. ([897])
Kabirim, các “Đấng
Đại Hùng”, đồng nhất với các Thiền
Định Đế Quân bản sơ của chúng ta,
đồng nhất với các Tinh Quân hữu tướng
và vô tướng, đồng nhất với tất cả
những vị Chưởng quản và Giáo huấn các
giống dân bản sơ, mà người ta gọi là các
vị Thần và Thánh Vương của các Triều
đại Thiêng liêng.
CÁC TRUYỀN THUYẾT BA
TƯ CỔ NHẤT BÀN VỀ
LỤC
ĐỊA Ở CỰC VÀ CÁC LỤC ĐỊA BỊ CH̀M
Kho tàng học thuật
huyền thoại không thể xuyên tạc các sự kiện
một cách hữu hiệu đến nỗi làm biến
dạng chúng khiến không ai nhận ra được.
Giữa một đàng là các truyền thuyết của Ai
Cập và Hy Lạp, một đàng là các truyền thuyết
của Ba Tư – một xứ luôn luôn giao tranh với các
nước trên – có một sự tương tự về
các số liệu lớn đến nỗi mà không thể
thừa nhận rằng sự trùng hợp như thể
chỉ do ngẫu nhiên mà thôi. Điều này đă
được Bailly chứng minh rơ rệt. Chúng ta hăy
dừng lại một chút để xét về các truyền
thuyết này theo mọi nguồn tin sẵn có, ngơ hầu so
sánh được chính xác hơn các truyền thuyết
của giới Pháp sư với cái gọi là “các chuyện
truyền kỳ” của Hy Lạp.
Các huyền thoại
ấy nay đă biến thành các câu chuyện dân gian, kho tàng
học thuật dân gian của Ba Tư, cũng như
nhiều chuyện hoang tưởng thực sự đă len
lỏi xâm nhập vào lịch sử thế giới. các
chuyện về Vua Arthur và các Hiệp sĩ Bàn tṛn thoạt
nh́n cũng là các chuyện thần tiên; thế nhưng, chúng
lại được dựa vào sự thật và thuộc
về lịch sử của các nước Anh. Thế th́,
tại sao kho tàng học thuật dân gian của Ba Tư
lại không phải là một phần lịch sử và các
biến cố tiền sử của Châu Atlantis ? Kho tàng
học thuật dân gian ấy dạy như sau:
Trước khi Adam được sáng tạo ra, có hai giống dân sống trên Trần Thế, giống dân này nối tiếp giống dân kia; giống người Devs cai trị trong 7 000 năm, c̣n giống người Peris (Izeds) chỉ cai trị có 2 000 năm, trong khi giống người nêu trên vẫn c̣n tồn tại. Giống người Devs là những người khổng lồ, dũng mănh và độc ác; c̣n giống người Peris có vóc dáng nhỏ hơn nhưng khôn ngoan và tử tế hơn.
Ở đây, chúng ta
nhận ra những người Khổng lồ Atlantis và
những người Ăryan, tức là các La Sát trong Rămăyana và
người con của Bhărata-varsha tức Ấn Độ;
những người tiền đại hồng thủy và
hậu đại hồng thủy trong Thánh kinh.
393
Gyăn (tức Gnan, Jnăna,
Chân Thức hay Minh Triết Huyền Bí) cũng
được mệnh danh là Gian-ben-Gian (tức Minh
Triết, con của Minh Triết) là vua của giống
người Peris. ([898])
Ngài có một chiếc khiên cũng trứ danh như
chiếc khiên của Achilles, có điều là thay v́ dùng
để chống lại quân địch trong chiến
tranh, nó lại được dùng để bảo vệ
người ta chống lại ma thuật, thuật phù
thủy của giống người Devs. Gian-ben-Gian đă
cai trị được 2 000 năm khi Con Quỷ Iblis được
Thượng Đế cho phép đánh bại giống
người Peris và phân tán chúng đến tận
đầu bên kia của thế giới. Ngay cả
chiếc khiên pháp thuật, v́ được tạo ra
dựa vào các nguyên tắc chiêm tinh học, nên chiếc khiên
này diệt được bùa ngải, cũng không thể
chắc thắng được Iblis; y vốn là một tác
nhân của Định mệnh tức Nghiệp Quả. ([899])
Ở thủ phủ cuối cùng của ḿnh tên là Khanoom,
họ có tới mười vị vua và vị quốc
vương (Kaimurath) với Adam của Hebrew. Các vị
quốc vương này tương ứng với
mười thế hệ Thánh Vương tiền
đại hồng thủy mà Berosus đă tŕnh bày.
Cho dù bây giờ các huyền
thoại này có bị xuyên tạc đi nữa, th́
người ta cũng khó ḷng không thể nào không
đồng nhất hóa chúng với các truyền thuyết
Chaldea, Ai Cập, Hy Lạp và cả Hebrew nữa. Đó là
v́, mặc dù dành độc quyền khinh thị khi
đề cập tới các quốc gia Tiền Adam, song
thần thoại Do Thái giáo lại để cho chúng ta suy ra
các quốc gia này một cách rơ ràng, bằng cách cử Cain – một trong hai người duy
nhất sống trên trần thế - vào tận vùng
đất của Nod, nơi mà y lập gia đ́nh và xây
dựng một đô thị. ([900])
Nay nếu chúng ta so sánh 9
000 năm mà các câu chuyện Ba Tư đề cập
tới với 9 000 năm mà Plato tuyên bố là đă trôi qua
từ khi Châu Atlantis cuối cùng bị ch́m đắm, th́ rơ
ràng là có một sự liên hệ rất kỳ lạ. Bailly
đă nhận xét về điểm này, nhưng lại xuyên
tạc nó bằng lối thuyết minh của ḿnh. Giáo Lư Bí
Nhiệm có thể phục hồi được chân ư
nghĩa của các số liệu nêu trên. Tác phẩm Critias
tŕnh bày như sau:
Thoạt tiên, chúng ta phải
nhớ rằng 9 000 năm đă trôi qua từ khi có trận chiến tranh giữa các quốc
gia đă sống bên trên và bên ngoài các Cột trụ
Hercules, và các quốc gia tọa lạc nơi các phần
đất của phía bên này.
394
Trong tác phẩm Timaeus,
Plato cũng nói như vậy. Giáo Lư Bí Nhiệm tuyên bố
rằng hầu hết những người ở trên bán
đảo Atlantis sau này đều bị chết hết
trong thời khoảng cách đây từ 700 000 đến 850
000 năm, và dân Ăryan đă được 200 000 tuổi khi
“Đại lục”” đầu tiên bị đắm ch́m
nên khó ḷng có bất kỳ sự dung ḥa khả hữu nào
giữa các số liệu này. Nhưng thật ra lại có một
sự dung ḥa. Vốn là một Điểm đạo
đồ, Plato phải dùng ngôn ngữ bí ẩn của Thánh
điện, các Pháp sư Chaldea và Ba Tư cũng vậy;
các huyền thoại của Ba Tư đă được
bảo tồn và lưu truyền cho hậu thế qua các
điều tiết lộ ngoại môn của họ.
Như thế, người ta thấy người Hebrew
gọi một tuần là “bảy ngày” và đề cập
tới một “tuần năm”, khi mỗi ngày tượng
trưng cho 360 năm dương lịch và toàn thể
“tuần lễ” thực ra là 2 520 năm. Họ đă có
một tuần Sabbath, một năm Sabbath v.v…và ngày Sabbath
của họ cũng kéo dài 24 giờ hay 24 000 năm, theo các
phép tính toán bí mật của các Bí pháp. Thời nay, chúng ta
gọi một thời đại là một “thế
kỷ”. C̣n vào thời Plato, đối với tác giả
được điểm đạo, dù sao đi nữa,
một thiên niên không có nghĩa là 1 000 năm, mà là 100 000
năm. Trong khi đó, người Ấn Độ vốn
độc lập hơn bất kỳ dân tộc nào khác
đă chẳng bao giờ giấu giếm niên đại kư
của ḿnh. Như thế thay v́ 9 000 năm, các Điểm
đạo dồ sẽ thuyết minh là 900 000 năm trong
thời gian đó – nghĩa là từ khi giống dân Ăryan
bắt đầu xuất hiện, khi các phần đất
thuộc Thượng tân thế của đại lục
Atlantis bắt đầu ch́m dần ([901])
và các lục địa khác xuất hiện trên mặt
đất cho tới sự biến mất chung cuộc
của ḥn đảo nhỏ Atlantis của Plato – các
giống dân Ăryan đă không ngừng chiến đấu
với hậu duệ của các người khổng
lồ đầu tiên. Cuộc chiến tranh này kéo dài cho
đến lúc gần hết thời kỳ trước Chu
kỳ Mạt pháp (Kali Yuga), và chính là trận đại
chiến Mahăbhărata, vốn lừng danh xiết bao trong
lịch sử Ấn Độ. Theo lời mà các lễ
sư Ai Cập dạy Solon, th́ sự pha trộn các
biến cố và các thời kỳ, cùng với việc thu
gọn hàng trăm ngàn năm thành ra ngàn năm không hề
dính dáng ǵ với số năm đă trôi qua từ khi
phần đất cuối cùng của Châu Atlantis bị tiêu
diệt, 9 000 năm là con số chính xác. Biến cố
vừa nêu chưa bao giờ được giữ mật,
và chỉ phai nḥa đi trong kư ức của người Hy
Lạp. Người Ai Cập có tài liệu lưu trữ
hoàn chỉnh v́ họ bị cô lập; vốn bị biển
cả và sa mạc bao quanh, họ đă không bị các
quốc gia khác cản trở, cho tới chừng vài ngàn
năm trước T.C.
Lịch sử đă có
một quan niệm về Ai Cập và các Đại Bí pháp
của nó lần đầu tiên xuyên qua Herodotus, nếu chúng
ta không kể tới Thánh kinh và niên đại kư kỳ
quặc của nó. ([902])
Và Herodotus cũng chẳng thể cho chúng ta biết
được bao nhiêu, v́ khi đề cập tới
một ngôi mộ bí nhiệm của một Điểm
đạo đồ ở Sais, trong thánh địa Minerva,
ông đă bảo rằng:
Đằng sau
nhà nguyện … là ngôi mộ của Đấng Duy Nhất, Đấng mà tôi thấy không
tiện tiết lộ danh tính… Xung quanh có các tháp bia
lớn và gần đó có một cái
hồ, một bức tường đá bao quanh hồ…
Ở cái hồ này khi màn đêm buông xuống, họ
tiến hành những cuộc mạo hiểm của nhân
vật mà người Ai Cập gọi là các Bí pháp: tuy nhiên,
về vấn đề này, mặc dù biết chính xác
về các chi tiết của chúng, tôi phải giữ im lặng.([903])
Mặt khác, nên biết
rằng không có điều bí mật nào được
bảo tồn cẩn mật và vô cùng thiêng liêng đối
với Cổ nhân như điều bí mật về các chu
kỳ và các phép tính toán của họ. Từ người Ai
Cập xuống măi tới người Do Thái, người
ta vẫn xem việc tiết lộ bất cứ
điều ǵ thuộc về sự đo lường chính
xác thời gian là tội lỗi nghiêm trọng nhất. Chính
v́ tiết lộ những bí mật của chư Thiên mà
Tantalus bị ném vào địa ngục; những
người giữ các Thánh thư Thần bí thiêng liêng
bị đe dọa là sẽ bị h́nh phạt chết
nếu tiết lộ một chữ trong Thánh Thư này.
Ở mọi đền thờ - nhất là đền
thờ Isis và Serapis – đều có các Sigalions, tức là các
pho tượng của Harpocrates, mỗi pho đều
lấy ngón tay đè lên môi. Và người Hebrew dạy
rằng, tiết lộ bí mật của kinh Kabalah sau khi
được nhập môn các Bí pháp Do Thái giáo, cũng
chẳng khác nào ăn trái Cây Tri Thức, điều này có
thể bị trừng phạt bằng tội chết.
Thế nhưng
người Âu Châu chúng ta đă chấp nhận niên
đại kư ngoại môn của người Do Thái !
Chẳng lấy làm lạ
là suốt từ lúc đó, nó đă ảnh hưởng
tới tất cả các quan niệm khoa học và thời
gian tồn tại của các sự việc. Thế là các
truyền thuyết Ba Tư đầy dẫy hai quốc
gia hoặc giống dân nay đă bị tuyệt chủng,
theo một số người. Nhưng không phải như
thế đâu; chúng chỉ bị biến đổi. Các
truyền thuyết này bao giờ cũng nhắc đến
các rặng núi Kaf (Kafaristăn?), vốn bao hàm một hành lang do
người khổng lồ Argeak dựng nên, các pho
tượng của mọi dạng cổ nhân
được bảo tồn trong hành lang này. Họ
gọi chúng là Sulimăns (Solomons) tức là các minh quân của Đông
phương và đếm được tất cả
bảy mươi hai vị mang danh hiệu đó. ([904])
Có ba trong số các vị này, mỗi vị cai trị
được 1 000 năm. ([905])
Siamek, con trai yêu mến
của Kaimurath (Adam), vị vua đầu tiên của
họ, bị người anh khổng lồ của Ngài
giết chết. Cha Ngài duy tŕ một ngọn lửa
trường tồn trong nấm mồ chứa đống
tro hỏa táng Ngài; v́ thế, mới có tục thờ
lửa, theo một vài nhà Đông phương học
tưởng nghĩ !
Rồi tới Huschenk, vị
vua minh triết và thận trọng. Chính triều
đại Ngài đă khám phá ra các kim loại và ngọc ngà
châu báu, sau khi chúng đă bị những người
Khổng lồ hay người Devs cất giấu trong ḷng
Đất; triều đại Ngài cũng tái khám phá ra cách
làm đồ đồng thau, đào kênh và cải tiến
nông nghiệp. Như thường lệ, người ta tin
rằng chính Huschenk đă viết ra tác phẩm tên là Minh Triết Vĩnh Cửu,
thậm chí đă xây dựng đô thị Babylon và Ispahan;
mặc dù thật ra chúng đă được xây sau đó
hàng thời đại. Nhưng cũng như đô thị
Delhi hiện đại được xây trên đô thị
khác cổ hơn, cũng vậy, các đô thị này có
thể được xây trên địa điểm
của các đô thị khác có nguồn gốc vô cùng xa
xưa. C̣n về thời kỳ Ngài trị v́, người
ta chỉ có thể suy ra được nó từ một
huyền thoại khác.
396
Cũng trong
truyền thuyết đó, người ta cho rằng ông hoàng
minh triết đó đă gây chiến với những
người Khổng lồ cưỡi trên một con
Ngựa có mười hai chân; sự ra đời của nó
được gán cho là do sự phối
hợp của một con sâu với một con hà mă cái.
Người ta thấy con vật mười hai chân trên
“đảo khô” hay tân lục địa và đă phải
tốn nhiều sức lực và mưu trí để chinh
phục được con vật kỳ diệu này.
Nhưng ngay khi Huschenk leo lên nó, Ngài liền đánh bại
được mọi kẻ thù. Không người Khổng
lồ nào có thể chống lại được thần
lực của Ngài. Tuy nhiên, rốt cuộc vị Thánh
Vương này lại bị tử nạn do một
tảng đá khổng lồ mà những người
Khổng lồ ném vào Ngài từ trên rặng núi Damavend hùng
vĩ. ([906])
Tahmurath là vị vua
thứ ba của Ba Tư, Thánh George của Ba Tư, vị
hiệp sĩ luôn luôn chiến thắng và rốt cuộc
giết được Con Rồng. Ngài là địch thủ
lợi hại của những người Devs; vào thời
Ngài, những người này ở vùng núi Kaf và đôi khi
đột kích vào những người Peris. Niên sử
cổ Pháp của kho tàng học thuật dân gian Ba Tư
gọi Ngài là Dev-bend, kẻ chinh phục được
những người khổng lồ. Người ta
cũng cho rằng Ngài đă lập nên Babylon, Nineveb, Diarbek
v.v… Cũng như tổ phụ Huschenk, Tahmurath (Taimuraz)
cũng có một con tuấn mă, có điều là hy hữu và
mau lẹ hơn – đó là một con chim tên là Simorgh-Anke.
Thật vậy, đó là một con chim kỳ diệu, thông
minh và biết nhiều thứ tiếng, thậm chí rất
mộ đạo nữa. ([907])
Con Phượng Hoàng Ba Tư ấy nói cái ǵ ? Nó phàn nàn
về thời xưa của ḿnh, v́ nó đă ra đời
hàng chu kỳ trước thời Adam (Kaimurath). Nó đă chứng
kiến các cuộc cách mạng của những thế
kỷ dài dằng dặc. Nó đă chứng kiến sự
ra đời và kết kiễu mười hai chu kỳ,
mỗi chu kỳ gồm 7 000 năm, nên được nhân
lên một cách bí truyền các chu kỳ này sẽ lại cho
chúng ta 840 000 năm. ([908])
Simorgh ra đời cùng với trận Đại hồng
thủy cuối cùng thời Tiền Adam (theo “Huyền
thoại về Simorgh và Khalif lương hảo”! ([909])
Số Mục Thánh Thư
dạy những ǵ ? Như đă giải thích, xét về
mặt bí truyền. Adam Rishoon là Nguyệt Tinh Quân (theo
một ư nghĩa nào đó là Jehovah hay Pitris), c̣n ba con trai
của Ngài – Ka-yin, Habel và Seth – tiêu biểu cho ba Giống
dân. Theo ch́a khóa vũ trụ học, đến lượt
Noah-Xisuthrus tiêu biểu cho Giống dân thứ Ba riêng
biệt và ba con trai của ông tiêu biểu cho giống dân
cuối cùng. Hơn nữa, Ham tượng trưng cho
giống dân đă khám phá ra “sự trần truồng”
của Giống dân Tổ Phụ và của Giống dân “Vô
Trí”, nghĩa là tội lỗi mà người ta mắc
phải.
Tahmurath cưỡi con
tuấn mă có cánh đến viếng rặng núi Kol-Kaf hay
Kaph. Ở đó, khi thấy những người Peris
bị những người Khổng lồ ngược
đăi, Ngài liền giết chết Argen và người
khổng lồ Demrusch. Thế rồi, Ngài giải thoát
người Peris lương hảo Mergiana ([910])
mà Demrusch đă cầm tù và đem nàng tới “đảo
khô” (“dry island”), nghĩa là Châu Âu, tân lục địa. ([911])
Sau Ngài là Giamschid, ông xây dựng Esikekar tức Persepolis.
Vị Thánh Vương này cai trị 700 năm và thật
tự phụ khi tin rằng ḿnh bất tử và đ̣i
hỏi nhiều danh dự thiêng liêng. Định mệnh đă trừng phạt y, y lang thang
trên thế giới cả trăm năm với danh xưng
Dhulkarnayn, “kẻ có hai sừng”. Nhưng hỗn danh này
chẳng dính dáng ǵ tới nhà quí tộc “có hai sừng” và
móng rẽ. “Kẻ có hai sừng” là hỗn danh mà Châu Á –
vốn c̣n dă man nên không thể biết ǵ về các thuộc
tính của Ma Quỷ - dành cho những nhà chinh phục đă
chinh phục được thế giới từ Đông
sang Tây.
397
Rồi tới
người tiếm vị Zohac và nhốt y trong rặng núi
Damavend. Tiếp theo là nhiều người khác xuống măi
tới Kaikobăd, kẻ đă lập nên một Triều
đại mới.
Đó là lịch sử
huyền thoại của Ba Tư và chúng ta phải phân tích
nó. Để mở đầu, đâu là rặng núi Kaf ?
Cho dù t́nh trạng địa
lư của chúng có ra sao đi nữa, cho dù chúng là rặng núi
Caucase hay Trung Á, th́ huyền thoại cũng định
vị những người Devs và Peris vượt xa
những rặng núi này lên tận miền Bắc, những
người Peris là tổ tiên xa xưa của những
người Parsĩs hay Farsĩs. Truyền thuyết
Đông phương luôn luôn đề cập tới
một biển vô danh lạnh lẽo u tối và một vùng
tối tăm, tuy nhiên bên trong vùng tối này là các “Ḥn
đảo May Mắn” trong đó, Cội nguồn của Sự sống vẫn
sủi bọt từ khi sự sống bắt đầu
trên trần thế. ([912])
Hơn nữa, huyền thoại c̣n khẳng định
rằng một phần của “ḥn đảo khô” (lục
địa) đầu tiên sau khi đă tách ra khỏi
phần đất chính, th́ từ đó trở đi, nó
vẫn c̣n ở phía bên kia rặng núi Koh-Kaf, “vành đai
bằng đá bao quanh thế giới”. Một cuộc du
hành dài bảy tháng sẽ đưa một người nào
có “Chiếc nhẫn của Solimăn” tới “Nguồn
Sống” đó, nếu y vẫn tiếp tục đi
về hướng Bắc, thẳng trước mắt
theo đường chim bay. Do đó, việc du hành từ Ba
Tư lên thẳng
hướng Bắc sẽ đưa người ta dọc
theo kinh tuyến sáu mươi độ, nhắm về
hướng Tây tới tận Nova Zembla. Và việc du hành
từ rặng Caucasus ṿng Bắc Cực sẽ đem
người ta đến giữa các kinh tuyến bốn
mươi lăm và sáu mươi độ, tức là
giữa Nova Zenbla và Spitzbergen. Điều này dĩ nhiên là
phải như vậy, nếu người ta có
được Con Ngựa mười hai chân của
Tahmurath hay Taimuraz để cưỡi nó băng qua Bắc
Băng Dương. ([913])
398
Song le,
cho đến nay, những ca sĩ lang thang ở Ba Tư và
Caucasus vẫn c̣n quả quyết rằng măi tận phía bên
kia các đỉnh núi Kap hay Caucasus quanh năm tuyết
phủ, có một đại
lục nay ẩn khuất đối với tất cả
mọi người. Muốn đến với nó,
người ta cần phải dùng tới hậu duệ
mười hai chân của con sấu và con hà mă cái.
Mười hai chân của nó có thể tùy ư biến thành
mười hai cánh. ([914])
Muốn đến với nó, người ta cũng cần
phải kiên nhẫn chờ đợi hảo ư của
Simorgh – Anke, nàng hứa rằng trước khi mệnh
chung, nàng sẽ tiết lộ lục địa ẩn tàng
cho mọi người và khiến cho nó một lần
nữa lại hữu h́nh và ở trong tầm tay của
mọi người, bằng một chiếc cầu mà
những người Devs ở giữa đại
dương sẽ xây dựng giữa phần đất
đó của “đảo khô” và những phần đất
bị đứt rời của nó. ([915])
Điều này dĩ nhiên là có liên quan tới Giống dân
thứ Bảy, Simorgh là Chu kỳ Khai Nguyên.
Thật vô cùng kỳ
diệu là Cosmas Indicopoustes, sống vào thế kỷ thứ
sáu sau T.C. đă luôn luôn quả quyết rằng, con
người sinh ra và thoạt tiên ở một xứ phía “bên
kia Đại dương”; một học giả Chaldea
đă cung cấp cho y một bằng chứng về
điều này ở Ấn Độ. Ông cho rằng :
Xung quanh các vùng
đất mà chúng ta sống trong đó có một Đại
dương, nhưng bên kia Đại dương ấy có
một vùng đất khác chạm tới các bức
tường trên bầu trời. Con người đă
được tạo ra và sống trong Lạc viên nơi
vùng đất này. Trong khi có trận Đại hồng thủy, Noah
được đưa vào vùng đất mà con cháu
của y nay đang ở, bằng một chiếc Bè. ([916])
Chúng ta thấy Con Ngựa
mười hai chân của Huschenk trên các vùng lục
địa được mệnh danh là “ḥn đảo
khô”.
“Phép trắc địa
Thiên Chúa giáo” của Comas Indicopleustes và các công trạng
của nó thật là nổi tiếng; nhưng ở đây,
vị linh mục lương hảo ấy đă lặp
lại một truyền thuyết đại đồng
thế giới; hơn nữa, nay truyền thuyết đó
đă được các sự kiện bổ chứng.
Mọi du khách tới Bắc Cực đều ngờ
rằng có một lục địa tức là một “ḥn
đảo khô” ở phía bên kia tuyến băng vĩnh
cửu. Có lẽ bây giờ th́ ư nghĩa của đoạn
văn sau đây trích từ một trong các Giảng lư có
thể trở nên minh bạch hơn.
399
Vào lúc đầu của sự sống [nhân
loại], vùng đất khô duy nhất ở đầu bên
phải [917]
của Trái Đất th́ bất động. ([918])
Toàn thể Trái Đất là một sa mạc đẫm
nước, rộng mênh mông, nước này thật ấm…
Ở đó, con người sinh ra trên bảy vùng bất
tử, bất hoại của Chu kỳ Khai Nguyên. ([919])
Trong đêm tối âm u vẫn có mùa xuân vĩnh cửu.
[Nhưng] cái vốn là bóng tối đối với con
người ngày nay, lại là ánh sáng đối với con
người vào lúc sơ sinh. Các Vị Thần ngự
ở đó và Vô cực điện ([920])
vẫn ngự trị suốt từ lúc đó … Như
thế, các Từ Phụ minh triết bảo rằng con
người sinh ra ở trên đầu Mẹ ḿnh [Trái
đất], c̣n chân bà ở đầu mút bên trái đă sinh
ra những luồng gió tà vạy thổi ra từ miệng
của Con Rồng hạ đẳng… Vùng đất
Vĩnh cửu Trung ương được Sinh Thủy
(Water of Life) ([921])
chia ra giữa các Giống dân thứ Nhất và thứ Hai.
Nó
chảy ṿng và làm linh động cơ thể [của
Mẹ Địa Cầu]. Đầu mút duy nhất của
nó xuất phát từ đầu của bà, nó trở nên ô
uế ở chân bà [Nam Cực]. Nó được tinh
luyện khi trở về tim bà, quả tim này đập
dưới chân của Shamballah thiêng liêng, bấy giờ
[lúc đầu], nó vẫn c̣n chưa sinh ra. Đó là v́
sự sống và sức khỏe của mọi chúng sinh đều
ẩn tàng trong ṿng đai của trú sở của con
người [Địa Cầu]. ([922])
Trong khi đó các Giống dân thứ Nhất và thứ Hai,
vành đai này bị biển cả mênh mông bao phủ.
[Nhưng] Đại Mẫu đau đẻ dưới
làn sóng biển và một vùng đất mới đă
được thêm vào vùng đất đầu tiên mà
những người minh triết gọi là chiếc mũ.
Bà đau đẻ dữ dội hơn v́ Giống dân
thứ Ba, eo và rốn của bà đă xuất hiện trên
mặt nước. Chính vành đai, dăy Himavat thiêng liêng
đă trải ra xung quanh Thế giới. ([923])
Bà bị tan vỡ về phía Mặt trời lặn từ
400
cổ ([924])
trở xuống [hướng Tây Nam] thành ra nhiều vùng
đất và ḥn đảo, những Vùng đất Vĩnh
Cửu [cái mũ] không hề bị đứt rời ra.
Các vùng đất khô ráo che phủ bề mặt yên tịnh
của biển cả tới tận bốn phía của
Thế giới. Tất cả những vùng này [đến
lượt] đều bị diệt vong. Thế rồi
chỗ trú của những kẻ độc ác [Châu Atlantis]
đă xuất hiện. Vùng đất Vĩnh Cửu này
đă bị che khuất, v́ nước trở nên rắn
chắc [đông lại] do tác dụng của hơi thở
xuất phát từ lỗ mũi bà và luồng hơi gian tà
xuất phát từ miệng Rồng, v.v…
Điều này chứng
tỏ rằng miền Bắc Á Châu cũng có nguồn
gốc xưa như Giống dân thứ Hai. Thậm chí,
người ta có thể bảo rằng một Châu xuất
hiện đồng thời với con người, v́
từ lúc bắt đầu sự sống của con
người, có thể nói là Lục địa gốc
của nó đă tồn tại, và các phần thế
giới mà nay người ta gọi là Á Châu; đă chỉ
bị tách rời khỏi nó vào một thời đại
sau này và bị băng hà chia cách ra.
Như thế, nếu
hiểu đúng theo giáo lư th́ lục địa đầu
tiên đă xuất lộ chụp lên trên trọn cả
Bắc Cực, giống như một cái vỏ cứng
nguyên vẹn và vẫn c̣n như vậy cho măi đến
hiện nay, vượt qua bên kia các vùng biển nội
địa vốn có vẻ giống như một ảo
ảnh không thể đạt tới được, mà
một vài lữ khách ở Bắc Cực vẫn
thường thấy.
Trong khi có Giống dân thứ
Hai, có thêm những vùng đất từ dưới
đất trồi lên với vai tṛ là một sự nối
tiếp của “đầu” vào “cổ”. Bắt đầu
ở trên cả hai bán cầu, nơi đường
nằm phía trên phần cực Bắc của Spitzbergen, ([925])
theo Phép chiếu Mercator, ở bên phía chúng ta, nó có thể bao
gồm, ở bên phía Châu Mỹ, các địa điểm
này nằm ở Vùng Baffin, các ḥn đảo và các mũi
đất lân cận. Ở
đó, về phía Nam, nó chỉ mới chạm tới
vĩ độ bảy mươi; c̣n ở đây, nó
tạo thành lục địa móng ngựa mà Giảng lư có
đề cập tới. Trong số hai đầu mút
của nó, một đầu mút bao gồm cả Greenland
với một phần kéo dài hơi vượt quá năm
mươi độ Tây Nam, c̣n đầu kia bao gồm
Kamschatka, hai đầu mút này nay được nối
liền bởi cái nay là đường ven bờ biển
phía Bắc của vùng Đông và Tây Nam Siberia.
Đường này đă bị đứt rời và
biến mất. Châu Lemuria đă được tạo ra
vào thời sơ khai của Giống dân thứ Ba. Khi
đến lượt nó diệt vong, th́ Châu Atlantis liền
xuất hiện.
401
CÁC SUY LƯ CỦA TÂY PHƯƠNG DỰA VÀO
CÁC
TRUYỀN THUYẾT HY LẠP VÀ KINH PURĂNAS
Như thế, cũng là
điều tự nhiên khi chúng ta thấy rằng dựa vào
các dữ kiện ít ỏi đă thu thập được
cách đây chừng hai thế kỷ, sử gia Rudbeck,
một nhà khoa học Thụy Điển, đă ra sức
chứng tỏ rằng Thụy Điển là Châu Atlantis
của Plato. Thậm chí ông c̣n cho rằng, nơi h́nh thể
của đô thị Upsala cổ xưa, ông đă t́m ra
vị trí và các kích thước của “Châu Atlantis” mà
bậc hiền triết Hy Lạp đă tŕnh bày. Đúng
như Bailly đă chứng tỏ, Rudbeck đă lầm,
nhưng Bailly cũng chẳng hơn ǵ, thậm chí c̣n sai
lầm nhiều hơn nữa, v́ Thụy Điển và Na
Uy đă tạo thành một phần của Châu Lemuria cổ
xưa, cũng như Châu Atlantis bên phía Châu Âu, chẳng khác
nào miền Đông và Tây Siberia và Kamschatka đă thuộc
về nó, phía Á Châu, có điều là một lần nữa
xin hỏi là nó đă có từ lúc nào ? Chúng ta chỉ t́m
thấy số liệu gần đúng bằng cách nghiên
cứu kinh Purănas, nghĩa là nếu chúng ta chẳng cần
để ư tới các Giáo lư Huyền bí.
Ba phần tư thế kỷ đă trôi qua từ khi Đại Tá Wilford đề ra các thuyết hoang đường cho rằng quần đảo Anh chính là “Bạch Đảo”, Atala trong kinh Purănas. Điều này thật là vô lư, v́ Atala là một trong bảy Châu thuộc về Lokas, một trong bảy vùng của Pătăla (điểm đối chân). Vả lại, Wilford ([926]) đă chứng tỏ là kinh Purănas định vị nó giữa các vĩ tuyến 24 độ và 280 Bắc. Thế th́, nó phải ở cùng vĩ độ với Bắc Chí Tuyến trong khi nước Anh lại ở giữa các vĩ tuyến 50 độ và 60 độ. Wilford gọi nó là Atala, Atlantis, Bạch Đảo. Kẻ thù của nó bị gọi là “Bạch Quỷ”, Con Quỷ khủng khiếp, v́ ông cho rằng :
Trong các thần
thoại của Ấn Độ và Ba Tư, chúng ta thấy
Caicaus đi tới núi Az-burj
tức As-burj (mặt
trời lặn ở núi đó) để đánh con
bạch quỷ Divsefid,
Tăra-daitya trong kinh Purănas. Nó ở trên tầng thứ bảy của thế giới,
tương ứng với vùng thứ bảy của các
Phật tử; … nói cách khác, tức là tương ứng
với Bạch Đảo.
([927])
402
Nay ở
đây các nhà Đông phương học đă và vẫn c̣n
giáp mặt với câu đố bí hiểm về con Nhân
Sư, việc giải đáp nó sai lầm sẽ măi măi làm
tiêu tan uy tín và thẩm quyền của họ - nếu không
phải là khiến cho bản thân họ bị diệt vong
– dưới mắt mọi học giả Ấn
Độ dù là có được Điểm đạo hay
không. Đó là v́ không một phát biểu nào trong kinh Purănas –
Wilford đă suy lư dựa vào các chi tiết mâu thuẫn nhau
của tác phẩm này – mà lại không có nhiều ư nghĩa,
mà lại không áp dụng cho cả thế giới hồng
trần lẫn thế giới siêu h́nh. Nếu cổ nhân
Ấn Độ chia bề mặt Trái Đất ra thành
bảy Khí hậu đới, bảy Châu (xét về mặt
địa lư), thành ra bảy Địa ngục và bảy
Cơi Trời (xét về mặt ẩn dụ), th́ trong cả
hai trường hợp, số đo của bảy vùng này
không thể được áp dụng cho cùng một
địa điểm. Nay chính Bắc Cực, xứ
sở của “Núi Tu Di”, mới là phân khu thứ bảy; v́
nó tương ứng với Nguyên khí thứ bảy
(hoặc thứ tư nếu xét về mặt siêu h́nh) theo
lối tính toán của Huyền bí học. Nó tiêu biểu cho
cơi của Linh giác (Ătmă), của Linh Hồn thuần túy và
tính chất Tâm linh. Do đó, kinh Vishnu Purănas và các kinh Purănas
khác ([928])
đă tŕnh bày Pushkara là Châu
thứ bảy bao gồm đại dương Kshĩra,
tức Đại Dương Sữa (vùng trắng hằng
đông giá). Và Châu Pushkara với hai xứ Varshas nằm
ở ngay chân Núi Tu Di. Đó là v́ người ta đă
bảo rằng:
Hai xứ ở phía bắc và
nam của Núi Tu Di được xếp h́nh một cái
cung… [và] một nửa bề mặt của địa
cầu ở phía nam của Núi Tu Di, c̣n nửa kia ở phía
bắc Núi Tu Di - ở bên kia
của nó là phân nửa của Châu Pushkara.
Như thế, xét về
mặt địa lư, Châu Pushkara là Bắc và Nam Mỹ; c̣n
xét về mặt ẩn dụ, đó là phần kéo dài
của Nam Thiệm Bộ châu, ([929])
Núi Tu Di ở ngay giữa Châu này – v́ đó là trú sở
của những thực thể thọ mười ngàn
tuổi, không bị đau yếu; ở xứ này không
hề có đức hạnh cũng như là tật
xấu, chủng tộc hay luật lệ, v́ những
người này “đồng bản chất với thần
linh”. ([930])
Wilford có khuynh hướng xem Núi Atals chính là Núi Tu Di và
cũng định vị Lokăloka ở đó. Nay chúng ta
được biết rằng xét về mặt
địa lư, người ta mô tả Núi Tu Di – vốn là
Svar-Loka, trú sở của Brahmă hay Vishnu, Olympus của các tôn
giáo ngoại môn Ấn Độ - là “đi qua giữa
quả đất và lồi ra ở mỗi bên”.([931])
Phần trên là trú sở của chư Thiên, phần
dưới tức Nam Cực là chỗ trú của chư
Quỷ (Địa ngục). Thế th́ làm sao mà Núi Tu Di có
thể là Núi Atlas được? Ngoài ra người ta không
thể định vị Con Quỷ Tăradaitya trên vùng thứ
bảy nếu vùng này lại đồng nhất hóa với
Bạch Đảo vốn là Shveta-dvĩpa v́ những lư do
đă nêu.
403
Wilford tố cáo các tín
đồ Bà La Môn hiện đại “đă làm xáo trộn
chúng [các ḥn đảo và các xứ] hết tất cả;
“nhưng chính ông đă làm chúng c̣n xáo trộn hơn nữa.
Ông tin rằng v́ kinh Brahmănda và Văyu Purănas chia cựu lục
địa ra thành bảy Châu mà nghe nói là xung quanh có một
đại dương bát ngát, phía bên kia đại
dương là các vùng và núi non của âm phủ Atala, nên :
Rất có thể
là người Hy Lạp đă suy ra ư niệm về Châu
Atlantis trứ danh, v́ người ta đă không thể
thấy nó sau khi khám phá ra nó, nên họ cho rằng nó đă
bị hủy diệt trong một cơn biến
động nào đó của thiên nhiên. ([932])
V́ chúng tôi cảm thấy
khó ḷng tin được rằng các lễ sư Ai Cập,
Plato và ngay cả Homer nữa, đều xây dựng các ư
niệm về Châu Atlantis dựa vào Atala – một cơi âm ty
ở Nam Cực- nên chúng tôi thích giữ các phát biểu
được tŕnh bày trong các Mật Thư. Chúng tôi tin
rằng có bảy lục địa trên địa cầu,
mà bốn đă hoàn tất chu kỳ sinh hoạt và đă
biến mất. Lục địa thứ năm vẫn c̣n
tồn tại, c̣n hai lục địa nữa sẽ
xuất hiện trong tương lai. Mỗi lục
địa ấy không hẳn là lục địa hiểu
theo ư nghĩa hiện đại của danh từ này –
từ Jambu măi tới Pushkara ([933])
chỉ là: (a) Để chỉ những vùng đất khô
ráo trên mặt đất trong thời kỳ của một
Giống dân nói chung. (b) Để chỉ những phần
đất c̣n lại sau Chu kỳ hủy diệt của
một Giống dân, chẳng hạn lục địa
Jambu, vùng đất thiêng bất diệt. (c) Để
chỉ các khu vực đă góp phần vào việc h́nh thành
các lục địa mới ([934])
sau những cơn biến cố tương lai, mỗi
lục địa mới này, hiểu theo ư nghĩa sẽ
là vùng đất khô ráo hoặc lớn hoặc nhỏ có
nước bao bọc xung quanh. Như thế, cho dù danh pháp
của các thứ này có thể tỏ ra “hỗn độn”
đối với kẻ phàm tục, song thật ra
đối với kẻ có ch́a khóa giải, th́ cũng
chẳng có ǵ là hỗn độn.
Như thế, chúng tôi tuy biết rằng c̣n
hai lục địa thứ Sáu và thứ Bảy sẽ
xuất hiện trong tương lai, nhưng đă có và hiện đang có những vùng đất sẽ
góp phần vào việc h́nh thành những lục địa
khô ráo tương lai của Địa Cầu mà cuộc
diện địa lư sẽ hoàn toàn thay đổi như
đă xảy ra trong quá khứ. Do đó, trong kinh Purănas chúng
ta thấy rằng Shăka-dvĩpa là (hoặc sẽ là) một
lục địa; c̣n theo Văyu Purănas th́ Shankha-dvĩpa
chỉ là “ḥn đảo thứ yếu”, một trong chín
phân khu (Văyu Purănas c̣n thêm sáu phân khu nữa) của
Bhăratavarsha. V́ Shankha-dvĩpa là trú quán của những
ngoại quốc ô uế (Mlechchhas), vốn tôn thờ các
thần linh Ấn Độ, nên chúng mới liên hệ
với Ấn Độ. ([935])
Điều này biện minh cho Shankhăsura, một vị Thánh
Vương của một phần của Shankhadvĩpa,
vốn bị Krishna giết chết; theo Wilford, vị Thánh
Vương đó ở trong dinh thự “vốn là một
vỏ ṣ biển, c̣n các thần dân của Ngài cũng ở
trong vỏ ṣ”.
404
Trên bờ
sông Nĩlă ([936])
đă có những cuộc đấu tranh lâu dài giữa các
Devatăs [Đấng Thiêng Liêng, Bán Thần Linh] và các Daityas
[người Khổng lồ]: nhưng v́ nhóm người
thắng thế, nên quốc vương và thủ lănh
của họ, Shankhăsura, ngự trị ở đại
dương – đă thường xuyên đột kích vào ban
đêm.([937])
Các trận chiến này
không hề diễn ra trên bờ sông Nile như Wilford thử
nêu ra, mà diễn ra trên bờ biển Tây Phi, ở phía Nam
của nơi này là Maroo (tiếng Anh: Morocco). Có một
thời kỳ mà toàn miền Sa mạc Sahara là một vùng
biển, sau đó trở thành một lục địa ph́
nhiêu, rồi kế đó, chỉ sau một cơn ngập
lụt tạm thời, lại trở nên sa mạc
giống như vùng Đồng Cát Shamo hay Gobi. Điều
này được tŕnh bày trong truyền thuyết Purănas, v́
ở cùng trang nêu trên, người ta lại bảo
rằng:
Nhân dân ở
giữa ṿng binh lửa, đó là v́ trong khi Shankhăsura tàn phá
một phía của lục địa, th́ Cracacha [tức
Krauncha], vua của Crauncha-dwĩp [Krauncha-dvĩpa] lại
thường làm cho phía bên kia của lục địa
điêu tàn: như thế cả hai đạo quân
…đều biến đổi
vùng đất ph́ nhiêu nhất thành ra một sa mạc
cằn cỗi. ([938])
Trước khi lục
địa Âu Châu h́nh thành, không phải chỉ có một
đảo Atlantis cuối cùng như Plato đă đề
cập đến, mà là một lục địa to
lớn, ban đầu c̣n phân chia ra nhiều, sau đó
sụp đổ lần lần thành bảy bán đảo
và quần đảo, lục địa này bao gồm toàn
thể khu vực Nam và Bắc Đại Tây dương
với cả những ḥn đảo ở Ấn
Độ dương (tàn tích của Châu Lemuria). Lời
tuyên bố này được bổ chứng bởi kinh
Purănas của Ấn Độ, các tác giả Hy lạp, các
truyền thuyết của Á Châu, Ba Tư và Hồi giáo. Tuy
nhiên, Wilford, vốn lẫn lộn nghiêm trọng các
huyền thoại Ấn Độ với các huyền
thoại Hồi giáo, đă chứng minh điều này
một cách rơ rệt. ([939])
Các sự kiện và các điều trích dẫn từ kinh
Purănas đă chứng tỏ một cách trực tiếp và
dứt khoát rằng những người Ấn Độ
Ăryan và những quốc gia khác là những nhà hàng hải
trước những người Phoenicia, nay người
ta tin rằng họ là những nhà hàng hải đầu
tiên xuất hiện vào thời sau Đại hồng
thủy. Tạp chí Khảo cứu Á Châu tŕnh bày như sau:
Trong cảnh
khốn cùng này, một số thổ dân c̣n sống sót [trong
trận chiến tranh giữa các Devatăs và Daityas] đă đưa
tay lên và hướng tâm về Đấng Chí Tôn, kêu lên
rằng: “Xin để cho Đấng có thể cứu
rỗi chúng con… làm Vua của chúng con”; họ dùng từ
ngữ ĨT [một từ ngữ pháp thuật mà Wilford hiển nhiên là không hiểu]
đă vang dội trong khắp xứ.([940])
Rồi tới một
trận băo dữ dội, nước sông Kălĩ “xáo
động khủng khiếp khi từ sóng nước
hiện ra một người, sau này tên là ĨT, cầm
đầu một đạo quân đông đảo bảo
rằng ‘việc ǵ mà sợ’,
và rồi phá tan quân địch. Wilford giải thích rằng
“Vua ĨT là hiện thân phụ (subordinate) của Mrira” – Mrira
có lẽ là một dạng của Rudra ? – Ngài “đă tái
lập thái b́nh và thịnh vượng khắp Shankha-
dvĩpa, xuyên qua Barbaradẽsa, Misra-st’hăn và Arva st’hăn hay
Ả Rập”, ([941]) v.v…
405
Có điều chắc
chắn là nếu những Thánh kinh Purănas của Ấn giáo
diễn tả những cuộc chiến tranh trên các lục
địa và các ḥn đảo ở bên kia miền Tây Phi
Châu, trong Đại Tây dương; nếu các văn nhân
Ấn Độ nói về các dân tộc Barbara và Ả
Rập là những dân tộc đă từng biết đi
thuyền vượt biển trong thời kỳ môn chèo
thuyền đang thịnh hành của dân Phoenician
được dự đoán là từ năm 2 000
đến 3 000 trước T.C. Dù sao, những truyền
thống đó hẳn là phải cổ hơn ([942])
v́ một Đức Thầy đă viết :
Theo
những điều t́nh bày trong Thánh kinh của họ,
người Ấn Độ nói về những ḥn
đảo ấy như đang tồn tại và rất
cường thịnh; như vậy, nó phải trên
mười một ngàn năm nay.
Nhưng chúng ta có thể
viện dẫn một bằng chứng khác về nguồn
gốc rất xa xưa của những người Ăryan
Ấn Độ đă mô tả những ḥn đảo
cuối cùng c̣n sót lại của Châu Atlantis, hoặc đúng
hơn là của tàn tích phần phía Đông của các
lục địa đă bị diệt vong ngay khi hai
phần của Châu Mỹ ([943])
- hai Xứ của Châu Pushkara – trồi lên. V́ họ mô
tả cái mà họ biết v́ họ đă từng ở trên
đó. Hơn nữa, điều này có thể
được chứng tỏ dựa vào một phép thiên
văn của một Cao đồ đang chỉ trích
Wilford. Khi nhớ lại điều mà nhà Đông
phương học ấy nêu ra liên quan tới Núi Ashburj –
đây là nơi mặt trời lặn ở chân núi – nơi
cuộc chiến tranh giữa các Devatăs và Daityas diễn ra, ([944])
ông bảo rằng:
Thế
th́, chúng ta sẽ xét vĩ độ và kinh độ
của ḥn đảo bị thất tung và của Núi Ashburj.
Nó ở trên tầng thứ bảy của thế giới,
nghĩa là ở khí hậu đới thứ bảy
(nằm giữa các vĩ tuyến 24 độ và 28
độ bắc)….Người ta thường mô tả
rằng đảo này, con gái của Đại
dương, nằm ở phía Tây, c̣n Mặt Trời
được tŕnh bày là lặn ở chân núi (Ashburj, Atlas,
Teneriffe hay Nĩlă, muốn gọi là ǵ th́ gọi) và
chiến đấu chống lại con Bạch Quỷ
của “Bạch Đảo”.
406
Nay nếu
chúng ta xét phát biểu này theo khía cạnh thiên văn, v́
Krishna là hiện thân của Mặt Trời (Vishnu), là
một Nhật Thần, và v́ nghe nói Ngài đă giết
chết con Bạch Quỷ Div-sefid – có thể là hiện thân của cư dân thời
xưa ở chân núi Atlas – th́ có thể Ngài chỉ là cái
biểu tượng của chùm tia sáng thẳng đứng
của Mặt Trời. Vả lại như chúng ta
thấy, những người Atlantis này bị Diodorus
tố cáo là ngày nào cũng nguyền
rủa Mặt Trời và luôn luôn đấu tranh
chống lại ảnh hưởng của nó. Tuy nhiên,
điều này chỉ là một lối thuyết minh thiên
văn. Nay người ta sẽ chứng tỏ rằng xét
về mặt địa lư học và dân tộc học,
Shankhăsura và Shankha-dvĩpa và toàn bộ lịch sử
của chúng cũng chỉ là Châu Atlantis của Plato
dưới h́nh thức Ấn Độ.
Người ta vừa mới
nhận xét như thế, v́ theo lối tường
thuật trong kinh Purănas, ḥn đảo vẫn c̣n tồn tại, nên các bài tường
thuật này phải xưa hơn 11 000 năm, vốn đă
trôi qua từ khi Shankha-dvĩpa tức đảo Poseidonis
của Châu Atlantis biến mất. Nhưng phải chăng
đó chỉ có thể là người Ấn Độ
đă biết tới đảo này c̣n sớm hơn
nữa ? Với vị Cao đồ nêu trên, chúng ta giả
sử rằng :
Khi
lưỡng chân nguyên hạ chí tuyến đi qua cḥm sao Rua
(Pleiades); khi Cor Leonis ở trên xích đạo và khi cung Mănh
Sư (Leo) ở ngay trên Tích Lan vào lúc mặt trời
lặn, th́ cung Kim Ngưu (Taurus) sẽ ở ngay trên
đảo Atlantis vào lúc ban trưa.
Điều này có thể
giải thích tại sao người Tích Lan, những kẻ
kế thừa các La Sát và những người Khổng
lồ ở đảo Lankă, những hậu duệ
của Sinha hay Leo lại trở nên liên quan tới
Shankha-dvĩpa hay Poseidonis (Châu Atlantis của Plato). Có
điều là như tác phẩm Sphinxiad của Mackey đă
chứng tỏ, xét về mặt thiên văn, điều này
ắt đă phải diễn ra cách đây chừng 23 000
năm. Vào lúc đó, độ nghiêng của Hoàng Đạo
ắt đă phải vượt quá 27 độ, và do đó
cung Kim Ngưu ắt đă phải đi qua Châu Atlantis
tức Shankha-dvĩpa. Sự việc như thế đă
được chứng tỏ rơ ràng. Giảng lư dạy:
Cứ
mỗi Thiên Kiếp (Kalpa) con ḅ thiêng Nandi lại
được mang từ Bhărata tới Shankha để
gặp Rishabha [Kim Ngưu]. Nhưng khi những người
ở Bạch Đảo [vốn xuất phát từ
Shveta-dvĩpa], ([945])
vốn đă sống lẫn lộn với các Daityas
[những người Khổng lồ] của vùng
đất bất công đă trở nên hắc ám v́ tội
lỗi, th́ Nandi vẫn măi măi ở Bạch Đảo [hay
Shveta-dvĩpa]… Những người thuộc Thế
giới [Giống dân] thứ Tư đă làm mất chữ
AUM.
407
Cho dù có là đỉnh
núi Teneriffe hay không th́ Ashburj, tức Azburij vẫn là một
núi lửa khi “Atala Tây phương” tức Địa
ngục bắt đầu đắm ch́m và các người
được cứu thoát đă kể chuyện này cho con
cháu. Châu Atlantis của Plato đă bị diệt vong giữa
lửa ở bên trên và nước ở bên dưới;
ngọn núi lửa lớn cứ luôn luôn phun ra lửa.
“Con
quái vật phun ra lửa” vẫn c̣n sống sót một ḿnh
trong các tàn tích của ḥn đảo bất hạnh.
Liệu người Hy
Lạp vốn dĩ bị kết tội là vay mượn
một điều bịa đặt của Ấn
Độ (Atala) và từ đó chế ra một
điều bịa đặt khác (Atlantis), có bị tố
cáo thêm rằng đă vay mượn cái ư niệm địa
lư và con số bảy của họ chăng ?
Proclus cho rằng: “Châu Atlantis
trứ danh không c̣n tồn tại nữa, nhưng chúng ta khó
ḷng nghi ngờ việc nó đă từng tồn tại, và
điều này được minh chứng bởi những
người đă soạn ra lịch sử của
những điều có liên quan tới biển cả. Đó
là v́ họ thuật lại rằng vào thời họ, có
bảy ḥn đảo trong Đại Tây dương
được dâng cho Proserpine; ngoài ra c̣n có ba ḥn đảo
khác lớn vô cùng được dâng cho Pluto, … (Jupiter)... và
Neptune. Hơn nữa dân cư của ḥn đảo cuối
cùng này (Poseidonis) vẫn c̣n
nhớ kỹ kích thước khổng lồ của
Đảo Atlantis (theo lời tường thuật của
tổ tiên họ) và việc nó chưởng quản mọi
Ḥn đảo của Đại Tây dương trong
nhiều thời kỳ. Từ ḥn đảo này,
người ta có thể chuyển sang các ḥn đảo
lớn khác ở phía bên kia và không xa đất liền, mà
gần đó đích thực là biển”.
Theo
Marcellus, bảy châu
(dvĩpa)- mà người ta dịch không chính xác là
đảo – tạo thành cơ thể của Châu Atlantis
trứ danh … Điều này chứng tỏ rơ rệt
rằng Châu Atlantis chính là cựu lục địa… Châu
Atlantis bị một trận băo dữ dội nhất [?]
hủy diệt: các môn đồ kinh Purănas đều
biết rơ điều này; một số người c̣n
quả quyết rằng do cơn biến động
khủng khiếp này của thiên nhiên mà sáu châu đă
biến mất. ([946])
Nay các bằng cớ
đă được trưng ra đủ để làm hài
ḷng kẻ hoài nghi nhất. Tuy nhiên, cũng nên thêm vào các
bằng chứng trực tiếp dựa vào khoa học chính
xác. Thế nhưng, cho dù chúng ta có viết ra bao nhiêu
quyển sách th́ việc đó cũng chẳng ích ǵ cho
những kẻ không muốn thấy mà cũng chẳng
muốn nghe, trừ khi thấy và nghe xuyên qua tai, mắt
của những nhân vật có thẩm quyền của riêng
ḿnh.
Do đó mới có giáo lư của các nhà b́nh giải Thiên Chúa La Mă, nghĩa là việc dạy rằng Hermon, ngọn núi ở vùng đất Mizpeth – nghĩa là “sự kết tội của giáo hội”(“anathema”), “sự hủy diệt” – cũng chẳng khác nào Núi Armon. Bằng chứng là người ta thường trích dẫn lời Josephus xác nhận vào thời của chính ông, ngày nào người ta cũng t́m thấy hài cốt của những người khổng lồ ở trên núi đó. Nhưng đó là xứ sở của nhà tiên tri Balaam, người mà “Chúa hết ḷng yêu thương”. Các sự kiện và nhân vật đă hỗn độn trong trí óc nhà b́nh giải đến nỗi mà khi kinh Zohar giải thích rằng những con chim linh cảm Balaam có nghĩa là những “Con Rắn”, tức là những Người Minh triết và các bậc Cao đồ - ông đă học được bí quyết tiên tri ở trường của các vị này – th́ chúng ta lại có cơ hội chứng tỏ rằng Núi Hermon là chỗ trú của những con “Ác long có cánh mà đứng đầu là Samael” – Satan của Do Thái giáo ! Spencer cho rằng :
Con vật hy sinh
của Do Thái, vốn mang danh hiệu của một trong
những vị đó [Azaz(y)el] được phái tới
cho những vong linh ô trược bị xiềng trên núi
Hermon ở Sa mạc.
408
Chúng tôi xin nói rằng
không phải như thế đâu, kinh Zohar đă giải
thích như sau về sự thi thố pháp thuật mà
tiếng Hebrew gọi là Nehhaschim, tức là các công việc
của “Loài Rắn”. Nó cho rằng (Phần iii, cột 302) :
Nó
được gọi là Nehhaschim v́ các pháp sư [các môn
đồ thực hành Do Thái Bí giáo] làm việc giữa bầu ánh sáng của Loài
Rắn Nguyên thủy mà họ thấy trên trời như
là một vùng sáng chói gồm có hằng hà sa số những
v́ sao nhỏ.
Điều này chỉ có
nghĩa là Tinh Tú Quang, theo lối nói của môn đồ
phái Marton, của Éliphas Lévi và của tất cả các nhà
Huyền bí học hiện đại.
SỰ “ĐỌA ĐÀY” THEO MỘT QUAN ĐIỂM
TRIẾT HỌC
Nay các giáo lư nêu trên của
Giáo Lư Bí Nhiệm cộng thêm các truyền thuyết
đại đồng thế giới, ắt phải
chứng tỏ rằng kinh Brăhmănas và Purănas, kinh Vendĩdăd
và các Thánh kinh Bái hỏa giáo khác, măi cho tới các Thánh kinh Ai
Cập, Hy Lạp, La Mă và cuối cùng là tới các Thánh kinh
Do Thái Bí giáo, đều có một nguồn gốc. Chẳng
có ǵ là các câu chuyện vô nghĩa và vô căn cứ
được chế ra để đánh lừa kẻ
phàm phu lơ đễnh, tất cả đều là các
ẩn dụ có mục đích tŕnh bày – dưới một
bức màn ít nhiều hoang đường – các chân lư
được thu thập trong cùng một lănh vực
truyền thuyết tiền sử. Trong tác phẩm này, chúng
ta không có đủ chỗ để đi sâu vào việc
tŕnh bày thêm nữa các chi tiết tỉ mỉ liên quan
tới bốn Giống dân có trước Giống dân
thứ Năm chúng ta. Nhưng trước khi tŕnh bày cho môn
sinh lịch sử của cuộc tiến hóa tâm linh và tinh
thần của các tổ phụ trực hệ tiền
Đại hồng thủy của Giống dân thứ
Năm (Ăryan) chúng ta, và trước khi chứng tỏ tác
dụng của nó đối với mọi nhánh khác mọc
ra từ cùng một thân cây, chúng ta phải minh giải
một vài sự kiện nữa. Dựa vào bằng
chứng của toàn bộ thế giới văn
chương cổ và những suy lư trực giác của hơn
một triết gia và khoa học gia trong các giai đoạn
sau này, người ta đă chứng tỏ rằng trong
hầu hết mọi trường hợp, các giáo
điều của Nội môn Bí giáo đă được
bổ chứng bởi bằng chứng trực tiếp và
do suy luận, người ta cũng chứng tỏ
rằng những người Khổng lồ “huyền
hoặc”, các lục địa thất tung, cũng như
sự tiến hóa của các Giống dân trước
đều chẳng phải là những câu chuyện hoàn toàn
vô căn cứ. Trong phụ lục cuối Quyển 4, khoa
học sẽ thấy chính ḿnh hơn một lần không
thể giải thích được, người ta hy
vọng rằng các Phụ lục này rốt cuộc sẽ
dẹp tan được mọi nhận xét hoài nghi liên quan
tới con số thiêng liêng trong thiên nhiên và các con số
của chúng ta nói chung.
Trong khi đó, một
nhiệm vụ vẫn c̣n chưa hoàn tất, đó là
việc dẹp tan các giáo điều thần học tai
hại nhất : SỰ ĐỌA ĐÀY (CURSE) mà
người ta gán cho là nhân loại phải chịu
đựng suốt từ khi người ta giả sử
là Adam và Eve đă không tuân lời trong bóng mát của
vườn Địa Đàng (Eden).
409
Các quyền
năng sáng tạo nơi con người đă là năng
khiếu của Minh Triết Thiêng Liêng, chứ không phải
là hậu quả tội lỗi. Điển h́nh của
điều này là thái độ nghịch lư của Jehovah,
thoạt tiên, y đă nguyền
rủa Adam và Eve (tức Nhân loại) v́ giả sử là
họ đă phạm trọng tội, thế rồi
lại ban phúc cho “dân tộc
tuyển định” của ḿnh bằng cách bảo
rằng: “Hăy sinh sôi nảy nở tràn đầy trên mặt
đất”. ([947])
Sự đọa đày đă không được mang
tới cho nhân loại nơi Giống dân thứ Tư, v́
Giống dân thứ Ba tương đối vô tội,
những người tiền Đại hồng thủy
c̣n khổng lồ hơn nữa, đă bị diệt vong
cũng theo lối đó; do đó, trận Đại
hồng thủy không phải là sự trừng phạt, mà
chỉ là kết quả của một định luật
địa chất tuần hoàn. Sự Đọa đày
của NGHIỆP
QUẢ (KARMA)
cũng không giáng xuống đầu họ để
mưu t́m sự kết hợp tự
nhiên, cũng như mọi thế giới động
vật vô trí được thực hiện trong các mùa thích
hợp; mà để lạm dụng quyền năng sáng
tạo, để làm bại hoại linh khiếu (divine
gift), và lăng phí sinh lực mà chẳng có mục đích nào
khác hơn là thỏa măn thú tính của riêng ḿnh. Khi hiểu
rơ, th́ chúng ta sẽ thấy rằng chương ba của
Sáng Thế Kư đề cập tới Adam và Eve vào lúc
cuối Giống dân thứ Ba và đầu Giống dân
thứ Tư. Thoạt tiên, sự thụ thai đối
với người phụ nữ cũng dễ dàng
chẳng kém ǵ đối với mọi động vật
khác. Thiên nhiên chưa bao giờ dự tính rằng
người đàn bà sẽ sinh con cái “trong đau khổ”
(“in sorrow”). Tuy nhiên, vào thời kỳ đó, trong khi
Giống dân thứ Tư tiến hóa, đă xảy ra sự
thù nghịch giữa mầm mống của nó và mầm
mống của “Con Rắn”, mầm mống hay sản
phẩm của nghiệp quả đă làm “dập nát gót
chân” của giống dân Atlantis, bằng cách biến
đổi dần dần về mặt sinh lư, đạo
đức, thể chất và tâm thần, toàn bộ bản
chất của Giống dân thứ Tư, ([948])
cho đến khi từ địa vị chúa tể
mạnh mẽ của giới động vật trong
Giống dân thứ Ba, con người trong Giống dân
thứ Năm chúng ta, đă biến thành một thực
thể bơ vơ, bệnh hoạn, và nay y đă thừa
hưởng một di sản kếch sù nhất Địa
Cầu về bệnh bẩm sinh và di truyền để
trở thành một con thú có ư thức và thông minh nhất ! ([949])
410
Theo quan điểm sinh
lư học, đây chính là sự Đọa đày thực
sự, hầu như là sự đọa đày duy nhất
mà Do Thái Bí giáo đề cập tới. Xét theo khía cạnh
này, sự đọa đày thật là không thể chối
căi được, v́ nó thật là hiển nhiên. Sự
tiến hóa trí tuệ song song với sự tiến hóa
thể chất, chắc chắn đă là một sự
đọa đày thay v́ là sự ban phúc – một năng
khiếu được triển khai bởi “Các
Đấng Minh Triết”, các Ngài đă tuôn lên Trí
người giọt sương mới mẻ của Tinh
Thần và Bản Thể của chính các Ngài. Thế là người
Khổng lồ Thiêng liêng đă bị đau khổ một
cách vô ích; và người ta cảm thấy có khuynh
hướng tiếc rẻ sự ban ơn của các Ngài
cho nhân loại, và than thở cho những ngày mà Aechylus đă
mô tả vô cùng sống động trong tác phẩm “Prometheus
bị Trói buộc” của ông, khi đó, vào lúc kết thúc
Thời đại Titans (Thời đại tiếp theo sau
Thời đại Con người Tinh anh, của Kandu và
Pramlochă ngoan đạo), nhân loại mới sinh, bằng
thể chất, vẫn vô trí và vô giác quan (về mặt sinh
lư) được mô tả như sau –
Họ chẳng
thấy ǵ cả;
Họ chẳng
nghe được ǵ; mà chỉ giống như những
h́nh dạng trong giấc mơ,
Vạn vật
đă được pha trộn suốt thời gian dài
dằng dặc.
Rất có thể là sự
bạc bẽo của ḷng người sẽ chẳng
cần nhận ra và nhớ ơn các Đấng Cứu
Rỗi chúng ta, các Hỏa Tinh Quân và các Đấng thiêng liêng
khác, “Con của Ngọn Lửa Minh Triết” – người
Hy Lạp nhân cách hóa thành Prometheus. ([950])
V́ không biết ǵ về sự thật, chúng ta có thể gián
tiếp nguyền rủa các Ngài v́ năng khiếu của
Pandora. Tuy nhiên, việc giáo sĩ đoàn tố cáo họ là NHỮNG KẺ
GIAN TÀ, quả
thật là một Nghiệp Quả nặng nề dành cho
“Đấng” dám một ḿnh cứu “thế nhân” thoát
khỏi sự trầm luân khi Thần Zeus chỉ lăm le
tiêu diệt toàn thể loài người. Người ta
đă tŕnh bày vị Titan đau khổ ấy phát biểu
rằng:
Từ xôn xao
khốn kiếp cho tới u ám của âm phủ.
Ta đă quan tâm
tới điều này qua sự tra tấn khủng
khiếp ấy,
Ta đă đau
buồn chịu đựng và ái ngại chứng kiến
cảnh thương tâm của thế nhân…
Khúc hợp ca
nhận xét rất thích đáng rằng :
Người ta
đă ban quá nhiều ân huệ cho thế nhân !
Prometheus đáp :
Đúng vậy,
hơn nữa, ta c̣n ban cho họ lửa nữa.
KHÚC
HỢP CA: Nay liệu những tạo vật phù du này có
cặp mắt rực lửa không ?
PROMETHEUS:
Có chứ, và nhờ đó, rất nhiều nghệ
thuật sẽ học được…
411
Tuy nhiên,
đối với nghệ thuật, “lửa” nhận
được đă biến thành sự đọa đày
ghê gớm nhất; yếu tố thú dục và ư thức về sự
chiếm hữu nó, đă biến bản năng
định kỳ thành ra thú tính và nhục dục kinh niên. ([951])
Chính điều này đă lủng lẳng trên đầu
nhân loại giống như một cái khăn phủ quan tài
âm u. Trách nhiệm của tự do ư chí xuất lộ
như thế đấy. Các thị dục của Titan
vốn tiêu biểu cho nhân loại dưới khía cạnh
hắc ám nhất;
Các thị
dục, dục vọng thấp hèn đang lăng xăng
không ngừng thách thức những sự cưỡng
chế pháp luật một cách tự thị và láo
xược. ([952])
Theo tác phẩm Protagoras
của Plato, Prometheus đă ban cho con người loại
“minh triết chăm lo về hạnh phúc vật chất”,
nhưng Hạ Trí cảm dục vẫn c̣n trơ trơ ra
đấy. Thay v́ “một tâm trí thanh thoát, năng khiếu
bản sơ của thiên giới”, người ta tạo ra
con kên kên vĩnh cửu với dục vọng không bao
giờ thỏa măn, tiếc nuối và thất vọng,
kết hợp với “sự yếu đuối mơ màng
đang trói buộc đám thế nhân mù quáng” (câu thơ 556),
cho đến ngày mà Prometheus được vị Thiên
sứ cứu tinh giải thoát.
Nay các tín đồ Thiên Chúa
giáo – nhất là các tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă – đă ra
sức tiên tri bằng cách liên kết vở kịch này
với sự giáng lâm của Đức Christ. Thật không
c̣n điều lầm lỗi nào nặng nề hơn
thế. Nhà Minh Triết Thiêng Liêng chân chính, người theo
đuổi Minh Triết Thiêng Liêng và tôn thờ sự Hoàn
Thiện Tuyệt Đối – Đấng Thánh Linh Huyền
Vi vốn chẳng phải là Zeus hay Jehovah - ắt sẽ
phản đối một ư tưởng như thế. Khi
trực chỉ về thời cổ, y sẽ chứng
tỏ rằng chưa bao giờ có một tội lỗi nguyên thủy, mà chỉ có
sự lạm dụng trí tuệ vật chất – phần
Tâm linh bị phần Thú tính lôi cuốn và cả hai đă
dập tắt ánh sáng của Tinh Thần. Y sẽ bảo: Tất
cả các bạn nào có thể hiểu được “ư
tại ngôn ngoại” hăy nghiên cứu Minh Triết Cổ
Truyền trong các vở kịch xưa của Ấn
Độ và Hy Lạp; hăy đọc kỹ tác phẩm
“Prometheus bị Trói buộc”, đă được tŕnh
diễn tại các rạp hát ở Athens cách đây 2 400
năm ! Thần thoại này chẳng phải là sản
phẩm của Hesiod hay Aeschylus, mà theo Bunsen, nó c̣n “xưa
hơn chính cả người Hy Lạp nữa”, v́ thật
ra nó là sản phẩm của ư thức con người vào
buổi sơ khai. Vị Titan bị Thập giá h́nh chính là biểu tượng
được nhân cách hóa của tập thể Thiên
Đạo (collective Logos), “Đạo Quân Thiên Giới”, các
“Đấng Minh Triết”, tức THIÊN ĐẾ (HEAVENLY MAN) đă đầu thai trong nhân
loại. Hơn nữa, danh hiệu của Ngài (Pro-me-theus, “Đấng
thấy đằng trước ḿnh” hay tương lai)
chứng tỏ ([953]) rằng trong những nghệ
thuật mà Ngài đă phát minh ra và dạy dỗ cho nhân
loại, sự giác ngộ tâm lư (psychological insight) không
phải là nghệ thuật kém nhất. Đó là v́ y đă
phàn nàn với các con gái của Oceanus như sau:
412
Ta
đă ấn định nhiều cách thức tiên tri khác
nhau, (492)
Và
trong số các giấc mơ ta đă phân biệt
trước tiên
Linh
thị chân thực… và thế nhân được dẫn
dắt
Tới
một nghệ thuật huyền bí…
Mọi nghệ
thuật dành cho thế nhân đều bắt nguồn
từ
Prometheus…
Chúng ta hăy tạm gác các
đề tài chính lại trong vài trang để xem
điều này có thể có ư nghĩa ẩn tàng ǵ chăng,
v́ nó là truyền thuyết ẩn dụ xưa nhất và
gợi ư nhất. V́ điều này có liên quan trực
tiếp tới các Giống dân sơ khai nên nó thực ra
chẳng có ǵ là lạc đề.
Mọi độc giả trí
thức đều biết đề tài lịch sử ba
hồi của Aeschylus; trong đó hai vở kịch đă
bị thất truyền rồi. Vị Bán Thần cướp
mất bí mật của các Thần (Elohim), đó là bí
mật về Lửa Sáng Tạo. V́ toan tính phạm
thượng này, y bị Kronos ([954])
hạ bệ và giao cho Zeus, Cha đẻ và Kẻ Sáng
Tạo của một nhân loại mà Ngài muốn có một
trí tuệ mù quáng và giống như thú vật, một
vị Thượng Đế Nhân
h́nh sẽ không chịu xem CON NGƯỜI là “giống như một
trong chúng ta”. Prometheus, kẻ “ban cấp Lửa ánh sáng”,
bị xiềng trên Núi Caucasus và bị kết tội
phải chịu tra tấn đau khổ. Nhưng theo
lời Titan, Định Mệnh ba dạng (Karma) cũng có
các quyết nghị của ḿnh, ngay cả Zeus –
Ngay cả
Ngài cũng không tránh được điều tiền
định…
–
cũng ra lệnh bằng những điều đau
khổ đó cũng chỉ kéo dài cho đến khi mà
một người con của Zeus –
Đúng vậy,
một người con sinh ra khỏe hơn ông cha ḿnh (787)
………………..
Nó ắt phải là một trong các
hậu duệ của chính Ngài [Io’s] (791)
–
nó được sinh ra. “Người Con” này sẽ giải
thoát cho Prometheus (Nhân loại đau khổ) khỏi năng
khiếu tai hại của chính y. Người con này có danh
hiệu là “Đấng phải giáng lâm”.
Thế là dựa vào
thẩm quyền của vài hàng này – giống như bất
kỳ câu nói ẩn dụ nào khác – chúng có thể bị xuyên
tạc thành ra hầu như bất kỳ ư nghĩa nào-
dựa vào thẩm quyền của những lời do
Prometheus tuyên bố với Io, con gái của Inachus, bị
Thần Zeus hành hạ - một vài tác giả Thiên Chúa giáo
đă dựng nên được cả một điều
tiên tri. Titan bị thập tự giá h́nh, bảo rằng :
Và điều xấu không thể
tin được, các cây sồi biết nói
Bằng lời lẽ minh
bạch chẳng có ǵ là bí hiểm,
Được hoan hô là vị phu nhân chói lọi của
thần Zeus
413
…………………………..
(853)
………………
vỗ lên người
Chỉ bằng cái chạm nhẹ của một
bàn tay không có ǵ đáng ngại;
Thế rồi, người
sẽ sinh ra trong Epaphos đen
tối, tên nó
Ghi lại sự sinh sản
thiêng liêng của ḿnh……..(870).
Điều này
được nhiều kẻ cuồng tín – Des Mousseaux và De
Mirville v.v… - xây dựng thành ra một điều tiên tri rơ
rệt. Chúng ta được cho biết rằng “Epaphos
đen tối” chính là Đức Christ. Nhưng Đức
Christ không hề hạ bệ Cha ḿnh, trừ phi xét về
mặt ẩn dụ; nếu chúng ta phải xem Jehovah là
bậc Từ Phụ đó; và Đức Christ cứu nhân
độ thế cũng không hề ném Cha ḿnh xuống Âm
phủ (Hades). Thế nhưng (trong câu thơ 930) Prometheus
bảo rằng Zeus sẽ bị hạ nhục :
……….cuộc hôn
nhân mà Ngài sửa soạn như thế
Sẽ ném Ngài
từ một ngai vàng quyền lực xuống hư vô
Thế là lời
nguyền rủa của Cha Ngài (Kronos) sẽ hoàn thành
trọn vẹn….
……. Thế th́ cứ
để cho Ngài ngự
Chễm chệ
tự tin trong những tiếng sấm rền vang cao vút,
Và dùng cả hai
tay vận dụng tia chớp lóe lửa;
Đó là v́ những thứ này sẽ không
thắng được, song Ngài sẽ sa sút,
Một sự
sa sút thất sủng không thể trường
tồn….. (980)
“Epaphos đen tối” chính là
Dionysus-Sabasius, con trai của
Zeus và Demeter trong các Bí pháp Sabasia, trong đó “Cha của
chư Thiên”, đang khoác lấy h́nh dạng một Con Rắn, đă sinh ra Demeter
Dionysus, túc Tửu Thần Thái Dương (Solar Bacchus). Io là
Mặt Trăng, đồng thời là Eve của một giống dân mới, trong
trường hợp hiện nay th́ Demeter cũng vậy.
Thần thoại về Prometheus đúng là một
điều tiên tri, nhưng nó không liên hệ tới bất
kỳ Đấng Cứu Thế tuần hoàn nào đă
xuất hiện một cách định kỳ nơi
nhiều xứ khác nhau và trong nhiều quốc gia đang
ở trong t́nh trạng tiến hóa chuyển tiếp. Nó nêu
rơ bí nhiệm cuối cùng về những sự tiến hóa
tuần hoàn, sau khi đă chuyển từ trạng thái
vật chất tinh anh, sang trạng thái vật chất thô đặc,
từ sự sinh sản thiêng liêng sang sự sinh sản sinh
lư, trong hàng loạt các cuộc tiến hóa đó, con
người được mang lên ṿng cung đối
nghịch của chu kỳ, hướng về giai
đoạn thứ nh́ của trạng thái nguyên thủy, khi
người phụ nữ không
có biết tới đàn ông nữa, và hậu duệ nhân
loại được sáng
tạo, chứ không phải là được sản sinh ra.
T́nh trạng đó sẽ
trở về với nó và thế giới nói chung, khi
thế giới sẽ khám phá ra và thực sự đánh giá
được các chân lư đang ẩn tàng dưới
vấn đề tính giống lớn lao này. Nó sẽ
chẳng khác nào “ánh sáng chẳng bao giờ ở trên
biển cả hay đất liền”, và phải
đến với con người, xuyên qua Hội Theosophy.
Ánh sáng đó sẽ đưa tới trực giác tinh thần chân chính. Thế rồi,
một bức thư gửi cho một nhà Minh Triết
Thiêng Liêng đă diễn đạt như sau :
Thế
giới sẽ có một giống dân gồm các Đức
Phật và Đức Christ, v́ thế giới sẽ khám phá
ra rằng các cá nhân có quyền năng sinh sản ra
những người con giống như Phật – tức là
những Con Quỷ (Demons)…
Khi kiến thức này xuất hiện, mọi tôn giáo có óc
giáo điều, cùng với các Con Quỷ này, sẽ bị
diệt vong.
414
Nếu chúng
ta suy gẫm về sự triển khai liên tiếp của
ẩn dụ, và tính chất của các bậc anh hùng, th́
chúng ta có thể giải được bí nhiệm này.
Dĩ nhiên, Kronos là “Thời gian” tiến triển tuần
hoàn. Ngài nuốt chửng các người con của ngài,
kể cả các vị thần nhân
h́nh trong các giáo điều ngoại môn. Thay v́ Zeus, Ngài
đă nuốt chửng h́nh tượng bằng đá
của y, nhưng biểu tượng đă tăng
trưởng và chỉ phát triển trong óc tưởng
tượng của con người, khi nhân loại đă
tuần hoàn đi xuống, chỉ hướng về
sự hoàn thiện thể chất và trí tuệ - chứ
không phải là về tinh thần. Khi nhân loại đă
tiến khá xa về mặt tinh thần, Kronos sẽ không c̣n
bị lừa phỉnh nữa. Thay v́ h́nh tượng
bằng đá, Ngài sẽ nuốt chửng chính sự
bịa đặt thần nhân đồng h́nh; đó là v́
Con Rắn Minh Triết, đă được tŕnh bày là Thiên
Đạo nhân h́nh (anthropomorphized Logos) trong các Bí pháp Sabasia
(tức là sự thống nhất của các quyền
năng tinh thần và vật chất) sẽ sinh ra trong
Thời gian (Kronos) một người con – Dionysus-Bacchus,
tức “Epaphos đen tối”, “Đấng dũng mănh”,
Giống dân sẽ lật đổ Ngài. Y sẽ sinh ra
ở đâu? Trong cơi tiên tri của ḿnh, Prometheus đă truy
nguyên cùng với sinh quán tới tận Io. Io là Nữ
Nguyệt Thần sinh hóa, v́ nàng chính là Isis, Eve, Đại
Mẫu (Great Mother).([955])
Y theo bước những cuộc phiêu bạt (chủng
tộc) này một cách rành mạch. Bà phải rời Châu Âu
và đi đến Châu Á, ở đó bà lên tới
đỉnh cao nhất của rặng núi Caucasus (câu thơ
737). Titan bảo bà :
Khi
bà đă vượt qua trận lụt, biên giới giữa
Hai lục địa
đối diện với phương Đông bừng cháy
…(810)
rằng
bà phải đi về hướng Đông, sau khi đă
vượt qua eo biển “Kim-merian Bosphorus” và băng qua cái
hiển nhiên là sông Volga và nay là thành phố Astrakhăn trên
Bờ biển Caspian. Sau đó, bà sẽ gặp những
“cơn gió Bắc dữ dội” và băng qua đó tới
vùng của “đạo quân d’ Arimaspi (phía Đông Scythia
của Herodotus) tới –
Trận lụt đầy dẫy
vàng của Pluto…
(825).
Giáo sư Newman đă
phỏng đoán đúng rằng điều này có nghĩa là
Núi Ural, Airmaspi của Herodotus là “dân cư được
thừa nhận của vùng Hoàng Kim này”.
415
Và ở đây (giữa
câu thơ 825 và 835) có một điều làm cho các nhà
thuyết minh Tây phương phải đau đầu.
Titan bảo rằng:
Đừng
đến gần Arimaspi và Grypes;
Sau đó
ngươi sẽ tới một vùng biên dịa xa xăm,
chỗ trú
của một
giống dân da ngăm đen
Gần các
suối nước của Mặt Trời, cội
nguồn của ḍng
sông Aethiop;
Ngươi
sẽ đi dọc theo bờ sông này cho tới khi
đạt đến
Các thác
nước hùng vĩ, nơi mà từ đỉnh
Bybline,
Các ngụm
nước thiêng thuần khiết Neilos đổ
xuống.
Io được lệnh
thành lập một vùng định cư cho chính ḿnh và các
con ở đó. Nay chúng ta phải xem đoạn này
được thuyết minh như thế nào. Người
ta sẽ bảo Io rằng bà phải đi về
hướng Đông cho đến khi bà đi tới sông
Ethiops, mà bà phải đi theo cho tới lúc nó đổ vào
sông Nile – v́ thế bà mới băn khoăn. Tác giả
của bản văn “Prometheus bị Trói buộc” cho
biết rằng:
Theo các thuyết
địa lư của người Hy Lạp sơ khai
nhất, th́ ḍng Ấn hà (sông Indus) đă hoàn thành
được t́nh huống này. Arrian (vi,1) cho rằng khi chuẩn
bị xuôi buồm xuống Ấn hà [khi đă thấy
những con sấu ở Ấn hà và chẳng ở con sông
nào khác ngoại trừ sông Nile…], Đại Đế
Alexander dường như đă đích thân t́m ra cội
nguồn của sông Nile; như thế là sông Nile, vốn
phát nguyên từ một nơi nào đó ở Ấn
Độ và chảy qua nhiều vùng sa mạc, nên đă
mất danh hiệu Ấn hà, kế đó… lại chảy
qua vùng đất có dân cư, nay được gọi là
sông Nile bởi những người Ethiopia ở vùng ấy
và sau đó, bởi những người Ai Cập. Virgil vào
thời George đệ tứ cũng phát biểu
điều sai lầm cổ hủ đó.([956])
Cả Alexander lẫn
Virgil có thể đă phạm phải sai lầm nghiêm
trọng về các ư niệm địa lư của ḿnh; tuy
nhiên, lời tiên tri của Prometheus không hề phạm
lỗi như thế một chút nào – ít nhất là xét theo
tinh thần nội môn. Khi người ta tŕnh bày
tượng trưng một Giống dân nào đó và dùng
ẩn dụ tŕnh bày các biến cố lịch sử
của nó, th́ chúng ta không nên mong đợi có một sự
chính xác trắc địa nào được vạch ra cho
sự nhân cách hóa nó, thế nhưng nó lại diễn ra cho
con sông Ethiops nhất định là Indus (Ấn hà), và nó
cũng là sông Nĩl hay Nĩlă. Đó là ḍng sông phát nguyên
từ ngọn núi trên Cơi Trời Kailăsa, Trú sở của
chư Thiên, cao hơn mực nước biển 22 000 feet.
Đó là ḍng sông Ethiops trước thời Đại
Đế Alexander, người Hy Lạp cũng gọi nó
như vậy, v́ hai bên bờ sông, từ Attock tới
tận Sind, đều là chỗ trú của các bộ
lạc thường được gọi là những
người Đông Ethiopia. Ấn Độ và Ai Cập là
hai quốc gia thân thuộc và hy vọng là bộ Nữ
Thần Isis Lộ Diện ([957])
đă chứng tỏ được rơ ràng những
người Đông Ethiopia – những nhà kiến tạo
dũng mănh – phát nguyên từ Ấn Độ.
416
Thế th́ tại sao
Alexander, thậm chí cả nhà thông thái Virgil nữa, lại
không dùng từ ngữ Nile hay Neilos khi nhắc đến
Ấn hà v́ đó là một trong các tên gọi của nó ? Cho
tới nay, ở những vùng quanh Kalabagh, Ấn hà vẫn
được gọi là Nĩl, “xanh”, và Nĩ lă, “sông xanh”.
Nước ở đó có một màu xanh đậm
khiến cho từ xưa, người ta đă gọi nó
bằng danh xưng này; một thị trấn nhỏ ở
trên bờ sông cũng được gọi như vậy,
và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Hiển nhiên
là Arrian – ông này đă viết sách sau thời Alexander nhiều,
và chẳng biết ǵ về tên gọi cũ của Ấn
hà – đă vô t́nh vu khống nhà chinh phục người Hy
Lạp. Các sử gia hiện đại của chúng ta
cũng chẳng phán đoán sáng suốt ǵ hơn, v́ họ
thường đưa ra những tuyên bố bao quát
nhất về toàn những h́nh thức bên ngoài, chẳng
khác ǵ các đồng nghiệp của họ thời xưa,
khi chưa có sẵn các bộ Bách Khoa Tự Điển.
Thế th́ giống dân Io,
“trinh nữ sừng ḅ” chỉ là giống dân tiên phong Aethipia
được mang từ Ấn hà tới sông Nile, nó đă
được mệnh danh như vậy để kỷ
niệm con sông gốc của những kẻ thực dân
xuất phát từ Ấn Độ. ([958])
Do đó Prometheus mới bảo Io rằng ([959])
Neilos linh thiêng – vị thần chứ không phải là con sông
– sẽ dẫn dắt bà tới “vùng đất có ba sừng”, nghĩa là tới
vùng Châu thổ, nơi mà trời đă định
trước rằng các con bà sẽ t́m thấy “thuộc
địa xa xăm đó”. (câu thơ 833 và tiếp theo).
Một giống dân mới (người Ai Cập) sẽ bắt đầu ở đó, và một “giống dân nữ tính” (873), vốn là “cháu năm đời” của Epaphos đen tối –
Năm mươi người
sẽ quay về thành Argos.
Thế rồi, một trong năm mươi trinh nữ này sẽ rào rạt xuân t́nh và –
……….một giống dân vương
giả ở Argos sẽ ra đời.
…………..
Nhưng từ những
mầm mống này, những vị anh hùng
dũng cảm sẽ sinh
ra;
Những tay thiện xạ
trứ danh, họ sẽ giải thoát tôi tránh
khỏi bệnh tật này.
Titan không chịu tiết
lộ rằng bao giờ th́ các vị anh hùng này sẽ
xuất lộ, v́ Ngài đă nhận xét rằng :
Muốn tŕnh bày tỉ mỉ
điều này th́ phải nói rất dài.
Nhưng “Argos” chính là
Arghyavarsha, Xứ dâng rượu lễ của các
Đạo Trưởng thời xưa, nơi xuất phát
ra Đấng cứu nhân độ thế, đó là một
danh xưng mà thời đại sau này sẽ biến thành
tên gọi của lân quốc Ấn Độ - Aryăvarta
của cổ nhân.
417
Nhiều tác giả
thời xưa chẳng hạn như Cicero ([960])
và Clemens Alexandrinus ([961])
v.v…. đă tiết lộ việc đề tài này là một
phần của Bí pháp Sabasia. Các tác giả nêu trên là những
người duy nhất đă nêu rơ được nguyên nhân
đúng thực của sự kiện Aeschyus bị
người dân thành Athens kết tội là báng bổ và
bị xử tội bằng cách ném đá cho đến
chết. Họ bảo rằng vốn chưa
được điểm đạo, Aeschylus đă làm
bại hoại các Bí pháp bằng cách phơi bày chúng trong các
vở kịch ba hồi trên một sân khấu công cộng.
([962])
Nhưng nếu được điểm đạo th́
ông vẫn cứ bị kết tội như vậy; ông
ắt phải được điểm đạo,
bằng không th́, giống như Socrates, ông cũng
được một Thần linh tiết lộ cho ông
biết điều bí nhiệm và tấn tuồng ẩn
dụ thiêng liêng của Điểm đạo. Dù sao đi
nữa, vị “cha đẻ của bi kịch Hy Lạp”
đâu có bịa ra điều tiên tri của Prometheus, v́ ông
chỉ lặp lại dưới dạng kịch nghệ
những ǵ mà các lễ sư tiết lộ trong các Bí pháp
Sabasia. ([963])
Các bí pháp Sabasia là một trong các đại lễ thiêng liêng
xưa nhất mà cho đến nay, lịch sử vẫn
c̣n chưa biết được gốc tích. Xuyên qua Mithras
(Mặt Trời được mệnh danh là Sabasius trên
một vài đền đài cổ), các nhà thần thoại
học liên kết nó với Thần Jupiter và Bacchus. Tuy nhiên,
nó chưa bao giờ thuộc quyền sở hữu của
người Hy Lạp mà đă có từ vô thủy.
Dịch giả vở
kịch thắc mắc không biết v́ sao mà Aeschylus lại
có thể phạm lỗi về
sự sai
biệt như thế giữa tính cách của Zeus như
được mô tả trong tác phẩm “Prometheus bị Trói
buộc” và tính cách được mô tả trong các vở
kịch c̣n lại.([964])
418
Điều
này thật là đúng v́ cũng như Shakespeare, Aeschylus
đă và măi măi vẫn sẽ là con “Nhân sư” trí thức
của mọi thời đại. Giữa Zeus, Đấng
Thánh Linh Trừu Tượng của tư tưởng Hy
Lạp và thần Zeus trên Núi Olympus có một cách biệt (abyss).
Trong các Bí pháp, thần Zeus trên Núi Olympus không tiêu biểu cho
điều ǵ khác hơn là một nguyên khí thấp của
trí tuệ hồng trần của con người (human
physical intelligence) – Manas cấu kết với Kăma (cảm
dục). C̣n Prometheus – Thượng Trí thiêng liêng hợp
nhất với và phấn đấu hướng về
Tuệ giác – chính là Linh Hồn thiêng liêng. Bất cứ khi
nào tỏ ra xiêu ḷng chiều theo dục vọng thấp hèn,
th́ Zeus chỉ là Nhân Hồn không hơn không kém – vị
Thần ghen tuông, thù hận
và độc ác, đầy Ngă mạn. V́ thế, Zeus
được tượng trưng bằng một Con
Rắn – trí khôn cám dỗ con người – thế nhưng
theo đà tiến hóa tuần hoàn, nó lại sinh ra “Con
Người Cứu Thế” (“Man-Saviour”), Tửu Thần
Thái Dương tức Dionysus – hơn
hẳn một con người.
Dionysus đồng nhất với Osiris,
với Krishna, với Đức Phật, Đấng Minh
Triết thiêng liêng vinh diệu, Ngài sẽ thử thách
Chrestos đau khổ - nhân loại, hay Prometheus. Theo các
huyền thoại của Bà La Môn giáo và Phật giáo,
được lặp lại trong giáo lư của Bái Hỏa
giáo và nay trong giáo lư Cơ Đốc (chỉ đôi khi thôi),
th́ điều này sẽ diễn ra vào lúc kết thúc Chu
kỳ Mạt pháp. Chỉ khi nào Bạch Mă kỵ sĩ hóa
thân hay Soshios đă giáng lâm rồi th́ người ta mới
sinh ra từ người phụ nữ mà không có tội
lỗi. Đến lúc bấy giờ th́ Brah mă, vị
Thần Ấn Độ, Ahura Mazda (Ormazd), Thần của
Bái Hỏa giáo, Zeus, Tên sở khanh của các Thần Hy
Lạp, Jehovah, vị Thần bộc lộ ghen tương
tội lỗi, độc ác của dân Do Thái, và tất
cả những thứ tương tự như vậy
trong các Thần vũ trụ của óc tưởng
tượng con người, mới tan thành mây khói. Và
cũng biến theo các Thần này sẽ là các h́nh bóng
của họ, các khía cạnh hắc ám của tất
cả những vị Thần này bao giờ cũng
được tŕnh bày là “anh em song sinh” và tạo vật
của họ, trong huyền thoại ngoại môn – theo
Nội môn Bí giáo th́ đó chính là phản
ánh trên Trần Thế của chính họ. Các Ahrimans và
Typhon, các Samaels và Satans đều phải bị hạ
bệ vào thời đó, khi mọi dục vọng hắc
ám gian tà bị khắc phục.
Trong Vũ Trụ có
một Luật Vĩnh Cửu, nó luôn luôn có khuynh
hướng điều chỉnh những điều
đối nghịch và tạo ra sự hài ḥa tối hậu.
Chính nhờ Định Luật phát triển tinh thần này
thay thế cho Định Luật phát triển thể
chất và thuần túy trí thức nên nhân loại mới
được giải thoát khỏi các vị Thần trá
ngụy và rốt cuộc tự cứu lấy ḿnh.
Trong điều tiết
lộ tối hậu thần thoại cổ xưa về
Prometheus, chúng ta thấy nguyên kiểu (prototypes) và
đối kiểu (antitypes) của Ngài trong mọi khoa
thần phổ học cổ truyền – chính là nguồn
gốc của điều ác trên trần thế, v́ là
nền tảng của đời sống vật chất
của con người. Kronos là “Thời gian”, định
luật thứ nhất của nó phát biểu rằng trong
diễn tŕnh tiến hóa phát triển tuần hoàn, tŕnh
tự của các giai đoạn hài ḥa lần lượt
phải được tuân thủ nghiêm ngặt – nếu có
sự phát triển bất thường th́ hậu quả
sẽ là sự trừng phạt khắt khe. Theo
chương tŕnh phát triển tự nhiên, con người –
dù rằng y có thể là động vật cao cấp –
chẳng thể nào tức khắc trở thành vị bán
thần (demi-god) trên Trần Thế, xét về mặt trí
tuệ, tinh thần và tâm linh, trong khi thể xác của y
vẫn yếu ớt, bơ vơ và phù du hơn thể xác
của hầu như bất kỳ con vật hữu
nhũ khổng lồ nào. Sự tương phản này
thật là quá lố bịch và dữ dội, cái đền
thờ thật chẳng xứng đáng chút nào với vị
Thần ngự bên trong nó. Như thế, tặng phẩm
của Prometheus đă biến thành một sự Đọa
đày, mặc dù được biết
trước và thấy
trước bởi Tập đoàn thiên giới hiện
thân nơi nhân vật đó, như tên Ngài đă chứng
tỏ rơ rệt vậy. ([965])
Tội lỗi và sự cứu chuộc nó ở chính nơi
điều này, một cách duy nhất và đồng
thời. Đó là v́ mặc dù bị Nghiệp Quả thu hút
đến với nhân loại, các Tập
419
đoàn
đă đầu thai nơi một phần nhân loại
vẫn thích tự do ư chí hơn là nô lệ, thụ
động, vẫn thích sự đau khổ trí thức
hữu ngă thức, thậm chí sự đau khổ quằn
quại đời đời kiếp kiếp, hơn là
sự toàn phúc ngu xuẩn trống rỗng theo bản
năng. Mặc dù biết rằng một sự đầu
thai như thế là quá sớm và không có trong chương
tŕnh của Thiên Nhiên, song Tập đoàn Thiên giới,
“Prometheus”, vẫn cam chịu hy sinh để nhờ đó
ít ra cũng giúp ích được cho một phần nhân
loại.([966])
Nhưng trong khi cứu cho con người thoát khỏi
sự u mê về trí tuệ, họ lại bắt y phải
gánh chịu thêm những sự khổ sở của ngă
thức về trách nhiệm – kết quả của sự
tự do ư chí của y – ngoài mọi đau khổ mà con
người hữu hoại bằng xương bằng
thịt phải cam chịu. Prometheus chấp nhận sự
khổ đó cho riêng ḿnh, v́ từ đó trở đi,
đạo quân Thiên giới đă trở nên ḥa hợp
với thánh điện được dành sẵn cho
họ, nó vẫn c̣n chưa được hoàn thành vào
thời kỳ tạo lập đó.
420
V́ sự
tiến hóa tinh thần không thể theo kịp sự
tiến hóa vật chất một khi mà tính thuần
nhất của nó đă bị xáo trộn do sự pha
trộn, nên tặng phẩm ấy đă biến thành nguyên
nhân chính yếu, nếu không phải là nguồn gốc duy
nhất của Điều ác. ([967])
Một ẩn dụ có ư nghĩa triết học thâm sâu
tŕnh bày Kronos nguyền rủa Zeus v́ đă hạ bệ ḿnh,
trong Thời đại Hoàng Kim nguyên sơ của Saturn, khi
mọi người đều là bán thần, và v́ đă
tạo ra một giống người có thể chất
tương đối yếu ớt, thiếu năng
lực, thế rồi lại để cho Zeus trả thù
phạm nhân, y đă cưỡng đoạt đặc
quyền sáng tạo của các Thần và do đó đă nâng
cao con người lên ngang tầm trí tuệ và tinh thần
ḿnh. Trong những trường hợp Prometheus, Zeus
tượng trưng cho các Tập đoàn Thủy Tổ,
các vị PITRIS, các vị “Tổ Phụ”
đă tạo ra con người vô tri vô giác; c̣n các Titan
lại tượng trưng cho các Đấng Sáng Tạo
Thiêng Liêng, các Thiên Thần
“sa vào” ṿng sinh hóa. Các vị Pitris thấp kém hơn về
mặt tinh thần, nhưng lại mạnh mẽ hơn
về mặt thể chất khi so sánh với “Tập
đoàn Prometheus”; do đó, người ta mới tŕnh bày
Tập đoàn Prometheus bị chinh phục. “Tập đoàn
hạ đẳng, Titan đă chiếm đoạt công lao
của họ, và như thế là đă đánh bại các
kế hoạch của Zeus” ở trên Địa Cầu
trong phạm vi hành động của riêng ḿnh; c̣n Tập
đoàn thượng đẳng bị đày từ trên
Trời xuống đă bị vướng vào lưới
Vật Chất. Tập đoàn hạ đẳng làm
chủ được mọi Thần lực Vũ Trụ
của chư Hạ đẳng; vị Titan thượng
đẳng chỉ có Lửa Trí Tuệ và Tinh Thần. Chúng
ta thấy tấn tuồng Prometheus đấu tranh quyết
liệt với vị bạo chúa ở Núi Olympus, Zeus dâm ô,
diễn ra hằng ngày trong nhân loại hiện tại; các
dục vọng thấp hèn xiềng xích các hoài băo cao
thượng vào tảng đá Vật Chất, trong
nhiều trường hợp, để tạo ra con kên kên
sầu muộn, đau khổ và ân hận. Trong mọi
trường hợp, một lần nữa chúng ta thấy
Một vị thần … bị
xiềng xích thống khổ chất chồng;
Kẻ thù của Zeus oán
hận tất cả
một
vị Thần bị tước đoạt mất cả
sự an ủi tối thượng của Prometheus, Ngài
đă đau khổ, hy sinh
Cho cái mà Ngài [Ta] vẫn mang
nặng tâm tư tŕu mến
đối với nhân loại
đó
là v́ Titan kích động v́ ḷng vị tha, c̣n trong mọi
trường hợp cá biệt th́ thế nhân cũng bị
ḷng ích kỷ thôi thúc.
Prometheus ngày nay đă biến
thành Epi-metheus, “kẻ chỉ thấy sau khi sự việc
đă xảy ra”, v́ ḷng bác ái của Prometheus đă thoái hóa
thành sự ích kỷ và tự sùng bái ḿnh từ lâu rồi.
Con người sẽ lại trở thành vị Titan tự do thời xưa
nhưng không thể trước khi sự tiến hóa
tuần hoàn đă tái lập được sự hài ḥa
bị phá vỡ giữa hai bản chất thiêng liêng và
trần tục. Sau đó, y trở nên không thể bị các
Lực Titan thấp kém thấu nhập, có Phàm Ngă bất
khả thương tổn và Chơn Ngă bất tử;
nhưng điều này không thể diễn ra trước
khi mọi yếu tố thú dục đều bị
loại ra khỏi bản chất của y. Khi con
người hiểu rằng “Thượng Đế không
tạo ra sự chết” mà chính con người đă
tạo ra nó, th́ y sẽ lại trở thành Prometheus
trước khi bị Sa đọa.
Muốn biết toàn bộ biểu tượng kư về Prometheus và nguồn gốc của huyền thoại này ở Hy Lạp, xin độc giả hăy xem Phần 2 của Quyển 4, Tiết 6, nhan đề “Prometheus, vị Titan”, v.v… Trong phần nêu trên – một loại phụ lục của phần này – người ta tŕnh bày mọi kiến thức bổ sung về các giáo điều vốn sẽ bị tranh căi và đặt nghi vấn nhiều nhất. Khi được đối chiếu với các tiêu chuẩn đă được công nhận của thần học và khoa học hiện đại, tác phẩm này có tính cách phi chính thống, đến nỗi mà không một bằng chứng nào có khuynh hướng chứng tỏ rằng các tiêu chuẩn này thường tiếm đoạt một thẩm quyền bất hợp pháp mà chúng ta nên lờ đi.
421
PHỤ CHÚ VỀ LỜI B̀NH LUẬN CỦA
ĐOẠN KINH 12
Bản nguyên văn bút tự
mà từ đó những lời phụ chú này
được trích ra, thuộc về “Tài liệu của
Ba mươi lăm vị Phật chứng công đức
Sám hối” (“Buddhas of Confession”), một danh hiệu của ngoại giáo công truyền.
Những vị này tuy được Phật giáo Bắc
Tông gọi là Phật, nhưng cũng có thể gọi là
các đấng Hóa Thân hay Tiên Thánh (Rishis) v.v… v́ chỉ có
Phật giáo Đại Thừa gọi như vậy mà thôi
và xem các vị ấy như “những vị Phật đă
xuất hiện trước Đức Thích Ca”. Những
Đấng Cao Cả đó dù là Thánh (Mahătmă) hay Phật
đều là những bậc Hiền Triết của lịch sử đối
với nhà Huyền môn, họ vốn tin nơi một
cấp đẳng các bậc hiền giả, mà sự
thật đă được minh chứng cho họ bởi
các bậc đại giác trong cộng đồng Tiên Thánh.
Các vị ấy được chọn trong số chín
mươi bảy vị Phật của nhóm đầu tiên
và năm mươi ba vị của một nhóm khác, ([968])
phần nhiều là các nhân vật tưởng tượng,
nhưng thật sự là những quyền năng
được nhân cách hóa của các vị Phật
thuộc nhóm đầu tiên. ([969])
Những tài liệu cổ viết trên lá cọ này
được giữ ǵn rất bí mật. Mỗi tập
bút tự đều có kèm theo một toát yếu lịch
sử của phụ chủng mà mỗi vị Phật có
sứ mạng giáo dục và hướng dẫn. Tập tài
liệu đặc biệt mà lời phụ chú này
được trích ra và diễn dịch ra thành ngôn ngữ
thông thường, dễ hiểu đă được chép
lại từ các tấm bia đá cổ thuộc sở hữu
của một vị Phật từ thuở sơ khai
của Giống dân thứ Năm, vị này đă chứng
kiến cơn Đại hồng thủy và việc
nhận ch́m những lục địa chính của
Giống dân Atlantis. Một ngày không xa lắm trong
tương lai, phần lớn, nếu không phải là
tất cả những ǵ được nêu ra đây từ
các bản tài liệu cổ sẽ được nh́n
nhận là chính xác. Khi đó, các nhà biểu tượng
học hiện đại sẽ biết chắc rằng
Odin hay là Thần Woden, Vị Thần cao cả nhất trong
thần thoại Đức và Bắc Âu, là một trong ba
mươi lăm vị Phật nói trên. Đó cũng là
một trong các vị Phật có trước nhất, v́
miền lục địa mà Ngài và Giống dân của Ngài
sống trên đó cũng là một trong những lục
địa cổ nhất. Thật vậy, lục
địa ấy cổ đến nỗi ở các vùng
băng giá ngày nay, thời đó lại có khí hậu
nhiệt đới, người ta có thể đi bộ
trên đất liền từ Na Uy qua Iceland và Greenland
đến thẳng miền bao quanh vịnh Hudson. ([970])
Cũng như trong thời kỳ của giống
người Khổng
422
lồ Atlantis,
các con của “những người Khổng lồ
đến từ phương Đông”, một kẻ
lữ hành có thể đi từ miền Sa mạc Sahara,
đến những vùng mà ngày nay đang ngủ yên
dưới đáy biển Vịnh Mexico và Biển Caribbean.
Những biến cố này không hề được
viết ra ngoài kư ức con người, nhưng
được truyền khẩu một cách nghiêm trọng
như một tín điều tôn giáo từ thế hệ này
sang thế hệ khác, từ giống dân này qua giống dân
khác. Những biến cố lịch sử đó
được giữ kín trong kư ức và trí năo con
người qua vô số thời gian, một cách trung
thực và chính xác hơn là bằng cách truyền lại qua
đời sau tài liệu hay văn kiện viết bằng
tay. Triết gia Thackeray nói: “Điều ǵ thuộc Linh
Hồn là trường cửu”, vậy th́ có ǵ gần với Linh Hồn chúng
ta hơn vào lúc b́nh minh của các kiếp sống của
ḿnh ? Những kiếp sống ấy nhiều vô số,
nhưng Linh Hồn hay Chơn Ngă điều khiển chúng
trải qua vô số kiếp sống ấy là một, bây
giờ cũng như bao giờ. Tuy Kư ức trí năo có thể quên mất đi những
ǵ xảy ra trong ṿng một đời người ở
thế gian, nhưng tập thể các kư ức của
dĩ văng không bao giờ có thể tách rời khỏi Linh
Hồn Thiêng Liêng bên trong chúng ta. Những tiếng th́
thầm của nó đối với chúng ta có thể quá lu
mờ, âm thanh của nó có thể ở quá xa ngoài tầm
mức thu nhận của giác quan chúng ta, nhưng h́nh bóng
của những sự việc xảy ra trong quá khứ cũng như
những biến cố sẽ xảy ra trong tương lai vốn
thuộc về quyền năng tiếp nhận của Linh
Hồn, và luôn luôn hiện diện trước nhăn quan siêu
linh của nó.
Có lẽ chính tiếng nói
của Linh Hồn này đă bảo với những
người vốn tin vào truyền thuyết hơn sử
sách rằng những ǵ tŕnh bày trước đây là hoàn toàn
đúng sự thật, và có liên quan với các sự
kiện thời tiền sử.
Một đoạn cổ
thư viết :
NHỮNG VỊ VUA ÁNH SÁNG ĐĂ BỎ ĐI TRONG CƠN GIẬN DỮ. TỘI LỖI CỦA CON NGƯỜI ĐĂ TRỞ NÊN HẮC ÁM ĐẾN NỖI TRÁI ĐẤT RUNG CHUYỂN TRONG CƠN HẤP HỐI … CÁC GHẾ XANH BỊ BỎ TRỐNG. CÓ AI TRONG NHỮNG NGƯỜI DA NÂU, DA ĐỎ HAY THẬM CHÍ NHỮNG GIỐNG DA ĐEN, CÓ THỂ NGỒI YÊN TRÊN GHẾ CỦA CÁC ĐẤNG ÂN HUỆ THIÊNG LIÊNG TRÊN NGAI CỦA MINH TRIẾT VÀ TỪ BI. AI CÓ THỂ ĐẢM ĐƯƠNG CÁI HOA QUYỀN LỰC, CÁI CÂY BẰNG VÀNG VÀ HOA MÀU XANH DA TRỜI ?
Những vị “Vua
của Ánh sáng” là danh hiệu dùng trong các cổ thư
để chỉ các vị Thánh Vương của
Triều đại Thiêng liêng. Danh từ “Ghế xanh”(“Azure
Seats”) có vài tài liệu dịch là “Ngôi Trời” (“Celestial
Thrones”). “Hoa Quyền Lực” (“Flower of Power”) là Hoa sen ngày nay,
c̣n thời đó nó như thế nào th́ không ai biết
được ?
423
Cũng như Jeremiah sau
này, tác giả cứ việc than thở cho số phận
của dân tộc ḿnh. Họ đă bị mất vua “Cơi
Trời” (các Thánh Vương) và những người da màu
vàng lợt, những người da màu mặt trăng, da
màu vàng ánh đă tản đi qua vùng “Phúc Địa, Hỏa
Địa và Kim Địa” (nói theo ngôn ngữ Biểu
tượng, tức là quanh những vùng đất ở
phía Bắc và Đông là những nơi mà “Nước
lụt đă bị quét sạch, hoặc thấm vào Ḷng
đất, hoặc bốc lên thành hơi và tan biến trong
không khí”. Những giống người khôn ngoan đă
nhận thức được “những con Hắc long gây
băo lụt do các Rồng Minh Triết kêu gọi xuống” và
– “đă chạy trốn do sự chỉ đường
của các Đấng Bảo Vệ miền Phúc
Địa” – đó là các Tiên Thánh cổ mà người
Ấn Độ gọi là các Đức Bàn Cổ và
Chơn Sư. Một trong các vị ấy là Bàn Cổ
Vaivasvata.
Những người “da màu lợt” là tổ tiên của giống người mà khoa nhân chủng học ngày nay phân loại và sắp vào hàng các Giống dân Turanian, Mông Cổ, Trung Hoa và các quốc gia cổ khác; và vùng phúc địa mà họ di tản qua đó, không đâu khác hơn là Trung bộ Á Châu. Vùng này là nơi sinh trưởng của các chủng tộc mới, họ sống tại đó cho đến thời kỳ phân chia quốc gia. Những sự phân cách này đă hông diễn ra ở những địa điểm mà khoa học hiện đại qui định cho nó, cũng không phân chia và ngăn cách dân Ăryan mà Giáo sư Muller và các nhà Nhật nhĩ man học (Ăryanists) khác đă tŕnh bày. Gần hai phần ba của một triệu năm đă trôi qua kể từ khi đó cho đến nay. Những giống người khổng lồ da vàng của thời kỳ sau cơn tai biến Atlantis, nhờ sống tập trung vào một phần đất riêng biệt của thế giới và với ḍng máu thuần khiết, không có lẫn lộn với các giống dân khác trong một thời gian gần 700 000 năm, đă có rộng răi th́ giờ để phát triển thêm nhiều chi chủng đa diện, phức tạp và khác nhau. Phi Châu cũng ở trong một t́nh trạng tương tự. Không có một vùng nào có nhiều giống người thuộc nhiều loại khác nhau một cách lạ lùng hơn ở Phi Châu. Từ các giống người da đen xạm đến màu gần giống như trắng bạch, từ các giống người tầm vóc cao lớn, đến những giống người lùn thấp, nhỏ bé mà nguyên nhân chỉ là t́nh trạng cô lập cưỡng bách của họ. Người Phi Châu không hề rời khỏi lục địa của họ trong thời gian nhiều trăm ngàn năm. Nếu mai sau, lục địa Châu Âu sẽ phải biến mất th́ những vùng đất khác lại trồi lên, và nếu các bộ lạc của thổ dân Phi Châu phải tách rời nhau và phân hóa rải rác khắp nơi trên mặt đất th́ trong khoảng 100 000 năm sau chính họ sẽ hợp thành trọng tâm của các quốc gia văn minh thế giới tương lai. Chừng đó, hậu duệ của các giống người ở các nước văn minh nhất của thế giới hiện nay, có thể sống sót trên một ḥn đảo nào đó và không phương tiện để vượt các vùng biển mới sẽ thoái hóa trở lại và rơi vào trạng thái tương đối dă man. Như thế, lư do mà người ta đưa ra để phân chia nhân loại thành những dân tộc thanh cao và thấp kém thật là vô lư và trở nên một điều huyền hoặc dị đoan.
424
Đó là các
sự kiện được nêu ra trong các Cổ Thư.
Góp nhặt và so sánh chúng với một số lư thuyết
tiến hóa hiện đại, trừ
ra thuyết Chọn lọc Tự nhiên,([971])
người ta thấy rằng lư thuyết đó có vẻ
hoàn toàn hợp lư. Như thế, trong khi Giống dân Ăryan là
hậu duệ của giống dân da vàng Ban sơ, th́ giống dân khổng lồ và
văn minh ở mức độ cao hỗn hợp hai ḍng
máu của Atlantis và Ăryan, dân Semites – gồm cả Do Thái – là
hậu duệ của dân da
đỏ Ban sơ. Thế là, cả hai luồng dư
luận, của nhà nhân chủng học De Quatrefages và
chương Sáng Thế Kư của Moses có thể đem so
sánh với những phổ hệ t́m thấy trong Cổ
thơ Huyền môn, th́ người ta sẽ nhận thấy
thời kỳ từ ông Adam đến Noah có
được đề cập trong đó dĩ nhiên
dưới các tên gọi khác nhau. Các năm của các
vị Tộc trưởng ám chỉ những chu kỳ
thời gian, tất cả đều được tŕnh
bày dưới h́nh thức biểu tượng và ngôn
ngữ bóng bẩy ẩn dụ. Trong tập Cổ Thư
nói trên, có nhiều chỗ đề cập đến
tầm kiến thức sâu xa và nền văn minh xán lạn
của các quốc gia Atlantis, diễn tả chính thể và
chế độ xă hội của nhiều nước cùng
với tính chất của các mỹ thuật và khoa học
của họ. Nếu Giống dân thứ Ba, giống
Lemuria-Atlantis đă bị hủy diệt cùng “với các
nền văn minh cao và các vị ‘thần’ của họ” ([972])
th́ Giống dân Atlantis lại c̣n sa đọa gấp
bội, cơn thiên tai giáng xuống cho họ lại càng
khủng khiếp và rùng rợn hơn nữa !
Chính Giống dân thứ
Tư mà nhóm người đầu tiên của chủng
tộc Ăryan được truyền thụ các kiến
thức khoa học, nghệ thuật tân kỳ, [của]
Sabhă và Mayasabhă,([973])
mà tác phẩm Mahăbhărata có nhắc đến báu vật do
Mayasura ([974]) tặng cho Pandavas. Chẳng
hạn như thuật du hành trên không gian bằng những
khí cụ hàng không, Vimăna Vidyă, khoa học khí tượng v.v…
cũng do Giống dân thứ Tư mà người Ăryan
học được những bí thuật nhiệm mầu
về các đặc tính của các đá quí, các loại
đá khác, cùng khoa luyện kim đan, khoáng chất, vật
lư và thiên văn.
Tác giả đă nhiều
khi tự hỏi: Câu chuyện di cư tập thể
(Exodus) tường thuật trong kinh Cựu Ước có
nguồn gốc ở đâu? Hoặc cũng như câu
chuyện của Moses và nhiều chuyện khác nữa, nó chỉ
là một ngụ ngôn ẩn dụ cơn thiên tai của
Atlantis? Sau khi nghe thuật lại chuyện này, có ai là
người không thấy sự tương hợp lạ
kỳ giữa hai biến cố nói trên, cơn thịnh
nộ của “Thượng Đế” và sự ngoan cố
của vua Pharaoh, lệnh truyền của Ngài cho những người
“được chọn” trước khi ra đi phải
lấy hết “tư trang bằng bạc và bằng vàng”
của người Ai Cập, ([975])
và sau cùng, người Ai Cập và Vua Pharaoh (tiếng Pháp:
Pharaon) của họ bị ch́m đắm trong Hồng
Hải. Đây là một đoạn trong Thiên b́nh luận:
Và
“vị Thánh Vương có Gương Mặt Sáng chói” chúa
tể của những người Mặt Vàng (Yellow-faced)
lấy làm buồn rầu khi thấy tội lỗi của
những người Mặt Đen (Black-faced).
Ngài
bèn gửi đi những phi thuyền (air-vehicles) [Vimănas] cho
tất cả vương hầu của các nước lân
cận với những người đức hạnh
tốt bên trong và nói:
Hăy
chuẩn bị sẵn sàng. Những người tốt
lành và thánh thiện, hăy đứng dậy và ra đi trong khi
đất c̣n khô ráo.
425
“Các vị Thần dông tố sắp
đến. Những cỗ xe thần đang đến
gần xứ này. Phù thủy và Bàng môn tả đạo
chỉ c̣n sống trên đất này có một đêm và hai
ngày nữa thôi. Đất này đă đến ngày tận
diệt và họ phải chịu chung số phận.
Thổ Địa và Hỏa Tinh ở Âm ty đang chuẩn
bị khí giới phù phép. Nhưng các Lănh tụ Tả
đạo có pháp thuật cao hơn, các Tinh Linh này sẽ là
nô lệ cho họ. Họ rất tinh thông về pháp
thuật phù thủy thượng thừa. Chư vị hăy
chuẩn bị quyền phép để đối chọi
với bọn chúng. Vị Mặt Sáng (Tiên Thánh bên Chánh
đạo) hăy ra tay tịch thu chiếc phi thuyền (Vimăna)
của mọi Giáo chủ Mặt Đen, kẻo họ có
thể dùng nó để thoát khỏi cơn nước lụt
hầu tránh sự trừng phạt của Bốn vị
Nghiệp Quả Tinh Quân (kărmic Deities) và cứu thoát bọn
đàn em tội lỗi của họ.
“Mỗi
vị Mặt Vàng hăy thôi miên một tên Mặt Đen
để tránh cho chúng khỏi bị đau đớn
khổ sở. Mỗi vị trung thành với vị Thái
Dương Thần hăy làm tê liệt một người
của phái Âm Thần (Lunar God), kẻo nó trốn thoát.
“Và
mọi người Mặt Vàng hăy hiến máu cho con thú biết
nói của mọi tên Mặt Đen, kẻo nó đánh
thức chủ nó. ([976])
“Thời
giờ đă điểm, đêm rùng rợn hắc ám
sắp xảy đến.
………..……….……….……….……….……….……….
“Hăy
để cho định mệnh của chúng
được thực hiện. Chúng ta là kẻ phụng
hành cho Bốn Nghiệp Quả Tinh Quân (four kărmic Gods).
Ước mong các vị Vua Ánh Sáng trở lại”.
Nói
xong vị Thánh Vương (great King) té úp mặt xuống
đất và khóc nức nở…
Khi
các vị Quốc vương tề tựu đông
đủ, th́ nước đă dâng lên …
[Nhưng]
lúc ấy dân các nước đă vượt qua vùng
đất khô ráo và đă được an toàn. Các Quốc
vương dùng phi thuyền đi sau đă theo kịp
họ và đưa họ tới các vùng Hỏa và Kim
địa [hướng Đông và hướng Bắc].
Trong một đoạn
khác có nói:
Các
sao xẹt [phi tinh] rơi như mưa trên đất
của người Mặt Đen; nhưng họ vẫn
ngủ mê.
Những
con thú biết nói [những tên canh giữ tả đạo]
vẫn im lặng.
426
Các Tinh Linh âm thần chờ lệnh,
nhưng lệnh không thấy đến, v́ chủ của
họ c̣n ngủ.
Mực
nước đă dâng lên, tràn ngập tất cả vùng thung
lũng. Nhưng cao nguyên c̣n khô ráo là nơi di trú của
những người đă trốn thoát tai nạn;
những người Mặt Vàng và những người
nh́n thẳng [người thật thà trung hậu].
Khi
những vị Chúa Tể Mặt Đen thức dậy và
t́m phi thuyền định bay đi để tránh
nước lụt, th́ phi thuyền đă biến mất.
Kế đó, một
đoạn khác diễn tả một vài Phù thủy pháp
thuật cao cường của phái Mặt Đen tỉnh
dậy sớm hơn những kẻ khác, đuổi theo
những người đă thôi miên họ và đang đi
ở hậu đội, v́- “những dân tộc di tản
dày đặc như tinh tú trong dăy ngân hà”, theo Lời b́nh
luận viết bằng Bắc Phạn ngữ.
Giống
như một con rồng từ từ chuyển ḿnh uốn
khúc, những đàn người di tản dưới
sự hướng dẫn của các Con của Minh
Triết liền nới rộng hàng ngũ và phân tán ra
như một ḍng suối chảy… nhiều kẻ nhát
sợ đă chết ở dọc đường. Nhưng
phần lớn đă được cứu thoát.
Tuy vậy, những
kẻ đuổi theo, “đầu và ngực c̣n nhô lên
khỏi mặt nước”, đă rượt theo những
người di tản suốt đêm cho đến khi
mặt nước dâng cao khỏi đầu, họ đă
chết ch́m cho đến người cuối cùng,
nước lụt cuốn đi tất cả những
kẻ thực hành tả đạo đă làm ô uế
mặt đất.
Chuyện này có vẻ
giống như bản tài liệu chính gốc của câu
chuyện di tản tương tự là Exodus
được cấu kết vài trăm ngàn năm sau
đó. Tiểu sử của Moses (tiếng Pháp: Moise)
gồm những câu chuyện lúc sơ sinh, tuổi thơ
ấu và chuyện ông được một vài vị công
chúa triều vua Pharaoh cứu thoát khỏi cơn
nước lụt của sông Nile, nay được
chứng tỏ như là đă rập theo câu chuyện
về Sargon của xứ Chaldea. Nếu quả đúng
như thế và viên ngói Assyria ở Bảo Tàng Viện British
Museum là bằng chứng cụ thể th́ tại sao câu
chuyện người Do Thái lấy cắp đồ tư
trang của người Ai Cập và Vua Pharaoh cùng với
quân đội Ai Cập bị chết đuối v.v…
lại không thể rập theo chuyện thiên tai ngập
lụt của Châu Atlantis? Những tay Tả đạo bàng
môn pháp thuật cao cường, những “Giáo chủ
Mặt Đen” của các Ruta và Daitya, có thể trở thành
các thuật sĩ Ai Cập trong câu chuyện Exodus sau này, và
những dân tộc mặt vàng của Giống dân thứ
Năm được diễn tả dưới danh
hiệu là những con có đức hạnh của Jacob,
“dân tộc được tuyển chọn”! Cần nói thêm
một việc nữa: “Có nhiều Triều đại
Thiêng liêng, một loạt triều đại cho các
Giống dân, bắt đầu từ Giống dân thứ
Ba, mỗi loại này tùy theo tŕnh độ và thích ứng
với Nhân loại của thời ấy. Bảy Triều
đại sau cùng được đề cập
đến trong các sử liệu Ai Cập và Chaldea
thuộc về Giống dân thứ Năm, Giống dân này
tuy gọi là Ăryan, song không hẳn như thế, v́ nó càng
ngày càng bị trộn với những chủng tộc khác
mà khoa nhân chủng học đặt cho những tên gọi
khác. V́ những trang sách này có giới hạn, nên không
thể nói nhiều hơn về giống người Atlantis
mà toàn cơi phương Đông đều tin chắc rằng
có thật, cũng như người Tây
427
phương tin nơi
sự thật của người cổ Ai Cập,
nhưng đa số khoa học gia Tây phương lại
phủ nhận sự tồn tại của nó, chẳng khác
nào trước đó họ đă phủ nhận nhiều
chân lư, từ sự tồn tại của Homer, măi cho
tới sự tồn tại của con bồ câu đưa
thư. Văn minh của thời Atlantis c̣n cao hơn văn
minh Ai Cập. Chính những hậu duệ đă suy
đồi của người Atlantis, của quốc gia
Atlantis mà Plato đă đề cập đến, là
những người đă xây dựng nên Kim tự tháp
đầu tiên ở Ai Cập, trước khi người
Ai Cập bắt đầu lập quốc tại xứ
này. Điều này có thể truy nguyên từ lời tuyên
bố của Ammianus Marcellinus, ông nói rằng:
Trong Kim tự tháp có những
đường hầm bí mật và những gian pḥng kín
ẩn khuất sao các hành lang ngoằn ngoèo như mê cung, do
các thuật sĩ huyền môn thời cổ, có bí thuật
tiên tri, biết trước cơn Đại hồng
thủy sắp đến, xây cất ở nhiều nơi
để giữ ǵn cho những nghi thức và pháp môn
tế tự thiêng liêng của họ khỏi bị mất
đi trong kư ức loài người.
Những vị tiên tri
ấy không phải là người Ai Cập, v́ xứ này
không hề bị nạn hồng thủy, trừ ra
những thời kỳ nước sông Nile dâng lên cao.
Vậy họ là ai? Nếu không phải là hậu duệ
cuối cùng c̣n sót lại của giống dân Atlantis ? Khoa
học cũng hơi ngờ vực về những
giống dân này, khi nghĩ đến điều đó, ông
Charles Gould, nhà địa chất học trứ danh đă
cho rằng:
Liệu chúng ta có
thể giả sử rằng ḿnh đă biết hết
được bảo tàng viện vĩ đại của
thiên nhiên chăng? Thật ra, liệu chúng ta đă từng
thâm nhập vào quá các tiền pḥng (antechambers) của nó
chưa? Liệu sử sách của con người, vốn
chỉ bao hàm gồm vài ngàn năm, có bao trùm được
toàn bộ tiến tŕnh tồn tại trí tuệ của y
chăng? Trong các kỷ nguyên thần thoại dài dằng
dặc, trải dài hàng trăm ngàn năm, được
ghi lại trong các niên đại kư Chaldea và Trung Hoa, phải
chăng chúng ta có được các tập kỷ yếu
mơ hồ về con người thời tiền sử,
được truyền thuyết lưu truyền lại,
và có lẽ đă được một vài người c̣n
sống sót, chuyển từ các xứ đang tồn
tại sang các xứ khác. Cũng như Châu Atlantis hoang
đường (?) của Plato, các xứ này có thể
đă bị đắm ch́m, hoặc đă chứng kiến
một đại thảm họa nào đó hủy diệt
chúng cùng toàn bộ nền văn minh. ([977])
Sau đó, chúng ta có thể
quay sang, một cách tin tưởng hơn, các lời
của Chơn Sư, Ngài đă viết nó ra nhiều năm
trước khi ông Gould viết ra những lời lẽ nêu
trên:
Giống
dân thứ Tư đă có nhiều thời kỳ văn minh
cao tột. Các nền văn minh Hy Lạp, La Mă và Ai Cập
nữa, chẳng có nghĩa lư ǵ so với nền văn minh
đă khai sinh ra Giống dân thứ Ba [sau khi nó bị phân
cách]. ([978])
Nhưng nếu
người ta không chịu nh́n nhận rằng nền
văn minh cùng với sự tinh thông khoa học và nghệ
thuật này tùy thuộc vào các Giống dân thứ Ba và
thứ Tư, th́ không ai có thể chối căi được
rằng giữa các nền văn minh lớn thời
xưa, như các nền văn minh của Ai Cập và
Ấn Độ, đă có những thời kỳ hắc
ám, vô minh và dă man, suốt từ lúc khởi đầu
kỷ nguyên T.C. măi cho tới nền văn minh hiện
đại của chúng ta, trong thời kỳ đó, mọi
truyền thuyết đều bị thất truyền.
Như có nói trong Nữ Thần Isis Lộ Diện:
428
Tại
sao chúng ta lại có thể quên mất rằng, hàng thời
đại trước khi những mũi tàu của
những nhà thám hiểm người Genoese rẽ
nước ở Tây phương, th́ những chiếc tàu
của người Phoenicia đă đi ṿng quanh thế
giới và truyền bá văn minh ở những vùng nay
vẫn c̣n im ĺm, hoang vắng? Liệu có nhà khảo cổ
học nào dám quả quyết rằng cũng bàn tay đă
thiết kế Kim tự tháp Karnak ở Ai Cập, và hàng
ngàn tàn tích nay đă bị sụp đổ tan tành trong quên
lăng trên các bờ sát của sông Nile, lại không dựng nên
khu Đế Thiên Đế Thích nguy nga ở Cambodia;
hoặc vạch các chữ tượng h́nh trên các tháp bia và
các cánh cửa của ngôi làng mọi da đỏ hoang
vắng mà Huân Tước Dufferin vừa mới t́m ra ở
British Columbia, hay các chữ tượng h́nh trên các di tích
ở Palenque và Uxmal Trung Mỹ? Phải chăng các di tích mà
chúng ta tàng trữ trong các viện bảo tàng – các kỷ
vật cuối cùng của các “nghệ thuật đă
thất truyền” từ lâu rồi – lại không mạnh
mẽ lên tiếng bênh vực nền văn minh cổ? Và
phải chăng chúng đă không chứng tỏ đi,
chứng tỏ lại rằng các quốc gia và lục
địa đă bị diệt vong chôn vùi theo ḿnh các môn khoa
học và nghệ thuật mà không một ḷ luyện
đầu tiên nào đă từng nung nấu trong một tu
viện thời Trung Cổ, không một ḷ luyện
nhiệt áp cuối cùng nào của một nhà hóa học
hiện đại đă (chứ không phải sẽ) làm
sống lại được – ít ra là trong thế kỷ
này.([979])
Bây giờ chúng ta cũng
có thể đặt ra câu hỏi mà người ta đă nêu
ra lúc bấy giờ, có thể hỏi lại một
lần nữa như sau:
Làm thế nào mà
điểm tiến bộ nhất mà chúng ta đă
đạt được trong thời đại chúng ta
cho phép chúng ta thấy được nơi khoảng xa xôi
diệu vợi khi trèo lên con đường tri thức cheo
leo – các bằng chứng đồ sộ mà các nhà thám
hiểm trước kia đă lưu lại để
đánh dấu những cao nguyên mà họ đạt tới
và chiếm được ?
Nếu các bậc thầy
thời nay đă tiến bộ hơn hẳn các bậc
thầy thời xưa, th́ tại sao họ không phục hồi
được cho chúng ta các môn nghệ thuật thất
truyền của các vị tổ phụ thời sau
Hồng thủy ? Tại sao họ lại không tŕnh bày
với chúng ta các màu sắc không phai lạt của Luxor – màu
tím Tyria, màu son tươi thắm, màu xanh dương chói
lọi đang trang hoàng cho những bức tường
của nơi này và vẫn rực rỡ như thời
chúng được áp dụng lần đầu tiên;
lớp xi măng bất hoại của các Kim tự tháp và
các cống dẫn nước thời xưa. Thanh
gươm Damascus, nó có thể được xoay trong bao
kiếm giống như cái mở nút chai mà không bị găy,
những màu sắc ḷe loẹt vô song của tấm kính màu
mà chúng ta thấy ở giữa đồng cát bụi
của các di tích xa xưa và các xà ngang ở các cửa
sổ của những nhà thờ chính thời xưa, và bí
quyết của thủy tinh dẻo thực sự? Và
nếu hóa học vẫn c̣n không thể đua tranh
được bao nhiêu với ngay cả một vài nghệ
thuật thời Trung Cổ sơ khai, th́ tại sao cách
đây hàng ngàn năm, rất có thể là người ta
đă thừa biết sự khoe khoang của các thành tích
ấy? Khảo cổ học và ngôn ngữ học càng
tiến bộ th́ hàng ngày, người ta càng khám phá ra nhiều
điều làm thương tổn ḷng kiêu ngạo của
chúng ta, và chúng càng đưa ra những chứng cớ vinh
danh cho những kẻ mà, có lẽ v́ nguồn gốc quá xa
xưa nên cho đến nay vẫn c̣n bị xem là kẻ ngu
muội vẫn c̣n chới với trong các vũng bùn lầy
mê tín hắc ám nhất.([980])
Ngoài các môn khoa học và
nghệ thuật khác, Cổ nhân c̣n có các môn thiên văn
học và biểu tượng kư – với vai tṛ di sản
của những người Atlantis – chúng bao gồm các
kiến thức về Hoàng Đạo.
Như đă giải thích,
người xưa đều tin một cách có lư rằng
nhân loại và các giống dân đều có liên quan mật
thiết với các Hành Tinh, và các Hành Tinh lại có liên
hệ với các cung Hoàng Đạo. Toàn thể lịch
sử thế giới được ghi lại nơi các
cung Hoàng Đạo. Trong các đền thờ cổ Ai
Cập, có một kiểu mẫu của Hoàng Đạo
Dendera, nhưng ngoại trừ trong một tác phẩm
Ả Rập của một đạo sĩ Sũfĩ,
tác giả chưa bao giờ gặp một bản sao chính
xác của các tài liệu kỳ diệu này về lịch
sử quá khứ cũng như tương
lai, của Địa
Cầu. Thế nhưng, các tài liệu nguyên thủy vẫn
c̣n tồn tại một cách hầu như là không thể
chối căi được.
429
V́ người Âu Châu
không biết các Hoàng Đạo thực sự của
Ấn Độ, và cho dù có may mắn biết đến
chúng th́ họ cũng không thể hiểu nổi, theo chứng
nhận của Bentley, nên tác giả khuyên độc giả
nào muốn kiểm chứng lại phát biểu này, hăy quay sang
tác phẩm của Denon, [981]
trong đó người ta t́m thấy hai ṿng Hoàng Đạo
nổi tiếng của Ai Cập. V́ đă tận mắt
thấy chúng, nên tác giả chẳng cần tin tưởng
vào những ǵ mà các môn sinh khác – đă từng xem xét và nghiên
cứu cả hai một cách kỹ lưỡng – phải
tŕnh bày về chúng. Mackey, kẻ đă nêu rơ rằng các
Cực được biểu diễn trên các Hoàng
Đạo ở cả hai vị trí, đă bổ chứng
cho lời khẳng định của các Lễ Sư Ai
Cập đă bảo Herodotus rằng Địa Cực và
Hoàng Đạo xưa kia đă trùng nhau.
Ở nơi chỉ các
Cực [trục cực] thẳng góc với nhau, có các
dấu hiệu chứng tỏ rằng đây không phải
là lần cuối cùng chúng ở vị trí đó, mà là lần đầu tiên [-sau khi các ṿng Hoàng
Đạo đă được vạch ra]. Cung Nam
Dương (Capricorn) được biểu diễn ở
Bắc Cực; c̣n cung Bắc Giải (Cancer)
được chia ra ở gần giữa, tại Nam
Cực; đó là một điều khẳng định
rằng thoạt tiên, chúng đă có mùa đông khi Mặt
Trời ở cung Bắc Giải. Nhưng Cung Mănh Sư (Lion)
và cung Xử Nữ (Virgin) ([982])
chính là đặc tính chính của việc đó là một
đền đài lần đầu tiên kỷ niệm
rằng Cực đă ở vị trí ấy.
Nếu tính rộng ra, th́ các
nhà Ai Cập học tin rằng các Kim tự tháp lớn
được xây cất vào khoảng 3 350 năm
trước T.C. ([983])
và Vua Menes với Triều đại của ông đă có
lối 750 năm trước khi Triều đại
thứ Tư xuất hiện (người ta giả sử là các Kim tự
tháp đă được xây dựng trong thời kỳ
này). Như vậy, thời đại của Menes
được phỏng định là từ 4 100 năm
trước T. C. Mặt khác, Sir J. Garder Wilkinson cho biết
là tất cả các sự kiện đều đưa
đến kết luận rằng người Ai Cập –
Đă thực
hiện một sự tiến bộ rất lớn trong các
ngành nghệ thuật, văn minh trước
thời đại của vua Menes, và có lẽ trước
thời kỳ đến định cư trong vùng thung
lũng sông Nile –([984])
lời
tuyên bố ấy gợi ư như là một sự bác bỏ
hoàn toàn giả thuyết trên. Nó cho thấy có một nền
văn minh lớn trong những thời
tiền sử và một
tính cách cổ xưa hơn nữa. Giống người
Schesoo-Hor, “tôi tớ của Horus”, là dân tộc đă
định cư ở Ai Cập và như nhà khảo
cổ Maspero đă xác nhận “giống người
tiền sử” có –
Vinh dự
tạo thành Ai Cập, theo như chúng ta biết, từ khi
thời hữu sử bắt đầu.
Staniland Wake c̣n nói thêm
rằng :
Giống
người thời tiền sử này đă từng
tạo dựng nên các thành phố chính ở Ai Cập và
thiết lập nên những đền đài quan trọng
nhất. ([985])
Đó là trước thời kỳ xây dựng nên ngọn
Đại Kim tự tháp và khi xứ Ai Cập chỉ
mới vừa trồi lên khỏi mặt nước
biển. Tuy nhiên:
Họ đă có
một lối viết chữ bí mật đặc biệt
của người Ai Cập và đă phải có một
nền văn minh rất cao.
430
Ông Lenormant có nói:
Đó là xứ
của những đền đài tiền sử vĩ
đại, của các trung tâm tôn giáo cổ thời, đă
từng đóng vai tṛ quan trọng trong nền văn minh
nhân loại.
Vậy dân tộc cổ
ấy sống vào thời đại nào? Có chỗ nói
rằng họ có 4 000 năm lịch sử, nhiều
lắm là 5 000 năm trước T.C. (Maspero). Ngày nay,
người ta c̣n cho rằng chính bằng cách sử
dụng chu kỳ 25 868 năm (một Năm Thiên Thể:
Sidereal Year) mà người ta mới có thể tính toán chính
xác được năm xây dựng nên ngọn Đại
Kim tự tháp.
Hăy giả thuyết rằng
con đường dốc hẹp và dài đưa xuống
dưới hầm hướng về sao Bắc
Đẩu của các nhà xây cất Kim tự tháp, các nhà thiên
văn đă chỉ ra rằng sao Alpha Draconis, tức sao
Bắc Đẩu thời kỳ đó, nằm đúng
vị trí của nó 3 350 năm trước T. C. và năm
2170 trước T.C. nhà thiên văn học Richard A. Proctor
đă cho rằng: một trong hai vị trí này ắt
tương ứng với vị trí đi xuống nơi
Đại Kim tự tháp; nhưng các nhà Ai Cập học
bảo chúng ta rằng tuyệt nhiên không thể nghi ngờ
là thời kỳ sau cập nhật hơn nhiều.([986])
Nhưng chúng ta cũng
được biết rằng :
V́ vị trí
tương quan của Alpha Draconis và Alcyone là một vị
trí bất thường, nên nó không thể tái diễn
trở lại trong suốt thời gian của một
Năm Thiên Thể, tức là 25 868 năm. ([987])
Điều này
chứng tỏ rằng v́ ṿng Hoàng Đạo Dendera chỉ
sự vận hành của ba Năm Thiên Thể nên
Đại Kim tự tháp hẳn phải được
dựng nên vào khoảng 78 000 năm nay. Dù sao đi nữa,
giả thuyết này phải đáng được chấp
nhận dễ dàng cũng như giả thuyết 3 350
năm trước T.C.
Mặt khác, trong
ṿng Hoàng Đạo của một ngôi đền ở
tận miền Bắc Ấn Độ, cũng như trên
ṿng Hoàng Đạo Dendera, người ta cũng nhận thấy
bấy nhiêu đặc điểm của các dấu
hiệu tương tự. Người nào biết rơ các
biểu tượng và các cḥm sao của khoa thiên văn
Ấn Độ, có thể nhận định bằng cách
so sánh đối chiếu với hệ thống Ai Cập
rằng các dữ kiện thời gian ghi trên các ṿng Hoàng
đạo ấy có đúng hay không. Trên Hoàng Đạo
Dendera mà các Cao đồ Hy Lạp và Ai Cập Coptic đă
bảo tồn được và được Mackey
giải thích hơi khác một
chút, cḥm sao Mănh Sư đứng trên cḥm sao Giao Long (Hydra)
với cái đuôi hầu như là thẳng băng, chỉ
xuống dưới theo một góc bốn mươi
độ hay năm mươi độ, vị trí này phù
hợp với h́nh thể nguyên thủy của các cḥm sao
này. Nhưng Mackey nói thêm:
Ở nhiều chỗ chúng ta
thấy sao Mănh Sư [Simha] có đuôi bẻ quặt về
phía lưng, tận cùng bằng một đầu Rắn;
điều này chứng tỏ rằng sao Mănh Sư đă
bị đảo ngược : thật ra đó phải là
t́nh trạng của toàn thể Hoàng Đạo và mọi
cḥm sao khác, khi cực bị đảo ngược.
Khi nhắc đến Hoàng
Đạo tṛn (circular Zodiac)
mà Denon cũng đă tŕnh bày, ông cho rằng :
431
Ở
đó… Mănh Sư (Leon) đứng trên Serpent, đuôi cụp xuống; do đó, chúng ta
thấy rằng mặc dù sáu hay bảy trăm ngàn năm
ắt đă phải trôi qua giữa các vị trí này, song
chúng vẫn chẳng làm cho các cḥm sao Mănh Sư và Giao Long khác
nhau bao nhiêu. C̣n Xử Nữ lại được biểu
diễn khác hẳn cả hai, trên Hoàng Đạo tṛn,
Xử Nữ đang cho con bú.
Nhưng dường như là họ không nghĩ như
vậy khi Cực thoạt tiên ở trong mặt phẳng
Hoàng Đạo. Đó là v́ trong
Hoàng Đạo do Denon tŕnh
bày, chúng ta thấy ba Xử Nữ ở giữa Mănh Sư
và Thiên Xứng (Scales); Xử Nữ cuối cùng này cầm
trên tay một bông lúa. Có một điều thật đáng
tiếc là trong ṿng Hoàng đạo này có một sự sai
lệch về số liệu ở phần cuối của
cung Mănh Sư và phần đầu của cung Xử Nữ
(Virgo), điều này khiến cho mỗi cung bị
thiếu mất đi một phần ba cung.([988])
Tuy nhiên, ư nghĩa thật
là minh bạch, v́ ba ṿng Hoàng Đạo thuộc về ba
thời kỳ khác nhau, nghĩa là ba chi chủng; mỗi chi
chủng trong ba chi chủng cuối cùng của phụ
chủng thứ tư của Giống dân thứ Năm
hẳn đă sống 25 000 đến 30 000 năm. Chi
chủng đầu tiên, Ăryan-Á Châu (“Ăryan-Asiatics”) đă
chứng kiến tận mắt sự diệt vong của
đợt cuối cùng của giống người Atlantis
Khổng lồ [989]
đă bị diệt vong khoảng 850 000 năm nay, khi hai ḥn
đảo Ruta Daitya bị ngập lụt vào cuối
Thời Miocence.[990]
Phụ chủng thứ tư chứng kiến sự
diệt vong của những tàn tích sau cùng của giống
dân Atlantis trên ḥn đảo Atlantis cuối cùng, khoảng 11
000 năm nay. Để hiểu vấn đề này, xin
độc giả hăy nh́n vào sơ đồ Cây Phổ
Hệ của Giống dân thứ Năm, thường
được gọi là Giống dân Ăryan và các chú giải
kèm theo.
Độc giả nên
nhớ kỹ cách phân loại các Giống dân và sự
tiến hóa của Nhân loại nêu ra trong quyển sách này, và
như đă tŕnh bày một cách rơ ràng gọn ghẽ trong
quyển Phật Giáo Bí Nhiệm của ông Sinnett.
1. Trong mỗi Chu kỳ sáng tạo một Dăy Hành Tinh có bảy cuộc Tuần Hoàn. Nhân loại ngày nay đang ở vào cuộc Tuần Hoàn thứ Tư và ở giai đoạn Giống dân thứ Năm trên Địa Cầu.
2. Mỗi Giống dân chính hay Căn chủng có bảy phụ chủng.
3. Mỗi phụ chủng lại chia làm bảy chi nhánh gọi là bảy chi chủng (“branch” or “family”races).
4. Mỗi chi chủng lại có những bộ lạc nhỏ và vô số nhánh nhóc phụ thuộc nhỏ hơn tùy nơi tác động nghiệp quả.
432
Cứ xét Cây Phổ
Hệ đính kèm theo đây là chúng ta sẽ hiểu. Cây
Phổ Hệ dưới chỉ là một sơ đồ
để giúp cho độc giả có một nhận định
khái quát về vấn đề này và tránh sự lẫn
lộn về các danh từ đă được dùng ở
những thời kỳ khác nhau về cách phân chia chủng
tộc. Để so sánh, ở đây chúng tôi cũng có
dự tính đưa ra vài con số đại cương
về các thời gian để có thể phân biệt rơ ràng
một phân chi này với một phân chi khác. Nếu
đưa ra con số chính xác cho một vài phân chi chủng
tộc, th́ điều ấy chỉ đưa đến
sự lẫn lộn tai hại, v́ các Căn chủng,
phụ chủng v.v… chí đến những nhánh nhóc nhỏ
nhất đều không có sự phân chia thời gian một
cách dứt khoát rơ rệt, mà c̣n chồng chéo lên nhau và
hỗn hợp chằng chịt lẫn nhau vô cùng phức
tạp.
CÂY PHỔ HỆ
CỦA CĂN CHỦNG THỨ NĂM
(GENEALOGICAL TREE OF
THE FIFTH ROOT RACE)
Chủng tộc loài người ví
như một cái cây và đó là một cách tượng
trưng rất hữu hiệu.
Thân cây có thể
tượng trưng cho Căn chủng (A).
Bảy cành lớn tiêu
biểu cho bảy phụ chủng (B1, B2
v.v…)
Trên mỗi cành lớn có
bảy nhánh, tiêu biểu cho các chi chủng (C).
Đến đây, chúng ta
có thể dùng thí dụ một cây xương rồng
(cactus), mỗi nhánh có nhiều gai nhọn tiêu biểu cho
những bộ lạc hay dân tộc thiểu số.
433
Giống dân thứ
Năm chúng ta đă xuất hiện vào khoảng một
triệu năm nay; như vậy, phải tính rằng
mỗi phụ chủng trong bốn phụ chủng
trước đây đă sống độ 210 000 năm, và
mỗi chi chủng sống trung b́nh độ 30 000 năm..
Căn cứ theo đó, chi chủng Châu Âu sẽ c̣n sống
trong nhiều ngàn năm nữa, tuy rằng các dân tộc
thiểu số và bộ lạc du mục được
tiêu biểu bằng vô số gai nhọn trên nhánh
xương rồng, có sự dị biệt nhiều hay ít
tùy theo mỗi thời kỳ ba hay bốn ngàn năm nối
tiếp nhau. Có điều lạ nên ghi nhận là thời
gian tương đối gần nhau giữa những
thời kỳ sinh hoạt của chi chủng và một
Năm Thiên Thể.
Sự hiểu biết
những điều kể trên và sự phân loại chính xác
các chủng tộc, gồm thành một phần của giáo
lư Huyền môn được giảng dạy cho các
Đệ tử và được truyền đạt cho
nhau giữa các vị Đạo Trưởng của
nhiều thế hệ. Mọi người đều
biết rằng các nhà thiên văn Âu Châu qui định
một cách khá độc đáo, rằng Hoàng Đạo Ai
Cập phát sinh ra vào khoảng năm 2000 hay 2400 năm
trước T.C. (theo Proctor) và nhấn mạnh rằng
sự phát minh này xảy ra đồng thời với
việc dựng nên Đại Kim tự tháp. Đối
với một nhà Huyền bí
và nhà thiên văn Đông phương th́ điều này
quả thật là hết sức vô lư. Nghe nói Chu kỳ
Mạt Pháp đă bắt đầu giữa ngày 17 và 18 tháng
2 năm 3102 trước T.C. Nay người Ấn
Độ lại khẳng định rằng vào năm
20400 trước Chu kỳ Mạt Pháp, gốc Hoàng
Đạo của họ lại trùng với điểm
Xuân phân – lúc đó Mặt Trăng và Mặt Trời giao
hội nhau. Bằng một phép tính dài ḍng và kỹ lưỡng
về thời kỳ đó, Bailly đă chứng tỏ
rằng mặc dù là giả tưởng, thời kỳ mà
họ bắt đầu từ đó để tính ra lúc
khởi đầu Chu kỳ Mạt Pháp, lại rất đúng sự thật.
Ông cho biết rằng “thời kỳ đó là năm 3102
trước T.C.”([991])
Kỳ nguyệt thực diễn ra đúng hai tuần sau khi
Chu kỳ Mạt Pháp bắt đầu, nó diễn ra ở
một điểm giữa sao Bông Lúa và sao q của cùng một cḥm sao Xử Nữ.
Một trong các chu kỳ bí truyền của họ dựa
vào một vài sự giao hội và vị trí tương
ứng của cḥm sao Xử Nữ và cḥm sao Rua (Krittikă). Do
đó, người Ấn Độ kế thừa Hoàng
Đạo của Nam Ấn và Lankă (Tích Lan), nên ư nghĩa bí
truyền hiển nhiên là đồng nhất với nhau.
Đối với cả hai dân tộc này th́ “ba Xử
Nữ”, tức cḥm sao Xử Nữ ở ba vị trí khác
nhau đều có nghĩa là tài liệu ghi lại trên ba
“Triều đại Thiêng liêng hay Triều đại Thiên
văn” đầu tiên đă giáo huấn Căn chủng
thứ Ba. Sau khi đă phó mặc dân Atlantis cho số
phận đă tái lai, hoặc đúng hơn là tái giáng lâm
trong thời phân chủng thứ ba của Căn chủng
thứ Năm, để tiết lộ cho nhân loại
được cứu rỗi các bí nhiệm của sinh quán
họ - các Cơi Trời. Tài liệu biểu tượng
cũng đă được t́m thấy về các Giống
người và ba Triều đại (các Thần, các Manes –
các vong linh bán thiêng liêng của Giống dân thứ Ba và
thứ Tư – và các Anh hùng thuộc Giống dân thứ
Năm) đă xuất hiện trước các vị vua
thuần túy nhân loại nơi sự phân bố các hàng
lối và các lối đi của mê lộ Ai Cập. V́ ba
lần đảo ngược (inversions) các Cực tất
nhiên đă biến cải Hoàng Đạo, nên mỗi
lần đổi cực là người ta phải xây
dựng một Hoàng Đạo mới. Trong tác phẩm
Sphinxiad ([992])
của Mackey, các suy lư của tác giả táo bạo ấy
ắt đă làm khiếp sợ dân chính thống ở
Norwich, v́ ông đă phát biểu một cách khá ly kỳ
rằng:
434
Nhưng
dù sao đi nữa, thời gian dài nhất mà các công tŕnh này
[Mê lộ, Kim tự tháp và các Hoàng Đạo] ghi lại
cũng không quá năm triệu năm, ([993])
như vậy là vẫn c̣n thiếu so với các tài liệu
bí truyền mà cả Trung Hoa lẫn Ấn Độ
đều tŕnh bày với chúng ta. Ấn Độ đă ghi
lại một sự hiểu biết về thời gian
trong tám triệu năm,([994])
nó được t́m thấy trên một Lá bùa bằng sứ.([995])
Cũng như người
Ấn Độ hiện đại, các lễ sư Ai
Cập đă kế thừa các Hoàng Đạo của nhà
thiên văn Atlantis Asura Maya. Như đă nêu rơ trong Phật
Giáo Bí Nhiệm, người Ai Cập cũng như
người Hy Lạp và người “La Mă” cách đây vài
ngàn năm, đều là “tàn dư của giống dân Atlantis-Ărya”-
người Ai Cập là tàn dư của Giống dân Atlantis
xưa hơn ở đảo Ruta, hậu duệ cuối
cùng của đảo đó, các Điểm Đạo
đồ của Ai Cập đă kể cho Solon câu
chuyện sự biến mất đột ngột của
đảo này. Triều đại nhân loại của những người cổ Ai
Cập, bắt đầu với Menes, đều
được thừa hưởng toàn bộ kiến thức của
người Atlantis, mặc dù trong huyết quản họ,
không có ḍng máu Atlantis nữa. Tuy nhiên, họ đă bảo
tồn được toàn bộ tài liệu cổ sơ
của ḿnh. Tất cả điều này đă
được tŕnh bày cách nay đă lâu rồi. ([996])
Và chính v́ Hoàng Đạo Ai
Cập đă được từ 75 000 đến 80 000
tuổi nên Hoàng Đạo của người Hy Lạp c̣n
mới hơn. Volney đă nêu ra một cách chính xác rằng
nó chỉ mới được 16 984 năm hoặc 17 082
năm tính đến nay. ([997])
KẾT
LUẬN
Chúng tôi không có đủ
chỗ để nói nhiều hơn nữa, và phần này
của Giáo Lư Bí Nhiệm phải được kết
thúc. Bốn mươi chín ĐOẠN KINH và vài
đoạn Giảng lư đă được tŕnh bày, là
tất cả những ǵ có thể được công
bố trong Tác phẩm này. Các điều này, cùng với
một vài tài liệu c̣n xưa hơn nữa – mà chẳng
ai, ngoại trừ các Điểm đạo đồ cao
cấp nhất, sử dụng được – và vô số
lời b́nh giải, tạo thành bản tổng quan về
sự khởi thủy của Con Người.
Cho đến nay, chúng tôi
đă trích dẫn các Giảng lư này và cố gắng
giải thích ư nghĩa ẩn tàng của một vài ẩn
dụ, thế là tŕnh bày được các quan điểm
chân chính của Nội môn Bí giáo cổ truyền về
địa chất học, nhân loại học và ngay cả
dân tộc học nữa. Trong Quyển 4 Phần 3 tiếp
theo đây, chúng tôi sẽ ra sức lập nên một quan
hệ siêu h́nh c̣n chặt chẽ hơn nữa giữa các
Giống dân đầu tiên và các Đấng Sáng Tạo ra
chúng. Các Con Người Thiêng Liêng xuất phát từ các Cơi
khác. Kèm theo những phát biểu được đề ra
là những chứng minh quan trọng nhất cũng về
điều ấy theo Thiên văn học Bí truyền và
Biểu tượng kư. ([998])
Những thời kỳ
chia cách Giống dân thứ Tư và Giống dân thứ
Năm trong không gian và thời gian trong giai đoạn
bắt đầu lịch sử ([999])
hay huyền thoại của giống dân sau này, thật quá
lớn lao, không thể đưa ra những tài liệu có
đầy đủ chi tiết. Trong những Thời
kỳ sau Đại hồng thủy, với những
thời kỳ được ghi dấu bởi những
cơn thiên tai khủng khiếp nhất, có rất nhiều
chủng tộc loài người đă sinh ra và biến
mất hầu như không để lại dấu vết,
cho nên không ai có thể đưa ra một tài liệu nào có
giá trị đáng kể về các sự kiện ấy. Các
Chơn Sư Minh Triết có chăng một lịch sử
đầy đủ và liên tục của nhân loại
từ giai đoạn sơ khai cho tới thời buổi
ngày nay. Các Ngài có chăng những sử liệu rành rẽ
không gián đoạn về con người kể từ khi
y trở nên một con người có thể chất
đầy đủ và trở nên chúa tể của muôn loài
trên mặt đất. Đó là điều mà tác giả
không thể công khai tuyên bố. Nhưng trên phương
diện cá nhân, tác giả tin rằng các Ngài chắc là có
nắm giữ các tài liệu đó. Nhưng nếu quả
có như vậy, th́ các kiến thức ấy chỉ dành
riêng cho các bậc đă có những tŕnh độ Điểm
đạo cao nhất và các vị này không tiết lộ bí
mật cho các đệ tử. Bởi vậy, tác giả
chỉ có thể đưa ra những ǵ được truyền
dạy mà thôi. Nhưng dù cho bấy nhiêu đó, đối
với các độc giả ngoài đời cũng có
vẻ như là một chuyện quái đản, dị
kỳ như là trong giấc mơ hơn là một
chuyện thật có thể xảy ra.
Điều này cũng
tự nhiên thôi, v́ trong nhiều năm nay, chính kẻ hèn này
viết ra những trang sách này vẫn bị ấn
tượng như vậy. Vốn sinh trưởng ở
các xứ thật sự và giả sử là văn minh ở
Âu Châu, bà cũng đă lĩnh hội được
những điều nêu trên một cách cực kỳ khó
khăn. Nhưng về lâu về dài, vẫn có những
bằng chứng với một tính cách nào đó sẽ
trở nên không thể bác bỏ hoặc chối căi
đối với kẻ có óc vô tư và thành khẩn. Trong
biết bao năm nay, người ta đă tŕnh bày với
tác giả như vậy và nay bà tin rằng quả
đất hiện nay và các giống người của nó
ắt đă phải sinh ra lớn lên và phát triển như
thế đó, chứ không thể khác đi được.
436
Nhưng đó chỉ là
quan điểm riêng của tác giả, và tác giả không
thể mong rằng giáo điều chính thống của ḿnh
sẽ quan trọng hơn bất kỳ giáo lư nào khác, khi xét
theo quan điểm của các kẻ vẫn xem các thuyết
mới mẻ là phi chính thống, cho đến khi nào
người ta đă minh chứng được khác đi.
Do đó, liệu nhà Huyền bí có hoàn toàn sẵn sàng trả
lời những câu hỏi sau đây chăng: Làm thế nào
mà chúng ta biết rằng tác giả không chế ra toàn
bộ hệ thống đó ? Và giả sử tác giả
không chế ra th́ làm thế nào người ta có thể
bảo rằng tất cả những điều nêu trên,
đă được tŕnh bày trong các ĐOẠN KINH, không
phải là sản phẩm của trí tưởng
tượng của cổ nhân ? Làm thế nào mà họ có
thể bảo tồn được các tài liệu có
một nguồn gốc tối cổ như thế ?
Thật khó ḷng mà
thuyết phục được những kẻ nghi
ngờ khi trả lời rằng lịch sử của
thế giới này từ đầu chí cuối
được “ghi trong các v́ sao”, nghĩa là được
ghi trong Hoàng Đạo và Biểu tượng kư Vũ
Trụ mà chỉ các Điểm đạo đồ
mới có ch́a khóa giải nó. Người ta vẫn hết sức
nghi ngờ về nguồn gốc xa xưa của Hoàng
Đạo ở Ai Cập, c̣n
nguồn gốc xa xưa của Hoàng Đạo Ấn
Độ, lại bị phủ nhận thẳng thừng.
Một người bạn phàm tục có lần bảo tác
giả rằng : “Các kết luận của bạn
thật là tuyệt diệu, nhưng các tiền đề
của bạn bao giờ cũng đáng nghi ngờ”. Về điều này, tác giả xin
đáp rằng ít ra đó cũng là một điều thu
được dựa vào phép tam đoạn luận khoa
học, đó là v́ ngoại trừ một vài vấn
đề thuộc vật lư học thuần túy, cả các
tiền đề lẫn các kết luận của các nhà
khoa học đều có tính cách giả thuyết cũng
như chúng hầu như luôn luôn sai lầm. Và nếu chúng
dường như không hề như thế đối
với kẻ phàm phu, th́ lư do đơn giản như sau:
v́ thường tin vào các dữ kiện khoa học nên
kẻ phàm phu nêu trên hầu như không hề biết
rằng các tiền đề lẫn các kết luận
đều thường là sản phẩm của cùng
một bộ óc, dù thông thái, nhưng chẳng phải không
sai lầm – đây là một sự thật hiển nhiên
được chứng tỏ hằng ngày qua sự thay
đổi đi thay đổi lại của các thuyết
và các suy lư khoa học.
Dù thế nào đi nữa, các
truyền thuyết về Hoàng Đạo của các
đền thờ, cũng như là các tài liệu bằng
chữ tượng h́nh của phương Đông, theo
lối thuyết minh của các Cao đồ Bí pháp Yoga, không
hề đáng nghi ngờ hơn cái gọi là cổ sử
của các quốc gia Âu Châu nay đang được
nửa thế kỷ khám phá khảo cổ học thu
thập, diễn giải, hiệu đính và bổ sung,
cũng như là việc thuyết minh một cách đáng
ngờ vực các viên ngói Assyria, các mảnh vụn h́nh nêm và
các chữ tượng h́nh của Ai Cập. Các dữ
kiện của chúng tôi cũng dựa vào “những sự
thuyết minh” giống như vậy – ngoài ra c̣n có vô số
tác phẩm bí mật mà người Âu Châu chẳng hiểu
biết một tí ǵ – cộng thêm với việc các
Điểm đạo đồ rất tinh thông biểu tượng
kư của mọi từ ngữ được ghi lại
như thế. Một số các tài liệu này có nguồn
gốc rất xa xưa. Mọi nhà khảo cổ học và
cổ sinh vật học đều biết tới các
chữ tượng h́nh của một vài bộ lạc bán
khai, họ đă muốn diễn đạt tư
tưởng của ḿnh bằng biểu tượng từ
xưa rồi. Đây là cách thức xưa nhất
để ghi lại các biến cố và các ư tưởng.
Muốn t́m hiểu xem nhân loại đă biết làm như
thế từ bao giờ, chúng ta có thể suy ra điều
trên từ
437
các kư
hiệu (hiển nhiên là chữ tượng h́nh) trên các
chiếc ŕu thời cổ thạch khí (Palaeolithic). Mới
chỉ cách đây vài năm, nói một cách tương
đối, các bộ lạc da đỏ ở Mỹ c̣n
thỉnh cầu Tổng Thống Mỹ ban cho họ quyền
sở hữu bốn cái hồ nhỏ, bản thỉnh
nguyện này được viết trên bề mặt
nhỏ xíu của một tấm vải, nó chỉ gồm
có một tá h́nh biểu diễn chim muông cầm thú.
Những người bán khai ở Mỹ có một số
loại chữ viết khác nhau như thế, nhưng
chưa có một nhà khoa học nào của chúng ta quen
thuộc với, hoặc ngay cả biết tới thứ
mật mă tượng h́nh thời xưa vẫn c̣n
được một vài Hội đoàn bảo tồn và được
Huyền bí học gọi là tiếng Senzar. Hơn nữa,
tất cả những kẻ nào đă nhất định
xem các cách viết chữ như thế - nghĩa là chữ
tượng h́nh của thổ dân da đỏ và cả
những chữ Hán nữa – là các nỗ lực của
những giống người sơ khai để diễn
đạt tư tưởng dốt nát của ḿnh, sẽ
dứt khoát phản đối việc chúng ta tuyên bố
rằng chính người Atlantis chứ không phải
người Phoenicia đă phát minh ra lối viết đó.
Thật vậy, đứng trước những nhà ngôn
ngữ học đă tuyên bố rằng người Ấn
Độ chưa hề biết viết vào thời Pănini,
và người Hy Lạp chưa biết viết vào thời
Homer, việc tuyên bố rằng nhân loại đă biết
lối viết chữ có cách đây nhiều trăm ngàn
năm, nói chung sẽ bị phản đối, nếu
không phải là bị âm thầm khinh thị. Bất
chấp mọi sự chối bỏ và nhạo báng, các nhà
Huyền bí vẫn sẽ khăng khăng quả quyết
như vậy; lư do đơn giản là v́: từ thời
Bacon măi tới tận Hội Hoàng gia ngày nay, chúng ta đă
chứng kiến một thời kỳ dài đăng
đẳng, đầy dẫy những điều sai làm,
lố bịch nhất của khoa học, khiến chúng ta
không thể nhất quyết tin vào những điều giả
định của khoa học hiện đại, hơn là
tin vào các điều giảng dạy của các Đại
Sư. Theo các nhà khoa học của chúng ta th́ Pănini không hề
biết viết; thế mà nhà Hiền Triết này lại
đặt ra một ngữ pháp gồm có 3 996 qui tắc và
là loại ngữ pháp hoàn chỉnh nhất từ
trước đến nay ! Người phóng khoáng nhất
cũng chỉ tŕnh bày là Pănini đă sống trước
T.C. vừa đúng vài thế kỷ, thế mà những
tảng đá ở Ba Tư và Trung Á – các nhà ngôn ngữ
học và các nhà sử học cho chúng ta biết rằng
tổ tiên của Pănini, tức là những người Bà La
Môn, đă từ các vùng nêu trên xâm nhập vào Ấn
Độ - lại đầy
dẫy chữ viết, ít nhất là cũng
được hai, ba ngàn năm nay, c̣n theo một vài nhà
khảo cổ học táo bạo th́ tới mười hai
ngàn năm.
Theo Grote, vào thời Hesiod và
Homer, viết lách c̣n là một thuật
mà chẳng ai biết tới, măi đến năm 770
trước T. C. người Hy Lạp vẫn c̣n chưa
biết viết. Thế mà người Phoenicia đă phát minh
ra chữ viết và biết viết ngay từ năm 1 500
trước T.C.([1000])
lại luôn luôn chung sống với người Hy Lạp !
Tuy nhiên, tất cả các kết luận khoa học
đầy mâu thuẫn này đă tan tành ra mây khói khi Schliemann
(a) khám phá ra địa điểm của thành Troy cổ
truyền (từ lâu rồi, người ta vẫn xem
sự tồn tại thực sự của nó chỉ là
một chuyện hoang đường), và (b) khai quật
được từ địa điểm này các bát
dĩa bằng đất có khắc những chữ cái mà
các nhà Cổ sinh vật học và các nhà chuyên về ngữ
học Bắc Phạn đều
không biết ǵ. Thế th́ bây giờ ai dám phủ
nhận thành Troy hoặc các chữ khắc cổ sơ này?
Giáo sư Virchow chứng nhận như sau :
438
Chính
tôi đă chứng kiến hai cuộc khai phá như thế
và đă góp sức vào việc thu thập các di tích lại.
Những kẻ vu khống vốn đă bị im lặng
từ lâu rồi, nay lại trơ trẽn tố cáo nhà khám
phá là bịp bợm. ([1001])
Những người phụ nữ trung thực cũng không hề được dung thứ ǵ hơn những người đàn ông trung thực. Du Chaillu, Gordon Cumming, Bà Merian,([1002]) Bruce và một số người khác đều bị tố cáo là nói dối.
Trong Lời nói đầu, tác giả của Các Con quái vật Thần thoại đă cho biết về điều trên như sau :
Bà Merian bị
kết tội là cố ư giả tạo khi mô tả một
con nhện ăn thịt chim cách đây hai trăm năm.
Nhưng ngày nay… các nhà quan sát đáng tin cậy đă xác nhận
rằng điều này có diễn ra ở Nam Mỹ, Ấn
Độ v.v…
Tương tự như
vậy, các nhà thực vật học đă kết án Audubon
là đă chế ra cây súng hoa vàng (the yellow water lily), mà ông
gọi là Nymphaea lutea trong tác phẩm Các Con chim ở
phương Nam, sau khi đă kết tội ông trong nhiều
năm như thế, cuối cùng, người ta lại xác
nhận phát biểu của ông khi khám phá ra đóa hoa đă
biệt tăm từ lâu ở Florida… vào năm… 1876. ([1003])
Cũng như Audubon
bị gọi là kẻ nói dối về việc đó, và v́
con Chim ó biển Washington ([1004])
cũng vậy, Victor Hugo bị chế nhạo v́ ông đă
mô tả con cá đuối hai mơm thật là tuyệt vời,
và mô tả việc một người trở thành nạn
nhân không ai cứu vớt của nó.
Điều này đă bị
chế giễu là một con quái vật không thể có
được; thế nhưng, trong ṿng vài năm sau, trên
bờ biển Newfoundland người ta t́m được
con cá mực có ṿi dài tới ba mươi feet (9,14 m)
và có thể kéo một chiếc thuyền khá lớn ở
phía dưới bề mặt; thế mà các họa sĩ
Nhật đă vẽ lại hành động của chúng
trong hàng thế kỷ trước kia. ([1005])
Nếu câu chuyện
lịch sử của thành Troy bị phủ nhận và xem
như một huyền thoại, th́ những thành phố
cổ Herculaneum và Pompeii bị xem như những chuyện
hăo huyền. Và những chuyện du kư của Marco Polo
bị người đời chế nhạo và gán cho
một tính cách hư ảo như một ngụ ngôn, th́
không có lư do ǵ mà tác giả bộ Nữ Thần Isis Lộ
Diện và Giáo Lư Bí Nhiệm lại được biệt
đăi hơn. Trong tác phẩm xuất sắc nêu trên, ông
Charles Gould đă trích dẫn một vài hàng trong Macmillan
(ấn bản 1860), nó đúng như thật đến
nỗi mà chúng ta chỉ có việc sao lại :
439
Khi một nhà vạn
vật học, hoặc là đến thăm những
địa điểm mà chưa ai đặt chân tới,
hoặc là do may mắn, t́m thấy một cái cây hoặc
một con vật rất quái gở, y sẽ tức
khắc bị kết tội là chế ra tṛ giải trí
của ḿnh… Ngay khi người ta thấy rằng tạo
vật có tội chống lại tiên kiến, th́
đại chơn linh dẫn đạo (sai lạc?)
vẫn cung ứng cho các triết gia sự toàn tri
để đối phó với những chuyện bất
ngờ, một cách tiên nghiệm, khi nghe tiếng, đă th́
thào rằng điều đó không thể có
được, thế là người ta lập tức
tố cáo rằng đó chỉ là một tṛ bịp bợm.
Chính các cơi trời cũng bị tố cáo là tṛ bịp. Khi
các nhà thiên văn Leverrier và Adam tiên đoán có một hành tinh
mới xuất hiện, th́ có một vài giới trịnh
trọng tuyên bố rằng đó không phải là bầu hành
tinh thực sự được tiên liệu mà chỉ là
một thiên thể khác nữa đă t́nh cờ xuất
hiện ở gần bên hành tinh nói trên. “T́nh đời
vẫn thế : sự nghi ngờ bao giờ cũng vẫn
trội hơn và lấp áp cả sự thật”.
Hăy cứ chấp nhận
như thế, chúng tôi không đ̣i hỏi và cũng không mong
ước những kẻ hoài nghi quyển sách này là
huyền hoặc phải tin tưởng nơi những
điều được tŕnh bày trong đó. Ngay cả
trước khi tác phẩm này được ấn hành th́
một vài kư giả có tài người Mỹ đă tuyên
bố rằng Giáo Lư Bí Nhiệm là một tṛ bịp. ([1006])
Dù sao cũng không cần
thiết phải tin nơi Khoa học Huyền bí và
những Giáo lư Cổ truyền, nếu người ta
chưa biết ǵ cả hay thậm chí chưa tin nơi
chính Linh Hồn ḿnh. Tự cổ vẫn chưa bao giờ
có một chân lư trọng đại nào được
chấp nhận dễ dàng và thường phải
để cho một hay hai thế kỷ trôi qua
trước khi nó bắt đầu lóe lên trong ư thức
loài người như một sự thật có thể
xảy ra, trừ những trường hợp nó
được chứng minh cụ thể như một
sự việc hiển nhiên. Chân lư của ngày hôm nay vẫn
là những sai lầm giả dối của ngày hôm qua và
ngược lại. Chỉ trong thế kỷ hai
mươi, th́ có lẽ một phần nếu không phải
là toàn thể quyển sách này mới được
người đời chấp nhận và bênh vực.
Do đó, cho dù John Evans có
khẳng định vào thời đồ đá,
người ta chưa hề biết viết, th́
điều này cũng chẳng có hại ǵ cho các phát
biểu của chúng ta. Đó là v́ vào thời kỳ ấy,
Giống dân thứ năm Ăryan có thể chưa biết
viết, song Giống dân thứ Tư Atlantis vào thời
hoàng kim văn minh tột đỉnh, hẳn đă biết
viết rồi. Những chu kỳ thịnh suy của các
quốc gia và các giống dân vẫn c̣n đó để biện
minh cho điều này.
Nếu ai đó bảo
rằng xưa nay đă có trường hợp các tác
phẩm giả bị đánh tráo cho kẻ dễ tin, và tác
phẩm của chúng tôi có thể được xếp vào
loại Thánh kinh Ấn Độ của Jacolliot – mặc dù,
nhân tiện xin nói, bên cạnh các điểm sai lầm, nó
c̣n bao hàm nhiều sự thật hơn các tác phẩm
của các nhà Đông phương học chính thống được
mọi người trọng vọng – th́ lời tố cáo
và sự ví von này cũng chẳng làm chúng tôi phải
khiếp đảm bao nhiêu. Chúng tôi quyết chờ
thời. Ngay cả tác phẩm lừng danh của thế
kỷ vừa qua Ezour Veda mà Voltaire xem là “tặng phẩm quí
giá nhất mà phương Đông dành cho phương Tây”, và
Max Muller xem là “ngu xuẩn nhất mà người ta có
thể đọc được” – cũng đâu phải
là hoàn toàn chẳng bao hàm sự thật. Những
trường hợp mà các sự phủ nhận tiên
nghiệm của các chuyên gia lại được
những điều bổ chứng sau này minh xác, chẳng
qua chỉ là một phần vô cùng nhỏ của những
trường hợp đă được khám phá sau này minh
chứng và xác nhận, khiến cho những nhà thông thái
phản đối đều phải kinh hoàng. Ezour Veda là
một mối bất ḥa rất nhỏ khi so sánh với
sự khải hoàn của William Jones, Anquetil du Perron v.v…
về vấn đề tiếng Bắc Phạn và văn
chương Bắc Phạn. Chính Giáo sư Max Muller đă
ghi lại những sự kiện đó; khi đề
cập tới sự bối rối của nhóm Dugald Stewart
về vấn đề này, ông đă nêu rơ rằng :
440
Nếu
các sự kiện về tiếng Bắc Phạn mà đúng
sự thật, th́ Dugald Stewart cũng quá đủ khôn ngoan
để thấy rằng các kết luận suy ra từ
đó thật là tất yếu. V́ vậy, y đă hoàn toàn
chối bỏ sự tồn tại thực sự của
một thứ ngôn ngữ như Bắc Phạn và đă
viết một bài lược khảo trứ danh
để chứng tỏ rằng chính những kẻ láo khoét
và chúa trùm ngụy tạo, những người Bà La Môn
đă soạn ra tiếng Bắc Phạn theo mẫu
tiếng Hy Lạp và La Tinh, và toàn bộ nền văn
học Bắc Phạn chỉ là sự bịp bợm. ([1007])
Tác giả sẵn ḷng và
cảm thấy hănh diện khi giao du thân mật với
những người Bà La Môn, và những người “láo
khoét” khác trong lịch sử, theo ư kiến của những
vị Dugals Stewart thời này. Bà đă sống quá lâu và
đă có quá nhiều loại kinh nghiệm bản thân, nên
không thể không biết ít ra là một điều ǵ đó
về bản chất con người. Đức Zoroaster
minh triết đă dạy: “Khi thoáng có ư nghi ngờ, th́ hăy
kiềm nó lại”, kinh nghiệm sinh hoạt thường
nhật bao giờ cũng bổ chứng cho câu châm ngôn
đầy minh triết của Ngài. Thế nhưng, cũng
như Thánh John Baptist, vị Hiền Triết này cũng
chỉ giảng đạo theo lối “tiếng kêu trong sa
mạc”, cùng với một triết gia cận đại
hơn, đó là Bacon. Bacon cũng rao giảng đôi chút minh
triết thực hành như vậy khi bảo rằng :
Khi suy tư [chúng
tôi xin thêm “về bất cứ vấn đề tri
thức nào”], nếu một người khởi
đầu từ sự tin
chắc, th́ rốt cuộc y sẽ trở thành nghi ngờ;
song nếu y chịu khởi
đầu từ sự nghi ngờ, th́ cuối cùng y sẽ
trở nên tin chắc.
Chúng ta nên chấm dứt
tranh căi bằng lời khuyên này của bậc cha đẻ
ra triết học Anh, dành cho các đại diện của
chủ nghĩa hoài nghi Anh quốc, nhưng các độc giả
Minh Triết Thiêng Liêng có quyền đối với một
mảnh kiến thức Huyền bí học tối hậu.
Trên đây đă nói khá
đủ để chỉ ra rằng cơ tiến hóa nói
chung của nhân loại, những biến cố Thiên Nhiên
cùng vạn vật trong trời đất đều
diễn ra theo định luật chu kỳ. Chúng tôi có tŕnh
bày về bảy Giống dân, trong số đó có năm
Giống dân đă gần hoàn thành diễn tŕnh sinh hoạt
của họ trên trái đất và tuyên bố rằng
mỗi Giống dân, với những phụ chủng, chi
chủng, cùng vô số các phân chi và bộ lạc thiểu
số khác, đều hoàn toàn phân biệt hẳn với
Giống dân đi trước đó và Giống dân nối
tiếp sau. Về vấn đề nhân loại học và
dân tộc học dựa vào thẩm quyền của kinh
nghiệm đồng nhất, người ta sẽ bác
bỏ điều này. Các nhà vạn vật học bảo
rằng ngoại trừ việc khác nhau về màu da và
loại người, và có lẽ hơi khác nhau về các nét
mặt riêng biệt và dung tích sọ, c̣n th́ mọi
người trên khắp thế giới, ở mọi phong
thổ đều giống nhau. Thật vậy, họ
giống nhau cả về vóc dáng nữa; thế mà trong khi
đó, người ta lại quả quyết rằng con
người và con khỉ đều bắt nguồn từ
một vị tổ tiên vô danh; nếu không có sự
biến thiên vô tận về vóc dáng từ giai đoạn
tiến hóa nguyên sơ thành ra một động vật hai
chân th́ lời tuyên bố này quả là không thể chấp
nhận được về mặt lư luận. Những
người thiên về lư luận, bảo vệ cả hai
đề nghị này, lại được hoan nghênh
về các quan điểm nghịch lư của họ mới
lạ chứ. Một lần nữa, chúng tôi chỉ xin
ngỏ lời với vị nào đă nghi ngờ sự
thoát thai nói chung, của các thần thoại từ “sự
chiêm ngưỡng các tác động hữu h́nh của
ngoại giới” và cho rằng:
Chẳng thà tin
rằng những câu chuyện kỳ diệu này về các
vị thần và bán thần, những người khổng
lồ và người lùn, những con rồng và quái vật
khôn tả, là những biến dạng, c̣n hơn tin
rằng chúng là những câu chuyện bịa đặt.
Giáo Lư Bí Nhiệm chỉ
dạy rằng những sự “biến đổi” về
vóc dáng thể chất đó cũng chẳng khác nào
những sự biến đổi về trí nhớ và các
quan niệm của nhân loại chúng ta hiện nay. Nó
đối chiếu các giả thuyết thuần túy suy lư
của khoa học hiện đại vốn dựa trên
kinh nghiệm và những quan sát chính xác chỉ mới trong
vài thế kỷ, với truyền thuyết liên tục và
các tài liệu của những thánh điện. Khi bỏ
qua hàng loạt những thuyết được giăng
như màng nhện trong bóng đêm đang bao phủ một
thời kỳ chỉ mới có khoảng vài ngàn năm nay
mà người Âu Châu gọi là “lịch sử” của ḿnh,
Khoa học Cổ truyền bảo chúng ta: “Này hăy lắng
nghe lối thuyết minh của ta bàn về các kỷ
yếu của nhân loại”.
Các giống dân dă man sinh ra
nhau, lớn lên, phát triển, già yếu rồi bị
diệt vong. Các phân chủng và các quốc gia cũng cùng
chung số phận như vậy. Nếu khoa học
hiện đại đă phủ nhận tất cả và
cái gọi là triết học không căi rằng gia đ́nh nhân
loại gồm có vô số loại người và giống
người xác định, th́ đó là v́ chẳng có ai có
thể phủ nhận sự kiện này. Chẳng ai dám
bảo rằng không hề có sự dị biệt bề
ngoài giữa một người Anh, một người da
đen ở Phi Châu, một người Nhật hoặc
một người Trung Hoa. Mặt khác, hầu hết các
nhà vạn vật học đều chính thức phủ
nhận rằng ngày nay, những giống người
hỗn hợp – nghĩa là mầm mống của những
giống người hoàn toàn mới – không c̣n
được tạo ra nữa, mặc dù thật ra De
Quatrefages và một vài người khác vẫn chủ
trương như vậy dựa vào những cơ sở
vững chắc ?
Tuy nhiên, những
điều chúng tôi tŕnh bày sẽ không được
chấp nhận. Người ta nói rằng mặc dù con
người đă từng trải qua những h́nh thể
thế nào trong quá khứ, kể từ thời tiền
sử xa xôi cho đến nay, nhưng trong tương lai, y
sẽ không c̣n thay đổi h́nh dáng ǵ trừ ra vài sự
dị biệt dị tộc như trong hiên tại. Bởi
đó, các Giống dân thứ Sáu và thứ Bảy chỉ là
những điều giả dối.
Đối với
những người đưa ra luận điệu
ấy, chúng ta có thể hỏi: Làm sao biết
được? Sự hiểu biết của anh chỉ
giới hạn trong vài ngàn năm tức là không bằng
một ngày trong toàn thể chu kỳ tiến hóa của Nhân
loại, và thâu hẹp trong những giống người
hiện tại, trên lục địa hiện tại
của Giống dân thứ năm chúng ta. Làm sao anh có thể
nói chắc rằng việc ǵ sẽ xảy ra hay sẽ
không xảy ra? Trong khi đó th́ đây là những lời
tiên tri của những Cổ thứ Bí truyền và
những Giáo lư Huyền môn được tiết lộ
cho nhân loại.
442
Kể từ lúc
bắt đầu thời kỳ của Giống dân Atlantis,
bao nhiêu triệu năm đă trôi qua, nhưng chúng ta nhận
thấy rằng những đợt người Atlantis
cuối cùng vẫn c̣n lẫn lộn với giống người Ăryan,
cách đây 11 000 năm. Điều này chỉ ra rằng có
một sự vượt trội thời gian của
một Giống dân nối tiếp theo sau, tuy rằng
về phương diện tính chất và thể loại
th́ Giống dân tiền bối mất lần những
đặc tính của ḿnh và khoác lấy những
đặc tính mới của Giống dân hậu sinh.
Điều này đă được chứng minh trong
tất cả những cơ cấu h́nh thành của
những chủng tộc lai hay pha trộn. Triết giáo
Huyền môn dạy rằng, dù cho ngay bây giờ, ngay
trước mắt chúng ta, các Giống dân mới đang
chuẩn bị h́nh thành và Mỹ Châu là sự cấu
tạo nên nhân loại mới sẽ diễn ra một cách
lặng lẽ, âm thầm.
Vốn là người Anglo-Saxons
thuần túy mới chỉ độ ba trăm năm
trước đây, người Mỹ ngày nay đă thành
một dân tộc không riêng biệt và do sự pha lẫn
với ḍng máu của nhiều dân tộc khác, đă trở
nên một chủng tộc riêng với những nét
đặc thù, không những về trí tuệ mà cả
về thể chất. Xin trích dẫn đoạn sau đây
của De Quatrefages:
Khi thuần
nhất và ổn định, mọi giống người
hỗn hợp đă có thể đóng vai một giống
người nguyên sơ trong sự pha giống mới
mẻ. Như thế, trong t́nh trạng hiện nay, chắc
chắn là một phần lớn nhân loăi đă
được tạo ra cho sự pha giống liên tiếp
của một số giống người hiện nay
vẫn c̣n chưa xác định được. ([1008])
Như thế, trong ṿng
chỉ có ba thế kỷ, người Mỹ trở nên
một “chủng tộc sơ
khai” trước khi trở thành một chủng tộc
riêng biệt và tách rời hẳn với các chủng
tộc khác. Tóm lại, họ là những mầm mống
của phụ chủng thứ
sáu, và trong vài trăm năm tới đây sẽ trở
nên những người tiền phong khai sáng của
giống người sẽ nối tiếp theo sau phụ
chủng thứ năm hay giống dân Âu Châu hiện tại
với tất cả những đặc điểm
mới của họ. Khoảng 25 000 năm sau họ
sẽ bắt tay vào việc chuẩn bị khai sinh ra
phụ chủng thứ bảy. Theo đà thời gian
nhiều cơn biến động sẽ xảy ra,
tức đợt đầu của những thiên tai
địa chấn có ngày sẽ hủy diệt toàn cơi Âu
Châu và sau đó sẽ hủy diệt luôn dân Ăryan (ảnh hưởng
luôn cả hai phần Nam Bắc Mỹ Châu) hầu hết
những phần đất liên hệ trực tiếp
với những biên giới và quần đảo của Âu
Châu ngày nay. Chừng đó Giống dân thứ Sáu sẽ
xuất hiện trên địa cầu cũng trong cuộc
Tuần Hoàn hiện tại. Đến bao giờ việc
đó sẽ xảy ra? Có ai biết được
điều đó trừ các Chơn Sư Minh Triết,
nhưng các Ngài vẫn im lặng giống như cái vẻ
im lặng của những đỉnh Tuyết Sơn nhô
lên đàng sau các Ngài từ muôn đời. Chúng ta biết
rằng việc đó chỉ diễn ra trong âm thầm
lặng lẽ. Thật vậy, nó lặng lẽ
đến nỗi trong nhiều ngàn năm, những kẻ
tiền phong của giống dân ấy sẽ bị xem
như những kẻ lạc loài kỳ dị về
thể chất cũng như tinh thần. Chừng đó,
khi những người này càng ngày càng tăng gia nhân số
lần lần trải qua nhiều thế hệ, một
ngày nào đó họ sẽ tỉnh dậy và chợt
thấy ḿnh chiếm đa số của thành phần nhân
loại. Chừng đó, chính những người của
nhân loại ngày nay lại sẽ bắt đầu bị
xem
443
như
những kẻ dị kỳ, không giống ai cả, cho
đến khi họ lại bị tuyệt diệt lần
hồi trên những phần đất văn minh, chỉ
c̣n lại vài nhóm c̣n sống sót trên những ḥn đảo –
là những đỉnh núi cao bây giờ. Trên những ḥn
đảo ấy, họ sẽ sống một cách vất
vưởng, tàn tạ, suy đồi và sau cùng sẽ
tuyệt diệt, có lẽ trong nhiều triệu năm
trở về sau, cũng như những giống
người Aztecs đă tuyệt diệt, cũng như các
bộ lạc thiểu số Nyam-Nyam và giống
người lùn trên Dăy Nĩlgiri đang lần lần
biệt tích. Tất cả các giống người này
đều là tàn tích của những chủng tộc xưa
kia đă có một nền văn minh huy hoàng, mà kỷ
niệm đă hoàn toàn biến mất trong kư ức của
thế hệ hiện tại. Cũng như chúng ta ngày nay
sẽ biến mất trong kư ức của Giống dân
thứ Sáu của nhân loại tương lai. Giống dân
thứ Năm sẽ c̣n lấn thêm nhiều trăm ngàn
năm trội qua giai đoạn xuất hiện của
Giống dân thứ Sáu và sẽ thay đổi chậm
hơn Giống dân mới này. Họ cũng sẽ vẫn
c̣n thay đổi về tầm vóc, thể chất và tri
thức, tinh thần, cũng như Giống dân thứ
Tư đă lấn trội qua Giống dân thứ Năm và
Giống dân thứ Ba đă lấn trội qua Giống dân
thứ Tư.
Phương thức chuẩn
bị cho sự sinh thành của Giống dân thứ Sáu
sẽ phải kéo dài suốt thời kỳ của hai
phụ chủng sáu và bảy. ([1009])
Nhưng những tàn tích cuối
cùng của Lục địa thứ Năm sẽ không
biến mất cho đến một thời gian sau
việc khai sinh của Giống dân mới; khi đó, lục địa mới, Lục địa
thứ Sáu sẽ xuất hiện trên mặt Địa
Cầu, từ thời đáy biển trồi lên mặt nước ở các vùng
biển mới để
làm nơi sinh trưởng của Giống dân mới.
Đó cũng là nơi chốn di tản và định
cư của tất cả những người có diễm
phúc thoát khỏi cơn thiên tai làm rung chuyển và hủy
diệt các lục địa Âu Mỹ ngày nay. Khi nào th́
điều này xảy ra – như đă nói trên – điều
đó tác giả không được biết. Chỉ
biết rằng sự việc trong Thiên Nhiên không bao giờ
diễn biến bằng những chuyển động th́nh
ĺnh hay bất ngờ, cũng như con người không
thể đột nhiên từ một đứa trẻ
thơ biến thành một người lớn, th́ cơn
thiên tai cuối cùng cũng vậy, nó phải
được khởi đầu bằng nhiều tai
biến nhỏ gồm có những cơn hủy diệt
bằng nước lụt và hỏa sơn. Giống
người sống tại khu vực Mỹ Châu hiện
nay đang thời phát triển mạnh, nhưng cũng
như các dân tộc Âu Châu, họ sẽ không c̣n tồn
tại khi giai đoạn của Giống dân thứ Sáu
bắt đầu, v́ chừng đó, họ sẽ trở
thành giống dân mới và
nhiều dân tộc, quốc gia mới. Tuy nhiên, Giống
dân thứ Năm sẽ không tuyệt diệt ngay, mà sẽ
c̣n tồn tại một thời gian, nó c̣n lấn trội
qua Giống dân thứ Sáu trong nhiều trăm ngàn năm
nữa và sẽ trở nên biến đổi cùng với
Giống dân mới, nhưng chậm hơn, tuy nó sẽ hoàn
toàn thay đổi về tầm vóc, thể chất và tinh
thần. Nhân loại sẽ không phát triển thể xác
khổng lồ như trường hợp Giống dân
Lemuria và Atlantis, bởi v́ trong khi sự tiến hóa của
Giống dân thứ Tư đưa họ đi xuống
tầm mức vật chất thô kệch nặng nề
nhất về phương diện phát triển thể xác,
th́ Giống dân thứ Năm hiện thời đang ở
ṿng cung đi lên và Giống dân thứ Sáu sẽ c̣n tiến
bộ mau hơn trong việc vứt bỏ những ảnh
hưởng trói buộc của vật chất và xác
thịt.
444
Đó là t́nh trạng
nhân loại của Thế giới Mới, một thế
giới trưởng thành hơn rất xa cái Thế
giới Cũ, có sứ mạng và Nghiệp Quả gieo những
mầm mống cho một Giống người c̣n huy hoàng
hơn rất nhiều so với tất cả mọi
giống người từ trước tới nay.
Những Chu kỳ sinh hoạt Vật Chất sẽ
được nối tiếp bằng những Chu
kỳ sinh hoạt Tâm Linh và
một trí tuệ hoàn toàn phát triển. Trong các giống dân
mới, thành phần đa số của nhân loại trong
tương lai sẽ gồm có những bậc Tiên Thánh cao
cả. Nhân loại là sản phẩm của Định
mệnh vận chuyển từng Chu kỳ và không một
Đơn vị nào của hàng ngũ nhân loại có thể
thoát khỏi cái sứ mạng đương nhiên vô
thức của ḿnh hay vứt bỏ gánh nặng của công
việc hợp tác với Thiên Nhiên. Như thế, từ
chủng tộc này tới chủng tộc khác, nhân loại
sẽ thực hiện cuộc Hành hương chu chuyển
từng kỳ hạn đă chỉ định cho họ.
Các khí hậu sẽ và đă bắt đầu thay
đổi, mỗi Năm Nhiệt Đới (Tropical Year)
tiếp theo là Năm Nhiệt Đới khác lại
loại bỏ một phụ chủng, nhưng chỉ là
để sinh ra một chủng tộc khác tiến hóa cao
hơn trên một ṿng cung đi lên. Trong khi đó, một
loạt những nhóm khác kém may mắn hơn, tức những
thất bại của Thiên Nhiên, cũng giống như vài
nhân vật cá biệt, sẽ biến mất khỏi gia
đ́nh nhân loại mà không để lại dấu vết.
Đó là v́ sự diễn
tiến của Thiên Nhiên dưới sự điều
động của Luật Nghiệp Quả hay của
một Định Luật Thiên Nhiên bao giờ cũng tác
động không ngừng. Một vị Hiền giả
ẩn danh mà chỉ có vài người trong giới Huyền
môn được biết, có nói :
HIỆN TẠI LÀ CON
ĐẺ CỦA QUÁ KHỨ; TƯƠNG LAI LÀ CON ĐẺ
CỦA HIỆN TẠI. TUY THẾ, ÔI GIỜ PHÚT HIỆN
TẠI NÀY ! NGƯƠI HÁ CHẲNG BIẾT RẰNG NGƯƠI
KHÔNG CÓ PHỤ MẪU, NGƯƠI CŨNG KHÔNG THỂ CÓ CON;
RẰNG NGƯƠI CHỈ CÓ THỂ SINH RA CHÍNH NGƯƠI
THÔI ? DÙ CHO TRƯỚC KHI NGƯƠI BẮT ĐẦU NÓI
: “TA LÀ CON CHÁU CỦA QUÁ KHỨ”, TH̀ NGƯƠI ĐĂ
TRỞ THÀNH QUÁ KHỨ MẤT RỒI. TRƯỚC KHI
NGƯƠI THỐT RA ÂM THANH CUỐI CÙNG, HĂY NGHE ĐÂY !
NGƯƠI ĐĂ KHÔNG C̉N LÀ HIỆN TẠI NỮA MÀ
ĐÚNG LÀ TƯƠNG LAI VẬY. ĐÓ LÀ QUÁ KHỨ,
HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI, CÁI TAM VỊ NHẤT
THỂ BAO GIỜ CŨNG VẪN TRƯỜNG TỒN, CÁI
ĐẠI ẢO GIÁC (MAHĂMĂYĂ) CỦA LƯ TUYỆT ĐỐI
VẪN NGỰ TRỊ KHẮP VŨ TRỤ.
445
CHÚ THÍCH BỔ SUNG
(ADDITIONAL NOTES)
Zohar,
Idra Suta, trang 16.
Danh xưng này có nhiều
dạng, trang 2 tŕnh bày là Zohar, Idra
Suta; Idra Zootah, c̣n ấn bản Brody tŕnh bày là Idra Zootah (trang 93); ở
những chỗ khác trong tác phẩm này nó được
tŕnh bày là Idra Suta.
Trong tác phẩm này hầu
hết những điều tham chiếu về kinh Zohar đều
được rút ra từ tác phẩm Qabbalah của Isaac Muller, Cử nhân luật khoa. Tác
giả chỉ xuất bản có 350 bản.
Ardhanări, trang 43.
Trong tác phẩm Các Thần Ấn Độ
của Moor, nhân vật bán thư bán hùng này được
tŕnh bày trong các h́nh minh họa 7 và 24, nhưng không có chữ
Vạn.
Asuramaya tức Asura Maya, trang 62.
Trong Lịch sử Văn chương Ấn Độ,
trang 253, Albrecht Weber cho rằng : “Vả lại truyền
thuyết anh hùng ca tŕnh bày Asura Maya là nhà thiên văn học
xưa nhất; và khẳng định rằng chính Thần
Thái Dương đă truyền dạy thiên văn học
cho Ngài. Tôi đă phỏng đoán ở đâu đó rằng
vị Asura Maya này đồng nhất với ‘Ptolemaios’
của người Hy Lạp. Đó là v́, như chúng ta
đă thấy trong các chữ khắc, Ptolemaios, Pujadăsi đă
trở thành một “Turamaya” của Ấn Độ,
thế mà danh xưng ‘Asura Maya’ có thể thoát thai từ danh
hiệu “Turamaya” một cách dễ dàng. Đó là v́ theo
truyền thuyết sau này, danh hiệu Maya này rơ ràng là
được gán cho Romaka-pura ở phương Tây.
Chúng ta không
được lẫn lộn từ ngữ cuối Maya
với từ ngữ Măyă. V́ truyền thuyết khẳng
định rằng Asura Maya là một người Atlantis
(xem Quyển 3, Giảng lư ĐOẠN KINH 11) nên từ
ngữ Maya phải được đồng nhất hóa
với tên của một bộ lạc, giống dân hay dân
tộc của Châu Atlantis cổ.
Các tác phẩm của Asura Maya
không có sẵn, nhưng hiện diện trong một
chừng mực nào đó trong phần trích dẫn Brihajjataka
của Varăhamihira, trong đó, Ngài được gọi là
‘Maya’. Ngài được xem là một nghệ sĩ Dănava nổi
tiếng, cả Rămăyana
lẫn Mahăbhărata đều
gán cho Ngài nhiều tác phẩm nghệ thuật. Ngài là
vị cha đẻ nổi tiếng của Mandodăn, Hoàng
hậu Răvana, Ngài đă dâng cho Răvana một vũ khí thần
kỳ, Shakti shela, mà y ném vào anh của Răma Lakshmana. Tác
phẩm Mahăbhărata kể
rằng chính vị Maya Dănava này đă xây dựng dinh thự
nguy nga của Yudhishthira, việc này đă làm cho Duryodhana
nổi ghen và đưa tới tṛ chơi súc sắc mà
hậu quả là trận chiến tranh Mahăbhărata.
Polyhistor
tuyên bố : trang
65.
446
Trong ấn
bản mới có bổ sung của tác phẩm Các Áng Cổ Văn của
Cory, đoạn trích dẫn này được tŕnh bày
như sau: “Belus đă giáng lâm, xẻ người đàn bà
ra làm đôi; y tạo ra đất từ một nửa
thân thể nàng và tạo ra trời từ một nửa
kia, đồng thời, y đă tiêu diệt các con thú
dưới vực thẳm”.
Ribhus, chú thích cuối trang 65.
Ba Đấng này là Ribhu,
Vibhvan và Văja, các con trai của Sudhanya và được
đặt tên theo tên của người con cả. Đó là
các đại nghệ sĩ và là các đệ tử
của Tvashtri, một tên gọi khác của Vishvakarman,
Đấng kiến tạo ra chư Thiên. Các Ribhus đă
đắc quả thiên thần nhờ tapas, đại khổ hạnh. Họ đă
tạo ra chúng sinh và phú cho chúng sự sống.
Tứ
Thân của Brahmă,
trang 68.
Brahmă đă lần
lượt khoác lấy bốn thể này vào lúc khởi
đầu Thiên Kiếp này để tạo ra bốn
loại thực thể: Asuras, Suras (Deva), Pitris (Fathers) và Con
Người (Men). Tứ thân này có ba tính chất: Satya, Rajas
và Tamas. Tamas chiếm ưu thế ở Thể thứ
nhất, Satya ưu thế ở Thể thứ hai,
Satya-Rajas chiếm ưu thế ở Thể thứ ba và
riêng Rajas chiếm ưu thế ở Thể thứ tư.
Satya – ḥa (harmony); Rajas – động (mobility); Tamas – tịnh
(inertia) do cực kỳ căng thẳng.
360
ngày của thế nhân tạo thành một năm, trang 79.
Ấn Độ có nhiều
cách tính năm tháng, chẳng hạn như : 1) Bărhaspatya – thời gian mà Jupiter
(Brihaspati) cần để đi một ṿng quanh Hoàng
Đạo; 2) Năkshatra –
Năm vũ trụ, mỗi tháng bằng gần 276 ngày; 3) Saura – Năm dương
lịch, một tháng dương lịch gồm 30 kỳ
mặt trời mọc và lặn; 4) Chandra – Năm dương lịch; 5) Săvana – một tháng gần 30
ngày dương lịch, nghĩa là từ lúc mặt
trời mọc này đến lúc mặt trời mọc kia;
tháng này được dùng để ấn định các
nghi lễ tôn giáo của Ấn Độ, 12 tháng như
thế hợp thành 360 ngày nêu trên.
Bảy
người Con Trí sinh,
trang 88.
Bảy (đôi khi 10)
người Con Trí sinh của Brahmă được mệnh
danh khác nhau trong mỗi Chu kỳ Khai Nguyên và thường là
những nhân vật khác nhau. Ở đây, xin tŕnh bày bốn
danh sách:
Giáo Lư Giáo Lư Shatapatha- Mahăbhărata
Bí Nhiệm Bí Nhiệm Brăhmana
1 2 3 4
Ambă Marĩchi
Gautama Marĩchi
Dulă Atri Atri Atri
Nitatui Angiras Vishvămitra Angiras
Abrayanti Pulastya Jamadagni Pulastya
Maghăyanti Pulaha Bharadvăja Pulaha
Varshayanti Kratu Kashyapa Kratu
Chupunikă Vasishtha
Vasishtha Vasishtha
Một môn sinh Ấn
Độ cho rằng danh sách số 1 nhằm nói tới các
danh pháp thiên văn học (xem Quyển 4, tựa đề
“Chữ Thập và Ṿng Tṛn”) và chỉ định các cḥm sao
của cḥm Đại Hùng Tinh – các vị Krittikăs nữ
đă nuôi dưỡng Đấng Đại Thiên Tôn (Great
Kumăra). Y cho rằng các danh sách 3 và 4 ám chỉ Bảy vị
Thánh Hiền, vốn là các vị adhikarapurushas (các vị
Chức sắc trong Chính quyền Nội tại của
thế giới) của các Chu kỳ Khai Nguyên khác nhau, danh
sách số 2 (trang 88) có lẽ thuộc về Chu kỳ Khai
Nguyên thứ nhất, c̣n danh sách số 3 thuộc về Chu
kỳ Khai Nguyên Vaivasvata hiện nay.
447
Dirghotamas,
trang 106.
Theo chúng tôi biết th́ không có
quyển sách nào như thế. Dirghotamas (bóng tối dài) là
danh xưng của một bậc Hiền Triết phái Veda
mà người ta gán cho là tác giả của một vài Thánh
ca trong kinh Rig Veda. Ngài bị
mù từ lúc sơ sinh; tác phẩm Mahăbhărata (Adiparva, Tiết 1) thuật rằng theo
yêu cầu của Vua Bali (Indra kế tiếp), Ngài đă cùng
với phu nhân Sudesnă sinh con cái. Trong kinh Veda, dirghotamas (bóng tối dài) cũng thường
được mô tả, và B. G. Tilak cho rằng nó nhằm
nói tới vùng Bắc Cực là trú sở của dân Ăryan, v́
đêm ở đó dài tới sáu tháng. Xem Orion hoặc Khảo
cứu Nguồn gốc xa xưa của kinh Veda của
ông.
Về
các Hành (Elements),
trang 116 và Mục lục.
Muốn đọc một bài
b́nh luận về các Hành, xem Khái
lược về Triết
thuyết Răja Yoga, nó bao gồm cả một bản
dịch tác phẩm Ătmăbodha
của Shir Shankarăchărya. Bài này bàn về phương pháp
của Panchĩkaranam tức là trộn lẫn năm hành
chủ yếu để tạo ra năm hành thứ
yếu, năm giác quan và năm cơ quan cảm giác v.v… (xem
Thư mục tham khảo).
“Thang
đi xuống” của các nguyên nhân, trang 117.
Danh sách này được
trích ra từ kinh Vishnu Purăna,
Wilson, bản dịch của Fitzedward Hall, Quyển I, trang 2,
3. Một môn sinh cho rằng từ ngữ thứ tư
bị thiếu và phải là Pradhănătman hay Vishabhăvana, nghĩa
là Thiên Nhiên Nguồn cội vô thủy vô chung. Một môn sinh
khác lại cho rằng từ ngữ thứ năm, Kshetrajna
(hay Jivătmă) phải đứng hàng thứ ba trong danh sách,
chứ không phải là thứ năm. Y vạch rơ rằng
người ta đă bỏ sót Pratyagătman (Tối Thượng
Ngă: supreme Self) và từ ngữ cuối cùng, Brăntidarshanatah,
hầu như không thể được xem là một Mahăpurusha,
trừ phi người ta ám chỉ đó là tinh thần
thấm nhuần vũ trụ; trong trường hợp
này, nó đồng nhất với từ ngữ thứ hai
trên danh sách.
Chhăyăs
(H́nh bóng), trang
181.
Một dạng khác
của câu chuyện này là Sũrya (Mặt Trời) có
một người vợ tên là Sanjnă (tâm thức, tri
thức), bà hạ sinh ra Yama và Yamĩ. Có một lần
Sanjnă xin phép Sũrya về thăm thân phụ là Vishvakarman,
nhưng Sũrya từ chối. V́ quyết tâm muốn
đi nên nàng dùng thần thông tạo ra một người
phụ nữ giống y ḿnh, chính “h́nh bóng” của nàng
tức Chhăyă ăn ở với Mặt Trời sinh
được ba người con – Săvarni (cùng màu da hay
bộ tộc), một người bà con bên ngoại
của vị Bàn Cổ thứ sáu (xem trang 309); Shani (thiên
thể Saturn); và Tapani. Rốt cuộc Sũrya đă khám phá
ra sự việc và thấy rằng Sanjnă đă dấn thân
vào việc tu khổ hạnh dưới dạng một con
ngựa cái. Khi biến h́nh thành một con ngựa, Ngài
ăn ở với nàng, sinh ra ba con nữa, hai người
con là các Ashvins sinh đôi (có những con ngựa), các vị
y sĩ của các vị thần. (Xem Quyển 4, Tiết C.
“Hành thất phân trong kinh Veda”).
Các
danh xưng Tây Tạng,
trang 185 – 186.
Chenresi – tiếng Tây
Tạng: Spyan.ras.gzige = tiếng Bắc Phạn: Avalokiteshvara
– một danh xưng của Đấng Đại Hùng và
Thấy Tất Cả.
448
Cheresi Vanchug – tiếng
Tây Tạng : spyan.ras.gzigs byan. club.sems.dpah = tiếng Bắc
Phạn : Bodhisattva Avalokiteshvara, nghĩa là Đức Bồ
Tát Đại Hùng và Thấy Tất Cả.
Jigtengonpo – tiếng Tây
Tạng: hjig.rten.mgon.po = tiếng Bắc Phạn: loka-nătha,
Đấng Chúa Tể Càn Khôn.
Chakng-padma-karpo, tiếng
Tây Tạng: phyag.na.padma.dar. po = tiếng Bắc Phạn:
pundarĩkapăni, nghĩa là kẻ cầm hoa sen trắng trong
tay.
Ngày
vía của các Đấng Thiền Định (Dhyănis) này, trang 186.
Trong Phật giáo Trung Hoa, trang 208, Edkins có tŕnh bày các ngày
vía mà Bà Blavatsky đă nhắc tới như sau: “Ngày vía của O-mi-to-Fo tức A
Di Đà Phật (Amităbha), nhằm ngày 17 tháng 11…”
“Ngày
vía của Avalokiteshvara: ngày 19 tháng 2”.
“Ngày vía của Phật
Mẫu (female Buddha), Chuẩn Đề (Chun-ti) ngày 6 tháng 3
[chứ không phải ngày 7 như trong các ấn bản
năm 1888 và 1893]”.
Edkins c̣n tŕnh bày các “ngày vía”
khác, trong số đó có ngày vía của Đức Phật Di
Lặc (Mi-Li-Fo – Maitreya Buddha), là
ngày 1 tháng 1 – đây là
Đức Phật phải nối nghiệp Đức
Thích Ca (Shăkyamuni) để chưởng quản thế
gian.
Virabhadra, trang 189.
Về sự phân thân
của Virabhadra từ Shiva-Rudra th́ có rất nhiều
lối tường thuật khác nhau. Một lối
tường thuật khác lối tường thuật trong
Quyển này bảo rằng Shiva đă tạo ra Ngài từ
mớ tóc rối của ḿnh; nhưng người ta
thường nhất trí rằng, Ngài sinh ra từ cơn
thịnh nộ, lửa của Rudra.
Sadik, trang 390.
Từ ngữ này cũng
được phát âm là Sydyk, Sydic, Sadic, Zedek và có nghĩa là
“một người công chính”.
Các đoạn trích từ Các Vong Linh.
Bà Blavatsky tự do trích
dẫn tác phẩm này, và dẫn chứng các đoạn
trích bao hàm trong tác phẩm đó. Tất cả các
đoạn tham chiếu Các Vong
Linh của De Mirville, Linh
Vật Học (Pneumatologie)
hoặc Kỷ yếu,
đều ám chỉ cùng một tác phẩm. Nó gồm có sáu
Quyển (bằng tiếng Pháp) và có tựa đề
đầy đủ là Linh
Vật Học. “Các Vong Linh
và Các loại Biểu lộ khác nhau. Kỷ yếu
đệ tŕnh lên Hàn Lâm Viện.”
HẾT
QUYỂN III
TRẦN NGỌC LỢI
Dịch
thuật
GIÁO LƯ BÍ NHIỆM
(THE SECRET DOCTRINE)
(TỔNG
HỢP KHOA HỌC,TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC)
TÁC GIẢ
H.P.BLAVATSKY
QUYỂN 3
NHÂN SINH KHỞI NGUYÊN LUẬN
(ANTHROPOGENESIS)
PHẦN I
[1] [ Các bức thư của Spinoza lxiv. Xem Thư tín của Spinoza của A. Wolf, trang 308].
[2] Xem Sáng Thế Kư, ii, 19. Adam được h́nh thành trong câu thơ 7 và câu thơ 19, người ta dạy rằng: “Đức Chúa Trời đă dùng đất tạo ra tất cả các con thú dưới đất và loài chim trên không rồi đem chúng tới cho Adam để xem y gọi chúng là ǵ”. Như thế, con người được tạo ra trước loài thú vật; ấy là v́ các con thú được đề cập trong chương I là các cung Hoàng Đạo, trong khi người “nam và nữ” lại không phải là con người mà là Tập đoàn các Sephiroth, các THẦN LỰC tức các Thiên Thần “được làm cho giống với h́nh ảnh của Thượng Đế”. Adam, con người, không được làm giống như thế, trong Thánh kinh cũng không hề khẳng định như vậy. Vả lại, xét về mặt nội môn, Adam thứ nh́ là một thất nguyên tiêu biểu cho bảy người, hay đúng hơn là bảy nhóm người. Ấy là v́ Adam bản sơ, Kadmon, là tổng hợp của mười Sephiroth. Trong số đó, Tam nguyên thượng vẫn lưu lại Thế giới nguyên h́nh với tư cách “Tam Nguyên” tương lai, trong khi bảy Sephiroth hạ đẳng tạo ra thế giới vật chất biểu lộ; thất nguyên này chính là Adam thứ Nh́. Sáng Thế Kư và các bí nhiệm kiến tạo nên nó, xuất phát từ Ai Cập. “Thượng Đế” trong chương 1 của Sáng Thế Kư là Thiên Đạo (Logos), c̣n “Đức Chúa Trời” của chương 2 là Elohim Sáng Tạo, các Quyền năng hạ đẳng.
[3]
Pymander dạy: “Đây là
bí nhiệm vẫn c̣n ẩn tàng cho đến nay. Thiên nhiên
ḥa lẫn với Thiên Đế (Elohim tức chư
Thần Quân) tạo ra một kỳ quan … bảy Người,
toàn là những người bán thư bán hùng .. tùy theo
bản chất của bảy Đấng Chưởng
Quản”. (ii, 29) tức là bảy Tập đoàn Pitris hay
Elohim, họ phóng chiếu hoặc sáng tạo ra y.
Điều này rất rơ ràng, thế nhưng, hăy xem
những lời giải thích của các nhà thần học
thời nay, họ giả sử rằng con người
thật là trí thức. Trong các tác phẩm Thần Học và Triết Học của Hermes
Trismegistus, môn đồ của phái Tân Plato theo Thiên Chúa giáo,
một tác phẩm do John David Chambers (thuộc trường
Đại Học Oriel,
[4] Sáng
Thế Kư theo dân
[5]
So sánh kinh Zohar, Siphra Dzenioutha, Idra Suta, 2928, Franck, Thánh kinh Kabalah, trang 205.
[6] Siphra
Dzenioutha.
[7]
Nếu nay, người ta quả quyết rằng các
bảng Chaldea (vốn mô tả một cách ẩn dụ
sự Sáng Tạo, sự Sa Đọa và trận
Đại Hồng Thủy, thậm chí cả huyền
thoại về Tháp Babel nữa, đều được
soạn ra “trước thời Moses” (Sáng Thế Kư theo
người Chaldea của Smith) th́ làm sao bộ Ngũ kinh
Cựu Ước (Pentateuch) có thể được gọi là một
điều “thiên khải” (revelation) được? Nó
chỉ là một lời tường thuật khác của cùng
một câu chuyện.
[8] Philosophumena, v, 7, ấn bản của Miller,
trang 98.
[9]
Như trên, trang 108
[10]
Xem Pliny, iv, c, 12, Strabo, 10; Herodotus, vii, c. 109; Paussanias,
vii, c. 4, vv..
[11] Sáng Thế Kư theo dân
[12]
Xem Bundahish, 79, 12.
[13] Khi dùng từ ngữ “bản sơ”(“original”), chúng tôi có ư nói tới Amshaspend, được gọi là “Zarathushtra, Đấng Chúa Tể Chưởng Quản Vara do Yima thực hiện ở xứ này”. Có nhiều Đấng Zarathushtras tức Zertusts, chỉ có Dabistăn là liệt kê mười ba Đấng, nhưng tất cả đều là các kiếp tái sinh của Đấng bản sơ. Zoroaster cuối cùng đă lập nên đền thờ Lửa Azareksh và sọan ra các tác phẩm bàn về tôn giáo Pháp thuật thiêng liêng nguyên thủy mà Alexander đă tiêu diệt.
[14]
Ở Ấn Độ, nó được gọi là
“Một Ngày của Brahmă”.
[15]
X, 86. [ Bản dịch của Buccher và Lang].
[16]
Xem Volcker, Địa lư Thần Thoại, từ trang
145 đến trang 170
[17]
Các con Quái vật Thần
thoại, trang 47.
[18]
Tuy nhiên, phải nhận thấy rằng ông Wallace không
chấp nhận ư tưởng của ông Sclater, mà c̣n
chống đối lại nó nữa. Ông Sclater giả
sử rằng có một vùng đất hoặc một
lục địa xưa kia nối liền Úc và Ấn
Độ. C̣n trong tác phẩm Sự
phân bố Địa lư của Thú vật và Sự sống trên Đảo, ông
A.R.Wallace đă chứng tỏ rằng giả thuyết
về một vùng đất như vậy hoàn toàn không
cần thiết dựa vào các cơ sở động
vật học giả định. Nhưng ông thừa
nhận rằng chắc chắn là có một sự tương cận hơn
nhiều giữa Ấn Độ và Úc vào một thời
kỳ xa xưa đến nỗi nó “chắc chắn là
trước thời đệ tam kỷ”; trong một
bức thư riêng ông c̣n nói thêm là “người ta không
thể gán cho vùng đất giả định này một
danh xưng nào”. Thế nhưng, vùng đất vẫn
tồn tại, dĩ nhiên là trước thời đệ
tam kỷ, v́ Châu Lemuria (nếu chúng ta chấp nhận danh
xưng này dành cho lục địa thứ ba) đă bị
diệt vong trước khi Châu Atlantis phát triển hoàn toàn,
c̣n Châu Atlantis đă bị ch́m và phần chính của nó
đă biến mất trước cuối thời kỳ
Trung tâm đệ tam kỷ (Trung tâm tân thế).
[19] Xem Phật Giáo Nội Môn, trang 66-67, ấn bản lần thứ 8, tái bản 1918
[20]
Một “sự trùng hợp” nữa :
“Nay
người ta chứng tỏ rằng trong các thời
kỳ địa chất gần đây, vùng Bắc Phi này
thực sự đă là một bán đảo của Tây Ban
Nha, sự kết hợp của nó với Phi Châu (đích
thực) đă được thực hiện ở phía
Bắc do sự găy sụp eo biển Gibraltar, và ở phía
Nam do một cuộc nổi đất đă khai sinh ra sa
mạc Sahara. Các bờ của vùng biển
[21]
iii, tiếp theo 10 a.
[22]
Sinh Hoạt Thế Giới, của A. Wichell, trang 399.
[23]
Các Con Quái Vật Thần Thoại, trang 84 của
Charles Gould, cực trắc địa viên ở
[24]
Charles Lyell, người ta tin rằng “ông đă chế
ra một cách may mắn” các từ ngữ Thủy Tân
thế (Eocene), Trung tân Thế (Miocene) và Tiệm tân thế
(Pliocence) để chỉ ba phân đoạn của
Đệ Tam Kỷ (the Tertiary Age), ắt đă thực
sự dành cho “các sản phẩm trí tuệ” của ḿnh
một thời kỳ gần đúng. Tuy nhiên, v́ dành kỳ
gian của các địa kỷ này cho sự suy lư của
các chuyên viên nên “sáng kiến may mắn” này chỉ làm cho thiên
hạ thêm hoang mang bối rối. Dường như
thật là tuyệt vọng nếu cứ trích dẫn
một loạt số liệu trong một tác phẩm, v́ có
nguy cơ phát hiện thấy nó bị chính tác giả
ấy bác bỏ trong một quyển sách trước đó
hay sau đó. William Thomson (một trong các nhân vật có
thẩm quyền nhất trong thế giới hiện
đại) đă thay đổi ư kiến chừng nửa
tá lần về tuổi của Mặt Trời và thời
kỳ đông cứng của vỏ quả đất.
Trong “Triết Học Tự Nhiên” của Thomson và Tait, chúng
ta thấy người ta chỉ chấp nhận thời
gian mười triệu năm từ khi nhiệt
độ trên trái đất khiến cho sự sống thực
vật có thể xuất hiện trên Địa Cầu
được. (Phụ lục D và tiếp theo; cũng
như Văn kiện Hội Hoàng Gia Edinburgh, xxiii, phần
1, 157, 1862, trong đó 847 bị gạch bỏ).
[25]
Xem Văn kiện Hoàng Gia , Luân Đôn xxviii, 281
[26]
Gould, Các Con Quái Vật Thần Thoại, trang 91
[27]
Ở đây chỉ tŕnh bày bốn mươi chín trong
số nhiều trăm Tiết thơ, không phải câu
thơ nào cũng được dịch nguyên văn.
Đôi khi, ở những chỗ mà việc dịch sát nguyên
văn có thể hoàn toàn không hiểu được,
phải bắt buộc diễn tả dài ḍng để cho
đoạn văn rơ ràng và có thể hiểu
được.
[28] Ở đây, chúng tôi chỉ tŕnh bày ư tưởng và tinh thần của câu này, v́ nếu dịch sát nghĩa th́ độc giả chẳng lĩnh hội được bao nhiêu.
[29] Bầu thứ Tư tức
là Địa Cầu của chúng ta. Tất cả các chú
giải về bản dịch văn bản trong các ĐOẠN KINH và các Giảng lư đều là
của tác giả. Có thể là có chỗ chúng chưa hoàn
chỉnh, thậm chí c̣n chưa thỏa đáng theo quan
điểm của Ấn Độ; tuy nhiên, chúng lại có
ư nghĩa chính xác trong Nội môn Bí giáo xuyên Hy Mă Lạp
Sơn. Dù sao đi nữa, tác giả xin hứng chịu
bất cứ điều chê trách nào. V́ bà chưa bao giờ
tự cho là bản thân ḿnh không thể sai lầm, nên
những ǵ được tŕnh bày dựa vào thẩm
quyền của chính bà có thể c̣n nhiều sai sót, nhất
là những trường hợp rất bí hiểm liên quan
tới siêu h́nh học quá thâm sâu. Tác giả hiểu giáo lư
đến đâu th́ tŕnh bày đến đấy; xét v́ có
tới bảy ch́a khóa để giải mỗi biểu
tượng và ẩn dụ, nên một ư nghĩa có thể
không thích hợp (giả sử như) khi xét theo khía
cạnh tâm lư học và thiên văn học, lại sẽ
hoàn toàn chính xác khi xét theo khía cạnh hồng trần
hoặc siêu h́nh.
[30] Các Chơn Linh Hành Tinh.
[31]
Loka Chakshus (Thế giới nhăn).
[32]
Các Hành Tinh
[33]
Trang 313 và tiếp theo.
[34] Theo định nghĩa thông thái của Tiến sĩ A. Wilder, sự Khởi thủy không phải là sự sinh hóa, mà là một “sự xuất lộ từ Vĩnh cửu thành ra Vũ Trụ và Thời gian”; “một sự xuất lộ từ bản thể thành ra tồn tại” hoặc từ CHƠN NHƯ (BENESS) thành ra “Hiện Tồn” (“Being”) – theo lối nói của nhà Minh Triết Thiêng Liêng.
[35]
Muốn có một giải thích rơ ràng hơn về
nguồn gốc (được bao hàm trong Nội môn Bí giáo
của Chí Tôn Ca, xem các chú thích bàn về điều đó
được đăng trong tạp chí Theosophist, số
tháng 2, 3, 4 và 6 năm 1887.
[36]
Xem Cây Sephiroth
[37]
Zohar, Idra Suta, Tiết VII.
[38]
Quyển ii, Bài thơ 26, trang 432 - 434
[39]
Người ta nhắc đi nhắc lại rằng
Con Rắn là biểu tượng của Minh Triết và
kiến thức Huyền bí. C. Staniland Wake cho rằng: “Con
Rắn đă được liên kết với Thần Minh
Triết từ thời tiền sử”. Con vật này là con
vật biểu tượng chuyên biệt của Thoth
tức Taut … và của mọi thần linh, chẳng hạn
như Hermes [?] và Seth (vốn
có thể được liên hệ với Ngài).
Điều này cũng đúng đối với Ngôi Ba trong
Tam Nguyên bản sơ của dân
[40]
So sánh Các biểu
tượng của chư Tăng.
[41]
Đó là cây Nhân sâm trong Thánh kinh của Rachel và Leah.
Rễ cây này sốp thịt, có lông và tẻ nhánh,
đại khái tượng trưng cho tứ chi, ḿnh,
thậm chí cả đầu người nữa.
Người ta công bố các tính chất huyền nhiệm
về pháp thuật của nó trong các thần thoại và
vở tuồng từ thời thái cổ. Từ Rachael và
Leah (vốn mải mê dùng chúng để luyện phép phù
thủy) xuống tới Shakespeare [trong Romeo và Juliet, Hồi
IV, cảnh 3] khi đề cập tới “tiếng rú” –
“Giống
như cây nhân sâm bị nhổ lên khỏi mặt
đất,
Khi nghe
thấy chúng, đám thế nhân c̣n sống đều phát
cuồng (mad)”.
- cây nhân sâm (mandragora) vẫn là một cây có tính chất huyền nhiệm
tuyệt vời.
Các rễ cây
này không có một cái cuống bề ngoài nào; những
chiếc lá lớn mọc ra từ đầu rễ,
giống như một cái búi lông khổng lồ. Ở Tây
Ban Nha, Ư, Tiểu Á hoặc Syria, chúng không giống h́nh
người bao nhiêu; nhưng trên đảo Candia và ở
Karamania [xưa là một lănh thổ ở Tiểu Á],
gần thành phố Adan, chúng có dạng giống h́nh
người một cách kỳ lạ và được
đánh giá rất cao, coi như là bùa ngăi. Phụ nữa
cũng đeo chúng, coi như bùa để trị bệnh
hiếm muộn và dùng vào nhiều mục đích khác. Chúng
đặc biệt có nhiều hiệu quả trong Ma
thuật.
[42]
Mặt Trời.
[43]
Trái Đất
[44]
Copernicus tŕnh bày các lư thuyết của ḿnh về
“Sự quay ṿng của các Thiên Thể” vào thế kỷ 16.
Thế mà kinh Zohar (cho dù Moses de Leon biên soạn vào thế
kỷ 13) đă nêu rơ rằng:
“Trong Thánh
thư Hammannunah (Thái Cổ), chúng ta được biết
rằng trái đất tự quay quanh ḿnh dưới
dạng một ṿng tṛn; một số ở đỉnh,
một số ở bên dưới; … có một vài xứ
trên địa cầu được soi sáng, trong khi các
xứ khác lại ch́m trong bóng đêm; các xứ này đang
ở vào ban ngày trong khi các xứ kia lại ở vào ban
đêm; có những xứ luôn luôn ở vào ban ngày, hoặc ít
ra th́ đêm chỉ tiếp diễn trong một vài
khoảng khắc”. (Zohar, iii, tiếp theo 10 a,
được trích dẫn trong “Qabbalah” của Myer, trang
1389).
[45]
Xem thêm Tiết 21 của Thánh thư Vendĩdăd bàn
về vệ binh thiên giới.
[46]
Tục thờ cúng ngẫu tượng, II, 373
[47]
[Cả Saramă lẫn Sărameya đều có nghĩa là “chó
rừng” (“will dog”)].
[48]
“Trên sao dưới vậy” là công lư cơ bản
của Huyền bí học. V́ Thiên Đạo có tính chất
thất phân, nghĩa là nó biểu lộ khắp Vũ
Trụ trên cương vị là Bảy Thượng
Đế dưới bảy dạng khác nhau, hoặc (theo
giáo lư của các học giả Bà La Môn “mỗi vị
Thượng Đế này là nhân vật trung tâm của
một trong bảy nhánh chính của Giáo lư huyền môn
cổ truyền”, và v́ bảy nguyên khí (vốn tương
ứng với bảy trạng thái riêng biệt của Bát
Nhă hay Ư thức, nên các phân bộ phải như nhau trong tất
cả những ǵ liên can tới Trái Đất.
[49]
Khoa học dạy rằng Kim Tinh (Venus) nhận
của Mặt Trời lượng nhiệt và ánh sáng
nhiều gấp hai lần so với Trái Đất. Thế
mà, được biết Hành Tinh này vốn báo
trước buổi b́nh minh và lúc tranh tối tranh sáng (the
dawn and the twilight), và là Hành Tinh chói sáng nhất, đă ban cho
Trái Đất một phần ba lượng cung cấp mà
nó nhận được, và chỉ giữ lại
được cho ḿnh hai phần ba. Điều này có
một ư nghĩa Huyền bí cũng như là thiên văn
học.
[50]
Như thế, Kim Tinh là
, c̣n Trái Đất là
[51]
Do đó, bỏ qua khía cạnh tôn giáo siêu h́nh, xét
về mặt biểu tượng, Thập tự giá
của tín đồ Thiên chúa giáo c̣n có tính cách sùng bái sinh
thực khí hơn chữ Vạn của tín đồ
Ngẫu tượng giáo. So sánh Quyển 1, trang 72.
[52]
Thập tự giá có quai là dấu hiệu hành tinh thiên
văn của Kim Tinh, “có nghĩa là sự tồn tại
của năng lực sinh
sản theo nghĩa tính dục, đó là một trong các
thuộc tính của Isis, Từ Mẫu, của Eve, Hauvah
tức Địa Mẫu, nó được tất cả
các dân tộc cổ sơ công nhận như vậy, theo một
lối diễn tả nào đó”.
[53]
Xem Chư Thần Linh Ấn Độ, của Edward
Moor. (Xem các chú thích bổ sung).
[54] Athenaeus chứng tỏ
rằng thời xưa, chữ đầu tiên của danh
xưng của Quỷ Vương được tŕnh bày
tiêu biểu bởi một h́nh cung và một h́nh trăng
lưỡi liềm. Một số tín đồ Thiên Chúa
giáo La Mă lương thiện ắt sẽ thuyết
phục công chúng rằng chính v́ để tôn vinh các
chiếc sừng giống như h́nh lưỡi liềm
của Lucifer nên các tín đồ Hồi giáo mới chọn
h́nh lưỡi liềm làm quốc huy của ḿnh. Ngay
từ khi Chủ nghĩa giáo điều Thiên Chúa giáo La Mă ra
đời, Kim Tinh đă bị đồng nhất hóa
với Quỷ Vương và Lucifer, tức Đại Long
(thật là phi lư !). Các nhà biểu tượng học và
thiên văn học đă tŕnh bày như sau:
“Sự
kiện con rắn khiến chúng ta liên tưởng tới
bóng tối có một cơ sở thiên văn học. Vị
trí mà cḥm sao Thiên Long có lúc đă chiếm cứ, chứng
tỏ rằng cḥm sao Đại Xà là chúa tể của
đêm đen. Trước kia, cḥm sao này ở ngay giữa
trời và nó rộng lớn đến nỗi người
ta gọi nó là Đại Long (the Great Dragon). Cơ thể
của nó trải rộng khắp bảy cung Hoàng
Đạo; khi thấy Con Rồng trong Thánh thư Khải
Huyền nhắm nói tới cḥm sao Thiên Xà, Dupuis đă cho
rằng: “Chẳng có ǵ lấy làm lạ nếu tác giả
quyển sách đó có tŕnh bày tiêu biểu một cḥm sao
rộng lớn như vậy là một Con Rồng lớn
có bảy đầu, nó thu hút phần thứ ba của các
ngôi sao trên trời và ném chúng xuống đất”. (Staniland
Wake, Đại Kim Tự Tháp, trang 79; Dupuis, iii, 255).
Có
điều là Dupuis chẳng bao giờ biết
được tại sao
cḥm sao Thiên Long đă có lúc là sao Bắc
Đẩu – biểu tượng của Đấng
Hướng Dẫn (the Guide), Đạo Sư, lại
bị hậu thế làm cho giảm giá trị như
vậy. Một phương ngôn của Á Châu đă dạy:
“Chư Thần của Tổ Phụ chúng ta là loài ma quỷ
của chúng ta”. Khi cḥm sao Thiên long không c̣n là sao Bắc
Đẩu, bậc thần linh tinh đẩu chỉ
đạo, th́ nó cũng phải chịu chung số
phận với các Thần sa đọa. Theo Bunsen, Seth
hoặc Typhon đă từng là một đại Thần
Linh được tôn thờ ở khắp nơi ở Ai
Cập, Ngài ban cho các vị quốc vương thuộc các
triều đại thứ 18 và 19 các biểu tượng
của sự sống và quyền lực. Nhưng sau đó,
trong ṿng triều đại thứ 20, Ngài bất thần
được coi như là một ác quỷ, đến
nỗi mà các h́nh tượng và tôn danh của Ngài
đều bị dẹp bỏ ở khắp các
đền đài và lăng miếu mà người ta có
thể đến được. Chúng ta sẽ tŕnh bày lư
do Huyền bí thực sự trong các phần này.
[55]
De Civitate Dei, LXXI, viii.
[56]
Shukra là con trai của Đại Thánh Hiền Bhrigu và
là một trong bảy Đấng Prajăpatis; Ngài lập nên
Giống dân Bhărgavas; Parashurăma đă sinh ra trong Giống dân
đó.
[57] Đây là một điều
hoàn toàn mâu thuẫn của Swedenborg; ông thấy trong “Bầu Địa Cầu thứ
nhất của Cảm Dục Giới”, các cư dân ăn
mặc giống như các nông dân ở Âu Châu; c̣n trên Bầu
Địa Cầu thứ Tư, lại có các phụ nữ
ăn mặc giống như các bà chăn chiên trong một
cuộc khiêu vũ hóa trang !
Ngay cả nhà thiên văn học trứ danh Huygens cũng
lầm tưởng rằng các bầu thế giới và các
hành tinh khác có các loại thực thể giống y như
các loại đang sống trên Địa Cầu chúng ta, có
cùng khuôn mặt, giác quan, trí lực, nghệ thuật, khoa
học, chỗ ở, thậm chí cả vải may quần
áo nữa ! (Lư thuyết Thế
Giới: Theorie du Monde).
Muốn hiểu rơ hơn phát biểu cho rằng Trái
Đất “là hậu duệ của Mặt Trăng”, xem
Quyển 1, ĐOẠN KINH 6.
[58] Đây là một chú giải hiện đại. Nó được thêm vào các Giảng lư cổ truyền để giúp cho các môn sinh đă nghiên cứu Vũ trụ khởi nguyên luận Nội môn hiểu rơ hơn sau khi đă học theo lề lối Tây phương. Các chú giải trước kia có quá nhiều tính từ (hay tĩnh từ) và mỹ từ pháp nên đâu có dễ ǵ mà lĩnh hội được.
[59]
Trong trường hợp
này, “bên kia” Dăy Trường Sơn có nghĩa là Ấn
Độ, v́ đó là vùng ở bên kia Hy Mă Lạp Sơn so
với vùng bên này Hy Mă Lạp Sơn [Tây Tạng].
[60]
Trong các Tiết thơ này, chúng tôi dùng các từ ngữ
Pitris (Tổ Phụ) để cho dễ hiểu, nhưng
trong các ĐOẠN KINH nguyên thủy, chúng không
được dùng như vậy mà lại có các danh xưng
riêng, ngoài các danh xưng “Tổ Phụ” và “Tổ Tiên” ra.
[61]
Thật là sai lầm nếu xét sự tôn thờ các Bồ Tát tại thế
tức Văn Thù (Manjushrĩ) theo sát nghĩa. Xét về
mặt ngoại môn, đúng là phái Đại Thừa đă
giảng dạy sự tôn thờ các Đấng này một
cách hỗn độn và Huyền Trang đă đề
cập tới việc một vài đệ tử của
Đức Phật được tôn thờ. Nhưng xét
về mặt nội môn, vị đệ tử tức cá nhân Đấng Văn Thù thông
thái không hề được tôn vinh, mà chính các Đấng
Bồ Tát và Thiền Định Phật thiêng liêng đang
làm linh hoạt (amilakha, theo lối nói của người
Mông Cổ) các h́nh hài mới được như vậy.
[62]
Tác giả của tác phẩm này là Augustus Le Plongeon. Ông
và vợ đă nổi danh ở Mỹ v́ đă chuyên cần
hoạt động ở Trung Mỹ. Chính họ đă t́m
ra lăng tẩm của hoàng tộc Kan Coh ở Cichen- Itza.
Tác giả h́nh như tin tưởng và ra sức chứng
tỏ rằng giáo lư Nội môn của dân Ăryan và dân Ai
Cập thoát thai từ Mayas. Nhưng mặc dù chắc
chắn là đồng thời với Châu Atlantis của
Plato, dân Mayas lại thuộc về Lục địa
thứ Năm, vốn có sau Châu Atlantis và Lemuris.
[63]
Đúng hơn là trong In Matrem Deorum, Oratio v.
[64]
Trang 143
[65]
Dù sao đi nữa, bảy
hang động, bảy đô thị này v.v.. cũng
tượng trưng cho bảy trung tâm hoặc bảy vùng
mà nhóm nguyên thủy của Căn chủng đầu tiên
đă sinh ra trên đó.
[66] H́nh chạm trổ này
được mô phỏng lại trong Các Bí Pháp Thiêng Liêng
của người Mayas và người Quichés, trang 134.
[67] Xem Nguồn gốc các Kích thước, trang 50, 53
[68] Xem Nữ Thần
[69]
Tạp chí Tam Điểm,
[70]
Như trên, tác phẩm đă dẫn.
[71] Như trên, trang 11.
[72] Xem Nguồn gốc các Kích thước, trang 276 và tiếp theo, Phụ lục VII
[73] Tạp chí Tam Điểm, bài trang 11, 12.
[74]
Trong tác phẩm Al-Chazari của Jehuda-ha-Levi, bản
dịch của Tiến sĩ D. Cassel.
[75]
Chữ tượng h́nh (ND)
[76]
Chữ tượng h́nh (ND)
[77]
Bài đă dẫn, trang 12, 13.
[78] Quyển I, trang 152 và tiếp theo.
[79] Bài
đă dẫn, trang 2.
[80]
Như trên, trang 14.
[81]
Danh xưng Ak-ad
(tức dân Akkad) cùng loại với Ad-m, Hava (Eva), Aeden
(Eden); Ak-Ad có nghĩa là “Con
của Ad” giống như
con của Ad ở cổ Á Rập. Ad-ad, “Đấng Độc Tôn”, “Đấng
Bản Sơ”, là Ad-on
tức Đấng “Chí Tôn” của Syria và là phu nhân của Ad-ar-gat tức Aster’t, Nữ
Thần Syria. C̣n Gan-Aeden (
[82]
Xem Quyển 4, Phần 2, Tiết 2, bàn về Adam-Adami.
[83]
Theo một ư nghĩa nào đó, Adam-Jehovah, Brahmă và
Thần Mars đều như nhau; tất cả đều
là biểu tượng của các năng lực sinh sản bản sơ để
cho loài người sinh sôi nảy nở. Adam màu đỏ,
Brahma – Virăj và Hỏa Tinh (Thần Linh cũng như hành tinh)
cũng đều như vậy. Nước là “máu” của
Địa Cầu; v́ thế, tất cả các danh xưng
này đều có liên kết với Thổ và Thủy. Moses
dạy: “Nó lấy thổ và
thủy để tạo ra
một hồn người”.
Mars đồng nhất với Kărttikeya (tức Kărtikeya),
Thần Chiến tranh (theo một nghĩa nào đó)- vị
Thần này sinh ra từ mồ hôi của Shiva, Shiva-gharmaja và
Thổ. Trong Mahăbhărata, người ta tŕnh bày Ngài sinh ra
đời mà không có dính dáng ǵ đến một phụ
nữ. Ngài cũng được gọi là Lohita (đỏ) giống như
Adam, và các “người bản sơ” khác. V́ thế, tác
giả của Nguồn gốc các Kích thước thật
là chí lư khi cho rằng việc Mars (và tất cả các
Thần Linh Khác có các thuộc tính giống như vậy)
“là thần chiến tranh và đổ máu chẳng qua
chỉ là một ư niệm thứ cấp xuất phát
từ ư niệm sơ cấp về sự đổ máu khi
thụ thai lần đầu tiên”. V́ thế, sau này Jehovah
mới biến thành một vị Thần Linh chiến đấu, “Chúa Tể các Đạo binh” và
điều khiển cuộc chiến tranh. Y là Zodh (tức
Cain khi hoán vị) hung hăng đă giết chết em (gái) của ḿnh, “máu nó
vẫn tức tưởi trong ḷng đất”, Địa Cầu đă há
miệng ra uống máu (Sáng Thế Kư, iv, 10. 11).
[84]
Apollo Karneios chắc chắn là một biến thể
Hy Lạp của Krishna-Kirana Ấn Độ. Kirana có
nghĩa là quang huy; c̣n Karneios
(vốn là một tôn danh của Thần Apollo đối
với người Celt cũng như là người Hy
Lạp) có nghĩa là “Nhật sinh”.
[85]
[Sáng Thế Kư,iii,22, bản dịch
[86]
Kumuda-Pati [Kumuda- bạch liên, người ta bảo là
nó nở vào lúc mặt trời mọc; Pati = Tinh Quân.]
[87]
Pitri – Pati.
[88]
Budha, Mercury (Thủy Tinh).
[89]
Ushanas- Shukra, tức Kim Tinh, là Lucifer và dĩ nhiên là Sao
Mai. Ẩn dụ này thật đúng là có nhiều ư nghĩa
kỳ diệu. Như thế, Brihaspati tức Brahmanaspati
(trong kinh Rig Veda) chính là một vị thần vốn là
biểu tượng của nguyên kiểu của tục
thờ cúng theo nghi lễ ngoại môn. Ngài là lễ sư,
kẻ tế thần, kẻ cầu khẩn và phương
tiện chuyển đạt các lời cầu nguyện
của thế nhân tới chư Thần. Ngài là Purohita
(Lễ sư Gia đ́nh hoặc Giáo sĩ Triều đ́nh)
của Thiên giới Ấn Độ và là “Thiên Thần
Đạo Sư”. Soma là vị Thần bí nhiệm chủ
tŕ bản chất huyền nhiệm và Huyền bí nơi con
người và vũ trụ. Tără (vợ của lễ
sư; tiêu biểu cho kẻ tôn sùng) thích các chân lư Nội môn
hơn là lớp vỏ bên ngoài tức ngoại môn, hiển
giáo; v́ thế người ta mới tŕnh bày là nàng bị
Soma bắt đi. Nay Soma lại là tinh túy thiêng liêng của
danh xưng này, ban cho chúng ta các linh thị huyền nhiệm
và các điều thiên khải trong lúc xuất thần, có kết quả hợp nhất
với Budha (Minh
Triết), Mercury, Hermes v.v…; nói tóm lại đó là khoa học
mà tới nay, kẻ hiển giáo vẫn c̣n chụp mũ là
quỷ quái. Kỳ diệu thay khi mở rộng tập
hợp ẩn dụ này, chúng ta lại thấy thần
học Thiên Chúa giáo ủng hộ cuộc tranh căi của chư
Thần Linh Ấn Độ và coi Ushanas (Lucifer)- Ngài giúp Soma
chống lại sự nhân cách hóa cổ truyền trong nghi
thức tôn thờ này (Brahmanaspati, Đấng Chúa Tể
của các Thánh thư Brăhmanas, nay biến thành Jupiter-Jehovah) -
là Quỷ Vương, “Kẻ thù không đội trời
chung của Thượng Đế”.
[90]
Ta đă tŕnh bày ở đâu đó rằng chỉ có
Thiên Đế Adam-Kadmon, trong chương đầu
của Sáng Thế Kư, mới được làm cho giống với Thượng
Đế. [Đức Chúa Trời phán: “Ta hăy biến con
người ra giống y như ta xem sao”, chương I,
26]. Được biết trong chương 2, Adam
được biến thành ra giống y như
Thượng Đế trước khi y ăn trái cấm.
Adam trước tiên là Tập Đoàn Sephiroth, Adam thứ nh́
là Căn chủng thứ Nhất vô trí; Adam thứ ba là
Giống dân đă phân tính, đă sáng mắt ra.
[91]
Trái Đất
[92]
Achyuta là một từ ngữ hầu như không
thể dịch được. Nó có nghĩa là cái không
hề bị sa đọa hoặc thoái hóa và phản nghĩa
với Chyuta, cái bị sa đọa. Các Đấng
Thần Quân (Dhyanis) đang lâm phàm trong các h́nh hài
người thuộc Căn chủng thứ Ba và phú cho
họ trí năng (Manas); được gọi là Chyuta, v́
sao các Ngài đă sa vào ṿng sinh hóa.
[93]
Xem Das Kaushĩtiki Brăhmana [bản văn tiếng
Bắc Phạn], do Tiến sĩ B. Lindner biên tập, trang
132 (ấn bản 1887) và Rigveda Brăhmanas, do Tiến sĩ
văn chương A. Berriedale Keith dịch, trang 511, chú thích
cuối trang 2 (ấn bản 1920).
[94] Cũng gọi là Kăshyapa, một tôn danh.
[95] Đây
là lư do tại sao Chí Tôn Ca lại dạy chúng ta rằng,
thoạt đầu, Brahmă đă thông báo cho Nărada biết
rằng mọi người (cho dù là bọn tiện dân và
đám người dă man đi chăng nữa) đều
có thể biết được chân tướng của
Văsudeva và biết cách tín ngưỡng Đấng Thần
Linh này.
[96]
Xem Khảo Cứu Á Châu, i, 265
[97]
Thiên Đế Thánh
Thư (Book of God), trang 60.
[98]
Người ta tin là Sesha (vốn cũng là Ananta, Vô
Cực, “Chu kỳ Vĩnh Cửu” trong Nội môn Bí giáo)
đă truyền thụ thiên văn học cho Garga, nhà thiên
văn học xưa nhất ở Ấn Độ. Y
chỉ cần lấy ḷng Sesha là biết ngay
được tất cả mọi điều về các
hành tinh và biết cách đoán điềm hung, kiết.
[99]
Tức Asura Maya.
[100] Xem các chú thích bổ sung.
[101]
Xem Lịch Sử Văn Chương Ấn
Độ, trang 253, của Giáo sư A. Weber, trong tủ sách
Đông phương của Trubner.
[102]
Ngay cả Dân da đỏ Maya ở
[103]
Xem quyển 2, Tiết 16, Hoàng
Đạo thật là xưa cũ.
[104]
Như trên, trang 2.
[105]
Tirukanda Panchanga, dành cho chu kỳ Mạt Pháp 4986,
của Chintamany Raghanaracharya, con của nhà thiên văn nhà
nước nổi tiếng ở
[106]
300 triệu năm, tức Ba Thời đại
Huyền linh (Three Occult Ages). Kinh Rig Veda cũng phân chia
như vậy. Trong “Thánh Ca Y Sĩ” (x, 97, 1) có dạy: “Cây cỏ
xuất hiện trên Địa Cầu trước Chư
Thiên Ba thời đại
(Triyugam). Xem “Niên đại kư của người Bà La Môn”
ở cuối Đoạn kinh này).
[107]
H́nh hài sắc tướng.
[108]
Khoáng vật.
[109]
Thực vật.
[110]
Sarĩsripa, Svapada.
[111]
Trái Đất.
[112]
Chúng ta không được lẫn lộn hai cuộc
Sáng Tạo này với Bảy Cuộc Sáng Tạo hay Phân
đoạn của mỗi Thiên Kiếp. Ở đây, chúng
ta có ư nói tới các cuộc sáng tạo Chủ Yếu và Thứ
Yếu. Xem Quyển 2, Tiết 13 “Bảy Cuộc Sáng
Tạo”.
[113]
Trong Beresohith Rabba, Parscha ix.
[114]
Chương I, 31.
[115]
Xem Các bài Diễn văn Hibbert, 1887, Sayce, 390.
[116]
Các ư niệm này xuất xứ từ đâu?
Người Trung Hoa cũng có các truyền thuyết
giống như vậy. Theo nhà b́nh luận Kwob P’oh (Quách
Phát), trong các tác phẩm Sơn Hải Kinh (Shan-Hai-King)
một tác phẩm mà sử gia Chung Ku đă viết ra theo
các h́nh chạm trổ trên chín chiếc đỉnh do Vũ
Đế (Yu) (2255 trước T.C.) làm ra, người ta có
đề cập tới một cuộc hội kiến
với những người có
hai mặt riêng biệt
ở phía trước và ở phía sau đầu, các con quái
vật có ḿnh dê, mặt người, v.v… Trong Các Con Quái
Vật Thần Thoại (trang 27), khi tŕnh bày danh xưng
của một vài tác giả viết về Vạn vật
học, Gould cũng đề cập tới Sơn Hải
Kinh: “Theo nhà b́nh luận Quách Phát (276-324 sau T.C.) tác phẩm
này được soạn ra ba ngàn năm trước
thời của ông, tức là cách bảy triều
đại. Dương Tôn (Yang Sun) thuộc triều Minh
(bắt đầu năm 1368 sau T.C.) cho rằng nó
được Kung Chia và Chung Ku soạn ra?”- như đă
nêu trên. “Vào thời Hoàng Đế cuối cùng của triều Hạ (Hia) (1818
trước T.C), e rằng Hoàng Đế có thể hủy
các sách bàn về thời xưa và nay, Chung Ku đă mang chúng
đào thoát sang Thương (Yin)”.
[117]
Các áng văn cổ của Cory, trang 59.
[118]
Kinh Qabbalah, trang 246.
[119]
Từ các tàn tích của các giới khoáng vật,
thực vật và động vật.
[120]
Các cuộc Tuần Hoàn.
[121]
Chư Thiên và các Chơn Linh Hành Tinh, nhất là các
Đấng Thiên Thần (Ribhu). Ba Đấng Thiên Tôn
cũng biến thành ba lần bảy, theo số thiên tài
(gift) của các Ngài.
[122]
Các vùng Thái dương, Thái âm.
[123]
Hăy nhớ tới các “giống người có cánh”
của Plato và các lời tường thuật trong thánh
thư Popol-Vul về giống người đầu tiên,
họ có thể đi đứng, bay lượn và
thấy mọi vật; dù ở xa đến đâu đi
nữa.
[124]
Xem Các Con Quái Vật Thần Thoại, Charles Gould.
[125]
Trong quyển đầu của bộ sách vừa
mới xuất bản là Nhân Chủng Nhập Môn (Introduction
à l’Êtude des Races Humaines), ông
Quatrefages có tŕnh bày bằng chứng là từ sau Thời
Kỳ Đệ Tam Kỷ (thậm chí trước cả
thời đó) – v́ trong thời đại đó, trên
mặt Địa Cầu đă có rải rác nhiều
Giống người – cơ thể của con người
không hề thay đổi một chút nào. Và nếu trong hàng
bao nhiêu thời đại, con người đă bị bao
quanh bởi một hệ thực vật cứ thay
đổi từ một thời kỳ (hoặc chu kỳ)
này sang thời kỳ khác, nó chết đi rồi lại
tái sinh dưới các dạng khác – đến nỗi mà
hiện nay, trên Địa Cầu không c̣n tồn tại
một con vật nào (dù lớn hay nhỏ) đă từng
sinh hoạt với con người vào thời đó –
nếu ngoài con người ra, mọi con vật đều
đă tiến hóa, th́ sự kiện này chẳng những
chứng tỏ được rằng con người có
nguồn gốc rất xa xưa, mà c̣n chứng minh rằng
y thuộc về một Giới
riêng biệt trong Thiên Nhiên. Tại sao chỉ có một
ḿnh y lại không bị biến đổi như thế ?
Theo De Quatrefages, ấy là v́ trong cuộc đấu tranh
với Thiên Nhiên và các hoàn cảnh và yếu tố
địa chất vô thường, vũ khí mà con
người sử dụng chính là “mănh lực tâm linh
chứ không phải là sức mạnh thể chất”
như trong trường hợp các con thú. Nếu chỉ
cấp cho con người lượng trí tuệ và lư trí mà
các động vật hữu nhũ khác được phú
cho, với thể chất như hiện nay, y sẽ
tỏ ra là tạo vật cô thế nhất trên Địa
Cầu. Và v́ mọi chuyện đều có khuynh
hướng chứng tỏ rằng cơ thể con người với tất cả các
đặc tính, đă tồn tại trên Địa Cầu
vào những địa kỷ xa xăm khi chưa hề có
một kiểu mẫu của các dạng động
vật hữu nhũ hiện hữu nào, nên chúng ta
ắt phải kết luận ra sao đây ? Tại sao
lại kết luận như sau: : V́ tất cả các
giống người đều cùng thuộc một
loại, nên suy ra rằng loài này phải là loài xưa nhất trong số tất cả các
động vật hữu nhũ. Do đó, nó là loài ổn
định nhất và đă phát triển trọn vẹn
như hiện nay khi tất cả các động vật
hữu nhũ hiện hữu chưa hề sắp sửa
xuất hiện trên Địa Cầu. Đó là ư kiến
của nhà Tự nhiên học đại tài người
Pháp, xuyên qua ư kiến đó, ông đă giáng một đ̣n chí
tử vào thuyết tiến hóa của
[126]
Họ bảo.
[127]
Chơn Thần của các “mẫu triển lăm”
(the”presentments”) của loài người thuộc cuộc
Tuần Hoàn thứ Ba, các h́nh hài khổng lồ giống
khỉ.
[128]
Nước.
[129]
Trong một hệ thống Nội môn Bí giáo, bảy
“nguyên khí” nơi con người được tiêu biểu
bởi bảy linh tự. Hai linh tự đầu tiên thiêng
liêng hơn bốn chữ
của Tứ Linh Tự (Tetragrammation).
[130]
Các cơi trung gian, trong đó những Chơn Thần nào
không đạt tới cơi Niết Bàn, được xem
như ngủ im trong trạng thái vô thức giữa
những Chu kỳ Khai Nguyên.
[131]
Đă được giải thích ở đâu đó.
Ba Linh Hỏa Păvaka, Pavamăna và Shuchi, vốn có bốn
mươi lăm Con. Cùng với Ba Linh Hỏa và Cha của
chúng là Agni, tất cả cấu thành bốn mươi chín
Linh Hỏa. Pavamăna (Lửa do ma sát) là tổ phụ của Lửa của các A Tu La (the Fire of the Asuras); Shuchi
(Lửa Mặt Trời) là thủy tổ của Lửa của chư Thiên; c̣n
Păvaka (Lửa Điện) là Tổ Phụ của Lửa của các Pitris. (Xem Văyu
Purăna). Nhưng đây là một điều giải thích
trên cơi trần. Các Ngọn Lửa thật là phù du và chỉ
có tính cách định kỳ; các Linh Hỏa thật là
vĩnh cửu trong tính cách tam vị nhất thể. Chúng
tương ứng với bốn
“nguyên khí” hạ và ba “nguyên
khí” thượng nơi con người.
[132]
Các Đấng Thần Linh (Suras), sau này biến thành A
Tu La (A-Suras).
[133]
Linh giác, Tuệ giác và Trí Tuệ (Ătmă, Buddhi, Manas).
Ở cơi Cực lạc (Devachan), Tam vị nhất thể
này cần đến Thượng Trí để tạo nên
trạng thái tri giác và ư thức cho Chơn Thần đă
thoát xác.
[134]
Vấn Đáp Giáo Lư, Quyển iii, Tiết 9.
[135]
Xem Vishnu Purănas, bản dịch của
[136]
Trong Nội môn Bí giáo, điều này có liên hệ
trực tiếp với bảy “nguyên khí” của Brahmă
biểu lộ, tức Vũ Trụ, với tŕnh tự
giống như con người. Xét về mặt ngoại
môn, đó chỉ là bốn “nguyên khí”.
[137]
Bản dịch của
[138]
Chư Quỷ (Demons) là một từ ngữ
được dùng một cách thiếu chính xác, v́ nó
được áp dụng cho một số lớn các
vị Thần hạ đẳng (nghĩa là có tính cách
vật chất hơn) tức các tiểu Thần, họ
được gọi như vậy v́ họ “chiến
đấu” chống lại các Thần Linh thượng
đẳng; song họ đâu có phải là ma quỷ.
[139]
Theo giảng lư, “thu thập hết trí lực b́nh sinh
lại”, Mano samădhatte, là việc thực hành Yoga (Yuyuje),
Vishnu Purăna, Wilson, Quyển I, Chương v, trang 80.
[140]
Cùng trật tự với các nguyên khí nơi con
người: Linh giác (Tinh Thần), Tuệ giác (Linh Hồn),
hiện thể của nó, cũng như Vật Chất là
hiện thể của Tinh Thần, và Manas (Thể Trí),
nguyên khí thứ ba tức là nguyên khí thứ năm xét về
mặt Tiểu thiên địa. Manas là nguyên khí đầu
tiên trên cảnh giới phàm ngă.
[141]
Xem quyển 4, Phần 2, Tiết 4, bàn về huyền
thoại các Thiên Thần Sa Đọa.
[142]
Như thế, theo giảng lư, câu nói “Chư Thiên tung hoành ngang dọc vào ban ngày, chư
Quỷ tác oai tác quái vào ban đêm” hoàn toàn có tính cách
ẩn dụ.
[143]
Việc tự xem ḿnh
như kiểu này hoặc kiểu khác, là nhân tố chính
trong việc tạo ra mọi loại hiện tượng
tâm linh, thậm chí cả hiện tượng vật
chất nữa. Câu nói: “Kẻ nào dám bảo ngọn núi này
sẽ bị Ngài dời đi và ném xuống biển, mà không một chút nghi ngờ … th́ mọi việc
sẽ diễn ra y như vậy” nên được
dịch là Ư CHÍ. Đức tin mà không có ư chí chẳng khác nào
cối xay gió mà không có gió, chẳng nên việc ǵ cả.
[144]
Chúng ta cũng thấy ư tưởng đó trong
chương đầu của Sáng Thế Kư, với
“Đức Chúa Trời” và “Thượng Đế” là Elohim
và Eloha bán thư bán hùng.
[145]
Trang 398.
[146]
Trang 107
[147]
Các Thần Linh
[148]
Các Tinh Linh
[149]
Chương vi, 2 - 6
[150]
Nhưng hăy xem những khó khăn được
gợi ra sau này trong các tác phẩm của nhiều nhà
địa chất học khác nhau, để chống
lại thuyết này. So sánh với các bài của Sir R.S. Ball
đăng trong Thiên Nhiên, xxv, 79-82, 103-107, ngày 24-11 và 1- 12
năm 1881.
[151]
Các H́nh hài sắc tướng.
[152]
Theo Berosus, Nữ Thần khai sinh ra các con quái vật
nguyên thủy này là Thalatth, tiếng Hy Lạp là Thalassa,
“Biển”.
[153]
Để so sánh, hăy xem bài tường thuật về
sự sáng tạo của Berosus mà Alexander Polyhistor c̣n bảo
tồn được, với các thực thể gớm
ghiếc sinh ra từ nguyên khí lưỡng phân –Thổ và
Thủy- trong vực sâu Sáng tạo Nguyên thủy: Narăs (Nhân
Mă, kẻ có tay chân ngựa ḿnh người) và Kinnara
(người đầu ngựa) do Brahmă tạo ra vào lúc
khởi đầu Thiên kiếp (Kalpa).
[154]
Về một sự thừa nhận tương
tự, xem Triết Lư
của Giáo sư Lefèvre, trang 481.
[155]
Theo thần thoại Hy Lạp, Ariadne là con gái của
Minos, vua xứ Crete và Pasiphae, con gái của Helios, Thần
Mặt Trời, Anh hùng Theseus là một trong mười
bốn nạn nhân được gửi đến Crete do
người dân Athens theo lệ hàng năm phải cúng
nạp cho Minotaur, một quái vật ḿnh người
đầu ḅ bị nhốt trong đường hầm
của một mê cung. Khi nh́n thấy Theseus, Ariadne đă
phải ḷng chàng trai và nguyện sẽ giúp chàng nếu chàng
chấp nhận đem nàng về
Nhờ
buộc chắc một đầu chỉ vào cánh cửa,
Theseus vừa đi vừa tháo chỉ ra, t́m giết
được Minotaur. Sau đó, chàng thoát ra khỏi mê cung
bằng cách quấn chỉ lại.
Theseus cùng
đoàn tùy tùng đem Ariadne vượt biển hướng
về Anthens. Dọc đường, họ dừng
lại trên đảo
[156]
Xem trang 62.
[157] Parva xii, Adhyăya 10, Câu kinh 308
[158] Nội môn Bí giáo cho rằng
“Cuộc Tiến Hóa Vũ Trụ” này chỉ nhằm nói
về Thái Dương Hệ của chúng ta thôi. Trong khi
đó, nếu chúng tôi không lầm, Ấn Độ giáo
ngoại môn lại cho rằng các số liệu này nhằm
nói tới toàn bộ Hệ thống Vũ Trụ.
[159]
Đây lại là một điểm bất
đồng khác. Huyền bí học cho rằng các nguyên
kiểu tinh anh của các giới khoáng vật, thực
vật và động vật măi cho tới con người
phải mất 300 triệu năm để tiến hóa, tái
tạo từ các vật liệu phế thải của
cuộc Tuần Hoàn trước, mặc dù rất trọng
trược trong chu kỳ của chính ḿnh, các vật
liệu này lại tương đối tinh anh khi so sánh
với mức độ duy vật của cuộc Tuần
Hoàn trung gian hiện nay. Khi 300 triệu năm này đă trôi
qua, trên ṿng cung giáng hạ tiến sâu vào vật chất,
Thiên Nhiên đă bắt đầu công tác tiến xuống
với con người, làm đông cứng hoặc vật
chất hóa các h́nh hài sắc tướng trong khi tiến
hóa. Như thế, các vật hóa thạch được t́m
thấy trong các địa tầng (chúng ta phải xem
như chúng có nguồn gốc xa xưa tới hàng trăm
triệu năm, chớ không phải là 18 triệu năm)
đều thực sự thuộc về các h́nh hài sắc
tướng của cuộc Tuần Hoàn trước (khi c̣n
sinh thời, chúng tinh anh hơn vật
chất hồng trần mà chúng ta biết hiện nay). Việc
chúng ta tri giác và khai quật được chúng là do
tiến tŕnh thể hiện hoặc kết tinh mà chúng ta
đă đề cập tới, nó đă diễn ra sau đó
vào lúc bắt đầu cuộc Tuần Hoàn thứ Tư
và đạt tột đỉnh sau khi con người
xuất hiện, diễn ra song song với cuộc tiến
hóa vật chất của Địa Cầu biến thiên
tỷ lệ với mức độ vật chất
của cư dân. Và như thế, dựa vào các vật hóa
thạch hữu h́nh, con người có thể thấy
được những ǵ đă từng là các h́nh thể
tinh anh (đối với các giác quan hiện nay của y)
của các giới hạ đẳng. Các số liệu Bà
La Môn nêu trên nói về cuộc tiến hóa bắt đầu
trên Bầu A và trong cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất.
Trong Quyển này, chúng ta chỉ nói về cuộc Tuần
Hoàn thứ Tư hiện nay.
[160]
Tác giả không thể đảm nhiệm việc
giải thích sự dị biệt này và thay đổi
của các chữ số trong 9 con số cuối cùng. Theo
mọi phép tính toán, một khi đă trừ đi 300
triệu, các con số phải là 1 655 884 687. Nhưng chúng tôi
được tŕnh bày theo niên lịch Tamil nêu trên (sau khi
đă được dịch ra). Trường phái của
học giả Dayănand Sarasvatĩ (kẻ sáng lập ra
trường phái Ărya Samăj) tŕnh bày một Phật kỳ 1
960 852 987 năm. Xem Tạp chí Ărya,
[161]
Trong ẩn dụ, Hóa thân Matsya (Người Cá), Bàn
Cổ Vaivasvata là Người duy nhất – một vài
lối thuyết minh c̣n kèm thêm bảy Thánh Hiền với
Ngài – đă được cứu thoát khỏi trận
Đại hồng thủy trong một chiếc thuyền,
giống như Noah trong Chiếc Bè. Do đó,
[162]
Bởi v́ một Đại
[163]
Sách đă dẫn, mục “Địa chất học”.
[164]
Như trên. Điều này khiến cho ngay cả “Niên
đại kư Adam” 6 000 năm trong Thánh kinh cũng có
được một cơ may.
[165]
Khoa Học Hiện Đại và Tư Tưởng
Hiện Đại, trang 48.
[166]
Tới kỷ Silua xét về loài nhuyễn thể và
cuộc sống động vật th́ tất nhiên rồi;
nhưng chúng biết ǵ về con người?
[167]
Như trên, phần đă dẫn.
[168]
Như trên, trang 49.
[169]
Winchell, Sinh Hoạt
Thế Giới, trang 180.
[170]
Sách đă dẫn, trang 49.
[171]
Vishnu Purănas của
[172]
Quyển I, trang 32.
[173]
Bầu khí quyển, tức không khí, bầu trời.
[174]
Harivamsha, I, 36.
[175]
Sáng Thế Kư, I, 6 – 9.
[176]
Các Tinh Quân.
[177]
Họ được khuyến cáo.
[178]
Nghĩa là Jivas tức các Chơn Thần.
[179]
Địa Mẫu tức Thiên Nhiên.
[180]
Đối với các thể bên ngoài.
[181]
Chương xxi, 16.
[182]
Xem Thánh thư của các Thánh Vương 2, iv, 23.
[183]
Theo niên đại kư kỳ diệu của Bentley (ông
đă soạn ra nó vào lúc mà niên đại kư Thánh kinh vẫn
c̣n chưa bị dị nghị) cũng như theo niên
đại kư của các nhà Đông phương học
hiện đại cứ ra sức rút ngắn hết
mức các nhật kỳ của Ấn Độ.
[184]
Shrĩ là con gái của Bhrigu, một trong các
Đấng Prajăpatis và Thánh Hiền, thủ lănh của các
Bhrigus, “Các Đấng Thiêu Rụi”, chư Thần Linh
thuộc loại Phong. Nàng là Lakshmĩ, (phu nhân của Vishnu)
và nàng Gaurĩ, “cô dâu của Shiva” và Srasvatĩ (Thủy
Nương, phu nhân của Brahmă) v́ cả ba Thần Linh và
Nữ Thần này đều là một, biểu hiện
thành Ba Ngôi. Cứ đọc lời giải thích của
Parăshara trong Vishnu Purană (Wilson, Quyển I, trang 118 – 120) là
bạn sẽ hiểu ngay. Ông cho rằng “Tinh Quân của
Shrĩ là mặt trăng” và “Shrĩ là phu nhân của Nărăyana,
Thần Linh Vô Thượng”. Shrĩ tức Lakshmĩ (Venus)
là Indrăni cũng như là Sarasvatĩ, v́ theo Parăshara: “Hari
[tức Ĩshvara, Đấng Chí Tôn) là tất cả
những ǵ được gọi là hùng [trong Vũ
Trụ], c̣n Lakshmĩ là tất cả những ǵ
được gọi là thư. Ngoài các Ngài ra, chẳng c̣n
ǵ nữa”. V́ thế, nàng là vũ trụ âm, c̣n
“Thượng Đế” là Vũ Trụ dương.
[185]
Chính Shrĩ là “Nữ Thần thịnh vượng”.
[186] Tạp
chí Tam Điểm (
[187]
[188] Gia
trưởng
[189]
[190] Xem
Mahăbhărata.
[191] Ấy
là v́ theo ẩn dụ, e sợ nghĩa vụ thiêng liêng
của các Thực Thể tự lực lâm phàm vốn
đă biến thành các tu sĩ khổ hạnh và các Yogĩ,
và như vậy hăm dọa làm đảo lộn
quyền năng của các Thần Linh bằng các quyền
năng do tự lực công phu của ḿnh – Thần
Linh nào không đích thân lập công bồi đức, đă
tố cáo họ. Tất cả các điều này có một
ư nghĩa triết học thâm sâu và muốn nói tới
sự tự lực phát triển và thủ đắc các
quyền năng. Kinh Purănas có tŕnh bày một vài Thánh Hiền
luyện Yoga c̣n có nhiều quyền năng hơn chư
Thiên. Thế rồi, các vị Thần thứ yếu
tức các Quyền năng nhất thời trong
[192] H́nh
Tam giác biến thành một h́nh Ngũ giác trên Trần
Thế. Xem Quyển 1, ĐOẠN KINH
3 đến ĐOẠN
KINH 5.
[193] Theo
Bunsen và những người khác, Seth không những là
“Thần Linh bản sơ” của người Semite (kể
cả người Do Thái thời sơ khai) mà c̣n là “tổ
phụ bán linh” của họ nữa. Ấy là v́, theo Bunsen
(Lịch sử Thần Linh, I, 233-234): “Thoạt tiên Seth trong
Sáng Thế Kư, cha của Enoch (con người), phải
được xem như là tương đương
với cái xuất phát từ Elohim, cha của
[194]
Thánh thư
[195]
Vayu Purăna, chương 1 xv, câu 156
[196]
Xem Vén Màn bí mật Thánh kinh Kabalah,
của Mather, trang 302.
[197]
Được dịch lại
trong kinh Qabbalah của Isaac Myer, trang 386 – 387.
[198]
Zohar iii, 135 a, 292a, Idra Zootah. Ấn
bản Brody, Idra Zootah, được trích dẫn trong kinh
Qabbalah của Myer, trang 386.
[199] Sáng
[200]
Xem quyển 4, Tiết 3, Mật
Điện.
[201] Kinh
Zohar,iii, 290a, ấn bản Brody. Idra Zooth trích dẫn trong
kinh Qabbalah của Isaac Myer, trang 387 – 388.
[202]
Quyển ii, 5.
[203]
Tức là Trí sinh (Mind-born).
[204] Vô cực điện (Fohat).
[205]
“Dựa vào các khám phá hiển nhiên
nhất của cơ thể giải phẫu học
đối chiếu, Huxley có thể long trọng phát
biểu rằng những điểm dị biệt về
cơ thể giũa con người và các con khỉ cao
cấp nhất c̣n ít hơn các điểm dị biệt
giữa các con khỉ cao cấp nhất và các con khỉ ít
tiến hóa nhất. Xét về cây nhân phả hệ
(genealogical tree of man), chúng ta ắt phải suy ra là loài
người đă tiến hóa
dần dần từ các con khỉ đích thực mà ra (Ṇi
giống Con Người của Ernst Haeckel, bản
dịch của
Thử
hỏi khoa học và luận lư có thể phản
đối kết luận ngược lại như
thế nào? Những điều tương tự về
việc giải phẫu cơ thể giữa Con
người và Các loài giống người – theo ông de
Quatrefages, các kẻ theo thuyết tiến hóa của
“Trong các
lớp trầm tích xa xưa, chúng ta chẳng hề thấy
một con khỉ gần giống với con người
hoặc một con người giống với một con
khỉ”.
“Các hố
sâu ngăn cách giữa con người và con khỉ vẫn
cứ y nguyên khi chúng ta truy nguyên nó tới tận Đệ
tam kỷ. Chỉ riêng sự kiện này thôi cũng làm
nổi bật lên tính cách bấp bênh của nó”. (Tiến
sĩ F. Pfaff, Giáo sư vạn vật học ở viện
Đại học
[206]
Xem Yoga Shăstra, ii, 32.
[207]
[208]
Matsya Purănas, Padma Purănas và Kullũka
bàn về Mănava-Dharma- Shăstra, iii, 195. Chúng ta biết rơ
rằng Văyu Purănas và Matsya Purănas đồng nhất hóa (phù hợp với lối
thuyết minh của Tây phương) chư Nhật Tinh Quân
với các mùa, chư Nguyệt Tinh Quân với các tháng;
cộng thêm một hạng thứ tư (K ăvyas) tức là
các năm tuần hoàn. Nhưng chẳng lẽ các tín
đồ Thiên Chúa giáo La Mă không đồng nhất hóa các
Thiên Thần của ḿnh với các Hành Tinh hay sao? Chẳng
lẽ Bảy Thánh Hiền không được biến thành
Saptarishis (một cḥm sao) ư? Các Ngài là chư Thần Linh
chủ tŕ mọi phép phân chia tuần hoàn. [Bốn hạng
thủy tổ là: (1) Các con của Atri; (2) Các Nguyệt Tinh
Quân; (3) Các Nhật Tinh Quân; (4) Kăvyas].
[209]
Vishnu Purăna,
[210]
Tiết 1, 935 – 936.
[211]
Văyu Purăna tŕnh bày là vùng
được gọi là Virăja-loka có các Nhật Tinh Quân
cư trú.
[212]
[213]
Phần đă dẫn, như trên.
[214]
Tạp chí Theosophist, tháng 3 năm
1887, trang 360.
[215]
[216]
[217]
Chhăyăs
[218]
Tức Amănasas.
[219]
Như thế đó.
[220]
Nước da.
[221]
Cũng.
[222]
Đấng Sáng Tạo.
[223] Các
bóng ma.
[224]
H́nh bóng.
[225]
Điều này được ám
chỉ trong Nữ Thần Isis Lộ Diện (quyển I,
trang xxxviii), mặc dù lúc bấy giờ không thể tŕnh bày
trọn vẹn phần giải thích: “Các Pitris không phải
là thủy tổ của loài người sống vào
thời hiện nay, mà là thủy tổ của loài
người đầu tiên tức là giống dân
[226]
Xem Luật Bàn Cổ - Mănava- Dharma
Shăstra, iii, 203.
[227]
Các Thánh Kinh của Phương
Đông, quyển IV, Zend-Avesta, phần dẫn nhập iv,
trang lviii, bản dịch của James Darmesteter.
[228]
So sánh thêm với những
điều được tŕnh bày về Makara và các Thiên Tôn
liên quan tới Hoàng Đạo.
[229]
Do đó, mới có những lời
khẳng định sau đây mà Thánh John đă đề
cập tới trong cơn linh thị trong Thánh thư
Khải Huyền: “Con Rồng đỏ có bảy
đầu và mười
sừng, đội bảy cái vương miện trên
đầu, lấy đuôi kéo phần thứ ba của các
ngôi sao trên trời và ném chúng xuống đất”.
Chương xii, v, 3 – 4.
[230]
Câu thơ “ném chúng xuống
đất” chứng tỏ rơ rệt là nó bắt nguồn
từ một ẩn dụ vĩ đại nhất
của các nhà huyền học Ăryan. Sau khi các người khổng lồ và các thầy phù thủy thời
Châu Atlantis đă bị diệt vong, các nhà huyền học
này đă ngụy trang chân lư – thiên
văn, vật lư và thiêng liêng – dưới nhiều
ẩn dụ khác nhau. Lối thuyết minh Nội môn xác
thực của nó là một biện thần luận chân
chính về cái gọi là các “Thiên Thần Sa Đọa”. Nay
các tín đồ Cơ Đốc giáo đă làm lẫn
lộn phức tạp các Đấng sẵn sàng sáng
tạo với các vị ngần ngại, không chịu sáng
tạo. Họ đă quên mất rằng chính Tổng Thiên
Thần cao cấp nhất của họ (Thánh Michael)-
người ta tŕnh bày là Ngài đă chinh phục (chế
ngự và đồng hóa) được Con Rồng Minh
Triết và Hy sinh thiêng liêng (nay bị gán cho và vu khống là
Satan) lại chính là
người đầu tiên không chịu sáng tạo.
Điều này đă gây ra t́nh trạng rối rắm vô
tận. Thần học Thiên Chúa giáo đă hiểu rơ ngôn
ngữ nghịch lư và biểu tượng kư của Đông
phương ít đến nỗi mà nó dám giải thích (theo
lối chấp nê văn tự) nghi lễ ngoại môn
của Ấn Độ và Phật giáo Trung Hoa là đă kêu
réo to lên để hù con
đại xích long đang lăm le cướp lấy “ánh
sáng”! Nhưng ở đây, ánh sáng có nghĩa là Minh Triết
Nội môn; vả lại, chúng tôi đă giải thích
thỏa đáng về ư nghĩa bí nhiệm của các
từ ngữ Rồng Rắn v..v… tất cả các từ
ngữ này đều muốn nói tới các Cao đồ và
Điểm đạo đồ.
[231] Xem
Sáng
[232]
Bất chấp mọi nỗ
lực ngược lại. Thần học Thiên Chúa giáo –
vốn bị đè bẹp bởi lối thuyết minh
Nội môn Hebrew về cấu tạo của con
người, mà nó chỉ hiểu theo sát nghĩa – vẫn không tài nào t́m ra
được một lư do để biện minh cho
việc “Thượng Đế, Đấng Sáng Tạo”
đă tạo ra một người không có trí khôn và lương
tri, Nó cũng không thể biện minh cho h́nh phạt
tiếp theo sau một hành động mà Adam và Eve có thể
viện cớ là v́ thiếu trí
khôn. Ấy là v́, nếu người ta thừa nhận
rằng Chàng và Nàng không hề biết tới điều
thiện và điều ác trước khi ăn trái cấm,
th́ làm sao chúng ta có thể mong đợi rằng họ
biết sự bất phục tùng là điều
ác? Nếu bảo rằng con người nguyên thủy
vẫn là một sinh linh chỉ có trí khôn nửa vời (hay
đúng hơn là không có trí khôn), th́ sự sáng tạo ra y
thật là vô ích, thậm chí c̣n tàn ác nữa (nếu y
được một vị Thượng Đế toàn
thiện toàn năng tạo ra). Nhưng ngay cả trong Sáng
Thế Kư, người ta cũng tŕnh bày là
[233]
Trong Nữ Thần
[234]
I, 18. Xem bản dịch từ tiếng Hy Lạp
của ông Francois de Foix, Giám mục ở Ayre: tác phẩm này
được kính dâng lên Marguerite de France, Hoàng Hậu
[235]
Asgard và
[236]
Đề cập tới
điều này, ông James Darmesteter (người dịch
Vendĩdăd) đă cho rằng: “Cho dù là ǵ đi nữa, cái
cây…”- Các Thánh Thư của Phương Đông, quyển iv,
trang 209, chú thích cuối trang.
[237]
Timaeus của Plato.
[238]
Xem các chú thích bổ sung ở
cuối quyển.
[239]
Xem Asgard và Chư Thiên, trang 305.
[240]
Như trên, phần đă dẫn.
[241]
[Miếng gỗ cây Shamĩ, dùng
để nhóm lửa thiêng bằng cách cọ xát]
[242] Giáo
sư Joly cho rằng: “Cha của lửa thiêng tên là Tvashtri… Mẹ nó là Măyă. Chính Ngài
có biệt hiệu là Akta
(được xức dầu thánh) sau khi các lễ
sư đă đổ lên đầu Ngài Soma (cam lộ) giống như rượu [?] và
đổ lên ḿnh Ngài bơ đă được tinh
luyện bằng cách tế thần”. (Con người
trước Thời đại kim khí, trang 180). Môn
đồ phái và
với Arani, và gọi chúng như vậy. Ông c̣n nói thêm: “Cách nhóm
lửa (kindling) tự nhiên này là sẽ khiến
người ta nghĩ tới sự sinh dục”… Tại sao
một ư tưởng trang trọng hơn, Huyền linh
hơn lại không thể khiến cho con người phát
minh ra biểu tượng này (xét về khía cạnh liên quan
tới sự sinh dục của con người)? Nhưng
biểu tượng kư chủ yếu của nó nhằm nói
tới Vũ trụ khởi nguyên luận.
Giáo sư
Joly nhận xét: “Agni (trong
trạng thái Akta, tức
được phong thánh (ám chỉ Christ, Măyă chỉ
Đức Mẹ Mary, thân mẫu Ngài; Tvashtri chỉ thánh Joseph, người thợ
mộc trong Thánh kinh”.
[243]
Đấng Mănushya thực sự.
[244]
Các Nguyệt Tinh Quân (?)
[245]
Kavyavăhana, lửa điện.
[246]
Shuchi, tinh thần nơi mặt trời.
[247]
Các Đấng Thủy Tổ và hai loại lửa.
[248]
H́nh hài.
[249]
Không hiểu sao trong kinh Purănas,
“Bhutas” lại được các nhà Đông phương
học dịch là “ác quỷ”(evil spirits). Trong Vishnu Purănas
(Bản dịch của
[250]
Xem Giảng lư và Câu kinh 39,
ĐOẠN KINH 10.
[251]
Xem Pymander, bản dịch của
Everard, II, các Câu thơ 17 – 29.
[252]
Sáng
[253] Trang
91.
[254]
Như trên, phần đă dẫn.
[255]
Như trên, phần đă dẫn.
[256]
Chơn Thần con người.
[257]
Dĩ thái h́nh
[258]
Kăma Rũpa.
[259]
Shichi, lửa đam mê và bản năng thú dục
[260] Lửa
Mặt Trời.
[261]
Con người mới sinh ra.
[262]
Sau này
[263]
Giống dân
[264]
Xem Câu kinh 22.
[265]
[Axieros (bậc
trưởng thượng); Axiokersa (nữ nhân); Axiokersos
(kẻ hậu sinh); Kasmilos (tức Kadmilos) một vị
thần thiếu nhi, “Hiếu tử”, các Thần Linh
Samothrace.]
[266] Chẳng
hạn như do các tác nhân của Đấng Vô
Thượng.
[267] Pymander,
I, 6. Các đối thủ của Ấn Độ giáo
muốn gọi điều trên là Phiếm thần giáo hay là
Đa thần giáo hay là ǵ cũng được. Nếu
khoa học không hoàn toàn bị thành kiến làm cho quáng
mắt, th́ nó sẽ thấy trong vấn đề này
một kiến thức sâu xa về khoa học tự nhiên,
vật lư học, cũng như là siêu h́nh học và tâm lư
học. Nhưng để t́m ra điều đó,
người ta phải nghiên cứu các điều nhân cách
hóa rồi chuyển chúng thành ra các nguyên tử hóa học.
Bấy giờ, người ta sẽ thấy rằng nó
thỏa măn cả vật lư học lẫn khoa học duy
vật thuần túy, cũng như những kẻ cho
cuộc tiến hóa là công tác của “Đại Nguyên Nhân
Bất Khả Tri” xét theo các khía cạnh hiện
tượng và hăo huyền.
[268]
Bản dịch của
[269]
[“Pundarĩkăksha tức là có mắt
giống như hoa sen, hoặc thấu tận tim,
người ta c̣n giải thích Pundarĩka là vinh quang tối
cao và aksha là bất diệt. Cách giải nghĩa từ
nguyên thứ nhất thông dụng hơn cả”.
[270] Như
trên, quyển I, trang 2 – 3.
[271]
Câu kinh 153 – 154.
[272]
Nó được tŕnh bày
bằng biểu tượng Tam giác Pythagoras, mười
chữ yod ở bên trong, và bảy đỉnh của h́nh
Tam giác và h́nh Vuông. Xem quyển 2, Phần 3, Tiết 14:”
[273]
Do đó, môn đồ Do Thái Bí giáo
mới dùng từ ngữ “Ma h́nh” để gọi Cảm Dục Thể (Kăma Rũpa), thể mà các Thiên
Thần thượng đẳng (dưới dạng
Thượng Trí) bỏ lại, khi Thượng Trí bỏ
phần cặn bă của ḿnh để tiến nhập Devachan.
[274]
Bách Khoa Từ Điển Tam
Điểm Hoàng Gia của Mackenzie, trang 409- 411.
[275] Viii, 20.
[276] De
Bello Judaico, ii, 12.
[277]
De gigantibus, trang 222C.; De Somniis, trang
455 D.; điều này chứng tỏ rằng phái
[278] I,
vi, 3.
[279]
Kinh Zohar, ii, 229 b.
[280]
Tuy nhiên, như đă tŕnh bày, nó
lại được bổ chứng bởi Nội môn Bí
giáo của Sáng Thế Kư. Chẳng những các con thú
được tạo ra trong đó sau “
[281]
THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH, iii, 19 (BOOK OF DZYAN, iii, 19)
[282]
Trong ấn bản 1888 là Hydrargym.
[283]
Kenealy, Thiên Thư (Book of God), trang
114 – 115.
[284]
Nếu có ai hỏi: “Hydrogen có liên
hệ với không khí hay sự Oxy hóa như thế nào? Xin
đáp: “Trước hết hăy nghiên cứu phần Vỡ
ḷng của khoa Luyện kim đan Huyền bí. Tuy nhiên, Khi nôn
nóng đồng nhất hóa Pymander (“cửa ngơ bí mật”) với
Thánh John Baptist một cách tiên tri, các nhà biểu tượng
học Thiên Chúa giáo cũng đă đồng nhất hóa
bảy Đấng Kabiri và các con Ḅ mộng Assyria với các
Tiểu Thiên sứ của tín đồ Do Thái và các Tông
đồ. Hơn nữa sau khi đă phân biệt rơ rệt ba và
bốn – ba là các Thiên Thần sa đọa – ngoài ra
để tránh việc liên hệ các Thiên Thần sa
đọa này với “Bảy Chơn Linh Bản Diện”
(Các Tổng Thiên Thần), họ đă tùy tiện dẹp
đi những ǵ mà họ không muốn nh́n nhận. V́
thế, mới có sự xuyên tạc thứ tự của
các nguyên tố để làm cho chúng ăn khớp với
thứ tự của các Phúc âm và đồng nhất hóa
[285]
Xem Các bài Thuyết tŕnh của
Hibbert, 1887, trang 370 và tiếp theo.
[286]
Sepher M’bo Sha-arim, gần
cuối, do Isaac Myer dịch, Qabbalah, trang 110.
[287]
Ở đây, chúng tôi
chỉ tŕnh bày ư tưởng và tinh thần của câu này, v́
nếu dịch sát nghĩa th́ độc giả chẳng
lĩnh hội được bao nhiêu.
[288]
S. Laing, Khoa Học và Tư
Tưởng Hiện Kim, trang 90.
[289]
Xem Q. 1, Phần 1, Đoạn kinh
7, trang 306.
[290]
Tại sao tất cả -
người cũng như thú – lại không phải là
Giống dân thứ Nhất thủy tổ, c̣n tại sao một thứ lại là
“thủy tổ xa xưa”?
[291] Hiển
nhiên là như thế, theo các đường lối của
thuyết tiến hóa, nó truy nguyên loài hữu nhũ tới
một tổ phụ lưỡng thê (sống hai nơi) nào
đó.
[292]
Ấn bản kỳ II, trang 161.
[293] Như trên, trang 161 – 162.
[294]
De Quatrefages, Các Giống
Người, trang 124, “Tủ Sách Khoa Học Quốc
Tế”, quyển XXVI.
[295] Như
trên, trang 125.
[296]
Trang 186.
[297]
Odyssey, xi, 298 – 305; Iliad iii, 243.
[298]
Hyg ., Fab., 80. Ovid., Fasti., 700 v.v.. Xem Thần Thoại
Cổ Hy Lạp, trang 658.
[299]
Xem Decharme, như trên, trang 652.
[300]
Xem x, 80 và tiếp theo. Theocr., xxiv,
131.
[301]
XXXIV, V, 5, Theocr , xxii, 1.
[302]
Iii, 10, 7.
[303] Apollodorus,
iii, 1.
[304]
Mộ của Castor được
trưng bày ở
[305]
Pindar, Xem x, 60 và tiếp theo, Dissen.
[306]
Schol,
[307]
Chơn
Thần th́ vô ngă và bản thân là một thần linh,
mặc dù vô thức trên cơi này. V́ tách rời với nguyên khí
thứ ba (thường được gọi là nguyên khí
thứ năm (Manas) vốn là đường ngang của
tam giác tức tam nguyên biểu lộ bản sơ, nên có
thể không có tri giác được vạn vật trên cơi
trần này. Trong cơi biểu lộ, “cái cao siêu nhất nh́n
qua mắt cái thấp thỏi nhất”,
[308] Các
bài Tiểu Luận về Đạo Đức.
[309]
Decharme đă chấp
nhận ư tưởng và lối thuyết minh kỳ lạ
này trong tác phẩm Thần thoại học cổ Hy Lạp
(trang 655). Ông cho rằng Castor và
[310]
Xem Thánh Thư Enoch, bản dịch
của Giáo sư Laurence, 1888.
[311]
Cũng như Brahmă và Thần
chiến tranh,
[312]
Abel chính là Chebel, có nghĩa là
“đau đẻ”, thụ thai.
[313]
Xem Nữ Thần Isis Lộ
Diện, II, trang 398, trong đó có tŕnh bày Jehovah là do
[314]
Xem Nữ Thần
[315]
Sáng Thế Kư, v, 2.
[316]
Như trên, v, 3.
[317]
Trang 159.
[318]
Trong kinh Kabalah, Jod có
biểu tượng là bàn tay, ngón tay trỏ và dương
vật, c̣n xét về mặt số mục, nó thật là toàn
bích, nhưng nó cũng là số 10, thư và hùng khi
được phân chia ra.
[319]
Vishnu Purăna, Wilson,
quyển I, trang 19 – 20.
[320]
Trích
dẫn trong Qabbalah của Myer, trang 110.
[321]
Xem Nguồn gốc các Kích Thước, trang 277.
[322]
Sách đă dẫn trên.
[323]
Quyển II, 464 và tiếp theo.
[324]
Xem Sáng Thế Kư, iv, 1.
[325]
Jeremiah, x, 11.
[326]
Nữ Thần
[327]
Để so sánh, xem Hosea, xii, 6,
trong ấy nó được chấm câu như thế.
[328] Xem
Nữ Thần
[329]
Mặt Trăng.
[330]
Xem Timaeus.
[331]
Xem các đoạn trích từ bài tiểu luận có trong
Tạp chí Theosophist, số tháng 2 – 1883, trang 112 – 114. Phần
sau đây được rút gọn lại từ các
đoạn đó.
[332] Hăy so sánh với linh thị của
Ezekiel (chương i) về bốn Đấng Thiêng Liêng
“giống như người” song vẫn có h́nh dáng của
một cái bánh xe, “khi di chuyển, họ lăn bốn phía…
v́ tinh thần của các tạo vật sống động
ngự nơi các bánh xe”.
[333] Tín
đồ Thiên Chúa giáo Eugibinus và các giáo sĩ Do Thái Samuel,
Menasseh ben
[334]
Xem sự kết hợp của
Chokmah, Minh Triết, với Binah, tức Trí Tuệ, hay là
Jehovah (Hóa Công), được gọi là Sự hiểu
biết trong các Chân ngôn của Solomon (viii, 5). Minh Triết
(Minh Triết Thiêng Liêng Huyền Bí) kêu thét lên với con người:
“Hỡi kẻ giản dị, hăy hiểu biết Minh
Triết, Hỡi những kẻ điên cuồng, hăy có
lấy một tấm ḷng đầy thương cảm”.
Đó là Tinh Thần và Vật Chất, Trí và Tâm; c̣n về
vật chất, Thánh James cho rằng nó có tính cách “thế
tục, vật dục và ma quỷ” [iii, 15].
[335] Sáng
[336]
Nhiều Thế Giới Có
Người Ở, trang 69.
[337]
Một giả thuyết do ông W.
Mattieu Williams đưa ra năm 1881 dường như
chẳng có tác dụng bao nhiêu đối với các nhà thiên
văn học. Trong tạp chí Tri Thức số ra ngày 23 – 12
– 1881, tác giả của bài “Nhiên Liệu của Mặt
Trời” cho rằng :
“Nay khi áp dụng các công tŕnh khảo cứu
của Tiến sĩ Andrews vào t́nh trạng tồn tại
của mặt trời… Tôi kết luận rằng mặt
trời không có nhân (dù ở
thể đặc, lỏng hay hơi) mà gồm có vật
chất bị phân giải ở trạng thái tới
hạn (the critical state). Bao xung quanh nó, thoạt tiên là
một lớp vỏ cháy bùng, do sự tái kết hợp
của vật chất bị phân giải; bên ngoài lớp
này là một lớp khác bằng hơi nước do sự
kết hợp này”.
Đây là một thuyết
mới được thêm vào các giả thuyết khác,
tất cả đều có tính cách khoa học và chính
thống. Ông Mattieu Williams đă giải thích ư nghĩa của “trạng thái tới
hạn” cũng trong tạp chí đó (số ra ngày 9-12-1881),
trong một bài bản về “Chất đặc, Chất lỏng
và Chất hơi”. Đề cập tới một thí
nghiệm của Tiến sĩ Andrew về Acid carbonic, nhà
khoa học ấy cho rằng :
“Khi đạt tới 88
độ, biên giới gữa chất lỏng và chất
hơi biến mất, chất lỏng và chất hơi ḥa
lẫn nhau thành ra một lưu chất trung gian bí
nhiệm, một chất nào đó dao động vô
định đang chiếm trọn ống nghiệm,
đó là một chất lỏng tinh anh, hoặc là một
chất hơi hữu h́nh. Cầm một que gắp than nóng
đỏ để giữa mắt bạn và ánh sáng,
bạn sẽ thấy một chuyển động sóng dâng
trào của cái giống như là khí lỏng. Dáng vẻ
của lưu chất lai giống trong ống nghiệm
cũng giống như vậy, nhưng rơ rệt là thể
đặc hơn và hiển nhiên là ở giữa các
trạng thái lỏng và hơi của vật chất
chẳng khác nào hắc ín và mật mía ở giữa
trạng thái đặc và lỏng”.
Nhiệt độ mà ở
mức đó điều này diễn ra, được
Tiến sĩ Andrew gọi là “nhiệt độ tới
hạn”, và có lẽ là tất cả những chất khác có
thể tồn tại ở cả hai trạng thái,
đều có các nhiệt độ tới hạn riêng
của nó.
Khi suy lư thêm nữa về
trạng thái “tới hạn” này, ông Mattieu Williams đă
đề ra một vài thuyết hoàn toàn Huyền bí liên quan
tới Mộc Tinh và các Hành Tinh khác. Ông cho rằng:
“Các khái niệm của chúng ta
về chất đặc, chất lỏng và chất
hơi đều được suy ra từ các kinh
nghiệm của chúng ta về trạng thái vật chất
ở đây, trên Trái Đất này. Nếu chúng ta
được dời sang một hành tinh khác, th́ các khái
niệm này sẽ thay đổi một cách lạ lùng. Trên
Thủy Tinh (Mercury), nước ắt sẽ
được xếp vào một trong các chất hơi có
thể nóng chảy, thế c̣n trên Mộc Tinh th́ sao?
“Các cuộc quan sát gần
đây biện minh cho chúng tôi khi xem nó là một mặt
trời thu nhỏ, với một lớp vỏ bên ngoài
bằng vật chất giống như mây, thoạt nh́n,
giống như nước đă bị đông đặc
một phần, nhưng lại nóng đỏ, hoặc có
lẽ là bên trong c̣n nóng hơn. Bầu khí quyển giống
hơi nước của nó hiển nhiên là sâu thăm
thẳm, c̣n trọng lực trên bề mặt hữu h́nh
của nó lớn gấp hai lần rưỡi so với
trọng lực trên bề mặt địa cầu. Khi
đi xuống bề mặt hữu h́nh này, áp suất khí
quyển chẳng bao lâu phải đạt tới áp
suất mà ở mức đó, hơi nước sẽ
đạt tới trạng thái tới
hạn. Do đó, chúng ta có thể suy ra rằng các
đại dương của Mộc Tinh, không hề có
nước đông đặc, nước lỏng hoặc
hơi nước, mà là các đại dương, hoặc
các bầu khí quyển chứa nước ở trạng
thái tới hạn. Nếu bất kỳ một con chim
hoặc một con cá nào bay hoặc bơi trong đó, chúng
phải có cơ thể kết cấu theo trạng thái tới hạn”.
V́ toàn thể khối
lượng của Mộc Tinh lớn gấp 300 lần so
với toàn thể khối lượng của Địa
Cầu và năng lượng nén hướng tâm của nó
tỷ lệ với khối lượng này, nên nếu các
vật liệu của nó tương tự như vật
liệu của Trái Đất và không nóng hơn th́ chúng phải thô
đặc hơn nhiều và toàn thể hành tinh này sẽ có
tỷ trọng cao hơn. Nhưng thay v́ như vậy, do
chuyển động của các vệ tinh của nó, chúng ta
lại biết rằng tỷ trọng của Mộc Tinh
chưa đầy một phần tư tỷ trọng
của Trái Đất. Điều này biện minh cho
kết luận bảo rằng nó nóng ghê gớm, v́ ngay
cả hydrogen khi nguội cũng c̣n thô đặc hơn
Mộc Tinh dưới một áp suất như vậy.
“V́ mọi nguyên tố
đều có thể tồn tại dưới dạng
chất lỏng, chắt đặc hoặc chất
hơi, hoặc ở trạng thái tới hạn, tùy theo t́nh
trạng nhiệt độ và áp suất, nên tôi đă
biện minh khi đưa ra giả thuyết kết
luận rằng Mộc Tinh không phải là một hành tinh
ở thể đặc, lỏng hay hơi, mà là một hành
tinh ở trạng thái tới
hạn, đó là một tinh cầu mà bên trong gồm có
các nguyên tố kết hợp ở trạng thái tới hạn, bao xung quanh là một bầu khí quyển thô
đặc gồm các chất hơi của một vài
hợp chất, chẳng hạn như là nước. Lư
luận này cũng áp dụng cho Thổ Tinh và các hành tinh
lớn khác ở trạng thái loăng”.
Thật là dễ chịu khi
thấy càng ngày “trí tưởng tượng khoa học”
càng tiến gần biết bao tới Giáo lư Huyền bí
học.
[338]
Bên kia Cửa Tử, trang 23.
[339] Ấn
bản
[340]
Đại thảm họa thứ
nhất xảy ra khi vùng mà nay là Bắc cực bị tách
rời khỏi các Lục địa sau này.
[341]
Chúng ta phải nhớ rằng
đứng đầu các Thần Babylon là Ea, Anu và Bel nguyên
sơ; vị thần đầu tiên (Ea) là Thần Minh
Triết, “Thần Ánh Sáng” vĩ đại, Thần của
Thái Uyên (
[342]
Măi về sau này Mặt Trăng
mới biến thành một nam Thần; đối với
người Ấn Độ, nó là Soma, đối với
người
[343]
Khi Nărada, nhà tu khổ hạnh trinh
khiết, dọa sẽ hủy diệt loài người
bằng cách ngăn không cho con trai của Daksha sinh sản ra
nó.
[344]
Chương x, 6.
[345]
Điều này được
một người Bà La Môn thông thái bổ chứng. Trong bài
thuyết tŕnh xuất sắc nhất về Chí Tôn Ca
(Tạp chí Theosophist, tháng 4-1887, trang 444) diễn giả cho
rằng:
“Có một
điều kỳ lạ mà tôi phải kêu gọi quư vị
chú ư tới. Ở đây, Ngài [
“Từ
ngữ ’Chatvărah’ được tách ra khỏi từ
ngữ ‘Manavah’ và muốn nói tới
Nhưng
lối thuyết minh này sẽ đưa tới một
kết luận phi lư nhất và khiến cho câu nói lại
tự mâu thuẫn. Các vị được ám chỉ trong
kinh điển lại có một đặc tính. Mọi
người đều thừa biết rằng
[346]
Stocwell, Các đóng góp vào Tri thức
của Smithson, xviii, R. W. Mc Farland, Tạp chí khoa học
Mỹ, III, xi, 456; và Khí hậu và Thời gian của Croll.
Châu Lemuria không hề bị một trận lụt làm ch́m
ngập, mà lại bị tác động của núi lửa
hủy hoại, rồi sau đó mới bị ch́m.
[347]
Coste, I, iv, trang 19.
[348]
Agruerus là Kronos tức
thần Saturn, nguyên kiểu của Jehovah Do Thái giáo. Xét
về Argha. Mặt Trăng tức chiếc Bè cứu
rỗi, Noah đồng nhất với Saturn về phương
diện thần thoại học. Nhưng thế th́
điều này không thể liên quan tới trận lụt
trên địa cầu. (Xem Cabiri của Faber, I, 35, 43 – 45).
[349]
Như trên, quyển II, trang 240.
[350]
Sanchuniathon bảo rằng bảy
người Khổng Lồ Titans là con của Kronos, ông
gọi họ là những kẻ thờ lửa, Aletae (Con
của Hỏa Thần?) và có liên quan tới trận
Đại Hồng Thủy. Al-ait là Hỏa Thần.
[351]
Như trên, quyển I, trang 130, chú
thích.
[352]
Về con số bảy, chúng ta thấy người Ăryan, chứ
không phải là người Semite, đă đề
xướng ra nó, trong khi người Do Thái lại kế
thừa con số này của người
[353]
Bảy Con của Thượng
Đế, tức Pitaras, Pitris; trong trường hợp
này, đó cũng là các con của Kronos tức Saturn (Kala,
“Thời gian”) và
[354]
Khảo cứu Á Châu, v, trang 246.
[355]
Kabiri, như trên, phần đă
dẫn.
[356]
Orpheus và Proclum trong Timaeum, v, trang
295.
[357]
Arnobius, Contra
[358]
Antiquitates, Quyển I, trang 8.
[359]
Biblioheca, Quyển iii, trang 170.
[360]
Aretia là dạng nữ của Artes,
Thần Mars của người Ai Cập. Từ đó
mới có từ ngữ
[361]
[362]
Nonnus, Dionysiacs, quyển xviii, trang
319. Do Faber trích dẫn, sách đă dẫn, Quyển I, trang
328.
[363]
[Trang ấn bản 1888 là
“Insulae Phlegyan”].
[364]
Xem Nữ Thần
[365] Chương lxiv, Tiết xi.
[366]
Nữ Thần
[367]
Như trên, trang 423, chú thích.
[368]
Trong Triết học Ấn
Độ, chúng ta nhớ rằng mọi đơn vị
biến phân qua các
“Cứ
mỗi
[369]
Mỗi Giống dân lại có
một
[370] Xem
Khảo cứu Á Châu, quyển iii, trang 280.
[371]
Xem Từ điển cổ Ấn
Độ, của Dowson, mục “Idă”.
[372]
“Giáo sư Newcomb cho rằng
nhiệt sinh ra do sự co rút từ một khoảng cách vô
hạn chỉ tồn tại có 18 000 000 năm thôi (Thiên
văn học phổ thông, trang 509). Cách đây 10 000 000
năm, đă đạt
đến một nhiệt độ khiến cho
nước có thể tồn tại trên địa
cầu”. (Winchell, Sinh Hoạt Thế Giới, trang 356).
[373]
Bài tiểu luận về Có
nhiều Thế giới (xuất bản năm 1853) –
một tác phẩm vô danh, song mọi người
đều biết đó là sản phẩm của Tiến
sĩ Whewell – là một bằng chứng hùng hồn của
điều này. Tác giả luận chứng “không một tín
đồ Thiên Chúa giáo nào tin tưởng vào việc có
nhiều Thế giới hoặc tuổi địa
chất của Địa Cầu”. Đó là v́ nếu
người ta khẳng định rằng Thế giới
này chỉ là một trong nhiều loại thế giới,
tất cả đều là công tŕnh của Thượng
Đế như chính nó, và tất cả đều có
sự sống, tất cả đều là lănh vực và
chỗ trú của các tạo vật thông minh có ư chí, tuân phục
định luật và có thể có tự do ư chí; th́ bấy
giờ, thật là quá lố khi cho rằng thế giới
của chúng ta lại được Thượng
Đế đặc biệt ưu đăi, quan tâm tới,
được Ngài đích thân ngự lăm và phủ dụ. Y
ắt hỏi liệu Trái Đất có thể
được xem là trung tâm đạo đức và tôn giáo
của Vũ Trụ chăng, nếu trong vũ trụ
vật chất nó chẳng có ǵ nổi bật? Phải
chăng việc ủng hộ sự khẳng định
là có nhiều thế giới có người ở cũng
phi lư như việc đến tận ngày nay mà c̣n ủng
hộ giả thuyết của Ptolemy cho rằng Trái
Đất ở trung tâm thái dương hệ? Đoạn
trên được trích dẫn theo trí nhớ, song hầu
như vẫn theo sát nguyên văn. Tác giả không thể
thấy rằng y đang làm nổ tung chiếc bọt xà
pḥng của ḿnh bằng một lư lẽ biện hộ
như thế.
[374]
Xem Sơd: Con của Người
của S.F. Dunlap, trang 50 và tiếp theo
[375]
Số ra ngày 23 – 12 – 1881.
[376] Vị
trí của Con Người trong Thiên Nhiên, trang 78.
[377] De
Coelo, II, Chương 13.
[378]
Tức là cái mà chúng ta thường nhận biết là
nguyên sinh chất. Chất này được Giáo sư
Dujardin Beametz gọi là “bản sinh chất” đă từ lâu
trước khi nó có danh hiệu như ngày nay.
[379]
Đơn nguyên trùng thực ra là nguyên sinh vật. Chúng
chẳng phải là động vật, mà cũng chẳng phải
là thực vật Haeckel cho rằng: “Toàn thân của
đơn nguyên trùng chẳng có ǵ khác hơn là một
cấu tử đản bạch chất hoàn toàn
đồng chất ở một trạng thái dính kết
chặt chẽ”. (Tạp chí Hiển vi học, tháng 1 – 1869
trang 28).
[380]
Chúng ta hăy xem con kỳ đà long của thời Trung
sinh – con quái vật dài 100 bộ - nay bị biến thành con
thằn lằn nhỏ họ kỳ đà ở Nam Mỹ.
Một ngày kia người ta có thể chứng tỏ
rằng truyền thuyết dân gian nói về những
“người khổng lồ” thời xưa và việc
họ được đề cập tới trong mọi
khoa thần thoại học, kể cả khoa thần
thoại học torng Thánh kinh, đều được
dựa vào sự thực. Trong thiên nhiên, chỉ có cái lư
luận tương tự mới khiến cho chúng ta
chấp nhận truyền
thuyết này là các chân lư khoa học.
[381]
Chương vi, 4.
[382]
Đó là những ư kiến của
Burmeister và Czolle. Xem Lực và Vật Chất, của L.
Buchner, do J.F.Collingwood, F.R.S.L. trang 61.
[383]
Vishnu Purăna,
[384]
Như trên, trang 242.
[385] Nhân
loại
[386]
Khoa học Hiện Đại và
Tư Tưởng Hiện Đại, của S. Laing, trang
32.
[387]
Phật Giáo Nội Môn, trang 70 [hay
73 của ấn bản thứ 8].
[388]
Các hiện tượng giáng ma
học và tất cả mọi biểu lộ tâm lư khác
của Chơn Nhơn đều cùng chung số phận.
Từ thời Hume, các cuộc khảo cứu của ông
đă đạt tột đỉnh nơi chủ nghĩa
duy tâm hư vô, tâm lư học đă dần dần chuyển
thành một chủ nghĩa duy vật thô tục. Hume
được xem như là một nhà tâm lư học, thế
nhưng, ông vẫn chối bỏ sự khả hữu
của các hiện tượng mà hàng triệu người
(kể cả nhiều nhà khoa học) nay đang tin
tưởng. Các nhà vật tâm luận ngày nay
được xếp vào hàng ngũ các nhà tịch diệt
luận. Các trường phái của Spencer và Bain lần
lượt là duy thực nghiệm và duy vật chứ
chẳng phải siêu h́nh ǵ cả. Đó là tâm linh luận
chứ không phải là tâm lư học; nó chẳng nhắc
người ta nhớ tới giáo lư Veda được bao
nhiêu, cũng như chủ nghĩa bi quan của Shopenhauer và
Von Hartman chẳng nhắc người ta nhớ tới
Nội môn Bí giáo – tâm pháp của Đạo Phật chân chính – được bao
nhiêu.
[389]
Quan niệm và định nghĩa
Tuyệt Đối của Hồng Y Giáo Chủ Cusa chỉ
có thể thỏa măn được tâm trí Tây phương,
nó đă bị giam hăm trong chính ḿnh và hoàn toàn bị thoái hóa
do hàng thế kỷ dài ngụy biện của thần
học và triết lư kinh viện. Nhưng “triết
thuyết hiện đại về tuyệt đối”
này, mà William Hamilton truy nguyên tới tận Cusa, chẳng bao
giờ thỏa măn được tâm trí sắc sảo
hơn về mặt siêu h́nh của tín đồ phái Veda
Ấn Độ.
[390]
Hệ Thống Trí
Tuệ, của Cudworth, I, 328.
[391]
Inst, Div, Quyển II, viii;
được trích trong Qabbalah của Myer, trang 116.
[392] Sách
đă dẫn,
[393]
Sách đă dẫn, trang 70.
[394]
Như trên, Quyển II, trang 10.
[395]
Như trên, Quyển I, trang 83.
[396]
Đức Bàn Cổ gọi các
vị này (Rudras) là “ông nội”(iii, 284). Rudras là bảy
biểu lộ của Rudra-shiva, “Thượng Đế
Ngôi hủy diệt” và cũng
là bậc Đại Đạo sĩ Yoga khổ
hạnh.
[397]
Nếu cho rằng sự sống đă phát sinh ra loài người,
đă khởi nguyên theo cách thức phản khoa học
một cách phi lư này, th́ đứng trước Nhân phổ
học hiện đại, chúng ta sẽ bị tiêu diệt
ngay. Tuy nhiên Nội môn Bí giáo xin đánh liều, thậm chí
c̣n dám đi xa đến mức yêu cầu độc
giả vô tư hăy so sánh giả thuyết nêu trên (nếu nó
là một giả thuyết) với lư thuyết của
Haeckel – nay đang nhanh chóng trở thành công lư (axiom) của
khoa học – mà chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn như sau:
“Sự
sống, thế giới sống động hữu cơ
đă phát khởi ra sao? Kế đến là câu hỏi
đặc biệt sau đây” Loài người đă phát
nguyên như thế nào? Câu hỏi thứ nhất – câu
hỏi về nguồn gốc của các sinh vật –
chỉ có thể được quyết định
bằng thực nghiệm [!!] dựa vào bằng chứng
của cái gọi là thuyết tự sinh, tức là việc
tự phát tạo ra những cơ thể thuộc loại
đơn giản nhất mà chúng ta có thể quan niệm
được. Đó là các đơn nguyên trùng (Protogenes,
Protamocba, Protomyxa, Vampyrella), tức là những khối nguyên
sinh chất cực vi, không có cấu trúc hay tổ chức,
chúng hấp thụ chất dinh dưỡng và sinh sản bằng cách phân thân.
Nhà động vật học trứ danh người Anh
Huxley đă t́m ra một loại đơn nguyên trùng và
đặt tên nó là Bathybius Haeckellii. Nó giống như
một lớp vỏ nguyên sinh chất dày đặc ở
nơi sâu nhất dưới đại dương ở
khoảng giữa từ 3 000 đến 30 000 bộ. Đúng là măi cho tới hiện
nay, người ta vẫn chưa hề thực sự quan
sát được dáng vẻ nguyên sơ của loài
đơn nguyên trùng đó, nhưng chính một sự
Tiến hóa như thế chẳng có chi là không thể có
được”. (Nhân Phổ Học, bản dịch
của Aveling, trang 33).
Gần
đây, nguyên sinh chất đă biến thành không phải là
chất hữu cơ ǵ cả, song cũng không c̣n
điều ǵ đáng nói nữa. Sau khi đọc
điều này, người ta cũng chẳng cần
mất công bắt bẻ lời khẳng định thêm
nữa rằng: “Trong trường hợp đó chắc
chắn là (đối với tâm trí
của Haeckel và những kẻ giống như ông) con
người cũng đă phát sinh từ loài động
vật hữu nhũ hạ đẳng, loài khỉ, loài
sơ khai, loài thú có túi c̣n sơ khai hơn nữa, loài
lưỡng cư, cá, bằng cách biến đổi
tiệm tiến”(trang 36)- tất cả đều
được tạo ra bởi “một loại các lực thiên nhiên tác
động một cách mù quáng … không có mục tiêu, mục
đích”.
Đoạn
vừa trích dẫn ở trên cũng bao hàm điều phê
b́nh chỉ trích nó rồi. Khoa học bắt buộc
phải dạy điều mà, măi cho tới nay “cũng chưa bao giờ
được quan sát thực sự”. Nó cũng bắt
buộc phải chối bỏ hiện tượng một
bản chất thông tuệ
và một sinh lực độc lập với sắc
tướng và vật chất, và thấy có lẽ việc
dạy về tác động kỳ diệu của “cái
lực thiên nhiên hoạt động một cách mù quáng, không
có mục tiêu hoặc mục đích” lại hợp với
khoa học hơn. Nếu thế th́ chúng ta bắt buộc
phải cho rằng các lực vật lư cơ học trong
năo của một vài nhà khoa học lỗi lạc đang
dẫn dắt họ một cách thật mù quáng để
hiến dâng lư trí và lương tri trên bàn thờ
ngưỡng mộ nhau. Tại sao đơn nguyên trùng
tạo ra sinh vật nguyên sơ bằng cách phân thân lại
được xem là một giả thuyết rất
hợp khoa học, c̣n một giống dân tinh anh tiền
nhân loại sản sinh ra con người nguyên sơ cũng
theo cách thức đó th́ bị cho là điều mê tín
dị đoan phản khoa học? Như thế, chẳng
hóa ra là Chủ nghĩa duy vật đă chiếm độc
quyền trong khoa học hay sao?
[398] Các
La sát mà thần học dân gian Ấn Độ xem là ma
quỷ, được gọi là “Các Đấng Bảo
Tŕ” ở phía bên kia Hy Mă Lạp Sơn. Ư nghĩa nhị phân
này có nguồn gốc nơi ẩn dụ triết học,
vốn được dịch theo nhiều cách khác nhau trong
kinh Purănas. Người ta nêu rơ rằng khi Brahmă tạo ra
loài quỷ Dạ Xoa (Yakshas, có từ nguyên là Yaksh: ăn) và La sát, cả hai
đều là các loại Quỷ, ngay khi ra đời, chúng
đă muốn nuốt Đấng Sáng Tạo ra ḿnh. “Trong
đám đó, kẻ nào hét lên: “Đừng làm thế !
Ồ, hăy để cho Ngài nguyên vẹn [được
bảo dưỡng]! được gọi là một chi La
sát” (Vishnu Purăna,
[399]
Sự tiến hóa tuần tự
của con người theo Giáo Lư Bí Nhiệm là tất
cả những Giống dân về sau này có nguồn gốc
thể chất trong giai đoạn đầu của
Giống dân thứ
[400] Nhất
là so sánh với Học thuyết về Ḍng dơi và Học
thuyết của
[401]
Mọi tiến tŕnh chữa
bệnh và thành sẹo nơi các nhóm động vật
thượng đẳng – ngay cả trong trường
hợp sinh sản của tay chân bị cắt cụt
của loài lưỡng cư – đều được
thực hiện do sự phân thân và sự nảy mầm
của các yếu tố h́nh thể sơ cấp.
[402]
A. Lefèvre, Triết Học, trang 498.
[403]
Các nguyên lư Động vật
học, trang 206.
[404]
Quyển I, trang 154.
[405]
Không xương.
[406]
Kẻ Hăn sinh đầu tiên.
Điều này được giải thích trong Tiết
tiếp theo các ĐOẠN KINH trong ẩn dụ kinh Purănas
liên quan tới
[407]
Điều này sẽ
được giải thích sau. Việc không sẵn ḷng
tạo ra con người được tượng
trưng trong kinh Purănas bởi việc Dakshas giao tiếp
với đối thủ Nărada, vị tu sĩ khổ
hạnh.
[408]
Giống dân thứ Ba. Giáo sư
Schmidt (nhà Tiến hóa luận) ám chỉ “sự kiện phân
chia giới tính, từ đó phát sinh ra các giống loài
đă từng có lúc bán thư bán hùng, tất cả (dĩ
nhiên là trừ những kẻ tin vào sự sáng tạo)
đều chắc chắn là nhất trí” (Học Thuyết
về Ḍng dơi và Thuyết Darwin, trang 159). Đó đúng là
bằng chứng không thể chối căi được rút
ra từ sự hiện diện của các cơ quan sơ
cấp. Ngoại trừ các vết tích rành rành như
thế của một thuyết bán thư bán hùng nguyên
sơ, chúng ta có thể lưu ư sự kiện sau đây do
Laing đưa ra: “việc nghiên cứu phôi thai học …
chứng tỏ rằng trong các loài động vật cao
cấp giống người, sự phân biệt vẫn
chưa phát triển, nếu như các phôi chưa
đạt được một sự tăng
cường đáng kể nào”. (Một Tín đồ Bái
Hỏa Giáo Hiện Đại, trang 106). Định
Luật Tŕ Hoăn (the Law of Retardation) – cũng có tác dụng
trong trường hợp những giống người, các
loài thú v.. v…khi một kiểu mẫu cao cấp đă
từng tiến hóa – vẫn c̣n duy tŕ sự bán thư bán
hùng là cách thức sinh sản của đa số cây cỏ
và nhiều loại động vật hạ đẳng.
[409]
Vishnu Purăna,
[410]
Muốn biết các điều
giải thích và một lối tường thuật
triết học và bản chất Thực Thể này mà nay
bị xem là các vong linh nổi loạn “gian tà”, các Đấng
dùng Kriyăshakti (Quyền năng hiệu động)
để Sáng tạo, xin độc giả hăy tham khảo
các chương bàn về “Thần thoại và ‘Thiên Thần
Sa Đọa’ dưới nhiều khía cạnh khác nhau” trong
Phần 2, Tiết 4, Quyển 4.
[411]
Vishnu Purăna, quyển III,
chương ii.
[412]
Trong bản thảo xưa nhất
của kinh Vishnu Purăna mà một Điểm đạo
đồ ở miền
[413]
Đây là một số liệu
ngoại môn mà người ta cố t́nh tŕnh bày một cách
đảo điên và xuyên tạc; đó là số liệu về
thời gian của chu kỳ diễn ra giữa các Giống
dân thứ Nhất và thứ Hai. Trái với mọi nhà
Đông phương học, không có từ ngữ nào trong
bất cứ kinh Purănas nào mà không có một ư nghĩa
nội môn đặc biệt.
[414]
Vishnu Purăna,
[415]
Mandala x, Sũkta 129.
[416]
Kinh điển tŕnh bày: “Brahmă,
đang tiếp tục thiền định, sinh ra những
hậu duệ trí sinh có các h́nh hài và năng lực thoát thai
từ bản chất sắc tướng của Ngài, cái chơn linh hiện thân,
được tạo ra từ con người (tứ chi, gătra) của vị Thần
Linh toàn triết (Dhĩmat)”. Tất cả các vị này
đều là trú sở của ba tính chất” của
Devasarga, tức sự sáng tạo thiêng liêng; với vai tṛ là
sự sáng tạo ngũ phân, nó
không hề có tri giác tỏ tường phản ánh và có
bản chất đần độn. “Nhưng v́ bản
thân họ không chịu sinh sôi
nảy nở nên Brahmă mới sáng tạo ra những
đứa con trí sinh khác, giống như chính Ngài”, nghĩa
là mười và bảy Đấng Brahmarishis hay Prajăpatis. “
[417]
Sách đă dẫn, ấn bản
kỳ 8, trang 70.
[418]
Đối chiếu Phật Giáo Tây
Tạng, trang 88 – 90.
[419]
Xem Phật Giáo Trung Hoa, của
Edkin, trang 208. [Xem Chú thích bổ sung ở cuối sách].
[420]
Đó là lời nói ẩn dụ ám
chỉ những “Động vật thiêng” của các cung
Hoàng Đạo và những thiên thể khác. Một số
nhà huyền học phái Kabalah cho rằng đó là những
kiểu mẫu của các động vật.
[421]
Tức Kămadhenu, Con ḅ cái thiêng liêng.
[422]
Trong Hesiod, Vương Thần Zeus
đă tạo ra Giống dân thứ Ba từ các cây trần
b́. Trong Popol Vuh, Giống dân thứ Ba được
tạo ra từ cây Tzité và lơi của cây lau tên là Sibac.
Nhưng theo ngôn ngữ bí nhiệm của các Artufas (hang
Điểm đạo) Sibac lại có nghĩa là “quả
trứng”. Trong một phúc tŕnh gửi cho cơ quan lập
pháp Tây Ban Nha vào năm 1812, Don Baptista Pino đă cho rằng:
“Mọi làng xă đều có các Artufas của ḿnh – dân bản
xứ gọi các căn buồng hầm dưới
đấy chỉ có một cửa nơi họ (bí
mật) hội họp như vậy đó… Đó là
những thánh điện mà người ta không thể xâm
nhập vào được… chúng luôn luôn khép kín cửa
đối với người Tây Ban Nha… Họ thờ
Mặt Trời và Mặt Trăng… lửa và ĐẠI XÀ
(quyền năng sáng tạo), trứng của nó gọi là
Sibac”.
[423]
Xét về mặt nội môn, các từ ngữ Sarpa và Năga khác nhau
nhiều mặc dù người ta sử dụng chúng
một cách lẫn lộn, không phân biệt Sarpa (rắn) có
từ nguyên là srip (ḅ
trườn) đối chiếu với tiếng La Tinh
Sarp-o; c̣n chúng được gọi là Ahi, có từ nguyên là hă (bỏ). Các Sarpa
được tạo ra từ tóc của Brahmă. V́ Brahmă
rất sợ chiêm ngưỡng loài Dạ xoa mà Ngài đă
tạo ra thành loài rất khó coi, nên tóc trên đầu Ngài
rụng xuống, mỗi sợi tóc biến thành một con
Rắn. Chúng được gọi là “Sarpa v́ chúng cứ ḅ
trườn lê la và Ahi v́ chúng đă rời bỏ cái
đầu”. (
[424]
[425]
Parva xii, Adhyaya 10, câu kinh 308.
[426]
[427]
Xem Giảng lư của Câu kinh 36.
[428]
Các quái vật không phải là khỉ đột. Các nhà
nhân chủng học gọi đó là “khoen biệt tích”
(“missing link”) tức con người hạ đẳng lúc
ban sơ.
[429] Sự nhục nhă v́ có nguồn gốc cầm thú mà các khoa học hiện đại sẽ nhấn mạnh nếu có thể được.
[430]
Học Thuyết về Ḍng Dơi và
Thuyết Darwin, trang 186 – 187. “Tổ tiên vô danh”
được đề cập tới chính là các nguyên
kiểu tinh anh bản sơ.
[431]
Theo nguyên nghĩa là Con Rắn.
[432]
“Khoa Phôi Thai học đă cung
ứng một luận chứng rất vững chắc
để bênh vực tính bất định. Chẳng
lẽ một người ở trong tử cung lại không
phải là một tế bào đơn, một cái cây chỉ
có ba, bốn chiếc lá nhỏ, một con ṇng nọc có mang
cá, một động vật hữu nhũ có đuôi,
cuối cùng là loài linh trường [?] và một động
vật có hai chân? Hầu như chẳng có lúc nào mà chúng ta
lại không thể nhận ra trong sự tiến hóa của
bào thai một nét phác họa nhanh gọn, một bản
tổng kết trung thực của toàn bộ chuỗi
hữu cơ”. (Lefèvre, Triết học, trang 484).
Tuy nhiên,
bản tổng kết được ám chỉ cũng
chỉ là bản tổng kết của kho kiểu mẫu
tích lũy nơi con người, tiểu thiên địa.
Lời giải thích đơn giản này vấp phải
mọi sự phản đối như vậy, v́ bào thai có
một cái đuôi sơ khai – đây là một sự
kiện mà Haeckel và
[433]
Quyển I, trang 388-390.
[434]
Xem Các Áng Văn Cổ, của Cory,
trang 21 và tiếp theo [trong ấn bản mới có bổ
sung là trang 51 – 58].
[435]
Nguồn gốc Chủng Loại,
trang 448 – 449, ẩn bản kỳ I.
[436]
Quyển I, trang 154.
[437]
Câu thơ này ở trong Rig Veda (x, 5,
6): “Bảy Đấng Minh Triết [Các Cung Minh Triết
Thần Quân] uốn
[438]
Rig Veda, x, 10, 3, 2.
[439]
Hầu như không thể dịch sát từng chữ
một vài Giảng lư cổ truyền này. Chúng tôi
thường bắt buộc chỉ dùng ư nghĩa thôi, và do
đó phải dịch lại bản dịch sát từng
chữ.
[440] Trong thần thoại Ấn Độ, thần Rudra, một vị Kim Đồng, là một vị Nĩlalohita – đỏ và xanh.
[441]
Điều này bất chấp
cuộc tiến hóa duy vật hiện đại, nó suy lư
như sau: “H́nh hài nhân loại nguyên sơ mà (theo chúng ta)
mọi giống người đă xuất phát từ
đó, đă bị tiêu diệt từ lâu rồi [chúng tôi
phủ nhận điều này; nó đă chỉ bị
giảm kích thước và thay đổi cấu trúc].
Nhưng nhiều sự kiện khiến chúng ta phải
kết luận rằng nó có tóc và có đầu dài [ngay
cả hiện nay các giống
người Phi Châu vẫn có đầu khá dài, nhưng
sọ của người Neanderthal thời cổ thạch
(chiếc sọ xưa nhất mà chúng ta biết) lại có
kích thước lớn và cũng chẳng gần bằng
dung tích của sọ đười ươi hơn là
sọ của bất kỳ người nào khác đang
sống hiện nay}. Chúng ta hăy tạm thời gọi các
chủng loại gia đ́nh này là giống
người nguyên thủy…
Chủng loại đầu tiên này (tức người
khỉ tổ tiên của mọi chủng loại khác) có lẽ phát nguyên từ
một chi khỉ giống
người trong các vùng
nhiệt đới của Cựu thế giới;
nếu được yêu cầu trưng bằng cớ th́
không chút nản ḷng nhà tiến hóa luận sẽ trả
lời rằng: “Về vấn đề này, đến
nay, chúng ta chưa hề
biết được các di tích hóa thạch nào, tuy nhiên, có
lẽ chúng cũng tương tự như con
đười ươi và con khỉ đột hiện
nay”. Và như thế th́ người da đen ở Papua
có lẽ sẽ được xem là hậu duệ ḍng dơi
thứ nhất. (Nhân phổ học, trang 80).
Haeckel bám chặt lấy Châu Lemuria mà
(cùng với Đông Phi và Nam Á). Ông cho rằng có thể là cái
nôi của những người khỉ nguyên sơ.
Nhiều nhà địa chất cũng vậy. Trong tác phẩm
Sự Phân Bố Địa Lư của Các Thú Vật, ông A. R.
Wallace cũng nh́n nhận là nó có thực, mặc dù theo
một ư nghĩa hơi khác. Nhưng xin các nhà Tiến hóa
luận đùng nói một cách khinh suất như vậy
về kích thước đối chiếu của năo
người và năo khỉ, v́ điều này rất phản khoa học, nhất là
khi họ giả vờ không thấy (hay dù sao đi nữa,
chỉ thấy rất ít) sự dị biệt giữa hai
thứ. Đó là v́ chính Vogt cũng đă chứng tỏ rằng
trong khi loài khỉ cao cấp nhất (đười
ươi) chỉ có một bộ óc từ 30 tới 51 inch
khối, th́ bộ óc của người thổ dân Úc kém
cỏi nhất cũng lên tới 99, 35 inch khối: như
vậy, theo Pfaff bộ óc của đười ươi
“chưa đầy một nửa kích thước bộ óc
của một đứa trẻ sơ sinh”.
[442]
Khảo cứu
[443]
Giảng ṭa tiếng Hebrew ở
Pháp Quốc Học Viện, trang 20.
[444] Gốc
di tích duy nhất về các tạo vật nửa
người nửa thú ấy mà khoa nhân chủng học
biết được là giống người
Các thổ
dân Úc ở vịnh St. Vincent và vùng lân cận
[445]
Khi gọi một con vật là “vô
hồn”(“soulless”) chúng ta không tước bỏ một Linh
Hồn của con thú, từ loài thấp hèn cho tới loài
cao siêu nhất, mà chỉ cho rằng nó không có một
Chơn Ngă – Linh Hồn (Ego-Soul) sinh tồn hữu thức,
nghĩa là nguyên khí đó vẫn c̣n tồn tại sau khi
một người chết đi, và luân hồi tái sinh nơi
một người giống vậy. Con thú có một
thể phách hăy c̣n tồn tại một thời gian
ngắn sau khi thể xác đă chết; tuy nhiên, Chơn
Thần (động vật) của nó không tái sinh trong cùng
loài mà là trong một loài cao hơn, và dĩ nhiên là không có
“Devachan”. Chân thần đó có các mầm
mống của mọi nguyên khí con người nhưng
chúng chỉ tiềm tàng.
[446]
Sổ tay Địa Chất
Học, trang 302.
[447]
Nếu không có ẩn dụ dựa
vào một sự kiện trong thiên nhiên th́ các “truyện
ngụ ngôn” và “thần thoại” về Leda và Jupiter v.v…
ắt không bao giờ xuất lộ trong trí tưởng
tượng của con người. Sự tiến hóa,
đang dần dần biến con người thành một
động vật hữu nhũ, đă chỉ thực
hiện trong trường hợp của y những ǵ mà nó
đă thực hiện trong trường hợp các loài
động vật khác. Nhưng điều này không hề
cản trở việc con người bao giờ cũng
đứng đầu giới động vật và các
chủng loại hữu cơ khác cũng như có
trước giới động vật.
[448]
Xem tiết bàn về “Niên
đại kư của người Bà La Môn”, trang 76.
[449]
Để khỏi lẫn lộn,
xin độc giả nhớ cho rằng từ ngữ
Căn chủng (Root Race) áp dụng cho một trong bảy
Giống dân lớn, Phân chủng (sub-Race) áp dụng cho
một trong các nhánh dân lớn của Căn chủng, c̣n Chi
chủng áp dụng cho một trong nhiều tế phân của
Phân chủng, nó bao gồm nhiều quốc gia và bộ
lạc lớn.
[450]
Bản chất của các Thánh
Sư này được giải thích trong Tiết bàn về
“Giống dân thứ Năm và các Thánh Sư” ở phần
Giảng lư của Đoạn kinh 12.
[451]
Tuy nhiên, các giống dân da vàng
hiện nay là hậu duệ của các nhánh sơ khai
của Giống dân thứ
[452]
Ngôn ngữ gồm toàn nguyên âm dính
với nhau như nhựa nghe không phân biệt âm thanh rơ ràng.
(LND).
[453]
Ngôn
ngữ nhất định là xuất hiện
đồng thời với lư trí và không bao giờ
được phát triển trước khi con người
hợp nhất với các nguyên khí làm linh hoạt ḿnh –
đó là những người làm nảy nở và khai
hoạt yếu tố trí tuệ tiềm tàng trong con
người nguyên thủy. Đó là v́ trong tác phẩm Khoa
Học về Tư Tưởng, Giáo sư Max Muller đă
cho chúng ta biết rằng: “Tư tưởng đồng
nhất với ngôn ngữ”. Tuy nhiên, nếu nói thêm rằng Các tư tưởng vốn quá
thâm thúy đối với ngôn ngữ, không hề thực
sự tồn tại, th́ lại hơi liều, v́ tư
tưởng được ghi khắc trên các thần
biểu dĩ thái vẫn tồn tại măi măi, cho dù có
được diễn đạt hay không. Huyền âm
(Logos) là cả lư trí lẫn ngôn từ. Nhưng ngôn từ
diễn tiến theo chu kỳ đâu phải lúc nào cũng đủ để
diễn đạt các tư tưởng thiêng liêng. Vả
lại, theo một ư nghĩa nào đó, từ ngữ Hy
Lạp Logos (Huyền Âm) lại tương đương
với từ ngữ Bắc Phạn Văch, “tia tinh thần
bất diệt (trí tuệ)”. Và sự kiện cho rằng
Văch (trên cương vị là Devasena, một trạng thái
của Sarasvatĩ, Nữ Thần Minh Triết Ẩn Tàng)
là phu nhân của Đấng Thiên Tôn (Kumăra) cô độc măi
măi, cũng bộc lộ một điều gợi ư
(mặc dù ẩn tàng) ám chỉ các Thiên Tôn, các Đấng
“không chịu sáng tạo”, nhưng sau này bắt buộc
phải bổ sung cho Con người thiêng liêng bằng cách đầu thai vào Ngài.
Tất cả các điều này sẽ được
giải thích tỉ mỉ trong các Tiết sau.
[454]
Trong thần biểu thứ chín,
khi đề cập tới các bộ lạc Kabolitae hay
[455]
Thiên b́nh luận giải thích
rằng loài khỉ là loại thú vật duy nhất đă
dần dần (theo từng thế hệ chủng loại)
có khuynh hướng càng ngày càng quay về với kiểu
mẫu nguyên sơ của vị tổ phụ nam giới
của nó – người không lồ da đen ở Lemuria và
Atlantis.
[456]
Tiến sĩ A. Wilder cho rằng
Gan-duniyas là một tên gọi của xứ
[457]
Quyển I, trang 575 – 576.
[458]
Phật quốc kư (Foe-koue-ki)
tức quan hệ của các Vương quốc Phật
giáo của Sư Pháp Hiển (Chy Fa-hian), do Abel Remusat
dịch.
[459]
Các Vong Linh của De Mirville. Xem thêm
More Nebhuchim của Moses Maimonides.
[460]
Khoa Học Huyền Bí, trang 464.
[461]
Sự quay ṿng của Địa Cầu, Quyển v,
trang 247.
[462]
Trong tác phẩm Các Vong Linh của
De Mirville (Quyển ii, trang 431), chúng ta thấy “
[463]
Xem Thánh Thư Isaiah, xxx, 6: “Con
rắn lục và con rắn bay bốc lửa” và các con
rắn bốc lửa bị con rắn bằng đồng
thau của Moses chinh phục.
[464]
Các hóa thạch do khoa học tái
tạo mà chúng ta biết cũng đủ đảm
bảo cho sự khả hữu của ngay cả một
con Hải quái, chứ đừng nói tới các con rắn
bay của Isaiah, tức Saraph Mehophep (trong mọi từ
điển Hebrew, “Saraph” đều được dịch
là nọc độc bốc lửa, c̣n “Mehophep” là bay). Tuy
nhiên, mặc dù thần học Thiên Chúa giáo luôn luôn liên
kết cả con Hải quái lẫn con Rắn bay bốc
lửa với Ma Quỷ, song các thành ngữ này có tính cách
ẩn dụ và chẳng dính dáng ǵ tới “Điều ác”.
Song le, từ ngữ “Rồng” nay đă trở thành
đồng nghĩa với “gian ác”. Ở
[465] Các
tác giả có khuynh hướng ủng hộ Giáo Hoàng đă
chấp nhận toàn bộ các câu chuyện rồng rắn “
[466]
Để chứng tỏ hùng
hồn rằng sự kiện này có thực, một tín
đồ Thiên Chúa giáo đă yêu cầu độc giả
tham chiếu bức tranh miêu tả sự việc này do Simon
de Sienne, bạn của thi sĩ, vẽ ra. Nó
được treo trên cổng chính của Nhà thờ
Đức Bà Don ở
[467]
Các Vong Linh, Quyển ii, trang 422.
[468]
Như trên, trang 433.
[469]
Như trên trang 431-432. Điều
này cũng giống y như là vài ngàn năm về sau,
một kẻ cuồng tín của một tín ngưỡng
mới nào đó trong tương lai, khi muốn biểu
dương tôn giáo của ḿnh bằng cách gây thiệt
hại cho Tôn giáo cổ
truyền ắt phải bảo rằng: “Đâu đâu
con chiên bốn chân cũng được tôn thờ”.
Vị nữ tu gọi nó là Agnus và đặt nó ngay vào ḷng
ḿnh, c̣n vị lễ sư đặt nó trên bàn thờ. Nó có
mặt trong mọi bữa ăn trong lễ Quá hải và
được long trọng tuyên dương nơi mọi
thánh điện. Thế nhưng các tín đồ Thiên Chúa
giáo lại sợ và ghét nó, v́ họ đă giết và ăn
sống nuốt tươi nó. Dù sao đi nữa, những
kẻ ngoại đạo không hề nuốt các biểu
tượng thiêng liêng của ḿnh. Chúng ta biết rằng
chẳng có ai ăn rắn hoặc loài ḅ sát, ngoại
trừ ở những xứ văn minh theo Thiên Chúa giáo.
Ở các xứ này, họ bắt đầu ăn ếch
và lươn, cuối cùng ắt phải ăn rắn
thực sự, cũng như họ bắt đầu
ăn thịt trừu rồi sau rốt là ăn thịt
ngựa.
[470]
Như trên, trang 423.
[471] Các Thần Ai Cập, trang 3.
[472]
Mọi học giả đều
biết rằng Chnouphis Thái Dương, tức là Thiên
Thần, chính là Christos của các tín đồ phái Ngộ
Đạo. Ngài có liên hệ mật thiết với Bảy
Con của Sophia (Minh Triết); bảy Con của Tiên Thiên
Huyền Nữ (Aditi), Toàn Triết, người con thứ
tám là Mărtănda (tức Mărranda). Mặt Trời, Bảy Con là
Bảy Thần Quân Chưởng Quản Hành Tinh. Do đó,
Chnouphis là Mặt Trời Tinh Thần Giác Ngộ, Minh
Triết, v́ thế là Đấng Bảo Trợ của
mọi Điểm đạo đồ Ai Cập cũng
như Bel-Merodach hay Bel-Belitanus sau này đối với dân
[473]
Hermes hay đúng hơn là Thot, là
một tên chung. Trong tác phẩm Historia Anti-Islamitica, Abul Feda
tŕnh bày năm vị Hermes, ở nhiều xứ khác nhau, các
danh hiệu Hermes, Nebo, Thot lần lượt
được ban cho các bậc đại điểm
đạo đồ. Như thế, mọi nhà Tiên tri, Linh
thị và Điểm đạo đồ vĩ
đại đều mang danh hiệu
[474]
Các Thần Ai Cập, tiêu
đề 15.
[475]
Quyển I, trang 555.
[476]
Sáng
[477]
Trong phần giới thiệu tác
phẩm Sod, Các Bí nhiệm của
[478]
Từ Điển La Tinh (iv, 448)
của Freund cho rằng: “Các thành viên của Lễ sư
đoàn được gọi là Sodales”. Trong De Senectute,
[479]
Chương xxx, 6.
[480]
Các Lễ sư của thần Baal
nhảy qua lửa. Nhưng đó là một từ ngữ
Hebrew và là một từ ngữ địa phương.
Saraph có nghĩa là “nọc độc bốc lửa”.
[481]
Tử Vong Kinh (Book of the Dead),
chương xxxix.
[482]
Ở
[483]
Nhưng hăy xem Nguyên cảo pháp
thuật Số v của Harris và Thần Ammon đầu
cừu tạo ra con người trên một chiếc bàn xoay
của thợ làm đồ gốm.
[484] Brasseur
de Bourbourg, Mễ Tây Cơ, trang 155 và 574.
[485]
Ulũpĩ (Ulũpl) hoàn toàn ở
trong nhóm Atlantis. Cũng như Atlantis, nó không phải là danh
xưng Hy Lạp hay Bắc Phạn, mà lại nhắc chúng
ta nhớ tới một trong các danh xưng Mễ Tây Cơ.
[486]
Mahăbărata, Ădi Parva, Câu 7788. Theo
giải thích của nhà b́nh giảng Shrĩdhara, Bhăgavata
Purăna (ix,xx, 31) cho rằng Ulũpĩ là con gái của
quốc vương xứ Manipũra (xem Vishnu Purăna, Wilson,
Quyển iv, 160). Nhưng học giả Dayănand Sarasvatĩ,
chắc chắn là nhân vật có thẩm quyền nhất
ở Ấn Độ về các vấn đề liên quan
tới Bắc Phạn và kinh Purănas, đă đích thân bổ
chứng rằng Ulũpĩ là con gái của Long
vương ở Pătăla (tức Châu Mỹ) cách đây 5 000
năm, c̣n Năgas là các Điểm đạo đồ.
[487]
Nữ Thần
[488]
[Danh xưng bằng tiếng Tamil
của cây bồ đề linh thiêng, c̣n cây đa là
Ara-maram].
[489]
Theo tiếng Trung Hoa, Foh-tchou có nghĩa
đen là Phật sư, tức là bậc thầy về giáo
lư của Phật-Foh.
[490] Núi
này ở Tây
[491]
Như trên, trang 293-294.
[492]
Xin nhắc độc giả
nhớ rằng trong kinh Zohar, cũng như mọi tác
phẩm Do Thái Bí Giáo, người ta khẳng định
rằng “
[493]
Đây là quan điểm mà mọi
Đức Cha trong Giáo hội đều chấp nhận,
nhưng đó không phải là Nội môn Bí giáo thực
sự. Sự chèn ép (cruse)
không bắt đầu khi người đàn ông hay đàn
bà được tạo ra, v́ sự phân cách của họ
là một hậu quả tự nhiên của sự tiến
hóa, mà lại bắt đầu khi thiên luật bị vi phạm.
[494]
Bản chất con người sinh
tồn nhờ vào điều đó; con người, chớ không phải
[495]
Xem Zohar, I, trang 172, a và b.
[496]
So sánh với Tiết 11 trong
Quyển 4 bàn về các Bí nhiệm của Thất Nguyên.
[497]
Các con quái vật Thần thoại,
của Gould, trang 1.
[498]
Điều nghiên Thần thoại
học về con Kỳ lân, Robert Brown Junr., F. S. A., Luân
Đôn, 1881. [Được trích dẫn từ Các con
vật Thần thoại, của Gould, trang 3].
[499]
Các con quái vật trong Thần
thoại, trang 2-4.
[500] Như trên, trang 20.
[501] Như trên, trang 36 – 37.
[502]
De Quatrefages, Các Giống
Người, trang 152.
[503]
Sổ tay Địa Chất
Học, trang 301.
[504]
Như trên, trang 17.
[505]
Các con quái vật Thần thoại
của Goul, trang 16. Xem thêm Khảo Cứu v.v.. về các
động vật hữu nhũ, ảnh minh họa 1,
[506]
Lời nói đầu của Sơn Hải Kinh (Shan Hai
King) [Xem Gould, sách đă dẫn, trang 384].
[507]
Quyển I, trang 589 và tiếp theo.
[508]
Như trên, quyển II, trang 590.
Cũng như James Fergusson, nhiều nhà khảo cổ
học không chịu thừa nhận một nguồn
gốc xa xưa nào của ngay cả một đền
đài nào đó ở Ấn Độ. Trong tác phẩm Minh
họa về các Thánh điện Đẽo trong đá
ở Ấn Độ, ông dám cả gan phát biểu ư
kiến khác thường là: “Ai Cập đă không c̣n là
một quốc gia trước khi các Thánh điện trong
hang động sơ khai nhất của Ấn Độ
đă được khai quật lên”. Tóm lại, ông không
chịu thừa nhận sự tồn tại của
bất cứ Thánh điện trong hang động nào
trước thời trị v́ của vua A Dục (Ashoka), và
dường như c̣n nóng ḷng muốn chứng tỏ
rằng hầu hết các thánh điện đẽo trong
đá này đă được thực hiện trong ṿng
một thời kỳ trải dài từ thời vị
quốc vương mộ đạo Phật này cho tới
khi triều đại Andhra của xứ Ma kiệt
đề (Magadha) bị diệt vong vào thế kỷ
thứ năm. Chúng tôi tin là một lời tuyên bố
như vậy là hoàn toàn độc đoán. Những khám phá
thêm nữa sẽ chứng tỏ rằng nó thật là sai
lầm và chẳng có ǵ là đảm bảo.
[509] Sách
đă dẫn. Vào lúc được khám phá ra, Châu Mỹ
đă được một vài bộ lạc thổ dân
gọi là
[510]
Từ đó, tác phẩm Châu Atlantis
của Donnelly đă xuất hiện, và chẳng bao lâu sau,
sự tồn tại thực sự của nó sẽ
trở thành một sự kiện khoa học.
[511]
Cho đến nay, nó vẫn
được chia ra như thế, các nhà Thông Thiên Học
và các nhà huyền bí – những kẻ đă nếm mùi
điêu đứng v́ quyền năng ma thuật không
thể chối căi được – biết rất rơ
điều này.
[512]
Xem Các Vong Linh của De Mirville,
quyển iii, trang 57 và tiếp theo.
[513]
Xem Max Muller, Tạp văn (Chips),
trang 339; “
[514]
Như trên, trang 593.
[515] Chú
thích cuối trang, Quyển I, Nữ Thần Isis Lộ
Diện, trang 594-595
[516] Như
trên, trang 308.
[517]
Một lối đi dẫn
tới các pho tượng ở Bamian – cũng là một
vị Phật cao 200 feet (60,96m) - được t́m thấy
gần tịnh xá Kỳ Na giáo ở
[518]
Ngay cả
[519]
Để đơn cử một
thí dụ, thiên hạ tŕnh bày với chúng ta một vị
anh hùng; thoạt tiên sinh ra là “vị quân vương bất
chính nhưng quả cảm” (Purusha) của các Daityas,
Hiranyakashipu, y bị hóa thân Người Sư Tử (
[520]
Đối chiếu Các Bài
thuyết tŕnh Hibbert, năm 1887, Sayce, trang 134-138.
[521]
Chỉ bắt đầu vào
thời đại những người khổng lồ có
sắc da màu nâu và vàng ở Châu Atlantis th́ mới có thể
nói về con người, bởi v́ chỉ có Giống dân
thứ Tư mới là giống người thực sự
phát triển đầy đủ thể chất, tuy
rằng vóc vạc lớn hơn người thời nay
nhiều. Tất cả những điều
được tŕnh bày trong Con Người: Các Giai
đoạn Lịch sử bị Lăng Quên (của hai
Đệ tử) về giống dân Atlantis đều hoàn
toàn chính xác. Chính Giống dân này đă trở nên “hắc ám
v́ tội lỗi”, khiến cho các thánh danh của các A Tu La,
La Sát và Daityas bị hoen ố và bị hậu thế xem là
danh hiệu của bọn ma quỷ. Đó là v́ (như chúng
ta đă nói) chư Thiên đă đầu thai vào những
người minh triết ở Châu Atlantis nên các danh hiệu
A Tu La và La Sát mới được dành cho các người
Atlantis thông thường. V́ giống Atlantis không ngừng
xung đột với các tàn dư cuối cùng của
Giống dân thứ Ba và “các Con của Ư Chí và Yoga”, nên danh
hiệu của họ mới đưa tới các ẩn
dụ sau này bàn về họ trong kinh Purănas. “A Tu La là tên
chung của mọi người dân Atlantis nào thù địch
với các anh hùng thiêng liêng của dân Ăryan (chư Thiên)”. (Con
Người, trang 77).
[522]
ĐOẠN KINH 7, Câu 24.
[523]
Xem các câu kinh 32, 34.
[524]
Nói chung, cái gọi là các quan
niệm Thiên Chúa giáo chính thống về các Thiên Thần “sa
đọa” hay Quỷ Vương, nổi bật bao nhiêu
th́ cũng phi lư bấy nhiêu. Chúng ta có thể viện
dẫn ra một tá quan niệm có các tiểu tiết
hiển nhiên nhất, tất cả đều là các tác
phẩm của các tác giả trí thức phàm tục,
những người “đă tốt nghiệp đại
học” trong phần tư hiện nay của thế kỷ
này. Như vậy, G.H. Pember, Cao học Khoa Học Xă Hội
và nhân văn, tác giả của Các Thời Đại Sơ
Khai nhất của Địa Cầu đă dành một
quyển dày để chứng tỏ rằng, các nhà Thông
Thiên Học, các nhà Giáng ma học, các kẻ chủ
trương bất khả tri, các nhà thần bí, các nhà siêu
h́nh, các thi sĩ và mọi tác giả hiện đại suy
lư về Đông phương, đều là những kẻ
tận tụy phụng sự “Thần Phong Thánh
Vương”(“Prince of the Air”) và đều bị kết án
măi. Ông mô tả Quỷ Vương và chống Christ như
sau:
“Quỷ
Vương (Satan) là ‘Tiểu Thiên Sứ được
phong thánh’ của cổ nhân… Thượng Đế đă
tạo ra Quỷ Vương là tốt đẹp nhất
và minh triết nhất trong số tạo vật của
Ngài ở phần này trong Vũ Trụ, Ngài đă biến y
thành vị Thánh Vương của Thế gian và Thần
Phong Thánh Vương… Y được đặt trong
Vườn Địa Đàng vốn vừa có
trước Vườn Địa Đàng của Sáng
Thế Kư… vừa có tính cách khác hẳn và có thực chất
hơn giống như Tân Jerusalem. Như thế, Quỷ
Vương cực kỳ minh triết và tuyệt
đẹp, địa hạt rộng lớn của y là
trái đất, nếu không phải là toàn bộ thái
dương hệ… Nhất định là chưa có một
quyền năng Thiên Thần nào có chức sắc lớn
hơn (hoặc thậm chí) bằng như thế đă được
tiết lộ cho chúng ta. Jude đă trích dẫn là chính
Tổng Thiên Thần Michael vẫn tôn kính U minh Thánh
Vương là một thượng
cấp của ḿnh, mặc dù y có thể là độc ác,
cho đến khi Thượng Đế đă chính thức
ra lệnh hạ bệ y”. Thế rồi, người ta
lại cho chúng ta biết rằng “Từ lúc mới
được tạo ra, Quỷ vương đă mang dấu hiệu vương giả (!!), y
bừng tỉnh dậy để thấy không khí tràn
ngập nhă nhạc hoan ca của những kẻ đă
được Thượng Đế bổ nhiệm”.
Thế rồi con Quỷ “chuyển từ quyền chức vương giả sang chức giáo
sĩ” (!!!). “Quỷ Vương cũng là một lễ sư của Đấng Chí Tôn” v.v… Và nay,
“Chống Christ (Antichrist) sẽ là hiện thân của
Quỷ Vương”. (Chương III, trang 56 – 59). Những
kẻ tiền phong của Apollyon vị lai đă xuất hiện rồi –
đó là các nhà Minh Triết Thiêng Liêng, nhà Huyền bí, các tác
giả của Con Đường Toàn Thiện, của
Nữ Thần Isis Lộ Diện, của Bí Nhiệm Thiên
Thu và thậm chí của Ánh Sáng Phương Đông nữa !
Tác giả ghi nhận là người ta thừa nhận
rằng Minh Triết Thiêng Liêng bắt nguồn từ các
“thiên thần sa đọa”, từ các “Nephilim”, tức là các
Thiên Thần trong Sáng Thế Kư (vi) và những Người
khổng lồ. Thế th́ y cũng phải ghi nhận là
chính y cũng bắt nguồn từ các vị đó (Giáo Lư
Bí Nhiệm đang ra sức chúng tỏ như thế)
trừ phi y không chịu nhận là ḿnh thuộc về loài
người hiện đại.
[525]
Đối chiếu x, 8, trong đó
người ta bảo rằng tất cả những
kẻ nào đến trước Đức Jesus
đều là bọn “đầu trộm đuôi
cướp”.
[526]
Sách đă dẫn, trang 16.
[527]
Câu thơ 14.
[528]
Thật chẳng chính xác chút nào mà
bảo rằng Christ là Bồ Đề, nguyên khí thứ sáu
nơi con người. Chính Bồ Đề là một nguyên
khí tiềm tàng và thụ động, hiện thể Tinh
Thần của Ătmă bất khả phân ly với Linh Hồn
Vũ Trụ biểu lộ. Chỉ khi nào kết hợp
với Ngă thức
(Self-consciousness), th́ Bồ Đề mới biến thành
Chơn Ngă và Linh Hồn thiêng liêng biết phân biện.
Họa chăng Christos là nguyên khí thứ bảy.
[529]
Như trên, câu thơ 8.
[530]
Chương xviii, 24.
[531] Để
cho rơ ràng hơn, bất cứ người nào đọc
đoạn Thánh thư Luke, sẽ thấy nhận xét này
tiếp theo báo cáo của bảy mươi vị hoan
hỉ tuyên bố rằng “ngay cả ma quỷ [tinh thần
tranh căi và lư luận, tức là quyền năng chống
đối, v́ satan chỉ có nghĩa là “đối thủ”]
cũng tuân phục chúng ta nhờ có thánh danh của Ngài”.
(Thánh thư Luke, x, 17). Nay “thánh danh của Ngài” có nghĩa là
danh xưng Christos, tức Tinh Thần của Minh Triết
Thiêng Liêng chân chính, phân biệt với tinh thần của lư
trí duy vật đơn thuần, tức Chơn ngă. Và khi
Đức Jesus nhận xét rằng Ngài đă chứng
kiến “Satan từ trên trời sa xuống nhanh như
chớp”, đó chỉ là một phát biểu các quyền
năng thần nhăn của Ngài, cho họ biết rằng Ngài
đă thấu triệt điều đó và ám chỉ sự
lâm phàm của Tia Thiêng Liêng – chư Thiên – hiện đang sa
vào ṿng sinh hóa. Đó là v́ đâu phải mọi người
đều lợi dụng cuộc lâm phàm này bằng
bất cứ cách nào; đối với một vài
người, tiềm năng vẫn tiềm tàng và hôn thụy suốt
đời. Thật đúng là “trừ Ngôi Cha ra, chẳng ai
biết được
[532]
Như thế, chẳng hạn
như trong kinh Purănas,
[533]
Một bức thư của
Chơn Sư có đoạn nói về những vị Thiên
Thần chuyển kiếp như sau: “Trong những Cấp
Đẳng Thiên Thần [là những thực thể tâm linh đă tiến hóa trong
một Chu kỳ Sáng Tạo trước] đă có và
phải có những trường hợp thất bại
cũng như trong loài người. Nhưng v́ những vị thất bại
đă tiến bộ và thăng hoa ở một mức
độ quá cao, không thể rơi xuống một tŕnh
độ tiến hóa sơ khai qua các loài thấp kém hơn
nên mới xảy ra sự việc như sau đây: Khi
một Thái Dương Hệ mới xuất hiện,
những vị Thiên Thần ấy được trào
lưu tiến hóa thúc đẩy đi ‘dẫn đầu’
những Tinh Linh [các thực thể c̣n phải tiến hóa
để trở thành người trong một thời gian tương lai] và giữ
vị thế của một sức mạnh tâm linh tiềm
ẩn vô vi trong Hào quang của bầu Thế giới tân
tạo … cho đến khi giai đoạn của nhân
loại đă điểm … Chừng đó họ trở nên
một sức mạnh tích cực và ḥa đồng
với các Tinh Linh để lâu
dần phát triển nên hàng ngũ nhân loại tiến hóa. Nói
cách khác là để phát triển trong con người và ban
bố cho họ cái Trí khôn biện biệt, có Ư thức
Tự ngă hay Thể Trí (Manas).
[534]
Phụ lục XV, trang 369 và tiếp theo.
[535]
Khi Trái Đất cùng Dăy Hành Tinh và con người
phải xuất hiện.
[536]
Trái Đất và cơi ư thức của hồng trần.
[537]
Khi các Đấng thiêng liêng thanh
khiết, tức các Thiền Định Đế Quân, và
các Đại Tinh Quân thuộc nhiều loại khác nhau,
một số được giao phó cho việc phát
triển các H́nh bóng (Chhăyăs) của ḿnh thành ra con
người hồng trần, c̣n một số
được giao cho việc làm linh hoạt y và như
thế phú cho y trí thông tuệ thiêng liêng và sự thấu
triệt được các Bí nhiệm của sự Sáng
Tạo.
[538]
“Các triều đại của các
Thánh Vương”, tất cả các vị vua này đều
tự xem ḿnh là đă được “phong thánh”, cai trị
“bằng Ân huệ của Thượng Đế”, trong khi
mà thật ra, họ cai trị bằng ân huệ của
Vật Chất, Đại Hăo Huyền, Kẻ lừa
dối.
[539]
[Trong nguyên bản, toàn thể các
câu thơ này và các câu thơ được trích dẫn
tiếp theo đều được in bằng chữ
nghiêng].
[540]
Như trên, phần đă dẫn,
câu thơ 10.
[541]
Đoạn trích dẫn này là
một chú thích cuối trang 371 trong tác phẩm Con
Đường Hoàn Thiện.
[542]
Xem ĐOẠN KINH 10, phân tiết
“Các vị Bàn Cổ Nguyên Sơ của Nhân loại”.
[543]
Xin lưu ư rằng “Thiên
Đế” chính là “Thiên Đạo” hay “Đức Chúa Con”
(xét về mặt bí truyền). Do đó, một khi mà tôn danh
này đă được áp dụng cho Đức Christ – Ngài
được tôn xưng là chính Thượng Đế -
th́ thần học Thiên Chúa giáo chẳng c̣n ǵ phải
chọn lựa nữa. Để bênh vực cho giáo
điều của ḿnh về Tam Vị Nhất Thể, nó
đă phải tuyên bố (nó vẫn cứ tuyên bố)
rằng Thiên Đạo của Thiên Chúa giáo là chân chính duy
nhất, c̣n Thiên Đạo (logos) của các tôn giáo khác
đều là giả tạo, và chỉ là Nguyên khí Ác ngụy
trang, Satan. Cứ thử xem điều này đă dẫn
thần học Âu Mỹ đi đến đâu !
[544] “Đó
là v́ Trí Tuệ, một thần linh đầy dẫy
nơi cả hai phái, chính là Ánh Sáng và Sự Sống, dùng Huyền Âm của ḿnh
để tạo ra một Trí
Tuệ hoặc Hoạt
Động Viên (Workman)
khác; vốn là Thần Lửa và Chơn Linh, nó đă uốn
nắn và tạo ra bảy Đấng Quản Trị khác,
các vị này lại bao hàm Hiện tượng giới trong
Cơi giới của ḿnh, sự an bài Hiện tượng
giới này được gọi là Định Mệnh”.
(Tiết ix, c, 1, ấn bản năm 1579).
Ở
đây hiển nhiên là Trí Tuệ, Tư Tưởng Thiêng
Liêng Bản Sơ Vũ Trụ, không phải là Đấng
Vô Hiện Huyền Vi, v́ nó đầy dẫy nơi cả
hai phái (nam và nữ), mà cũng chẳng phải là
“Đức Chúa Cha” của Thiên Chúa giáo, v́ Đức Chúa Cha
là một nam tử, chứ không phải bán thư bán hùng. Có
sự kiện là “Đức Chúa Cha”, “Đức Chúa Con” và
“Con Người” đă bị lẫn lộn với nhau lung
tung trong bản dịch của tác phẩm Pymander.
[545]
Chuyện ẩn dụ về
lửa của Prometheus là một lối tường
thuật khác về sự nổi loạn của Lucifer kiêu
ngạo, y đă bị ném
xuống hố sâu không đáy (hoặc xuống
Địa Cầu) để sống kiếp người.
Người ta cũng bảo rằng Lucifer Ấn
Độ (tức Mahăsura) đă ghen tị với Ánh sáng lấp
lánh của Đấng Tạo Hóa và đă cầm
đầu các A Tu La (không phải là Thần Linh mà là các Vong
Linh) nổi loạn chống lại Brahmă, v́ thế, Shiva
đă ném y xuống Địa ngục. Nhưng v́ triết
học phát triển song song với chuyện hư cấu
ẩn dụ trong các thần thoại Ấn Độ nên
người ta mới tŕnh bày là Ma Quỷ cũng ăn
năn hối hận và được hiến cho cơ
hội để dâng công chuộc tội. Xét về mặt
nội môn, y là một
kẻ tội lỗi dẫy đầy và có thể dùng Yoga, sự sùng tín và quả
vị Chơn Tiên để hợp
nhất với Thượng Đế một lần nữa. Hercules, Nhật
Thần, xuống Địa ngục (Hang Điểm
Đạo) để giải thoát cho các nạn nhân
khỏi bị hành h́nh v.v.. Chỉ có giáo hội Thiên Chúa giáo
mới tạo ra cực h́nh đời
đời cho Ma Quỷ và kẻ bị kết án mà nó
đă chế ra.
[546]
Chẳng hạn như tại sao
Éliphas Lévi (một môn đồ Do Thái Bí giáo rất quả
cảm và ngay thẳng) lại ngần ngại không muốn
tiết lộ bí mật về cái gọi là các Thiên Thần
Sa Đọa. Những tác phẩm đồ sộ với
những lời thường xuyên ám chỉ chứng tỏ
rằng ông đă biết sự kiện ấy và chân ư
nghĩa của ẩn dụ, cả theo ư nghĩa tôn giáo lẫn
ư nghĩa thần bí, cũng như là theo ư nghĩa sinh lư.
Thế nhưng, sau khi đă ám chỉ tới nó hàng trăm
lần trong các tác phẩm trước, th́ trong các tác
phẩm sau này – Lịch sử Pháp thuật (trang 220 – 221) –
Éliphas lại bảo rằng: “Chúng tôi kịch liệt
phản đối bá quyền và tính vô sở bất
tại của quỷ Satan. Ở đây, chúng tôi không
chủ trương phủ nhận hay xác nhận truyền
thuyết về sự sa đọa của các thiên
thần… Nhưng nếu thế th́ … vị chúa trùm (Prince)
của các Thiên Thần Nổi Loạn cùng lắm cũng
chỉ có thể là kẻ cuối cùng và bất lực
nhất trong số những kẻ bị chèn ép – nay y đă
bị tách rời khỏi Đấng thiêng liêng – vốn là
nguyên lư của mọi quyền
lực”. Điều này thật là mơ hồ và có tính cách
tránh né, nhưng chúng ta hăy xem những ǵ mà Hargrave Jennings
viết ra với bút pháp đứt quăng quái gở như
sau:
“Cả Thánh
Tuy nhiên,
điều bí mật không
thể giải thích và không
thể tiết lộ được này sẽ
được giáo lư Đông phương giải thích và
tiết lộ. Mặc dù vậy, theo sự tŕnh bày của
vị tác giả rất thông thái (song lại c̣n làm hoang mang
hơn nữa) của Tục
sùng bái sinh thực khí, dĩ
nhiên là không một thế nhân chưa được
điểm đạo nào hiểu được khuynh
hướng thực sự của nó.
[547]
Xem Sod: Con của Người,
của S.F. Dunlap, trang 50 và
tiếp theo (1861).
[548]
Dĩ nhiên là “Sáng Tạo” từ
Hỗn nguyên khí vĩnh cửu, tức Vật Chất; theo
các giáo lư của chúng ta, Hỗn nguyên khí này chính là Không gian Vô
biên Hằng hữu.
[549]
Phái Lucifer là một giáo phái vào
thế kỷ thứ tư mà người ta cho rằng
đă dạy: linh hồn là một thể bằng xác thịt được cha
truyền con nối, c̣n phái Lucian, một giáo phái khác xưa
hơn vào thế kỷ thứ ba sau T.C. cũng giảng
dạy tất cả các điều đó và dạy thêm
rằng sinh hồn (animal
soul) không bất tử, nó đă được triết hóa
(philosophized) dựa vào nền tảng của giáo lư
Huyền bí học và Do Thái Bí giáo thực sự
[550]
Ngay cả khoa học cũng
bắt buộc phải chấp nhận “Mặt Trời
Trung Ương” của các nhà huyền bí học (xét về
mặt thiên văn), v́ nó không thể phủ nhận sự
hiện diện trong không gian tinh đẩu của một
thiên thể trung ương trong Ngân Hà, một điểm
vô h́nh và bí nhiệm, tâm hấp dẫn hằng ẩn
của Mặt Trời và Thái Dương Hệ chúng ta.
Nhưng các nhà Huyền bí Đông phương lại có quan
niệm khác hẳn về Mặt Trời này. Trong khi các môn
đồ Do Thái Bí giáo Tây phương và Do Thái – thậm chí
cả một vài nhà thiên văn học hiện đại
sùng đạo nữa – tuyên bố rằng Thượng
Đế đặc biệt hiện diện nơi
Mặt Trời này và quy các hành vi ư chí của Thượng
Đế cho nó, th́ các Điểm Đạo đồ
Đông phương lại chủ trương rằng v́
bản thể siêu linh của Đấng Huyền Vi
Tuyệt Đối hiện diện như nhau ở
khắp nơi, nên “Mặt Trời Trung Ương” chỉ
là Trung Tâm Sinh Điện Vũ Trụ, kho chứa tập
trung Ánh Sáng Quang Huy Thiêng Liêng sau khi đă biến phân vào lúc
mở đầu mọi “cơ sáng tạo”. Mặc dù c̣n
ở một trạng thái trung
ḥa (Laya) song nó vẫn là một Trung Tâm Sinh Lực
hấp dẫn duy nhất cũng như hằng phát xạ.
[551]
Sách đă dẫn trang 287 – 289.
[552]
Xem Giảng lư ĐOẠN KINH 7,
Quyển I.
[553]
Nguyên khí thứ
tư và thứ năm khi
tính từ dưới lên, bắt đầu từ thể
xác, nguyên khí thứ ba và thứ tư nếu tính từ Ătmă
xuống.
[554] Các Khía Cạnh Mới của Sự Sống.
[555]
Sách đă dẫn, trang 97 – 98,
ấn bản kỳ 2, năm 1887.
[556]
Chúng ta sẽ thấy sự tích
về Prometheus, Nghiệp quả và ư thức con
người trong Quyển 4; Phần 2, Tiết 5.
[557]
Của một người Anh mà
siêu tài bất thường đă giết chết ông.
Vốn là con của một Mục sư Tin Lành, y đă
trở thành một tín đồ Hồi giáo rồi biến
thành một kẻ vô thần điên cuồng. Sau khi gặp
một Đạo sư, y trở thành một nhà Thần
bí, rồi thành một nhà Minh Triết Thiêng Liêng hoài nghi,
thất vọng, chẳng cần huyền linh học và ma
thuật, điên rồ và gia nhập Giáo hội Thiên Chúa
giáo La Mă. Rồi y lại tráo trở, lăng mạ Giáo
hội, lại trở thành một kẻ vô thần và
chết đi khi chửi rủa nhân loại, tri thức và
Thượng Đế mà y không c̣n tin tưởng nữa.
Vốn được cung cấp cho mọi dữ kiện
nội môn để viết tác phẩm “Trận chiến
tranh trên Trời”, y đă dùng để soạn ra một
bài báo chính trị nửa mùa, trộn lẫn Malthus với
Satan, Darwin với Tinh Tú Quang. Y đă an giấc ngàn thu. Y là
một tấm gương để cảnh cáo những
Đệ tử thất bại. Nay chúng ta có thể
thấy ngôi mộ bị quên lăng của y ở nghĩa
trang Hồi giáo Junaghur,
[558]
Tác giả đề cập
đến cuộc chiến kịch liệt và kết án
Jehovah như thể y đồng nghĩa với Thái
Cực Thượng Đế (
[559]
Tạp chí Theosophist, tháng 12 – 1881,
trang 68.
[560]
Khi giải thích kinh Kabalah, Bác sĩ
Henri Pratt cho rằng: “Đối với con người
[đối với giáo sĩ Do Thái th́ đúng hơn !]
chơn linh là một thực thể vô sắc tướng,
thoát xác và sa đọa, v́ thế, biểu ư tự đă
gọi nó là
[561]
Kinh Zohar, iii, 61 c.
[562]
Daksha nghĩa là “kẻ thông tuệ
có thẩm quyền”. “Danh hiệu này thường bao hàm ư
niệm về quyền năng sáng tạo”. Ngài là một
con trai của Brahmă và Tiên Thiên Huyền Nữ (Aditi), và theo
các lối thuyết minh khác, một quyền năng tự
sinh tự tại; cũng như Minerva, nó phát sinh từ
cơ thể của cha ḿnh. Ngài là vị đứng
đầu của các Prajăpatis, các Đấng Sáng Tạo
Hiện Tồn. Trong Vishnu Purăna, Parăshara đề cập
tới y như sau: “Trong mọi Thiên Kiếp [tức
[563]
Bhăgavata Purăna, iv, 24, 4.
[564]
Chẳng có Đấng nào thuộc
các Đẳng cấp này phân biệt với Pitris hay
Thủy Tổ. Kinh Bàn Cổ (Adyăya iii, Câu 264) dạy:
“Kẻ minh triết gọi các vị phụ mẫu của
ta là Vasus; các ông bà của ta là Rudras; các cụ của ta là
Ădityas (theo kinh Veda). Một bản dịch khác cho rằng
“Đây là một kinh Veda trường cửu”.
[565]
Nay ông G. Smith quá cố, đă phát
hiện được trong văn chương
[566]
Một số thượng
đẳng, một số hạ đẳng, để phù
hợp với Nghiệp
Quả,
[567]
Trong ấn bản tiếng Anh
của tác phẩm Nhân Loại Học với lời
giới thiệu của Giáo sư Broca, Topinard cho rằng:
“Có ba yếu tố cơ
bản về màu da nơi cơ thể con người,
đó là da đỏ, vàng và đen. Khi trộn lẫn theo
những số lượng khác nhau với những mô màu
trắng, chúng sẽ sinh ra vô số sắc da mà chúng ta
thấy trong gia đ́nh nhân loại”. Ở đây, khoa học
lại vô t́nh ủng hộ Huyền bí học.
[568]
Phải nhớ rằng các “di tích
cuối cùng” nói tới ở đây ám chỉ các phần
đất của “Đại lục” vẫn c̣n tồn
tại, chứ không phải bất kỳ đảo nào
trong đám vô số ḥn đảo tồn tại
đồng thời với Đại lục đó.
Chẳng hạn như “đảo” của Plato là một
trong các di tích đó; các ḥn đảo khác đă bị ch́m
vào nhiều thời kỳ trước đó. Một
“truyền thuyết” Huyền bí dạy rằng những
sự đắm ch́m đó đă xảy ra mỗi khi mà
“Mặt Trời Tinh Thần” bị nhật thực.
[569]
Xem các nhận xét về các vị
Căn Bàn Cổ và các Chủng Bàn Cổ, và Tiết bàn
về “Các Bàn Cổ Nguyên thủy của Nhân loại” ở
cuối phần Giảng lư của ĐOẠN KINH này.
[570]
[Ấn bản lần 8, trang 148].
[571]
Việc ông
[572]
Khoa học Hiện Đại và
Tư Tưởng Hiện Đại, trang 337.
[573]
Xem từ ngữ này trong Từ
Điển Cổ Ấn Độ, của
[574]
Sách đă dẫn, trang 335.
[575]
Chơn Sư dạy: “Hăy tuân theo
luật tương tự”. Ătmă-Buddhi lưỡng phân, c̣n
trí tuệ lại tam phân, v́ Ătmă-Buddhi có hai trạng thái, c̣n
Trí Tuệ có ba trạng thái, nghĩa là, với vai tṛ là
một nguyên khí tự thân, mà trong trạng thái cao, nó bị
thu hút về phía Ătmă-Buddhi, c̣n trong trạng thái thấp, nó
lại theo đuôi Cảm Dục, hang ổ của dục
vọng trần tục và đầy thú tính. Nay chúng ta hăy so
sánh sự tiến hóa của các Giống dân, Giống dân
thứ Nhất và thứ Hai có bản chất Ătmă-Buddhi mà
chúng là hậu duệ thiêng liêng thụ động. Trong khi
đó, Căn chủng thứ Ba tỏ ra có ba trạng thái
riêng biệt về mặt sinh lư và tâm linh – trạng thái
thứ nhất vô tội, trạng thái thứ hai khơi
hoạt trí tuệ, c̣n trạng thái thứ ba và cuối cùng rơ
rệt là thú dục, nghĩa là Trí Tuệ bị Cảm
dục cám dỗ.
[576]
Laing , sách đă dẫn, trang 335.
[577]
Có điều rắc rối là
chẳng nhà sinh lư học hoặc bệnh lư học nào
thừa nhận rằng chất sinh ra tế bào (chất
phôi chủng bào) và mước mother-lye phát sinh ra các tinh
thể, đều cùng một bản thể ngoại
trừ khi biến phân v́ một vài mục đích nào đó.
[578]
[579]
[580]
Văn kiện của Hội
Địa Chất Học Glasgow, quyển iii. Tuy nhiên
kỳ lạ thay, mới đây ông lại thay đổi ư
kiến. Theo ông, Mặt Trời chỉ mới
được 150 000 000 tuổi.
[581]
Bastian, Nguồn Gốc của
Sự Sống, ii, trang 622.
[582]
Laing, Khoa Học và Tư
Tưởng Hiện Đại, trang 171.
[583]
Xem Nữ Thần
[584] V́ thế, mới có triết lư
trong ẩn dụ bàn về 7, 10 và cuối cùng là 21,
Đấng Prajăpati, Rishis, Munis v.v… tất cả các Ngài
đều được tŕnh bày là “cha” của nhiều
thực thể và sự vật khác nhau. Chúng ta thấy tŕnh
tự của bảy lớp cây cỏ, thú vật và ngay
cả các vật vô tri khác, vốn được tŕnh bày
một cách tùy tiện trong kinh Purănas, lại
được tŕnh bày theo đúng ṿng thứ tự trong
nhiều giảng lư. Do đó, Prithu là Cha của Địa
Cầu. Y “vắt sữa” nàng và bắt nàng phải sản
xuất ra mọi loài có hạt và rau cải,
được liệt kê và xác định hết. Ca
Diếp là “cha” của mọi loài ḅ sát, rắn rết, ma
quỷ v…v…
[585] Tuy nhiên lại bị Luật Tŕ Trệ kiểm soát và biến đổi, nó sẽ khiến cho mọi loài bị hạn chế tiến bộ khi một loại cao cấp hơn xuất hiện.
[586]
Xem Nguồn gốc của
Loại, trang 145.
[587]
Bastian, Nguồn gốc của
Sự Sống, ii, trang 622 – 623.
[588] Quyển
II, trang 278.
[589]
Sách đă dẫn, I, trang 9.
[590]
Như trên, trang 283 - 284, quyển ii.
[591]
Xem Các thư nói về Châu Atlantis
của ông.
[592]
[Ấn bản kỳ 8, trang 67, 73].
[593]
Ông Faber (lại một tín
đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo) đă tŕnh bày
điều này bằng cách nói rằng: “Gia đ́nh Noah
cũng có danh xưng là người Atlantis và các vị Titan;
chính vị đại tộc trưởng được
gọi một cách tâng bốc là Atlas và Titan”. (Như trên, ii, trang 285). Và nếu
thế th́ theo Thánh kinh, Noah ắt đă là hậu duệ của các Con
Thượng Đế, các Thiên Thần Sa Đọa (cũng
theo thẩm quyền của tác phẩm đó) và hậu
duệ của “các con gái của nhân loại xinh đẹp”
(Xem Sáng thế Kư, vi). Và tại sao lại không, v́ cha y,
Lamech, đă giết chết một người cùng với
tất cả con trai và con gái, bị tử nạn trong
trận Đại Hồng thủy, cũng thê thảm như
những người khác ?
[594]
Trong tác phẩm lư thú Atlantis,
Thế Giới Tiền Đại Hồng Thủy, khi
đề cập tới các kiểu dân Ăryan gốc Atlantis
cùng với các khoa học và nghệ thuật – di sản
của Giống dân thứ Tư – Donnelly đă dũng
cảm loan báo rằng “các định chế này nay bắt
nguồn từ thời Trung Tân (Miocene)”. Đây là một
sự nhân nhượng lớn lao của một học
giả hiện đại, nhưng nền văn minh c̣n
bắt nguồn từ trước thời Trung Tân cảu
dân Atlantis. Con người vào thời Đệ nhị
kỷ sẽ được t́m ra, cùng với nền
văn minh đă bị quên lăng từ lâu rồi. [Xem
chương iii, trang 30].
[595]
[596]
Như đă có nói, CON NGƯỜI
là
[597]
Pymander Thiêng Liêng, I, 16.
[598]
Tác phẩm của Pymander trong các
thư viện và viện bảo tàng của chúng ta là
một bản rút ngắn của một trong các Thánh thư
của Thoth do một môn đồ phái Platon ở
[599]
Uranus là một biến thể
của Varuna, “Đấng bao hàm vũ trụ vạn
vật” và là một trong các vị Thần xưa nhất
của kinh Veda – Không gian vốn khai thiên tịch
địa, v́ cả Thiên lẫn Địa đều
biểu lộ ra từ mầm mống của Ngài (nó). Măi
chỉ về sau này th́ Varuna mới biến thành thủ lănh
của các Ădityas và là một vị Thần Neptune diễm
lệ trên lưng con quái vật “Leviathan”. Makara nay là cung
Hoàng Đạo linh thiêng và bí nhiệm nhất. Varuna – không
có Ngài th́ thậm chí chẳng tạo vật nào có thể
chớp mắt được”- cũng bị thoái hóa
như
[600]
Thần thoại Cổ Hy Lạp, trang
7.
[601]
Trong tác phẩm Hercule và
Cacus (trang 57), Bréal đă chứng tỏ rằng Kronos không
những là Thời gian mà c̣n có từ nguyên là kar, “làm ra, tạo ra”. Liệu
Bréal và Decharme có chí lư không khi cho rằng trong kinh Veda, Kranan,
Đấng Tạo Hóa, là một vị Thần Sáng Tạo,
chúng tôi c̣n ngờ lắm. Bréal có lẽ muốn nói tới
Karma, hoặc đúng hơn là
[602]
Xem các ĐOẠN KINH 3 – 10 và
tiếp theo, xem thêm bài tường thuật của Berosus
về sự sáng tạo bản sơ.
[603]
Trận chiến Titan (ít ra trong
thần phổ học) là cuộc chiến đấu giành
quyền giữa các con của
[604] Decharme,
sách đă dẫn, trang 284.
[605]
Trong thần thoại Ai Cập,
được gọi là “Hai Anh Em” do ông Maspero (cựu giám
đốc viện Bảo tàng Boulaq) dịch, tŕnh bày nguyên
bản về Pandora. Noom, nghệ sĩ nổi tiếng cơi
trời, sáng tạo ra một cô gái xinh đẹp mà y
gởi tới cho Batoo là người đàn ông, c̣n cô gái
dĩ nhiên là Eva (Eve). (Xem Tạp chí Khảo Cổ Học,
tháng 3 – 1878; xem thêm Decharme, như trên, trang 285).
[606]
Yima không phải là “con người
đầu tiên” trong tác phẩm Vendĩdăd, mà chỉ là
như vậy trong các thuyết của các nhà Đông
phương học.
[607]
Boeotia đă bị ch́m ngập và
sau đó là các đô thị
[608]
Opera et Dies, 108.
[609]
Xem Apollodorus, I, 7, 2; và Ovid, Sự
biến h́nh, I, 260 và tiếp theo.
[610]
Thần thoại Đức, I,
trang 545, ấn bản kỳ ba và Thần thoại Schlawische
của Hanusch, trang 235.
[611]
Hesiod, Opera et Dies, câu thơ 143 – 155.
[612]
Xem Aeschylus, Bảy vị Anh hùng
chống lại thành
[613] Decharme,
như trên, trang 289 – 290.
[614]
Ở đây, danh hiệu này
được dùng theo nghĩa (và đồng nghĩa
với) “thầy phù thủy”. Các Giống dân Atlantis có
rất nhiều và sự tiến hóa của chúng kéo dài hàng triệu năm. Tất cả
các giống dân này đều chẳng có ǵ xấu xa,
nhưng đă trở nên tồi bại vào cuối chu
kỳ của chúng, chẳng khác nào Giống dân thứ
Năm chúng ta nay cũng đang nhanh chóng biến ra như
vậy.
[615]
Các vị Thần Ngũ Hành (Gods of
the Elements) không hề là các Hành khí (Elementals). Cùng lắm là
các Ngài dùng các Hành khí làm hiện thể và vật liệu
để khoác lấy.
[616]
Ngay ở đầu Chương
iv của Sáng Thế Kư, Cain là kẻ tế thần bằng
trái cây của mảnh đất mà y là người cày
bừa đầu tiên, c̣n Abel đă đem lứa con chiên
đầu tiên tới cho Đức Chúa Trời. Cain là
biểu tượng của nhân loại nam tính đầu
tiên, Abel là biểu tượng của nhân loại nữ
tính đầu tiên, c̣n
[617]
Sáng
[618]
Có lẽ chính v́ xét đến
sự thoái hóa của các
Chơn Linh cao siêu và thanh khiết nhất (các Ngài đă
đột phá các cảnh giới ư thức thấp trung
gian. “Bảy Ṿng Lửa trong Pymander”)
nên người ta mới tŕnh bày là Thánh James đă phát
biểu rằng “Minh Triết (sophia)
không từ trên cao giáng xuống, mà lại có tính cách thế
tục, vật dục và quỷ
quái”. Nay minh triết này chính là trí tuệ, “Nhân Hồn”,
c̣n Minh Triết Tinh Thần tức Linh Hồn là Buddhi; v́ quá
gần gũi với Tuyệt Đối nên chính nó chỉ
là ư thức tiềm tàng, và
phải tùy thuộc vào Trí Tuệ để biểu lộ
bên ngoài cơi riêng nó. [Trong ấn bản 1888, Sophia
được tŕnh bày là psũche].
[619]
Ădi Parvam, trang 113.
[620]
Vishnu Purăna, bản dịch của
[621]
Truyền thuyết của mọi
quốc gia đều nêu rơ điều này. Donnelly đă
trích dẫn tác phẩm Cổ Sử của Dân Tây Ban Nha
của Linh Mục Duran (xuất bản năm 1885, trong
đó một thổ dân sống lâu trăm tuổi ở
Tác giả
của Châu Atlantis (trang 204) cho rằng: “Khá nhiều lịch
sử của Trung Mỹ đă liên quan mật thiết
với hành vi của một giống người khổng
lồ thời xưa được gọi là Quinanes”.
[622]
Lịch sử Địa Cầu,
trang 154.
[623]
Có những nhà phê b́nh v́ không t́m thấy
bằng chứng về sự tồn tại của
Tertullian, ngoại trừ trong các tác phẩm của Eusebius,
“kẻ trung thực”, nên có khuynh hướng nghi ngờ nó.
[624]
Anh Hùng Ca, trang 35.
[625]
[626]
Xem đoạn trên trong tác phẩm
Các Vong Linh, của De Mirville, Quyển iii, trang 47 – 48.
[627]
Các Độ Cao (Élévations), trang 56.
[628]
Và điều này như thế
đấy, bất chấp sự cấm đoán chính
thức tại Đại Hội Đồng Giáo Hội
Elyrus vào năm 303 sau T.C., khi người ta tuyên bố
rằng “h́nh tượng của Thượng Đế
vốn phi vật chất và vô h́nh, sẽ không bị
giới hạn bởi h́nh hài hay h́nh dáng”. Năm 692, Giáo
Nghị Hội Constantinople cũng cấm tín đồ “mô
tả hoặc tŕnh bày Đức Jesus là một con chiên” cũng như là qú gối
để cầu nguyện, v́ đó là hành vi sùng bái ngẫu
tượng. Nhưng Giáo Nghị Hội Nicaea (năm 787)
đă khai trừ John, Giáo trưởng
[629]
Sáng
“Thực
thể huyền bí” này chính là Con Rồng thần thoại,
nghĩa là biểu tượng của vị Cao đồ
có thật trong lịch sử,
bậc Chơn Sư của Khoa huyền bí học thời
xưa. Người ta đă vạch rơ đâu đó rằng
các vị “Đại pháp sư” của các Giống dân
thứ Tư và thứ Năm thường được
gọi là “Rắn” và “Rồng” theo danh hiệu các Tổ
Phụ của họ. Tất cả các vị này
đều thuộc về “các Con Rồng Minh Triết
Bốc Lửa”, các Thiền Định Đế Quân,
tương ứng với các Nhật Tinh Quân, Maruts và Rudras
nói chung, v́ Rudras phát sinh từ cha họ vốn đồng
nhất với Hỏa Thần. Trong kinh điển c̣n nói
nhiều hơn nữa. Nay dĩ nhiên là Clement, một
Điểm đạo đồ
[630]
Phần IV, Chương xxvii, trang
291.
[631]
Về điều khẳng
định của chúng tôi, quí vị ắt sẽ bảo
rằng người Trung Hoa – tôi đang đề cập
tới những người Trung Hoa nội địa chân
chính, chứ không phải là sự lai giống giữa
Giống dân thứ Tư và thứ Năm đang nắm
quyền trị v́ hiện nay [nghĩa là vào năm 1888]-
những người dân bản xứ có dân tộc tính
thuần túy hoàn toàn thuộc về chi chủng cuối cùng
và cao siêu nhất của Giống dân thứ Tư đă
đạt đến tuyệt đỉnh văn minh khi
Giống dân thứ Năm vừa xuất hiện ở Châu
Á. [Phật Giáo Bí Truyền, ấn bản kỳ 8, trang 69].
Và một số người Trung Hoa nội địa này
đều có một vóc dáng rất cao. Nếu chúng ta có
thể t́m thấy bản thảo xưa nhất bằng
tiếng Lolo (ngôn ngữ của dân bản xứ Trung Hoa) và
dịch chúng ra một cách chính xác, th́ chúng ta ắt sẽ
t́m thấy nhiều bằng chứng vô giá. Nhưng chúng
thật là hiếm có v́ chẳng ai hiểu được
chúng. Cho tới nay, chỉ có một, hai nhà khảo cổ
Tây phương đă có thể t́m được các tác
phẩm vô giá như thế.
[632]
Được trích dẫn trong
sách đă dẫn của De Mirville, Quyển iii, trang 53. Chúng
ta nên nhớ phát biểu tương tự trong Thánh Thư
Enoch, cũng như là cái thang mà Jacob đă thấy khi
nằm mơ. “Hai thế giới” dĩ nhiên có nghĩa là
hai cơi Tri Thức và Hiện Tồn. Một nhà linh thị có
thể liên lạc với các Thực Thể thuộc
một cơi cao hơn cơi Trần mà không rời khỏi
chiếc ghế của ḿnh.
[633]
Trong nguyên bản tiếng Anh,
chỗ này đánh dấu ba sao – LND.
[634]
Xem giảng lư về Bốn
Giống dân và “Các Con của Ư Chí và Yoga”, hậu duệ vô
nhiễm của Giống dân thứ Ba Bán thư bán hùng.
[Quyển 3].
[635]
Trong kinh Kabalah, sự tuyên
đọc húy danh tứ tự là một bí nhiệm
nhất.
[636]
Sáng
[637]
Như trên, trang 84, ḍng 12, 14 và 15.
[638]
Khi một lần nữa trở
lại đề tài quan trọng nhất này trong Vũ
trụ khởi nguyên luận Cổ sơ, ngay cả trong
các huyền thoại Bắc Âu, trong các cuốn Thánh kinh
của Nữ Thần Saga, chúng ta cũng thấy Loki, em
ruột của Odin – cũng như Typhon, Ahriman v.v… lần
lượt là em của Osiris và Ormazd – đă chỉ trở
thành gian ác sau này, khi Ngài đă trộn lẫn với nhân
loại quá lâu dài. Cũng như mọi vị Thần Ánh
Sáng hoặc Thần Lửa khác – Lửa đốt cháy và
hủy diệt cũng như là sưởi ấm và ban
cấp sự sống – rốt cuộc Ngài đă bị xét
theo ư nghĩa hủy diệt của “Lửa”. Danh hiệu Loki mà chúng ta hiểu
được qua tác phẩm Asgard và
[639]
Các thần thoại Hy Lạp mà
chúng ta vừa nói bóng gió ở một vài trang trước
đây – nghĩa là chuyện
[640]
Do Christian Ginsburg trích dẫn từ
kinh Kabalah.
[641]
Schlagintweit, Phật Giáo ở Tây
Tạng, trang 248. Đó là các Đấng mà sự tồn
tại thần thoại đă dùng làm một nền
tảng để xây dựng Lilith của các giáo sĩ Do
Thái, và cái mà kẻ tin tưởng vào Thánh kinh ắt gọi
là những phụ nữ thời tiền đại
hồng thủy, và các môn đồ Do Thái Bí giáo gọi là
các giống dân tiền Adam. Họ đâu phải là
tưởng tượng – chắc chắn là như
vậy, mặc dù sau này nó đă phát triển mạnh về
phía hoang đường.
[642]
Sách đă dẫn, trang 101 – 102.
[643]
Để gợi ư, chúng tôi xin
giới thiệu một bài ngắn của
[644]
Người ta có thể phản
đối rằng đây là một điều mâu
thuẫn. V́ Căn Chủng đầu tiên xuất hiện
sau khi cây cỏ đă tiến hóa được 300 000 000
năm, nên Mầm mống thực vật không thể ở
giống đầu tiên. Chúng tôi xin đáp rằng có thể
lắm, v́ măi cho tới khi con người xuất hiện
trong cuộc Tuần Hoàn này,
th́ giới thực vật hăy c̣n thuộc một loại
khác hẳn hiện nay và rất tinh anh. Lư do giản dị
là không một loại cây cỏ nào có thể có tính cách
vật chất hồng trần trước khi mà các cơ
thể động vật v.v… thở ra acid carbonic (có
lẽ tác giả lầm chỗ này, v́ động vật
thở ra khí carbonic CO 2-ND) mà cây cỏ phải thấm
nhuần trong đó để phát triển, dinh dưỡng
và tăng trưởng. Chúng tùy thuộc lẫn nhau về
các h́nh hài vật chất
đă đạt được.
[645]
Kinh Zohar, i, 21 a.
[646]
Như trên, iii, 48 a.
[647]
Như trên, ii, 76 a.
[648]
Sách đă dẫn, trang 666.
[649] Trong
kinh Zohar, người ta có nêu rơ rằng “các thế giới
nguyên thủy” (điểm linh quang) không thể tiếp
tục tồn tại v́ chưa có con người. H́nh hài người bao hàm vạn
vật, và v́ nó vẫn c̣n chưa tồn tại, nên các
thế giới đă bị diệt vong.
[650]
Các Thánh Thư của Phương
Đông, quyển IV; kinh Vedĩdăd, J. Darmesteter; Fagard, trang 17.
[651] Đây là ư nghĩa khi mà ẩn
dụ và biểu tượng được giải
bằng ch́a khóa nhân loại, nghĩa là ch́a khóa để
giải Nhân triết học trần tục (terrestrial
anthroposophy). Lối thuyết minh về biểu
tượng kư “chiếc Bè” này không hề dính dáng ǵ tới
các ch́a khóa thiên văn học hay thậm chí thần phổ
học; nó cũng chẳng dính dáng ǵ tới bất cứ
một trong sáu ư nghĩa nào khác. Nó cũng chẳng hề có
vẻ phản khoa học hơn những thuyết hiện
đại về nguồn gốc con người. Như
đă nói, có bảy ch́a khóa để giải nó cũng
như các thứ khác.
[652]
Như trên, trang 18.
[653]
Như trên.
[654]
Như trên, trang 20.
[655]
Xem thêm Bundahish, XV.
[656] Như
trên, trang 21.
[657]
Bundahish, XIX và XXIV.
[658]
Mathers, Vén màn bí mật kinh Kabalah,
trang 104.
[659] Kinh Zohar, ii, 8b; kinh Qabbalah của Myer, trang 217.
[660]
Kinh Zohar, iii, 278a, kinh Qabbalah của
Myer, trang 217.
[661]
Các nhà Tiến hóa luận theo phái
[662]
Xem Các Con
[663]
Nghĩa là Con Mắt thứ Ba
ở sau gáy, Câu nói rằng Giống người bán nam bán
nữ cuối cùng có “bốn tay” có thể giải đáp
điều bí hiểm về những h́nh tượng các
vị Thần của Ấn giáo công truyền. Trên vệ
thành Angor, có một pho tượng bằng gỗ chạm
khắc thô thiển được gán cho Daedalus, tŕnh bày
một người khổng lồ có ba mắt
được dâng cho Thần Zeus Tam Nhăn (Zeus Triopis).
Đầu của vị “thần” này có hai mắt trên
mặt và một mắt ngay giữa trán, nó được
xem là pho tượng cổ sơ nhất. (Schol. Vatic, ad
Eurip, Troad, 14).
[664]
Từ đó trở đi,
người ta chỉ có thể đạt được nội nhăn thông nhờ vào
sự tu tập và điểm đạo, ngoại trừ
trường hợp trong “các pháp sư bẩm sinh” – nay
người ta gọi họ là kẻ có tâm linh thông và các
đồng tử.
[665]
Lối diễn đạt này
–“bị hóa thạch” (“petrified”) thay v́ “bị hóa cốt”
(“ossified”) – thật là kỳ quặc. Nghe nói “hậu nhăn”
(“back eye”), dĩ nhiên cái gọi là tuyến tùng quả,
khối chất xám nhỏ như hạt đậu gắn
liền với phần sau của năo thất ba, hầu
như bao giờ cũng chứa những kết khối khoáng chất và cát chứ “không c̣n ǵ khác nữa”.
[666]
Heackel cho rằng: “Nơi một
vài con vật chúng ta thấy những con mắt thực,
vốn không thể thấy được, ẩn sâu bên
trong đầu, có lớp da dày và các cơ quan bao bọc.
Trong động vật có xương sống, có những
con chuột chũi và chuột đồng bị mù,
những con rắn và lạc đà mù… Chúng tránh ánh sáng ban
ngày và ở dưới đất. Thoạt tiên, [chúng] không
bị mù, nhưng đă thoát thai từ các tổ phụ
sống trong ánh sáng và có cặp mắt tinh tường.
Chúng ta có thể t́m thấy con mắt bị teo bên
dưới lớp da mờ đục nơi những sinh
vật mù trong mọi giai đoạn hồi qui”. (Heackel,
Pedigree of Man, “Các giác quan”, trang 343; bản dịch của
Aveling). Và nếu nơi các con thú thấp kém, hai mắt có
thể trở nên teo tóp như thế, th́ tại sao con mắt duy nhất – tùng
quả tuyến- nơi con người (y chỉ là con thú
cao cấp, xét theo khía cạnh thể chất), lại không
như vậy?
[667]
Sách đă dẫn, Quyển ii, trang
830 – 831, ấn bản kỳ 9, “Gian Năo”.
[668]
“Ether thần kinh” của Bác sĩ
B.W. Richardson, Hội viên Hội Hoàng Gia; hào quang thần kinh
của Huyền bí học. Các “tinh linh thú dục” (?)
tương đương với các luồng hào quang
thần kinh hỗn hợp.
[669]
Chúng ta nên nhớ rằng Huyền
bí học tŕnh bày là Giống dân thứ
Nhất có phần tinh thần ở bên trong và phần
tinh anh ở bên ngoài; Giống dân thứ
Hai có trí tuệ tâm linh tinh thần và thể chất
hồng trần và dĩ thái. Giống dân thứ Ba (thoạt tiên chưa có trí tuệ) có h́nh
tướng hồng trần tinh anh và sống một
cuộc sống nội tâm, trong đó yếu tố tâm linh
tinh thần cho đến nay vẫn c̣n chưa dính dáng ǵ
tới các giác quan sinh lư mới ra đời. Hai mắt nó
nh́n thẳng ra phía trước mà chẳng hề thấy
quá khứ vị lai. Nhưng Mắt thứ Ba lại “bao trùm VĨNH CỬU”.
[670]
Nhưng khác hẳn điều mà
Haeckel đă mô tả là “sự
tiến hóa do Chọn lọc Tự nhiên bằng cách
đấu tranh để sinh tồn” (Nhân Phổ
Học) “Các Giác Quan”, trang 335, bản dịch của Aveling.
Chỉ riêng sự kiện “sự nhạy cảm về
nhiệt của lớp da” đối với các sóng ánh sáng
theo giả thuyết, hoàn toàn không đủ thẩm
quyền để biện minh cho sự phối hợp các
thích ứng tài t́nh có trong mắt. Chúng ta đă chứng
tỏ rằng “sự chọn lọc tự nhiên” chỉ là
một thần thoại khi người ta tin rằng nó sinh ra các biến thái, v́ sự
“sinh tồn của kẻ thích ứng nhất” chỉ có
thể diễn ra sau khi những biến thái hữu
dụng đă nảy sinh ra, cùng với các cơ thể
đă được cải thiện. Các sự “biến
thái hữu dụng” đă phát triển con mắt từ
đâu mà ra? Phải chăng chúng chỉ bắt nguồn
từ “các lực mù quáng… không có mục đích, không có
chủ đích” ? Lư luận này thật là ấu trĩ.
Lời giải đáp chân thực của bí nhiệm này
ở nơi Minh Triết Thiêng Liêng vô ngă, nơi THIÊN Ư
của nó, được phản ánh qua Vật Chất.
[671]
Các Con
[672]
Nghiệp quả (Karma) là một
từ có nhiều nghĩa, và có một thuật ngữ riêng
biệt đối với hầu hết mọi khía
cạnh của nó. Khi đồng nghĩa với tội
lỗi, nó có nghĩa là sự hoàn thành một hành
động nào đó để đạt tới mục
tiêu của dục vọng trần tục, v́ thế nên nó
là ích kỷ, nó không thể không gây thiệt hại cho
người nào khác. Nghiệp quả là tác động, là
nguyên nhân: “Nghiệp quả cũng lại là “
[673]
Những kẻ phản đối
thuyết Nghiệp quả nên nhớ lại sự kiện
là hoàn toàn không thể ra sức đáp lại những
kẻ bi quan về các dữ kiện khác. Chỉ cần
quán triệt những nguyên lư của định luật
Nghiệp quả th́ cũng đủ làm sụp đổ
được toàn bộ nền tảng của cấu
trúc mà Schopenhauer và Von Hartmann đă dựng nên.
[674]
Giáo lư và thần học của các
tín đồ phái
[675]
Để làm cho dễ hiểu
Karma hơn đối với tâm trí con người
phương Tây, những kẻ chỉ quen với triết
học Hy Lạp hơn là triết học Ăryan, một vài
nhà Minh Triết Thiêng Liêng đă thử dịch nó là Nemesis.
Nếu kẻ phàm tục thời xưa hiểu Nemesis theo
nghĩa mà bậc được Điểm đạo
hiểu, th́ chúng ta không thể phản đối cách
dịch từ ngữ này được. Khốn nỗi,
óc tưởng tượng của người Hy Lạp
đă nhân h́nh hóa từ ngữ Nemesis, nhiều đến
nỗi mà muốn dùng nó, chúng ta không thể không giải
thích nó một cách tỉ mỉ. Decharme cho rằng
“Đối với người Hy Lạp sơ khai, từ
Homer cho tới Herodotus, nàng không phải là một Nữ
Thần, mà đúng hơn là một t́nh cảm đạo
đức”, ngăn ngừa điều ác và sự vô luân.
Kẻ nào phạm phải các điều trên, ắt sẽ
phạm tội phạm thượng theo quan điểm
của chư Thần Linh và bị Nemesis theo đuổi.
Nhưng theo thời gian, “t́nh cảm” đó đă bị
thần thánh hóa và các hiện thân của nó đă biến
thành một Nữ Thần trừng phạt và khốc
hại. Do đó, muốn liên kết Nghiệp quả
với Nemesis, chúng ta phải xét ba khía cạnh của nàng là
Nemesis, Adrasteia và Themis. Đó là v́, trong khi Thermis là Nữ
Thần Trật tự và Hài ḥa Vũ Trụ, cũng như
Nemesis, nàng được giao phó cho nhiệm vụ kiềm
chế sự quá độ (excess), và giữ con người
bên trong các giới hạn của
[676]
Chu
kỳ Hỗn Nguyên (Pralaya) – đă được
giải thích rồi – không phải chỉ là từ ngữ
áp dụng cho mọi “Đêm của Brahmă” hoặc sự
Giải tán Thế giới tiếp theo sau mỗi Chu kỳ
Khai Nguyên bằng 71 Đại Chu Kỳ (Mahăyugas). Nó cũng
áp dụng cho mỗi sự “Triều nguyên” (“
[677]
Chúng ta có thể thấy một
trực giác và linh tính về các Đấng Shishtas trong
Phật Giáo Bí Truyền của Sinnett. Xem “Chú thích” – “Lư
Thuyết về Chiếc Bè của Noah, trang 146 – 147, ấn
bản kỳ 5 [trang 162 – 163, ấn bản kỳ 8].
[678]
Việc người ta tŕnh bày là
chính Đức Bàn Cổ tuyên bố là Ngài được
Virăj tạo ra và rồi Ngài đă tạo ra mười
Đấng Prajăpatis, các vị này lại tạo ra bảy
vị Bàn Cổ, đến lượt các Đấng này
lại sinh ra bảy vị Bàn Cổ khác [Luật Bàn
Cổ, I, 33, 36] liên quan tới
các bí nhiệm khác c̣n sơ khai hơn nữa, và đồng
thời là một bức b́nh phong đối với giáo lư
về Dăy Bảy Hành Tinh, và sự tiến hóa của
bảy Giống người. Tuy nhiên, tác phẩm này
được biên soạn theo tài liệu của Nội
môn Bí giáo xuyên Hy Mă Lạp Sơn, c̣n Nội môn Bí giáo Bà La Môn
nay có thể có dạng khác cũng như kinh Kabalah. Ngày
xưa chúng đều giống y nhau.
[679]
Ngoài điều này ra c̣n có một
lư do bí truyền khác.
Vaivasvata là vị Bàn Cổ thứ
bảy, v́ mặc dù là thứ Tư, cuộc Tuần Hoàn
này của chúng ta lại ở vào
[680] Thời
khoảng trước mỗi Chu kỳ được
gọi là Sandhyă; một Chu kỳ có bao nhiêu ngàn năm th́ nó
cũng gồm có bấy nhiêu trăm năm, c̣n thời
khoảng sau một
[681]
Các từ ngữ “Sáng Tạo”,
“Hủy diệt” v.v.. không diễn dịch được
đúng nghĩa của Chu kỳ Khai Nguyên hoặc
a. Naimittika (Ngẫu nhiên), khi
Brahmă lim dim ngủ (vào ban Đêm, khi hết một Ngày có
diễn ra một sự tái hợp của Vũ Trụ,
được gọi là sự tái hợp ngẫu nhiên của
Brahmă, và Brahmă chính là Vũ trụ này).
b. Prăkritika (Ngũ hành –
Elemental) khi trở lại t́nh trạng nguyên thủy của
Vũ Trụ này có tính cách một phần vật chất.
c. Ătyantika (Tuyệt
đối – Absolute), sự đồng nhất hóa của
Tinh Thần Vô Thượng vô h́nh – trạng thái Toàn Linh Trí,
dù là tạm thời hay là cho tới Đại Thiên Kiếp
sau, cũng là sự Triều Nguyên Tuyệt đối
(Absolute Obscuration) – như của toàn thể một Dăy Hành
tinh v.v…
d. Nitya (Thường hằng
– Perpetual), Đại
[682]
Nhưng hăy xem các định
nghĩa tuyệt diệu về
[683]
Xem chú thích cuối trang nêu trên.
[684]
Xem Manusmriti (Luật Bàn Cổ)
Adhyăya I, Câu 32, 33. Theo một ư nghĩa khác, Vaishvă
[685]
Sách đă dẫn, trang 134 – 135.
[686]
Trong thời kỳ của cái
gọi là Cơ sáng tạo Thứ yếu. Chúng ta không
thể đề cập đến Cơ sáng tạo
Chủ yếu, khi Trái Đất có ba Giới Hành khí, v́ nhiều lư do.
Một trong những lư do đó là ngoại trừ một
bậc đại linh thị, hoặc một người
có trực giác bẩm sinh, không ai có thể nhận thức
được cái vốn chẳng bao giờ có thể
diễn đạt được bằng các từ
ngữ hiện hữu.
[687]
Hippocrates
bảo rằng: do các tính chất huyền bí, số
bảy có khuynh hướng hoàn chỉnh mọi
điều, ban cấp sự sống và là cội nguồn
của mọi biến đổi của nó. Ông chia
đời người thành bảy giai đoạn (cũng
như Shakespeare) v́ mặt trăng cứ bảy ngày lại
thay đổi một tuần trăng nên con số này
ảnh hưởng đến mọi sinh linh trên thế
giới, thậm chí cả Trái Đất nữa (theo
chỗ chúng tôi biết). Đứa trẻ mọc răng
sữa lúc được bảy tháng và rụng răng
sữa lúc được bảy tuổi; khi nó
được hai lần bảy tuổi th́ tuổi
dậy th́ bắt đầu, khi nó được ba
lần bảy tuổi th́ trí năng và sinh năng phát
triển, khi được bốn lần bảy tuổi
th́ đạt được sức khỏe sung măn, khi
được năm lần bảy tuổi th́ các thị
dục của y (his passions) phát triển nhiều nhất
v.v… Trái Đất cũng vậy; nay nó đang độ
trung niên, song nó cũng chẳng khôn ngoan hơn bao nhiêu.
Tứ linh tự, danh xưng gồm bốn chữ thiêng
liêng của Đấng Thánh Linh, chỉ có thể
được dung giải (resolved) trên Trần Thế
bằng cách trở thành thất nguyên qua Tam giác biểu
lộ xuất phát từ Tứ linh diệu (Tetraktys) ẩn
tàng. Do đó, chúng ta phải chấp nhận trên cảnh
giới này con số bảy. Kinh Kabalah (“Đại Thánh
Hội”, v, 1161) có dạy: “Đó là v́ nhất định
không có sự ổn định nơi sáu cái này, ngoại
trừ cái mà họ suy ra từ cái thứ bảy. Đó là
v́ vạn vật đều tùy thuộc vào cái thứ
bảy”. (Mathers, Kabalah, trang 255).
[688]
So sánh ĐOẠN KINH 3 và tiếp
theo.
[689]
Thánh Augustin đề cập
tới Đức Jesus như sau; “Ngài là một con cá sống dưới
nước”. Các tín đồ Thiên Chúa giáo tự xưng là
“Những Con cá nhỏ” – Pisciculi – trong các Bí pháp của ḿnh.
Tertullian đề cập tới các tín đồ Thiên Chúa
giáo, Đức Christ và Giáo hội như sau: “Biết bao
nhiêu là Con Cá sống
dưới nước và
được con cá lớn
duy nhất cứu rỗi”.
[690]
Phật Giáo Bí Truyền, trang 55
[trang 67 của ấn bản kỳ 8].
[691]
Chúng ta không được lẫn
lộn biến cố này [- nghĩa là sự diệt vong
của ḥn đảo lừng danh Ruta và ḥn đảo
nhỏ hơn Daitya – nó đă diễn ra cách đây 850 000
năm, vào thời kỳ sau của Pliocene (Thượng tân
kỷ)] với sự đắm ch́m của Châu Atlantis chính
yếu vào lúc trung tâm đệ tam kỷ. Cho dù xoay sở
đến đâu đi chăng nữa, các nhà Địa
chất học cũng không thể đưa trung tâm
đệ tam kỷ lại gần tới mức 850 000
năm. Thực ra, châu Atlantis chính yếu đă bị
diệt vong cách đây nhiều triệu năm.
[692]
Xem Câu Lạc Bộ Văn Học
London, 25-8-1860.
[693]
Huxley đă chia các giống dân này
thành ra năm nhóm người: giống dân Úc, dân da đen, dân
Mông Cổ, dân Xanthochroics và Melanochroics, tất cả
đều bắt nguồn từ loại khỉ nhân h́nh
tưởng tượng. Thế nhưng, trong khi phản
đối những kẻ bảo rằng “các điểm
dị biệt về cấu trúc giữa con người và
con khỉ thật là vô nghĩa” và nói thêm rằng “mọi
chiếc xương của con đười ươi
đều có một dấu hiệu khiến chúng ta có
thể phân biệt nó với một chiếc xương
người tương ứng, và ít ra là trong t́nh trạng
sáng tạo hiện nay, không sinh vật trung gian nào lấp
được khoảng trống ngăn cách con
người với loài ăn lông ở lỗ”, th́ nhà cơ
thể học lỗi lạc tiếp tục đề
cập tới các đặc tính giống khỉ nơi con
người!
(Xem De Quatrefages, Các Giống
Người, trang 113).
[694]
Sách đă dẫn, Isaac-Myer, trang 422.
[695]
Kinh Zohar, I, 119 b, cột 475; như
trên, trang 412.
[696]
Có lẽ đây là lư do tại sao
ngay cả đảo Phục Sinh với các tượng
khổng lồ kỳ diệu – một bằng chứng
hùng hồn về những lục địa bị
đắm ch́m với một loài người văn minh –
tại v́ ít khi được đề cập ở
bất cứ nơi đâu trong các bách khoa tự
điển hiện đại. Người ta đă tránh
đề cập tới nó ngoại trừ trong một vài
quyển sách du lịch. Khoa học hiện đại
dứt khoát là thích áp đặt các giả thuyết
(dựa vào các thị hiếu cá nhân) đối với công
chúng trí thức, buộc họ xem đó là một bằng
chứng đă được xác minh, thích đưa ra các
điều phỏng đoán
thay v́ kiến thức và
gọi chúng là các “kết luận khoa học”. Các chuyên
gia của khoa học sẽ chế ra một ngàn lẻ
một điều suy lư mâu thuẫn hơn là chịu thú
nhận một sự kiển
hiển nhiên nguy hiểm - -
chủ yếu là trong số các chuyên gia như Haeckel cùng
với những người Anh
hâm mộ và cùng tư tưởng với ông. Thế
nhưng thiên hạ lại nghiêm khắc nhắc nhở
chúng ta rằng: “họ là những người có thẩm
quyền”. Vậy là thế nào? Giáo Hoàng La Mă cũng là
một nhân vật có thẩm quyền và Đấng không
thể sai lầm (đối với các tín đồ
của Ngài), trong khi đó, người ta đă chứng
tỏ được là các điều suy lư của khoa
học rất có thể sai lầm một cách định
kỳ theo mỗi sự biến đổi của tuần
trăng.
[697]
Mặc dù không phải là các nhà
nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng hoặc nhà Giáng ma
học, song các tiểu thuyết gia hiện đại
ưu tú nhất cũng bắt đầu có những
giấc mơ rất gợi ư về mặt Huyền bí và
tâm lư học. Chẳng có bài tiểu luận theo đường
lối Huyền bí nào lại cao siêu hơn tác phẩm
Trường hợp dị thường về Bác sĩ
Jekyll và ông Hyde của
[698] Các
Xứ trên Thế Giới, Robert Brown, quyển iv, trang 43.
[699] Xem
ĐOẠN KINH 2. Điều này giải thích
được sự biến thiên và sự dị biệt
lớn lao về trí năng của các giống dân, các
quốc gia và cá nhân. Trong khi đầu thai (và trong những
trường hợp khác, chỉ làm linh hoạt) các hiện
thể con người mà Giống dân vô trí đầu tiên
đă đào luyện ra, các Quyền năng và Nguyên khí lâm
phàm đă phải kể tới và chọn lựa Nghiệp
quả đă qua của các Chơn Thần mà họ phải
nối liền với các h́nh hài sắc tướng.
Vả lại, Phật Giáo Bí Nhiệm (trang 30 – 31 của
ấn bản kỳ 8) đă phát biểu một cách chính xác
rằng “trong đa số nhân loại, nguyên khí thứ
năm thức nhân (trí) hồn, vẫn c̣n chưa phát
triển trọn vẹn”.
[700]
Ở
đây, bảy vị Đại Thánh Hiền ám chỉ
bảy Đại Huyền Giai Hữu sắc tướng
[701]
Sách đă dẫn, trang 152.
[702]
Từ ngữ này có nghĩa “cái được tạo
ra bằng nước”.
[703]
Theo truyền thuyết ngoại môn, bảy vị Thiên
Tôn – Sanaka, Sananda, Sanătana, Sanatkumara, Jăta, Vodhu [Borhu?] và
Panchashikha – đă đến viếng phần phía Bắc
của Toyămbhudhi, tức biển nước ngọt. (Xem
Uttara Khanda của Padma Purăna, Khảo Cứu Á Châu, quyển
xi, trang 99 – 100).
[704]
[705]
Vishnu Purăna, bản dịch của
[706]
Xem Thư Mục, bản dịch
của Golădhyăya of the Sidhănta-shiromani, iii, câu thơ 21 – 44.
[Một bộ luận về thiên văn học Bắc
Phạn].
[707]
Như trên, trang 106 – 107.
[708]
Trang 308.
[709]
[710]
Trong bài thuyết tŕnh, Giáo sư
Pengelly, Hội viên Hội Hoàng Gia trích dẫn. Giáo sư
Oliver với nội dung là “hệ thực vật hiện
nay của quần đảo Atlantis không hề dứt khoát
chứng tỏ được một sự liên giao
trực tiếp trước đây với phần lục
địa của Tân Thế giới”, nhưng đồng
thời ông lại nói thêm rằng “vào một thời kỳ
nào đó thuộc Đệ tam kỷ, vùng Đông Bắc Á
Châu đă nối liền với vùng Tây Bắc Mỹ Châu,
có lẽ theo con đường mà dăy quần đảo
Aleutian nay đang trải ra. Như thế chỉ Huyền
bí học mới có thể dung ḥa được các
điều mâu thuẫn và phân vân của khoa học hiện
đại. Thế nhưng, nhất định là luận
chứng về sự tồn tại của Châu Atlantis không
hề chỉ dựa vào thực vật học mà thôi.
[711]
Như đă tŕnh bày trong các Chú thích
sơ bộ quyển này, chúng tôi dám đoan chắc rằng
danh hiệu Lemuria cũng như Atlantis không phải là danh
hiệu cổ sơ
thực sự của các lục địa bị thất
tung. Chúng tôi đă chọn dùng chúng chỉ để cho
được rơ ràng. Atlantis là danh hiệu được
chọn cho những phần của Lục địa
thứ Tư bị ch́m ngập vốn ở “bên ngoài các
cột trụ của Hercule” và đă ngẫu nhiên nổi
lên mặt nước sau trận đại thảm
họa. Di tích cuối cùng của những phần này - Châu Atlantis của Plato tức “
[712]
Xem phần 3, Tiết 6, Quyển 4.
[713]
Xem bài của Giáo sư J.D. Dana
đăng trên Tạp chí Khoa Học Mỹ, III, v, trang 442 –
443. Sinh Hoạt Thế Giới, của Winchell.
[714]
Khi đề cập tới sự
dâng cao và hạ thấp có định kỳ của các vùng
cực và xích đạo, do đó khiến thời tiết
thay đổi, Tiến sĩ Winchel, Giáo sư địa
chất học ở viện Đại học
[715]
[716]
Năm năm Minh Triết Thiêng
Liêng, trang 339 – 340.
[717]
Nhân Phổ Học, bản dịch của Aveling, trang
80 – 81.
[718]
Như trên, trang 82.
[719]
Sách đă dẫn, trang 81.
[720]
Phật Giáo Bí Truyền, trang 65
[trang 67 của ấn bản kỳ 8].
[721]
“Những đứa bé con” so sánh
với các huynh đệ khổng lồ trên các Vùng khác.
Nếu một tai họa như thế đột nhiên
xảy đến với chúng ta, th́ nay, ắt chúng ta
cũng sẽ như vậy.
[722]
Điều này liên quan tới Châu
Lemuria.
[723]
Dĩ nhiên là có các chu kỳ khác, các chu kỳ bên trong chu kỳ
(cycles within cycles), và chính điều này đă tạo ra
một sự khó khăn như thế khi tính toán các
biến cố chủng tộc. Ṿng Hoàng Đạo
dược hoàn thành trong 25 868 năm, và đối với
Trái Đất, người ta tính được rằng
mỗi năm phân điểm lùi lại 50.1”. Nhưng
cũng có một chu kỳ khác bên trong chu kỳ này.
Được biết v́ điểm cận viễn
nhật (apsis) tiến tới để gặp nó với
tốc độ 11.24” mỗi năm, nên nó sẽ hoàn thành
một ṿng quay trong 115 302 năm. Sự tiến tới
gần nhau của phân điểm (equinox) và điểm cận viễn
nhật là tổng số của các chuyển động
này, 61.34”, và v́ thế, phân điểm trở về cùng
vị trí đối với điểm cận viễn
nhật trong 21 128 năm. (Xem mục bàn về “Thiên văn
học” trong Bách Khoa Từ Điển Britannica). Chúng tôi
đă đề cập tới chu kỳ này trong Nữ
Thần Isis Lộ Diện, Quyển I liên hệ tới các
chu kỳ khác. Mỗi chu kỳ có một tác dụng rơ
rệt đối với giống dân đương
thời.
[724]
Đối chiếu “Các Di tích
người Khổng lồ và các Pho tượng Khổng
lồ với vai tṛ là các chứng cớ về những
người Khổng lồ”, trang 340.
[725]
Xem Ai Cập du kư của Denon,
quyển ii.
[726]
Xem Phật Giáo Bí Truyền, trang 65.
[67 – 68 của ấn bản kỳ 8).
[727]
Đối chiếu với
đồ thị phỏng theo các cuộc thăm ḍ của
Challenger và Dolphin trong Atlantis: Thế Giới Tiền
Đại Hồng Thủy, của Donnelly, trang 47.
[728]
Phật Giáo Bí Truyền, trang 58
[trang 67 của ấn bản kỳ 8].
[729]
Lịch Sử Văn Học Anh,
trang 23.
[730]
Được trích dẫn trong
Atlantis, trang 132.
[731]
Số Mục Thánh Thư, xiii, 33.
[732]
Thánh thư san định Thiên
Luật, iii, 11.
[733]
Robert Brown, Các Xứ trên Thế
Giới, trang 43.
[734]
Như trên, trang 43 – 44 và tiếp
theo, và trang 310 – 311.
[735]
Trang 282.
[736]
De la Vega, IX, ix, được trích
dẫn trong Các Vong Linh của De Mirville, Quyển iii, trang 55.
[737]
Cũng như pho tượng
của Bartholdi, pho tượng thứ nhất và thứ hai
có một lối vào ở chân, dẫn lên tới tận đầu
bằng một cầu thang uốn khúc đẽo trong
đá. Trong một tác phẩm, nhà khảo cổ học và
nhân loại học lỗi lạc người Pháp. Hầu
Tước Nadeylac, đă nhận xét một cách chí lư
rằng xưa cũng như nay, chưa bao giờ có
một pho tượng người nào khổng lồ
hơn pho tượng thứ nhất trong hai pho
tượng đó.
[738]
Tiểu luận, xxvi.
[739]
I
[740]
Các Vong Linh, Quyển iii, trang 283.
[741] Thần Saturn là Kronos (Thời gian).
Một ngày kia việc Ngài nuốt viên đá Jupiter có thể
biến thành một điều tiên tri. Người ta
đoan chắc với chúng tôi rằng “Peter là viên đá mà Giáo hội La Mă
được xây dựng trên đó”. Nhưng nhất
định là một ngày kia, Kronos sẽ “nuốt
gọn”nó, cũng như Ngài đă nuốt chửng viên
đá Jupiter và những đặc tính c̣n vĩ đại
hơn nữa.
[742]
Như trên, trang 284.
[743]
Ông Falconnet, do De Mirville trích dẫn,
như trên, trang 285.
[744]
Dĩ nhiên là cũng giống
như “tiếng nói nho nhỏ” mà Elijah đă nghe thấy sau
khi có trận động đất tại cửa hang.
(Thánh Thư Quân Vương I, xix, 12).
[745]
Các viên đá đu đưa hay
“cheo leo” có nhiều tên khác nhau, chẳng hạn như
clacha-brath của người Celt, “đá định
mệnh hay phán quyết”; đá tiên tri hay “đá thử
thách”, và đá sấm truyền; đá di động hay
đá linh hoạt của dân Phoenician; đá kêu ầm ầm
của dân Ái Nhĩ Lan. Vùng
[746]
Xem Từ Điển Tôn Giáo, tu
sĩ Bertrand, nghệ thuật
”Herxsucs” và “Bétyles”;
[747]
Ngoài ra xin xem thêm Lịch sử
Ngoại đạo ở
[748]
Mộ Địa của dân
Tartares, văn kiện vii, trang 2227.
[749]
Các du khách Xưa và Nay, Quyển I,
trang 230.
[750]
Sách đă dẫn, như trên, trang
290. Nếu Ham là một Titan hay Người Khổng Lồ
th́ Shem và Japhet cũng là các Titans. Họ đều hoặc
là các vị
[751]
Diodorus Siculus khẳng
định rằng vào thời
[752]
Chuyện cổ Celtic, trang 88.
[753]
Cambry, như trên, trang 90,
được trích dẫn trong Các Vong Linh, Quyển iii,
trang 289.
[754]
Sách đă dẫn, trang 473. Creuzer cho
rằng: “thật là khó ḷng mà không hoài nghi về cấu trúc
của các lực hành tinh
[755] Vạn
vật học, Quyển xxxvi, trang 592; Các Vong Linh, sách đă
dẫn, như trên, trang 289.
[756]
Thượng Đế và các
Thần, trang 576, như trên.
[757]
De Mirville, sách đă dẫn, như
trên, trang 291. Nghe nói các ông
[758]
[759]
Như trên, II, xxxviii.
[760]
Charton, Gian Hàng Hội Họa
(Ấn bản năm 1853), trang 32. Do De Mirville trích dẫn,
quyển iii, trang 293..
[761]
[Đây là một từ ngữ
Malayălam (
[762]
T. A. Wise, Lịch sử Ngoại
đạo ở
[763]
Được trích dẫn trong Các
[764]
Sinh Lư Học Khảo Lược,
trang 144.
[765]
Các Nguyên Lư của Sinh Học,
Phụ lục, trang 482.
[766]
Chúng ta bàn về các Huấn Sư
trong ĐOẠN XII.
[767]
Xem Các Đại Kim Tự Tháp.
[768]
Tri Thức, Quyển I, trang 243; do
[769]
Thế kỷ Mười Chín,
ấn bản 1882, trang 236; do
[770] Sách
đă dẫn, XI, xvii.
[771]
Trong tác phẩm Vén Màn Bí Mật Ba
Ngôi Thiên Chúa, H. Lizeray chứng tỏ rằng Con Rồng,
được đặt ở giữa Ngôi Cha
thường trụ (Cực, điểm cố
định) và Vật Chất vô thường, Rồng
đă truyền cho các tác dụng mà nó nhận
được từ Ngôi Cha, v́ thế nó mới
được mệnh danh là Ngôi Lời (Verbum).
[772]
Được người Ai
Cập tượng trưng dưới dạng con rắn
có đầu diều hâu.
[773]
Tạp chí Khảo Cổ Học,
năm 1885.
[774]
[775]
Như trên, trang 47.
[776]
C̣n được Tiến sĩ W.
Geiger dịch là “các Kẻ hạnh phúc Bất tử”;
nhưng dịch như trên là đúng hơn.
[777]
“Bảy” vị này đă trở
thành vị thứ tám, Ogdoad của các tôn giáo duy vật sau
này, “nguyên khí” thứ bảy tức nguyên khí cao nhất,
không c̣n là Tinh Thần thấm nhuần, nguyên khí Tổng
hợp, mà lại biến thành một con số thần nhân
đồng h́nh, hoặc đơn vị bổ sung.
[778]
Các yếu tố này là: Yếu
tố vũ trụ, địa cầu, khoáng vật,
thực vật, động vật, nước và cuối
cùng là người – về các phương diện thể
chất, tinh thần và tâm linh.
[779]
Trang 53.
[780]
Thalia, lxxvii.
[781]
Ông c̣n nói thêm rằng “Người
Ai Cập có nhiều cách khác nhau để biểu diễn
góc của các Địa cực. Trong tác phẩm Du ngoạn
các quốc gia Đông Địa Trung Hải, có một h́nh
biểu diễn Cực Nam
của địa cầu nơi cḥm sao Thụ Cầm (Harp),
trong đó các cực có vẻ giống như hai cây gậy thẳng có
gắn thêm các cánh chim ưng, để phân biệt cực
bắc với cực nam. Nhưng đôi khi các cực
lại được tượng trưng dưới
dạng các con rắn có đầu diều hâu để
phân biệt cực bắc và cực nam”. (Sách đă dẫn,
trang 61).
[782] Faber
và Giám mục
[783]
Sau này đối với
người Hy Lạp, các người này chỉ
được giới hạn là Castor và
[784]
Sách đă dẫn, Quyển I, trang
133.
[785]
Glement ở
[786]
Vyse, Tác Vụ, Quyển ii, trang 258.
[787]
Palgrave, Quyển ii, trang 264.
[788]
Vyse, như trên, Quyển ii, trang
342.
[789]
Trang 57.
[790]
Suy lư của Mackey, bậc Cao
đồ tự tu tự chứng ở
[791] ii, 51.
[792] I,
trang 9 – 17.
[793] Decharme,
Thần Thoại Học Cổ Hy Lạp, trang 270.
[794]
Từ ngữ guebra thoát thai từ Kabiri (Gabiri) và có ư nghĩa là những kẻ thờ
lửa ở cổ Ba Tư (Parsĩs). Kabiri đă biến
thành Gabiri, và rồi vẫn c̣n là một danh xưng của
tín đồ Bái hỏa giáo ở Ba Tư. (Xem Về Tôn Giáo
Ba Tư, chương 29, của Hyde).
[795]
I, ix, trang 751.
[796]
Xem Macrob, Sat., I, iii, c. 4, trang 376.
[797]
Pausanias, ix, 22; 5.
[798]
Herodotus, iii, trang 37.
[799]
Được trích dẫn trong Các
Con Quái Vật Thần Thoại, của Gould, trang 399.
[800]
Phụ lục, trang 13; do Faber trích
dẫn, Cabiri, ii, trang 289 – 291.
[801]
Nếu không kể Ormazd, vị
thủ lănh và Thiên Đạo của họ, th́ chỉ có sáu
vị Amshaspends. Nhưng trong Giáo Lư Bí Nhiệm, Ngài lại
là vị thứ bảy và cao cấp nhất, cũng như
Phtah là vị thứ bảy trong số các Kabiri.
[802]
Trong kinh Purănas, nó được
đồng nhất hóa với bảy Châu của
[803]
Do Fleisher biên tập, trang 16.
[804]
Bản thảo, 47 trong Vấn
đáp giáo lư Nic.
[805]
Bản thảo 785, Vấn đáp
giáo lư của
[806]
De Mirville, Các Vong Linh, Quyển iii,
trang 28.
[807]
[808]
Như trên, trang 97.
[809]
Ai Cập, chương
iv, trang 441; De Mirville Các Vong Linh, Quyển iii, trang 41.
[810]
Niên giám Triết học Thiên Chúa
giáo, xxxii, 442; xem De Mirville, Các Vong Linh, Quyển iii, trang 18.
[811]
Lịch sử
[812]
Các Vong linh, như trên, trang 41.
[813]
Muốn có cả đống
bằng chứng, xem tác phẩm nêu trên, trang 16 – 17.
[814]
Trong Vishnu Purăna, nếu đọc
cẩn thận, chúng ta có thể t́m thấy nhiều
điều bổ chứng cho vấn đề này
(Quyển II, Tập II, chương iii, iv và tiếp theo).
Tất cả các triều đại của các Thần
Linh, Thần thấp và Loài người đều
được liệt kê trong những mô tả về
bảy ḥn đảo, bảy biển cả, bảy núi non
v.v… do các vị Thánh Vương trị v́. Được
biết mỗi vị Thánh Vương bao giờ cũng có bảy con, ám chỉ bảy
chi chủng. Xin đơn cử một thí dụ, Thánh
Vương của Châu Kusha có bảy người con…
“bảy phần đất của ḥn đảo được
mệnh danh theo tên của các người con này. Loài người cư ngụ
ở đó với những người khổng lồ,
cũng như các chơn linh của thiên giới {Gandharvas,
Yakshas, Kimpurushas,v.v…] và các thần linh” (Bản dịch
của
[815]
Ai Cập, trang 450 – 455; Các
[816]
Theo qui luật chung, nay chính thực chất
của chơn nhơn đă
trở nên mù quáng chẳng khác nào thể chất của y,
con người trên Trái Đất này chẳng khác nào con cá
lưỡng tiêm (amphioxus) trong đại dương.
Được hàng triệu con cá và tạo vật khác xung
quanh nh́n thấy, loài cá lưỡng tiêm – vốn không có
bộ óc và bất kỳ giác quan nào mà các lớp khác có –
lại không hề thấy chúng. Dựa vào thuyết
[817]
Các nhà Huyền bí đă bị
kết tội là tôn thờ Thần Thánh hay Ma Quỷ! Chúng
tôi xin phủ nhận điều này. Trong vô số tập
đoàn Chơn Linh – các thực thể đă hoặc sẽ
là người – có một số vị vô cùng cao siêu hơn
loài người, cao siêu và thánh thiện hơn vị Thánh
cao cả nhất trên Trần Thế và minh triết hơn
bất kỳ thế nhân nào. Cũng có những vị
chẳng có ǵ khá hơn chúng ta, và một số c̣n tồi
bại và thấp kém hơn cả người dă man
nhất nữa. Chính những vị thấp kém này cần
liên giao với Địa Cầu hơn ai hết, họ
tri giác và cảm thấy được chúng ta, cũng
như vị có thần nhăn cảm thấy và nhận
thấy được họ. Rủi thay, sự gần
gũi của các cơi tri giác riêng của chúng ta lại
thuận lợi cho sự liên giao đó, khiến lúc nào chúng
cũng sẵn sàng xen vào sự sung sướng hay
điều đau buồn với chúng ta. Nếu chúng tôi
được hỏi làm thế nào mà chẳng ai, ngoại
trừ những kẻ có bản chất nhạy cảm,
điên rồ, những kẻ mang tâm bệnh, là thấy
được – và đôi khi c̣n nói chuyện với – các
“chơn linh”(”spirits”), th́ chúng tôi sẽ đáp lại câu
hỏi này bằng nhiều câu hỏi khác. Chúng tôi xin
hỏi: liệu bạn có biết bản chất của
ảo giác và liệu bạn có thể xác định
được tiến tŕnh tâm linh của nó chăng? Làm
thế nào mà bạn có thể bảo rằng tất cả
các linh thị đó đều chỉ toàn là ảo giác
hồng trần cả? Điều ǵ làm cho bạn cảm
thấy chắc chắn rằng các bệnh tâm thần,
trong khi che khuất cái gọi là giác quan thông thường của chúng ta, lại không đồng thời
tiết lộ các viễn cảnh mà người khỏe
mạnh không biết, bằng cách mở ra các cánh cửa
thường khép kín đối với các tri giác của khoa
học (?) của bạn; hoặc là một quyền
năng tâm linh lại không tức kkhac81 thay thế cho
sự mất đi hay sự teo lại nhất thời
của một giác quan thuần túy thể chất? Chính
bệnh tật hoặc sự sung măn của lưu chất
thần kinh đă tạo ra thuật đồng cốt và
các linh thị (mà bạn xem là các ảo giác). Nhưng khoa
học biết ǵ về thuật đồng cốt?
Đúng là nếu các vị Charcots thời nay quan tâm tới
bệnh điên cuồng của các bệnh nhân của ḿnh
theo một quan điểm tâm linh hơn, th́ khoa học –
nhất là sinh lư học – có thể thu được
nhiều lợi ích hơn hiện nay và người ta
ắt đă biết được nhiều sự
thật hơn.
[818]
I, 70; Các
[819]
Đây là những người
Ăryans sơ khai và đa số Căn chủng thứ Tư
– những người Ăryan sơ khai thật là ngoan
đạo và trầm tư (mải mê nhập định), c̣n đa số Căn
chủng thứ Tư là một giống người phù
thủy hiếu chiến, họ đă nhanh chóng thoái hóa v́ có
những thị dục buông thả.
[820]
Phần phía Bắc và phía
[821]
De Rougemont, Dân Tộc Nguyên sơ,
iii, 157. Xem Các Vong Linh, như trên, trang 29. Điều này
thật là Huyền bí và ám chỉ tính chất của
sắt vốn bị một số các phần tử có
từ tính thu hút và bị những phần tử khác
đẩy ra. Bằng một phương pháp huyền bí,
người ta có thể khiến cho các phần tử khác
trơ trơ đối với nó chẳng khác nào
nước đối với một quả đấm.
[822]
Như trên, mục đă dẫn.
[823]
Lục địa hay Châu
đầu tiên, muốn gọi như thế cũng
được, “mỏm Bắc Cực”, chưa bao giờ
bị diệt vong; nó cũng sẽ chẳng bao giờ
bị diệt vong măi cho tới lúc kết thúc Bảy
Giống dân.
[824]
[825]
Boulanger, Triều Đại các
Vị Thần, phần dẫn nhập, xem Các Vong linh, sách
đă dẫn, như trên, trang 32.
[826]
Giáo Lư Bí Nhiệm giải thích
điều mà Plato tŕnh bày, v́ nó dạy rằng các nhà phát
minh này chính là các vị Thần và Bán Thần (Devas and Rishis),
các Ngài đă đầu thai nơi con người – một
số th́ cố t́nh, c̣n một số bị Nghiệp
Quả bắt buộc.
[827]
Các đoạn trên được
rút gọn từ tác phẩm de Legibus, 1, iv –
[828]
Argyle, Sự đơn nhất
của
[829]
Tử Vong Kinh, xcix, 33; và clvi, 4. Xin
độc giả hăy tham khảo Quyển I, ĐOẠN 7,
Câu 3, trong đó người ta giải thích câu thơ này theo
một ư nghĩa khác, và tham khảo thêm Tử Vong Kinh, cix, 4
và 5. Đây chính là điều ám chỉ ngay phép phân chia Bí
truyền “các nguyên khí” của con người
được tượng trưng bằng lúa ḿ thiêng
liêng. Huyền thoại có ghi lại Quyển sổ thứ
ba bằng chỉ thảo (Tử Vong Kinh, cx) nêu rơ rằng:
“Đây là vùng của các Vong Linh (Manes) cao bảy cubits (3, 2m) - nghĩa là những
người đă chết và giả sử là vẫn c̣n
đủ bảy nguyên khí, thậm chí cơ thể c̣n
được tiêu biểu bằng thể cảm dục
nơi cảm dục giới, tức Âm Ty, trước khi
các nguyên khí đó chia tay nhau. Cũng có lúa ḿ cao ba cubits (1, 3m) dành cho Xác
ướp ở trong một trạng
thái hoàn thiện (nghĩa
là có những xác ướp đă bị phân cách, ba nguyên khí cao của chúng
đă ở cảnh Devachan) vốn được phép thu
mót nữa”. Vùng này (Devachan) được gọi là “vùng
đất Tái sinh của chư Thiên” và được tŕnh
bày là nơi cư trú của Shoo, Tefnoot và Seb. “Vùng dành cho các
vong linh cao bảy cubits” – dành cho các Xác ướp vẫn c̣n
bất toàn – và vùng cho những kẻ ở trong “trạng
thái hoàn thiện” vốn “mót lúa ḿ cao ba cubits” càng minh bạch càng tốt. Người Ai
Cập cũng có Nội môn Bí giáo giống như vậy, mà
nay các Cao đồ xuyên Hy Mă Lạp Sơn đang giảng
dạy, khi chôn cất các bậc Cao đồ này,
người ta đă đặt lúa ḿ và ngô lên trên họ.
[830]
I, xiv. Có những nhà Ai Cập học
đă hoàn toàn sai lầm khi ra sức đồng nhất hóa
Osiris với Menes. Bunsen gán cho Menes một nguồn gốc xa
xưa vào năm 5 867 trước T.C., và v́ thế nên
mới bị các tín đồ Thiên Chúa giáo lên án. Nhưng “
[831]
Nguyên văn: They are all blind. Trong
nguyên bản (
[832]
Kinh Zohar, phần I, cột 177; Các
Vong Linh, Quyển iii, trang 88.
[833]
Sáng
[834]
Các Chú giải mở đầu
về Thần học, chương ii, Các Vong Linh, Quyển
iii, trang 84.
[835]
Các Suy niệm phê b́nh về
Nguồn gốc của các Dân tộc cổ.
[836]
Giáo sĩ Do Thái Parcha.
[837]
Chương I, 6.
[838]
Thánh Thư Ruth và Schadash, trang 63, cột
3, ấn bản
[839]
Kinh Zohar, phần ii, cột 73; Các
[840]
Như trên, trang 87.
[841]
More
[842]
Sagra Scrittura.
[843]
Quyển ii, trang 14, 29.
[844]
Chương viii, bản dịch
của Laurence, trang 7, 8.
[845]
Thánh Thư Job, i, 6.
[846]
Số Mục Thánh Thư, của
dân
[847]
Khảo cổ học,
chương xxv, trang 220, Luân Đôn.
[848]
Die Phơ nizier, 70. (Trích từ Nữ
Thần Isis Lộ Diện, I, trang 554).
[849]
Xem Sanchuniathon trong Eusebius, Pr, Ev., 36;
xem Sáng Thế Kư.
[850]
Hội Khảo Cổ Luân Đôn,
Quyển xxv, trang 220.
[851]
Cartas, 51; xem Nữ Thần Isis
Lộ Diện, I, trang 553 và tiếp theo.
[852]
Trong kinh Văyu Purăna, y được
mệnh danh như thế và được bao gồm trong
danh sách các Dănavas; Người b́nh giải kinh Bhăgavata Purăna
gọi y là một đứa con của Danu, nhưng danh
hiệu này cũng có nghĩa là “Tinh Thần của Nhân
loại”.
[853] Đức Ca Diếp (Kashyapa)
được gọi là con của Brahmă và là “Đấng
Tự sinh tự tại” mà người ta gán cho phần
lớn công tác sáng tạo. Ngài là một trong bảy
Đấng Thánh Hiền; xét về mặt ngoại môn, Ngài
là con của Marĩchi, con của Brahmă; c̣n kinh Atharda Veda,
lại dạy rằng “Đấng Tự sinh tự
tại Ca Diếp xuất phát từ Thời gian”; xét về
mặt nội môn, Thời
gian và Không gian đều là các dạng của Đấng
Thiêng Liêng Duy Nhất bất
khả tư nghị. Với vai tṛ là một Ăditya,
[854]
Vishnu Purăna, bản dịch của
[855]
Trong các kinh điển của ngoại môn, tất cả các
câu chuyện như thế đều khác nhau. Trong tác
phẩm Măhăbharata, Kărtikeya, “Hỏa Tinh sáu mặt” là con
của Rudra tức Shiva, tự sinh ra không cần mẹ do mầm mống của Shiva
bị ném vào lửa. Nhưng Kărtikeya thường
được gọi là Agnibhũ, “Hỏa sinh”.
[856]
Hiranyăksha là Đấng cai quản
tầng Địa ngục thứ
năm và là một Thần Rắn.
[857]
Các Elohim cũng e sợ
[858]
Chuyện kể rằng nhờ có
các quyền năng Yoga phi thường, Tăraka (c̣n
được gọi là Kălanăbha) đă đạt
được mọi linh thức về Yoga các quyền
năng của chư Thiên đang âm mưu chống lại
Ngài. Ở đây, chúng ta thấy Tập đoàn Tổng
Thiên Thần hay tiểu Thần “tuân phục” đă âm
mưu chống lại các Thiên Thần Sa Đọa
(tương lai), những kẻ mà Enoch đă kết
tội là đă tiết lộ cho thế giới mọi
“điều bí nhiệm được thực hiện trên
Trời”.
[859]
“Sự sống và ánh sáng” của
thế giới vật chất,
sự khoái lạc của các giác quan, chứ không phải
của linh hồn,
[860]
Xem Thánh Thư Khải Huyền
(xii, 3, 4), trong đó chúng ta thấy mẹ của
[861]
[Trong nguyên bản Thiên Thư, trang
88 là “Tinh đảo trôi nổi”(“Floating star island”)].
[862]
Thiên Thư, trang 88.
[863]
Chẳng vị “Thượng
Đế” nào – dù được gọi là Bel hay Jehovah –
lại nguyền rủa tạo vật (giả sử)
của chính ḿnh, v́ Ngài đă tạo ra nó một cách bất
toàn mà lại có thể là Minh Triết Tuyệt Đối
Vô Cực Duy Nhất.
[864]
Trong chuyện ẩn dụ của
Ấn Độ về Tărakămaya, trận Chiến tranh
giữa Thần Linh và các A Tu La do Soma (Mặt Trăng, Vua
của Loài cây cỏ), cũng như Vulean (Tubat- Cain), chính
[865]
Sáng
[866]
“Bảy
Karshvares của Địa Cầu”- bảy Bầu
của dăy Hành Tinh chúng ta, bảy Thế giới cũng
được kinh Rig Veda đề cập tới đă
được bàn rốt ráo ở đâu đó. Có sáu Răjamsi
(Thế giới) ở trên Prithivĩ, Địa Cầu,
tức “Thế giới bên này”, đối nghịch với
Thế giới bên kia (sáu Bầu trên ba cơi khác). (Xem kinh Rig
Veda, I, 34; iii, 56; vii, 10411 và v, 60, 6).
[867]
Bản dịch của Darmesteter,
Các Thánh Thư ở Phương Đông, Quyển iv, trang
207.
[868]
Như trên, trang 217.
[869]
Như trên, trang 208.
[870]
Tử Vong Kinh, vii, v, 62; Anubis là
Horus, Ngài ḥa tan vào “Đấng vô nhăn”.
[871]
Xem Bàn về Con Rồng Metz,
của Lenoir.
[872]
Xem thêm
[873]
Tử Vong Kinh, xvii, v, 54, 49.
[874]
Tuyệt nhiên không thể
đồng nhất hóa các “Vong Linh Gian Ác” này với Satan hay
Đại Long. Chúng là các Tinh Linh được sinh ra do
sự vô minh – các thị dục của con người và
vũ trụ - tức Hỗn Mang.
[875] Các
khám phá về
[876]
Xem Số Mục Thánh Thư, xxi, 8,
9. Thượng Đế ra lệnh cho Moses tạo ra
một Con Rắn bằng đồng thau (Saraph) ngơ hầu
dùng nó để chữa bệnh cho kẻ bị Con Rắn
Bốc Lửa cắn. Con rắn bốc lửa chính là các Seraphim; Isaiah tŕnh bày rằng
(vi, 2) “mỗi con có sáu cánh”; chúng là các biểu tượng
của Jehovah và của tất cả những Hóa Công khác
tạo ra sáu người con (hay những ǵ tương
tự) từ chính ḿnh – bảy người với
Đấng Sáng Tạo ra chúng. Như thế, Con Rắn
Bằng Đồng Thau chính
là Jehovah, thủ lănh của “các Con Rắn Bốc Lửa”.
Thế nhưng, trong Thánh Thư Thánh Vương II, xviii, 4,
người ta đă tŕnh bày rằng cũng như phụ
vương David, vua Hezekiah đă “làm điều thật là
chí lư theo quan điểm của Đức Chúa Trời” –
“xé tan ra từng mảnh con rắn bằng đồng thau
mà Moses đă tạo ra… và gọi nó là Nehushtan”, tức là
một mảnh đồng thau.
[877]
“Thế là Satan đứng lên
chống lại Do Thái và xúi giục David để tới
Do Thái” (Thánh Thư Niên Sử I, xxi, 1). “Đức Chúa
Trời [Jehovah] nổi trận lôi đ́nh đối
với Do Thái và thúc đẩy David … (có thể nói là) kể
tới Do Thái” (Thánh Thư Samuel II, xxiv, 1). Thế th́ cả
hai đều giống y như nhau.
[878]
Chương ii, 18, 22.
[879]
Hàng tá các tác giả thông thái
nhất đă xem xét nhiều ư nghĩa khác nhau của cùng
một danh hiệu Jehovah này (có và không dùng tới các chú thích
trong tác phẩm Masorah và đă tŕnh bày các khía cạnh đa
tạp của chúng. Tác phẩm hay nhất trong số đó
là Nguồn Gốc Các Kích Thước:
[880]
Trong tác phẩm nêu trên (trang 233), câu
thơ 26 của chương
iv Sáng Thế Kư đă được dịch chính xác
là “thế rồi loài người đă bắt đầu tự xưng là Jehovah”,
nhưng đă giải thích kém chính xác hơn, có lẽ v́
từ ngữ chót phải được viết ra là Jah
(nam) Hovah (nữ) để chứng tỏ rằng từ
lúc đó, giống người nam nữ riêng biệt đă
bắt đầu có.
[881]
Muốn được giải
thích tỉ mỉ hơn, xem các tranh tuyệt diệu trong
phụ lục vii cũng của tác phẩm này.
[882]
Sách đă dẫn, trang 293.
[883]
Rabba Battra, 16 a.
[884]
Theo ma quỷ học, Satan là lănh
tụ đối lập ở Địa Ngục – vị
chưởng quản địa ngục chính là Beelzebub. Y
thuộc về lớp Quỷ thứ năm (theo Ma Quỷ
học, có chín lớp quỷ) và cầm đầu các
vị phù thủy và pháp sư. Nhưng chúng ta hăy xem ở
đâu đó ư nghĩa thực của Baphomet, Satan
đầu dê, đồng nhất với Azazel, con vật
hy sinh của Do Thái.
[885]
Xem Nữ Thần
[886]
[887]
Ngài cũng là Vulcan tức Vul-cain,
vị Thần vĩ đại nhất đối với
giống dân Ai Cập sau này, vị Kabir vĩ đại
nhất. Ở Ai Cập, Thần Thời gian là Chiun, hay
Saturn, hay Seth, và Chiun cũng giống như Cain. (Xem
Nguồn Gốc các Kích Thước, trang 278).
[888]
[889] Thần thoại học Cổ Hy Lạp, trang 271.
[890]
Theo chúng tôi th́ không ǵ có thể vụng về và
ấu trĩ hơn toan tính vô ích này để tách rời
các gia phả của Cain và Seth hoặc che giấu tông tích
của các danh xưng này dưới một cách phát âm khác.
Như thế, Cain có một người Con trai tên là Enoch và
Seth cũng có một người Con trai tên là Enoch (c̣n
gọi là Enos, Ch’anoch, Hanoch – đối với các danh
xưng Hebrew không có dấu nguyên âm th́ chúng ta muốn gọi
thế nào cũng được). Trong ḍng dơi của Cain,
Enoch sinh ra Irad; Irad sinh ra Mehujael; Mehujael sinh ra Methusael; và
Methusael sinh ra Lamech. Trong ḍng dơi của Seth, Enoch sinh ra Cainan,
Cainan sinh ra Mahalaleed (một biến thể của Mehujael),
Mahalaleed sinh ra Jared (tức Irad); Jared sinh ra Enoch (thứ 3),
Enoch (thứ 3) sinh ra Methuselah (thoát thai từ Methusael) và
cuối cùng Lamech kết thúc danh sách. (Xem Sáng
[891]
Xem Phân tích Thần Thoại học
Cổ truyền, Quyển ii, trang 343.
[892]
Chương vi, 9.
[893]
Xem thêm Bách Khoa Từ Điển
của Abraham Rees, Hội viên Hội Hoàng Gia.
[894]
Dân Aeolian gọi Mars là Areus, c̣n
tiếng Hy Lạp, Ares là một danh xưng mà cho
đến nay các nhà ngữ học và Ấn Độ
học, các học giả Hy Lạp và Bắc Phạn đă
nghiên cứu ư nghĩa từ nguyên của nó một cách vô
ích. Kỳ lạ thay Max Muller lại liên kết cả hai
danh xưng Mars và Ares với từ nguyên Bắc Phạn mar, ông đă truy nguyên nguồn
gốc của chúng từ đó và cho rằng danh xưng
Maruts hay các Thần Băo, cũng bắt nguồn từ
đó. Tuy nhiên, Welker tŕnh bày một từ nguyên chính xác
hơn. (Xem Giáo lư thiêng liêng Hy Lạp, I, 415). Song le, có
thể là từ nguyên của các ngữ căn và từ
ngữ không thôi sẽ chẳng bao giờ cung ứng cho
chúng ta ư nghĩa nội môn rốt ráo, mặc dù chúng có
thể giúp chúng ta những điều phỏng đoán
hữu ích.
[895]
Cũng chính tác giả ấy
chứng tỏ rằng: “Chính danh xưng Vulcain xuất
hiện khi đọc, v́ trong các từ ngữ đầu
tiên (Sáng Thế Kư, iv, 5), chúng ta thấy V’elcain hay V’ulcain,
theo âm u trầm của
chữ vau. Chiếu theo
nguyên văn trước mắt th́ nó có thể
được đọc là ‘và
thần Cain’, tức Vulcain. Tuy nhiên, nếu c̣n thiếu
một điều ǵ đó để khẳng định
ư niệm Cain-Vulcain, th́ Fuerst lại cho rằng: ‘Cain, mũi sắt của một
chiếc lao, một thợ rèn, người sáng chế
ra những dụng cụ sắc bén bằng sắt thép và
nghề rèn’ “ (trang 278).
[896] Sách
đă dẫn, trang 186.
[897]
Phụ lục của Cabiris ap.
Orig. Gent., trang 364, 376; và phát biểu vừa nêu ở trang
357. Xem Cabiri của Faber, quyển I, trang 8.
[898]
Một số người cho
rằng từ ngữ này thoát thai từ Paras, nó tạo ra
Pars,
[899]
Muốn đọc các truyền
thuyết này, xem Tuyển tập các Huyền thoại Ba
Tư xuất bản bằng tiếng Nga, tiếng
[900] Sáng Thế Kư iv, 16 và tiếp theo.
[901]
Như đă được nói rơ,
lục địa chính bị diệt vong vào thời Trung
tân Miocence.
[902]
Từ Bede trở xuống, tất
cả mọi nhà niên đại học của Giáo hội
đều bất đồng ư kiến với nhau và
phủ nhận nhau. Trong tác phẩm Cựu Ước, trang
20, Whiston đă cho rằng: “Niên đại kư của kinh
điển Hebrew đă bị biến đổi rất
nhiều, nhất là sau trận Đại hồng
thủy”.
[903] Quyển ii, trang 170 – 171.
[904]
Do đó mới có vua Solomon,
người ta không thể truy nguyên được Ngài
ở bất cứ nơi đâu ngoài Thánh kinh. Sự mô
tả đô thị và dinh thự nguy nga của Ngài ăn
khớp với các câu chuyện Ba Tư, mặc dù mọi
lữ khách ngoại đạo (thậm chí cả Herodotus
nữa) đều không hề biết tới chúng.
[905]
Herbelot, sách đă dẫn, trang 829.
[906]
Truyền thuyết Đông
phương, trang 454. Xem thêm Các bức thư bàn về Châu
Atlantide (tiếng Anh : Atlantis) của Bailly.
[907]
Xem Tuyển Tập Đông
Phương, ii, 119.
[908]
Như trên, nên nhớ rằng các
giáo sĩ Do Thái dạy là cần phải có bảy sự
canh tân liên tiếp của Địa Cầu, mỗi sự
canh tân sẽ kéo dài gần 7 000 năm, như thế
thời gian tổng cộng là 49 000 năm. (Xem Diệu Luân
của giáo sĩ Do Thái Parcha; xem thêm Thiên Thư của
Kenealy, trang 176). Điều này có ư nói tới bảy
cuộc Tuần Hoàn, bảy Căn chủng và phân chủng,
các con số thực sự Huyền bí, mặc dù đă
bị rối loạn một cách nghiêm trọng.
[909]
Các câu chuyện về Derbent.
[910]
Như thế, người ta
đă chứng tỏ rằng Mergain hay Morgana, người
chị thần tiên của vua Arthur, thuộc ḍng dơi Đông
phương.
[911]
Thật vậy, nơi mà chúng ta
thấy nàng ở Anh trong huyền thoại về các
Hiệp sĩ Bàn Tṛn. Do đâu mà có sự đồng
nhất giữa danh xưng và trạng thái thần tiên,
nếu cả hai vị anh thư đó không tượng
trưng cho cùng một biến cố lịch sử đă
chuyển thành một huyền thoại ?
[912]
Herbelot, trang 593; Các câu
chuyện
[913]
Cho đến nay, thổ dân
rặng Caucasus vẫn gọi rặng núi của họ là
Kap-kaz,, dùng phụ âm p thay v́ phụ âm v như thường
lệ (Kav-Kaz tức
[914]
Bailly cho rằng ông thấy con
ngựa này là một chiếc tàu có mười hai mái chèo.
Giáo Lư Bí Nhiệm dạy rằng Giống dân thứ Ba sơ
khai đă tạo ra những chiếc thuyền và những
tiểu hạm đội trước khi xây nhà cửa.
Song le, mặc dù là một con vật măi sau này, nhưng “Con
Ngựa” vẫn có một ư nghĩa nguyên sơ huyền bí
hơn. Con sấu và hà mă được xem là thiêng liêng và
tiêu biểu cho các biểu tượng thiêng liêng, cả
đối với người cổ Ai Cập lẫn
những người Mễ Tây Cơ. Theo Homer, Poseidon là
Thần Ngựa và khoác lấy h́nh dạng đó để lấy
ḷng Ceres Arion, con cháu của họ là một trong những
khía cạnh của “Con Ngựa” đó, tức là một Chu
kỳ.
[915] Những phần đất bị
đứt rời ra ắt phải là Na Uy và các vùng
đất khác ở gần Ṿng Bắc Cực.
[916]
[917]
Hại Cực được
gọi là “đầu mút bên phải” và “bên trái” của
Địa Cầu – đầu mút Bên phải là Bắc
Cực – tức là đầu và chân của Quả
Đất. Mọi tác động có lợi (cảm dục
và vũ trụ) đều bắt nguồn từ Bắc;
mọi tác dụng chết người đều bắt
nguồn từ Nam Cực. Chúng có liên hệ khắng khít
với và tác dụng tới pháp thuật “tả đạo”
và “hữu đạo”.
[918]
Càng tới gần các địa cực, người
ta càng cảm thấy ít chuyển động quay hơn;
ở chính các Địa cực, sự nhật động
(the diurnal revolution) hoàn toàn bị hóa giải hết. V́
thế mới có lối diễn đạt là Địa
Cầu “bất động”.
[919]
Huyền bí học xác
định rằng vùng đất hay ḥn đảo nhô lên
khỏi Bắc Cực như cái mũ chỏm (skull-cap), là
vùng đất duy nhất chiếm ưu thế trong toàn
bộ
[920]
Nên nhớ rằng kinh Veda và kinh
Avesta gọi Vô cực điện (Fohat) là Apăm-Napăt. Trong kinh
Avesta, Vô cực điện ở giữa khoảng Hỏa
chơn linh (Fire-yazatas) và Thủy chơn linh (Water-yazatas).
Nghĩa đen là “Con của Nước”, nhưng
“Nước” này không phải là chất lỏng mà chúng ta
từng biết mà là Hậu thiên khí (Aether) – Nước
Bốc Lửa của Không gian. Vô Cực điện là “Con
của Hậu thiên khí” dưới trạng thái cao siêu
nhất, Tiên thiên khí, Cha Mẹ của Bảy Đấng
nguyên sơ và của Âm thanh tức Huyền Âm. Fohat là Ánh
sáng của Thiên Đạo.
[921]
“Nước” này là máu hay lưu
chất Sinh khí đang làm linh động Trái Đất,
trái đất được so sánh với một cơ
thể sống động.
[922]
Huyền bí học bổ khuyết
cho truyền thuyết dân gian vốn xác nhận sự
tồn tại của một Nguồn sống trong ḷng Trái
Đất và ở Bắc Cực. Đó là ḍng máu của
Trái Đất, luồng điện từ chu lưu qua
mọi động mạch, nghe nói là nó được
tồn trữ trong rốn của Quả Đất.
[923]
Huyền bí học nêu rơ rằng dăy
Hy Mă Lạp Sơn chính là “vành đai” và quả quyết
rằng dù ở đáy hay ở trên mặt nước th́
nó cũng bao quanh Quả Đất. Người ta mô
tả rằng cái rốn nằm về phía Mặt Trời
lặn, tức là phía Tây của rặng Himavat, trong rặng
này có gốc rễ của Núi Meru, núi này ở phía Bắc
của rặng Hy Mă lạp Sơn. Núi Tu Di (Meru) không phải là “núi huyền
hoặc nằm ở rốn hay trung tâm trái đất”, mà
gốc rễ và nền móng của nó lại ở nơi
cái “rốn ấy”, trong khi
chính nó lại ở vùng viễn Bắc. Điều này liên
kết nó với Vùng đất “Trung ương, không bao
giờ bị diệt vong”; trong vùng đất mà trong đó
“ngày của thế nhân kéo dài sáu tháng và đêm cũng sáu
tháng”. Kinh Vishnu Purăna tŕnh bày rằng: “Về phía Bắc Núi Meru luôn luôn có ban đêm,
trong khi các vùng khác là ban ngày; đó là v́ Núi Tu Di ở phía
Bắc của mọi đảo
(dvĩpas) và mọi xứ (varshas). Do đó Núi Meru
chẳng ở trên rặng Atlas như Wilford gợi ư,
như
[924]
Ngay cả các Giảng lư cũng
không phải là không dùng ẩn dụ phương Đông.
Quả Đất được tŕnh bày giống như
cơ thể của một người đàn bà,
“Địa Mẫu”. Từ cổ bà trở xuống, có
nghĩa là biển nội địa hiện nay
vượt qua bên kia giới tuyế băng giá vốn không
thể vượt qua được. Theo lời Parăshara,
Trái Đất là “mẹ và vú nuôi, có thêm mọi tạo
vật và các tính chất bao hàm
tất cả mọi thế giới”.
[925]
Đó là v́ các Đoạn Thiền
Định Chân Kinh gọi địa điểm này
bằng một từ ngữ mà Giảng lư dịch là một chỗ không có vĩ
độ (Niraksha), Thiên giới. Một nhà b́nh giải
đă diễn đạt Sũrya
Siddhănta (xii, 42 – 4) như sau:
“Mặt
trời ở bên trên chúng khi nằm ở những phân
điểm : chúng không có bóng phân điểm, cũng không có
độ cao của cực (akshonnati).
“Từ Núi Tu
Di đi ra theo cả hai hướng là hai sao ở cực (dhruvatără), đứng cố
định ở giữa bầu trời; đối
với những kẻ nào ở những chỗ không có
vĩ độ (niraksha)
cả hai sao này đều xuất hiện ở chân
trời.
“V́ thế
các đô thị ấy [ở vùng đất đó] không có
cao độ của các cực, hai sao mà cực tọa
lạc ở chân trời; nhưng chúng ở đồng
vĩ độ (lambaka) chín
mươi: Núi Tu Di cũng ở vĩ độ (aksha) chín mươi”. Xem Vishnu
Purăna, bản dịch của
[926]
Wilford đă phạm nhiều sai
lầm. Chẳng hạn như ông đồng nhất hóa
Bạch Đảo, Shveta-dvĩpa, ḥn đảo ở phía
Bắc Toyămbhudi [Biển nước ngọt], với
nước Anh, thế rồi, lại c̣n ra sức
đồng hóa nó với Atala (âm phủ) và Châu Atlantis. Nay
Bạch Đảo là chỗ trú của
[927]
Khảo cứu Á Châu, quyển viii,
trang 280 [ấn bản 1808].
[928]
Sách đă dẫn, trang 200 – 201.
[929]
Theo lối áp dụng ẩn
dụ, th́ chúng ta phải xét mọi danh xưng trong kinh Pu ră
nas với ít nhất là hai khía cạnh về mặt
địa lư và mặt siêu h́nh. Chẳng hạn như
Nĩla, ngọn núi xanh vốn là một trong các biên giới
phía bắc của Núi Tu Di, về phía bắc phải
được định vị nơi một rặng núi
ở Orissa, song mặt khác lại phải được
định vị nơi một ngọn núi, khác hẳn
những ngọn núi kia ở Tây Phi. Nam Thiệm bộ châu
là trú sở của Vishnu – trong kinh Purănas, đó là Thế
giới hạn chế trong Quả Đất, vùng chỉ bao hàm Núi Tu Di thôi, và nó
lại được chia ra để bao gồm Bhărata-
varsha (Ấn Độ), phân khu tốt
nhất và đẹp nhất của nó (theo Parăshara).
Pushkara và tất cả những Châu khác cũng vậy.
[930]
Như trên, trang 202.
[931]
Sũrya Siddhănta, bản dịch
của Whitney.
[932]
Khảo Cứu Á Châu, Quyển iii,
trang 300.
[933]
Jambu, Plaksha, Shălmali,
[934]
Chẳng hạn như Châu Shăka và
Pushkara, nó vẫn c̣n chưa tồn tại, nhưng sẽ
bao gồm những vùng đất như là một vài
phần của Châu Mỹ, Châu Phi và Trung Á cùng với vùng
Gobi. Chúng ta nên nhớ rằng Upadvĩpa có nghĩa là các ḥn
đảo “gốc”, tức là các vùng đất khô ráo nói
chung.
[935]
Chúng bị gọi là chư
Quỷ, Asuras, người Khổng lồ và quái vật, v́
chúng rất độc ác; và thế là xứ sở của
họ được tŕnh bày giống như Atala – một
Địa ngục.
[936]
Chắc chắn là không phải
ở trên bờ sông
[937]
Khảo cứu Á Châu, Quyển iii,
325.
[938]
Như trên, Quyển iii, trang 325 –
326.
[939]
Xem Quyển viii, x và xi Khảo
cứu Á Châu.
[940]
Sách đă dẫn, Quyển iii, trang
326.
[941]
Như trên.
[942]
V́ lẫn lộn hai
lối tường thuật Priyavrata với Medhătithi, Wilford
đă nói về sự phân chia Châu Atlantis và Bhărata tức
Ấn Độ như sau: “Priyavrata đă thực hiện
sự phân chia này … Ông có mười con trai và có ư
định chia đều cho chúng toàn Thế giới…
Cũng vậy,
[943]
Như thế, Châu Mỹ, tân
thế giới, mặc dù không xưa lắm, cũng c̣n
xưa hơn Châu Âu nhiều (cựu thế giới).
[944]
Nếu trú sở của Div hay
Dev-sefid (Tăradaitya) ở trên tầng
thứ bảy, th́ đó là v́ y đă xuất phát từ
Pushkara, Pătăla (điểm đối chân) của Ấn
Độ, hoặc là từ Châu Mỹ. Có thể nói là Châu
Mỹ đă chạm tới biên cương của Châu
Atlantis trước khi Châu này rốt cuộc bị ch́m.
Từ ngữ Pătăla, vừa có
nghĩa là các xứ đối chân, vừa có nghĩa là vùng
địa ngục, cả hai vùng này đều trở nên
đồng nghĩa với nhau về ư tưởng và
thuộc tính cũng như là danh xưng
[945]
Châu Atlantis cũng như
Shankha-dvĩpa chưa bao giờ được gọi là
“Bạch Đảo”. Khi truyền thuyết bảo rằng
“Bạch Đảo trở nên hắc ám v́ tội lỗi
của nhân dân”, điều này chỉ có nghĩa là dân cư
của “Bạch Đảo” hay Siddhapura hay Shveta-dvĩpa
đă giáng lâm xuống Châu Atlantis của các Giống dân
thứ Ba và thứ Tư, để làm linh hoạt các
giống dân này; “sau khi đă lâm phàm, các cư dân này trở
nên hắc ám v́ tội lỗi” – một cách nói bóng bẩy.
Nghe nói mọi Hóa Thân của
[946]
Khảo cứu Á Châu, Quyển xi,
trang 26 – 28.
[947]
Sáng
[948]
Luật Bàn Cổ về
đời sống lứa đôi thật là minh triết và
cao cả, nh́n xa trông rộng và vô cùng có lợi về
mặt tinh thần khi so sánh với sự trụy lạc
mà con người được mặc nhiên cho phép trong các
xứ văn minh. Sự việc các luật này đă bị
lờ đi trong hai ngàn năm vừa qua càng làm cho chúng ta
thán phục sự thấy xa của các luật ấy. Tín
đồ Ba La Môn vốn là một Grihasta, một cư
sĩ, măi đến một thời kỳ nào đó trong đời
ḿnh, sau khi đă sinh một đứa con trai (son), y từ
bỏ cuộc sống lứa đôi, và trở thành một
đạo sĩ Yoga trinh khiết. Chiêm tinh gia Bà La Môn
của y đă điều chỉnh chính cuộc sống
lứa đôi của y cho phù hợp với bản chất
của y. Do đó những xứ như Punjăb chẳng
hạn, nơi mà ảnh hưởng tai hại của
sự trụy lạc của Hồi giáo và sau này của Âu
Mỹ, vẫn chưa tác động bao nhiêu tới các giai cấp chính thống Ăryan,
người ta vẫn c̣n thấy những người
tốt đẹp nhất – xét về mặt vóc dáng và
thể lực – trên toàn Thế giới. Trong khi đó ở
vùng Deccan, và nhất là ở
[949]
Bệnh tật và nạn nhân măn là
những sự kiện không thể chối căi được.
[950]
Trong tác phẩm Các Vở kịch của Aeschylus của bà Anna
Swanwick, người ta có đề cập tới việc
“Prometheus bị Trói buộc” (“Tủ sách Cổ điển
của Bohn”, trang 334) như sau: “Prometheus thật sự xuất
hiện trong đó với vai tṛ là người bênh vực
và ân nhân của loài người, t́nh cảnh của
Prometheus … được mô tả như là vô cùng yếu
đuối và khốn khổ… Nghe nói Thần Vương
Zeus đă tiêu diệt những kẻ phù du ốm yếu này
và kiến tạo trên địa cầu một giống dân
mới thay thế cho chúng”. Trong các Thiền Định Chân
Kinh, chúng ta thấy các Đấng Hiện Tồn cũng
làm như vậy và tận diệt sản phẩm
đầu tiên của
[951]
Vốn chỉ bị bản
năng dẫn dắt, thế giới động vật
(animal world) có các mùa sinh sản,
c̣n tính dục bị hóa giải trong thời gian c̣n lại
của năm. Do đó, con thú hoang chỉ bị bệnh
một lần trong đời trước khi chết.
[952] Nhập
môn “Prometheus bị Trói buộc”, trang 340.
[953]
Từ nguyên là “pro-metis”, “sự suy
tính trước”. Tác phẩm nêu trên Các vở kịch
của Aeschylus cho chúng ta biết rằng Giáo sư Kuhn “xem
danh hiệu Titan là thoát thai từ tiếng Bắc Phạn
Pramantha, dụng cụ được dùng để nhóm
lửa. Ngữ căn mand
hay manth hàm ư chuyển
động quay, c̣n từ ngữ manthămi dùng để chỉ tiến tŕnh nhóm
lửa, lại có thêm nghĩa phụ là “nắm nhanh”
(snatching away); do đó chúng ta thấy một từ ngữ
cùng một họ khác pramatha
có nghĩa là ‘lấy cắp’ “. Điều này thật là
kỳ diệu, nhưng có lẽ không hoàn toàn chính xác; hơn
nữa, trong đó c̣n một yếu tố rất tầm
thường. Chắc chắn là trong thế giới
vật chất, các h́nh tướng thượng
đẳng có thể phát triển từ các h́nh
tướng hạ đẳng, nhưng trong thế
giới tư tưởng th́ khó ḷng có thể như
thế được. Và v́ chúng tôi được biết
rằng từ ngữ manthămi
chuyển sang tiếng Hy Lạp và trở thành từ
ngữ manthanơ, học
hỏi – nghĩa là thu lượm kiến thức, do đó
mới có từ ngữ
prometheia, “biết trước”, “suy tính trước” –
nên khi t́m kiếm, chúng ta có thể thấy nguồn gốc
thơ mộng cho “kẻ mang lửa” hơn là nguồn
gốc được tŕnh bày trong tiếng Bắc
phạn.
[954]
Kronos là “Thời gian”, do đó,
ẩn dụ này trở nên rất là gợi ư.
[955]
Tác giả của bản văn và
người dịch quyển “Prometheus bị Trói buộc”
than phiền rằng trong cuộc theo vết những
cuộc hành tŕnh lang thang này của Io, “chúng tôi không thể
đạt được một sự nhất quán nào
với kiến thức về địa lư của chính
ḿnh” (trang 379). Điều này cũng có thể v́ nhiều lư
do. Trước hết, đó là cuộc hành tŕnh phiêu
bạt từ nơi này đến nơi kia của Giống dân vốn sản sinh
ra hóa thân “thứ mười” tức cái gọi là Bạch
[956] Sách
đă dẫn, trang 385, chú thích.
[957]
Quyển 1, trang 569 – 570.
[958]
Alexender vốn quen thuộc với
Attoch hơn là Ấn Độ - và ông chưa bao giờ
đi vào Ấn Độ chính quốc – đă không thể
không nghe nói tới Ấn hà, ở chính các cội nguồn
của nó được mệnh danh là Nĩl và Nĩlă.
Như thế, chúng ta cũng dễ dàng giải thích
được sự lầm lẫn này – nếu đó
quả là sự lầm lẫn.
[959]
Xét về mặt ẩn dụ,
việc Io “có sừng ḅ” chứng tỏ rằng bà
đồng nhất với
[960]
Các cuộc tranh luận ở thành
Tusculus, I, ii, 29.
[961]
Strom, I, ii, Oper. I, 467, Ấn bản
[962]
Herodotus và
[963]
Sabasia là một đại lễ
định kỳ với các Bí pháp được cử
hành để tôn vinh một vài vị Thần, một
biến thể của các Bí pháp Mithras. Toàn bộ cuộc
tiến hóa của các Giống dân được thực
hiện trong các Bí pháp này.
[964]
Sách đă dẫn của bà Swanwick.
[965]
Xem chú thích cuối Quyển 3 này bàn
về từ nguyên Pro-metis hay sự suy tính trước.
Trong vở kịch, Prometheus đă thú nhận điều
này khi bảo rằng :
Hỡi ether thánh thiện, các cơn gió lớn vẫy
cánh lia lịa …
Hăy xem
điều mà ta, một vị thần, phải chịu
nơi chư thần.
…………………..
Thế nhưng ta biết nói ǵ đây ? Ta biết trước rơ ràng
Tất cả những ǵ phải xảy ra . .
. .
.. …. Có lẽ ta cần phải cam
chịu định mệnh,
V́ ta
thừa biết,
Sức mạnh của Định mệnh không
thể bài bác được,
biết là dường nào… (105)
Ở đây “Định mệnh” tượng
trưng cho NGHIỆP QUẢ.
[966]
Nhân loại rơ rệt là
được chia thành những người
được Thượng Đế làm linh hoạt và
những người thấp kém. Sự dị biệt
về mặt trí thức giữa dân Ăryan với các quốc
gia văn minh khác so với những người dă man
như những người ở Đảo
[967]
Theo quan điểm triết lư
của siêu h́nh học Ấn Độ, Điều ác có
Nguồn gốc là sự biến phân của Thuần
nhất (Homogeneous) thành ra Dị trạng (Heterogeneous),
Nhất Nguyên thành Đa Nguyên.
[968]
[969]
Những vị Phật của nhóm
đầu tiên là những vị tiền bối xa xôi
của Phật Thích Ca, tiêu biểu cho những Đấng
Cao Cả Tiên Thánh, hóa thân của các vị “Con của Minh
triết” (do đó có thể nói là các hóa thân thứ yếu
của các Đấng Thiêng Liêng). Trong số đó chỉ
có mười một vị thuộc về Giống dân
Atlantis, hai mươi bốn vị thuộc Giống dân
thứ Năm kể từ buổi sơ khai. Các vị
tương đồng với các Cổ Phật của
Jaina giáo.
[970]
Điều này có thể giải
thích cho sự tương tự của các g̣ đống
nhân tạo ở Liên Bang Mỹ, và các nấm mộ
đất ở Na Uy. Chính sự đồng nhất này
đă khiến cho một vài nhà khảo cổ học
Mỹ gợi ư rằng các thủy thủ Na Uy đă khám phá ra Châu Mỹ cách đây
chừng 1 000 năm. (Xem Các vết tích của Phật giáo
ở Na Uy của Holmboe, trang 23). Không c̣n nghi ngờ rằng
“Châu Mỹ chính là các nguồn gốc xa xăm mà những
người sùng đạo và những trận băo dữ
dội đă truyền bá giáo lư thiêng liêng vào” một tác
giả Trung Hoa đă mô tả gợi ư với Neumann như
thế. Nhưng cả Giáo sư Holmboe ở
[971]
Xem Sự tuyển chọn Sinh lư
học của G. J. Romanes, Hội viên Hội Hoàng Gia.
[972]
Phật Giáo Bí Truyền, trang 65.
[973]
[Sabha: hội
đồng; Maya-Sabhă: hội đồng gồm những
người tinh thông môn khoa học do kiến trúc sư Maya
truyền dạy].
[974]
Tức Asuramaya.
[975]
Exodus, xi, 1, 2.
[976]
Loài thú nhân tạo
biết nói và báo động cho chủ nó biết tai họa
sắp đến, tương tự như con quái vật
của Frankenstein về một phương diện nào
đó. Chủ nó là một tay Phù thủy Tả đạo
bàng môn dùng phù phép làm cho một âm binh nhập vào các con thú
giả tạo ấy để sai khiến. Chỉ có máu
tươi của kẻ đạo hạnh tinh khiết
mới có thể diệt trừ được nó. Xem
Quyển 4, Phần 3, “Đối chiếu Khoa Học
với Giáo Lư Bí Nhiệm”.
[977]
Các Con vật Thần
Thoại, trang 19.
[978]
Xem Thánh Thư của các
Chơn Sư gởi cho A. P. Sinnett, trang 152.
[979]
Xem Quyển I, trang 239.
[980]
Như trên.
[981]
Ai Cập
[982]
Thiên văn học Thần
thoại, trang 30, của một nhà thiên văn học và
biểu tượng học có trực giác thật là kỳ
diệu, một loại Cao đồ tự tu tự
chứng ở
[983]
Xem Proctor, Tri Thức, quyển I,
trang 242, 400.
[984] Herodotus
của Rawlinson, quyển ii, trang 345.
[985]
Đại Kim tự tháp, trang 37.
[986]