Dịch
thuật
GIÁO LƯ BÍ NHIỆM
(THE SECRET DOCTRINE)
(TỔNG HỢP
KHOA HỌC, TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC)
Tác
giả :
H. P. BLAVATSKY
QUYỂN
2
VŨ TRỤ
KHỞI NGUYÊN LUẬN
(COSMOGENESIS)
PHẦN 2 VÀ 3
MỤC LỤC
Quyển 2
VŨ TRỤ
KHỞI NGUYÊN LUẬN
PHẦN
2. SỰ TIẾN HÓA CỦA
BIỂU TƯỢNG KƯ
TRANG
TIẾT 1 – BIỂU TƯỢNG KƯ VÀ
BIỂU Ư TỰ................................................ 15
Các Thần
thoại và các Truyền thống đều có ư nghĩa
Lịch sử - Biểu
hiệu và Biểu
tượng khác nhau – Biểu hiệu là một loạt
các h́nh vẽ giống như đồ thị,
được thuyết minh theo lối ẩn dụ.
Lịch sử nội môn ẩn tàng trong Biểu
tượng – Mănh lực Pháp thuật của Âm thanh – Ngôn
ngữ Bí nhiệm, nay được gọi là Biểu
tượng kư.
TIẾT 2 – NGÔN NGỮ BÍ NHIỆM VÀ CÁC CH̀A KHÓA CỦA NÓ… 30
Các học giả
đă từng giải được Ngôn ngữ
Đại đồng của Cổ nhân – Các Văn
kiện cổ truyền được viết bằng
Ngôn ngữ Đại đồng – Các Nghi thức và các Giáo
điều của Ai Cập vẫn c̣n duy tŕ Giảng lư
chính yếu của Giáo lư Bí nhiệm – các học giả khám
phá ra Hệ thống H́nh học và Số học của các
kích thước của Đại Kim Tự Tháp – Phép
Cầu phương của H́nh tṛn – Rốt cuộc Chân lư
phải ưu thắng – Moses và Chiếc Bè bằng cây
cỏ chỉ mô phỏng theo vua Sargon – Nền tảng Con
số Huyền linh của khoa Vũ trụ Khai tịch
Huyền linh – Gốc tích của các Biểu tượng
Cổ truyền – Sự Sáng tạo ra nhiều Adam – Các
Giống dân “Quỷ Vương”.
TIẾT 3 – CHẤT NGUYÊN LIỆU NGUYÊN THỦY
VÀ TƯ
TƯỞNG THIÊNG LIÊNG.............................................................
62
Siêu h́nh học Tây
phương không đạt được Chân lư – Trừ
phi được xác định bằng Vô số biểu
lộ của chất liệu Vũ Trụ, Tư Tưởng
Thiêng Liêng không xác định được – Thiên Ư
Hồng Nguyên không tồn tại trong khi có chu kỳ Hỗn
Nguyên của Vũ Trụ - Toàn
thể Vũ trụ là một Hăo Huyền – Chất Nguyên
Thủy là ǵ ? Hậu Thiên Khí và Lửa Vũ Trụ - Vũ
Trụ Khai Tịch của Thần Trí (Manas) – Thất
Đại – Các Thần Linh trong Sáng
Thế Kư – Toàn bộ Càn Khôn xuất phát từ
Đấng Tam Phân – “Sinh Hỏa” – Ether của Khoa học –
Toàn bộ Càn Khôn xuất phát từ Tư Tưởng Thiêng
Liêng – Huyền bí học vẫn c̣n nắm giữ Ch́a khóa
giải tất cả mọi Vấn đề của
Thế giới.
TIẾT 4 – HỒNG NGUYÊN KHÍ : THƯỢNG
ĐẾ: VŨ TRỤ.........................
96
Không gian bao hàm và
là Thể của Vũ Trụ với Bảy Nguyên khí –
Hồng nguyên khí trở thành Linh Hồn Vũ Trụ - Tam
giác Sơ Thủy – Khai sinh ra Thần trí – Húy Danh – Tứ
Đại Sơ Thủy – Sự sùng bái Vũ Trụ
(Cosmolatry)
TIẾT 5 – VỀ THƯỢNG ĐẾ ẨN TÀNG, BIỂU TƯỢNG
VÀ
CHỮ VIẾT TƯỢNG H̀NH ........................................................ 111
Các Prajăpatis (Thiên
Đế) và các Tộc Trưởng – Đại Thánh Dung
và Tiểu Thánh Dung – Bảy Mật Tự cấu thành danh
xưng của Thượng Đế - Linh Hồn Vũ
Trụ được coi như là Thần Trí của
Tạo Hóa – Ư của các Con thú và các Cây linh thiêng – Biểu
tượng của các Quyền năng Sáng tạo – Bảy
mươi Đấng Kiến Tạo – Liệu đă
từng có một sự Thiên khải Vũ Trụ sơ
thủy hay chưa ? – Thiên Nga dùng như là Biểu
tượng của Tinh Thần – Biểu tượng
học Cổ truyền.
TIẾT 6 – VŨ TRỤ NOĂN ................................................................................... 131
Quả Trứng
tiêu biểu cho Vũ Trụ và các thể h́nh cầu của
nó – Quả Trứng và Chiếc Bè – Mười con số Linh
thiêng của Vũ Trụ - Biểu tượng về các
Thần Nguyệt Tinh và Nhật Tinh – Bốn Con thú Linh thiêng
tiêu biểu cho Bốn Nguyên khí thấp nơi Con
Người – Các Con Rắn bốc Lửa - Quả Cầu
có cánh – Quả Trứng sinh ra Tứ đại (Four Elements)
– Tất cả các vị thần Ai Cập đều
lưỡng phân – Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận
của Bắc Âu (Scandanavian Cosmogony) – Bốn Con Sông của
vườn Địa Đàng được tượng
trưng bởi Khối vuông.
TIẾT 7 – CÁC NGÀY VÀ ĐÊM CỦA BRAHMĂ
(PHẠN THIÊN).............. 150
Thiên kiếp
(Kalpa) hiện tại là Varăha (Hóa thân Heo rừng) – Các Hóa thân
biểu hiệu các Chu kỳ Chủ yếu và Thứ
yếu – Ba chu kỳ Hỗn Nguyên chính (Pralayas) – Một Ch́a
khóa giải Thánh kinh Do Thái Bí giáo (Kabala) – Mười bốn
vị Bàn Cổ trong thời hạn của một
Đại Chu Kỳ (Măha Yuga) – Đêm Vũ Trụ giáng lâm
– Chu kỳ Chánh Pháp (Satya Yuga) bao giờ cũng đứng
đầu trong số Bốn Thời đại và Chu
kỳ Mạt Pháp bao giờ cũng sau rốt – Các Hiền
Triết Moru và Devăpi tái lai.
TIẾT 8 – HOA SEN DÙNG NHƯ LÀ MỘT BIỂU
TƯỢNG VŨ TRỤ ....... 170
Hoa sen tiêu biểu
cho sự Sáng tạo và sự Sinh hóa – Thiên Ư chuyển
từ Trừu tượng sang Cụ thể -
Thượng Đế Sáng Tạo là Tư tưởng làm
cho Hữu h́nh – Thuyết thần nhân đồng h́nh
của Cổ Do Thái – Ư nghĩa Nội môn của Tội
lỗi sa đọa trong Sáng
Thế Kư – Ư nghĩa Linh thiêng của chữ “M”.
TIẾT 9 – MẶT TRĂNG, NGUYỆT THẦN,
PHOEBE ................................... 185
Mặt Trăng
được nhân cách hóa – Các vị thần Nhật Tinh và
Nguyệt Tinh, các Giống dân và các triều đại – Ch́a
khóa Tâm lư giải Biểu tượng Mặt Trăng – Con
Số Kép, Thư Hùng – Một ẩn dụ trích từ Thánh
kinh Zohar – Biểu
tượng Mặt Trăng thật là phức tạp, Ch́a
khóa Tâm lư của nó – Trạng thái Lưỡng phân của
Mặt Trăng – Các nghi lễ Nguyệt Tinh dựa vào
sự Hiểu biết về Sinh lư học – Mặt
Trời và Mặt Trăng được coi như là các
vị Thần Thư Hùng sinh hóa ra Trái Đất –
Đức Mẹ Đồng Trinh và Nữ Thần Ngẫu
Tượng – Sự sùng bái Mặt Trăng thật là
xưa cũ như Trái Đất – Mặt Trăng
được công nhận như là Biểu tượng
của mọi Đức Mẹ Đồng Trinh.
TIẾT 10 – SỰ SÙNG BÁI CÂY CỎ, RẮN VÀ
CÁ SẤU ................................. 219
Quả của Cây
Minh Triết – Rắn và Rồng có nghĩa là các Đấng
Minh Triết tức các Cao đồ được
Điểm Đạo thời xưa – Rắn Biểu
tượng của Điểm Đạo – Các nhà Huyền
bí học thấu triệt được các ư nghĩa
Sơ thủy của Cây Trường Sinh và Thập Giá – Cây
Trường Sinh bắt rễ rừ Thiên Đàng –
Những con Rắn và Rồng bảy đầu thời
xưa tiêu biểu cho Bảy Nguyên khí trong Thiên nhiên và nơi
Con Người – Con Sấu và Con Rồng của dân Ai
Cập – Ư nghĩa của Thất Linh hỏa (Seven Fires),
Thất Huyền Âm (Seven Vowels) v.v.. được
tượng trưng bởi Bảy Đầu của Con
Rắn vĩnh cửu.
TIẾT 11 – QUỶ VƯƠNG ĐỐI
NGHỊCH VỚI THƯỢNG ĐẾ ..................... 235
Thiện và Ác,
liệu có thể có Hai cái Tuyệt đối vĩnh
cửu được không? -
“Satan” đă được nhân h́nh hóa như thế nào –
Hữu sinh tất Hữu hoại – Thiện và Ác là hai
phương diện của cái Duy Nhất cũng Như
nhau – Ác biểu thị tính Phân cực của Vật
Chất và Tinh Thần – Các Cao đồ Chánh đạo và
Tà đạo – Cuộc Chiến đấu giữa các
vị Thần – Hai trạng thái của Vishnu – Các Thần
lực Sáng Tạo các Thực Thể sống động và
Hữu thức – Kim Tự Tháp Đen và Trắng.
TIẾT 12 – THẦN PHỔ HỌC VỀ CÁC
THẦN LINH SÁNG TẠO ............... 260
Huyền giai
Thần lực – Đấng Sinh hóa ra Vũ Trụ không
phải là vị Thần Tối Cao – Huyền điểm
là Đơn vị từ đó phát sinh ra toàn bộ Hệ
thống Số học – Các Tạo vật trong Vũ
Trụ Khởi Nguyên Luận Ấn Độ -
Thượng Đế Huyền
Âm – Các Từ ngữ đồng nghĩa với
Thượng Đế - Các Quyền năng nữ tính trong
Thiên nhiên – Bí nhiệm của Âm Thanh – Ánh Sáng, Âm Thanh và
Số Mục là ba nhân tố Sáng tạo – Số luận
của Pythagoras – Mẹ của các vị Thần – các Kim
Tự Tháp thật là xưa cũ – Thiên Thần, Tổng
Thiên Thần, Thiên Thần Vương Tước, Thiên Thần
Đức Hạnh, Thiên Thần Tự Trị, Thiên
Thần Vương Vị, Tiểu Thiên Thần, Thiên
Thần Tối Cao – Các vị Thần trong Vũ trụ -
Các Giai đoạn Biểu lộ - Danh xưng Bất
khả tuyên đọc – Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận
của Khổng Tử - Bảy và Mười bốn Chu
kỳ tồn tại – Các Biểu tượng của Bí
nhiệm U minh – Chỉ có Thượng Ngă là Thiêng Liêng và
Thượng Đế.
TIẾT 13 – BẢY TẠO VẬT ................................................................................. 302
Bảy Tạo
vật của Thánh kinh Purănas – Bát nguyên (the Ogdoad) – Con
người biết “Suy tư” đầu tiên và Một, Ba
và Bảy Huyền Âm – Các tạo vật Chủ yếu và Thứ
yếu – Toàn Linh Trí và Thiên Trí đang Hoạt động
tích cực – Nhiều lời Giải thích Chân Lư Độc
Nhất Vô Nhị - Các Thiền Định Đế Quân là
Khối Tập Hợp của Bản Nguyên Trí – Bảy
Tạo Vật: (1) Hành Toàn Linh Trí (Mahattattva), cuộc Tự
tiến hóa bản sơ; (2) Các Nguyên khí Sơ cấp
tức các Tanmătras (Cơ bản kích lượng); (3) Ngă
thức (Ahamkăra) tức quan niệm về cái “Tôi”; (4) Hàng
loạt bốn giới Hành khí Sơ cấp – Cơ sở
của các Giác quan; (5) Tạo vật Con thú câm; (6) Các nguyên
kiểu của Giống dân thứ Nhất (nhân loại);
(7) Con người – Các Đấng Thiên Tôn (Kumăras) là ai – Các
Tu sĩ khổ hạnh Trinh khiết không chịu sáng
tạo ra Con người Vật chất – Tầm quan
trọng của số Bảy.
TIẾT 14 – TỨ ĐẠI (TỨ HÀNH) ........................................................................ 334
Các Hành là Lớp
vỏ Hữu h́nh của các Thần Linh Vũ Trụ - Các
Hành thuộc Tinh Thần và Thể Chất trong các Thần
lực của Thiên nhiên – Dân Atlante thấu hiểu
được các hiện tượng của Tứ
Đại – Thánh Paul tin tưởng nơi các Thần Linh
Vũ Trụ - Jehovah là một vị Thần của các Hành
– Nữ thần Astarte và Đức Mẹ Mary – Mọi Hành
đều có bản chất lưỡng phân – Các lực
vật lư là khí cụ của các hành.
TIẾT 15 – VỀ QUAN THẾ ÂM VÀ QUAN ÂM .............................................. 353
Thủy và Chung
của Vũ Trụ tự nhiên và biểu lộ - Các
Thần chú tạo ra một tác dụng Pháp thuật – Quan
Thế Âm là một H́nh hài của Nguyên khí thứ Bảy
của Vũ Trụ, tức Thượng Đế xét
về mặt huyền học – Quan Âm là nguyên khí Âm trong Thiên
nhiên.
PHẦN 3. PHỤ LỤC
TIẾT 1 – LƯ DO TẠI SAO CÓ CÁC PHỤ LỤC
NÀY ................................... 361
Không có mâu
thuẫn giữa Huyền bí học và Khoa học chính xác
bất cứ khi nào mà Khoa học chính xác vẫn
được dựa vào Sự kiện không thể công
kích được – Các Thần lực là các Thiên Thần và
các Thần Linh – Mặt Trời vừa là Vật Chất
vừa là Tinh Thần – Mặt Trời ban cấp Sự
sống cho Thế Giới Vật Chất; Mặt Trời
Tinh Thần ẩn tàng cung ứng Cuộc sống và Ánh sáng
cho các cơi Tinh Thần và Tâm Linh.
TIẾT 2 – NHÀ VẬT LƯ HỌC HIỆN
ĐẠI ĐANG CHƠI TR̉ “BỊT MẮT BẮT DÊ”
(BLIND-MAN’S BUFF).................................................................................................................... 371
Khoa học
phải học hỏi xem thực sự th́ Vật
Chất, Nguyên Tử, Ether (Ê-te) và Lực là thế nào – Ánh
sáng có phải là một Thể hay không ? – Các Giả
thuyết mâu thuẫn – Các quan điểm về Cấu
tạo của Ether – Nhà Huyền bí học nói rằng Thiên
nhiên tạo tác ra chính ḿnh.
TIẾT 3 – LỰC HẤP DẪN CÓ PHẢI LÀ
MỘT ĐỊNH LUẬT KHÔNG?..... 387
Các quan
điểm của Khoa học về Trọng lực –
Pythagoras và Plato nói về các Tinh Quân – Vô cực điện
(Fohat) và Trí thông tuệ cấp năng lượng cho và
hướng dẫn lưu chất điện Sinh Lực
Vũ Trụ - Các Thần lực trong Thiên nhiên và các Cá
thể Thông tuệ - Thuyết Chân không vũ trụ của
Newton – Chuyển động không ngừng – Từ khí Vũ
Trụ - Quan niệm của Kepler về các Lực Vũ
Trụ - Nguyên nhân của sự quay.
TIẾT 4 – CÁC THUYẾT VỀ SỰ QUAY TRONG
KHOA HỌC ................... 408
Các giả
thuyết về Nguồn gốc của Sự quay, về
Nguồn gốc của các Hành Tinh và các Sao chổi – Các
Nghịch lư của Khoa học – Lực là các Thực
Tại.
TIẾT 5 – CÁC MẶT NẠ CỦA KHOA HỌC
.................................................... 422
Vật lư hay Siêu
h́nh học ? – Giáo lư và Nguyên lư Huyền bí học nơi
Spiller – Các định nghĩa về Lực của Khoa
học – Lực và Chất liệu trong Huyền bí học –
Lực là ǵ ? – Các nhà Huyền bí học gọi Nguyên Nhân
của Ánh Sáng, Nhiệt, Âm Thanh, Sự Cố Kết,
Từ Khí v.v… là một Chất liệu – Bảy Huyền
Xạ của Mặt Trời – Nhân và Quả - Thế nào là
một Nguyên Tử ? – Bốn mươi chín Linh Hỏa
Bản Sơ được nhân cách hóa; Quan hệ của
chúng với các Thần thông nơi Con Người cùng các
Mănh lực Vật lư và Hóa học – “Nguyên lư Kết tập”
trong Hệ thống Triết học (Triết hệ) (in the
Vishishtădvaita System of Philosophy).
TIẾT 6 – MỘT NHÀ KHOA HỌC CÔNG KÍCH LƯ THUYẾT
VỀ
LỰC CỦA KHOA HỌC ................................................................ 455
Nhiều Khoa
học gia Anh quốc giảng dạy hầu hết là Giáo
lư Huyền bí học – Tinh Thần và Linh Hồn của
Vũ Trụ.
TIẾT 7 – CUỘC SỐNG, LỰC HAY
TRỌNG LỰC ....................................... 466
Một ḿnh
Lực hấp dẫn không đủ để giải
thích Chuyển động của Hành tinh – Các Lưu
chất hay các Bức xạ của Mặt Trời
truyền thụ Mọi Chuyển động và khơi
hoạt Mọi Cuộc Sống trong Thái Dương Hệ
- Mặt Trời là Kho chứa sinh lực – Thuyết
Phiếm Thần hay là Thuyết Độc Thần ? –
Bảy Giác quan Hồng Trần – Cây Trường Sinh – “Ether
thần kinh” là ǵ ? Một nấc thang Thất phân chân chính.
TIẾT 8 – LƯ THUYẾT VỀ THÁI DƯƠNG
HỆ............................................... 488
Mặt trời là
Tâm của Thái Dương Hệ - Các Nguyên tố mà ta
biết hiện nay không phải là các Hành Nguyên Thủy – Hóa học tiến gần tới
lănh vực Huyền bí trong Thiên nhiên hơn là các Khoa học
khác – Các khám phá của Giáo sư Crookes biện minh cho các Giáo
lư Huyền bí học – Các Thuật ngữ Hóa học và
Khởi nguyên của các Thần Linh – Quyền năng
điều động Nguyên tử - Ư nghĩa của
Dực Xà Trượng (Caduceus) của thần Mercury –
Trạng thái Laya (trung ḥa) và
Điểm Zero – Huyền bí học nói rằng Vật
Chất vốn Vĩnh Cửu và chỉ trở thành Nguyên
tử một cách định kỳ - Các “Nguyên tử
số” chủ yếu – Các Đấng Thông Tuệ và các
Đấng Chủ tŕ các Chơn Thần và Nguyên tử.
TIẾT 9 – THẦN LỰC SẮP TỚI ......................................................................... 514
Nhân và Quả
của Điện vũ trụ - Âm thanh là một Quyền
năng Huyền bí – Keely là một nhà Huyền bí học Vô
thức – Ư nghĩa Huyền bí của một Trung ḥa
điểm – Nhân loại có liên hệ về mặt tâm linh
với các nhóm Đấng Thiền Định – Tại sao
Keely không thể đẩy mạnh các Khám phá của ḿnh
đến Mục tiêu hợp lư – Dĩ thái lực không
được dùng cho các Mục đích thương
mại và Giao thông – “Vril” là một Lực Thực sự -
Các khám phá quá sớm của Keely.
TIẾT 10 – VỀ CÁC HÀNH NGUYÊN TỬ ....................................................... 537
Khi được dùng về mặt Siêu h́nh
học, từ ngữ Hành có nghĩa là Con người Thiêng
liêng Phôi thai – Các Linh Hồn Nguyên Tử là các Biến phân
xuất phát từ Đấng
TIẾT 11 – TƯ TƯỞNG CỔ TRUYỀN
VỚI H̀NH THỨC HIỆN ĐẠI......... 561
Hóa học và Huyền bí học – Roger Bacon có một Ch́a khóa giải được Chân ư nghĩa của Pháp thuật và Thuật luyện đan – Nguyên tử không thể tách rời khỏi Tinh Thần – Tam Nguyên trong Nhất Nguyên – Khởi nguyên của các Hành – Thánh kinh Purănas chống lại Hội Hoàng Gia.
TIẾT 12 – BẰNG CHỨNG KHOA HỌC VÀ NỘI MÔN BIỆN MINH CHO VÀ CHỐNG LẠI THUYẾT TINH VÂN HIỆN ĐẠI ......................................................................................... 579
Thuyết Tinh vân Sai – Mặt Trời và các Hành Tinh có chung một Nguồn gốc – Nhiệm vụ của nhà Huyền bí học là xét về Linh Hồn và Tinh Thần của Không gian Vũ Trụ - Cần phải Nghiên cứu toàn bộ Hệ thống Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận Nội Môn – Các thần lực là các Trạng thái của Cuộc sống Đại đồng Vũ Trụ Duy nhất – Các quan điểm của một Thánh Sư về các Thuyết khoa học – Các Tinh vân là ǵ ? – Thuyết Tinh vân và các Giáo Lư Bí Nhiệm – Vũ trụ hữu h́nh của chúng ta là Thể xác của một Càn Khôn Thất Phân – Thế nào là Vật Chất Bản Sơ ? – Sự chọn lọc tự nhiên và Thuyết tiến hóa của Đông phương.
TIẾT 13 – CÁC THẦN LỰC LÀ CÁC CÁCH
THỨC CHUYỂN ĐỘNG HAY LÀ CÁC ĐẤNG THÔNG
TUỆ ? ..................................................................................................................... 603
Các hiệu quả của Vật Chất Bản Sơ biểu lộ qua các Đấng Thông Tuệ được mệnh danh là các Thiền Định Đế Quân v.v… - Khoa học ắt phải thừa nhận các Đấng Thông Tuệ này – Toàn Linh Trí là Linh Quang (Fohat) do Thượng Đế xạ ra – Các Hiện tượng trên Trần Thế là các trạng thái của Bản Thể lưỡng phân của các Thiền Định Đế Quân Vũ Trụ - Luật Tương Tự là Ch́a khóa đầu tiên để giải nan đề của Thế giới – Các Loại Người khác nhau – Các Giác quan khác nhau trong các Thế giới khác – Vạn vật đều có Chu kỳ sống của ḿnh: Địa Cầu, Nhân Loại, Mặt Trời, Mặt Trăng, các Hành Tinh, các Giống Dân v.v…
TIẾT 14 – CÁC VỊ THẦN, CHƠN THẦN VÀ NGUYÊN TỬ ...................... 620
Vũ trụ đầy dẫy các Sinh linh vô h́nh, Thông tuệ - Chỉ có các Điểm đọa đồ và các Thánh nhân cao cấp nhất mới quán triệt được các Bí nhiệm của Thiên nhiên – Ai thấu đáo được các Bí nhiệm của chính Trái Đất chúng ta, cũng sẽ thấu triệt được Bí nhiệm của mọi Hành Tinh khác – Điểm Toán học – Vũ Trụ Tuyệt Đối Lư Tưởng và Càn Khôn vô h́nh mặc dù đă biểu lộ - Chơn Thần được coi như là Đỉnh của Tam giác đều biểu lộ, “Từ Phụ” – Không gian là Thế giới Chân thực – Mười điểm của Pythagoras – Tam giác Lư tưởng – Chơn Thần và Nhị Nguyên – Các Linh Hồn Nguyên Tử và cuộc Hành hương cá biệt của chúng – Sự thăng giáng của Chơn Thần đă Biệt lập ngă tính – Hóa học của Tương lai – Nội môn Bí giáo bao hàm toàn bộ phạm vi Tiến hóa từ Tinh Thần tới Vật Chất – Thực tượng của Oxy, Hydro, Nitro – Các thuyết của Leibnitz – Bản chất của Chơn Thần – Các vị Thần là các Bức xạ của Thiên nhiên Nguyên Thủy – Các Nguyên tử là loại Chuyển động giữ cho Ṿng Sinh Tử Luân Hồi quay măi.
TIẾT 15 – SỰ TIẾN HÓA TUẦN HOÀN CỦA NGHIỆP QUẢ.................... 665
Nghiệp quả là Luật duy nhất chi phối Thế giới Hiện tồn – Các nhà Huyền bí học cũng tôn trọng Cuộc sống thú tính ngoại cảnh của Con người giống như là Bản Chất Tinh Thần Nội Tâm của y – Quan hệ Nội môn của các Chu kỳ nghiệp quả đối với Luân lư Đại đồng Vũ trụ - Không Ai có thể thoát khỏi Vận mệnh khống chế y – Nghiệp quả là Luật bù trừ - Các biến đổi Địa chất vĩ đại chẳng qua chỉ là Khí cụ để hoàn thành một vài Thiên ư tác động một cách định kỳ - Các loại Chu kỳ và Tiểu chu kỳ - Nghiệp quả Báo ứng (quả báo) – Các lời Tiên tri xưa và nay – Chiêm tinh học là một Khoa học.
TIẾT 16 – HOÀNG ĐẠO CÓ NGUỒN GỐC
XA XƯA ............................... 690
Hoàng Đạo trong Thánh
kinh – Hoàng Đạo có nguồn gốc xa xưa – Các
Đấng Cứu Thế, các Đấng Hóa Thân và các cung
Hoàng Đạo – Chư Thần và các Chu kỳ của dân
Chaldea Judea – Hoàng Đạo của Ấn Độ có
nguồn gốc xa xưa – Các kết luận của Khoa
học –
TIẾT 17 – TỔNG KẾT LẬP
TRƯỜNG ........................................................... 727
Thế nào là Ether, Vật Chất, Năng Lượng ? – Vũ Trụ Vật Chất vẫn chẳng được hiểu biết bao nhiêu – Các Giáo lư Nội môn ở Ai Cập và Ấn Độ đều như nhau – Bên ngoài biên giới của Thái Dương Hệ có các Mặt Trời khác và Mặt Trời Trung Ương Bí Nhiệm – Trong Huyền bí học, Fohat là Ch́a khóa giải các Biểu tượng và các Ẩn dụ của mọi Thần thoại – Vô cực điện ẩn dưới nhiều danh xưng – Huyền thoại là Lịch sử.
CÁC CHÚ THÍCH BỔ SUNG ........................................................................... 743
THƯ MỤC SÁCH THAM KHẢO ..................................................................... 746
QUYỂN
2
VŨ TRỤ KHỞI NGUYÊN LUẬN
(COSMOGENESIS)
PHẦN
2
SỰ TIẾN HÓA CỦA BIỂU
TƯỢNG KƯ
(THE EVOLUTION OF SYMBOLISM)
SỰ TIẾN HÓA CỦA BIỂU TƯỢNG KƯ
TIẾT 1
BIỂU TƯỢNG KƯ VÀ BIỂU
Ư TỰ
(SYMBOLISM AND IDEOGRAPHS)
Đối
với kẻ biết thưởng ngoạn, biểu
tượng chẳng lẽ không phải là một thiên
khải nào đó - dù lờ mờ hay rơ rệt - của
Thượng Đế hay sao?... Thông qua vạn vật…có
lấp lánh một điều ǵ của Thiên Ư. Thậm chí,
phù hiệu cao siêu nhất mà con người đă từng
hạnh ngộ và bao hàm dưới chính Thập tự giá,
chẳng có một ư nghĩa nào, ngoại trừ một ư
nghĩa ngẫu nhiên ngoại tại.
CARLYLE, Sartor Resartus.
HIỆN nay tác giả đă dành nhiều th́
giờ hơn để nghiên cứu ư nghĩa ẩn tàng
trong mọi huyền thoại tôn giáo và thế tục,
thuộc bất cứ quốc gia nào dù lớn hay nhỏ,
và nhất là trong các truyền thuyết ở Đông
Phương. Tác giả là một trong những người
tin chắc rằng không có một thần thoại nào, không
có một truyền thuyết nào trong kho tàng học thuật
dân gian của một dân tộc, mà lại bất cứ lúc
nào cũng thuần là tưởng tượng; song mọi
câu chuyện như thế đều có bao hàm một
lịch sử chân xác. Về điều này, tác giả không
đồng ư với các nhà biểu tượng học nào -
dù họ trứ danh cách mấy đi nữa - chỉ
thấy trong mọi thần thoại chẳng có ǵ khác
hơn là bằng chứng bổ sung về khuynh
hướng mê tín dị đoan của cổ nhân, và tin
tưởng rằng mọi huyền thoại đều xuất
phát từ và được xây dựng trên các thần thoại thái dương
(solar myths). Trong một bài diễn văn về “Sự
sùng bái Mặt Trăng, Xưa và Nay”(“Luniola-try, Ancient and
Modern”), ông Gerald Massey, một thi sĩ và một nhà nghiên
cứu Ai Cập, đă bài bác một cách tuyệt diệu
các tư tưởng gia hời hợt. Lời chỉ trích
sắc sảo của ông đáng được trích
dẫn ra ở đây, v́ nó phản ánh chính xác các cảm
nghĩ của chính tác giả, vốn đă được
bày tỏ công khai măi từ năm 1875, khi bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện
được viết ra.
16
Trong
ba mươi năm qua, trên diễn đàn của Viện
Hoàng Gia khi thuyết pháp ở Tu viện Westminster, và khi
diễn giảng ở Đại học Oxford, trong các sách
vở và các diễn văn, trong các bài đăng trên các báo The Times (Thời Báo), Saturday Review (Tạp chí Thứ Bảy) và nhiều tạp chí khác
nữa, Giáo sư Max Muller đă giảng dạy rằng
thần thoại là một bệnh tật trong ngôn ngữ,
c̣n biểu tượng kư cổ truyền là kết quả
của một điều ǵ giống như là một
sự thác loạn tâm thần sơ khai.
Phản ánh quan điểm của Max Muller,
trong các bài diễn văn tại Hibbert, Renouf đă nói: “Chúng
ta đă biết rằng thần thoại là một bệnh
tật nảy sinh ra vào một giai đoạn đặc
thù trong nền văn hóa của nhân loại“. Đó là
lối giải thích nông cạn của những kẻ không
theo thuyết tiến hóa, và những lời giải thích
như thế vẫn được công chúng chấp
nhận; họ ủy quyền cho những người khác
suy nghĩ giùm ḿnh. Giáo sư Max Muller, Cox, Gubernatis, và
những người khác đề xướng ra
thuyết Thần thoại Thái dương (Solar Mythos),
đă mô tả cho ta thấy người tạo ra thần
thoại giống như là một loại nhà siêu h́nh
học Ấn Độ - Nhật Nhĩ Man hóa (Germanised-Hidu
metaphysician), phóng chiếu h́nh bóng của chính ḿnh lên trên
một lớp sương mù thần trí và nói một cách
khéo léo về mây khói; bầu trời trên đầu đâm
ra giống như là mái ṿm của vùng đất mơ
mộng, bên trên có những h́nh ảnh nguệch ngoạc
của cơn ác mộng bản sơ. Họ quan niệm ra
người thời xưa cũng chẳng khác ǵ họ và
coi y như là có khuynh hướng tệ hại là tự
dối gạt ḿnh, hoặc theo như Fontenelle diễn
tả “dễ bị chứng kiến những ǵ hư
ảo!” Họ đă tŕnh bày cổ nhân một cách sai
lạc như là đă dại dột để cho bị
dẫn dụ sai lầm ngay từ đầu bởi
một óc tưởng tượng hoạt động tích
cực song vô học đến đỗi tin vào mọi
thứ hoang tưởng, vốn thường xuyên và
trực tiếp mâu thuẫn với kinh nghiệm hằng
ngày của chính ḿnh; một kẻ ngu xuẩn hoang
tưởng trong đám những thực tại ác
nghiệt vốn đang nhồi nhét các kinh nghiệm vào
trong đầu y, giống như khối băng hà đang
sạt, in dấu ấn lên trên các tảng đá ch́m
dưới đáy biển. Vẫn c̣n phải nói, và một
ngày kia, người ta sẽ công nhận là các giảng
sư được thừa nhận này đă không tiến
tới gần những điều sơ khởi của
thần thoại và ngôn ngữ hơn là thi sĩ Willie của
Burns tiến gần tới con ngựa Pegasus (Thi Mă). Tôi xin
trả lời là: “Việc chủ trương thần
thoại là một bệnh tật ngôn ngữ, hoặc là bất
cứ thứ ǵ khác ngoại trừ trí óc của chính y,
chẳng qua chỉ là một giấc mơ của lư
thuyết gia siêu h́nh học. Nguồn gốc và ư nghĩa
của thần thoại đă bị hoàn toàn bỏ quên
bởi những kẻ theo thuyết duy thái dương
(Solarite) và những tên lái buôn khí tượng này. Thần
thoại là một cách thức sơ khai để suy
nghĩ về tư
tưởng sơ khởi. Nó được dựa vào
các sự kiện của thiên nhiên và vẫn c̣n có thể suy
nghiệm lại được nơi các hiện
tượng. Bản thân nó chẳng có ǵ là điên rồ hay
vô lư khi được xét dưới ánh sáng của
thuyết tiến hóa, và khi người ta đă hoàn toàn
thấu triệt được cách thức tŕnh bày nó
bằng ngôn ngữ kư hiệu. Chỉ thật là điên
rồ khi lầm lẫn nó với lịch sử của
nhân loại hoặc là điều Thiên Khải ([1]).Thần
thoại bao hàm khoa học xưa nhất của loài
người, và điều liên quan đến chúng ta
chủ yếu là như thế này - khi được
thuyết minh lại một cách đúng đắn, thần
thoại ắt sẽ thủ tiêu các thuyết thần
học trá ngụy mà nó vô t́nh sản sinh ra!([2])
Theo lối nói hiện đại, đôi khi
một phát biểu càng được cho là có tính cách
thần thoại khi nó càng tỏ ra là không có thực;
những thần thoại cổ truyền không phải là
một hệ thống hoặc là cách thức trá ngụy
theo ư nghĩa đó. Các truyện ngụ ngôn của nó là các
phương tiện để truyền thụ chân lư
chứ không phải là các điều bịa đặt
hoặc là tưởng tượng…. Chẳng hạn
như, khi người Ai Cập h́nh dung mặt trăng
như là một con mèo,
họ chẳng ngu dốt đến đỗi giả
sử mặt trăng là một con mèo; họ cũng chẳng hoang
tưởng đến đỗi thấy được
là mặt trăng giống một tí nào với một con
mèo; một thần thoại về con mèo cũng chẳng
phải chỉ là sự
khuếch đại của lối ẩn dụ bằng
ngôn từ, và họ cũng chẳng có bất cứ ư
định nào nhằm làm cho ta lúng túng, bí lối…. Họ
đă nhận thấy sự kiện đơn giản là
khi con mèo nh́n trong bóng đêm, mắt nó trở thành tṛn xoe và
sáng nhất vào ban đêm. Ban đêm, mặt trăng nh́n
ngắm vạn vật trên trời và con mèo tương
đương với nó dưới đất; v́ thế,
con mèo quen thuộc được chấp nhận dùng
như là một vật tiêu biểu cho một kư hiệu
tự nhiên, một h́nh tượng sống động
của nguyệt cầu… Và như vậy, suy ra rằng
mặt trời, nếu nh́n xuống trần thế vào ban
đêm, cũng có thể được gọi là con mèo - nó
đă từng được gọi như thế - v́ nó
cũng nh́n bóng đêm. Trong tiếng Ai Cập, con mèo là mau, từ này biểu thị
kẻ nh́n ngắm, ngữ căn mau có nghĩa là nh́n. Một tác giả duy nhất
về thần thoại đă khẳng định rằng
những người Ai Cập “đă tưởng
tượng ra một con mèo lớn ẩn đàng sau
mặt trời, mặt trời này là con ngươi của
mắt mèo.” Nhưng điều tưởng tượng
này thật là hiện đại. Đó là vốn liếng
cùa Muller. Được tượng trưng như là con mèo, mặt trăng là
mắt của mặt trời, v́
nó phản chiếu ánh sáng mặt trời, và v́ mắt
chiếu lại h́nh ảnh vào trong gương của nó.
Dưới h́nh thức nữ thần Pasht, con mèo vẫn
nh́n chừng mặt trời, vươn móng vuốt và bóp
nát đầu con rắn u minh, vốn đă được
mệnh danh là kẻ thù muôn thuở của nó !
17
Đó là một tŕnh bày rất chính xác
của thần thoại thái âm (the lunar mythos) theo khía
cạnh thiên văn. Tuy nhiên, khoa nghiên cứu mặt
trăng là khoa học ít bí truyền nhất trong các phân
bộ của biểu tượng học nguyệt
cầu. Để quán triệt hoàn toàn Nguyệt Tinh Tri
Thức học (Selenognosis) - nếu ta được phép
chế ra một từ ngữ mới - người ta
phải thông thạo nhiều hơn là ư nghĩa thiên văn
của nó. Như được tŕnh bày trong ĐOẠN 6, Quyển 1, Mặt
Trăng có liên hệ mật thiết với Trái Đất
và có liên hệ trực tiếp với mọi bí nhiệm
của Địa Cầu chúng ta nhiều hơn cả Kim
Tinh - Sao Mai (Venus-Lucifer), một tỉ muội huyền linh
của Địa Cầu và cùng với Địa Cầu,
hợp thành một cặp bài trùng tri âm tri kỷ (alter ego of
the Earth).1
Các công tŕnh khảo cứu chuyên
cần của các nhà biểu tượng học Tây
phương, đặc biệt là người Đức,
trong ṿng các thế kỷ vừa qua và hiện nay, đă
khiến cho các sinh viên ít thành kiến nhất, và dĩ nhiên
là mọi nhà Huyền bí học, thấy rằng nếu
không quán triệt được biểu tượng
học - với bảy bộ môn mà người hiện
đại chẳng biết chút ǵ - người ta không bao
giờ có thể hiểu chính xác được bất
cứ Thánh kinh cổ truyền nào. Người ta phải
nghiên cứu từng khía cạnh một của biểu
tượng học, v́ mỗi quốc gia đều có các
phương pháp tŕnh bày của riêng ḿnh. Tóm lại,
người ta không nên đọc và thuyết minh theo sát
nghĩa bất cứ
bản thảo nào viết trên giấy cỏ chỉ
của Ai Cập, tài liệu nào viết ra trên lá olla ([3]) của Ấn Độ, tài liệu
nào viết trên ngói của người Assyria và cuộn sách
nào của Cổ Do Thái.
Nay th́ học giả nào cũng biết
điều này. Chỉ riêng các bài diễn văn xuất
sắc của ông Gerald Massey cũng đủ để
thuyết phục bất cứ tín đồ Thiên Chúa giáo vô
tư nào về việc chấp nhận Thánh kinh (Bible) theo
sát nghĩa cũng chẳng khác nào việc phạm phải
một sai lầm và mê tín dị đoan nghiêm trọng
hơn cả bất cứ điều mê tín nào đă
từng được giống dân dă man ở đảo
Nam Hải nghĩ ra. Nhưng có một sự kiện mà ngay
cả những Đông phương học giả say mê và
khao khát chân lư nhất - dù nghiên cứu về dân Aryan hay dân
Ai Cập - đều h́nh như là không biết tới,
đó là: mọi biểu tượng trong bản thảo
trên giấy cỏ chỉ hoặc là trên lá olla đều là
một viên kim cương nhiều mặt, mỗi
phương diện này không những bao gồm nhiều
lối thuyết minh, mà c̣n liên hệ tới nhiều khoa
học. Thí dụ điển h́nh của điều này là
lối thuyết minh vừa mới được trích
dẫn ở trên về việc con mèo tượng trưng
cho mặt trăng - một thí dụ về h́nh
tượng tinh tú-địa cầu (sidereo-terrestrial
imagery); v́ ngoài ra, đối với các quốc gia khác,
mặt trăng c̣n có nhiều ư nghĩa khác.
18
Theo như một học giả Tam
Điểm và là nhà Minh Triết Thiêng Liêng đă quá cố - Kenneth
Mackenzie - tŕnh bày trong bộ Bách
Khoa Từ Điển Tam Điểm của Hoàng Gia, có
một sự dị biệt lớn lao giữa biểu hiệu và biểu tượng (emblem and symbol). Biểu hiệu bao
gồm một chuỗi tư tưởng lớn hơn là
một biểu tượng, người ta có thể nói
rằng biểu tượng đúng hơn là minh họa
một ư tưởng đơn độc nào đó. Do
đó, các biểu tượng - chẳng hạn liên quan
đến mặt trăng hay mặt trời - của
nhiều xứ, mỗi biểu tượng minh họa
một ư tưởng hay một chuỗi ư tưởng chuyên
biệt, khi xét gộp lại chúng hợp thành một
biểu hiệu nội môn. “Biểu hiệu là một h́nh
ảnh hay kư hiệu hữu h́nh cụ thể tiêu biểu
cho các nguyên lư hay một loạt các nguyên lư, có thể được nhận ra bởi những
người nào đă nhận được một số
giáo huấn nào đó [các Điểm đạo
đồ]”. Nói một cách giản dị hơn, biểu
hiệu thường là một chuỗi h́nh ảnh
giống như đồ thị, được quan
niệm và thuyết minh theo lối ẩn dụ và bộc
lộ một ư tưởng khi xét lần lượt theo
toàn cảnh. Như vậy, các Thánh kinh Puranas được viết theo lối biểu hiệu.
Tân Ước và Cựu Ước tức Thánh
kinh Thiên Chúa giáo và tất cả mọi Thánh kinh ngoại môn
khác, đều như thế cả. Theo như Kenneth
Mackenzie tŕnh bày:
Mọi hội đoàn
nội môn đều sử dụng biểu hiệu và
biểu tượng, như là hội đoàn Pythagoras, môn
phái Eleusinia, môn phái của Hermes ở Ai Cập, Hội Hoa
Hồng Thập Tự và Hội Tam Điểm. Không
tiện tiết lộ cho công chúng nhiều biểu hiệu
này, và chỉ cần khác nhau
một chút xíu là các biểu hiệu và biểu
tượng sẽ có ư nghĩa khác nhau nhiều. Huyền
ấn (magical sigilla), vốn được chọn dựa
vào một vài nguyên tắc về số mục, cũng có
đặc tính này, và mặc dù là quái gở hay lố
bịch đối với kẻ thiếu hiểu biết,
nó lại truyền thụ nhiều giáo lư cho những
người đă được huấn luyện
để nhận ra chúng.
Tất
cả các hội đoàn trên đều tương
đối hiện đại, không có hội đoàn nào
xuất hiện sớm hơn thời Trung Cổ. Vậy
th́, tốt hơn là các môn sinh của Trường phái
Cổ Điển nhất (the oldest Archaic School) nên cẩn
thận; đừng tiết lộ những bí mật có
tầm quan trọng đối với nhân loại (chúng
sẽ trở thành nguy hiểm khi lọt vào tay những
kẻ vô minh) vượt xa hơn nhiều so với
bất cứ thứ nào của cái gọi là “các Bí Mật
của Hội Tam Điểm,” nay chúng trở thành các bí
mật của “tṛ múa rối” (“Polichinelle”) theo lối nói
của người Pháp. Nhưng sự hạn chế này
chỉ có thể áp dụng cho ư nghĩa tâm lư hay đúng
hơn là ư nghĩa tâm sinh lư hoặc ư nghĩa vũ trụ
của biểu tượng và biểu hiệu, và cũng
chỉ một phần thôi ngay cả khi áp dụng cho ư
nghĩa này. V́ mặc dù một Cao Đồ phải từ
chối, không chịu truyền thụ các điều
kiện và các phương tiện đưa tới bất
cứ sự tương hệ nào giữa các Hành - dù là
thuộc tâm linh hay vật chất -, việc này có thể
tạo ra các kết quả có hại cũng như có
lợi; song bao giờ Ngài cũng sẵn sàng truyền
thụ cho môn sinh nhiệt thành bí mật của tư
tưởng cổ truyền, về bất cứ
điều ǵ liên quan đến lịch sử ẩn tàng
dưới biểu tượng kư thần thoại, và
như thế cung ứng một ít cột mốc nữa
cho một quan niệm ngược về quá khứ, trong
mức độ mà nó c̣n cung ứng kiến thức
hữu dụng liên quan tới nguồn gốc của con
người, cuộc tiến hóa của các Giống dân và
Địa thức học (geognosy). Thế nhưng, ngày nay
không những trong số các nhà
Minh Triết Thiêng Liêng, mà c̣n trong số
một ít thế nhân quan tâm đến chủ đề
này, đă có lời phàn nàn là: “Tại sao các Cao Đồ
không tiết lộ những ǵ mà họ biết?” Về điều
này người ta có thể trả lời là: “Tại sao các
Ngài lại phải làm như vậy, v́ người ta
biết trước rằng chẳng có khoa học gia nào
sẽ chấp nhận chúng, ngay cả như là một
giả thuyết, chớ đừng nói như là một
công lư.” Chính bạn đă chấp nhận và tin tưởng
được bao nhiêu vào những khái niệm cơ sở
của Huyền bí học trong tạp chí Theosophist, tác
phẩm Phật Giáo Bí Truyền cũng như là các tác phẩm và các
tạp chí định kỳ khác? Chẳng phải là ngay
cả chút ít điều được đưa ra, đă
bị nhạo báng, giễu cợt và phải
đương đầu với
một bên là “lư thuyết động vật” và “lư
thuyết khỉ vượn” (“animal-“ and “ape-theory”) của
Huxley và Haeckel, c̣n một bên là chiếc xương
sườn của Adam và trái táo cấm hay sao? Tuy nhiên,
bất chấp một viễn ảnh u ám như thế,
tác phẩm này vẫn đưa ra cả đống sự
kiện (a mass of facts), và nay,
tác giả đă bàn một cách đầy đủ hết
mức về nguồn gốc của con người,
sự tiến hóa của Địa Cầu và các Giống
dân.
19
Rải rác trong khắp các Thánh kinh cổ
của các nền văn minh cổ truyền đều có
nêu ra bằng chứng để bổ chứng cho các giáo
lư cổ. Thánh kinh Puranas,
Thánh kinh Zend Avesta và các Thánh
Kinh cổ điển khác đều đầy dẫy các
sự kiện như thế; nhưng chưa có ai đă
từng mất công sưu tập và đối chiếu
chúng. Điều này có lư do v́ tất cả mọi biến
cố như thế đều được ghi lại
một cách biểu tượng; và các học giả uyên bác
nhất, các trí óc sắc sảo nhất trong số các nhà
nghiên cứu về dân Aryan và dân Ai Cập, đều quá
thường bị mờ mắt đi bởi một tiên
kiến nào đó, và c̣n thường hơn nữa, bởi
các quan điểm một chiều về ư nghĩa bí
mật. Song một chuyện ngụ ngôn cũng là một
biểu tượng ngôn từ: một điều
tưởng tượng hoặc là một ngụ ngôn, theo
sự suy nghĩ của một vài người, c̣n chúng ta
nói rằng đó là một lối tŕnh bày ẩn dụ
về các thực tại trong cuộc sống, các biến
cố và các sự kiện. Và, cũng như một luân lư
bao giờ cũng được rút ra từ một
ngụ ngôn, luân lư như thế là một chân lư và sự
kiện có thực trong cuộc sống con người;
cũng vậy, những người tinh thông các khoa học
về chữ tượng h́nh đều suy ra một
biến cố lịch sử có thực từ các biểu
hiện và biểu tượng ghi trong các văn kiện
lưu trữ nơi các Thánh điện. Lịch sử tôn
giáo và nội môn của mọi quốc gia đều
ẩn tàng trong các biểu tượng; nó không bao giờ
được tŕnh bày theo sát nghĩa bằng nhiều
từ ngữ như thế. Tất cả mọi tư
tưởng và xúc cảm, tất cả mọi học
thức và kiến thức - được thiên khải hay
là thủ đắc - của các Giống dân sơ khai,
đều được tŕnh bày bằng h́nh tượng
trong các ẩn dụ và ngụ ngôn. Tại sao vậy?
Bởi v́ ngôn ngữ có một
mănh lực mà các “hiền triết”(the modern”sages”) hiện
đại không những không hề biết tới, mà c̣n
không hề ngờ tới và do đó không tin được;
bởi v́ âm thanh và nhịp điệu có liên hệ khăng
khít với Tứ đại của Cổ nhân (the four
Elements of the Ancients), và bởi v́ một rung động nào
đó trong không khí chắc chắn là sẽ khơi hoạt
các Quyền năng (Powers) và sự kết hợp với
chúng có thể tạo ra các kết quả tốt hay
xấu. Không môn sinh nào đă từng được phép ngân
lên các biến cố có thực, tôn giáo hay lịch sử -
thuộc bất cứ loại nào - bằng nhiều từ
ngữ chính xác như thế, kẻo các Quyền năng
liên kết với biến cố sẽ bị thu hút
lại nữa. Các biến cố như thế chỉ
được thuật lại trong khi Điểm
Đạo, và mọi môn sinh đều phải ghi chúng
lại trong các biểu tượng tương ứng
được rút ra từ trong trí óc y và sau đó
được Sư Phụ xem xét, trước khi mà
cuối cùng chúng được chấp nhận. Như
thế, bộ Mẫu tự Trung Quốc được
từ từ sáng tạo ra, cũng như trước khi có
bộ mẫu tự đó, các biểu tượng chữ
tượng h́nh được qui định dựa vào
chữ cổ Ai Cập. Trong ngôn ngữ Trung Quốc, các
chữ có thể được đọc trong bất
cứ ngôn ngữ nào (1) và -
như vừa nói - chỉ hơi mới hơn mẫu
tự Ai Cập của Thoth, mọi từ ngữ
đều có biểu tượng tương ứng
dưới một h́nh thức tượng h́nh. Ngôn ngữ
này gồm có nhiều ngàn chữ biểu tượng hay
dấu tốc kư như thế; mỗi chữ truyền
thụ ư nghĩa của toàn bộ một từ ngữ; v́
bản thân các chữ, tức một mẫu tự theo
như ta hiểu, không hề tồn tại trong ngôn ngữ
Trung Quốc, cũng như trong ngôn ngữ Ai Cập, măi
tới một Thời kỳ sau này.
20
Nay, ta thử giải thích các biểu
tượng và biểu hiệu chính, bởi v́, nếu không
chuẩn bị làm quen với ít ra là các biểu tượng
siêu h́nh, chúng ta sẽ khó ḷng hiểu được các
Quyển 3 và 4 là hai quyển bàn về nguồn gốc con
người.
Cũng chẳng công
b́nh chút nào nếu bước vào lănh vực nghiên cứu
biểu tượng kư, mà lại không tôn vinh đúng mức
người đă phụng sự nhiều nhất trong lănh
vực đó vào thế kỷ này, bằng cách t́m ra ch́a khóa
chính để giải
biểu tượng học Cổ Do Thái, biểu
tượng này đă lẫn lộn lung tung với khoa
đo lường, một trong các ch́a khóa để
giải cái đă từng một thời là Ngôn Ngữ Bí
Nhiệm Vũ Trụ Đại Đồng. Chúng ta
phải mang ơn ông Ralston Skinner, ở thành phố
Cincinnati, tác giả của quyển Ch́a khóa để giải Bí Nhiệm Ai Cập Cổ
Do Thái trong Nguồn gốc của Kích thước (The Key to
the Hebrew-Egyptian Mystery in the Source of Measures). Vốn có bản chất là một
nhà huyền học và một tín đồ Do Thái Bí giáo, ông
đă bỏ ra nhiều công sức theo chiều
hướng này trong nhiều năm và chắc chắn là ông
đă được thưởng công với một thành
công rực rỡ. Ông viết:
Tác giả đă hoàn toàn
chắc chắn rằng đă có một ngôn ngữ cổ
truyền mà hiện nay và đến nay, h́nh như là đă
thất truyền; tuy nhiên hăy c̣n đầy dẫy các di tích
của nó…. Tác giả đă khám phá ra rằng tỷ số
h́nh học này (tỷ số toàn phần của đường
kính đối với một chu vi của một ṿng tṛn)
rất xưa cũ và có lẽ đó là nguồn gốc
thiêng liêng của…các số đo đường thẳng …Hầu
như có vẻ là người ta đă chứng minh
được rằng trên lục địa Bắc
Mỹ người ta cũng biết tới và sử
dụng cùng một hệ thống h́nh học, số
học, tỷ số và số đo, ngay cả
trước khi hậu duệ Semite biết tới cũng
hệ thống đó ….
Ngôn ngữ này kỳ dị ở chỗ là nó
có thể được bao hàm trong một ngôn ngữ khác,
ẩn tàng mà không ai nhận ra được, trừ phi
người ta được huấn luyện chuyên môn; các
chữ và các kư hiệu âm vận đồng thời
cũng có được các quyền năng hay ư nghĩa
của các con số, của các h́nh thể h́nh học, các
bức họa, các biểu ư tự và các biểu
tượng; tầm mức ấn định của chúng
nhất định là sẽ được trợ lực
bởi các ngụ ngôn dưới h́nh thức các câu
chuyện hoặc là một phần câu chuyện; trong khi mà
nó cũng có thể được tŕnh bày một cách riêng
biệt, độc lập và biến thiên, bằng các
bức họa, nơi các công tŕnh bằng đá và các công
tŕnh kiến tạo bằng đất.
Ta hăy minh giải một điều tối
nghĩa về từ ngữ ngôn ngữ: từ ngữ này
chủ yếu có nghĩa là việc biểu lộ các ư
tưởng bằng ngôn từ của con người; theo
ư nghĩa thứ yếu, nó cũng có thể có nghĩa là
việc biểu lộ các ư tưởng bằng một
phương tiện nào đó. Trong bản văn cổ Do
Thái, ngôn ngữ này được cấu tạo sao cho, bằng
cách dùng các chữ viết, - khi chúng được phát
thanh, chúng sẽ là ngôn ngữ theo định nghĩa
thứ nhất - người ta có thể cố ư truyền
thụ một loạt các ư tưởng riêng biệt khác
hơn là các ư tưởng được biểu lộ
bằng cách đọc các kư hiệu âm thanh (sound-signs). Ngôn
ngữ thứ yếu này tŕnh bày, dưới một
bức màn, hàng loạt ư tưởng, mô phỏng theo trí
tưởng tượng các vật rơ rệt vốn có
thể được họa ra và các vật có thể
được coi như là có thực mặc dù không rơ
rệt; chẳng hạn như: con số 9 có thể
được coi như là một thực tại, mặc
dù nó không tồn tại một cách rơ rệt; cũng
thế sự quay của mặt trăng, khi xét tách rời
khỏi mặt trăng vốn đă tạo ra sự quay
này, có thể được coi như là tạo ra một ư
tưởng thực sự, mặc dù một sự quay
như thế không có thực chất. Ngôn ngữ ư
tưởng này có thể gồm có các biểu tượng
được giới hạn vào các từ ngữ và các kư hiệu
độc đoán có một phạm vi quan niệm rất
hạn chế và hoàn toàn vô giá trị, hoặc nó có thể
là sự nghiên cứu thiên nhiên trong một vài biểu
lộ có một giá trị hầu như là không thể
đo lường được, xét về nền văn
minh
21
của nhân loại. Một bức họa
về một điều ǵ tự nhiên có thể tạo ra
các ư tưởng phối hợp vấn đề lệ
thuộc, túa ra theo nhiều hướng khác nhau và ngay
cả các hướng đối nghịch nhau, giống
như là những chiếc căm của một bánh xe và tạo
ra các thực tại tự nhiên trong các bộ môn rất xa
lạ với khuynh hướng bề ngoài của việc
xem bức tranh khởi đầu. Ư niệm có thể
sản sinh ra ư niệm liên hệ, nhưng nếu quả
thực như thế, bấy giờ, dù xét theo bề ngoài
có vẻ không tương hợp, mọi ư tưởng
hệ quả phải xuất phát từ bức họa
nguyên bản và có liên hệ hài ḥa với nhau. Như
thế, với một ư tưởng được minh
họa đến mức căn bản cần thiết, ta
có thể tạo ra việc tưởng tượng
bản thân vũ trụ; ngay cả tới các chi tiết
kiến tạo. Ngày nay, người ta không c̣n dùng ngôn ngữ
thông thường như thế nữa, nhưng tác giả
vẫn thắc mắc không biết là vào một thời
kỳ xa xưa, liệu nó hoặc cái đó có phải là
ngôn ngữ của thế giới và được dùng
phổ biến hay chỉ có một giai cấp chọn
lọc sử dụng nó khi nó ngày càng khoác lấy các h́nh
thức bí hiểm. Tôi muốn nói là ngôn ngữ b́nh dân
hoặc ngôn ngữ địa phương, ngay từ lúc
bắt đầu, đă được dùng làm chuyển
ngữ của cách thức truyền thụ ư tưởng
đặc thù này. Về điều này, bằng chứng
không thiếu ǵ, và thật vậy, h́nh như là trong
lịch sử nhân loại, do những nguyên nhân mà hiện
nay ta không tài nào truy nguyên ra được, đă có một
sự thất truyền của một ngôn ngữ bản
sơ hoàn hảo và một hệ thống khoa học hoàn
hảo - ta ắt sẽ nói là chúng hoàn hảo v́ chúng có
nguồn gốc và được du nhập từ
Đấng Thiêng Liêng.(1)
Ở đây, “nguồn gốc Thiêng liêng” (“Divine origin) không có nghĩa là một điều thiên khải phát xuất từ một Thượng Đế nhân h́nh ngự trên một ngọn núi giữa sấm sét; nhưng theo như ta hiểu, đó là một ngôn ngữ và một hệ thống khoa học được truyền thụ cho nhân loại sơ khai bởi một giống người tiến hóa hơn, họ tiên tiến đến đỗi mà họ được nhân loại ấu trĩ coi như là thiêng liêng; nói tóm lại là một nhân loại xuất phát từ các lănh vực tiến hóa khác. Một ư tưởng chẳng có ǵ là siêu nhiên, nhưng nó sẽ được chấp nhận hay bác bỏ tùy theo đương sự kiêu căng ngạo mạn đến mức nào. V́ chỉ cần các giáo sư hiện đại thú nhận rằng, mặc dù họ chẳng biết ǵ về tương lai của kẻ đă bỏ xác - hoặc đúng hơn là sẽ chẳng chấp nhận điều ǵ - song đối với họ, tương lai này sẽ đầy dẫy những điều kỳ lạ và những điều thiên khải bất ngờ, một khi mà Chơn Ngă của họ đă thoát khỏi các thể xác thô trực - th́ bấy giờ thuyết duy vật vô thần cũng ít có cơ may thành tựu hơn. Trong số các giáo sư đó, ai biết hay dám bảo rằng điều ǵ sẽ xảy ra một khi chu kỳ sống của Địa Cầu chấm dứt và chính bà mẹ Địa Cầu của chúng ta cũng ch́m vào giấc hôn thụy tối hậu (our mother Earth herself falls into her last sleep)? Ai dám bảo rằng các Chơn Ngă (the divine Egos) của nhân loại chúng ta - ít nhất là các phần tử ưu tú được tuyển lựa ra từ đám đông đang chuyển sang các lănh vực tiến hóa khác - đến lượt họ sẽ chẳng trở thành các đạo sư ”thánh linh”(“divine”) của một nhân loại mới do họ sản sinh ra trên một Bầu hành tinh mới, được các nguyên khí đă thoát xác của Địa Cầu chúng ta cấp cho nguồn sống và sự hoạt động? Tất cả mọi điều này có thể là kinh nghiệm của QUÁ KHỨ (the PAST), và các tài liệu lưu trữ kỳ diệu này đều ẩn tàng trong “Ngôn Ngữ Bí Nhiệm” (“Mystery Language”) của các thời đại tiền sử, ngôn ngữ này được gọi là BIỂU TƯỢNG KƯ.
22
TIẾT
2
NGÔN NGỮ BÍ NHIỆM
VÀ
CÁC CH̀A KHÓA GIẢI NÓ
(THE MYSTERY LANGUAGE AND ITS KEYS)
MỚI đây, các nhà toán học và các tín
đồ Do Thái Bí giáo xuất sắc đă khám phá ra và như
thế chứng tỏ một cách không c̣n nghi ngờ ǵ
nữa là mọi thuyết thần học, từ xưa
đến nay đều không những là xuất phát từ
một nguồn tín ngưỡng trừu tượng chung,
mà c̣n từ một Ngôn ngữ Nội môn đại
đồng vũ trụ, tức Ngôn ngữ “Bí nhiệm”
(“Mystery”). Các học giả này giữ chiếc ch́a khóa giải
được ngôn ngữ đại đồng thế
giới của cổ nhân và giải được nó
một cách thành công, mặc dù là chỉ được có một lần, bên trong cánh
cửa đóng kín dẫn vào Pḥng Bí Pháp. Hệ thống
tối cổ vĩ đại mà từ thời tiền
sử đă được biết tới như là Khoa
Minh Triết thiêng liêng - một hệ thống đă
được hàm tích và có thể được truy nguyên
trong mọi tôn giáo xưa cũng như nay - đă có và
vẫn c̣n có ngôn ngữ đại đồng thế
giới của nó - mà Hội viên Tam Điểm Ragon vẫn
ngờ vực - ngôn ngữ của các Đạo
Trưởng, có thể nói là ngôn ngữ này có bảy
“thổ ngữ” (“dialects”), mỗi thổ ngữ đề
cập tới và đặc biệt thích hợp với
một trong bảy Bí nhiệm của Thiên nhiên. Mỗi
thổ ngữ có biểu tượng kư riêng của nó.
Như thế, người ta có thể hoặc là nghiên
cứu trọn vẹn được Thiên nhiên, hoặc là
xem xét thiên nhiên theo một trong các khía cạnh của nó.
Đến nay, điều này có
bằng chứng là các Đông phương học giả
nói chung, cũng như là các nhà nghiên cứu về Ấn
Độ và Ai Cập nói riêng, đều cảm thấy
cực kỳ khó khăn khi thuyết minh các tác phẩm
viết theo lối ẩn dụ của dân Aryan và các tài
liệu lưu trữ viết bằng chữ tượng
h́nh của cổ Ai Cập. Lư do là v́ họ cứ quên
mất rằng mọi tài liệu lưu trữ cổ
truyền đều được viết bằng
một ngôn ngữ đại đồng thế giới mà
tất cả mọi quốc gia thời xưa đều
biết, nhưng nay chỉ có một nhóm người
hiểu được nó. Cũng như là thiên hạ
thuộc mọi quốc gia đều hiểu
được các con số Á Rập, hoặc cũng
như là từ ngữ and (và) trong tiếng Anh, trở thành et
(và) đối với người Pháp, und
đối với
người Đức v.v…. có thể được
diễn đạt cho mọi quốc gia văn minh bằng
kư hiệu đơn giản & – mọi từ ngữ
của Ngôn ngữ Bí nhiệm này (that Mystery Language)
đều cùng có nghĩa là một vật, đối
với mọi người thuộc bất cứ quốc
tịch nào. Nhiều nhân vật trứ danh đă cố
gắng tái tạo một ngôn ngữ đại
đồng thế giới và triết lư như thế -
Delgarme, Wilkins, Leibnitz; nhưng Demaimieux trong tác phẩm Vạn
Quốc Tư Pháp (Pasigraphie) là người duy nhất chứng minh
rằng nó có thể hiện hữu được.
Giản đồ Valentinius được mệnh danh là
“Thánh kinh Kabalah của Hy Lạp,” và được dựa
vào sự phối hợp các chữ Hy Lạp, có thể
được dùng làm mô thức (model).
23
Các
phương diện đa diện của Ngôn ngữ Bí
nhiệm đă đưa đến việc chấp nhận
các giáo điều và các nghi lễ khác nhau trong hiển giáo
của các nghi thức của Giáo hội. Những tín
điều này lại là nguồn gốc của hầu
hết các giáo điều của các Giáo hội Thiên Chúa;
chẳng hạn như bảy Bí Tích, Ba Ngôi, Sự Phục
Sinh, Bảy Tội Lỗi chính yếu và Bảy Đức
Hạnh. Tuy nhiên các Đạo Trưởng cao cấp
nhất thời xưa đă luôn luôn nắm giữ Bảy
Ch́a khóa (Seven Keys) để giải Ngôn ngữ Bí nhiệm;
do sự phản bội của vài Đức Cha của
Giáo hội - các cựu Điểm đạo đồ
của Thánh Điện nên - một ít trong bảy ch́a khóa
mới được chuyển vào trong tay của các tôn
giáo phái Nazarenes và được sử dụng một
phần. Một vài Giáo Hoàng thuở đầu là các
Điểm đạo đồ, nhưng những kiến
thức manh mún cuối cùng của các Ngài nay đă lọt
vào tay của những tín đồ Chúa Jesus, họ đă
biến chúng thành một hệ thống phù thủy.
Người ta xác nhận rằng Ấn
Độ - không phải là xét theo các biên giới hiện nay
mà bao gồm cả biên giới thời xưa - là quốc
gia duy nhất trên thế giới vẫn c̣n có các Cao
đồ quán triệt tất cả bảy hệ
thống phụ và có được ch́a khóa để
giải toàn bộ hệ thống. Từ khi thành phố
Ông Gaston Maspero, nhà nghiên cứu về Ai Cập
lỗi lạc người Pháp và là người kế
vị Mariette Bey, viết:
Mỗi lần nghe
người ta nói về tôn giáo của Ai Cập, tôi không
thể không hỏi là họ đang nói về tôn giáo nào của Ai Cập?
Phải chăng là tôn giáo Ai Cập của triều
đại thứ tư, hoặc là tôn giáo Ai Cập của
lớp người trí thức? Đó là tôn giáo như
được giảng dạy trong các trường
của thành phố
24
Ở đây, chúng tôi tin là nhà nghiên cứu
về Ai Cập lỗi lạc này đang tiến quá xa. Các
giáo điều ngoại môn có thể là đă thường
bị biến đổi, c̣n các giáo điều nội môn
th́ không bao giờ. Ông đă không kể tới tính bất di
bất dịch thiêng liêng của các chân lư sơ khai, chỉ
được thiên khải trong các bí pháp của
Điểm Đạo. Các tu sĩ Ai Cập đă quên mất nhiều, họ đă
chẳng thay đổi điều ǵ. Sự thất
truyền một phần giáo lư sơ khai là do ở
những sự bất đắc kỳ tử của các
Đạo Trưởng (the sudden deaths of the great Hierophants),
các Ngài đă quá cố trước khi mà các Ngài có th́ giờ
tiết lộ hết tất
cả cho những người kế vị, hầu
như là thiếu hẳn các di sản minh triết. Song
họ đă duy tŕ được trong các nghi thức và giáo
điều của ḿnh các giáo lư chủ yếu của Giáo
Lư Bí Nhiệm.
Như thế, trong Chương của Tử Vong Kinh mà Maspero đă
đề cập tới, ta thấy 1) Osiris nói rằng Ngài
là Toom – lực sáng tạo trong thiên nhiên, ban cấp h́nh hài
cho vạn hữu, chơn linh và nhân loại, tự sinh,
tự tại – xuất phát từ Noon, con sông trên trời
được mệnh danh là Cha-Mẹ
của Chư Thần (Father-Mother
of the Gods), thần linh bản sơ, vốn là Hồng nguyên
khí hay Thái uyên (Chaos or the Deep), có thấm nhuần Tinh
Thần vô h́nh. 2) Ngài đă t́m thấy Shu, thần lực
thái dương, trên nấc thang của Thành phố thứ
Tám (hai h́nh vuông Thiện và Ác) và Ngài đă hủy diệt các
Đứa Con Nổi Loạn (the Children of Rebellion), các nguyên
khí ác nơi Noon (Hồng nguyên khí – Chaos). 3) Ngài là Lửa và
Nước nghĩa là Noon, Tổ Phụ Nguyên Thủy (the
Primordial Parent) và Ngài đă tạo ra Chư Thần từ
tứ chi - mười bốn vị Thần (hai lần
bảy) bảy vị Thần tà đạo và bảy
vị Thần chánh đạo – bảy Chơn Linh Bản
Lai Diện Mục (the seven Spirits of the Presence) của tín
đồ Thiên Chúa giáo và bảy Chơn Linh Tà Đạo
(the seven dark Evil Spirits). 4) Ngài là Luật Tồn Tại và
Hiện Tồn, Bennoo, tức Chim Phượng Hoàng, Con Chim
Phục Sinh trong Vĩnh cửu, trong đó Đêm nối
tiếp Ngày và Ngày nối tiếp Đêm - một
điều ám chỉ tới các chu kỳ tuần hoàn
của sự phục sinh của vũ trụ và sự tái
sinh luân hồi của con người. V́ điều này c̣n
có thể có nghĩa là ǵ nữa? “Hành giả (the Wayfarer)
trải qua hàng triệu năm, là tên của một vị
và Đấng Cao Xanh (the Great Green) [Nước Nguyên
Thủy hay Hồng nguyên khí] là tên của một vị khác”,
một Đấng sinh hóa hàng triệu năm liên tiếp,
Đấng kia hấp thu chúng để rồi phục
hồi chúng. 5) Ngài nói về Bảy Đấng Quang Huy (the
Seven Luminous Ones), tháp tùng Đấng Chúa Tể, Osiris, Ngài
cầm cân nảy mực ở Amenti (Luyện ngục).
25
Nay người ta đă vạch rơ rằng
tất cả những điều này đă là cội
nguồn của các giáo điều Thiên Chúa giáo. Những
điều mà dân Do Thái nhận được từ Ai
Cập, thông qua Moses và các Điểm đạo đồ khác,
th́ về sau đă thành ra lộn xộn, lệch lạc
rồi; thế mà, những ǵ Giáo hội nhận
được từ cả hai, lại c̣n bị thuyết
minh lệch lạc nữa.
Song hệ thống của dân Do Thái, trong
bộ môn đặc biệt này của biểu
tượng học, - nghĩa là ch́a khóa để giải
các bí nhiệm của thiên văn học liên quan tới các
bí nhiệm về sinh dục và sự thụ thai - nay đă
được chứng tỏ là đồng nhất
với các ư niệm trong các tôn giáo cổ truyền, chúng
đă phát triển yếu tố sùng bái sinh thực khí
của thần học. Hệ thống các số đo linh
thiêng của dân Do Thái, được áp dụng vào các
biểu tượng tôn giáo, th́ cũng - trong mức
độ các phép phối hợp h́nh học và số
học - giống như là các số đo của Hy
Lạp, Chaldea và Ai Cập, v́ nó được người
Do Thái chọn dùng trong các thế kỷ nô lệ và cam
chịu sự đô hộ của Chaldea và Ai Cập.(1) Hệ thống này ra sao? Tác
giả quyển Nguồn
Gốc của Kích Thước đă tin chắc
rằng: “Nhờ vào một cách dùng kỹ xảo về ngôn
từ, các Thánh thư của Moses nhắm mục đích
đề ra một hệ thống số học và h́nh
học của khoa học chính xác, nó sẽ được
dùng như là một nguồn gốc của các số
đo. “Piazzi Smyth cũng tin như vậy. Một vài
học giả đă t́m thấy là hệ thống này và các
kích thước này giống hệt như các kích
thước được dùng trong khi xây dựng
Đại Kim tự Tháp; nhưng cũng chỉ một
phần thế thôi. Trong quyển Nguồn Gốc của Kích Thước, Ralston
Skinner nói “Nền tảng của các kích thước này là
tỷ số Parker.”
Theo tác giả của quyển sách phi
thường này, ông đă t́m thấy nó khi dùng tới
tỷ số toàn phần của đường kính
đối với chu vi của một ṿng tṛn, do John A.
Parker ở
Ông cũng khám phá ra rằng có một h́nh
thức biến đổi của tỷ số, tức là
113 đối với 355; và trong khi mà do nguồn gốc,
tỷ số này vạch ra số
pi toàn phần chính xác hay tỷ số của 6 561
đối với 20 612, nó cũng được dùng
như là một cơ sở dùng cho phép tính thiên văn. Tác
giả đă t́m ra rằng một hệ thống khoa học chính xác, h́nh
học, số học, thiên văn học, được
dựa vào các tỷ số này và người ta thấy là nó
được sử dụng trong khi xây dựng
Đại Kim tự tháp của Ai Cập, và là một
phần của chủ đề của ngôn ngữ này, như được bao hàm trong và
ẩn tàng dưới văn tự dài ḍng của bản
văn bằng tiếng Hebrew của Thánh kinh. Inch và cây thước hai
bộ (=24 inches), khi được thuyết minh để
sử dụng nhờ các yếu tố của ṿng tṛn và các
tỷ số được đề cập ở trên,
đều là cơ sở của hệ thống khoa
học tự nhiên của dân Ai Cập và dân Hebrew này, trong
khi mà hơn nữa, h́nh như đă đủ hiển nhiên
là chính hệ thống đă được coi như là có
nguồn gốc thiêng liêng và được thiên khải. (1)
26
Nhưng ta hăy xem những người
chống đối với giáo sư Piazzi Smyth về
vấn đề các số đo của Kim tự tháp nói
như thế nào.
Ông Petrie h́nh như là chối bỏ chúng và
đă hoàn toàn thủ tiêu nhanh chóng các tính toán của Piazzi
Symyth liên quan tới Thánh kinh. Ông Proctor, trong nhiều năm
qua đă ủng hộ thuyết “Trùng hợp ngẫu nhiên”
(“Coincidentalist”) trong mọi vấn đề về khoa
học và nghệ thuật cổ truyền, cũng cùng
một lập trường. Lên tiếng về “ vô số
quan hệ độc lập của Kim tự tháp đă
xuất hiện trong khi mà các nhà nghiên cứu về Kim
tự tháp đang nỗ lực liên hệ Kim tự tháp
với thái dương hệ,” ông nói:
Các điều trùng
hợp này [“chúng sẽ vẫn như vậy nếu Kim
tự tháp không tồn tại”], hoàn toàn kỳ diệu
hơn là bất cứ sự trùng hợp nào giữa Kim
tự tháp và các con số thiên văn: các sự trùng hợp
nêu trước th́ chặt chẽ và đáng lưu ư y
như là chúng có thực; các sự trùng hợp nêu sau,
vốn chỉ là tưởng
tượng (?), đă chỉ được lập nên
theo tiến tŕnh mà các học sinh gọi là “vá víu”(“fudging”) và
nay các kích thước mới đă khiến cho
người ta phải làm lại công việc từ
đầu. (1)
Về Vấn đề này, ông Staniland Wake
nhận xét rất đúng là:
Tuy nhiên, chúng ắt không
phải chỉ là những điều trùng hợp, nếu
những người kiến tạo Kim tự tháp có
được kiến thức thiên văn được
tŕnh bày với sự định hướng hoàn hảo và
với các đặc điểm thiên văn
được thừa nhận khác.(2)
Chắc chắn là họ có; và chương
tŕnh gồm các BÍ PHÁP và hàng loạt các cuộc Điểm
Đạo dựa vào “kiến thức” này: v́ thế
mới có việc kiến tạo Kim tự tháp, văn
thư lưu trữ muôn đời và biểu tượng
bất hoại của các Bí pháp và các cuộc Điểm
Đạo trên Địa Cầu, khi các tinh tú vận
chuyển trên Trời.
Moses, một Điểm đạo đồ
của Bí pháp giáo lư Ai Cập, sáng tạo ra các bí pháp tôn giáo
của tân quốc gia bằng cách dựa vào cùng một công
thức trừu tượng suy ra từ Chu kỳ Thiên
văn (Sidereal Cycle), được tượng trưng
bằng h́nh dáng và kích thước của Thánh điện,
mà người ta giả sử là ông đă xây dựng trong Vùng
Hoang Vắng. Dựa vào dữ kiện này, các Tu sĩ Cao
cấp người Do Thái sau này đă dựng nên ẩn
dụ về Thánh điện Solomon - một công tŕnh
kiến tạo chẳng bao giờ thực sự tồn
tại, chính Solomon cũng chỉ là một thần
thoại thái dương giống như Hiram Abif của các
hội viên Tam Điểm sau này; điều này Ragon đă
chứng tỏ rơ rệt. Như vậy, nếu các kích
thước của Thánh điện ẩn dụ này,
biểu tượng của chu kỳ Điểm
Đạo, mà lại trùng hợp với các kích
thước của Đại Kim tự tháp, đó chính là
do ở sự kiện các kích thước của Thánh
điện được suy ra từ các kích thước
của Kim tự tháp qua Thánh điện Moses.
27
Sự kiện là vị tác giả của
chúng ta (1) rơ rệt là đă
t́m ra một và ngay cả hai ch́a khóa, hoàn toàn
được chứng tỏ trong tác phẩm vừa
được trích dẫn. Chỉ cần đọc nó là
người ta sẽ cảm thấy ngày càng tin chắc
rằng ư nghĩa ẩn tàng trong các ẩn dụ và ngụ
ngôn của cả Tân
Ước và lẫn Cựu
Ước nay đă được bộc lộ.
Nhưng cũng chắc chắn là - nếu không muốn nói:
có một điều c̣n chắc chắn hơn nữa là -
khám phá này do ở chính thiên tài của ông nhiều hơn là
do kế thừa của Paker và Piazzi Smyth. V́, như vừa
được tŕnh bày, không có ǵ chắc chắn là kích
thước của Đại Kim tự tháp - mà các nhà nghiên
cứu Kim tự tháp như là kinh Thánh, chấp nhận -
lại hoàn toàn đáng tin cậy. Người ta ắt
phải t́m thấy một bằng chứng của việc
này trong tác phẩm Kim tự
tháp và các Thánh điện Gizeh của ông F. Petrie, cũng
như trong các tác phẩm khác được viết ra
mới gần đây để chống lại các tính toán
vừa nói, mà các tác giả cho là “đầy thiên kiến.”
Chúng tôi thu thập được rằng hầu như là
mọi kích thước của Piazzi Smyth đều khác
hẳn với các kích thước mới được
đo lại cẩn thận hơn của ông Petrie; ông
đă kết thúc phần dẫn nhập tác phẩm của
ḿnh với ư kiến như sau:
Theo như các kết
quả của toàn cuộc điều nghiên, có lẽ là
nhiều lư thuyết gia sẽ đồng ư với một
người Mỹ, ông ta là một người tin
tưởng nhiệt thành vào các thuyết Kim tự tháp khi
đặt chân đến Gizeh. Tôi có vinh hạnh
được tháp tùng với ông ta đến đó trong
hai ngày, và vào bữa cuối cùng ăn chung với nhau, ông
buồn bă bảo tôi: “Được lắm! Tôi thấy
như thể là ḿnh đang đi đưa đám tang.
Bằng mọi giá, chúng ta phải làm cho các thuyết
lạc hậu bị chôn vùi một cách tươm tất,
mặc dù chúng ta phải thận trọng để cho,
trong khi vội vă, chúng ta sẽ không chôn sống những ǵ
chưa chết hẳn.”
Về phần phép tính toán của J. A. Parker nói
chung, và đặc biệt là mệnh đề của ông
ta, chúng tôi đă tham khảo ư kiến của một vài toán
học gia lỗi lạc, và họ nói đại khái như
sau:
“Lư
luận của Parker dựa vào những cân nhắc đa
cảm hơn là những phép tính toán theo toán học và không
đủ sức thuyết phục khi xét về mặt luân
lư.”
Mệnh đề III, tức là:
“H́nh
tṛn là cơ sở hay nguồn cội tự nhiên của
mọi bề mặt, và trong toán học, việc qui
định cho h́nh vuông cũng được như
thế, chỉ là nhân tạo độc đoán.”
Chính mệnh đề thứ ba này mới là
minh họa của một mệnh đề độc
đoán, và trong lư luận toán học, người ta không
thể an tâm tin cậy nó. Điều như trên cũng
được nhận thấy, thậm chí c̣n rơ rệt
hơn nữa, khi xét đến mệnh đề VII
được phát biểu như sau:
V́
h́nh tṛn là dạng thức sơ khai trong thiên nhiên và v́
thế là cơ sở của bề mặt, và v́ h́nh tṛn
được đo lường bởi và chỉ bằng
với h́nh vuông theo tỷ số của nửa chu vi
đối với bán kính, chớ không phải b́nh
phương của đường kính, mới là các
yếu tố tự nhiên và chính thống của bề
mặt; nhờ chúng, tất cả mọi h́nh đều cạnh
đều được làm cho bằng với h́nh vuông và
bằng với h́nh tṛn.
28
Mệnh đề IX là một thí dụ
điển h́nh của lư luận sai lầm, mặc dù tác
phẩm Phép cầu
phương (Quadrature)(1)
của ông Parker chủ yếu là dựa vào nó. Nó
được phát biểu như sau:
H́nh
tṛn và h́nh tam giác đều, có tất cả mọi yếu
tố cấu tạo nghịch với nhau, và v́ thế,
đường kính phân số của một h́nh tṛn,
vốn bằng với đường kính của một
h́nh vuông, có tỷ lệ gấp đôi nghịch với
đường kính của một tam giác đều mà diện
tích bằng một v.v….
Để tiện việc lư luận, cứ
thừa nhận rằng, người ta có thể nói
một tam giác có một bán kính, theo nghĩa mà ta bàn tới
bán kính của một ṿng tṛn - v́ cái mà Parker gọi là bán kính
của một tam giác, chẳng qua chỉ là bán kính của
h́nh tṛn nội tiếp của một tam giác, và do đó
chẳng phải là bán kính của tam giác chi cả - và
cứ tạm thời thừa nhận các mệnh
đề toán học hoang tưởng liên kết với
các tiền đề của ông ta, tại sao ta phải
kết luận rằng, nếu tam giác đều và h́nh tṛn
có tất cả mọi yếu tố cấu tạo
đối nghịch với nhau, th́ đường kính
của bất kỳ h́nh tṛn nhất định nào lại
có tỷ lệ gấp đôi nghịch với
đường kính của bất kỳ tam giác
tương đương cho sẵn nào? Giữa các
tiền đề và kết luận có mối liên hệ
tất yếu nào chăng? Lư luận này thuộc về
một loại mà h́nh học không hề biết tới và
sẽ không thể được các toán học gia nghiêm xác
chấp nhận.
Tuy nhiên, đối với nhà Siêu h́nh
học chân chính và nghiêm minh, dù rằng hệ thống
nội môn cổ điển có xuất phát từ
đơn vị “inch” của Anh quốc hay không, th́ cũng
chẳng thành vấn đề. Cũng chẳng thành
vấn đề nốt nếu như lối thuyết
minh nội môn về Thái kinh của ông Ralston Skinner có tỏ ra sai
lầm, chỉ v́ người ta thấy là kích thước
của Kim tự tháp không phù hợp với các kích
thước của Thánh điện Solomon, Chiếc Bè
của Noah v.v., hay là v́ phép Cầu phương H́nh tṛn
của ông Parker bị các toán học gia bác bỏ. V́ lối
thuyết minh của ông Skinner chủ yếu tùy thuộc vào
các phương pháp của Do Thái Bí giáo và thang giá trị theo
giáo sĩ Do Thái của các chữ Hebrew. Nhưng thật là
cực kỳ quan trọng mà xác định được
xem liệu các kích thước được dùng trong
cuộc tiến hóa của tôn giáo biểu tượng
của dân Aryan, trong việc kiến tạo Thánh
điện, trong các con số được đưa ra
trong Thánh kinh Puranas và đặc biệt là các cách sắp
xếp theo niên đại, các biểu tượng thiên nhiên
văn, thời gian kéo dài của các chu kỳ và các tính toán
khác, có hay không giống hệt với các kích thước
được dùng trong các số đo và các chữ
viết tượng h́nh của Thánh kinh. V́ điều này
sẽ chứng tỏ rằng trừ khi kế thừa
đơn vị cubit và các số đo linh thiêng của
người Ai Cập – Moses là một Điểm
đạo đồ của các tu sĩ của họ -
người Do Thái ắt đă phải kế thừa các ư
niệm này của Ấn Độ. Dù sao đi nữa,
họ cũng truyền chúng lại cho các tín đồ Thiên
Chúa giáo buổi đầu. V́ thế, chính các nhà Huyền bí
học (Occultists) và các tín đồ Do Thái Bí giáo mới là
những người kế thừa chân chính của Minh
triết Bí nhiệm vẫn c̣n ẩn tàng trong Thánh
kinh (Bible), v́ nay chỉ có
họ mới hiểu được ư nghĩa thực
sự của nó, trong khi mà những kẻ ngoại môn theo
Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo cứ bám chặt lấy các lớp
vỏ bên ngoài, do đó trở thành chấp nê văn tự.
Chính hệ thống đo lường này đă đưa
tới việc sáng chế ra các danh xưng của
Thượng Đế như Elohim và Jehovah, và việc thích
ứng chúng với tục sùng bái Sinh thực khí (Phallicism),
c̣n Jehovah không phải là một h́nh ảnh mô phỏng quá tâng
bốc của Osiris, đó là những điều mà nay tác
giả của quyển Nguồn Gốc của Kích
Thước đă
chứng minh được. Nhưng cả ông Ralston Skinner
lẫn ông Piazzi Smyth đều h́nh như là nạn nhân
của ấn tượng sau (a) Sự ưu tiên của
hệ thống tùy thuộc vào dân Do Thái, tiếng Hebrew
vốn là ngôn ngữ thiêng liêng, và rằng (b) ngôn ngữ thế
giới đại đồng tùy thuộc vào sự thiên
khải trực tiếp.
29
Giả thuyết sau chỉ đúng theo ư
nghĩa được tŕnh bày trong đoạn chót của
Tiết trước, nhưng chúng ta vẫn chưa
đồng ư với nhau về bản chất và
đặc tính của “Đấng Thiên Khải” thiêng liêng
(the divine “Revealer”). Đối với thế nhân, giả
thuyết trước, vốn liên quan tới sự ưu
tiên, dĩ nhiên là sẽ tùy thuộc vào (a) bằng chứng
nội tại và ngoại tại của sự thiên
khải, và (b) các tiên đoán của cá nhân mỗi
độc giả. Tuy nhiên, điều này không thể
cản trở tín đồ Do Thái Bí giáo theo thuyết
hữu thần hay là nhà Huyền bí học theo thuyết
Phiếm Thần, tin tưởng theo đường
lối riêng của ḿnh; song cả hai đều chẳng
bên nào chịu bên nào. Các dữ kiện do lịch sử ghi
lại cũng quá ít ỏi và không đủ để cho
bất cứ bên nào chứng tỏ cho kẻ nghi ngờ
của phe bên kia rằng ḿnh là đúng.
Mặt khác, các chứng cớ truyền
thống thu lượm được cũng rất
thường được bác bỏ khiến ta không có hy
vọng ǵ giải quyết được vấn
đề này trong thời đại hiện nay. Trong khi
đó khoa học duy vật sẽ thản nhiên nhạo báng
cả tín đồ Do Thái Bí giáo lẫn nhà Huyền bí
học. Nhưng một khi mà vấn đề sự ưu
tiên – vấn đề đă gây nhiều tranh căi – đă
được dẹp sang một bên, th́ trong các bộ môn
ngữ văn và Tôn giáo đối chiếu, khoa học
rốt cuộc sẽ phải nhận lănh nhiệm vụ
và sẽ bắt buộc phải nh́n nhận lời
khẳng định chung.
Các lời khẳng định này sẽ
dần dần được thừa nhận, khi mà
hết khoa học gia này đến khoa học gia khác
sẽ bắt buộc phải nh́n nhận các sự
kiện do Giáo Lư Bí Nhiệm đưa ra; mặc dù y
hiếm khi, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ,
chịu nh́n nhận rằng người ta đă tiên
liệu được những phát biểu của y. V́
thế, trong những ngày huy hoàng mà ông Piazzi Smyth c̣n có
thẩm quyền đối với vấn đề Kim
tự tháp ở Gizeh, ông chủ trương một
thuyết như sau: cái quan tài bằng vân ban thạch (the
porphyry sarcophagus) tại Nội cung của Vua chúa là “đơn vị đo
lường dành cho hai quốc gia giác ngộ nhất trên
thế giới là Anh và Mỹ”, và cũng chẳng có ǵ khác
hơn là một cái “thùng để đựng lúa ḿ” (“corn-bin”).
Trong bộ Nữ Thần Isis
Lộ Diện vừa được xuất bản vào
lúc đó, chúng tôi quyết liệt chối bỏ
điều này. Lúc bấy giờ báo chí ở
… có thể nói
thêm là, xét theo bề ngoài, nó là biểu tượng của
nguyên lư sáng tạo của Thiên
nhiên, nó cũng minh họa các nguyên
lư của h́nh học, toán học, chiêm tinh học và thiên
văn học. Xét về mặt nội tại, nó là Thánh
điện nguy nga, các Bí pháp được thi hành bên trong
các nơi sâu kín âm u của nó, c̣n các buổi lễ
điểm đạo của các hoàng thân quốc thích
cũng đă diễn ra bên trong nó. Cái quan tài bằng vân ban
thạch – mà Giáo sư Piazzi Smyth, nhà thiên văn học Hoàng
gia xứ Tô Cách Lan, đă miệt thị coi như là
một cái thùng đựng lúa ḿ – chính là cái b́nh đựng nước
rửa tội; khi ló lên từ cái b́nh này, đạo sinh
sơ cơ được tái sinh và trở thành một cao
đồ. (1)
30
Vào thời đó, lời phát biểu của
chúng tôi bị chế nhạo. Người ta đă buộc
tội chúng tôi là đă kế thừa các quan niệm
“điên rồ” của Shaw, một văn sĩ
người Anh từng chủ trương rằng cái quan
tài dùng để cử hành các Bí pháp Osiris, mặc dù chúng tôi
chưa hề nghe nói tới văn sĩ này. Và nay, sáu,
bảy năm sau (1882), ông Staniland Wake lại viết như
sau:
Cái
gọi là Nội cung của Vua chúa – mà một nhà nghiên
cứu Kim tự tháp nhiệt thành nói là “Các bức
tường bóng loáng, các vật liệu tốt đẹp,
các kích thước đồ sộ, và vị trí cao tột
là những minh chứng hùng hồn của các vinh quang c̣n
nhiều hứa hẹn, “ nếu không muốn nói đó là
Nội cung tuyệt diệu của lăng vua Cheops, có
lẽ nơi mà điểm đạo đồ được
nhận vào sau khi y đă đi qua các lối đi hẹp
tiến lên tới hành lang lớn có phần cuối rất
tầm thường, nó dần dần chuẩn bị cho y
giai đoạn cuối cùng của các bí pháp thiêng liêng.(1)
Nếu ông
Staniland Wake là một nhà Minh Triết Thiêng Liêng, có lẽ ông
đă nói thêm là cái lối đi hẹp đưa ta tiến
lên Nội cung của Vua đúng thật là có một cái
“cổng hẹp”, đó chính là cái cổng hẹp đưa
tới cuộc sống “tức là sự tái sinh tinh thần
mới mẻ mà Đức Jesus đă ám chỉ trong Thánh
thư Matthew; (2) tác giả vốn chỉ ghi
lại những lời mà người ta gán cho một
Điểm đạo đồ, đang nghĩ tới
cánh cổng trong Thánh điện Điểm Đạo này.
Như thế, các học giả lỗi
lạc nhất trong lănh vực khoa học, thay v́ gạt
phắt đi cái được coi như là “mớ lộn
xộn các điều mê tín dị đoan và các điều
bịa đặt nực cười” – theo lối diễn
đạt thông thường của văn chương Bà
La Môn giáo – lại nỗ lực học hỏi ngôn ngữ
biểu tượng đại đồng thế
giới, với các ch́a khóa h́nh học và số học
của nó. Nhưng ở đây, họ sẽ lại khó ḷng
mà thành công, nếu họ cũng tin tưởng rằng
hệ thống Do Thái Bí giáo có bao hàm ch́a khóa để
giải toàn bộ bí
nhiệm, v́ họ làm sao mà có
được. Hiện nay chẳng có Thánh kinh nào khác có
được toàn bộ ch́a khóa, v́ ngay cả bộ kinh Vedas cũng c̣n chưa hoàn
chỉnh. Mọi tôn giáo cổ chẳng qua chỉ là một,
hai chương của toàn bộ pho tài liệu về các bí
nhiệm bản sơ, chỉ Huyền bí học Đông
phương mới có thể cao rao là ḿnh có được
toàn bộ bí mật với bảy
ch́a khóa. Người ta sẽ dùng cách so sánh đối
chiếu, và sẽ giải thích cặn kẽ đến
mức tối đa trong tác phẩm này, phần c̣n lại
th́ chính các môn sinh phải dùng trực giác mà hiểu lấy.
Khi tuyên bố rằng Huyền
bí học Đông phương có được bí mật,
tác giả không hề có ư tự cho là ḿnh biết hết
hoặc “biết gần hết,” điều này thật là
vô lư. Tôi biết đến đâu th́ tŕnh bày đến
đó, c̣n điều ǵ tôi không giải thích
được, môn sinh phải tự t́m hiểu lấy.
31
Song, mặc dù chúng ta có thể giả sử là
trong các thế kỷ sắp tới, người ta sẽ
chẳng thể thấu triệt được toàn bộ
chu kỳ của Ngôn Ngữ Bí Nhiệm đại
đồng thế giới, chỉ cần một ít
những ǵ mà một vài học giả đă khám phá ra
từ trước đến nay trong Thánh kinh, cũng hoàn toàn đủ để minh
chứng cho lời tuyên bố - xét về mặt toán học.
V́ Do Thái giáo đă sử dụng được hai trong
số bảy ch́a khóa, và v́ nay, người ta đă t́m
lại được hai ch́a khóa này, bây giờ, vấn
đề không c̣n là đưa ra các suy lư và các giả
thuyết cá nhân – ít ra th́ cũng là vấn đề
ngẫu nhiên trùng hợp – mà vấn đề là phải
thuyết minh được chính xác các bản văn trong
Thánh kinh, cũng giống như bất cứ ai tinh thông
số học, xem xét và kiểm lại một tổng
số của phép cộng. Thật vậy, nay người
ta thấy là, tất cả những ǵ chúng tôi đă tŕnh bày
trong bộ Nữ Thần Isis
Lộ Diện đều được bổ
chứng trong tác phẩm Bí
Nhiệm Ai Cập (Egyptian Mystery) hay Nguồn Gốc của
Kích Thước, và được bổ chứng
bởi các lối thuyết minh Thánh
kinh như thế với các ch́a khóa h́nh học và số
học.
Chẳng bao lâu nữa, hệ thống này
sẽ thủ tiêu lối thuyết minh Thánh kinh một cách chấp nê văn tự - đó
chính là lối thuyết minh của tất cả các tín
ngưỡng ngoại môn khác – bằng cách tŕnh bày các giáo
điều theo ư nghĩa chân chính của chúng. Lúc bấy
giờ, ư nghĩa không thể chối căi được này
– mặc dù chưa hoàn chỉnh – sẽ làm bộc lộ bí
nhiệm về Hiện Tồn, thêm nữa, nó sẽ làm
biến đổi hoàn toàn các hệ thống khoa học
hiện đại của Nhân loại học, Dân tộc
học và nhất là Niên đại học. Yếu tố sùng
bái sinh thực khí – mà người ta thấy có mặt trong
mọi danh xưng của Thượng Đế và mọi
câu chuyện trong Cựu
Ước, và trong
một chừng mực nào đó trong Tân Ước – cũng có thể chẳng sớm
th́ muộn, sẽ làm thay đổi một cách đáng
kể các quan điểm duy vật hiện đại
về sinh học và sinh lư học.
Khi không c̣n vẻ thô thiển gớm ghiếc
đó – dựa vào uy lực của các thiên thể và các bí
nhiệm của chúng – các quan điểm như thế
về Thiên nhiên và con người sẽ làm bộc lộ
các cuộc tiến hóa của trí người và sẽ
chứng tỏ một tiến tŕnh tư tưởng
như thế tự nhiên biết chừng nào. Cái gọi là
các biểu tượng sinh thực khí đă đâm ra
chướng tai gai mắt chỉ v́ chúng có yếu tố
duy vật và thú tính. Vào lúc ban sơ, các biểu tượng
như thế cũng tự nhiên thôi, v́ chúng bắt
nguồn từ các giống dân cổ sơ – vốn kế
thừa các hiểu biết của một tổ phụ bán
thư bán hùng - theo như họ thấy, đó là các
giống dân đầu tiên biểu lộ hiện
tượng phân chia giới tính và tiếp theo đến
lượt bí nhiệm của sự sáng tạo. Nếu các
giống dân sau này, nhất là “dân tộc tuyển
định” (chosen people), đă làm bại hoại ư nghĩa
của chúng, điều này không hề ảnh hưởng
tới nguồn gốc của các biểu tượng.
Bộ lạc dân Semite bé nhỏ này, - một trong các
mảnh nhỏ từ khi có sự lai giống các phân
chủng thứ tư và thứ năm, tức phân chủng
Mông Cổ - Turanian và cái gọi là giống dân Ấn Âu, sau
khi Đại lục địa bị ch́m – chỉ có
thể chấp nhận biểu tượng học của
nó theo đúng tinh thần mà các quốc gia khai sáng ra nó
truyền lại. Vào buổi ban sơ thời Moses, may ra th́
biểu tượng học không đến nỗi là thô
thiển như là sau này khi Ezra luận giải, ông đă
sửa lại toàn bộ Năm quyển đầu tiên
của Cựu Ước.
Chẳng hạn như h́nh chạm trổ con gái của
Pharaoh (người đàn bà), sông Nile (Thái Uyên và Đại
Thủy – the Great Deep and Water) và đứa bé trai ở trong
cái bè bằng bấc nổi lềnh bềnh trên sông,
thoạt tiên không phải là do Moses tạo ra hoặc
được tạo ra cho ông ta. Nó đă được
tiên liệu trong các mảnh vụn mà người ta t́m
thấy trên các viên ngói ở thành phố
32
Trong tác phẩm Các
Di tích cổ của
1. Tôi là Sargina, quốc
vương đầy quyền lực của Akkad.
2. Mẹ tôi là một
công chúa, c̣n cha tôi chẳng biết là ai, một huynh
đệ của cha tôi trị v́ đất nước.
3. Tại thành phố
Azupiranu, ở bên bờ sông Euphrates.
4. Bà mẹ công chúa
đă thụ thai và hạ sinh ra tôi một cách gian nan.
5. Bà đặt tôi trong
một cái bè bằng bấc và dùng hắc ín trét kín không cho
tôi lọt ra.
6. Bà xô chiếc bè
xuống sông, nó không làm tôi ch́m.
7. Ḍng sông đưa tôi
tới chỗ Akki, người cung cấp nước.
8. Akki, người cung
cấp nước âu yếm bồng tôi lên.(1)
Và nay, chúng ta hăy so sánh câu chuyện Thánh kinh, trong Về Vùng Đất Hứa (Exodus):
Và
khi Bà [Mẹ của Moses] không c̣n có thể giấu nó
được nữa, bà lấy một chiếc bè
bằng cây cỏ chỉ, dùng vôi và hắc ín trét lên nó,
đặt đứa bé vào trong rồi bà đặt cái bè vào
trong bụi cây diên vỹ (flags) gần bờ sông.
Rồi Smith tiếp:
Người ta giả
sử là câu chuyện đă diễn ra vào khoảng 1 600
trước T.C., đúng hơn th́ nó diễn ra sớm
hơn thời gian được giả định là
thời đại Moses. V́ chúng ta biết rằng danh
tiếng của vua Sargon bay tới tận Ai Cập, nên hoàn
toàn có thể là phần tường thuật này có liên
hệ với các biến cố được thuật
lại trong Thánh thư Về
Vùng Đất Hứa ii, v́ mọi hành động, khi
đă được hoàn thành, đều có khuynh
hướng sẽ được lặp lại.
Nhưng nay, khi Giáo sư Sayce đă có cam
đảm xác định niên đại của các quốc
vương Chaldea và
Ta suy ra được điều ǵ hợp lư
bây giờ? Chắc chắn hơn cả là ta có quyền nói
rằng câu chuyện về Moses do Ezra thuật, đă
được ông học hỏi trong khi lưu lại
Babylon, và ông đă áp dụng câu chuyện ẩn dụ nói
về vua Sargon cho nhà lập pháp người Do Thái. Nói tóm
lại, Moses đă không bao giờ viết ra Thánh thư Về Vùng Đất Hứa mà
chỉ san định lại (refabricate) Thánh thư này theo
các tài liệu của Ezra.
33
Và nếu đúng thế, tại sao vị cao
đồ này lại không thể thêm thắt các biểu
tượng và chữ tượng h́nh có yếu tố sùng
bái sinh thực khí c̣n thô tục hơn nữa, vào tục
sùng bái sinh thực khí ở vùng Saba và
Bất chấp yếu tố ngoại môn mà nay
chúng ta t́m thấy trong hai quyển Cựu Ước và Tân Ước, tất cả
các điều này hoàn toàn đủ để xếp Thánh
kinh vào hàng ngũ các tác phẩm nội môn và liên kết
hệ thống bí mật của nó với biểu tượng
kư Chaldea, Ấn Độ và Ai Cập. Người ta
thấy toàn bộ chu kỳ của các chữ tượng
h́nh và các con số trong Thánh kinh, như được
gợi ra bởi các quan sát thiên văn – thiên văn học
và thần học có liên hệ chặt chẽ với nhau –
trong các hệ thống ngoại môn cũng như là nội
môn của Ấn Độ. Các con số này và các biểu
tượng của chúng, các cung của Hoàng đạo, các
hành tinh, các giác cự và các tiết điểm của chúng
(their aspects and nodes) – từ ngữ cuối cùng này nay đă
được chuyển sang cả lănh vực thực
vật học hiện đại – đă được
biết tới trong thiên văn học như là các giác
cự 600 (sextile), giác cự 900 (quartile)
v.v….; chúng đă được các quốc gia cổ sơ
sử dụng trong hàng thời đại và hàng vô
lượng thời, và theo một ư nghĩa nào đó, chúng
đồng nghĩa với các chữ số của dân
Hebrew. Chắc chắn là người ta ắt đă nảy
ra ư sáng lập nên các h́nh thức sơ khai nhất của h́nh
học sơ cấp khi quan sát các thiên thể và cách thức
quần tụ của chúng. V́ thế, các biểu
tượng tối sơ trong Nội môn Bí giáo Đông
phương là một ṿng tṛn, một tam giác, một h́nh
vuông, một h́nh ngũ giác, một h́nh lục giác và các h́nh
phẳng khác với nhiều cạnh và nhiều góc khác nhau.
Điều này chứng tỏ rằng việc hiểu
biết và sử dụng biểu tượng h́nh học
cũng xưa như trái đất vậy.
Từ đó, chẳng có ǵ khó hiểu khi chính
Thiên nhiên, dù không được các đạo sư trợ
giúp, cũng đủ sức dạy cho nhân loại sơ
khai các nguyên lư đầu tiên của một ngôn ngữ
biểu tượng dùng h́nh học và số học.(1) V́ thế, chúng ta mới
thấy là các con số và các số mục đă
được dùng để biểu diễn và ghi lại
tư tưởng trong mọi Thánh kinh biểu tượng
cổ sơ. Chúng bao giờ cũng như nhau, chỉ
biến thiên chút ít thôi, và nảy sinh ra từ các con số
đầu tiên. Như thế, sự tiến hóa và sự
tương hệ của các bí nhiệm thuộc Càn Khôn
(Kosmos), sự phát triển của nó – về mặt tinh
thần và vật chất, trừu tượng và cụ
thể - được ghi nhận trước tiên trong các
biến đổi h́nh dạng xét về mặt h́nh
học. Mọi vũ trụ khởi nguyên luận
đều bắt đầu với một h́nh tṛn một
điểm, một tam giác và một h́nh vuông, ([4])
măi cho tới số 9, khi nó được tổng hợp
bởi đường thẳng đầu tiên và một
ṿng tṛn – Thập nguyên huyền nhiệm của Pythagoras,
tổng thể của vạn hữu, bao gồm và biểu
diễn các bí nhiệm của toàn thể Càn Khôn. Đối
với người có thể hiểu được ngôn
ngữ huyền nhiệm của nó, các bí nhiệm này
được ghi lại trong hệ thống Ấn
Độ đầy đủ gấp trăm lần so
với bất cứ hệ thống nào khác. Các số 3 và
số 4, khi phối hợp lại trở thành 7, cũng
như là 5, 6, 9 và 10, là các nền tảng thực sự
của các Vũ trụ Khởi nguyên luận huyền linh.
Người ta thấy Thập nguyên này (this Decad) và hàng ngh́n
phối hợp
34
của nó ở khắp nơi trên địa
cầu. Người ta thấy nó ở trong các hang
động và các Thánh điện tạc trong đá ở
vùng Hindustăn và Trung Á; trong các Kim tự tháp và các lithoi ở Ai
Cập và Mỹ; trong các Hầm mộ ở Ozimandyas, trong
các g̣ của rặng núi Caucasus hùng vĩ quanh năm
tuyết phủ; trong các di tích cổ tại làng Palenque; trên
Đảo Easter; ở bất cứ nơi nào mà cổ nhân
từng đặt chân tới. Số 3 và số 4, tam giác và
h́nh vuông, tức các h́nh tượng thư hùng đại
đồng thế giới đang biểu lộ trạng
thái thứ nhất của thần linh đang tiến hóa,
được ghi khắc măi măi nơi Cḥm sao Chữ
Thập ở trên Trời (the Southern Cross in the Heavens), và
nơi Thập Tự Ai Cập (the Egyptian Crux Ansata). Tác
giả quyển Nguồn
Gốc của Kích Thước đă tŕnh bày rành mạch
điều này như sau:
Khối vuông khi
được khai triển ra sẽ có dạng một
Thập Tự Tau, hoặc là Thập Tự Ai Cập,
hoặc là Thập Tự của Thiên Chúa giáo… Một ṿng
tṛn gắn vào cái trên cho ta thập tự có quai …. các số
3 và 4, khi được đếm trên Thập Tự Giá,
bày ra một h́nh dạng của cái giá cắm nến
bằng vàng [của dân Hebrew] [trong Nội điện] và
dạng thức 3 + 4 = 7, và 6 + 1 = 7, các ngày trong ṿng tuần hoàn tuần lễ,
được coi như là 7 loại ánh sáng mặt
trời. Cũng như tuần lễ có bảy loại ánh
sáng là nguồn gốc của tháng
và năm, cũng vậy,
thập tự đánh dấu
lúc hạ sinh …. Bấy giờ, khi h́nh thập tự
đă được biểu thị bằng cách sử
dụng liên hợp dạng thức 113:335, người ta
bổ sung biểu tượng bằng cách gắn một người vào Thập Tự Giá.(1) Người ta làm cho loại
kích thước này phối hợp với ư niệm
nguồn gốc của cuộc sống con người, và
do đó mới có h́nh thức sùng bái sinh thực khí.(2)
Các ĐOẠN THƠ
(STANZAS) trong Thiền Định Chân Kinh chứng
tỏ rằng thập tự giá và các số này đóng
một vai tṛ quan trọng trong vũ trụ khởi nguyên
luận cổ sơ. Trong khi đó, chúng ta có thể lợi
dụng được bằng chứng mà tác giả
quyển sách vừa dẫn đă thu thập lại trong
tiết mà ông đă gọi rất đúng là “Các Kích
thước Nguyên thủy của các Biểu tượng
này” để chứng tỏ gốc tích của các biểu
tượng và ư nghĩa nội môn của chúng trên khắp
thế giới.
Xét bản chất của các dạng thức số mục theo quan điểm chung… có một chủ đề để khảo cứu cực kỳ thú vị là t́m xem các dạng thức số mục này đă tồn tại và bắt đầu được sử dụng từ bao giờ và ở nơi đâu. Phải chăng đó là một vấn đề về sự thiên khải trong cái mà ta gọi là thời đại lịch sử - một chu kỳ vô cùng hiện đại so với thời đại của loài người? Thật vậy, h́nh như là niên đại mà con người sở hữu được nó, so với thời cổ Ai Cập, c̣n xa xưa hơn thời cổ Ai Cập so với thời đại chúng ta.
Quần đảo Easter ở “giữa Thái B́nh
Dương” phô ra nét đặc trưng là di tích của các
đỉnh núi của một lục địa đă
bị ch́m xuống đáy biển, bởi v́ rải rác
đó đây có đầy dẫy các tượng
người khổng lồ một mắt, di tích của
nền văn minh của một dân tộc trù mật và trí
thức, họ tất nhiên là đă cư ngụ trên
một vùng đất bao la. Ở sau lưng các pho
tượng này, người ta thấy h́nh “thập tự
có quai,” cũng được biến chế theo các
đường nét của h́nh dạng con người. Trong
số báo tháng 1 –1870 của tờ London Builder (Nhà Kiến
Tạo Luân Đôn), người ta có mô tả tỉ mỉ,
kèm theo h́nh minh họa tŕnh bày vùng đất với các pho
tượng dày đặc, cũng có cả các h́nh vẽ mô
phỏng lại các pho tượng này …
35
Trong tờ Nhà
Tự Nhiên Học (Naturalist), xuất bản tại thành
phố Salem, ở bang Massachusetts, ở một trong các
số đầu tiên (vào khoảng số 36), người
ta có mô tả một vài h́nh chạm trổ rất xưa và
rất kỳ lạ trên các bức vách ở đỉnh
của các rặng núi Nam Mỹ; người ta xác nhận
rằng chúng c̣n xưa hơn nhiều so với các giống
dân nay đang sống. Các h́nh vẽ này có điều kỳ
lạ là chúng phô ra các đường nét phác họa một
người bị căng trên Thập tự giá; (1) có một loạt các h́nh vẽ
tŕnh bày sự kiện một thập
tự giá phát sinh từ h́nh hài của một người, chúng được tŕnh bày
khéo đến nỗi mà thập tự giá có thể
được coi như là người, c̣n người có thể
được coi như là thập tự giá ….
Người ta biết rằng truyền
thuyết của dân Aztec đă tường thuật lại
trận Đại hồng thủy một cách rất
tuyệt diệu... Nam tước Humboldt nói rằng xứ
Aztalan, nơi chôn nhau cắt rún của dân Aztec, ắt
phải ở vĩ tuyến thấp nhất là 42o Bắc;
khi di trú, cuối cùng dân Aztec đă tới thung lũng Mexico.
Trong thung lũng này, các g̣ đất ở vùng Viễn
Bắc trở thành viên đá xinh xắn của Kim tự
tháp, và các công tŕnh kiến trúc khác mà di tích vẫn c̣n tồn
tại đến ngày nay. Người ta thừa biết
sự tương ứng giữa các di tích của dân Aztec
và các di tích của Ai Cập…. Atwater, khi xem xét hằng
trăm di tích này, tin chắc rằng những người
tạo ra chúng đều thông hiểu thiên văn học.
Về phần một trong các công tŕnh kiến trúc Kim tự
tháp tuyệt diệu nhất của dân Aztec có nội dung
như sau:
“Kim
tự tháp [của Papantla] này – vốn có bảy tầng – có
h́nh dáng giống h́nh búp măng hơn bất cứ công tŕnh
cùng loại nào khác đă từng được khám phá ra;
nhưng nó không cao lắm, chỉ cao có 57 bộ, đáy nó có
mỗi cạnh dài 25 bộ. Tuy nhiên, nó có một
điều đặc sắc: nó được làm hoàn toàn
bằng đá đẽo, có một kích thước đồ
sộ và có h́nh dáng rất đẹp. Có ba cầu thang
dẫn lên đỉnh, các nấc thang được trang
trí với các công tŕnh điêu khắc tượng h́nh và các
hốc tường nhỏ được bố trí rất
cân xứng. Số các hốc tường này h́nh như là ám
chỉ 318 kư hiệu đơn và phức hợp của
số ngày của lịch thường.”
318 là trị số theo phái Ngộ Đạo
của Đức Christ và là con số trứ danh các bầy
tôi lăo thành hay được cắt b́ rửa tội
của Abram. Khi người ta thấy rằng 318 là một
trị số trừu tượng và đại
đồng thế giới, biểu thị trị số
của một đường kính đối với
một chu vi dài bằng một đơn vị, việc nó
được dùng để hợp thành một lịch
thường thật là hiển nhiên. (1)
Người ta thấy các chữ tượng
h́nh, các con số và các kư hiệu nội môn giống hệt
như vậy ở Ai Cập, Peru, Mexico, Đảo Easter,
Ấn Độ, xứ Chaldea và Trung Á – Con người
bị hành h́nh trên Thập tự giá và các biểu
tượng của sự tiến hóa của các giống
dân từ các vị Thần – song ta hăy xem khoa học bác
bỏ ư tưởng có một giống người khác
hơn giống người tương tự như chúng ta. Thần học cứ khăng
khăng cho là vũ trụ mới được sáng
tạo ra từ 6 000 năm nay; nhân loại chủ
trương rằng chúng ta có nguồn gốc là khỉ; c̣n
giáo hội cho rằng chúng ta có nguồn gốc là Adam,
sống vào năm 4 004 trước T.C.!!
Chẳng lẽ v́ sợ bị gọi là
một kẻ điên rồ, mê tín dị đoan, thậm
chí một tên láo khoét, mà người ta đành phải không
dám đưa ra các bằng chứng – hầu như là
hiện có – bởi v́ chưa tới lúc có thể truyền
thụ tất cả BẢY CH̀A KHÓA
cho khoa học, hay đúng hơn là các học giả và
những người nghiên cứu trong lănh vực biểu
tượng học hay sao? Đứng trước
những khám phá có tính chất cách mạng của
Địa chất học và Nhân loại học liên quan
tới gốc tích xa xưa của con người,
chẳng lẽ - để khỏi bị trừng phạt
giống như bất cứ kẻ nào dám cả gan đi
lệch ra khỏi đường lối mà Thần
học hay Chủ nghĩa duy vật đă chọn – ta
cứ mù quáng chấp nhận thuyết “sáng tạo thế
giới đặc biệt mới từ 6 000 năm nay”
hoặc thuyết chủ trương rằng “ta có
nguồn gốc là khỉ” hay sao? Chừng nào mà chúng ta c̣n
biết rơ rằng các tài liệu lưu trữ bí nhiệm
vẫn bảo tồn được BẢY CH̀A KHÓA
để giải bí nhiệm về nguồn gốc con
người, không khi nào chúng ta chấp nhận như
vậy. Cho dù các thuyết của khoa học có sai lầm,
duy vật, và đầy thiên kiến cách mấy đi
chăng nữa, chúng vẫn c̣n ngàn vạn lần gần
gũi với chân lư hơn là các điều hoang
tưởng của thần học. Chỉ trừ
những kẻ ngu tín ngoan cố nhất, c̣n ngoài ra
đối với mọi người, Thần học nay
đă dẫy chết. Hay nói cho đúng hơn th́ một vài
người bênh vực nó nay ắt đă đuối lư. V́
chúng ta cũng hết ư kiến khi – đứng
trước những điều cực kỳ vô lư khi Thánh kinh được
giải thích theo lối chấp nê văn tự (những
điều này vẫn c̣n được bênh vực một
cách công khai và cuồng nhiệt hơn bao giờ hết) –
Thần học vẫn cứ một mực cho rằng:
“mặc dù các Thánh kinh đă hết sức tự chế [?]
để không trực tiếp đóng góp điều ǵ cho
kho tàng khoa học, Thánh kinh cũng chưa bao giờ lỡ lời nói ra bất cứ phát biểu nào mâu
thuẫn với khoa học tiên tiến !!! ([5])
36
V́ thế, chúng ta chỉ c̣n có cách hoặc
mù quáng chấp nhận các kết luận của khoa
học, hoặc là cắt đứt mọi quan hệ
với nó, chống cự diện đối diện
với nó một cách ngoan cường, vạch rơ những
ǵ mà Giáo Lư Bí Nhiệm rao giảng và hoàn toàn sẵn sàng
chấp nhận mọi hậu quả.
Nhưng nay, chúng ta hăy thử xem khoa học,
với các lư luận duy vật và ngay cả Thần học
– đang dẫy chết và đang ra sức dung ḥa thuyết
“thế giới được sáng tạo ra từ 6 000
năm nay vào thời Adam” với “các Bằng chứng Địa chất học về
Nguồn gốc xa xưa của Con người” của
Charles Lyell - có trợ giúp chúng ta một cách vô thức hay
không. Theo lời thú nhận của các nhà dân tộc học
uyên bác nhất, người ta đă không thể giải
thích được tại sao loài người lại khác
nhau nhiều như thế, trừ phi người ta
chấp nhận giả thuyết sự sáng tạo với nhiều Adam. Họ nói về
“một Adam da trắng, một Adam da đen, một Adam da
đỏ và một Adam da vàng.”([6])
Nếu là người Ấn Độ vốn ưa kê khai
các kiếp tái sinh của Vămadeva theo Thánh kinh Linga Purăna, họ có thể c̣n nói ít hơn nữa.
V́ khi kê khai các kiếp tái sinh liên tiếp của Shiva,
họ tŕnh bày là: trong một kiếp Ngài có nước da màu trắng, trong một
kiếp khác da đen, trong
một kiếp khác da
đỏ, sau đó Đấng Thiên Tôn trở thành
“bốn thanh niên da vàng. “Theo
lời ông Procter, sự “trùng hợp” kỳ lạ này
chỉ lên tiếng bênh vực cho trực giác khoa học, v́
về mặt ẩn dụ Thiên Tôn Shiva chỉ tiêu biểu
cho các giống người khi loài người mới
khởi nguyên. Nhưng nó đă đưa tới một
hiện tượng trực giác khác – trong hàng ngũ các nhà
thần học vào lúc này. Tác giả vô danh của quyển Con người Bản sơ,
một trong nỗ lực tuyệt vọng nhằm che
chở cho điều Thiên khải khỏi bị các khám phá
hùng hồn và tàn nhẫn của Địa chất học
và Nhân loại học làm sụp đổ, đă nhận
xét rằng: “thật là bất hạnh nếu những
kẻ bênh vực cho Thánh kinh bị
dồn vào thế hoặc là phải từ bỏ sự
linh cảm của Thánh kinh, hoặc là chối bỏ các
kết luận của các nhà địa chất học“, thế
là ông đă t́m ra một sự thỏa hiệp. Thậm chí,
ông đă dành một pho sách dày chứng minh sự kiện
này: “Adam không phải là người
đầu tiên ([7])
được sáng tạo ra trên trần thế.” Các di
tích
37
khai quật của con người thời
Tiền-Adam đáng lẽ làm lung lay niềm tin của chúng
ta vào Thánh kinh, lại chứng tỏ thêm tính xác thực
của nó”([8])
Làm sao lại thế được? Giản dị
lắm, v́ tác giả lư luận rằng từ nay trở
đi “chúng ta [giới tu sĩ] có thể để cho các
khoa học giả theo đuổi các công tŕnh nghiên cứu
của ḿnh một cách thoải mái mà không sợ bị mang
tiếng là “theo ngoại đạo.” Điều này ắt
phải thực sự là khiến cho các ông Huxley, Tyndall và
Charles Lyell thở phào trút được gánh nặng!
Câu chuyện Thánh kinh không hề khởi sự với việc sáng tạo, như người ta thường giả sử, mà nó lại bắt đầu với việc tạo ra Adam và Eva, hàng triệu năm sau khi hành tinh chúng ta đă được tạo ra. Lịch sử trước thời Thánh kinh của nó vẫn c̣n chưa được viết ra ….Có thể là chẳng phải có một, mà có tới hai mươi giống dân khác nhau trên địa cầu trước thời Adam, cũng như là có thể có hai mươi giống người khác nhau ở các thế giới khác.([9])
Vậy th́ các giống người này là
những ai, v́ tác giả vẫn một mực cho rằng
Adam là người đầu
tiên của nhân loại chúng ta? Đó là Giống dân hoặc là Giống dân Quỷ vương
(It was the Satanic Race and Races)! “Quỷ vương (Satan)
chưa từng bao giờ ở trên trời, loài Thiên
Thần và loài người cũng cùng một thứ.”
Đó là giống dân Tiền-Adam gồm các “Thiên Thần
mắc tội.” Quỷ vương “trị v́ thế
giới này”. Đă thiệt mạng v́ đám nổi
loạn, y vẫn c̣n lại trên trần thế như là
một Vong linh thoát xác
(disembodied Spirit), rồi quyến rũ Adam và Eva.
Các thời đại sơ khai của
giống dân Quỷ vương, và đặc biệt
hơn nữa vào lúc sinh thời của Quỷ vương,
có thể là một thời kỳ của nền văn minh
tộc trưởng và thời kỳ tương
đối yên nghỉ - một thời kỳ của
những người như Tubal-Cains và Jubals, khi cả khoa
học lẫn nghệ thuật đều thử lấn
sang vùng cấm địa… Thật đúng là chủ
đề của một thiên anh hùng ca!...Tất yếu là
đă phải có các biến cố diễn ra. Chúng ta
thấy trước mắt ḿnh … anh chàng hào hoa phong nhă
thời xưa (the gay primeval) đang tán tỉnh cô nàng
thẹn tḥ e ấp vào lúc chiều hôm đẫm
sương dưới gốc cây sồi Đan Mạch
(the Danish oaks), bấy giờ chúng mọc ở nơi mà nay
không c̣n cây sồi nào mọc nữa… vị tộc
trưởng thời xưa tóc đă hoa râm… đám trẻ
con thời xưa tung tăng đùa giỡn một cách ngây
thơ bên cạnh ông ta… Hàng ngàn bức tranh như vậy
đă hiện ra trước mắt chúng ta! ([10])
Ngược ḍng
quá khứ, thử xét “cô nàng thẹn tḥ e ấp” (‘blushing
bride’) này vào thời Quỷ Vương ngây thơ, chúng ta thấy
chẳng có ǵ kém phần thi vị như là vào thời
kỳ đầu. Hoàn toàn ngược lại nữa là
khác. Cô nàng thời kỳ Thiên Chúa giáo hiện nay – chẳng
hề thẹn tḥ e ấp trước
mặt ư trung nhân – có thể rút ra được một bài
học luân lư từ đứa con gái này của Quỷ
vương, nó được tạo ra trong một cơn
ngông cuồng hoang tưởng của nhà viết tiểu
sử nhân loại đầu tiên. Tất cả các bức
tranh này – để đánh giá được đúng giá
trị của chúng, chúng ta phải xét chúng trong bối
cảnh của tác phẩm mô tả chúng – đều
được gợi ra để dung ḥa tính chất không
thể sai lầm của Thánh kinh được thiên
khải, với tác phẩm Nguồn
gốc xa xưa của Con người của Charles
Lyell và các tác phẩm khoa học tai hại khác. Nhưng
điều này không hề cản trở chân lư và sự
kiện có thật xuất lộ nơi nền tảng
của các điều hoang tưởng mà chính tác giả
cũng không dám đứng tên chịu trách nhiệm cho dù là
đă dùng tới biệt hiệu đi nữa. V́ nếu
thuyết minh theo phương diện nội môn như trong
Giáo Lư Bí Nhiệm, các Giống dân Tiền-Adam
được đề cập tới trong Thánh kinh chẳng phải là các
giống dân Quỷ vương mà chính là giống dân Atlante
và trước đó là giống người bán thư bán
hùng. BẢY CH̀A KHÓA giải các bí nhiệm quá khứ và
tương lai của bảy đại Căn chủng
(the seven great Root-Races) và bảy Thiên Kiếp (Kalpas). Mặc
dù khoa học chắc chắn là sẽ bác bỏ thuyết
khởi nguyên con người và ngay cả thuyết
địa chất của Nội môn bí giáo cũng như
thuyết về các giống dân Quỷ vương và
Tiền-Adam, song nếu các khoa học gia – vẫn lúng túng
không t́m ra được lối thoát – bị bắt
buộc phải chọn lựa giữa hai thứ, chắc
chắn là – bất chấp Thánh kinh – một khi mà
người ta đă hầu như quán triệt
được Ngôn ngữ Bí Nhiệm, giáo lư cổ sơ
sẽ được chấp nhận.
38
39
TIẾT 3
CHẤT LIỆU
NGUYÊN THỦY
VÀ TƯ TƯỞNG THIÊNG LIÊNG
(PRIMORDIAL,
SUBSTANCE AND DIVINE THOUGHT)
V́
h́nh như vô lư nếu khẳng định rằng chúng ta
biết tất cả mọi nguyên nhân đang tồn
tại, thế nên phải được phép giả
định – nếu cần – một tác nhân hoàn toàn
mới….
Khi
giả định – điều mà cho đến nay chưa
có ǵ thật là chính xác – rằng giả thuyết ba
động (the undulatory hypothesis) giải thích
được tất cả mọi sự kiện, chúng ta
chắc phải quyết định xem nhờ như
thế, sự tồn tại của một ether ba
động có được chứng minh hay không. Chúng ta
không thể quả quyết là chẳng có giả thuyết
nào khác sẽ giải thích được các sự kiện
này …. Giả thuyết về hạt của
Luận lư học,
của Alexander Bain, Tiến sĩ Luật khoa,
Phần II, trang
131-132, năm 1873.
ETHER – con quái vật biến h́nh Proteus theo
giả thuyết, một trong “các điều
được chế ra để tiêu biểu cho các hiện tượng” của
khoa học hiện đại, song đă được
chấp nhận từ bao lâu nay – là một trong các “nguyên
khí” thấp của cái mà chúng ta gọi là Chất Liệu
Nguyên Thủy (tiếng Bắc Phạn gọi là Ăkăsha ‘Tiên
thiên khí’), một trong các điều mơ ước
của cổ nhân, nay trở thành điều mơ
ước của khoa học hiện đại. Nó là
điều suy đoán vĩ đại nhất và táo
bạo nhất mà các triết gia thời xưa c̣n
truyền lại. Tuy nhiên, đối với các nhà Huyền
bí học (Occultists), cả ETHER
lẫn Chất Liệu Nguyên Thủy (Primordial Substance)
đều là các thực tại. Nói một cách giản
dị, th́ ETHER là Tinh Tú Quang (Astral Light), và Chất Liệu
Nguyên Thủy là ĂKĂSHA, HIỆN
THỂ (UPĂDHI) của TƯ
TƯỞNG THIÊNG LIÊNG (DIVINE THOUGHT).
Theo lối nói hiện đại, Tư
Tưởng Thiêng Liêng được gọi một cách
chính xác là THIÊN Ư HỒNG NGUYÊN (COMIC
IDEATION) tức Tinh Thần (Spirit); c̣n Chất Liệu
Nguyên Thủy được gọi là CHẤT LIỆU CÀN KHÔN (COSMIC SUBSTANCE) tức
Vật Chất (Matter). Vật Chất, nguyên là Thủy và
Chung của Hiện Tồn (Alpha and Omega of Being), chúng
chẳng qua chỉ là hai phương
diện của Tồn Tại Tuyệt Đối duy
nhất (the one Absolute Existence). Tồn Tại Tuyệt
Đối duy nhất chưa bao giờ được
đá động tới dưới bất cứ danh
xưng nào vào thời xưa, ngoại trừ theo lối
ẩn dụ. Trong giống dân Ăryan xưa nhất, dân
Ấn Độ, việc sùng bái của các tầng lớp
trí thức không bao giờ gồm cả việc tôn sùng các
h́nh thái và nghệ thuật tuyệt diệu như là
người Hy Lạp; sự tôn sùng đó sau này đă
dẫn tới thuyết thần nhân đồng h́nh.
Nhưng trong khi mà triết gia Hy Lạp tôn sùng h́nh thái, nhà
hiền triết Ấn Độ chỉ “nhận thấy
quan hệ chân thực giữa vẻ đẹp trần
tục và chân lư vĩnh cửu” – th́ tầng lớp thất
học tại mọi quốc gia đều chẳng bao
giờ thấu đáo được hai triết thuyết
đó.
40
Ngay cả cho đến nay, họ vẫn không
hiểu được nó. Sự tiến triển của ư
niệm về Thượng Đế diễn ra nhanh chóng
cùng với mức tiến hóa về mặt trí thức
của chính con người. Cũng chẳng khác nào lư
tưởng cao cả nhất mà tinh thần tôn giáo của
một thời đại có thể vươn tới,
lại h́nh như chẳng qua chỉ là một bức hí
họa thô thiển đối với kẻ có tinh thần
triết học vào một thời đại sau. Chính các
triết gia cũng phải được điểm đạo vào các bí nhiệm của tri
giác, trước khi họ có thể lĩnh hội
được đúng đắn ư niệm của Cổ
nhân về vấn đề có tính chất siêu h́nh nhất
này. Nếu không được điểm đạo
như vậy, mọi tư tưởng gia đều
sẽ chỉ đạt được đến mức
tối đa của năng lực trí tuệ của ḿnh;
mức này rơ rệt và chính xác không kém ǵ mức mà luật
Nghiệp quả đă vạch ra cho sự tiến bộ
của bất cứ quốc gia hoặc chủng tộc
nào trong chu kỳ của nó. Nếu không được
Điểm Đạo, các tư tưởng của
nếp suy tư tôn giáo hiện đại sẽ luôn luôn
bị hạn chế đi (their wings clipped), và không thể
vươn tới các đỉnh cao nữa; v́ các tư
tưởng gia lư tưởng cũng như là các tư
tưởng gia hiện thực và ngay cả các nhà
độc lập tư tưởng, đều chẳng
qua chỉ là kết quả tự nhiên lần lượt
của môi trường sống cũng như là thời
đại của họ. Các lư tưởng của mỗi
tư tưởng gia chẳng qua chỉ là kết quả
tất yếu của tính khí của họ, và là kết
quả của giai kỳ phát triển trí tuệ mà một
quốc gia, xét chung, đă đạt tới. V́ vậy,
như chúng ta thấy, siêu h́nh học hiện đại
của Tây phương hăy c̣n cách xa với chân lư. Hầu
hết các suy đoán của chủ nghĩa vô thần
hiện nay về sự tồn tại của “Nguyên Nhân
Bản Sơ” (“First Cause”) cũng chẳng khá hơn bao nhiêu
so với chủ nghĩa Duy Vật mê muội – có
điều là thuật ngữ của chúng lại khác nhau.
Ngay cả đến một tư tưởng gia vĩ
đại như Herbert Spencer cũng đôi khi đề
cập tới cái “Bất khả tri” (“Unknowable”) bằng
những lời lẽ chứng tỏ ảnh hưởng
tai hại của tư tưởng Duy Vật, giống
như ngọn gió Sirocco tai hại ở sa mạc, nó đă
bóp chết ngay từ trong trứng nước mọi suy
đoán hiện nay về bản thể học.
Chẳng hạn, khi ông ta gọi “Nguyên Nhân
Bản Sơ” là cái “Bất khả tri”, “một quyền
năng đang biểu lộ qua
các hiện tượng” và “một năng lượng vĩnh cửu vô hạn” (?) rơ
ràng là ông ta đă chỉ lĩnh hội được khía
cạnh vật chất của
Bí nhiệm về Hiện tồn – tức là chỉ có các
Năng lượng của Chất Liệu Càn Khôn. Khía
cạnh cộng đồng vĩnh cửu của THỰC TẠI
ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ (the ONE
REALITY), tức Thiên Ư Hồng Nguyên hoàn toàn bị
bỏ qua không được xét tới; c̣n về Thực
tượng của nó (its Noumenon), tư tưởng gia
lỗi lạc này h́nh như là không nghĩ đến.
Chắc chắn là việc đề cập tới vấn
đề theo lối một
chiều này chủ yếu là do Tây phương có thói quen
tai hại là xem Tâm Thức (Consciousness) như phụ
thuộc (vào vật chất) hoặc như là một “phó
sản” (“by-product”) của chuyển động phân tử.
41
Từ thuở ban sơ của Giống dân
thứ tư, khi chỉ có một ḿnh Tinh Thần
được sùng bái và Bí Nhiệm (Mystery) được
biểu lộ, măi tới thời hy hoàng cuối cùng
của nghệ thuật Hy Lạp, vào lúc sơ khai của
Thiên Chúa giáo, chỉ có dân Hy Lạp là dám công khai tôn thờ
“Thượng Đế Bất Khả Tri”. Dù cho Thánh Paul có
kiến thức uyên thâm đến đâu đi nữa, khi
tuyên bố với dân thành Athen rằng “Đấng Bất
Khả Tri” này – mà họ tôn sùng một cách mê muội – là
Thượng Đế chân chính do chính ông tuyên cáo;
Thượng Đế này không
phải là “Jehovah” mà cũng chẳng phải là
“Đấng Sáng Tạo thế giới vạn hữu.” V́
đó không phải là “Thượng Đế của Do Thái”
mà là “Đấng Bất Khả Tri” của tín đồ
thuyết Phiếm Thần xưa và nay, Ngài “không ngự
trong các Thánh điện làm
bằng tay chân.”(1)
Người ta không thể định nghĩa
mà cũng chẳng thể giải thích ư nghĩa của
Tư Tưởng Thiêng Liêng, trừ phi người ta xác
định nó bằng vô số các biểu lộ của
Chất Liệu Càn Khôn; những người có đủ
tư cách, có thể cảm thấy Tư Tưởng Thiêng
Liêng về mặt tinh thần trong Chất Liệu Càn Khôn.
“Tư Tưởng Thiêng Liêng” là Thượng Đế
Bất Khả Tri, trừu tượng, vô ngă, vô giới
tính và phải là nền tảng của mọi vũ
trụ khởi nguyên luận cùng với các hệ quả
được triển khai”, định nghĩa như
thế th́ cũng chẳng khác nào không nói chi cả. Điều này cũng
giống như là ra sức giải một phương
tŕnh gồm các điều kiện siêu việt để
suy ra trị số thực của các số hạng, mà
lại chỉ có sẵn một ẩn số. Người
ta thấy vị trí của nó trong các đồ thị
biểu tượng tối sơ, trong đó – như đă
được vạch rơ – nó được tượng
trưng bằng một nền đen vô biên, trên đó có
xuất hiện tâm điểm đầu tiên màu trắng;
như vậy là tượng trưng cho Tinh Thần-Vật
Chất cùng nhau tồn tại đồng thời xuất
hiện trong thế giới hiện tượng,
trước khi bắt đầu biến phân. Khi “Thái
Cực sinh Lưỡng Nghi” (“the One becomes Two”), bấy
giờ người ta có thể đề cập tới
Tinh Thần và Vật
Chất. “Tinh Thần” có thể nhắm nói tới mọi
biểu lộ của Tâm Thức (Consciousness) dù là phản ánh hay trực
tiếp, và của “ư đồ vô thức” – chúng ta đang
dùng một thành ngữ hiện đại của triết học Tây
phương – như được biểu lộ nơi
Nguyên Khí, và nơi việc Thiên Nhiên phục tùng chuỗi liên
hoàn tuyệt mỹ của Thiên Luật bất di bất
dịch. Khi ở trong trạng thái hườn hư thuần
tuư nhất, Vật Chất phải được xem
như là ngoại cảnh, cơ sở tự sinh tự
tại, nó có các biến phân thất phân của chu kỳ
khai nguyên (manvantara) đang cấu thành thực tại
ngoại cảnh ẩn dưới các hiện tượng
của mỗi giai kỳ tồn tại hữu thức.
Trong khi có chu kỳ Hỗn Nguyên của Vũ Trụ
(Universal Pralaya), Thiên Ư Hồng Nguyên (Cosmic Ideation) không hề
tồn tại; các trạng thái biến phân khác nhau của
Chất Liệu Càn Khôn lại được phân giải
thành ra trạng thái bản sơ biểu lộ ngoại
cảnh tiềm tàng và trừu tượng.
42
Xung lực của chu kỳ khai nguyên bắt
đầu với việc Thiên Ư Hồng Nguyên tức Toàn
Linh Trí (Universal Mind) được khơi hoạt lại,
đồng thời và song song với Chất Liệu Càn
Khôn bắt đầu xuất lộ từ trạng thái
chưa biến phân của chu kỳ hỗn nguyên – Chất
Liệu Càn Khôn là hiện thể trong chu kỳ khai nguyên
của Thiên Ư Hồng Nguyên. Bấy giờ Toàn Triết (Minh
Triết Tuyệt Đối – Absolute Wisdom) phản ánh trong
Thiên Ư (Ideation) nhờ vào một tiến tŕnh siêu việt,
bất khả tư nghị đối với Tâm Thức
con người, Thiên Ư phóng ra Năng Lượng Vũ
Trụ (Cosmic Energy) tức Vô cực điện (Fohat). Vô
cực điện bắt đầu hoạt động
khi rung lên trong ḷng chất liệu trơ và điều
động các biến phân sơ khai của nó trên tất
cả bảy cảnh giới của Càn Khôn Thức (Cosmic
Consciousness). Như vậy, có Bảy
Nguyên h́nh chất (Seven
Protyles) – ngày nay chúng được gọi như
vậy, trong khi cổ nhân thời Ăryan gọi chúng là Thất
Đại (Seven Prakritis) hay Bảy Bản chất (Seven
Natures) – được dùng một cách riêng biệt như
các cơ sở tương đối đồng nhất.
Theo tiến tŕnh ngày càng trở nên hỗn tạp, khi Vũ
Trụ càng tiến hoá, chúng biến phân thành ra các hiện
tượng cực kỳ phức tạp trên các cảnh
giới tri giác. Người ta dùng từ ngữ
“tương đối” một cách cố ư, v́ chính sự
tồn tại một tiến tŕnh như thế tạo ra
việc phân ly Chất Liệu Càn Khôn chưa biến phân
thành ra bảy cơ sở của cuộc tiến hoá,
khiến ta bắt buộc phải xem Nguyên h́nh chất
của mỗi cảnh giới chỉ như là một giai
kỳ trung gian mà chất liệu có lấy khi nó chuyển
từ trạng thái trừu tượng sang biểu lộ
viên măn nơi ngoại cảnh.(1)
Người ta
bảo là Thiên Ư Hồng Nguyên không tồn tại trong chu
kỳ hỗn nguyên, v́ lư do đơn giản là không có ai, mà
cũng chẳng có điều ǵ để mà tri giác
được các tác dụng của nó. Ư thức, bán ư
thức, thậm chí “ư đồ vô thức” không thể
biểu lộ, trừ khi chúng dùng tới một hiện
thể Vật Chất. Điều này nghĩa là trên
cảnh giới này của chúng ta, trong trạng thái b́nh
thường, tâm thức con người không tài nào
vượt lên khỏi cái gọi là siêu h́nh học siêu
việt, chỉ khi nào có tồn tại một tập
hợp hay kết cấu phân tử nào đó th́ Tinh Thần
mới tràn ngập phần nội tâm thuộc tiềm
thức hay Chơn Ngă. V́ Vật Chất, khi tồn tại
mà không được tri giác, chỉ là một sự
huờn hư (a mere abstraction), nên cả hai phương
diện này của TUYỆT
ĐỐI (ABSOLUTE) –
Chất Liệu Càn Khôn và Thiên Ư Hồng Nguyên – tuỳ
thuộc lẫn nhau. Để cho thật chính xác,
để cho khỏi bị lẫn lộn và quan niệm
lầm lạc, chúng ta nên dùng từ ngữ “Vật
Chất” (“Matter”) để chỉ tập hợp các
vật có thể tri giác được, c̣n từ ngữ
“Chất Liệu” (“Substance”) để chỉ Thực
Tượng (Noumena). V́ các hiện tượng trên cảnh
giới của chúng ta đều
là các tạo vật của Chơn Ngă đang tri giác – các
biến thái nội tâm của nó – nên tất cả mọi
“trạng thái vật chất tiêu biểu cho tập hợp
các vật được tri giác” đều chẳng qua
chỉ có thể là một tồn tại tương
đối và thuần là hiện tượng đối
với đám trẻ con trên cảnh giới của chúng ta.
Theo lối nói của nhà duy tâm hiện đại th́ sự
kết hợp của Chủ Thể (Subject)và Khách thể
(Object) tạo ra đối tượng của giác quan,
tức hiện tượng.
43
Nhưng điều này không nhất thiết
khiến chúng ta phải kết luận rằng trên mọi
cảnh giới khác cũng vậy; rằng sự kết
hợp của Chủ Thể và Khách Thể, trên các cảnh
giới biến phân thất phân (on the planes of their septenary
differentiation), tạo ra tập hợp thất phân các
hiện tượng mà tự bản thân chúng cũng không tồn
tại, mặc dù chúng là những thực tại cụ
thể đối với các Thực Thể có kinh
nghiệm bao hàm chúng. Điều này cũng giống như
là việc các tảng đá và các ḍng sông xung quanh ta th́ có
thực theo quan điểm của một nhà vật lư
học, mặc dù chúng chỉ là hăo huyền của giác quan
theo quan điểm của nhà siêu h́nh học (the
metaphysician). Thật là sai lầm mà nói, thậm chí chỉ
quan niệm, một điều như vậy. Theo quan
điểm của siêu h́nh học tối thượng, toàn
thể Vũ Trụ, kể cả các vị Thần,
chỉ là một Hăo Huyền (Maya). Nhưng hăo huyền
của kẻ mà bản thân y là một hăo huyền, khác nhau
trên mọi cảnh giới của tâm thức; chúng ta không
có quyền có thái độ giáo điều đối
với bản chất khả hữu của các năng
lực tri giác của Chơn Ngă trên cảnh giới thứ
sáu. Ta phải đồng nhất hoá các tri giác của ḿnh
với, hoặc là khiến cho chúng trở thành một tiêu
chuẩn đối với các tri giác của một con
kiến theo lối tri thức của nó. Khi được
tập trung vào một Nguyên khí, hay là một Upădhi (Hiện
thể - Basis), Thiên Ư Hồng Nguyên tạo ra tâm thức
của Chơn Ngă. Sự biểu lộ của nó thay
đổi tuỳ theo mức độ của Upădhi.
Chẳng hạn như là trí Thức (Mind-Consciousness); xuyên
qua kết cấu đă biến phân tinh vi hơn (trạng
thái thứ sáu của vật chất) tức Tuệ giác
(Buddhi) – dựa vào kinh nghiệm của Thần Trí (Manas) –
nó tuôn ra như là một luồng Trực giác Tinh Thần.
Trong khi sống trong thế giới của
một không gian ba chiều, ta không hề biết tới
Khách Thể thuần tuư không liên hệ với tâm thức,
v́ ta chỉ biết các trạng thái tri thức, chúng kích
động Chơn Ngă đang
tri giác. Và chừng nào mà ta chưa đạt tới mức
“Tâm, Cảnh bất nhị” (And, so long as the contrast of Subject
and Object endures) – tức là chừng nào mà ta vẫn c̣n
chỉ dùng tới năm giác quan và không biết cách giải
thoát Chơn Ngă toàn tri của ta ra khỏi ṿng kềm
toả của các giác quan này -
chừng đó, Phàm Ngă không thể hiểu biết
được “thực tượng của sự vật”
tức là Chất Liệu.
Trong khi tiến lên cung thăng thượng
tiến hoá nội tâm, Chơn Ngă phải thủ đắc
hết kinh nghiệm của mọi cảnh giới.
Nhưng chừng nào mà đơn vị c̣n chưa nhập
một với Tổng thể trên bất cứ cảnh giới
nào, và chừng nào mà cả Tâm lẫn Cảnh (Chủ
Thể và Khách Thể - Subject and Object) c̣n chưa tan biến
vào trong sự diệt tận tuyệt đối của
trạng thái Niết Bàn – lại nữa, đó chỉ là
sự diệt tận theo quan niệm của cảnh giới chúng ta – chừng
đó, ta c̣n chưa đạt được sự Toàn
tri, tức là sự hiểu biết được
thực tượng của sự vật và cũng c̣n
chưa giải được một vấn đề bí
hiểm mà, ngay cả Đấng Thiền Định
Đế Quân (Dhyăn Chohan) cao siêu nhất cũng chỉ cúi
đầu mặc nhận ḿnh không biết – đó là Bí
nhiệm Bất khả tư nghị về Đấng mà
các tín đồ phái Vedanta mệnh danh là THÁI CỰC THƯỢNG
ĐẾ (PARABRAHMAN).
V́ thế, tất cả những người
nào ra sức đặt tên cho Nguyên lư Bất khả tư
nghị, chỉ làm cho nó thêm bại hoại. Thậm chí,
việc đề cập tới Thiên Ư Hồng Nguyên –
ngoại trừ khía cạnh hiện
tượng của nó – cũng chẳng khác nào việc
gắng sức nhốt kín Hồng nguyên khí (Chaos) hay dán nhăn
hiệu cho VĨNH CỬU.
44
Thế th́, đâu là “Chất Liệu Nguyên
Thuỷ,” cái loại vật thể bí nhiệm mà Khoa
luyện đan luôn luôn nói tới và là chủ đề suy
đoán của triết học trong mọi thời
đại? Ngay cả trong trạng thái tiền biến phân
thuộc hiện tượng, rốt
cuộc nó có thể là ǵ? Ngay cả cái nguyên là TỔNG THỂ
(ALL) của Thiên Nhiên biểu lộ cũng không thể được các giác quan
của chúng ta ghi nhận. Mọi vũ trụ khởi
nguyên luận đều đề cập tới nó với
nhiều danh xưng khác nhau, mọi triết thuyết
đều bàn đến nó; cho tới nay nó vẫn tỏ
ra là con quái vật biến h́nh khó hiểu trong Thiên Nhiên.
Chúng ta sờ song không cảm thấy nó, ta nh́n song không
thấy nó, ta thở song không tri giác được nó, ta
nghe và ngửi song không hề biết được
rằng nó ở đó; v́ nó hiện diện trong mọi phân
tử của cái mà – v́ vô minh và
bị hăo huyền – ta coi như là Vật Chất trong
bất kỳ trạng thái nào, hoặc quan niệm như là
một cảm giác, một tư tưởng, một xúc
cảm. Nói tóm lại, nó là Upădhi, tức Hiện Thể
(Vehicle) của mọi hiện tượng khả hữu,
dù thuộc về vật chất, trí tuệ hay tâm linh.
Việc đó khai trương chu kỳ biểu lộ
được ghi lại trong các câu mở đầu
của Sáng Thế Kư, trong
Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận của dân Chaldea, trong
Thánh kinh Puranas của Ấn
Độ, và trong Tử Vong
Kinh của Ai Cập. Nó được mệnh danh là
Hồng nguyên khí, Thuỷ Diện (It is termed Chaos, and the Face
of the Waters), xuất phát từ Đấng Bất Khả Tri,
được Tinh Thần ấp ủ, bất chấp
danh xưng của Tinh Thần. (Xem Tiết 4).
Các vị soạn ra Thánh kinh ở Ấn Độ đă nghiên cứu nguồn gốc của sự tiến hoá vạn vật hơn là Thales hay Job, v́ họ dạy:
Dĩ
Thái xuất phát từ Bản Trí (Intelligence) [trong Thánh kinh
Puranas gọi là Mahat] vốn
kết hợp với Vô minh (Ignorance) [Ĩshvara,
được xem như là Thượng Đế nhân
h́nh], có kèm theo năng lực phóng chiếu, trong đó tính
chất tŕ độn [tamas, tính vô cảm] chiếm phần
ưu thắng. Phong xuất phát từ Dĩ Thái; hoả
xuất phát từ phong ; Thuỷ xuất phát từ hoả;
địa với vạn vật trên đó xuất phát
từ thuỷ. (1)
Thánh kinh Veda
dạy: “Dĩ Thái được tạo ra từ cái này,
từ cùng một bản ngă này.” (2)
Như vậy, hiển nhiên là Dĩ Thái này ( this Ether) – vào giai đoạn thứ tư, nó
xuất phát từ một phân
thân của “Bản trí kết hợp với Vô minh” – không
phải là Nguyên khí thượng đẳng, tức
Thực thể thánh linh (the deific Entity) mà dân Hy Lạp và La
Tinh sùng bái với danh xưng “Hậu thiên khí Toàn Năng
Bản Sơ” (“Pater Omnipotens Aether”) và “Tối Đại
Hậu thiên khí” (“Magnus Aether”) (xét chung). Việc Cổ nhân
phân chia các năng lực của Dĩ Thái xét chung ra làm
bảy cấp với vô số các tế phân và dị
biệt – từ các tác dụng ngoại biên của Dĩ
Thái, vốn quen thuộc biết bao đối với khoa
học, măi cho tới “Vô lượng chất” (“Imponderable
Substance”) đă từng được thừa nhận là
“Dĩ Thái Không gian”, nhưng nay sắp bị bác bỏ - bao
giờ cũng là một vấn đề bí hiểm làm
điên đầu mọi ngành học thức. Các nhà
Thần Thoại học và Biểu tượng học ngày
nay, bị điên đầu bởi một bên là sự tôn
vinh không sao hiểu nổi, một bên là sự đồi
trụy của cùng một thực thể thánh linh và trong
cùng các hệ thống tôn giáo – thường phạm
phải các sai lầm nực cười nhất. Giáo
hội cứ khăng khăng bám lấy từng sai sót
một trong lối thuyết minh sơ khai, đă biến
Dĩ Thái thành chất liệu để xây dựng chỗ
trú của các đạo âm binh Quỷ vương. Ta thấy
có đủ toàn bộ các Thiên Thần “Sa đoạ,”(“the
“Fallen” Angels) nào là “Các Đấng Gánh Vác Vũ Trụ,” (World
Bearers) theo Bossuet; nào là “Các Đấng Chưởng Quản
Thế Giới” (“World Holders”) theo lối nói của
Tertullian; nào là các “Quyền Lực Thống Trị Thế
Giới” (“World Domination”) hay đúng hơn là các “Đấng
Thống Trị Thế Giới” (“Dominators”), nào là
“Đấng bị Uốn Cong” (“Curved”) v.v….; các Đấng
này làm cho các tinh tú vận chuyển theo đúng quỹ
đạo của chúng – đó là Ma Quỷ (Devils)!
45
V́ Giáo hội đă thuyết minh câu thơ
như thế: “V́ chúng ta không chiến đấu chống
lại máu xương, mà ta chống lại vương
quyền, quyền lực và các kẻ cầm đầu các
lực lượng u minh trên thế giới.” (1) Thánh Paul đề cập
đến các ác tính (malices)
tinh thần (trong bản tiếng Anh là “sự độc
ác”), LAN TRÀN TRÊN KHÔNG (SPREAD IN THE AIR) –
spiritualiae nequitiae coelestibus (2)
– các bản văn tiếng La Tinh đặt nhiều tên cho
các “ác tính” này, tức các “Hành khí” vô tội (the innocent
“Elementals”). Nhưng lần này Giáo hội lại đúng,
mặc dù sai khi gọi tất cả đều là Ma
Quỷ. Tinh Tú Quang (the Astral Light) hay Dĩ Thái hạ
đẳng (lower Ether) đầy dẫy các thực thể
hữu thức, bán ư thức và vô thức; có điều
Giáo hội không đủ sức chế ngự chúng như
là chế ngự các vi trùng vô h́nh hay loài muỗi.
Người ta có thể thấy sự dị
biệt giữa bảy trạng thái của Dĩ Thái – chính
Dĩ Thái là một trong bảy Nguyên khí Vũ Trụ - trong
khi mà Hậu thiên khí (Aether) của cổ nhân lại là Lửa Vũ Trụ (Universal Fire)
– trong các huấn điều lần lượt của
Zoroaster và Psellus. Zoroaster dạy: “Chỉ nên quan tâm
đến cái ǵ vô h́nh”, tức là không cháy (which means without
flames or burning coals). Psellus dạy: “Đừng quan tâm
đến h́nh hài sắc tướng, hăy tuân phục cái ǵ
vô h́nh, v́ đó chính là lửa
thiêng, và nó sẽ thiên khải chân lư cho bạn”. (1) Điều này chứng
tỏ rằng đến lượt Dĩ Thái – chính là
một trạng thái của Tiên thiên khí (Ăkăsha) – lại có
nhiều “trạng thái”.
Tất cả mọi quốc gia đời
xưa đều thần thánh hoá Hậu thiên khí (Aether) trong
trạng thái vô lượng và mănh lực của nó. Thi
sĩ Virgil gọi Jupiter là Tối Đại Hậu thiên
khí Bản sơ (Pater Omnipotens
Aether, the “Great Aether”).(2) Dân
Ấn Độ, cũng đang thần thánh hoá nó với
danh xưng Tiên thiên khí, tổng hợp của Hậu thiên
khí. Và tác giả triết hệ Phần tử đồng
chất (Homoeomerian) tức Anaxagoras of Clazomenae, tin chắc
rằng người ta t́m được các nguyên kiểu
tinh thần của vạn hữu, cũng như các yếu
tố của chúng trong Hậu thiên khí vô biên; chúng bắt
nguồn từ đó, tiến hoá từ đó và quay về
đó – thật là một giáo lư Huyền bí.
Như thế rơ rệt là ư niệm đầu
tiên về một Thượng Đế Sáng Tạo nhân
h́nh xuất phát từ Hậu thiên khí, trong trạng thái
tổng hợp cao siêu nhất đă từng
được nhân h́nh hoá. Đối với các triết
gia Ấn Độ, các Hành (Elements) có tính chất tịnh (tamas) nghĩa là “không
được trí năng soi sáng, mà lại c̣n làm mờ
tối trí năng.”
46
Nay chúng ta phải xem xét hết mọi vấn
đề ư nghĩa huyền học của “Hồng nguyên khí Bản sơ” (“Primordial
Chaos”) và Nguyên khí Bản sơ (the Root-Principle), cũng
như vạch ra làm thế nào mà trong các triết thuyết
thời xưa, chúng liên hệ được với Tiên
thiên khí, đă được dịch sai là Hậu thiên khí,
và cũng như với Hăo Huyền (Măyă, Illusion) mà
Ĩshvara là trạng thái dương của nó. Chúng ta
sẽ bàn thêm về “Nguyên khí” trí
tuệ (the intelligent “Principle”),
hay đúng hơn là các tính chất vô h́nh phi vật chất trong các yếu tố vật
chất hữu h́nh, chúng “phát xuất từ Hồng nguyên
khí Bản sơ.”
V́ trong bộ Nữ
Thần Isis Lộ Diện người ta đă hỏi
là: “Trừ Hậu thiên khí ra th́ Hồng nguyên khí c̣n là ǵ
nữa bây giờ?” Không phải là Ether hiện đại (the mordern
Ether) mà người ta thừa nhận ngày nay, song
lại là Dĩ Thái mà các triết gia thời xưa đă
biết từ lâu rồi trước thời Moses – Hậu
thiên khí với tất cả mọi tính chất bí nhiệm
và huyền linh, bao hàm các mầm mống sáng tạo vũ
trụ. Hậu thiên khí Thượng
đẳng (the Upper Aether),
tức Tiên thiên khí là Trinh Nữ Thiên Giới (the Celestial Virgin)
và Mẹ của vạn hữu; Vật Chất và Bản
Sinh (Life), Thần Lực (Force) và Tác Động (Action)
được sản sinh ra trong ḷng của nó, ngay khi mà
chúng được Tinh Thần Thiêng Liêng (the Divine Spirit)
“ấp ủ”. Hậu thiên khí là Tiên thiên huyền nữ
(Aditi) của dân Ấn Độ và chính là Tiên thiên khí. Ngay
cả hiện nay, khi các sự kiện mới mẻ
đang không ngừng mở rộng tầm hiểu biết
của chúng ta, chúng ta vẫn c̣n chưa hiểu
được bao nhiêu về điện, từ lực, nhiệt
và ánh sáng. Ai biết được năng lực của
con quái vật biến h́nh khổng lồ này – Hậu thiên
khí (Aether) sẽ chấm dứt nơi đâu, hoặc là nó
có nguồn gốc bí hiểm từ đâu? Chúng tôi muốn
nói là ai dám chối bỏ sự kiện Tinh Thần tác
động bên trong nó và khiến cho tất cả mọi
sắc tướng đều xuất phát từ đó mà
tiến hoá ra?
Thật là dễ dàng mà chứng tỏ rằng các huyền thoại vũ trụ khởi nguyên luận trên khắp thế giới đều được dựa vào kiến thức của các bậc tiền bối trong các lănh vực khoa học ngày nay đang liên kết với nhau để bênh vực cho thuyết tiến hoá. Các cuộc khảo cứu thêm nữa có thể chứng tỏ rằng các bậc tiền bối này c̣n quen thuộc với sự kiện “tiến hoá,” bao hàm khía cạnh vật chất lẫn khía cạnh tinh thần – hơn chúng ta ngày nay nhiều.
Đối với các triết gia thời
xưa, sự tiến hoá là một định lư
đại đồng vũ trụ, một học
thuyết bao trùm tổng thể và một nguyên lư xác
định; trong khi đó, các nhà theo thuyết tiến hoá
hiện đại của chúng ta chỉ có thể tŕnh bày
cho ta các lư thuyết suy đoán; với các định lư đặc thù (particular),
nếu không muốn nói là tiêu
cực. Các vị tiêu biểu cho nền học thuật
hiện đại thật là vội vàng khi kết liễu
cuộc tranh căi, lấy cớ rằng đă giải
quyết xong vấn đề, chỉ v́ cách hành văn
mơ hồ của Moses mâu thuẫn với lối
thuyết minh xác định của “Khoa học Chính xác”
(“Exact Science”).(1)
Nếu lật Bộ
Luật Bàn Cổ (the Ordinances of Manu) ra, ta sẽ thấy
nguyên kiểu của tất cả mọi ư niệm này.
Đối với thế giới
Tây phương, mặc dù nguyên bản của chúng
đă thất truyền, mặc dù sau này đă bị
biến nghĩa v́ đă bị thêm thắt vào, chúng vẫn
hoàn toàn duy tŕ được tinh thần cổ truyền
đủ để bộc lộ đặc tính của
ḿnh.
“[Sau
khi đă xua tan bóng đêm]”, Đấng Tự Sinh Tự
Tại (the Self-existent Lord) [Vishnu, Nărăyana v.v….] bắt
đầu biểu lộ, …[và] v́ muốn tạo ra các
thực thể khác nhau từ chính cơ thể [Bản
thể - Essence] ḿnh, trước hết Ngài chỉ tạo
ra nước thôi; rồi Ngài gieo giống trong nước.
Nó trở thành một quả trứng bằng vàng (a golden
egg)”. (1)
47
Đấng Tự Sinh
Tự Tại này phát xuất từ đâu? Nó
được gọi là CÁI NÀY (THIS), và được xem
như là “U minh (Darkness), bất khả trí giác, không có tính
chất xác định, không thể phát hiện, bất
khả tri, dường như hoàn toàn hôn thụy”. (2)
Đă ngự trong Quả Trứng này trong suốt
một Năm Thiêng Liêng (a whole Divine Year), Đấng
“được thiên hạ mệnh danh là Brahmă” (3) bửa đôi Quả
Trứng ra, Ngài tạo ra trời bằng phần trên,
tạo ra đất bằng phần dưới, tạo ra
bầu trời và “vùng nước vĩnh viễn” (4) bằng phần giữa.
Tuy nhiên, ngay sau các câu thơ này, có một
điều ǵ quan trọng hơn đối với chúng ta,
v́ nó hoàn toàn bổ chứng cho các giáo lư nội môn của
chúng ta. Từ câu thơ 14 đến câu thơ 36,
người ta tŕnh bày sự
tiến hoá theo tŕnh tự được mô tả trong
Nội môn Bí giáo. Không thể nào chối căi được
điều này. Ngay cả Medhătithi, con của Virasvămin, tác
giả của tập Giảng lư Manubhăsya, được viết ra vào năm 1000
sau T. C. (theo các nhà Đông phương học ở Tây
phương), cũng giúp chúng ta với các nhận xét
để làm sáng tỏ sự thật. Ông cũng thật
tỏ ra không muốn tŕnh bày nhiều hơn nữa, v́ ông
biết có những điều không được tiết
lộ cho thế nhân, nếu không, ông sẽ thực sự
là bị điên đầu (he was really puzzled). Thế mà
những ǵ ông tŕnh bày cũng đủ khiến cho ta
thấy được nguyên khí thất phân nơi con
người và Thiên Nhiên.
Chúng ta hăy bắt đầu với Chương I của Luật Bàn Cổ, sau khi Đấng Tự Sinh Tự Tại, Thượng Đế vô hiện (the unmanifesting Logos) của “U Minh” Bất khả tri (the Unknown “Darkness”) bắt đầu biểu lộ trong Kim Noăn (Golden Egg). Chính là từ Trứng này, từ
11. “Đấng Nam Nhi (Male) mà thiên hạ
gọi là Brahmă xuất phát từ Cái vốn là nguyên nhân
cố kết [chưa biến phân – undifferentiated], vĩnh cửu,
hiện tồn và chẳng hiện tồn”, tức là
từ Quả Trứng này.
Ở
đây, cũng như là trong mọi tiến bộ chân chính khác,
ta đều thấy “Quả trứng,” hay Ṿng Tṛn, hay
số Zero, Vô cực Vô biên (Boundless Infinity), được
đề cập tới như là “Nó” (“It”) (1) c̣n Brahmă, Nhất Nguyên
Bản Sơ, sẽ được đề cập
tới như là Thượng Đế Dương (Male God),
tức Nguyên khí sinh sản. Nó là hay 10 (mười), Thập Nguyên (Decad).
Nó được gọi là Brahmă trên cảnh giới
của Thất Nguyên (Septenary), tức là thế giới
của chúng ta. Trên cảnh
giới của Thập Nguyên
Thống Nhất (Unified Decad), trong thế giới
Thực Tại, Brahmă dương này là một Hăo Huyền
(Illusiom).
14. “Từ Bản Ngă (Ătmanah) Ngài tạo ra Thần Trí (Mind), nó vốn hiện tồn và
chẳng hiện tồn, và từ Thần Trí, Ngài
tạo ra Ngă Thức [Self-Consciousness] (a) Đấng trị
v́ (b) Đấng Chúa Tể.
(a)
Thần Trí là Manas. Ở đây Medhătithi, nhà b́nh giải,
nhận xét rất đúng rằng ngược lại
mới phải, và chứng tỏ rằng đă có những
điều thêm thắt và sắp xếp lại. V́ chính
Thần Trí mới xuất phát từ Ahamkăra tức Ngă Thức
(Vũ Trụ), cũng như Thần Trí con người
xuất phát từ Toàn Linh Trí (Mahat) tức Đại
Bồ Đề (Mahă-Buddhi) (Buddhi nơi con người). V́
Thần Trí gồm có hai phần. Theo như Colebrooke tŕnh bày
và dịch thuật: “Thần Trí vừa
dùng để tri giác,
vừa dùng để hành động; do ái lực, nó là
một cơ quan có cùng bản chất với phần c̣n
lại”;([11])
có nghĩa là Thần Trí, Nguyên Khí thứ Năm của chúng
ta (thứ năm, v́ thể
xác được gọi là nguyên khí thứ nhất, điều này ngược
lại với trật tự đích thực của
triết học) có áp lực với cả Linh Tố - Tuệ
Giác (Ătmă-Buddhi) lẫn Bốn Nguyên Khí hạ đẳng. V́
thế, giáo lư của chúng ta mới đây dạy rằng
Thượng Trí (Manas) theo Linh Tố - Tuệ Giác vào Cực
Lạc (Devachan), c̣n Hạ Trí (Lower Manas) – nghĩa là tàn
dư của Manas - ở lại với Cảm Dục
Thể (Kăma Rũpa) nơi Địa Ngục, tức
Cảm Dục Giới (Kăma Loka) vốn đầy dẫy
các “Ma H́nh” (“Shells”).
48
(b) Đó là ư nghĩa của Manas, vốn
“hiện tồn và chẳng
hiện tồn”. Medhătithi
dịch điều này là “Đấng có ư thức về
bản ngă” tức Chơn Ngă (Ego), chứ không phải là
“Đấng trị v́” (“the ruler”) theo lối dịch
của các nhà Đông phương học. Họ cũng
dịch đoạn thơ sau đây như thế:
16. “Đă khiến cho
các phần tử tinh anh của sáu thứ [Đại Ngă và
năm giác quan] sáng chói vô cùng nhập vào các yếu tố
của bản ngă (ătmamătrăsu),
([12])
Ngài cũng sáng tạo ra vạn hữu.”
Theo Medhătithi, nên thuyết minh nó là mătrăbhih ([13])
thay v́ ătmamătrăsu, và như thế sẽ là:
“Đă dùng các yếu
tố của Bản Ngă thấm nhuần các phần tử
tinh anh của sáu thứ sáng chói vô cùng, Ngài đă sáng tạo
ra vạn hữu.”
Lối thuyết minh sau ắt là phải
đúng, v́ Ngài, Bản Ngă (Self), là cái mà ta gọi là Linh
Tố (Ătmă), và như thế cấu thành nguyên khí thứ
bảy, tổng hợp của “sáu
thứ”. Đó cũng là ư kiến của vị chủ
biên bộ Mănava-Dharma-Shăstra,
ông h́nh như là đă dùng trực giác thấu triệt
được triết lư này hơn là người dịch
bộ “Luật Bàn Cổ” (“Ordinances of Manu”), cố Tiến
sĩ Burnell; v́ ông chẳng do dự bao nhiêu giữa bản
văn của Kullũka Bhatta và phần Giảng lư của
Medhătithi. Bác bỏ tanmătra,
tức các yếu tố tinh anh, và ătmamătrăsu của
Kullũka Bhatta, áp dụng các nguyên khí vào Càn Khôn Ngă (the Cosmic
Self), ông nói:
“Sáu thứ trên đúng
hơn có vẻ là thần trí
(manas) cộng thêm năm nguyên khí
dĩ thái, phong, hoả, thuỷ, địa; ‘đă kết
hợp năm phần tử của sáu thứ này với
yếu tố tinh thần [yếu tố thứ bảy], Ngài sáng tạo ra vạn hữu
(như thế đó)’… Do đó, ătmamătra là vi tử tinh
thần (the spiritual atom), trái với vi tử sơ cấp
(the elementary), chứ không phải là các ‘yếu tố
phản xạ’ của chính Ngài.”
Thế là ông sửa lại bản dịch
của câu thơ 17:
“V́ các yếu tố tinh
anh của h́nh hài sắc tướng của Đấng này
tuỳ thuộc vào sáu thứ trên, v́ vậy kẻ sáng
suốt gọi h́nh hài của ḿnh là Sharĩra.”
Và ông nói thêm rằng ở đây “các yếu
tố” có nghĩa là các phần tử (tức các nguyên khí).
Câu thơ 19 xác minh như sau:
“(Vũ
Trụ) không vĩnh cửu bấy giờ xuất lộ
từ cái vĩnh cửu, nhờ vào các yếu tố tinh anh
của các h́nh hài của bảy nguyên khí (Purusha) cực kỳ
rực rỡ này.”
B́nh luận về phần hiệu đính
của Medhătithi, vị chủ biên nhận xét: “Năm
yếu tố cộng với
thần trí [manas] và ngă
thức [ahamkăra](1) có lẽ có nghĩa là “các
yếu tố tinh anh” như trước kia có nghĩa là
“năm phần tử tinh anh của h́nh hài” [tức các
nguyên khí].” Câu thơ 20 chứng tỏ điều này, khi nói
về năm yếu tố này tức “năm phần
tử tinh anh của h́nh hài” (sắc tướng cộng với thần trí và
ngă thức), cho rằng chúng cấu thành “bảy Purusha”
tức bảy nguyên khí, trong Thánh kinh Purănas, chúng được gọi là “thất
đại”(“ seven prakritis”).
49
Thêm nữa, câu thơ 27 nói tới “năm
yếu tố” hay “năm phần tử” này như là
“những thứ được gọi là các phần
tử huỷ diệt vi tử” và do đó “phân biệt
với các vi tử của trường phái triết
học Nyăya” (Trường phái Luận Lư).
Đấng Brahmă sáng tạo này, xuất phát
từ Vũ Trụ Noăn hay Kim Noăn (the Mundane or Golden Egg)
kết hợp nơi bản thân cả nguyên khí âm lẫn
nguyên khí dương. Nói tóm lại Ngài cũng chẳng khác
nào tất cả mọi tiền thân của Thượng
Đế (Protologoi). Tuy nhiên, không thể nói về Brahmă
như là Đấng Tạo Hoá (Dionysos) [Ngài được
sinh ra trước tiên, lưỡng tính, có ba trạng thái;
Ngài là Tửu Thần Bacchus, thánh thiện, không
được phép công khai đề cập đến, có
hai sừng, lưỡng phân] – một Jehovah nguyệt tinh,
Tửu Thần Bacchus chân chính, với David khoả thân
nhảy múa trước biểu
tượng của Ngài trong cái bè – bởi v́ không có
đại lễ Dionysia dâm loạn nào đă từng
được cử hành nhân danh Ngài cũng như là
để tôn vinh Ngài. Tất cả mọi sự sùng bái
công khai như thế đều là ngoại môn và khắp
nơi trên thế giới người ta đều xuyên
tạc các đại biểu tượng của vũ
trụ, chẳng hạn như hiện nay, nhóm Vallabăchăryas
ở Bombay, tức các tín đồ của một
Thượng Đế hài
đồng (infant God),
đang xuyên tạc các biểu tượng của Krishna.
Nhưng các vị thần b́nh dân này có đúng thực là Thượng
Đế không? Họ có
phải là Đỉnh cao và tổng hợp của tạo
vật thất phân, kể cả con người không?
Chẳng bao giờ! Dù là tín đồ Tà giáo hay tín
đồ Thiên Chúa giáo, mỗi thứ đều chỉ là
một trong các nấc thang của chiếc thang thất phân
của Linh Thức (Divine Consciousness). Người ta nói là
Ain Soph biểu lộ thông qua Bảy
Chữ của danh xưng Jehovah (the Seven Letters of Jehovah’s
name), đă tước đoạt mất địa
vị của Vô Biên Bất Khả Tri (the Unknown Limitless),
Ngài đă được tín đồ hiến dâng lên
Bảy Thiên Thần Bản Lai Diện Mục (Seven Angels of
the Presence) tức Bảy Nguyên Khí
(Seven Principles). Song trong
hầu hết mọi trường phái đều có
đề cập đến các Ngài. Trong triết thuyết
Sănkhya (Số Luận) thuần tuư, toàn linh trí (mahat), ngă
thức (ahamkăra) và năm cơ bản kích lượng (tanmătras) được
gọi là Thất Đại
(seven Prakritis) hay bảy
Bản Chất (Natures) và được tính từ Đại Bồ Đề (Mahă-Buddhi), tức Toàn Linh Trí
xuống tới Địa (Earth). (1)
Tuy nhiên, cho dù lối thyết minh nguyên bản duy Elohim của Ezra có bị
các giáo sĩ Do Thái xuyên tạc đến đâu đi
nữa, cho dù ư nghĩa nội
môn trong các cuộn sách bằng tiếng Hebrew đôi khi có
bị che đậy hay giấu giếm đến
đâu đi chăng nữa so với dáng vẻ bề
ngoài, một khi mà các đoạn kinh duy Jehovah đă bị loại bỏ đi,
người ta sẽ thấy là các Thánh thư của Moses,
nhất là sáu chương đầu, đầy dẫy các
kiến thức huyền linh thật là vô giá.
50
Khi nghiên cứu mà lại được
bộ Thánh kinh Do Thái Bí giáo trợ
lực, người ta t́m thấy một Thánh điện
chân lư huyền linh vô song; một giếng nước
đẹp một cách bí hiểm, ẩn dưới một
công tŕnh kiến trúc. Cách kiến trúc hữu h́nh của công
tŕnh này, dù là bề ngoài có vẻ cân đối, vẫn không
đủ sức chịu nổi sự chỉ trích của
lư trí lạnh lùng, hoặc là không thể tiết lộ
thời đại của ḿnh, v́ nó thuộc về mọi
thời đại. Trong các chuyện ngụ ngôn của các
Thánh kinh Puranas và các Thánh kinh Thiên Chúa giáo, có ẩn tàng nhiều minh triết hơn là tất
cả mọi khoa học và sự kiện ngoại môn trong
nền văn chương của thế giới và có
ẩn tàng Huyền bí học chân chính với mức
độ nhiều hơn là kiến thức chính xác
chứa trong tất cả mọi Hàn lâm viện. Hoặc
nói một cách giản dị và quyết liệt hơn,
trong một vài phần của Thánh kinh Puranas và bộ Ngũ
Kinh Cựu Ước của hiển giáo, minh triết
nội môn cũng nhiều chẳng kém ǵ những
điều vớ vẩn và hoang tưởng ấu trĩ
nếu chúng được thuyết minh theo lối
chấp nê văn tự “chết người” (murderous
interpretations) của các tôn giáo lớn có khuynh hướng
giáo điều và nhất là các giáo phái.
Bạn cứ thử đọc các câu thơ
đầu của Sáng Thế
Kư rồi suy gẫm chúng. Trong đó, Thượng
Đế chỉ huy một “vị thần” khác thi hành mệnh lệnh
của Ngài – Ngay cả trong bản dịch tiếng Anh
cẩn thận, có thẩm quyền và thuộc giáo hội
Tin Lành của Vua James I.
Lúc đầu – trong tiếng Hebrew không có
từ ngữ nào để diễn tả ư niệm vĩnh
cửu (1) – Thượng
Đế tạo ra Trời và
Đất; Đất c̣n là
hư không và vô h́nh, trong khi mà Trời thực ra chẳng
phải là Trời ǵ cả, mà chỉ là Thái Uyên (Deep), Hồng nguyên khí (Chaos), trên
mặt là u minh. ([14])
“Tinh thần (Thần Đức – Bản
dịch của Thánh Kinh) của Thượng Đế di
chyển (vận hành – Thánh Kinh) trên mặt nước (1) tức là Thái Uyên (Great Deep)
của Không gian Vô cực (Infinite Space). Tinh Thần này là Nără-yana tức Vishnu”.
51
“Chúa phán: “Hăy có lấy một bầu trời…”
(i, 6), “Chúa” thứ nh́ tuân lời và “tạo ra một bầu trời.” (I, 7) “Chúa phán hăy
có lấy ánh sáng” Thế là “có ánh sáng.” Bấy giờ ánh sáng
chẳng có nghĩa là ánh sáng ǵ cả, song – theo như trong
Thánh kinh Do Thái Bí giáo đó là
“Adam Kadmon” bán thư bán hùng, tức là Sephira (Ánh Sáng Tinh Thần – Spiritual Light) v́ chúng là một.
Theo Số Mục Thánh Thư của
dân
Quyển Số
Mục Thánh Thư của
dân Chaldea dạy: “Ánh Sáng Đại Đồng (Universal
Linght) Thế giới duy nhất đối với con
người lại là U minh
(Darkness), bao giờ cũng tồn tại”. Từ đó
xuất phát ra một cách định kỳ Năng lượng vốn dĩ được
phản ánh trong Thái Uyên, tức Hồng nguyên khí, hàm tích các
Thế giới vị lai, và một khi đă
được khơi hoạt, nó sẽ khởi
động và vận dụng các Thần lực tiềm
tàng bao giờ cũng được hàm tích bên trong nó.
Bấy giờ các Đấng Brahmăs và Phật – các Thần
lực đồng vĩnh cửu – sẽ lại hoạt
động và một Vũ Trụ mới sẽ sinh ra.
Trong quyển Sepher
Yetzireh, tức Sáng Tạo Thánh Thư của Do Thái Bí
giáo, tác giả rơ rệt là đă lặp lại lời
của Đức Bàn Cổ. Trong tác phẩm này,
người ta đă diễn tả Chất Liệu Thiêng
Liêng (the Divine Sustance) như là đă tồn tại
đơn độc từ vô thuỷ vô biên và tuyệt
đối, cũng như là đă xạ ra Tinh Thần
từ chính ḿnh.(1)
“Nhất Nguyên là Tinh Thần của Thượng Đế
sống động, Ngài được vinh danh và sống
măi. Huyền Thanh (Voice), Tinh Thần và Huyền Âm (Word) chính
là Thánh Thần (Holy Spirit)”. (2)
Đó chính là Tam Nguyên trừu tượng của Do Thái Bí
giáo, được các Đức Cha trong Thiên Chúa giáo nhân
h́nh hoá một cách phóng túng biết bao. NHẤT
NGUYÊN tam phân (this triple ONE) này xạ ra toàn thể Càn
Khôn. Trước hết, từ NHẤT
NGUYÊN xạ ra Lưỡng Nguyên, hay Phong (Air) (Từ
Phụ - the Father), Hành sáng tạo (the creative Element); rồi
tới TAM NGUYÊN (THREE), tức Thuỷ (water) (Từ Mẫu –
the Mother), xuất phát từ Phong; Dĩ Thái (Ether) hay Hoả
(Fire) hoàn chỉnh hoá Tứ Nguyên Huyền Nhiệm (the Mystic
Four), tức Arbo-al.(3) “Khi
Đấng Vô Thượng Huyền Vi muốn biểu lộ,
trước hết Ngài khiến cho một Điểm
[Điểm Sơ Thuỷ, tức là đệ nhất
Sephira, (1) Phong hay Thánh Thần (Air or
Holy Ghost),] được đào luyện thành một H́nh
linh thiêng [Mười Sephiroth tức Thiên Đế (Heavenly
Man)] rồi khoác lên nó một bộ Xiêm Y lộng lẫy, đó là thế giới.”([15])
Để chứng tỏ tính cách Vũ Trụ
của các Hành sau này được lịch sử hoá
thần thoại và Tinh Thần thấm nhuần mọi
nguyên tử trong Càn Khôn, Thánh thư Yetzireh đă dạy: “Ngài
khiến cho Gió trở thành các Sứ giả của ḿnh,
Lửa trở thành Bầy tôi của ḿnh.” ([16])
52
Một số người gọi “Chất
liệu nguyên thuỷ” (“primordial Substance”) này là Hồng nguyên khí (Chaos). Plato và
các môn đồ phái Pythagoras gọi nó là Linh Hồn của Vũ Trụ, sau khi nó đă
được thấm nhuần bởi Tinh Thần của
cái vẫn chờn vờn
trên Mặt Nước Bản Sơ (the Primeval Waters),
tức Hồng nguyên khí. Các
tín đồ Do Thái Bí giáo cho rằng chính nhờ vào việc
được phản ánh trong đó mà Nguyên khí chờn
vờn mới tạo ra cái
tṛ ảo hoá của một Vũ Trụ biểu lộ
hữu h́nh. Trước khi phản chiếu, đó là Hồng nguyên khí (Chaos), sau khi
phản chiếu, đó là Dĩ
Thái (Ether), song đó vẫn là Thượng Đế
thấm nhuần Không gian và vạn hữu. Đó là Tinh
Thần vô h́nh, vô lượng của vạn vật,
cũng như là lưu chất vô h́nh song vẫn quá rơ
rệt tuôn ra từ ngón tay của người chữa
bệnh bằng từ điển, v́ nó là Điện Sinh
lực, là BẢN SINH (LIFE
itself). Hầu tước Mirville đă gọi diễu nó là
“Đấng Đại Hùng mờ mịt”(“nebulous Almighty”);
cho tới lúc đó, nó vẫn được các nhà Thông
thần học (Theurgists) và các nhà Huyền bí học
(Occultists) gọi là sinh Hoả (“living Fire”);(1) chẳng
một người Ấn Độ nào hành một pháp môn
thiền định nào đó vào buổi ban mai mà lại
không biết tới các tác dụng của nó. Nó là “Tinh
Thần của Ánh Sáng” (“Spirit of Light”) và là Magnes. Một đối thủ diễn
đạt rất đúng rằng Pháp sư (Magus) và Magnes là hai
nhánh mọc ra từ cùng một thân cây và sẽ tạo ra
cùng một kết quả. Và trong việc mệnh danh “Sinh
Hoả” này, ta cũng có thể t́m ra ư nghĩa của
một câu bí hiểm trong Thánh thư Zend Avesta: có một Linh Hoả đem lại
sự hiểu biết về tương lai, khoa học và
ngôn từ thân hữu”; nghĩa là nó phát triển một
năng lực hùng biện phi thường nơi cô
đồng, nhà thông linh và ngay cả một vài nhà diễn
giả.
Trong tất cả mọi Thánh thư của
Ấn Độ, cũng như trong các tác phẩm của
Do Thái Bí giáo, người ta đều nói tới Linh
Hoả này (this “Fire”). Thánh kinh Zohar
giải thích nó như là “lửa trắng ẩn tàng trong Risha Havurah” (Bạch Thủ -
the White Head), Ư Chí của Ngài khiến cho lưu chất
lửa này lưu chuyển thành 370 ḍng theo mọi
hướng của Vũ Trụ. Nó đồng nhất
với “Con Rắn phóng được 370 bước”
của Siphra Dzenioutha. Khi “Con
Người Toàn Thiện” (“Perfect Man”) tức Metatron trổi dậy, nghĩa là Linh
Ngă ngự trong Phàm NHơn, Con Rắn trên sẽ trở thành
Tinh Thần tam phân, tức
Linh Tố - Tuệ Giác-Thượng Trí (Ătmă-Buddhi-Manas) theo
lối nói của Minh Triết Thiêng Liêng. (1)
53
Như thế Tinh Thần, Tức Thiên Ư
Hồng Nguyên (Cosmic Ideation) và Chất Liệu Càn Khôn (Cosmic
Substance) – một trong “các nguyên khí” của Chất Liệu
Càn Khôn là Dĩ Thái – đều là một và bao gồm cả các HÀNH (ELEMENTS) theo nghĩa mà Thánh Paul dùng. Các Hành này
là phần tổng hợp ẩn tàng tượng trưng
cho các Thiền Định Đế Quân, các Thiên Thần,
Sephiroth, Amshaspends, các Tổng Thiên Thần (Archangels) v.v…. Có
thể nói là ether của khoa học – Ilus của Berosus, tức nguyên h́nh chất (protyle) của hoá học –
cấu thành vật liệu tương đối thô thiển từ đó các nhà
“Kiến Tạo” nêu trên tạo ra các hệ thống trong Càn
Khôn theo kế hoạch đă được vạch ra cho
họ một cách vĩnh cửu trong TƯ
TƯỞNG THIÊNG LIÊNG. Chúng ta được bảo
cho biết rằng chúng là các “thần thoại.” Chúng tôi xin
đáp: Ether và các nguyên tử cũng thế thôi. Ether và các
nguyên tử rất là cần thiết đối với
vật lư học, cũng như là các nhà “Kiến Tạo”
rất là cần thiết đối với siêu h́nh
học. Chúng ta bị đả kích: “Bạn có thấy họ đâu”.
Thế th́ chúng tôi xin hỏi lại các nhà duy vật : “Quư
vị có thấy Ether, nguyên
tử hay là LỰC không? Hơn nữa, một trong các
nhà tiến hoá luận lỗi lạc nhất của Tây
phương hiện nay, cùng với Darwin “khám phá” ra
Thuyết tiến hoá, ông A. R. Wallace – khi bàn về việc
một ḿnh Sự Chọn Lọc Tự Nhiên không đủ
để biện minh cho h́nh hài vật chất của Con
Người – đă thừa nhận rằng có các
“Đấng thông tuệ cao minh” hướng dẫn
tiến tŕnh này; đó là một phần “tất yếu của các đại luật chi
phối Vũ Trụ vật chất.” (1)
Các “Đấng thông tuệ cao minh” này chính là
Thiền Định Đế Quân của các nhà Huyền bí
học.
Thật vậy, trong bất cứ hệ
thống tôn giáo nào cũng vậy, rất ít Thần
thoại xứng đáng với danh xưng này, chúng chỉ
có một cơ sở lịch
sử cũng như là một cơ sở khoa học. Pococke đă
nhận xét rất đúng là “Nay tuỳ theo ta hiểu lầm các Thần
thoại bao nhiêu mà chúng tỏ ra là các chuyện hoang đường bấy
nhiêu và tuỳ theo ta quán
triệt được chúng bao nhiêu mà chúng tỏ ra là
các chân lư bấy nhiêu.”
Liên quan tới cuộc Tiến Hoá Vũ Trụ và tạo vật đầu tiên của Địa Cầu chúng ta với mọi sản phẩm hữu cơ và vô cơ (đây thật là một từ ngữ xa lạ với nhà Huyền bí học!) trong mọi giáo lư cổ truyền đều có nổi bật lên một ư niệm, đó là: “Toàn thể Càn Khôn đều xuất phát từ TƯ TƯỞNG THIÊNG LIÊNG.” Tư Tưởng này thấm nhuần Vật Chất, vốn cộng sinh Vĩnh cửu với THỰC TẠI ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ (ONE REALITY). Toàn thể chúng sinh đều tiến hoá bắt nguồn từ các Phân thân của Đấng Độc Nhất bất biến tức Thái Cực Thượng Đế - Mũlaprakriti, Cội Rễ Duy Nhất bất diệt, (from the Emanations of the ONE Immutable, Parabrahman-Mũlaprakriti, the eternal One-Root). Trong trạng thái của Tâm Điểm Hướng Nội (Central Point) (tạm nói như thế) vào các vùng hoàn toàn bất khả tư nghị, là sự hườn hư tuyệt đối; trong khi mà trạng thái Hỗn nguyên khí (Mũlaprakriti), Cội nguồn vĩnh cửu của vạn vật, ít nhất nó cũng khiến ta lờ mờ thấu hiểu được Bí nhiệm Hiện Tồn (the Mystery of Being).
54
Do đó trong các nội điện,
người ta dạy rằng Vũ Trụ hữu h́nh của
Tinh Thần và Vật Chất này chỉ là H́nh ảnh
cụ thể của sự Hườn Hư lư
tưởng (the ideal Abstraction), nó được kiến
tạo dựa vào Mô thức của Thiên Ư Bản Sơ (the
first Divine Idea). Như thế từ vô thuỷ, Vũ
Trụ đă tồn tại trong một trạng thái
tiềm tàng. Linh Hồn làm linh động Vũ Trụ
thuần tinh thần này chính là Mặt Trời Trung
Ương, Thần Linh tối cao. Nó không phải là
Đấng Kiến Tạo h́nh hài cụ thể của ư niệm,
mà lại là Đấng Bản Lai (the First-Begotten); v́ nó
được kiến tạo theo dạng h́nh học
của khối thập nhị diện,([17])
nên Đấng Bản Lai
“mới vui ḷng dùng 12 000 năm để sáng tạo”. Trong vũ
trụ khởi nguyên luận của Tyrrhenia,([18])
người ta đă tŕnh bày con số 12 000 năm và
chứng tỏ rằng con người được
tạo ra vào năm thứ 6 000. Điều này phù hợp
với thuyết 6 000 ([19])
của Ai Cập và phù hợp với tính toán của dân
Hebrew. Nhưng đó chỉ là h́nh thức ngoại môn
của nó. Phép tính toán bí nhiệm giải thích rằng “12 000
và 6.000 năm” là các Năm của Brahmă, một ngày của
Brahmă bằng 4.320 000 000 năm. Trong Vũ Trụ Khởi
Nguyên Luận (Cosmogony) của ḿnh, Sanchuniathon đă tuyên
bố rằng khi Phong (Tinh Thần) đâm ra mê các nguyên khí
của chính ḿnh (Hồng nguyên khí), một sự kết
hợp mật thiết diễn ra, mối liên kết này
được gọi là Pothos và mầm mống của
vạn vật đều sinh ra từ đó. Hồng nguyên
khí chẳng hề biết tới sản phẩm của
chính ḿnh, v́ nó vô tri vô giác; nhưng nó bao lấy Phong (Wind), Mơt
hay Ilus (Bùn - Mud) ([20])
được tạo ra. Từ đó xuất phát ra các
mầm mống sáng tạo và Vũ Trụ được
sản sinh ra từ đó.([21])
Zeus-Zẽn (Hậu thiên khí - Aether) và quí phu nhân
là Chthonia (Đất Hỗn Nguyên – Chaotic Earth) cùng với
Metis (Nước - Water); Osiris – cũng tiêu biểu cho
Hậu thiên khí, phân thân thứ nhất của Thần Linh
Tối Cao Amun, cội nguồn bản sơ của Ánh Sáng
– và Isis-Latona, cũng lại là Nữ Thần Địa và
Thuỷ (the Goddess Earth and Water); Mithras,([22])
vị Thần sinh ra từ đá, biểu tượng
của Lửa Vũ Trụ Dương (the male Mundane Fire),
tức là Ánh Sáng Nguyên Thuỷ (Primodial Light) được
nhân cách hoá, và Mithra, Nữ Thần Hoả, vừa là vợ
vừa là mẹ của Ngài – hành Hoả thuần tuư, nguyên
khí dương tích cực, coi như là ánh sáng và nhiệt,
cùng với Thuỷ và Địa tức vật chất,
yếu tố âm tiêu cực của sự sinh sản vũ
trụ - Mithras vốn là con của Bordj, vũ trụ
sơn của Ba Tư (the Persian mundane mountain);([23])
Ngài loé ra từ đó như là một tia sáng chói lọi,
Brahmă, tức Hoả Thần và vị phu nhân mắn
đẻ; Hoả Thần Agni của Ấn Độ,
từ cơ thể vị Thần rực rỡ này xạ
ra một ngàn luồng huy hoàng và bảy ngọn lửa;
tới nay, để tôn vinh Ngài, một số người
Bà La Môn vẫn duy tŕ lửa trường tồn; núi Tu Di,
vũ trụ sơn của dân Ấn Độ đóng vai
Shiva, Hoả Thần khủng khiếp; trong huyền
thoại có nói là Ngài từ trên trời giáng xuống,
giống như Jehovah của dân Do Thái, “trong một vũ
trụ lửa”, và một tá các Thần Linh lưỡng tính
cổ sơ khác – tất cả đều huênh hoang tuyên bố
ư nghĩa ẩn tàng của ḿnh. Ư nghĩa lưỡng phân
của các thần thoại này c̣n ǵ khác hơn là nguyên lư tâm
- hoá học (the psycho-chemical principle) của tạo vật
nguyên thuỷ chăng? Cuộc Tiến hoá thứ Nhất
biểu lộ thành ba phần: Tinh Thần, Lực và
Vật chất, đó là ư nghĩa thứ nhất; ư
nghĩa thứ hai: sự tương hệ thiêng liêng, lúc
đầu, nó được tŕnh bày dưới h́nh
thức ẩn dụ như là cuộc phối ngẫu
giữa Hoả và Thuỷ, các sản phẩm của Tinh
Thần cấp điện (electrifying Spirit) – Sự kết
hợp của nguyên khí dương tích cực với yếu
tố âm tiêu cực – Tinh Thần sản sinh ra đứa
con của đất, tức là Vật Chất Càn Khôn
(Cosmic Matter), Vật Chất Nguyên Thuỷ (the Prima Materia),
Linh Hồn của nó chính là Hậu thiên khí (Aether) và H́nh Bóng
của nó chính là Tinh Tú Quang (the Astral Light) !(1)
Nhưng nay, các điều
vụn vặt khởi nguyên luận mà ta thu thập
được, đă bị bác bỏ, xem như là các
chuyện ngụ ngôn phi lư. Tuy nhiên, Huyền bí học – vốn
vẫn c̣n tồn tại sau trận Đại Hồng
Thuỷ đă nhận ch́m những người Khổng
lồ đương thời, cuốn theo các kư ức
của họ, ngoại trừ những ǵ c̣n
được ghi lại trong Giáo Lư Bí Nhiệm, Thánh kinh Thiên
Chúa giáo và các Thánh kinh khác – vẫn c̣n nắm giữ ch́a
khoá giải tất cả mọi vấn đề nan
giải của thế giới.
55
Thế th́ chúng ta thử dùng Ch́a Khoá này
để giải các điều vụn vặt hiếm có
của các Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận đă từng
bị quên lăng từ lâu rồi, và nhờ vào các phần
rời rạc này, ra sức kiến tạo lại cái đă
từng là Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận Đại
Đồng Thế Giới (the Once Universal Cosmogony) của
Giáo Lư Bí Nhiệm. Ch́a khoá này thích ứng với tất
cả. Không một ai đă từng nghiên cứu một cách
nghiêm túc các triết học cổ truyền này mà lại
không thấy được rằng tất cả
đều rơ rệt là đồng một quan niệm khi
xét về tinh thần ẩn tàng (luôn luôn như vậy)
cũng như là h́nh thức ngoại môn (rất thường
là như vậy). Đó không phải chỉ là kết
quả của một sự trùng hợp ngẫu nhiên, song
đó chính là một sự hội tụ hữu ư.
Người ta cũng thấy rằng, khi nhân loại c̣n
non trẻ, khi chua có các giáo hội, tín ngưỡng hay giáo
phái, và khi mọi người đều tự tu tự
chứng, th́ chỉ có một ngôn ngữ duy nhất,
một minh triết duy nhất, một tôn giáo đại
đồng thế giới duy nhất. Và nếu,
người ta chứng tỏ được rằng trong
các thời đại sơ khai này, do việc càng ngày càng có
nhiều truyền thống, chúng ta không c̣n t́m
được dấu vết của các thời
đại này nữa, nếu suy tư tôn giáo của con
người đă phát triển đồng đều, không
mâu thuẫn nhau, ở khắp nơi trên thế giới;
bây giờ, hiển nhiên là dù hiện hữu ở bất
cứ nơi đâu, từ Nam chí Bắc, từ Đông sang
Tây, nếp suy tư này cũng được cảm
ứng bởi cùng một sự thiên khải, và hiển
nhiên là con người đă được nuôi
dưỡng và che chở dưới bóng của cùng MỘT
CÂY MINH TRIẾT (the same TREE OF KNOWLEDGE).
56
TIẾT 4
HỒNG NGUYÊN KHÍ: THƯỢNG ĐẾ:
CÀN KHÔN
(CHAOS:
THEOS: KOSMOS)
CẢ ba thứ trên đều được
chứa trong Không gian; một tín đồ Do Thái Bí giáo có
học thức uyên bác đă định nghĩa nó như
sau: “Không gian, cái không chứa đựng ǵ song lại bao
trùm vạn vật là hiện thân của bản sơ
nhất nguyên đơn giản … sự bành trướng vô
tận.”(1) Nhưng ông
lại hỏi: “Sự bành trướng vô tận của
cái ǵ?” – thế rồi, ông đă trả lời rất
đúng là: “Cái bao trùm vạn
vật bất khả tri, không gian, Nguyên nhân bản sơ
bất khả tri.” Xét theo mọi khía cạnh của Giáo
lư Huyền bí, đó là một định nghĩa và một
câu giải đáp chính xác nhất, huyền bí nhất và
đúng với chân lư nhất.
Do sự vô minh và do có khuynh hướng tôn thờ h́nh tượng, nhằm triệt hạ mọi ư niệm triết học của cổ nhân, các kẻ ra vẻ thông thái hiện nay đă tuyên bố rằng Không gian là một “ư niệm trừu tượng” và là hư không. Thực ra, không gian là cái Bao trùm (Container) và là thể của Vũ Trụ với bảy nguyên khí. Theo lối nói Huyền linh, nó là một thể có tầm mức vô hạn, các NGUYÊN KHÍ (PRINCIPLES) của nó – đến lượt mỗi nguyên khí lại là một thất nguyên – chỉ biểu lộ trong Thế giới hiện tượng của chúng ta kết cấu thô thiển nhất của các tế phân của chúng (their sub-divisions). Giáo Lư Bí Nhiệm dạy rằng: “Chưa có ai thấy được trọn vẹn các Hành (Elements).” Chúng ta phải t́m kiếm Minh Triết trong các thành ngữ và các từ ngữ đồng nghĩa nguyên bản của các dân tộc thời xưa. Ngay cả dân Do Thái, dân tộc cận đại nhất trong các dân tộc sơ khai cũng tŕnh bày ư niệm giống như vậy trong các giáo lư của Do Thái Bí giáo, khi họ đề cập tới Con Rắn bảy đầu tức Không gian, được gọi là “Đại Hải” (“the great Sea”).
Thoạt đầu, Alhim
tạo ra Trời và Đất; Sáu [Sephiroth] … Các Ngài tạo
ra Lục Nguyên (Six) và vạn vật đều
được dựa vào lục nguyên này. Và Lục Nguyên
này lại tuỳ thuộc vào bảy
h́nh thức của cái Sọ (Cranium) măi cho tới
Chức Sắc Tối Cao (the Dignity of all Dignities). (1)
Nay trong mọi
quốc gia, Phong (Wind), Khí
(Air) và Tinh Thần bao giờ
cũng đồng nghĩa với nhau. Pneuma (Tinh Thần)
và Anemos (Phong) trong tiếng Hy Lạp, Spiritus và Ventus trong tiếng La Tinh đều là các
từ ngữ có thể dùng thay thế cho nhau, cho dù là chúng
đă không có liên hệ ǵ với ư niệm nguyên thuỷ
“Sinh Khí” (the Breath of Light). Nơi các “Lực” (“Forces”) của
khoa học, chúng ta chỉ thấy tác dụng vật chất của hiệu quả tinh thần của một trong bốn Hành nguyên
thuỷ, được Giống dân thứ Tư (the Fourth
Race) truyền cho chúng ta cũng như chúng ta sẽ
truyền Dĩ Thái, hay đúng hơn là tế phân thô trược
của nó một cách trọn vẹn cho Căn Chủng
thứ Sáu (the Sixth Root-Race).
57
“Hồng nguyên khí”(“Chaos”) được Cổ
nhân gọi là vô tri vô giác
(senseless), bởi v́ – Hồng nguyên khí đồng
nghĩa với Không gian – nó tiêu biểu cho và bao hàm tất
cả mọi Hành ở trạng thái sơ khai của
biến phân. Cổ nhân đă biến Dĩ Thái, Hành thứ
năm, thành tổng hợp của bốn hành kia; v́ Dĩ
Thái của các triết gia Hy Lạp không phải là các
cặn bă của nó, mặc dù thật ra họ biết
về các cặn bă này nhiều hơn là khoa học hiện
nay; chúng đă được giả định chính xác
như là một tác nhân (agent, phương tiện) để
cho nhiều thần lực biểu lộ trên Trần
Thế. Dĩ Thái của họ chính là Tiên thiên khí (Ăkăsha)
của người Ấn Độ; ether được
chấp nhận trong vật lư học chẳng qua chỉ là
một trong các tế phân của nó trên cảnh giới
của chúng ta tức Tinh Tú
Quang của tín đồ Do Thái Bí giáo với tất
cả mọi tác dụng tốt cũng như xấu.
Xét v́ Tinh hoa của Hậu thiên khí (the Essence of Aether), tức Không Gian Vô H́nh (Unseen Space), được xem như thiêng liêng cũng như là Bức Màn giả định của Thượng Đế (the supposed Veil of Deity) nên nó được xem như môi trường trung gian giữa kiếp này và kiếp sau. Cổ nhân cho là các Đấng Thông Tuệ lănh đạo tích cực – các Thần Linh – triệt thoái khỏi bất cứ phần Dĩ Thái nào trong Không gian của chúng ta, tức là bốn lĩnh vực (realms) mà các Ngài giám sát, bấy giờ vùng đặc biệt này bị bỏ mặc cho phe ác (evil) v́ nó không có yếu tố Thiện (Good).
Sự tồn tại của Tinh Thần trong
Chất trung gian (Mediator) thông thường, tức chất
Dĩ Thái, bị chủ nghĩa Duy vật chối bỏ;
trong khi Thần học biến nó thành một Thượng
Đế Nhân H́nh (Personal God). Nhưng tín đồ Do Thái Bí
giáo lại chủ trương rằng cả hai
đều sai, y nói rằng trong Dĩ Thái, các Hành chỉ
tiêu biểu cho Vật Chất, các Thần Lực Vũ
Trụ mù quáng của Thiên Nhiên (the blind Cosmic Forces of Nature);
trong khi Tinh Thần tiêu biểu cho Đấng Thông Tuệ
điều động chúng. Các vũ trụ khởi nguyên
luận của dân Aryan, Hermes, Orpheus và Pythagoras cũng
như là của Sanchuniathon và Berosus đều dựa vào
một công thức không thể nào bài bác được,
đó là: “Hậu thiên khí và Hồng nguyên khí – tức
Thần Trí (Mind) và Vật Chất (Matter) theo lối nói
của Platon – là hai nguyên khí tối sơ và vĩnh cửu
của Vũ Trụ, hoàn toàn độc lập với
bất cứ thứ nào khác.” Hậu thiên khí là nguyên khí trí tuệ
làm linh hoạt vạn vật, trong khi Hồng nguyên khí là
một nguyên khí lưu chất và vô h́nh, vô tri vô giác. Khi hai
thứ trên kết hợp lại, Vũ Trụ - hay đúng
hơn Thế Giới Đại Đồng. Thần Linh
Bản sơ bán thư bán hùng (Androgynous Deity) –
được sản sinh ra; Vật Chất Hỗn Mang
(Chaotic Matter) trở thành Thể của nó c̣n Ether trở
thành Linh Hồn của nó. Theo lối nói trong một Áng
văn của Hermes th́ “Do kết hợp với Tinh
Thần, Hồng nguyên khí,(1)
tức Protogonos được tạo ra như thế
đó.” Đó là Tam Nguyên vũ trụ (the universal Trinity)
dựa vào các quan niệm siêu h́nh của Cổ nhân. Do lư
luận bằng phép loại suy, Cổ nhân biến con
người – vốn là tổng hợp của Trí Năng và
Vật Chất – thành Tiểu Thiên Địa của
Đại Thiên Địa.” (2)
“Thiên nhiên ghê
sợ khoảng không”(“Nature abhors a Vacuum”) đó là lời
tuyên bố của những người theo Triết
thuyết Tiêu dao (Peripatetics). Mặc dù theo đường
lối duy vật, có lẽ họ cũng thấu triệt
được lư do tại sao Democritus, cùng với sư
phụ là Leucippus, lại dạy rằng các nguyên khí bản
sơ của vạn vật trong Vũ Trụ là các Nguyên
tử và một chân không (a
vacuum). Chân không chỉ có nghĩa là Thượng
Đế tiềm tàng tức
Thần Lực trước khi bắt đầu biểu
lộ - tức là khi nó trở thành Ư CHÍ, truyền xung
lực đầu tiên cho các nguyên tử này – đó là
đại Hư Không (great Nothingness), Ain Soph, tức HƯ VÔ (NO-THING);
và do đó, theo đủ mọi nghĩa, chính là Thái Không
(Void) hay HỒNG NGUYÊN KHÍ.
58
Tuy nhiên, theo Plato và các môn đồ phái
Pythagoras, Hồng nguyên khí này trở thành “Linh Hồn Vũ
Trụ”. Theo Ấn Độ Giáo, Thượng Đế
thấm nhuần vạn vật dưới h́nh thức
Hậu thiên khí hay Tiên thiên khí. Do đó, nó được các
Thông thần gia (the Theurgists) gọi là “Sinh Hoả” (“Living
Fire”), “Tinh Thần của Ánh Sáng” (“Spirit of Light”), và đôi
khi được gọi là Magnes.
Theo Plato, chính Đấng Thần Linh tối cao đă
kiến tạo Vũ Trụ theo dạng h́nh học của
Khối thập nhị diện (the Dodecahedron), và
“Đấng bản lai” (“first-begotten”) của nó
được sinh sản từ Hồng nguyên khí và Ánh Sáng
Nguyên Thuỷ tức Mặt Trời Trung Ương. Tuy
nhiên, Đấng “Bản Lai” (“First-Born”) này chỉ tập hợp
Đại đoàn các “Đấng Kiến Tạo”, các
Thần Lực kiến tạo bản sơ, trong các vũ
trụ khởi nguyên luận cổ truyền, người
ta gọi các Ngài là các Đấng
Tối Cổ (the Ancients),
sinh ra từ Thái Uyên (the Deep) tức Hồng nguyên khí và
“Huyền Điểm Bản Sơ” (“First Point”). Ngài chính là
Tứ Linh Tự (the Tetragrammaton), đứng đầu
Bảy Sephiroth hạ đẳng. Đó cũng là tín
ngưỡng của dân
Các người dân Chaldea này có ư kiến rằng Càn Khôn, trong đám vạn hữu [?], là một Điểm đơn giản, hoặc chính nó là Thượng Đế (Theos) hoặc cái bản thân nó là Thượng Đế, bao gồm cả Linh Hồn vạn vật”. (1)
Hồng nguyên khí, Thượng Đế và Càn
Khôn chẳng qua chỉ là ba trạng thái (2) của cái tổng hợp
chúng lại tức KHÔNG GIAN. Nếu cứ chấp nê văn
tự của các triết thuyết xưa và nay,
người ta sẽ không tài nào giải được bí
nhiệm của Tứ linh
diệu này (this Tetraktys).
Nhưng, cho dù HỒNG NGUYÊN KHÍ,
THƯỢNG ĐẾ, CÀN KHÔN = KHÔNG GIAN, đều
luôn luôn được đồng nhất hoá như là Không
Gian Độc Nhất Vô Nhị bất khả tri, có
lẽ là chúng ta không tài nào quán triệt được
vấn đề này trước khi có cuộc Tuần Hoàn
thứ Bảy (Seventh Round). Tuy nhiên, ngay cả trong Thánh kinh Purănas ngoại môn, các ẩn
dụ và các biểu tượng siêu h́nh về KHỐI VUÔNG bản sơ hoàn thiện (the primeval and perfect CUBE)
thật là đáng lưu ư.
Brahmă cũng là Thượng Đế, tiến hoá ra từ Hồng nguyên khí, tức là Thái Uyên, Thuỷ. Tinh thần = KHÔNG GIAN, được nhân cách hoá bởi các ayana [các thời kỳ] - Tinh Thần đang di chuyển trên mặt Càn Khôn vô biên vị lai – đang âm thầm lởn vởn trên mặt Thái Uyên, khi nó vừa tỉnh dậy. Nó cũng là Vishnu, ngủ trên con Ananta, Shesha, Đại Xà Vĩnh Cửu (the great Serpent of Eternity). V́ không biết tới Thánh kinh Do Thái Bí giáo, ch́a khoá duy nhất giải được các bí nhiệm của Thánh kinh, nên thần học Tây phương mới biến Con Rắn này thành ra Ma Quỷ. Nó là tam giác bản sơ tức tam nguyên của Pythagoras, “Thượng Đế Ba Ngôi” (“God of the three Aspects”), trước khi nó được biến thành “tứ diện” Brahmă (the “four-faced” Brahmă), nhờ vào phép Cầu phương của Ṿng Tṛn Vô Cực. Đức Bàn Cổ, vốn là nhà soạn luật, đă dạy: “Về Đấng vốn Hiện Tồn và chẳng hiện tồn; Purusha (Tinh Thần) tức Hiện Tồn sinh ra từ Thái Không, Nguyên Nhân Vĩnh Cửu.
59
Trong thần thoại Ai Cập, Kneph,
Thượng Đế Vô Hiện Vĩnh Cửu (the Eternal
Unrevealed God) được tượng trưng bởi
biểu hiện của một con rắn vĩnh cửu
quấn quanh cái vạc đựng nước, đầu
rắn chờn vờn trên mặt nước; đang phà
hơi để ấp ủ nước. Trong
trường hợp này, Con Rắn là Agathodaimơn, Chơn Linh
Thiện Hảo (the Good Spirit), c̣n trong trạng thái
đối nghịch, nó là Kakodaimơn, Vong Linh ác hiểm. Nó tiêu
biểu cho việc dùng Nước sáng tạo ra Vũ
Trụ và được coi như là nguyên khí sáng tạo
tiêu cực trong các thần thoại ở phương
Bắc. Trong tuyển tập thần thoại Edda của
Bắc Âu, giọt mật, tức trái cây của các Thần
Linh và là thành quả của các con ong sáng tạo bận
rộn trên cây Yggdrasil, rơi xuống ban đêm, khi bầu
khí quyển ẩm ướt. Giọt mật này là một
trong các phối hợp của Tinh Tú Quang, và có tính chất
sáng tạo, cũng như tính chất huỷ hoại. Trong
huyền thoại của dân Chaldea về Berosus, Oannes hay
Dagon, người cá giáo hoá dân chúng, vạch rơ rằng
Thế giới hài đồng (the infant World)
được sáng tạo ra từ Nước, và vạn
hữu đều xuất phát từ Vật Chất Nguyên
Thuỷ này. Moses dạy rằng chỉ có Thuỷ và
Địa mới có thể khiến cho Linh Hồn tồn
tại được. C̣n trong các Thánh kinh, chúng ta
đều thấy là cỏ không thể nào mọc
được chừng nào mà Đấng Vĩnh Cửu
chưa tạo ra mưa trên Trần Thế. Trong Thánh kinh
Popol Vuh của Mễ Tây Cơ, con người
được sáng tạo ra từ bùn hay đất
lấy từ dưới Nước. Brahmă sáng tạo
đại Muni, tức con người bản sơ (first
man), chỉ ngự trên Toà sen sau khi đă khiến cho các vong
linh – vốn có quyền ưu tiên tồn tại so với
thế nhân – bắt đầu tồn tại, và Ngài dùng
Thuỷ, Phong và Địa tạo ra chính ḿnh. Các nhà
luyện kim đan xác nhận rằng Hành Địa nguyên
thuỷ, khi được phân giải thành chất
liệu bản sơ, lại ở trong giai đoạn
biến hoá thứ nh́ giống như là Nước trong giai
đoạn biến hoá thứ nhất chính là Alkahest.
Người ta nói là chất liệu nguyên thuỷ này bao hàm
tinh hoa của mọi yếu tố cấu thành con
người; nó bao hàm không những mọi yếu tố
vật chất, mà lại c̣n “sinh khí” ở trạng thái
tiềm tàng, sẵn sàng khơi hoạt. Nó kế thừa
điều này do việc Tinh Thần của Thượng
Đế “ấp ủ” trên mặt nước tức
Hồng nguyên khí. Chính Paracelsus đă tự cho rằng ḿnh có
thể tạo ra các Người lùn (Homunculi) bằng
chất liệu này; v́ thế, triết gia tự nhiên
lỗi lạc Thales mới chủ trương rằng
Thuỷ là nguyên khí của vạn vật trong thiên nhiên ([24])
… Job dạy rằng các vật đă chết
được tạo ra từ dưới Nước và
các dân cư nơi đó. ([25]) Trong nguyên bản, thay v́ “các
vật chết” người ta lại viết là các Rephaim
(Ma), các Người khổng lồ và các Người
tối cổ hùng cường đă chết; một ngày
kia, chúng ta sẽ truy nguyên được giống dân
hiện nay của ta từ cuộc Tiến hoá của
họ.”([26])
Trong quyển Thần
Thoại Ấn Độ của Polier có nói: “Trong
trạng thái sáng tạo nguyên thuỷ, vũ trụ sơ
khai ch́m ngập trong nước và yên nghỉ trong ḷng
của Vishnu. Xuất phát từ trạng thái hỗn mang và u
minh này, Brahmă, kiến trúc sư của vũ trụ,
ngự thăng bằng trên một lá sen, nổi lềnh
bềnh (di chuyển) trên mặt nước và chẳng
thể nhận ra được ǵ ngoại trừ
nước và bóng tối.” Thấy một t́nh trạng
sự vật đáng buồn như vậy, Brahmă bàng hoàng
tự hỏi: “Ta là ai? Ta từ đâu ra?” Bấy giờ,
Ngài nghe một tiếng nói vang lên: ([27])“Hăy
hướng tư tưởng tới Đấng Thế
Tôn”. Đang ở tư thế bơi, Brahmă ngồi vùng
dậy, tĩnh toạ trên toà sen để nhập
định và tham thiền về Đấng Vĩnh
Cửu. Hài ḷng trước bằng chứng về ḷng
mộ đạo này, Đấng Vĩnh Cửu vén bức
màn u minh bản sơ và khai trí Brahmă. “Sau đó Brahmă
được xạ ra từ Vũ Trụ Noăn [Hồng
nguyên khí Vô cực] như ánh
sáng, v́ nay Ngài đă được khai trí và Ngài bắt
đầu công tác. Ngài di
chuyển trên mặt
Nước vĩnh cửu, bao hàm tinh thần của
Thượng Đế trong ḿnh, với tư cách
Đấng Di Chuyển trên
mặt Nước, Ngài chính là Vishnu tức Nărăyana.”
60
Điều này dĩ nhiên là có tính cách
ngoại môn, song ư tưởng chân chính của nó vẫn
đồng nhất hết mức với vũ trụ
khởi nguyên luận của Ai Cập. Trong các câu mở
đầu, vũ trụ khởi nguyên luận của Ai
Cập đă tŕnh bày Athtor tức Mẫu Dạ (Mother Night),
tiêu biểu u minh vô tận, như là yếu tố bản
sơ bao trùm vực sâu vô tận, được Thuỷ và
tinh thần vũ trụ của Đấng Vĩnh Cửu
làm cho linh hoạt, một ḿnh ngự trong Hồng nguyên khí.
Cũng vậy, trong các Thánh kinh của dân Do Thái, lịch
sử sáng tạo mở màn với Tinh Thần của
Thượng Đế và Phân thân sáng tạo của Ngài –
Một Thần Linh khác. ([28])
Thánh kinh Zohar dạy
rằng chính các yếu tố bản sơ – Tam nguyên
Hoả, Phong và Thuỷ - bốn phương hướng,
và tất cả mọi Thần Lực của Thiên Nhiên, khi
xét chung lại, hợp thành TIẾNG
NÓI của Ư CHÍ, Memrab, tức “Huyền Âm,”
Thượng Đế của TỔNG
THỂ Thanh Tịnh Tuyệt Đối (the Absolute
Silent ALL). “Điểm bất
khả phân, vô biên và bất khả tri” trải ra khắp
không gian, và như thế tạo thành một bức màn,
Hỗn nguyên khí (Mũlaprakriti) của Thái Cực
Thượng Đế (Parabrahman) đang che giấu
Điểm Tuyệt Đối này.
Trong vũ trụ khởi nguyên luận của
mọi quốc gia, chính các “Kiến Trúc Sư” – tổng
hợp lại thành Đấng Tạo Hoá, trong Thánh kinh gọi là Elohim tức
Alhim – tạo ra Càn Khôn từ Hồng nguyên khí và là Tập Thần (Theos) thư
hùng, Tinh Thần và Vật Chất. “Nhờ vào một
loạt (yom) của nền
tảng (hasoth), Alhim đă
khiến cho trời và đất tồn tại được”(1). Trong Sáng Thế Kư, trước hết là Alhim, rồi
tới Jahva-Alhim và cuối cùng là Jehovah – sau khi có sự phân
chia giới tính ở chương thứ tư. Nên lưu ư
ngoại trừ trong các vũ trụ khởi nguyên luận sau này hay đúng hơn là
cuối cùng của Giống dân thứ Năm (Fifth Race),
về vấn đề sự Sáng Tạo Vũ Trụ,
không ở đâu mà ta t́m thấy được DANH XƯNG không thể phát âm
(unutterable NAME) (2) – biểu tượng
của Thượng Đế Bất Khả Tri vốn
chỉ được sử dụng trong các BÍ PHÁP (MYSTERIES) – Đó là các
Đấng Chuyển Động (the Movers), Chạy
Nhảy (the Runners), tức các Thần Linh (the Theoi) thi hành
công tác đào tạo, các “Sứ giả” (“Messengers”) của
Thiên Luật của Chu Kỳ Khai Nguyên (Manvantaric Law) nay
trở thành các “Sứ giả” của Thiên Chúa giáo (Malachim).
Trong Ấn Độ giáo hoặc Bà La Môn giáo, h́nh như
cũng thế. V́ trong Thánh kinh Rig
Veda, Đấng Sáng Tạo không phải là Brahmă mà chính là
các Prajăpatis, các “Đấng Hiện Tồn” (“Lords of Being”),
các Ngài cũng là các Thánh
Hiền (Rishis). Theo Giáo sư Mahadeo Kunte, từ ngữ
Thánh Hiền vốn có liên quan tới từ ngữ di
chuyển, đưa đến, được áp dụng
cho các Ngài xét về tính cách thế tục, khi các Ngài dẫn
dắt Quần chúng tới Bảy Con Sông (the Seven Rivers).
61
Thêm nữa, từ ngữ “Thần” (“God”) khi
dùng ở dạng số ít, bao hàm tất cả Chư
Thần (the Gods) tức Theoi – đă đến với các
quốc gia văn minh hàng đầu từ một nguồn
gốc kỳ lạ, nguồn gốc này cũng hoàn toàn có
tính cách sùng bái sinh thực khí, chẳng khác nào tượng
dương vật trắng trợn Lingam của dân Ấn
Độ. Người ta không c̣n ra sức gán cho Thượng Đế là
chuyển hoá từ của tiếng Anglo-Saxon Tốt (Good), v́ trong các ngôn ngữ khác,
từ tiếng Ba Tư Khoda cho
tới tiếng La Tinh Deus người
ta đă không hề t́m thấy rằng danh xưng của
Thượng Đế bắt nguồn từ thuộc tính
Tốt đẹp (Goodness).
Đối với dân La Tinh, nó bắt nguồn từ
tiếng Ăryan Dyaus (Ngày – the
Day); đối với dân Slave, nó bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp Bacchus (Bagh-bog);
và đối với dân Saxon, nó trực tiếp bắt
nguồn từ tiếng Hebrew Yod
hay Jod. Jod là chữ số 10, thư hùng (male anh female), c̣n
Yod là cái móc câu (hook) có tính
cách sùng bái sinh thực khí. V́ thế, mới có tiếng Saxon
Godh, tiếng Đức Gott và tiếng Anh God. Người ta có thể
nói rằng từ ngữ biểu tượng này tiêu
biểu cho Đấng Sáng Tạo ra phần Vật
Chất của Nhân Loại (the Creator of Physical Humanity) trên
cơi trần, nhưng chắc chắn rằng nó chẳng có
ǵ liên quan tới Sự Đào Tạo, hay “Sáng Tạo” ra
hoặc Tinh Thần, hoặc là Chư Thần hay Càn khôn?
Hồng nguyên khí-Thượng Đế-Càn
Khôn, tức Thượng Đế Tam Phân (the Triple Deity) là tổng thể trong tổng
thể (all in all). Do đó, người ta nói rằng nó
th́ thư và hùng, thiện và ác, tích cực và tiêu cực, và
hàng loạt các tính chất đối lập khác. Khi tiềm
tàng trong
Đến lượt Đơn Vị Tam Phân
này (this Triple Unit) lại tạo ra Tứ Đại Bản
Sơ (the Four Primary Element).(1)
Trong Thiên Nhiên hữu h́nh trần thế của chúng ta, chúng
được biết như là Thất Hành (đến nay
chỉ mới có ngũ), mỗi Hành có thể
được chia làm bốn mươi chín – bảy
lần bảy - trong đó có khoảng bảy mươi
nguyên tố quen thuộc với hoá học. Mọi Hành
Vũ Trụ, như là Phong, Hoả, Thuỷ, Địa
đều có các đặc tính và các khuyết điểm
của Hành Sơ Thuỷ, đều có bản chất
Thiện và Ác, Sức Mạnh hay Tinh Thần và Vật
Chất v.v….; do đó, mỗi Hành đồng thời
vừa là Sự Sống vừa là Sự Chết, vừa là
Sức Khoẻ vừa là Bệnh Tật, vừa là Tác
Động, vừa là Phản Động. Bị thúc
đẩy không ngừng bởi Hành Độc Nhất Vô Nhị,
Bất Khả Tư Nghị (được tiêu biểu
bởi Hậu thiên khí trong thế giới hiện
tượng) chúng bao giờ cũng tạo thành Vật
Chất. Đó là “Chư thần bất tử sản sinh
ra và bảo dưỡng vạn vật.”
Trong các Tác phẩm
Triết học của Solomon Ben Yehudah Ibn Gebirol, khi bàn
về cấu trúc Vũ Trụ, người ta dạy là:
R. Yehudah bắt đầu viết: “Elohim phán: Hăy có lấy một bầu trời ở giữa nước.” (Sáng Thế Kư I,6). Xem nào! Vào lúc mà Đấng Thánh Linh (Holy)…sáng tạo ra thế giới, Ngài đă sáng tạo 7 từng trời ở Trên. Ngài đă sáng tạo ra 7 từng đất ở Dưới, 7 đại dương, 7 con sông, 7 tuần, 7 năm, 7 thời gian và 7 000 năm tồn tại của thế giới … Đấng Thánh Linh ở nơi ngàn năm thứ bảy.(1)
62
Ngoài việc tỏ ra đồng nhất
một cách kỳ diệu với vũ trụ khởi
nguyên luận của Thánh kinh Purănas,(2) điều này c̣n bổ
chứng cho tất cả mọi giáo lư của chúng ta liên
quan tới số bảy, như được tŕnh bày
một cách ngắn gọn trong Phật
Giáo Bí Truyền.
Dân Ấn Độ có vô số ẩn dụ
để diễn đạt ư niệm này. Cả Amrita,
tức Bất Tử và Visha tức Chất độc,
Sự chết, Điều ác đều ẩn tàng trong
Hồng nguyên khí Bản sơ, trước khi mà nó bắt
đầu phát triển thành ra Sapta Samudra, tức là Bảy
Đại dương – là biểu hiện của Bảy
Gunas, tức các Đặc tính có điều kiện,
được hợp thành bởi ba Gunas (Hoà, Động,
Tịnh – Sattva, Rajas, Tamas). Người ta thấy
điều này ẩn dụ về việc Chư Thần
khuấy động Đại dương. Amrita (Cam
lộ) không bị Guna (Bản lai tính) nào chi phối, v́
bản thân nó có tính chất vô điều kiện, nhưng
một khi bị lôi cuốn vào sự sáng tạo các
hiện tượng, nó trở nên bị trộn lẫn
với Ác, tức Hồng nguyên khí, với Thượng
Đế tiềm tàng trong nó trước khi mà Càn Khôn
tiến hoá. V́ thế ta thấy là Vishnu, hiện thân của
Chánh pháp bất diệt, cứ đều đều
khiến cho Càn Khôn bước vào hoạt động
một cách tuần hoàn. Nói theo lối ẩn dụ, từ
Đại dương sơ khai Hồng nguyên khí vô biên, Ngài
gạn lọc ra Cam lộ trường sinh, chỉ dành cho
Chư Thần và Chư Thiên, và để thực hiện
công tác này, Ngài phải dùng tới các Năgas (Rắn) và Asuras
(A-tu-la) tức Chư Thần Quỷ trong Ấn Độ
giáo ngoại môn. Toàn bộ ẩn dụ này có ư nghĩa
triết học rất thâm sâu; thật vậy, chúng ta
thấy nó được lặp đi lặp lại trong
mọi triết hệ cổ truyền. Nó có mặt trong
triết hệ của Plato, ông đă hoàn toàn kế thừa
các ư niệm mà Pythagoras đă du nhập từ Ấn
Độ, sưu tập và xuất bản chúng dưới
một h́nh thức dễ hiểu hơn là các chữ
số bí nhiệm nguyên bản của nhà hiền triết
Hy Lạp. Như thế, đối với Plato; Càn Khôn là
“Con;” Cha, Mẹ của nó là Tư Tưởng Thiêng Liêng và Vật
Chất. (1)
Dunlap cho rằng: “Người Ai Cập phân
biệt một Horus Già và một Horus Trẻ; Horus Già là anh của Osiris; Horus Trẻ là
Con của Osiris và
Sấm giảng
của dân Chaldea đề cập tới Thượng
Đế Vũ Trụ, vĩnh cửu, vô biên, trẻ và
già, có h́nh cong queo. (4) H́nh
“cong queo” (“winding form”) này là một h́nh ảnh để
diễn đạt chấn động của Tinh Tú Quang,
nó hoàn toàn quen thuộc với các giáo lư cổ truyền,
mặc dù danh xưng “Tinh Tú Quang” bị các môn đồ
của St.Martin chế ra.
63
Khoa học hiện đại đă giễu
cợt các điều mê tín dị đoan của sự sùng
bái vũ trụ. Tuy nhiên, theo lời khuyến cáo của
một nhà bác học Pháp, trước khi cười
nhạo nó, khoa học nên “hoàn toàn hiệu chính lại
hệ thống giáo dục vũ trụ linh vật học
của ḿnh” (cosmo-pneumatological education). Lắm lời song
lại chẳng có ư nghĩa bao nhiêu (Many words but little sense).
Giống như Phiếm thần luận, sự sùng bái
vũ trụ khi được tŕnh bày sau rốt, sẽ
phải được tŕnh bày tương tự như
kiểu Thánh kinh Purănas mô
tả Vishnu:
Ngài
chỉ là nguyên nhân lư tưởng của các mănh lực
được sáng tạo ra; các mănh lực được
sáng tạo này xuất phát từ Ngài, sau khi chúng đă
trở thành nguyên nhân có thực. Ngoại trừ nguyên nhân lư
tưởng độc nhất vô nhị này, từ ngữ
trên không thể nhắm nói tới một thứ nào khác
…Mọi tạo vật đều xuất hiện – theo
bản chất – nhờ vào mănh lực của nguyên nhân này. (1)
64
TIẾT 5
VỀ THƯỢNG ĐẾ ẨN TÀNG,
CÁC BIỂU TƯỢNG VÀ H̀NH TƯỢNG CỦA NGÀI
(ON THE HIDDEN DEITY, ITS SYMBOLS AND
GLYPHS)
TA phải truy nguyên tới tận cội
nguồn tối hậu và Bản Thể của
Thượng Đế (the Logos), tức Đấng Thánh
Linh Sáng Tạo (Creative Deity), “Linh từ lâm phàm” (“Word made
Flesh”) của mọi tôn giáo. Ở Ấn Độ, nó là
một con Quái vật (Proteus) biến h́nh có tới 1 008 danh
xưng và trạng thái thiêng liêng mỗi khi biến hoá nhân cách, từ Brahmă-Purusha, qua
Bảy Thánh Hiền thiêng liêng (the
Seven divine Rishis) và
Mười Prajăpatis bán thiêng
liêng (cũng là Thánh Hiền), xuống măi tới các Hoá Thân thần nhân (the divine-human Avatăras). Người
ta cũng thấy vấn đề làm điên đầu
này (the same puzzling problem) của “Nhất nguyên trong đa
nguyên” trong các đền thờ của Chư Thần khác.
Tại Ai Cập, Hy Lạp và Chaldea-Judea, các đền
thờ Chư Thần vốn hỗn độn lại c̣n
hỗn độn hơn nữa, khi tŕnh bày Chư Thần
– như là việc lịch sử hoá thần thoại –
dưới h́nh thức các Tộc Trưởng (Patriarchs).
Các Tộc Trưởng này nay đă được chấp
nhận bởi những người không xem
Trong Thánh kinh Zohar,
Ain Soph cũng là Nhất Nguyên Vô Cực (the Infinite Unity).
Rất ít các Đức Cha có học của giáo hội
biết được điều này, họ biết
rằng Jehovah không phải là thần linh “cao cả
nhất,” mà chỉ là một Mănh Lực kém cỏi (a third-rate Potency). Nhưng trong khi phàn nàn một cách cay đắng
về các tín đồ phái Ngộ Đạo (the Gnostics), và
nói rằng: “Các giáo sĩ đối lập của ta
chủ trương rằng PROPATƠR
chỉ quen thuộc với đứa con DUY NHẤT (the ONLY-BEGOTTEN
son) (1) [đó là Brahmă] nghĩa là
với Thần Trí [Nous],” trong Thánh thư bí nhiệm thực sự của ḿnh, Irenaeus đă
không thể nêu lên được rằng người Do
Thái cũng như vậy. Valentinus, “nhà bác học có kiến
thức uyên bác nhất của phái Ngộ Đạo”,
đă chủ trương rằng có một Aiơn hoàn
thiện tồn tại trước Thái Uyên (Bythos) [Tổ
phụ bản sơ của thiên nhiên khôn ḍ (the first Father of
unfathomable nature), vốn là Thượng Đế Ngôi Hai
(the Second Logos)] được gọi là Propatơr. Chính Ain Soph,
vốn không sáng tạo ra AIƠN này, c̣n AIƠN
th́ sáng tạo, hay đúng hơn th́ vạn vật
đều được sáng tạo ra hay tiến hoá ra qua
Aiơn. V́ môn đồ phái Basilides dạy rằng: “Có một
Thần Linh Tối Cao tức Abrasax,
Ngài tạo ra Bản Trí (Mind) [tiếng Bắc Phạn là Mahat; tiếng Hy Lạp là Nous). Từ Bản Trí xạ
ra Huyền Âm (the Word), tức Thượng
Đế; từ Huyền Âm xạ ra Thiên Hựu
(Providence) [đúng hơn là Linh Quang – Divine Light], rồi
từ nó xạ ra Đức Hạnh và Minh Triết nơi
các Thiên Thần Vương Tước (Principalities),
Quyền Lực (Powers), Chư Thiên (Angels)
65
v.v…. 365 Phân thân (Aeons) được các Thiên
Thần sáng tạo ra. “Thật vậy, trong số những
Đấng thấp thỏi nhất và tạo ra thế
giới này, Ngài [Basilides] xếp hàng chót trong tất cả
mọi Thần Linh của dân Do Thái, họ không chịu xem
Ngài là Thần Linh [điều này rất đúng] và
khẳng định rằng Ngài là một trong các Thiên
Thần”.
Ở đây, chúng ta cũng thấy một
hệ thống như là trong Thánh kinh Purănas, trong đó, Đấng bất khả tri
thả xuống một Mầm mống, nó trở thành Kim
Noăn, Brahmă được tạo ra từ Kim Noăn này. Brahmă
tạo ra Toàn Linh Trí (Mahat) v.v…. Tuy nhiên, Nội môn Bí giáo chân
chính chẳng hề nói về sự “sáng tạo” hay sự
“tiến hoá” theo nghĩa được dùng trong các tôn giáo
ngoại môn. Tất cả mọi quyền lực
được nhân cách hoá này không tiến hoá từ một
thứ khác, mà chỉ là nhiều trạng thái của
biểu lộ duy nhất của TỔNG THỂ TUYỆT
ĐỐI (THE ABSOLUTE ALL).
Cũng một hệ thống giống như
vậy, chẳng hạn như hệ thống các Phân thân
của phái Ngộ Đạo, chiếm phần ưu thắng
nơi các trạng thái Sephiroth của Ain Soph. Khi các trạng thái này biểu
lộ trong Không gian và Thời gian, các sự xuất
hiện lần lượt của chúng đều duy tŕ
được một trật tự nào đó. Do đó,
chúng ta không thể không lưu ư tới những thay đổi
lớn lao trong Thánh kinh Zohar
khi được các thế hệ Huyền học gia Thiên
Chúa giáo thuyết minh. V́ ngay cả trong siêu h́nh học
của bộ luật Do Thái Talmud,
người ta không bao giờ có thể đặt “Hạ
Dung” (“Lower Face”) hay “Tiểu Dung” tức Microprosopus, trên cùng
một cảnh giới lư tưởng trừu tượng
như là “Thượng Dung” hay “Đại Dung” tức
Macroproposus. Trong Thánh kinh Do
Thái Bí giáo của dân
66
Hầu hết các hệ thống của phái
Ngộ Đạo (the Gnostic systems) c̣n chưa
được truyền lại cho chúng ta, vốn bị
Đức Cha của Giáo hội cắt xén bớt đi,
chẳng c̣n ǵ khác hơn là các lớp vỏ méo mó lệch
lạc của các điều suy đoán về nguyên
bản. Hơn nữa, chúng cũng không bao giờ
được công bố cho
công chúng, v́ nếu ư nghĩa ẩn tàng hay nội môn bí giáo
của chúng mà được tiết lộ, nó sẽ không
c̣n là giáo lư nội môn nữa, và điều này sẽ không
bao giờ xảy ra. Marcus, lănh tụ của các môn
đồ phái mang tên ông, đă đạt đến
tột đỉnh vinh quang vào giữa thế kỷ
thứ nh́, và đă dạy rằng ta phải xét
Thượng Đế theo biểu tượng bốn vần (four syllables) –
đă ban ra nhiều giáo lư nội môn hơn bất cứ
tín đồ phái Ngộ Đạo nào khác. Nhưng ngay
cả ông ta cũng chẳng bao giờ quán triệt
được hết. V́ chỉ khi nào thuyết minh tác
phẩm: “Thiên khải
của ông một cách hời hợt theo lối chấp nê
văn tự th́ Thượng Đế mới h́nh thành
như là một Tứ Nguyên, tức là “Đấng Huư
Kỵ, Thanh Tịnh, Từ Phụ và Chân Lư”(“the Ineffable, the
Silence, the Father, and Truth”). Thực ra, điều này hoàn toàn
sai lầm và chỉ phổ biến thêm một vấn
đề bí hiểm c̣n bí hiểm hơn nữa. Giáo lư này
của Marcus cũng là giáo lư của các tín đồ Do Thái
Bí giáo thời sơ khai và cũng là giáo lư của chúng ta. V́
ông gán cho Thượng Đế số 30, với bốn vần, nếu được
dịch theo cách nội môn, chúng có nghĩa là một Tam Nguyên
(a Triad) hay một Tam giác
(Triangle), và một Tứ Nguyên (Quarternary) hay một H́nh
vuông (Square), tổng cộng là bảy;
trên cảnh giới thấp, chúng hợp thành bảy
chữ bí nhiệm hay thiêng liêng cấu thành danh xưng
của Thượng Đế. Điều này cần
phải được chứng minh. Trong tác phẩm Thiên khải (Revelation), khi
đề cập tới các bí nhiệm thiêng liêng
được diễn đạt nhờ vào các chữ và
các con số, Marcus đă tường thuật làm sao mà
“Tứ Nguyên Tối Cao giáng xuống ông với một h́nh hài nữ, từ vùng vô danh vô
h́nh – v́ thế giới không
thể có dáng vẻ nam nhi – và thiên khải cho ông “sự
sinh hoá vũ trụ,” điều mà từ trước đến nay chưa hề
được tiết lộ cho cả Thần lẫn
người.”
Câu thứ nhất đă có một ư nghĩa kép rồi. Tại sao thế giới lại dễ khoác lấy một dáng vẻ nữ hơn là một dáng vẻ nam trong khi xuất hiện? Xét một cách hời hợt, điều này h́nh như thật là vô nghĩa. Nhưng đối với kẻ nào đă quen thuộc với Ngôn ngữ Bí nhiệm thật là hoàn toàn rơ ràng và đơn giản. Nội môn Bí giáo (Esoteric Philosophy), tức là Minh Triết Huyền Bí (the Secret Wisdom), được tượng trưng bằng một h́nh hài nữ, trong khi dáng vẻ nam tượng trưng cho Bí nhiệm Ẩn tàng (Unveiled Mystery). V́ thế, khi chưa sẵn sàng đón dáng vẻ nam, thế giới không thể khoác lấy nó được và Marcus đă tŕnh bày tác phẩm “Thiên Khải” của ḿnh một cách ẩn dụ. Do đó ông cho rằng:
Khi mà thoạt tiên Cha nó [của Tứ Nguyên]… Đấng Bất Khả Tư Nghị, Vô hiện, Vô giới tính [Ain Soph của Do Thái Bí giáo] muốn rằng Đấng Huư Kỵ (Ineffable) của nó [Thượng Đế Ngôi Một, tức Phân Thân –Aeon] phải được sinh ra và Đấng Vô H́nh của nó (Its Invisible) phải được khoác lấy h́nh hài. Nó đă mở miệng (Its mouth opened) và thốt ra Huyền Âm giống như chính Nó. Huyền Âm này (Thượng Đế) gần như biểu lộ được chân tướng của nó và biểu lộ nơi h́nh hài của Đấng Vô H́nh. Nay tới việc thốt ra [Huư] Danh [thông qua Huyền Âm] theo lối này. Nó [Thượng Đế Tối Cao] đă thốt ra Từ ngữ đầu tiên của Danh xưng nó,… đó là sự phối hợp [vần] của bốn yếu tố [chữ]. Rồi sự phối hợp thứ hai (cũng là bốn yếu tố) được thêm vào. Rồi tới sự phối hợp thứ ba, gồm có mười yếu tố; và sau đó từ ngữ thứ tư được thốt ra, nó bao gồm mười hai yếu tố. Như thế, sự thốt ra toàn bộ Danh xưng gồm có ba mươi yếu tố và bốn phép phối hợp. Mỗi yếu tố có các chữ, đặc tính, cách phát âm, nhóm và các yếu tố tương cận của riêng nó; nhưng không một yếu tố nào biết được h́nh dáng của cái bao hàm nó, mà cũng chẳng hiểu được cách phát âm của yếu tố lân cận nó, nó chỉ hiểu được những ǵ mà mỗi yếu tố trổi lên, khi trổi lên tất cả những ǵ [có thể được] mà nó nghĩ là cần để kêu gọi tổng thể … Chúng là các âm thanh biểu lộ dưới h́nh thức Đấng Phân Thân Vô hiện và Bất khả sinh hoá và đó là các h́nh hài được gọi là các Thiên Thần, đang luôn luôn chiêm ngưỡng gương mặt của Từ Phụ (Father),([32]) [Thượng Đế, “Đấng Thần Linh Thứ Nh́,” xếp hàng kế Đấng Thần Linh “Bất Khả Tư Nghị” (“Inconceivable”), theo Philo]. ([33])
67
Nội môn bí giáo cổ truyền đă cố
gắng tŕnh bày nó giản dị hết mức như
thế đó. Nó cũng như Thánh kinh Do Thái Bí giáo, mặc
dù ít bí ẩn hơn Thánh kinh Zohar;
trong Thánh kinh này, các danh xưng hay các thuộc tính huyền
nhiệm cũng là các từ ngữ có bốn, mười hai,
bốn mươi hai và thậm chí cả bảy
mươi hai vần nữa! Tứ
nguyên chứng tỏ cho Marcus CHÂN
LƯ nơi h́nh hài của một phụ nữ khoả
thân, và đặt tên bằng chữ cho mọi chi của
h́nh này, gọi đầu là A Ω,
cổ là B ψ,
vai và tay là
Χ, v.v… chúng ta nhận ra dễ dàng Sephira trong vấn
đề này, đầu hay Đỉnh, Kether, được đánh số 1; năo hay Chokmah,
số 2; Tâm hay Trí, Binah số 3; và bảy Sephiroth khác
tượng trưng cho các chi của cơ thể. Cây
Sephiroth là Vũ Trụ, Adam Kadmon (Thiên Đế)
tượng trưng cho nó ở phương Tây, cũng như
Brahmă tượng trưng cho nó ở Ấn Độ.
Ở khắp nơi, mười Sephiroth
đều được tŕnh bày như là chia thành Tam Nguyên thượng Tinh
Thần và Thất Nguyên hạ. Ư nghĩa nội môn chân chính
của con số Bảy linh thiêng, mặc dù được
ẩn giấu khéo léo trong Thánh kinh Zohar, vẫn t́nh cờ bị tiết lộ
bởi hai cách viết từ ngữ “Thoạt đầu –
in the Beginning” tức Berasheeth
và Be-raishath, cách viết sau
có nghĩa là “Minh Triết Thượng
Đẳng” (“Higher, or Upper Wisdom”).
Theo S.L. Mac Gregor Mathers ([34])
và Isaac Myer ([35])
cả hai tín đồ Do Thái Bí giáo này đều
được các giới có thẩm quyền nhất
thời xưa ủng hộ, các từ ngữ này có một
ư nghĩa kép và bí nhiệm. Braisheet
barah Elohim có nghĩa là sáu Sephira,
phía trên có Sephira thứ bảy,
thuộc về giai cấp vật chất hạ
đẳng, hoặc theo lối nói của tác giả:
“Bảy … được áp dụng cho Tạo Vật
Hạ Đẳng, và Ba được áp dụng cho Con
Người Tinh Thần, Adam Nguyên kiểu Thiên giới,
tức là Adam bản sơ.”
Khi các nhà Minh Triết Thiêng Liêng và các nhà
Huyền bí học bảo rằng Thượng Đế
chẳng phải là THỰC THỂ
(BEING), v́ Nó (It) là Chân Không (Nothing,
NO-THING), đứng về mặt tôn giáo, họ c̣n
tỏ ra tôn kính Thượng Đế hơn là những
kẻ gọi THƯỢNG
ĐẾ là NGÀI (HE), và
như thế biến Ngài thành một ĐẤNG
NAM NHI vĩ đại.
Kẻ nào đă từng nghiên cứu Thánh kinh Do Thái Bí giáo, chẳng
mấy chốc sẽ phát giác được ư niệm
giống như vậy trong tư tưởng tối
hậu của tác giả, tức các đại Điểm
đạo đồ người Hebrew thời sơ khai,
các Ngài được các Đạo Trưởng
người Chaldea truyền thụ cho Minh Triết Bí
Nhiệm này ở xứ Babylonia, cũng như Moses
được truyền thụ đạo pháp ở Ai
Cập. Chúng ta không thể thẩm định đúng
đắn về hệ thống Thánh kinh Zohar dựa vào các bản dịch sau này ra tiếng
La Tinh và các ngôn ngữ khác, khi mà các ư tưởng chứa
đựng trong đó đă được linh động
biến cải cho thích hợp với quan điểm và
chính sách của các tín đồ Thiên Chúa giáo hiệu đính
nó; v́ các ư tưởng nguyên bản của nó đều
đồng nhất với các ư tưởng của mọi
hệ thống tôn giáo khác. Nhiều vũ trụ khởi
nguyên luận khác nhau chứng tỏ rằng mọi
quốc gia cổ sơ đều xem Linh Hồn Vũ
Trụ như là “Thần Trí” (“Mind”) của Đấng
Tạo Hoá; tín đồ phái Ngộ Đạo gọi nó là
Từ Mẫu, Sophia, tức
Minh Triết âm; người Do Thái
gọi nó là Sephira; người
Ấn Độ gọi nó là Sarasvatĩ hay Văch; Thánh Thần cũng là một
Nguyên Khí âm (Holy Ghost also being a female Priciple).
68
V́ thế, đối với người Hy
Lạp, Thượng Đế, tức Kurios, vốn được nó sinh ra, chính là
“Đấng Thần Linh, Bản Trí” (Nous). Trong Cratylus, Plato
dạy: “Nay Koros (Kurios)…[có
nghĩa là] bản chất thuần tuư của trí năng [Minh
Triết]; và Kurios là Thuỷ Tinh (Mercurius, Mar-kurios), Minh
Triết Thiêng Liêng, và “Thuỷ Tinh là Sol [Mặt Trời],([36])
Thot-Hermes được Ngài truyền thụ cho Minh
Triết Thiêng Liêng này. Trong khi mà các vị Thượng
Đế của mọi xứ sở và tôn giáo đều
tương hệ xét về khía cạnh tính dục –
với Linh Hồn âm của Thế giới, tức là “Thái
Uyên” (“Great Deep”), Đấng Thần Linh, Lưỡng Nguyên
trong Nhất Nguyên này phát sinh từ đó. Thái Uyên này bao
giờ cũng ẩn khuất và được gọi là
Đấng Ẩn Tàng (the Hidden One); nó chỉ liên hệ gián
tiếp với “Sự Sáng Tạo,”([37])
v́ nó chỉ có thể tác động qua Thần Lực
Lưỡng Phân xuất phát từ Bản Thể Vĩnh
Cửu. Theo các tác giả cổ điển thời xưa,
ngay cả Aesculapius, vốn được gọi là
“Đấng Cứu Rỗi vạn hữu” (“Saviour of all”),
cũng đồng nhất với Thần Ai Cập Ptah,
Trí Năng Sáng Tạo, tức Minh Triết Thiêng Liêng, và
đồng nhất với chư thần Apollo, Baal, Adonis
và Hercules.([38])
Một trong các trạng thái của Ptah là Linh Hồn Vũ
Trụ của Plato, “Tinh Thần Thiêng Liêng” của
người Ai Cập, “Thánh Thần” (“Holy Ghost”) của các
tín đồ Thiên Chúa giáo thời sơ khai và tín đồ
phái Ngộ Đạo (Gnostics), Tiên
thiên khí của người Ấn Độ và trong
trạng thái hạ đẳng, là cả Tinh Tú Quang nữa. V́ Ptah
có gốc là “Tử Thần” (“God of the Dead”), Đấng
tiếp dẫn người chết, v́ thế mới có Địa Ngục (Limbus)
của tín đồ Thiên Chúa giáo người Hy Lạp,
tức Tinh Tú Quang. Măi về sau này người ta mới
xếp Ptah vào hàng các
Nhật Thần (Sun-Gods), tên Ngài có nghĩa là “Đấng
khai hoá” v́ Ngài tỏ ra là người đầu tiên làm
bộc lộ khuôn mặt của xác chết đă
ướp và hấp dẫn Linh Hồn đến sống trong ḷng Ngài ([39]).
Kneph, Đấng Vô Hiện Vĩnh Cửu,
được tượng trưng bởi biểu
hiện con rắn vĩnh cửu quấn quanh vạc
nước, đầu nó chờn vờn trên “Mặt Nước,” mà nó hà
hơi ấp ủ - đó là một h́nh thức khác
của ư niệm nguyên bản duy nhất và “U Minh”(“Dakness”),
xạ ra một Tia di chuyển trên Mặt Nước v.v….
Với tư cách “Thượng Đế-Linh Hồn” (“Logos-Soul”)
sự biến hoá này
được gọi là Ptah, với tư cách
Thượng Đế-Đấng Sáng Tạo, Ngài trở
thành Imhotep, con Ngài; “vị
Thần có dung mạo tuấn tú.” Trong tính cách sơ khai,
cả hai Lưỡng nguyên Vũ Trụ đầu tiên, Noot, Không gian tức “Bầu Trời” và Noon, “Bản Sơ Thuỷ”
(“Primodial Waters”), Nhất Nguyên bán thư bán hùng, phía trên là
THẦN KHÍ Ẩn tàng (the Concealed BREATH) của Kneph. Và
tất cả đều có các con thú và cây cối sống
dưới nước, linh thiêng đối với chúng,
con c̣ lửa, con thiên nga, con ngỗng, con sấu và
hoa sen.
Quay về với Đấng Thánh Linh của
Do Thái Bí giáo, bấy giờ Nhất Nguyên Ẩn Tàng (Concealed
Unity) này là Ain Soph, [tổng thể, vô cực], Vô tận, Vô
biên, Không tồn tại chừng nào mà Đấng Tuyệt Đối c̣n ở bên Oulom,(1)
Thời gian vô biên vô hạn; như thế Soph không
thể là Đấng Sáng Tạo, hay thậm chí Đấng
Đào Luyện (Modeller) Vũ Trụ, nó cũng chẳng
thể là Aur (Ánh Sáng). Do
đó, Ain Soph cũng là U Minh. Vô cực bất di bất dịch (the immutably Infinite) và Vô biên tuyệt
đối (the absolutery Boundless),
chẳng thể nào ham muốn, suy nghĩ hay hành
động. Để làm như thế, nó phải trở
thành Hữu hạn bằng cách xạ ra Tia (Ray) của nó
thâm nhập vào Vũ Trụ Noăn (Mundane Egg), tức Không gian
Vô hạn, và từ đó xạ ra như một Thần
Linh Hữu Hạn (a Finite God). Tất cả mọi
điều này đều được dành cho Huyền
Xạ ẩn tàng (the Ray latent) trong Đấng Độc
Tôn. Khi đă đến lúc, Đấng Tuyệt Đối
tự nhiên sẽ phát triển thần lực bên trong ḿnh,
theo định luật mà nó là Bản Thể nội
tại và tối hậu. Dân Hebrews không chấp nhận
việc dùng Quả Trứng làm biểu tượng, song
để thay thế cho nó, họ đă dùng “Hai Từng
Trời” (“Duplex Heavens”), v́ nếu được dịch
chính xác, câu “Thượng Đế tạo ra trời và
đất” sẽ có nghĩa là: “Thượng Đế
tạo ra hai từng trời bên trong và bên ngoài Bản
Thể của Ngài, được xem như là cái Khuôn
[Vũ Trụ Noăn]. Tuy nhiên, tín đồ Thiên Chúa giáo đă
chọn Chim bồ câu chớ không phải quả trứng
để làm biểu tượng của Thánh Thần.
69
Bất cứ ai quen thuộc với Hod,
Merabah và laghash [ngôn từ bí
nhiệm hay thần chú] sẽ học được
điều bí nhiệm nhất. “Laghash
hầu như đồng nghĩa với Văch, quyền
năng ẩn tàng của các Thần chú (Mantras).
Khi đă tới lúc hoạt động tích
cực, từ bên trong bản thể vĩnh cửu của
Ain Soph xạ ra Sephira, Quyền năng tích cực, được
gọi là Điểm Nguyên Thuỷ (the Primordial Point) và
Đỉnh Đầu, Kether.
Chỉ thông qua nàng mà “Minh Triết Vô Hạn” (“
Khi Sephira xuất lộ từ bên trong
Thượng Đế Tiềm tàng (the Latent Deity) như là
một Quyền năng Hoạt động (an Active Power),
nàng mang nữ tính; khi nàng giữ chức vụ Đấng
Sáng Tạo, nàng trở thành nam nhi; v́ thế nàng có tính
chất bán thư bán hùng. Nàng là “Cha, Mẹ, Tiên Thiên
Huyền Nữ (Aditi)” của vũ trụ khởi nguyên
luận Ấn Độ và của Giáo lư Bí Nhiệm.
Nếu các cuộn sách tiếng Hebrew cổ nhất đă
được duy tŕ cẩn thận, các tín đồ
Jehovah hiện đại sẽ thấy rằng các biểu
tượng của Thượng Đế sáng tạo sẽ thật phong phú và vô số. Con
ếch ở mặt trăng, tiêu biểu cho tính chất
sinh sản, là biểu tượng thường thấy
nhất. Trong Thánh kinh,
tất cả loài thú cầm nay được gọi là
“dơ dáy” (“unclean”) đều đă là các biểu
tượng của Đấng Thánh Linh này vào thời
xưa. Chúng đă được khoác lên một mặt
nạ dơ dáy để giữ cho chúng khỏi bị
huỷ hoại, v́ chúng quá linh thiêng. Nếu ta phải
chấp nhận các biểu tượng theo sát nghĩa, con
rắn bằng đồng thau cũng chẳng chút ǵ thi
vị hơn con ngỗng hay con thiên nga.
70
Thánh kinh Zohar dạy:
Điểm
bất khả phân, vốn vô biên và bất khả tri, v́ quá
thanh khiết và chói lọi, bành trướng từ bên ngoài,
tạo thành một ánh sáng chói lọi dùng làm bức màn che khuất
Điểm bất khả phân; [song chúng ta cũng] không
thể xét Điểm bất khả phân theo tác dụng
của Vô lượng quang (immeasurable Light) của nó. Nó
đă bành trướng quá nhiều từ bên ngoài, và sự
bành trướng này chính là lớp xiêm y của nó. Như
thế, nhờ vào [chuyển động] khuấy
đảo không ngừng, rốt cuộc thế giới
được sản sinh ra. (1)
Chất liệu Tinh Thần
và Vô cực quang xạ ra, chính là đệ
nhất Sephira tức Shekinah.
Xét về mặt ngoại môn, Sephira bao hàm toàn bộ chín
Sephiroth khác; xét về mặt nội
môn, nàng chỉ bao hàm có hai Sephiroth: Chokmah tức Minh
Triết, “một mănh
lực dương tích cực, có thánh danh là Jah;” và BINAH,
tức Trí Tuệ, một mănh lực âm tiêu cực,
được tượng trưng bởi thánh danh Jehovah.
Cùng với Sephira, tức mănh lực thứ ba, hai mănh
lực này tạo thành Tam Nguyên của người Do Thái
tức ĐỈNH ĐẦU, KETHER.
Hai Sephiroth này, được gọi là Abba, Cha, và Amona,
Mẹ là Lưỡng Nguyên tức Thượng Đế lưỡng tính; bảy
Sephiroth khác phát xuất từ đó. Như thế, Tam Nguyên
bản sơ Do Thái (Sephira, Chokmah và Binah) là Ba Ngôi của Ấn Độ. (1) Dù là c̣n bị ẩn giấu
cả trong Thánh kinh Zohar, và
c̣n ẩn giấu nhiều hơn nữa trong đền
thờ Chư Thần ngoại môn của Ấn Độ,
mọi đặc điểm liên hệ với
Đấng này cũng đều liên hệ với
Đấng kia. Các Prajăpatis
là các Sephiroth. Vốn là mười với Brahmă, các Ngài
giảm xuống c̣n bảy khi Ba
Ngôi, tức Tam Nguyên trong Thánh kinh Do Thái Bí giáo tách rời
khỏi phần c̣n lại. Bảy Đấng Kiến
Tạo (hay Đấng Sáng Tạo) trở thành Prajăpatis tức bảy Thánh
Hiền, theo thứ tự giống như là các Sephiroth
trở thành các Đấng Sáng Tạo, rồi trở thành
các Tộc Trưởng v.v…. Trong cả hai Hệ Thống
Bí nhiệm (Secret Systems), Bản Thể Vũ Trụ
Độc Nhất Vô Nhị (the One Universal Essence) vẫn
c̣n bất khả tri và không hoạt động khi ở
trạng thái Tuyệt Đối và chỉ có thể
được liên kết với sự kiến tạo
Vũ Trụ một cách gián tiếp. Nơi cả hai
thứ, một bên là Nguyên khí bán thư bán hùng bản sơ
với mười hay bảy phân thân – Brahmă-Virăj và Aditi-Văch;
và một bên là Elohim-Jehovah hay Adam-Adami (Adam Kadmon) và Sephira-Eve;
cùng với các Prajăpatis và Sephiroth – xét gộp lại, họ
chủ yếu là tượng trưng cho Con người
Nguyên h́nh (the Archetypal Man), Tiền
thân của Thượng Đế (the Proto-logos). Chỉ trong trạng thái thứ yếu
mà họ mới trở thành các quyền năng Vũ
Trụ và các thiên thể. Nếu Aditi là Mẹ của
Chư Thiên, Deva-Marti, th́ Eve
lại là Mẹ của Vạn Hữu (All Living); cả hai
đều là Huyền Nữ
(Shakti), tức Quyền năng Sinh sản (Generative
Power), ở trạng thái âm của “Thiên Đế,”(“Heavenly
Man”) và cả hai đều là các Đấng Sáng Tạo
phức hợp.
71
Một Thánh kinh Giáo lư Huyền môn dạy
rằng:
Lúc đầu, một Tia xuất phát từ
Paramărthika [Chân Tồn Tại (True Existence) duy nhất]
bắt đầu biểu lộ nơi Vyăvahărika [Tồn
Tại quy ước]; nó được dùng như là
một hiện thể để giáng xuống vào trong
Từ Mẫu Vũ Trụ và khiến cho bà bành
trướng [swell, brih].
Và trong Thánh kinh Zohar, người ta vạch rơ là:
Sau
khi h́nh hài của Thiên Đế được tạo ra,
Nhất Nguyên Vô Cực vốn vô h́nh và không giống với
cái ǵ, bèn sử dụng nó. Ánh Sáng Bất Khả Tri (the
Unknown Light) (1) [U Minh - Darkness] dùng
h́nh hài Thiên giới (Adam Ilaah) như là một hiện
thể (Mercabah) thông qua đó, nó giáng xuống và muốn
được h́nh hài này gọi bằng thánh danh Jehovah.
Thánh kinh Zohar dạy tiếp:
Thoạt
tiên là Ư Chí của Thánh Đế (the King), trước khi có
bất cứ tồn tại nào … Nó [Ư Chí] phác hoạ các h́nh
hài của vạn vật, vốn đă được
ẩn giấu, song nay lại xuất hiện. Và từ
đầu của Ain Soph xạ ra một tia lửa vật
chất lờ mờ, vô h́nh được xem như là
một bí nhiệm ẩn tàng … Cuộc sống
được rút lên từ bên dưới, c̣n nguồn
cội lại được canh tân từ bên trên, biển
luôn luôn tràn đầy và nước lan tràn khắp nơi.
Như thế, Thượng
Đế được so sánh với một biển
cả mênh mông, với Nước vốn là “cội
nguồn của sự sống.”([40])
“Lâu đài thứ bảy, cội nguồn sự sống,
đứng hàng thứ nhất tính từ trên xuống.”([41])
V́ thế mới có tín điều của Do Thái Bí giáo luôn
luôn ở trên đầu môi chót lưỡi của Solomon,
tín đồ Do Thái Bí giáo chính thống, ông dạy trong Châm Ngôn: “Minh Triết đă
kiến tạo nhà ḿnh, nàng đă đẽo ra bảy
cột trụ.”([42])
Thế th́, nếu không có điều thiên
khải đại đồng thế giới Bản
sơ th́ tất cả mọi ư niệm này ở đâu ra
đây? Một ít điều đă được tŕnh bày
đến nay cũng chẳng khác nào một ít cọng
rơm trong một đống rạ, khi đem so sánh
với những điều sẽ được tiết
lộ khi công tác tiến hành. Nếu ta chuyển sang vũ
trụ khởi nguyên luận của Trung Quốc, vốn
lờ mờ nhất ngay cả trong đó chúng ta cũng
thấy cùng một ư niệm trên. Tsi-tsai, Đấng Tự Sinh Tự Tại (the Self-Existent),
là U Minh bất khả tri, cội nguồn của Wu-liang-sheu
(Vô Lượng Thọ - Boundless Age); Amităbha (A-Di-Đà) và sau
đó mới tới Thiên (Trời - Heaven). “Thái
Cực”(“great Extreme”) của Khổng Tử cũng tŕnh bày
cùng ư niệm trên, bất chấp các điều “vô bổ”
của ông (his “straw” notwithstanding”). Các điều vô bổ
này là cái đích để cho các nhà truyền giáo nhạo
báng, họ chế giễu mọi “ngoại đạo” (“heathen”),
khinh bỉ và ghét bỏ tín ngưỡng của các tín
đồ các giáo phái Thiên Chúa khác, song tất cả
đều chấp nhận Sáng
Thế Kư theo sát nghĩa.
72
Nếu quay sang xét dân Chaldea, chúng ta thấy Anu, Thượng Đế
Ẩn Tàng (the Concealed Deity), Đấng Độc Tôn,
hơn nữa, danh xưng của Ngài lại tỏ ra có
nguồn gốc tiếng Bắc Phạn. Trong tiếng
Bắc Phạn, Anu có
nghĩa là “vi tử”(“atom”), anĩyămsam-anĩyăsăm (cực
tiểu), và là một danh xưng của Thái Cực
Thượng Đế (Parabrahman) trong triết thuyết Vedanta
(the Vedăntic philosophy). Trong triết thuyết này, người
ta mô tả Thái Cực Thượng Đế như là
nhỏ hơn vi tử nhỏ nhất và lớn hơn
bầu vũ trụ lớn nhất, Anagranĩyas và Mahatoruvat.([43])
Trong các câu thơ đầu
tiên trong Sáng Thế Kư của
xứ Akkad, được ghi trong các bản văn
viết bằng loại chữ giống h́nh cái nêm (the
cuneiform texts) trên các viên ngói ở Babylonia tức Lateres Coctiles, do George Smith
dịch ra, chúng ta thấy Anu,
Thượng Đế Tiêu Cực (the Passive Deity) tức
Ain Soph; Bel, Đấng Sáng
Tạo, Tinh Thần của Thượng Đế (Sephira)
di chuyển trên Mặt Nước, v́ thế chính là
Nước; Hea, Linh Hồn
Vũ Trụ, tức minh triết của tam nguyên phối
hợp lại.
Tám câu thơ đầu như sau:
1. Khi Trời
chưa được dựng lên ở bên trên:
2. Và một
cây chưa mọc lên trên mặt đất ở bên
dưới;
3. Vực
thẳm đă không phá toang các biên giới của chúng.
4. Hồng
nguyên khí (tức Nước) Tiamat (Biển) là mẹ
sản sinh ra
tất cả. [Đó
là Aditi và Sephira Vũ Trụ].
5. Lúc
đầu nước này đă được chế
biến; song
6. Một cây
cũng chẳng mọc lên, một hoa cũng chẳng
nở ra.
7. Khi
chẳng có một Thần Linh nào được sản
sinh ra.
8. Một cây
cũng chẳng mọc lên, và trật tự đă không
tồn tại. ([44])
Đó là thời hỗn mang, trước lúc
khai thiên tịch địa; con Thiên Nga kép và con Thiên Nga
đen trở thành Thiên Nga trắng, khi Ánh Sáng
được tạo ra.([45])
73
Biểu tượng được chọn
để tượng trưng cho lư tưởng tuyệt
mỹ của Nguyên Khí Vũ
Trụ (the Universal Principle) có lẽ là h́nh như ít
được tính toán để đáp ứng với tính
cách linh thiêng của nó. Chắc chắn là người ta
sẽ nghĩ rằng một con ngỗng, thậm chí
một con thiên nga, là một biểu tượng không thích
hợp để tượng trưng cho sự vĩ
đại của Tinh Thần. Tuy nhiên, nó ắt đă
phải có một ư nghĩa sâu xa huyền linh, v́ nó có
mặt không những ở trong mọi vũ trụ
khởi nguyên luận và tôn giáo thế giới, mà nó cũng
được người tín đồ Thiên Chúa giáo tham
dự trận Thánh chiến thời Trung Cổ, chọn
dùng làm hiện thể của
Thánh Thần; người ta giả định là Ngài đă
điều binh khiển tướng tiến về Palestine,
giành lại lăng của Đấng Cứu Thế
từ tay quân Hồi Giáo. Nếu chúng ta tín nhiệm Giáo
sư Draper, trong tác phẩm Sự
Phát Triển Trí Thức của Âu Châu, ông đă khẳng
định rằng Đạo quân Thánh chiến do ẩn
sĩ Peter cầm đầu, ở phía trước lại
có Thánh Thần khoác lấy h́nh dáng một con ngỗng
đực đi cùng với một con dê. Seb, Thần
Thời gian của Ai Cập mang trên đầu: Jupiter khoác lấy h́nh hài của
một con thiên nga c̣n Brahmă cũng vậy; và nguồn
cội của tất cả mọi điều này là bí
nhiệm vô cực - tức VŨ
TRỤ NOĂN (the MUNDANE EGG).
Chúng ta nên học biết lư do tại sao một biểu
tượng trước khi hạ giá trị của nó.
Yếu tố lưỡng phân Phong và Thuỷ là yếu
tố của con c̣ lửa, con thiên nga, con ngỗng và con chim
bồ nông, con sấu và con ếch, hoa sen và hoa súng v.v…. và
kết quả các nhà huyền học cả xưa lẫn
nay đều chọn các biểu tượng kém thích
hợp nhất. Pan, Thần Thiên Nhiên vĩ đại (the
great God of Nature), thường có mặt cùng các con chim
sống dưới nước, nhất là loại
ngỗng và các Thần Linh khác cũng vậy. Nếu sau này,
khi tôn giáo bị dần dần thoái hoá, Chư Thần –
đối với các Ngài, các con ngỗng rất linh thiêng –
trở thành các thần linh thuộc loại Priapus (thần
sinh thực khí) cũng không được phép suy diễn
là loài thuỷ cầm đă được biến thành linh
thiêng đối với thần Pan và các vị thần có
tính cách sùng bái sinh thực khí khác – như là có một vài
kẻ cổ hủ thường báng bổ (1) – song đó chính là quyền
năng thiêng liêng và trừu tượng của Thiên Nhiên
sinh hoá đă trở thành bị nhân h́nh hoá một cách thô
tục. Cũng chẳng phải là con thiên nga của Leda
đă tỏ ra “có các hành vi dâm dục và hưởng
lạc” (theo lối diễn đạt trinh khiết
của Hargrave
Các nhà biểu tượng học của chúng ta có thể lợi dụng được một vài nhận xét của một văn sĩ nổi tiếng, bà Lydia Maria Child, bà cho rằng:
Từ
vô thuỷ, ở vùng Hindustăn, người ta đă sùng bái
một biểu hiệu như là kiểu mẫu sáng
tạo, hay là cội nguồn của cuộc sống …
Shiva, tức Mahădeva, không những là Đấng sản sinh
ra các h́nh hài người, mà c̣n là nguyên khí sinh sản,
quyền năng sinh hoá thấm nhuần Vũ Trụ.
Biểu hiệu mẫu nghi cũng là một kiểu
mẫu tôn giáo. Sự tôn kính việc tạo ra cuộc
sống du nhập vào trong sự sùng bái Osiris với các biểu
hiệu tính dục. Thật là kỳ lạ khi họ
tỏ ra tôn kính đại bí nhiệm về sự sinh
sản của con người ư? Nếu coi như
thế th́ họ trở thành ô trược hay sao? Hay là chúng
ta sẽ ô trược nếu không coi nó như thế?
Nhưng không kẻ nào trong sạch và biết suy tư mà
lại có thể coi chúng như thế … Chúng ta đă đi
quá xa, và các con đường đă ô uế, v́ các ẩn
sĩ thời xưa này trước hết nói về
Thượng Đế và linh hồn trong các nơi sâu
thẳm trang nghiêm của các thánh điện đầu
tiên. Chúng ta đừng mỉm cười trước cách
thức truy t́m Nguyên nhân vô cực và bất khả tri
suốt hết mọi bí nhiệm của thiên nhiên, kẻo
khi làm như thế, chúng ta sẽ bộc lộ là ḿnh thô
tục so với sự đơn giản khả kính
của họ. (1)
74
TIẾT 6
VŨ TRỤ NOĂN
(THE MUNDANE EGG)
BIỂU tượng đại đồng
thế giới này ở đâu ra? Quả Trứng này
được hội nhập vào vũ trụ khởi
nguyên luận của mọi dân tộc trên thế giới
như là một kư hiệu linh thiêng, và được tôn
kính cả v́ h́nh hài của nó, lẫn bí nhiệm nội
tại của nó. Từ khi con người mới bắt
đầu biết suy nghĩ, người ta đă biết
nó như là cái tiêu biểu một cách điển h́nh
nhất cho nguồn gốc bí nhiệm Hiện Tồn.
Sự phát triển dần dần của mầm mống
nhỏ bên trong cái vỏ kín; sự đào luyện nội
tại, không có sự can thiệp của ngoại lực,
khiến cho từ trạng thái tiềm tàng chẳng có ǵ, ta
có được một cái ǵ hoạt động tích
cực, chẳng cần ǵ ngoại trừ nhiệt. Đă
dần dần tiến hoá thành một tạo vật cụ
thể, sống động; nó phá vỡ cái vỏ ra,
rồi đương nhiên xuất hiện như là
một thực thể tự sinh tự tạo. Tất
cả điều này ắt đă phải là một phép
lạ mầu nhiệm ngay từ đầu.
Giáo huấn Bí nhiệm giải thích lư do
tại sao có sự tôn kính này bằng biểu tượng
kư của các giống dân tiền sử. Thoạt
đầu, “Nguyên Nhân Bản Sơ” (“First Cause”) vô danh tính.
Sau này, trong cơn hoang tưởng, các tư tưởng
gia đă phác hoạ nó như là một Con chim bí nhiệm bao
giờ cũng vô h́nh, nó thả một Quả Trứng vào
Hồng nguyên khí (Egg into Chaos), Quả Trứng này trở
thành Vũ Trụ. V́ thế Brahmă mới được
gọi là Kălahamsa, “Con Thiên Nga trong [Không gian và] Thời gian.
Vào lúc khởi đầu mỗi chu kỳ Đại Khai
Nguyên (Mahămanvantara), khi trở thành “Con Thiên Nga Vĩnh Cửu” (“Swan of
Eternity”), Brahmă đẻ ra một Trứng Vàng (a Golden Egg),
nó tiêu biểu cho Ṿng Tṛn lớn tức 〇, vốn là một biểu
tượng của Vũ Trụ và các thể h́nh cầu.
75
H́nh dáng và lư do thứ hai tại sao Quả
Trứng đă được chọn dùng như là biểu
tượng để tŕnh bày Vũ Trụ và Trái
Đất của chúng ta. Nó là một Ṿng Tṛn và một H́nh
Cầu; từ lúc bắt đầu có biểu tượng
học, người ta ắt đă phải biết tới
dạng h́nh trứng của Địa Cầu chúng ta, v́ nó
đă được chọn dùng ở khắp nơi trên
thế giới. Người xưa tin tưởng một
cách phổ cập rằng, Vũ Trụ thoạt tiên
biểu lộ dưới dạng một H́nh Trứng. Theo
Bryan,(1) đó là một
biểu tượng được người Hy Lạp,
Người ta chứng tỏ rằng Ra
cũng giống như Brahmă đang thai nghén trong Vũ
Trụ Noăn. Người quá cố (the Deceased) “rực
rỡ trong Quả Trứng của Vùng Đất Bí
Nhiệm”(“the
Trong người Hy Lạp, Quả Trứng của Orpheus được kịch tác gia Aristophanes mô tả, và một phần của các bí pháp Dionysus và các Bí pháp khác, trong đó Vũ Trụ Noăn được thần thánh hoá và ư nghĩa của nó được giải thích, Porphyry cũng chứng tỏ rằng nó dùng để tượng trưng cho thế giới “Quả trứng biểu diễn (tượng trưng cho) thế giới”. Faber và Bryant đă cố gắng chứng tỏ rằng Quả Trứng tiêu biểu cho chiếc Bè của Noah – một tín ngưỡng hoang đường, trừ khi ta chấp nhận nó như là có tính cách thuần tuư biểu tượng và ẩn dụ. Cái Bè chỉ có thể được tiêu biểu hoá như là một từ ngữ đồng nghĩa với Mặt Trăng, cái Argha có chở mầm mống vũ trụ của cuộc sống; nhưng chắc chắn là nó không có ǵ liên quan với chiếc Bè của Thánh kinh. Tuy nhiên, nói chung th́ người ta đều tin rằng, lúc đầu Vũ Trụ tồn tại dưới dạng một h́nh Trứng. Wilson cho rằng:
Trong
mọi Thánh kinh Purănas, người ta đều
tường thuật giống vậy về sự tập
hợp đầu tiên của các yếu tố nơi h́nh
hài của một Quả Trứng, thường
thường là có h́nh dung từ Haima hay Hiranya (“làm bằng
vàng”), giống như trong Thánh thư Bàn Cổ 1, 9.(1)
Tuy nhiên, trong cuộc bút chiến chưa được xuất bản với Giáo sư Max Muller, học giả Ấn Độ lỗi lạc, cố Đạo sư Dayă -nand Sarasvatĩ đă chứng tỏ rằng Hiranya có nghĩa là “rực rỡ”; “chói lọi,” hơn là “làm bằng vàng.” Thánh kinh Purănas dạy:
“Bản
Trí [Mahat]…kể cả các yếu tố thô thiển [vô
hiện], tạo thành một quả trứng … và … bản
thân Đấng chúa tể của vũ trụ …ngự trong
nó, với tính cách Brahmă … Hỡi Brăhman, trong quả trứng
này là các đại lục, biển núi, hành tinh và các phân khu
của vũ trụ, chư thần, chư quỷ và nhân
loại”([46]).
Cả ở Hy Lạp lẫn Ấn
Độ, Đấng nam nhi hữu h́nh đầu tiên (the
first visible male Being), vốn kết hợp nơi ḿnh
bản chất của một trong hai phái, ngự trong
Quả Trứng và từ đó mà ra. “Đấng sinh ra
đầu tiên trên Thế giới này” là Dionysos đối
với một số người Hy Lạp; Đấng
Thánh Linh (the God) sinh ra từ Vũ Trụ Noăn (the Mundane Egg),
các tạo vật hữu hoại và bất tử đều
phát xuất từ Ngài. Trong Tử
Vong Kinh (Book of the Dead), người ta tŕnh bày Thần Ra
(the God Ra) chói lọi trong Quả Trứng (Mặt Trời)
và Ngài khởi sự ngay khi Thần Shu (the God Shu) [Năng
lượng Mặt Trời] khởi hoạt và thúc
đẩy Ngài.([47])
“Ngài ở trong Thái Dương Noăn (the Solar Egg), Quả
Trứng được ban cho Cuộc Sống của
Chư Thần”. ([48])
Nhật Thần (the Solar God) tuyên bố: “Ta là Linh Hồn
Sáng Tạo của Vực Thẳm Thiên Giới (the Celestial
Abyss). Chẳng ai thấy được Tổ Ấm
của ta, chẳng ai có thể phá vỡ Quả Trứng
của ta, ta là Đấng Chúa Tể!”([49])
76
Xét h́nh tṛn này, “Bản Ngă”(“I”) xuất phát
từ 〇
, tức Quả Trứng, hoặc “hùng” xuất phát từ
“thư” trong bán thư bán hùng, thật là kỳ lạ mà
thấy rằng – dựa vào cơ sở là các Bản
thảo cổ nhất của Ấn Độ cũng không
cho ta thấy vết tích nào của nó – một học
giả đă cho rằng dân Ăryans thời xưa không hề
biết tới ư niệm về số thập phân. Số
10 vốn là con số linh thiêng của Vũ Trụ,
thật là bí nhiệm và nội môn, khi xét tới đơn
vị lẫn số không, Zero,
tức ṿng tṛn. Thêm nữa, Giáo sư Max Muller đă bảo
rằng “hai từ ngữ số
không và Zero, vốn
chỉ là một, cũng đủ để chứng
tỏ rằng các chữ số của ta được
vay mượn từ các chữ số Á Rập.([50])
Giáo sư cho rằng: “Trong tiếng Á Rập, số không là cifron, có nghĩa là rỗng
không, dịch từ tiếng Bắc Phạn shũnyam tức ‘chân không’ ”.([51])
Người Á Rập đă thừa kế các chữ số
của ḿnh từ vùng Hindustăn, và chẳng bao giờ tự
cho là ḿnh khám phá ra chúng. Về phần các môn đồ phái
Pythagoras, chúng ta chỉ cần quay về các bản thảo
cổ truyền của bộ đại luận Boethius
“Số Học” được trước tác vào thế
kỷ thứ sáu, để t́m thấy rằng trong các
chữ số của Pythagoras, “1” và “0” là các chữ số
đầu tiên và cuối cùng.([52])
C̣n Porphyry, trích dẫn tác phẩm Moderatus ([53])
của Pythagoras, dạy rằng các chữ số của
Pythagoras là “các biểu tượng tượng h́nh, nhờ
đó ông giải thích được các ư niệm liên quan
tới bản chất của sự vật” tức
nguồn gốc Vũ Trụ.
Nay, nếu một mặt, các bản thảo
cổ nhất của Ấn Độ đến nay
vẫn không tỏ ra có một dấu vết nào của khái
niệm về số thập phân, và Max Muller đă vạch
rơ rằng, cho đến nay, ông đă chỉ t́m thấy có
chín chữ, tức các chữ đầu của các chữ
số Bắc Phạn; mặt khác chúng ta có các tài liệu
lưu trữ cổ để đưa ra chứng cứ
cần thiết. Chúng ta đề cập tới tác
phẩm điêu khắc và các h́nh tượng linh thiêng trong
các thánh điện cổ nhất ở vùng Viễn
Đông. Pythagoras kế thừa kiến thức của ḿnh
từ Ấn Độ, và chúng ta thấy Giáo sư Max Muller
lại bổ chứng cho phát biểu này – ít ra th́ chừng
nào mà chúng ta c̣n thừa nhận rằng các môn đồ phái
Tân Pythagoras là các huấn
sư đầu tiên về “mật mă” (“ciphering”) trong
người dân Hy Lạp và La Mă – rằng tại Alexandria
hoặc ở Syria, họ đă quen thuộc với các
chữ số của Ấn Độ, và đă thích ứng
chúng với cái Bàn tính của Pythagoras (các chữ số của
chúng ta). Sự nh́n nhận cẩn thận này hàm ư là chính
Pythagoras cũng chỉ quen thuộc với chín chữ số. Như thế, chúng ta có thể
trả lời một cách hợp lư rằng, về mặt ngoại môn, mặc dù chúng ta
không có bằng chứng chắc chắn là Pythagoras – vốn
sống gần như là vào các thời đại cổ
sơ (1) – có biết
tới khái niệm về số thập phân; song chúng ta có
đủ bằng chứng để chứng tỏ
rằng các môn phái Pythagoras đều biết tới toàn
bộ các con số do Boethius tŕnh bày, ngay cả trước
khi kiến tạo Alexandria. (2)
Chúng ta t́m thấy bằng chứng này nơi Aristotle, ông cho
rằng: “một vài triết gia chủ trương
rằng các ư niệm và các con số có cùng bản chất và
tất cả có tới MƯỜI”(3). Chúng ta tin rằng
điều này sẽ đủ để chứng tỏ
rằng họ đă biết tới khái niệm về
số thập phân chậm lắm là vào thế kỷ
thứ 4 trước Thiên Chúa, v́ h́nh như Aristotle không coi
vấn đề này là một sự canh tân của các môn
đồ phái Tân Pythagoras.
77
Nhưng chúng ta c̣n biết hơn nữa;
chúng ta biết rằng nhân
loại vào các thời đại tối cổ ắt
phải sử dụng hệ thống thập phân, v́ toàn
bộ phần h́nh học và thiên văn của ngôn ngữ
giáo sĩ bí nhiệm đều được kiến
tạo dựa vào số 10, tức là sự phối hợp
của các nguyên khí âm và dương, và v́ cái gọi là “Kim
Tự Tháp Cheops” được kiến tạo dựa vào
các kích thước của khái niệm về số
thập phân này, hay đúng hơn là dựa vào các chữ
số và việc phối hợp chúng với số không. Tuy
nhiên, trong Nữ Thần Isis
Lộ Diện đă bàn đủ về vấn
đề này và thật là vô ích mà lặp đi lặp
lại.
Biểu tượng kư về các Thần Linh
Nguyệt Tinh và Nhật Tinh (the Lunar and Solar Deity) đă
lẫn lộn với nhau đến nỗi mà không thể
cô lập các h́nh tượng như là Quả Trứng, Hoa
Sen và Các Con Thú “Linh Thiêng” (“the “Sacred” Animals”). Chẳng
hạn như con C̣ Lửa
(the Ibis) được tôn
kính nhất ở Ai Cập. Nó thật linh thiêng đối
với Nữ Thần Isis, Nàng hay được
tượng trưng bằng chiếc đầu của con
chim này; nó cũng linh thiêng đối với Thần Mercury
và Thần Thoth, người ta nói là Ngài đă khoác lấy
h́nh hài của nó khi trốn chạy con quái vật Typhon. Theo
Herodotus,(1) ở Ai Cập có
hai loại c̣ lửa, một loại đen tuyền,
một loại vừa trắng vừa đen. Người
ta tin là loại đen tuyền chiến đấu với
và tận diệt được các con rắn có cánh;
cứ mỗi mùa xuân là chúng lại từ Á Rập tràn vô và
làm cho toàn vùng bị nhiễm độc. Loại kia lại
linh thiêng đối với Mặt Trăng, v́ hành tinh này có
bề ngoài sáng trắng, c̣n bề mặt không bao giờ
quay về phía Trái Đất lại sẫm đen. Hơn
nữa, loài c̣ lửa lại giết được các con
rắn trên bộ, và tàn hại các trứng cá sấu, và như
thế cứu cho Ai Cập khỏi bị nạn các con ḅ
sát ghê tởm này gây ô nhiễm quá đáng cho sông Nile.
Người ta tin là con chim thực hiện điều này
dưới ánh trăng, và thế là được Nữ
Thần Isis trợ giúp, Nàng có biểu tượng tinh
đẩu (sidereal symbol) là mặt trăng. Nhưng ẩn
dưới các thần thoại dân gian có một chân lư
nội môn chính xác hơn, đó là theo Abenephius,([54])
Hermes khoác lấy h́nh hài của con chim này, giám sát
người Ai Cập và dạy cho họ các khoa học và
nghệ thuật huyền linh. Điều này chỉ có
nghĩa là con c̣ lửa tôn giáo
có và đă có các tính chất “pháp thuật” giống như là
nhiều con chim khác nhất là chim hải âu và con thiên nga
trắng trong thần thoại, Con Thiên Nga của Thời
Gian Vĩnh Cửu, tức là KĂLAHANSA.
78
Thậy vậy, nếu không, tại sao tất
cả mọi dân tộc thời xưa – vốn chẳng
ngu dại ǵ hơn chúng ta – lại có một điều mê
tín dị đoan là không dám giết một số loài chim?
Ở Ai Cập, kẻ nào giết một con c̣ lửa, tức
con Chim Ưng Vàng, biểu tượng của Mặt
Trời và Thần Osiris, có cơ bị chết (risked death)
và khó ḷng thoát khỏi lưỡi hái của tử thần.
Việc một vài quốc gia sùng bái loài chim cũng
chẳng khác nào Zoroaster, trong các giáo điều, Ngài đă
cấm việc tàn sát loài chim và xem đó như là một
trọng tội ghê tởm. Trong thời đại hiện
nay, chúng ta cười nhạo mọi loại bói toán. Song
tại sao biết bao nhiêu thế hệ lại tin vào
sự bói toán bằng chim và tin cả thuật bói toán
bằng động vật (Zoomancy),([55])
mà Suidas nói là đă được Orpheus truyền lại.
Orpheus đă truyền dạy cách thức để - trong
một vài điều kiện – nhận ra ḷng đỏ và
ḷng trắng của một quả trứng, điều mà
con chim – khi được sinh ra từ trong quả
trứng – sẽ thấy xung quanh trong kiếp sống
ngắn ngủi của ḿnh. Ba ngàn năm trước,
Huyền linh thuật này (this Occult art) đ̣i hỏi
người nghiên cứu nó phải có kiến thức uyên
bác nhất và phải thực hiện các phép tính bí hiểm
nhất; nhưng nay nó đă bị giảm giá trị
nhiều rồi, và ngày nay chỉ có các ông bếp già và
những ông thầy bói tiên đoán tương lai cho các cô
gái giúp việc để kiếm chồng, bằng tṛng
trắng trứng đựng trong một cái ly.
Tuy nhiên, đến nay ngay cả tín đồ
Thiên Chúa giáo cũng có các con chim linh thiêng; chẳng hạn
như con Chim bồ câu, biểu tượng của Thánh
Thần, Họ cũng chẳng hề bỏ qua các con thú
linh thiêng, và khi Phúc Âm tôn thờ các động vật
như là các con Ḅ mộng, chim Đại Bàng, Sư Tử
và Thiên Thần – thực ra Tiểu Thiên Thần (Cherub), hay
Thiên Thần Tối Cao (Seraph), Con Rắn có cánh cháy rực –
th́ nó cũng có tính cách Ngoại đạo, chẳng khác nào
dân Ai Cập hoặc dân Chaldea. Thật ra, bốn con thú này
là biểu tượng của Tứ Đại và bốn Nguyên
khí hạ đẳng nơi
con người. Tuy nhiên, về mặt vật chất, chúng
tương ứng với bốn cḥm sao có thể nói là hợp thành đoàn tuỳ tùng
của Nhật Thần, và vào lúc đông chí, chiếm vị
trí bốn hướng chính là ṿng Hoàng Đạo.
Người ta có thể thấy bốn “con thú” này nơi
nhiều Tân Ước
của Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă, trong đó tŕnh bày chân dung của các nhà Phúc Âm.
Đó là các con thú Mercabah của Ezekiel.
Ragon đă vạch ra rất đúng là:
Các
Đạo Trưởng thời xưa đă phối
hợp các giáo điều và các biểu tượng của
các triết thuyết tôn giáo khéo đến nỗi mà ta
chỉ có thể giải thích trọn vẹn
được các biểu tượng này bằng cách
phối hợp và quán triệt được tất
cả ch́a khoá.
Chúng ta chỉ có thể thuyết minh chúng một cách gần đúng, cho
dù chúng ta t́m được ba trong số bảy hệ
thống, tức là hệ
thống nhân loại học, hệ thống tâm linh và
hệ thống thiên văn học. Hai lối thuyết
minh chính, lối cao siêu nhất tức tinh thần và
lối thấp kém nhất tức sinh lư, được duy
tŕ cẩn mật nhất, cho tới khi mà lối thuyết
minh sinh lư lọt vào tay bọn phàm phu tục tử. Hồi
đó, khi chỉ liên quan đến các Đạo
Trưởng thời tiền sử, với họ cái mà nay
trở thành có tính cách sùng bái sinh thực khí một cách thanh
khiết hoặc là ô trược – đă là một khoa
học uyên thâm và bí nhiệm chẳng khác nào sinh học và
sinh lư học hiện nay. Đó là tài sản độc
quyền của họ, thành quả của các công tŕnh nghiên
cứu và khám phá của họ. Hai lối thuyết minh khác
đề cập tới các vị thiên thần sáng tạo,
tức thần phổ học và với con người sáng
tạo, nghĩa là với các bí pháp lư tưởng và
thực tế. Các lối thuyết minh này được
che giấu và phối hợp một cách khéo léo đến
nỗi mà biết bao nhiêu người – trong khi khám phá
được một ư nghĩa, lại ṿ đầu
bứt tai khi t́m hiểu các ư nghĩa khác và không bao giờ
có thể khám phá được chúng, nên chúng ta không ngại
nguy cơ họ sẽ phạm tội không cẩn ngôn. Các
lối thuyết minh cao siêu nhất, tức là lối
thứ nhất và thứ tư – Thần phổ học
(Theogony) liên hệ với Nhân phổ học (Anthropology) –
hầu như khôn ḍ. Chúng ta thấy bằng chứng
của điều này trong Thánh kinh Do Thái.
79
V́ rắn là một con vật đẻ
trứng, nên nó thành ra một biểu tượng của
Minh Triết và một biểu hiệu của chư vị
Thượng Đế, tức ĐẤNG
TỰ SINH TỰ TẠI (SELF-BORN). Trong thánh
điện ở
Đồng
thau (brass) là kim loại tượng trưng âm phủ (nether
world)… kim loại của tử cung, nơi khai sinh cuộc
sống …Trong tiếng Hebrew là Nachsah có nghĩa là con rắn,
song đó cũng có nghĩa là đồng thau.
80
Trong Số Mục Thánh Thư,
người ta dạy là dân Do Thái phàn nàn về vùng sa
mạc, nơi không có
nước,([56])
sau đó “Chúa phái các con rắn rực lửa” tới
cắn họ, và rồi giúp đỡ Moses, y đưa ra
con rắn bằng đồng thau làm phương thuốc,
đặt nó trên một cái trụ để cho họ
ngắm; sau đó, bất cứ kẻ nào đă chứng
kiến con rắn bằng đồng thau… đều sống” (?). Sau đó, Chúa tụ
tập dân chúng lại ở giếng Beer, cấp
nước cho họ, và những người dân Do Thái
cảm kích ca lên bài “Giếng ơi, hăy tuôn nước ra” ([57]).
Sau khi nghiên cứu biểu tượng học, khi mà tín
đồ Thiên Chúa giáo đă đến mức hiểu
được ư nghĩa thâm thuư nhất của ba biểu
tượng này, tức là nước,
bằng đồng thau và rắn, và một ít nữa
theo nghĩa trong Thánh kinh, y sẽ khó ḷng mà muốn liên
kết các thánh danh của các Đấng Cứu Thế
với “Con Rắn bằng Đồng Thau”. Chắc
chắn là Seraphim hay các Con Rắn Có Cánh Cháy Rực, có liên
hệ bất khả phân với ư niệm về “Con Rắn
Vĩnh Cửu – Thượng Đế” (the “Serpent of
Eternity - God”) theo như giải thích của sách Khải Huyền (Apocalypse)
của Kenealy. Song theo một nghĩa, từ ngữ Cherub
cũng có nghĩa là Rắn, mặc dù nghĩa gốc
của nó lại khác hẳn,
và các Cherubin ([58])(Tiểu
thiên sứ) và các con Sư Tử cánh đại bàng (the
Persian Winged Griffins) đang canh giữ núi vàng (Kim Sơn),
cũng như nhau. Hợp danh Cherubin cũng chứng tỏ
được đặc tính của ḿnh, v́ nó
được cấu thành bởi kr, một ṿng tṛn, và aub
hay ob, một con rắn, do
đó có nghĩa là “một con rắn trong ṿng tṛn.” Thế
là ta đă giải quyết được tính cách sùng bái
sinh thực khí của Con Rắn Đồng Thau, và biện
minh được cho Hezekiah về việc thủ tiêu nó.([59])
Kẻ thông minh th́ học
một biết mười! (Verbum satis sapienti!).
Như vừa nói, trong Tử Vong Kinh người
ta hay đề cập tới Quả Trứng. Trong
cuộc đấu tranh giữa các “đứa con nổi
loạn” (the “children of the rebelliom”) và Shu, Năng
Lượng Mặt Trời và Con Rồng U Minh (the Dragon of
Darkness); Đấng Đại Hùng Ra vẫn ở trong
Trứng của ḿnh. Khi băng qua vùng đất bí
nhiệm, kẻ quá cố vẫn rực rỡ trong
Trứng của ḿnh. Y là Trứng của Seb. Trứng là
biểu tượng của Cuộc Sống vĩnh cửu
và bất tử cũng như là h́nh tượng của cái
khuôn sinh hoá; trong khi đó, thập tự Tau vốn liên
kết với nó, chỉ là biểu tượng của ṿng sinh tử hoá hiện (birth
in generation). Vũ Trụ
Noăn (the Mundane Egg) được đặt ở Khoom, “Nước của Không
gian,” tức nguyên khí âm trừu
tượng. Khi nhân loại sa
đoạ và trở nên sùng bái sinh thực khí, Khoom
trở thành Ammon, Thần Linh sáng
tạo. Khi Ptah, “Vị Thần Rực Lửa” (“Fiery
God”) cầm Vũ Trụ Noăn, bấy giờ biểu
tượng kư trở thành có ư nghĩa hoàn toàn trần tục
và cụ thể. Cùng với con Chim Ưng, c̣n có biểu
tượng lưỡng phân Osiris-Mặt Trời liên quan
tới hai cuộc sống hữu hoại và bất tử.
Trong tác phẩm Oedipus Egyptiacus([60])
của Kircher, có khắc trên giấy cỏ chỉ h́nh
một quả trứng nổi lềnh bềnh trên xác
ướp. Đó là biểu tượng hứa hẹn một sự tái sinh cho kẻ
quá cố đă được thần Osiris tiếp dẫn (Osirified); sau khi đă
đền tội đúng mức ở Địa Ngục
(Amenti), Linh Hồn của y sẽ chuyển sinh vào Quả
Trứng Bất Tử này (this Egg of Immortality), để
rồi từ đó lại được tái sinh trên
trần thế. Trong Nội môn Bí giáo, Quả Trứng này là
Devachan, Cực lạc
giới; con bọ cánh cứng cũng như là một
biểu tượng của nó. “Quả cầu có cánh”
chẳng qua chỉ là một h́nh thức khác của Quả
Trứng và có nghĩa gần giống như là con bọ,
tức Khopiroo – từ nguyên là khopiroo
có nghĩa là trở thành, tái sinh – nó liên hệ tới
sự tái sinh của con người, cũng như là
sự tái tạo tinh thần của y.
81
Trong Thần
phổ học của Mochus, trước hết chúng ta
thấy Hậu thiên khí (Aether), rồi tới Khí (Air),
từ hai nguyên khí này, Ulom, Đấng Thần Linh khả
thức (the intelligible Deity). Vũ Trụ vật chất
hữu h́nh, được sản sinh ra từ Vũ
Trụ Noăn.([61])
Trong các Thánh Ca
của Orpheus, Eros-Phanes từ Linh Noăn (the divine Egg) tiến
ra, Linh Noăn này có thấm nhuần các Luồng Hậu thiên khí (the Aetheral Winds). Luồng
khí chính là “Tinh Thần của Thượng Đế”
hoặc đúng hơn là “Tinh Thần của U Minh Bất
Khả Tri” (“Spirit of the Unknown Darkness”) – Thiên ư của Plato –
người ta nói là Tinh Thần này di chuyển trong Hậu
thiên khí.([62])
Trong Thánh kinh Katha-Upanishad của
Ấn Độ; Purusha tức Tinh Thần Thiêng Liêng, đă
sẵn sàng trước Bản Nguyên Chất (the Original
Matter), “khi hai thứ trên kết hợp lại, đại
hồn của vũ trụ”, tức Đại Linh Tố
(Mahă-Ătma), Brahmă, Tinh Thần của Cuộc Sống (the
Spirit of Life),([63])
v.v…. được sản sinh ra. Các danh xưng trên
đều đồng nhất với Anima Mundi, tức là
“Linh Hồn Vũ Trụ”, Tinh Tú Quang của tín đồ
Do Thái Bí giáo và nhà Huyền bí học, tức “U Minh Noăn” (the
“Egg of Darkness”). Ngoài ra, về vấn đề này c̣n có
nhiều ẩn dụ hấp dẫn rải rác trong các Thánh
thư của người Bà La Môn. Có nơi, chính
Đấng Sáng Tạo âm, trước hết là một
mầm mống, rồi là một giọt sương trong
thiên giới, một viên ngọc trai, để rồi là
một quả trứng. Trong những trường hợp
như thế, có quá nhiều nên không thể liệt kê riêng
rẽ, Quả Trứng sinh ra tứ Hành bên trong Hành thứ
năm, tức Dĩ Thái và được bao bởi
bảy lớp; sau này các lớp trở thành bảy cơi cao và
bảy cơi thấp. Khi tách đôi ra, lớp vỏ trở
thành Trời và phần ở trong trở thành Đất,
phần trắng tạo thành vùng Nước ở
dưới đất. Bấy giờ, chính Vishnu xuất
lộ từ bên trong Quả Trứng, cầm trong tay
một Hoa Sen. Vinată, một con gái của Daksha và vợ
của Kashyapa, “Đấng tự sinh tự tại,
xuất phát từ Thời gian”, một trong bảy
Đấng “sáng tạo” thế giới của chúng ta, sinh
ra một Quả Trứng mà từ đó sẽ sinh ra Garuda,
hiện thể của Vishnu; phần ẩn dụ sau
chỉ có liên hệ với Trái Đất của chúng ta, v́
Garuda là Đại Chu Kỳ (the Great Cycle).
Quả Trứng rất linh thiêng đối
với
Người ta hầu như luôn luôn tŕnh bày
tượng trưng
82
Diodorus Siculus xác nhận rằng Osiris sinh ra
từ một Quả Trứng, giống như Brahmă. Các
thần Apollo và Latona, cũng như là hai anh em song sinh
rực rỡ Castor và Pollux, đều sinh ra từ trứng
của Leda. Và mặc dù các Phật tử không hề gán ghép
cho Đức Phật Tổ (Founder) một nguồn gốc
như vậy, song chẳng khác nào người Ai Cập
thời xưa và người Bà La Môn thời nay, cũng
kiêng ăn trứng, e rằng họ sẽ huỷ hoại
mầm sống tiềm tàng trong đó, như thế
phạm giới sát sinh. Người Trung Hoa tin tưởng
rằng Người Đầu Tiên của họ
được sinh ra từ một Quả Trứng mà Thiên
(Tien) thả từ trên
Trời xuống Đất vào trong Nước. (1) Một số người
vẫn c̣n coi biểu tượng này như là tượng
trưng cho Ư niệm về nguồn gốc của sự
sống, đó là một chân lư khoa học mặc dù mắt
trần không thấy được noăn châu của con người (the human ovum). Do đó, chúng ta thấy
từ thời xa xưa nhất, người ta tỏ ra tôn
trọng nó, từ người Hy Lạp, người
Phoenicians, người La Mă, người Nhật, người
Thái Lan, thổ dân các bộ lạc Bắc và Nam Mỹ, cho
tới giống người dă man ở các hải
đảo xa xôi nhất.
Đối với người Ai Cập,
vị thần linh ẩn tàng là Ammon hay là Mon, Tinh Thần Tối Cao “Ẩn Tàng”. Tất
cả mọi Thần Linh của họ đều
lưỡng phân – đối với Thánh điện, đó
là Thực Tại khoa học; đối với quần
chúng, đó là Thực Thể lưỡng phân, huyền
hoặc và thần thoại. Chẳng hạn như trong
Tiết “Hồng nguyên khí: Thượng Đế: Càn Khôn”
có nhận xét. Horus Trưởng thượng là Ư niệm về Thế
giới tồn tại trong Trí của Đấng Hoá Công,
“sinh ra trong U Minh trước khi Thế giới
được Sáng Tạo ra”; Horus thứ nh́ cũng chính là Ư niệm này vốn xuất phát từ Thượng Đế, khoác
lấy vật chất và thực sự tồn tại. (2) Horus, bậc “Trưởng
Thượng”, tức Haroiri,
là một trạng thái cổ truyền của Nhật
Thần, đồng thời với Ra và Shu; người ta
hay lầm lẫn Haroiri với Hor (Horsusi), Con của Osiris
và Isis. Người Ai Cập rất thường tŕnh bày
tượng trưng Mặt Trời mọc dưới h́nh
thức Hor Trưởng thượng; Ngài vươn lên
từ Hoa Sen nở rộ, tức Vũ trụ, khi
người ta luôn luôn thấy mặt trời trên
đầu chim ưng của Thần Linh này. Haroiri chính là
Khnoom. Ammon cũng giống như Khnoom, cả hai đều được tŕnh bày
tượng trưng như là có đầu cừu,
người ta hay lầm lẫn chung với nhau, mặc dù
chức năng của chúng khác xa nhau. Khnoom tạo ra
người và vạn vật từ Vũ Trụ Noăn, trên
cái bàn quay của người thợ làm đồ gốm;
Ammon-Ra tức Đấng Sinh Hoá (the Generator), là trạng
thái thứ yếu của Thượng Đế Ẩn
Tàng. Người ta tôn thờ Khnoom tại Elephanta và Philae,(1) c̣n Ammon được tôn
thờ tại
83
Theo người Hy Lạp, h́nh hài ma quái (phantom)
của các Chemis (Chemi, cổ
Ai Cập) đang nổi lềnh bềnh trên các làn sóng tinh
anh của Thiên Giới (the Empyream Sphere), được
Horus-Apollo khiến cho bắt đầu tồn tại; Ngài
là Nhật Thần và khiến cho nó hoá ra từ Vũ
Trụ Noăn.
Thánh kinh Brahmănda
Purănas chứa đầy bí nhiệm về Kim Noăn
của Brahmă. Có lẽ v́ thế mà chẳng nhà Đông
phương học nào đến gần (inaccessible)
được nó, họ tuyên bố rằng giống
như Skanda (Uẩn), Thánh
kinh Purănas này “không thể có được
dưới h́nh thức tập thể nữa”, song “lại
được tượng trưng bởi nhiều
loại Khandas (điều khống chế) và Măhătmyas (ḷng
hào hiệp), tự xưng là thoát thai từ nó”.
Người ta mô tả Thánh kinh Brahmănda
Purănăs như là “cái mà trong 12 200 câu thơ, đă biểu
thị sự tuyệt mỹ của quả trứng
của Brahmă, nó có bao hàm một bản tường
thuật về thiên kiếp vị lai … do Brahmă tiết
lộ”. (1) Hoàn toàn giống
như vậy và may ra c̣n có nhiều hơn nữa.
Trong vũ trụ khởi nguyên luận Bắc
Âu, mà Giáo sư Max Muller xem là “xưa hơn Thánh kinh Phệ Đà nhiều,” trong
bài thơ Woluspa (Bài ca của các Nữ Tiên Tri – the Song of the
Prophetess); người ta lại thấy Vũ Trụ Noăn
trong các Mầm mống Ma quái của Vũ Trụ (the Phantom-Germ
of the Universe), nó được tŕnh bày tượng trưng
như là nằm trong Ginnungagap,
tức cái Chén Hăo Huyền (the Cup of Illusion), Măyă, Thái Uyên
(Vực Thẳm – Abyss) vô biên vô cực. Trong Cái khuôn của
Thế giới này (this World’s Matrix), xưa vốn là một
vùng âm u, cô tịch, Nifl-heim (Nơi
chốn Sa mù ‘the Mist-Place’, mờ
mờ ảo ảo, theo lối nói bây giờ là trong Tinh
Tú Quang), phóng ra một Tia Sáng
Dịu (a Ray of Cold Light),
nó làm đầy tràn cái chén và đông lại trong đó.
Rồi Đấng Vô H́nh
Thổi một luồng khí nóng bỏng làm cho Nước
đang đông giá, bị chảy ra và xua tan lớp sa mù. Các
ḍng Nước này (Hồng nguyên khí - Chaos) được
gọi là luồng Elivagar, đóng lại thành giọt sinh
thuỷ (vivifying drops), rơi xuống và tạo ra Thổ và
người khổng lồ Ymir, y chỉ “có vẻ
giống người” (Thiên Đế), và Con Ḅ Cái, Audumla
(“Mẹ”, Tinh Tú Quang hay Linh Hồn Càn Khôn), từ vú con ḅ cái
này chảy ra bốn ḍng
sữa – bốn hướng, bốn đầu nguồn của
bốn con sông trong vườn Địa Đàng (Eden) v.v…-
bốn thứ này được biểu tượng hoá
một cách ẩn dụ bằng Khối vuông theo tất
cả mọi ư nghĩa huyền diệu khác nhau.
Tín đồ Thiên Chúa
giáo – nhất là các Giáo hội Hy Lạp và La Tinh – đă hoàn
toàn chấp nhận biểu tượng này và thấy nó
chính là vật kỷ niệm cuộc sống vĩnh
cửu, sự cứu chuộc và sự phục sinh.
Người ta thấy điều này được
bổ chứng bởi tục lệ cổ truyền trao
đổi “các Quả Trứng vào dịp Lễ Phục
Sinh” (“Easter Eggs”). Phải mất cả một chu kỳ
từ lúc có anguinum, tức “Quả Trứng” của
người “tà giáo” Druid,
chỉ nghe thấy tên nó là người La Mă đă khiếp
sợ, cho tới lúc có Quả Trứng màu đỏ vào
dịp Lễ Phục Sinh của nông dân Slavonia (the Slavonian
peasant). Thế nhưng, nếu chịu khó t́m kiếm và
đừng xuyên tạc ư niệm nguyên bản của
biểu tượng – v́ tỏ ra kiêu kỳ và có mặc
cảm tự tôn về mặt thể lực và trí lực
– chúng ta sẽ thấy dù ở Âu Châu văn minh, hay ở
các vùng c̣n dă man của Trung Mỹ, đâu đâu cũng có
tư tưởng (idea) cổ sơ nguyên thuỷ này.
84
TIẾT 7
NGÀY VÀ ĐÊM CỦA PHẠM
THIÊN
(THE DAYS AND NIGHTS OF BRAHMĂ)
ĐÓ là danh xưng của
các Thời kỳ gọi MANVANTARA (MANU-ANTARA, tức là
giữa các vị Bàn Cổ) và Chu kỳ Hỗn Nguyên
(PRALAYA) tức Tan Hoà (Dissolution); một danh xưng nhằm
nói tới các thời kỳ hoạt động tích cực
của Vũ Trụ; danh xưng kia nói tới các thời
gian Nghỉ ngơi hoàn toàn và tương đối, cho
dù chúng diễn ra vào lúc kết thúc một Ngày (Day) hay
một “Tuổi” (“Age”) của Brahmă. Các thời kỳ này,
đang nối tiếp nhau theo một trật tự
đều đặn, cũng được gọi là các
Tiểu và Đại Thiên Kiếp (Kalpas). Nói cho đúng ra
th́ Đại Thiên Kiếp (Mahă Kalpa) không bao giờ là
một “ngày” mà là toàn thể một kiếp sống hay
tuổi của Brahmă (Phạm Thiên), v́ trong Brahamă Vaivarta có nói là: “Các nhà niên đại học
tính toán một Thiên Kiếp (Kalpa) bằng Đời
sống của Brahmă (the Life of Brahmă). Các Tiểu Thiên Kiếp
(Minor Kalpas), như là Samvarta và phần c̣n lại, thật là
vô số”. Xét theo chân lư tuyệt đối, chúng thật là
vô hạn, v́ chúng vô thuỷ vô chung; nói cách khác, không bao
giờ có một Kiếp đầu
hay Kiếp cuối trong Vĩnh Cửu.
Theo nghĩa thông
thường, một Parărdha hay là nửa kiếp sống của
Brahmă, đă chấm dứt trong Đại Thiên Kiếp này
rồi; Thiên Kiếp vừa qua là Padma tức Thiên Kiếp
của Hoa Sen Vàng (the Golden Lotus), kiếp hiện tại là
Varăha,(1) Hoá thân “Heo Rừng” (“Boar”) tức
Avatăra.
85
Học giả nghiên
cứu tôn giáo Ấn Độ theo Thánh kinh Purănas cần phải đặc biệt
lưu ư một điều. Y không được chấp
nhận các lời phát biểu trong đó theo sát nghĩa và
theo chỉ một nghĩa mà thôi; đặc biệt là các
điều liên quan tới các Chu kỳ Khai Nguyên (Manvantaras)
hay các Thiên Kiếp (Kalpas), phải được hiểu
theo nhiều nghĩa. V́ thế, trong cùng một ngôn ngữ,
các thời kỳ này có liên quan tới các Chu kỳ lớn
lẫn Chu kỳ nhỏ, tới Đại Thiên Kiếp và
các Tiểu Chu Kỳ (minor Cysles). Hoá thân Cá Matsya
(tức Fish Avatăra), diễn ra trước khi có hoá thân Heo
Rừng Varăha, do đó các ẩn dụ phải có liên hệ
với các chu kỳ Kim Liên (Hoa Sen Vàng) lẫn Chu kỳ Khai
Nguyên hiện nay, cũng như là với các Tiểu chu
kỳ đă diễn ra từ khi Dăy Thế giới và
Địa Cầu của chúng ta xuất hiện trở
lại. V́ Hoá thân Cá của Vishnu và trận Đại
hồng thuỷ của Vaivasvata có liên hệ một cách
chính xác với một biến cố diễn ra trên Trái
Đất trong cuộc Tuần Hoàn này, hiển nhiên là trong
khi nó có thể liên quan tới các biến cố tiền
vũ trụ (theo nghĩa Vũ Trụ Thái Dương
Hệ của chúng ta), trong trường hợp này, nó
chỉ có liên hệ tới một thời kỳ
địa chất xa xăm. Trừ phi dùng phép loại suy,
ngay cả Nội môn Bí giáo cũng không thể tự cho là
biết được điều ǵ sẽ diễn ra
trước khi Thái Dương Hệ của chúng ta tái
xuất hiện và trước khi có Đại Chu Kỳ
Hỗn Nguyên cuối cùng (the last Mahă Pralaya). Nhưng nó
dạy rơ rệt rằng sau khi trục Trái Đất
bị xáo trộn lần thứ nhất về mặt
địa chất, điều này kết thúc bằng cách
quét sạch toàn bộ Châu thứ nh́ xuống đáy
biển, cùng với các giống dân sơ khai của nó –
trong sổ các Châu liên tiếp, Atlantis là Châu thứ tư –
lại có một sự xáo trộn khác do trục lại trở
về khuynh độ ban đầu mau chẳng kém ǵ nó thay
đổi; thật vậy, khi Trái Đất một lần nữa lại được kéo lên khỏi
mặt Nước – trên sao dưới vậy và ngược lại. Vào lúc đó, đă có các “Vị
Thần” (“Gods”) trên Trần Thế; truyền thuyết nói
là Thần Linh chứ không phải con người như
hiện nay. Trong Quyển 3 có chứng tỏ là phép tính toán
các thời kỳ trong Ấn Độ giáo ngoại môn, liên
can tới cả các tai biến lớn của vũ trụ
lẫn các tai biến nhỏ của trái đất, c̣n
về các danh xưng th́ cũng thế. Chẳng hạn
như danh xưng Yudhishthira – Quốc vương
Đầu tiên của Sacae hay Shakas, Ngài khai mạc Chu
kỳ Mạt Pháp (Kali Yuga Era), nó phải tồn tại
trong 432 000 năm, “một vị vua có thực sống vào
lúc 3 102 năm trước T.C. – áp dụng danh xưng này và
tất cả cho trận Đại hồng thuỷ (the
great Deluge), vào lúc Châu Atlantis bị ch́m lần thứ
nhất. Ông chính là “Yudishthira,” (1) sinh ra
trên ngọn núi có hàng trăm đỉnh, ở đầu
mút của thế giới (the extremity of the world), không ai có thể vượt ra
ngoài nó được, và “ngay
sau khi có trận lụt”. (2) Chúng ta chẳng hề biết có
một “Trận Lụt” vào lúc 3 102 trước năm T.C. ,
kể cả trận lụt của Noah, v́ theo niên
đại Thiên Chúa giáo của
86
Điều này có liên
quan tới một sự phân chia thời gian nội môn và là
một bí nhiệm được giải thích ở đâu
đó, v́ thế, vào lúc này, chúng ta có thể tạm gác nó qua
một bên. Vào lúc này, chỉ cần nhận xét là mọi
nỗ lực tưởng tượng của nhóm Wilfords,
Bentleys và các kẻ muốn làm Oedipuses khác của Niên
đại học nội môn Ấn Độ đều
thất bại một cách thê thảm. Chưa kể là các
nhà Đông phương học thông thái nhất cũng
chưa hề giải được bất cứ
Thời Đại hay Chu kỳ Khai Nguyên nào; do đó,
họ đă giải quyết nhanh gọn vấn đề
phức tạp khó khăn này bằng cách tuyên bố
rằng đây “toàn là các điều bịa đặt do
Brahmă tưởng tượng ra”. Thế đấy,
cầu cho các đại học giả cứ an tâm như
thế ! “Điều bịa đặt này” được
tŕnh bày ở cuối phần giảng lư của ĐOẠN THỨ 2 (STANZA 2) thuộc Nhân sinh khởi nguyên
luận, trong Quyển 3, có phần phụ lục nội
môn.
Tuy nhiên, chúng ta hăy
thử xem đâu là ba loại chu kỳ Hỗn Nguyên và
đâu là niềm tin tưởng b́nh dân (the popular belief) về chúng. V́ nó đă từng
phù hợp với Nội môn Bí giáo.
Về Chu kỳ Hỗn Nguyên, trước đó có mười
bốn chu kỳ khai nguyên, với nhiều Đức Bàn
Cổ (Manus) chủ tŕ, vào lúc kết thúc các chu kỳ này, có
sự Giải thể của Brahmă, trong Thánh kinh Vishnu
Purănas có chú giải
một cách ngắn gọn như sau:
Vào
lúc kết thúc một ngàn chu kỳ của bốn thời
đại, tức một ngày của Brahmă, hầu hết
địa cầu bị suy kiệt … Đấng Vishnu
vĩnh cửu (Avyaya) lúc bấy giờ có tính cách của
Rudra, Đấng Huỷ Diệt (Shiva) và giáng lâm để
kết hợp tất cả mọi tạo vật (của
ḿnh) lại với ḿnh. Ngài nhập vào bảy tia sáng
mặt trời, hút cạn hết nước của
Địa Cầu và khiến cho mọi hơi ẩm …
đều bốc hơi, thế là toàn bộ địa
cầu đều khô cạn (drying up). Biển cả, sông
ng̣i, thác ghềnh, và suối nước, tất cả
đều bốc hơi hết …Được bồi
dưỡng …với nhiều hơi ẩm như thế,
bảy tia sáng mặt trời phát triển thành ra bảy
mặt trời và thiêu rụi ba cơi thấp. Đấng
huỷ diệt vạn vật, Hari; …Ngài là ngọn lửa
thời gian (Kălăgni) [rốt cuộc sẽ thiêu huỷ
Địa Cầu]. Rồi Ruda khi trở thành Janărdana, phun
ra mây mưa. (1)
Có nhiều loại
Chu kỳ Hỗn Nguyên, nhưng trong các Cổ thư Ấn
Độ, có đặc biệt đề cập tới
ba thời kỳ chính. Theo Wilson, chu kỳ chính thứ
nhất được gọi là NAIMITTIKA, (2)
tức “thỉnh thoảng” (“occasional”) hay “ngẫu nhiên” (“incidental”)
do những khoảng cách giữa các “Ngày của Brahmă”;
đó là sự huỷ diệt mọi chúng sinh, chứ không
phải là huỷ diệt chất liệu; chất liệu
vẫn giữ nguyên trạng cho đến khi B́nh minh
lại lố dạng sau Đêm Đen này. 87
c̣n đề cập
tới một loại Chu kỳ Hỗn Nguyên thứ tư
là Nitya hay là giải thể thường
hằng, và giải thích rằng nó là sự biến
chuyển không ngừng diễn ra một cách nhỏ
nhiệm (takes place imperceptibly) trong vạn vật của
Vũ Trụ này, từ bầu hành tinh tới nguyên tử.
Nó chính là ṿng sinh tử luân hồi, thành trụ hoại
không.
Khi tới lúc
Đại Chu kỳ Hỗn Nguyên (Mahă Pralaya), dân cư
ở Svar-loka (thượng giới) bị hoả tai đe
doạ, liền t́m nơi trú ẩn “với các Tổ
Phụ, các vị Bàn Cổ, Bảy Thánh Hiền, nhiều
đẳng cấp Thiên Thần, tới Mahar-loka”. Khi
đến lượt Mahar-loka cũng bị hoả tai,
tất cả lại kéo nhau tới tị nạn ở
Jana-loka, “trong các h́nh hài
tinh anh, rồi sẽ tái lâm phàm với các năng khiếu
vẫn c̣n y nguyên, khi đến lúc đổi mới vào
thời kỳ đầu của Thiên Kiếp sau”. (1)
Mây đen vần vũ, sấm sét vang trời, giăng kín không gian [Nabhastala]. Mưa ào ào tuôn xuống như thác đổ, làm cho trận hoả tai khủng khiếp tắt ngấm …thế rồi mưa liên tiếp cho tới một trăm năm [thiêng liêng] làm cho toàn thế giới [Thái Dương Hệ] ngập ch́m dưới ḍng nước bạc. Các giọt nước mưa to bằng con súc sắc (dice), tràn lan khắp trời đất, lấp kín cả vùng giữa (Bhuva-loka) và làm ngập lụt cả mấy từng trời. Thế giới bấy giờ trông thật âm u; tất cả vạn vật đều chết đuối, mưa vẫn không ngớt hạt … [thế là đêm của Brahmă buông xuống trong khung cảnh tiêu điều xơ xác].(2)
Đó là cái mà chúng ta gọi là
chu kỳ Hỗn Nguyên của Thái Dương Hệ theo
Nội môn Bí giáo. Khi nước đă dâng lên tới
địa hạt của Bảy Thánh Hiền (the Seven
Rishis) và thế giới tức Thái Dương Hệ đă
biến thành Biển cả bao la, nó dừng lại. Hơi
thở của Vishnu biến thành một trận cuồng
phong, thổi trong một trăm năm (thiêng liêng) nữa
cho đến khi trời quang, mưa tạnh. Bấy
giờ gió bị thu lại và
88
ĐẤNG
sinh hoá ra vạn vật, Đấng Chúa Tể khiến cho
vạn vật hiện tồn, Đấng bất khả
tư nghị, vô thuỷ vô chung, cội nguồn của
vũ trụ, nằm trên lưng con Shesha [Con Rắn Vô
Cực] giữa thái uyên (the deep). Đấng sáng tạo [(?)
Adikrit] Hari, nằm lim dim (sleeps) (trên biển cả) [của
Không gian] dưới h́nh hài Brahmă – được Sanaka ([64])
và Chư Thánh (Siddhas) …của Jana-loka tôn vinh, được
những cư dân Thánh thiện ở Brahmă-loka, bận tâm
về sự giải thoát cuối cùng – đang mơ màng
với các hăo huyền của chính ḿnh được nhân
cách hoá một cách thiêng liêng … Đó là …sự giải
thể [(?) pratisanchara] được gọi là ngẫu
nhiên v́ Hari …là nguyên nhân ngẫu nhiên [Lư tưởng] của
nó.([65])
Khi tinh thần vũ trụ thức tỉnh, thế
giới bỗng hồi sinh; khi Ngài nhắm mắt lại,
mọi vật say sưa giấc điệp diệu
huyền. Cũng như 1 000 tuổi tạo thành một ngày
của Brahmă [trong nguyên bản đó là Padamyoni, cũng
giống như Abjayoni, tức “sinh ra từ Hoa Sen”, chứ
không phải là Brahmă], cũng vậy, đêm của Ngài
cũng chỉ có từng ấy thời kỳ …Khi đêm
dài vô tận đă kết liễu, Đấng tự sinh
tự tại bừng con mắt dậy …và lại tạo
ra thế giới”([66])
.
Đó là chu kỳ
Hỗn Nguyên “Ngẫu nhiên”; thế c̣n sự Giải
thể Ngũ hành (Prăkritika) th́ sao? Parăshara đă mô tả nó
cho Đức Di Lặc (Maistreya) như sau:
Khi
nạn đói kém và hoả tai hoành hành, toàn thể thế
giới và các Pătălas (Địa ngục - Hell) đều
tiêu tan hết ([67])…. bấy giờ
sự giải thể ngũ hành bắt đầu tiến
triển. Lúc đó, trước hết Thuỷ nuốt
trọn lấy đặc tính của Thổ (đó là
khứu giác thô sơ); khi bị mất hết đặc
tính, Thổ ngày càng bị huỷ diệt …và nhập
một với Thuỷ … Như thế, khi vũ trụ
đă thấm nhuần các ngọn sóng của hành Thuỷ,
hương vị phảng phất của nó lại bị
hành Hoả đốt hết …c̣n chính Thuỷ lại bị
huỷ diệt và nhập một với Hoả. Thế là
ngọn lửa [tinh anh] lại phủ kín hết vũ
trụ và…dần dần lan tràn ra toàn thế giới. Trong
khi không gian chỉ c̣n là [một] ngọn lửa,…hành Phong
nắm lấy đặc tính thô sơ tức h́nh hài,
vốn là nguyên nhân của ánh sáng; khi đặc tính ấy
bị rút lại, vạn vật đều trở thành có
bản chất của Phong. H́nh hài thô sơ bị tiêu
hết, Hoả [(?) Vibhăvasu] đă mất đi yếu
tố thô sơ, Phong bèn dập tắt Hoả và lan tràn …ra
khắp không gian tăm tối khi Hoả hoà lẫn vào Phong.
Bấy giờ Phong – có kèm theo Âm Thanh vốn là cội
nguồn của Dĩ Thái – bành trướng ra khắp
nơi suốt Thập giới …cho tới khi Dĩ Thái
nắm lấy sự tiếp xúc [(?) Sparsha, Sự Cố
Kết – Xúc giác ?] tức đặc tính thô sơ của nó.
Khi mất đặc tính này, Phong cũng tiêu tan luôn, c̣n
dĩ thái [(?) Kha] vẫn không thay đổi: không có h́nh hài,
hương vị, xúc giác (sparsha) và khứu giác, nó tồn
tại một cách [không] hoá hiện [mũrttimat] và thênh thang
(vast), thấm nhuần toàn thể không gian. Dĩ Thái [Tiên
thiên khí] đặc tính thô sơ của nó là âm thanh [“Huyền
Âm”(the “Word”)] vẫn đơn độc hùng cứ một
khoảng trống của không gian [hay đúng hơn là
chiếm hết toàn bộ nội dung của Không
gian]…Rồi (Nguồn gốc - Origin) [Thực Tượng ?
(Noumeon?)] của các hành (Bhũtădi) ngốn lấy Âm Thanh
(devours Sound) [Tập thể Hoá Công (the collective Demiurgos)] [và
Đại Đoàn Các Thiền Định Đế Quân
(and the hosts of Dhyăn Chohans)] và tất cả mọi Hành (1) [hiện hữu] …liền bị hội nhập ngay
vào nguyên bản của chúng. Hành bản sơ này chính là
thần thức, phối hợp với tính chất u mê
[Tămasa – Đúng hơn là U mê tinh thần (Spiritual Darkness
rather)], chính nó lại bị Mahat [Toàn Linh Trí (the Universal
Intellect)] nuốt trọn [làm tan ră]. Toàn Linh Trí có đặc
tính thông tuệ [Buddhi]; Địa và Toàn Linh Trí là nội
biên và ngoại biên của vũ trụ. [Lúc đầu] bảy
sắc tướng của thiên nhiên [Prakriti]
được tính từ Toàn Linh Trí tới Địa
như thế đó, v́ vậy … bảy sắc tướng
này lần lượt tái thâm nhập vào nhau. (2)
Quả
Trứng của Brahmă (sarva-mandala) tan ra trong vùng nước
bao quanh nó, với bảy châu (dvipas), bảy đại
dương, bảy vùng núi non. Thuỷ bị Hoả hút
cạn; (tầng - stratum) Hoả lại bị (tầng)
Phong hút lấy; Phong hoà lẫn với dĩ thái [Tiên thiên
khí]. Hành bản sơ [Bhũtădi, nguồn gốc hay đúng
hơn là nguyên nhân của hành bản sơ] ngốn lấy
dĩ thái, c̣n bản thân nó bị Bản trí [Mahat, Toàn Linh
Trí] tóm lấy. Cùng với tất cả các thứ này, Toàn
Linh Trí cũng bị thiên nhiên [Prakriti] chiếm lấy
[rồi biến mất (disappear)]… Dù là rời rạc hay cố
kết, Prakriti này đều có bản chất như nhau,
có điều là cái rời rạc rốt cuộc sẽ
bị hấp thu vào cái cố kết. Tinh Thần (Pums)
vốn độc nhất vô nhị, thuần khiết,
bất hoại, vĩnh cửu, thấm nhuần vạn
vật – cũng là một phần của loại Tinh
Thần tối cao vốn là Vạn hữu, tinh Thần này
[sarvesha] vốn khác xa tinh thần [thể hiện] trong
đó không có các thuộc tính của danh xưng, chủng
loại [năman (danh) và jăti (sinh), hay rũpa (sắc), v́
thế sắc tướng đúng hơn là chủng
loại], hoặc cái giống như (the like)…[c̣n lại]
tồn tại (đơn độc) [Sattă]…Cả thiên nhiên
lẫn tinh thần [Purusha] [rốt cuộc] đều tan
hoà vào tinh thần tối cao. (1)
89
Đó là chu
kỳ HỖN NGUYÊN tối hậu (the final PRALAYA) (2) –
sự Diệt Vong của Càn Khôn (the Death of Kosmos); sau đó,
Tinh Thần của nó vẫn thường trụ tại
Niết Bàn, tức là NƠI (THAT) chẳng có Ngày mà cũng
chẳng có Đêm. Tất cả Chu kỳ Hỗn Nguyên
(Pralayas) khác đều có tính chất định kỳ và
nối tiếp các Chu kỳ Khai Nguyên (Manvantaras) một cách
đều đặn, chẳng khác nào đêm nối
tiếp ngày đối với muôn loài, con người, cây
cỏ, thú cầm. Chu kỳ sáng tạo ra chúng sinh trong Càn
Khôn đă kết liễu; năng lượng của
“Huyền Âm” biểu lộ đă tăng trưởng và
đạt cực đại rồi, ắt phải
giảm dần, chẳng khác nào vạn vật vô thường,
cho dù chúng tồn tại lâu dài đến đâu chăng
nữa. Thần Lực Sáng tạo cũng Vĩnh Cửu
như Thực Tượng; v́ là một hiện
tượng biểu lộ dưới mọi khía cạnh,
nó vốn “hữu thuỷ” tất phải “hữu chung”.
Trong khi biểu lộ, nó phải có các thời kỳ
hoạt động cũng như là các thời kỳ
nghỉ ngơi. Đó chính là các Ngày và Đêm của Brahmă.
Song Brahman, tức Thực Tượng, không bao giờ yên
nghỉ, v́ Nó vẫn thường trụ, mặc dù
người ta không thể nói là Nó có tính chất “vô sở
bất tại” (không ở đâu mà không có)…
Tín đồ Do Thái Bí
giáo thấy rằng một Đấng Thần Linh Vĩnh
Cửu cần phải có tính
chất thường trụ này (this immutability), v́ thế họ gán ư tưởng này
cho Thượng Đế nhân h́nh. Ư niệm này thật là
thơ mộng, và c̣n được áp dụng rất thích
đáng nữa. Thánh kinh Zohar dạy như sau:
Khi Moses cầu kinh
đêm khuya trên Núi Sinai cùng với Đấng Thánh Linh (the
Deity), - Ngài ẩn sau một đám mây mù nên ông không thấy
– ông sợ hăi quá, nên buột miệng hỏi: “Chúa ơi,
Ngài đâu mất rồi. Ngài ngủ rồi sao? Và
Đấng Chơn Linh (the Spirit) trả lời: “Không bao
giờ Ta ngủ, Ta mà chợp mắt đi một chút ĐỐI VỚI THỜI GIAN (BEFORE MY
TIME)(đề nghị dịch là: :”sớm
hơn/trước kỳ hạn của ta” – kẻ
hiệu đính) là vạn hữu
sẽ tiêu tan trong nháy mắt.”
Nhóm từ ngữ “đối với thời gian” (“before
my time”) rất có tính chất
gợi ư. Nó chứng tỏ là Thượng Đế
của Moses chỉ là một sự thay thế tạm
thời cũng như Brahmă, tức Đấng nam nhi (the male),
chỉ là một sự thay thế và là một trạng thái
của CÁI ĐÓ
(THAT), Cái Đó vốn
thường trụ nên chẳng bao giờ dự phần
vào “ngày” và “đêm”, mà cũng chẳng có liên can ǵ tới
phản tác động hay sự giải thể.
Trong khi các nhà
Huyền bí học Đông phương có tới bảy
lối thuyết minh, th́ dân Do Thái lại chỉ có bốn;
đó là lối thực sự huyền học; lối
ẩn dụ; lối đạo đức; và lối sát
nghĩa tức Pashut. Lối thuyết minh sát nghĩa là bí
quyết (key) của các giáo hội ngoại môn nên ta cũng
chẳng cần bàn đến. Sau đây là nhiều câu –
nếu được thuyết minh theo lối thứ
nhất, tức là lối huyền học, sẽ vạch
rơ gốc tích của các nền tảng kiến tạo trong
mọi Thánh kinh. Chúng được tŕnh bày trong các tác
phẩm tuyệt hảo của Isaac Myer và Thánh kinh Do Thái Bí
giáo; h́nh như ông ấy đă nghiềm ngẫm chúng đêm
ngày. Tôi xin trích dẫn nguyên văn:
90
“Thoạt
đầu, Thượng Đế khai thiên tịch
địa. Sáu Đấng (Sephiroth Kiến Tạo – Sephiroth
of Construction) ([68])thuộc
về phần dưới, bên trên có Đấng B’ raisheeth.
Nó tạo ra Lục Nguyên, (và) vạn vật đều
tồn tại dựa vào Lục Nguyên này. Chúng lại c̣n
tuỳ thuộc vào bảy h́nh thức của Cái sọ
(Cranium) măi tới Chức Sắc Tối Cao (the Dignity of all
Dignities). Người ta cũng chẳng trù tính (calculation) ǵ
đến ‘Đất’ thứ nh́, do đó mới có phát
biểu: ‘Nó (Đất này) đă bị nguyền rủa (curse),
hăy để cho nó xuất lộ đi’ …Nó (Đất) vô
h́nh, vô hiện; hắc khí phủ đầy mặt Thái Uyên
(the Abyss), c̣n tinh thần của Elohim … lại ph́ pḥ
(breathing) (me’ racha’ pheth, nghĩa là chờn vờn, ấp
ủ, di chuyển) trên mặt nước’. Thập tam
nguyên dựa dẫm vào mười ba (h́nh thức) của
Chức Sắc xứng đáng nhất. Sáu ngàn năm lơ
lửng (được đề cập tới) trong sáu
từ ngữ đầu tiên. (Ngàn xưa) thứ bảy,
ở bên trên nó (Đất bị nguyền rủa – the
cursed Earth) là cái vốn tự lực, tự cường
(strong by Itself). Và nó bị tàn phá trong ṿng mười hai
giờ (một …ngày). Vào giờ thứ Mười ba, Nó
(Thượng Đế) sẽ phục hồi chúng … và
vạn vật sẽ lại được làm cho mới
lại như trước; và cả sáu sẽ lại
tiếp tục.” ([69])
Các “Đấng
Sephiroth Kiến Tạo” là sáu Thiền Định
Đế Quân, hay Bàn Cổ, hay Thiên Đế (Prajăpatis), các
Ngài tổng hợp thành Đấng B’raisheeth thứ
bảy, Đệ nhất Phân thân, tức Thượng Đế. Do
đó, các Ngài được gọi là các Đấng
Kiến Tạo ra Hạ Giới tức cảnh Hồng
Trần; tất cả các Ngài đều thuộc về Bên
Dưới, Lục Nguyên có bản
thể là cái Thứ bảy, đều
là các Upădhi, tức là Nền tảng (Fundamental
Stone) mà Vũ Trụ ngoại cảnh được
kiến tạo dựa vào đó, tức là thực tượng của vạn vật. V́ thế,
họ đồng thời cũng là các Thần lực
của Thiên Nhiên; Bảy Thiên Thần Bản Lai Diện
Mục (the Seven Angels of the Presence); các Nguyên khí thứ sáu và
thứ bảy nơi Con người; các Bầu tinh
thần-tâm linh-vật chất của Dăy Hành Tinh gồm có
bảy bầu; các Căn chủng (the Root Races)v.v….Tất
cả các Ngài đều “dựa vào Bảy h́nh thức
của cái Sọ” măi cho tới h́nh thức cao nhất.
“‘Đất’ thứ nh́ không được trù tính ǵ
đến, v́ nó chẳng
phải là Đất mà là
Hồng nguyên khí, tức Thái Uyên của Không gian; Vũ
Trụ theo mô h́nh ở trong Thiên Ư của Đại
Hồn, suy gẫm về nó. Ở đây, từ ngữ
“Curse” rất dễ gây ngộ nhận, v́ nó chỉ hàm ư là Chịu đựng hay số
mạng (Doom or destiny) tức là dù muốn dù không nó
cũng cứ bị biểu lộ ra ngoại cảnh.
Điều này được chứng tỏ bởi
sự kiện là “Đất” ở dưới “sự
Nguyền rủa” (“Curse”), được mô tả như
“vô h́nh vô hiện”. Trong ḷng sâu thẳm của Đất
này, “Thần khí” của Elohim (tức tập thể
Thượng Đế - collective Logoi) tạo ra hay có
thể nói là chụp h́nh (photographed) THIÊN Ư Bản Sơ của
vạn hữu. Tiến tŕnh này được lập
lại sau mỗi Chu kỳ Hỗn Nguyên, trước khi
bắt đầu một Chu kỳ Khai Nguyên mới,
tức là thời kỳ con người có cá tính tri giác
(period of sentient individual being). “Thập tam nguyên tuỳ
thuộc vào mười ba h́nh thức” nhằm nói tới
mười ba Chu kỳ, được nhân cách hoá bởi
mười ba Đấng Bàn Cổ, cùng với Svayabhuva,
Đấng thứ mười bốn – 13, thay v́ 14 là một
bức màn che (veil) thêm vào – mười bốn
Đấng Bàn Cổ này ngự trị trong một kỳ
hạn của một Chu Kỳ, tức một “Ngày”
của
91
Brahmă. (Thập tam
nguyên - thập tứ nguyên) này của Vũ Trụ
ngoại cảnh dựa dẫm vào mười ba
(mười bốn) h́nh thức kiểu mẫu lư
tưởng. Người ta lại t́m thấy ư nghĩa
của sáu ngàn Năm “lơ lửng trong sáu từ ngữ
đầu tiên” trong Minh Triết Ấn Độ. Chúng
nhằm nói tới sáu (bảy) “Thánh Vương Nguyên
Thuỷ của Edom” (“King of Edom”) họ tiêu biểu cho các
cảnh giới của Dăy hành tinh chúng ta, suốt trong
cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất, cũng như là
những người nguyên thuỷ của cuộc Tuần
Hoàn này. Họ là Căn chủng thứ Nhất (First
Root-Race) gồm bảy phân chủng thời tiền Adam, họ là những người
tồn tại trước khi có Căn chủng tức Giống
dân thứ Ba biệt
lập. V́ họ là các h́nh bóng vô tri vô giác và chưa ăn Trái cây Minh
Triết (The Tree of Knowlege), nên họ không thể thấy
Parzuphim, tức “không thể Diện đối Diện” (“Face
could not see Face”); nghĩa là giống người bản
sơ “vô thức”. Do đó (bảy) Thánh Vương nguyên
thuỷ đều đă băng hà tức là bị huỷ hoại
(destroyed).(1) Thế th́ bây giờ, họ là ai
vậy? Theo Thánh kinh Vishnu
Purăna (2) các Thánh Vương này là “Bảy Thánh
Hiền (Seven Rishis), một vài thần linh (thứ yếu),
Indra [Shakra], Đức Bàn Cổ và các Thánh Vương
kế vị, được sáng tạo và bị diệt
vong trong chỉ một thời kỳ”. V́ thứ bảy
(“ngàn năm”), chẳng
phải là ngàn năm của Thiên Chúa giáo ngoại môn, mà là
ngàn năm của Nhân sinh khởi nguyên luận
(Anthropogenesis). Nó tượng
trưng cho cả “thời kỳ sáng tạo thứ Bảy”,
tức thời kỳ của con người vật
chất, theo Thánh kinh Vishnu Purăna, Nguyên khí thứ bảy
thuộc cả đại thiên địa lẫn tiểu
thiên địa, cũng như là chu kỳ hỗn nguyên sau
khi có Thời kỳ thứ bảy, tức “Đêm”, nó
cũng dài như “Ngày” của Brahmă. Nó bị tàn phá trong ṿng
mười hai giờ. Vào giờ thứ Mười ba (hai
lần sáu và Phần tổng hợp) vạn vật sẽ
được phục hồi, và cả “sáu sẽ
được tiếp tục”.
Thế th́ tác giả
của Thánh kinh Qabbalah đă nhận xét hoàn toàn đúng:
Đă
từ lâu lắm rồi trước thời [Ibn
Gebirol’s]…nhiều thế kỷ trước kỷ nguyên
Thiên Chúa, ở Trung Á có một “Giáo lư Minh Triết” (“Wisdom
Religion”), sau này chỉ có những người trí thức
cổ Ai Cập, cổ Trung Quốc, Ấn Độ
v.v….là c̣n lưu truyền được một vài
điều vụn vặt của nó…[Và] rất có thể là
Thánh kinh Qabbalah vốn có nguồn gốc Ăryan, đă
được chuyển từ đó qua Trung Á, Ba Tư,
Ấn Độ và Mesopotamia, tới Palestine; v́ Abraham và
nhiều người khác từ Ur và Haran đến”.(1)
C. W. King, tác giả
của sách Tín đồ
phái Ngộ Đạo (Gnostics) và Các di tích cũng tin chắc như vậy.
Vămadeva Mudaliyar mô
tả “đêm” sắp tới thơ mộng nhất. Dù
đă được tŕnh bày trong Nữ Thần Isis Lộ Diện, nó vẫn đáng được tŕnh
bày lại ở đây:
Khắp bốn phương trời
vang lên các tiếng động kỳ lạ …Chúng báo
hiệu Đêm của Brahmă sắp buông xuống, chân
trời tối sầm lại, Mặt trời đi qua
đàng sau Makara ba mươi độ [cung thứ
mười của Hoàng Đạo] và sẽ chẳng
vượt quá cung Minas [cung Hoàng Đạo Song Ngư]. Các
bậc Tôn Sư (Gurus) được chỉ định
trông chừng Răshichakram [Hoàng Đạo - Zodiac], bây giờ
có thể vứt bỏ các dụng cụ quan sát, v́ từ
nay chúng trở thành vô dụng.
92
Dần
dần ánh sáng mờ đi, nhiệt giảm xuống, trên
địa cầu ngày càng có nhiều địa
điểm hoang vắng, không khí ngày càng loăng, suối
cạn hết nước, các sông lớn cũng cạn
dần, đại dương để trơ đáy biển
đầy cát, cây cối chết hết. Người và thú
ngày càng teo lại. Cuộc sống và chuyển động
mất đi sức mạnh của chúng; các hành tinh khó
chuyển động theo luật hấp dẫn trong không
gian; từng hành tinh một tắt dần, giống như
cái đèn không được chăm lo rót dầu. Surya
[Mặt Trời] chập chờn rồi tắt hẳn,
vật chất tan hoà ra [Hỗn Nguyên - Pralaya], Brahmă lại
nhập vào Dyaus, Thượng Đế Vô Hiện; đă
hoàn thành nhiệm vụ rồi, Ngài rơi vào giấc
ngủ triền miên. Thế là một ngày nữa trôi qua,
đêm bắt đầu và tiếp tục cho đến
khi B́nh minh lại lố dạng.
Và
nay, Ngài lại vào kim noăn của Tư Tưởng của
Ngài các mầm mống của vạn hữu (theo lời
Thánh nhân dạy chúng ta).Trong khi Ngài đang yên nghỉ,
thực thể linh hoạt vốn rất hiếu
động, cũng ngưng tác động, và mọi
cảm tính [Manas] đều trở nên bất động
(dormant). Khi tất cả đều được hấp
thụ vào trong LINH HỒN TỐI CAO (the SUPREME SOUL), Linh
Hồn của vạn hữu này say sưa giấc miên
trường, cho đến Ngày nó được phục
hồi nguyên trạng và bừng con mắt dậy sau đêm
sơ thuỷ.(1)
Cũng như “
Sẽ
có các quốc vương hiện đại trị v́ trên
trần thế, các vị vua thô tục, bạo
ngược bao giờ cũng đắm say những gian
dối và độc ác. Họ sẽ tàn sát đàn bà, con
trẻ và gia súc; họ sẽ cưỡng chế tài
sản của thần dân, [hay theo một lối thuyết
minh khác, họ sẽ lăm le cướp vợ
người khác]; họ sẽ có quyền lực giới
hạn …họ sẽ giảm thọ, họ sẽ không
thoả măn được dục vọng của ḿnh …Dân
chúng thuộc nhiều quốc gia khác nhau sống trà
trộn với họ, sẽ noi gương họ,
những người dă man được các hoàng thân,
quốc thích đỡ đầu, rất có thế lực
[ở Ấn Độ], trong khi các bộ lạc thuần
khiết hơn lại bị bỏ bê, dân chúng sẽ
bị diệt vong [hoặc, theo nhà b́nh giải: “Nhóm
Mlechchhas sẽ chiếm vị trí trung tâm c̣n nhóm Ăryan lại
đứng sau rốt”].([70]) Càng
ngày người ta càng đói rách và bớt sùng đạo
cho đến khi thế giới sẽ hoàn toàn đồi
truỵ … Chỉ có tài sản thôi cũng đủ đem
lại địa vị; người ta chỉ c̣n biết
tôn thờ của cải; thị dục sẽ là mối
quan hệ duy nhất giữa hai phái; để thắng
lợi trong các cuộc tranh tụng, sự giả dối
sẽ là phương tiện duy nhất; phụ nữ sẽ
chỉ c̣n là các vật để thoả măn nhục
dục …Người ta sẽ chỉ c̣n đánh giá nhau theo
h́nh thức bên ngoài; để cạnh tranh sinh tồn, thiên
hạ thi nhau bán rẻ danh dự [anyăya]; yếu
đuối … làm cho người ta trở nên ỷ lại;
sự doạ dẫm và tự phụ sẽ chiếm
chỗ của học vấn; thiên hạ ăn chơi phè
phỡn … cứ hạp nhăn là nên vợ chồng; cứ
diện quần áo vào là có quyền lên mặt nghênh ngang … kẻ
nào mạnh nhất sẽ thống trị … con người
không chịu nổi sưu cao thuế nặng
[khara-bhara]…sẽ kéo nhau đi trốn tránh ở những
vùng thung lũng … Như thế, vào chu kỳ Mạt Pháp,
t́nh h́nh ngày càng bại hoại, cho đến mức loài
người gần đến mức bị tiêu diệt
[chu kỳ hỗn nguyên. Khi …gần đến lúc kết
liễu chu kỳ Mạt Pháp, một phân thân của
Đấng thiêng liêng, của bản chất tinh thần
của Ngài (Bạch Mă Kỵ Sĩ hoá thân – Kalki
Avatăra)…sẽ giáng trần,…với Bát đại huyền
công (the eight superhuman faculties)…Ngài sẽ …văn hồi công lư trên
trần thế; những kẻ sống vào cuối Chu
kỳ Mạt Pháp sẽ giác ngộ và sẽ vô cùng sáng
suốt. Những kẻ nào đă thay đổi như
thế …sẽ là mầm mống của nhân loại, họ
sẽ khai sinh ra một giống dân nghiêm chỉnh chấp
hành các luật lệ của chu kỳ Chánh Pháp.
Người ta bảo
93
rằng:
“Khi mặt trời, mặt trăng và (cḥm Nguyệt Tinh –
the Lunar asterism) Tishya và Mộc Tinh (Jupiter) đóng tại
một cung,
Hai nhân vật, Devăpi, thuộc giống
người Kuru và Maru (Moru), thuộc gia đ́nh
Ishvăku…tiếp tục sống suốt Bốn Thời
đại (the Four Ages), ngự tại … Kapăla.([72]) Các Ngài sẽ trở lại đây
vào lúc khởi đầu
Dù là lời tiên tri trên đúng hay sai, th́ ân
điển của Chu kỳ Mạt Pháp đă
được mô tả tỉ mỉ rồi, và trùng
hợp một cách kỳ diệu với những ǵ tai nghe
mắt thấy ở Âu Châu và các xứ sở Thiên Chúa giáo
văn minh khác vào giữa thế kỷ XIX và đầu
thế kỷ XX của đại kỷ nguyên GIÁC NGỘ
(great era of ENLIGHTENMENT).
94
TIẾT
8
HOA
SEN, ĐƯỢC DÙNG NHƯ LÀ
MỘT
BIỂU TƯỢNG ĐẠI ĐỒNG THẾ GIỚI
(THE LOTUS, AS A UNIVERSAL SYMBOL)
CHẲNG có một biểu tượng cổ
truyền nào mà lại không có một ư nghĩa triết
học thâm sâu liên kết với chúng, biểu tượng
càng cổ th́ nó càng có ư nghĩa trọng đại.
Chẳng hạn như Hoa Sen. Đó là một loài hoa linh
thiêng đối với Thiên Nhiên và các Thần Linh, nó
tượng trưng cho Vũ Trụ Trừu Tượng
và Cụ Thể, nó được dùng như là biểu
hiệu của các năng lực sinh hoá của cả
bản chất tinh thần lẫn vật chất. Từ
thời xa xưa nhất, người Ăryan Ấn,
người Ai Cập và các Phật tử hậu lai đă
coi hoa sen là rất linh thiêng. Nó được tôn thờ
ở Trung Quốc và Nhật Bản, nó được các
Giáo hội Hy Lạp và La Tinh dùng như là một biểu
hiệu của Thiên Chúa giáo, họ biến nó thành một
sứ giả, cũng như bây giờ đây, tín
đồ Thiên Chúa giáo đă thay thế nó bằng một
cây bông súng (the water-lily).
Trong Thiên Chúa giáo, bao
giờ người ta cũng vẽ Tổng Thiên Thần
Ngự Cáo (the Annunciation) Gabriel xuất hiện trước
Đức Mẹ Đồng Trinh Mary tay cầm một
nhánh bông súng. Nhánh bông này vốn tiêu biểu cho Lửa và
Nước, tức là ư niệm sự sáng tạo và sinh hoá,
cũng tượng trưng một cách chính xác cho ư niệm: vị Bồ Tát tay cầm Hoa Sen báo cho
Mahă-măyă, thân mẫu của Thái tử Gautama biết là
Đức Phật, Đấng Cứu Thế, sẽ giáng
sinh. Cũng thế, dân Ai Cập luôn luôn tŕnh bày
tượng trưng Osiris và Horus liên kết với Hoa Sen;
cả hai đều là Nhật Thần hay Lửa; cũng
như trong Công Vụ các
Sứ Đồ (Acts)
người ta vẫn c̣n dùng các “ngọn lửa” tiêu
biểu cho Thánh Thần.
95
Nó đă có và vẫn
c̣n có ư nghĩa huyền nhiệm của ḿnh, ở mọi
quốc gia trên địa cầu, ư nghĩa này đều
giống như nhau. Xin độc giả hăy tham khảo tác
giả Williame Jones.(1) Đối với người Ấn
Độ, Hoa Sen là biểu hiệu của năng lực
sinh hoá trong Thiên Nhiên, nhờ vào lửa và nước,
tức tinh thần và vật chất. Một câu thơ trong
Chí Tôn Ca (Bhagavad Gĩtă) (2)
tŕnh bày như sau: “Hỡi Đấng Vĩnh Cửu! Con
thấy Brahm, Đấng Sáng Tạo, ngự trên Hoa Sen !”
Cũng giống như chú thích trong những ĐOẠN THƠ (STANZAS) tiếng Phạn, W. Jones chứng
tỏ rằng các mầm mống của Hoa Sen, ngay cả
trước khi nảy mầm, đều có chứa các
chiếc lá hoàn chỉnh có h́nh dáng thu nhỏ lại y như
h́nh dáng của nó một ngày kia khi lớn lên và trở thành
một cây hoàn chỉnh. Ở Ấn Độ, Hoa Sen là
biểu tượng của Đất ph́ nhiêu, thậm chí
của Núi Meru. Bốn vị thiên thần của bốn
phương trời, các Thiên Vương trong các ĐOẠN THƠ tiếng Phạn, mỗi vị
đều ngự trên một Toà Sen. Hoa Sen là kiểu mẫu
lưỡng phân của Đấng Bán Thư Bán Hùng Thiêng
Liêng và Nhân Loại (tạm gọi như thế) của
Đấng lưỡng tính.
Đối với
người Ấn Độ, Hoả Chơn Linh (the Spirit
of Fire or Heat) – đang kích động, làm hưng phấn và
phát triển vạn vật (từ nguyên h́nh lư tưởng
của nó), vốn sinh trong NƯỚC hay Đất
Bản Sơ (Primordial Earth), thành h́nh hài cụ thể - phát
triển Brahmă. Hoa Sen, được tŕnh bày tượng
trưng như là mọc từ rốn của Vishnu vị
thần nằm nghỉ trên nước Không gian, trên Con
Rắn Vô Tận (the Serpent of Infinity), là biểu
tượng sinh động nhất từ trước
đến nay.(1) Đó là Vũ Trụ tiến hoá
từ Mặt Trời trung ương, HUYỀN ĐIỂM
(the POINT), Mầm Mống (Germ) bao giờ cũng ẩn tàng.
Người ta cũng tŕnh bày Lakshmĩ – trạng thái âm
của Vishnu, cũng được gọi là Padma (Liên Hoa) trong Rămăyana
– nổi lềnh bềnh trên
một Hoa Sen vào lúc “Sáng Tạo”, trong khi “khuấy
động đại dương” của Không gian (the
“churning of the ocean” of Space), cũng như xuất phát từ
“Biển Sữa” (“Sea of Milk”), chẳng khác nào Nữ
Thần Venus-Aphrodite xuất phát từ Bọt Sóng
Đại Dương. Sir Monier William, một nhà Đông
phương học và là thi sĩ người Anh đă ngâm
vịnh như sau:
…Thế
rồi, ngự trên toà sen,
Nữ
Thần đẹp xinh rực rỡ Shrĩ
Cưỡi
trên ngọn sóng…
Trong
biểu tượng này, ư niệm cơ bản thật là tuyệt
mỹ, hơn nữa, nó lại chứng tỏ rằng
mọi hệ thống tôn giáo đều có gốc tích
giống nhau. Dù Hoa Sen hay bông súng, nó đều có bao hàm
một ư niệm triết học duy nhất; đó là khách
thể từ chủ thể phân thân ra, Thiên Ư chuyển
từ trừu tượng sang cụ thể, tức
hữu h́nh. V́ ngay khi mà U MINH (DARKNESS)
– hay đúng hơn cái “u minh” do vô minh – đă biến mất
trong cảnh giới Ánh Sáng Vĩnh Cửu (Eternal Light),
bỏ lại sau nó chỉ có Thiên Ư biểu lộ,
Thượng Đế sáng tạo khai trí cho chúng thấy
trong Thế Giới Lư Tưởng (đến nay vẫn
c̣n ẩn tàng trong Tư Tưởng Thiêng Liêng) các nguyên h́nh
của vạn vật, tiến hành mô phỏng và kiến
tạo các h́nh hài phù du và siêu việt dựa vào các mô h́nh này.
Vào giai đoạn Hành động này, Hoá Công
vẫn chưa phải là Kiến trúc sư. Được
sinh ra vào lúc Nhá nhem của Tác Động (Twilight of Action),
trước hết, Ngài c̣n phải tri giác Thiên Cơ,
nhận thức các H́nh hài Lư tưởng đang bị chôn
vùi trong ḷng Thiên Ư Vĩnh Cửu, chẳng khác nào các lá sen
tương lai, các cánh hoa vô nhiễm, ẩn tàng bên trong
hạt giống của cây này. (1)
96
Trong một chương
của Tử Vong Kinh, nhan đề: “Sự biến hoá thành
Hoa Sen”, Thượng Đế, được phác hoạ
như một cái đầu ló ra khỏi đoá hoa này, tuyên
bố rằng:
Ta là
Hoa Sen thuần tuư, xuất lộ từ các Đấng Quang
Huy (the Luminous Ones)…Ta đem theo các thông điệp của
Horus. Ta là Hoa Sen thuần tuư xuất phát từ Hoạt
trường Thái dương (Solar Fields). (2)
Trong Nữ Thần Isis Lộ Diện
có vạch rơ là chúng ta có thể
truy nguyên ư niệm về hoa sen này, ngay cả ở
chương “duy Elohim” đầu tiên của Sáng Thế Kư. Chính v́ ư niệm này mà ta phải trông
chờ nguồn gốc và lối giải thích câu thơ
trong vũ trụ khởi nguyên luận của Do Thái như
sau: “Thượng Đế phán: Đất hăy nở ra
đi … cây cối đơm bông kết trái theo đúng
loại hạt giống”. ([76]) Trong tất cả mọi tôn giáo
sơ khai, Thần Linh Sáng Tạo (the Creative God) là “Con
của Từ Phụ” (“Son of the Father”), nghĩa là Tư
Tưởng của Ngài trở nên hữu h́nh; và
trước Kỷ nguyên Thiên Chúa giáo; từ Ba Ngôi của
Ấn Độ xuống đến Ba Ngôi của Do Thái Bí
giáo, Thượng Đế Ba Ngôi của mỗi quốc
gia đều được xác định và bổ
chứng hoàn chỉnh trong các ẩn dụ.
Đó là ư nghĩa lư tưởng và vũ
trụ của đại biểu tượng này
đối với các dân tộc Đông phương.
Nhưng khi được áp dụng vào sự thờ cúng
ngoại môn và thực tế, sự thờ cúng này cũng
có biểu tượng học nội môn của nó,
chẳng sớm th́ muộn, Hoa Sen cũng sẽ bao hàm ư
niệm trần tục hơn. Không tôn giáo có tính cách giáo
điều nào mà tránh khỏi việc tàng trữ yếu
tố tính dục; đến nay yếu tố này đă làm
hoen ố vẻ đẹp luân lư của ư niệm căn
bản của biểu tượng học này. Sau đây là
đoạn trích từ các bản thảo của Do Thái Bí
giáo mà chúng ta đă nhiều phen trích dẫn:
Hoa
sen mọc trên sông
97
Chúng
ta không thể quá chú trọng tới việc sử dụng
chức năng sinh sản này như là một cơ sở
cho ngôn ngữ biểu tượng và một thuật
ngữ khoa học. Cứ nghĩ tới ư niệm này là ta
lại ngẫm ngay tới chủ đề nguyên nhân sáng
tạo. Khi quan sát thiên nhiên hoạt động, ta thấy
là nó đă tạo ra một cơ cấu sống
động kỳ diệu, có thêm một linh hồn
khống chế. Lịch sử sinh tồn và phát triển
của Linh Hồn này, chẳng hạn như quá khứ,
hiện tại và tương lai của nó, thật là
bất khả tư nghị đối với con
người.([79])
Đứa trẻ sơ sinh là một phép lạ tái diễn
măi măi và là một bằng chứng hùng hồn rằng bên
trong khuôn viên của tử cung, đă có một quyền
năng sáng tạo thông tuệ can thiệp vào để liên
kết một linh hồn với một cơ cấu
vật chất. Sự kiện kỳ diệu này đă
đem lại một sự thiêng liêng thánh thiện cho
mọi điều liên hệ tới các cơ quan sinh
dục, cũng như là địa vị can thiệp sáng
tạo thiên nhiên của thần linh”. ([80])
Đó là một
sự diễn tả chính xác các ư niệm cơ bản
của cổ nhân, các quan niệm thuần tuư phiếm
thần, vô ngă và tôn kính của các triết gia cổ
thời tiền sử. Tuy nhiên, khi áp dụng cho nhân
loại tội lỗi, cho các ư niệm thô thiển gắn
liền với phàm ngă, nó lại không hề như vậy.
Do đó, bất cứ triết gia phiếm thần nào
cũng thấy là các nhận xét tiếp theo các điều
trên, vốn tiêu biểu cho thuyết thần nhân
đồng h́nh cho biểu tượng học Judea,
thật tai hại cho sự thánh thiện, cho tôn giáo chân
chính và chỉ thích hợp với thời đại duy
vật của chúng ta, nó vốn là hệ quả trực
tiếp của đặc tính thần nhân đồng h́nh này.
V́ theo bản thảo này, đó là chủ điểm
của toàn bộ tinh thần và tinh hoa của Cựu Ước khi bàn về biểu tượng kư
của thuật ngữ Thánh
kinh :
Do
đó, vị trí của tử cung (womb) được xem
là Nơi chốn Thánh thiện nhất, Chân Thánh điện
của Thượng Đế sống động.([81]) Đối với
người đàn ông, việc chiếm hữu
người vợ đă luôn luôn được xem như
là một phần việc cốt yếu của y,
để từ hai vợ chồng, tạo ra đứa
trẻ được giữ ǵn, thần thánh hoá một
cách ghen tuông. Ngay cả phần của căn nhà thông
thường cho người vợ cũng được
gọi là thâm cung, nơi chốn thiêng liêng; v́ thế
mới có ẩn dụ về Chính điện của các
công tŕnh kiến trúc linh thiêng, phỏng theo ư niệm về
sự thiêng liêng của các cơ quan sinh dục. Khi dùng
ẩn dụ tới mức độ,([82])
trong các Thánh thư, người ta mô tả phần này
của một căn nhà như là “ở giữa các bắp
đùi của căn nhà”, đôi khi người ta c̣n áp
dụng ư niệm này cho cánh cửa mở rộng của
các nhà thờ, ở bên trong các trụ tường ở hai
bên sườn.([83])
98
Trong những
người Ăryan sơ khai, không bao giờ có tư
tưởng cực đoan như thế. Vào thời kinh
Phệ Đà, phụ nữ không hề được cách
ly với đàn ông ở nơi thâm cung tức Zenănas;
sự kiện này đă chứng tỏ điều trên.
Sự cách ly này chỉ bắt đầu khi mà người
Hồi giáo – kẻ kế thừa biểu tượng của
người Hebrew, sau chế độ giáo sĩ Thiên Chúa –
đă chinh phục được xứ sở này và
dần dần áp đặt các đường lối và
các tập tục của họ lên trên dân Ấn Độ.
Người đàn bà trước và sau thời kinh Phệ
Đà cũng tự do như đàn ông; không hề có
một tư tưởng trần tục ô trược nào
đă từng lẫn lộn với biểu tượng
học tôn giáo của dân Ăryan sơ khai. Ư niệm này và
việc áp dụng nó thuần là của dân Semite. Tác giả
của pho tài liệu Do Thái Bí giáo được xem như
là vô cùng uyên bác trên, đă bổ chứng điều này khi
ông kết thúc các đoạn văn trích dẫn trên bằng
cách nói thêm:
Nếu
người ta có thể liên kết ư niệm về
nguồn gốc của các kích thước cũng như
các thời kỳ, với các cơ quan này được
dùng như là các biểu tượng của các tác nhân sáng
tạo vũ trụ, bấy giờ, trong việc kiến
tạo các Thánh điện được dùng như là
Chỗ ngự của Thượng Đế tức
Jehovah, các phần được mệnh danh là Chính
điện, tức Nơi Chốn Thiêng Liêng Nhất,
sẽ được mệnh danh theo sự linh thiêng đă
được thừa nhận của các cơ quan sinh
dục, được xem như là biểu tượng
của các kích thước cũng như là của nguyên nhân
sáng tạo. Đối với các hiền triết thời
xưa, nguyên nhân bản sơ không thể mệnh danh, quan
niệm hay biểu tượng hoá được”.(1)
Dứt khoát là không
rồi. Thà rằng đừng suy tư về nó và
để cho nó cứ vô danh măi măi, giống như là các nhà
Phiếm Thần thời xưa, c̣n hơn là làm bại
hoại sự linh thiêng của Lư tưởng Vô thượng (Ideal of Ideals) này bằng cách làm giảm giá trị
các biểu tượng của nó thành ra các sắc
tướng nhân h́nh ! Ở đây, người ta lại
thấy hố sâu thăm thẳm giữa các tư
tưởng tôn giáo của dân Ăryan và Semite, hai đối
cực, Thành thật và Dối trá. Đối với
người Bà La Môn, họ không bao giờ xem các chức
năng sinh sản tự nhiên của nhân loại như là
“tội lỗi nguyên thuỷ”, việc có con là một
bổn phận tôn giáo. Ngày xưa, sau khi đă hoàn thành
sứ mạng sáng tạo ra con người, một
người Bà La Môn đi ẩn trong rừng thẳm và dành
phần c̣n lại của cuộc đời ḿnh để
tham thiền theo tôn giáo. Với tư cách là một
người phàm tục, y đă làm tṛn sứ mạng của
ḿnh đối với thiên nhiên, và từ nay, y sẽ
tập trung tham thiền về phần tinh thần bất
tử của ḿnh, xem thế sự như là hăo huyền,
như là giấc nam kha, thật thế. Đối với
người Semit th́ khác hẳn. Họ bày ra sự cám
dỗ của xác thịt trong vườn Địa
Đàng (a garden of Eden) và chứng tỏ rằng
Thượng Đế của họ - xét về mặt nội
môn, là kẻ Quyến Rũ và Đấng Trị V́ Thiên
Nhiên (the Tempter and the Ruler of Nature) – đă NGUYỀN RỦA một hành vi măi măi (CURSING for
ever an act), điều này phù hợp với chương
tŕnh hợp lư của Thiên Nhiên này.(1) Tất cả mọi điều
này đều có tính cách ngoại môn, chẳng khác nào Sáng Thế Kư được thuyết minh theo lối chấp nê văn tự. Đồng
thời, xét về mặt nội
môn, y xem sự tội lỗi và SA ĐOẠ giả định
như là một hành vi linh thiêng đến nỗi mà y
chọn cái cơ quan gây ra tội
lỗi nguyên thuỷ như là
biểu tượng thiêng liêng nhất và thích hợp
nhất để tiêu biểu cho các Đấng Thần
Linh vốn khai sáng ra nó như là một sự bất
phục tùng và TỘI LỖI đời đời
(everlasting SIN)!
Ai mà ḍ nổi
những nghịch lư sâu xa của những người
Semit! Yếu tố nghịch lư này, bớt đi ư nghĩa
sâu xa nhất, nay đă chuyển hết thành ra thần
học và giáo điều Thiên Chúa giáo!
99
Liệu rằng các
Đức Cha thời xưa của giáo hội có biết
được ư nghĩa nội môn của Cựu Ước bằng tiếng Hebrew hay không, hay là
chỉ có một số ít người biết, c̣n những
kẻ khác vẫn không biết ǵ về bí nhiệm,
điều này, tôi xin để hậu thế quyết
định. Dù sao đi nữa chắc chắn là có một
điều. V́ Nội môn Bí giáo của các Thánh thư Moses
viết bằng tiếng Hebrew; đồng thời, v́
một số các biểu tượng thuần tuư Ai Cập
và các giáo điều Tà đạo nói chung – chẳng hạn
như Ba Ngôi – đă được Thánh John sao chép lại
và hội nhập vào Phúc
Âm Khái Niệm, nên hiển nhiên
là các tác giả của Tân
Ước (dù họ là ai đi
chăng nữa) phải biết được gốc tích
của các biểu tượng này. Họ ắt cũng
biết được tính ưu việt của Nội môn
Bí giáo Ai Cập, v́ họ đă chọn dùng nhiều
biểu tượng chuyên môn là tiêu biểu cho các quan
niệm và tín ngưỡng Ai Cập (theo ư nghĩa ngoại
môn và nội môn) và không có mặt trong Giáo luật Do Thái.
Một trong các thứ trên chính là vị Tổng Thiên
Thần (
V́ Hoa sen và
Nước là một trong các biểu tượng cổ
nhất và có nguồn gốc thuần là Ăryan, mặc dù chúng
đă trở thành tài sản chung khi Giống dân thứ
Năm (the Fifth Race) phân nhánh ra. Chẳng hạn như các
chữ, cũng như là các số, dù xét chung hay xét riêng,
đều có tính cách huyền bí cả. Chữ linh thiêng
nhất là chữ M. Nó có tính cách bán thư bán hùng và tiêu
biểu cho NƯỚC (WATER) ở tận nguồn, tức thái uyên
(the great deep). Trong mọi ngôn ngữ Đông và Tây, nó
đều là một chữ huyền nhiệm và là một
chữ tượng h́nh, tiêu biểu cho sóng, như thế
là .
Trong Nội môn Bí giáo của Ăryan, cũng như là dân Semite,
chữ này luôn luôn tượng trưng cho Nước.
Chẳng hạn như trong tiếng Bắc Phạn, MAKARA,
cung thứ mười của
Hoàng Đạo, có nghĩa là con sấu, hay đúng hơn là
một con Thuỷ quái luôn luôn liên kết với
Nước. Chữ MA tương đương và
tương ứng với số 5, nó được
cấu thánh bởi một Lưỡng
Nguyên (Binary), biểu
tượng của hai phái riêng biệt, và một Tam Nguyên (Ternary), biểu tượng của Sinh Linh
thứ Ba (the Third Life), hậu duệ của Lưỡng Nguyên. Lại nữa, điều này hay
được tượng trưng bởi một Ngôi sao năm cánh (Pentagon), đó là một kư hiệu linh thiêng, một
chữ lồng vào nhau thiêng liêng (a divine Monogram). DI LẶC (MAITREYA) là mật danh của Đức
Phật thứ Năm và Bạch Mă Kỵ Sĩ Hoá Thân (the Kalkĩ Avatăra) của người Bà La Môn, ĐẤNG CỨU THẾ cuối cùng (the last MESSIAH),
Ngài sẽ giáng lâm vào lúc Đại Chu Kỳ đạt
đỉnh cao. Nó cũng là chữ đầu tiên của
tiếng Hy Lạp Metis, tức Minh Triết Thiêng Liêng (Divine Wisdom); chữ Mimra, “Huyền Âm” (the
“Word”) tức Thượng Đế; và của Mithras (Mihr) tức Chơn Thần (Monad), Bí Nhiệm (Mystery). Tất cả các thứ trên
đều được sinh ra trong và từ Thái Uyên (Great
100
Deep), và đều là
các Con của Thánh Mẫu Măyă, tức Moot ở Ai Cập; Minerva (minh triết thiêng liêng) ở Hy
Lạp, Mary (Miriam, Myrrha, v.v…, Mẹ của Đức Chúa trong
Thiên Chúa giáo); và Măyă, Thân mẫu của Đức Phật.
Mădhava và Mădhavĩ là tôn danh của các Thần Linh và Nữ
Thần quan trọng nhất của đền thờ các
Thần Ấn Độ. Cuối cùng, trong tiếng Bắc
Phạn, Mandhala là một “ṿng tṛn” (“circle”) hay một
Quả cầu (Orb), cũng như là mười phân
đoạn của Thánh kinh Rig
Veda. Các danh xưng linh thiêng
nhất ở Ấn Độ thường bắt
đầu với chữ M, từ Mahat, bản nguyên trí, và Mandara, tức trái núi vĩ đại mà
Chư Thần dùng để khuấy đảo Đại dương, xuống măi tới Mandăkinĩ, Sông
Hằng thiên giới (the heavenly Gangă), và Manu (Bàn Cổ)
v.v….và v.v….
Liệu có phải
điều này là một sự trùng hợp không? Thế th́,
thật là kỳ lạ khi thấy Moses, b́ bơm dưới
sông Nile (found in the water of the
Trong các di tích của
cổ Ai Cập, các biểu tượng và biểu hiệu
lễ vật dâng cúng của các đồ khai quật càng
cổ bao nhiêu th́ người ta càng thấy Hoa Sen và
Nước hay được liên kết với Nhật
Thần bấy nhiêu. Theo Thales, Thần Khnoom, Năng
Lượng Ẩm Ướt (the Moist Power), hay
Nước, vốn là nguyên lư của vạn vật,
ngồi trên một cái Ngai ở trong một Toà Sen. Thần
Bes đứng sừng sững trên một Toà Sen, chỉ
chực ăn tươi nuốt sống kẻ hậu
duệ của ḿnh (ready to devour his progeny). Thot, vị
Thần Bí Nhiệm và Minh Triết, Cầm cân nẩy
mực ở Âm phủ (the sacred Scribe of Amenti), đội
sùm sụp trên đầu vầng thái dương le lói
(wearing the solar disk as head gear), đầu ḅ ḿnh người
– con ḅ thiêng Mondes là một h́nh hài của Thot – ngồi
gọn trong Toà Sen nở hết cánh. Cuối cùng, tới
Nữ Thần Hiquit, khoác lấy h́nh dạng một con
ếch, nằm nghỉ trên Toà Sen, ư như tỏ ra yêu
nước. Và chính v́ biểu tượng ếch này có
vẻ không thi vị - nó chắc chắn là h́nh tượng
xưa nhất của các vị Thần Ai Cập - nên các
nhà nghiên cứu về Ai Cập mới mất công đi t́m
cách làm sáng tỏ các chức năng của Nữ Thần
này. Khi các tín đồ Thiên Chúa giáo buổi đầu
chọn dùng biểu tượng này trong nhà thờ, họ
đă tỏ ra là ḿnh c̣n thấu hiểu hơn cả các nhà
Đông phương học hiện đại. “Nữ
Thần cóc nhái” (“frog or toad Goddess”) này là một trong các
Thần chính của Vũ Trụ liên hệ tới sự
Sáng Tạo, v́ con vật này có bản chất lưỡng
cư (sinh sống hai chỗ - LND) và chủ yếu là v́ nó
hiển nhiên là phục sinh sau khi đă sống côi cút
một ḿnh (solitary life) trong xó tường, ngoài hóc đá
101
v.v… trong một
thời kỳ dài đăng đẳng. Nàng không những
góp phần trong việc tổ chức Thế giới cùng
với Thần Khnoom, mà lại c̣n có liên hệ với tín điều phục sinh.(1) Biểu
tượng này ắt hẳn phải có một ư nghĩa
rất linh thiêng và sâu sắc, v́ bất chấp nguy cơ có
thể bị công kích là sùng bái một con vật đáng ghê
tởm, các tín đồ Thiên Chúa giáo sơ khai người
Ai Cập vẫn cứ chọn dùng nó trong các nhà thờ.
Một con ếch hay con cóc ngồi trong một Hoa Sen (hay là
cũng chẳng cần có hoa sen) là h́nh dáng được
chọn dùng cho những
chiếc đèn nhà thờ, trên
đó có khắc từ ngữ: “Ta là sự phục sinh”([84]). Trên tất cả mọi xác
ướp cũng đều có các nữ thần cóc nhái
này.
102
TIẾT 9
MẶT TRĂNG; NGUYỆT
THẦN, PHOEBE
(THE MOON; DEUS LUNUS, PHOEBE)
TRONG tất cả mọi biểu tượng, đây là biểu tượng thơ mộng nhất, cũng như là có ư nghĩa triết học thâm thuư nhất. Người cổ Hy Lạp làm cho nó nổi bật, c̣n các thi sĩ hiện đại cứ dùng đi dùng lại nó măi đến nỗi trở nên tầm thường (threadbare). Chị Hằng (the Queen of Night) uy nghi trên Trời với ánh sáng vô song (peerless light), khiến cho cả Sao Hôm cũng bị lu mờ đi, toả ánh sáng óng ánh ra khắp thế giới tinh cầu, bao giờ cũng là một đề tài ưa thích của tất cả mọi thi sĩ Thiên Chúa giáo, từ Milton và Shakespeare măi xuống tới kẻ tập làm thơ cận đại nhất. Thế nhưng ngọn đèn chói lọi huy hoàng ban đêm, với vô số tinh tú tuỳ tùng, chỉ khiến cho kẻ phàm tục thêm tưởng tượng. Măi đến gần đây, cả tôn giáo lẫn khoa học đều chẳng buồn ngó ngàng ǵ đến thần thoại đẹp đẽ này. Shelly ngâm vịnh như sau:
…nàng
mỉm cười với vật nào, cũng đều làm
cho nó xinh tươi.
Cái
Thánh điện lang thang với ngọn lửa nồng nàn
song băng giá này
Cứ
biến hoá măi song vẫn không thay đổi,
Chỉ
soi sáng chớ không hề sưởi ấm….. (1)
103
thế mà, Mặt
trăng lạnh lùng trinh bạch này lại đứng
gần Trái Đất hơn bất cứ tinh tú nào.
Mặt Trời ban cấp Sự Sống cho toàn bộ Hành
Tinh Hệ (Planetary System); c̣n Mặt Trăng ban cấp
Sự Sống cho Địa Cầu chúng ta; ngay từ lúc
c̣n ấu trĩ, các giống người sơ khai đă
hiểu biết điều này. Nàng là Hoàng Hậu mà cũng
là Vua (She is the Queen, and she is the King). Nàng là Vua Soma
trước khi biến thành Phoebe và nữ thần trinh
bạch Diana. Nàng chủ yếu là Thần Linh của tín
đồ Thiên Chúa giáo, thông qua các người Do Thái theo phái
Moses và Thánh kinh Do Thái Bí giáo, mặc dù là thế giới
văn minh có thể vẫn không biết tới sự
kiện này trong một thời kỳ dài. Quả thật
như vậy từ khi Đức Cha được
điểm đạo cuối cùng của Giáo hội đă
chết đi, mang theo xuống tuyền đài (grave) bí
nhiệm về các thánh điện tà giáo (the pagan temples).
Đối với các “Đức Cha” như Origen hay Clemens
Alexandrinus, Mặt Trăng là biểu tượng của
Jehovah, Đấng nắm quyền Sinh Sát, Đấng an bài
vận mệnh – trong Thế giới chúng ta. V́ nếu Artemis là Luna trên Trời, và đối với
người Hy Lạp, là Diana dưới Đất,
vốn dĩ chủ tŕ cuộc sống và việc sinh
đẻ con cái; th́ đối với người Ai
Cập, Nàng là Hekat (Hecate) nơi Địa ngục (Hell),
Nữ Tử thần (the Goddess of Death), vốn dĩ
chủ tŕ pháp thuật và bùa ngải. Hơn nữa, với
tư cách là Mặt Trăng được nhân cách hoá có các
hiện tượng tam phân, Diana-Hecate-Luna là tam
nguyên trong nhất nguyên. V́
nàng là Nữ Thần tam đầu, tam thân, một cổ có
tới ba đầu (she is Diva triformis, tergemina,
triceps),(1)
giống như Brahma-Vishnu-Shiva. V́ thế, nàng là nguyên
kiểu của Tam Nguyên của chúng ta, nó không phải lúc nào
cũng toàn là nam tính. Con số bảy nổi bật
biết bao trong Thánh kinh, linh thiêng biết bao vào ngày thứ
bảy hay ngày Sabbath và đă xuất hiện trong những
người Do Thái từ thời xa xưa, bắt nguồn
từ con số 7 tứ phân bao hàm trong 28 ngày của tháng ba
âm lịch, mỗi tuần gồm bảy ngày
được tiêu biểu bởi một phần tư
của Mặt Trăng.
Trong tác phẩm này,
chúng ta nên tŕnh bày một quan niệm tổng thể về
nguồn gốc và sự phát triển của thần
thoại và sự tôn thờ nguyệt cầu, vào thời xa
xưa, ở phía bên này của địa cầu. Khoa
học chính xác vốn bác bỏ mọi truyền
thuyết, không thể nào truy nguyên được nguồn
gốc xa xưa của nó; trong khi đó, lịch sử xa
xưa của nó vẫn c̣n là một bí mật đối
với Thần học. Dưới sự chỉ
đạo của các vị Giáo Hoàng lắm xảo thủ
(the crafty Popes), Thần học đă đặt nhăn hiệu
trên mọi áng văn không hề mang dấu ấn hành (the imprimatur) của Giáo hội La Mă. Dù là
triết lư tôn giáo của
người Ai Cập hay người Ăryan Ấn có xưa
hơn – Giáo lư Bí Nhiệm cho rằng triết lư tôn giáo Ăryan
Ấn xưa hơn – cũng chẳng thành vấn
đề, riêng trong trường hợp này, sự tôn
thờ Nguyệt Tinh (Lunar) và Nhật Tinh (Solar) thật là
xưa nhất trên thế giới. Cả hai vẫn c̣n
tồn tại, và đến nay vẫn c̣n thịnh hành trên
thế giới, một số th́ công khai, một số -
chẳng hạn như trong biểu tượng học
Thiên Chúa giáo – th́ lại bí mật. Con mèo, một biểu
tượng nguyệt tinh, lại linh thiêng đối
với Isis, nàng vốn là Mặt Trăng theo một
nghĩa nào đó, cũng như Osiris là Mặt Trời;
người ta thường thấy Ngài ở trên
đỉnh của chiếc Xi-Cầm (Sistrum) mà
Nữ Thần cầm trên tay. Ở thành phố Bubastis,
người ta rất tôn kính con vật này và thành phố
trở nên tang tóc thê lương khi các con linh miêu này chết
hết, v́ Isis với tư cách là Mặt Trăng
được đặc biệt tôn thờ ở thành
phố bí nhiệm này. Chúng ta đă tŕnh bày biểu
tượng kư thiên văn liên hệ với nó trong Tiết
1, chẳng ai mô tả nó khá hơn ông Gerald Massey, trong các bài diễn văn và tác phẩm Sáng Thế Kư Tự Nhiên (The Natural Genesis). Người ta bảo là mắt mèo
h́nh như tuỳ theo tuần trăng tṛn hay trăng
khuyết, c̣n các nhăn cầu lại sáng như sao trong đêm
tối. V́ thế mới có chuyện thần thoại
ẩn dụ nói là Diana ẩn trong Mặt Trăng,
dưới h́nh hài một con mèo, khi nàng đang t́m cách
trốn chạy con quái vật Typhon, cùng với các vị
thần linh khác. Trong tác phẩm Biến H́nh (Metamorphoses)
của Ovid có thuật lại điều này. Ở Ai
Cập, Mặt Trăng vừa là “Mắt của Horus”,
vừa là “Mắt của Osiris” tức Mặt Trời.
Con vật
đầu chó cũng vậy (Cynocephalus). Con khỉ đầu chó (the dog-headed
ape) là một h́nh tượng để lần lượt
tượng trưng cho Mặt Trời và Mặt Trăng,
mặc dù Con vật đầu chó là một biểu tượng huyền bí hơn là
một biểu tượng của tôn giáo. V́ đó chính là chữ viết
tượng h́nh của Thuỷ Tinh (Mercury) và Thần Mercury
của các Triết gia luyện kim đan; họ cho
rằng:
104
Thần
Mercury bao giờ cũng phải ở gần bên Isis
để giúp đỡ nàng, v́ nếu không có Mercury, cả
Con vật đầu
chó, bất cứ lúc nào được tŕnh bày tượng
trưng cùng với Dực Xà Trượng (the Caduceus) (cây
gậy có h́nh con rắn quấn quanh và có cánh - LND), Trăng
lưỡi liềm (Crescent), hay Hoa sen (Lotus) cũng
đều là một h́nh tượng của thần Mercury
“triết lư”. Nhưng khi được tŕnh bày cùng với
một cây sậy hay là một cuộn giấy da, y lại
tượng trưng cho Hermes, thư kư và cố vấn
(adviser) của Isis, chẳng khác nào Hanumăn đi đôi
với Răma.
Mặc dù chẳng có
bao nhiêu tín đồ Bái Hoả giáo vốn thường
xuyên tôn thờ Mặt Trời, song không những phần
lớn (the bulk) thần thoại và lịch sử Ấn
Độ đều dựa vào và lẫn lộn với hai
tục thờ cúng này, mà cả Thiên Chúa giáo cũng vậy
nữa. Từ lúc khởi đầu đến nay, nó
đă tô điểm cho Thần học của Giáo hội
Thiên Chúa giáo La Mă lẫn Giáo hội Tin Lành. Thật ra nếu
xét tới các ư niệm căn bản của cả hai, chúng
ta thấy là các tín ngưỡng của dân Ăryan Ấn và dân
Ăryan Âu chẳng khác nhau bao nhiêu. Dân Ấn Độ cứ
hănh diện mà khoe rằng ḿnh là các Sũryavamshas và
Chandravamshas, tức là thuộc về các Triều
đại Thái
Dương (Solar) và Thái Âm (Lunar). Tín đồ Thiên Chúa giáo tự
phụ nên mới cho rằng như thế là tôn thờ h́nh
tượng, song họ lại gắn bó (adhere) với cái
tôn giáo toàn là dựa vào sự tôn thờ Nhật Tinh (Solar)
và Nguyệt Tinh (Lunar). Tín đồ Tin Lành làm ǵ mà có
quyền lên mặt tố cáo ầm ĩ Giáo hội Thiên
Chúa giáo La Mă là cứ tôn thờ Đức Mẹ Mary
(vốn dựa vào các tập tục cổ truyền là tôn
thờ các nữ thần nguyệt tinh) khi mà chính họ
lại tôn thờ Jehovah, chủ yếu là một Thần nguyệt tinh; nhất là khi cả hai giáo hội
đều chấp nhận Đức Christ Thái Dương (Sun-Christ) và Tam Nguyên Thái Âm (Lunar Trinity) trong các thuyết thần học
của ḿnh.
Người ta
chẳng biết được bao nhiêu về sự Tôn
thờ Mặt Trăng của dân Chaldea, về thần Sin của
dân Babylon mà người Hy Lạp gọi là “Nguyệt
Thần” (“Deus Lunus”), v́ thế mà những môn sinh phàm tục
mới bị lầm lẫn, họ không tài nào lĩnh
hội được ư nghĩa nội môn của các
biểu tượng. Những người đă
được điểm đạo đều phải
tuyên thệ bảo mật, c̣n những triết gia và
văn sĩ ngoại đạo thời xưa đều
biết rơ rằng những người dân Chaldea toàn là tôn
thờ Mặt Trăng với nhiều danh xưng nam, nữ khác nhau; người Do Thái lại
cứ theo đó mà đi.
Trong bản thảo
chưa được xuất bản về thuật
ngữ đă được đề cập tới – nó
tŕnh bày một ch́a khoá để giải cấu tạo của
ngôn ngữ biểu tượng cổ truyền –
người ta đă tŕnh bày lư do tồn tại hợp lư của
tục thờ cúng song đôi này. Nó đă được
trước tác bởi một học giả và nhà huyền
học thật là thông thái và sâu sắc, ông đă tŕnh bày nó
dưới h́nh thức toàn diện của một giả
thuyết. Tuy nhiên, đối với bất cứ
người nào đă từng hiểu được
lờ mờ bí nhiệm của biểu tượng
học cổ truyền, giả thuyết trên ắt sẽ
trở thành một sự kiện xác thực trong lịch
sử tiến hoá tôn giáo của tư tưởng con
người. Ông cho rằng:
105
Một
trong các lối quan tâm thực sự thiết yếu
đầu tiên của con người là việc tri giác
được các thời kỳ,(1)
nổi bật trên ṿm trời, ló lên trên chân trời phẳng
lặng hoặc mặt nước yên b́nh. Rơ rệt
rằng đó là các thời kỳ ngày và đêm, các tuần
trăng, các ṿng xoay tinh tú (synodic revolutions), thời kỳ
năm dương lịch với các mùa xoay vần, với
việc áp dụng vào các thời kỳ đo lường
ngày và đêm, tức là một ngày được chia thành
ban ngày và ban đêm. Người ta cũng sẽ thấy
rằng có một ngày dương lịch dài nhất và
ngắn nhất, và có hai ngày dương lịch có ban
đêm dài bằng ban ngày trong một năm dương
lịch. Các điểm trong năm này có thể ghi nhận
một cách cực kỳ chính xác trong các cḥm sao đang
chịu sự chuyển động thoái bộ. Do đó,
sớm muộn ǵ chúng ta cũng phải sửa lại
bằng cách thêm thắt vào, chẳng hạn như trong
trường hợp mô tả trận Đại hồng
thuỷ, khi mà ta cần phải hiệu chỉnh 150 ngày
đối với một thời kỳ 600 năm; trong
thời kỳ này, các điều lầm lẫn về các
mốc thời gian ngày càng chồng chất … [Điều
này] tự nhiên là diễn ra …với mọi giống
người vào bất cứ lúc nào; và chúng ta phải coi là
kiến thức như thế vốn có sẵn nơi nhân
loại, trước khi có cái gọi là thời kỳ
hữu sử.([85])
Dựa vào cơ
sở này, tác giả mưu t́m một chức năng
vật chất tự nhiên nào đó mà người nào
cũng có; chức năng này có liên hệ với các
biểu lộ định kỳ, đến nỗi mà “liên
hệ giữa hai loại hiện tượng trở thành
cố định (fixed) trong tập tục b́nh dân thông
thường”. Ông t́m thấy nơi nó:
(a) [Các hiện tượng sinh lư của phái
nữ] mỗi tháng âm lịch có 28 ngày, tức là 4 tuần,
mỗi tuần 7 ngày, sao cho 13 tháng sẽ diễn ra trong 364
ngày, đó cũng chính là năm dương lịch gồm
52 tuần lễ, mỗi tuần lễ 7 ngày.
(b) Việc bào thai bắt đầu
đạp trong bụng mẹ được xác
định bởi một thời kỳ 126 ngày; tức là
18 tuần, mỗi tuần 7 ngày.
(c) Cái gọi là “thời kỳ khả sinh” (“the
period of viability”) gồm 210 ngày hay 30 tuần, mỗi
tuần 7 ngày.
(d) Thời kỳ đẻ được
hoàn thành trong 280 ngày, tức một thời kỳ 40
tuần, mỗi tuần 7 ngày, hoặc 10 tháng âm lịch,
mỗi tháng 28 ngày, hoặc 9 tháng dương lịch,
mỗi tháng 31 ngày, tính trên thiên vương môn (royal arch of
heaven) để đo lường thời kỳ đi
từ tử cung âm u ra tới cuộc sống hữu
thức huy hoàng vinh diệu, tức là những ǵ nhiệm
mầu bí nhiệm bí hiểm …Như thế các thời
kỳ mà ta ghi nhận đánh dấu việc chức
năng sinh sản hoạt động tốt đẹp
tự nhiên sẽ trở thành một cơ sở của
phép tính toán thiên văn … Chúng ta có thể khẳng
định rằng …đó là cách tính toán của mọi
quốc gia, hoặc là một cách độc lập,
hoặc là do trung gian, hoặc là do học một cách gián
tiếp. Đó là cách tính toán của người Hebrews, v́
ngay cả ngày nay, họ cũng tính toán lịch nhờ vào
354 và 355 ngày của năm âm lịch. Ta cũng có một
bằng chứng đặc biệt rằng đó là cách
tính toán của người Ai Cập, bằng chứng
như sau:
Ư
niệm cơ bản ẩn dưới triết thuyết
tôn giáo của dân Hebrew là Thượng Đế bao hàm
vạn vật,([86]) c̣n người đó – kể cả người
đàn bà – là h́nh ảnh của Ngài. Địa vị
của người đàn ông và người đàn bà
đối với người Hebrew cũng giống như
địa vị con ḅ đực và ḅ cái đối
với người Ai Cập; chúng rất linh thiêng
đối với Osiris và Isis.([87])
Osiris và
106
Nhưng
không hề có ư là dùng con ḅ cái của dân Ai Cập với
một ư nghĩa dị biệt cơ bản so với
người đàn bà của dân Hebrew, mà người ta
lại muốn nhắm vào sự nhất trí của giáo lư,
nó chỉ được dùng để thay thế cho
một biểu tượng có ư nghĩa thống nhất,
đó là: đối với con ḅ cái và người đàn
bà, thời kỳ thai nghén cũng như nhau, tức là 280
ngày, hoặc 10 tháng âm lịch, mỗi tháng 4 tuần lễ.
Và giá trị cốt yếu của biểu tượng thú
vật này chính là ở nơi thời kỳ này, dấu hiệu
của nó là mặt trăng h́nh lưỡi liềm
thuộc tuần trăng mới ([88])…
Người ta thấy rằng các thời kỳ tự
nhiên thai nghén này đă là chủ đề của biểu
tượng kư trên toàn thế giới. Người Ấn
Độ sử dụng chúng như thế đó,
người ta thấy là chúng được tŕnh bày
một cách đơn giản bởi những người
Mỹ thời xưa, trong các tấm thẻ Richardson và Gest,
trong Thập tự giá ở Palenque và ở đâu đó
nữa. Chúng rơ rệt là nền tảng của việc
tạo ra các h́nh thức lịch của dân Mayas ở
Yucatan, dân Ấn Độ, dân Assyria, dân Babylon thời
xưa, cũng như là dân Ai Cập và dân cổ Hebrew. Các
biểu tượng này tự nhiên sẽ hoặc là h́nh
tượng dương vật, hoặc là h́nh tượng
dương vật và âm hộ …hùng và thư (male and female).
Thật vậy, trong câu thơ thứ 27 của
chương đầu Sáng Thế Kư, hùng và thư là các
từ ngữ tổng quát dùng để dịch các từ
ngữ…sarc và n’cabvah, theo sát nghĩa, đó là h́nh
tượng dương vật và âm hộ.([89])
Trong khi việc tŕnh bày các biểu tượng có tính cách
sùng bái sinh thực khí sẽ biểu thị rơ ràng các bộ
phận sinh dục của cơ thể khi ta xét tới các
chức năng của chúng và sự phát triển của các
túi mầm mống xuất phát từ chúng, một cách đo
lường thời gian âm lịch - và thông qua thời gian
âm lịch, đo lường được thời gian
dương lịch - sẽ bắt đầu xuất
hiện.([90])
Đó là ch́a khoá sinh lư
hay nhân loại học để giải Biểu
tượng Mặt Trăng. Ch́a khoá giải bí nhiệm
về Thần phổ học, tức là sự tiến hoá
của Chư Thần thuộc chu kỳ khai nguyên th́
phức tạp hơn và không hề có tính cách sùng bái sinh
thực khí. Ở đó, tất cả đều có tính cách
huyền học và thiêng liêng. Nhưng người Do Thái,
ngoài việc liên kết Jehovah với Mặt Trăng,
được xem như là một Thần sinh hoá (a
generative God), lại cứ thích lờ đi các Huyền giai
thượng đẳng (the higher Hierarchies), và đă
biến các Tộc Trưởng của ḿnh (their Patriarchs)
thành ra một vài cḥm sao của Hoàng Đạo và chư thần
hành tinh; thế là, họ đă lịch sử hoá thần
thoại một ư niệm thuần tuư Minh Triết Thiêng
Liêng (the purely Theosophical idea) và hạ thấp nó xuống
mức nhân loại tội lỗi (sinful humanity). Bản
thảo, mà đoạn trên được trích dẫn ra từ
đó, giải thích rất rơ rệt là Jehovah thuộc
về huyền giai Chư Thần nào, và vị Thần Do
Thái này là ai. Với một ngôn từ sáng sủa, nó
chứng tỏ điều mà tác giả cứ nhấn
mạnh măi, đó là: Thượng Đế của tín
đồ Thiên Chúa giáo chẳng có ǵ khá hơn (no better than) là
một biểu tượng nguyệt tinh về khả
năng sinh hoá trong Thiên Nhiên. Họ cũng lờ đi luôn
Thượng Đế bí nhiệm của Thánh kinh Do Thái Bí
giáo, tức Ain Soph, một quan niệm cũng vĩ
đại như Thái Cực Thượng Đế
(Parabrahman) trong các ư niệm huyền học và Do Thái Bí giáo
sơ khai nhất. Nhưng Thánh
kinh Do Thái Bí giáo (Kabbala Denu-data)
của Rodenroth không bao giờ tŕnh bày các giáo lư nguyên bản
chân chính của Shimeon Ben Yochai, các giáo lư này có tính cách cực
kỳ siêu h́nh và đầy triết lư. Trong những môn sinh
Do Thái Bí giáo, liệu có bao nhiêu người
biết được điều ǵ ngoại trừ các
bản dịch xuyên tạc bằng tiếng La Tinh? Chúng ta
hăy thử xét sơ qua cái ư niệm đă đưa
những người cổ Do Thái đến việc
chọn dùng một thứ thay thế tạm cho
Đấng HẰNG BẤT
KHẢ TRI (the Ever-UNKNOWABLE),
nó cũng khiến cho tín đồ Thiên Chúa giáo lầm
lẫn thứ thay thế tạm này với thực
tại.
107
Nếu
ư niệm về các thời kỳ có thể được
gắn liền với các cơ quan này [h́nh tượng
dương vật và âm hộ] được dùng như là
biểu tượng của các tác nhân sáng tạo vũ
trụ, th́ lúc bấy giờ, trong việc kiến tạo
các Thánh điện được dùng làm Chỗ ngự
của Thượng Đế, tức Jehovah, cái phần
được mệnh danh là Chính điện (Holy of Holies),
tức nơi chốn Thiêng Liêng Nhất (The Most Holy Place),
sẽ có danh xưng bắt nguồn từ sự linh thiêng
sẽ được thừa nhận của các cơ quan
sinh dục, chúng được xem như là biểu
tượng của các kích thước cũng như là
của nguyên nhân sáng tạo.
Đối
với nhà thông thái thời xưa, Nguyên Nhân Bản Sơ (a
First Cause) không hề có danh xưng, hiện tượng và ư
niệm.([91])
Đối với người Hebrew, quan niệm gián
tiếp về điều đó được gói ghém trong
từ ngữ bất khả tư nghị, nghĩa là Ain
Soph, tức Vô Biên. Nhưng biểu tượng của
biểu lộ khả tri đầu tiên của nó là quan
niệm về một ṿng tṛn với đường kính,
nó gợi ngay ra một ư niệm h́nh học, thiên văn
học và có tính cách sùng bái sinh thức khí,… v́ một số
xuất phát từ số không, tức là ṿng tṛn, nếu
không có số không, ta không thể có được số
một; từ số một, tức nhất nguyên bản
sơ, mới có 9 chữ số, và mọi mặt phẳng
được h́nh thành về mặt h́nh học. V́
thế, trong Thánh kinh Do Thái Bí giáo, ṿng tṛn với
đường kính là h́nh ảnh của 10 Sephiroth tức
Phân Thân, họp thành Adam Kadmon, tức Con Người Nguyên
H́nh (the Archetypal Man), nguồn gốc sáng tạo của
vạn vật…Ư tưởng nhằm liên kết bức h́nh
ṿng tṛn có đường kính, nghĩa là số 10, với ư
nghĩa của cơ quan sinh dục và Nơi Chốn Linh
Thiêng Nhất (the Most Holy Place)… được tiến hành
một cách xây dựng trong Nội Cung của Vua (the King’s
Chamber), tức Chính điện (Holy of Holies) của
Đại Kim Tự Tháp, trong Thánh điện Moses và trong
Chính điện của Thánh điện Solomon....Đó là
bức h́nh của một tử cung kép, v́ trong tiếng
Hebrew, chữ Hé đồng thời cũng là số 5 và
biểu tượng của tử cung, và 2 lần 5 là 10,
tức là con số có tính cách sùng bái sinh thực khí.([92])
“Tử cung kép” (“double
womb”) này cũng chứng tỏ lưỡng nguyên tính
của ư niệm được chuyển từ cảnh
giới cao siêu nhất tức cảnh giới tinh thần
xuống cảnh giới thấp nhất tức cơi
trần; đối với người Do Thái, nó bị
giới hạn trong cơi trần. Do đó, đối với
họ, số bảy đă chiếm một địa
vị nổi bật nhất trong tôn giáo ngoại môn,
tức là việc tôn thờ các h́nh thức bên ngoài với
các nghi thức trống rỗng. Chẳng hạn như ngày
Sabbath, ngày thứ bảy rất linh thiêng đối
với Thần Linh của họ, tức Mặt Trăng
vốn là biểu tượng Jehovah sinh hoá. Nhưng
đối với các quốc gia khác, số bảy tiêu
biểu cho sự tiến hoá thần phổ học, cho các
chu kỳ, các cảnh giới vũ trụ, Bảy Thần
Lực (the Seven Forces) và Quyền Năng trong Càn Khôn (Occult
Power in Kosmos), khi được coi như là một Tổng
Thể Vô Biên (a Boundless Whole), Tam giác thượng bản
sơ (first upper Triangle) của nó thật là bất khả
tư nghị đối với con người. Do đó,
trong khi mà các quốc gia khác bị bắt buộc giới
hạn vào Càn Khôn trong Không gian và Thời gian, chỉ quan tâm
đến cảnh giới biểu lộ thất phân, th́
người Do Thái lại chỉ tập trung con số này
vào Mặt Trăng và dựa tất cả các phép tính toán
linh thiêng của ḿnh vào đó. V́ thế, ta thấy khi
đề cập tới khoa đo lường của
người Do Thái, vị tác giả đăm chiêu suy
nghĩ của bản thảo vừa dẫn đă nhận
xét rằng:
Nếu nhân 20 612 với , tích số sẽ là một cơ sở để xác
định được ṿng quay trung b́nh của Mặt
Trăng. Nếu tích số này lại được nhân
với nữa, tích số
mới sẽ là một cơ sở để t́m ra
thời kỳ chính xác của năm dương lịch trung
b́nh. Để t́m ra các thời kỳ thiên văn, h́nh
thức này tỏ ra rất hữu dụng”.(1)
Con số kép – thư hùng (male and female) – này
được tượng trưng nơi một vài
tượng thần nổi tiếng, chẳng hạn
như:
Ardhanărĩ-Ĩshvara,
Isis của Ấn Độ, Eridanus, tức Ardan, tức
108
Trong trạng thái siêu việt nhất,
“Jehovah” là Binah. “Thượng Mẫu trung gian, Đại
Hải tức Thánh Thần” (“Upper mediating Mother, the
Các tổ chức
của giống dân Akkadians huyền bí – Chandravamsha hay
Induvamsha, các Thánh vương Nguyệt Tinh (the Lunar Kings), có
truyền thống là trị v́ tại Prayăga (Allahabad) hàng bao
nhiêu thời đại trước kỷ nguyên của
chúng ta – đă xuất phát từ Ấn Độ, đem
theo sự tôn thờ cổ truyền Soma và Budha (con Soma) sau
này, nó trở thành sự tôn thờ của dân Chaldea. Song
ngoài tục tôn thờ tinh tú và mặt trời của dân
gian ra, tục tôn thờ như thế không hề có
nghĩa là tôn thờ h́nh
tượng. Dù sao đi
nữa, biểu tượng kư của giáo hội Thiên Chúa
La Mă hiện đại vốn liên kết với
Đức Mẹ Đồng Trinh Mary (tức Magna Mater
của dân Syria và Hy Lạp) với Mặt Trăng, cũng
chẳng hơn ǵ.
Về tục tôn
thờ này, tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă ngoan đạo
lấy làm đắc chí lắm và huênh hoang tuyên bố. Trong
một Luận tŕnh, đệ lên Hàn lâm viện Pháp,
Hầu tước De Mirville cho rằng:
Theo như một lời tiên tri vô thức,
Ammon – Ră phải là chồng của mẹ ḿnh, v́ Magna Mater
của tín đồ Thiên Chúa giáo chính
là vợ của con trai mà bà đă thai nghén….Chúng ta [các tín
đồ Thiên Chúa giáo] ngày nay có thể hiểu
được lư do tại sao
Neith lại xạ ánh quang huy lên trên Mặt Trời, trong khi
vẫn c̣n là Mặt Trăng, v́ Đức Mẹ
Đồng Trinh vốn là Nữ Hoàng Thiên Giới (cũng như Neith) và
được Ngài khoác lấy. [Trong khi hành lễ, các tín
đồ Thiên Chúa giáo đă ngâm vịnh điều này].
Chúng ta [các tín đồ Thiên Chúa giáo] cũng
hiểu được làm thế nào mà điều ghi
khắc nổi tiếng tại
Chắc chắn là
chẳng ǵ có thể thành thật hơn điều đó.
Nó biện minh hoàn toàn cho điều mà ông Gerald Massey đă
nêu ra trong bài diễn văn về “Sự Tôn Thờ Mặt
Trăng Xưa và Nay”:
Con
người ở mặt trăng [Osiris-Sut, Jehovah-Satan,
Christ-Judas và các cặp song đôi Nguyệt Tinh khác (other Lunar
Twins)] hay bị buộc tội là có hạnh kiểm
xấu… Trong các biểu tượng nguyệt tinh, mặt
trăng th́ đơn nhất, v́ mặt trăng vốn
lưỡng phân về phái tính và tam phân về đặc
tính, như là mẹ, con và đấng trượng phu (adult
male). Như thế, đứa con của mặt trăng
trở thành chồng của chính mẹ ḿnh! Nếu phải
có bất cứ một sự sinh sôi nẩy nở nào th́
thật là chẳng đặng đừng (it could not be
helped)! Y bắt buộc phải trở thành cha của chính
ḿnh ! Xă hội học sau này đă bác bỏ các quan hệ
trên và người ta không thừa nhận người nguyên
thuỷ ở mặt trăng. Nhưng trong giai kỳ
mới nhất và khó giải thích nhất, điều này
trở thành học thuyết căn bản của
điều mê tín dị đoan thô bạo nhất trong
lịch sử thế giới v́ các hiện tượng
nguyệt tinh này và các quan hệ được tŕnh bày theo
lối con người, kể cả các quan hệ loạn
luân, chính là các nền tảng của thuyết Tam Nguyên trong
Nhất Nguyên của Thiên Chúa giáo. Do việc không hiểu
(ignorance) về biểu tượng kư, lối tŕnh bày
đơn giản thời sơ khai đă trở thành bí
nhiệm tôn giáo thâm thuư nhất trong Tục tôn thờ
mặt trăng ngày nay. Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă không
hề xấu hổ về bằng chứng này, vẫn phác
hoạ Đức Mẹ Đồng Trinh Mary diễm
lệ với mặt trời và mặt trăng lưỡi
liềm dưới chân, Đức Mẹ bồng
đứa nhỏ nguyệt tinh – coi như là đứa con
và ông chồng của bà mẹ mặt trăng! Bà mẹ,
đứa con và vị nam tử (adult male) là căn bản….
109
Như thế, người ta có thể
chứng minh được rằng Thiên Chúa học
(Christology) là thần thoại học đă được
lưu trữ cũng như là kho tàng học thuật
huyền thoại. Chúng đă được đánh tráo
đối với chúng ta ngay trong Cựu Ước và Tân
Ước, như là điều thiên khải do chính
Thượng Đế tiết lộ.(1)
Người ta
thấy một ẩn dụ trong Thánh kinh Zohar
nó tiết lộ nhiều hơn cả về Chân
tướng của Jehovah, tức YHVH, theo quan niệm nguyên
thuỷ của các tín đồ Do Thái Bí giáo Hebrew. Nay
người ta thấy nó trong triết thuyết Kabalah của Inb Gebirol, bản dịch
của Issac Myer.
Trong phần dẫn nhập do R. “Hiz’ qee-yah, nó
rất xưa và là một phần của ấn bản
Brody của Thánh kinh Zohar (1.5b, tiếp theo) có một bài
tường thuật về một cuộc du hành của R.
El’azar, con của R. Shim-on b. Yo’hai và R. Abbah…. Họ gặp
một người đang mang một gánh nặng. Họ
nói chuyện với nhau… và… người mang gánh nặng
giải thích về Thorah hay đến nỗi mà họ xin
được biết danh tính của y. Y đáp:
“Đừng t́m hiểu xem tôi là ai, cứ tiến hành
việc giải thích Thorah [Chánh pháp - Law] đi thôi”. Họ
bèn nói: “Ai bắt Ngài mang một gánh nặng như vậy?”
Ngài đáp: “Chữ Yod (Yod = 10 và là chữ biểu
tượng của Kether, là tinh hoa và mầm mống
của thánh danh YHVH) đă gây chiến, v.v….” Họ nói
với Ngài: “Nếu Ngài cho chúng con biết cha Ngài là ai, chúng
con sẽ quỳ mọp dưới chân Ngài”. Ngài đáp:
“…Về phần thân phụ tôi, ông ngự nơi Đại
Hải (Great Sea) và là một con cá [giống như Vishnu và
Dagon tức Oannes]; [trước nhất] đă huỷ diệt
Đại Hải …ông thật vĩ đại và hùng
dũng, ông ấy chính là “Đấng Vô Lượng
Thọ” (“Ancient of Days”), cho tới khi ông nuốt hết mọi
con cá khác trong (Đại) Hải”… R. El’azar nghe xong liền
nói: “Ngài là Con của Lửa Thiêng (the Holy Flame), Ngài là con
của Rab Ham-’nun-ah Sabah (già) [trong tiếng Syria và Chaldea, con
cá là nun (noon), Ngài là Con của Ánh Sáng của Thorah [Chánh pháp -
Dharma], v.v….” (1)
Rồi tác giả
giải thích rằng các tín đồ Do Thái Bí giáo gọi
Sephira nữ, tức Binah là Đại Hải. Do đó, Binah (có
thánh danh là Jehovah, Yah và Elohim) là Tiamat của dân Chaldea,
tức Quyền năng Âm (the Female Power), Thalatth của
Berosus, Ngài vốn chủ tŕ Hồng nguyên khí (Chaos), và sau này
nó được thần học Thiên Chúa giáo biến thành
Con Rắn và Ma Quỷ (the Serpent and the Devil). Nàng-Chàng (She-He)
(Yah-hovah) là Hé siêu việt và Eve. Như thế, Yah-hovah hay
Jehovah này cũng giống in như Hồng nguyên khí – Cha,
Mẹ, Con – trên cảnh giới vật chất và trong
Thế giới hồng trần thuần tuư; nó đồng
thời là mặt trời và mặt trăng, thiện và ác,
Thượng Đế và Ma Quỷ.
Xét về mặt tâm linh cũng như là về
mặt vật chất, từ khí nguyệt tinh tạo ra,
bảo dưỡng và huỷ diệt sự sống.
Nếu xét về mặt thiên văn, Mặt Trăng là
một trong bảy hành tinh của cựu thế giới,
th́ trong Thần phổ học, nó lại là một trong các
Đấng trị v́ thế giới này, đối với
các tín đồ Thiên Chúa giáo hiện nay cũng như là
người ngoại đạo. Các tín đồ Thiên Chúa
giáo xem mặt trăng như là một trong các Tổng Thiên
Thần của ḿnh (their Archangels), c̣n người ngoại
đạo xem nó như là một Chư Thần (their Gods).
110
Do đó, ư nghĩa
của “câu chuyện thần tiên” (“fairy tale”) - do Chwolsohn
dịch từ bản dịch tiếng Á Rập của
một bản thảo cổ của dân Chaldea - việc tượng thần Mặt Trăng giáo hoá Qũ-tămy,
cũng là điều dễ hiểu. Seldenus cũng như
là Maimonides trong tác phẩm Chỉ
dẫn cho Kẻ phân vân (Guide to the Perplexed (1)
đă tiết lộ bí mật này. Những người tôn
sùng Teraphim (Sấm giảng Do Thái), “đă tạc
tượng và tuyên bố rằng ánh sáng của các ngôi sao
[hành tinh] chính thấm nhuần suốt hết những
thứ này, các Thiên Thần ĐỨC
HẠNH (the Angelic VIRTUES)
[tức là các Đấng chủ tŕ các ngôi sao và các hành tinh
này] đàm thoại với họ, dạy cho họ nhiều
điều và nhiều thuật hữu dụng”. Và Seldenus
giải thích rằng Teraphim được kiến tạo
theo vị trí một vài hành tinh mà người Hy Lạp
gọi là các hành, và theo các h́nh tượng trên trời
được gọi là chư thần hộ mệnh.
Những người truy nguyên các hành được
gọi là các kẻ bói toán dựa vào ngũ hành. (2)
Tuy nhiên, chính những
phát biểu như thế trong Nền nông nghiệp Nabathean (the Nabathean Agriculture), đă làm cho các khoa học gia kinh
khiếp (frightened) nên tuyên bố rằng tác phẩm này
“hoặc là một nguỵ
thư, hoặc là một
chuyện thần tiên, không đáng để cho một Hàn
lâm viện sĩ quan tâm tới”. Đồng thời các tín
đồ Thiên Chúa giáo La Mă và Tin Lành cuồng tín đều
lồng lên xé tan nó ra từng mảnh (theo lối ẩn
dụ) v́ nó “mô tả việc thờ cúng ma quỷ” (theo tín
đồ Thiên Chúa giáo La Mă) và nó “báng bổ tôn giáo” (theo tín
đồ Tin Lành). Thêm một lần nữa, tất cả
đều sai hết. Nó không
phải là một chuyện
thần tiên; c̣n trong các tôn giáo của các dân ngoan đạo
th́ thiếu ǵ tục thờ cúng như vậy, dù là chúng
đă bị dịch thuật xuyên tạc (disfigured by
translation). Chúng ta có thể thấy trong thần học Thiên
Chúa giáo sự tôn thờ Mặt Trăng và Mặt Trời
cũng như là một sự tôn thờ các Tinh Tú và Ngũ
Hành. Các kẻ tôn thờ Giáo Hoàng nhiệt thành bênh vực
các điều này. C̣n các tín đồ Tin Lành lại bài bác
nó để bảo đảm an toàn cho bản thân. Chúng ta
có thể tŕnh bày hai thí dụ:
Ammanius Marcellinus dạy rằng: ngày xưa
người ta luôn luôn bói toán dựa vào các Chơn Linh
Ngũ Hành (Spirits of the Elements).(1)
Nhưng nay
người ta thấy các Hành Tinh, Ngũ Hành và Hoàng
Đạo, không những là có mặt tại Heliopolis qua
mười hai tảng đá có tên là “các bí nhiệm của
ngũ hành” mà c̣n có mặt ở Thánh điện Solomon và
(theo nhiều văn sĩ khác nhau) ở nhiều nhà thờ
cổ của Ư và ngay cả ở Nhà thờ Đức Mẹ tại Paris, tới nay người ta c̣n thấy
chúng ở đó.
Không có biểu
tượng nào, kể cả biểu tượng Mặt
Trời mà lại phức tạp, với các ư nghĩa
đa nguyên, hơn là biểu tượng mặt trăng. Dĩ
nhiên là giới tính th́ lưỡng phân. Đối với
vài nước, nó có nam tính; chẳng hạn như “Vua Soma”
của Ấn Độ và Sin
của dân Chaldea; đối
với các quốc gia khác, nó có nữ tính như các nữ
thần kiều diễm Diana-Luna, Ilithyia [nữ thần
dịu dàng], Lucina. Đối với dân Tauri, các nạn nhân
được dâng cho Artemis, một h́nh thức của
nữ thần nguyệt tinh; người đảo
111 112
Toàn bộ
vấn đề bí ẩn về sự tôn thờ Mặt
Trời và Mặt Trăng (mà nay ta c̣n t́m được di
tích nơi các nhà thờ) thật sự là dựa vào bí
nhiệm xưa như trái đất về các hiện
tượng nguyệt tinh này. Các thần lực
tương hệ nơi “Chị Hằng” (“Queen of Night”)
vẫn c̣n tiềm tàng đối với khoa học
hiện đại, nhưng lại hoạt động tích
cực khi chúng ta có sức hiểu biết của các Cao
đồ Đông phương, giải thích rốt ráo
được vô số h́nh tượng mà Cổ nhân dùng
để tiêu biểu cho Mặt Trăng. Nó cũng
chứng tỏ rằng Cổ nhân đă học hỏi
được nơi các bí pháp Selenic nhiều điều
thâm sâu hơn biết bao so với nhà Thiên văn học
hiện đại của chúng ta. Toàn bộ Chư Thần
nguyệt tinh, một bên là Nephtys tức Neith, Proserpina,
Melitta, Cybele, Isis, Astarte, Venus và Hecate, c̣n một bên là Apollo,
Dionysus, Adonis, Bacchus, Osiris, Atys, Thammuz v.v… tất cả
đều tỏ ra là các tôn danh của họ - “Con” và
“Chồng” của “Mẹ” họ (those of “Son” and “Husbands” of
their “Mothers”) – đồng nhất với Ba Ngôi của Thiên
Chúa giáo. Trong mọi hệ thống tôn giáo, người ta
đều khiến cho Chư Thần kiêm nhiệm nhiều
chức năng như là Cha (Father), Con (Son) và Chồng
(Husband), c̣n các Nữ Thần được đồng
nhất hoá với Vợ (Wife), Mẹ (Mother) và Chị
(Sister) của vị Thần nam nhi (the male God); vị
Thần nam nhi kia tổng hợp các thuộc tính của con
người và được xem như là “Mặt Trời,
Cấp Dưỡng Sự Sống” (“Sun, the Giver of Life”),
nữ thần hội nhập tất cả mọi tôn danh
khác thành ra một đại tổng hợp mà chúng ta
gọi là Maia, Măyă, Marĩa v.v…., một tên gọi chung.
Đối với người Hy Lạp, Maia có nghĩa là
“Mẹ” và thoát thai từ ngữ căn ma (vú
em - nurse); nó lại c̣n là ngữ căn của tháng Năm,
vốn là tháng linh thiêng với tất cả mọi nữ
thần này,
trước khi mà nó
được hiến dâng cho Đức Mẹ Mary.(1) Tuy
nhiên, nghĩa gốc của nó là Măyă, Durgă, mà các nhà Đông
phương học dịch là “không thể tiếp cận”
(“inaccessible”), song thực ra nó có nghĩa là “không thể thấu đạt” (“unreachable”), trong ư nghĩa là hăo huyền, hư
ảo vốn là nguồn gốc và nguyên nhân của các ma
lực, nhân cách hoá của hăo
huyền (illusion).
Trong các nghi lễ tôn
giáo, Mặt Trăng có hai mục đích. Mặc dù
được nhân cách hoá như là một nữ thần
đối với hiển giáo, và như là một nam
thần trong ẩn dụ biểu tượng, nhưng
trong Huyền bí học, Mặt Trăng lại
được xem như là một Mănh lực vô giới
tính cần phải được thâm cứu v́ nó rất
đáng sợ. Đối với các điểm đạo
đồ Ăryans, Chaldea, Hy Lạp và La Mă, Soma, Sin, Artemis Soteira (Apollo bán thư bán hùng, có vật
tượng trưng là lia cầm (the lyre), và Diana râu ria
xồm xàm (the beardde Diana), trang bị đầy đủ cung
tên). Nguyệt Thần
(Deus Lunus), nhất là Osiris-Lunus
và Thot-Lunus,(1) đều là các mănh lực huyền
linh của Mặt Trăng. Nhưng dù là thư hay hùng, dù là
Thot hay Minerva, Soma hay Astoreth, Mặt Trăng vẫn là bí
nhiệm huyền linh nhất và là một biểu
tượng xấu nhiều hơn tốt. Bảy tuần
trăng (theo lối chia nội môn nguyên thuỷ) lại
được chia thành ba hiện tượng thiên văn
và bốn tuần trăng thuần là tâm linh. Trong các Bí pháp
đều có chứng tỏ là Mặt Trăng chẳng
phải là lúc nào cũng được trọng vọng;
người ta tŕnh bày theo lối ẩn dụ cái chết
của Nguyệt Thần – ba cái giai kỳ trăng
khuyết dần dần rồi cuối cùng biến mất
- Mặt Trăng tiêu biểu cho ác thần nhất
thời chiến thắng được thần ban
cấp ánh sáng và cuộc sống, tức là Mặt Trời.
Phải cần tới mọi tài năng và sức hiểu
biết uyên bác về pháp thuật của các Đạo
Trưởng thời xưa để chuyển thắng
thành bại (triumph into a defeat).
113 114
Đó là tục
thờ cúng xưa nhất của mọi người,
tục thờ cúng của Giống dân Thứ Ba (the Third
Race) bán thư bán hùng của
cuộc Tuần Hoàn này, trong đó Mặt Trăng dương (the male
Moon), trở nên linh thiêng lúc
đă phân chia giới tính sau khi có cái gọi là “Sự sa
đoạ” (“Fall”). Bấy giờ, đến lượt
“Nguyệt Thần” trở thành bán thư bán hùng; để
rồi, rốt cuộc được dùng trong thuật phù thuỷ như là một quyền năng
lưỡng phân đối với Căn chủng thứ Tư (the Fourth Root Race) tức là căn chủng
Atlante. Đối với căn chủng thứ Năm hiện nay, tục thờ cúng mặt
trăng, mặt trời đă chia các quốc gia thành hai phe
phân biệt đối lập nhau. Nó đă đưa
tới các biến cố được mô tả hàng vô
lượng thời sau này trong Trận chiến Mahăbhăratan.
Đối với người Âu Tây, trận chiến này
thật là hoang
đường (fabulous), c̣n
đối với người Ấn Độ và các nhà
Huyền bí học, đó là cuộc đấu tranh lịch
sử Sũryavamsha (triều đại Nhật Tinh) và Induvamshas (triều đại Nguyệt Tinh).
Phát xuất từ việc tôn thờ Mặt Trăng
với hai trạng thái lần lượt là trạng thái
“thư” và trạng thái “hùng”, nó kết thúc nơi tục
thờ cúng riêng biệt Mặt Trăng và Mặt Trời.
Đối với các giống người Semite, trong
một thời gian rất dài, Mặt Trời th́ âm,
c̣n Mặt Trăng th́ dương, họ chấp nhận ư
niệm “Mặt Trăng dương” theo truyền
thuyết của dân Atlante. Mặt Trăng được
gọi là “Chúa Tể của Mặt Trời”, Bel-Shemesh,
trước khi có tục thờ Shemesh. V́ không biết
tới lư do sơ khởi của sự phân biệt như
thế và không biết tới các nguyên tắc huyền linh
nên các quốc gia mới lao vào tục thờ cúng các h́nh
tượng nhân h́nh. Trong thời kỳ không
được kể tới trong các tác phẩm của
Moses, nghĩa là từ lúc bị trục xuất ra khỏi
vườn Địa Đàng cho tới lúc có trận
Hồng Thuỷ ẩn dụ (allegorical Flood), người
Do Thái với những người Semite c̣n lại
đều thờ Dayanisi,(1) “Đấng trị v́ Loài
người”, “Đấng Phán Quan” (“Judge”) tức MẶT TRỜI. Mặc dù giáo luật Do Thái và Thiên
Chúa giáo đă biến Mặt Trời thành “Chúa Trời” và
“Jehovah” trong Thánh kinh, nhưng Thánh kinh này vẫn đầy dẫy các
vết tích hớ hênh (indiscreet) của Đấng Thánh Linh
bán thư bán hùng; đó là Jehovah, Mặt Trời và Astoreth,
Mặt Trăng ở trạng thái âm và hoàn toàn không có
yếu tố ẩn dụ hiện nay mà người ta gán
cho nó. Thượng Đế là “lửa thiêu rụi” (“consuming
fire”) xuất hiện trong
lửa và bị lửa bao quanh.
Chẳng phải là chỉ khi nào có linh thị th́ Ezekiel
mới thấy được người Do Thái “tôn
thờ Mặt Trời.” ([93]) Thần Baal của người
Do Thái – thần Shemesh của người Moabites và thần
Moloch của người Ammonites – cũng chính là “Mặt
Trời-Jehovah”; tới nay Ngài chính là “Thánh vương
của Đại đoàn Thiên Giới” (“King of the Host of
Heaven”), tức Mặt Trời, cũng như Astoreth là
“Nữ Hoàng Thiên Giới” (“Queen of Heaven”), tức Mặt
Trăng. Chỉ có
điều là hiện nay “Mặt
Trời Công Chính” (the “Sun of Righteousness”) đă trở thành
một cách nói ẩn
dụ. Nhưng tôn giáo của
mọi quốc gia thời xưa chủ yếu là
đều dựa vào các biểu lộ Huyền linh của
một thần lực hay nguyên khí hoàn toàn trừu tượng
mà nay ta gọi là “Thượng Đế”. Chính việc
lập nên các nghi lễ chi tiết của sự tôn thờ
như thế đă chứng tỏ là các triết gia đă
khai sáng ra các hệ thống chủ thể và khách thể
của Thiên Nhiên như thế, đều có kiến
thức uyên thâm và đă quen thuộc với nhiều sự
kiện có bản chất khoa học. V́ như vừa tŕnh
bày, ngoài việc có tính cách hoàn toàn Huyền bí ra, các nghi
lễ tôn thờ Nguyệt Tinh c̣n được dựa vào
sự hiểu biết về sinh lư học – đó là
một khoa học hoàn toàn hiện đại đối
với chúng ta – tâm lư học, toán học huyền linh, h́nh
học và phép đo lường, khi áp dụng vào các
biểu tượng và các con số, chúng chẳng qua
chỉ là các chữ tượng h́nh ghi lại các sự kiện khoa học tự nhiên mà ta quan sát
thấy. Tóm lại, chúng dựa vào một sự hiểu
biết tỉ mỉ nhất và uyên thâm nhất về Thiên
Nhiên. Từ khí Nguyệt Tinh sản sinh ra, bảo dưỡng
và huỷ diệt cuộc sống. Soma là hiện thân của
quyền năng tam phân của Ba Ngôi; mặc dù cho
đến nay, kẻ phàm tục vẫn c̣n chưa nhận
ra nó. Soma, tức Mặt Trăng, được Chư
Thần tạo ra bằng cách khuấy đảo
Đại Dương Cuộc Sống (Ocean of Life) (Không
gian) nghĩa là vào lúc Hành Tinh Hệ của chúng ta chưa
khai thiên tịch địa (Khai Nguyên - Manvantara), c̣n “Các Thánh
Hiền vắt sữa Địa Cầu (the Rishis milking the
Earth), mà con bê là Soma, tức Mặt Trăng”, ẩn dụ
và thần thoại trên (1) đều có một ư nghĩa vũ
trụ sâu xa v́ Địa Cầu của chúng ta chẳng
bị vắt sữa, c̣n Mặt Trăng mà ta biết
cũng chẳng phải là con bê. (2) Nếu
các khoa học gia thông thái của chúng ta mà biết
được các bí nhiệm của thiên nhiên như là
những người
Ăryans thời xưa, chắc chắn là họ sẽ không
bao giờ nghĩ rằng Mặt Trăng được
phóng ra từ Địa Cầu. Thêm một lần nữa,
nếu hiểu được ngôn ngữ biểu
tượng của Cổ nhân, chúng ta phải ghi nhớ và
xét tới sự hoán chuyển xưa nhất trong Thần
phổ học: Con (Son) trở thành Cha của chính nó (his own
Father) và sinh ra Mẹ (Mother) nó. Nếu không, các nhà Đông
phương học sẽ cứ bị ám ảnh rằng
“thần thoại chỉ là một bệnh tật nảy
sinh vào một giai đoạn đặc thù của nền
văn hoá nhân loại !” – Renuof đă nhận xét nghiêm
chỉnh như vậy trong một bài Diễn văn Hibbert.
Cổ nhân dạy
rằng Chư Thần đều tự sinh tự tại,
(tạm gọi như thế) Bản thể Thiêng Liêng Độc
Nhất Vô Nhị (the One Divine Essence), không biểu lộ (unmanisfested), luôn luôn sinh ra một Đệ
Nhị Bản Ngă biểu
lộ (a Second-Self manifested).
Đệ Nhị Bản Ngă này, vốn có bản chất
bán thư bán hùng, lại sinh
ra một cách vô nhiễm vạn
vật vĩ mô (macrocosmical) cũng như là vi mô (microcosmical)
trong Vũ Trụ này. Điều này sẽ được
tŕnh bày trong ṿng một ít trang nữa như là Ṿng Tṛn và
Đường Kính, hay là số Mười (10) Linh Thiêng.
Tuy nhiên, mặc dù
rất muốn khám phá ra một Nguyên tố đồng
chất duy nhất trong Thiên Nhiên (one homogneous Element in Nature), các nhà Đông phương
học của chúng ta lại không thấy được điều đó. Trí óc tù túng trong những điều
vô minh, các nhà nghiên cứu về Ai Cập và dân Ăryan luôn luôn
có các suy đoán lầm lạc. V́ thế, de Rougé mới
chẳng hiểu ǵ cả, trong bản văn do ông dịch,
ư nghĩa của lời mà Ammon-Ra nói với Vua Amenophes (được
giả định là Memnon): “Ngươi là Con của Ta,
chính Ta đă sinh ra ngươi.” Khi thấy rằng trong
nhiều bản văn đều có ư niệm này với
nhiều h́nh thức khác nhau, nhà Đông phương học
Thiên Chúa giáo chính gốc này cuối cùng bắt buộc
phải tuyên bố là:
Để
cho ư niệm này thâm nhập vào đầu óc của một
người nghiên cứu về chữ tượng h́nh,
trong tôn giáo của họ ắt phải có một giáo lư ít
nhiều xác định,
biểu thị như một sự kiện có thể
xảy ra, một sự lâm phàm thiêng liêng và vô nhiễm
dưới một h́nh hài người.
Đúng thế. Nhưng tại sao phải phí
công giải thích một điều tiên tri không thể có
được, khi mà tôn giáo sau này, vốn mô phỏng
(copying) tôn giáo thuở sơ khai, sẽ giải thích
được toàn bộ bí nhiệm.
115
Cả thế
giới đều có giáo lư này chứ không phải là
bất cứ một kẻ nào nghiên cứu vể chữ
tượng h́nh, cũng nghĩ ra được nó; v́ các
Hoá Thân của Ấn Độ là một bằng chứng
ngược lại. Thế mà, sau khi đă nhận thức
được rơ rệt hơn (1) thế nào là “Cha và Con Thiêng Liêng” (“Divine
Father and Son”) đối với người Ai Cập, de
Rougé vẫn không tài nào biện minh được và
nhận thức được đâu là các chức năng
gán cho Nguyên Khí âm trong sự sinh hoá nguyên thuỷ này. Ông
chẳng t́m thấy được nó nơi Nữ Thần
Neith ở
Đối với bất cứ
người nào có thể hiểu được và đánh
giá đúng mức được, có một sự phân
biệt thực sự vĩ đại, thơ mộng và
có ư nghĩa triết học thâm sâu biết bao giữa Đức
Mẹ Đồng Trinh của
các kẻ ngoại đạo thời xưa và quan niệm
thời nay về Đức Giáo Hoàng. Đối với
kẻ ngoại đạo, Bà Mẹ Thiên Nhiên (Mother Nature)
trẻ măi không già, đối kiểu (antitype) của các
nguyên kiểu (prototype) Mặt Trời và Mặt Trăng,
đă sinh sản ra đứa Con “sinh ra từ trí” (“mind-born”)
tức Vũ Trụ. Mặt Trời và Mặt Trăng,
được xem như các vị thần thư hùng,
đă gieo giống cho Trái Đất, bậc Mẫu nghi
tiểu thiên địa, đến lượt trái
đất lại thụ thai và sinh sản. Đối
với tín đồ Thiên Chúa giáo, Đấng Bản Lai
(“First-born”) thật sự đă được sản sinh
ra, rơ rệt là Ngài đă được thai nghén và sinh ra.
Giáo hội Thiên Chúa giáo La Tinh giải thích là: “Một trinh
nữ sẽ được sinh ra.” Như thế, giáo
hội này đă làm giảm hạ lư tưởng tinh
thần cao cả của Đức Mẹ Đồng Trinh
Mary; đă làm giảm giá trị của Ngài, biến lư
tưởng mà Ngài là hiện thân trở thành những ǵ
thấp hèn nhất của các nữ thần nhân h́nh trong dân
chúng.
Thật ra, Neith, Isis,
Diana v.v….(muốn gọi nàng bằng danh xưng nào cũng
được) là “Nữ Thần tạo hoá, vừa
hữu h́nh, vừa vô h́nh, ngự trên Trời và trợ giúp vào việc sinh ra các
chủng loại” nói tóm
lại, đó là Mặt Trăng. Nàng có vô số trạng
thái và quyền năng huyền linh, dưới một h́nh
thái; Mặt Trăng trở thành Hathor đối với
người Ai Cập, một trạng thái khác của Isis,(1)
người ta tŕnh bày là cả hai Nữ Thần
đều đang bú Horus. Trong Pḥng Ai Cập (the Egyptian Hall)
ở Bảo tàng viện Anh Quốc, chúng ta thấy Hathor
được Pharaoh Thotmes tôn thờ, ông ở giữa nàng
và Chúa Tể các Từng Trời. Tảng đá đơn
độc được lấy ra từ Karnac.
Người ta cũng ghi huyền thoại sau đây lên trên
ngai của Nữ Hoàng này:
“BẬC MẪU NGHI, MỆNH PHỤ THIÊNG LIÊNG, TỨC
NỮ HOÀNG TRÊN THIÊN GIỚI” (“THE DIVINE MOTHER AND LADY, OR QUEEN OF
HEAVEN”); cũng như là “SAO MAI” (“MORNING STAR”) và “ÁNH SÁNG CỦA
BIỂN” (“LIGHT OF THE SEA”).
Tất cả mọi nữ thần Nguyệt Tinh
đều có hai trạng thái, một trạng thái thiêng liêng (divine) và một trạng thái địa ngục (infernal). Tất cả đều là các Mẹ
Đồng Trinh của một đứa Con sinh ra một
cách trinh khiết tức là Mặt Trời. Raoul Rochette
chứng tỏ là Nữ Thần Nguyệt Tinh của dân
thành Athen, Pallas hay Cybele, Minerva hay Diana đều ôm
đứa con trai trong ḷng; vào các dịp lễ,
người ta cầu khẩn tới nàng như là
“Đấng Duy Nhất sinh ra Thượng Đế” (“Only-begotten
of God”), “Bà Mẹ Duy Nhất của Thượng
Đế” (“One Mother of God”), cưỡi một con sư
tử, xung quanh có mười hai nhân vật; các nhà Huyền
bí học nhận ra đó là mười hai vị Thần
vĩ đại, c̣n các nhà Đông phương học Thiên
Chúa giáo ngoan đạo nhận ra đó là mười hai
Tông Đồ, hay đúng hơn là nó có liên quan tới
lời tiên tri của kẻ ngoại đạo
người Hy Lạp.
116
Cả hai đều
đúng hết, v́ nữ
thần Trinh Khiết của
Giáo hội Thiên Chúa giáo La Tinh là một bản sao trung
thực của các nữ thần ngoại đạo xa
xưa hơn; con số (mười hai) Tông đồ là con
số của mười hai bộ lạc, mười hai
bộ lạc này là một nhân cách hóa của mười hai
vị Thần vĩ đại và mười hai cung Hoàng
Đạo. Hầu hết mọi chi tiết trong các giáo
điều của Thiên Chúa giáo đều được
vay mượn của nhóm ngoại đạo. Theo Nonnus,
Semele (vợ của Jupiter và mẹ của Bacchus), Mặt Trời cũng được “thăng thiên” (“carried”)
sau khi chết, Nàng chủ tŕ giữa Hỏa Tinh và Kim Tinh
với danh xưng “Nữ
Hoàng Vũ Trụ” (“Queen of the World”), “tất cả ma quỷ”
đều run lẩy bẩy khi nghe tới tôn danh của
nàng cũng như tôn danh của Hathor, Hecate và các Nữ
Thần địa ngục khác. (1)
“Ma quỷ đă
chạy trốn hết khi thấy bóng dáng Semele”. Theo De
Mirville câu ghi khắc bằng tiếng Hy Lạp trên một
đền thờ nhỏ đó (được mô phỏng
lại trên một tảng đá mà Berger t́m thấy, rồi
được Montfaucon sao chép lại) cho chúng ta biết
một sự kiện quan trọng, đó là Magna Mater
của thời xưa chính là “sự ăn cắp” trơ
trẽn (impudent “plagiarism”) ư niệm về Đức
Mẹ Đồng Trinh của Giáo hội, điều này
đúng là do Ma Quỷ gây ra. Dù thế hay ngược
lại đi chăng nữa, th́ cũng chẳng quan
trọng. Có một điều đáng lưu ư là bản sao thời xưa giống hệt như nguyên bản thời nay.
Nếu c̣n chỗ, chúng ta có thể chứng
tỏ được một số các tín điều
của Giáo hội Thiên Chúa La Mă tỏ ra rất hững
hờ, không quan tâm đến những điều thiên
khải của quá khứ khi họ bắt buộc phải
giáp mặt với chúng. Đứng trước nhận xét
của Maury là “Đức Mẹ Đồng Trinh chiếm
quyền sở hữu mọi Thánh điện của Ceres
và Venus, c̣n các nghi lễ Ngoại đạo (vốn
được cao rao và cử hành để tôn vinh các
Nữ Thần này) đă được chuyển phần
lớn sang Mẹ của Đức Christ”, ([94])
kẻ ủng hộ La Mă đáp lại rằng sự
thật đúng là như thế và đây cũng là
điều tự nhiên.
V́ người ta thấy các giáo điều,
các nghi thức tế lễ và các nghi lễ mà Giáo hội
Tông đồ La Mă rao giảng vào năm 1862,
được chạm trổ trên các đền đài,
được ghi khắc trên các cuộn giấy bằng
cỏ chỉ ngay sau trận Đại Hồng Thủy, nên
h́nh như chúng ta không thể chối bỏ được
sự tồn tại của một Thiên Chúa giáo [La mă]
tiền sử sơ khai, Thiên Chúa giáo hiện nay của
chúng ta chẳng qua chỉ nối tiếp nó một cách trung
thực …[Nhưng khi Thiên Chúa giáo sơ khai là thuật chiêu
hồn vô liêm sỉ của loài ma quỷ đă đạt
đến cao độ … th́ Thiên Chúa giáo hiện nay lại
có tính chất thiêng liêng]. Nếu trong thánh thư Khải
Huyền [Thiên Chúa giáo] Đức Mẹ Mary, vốn khoác
lấy Mặt Trời, c̣n Mặt Trăng lại phủ
phục dưới chân bà, chẳng c̣n dính líu ǵ tới
người tôi tớ hèn mọn ở Nazareth [sic], ấy
chỉ là v́ nay bà đă trở thành quyền năng thần
học và vũ trụ học vĩ đại nhất
trong vũ trụ của chúng ta.(1)
117
Thật thế, v́ Pindar đă ngâm
vịnh về “sự triệu thiên” (“assumption”) của Bà
như sau: “Bà ngồi bên
tay phải của Cha ḿnh
[jupiter],…và có quyền lực hơn tất cả mọi
(Thiên Thần) hay Thần Linh khác.(2) Bài
Thánh ca này cũng được áp dụng cho cả
Đức Mẹ Đồng Trinh. Theo Cornelius ở Lapide,
Thánh Bernard cũng đề cập đến Đức
Mẹ Đồng Trinh Mary một cách thật sáng suốt:
“Đức Christ Thái Dương ngự nơi Mẹ, c̣n
Mẹ cũng ngự nơi Ngài”.(3)
Bậc Thánh nhân
giản dị này lại cũng thừa nhận rằng
Đức Mẹ Đồng Trinh cũng chính là Mặt Trăng. Vốn là Lucina của giáo hội, bà
đă được người ta áp dụng câu thơ sau
đây để mô tả Đức Mẹ Đồng
Trinh lúc lâm bồn (childbirth): “Ôi Lucina trinh khiết, kiều diễm. Apollo của
Ngài nay đă trị v́ rồi đấy”. (4) Vị Thánh trinh bạch (the innocent
saint) c̣n thêm vào : (5) “Giống như Mặt Trăng,
Đức Mẹ Đồng Trinh là Nữ Hoàng trên Thiên
Giới”.
Điều này đă
giải quyết được vấn đề. Theo các
tác giả như De Mirville chẳng hạn, các quan niệm
ngoại đạo càng giống các giáo điều Thiên Chúa
giáo bao nhiêu, th́ Thiên Chúa giáo càng có vẻ thiêng liêng bấy
nhiêu, và nó (nhất là dưới h́nh thức Thiên Chúa giáo La
Mă) càng tỏ ra là tôn giáo duy nhất được thật
sự linh hứng bấy nhiêu. Các khoa học gia và các Hàn lâm
viện sĩ vô thần – cho rằng Giáo hội La Tinh
đâu có được linh hứng một chút nào, và
cũng chẳng tin vào những tṛ ăn cắp (plagiarism),
đă bị kịch liệt chỉ trích. Thế là
người ghi niên đại phàn nàn : “Họ chẳng tin
ǵ hết, lại c̣n bác bỏ cả nền Nông nghiệp Nabathean, xem đó như là một điều
thêu dệt và một mớ những điều mê tín
dị đoan”. Theo ư kiến xuyên tạc của họ,
“thần tượng Mặt Trăng” của Qũ-tămy và
pho tượng Madonna đều như nhau!” Chẳng
thế mà một Hầu tước quư tộc [J. E. De
Mirville] cách nay 25 năm lại bỏ công ra viết sáu pho
sách dày, nhan đề là “Luận tŕnh đệ lên Hàn lâm
viện Pháp”, chỉ nhắm có mỗi một mục
đích là chứng tỏ rằng Thiên Chúa giáo La Mă chính là
một tín ngưỡng được Thiên Khải và
được linh hứng. Để minh chứng, ông
đă tŕnh bày vô số sự kiện, tất cả
đều có khuynh hướng chứng tỏ rằng toàn
bộ Cựu Thế giới, từ khi có trận
Đại Hồng Thủy, được ma quỷ
trợ giúp, đă bắt chước theo một cách có
hệ thống các nghi thức, nghi lễ, giáo điều
của Giáo hội tương lai, nó lại ra đời
hàng bao nhiêu thời đại sau này. Đứa con trung
thành của La Mă biết nói sao đây nếu y
được nghe ông Renouf – đạo hữu của y,
nhà nghiên cứu về Ai Cập lỗi lạc của
Bảo tàng viện Anh Quốc – tuyên bố trong một bài diễn
văn thông thái là “cả người Hebrew lẫn
người Hy Lạp đều không thể kế
thừa bất cứ ư niệm nào của Ai Cập”? (1)
Như vậy,
chẳng lẽ ông Renouf lại có ư nói rằng chính
người Ai Cập, người Hy Lạp và
người Ăryan mới kế thừa các ư niệm của
Giáo hội La Tinh? Và nếu thế, tại sao – nhân danh
luận lư – các kẻ tôn thờ Giáo Hoàng lại bác bỏ
kiến thức phụ trợ mà các nhà Huyền bí học
có thể tŕnh bày về sự tôn thờ Mặt Trăng,
chỉ v́ tất cả mọi điều trên đều
có khuynh hướng chứng tỏ rằng tục thờ
phụng của Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă cũng xưa
như trái đất (as old as the world) – là tín ngưỡng
của DÂN SABA VÀ SỰ TÔN
THỜ TINH TÚ (OF SABAEANISM AND ASTROLATRY)?
118
Việc Thiên Chúa giáo
buổi sơ khai và sau này Thiên Chúa giáo La Mă đều tôn
thờ tinh tú (điển h́nh là tôn thờ Mặt Trời
và Mặt Trăng giống như các tín đồ phái
Ngộ Đạo (Gnostics) – song thuần túy hơn và có ư
nghĩa triết học kém thâm sâu hơn là sự “tôn
thờ Mặt Trời” của Bái Hỏa giáo) - là một
hệ quả tự nhiên của sự khai sinh và gốc tích
nó. Khi Giáo hội La Tinh chọn dùng các biểu tượng
như là nước, lửa, mặt trời, mặt
trăng, tinh tú và nhiều thứ khác, đó chẳng qua là
các tín đồ Thiên Chúa giáo buổi sơ khai đă nối
tiếp việc thờ phụng xưa của các quốc
gia ngoại đạo. Thế th́ Odin có được minh
triết, quyền năng và kiến thức nhờ
ngồi dưới chân Mimir, Jotun cực kỳ sáng
suốt; Ngài sẽ suốt đời quanh quẩn bên
cội nguồn Minh Triết (Nước ở đây trong
như pha lê làm cho Ngài ngày càng thông thái). “Mimir thừa
hưởng minh triết vô thượng ở nơi
nguồn nước này, v́ thế giới từ
nước sinh ra ; v́ thế người ta phải t́m
thấy minh triết nguyên thủy trong yếu tố
huyền nhiệm này”. Odin đă phải dùng tới một
con mắt, nó có thể là “mặt trời, đang soi sáng và
thấu suốt vạn vật; con mắt kia là mặt
trăng với ánh sáng phản chiếu nh́n đăm
đăm ra bóng đêm âm u; khi lặn, mặt trăng
sẽ ch́m xuống đại dương”.(1)
Nhưng nó c̣n hơn thế nữa. Người ta nói là
Loki, Hỏa Thần, đă ẩn trong nước cũng
như là Mặt Trăng (đang soi sáng), Ngài ẩn ngay trong
ánh sáng phản chiếu của nó. Chẳng phải chỉ
có những người Bắc Âu thời xưa là tin rằng
“Lửa trú ẩn trong nước đâu”. Tất cả
mọi quốc gia và rồi các tín đồ Thiên Chúa giáo
thời xưa cũng đều chấp nhận nó, họ
tŕnh bày tượng trưng Thánh Thần dưới dạng
Lửa; “luồng khí vận của Đức Cha MẶT TRỜI (the Father-SUN) lại cứ như là các ngọn
lửa chập chờn”. “Lửa” này cũng giáng xuống
Nước hay Biển – Mare, Mary. Đối với nhiều
quốc gia, Chim bồ câu là biểu tượng của Linh
Hồn; nó thật là linh thiêng đối với Venus
(nữ thần sinh ra từ bọt biển); sau này, nó
biến thành biểu tượng của Linh Hồn Vũ Trụ của Thiên Chúa giáo tức Thánh
Thần.
Một trong các
chương huyền bí nhất của Tử Vong Kinh (Book of the Death) có nhan đề là: “Sự biến
thành Thần sẽ Soi sáng cho con đường Tăm
tối”. Trong chương này, “Âm quang U ám” (“Woman-Light of the
Shadow”) lại phụng sự Thoth khi Ngài triệt thoái vào
trong Mặt Trăng. Người ta nói là Thot-Hermes ẩn
trong đó, v́ Ngài đại diện cho Minh Triết Bí
Nhiệm (the Secret Wisdom). Ngài là Thượng Đế
biểu lộ trong trạng thái quang huy; c̣n khi bị
giả định là rút lui vào bán cầu đối nghịch,
Ngài là Thượng Đế ẩn tàng hay “Minh Triết U
Mê” (“Dark Wisdom”). Để tự nói lên quyền lực,
chị Hằng (the Moon) cho ḿnh là “Ánh Sáng chiếu rạng
Đêm Tối”, “Âm Quang”(the “Woman-Light”). Chính v́ thế nên
Mặt Trăng mới được chọn dùng làm
biểu tượng của mọi nữ thần
Đức Mẹ Đồng Trinh. V́ ngày xưa, bọn Tinh
linh ma quái (the wicked “evil” Spirit) đă từng giao chiến
với Mặt Trăng, nên nay người ta mới giả
sử là chúng cũng chiến đấu chống lại
(mặc dù không đè bẹp nổi) Nữ Thần Thiên
Giới hiện nay là Mary tức Mặt Trăng. Cũng
chính v́ thế mà trong mọi Thần phổ học
Ngoại đạo, Mặt Trăng mới có liên hệ
mật thiết với con Rồng, kẻ thù muôn thuở
của Nàng. Đức Mẹ Đồng Trinh tức Madonna
đứng trên lưng Quỷ Vương thần thoại
(the mythical Satan) (được tŕnh bày tượng
trưng là Con Rồng); quỷ vương đă kiệt
sức nên đành nằm mọp dưới chân Đức
Mẹ. Đó là v́ đầu và đuôi của Con Rồng
(đến nay, trong Thiên văn học Đông phương,
chúng tượng trưng cho các tiết điểm thăng
và giáng của Mặt Trăng) cũng được tŕnh
bày tượng trưng ở cổ Hy Lạp như hai con
rắn. Vừa mới cất tiếng chào đời là
Hercule đă diệt ngay được hai con rắn này,
Chúa Hài Đồng của Đức Mẹ Đồng
Trinh cũng lập nên chiến công hiển hách như
vậy. Ông Gerald Massey đă nhận xét một cách tài t́nh
về vấn đề này như sau:
113
Tất
cả mọi biểu tượng đều tượng
trưng cho chính các sự kiện từ đầu chí
cuối, chứ không tượng trưng cho các sự
kiện khác thuộc một loại khác hẳn. Tục mô
tả bằng h́nh tượng (cũng như là các giáo
điều) vẫn c̣n sống ở La Mă từ một
thời kỳ Tiền-Christ rất xa xưa. Chẳng có việc
ngụy tạo hay là thêm thắt các kiểu mẫu đâu;
có điều các h́nh tượng cứ bị liên tục
với các ư nghĩa ngày càng bị xuyên tạc.
120
TIẾT 10
SỰ TÔN THỜ
CÂY, RẮN VÀ CÁ SẤU
(TREE,
SERPENT, AND CROCODILE WORSHIP)
Rắn
gây ra kinh hoàng hoặc khiến ta lễ bái; con người
hoặc thật là căm ghét nó, hoặc là phủ phục
trước kỳ tài của nó. Nó tiêu biểu cho
đủ cả mọi điều: nào là Nói dối, nào là
Thận trọng, nào là Ghen ghét, nào là Hùng biện.
Dưới địa ngục, Nữ Thần tóc rắn
cứ lăm lăm cầm nó trên tay, c̣n trên Thiên Đàng, nó
lại biến thành biểu tượng của vĩnh
cửu.
De Chăteaubriand
CÁC kẻ tôn thờ rắn đă khẳng
định rằng có nhiều loại Thần Linh, từ
Thượng Đế xuống tới con người;
đẳng cấp tương đối của các vị
thần này tùy thuộc vào mức độ Ánh Sáng của
mỗi vị. Họ cũng một mực cho rằng chúng
ta phải thường xuyên cầu khấn tới và
tạ ơn Thần Xà v́ nó đă được nhân
loại dùng làm biểu tượng. V́ nó đă dạy Adam
là nếu ông ăn trái Thiện Ác của Cây Minh Triết
(the Tree of Knowledge), ông sẽ lớn nhanh và thu
được vô số học thức cùng minh triết.
Đó là lư do công truyền.
Chẳng nhọc
sức chút nào chúng ta cũng thấy được
nguồn gốc của ư niệm bản sơ về
cặp nhị nguyên Thiện Ác, đó là đặc tính
giống như Janus của Thần Xà. Đây là một trong
các biểu tượng xưa nhất, v́ loài ḅ sát c̣n
xuất hiện trước loài chim, trong khi loài chim lại
xuất hiện trước loài hữu nhũ. V́ thế,
các bộ lạc dă man mới tin (đúng hơn là mê tín)
rằng linh hồn của tổ tiên họ tồn tại
dưới h́nh thức này, họ lại thường gán
ghép Rắn với Cây. Có vô số huyền thoại về
nhiều ư nghĩa khác nhau của nó, song v́ hầu hết
đều là ẩn dụ, nên nay, chúng đă biến thành
loại chuyện ngụ ngôn, dựa vào sự dốt nát
hoặc các điều mê tín dị đoan. Chẳng hạn
như khi Philostratus thuật lại rằng các thổ dân
ở Ấn Độ và Á Rập cứ ăn tim và gan
của các loài Rắn để học được ngôn
ngữ của mọi loài thú (người ta tin rằng
Rắn có năng khiếu này), chắc chắn là chẳng
bao giờ ông có ư nói theo sát nghĩa.(1) Rồi
ra, hơn một lần chúng ta sẽ thấy rằng
“Rắn” và “Rồng” chính là các
121
biệt danh của
các “Đấng Minh Triết” (the “Wise Ones”), tức các Cao
đồ được Điểm Đạo thời
xưa. Chính các môn đồ của họ đă nghiền
ngẫm minh triết và học thức của họ,
ẩn dụ là như thế đó. Trong chuyện ngụ
ngôn của Bắc Âu, Sigurd đă nướng tim của
Fafnir tức Con Rồng mà ông đă giết chết, thế
là ông trở thành người thông thái nhất; ư nghĩa câu
chuyện trên cũng giống in như vậy. Sigurd đă
học được hết các bí hiểm và bùa ngải;
ông đă được một Điểm đạo
đồ tên là Fafnir (hay một pháp sư) “truyền tâm
ấn” (“passing the word”); sau đó, như thường
lệ, vị Sư Trưởng thanh thản viên tịch.
Trong khi nỗ lực tŕnh bày các dị thuyết (heresies),
Epiphanius đă tiết lộ một bí nhiệm của phái
Ngộ Đạo (Gnostics). Ông bảo rằng có một lư
do giải thích việc các tín đồ phái Ngộ
Đạo tôn thờ Rắn: đó là v́ Rắn đă dạy các bí pháp cho các
người sơ khai. Đúng
như vậy; nhưng có điều là khi giảng dạy
giáo điều này, họ không nghĩ tới việc Adam và
Eve trong vườn Địa Đàng, nên họ chỉ nói
như thế thôi. Các Năgas
(Rắn) của các cao
đồ Ấn Độ và Tây Tạng đều là các
nhân Xà (human Năgas), chớ không phải là loài ḅ sát.
Vả lại, xưa nay, con Rắn bao giờ cũng là mô
h́nh của việc liên tục cải lăo hoàn đồng,
của THỜI GIAN và BẤT
TỬ (of IMMORTALITY and
TIME).
Trong Sáng Thế Kư Tự Nhiên (Natural
Genesis) của Gerald Massey, có
rất nhiều lối thuyết minh và sự kiện
thật thú vị về tục thờ Rắn, xét về
mặt khoa học, như thế là rất đúng. Nhưng
c̣n lâu lắm chúng nó mới bao hàm hết các ngụ
ư. Chúng chỉ tiết lộ các bí nhiệm về thiên
văn học và sinh lư học, với lại một vài
hiện tượng vũ trụ. Trên cảnh giới
vật chất thấp nhất, con Rắn chắc là
“đại biểu hiệu của Bí Nhiệm khôn ḍ” (“great
emblem of Mystery in the Mysteries”), rất có thể là
người ta sẽ chọn dùng nó làm mô h́nh cho sự
trổ mă của phái nữ, v́ mỗi lần lột da là nó
lại mới lại. Tuy nhiên, điều này chỉ áp
dụng cho các bí nhiệm liên quan tới cuộc sống vật dục trên trần thế, về mặt này
“biểu tượng của sự lột xác tái sinh
trong các Bí Nhiệm [vũ trụ], giai kỳ cuối cùng”(1) (hay
đúng hơn là các giai kỳ mở đầu và tột
đỉnh) đều không thuộc về cảnh
giới này. Các giai kỳ này đều được
sản sinh ra trong cảnh giới Ánh Sáng thuần túy Lư
Tưởng (the pure realm of Ideal Light). Đă hoàn thành mỹ
măn toàn bộ chu kỳ thích ứng và biểu tượng
kư, các “Bí Nhiệm” liền phản bổn hoàn nguyên,
biến thành tinh hoa của các nghiệp duyên vô h́nh (immaterial
causality). Chúng thuộc về
minh triết vô thượng. Và chắc chắn là chẳng
bao giờ mà danh tiếng nó trở thành lừng lẫy
chỉ v́ nó đă len lỏi vào các chức năng sinh lư và
nhất là các chức năng của phái nữ (feminine
functions) !
Biểu tượng
Rắn có biết bao nhiêu là trạng thái và ư nghĩa
huyền bí, cũng như biểu tượng Cây; Rắn
c̣n là biểu hiệu của “Cây Trường Sinh” (“Tree of
Life”), một thứ liên kết không thể phân ly với
nó. Dù được xem như là một biểu
tượng siêu h́nh hay vật chất, dù được
xét chung hay xét riêng, chưa bao giờ Rắn và Cây lại
bị mất giá trị như ngày nay. Vào thời
đại này, thần tượng đều sụp
đổ hết, không c̣n để xiển dương
chân lư, mà chỉ để tôn vinh những ǵ thô tục
nhất. Trong Các Ḍng Sông
Sinh Mệnh (Rivers of Life),
Tướng Forlong đă tiết lộ nhiều
điều độc đáo, làm cho kẻ tôn thờ Cây
122
và Rắn vào thời
cổ Ai Cập và Chaldea nghiền ngẫm; ngay cả
những người Shaivas thời xưa cũng giật
ḿnh khiếp sợ (recoiled in horror) khi nghe nhắc tới
các lư thuyết gợi ư của tác giả vừa nêu.
Để biện minh cho lời tuyên bố của ḿnh, ông
Gerald Massey cho rằng: “Payne Knight và Inman cho rằng Thập
tự Tau chỉ là một vật mô phỏng lại các
cơ quan của phái nam dưới một h́nh thức tam
phân; điều này thật sự là sai lầm từ cơ
bản.” Nhưng đây cũng là một phát biểu có
thể được áp dụng ngay cho hầu hết các
lối thuyết minh hiện đại về các biểu
tượng cổ truyền. Sáng Thế Kư Tự Nhiên là
một tác phẩm khảo cứu đồ sộ, một
tác phẩm hoàn chỉnh nhất đă từng
được xuất bản về chủ đề này,
nó bao hàm một lănh vực rộng răi và giải thích
được nhiều điều hơn hết so
với bất cứ tác phẩm nào của các nhà biểu
tượng học khác. Thế mà nó chưa bao giờ
vượt ra khỏi giai đoạn “hữu thần tâm
linh” của tư tưởng cổ truyền. Payne Knight và
Inman cũng đâu có hoàn toàn sai lầm; có điều là
họ đă sai lầm khi giải thích “Cây Trường
Sinh” chính là Thập tự giá và H́nh tượng dương
vật; các biểu tượng này chỉ thích hợp
với giai đoạn tiến hóa thấp nhất và
mới nhất của các ư niệm về ĐẤNG BAN CẤP SỰ SỐNG (the GIVER OF
LIFE). Đó là sự biến
hóa vật lư sau rốt và thô thiển nhất của Thiên
Nhiên, nơi côn trùng, cầm thú và cây cỏ. Dưới h́nh thức
sức hút của các điều trái ngược, tức
sự phân cực về tính dục, từ khí nhị phân,
sáng tạo đă tác động để cấu thành loài
ḅ sát, chim muông, cũng như loài người. Vả
lại, vốn không biết về các Bí pháp thực sự
mà Huyền bí học tiết lộ, từ đầu chí
cuối ắt các nhà biểu tượng học và nhà
Đông phương học hiện đại chẳng
thể thấy được ǵ ngoài trừ giai
đoạn cuối cùng này. Nếu bảo rằng cách
thức sinh sôi nảy nở này (nay trên Trái Đất
đều như thế cả) chẳng qua chỉ là
một giai kỳ phù du, một phương tiện vật
chất để cung ứng các điều kiện
sống và tạo ra các hiện tượng sống, và nếu
bảo rằng nó sẽ thay đổi theo Căn chủng
(Root-Race) này và biến mất theo Căn chủng tới,
th́ họ sẽ cười cho rằng đó là một ư
niệm mê tín dị đoan, phản khoa học. Nhưng các
nhà Huyền bí học thông thái nhất đều khẳng định điều
này, v́ họ đă biết quá
rồi. Thế giới sinh vật (tất cả
đều sinh sản ra các chủng loại của ḿnh) là
một bằng chứng sống động của nhiều
cách thức sinh sản khác nhau trong cuộc tiến hóa
của các giống người và giống thú. Nhà thiên nhiên
học phải trực nhận được chân lư này,
cho dù chưa chứng minh được nó. Với các
lối tư tưởng hiện nay th́ y làm sao
được bây giờ! Các mốc cổ sử trong quá
khứ thật là ít ỏi và hiếm có, c̣n các khoa học
gia lại lầm lẫn các mốc mà họ đă
vượt qua là các cột mốc của kỷ nguyên bé
nhỏ của chúng ta. Ngay cả cái gọi là “Lịch
sử thế giới (?)” cũng chỉ bao hàm một lănh
vực nhỏ trong khoảng không gian hầu như vô
tận của các vùng c̣n chưa được thăm ḍ của
Căn chủng mới nhất tức là Căn chủng
thứ Năm. V́ thế mọi cột mốc mới,
mọi h́nh tượng mới được t́m ra của
quá khứ xa xưa, đều được thêm vào kho
kiến thức cũ, đều được thuyết
minh theo các đường lối giống như các quan
niệm sẵn có, chúng không có liên quan ǵ tới chu kỳ
tư tưởng đặc biệt mà h́nh tượng
đặc thù này thuộc về. Nếu không thay
đổi phương pháp th́ làm sao mà Chân Lư có thể
xuất lộ nổi !
123
V́ thế, lúc mới
bắt đầu cùng nhau tồn tại như là một
h́nh tượng của Đấng Bất Diệt, Cây và
Rắn đều thật sự là các h́nh tượng
thiêng liêng. Các Cây lại mọc
ngược, nó bắt rễ
ở trên Thiên Đàng và lớn lên từ Cội Nguồn Vô
Thuỷ của Toàn Hiện (the Rootless Root of All-Being). Thân nó
cứ lớn lên, băng qua các cảnh giới thiêng liêng,
các cành lá sum sê, cứ tua tủa trổ ra, trước
hết là trên cảnh giới vật chất ít bị
biến phân, măi tới khi nó xuống tới cơi trần.
Trong Chí Tôn Ca có nói rằng Cây Trường Sinh Ashvattha
(chỉ cần diệt được nó là bất tử),
mọc ngược, rễ ở trên, cành lại ở
dưới.(1) Rễ tiêu biểu cho Đấng
Tối Cao (the Supreme Being), tức Nguyên Nhân Bản Sơ
(First Cause), THƯỢNG ĐẾ (the LOGOS); nhưng
người ta phải giải thoát các rễ cây để
hợp nhất với Krihna. Arjuna cho rằng
Chỉ khi nào mà các
cành tinh khiết của nó đă bị dính bùn thế
tục của vườn Địa Đàng vào thời
Căn chủng thứ Nhất, th́ cây này mới nhiễm
trược và mất đi sự tinh khiết ban
đầu; bấy giờ Con Rắn Vĩnh Cửu tức
Thượng Đế sinh trên Thiên Giới mới rốt
cuộc bị bại hoại. Ngày xưa, vào thời các Triều đại thiêng liêng trên Trần Thế, con vật ḅ sát (mà
ai cũng sợ) được coi như là chùm tia sáng
đầu tiên xạ ra từ vực thẳm Bí nhiệm
thiêng liêng. Người ta đă khoác cho nó nhiều h́nh
thức khác nhau và đă thích ứng nhiều biểu tượng
tự nhiên cho nó, khi nó băng qua vô lượng thời.
Từ chính Thời gian Vô cực (Kăla), nó lọt vào trong không
gian và thời gian phát xuất từ sự suy đoán
của con người. Các h́nh thức này có tính chất
vũ trụ và thiên văn, hữu thần và phiếm
thần, trừu tượng và cụ thể. Đến
lượt chúng lại trở thành cḥm sao Thiên Long ở
Cực (the Polar Dragon) và cḥm sao Chữ Thập ở phía Nam
(the Southern Cross), Alpha
Draconis của Kim tự tháp và
Long Thần của các Phật Tử Ấn Độ (the
Hindu-Buddhist Dragon), nó luôn luôn đe doạ, song chẳng bao
giờ nuốt chửng Mặt Trời vào những kỳ
nhật thực. Cho tới lúc đó, Cây Trường Sinh
vẫn xanh tươi măi v́ người ta rải Sinh
Thuỷ (the Water of Life) lên nó, Đại Long (the great Dragon)
vẫn c̣n thiêng liêng măi, chừng nào người ta vẫn
c̣n giữ được nó ở trong phạm vi của các
tinh tú hoạt trường (the sidereal fields). Nhưng Cây
Trường sinh cứ lớn lên măi đến khi rốt
cuộc các cành thấp của nó chạm tới vùng
địa ngục – tức Trần gian. Bấy giờ
Đại Xà Nidhogg – nó đang ngấu nghiến xác chết
của những kẻ ác ở trong “Pḥng Địa
Ngục” (“Hall of Misery”) (kiếp nhân sinh), ngay khi họ
bị nhúng vào vạc dầu sôi “Hwergelmir” (các thị
dục của con người) – mới gặm nhấm Cây
Thế gian (World-Tree) mọc ngược. Các con sâu vật
chất lúc nhúc ở trên các rễ cây lành mạnh, rồi
cứ leo cao măi lên trên thân cây. Trong khi đó, Con Rắn
Midgard (the Midgard-Snake) đang nằm cuộn ở
dưới đáy biển quấn lấy Địa
Cầu, phà hơi độc làm cho Trái Đất nhũn ra
không có sức đề kháng.
123
Theo ẩn
dụ, Rồng, Rắn thời xưa đều có bảy
đầu – “mỗi đầu tương ứng với
một Giống dân, mỗi đầu có bảy sợi tóc”.
Từ Ananta (from Ananta), Con Rắn Vĩnh Cửu cơng (carries)
Vishnu băng qua Chu kỳ Khai Nguyên (Manvantara) cho tới con
Shesha nguyên thuỷ (trong thần thoại Purănas có nói là nó
biến từ bảy đầu thành “một ngàn
đầu”), măi cho tới Con Rắn bảy đầu
của dân Akkadian, đều như thế cả.
Điều này tượng trưng cho Bảy Nguyên Khí
khắp cả Thiên Nhiên và nơi con người; cái
đầu ở giữa, ngóc cao lên nhất, chính là cái
đầu thứ bảy. Đó không phải là ngày Sabbath
(ngày nghỉ cuối tuần của Do Thái) của Moses mà
Philo có đề cập tới trong tác phẩm Sáng
Thế (Creation of the World);
ông bảo rằng thế giới được hoàn
chỉnh “theo bản chất tuyệt hảo của con
số 6”. Ấy là v́:
Khi
các lư trí [nous] vốn rất thiêng liêng theo số 7, đă
nhập vào linh hồn [đúng hơn là cơ thể
sống], nó bắt giữ (arrested) ngay con số 6 và tất
cả mọi điều hữu hoại, mà con số này tạo
ra (number makes).
Và:
Số
7 là ngày lễ của toàn thế gian, đó là ngày thế
gian mở mắt chào đời. Tôi chẳng biết làm sao
tán tụng con số 7 này cho đúng với ư nghĩa
của nó. (1)
Tác giả của Sáng Thế Kư Tự Nhiên cho rằng:
Bảy
ngôi sao của cḥm sao Đại Hùng Tinh [Saptarishis] và Con
Rồng bảy đầu đều là nguồn gốc
hữu h́nh của biểu tượng về bảy
thời gian trên. Nữ thần của bảy ngôi sao này là
Kep, mẹ của thời gian; do đó mới có hai lần
Kepti và Sebti cũng như là con số 7. V́ thế, đó là
ngôi sao của Bảy tôn danh. Sevekh (Kronos), con của nữ
thần, mang tên bảy ngôi sao hay ngôi sao thứ bảy.
Sefekh Abu đang xây nhà trên cao, cũng vậy, c̣n Minh
Triết (Sophia) lại xây nhà bằng bảy cái cột… Có
bảy kiểu mẫu thời gian (kronotypes) sơ khai, v́
thế thời gian trên trời bắt đầu lúc nào th́
c̣n tuỳ thuộc vào số lượng và danh xưng
của bảy ngôi sao, v́ có các Đấng biểu lộ qua
các ngôi sao. Khi quay ṿng hàng năm, bảy ngôi sao vẫn
cứ chỉ theo hướng ngón tay trỏ của bàn tay
phải, và vạch ra một ṿng tṛn nơi thượng
thiên và hạ thiên.([95])
Tự nhiên là con số 7 đă gợi ra một kích
thước thất bội (bội số của bảy).
Điều này đă đưa tới cái gọi là Sự
thất bội hoá (Sevening) cũng như là việc xác
định và vạch ra ṿng tṛn có bảy phần
tương ứng với bảy cḥm sao lớn. Các
“thất tinh cung” (heptanomis) thiên giới của Ai Cập
đă được tạo ra như thế đó.
125
Khi
thất tinh cung được phân nhỏ ra, mỗi
thứ được chia làm bốn, th́ số
lượng được tăng lên gấp bốn, và hai
mươi tám cung Hoàng Đạo thay thế cho bảy cḥm
sao bản sơ. Hoàng Đạo âm lịch (gồm có hai mươi
tám cung) chính là kết quả của việc tính toán hai
mươi tám ngày âm lịch, tức là một tháng âm
lịch.([96])
Theo sự bố trí của
Trung Quốc, có bốn thần chủ tŕ bốn
phương trời.([97])
Nói cho đúng ra th́ chỉ bảy cḥm sao phương
Bắc hợp thành Huyền Vũ (the Black Warrior); bảy
cḥm sao phương Đông (mùa thu của Trung Quốc)
tạo thành Bạch Hổ (the White Tiger); bảy cḥm sao phương
Nam là Châu Tước (the Vermilion Bird); và bảy cḥm sao
phương Tây (mùa xuân) là Thanh Long (the Azure Dragon). Mỗi
một trong bốn thần này chủ tŕ thất tinh cung
của ḿnh trong ṿng một tuần âm lịch. Nữ
thần sinh hoá (genitrix) của thất tinh cung thứ
nhất (con quái vật Typhon của bảy ngôi sao) nay lại
có một tính cách nguyệt tinh …Trong tuần trăng này,
chúng ta thấy nữ thần Sefekh, tôn danh của nàng có
nghĩa là số 7, là một từ ngữ âm (feminine word),
tức là Thượng Đế (logos) thay thế cho
mẹ của thời gian, với tư cách là nữ
thần Thất Tinh (goddess of the Seven Stars), chính là Huyền
Âm trước kia (the earlier Word).([98])
Tác giả nêu trên
chứng tỏ rằng nữ thần của Đại
Hùng Tinh (the Great Bear) và Mẹ
của Thời gian (vốn ở Ai Cập từ thời
sơ khai nhất) chính là “Từ ngữ Sinh động” (“Living
Word”), c̣n Sevekh-Kronos, mà kiểu mẫu là Cá Sấu-Rồng
(Crocodile-Dragon), h́nh thức tiền hành tinh của Thổ
Tinh, được gọi là con và phu quân (consort) của
nàng; ông chính là Huyền Âm của nàng (her Word-Logos).([99])
Những điều
trên thật ra cũng rất đơn giản, có
điều là chỉ riêng kiến thức thiên văn mà thôi
th́ đâu có đủ để đưa cổ nhân tới
tiến tŕnh Thất
bội hoá (Sevening). Nguyên nhân
bản sơ đă thất truyền rồi, chúng ta ắt
phải giải quyết nó một cách thích đáng mà thôi.
Những điều trích dẫn nêu trên không
phải là lạc đề đâu. Chúng được trích
dẫn ra để chứng tỏ rằng:
a. việc một Điểm đạo
đồ được gọi là “Con Rồng”, “Con Rắn”,
“Năga” đều có lư do của nó; và
b. các giáo sĩ thuộc các triều đại
xưa nhất ở Ai Cập đă dùng lối phân chia làm
bảy phần của chúng ta v́ lư do giống như chúng ta
và dựa vào cơ sở giống như chúng ta.
Tuy nhiên, điều
này cần phải được minh giải thêm nữa. Như
đă nói, cái mà ông Gerald Massey gọi là Tứ Thần (the
Four Genii) ở tứ phương, cái mà người Trung
Quốc gọi là Huyền Vũ, Bạch Hổ, Châu
Tước và Thanh Long, th́ trong Thánh thư lại
được gọi là “Bốn Con Rồng Minh Triết
Ẩn Tàng” (“Four Hidden Dragon of Wisdom”) và các “Thiên Xà” (“Celestial
Năgas”). Nay người ta lại chứng tỏ
được là Thượng
Đế-Rồng bảy
đầu (septenary Dragon-Logos) dần dần bị xẻ ra,
(tạm gọi như vậy) làm bốn phần thất
tinh cung (four heptanomic parts), tức là hai mươi
tám phần. Trong một tháng âm lịch, mỗi tuần
đều có một đặc tính huyền linh riêng
biệt; mỗi ngày trong 28 ngày cũng đều có
đặc tính chuyên biệt của nó. Ấy là bởi v́,
dù xét riêng hay phối hợp với các cung Hoàng Đạo
khác, mỗi cḥm sao trong số mười hai cḥm đều
có một tác dụng huyền linh hoặc là tốt,
hoặc là xấu. Điều này tượng trưng cho
toàn bộ kiến thức mà người ta có thể có
được trên trần thế; ấy thế mà đă
có mấy người thủ đắc được nó
đâu. Bởi thế nên chúng ta có thể đếm
được trên đầu ngón tay số người
thông thái đạt đến mức quán triệt
được Minh Triết được tŕnh bày
tượng trưng như là con Đại Bản Long (the
great Root-Dragon) tức ĐẤNG
CHỦ TỂ Tinh Thần
(the Spiritual LOGOS) của các cung Hoàng Đạo hữu
h́nh này. Bậc nào làu thông được minh triết trên
ắt sẽ được tôn là “Rồng” và trở thành
các “La Hán với Tứ Diệu Đế và Nhị thập
bát huyền công” (“Arhats of the Four Truths of the Twenty-eight
Faculties”), các Ngài được xưng tụng như
thế măi.
126
Các môn đồ phái
Platon-Tân triết học
Theo
Hipparchus, dân Assyria không những đă duy tŕ được
các văn kiện lưu trữ về bảy và hai
mươi vạn năm, mà c̣n bảo toàn được
toàn bộ các “thuyết tận độ chúng sinh”
(apocatastases) và các thời kỳ của Bảy Đấng
Trị v́ thế gian.(1)
Huyền thoại
của mọi quốc gia và bộ lạc, dù là văn minh
hay dă man, đều tin vào một đặc điểm
của loài Rắn, cho rằng chúng rất khôn và rất
quỷ quyệt. Chúng chuyên đi “dụ dỗ” (“charmers”). Chúng
dùng mắt thôi miên loài chim, thậm chí con người cũng
chẳng mấy khi thoát được ma lực của
chúng, chẳng trách nào người ta dùng rắn làm biểu
tượng của minh triết.
Con sấu chính là Con Rồng của Ai Cập.
Nó là biểu tượng lưỡng phân Trời và
Đất, Mặt Trăng và Mặt Trời; v́ có bản
chất lưỡng sinh, nó trở thành linh thiêng đối
với Osiris và Isis. Theo Eusebius, người Ai Cập tŕnh
bày tượng trưng Mặt Trời như là hoa tiêu
của một Chiếc Tàu, chiếc tàu này do con sấu kéo
để “chứng tỏ chuyển động của
Mặt Trời trong Hơi Ẩm” (Không gian).(2) Hơn nữa, Con Sấu c̣n
là biểu tượng của chính vùng Hạ Ai Cập,
miền này lầy lội hơn Thượng Ai Cập. Các
nhà luyện kim đan lại chủ trương một
lối thuyết minh khác. Họ cho rằng biểu
tượng Mặt Trời trong Chiếc Tàu ở trên
Dĩ Thái của Không gian (the Ether of Space) có nghĩa là:
- Vật chất Huyền
bí (Hermetic Matter) là nguyên khí hay cơ sở của Vàng (Gold),
tức Mặt Trời triết
học (philosophical Sun);
- Nước mà Con Sấu đang bơi trong
đó, chính là Vật Chất đă hoá lỏng;
- Cuối cùng,
Chiếc Tàu tượng trưng cho Chiếc Tàu Thiên Nhiên
với Mặt Trời (tức nguyên khí lân tinh, hoả) là
hoa tiêu, v́ Mặt Trời điều động công
việc bằng cách tác động lên Hơi Ẩm (Moist),
tức Thuỷ Ngân
(Mercury). Điều này chỉ
dành cho các nhà Luyện Kim Đan (Alchemists).
Con rắn chỉ
trở thành kiểu mẫu và biểu tượng của
điều ác cũng như là Ma Quỷ trong thời Trung
Cổ. Các tín đồ Thiên Chúa giáo thời sơ khai
cũng như các tín đồ thờ rắn của phái
Ngộ Đạo đều có Thượng Đế
lưỡng phân: Rắn Thiện và Ác, Phúc Thần và Ác
Quỷ (the Agathodaemon and the Kakodaemon). Điều này
được tŕnh bày trong các tác phẩm của Marcus,
Valentinus, và nhiều tác phẩm khác, nhất là trong Pistis-Sophia - đó chắc chắn là một tài
liệu thuộc vào thời sơ khai nhất của Thiên
Chúa giáo. Trong Các Tín
Đồ Phái Ngộ Đạo và Các Di Tích (the Gnostics
and their Remains) tác giả đă
quá cố C. W. King nhận xét rằng: trên cái quách bằng
cẩm thạch ở một lăng tẩm
(được t́m ra ở gần Porta Pia vào năm 1852),
người ta thấy quang cảnh thờ phụng của
các pháp sư, “nguyên kiểu của quang cảnh này là
việc ‘Mặt Trời Mới ra đời’ (‘Birth of the
New Sun’)”. Cái sàn có khảm một bức hoạ kỳ
diệu, có thể là nó tŕnh bày việc:
(a)
(b) Madonna đang cho
Jesus hài đồng bú.
127
Trong các chiếc quách
nhỏ hơn bao xung quanh chiếc quách lớn, chúng ta
thấy có nhiều phiến chỉ cuộn tṛn, trong đó
chỉ mới có mười một tấm được
giải đoán thôi. Người ta phải xem nội dung
của các tấm này như là bằng chứng cuối cùng
của một vấn đề gây nhiều tranh căi. Ấy
là v́ chúng chứng tỏ rằng hoặc là các tín đồ
Thiên Chúa giáo sơ khai (măi tới Thế kỷ thứ VI)
chính là các kẻ Ngoại đạo chân thật (bona fide Pagans), hoặc là Thiên Chúa giáo đầy giáo
điều nay đă được mượn tất
cả và biến hết thành ra Giáo hội Thiên Chúa giáo –
Mặt Trời, Cây, Rắn, Sấu và tất cả.
Trên
cuộn sách thứ nhất chúng ta thấy Anubis …đưa
tay ra cầm một cuộn (scroll) sách; ở dưới
chân y có hai pho tượng bán thân của phụ nữ;
dưới cùng là hai con rắn xoắn vào nhau …một xác
chết được liệm như một xác
ướp. Trên cuộn sách thứ hai chúng ta thấy …Anubis
đưa tay ra ôm một thập tự giá, “Kư hiệu
của Sự sống” (the “Sign of Life”). Bên dưới chân y
có một xác chết bị một con rắn khổng
lồ quấn nhiều ṿng xung quanh, con rắn này chính là
Phúc Thần (Agathodaemon) chuyên canh giữ kẻ quá cố
…Trong cuộn sách thứ ba …chúng ta lại thấy Anubis
cầm một vật thon thon …sao cho nét phác hoạ của
h́nh này biến thành một thập tự giá La Tinh hoàn
chỉnh (a complete Latin cross) … Dưới chân vị thần
này có một h́nh thoi, đó là “Vũ Trụ Noăn” (“Egg of the
World”) của Ai Cập, một con rắn cuộn ḿnh thành
h́nh tṛn cố trườn tới vũ trụ noăn này … Phía
dưới các tượng bán thân là chữ ω
được viết lại bảy lần trên một
hàng, nó nhắc ta nhớ tới một trong các “Thánh Danh” (“Names”)
…Có một điều đáng lưu ư nữa là ḍng chữ,
hiển nhiên là thổ ngữ Palmyrene, trên cặp chân
của Anubis thứ nhất. Về phần h́nh rắn,
cứ giả sử rằng các linh phù này không hề
xuất phát từ tín ngưỡng của những kẻ
thờ Isis, mà là từ tín ngưỡng của những
kẻ thờ Rắn, rất có thể là nó tượng
trưng cho “Con Rắn chân chính và hoàn mỹ” (“True and perfect
Serpent”), Con Rắn này “dẫn dắt linh hồn của
tất cả những ai tin theo nó, ra khỏi Ai Cập
(cơ thể) (out of the Egypt of the body), băng qua Hồng
Hải (của Thần Chết) tiến vào vùng Đất
Hứa (through the Red Sea of Death into the Land of Promise), nó cứu
họ - thoát khỏi cạm bẫy của các con Rắn
Hoang Địa (the Serpents of the Wilderness), tức là các Tinh
Quân (the Rulers of the Stars).”(1)
“Con Rắn chân chính và
hoàn mỹ này” chính là Thượng Đế bảy
chữ; nay người ta tin rằng Ngài chính là Jehovah, và
Đức Jesus cũng đă hợp nhất với Ngài. Trong Pistis-Sophia, một tác phẩm c̣n xưa hơn
cả Thiên Khải của Thánh John, và hiển nhiên là
thuộc cùng một trường phái, “Bí Nhiệm Bản
Sơ” (“First Mystery”) ([100]) gởi
ứng viên Điểm Đạo tới Thượng
Đế bảy nguyên âm này (this seven-vowelled God). (Con
Rắn) của bảy sấm sét thốt ra bảy nguyên âm
này, nhưng lại lấp liếm đi những ǵ mà
bảy sấm sét đă thốt ra và cũng không chịu
viết chúng ra nữa. ([101])Trong Pistis-Sophia, Chúa Jesus hỏi: “Các con có mưu t́m
các bí nhiệm này chăng? Chẳng có bí nhiệm nào hay
hơn chúng [bảy nguyên âm] đâu; v́ chúng sẽ mang linh
hồn các con vào trong Ánh Sáng Vô Lượng (the Light of Lights)”
– tức là chân Minh Triết (true Wisdom). “Do đó, không ǵ
tuyệt diệu hơn các bí nhiệm mà các con mưu t́m,
đó là bí nhiệm về Thất
Huyền Âm (the Seven Vowels) và
tứ thập cửu (49) Quyền Năng (forty and nine Powers), cùng với các con số.”
Ở Ấn Độ, đó là bí
nhiệm về Thất LINH
HOẢ (the mystery of Seven FIRES) và Tứ Thập Cửu Linh
Hoả (Forty-nine Fires), hay các “trạng thái hay các con số”,
tất cả đều như nhau hết.
Ở Ấn Độ, trong những Phật
tử Nội môn, ở Ai Cập, ở Chaldea v.v….và trong các
Điểm đạo đồ thuộc mọi quốc
gia khác, Thất Huyền Âm này đều được
tŕnh bày tượng trưng bởi h́nh chữ Vạn trên
bảy đỉnh đầu của Con Rắn Vĩnh
Cửu (the Serpent of Eternity). Đó là Bảy Vùng (the Seven
Zones) của trạng thái sau khi chết (trong các tác phẩm
của Hermes); kẻ “Quá cố” (“Mortal”) ĺa khỏi một
trong các “Hồn” hay Nguyên khí của ḿnh nơi các vùng này. Khi
đạt tới cảnh giới vượt lên trên
hết mọi Vùng này, y tồn tại như là Con Rắn
lớn Vô H́nh có Toàn Triết (the great Formless Serpent of Absolute
Wisdom), tức là chính Đấng Thiêng Liêng (the Deity Itself).
Trong Nội môn Bí giáo, Con Rắn bảy đầu đâu
phải chỉ có một ư nghĩa duy nhất. Nó chính là con
Thiên Long bảy đầu (the seven-headed Draco), mỗi
đầu là một ngôi sao của cḥm Tiểu Hùng Tinh (the
Lesser Bear). Nhưng nó chủ yếu là U Minh Thần Xà (the
Serpent of Dakness), nghĩa là bất khả tư nghị,
bảy đầu của nó chính là bảy Thượng
Đế, tức các phản ánh của Bản Lai
Độc Quang (the one and first-manisfested Light) – tức
Thượng Đế Vũ Trụ (Universal Logos).
129
TIẾT 11
MA QUỶ LÀ MẶT TRÁI
CỦA THƯỢNG ĐẾ
(DEMON EST DEUS INVERSUS)
VỚI các h́nh
thức đa diện, câu nói biểu tượng này
chắc chắn là nguy hiểm nhất và có tính cách
đạp đổ thánh tượng khi đương
đầu với mọi tôn giáo nhị nguyên sau này (hay
đúng hơn là Thần học và đặc biệt là
như vậy dưới ánh sáng của Thiên Chúa giáo). Song
le, thật chẳng công b́nh và chẳng đúng chút nào mà cho
rằng chính Thiên Chúa giáo đă thai nghén và sinh ra Quỷ
Vương (Satan). Cần có một “đối thủ” (“adversary”),
một Quyền năng đối nghịch để làm
cho vạn vật trong Thiên Nhiên được quân b́nh và hài
hoà. Cần có Bóng Tối (Shadow) để cho Ánh Sáng (Light) trở
nên rực rỡ hơn, Đêm khiến cho Ngày nổi
bật hơn, Lạnh khiến cho ta đánh giá cao hơn
sự ấm cúng của Nhiệt; v́ thế QUỶ VƯƠNG (SATAN) vẫn hằng hữu. Cái ǵ
Đồng chất (Homogeneity) th́ đơn nhất và
bất khả phân ly. Nhưng nếu Đấng Tuyệt
Đối đồng chất (homogeneous One) mà lại không
phải chỉ là một h́nh thái tu từ (no mere figure of
speech), và nếu Hỗn tạp (Heterogeneity) (với
trạng thái lưỡng nguyên) lại là hậu duệ,
phản ánh phân đôi của nó, bấy giờ, ngay cả
cái hỗn tạp thiêng liêng này cũng phải bao hàm tinh hoa
cả thiện lẫn ác. Nếu “Thượng Đế”
Tuyệt Đối, Vô Cực và là Cội Nguồn Chung (If
“God” is Absolute, Infinite, and the Universal Root) của vạn
vật trong Thiên Nhiên và Vũ Trụ, th́ điều ác
ở đâu bây giờ, nếu không phải là nó cũng
xuất phát từ “Tử Cung Bằng Vàng” (“Golden Womb”)
của Đấng Tuyệt Đối? V́ thế, chúng ta
bắt buộc hoặc là phải chấp nhận việc
thiện và ác, Phúc Thần (Agathodaemon) và Ác Quỷ (Kakodaemon)
đều cùng xuất phát từ thân cây Trường Sinh
(the Tree of Being), hoặc phải chịu ép một bề (to
resign ourselves) tin tưởng một cách vô lư vào hai
Đấng Tuyệt Đối vĩnh cửu (two eternal
Absolutes)!
130
Trong khi đó, đă
truy nguyên ư niệm này tới tận lúc con người
mới bắt đầu biết suy nghĩ, nếu ta có
mắc nợ loài Ma Quỷ lừng danh th́ cũng đúng
thôi. Thời xưa làm ǵ có ác quỷ cô độc và hoàn toàn
hiểm độc. Phe ngoại đạo cũng tŕnh bày
thiện và ác như là hai anh em song sinh do cùng một bà
mẹ Thiên Nhiên sinh ra; ngay khi nào mà tư tưởng này
không c̣n có tính chất Cổ sơ nữa, Triết học
sẽ có được Minh Triết. Thoạt đầu,
các biểu tượng thiện và ác là các biểu
tượng trừu tượng, Ánh Sáng và Bóng Tối; sau
này, người ta chọn những kiểu mẫu của
chúng trong số các hiện tượng vũ trụ
tuần hoàn và tự nhiên nhất; đó là Ngày và Đêm,
Mặt Trời và Mặt Trăng. V́ thế, người ta
mới dùng các Đại Đoàn Thần Linh Nhật Tinh và
Nguyệt Tinh (the Hots of the Solar and Lunar Deities) để
tượng trưng cho chúng, c̣n U Minh Long (the Dragon of Darkness)
lại được đem so sánh đối chiếu
với Quang Minh Long (the Dragon of Light). TẬP ĐOÀN Quỷ
Vương (the HOST of Satan) chính là Con của Thượng
Đế (a Son of God), cũng như Tập Đoàn B’ne
Alhim, tức là các Con của Thượng Đế (the
Children of God), các Ngài đến tŕnh diện với
Đức Chúa Cha.(1) “Các Con của Thượng
Đế” trở thành các “Thiên Thần Sa Đoạ” (“Fallen
Angels”) chỉ sau khi họ thấy rằng các cô gái của
nhân loại sao mà xinh
xắn quá.([102]) Trong triết học Ấn
Độ, các Suras được xếp vào loại
Thần xa xưa nhất và xuất sắc nhất; Họ
chỉ trở thành các Asuras sau khi đă bị những
người theo Bà La Môn hạ uy thế, truất ngôi
(dethrone). Nếu con người không sáng tạo ra một
“Thượng Đế nhân h́nh sống động duy
nhất” (“one living personal
God”), th́ Quỷ Vương đă không khi nào khoác lấy
một h́nh hài nhân h́nh, cá biệt; đây chẳng qua chỉ
là một điều không sao tránh khỏi. Cần phải
có một bức b́nh phong, một con vật hy sinh (a
scapegoat) để biện minh cho những lầm lỗi,
những điều độc ác, bất công quá hiển
nhiên của một Đấng vẫn tự cho rằng
ḿnh chính là Chân, Thiện, Mỹ. Đó là quả báo đầu
tiên của việc từ bỏ thuyết Phiếm thần
hợp lư và đầy ư nghĩa triết học để
dựng nên “một Từ Phụ thiên giới” (“a merciful
Father in Heaven”). Làm cái nạng chống đỡ cho kẻ
lười biếng theo lời giả định sai
lầm, Từ Phụ này hằng ngày, hằng giờ
đều cư xử như là “một Bà Mẹ khả ái
nhưng mặt lạnh như tiền” (“comely Mother but stone
cold”). Điều này đưa tới các cặp song sinh
bản sơ như Osiris-Typhon, Ormazd-Ahriman và cuối cùng
Cain-Abel và các cặp đối lập c̣n lại.
Thoạt đầu vốn được xem là đồng nghĩa với Thiên Nhiên, tức “Thượng Đế”, Đấng Tạo Hoá, sau này lại biến thành một Đấng sáng tạo ra nó. Pascal giải quyết vấn đề nan giải này một cách rất tài t́nh bằng cách nói như sau:
Thiên
nhiên có những điều hoàn mỹ để chứng
tỏ rằng ḿnh là h́nh ảnh của Thượng
Đế, Thiên Nhiên cũng có những điều khiếm
khuyết để chứng tỏ rằng ḿnh là h́nh ảnh
duy nhất của Ngài.
Càng ngược ḍng quá khứ trở
lại thời kỳ tiền sử bao nhiêu th́ Quỷ
Vương, sau này mới xuất hiện, lại càng có
h́nh dáng nguyên kiểu đầy ư nghĩa triết học
bấy nhiêu. “Đối thủ” (“Adversary”) đầu tiên
với h́nh hài cá nhân hiện diện trong Thánh kinh Purănas
chính là một trong các Thánh
Triết (Rishis) và các đạo sĩ Yaga lỗi lạc
nhất – đó là Nărada với biệt hiệu là “Kẻ
Phá-thối” (“Strife-maker”).
Y chính là con của Brahmă, Đấng
trượng phu (the male) Chúng ta sẽ xét đến y sau.
Muốn biết “Kẻ đại dối gạt” (the great
“Deceiver”) thực sự là ai, chúng ta chỉ cần khách quan,
vô tư t́m kiếm tông tích y trong mọi vũ trụ
khởi nguyên luận và mọi Thánh kinh cổ.
Khi được xét
tách riêng khỏi Đại Đoàn các Đấng Sáng
Tạo, (có thể nói rằng Ngài là đại biểu và
tổng hợp của các Đấng này) Ngài chính là hoá công
nhân h́nh, Đấng Sáng Tạo ra Trời và Đất. Ngài
chính là Thượng Đế trong các Thần học hiện nay. “Có muốn th́ mới suy nghĩ”.
Thỉnh thoảng một biểu tượng triết
học lại bị phó mặc cho thiên hạ thêm hoang
tưởng lệch lạc; sau đó, nó biến thành
một Thượng Đế quỷ quái, lừa phỉnh,
xảo quyệt và ghen tuông.
131
V́ rải rác trong tác
phẩm này đều có mô tả các Con Rồng và các Thiên
Thần Sa Đoạ khác, nên chỉ nói như thế
về Quỷ Vương (vốn bị nói xấu rất
nhiều) cũng đă đủ rồi. Môn sinh nên nhớ
rằng đến nay, đối với mọi
người, ngoại trừ các quốc gia theo Thiên Chúa
giáo, Ma Quỷ (Devil) đâu có ǵ là tồi tệ hơn
trạng thái đối nghịch trong bản chất
lưỡng phân của cái gọi là Đấng Sáng Tạo.
Điều này cũng tự nhiên thôi. Người ta không
thể xem Thượng Đế như là tổng hợp
của toàn thể Vũ Trụ, Toàn Hiện (Omnipresent), Toàn
tri và Vô Cực (Omniscient and Infinite), và rồi lại cách ly
Ngài với điều Ác. V́ trên thế giới, Ác
vượt xa Thiện, nên hệ quả hợp lư là Thượng
Đế hoặc phải bao hàm cả Ác, hoặc Ngài
phải trực tiếp sinh ra nó; nếu không chẳng hoá ra
là Tuyệt Đối chịu tự nhận như vậy
sao? Người xưa hiểu rất rơ điều này
đến nỗi mà các triết gia của họ (nay
lại đến các tín đồ Do Thái Bí giáo nối gót)
đă định nghĩa Ác như là “lớp vải lót” (“lining”)
của Thiện hay Thượng Đế. Ma Quỷ là mặt trái của
Thượng Đế là
một ngạn ngữ rất xưa. Thật vậy, Ác
chẳng qua chỉ là một kháng lực mù quáng trong Thiên
Nhiên, đó là sức
phản động, đối kháng, tương phản – xấu đối với
người này, nhưng lại tốt đối với
người kia. Chẳng có ǵ là tuyệt đối ác, mà
chỉ có Bóng Ánh Sáng (Shadow of Light); không có nó, Ánh Sáng chẳng
tồn tại được ngay cả trong tri giác của
chúng ta. Nếu Ác biến mất, th́ Thiện cũng sẽ
chẳng c̣n trên trần thế. “Con Rồng Cũ” (“Old
Dragon”) chính là Tinh Thần thuần tuư trước khi
biến thành Vật Chất, thụ động
trước khi trở thành chủ
động. Trong Pháp thuật
Syro-Chaldea cả Ophis lẫn Ophiomorphos đều
được liên kết với cung Hoàng Đạo bán
thư bán hùng Xử
Nữ Hổ Cáp (the Androgyne Virgo-Scorpio). Trước khi đoạ thế,
“Thần Xà” chính là Ophis-Christos, sau khi đoạ thế, nó trở lại
thành Ophiomorphos-CHRESTOS. Đâu đâu, các tín
đồ Do Thái Bí giáo cũng thuyết lư, xem Ác như là THẦN LỰC (FORCE) đối lập nhưng
đồng thời lại cốt yếu đối
với Thiện, v́ Ác cùng tồn tại với Thiện nên
không có Ác th́ chẳng có Thiện. Nếu không có Tử th́ làm sao có Sinh (theo nghĩa hăo
huyền); nếu không có huỷ diệt th́ làm sao có phục
sinh và tái tạo. Nếu trời cứ nắng măi th́ cây
cối ắt sẽ tàn úa hết; cũng vậy, con
người sẽ trở thành người máy nếu không
có tự do ư chí. Nếu y chẳng có ǵ ngoại trừ ánh
sáng, th́ dù cho y có khao khát ánh nắng này đến đâu
đi nữa nó cũng trở thành chẳng có giá trị ǵ
đối với y. Thiện chỉ có tính chất vô
cực và vĩnh cửu chừng nào mà nó c̣n luôn luôn ẩn
tàng đối với chúng ta, v́ thế, chúng ta mới
tưởng rằng nó thật là vĩnh cửu. Trên các
cảnh giới biểu lộ, cái này cân bằng với cái
kia. Chẳng có mấy kẻ hữu thần, tin
tưởng vào Thượng Đế nhân h́nh, mà lại
không biến Quỷ Vương thành h́nh bóng của
Thượng Đế. Chẳng có mấy kẻ nào
lẫn lộn Quỷ Vương với Thượng
Đế mà lại không tin rằng ḿnh có quyền cầu
nguyện với thần tượng, xin nó phù hộ
để được miễn tội cho hành
động làm ác của họ. Hằng ngày, hàng triệu
con tim của các tín đồ Thiên Chúa giáo cứ khấn
nguyện với “Cha trên Trời” chứ không phải Ma
Quỷ như sau: “Xin đừng đưa chúng con vào ṿng
mê ảo.” Họ lặp lại từng lời thốt ra
từ miệng của Đấng Cứu Thế, song
họ chẳng thèm đoái hoài đến sự kiện là
nó có ư nghĩa mâu thuẫn với lời của James, “huynh
đệ của Chúa” như sau:
Khi
bị quyến rũ, con người đừng nói
rằng, ta bị Thượng Đế quyến rũ, v́
Thượng Đế không thể bị điều ác mê
hoặc, và Ngài cũng chẳng dụ dỗ bất cứ
người nào. (1)
132
Vậy th́, tại sao
cứ nói rằng chính Ma Quỷ quyến rũ chúng ta, trong
khi mà dựa vào uy
quyền của Đức Christ, Giáo hội cứ dạy rằng
chính Thượng Đế mới làm như vậy?
Cứ mở bất cứ quyển kinh nào ra (trong đó
người ta định nghĩa từ ngữ “quyến
rũ” theo ư nghĩa thần học), chúng ta sẽ thấy
ngay hai định nghĩa:
(1)
Các đau thương và phiền
muộn mà Thượng Đế dùng để thử thách các con dân của Ngài.
(2)
Các phương tiện và các
mồi nhử mà Ma Quỷ dùng để dụ dỗ và quyến rũ nhân loại.
Nếu xét theo sát
nghĩa, giáo lư của Đức Christ và của James mâu
thuẫn với nhau, và nếu cứ bác bỏ ư nghĩa
huyền linh, th́ lấy giáo điều nào mà dung hoà
được hai thứ bây giờ?
Giữa hai sự cám dỗ
luân phiên, thật là thông thái biết bao nhiêu nếu triết
gia nào có thể quyết định được xem
đâu là nơi Thượng Đế mất hút
để nhường chỗ cho Ma Quỷ ! Do đó, khi
chúng ta đọc thấy rằng “Ma Quỷ là hiện thân
của dối trá”, thế mà Quỷ Vương, Ma
Vương lại là con của Thượng Đế và
là Tổng Thiên Thần mỹ miều nhất (the most
beautiful of his Archangels), nên người ta mới tin rằng
Cha và Con đều là hiện thân của sự DỐI TRÁ
đời đời (eternal LIE), chúng ta chỉ c̣n có
nước quay sang nghiên cứu thuyết Phiếm Thần
và các truyền thuyết Ngoại đạo khác.
Một khi mà chúng ta có
được ch́a khoá để giải Sáng Thế Kư th́ Thánh kinh Do Thái Bí giáo có tính cách khoa
học và biểu tượng học sẽ bộc lộ
bí mật ra hết. Con Đại Xà (the Great Serpent) ở
vườn Địa Đàng có khác ǵ “Đức Chúa
Trời”, Jehovah và Cain cũng vậy – thế mà Thần
học dám bảo rằng Cain chính là KẺ NÓI DỐI (LIAR)
với Thượng Đế rồi lại c̣n “giết
chết” Ngài nữa ! Jehovah dụ dỗ vua Do Thái kiểm
tra dân số, Quỷ Vương cũng dụ dỗ y làm
như vậy ở một nơi khác. Jehovah biến thành
các Con Rắn Bốc Lửa (the Fiery Serpents) để
cắn những kẻ nào mà Ngài không vừa ḷng; rồi
Jehovah lại làm linh hoạt Con Rắn Đồng Thau (the
Brazen Serpent) chữa khỏi họ.
Các phát biểu
ngắn ngủi và h́nh như mâu thuẫn này trong Cựu Ước – mâu thuẫn v́ hai quyền năng
lại phân cách với nhau thay v́ được xem như là
hai mặt của một vật duy nhất – là các tiếng
vang (đă bị hiển giáo và thần học xuyên tạc)
của các giáo điều triết học và vũ trụ trong
Thiên Nhiên mà các hiền nhân thời xưa đă quán
triệt. Chúng ta cũng thấy cơ sở như vậy
trong nhiều điều nhân cách hoá trong các Thánh kinh Purănas, có điều là chúng vĩ
đại hơn và có tính chất gợi ư hơn về
mặt triết học.
133
V́ thế, Pulastya,
một “Con của Thượng Đế” (a “Son of God”),
một trong các hậu duệ đầu tiên, biến thành
tổ phụ của loài Quỷ (Demons), La Sát (Răkshasas) chuyên
quyến rũ và ăn tươi nuốt sống con
người. Đảm tinh quỷ (Pishăcha), một con
Quỷ cái (a female Demon), là con gái của Daksha, vốn là
một thần linh và cũng là một “Con của
Thượng Đế” (a “Son of God”) và là mẹ của
mọi Đảm tinh quỷ.(1) Xét theo quan điểm chính thống và
quan điểm Tây phương, cái gọi là loài Quỷ
trong Thánh kinh Purănas là loài Quỷ rất phi thường,
v́ tất cả Dănavas, Daityas, Đảm tinh quỷ và La
Sát, đều được tŕnh bày tượng trưng
như là cực kỳ mộ đạo, theo các huấn
điều trong kinh Vedas, thậm chí một số lại c̣n
là các đạo sĩ Yoga lỗi lạc nữa. Nhưng
họ chống đối các giáo sĩ, các nghi thức, các
lễ tế thần và các h́nh thức giống như
những điều mà các đạo sĩ Yoga hàng
đầu (the head Yogi) ở Ấn Độ hiện nay
đang thực hiện, và không khỏi không tôn trọng,
mặc dù họ được phép không theo một giai
cấp hay nghi thức nào hết, v́ thế, tất cả
những Người khổng lồ trong Thánh kinh Purănas (all
those Purănic Giants) đều được gọi là Ma
Quỷ. Các nhà truyền giáo, luôn chờ dịp chứng
tỏ là các truyền thuyết của Ấn Độ
chẳng qua chỉ là một phản ánh của Thánh kinh Do Thái, đă chế ra việc Pulastya
đồng nhất với Cain, c̣n các La Sát lại
đồng nhất với con cháu của Cain, “Kẻ
Bị Nguyền Rủa”, là nguyên nhân của chính trận
Đại Hồng Thuỷ. (Xem tác phẩm của tu sĩ
Gorresio, ông cho rằng ngữ căn của danh xưng Pulastya
có nghĩa là “bị bác bỏ”, do đó, chúng ta có thể
tuỳ tiện cho nó là Cain). Theo ông Pulastya ở tại
Kedara, có nghĩa là “một nơi được khai
quật”, tức một mỏ;
thế mà theo truyền
thuyết trong Thánh Kinh
(Bible), Cain lại là một công
nhân kim khí đầu tiên và là phu mỏ!
Trong khi mà rất có
thể là các Geburim tức là những Người khổng
lồ (Giants) trong Thánh Kinh
(Bible) chính là các La Sát (Răkshasas)
của dân Ấn Độ, th́ có một điều c̣n
chắc chắn hơn nữa là cả hai đều là dân
Atlante và thuộc về giống người đă bị
nhận ch́m. Tuy nhiên, có lẽ là chẳng Quỷ
Vương (Satan) nào mà lại nhiếc móc hằn học
với kẻ thù hơn là các nhà thần học Thiên Chúa giáo
khi nguyền rủa y là cha đẻ của mọi
điều ác. Chúng ta cứ thử so sánh cái quan
điểm phỉ báng Ma Quỷ của họ với các
quan điểm điềm đạm của các hiền
triết trong Thánh kinh Purănas
và ḷng nhân từ như
Đức Christ mà xem. Khi Parăshara có cha bị một La Sát
ăn tươi nuốt sống, đang chuẩn bị
dùng pháp thuật để huỷ diệt toàn nhân loại,
th́ tổ phụ của ông tức Vasishtha, sau khi đă
chứng tỏ cho nhà hiền triết đang giận
dữ thấy rằng có Điều Ác và Nghiệp quả (Karma) chứ không có “các Ác Quỷ” (“evil
Spirits”), đă phát biểu ư kiến một cách gợi ư
như sau:
Xin
cháu hăy nguôi giận, loài La Sát có tội t́nh ǵ đâu,
chẳng qua là cha cháu đă tới số rồi [Nghiệp
quả –Karma]. Kẻ điên rồ th́ mới lồng
lộn lên oán giận để rồi không c̣n minh mẫn
nữa.Ta có thể hỏi là liệu có ai bị họ
giết chết không? Mọi người đều
gặt hái hậu quả của chính các hành vi của ḿnh.
Con ơi, sân hận huỷ hoại hết tất cả
những ǵ mà con người thu thập được,…và
khiến ta không…giải thoát được. Các …hiền
triết …đều tránh sân hận, nên con ơi,
đừng để cho nó làm chủ được con. Đừng
tận diệt loài u hồn vô tội này nữa. Kẻ công
minh bao giờ cũng nhân từ.(1)
134
Do đó, mọi
lễ “tế thần” (“sacrifice”) hoặc cầu nguyện
cho Thượng Đế phù trợ, như thế cũng
đâu có ǵ tốt hơn
hành vi của ma thuật. Parăshara
cầu cho những U Hồn (the Spirits of Darkness) tịch
hết đi để báo thù riêng. Y bị gọi là
ngoại đạo, và tín đồ Thiên Chúa giáo đă trù
cho y bị đoạ địa ngục đời
đời. Song trước khi giao chiến, các vua chúa
tướng lănh cũng cầu cho quân thù bị tiêu diệt
hết, như vậy th́ có khá ǵ hơn đâu? Dù thế nào
đi nữa, một lời cầu nguyện như
vậy cũng là ma
thuật thuộc loại
tồi tệ nhất, và thật là “khẩu Phật tâm Xà”
(concealed like a demon “Mr. Hyde” under a sanctimonious “Dr. Jekyll”).
Nơi bản chất con người,
điều ác chỉ biểu thị sự phân cực
của Tinh Thần và Vật Chất, một sự
đấu tranh để sinh tồn giữa hai Nguyên khí
biểu lộ trong Không gian và Thời gian; xét cho cùng th́ các
Nguyên khí này chỉ là một, v́ chúng đều bắt
nguồn từ Tuyệt Đối. Trong Càn Khôn phải duy
tŕ được sự quân b́nh. Các tác động của hai
mâu thuẫn tạo ra sự hài hoà, chẳng khác nào các
lực ly tâm và hướng tâm tuỳ thuộc lẫn nhau,
cần thiết cho nhau “để cho cả hai đều
tồn tại.” Nếu một thứ mà không c̣n tác
động nữa, th́ thứ kia cũng sẽ ngưng tác động
ngay lập tức.
V́ cái được
nhân cách hoá thành Quỷ Vương đă được phân
tích tỉ mỉ thành ba trạng thái trong Cựu Ước, thần học Thiên Chúa giáo và nếp
suy tư cổ truyền của kẻ không phải là Do
Thái, nên độc giả nào muốn nghiên cứu thêm
về chủ đề này xin hăy tham khảo Nữ Thần Isis Lộ Diện
(1) và Quyển 4 của bộ sách này. Ở
đây, chúng ta đề cập tới chủ đề
này và thử đưa ra các giải thích mới mẻ v́
một lư do rất minh xác. Trước khi có thể bắt
đầu đề cập tới sự tiến hoá
của Con người vật chất và thiêng liêng, trước hết chúng ta phải
thấu triệt được ư niệm về sự
tiến hoá tuần hoàn, phải làm quen với các triết
thuyết và tín ngưỡng của bốn Giống dân
trước Giống dân hiện nay của chúng ta và
phải hiểu được ư niệm của các
Người khổng lồ này – thật vậy, họ
thật là vĩ đại về mặt trí lực và
thể lực. Thời xưa, chúng ta thấy toàn các
triết thuyết dạy về sự giáng hạ tiến
hoá của Tinh Thần vào trong Vật Chất, sự giáng
hạ luỹ tiến tuần hoàn, tức là sự tiến
hoá tích cực, hữu ngă thức. Các tín đồ phái
Ngộ Đạo Alexandria đă tiết lộ đầy
đủ các bí nhiệm của Điểm Đạo;
trong các văn kiện lưu trữ của họ có
dẫy đầy “sự giáng hạ của các Phân thân” (“falling down of the Aeons”) với tư cách là
các Thực thể Thiên Thần và các Thời kỳ Thiên
Thần (Angelic Being and Periods), cái này do sự tiến hoá
tự nhiên của cái kia mà ra. Mặt khác trong các truyền
thuyết Đông phương ở cả trên hai bờ
“Hắc Thuỷ” (“Black Water”), tức Đại
Dương ngăn cách hai miền phía Đông, cũng
đầy dẫy các ẩn dụ về sự giáng hạ
của Pleroma, tức là sự giáng hạ của chư
Thiên (the God and Devas). Họ nhất tề ẩn dụ hoá
và giải thích sự GIÁNG
HẠ (the FALL) như là việc muốn học
hỏi và hiểu biết.
Đó chính là hệ quả tự nhiên của việc
mở trí, Tinh Thần chuyển hoá thành Vật Chất.
Trong suốt kỷ nguyên Thiên Chúa, định luật giáng
xuống vật chất rồi lại thăng lên tinh
thần vẫn có giá trị; chỉ mới trong phân
chủng đặc biệt này của chúng ta mà phản
ứng này mới ngưng lại.
Vào khoảng
mười ngàn năm trước đây, trong Pymander, có một ẩn dụ có thể
giải đoán theo ba cách và được dùng để
ghi lại một sự kiện về thiên văn, nhân
loại học và cả thuật luyện kim đan
nữa; đó là ẩn dụ về bảy Đấng Tinh
Quân (the Seven Rectors) đă phá tan được Bảy Ṿng
Tṛn Lửa (the Seven Cirles of Fire). Ẩn dụ này đă
bị thu hút rút lại vào
135
trong một lối
thuyết minh duy vật và thần nhân đồng h́nh –
đó là sự Nổi loạn và sự Sa Đoạ của các Thiên
Thần. Câu chuyện lập
lờ, có ư nghĩa triết học thâm sâu lại
được tŕnh bày dưới đề tài thi vị:
“Cuộc phối ngẫu giữa Trời và Đất” (“Marriage
of Heaven with Earth”). Thiên Nhiên yêu thích Sắc Tướng Thiêng
Liêng (Divine Form), c̣n “Thiên Đế” (“Heavenly Man”) lại mê
mệt với nét đẹp của chính ḿnh soi bóng trong
Thiên Nhiên, nghĩa là Tinh Thần bị Vật Chất
hấp dẫn. Nay theo luận giải thần học, câu
chuyện nêu trên lại thành ra như sau: “Bảy Đấng
Tinh Quân (the Seven Rectors) bất phục tùng Jehovah trở thành
tự cao tự đại nên mới bị SA ĐOẠ; Jehovah không cho phép người ta tôn sùng
kẻ nào khác ngoại trừ chính ḿnh”. Nói tóm lại, các
Thiên Thần Hành Tinh xinh đẹp, các Phân thân Tuần hoàn
(Cyclic Aeons) chiếu diệu của Cổ nhân, đă
được tổng hợp một cách chính thống nhất
thành ra Samael, Thủ lĩnh Ma Quỷ trong Do Thái Pháp Điển. Đó là con Đại Xà có mười hai cánh; khi Sa Đoạ, nó kéo theo Thái
Dương Hệ, tức những Người khổng
lồ. Nhưng trạng thái triết học và huyền bí
Schemal – kiểu mẫu Saba của Samael, cùng với Samael
hợp thành một cặp – có nghĩa là “Năm” (“Year”) (theo
khía cạnh xấu về mặt chiêm tinh của nó) với
mười hai tháng, tức mười hai “cánh” (“wings”)
gồm các điều hung (evils) không sao tránh khỏi trong
Thiên Nhiên. Trong Thần phổ học Nội môn, cả
Schemal lẫn Samael đều tượng trưng cho
một vị thần đặc thù.(1)
Đối với các tín đồ Do Thái Bí giáo, họ là
“Chơn Linh của Trái Đất” (the “Spirit of the Earth”),
Thượng Đế Nhân H́nh cai trị nó, do đó,
đúng là Jehovah. V́ chính các học giả Do Thái Pháp Điển
cũng thừa nhận rằng SAMAEL là thánh danh của
một trong bảy Đấng Elohim. Hơn nữa, các tín
đồ Do Thái Bí giáo c̣n tŕnh bày cả Schemal lẫn Samael
như là một h́nh thức biểu tượng của
Thần Saturn tức Kronos; “mười hai cánh” tượng
trưng cho mười hai tháng, c̣n biểu tượng xét
chung tượng trưng cho một chu kỳ chủng tộc (a racial cycle). Xét về mặt h́nh tượng,
Jehovah đâu có khác ǵ thần Saturn.
136
Đến
lượt điều này tạo ra một sự suy
diễn kỳ lạ về một giáo điều Thiên Chúa
giáo La Mă. Nhiều tác giả nổi tiếng của Giáo
hội La Tinh thừa nhận rằng có và ắt phải có
một sự dị biệt giữa các Người
khổng lồ của thần Uranus (tức các
Người khổng lồ trước thời
Đại Hồng Thuỷ) và các Người khổng
lồ sau Đại Hồng Thuỷ (các tín đồ Thiên
Chúa giáo La Mă thấy rằng chính họ là hậu duệ
của nhân vật thần thoại Ham). Nói rơ hơn, có
một sự dị biệt giữa các Lực đối
lập nguyên thuỷ trong Vũ Trụ, tuân theo luật
tuần hoàn (tức Người khổng lồ Atlante – the
Atlantean human Giants) và các Cao đồ sau thời kỳ
Đại Hồng Thuỷ, dù là thuộc chính đạo hay tà
đạo. Đồng
thời họ chứng tỏ rằng theo de Mirville, Michael
(“Tổng tư lệnh của đạo quân Thiên Giới, cận vệ của Jehovah”) cũng là một
Người khổng lồ, có điều là Ngài có tính
chất “thiêng liêng”. Do đó, các Người khổng
lồ thuộc thần Uranus (Uranide) này (đâu đâu
người ta cũng gọi họ là các “Người
khổng lồ thiêng liêng”; họ đă nổi loạn
chống lại Kronos, tức thần Saturn và cũng
được coi như là các kẻ thù của Samael;
một trong các Đấng Elohim và đồng nghĩa
với Jehovah xét chung, cũng không có khác ǵ Michael và tập
đoàn của Ngài. Tóm lại, các vai tṛ đều bị
đảo lộn hết, tất cả thật là hỗn
độn, nên chẳng môn sinh nào biết đâu là đâu.
Tuy nhiên, nếu giải thích theo nội môn th́ cũng có
thể t́m ra ít nhiều manh mối: Jehovah biến thành
Saturn, cùng với Michael và Đạo quân của Ngài, Quỷ
vương và các Thiên Thần Nổi Loạn (the Rebellious
Angels); ấy là v́ những kẻ cuồng tín thật là vô ư
tứ, chỉ chực gán cho chư thần ngoại
đạo là ma quỷ. Chân ư nghĩa của nó thật là
thâm sâu hơn nhiều, nếu hiểu cho đúng th́ sự
“Sa Đoạ” đầu tiên của các Thiên Thần
cũng có một sắc thái khoa học vậy.
Kronos tượng
trưng cho vô tận và v́ thế là Kỳ Gian bất di
bất dịch, vô thuỷ vô chung, vượt ngoài ṿng
giới hạn của Thời gian và Không gian. Theo lối
nói ẩn dụ, chư Thiên vốn được sinh ra để vẫy vùng trong không
gian và thời gian, tức là xuyên phá bảy phạm vi của
các cảnh giới siêu tâm linh để
đi vào trong các hiện tượng giới tức là các
lănh vực siêu trần thế, đă nổi lên chống
lại Kronos, và chiến đấu chống lại [Mănh
sư – the Lion]; bấy giờ đó chính là thần linh
sống động “thiên thượng, địa hạ,
duy ngă độc tôn” (highest God). Khi đến lượt
Kronos lại được tŕnh bày tượng trưng
như là Uranus (cha của Kronos) th́ ư nghĩa ẩn dụ
này thật là đơn giản. Thời gian tuyệt
đối đă bị biến thành hữu hạn;
tổng thể bị tước lấy một phần;
như thế chứng tỏ rằng Saturn, Cha của chư
Thiên, cũng đă bị biến đổi từ Kỳ gian vĩnh cửu thành ra một Thời kỳ hạn
hẹp.
Các Người
khổng lồ ở Hy Lạp trong Thần phổ học của
Hesiod đă được mô phỏng theo các Suras và Asuras của Ấn Độ. Có lúc
người ta cho rằng chỉ có sáu Người
khổng lồ này; nhưng mới gần đây dựa vào
một áng văn liên hệ tới thần thoại Hy
Lạp, người ta đă khám phá ra rằng có tới bảy Người khổng lồ,
người thứ bảy là Phoreg. Như thế th́ rơ
rệt là họ chẳng khác nào Bảy Tinh Quân (the Seven
Rectors). Tất nhiên là chúng ta phải truy nguyên “Cuộc
chiến tranh Thiên Giới” (“War in Heaven”) và sự SA ĐOẠ (FALL) tới tận Ấn Độ, và có
lẽ là nó có nguồn gốc c̣n xa xưa hơn cả các
Thánh kinh Purănas. Ấy là v́ Tărakamăya thuộc về
một thời đại sau này; ngoài ra, trong hầu
hết vũ trụ khởi nguyên luận, chúng ta ắt
phải truy nguyên ra được ba cuộc Chiến tranh
phân biệt từng được tường thuật.
Cuộc chiến tranh
đầu tiên diễn ra vào ban đêm giữa chư Thiên
(the God) và các (A)suras; nó kéo dài tới một Năm Thiêng Liêng,
(1) vào dịp này, dưới sự lănh
đạo của Hrăda,
137
các Daityas đă
đánh bại chư Thiên. Nhưng sau đó, nhờ dùng
tới một khí cụ của Vishnu, chư Thiên lại
đánh thắng được các Asuras. Trong Vishnu Purănas, hai cuộc chiến tranh này đi
liền với nhau. Tuy nhiên, trong Nội môn Bí giáo, một
cuộc chiến tranh khác diễn ra trước khi Thái
Dương Hệ được dựng nên, một
cuộc chiến tranh khác diễn ra trên trần thế vào
lúc con người được “tạo ra” (“creation”);
người ta c̣n nói là một “cuộc chiến tranh”
thứ ba đă diễn ra vào lúc kết liễu Giống dân
thứ Tư (the Fourth Race), giữa các Cao đồ của
Giống dân thứ Tư và Giống dân thứ Năm (the
Fifth Race) (tức là giữa các Điểm đạo
đồ của “Đảo Thiêng” (“Sacred Island”) và các Phù
thuỷ của Châu Atlantis. Chúng ta chỉ quan tâm tới
cuộc chiến tranh thứ nhất (do Parăshara thuật
lại) và sẽ ra sức phân biệt hai bản tường
thuật, chúng đă bị cố ư trộn lẫn nhau.
Xin xác định là
bởi v́ các Daityas và các Asuras đều lần lượt
có bổn phận thuộc giai cấp của ḿnh và theo các
đường lối qui định trong Kinh Thánh cũng
như là hành pháp môn sám hối (người ta cho rằng
nếu ma quỷ cũng
giống như quỷ thần của chúng ta th́ đây thật là một công
việc quái gở), nên chư Thiên không thể diệt chúng
được. Chư Thiên đă cầu nguyện với
Vishnu bằng những lời lẽ thật là quái dị,
v́ chúng có những ư niệm liên quan tới một Thượng
Đế nhân h́nh. Sau khi bị đánh bại phải
trốn tới bờ phía bắc của Biển Sữa
[Đại Tây Dương];(1) chư Thần bị đại
bại đă khẩn cầu Đấng Bản Lai (the first
of Beings), tức Vishnu thiêng liêng như sau:
Vinh
danh thay Đấng Chí Tôn, Ngài đă nhập một với
chư Thánh, Ngài có bản chất toàn thiện bao giờ
cũng thiêng liêng, Ngài đi qua mọi yếu tố có
thể xuyên thấu được. Vinh danh thay Đấng
Chí Tôn, Ngài nhập một với xà chủng (the serpent-race)
vốn miệng lưỡi giả dối (double-tongued),
cường bạo, độc ác, ḷng sôi sục
hưởng thụ (insatiate of enjoyment), của cải
thừa thăi …Vinh danh thay Đấng Chí Tôn,…Ngài chẳng có
màu sắc mà cũng chẳng có kích thước, chẳng có
khối lượng (ghana) mà cũng chẳng có tính chất
xác định nào; tinh hoa (rũpa) thuần tuư nhất của
Ngài th́ chỉ có chư Thánh (Paramarishis) [chư Đại
Thánh Hiền] là thẩm định được. Chúng con
xin đảnh lễ Ngài với bản chất Brahmă,
tự sinh tự tại, kim cang bất hoại (avyaya); Ngài
ngụ nơi thân xác chúng con và tha nhân và nơi mọi chúng
sinh; ngoài Ngài ra không c̣n ǵ nữa. Chúng con xin tôn vinh Văsudeva
đó; Đấng Chúa Tể của Càn Khôn, Ngài thật là
vô nhiễm, mầm mống của vạn vật, bất
sinh bất diệt, vĩnh cửu. Xét về bản
thể, Ngài là trạng thái Tinh Thần vô thượng
(Paramapadătmavat), c̣n xét về bản chất (rũpa), Ngài là
toàn bộ (vũ trụ) này. (2)
138
Chúng ta trích dẫn
đoạn trên để minh hoạ cho việc Thánh kinh Purănas rất có thể bị chỉ trích
một cách thiên lệch bởi bất cứ người
Âu Châu mê tín (European bigot) nào mà chỉ đánh giá tôn giáo
ngoại lai theo chứng cớ bên ngoài. Bất cứ
người nào đă quen thuộc với chủ đề
này và phân tích một cách tỉ mỉ đều thấy
ngay rằng những lời xưng tán này đều
chẳng thích hợp ǵ với “Đấng Bất Khả
Tri, Đấng tuyệt đối vô h́nh và vô thuộc
tính.” Chẳng hạn các tín đồ phái Vedănta đă
định nghĩa BRAHMAN như là “đồng nhất với
xà chủng”, miệng lưỡi giả dối, hiểm ác
và đa dục, thế là họ đă biến trừu
tượng thành cụ thể, và đă gán vô số tính
chất cho cái vốn vô hạn, vô biên. Ngay cả Giáo sư
Wilson, sau khi đă sống quanh quẩn bên các tín đồ
Bà La Môn giáo và các học giả Ấn Độ trong
biết bao nhiêu năm, cũng c̣n phải học hỏi
thêm nhiều nữa (thế nên học giả này mới
không hề bỏ lỡ cơ hội chỉ trích các Thánh
kinh của Ấn Độ về điều này). Do đó
ông mới kêu lên:
Các
Thánh kinh Purănas chuyên môn dạy các giáo lư mâu thuẫn nhau! Theo
đoạn này;(1) Đấng Chí Tôn
(the Supreme Being) không những là nguyên nhân sáng tạo bất
động, mà lại c̣n kiêm nhiệm các chức năng
của một Đấng Thượng Đế tích
cực (an active providence). Để bênh vực cho quan
điểm này, nhà b́nh giải đă trích dẫn một
đoạn văn trong kinh Vedas: “Linh Hồn Vũ Trụ
nhập vào con người, chi phối các hành vi của y”.
Tuy nhiên, trong kinh Vedas cũng
như trong kinh Purănas, không có mấy điều phù hợp
với nhau.
Nói cho đúng ra th́
trong Thánh kinh của Moses cũng thiếu ǵ các
điều mâu thuẫn. Nhưng trong tâm của các nhà
Đông phương học (nhất là các học giả có
chức phận trong Thiên Chúa giáo) đă chứa đầy
thành kiến. LINH HỒN VŨ
TRỤ (UNIVERSAL SOUL) không
phải là nguyên nhân sáng tạo
bất động tức (
Khi các đạo sĩ Yoga tán dương Brahmă, họ đă bộc lộ sự vô minh này một cách chân thật và tuyệt diệu như sau:
Kẻ
nào không hành pháp môn sùng tín sẽ quan niệm sai lầm
về bản chất của thế giới. Kẻ vô minh
vốn không tri giác được rằng vũ trụ này
có bản chất là minh triết mà chỉ coi nó là một
đối tượng của tri giác – đang đắm
ch́m trong đêm đen tâm linh. Nhưng kẻ nào đă
biết được chân minh triết, kẻ nào có trí óc
thuần khiết, đều thấy rằng toàn thể
thế giới đều nhập một với minh
triết thiêng liêng, với Thượng Đế. Ôi! Tinh
Thần vũ trụ sao mà hứa hẹn thế ! (1)
139
Do đó, chẳng
phải là Vishnu, tức “nguyên nhân sáng tạo bất
động”, đă thi hành các chức năng của một
Đấng Thượng Đế tích cực (an active Providence), song đó chính là Linh Hồn
Vũ Trụ mà trạng thái vật chất được
Éliphas Lévi gọi là Tinh Tú
Quang (Astral Light). Với hai
trạng thái Tinh Thần và Vật Chất, “Linh Hồn” này
chính là Thượng Đế nhân h́nh chân chính của các
kẻ Hữu Thần. Ấy là v́ Thượng Đế
này là Tác Nhân Sáng Tạo Vũ Trụ (Universal Creative Agent) được nhân cách hoá, vừa thanh khiết vừa ô
trược, do t́nh trạng biểu lộ và sự
biến phân trong thế giới hăo huyền này – thật
đúng là Thượng
Đế và Ma Quỷ. Nhưng Giáo sư
Trong Thánh kinh Vishnu Purăna, điều này được tŕnh
bày đơn giản hết mức như sau:
Khi
đă cầu nguyện (stotra) xong chư Thiên chiêm bái
Đấng Chí Tôn Hari [Vishnu] đang cưỡi trên con Kim sí
điểu (Garuda), tay cầm chuỳ (the mace), đĩa
(the discus) và đốc kiếm (the shell). (1)
Giờ đây chúng ta
chứng minh được rằng Kim sí điểu chính
là chu kỳ khai nguyên. Do đó, Vishnu là
Thượng Đế trong
Không gian và Thời gian, Thần
Linh đặc thù của các tín đồ phái Vaishnavas. Trong
Nội môn Bí giáo, chư Thần Linh như thế
được gọi là Thần Linh bộ lạc hay chủng tộc (tribal or racial). Đó là một trong nhiều thần
linh Dhyănis hoặc Elohim, thường được
một quốc gia hay một bộ lạc chọn lựa
v́ một lư do đặc biệt nào đó, và v́ thế
dần dần trở thành “Thần Linh vô thượng” (“God
above all gods”) (2) chẳng hạn như Jehovah, Osiris,
Bel hoặc bất cứ Đấng nào khác trong số
Bảy Tinh Quân (Seven Regents).
“Người ta
chỉ biết được cây nhờ vào quả của
nó”; chúng ta chỉ biết
được bản chất của một Thần Linh
(God) nhờ vào các hành động của Ngài. Hoặc là
chúng ta phải xét các hành động này theo các chuyện
kể theo lối chấp nê văn tự (the dead-letter
narratives), hoặc là chúng ta phải chấp nhận chúng theo
lối ẩn dụ. Nếu so sánh hai Đấng – Vishnu
bảo vệ và ủng hộ chư Thần bị
đại bại; c̣n Jehovah bảo vệ và ủng hộ
dân tộc “được tuyển định” (the “chosen”
people) (phản ngữ –‘anti-phrasis’ – gọi như thế),
chắc chắn như thế, v́ chính dân Do Thái đă chọn vị Thượng Đế “ghen
tuông” (“jealous”) này – chúng ta sẽ thấy rằng cả hai
đều dùng đến thủ đoạn (use deceit and
cunning). Họ làm thế dựa vào nguyên tắc “cứu cánh
biện minh cho phương tiện” (“the end justifying the
means”) ngơ hầu lần lượt thắng
được các đối thủ và kẻ thù, tức là
loài ma quỷ. Trong khi đó, theo các tín đồ Do Thái Bí
giáo, Jehovah biến thành Con Rắn cám dỗ trong vườn
Địa Đàng, giao phó cho Quỷ Vương (Satan)
một sứ mạng đặc biệt là quyến rũ
Job, dùng Sarai (vợ của Abraham) để quấy rầy
Pharaoh, làm cho một con tim khác của Pharaoh “chai cứng lại” (“harden”) với tư tưởng chống
Moses kẻo sẽ không c̣n cơ hội để gây
“thiệt hại nặng nề” (1) cho
các nạn nhân của ḿnh. Trong Thánh kinh Purănas, người ta cho
là Vishnu phải dùng tới một thủ đoạn
thật là không xứng đáng chút nào với bất cứ
vị Thần khả kính nào.
Chư Thần bị
đại bại cầu cứu với Vishnu như sau:
Cầu
xin Đấng Chí Tôn, xin Ngài hăy rủ ḷng thương xót và
bảo vệ chúng con, những kẻ đă đến
để xin Ngài giúp sức chống lại những Daityas
[Ma Quỷ]! Chúng đă chiếm lấy ba cơi và đă
cướp đoạt các đồ cúng tế vốn là
phần của chúng con, song lại rất cẩn thận
không dám vi phạm các huấn điều trong kinh Vedas.
Mặc dù chúng con cũng như bọn chúng đều là các
phân thân của Ngài ([103])…và
cả hai đều dấn thân vào những con
đường qui định trong Thánh kinh … nhưng chúng
con không thể tiêu diệt được chúng. Với minh
triết vô lượng (ameyătman), liệu Ngài có thể
dạy cho chúng con một phương kế nào đó
để tận diệt bọn cừu địch
của chư Thiên chăng?
140
Khi
Đức Vishnu đại hùng nghe thấy chư Thiên
năn nỉ như vậy, Ngài liền xạ ra một
huyễn h́nh (măyămoha) ban cho chư Thiên rồi phán: “Ảo
thị (măyămoha) này sẽ hoàn toàn mê hoặc được
các Daityas, khiến cho sau khi đă đi lệch ra khỏi
đường lối của kinh Vedas, chúng sẽ đi vào cửa
tử …Cứ đi đi đừng sợ ǵ hết.
Cứ đưa ảo thị này ra đàng trước.
Rồi ra nó sẽ giúp cho các con rất nhiều, hỡi
chư Thiên!”
Sau
đó, Đại hăo huyền (măyămoha) đă giáng thế,
giáp mặt với các Daityas đang dấn thân vào các
cuộc sám hối khổ hạnh, …và tiến tới
gần đúng với dáng vẻ của một digambara
(khất sĩ loă thể –
naked mendicant), đầu cạo trọc (head shaven), …thế
rồi Ngài ôn tồn bảo chúng: “Hỡi các Daityas, v́
cớ làm sao mà các ngươi lại phải sám hối
như thế ?” v.v…([104])
Cuối cùng, các Daityas
bị quyến rũ bởi câu nói sắc sảo của
Măyămoha, cũng như là Eve bị quyến rũ bởi
lời khuyên dụ của Con Rắn. Chúng liền bỏ
kinh Vedas. Tiến sĩ Muir đă dịch tiếp
đoạn sau đây:
Kẻ
đại trá nguỵ (the great Deceiver) tạo ra hăo huyền
rồi dụ dỗ các Daityas khác nhờ vào nhiều
loại dị thuyết. Trong một thời gian rất
ngắn, các Asuras (Daityas) này bị Kẻ Trá nguỵ [đó
là Vishnu] mê hoặc, nên bỏ tất cả toàn bộ
hệ thống dựa vào các lễ nghi của ba bộ kinh
Vedas. Một số phỉ báng kinh Vedas, một số
phỉ báng tế lễ thần, c̣n một số khác
lại phỉ báng giai cấp Bà La Môn. (Họ kêu lên
rằng) đó là một giáo lư thật là hết ư kiến
(not bear discussion): việc giết hại (súc vật
để tế thần) không thể giúp ta tu nhân tích
đức. Thật là một lời ấu trĩ khi nói
rằng việc cúng bơ đốt lửa sẽ tạo
ra bất cứ một phần thưởng nào trong
tương lai …Nếu đúng thực là một con thú bị
giết để tế thần sẽ được
thăng thiên, th́ tại sao tín đồ nào giết cha
của ḿnh lại không được như vậy?
…Hỡi các Đại A-tu-la (Asuras) chân lư đâu có tự
nhiên ở trên trời rơi xuống; đó chẳng qua
chỉ là những lời khẳng định dựa vào
lối lư luận được chấp nhận bởi
tôi và những kẻ khác cũng [thông minh] như quư Ngài !
Thế là kẻ Đại Trá nguỵ [Lư Trí] đă lung
lạc được các Daityas bằng nhiều
phương pháp khác nhau. Khi các Daityas đă đi vào con
đường lầm lạc, chư Thiên tập trung
hết năng lượng của ḿnh và chuẩn bị
chiến đấu; thế rồi một trận
chiến đă diễn ra giữa chư Thiên (Gods) và các
Asuras; sau khi không c̣n theo chánh đạo nữa, các Asuras đă
bị chư Thiên đánh bại. Trước kia, chúng
đă được chiếc áo giáp chính trực che
chở; nhưng chiếc áo giáp này đă mất đi, chúng
làm sao sống nổi. (1)
Dù cho người
Ấn Độ có nghĩ làm sao đi chăng nữa,
chẳng kẻ thù nào có thể xem họ như là những
người điên. Một dân tộc vốn có các Thánh nhân
đă lưu lại cho thế gian các triết thuyết
vĩ đại nhất (chúng luôn luôn do con người
nghĩ ra) ắt phải biết phân biệt chuyện
phải trái. Ngay cả đến một kẻ dă man
cũng c̣n biết phân biệt trắng đen, phải
quấy, gian dối và thành thật. Trong trường
hợp này, những kẻ đă tường thuật
biến cố này trong tiểu sử của vị Thần
Linh của ḿnh, phải thấy rằng chính Thần Linh này
mới là kẻ Trá nguỵ tinh quái (the Arch-Deceiver), c̣n các
Daityas (vốn chẳng bao giờ vi phạm các huấn
điều của bộ kinh Vedas), mới có phương
diện tích cực trong vấn đề này và là chư
Thiên chân chính. Do đó, nhất định phải có
một ư niệm bí nhiệm ẩn tàng trong ẩn dụ
này. Có lẽ là ngoại trừ các giai cấp giáo sĩ
Thần học và các tín đồ Chúa Jesus hiện
đại, chẳng có giai cấp xă hội nào, chẳng có
quốc gia nào mà lại coi dối trá và thủ đoạn
như là đức tính thiêng
liêng.
141
Giống như
các tác phẩm cùng loại khác, sau này kinh Vishnu Purăna ([105])
cũng bị lọt vào tay các
tín đồ Bà La Môn ở Thánh điện (the
Temple-Brăhmans), và chắc chắn là các Bản thảo cổ
đă bị các giáo phái nguỵ tạo thêm vào. Nhưng các
Thánh kinh Purănas đă từng là các tác phẩm nội
môn, chúng vẫn c̣n là như vậy đối với các Cao
đồ có được ch́a khoá để giải chúng.
Đối với tác
giả, dù rằng các đạo đồ Bà La Môn có tŕnh
bày trọn vẹn tín ngưỡng của các ẩn dụ
hay không th́ cũng không liên quan ǵ. Hiện nay, mục tiêu
chính là việc chứng tỏ rằng trong khi tôn vinh các quyền năng sáng tạo với thiên h́nh vạn trạng,
chẳng triết gia nào (có lẽ ngoại trừ một
vài triết gia thuộc về các giống dân Thiên Chúa giáo
“ưu việt và văn minh” hiện nay) có thể chấp
nhận được Tinh Thần chân chính của ẩn
dụ này. Ấy là v́, như chúng ta đă tŕnh bày trong lănh
vực đạo đức, Jehovah không có cao siêu hơn
Vishnu một chút nào. V́ thế các nhà Huyền bí học, và
ngay cả một vài tín đồ Do Thái Bí giáo, cho dù họ
có xem các Thần lực sáng tạo này là các Thực Thể sống
động và hữu thức hay
không chăng nữa – chúng ta không tin rằng họ không
chịu chấp nhận như vậy – th́ họ cũng
chẳng bao giờ lẫn lộn NGUYÊN NHÂN với Kết
Quả (the CAUSE with the Effect) và xem Chơn Linh Trái Đất
như là Thái Cực Thượng Đế (Parabrahman)
tức Ain Soph. Đứng trước mọi biến
cố, họ đều biết rơ được chân
tướng của điều người Hy Lạp
gọi là Hậu thiên khí Bản sơ (Father-Aether),
Jupiter-Titan v.v…. Họ biết rằng Linh Hồn của TINH TÚ QUANG (the
ASTRAL LIGHT) thật thiêng liêng, c̣n Sắc
tướng của nó (its Body) – các sóng Ánh Sáng trên các
cảnh giới thấp – thật là quỷ quái (infernal). Ánh
Sáng này được tŕnh bày tượng trưng như là
“Huyền Thủ” (“Magic Head”) trong Thánh kinh Zohar,
Lưỡng Diện (Double Face) của Lưỡng Kim
Tự Tháp (Double Pyramid). Kim Tự Tháp đen cao ṿi vọi
trên một nền trắng, có một đầu và một Mặt trắng bên trong
tam giác màu đen; Kim Tự Tháp
màu trắng – là phản chiếu của Kim Tự Tháp
đen trong Hắc Thuỷ (dark Water) – ngược lại,
bày ra phần phản
chiếu màu đen của Bạch Diện (white Face).
Đó là Tinh Tú Quang,
tức MẶT TRÁI CỦA
THƯỢNG ĐẾ CHÍNH LÀ MA QUỶ (DEMON EST DEUS INVERSUS).
142
TIẾT 12
THẦN PHỔ HỌC VỀ
CHƯ THẦN LINH SÁNG TẠO
(THE THEOGONY OF THE CREATIVE GODS)
MUỐN quán triệt được
ư niệm ẩn dưới mọi vũ trụ học
cổ truyền, cần phải nghiên cứu và so sánh
đối chiếu tất cả các tôn giáo lớn thời
xưa; v́ chỉ nhờ vào phương pháp này mà ư niệm
gốc mới trở nên đơn giản. Nếu khoa
học chính xác có thể vút lên cao khi truy nguyên hết
mức các tác động của Thiên Nhiên, th́ nó sẽ
gọi ư niệm này là huyền giai các Thần Lực (the
hierarchy of Forces). Các quan niệm triết học nguyên
thuỷ và siêu việt đều như nhau. Nhưng khi các
hệ thống bắt đầu ngày càng phản ánh các
tư chất của các quốc gia, và khi các quốc gia
đă định cư thành các nhóm riêng biệt sau khi phân ly
với nhau, mỗi nhóm lại tiến hoá theo tập
tục của quốc gia hay bộ lạc ḿnh, th́ ư
niệm chính sẽ dần dần bị khuất đi do con
người đă hoang tưởng quá mức. Trong khi
ở một vài xứ, các THẦN LỰC, hay đúng
hơn là các Quyền Năng thông tuệ của Thiên Nhiên
(the intelligent Powers of Nature), đă được thần
thánh hoá đến mức khó ḷng hơn được
nữa, th́ ở một vài xứ khác – chẳng hạn
như Âu Châu và các xứ văn minh hiện nay– chỉ
nội việc nghĩ rằng các Thần Lực như
thế có được trí thông tuệ cũng đủ
bị xem là phi lư phản
khoa học. V́ vậy,
người ta cũng thấy đôi phần khuây khoả
khi thấy các lời phát biểu trong phần Dẫn
nhập của Asgard và các
chư Thần (Asgard and the Gods);
đó là: “Các chuyện kể và Truyền thuyết của
Tổ tiên ở phương Bắc” do W. S. W. Anson xuất
bản; ông cho rằng:
Ở
Trung Á, trên bờ Ấn Hà, ở xứ Kim Tự Tháp, ở
các bán đảo Hy Lạp và Ư, và ngay cả phương
Bắc, nơi mà giống người Kelts, Teutons và Slavs
vẫn lê gót lăng du, mặc dù quan niệm tôn giáo của thiên
hạ có rất nhiều h́nh thức khác nhau, song chúng ta
vẫn c̣n thấy được nguồn gốc chung
của chúng. Chúng ta đă vạch ra mối liên hệ
giữa các câu chuyện về chư Thiên, tư tưởng
thâm thuư ẩn trong đó và tầm quan trọng của chúng,
để cho độc giả có thể thấy rằng
chẳng phải là thế giới huyền hoặc đă
hiện ra trước mắt y, mà chính …Cuộc Sống và
Thiên Nhiên mới tạo thành cơ sở của sự
tồn tại và tác động của chư Thiên.(1)
143
Và mặc dù bất cứ nhà Huyền bí
học hoặc sinh viên Nội môn Bí giáo Đông phương
nào cũng không thể chấp nhận được ư
tưởng kỳ cục là:
“Các quan niệm tôn giáo của các quốc gia cổ nổi
tiếng nhất đều liên hệ với buổi
sơ khai của nền văn minh thuộc các giống dân
Đức (the Germanic races)”, (2)
nhưng y vẫn lấy làm hoan hỉ khi thấy các chân lư
như thế được tŕnh bày như sau: “Các câu
chuyện thần tiên này đâu phải là các chuyện vô
vị được viết ra để mua vui cho kẻ
ăn không ngồi rồi (the amusement of the idle); chúng chính là hiện
thân của tôn giáo thâm thuư của các tổ phụ chúng ta
đó (our forefathers)!” (3)
Đúng quá rồi!
Chẳng những đó là tôn giáo của họ, mà c̣n là
lịch sử của họ nữa. Ấy là v́ một
thần thoại (trong tiếng Hy Lạp là mythos)
có nghĩa là truyền thuyết, được truyền
khẩu từ thế hệ này sang thế hệ kia; ngay
cả trong từ nguyên học hiện đại (the modern
etymology), từ ngữ này cũng tượng trưng cho
một phát biểu huyền
hoặc tŕnh bày một chân lư
quan trọng nào đó; một câu chuyện về một
nhân vật phi thường nào đó có tiểu sử đă
được thêm thắt (do sự sùng bái của các
thế hệ liên tiếp) với vô số các điều
hoang tưởng b́nh dân, nhưng đó không phải toàn là chuyện ngụ ngôn. Cũng như
tổ phụ của ḿnh (các người Ăryans ban sơ),
chúng ta tin tưởng hết ḷng (we belive firmly) vào nhân cách
và trí tuệ của hơn một Thần Lực tạo ra
hiện tượng trong Thiên Nhiên (of more than one
phenomenon-producing Force in Nature).
Theo thời gian, giáo
lư cổ sơ mai một đi, các quốc gia ít nhiều
quên mất Nguyên khí độc nhất vô thượng
của vạn vật và bắt đầu chuyển các
thuộc tính trừu tượng của “nguyên nhân vô
cực” (“causeless cause”) thành ra các hậu quả; đến
lượt chúng lại trở thành nhân của các thứ
khác, đó tức là các Quyền Năng sáng tạo của
Vũ Trụ. Các nước lớn đă hành động
như thế v́ sợ báng bổ THIÊN Ư (IDEA); các
nước nhỏ làm như thế v́ họ không thể
lănh hội được nó, hoặc là v́ họ không có
khả năng quan niệm theo triết lư để duy tŕ
nó được vô nhiễm hoàn toàn. Nhưng ngoại
trừ các người Ăryans cận đại nhất (nay
họ đă trở thành người Âu Châu và tín đồ
Thiên Chúa giáo) tất cả đều biểu lộ sự
tôn thờ này trong các vũ trụ khởi nguyên luận
của ḿnh. Theo Thomas Taylor, (1) dịch giả có trực giác
nhiều nhất của các Áng văn Hy Lạp, chẳng có
quốc gia nào đă từng quan niệm rằng Nguyên khí
Độc nhất vô nhị trực tiếp sáng tạo ra
Vũ Trụ hữu h́nh, v́ không có kẻ minh mẫn nào
lại tin tưởng rằng một kế hoạch gia
kiêm kiến trúc sư có thể dùng chính đôi tay của
ḿnh xây dựng nên toà nhà mà ông đang mơ tưởng.
Dựa vào chứng cớ của Damascius trong tác phẩm: Về các Nguyên Khí Bản Sơ
(On First Principles), họ đă
gọi nó là “U MINH bất khả tri” (the “Unknown DARKNESS”).
Dân Babylon không đá động ǵ đến nguyên khí này.
Trong tác phẩm Về
Sự Tiết Thực (On Abstinence).(1) Porphyry cho rằng: “Thần linh này siêu
việt hết vạn hữu, v́ thế không nên đề
cập tới Ngài, dù là nói ngoài miệng hay chỉ nghĩ
trong ḷng. “Mở đầu tác phẩm Thần phổ học (Theogony), Hesiod cho rằng ”Hồng nguyên khí
(Chaos) của vạn vật sinh ra trước tiên”, (2)
như thế suy ra rằng chúng ta nên cung kính đừng
đề cập tới Nguyên nhân của nó. Trong thi
phẩm của chính ḿnh vốn chẳng có ǵ cao siêu hơn Đêm Thần (Night), Homer đă tŕnh bày rằng Zeus rất
tôn kính Đêm Thần. Theo tất cả các nhà Thần
học cổ truyền và theo các giáo lư của Pythagoras và
Plato, Zeus (tức Đấng Sáng Tạo ra Vũ Trụ) không phải là Thần Linh
tối cao. Điều này
cũng chẳng khác
144
nào Sir Christopher Wren
trong khía cạnh vật chất, con người chính là TRÍ
NGÀI (vốn sáng tạo ra các tuyệt tác nghệ thuật
của ông). Do đó, Homer chẳng những không đề
cập tới Nguyên khí Bản sơ, mà c̣n không đề
cập tới cả hai Nguyên khí ngay sau khi Nguyên khí Bản
sơ, tức Hậu thiên
khí (Aether) và Hồng nguyên khí (Chaos) của Orpheus và Hesiod, cũng như là
Biên chu (Bound) và Vô cực (Infinity) của Pythagoras và Plato.(3)
Đề cập tới Nguyên khí Vô thượng này (this
Highest Principle), Proclus cho rằng nó là “Nhất Nguyên Tối
Sơ, và siêu việt cả Adyta bản sơ (the Unity of
Unities, and beyond the first Adyta)… bất khả diễn đạt
hơn mọi Tịch Nhiên (all Silence), huyền linh hơn
mọi Bản Thể (all Essence) …ẩn trong các chư Thiên
khả niệm (the intelligible Gods)” (1) .
Người ta
phải thêm một chi tiết vào những điều mà
Thomas Taylor đă tŕnh bày vào năm 1797 – tức là: “Dân Do Thái
h́nh như cũng chẳng cao siêu… hơn Đấng Sáng Tạo
trực tiếp ra (the immediate
Artificer) Vũ Trụ” v́ “Moses
đă phủ một lớp u minh lên trên mặt thái uyên (the
deep), và cũng chẳng cần ám chỉ rằng nó tồn
tại là v́ có một nguyên nhân nào đó”.(2)
Trong Thánh kinh của ḿnh, (một tác phẩm nội
môn thuần là biểu tượng), người Do Thái
đă chẳng bao giờ làm hạ giá trị vị
thần ẩn dụ của ḿnh nhiều quá mức như
là tín đồ Thiên Chúa giáo, bằng cách chấp nhận
Jehovah như là Thượng Đế sống động
duy nhất song lại nhân h́nh của ḿnh.
Nguyên khí Bản sơ hay đúng hơn
là Nguyên khí Độc nhất vô nhị được
gọi là “ṿng tṛn Thiên giới” (the “circle of Heaven”),
được tŕnh bày tượng trưng như là h́nh
tượng gồm một Điểm ở trong một
Ṿng tṛn hoặc một Tam giác đều. Điểm này
chính là THƯỢNG
ĐẾ (LOGOS). Do đó,
trong Rig Veda (Brahmă
cũng không đề cập tới trong đó), phần
mở đầu của vũ trụ khởi nguyên
luận chính là Hiranyagarbha (Kim Noăn) và Prajăpati (sau này là Brahmă),
từ Prajăpati xạ ra tất cả mọi Huyền giai
“các Đấng Sáng Tạo”. Đơn Nguyên (the Monad),
tức Huyền Điểm, là nguyên bản và là Đơn
vị từ đó mới có toàn bộ hệ thống
số mục. Điểm này là Nguyên Nhân Bản Sơ,
nhưng ĐẤNG (THAT) đă sinh sản ra nó hay là
biểu lộ nó (tức Thượng Đế) đă
chuyển sang trạng thái tịch lặng. Đến
lượt biểu tượng này, tức Điểm
ở trong ṿng tṛn vẫn
chưa phải là Kiến trúc sư, mà chỉ là Nguyên Nhân
của Kiến trúc sư; Kiến trúc sư này có vị
thế đối với nó cũng giống như là chính
Huyền Điểm đối với Chu vi của Ṿng tṛn
(theo Hermes Trismegistus, không thể xác định
được chu vi này). Trong Philebus, Porphyry cũng chứng tỏ
rằng Đơn Nguyên và Lưỡng Nguyên (the Monad and the
Duad) của Pythagoras cũng chẳng khác nào vô
cực (infinite) và hữu
hạn (finite) của
Plato, hay cái mà Plato gọi là vô biên [boundless] và biên chu [bound].
Chỉ có Biên chu tức Từ Mẫu (Mother) là có thực
chất, c̣n vô biên lại là “nguyên nhân của
mọi nhất nguyên và kích thước của vạn
vật.” Lưỡng
Nguyên, Hỗn nguyên khí (Mũlaprakriti), BỨC MẠNG
CHE PHỦ (the VEIL) [Thái Cực Thượng Đế -
Parabrahman] lại tỏ ra là Mẹ của Thượng
Đế, đồng thời là con gái của Ngài (tức là đối
tượng tri giác của Ngài), Đấng sinh hoá
được sáng tạo ra, nguyên nhân thứ yếu
của nó. Đối với Pythagoras, ĐƠN NGUYÊN
(MONAD) đă Tịch lặng
(Silence) và U ám (Darkness) trở lại, ngay khi mà nó đă
tiến hoá thành Tam Nguyên (Triad), từ đó xạ ra 7 con số c̣n
lại trong 10 con số vốn là cơ sở của Vũ
Trụ Biểu Lộ.
145
Trong vũ trụ khởi nguyên luận
Bắc Âu cũng vậy:
Thoạt
đầu có một Thái Uyên (a great abyss) [Hồng nguyên khí]
không có ngày mà cũng chẳng có đêm; Thái Uyên đó chính là
Ginnungagap, vô thuỷ vô chung. Đấng Từ Phụ (All
Father), Đấng Bản Lai (Uncreated), Vô hiện (Unseen),
ngự trong ḷng Thái Uyên [Không gian] và suy tính, thế là
những điều Ngài suy tính đều biến thành
hiện thực.([106])
Trong vũ trụ
khởi nguyên luận Ấn Độ, sự tiến hoá
của Vũ Trụ được chia thành hai hồi (two
acts), được mệnh danh là Tạo vật Prăkrita và Padma. Trước khi “Quang Minh
Đường” (“Home of Brightness”) xạ ra các tia ấm áp
khơi hoạt Đại Thuỷ của Không gian (the Great
Waters of Space), các Yếu tố của Tạo vật
thứ Nhất (the Elements of the First Creation) đă xuất
hiện rồi và từ đó tạo ra Đại Ymir (the
Giant Ymir) tức Oergelmir (theo sát nghĩa là đất sét sôi sùng sục), tức vật chất nguyên thuỷ
do Hồng nguyên khí biến phân ra. Rồi tới con ḅ cái
Audumla chuyên môn bảo dưỡng vạn vật, ([107]) nó đẻ ra Buri (Kẻ sáng
tạo). Buri phối hợp với Bestla, con gái của các
kẻ “Khổng lồ Đông Giá” (“the Frost-Giants”), tức
các con của Ymir, sinh ra ba người con: Odin, Willi và We hay là “Tinh Thần” (“Spirit”), “Ư Chí” (“Will”)
và “Thánh Linh” (“Holiness”).([108]) Ấy là lúc U Minh vẫn c̣n ngự
trị khắp Không gian, khi các Ases (các Quyền năng
sáng tạo, tức các Thiền Định Đế Quân)
vẫn c̣n chưa tiến hoá và Yggdrasil (cây Vũ
Trụ Sinh Tử Luân Hồi – the tree of the Universe of Time and
of Life) vẫn c̣n chưa mọc và vẫn c̣n chưa có
Walhalla tức các Anh Hùng Sảnh (Hall of Heros). Huyền thoại
Bắc Âu bàn về sự Sáng tạo về Trần Thế
đều mở đầu bằng cách nói về Thời gian và kiếp Nhân sinh. Đối với
họ, tất cả những cái trước đó
đều là “U Minh” (“Darkness”), bên trong có Đấng Toàn Sinh
(All-Father), Cội nguồn của vạn vật. Theo
vị chủ biên của tác phẩm Asgard và chư Thiên,
mặc dù các huyền thoại này đều có bao hàm ư
niệm về ĐẤNG TOÀN
SINH ấy (tức cội
nguồn của vạn vật), song ngoại trừ trong
thi phú, ít khi nào Ngài được đề cập
tới. Theo ông ta, ấy chẳng phải là v́ trước
khi Phúc Âm được rao giảng th́ không tài nào có
được những quan niệm minh bạch về
Vĩnh Cửu, mà bởi v́ nó có một tính cách thực là
thâm thuư, bí hiểm. V́ thế, tất cả các vị
Thần sáng tạo, tức là chư Thần Linh nhân h́nh, đều xuất lộ từ giai
đoạn thứ yếu trong cuộc Tiến Hoá Vũ
Trụ. Zeus sinh ra bên trong và bên
ngoài Kronos (Thời gian). Cũng
vậy, Brahmă do Kăla (thời gian vĩnh cửu) xạ ra;
Kăla là một trong các tôn danh của Vishnu. V́ thế, chúng ta
mới thấy Odin là Tổ Phụ của chư Thần, chư
Tiên cũng như Brahmă là
Tổ phụ của chư
Thiên và chư Thần Quỷ.
Cũng v́ thế mà tất cả mọi Thần Linh sáng
tạo chính yếu đều có tính cách bán thư bán hùng,
từ ĐƠN NGUYÊN thứ nh́ (the second MONAD) của
người Hy Lạp măi xuống tới Sephira Adam Kadmon,
Brahmă tức Prajăpati-Văch trong kinh Vedas, và Đấng bán thư
bán hùng của Plato, đó chẳng qua chỉ là một
lối thuyết minh khác về biểu tượng ấy
của Ấn Độ.
146
Chúng ta có thể
t́m thấy định nghĩa có tính cách siêu h́nh nhất
về Thần phổ học bản sơ (theo tinh thần
của phái Vedănta) trong tác phẩm Giảng lư Chí Tôn Ca của
T. Subba Row. Vị giảng sư ấy đă tŕnh bày về
Thái Cực Thượng Đế, Đấng Bất
Khả Tri và Bất Khả Tư Nghị như sau:
….đó chẳng phải là Ătmă (Linh
Tố)…cũng chẳng phải là bản ngă (ego) hay Phi Ngă
(non-Ego), cũng chẳng phải là thần thức (consciousness)
…nhưng mặc dù bản thân nó không phải là đối
tượng để t́m hiểu, nó vẫn có thể phù
tŕ và tạo ra đủ thứ đối tượng và
đủ thứ sinh linh vốn là đối tượng
để t́m hiểu …[Đó là] bản thể độc
nhất vô nhị, khai sinh ra một trung tâm năng
lượng …[mà ông gọi là Thượng Đế].(1)
Thượng
Đế này chính là Shada
Brahman của người
Ấn Độ, ông ta sẽ không gọi Ngài là Ĩshvara, kẻo từ ngữ này sẽ làm cho
người ta rất dễ lẫn lộn. Đó là Quan Thế Âm (Avalokiteshvara) của các Phật tử, Ngôi Lời (Verbum) của tín đồ Thiên Chúa giáo
với ư nghĩa nội
môn chân chính, chứ không
phải là với ư nghĩa đă bị thần học
xuyên tạc.
Đó
là jnăta bản sơ, tức Chơn Ngă trong Càn Khôn, v́
mọi Chơn Ngă khác chẳng qua chỉ là phản ánh hay
biểu lộ của nó …. Vào lúc Hỗn Nguyên, nó tiềm
tàng trong ḷng Thái Cực Thượng Đế…[Trong chu
kỳ Khai Nguyên] nó trở nên hữu thức và biệt
lập ngă tính (an individuality of its own)…[Đó là một trung
tâm năng lượng, nhưng] có biết bao nhiêu trung tâm
năng lượng như vậy trong ḷng Thái Cực
Thượng Đế (Parabrahman). Không được
giả định rằng [ngay cả] Thượng
Đế chẳng qua cũng chỉ là [Đấng Sáng
Tạo, hay] một trung tâm năng lượng đơn
độc…Chúng th́ nhiều hằng hà sa số…[Đó] là
Chơn Ngă sơ thuỷ (the first Ego) xuất hiện trong
Càn Khôn …và [là] cứu cánh của mọi cuộc tiến hóa.
[Đó là Chơn Ngă trừu tượng]…Đó là biểu
lộ [hay trạng thái sơ thuỷ] của Thái Cực
Thượng Đế …Một khi mà Chơn Ngă bắt
đầu tồn tại như là một thực thể
hữu thức … theo quan điểm của khách thể,
Thái Cực Thượng Đế h́nh như chính là Hỗn
nguyên khí (Mũlaprakriti). Làm ơn nhớ kỹ giùm
điều này một chút…v́ nó là manh mối giúp chúng ta
giải quyết được tất cả nan
đề Tinh Thần (Purusha) và Vật Chất (Prakriti)
đă từng làm biết bao nhiêu tác giả viết về
triết thuyết Vedanta phải lúng túng …Hỗn nguyên khí
(Mũlaprakriti) này có tính cách vật chất đối
với (Thượng Đế) cũng như bất
cứ một vật thể nào có tính cách vật chất
đối với chúng ta. Hỗn nguyên khí đâu có phải
là Thái Cực Thượng Đế cũng chẳng khác
nào tập hợp các thuộc tính của cái cột này
đâu phải là chính cái cột. Thái Cực Thượng
Đế là một thực tại thênh thang tuyệt
đối, c̣n Hỗn nguyên khí bất quá chỉ là một
thứ bức màn che phủ nó thôi. Bản thân Thái Cực
Thượng Đế ra sao th́ không thể nào biết
được. Thoạt nh́n, đó là Thượng
Đế khoác lấy một bức màn, bức màn này do
vật chất vũ trụ lan tràn khắp nơi…Sau khi
xuất hiện một mặt như là Chơn Ngă (the Ego),
một mặt như là Hỗn nguyên khí (Mũlaprakriti), Thái
Cực Thượng Đế (Parabrahman) tác động
như là năng lượng duy nhất thông qua
Thượng Đế (Logos). (1)
147
Thế rồi, bằng
một lối so sánh tuyệt
vời, diễn giả đă vạch rơ cách thức tác
động của một Cái vốn là Chân không (Nothing), song lại bao trùm VẠN HỮU (ALL). Ông so sánh Thượng Đế
với Mặt Trời đang xạ ra ánh sáng và nhiệt,
nhưng năng lượng của nó – ánh sáng và nhiệt –
tồn tại một cách bí ẩn và phân tán trong Không gian
như là ánh sáng và nhiệt hữu
h́nh, c̣n Mặt Trời chỉ
là tác nhân của nó thôi. Đây là Bản thể tam phân sơ
thuỷ. Tứ nguyên được tạo ra do ánh sáng xạ ra từ Thượng Đế.
Về mặt nội
môn, các tín đồ Do Thái Bí giáo nói về điều này
cũng giống in như là các tín đồ phái Veda. Theo
họ, mặc dù là Nguyên nhân bản sơ của Vạn
hữu, AIN SOPH thật là bất khả tư
nghị, bất khả định vị và bất khả
định danh. V́ thế mới có tôn danh Ain Soph, nghĩa
là chân không “bất khả tu nghị, không thể xưng
tán, thăm thẳm khôn ḍ.” Do đó, họ xem nó như là
một ṿng tṛn vô hiện, một h́nh cầu, mà trí con
người dù có cố gắng cách mấy đi nữa
cũng chỉ mới quan niệm được cái ṿm.
Một bậc đă quán triệt được Thánh kinh
Kabalah nhiều nhất đă đề cập tới
một trong các ư nghĩa của nó, xét về mặt số
học và h́nh học nội môn như sau:
Cứ
thử nhắm mắt lại xem và xuất phát từ tri
giác thức của ḿnh, cứ thử phóng thần thức
ra mọi phía cho đến mức cực biên. Bạn
sẽ thấy các tia tri giác như nhau sẽ phóng
đều ra mọi hướng như nhau, khiến cho khi
chúng ta cực lực tri giác, chung qui nó đều hội
tụ lại nơi ṿm của một h́nh cầu. Giới
hạn của h́nh cầu này dứt khoát phải là một
ṿng tṛn lớn, và các tia tư tưởng phóng thẳng ra
theo bất cứ hướng nào đều phải là các
bán kính thẳng hàng của ṿng tṛn này. Như thế, nói theo
ngôn ngữ thế gian, đó phải là quan niệm bao hàm
cực độ về Ain Soph biểu lộ, nó khoác
lấy một h́nh dạng h́nh học (đó là một h́nh
tṛn) với các yếu tố có chu vi cong và đường
kính thẳng hàng chia thành hai bán kính. V́ thế, một
dạng h́nh học là phương tiện để cho trí
người có thể h́nh dung được Ain Soph.” (1)
Ṿng Tṛn Lớn này (mà
Nội môn Bí giáo Đông phương thu gọn lại thành
một Điểm ở trong Ṿng Tṛn Vô Biên) chính là Quan
Thế Âm, Thượng
Đế hay Huyền Âm (Verbum) mà T. Subba Row đă từng đề
cập tới. Nhưng đối với chúng ta, Ṿng Tṛn
hay Thượng Đế biểu lộ này thật là bí
hiểm trừ phi nó biểu
lộ thành Vũ Trụ
(chẳng hạn như ĐẤNG
ĐỘC TÔN) mặc dù các
quan niệm cao siêu nhất của chúng ta vẫn có thể
đạt đến nó một cách dễ dàng. Trong thời
Hỗn Nguyên, Thượng Đế ấy yên nghỉ trong
ḷng Thái Cực Thượng Đế chẳng khác nào “Chơn Ngă tiềm tàng [nơi ta] vào lúc sushupti” (tức là lúc ngủ), chẳng
thể nào biết được Thái Cực Thượng
Đế ngoại trừ dưới dạng Hỗn nguyên
khí (Mũlaprakriti) (Hỗn nguyên khí là một Bức Màn
Vũ Trụ có bản chất là vật chất vũ
trụ lan tràn ra khắp mọi nơi). Do đó,
Thượng Đế ấy chỉ là một cơ quan
trong cuộc Sáng Tạo Vũ Trụ mà Thái Cực
Thượng Đế dùng để xạ ra Năng
Lượng và Minh Triết của ḿnh; Thái Cực Thượng
Đế ấy bí hiểm đối với Thượng
Đế cũng như chính Ngài đối với chúng ta. Hơn nữa, v́ Thượng
Đế cũng bí hiểm đối với chúng ta
như là Thái Cực Thượng Đế đối
với Thượng Đế, nên để cho chúng ta có
thể quan niệm được Thượng Đế,
cả Nội môn Bí giáo Đông phương, lẫn Thánh kinh
Kabalah đều đă rút gọn phần tổng hợp
trừu tượng thành ra các h́nh ảnh cụ thể.
Đó là phản ánh hay là các trạng thái trùng phức
của Thượng Đế này, tức là Quan Thế Âm,
Brahmă, Ormazd, Osiris, Adam Kadmon, muốn gọi sao th́ gọi –
có các trạng thái hay các phân thân trong chu kỳ khai nguyên là các
Thiền Định Đế Quân, Elohim, chư Thiên,
Amshaspend v.v…Theo
148
Subba Row, các nhà siêu h́nh
học giải thích nguồn gốc và mầm mống
của các Thiền Định Đế Quân như là
biểu lộ sơ thuỷ của Thái Cực
Thượng Đế “tam nguyên tối cao mà chúng ta có thể
hiểu được”; đó vốn là Hỗn nguyên khí (Mũlaprakriti) (Bức màn), Thượng Đế,
và năng lượng hữu thức của Thượng
Đế, tức là quyền năng và ánh sáng của nó
(trong Chí Tôn Ca gọi là Daiviprakriti) tức là
“vật chất, thần lực và Chơn Ngă, hay cội
nguồn duy nhất của Bản Ngă (Self), mà mọi
thứ bản ngă khác chẳng qua chỉ là một biểu
lộ hay một phản ánh”. Thế th́, chỉ
dưới Ánh Sáng (của tâm thức – of consciousness), tri
giác hồng trần và trí tuệ này mà Huyền bí học thực tiễn mới có thể phô bày Thượng
Đế dưới các dạng h́nh học. Khi
được nghiên cứu cẩn thận, không những
các dạng h́nh học này phô trương một giải
thích khoa học về sự tồn tại thực sự
nơi ngoại cảnh (1) của “Bảy Biến phân của
Minh Triết Thiêng Liêng” (“Seven Sons of the Divine Sophia”) tức là
Huyền Quang của Thượng Đế (Light of the
Logos), mà nhờ vào các ch́a khoá c̣n chưa được khám
phá ra, chúng c̣n chứng tỏ rằng xét về Nhân loại
– “Bảy Biến Phân” (“Seven Sons”) này và hằng hà sa số
các phân thân (tức các trung tâm năng lượng
được nhân cách hoá) thật là tối cần. Không có
chúng th́ không bao giờ
giải được (thậm chí đề cập
đến được) bí
nhiệm về Hiện Tồn và Nhân Loại.
Vạn hữu
đều được sáng tạo ra nhờ vào Ánh Sáng
này. CỘI NGUỒN (ROOT) của
CHƠN NGĂ (SELF) này cũng là
cội nguồn của phàm ngă, v́ trong thế giới
biểu lộ của chúng ta, Ánh Sáng này chính là Hỗn nguyên
khí, trong khi kinh Vedas gọi là Tiên Thiên Huyền Nữ (Aditi) biến hóa ra. Khi ở Ngôi Ba, nó
trở thành Văch,(1) Con
Gái và Mẹ của Thượng Đế, cũng như
Isis là Con Gái và Mẹ của Osiris, (Horus), cũng như Moot là
Con Gái, Vợ và Mẹ của Ammon trong h́nh tượng
Nguyệt Tinh của Ai Cập. Trong Thánh kinh Kabalah, Sephira cũng giống như Shekinah
và (theo một phép tổng hợp khác) là Vợ, Con Gái và
Mẹ của Thiên Đế Adam Kadmon, thậm chí c̣n
đồng nhất với Ngài, chẳng khác nào Văch
đồng nhất Brahmă và được gọi là
Thượng Đế nữ (the female Logos). Trong kinh Rig Veda, Văch “huyền âm” (“mystic speech”),
nhờ đó Minh Triết thiêng liêng mới được
truyền thụ cho con người, do đó, người
ta mới nói là Văch đă “gia nhập vào hàng ngũ của chư
Thánh Hiền”. Nàng “được chư Thiên sản sinh ra”,
Nàng là Văch Thiêng liêng “Nữ Hoàng của chư Thiên” (“Queen
of gods”); cũng như Sephira được liên kết
với các Sephiroth, cũng vậy, Nàng có liên kết với
các Prajăpatis trong công tác sáng tạo. Hơn nữa, nàng c̣n
được gọi là “Mẹ của kinh Vedas”,
“v́ nhờ có các quyền năng của Nàng [huyền âm – as mystic speech] nên Brahmă mới
thiên khải được bộ kinh này. Cũng nhờ có
quyền năng của Nàng, nên Brahmă mới tạo ra Vũ
Trụ”, tức là nhờ NGÔN TỪ (WORDS) được
Huyền Âm (Speech) và các số mục ([109]) tổng hợp lại.
149
Nhưng khi
người ta cũng đề cập tới Văch với
tư cách là con gái của Daksha, “vị thần
trường sinh bất tử” th́ đúng hơn là
người ta tŕnh bày tính cách hăo huyền của Nàng. Trong
khi có chu kỳ hỗn
nguyên này (pralaya),Nàng tan biến
đi và bị hấp thu vào trong Tia duy nhất nuốt
lấy hết (all-devouring Ray).
Nhưng nơi
tất cả mọi điều nhân cách hoá Quyền
năng ẩn trong Thiên nhiên, dù là thực tượng giới hay
hiện tượng giới,
chúng ta đều thấy có hai khía cạnh riêng biệt
trong Nội môn Bí giáo của cả thế giới Đông
phương lẫn của thế giới Tây phương.
Một là khía cạnh thuần tuư siêu h́nh (trong bài Giảng
lư Chí Tôn Ca, vị giảng sư lỗi lạc
đă nói thế), c̣n khía cạnh kia thật là trần
tục, ấy thế mà nó lại có tính cách thiêng liêng theo quan điểm thực tiễn
của con người và Huyền bí học. Tất cả
đều là biểu tượng và là các điều nhân
cách hoá của Hồng
nguyên khí (Chaos), “Thái Uyên” (“Great
Deep”) tức là Nước Sơ Thuỷ của Không gian
(the Primordial Waters of Space), BỨC
MÀN (VEIL) dày đặc
giữa ĐẤNG BẤT
KHẢ TƯ NGHỊ (the
INCOGNIZABLE) và Thượng Đế Sáng
Tạo. “Khi đă dùng trí liên kết với Văch, Brahmă
[Thượng Đế] sáng tạo ra Nước Sơ
Thuỷ. Trong kinh Katha
Upanishad, người ta c̣n
vạch rơ hơn nữa:
Prajăpati
chính là Vũ Trụ này. Văch là đối cực của Ngài.
Ngài phối hợp với Nàng …nàng tạo ra các tạo
vật này rồi lại nhập vào Prajăpati.
Điều này liên
kết Văch và Sephira với Nữ Thần Quan Âm (Goddess
Kwan-Yin), “Đức Mẹ Từ Bi” (“Merciful Mother”),
DIỆU ÂM của Linh
Hồn (the divine VOICE of
the Soul), ngay cả trong Phật
giáo ngoại môn cũng như là với trạng thái âm
tức Quan Thế Âm
(Kwan-Shai-Yin), Thượng
Đế, Huyền Âm Sáng Tạo (the Verbum of Creation), cũng
như là với Tiếng Nói (Voice) mà chỉ có bậc
Điểm Đạo đồ mới nghe
được (theo Phật giáo Nội môn). Kết quả
là ta có Bath Kol, Filia Vocis, Con gái của Diệu Âm (the Divine
Voice) (của dân Do Thái), đáp ứng lại trong khi
vẫn ẩn ḿnh nơi Thánh Toà Từ Bi (the Mercy Seat)
đàng sau bức Màn của Thánh điện.
Nhân tiện, chúng tôi xin vạch ra
đây một trong nhiều điều nhiếc móc bất
công mà các nhà truyền giáo “ngoan đạo” ở Ấn
Độ đă đổ xối xả lên đầu các
tôn giáo ở xứ này. Trong Shatapatha
Brăhmana, chúng ta thấy có
một ẩn dụ là Brahmă với tư cách là Tổ
Phụ của nhân loại, đă tiến hành công tác sinh
đẻ bằng cách loạn luân với con gái của ḿnh
là Văch, nàng cũng được gọi là Sandhyă, Tranh
Tối Tranh Sáng (Twilight), và Shatarũpă (thiên h́nh vạn
trạng). Thế là thiên hạ tha hồ đả kích
người Bà La Môn, kết tội tôn giáo của họ
thật là vô luân, khả ố. Nhưng người Âu Châu
đă giả vờ quên đi mất rằng Tộc
Trưởng Lot cũng đă từng phạm tội
giống in như vậy khi đường
đường là một đấng tu mi nam tử, c̣n chỉ
có lúc khoác lấy h́nh dạng một con hươu
đực mà Brahmă (hay đúng hơn là Prajăpati) mới
loạn luân với con gái của ḿnh, nàng đă khoác lấy
h́nh dạng một con hươu cái (rohit). Không tin th́ chúng ta
cứ thử đọc chương ba của Sáng Thế Kư. Vả lại, chắc chắn là
ẩn dụ này của Ấn Độ phải có một
ư nghĩa vũ trụ chứ không phải ư nghĩa sinh lư, v́
Văch là một biến hoá của Tiên Thiên Huyền Nữ
(Aditi) và Hỗn nguyên khí (Mũlaprakriti) (Hồng nguyên khí),
c̣n Brahmă là một biến hoá của Nărăyana, tức Tinh
Thần của Thượng Đế nhập vào Thiên
Nhiên, làm cho nó sinh hoa kết quả (fructifying); thế th́
trong quan niệm này không có chút ǵ sùng bái sinh thực khí cả (phallic).
150
Như đă nói ở
trên, Aditi-Văch là Thượng
Đế âm, tức Huyền Âm (Verbum), c̣n Sephira trong kinh Kabalah cũng vậy. Xét
về mặt thực tượng, tất cả các
Thượng Đế nữ tính này đều là các
tương hệ của Ánh Sáng, Âm Thanh và Dĩ Thái.
Điều này cũng chứng tỏ rằng cổ nhân
cũng quán triệt được vật lư học đâu
kém ǵ con người hiện đại; nó cũng chứng
tỏ rằng khoa học này đă được thai nghén
trong các lănh vực Tinh Thần, Siêu linh.
Các
tác giả thời xưa cho rằng Văch có tới bốn
thứ. Đó là Pară, Pashyantĩ, Madhyamă và Vaikharĩ. Không
tin th́ bạn cứ thử mở kinh Rig Veda hay bộ Áo
Nghĩa Thư ra mà xem. Chúng tôi chỉ đề cập
tới Vaikharĩ Văch mà thôi.
Lại nữa, đó
là Âm Thanh, Ngôn Từ đang bao hàm và trở thành ngoại
cảnh đối với một trong các giác quan vật
chất của chúng ta và có thể chịu ảnh
hưởng của các luật tri giác. V́ thế:
Mọi
loại vaikharĩ Văch đều tồn tại
dưới dạng madhyamă ... pashyantĩ và cuối cùng là
dưới dạng pară. Bốn nguyên khí này của
Đại Vũ Trụ tương ứng với bốn
dạng của Văch, v́ thế nên Pranava (1) mới được gọi là Văch. Xét về
mặt ngoại cảnh, toàn thể Vũ Trụ là
vaikharĩ Văch, huyền quang của Thượng Đế
(the light of the Logos) là dạng madhyyamă; bản thân
Thượng Đế (the Logos itself) là dạng
pashyantĩ, c̣n Thái Cực Thượng Đế [là]
trạng thái pară [Thực tượng siêu việt] của
Văch. ([110])
Như thế,
nếu thử lấy mẫu trong ba giáo thuyết khác nhau
nhất (về mặt biểu kiến) trên thế giới
của dân Ấn Độ, Hy Lạp và Chaldea Hebrew, chúng ta
sẽ thấy Văch, Shekinah hay “âm nhạc thần tiên” (“music
of the spheres”) của Pythagoras đều như nhau. Trong
Nội môn Bí giáo, những điều nhân cách hoá và ẩn
dụ này có thể được xét theo bốn phương diện (chính) và ba phương
diện (phụ) tức là bảy
phương diện tất
cả. Dạng pară bao giờ cũng là Ánh Sáng và Âm Thanh
nội tại ẩn tàng, nó tồn tại từ vô
thuỷ trong ḷng ĐẤNG
BẤT KHẢ TƯ NGHỊ (INCOGNIZABLE). Khi được chuyển vào trong
Thiên Ư, tức là Ánh Sáng tiềm tàng, nó được gọi
là pashyantĩ, c̣n khi trở thành Ánh Sáng quang huy (Light expressed), nó chính là madhyamă.
Nay Thánh kinh Kabalah tŕnh bày định nghĩa như sau:
Có ba
loại ánh sáng và loại ánh sáng [thứ tư] xuyên thấu
qua ba loại kia. Đó là: (1) Ánh Sáng ngoại cảnh (the
obiect light), trong sáng và thấu suốt (the reflected light), (2)
ánh sáng phản chiếu và (3) ánh sáng trừu tượng
(the abstract light).
Trong Thánh kinh Kabalah, Mười (Ba với Bảy) Sephiroth được gọi là Linh
Từ, DBRIM (Debarim), các Số Mục (the Numbers) và các Phân
Thân (the Emanations) của Linh Quang (the Heavenly Light), nó là cả
Adam Kadmon lẫn Sephira, Prajăpati-Văch, tức Brahmă. Cũng trong
Thánh kinh trên, Ánh Sáng, Âm Thanh, Số Mục đều là nhân
tố sáng tạo.
151
Trừ phi dùng tới
Quang Điểm (luminous Point), làm sao mà chúng ta hiểu
thấu được Thái Cực Thượng Đế.
Quang Điểm (Thượng Đế) này đâu có
biết Thái Cực
Thượng Đế mà
chỉ biết Hỗn
nguyên khí (Mũlaprakriti) thôi.
Cũng vậy, Adam Kadmon chỉ biết Shekinah thôi, mặc
dù Ngài hiện thể của Ain Soph, theo lối thuyết
minh Nội môn, với tư cách là Adam Kadmon, Ngài là toàn
bộ Số Mười, tức Sephiroth [bản thân
của một Tam Nguyên] tức là ba thuộc tính của ĐẤNG THÁNH LINH bất khả tư nghị nhập
lại làm một (the incognizable
DEITY in one).([111]) “Khi Thiên Đế [tức
Thượng Đế] thoạt tiên khoác lấy h́nh
dạng cái Vương Miện. ([112]) [Kether] và đồng nhất hoá
với Sephira, Ngài khiến cho Bảy Ánh Sáng chói lọi
xạ ra từ nó [Vương Miện – Crown]” rồi
biến thành Mười tất cả. Cũng vậy,
một khi Brahma - Prajăpati đă tách rời, song vẫn
đồng nhất với Văch, Ngài khiến cho Bảy Thánh
Hiền, Bảy vị Bàn Cổ, tức Prajăpati xạ ra
từ Vương Miện này. Trong ngoại môn hiển giáo,
người ta sẽ luôn luôn thấy 10 và 7 Sephira hoặc là
Prajăpati; theo lối tŕnh bày của nội môn bí giáo, chúng ta
có luôn luôn 3 và 7, chúng cũng hợp thành 10 vậy. Chỉ có
khi nào bị phân chia thành ra 3 và 7 trong thế giới
biểu lộ th́ chúng mới tạo thành y, bán thư bán hùng
và tức
là h́nh chữ X đă
biểu lộ và biến phân.
Điều này sẽ giúp cho sinh viên
hiểu được tại sao Pythagoras cho rằng
Thượng Đế là Trung Tâm Hợp Nhất (the Centre
of Unity) và “Nguồn Hài Hoà” (“Source of Harmony”). Chúng ta bảo
rằng Đấng Thánh Linh (Deity) là THƯỢNG ĐẾ (the LOGOS), chứ không phải ĐƠN NGUYÊN (MONAD) đang ch́m trong Cô Tịch (Solitude and
Silence), v́ Pythagoras đă dạy rằng NHẤT NGUYÊN (UNITY) mà bất khả phân ly th́ không phải là số mục (no
number). Cũng v́ thế mà thí
sinh nào muốn được nhận vào trường
của Pythagoras th́ trước nhất là phải đă
từng học qua số học, thiên văn học, h́nh
học và âm nhạc, đó là bốn ngành toán học.([113]) Lại nữa, điều này
cũng giải thích được tại sao các môn
đồ phái Pythagoras lại khẳng định rằng
học thuyết Số Mục (học thuyết chính
yếu của Nội môn Bí giáo) đă được
chư Thiên tiết lộ cho con người; rằng
thế giới đă được Âm Thanh hay Hài Hoà
tạo ra từ Hồng nguyên khí; rằng bảy hành tinh
chưởng quản vận mệnh của thế nhân có
một chuyển động hài hoà. Censorinus nói về
điều này như sau:
Các
quăng tương ứng với các quăng âm nhạc (âm tŕnh)
tạo ra nhiều âm thanh khác nhau, hài hoà đến nỗi
mà chúng tạo ra bản nhạc du dương nhất mà
chúng ta không tài nào nghe thấy được. Ấy chỉ
là v́ âm thanh có âm độ lớn quá nên tai chúng ta không ghi
nhận được.
152
Trong thần phổ
học của Pythagoras, các Huyền giai của chư Thiên
được đánh số và cũng được
diễn tả bằng số. Pythagoras đă từng thụ
huấn Nội môn Bí giáo ở Ấn Độ nên chúng ta
mới thấy các môn đồ của ông cho rằng:
Đơn
Nguyên (Nhất Nguyên biểu lộ) là nguyên lư của vạn
vật. Từ Đơn Nguyên (the Monad) và Lưỡng Nguyên
trung gian (the indeterminate Duad) (Hồng nguyên khí - Chaos) sinh ra Các
Số (Numbers), từ Số sinh ra Điểm (Point), từ
Điểm sinh ra Đường (Lines), từ
Đường sinh ra Mặt (Superficies), từ Mặt sinh
ra Khối (Solids), từ Khối sinh ra Vật Thể
(Bodies). Có bốn Hành (Elements) cấu thành các vật thể,
đó là Hoả, Thuỷ, Phong, Địa; thế giới
được cấu thành bởi tất cả những
ǵ được chuyển hoá [tương hệ] và hoàn
toàn biến đổi. (1)
Nếu không hoàn toàn
giải được bí nhiệm, điều này có
thể phần nào vén được bức màn che phủ
các ẩn dụ kỳ diệu về Văch, Nữ Thần Bà
La Môn huyền bí nhất. Chính Nàng được mệnh
danh là “Con Ḅ Cái mũm
mĩm (the melodious Cow) cung cấp
sữa và Nước” (tức Trái Đất với
mọi quyền năng); cũng chính Nàng đă bảo
dưỡng chúng ta (đó là trái đất xét về
mặt vật chất Hồng Trần). Isis cũng
là Thiên Nhiên huyền bí và cũng là Trái Đất; cặp
sừng ḅ cái khiến cho Nàng đồng nhất với Văch;
sau khi đă được nhận ra dưới dạng
cao siêu nhất là Pară, Văch trở thành Vaikharĩ vào lúc kết
liễu sự sáng tạo vật chất. V́ thế, Nàng là
Thiên Nhiên huyền bí (mặc dù c̣n là vật chất) với
mọi tính chất huyền hoặc.
Lại nữa,
với tư cách là nữ thần Ngôn Từ và Âm Thanh
(goddess of Speech and of Sound) cũng như là một biến hoá
của Tiên Thiên Huyền Nữ (Aditi), Nàng chính là Hồng nguyên khí (Chaos) theo một ư nghĩa nào đó. Dù sao
đi nữa, Nàng cũng là “Mẹ của chư Thiên”; c̣n
thần phổ học biểu
lộ chân chính đă bắt
nguồn từ Brahmă, Ĩshvara hay là Thượng
Đế Văch, cũng như là từ Adam Kadmon và Sephira.
Ngoài ra tất cả đều là U Minh và suy luận
trừu tượng. Cùng với chư Thiền
Định Đế Quân hay chư Thiên, các nhà Tiên tri, các
bậc Giáo chủ cũng như là các Cao đồ, nói chung
đều có cơ sở vững chắc. Cho dù với
tư cách là Tiên Thiên Huyền Nữ hay Minh Triết Thiêng liêng của các tín đồ phái Ngộ
Đạo Hy Lạp, Nàng cũng vẫn là mẹ của
Bảy Con tức là các “Thiên Thần Bản Diện” (the
“Angels of the Face”), mẹ của “Thái Uyên” (“Deep”) tức
“Đấng Cao Xanh” (the “Great Green One”) trong Tử Vong Kinh. Trong Thiền
Định Chân Kinh (the Book of Dzăn) có dạy như sau:
Đại mẫu (the Great Mother)
thai nghén Δ, | , và , thứ
nh́ | , và ¶
,(1) sẵn
sàng sinh chúng ra, đó là các đứa Con dũng cảm
của . Δ || (tức là 4 320 000, tức
153
Vào lúc khởi
đầu mọi
Mỗi
khi nhập vào trong bức màn hăo huyền của ta [bầu khí quyển],(1) các ĐẤNG
ĐẠI HÙNG (the MIGHT
ONES) thi hành các đại sự của ḿnh
xong, để lại các dinh thự đời đời
bền vững như để lưu niệm một
chuyến viễn du.
Thế nên, chúng ta
mới được dạy rằng các đại Kim
Tự Tháp đều được xây dựng với
sự giám sát của các Ngài, “khi Dhruva [bấy giờ là
sao Bắc Cực (Pole-star)] ở vị trí thấp
nhất, c̣n Krittikăs [cḥm sao Rua (Pleiades)] lơ lửng trên
đầu [ở ngay thiên đỉnh] xem xét công việc
của những Kẻ khổng lồ”. Thế mà, bởi
v́ các Kim Tự Tháp đầu tiên đều
được kiến tạo vào lúc khởi đầu
một Năm Thiên Văn, dưới cung Dhruva (Alpha Polaris)
nên điều này ắt đă phải diễn ra cách nay 31
000 (31 105) năm. Bunsen thật
là chí lư khi thừa nhận rằng Ai Cập đă có
một nguồn gốc xa xưa trên 21 000 năm, nhưng
sự nhượng bộ này cũng khó ḷng mà tŕnh bày
hết được sự thật về vấn
đề này. Gerald Massey cho rằng:
Dưới
mắt những kẻ đă thoát khỏi sự kềm
kẹp của Thánh kinh, những câu chuyện do các giáo
sĩ Ai Cập và những người khác thuật lại
về việc đo lường thời gian ở Ai
Cập nay đă bắt đầu bị dị nghị. Mới
đây, người ta đă t́m thấy ở
Các
tu sĩ cho kẻ chất vấn người Hy Lạp
biết rằng họ đă tính thời gian chừng nào mà
mặt trời đă mọc hai lần ở nơi nó
lặn và lặn hai lần ở nơi nó mọc.
Người ta chỉ có thể nhận ra được
điều này như là một sự kiện trong thiên nhiên
nhờ vào hai chu kỳ Tuế sai (Precession), tức là
một thời kỳ 51 736
năm.(1)
154
Mor Isaac (2)
chứng tỏ rằng người cổ
Trong những
người Ai Cập, Champollion tỏ ra cũng tin
tưởng như vậy. Đề cập đến
Cha-Mẹ và Con có Tinh Thần (xét chung đó chính là QUYẾT LỆNH CỦA THƯỢNG
ĐẾ - the DIVINE FIAT) uốn nắn Vũ Trụ, Hermes cho
rằng: “Bảy Tác nhân [phương tiện] cũng
được tạo ra, lần lượt bao hàm các
Thế giới vật chất [hay biểu lộ] bên trong
Biên chu của ḿnh, tác động của những Tác nhân này
được gọi là Vận Mệnh”. Ông ta c̣n liệt
kê thêm bảy, mười và mười hai đẳng
cấp nữa, nhưng đem chúng vào đây th́ quá
rườm rà.
Bởi v́ toàn bộ Rig Vidhăna cùng với Brahmănda Purăna và mọi tác
phẩm như thế - cho dù là mô tả hiệu quả ma
quái của các Thần chú
(Mantras) trong Rig Veda hay các thiên
kiếp vị lai – đều bị Giáo sư Weber và
những người khác cho là “các tác phẩm biên soạn hiện đại” có lẽ chỉ thuộc về
thời kỳ kinh Purănas, cho nên độc giả cũng
chẳng cần phải tham khảo các lời giải thích
huyền bí trong đó. Thế là người ta chỉ c̣n có
cách trích dẫn các tác phẩm tối cổ mà các nhà Đông
phương học chẳng biết ǵ cả. Các tác
phẩm này đă giải thích cặn kẽ các điều
đă từng làm cho các học giả bối rối
(puzzles). Chẳng hạn như trong kinh Shaptapatha Brăhmana, Saptarishis (Bảy Thánh Hiền) tức là “Các Con
sinh ra từ Trí” (“Mind-born Sons”) của Brahmă đă
được đề cập tới với một
loạt các tôn danh; trong Mahabhărata,
lại có một loạt khác,
c̣n Văyu Purăna lại tŕnh bày tới chín thay
v́ bảy Thánh Hiền bằng cách thêm vào danh sách
này các tôn danh Bbrigu và Daksha. Nhưng trong bất cứ Thánh
kinh ngoại môn nào mà chẳng vậy. Giáo lư Bí nhiệm bày
rất tỉ mỉ phả hệ (genealogy) của các Thánh
Hiền, nhưng lại chia các Ngài thành nhiều hạng.
Nếu chư Thần Linh của Ai Cập mà cũng
được chia ra làm bảy, thậm chí mười hai
đẳng cấp, th́ chư Thánh Hiền của Ấn
Độ cũng có những Đẳng cấp của
họ. Ba nhóm đầu tiên là nhóm Thiêng Liêng, Vũ Trụ
và Hạ Nguyệt Tinh (the Divine, the Cosmical and the Sublunary).
Rồi tới các Nhật Thần của Thái Dương
Hệ chúng ta, chư Thần hành tinh, chư Thần
hạ thế và
155
Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chỉ quan tâm
tới chư Thần Linh Tiền vũ trụ, đó là các
Prajăpatis tức “Bảy Đấng Kiến Tạo” (the
“Seven Builders”). Chẳng vũ trụ khởi nguyên luận
nào mà lại không có mặt nhóm này. V́ tất cả các tài
liệu cổ Ai Cập đă thất truyền và theo ông
Maspero, v́ các tư liệu và các dữ kiện lịch
sử hiện có để nghiên cứu lịch sử
tiến triển của tôn giáo Ai Cập, vừa không được
hoàn chỉnh, vừa rất tối nghĩa, nên chúng ta
phải cầu cứu tới các Thánh Ca và các Thánh Kư cổ
truyền ghi trên các lăng tẩm để có
được phần nào các phát biểu của Giáo lư Bí
nhiệm vốn đă từng được bổ chính
một cách gián tiếp. Một trong những thứ trên
đă chứng tỏ rằng cũng như Brahmă-Prajăpati,
Adam Kadmon, Ormazd và biết bao nhiêu là Thượng Đế
khác, Osiris đứng đầu và tổng hợp các
“Đấng Sáng Tạo” (“Creators”) tức Đấng
Kiến Tạo (Builders). Trước khi Osiris trở thành
thần linh tối cao “Duy Nhất” của Ai Cập, Ngài
đă được tôn thờ ở Abydos với tư
cách là Lănh tụ của Tập Đoàn Thiên Giới gồm
các Đấng Kiến Tạo thuộc về đẳng
cấp cao siêu trong số ba đẳng cấp. Trên tấm
bia dựng tại một ngôi mộ ở Albydos (phiếu
đăng kư số ba – 3rd register), chúng ta thấy
có khắc một bài Thánh ca xưng tán Osiris như sau:
Con
xin cúi đầu đảnh lễ Ngài, hỡi Osiris,
thứ nam của Seb; trong số sáu Thần Linh do Nữ
Thần Noo [Nước Bản Sơ – primodial Water] sinh ra,
Ngài thật là cao cả nhất. Ngài là con yêu quí của
từ phụ Ra; đó là Tổ Phụ Tối Sơ (Father
of Fathers) vượt ngoài ṿng giới hạn của
thời gian …Ngay khi các thứ đó đă từ trong Ḷng
Thân Mẫu của Ngài phát ra, thân phụ Ngài bèn thu thập
tất cả các vương miện lại và gắn Uraeus
[con rắn tức naja](1) lên đầu Ngài;
đó là Thần Linh thiên h́nh vạn trạng vô danh vô
định, song lại có rất nhiều danh xưng ở
nơi các thành thị (in town and provinces).
Xuất phát từ
Nước sơ thuỷ, đội trên đầu con uraeus (đó là biểu hiện Rắn
Lửa của Vũ Trụ) bản thân lại là Thần
Linh thứ bảy, ở trên (over) sáu Thần Linh xạ
ra trước tiên từ Phụ-Mẫu. Noo và
Noot, (Bầu Trời), Osiris c̣n biết là
ai bây giờ nếu chẳng phải là Prajăpati chính yếu
(chief Prajăpati), Sephira chính yếu, Amshaspend chính yếu
tức Ormazd ! Vào lúc tôn giáo mới bắt đầu
tiến triển, Ormazd chắc chắn là có địa
vị ngang hàng với Tổng Thiên Thần có tôn danh
thật là bí mật. Vị Tổng Thiên Thần này chính là
Michael, đại diện trên trần thế của
Thượng Đế Do Thái Ẩn Tàng; tóm lại,
đó là “Thánh Dung” (“Face”) của Ngài, người ta nói là nó
cứ hiện ra trước mặt người Do Thái giống
như một “Cột Lửa”(“Pillar of Fire”). Bournouf cho
rằng: “Bảy Amshaspends, vốn chắc chắn là các
Tổng Thiên Thần của chúng ta, cũng được
dùng để nhân cách hoá các Đức Hạnh thiêng liêng”.1 Do
đó, chắc chắn rằng các Tổng Thiên Thần này
là Thất Đại Thánh Hiền (the Saptarishis) của
Ấn Độ, mặc dù hầu như là không thể
xếp hạng mỗi Đấng này theo nguyên kiểu và
Đấng tương đương bên ngoại
đạo, bởi v́, cũng như Osiris, tất cả các
Ngài đều có “biết bao nhiêu là tôn danh nơi các thành
thị”. Tuy nhiên, chúng ta sẽ tŕnh bày một vài
đẳng cấp quan trọng nhất.
156
Thế là có một
điều hiển nhiên không thể chối căi
được. Càng nghiên cứu các Huyền giai và t́m ra
được tông tích của các thiên thần này, chúng ta càng
chứng tỏ được rằng không có một
Thần Linh nhân h́nh nào (quá khứ hay hiện tại mà
chúng ta từng biết đến từ lúc bắt
đầu thời hữu sử) mà lại không thuộc
về giai đoạn biểu lộ Vũ Trụ thứ
ba. Trong mọi tôn giáo, chúng ta đều thấy
Đấng thiêng liêng ẩn tàng chính là nền tảng công
tác sáng tạo. Ngài xạ ra một Tia (Ray), nó biến thành
Vật Chất Vũ Trụ nguyên thuỷ tức biểu
lộ sơ thuỷ. Rồi tới giai đoạn thứ nh́ Bán thư bán hùng, thần học
trừu tượng được nhân cách hoá. Trong giai
đoạn thứ ba, nó biến phân thành ra Bảy Thần
Lực (Seven Forces), mà tất cả mọi tôn giáo cổ
truyền đều gọi là các Quyền Năng sáng
tạo, c̣n tín đồ Thiên Chúa giáo gọi là các
“Đức Hạnh của Thượng Đế” (“Virtues
of God”). Bất chấp những lời giải thích và
thuyết minh trừu tượng siêu h́nh sau này, các Giáo
hội Thiên Chúa La Mă và Hy Lạp cứ việc tôn thờ
các “Đức Hạnh” này được nhân cách hoá thành
Bảy Tổng Thiên Thần với các tôn danh riêng biệt.
Trong Thánh thư Druschim
(Book of Druschim) (2) của bộ Do Thái Pháp Điển có
phân biệt rơ các nhóm này, đó là lời giải thích chính
xác của Thánh kinh Kabalah. Lời giải thích đó như
sau:
Có ba nhóm (đẳng cấp) Sephiroth. Thứ
nhất là “Thuộc tính của Thượng Đế” (“Divine
Attributes”) [trừu tượng]. Thứ nh́ là các Sephiroth
vật chất hay tinh
đẩu [phàm ngă] – một nhóm gồm bảy Đấng, nhóm kia gồm mười Đấng. Thứ ba là các Sephiroth siêu
h́nh, tức là uyển từ (periphrasis)
của Jehovah, Ngài chính là
Sephiroth đầu tiên [Kether, Chomah và Binah]; bảy Sephiroth
c̣n lại là bảy Chơn Linh Bản Lai Diện Mục
(seven Spirits of the Presence) [phàm ngă] [cũng thuộc các hành
tinh].
Nếu muốn có được
ư nghĩa bí truyền, chúng ta phải áp dụng lối phân
chia như vậy vào cuộc tiến hoá nhất
đẳng, nhị đẳng và tam đẳng của
chư Thiên trong mọi Thần phổ học. Chúng ta không
được lầm lẫn các điều nhân cách hoá
thuần tuư siêu h́nh của các thuộc tính trừu tượng của Đấng Thánh Linh với các
phản ánh của chúng, tức là chư Thần Linh tinh
đẩu. Tuy nhiên, phản ánh này thực ra chính là biểu
lộ ngoại cảnh của phần trừu tượng;
các Thực Thể sống
động (living Entities) và các mô h́nh đă
được tạo nên dựa vào Nguyên kiểu thiêng liêng
đó. Vả lại, ba Sephiroth tức các “uyển từ của Jehovah” không
phải là chính Jehovah, với
các tôn danh bổ sung Adonai, Elohim, Sabbaoth và vô số tôn danh
khác, mới là uyển từ của Shaddai tức
Đấng Toàn Năng (the Omnipotent). Thật vậy, tôn danh
đó là uyển từ nói quanh quẩn trong phép tu từ Do
Thái và các nhà Huyền Bí học đă không ngớt tố cáo
nó. Đối với các tín đồ Do Thái Bí giáo, thậm
chí đối với cả các nhà luyện kim đan Thiên
Chúa giáo và các nhà Hoa Hồng Thập Tự, Jehovah là một bức màn che thuận tiện được
cấu thành bởi các tấm ván gập lại và
được chọn dùng như là một thứ vá víu
thay thế tạm. Đối với kẻ đă có bí
quyết th́ danh xưng nào của Sephira cá biệt cũng
thế thôi. Tứ Linh tự, Huư danh, “Tổng thể” Tinh
đẩu, đều được chế ra với
mục đích chẳng có ǵ khác hơn là tŕnh bày ṿng sinh
tử luân hồi (1) một cách biểu tượng
khiến cho kẻ phàm tục phải ngẩn ngơ.
Người ta phải t́m thấy Huư danh, “Vô tự linh
từ” nơi bảy tôn danh của Bảy Phân thân
đầu tiên (the first Seven Emanations), tức là các “Hoá thân
của Lửa” (the “Sons of Fire”) trong các Thánh kinh bí nhiệm
của tất cả mọi cường quốc, và ngay
cả trong Thánh kinh Zohar, kho tài liệu Kabalah của
cường quốc bé nhất Do Thái. Chúng ta thấy linh
từ này (gồm bảy chữ trong mọi ngôn ngữ)
được bao hàm nơi
157
các di tích kiến trúc
của mọi thánh điện trên thế giới từ
các di tích Người khổng lồ một mắt
(Cyclopean) trên đảo Easter (đó là phần của
một lục địa bị chôn vùi dưới đáy
biển cách nay một thời gian gần với 4 000 000
năm hơn là 20 000 năm) măi cho tới các Kim Tự Tháp
Tháp Ai Cập xa xưa nhất.(2)
Sau này; chúng ta sẽ phải nghiên cứu
chủ đề này tỉ mỉ hơn và tŕnh bày các minh
hoạ thực tế để chứng minh các phát
biểu trong văn bản.
Vào lúc này, chỉ
cần một ít thí dụ cũng đủ chứng
tỏ được sự thật của điều
đă được khẳng định ở đầu
tác phẩm này. Đó là: trên khắp thế giới, ngoài
Thiên Chúa giáo ra, không có vũ trụ khởi nguyên luận nào
mà lại gán cho Nguyên Nhân Độc Tôn (the One Highest Cause),
tức Nguyên Khí Đại Đồng Thánh Linh (the UNIVERSAL
Deific Principle) việc sáng tạo ngay ra trần thế, con
người hoặc bất cứ điều ǵ liên quan
đến những thứ này. Phát biểu này có giá trị
đối với Thánh kinh Kabalah của dân Hebrew hay dân
158
Thói
thường thật là bất công! Chẳng thế mà
người ta cứ hay đề quyết rằng Trung
Quốc không hề có vũ trụ khởi nguyên luận
mặc dù nó cũng có nguồn gốc xa xưa không kém ǵ
Ấn Độ. Người ta cứ phàn nàn rằng
Khổng Tử (Confucius) chẳng biết ǵ về vũ
trụ khởi nguyên luận, c̣n các Phật tử đă tán
rộng vũ trụ khởi nguyên luận của ḿnh không
hề đá động tới một Thượng
Đế Nhân H́nh (a Personal God).([115]) Kinh
Dịch (Yi-King), “tinh hoa của
tư tưởng cổ truyền, tác phẩm mà các
hiền triết khả kính nhất đă chung sức
soạn nên”, cũng không hề tŕnh bày một vũ trụ
khởi nguyên luận rơ rệt. Tuy nhiên, nhất
định là phải có một vũ trụ khởi nguyên
luận rất rành mạch. Chỉ v́ Khổng Tử không
chịu thừa nhận là có kiếp sau ([116]) và chỉ v́ các Phật tử Trung Hoa
đă bác bỏ ư niệm Đấng Sáng Tạo Độc Tôn (One Creator) để rồi chấp
nhận Nguyên nhân độc nhất và hằng hà sa số
hậu quả, nên những kẻ tin tưởng vào
một Thượng Đế nhân h́nh mới hiểu
lầm họ. Thái Cực (“great-Extreme”), với tư cách là
khởi nguyên của “dịch”, là vũ trụ khởi
nguyên luận ngắn gọn nhất và có lẽ là gợi ư
nhất đối với những kẻ nào – giống
như các môn đồ của Khổng Tử - yêu mến
đức hạnh một cách hồn nhiên và nỗ lực
hành thiện một cách bất vị kỷ mà chẳng bao
giờ nghĩ đến việc tưởng
thưởng. Đối với Khổng Tử, “Thái
Cực” (the “great Extreme”) sinh “Lưỡng Nghi” (“Two Figures”),
đến lượt Lưỡng Nghi lại sinh “Tứ
Tượng” (“Four Images”); Tứ Tượng lại sinh ra
“Bát Quái” (“Eight Symbols”). Người ta đă phàn nàn là mặc
dù các môn đồ Khổng Tử chỉ thấy nơi
chúng “thiên, địa và nhân thu nhỏ lại,” nhưng chúng
ta lại thấy nơi chúng bất cứ thứ ǵ chúng ta
muốn. Chắc chắn là nhiều biểu tượng,
nhất là các biểu tượng của các tôn giáo mới
đây nhất, đều cũng thế thôi. Tuy nhiên,
những kẻ nào có hiểu biết chút ít về số
học Huyền linh đều thấy rằng các “Con
số” (“Figures”) này chính là biểu tượng (mặc dù là
con số thô thiển) của việc Vũ Trụ tiệm
tiến một cách điều hoà và tồn tại cả
về mặt Thiêng Liêng lẫn Trần Tục. Kẻ nào đă
nghiên cứu sự tiến triển số lượng
trong vũ trụ khởi nguyên luận sơ thuỷ
của Pythagoras – đồng thời với Khổng
Tử - sẽ không thể không thấy rằng ư niệm
đó cũng giống như Tam Nguyên, Tứ Nguyên và Thập
Nguyên (Decad) sinh ra từ ĐƠN NGUYÊN (the ONE). Nhà viết tiểu sử theo Thiên
Chúa giáo đă chế nhạo Khổng Tử là “bàn về
bói toán” (trước và sau khi có đoạn này) rồi tŕnh
bày rằng Khổng Tử đă cho rằng:
Bát
quái giúp chúng ta biết được chuyện cát hung, khiến
cho chúng ta có thể cư xử như là bậc quân tử.
Chẳng có h́nh ảnh để bắt chước nào
vĩ đại hơn Thiên Địa. Chẳng có biến
dịch nào quan trọng hơn bốn mùa [nghĩa là
159
V́ thế, “xin xăm” (“divining straw”), “bói mu rùa” (“tortoise”)
và bói “quẻ dịch” (“symbolic sets of lines”) và vị
đại hiền triết nh́n vào chúng trở thành một
và hai, hai trở thành bốn, bốn trở thành tám, và các
tập hợp “tam và lục” khác, đă bị nhạo báng
chỉ v́ các biểu tượng thông thái của Ngài đă
bị hiểu lầm.
Như thế, tác
giả của quyển sách đă dẫn cùng với các
vị cộng sự chắc chắn sẽ giễu
cợt các ĐOẠN THƠ tiếng Phạn
được tŕnh bày trong tác phẩm này, v́ chúng cũng tŕnh bày ư niệm giống in
như vậy. Chiếc bản
đồ cổ sơ tŕnh bày về vũ trụ khởi
nguyên luận theo kiểu Khổng Tử th́ đầy
dẫy các vạch, các chấm và các ṿng đồng tâm.
Thế mà tất cả các thứ này lại tŕnh bày các quan
niệm triết học trừu tượng nhất
của vũ trụ khởi nguyên luận. Nó có thể
đáp ứng hữu hiệu – trong mọi trường
hợp – với các sự đ̣i hỏi và các mục tiêu
khoa học trong thời đại của chúng ta hơn là
các luận tŕnh về vũ trụ khởi nguyên luận
của St. Augustine và Giáo sĩ Bede, mặc dù các luận tŕnh
này đă được công bố hơn một ngàn năm
sau thời Khổng Tử.
Khổng Tử (là) một
trong các đại hiền triết thời xưa, cũng
tin vào pháp thuật và lại c̣n thi thố pháp thuật
nữa, “nếu chúng ta thừa nhận các phát biểu
của Kiā-yü”, và “trong Kinh Dịch, Ngài đă tán
dương nó lên đến tận mây xanh (to the skies)”
(người ta đă kính cẩn phê b́nh Ngài như thế
đó). Tuy nhiên, ngay cả vào thời đại của
Ngài, năm 600 năm trước T. C., Khổng Tử và
trường phái của Ngài đă dạy rằng trái đất
h́nh cầu, thậm chí c̣n dạy rằng mặt trời là
trung tâm của Thái Dương Hệ. Trong khi đó, vào
lối ba lần 600 năm sau thời triết gia Trung
Quốc này, các vị Giáo Hoàng La Mă vẫn c̣n doạ
dẫm, thậm chí thiêu sống các “kẻ tà đạo” dám
khẳng định như vậy. Người ta đă
chế nhạo Ngài v́ cứ đề cập tới
“Thần Qui” (the “Sacred Tortoise”). Chẳng một
người vô tư nào mà lại không thấy rằng con rùa đâu có khác con chiên bao nhiêu về tính
cách thiêng liêng, v́ cả hai đều là biểu
tượng không hơn không kém. Ḅ đực (Ox), Diều
hâu (Eagle),(1) Sư tử và đôi khi chim Bồ câu
đều là các “con thú linh thiêng” trong Thánh kinh Tây phương.
Người ta thấy ba con thú đầu tiên tụ
tập xung quanh các nhà truyền bá Phúc Âm; con thú thứ
tư, kết hợp với một người, chính là
một Seraph nghĩa là một “con rắn bốc lửa”,
đó có lẽ là Ác Quỷ của tín đồ phái Ngộ
Đạo.
Việc lựa
chọn quả là kỳ cục, các tín đồ Thiên Chúa giáo
thời xưa quả là nghịch lư trong sự lựa
chọn. Chẳng biết tại sao họ lại chọn
những biểu tượng này của phái Ngoại
đạo Ai Cập: con chim Diều hâu chỉ
được đề cập tới có mỗi một
lần trong Tân Ước
khi Đức Jesus bảo
rằng nó là một thứ chuyên môn ăn xác chết,(1) c̣n trong Cựu Ước nó
bị xem là ô trược. Con Sư tử th́ bị đem ra so
sánh với Quỷ
Vương (Satan), bởi v́
cả hai đều gầm gừ chực ăn
tươi nuốt sống con người, c̣n con Ḅ
đực lại bị tống ra khỏi Thánh
điện? Mặt khác, con Rắn thoạt tiên
được coi là tiêu biểu cho Minh Triết, th́ lại
được coi như là biểu tượng của Ma
Quỷ. Bảo pháp bí truyền của Thiên Chúa giáo đă
bị xuyên tạc bại hoại thành ra Thần học
Thiên Chúa giáo, giờ đây chỉ c̣n là một lớp
vỏ xa lạ không c̣n đúng với nguồn gốc
của nó.
Như đă
được vạch rơ, các “Con Thú Linh Thiêng”, các Ngọn
Lửa hay các “Tia Lửa” bên trong “Tứ Linh Diệu” (“Holy
Four”), đều nhằm nói tới các Nguyên kiểu
(Prototypes) của vạn hữu trong Tư Tưởng Thiêng Liêng (the Divine
Thought), trong BẢN NGUYÊN (ROOT), đó là
Khối Toàn Phương (the Perfect Cube) tức là
Nền tảng của Vũ Trụ, xét chung cũng như
là xét riêng. Tất cả đều có một quan hệ bí
nhiệm với các Sắc Tướng Vũ Trụ nguyên
thuỷ (primordial Cosmic Forms) cũng như là việc chúng
bắt đầu thành h́nh, tác động tiến hoá.
Trong các vũ trụ
khởi nguyên luận nội môn xưa nhất của Ấn Độ ngay cả
đến Hoá Công (the Demiurge) cũng đều có sáng
tạo. Chẳng thế mà một trong các kinh Purănas lại cho rằng:
Đấng
Đại Kiến Trúc Sư (the great Architect) của
Thế giới đă phát khởi
chuyển động quay của hành tinh hệ của
chúng ta bằng cách lần lượt bước qua
từng hành tinh một.
Chính tác động
này “đă khiến cho mỗi bầu hành tinh tự quay và
quay xung quanh Mặt Trời”. Sau tác động đó, “chính
Brahmăndika,” tức là Nhật Tinh Quân và Nguyệt Tinh Quân (the
Solar and Lunar Pitris), các Thiền Định Đế Quân
(the Dhyăn Chohans), “đă tiếp quản lần lượt
từng hành tinh một măi cho tới cuối Thiên Kiếp”.
Các Đấng Sáng Tạo chính là chư Thánh Hiền;
người ta tin rằng hầu hết các Đấng này
đều là tác giả của các Thần chú hay các Thánh ca trong
Rig Veda. Khi biến thành các Prajăpati tức các
“Đấng Hiện Tồn” (“The Lord of Being”), các Ngài đôi
khi có bảy vị,
đôi khi có mười vị. Bấy giờ các Ngài lại
biến thành bảy và mười
bốn Đức Bàn Cổ,
được xem như là các đại diện của
bảy và mười bốn chu kỳ Tồn Tại,
tức Ngày của Brahmă. Vào lúc kết liễu giai
đoạn đầu của cuộc Tiến Hoá, các Ngài
lại biến thành bảy Đấng Thánh Hiền tinh
đẩu (Saparishis), như thế th́ mới tương
ứng với bảy Phân
Thân (Aeons). Trong khi đó, các Ngài
lại hoá thân thành ra các bậc Anh hùng (Heroes), các Thánh
Vương (Kings) và các Hiền Triết (Sages) trên trần
thế.
161
Như thế, chúng ta
có thể thấy là Nội môn Bí giáo của Đông
phương đă được tŕnh bày và trỗi lên
nốt của chủ âm; dưới dạng ẩn dụ,
nốt chủ âm này vừa thơ mộng, vừa có ư
nghĩa triết học thâm sâu, lại vừa có tính cách
khoa học, chẳng thế mà mọi quốc gia
đều theo sự chỉ đạo của nó, Chúng ta
phải rút ư niệm gốc từ các tôn giáo ngoại môn ra
trước khi chuyển sang các chân lư nội môn, kẻo các
chân lư ngoại môn sẽ bị bác bỏ. Hơn nữa, trong
mọi quốc giáo, mọi biểu
tượng đều có thể được thuyết
minh theo lối nội môn. Muốn biết nó có
được thuyết minh đúng đắn hay không khi
được chuyển thành các dạng h́nh học, chúng ta
cần xem lại mọi h́nh tượng và biểu
tượng có hoà hợp tuyệt vời với nhau hay
không – cho dù chúng có thể là thiên h́nh vạn trạng. Ấy
là v́ thoạt đầu, tất cả các biểu
tượng này đều giống hệt như nhau.
Chẳng hạn như xét các câu mở đầu trong
nhiều vũ trụ khởi nguyên luận khác nhau; trong
mọi trường hợp đều có một ṿng tṛn, một quả trứng hay
một cái đầu. Trong các hệ thống của Ấn
Độ, Ai Cập, Chaldean, Hebrew, thậm chí cả hệ
thống Bắc Âu, VÔ MINH (DARKNESS) luôn luôn liên kết với biểu
tượng sơ thuỷ này và bao quanh nó. V́ thế mới
có quạ đen, bồ câu đen, nước đen,
thậm chí lửa đen; Agni (Hoả Thần)
được gọi là Kălĩ (Đen) v́ ngọn lửa thứ bảy lại là một ngọn lửa
đen chập chờn. Hai con bồ câu đen từ Ai Cập bay tới, đậu
trên các cây sồi
Muốn giải thích
một cách gần đúng ít ra là ư nghĩa của từ
“quạ”, chúng ta phải dùng tới ngôn ngữ số
lượng dựa vào minh triết trong Thánh kinh Kabalah, cho dù là nay nó bị ẩn khuất và
xuyên tạc. Trong Nguồn
Gốc Kích Thước (the Source of Measures) có tŕnh bày trị số của nó
như sau:
Danh
từ quạ chỉ được dùng có một lần
và được xem như là Biểu tượng học
Eth-h’orve = 678 tức 113 x 6; trong khi chim Bồ câu
được đề cập tới 5 lần. Nó có
trị số là 71 và 71 x 5 = 355. Sáu đường kính hay
con Quạ sẽ chia chu vi của một ṿng tṛn 355 thành ra
12 phần. Mỗi đơn vị của 355 lại
được chia cho 6 thành ra 213-0, tức phần
đầu trong câu thơ thứ nhất của Sáng Thế
Kư. Cũng vậy, nó lại được chia tiếp cho
2, tức là 355 chia cho 12, thành ra 213 x 2, tức là từ
ngữ B’rash, chữ đầu tiên của Sáng Thế Kư,
với tiền tố dùng làm giới từ (preppositional
prefix) có nghĩa (xét về mặt thiên văn) cùng một h́nh
dạng tổng quát cụ thể với h́nh dạng được
ngụ ư ở đây.([117])
162
Bây giờ câu thứ
nhất trong Sáng Thế Kư
sẽ được thuyết
minh là: “Chư Thần, Trời và Đất phát triển
nơi Răsh (B’rash) ([118]) tức Đầu. Như vậy,
một khi mà chúng ta đă xác định được ư
nghĩa giống như vậy của trận Đại
Hồng Thuỷ, th́ ư nghĩa nội môn của Quạ cũng dễ hiểu thôi. Cho dù
ẩn dụ biểu hiện này có thể có biết bao
nhiêu là ư nghĩa khác, nhưng ư nghĩa chính của nó
vẫn là một Chu kỳ mới và cuộc Tuần Hoàn
mới – cuộc Tuần Hoàn thứ Tư của chúng ta.([119]) “Con Quạ” tức Etj-h’orev có cùng trị số như là
“Đầu” và không quay về chiếc Bè (
Đó chính là hố
sâu phân cách các hệ thống của dân Aryan và hệ
thống của dân Semitic, mặc dù cả hai đều có
cùng một nền tảng. Một nhà thuyết minh Thánh kinh
Kabalah đă cho rằng:
Triết
thuyết tôn giáo của dân Hebrew có một ư niệm căn
bản đó là, Thượng Đế bao trùm vạn
vật và con người là h́nh bóng của Ngài: con
người, kể cả đàn bà [chẳng hạn như
bán thư bán hùng] h́nh học (cùng các con số và các kích
thước có thể áp dụng vào thiên văn học)
đều được bao hàm trong các từ ngữ
đàn ông, đàn bà. Chúng ta sẽ loại trừ
được dáng vẻ hỗn độn của một
cách thức như thế bằng cách chứng tỏ
mối liên kết giữa người đàn ông và
người đàn bà với một hệ thống
đặc thù gồm các số mục, kích thước và
h́nh học, bằng các thời kỳ thai nghén, chúng cung
ứng mối liên kết giữa các từ ngữ
được sử dụng và các sự kiện
được tŕnh bày, cũng như là hoàn thiện cách
thức được sử dụng.(1)
Người ta lư
luận rằng nguyên nhân bản sơ thật là bất
khả tư nghị, “biểu tượng của biểu lộ đầu tiên có
thể hiểu được của nó chính là việc quan niệm ra một
ṿng tṛn có đường kính sao cho nó có thể gợi ra
cùng một ư niệm về h́nh học, tục sùng bái sinh
thực khí và thiên văn học”. Điều này rốt
cuộc được áp dụng vào “ư nghĩa của các
cơ quan sinh dục của con người”. V́ thế, toàn
bộ chu kỳ gồm các biến cố từ thời
Adam và các vị Tộc Trưởng măi xuống tới Noah
đều chỉ được áp dụng vào tục thờ
cúng sinh thực khí và thiên văn học, cái này điều
tiết cái kia, chẳng hạn như các chu kỳ của
mặt trăng. Cũng v́ thế, sự khởi nguyên của họ bắt đầu sau
khi họ đă ra khỏi chiếc Bè và trận Đại
Hồng Thuỷ đă chấm dứt, nghĩa là vào lúc có
Giống dân thứ Tư. C̣n đối với
người Ăryan th́ lại khác hẳn.
163
Nội môn Bí giáo Đông
phương chưa bao giờ làm hạ giá Đấng Thánh
Linh Độc Tôn Vô Cực (the One Infinite Deity) bao trùm
vạn vật đến mức gán cho Ngài những
chức năng như vậy. Điều này được
minh chứng qua việc trong Rig Veda không hề có
mặt Brahmă, c̣n Rudra và Vishnu giữ các địa vị
rất tầm thường; chỉ măi sau này, các
Đấng trên mới trở thành các Đại Thần
Linh đầy quyền lực vô cực, vô biên trong các tín
ngưỡng ngoại môn. Nhưng cho dù cả ba Ngài có
thể là “Đấng Sáng Tạo” (“Creators”) đi chăng nữa
th́ các Ngài cũng không phải là các “Đấng Sáng Tạo”
trực tiếp và các Tổ Phụ của nhân loại c̣n
giữ một địa vị thấp hơn nữa và
được gọi là các Prajăpatis, các Pitris, các Nguyệt
Tinh Quân (Lunar Ancestors) v.v…. nhưng không bao giờ
được gọi là “Thần Linh Độc Tôn Vô
Cực Vô Biên”. Nội môn Bí giáo dạy rằng phàm nhơn (physical man) chỉ được tạo ra trong h́nh bóng của Đấng Thánh Linh (in the image of the Deity); tuy nhiên, Đấng Thánh
Linh này chỉ là các “Tiểu
Thần” (the “minor Gods”). Chỉ có CHƠN NGĂ (the HIGHER SELF),
CHƠN NHƠN (EGO) mới thiêng liêng, THÁNH THIỆN (GOD).
164
TIẾT 13
BẢY TẠO VẬT
(THE SEVEN CREATIONS)
CHẲNG
có ngày mà cũng chẳng có đêm, chẳng có trời mà
cũng chẳng có đất, chẳng có bóng tối mà
cũng chẳng có ánh sáng, không có bất cứ thứ ǵ
khác ngoại trừ Đấng Độc Tôn Bất
Khả Tư Nghị, tức Cái Đó (That) tức Brahmă,
Pums (tinh thần) và Pradhăna ([thô sơ] vật chất.
Theo
sát nghĩa: “CÁI ĐÓ (THAT) là Tinh Thần Brahmă Hồng Mông
Nhất Khí” (“Prădhănika Brahmă Spirit”). Thế mà “Tinh Thần
Brahmă Hồng Mông Nhất Khí” lại là Hỗn nguyên khí (Mũlaprakriti)
và Thái Cực Thượng Đế (Parabrahman).(1)
Trong kinh Vishnu Purăna, Parăshara dạy đệ tử là
Đức Di Lặc (Maitreya) như sau:
Hỡi
Muni tuyệt vời, Ta sẽ giảng giải cho con sáu
tạo vật (creations) …tạo vật thứ bảy là các
thực thể Arvăksrotas và chính là tạo vật con
người.(2)
Rồi Ngài đề cập tới hai tạo
vật bổ sung rất bí nhiệm, được các nhà
b́nh giải thuyết minh theo nhiều lối khác nhau.
B́nh luận về các
tác phẩm của Celsus, đối thủ [theo phái Ngộ
Đạo (Gnostic)] của ḿnh – các tác phẩm này đă
bị các Đức Cha thận trọng của Giáo hội
huỷ diệt tất cả - Origen rơ ràng là đă
đối đáp lại các lời phản kháng của
đối thủ ḿnh, đồng thời lại tiết
lộ hệ thống của ḿnh. Nó rơ rệt là gồm có bảy phần. Nhưng thần phổ học
[của Celsus], vốn tŕnh bày về sự khởi nguyên của
các ngôi sao hoặc các hành tinh, của âm thanh và màu sắc, xem
như chẳng khác nào một câu trả lời châm biếm
không hơn không kém. Bạn thấy đấy, “khi muốn
phô trương tŕnh độ học thức của ḿnh”,
Celsus đă đề cập tới một nấc thang sáng
tạo gồm bảy cánh
cổng (seven gates), trên
đỉnh thang có cánh cổng thứ tám luôn luôn khép kín.
Người ta giải thích bí nhiệm về các Mithras
của Ba Tư và “lại c̣n thêm vào các lư do âm nhạc”.
Thế mà ông c̣n ráng thêm vào một lời giải thích
thứ nh́ cũng liên quan tới các nghiên cứu âm nhạc”,(1)
nghĩa là với bảy nốt của âm giai, bảy
Chơn Linh Tinh Đẩu (the seven Spirits of the Stars), v.v….
165
Valentinus đă
viết dài ḍng về quyền năng của Bảy Đấng Cao Cả vốn
được cầu cứu tới để sáng tạo
ra vũ trụ này sau khi Ar(r)hetos tức Đấng Kỵ
Huư (Inneffable), tôn danh của Ngài gồm có bảy chữ,
đă tượng trưng cho thất nguyên sơ
thuỷ (the first hebdomad). Tôn danh Ar(r)hetos biểu thị
bản chất thất phân của Đấng Duy Nhất
tức Thượng Đế. Proclus cho rằng “Nữ
Thần Rhea” (“the Goddess Rhea”) chính là một Đơn Nguyên
(Monad), Lưỡng Nguyên (Duad) và Thất Nguyên (Heptad), bao hàm
tất cả bảy Titanidea”.(2)
Hầu như là trong kinh Purăna
nào cũng có Bảy
Tạo Vật (Seven Creations). Trước tất cả các tạo
vật này đều có cái mà
Đó là: (1) Hành Toàn Linh Trí (Mahat-tattva), Linh Hồn của Vũ Trụ, Vô
Cực Trí tức Thiên Trí; (2) [Cơ bản kích lượng
(Tamătras)], Bhũta tức
Bhũtasarga, tạo vật
ngũ hành, biến phân thứ nhất của Chất
liệu cố kết Vũ Trụ (Universal indiscrete
Substance); (3) Indriya tức
Aindriyaka, sự tiến hoá
hữu cơ. “Ba thứ trên là các tạo vật Vật
Chất (the Prăkrita creations), do
bản chất cố kết phát triển ra, bắt nguồn từ nguyên khí
cố kết”; (4) Mukhya, “tạo vật cơ bản (của
các vật hữu h́nh) là tạo vật gồm các vật vô
tri vô giác;” (1) (5) Tairyagyonya
tức Tiyaksrotas là tạo
vật gồm các con thú; (6) Ũrdhvasrotas
tức tạo vật chư
thần linh (?); (2) (7) Arvăksrotas là tạo vật con người.(3)
Đó là thứ
tự được tŕnh bày trong các kinh điển ngoại môn. Theo nội
môn bí giáo, có bảy tạo
vật chủ yếu và bảy tạo vật thứ
yếu; các tạo vật chủ yếu là các Thần lực tự tiến hoá
(the Forces self-evolving) ra từ THẦN LỰC độc nhất vô nhị (the one causeless FORCE); các tạo vật thứ yếu
tŕnh bày Vũ Trụ biểu lộ xuất phát từ các
Hành (Elements) thiêng liêng đă biến phân rồi.
166
Xét về mặt nội
môn, cũng như về mặt ngoại môn, tất cả
mọi Tạo vật nêu trên đều tượng
trưng cho bảy thời kỳ Tiến Hoá, hoặc là sau
một “Tuổi” (Age”), hoặc là sau một “Ngày” của
Brahmă. Đó là diệu pháp
(par excellence) của Huyền bí
học, tuy nhiên, nó không bao giờ dùng từ ngữ “tạo
vật” thậm chí cũng chẳng dùng từ ngữ
“tiến hoá”, xét về “Tạo Vật” chủ yếu; song lại gọi tất cả các
Thần lực như thế là “các trạng thái của
Thần Lực Bản Sơ”. Trong Thánh kinh, bảy thời
kỳ đă được rút gọn lại thành ra sáu ngày
sáng tạo và ngày thứ bảy ngơi nghỉ, thế
là dân Tây phương diễn giải theo lối chấp nê
văn tự. Theo triết học Ấn Độ, khi
Tạo Hoá đă tạo ra thế giới chư Thiên, Mầm mống (Germs) của tất cả mọi Hành
chưa biến phân, và các giác quan tương lai vẫn c̣n
thô sơ (tóm lại, đó là thế giới thực
tượng), th́ Vũ Trụ vẫn thường tồn
trong ṿng “Một Ngày của Brahmă,” tức thời kỳ là
4 320 000 000 năm. Đó là thời kỳ thứ bảy thụ động, tức “ngày Sabbath”
của triết học Đông phương, tiếp theo sau
sáu thời kỳ tiến hoá chủ động. Trong Shatapatha Brahmăna, Brahmă (trung tính) tức Nguyên nhân tuyệt đối của mọi Nguyên nhân, xạ ra chư Thiên. Khi đă xạ ra chư
Thiên nhờ vào bản chất cố hữu của ḿnh,
công tác liền bị gián đoạn. Trong Quyển thứ
Nhất của Bàn Cổ
Thánh Thư có dạy rằng:
Vào
lúc kết thúc mỗi Đêm (chu kỳ Hỗn Nguyên - Pralaya)
sau khi đă ngủ, Brahmă thức dậy. Chỉ
độc có nhờ vào động năng mà Brahmă cũng
xạ ra được các Chơn Linh [tức thể trí],
vốn có bản chất là hiện tồn song chẳng
hiện tồn. (1)
Trong Sepher Yetzireh tức “Sáng Tạo Thánh Thư” của
Do Thái Bí giáo, tác giả đă rơ rệt lặp lại
những lời dạy bảo của Đức Bàn
Cổ. Trong đó, người ta tŕnh bày là Chất Liệu
Thiêng Liêng (the Divine Sustance) vẫn tồn tại trong ḿnh
từ vô thuỷ vô biên và vô tận cũng như là đă
được Tinh Thần xạ ra.
Đấng Độc Tôn là Tinh
Thần của Thượng Đế sinh động
đời đời vinh danh ! Huyền Thanh (Voice), Tinh
Thần (Spirit) và Huyền Âm (Word); đó chính là Thánh Thần
(the Holy Spirir).([120])
Đó chính là Tam Nguyên
trừu tượng của Do Thái Bí giáo, nó đă bị các
Đức Cha thần nhân đồng h́nh hoá một cách
thật là thiếu nghi thức (unceremoniously anthro-pomorphized).
NHẤT NGUYÊN tam phân này (this triple ONE) xạ
ra toàn thể Vũ Trụ. Thoạt tiên, NHẤT NGUYÊN xạ ra số HAI (TWO),
tức Phong (Air), hành sáng tạo; rồi tới số BA (THREE),
tức Thuỷ (Water) xuất phát từ Phong; Dĩ Thái (Ether) hay Hoả
(Fire) hoàn thành Tứ Linh
Diệu (the mystic Four), Arbo-Al. Trong giáo lư Đông phương,
Hoả là Hành thứ nhất – Dĩ Thái Tổng hợp
toàn thể lại, v́ nó là bao hàm tất cả.
Trong Vishnu Purăna có tŕnh bày toàn thể bảy thời
kỳ và cuộc tiến hoá luỹ tiến của “Tinh
Thần – Linh Hồn” (the “Spirit-Soul”) cũng như là
của bảy H́nh thái Vật Chất tức Nguyên khí. Trong
tác phẩm này, chúng ta không thể liệt kê chúng ra. Muốn
t́m hiểu thêm, độc giả cứ nghiên cứu kinh Purănas nào cũng được.
R. Yehudah bắt đầu viết: “Elohim phán: Hăy có
lấy một bầu trời ở giữa nước”.
Xem ḱa! Vào lúc Đấng Thánh Linh …tạo ra thế giới,
Ngài [các Ngài] đă tạo ra 7 tầng trời ở Trên
(Above). Ngài tạo ra 7 tầng đất ở Dưới
(Below), 7 biển, 7 ngày, 7 sông, 7 tuần, 7 năm, 7 lần (times)
và 7 000 năm sao cho thế giới đă là … (ngàn năm)
thứ 7 … Như thế, đây là bảy tầng
đất. Tất cả các tầng này đều có
người ở, ngoại trừ các tầng ở trên và
các tầng ở dưới. Và …giữa mỗi tầng
đất lại có một tầng trời trải
rộng ra …ở các tầng đất này có các tạo
vật chẳng thứ nào giống thứ nào;…nhưng
nếu bạn phản đối và cho rằng tất
cả trẻ con trên thế giới đều có nguồn
gốc là Adam th́ không phải như thế …Thế th́ các
tầng đất thấp ở đâu ra? Chúng xuất phát
từ hàng dăy tầng đất và từ tầng Trời ở
bên Trên.([121])
Irenaeus cũng làm
chứng cho chúng ta – một cách rất là miễn
cưỡng – là các tín đồ phái Ngộ Đạo
cũng giảng dạy một hệ thống giống
như vậy; song ư nghĩa nội môn chân chính của nó
đă bị che giấu kỹ lưỡng. Tuy nhiên,
việc che giấu này cũng chẳng khác nào trong Vishnu Purăna và các kinh
sách khác. V́ thế, Irenaeus mới viết về các tín
đồ phái Marcus như sau:
Họ
chủ trương rằng trước hết Tứ
Đại (Hoả, Thuỷ, Địa, Phong)
được tạo ra theo h́nh bóng của Tứ Nguyên
bản sơ bên trên và nếu chúng ta thêm vào các tác
động của chúng, nghĩa là nóng, lạnh, khô và
ướt, chúng ta sẽ có một thứ giống hệt
Bát Nguyên (Ogdoad). ([122])
167
Có điều là
việc “giống hệt nhau” này và chính Bát Nguyên chỉ là một bức màn che,
chẳng khác nào trong bảy tạo vật của Vishnu Purăna có thêm hai tạo vật nữa, trong
đó tạo vật thứ tám được gọi là
Anugraha, “có cả tính chất thiện lẫn tính chất
ác,” đó là ư tưởng của phái Số Luận
(Sănkhyan) hơn là của kinh Vishnu Purăna. Ấy là v́
Irenaeus lại cho rằng:
Họ
[các tín đồ phái Ngộ Đạo] cũng có một
tạo vật thứ tám vừa thiện vừa ác, vừa
thiêng liêng vừa con người. Họ quả quyết
rằng con người được tạo ra vào ngày
thứ tám. Đôi khi họ lại khẳng định là y
được tạo ra vào ngày thứ sáu, và có khi họ
lại cho rằng đó là ngày thứ tám. Biết đâu
họ chẳng muốn nói rằng phần thế tục
của y được tạo ra vào ngày thứ sáu và
phần xác thịt [?] được tạo ra vào ngày
thứ tám; dường như họ lại phân biệt hai
phần đó. ([123])
Chúng cũng rất
“khác nhau” (“distinguished”), nhưng không phải như Irenaeus
tŕnh bày. Các tín đồ phái Ngộ Đạo có một Thất Nguyên (Hebdomad) thượng đẳng và một
Thất Nguyên hạ đẳng ở trên Trời cùng
với một Thất Nguyên thứ ba thế tục ở
trên cảnh giới vật chất. Theo biểu đồ
của Origen, Iaơ tức Thần Bí Nhiệm (the Mystery
God) Chưởng quản Mặt Trăng là vị
đứng đầu của “Bảy Tầng Trời” (“Seven Heavens”) ([124]) thượng đẳng này; do
đó, Ngài đồng nhất với vị đứng
đầu của các Nguyệt Tinh Quân (the Lunar Pitris), danh
xưng này được họ dành cho các Thiền
Định Đế Quân Nguyệt Tinh (the Lunar Dhyăn Chohans).
Irenaeus cũng cho rằng: “Họ khẳng định rằng
bảy tầng trời này đều thông tuệ và xem chúng như là các thiên thần”. Ông c̣n nói thêm rằng v́ thế, chúng
được gọi là Iaơ Hebdomas, trong khi theo ông, thân
mẫu ông được gọi là Ogdoas, v́ bà đă duy tŕ
được “con số của Bát Nguyên bản sơ của Pleroma”([125]).
Bát Nguyên bản sơ
là (a) Thượng
Đế Ngôi Hai (the Second Logos), Biểu Lộ trong Thần phổ
học, v́ nó phát xuất từ Thượng Đế Ngôi Một (the First
Logos) thất phân, v́ thế, nó
đứng hàng thứ 8 trên cảnh giới biểu lộ
này; (b) Trong tục thờ cúng Tinh Tú, nó là Mặt Trời, Mărtanda, Đứa Con thứ tám
của Tiên Thiên Huyền Nữ (Aditi); bà đă từ bỏ
đứa con này trong khi vẫn bảo tồn Bảy Con,
tức các hành tinh. Ấy là v́ Cổ nhân đă chẳng
bao giờ xem Mặt Trời như là một hành tinh
(planet), mà lại xem nó như là một Định Tinh trung ương (a central and fixed Star). Vậy th́, đó chính là Thất Nguyên
thứ nh́ xuất phát từ Đấng Thất Cung Agni
(the Seven-rayyed, One, Agni), Mặt Trời chứ không
phải là bảy hành tinh (vốn là các Huynh đệ của
thần thái dương Sũrya) lại càng không phải là
các Con của Ngài. Đối với các tín đồ phái
Ngộ Đạo, chư Thần Linh Tinh Tú này (these Astral
Gods) là các Con Ildabaoth ([126]) (do từ ilda: trẻ con, và baoth: quả trứng), con trai của Sophia
Achamơth, con gái của Sophia (Minh Triết), nàng có địa
hạt là Pleroma. Ildabaoth tự lực tạo ra sáu Chơn
Linh tinh đẩu (six stellar Spirit): Jove [Iaơ] (Jehovah), Sabaơth, Adonai (Adoneus), Eloi [Eloaeus], Osraios [Oreus], Astaphaios
[Astaphaeus]; ([127]) các Đấng này chính là Thất
Nguyên thứ nh́, tức Thất Nguyên hạ đẳng.
Về phần Thất Nguyên thứ ba, nó gồm có bảy
con người bản sơ, h́nh bóng của các Nguyệt
Thần, do Thất Nguyên thứ nhất phóng chiếu ra.
Về vấn đề này phái Ngộ Đạo đâu có
khác Nội môn Bí giáo bao nhiêu, có điều là họ che
giấu nó đi. C̣n khi Irenaeus (vốn rơ rệt đâu biết
ǵ về các tín điều chân chính của các “Dị
thuyết”) lên án việc con người được
tạo ra vào ngày thứ
sáu rồi lại
được tạo ra vào ngày thứ tám, th́
điều này lại có liên quan tới các bí nhiệm
của Chơn Nhơn. Độc giả lại chỉ có
thể hiểu được điều này khi đă
đọc xong Quyển 3 và 4, do đó thấu đáo
được Nhân sinh
khởi nguyên luận (Anthropogenesis) của Nội môn Bí giáo.
168
Ildabaoth là hoá thân của Bàn Cổ (a copy of
Manu), Ngài đă huênh hoang (boasts) như sau:
Hỡi
các người con chết đi sống lại ưu tú
nhất! Nên biết rằng Ta [Bàn Cổ] chính là kẻ
tạo ra toàn bộ thế giới này, kẻ mà Virăj (Thượng
Đế) nam …đă tạo ra một cách hồn nhiên ([128]).
Thoạt tiên, Ngài
đă tạo ra mười Đấng Hiện Tồn
tức Prajăpatis, theo câu thơ 36, các Đấng này “đă
tạo ra bảy Bàn Cổ khác”. Ildabaoth cũng huênh hoang
(boasts) tuyên bố: “Ta là Đức Chúa Cha, chẳng c̣n ai cao
hơn Ta”. V́ thế, Thân Mẫu của Ngài lạnh lùng
trấn áp Ngài xuống bằng cách nói: “Này Ildabaoth,
đừng sai lầm, v́ Đấng Cha chung của muôn
loài, con người sơ
thuỷ (Anthropos) hơn hẳn ngươi, và Anthropos
cũng thế, giống như Con của Anthropos”.([129]) Điều này chứng tỏ
một cách hùng hồn rằng có tới ba Thượng
Đế - ngoài Đấng phát xuất từ Nhất
Nguyên – một trong các Đấng này chính là Thái Dương Thượng
Đế (the Solar Logos). Thế th́ bản thân “Đấng
Anthropos” (vốn cao cả hơn Ildabaoth biết bao) là ai
vậy? Chỉ có các văn kiện lưu trữ của
phái Ngộ Đạo mới giải được
vấn đề bí hiểm này. Trong Pistis-Sophia, danh xưng
gồm có bốn nguyên âm IEOU thường có kèm theo tôn danh
“Con Người Bản Sơ”. Điều này lại
chứng tỏ rằng Minh Triết chẳng qua chỉ là
một tiếng vang của Giáo lư Cổ sơ của chúng
ta. Các danh xưng tương ứng với Thái Cực
Thượng Đế (Parabrahman), Brahmă và Bàn Cổ, Con
người biết suy
tư đầu tiên,
được hợp thành bởi một, ba và bảy
nguyên âm. Marcus (triết thuyết của ông chắc chắn
là c̣n gần gũi với Pythagoras hơn là bất cứ triết
thuyết nào khác) có đề cập tới một thiên
khải về bảy tầng trời, mỗi tầng
trời trỗi lên một nguyên âm, khi chúng phát ra bảy danh
xưng của bảy Huyền giai (Thiên Thần).
Khi Tinh Thần đă
thấm nhuần mọi cực vi tử của bảy
Nguyên Khí Vũ Trụ, bấy giờ, sau khi chấm dứt
thời kỳ nghỉ ngơi nêu trên, Tạo Vật Thứ Yếu (the Secondary
Creation) bắt đầu.
169
Trong Nuchthemeron của dân Hebrews, giáo sĩ Do Thái Simeon cho rằng “Các
Đấng Sáng Tạo [Elohim] đă phác hoạ xong h́nh dáng
của con người vào ‘Giờ’ thứ hai (the second ‘Hour’)”. Bộ luật Mishna cho rằng: “Một ngày có 12 giờ và
sự sáng tạo đă được hoàn thành trong ṿng 12
giờ này”. “Mười hai giờ trong một ngày” cũng
lại là bản sao thu nhỏ, tiếng vang yếu ớt
song vẫn trung thực của Minh Triết sơ thuỷ.
Chúng cũng giống như là 12 000 Năm Thiêng Liêng của
chư Thiên, một bức màn che tuần hoàn. Mỗi “Ngày
của Brahmă” đều có 14 vị Bàn Cổ; các tín
đồ Do Thái Bí giáo Hebrew (tiếp theo là dân
Tạo Vật Chủ Yếu được gọi là Tạo Vật Quang Minh (the Creation
of Light) (Tinh Thần); c̣n
Tạo Vật Thứ
Yếu được gọi
là Tạo Vật U Minh (Vật Chất). ([130]) Trong Sáng
Thế Kư([131]) đều có mặt cả hai Tạo
Vật này. Tạo vật thứ nhất là phân thân của
chư Thần Linh tự sinh tự tại [Elohim]; tạo
vật thứ nh́ là phân thân của Thiên Nhiên vật
chất.
Chẳng thế mà trong Thánh kinh Zohar lại dạy rằng:
Hỡi
các đạo hữu, với tư cách là một phân thân, con
người vừa là đàn ông, vừa là đàn bà, ở
bên phía Cha cũng như là ở bên phía của Mẹ. Đó
chính là ư nghĩa của các lời phát biểu: Elohim phán:
“Hăy có lấy Ánh Sáng thế là có Ánh Sáng!”…Đó chính là “Con
Người lưỡng phân.”
Tuy nhiên, Ánh Sáng trên cảnh giới của chúng
ta lại là U Minh trên các cơi giới cao.
“Đàn ông và đàn
bà…bên phía của CHA” (Tinh Thần) nhằm đề cập
tới Tạo Vật Chủ Yếu; c̣n bên phía của Mẹ (Vật Chất) nhằm nói tới
Tạo Vật Thứ Yếu. Con Người lưỡng
phân chính là Adam Kadmon, nguyên kiểu trừu tượng
thư hùng và là Elohim đă biến
phân (the differentiated Elohim). Con Người có nguồn gốc là một Thiền
Định Đế Quân; nó chính là “Thiên Thần Sa
Đoạ” (“Fallen Angel”), một vị Thần bị
lưu đày (điều này sẽ được
chứng minh sau).
Ở Ấn Độ, các Tạo Vật này được
mô tả như sau : (1)
(1) Tạo Vật thứ Nhất: Tạo Vật Hành Toàn Linh Trí
(Mahat-tattva Creation). Nó được gọi như vậy,
bởi v́ nó là cuộc tiến hoá nguyên thuỷ của cái
ắt phải trở thành Toàn
Linh Trí (Mahat). “Thiên Trí hữu
thức và thông tuệ”; xét về mặt nội môn đó là
“Tinh Thần của Linh Hồn Vũ Trụ”.
Đáng giá nhất
trong những nhà tu khổ hạnh, nhờ vào mănh lực
của nó – nghĩa là nhờ vào mănh lực nguyên nhân đó – mọi tạo vật đều
xuất hiện theo bản chất riêng của ḿnh (trang 66,
chú thích cuối trang).
Lại nữa:
Xét
v́ người ta chỉ có thể hiểu được
các mănh lực của vạn vật nhờ thấu
hiểu được Cái Đó (Brahmă), vốn tự sinh,
tự tại và bất khả tư nghị, nên các mănh
lực như thế đều có thể quy cho Brahmă”.
170
Thế th́ CÁI ĐÓ (THAT) đă tồn tại trước khi
có sự Sáng Tạo. Linga
Purăna cho rằng “trước
tiên là Toàn Linh Trí (Mahat)”; bởi v́ Đấng ĐỘC TÔN (ONE) (CÁI ĐÓ) chẳng trước tiên,
chẳng sau rốt, mà TẤT
CẢ. Tuy nhiên, xét về
mặt nội môn, sự biểu lộ này là công tác (the work) của “Đấng Tối Cao” –
một hiệu quả tự nhiên hơn là Nguyên nhân Vĩnh
cửu. Theo nhà b́nh giải, chúng ta cũng có thể hiểu
rằng người ta muốn nói là Brahmă bấy giờ
được tạo ra (?), đồng nhất với Toàn Linh
Trí, trí tuệ tích cực, tức ư chí tác động
đến Đấng Chí Tôn. Nội môn Bí giáo gọi nó là
“LUẬT tác động” (Operating LAW).
Chúng tôi tin rằng,
nguồn gốc mối bất đồng giữa ba giáo
phái của triết thuyết Vedanta: Nhất nguyên luận
(Advaita), Nhị nguyên luận (Dvaita) và Vishishtădvaita là do
ở nơi người ta có lĩnh hội đúng
đắn được hay không tín điều này trong Brăhmanas và Purănas. Phái Nhất nguyên luận đă
luận chứng rất đúng là không giống như
TỔNG THỂ Tuyệt Đối (the absolute ALL), Thái
Cực Thượng Đế không liên hệ với
Thế giới biểu lộ, Vô hạn chẳng có dính dáng
ǵ tới Hữu hạn, cũng chẳng thể muốn cũng chẳng thể sáng tạo. Ngoài ra, phái này c̣n cho rằng
đứng trước Brahmă, Toàn Linh Trí, Huyền Thiên
Thượng Đế (Ĩshvara), chúng ta muốn gọi
Quyền Năng Sáng Tạo (the Creative Power) là ǵ cũng
được, các vị Thần Sáng Tạo và vạn
hữu (Creative Gods and all) chỉ là một trạng thái hăo
huyền của Thái Cực Thượng Đế
(Parabraman) trong quan niệm của con người. Trong khi
đó, các giáo phái kia đồng nhất hoá Nguyên nhân vô ngă
với Đấng Sáng Tạo tức Ĩshvara.
Tuy nhiên, đối
với những kẻ tôn thờ Vishnu (Vaishnavas), Toàn Linh Trí tức Đại Bồ Đề (Maha-Buddhi)
chính là Thiên Trí đang tác
động tích cực,
hoặc theo lối diễn đạt của Anaxagoras,
đó là “một Trí Tuệ định đoạt an bài,
vốn là nguyên nhân của vạn hữu”.
Tuy nhiên, qua mọi giáo thuyết ngoại môn, chúng ta đâu thấy ư nghĩa nội môn của giáo lư ẩn tàng trong các kinh điển cổ Bắc Phạn bàn về sự Sáng Tạo nguyên thuỷ.
Linh
Hồn Tối Cao (the Supreme Soul), Chất liệu Thế
gian thấm nhuần vạn hữu (Sarvaga) đă nhập
[bị thu hút] vào trong Vật Chất [Prakriti] và Tinh Thần
[Purusha], khuấy đảo các nguyên khí vô thường và
thường trụ; đă tới lúc Sáng Tạo (Manvantara)
rồi.
Nous của dân Hy Lạp, vốn là Linh Trí,
tức Mens, Toàn Linh Trí, cũng tác động lên
Vật Chất giống hệt như vậy; nó “nhập
vào” và “khuấy đảo” nó:
Tinh
Thần nuôi dưỡng nó từ bên trong và nhập vào
mọi phần tử, trí khơi hoạt và thấm
nhuần toàn bộ đại cơ thể.
171
Trong vũ trụ
khởi nguyên luận Phoenician cũng vậy, “Tinh Thần
phối hợp với các nguyên khí riêng của ḿnh
để mà sáng tạo”.(1) Tam Nguyên của phái Orpheus cũng
giống hệt như vậy v́ trong đó Phanes tức Eros, Hồng nguyên khí (bao hàm
Vật Chất Vũ Trụ thô sơ chưa biến phân) và
Kronos (Thời gian) là ba nguyên khí hợp tác, xuất phát
từ Điểm Ẩn Tàng Bất Khả Tri để mà
“Sáng Tạo”. Cũng chính Tinh
Thần (Purusha) (Phanes), Hồng Mông Nhất Khí (Pradhăna) (Hồng nguyên khí - Chaos) và Kăla (Kronos)
tức thời gian. Giáo sư lỗi lạc
Nội môn Bí giáo
dạy rằng các Đấng Thiền Định
Đế Quân là tập hợp của Thiên Trí (divine Intelligence)
hay Bản Nguyên Trí (primordial Mind), c̣n các Đấng Bàn Cổ bản
sơ (the first Manus) tức bảy Đấng Thông Tuệ
Tinh Thần “sinh ra từ trí” đều đồng
nhất với chư Thiền Dịnh Đế Quân. V́
thế, Quan Thế Âm (the Kwan-Shi-Yin), “Con Kim Long (Golden Dragon) bao hàm Thất Nguyên” trong ĐOẠN
KINH 3 (STANZA 3), chính là Bản
Nguyên Thượng Đế (the Primordial Logos), tức
Brahmă, Quyền Năng Sáng Tạo biểu lộ bản
sơ, c̣n các Năng Lượng Thiền Định
(Dhyănic Energies) chính là chư Bàn Cổ, tức Bàn Cổ – Svăyambhuva xét chung
(Manu-Svăyambhuva collectively). Vả
lại, quan hệ trực tiếp giữa chư Bàn Cổ
và Toàn Linh Trí cũng dễ thấy. Bàn Cổ (Manu) có từ
nguyên là Man (suy tư), muốn suy tư th́
phải dùng trí. Trong vũ trụ khởi nguyên luận,
đó là Thời kỳ tiền tinh vân.
172
(2) Tạo Vật thứ Nh́, Bhũta, là tạo vật các Nguyên khí
thô sơ (Cơ bản kích lượng – Tanmătras); v́
thế, nó được gọi là Tạo Vật Ngũ
Hành (Bhũtasarga). Đó là thời kỳ luồng khí
vận thứ nhất làm biến phân các Hành tiên thiên (the pre-cosmic
Elements), tức Vật
Chất. Bhũtădi có nghĩa là “nguồn gốc các Hành”
và xuất hiện trước Bhũtasarga, “sự sáng
tạo” tức sự biến phân của các Hành này trong Tiên
thiên khí nguyên thuỷ (primordial Ăkăsha) (Hồng nguyên khí
tức Thái Hư – Chaos or Vacuity).(1)
Trong Vishnu Purăna, người ta cho rằng nó diễn
tiến theo và thuộc về trạng thái tam phân Ahamkăra,
vốn được dịch là Ngă Thức (Egotism),
nhưng đúng ra th́ nó có nghĩa là từ ngữ không
thể dịch được “NGĂ
TÍNH”(“I-AM-NESS”), nó bắt nguồn từ Toàn Linh
Trí tức Thiên Trí; đó là những nét chấm phá của
Ngă Tính, v́ Ahamkăra “thuần tuư” đă biến thành “đam mê”
và rốt cuộc là sơ cấp hay sơ khởi.(2)
Đó là “nguồn gốc của mọi thực thể
hữu thức cũng như vô thức,” mặc dù
trường Nội môn Bí giáo không chịu nh́n nhận là có
bất cứ thứ ǵ “vô thức” (“unconscious”) ngoại
trừ trên cảnh giới hăo huyền và vô minh của chúng
ta. Vào giai đoạn Tạo Vật thứ Nh́ này,
Đại Đoàn Bàn Cổ thứ Nh́ (the Second Hierarchy of
the Manu) xuất hiện, gồm các Thiền Định
Đế Quân tức chư Thiên, vốn là cội nguồn
của Sắc tướng (Rũpa), các Chitrashi -khandinas
(Chư Thánh Hiền Quang Minh) tức Rikshas (cḥm sao Rua); chư
thánh Hiền này đă trở thành các Linh Hồn làm linh
hoạt bảy ngôi sao (của cḥm Đại Hùng Tinh).(1)
Trong ngôn ngữ Thiên văn học và vũ trụ khởi
nguyên luận. Tạo Vật này liên quan tới Thời
kỳ Sương Lửa
(the Fire-Mist Period), giai
đoạn đầu tiên của Cuộc sống Vũ
Trụ, sau khi có t́nh trạng Hỗn Mang (Chaotic state) (2) sau các
Nguyên tử xuất phát từ Trung hoà điểm (Laya).
(3) Tạo Vật thứ Ba: Tạo Vật thứ ba tức
tạo vật Indriya là biến dạng của Ahamkăra,
tức quan niệm về “Cái Tôi” (“I”) (ngữ căn là Aham,
“Ngă” – “I”), nó được gọi là Tạo Vật
hữu cơ (the organic Creation), tức tạo vật các
giác quan, Aindriyaka. “Ba thứ trên đều là các
tạo vật Vật Chất, các phát triển [rời
rạc] của bản chất cố kết (indiscrete
nature) vốn nối tiếp các nguyên khí cố kết
(indiscrete principle)”.(1) Ở đây, chúng ta nên thay thế
từ ngữ “nối tiếp” (“preceded by”) bằng từ
ngữ “khởi sự” (“beginning with”) với Bồ
Đề (Buddhi); v́ Bồ Đề là một đại
lượng chẳng rời rạc mà cũng chẳng
cố kết, song lại tham dự vào bản chất
của cả hai thứ, nơi con người cũng
như là nơi Vũ Trụ. Vốn là một đơn
vị tức CHƠN THẦN con người
(human MONAD)
trên cảnh giới hăo huyền, một khi đă thoát
khỏi ba dạng Ngă Thức và tách rời khỏi Thần
Trí thế tục, Bồ
Đề (Buddhi) thật
sự biến thành một đại lượng liên
tục, xét về cả thời gian lẫn không gian, v́ nó
thật là vĩnh cửu
173
và bất tử.
Ở trên đă có nói rằng Tạo Vật thứ Ba vốn “toàn là thiện căn”
được gọi là Ũrdhvasrotas; thế mà một,
hai trang sau đă thấy người ta bảo rằng
Tạo Vật Ũrdhvasrotas là “tạo vật thứ sáu
…tức tạo vật các thần linh”.(2)
Điều này chứng tỏ rơ rệt rằng
người ta đă cố t́nh tŕnh bày lộn xộn các
Tạo Vật
của các kẻ Bất Tử đầu tiên này (the first
Immortals), tức Devasarga là Tạo Vật cuối của
chuỗi và có một ư nghĩa đại đồng.
Điều này có nghĩa là nó liên quan tới cuộc
tiến hoá nói chung chứ không phải đặc biệt
liên quan tới
(4) Tạo Vật thứ Tư: Tạo Vật Mukhya, tức tạo
vật Bản Sơ, v́ nó đứng đầu chuỗi
gồm bốn Tạo Vật. Cả từ ngữ “vật
vô tri vô giác”(“inanimate”) lẫn từ ngữ “vật bất động”(“immovable
things”) do Wilson dịch
đều không tŕnh bày đúng đắn ư niệm bao hàm
trong các từ ngữ Bắc Phạn được sử
dụng. Không phải chỉ có một ḿnh Nội môn Bí giáo
là bác bỏ ư kiến cho rằng bất cứ nguyên tử
nào cũng đều có tính chất vô cơ, v́ trong Ấn
Độ giáo chính thống cũng có ư tưởng này.
Hơn nữa, chính 174
đă tiến hoá trong
Thế giới này, tương ứng (theo thứ tự
ngược) với ba Tạo Vật Vật Chất trong
Thời kỳ Chủ yếu (the Primary Period) khi Brahmă
hoạt động. Theo Vishnu
Purăna, trong Thời kỳ
đó, “Tạo Vật thứ nhất là Toàn Linh Trí hay Trí
Thông Tuệ …Tạo Vật thứ nh́ là tạo vật các
nguyên khí sơ cấp (Cơ bản kích lượng:
Tanmătras) ...Tạo Vật thứ ba …là tạo vật các giác
quan (Aindriyaka)”. ([135])Cũng vậy, trong thời kỳ này,
thứ tự của các Thần Lực Ngũ Hành như
sau: (1) Các trung tâm Lực trí thức và vật chất
mới sinh ra; (2) Các Nguyên khí sơ cấp, tạm gọi là thần kinh lực; và (3) Tổng
giác (Apperception) mới sinh ra, đó là Toàn Linh Trí (Mahat) của các giới hạ đẳng
và được đặc biệt phát triển trong
đẳng cấp Hành khí thứ ba; tiếp theo là giới
khoáng vật ngoại cảnh, trong đó “tổng quan” này
hoàn toàn tiềm tàng, để rồi chỉ tái phát
triển nơi cây cỏ. Như vậy, tạo vật Mukhya là điểm trung gian giữa ba
giới cao và ba giới thấp, chúng tiêu biểu cho bảy
giới nội môn của Vũ Trụ và của Trái
Đất.
(5) Tạo Vật thứ Năm: trên Địa Cầu, Tạo Vật
Tiryaksrotas([136])
tức tạo vật các “con thú (linh thiêng)” chỉ tương ứng với
tạo vật con thú câm (the dumb animal creation). Cái gọi là
“các con thú” trong Tạo Vật Chủ Yếu (the Primary Creation) chính là mầm mống của ư
thức đang khơi hoạt, tức tổng giác (apperception), chúng ta có thể truy nguyên
được chút ít về nó nơi một vài cây cỏ
nhạy cảm trên Địa Cầu và rơ nét hơn nơi
Đơn nguyên trùng nguyên sinh (protistic Monera).([137]) Trên Địa Cầu của chúng ta,
trong cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất, “tạo vật”
thú vật có trước tạo vật con người,
trong khi mà loài hữu nhũ từ con người tiến
hoá ra trong cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, trên cảnh
giới hồng trần. Trong cuộc Tuần Hoàn thứ
Nhất, các nguyên tử thú vật được thu hút
cố kết lại thành một h́nh dạng người
vật chất; trong khi mà vào cuộc Tuần Hoàn thứ
Tư, tiến tŕnh lại diễn ra ngược lại
theo t́nh trạng tư trường đă được
phát triển trong chu kỳ sinh hoạt. Đó chính là
thuyết “đầu thai chuyển kiếp” (“metempsychosis”).([138]) Chúng ta có thể xét Giai đoạn
Tiến hoá thứ năm (trong giáo lư ngoại môn gọi là
“Tạo Vật” thứ năm) trong cả Thời kỳ Chủ yếu lẫn Thời kỳ Thứ yếu; thời kỳ này được coi
như là có tính cách Tinh Thần và Vũ Trụ, c̣n thời
kỳ kia lại được coi như là có tính cách
vật chất và thế
tục. Đó là cội
nguồn của sự sống; dĩ nhiên, nó chỉ là
“cội nguồn” chừng nào mà ta c̣n xét tới biểu lộ của sự sống trên tất
cả bảy cảnh giới. Chính vào thời kỳ
Tiến Hoá này mà chuyển động hay rung động
của vũ trụ vĩnh
cửu tuyệt đối,
trong ngôn từ Nội môn gọi là ĐẠI LINH KHÍ (GREAT BREATH) biến phân thành ra NGUYÊN TỬ bản sơ (first manifested ATOM). Khi
vật lư học và hoá học phát triển thêm, càng ngày
người ta sẽ càng khám phá ra được những
điều bổ chứng cho công lư Huyền linh này.
Giả thuyết khoa học cho rằng ngay cả các nguyên
tố vật chất đơn giản nhất
đều có cùng một bản chất, và chỉ khác nhau
theo cách phân bố các nguyên tử trong phân tử vật
chất, tức là cách thức rung động của các nguyên tử, sẽ càng ngày tỏ ra là có cơ
sở.
175
Sự biến
phân của mầm mống nguyên thuỷ diễn ra
trước khi có cuộc tiến hoá của Thiền
Định Đế Quân thuộc Nhóm thứ Ba (the Third Group),
tức là Tập Đoàn các Thực Thể thuộc Tạo
Vật Chủ Yếu (Hierarchy of Being in Primary Creation),
trước khi mà chư Thần Linh này thể hiện
được trong các h́nh hài tinh anh đầu tiên. Cũng
v́ thế mà tạo vật thú vật mới xuất
hiện trước khi có “con người thiêng liêng” (“divine
man”) trên Trần Thế. Cũng chính v́ thế mà chúng ta
mới thấy kinh Purănas dạy rằng “Tạo Vật thứ
năm, tức Tạo Vật Tairyagyonya, chính là tạo
vật thú vật”.
(6) Tạo Vật thứ Sáu: Tạo Vật Ũrdhvasrotas tức
Tạo vật chư Thiên.
Nhưng chư Thiên này chỉ là các Nguyên kiểu của
Giống dân thứ Nhất (the First Race), Tổ Phụ
của các hậu duệ “sinh ra từ trí” có “xương
mềm”. Chính các vị này đă tiến hoá ra từ
giống người “Hăn sinh” (“Sweat-born” – sinh ra từ
mồ hôi), thành ngữ này sẽ được giải
thích trong Quyển 3 và 4.
Vishnu Purăna giải thích như sau: “Mặc dù
bị huỷ diệt (dưới h́nh thức cá nhân) vào các
thời kỳ hỗn nguyên, song lại chịu ảnh
hưởng của các hành vi thiện và ác trong các kiếp
trước (former existence), các tạo vật không bao giờ
được miễn giảm quả báo, và khi Brahmă tái
tạo thế gian, chúng lại là hậu duệ của ư
chí Ngài”.
Dồn hết trí
lực b́nh sinh lại (Yoga ư
chí), Brahmă tạo ra “bốn đẳng cấp thực
thể được gọi là chư Thần, chư
Quỷ, TỔ PHỤ (PROGENITORS) và CON
NGƯỜI (MEN);” ở
đây, Tổ Phụ có nghĩa là các Nguyên kiểu
(Prototypes) và các Đấng khai sinh ra Căn chủng
đầu tiên (the first Root-Race) của nhân loại. Các
Tổ Phụ tức là các Pitris và được chia làm
bảy loại. Trong thần thoại ngoại môn có nói là các
Ngài được sinh ra từ
hông của Brahmă giống
như Eve sinh ra từ xương sườn cùa Adam.
Cuối cùng, tiếp theo Tạo Vật thứ
Sáu và kết thúc Tạo Vật nói chung là:
(7) Tạo Vật thứ Bảy: Cuộc tiến hoá của các
thực thể Arvăksrotas, “và đó là tạo vật con
người”.
“Tạo Vật
thứ Tám” được đề cập tới không
phải là Tạo Vật ǵ cả: đó chỉ là một
tấm b́nh phong, v́ nó chỉ nhằm nói tới
một tiến tŕnh thuần trí, tức việc tri giác
được “Tạo Vật thứ Chín”. Đến
lượt tạo vật thứ chín này lại là một
hiệu quả đang biểu lộ trong tạo vật Thứ yếu của cái vốn là một “Tạo
Vật” trong Tạo Vật Chủ
Yếu (Prăkritita).([139]) Do đó, Tạo Vật thứ Tám vốn được gọi là Anugraha, tức Tạo Vật trí thức (Pratyasarga)
176
của phái Số
Luận,([140]) là tạo vật mà chúng ta không hề
có một ư niệm nào [về mặt nội môn] hoặc là
tạo vật mà ta tán thành trong trí (Anugrala) khác với tạo vật hữu cơ. Đó là việc tri giác đúng
được các quan hệ của chúng ta với toàn
bộ hàng ngũ “chư Thiên” (“Gods”), nhất là chư Thiên
mà chúng ta gọi là các Thiên
Tôn (Kumăras), tức “Tạo
Vật thứ Chín”, nó đích thực là một trạng
thái hay phản ánh của Tạo Vật thứ Sáu trong
kỳ Khai Nguyên (Manvantara) của chúng ta (chu kỳ Vaivasvata).
Vishnu Purăna, kinh điển cổ nhất ([141]) đă dạy rằng: “Có một
tạo vật thứ
chín, tức Tạo Vật Thiên
Tôn (the Kaumăra Creation), nó vừa có tính cách chủ yếu
vừa có tính cách thứ yếu.” Một kinh điển
Nội môn đă giải thích như sau:
Các Thiên Tôn vốn là các Đấng Thiền
Định Đế Quân xuất phát trực tiếp
từ Nguyên khí Tối Cao, rồi lại tái lâm vào thời
kỳ Bàn Cổ Vaivasvata để cho nhân loại có thể
tiến bộ được.([142])
Dịch giả Vishnu Purăna đă bổ chứng nó bằng cách nhận
xét rằng “Các hiền triết này… cũng sống lâu
như Brahmă; các Ngài chỉ được Brahmă tạo ra
trong Thiên Kiếp thứ
nhất (the first Kalpa),
mặc dù sự sinh hoá của các Ngài rất thường
(nhưng không nhất thiết) diễn ra trong Thiên Kiếp
[Thứ yếu] Heo Rừng (Varăha) tức Thiên
Kiếp Liên Hoa (Padma
Kalpa). Như thế, xét về
mặt ngoại môn, các Thiên Tôn là “tạo vật Rudra
tức Nĩlalohita một h́nh thái của Shiva, do Brahmă …và
một vài con sinh ra từ trí của Brahmă khác nữa”.
Nhưng trong giáo lư nội môn, các Ngài chính là Tổ Phụ
của CHƠN NGĂ nơi phàm nhơn, tức Prajăpatis
thượng đẳng; trong khi mà các Pitris tức các
Prajăpatis hạ đẳng chẳng có ǵ khác hơn là tổ phụ của kiểu mẫu h́nh hài vật
chất của y, được tạo ra theo h́nh ảnh
của các Ngài. Trong các kinh điển ngoại môn,
người ta tha hồ đề cập tới Bốn
(đôi khi năm) Thiên Tôn, trong khi ba Thiên Tôn (Kumăras)
vẫn c̣n được bảo mật.
“Bốn Thiên Tôn [là]
các Con sinh ra từ trí của Brahmă. Một vài chỗ
vạch rơ là có tới bảy vị”.(1)
Tất cả bảy Vaidhătra (họ của các Thiên Tôn) này,
tức các Con của Đấng Tạo Tác (“Maker’s Sons”),
đều được đề cập tới và mô
tả trong Sănkhya Kărikă của Ĩshvara Krishna, có kèm theo
phần giảng lư của Gaudapădă-chărya, Sư Tổ
của Shankarăchărya. Nó bàn về bản chất của các
Thiên Tôn mặc dù, vẫn tránh nêu đích danh tất cả
bảy Thiên Tôn này; thay vào đó, nó gọi Ngài là “bảy con
của Brahmă”, v́ các Ngài được Brahmă tạo ra
nơi Rudra. Nó tŕnh bày danh sách như sau: Sanaka, Sanandana, Sanătana,
Kapila, Ribhu và Panchashika.(2) Nhưng đây lại toàn là biệt hiệu.
177
Bốn Thiên tôn
ngoại môn là Sanatkumăra, Sanandana, Sanaka và Sanătana, c̣n ba Thiên Tôn
nội môn là
Các kinh điển
ấy cũng chẳng tŕnh bày được bao nhiêu và
thật chẳng có ǵ đối với những kẻ nào
không thể đoán được “ư tại ngôn ngoại.”
Khi nhận xét là: “Ở đây, chúng ta phải cầu
cứu tới các kinh Purănas
khác để minh giải
từ ngữ này”;
Một vài bản
dịch của các nhà Đông phương học không
đáng tin cậy đến nỗi mà trong bản dịch
tiếng Pháp tác phẩm Harivamsha
người ta đă nói
rằng: “Bảy Prajăpatis, Rudra, Shanda (con của Ngài) và
Sanatkumăra, tiến hành việc sáng tạo ra vạn hữu”.
Trong khi đó, theo 178
(mystic), nhất là huyền linh (occult), trên mọi cảnh giới hiện
tồn. Ambhămsi là từ ngữ được dùng
để chỉ bốn đẳng cấp thực
thể sau đây: “Chư Thiên, chư Quỷ, Tổ Phụ
và Con người”. Trong kinh Vedas, nó đồng nghĩa
với chư Thiên, v́ toàn thể Chư Thiên đều là
sản phẩm của NƯỚC
(về mặt huyền bí),
của Đại Dương Tiên thiên khí (the Ăkăshic Ocean), và
của nguyên khí thứ Ba trong Thiên Nhiên. Trong kinh Vedas, nó
đồng nghĩa với chư Thiên. Các Tổ Phụ và
Con Người trên Trần Thế là các biến hóa hay
kiếp tái sinh của chư Thiên và chư Quỷ (Vong linh)
trên một cảnh giới cao. Theo một ư nghĩa khác,
Thuỷ (Water) là nguyên khí âm. Venus Aphrodite là Đại
Hải đă được nhân cách hoá (the personified Sea),
thân mẫu của thần luyến ái (the god of love), nữ
thần sản sinh ra tất cả chư thần,
chẳng khác nào Đức Mẹ Đồng Trinh Mary
của Thiên Chúa giáo là Đại Hải, thân mẫu của
thần Luyến Ái, Từ Bi, Nhân Hậu ở Tây
phương. Nếu môn sinh Nội môn Bí giáo chịu khó suy
tư, nghiền ngẫm chủ đề này, chắc
chắn y sẽ t́m ra được là từ ngữ
Ambhămsi này gợi cho ta rất nhiều ư khi xét nó liên hệ
đa phương với Đức Mẹ Đồng
Trinh trên Thiên Đàng, với Đức Mẹ Đồng
Trinh Thánh Thiện của các Nhà luyện kim đan
(Alchemists), thậm chí với cả “Nước Rửa
Tội” (the “Waters of Grace”) của người theo phái
“trưởng thành tẩy lễ” hiện đại (the
modern Baptist).
Trong số tất
cả bảy phân chia lớn của các Thiền
Định Đế Quân tức chư Thiên, nhân loại có
quan hệ nhiều hơn với các Thiên Tôn (Kumăras). Các nhà
Thần học Thiên Chúa giáo thật là khinh xuất (imprudent)
khi đă làm giảm uy danh (degrade) các Ngài xuống thành ra các
Thiên Thần sa đoạ
và nay gọi các Ngài là Quỷ
Vương (Satan) và Ma Quỷ (Demons). Trong các chư Thiên
đă từ chối sáng
tạo, Tổng Thiên Thần
Michael (vị thánh đỡ đầu cao cả nhất
của các Giáo hội Đông phương và Tây
phương, có biệt danh là Thánh Michael; người ta cho
là phản ánh của Ngài trên trần thế, tức Thánh
George, đă khuất phục được CON RỒNG)
phải chiếm một địa vị nổi bật
nhất.(1)
Các Thiên Tôn, “các Con sinh
ra từ Trí” của Brahmă-Rudra, tức Shiva, về mặt huyền
bí, chính Ngài đă huỷ hoại
một cách kinh khủng (terrific) các thị dục của
con người và các giác quan hồng trần, chúng bao giờ cũng ra sức phát
triển các tri giác tinh thần thượng đẳng và
Chơn Nhơn bất tử, là hậu duệ của Shiva,
Mahăyogi, bậc Sư Trưởng của tất cả các
đạo sĩ Yoga và các nhà huyền bí học Ấn
Độ.
Shiva-Rudra là
Đấng Huỷ Diệt (the Destroyer), cũng như Vishnu
là Đấng Bảo Dưỡng (the Preserver); thế là
cả hai đều là Đấng Tái Tạo Thế
giới tinh thần cũng như Thế giới vật
chất. Để sống được như một
cây cành lá sum suê, hạt giống
phải chết đi. Muốn
tồn tại như là một thực thể hữu
thức trong Vĩnh Cửu, các thị dục và các giác quan
của con người phải CHẾT đi trước
khi hồn ĺa khỏi xác. Ở phương Tây, chẳng
mấy ai hiểu được phát biểu sau đây:
“Sống mới là chết, c̣n chết mới là sống”.
Shiva, Đấng Huỷ
Diệt cũng chính là Đấng Sáng Tạo và Đấng Cứu Độ
Chơn Nhơn, v́ Ngài thường vun bón Thiên Nhiên. Ngài
đă nhổ các cỏ dại che lấp hết các cây (con
người và vũ trụ) diệt trừ các đam mê
của thể xác và khai sinh ra các tri giác của Chơn
Nhơn.
179
Chính các Thiên Tôn là các
“tu sĩ khổ hạnh Trinh khiết” nên mới từ
chối sáng tạo ra một thực thể vật chất tức CON NGƯỜI. Chẳng trách
người ta ngờ là các Ngài có một liên hệ trực
tiếp với Tổng Thiên Thần Michael của Thiên Chúa
giáo, “người Chiến sĩ Trinh Khiết” (“Virgin
Combatant”) đă khuất phục được Con Rồng Apophis mà các nạn nhân của nó là bất
cứ linh hồn nào liên kết quá lỏng lẻo với
Tinh Thần bất tử. Theo các tín đồ phái Ngộ
Đạo, Thiên Thần này cũng từ chối sáng tạo giống như là các Thiên Tôn. Liệu
Thiên Thần đỡ đầu này của dân Do Thái có chủ tŕ Thổ Tinh (Shiva tức Rudra) cũng
như là ngày Sabbath (ngày Thổ tinh) hay không? Liệu Ngài có
tỏ ra là có cùng bản thể với Cha Ngài (Thần
Thổ Tinh) và được gọi là Con của Thời
gian, Kronos tức là Kăla (thời gian), một h́nh
thái của Brahmă (Vishnu và Shiva) hay không? Và phải chăng
“Đấng Kỳ Cựu” (“Old Time”) của người Hy
Lạp (tay lăm lăm cầm lưỡi hái và
đồng hồ cát) cũng đồng nhất với
“Đấng Vô Lượng Thọ” (“Ancient of Day”) của
tín đồ Do Thái Bí giáo, c̣n Đấng này cũng
đồng nhất với Đấng Vô Lượng
Thọ của người Ấn Độ, Brahmă
(dưới h́nh dạng tam phân) cũng có tôn danh là Sanat,
(Kỳ Cựu – the Ancient)? Mọi Thiên Tôn đều có tôn
danh bắt đầu là
Sanat và
180
Chúng ta sẽ quan tâm
tới Rudras với tính cách thất phân của các “Hoả
Tinh Linh” (“Fire-Spirit”) trong “Biểu tượng kư” (the
“Symbolism”) kèm theo các ĐOẠN
KINH (STANZAS) chữ Phạn
trong Quyển 3. Lúc đó, chúng ta sẽ xét tới Thập
tự giá (3 + 4) dưới
các dạng nguyên thuỷ cũng như sau này và sẽ dùng nó
để so sánh đối chiếu hệ thống số
mục của Pythagoras với khoa đo lường
của người Hebrew. Con số bảy hiển nhiên là cực kỳ quan
trọng và được xem như là con số cơ
bản của Thiên Nhiên. Chúng ta sẽ xét nó theo quan
điểm của kinh Vedas và các thánh kinh của dân
181
TIẾT 14
TỨ ĐẠI
(THE FOUR ELEMENTS)
XÉT về mặt siêu
h́nh và nội môn bí giáo, trong Thiên Nhiên chỉ có một HÀNH DUY NHẤT (ONE ELEMENT in Nature), và nguồn gốc của nó
là Đấng Thánh Linh (the Deity). Cái gọi là Thất
Đại (seven Elements), kể cả ngũ hành đă biểu lộ và tồn tại
ổn định rồi, đều là lớp vỏ, bức màn che Đấng Thánh Linh
này, xuất phát từ bản
thể khai sinh ra CON NGƯỜI (MAN), dù là xét về mặt
vật chất, tâm linh, trí tuệ hay tinh thần. Vào thời
cổ sơ sau này, chỉ có Tứ đại (four Elements)
là thường được đề cập tới,
trong khi triết học chỉ thừa nhận có ngũ
hành. Ấy là v́ thể của Dĩ Thái (Ether) vẫn c̣n
chưa được biểu lộ trọn vẹn, và
thực tượng (noumenon) của nó vẫn c̣n là “Hậu
Thiên Khí Bản Sơ Toàn Năng” (the “Omnipotent Father Aether”),
tổng hợp của phần c̣n lại. Nhưng
đến nay, hoá học và vật lư học đă khám phá ra
rằng các hợp chất của các “HÀNH” lại chứa
vô số các nguyên tố (numberless sub-elements), thậm chí sáu
mươi hay bảy mươi nguyên tố cũng c̣n
chưa bao hàm hết toàn bộ số nguyên tố mà
người ta nghi ngờ là đang tồn tại (1) th́
các Hành này là ǵ bây giờ? Dù sao đi nữa, chúng ta cứ
thử theo dơi diễn tŕnh tiến hoá từ khi bắt
đầu thời kỳ hữu
sử xem sao.
Plato đă nêu lên được
đầy đủ nét đặc trưng của Tứ
Đại khi ông cho rằng chúng là những ǵ hoá hợp và
phân giải các hợp chất. V́ thế, ngay cả
dưới trạng thái tồi tệ nhất, tục tôn
thờ vũ trụ cũng không bao giờ biến thành bái
vật giáo (the fetichism), vốn chỉ tôn thờ h́nh dáng
thụ động bên ngoài và vật chất của bất
cứ đối tượng nào, chứ không bao giờ xét
tới thực tượng bên trong nó. Phong, Hoả, Thuỷ,
Địa chẳng qua chỉ là lớp vỏ hữu h́nh,
biểu tượng của các Chơn Linh vô h́nh, các
Thần Linh Vũ Trụ (the Cosmic Gods); trong khi kẻ vô minh
lễ bái các vị này, th́ bậc thức giả chỉ
kính cẩn thừa nhận các Ngài thôi. Đến
lượt các phân bộ hiện tượng (the phenomenal subdivisions) của các Hành thực
tượng (noumenal Elements), tức các “Tinh Linh Ngũ Hành” (the
“Nature Spirits”) hạ đẳng.
182
Trong Thần phổ học (the Theogony) của Mơchus, chúng ta thấy thoạt
tiên là Dĩ Thái (Ether), rồi tới Phong (Air); đó là hai
nguyên khí sản sinh ra Ulom, Thượng Đế khả
niệm (intelligible God), Vũ Trụ Vật Chất (Universe
of Matter) hữu h́nh.(1)
Trong các thánh ca của
Orpheus, Eros-Phanes từ Linh Noăn (the Spiritual Egg) tiến hoá ra;
Các luồng Hậu thiên khí (Aether) thấm nhuần Linh Noăn
này; Thần khí (Wind) này chính là “Tinh Thần của
Thượng Đế” (the “Spirit of God”) mà người ta
cho rằng nó đă di chuyển trong Hậu thiên khí,
“nghiền ngẫm về Hồng nguyên khí (Chaos)”, Thiên “Ư”
(the Divine “Idea”). Trong Katha
Upanishad của Ấn
Độ, Purusha (Tinh Thần Thiêng Liêng) đă tồn
tại trước khi có vật chất nguyên thuỷ;
sự phối hợp của hai thứ trên đă tạo ra
Đại Hồn Vũ Trụ (the great Soul of the World),
“Mahă-Ătmă, Brahman, Tinh Thần Bản Sinh” (the “Spirit of Life”).([143]) Các danh xưng này lại đồng
nhất với Linh Hồn Vũ Trụ Anima Mundi; Tinh Tú Quang của các nhà Thông thần
(Theurgists) và các tín đồ Do
Thái Bí giáo chính là phân loại cuối cùng và kém nhất
của nó.
Như thế, các Hành
của Plato và Aristotle đều là các nguyên khí vô h́nh liên
kết với phân bộ lớn của Vũ Trụ chúng
ta. Creuzer thật là chí lư khi định nghĩa các tín
ngưỡng sơ khai này là “một loại pháp thuật, một tà đạo tâm
linh và một sự thần thánh hoá khiến cho các tín đồ sống
chan hoà với các mănh lực này”.([144]) Thật vậy, mối quan hệ
ấy khắng khít đến nỗi mà Huyền giai
(Hierarchies) các Mănh lực này hay Thần lực này, đă
được xếp loại theo một thang giá trị
bảy nấc, từ cái khả lượng (ponderable)
đến cái bất khả lượng (imponderable). Chúng
được chia ra làm Bảy phần, chẳng phải
để dùng làm một phương tiện nhân tạo
giúp cho việc thấu hiểu chúng dễ hơn; mà đó
chỉ là phép phân cấp Vũ
Trụ, từ thành phần hoá
học hay vật lư học cho tới thành phần thuần
tuư tinh thần. Đối với khối quần chúng vô
minh, đó là chư Thần Linh độc lập, tối
cao; đối với kẻ cuồng tín, đó là ma
quỷ, dù là có học thức cách mấy đi nữa,
những kẻ cuồng tín cũng không sao hiểu
được Tinh Thần của phát biểu có ư nghĩa
triết học thâm thuư sau đây: đơn nguyên trong đa
nguyên. Đối với triết gia phái Hermes. Đó là các THẦN LỰC tương đối “mù quáng” (“blind”) hay “thông
tuệ” (“intelligent”) tuỳ theo
các nguyên khí được đề cập đến.
Phải mất hàng ngàn năm dài đăng đẳng
trước khi mà cuối cùng, vào thời đại văn
minh của chúng ta, chúng mới bị giảm giá trị
xuống thành các nguyên tố hoá học đơn thuần.
183
Dù sao đi nữa,
nếu vẫn c̣n ít nhiều tôn kính Moses, các tín đồ
Thiên Chúa giáo ngoan đạo và nhất là các tín đồ Tin
Lành nên tôn kính Tứ Đại hơn nữa. Ấy là v́
trong từng trang của bộ Ngũ Kinh Cựu Ước (Pentateuch), Thánh
kinh đă chứng tỏ rằng nhà
lập pháp người Hebrew đă rất quan tâm tới các
ư nghĩa huyền học. Cái rạp (the tent) che Thánh
điện là một Biểu tượng Vũ Trụ và
có tính chất linh thiêng, theo một trong các ư nghĩa của
nó, đối với các Hành, bốn phương và DĨ THÁI.
Josephus tŕnh bày là nó có màu trắng, màu của Dĩ Thái.
Điều này cũng giải thích được lư do
tại sao ở các Thánh điện Ai Cập và Hebrew, theo
Clemens Alexandrinus,(1) đều có bức màn khổng
lồ với năm cái trụ đỡ; bức màn này
ngăn cách thâm cung – nay được tượng trưng
bởi bàn thờ trong các nhà thờ Thiên Chúa giáo – (nơi mà
chỉ có các lễ sư mới được vào) với
phần mà kẻ phàm tục có thể tới
được. Bốn màu của bức màn này tượng
trưng cho bốn Hành chính yếu, c̣n [năm trụ
đỡ] có nghĩa là minh triết thiêng liêng mà năm giác quan giúp cho con người có
thể đạt được nhờ vào Tứ
Đại (the four Elements).
Trong các Áng văn cổ của Cory, một trong các “Sấm
giảng của dân Chaldea” có tŕnh bày ư niệm về các hành
và Dĩ Thái giống hệt như là những điều
được tŕnh bày trong tác phẩm Vũ Trụ Vô H́nh của
hai khoa học gia lỗi lạc hiện đại.
Nó
vạch rơ rằng vạn vật xuất phát từ Dĩ
Thái rồi sẽ lại nhập về Dĩ Thái; h́nh
ảnh của vạn hữu đă được ghi
khắc măi măi vào Dĩ Thái; đó là kho chứa các mầm
mống, các di tích của mọi h́nh hài sắc tướng
và cả ư niệm nữa. H́nh như là t́nh huống này
đă bổ chứng một cách kỳ diệu cho lời
khẳng định sau đây của chúng ta ngày nay, bất
cứ khám phá nào của chúng ta cũng đều
được các “tổ phụ chất phác” (“simple-minded
ancestors”) tiên đoán ra hàng ngàn năm về trước”.([145])
Thế th́ Tứ
Đại và Malachim của dân Hebrew ở đâu ra đây?
Nhờ vào một xảo thuật, các giáo sĩ Do Thái và sau
này các Đức Cha của giáo hội đă hoà hợp chúng
lại thành Jehovah, nhưng chúng có nguồn gốc giống
hệt như là nguồn gốc của các vị Thần
Vũ Trụ của mọi quốc gia khác. Các biểu
tượng của chúng, dù là được sản sinh ra
trên các bờ biển Oxus, trên sa mạc cháy bỏng ở
Thượng Ai Cập, nơi các khu rừng hoang vu, kỳ
quặc và băng giá mọc trên sườn và đỉnh
của rặng núi thiêng Thessaly quanh năm tuyết phủ,
hoặc là nơi các cánh đồng hoang ở Châu Mỹ -
khi được truy nguyên ra cũng đều như nhau.
Dù là đối với người Ai Cập hay Pelasgian,
đối với người Ăryan hay Semitic, Thần Loci,
Thổ Địa (the Local God) đều bao hàm trọn
cả Thiên Nhiên gộp thành một. Tuy nhiên, Tứ
Đại cũng chẳng nhất thiết phải là
tạo vật duy nhất, bởi v́ c̣n có cây cỏ, sông ng̣i,
núi non và trăng sao nữa. Thần Loci, chỉ mới
được nghĩ tới sau này vào thời các phân
chủng cuối cùng của Căn chủng thứ Năm
(the Fifth Root-Race), khi ư nghĩa cao cả và nguyên thuỷ
hầu như là đă thất truyền rồi, bao giờ
cũng đại diện cho tất cả mọi cộng
sự viên của ḿnh với các tôn danh huân tập (accumulated
titles). Đó là Hoả Thần (the God of Fire),
được tŕnh bày tượng trưng là sấm sét,
Jove tức Agni; Thuỷ Thần (the God of Water),
được tŕnh bày tượng trưng là con ḅ
đực trên sông (the fluvial bull), hoặc một con sông linh
thiêng hay suối nước, chẳng hạn như Varuna,
Neptuna (Hải Thần) v.v….; Thần Gió (God of Air)
biểu lộ trong các cơn phong ba băo tố (the hurricane and
tempest), như là Văyu và Indra; c̣n Thần Đất (God or
Spirit of the Earth) xuất hiện trong nhiều
trận động đất, như là Pluto, Yema và
nhiều thần khác nữa.
184
Đó là các Thần
Vũ Trụ, bao giờ cũng tổng hợp tất
cả lại thành một, có mặt trong mọi thần
thoại hoặc vũ trụ khởi nguyên luận. Như
thế, người Hy Lạp mới có Jupiter Dodona bao hàm
cả Tứ Đại lẫn bốn phương (the four
Elements and the four cardinal points), do đó Ngài được
thừa nhận ở La Mă cổ với tôn danh phiếm
thần Jupiter Mundus. Nay ở Tân La mă, Ngài đă trở
thành Thần Linh vũ trụ độc tôn và bị các
đặc sứ (special ministers) tự tiện gán cho việc
nuốt trọn hết (swallow all) các thần linh khác trong
thần phổ học mới nhất.
Với tư cách
Hoả Thần, Phong Thần và Thuỷ Thần, các Ngài là
chư Thần Linh Thiên
Giới (Celestial Gods), với
tư cách là chư Thần Linh hạ giới (Gods of the lower region), các Ngài là các Thần địa ngục (infernal
Deities); tính từ địa
ngục chỉ được áp dụng cho Trần Thế. Các Ngài là các “Chơn Linh Địa
Cầu” (“Spirit of the Earth”) và lần lượt
được mệnh danh là Diêm Vương (Yama), Pluto,
Osiris, “Hạ giới Tinh Quân” (“Lord of the Lower Kingdom”) v.v….,
đặc tính trần thế của các Ngài cũng
đủ chứng tỏ điều đó rồi. Trên
địa cầu này, đối với Cổ Nhân, sau khi
ĺa trần th́ chẳng c̣n nơi nào tồi tệ hơn Trung ấm giới (Kăma Loka) tức Âm phủ (the Limbus
on this Earth).(1) Nếu người ta luận
chứng là Jupiter Dodona đồng nhất hoá với Dis,
hoặc Pluto của La Mă đồng nhất hoá với
Dionysus Chthonios (Thần dưới đất – the
Subterranean) cũng như là với Aidoneus (Trị v́ Thế
giới dưới đất – the King of the Subterrean World),
nơi xuất phát của các sấm giảng – theo Creuzer –([146]) th́ bấy giờ các nhà Huyền bí
học sẽ lấy làm sung sướng mà chứng tỏ
rằng cả Aidoneus lẫn Dionysus đều là cơ
sở của Adonai tức Iurbo-Adonai (Codex Nazaroeus gọi Jehovah
như thế). “Bạn sẽ không tôn thờ Mặt
Trời, vốn được tôn xưng là Adonai, Kadush và
El-El”([147]) cũng như là “Tửu Thần” (“Lord
Bacchus”). Theo hệ thống văn tự cổ truyền
(Massorah), Baal-Adonis của các Bí pháp (Sơds) của dân Do
Thái tiền
Ấy là v́ theo Schelling,
tôn giáo nguyên thuỷ đâu phải chỉ là việc quan tâm
tới các hiện tượng vật lư mà c̣n hơn
thế nữa. Các nguyên khí – c̣n cao siêu hơn những ǵ mà
những người Sadducees chúng ta hiện nay biết
tới – “được che giấu dưới bức
mạng trong suốt gồm toàn là các vị thần thiên
nhiên như là sấm sét, mưa gió”. Cổ nhân biết và có
thể phân biệt được các Hành xác thịt với các Hành tinh thần trong các
Thần Lực của Thiên Nhiên.
185
Jupiter tứ phân,
cũng như tứ diện Brahmă (Phong Thần, Thiên Lôi,
Thần Đất và Hải Thần – chủ tŕ Tứ
Đại) có thể được xem như là
đại biểu cho các Đại Thần Linh Vũ
Trụ của mọi quốc gia. Mặc dù đă uỷ
quyền chế ngự lửa cho Hephaestus-Vulcan, uỷ
quyền chế ngự biển cho Poseidon-Neptune và uỷ
quyền chế ngự Thần Đất cho Pluto-Aidoneus, PHONG THẦN JOVE (the AERIAL
JOVE) vẫn c̣n có tất
cả mọi quyền năng này. Ấy là v́ ngay từ
đầu, HẬU THIÊN KHÍ (AETHER) đă vượt trội lên và là
phần tổng hợp của tất cả mọi Hành.
Theo truyền thuyết, ở sa mạc Trung Á,
có một cái động lớn, ánh sáng tràn vào trong
động này theo bốn khe nứt h́nh như là tự
nhiên ở ngay trong bốn hướng. Người ta
khẳng định rằng từ giữa trưa
đến một giờ trước khi mặt trời
lặn, ánh sáng với bốn màu xanh, đỏ, cam-vàng và
trắng tràn vào, nhờ có một t́nh h́nh đất đai
và cây cỏ nào đó (hoặc là tự nhiên hoặc là nhân
tạo). Ánh sáng hội tụ vào tâm xung quanh một cột
bằng cẩm thạch trắng; phía trên cột có một
quả cầu tượng trưng cho trái đất
của chúng ta. Nó được gọi là “Động
Zarathushtra”.
Được bao hàm
trong các nghệ thuật và khoa học của Giống dân
thứ Tư, tức giống dân Atlante, sự biểu
lộ hiện tượng của Tứ Đại (the
Four Elements) – mà theo tín đồ thật là chí lư khi gán nó cho
sự can thiệp thông minh của chư Thần Linh Vũ
Trụ - đă có một tính toán khoa học. Vào thời
đó Pháp thuật của các lễ sư cổ
truyền gồm có việc cầu nguyện với chư Thần theo ngôn
ngữ đặc biệt của các Ngài.
Nghi Thức Thánh Thư dạy rằng:
Ngôn
ngữ của loài người trên Địa Cầu không
thể đạt đến được các Tinh Quân
(Lords). Chúng ta phải thỉnh nguyện mỗi Tinh Quân
lần lượt bằng ngôn ngữ của Hành thuộc chính
Ngài.
Thánh thư trên c̣n tŕnh bày thêm một
câu đầy ư nghĩa để giải thích bản
chất của ngôn ngữ Ngũ Hành đó:
Nó
không phải gồm toàn các từ ngữ, mà lại gồm
toàn là ÂM THANH, số mục và h́nh ảnh. Kẻ nào biết
cách hoà hợp ba thứ đó lại, sẽ có
được đáp ứng của Quyền Năng giám
sát (the superintending Power) [vị Thần Linh Chủ Tŕ (the
Regent-God) Hành chuyên biệt cần thiết].
Như thế, đó chính là “ngôn
ngữ” THẦN
CHÚ (MANTRAS) (ở Ấn Độ người
ta gọi chúng như vậy); âm thanh vốn là tác
nhân pháp thuật mạnh mẽ và hiệu nghiệm
nhất, nó cũng là ch́a khoá đầu tiên mở
được cánh cửa liên giao giữa Thế nhân
(Mortals) và những Người bất tử (Immortals). Kẻ nào tin theo lời dạy
của Thánh Paul, ắt sẽ không có quyền lựa ra
những phát biểu nào của Ngài mà y chấp nhận và
bác bỏ các lời phát biểu khác. Thế mà không ai
chối căi được rằng Ngài sẽ giảng
dạy về sự tồn tại của chư Thần
Linh Vũ Trụ giữa nhân quần (their presence among us). Tà
đạo đă rao giảng một cuộc tiến hoá
lưỡng phân và đồng thời một tạo
vật tinh thần và thế tục (Giáo hội Thiên Chúa
giáo La Mă bảo như thế) biết bao nhiêu lâu
trước khi có Giáo hội La Mă đó. Từ thời hoàng
kim nhất của Tà đạo, tức tục sùng bái
“ngẫu tượng,” ngôn ngữ ngoại môn đă
chẳng thay đổi bao nhiêu khi đề cập tới
các Huyền giai Thiêng liêng (Divine Hierarchies). Chỉ có danh
xưng là thay đổi cùng với những lời tự
xưng tự tạo này đă trở thành giả dối.
Chẳng hạn, Plato đă gán cho Nguyên Khí Vô Thượng
(the Highest Principle), “Hậu thiên khí Bản sơ” (“Father
Aether”), hoặc Jupiter thốt ra lời lẽ như sau;
“Chính ta đă tạo ra chư Thần Linh, bởi v́ Ta chính
là cha đẻ của mọi công tác của chúng”; như
thế chúng tôi ngờ rằng ông ta cũng thấu hiểu
được trọn vẹn tinh thần của phát
biểu này chẳng kém ǵ Thánh Paul, Ngài đă dạy
rằng: “Có những thứ được gọi là
chư Thần Linh, dù là ở trên Trời hay ở
dưới Đất, đều có nhiều Thần Linh
và nhiều Tinh Quân….”([148])
186
Chúng ta không
thể bắt chước các tín đồ Tin Lành
để thuyết minh câu thơ trong Thánh thư Corinth, ấy là v́ nếu bản dịch
tiếng Anh của Thánh
kinh thật là mơ hồ,
tối nghĩa th́ trong nguyên bản lại không hề
như thế; do đó Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă sẽ
chấp thuận những lời dạy của vị Tông
đồ theo ư nghĩa chân chính. Để minh chứng,
chúng ta thử xét Thánh Dionysius, Thẩm phán Tối cao Pháp
viện Athens, Ngài vốn đă được “Tông
đồ Paul trực
tiếp cảm ứng” và
“được Thánh Paul đọc cho viết” (Hầu
tước De Mirville đă đoan chắc với chúng ta
như vậy); các tác phẩm của Ngài cũng
được Giáo hội La Mă phê chuẩn. B́nh giảng
về câu thơ đặc biệt trên, Thánh Dionysius đă
cho rằng: “Cho dù thực sự có những Đấng
được gọi là chư Thần Linh, v́ h́nh như là
thật sự có nhiều thần linh, song đồng
thời, xét về mặt bản thể, Nguyên Khí Thượng Đế
(God-Principle) và Thượng
Đế vẫn đơn nhất và bất khả phân ly”.([149]) Các đạo đồ thời
xưa cũng dạy như vậy, v́ các Ngài biết
rằng việc tôn thờ các Tiểu Thần không bao
giờ ảnh hưởng đến “Nguyên Khí Thượng Đế”([150]).
Đề cập đến mối
tương hệ giữa các thần lực, W. Grove cho
rằng:
Khi
chứng kiến hiện tượng thiên nhiên không
giống với các điều tương tự (analogies)
thông thường và không thể giải thích
được bằng bất cứ tác động cơ
học nào, cổ nhân thường qui điều đó cho
một linh hồn, một quyền năng tinh thần siêu
phàm…. Thoạt đầu, không khí và các chất khí cũng
được xem là có tính cách tinh thần, nhưng sau
đó, chúng bị xem là có tính cách vật chất nhiều
hơn. Cũng vậy, các từ ngữ spirit (tinh thần)
v.v….được dùng để chỉ linh hồn hay
một chất khí; chính từ ngữ “gas” (khí) có từ
nguyên là geist, một con ma hay một vong linh cũng cho chúng
ta một thí dụ về việc chuyển dần dần
từ một quan niệm tinh thần sang một quan
niệm vật chất.([151])
Trong lời mở
đầu cho ấn bản kỳ thứ sáu của tác
phẩm ḿnh, khoa học gia lỗi lạc trên đă xem
điều đó như là mối quan tâm duy nhất của khoa học chính xác, vốn không
hề bận tâm ǵ đến các NGUYÊN NHÂN (CAUSE).
Do đó, trong mối tương quan trừu
tượng với các lực này, nhân và quả chỉ là
những từ ngữ được dùng cho tiện. Chúng
ta hoàn toàn xa lạ với quyền năng sinh hoá tối
hậu của mỗi một và tất cả bọn chúng,
và có lẽ là cũng sẽ như thế măi. Chúng ta chỉ
có thể xác định được qui phạm của
các tác động của chúng. Chúng ta phải bấm
bụng qui nguyên nhân của chúng cho một tác dụng toàn
hiện duy nhất, và đành phải nghiên cứu các
hậu quả của chúng, đồng thời dùng thực
nghiệm triển khai các quan hệ hỗ tương
của chúng.([152])
Một khi mà ta đă
chấp nhận chính sách này và đă thực sự thừa
nhận những lời lẽ nêu trên (nghĩa là thừa
nhận rằng “quyền năng sinh hoá tối hậu” có
tính cách tinh thần) th́ cũng không có lư do ǵ mà chúng ta
lại không chịu thừa nhận cái tính chất vốn
có sẵn trong các nguyên
tố vật chất, hay
đúng hơn là trong các hợp chất của chúng, đang
tồn tại trong hoả, phong thuỷ hay địa.
Cổ nhân biết rơ các quyền năng này đến
nỗi mà trong khi che giấu bản chất thật sự
của chúng với nhiều ẩn dụ khác nhau,
điều này có thể là có lợi hoặc có hại cho
những người thất học, họ không bao giờ
xuất phát từ mục tiêu đa phân đang nhắm
tới, trong khi đảo ngược chúng lại. Họ
cố gắng phủ một bức màn dày đặc lên
trên hạt nhân chân lư ẩn tàng trong biểu tượng,
nhưng bao giờ họ cũng cố gắng duy tŕ được biểu tượng
này để truyền lại cho các thế hệ vị
lai. Biểu tượng đó phải trong sáng đủ
để cho những kẻ sáng suốt có thể phân
biệt được chân lư ẩn sau h́nh thức thần
thoại của h́nh tượng hay ẩn dụ. Các
hiền triết thời xưa bị kết án là mê tín dị đoan và dễ
tin. Nhưng các quốc gia
hiện nay cũng đâu có kém ǵ; mặc dù đă học
hỏi được tất cả mọi ngành nghệ
thuật cùng là khoa học hiện đại, và đă
đào tạo nên một thế hệ khôn ngoan và trí
thức, đến nay, người ta vẫn cứ
chấp nhận Jehovah nhân h́nh của dân Do Thái như là
Thượng Đế vô cực sinh động
độc tôn!
187 188
Thế th́
đâu là một vài điều bị người ta gán cho
là “mê tín dị đoan”? Chẳng hạn như Hesiod tin
rằng “gió là con của người Khổng Lồ Typhaeus”,
y bị Aeolus xiềng xích rồi lại cởi xích ra; thế
là những người Hy Lạp đa thần cũng tin
theo lời Hesiod. Họ làm sao mà không tin như vậy, khi mà
những người Do Thái độc thần cũng tin
như thế (có điều là tôn danh của các thần
khác đi) và cho đến lúc bấy giờ tín đồ
Thiên Chúa giáo cũng tin như vậy? Aeolus, Boreas v.v….của
Hesiod được “dân tộc tuyển định” (“chosen
people”) Do Thái gọi là Kedem,
Tzephum, Derum và Ruach Hayum. Thế là đâu là sự dị
biệt cơ bản? Trong khi dân Hy Lạp được
dạy là Aeolus nổi gió rồi lại làm yên gió th́ dân Do
Thái lại tin tưởng nhiệt thành rằng
Thượng Đế của họ “mũi xịt khói, miệng khạc lửa,…cưỡi
trên một tiểu thiên sứ chắp cánh bay cao; người
ta thấy Ngài cưỡi trên ngọn gió”.(1)
Cả hai quốc gia trên hoặc là diễn đạt theo
lối bóng bẩy, hoặc là đều mê tín dị đoan. Chúng tôi cho rằng họ không hề
như vậy; có điều là quan niệm trên đă
xuất phát từ một ư thức sâu sắc đồng
nhất với Thiên Nhiên và một tri giác về những ǵ
bí nhiệm và thông tuệ ẩn sau mọi hiện
tượng trong thiên nhiên, đó là thứ mà con
người hiện đại không c̣n t́m đâu ra
được nữa. Nếu người Do Thái
thường tế thần gió (và nhất là thần
lửa) và xem đó như là Tục thờ cúng Thiêng liêng th́
đâu có ǵ là mê tín dị đoan khi các kẻ Tà đạo
Hy Lạp nghe theo lời sấm giảng
nhiều như là
Jupiter Pluvius đi chăng nữa, th́ những lời
cầu nguyện này cũng được dâng lên các
Quyền Năng mà người ta giả định là
đang chủ tŕ các Hành, (các Quyền Năng này đều
như nhau dù là trong Tà đạo hay trong Thiên Chúa giáo).
Như vậy th́ chẳng hoá ra là khi một tín đồ tà
đạo cầu nguyện với “thần tượng”
của ḿnh th́ đó là tục thờ cúng ngẫu
tượng thô bỉ và điều “mê tín dị đoan”
ngớ ngẩn, c̣n khi người ta cầu nguyện
với một Đấng thiêng liêng khác, th́ cũng
điều mê tín dị đoan đó lại đột
nhiên biến thành tôn giáo và ḷng
mộ đạo đáng ca ngợi hay sao? Nhưng chỉ có nếm quả
mới biết được cây. Thế mà quả của
cây Thiên Chúa giáo (Christian tree) đâu có ǵ tốt hơn
quả của cây Tà đạo (tree of Paganism), vậy th́
tại sao Thiên Chúa giáo lại được trọng
vọng hơn Tà đạo?
Hầu tước
Drach, một người Do Thái cải đạo, và
Hầu tước De Mirville, một tín đồ Thiên Chúa
giáo La Mă thuộc giai cấp quí tộc Pháp, đều cho
rằng trong tiếng Hebrew, tia
chớp đồng nghĩa
với sự giận
dữ và luôn luôn bị Ác quỉ sử dụng; c̣n Jupiter Fulgur lại được tín đồ
Thiên Chúa giáo gọi là Elicius
và bị tố cáo là linh hồn của sấm
chớp (the soul of lightning), Ma Quỷ.(1)
Như thế, hoặc là chúng ta phải áp dụng
định nghĩa và những lời giải thích
giống như vậy cho “Thượng Đế của
Do Thái” trong cùng một t́nh huống, hoặc là chúng ta không
c̣n được quyền lạm dụng các Thần Linh
và tín ngưỡng của các tôn giáo khác nữa.
Cho dù xuất phát
từ hai tín đồ Công giáo La Mă nhiệt thành và trí
thức, các lời phát biểu trên cũng thật là nguy hiểm (nói thế là c̣n nhẹ) cho Thánh kinh và các giảng sư. Thật vậy,
nếu Jupiter, “quỷ vương của các tín đồ
tà đạo Hy Lạp” mà lại vung lưỡi tầm sét
đánh chết những kẻ nào dám cả gan phẫn
nộ (exited his wrath), th́ Đức Chúa Trời của
Abraham và Jacob cũng thế. Không tin th́ chúng ta thử
đọc đoạn sau đây mà xem:
Đức
Chúa Trời nổi trận lôi đ́nh, Đấng Chí Tôn
lớn giọng ḥ hét. Ngài phóng ra các mũi tên [sấm sét]
rải rác khắp nơi [các đạo quân của Saul];
chớp loé lên làm cho chúng tan tác hết”.(1)
189
Người ta
kết án dân Athens là đă cúng tế Boreas; “Con Quỷ”
(“Daemon”) này cũng bị kết án là đă làm đắm
400 chiếc tàu thuộc hạm đội Ba Tư trên Núi
Pelion cũng như là điên tiết đến nỗi mà
tất cả các Pháp sư ở Xerxes khó ḷng mà hoá giải
được quyền năng của nó bằng cách cúng
tế Thetis.(2) May mắn thay lịch sử chiến
tranh Thiên Chúa giáo chưa hề ghi nhận một
trường hợp nào mà một hạm đội Thiên
Chúa giáo phải hứng chịu một thảm hoạ
với một qui mô lớn như vậy v́ quân
địch, một quốc gia Thiên Chúa giáo khác, trù ếm
bằng cách cầu nguyện. Nhưng điều này không
phải là lỗi của họ, v́ mỗi bên đều
cầu nguyện xin Jehovah huỷ diệt phe bên kia cũng
nhiệt thành như là dân
Cho đến nay, “ân huệ của Thiên Chúa
giáo” h́nh như là đă không khiến cho các tín đồ Tà
giáo cải đạo tiến bộ hơn bao nhiêu về
mặt đạo đức.
Những luận
cứ trên chẳng phải là để bênh vực cho
chư Thần Linh ngẫu tượng (Pagan Gods), cũng
chẳng phải là để đả kích Đấng
Thánh Linh Thiên Chúa giáo (the Christian Deity), và lại càng không có
nghĩa là chúng tôi tin vào hai thứ đó. Tác giả hoàn toàn
vô tư khi bác bỏ bất cứ bằng chứng nào có
lợi cho hai bên, chẳng cầu nguyện, chẳng tin
tưởng, mà cũng chẳng sợ sệt bất
cứ một Thượng Đế nhân h́nh nào như
thế. Chúng ta chỉ so sánh như vậy để
chứng tỏ rằng nhà Thần học văn minh
thật là cuồng tín một cách phi lư và mù quáng. Ấy là v́
cho đến nay, hai tín ngưỡng này cũng chẳng
khác nhau bao nhiêu và chúng cũng chẳng ảnh hưởng
ǵ tới đạo
đức hay bản chất
tinh thần. Nay “ánh sáng của Đức Christ” chiếu
diệu trên những nét gớm ghiếc của
người thú chẳng khác nào “ánh sáng của Lucifer” ngày
xưa. Trong Thuộc
Địa Nhật Báo, nhà
truyền giáo Lavoisier ở
Với
đầu óc mê tín dị đoan, những kẻ ngoại
đạo này đă xem các Hành như là một điều
ǵ dễ hiểu lắm rồi!...Họ vẫn tin
tưởng vào ngẫu tượng Văyu, Phong Thần hay
đúng hơn Phong Quỷ…họ tin tưởng vững
chắc vào hiệu lực của cầu nguyện cũng
như là quyền năng của giai cấp Bà La Môn
đối với gió và băo.
Để đáp
lại điều này, chúng ta có thể trích dẫn Thánh thư Luke: “Thế rồi Ngài [Jesus] vùng lên quở trách gió và cơn cuồng
nộ của nước; chúng dừng lại và êm ả
trở lại”.(1) C̣n
sau đây là một đoạn trích dẫn khác từ Thánh Thư Cầu Nguyện: “Hỡi Đức Mẹ Đồng
Trinh Đại Hải (Virgin of the Sea), Hỡi Đức
Mẹ Thiêng Liêng Đại Thuỷ (blessed Mother anh Lady of the
Waters), xin mẹ hăy chặn gió to sóng cả lại.” Lời
cầu nguyện của các thuỷ thủ người
xứ Naples và Provence này đúng là chép nguyên văn theo
lời cầu nguyện của các thuỷ thủ
người xứ Phoenicia đối với Nữ
Thần Trinh Khiết Astarte (Virgin Goddess Astarte). Từ
những lối so sánh nêu trên, chúng ta có thể đi tới
một kết luận tất yếu và hợp lư, phù
hợp với lời tố cáo của nhà truyền giáo
vừa nói như sau: giai cấp Bà La Môn cũng vẫn
điều khiển được các vị Thần
Ngũ Hành, quyền năng của họ đâu có kém ǵ
của Jesus! Vả lại, Astarte đă tỏ ra là đâu có
kém cỏi hơn một chút nào so với “Đức Mẹ
Đồng Trinh Đại Hải” (“Virgin of the Sea”) của
các thuỷ thủ Thiên Chúa giáo. Muốn giết một con
chó, không phải là cứ gán cho nó một tiếng xấu là
xong đâu, phải chứng tỏ rằng nó có tội. Theo
những điều hoang tưởng của thần
học Boreas và Astarte có thể là Ma Quỷ, nhưng
nếu muốn biết cây phải nếm quả như ta
vừa nhận xét. Và một khi mà các tín đồ Thiên Chúa
giáo cũng tỏ ra vô luân (immoral) và độc ác (wicked) chẳng
kém ǵ các tín đồ Tà đạo th́ đâu có lợi ích ǵ
trong việc t́m thấy đặc tính con người trong
việc thay đổi thờ thần linh (gods) hoặc
thần tượng (idols)?
190
Những
điều mà Thượng Đế và chư Thánh Thiên Chúa
giáo đă hiển lộng được, lại biến
thành một trọng tội đối với thế nhân,
nếu họ làm nổi chuyện đó. Nay thuật phù
thuỷ và thần chú được xem là chuyện hoang
đường; thế nhưng, từ Pháp chế Justinian (the Institutes of
Justinian) cho tới các luật
của Anh, Mỹ chống lại luật phù thuỷ -
đến nay đă lỗi thời nhưng chưa bị
huỷ bỏ - chỉ cần bị nghi ngờ là có sử
dụng thần chú là họ có thể bị khép vào tội
h́nh nặng nề. Tại sao lại trừng phạt
một điều hăo huyền như thế? Thế mà
chúng ta c̣n được biết rằng Hoàng Đế
Để kết
luận, xin nhắc độc giả nhớ rằng dù
không hề mê tín dị đoan chút nào, người ta
cũng có thể tin tưởng vào bản chất
lưỡng phân của mọi vật trên Trần Thế,
thế giới tinh thần và vật chất; hữu h́nh và
vô h́nh; khoa học hầu như đă chứng tỏ
được điều này, trong khi lại chối
bỏ sự minh chứng đó. Ấy là v́ nói theo William
Grove, điện mà chúng ta đang sử dụng chẳng
qua chỉ là kết
quả của việc vật chất
thông thường chịu tác dụng của một thứ
ǵ đó vô h́nh, “quyền năng sinh hoá tối hậu”(the “ultimate generating power”) của mọi loại
Lực (Force) “tác dụng
toàn hiện duy nhất” (the “one omnipresent influence”), bấy giờ, nếu chúng ta có
thể tin theo Cổ nhân là mọi Hành đều có bản
chất lưỡng phân th́ cũng tự nhiên thôi. “Lửa DĨ THÁI
(ETHEREAL Fire) là phân thân của Kabir; phong-hoả chẳng
qua chỉ là sự phối hợp [tương hệ]
của lửa dĩ thái với địa hoả (terrestrial fire); một Kabir hạ đẳng
chịu trách nhiệm hướng dẫn và áp dụng nó
trên trần thế”. Theo một nhà Huyền bí học,
đó có lẽ là một Hành khí, và chúng ta cũng có thể
nói như vậy về mọi Hành Vũ Trụ (Cosmic
Element).
191
Chẳng ai có thể
chối căi được rằng con người huân
tập được nhiều loại lực khác nhau liên
quan tới từ tính, thiện cảm, ác cảm, thần
kinh, động năng, huyền bí học, cơ học,
trí tuệ, thật đúng là mọi thứ lực, Ngoài ra,
các lực vật chất đều có bản chất sinh
học v́ chúng hoà lẫn với và thường hoà hợp
với các lực mà chúng ta gọi là trí tuệ và lực
đạo đức; các lực vật chất là các
hiện thể (tạm gọi như vậy) tức upădhis của lực trí tuệ và lực
đạo đức. Kẻ nào không hề chối bỏ
linh hồn th́ cũng chẳng do dự ǵ khi cho rằng
sự hiện hữu và hoà hợp của chúng chính là
bản thể của ta; thật vậy, chính chúng cấu
thành Chơn Ngă (the Ego) nơi con người. Các mănh lực
này tạo ra các hiện tượng sinh lư, vật lư, cơ
học, cũng như là thần kinh, xuất thần
nhập hoá, nhĩ thông, nhăn thông mà nay ngay cả khoa học
thừa nhận và xem như là hoàn toàn tự nhiên. Thế
th́ tại sao con người lại là ngoại lệ duy
nhất trong Thiên Nhiên và tại sao các HÀNH (ELEMENTS) lại không thể có các hiện
thể, các Văhanas của ḿnh trong cái mà chúng ta gọi là CÁC LỰC
VẬT LƯ (the PHYSICAL
FORCES)? Và nhất là tại
sao các tín ngưỡng như thế lại bị gọi
là “mê tín dị đoan” cũng như các tôn giáo thời
xưa?
192
TIẾT 15
VỀ QUAN THẾ ÂM VÀ QUAN ÂM
(ON KWAN-SHI-YIN AND KWAN-YIN)
GIỐNG như
Avalokiteshvara, Quan Thế Âm đă trải qua nhiều sự
đổi thay (several transformations), nhưng thật là sai
lầm nếu bảo rằng Ngài mới được
Phật giáo Đại Thừa chế ra, v́ từ xa xưa
người ta đă biết tới Ngài với một danh
xưng khác. Giáo Lư Bí Nhiệm dạy rằng: “Đấng nào xuất hiện trước
tiên vào Kỳ Tái Tạo (Renovation) sẽ là Đấng giáng
lâm sau rốt trước khi Tái hấp thụ (Reabsorption) [Hỗn
Nguyên].” Như thế
Thượng Đế của mọi quốc gia – từ
Vishvakarman của các Bí pháp thuộc phái Vedas măi xuống
tới Đấng Cứu Thế (the Saviour) của các
quốc gia văn minh hiện nay – đều là “Huyền
Âm” (the “Word”) vốn tồn tại từ “Vô Thuỷ” (the
“Beginning”) (tức là lúc khơi hoạt của các Quyền
Năng làm linh hoạt Thiên Nhiên) cùng với ĐẤNG TUYỆT ĐỐI ĐỘC
TÔN (the ONE ABSOLUTE).
Được sinh ra từ Thuỷ và Hoả trước
khi mà chúng trở thành các Hành riêng biệt, chính Nó đă
tạo ra vạn vật. “Không có Ngài th́ cũng sẽ
chẳng có thứ ǵ được tạo ra. Cuộc
sống ngự nơi Ngài, thế mà cuộc sống
lại chính là ánh sáng của nhân loại”. Cuối cùng,
người ta có thể gọi Ngài (xưa nay vẫn
thế) là Thuỷ và Chung của Vũ Trụ Biểu
Lộ (the Alpha and the Omega of Manifested Nature). “Đại Long
Minh Triết (the great Dragon of Wisdom) sinh ra từ Thuỷ và
Hoả, vạn hữu sẽ lại được tái
hấp thu vào Hoả và Thuỷ cùng với Ngài”.(1)
Người ta cho rằng Bồ Tát (Bodhisattva) này thật là
“thiên biến vạn hoá” (“to assume any form he pleases”) suốt
trong một Chu kỳ Khai Nguyên, cho nên, mặc dù theo kinh Kim Quang Minh (Kin-kwang-ming-King), ngày vía Ngài nhằm ngày 19 tháng 2, c̣n
ngày vía “Phật Di Lặc” (“Maitreya Buddha”) nhằm ngày 1 tháng
giêng, thế nhưng cả hai ngày vía này đều là
một. Vào lúc Giống dân thứ Bảy (the Seventh Race), Ngài
sẽ giáng lâm với tư cách là Phật Di Lặc (Maitreya
Buddha) (Hoá Thân cuối cùng). Khắp Đông phương,
đâu đâu người ta cũng tin tưởng và mong
đợi như thế. Một Đấng Cứu Nhân
Độ Thế bao giờ cũng chỉ có thể giáng
lâm vào lúc có chu kỳ Mạt Pháp duy vật khủng
khiếp như hiện nay. Chỉ có trong các tác phẩm
huyền học của một vài nhà nguỵ Huyền bí
học Pháp (French pseudo-Occultists) (2) mà
Kali Yuga mới được xem là “Thời Đại
Hoàng Kim” (“l’ Age d’Or”) (!)
193
V́ thế, nghi thức ngoại môn thờ
phụng Thần Linh này mới dựa vào pháp thuật.
Tất cả các thần chú đều được trích
ra từ các Thánh thư đặc biệt mà các lễ
sư luôn luôn bảo mật; người ta nói là mỗi
thần chú có một tác dụng pháp thuật; chỉ
cần niệm chú th́ sẽ có ngay những hiệu quả
nhiệm mầu. Quan Thế Âm (Kwan-Shi-Yin) chính là
Avalokiteshvara, và cả hai đều là hai dạng của
Nguyên Khí Thứ Bảy Vũ Trụ (the Seventh Universal
Principle); trong khi đó, xét về mặt siêu h́nh siêu việt
nhất, Thần Linh này lại là toàn khối tổng
hợp của tất cả Chơn Linh Hành Tinh (the Planetary
Spirits), tức Thiền Định Đế Quân (Dhyăn Chohans).
Ngài là “Đấng Tự Hiện” (“Self-Manifested”); tóm
lại, đó là “Con của Từ Phụ” (the “Son of Father”).
Trên tượng Ngài có bảy con rồng với ḍng chữ
khắc: “Phổ Độ Chúng Sinh”.
Dĩ nhiên, tôn danh
được tŕnh bày trong những CÂU KINH (the STANZAS)
cổ sơ bằng tiếng Bắc Phạn sẽ khác
hẳn, nhưng Quan Âm hoàn toàn tương đương
với nó. Trái lại một thánh điện ở P’u-to
(đảo thiêng của Phật tử Trung Hoa),
người ta tŕnh bày Quan Thế Âm đứng trên một
con thuỷ điểu (Kălahamsa) màu đen, trút cam lộ
trường sinh lên đầu thế nhân. Khi chảy ra nó
biến thành một trong các Thiền Định Phật
(Dhyăni-Buddhas) chính yếu, Đấng Chủ Tŕ (the Regent)
một ngôi sao được mệnh danh là “Sao Cứu
Độ” (the “Star of Salvation”). Trong lần thứ ba, Quan Âm
hoá thân thành ra Chơn Linh làm linh hoạt Thuỷ. Ở Trung
Hoa, người ta tin rằng Đức Đạt Lai Lạt
Ma (the Dalai-Lăma) là một hoá thân của Quan Thế Âm, trong
kỳ lâm phàm lần thứ ba, Ngài đắc quả
Bồ Tát (Bodhisattva), c̣n Ban Thiền Lạt Ma (Teshu Lăma) là
một hoá thân của A Di Đà Phật hoặc Phật
Thích Ca (Amităbha Buddha or Gautama).
Có thể nhận xét đại
khái là một văn sĩ phải có một trí tưởng
tượng bệnh hoạn mới khám phá ra
được tục sùng bái sinh thực khí ở khắp
nơi (chẳng hạn như Mc Clatchey và Hargrave Jennings). Mc
Clatchey khám phá ra rằng “các thần linh sùng bái sinh thực khí
thời xưa được tŕnh bày thành hai biểu
tượng hiển nhiên: Kheen tức Dương
(Dương vật) và Khw-an tức Âm (Âm hộ) tức Yom”.(1)
Một lối thuyết minh như thế xem kỳ lạ
quá, v́ ngoài việc nay được xem là Thần Linh
đỡ đầu (the patron Deities) của các tu sĩ
khổ hạnh Phật giáo (the Buddhist ascetics) và các
đạo sĩ Yoga Tây Tạng, Quan Thế Âm (Avalokiteshvara)
và Quan Âm c̣n là các Thần trinh khiết. Theo nghĩa nội
môn, các Ngài cũng chẳng giống như điều
được ám chỉ trong lối thuyết minh Phật giáo của ông Rhys David như sau: “Tôn danh
của Quan Thế Âm … có nghĩa là ‘Đấng từ trên
cao nh́n xuống’.”(1) Quan Thế Âm cũng chẳng phải
là “Tinh Thần của chư Phật hiện diện trong
Giáo hội”, nhưng theo sát nghĩa, nó có nghĩa là
“Đấng được chiêm bái”. Theo một nghĩa
khác, nó có nghĩa là “LINH NGĂ do Bản Ngă tri giác được”
(“the Divine SELF perceived by Self”), tức là Linh Tố (the Ătma)
(Nguyên Khí Thứ Bảy – Seventh Principle) hoà lẫn vào Toàn
Ngă, là đối tượng tri giác của Tuệ Giác
(Buddhi) (Nguyên Khí Thứ Sáu – Sixth Principle) tức Linh Hồn
Thiêng Liêng nơi con người (Divine Soul in man). Theo một
nghĩa c̣n cao siêu hơn nữa, Avalokiteshvara = Kwan-Shi-Yin
được nói đến với tư cách Nguyên Khí
thứ bảy của Vũ Trụ chính là Thượng
Đế mà Tuệ Giác Vũ Trụ (the Universal Buddhi)
tức Linh Hồn Vũ Trụ tri giác như là tổng
hợp toàn khối Thiền Định Phật. Đó
chẳng phải là “Tinh Thần của chư Phật
hiện diện trong Giáo hội” mà lại là Tinh Thần
Vũ Trụ Toàn Hiện (the Omnipresent Universal Spirit) biểu
lộ trong thánh điện của Vũ Trụ tức
Thiên Nhiên. Theo các nhà Đông phương học này, Kwan và
194
Yin có từ nguyên
giống như Yoginĩ. Theo ông Hargrave Jennings, Yoginĩ là
một từ Bắc Phạn được phát âm là Jogi
hay Zogee (!) – theo thổ ngữ -, tương
đương với Sena, và giống như Duti hay Dutica
nghĩa là một cô gái bán rẻ danh dự thiêng liêng
của Thánh điện (a sacred prostitute of the temple),
được tôn thờ như là Yoni (Âm hộ) hay Shakti
(Huyền Nữ).(2) Các sách luân lư [ở Ấn Độ]
khuyên bảo một người vợ chung thuỷ hăy xa
lánh Hội Yoginĩ (tức phụ nữ đă
được tôn thờ như là Sacti).([153]) Điều này chẳng có ǵ là làm
chúng ta phải sửng sốt. V́ thế, chúng ta cũng khó
ḷng mà nhếch mép mỉm cười khi thấy một
điều trích dẫn cực kỳ ngớ ngẩn bàn
về “Budh”, xem đó như là “một danh xưng chẳng
những có nghĩa là mặt trời với tư cách là
nguồn sinh hoá mà c̣n có nghĩa là cơ quan đàn ông (the
male organ)”.([154]) Khi bàn về các điều
tương tự trá nguỵ, Max Muller đă cho rằng
“học giả Trung hoa trứ danh nhất thời đó,
Abel Rémusat…chủ trương rằng ba vần I Hi We [trong
chương 14 của Đạo
Đức Kinh (Tao-te-King)]
cũng có nghĩa là Je-ho-vah”.([155]) Ngoài ra, Linh mục Amyot quả
quyết rằng “chúng ta có thể nhận ra Ba Ngôi” cũng
trong tác phẩm trên. Nếu Abel Rémusat đă thế, tại
sao Hargrave Jenings lại không thể như vậy
được? Mọi học giả đều sẽ
nhận thấy rằng thật là ngớ ngẩn nếu
cứ khăng khăng cho rằng Budh, Đấng Toàn Giác
(the “enlightened” and the “awakened”) là một “biểu
tượng sùng bái sinh thực khí” (a “phallic symbol”).
Kwan-Shi-Yin (Quan Thế Âm), do đó xét về
mặt huyền học, là “Con đồng nhất với
Từ Phụ”, tức Thượng Đế, Huyền Âm.
Trong ĐOẠN KINH 3 tiếng Phạn, Ngài được
mệnh danh là “Minh Triết Long” (the “Dragon of Wisdom”), v́
tất cả Thượng Đế thuộc mọi
hệ thống tôn giáo cổ truyền đều có liên quan
tới hoặc được tŕnh bày tượng trưng
như là rắn. Ở cổ Ai Cập, thần Nahbkoon,
chuyên “se dây tơ hồng” (“he who unities the doubles”),
được tŕnh bày tượng trưng như là con
rắn quấn quanh chân người, có tay hoặc không có
tay. Đó là Tinh Tú Quang đang kết hợp Con
Người Thiêng Liêng với Chơn Thần thuần tuư
Thiêng Liêng bằng mănh lực lưỡng phân sinh lư và tinh
thần. Chơn Thần Thiêng Liêng này là Nguyên kiểu trên
“Trời” (“Heaven”) hay là Thiên Nhiên. Đó là biểu hiện
sự phục sinh của Thiên Nhiên, của Đức Christ
(đối với kẻ tôn thờ rắn), của Jehovah
với tư cách con rắn đồng thau chữa khỏi
những người nh́n vào Ngài (him). Con rắn cũng là
biểu hiệu của Đức Christ đối với
các đoàn viên “Giáo đường pḥng vệ” (trong Hội
Tam Điểm cũng có các bậc Hiệp Sĩ Thánh
Điện). Theo Champollion, ngoài các dạng khác, biểu
tượng của Knooph (cũng gọi là Khnoom) tức
Linh Hồn Vũ Trụ được tŕnh bày
tượng trưng như là một con rắn quấn
quanh chân người; con rắn này – vốn là biểu
hiệu của Phúc Thần (Good Genius) – đôi khi lại có
ngạnh.(1) Như vậy, con
thú linh thiêng này đồng nhất với con rắn
của các kẻ thờ rắn và có mặt trên một
số lớn các đá chạm được gọi là
đá chạm Ngộ Đạo hay đá chạm Basilides
(Gnostic or Basilidean gems). Nó hiện ra với nhiều
đầu khác nhau, cả đầu người lẫn
đầu thú, nhưng các viên đá chạm h́nh của nó
luôn luôn có khắc nhiều danh xưng Chnoubis. Theo Iamblichus và
195
Champollion, biểu tượng này đồng
nhất với một biểu tượng được
mệnh danh là “Thiên Thần Bản Sơ” (the “first of the Celestial Gods”),
Thần Hermes tức Mercury (đối với người
Hy Lạp). Người ta gán cho Thần Hermes Trismegistus
việc phát sinh ra pháp thuật và truyền thụ cho
người, c̣n Mercury là Buh, Minh Triết, Giác Ngộ
(Enlightenment) tức việc “học lại” (“Re-awakening”)
Khoa Thánh Linh học (the Divine Science).
Tóm lại, Quan Thế Âm (Kwan-Shi-Yin) và Quan Âm
(Kwan-Yin) là hai trạng thái (dương và âm – male anh femal)
của nguyên khí Minh Triết và Thông Tuệ Thiêng Liêng nơi
Vũ Trụ, Thiên Nhiên và Con Người. Đó là Christos-Sophia
của các nhà huyền học phái Ngộ Đạo,
tức Thượng Đế và Huyền Nữ (Shakti). V́
tha thiết muốn diễn đạt một vài bí
nhiệm mà kẻ phàm tục chưa bao giờ quán triệt
được, và v́ biết rằng nhân loại sẽ
chẳng nhớ được ǵ nếu không có một
biểu tượng nào đó bên ngoài, Cổ nhân đă
chọn các h́nh ảnh Quan Âm lố bịch (ridiculous),
đối với chúng ta, để nhắc con
người nhớ tới cội nguồn và bản
thể của ḿnh. Tuy nhiên, kẻ nào vô tư, cũng
đều thấy rằng Madonnas mặc váy đầm và
Đức Christ đeo găng tay trắng làm bằng da dê
xem c̣n nực cười hơn là Quan Thế Âm và Quan Âm
khoác chiếc long bào (dragon garb). Ngoại cảnh khó ḷng mà
diễn đạt nổi nội tâm. Do đó, chính v́ công
thức biểu tượng này đang ra sức
đặc trưng cho những ǵ vượt lên trên cả
lư luận khoa học và thường là bất khả
tư nghị, cho nên hoặc nó phải siêu việt
được trí năng dưới một dạng nào
đó, hoặc nó sẽ phai nhoà đi trong kư ức con
người.
Bạn
hỡi, theo bạn th́ kiến thức
Trên trần thế này là chân hay
giả?
Ai dám bảo nó là giả?
Ai biết được nó là
chân?
199
PHỤ LỤC
(ADDENDA)
THUYẾT
HUYỀN BÍ HỌC VÀ NGÀNH KHOA HỌC
(ON
OCCULTISM AND SCIENCE)
TIẾT 1
LƯ DO TẠI SAO CÓ PHỤ
LỤC NÀY
(REASONS FOR THESE ADDENDA)
Một số nhà Minh
Triết Thiêng Liêng Tây phương đă nghiên cứu và
khảo sát phê phán nhiều giáo lư bao hàm trong bảy ĐOẠN KINH (STANZAS) tiếng Phạn và Phần giảng
lư nêu trên; theo quan điểm thông thường của khoa
học hiện đại, một vài Giáo lư Huyền bí (the
Occult Teachings) này đă tỏ ra là chưa được
hoàn chỉnh. Chúng h́nh như rất khó ḷng được
chấp nhận, và cần phải được xét
lại mới được đưa ra cho khoa học
phê phán. Một số bạn đă lấy làm hối
tiếc v́ phải luôn luôn tỏ thái độ hoài nghi đối
với các lời khẳng định của khoa học
thời hiện đại. Đối với họ, h́nh
như là - ở đây tôi chỉ lặp lại nguyên
văn của họ - “đi ngược lại những
lời dạy của các giảng sư lỗi lạc
nhất, có nghĩa là càng chuốc lấy một thất
bại thảm thương dưới mắt Thế
giới Tây phương”.
Do đó, chúng ta nên xác định dứt khoát
một lần lập trường mà tác giả - vốn
không đồng ư với các bạn – định chủ
trương. Chừng nào mà khoa học vẫn c̣n là
“lương tri có tổ chức,” theo lời Giáo sư T.H
Huxley, chừng nào mà nó c̣n suy diễn từ các tiền
đề chân xác, c̣n tổng quát hóa dựa vào một cơ
sở thuần là diễn dịch, th́ chừng đó,
mọi nhà Minh Triết Thiêng Liêng và mọi nhà Huyền bí
học vẫn c̣n hoan nghênh và tôn trọng phần đóng góp
của nó trong lănh vực định luật về vũ
trụ khởi nguyên luận. Chừng nào mà các kết
luận của khoa học c̣n dựa vào một nền
tảng gồm các sự kiện không thể bài bác được,
th́ chừng đó không thể có một mâu thuẫn nào
giữa giáo lư của Huyền bí học và cái gọi là khoa
học chính xác. Chỉ khi nào mà các giảng sư cuồng
nhiệt lại bước ra khỏi phạm vi của các
hiện tượng đă quan sát được để
thâm nhập vào trong bí nhiệm Hiện Tồn, ra sức
giành lại chức năng khai thiên tịch địa
của Tinh Thần, rồi lại quy hết
200
mọi chuyện cho Vật Chất mù quáng
(blind Matter), th́ Huyền bí học mới ra mặt tranh căi
và hoài nghi các lư thuyết khoa học. Do chính bản chất
của vạn vật, khoa học không thể vén
được bức màn bí nhiệm của Vũ Trụ
bao quanh chúng ta. Đúng là khoa học có thể thu thập,
phân loại và tổng quát hóa các hiện tượng.
Nhưng luận chứng theo các dữ kiện siêu h́nh
đă được thừa nhận, nhà Huyền bí
học dám khẳng định rằng kẻ nào muốn
thăm ḍ các bí nhiệm huyền ảo nhất của Thiên
Nhiên (the inmost secrets of Nature), phải vượt lên trên
được các giới hạn chật hẹp của
giác quan, và chuyển được tâm thức (consciousness)
của ḿnh vào trong lănh vực Thực tượng (Noumena)
và Nguyên Nhân Bản Sơ (Primal Cause). Để thực
hiện được điều này, y phải phát
triển năng lực, ngoại trừ một ít
trường hợp ngoại lệ hiếm có, vẫn c̣n
hoàn toàn tiềm tàng trong thể chất của các phân
chủng của Căn chủng thứ Năm (Fifth Root-Race)
hiện nay ở Châu Âu và Mỹ Châu. Ngoài ra, y không cách chi có
thể thu thập được các sự kiện
để rồi dựa vào đó mà suy luận. Chẳng
phải rơ rệt là điều này cũng dựa vào các
nguyên tắc của lư luận học diễn dịch và
siêu h́nh học đấy ư?
Mặt khác, cho dù có làm cách nào đi chăng
nữa, tác giả sẽ chẳng bao giờ có thể
thỏa măn được cả chân lư lẫn khoa học.
Tác giả không thể tŕnh bày với bạn đọc,
một bản dịch liên tục và có hệ thống
của các ĐOẠN KINH
cổ tiếng Bắc Phạn. Có một khoảng
trống gồm 43 câu kinh hay Shlokas giữa câu thứ 7
(đă được tŕnh bày), và câu thứ 51, vốn là
chủ đề của Quyển 3 và 4, mặc dù
để cho dễ đọc và dễ tham khảo hơn,
câu kinh thứ 51 đă được tŕnh bày như là câu
kinh từ 1 trở đi. Chỉ riêng sự xuất
hiện của con người trên Địa Cầu
cũng đủ chiếm mất một số
ĐOẠN KINH bằng như vậy, chúng mô tả tỉ
mỉ sự tiến hóa bản sơ của y, bắt
đầu từ các Thiền Định Đế Quân nhân
loại (the human Dhyăn Chohans), t́nh trạng của Địa
Cầu vào thời đó v.v…. Một số lớn danh
xưng đề cập tới các hóa chất và hợp
chất khác, nay chúng không c̣n hóa hợp với nhau nữa, do
đó phân chủng sau này của Giống dân thứ Năm
(Fifth race) không biết ǵ đến chúng, cũng chiếm
một khoảng trống rộng đáng kể. Chỉ v́
chúng không thể dịch ra được và, dù sao đi
nữa, không thể giải thích được, nên
người ta mới bỏ qua chúng cùng với những
điều không thể công bố được. Thế mà,
ngay cả một ít điều được tŕnh bày
như thế cũng đủ làm tức giận (irritate)
bất cứ kẻ nào tin theo và bênh vực các giáo
điều khoa học duy vật mà lại t́nh cờ
đọc được nó.
Để bênh vực
cho các ĐOẠN KINH (STANZAS) đă được tŕnh bày rồi,
chúng ta cần đưa nó ra cho thiên hạ phê phán,
trước khi xét tiếp các đoạn kinh chữ
Phạn c̣n lại. Chúng tôi biết là chúng không hoàn toàn phù
hợp với khoa học hiện đại. Nhưng cho dù
chúng có phù hợp với các quan điểm hiện
đại như là một vài bài diễn văn của
William Thomson đi chăng nữa, chúng vẫn bị bác
bỏ. Ấy là v́ chúng dạy chúng ta tin vào các Quyền
Năng hữu thức (conscious Power) và các Thực Thể
Tinh Thần (Spiritual Entities), tin vào Các Lực trần
thế, bán thông tuệ và đại trí thức trên các
cảnh giới khác,([156]) cũng như tin vào các thực
thể ở chung quanh chúng ta trong các lănh vực mà cả
kính viễn vọng, lẫn kính hiển vi đều không
giúp chúng ta thấy được. V́ thế, chúng ta cần
phải xem xét các tín điều của khoa học duy
vật, so sánh quan điểm của nó về các “Hành”
với ư kiến của Cổ nhân, phân tách các lực
vật lư theo quan niệm hiện đại, trước
khi các nhà Huyền bí học thú nhận là ḿnh sai. Chúng ta
sẽ bàn tới cấu tạo của Mặt Trời và các
hành tinh cũng như là các đặc tính huyền linh
của cái gọi là chư
Thiên, (Devas and Ganii) và nay khoa
học gọi là Lực tức “ các cách thức chuyển
động”, và thử xét xem các tín điều nội môn bí
giáo có thể bênh vực được hay không. Bất
chấp mọi nỗ lực chống đối, nếu
vô tư, chúng ta thấy rằng ẩn dưới “tác nhân vật
chất và phi vật chất” của Newton,([157]) tác nhân gây ra trọng lực (causes gravity), và nơi Thượng Đế nhân
h́nh tác động của ông, cũng có nhiều thiên
thần siêu h́nh như là
Đấng Chưởng Quản Thiên Thần (Angelus
Rector) của Kepler, đang
điều khiển từng hành tinh một, và nơi tác nhân phi vật chất (the immaterial) dẫn dắt các thiên thể theo
đúng quỹ đạo của ḿnh (theo Kepler).
201
Trong Quyển 3 và 4, chúng ta sẽ công khai
đề cập đến các chủ đề nguy
hiểm. Chúng ta phải dũng cảm đối diện
với khoa học và nhằm chống lại các quan
điểm duy vật, chủ nghĩa duy tâm, chủ
nghĩa duy tâm vật (hylo-idealism), chủ nghĩa thực
nghiệm (positivism) và tâm lư học hiện đại và
chối bỏ tất cả, tuyên bố rằng Huyền
bí học chân chính tin tưởng vào các “Đấng Quang
Minh” (“Lord of Light”); tin tưởng vào một Mặt
Trời – Mặt Trời đó, vốn không phải là
một “nhật đăng”(“lamp of day”) vận hành theo
luật vật lư, không những là một trong các vầng
thái dương vốn là “các đóa hoa hướng
dương” rạng rỡ, theo Richter – mà c̣n là chỗ
ngự hay hiện thể của một Thần Linh và
một tập đoàn Thần Linh, giống như hàng
tỉ Mặt Trời khác.
Trong cuộc tranh căi
này, dĩ nhiên là các nhà Huyền bí học sẽ thất
bại thê thảm. Nếu xét vấn đề một cách hời hợt (the prima facie), người ta sẽ
xem như họ là những kẻ dốt nát (ignoramuses) và
sẽ gán cho họ nhiều danh hiệu mà công luận xét
đoán hời hợt – vốn không biết ǵ về các
đại chân lư là nền tảng của Thiên Nhiên –
thường gán cho những kẻ bị kết tội là
tin tưởng vào những điều mê tín dị đoan từ
thời Trung cổ. Thôi thế cũng được.
202
Mặt Trời là
Vật Chất, song Mặt Trời cũng lại là Tinh
Thần. Thế hệ tổ tiên của chúng ta, “Người
ngoại đạo” (“Heathen”) cũng như những người
kế thừa hiện đại của họ, Pārsīs
đă và đủ khôn ngoan để thấy nơi đó
biểu tượng của Đấng Thánh Linh,
đồng thời cảm thấy ẩn tàng bên trong
biểu tượng vật chất đó là vị Thần
Linh rực rỡ với Ánh Sáng Tinh Thần và Thế
Tục (the bright God of Spiritual and Terrestrial Light). Chỉ có
những kẻ Duy vật, vốn chối bỏ
Thượng Đế, Tinh Thần, Linh Hồn và không
thừa nhận bất cứ trí thông tuệ nào ngoại
trừ trí người, mới xem một tín ngưỡng
như thế là điều mê tín dị đoan. Nhưng nếu
quá mê tín dị đoan “theo Thiên Chúa giáo làm cho người ta
trở thành điên rồ”, theo Laurence Oliphant, th́ quá hoài nghi
cũng khiến cho chúng ta điên khùng (mad). Chẳng thà
bị kết án là điên rồ v́ không tin tưởng quá
nhiều, c̣n hơn bị kết án là điên khùng v́
chối bỏ hết cả (chẳng hạn như
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm vật).
V́ thế, nhà Huyền bí học vẫn sẵn sàng nhận
lănh với Chủ nhĩa duy vật (Materialism) và đón
chờ những lời lẽ đả kích tuôn xối
xả lên đầu tác giả bộ sách này, chẳng
phải v́ tội đă soạn ra nó, mà chỉ v́ tội
đă tin tưởng vào
những ǵ bao hàm trong đó.
Do đó, chúng ta phải tiên liệu và xử lư
kịp thời các khám phá, các giả thuyết và tất
nhiên là những chống đối mà khoa học sẽ
tŕnh bày và phê phán. Chúng ta cũng phải chứng tỏ
được là Giáo lư Huyền bí (the Occult Teachings) khác
với khoa học hiện đại đến mức nào
và so sánh giữa các thuyết hiện đại và các
thuyết cổ truyền, thuyết nào đúng hơn (xét
về mặt luận lư và triết học). Cổ nhân
đă biết hết sự đơn nhất và các quan
hệ hỗ tương giữa mọi phần tử
trong Vũ Trụ, trước khi mà các nhà thiên văn
học và các triết gia hiện đại thấy rơ
được điều đó. Và cho dù vật lư học
bất lực, không thể giải thích các quan hệ
hỗ tương giữa mọi vật hữu h́nh trong
Vũ Trụ, khác hơn những kẻ tin theo thuyết
Vũ Trụ cơ động đi chăng nữa, th́ nhà
Duy vật – vốn chối bỏ sự tồn tại
của Linh Hồn Vũ Trụ (mà siêu h́nh học thừa
nhận) – cũng không làm ǵ có quyền lấn sang lĩnh
vực siêu h́nh. Sự kiện vật lư học đang
thử và thật sự là đă lấn sang, chỉ chứng
tỏ rằng “sức mạnh là lẽ phải”, và
chẳng có ǵ hơn nữa (is only one more proof that “might is
right”, and no more).
Vả lại cũng có một lư do hữu ích khác
nữa khiến cần phải soạn ra Phụ lục
này, chúng ta chỉ có thể tŕnh bày một phần nào đó
Giáo huấn Bí nhiệm (the Secret Teachings), nên ngay cả các
nhà Minh Triết Thiêng Liêng cũng không thể lĩnh hội
được giáo lư này, nếu nó được công
bố mà không hề được giảng giải. Do
đó, chúng ta phải so sánh đối chiếu chúng với
các suy lư của khoa học hiện đại. Các công lư
cổ truyền phải được tŕnh bày song song
với các giả thuyết hiện đại để
cho độc giả sáng suốt có thể so sánh
được giá trị của chúng.
203
C̣n về vấn đề “Bảy
Đấng Chủ tŕ”(the “Seven Governors”) – Hermes gọi là
“Bảy Đấng Kiến Tạo” (the “Seven Builders”) – Các
Ngài là các Chơn Linh (the Spirits) điều khiển các
vận hành của Thiên Nhiên, với các nguyên tử linh
động là h́nh bóng chiếu xuống các Nguyên kiểu Tinh
anh (Primaries in the Astral Realms) – dĩ nhiên th́ chúng ta cũng
biết rằng mọi nhà Duy vật cũng như các nhà
khoa học đều kịch liệt đả kích nó.
Nhưng mà có chống đối thế mấy đi
chăng nữa th́ cũng chỉ nhất thời thôi. Thiên hạ bao
giờ mà chẳng chế nhạo mọi điều
mới lạ, bác bỏ mọi ư mới mẻ rồi sau
đó mới chịu chấp nhận nó. Chủ nghĩa duy
vật và thái độ hoài nghi sẽ vẫn c̣n là bóng ma ám
ảnh thế giới, chừng nào người ta c̣n
chưa bỏ được h́nh hài thô trược
hiện nay để khoác lại h́nh hài của ḿnh trong khi
có các Giống dân thứ Nhất và thứ Nh́ của
cuộc Tuần Hoàn này. Trừ phi thái độ nghi ngờ
và t́nh trạng vô minh của chúng ta được trực
giác và Phật tính bẩm sinh (natural spirituality) hóa giải
đi, mọi sinh linh khắc khoải với một tâm
trạng như vậy sẽ thấy ḿnh chẳng có ǵ khác
hơn là một mớ thịt, xương, gân và một
bộ óc trống rỗng để huân tập đủ
loại cảm giác. Sir Humphrey Davy là một khoa học gia
lỗi lạc đă từng thâm cứu vật lư học
chẳng kém bất kỳ lư thuyết gia nào hiện nay;
thế mà ông lại rất ghét Chủ nghĩa duy vật.
Ông cho rằng :
Trong
pḥng giải phẫu, tôi thật là ghê tởm (disgust) khi nghe
nói đến việc nhà sinh lư học dự trù là vật
chất dần dần tiết ra, trở nên mẫn
cảm, ngày càng nhạy cảm, đạt được
các cơ quan cần thiết nhờ vào các lực cố
hữu rồi cuối cùng lớn lên thành một sinh linh
thông tuệ.
Tuy nhiên, đâu phải chỉ có các nhà sinh lư
học là đáng trách v́ đă đề cập đến
những ǵ ḿnh thấy và đánh giá chúng bằng giác quan
vật chất. Theo chúng tôi các nhà thiên văn học và các
nhà vật lư học c̣n có các quan điểm duy vật vô lư
hơn cả các nhà sinh lư học nữa, song điều này
phải được chứng minh.
Ánh sáng tinh anh, bản sơ của Milton
chỉ trở thành ánh sáng vui tươi, tuyệt vời
của mọi vật thể (1)
đối với các nhà Duy vật.
Đối với các
nhà Huyền bí học, đó là cả Tinh Thần lẫn
Vật Chất. Họ tri giác được Thực
tượng quang huy (the radiant Noumenon) ẩn sau “cách thức
chuyển động“ mà người ta chỉ xem là “tính
chất của vật chất” không hơn không kém. Đó là
“Chơn Linh Quang Minh” (the “Spirit
of Light”), hóa thân bản sơ của Hành Thuần Túy vĩnh
tồn (the Eternal pure Element) có năng lượng hay
bức xạ được tồn trữ trong Mặt
Trời. Chính Mặt Trời đă đem lại sự sống
cho các Thế giới Tâm Linh và Tinh Thần. Bacon là kẻ
đầu tiên xiển dương Chủ nghĩa duy
vật, chẳng những nhờ phương pháp diễn
dịch, tức phương pháp của Aristotle,
được canh tân lại để cho dễ lĩnh
hội, mà c̣n nhờ vào nội dung chính của các tác
phẩm của ḿnh. Ông đă làm đảo ngược
lại tŕnh tự Tiến hóa của thể trí khi cho
rằng:
Tạo
vật thứ nhất của Thượng Đế là ánh
sáng của cảm giác; tạo vật cuối cùng của
Ngài là ánh sáng của lư trí; c̣n công tác Sabbath của Ngài măi măi
từ đó chính là sự giác ngộ của Tinh Thần.(1)
204
Ngược lại
mới đúng. Ánh sáng của Tinh Thần là ngày Sabbath
vĩnh cửu của nhà Thần bí học hay nhà Huyền
bí học (the mystic or Occultist), y chẳng chú tâm bao nhiêu
tới ánh sáng của chỉ riêng cảm giác thôi. Khi
được thuyết minh theo lối bí truyền, câu
ẩn dụ “Fiat Lux” có nghĩa là “ Hăy có lấy các ‘Phân Thân
của Ánh Sáng’” (the ‘Sons of Light’), tức là thực
tượng của mọi hiện tượng. Thế
th́, các tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă đă giải thích
đúng khi cho rằng đoạn này đề cập
đến Thiên Thần, nhưng lại sai lầm khi cho
rằng các Quyền Năng do một Thượng
Đế nhân h́nh tạo ra: họ đă nhân cách hóa vị
Thượng Đế này thành ra Jehovah hay trừng phạt
và nổi giận.
Các thực thể này
là các “Phân Thân của Ánh Sáng” v́ họ phát xuất từ và
tự sinh ra trong Đại Dương của Ánh Sáng mênh
mông có một cực là Tinh
Thần thuần khiết
đắm ch́m trong Chân Không Tuyệt Đối, c̣n cực
kia là Vật Chất, khi cô đặc lại, kết tinh thành
một dạng ngày càng thô trược khi giáng lâm biểu
lộ. Do đó, dù sao đi nữa, theo một ư nghĩa nào
đó, Vật Chất chẳng qua chỉ là các cặn bă hăo
huyền của cái Ánh Sáng có các chi nhánh (limbs) [các Tia Sáng] là
các Thần Lực Sáng Tạo (the Creative Forces), song lại
bao hàm cả sự hiện diện trọn vẹn của
Linh Hồn của cái Nguyên khí mà chẳng ai – kể cả
các “Phân Thân của Ánh Sáng”, vốn bắt nguồn từ U MINH VÔ CỰC (ABSOLUTE DARKNESS) – thấu đáo được.
……; Hậu
duệ của Thiên Đàng bản sơ.
Hoặc
của tia sáng cộng đồng vĩnh cửu;
V́ Thượng Đế
chính là Ánh Sáng,
Và trừ phi ngự nơi
Ánh Sáng thâm cung,
Ngài chẳng bao giờ
hằng ngự từ Vô Thủy
Bây giờ, ánh quang huy của
bản thể
chiếu diệu tự sinh
tự tại mới ngự trị nơi bạn.([158])
205
TIẾT 2
CÁC NHÀ VẬT LƯ HỌC
HIỆN ĐẠI ĐANG LÀM
NHỮNG ĐIỀU KHÔNG
CẦN THIẾT
(MODERN
PHYSICISTS ARE PLAYING
AT
BLIND MAN’S BUFF)
NAY Huyền bí học
(Occultism) xin hỏi Khoa học (Science) một điều:
ánh sáng có phải là một vật thể (body) hay không? Cho
dù khoa học có trả lời ra sao đi chăng nữa,
th́ Huyền bí học cũng vẫn sẵn sàng chứng
tỏ rằng cho đến nay, các nhà vật lư học
lỗi lạc nhất cũng chưa quán triệt
được vấn đề này. Muốn biết ánh
sáng là thế nào và nó có là một chất liệu (substance)
hay chỉ là một ba động của “môi trường
ether” (a mere undulation of the “ethereal medium”), trước hết
khoa học phải t́m hiểu xem Vật Chất (Matter),
Nguyên Tử, Ether và Lực (Force) thực sự là ǵ. Nay
sự thực hiển nhiên là khoa học c̣n chưa biết về bất cứ
thứ nào nêu trên, nên phải
thú nhận như vậy. Nó cũng chẳng c̣n biết tin
tưởng vào đâu, v́ mỗi chủ đề
đều có hàng tá giả thuyết do nhiều nhà khoa
học lỗi lạc khác nhau bảo vệ; chúng rất mâu
thuẫn với nhau, nhiều khi lại c̣n tự mâu
thuẫn nữa. Như thế, nếu có thiện chí
một chút, chúng ta có thể chấp nhận các lư luận
uyên bác của họ như là “các giả thuyết
để chiêm nghiệm” theo một ư nghĩa phụ (Stallo
đă diễn đạt như thế). Nhưng nếu xét
cho đến cùng mà không phù hợp với nhau, th́ rốt
cuộc chúng cũng sẽ trừ khử lẫn nhau. Tác giả của Khái Niệm
Về Vật Lư Hiện Đại đă cho rằng:
Nên
nhớ rằng nhiều bộ môn khoa học chỉ là
lối phân chia độc đoán của khoa học nói chung
… Trong nhiều bộ môn này, chúng ta có thể xét cùng một
đối tượng vật lư dưới nhiều khía
cạnh khác nhau. Nhà vật lư có thể nghiên cứu các quan
hệ phân tử của nó, trong khi nhà hóa học lại xác
định cấu tạo nguyên tử của nó. Nhưng
khi cả hai đều bàn tới cùng một yếu tố
hoặc tác nhân, nó không thể có một loạt lư tính và
một loạt hóa tính mâu thuẫn với nhau. Nếu nhà
vật lư và nhà hóa học cùng giả định là có các
cực vi tử với khối lượng và trọng
lượng hoàn toàn bất biến, th́ cực vi tử này
không thể là một h́nh khối vuông hay h́nh cầu dẹt
(oblate spheroid) đối với vật lư học, rồi
lại một h́nh cầu đối (sphere) với hóa
học. Và một nhóm nguyên tử nhất định không
thể là một tập hợp các khối lượng phát
triển, hoàn toàn trơ và không thể thâm nhập trong
một ḷ nung hoặc là một b́nh cổ cong cũng như
là một hệ thống gồm toàn là các trung tâm lực
hợp thành một thành phần của một nam châm
hoặc một pin Clamond, ether vũ trụ không thể
mềm mại và lưu động để chiều ḷng
nhà hóa học, rồi lại đàn hồi cứng nhắc
để cho nhà vật lư được thỏa măn; nó
không thể liên tục theo lệnh của William Thomson,
rồi lại bất liên tục theo đề nghị
của Cauchy hoặc Fresnel.([159])
Chúng ta cũng có
thể trích dẫn lời phát biểu của nhà vật lư
lỗi lạc G.A.Hirn trong Quyển thứ 43 của Kỷ Yếu Hàn Lâm Viện Hoàng Gia Bỉ mà chúng tôi dịch
từ tiếng Pháp ra như sau:
Khi
chúng ta thấy các học thuyết vốn qui tính tập
thể và phổ quát của các hiện tượng cho riêng
các chuyển động của nguyên tử, ngày nay đă
được xác định ổn thỏa rồi, th́
chúng ta mới có quyền trông mong là cũng t́m thấy
rằng các tính chất được gán cho thực
thể duy nhất này – cơ sở của vạn hữu –
thật là nhất trí (exists). Nay thoạt xét tới các
hệ thống đặc thù đựơc kiến
nghị, chúng ta đă thấy quá thất vọng rồi;
người ta thấy rằng nguyên tử của nhà hóa
học, nguyên tử của nhà vật lư học, nguyên
tử của nhà siêu h́nh học và nguyên tử của nhà
toán học …chẳng có ǵ giống nhau ngoại trừ tên
gọi! Hậu quả tất yếu trong phạm trù
nhỏ hẹp của riêng ḿnh, mỗi bộ môn khoa học
hiện có lại dựng nên một nguyên tử thỏa măn
những yêu cầu của các hiện tượng mà nó
đang nghiên cứu, mà chẳng đếm xỉa ǵ
tới các yêu cầu riêng của các hiện tượng trong
phạm trù lân cận ḿnh. Nhà siêu h́nh học xua đuổi
các ư niệm khi nghe nói tới các nguyên lư hấp lực và
cự lực (attraction and repulsion); c̣n nhà toán học,
đang phân tích các luật đàn hồi và luật
truyền ánh sáng, lại mặc nhiên thừa nhận chúng,
cho dù không hề đề cập tới danh xưng
của chúng … Nhà hóa học không thể giải thích
được sự kết hợp các nguyên tử trong các
phân tử là phức tạp nếu không gán cho nguyên tử
các đặc tính riêng biệt. Ngược lại, đối
với nhà vật lư và nhà siêu h́nh học đang ủng
hộ các học thuyết hiện đại nguyên tử
bao giờ cũng như nhau ở bất cứ nơi
đâu. Tôi đang nói ǵ thế nhỉ? Ngay cả trong cùng
một ngành khoa học, người ta cũng chưa
thỏa thuận được với nhau về các tính
chất của nguyên tử. Mỗi người dựng nên
một nguyên tử phù hợp với óc tưởng
tượng của riêng ḿnh, để giải thích một
vài hiện tượng chuyên biệt mà y đặc
biệt quan tâm tới.(1)
206
Phát biểu trên đă phản ánh chính xác
t́nh h́nh khoa học hiện đại và vật lư học.
Theo Stallo, “cái tṛ ‘khoa học giả tưởng’ này coi
bộ ngày càng phát đạt” (trong các bài diễn văn hùng
biện, Giáo sư Tyndall đă phát biểu như thế),
và về mặt mâu thuẫn, nó đă vượt xa bất
cứ điều “hoang tưởng” (“phantasies”) nào của Huyền bí học. Dù sao
đi nữa, nếu (theo lời thú nhận của
người ta) các thuyết vật lư chỉ là “các khí
cụ giáo huấn, diễn giải và kiểu cách” và
nếu (theo lời của một kẻ chỉ trích Stallo)
“nguyên tử luận chỉ là một hệ thống
biểu tượng và sau này là một hệ thống
đồ h́nh”,([160])
th́ bấy giờ chúng ta khó ḷng mà có thể cho rằng nhà
Huyền bí học đă giả định quá nhiều khi
tŕnh bày các biểu tượng và các “khí cụ” cùng là các
“hệ thống biểu tượng” này của khoa học
hiện đại.
“ ÁNH SÁNG CÓ PHẢI LÀ MỘT VẬT THỂ
HAY KHÔNG?”
(“AN LUMEN SIT CORPUS,
NEC-NON?”)
(“Is light a Body, or not?”)
Chúng ta biết
rằng ánh sánh nhất định không phải là một
vật thể. Vật lư học cho rằng ánh sáng là
một lực, một rung động, ba động
của Ether (the undulation of Ether). Đó là tính chất của
vật chất, hoặc là tác động của vật
chất chứ không bao giờ là một vật thể !
Đúng thế,
việc khám phá thấy ánh sáng hay nhiệt không phải là
một chuyển động của các cấu tử vật chất
(material particles) (dù cho nó có giá
trị hay không đi chăng nữa) cũng chủ yếu
(nếu không muốn nói là hoàn toàn) là một công tŕnh khoa
học của Williame Grove. Trong một bài diễn văn
tại Học Viện Luân Đôn vào năm 1842, ông đă là
người đầu tiên
207
chứng minh rằng
“nhiệt, ánh sáng([161]) có thể được xem như là
các tác động của … chính vật chất, chứ không
phải là tác động của một lưu chất [hay
là trạng thái vật chất] riêng biệt tinh anh bất
khả lượng (imponderable), thấm nhuần vật
chất”.([162]) Song có lẽ đối với
một vài nhà vật lư – chẳng hạn như Oersted,
một nhà khoa học rất lỗi lạc – LỰC và CÁC LỰC
mặc nhiên là “Chơn Linh [và
v́ thế các Chơn Linh] trong
Thiên Nhiên” (FORCE and FORCES were tacily “Spirit [and hence Spirits] in Nature”). Khá nhiều nhà khoa học
có khuynh hướng huyền bí đă dạy rằng ánh sáng,
nhiệt, từ khí, điện và trọng lực, v.v …
không phải là các nguyên nhân tối hậu của các
hiện tượng hữu h́nh, kể cả chuyển
động của các hành tinh, song chính chúng lại là các hiệu quả phụ của các
Nguyên nhân khác. Khoa học
hiện đại chẳng quan tâm bao nhiêu tới các nguyên
nhân này, nhưng Huyền bí học lại hết ḷng tin
tưởng vào chúng, v́ các nhà Huyền bí học đă tŕnh
bày các bằng chứng cho thấy những lời khẳng
định của họ bao giờ cũng có giá trị. Và
thời đại nào mà chẳng có các nhà Huyền bí
học (Occultists) và các cao đồ (ADEPTS)?
Sir Isaac Newton ủng
hộ thuyết hạt của Pythagoras và có khuynh
hướng thừa nhận các hệ quả của nó;
điều này khiến cho Bá Tước de Maistre đă có
lúc hy vọng rằng cuối cùng Newton sẽ đưa khoa
học trở lại nh́n nhận sự kiện Lực và
các Thiên Thể (the Celestial Bodies) được các Đấng Thông Tuệ
điều động và thúc đẩy.([163]) Nhưng de Maistre không tính tới (counted)
tập đoàn đó. Các ư tưởng thâm sâu nhất
của
Tiến sĩ Lewins, một nhà duy tâm vô thần (atheistic idealist) cho rằng:
Năm
1687, khi Sir Isaac…chứng tỏ rằng khối lượng
và nguyên tử chịu tác dụng … của hoạt
động bẩm sinh … đúng là ông đă vứt bỏ
Tinh Thần, Linh Hồn hoặc Thần Linh như là không
cần thiết.
Nếu ngài Isaac khốn khổ (poor Sir Isaac)
ấy mà tiên đoán được là những người
hậu sinh của ông sẽ áp dụng “thuyết trọng
lực” (”gravity”) như thế đó, th́ con người
sùng đạo ấy chắc chắn sẽ làm thinh ăn
hết trái táo và sẽ không bao giờ nói về bất
cứ ư niệm cơ học nào liên quan đến sự
rơi của nó.
208
Các nhà khoa học thường tỏ ra rất
miệt thị siêu h́nh học xét chung, và siêu h́nh học
bản thể (ontological metaphysics) nói riêng. Nhưng bất
cứ lúc nào mà các nhà Huyền bí học thu hết can
đảm ngửng đầu lên nh́n sự thật, chúng
ta cũng thấy là vật lư học duy vật đầy
dẫy những chuyện siêu h́nh.([164])
Trong khi vẫn liên kết bất khả phân ly với
thuyết siêu việt (transcendentalism) mà lại muốn
chứng tỏ rằng khoa học hiện đại không
có dính líu ǵ tới “giấc mơ hăo huyền” (“dreams”)
như thế, các nguyên lư cơ bản nhất của khoa
học đă bị sai lệch và nhiều khi c̣n bị
lờ đi trong đám sa mù các lư thuyết và giả
thuyết mâu thuẫn nhau. Lời tố cáo này đă
được bổ chứng khi khoa học bắt
buộc phải chấp nhận chất ether “theo giả
thuyết” và ra sức giải thích nó trên cơ sở duy
vật của các luật nguyên tử cơ học
(atomo-mechanical laws). Toan tính này đă gây ra các điểm
dị biệt tai hại và các điểm mâu thuẫn
triệt để giữa bản chất theo giả
định của ether và tác động vật lư của
nó. Bằng chứng thứ nh́ là có rất nhiều phát
biểu mâu thuẫn nhau về nguyên tử, đối
tượng siêu h́nh nhất trong cuộc sáng tạo.
Nay vật lư học
hiện đại biết ǵ về Hậu thiên khí (Aether)?
Rơ rệt là các triết gia thời xưa đă tŕnh bày khái
niệm về nó trước hết; họ đă kế
thừa ư niệm này của dân Ăryan, Hậu thiên khí thời
nay bắt nguồn từ TIÊN THIÊN
KHÍ (ĂKĂSHA) rồi bị
biến thể đi. Người ta cho rằng sự
biến thể là một sự canh cải và tế nhị
hóa (modification and refinement) ư niệm của Lucretius. Thế
th́ chúng ta thử xem trong nhiều tác phẩm khoa học bao
hàm những điều thừa nhận của các nhà vật
lư học, người ta nói ǵ về khái niệm hiện
đại này.
Theo Stallo, thiên văn học và hóa học đều chấp nhận sự tồn tại của ether.
209
Theo các nhà thiên văn học, chất ether này
thoạt đầu được xem như là một
lưu chất cực kỳ
tế vi và lưu động, không cản trở bao nhiêu
chuyển động của các thiên thể, c̣n vấn
đề nó liên tục hay bất liên tục cũng không
được nêu ra để thảo luận một cách
nghiêm chỉnh. Trong thiên văn học hiện đại,
nó có một chức năng chính là dùng làm cơ sở cho các
thuyết hấp lực thủy động lực
học. Trong vật lư học, có một lúc lưu chất
này dường như giữ nhiều vai tṛ liên hệ
tới các chất “bất khả lượng” (“imponderables”)
[chúng đă bị Sir William Grove khai tử một cách tàn
nhẫn] một vài nhà vật lư học c̣n tiến xa
tới mức đồng nhất hóa nó với một hay
nhiều chất đó.(1)
Rồi Stallo c̣n
vạch ra sự biến đổi do các thuyết
động năng, từ khi có thuyết nhiệt
động lực. Ether đă được quang học
chọn dùng làm một cơ sở cho các ba động ánh
sáng. Sau đó, để giải thích sự tán sắc và
sự phân cực của ánh sáng, một lần nữa, các
nhà vật lư học đă phải cầu cứu tới
“trí tưởng tượng của khoa học” (“scientific
imagination”) và gán ngay cho ether: (a) có cấu trúc nguyên tử hay
phân tử, và (b) có tính đàn hồi rất lớn, “để
cho độ bền biến dạng của nó vượt
xa độ bền của các chất đàn hồi
cứng rắn nhất”. Điều này cần tới thuyết bản chất liên tục
của Vật Chất, v́
thế, mới có chất ether. Sau khi đă chấp nhận
tính chất liên tục này để biện minh cho sự
tán sắc và sự phân cực, người ta thấy
rằng không thể có lư thuyết nào liên quan tới sự
tán sắc như thế. Theo óc tưởng tượng
khoa học của Cauchy, trong Nguyên tử có các “điểm
vật chất không phát triển” và để cho thuyết
ba động (the undulatory
theory) tránh được những chướng
ngại kinh khủng nhất (the most formidable obstacles)
(tức là một số định lư cơ học nổi
tiếng có tác dụng gây trở ngại). Ông đă kiến
nghị giả định rằng thay v́ liên tục, môi
trường ether truyền sóng phải gồm có các cấu
tử cách nhau một khoảng đáng kể, Fresnel cũng
giải quyết vấn đề như vậy cho
hiện tượng phân cực .E. B. Hunt đă làm
đảo lộn lư thuyết của cả hai khoa học
gia trên.(1) Nay trong khi một số nhà khoa
học cho rằng, chúng là “những điều trá ngụy”
(“materially fallacious”), th́ những kẻ khác – “các nhà nguyên
tử cơ giới luận” (the “atomo-mechanicalists”) –
lại cứ ngoan cố bám lấy chúng một cách
tuyệt vọng. Hơn nữa, thuyết nhiệt động
lực học cũng làm đảo lộn giả
thuyết về cấu tạo nguyên tử hay phân
tử của ether, v́ Clerk
Maxwell đă chứng tỏ rằng một môi trường
như thế sẽ chỉ là một chất khí.(2)
Như thế, giả thuyết “khoảng cách hữu
hạn” (“finite intervals”) đă tỏ ra là không có ích ǵ
để bổ túc cho thuyết ba động. Ngoài ra, theo
giả thuyết của Cauchy, các kỳ thiên thực
(eclipses) không thể tiết lộ bất cứ sự
biến thiên nào về màu sắc, v́ người ta cũng
giả định là các tia màu sắc được
truyền đi với các tốc độ khác nhau. Thiên
văn học đă vạch ra hơn một hiện
tượng hoàn toàn không ăn khớp với học
thuyết này.
Như vậy, trong khi nơi một số
bộ môn của vật lư học, cấu tạo nguyên
tử-phân tử của ether (dĩ thái) được
chấp nhận để biện minh cho một loạt
các hiện tượng chuyên biệt, th́ trong một bộ
môn khác, người ta lại thấy một cấu
tạo như thế sẽ làm sụp đổ hoàn toàn
một số sự kiện đă được xác
định; như thế là các lời tố cáo của
Hirn đă được biện minh, Hóa học thấy là;
Không thề thừa nhận tính đàn hồi
lớn lao của ether nếu không được bỏ
hết các tính chất của nó đang chủ yếu là
dùng để dựng nên các thuyết hóa học.
210
Kết luận Ether phải bị biến
đổi.
Các yêu cầu của thuyết nguyên tử
cơ học đă khiến cho các nhà toán học và các nhà
vật lư học lỗi lạc ra sức thay thế các
nguyên tử vật chất truyền thống bởi các
dạng chuyển động xoáy đặc biệt trong
một môi trường vật chất đại
đồng vũ trụ, đồng chất không thể
nén được và liên tục [ether].([165])
Tác giả, - vốn
dĩ không hiểu biết bao nhiêu về khoa học và chỉ
hiểu biết tàm tạm (tolerable acquaintance) về các thuyết
hiện đại, và hiểu biết khá nhiều về
Huyền bí học – kiên quyết đấu tranh chống
lại kẻ phỉ báng Nội môn Bí giáo ngay trong kho tàng
khoa học hiện đại. Các mâu thuẫn rành rành
hiển nhiên, các giả thuyết loại trừ lẫn
nhau của các nhà khoa học lừng danh thế giới, các
cuộc tranh căi, các lời tố cáo lẫn nhau của
họ, đă chứng tỏ rơ rệt rằng cho dù có
được chấp nhận hay không đi chăng
nữa, các thuyết Huyền bí học cũng có quyền được
tŕnh bày như bất cứ cái gọi là các giả
thuyết khoa học nào khác. Như thế cho dù các Hội
viên của Hội Hoàng gia có chất nhận ether như là
một lưu chất liên
tục hay bất liên tục th́
cũng chẳng ảnh hưởng ǵ tới mục
đích hiện nay. Nó chỉ chứng minh chắc chắn
là cho đến nay, khoa học chính thống chẳng biết ǵ về sự
cấu tạo của ether. Nếu
muốn th́ khoa học cứ gọi nó là Vật Chất, có
điều là người ta không thể thấy cả Tiên
thiên khí (Ăkăsha) lẫn Hậu thiên khí (Aether) thiêng liêng
của người Hy Lạp trong bất cứ trạng
thái Vật Chất nào mà vật lư học hiện
đại từng biết. Đó là VẬT CHẤT (MATTER) trên
một cảnh giới tri giác, hiện tồn khác; nếu
không nghiên cứu Huyền bí học th́ không thể nào mà phân
tích nó bằng khí cụ khoa học, và cũng không thể
nào mà lượng định, thậm chí không thể nào
quan niệm ra nó bằng “óc tưởng tượng khoa
học”. Điều đó sẽ được chứng
tỏ.
Stallo đă chứng
tỏ rơ rệt là, xét về các vấn đề có tầm
quan trọng quyết định của vật lư học
hiện đại mà De Quatrefages và nhiều người
khác thực hiện trong các lănh vực nhân loại học,
sinh học…, trong khi ra sức bảo vệ các giả
thuyết và các hệ thống của cá nhân ḿnh, hầu
hết các nhà Duy vật lỗi lạc nhất rất
thường phát biểu các điều dối trá ghê
gớm nhất (the greatest fallacies). Chúng ta thử xét
trường hợp sau đây. Hầu hết các nhà duy
vật bác bỏ tác dụng từ xa – một trong các nguyên
tắc cơ bản của vấn đề Hậu thiên
khí tức Tiên thiên khí trong Huyền bí học – trong khi
đó, Stallo đă nhận xét rất đúng là không có tác
dụng vật lư nào, “xét cho cùng, mà lại không quy về tác dụng từ xa”; và ông c̣n chứng minh được
điều đó.
Nay theo Giáo sư [Sir Oliver]
Lodge,(1) các luận chứng siêu h́nh là “các
lời thỉnh cầu tới kinh nghiệm một cách vô
thức. Ông c̣n nói thêm rằng nếu một kinh nghiệm
như thế không thể
quan niệm được (not conceivable) th́ bấy giờ nó sẽ không
thể tồn tại. Theo Ông:
Nếu
một người hoặc một nhóm người mở
trí nhiều, thấy một học thuyết về vấn
đề nào tương đối đơn giản mà
lại hoàn toàn không thể quan niệm được, th́
điều đó chứng tỏ rằng…t́nh trạng
bất khả suy tư của vạn vật không hề
tồn tại.
211
Và v́ vậy, đến cuối bài diễn
văn, Giáo sư đă nêu rơ là người ta mong
đợi là sự cố kết (cohesion) cũng như
trọng lực (gravity), “sẽ được giải
thích tường tận trong thuyết xoáy lực nguyên
tử của William Thomson”.
Không cần hết
thắc mắc, liệu chúng ta có thể mong đợi là
thuyết xoáy lực nguyên tử này giải thích được
việc một sao băng hay một sao chổi đem
xuống trái đất mầm sống đầu tiên không?
(đó là giả thuyết của William Thomson). Nhưng chính
Giáo sư Lodge nên nhớ tới lời chỉ trích sáng suốt
bài diễn văn của ông trong Các Quan Niệm và Các Lư Thuyết Về Vật Lư
Hiện Đại của
Stallo. Khi thấy Giáo sư đă tuyên bố như trên, tác
giả bèn hỏi:
Liệu…
các yếu tố của thuyết xoáy lực nguyên tử có
là các sự kiện kinh nghiệm quen thuộc, thậm chí
khả hữu hay không? Bởi v́, nếu chúng không hề
như vậy, rơ ràng là thuyết này thật nguy hại cho
lời chỉ trích mà người ta cho là đă làm sụp
đổ giả thuyết về tác dụng từ xa (actio
in distans).([166])
Và rồi, lời
chỉ trích đầy thẩm quyền ấy đă
chứng tỏ rơ ràng là ether không và không bao giờ có
thể là cái ǵ, cho dù khoa học có phát biểu ngược
lại đi chăng nữa ( the ether is not,
nor can ever be, notwithstanding all scientific claims to the contrary).
Thế là ông ta đă mở
rộng, cho dù một cách vô thức, cánh cửa dẫn vào
Giáo lư Huyền bí (Occult Teachings). Ấy là v́ ông đă cho
rằng:
Theo
lời phát biểu minh bạch của Giáo sư Lodge
(Tạp chí Thiên Nhiên, Quyển xxvii trang 303) môi trường
phát sinh ra chuyển động xoáy là “một vật
thể hoàn toàn đồng chất, liên tục, không nén
được, không thể phân giải thành ra các yếu
tố hay các nguyên tử đơn giản; thật vậy,
nó liên tục chứ không có tính cách phân tử”. Sau khi phát
biểu như vậy giáo sư c̣n nói thêm: “Chúng ta không
thể nói như vậy về bất cứ vật
thể nào khác, v́ thế các tính chất aether phải hơi
khác với tính chất của vật chất thông
thường”. Như vậy, h́nh như là toàn bộ
thuyết xoáy lực nguyên tử, vốn được
đưa ra thay thế cho “thuyết siêu h́nh” về tác dụng từ xa,
lại dựa vào thuyết về sự tồn tại
của môi trường vật chất mà chưa ai biết
tới và có những tính chất hơi khác (somewhat different)(1)
với các tính chất của vật chất thông
thường. Do đó, thay v́ thu gọn từ một
sự kiện kinh nghiệm xa lạ, thành một sự
kiện quen thuộc (người
ta tự cho như thế), th́ ngược lại,
thuyết này lại biến một sự kiện hoàn toàn
quen thuộc thành ra một sự kiện chẳng những
là xa lạ, mà lại hoàn toàn không được biết
tới, không được quan sát và không thể quan sát
được. Vả lại, không thể có giả
thuyết chuyển động xoáy hay đúng hơn là môi
trường ether, v́ “chuyển động trong một
lưu chất hoàn toàn đồng chất, không nén
được và do đó liên tục” là một chuyển
động không thể tri giác được. Do đó
hiển nhiên là dù cho thuyết xoáy lực nguyên tử có
đặt vào đâu chăng nữa, th́ chắc chắn là nó
sẽ không đặt chúng ta ở bất cứ nơi
đâu trong lănh vực vật lư, hoặc trong lănh vực các
nguyên nhân có thực [real causes].([167])
Tôi có thể nói thêm là bởi v́ môi trường không
biến phân (undifferentiated)([168])
và không thể biến phân theo giả thuyết này rơ rệt
là một sự vô t́nh cụ thể hóa khái niệm bản
thể học cổ truyền về hiện tồn
thuần túy, nên thuyết đang được bàn tới
có mọi thuộc tính của một con ma siêu h́nh
(metaphysical phantom)([169])
không sao hiểu nổi.
212
Thật vậy,
đó là một “con ma” (“phantom”) mà chỉ người nào
quán triệt Huyền bí học mới hiểu nổi.
Từ siêu h́nh học khoa học như thế tới
Huyền bí học chỉ có vừa đúng một bước.
Các nhà vật lư nào vẫn c̣n chủ trương là cấu
tạo nguyên tử của Vật Chất phù hợp
với độ mâu thuẫn của nó, không nên đi
lệch ra khỏi đường lối của ḿnh
để có thể biện minh cho các hiện tượng
trọng đại nhất của Huyền bí học, mà
nay các nhà vật lư và các nhà duy vật chế nhạo. “Các
điểm vật chất không quảng tính” (“material points
without extension”) của Cauchy chính là các Đơn Nguyên (Monads)
của Leibnitz, đồng thời, đó cũng là vật
liệu mà “chư Thiên” (“Gods”) và các Quyền Năng vô h́nh
khác dùng để tạo nên các thể của ḿnh. Dù sao
đi nữa, đối với một ít nhà khoa học
chấp nhận các quan điểm của Cauchy, sự phân
hóa và tái hợp các cấu tử “vật chất” không quảng
tính, với tư cách là một nhân tố chính trong các
biểu lộ hiện tượng, phải nhanh chóng
được xem như là một khả năng rơ rệt
(a clear possibility). Ấy là v́, vận dụng tính
chất của vật chất mà họ gọi là tính
chất bất khả thấu nhập bằng cách chỉ
xem nguyên tử như là “các điểm vật chất tác
dụng lên nhau các sức hút và sức đẩy biến
thiên theo các khoảng cách ngăn cách chúng”, lư thuyết gia
người Pháp giải thích rằng:
Do
đó suy ra rằng Đấng Tạo Hóa chỉ vui ḷng
biến đổi các luật chi phối sự hút và
đẩy lẫn nhau của các nguyên tử, chúng ta có
thể thấy ngay các thể cứng rắn nhất xuyên
thấu lẫn nhau, các cấu tử
vật chất nhỏ nhất chiếm các khoảng
trống bao la, hoặc các khối lượng lớn
nhất thu gọn thành ra các khối lượng nhỏ
nhất, toàn thể vũ trụ tập trung vào một
điểm đơn độc (a single point)(1).
“Điểm” đó,
mặc dù vô h́nh trên
cảnh giới tri giác và vật chất của chúng ta, lại hoàn toàn hữu h́nh
trước mắt bậc Cao đồ (Adept) có thể
theo dơi và thấy nó hiện diện trên các cảnh giới
khác. Đối với các nhà Huyền bí học, những
người này cho rằng Tạo Hóa cũng chính là Thiên Nhiên, một thứ không khác ǵ và bất
khả phân ly với Thượng Đế, suy ra là
những kẻ nào đă quán triệt được các luật Huyền Bí (the Occult
law) của Thiên Nhiên, có thể không
sửa đổi lại các luật, nhưng sẽ
hoạt động với các luật bất di bất
dịch.
213
TIẾT 3
LỰC HẤP DẪN CÓ
PHẢI LÀ MỘT
ĐỊNH
LUẬT HAY KHÔNG?
(IS
GRAVITATION A LAW?)
THUYẾT hạt
đă bị lặng lẽ xếp vào một nơi,
nhưng luật hấp dẫn – nguyên lư cho rằng mọi
vật thể đều hút nhau với một lực
tỷ lệ thuận với khối lượng của
chúng và tỷ lệ nghịch với b́nh phương
khoảng cách của chúng - vẫn c̣n tồn tại
đến ngày nay và thống ngự măi trong giả thuyết
ether của không gian. Với tư cách là một giả
thuyết, nó có nguy cơ bị đào thải v́ không
thể bao hàm được mọi sự kiện hiện
hữu; với tư cách là một luật vật lư, nó
đă từng một thời làm Vua (the King) và chi phối
các chất “Bất khả lượng” (“Imponderables”).
Một người Mỹ sau khi thâm cứu Nữ thần Isis Lộ Diện đă kêu lên rằng: “Nó đâu có kém
phần báng bổ bao nhiêu (It is little short of blasphemy)…
thật là xấu hổ khi ghi nhớ măi 214
đến các nguyên
nhân vật lư chủ yếu có thực. Trong một
đoạn của Nguyên
lư (Principia),(1) ông
đă cho chúng ta biết rơ rệt là xét về mặt
vật lư, hấp lực có phần là sức đẩy (impulses). Trong Tiết xi (Phần dẫn
nhập) ông đă bày tỏ ư kiến là: “Có một chơn linh
tinh anh nào đó dùng sức mạnh và tác dụng của ḿnh
để xác định mọi chuyển động
của vật chất”.(2) Trong Bức
Thư Thứ Ba gởi cho
Bentley, ông cho rằng:
Thật không
thể quan niệm được chất thô sơ vô tri
giác, không có sự trung gian của một thứ nào khác không phải là vật chất mà
lại tác động và ảnh hưởng đến
vật chất khác khi không tiếp xúc đến nó.
Nhưng nếu lực hấp dẫn (theo nghĩa của
Epicurus) lại là bản thể và có sẵn nơi nó, th́
tất nhiên chúng ta sẽ có kết quả trên. Đối
với tôi, việc trọng lực này phải là bản
thể cố hữu bẩm sinh của vật chất sao
cho một vật thể tác động từ xa lên một
vật thể khác qua chân không chứ không có sự trung gian
của bất cứ thứ nào khác có thể truyền tác
động từ vật này sang vật kia, thật là
một điều phi lư. Điều đó phi lư đến
nỗi mà tôi tin là không ai, vốn có năng lực suy tư
về các vấn đề triết học, lại tin
tưởng vào nó. Trọng lực phải được
tạo ra bởi một tác nhân tác động măi măi theo các
định luật nào đó, nhưng tôi xin để cho
các độc giả xét xem liệu
tác nhân này là vật chất hay phi vật chất.
Về vấn
đề này, ngay cả những người đồng
thời với Newton cũng phải khiếp sợ
(frightened) trước sự hiển nhiên là các Nguyên nhân Huyền bí (Occult Causes) đă quay trở về lănh vực
vật lư. Leibnitz gọi nguyên lư hấp dẫn của ông là
“một quyền năng phi vật thể và không sao giải
thích được”. Bernouilli đă gán cho giả thuyết
có một năng lực hấp dẫn và một chân không (void) hoàn toàn là “ghê tởm” (“revolting”),
nguyên lư tác dụng từ
xa cũng chẳng
được ưu đăi hơn ngày nay. Mặt khác, Euler
cho rằng tác động của trọng lực là do
ở Chơn Linh (Spirit) hoặc một môi trường tinh
anh nào đó. Nếu không chấp nhận th́ ít ra
215
Nếu để qua
một bên tất cả các nhà khoa học lỗi lạc
đồng ư với Euler và Leibnitz, nếu các nhà huyền bí
học chỉ dẫn ra thần quyền và sự ủng
hộ của Isaac Newton và Cuvier thôi
(đă dẫn ở trên) th́ họ sợ ǵ khoa học
hiện đại mà chẳng dám công khai và hănh diện công
bố các tín ngưỡng của ḿnh. Nhưng sự do
dự và nghi ngờ của các thần quyền nêu trên
cũng như là của nhiều người khác nữa
(chúng ta có thể nêu ra danh sách của họ) ít ra cũng
cản trở được việc khoa học cứ suy
luận viễn vông trong các lănh vực vật chất thô
sơ như trước. Trước hết, đó là
vật chất và một lưu chất bất khả
lượng phân biệt với nó; rồi tới lưu
chất bất khả lượng mà Grove cực lực
phê phán; rồi tới Aether, thoạt đầu bất liên
tục rồi sau lại liên tục; sau rốt tới các
Lực “cơ học” (the “mechanical” Forces). Các thứ này
đă ổn định thành ra “các cách thức chuyển
động” (“modes of motion”) và Aether đă trở nên huyên bí
và đáng nghi ngờ hơn bao giờ hết. Plato măi
lặp lại yêu cầu độc giả chớ có
lẫn lộn các Hành phi
vật thể (incorporeal Elements) với các NGUYÊN
KHÍ (PRINCIPLES) tức các Hành
tinh thần siêu việt. Các nhà luyện kim đan lỗi
lạc (the great Alchemists), chẳng hạn như Paracelsus
đă dày công phân biệt một hiện tượng với
một nguyên nhân của nó, tức Thực tượng (the
Noumenon). Mặc dù thấy là “không có lư do nào để
tước bỏ các chức
năng chung cho mọi vật
chất của vật chất tràn lan khắp vũ trụ”,
song Grove vẫn sử dụng từ ngữ Lực (Forces) trong lời phê phán của ḿnh, “ông
không gán cho từ ngữ này bất cứ ư niệm nào
về tác dụng chuyên
biệt” (“specific action”). Từ
thời Plato, Paracelsus và Grove cho đến nay, chẳng có ǵ
tỏ ra có đủ khả năng ngăn chận
được làn sóng triều Duy vật thô sơ (brutal
Materialism). Mới cách đây ít năm, các nhà khoa học c̣n dám
nói là các luật hấp dẫn là nguyên nhân duy nhất
(gravitation is the sole cause), Thần Linh tác động, c̣n
Vật Chất là bậc đạo sư của nó (Matter
is its prophet).
Từ lúc đó,
họ đă thay đổi quan điểm nhiều
lần. Nhưng nay, hiện các nhà khoa học có quán
triệt được tư tưởng của 216
chúng ta thấy và
biết trên Trần Thế, các Ngài trị v́ Bầu Trời
Tinh Đẩu (the Sidereal Heaven). Plato tŕnh bày tượng
trưng các hành tinh như là được điều
động bởi một Đấng Quản Trị nội tại (an
intrinsic Rector), Đấng này
đối với chỗ ngự của Ngài, cũng như
là “người lái đ̣ đối với chiếc đ̣”
(“a boatman in his boat”). C̣n về phần Aristotle, ông gọi các
Đấng Tinh Quân này là các “chất liệu phi vật chất” (“immaterial
substances”);([171]) mặc dù vậy, với tư cách là
người chưa được điểm đạo,
ông đă bác bỏ, không xem chư Thiên như là Thực Thể.([172])
Nhưng điều này cũng
không cản được ông nh́n nhận sự kiện là
các ngôi sao và các hành tinh “không phải là các khối vô tri vô
giác, mà thật ra lại là các thể sống động và
chủ động”. Điều này như thể các
chơn linh tinh đẩu (sidereal spirits) là “các phần thiêng
liêng của các hiện tượng”.(1)
Nếu muốn
được bổ chứng trong thời khoa học
hiện đại hơn, chúng ta thấy Tycho Brahé thừa
nhận là trong các ngôi sao có một lực tam phân (thiêng liêng, tinh thần và sinh
lực). Khi kết hợp câu
của Pythagoras “Mặt trời trông chừng Jupiter (Mộc
Tinh)” (“the Sun, guardian of Jupiter”) và các câu thơ của David
“Ngài đặt thánh ṭa của ḿnh trong Mặt Trời” (“He
placed his throne in the Sun”), “Chúa là Mặt Trời” (“the Lord is
the Sun”) v.v. … Kepler nói rằng ông hiểu hoàn toàn
được làm thế nào các môn đồ của Pathagoras
có thể tin tưởng là mọi Bầu (all the Globes)
rải rác khắp không gian đều là các Đấng Thông
Tuệ có lư trí, chu lưu chung quanh Mặt Trời, “trong
đó có một chơn linh lửa thuần túy (a pure spirit of
fire), cội nguồn của sự ḥa hợp nhuần
nhuyễn (the general harmony)”.(2)
Khi một nhà
Huyền bí học đề cập tới Fohat,
Đấng Thông Tuệ điều động và làm linh
hoạt Lưu chất Sinh lực (Vital Fluid) hay lưu
chất Điện Vũ Trụ (the Universal Electric), y
liền bị chế nhạo. Vả lại, giờ đă
rơ ràng là đến nay người ta cũng chưa
hiểu được bản chất của điện,
của cuộc sống, thậm chí của cả ánh sáng
nữa. Nơi biểu lộ của mọi lực trong
Thiên Nhiên, nhà Huyền bí học thấy được tác
động của phẩm tính, hay đặc tính chuyên
biệt của Thực tượng của nó; Thực tượng này là một Đấng Thông Tuệ cá
biệt (intelligent Individuality) ở phiá bên kia của Vũ Trụ cơ giới
biểu lộ (on the other side of the manifested mechanical Universe). Nay nhà Huyền bí học không chối
căi – ngược lại, y c̣n ủng hộ quan điểm
này nữa – là ánh sáng, nhiệt, điện v.v…. đều
là các tác động (affections) chớ không phải các đặc
tính của Vật Chất. Nói rơ hơn: Vật Chất là
điều kiện, cơ sở cần thiết hay
hiện thể, điều kiện tất yếu
để cho các Thần lực (Forces) hay các Tác nhân (Agents)
này biểu lộ trên cảnh giới này.
217
Nhưng để
lănh hội được, các nhà Huyền bí học
phải xét tới các đại biểu của luật
trọng lực dưới mọi dạng – trước
hết là “Lực hấp dẫn, hoàn toàn chi phối Vật
Chất”. Để thực
hiện được điều đó một cách hữu
hiệu, chúng ta nhớ tới giả thuyết dưới
dạng sơ khởi nhất. Để bắt
đầu, liệu
Chúng
ta có thể đưa ra bằng chứng xác định là
Newton đă kế thừa mọi kiến thức về
lực hấp dẫn và các định luật liên hệ
với nó của Boehme; đối với Boehme, Lực
Hấp Dẫn (Gravitation) tức Hấp Lực (Attraction) là
đặc tính đầu tiên của Thiên Nhiên … Ấy là v́
đối với ông, hệ thống Boehme phô bày (shows) cho
chúng ta thấy phía bên trong của vạn vật, trong khi
vật lư học hiện đại chỉ chịu xem xét
phía bên ngoài.
Lại nữa:
Điện
học (the science of electricity), vốn chưa xuất
hiện khi Boehme soạn ra tác phẩm này, lại
được tiên liệu trong đó [trong các tác phẩm
của ông]. Boehme không những mô tả tất cả
mọi hiện tượng mà nay chúng ta biết về
lực này, mà c̣n tŕnh bày với chúng ta nguồn gốc và
sự sản sinh ra điện nữa.
Như thế, Newton, vốn có một học thức uyên bác nên dễ dàng hiểu được “ư tại ngôn ngoại” và t́m hiểu được tư tưởng đạo lư của nhà tiên tri lỗi lạc diễn đạt theo lối huyền học, đă kế thừa khám phá vĩ đại ấy của Jacob Boehme, đứa con thơ của chư Thiên và các Hóa Thân (Nirmănakăya) đang trông chừng và dẫn dắt ông. Tác giả bài báo đang xét đă nhận xét rất đúng về Jacob Boehme như sau:
Mọi
phát minh mới mẻ về khoa học đều chứng
tỏ là ông trực nhận những tác động bí
nhiệm nhất của Thiên Nhiên.
Sau khi đă khám phá ra trọng lực để khiến
cho hấp lực trong không gian có thể tác động
được, có thể nói là
218
Ngày
nay, chúng ta không chủ trương được như
Giáo sư Winchell cho
rằng:
Các
đoạn này [Thư gửi cho Bently] đă chứng
tỏ được đâu là quan điểm của ông
đối với bản chất của môi trường
liên giao liên hành tinh. Mặc dù tuyên bố là: “các tầng trời
không có vật chất hữu h́nh”; ông lại nêu ra ngoại
lệ ở đâu đó: “có lẽ một số hơi
nước loăng và bức xạ xuất phát từ bầu
khí quyển của trái đất, các hành tinh, các sao
chổi và từ một môi trường ether cực kỳ
loăng mà chúng ta đă mô tả ở đâu đó”.([173])
Điều này chỉ
chứng tỏ rằng ngay cả các vĩ nhân như là
Đă
quan tâm tới một vài đoạn lâu nay đă bị
bỏ qua trong các tác phẩm của
Nhưng người ta cũng
chẳng bao giờ quan tâm tới các đoạn nêu trên
trước ngày 28-11-1881, khi Tiến sĩ Hunt đọc
được tác phẩm Hóa Học Thiên Thể từ
thời
Tới
lúc đó đại đa số các nhà khoa học đều
cho rằng, trong khi biện hộ cho thuyết hạt ánh
sáng,
Chắc chắn là các
đoạn đó đă bị “bỏ quên từ bấy lâu
nay” chỉ v́ chúng mâu thuẫn với các lư thuyết tiên
kiến con cưng thời đó (the preconceived pet theories of
the day), măi cho tới khi thuyết sóng ánh sáng cứ nằng
nặc đ̣i (the undulatory theory imperiously required) phải có
một “môi trường ether” để biện minh cho nó.
Toàn bộ bí mật này chỉ có thế thôi.
Dù sao đi nữa, chính v́ thuyết chân không
vũ trụ, mà người ta tin rằng
Thế mà nay Aether
Nguyên Thủy (Father Aether) lại
được nồng nhiệt đón chào và ghép ngay vào hấp dẫn
lực, cùng chia ngọt sẻ bùi, chia cay sẻ đắng
với nó (linked to it for weal or woe), cho đến khi mà cả
hai sẽ lại được thứ khác thay thế. Ba
trăm năm trước đây, khắp nơi
đều dày đặc (plenum), thế rồi nó trở thành một
chân không u ám (dismal vacuity); sau này đáy
biển tinh đẩu (the sideral oceanbeds), mà khoa học
đă làm khô cạn, lại một lần nữa cuồn
cuộn các đợt sóng ether. “Lùi một bước
để thực hiện một bước tiến
nhảy vọt” phải trở thành châm ngôn của khoa
học chính xác – chủ yếu là “chính xác” (“exact”) khi
thấy ḿnh thiếu chính xác vào các năm nhuận (leap year).
219
Nhưng hơi đâu
mà tranh căi với các bậc vĩ nhân. Họ phải quay
về với “chư Thần Linh sơ khai nhất của
Pythagoras và Kanăda cổ truyền” để có
được tinh hoa của các mối tương hệ
đó với các phát minh “mới nhất”; điều này
cũng khiến cho các nhà Huyền bí học tràn trề hy
vọng về các tiểu thần của ḿnh. Chúng ta
vẫn tin vào lời tiên tri của Le Couturier về hấp
dẫn lực. Chúng ta biết rằng đă gần tới
lúc mà chính các nhà khoa học (chẳng hạn như William
Grove, Hội viên Hội Hoàng Gia) sẽ đ̣i hỏi là
phải có một sự cải cách hoàn toàn trong các
phương pháp hiện nay của khoa học. Tới ngày
đó, chúng ta sẽ chẳng c̣n phải làm ǵ nữa.
Bởi v́ nếu ngày mai mà lực hấp dẫn bị
hạ bệ (dethroned) th́ ngay hôm sau, các nhà khoa học sẽ
t́m ra một cách thức chuyển động cơ học
mới mẻ nào đó.(1) Con đường khoa học chân chính
thật là gập ghềnh trắc trở và đầy
dẫy những điều phiền toái. Nhưng trong
số “hàng ngàn” giả thuyết mâu thuẫn
được đưa ra để giải thích các hiện
tượng vật lư, không có giả thuyết nào hay hơn
“chuyển động” – cho dù nó bị Chủ nghĩa duy
vật thuyết minh một cách nghịch lư. Chúng ta có
thể thấy trong các trang đầu của tác phẩm
này là các nhà Huyền bí học không hề phản
đối Chuyển
động,(2) ĐẠI LINH KHÍ (the GREAT BREATH) của “Đấng Bất Khả
Tri” (Unknowable) của Herbert Spencer. Nhưng v́ tin rằng
mọi vật trên trần thế đều là h́nh bóng của một thứ ǵ đó trong Không gian, nên họ tin vào các tiểu Linh khí (smaller “Breaths”) vốn sinh động, thông
tuệ và không phụ thuộc vào ǵ hết ngoại trừ
Thiên Luật; chúng thổi tứ phía trong các chu kỳ khai
nguyên. Khoa học lại bác bỏ các điều này.
Nhưng cho dù chúng ta có thay thế hấp lực, tên khác
của lực hấp dẫn, bằng ǵ đi nữa th́
kết quả cũng sẽ thế thôi. Khoa học cũng
không tài nào giải quyết được các khó khăn
của ḿnh (giống như t́nh trạng hiện nay) trừ
phi nó chịu thỏa hiệp với Huyền bí học,
thậm chí đối với Khoa học luyện kim đan
– đề nghị này sẽ bị xem là láo xược
(impertinence), tuy nhiên, nó vẫn là sự thật. Faye cho
rằng:
Để
nghiên cứu về địa chất ở Mặt
Trăng, các nhà địa chất cũng phải là các nhà
thiên văn học. Thực vậy, để nghiên cứu
vấn đề này một cách hữu hiệu, các nhà thiên
văn học cũng lại phải là các nhà địa
chất.
Nhưng ông có thể nhấn mạnh thêm nữa là:
Cái
mà cả hai đều thiếu chính là trực giác của
nhà huyền học.([175])
220
Nên nhớ rằng Wiliam Grove đă đưa ra
“những nhận xét kết luận” về cấu trúc
cực vi của Vật Chất tức là các chi tiết chính
xác về các tác dụng phân tử mà ông nghĩ là
người ta sẽ không bao giờ biết tới.
Chúng
ta đă tác hại rất nhiều khi cứ cố gắng
mổ xẻ vật chất và thảo luận về h́nh
dáng, kích thước và số lượng của nguyên
tử cũng như là bầu khí quyển, nhiệt, ether
hay điện của chúng. Cho dù có chấp nhận việc
chỉ xem điện, ánh sáng, từ lực v.v… . như là
các chuyển động của vật chất thông
thường đi chăng nữa, th́ cũng có một
điều chắc chắn là mọi lư thuyết thời xưa
và mọi lư thuyết hiện nay đều đă và đang
phân giải tác động của các lực này thành ra
chuyển động. Có thể là v́ quen thuộc với
chuyển động nên chúng ta cứ quy cho nó các tác
động khác với một ngôn ngữ dễ phân tích
nhất và có khả năng giải thích chúng nhiều
nhất. Cũng có thể là thật ra, đó là cách thức
duy nhất mà trí năo của chúng ta – khi xét phân biệt
với các giác quan – có thể quan niệm được các
tác nhân vật chất. Dù sao đi nữa, có một
điều chắc chắn là từ khi mà người ta
đă dùng tới các khái niệm huyền bí về các
thần thông để giải thích các hiện tượng
vật lư, th́ mọi giả thuyết được
dựng nên để giải thích chúng đều phân
giải chúng thành ra chuyển động.
Thế rồi, học giả ấy lại phát biểu một giáo điều huyền bí thuần túy:
Bản
thân từ ngữ chuyển động không ngừng
(perpetual motion), mà tôi ít khi sử dụng trong tác phẩm này,
thật là tối nghĩa. Nếu các học thuyết
được xiển dương ở đây mà có cơ
sở vững chắc, th́ theo một ư nghĩa nào đó,
mọi chuyển động đều không ngừng.
Nhiệt hay chuyển động của các cấu tử
được sản sinh ra trong các khối vật thể
bị chặn lại v́ đụng chạm nhau. Thế
rồi chuyển động lại tiếp tục sao cho
nếu chúng ta dám mở rộng các tư tưởng
như vậy ra tới phạm vi vũ trụ, chúng ta
sẽ thấy cũng một lượng chuyển
động như thế ảnh hưởng măi măi tới
cũng một lượng vật chất như vậy.
Huyền bí học cũng chủ trương như vậy theo cùng một nguyên tắc sau:
Khi
ta dùng lực hóa giải lực và tạo ra sự cân
bằng tĩnh (static equilibrium), th́ cán cân quân b́nh cố
hữu cũng bị ảnh hưởng, và lại bắt
đầu có một chuyển động mới
tương đương với nhịp rút lui vào trong
một t́nh trạng đ́nh chỉ tạm thời.(1)
Tiến tŕnh này cũng bị ngắt quăng
bởi các
221
Như vậy,
giả sử chúng ta phải bỏ hấp lực hay
lực hấp dẫn v́ Mặt Trời là một nam châm khổng lồ (a huge
magnet) – thuyết này đă
được một số nhà vật lư chấp nhận
– một nam châm tác dụng lên các hành tinh một hấp
lực giả định, th́ điều này sẽ đưa
các nhà thiên văn học đi về đâu và đi
được thêm bao xa? Chẳng thêm được
một tí nào hết. Kepler đă đi tới “giả
thuyết kỳ diệu” này gần 300 năm trước.
Ông đă chẳng khám phá ra thuyết hấp lực và
cự lực trong Vũ Trụ, v́ từ thời Empedocles,
người ta đă gọi hai lực đối lập
đó là “thương” (“love”) và “ghét” (“hate”) – các từ
ngữ này bao hàm cùng một ư niệm. Nhưng Kepler đă mô
tả từ lực vũ trụ một cách rất tài
t́nh. Nếu từ lực đó mà tồn tại trong Thiên
Nhiên th́ chắc chắn là lực hấp dẫn sẽ không
tồn tại. Theo khoa học, th́ không phải lúc nào
cũng vậy; khoa học chẳng bao giờ xét tới các
cách thức tác động khác nhau bên trong Thái Dương
Hệ và bầu khí quyển của Trái Đất và vượt ra ngoài Vũ Trụ, của cái lực
lưỡng phân mà Huyền bí học gọi là hấp
lực và cự lực.
Vĩ nhân Humbold đă cho rằng:
Cho
đến nay, không gian xuyên qua thái dương chưa
hề tỏ ra có một hiện tượng ǵ
tương tự với thái dương hệ của
chúng ta. Thái dương hệ của chúng ta thật là
đặc thù v́ vật chất đă đông đặc
lại bên trong nó thành ra các vành tinh vân; nhân của các vành này
lại đông đặc thành ra địa cầu và
mặt trăng. Tôi xin nhắc lại: trước đây,
người ta cũng chẳng hề quan sát
được bất cứ thứ ǵ thuộc loại
đó bên ngoài hành tinh hệ của chúng ta.([176])
Đúng là từ
năm 1860, khi thuyết tinh vân ra đời và đă
được hiểu biết nhiều hơn, th́
người ta đă giả sử là có một ít hiện
tượng giống như vậy bên ngoài Thái Dương
Hệ. Song bậc vĩ nhân đó thật là chí lư;
người ta không thể t́m thấy địa cầu hay mặt trăng nào, trừ phi xét một cách biểu kiến – vượt quá hoặc cùng loại
Vật Chất hiện hữu trong Thái Dương Hệ
của chúng ta. Giáo lư Huyền bí như thế đấy.
Chính Newton đă
chứng tỏ điều này; ông đă thú nhận là có
nhiều hiện tượng trong Thái Dương Hệ
chúng ta mà ông không thể dùng lực hấp dẫn
để giải thích được; “đó là chuyển
động của các hành tinh có tính đẳng
hướng, quỹ đạo của chúng gần như là
có dạng h́nh tṛn, và chúng quy chiếu một cách đáng
kể về một mặt phẳng” (“such were the uniformity
in the directions of planetary movements, the nearly circular forms of the
orbits, and their remarkable conformity to one plane”).(1)
Nếu chỉ có một ngoại lệ thôi, th́ luật
hấp dẫn cũng đâu có quyền được
gọi là một luật đại đồng vũ
trụ. Người ta cho biết là: (2)
“Trong ‘Tổng Giảng Lư’,
222
Nhưng chúng tôi xin
hỏi các nhà thiên văn học thời Trung cổ là
tại sao Kepler lại bị tố cáo là phản khoa học nhất, chỉ v́ đă tŕnh bày một
giải pháp giống như Newton, có điều là ông đă
tỏ ra nhiệt thành hơn, thích hợp hơn, thậm
chí có lư hơn? Có ǵ khác nhau giữa “Thực Thể toàn
năng” của Newton và các Đấng Chủ Tŕ (các
Luật Tinh Đẩu và Vũ Trụ, tức là các Thiên
Thần) của Kepler? Kepler lại bị chỉ trích v́
“”giả thuyết quái gở của ông đă dùng tới
một chuyển động xoáy trong nội bộ thái
dương hệ (a vortical movement within the solar system)”, v́ các
lư thuyết của ông nói chung, và v́ ủng hộ ư niệm
của Empedocles về hấp lực, cự lực và
“từ khí thái dương” (“solar magnetism”) nói riêng. Thế
nhưng, nhiều nhà khoa học hiện đại – R. Hunt
(nếu không kể Metcalfe); Tiến sĩ B. W. Richardson –
cũng nhiệt liệt ủng hộ ư niệm này. Tuy
nhiên, ông chỉ được tha lỗi có một
phần, v́ người ta viện cớ là:
“Cho
tới thời Kepler, người ta chưa hề nhận
ra rơ rệt được bất cứ sự
tương tác nào giữa các khối vật chất mà nói
chung lại khác với từ khí.”([177])
Nay nó đă
được người ta nhận ra rơ ràng chưa? Liệu Giáo sư Winchell có
mang lại cho khoa học bất cứ kiến thức kinh
nghiệm nào về bản chất của điện
hoặc từ lực (ngoại trừ việc cả hai h́nh như đều là
các tác dụng của một hệ quả nào đó
xuất phát từ một nguyên nhân vô định) chăng?
Khi đă loại bỏ đi các khuynh
hướng thần học, các ư kiến của Kepler toàn
là huyền bí học cả. Ông thấy rằng:
1. Mặt Trời là
một Nam Châm khổng lồ.([178])
Một vài nhà khoa học hiện đại cũng như
là các nhà Huyền bí học, cũng tin tưởng như
vậy.
2. Chất liệu
cấu thành Mặt Trời lại là phi vật chất.([179])
Dĩ nhiên điều này có nghĩa đó là Vật Chất
tồn tại ở những trạng thái mà khoa học
không hề biết tới.
3.
Ông đă gán cho một Chơn linh hay các Chơn Linh việc
chăm sóc măi măi chuyển động thường hằng
và sự phục hồi năng lượng của Mặt
Trời cũng như là chuyển động của hành
tinh. Dân chúng thời xưa đều tin tưởng
như thế cả. Các nhà Huyền bí học không dùng
từ Chơn Linh (Spirit), mà lại gọi đó là các
Thần Lực Sáng Tạo (Creative Forces) và gán cho chúng
trí thông tuệ. Nhưng chúng ta cũng có thể gọi
chúng là các Chơn Linh. Chúng ta sẽ bị trách là sao mà mâu
thuẫn như thế. Người ta sẽ cho rằng
trong khi chối bỏ Thượng Đế, chúng ta lại
thừa nhận Linh Hồn và các Chơn Linh tác động (operative
Spirit) và trích dẫn các tác giả ngu tín (begoted) Thiên Chúa giáo
La Mă để bênh vực cho luận cứ của
ḿnh. Chúng tôi xin đáp: “Chúng tôi chỉ chối bỏ
Thượng Đế nhân
h́nh (the anthropomorphic God) của
các tín đồ phái Độc Thần
(the Monotheists) chứ không bao giờ chối bỏ Nguyên Khí
Thiêng Liêng trong Thiên Nhiên (the Divine Principle in Nature). Chúng tôi
chỉ phản đối các tín đồ Tin Lành và các tín
đồ Thiên Chúa giáo La Mă về một số tín
điều thần học do con người và các giáo phái chế
ra. Chúng tôi đồng ư với họ trong việc tin
tưởng vào các Chơn Linh và các Quyền Năng tác
động thông tuệ, mặc dù chúng
tôi không tôn thờ “các Thiên Thần” như là các tín
đồ Thiên Chúa giáo La Mă.
223
Người ta cấm đoán lư thuyết này
chủ yếu là v́ “Chơn Linh” ngự trong đó hơn là
v́ bất cứ thứ nào khác. Herschel trưởng
thượng (Herschel, the elder) cũng tin vào nó và nhiều nhà
khoa học cũng vậy. Tuy nhiên, Giáo sư Winchell đă
cho rằng: “Xưa nay chưa hề có một giả
thuyết nào hoang đường hơn và ít phù hợp
với các yêu cầu theo nguyên tắc vật lư học
hơn.([180])
Đôi khi người ta cũng phê b́nh như
vậy về ether vũ trụ; thế mà nay, nó chẳng
những đă được miễn cưỡng chấp
nhận, mà lại c̣n được suy tôn là thuyết duy
nhất có thể giải thích được một vài bí
nhiệm.
Khi Grove phát biểu
các ư kiến của ḿnh lần đầu tiên tại Luân
Đôn vào năm 1840, người ta đă tố cáo chúng là phản khoa học, thế nhưng, quan điểm
của ông về sự Tương hệ (the Correlation)
của các Lực nay đă được chấp nhận
rộng răi trên toàn thế giới. Rất có thể là
cần phải có một người giỏi khoa học
hơn tác giả để thắng lướt
được một vài quan niệm thịnh hành hiện
nay về lực hấp dẫn và các “giải pháp”
tương tự của các Bí nhiệm Vũ Trụ (Cosmic
Mysteries). Nhưng chúng ta hăy nhớ lại là các nhà khoa
học trứ danh – từ các nhà thiên văn học cho
tới các nhà vật lư lỗi lạc – đều bác
bỏ thuyết sự quay cũng như là thuyết
lực hấp dẫn. Thế mà, trong Bách Khoa Từ
Điển Pháp, lại có
nói rằng: “Trước mặt các đại diện
của ḿnh, khoa học, cũng đồng ư là không thể
giải thích được nguồn gốc vật lư
của chuyển động quay của thái dương
hệ”.
Nếu hỏi rằng: “Cái ǵ gây ra sự quay?”
Người ta sẽ trả lời là: “Nó chính là lực ly
tâm.” Thế th́ cái ǵ tạo ra lực ly tâm?” Người ta
sẽ nghiêm chỉnh trả lời là “Lực quay”.1 Có
lẽ chúng ta nên xem cả hai thuyết này như có liên
hệ trực tiếp hay gián tiếp với nhau.
224
TIẾT 4
CÁC THUYẾT
VỀ SỰ QUAY TRONG KHOA HỌC
(THE THEORIES OF
ROTATION IN SCIENCE)
XÉT v́ “người ta đă tuyên bố rằng
nguyên nhân tối hậu là một điều hăo huyền,
và đă xếp Đại Nguyên Nhân Bản Sơ (the First
Great Cause) vào lănh vực Bất Khả Tri” (“Unknown”) (một
nhà quư tộc đă phàn nàn thật là chí lư như thế) nên
có khá nhiều giả thuyết được tŕnh bày
rất mù mờ. Môn sinh phàm tục (the profane student) bị
hoang mang và không c̣n biết phải tin tưởng vào khoa
học chính xác nào nữa.
Dưới đây, chúng tôi xin tŕnh bày đủ mọi
giả thuyết thích hợp với mọi thị hiếu
và năng lực suy tư. Tất cả đều
được trích ra từ một số các tác phẩm
khoa học.
CÁC GIẢ
THUYẾT HIỆN ĐẠI GIẢI THÍCH
NGUỒN GỐC CỦA SỰ QUAY
(CURRENT
HYPOTHESES EXPLAINING
THE
ORGIN OF ROTATION)
Sự quay có nguồn gốc là:
a. Sự đụng chạm của các
khối tinh vân đi lang thang trong Không gian (By the collision of
nebular masses wandering aimlessly in Space), hoặc là hấp lực (attraction) “trong trường hợp mà không có
sự va chạm nào thực sự xảy ra.”
b. Tác dụng tiếp giáp của các luồng
vật chất tinh vân (trong trường hợp một tinh
vân vô định h́nh – an amorphous nebula) từ các mức cao
giáng xuống các mức thấp,([181])
hoặc chỉ là tác dụng của trọng lực trung tâm
của khối đó. (2)
Trong Sinh Hoạt
Thế Giới, Giáo sư Winchell đă nhận xét về
vấn đề này như sau : (3)
“Trong vật lư học, có một nguyên lư cơ bản là
không thể tạo ra một
sự quay trong một khối như thế do tác dụng
của chính các phần tử của nó. Điều này
cũng chẳng khác ǵ việc ra sức làm đổi
hướng một chiếc tàu bằng cách kéo cái bao lơn
của bong tàu”.
CÁC GIẢ
THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC CỦA
CÁC HÀNH TINH VÀ SAO CHỔI
(HYPOTHESES
OF THE ORIGINOF PLANETS AND COMETS)
(a) Các hành
tinh được sản sinh ra là do ở: (1) Mặt Trời
bị nổ tung – khối trung ương sinh sôi nảy
nở; (4) hay là (2) các vành
tinh vân bị đứt (disruption) ra theo một cách nào
đó.
(b)
225
“Các
sao chổi từ bên ngoài đến thăm hành tinh hệ
của chúng ta”. (1) “Các
sao chổi dứt khoát là được sản sinh ra trong
thái dương hệ của chúng ta”. (2)
(c)
Theo một nhân vật có thẩm
quyền, “các định tinh không hề chuyển
động”. Theo một nhân vật có thẩm quyền khác
th́ “Mọi v́ sao đều đang chuyển động”.
“Chắc chắn là mọi ngôi sao đều đang
chuyển động”.(3)
(d) “Trong
hơn 350 000 000 năm, chuyển động chậm
chạp và huy hoàng của mặt trời xung quanh trục không
bao giờ ngừng nghỉ một giây phút nào”.(4)
(e) “Maedler
tin rằng … mặt trời của chúng ta đi theo một
quỹ đạo với tâm điểm là sao Alcyone trong
cḥm sao Rua (the Pleiades) và phải mất 180 000 000 năm
để hoàn thành một ṿng quay đơn”.(5)
(f)
“Mặt trời đă tồn
tại chưa đầy 15 000 000 năm nay và sẽ
chỉ c̣n tỏa nhiệt trong ṿng không đầy 10 000 000
năm nữa”.(6)
Cách đây ít năm, nhà khoa học lỗi
lạc này đă cho thế giới biết là thời gian mà
trái đất cần để nguội bắt
đầu từ lúc tạo lập vỏ cho tới t́nh
trạng hiện nay, không thể vượt quá 80 000 000
năm.([183])
Nếu thời kỳ tạo lập của vỏ
địa cầu chỉ có 40 000 000 năm tức là
một nửa thời gian cho phép, và nếu Mặt Trời
chỉ mới xuất hiện được 15
000 000 năm, th́ liệu chúng ta có thể hiểu
được là có một lúc nào đó Trái Đất không hề
phụ thuộc vào Mặt Trời chăng?
V́ tuổi Mặt Trời, của các hành tinh và
của Địa Cầu, như đă được tŕnh
bày trong nhiều giả thuyết khoa học khác nhau của
các nhà thiên văn học và của các nhà vật lư học, sẽ
được tŕnh bày đâu đó dưới đây, nên
như thế cũng đủ để chứng tỏ
sự bất đồng ư kiến giữa các nhà khoa
học hiện đại. Cho dù chúng ta có chấp nhận
là Thái Dương Hệ đă bắt đầu quay từ
mười lăm triệu
năm nay (the Sir William Thomson) hay từ một tỷ năm nay (theo Giáo sư T. H. Huxley)
th́ chúng ta vẫn cứ luôn luôn đi tới cùng một
kết luận. Đó là: khi chấp nhận là các thiên
thể - vốn cấu thành bởi Vật Chất trơ song vẫn di chuyển
do chuyển động nội
tại riêng của chúng – vẫn tự quay trong hàng
triệu năm, khoa học đă đạt tới
mức:
a. Công khai chối bỏ luật vật lư
cơ bản vốn xác định là: “một vật
thể đang chuyển động bao giờ cũng có
khuynh hướng quán tính, nghĩa là cứ tiếp tục
đứng yên hay chuyển động y như vậy,
trừ phi có một lực tác động siêu đẳng kích
thích tác động thêm nữa”.
b. Tạo ra một xung lực nguyên thủy, nó
đạt tột đỉnh thành ra một chuyển
động bất biến trong nội bộ một
chất Ether cản trở (within
a resisting Ether) mà
226
c. Khoa học dạy là trọng lực vũ
trụ (universal gravity) luôn luôn hướng theo
đường thẳng đi xuống về phía trung tâm;
chính điều này đă tạo ra chuyển động
quay của toàn thể Thái Dương Hệ; đó là
một sự xoay tṛn lưỡng phân vĩnh cửu,
mỗi vật thể quay chung quanh trục của ḿnh và
quanh quỹ đạo. Có một lối thuyết minh khác
như sau:
d. Mặt Trời là một nam châm. Chuyển
động quay nêu trên là do một từ lực tác
dụng, giống như lực hấp dẫn, theo một
đường thẳng và tỷ lệ nghịch với
b́nh phương của khoảng cách.(1)
e. Toàn thể đều tác động theo các
luật bất di bất
dịch, tuy nhiên, nhiều khi chúng cũng thay đổi,
chẳng hạn như khi các hành tinh và các thiên thể khác
bỗng nổi cơn bốc đồng (freaks), cũng
như là khi các sao chổi tiến tới gần hoặc
lùi ra xa khỏi mặt trời.
f.
Một động lực luôn luôn tỷ lệ với
khối lượng mà nó tác dụng vào, nhưng lại độc lập với
bản chất chuyên biệt (the specific nature) của
khối lượng này. Điều này đưa tới
phát biểu của Le Couturier như sau:
Nếu
không có cái lực vốn độc lập và có một
bản chất hoàn toàn khác với khối lượng cho
sẵn, th́ cho dù lớn như Saturn, hay nhỏ như thiên
thể Ceres, khối lượng vật thể đó bao
giờ cũng rơi với tốc độ như nhau.(2)
Vả lại, từ khối lượng suy
ra trọng lượng th́ c̣n tùy thuộc vào vật thể
đem cân.
Như thế, các tri giác của Laplace về
một lưu chất khí quyển thái dương lan
rộng ra bên ngoài quỹ đạo của các hành tinh,
điện của Le Couturier, nhiệt của Foucault ([184])
đều không giúp được ǵ cho vô số giả
thuyết về nguồn gốc và sự thường tồn của chuyển động
quay để thoát ra khỏi bánh xe lồng xóc này (this
squirrel’s wheel), chẳng khác nào chính thuyết động
lực. Bí nhiệm này là một định chế áp
đặt của vật lư học. Nếu Vật Chất
có tính thụ động (hiện nay người ta dạy
như thế đó), th́ chúng ta không thể bảo rằng
chuyển động đơn giản nhất là một
bản tính của Vật Chất – Vật Chất
được xem như chỉ là một khối trơ.
Thế th́, làm sao mà một chuyển động phức
tạp, phức hợp và trùng phức (compound and multiple),
hài ḥa, cân bằng, kéo dài hàng triệu năm như thế
được qui cho chỉ độc có lực cố
hữu của nó mà thôi, trừ phi lực này là một Đấng Thông Tuệ (an Intelligence)? Một ư chí vật lư (physical will) là một điều ǵ mới mẻ -
thật vậy, đó là một quan niệm mà cổ nhân
sẽ không bao giờ chấp nhận ! Trong hơn một
thế kỷ, người ta sẽ dẹp đi hết
mọi sự phân biệt giữa vật thể và lực.
Nhà vật lư học cho rằng “Lực chẳng qua chỉ
là tính chất của một vật thể đang
chuyển động”. Nhà sinh lư học lại cho rằng:
“Sự sống - tính chất
của các cơ quan động vật của chúng ta –
chẳng qua chỉ là kết quả của các bố trí
phân tử của chúng”. Littré dạy như sau:
227
Trong
ḷng cái khối tập hợp được gọi là hành
tinh đều có triển khai mọi lực nội tại
trong vật chất …Điều này nghĩa là vật
chất đó sở hữu nơi chính ḿnh và thông qua ḿnh các
lực thích hợp với chính ḿnh …chúng có tính chất
chủ yếu chứ không phải là thứ yếu. Các
lực đó là tính chất của trọng lượng,
của điện, của địa từ, của
cuộc sống…Mọi hành tinh đều có thể phát
triển sự sống… (chẳng hạn như địa
cầu) mà không phải là bao giờ cũng có sẵn nhân
loại trên đó, rồi nay mới sản sinh loài
người.([185])
Một nhà thiên văn học cho rằng:
Chúng
ta cứ bàn về trọng lượng của các thiên thể,
nhưng v́ người ta nhận thấy là trọng
lượng giảm tỷ lệ thuận với
khoảng cách tới tâm điểm ấy, nên hiển nhiên
là ở một khoảng cách nào đó, trọng
lượng ấy bắt buộc phải giảm
xuống zero. Nếu có bất cứ hấp lực nào, th́
sẽ có sự quân b́nh … Và v́ trường phái hiện
đại không hề thấy cái ǵ ở trên hay ở
dưới không gian vũ trụ, nên không rơ là cái ǵ sẽ
khiến cho trái đất rơi xuống nếu không có
lực hấp dẫn cũng như là hấp lực.([186])
Dường như là Bá tước de Maistre
thật là chí lư khi giải quyết vấn đề này
theo lối thần học của riêng ḿnh. Ông đă
giải quyết được vấn đề phức
tạp (the Gordian knot) này bằng cách cho rằng: “Các hành tinh
quay v́ chúng bị khiến cho quay… hệ thống vật lư
hiện đại về vũ trụ là một
điều không thể có được trong vật lư học”.([187])
Herschel đă chẳng tuyên bố giống như vậy khi
ông nhận xét là cần có một
Ư chí để truyền một chuyển động
tṛn và một Ư chí khác
để kiềm chế nó lại đấy ư? ([188])
Điều này chứng tỏ và giải thích được
làm thế nào mà một hành tinh chậm
trễ có đủ khôn ngoan để tính toán
được thời gian chính xác đến mức mà có
thể giữ cho nó đến đích vào một giây phút
nhất định nào đó. Ấy là v́ đôi khi khoa
học cũng thành công trong việc giải thích
được một cách khéo léo một vài sự đ́nh
trệ, chuyển động giật lùi, các góc ngoài quỹ
đạo v.v…. như thế - xét về mặt biểu
kiến – dựa vào sự việc các hành tinh đó và hành
tinh chúng ta lần lượt đi theo các quỹ
đạo không bằng nhau. Tuy nhiên, chúng ta lại biết
rằng c̣n có nhiều điều khác, “các vụ đi chệch
đường thực sự rất đáng kể”, theo
Herschel, “không thể giải thích được nếu
không xét tới tác động hỗ tương bất
thường của các hành tinh này và tác dụng nhiễu
loạn của mặt trời”.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng ngoài các
nhiễu loạn ngẫu nhiên và nhỏ bé này ra, c̣n có các
nhiễu loạn liên tục được gọi là các
nhiễu loạn “trường kỳ” (“secular”), v́ tính không
đều tăng lên rất chậm và ảnh hưởng
tới các quan hệ của chuyển động ellíp (the
elliptic movement), các nhiễu loạn này có thể được hiệu chỉnh. Từ
Newton xuống măi tới Reynaud, tất cả đều
thấy rằng thế giới này cần được
chỉnh đốn lại thường xuyên. Trong quyển
Trời và Đất, Reynaud
cho rằng:
Quỹ
đạo của các hành tinh c̣n lâu mới ổn
định và bất biến, ngược lại, vị
trí và h́nh dạng nó cứ bị biến đổi măi. ([189])
Người ta trở nên thờ ơ với
việc chứng minh luật
hấp dẫn và các luật tiêu dao (the peripatetic laws) v́ chúng đă nhanh chóng
hiệu chỉnh lại những lầm lỗi của
ḿnh. Như vậy, lời tố cáo h́nh như là thế
này:
Các
quỹ đạo này cứ luân phiên nhau rộng ra và
hẹp lại, trục lớn của chúng cứ dài ra
rồi ngắn lại, hoặc dao động đồng
thời từ phải sang trái, xung quanh mặt trời. Chính
mặt phẳng chứa các quỹ đạo này cũng lên
xuống một cách tuần hoàn trong khi quay xung quanh chính ḿnh
với một loại rung động nào đó.
228
Về vấn đề này, De Mirville, kẻ
tin tưởng vào các “tác nhân” (“workmen”) thông tuệ điều khiển Thái Dương
Hệ một cách vô h́nh – chúng ta cũng tin như vậy –
đă nhận xét rất sắc sảo là:
Đây
chắc chắn là một cuộc hành tŕnh chẳng có
được bao nhiêu mức độ chính xác của máy
móc. Xét cho cùng, người ta có thể so sánh nó với
một chiếc tàu, bị đẩy tới đẩy
lui, bị sóng vỗ lên vỗ xuống, bị tŕ hoăn
hoặc được gia tốc. Mỗi một và tất
cả các chướng ngại này đều có thể làm
tŕ hoăn đến mức vô định sự tới đích
của nó, nếu không có viên hoa tiêu và các kỹ sư
đủ thông minh để lấy lại thời gian
đă mất và hiệu chỉnh các thiệt hại. ([190])
Tuy nhiên, luật trọng lực h́nh như
đang trở nên lạc
hậu trên bầu trời tinh đẩu. Dù sao đi
nữa, các cái Rễ tinh đẩu tóc dài (long-haired sidereal Radicals), được
gọi là sao chổi, dường như chẳng tôn
trọng bao nhiêu định luật tuyệt mỹ đó,
lại c̣n chế nhạo nó một cách thật là vô liêm sỉ
nữa (impudently). Mặc dù về hầu hết mọi
mặt, các sao chổi và sao băng vẫn c̣n là “các hiện
tượng chưa được hiểu biết
trọn vẹn”, song le, khoa học hiện đại
vẫn tin rằng chúng tuân theo các định luật và
được cấu thành từ vật chất,
“giống như là mặt trời, các v́ sao, tinh vân” thậm
chí “cả trái đất với các cư dân của nó
nữa”. ([191])
Đây chính là cái mà ta có thể gọi là tin
tưởng vào các sự việc một cách mù quáng. Thế nhưng, người ta
không cần đặt câu nghi vấn với khoa học chính xác, và kẻ nào bỏ các
giả thuyết do các nhà khoa học tưởng
tượng ra – chẳng hạn như luật hấp
dẫn – sẽ bị xem
như là ngu xuẩn, dốt nát, tội nghiệp cho nó (his
pains). Thế mà, tác giả vừa được trích
dẫn ở trên đă kể cho chúng ta nghe một huyền
thoại kỳ quặc trong các niên giám khoa học như sau:
Sao
chổi năm 1811 có một đuôi dài 120 triệu dặm,
đường kính phần rộng nhất lên tới 15
triệu dặm, c̣n đường kính của nhân là 127 300
dặm, tức là hơn mười lần
đường kính của trái đất.
Để
cho các vật thể lớn như vậy đi qua gần
địa cầu mà không hề ảnh hưởng tới
chuyển động của nó hoặc là thay đổi thời
gian của một năm chỉ lệch đi mất có
một giây thôi, th́ chất liệu của nó cũng
phải tinh anh (đúng nguyên văn : rare -> loảng –
Người hiệu đính) không thể tưởng
tượng được.
Đúng ra th́ nó phải thế, song:
Hiện
tượng đuôi sao chổi cũng chứng tỏ
được là khối lượng của một sao
chổi cực nhỏ. Khi sao chổi tiến tới
gần mặt trời, đuôi của nó khi ló ra dài tới
90 triệu dặm trong vài giờ. Và kỳ diệu thay,
một sức đẩy nào đó (có lẽ là điện
lực) đă lôi cái đuôi đó ra (ngược lại
với trọng lực) sao cho nó luôn luôn hướng cách xa
ra khỏi mặt trời [!!!]… Thế mà, cho dù vật
chất của sao chổi có loăng cách mấy đi nữa,
nó vẫn cứ tuân theo luật trọng lực [ !?] và dù là
sao chổi quay theo một quỹ đạo ở bên trong
quỹ đạo của các hành tinh ở ngoài, hay là nó
sẽ phóng vào trong các vực thẳm của không gian và
chỉ trở lại sau hàng trăm năm bất cứ
lúc nào mà quỹ đạo của nó được
điều chỉnh bởi chính lực đă khiến cho
một trái táo rơi xuống đất. ([192])
229
Khoa học giống như phu nhân của Caesar
(Caesar’s wife), nên hiển nhiên là chúng ta không được
nghi ngờ nó. Tuy nhiên, chúng ta có thể kính cẩn phê b́nh nó,
và dù sao đi nữa, nên nhớ rằng “trái táo” là một
trái cây nguy hiểm. Lại một lần nữa, trong
lịch sử nhân loại, nó có thể trở thành nguyên
nhân của sự SỤP ĐỔ
(FALL) –lần này là sự suy sụp của khoa học
“chính xác”. Chúng ta khó ḷng mà có thể tin rằng một sao
chổi có cái đuôi dám thách đố cả luật
trọng lực ngay trước mặt Vầng Thái
Dương (Sun’s face), mà lại tuân theo luật đó.
Tác giả - vốn c̣n thô thiển trong lănh vực khoa học – đă đếm được, trong ṿng một ít giờ, trong một loạt các tác phẩm khoa học bàn về thiên văn học và thuyết tinh vân (được soạn ra giữa các năm 1865 và 1866) ít nhất là cũng có tới ba mươi chín giả thuyết mâu thuẫn nhau được đưa ra để giải thích cho chuyển động quay sơ khởi, tự sinh của các thiên thể. Tác giả không phải là một nhà thiên văn học, không phải là nhà toán học mà cũng không phải là một nhà khoa học. Tuy nhiên, tác giả bắt buộc phải xét tới các sai lầm để bảo vệ cho Huyền bí học nói chung và – có một điều c̣n quan trọng hơn nữa là – để bênh vực các Giáo lư Huyền bí liên quan tới thiên văn học và vũ trụ luận. Các nhà Huyền bí học bị đe dọa là sẽ bị trừng phạt khủng khiếp v́ cả gan nghi ngờ các chân lư khoa học. Nhưng nay họ cảm thấy can đảm hơn; khoa học không hề có một địa vị “vững vàng” (“impregnable”) như người ta thường mong đợi, nhiều lâu đài của nó đă được xây trên cát.
Như thế,
ngay cả việc xét tới khoa học một cách sơ
lược và phản khoa học cũng vẫn có ích
như thường, chắc chắn là nó sẽ cung ứng
cho chúng ta nhiều kiến thức. Thật vậy chúng ta
đă học được nhiều điều sau khi
đă đặc biệt nghiên cứu cẩn thận các
dữ kiện thiên văn rất có thể mâu thuẫn
với các tín ngưỡng phi chính thống và “dị
đoan” của chúng ta.
Chẳng hạn như xét về lực
hấp dẫn, chúng ta thấy các chuyển động theo
quỹ đạo và theo trục, chuyển động
đồng bộ, đă từng một thời rất
được phổ biến trong giai đoạn
đầu; điều này cũng đủ để phát
khởi một chuyển động quay cho tới cuối
230
cơ năng của nó ra dưới h́nh
thức sự quay, nó tác dụng như thế đó.
Khối đó, hoặc là bùng ra thành một đám cháy
tự phát, hoặc là vẫn cứ trơ trơ, tối
tăm, lạnh lẽo; cả hai trạng thái này
đều có thể khiến cho nó quay tṛn trong không gian
cả triệu năm mà không có một nguyên nhân thỏa đáng nào cả.
Thuyết
tinh vân “không hề tuyên bố
là ḿnh đă t́m ra NGUỒN GỐC của vạn vật, mà
chỉ t́m ra được một giai đoạn trong
lịch sử của vật chất”.([194])
Hàng triệu mặt trời, hành tinh và vệ tinh (cấu thành bởi vật chất trơ) sẽ quay một cách cân đối tuyệt vời xung quanh mặt trời. Bất chấp quán tính, “chúng sẽ chỉ chuyển động theo sự chỉ đạo của chuyển động nội tại của riêng chúng”.
Sau khi đă
được biết như thế, liệu chúng ta có c̣n
ngạc nhiên nữa không nếu các nhà huyền học trí
thức, các tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă ngoan đạo,
thậm chí cả các nhà thiên văn học lỗi lạc
như là Chaubard và Cadefroy ([195])
lại thích Thánh kinh Kabalah và các hệ thống cổ
truyền hơn là lối tŕnh bày buồn tẻ và mâu
thuẫn hiện nay về Vũ Trụ? Dù sao đi
nữa, Thánh kinh Zohar cũng phân biệt giữa “Hajaschar [các ‘Lực
Lượng Quang Minh’ (the ‘Light Forces’], Hachoser [‘Ánh Sáng
Phản Chiếu’ (Reflected Lights’] với sự hiển lộ ra ngoại cảnh của
các kiểu mẫu tinh thần của chúng (their spiritual
types)”. ([196])
Nay chúng ta có thể bỏ qua vấn đề
“trọng lực” và xét tới các giả thuyết khác. Rơ
rệt là vật lư học chẳng biết ǵ về các
“Lực”. Tuy nhiên, chúng ta có thể kết thúc luận
chứng này bằng cách cầu cứu tới một nhà
khoa học nữa – Giáo sư Jaumes; Viện sĩ Hàn Lâm Y
Khoa
Một
nguyên nhân chủ yếu là cái đang tác động trong
tập hợp các hiện tượng, trong mọi sự
sinh sản, cũng như trong mọi sự biến hóa. Tôi
cho rằng hoạt động (tức lực) này thật
là vô h́nh… Việc giả sử rằng nó là một vật
thể và cố hữu trong các tính chất của vật
chất thật là một giả thuyết vô căn cứ…
Việc quy tất cả mọi nguyên nhân cho Thượng
Đế … sẽ khiến chúng ta bối rối với
một giả thuyết đối lập với nhiều
sự thật. Nhưng việc bàn về nhiều lực
xuất phát từ Thượng Đế và có các quyền
năng cố hữu, đâu có ǵ vô lư … và tôi có khuynh
hướng thừa nhận các hiện tượng
được tạo ra bởi các tác nhân trung gian
được mệnh danh là Lực hay các Tác Nhân Thứ
Yếu (Secondary Agents). Sự phân biệt các Lực chính là
nguyên tắc phân loại khoa học căn bản… Không,
Lực chẳng phải là các điều ǵ giả
định và trừu xuất mà lại là các thực
tại, đó là các thực tại tác động duy
nhất có các thuộc tính có thể xác định
được khi dùng tới sự quan sát và sự suy
diễn trực tiếp. ([197])
231
TIẾT 5
CÁC MẶT NẠ
CỦA KHOA HỌC
(THE MASKS OF SCIENCE)
VẬT LƯ HỌC
HAY SIÊU H̀NH HỌC ?
(PHYSICS OR
METAPHYSICS ?)
Nếu trên trần thế có một sự
tiến bộ nào đó, th́ dù
muốn dù không, một
ngày kia khoa học sẽ phải từ bỏ các ư
tưởng quái gở, chẳng hạn như là các luật vật lư tự hành
(self-guiding laws), không cần
tới Linh Hồn và Tinh Thần; bấy giờ khoa học
sẽ quay sang các Giáo lư Huyền bí (the Occult Teachings). Nó
đă làm như thế rồi, cho dù có phải thay
đổi nhan đề và hiệu đính lại các
ấn bản của các sách vấn đáp về khoa
học. Khi so sánh tư tưởng hiện đại
với tư tưởng cổ truyền cách đây hơn
nửa thế kỷ, người ta thấy là dù cho
triết học của chúng ta h́nh như có khác với
triết học của tổ tiên đi chăng nữa, tuy
nhiên, nó vẫn là tập
hợp các điều thêm
bớt rút ra từ triết học cổ truyền và được truyền lại
dần dần qua các bậc tiền bối.
Faraday và các nhà khoa học lỗi lạc khác
đều biết rơ sự kiện này. Nguyên tử, Ether,
Sự Tiến hóa – tất cả đều do khoa học
hiện đại kế thừa các ư niệm cổ
truyền, tất cả đều dựa vào các quan
niệm của các quốc gia thời xưa. Đối
với kẻ phàm tục, “các quan niệm” này
được tŕnh bày dưới dạng ẩn dụ;
trong các cuộc Điểm Đạo, người ta
dạy các chân lư đơn giản cho
môn sinh ưu tú, các chân lư này đă được
tiết lộ phần nào qua các tác giả Hy Lạp rồi
được truyền xuống cho chúng ta. Điều này
không hề có nghĩa là Huyền bí học đă từng có
cùng quan niệm về Vật Chất,
232
Theo quan điểm của các nhà Huyền
bí học, sai lầm và điều trá ngụy tai hại
nhất của khoa học chính là ư kiến cho rằng có
thể có một vật chất vô cơ hay vật chất
chết (inorganic or dead matter), tồn tại trong
Bởi v́ một vật thể chết có hàm ư là có một lúc nào đó nó đă từng sống động. Vào thời kỳ nào của vũ trụ khởi nguyên luận vậy ? Huyền bí học cho rằng dù sao đi nữa, cho dù trông có vẻ trơ trơ bất động, vật chất vẫn đang hoạt động tích cực nhất. Một khối gỗ hay một khối đá xem dường như bất động và không thể thâm nhập vào được. Tuy nhiên, thật ra các cấu tử của nó không ngừng chuyển động nhanh đến nỗi mà đối với mắt phàm, vật thể đó h́nh như là tuyệt nhiên không hề chuyển động. Khi nh́n từ một cảnh giới hiện tồn và tri giác khác, khoảng cách giữa các cấu tử này trong khi rung động cũng lớn như là khoảng cách giữa các cục tuyết hay giọt mưa. Nhưng đối với vật lư học, điều này thật là ngớ ngẩn.
Không có tác phẩm nào mà lại minh họa điều trá ngụy hay hơn là tác phẩm khoa học của một nhà bác học Đức, Giáo sư Philip Spiller. Trong bộ vũ trụ luận này, tác giả đă cố gắng chứng tỏ rằng:
Không
có cấu tử vật chất nào của một vật
thể, không có nguyên tử nào mà lại có sẵn lực,
song mọi nguyên tử như thế đều hoàn toàn
chết và không có một quyền năng cố hữu nào
để tác dụng từ xa. ([198])
Tuy nhiên, phát biểu này cũng không hề ngăn cản Spiller tŕnh bày một Giáo lư và nguyên lư Huyền bí. Ông khẳng định là Lực có thực chất độc lập và tŕnh bày nó như là một “vật liệu phi vật thể” tức Chất liệu (Substance). Nay Chất liệu (Substance) không phải là Vật Chất (Matter) trong siêu h́nh học, và để tiện việc luận chứng, chúng ta có thể thừa nhận rằng thành ngữ đó đă được dùng không đúng chỗ. Nhưng điều này do các ngôn ngữ Âu Tây quá nghèo nàn, và nhất là v́ các thuật ngữ khoa học thật là hiếm hoi. Thế rồi Spiller đồng nhất hóa và liên kết “vật liệu” (“stuff”) này với Hậu thiên khí (Aether). Theo lối nói của huyền bí học, chúng ta có thể nói chính xác hơn như sau: “Chất Liệu Thiên Lực” (“Force-Substance) này là Dĩ Thái-Vật Chất (Ether-Prakriti) bao giờ cũng tích cực hoạt động nơi mọi hiện tượng, trong khi Hậu thiên khí toàn hiện thấm nhuần vạn vật là Thực tượng (Noumenon) Dĩ Thái-Vật Chất, cơ sở vạn hữu tức Tiên thiên khí (Ăkăsha). Tuy nhiên, Stallo lại làm mất mặt Spiller cũng như là các nhà Duy vật khác. Ông bị kết án là “không cần đếm xỉa (disregard) tới mối tương hệ cơ bản giữa Lực và Vật Chất”, thế mà khoa học lại không biết ǵ chắc chắn về cả hai thứ trên. Ấy là v́ theo quan điểm của tất cả các nhà vật lư khác “bán khái niệm bản thể hóa” (“hypostasized half-concept”) này không phải là bất khả lượng (imponderable), mà lại c̣n thiếu các lực cố kết (cohesive), hóa, nhiệt, điện và từ nữa – theo Huyền bí học – Hậu thiên khí là Cội nguồn và Nguyên nhân của tất cả các Lực này.
233
Do đó, dù phạm phải nhiều
lầm lỗi, Spiller vẫn tỏ ra có nhiều trực
giác hơn bất cứ nhà khoa học hiện đại
nào khác, ngoại trừ Tiến sĩ
Thực ra, điện và ánh sáng là ǵ ? Làm
thế nào mà khoa học biết được một
thứ là lưu chất, c̣n thứ kia là một “cách
thức chuyển động”? Tại sao người ta
không đưa ra một lư do nào để giải thích
việc nên phân biệt chúng, v́ cả hai được xem
là các mối liên hệ của lực? Được
biết điện là một lưu chất, phi vật
chất và phi phân tử - mặc dù Helmholtz chủ
trương khác – bằng chứng là chúng ta có thể
nhốt kín, tích lũy và dự trữ nó. Thế th́, nó
ắt phải là Vật
Chất thôi, chớ không phải là “lưu chất”
đăc biệt (peculiar “fluid”). Nó cũng chẳng
phải chỉ là “một cách thức chuyển
động”, v́ chúng ta khó ḷng mà tích trữ được
chuyển động trong một b́nh
Lấy
một món đồ chạm trổ để vài ngày trong
tối, rồi phơi nó ra giữa ánh nắng mặt
trời chói chang – nghĩa là cô lập nó trong ṿng 15 phút;
đặt nó lên trên giấy ảnh cảm quang (sensitive
paper) trong một chỗ tối, sau 24 giờ, nó để
lại dấu vết trên giấy đó, phần trắng
biến thành đen … H́nh như là việc mô phỏng
lại các đồ chạm trổ không hề có giới
hạn”. ([200])
Cái vẫn c̣n được ghi khắc, tạm gọi như vậy, lên trên giấy là cái ǵ vậy? Chắc chắn là một Lực (Force) đă ghi khắc sự vật, nhưng cái sự vật có tàn tích được ghi trên giấy là cái ǵ vậy ?
Các nhà bác học sẽ giải quyết
vấn đề này bằng một thuật ngữ khoa
học nào đó, nhưng cái bị chận lại
để lưu lại một lượng nào đó trên
thủy tinh, giấy hoặc gỗ là cái ǵ vậy ? Nó là “ 234
chúng ta không thể tri giác được –
đă lưu lại đó, để rồi đến
lượt nó lại trở thành một nguyên nhân, tạo
ra các hiệu quả. Nó là cái ǵ vậy? Nó không phải là
Vật Chất theo định nghĩa của khoa học
(tức Vật Chất trong bất cứ trạng thái
đặc biệt nào). Một nhà Luyện kim đan
(Alchemist) sẽ bảo rằng nó là một thứ do tinh
thần tiết ra, thế th́ thiên hạ bèn cười phá
lên. Thế nhưng khi nhà vật lư học bảo rằng
điện được tích trữ là một lưu
chất hoặc ánh sáng được ghi lại trên
giấy vẫn c̣n là ánh sáng mặt trời th́ đấy
lại là khoa học.
Thật ra mới đây nhất các nhân vật có thẩm
quyền đă bác bỏ các lời giải thích này, xem chúng
như là “các thuyết sai lầm” và nay đă thần thánh
hóa “
Ông đă đưa ra một nhận xét c̣n gợi ư hơn nữa, lẽ ra nó phải trở thành châm ngôn của khoa học. William Grove bảo rằng: “Khoa học phải không hề có dục vọng hay thành kiến. Chân lư phải là mục tiêu duy nhất của nó”.
Trong khi đó, ngày nay các nhà khoa học lại c̣n ngoan cố và ngu tín (bigoted) hơn cả giai cấp giáo sĩ nữa. Ấy là v́ họ đứng về phe – nếu không muốn nói là thực sự tôn thờ - “Thần Lực- Vật Chất” (“Force-Matter”) vốn là Thượng Đế Bất Khả Tri của họ (their Unknown God). Muốn biết Thượng Đế Bất Khả Tri như thế nào, chúng ta có thể suy ra từ nhiều lời thú nhận của các nhà vật lư và nhà sinh học lỗi lạc nhất, cầm đầu là Faraday. William bảo rằng không những ông không bao giờ dám tự tiện tuyên bố rằng Lực có phải là một tính chất hay chức năng của Vật Chất hay không, mà ông c̣n thực sự không biết Vật Chất là cái ǵ nữa.
Ông c̣n nói thêm là có một lúc ông cứ
tưởng rằng ḿnh có biết ít nhiều về
Vật Chất. Nhưng càng sống càng nghiên cứu kỹ
lưỡng nó, ông càng tin chắc rằng ḿnh chẳng biết ǵ về bản
chất của vật chất.([201])
Chúng tôi tin rằng người ta đă cay
đắng thú nhận như vậy tại Hội
nghị khoa học
Chúng
ta biết ǵ về nguyên tử khi không xét tới lực
của nó? Bạn hăy tưởng tượng một
hạt nhân có thể được gọi là a và bao quanh nó
với các lực có thể gọi là m; theo tôi nghĩ, a là
hạt nhân đă mờ nhạt đi và thực chất
gồm có các năng lượng m. Và thật ra, làm sao chúng
ta có thể h́nh dung được một hạt nhân
độc lập với các năng lượng của nó?
Khi tưởng tượng ra một chữ a độc
lập với các lực đă được thừa
nhận, liệu chúng ta có c̣n ghi lại được
một ấn tượng nào không?
235
Các nhà Huyền bí học thường bị
hiểu lầm v́ họ đă cưỡng danh Bản
thể của Lực (trong một vài trạng thái nào
đó) là Chất liệu. Thế mà danh xưng của các
loại “Chất liệu” trên các cảnh giới tri giác và hiện tồn khác nhau
thật nhiều vô số. Huyền bí học Đông
phương gọi mỗi loại này bằng một danh
xưng đặc biệt; nhưng khoa học – cũng
như Anh quốc (theo trí nhớ của một người
Pháp sắc sảo) có tới ba mươi sáu tôn giáo mà
chỉ có mỗi một danh xưng, đó là “Chất
liệu”. Hơn nữa, cả các nhà vật lư chính
thống lẫn những người chỉ trích họ
đều h́nh như không tin chắc vào các tiền
đề của ḿnh và hay lẫn lộn nhân với
quả. Chẳng hạn như bảo rằng (giống
như Stallo) “vật chất cũng chẳng
được nhận thức hay quan niệm ra như
chỉ là sự hiện diện tích cực trong không gian,
hơn là một sự kết tụ lại của các
lực” hoặc “lực mà không có khối lượng th́
chẳng ra chi” và “khối lượng mà không có lực th́
đâu có ra ǵ” th́ chẳng đúng chút nào, v́ một thứ
là Thực tượng, c̣n một thứ là hiện
tượng. Lại nữa, khi bảo rằng:
Thật
chỉ là một ảo tưởng hăo huyền, nếu cho
rằng vẫn c̣n lại môt cái ǵ đó (ai mà biết
được !) sau khi chúng ta đă tước hết
mọi thuộc tính của một vật thể nào đó.
([202])
Schelling chẳng bao giờ có thể áp dụng nhận xét này vào lănh vực siêu h́nh học siêu việt được. Lực thuần túy đúng thực không là ǵ cả trong thế giới vật lư, nhưng nó lại là TẤT CẢ (ALL) trong lănh vực Tinh Thần. Stallo cho rằng:
Nếu
chúng ta thu gọn khối lượng – mà một lực cho
sẵn (dù nhỏ đến đâu đi chăng nữa)
tác dụng trên đó – tới giới hạn zero – hoặc
nói theo toán học, cho tới khi nó trở nên vô cùng nhỏ -
kết quả sẽ là tốc độ của chuyển
động sinh ra sẽ vô cùng lớn, và vào bất cứ
lúc nào cho sẵn “vật” đó cũng chẳng ở
đây hay ở kia, mà ở mọi nơi. Như thế
không có sự hiện diện thực sự; do đó không
thể kiến tạo vật chất bằng cách tổng
hợp các lực”. ([203])
236
Điều này có thể đúng trong thế
giới hiện tượng, v́ phản ảnh hăo huyền
của Thực Tại Duy
Nhất (the One Reality) của thế giới siêu giác quan
có thể h́nh như là chân thật đối với quan
niệm hẹp ḥi của một nhà Duy vật. Sẽ hoàn
toàn không đúng như vậy nếu người ta áp
dụng luận chứng đó cho những sự vật
trong cái mà các tín đồ Do Thái Bí giáo gọi là các cảnh
giới siêu phàm. Theo Newton, ([204])
cái gọi là quán tính chính là Lực, c̣n đối với
Nội môn Bí giáo, đó là Lực Huyền bí vĩ
đại nhất (the greatest of the Occult Forces). Chỉ
ở trên cảnh giới hăo huyền này –xét về mặt
quan niệm – người ta mới có thể nhận xét
một vật mà không cần quan tâm đến các quan
hệ, theo vật lư học và cơ học. Thật ra,
không bao giờ có thể xét riêng nó ra như vậy; chính
sự chết cũng không bao giờ có thể tách rời
khỏi các quan hệ của nó với các Lực Vũ
Trụ, mà LỰC ĐỘC
NHẤT VÔ NHỊ (the ONE FORCE),
tức CUỘC SỐNG
tổng hợp lại (LIFE, is
the synthesis): mối liên hệ hỗ tương chỉ
tiếp tục trên một cảnh giới khác. Nhưng
nếu Stallo có lư, th́ Tiến sĩ James Croll có ư muốn nói
ǵ khi đề cập tới “Sự Biến hóa của
Trọng lực” (“On the Transformation of Gravity”), ông lại
đưa ra các quan điểm được Faraday,
Waterston và những người khác ủng hộ? V́ ông phát
biểu rất đơn giản rằng trọng lực
Là
một Lực thấm nhuần Không gian bên ngoài các vật
thể. Khi các vật thể tiến lại gần nhau,
lực này không tăng như người ta thường
giả định, song chỉ có các vật thể
chuyển vào một nơi mà lực tồn tại với
cường độ lớn hơn. ([205])
Không ai chối căi được rằng
một Lực – cho dù đó là trọng lực, điện
hay bất cứ Lực nào khác vốn tồn tại bên ngoài các vật thể và
trong Không gian thênh thang – cho dù đó là Ether hay chân không –
đều phải là cái ǵ
đó, chứ chẳng thể nào không là cái ǵ cả, khi được quan niệm
tách rời ra khỏi một khối lượng. Mặt
khác, nó khó ḷng có thể tồn tại ở một nơi
với một “cường độ” lớn và ở một nơi khác với một
cường độ nhỏ.
Trong Thuyết Cơ Học Vũ Trụ, G.A.Hirn cũng
tuyên bố như vậy; ông cố gắng chứng tỏ
rằng:
Nguyên
tử của các nhà hóa học không phải là một
thực thể thuần túy, qui ước, hoặc chỉ
là một công cụ diễn giải, song nó thực sự
tồn tại, khối lượng nó thật là bất
biến, do đó, nó không đàn hồi [!!]. V́ vậy,
lực không ở trong nguyên tử mà lại ở trong không
gian ngăn cách các nguyên tử với nhau.
Các quan điểm nêu trên – do hai nhà khoa học lỗi lạc phát biểu lần lượt trong các xứ của ḿnh – chứng tỏ rằng việc nói cái gọi là Lực có thực chất th́ có ǵ là phản khoa học đâu. Nếu sau này có được đặt cho một tên riêng, th́ Lực này cũng là một loại Chất liệu nào đó chứ không thể là ǵ khác nữa; có lẽ một ngày kia, khoa học sẽ xung phong chọn dùng lại danh xưng nhiên tố (phlogiston) trước kia đă từng bị chế giễu. Cho dù sau này người ta gọi nó là ǵ đi chăng nữa, việc chủ trương rằng Lực không ở trong Nguyên tử mà chỉ ở trong “không gian giữa chúng thôi” (only in the “space between them”) có thể có đủ tính chất khoa học; tuy nhiên, nó lại không đúng với sự thật. Đối với một nhà Huyền bí học, điều đó có khác ǵ bảo rằng nước không ở trong các giọt nước cấu thành đại dương, mà chỉ ở trong khoảng trống giữa các giọt nước thôi !
Lời phản đối cho rằng có hai trường phái vật lư gia riêng biệt, theo một trong các trường phái đó th́
Người
ta giả sử rằng lực này là một thực
thể độc lập có thực chất, nó không
phải là đặc tính của vật chất, mà
chẳng có liên hệ với vật chất về mặt
bản thể,([206])
237
cũng
khó ḷng giúp cho những kẻ phàm tục hiểu
được rơ ràng hơn. Ngược lại,
người ta dự tính là nó sẽ c̣n khiến cho vấn
đề này lộn xộn hơn bao giờ hết.
Ấy là v́ bấy giờ Lực chẳng phải là cái này
mà cũng chẳng phải là cái kia. Khi xem nó như là
“một thực thể độc lập có thực
chất”, thuyết này đă đưa tay phải ra bắt
tay Huyền bí học, trong khi đó, ư tưởng mâu
thuẫn kỳ quặc cho rằng “nó không liên quan tới
Vật Chất ngoại trừ năng lực tác dụng
lên đó” ([207])
đă đưa vật lư học tới các giả
thuyết mâu thuẫn nhất. Cho dù là “Lực” hay “
Trong
khi các đơn vị khối lượng nguyên thủy
hoàn toàn bằng nhau là một phần cốt yếu,
nền tảng của thuyết cơ học, th́ toàn
bộ khoa hóa học hiện đại lại dựa vào
một nguyên lư trực tiếp làm đảo lộn nó.
Mới đây, người ta có nhận xét về nguyên lư
đó như sau: “Nó có địa vị trong hóa học
cũng giống như là địa vị của lực
hấp dẫn trong thiên văn học”.([208]) Nguyên lư đó chính là
định luật Avogadro hay Ampère”.([209])
Điều này chứng tỏ rằng hoặc hóa học hiện đại, hoặc vật lư học hiện đại, đă lần lượt có các nguyên lư cơ bản của ḿnh hoàn toàn sai lầm. Ấy là v́, nếu dựa vào thuyết nguyên tử trong vật lư học, người ta thấy rằng việc giả định là các nguyên tử có trọng lượng riêng khác nhau thật là phi lư; tuy nhiên, nếu dựa vào chính giả định này mà hóa học lại được thực nghiệm minh chứng là không hề sai lầm khi tạo ra và biến đổi các hợp chất hóa học; th́ lúc bấy giờ hiển nhiên là chúng ta không thể ủng hộ được thuyết nguyên tử cơ giới. Thuyết này giải thích rằng: “Sự dị biệt trọng lượng chỉ là do mật độ khác nhau, c̣n mật độ khác nhau là do sự dị biệt về khoảng cách giữa các cấu tử chứa trong một không gian cho sẵn”. Lời giải thích trên thực sự không có giá trị ǵ cả v́ trước khi một nhà vật lư học có thể luận chứng để bênh vực cho quan điểm của ḿnh là: “trong nguyên tử không hề có vô số các cấu tử cũng như là khoảng trống không, v́ vậy, các nguyên tử không thể có mật độ hoặc trọng lượng khác nhau”, y phải biết nguyên tử thực sự là ǵ đă chứ; thế mà đó chính là điều mà y không thể biết được. Y phải quan sát nó ít nhất là bằng một trong các giác quan vật chất của ḿnh; thế mà đó là điều y không thể làm được: lư do đơn giản là chưa ai đă từng trông thấy, ngửi thấy, nghe thấy, sờ thấy hoặc nếm thấy một “Nguyên tử” bao giờ. Nguyên tử hoàn toàn thuộc về lănh vực siêu h́nh học. Dù sao đi nữa, đối với vật lư học, nó cũng là một thực thể hườn hư (nought) và (nói một cách nghiêm minh) không hề có liên quan tới vật lư học, v́ người ta không bao giờ có thể đem nó ra trắc nghiệm bằng b́nh cổ cong hay cân đo. Do đó, quan niệm cơ học biến thành mớ ḅng bong (jumble) các lư thuyết mâu thuẫn với nhau nhất là các điều tiến thoái lưỡng nan đối với nhiều nhà khoa học không đồng ư với quan niệm này cũng như là các chủ đề khác. Nhà Huyền bí học Đông phương – hiện đang theo dơi cuộc tranh căi khoa học này – chỉ biết ngẩn ngơ ra khi chứng kiến sự tiến triển của nó.
238
Để kết thúc vấn đề
trọng lực này, xin hỏi làm thế nào mà khoa học có
thể tự cho ḿnh biết chắc được
một điều ǵ đó về nó ? Làm thế nào mà nó
vẫn có thể chủ trương các lập
trường và giả thuyết nghịch lại với
các nhà Huyền bí học, vốn chỉ thấy nơi
trọng lực thiện cảm và ác cảm, tức
sức hút và sức đẩy) bắt nguồn từ
sự phân cực vật chất trên trần thế và
từ các nguyên nhân tinh thần bên ngoài ảnh hưởng
của nó ? Làm sao mà họ có thể đồng ư với các
nhà Huyền bí học khi họ c̣n chưa đồng ư
với nhau? Thật vậy, người ta nghe nói tới
sự Bảo Toàn Năng Lượng (the Conservation of
Energy), rồi tới độ cứng tuyệt
đối và tính không đàn hồi của các Nguyên tử;
người ta lại nghe nói tới việc thuyết khí
động học (the kinetic theory of gases) đồng
nhất với cái gọi là “thế năng” (“potential
energy”), đồng thời lại nghe nói rằng các
đơn vị khối lượng sơ cấp có độ cứng tuyệt
đối và có tính chất
không đàn hồi !Nếu mở một tác phẩm khoa
học ra, nhà Huyền bí học sẽ thấy nó dạy
như sau:
Thuyết
nguyên tử của vật lư học suy từ các dạng
chuyển động nguyên tử ra mọi đặc tính
của vật chất. Chính các nguyên tử vẫn là các
yếu tố hoàn toàn không có tính chất.([210])
Và thêm nữa :
Hóa
học xét cho cùng, phải là cơ học nguyên tử. ([211])
Và một lúc sau, y lại được biết rằng:
Các
chất khí gồm có các nguyên tử vận hành giống
như chất rắn, tức là các h́nh cầu hoàn toàn
đàn hồi.
Cuối cùng, để tuyên dương tất cả, người ta thấy Thomson tuyên bố như sau:
Thuyết
bảo tồn năng lượng hiện đại không
cho phép chúng ta giả sử rằng các phân tử cực vi,
dù là của vật chất siêu phàm hay phàm trần, có tính
không đàn hồi hay không có tính đàn hồi hoàn toàn. ([212])
Nhưng các nhà khoa học chân chính nói về
tất cả các điều này như thế nào ? Khi dùng
từ ngữ “nhà khoa học chân chính”, chúng tôi muốn nói
tới những kẻ nào chỉ quan tâm tới chân lư và
không màng tới danh vọng cá nhân đến nỗi mà y
không bao giờ có thái độ độc đoán như
đa số người khác về bất cứ
điều ǵ. Có nhiều người - có lẽ nhiều
hơn số người dám công khai tiết lộ bí
mật, v́ sợ bị đưa lên đoạn
đầu đài !- mà trực giác đă giúp cho họ
vượt qua được hố sâu ngăn cách
trạng thái thế tục của Vật Chất và
đối với chúng ta, trên cảnh giới hăo huyền) CHẤT LIỆU SIÊU VIỆT
ĐƯỢC NGOẠI CẢNH (TRANSCENDENTALLY OBJECTIVE
SUBSTANCE) (tức Chất liệu nội tâm), khiến
họ dám công khai công bố sự tồn tại của
chất liệu này. Phải nhớ rằng đối
với nhà Huyền bí học, Vật Chất là toàn thể
các vật tồn tại trong
Càn Khôn mà chúng ta có thể tri giác được trên bất
kỳ cảnh giới nào. Chúng ta biết rơ các thuyết
chính thống về âm thanh, nhiệt và ánh sáng mâu
239
thuẫn với các Giáo lư Huyền bí. Tuy nhiên,
điều này không đủ để cho các nhà khoa
học, hoặc những kẻ ủng hộ họ, tuyên
bố rằng họ không hề
chối bỏ động năng của ánh sáng và nhiệt
cũng như là thúc đẩy sự kiện
(được xem như một bằng chứng) là phóng
xạ kế của ông Crookes (Mr. Crookes’s radiometer) không
hề làm lung lay bất cứ quan điểm nào. Nếu
đă thăm ḍ được bản chất tối
hậu của các lực này, trước hết họ
phải nh́n nhận bản chất thực thể của
chúng, cho dù bản chất đó có thể là siêu giác quan. Các
nhà Huyền bí học cũng không hề chối bỏ tính
đúng đắn của thuyết rung động. ([213])
Có điều là họ giới hạn chức năng
của nó vào cơi trần và cho rằng nó không thích đáng trên
các cảnh giới khác, v́ các Thánh Sư Huyền bí học
tri giác được các Nguyên nhân tạo ra các rung
động của ether. Nếu tất cả các thứ này
chỉ là các điều bịa đặt của các nhà
Luyện kim đan, hoặc là các giấc mơ của các
nhà huyền học, th́ những người như
Paracelsus, Philalethes, Van Helmont và biết bao nhiêu người
khác, sẽ phải bị xem như c̣n tồi tệ hơn
các kẻ mơ mộng hăo huyền nữa, họ phải
biến thành các tên đại bịp, cố ư gạt
gẫm thiên hạ.
Người ta trách các nhà Huyền bí học
cứ gọi Nguyên nhân
của ánh sáng, nhiệt, âm thanh, lực cố kết,
từ khí v.v… là một Chất
liệu (Substance). ([214])
Ông Clerk Maxwell đă nêu rơ áp lực của ánh nắng chói
chang trên một dặm (mile) vuông vào lối 3 cân Anh. Được biết đó là
“năng lượng của hằng hà sa số sóng ether”;
thế mà khi họ gọi nó là một Chất liệu tác
dụng lên diện tích này th́ lời giải thích của
họ lại được xem là phản khoa học.
Chẳng có ǵ biện minh được các
lời tố cáo như thế. Như đă hơn một
lần nêu rơ, các nhà Huyền bí học tuyệt nhiên không
hề dị nghị các lời giải thích của khoa
học khi nó đưa ra một giải pháp cho tác nhân
ngoại cảnh đang hoạt động tức thời. Khoa học
chỉ sai lầm khi tin tưởng rằng bởi v́
đă ḍ ra (detected) được trong các sóng rung
động nguyên nhân gần
đúng (proximate) của các hiện tượng này nên nó
đă tiết lộ được TẤT
CẢ những ǵ nằm ngoài tầm giác quan. Thật
ra, nó chỉ mới truy nguyên được hàng loạt các
hiện tượng trên một cảnh giới hiệu
quả, đó là các điều phóng chiếu hăo huyền
từ lănh vực mà Huyền bí học thâm nhập vào từ
lâu rồi. Huyền bí học chủ trương rằng
các chấn động ether này không hề được
tạo ra (theo như khoa học khẳng định)
bởi rung động của các phân tử của các
vật thể quen thuộc (tức Vật Chất mà chúng
ta tri thức được nơi ngoại cảnh
trần thế), song chúng ta phải t́m kiếm các Nguyên nhân
tối hậu của ánh sáng, nhiệt v.v… trong VẬT CHẤT (MATTER) tồn
tại dưới trạng thái siêu
giác quan – tuy nhiên, các trạng thái này hoàn toàn hiển
lộ trước linh nhăn của con người, chẳng
khác nào một con ngựa hoặc một cái cây đối
với thế nhân. Ánh sáng và nhiệt là bóng ma của
Vật Chất đang chuyển động.Trong khi
xuất thần, dưới ảnh hưởng của Tia Sushumnă – đứng
đầu
240
Như thế, chúng ta đă tŕnh bày Giáo lư
Huyền bí vốn xác nhận sự tồn tại thực
sự của một bản thể siêu giác quan, siêu vật
chất tức Tiên thiên khí (Ăkăsha) – chứ không phải là
Dĩ Thái (Ether), đó chỉ là một trạng thái của
Tiên thiên khí mà thôi. Chúng ta không thể suy ra được
bản chất của Tiên thiên khí từ các biểu lộ
xa xưa của nó (tức tập
hợp các hiệu quả chỉ là hiện tượng) trên
thế gian này. Trái lại, khoa học cho chúng ta biết là
nhiệt không bao giờ có thể được xem như
là Vật Chất trong bất kỳ trạng thái khả
niệm nào. Xin nhắc các tín đồ giáo điều Tây
phương nhớ lại một lời phê b́nh vô tư
nhất mà không ai có thể nghi ngờ được
thẩm quyền của nó, rằng vấn đề này
tuyệt nhiên không thể được xem như là đă
giải quyết xong:
Không
có sự dị biệt cơ bản nào giữa ánh sáng và
nhiệt… cái này chỉ là biến thái của cái kia …
Nhiệt là ánh sáng đang hoàn toàn yên nghỉ. Ánh sáng là
nhiệt đang chuyển động mau lẹ. Khi ánh sáng
kết hợp trực tiếp với một vật
thể, nó biến thành nhiệt; nhưng khi nó xạ ra
khỏi vật thể này, nó lại biến thành ánh sáng. ([216])
Chúng ta không thể nhận định là điều này đúng hay sai; phải mất nhiều năm, có lẽ nhiều thế hệ nữa, th́ chúng ta mới xác định được sự việc này. ([217]) Chúng ta biết được hai chướng ngại vật lớn nhất của thuyết lưu chất nhiệt chắc chắn là:
1. Việc tạo ra
nhiệt do ma sát – sự kích thích chuyển động phân
tử.
2. Việc chuyển
nhiệt thành ra chuyển động cơ học.
Xin đáp như sau: có nhiều loại lưu
chất khác nhau. Điện được gọi là
một lưu chất, mới đây, nhiệt cũng
được gọi như vậy, nhưng người
ta giả sử rằng nhiệt là một chất bất
khả lượng nào đó. Điều này diễn ra khi
Vật Chất c̣n thống ngự một cách chuyên chế
và được xem là quan trọng nhất. 241
thứ Bảy của cuộc Tuần Hoàn
thứ Bảy. Thế mà, khoa này vẫn chủ
trương rằng Lực không giống như khoa học
hiện đại tưởng; nghĩa là từ khí không
phải là một “cách thức chuyển động” và ít
nhất trong trường hợp đặc biệt này,
một ngày nào đó, khoa học chính xác hiện đại
chắc chắn là sẽ phải thất bại (to come to
grief). Thoạt nh́n, chẳng có ǵ lố bịch và ngớ
ngẩn hơn là nói như sau đây chẳng hạn:
“Người Ấn Độ thực sự đă
truyền thụ cho đạo sĩ yoga biết gấp mười lần nhà
vật lư Âu Tây lỗi lạc nhất về bản
chất tối hậu và cấu tạo của ánh sáng
mặt trời cũng như ánh sáng mặt trăng. Song
tại sao người ta lại tin rằng tia Sushumnă là tia
cung cấp cho Mặt Trăng cái ánh sáng vay mượn
của nó? Tại sao nó lại là “Tia được các
đạo sĩ yoga
được điểm đạo quư chuộng”?
Tại sao Mặt Trăng lại được các
đạo sĩ yoga này xem là Thần
Trí Tuệ (Deity of the Mind)? Chúng tôi xin đáp là bởi v́
ánh sáng, hay đúng hơn mọi tính chất Huyền bí,
mọi sự phối hợp và tương hệ của
nó với các lực khác (trí tuệ, tâm linh và tinh thần)
đều được các Cao đồ thời xưa
quán triệt.
Do đó, mặc dù Huyền bí học có thể kém hiểu biết hơn hóa học hiện đại về tác dụng của các nguyên tố hóa hợp trong nhiều trường hợp tương hệ vật lư khác nhau, ([218]) song xét về sự hiểu biết các trạng thái huyền bí tối hậu của Vật Chất và chân tướng của Vật Chất, th́ nó vô cùng cao siêu hơn toàn bộ vật lư học và hóa học hiện đại gộp lại.
Nay nếu chúng ta vạch rơ sự thật
một cách công khai và hoàn toàn thành thật, nghĩa là
vạch rơ rằng các điểm đạo đồ
thời xưa hiểu biết về vật lư học
(được xem như một khoa học
Để trả lời câu hỏi này,
trước hết phải nhận thấy là Huyền bí
học không coi điện (hoặc bất cứ Lực
nào mà người ta giả định là do nó sản sinh
ra) như là Vật Chất
bất cứ ở trạng thái nào mà vật lư học
đă biết. Nói rơ hơn, không có “Lực” nào (tạm
gọi như thế) là một chất đặc,
chất lỏng, hoặc chất khí. Nếu điều này
không có vẻ là lên mặt dạy đời (pedantic), th́
một nhà Huyền bí học sẽ phản đối
việc gọi điện là một lưu chất, v́ nó là một hiệu quả,
chứ đâu có phải là một nguyên nhân. Nhưng y
sẽ bảo rằng Thực Tượng của nó là
một nguyên nhân hữu thức. “Lực” và “Nguyên Tử”
th́ cũng thế thôi. Chúng ta hăy thử xem một Hàn lâm
viện sĩ lỗi lạc, nhà hóa học
242
Lực
là ǵ? Theo quan điểm khoa học nghiêm xác
(được luật bảo tàng năng lượng
bảo đảm), nó là cái ǵ vậy? Các quan niệm về
lực đă được thu gọn thành các quan niệm
về một cách thức chuyển động nào đó.
Như thế lực chỉ là việc chuyển từ
một trạng thái chuyển động này sang một
trạng thái chuyển động khác; chuyển
điện thành nhiệt và ánh sáng, nhiệt thành âm thanh
hoặc là một chức năng khoa học nào đó v.v… ([219]) Lần đầu
tiên mà con người trên trần thế tạo ra
được lưu chất điện th́ đó ắt
phải là điện do ma sát. V́ thế, người ta quá
rơ là chính nhiệt đă tạo ra điện bằng cách
khuấy đảo trạng thái Zero ([220]) của nó và trên
trần thế, điện không hề tồn tại
tự bản thân nó nếu không thông qua nhiệt, ánh sáng hay
bất cứ lực nào khác. Theo khoa học, chúng
đều là các mối tương quan cả. Khi một
lượng nhiệt cho sẵn được một
động cơ hơi nước biến thành công cơ
học, chúng ta bảo đó là năng lượng hơi
nước (hoặc lực hơi nước). Khi một
vật rơi xuống đụng vào một chướng
ngại vật trên quỹ đạo của nó, do đó
tạo ra nhiệt và âm thanh – chúng ta bảo đó là năng
lượng va chạm. Khi điện phân giải
nước hoặc nung nóng một sợi dây bạch kim,
chúng ta bảo đó là lực của lưu chất
điện. Khi các tia sáng mặt trời bị bầu
nhiệt kế chặn lại làm cho thủy ngân giăn nở,
chúng ta bảo đó là nhiệt năng của mặt trời.
Tóm lại, khi một trạng thái của một
lượng chuyển động nhất định không
c̣n nữa và một trạng thái chuyển động khác
tương đương với trạng thái
trước thay thế nó, th́ kết quả của sự
biến hóa hay tương hệ như thế chính là
Lực. Trong mọi trường hợp mà hoàn toàn không có
sự biến hóa như thế, chuyển từ một
trạng thái chuyển động này sang một trạng
thái chuyển động khác, th́ không thể có lực
được. Nếu một lúc nào đó mà chúng ta
thừa nhận rằng vũ trụ có một trạng
thái hoàn toàn đồng chất, th́ quan niệm của chúng ta
về Lực sẽ trở thành vô giá trị ngay.
Do
đó, hiển nhiên là Lực – mà Chủ nghĩa duy vật
coi là nguyên nhân của thiên h́nh vạn trạng (diversity) xung
quanh chúng ta – kỳ thực chỉ là một hiệu
quả, một kết quả của thiên h́nh vạn
trạng này. Theo quan điểm như thế, Lực không
phải là nguyên nhân của chuyển động mà lại
là một kết quả, trong khi nguyên nhân của Lực hay
các lực đó chẳng phải là Chất liệu hay
Vật Chất mà lại chính là Chuyển động.
Như thế, chúng ta phải dẹp sang một bên Vật
Chất cũng như cái nguyên lư cơ bản của
Chủ nghĩa duy vật đă biến thành thừa thăi, v́
lực mà bị hạ bệ xuống thành ra một
trạng thái chuyển động th́ không thể gợi cho
chúng ta ư niệm nào về Chất liệu. Nếu Lực
là kết quả của chuyển động, th́ bấy
giờ, không hiểu tạo sao chuyển động đó
lại làm chứng cho vật chất chứ không phải
là cho Tinh Thần hoặc một bản thể Tinh
Thần. Đúng vậy, lư trí của chúng ta không thể quan
niệm được một chuyển động mà
lại không gắn liền với một vật đang
chuyển động (lư trí chúng ta thật là chí lư), nhưng
khoa học vẫn hoàn toàn không biết tới bản
chất của cái vật ǵ đó đang chuyển
động. Trong trường hợp như thế, nhà Duy
linh (Spiritualist) cũng có quyền qui điều này cho
một “Chơn Linh” (“Spirit”), chẳng khác nào một nhà Duy
vật sẽ qui nó cho Vật Chất sáng tạo toàn năng.
Trong trường hợp này, một nhà Duy vật không
hề có đặc quyền nào, và y cũng chẳng
thể tự cho ḿnh là có một đặc quyền nào
đó. Như chúng ta thấy,
trong trường hợp này, luật bảo toàn năng
lượng tỏ ra là có những lời cao rao không chính
đáng. “Đại tín điều” – không có lực nào mà
lại không có vật chất kèm theo, chẳng có vật
chất nào mà không có lực kèm theo – đă bị hạ
bệ và mất hết ư nghĩa trang trọng mà Chủ nghĩa
duy vật đă ra sức gán cho nó. Quan niệm về
lực sẽ không gợi ra ư niệm nào về Vật
Chất và tuyệt nhiên khồng hề khiến chúng ta
thấy được nơi đó “nguồn gốc
bản sơ”. ([221])
243
Người ta bảo rằng khoa học
hiện đại không có tính cách
Theo quan điểm Chủ nghĩa duy vật,
chủ nghĩa này qui vạn hữu về Vật Chất, xét cho cùng th́ Vũ Trụ
chỉ có Nguyên tử và chân không. Cho dù có để qua
một bên công lư – mà Cổ nhân đă từng dạy, nay
lại được kính viễn vọng và kính hiển vi
hoàn toàn minh chứng, đó là: “
Theo
giải đáp của khoa học, nguyên tử là phần
Chất liệu hạn hẹp, cấu tử bất
khả phân ly của Vật Chất. Nếu cứ thừa
nhận rằng nguyên tử có thể phân chia
được, rồi lại thừa nhận thêm là
Chất liệu có thể được phân chia măi măi, th́
chẳng hóa ra là Chất liệu sẽ biến thành hư
vô hay sao ? Do bản năng sinh tồn, Chủ nghĩa duy
vật không thể thừa nhận việc cứ phân chia
măi măi; nếu không như thế, nó sẽ phải ngậm
ngùi chia tay măi măi với các nguyên lư cơ bản của ḿnh
và tự đào huyệt chôn ḿnh. ([222])
Chẳng hạn như Buchner đă tuyên bố
chẳng khác nào một kẻ giáo điều Duy Vật
thực sự như sau:
Ai mà
chấp nhận nổi việc cứ phân chia măi măi, coi
chừng điều này sẽ khiến chúng ta nghi ngờ
sự tồn tại của chính Vật Chất.
Thế th́, theo Chủ nghĩa duy vật, nguyên
tử không thể phân chia được hay sao ?
Được lắm. Butlerov đáp :
Xem
ḱa. Cái nguyên lư cơ bản ấy của cá nhà Duy vật
đang khiến cho họ mâu thuẫn với nhau. Nguyên
tử không thể phân ra được, song đồng
thời chúng ta lại biết rằng nó có tính đàn
hồi. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi
việc thử giả định là nó không có tính đàn
hồi, làm như vậy thật là ngớ ngẩn. Các
nguyên tử không đàn hồi không bao giờ có thể phô
bày bất cứ hiện tượng nào mà người ta
gán cho sự tương hệ của chúng. Nếu không có
bất kỳ tính đàn hồi nào, nguyên tử không thể
biểu lộ được năng lượng của
ḿnh, và Chất liệu của các nhà Duy vật sẽ vẫn
c̣n cách ly với khoa học. Do đó, nếu các nguyên tử
cấu thành Vũ Trụ th́ chúng phải đàn hồi.
Điều này chính là một chướng ngại mà chúng ta
không tài nào vượt qua nổi. Ấy là v́, đâu là các
điều kiện cần có để biểu lộ
được tính đàn hồi? Khi đụng vào một
chướng ngại vật, một quả banh đàn
hồi sẽ dẹt ra và co lại (
244
Thế cũng đủ chứng tỏ
rằng việc đồng thời thừa nhận Nguyên
tử vừa bất khả phân ly, vừa đàn hồi,
thật là ngớ ngẩn. Nguyên tử có tính đàn hồi,
v́ vậy, nó có tính khả phân và phải gồm có các
cấu tử (particles) tức các phân nguyên tử (sub-atoms).
C̣n các phân nguyên tử này th́ sao? Hoặc là chúng không đàn
hồi, và trong trường hợp như thế, chúng
chẳng có chi là quan trọng; hoặc là chúng cũng đàn hồi, và trong
trường hợp đó chúng cũng phải khả phân.
Cứ như thế măi.
Nhưng nếu cứ phân chia măi các nguyên tử ra, th́
vật chất sẽ biến thành các trung tâm Lực;
điều này khiến chúng ta không thể quan niệm
Vật Chất như là một chất liệu ngoại
cảnh nữa.
Đối với Chủ nghĩa duy vật, cái ṿng luẩn quẩn này thật là tai hại (fatal). Nó thấy h́nh như là con nhện đang giăng tơ giam hăm chính ḿnh và không tài nào thoát ra khỏi t́nh cảnh tiến thoái lưỡng nan đó. Nếu nó cho rằng Nguyên tử bất khả phân ly th́ Cơ học sẽ hỏi một câu khó xử như sau:
Trong
trường hợp này, Vũ Trụ vận chuyển ra
sao đây? Làm thế nào mà các lực của nó liên hệ
với nhau được ? Một thế nào mà các lực
của nó liên hệ với nhau được ? Một
thế giới mà gồm toàn là các nguyên tử hoàn toàn không
đàn hồi th́ có khác nào một động cơ mà không
có hơi nước, dứt khoát là nó cứ ́ ra (inertia) mà
thôi.([224])
Nếu chúng ta chấp nhận các lời giải thích và các giáo lư của Huyền bí học – quán tính mù quáng của vật lư học sẽ được thay thế bởi các Quyền năng tích cực thông tuệ ẩn sau bức màn Vật Chất – th́ chuyển động và quán tính trở nên phụ thuộc vào các Quyền Năng này. Toàn bộ khoa Huyền bí học đều dựa vào giáo lư về bản chất hăo huyền của Vật Chất và sự kiện Nguyên tử có thể được phân chia măi măi. Nó mở ra cho Chất liệu các chân trời vô tận; mọi trạng thái tế vi khả hữu của chất liệu này đều được linh khí của Linh Hồn nó làm cho linh hoạt; đó là trạng thái mà các nhà hóa học và các nhà vật lư có bản chất sùng đạo nhất cũng c̣n chưa hề mơ ước tới.
Đó là các quan điểm của một Hàn
lâm viện sĩ, nhà hóa học vĩ đại nhất
ở Nga, được cả Âu Châu công nhận là nhân
vật có thẩm quyền: Giáo sư A. Butlerov. Thật
đúng là ông đang biện hộ cho các hiện
tượng giáng ma, được gọi là sự
hiện h́nh, cũng như Giáo sư Zollner và Giáo sư Hare,
ông Russel Wallace, Giáo sư William Crookes và nhiều Hội viên
khác của Hội Hoàng Gia, ông tin tưởng vào các hiện
tượng này, dù là công khai hay âm thầm. Nhưng luận
chứng của ông về bản chất của cái Bản
thể (the
245
Nhưng muốn được như
thế, phải yêu chân lư vô hạn và phải diệt ngay
cái uy tín không thể sai lầm
(dù là giả tạo); những nhà khoa học xuất thân
từ quần chúng phàm tục, dốt nát, suồng să, th́ dù
có học thức đi nữa cũng chớ nên tự
đắc. Muốn phối hợp hai nền khoa học
cổ truyền và hiện đại, trước hết
phải từ bỏ đường lối Duy vật
hiện nay. Cần phải thâm cứu huyền học
lẫn tôn giáo và Pháp thuật cổ truyền; thế mà các
Hàn lâm viện của chúng ta chưa bao giờ quan tâm
tới chúng. Muốn giải thích điều này th́ cũng
dễ. Trong các tác phẩm Luyện kim đan thời
xưa, chân ư nghĩa của các Chất liệu và các Hành
ẩn tàng trong các ẩn dụ buồn cười nhất
(the most ridiculous metaphors); cũng vậy, bản chất
vật chất, tâm linh và tinh thần của các Hành (tức
là Lửa) trong bộ kinh Vedas, nhất là trong kinh Puranăs,
đều ẩn tàng trong các ẩn dụ chỉ có các
Điểm đạo đồ mới thấu triệt
được. Nếu chúng mà không có ư nghĩa th́ đúng là
mọi huyền thoại và ẩn dụ dài ḍng về
sự thiêng liêng của ba loại Linh Hỏa (Fire) và bốn mươi chín Nguyên
Hỏa (original Fires) – được nhân cách hóa thành các Con
của các
246
Bấy
giờ, dĩ thái, phong, quang, thủy, địa kết
hợp chặt chẽ với các tính chất của âm thanh
và phần c̣n lại, tồn tại riêng biệt tùy theo
đặc tính của chúng… nhưng v́ có nhiều năng
lượng khác nhau và rời rạc, nên nếu không
phối hợp lại, chúng không sao tạo ra các sinh linh
được và cũng chẳng thể ḥa hợp
được với nhau. Do đó, sau khi đă phối
hợp với nhau, nhờ vào sự liên hợp hỗ
tương, chúng có được đặc tính toàn
khối đơn nhất, theo sự điều
động của tinh thần v.v…([226])
Dĩ nhiên, điều này có nghĩa là các
soạn giả đều hoàn toàn quen thuộc với
sự tương hệ và thấu đáo được
việc Càn Khôn (Kosmos) bắt nguồn từ “Nguyên khí Vô
Hiện” (the “
Muốn chứng tỏ điều này th́
cũng dễ dàng. Chẳng hạn như xét quyển giáo lư
vấn đáp mới xuất bản của tín đồ
phái Vedanta Vishishtădvaita; đó là một hệ thống
ngoại môn chính thống được giảng dạy
đầy đủ vào thế kỷ 11,([227])
khi “khoa học” Âu Tây vẫn c̣n tin là trái đất dẹt
(flatness) và vuông (theo lư thuyết Cosmas Indicopleustes vào thế
kỷ thứ 6). Nó dạy rằng trước khi bắt
đầu Tiến hóa, Prakriti,
247
Thật vậy, xét về một thanh niên
Bà La Môn tốt nghiệp đại học Ấn
Độ với nhiều danh vọng nhất; y
bước chân vào đời như là một bậc cao
học nhân văn và Cử nhân luật khoa, (đàng sau danh
xưng của y là một loạt các bằng cấp từ
đầu chí cuối); càng có
nhiều danh vọng khi thụ huấn về vật lư
học bao nhiêu, y càng khinh miệt thần linh quốc gia
bấy nhiêu. Thực ra, dưới ánh sáng của vật lư
học và khi xét tới sự tương hệ của các
lực vật lư, y chỉ mới đọc có vài
đoạn kinh Puranăs mà đă thấy rằng tổ tiên
đă hiểu biết hơn ḿnh biết bao nhiêu (trừ phi
y trở thành một nhà Huyền bí học). Mong rằng y
sẽ quay sang ẩn dụ về Purũravas và Gandharva ([228])
thiên giới (the celestial Gandharva), chuyên môn cung cấp cho
Purũravas một b́nh đầy lửa thiêng. Cách thức
sơ khai để thu được lửa do ma sát đă
được giải thích một cách khoa học trong
bộ kinh Vedas, nó thật là đầy ư nghĩa
đối với kẻ nào hiểu được ‘ư
tại ngôn ngoại’. Người ta thu được
Tretăgni (tam linh hỏa) bằng cách cọ xát mấy cái que
bằng gỗ cây Ashvattha tức cây Bồ Đề Minh
Triết (the Bo-tree of
248
TIẾT 6
MỘT
NHÀ KHOA HỌC ĐẢ KÍCH
THUYẾT
LỰC CỦA KHOA HỌC
(AN ATTACK ON THE SCIENTIFIC THEORY OF
FORCE
BY A MAN OF SCIENCE)
NAY
chúng ta sẽ trích dẫn các phát biểu sáng suốt có
lợi cho chúng ta của nhiều nhà khoa học
người Anh. Chúng bị một ít nhân vật tẩy chay
“theo nguyên tắc” (ostracized for “principle’s sake”), nhưng
nhiều người khác lại mặc nhiên tán thành chúng.
Mọi nhà Huyền bí học, thậm chí một vài
độc giả phàm tục sẽ nhận ra là một
trong các nhà khoa học đó đă giảng dạy hầu
như toàn là giáo lư Huyền bí, có một số điều
mà công chúng thích thừa nhận, giống hệt với “Vô cực điện và Bảy Phân Thân” (“Fohat and
his seven Sons”) của chúng ta, tức Nhạc Thần
Huyền Bí (Occult Gandharva) của kinh Vedas.
Nếu các độc giả mở quyển V
của tạp chí Khoa học Phổ Thông, ([229])
họ sẽ thấy trong đó có một bài nói về
“Lực Mặt Trời và Lực Địa Cầu”
(“Sun-Force and Earth-Force”) của Tiến sĩ B.W. Richardson
(Hội viên Hội Hoàng Gia) như sau:
Vào
lúc này, khi học thuyết cho rằng “chuyển
động là nguồn gốc duy nhất của mọi
lực” đang thịnh hành trở lại, hầu như
thật là một dị thuyết nếu tiếp tục
lại một cuộc tranh luận hầu như đă
được mọi người đồng ư dẹp qua
một bên trong một thời gian. Nhưng tôi xin đánh
bạo vạch ra những quan điểm chính xác của
kẻ chủ trương dị thuyết bất hủ
về Lực Mặt Trời đó (tôi đă nói nhỏ cho
quí độc giả biết y tên là Samuel Metcalfe). Xuất
phát từ luận cứ mà hầu hết các nhà vật lư
đều đồng ư – theo luận cứ này, trong thiên
nhiên có tồn tại hai tác nhân: vật chất vốn
khả lượng, hữu h́nh và một cái ǵ đó
bất khả lượng, vô h́nh và chỉ thẩm
định được qua tác dụng của nó
đối với vật chất – Metcalfe chủ
trương rằng tác nhân bất khả lượng và
tích cực đó (mà ông gọi là “nhiệt tố” – “caloric”)
không phải là một dạng chuyển động, không
phải là một rung động trong các cấu tử
của vật chất khả lượng, song bản thân
nó lại là một chất liệu vật chất xuất
phát từ mặt trời, lưu chuyển qua không gian, ([230]) lấp đầy
các khoảng trống giữa các cấu tử của các
thể đặc, và mang theo tính chất mà cảm giác
gọi là nhiệt. Y biện hộ cho bản chất của
nhiệt tố, tức Lực Mặt Trời dựa vào
các cơ sở sau đây :
1. Nó
có thể được thêm vào hoặc rút ra khỏi các
vật thể khác và được đo lường
một cách chính xác như toán học.
2. Nó
làm gia tăng thể tích của các vật thể, khi nó rút
ra, thể tích này lại giảm kích thước.
3. Nó
biến đổi h́nh dạng, tính chất, t́nh trạng
của mọi vật thể khác.
4.
Nhờ bức xạ, nó đi qua được chân không
tuyệt đối nhất ([231]) có thể
được tạo ra; trong chân không đó các hiệu
quả mà nó tạo ra đối với nhiệt kế
cũng giống hệt như đối với bầu khí
quyển.
5. Nó
tạo ra các lực cơ học và hóa học mà không ǵ có
thể kiềm chế được, chẳng hạn
như núi lửa, thuốc súng và các hợp chất khác.
6. Nó
tác động một cách rơ rệt lên thần kinh hệ,
khiến chúng ta đau nhức nhối; và khi nhiều quá, nó
sẽ làm tan ră các mô.
Để chống lại thuyết rung
động, Metcalfe đă luận chứng thêm rằng
nếu nhiệt tố (caloric) chỉ là một tính chất, nó không thể làm
gia tăng thể tích của các vật thể khác. Muốn
làm được như vậy, bản thân nó phải có
thể tích, nó phải chiếm chỗ trong không gian, và do
đó, nó phải là một tác nhân vật chất (a material
agent). Nếu nhiệt tố chỉ
là tác dụng của rung động trong số các
cấu tử của vật chất khả lượng
(ponderable matter); th́ nó không
thể bức xạ từ các vật thể nóng mà không
đồng thời chuyển dịch các cấu tử rung
động. Nhưng sự thật rơ rệt là nhiệt có
thể bức xạ từ chất liệu vật
chất khả lượng mà không làm mất trọng
lượng của chất liệu đó… Với quan
điểm như trên về bản chất vật
chất của nhiệt tố tức lực mặt
trời, với một ấn tượng kiên định
cho rằng: “Vạn vật trong
Rồi ông đặt ra định luật mà ông tin tưởng là tuyệt đối; nó được phát biểu như sau:
“Khi
nhiệt tố hút vật chất khả lượng, nó
kết hợp và qui tụ vạn vật lại; khi nó
tự đẩy ḿnh, nó phân cách và làm bành trướng
vạn vật”.
Điều này, dĩ nhiên hầu như là
lời giải thích huyền bí về sự cố kết.
Tiến sĩ
Như
tôi đă từng nói, hiện nay người ta có khuynh
hướng giảng dạy dựa vào giả thuyết cho
rằng , nhiệt là chuyển động, hay có lẽ nên
phát biểu đó là một lực hoặc một dạng
đặc biệt của chuyển động.([233])
250
Tuy
nhiên, cho dù được nhiều người ưa
chuộng, giả thuyết này cũng không nên
được chấp nhận để loại bỏ
các quan niệm đơn giản hơn về bản chất
vật chất của lực mặt trời và tác dụng
của nó nhằm biến đổi t́nh trạng của
vật chất. Chúng ta biết được bao nhiêu mà dám
có thái độ giáo điều?([234])
Giả
thuyết của Metcalfe về lực mặt trời là
lực địa cầu chẳng những rất
đơn giản, mà c̣n quá hấp dẫn nữa… Đây là
hai yếu tố trong vũ trụ, một yếu tố
chính là vật chất khả lượng… Yếu tố
thứ nh́ là ether thấm nhuần vạn vật, tức
lửa mặt trời. Nó không có trọng lượng,
chất liệu, sắc tướng (form) hoặc màu
sắc; đó là vật chất có thể phân chia măi măi, các
cấu tử của nó đẩy nhau; nó tinh anh đến
nỗi mà chúng ta không có từ ngữ nào (ngoại trừ
dĩ thái (3) để diễn đạt nó). ([235]) Nó thấm nhuần
và lấp đầy không gian, nhưng chính nó lại yên
nghỉ - chết (dead).([236]) Chúng ta kết
hợp hai yếu tố lại, vật chất trơ,
ether [?] tự đẩy, thế là vật chất khả
lượng đă chết [?] tức khắc linh hoạt
lại; [vật chất khả lượng có thể
trơ trơ, nhưng không bao giờ chết – đó là
Định luật Huyền bí – H.P.B.)… [Ether, nguyên khí dĩ
thái thứ nh́ – H.P.B.] thâm nhập qua các cấu tử
của vật chất khả lượng; khi thâm nhập
như thế, nó phối hợp với cấu tử
khả lượng và gộp chúng lại thành khối,
kết hợp chúng lại bằng phép nối; rồi chúng
lại tan ḥa trong ether.
Theo
thuyết nêu trên, mọi vật hiện hữu đều
dính líu tới sự phân bố chất đặc khả
lượng (solid ponderable matter) qua ether. Ether đang
thấm nhuần vạn vật. Chính cơ thể con
người cũng tích đầy ether (tức tinh tú quang
(say astral light) –H.P.B.), các cấu tử li ti của nó
được ether kết hợp lại; cây cối
cũng như vậy, đất cứng rắn nhất,
đá, kim cương, pha lê, kim loại, tất cả
đều như vậy cả. Nhưng năng lực
nhận lực mặt trời của nhiều loại
vật chất khả lượng khác nhau nên việc thay
đổi trạng thái vật chất (đặc,
lỏng và hơi) tùy thuộc vào điều kiện này. Các
vật thể đặc đă hút nhiệt tố nhiều
hơn hẳn các vật thể lỏng, v́ thế, chúng
mới cố kết rắn chắc (firm cohesion) như
vậy. khi một phần kẽm nung chảy
được đổ lên một phiến kẽm
đặc, kẽm nung chảy cũng biến thành
đặc v́ nhiệt tố đă đổ xô từ
kẽm lỏng sang kẽm đặc; do có sự quân b́nh
hóa như vậy, các cấu tử trước kia lỏng
lẻo hoặc lỏng, đă kết hợp với nhau
một cách chặt chẽ hơn… Nhấn mạnh tới
các hiện tượng nêu trên dùng sự đơn nhất
nguyên lư tác động để biện minh cho chúng (nguyên
lư này đă được giải thích rồi) chính Metcalfe
đă tóm tắt luận chứng của ḿnh một cách
thật rơ ràng trong một lời b́nh giải về tỷ
trọng của nhiều vật thể khác nhau. Ông cho
biết: “Cứng hay mềm, đặc hay lỏng, không
phải là các trạng thái bản thể của các vật
thể, mà lại tùy thuộc vào tỷ lệ tương
đối của vật chất tinh anh và vật chất
khả lượng cấu thành chúng. Chất khí đàn
hồi nhất có thể được thu về dạng
lỏng bằng cách rút nhiệt tố ra, rồi nó có
thể lại được chuyển thành một
chất đặc rắn chắc; các cấu tử
của nó sẽ cố kết với nhau bằng một
lực tỷ lệ với độ tăng ái lực
nhiệt tố của chúng. Mặt khác, khi thêm đủ
một lượng nguyên khí đó vào các kim loại thô
đặc nhất, chúng sẽ hút nó ít đi khi chúng bành
trướng thành trạng thái hơi và sự cố
kết của chúng sẽ biến mất”.
251
Sau khi đă trích
dẫn dài dài các quan điểm phi chính thống (heterodox) của “kẻ chủ trương
dị thuyết” lỗi lạc đó – các quan điểm
này thật là chí lư, đó là điều cần thay
đổi chút ít các từ ngữ được dùng
đây đó – Tiến sĩ Richardson, nhất định là
một nhà tư tưởng độc lập và sáng
tạo, đă tổng kết các quan điểm này và tŕnh
bày tiếp như sau :
Tôi
sẽ không đề cập nhiều tới sự
đơn nhất của lực mặt trời và lực
của địa cầu này, đó là điều
được hàm ư trong thuyết này. Nhưng tôi có thể
nói thêm là từ giả thuyết cho rằng lực chỉ
là chuyển động mà không cần có chất liệu,
chúng ta có thể thu thập được các điều
suy diễn (được xem như là gần gũi
nhất với sự thật về chủ đề
phức tạp và thâm thúy nhất này) như sau:
a. Không gian (liên tinh tú, liên hành tinh, liên vật chất, liên cơ quan) chẳng phải là một chân không, song lại chứa đầy một lưu chất hoặc một chất khí tinh anh, mà chúng ta cưỡng danh ([237]) là Aith-ur – Lửa Mặt Trời – Hậu thiên khí (nói theo cổ nhân). Vốn bất hoại, vô h́nh ([238]) và có thành phần bất di bất dịch, lưu chất này thấm nhuần vạn vật và mọi vật chất ([239]) [khả lượng (ponderable) –H.P.B.], viên đá cuội trong lạch nước đang chảy, cái cây treo lơ lửng, con người dự khán, đều được tích đầy ether ở nhiều cấp độ khác nhau; viên đá cuội chứa ít hơn cái cây, cái cây chứa ít hơn con người. Mọi vật trên hành tinh đều tích đầy ether như vậy đó ! Thế giới được dựng nên trong lưu chất ether và vận chuyển qua một biểu ether.
b. Dù có bản chất ra sao đi
nữa, ether cũng xuất phát từ mặt trời và
từ các mặt trời ([240]): chúng sản sinh ra
nó, tích lũy nó và phân phối nó. ([241])
c.
Không có ether, không thể có chuyển động
được : không có nó các cấu tử của vật
chất khả lượng không thể trượt lên nhau
được, không thể có xung lực kích thích các
cấu tử này hoạt động.
d.
Ether xác định cấu tạo của các vật
thể. Nếu không có ether, chất liệu không thể thay
đổi cấu tạo được. Chẳng hạn
như nước chỉ có thể tồn tại như
một chất liệu, rắn chắc và không thể ḥa
tan được một cách bất khả tư nghị.
Nó chẳng bao giờ có thể là nước đá,
nước lỏng, hơi nước (trừ ether ra).
e.
Ether liên kết mặt trời với hành tinh, hành tinh
với hành tinh, con người với con người.
Nếu không có ether, không thể có sự liên giao trong Vũ
Trụ; không có ánh sáng, không có nhiệt, không có hiện
tượng chuyển động.
252
Như thế, chúng ta
thấy rằng theo quan niệm máy móc (mechanical) qui ước về Vũ Trụ,
Ether và các nguyên tử đàn
hồi là Tinh Thần và Linh
Hồn của Càn Khôn. Ngoài ra, dù được tŕnh bày ra
sao và được ngụy trang thế nào đi nữa,
thuyết này luôn luôn bỏ ngơ vấn đề này cho các nhà
khoa học rộng đường suy lư vượt quá
mức Chủ nghĩa duy vật hiện đại ([242]) mà đa số chấp nhận. Các
suy lư hiện đại về Nguyên tử, Dĩ thái
hoặc cả hai, không thể nào thoát khỏi phạm vi
tư tưởng cổ truyền; thế mà tư
tưởng cổ truyền lại thấm nhuần
Huyền bí học cổ sơ. Thuyết sóng ánh sáng hay
thuyết hạt ánh sáng th́ cũng như nhau thôi. Đó là
sự suy lư theo các khía cạnh của hiện tượng,
chứ không phải là do hiểu biết về bản
thể của nguyên nhân và các
nguyên nhân. Khi khoa học đă
giải thích cho thính giả các thành tựu mới nhất
của Bunsen và Kirchoff; khi nó tŕnh bày trên một màn ảnh
bảy màu sắc được phân giải theo một
trật tự nhất định từ màu sắc
“bản sơ” (“primary”) của một tia sáng; khi nó đă
lần lượt mô tả các bước sóng (độ
dài sóng) ánh sáng, th́ nó đă chứng tỏ được
điều ǵ? Nó đă tỏ ra “danh bất hư
truyền” (reputation) về mặt chính xác toán học khi
đo được cả bước sóng ánh sáng –
“biến thiên từ khoảng bảy trăm sáu mươi
phần triệu của một millimetre ở cực
đỏ của quang phổ cho tới khoảng ba trăm
chín mươi ba phần triệu của một millimetre
ở cực tím”. Nhưng khi đă biện hộ như
vậy cho sự chính xác của phép tính liên quan tới tác dụng đối với sóng ánh sáng, khoa
học đă bắt buộc phải nh́n nhận rằng
người ta tin là lực, vốn chính là nguyên nhân giả định (the supposed
cause), đă tạo ra các “ba
động vô cùng nhỏ” trong một môi trường nào đó –“thường được gọi
như là đồng nhất với môi trường ether”([243]) – thế mà chính môi trường
đó lại chỉ là một “tác nhân theo giả
thuyết”!
Ba mươi năm sau, Kirchoff đă
không c̣n tin tưởng vào thái độ bi quan của Aguste
Comte và khả năng biết được cấu
tạo hóa học của Mặt Trời vào một ngày kia,
điều này đă được chứng minh. Kính quang
phổ đă giúp chúng ta thấy rằng các nguyên tố quen
thuộc với hóa học hiện đại, ắt
phải tồn tại trong
các “lớp vỏ” bên ngoài Mặt trời (chứ
không phải là trong chính Mặt Trời). Bởi v́ tưởng lầm rằng
các lớp vỏ này (bức màn vũ trụ che mặt
trời) là chính Mặt Trời nên các nhà vật lư mới
tuyên bố rằng nó sáng chói là do lửa cháy, họ c̣n lầm lẫn nguyên sinh khí
của mặt trời với một vật thuần túy vật
chất mà họ gọi
là “sắc cầu” (“chromosphere”).([244]) Đến nay, chúng ta chỉ có các
giả thuyết và lư thuyết chứ tuyệt nhiên không
hề có một định luật.
253
TIẾT 7
SỰ
SỐNG, LỰC HAY TRỌNG LỰC
(LIFE, FORCE OR GRAVITY)
CÁC lưu chất
khả lượng nay đă hết thời, người
ta đă ít nói tới “các lực cơ học” (“mechanical
Forces”); khoa học đă khoác lấy một bộ mặt
mới trong phần tư cuối thế kỷ này;
nhưng lực hấp dẫn vẫn tồn tại,
nhờ sự cứu chữa của các phép phối hợp
mới mẻ sau khi các phép phối hợp cũ hầu
như đă giết chết nó. Nó có thể đáp ứng
thỏa đáng các giả thuyết khoa học, nhưng
vấn đề đặt ra là liệu những giải
đáp của nó có đúng với sự thật và có tiêu
biểu cho một sự kiện trong thiên nhiên hay không?
Bản thân hấp lực c̣n chưa đủ
để giải thích các chuyển động hành tinh
nữa; thế th́ làm sao nó có thể tự cho là ḿnh
giải thích được chuyển động quay trong
không gian vô tận ? Một ḿnh hấp lực thôi sẽ
chẳng bao giờ lấp đầy được
mọi khoảng trống, trừ phi người ta
thừa nhận là mọi thiên thể đều
được ban cho một xung lực đặc biệt
và chứng tỏ được là mọi hành tinh với
các vệ tinh quay được đều do một nguyên nhân nào đó phối hợp với
hấp lực. Theo một nhà thiên văn học, ([245]) bấy giờ, khoa học phải
đặt cho nguyên nhân đó một tên gọi.
Từ lâu rồi,
Huyền bí học đă mệnh danh nó, tất cả các
triết gia thời xưa cũng đều làm như
thế cả; nhưng rồi hiện nay đă bị tiêu
tan v́ người ta tuyên bố rằng mọi tín
ngưỡng như thế đều là các điều mê
tín dị đoan (proclaimed exploded superstitions). Thần linh
“ngoại vũ trụ” (“extra-cosmic”) đă làm tiêu tan hết
khả năng tin tưởng vào các Lực thông tuệ nội vũ trụ; thế nhưng ai
hoặc cái ǵ thoạt tiên đă thúc đẩy chuyển
động đó ? Francoeur cho rằng : ([246])
Khi
chúng ta đă biết được các nguyên nhân thúc
đẩy duy nhất và chuyên biệt, chúng ta sẽ sẵn
sàng phối hợp nó với nguyên nhân hút.
Lực
hút giữa các thiên thể chỉ là lực đẩy: chính
mặt trời đă không ngừng đẩy chúng tiến
tới; v́ nếu không như thế, chuyển động
của chúng sẽ ngừng lại.
Nếu người ta chấp nhận thuyết cho rằng Lực mặt Trời (the Sun-Force) là nguyên nhân bản sơ của mọi sự sống trên trần thế và mọi chuyển động trên trời, và nếu người ta chấp nhận giả thuyết c̣n táo bạo hơn nữa của Herschel về một vài cơ cấu trong Mặt Trời, th́ bấy giờ giáo lư của chúng ta sẽ được biện minh và ẩn dụ Nội môn có lẽ sẽ tỏ ra là đă tiên liệu được trước khoa học hiện đại hàng triệu năm, v́ đó chính là các Giáo lư Cổ sơ (the Archaic Teachings). Mărtanda (Thái Duong) trông chừng và đe dọa bảy huynh đệ ḿnh (các hành tinh) song không hề bỏ vị trí trung ương mà Mẹ y (Tiên Thiên Huyền Nữ - Aditi) đă xếp y vào. Phần giảng lư ([247]) dạy như sau:
Y
theo đuổi chúng, tự quay chậm chậm… đi theo
ở xa xa hướng mà các huynh đệ y di chuyển
trên con đường bao quanh nhà của chúng – hay là quỹ đạo.
Chính các lưu chất
Mặt Trời tức các bức xạ Thái Dương
(Emanations) đă truyền chuyển động cho vạn
vật và khơi hoạt chúng trong Thái Dương Hệ
(the Solar System). Đó là sức hút và sức đẩy
(nhưng chúng không tuân theo luật trọng lực, do đó
không giống như quan niệm của vật lư học
hiện đại) phù hợp với luật Chuyển động của
Arago
đề nghị nên gọi lớp vỏ này là Quang
cầu (the Photosphere), danh xưng này nay đă
được mọi người chấp nhận. Herschel
anh (the elder Herschel) có so sánh bề mặt của quang
cầu này với con ốc xà cừ (mother-of-pearl)… Nó
giống như mặt đại dương vào một
buổi trưa hè êm ả, có sóng gợn lăn tăn khi gió
hiu hiu thổi… Ông Nasmyth đă phát hiện một t́nh
trạng đáng lưu ư hơn bất kỳ t́nh trạng
nào đă được ngờ trước đây… các
dạng đặc biệt có dạng thấu kính …
giống như “lá liễu” (“willow leaves”)… có kích thước
khác nhau … sắp xếp lộn xộn chẳng theo một
thứ tự nào cả… giao nhau theo mọi hướng…
với một chuyển động không đều…
Người ta thấy chúng đến gần nhau rồi
lại lui ra xa; đôi khi chúng chiếm lấy một
vị trí mới ở góc khiến cho chúng có vẻ
giống như một đàn cá dày đặc (thật
vậy, h́nh dáng chúng rất giống như thế)… Kích
thước của các vật này gợi cho chúng ta ư
niệm về qui mô lớn lao của việc tiến hành
các tác động vật lư (?) trong mặt trời. Chúng dài
ít nhất là 1 000 dặm, rộng ít nhất là 200
đến 300 dặm. Chúng ta có thể phỏng đoán
về các vật giống như h́nh lá hoặc là thấu
kính đó như sau: quang cầu ([249]) là một
đại dương chất hơi (ocean of gaseous matter)
[loại “vật chất” nào thế nhỉ?] … bao la ở
một trạng thái cháy đỏ rực [biểu
kiến], chúng là các h́nh chiếu phối cảnh của các
dải lửa đó (the sheets of flame).
Huyền bí học dạy rằng nh́n qua kính
viễn vọng, các “ngọn lửa” mặt trời
chỉ là các phản ánh. Nhưng độc giả đă
thấy các nhà Huyền bí học phải nói như thế
nào về điều này.
255
Dù
cho các dải lửa này có là ǵ đi nữa, hiển nhiên
chúng vẫn là nguồn trực tiếp của nhiệt và
ánh sáng mặt trời. Ở đây chúng ta có một lớp
vỏ bao quanh vật chất phát quang, ([250]) dao động
với các năng lượng mănh liệt; nó tạo ra
nhiệt và ánh sáng truyền chuyển động cho môi
trường ether trong không gian tinh đẩu. Chúng tôi đă
bảo rằng có thể so sánh các h́nh hài này với một
vài cơ cấu. Herschel c̣n cho rằng: “Mặc dù thật là
quá táo bạo nếu coi các tổ chức như vậy là
tham dự vào sự sống [tại sao lại không như
vậy?], ([251]) song chúng ta biết
chắc rằng tác dụng sinh lực đó có đủ
năng lực phát triển được nhiệt, ánh sáng
và điện”… Cái tư tưởng kỳ diệu đó
có thể nào đúng với chân lư không? Liệu sự thoi
thóp rộn ràng của sinh chất trong mặt trời trung
ương của thái dương hệ chúng ta có phải
là cội nguồn của mọi sự sống đầy
dẫy trên trái đất và chắc chắn là lan rộng
ra các hành tinh khác (mà mặt trời là vị đặc
sứ đầy quyền lực) chăng ?
Huyền bí học đă xác nhận các nghi
vấn này, một ngày kia khoa học cũng sẽ nối
gót Huyền bí học thôi.
Ông Hunt lại cho rằng:
Nhưng nếu xem Sự Sống –Sinh Lực
(vital Force) – là một quyền năng cao siêu hơn cả
ánh sáng, nhiệt hay điện và thật sự có thể
kiềm chế hết được chúng [điều này
hoàn toàn có tính cách huyền bí]… th́ chắc chắn là chúng ta
sẽ có khuynh hướng thỏa măn (satisfaction) khi xem xét
điều suy lư giả sử rằng quang cầu
(photosphere) là vị trí ưu tiên của sinh lực cũng
như cái giả thuyết qui các năng lượng
mặt trời cho Sự Sống. ([252])
Như thế, khoa
học đă bổ chứng một điểm quan
trọng cho một trong các giáo điều căn bản
của chúng ta; đó là (a) Mặt Trời là kho chứa Sinh
Lực, đó vốn là Thực tượng của
Điện; và (b) Từ trong cơi ḷng thâm u, khôn ḍ của nó
(its mysterious, never-to-be-fathomed depths) có xạ ra các luồng
sinh lực rung lên qua Không gian và qua cơ thể của
mọi sinh linh trên Trần Thế. Chúng ta hăy thử xem
một y sĩ lỗi lạc khác (ông gọi lưu chất
sinh lực này là Ether Thần kinh) tŕnh bày ra sao đây.
Chỉ cần thay đổi một ít câu trong bài
được trích ra sau đây là bạn sẽ có
được một bộ Đại luận hầu như Huyền bí khác (another quasi-Occult treatise) về Sinh
Lực. Chính Bác sĩ B.W. Richasdon (Hội viên Hội Hoàng
Gia) lại tŕnh bày quan điểm như sau về “Ether
Thần Kinh” (“Nervous Ether”) sau khi đă tŕnh bày về
“Lực Mặt Trời” (“Sun-Force”) và “Lực Địa
Cầu” (“Earth-Force”):
Thuyết
này chủ trương rằng giữa các phân tử
của vật chất (chất đặc hay lưu
chất) cấu thành các cơ cấu thần kinh và thực
ra là cấu thành mọi bộ phận hữu cơ của
cơ thể, có tồn tại một môi trường tinh
anh, ở dạng hơi, nó giữ các phân tử ở trong
t́nh trạng chuyển động đối với nhau,
đồng thời sắp xếp lại h́nh hài sắc
tướng. Đó là một môi trường truyền
đạt mọi chuyển động; nó giúp cho một
cơ quan hoặc một bộ của cơ thể liên
giao với các bộ phận khác, nó giúp cho con người
sống động liên giao với ngoại giới linh
động. Đó là một môi trường mà nếu
hiện diện, nó sẽ khiến cho các hiện
tượng sinh hoạt có thể biểu lộ
được, c̣n nếu không hiện diện, nói chung, nó
sẽ để cho cơ thể chết thực sự.
Và toàn thể Thái Dương Hệ sẽ
bước vào
256
Tôi
dùng từ ngữ ether với nghĩa tổng quát là một
chất nhẹ, ở dạng hơi; tóm lại, tôi dùng
từ này theo nghĩa thiên văn học, tức là ether không
gian, một môi trường tinh anh song vẫn là vật
chất… Khi đề cập tới một ether thần
kinh (nervous ether), tôi không có ư cho rằng ether chỉ tồn
tại trong cấu trúc thần kinh không thôi; tôi tin chắc
rằng đó là một bộ phận đặc biệt
của cơ cấu thần kinh. Tuy nhiên, v́ dây thần kinh
thâm nhập vào trong mọi cấu trúc có thể vận
động và cảm giác được, nên ether thần
kinh cũng thâm nhập vào mọi bộ phận như
thế. Theo quan điểm của tôi, v́ ether thần kinh là
một sản phẩm trực tiếp của máu, nên chúng
ta có thể xem nó như là một phần bầu khí
quyển của máu … Có các bằng chứng làm cho mọi
người tin chắc vào sự tồn tại của
một môi trường đàn hồi thấm nhuần
vật chất thần kinh (the nervous matter) và có thể bị
áp lực đơn tác dụng vào… Trong cơ cấu
thần kinh, chắc chắn là có một lưu chất
thần kinh chân chính (các bậc tiền bối của chúng
ta đă dạy như vậy).([253]) Người ta
chưa biết rơ thành phần hóa học (?) chính xác ([254]) của lưu
chất này; người ta cũng mới chỉ nghiên
cứu chút ít được các đặc tính vật lư
của nó. Chúng ta chẳng biết liệu nó có di chuyển
thành ḍng hoặc chu lưu hay không; liệu nó có tạo ra
ở các trung tâm và chuyển từ đó tới các dây
thần kinh hay nó thành h́nh ở bất cứ nơi nào mà
máu nhập vào dây thần kinh. Do đó, chúng ta không biết
chính xác được lưu chất đó dùng để
làm ǵ. Tuy nhiên, tôi chợt nghĩ rằng chính lưu
chất thần kinh này thật sự không đủ
để tác dụng như là một môi trường tinh
anh nối liền ngoại giới với nội giới
của con người và con thú. Tôi nghĩ rằng đây là
điều cải cách mà tôi xin gợi ư cho lư thuyết
cũ, phải có một dạng vật chất khác
hiện diện trong khi có sự sống. Đó là một
chất tồn tại ở trạng thái hơi, thấm
nhuần toàn bộ cơ cấu thần kinh, bao quanh
mỗi phân tử như là một lớp khí quyển, ([255]) và là môi trường của
mọi chuyển động, truyền tới các trung khu
thần kinh và từ đó phát đi…Một khi chúng ta thoáng
thấy được rằng lúc sinh tiền, trong cơ
thể của động vật có một dạng vật
chất phân tán tinh tế, một thể hơi lấp
đầy mọi bộ phận – thậm chí c̣n
được tích trữ trong một vài bộ phận;
đó là một chất luôn luôn được cơ
cấu sinh hóa học canh tân lại măi; đó là một
chất cũng dễ vận dụng như là hơi
thở, sau khi đă hoàn thành nhiệm vụ của ḿnh – th́
đúng là một luồng ánh sáng mới tràn ngập qua tâm
(a new flood of light breaks on the intelligence). ([256])
Chắc chắn là ánh sáng chân lư đă tràn
ngập minh triết của những tín đồ Huyền
bí học cổ truyền và trung cổ. Cách đây hơn ba
trăm năm , vào thế kỷ mười sáu, Paracelsus
cũng tŕnh bày điều đó như sau:
Toàn bộ
Tiểu Thiên Địa (Microcosm) được chứa
đựng tiềm tàng trong Sinh Thủy (Liquor Vitae) đó là
một lưu chất thần kinh … bao hàm bản chất,
tính chất, đặc tính và bản thể của vạn
vật. ([257])
Archaeus
(Thái Cổ) là một tinh chất được phân bố
đều trong mọi bộ phận của cơ thể
con người… Tinh Thần Linh Hoạt (Spiritus Vitae)
bắt nguồn từ Tinh Thần Vũ Trụ (Spiritual
Mundi). Vốn là một phân thân của tinh thần vũ
trụ, nó bao hàm các yếu tố của mọi tác dụng
vũ trụ; do đó, nó là nguyên nhân giúp chúng ta giải thích
được tác dụng của các v́ sao [lực vũ
trụ] đối với thể vô h́nh của con người
[Dĩ Thái thể: Linga Sharira].([258])
Nếu bác sĩ
257
Người
ta có thể nhấn mạnh là đường lối
tư tưởng này chẳng bao hàm ǵ khác hơn là
thuyết về sự tồn tại của ether..
được giả sử là thấm nhuần không gian.
Người ta có thể bảo là ether vũ trụ
thấm nhuần mọi cơ thể động vật
từ bên ngoài cũng như là phần tử của
mọi tổ chức. Người ta sẽ thấy
rằng quan điểm chính là thuyết Phiếm thần
(Pantheism) xét về mặt vật chất, nếu nó đúng
với sự thật [!!] Nó chẳng thể nào đúng
được v́ nó sẽ tiêu diệt hết cá tính của
mọi giác quan cá biệt.([259])
Chúng ta không thể
thấy được điều đó, chúng ta biết rằng nó sẽ không phải như vậy.
Người ta có thể t́m được thuyết Phiếm
Thần “xét về mặt vật chất”. Xưa kia,
mọi người đều biết tới và trông
thấy và cảm thấy nó. Thuyết Phiếm Thần
biểu lộ nơi sự bành trướng vô tận
của ṿm trời lấp lánh ánh sao, nơi hơi thở
nồng nàn của đại dương xanh ngắt,
nơi nhịp sống rộn ràng của cọng cỏ li
ti. Triết học bác bỏ Thượng Đế hữu hạn và bất
toàn trong vũ trụ, tức
thần linh nhân h́nh của các tín đồ Độc
Thần. Nhân danh Minh Triết Thiêng Liêng, nó bác bỏ ư
kiến quái gở cho rằng Thượng Đế Tuyệt Đối phải (hay đúng hơn là có thể) có một liên hệ trực tiếp
hay gián tiếp nào đó với các cuộc tiến hóa hăo
huyền hữu hạn của Vật Chất. Do đó, nó
không sao tưởng tượng được một
vũ trụ bên ngoài Thượng Đế đó, tức
là không có mặt Thượng Đế đó trong hạt
vi trần của Chất linh hoạt hay vô tri giác (the
smallest speck of animate or inanimate Substance). Điều này không có
nghĩa là mọi bụi rậm, cây cỏ, đất
đá đều là Thần Linh (God) hay một Thần Linh (a
God); nó chỉ có nghĩa là mọi hạt vi trần (speck)
vật liệu của Càn Khôn biểu lộ đều
thuộc về và là Chất liệu của Thượng
Đế, cho dù nó đă ch́m sâu đến đâu đi
nữa khi tuần hoàn chu chuyển qua mọi Thời
kỳ biến dịch Vô Tận (the Eternities of the
Ever-Becoming). Nó cũng có nghĩa là mọi hạt vi trần
đó nói riêng, và Càn Khôn nói chung, đều là một
trạng thái nhắc chúng ta nhớ tới Đại Hồn Vũ Trụ
Duy Nhất (universal One Soul)
(Triết học không chịu gọi nó là Thượng
Đế, v́ như thế là giới hạn cội
nguồn và bản thể vĩnh cửu, hằng hữu).
Tại sao Ether Không gian hay “Ether Thần kinh”
lại “tiêu diệt (destroy) hết cá tính của mọi giác
quan”; điều này dường như là khó hiểu
đối với kẻ nào đă quen thuộc với chân
tướng của “Ether Thần kinh” đó với danh
xưng Nội môn Bí giáo Do Thái. Bác sĩ
Nếu
cá nhân chúng ta không tạo ra môi trường liên giao giữa
chính chúng ta và ngoại giới, nếu nó được
tạo ra từ bên ngoài và được thích ứng
với chỉ một loại rung độngthôi, th́ chúng ta
sẽ cần ít giác quan hơn số lượng hiện
có. Ấy là v́ – chỉ lấy hai thí dụ minh họa thôi:
ether ánh sáng không thích ứng với âm thanh, thế mà chúng ta
vẫn nghe cũng như là thấy; không khí (môi
trường chuyển động của âm thanh) chẳng
phải là môi trường của ánh sáng, thế mà chúng ta
vẫn thấy cũng như là nghe.
258
Không phải như
thế. Ư kiến cho rằng thuyết Phiếm Thần
“không thể không đúng sự thật được v́ nó
sẽ dẹp hết cá tính của mọi giác quan cá
biệt “chứng tỏ rằng mọi kết luận
của vị bác sĩ tài ba đó đều
được dựa vào các thuyết vật lư hiện
đại, mặc dù ông rất sẵn ḷng sửa chúng
lại. Nhưng ông sẽ thấy là không thể làm
điều đó được nếu ông không để
cho các giác quan tinh thần thay thế các giác quan vật
chất đang dần dần teo tóp lại (atrophy). Dĩ
nhiên, Bác sĩ
Bất
hoại và hữu hoại, đó là biểu lộ
lưỡng phân của Bản Ngă. Trong đó, cái bất
hoại vẫn hằng hữu [chân tướng của
Bản Ngă, các nguyên khí căn bản]; khi biểu lộ như
là một (thực thể) cá biệt, nó được
gọi là hữu hoại.([260])
V́ thế, bậc ẩn sĩ trong Anugĩtă cũng dạy như sau:
[Bất cứ kẻ nào
được sinh ra hai lần (được
điểm đạo) đều biết rằng đó là
giáo lư của cổ nhân]…Không gian và thực thể bản
sơ… Nay Không gian [Tiên thiên khí (Ăkăsha), tức Thực
Tượng (Noumenon) của Dĩ Thái] có một tính
chất… người ta vạch rơ rằng đó chỉ là
âm thanh thôi … [và] các tính chất âm thanh [là] Shaja, Rishabha, cùng
với Găndhară, Madhyama, Panchama; ngoài ra [chúng ta nên biết
rằng] c̣n có Nishăda và Dhaivata [âm giai Ấn Độ (the
Hindu gamut)].([261])
Bảy nốt này của âm giai là
các nguyên khí của âm thanh. Các tính chất của mọi Hành
cũng như là của mọi giác quan, đều gồm
có bảy phần; thật là độc đoán nếu
cứ phán đoán chúng rồi lại giáo điều hóa
chúng khi chúng biểu lộ trên cảnh giới vật
chất hay ngoại giới. Ấy là v́, chỉ khi nào CHƠN NGĂ
(SELF) giải thoát khỏi bảy nguyên nhân
hăo huyền th́ chúng ta mới quán triệt được
Minh triết Bí nhiệm (Secret Wisdom) về các tính chất
của các đối tượng giác quan trên cảnh
giới biểu lộ lưỡng phân: hữu h́nh và vô
h́nh. V́ thế người ta dạy rằng:
259
Hăy
nghe tôi… tuyên bố bí nhiệm kỳ diệu này … cũng
như là xác định rốt ráo các nguyên nhân này. Chúng ta
phải hiểu rằng bảy (giác quan) – nhăn, nhĩ,
tỉ, thiệt, thân, trí [giác quan thứ sáu] và huệ ([262]) đều là các
nguyên nhân (sự hiểu biết được) các tính
chất. Mùi, vị, màu sắc, âm thanh và xúc giác (đối
tượng thứ năm), đối tượng của
thao tác trí tuệ và đối tượng tuệ giác (giác
quan hay tri giác tinh thần cao siêu hơn), bảy thứ này
là các nguyên nhân của hành động. Kẻ ngửi,
ăn, trông thấy, nói và nghe (tri giác thứ năm) suy
nghĩ và quán triệt, chúng ta phải hiểu rằng
bảy thứ trên đều là các nguyên nhân của tác nhân.
Các tác nhân này có các tính chất (ḥa, tịnh, động)
cũng như là thưởng thức các tính chất dễ
chịu và khó chịu của riêng ḿnh. ([263])
Không hiểu
được ư nghĩa tinh tế mà các nhà chú giải
cổ văn dùng, các nhà b́nh giải hiện đại
đă xem như câu “các nguyên nhân của tác nhân” có nghĩa là
“các năng lực ngửi v.v… khi được gán cho
Bản Ngă (Self), khiến cho y h́nh như là một tác nhân,
một nguyên khí tác động” (!), điều này thật
là hoàn toàn tưởng tượng. Chúng ta phải hiểu
“bảy thứ này” là các nguyên nhân của các tác nhân, v́ “các
đối tượng là các nguyên nhân, v́ sự
thưởng thức chúng tạo ra một ấn
tượng”. Xét về mặt nội môn, nó có nghĩa là
bảy giác quan này được tạo ra bởi các tác nhân vốn là “chư thần linh”, v́
nếu không thế, th́ câu sau đây có thể ắt
phải có nghĩa như thế nào ? Người ta bảo
rằng: “Như thế bảy [giác quan] này là các nguyên nhân
giải thoát” – nghĩa là khi chúng ta làm cho các nguyên nhân này
trở thành vô hiệu quả. Lại nữa câu: “trong
số các học giả [các Đạo đồ minh
triết] quán thông được vạn vật, các
đức tính có địa
vị [có bản chất th́
đúng hơn] của
chư thần linh, mỗi
thứ có vị trí của riêng ḿnh” v.v… chỉ có nghĩa là
“các học giả đă quán thông được bản
chất của thực
tượng của nhiều
hiện tượng khác nhau”. Trong trường hợp này,
các đức tính có nghĩa là các đức tính của
chư Thần Linh (hay các Đấng Thông Tuệ) Hành Tinh hoặc
Ngũ Hành – các Ngài chủ tŕ các hành và các sản phẩm của chúng – chứ không phải là
các “giác quan” như nhà b́nh giải hiện đại hay
lầm tưởng. Ấy là v́ bậc học giả không
hề giả sử là các giác quan của họ có liên quan
với họ cũng như là với CHƠN NGĂ (SELF) của họ.
Rồi trong Chí Tôn Ca
(Bhagavad Gĩtă), chúng ta thấy
Chỉ
có một vài kẻ là thực sự biết
được ta. Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Thái
hư (space) [hay là Tiên thiên khí, Hậu thiên khí] trí, huệ và
ngă thức [tức tri giác về mọi thứ trước
trên cảnh giới hăo huyền]… đều là một
dạng thấp của bản chất ta. Hỡi các kẻ
đầy uy lực ! nên biết rằng có một dạng
khác hẳn của bản chất ta cao siêu hơn bản
chất này, nó thật là linh động. Toàn thể vũ
trụ đều dựa vào nó… Mọi thứ ấy
đều được kết lại trên ta giống như là số
ngọc trai trên một sợi chỉ. Hỡi con trai
của Kuntĩ ! ta là hương vị trong nước. Ta
là ánh sáng của mặt trăng và mặt trời. Ta là … âm
thanh (“nghĩa là bản thể huyền bí ẩn
dưới mọi thứ này và các tính chất khác của
nhiều điều khác được đề cập
tới” – Người dịch ra tiếng Anh), trong Thái
hư … hương thơm trong Địa, ánh quang huy trong
Hỏa v.v...([264])
260
Thật vậy, người ta phải nghiên
cứu Huyền bí học trước khi bắt
đầu mưu t́m và kiểm chứng lại các huyền
bí của Thiên nhiên, xét về mặt biểu kiến thôi.
Ấy là v́ chỉ khi nào “biết được sự
thật về các đặc tính của
Nói
cho đúng, cây đại thọ có cái chồi nẩy
mầm từ rễ [Thái Cực Thượng Đế]
không ai tri giác được [Thiên Nhiên Huyền bí, cội
nguồn của vạn hữu]. Thân nó là “huệ” [Toàn Linh
Trí, tức Đại Hồn Thông Tuệ Vũ Trụ
(Mahat, or the Universal Intelligent Soul)], cành nó là đại ngă
thức, ([265]) từ đó mọc
ra các chồi (tức là các giác quan); các chùm hoa ([266]) của nó là các
đại hành (huyền bí hay vô h́nh); các cành nhỏ của
nó (bao giờ cũng sum suê hoa lá) là các hành thô thiển
[vật chất ngoại cảnh thô trược]… Cây
đại thụ ấy thật là vĩnh cửu, mầm
mống của nó là Brahma [Đấng Thánh Linh (the Deity)]; khi
dùng thanh gươm tuyệt hảo [Minh Triết Bí Nhiệm
(Secret Wisdom)] chặt đứt nó, chúng ta sẽ giải
thoát sinh tử luân hồi. ([267])
Đó là Cây
Trường Sinh (Ashvattha tree); SAU
KHI chặt đứt nó, CON NGƯỜI mới thoát ṿng sinh tử luân hồi.
Nhưng các nhà khoa
học không biết ǵ và cũng không nghe nói tới “Thanh gươm
Kiến Thức” (“Sword of Know -ledge”), mà các Cao đồ và
các tu sĩ khổ hạnh dùng đến. V́ thế ngay
cả các nhà khoa học phóng khoáng nhất cũng có các
nhận xét phiến diện dựa vào và xuất phát từ
việc cường điệu các lối phân loại
độc đoán của vật lư học. Huyền bí
học quan tâm rất ít ỏi tới chúng, Thiên Nhiên c̣n ít
quan tâm tới chúng hơn nữa. Toàn bộ các hiện
tượng vật lư xuất phát từ Dĩ Thái Bản Sơ – Tiên thiên khí và Tiên thiên khí
lưỡng phân (dual-natured Ăkăsha), bắt nguồn từ cái
gọi là Hồng nguyên khí
(Chaos) chưa biến phân,
Hồng nguyên khí ấy lại là trạng thái bản sơ
của Hỗn nguyên khí (Mũlaprakriti), Vật Chất
Căn cốt (the Root-Matter), Ư niệm trừu tượng
bản sơ mà người ta có thể h́nh dung
được về Thái Cực Thượng Đế (Parabrahman).
Mặc cho khoa học hiện đại muốn chia ether
(theo giả thuyết) cách nào tùy thích, song Hậu thiên khí chân thực của Không gian (the real Aether of Space)
vẫn luôn luôn có khắp nơi. Nó cũng có bảy “nguyên
khí” như vạn hữu; ở đâu không có ether, ở
đó chẳng có thể nghe âm thanh, v́ đó là bảng
khuếch âm trong Thiên Nhiên với tất cả bảy
biến phân (seven differentiations). Đó là bí ẩn đầu
tiên (the first mystery) mà các Đạo đồ thời
xưa đă học biết được. Theo quan
điểm hiện nay của chúng ta, các giác quan vật
chất cũng b́nh thường thôi, thế mà chúng lại
là dị thường (abnormal) vào thời tiến hóa ch́m sâu
dần vào Vật Chất. Ngày xưa, toàn thể nhân
loại đă từng có các giác quan và các năng khiếu mà
hiện nay, chúng ta xem như phi thường, chúng kỳ
diệu đến nỗi mà nay, các nhà sinh lư học bắt
buộc phải tin vào chúng – chẳng hạn như sự
truyền đạt tư tưởng, nhăn thông, nhĩ
thông v.v… nói tóm lại, tất cả những ǵ mà nay chúng ta
cho là “điều phi thường và phép lạ” – Tuy nhiên,
chúng ta tiến hóa và thoái hóa một cách tuần hoàn;
điều này nghĩa là chúng ta phải chịu thiệt
tḥi phần tinh thần để phát triển vật
chất măi cho đến lúc gần kết liễu
Giống dân thứ Tư; nay chúng ta (nhân loại) đang
chịu mất mát phần vật chất – một cách
dần dần – để lại được tiến
hóa về mặt tinh thần. Tiến tŕnh này phải
tiếp diễn cho tới thời kỳ mà Căn chủng
thứ Sáu (the Sixth Root-Race) sẽ có tŕnh độ tiến
hóa tinh thần ngang hàng với Giống dân thứ Nh́ (the
Second Race), một giống người đă diệt
chủng từ lâu rồi.
261
Nhưng hiện
nay, dễ ǵ thiên hạ hiểu được điều
này. Chúng ta phải quay về với giả thuyết
đầy triển vọng (mặc dù không mấy chính xác)
của Bác sĩ Richardson về “Ether Thần kinh”. Trong
hệ thống triết học cổ truyền Ấn
Độ, v́ bị dịch lầm là “Thái Hư” (“Space”),
nên Tiên Thiên Khí (Ăkăsha) đă bị xem như là “con
đầu ḷng” của Đấng Độc Tôn; nó chỉ
có mỗi một tính chất thất phân, đó là ÂM THANH (SOUND). Trong ngôn ngữ Nội môn,
Đấng Độc Tôn này là “Đức Chúa Cha”, c̣n Âm
Thanh đồng nghĩa với Huyền Âm tức Chúa Con
(the Logos, Verbum, or Son). Cho dù là hữu thức hay không đi
nữa, nó cũng phải là Huyền Âm. Trong khi rao giảng
một giáo lư Huyền bí, Bác sĩ
Theo
thuyết của tôi, ether thần kinh là một sản
phẩm của động vật (an animal product). Ở các
loài vật khác nhau, nó có thể có lư tính khác nhau để
thích ứng với các nhu cầu đặc biệt của
động vật đó, nhưng xét về mặt bản
chất, nó đóng một vai tṛ nào đó trong mọi động
vật và được tạo ra như nhau trong mọi
động vật.
Đây mới là
điều sai lầm căn bản đưa tới
mọi quan điểm lầm lạc. “Ether Thần kinh” này
là nguyên khí thấp nhất của Bản thể Nguyên
Thủy tức Bản
sinh (the Primodial Essence which is Life).
Đó là Sinh khí
Động vật (Animal Vitality) thấm nhuần trong Thiên Nhiên và tác
động tùy theo từng trường hợp. Nó không
phải là một “sản phẩm động vật”, song
loài động vật, thực vật đều là các
sản phẩm của nó. Các mô động vật chỉ
hấp thụ nó tùy theo t́nh trạng khỏe mạnh hay
bệnh hoạn của chúng – cũng như các vật
liệu và cấu trúc vật chất (có điều là ở trong t́nh trạng bản nguyên) – từ lúc Thực Thể sinh ra,
chúng nỗ lực được điều chỉnh,
tăng cường và
cấp dưỡng. Nó cung
cấp cho thảo mộc nhiều Tia sáng Mặt Trời
Sushumnă hiện đang chiếu sáng và cấp dưỡng
Mặt Trăng, nó tuôn ánh sáng xuống qua các chùm tia sáng
của Mặt Trăng, thâm nhập vào con người và con
thú trong khi ngủ và yên nghỉ nhiều hơn là khi
hoạt động tích cực. Do đó, Bác Richardson lại
sai lầm khi nêu rơ rằng:
Theo
ư tôi, chính ether thần kinh không có tác động, mà cũng
chẳng kích thích sự vận động của
động vật theo nghĩa một lực; tuy nhiên, nó
rất cần thiết để cung ứng các
điều kiện khiến cho có thể chuyển
động được [ngược lại mới
đúng]… Nó dẫn truyền mọi chấn động
nhiệt, ánh sáng, âm thanh, tác dụng điện, ma sát cơ
học. ([268]) Lúc sinh tiển, nó
giữ cho toàn bộ thần kinh hệ được hoàn
toàn linh mẫn [đúng vậy]. Nó được sử
dụng [sản sinh ra th́ đúng hơn] mỗi khi chúng ta
vận dụng đến nó … khi mức cầu của nó
lớn hơn mức cung, sự thiếu thốn sẽ
được biểu thị bởi sự kiện suy
sụp thần kinh (nervous collapse). ([269]) Trong khi chúng ta
ngủ, nó tích lũy trong các trung khu thần kinh, khiến
cho chúng đạt được cường lực
đúng mức (tạm gọi như vậy), ngoài ra, nó c̣n
khơi hoạt và phục hồi các cơ.
262
Đúng vậy;
điều này cũng dễ hiểu. Do đó:
Cơ
thể nào được nó phục hồi đầy
đủ sẽ có khả năng vận động, linh
hoạt, đầy đặn, sống. Cơ thể nào
không có nó sẽ bất động, chết teo lại
(shrunken death), chứng tỏ là đă mất một vài
yếu tố vật chất nào đó vẫn tồn
tại khi nó c̣n sống.
Khoa học hiện
đại chối bỏ sự tồn tại của
một “nguyên sinh khí” (“vital principle”). Đoạn trích này
chứng tỏ rơ rệt rằng nó đă lầm lẫn
lớn. Nhưng cái “yếu tố vật chất nào đó”
mà chúng ta gọi là lưu chất sinh lực – Sinh Thủy (Liquor Vitae) của Paracelsus – đă không hề
rời bỏ cơ thể như Bác sĩ
Cuối cùng, Bác sĩ
Ether
thần kinh có thể bị nhiễm độc, tôi
muốn nói là nó có thể bị thấm nhuần bởi các
chất khí khuếch tán, các chất hơi khác xuất phát
từ bên ngoài. Nó có thể chuyển hóa từ bên trong các
sản phẩm của các chất đă được
ăn vào hoặc là các chất khí bị phân hủy do chính
cơ thể bị bệnh sản sinh ra.([270])
Bậc học
giả quí tộc đó có lẽ đă phát biểu thêm
cũng cái nguyên lư huyền bí như sau: “Ether Thần kinh”
của một người có thể bị nhiễm
độc bởi “Ether Thần kinh” của một
người khác hay bởi các bức xạ hào quang
của y. Nhưng chúng ta hăy thử xem Paracelsus nói sao về
“Ether Thần kinh” này:
Thái
Cổ (the Archaeus) có một bản chất từ khí, nó hút
hay đẩy các lực thiện cảm và ác cảm khác
thuộc về cùng một cảnh giới. Một
người càng ít có năng lực đề kháng với
các tác dụng tinh anh bao nhiêu, y sẽ càng dễ bị các
thứ đó tác dụng bấy nhiêu. Sinh lực không hề
bị nhốt kín trong con người, song lại bức
xạ [bên trong và] xung quanh y như là một h́nh cầu
rực rỡ [hào quang]; người ta có thể khiến
cho nó tác dụng từ xa … Nó có thể làm nhiễm độc
tinh hoa của sự sống [máu] và gây ra bệnh tật; nó
cũng có thể tinh luyện máu đă bị ô nhiễm và
phục hồi lại sức khỏe. ([271])
Một nhà khoa học
Anh quốc đă chứng minh rằng “Thái Cổ” (Archeus) và
“Ether Thần kinh” đều như nhau. Ông cho rằng, nói chung, sức căng của nó có thể là
quá cao hoặc quá thấp; điều này có thể như
thế:
V́ có
các biến đổi cục bộ trong chất thần
kinh mà nó khoác lấy… Khi bị kích thích mạnh, nó có thể
rung động như thể là bị băo và d́m (plunge)
mọi cơ đang được hệ năo tủy
kiềm chế vào một chuyển động không thể
kiềm chế được – những sự co giật
vô ư thức.
263
Điều này
được gọi là sự kích thích thần kinh,
nhưng trừ nhà Huyền bí học ra, không ai biết
được lư do của sự rối loạn thần
kinh đó hoặc giải thích được các nguyên nhân bản sơ của nó. Có quá nhiều hoặc quá ít
“Nguyên sinh khí” đều có thể giết người
được. Nhưng trên cảnh giới biểu lộ
(nghĩa là cảnh giới của chúng ta) “nguyên khí này
chẳng qua chỉ là hiệu quả và kết quả
của các tác động
thông tuệ của “Tập
đoàn” tức Nguyên khí tập thể (“Host” or collective
Principle), ÁNH SÁNG và CUỘC
SỐNG đang biểu
lộ. Chính nó lại phụ thuộc vào và xuất phát
từ CUỘC SỐNG DUY
NHẤT Tuyệt Đối
(Abssolute ONE LIFE), và
hằng vô h́nh, trên một thang đẳng cấp đi
xuống rồi lại đi lên, trên một chiếc thang
thất phân chân chính; ở đầu trên cái thang là ÂM THANH
(SOUND), Thượng
Đế, c̣n ở đầu dưới là Vidyădharas ([272]) các Thủy
Tổ hạ đẳng.
Dĩ nhiên là các nhà Huyền bí học đều biết quá rằng “điều trá ngụy” Sinh hoạt luận (the Vitalist “fallacy”) mà Vogt và Huxley đă vô cùng chế nhạo, vẫn c̣n được giới có thẩm quyền về khoa học bênh vực; v́ thế, họ lấy làm sung sướng v́ không cảm thấy cô đơn. Giáo sư de Quatrefages cho rằng:
Thật
đúng là chúng ta không biết sự sống ra sao cả;
nhưng chúng ta cũng đâu có biết lực nào đă
khơi hoạt các v́ sao… Các sinh vật đều có
trọng lượng, do đó chúng đều chịu
ảnh hưởng của lực hấp dẫn; chúng bao hàm
nhiều hiện tượng lư hóa khác nhau rất cần
thiết cho sự tồn tại của chúng; các hiện
tượng này phải được quy về tác
động của ether động lực
[điện, nhiệt, v.v…] Nhưng các hiện tượng
này được biểu lộ ở đây dưới
tác dụng của một lực khác … sự sống không
hề đối lập với các lực vô tri giác,
nhưng nó dùng các định luật của ḿnh để
chi phối và chế ngự các tác dụng của chúng.([273])
264
TIẾT 8
THUYẾT
THÁI DƯƠNG
(THE SOLAR THEORY)
MỘT SỰ
PHÂN TÍCH NGẮN GỌN CỦA KHOA HỌC VỀ CÁC NGUYÊN
TỐ PHỨC HỢP VÀ ĐƠN THUẦN (COMPOUND AND SINGLE
ELEMENTS) ĐỐI LẬP VỚI CÁC GIÁO LƯ HUYỀN BÍ (THE
OCCULT TEACHINGS). THUYẾT NÀY, DƯỚI DẠNG MÀ THIÊN
HẠ NÓI
KHI đối đáp lại lời
đả kích của Tiến sĩ Gull về thuyết sinh
học, vốn liên quan bất khả phân ly với các Hành
của Cổ nhân trong Huyền bí học, Giáo sư Beale,
một nhà sinh lư học lỗi lạc, đă nhận xét
một cách gợi ư và tài t́nh như sau :
Trong
sự sống có một bí nhiệm – càng nghiên cứu và
chiêm ngưỡng các hiện tượng sống sâu xa bao
nhiêu, chúng ta càng thấy rằng bí nhiệm đó vĩ
đại bấy nhiêu. Bên trong các trung tâm sinh động –
so với các trung tâm mà kính hiển vi có độ phóng
đại lớn nhất có thể thấy
được, chúng tập trung vào các trung tâm sinh chất
hơn nhiều; đó là những nơi mà mắt phàm không
thấy được, song trí tuệ lại lĩnh
hội được – có diễn ra những sự
biến đổi bản chất mà các nhà vật lư và hóa
học tiên tiến nhất cũng không thể giúp chúng ta
h́nh dung được. Cũng chẳng có lư ǵ mà cho
rằng chúng ta sẽ xác định được bản
chất của các biến đổi này bằng công
cuộc điều nghiên vật lư, v́ chắc chắn là
chúng thuộc về một loại bản chất hoàn toàn
khác với bản chất của mọi hiện
tượng mà chúng ta đă từng biết tới và có
thể quy về được.
Huyền bí học
đặt “bí nhiệm” (“mystery”) này (tức nguồn
gốc của BẢN THỂ
SỐNG – the LIFE ESSENCE)
nơi Trung Tâm giống như là hạt nhân của vật chất bản sơ
(prima materia) của Thái
Dương Hệ chúng ta, v́ cả hai chỉ là một.
Phần giảng lư đă dạy như sau:
Mặt
trời là tâm của Thái Dương Hệ, c̣n năo của nó
ẩn đàng sau Mặt Trời [hữu h́nh]. Từ đó,
cảm giác tỏa vào mọi trung khu thần kinh của
đại thể, c̣n các đợt sóng bản thể
sống lại chảy vào trong mỗi động mạch
và tĩnh mạch … Các hành tinh và tứ chi và mạch
đập của nó.
265
Người ta đă
phát biểu ở đâu đó ([274]) rằng Huyền bí học không
chịu nh́n nhận Mặt Trời là một bầu
đang bốc cháy, mà chỉ định nghĩa nó là
một thế giới, một h́nh cầu chói lọi;
Mặt Trời thực ẩn đàng sau, c̣n Mặt Trời
hữu h́nh chỉ là lớp
vỏ phản ánh nó. Các lá
liễu Nasmyth (the Nasmyth willow leaves) mà John Herschel đă
lầm lẫn cho là “các cư dân của mặt trời”
(“solar inhabitants”), là các kho chứa sinh năng thái
dương (solar vital energy); “sinh điện lực (the
vital electricity) cấp dưỡng cho toàn bộ thái
dương hệ; như thế, bản chất mặt
trời lại là kho chứa của Vũ Trụ nhỏ bé
của chúng ta, tự sản sinh ra lưu chất sinh
lực(vital fluid) và bao giờ cũng “nhận vào bao nhiêu th́
lại cho ra bấy nhiêu”. Mặt trời hữu h́nh chỉ là một cửa sổ mở vào
hệ thống kiến trúc thái dương thực sự; tuy nhiên, nó phô bày cơ cấu bên trong
mà không xuyên tạc sự thật.
Như thế, trong chu kỳ khai nguyên của mặt trời, có một sự chu lưu đều đặn của lưu chất sinh lực khắp Thái Dương Hệ giống như sự tuần hoàn của máu trong cơ thể con người (mà Mặt Trời giữ vai tṛ của trái tim); Mặt Trời co bóp nhịp nhàng chẳng khác nào tim người. Có điều là thay v́ hoàn thành một ṿng trong một giây, máu thái dương (solar blood) phải tuần hoàn mất mười năm, phải mất trọn một năm để đi qua tâm thất và tâm nhĩ trước khi lọc sạch phổi, rồi từ đó lại chuyển về các động mạch và tĩnh mạch lớn của Thái Dương Hệ.
Khoa học sẽ
không bác bỏ điều này, v́ thiên văn học có
biết tới chu kỳ cố định mười
một năm khi số nhật ban (solar spots) gia tăng, ([275]) sự gia tăng này là do Nhật TÂM (the
Solar HEART) co
thắt lại. Vũ Trụ
(trong trường hợp này là Thế giới chúng ta)
thở chẳng khác nào con người và mọi sinh
vật, thảo mộc, khoáng thạch trên Địa
Cầu; chính Trái Đất chúng ta cũng thở mỗi hai
mươi bốn giờ. Vùng tối không phải là do “sự
hấp thụ hơi nước xuất phát từ trong
ḷng mặt trời và chắn giữa quan sát viên và quang
cầu”, Linh mục Secchi nghĩ như thế, ([276]) các nhật ban đó cũng không
được tạo ra “bởi chính vật chất
[chất hơi được nung nóng lên] mà sự bùng
nổ đă phóng lên trên mặt trời”. Hiện
tượng này cũng giống như nhịp đập
đều đặn và mạnh khỏe của quả tim,
v́ lưu chất sinh lực đi qua các cơ rỗng
của nó. Nếu trái tim người có thể
được soi sáng lên, nếu người ta khiến
cho cơ quan linh động thoi thóp đó trở nên hữu
h́nh để được phản chiếu lên trên
một màn ảnh (chẳng hạn như khi các giảng
sư về thiên văn học tŕnh bày mặt trăng)
bấy giờ mọi người đều thấy các
hiện tượng Nhật ban (Sun-pot) được
lặp lại tùng giây một, chúng có được là do
sự co thắt và máu đổ dồn về.
Trong một tác
phẩm về địa chất học, chúng ta thấy khoa học
mơ rằng (the dream of science that):
Một
ngày kia, người ta sẽ thấy là mọi nguyên tố
hóa học được thừa nhận chẳng qua
chỉ là các biến thể của một nguyên tố
vật chất đơn thuần. ([277])
266
Từ khi loài
người có ngôn ngữ, Huyền bí học đă dạy
như vậy; tuy nhiên, ngoài cái nguyên lư sau đây của
định luật tương tự bất di bất
dịch “trên sao dưới vậy”, nó c̣n thêm vào một công
lư khác, đó là: thật ra, chẳng có Tinh Thần mà cũng
chẳng có Vật Chất, mà chỉ có vô số trạng
thái của Bản Thể hằng ẩn Duy nhất
(tức là Sat). Hành nguyên thủy đồng chất chỉ
đơn thuần trên cảnh giới ư thức và cảm giác hồng trần, v́ xét cho cùng, Vật Chất chẳng
có ǵ khác hơn là hàng loạt
các trạng thái ư thức của chính chúng ta, c̣n Tinh
Thần là một ư niệm về trực giác tâm linh. Ngay
cả trên cảnh giới cao hơn một bậc thôi, cái nguyên tố đơn thuần mà khoa học hiện đại
định nghĩa trên địa cầu chúng ta, là cấu
tử cực vi không thể phân giải của một
loại Vật Chất nào đó, cũng bị xem như là
một điều ǵ vô cùng phức tạp trong một
thế giới tri giác tinh thần cao cấp. Người
ta sẽ thấy là nước đơn thuần nhất
của chúng ta phải cho ra – thay v́ hai nguyên tố
đơn đă được công bố oxygen và hydrogen –
nhiều cấu tử khác mà hóa học hiện đại
trần thế của chúng ta chưa từng mơ tới.
Trong lănh vực Vật Chất ra sao th́ lănh vực Tinh
Thần cũng vậy, h́nh bóng của cái được
tri giác trên ngoại giới cũng tồn tại trên
nội giới. Hạt vi trần chất liệu
đồng chất hoàn toàn, chất nguyên sinh động
vật của đơn nguyên trùng Haeckel, nay
được xem như là sự ngẫu sinh của
sự tồn tại trên trần thế (Nguyên sinh chất
của ông Huxley); ([278]) và Bathybius Haeckelii đă phải truy
nguyên nó tới sự ngẫu sinh tiền trần thế
(pre-terrestrial). Các nhà thiên văn học tri giác
được điều này trước tiên vào giai
đoạn tiến hóa thứ ba của nó và vào cái gọi
là “cuộc sáng tạo thứ yếu”. Nhưng các môn sinh
Nội môn Bí giáo hiểu rơ được ư nghĩa
huyền bí của ĐOẠN
KINH (STANZA) sau đây:
Xét
về mặt bản thể, Brahmă có trạng thái vật
chất, đă tiến hóa cũng như là chưa tiến
hóa… Ô ! Tinh Thần, Đấng hai lần sinh ra [Đạo
đồ] là trạng thái thống lĩnh của Brahmă.
Kế đó là một trạng thái lưỡng phân [của
Tinh Thần và Vật Chất] đă tiến hóa cũng
như là chưa tiến hóa, c̣n thời gian xếp hàng sau
rốt ! ([279])
Anu là một trong các tôn danh của Brahmă
(phân biệt với Brahman, trung tính) và có nghĩa là “vi
tử” (“atom”); anĩyămsam anĩyăsam là “cực vi tử”,
Purushottama (Tinh Thần tối cao thường trụ và
bất hoại).
Thế th́, chắc
chắn là các hành mà chúng ta hiểu và định nghĩa
hiện nay – cho dù chúng có nhiều đến đâu đi
nữa – chẳng phải mà cũng chẳng thể là các
Hành nguyên thủy (the primordial Elements). Chúng được tạo ra
từ các “cục sữa
của Mẹ quang huy lạnh lẽo” và
“mầm mống lửa của Cha nóng nảy”, cả hai đều là một. Nói theo
ngôn ngữ b́nh thường của khoa học hiện
đại, các hành đó khởi nguyên trong ḷng sâu thẳm
của sương lửa nguyên thủy (the Primodial
Fire-mist), các khối hơi nước cháy đỏ
của tinh vân không thể
phân giải, v́ theo Giáo sư
Newcomb,([280]) các tinh vân có thể phân giải
được không cấu thành một loại tinh vân riêng
biệt. Theo ông, hơn một nửa những thứ
thoạt tiên bị lầm lẫn với tinh vân, chính là cái
mà ông gọi là các “cụm sao” (“starry clusters”).
267
Các hành này chúng ta
biết đă đạt tới trạng thái thường
tồn trong cuộc Tuần hoàn thứ Tư và Giống dân
thứ Tư và Giống dân thứ Năm này. Chúng có một
thời kỳ yên nghỉ ngắn ngủi trước khi
chúng lại được thúc đẩy tiến tới
trong cuộc tiến hóa tinh thần, khi “sinh hỏa Orcus”
(“living fire of Orcus”) sẽ làm tan ḥa các chất khó phân
giải nhất và lại làm cho chúng tản mác ra thành NHẤT NGUYÊN bản sơ
Trong khi đó, nhà
Huyền bí học lại tiến xa hơn, như đă
vạch rơ trong phần Giảng lư của bảy ĐOẠN KINH. V́ thế, y khó ḷng hy vọng có
thể được khoa học giúp đỡ hoặc
nh́n nhận, khoa học sẽ bác bỏ cả “anĩyămsam
anĩyăsam”, Vi tử hoàn toàn tinh thần, lẫn Mănasaputras
hay Con Người được sinh ra từ Thể Trí
(Mind-born Men) của y. Khi thu gọn “hành vật chất
đơn thuần” thành ra một Hành tuyệt đối
duy nhất bất khả
phân giải, Tinh Thần,
tức vật chất căn cốt, như thế là
đặt ngay nó ra ngoài phạm vi của vật lư học;
dĩ nhiên là y chẳng có cùng quan điểm bao nhiêu với
các nhà khoa học chính thống. Y chủ trương
rằng Tinh Thần và Vật Chất là hai PHƯƠNG DIỆN của NHẤT
NGUYÊN bất khả tri; các
khía cạnh biểu kiến mâu thuẫn nhau của chúng tùy
thuộc vào, (a) nhiều mức độ biến phân khác
nhau của Vật Chất, và (b) các cấp độ ư
thức mà chính con người đạt được.
Tuy nhiên, vấn đề này tùy thuộc về siêu h́nh học
chứ chẳng liên quan bao nhiêu tới vật lư học –
cho dù vật lư học (vốn bị giới hạn vào
trần thế) có thông
thái đến đâu đi
chăng nữa.
Tuy nhiên, một khi khoa học đă nh́n
nhận khả năng tồn tại (nếu không muốn
nói là sự tồn tại thật sự) của một
Vũ trụ với hằng hà sa số h́nh hài, trạng
thái, khía cạnh được tạo ra từ một
“Chất liệu đơn thuần” (“single Substance”),([281])
th́ nó c̣n phải tiến xa hơn nữa. Trừ phi cũng
thừa nhận là có thể có hành
268
Đáng tiếc
thay, điều này c̣n lâu lắm mới giải quyết
được, ngay cả vấn đề đơn
giản nhất đă từng và vẫn đang làm các
học giả buồn phiền (vex) trong khi mưu t́m chân
lư. Nếu muốn t́m xem khoa học hiện đại
lầm lỗi ở
đâu và v́ lư do nào, chúng ta phải
tiến hành điều tra, bắt đầu là các giả
thuyết trước nhất của nó. Sau rốt, t́nh
cờ chúng ta có thể thấy là Stallo thật chí lư và các học
giả lỗi lạc nhất đă phạm phải các
lẫm lỗi, mâu thuẫn, và trá ngụy chỉ v́ họ
có thái độ thật là bất thường. Dù sao đi
nữa, họ vẫn cứ và vẫn muốn có khuynh
hướng duy vật, thế nhưng “các nguyên lư tổng
quát của thuyết nguyên tử cơ giới – cơ
sở của vật lư học hiện đại – lại
có bản chất
giống hệt như các
thuyết chính yếu của siêu h́nh học bản
thể”. Như thế, “vật lư học càng tiến
bộ bao nhiêu th́ các lầm lẫn cơ bản của
bản thể học càng rơ ràng ra đó bấy nhiêu”.([282]) Rải rác trong khoa học cũng có
các quan niệm siêu h́nh học, nhưng các nhà khoa học
không chịu nh́n nhận lời tố cáo đó, họ
chiến đấu một cách tuyệt vọng để
khoác các mặt nạ nguyên tử cơ giới
(atonomechanical masks) lên các luật thuần túy tinh thần và
phi vật thể trong Thiên Nhiên, trên cảnh giới chúng ta
– không chịu thừa nhận là chúng có thực chất ngay
cả trên cảnh giới khác, chỉ riêng sự tồn
tại của chúng cũng bị họ thẳng tay bác
bỏ rồi.
Tuy nhiên, đâu có khó
khăn ǵ mà chứng tỏ rằng v́ quá gắn bó với
các quan điểm duy vật, nên ngay từ thời Newton,
các nhà khoa học đă ra sức khoác các mặt nạ
giả tạo lên sự thật. Nhưng công tác của
họ mỗi năm một khó khăn hơn và –
vượt xa mọi khoa học khác – hóa học ngày càng
tiến gần hơn với lănh vực Huyền bí của
Thiên Nhiên. Nó đang lĩnh hội chính các chân lư mà Huyền
bí học đă giảng dạy từ bao lâu nay, song cứ
bị cay đắng nhạo báng măi. Nội môn Bí giáo
dạy rằng: “Vật Chất thật là vĩnh cửu”
(“Matter is eternal”). Nhưng Vật Chất mà các nhà huyền
bí học quan niệm ra ở trạng thái trung ḥa (laya or
zero), đâu có phải là
vật chất của khoa học hiện đại, ngay
ở cả trạng thái hơi loăng nhất. “Chất quang
huy” (“radiant matter”) của ông Crookes có vẻ là Vật
Chất thuộc loại thô trược nhất trong lănh
vực bản sơ, v́ nó biến thành Tinh Thần thuần
túy trước khi nó quay về ngay khởi điểm
biến phân. Do đó, khi bậc Cao đồ hoặc nhà
Luyện kim đan nói thêm rằng “mặc dù Vật Chất
thật là vĩnh cửu v́ nó chính là HỒNG MÔNG NHẤT KHÍ (PRADHĂNA), song Nguyên tử vẫn được sản sinh ra vào mỗi Chu
kỳ Khai Nguyên mới (chu
kỳ tái tạo vũ trụ), điều này chẳng có
ǵ là mâu thuẫn như nhà Duy vật – vốn chẳng tin
tưởng vào điều ǵ khác hơn là Nguyên tử -
lầm tưởng. Tiên thiên khí khác xa Hậu thiên khí; Hồng mông nhất
khí (nguyên nhân vô thủy vô chung)
khác xa Vật Chất, tức hiệu quả biểu
lộ. Kinh điển dạy:
269
Các
hiền triết lỗi lạc nhất nhất
định gọi cái nguyên nhân chưa tiến hóa là
hồng mông nhất khí, cơ sở bản nguyên, đó là
chất tinh anh (prădhăna, originab base, which is subtile prakriti),
nghĩa là cái vĩnh cửu vừa hiện tồn, vừa
không hiện tồn, hoặc chỉ là một tiến tŕnh.([283])
Trong ngôn từ
hiện đại, cái gọi là Tinh Thần và Vật
Chất đều ĐƠN
NHẤT (ONE) như là Nguyên
nhân trường kỳ vĩnh cửu, v́ nó chẳng
phải là Tinh Thần mà cũng chẳng phải là Vật
Chất. Trong tiếng Bắc Phạn, người ta
gọi NÓ là TAD, “cái ấy” (“that”); nó là tất cả
những ǵ đă, đang và sẽ hiện tồn, tất
cả những ǵ mà óc tưởng tượng của con
người có thể quan niệm được. Ngay
cả thuyết Phiếm Thần nội môn của Ấn
Độ giáo cũng tŕnh bày nó đến mức mà không
triết thuyết độc thần nào có thể b́
được, v́ vũ trụ khởi nguyên luận
của nó bắt đầu những lời lẽ siêu
việt nổi tiếng như sau:
Chẳng
có ngày mà cũng chẳng có đêm, chẳng có trời mà
cũng chẳng có đất, chẳng có bóng tối mà
cũng chẳng có ánh sáng. Cũng chẳng có ǵ mà các giác quan
và các năng lực trí tuệ có thể hiểu
được. Tuy nhiên, thế mà lại có Brahmă duy nhất
có bản chất prakriti [Thiên Nhiên] và tinh thần. Ấy là
v́ hỡi tín đồ Bà La Môn ! Hai trạng thái của
Vishnu khác hơn trạng thái bản thể tối
thượng của Ngài chính là prakriti và tinh thần.
Hỡi kẻ được cải tử hoàn sinh ! Khi hai
trạng thái khác ấy của Ngài không c̣n tồn tại
nữa, nhưng lại tan biến đi, bấy giờ,
cái trạng thái vốn lại sinh sản ra sắc
tướng và phần c̣n lại (tức là cuộc sáng
tạo) mới được mệnh danh là thời gian.([284])
Đó là cái bị tan
biến đi, tức trạng thái lưỡng phân hăo
huyền của Cái Đó, bản thể của nó bao
giờ cũng ĐƠN NHẤT và được mệnh
danh là Vật Chất Vĩnh Cửu tức Bản
chất, vô h́nh, phi giới tính, bất khả tư
nghị với giác quan thứ sáu hay thể trí (mind), ([285]) do đó, chúng ta không chịu nh́n
nhận trong đó có cái mà các tín đồ Độc
Thần gọi là Thượng Đế nhân h́nh.
Khoa học chính xác
hiện đại xem hai đề án này ra sao ? (“Vật
Chất thật là vĩnh cửu” c̣n “Nguyên tử có tính cách
tuần hoàn, và không vĩnh cửu”). Nhà vật lư học duy
vật chỉ trích và cười nhạo chúng. Tuy nhiên, nhà
khoa học phóng khoáng và tiến bộ, kẻ chân thành
mưu t́m Chân Lư, chẳng hạn như Giáo sư Crookes (nhà
hóa học xuất chúng) sẽ bổ chứng cho sự chân xác của hai phát biểu này. Dễ ǵ mà
tiếng vang của bài diễn văn của ông về
“Sự khởi nguyên của các Nguyên tố” (“Genesis of the
Elements”) lại tắt đi; ông đă đọc bài
diễn văn đó trước bộ môn hóa học
của Hội Hoàng Gia Anh tại Hội nghị Birmingham
1887, nó đă làm cho mọi độc giả và thính giả
theo thuyết tiến hóa phải sửng sốt hơn là
một bài diễn văn khác vào tháng 3 – 1888. Một lần
nữa, vị Hội trưởng Hội Hóa Học lại
tŕnh bày trước giới khoa học và công chúng thành
quả của một vài khám phá mới trong lănh vực
nguyên tử, các khám phá này đă biện minh cho Giáo lư
Huyền bí về mọi phương diện. Chúng c̣n
khiến cho chúng ta sửng sốt hơn cả phát biểu
của ông trong bài đầu và rất đáng
được mọi nhà Huyền bí học, Siêu h́nh
học và Minh Triết Thiêng Liêng quan tâm tới. Sau đây là
những điều mà ông tŕnh bày trong “Các Nguyên Tố và Siêu
Nguyên Tố” (“Elements and Meta-Elements”), như thế đă biện
minh cho lời tố cáo tiên tri của Stallo. Với
đức vô úy (fearlessness), nhà khoa học ấy đă yêu
khoa học và chân lư, bất chấp mọi hậu quả
đối với tiếng tăm và danh vọng của
ḿnh. Chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn:
270
Thưa
quí vị, nay tôi xin quí vị bớt chút th́ giờ quan tâm
tới một chủ đề liên can tới nguyên lư
cơ bản của hóa học. Đó là một chủ
đề có thể khiến chúng ta phải thừa
nhận sự khả hữu tồn tại các vật
thể chẳng phải là hợp chất, chẳng
phải là chất hỗn hợp, cũng chẳng phải
là nguyên tố (theo nghĩa nghiêm xác nhất của từ
này); tôi xin đánh bạo gọi chúng là các “siêu nguyên tố”
(“meta-elements”). Để giải thích ư đồ của
ḿnh, tôi cần phải quay về với quan niệm
của chúng ta về một nguyên tố. Một nguyên
tố có tiêu chuẩn như thế nào. Chúng ta biết phân
biệt giữa các thực thể khác nhau ở đâu bây
giờ ? Chẳng ai nghi ngờ việc oxygen, natrium, clor,
lưu huỳnh là các nguyên tố riêng biệt; khi xét tới
các nhóm như là clor, brom, iod v.v… chúng ta vẫn c̣n thấy
chẳng có cái ǵ đáng nghi ngờ, mặc dù nếu chúng ta
có thể chấp nhận được các mức
độ “nguyên tố tính” (“elementicity”) – rốt cuộc,
thế nào chúng ta cũng phải xét đến chúng – th́ có
thể thừa nhận clor gần gũi với brom hơn
nhiều so với oxygen, natrium hoặc lưu huỳnh.
Lại nữa, nickel và co-ban (cobalt) rất gần gũi
với nhau, mặc dù chẳng ai dị nghị về
việc chúng tự xếp ḿnh vào hàng ngũ các nguyên tố
riêng biệt. Thế nhưng tôi vẫn không thể không
thắc mắc là liệu các nhà hóa học sẽ có ư
kiến ra sao, nếu việc lần lượt dung
hợp các chất đó và các hợp chất của chúng,
sẽ phô ra các màu sắc giống hệt nhau, thay v́ các màu
sắc bổ túc cho nhau (nói một cách gần đúng). Ngay
cả hiện nay, có bao giờ chúng ta nhận ra
được bản chất riêng biệt của chúng
không? Khi chúng ta tiến xa hơn nữa và xét tới cái
gọi là đất hiếm (race earths), th́ chúng ta lại
c̣n dựa vào các cơ sở bấp bênh hơn nữa. có
lẽ chúng ta có thể thừa nhận là scandium, ytterbium và
các nguyên tố cùng loại khác được xếp vào
hàng ngũ các nguyên tố; nhưng chúng ta biết nói sao
đây về trường hợp praseodymium và neodymium ?
(Người ta có thể nói là chúng không khác nhau mấy
về mặt hóa học, v́ chúng chỉ khác nhau chút ít về
tính baz và năng lực kết tinh, mặc dù theo cách quan sát
về quang phổ, lư tính của chúng khác nhau xa). Ngay ở
đây, chúng ta có thể h́nh dung ra việc đa số nhà
hóa học sẽ có khuynh hướng khoan dung khiến cho
họ sẽ chấp nhận hai chất này vào trong hàng
ngũ kỳ diệu ấy. Liệu khi làm như vậy,
họ có thể nào cầu cứu tới một nguyên lư tổng
quát nào đó chăng ? (đây vẫn c̣n là một vấn
đề bỏ ngỏ). Nếu chúng ta chấp nhận các
ứng viên này, th́ chúng ta có công tâm chăng khi loại
trừ hàng loạt các nguyên tố tức các siêu nguyên
tố mà Kruss và Nilson đă thông tri cho chúng ta biết ? Ở
đây, các điều dị biệt về quang phổ
rất rơ rệt, trong khi đó, các cuộc khảo cứu
của chính tôi về didymium cũng chứng tỏ là có
một sự dị biệt chút ít về tính baz của ít
nhất là một vài chất đáng nghi ngờ này. Có
lẽ là yttrium, erbium, samarium và các “cái thường gọi
là nguyên tố” khác đă và đang được phân
giải thành nhiều chất riêng biệt khác nhau, cũng
phải được bao hàm trong cùng một loại
như vậy. Thế th́ chúng ta biết phân biệt chúng
ở đâu bây giờ ? Các nhóm khác nhau chồng chéo lên nhau
một cách tinh vi đến nỗi mà chúng ta không thể vạch
ra một giới tuyến xác định giữa hai
chất lân cận nhau và bảo rằng chất ở bên
này giới tuyến là một nguyên tố, c̣n chất ở
bên kia không phải hoặc chỉ là một điều ǵ
giả vờ gần giống như một nguyên tố.
Bất cứ nơi nào mà chúng ta có thể vạch ra
một giới tuyến có vẻ hợp lư, th́ chắc
chắn là chúng ta có thể xếp ngay hầu hết các
chất vào một bên thích hợp; cũng như mọi
trường hợp phân loại khác, chúng ta chỉ thật
sự gặp khó khăn khi lại gần giới
tuyến. Dĩ nhiên là chúng ta sẽ thừa nhận các
điều dị biệt chút ít về hóa học và –trong
một chừng mực nào đó – các điều dị
biệt quá rơ rệt về vật lư học. Tuy nhiên, chúng
ta biết nói sao đây khi điều dị biệt duy
nhất về hóa học là một khuynh hướng
hầu như không thể nhận ra được
khiến cho một chất – của một cặp hoặc
một nhóm – trầm hiện (precipitate) trước
chất kia? Vả lại, có những trường hợp
mà các dị biệt về hóa học đă không c̣n mà
vẫn c̣n các điều dị biệt quá rơ rệt về
vật lư học. Ở đây, chúng ta vấp phải
một khó khăn mới, trong t́nh trạng mơ hồ
như vậy, thế nào là sự dị biệt về hóa
học, c̣n thế nào là sự dị biệt về vật
lư học? Chẳng lẽ chúng ta không có quyền gọi
việc một chất trầm hiện mới sinh vô
định h́nh hơi có khuynh hướng lắng xuống
trước một chất khác là một “điều
dị biệt về vật lư” hay sao ? Chẳng lẽ chúng
ta không thể gọi các phản ứng màu tùy thuộc vào
số lượng của một acid đặc biệt
nào đó hiện diện và biến thiên theo nồng
độ của dung dịch và dung môi được
sử dụng, là các “điều dị biệt về hóa
học” hay sao ? Tôi chẳng biết làm sao chúng ta có thể
chối bỏ tính cách nguyên tố của một chất
khác hẳn với một chất nữa về màu sắc
hoặc phản ứng quang phổ, trong khi chúng ta lại
thừa nhận tính cách nguyên tố của một chất
khác, nó chỉ cần có một điều dị biệt
rất nhỏ về các năng lực cơ bản. Một
khi đă mở rộng cửa ra để chấp
nhận một vài điều dị biệt về quang
phổ, th́ chúng ta phải t́m hiểu xem liệu sự
dị biệt nhỏ đến mức nào có thể
khiến chúng ta chấp nhận được ứng viên
? Tôi xin tŕnh bày các trường hợp về một vài
ứng viên đáng nghi ngờ này theo kinh nghiệm riêng
của tôi.
271
Ở đây, nhà
hóa học lỗi lạc đă tŕnh bày nhiều
trường hợp về cách tác động rất khác
thường của các phân tử và các loại đất;
xét theo bề ngoài, chúng ta thấy giống nhau, nhưng khi
xét kỹ lại, chúng ta thấy chúng có các điều
dị biệt mặc dù nhỏ song vẫn chứng tỏ
chúng không là các đơn
chất; do đó, 60 hay 70 nguyên
tố mà hóa học chấp nhận đâu phải là đủ.
Hiển nhiên là danh xưng của chúng thật là hằng hà
sa số, nhưng v́ cái gọi là “thuyết tuần hoàn”
lại là sự cản trở đối với việc
các nguyên tố cứ tăng vô hạn, nên Giáo sư Crookes
bắt buộc phải t́m ra một vài phương
tiện để ḥa giải khám phá mới này với thuyết
cũ. Ông cho rằng:
Thuyết
đó đă được chứng nghiệm nhiều
lần đến đỗi mà chúng ta không thể khinh
xuất chấp nhận bất cứ lối giải thích
các hiện tượng nào không phù hợp với nó.
Nhưng nếu chúng ta giả sử là các nguyên tố
được tăng cường bởi một số
lớn các chất có đặc tính hơi khác nhau và tạo
thành các khối tập hợp tinh vân (tạm gọi như
vậy) mà xưa kia chúng ta đă thấy (hoặc
tưởng là đă thấy giống như ngôi sao riêng
biệt, th́ nhất định là chúng ta không c̣n lĩnh
hội được cái sự phối trí tuần hoàn
nữa. Nếu chúng ta vẫn c̣n duy tŕ cái quan niệm thông
lệ về một nguyên tố th́ hậu quả sẽ
như thế đó. Thế th́ chúng ta thử thay
đổi quan niệm đó xem sao. Nếu “nguyên tố” có
nghĩa là “nhóm nguyên tố” – các nhóm nguyên tố đó
thể chỗ cho các nguyên tố cũ trong hệ thống tuần
hoàn – th́ chẳng ǵ khó khăn hơn nữa hết. Khi
định nghĩa một nguyên tố, chúng ta cứ
thử xét một kiểu mẫu nội tại xem sao. Chúng
ta cứ thử phát biểu như sau đây xem sao:
lượng yttrium nhỏ nhất khả lượng là
một tập hợp các cực vi tử vô cùng giống
nhau hơn là các nguyên tử của bất kỳ nguyên
tố lân cận nào. Không nhất thiết phải suy ra là
tất cả các nguyên tử sẽ phải hoàn toàn như
nhau. Do đó, trọng lượng nguyên tử mà chúng ta gán
cho yttrium chỉ là tiêu biểu cho một trị số trung
b́nh; trọng lượng thực sự của các nguyên
tử cá biệt của nguyên tố dao động quanh
trị số đó trong ṿng một giới hạn nào
đó. Nhưng nếu tôi đoán không lầm, nếu chúng ta
có thể tách biệt nguyên tử này với nguyên tử kia,
th́ chúng ta sẽ thấy là chúng biến thiên ở hai bên
trị số trung b́nh với một biên độ rất
nhỏ. Tiến tŕnh phân đoạn có hàm ư là một số
chất có các điểm dị biệt như thế
đó.
Như thế, sự
thật một lần nữa lại bắt buộc khoa
học “chính xác” phải mở rộng quan điểm
của ḿnh và thay đổi ngôn từ. Bằng cách ngụy
trang đa số (masking the multitudue, điều này đă rút
gọn lại thành một chất, chẳng khác nào Elohim Thất
phân (the Septenary Elohim) và tập đoàn của Ngài bị các
nhà tôn giáo duy vật biến thành Jehovah duy nhất. Nếu
thay thế các thuật ngữ hóa học “phân tử”, “nguyên
tử”, “cấu tử” v.v… bằng các từ ngữ
“Tập đoàn” (“Hosts”), “Chơn Thần”. “Thiên Thần”
v.v… th́ chúng ta có thể tưởng rằng đó chính là
sự mô tả tuyệt vời khởi nguyên của chư
Thiên, cuộc tiến hóa bản sơ của các Thần
Lực thông tuệ trong chu kỳ khai nguyên. Nhưng
diễn giả thông thái đó đă thêm vào những
điều nhận xét mô tả của ông một
điều c̣n gợi ư hơn nữa (ai mà biết đó vô
t́nh hay cố ư ?). Ông cho rằng :
272
Măi
cho tới gần đây, các chất đó mới
được tập hợp lại thành ra các nguyên
tố. Chúng có các hóa tính và lư tính nhất định,
trọng lượng nguyên tử xác định. Nếu
chúng ta lấy một dung dịch loăng và tinh khiết
của một chất như thế (chẳng hạn
như yttrium) và nếu chúng ta cho thêm vào đó một
lượng thừa ammoniac mạnh, chúng ta sẽ
được một chất trầm hiện (precipitate)
h́nh như là hoàn toàn thuần trạng (homogeneous). Nhưng
nếu thay v́ như trên, thêm ammoniac rất loăng với
số lượng chỉ đủ để làm trầm
hiện một nửa lượng baz có sẵn, chúng ta
sẽ không có ngay được chất trầm hiện.
Nếu chúng ta khuấy động hết lên để
bảo đảm là dung dịch ammoniac đă
được trộn đều với nhau rồi
để yên cái b́nh chứa trong một giờ, cẩn
thận loại hết bụi ra, chúng ta có thể thấy
rằng chất lỏng thật là trong sáng và không hề có
bất cứ vết tích đục ngầu nào. Tuy nhiên,
chừng ba, bốn giờ sau chúng ta sẽ có một
đản bạch quang và sáng hôm sau một chất trầm
hiện sẽ xuất hiện. nay chúng ta hăy tự hỏi
xem hiện tượng này có ư nghĩa ǵ ? Lượng
chất làm trầm hiện thêm vào không đủ để
làm trầm hiện một nửa lượng yttrium có
sẵn, do đó, một tiến tŕnh gần giống
như sự tuyển lựa đă tiếp diễn trong
nhiều giờ. Rơ ràng là sự trầm hiện đă không
diễn ra một cách bừa băi, các phân tử của
chất baz bị phân hủy đă tiếp xúc được
với một phân tử ammoniac tương ứng, v́ chúng
ta đă cẩn thận trộn đều chất
lỏng, để cho một phân tử của muối
gốc sẽ không bị phân hủy nhiều hơn bất
kỳ một phân tử nào khác. Hơn nữa, nếu chúng
ta xét tới thời gian trôi qua trước khi chất
trầm hiện xuất hiện, th́ chúng ta không thể không
kết luận rằng cái tác dụng đă tiếp
diễn trong một ít giờ đầu tiên đúng là có
tính cách tuyển lựa. Vấn đề đặt ra
không phải là tại sao một chất trầm hiện
lại được tạo ra ? mà là cái ǵ đă quyết
định hoặc điều động cho một nguyên
tử trầm hiện và một số khác vẫn c̣n ở
trong dung dịch. Trong số hằng hà sa số các nguyên
tử có sẵn, quyền năng nào đă điều
động mỗi nguyên tử chọn đúng con
đường của ḿnh? Chúng ta có thể h́nh dung ra
một lực chỉ đạo nào đó đi kiểm tra
từng nguyên tử, chọn nguyên tử này sẽ trầm
hiện, c̣n nguyên tử kia sẽ ở trong dung dịch cho
đến khi tất cả đều đă
được hiệu chỉnh lại.
Trong đoạn trên, phần chữ in nghiêng là
của chúng tôi. Liệu
một nhà khoa học có thể tự hỏi như sau
chẳng : Quyền năng nào đă điều động
mỗi Nguyên tử ? Đâu là ư nghĩa của tính cách
tuyển lựa của nó ? Các tín đồ hữu thần
sẽ giải đáp câu hỏi này bằng cách trả
lời là “Thượng Đế”; xét về mặt
triết học, như thế là họ đă chẳng
giải quyết được vấn đề nào.
Huyền bí học giải đáp dựa vào cơ sở
Phiếm Thần và dạy cho các môn sinh chủ đề
“chư Thần Linh, Chơn Thần và Nguyên tử” (“Gods,
Monads, and Atoms”). Diễn giả thông thái ấy đă
thấy trong đó cái vốn là mối quan tâm chính của
ông: các cột mốc và các dấu vết của một con
đường có thể đưa tới sự khám phá,
sự chứng minh hoàn chỉnh về sự tồn
tại của một nguyên tố thuần trạng
(homogeneous element) trong
Để
có thể thực hiện được một sự
tuyển lựa như thế, rơ ràng là phải có một
vài điểm dị biệt nhỏ nhặt nào đó th́
mới chọn lựa được. Hầu như
chắc chắn là phải có sự dị biệt về
tính baz, nhỏ nhặt đến nỗi không có cuộc
trắc nghiệm nào hiện nay nhận ra được,
nhưng nó lại có thể được un đúc và kích
thích đến mức mà sự dị biệt ấy có
thể được thẩm định bởi các
cuộc trắc nghiệm thông thường.
273
Huyền
bí học, vốn biết rằng trong Thiên Nhiên có tồn
tại và hiện diện Hành Duy Nhất Vĩnh Cửu (the
One eternal Element), khi nó biến phân lần đầu tiên, cây
Trường Sinh (the Tree of Life) sẽ bén rễ một cách
tuần hoàn, nên đâu cần có bằng chứng khoa
học. Nó dạy rằng : Minh triết Cổ truyền
đă giải quyết được vấn đề này
cách đây nhiều năm rồi. Thật vậy; vốn
là một độc giả nhiệt thành cũng như là
thích chế nhạo, khoa học đang dần dần
(nhưng chắc chắn) tiến gần tới lănh
vực Huyền bí học của chúng ta. Dù muốn dù không, các khám phá của chính khoa học
cũng bắt buộc nó phải chấp nhận ngôn
từ và các biểu tượng của chúng ta. Do hoàn
cảnh, nay hóa học bắt buộc phải chấp
nhận cả sự minh họa của chúng ta về
cuộc tiến hóa của Chư Thần và các Nguyên tử;
nó đă được phác họa một cách gợi ư không
thể chối căi được trong Dực Xà
Trượng của Mercury (the Caduceus of Mercury), Thần Minh
Triết (the God of Wisdom), cũng như trong ngôn ngữ
ẩn dụ của các bậc Minh Triết thời xưa.
Một Giảng lư Nội môn Bí giáo dạy như sau:
Thân
cây ASVATTHA
(cây Trường
Sinh, Dực Xà Trượng)
mọc ra từ hai cánh đen của con Thiên Nga (HANSA)
của Sự Sống và giáng xuống vào mỗi Khai Thiên
Tịch Địa (mỗi
chu kỳ Khai Nguyên mới – every new Manvantara). Hai Con Rắn, sự hằng hữu và hăo huyền (Tinh
Thần và Vật Chất) có
hai cái đầu mọc ra từ cái đầu duy nhất
ở giữa hai cánh, quấn quít, xoắn xít lấy nhau
dọc theo thân cây. Hai cái đuôi giao
nhau trên trần thế (Vũ Trụ biểu lộ) hợp thành một; đó chính là đại hăo
huyền, hỡi Đệ tử !
Mọi người đều biết rằng Dực xà trượng đă bị người Hy Lạp biến đỏi rất nhiều. Biểu tượng nguyên thủy – với ba cái đầu rắn – đă bị biến đổi thành ra một cái gậy với một cái núm, c̣n hai đầu ở dưới lại tách riêng ra, như thế là đă xuyên tạc ít nhiều ư nghĩa nguyên thủy. Song nó vẫn c̣n là một minh họa rất hữu dụng đối với chúng ta, nó chính là cây gậy trung ḥa với hai con rắn quấn quít xung quanh. Thật vậy, mọi thi sĩ thời xưa đều tán tụng các quyền năng mầu nhiệm của Dực Xà Trượng kỳ diệu này; đối với những kẻ nào thấu đáo được ư nghĩa bí mật của nó th́ điều này cũng dễ hiểu thôi.
Nay lời phát biểu của vị học giả Hội Trưởng Hội Hóa Học Anh Quốc cũng trong bài diễn văn đó có dính dáng ǵ tới thuyết nêu trên của chúng ta không? Rất ít, chỉ có như sau đây – không hơn :
Bài
diễn văn ở
274
Một h́nh lemniscate cho cuộc tiến hóa giáng hạ
từ Tinh Thần vào trong Vật Chất; một h́nh khác,
có lẽ là h́nh xoắn
ốc, trên con đường
tiến hóa thăng
thượng từ Vật
Chất vào trong Tinh Thần; rồi tới cuối cùng
cần phải tái hấp thụ vào trong trạng thái trung ḥa (laya state), theo thuật ngữ khoa học,
đó là “điểm trung ḥa về điện” tức
điểm zero. Đó là các sự kiện và lời
phát biểu về Huyền bí học. Một ngày kia khoa
học có thể kiểm chứng lại chúng một cách an
toàn và đáng tin cậy nhất. Tuy nhiên, chúng ta hăy xem ông
tŕnh bày thêm nữa về cái kiểu mẫu nguyên thủy
của biểu tượng Dực Xà Trượng.
Một
h́nh như thế sẽ do ba chuyển động
đồng thời rất đơn giản tạo ra.
Thứ nhất là một dao động qua lại (giả
sử là theo hướng Đông Tây);thứ nh́ là một dao
động đơn thẳng góc với dao động
trên (giả sử là theo hướng Tây Bắc và có chu
kỳ bằng một nửa (nghĩa là nhanh hơn gấp
hai lần); thứ ba là một chuyển động
thẳng góc với cả hai dao động trên, giả
sử là theo chiều đi xuống, dưới một
dạng đơn giản nhất, chuyển động
này sẽ có vận tốc không đổi. Nếu chúng ta
chiếu h́nh này trong không gian, chúng ta sẽ nhận xét
thấy là các điểm của đường cong ở
chỗ clor, brom và iod ở gần nhau, điểm này
dưới điểm kia; lưu huỳnh, selenium và telurium
cũng vậy; phosphor, arsenic và antimon cũng thế; hàng
loạt các chất tương tự cũng vậy.
Người ta có thể hỏi liệu sơ đồ này
có thể giải thích được làm thế nào và
tại sao các nguyên tố lại xuất hiện theo
trật tự này? Chúng ta hăy
tưởng tượng một sự tinh tiến tuần
hoàn trong không gian, mỗi cuộc tiến hóa đang
chứng kiến sự khai sinh ra nhóm nguyên tố mà
trước kia tôi đă tŕnh bày như là được
tạo ra trong ṿng một chấn động hoàn chỉnh
của một con lắc. Chúng ta giả sủ rằng
như thế là một chu kỳ đă hoàn thành; trong
cuộc hành tŕnh hào hùng qua không gian, trung tâm lực sáng
tạo bất khả tri đă vung văi dọc theo lộ
tŕnh của ḿnh các nguyên tử bản sơ các mầm mống (tạm gọi
như vậy). Hiện nay, các nguyên tử này phải hóa
hợp và phát triển thành ra các nhóm như lithium, berilium,
bor, carbon, nitrogen, oxygen, fluor, sodium, magnesium, nhôm, silicium,
phosphor, lưu huỳnh và clor. H́nh dáng của lộ tŕnh mà
nay nó đi theo ra sao thế nhỉ ? Nếu nó bị giới
hạn chặt chẽ vào cùng b́nh diện thời gian và
nhiệt độ, th́ các nhóm nguyên tố phải xuất
hiện kế tiếp lại là nhóm lithium; thế là chu
kỳ nguyên thủy sẽ được lặp lại
măi, cứ tạo ra cùng một 14 nguyên tố măi măi. Tuy
nhiên, các điều kiện không hoàn toàn như nhau.
Trước hết, Không gian và điện vẫn như
vậy, nhưng nhiệt độ đă thay đổi;
thay v́ các nguyên tử là lithium được bổ túc
bởi các nguyên tử tương tự với chúng về
mọi phương diện các nhóm nguyên tử, vốn
xuất hiện khi chu kỳ thứ hai bắt đầu,
không tạo thành lithium mà lại là tạo thành potassium,
hậu duệ của nó. Do đó, giả sử rằng
lực sinh hóa đang chạy đi chạy lại một
cách tuần hoàn dọc theo một đường lemniscate,
như đă nêu trên, trong khi nhiệt độ giảm
đồng thời với nhịp thời gian, đó là
những biến thiên mà tôi đă ra sức tŕnh bày như là
chỗ trũng xuống, mỗi dây của đường
lemniscate sẽ cắt cùng một đường thẳng
đứng ở những điểm ngày càng thấp.
Nếu được chiếu trong không gian,
đường cong sẽ biến thành một
đường trung tâm trung ḥa về điện và hóa tính
– điện dương ở phía Bắc và điện âm
ở phía
275
Và như thể
để chứng minh cái định đề của
Huyền bí học và triết học Ấn Độ,
rằng vào lúc có chu kỳ Hỗn
Nguyên (Pralaya), hai trạng thái của Thượng Đế
Bất Khả Tri (the Unknowable Deity), “Con Thiên Nga trong U Minh”
tức Prakriti (Thiên Nhiên hay Vật Chất thiên h́nh vạn
trạng) và Purusha (Tinh Thần), không c̣n tồn tại
nữa mà lại tan ḥa hoàn
toàn, chúng ta lại học
được cái ư kiến kết luận khoa học
của nhà hóa học lỗi lạc người Anh, ông
đă xiển dương các bằng chứng của ḿnh
bằng cách cho rằng :
Nay
chúng ta đă truy nguyên ra sự h́nh thành của các nguyên
tố hóa học từ các nút và các chỗ trống trong
một lưu chất vô h́nh sơ khai. Chúng ta sẽ
chứng tỏ rằng các nguyên tử có thể, thậm
chí có lẽ không tồn tại vĩnh viễn, song lại
chia sẻ với mọi tạo vật khác thuộc tính
phân hủy rồi chết.
Đó cũng chính là ư
kiến của Huyền bí học, v́ các điều “có
thể” và “có lẽ” của khoa học lại là các sự
kiện đối với nó, được chứng minh
rành mạch đến nỗi không cần chứng tỏ
ǵ thêm nữa, và cũng chẳng cần có bằng chứng
vật chất ngoại cảnh nào khác. Tuy nhiên,
trước sau như một, nó vẫn lặp lại câu
sau đây “VẬT CHẤT
THẬT LÀ VĨNH CỬU và
chỉ trở thành nguyên tử (một trạng thái của
nó) một cách định kỳ”. Điều này cũng
chắc chắn như là đề án khác mà các nhà thiên
văn học và các nhà vật lư hầu như đă
nhất trí chấp nhận – đó là “cơ thể của
Vũ Trụ ngày càng bị hao ṃn đi, điều này
rốt cuộc sẽ đưa tới việc Lửa Thái
Dương (the Solar Fire) bị tắt ngấm, c̣n Vũ
Trụ th́ bị hủy diệt – theo các đường
lối mà các nhà khoa học đă vạch ra, điều này
thật là sai lầm. Trong thời gian và vĩnh cửu, bao
giờ cũng có các cuộc giải thể định
kỳ của Vũ Trụ biểu lộ, chẳng hạn
như chu kỳ Hỗn Nguyên từng phần sau mỗi Ngày
của Brahmă và chu kỳ Hỗn Nguyên Vũ Trụ - ĐẠI CHU KỲ HỖN NGUYÊN (the MAHA-PRALAYA)
– chỉ diễn ra sau
mỗi Đời của Brahmă. Nhưng các nguyên nhân khoa
học của sự giải thể như thế (nếu
khoa học chính xác đă tŕnh bày) chẳng ăn nhập ǵ
tới các nguyên nhân thực sự. Cho dù điều đó
có ra sao đi nữa, khoa học vẫn cứ lại
một lần nữa biện minh cho Huyền bí học, và
Giáo sư Crookes đă cho rằng:
Từ
các luận chứng xuất phát từ pḥng thí nghiệm hóa
học, chúng ta đă chứng tỏ được
rằng trong bất kỳ chất nào đă đáp ứng
được mọi cuộc trắc nghiệm về
một nguyên tố đều có các sắc thái dị
biệt tinh tế khiến chúng ta có thể chọn lọc
được. Chúng ta đă thấy rằng sự phân
biệt cổ kính giữa các nguyên tố và các hợp
chất đă không c̣n đi đôi với sự phát
triển của hóa học, song nó phải được
biến đổi để bao hàm hằng loạt các
chất trung gian tức các “siêu nguyên tố” (“meta-elements”).
Chúng ta đă chứng tỏ được làm thế nào mà
chúng ta có thể tiếp nhận được các lời
phản đối của Clerk-Maxwell (chúng thật là có
sức thuyết phục). Cuối cùng, chúng ta đă
viện dẫn ra các lư do để tin tưởng rằng
vật chất bản sơ đă được tạo
ra do tác dụng của một lực sinh hóa; cứ
chốc chốc nó lại tống ra các nguyên tử
được phú cho nhiều lượng khác nhau của
các dạng năng lượng bản sơ. Nếu chúng ta
dám phỏng đoán về nguồn năng lượng
được bao hàm trong một nguyên tử hóa học, th́
tôi tưởng chúng ta có thể đặt thành tiền
đề điều sau đây : “Các bức xạ
nhiệt – vốn được vật chất khả lượng
của vũ trụ truyền ra bên ngoài qua ether theo một
tiến tŕnh tự nhiên mà chúng ta chưa biết –
được biến đổi ở tận biên
(confines) của vũ trụ thành ra các chuyển
động chủ yếu của các nguyên tử hóa
học. Ngay khi được tạo ra, các chuyển
động này lại quy vào bên trong, như thế là chúng
đă trả lại cho vũ trụ loại năng
lượng lẽ ra đă bị mất đi do bức
xạ nhiệt. Nếu điều phỏng đoán này mà
hữu lư th́ điều tiên tri kỳ diệu của William
Thomson (cho rằng rốt cuộc vũ trụ sẽ suy vi
v́ đă phung phí hết năng lượng của ḿnh)
sẽ hoàn toàn sụp đổ. Thưa quí vị,
đối với tôi, h́nh như vấn đề các nguyên
tố có thể được tạm thời bàn tới
như thế đó. Chắc chắn là cái vốn kiến
thức nhỏ nhoi của chúng ta về các bí nhiệm
bản sơ này đang ngày càng phát triển, mặc dù
chỉ chậm chạp thôi”.
276
Do một sự trùng hợp kỳ
diệu, ngay cả giáo lư “Thất phân” (“Septenary”) của
chúng ta cũng h́nh như làm bó tay khoa học. Nếu chúng tôi
hiểu không lầm th́ hóa học có đề cập
tới mười bốn nhóm nguyên tử bản sơ –
lithium, beryllium, bore, carbon, nitrogen, oxygen, fluor, sodium, magnesium,
nhôm, silicium, phosphor, lưu huỳnh và clor. Đề cập
tới các “nguyên tử số” (“dominant atomicities”) chủ
yếu, Giáo sư Crookes đă liệt kê bảy nhóm như
sau :
Khi
tiêu điểm năng lượng sáng tạo chu
chuyển, chúng ta thấy trong các chu kỳ kế tiếp
nhau, nó gieo trong một khoảng không các mầm sống
của lithium, potassium, rubidium và ceasium; trong một khoảng
khác có clor, brom và iod; trong một khoảng thứ ba có sodium,
đồng, bạc và vàng; trong khoảng thứ tư có
lưu huỳnh, selenium, telur; trong khoảng thứ năm có
beryllium, calcium, strontium và barium; trong khoảng thứ sáu có
magnesium, kẽm, cadnium và thủy ngân; trong một khoảng
thứ bảy có phosphor, arsenic, antimon và bismuth [chúng tạo
thành bảy nhóm phía bên này. Và sau khi gieo rắc] … trong các
khoảng các nguyên tố khác – nghĩa là nhôm, gallium,
Thật là thú vị
nếu so sánh bảy họ này với họ thứ tám
gồm những thứ “hết thuốc chữa” với
các ẩn dụ liên quan tới bảy đứa con bản
sơ của “Từ Mẫu, Không Gian Vô Cực” (“Mother,
Infinite Space) tức Tiên Thiên Huyền Nữ (Aditi) và
đứa con thứ tám bị bà từ bỏ. Như thế,
chúng ta có thể thấy nhiều điều trùng hợp
kỳ diệu giữa các khoen nối trung gian
được mệnh danh là các siêu nguyên tố hay các á
nguyên tố với cái mà Huyền bí học gọi là
Thực tượng của chúng (their Noumenoi), tức các
Đấng Thông Tuệ chủ tŕ các nhóm Chơn Thần và
Nguyên tử đó. Nhưng điều này sẽ đưa
chúng ta đi xa lắm. Thôi th́ chúng ta đành bằng ḷng
với lời thú nhận sau đây :
Sự
thiếu thuần trạng tuyệt đối (absolute
homogeneity) này sẽ đánh dấu sự cấu tạo
của các phân tử hoặc khối tập hợp vật
chất mà chúng ta mệnh danh là các nguyên tố. Điều
này sẽ rơ ràng hơn nếu chúng ta tưởng
tượng ngược về quá khứ tới tận
lúc khai tịch vũ trụ vật chất của chúng ta,
và đối diện với Đại Bí Nhiệm (the Great
Secret), ra sức xét tới các diễn tŕnh tiến hóa của
các nguyên tố.
Thế là sau cùng, để cho kẻ phàm tục hiểu rơ hơn, đích thân các đại diện cao cấp nhất của khoa học lại chọn dùng các thuật ngữ của các Cao đồ thời xưa như là Roger Bacon và quay về với “nguyên h́nh chất” (“protyle”). Mọi thứ này đều đầy triển vọng và gợi cho chúng ta nghĩ tới các “dấu hiệu thời gian” (“signs of the times”).
277
Thật vậy, các
dấu hiệu này rất nhiều và ngày càng tăng,
nhưng chẳng có ǵ quan trọng hơn các dấu hiệu
vừa kể. Ấy là v́ nay người ta đă hoàn toàn lấp
đầy được hố sâu ngăn cách giữa các
giáo lư Huyền bí “mê tín dị đoan và phản khoa học” với các giáo điều của khoa
học; hơn nữa, có ít nhất là một trong các nhà hóa
học lỗi lạc ngày nay đang bước vào lănh
vực Huyền bí với các khả năng vô tận. Càng
tiến bước, ông càng tiến gần hơn tới
các Trung tâm bí nhiệm (mysterious Centre), từ đó tỏa ra
vô số con đường dẫn từ Tinh Thần
xuống vật Chất, nó biến chư Thần Linh và các
Chơn Thần sống động thành ra con người
và Thiên Nhiên hữu cảm.
Nhưng trong Tiết sau, chúng
ta sẽ đề cập tới chủ đề này thêm
nữa.
278
TIẾT 9
LỰC
SẮP TỚI
(THE COMING FORCE)
NÓ
CÓ THỂ CÓ HAY KHÔNG ?
(ITS
POSSIBILITIES AND IMPOSSIBILITIES)
Ai dám bảo Lực là “Vật Chất chuyển động”(“moving Matter”, or “Matter in motion”) và là một biểu lộ của năng Lượng; hay Vật Chất và Lực đều là các trạng thái biến phân thuộc cơi hiện tượng của Vũ Trụ Chất bản sơ chưa biến phân duy nhất?
Câu này liên quan tới ĐOẠN KINH bàn về FOHAT và “bảy Phân Thân của nó (his “Seven
brothers or Sons”), nói cách khác, đó là nguyên nhân và các hiệu
quả của Điện Vũ trụ (Cosmic Electricity).
Đó là thuật ngữ Huyền bí học để
chỉ bảy thần
lực chủ yếu của
Điện, các nhà vật lư học chỉ tri giác
được các tác dụng thuần là hiện
tượng (do đó thô trược nhất) của nó trên
cảnh giới vũ trụ, nhất là trên trần thế.
Ngoài các thứ khác ra, chúng c̣n bao gồm cả Âm thanh, Ánh
sáng, Màu sắc v.v… Nay vật lư học bảo chúng ta như
thế nào về các “Lực” này? Theo vật lư học, ÂM THANH (SOUND) là một cảm giác do tác
động của các phân tử khí trời đối
với màng nhĩ, nó tạo nên các rung động tế
nhị trong bộ máy thính giác, bộ máy này chuyển các
chấn động của chúng lên năo. ÁNH SÁNG
của cảm giác do tác động của các chấn
động vô cùng nhỏ của ether lên trên vơng mạc
của mắt.
Chúng tôi cũng
đồng ư như vậy. Tuy nhiên, đó chỉ là các hiệu
quả được tạo ra trong bầu khí quyển
của chúng ta và môi trường ngay xung quanh đó;
thật vậy, tất cả đều do tầm tri giác
trần thế của chúng ta. Jupiter Pluvius có biểu
tượng là các giọt nước mưa gồm có hai
“nguyên tố”(người ta tin như vậy mà hóa học
đă phân tích và tái hóa hợp. Nó đă làm chủ
được các phân tử hợp chất, nhưng các
nguyên tử của chúng vẫn c̣n ngoài tầm tay của nó.
Nơi mọi Thần Lực (Forces) và biểu lộ này,
Huyền bí học thấy một chiếc thang (a ladder); các
nấc dưới của nó thuộc về vật lư
học ngoại môn, các nấc cao của nó lên măi tới
tận một Quyền năng vô h́nh, thông tuệ, sống
động; trên nguyên tắc, đó là nguyên nhân vô h́nh, song vô
cùng hữu thức của các hiện tượng sinh ra
từ giác quan được mệnh danh là một luật
thiên nhiên nào đó.
279
Chúng tôi khẳng
định rằng, ÂM THANH (SOUND) là một Quyền năng
mănh liệt; đó là một thần lực phi
thường mà điện lực do một triệu cái
thác Niagaras sản sinh ra cũng chẳng bao giờ hóa
giải được cái tiềm năng nhỏ nhất
ấy khi được Kiến Thức
Huyền Linh (Occult Knowledge)
điều động. Người ta có thể tạo ra
âm thanh có một bản chất phi thường đến
nỗi Kim Tự Tháp Cheops cũng bị nâng lên lơ
lửng trên không, hoặc một người hấp
hối, thậm chí một người đang trút hơi
thở cuối cùng, cũng được hồi sinh tràn
đầy năng lượng và sinh lực mới mẻ.
Ấy là v́ Âm thanh
sản sinh ra, hoặc đúng hơn là thu hút các nguyên tố
lại để tạo ra một chất ozone;
việc chế tạo chất này ở ngoài tầm tay
của Hóa học, nhưng lại ở trong tầm tay
của Khoa luyện kim đan. Thậm chí nó có thể làm hồi sinh một con người hoặc
một con thú mà thể dĩ thái chưa vĩnh viễn chia
ĺa với thể xác v́ tuyến từ điển đă
bị cắt đứt. Với
tư cách là một người đă ba lần
được cứu mạng bằng quyền năng này, tác giả
có đủ uy tín để đảm bảo là bản
thân ḿnh có hiểu biết chút ít về điều đó.
Nếu tất cả
các điều này có vẻ quá phản khoa học
đến nỗi chẳng ai quan tâm tới, th́ xin khoa
học hăy giải thích xem các hiện tượng mới
được tạo ra của cái gọi là động
cơ Keely đă tuân theo các luật cơ học và vật
lư đă biết nào ? Cái vật tác dụng như là cái máy phi
thường phát ra lực vô h́nh nhưng khủng khiếp
(năng lượng của nó chẳng những có thể
làm chạy một động cơ 25 mă lực, mà c̣n có
thể được nhân công dùng để nâng cao máy móc
nữa) là cái ǵ vậy? Thế nhưng điều này
đă được thực hiện bằng cách chỉ
cần kéo một cái cung kéo vĩ cầm qua một bên âm
thoa (điều này đă được chứng minh đi
chứng minh lại). Ấy là v́ Lực ether
(the etheric Force) mà John Worrell Keely (người
xứ Philadelphia lừng danh ở Mỹ và Âu Châu) t́m ra
đâu có phải là ảo
giác. Mặc dù ông đă không
thể sử dụng được nó – ngay từ
đầu, một số nhà Huyền bí học đă tiên
đoán và khẳng định như vậy – nhưng nhà
phát minh ấy đă phô diễn trong ṿng một ít năm qua
các hiện tượng kỳ diệu, hầu như là
một phép lạ theo nghĩa siêu nhân (superhuman) chứ
chẳng phải là siêu nhiên
(supernatural). ([286])
Nếu Keely thành công, ông có
thể đă biến toàn thể một đạo quân thành
ra các nguyên tử trong không gian trong ṿng vài giây, cũng dễ
dàng như khi ông biến một con ḅ chết thành ra t́nh
trạng đó.
Nay xin độc giả hăy nghiêm chỉnh quan tâm tới cái mănh lực mới được khám phá mà nhà phát minh đă mệnh danh là “Lực Liên Ether và các Lực”(“Inter-Etheric Forces, and Forces”).
280
Theo thiển ư của
các nhà Huyền bí học (chẳng hạn như các bạn
thân của ông), ông Keely đă và vẫn c̣n ở
trước thềm của một vài bí nhiệm vĩ
đại nhất của Vũ Trụ. Xét Vũ Trụ
biểu lộ và chưa biểu lộ như là MỘT ĐƠN VỊ (UNITY), Huyền bí học đă tŕnh bày
biểu tượng cái quan niệm lư tưởng về
vũ trụ bằng “Kim Noăn” (“Golden Egg”) với hai cực
bên trong. Chính cực dương đă tác động trong
Thế giới Vật Chất biểu lộ; trong khi
đó, cực âm lại đắm ch́m trong sự Tuyệt
Đối Bất Khả Tri của SAT
(Hữu Thể).([287]) Chúng ta không thể bảo rằng
liệu điều này có phù hợp với triết
thuyết của ông Keely chăng; kể ra th́ điều
này cũng chẳng có ǵ là quan trọng. Tuy nhiên, các ư
tưởng của ông về cấu tạo ether vật
chất của Vũ Trụ dường như cũng
kỳ lạ như các ư tưởng của chính chúng tôi,
về phương diện này th́ cả hai dường
như giống hệt nhau. Trong một tác phẩm có giá
trị của bà Bloomfield – Moore (một phụ nữ Mỹ
mà các nỗ lực không ngừng trong việc mưu t́m chân
lư chưa bao giờ được đánh giá quá cao), chúng
ta thấy ông tŕnh bày như sau:
Khi
giải thích về các vận hành động cơ của
ḿnh, ông Keely đă bảo rằng: “Khi quan niệm ra bất
kỳ máy móc nào được kiến tạo nên từ
trước đến nay, người ta chưa bao
giờ t́m thấy môi trường cảm ứng một
trung tâm trung ḥa. Nếu có điều đó, th́ những
kẻ mưu t́m chuyển động trường kỳ
đă không c̣n gặp khó khăn nữa và vấn đề
này ắt đă trở nên một sự kiện đă
định và hiện hành. Chỉ cần tác dụng lên cái
dụng cụ đó một xung lực sơ khởi vài cân
Anh là nó vận hành hàng thế kỷ. Khi nghĩ ra máy rung
của ḿnh, tôi không hề t́m cách đạt được
chuyển động trường kỳ, nhưng một
mạch rung đă được tạo ra, nó thật
sự có một tâm trung ḥa được ether rung
động của tôi làm cho linh hoạt. Trong khi đang
vận hành bằng chất đă nói, nó thực sự là
một máy hầu như độc lập với khối
lượng (tức h́nh cầu),([288]) chính tốc
độ kỳ diệu của mạch chấn
động đă khiến cho nó như vậy. Thế
nhưng, dù hoàn hảo như vậy, nó vẫn c̣n phải
được ether chấn động cấp
dưỡng để cho nó trở thành một động
cơ độc lập… Mọi cấu trúc đều
phải có một mầm mống với sức bền
tỷ lệ với trọng lượng của khối
mà chúng phải đỡ, nhưng các nền móng của
vũ trụ lại tựa trên một điểm chân không
nhỏ hơn một phân tử nhiều. Thật vậy,
nói cho đúng ra th́ nó dựa trên một điểm liên ether (an
inter-etheric point); muốn hiểu được
điều này phải có một tâm trí thật là vô hạn.
Việc nh́n vào trong ḷng sâu thăm thẳm của một tâm
ether th́ cũng giống hệt như là việc mưu t́m
giới tuyến của không gian bao la chứa ether trên
trời; có điều dị biệt một thứ là
hoạt trường dương, c̣n một thứ là
hoạt trường âm”.
281
Chúng ta dễ dàng
thấy rằng điều này chính là Giáo lư Đông
phương. Điểm liên ether của ông Keely chính là
điểm trung ḥa của
các nhà Huyền bí học; tuy nhiên, muốn hiểu
điều này th́ chẳng cần ǵ một tâm trí vô hạn
mà chỉ cần một trực giác chuyên biệt và năng lực truy t́m chỗ
ẩn của nó trong thế giới Vật Chất. Dĩ
nhiên là chúng ta không thể tạo ra một điểm trung ḥa (the laya
centre), nhưng chúng ta có thể
tạo ra một chân không
liên ether (an inter-etheric vacuum) – điều
này có thể được chứng minh do việc tạo
ra các tiếng chuông trong không gian. Tuy nhiên, ông Keely tŕnh bày
như là một nhà Huyền bí học vô thức khi ông
nhận xét trong thuyết hành tinh lơ lửng (planetary
suspension) như sau:
Xét
về thể tích của hành tinh theo một quan điểm
khoa học, chúng ta ắt hỏi làm thế nào sự dị
biệt quá lớn về thể tích của các hành tinh
lại có thể tồn tại mà không phá rối tác
động hài ḥa luôn luôn đặc trưng cho chúng? Tôi
chỉ có thể trả lời câu hỏi này một cách
thỏa đáng bằng cách bắt đầu phân tích
một cách lũy tiến, khởi sự từ các tâm quay
ether mà Tạo Hóa (Creator)([289]) đă qui
định cho năng lực hấp dẫn hay tích lũy
của chúng. Nếu bạn hỏi đâu là cái quyền
năng ban cho mỗi nguyên tử ether cái tốc độ
quay phi thường (tức xung lực sơ khởi), th́,
tôi phải trả lời rằng chẳng tâm trí hữu
hạn nào có thể quan niệm ra được xem nó là
cái ǵ? Chỉ có triết thuyết tích lũy đă chứng
tỏ rằng một quyền năng như thế đă
được ban ra. Có thể nói là diện tích của
một nguyên tử ấy chịu tác dụng của
lực hút (tức lực hấp dẫn từ
điển), lực tuyển lựa (tức lực
đẩy), mọi lực tương ứng và mọi
lực đối lập đặc trưng cho một hành
tinh lớn nhất; do đó, khi sự tích lũy tiếp
diễn, chúng ta vẫn có sự cân bằng hoàn toàn. Một
khi trung tâm nhỏ bé này đă cố dịnh, năng
lượng cần để bứt nó ra khỏi vị
trí tất nhiên phải lớn đến mức làm
dịch chuyển được hành tinh khổng lồ
nhất đang tồn tại. Khi tâm trung ḥa nguyên tử
dời chỗ, hành tinh cũng phải đi theo nó. Tâm trung
ḥa mang theo toàn bộ tải trọng của bất kỳ
sự tích lũy nào từ đầu, vẫn y nguyên như
vậy, măi măi cân bằng trong không gian vĩnh cửu.
Ông Keely đă minh họa ư niệm về một “tâm trung ḥa” như sau:
Chúng
ta phải tưởng tượng rằng sau khi một
hành tinh đă tích luy được bất kỳ một
đường kính nào đó, chẳng hạn như trên
dưới 20 000 dặm, v́ kích thước chẳng dính
dáng ǵ tới vấn đề này, phải có một sự
dời chỗ của mọi vật liệu (ngoại
trừ một lớp vỏ dày 5 000 dặm) để
lại một khoảng trống giữa lớp vỏ này
và một trung tâm có kích thước bằng một quả
banh bi-a (billiard ball) thông thường; thế th́ cần
phải có một lực để di chuyển khối
trung tâm bé nhỏ này lớn cũng bằng lực
để vận chuyển lớp vỏ dày 5 000 dặm.
Hơn nữa, khối trung tâm bé nhỏ này sẽ chịu
tải trọng của lớp vỏ này măi măi, giữ cho
nó cách đều; không một kháng lực nào (dù là lớn
đến đâu) có thể hội nhập chúng lại
được. Chúng ta ắt phải ngạc nhiên tột
độ khi chiêm ngưỡng cái tải trọng vĩ
đại tựa trên điểm trung tâm này, nơi đó,
trong lượng không c̣n nữa… Đó là một tâm trung ḥa
theo quan niệm của chúng tôi.
Đây cũng chính là điểm “trung ḥa” theo quan niệm của các nhà Huyền bí học.
Các điều trên
bị nhiều người tố cáo là “phản khoa
học”. Nhưng đó cũng là số phận của
bất cứ điều ǵ không được vật lư
học thừa nhận và không đi theo đường
lối chính thống giáo điều của nó. Nếu không
chấp nhận lời giải thích của chính nhà phát minh
– các lời giải thích của ông hoàn toàn chính thống theo các quan điểm Huyền linh
(the Spiritual and the Occult standpoints), nếu không muốn nói là theo quan điểm
của khoa học suy lư duy vật được mệnh
danh là chính xác, do đó cũng là quan điểm
của chúng ta nói riêng – th́ làm sao khoa học có thể
giải đáp được các sự kiện đă
được chứng kiến, mà không ai c̣n có thể
chối căi được? Huyền bí học chỉ
tiết lộ một ít bí nhiệm (mysteries) có tầm quan
trọng nhất. Nó nhỏ chúng ra từng giọt một
như là các viên ngọc trai quí giá rải rác khắp nơi;
ngay cả điều này bắt buộc phải làm thế
v́ đợt sóng thần tiến hóa đang dần dần
âm thầm và đều đặn mang Nhân loại tới
buổi sơ khai của Giống dân thứ Sáu (the Sixth Race
mankind). Ấy là v́ một khi không c̣n được các
kẻ kế thừa chính thống coi sóc cẩn mật
nữa, các bí nhiệm này sẽ không c̣n tính cách Huyền bí
nữa: chúng đă trở thành của
282
chung và có nguy cơ
giáng họa hơn là ban phúc nếu lọt vào tay bọn
người ích kỷ như kiểu Cain. Tuy nhiên, bất
cứ khi nào mà các bậc kỳ tài về tâm linh và trí
tuệ ([290]) (chẳng hạn như người
khám phá ra Lực Ether) cất tiếng chào đời, nói
chung họ thường được trợ giúp hơn
là ṃ mẫm t́m đường; nếu để tự
xoay xở, chẳng bao lâu họ sẽ trở thành các
bậc thánh tử v́ đạo, hoặc biến thành
mồi ngon của các kẻ đầu cơ trục
lợi, táng tận lương tâm. Nhưng họ chỉ
được trợ giúp với
điều kiện là họ sẽ không trở thành (dù là
hữu thức hay vô thức) một mối nguy hiểm
thêm nữa cho thời đại họ: một mối nguy
cơ đối với người dân nghèo, nay vẫn ngày ngày chịu cảnh
người giàu bóc lột người nghèo.([291]) Cần phải ra ngoài đề
một chút để giải thích điều này:
Chừng 12 năm về trước, trong một cuộc triễn lăm bách niên Philadelphia, để trả lời cho các câu hỏi khát khao của một nhà Minh Triết Thiêng Liêng (một trong những người đầu tiên hâm mộ ông) tác giả đă lặp lại cho y biết những điều mà bà đă được thượng cấp chỉ dạy, đó là kiến văn mà bà chẳng bao giờ có thể nghi ngờ.
Người ta đă
xác định rằng theo biệt ngữ của các tín
đồ Do Thái Bí giáo, người đă phát minh ra
“Động cơ tự hành” (“Self- Motor”) đó được
gọi là một “thuật sĩ bẩm sinh” (“natural-born
magician”). Ông vẫn không hề ư thức được toàn
bộ phạm vi áp dụng các quyền năng của ḿnh
và chỉ thi thố những quyền năng mà ông đă t́m
ra và nhận biết được nơi bản thân ḿnh –
thứ nhất là v́ gán cho chúng một nguồn
gốc sai lầm nên ông chưa bao giờ hiển lộng
các quyền năng này được một cách viên măn; thứ nh́ là v́ ông không đủ năng lực
chuyển cho người khác những ǵ vốn là một năng khiếu cố
hữu trong bản chất đặc biệt
của riêng ông. V́ thế, không
thể thường xuyên chuyển nhượng cho bất
cứ ai toàn bộ bí nhiệm này để áp dụng vào
thực tế.([292])
283
Những người
bẩm sinh có một năng khiếu như vậy cũng
không phải là rất
hiếm. Thường
thường trong hầu hết mọi trường
hợp, họ cứ sống rồi chết đi mà hoàn
toàn không biết ḿnh vốn sở hữu những quyền
năng phi thường. Ông Keely có các quyền năng
được gọi là phi thường, chỉ v́ ngày nay
ít ai biết tới, chẳng khác nào ít ai biết tới
sự tuần hoàn của máu trước thời Harvey. Máu
vẫn tồn tại, nó đă từng tác động
như hiện nay nơi người đàn ông đầu
tiên được sinh ra từ đàn bà; cũng thế,
trong con người có tồn tại cái nguyên khí có thể kiềm chế và chỉ
đạo Lực chấn động ether. Dù sao đi
nữa, nó vẫn tồn tại nơi mọi thế nhân
có Chơn Ngă liên hệ
nguyên thủy (v́ trực hệ) với cái nhóm Thiền
Định Đế Quân được mệnh danh là “con
đầu ḷng của Dĩ Thái” (“the first-born of Ether”). Xét về mặt tâm linh, nhân loại
được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm có liên quan
tới một trong các nhóm Thiền Định Đế
Quân thoạt tiên đă tạo ra con người tâm linh (xem
các đoạn 1, 2, 3, 4, 5 trong phần giảng lư ĐOẠN KINH
7). Vốn được ưu đăi rất nhiều
về phương diện này, và ngoài khí chất tâm linh ra,
xét về mặt trí thức, ông c̣n là một thiên tài về
cơ khí nữa; do đó ông Keely có thể đạt
được nhiều thành quả kỳ diệu. Ông
đă thành đạt được một vài điều
– hơn mức bất kỳ thế nhân nào chưa được khai
ngộ vào các Bí pháp tối hậu thành đạt được trong
thời đại này măi đến ngày nay. Những ǵ ông
đă thực hiện, chắc chắn là hoàn toàn đủ
để cho chính khoa học phải đập nát các
thần tượng của ḿnh, các thần tượng bằng
vật chất với chân bằng đất sét – như
bạn bè ông đă nói với ông một cách rất đúng
như thế. Tác giả cũng chẳng hề bất
đồng ư kiến với bà Bloomfield-Moore; trong một tài
liệu về “Lực Tâm Linh và Lực Ether”, bà đă nêu rơ
rằng với tư cách là một triết gia, ông Keely:
Có
tâm hồn đủ cao cả, tâm trí đủ minh mẫn
và khí phách cao thượng để khắc phục
được mọi khó khăn và cuối cùng xuất
hiện trên thế giới với tư cách là một nhà
phát minh đại tài nhất.
Bà c̣n tŕnh bày thêm như sau:
Nếu
Keely chẳng làm điều ǵ khác hơn là dẫn dắt
các nhà khoa học từ các địa hạt buồn
tẻ mà họ đang lần ṃ t́m kiếm, vào trong lănh
vực nguyên tố lực (elemental force) quang đăng (nơi
mà trọng lực và lực cố kết vẫn ám ảnh
họ và không được dùng tới; nơi mà từ
cội nguồn nhất nguyên, có xạ ra năng
lượng vô hạn vào thiên h́nh vạn trạng) ông
sẽ lừng danh muôn thuở. Nếu để
đập tan chủ nghĩa Duy vật, ông có thể
chứng minh được rằng có một nguyên khí bí
nhiệm (mà vật chất, dù được tổ
chức hoàn bị đến đâu đi chăng nữa,
cũng phải hoàn toàn tuân phục) làm linh hoạt vũ trụ,
th́ ông sẽ là một ân nhân tinh thần đối với
nhân loại chúng ta hơn bất kỳ người nào mà
thế giới hiện đại đă phát hiện
được. Nếu trong lănh vực chữa trị
bệnh tật, ông có thể dùng các lực tinh anh của
thiên nhiên để thay thế cho các tác nhân vật chất
thô trược đă giết chết người ta
nhiều hơn cả chiến tranh, bệnh dịch và
đói kém phối hợp lại, th́ ông sẽ đáng
được nhân loại mang ân. Ông sẽ làm
được như vậy và c̣n nhiều hơn nữa
nếu ông và những người đă chăm chú theo dơi
sự tiến bộ của ông từng ngày một trong
nhiều năm, không có những kỳ vọng quá lạc
quan.
Trong tác phẩm Các Bí Mật của Keely ([293]) cũng vị mệnh phụ đó đă tŕnh bày đoạn sau đây trích từ một bài báo do tác giả của chính pho sách này đă viết cho tờ Theosophist:
Trong Vật Chất
và Lực là ǵ, tập sách thứ năm do Nhà xuất
bản Theosophist phát hành, tác giả đă cho rằng: “Các nhà
khoa học vừa t́m ra ‘trạng thái thứ tư của
vật chất’, trong khi đó, các nhà Huyền bí học
đă thâm nhập qua trạng thái thứ sáu nhiều năm
trước, do đó, mặc dù không suy diễn mà cũng
biết được sự tồn tại của
trạng thái cuối cùng tức trạng thái thứ bảy”. Kiến
thức này bao gồm một trong các bí nhiệm của Keely
được gọi là “bí nhiệm phức hợp”
(“compound secret”). Nhiều người cũng biết
rằng bí nhiệm của ông bao gồm “sự gia tăng
năng lượng”, sự cách điện ether, và sự
thích ứng lực động lực cầu (dynaspheric
forces) vào máy móc.
284
Ấy chính là v́ khám phá của Keely đă
đưa tới việc hiểu biết một trong
những bí nhiệm Huyền bí nhất, một bí nhiệm
không bao giờ được phép lọt vào tay quần
chúng. Đối với nhà Huyền bí học, h́nh như
chắc chắn là ông không thể đẩy mạnh các khám
phá của ḿnh tới kết cuộc hợp lư
được. Nhưng thế cũng c̣n hơn hiện
nay. Cho dù bị hạn chế như vậy, khám phá này
vẫn có thể tỏ ra có ích nhất. Ấy là v́:
Lần
hồi, với sự kiên tâm tŕ chí mà một ngày kia thế
giới sẽ tôn vinh, bậc thiên tài ấy đă miệt
mài khảo cứu, khắc phục mọi khó khăn
lớn lao cứ xuất hiện măi trên đường
đi và hầu như là các chướng ngại vật
không thể vượt qua được (đối
với mọi người, ngoại trừ ông) để
tiến thêm nữa. Nhưng thế giới chưa bao
giờ xác định được lúc nào sẽ sẵn
sàng cho sự xuất hiện dạng lực mới mà nhân
loại đang chờ đợi. Thiên nhiên, bao giờ
cũng tiết lộ các bí mật của ḿnh một cách
miễn cưỡng, đang lắng nghe những lời
yêu cầu của vị chủ nhân của ḿnh (tức
sự thiết yếu). Các mỏ than trên thế giới
không thể chịu đựng măi được sự bóc
lột ngày càng tăng. Hơi nước đă đạt
đến mức giới hạn cực đại
năng lượng của ḿnh và không đáp ứng
được các nhu cầu của thời đại. Nó
biết rằng ḿnh đă tới số rồi (It knows that
its days are numbered). Điện lực th́ cứ ngập
ngừng (holds back) và tùy thuộc vào sự tiếp cận
của cô em đồng nghiệp (sister colleague). Máy bay
đang chờ đợi cái lực khiến cho sự phi
hành không c̣n là một giấc mơ nữa. Khi người
ta đă dễ dàng từ nhà liên lạc với cơ quan
bằng điện thoại, th́ các cư dân trên các lục
địa cũng sẽ có thể nói chuyện với nhau
qua đại dương. Trí tưởng tượng
bị tê liệt hết khi ra sức tiên đoán các kết
quả vĩ đại của khám phá kỳ diệu này,
một khi nó được áp dụng vào nghệ thuật
cơ khí. Khi chiếm lấy cái ngôi mà nó sẽ bắt
hơi nước nhường lại, lực động
lực cầu (dynaspheric force) sẽ thống trị
thế giới với một quyền lực mạnh
mẽ về mặt văn minh đến nỗi mà không
một tâm trí hữu hạn nào có thể đoán
được các thành quả. Trong lời nói đầu
của Tôn giáo Khoa Học, Laurence Oliphant đă cho rằng:
“Một triển vọng luân lư mới đang đón
chờ nhân loại, đó chắc chắn là một thứ
nó rất cần. Triển vọng luân lư mới này
tuyệt nhiên không thể bắt đầu một cách
rộng khắp như thế bằng cách sử dụng
lực động lực cầu cho các mục đích có
lợi cho sinh hoạt. ([294])
Các nhà Huyền bí học sẽ sẵn sàng nh́n nhận mọi điều này cùng với vị tác giả hùng biện. Chấn động phân tử nhất định là “lănh vực khảo cứu chính thống của Keely”, các khám phá của ông sẽ tỏ ra thật là kỳ diệu – song chỉ có ông mới làm nên chuyện. Đến nay, thế giới chỉ nhận được những ǵ có thể được an toàn phó thác. Có lẽ lời khẳng định này chưa hoàn toàn bắt đầu xác thực đối với nhà phát minh, v́ ông đă cho rằng ông tin chắc là ḿnh sẽ hoàn thành được mọi điều mà ḿnh đă hứa hẹn, bấy giờ, ông sẽ công bố cho thế giới; nhưng nó phải bắt đầu xác thực đối với ông trong một tương lai không xa lắm. Điều mà ông đề cập tới công tác của ḿnh đă chứng minh hùng hồn cho sự việc đó :
Khi
xét tới sự vận hành của động cơ
của tôi, để có được ngay cả một
quan niệm gần đúng về qui tŕnh thao tác của nó,
quư khách phải dẹp ngay mọi tư tưởng về
động cơ vận hanh dựa vào nguyên tác hút khí và nén
khí, dùng sự bành trướng của hơi nước
(hoặc một thứ hơi tương tự nào khác) tác
động lên một vùng tiếp giáp, chẳng hạn
như piston của một động cơ hơi
nước. Động cơ của tôi chẳng có một
piston mà cũng chẳng có bánh tâm sai (eccentrics), cũng
chẳng có grain áp lục nào tác dụng trong máy, bất
chấp kích thước hoặc dung tích của nó. Xét
thật tỉ mỉ cả về việc phát triển
năng lực của tôi lẫn mọi địa hạt
ứng ụng của nó, hệ thống của tôi dựa
vào chấn động giao cảm. Để khơi
hoạt hoặc phát triển thần lực của tôi,
không thể có cách nào khác được; động cơ
của tôi cũng không thể vận hành dựa vào bất kỳ
một nguyên lư nào khác được. Tuy nhiên, đó là
cơ hệ chính tắc (the true sysem), v́ thế mọi thao
tác của tôi đều được điều
động theo cách này – nghĩa là tôi sẽ sản sinh ra
năng lượng, máy sẽ chạy, khẩu đại
bác sẽ được điều động bằng
một sợi dây kim loại. Chỉ sau hàng năm làm
việc không ngừng và thực hiện hầu như là vô
số các cuộc thí nghiệm (bao gồm không những
việc kiến tạo biết bao nhiêu là các cấu trúc máy
móc đặc biệt, mà c̣n có việc điều nghiên
tỉ mỉ nhất các đặc tính hiện
tượng của chính chất ether được
tạo ra), tôi mới có thể không cần tới một
cơ cấu phức tạp nào mà vẫn làm chủ
được cái lực tinh anh và kỳ diệu mà tôi
đang vận dụng. ([295])
285
Các đoạn
mà chúng tôi in nghiêng có liên quan trực tiếp với khía
cạnh Huyền bí của việc áp dụng Lực
chấn động mà ông Keely
gọi là “chấn động giao cảm” (“sympathetic
vibration”). “Sợi dây kim loại” đă là một bước
từ cảnh giới thuần Dĩ Thái xuống Cơi
Trần (the pure Etheric into the Terrestrial). Nhà phát minh đă
tạo ra các phép mầu – từ ngữ “phép lạ” không
phải là mạnh quá – khi chỉ tác động qua Lực
liên ether mà thôi, đó là các nguyên khí thứ năm và thứ
sáu của Tiên thiên khí (Ăkăsha). Từ một máy phát lực
dài sáu bộ (feet) ông đă thu gọn lại thành một máy
phát lực “chỉ bằng một đồng hồ
bạc kiểu cổ”, chính điều này là một phép
lạ của thiên tài về cơ học chứ không
phải về tinh thần. bà Bloomfield Moore, người
bảo trợ và một mực bênh vực ông, đă cho
rằng:
Hai
dạng lực mà ông đang thực nghiệm và các hiện
tượng kèm theo, chính là các phản đề của
nhau.
Một dạng
lực được ông sản sinh ra và tác động
xuyên qua ông. Không ai đă từng lặp lại điều
mà ông thực hiện, có
thể tạo ra các kết quả giống như vậy. Đúng là “ether của Keely” đă tác
động, trong khi ether của Smith hay Brown lại vẫn
chưa hề có kết quả. Cho đến nay, Keely
đă gặp khó khăn trong việc tạo ra một cái
máy, nó sẽ phát triển và điều chỉnh “lực” mà
không có sự can thiệp của bất kỳ “ư chí
năng” (“will power”) nào hoặc tác dụng cá nhân nào của
người điều hành, dù là vô thức hay hữu
thức. Xét về những người khác, ông đă
thất bại về điều này, v́ trừ ông ra, không ai có
thể điều động được các “máy”
của ông. Xét về mặt huyền bí, đó là một
thành tựu tiến bộ hơn nhiều so với thành
tựu mà ông tiên liệu về “sợi dây kim loại”,
nhưng thành quả thu được từ các cảnh
giới thứ năm và
thứ sáu của Lực Dĩ
Thái sẽ không bao giờ
được phép phục vụ cho các mục đích
thương mại, kinh doanh.
Phát biểu sau đây (của một người rất
thân với nhà phát minh đại tài) đă chứng tỏ
rằng cơ cấu đó của Keely có liên quan trực
tiếp với việc tạo ra các thành quả kỳ
diệu của ông:
286
Một
ngày kia, các cổ đông của “Công ty động cơ
Keely” gài một người vào trong phân xưởng của
ông với mục tiêu trước mắt là khám phá cho
bằng được bí quyết của ông. Sau sáu tháng quan
sát cẩn thận, một ngày kia y vui mừng bảo J.W.
Keely: “Này, tôi biết cách làm cho nó chạy rồi”. Họ bèn
ráp cái máy lại, Keely điều chỉnh cái ṿi để
phát lực và cắt lực rồi bảo: “Đấy,
thử đi”. Người kia hăm hở mở cái ṿi
phát lực, nhưng cái máy cứ “́”ra. Y bèn năn nỉ
Keely: “Xin Ngài vui ḷng làm lại cho tôi xem một tí”. Keely
chiều ư hắn, thế là cái máy lại chạy tức
khắc, Người kia lại h́ hục thử, nhưng
không thành công. Bấy giờ, Keely mới đặt tay lên
vai y và bảo y thử lại một lần nữa xem sao.
Y bèn thử, kết quả là máy lại phát lực ngay
tức khắc.
Nếu sự kiện này mà đúng, th́ vấn
đề cũng dễ hiểu thôi.
Được
biết ông Keely định nghĩa điện là “một
chấn động nguyên tử nào đó”. Như thế
hoàn toàn đúng. Nhưng đó chỉ là Điện trên cơi
trần và do các tương hệ trần thế. Ông
ước tính rằng :
Có 100 000 000 chấn động phân
tử trong một giây.
Có 300
000 000 chấn động liên phân tử trong một giây.
Có 900 000
000 chấn động nguyên tử trong một giây.
Có 2 700 000 000 chấn động
liên nguyên tử trong một giây.
Có 8 100 000 000 chấn động
aether trong một giây.
Có 24 300 000 000 chấn động liên
aether trong một giây.
Điều này đă
minh chứng quan điểm của chúng ta. Chẳng rung
động nào có thể được tính toán (hay thậm
chí ước tính) một cách gần đúng bên ngoài
“phạm vi của Phân thân
thứ 4 của Fohat” (dùng
một thuật ngữ Huyền bí), tức chuyển
động tương ứng với cấu tạo
của chất quang huy của giáo sư Crookes (cách đây
vài năm, người ta gọi đại nó là “trạng
thái vật chất thứ tư” trên cơi trần.
Nếu hỏi
rằng tại sao ông Keely không được phép
vượt qua một giới hạn nào đó, th́ cũng
dễ trả lời. Ấy là v́ cái mà ông đă vô t́nh khám
phá ra chính là Lực tinh đẩu (sideral Force) mà
người Atlante đă biết và mệnh danh là MASH-MAK
(trong Astra Vidyă, các Thánh Hiền đă gọi nó
bằng một danh xưng mà chúng tôi không tiện tŕnh bày).
Đó là Vril trong Giống
dân sắp tới của Bulwer
Lytton, cũng như là của các Giống dân sắp tới
của nhân loại chúng ta. Danh xưng Vril có thể do
bịa đặt ra, nhưng chính lực đó lại là
một sự kiện; nghi ngờ về sự tồn
tại của nó th́ cũng chẳng khác nào nghi ngờ
sự tồn tại của chư Thánh Hiền, v́ mọi
mật thư đều có đề cập đến nó.
Khi được
nhắm vào một đạo quân từ Agniratha ([296]) được bố trí trên phi
thuyền (flying vessel), một khí cầu (theo các huấn giáo
trong Astra Vidyă), Lực chấn động này khiến cho
100 000 người và các phần tử tiêu tan thành tro
bụi một cách dễ dàng. Nó được tŕnh bày
một cách ẩn dụ trong Vishnu Purăna trong Ramăyana và các tác
phẩm khác, trong chuyện thần kỳ về hiền
triết Kapila, Ngài “chỉ cần liếc mắt một
cái là cũng đủ cho 60 000 đứa con của sagara
tiêu tan thành tro bụi”, trong các Tác phẩm Nội môn, có
giải thích về sự kiện này và đề cập
tới nó với danh xưng Kapilăksha – Mắt của Kapila.
287
Các thế hệ chúng ta phải
được phép thêm cái Lực Quỷ Quái (Satanic Force) này
vào mớ đồ chơi trẻ con của các kẻ
chủ trương vô chính phủ, chẳng hạn như
melenite, ḿn nổ chậm, lựu đạn, “giỏ hoa” và
các danh xưng vô thưởng vô phạt khác? Liệu cái tác
nhân hủy diệt này một khi lọt vào tay (chẳng
hạn như) một Attila hiện đại nào đó
(một kẻ chủ trương vô chính phủ khát máu) có
biến Âu Châu thành ra trạng thái hỗn loạn sơ
thủy chỉ trong vài ngày, và chẳng ai sống sót
để kể chuyện lại hay chăng ? Liệu
lực này có thể biến thành tài sản chung của
tất cả mọi người không?
Điều mà ông Keely
đă thực hiện thật là cực kỳ vĩ
đại và mầu nhiệm, ông rất cần minh
chứng hệ thống mới của ḿnh để cho các
nhà khoa học duy vật phải xấu hổ; dù muốn
dù không, nó cũng tiết lộ mọi bí nhiệm ẩn
sau thế giới vật chất, song không phải là cho
mọi người. Chắc chắn là các nhà Thông linh và các
nhà Giáng ma (ở Âu Châu có số đông hạng người
đó) sẽ là những người đầu tiên có kinh
nghiệm cá nhân được các thành quả của
sự thiên khải các bí nhiệm như thế. Hàng ngàn
người ấy sẽ đột nhiên thấy ḿnh
như lên tới tận mây xanh (có lẽ cùng với toàn
dân), nếu một lực như thế được
hoàn toàn khám phá ra và công bố. Toàn bộ khám phá này đă
diễn ra quá sớm tới hàng ngàn – hay hàng trăm ngàn
năm. Nó sẽ chỉ diễn ra đúng lúc và đúng
chỗ khi nạn đói kém khốn khổ, đă giảm
bớt cũng như là khi các đ̣i hỏi chính đáng của
đa số cuối cùng được chăm lo
đến một cách ổn thỏa, khi giai cấp vô
sản chỉ c̣n tồn tại trên danh nghĩa, khi không có
tiếng kêu gào thảm thiết xin ăn vang lên khắp
thế giới mà không ai đoái hoài tới. Chúng ta có
thể đẩy mạnh tiến tŕnh này bằng cách
truyền bá giáo dục, mở mang thêm công tác di trú, với
các viễn ảnh tốt đẹp hơn, trên một lục địa
mới nào đó có thể sẽ xuất hiện. Chỉ lúc bấy giờ, mới
cần tới lực và động cơ Keely (dưới dạng nguyên thủy mà ông và các bạn đă từng chiêm
ngưỡng), v́ lúc bấy giờ, người nghèo sẽ cần nó hơn người
giàu.
Trong khi đó, Lực
mà ông khám phá ra sẽ tác động xuyên qua các dây kim loại; nếu ông thành công, nội
điều này cũng sẽ biến ông thành nhà phát minh
đại tài nhất của thời đại trong
thế hệ hiện nay.
Những điều
mà ông Keely tŕnh bày về Âm Thanh và Màu Sắc cũng đúng theo quan điểm
Huyền bí. Hăy nghe ông nói như thể ông đang bảo
dưỡng “các Đấng Thiên Khải Thần Linh” (“the
“Gods-Revealers”), và suốt đời cặm cụi thâm
cứu Hậu Thiên Khí Bản Sơ (Father-Mother Aether).
Khi so sánh độ tinh tế của khí quyển với độ tinh tế của các luồng ether thu được, do ông phát minh ra việc phân giải các phân tử bằng rung động, Keely cho rằng:
288
Nó
cũng giống như bạch kim đối với
hidrogen. Sự phân ly phân tử từ không khí chỉ
đưa chúng ta tới phân đoạn thứ nhất;
liên phân tử tới phân đoạn 2; nguyên tử tới
phân đoạn 3; liên nguyên tử tới phân đoạn 4;
ether tới phân đoạn 5; liên ether tới phân
đoạn 6, tức sự liên hợp dương với
ether ánh sáng.([297]) Trong luận
chứng dẫn nhập, tôi đă chủ trương
rằng đó là lớp vỏ chấn động của
mọi nguyên tử. Khi định nghĩa nguyên tử, tôi
không tự giới hạn vào phân đoạn 6, nơi ether
ánh sáng được phát triển thành dạng thô
trược nhất (trong mức độ minh chứng
của các cuộc khảo cứu của tôi). ([298]) Tôi cho rằng các nhà
vật lư hiện đại sẽ cho các ư tưởng này
là một điều hoang tưởng ngông cuồng. Có
lẽ chẳng sớm th́ muộn, thuyết này sẽ được
soi sáng và được tŕnh bày một cách đơn
giản để cho khoa học khảo cứu. Hiện
nay, tôi chỉ có thể so sánh nó với một hành tinh nào
đó trong không gian u tối, nơi mà ánh sáng mặt trời
khoa học chưa rọi tới… Tôi giả sử rằng
âm thanh cũng như mùi vị, là một chất liệu
thực sự có một độ tinh tế kỳ
diệu, bất khả tri, nó xuất phát từ một
vật thể tạo ra nó bằng sự kích động,
phóng ra các hạt vật chất tuyệt đối (các
cấu tử liên nguyên tử) với tốc độ 1
120 bộ một giây (trong chân không lên tới 20 000 bộ
một giây). Chất liệu phân tán như vậy là một
phần của khối bị xáo động; nếu chúng
ta cứ giữ cho sự xáo động này liên tục măi,
th́ trong ṿng một chu kỳ thời gian nào đó, chất
liệu này sẽ bị khí quyển hấp thu hoàn toàn. Nói
đúng hơn, nó sẽ đi qua bầu khí quyển tới
một điểm tinh tế siêu đẳng tương
ứng với t́nh trạng của phân đoạn chi
phối việc nó giải thoát khỏi chất lân cận…
Trong khi truyền bá các (hợp) âm, các âm thanh xuất phát
từ các âm thoa (được cấu tạo để
tạo ra các ḥa âm ether) đă thấm nhuần hầu
như hoàn toàn mọi chất liệu ở trong tầm bắn
phá nguyên tử của chúng. Việc đánh chuông trong chân
không sẽ giải phóng các nguyên tử này với tốc
độ và thể tích giống như ngoài khí trời.
Nếu chúng ta giữ cho sự xáo trộn của cái chuông
cứ liên tục măi trong vài triệu thế kỷ, nó
sẽ hoàn toàn biến trở lại thành các nguyên tố
sơ khai. Nếu căn buồng được niêm kín
lại và đủ kiên cố, th́ thể tích chân không bao
quanh chuông sẽ chịu một áp suất nhiều ngàn cân
Anh trên một inch vuông, do tác dụng của chất tế
vi. Theo như tôi lượng định, nói cho đúng ra
th́ âm thanh chính là sự xáo trộn mức quân b́nh nguyên
tử, phân giải các hạt nguyên tử thực sự,
chất được phóng thích như thế chắc
chắn phải thuộc một loại luồng ether nào
đó. Trong t́nh h́nh này, liệu có vô lư chăng khi giả
sử rằng nếu chúng ta chặn luồng này lại và
tước lấy nguyên tố của vật thể
đó, th́ sớm muộn ǵ nó cũng sẽ biến mất
? Mọi vật thể (dù là động vật, thực
vật hay khoáng vật), xét cho cùng, đều
được tạo ra từ ether tế vi này; chúng
chỉ quay về trạng thái hơi thượng
đẳng ấy khi được đưa vào một
trạng thái quân b́nh vi phân… Về mùi vị, chúng ta chỉ
có thể có được một ư niệm xác định
nào đó về độ tinh tế vô cùng kỳ diệu của
nó bằng cách xét thấy một vùng khí trời rộng
lớn có thể được thấm nhuần trong
nhiều năm bởi chỉ một hạt xạ
hương không thôi. Nếu đem cân hạt xạ
hương ấy sau thời gian dài dằng dặc đó,
chúng ta sẽ thấy rằng nó cũng chẳng suy
suyển bao nhiêu. Cái đại nghịch lư vẫn liên
kết với sự lưu chuyển của các cấu
tử mùi vị, chính là việc chúng bị giam cầm trong
một cái ly ! Ở đây, chúng ta có một chất tinh anh
hơn nhiều so với cái ly chứa nó, song nó không thể
thoát ra khỏi ly được. Điều này cũng
chẳng khác ǵ một cái rây có các mắt lưới
đủ để cho các viên đá hoa chui qua
được, thế nhưng vẫn giữ cho cát
mịn không thể lọt qua được; thật
vậy, đó là một b́nh phân tử chứa một
chất nguyên tử. Đây là một nan đề làm
đau đầu những kẻ nào không nhận ra nó
được nữa. Nhưng cho dù mùi vị vô cùng tinh
tế, nó vẫn có một quan hệ rất thô sơ
với chất liệu của phân đoạn chi phối
một luồng từ khí (bạn muốn gọi nó là
một luồng thiện cảm cũng được).
Phân đoạn này ở ngay phía trên âm thanh. Tác dụng
của ḍng nam châm hơi trùng hợp với phần nhận
và phân bố của năo người, bao giờ nó cũng làm
giảm giá trị lượng nhận được.
Đó là một điều minh họa lớn lao về
việc trí tuệ kiểm soát vật chất, nó sẽ làm
cho vật chất giảm giá trị dần dần cho
đến khi tiêu tan luôn. Cũng vậy, nam châm dần
dần mất hết năng lực của ḿnh và trở
nên tŕ trệ. Nếu chúng ta có thể cân bằng và duy tŕ
các quan hệ giữa trí tuệ và vật chất, chúng ta
sẽ sống măi trong thể xác, v́ nó không bị suy vi.
Nhưng rốt cuộc, sự suy vi vật chất này
sẽ đưa tới cội nguồn của một
sự phát triển c̣n cao siêu hơn nữa – đó là: ether
thuần túy được phóng thích ra khỏi phân tử
thô; theo sự ước lượng của tôi,
điều này rất đáng được mong muốn.([299])
289
Có thể nhận
thấy là ngoại trừ một ít điểm bất
đồng nho nhỏ, chẳng Cao đồ hoặc nhà
Luyện kim đan nào có thể giải thích các thuyết này
rành mạch hơn dưới ánh sáng của khoa học
hiện đại, cho dù khoa học ấy có cực
lực phản đối quan điểm mới mẻ này
đến đâu đi chăng nữa. Xét về mọi
nguyên lư cơ bản (nếu không muốn nói là mọi chi
tiết), đây chính là Huyền
bí học đơn thuần;
vả lại, nó cũng chính là Vật lư học.
Cái “Lực mới”(khoa
học hiện đại muốn gọi nó là ǵ th́
gọi) có các hiệu quả không thể chối căi
được – điều này đă được
thừa nhận bởi hơn một nhà Tự nhiên học
và Vật lư học đă từng tới tham quan pḥng thí
nghiệm của ông Keely và đích thân chứng kiến các
hiệu quả kinh khủng của nó – là cái ǵ vậy?
Đó cũng là “cách thức chuyển động” trong chân không, v́ không có Vật Chất để
sản sinh ra nó ngoại trừ Âm Thanh – chắc chắn
đó là “một cách thức chuyển động” khác,
một cảm giác do các chấn động tạo ra,
giống như Màu sắc ? Nếu chúng ta tin chắc
rằng các chấn động chính là nguyên nhân xa hay gần
của các cảm giác như thế, th́ ta ắt sẽ bác
bỏ ngay cái thuyết khoa học phiến diện cho
rằng không nhân tố nào được coi như là ở
bên ngoài ta, ngoại trừ chấn động ether hay khí
trời.([300])
Có thể nói là có
một loạt nguyên nhân siêu
việt được
khởi động khi các hiện tượng này diễn
ra, nếu không
được liên hệ với tầm tri giác hẹp ḥi
của chúng ta, chúng sẽ
chỉ có thể được thấu triệt và truy
nguyên ra bản chất khi vị Cao đồ dùng tới
các năng lực tinh thần. Theo như Asclepios tŕnh bày
với Quốc Vương, chúng là các “thể tính phi
vật thể” (“incorporeal corporealities”), chẳng hạn
như “xuất hiện trong gương” và “các sắc
tướng trừu tượng” mà chúng ta trông thấy, nghe thấy và
ngửi thấy trong các
giấc mơ và các linh thị của chúng ta. Các “cách
thức chuyển động” như ánh sáng ether có liên quan ǵ
với các thứ này ? Thế nhưng, chúng ta vẫn trông
thấy, nghe thấy, ngửi thấy và sờ thấy
chúng, v́ vậy trong các giấc mơ, chúng cũng là các
thực tại đối với chúng ta giống như bất
kỳ thứ nào khác trên cảnh giới Hăo huyền này.
290
TIẾT 10
VỀ
CÁC HÀNH VÀ CÁC NGUYÊN TỬ
(ON THE ELEMENTS AND ATOMS)
KHI nhà Huyền bí học đề
cập đến “các Hành” (“Elements”) và các nhân vật
sống trong các thời đại địa chất này, y
thấy rằng không thể xác định được
kỳ gian của các thời đại đó – theo ư
kiến của một trong các nhà địa chất Anh
quốc lỗi lạc nhất ([301]) - xét về bản chất của
Vật Chất, v́ y biết ḿnh đang đề cập
tới cái ǵ. Khi bàn về Con Người và các Hành, y không có
ư nói tới “con người” dưới dạng nhân
loại học hiện tại, cũng như các Nguyên
tử ngũ hành (elemental Atoms), các quan niệm theo giả
thuyết hiện nay tồn tại trong các đầu óc
khoa học, các thực thể Vật Chất trừu
tượng nhất ở trạng thái tinh anh nhất, và
các Hành phức hợp của thời Cổ đại.
Trong Huyền bí học, từ ngữ Hành bao giờ cũng có ư
nghĩa là một yếu tố sơ cấp. Khi bàn
về “Con Người Sơ Cấp” (“Elmentary Man”) chúng ta có
ư nói đến hoặc là nét chấm phá sơ bộ về
con người trong t́nh trạng dở dang chưa phát
triển (đó là cái h́nh hài này đang tiềm tàng trong phàm
nhơn lúc sinh tiền, chỉ thỉnh thoảng mới
thành h́nh trong một số điều kiện nào đó);
hoặc cái h́nh hài c̣n sống sót một thời gian sau khi
thể xác đă chết, nó được nhận diện
là một Ma h́nh (Elementary). ([302]) Về phần Hành, khi thuật
ngữ này được sử dụng trong lănh vực
siêu h́nh, nó có nghĩa là Linh Ngă sơ khai, phân biệt với
phàm ngă. Khi được sử dụng trong lănh vực
vật lư, nó có nghĩa là Vật Chất sơ khai biến
phân, tức là ở trạng thái Trung Ḥa, trạng thái
vĩnh cửu và thông
thường của Chất
liệu, nó chỉ biến phân một cách định
kỳ; trong khi có sự biến phân đó. Chất liệu
thực sự ở trong một trạng thái bất thường – nói cách khác, nó chẳng qua chỉ là
một ảo tưởng phù du của các giác quan.
291
Về phần cái
gọi là “các Nguyên tử Ngũ hành”, các nhà Huyền bí
học đề cập tới chúng bằng danh xưng
đó với ư nghĩa tương tự như ư nghĩa
mà người Ấn Độ gán cho Brahmă, khi gọi Ngài
là ANU,
”Nguyên tử”. Mỗi “Nguyên
tử Ngũ Hành – trong khi
đi t́m kiếm nó hơn một nhà hóa học đă đi
theo con đường do các nhà Luyện kim đang chỉ
dẫn, đều là một LINH
HỒN (họ tin như
vậy khi c̣n vô minh). Nó không nhất thiết là một Linh
Hồn thoát xác, nhưng là một Jĩva như
người Ấn Độ đă gọi, một trung tâm SINH LỰC TIỀM TÀNG, có ẩn tàng trí tuệ; trong
trường hợp các Linh Hồn phức hợp, đó là
một THỰC THỂ thông tuệ tích cực, (từ loại
cao siêu nhất tới loại thấp nhất), một h́nh
hài được cấu thành bởi ít nhiều biến
phân. Cần phải là một nhà siêu h́nh học – và là
một nhà siêu h́nh học Đông phương – để
hiểu được ư nghĩa của chúng ta. Tất
cả các Linh Hồn Nguyên tử này đều là các
biến phân của ĐẤNG
ĐỘC TÔN; chúng liên
hệ với nó cũng giống như Linh Hồn, Tuệ giác,
đối với Tinh Thần bất khả phân ly đang
làm linh hoạt nó, Linh giác
(Ătma).
Khi vay mượn
thuyết Nguyên tử của Cổ nhân, vật lư học
hiện đại đă quên mất một điều
(điều quan trọng nhất của thuyết này); do
đó, họ chỉ có được phần vỏ
chứ không bao giờ có được phần lơi. Khi
chọn dùng các nguyên tử vật lư, họ đă bỏ qua
sự kiện rất gợi ư là từ Anaxagoras tới
Epicurus, tới Lucretius của La Mă, cuối cùng tới
cả Galileo nữa, mọi triết gia này đều ít
nhiều tin tưởng vào các Nguyên tử linh động, chứ không phải là các hạt vi
trần vô h́nh (invisible specks) của cái gọi là vật
chất “thô sơ”. Theo họ, chuyển động quay
được tạo ra bởi việc các nguyên tử
lớn hơn (nghĩa là thiêng liêng và thuần túy hơn)
trấn áp các nguyên tử khác xuống; đồng thời
các Nguyên tử nhẹ hơn lại được
tống lên. Ư nghĩa nội môn của điều này là
việc đường con biểu diễn của các Hành
đă biến phân bao giờ cũng tuần hoàn lên xuống
qua các giai kỳ tồn tại liên chu kỳ, cho đến
khi mỗi Hành lại đạt tới khởi
điểm hay nguyên quán của ḿnh. Ư niệm này vừa có
tính chất siêu h́nh, vừa có tính chất vật lư;
việc thuyết minh bí mật bao hàm cả chư Thiên
tức Linh Hồn dưới dạng Nguyên tử,
được xem như là
nguyên nhân của mọi
hiệu quả được tạo ra trên Trần
Thế do các Linh Thể (divine bodies) tiết ra. ([303]) Chẳng triết gia thời cổ
nào, thậm chí chẳng tín đồ Do Thái Bí giáo nào, đă
từng phân cách Tinh Thần với Vật Chất, hoặc
Vật Chất với Tinh Thần. Bất cứ vật
nào đă bắt nguồn từ ĐẤNG
ĐỘC TÔN và tiến
triển ra, rốt cuộc phải trở về với
Đấng Độc Tôn.
Ánh
sáng biến thành nhiệt và cô
đọng lại thành các cấu tử cháy, sau khi cháy,
chúng biến thành các cấu tử cứng, lạnh, tṛn và
nhẵn. Điều này được gọi là Linh
Hồn bị giam hăm trong lớp vỏ vật chất.([304])
Trong ngôn ngữ
của các Đạo đồ, Linh Hồn và Nguyên tử đồng nghĩa với nhau.
Thuyết “Linh Hồn luân hồi” (“whirling Souls”) (Gilgulim) mà
biết bao nhiêu học giả Do Thái tin tưởng, ([305]) không có ư nghĩa nội môn nào khác. Các
Điểm đạo đồ thông thái Do Thái không bao
giờ có ư nói rằng chỉ có Palestine mới là vùng
Đất Hứa (the Promised Land), mà họ c̣n có ư nói
tới Niết Bàn giống như bậc học giả
Phật giáo và Bà La Môn giáo (đó là cơi ḷng của ĐẤNG ĐỘC TÔN Vĩnh Cửu, được
biểu tượng hóa bằng cơi ḷng của Abraham và
Palestine với tư cách là cái thay thế cho nó trên Trần
Thế).
292
Chắc chắn là
không một học
giả Do Thái nào lại tin
tưởng vào ẩn dụ theo sát nghĩa, tức là cho
rằng các cơ thể của người Do Thái chứa
trong chúng một nguyên khí Linh Hồn, nó không thể yên
nghỉ nếu các cơ thể ấy được chôn ở
một xứ ngoài, cho đến khi nhờ vào một
tiến tŕnh được gọi là sự “luân hồi
của Linh Hồn”, phần bất tử lại một
lần nữa đạt tới mảnh đất thiêng
của “Vùng Đất Hứa”.([306]) Ư nghĩa điều này thật là
hiển nhiên đối với một nhà Huyền bí
học. Người ta giả sử rằng tiến tŕnh
này được hoàn thành bởi một loại
đầu thai chuyển kiếp, điểm linh quang
được chuyển qua chim chóc, muông thú, cá và loài côn
trùng vi tế nhất.([307]) Ẩn dụ này liên quan tới các nguyên tử của cơ
thể, mỗi nguyên tử
phải chuyển qua mọi h́nh tướng, trước khi
tất cả đạt đến t́nh trạng tối
hậu, vốn là khởi điểm đầu tiên
của mọi Nguyên tử - trạng thái trung ḥa bản
sơ của nó. Nhưng ư nghĩa bản sơ của
Gilgulim, tức “sự Luân hồi của Linh Hồn” là ư
niệm về các Linh Hồn hay Chơn Ngă luân hồi.
“Mọi linh hồn đều đi vào Gilgulah”, vào một
tiến tŕnh tuần hoàn; nghĩa là tất cả mọi
linh hồn đều đi trên con đường tái sinh
tuần hoàn. Một vài tín đồ Do Thái Bí giáo giải
thích thuyết này chỉ có nghĩa là một loại
luyện ngục dành cho các linh hồn của kẻ ác.
Nhưng không phải như thế đâu.
Sự lưu
chuyển của NGUYÊN TỬ
-LINH HỒN “qua Bảy
Buồng Hành Tinh” (“Planetary Chambers”) cũng có ư nghĩa
vật lư và siêu h́nh giống như vậy. Nó có nghĩa
vật lư khi người ta bảo rằng nó tan ḥa vào trong
Ether. Ngay cả Epicurus (kẻ Vô thần và Duy vật điển
h́nh) cũng biết và tin
tưởng vào Minh Triết cổ truyền nhiều
đến nỗi mà ông đă dạy rằng Linh Hồn –
hoàn toàn riêng biệt với Tinh Thần bất tử, khi
Tinh Thần tiềm tàng trong nó, cũng như nó tiềm tàng
trong mọi vi tử - được cấu thành bởi
một tinh chất uyển chuyển, tế vi, gồm có các nguyên tử nhẵn nhụi
nhất, tṛn trịa nhất và tinh tế nhất.
Điều này
chứng tỏ rằng các Đạo đồ thời
xưa – vốn được tất cả người
phàm tục thời xưa ít nhiều tuân theo – dùng từ
ngữ “NGUYÊN TỬ” với ư nghĩa là một Linh
Hồn, một Thiên Thần, đứa con đầu ḷng
của NGUYÊN NHÂN bản sơ hằng ẩn; nếu xét theo
ư nghĩa này, các giáo lư của họ cũng dễ hiểu
thôi. Cũng như những hậu sinh, họ khẳng
định là chư Thần, chư Thiên, chư “Quỷ”
(Angels or “Demons”) không tồn tại bên ngoài hoặc
độc lập với Thái
Cực Vũ Trụ (the
Universal Plenum), mà lại tồn tại bên trong nó.
Trong ṿng các chu kỳ sinh hoạt, chỉ có Thái Cực này là vô hạn. Họ thừa
nhận và giảng dạy rất nhiều điều mà
nay khoa học hiện đại đang giảng dạy –
đó là, có tồn tại một Chất Liệu Vũ
Trụ nguyên thủy, bao giờ cũng thuần trạng
(homogeneous), trừ khi nào nó tồn tại định
kỳ; bấy giờ, tản mạn khắp không gian vô
cực, nó biến phân và dần dần tạo ra các thiên
thể. Họ giảng dạy về sự xoay ṿng của
các Tầng Trời, sự quay của Trái Đất,
Hệ thống Nhật Tâm (the Heliocentric System), và các Xoáy
Nguyên tử - Nguyên tử thực sự của Linh Hồn
và các Đấng Thông Tuệ. Các nhà
“Nguyên tử luận” này là các tín đồ Phiếm
thần tinh thần, triết học và siêu việt
nhất. Họ đă không hề quan niệm ra hoặc
mơ tới kết quả tương phản quái gở
vốn là cơn ác mộng của Giống dân văn minh
hiện đại của chúng ta: một đàng là các Nguyên
tử vật chất tự hành vô tri vô giác, một
đàng là Thượng Đế ngoại Vũ trụ.
293
Ta nên tŕnh bày thế nào là Chơn Thần
và đâu là nguồn gốc của nó theo giáo lư của các
Đạo đồ thời xưa.
Ngay khi bắt
đầu trưởng thành, khoa học chính xác hiện
đại đă biết được cái đại công
lư (đến lúc bấy giờ vẫn c̣n là bí truyền đối với nó) cho rằng dù là
trong lănh vực tinh thần, tâm linh hay vật chất, không
một thứ nào có thể được sinh ra từ
hư không. Trong Vũ Trụ biểu lộ, không có nguyên
nhân nào mà không có các hiệu
quả thỏa đáng, dù là trong Không gian hay Thời gian.
Cũng không thể có một hiệu quả nào mà không có
Nguyên nhân bản sơ, chính nguyên nhân này lại xuất phát
từ một nguyên nhân c̣n cao siêu hơn nữa – Nguyên nhân
tuyệt đối tối hậu bao giờ cũng là
một Nguyên nhân Bản sơ mà con người không tài nào
hiểu được. Nhưng ngay cả điều này
cũng không phải là giải pháp và phải
được xét theo các quan điểm triết học và
siêu h́nh học cao siêu nhất; nếu không, tốt hơn là
chúng ta không nên đá động đến vấn
đề này. Đó là một điều trừu xuất
mà lư trí của con người – cho dù lăo luyện
đến đâu đi nữa trong các vấn đề
tế nhị siêu h́nh – phải run sợ, chỉ chực sa
xuống vực thẳm của nó. Người ta có thể
chứng minh điều này cho bất kỳ người Âu
Châu nào muốn giải quyết vấn đề tồn
tại bằng các tín điều của phái Vedanta chân chính
chẳng hạn. Nếu chịu khó nghiên cứu các giáo lư
cao siêu của Shankarăchărya về chủ đề Linh
Hồn và Tinh Thần, độc giả sẽ nhận
thức được điều đang được
tŕnh bày. ([308])
Trong khi người
ta dạy tín đồ Thiên Chúa giáo rằng Hồn
người là một linh khí của Thượng
Đế được Ngài tạo ra để tồn
tại măi măi hữu
thủy vô chung, - do đó nó
không bao giờ được gọi là vĩnh cửu – th́
Giáo lư Huyền bí lại dạy rằng: “Chẳng có ǵ được sáng
tạo ra, nó chỉ bị biến đổi thôi”. Không ǵ có thể biểu lộ trong
Vũ Trụ này – từ một bầu hành tinh tới
một tư tưởng mơ hồ, chớp nhoáng – mà
lại không từng có sẵn trong vũ trụ; mọi vật
trên nội giới đều vĩnh cửu cũng như
mọi thứ trên ngoại giới đều hằng biến dịch
(ever-becoming) – v́ tất cả
đều tạm bợ phù du.
Ở đây, Chơn
Thần – “một vật thực sự vô h́nh”, theo
định nghĩa của Good, ông đă không xét nó với ư
nghĩa như chúng ta hiện nay – có nghĩa là Linh giác (Ătmă), cùng với Tuệ giác (Buddhi)
và Thượng Trí (Manas). Tam nguyên này thật đơn
chất và vĩnh cửu, Tuệ giác và Thượng trí
bị hấp thu vào trong Linh Giác khi kết liễu mọi
kiếp sống hăo
huyền và hữu hạn.
Thế th́ chúng ta chỉ có thể truy nguyên ra Chơn
Thần qua các cuộc hành tŕnh đổi thay các hiện
thể phù du từ giai đoạn khởi đầu
của Vũ Trụ biểu lộ. Trong chu kỳ Hỗn
Nguyên (thời kỳ giữa hai chu kỳ Khai Nguyên), nó không
mang danh xưng đó nữa cũng như khi Độc Ngă (One Self) chân chính của con người
hội nhập VÀO BRAHMAN, trong các trường
hợp Tối Đại Định (trạng thái nhập
hóa trực quan) tức Niết Bàn tối hậu.
294
Khi đệ tử đă đạt
tới bản sơ thức (primeval consciousness), toàn phúc, có
bản chất chân lư, vô h́nh, vô tác, y sẽ vứt bỏ
cái thể hăo huyền đă được Linh giác khoác
lấy chẳng khác nào một diễn viên (vứt bỏ)
cái áo (mà y đă mặc).
Ấy là Tuệ giác, Toàn Phúc Thể (Ănadamaya Sheath), chẳng qua chỉ là một chiếc
gương phản ánh toàn phúc; hơn nữa, chính sự phản ánh này cũng chưa giải thoát
khỏi vô minh và không
phải là Tinh Thần Tối
Cao, v́ nó phải tuân phục các điều kiện, là
một biến thái tinh thần của Vật Chất và là
một hiệu quả. Chỉ có Linh giác mới là Cơ
hữu thể vĩnh cửu, chân thực, duy nhất
của vạn vật, Bản Thể và Toàn Triết (Kshetrajna).
Nay khi
bản dịch có hiệu đính của Phúc âm đă được
xuất bản, và những lồi lầm rành rành nhất
của các bản dịch cũ đă được
chỉnh lại, chúng ta có thể hiểu rơ hơn các
lời trong Thánh thư 1 John v, 6: “Chính Tinh Thần đă sinh
chúng v́ Tinh Thần là chân lư”. Các lời nói tiếp theo trong
bản dịch sai lầm bàn về “ba vị minh chứng”
– đến nay vẫn được giả sử là
tượng trưng cho “Ngôi Cha, Ngôi Lời và Ngôi Thánh
Thần” – [v, 7] đă chứng tỏ rất rơ rệt
ngụ ư chính của Ngài với giáo lư của Shankarăchărya
nhiều hơn nữa. Câu sau đây – “Có 3 thứ minh
chứng … tinh thần, nước và máu” [v, 8] – có thể nghĩa là ǵ bây
giờ nếu nó không liên hệ hay liên quan tới lời
phát biểu có ư nghĩa triết học thâm thúy hơn
của vị Đại Đạo Sư phái Vedanta. Khi
đề cập tới các Thể - các nguyên khí nơi con
người – Nguyên sinh khí, hạ trí v.v…- chúng biểu
lộ trên cảnh giới hồng trần thành ra “Nước
và Máu” tức Sự Sống -, Ngài đă nói
thêm rằng chỉ có Linh giác (tức Tinh Thần) là c̣n tồn
tại sau khi các Thể đă bị vứt bỏ
đi; đó chính là MINH CHỨNG DUY
NHẤT (the ONLY WITNESS) tức Nhất Nguyên tổng hợp.
Trường phái ít có xu hướng tinh thần và triết
học hơn, vốn chỉ quan tâm tới Tam Nguyên, đă
biến “Nhất Nguyên” thành ra ba minh chứng, như thế
là liên kết nó với Đất nhiều hơn là
Trời.
Trong Nội môn Bí giáo, người ta gọi nó là “Minh chứng Duy nhất” c̣n khi nó yên nghỉ nơi Cực Lạc (Devachan), người ta lại đề cập tới nó như là “Ba Minh chứng của Nghiệp quả”.
Nếu Linh giác, nguyên khí thứ bảy của chúng ta,
đă đồng nhất với Tinh Thần Vũ Trụ,
và con người đă đồng nhất với bản
thể của ḿnh, th́ chính Chơn Thần là ǵ bây giờ?
Đó là cái Điểm Linh Quang thuần trạng xạ ra
hàng triệu tia từ Bảy Huyền Xạ Bản Sơ
(chúng ta sẽ bàn về bảy Huyền xạ này sau).
Đó là ĐIỂM LINH QUANG
XUẤT PHÁT TỪ BẢN LAI HUYỀN XẠ (the EMANATING
SPARK FROM THE UNCREATED RAY) –
một bí nhiệm. Trong Phật giáo Đại Thừa
nội môn, thậm chí cả ngoại môn nữa, A Di Đà
Phật (Chogi Dangpoi Sangye), Đấng Độc Tôn Bất
Khả Tri, vô thủy vô chung, đồng nhất với
Thái Cực Thượng Đế và Ain Soph, xạ ra
một tia quang huy từ U Minh.
295
Đó là Huyền Âm
(Logos), Đấng Bản Sơ (First), Vajradhara, Tối
Thượng Phật cũng gọi là Dorjechang. ([309]) Trên cương vị của Đấng
Chủ Tể mọi Bí Nhiệm, Ngài không thể biểu
lộ được; nhưng Ngài xạ ra vào trong thế
giới biểu lộ Tâm của Ngài – “Kim Cương Tâm”
(“Diamond Heart”), Vajrasattva hay Dorjesempa.([310]) Đó là Ngôi Hai của Thượng
Đế (Ngôi Sáng Tạo); từ Ngài xạ ra bảy –
trong ngoại môn hiển giáo là năm – Thiền Định
Phật (Dhyăni-Buddhas) được mệnh danh là Anupădaka,
“Vô Phụ Mẫu”. Các Đức Phật này là các Chơn
Thần Bản Sơ xuất phát từ Vô sắc giới (Arũpa World) trong đó, theo ngoại môn
hiển giáo, các Đấng Thông Tuệ (chỉ trên cảnh
giới này thôi) không có h́nh tướng, cũng chẳng có
danh xưng; nhưng theo Triết lư Nội môn, các Ngài có
bảy tôn danh riêng biệt. Nhờ thiền định, các
Thiền Định Phật này xạ ra hoặc sáng
tạo ra các Linh Ngă – tức các Bồ Tát siêu nhân (Super-human
Bodhisattvas). Khi lâm phàm vào lúc khởi đầu mỗi chu
kỳ nhân loại như là thế nhân, do công đức
riêng của ḿnh, các Ngài đôi khi biến thành các Bồ Tát
độ sinh, sau đó, các Ngài có thể tái lâm như là các
Đức Phật tại thế. Như thế, các
Đấng Tự Sinh (Vô Phụ Mẫu), tức các
Thiền Định Phật, đồng nhất với
các Mănasaputras, “Các Con Trí sinh”(“Mind-born Sons”) – hoặc là
của Brahmă, hoặc là của Hai trong Ba Ngôi–, họ
cũng đồng nhất với chư Thánh Hiền và các
Prajăpati. Trong Anugĩta có một đoạn – nếu
được thuyết minh theo nội môn – sẽ tŕnh bày
một cách rơ rệt (mặc dù dưới một h́nh
hức bóng bẩy nào khác) cùng một ư niệm và hệ
thống. Nó dạy như sau :
Cho
dù (có) bất cứ thực thể nào trong thế giới
này, bất động hay di động, chúng cũng là các
thực thể đầu tiên phải bị giải
thể [vào lúc có chu kỳ Hỗn Nguyên]; sau đó là tới
các thứ khai triển được tạo ra từ các
hành [từ đó vũ trụ hữu h́nh mới
được tạo ra]; sau các thứ khai triển này [các
thực thể tiến hóa] tất cả đều là các
hành. Đó là sự phân cấp thăng tiến của các
thực thể. Chư Thiên, Loài Người, Nhạc
Thần (Gandharvas), Đảm Tinh Quỷ (Pishăchas), Asuras, La
Sát (Răkshasas), tất cả đều được
tạo ra một cách tự nhiên [Svabhăva tức Prakriti, Thiên
Nhiên uyển chuyển], chẳng phải do các tác
động, cũng chẳng phải do một nguyên nhân
[chẳng phải do bất cứ nguyên nhân vật chất
nào]. Các Brăhmanas này [Thánh Hiền Prajăpati?], các Đấng sáng
tạo ra thế giới, được sinh ra ở
đây [trên trần thế] không biết bao nhiêu lần. Sớm
muộn ǵ bất cứ thứ nào được chúng
sản sinh ra cũng bị tan ḥa trong năm hành lớn này
[năm hay đúng hơn là bảy, Thiền Định
Phật cũng được gọi là “các Hành” của
Nhân Loại] giống như các đợt sóng cả trong
đại dương. Về mọi phương diện,
các hành lớn này đều (vượt quá) các hành cấu
thành thế giới [các hành thô thiển]. Kẻ nào giải
thoát năm hành này, [Tanmătras] ([311]) sẽ đạt
tới mục tiêu cao siêu nhất. Đấng Prajăpati
[Brahmă] sáng tạo ra tất cả các thứ này chỉ
bằng trí mà thôi [bằng Dhyăna, tức sự tham thiền
trừu tượng và các năng lực bí nhiệm,
giống như các Thiền Định Phật]. ([312])
Thế th́ hiển
nhiên là các Đấng Brăhmanas này đồng nhất với
các Bồ Tát tại thế của các Thiền Định
Phật trên Thiên giới. Với tư cách là các “Hành” nguyên
thủy, thông tuệ, cả hai đều trở thành các Đấng Sáng Tạo hoặc sản sinh ra các Chơn
296
Thần sẽ thành
người trong chu kỳ đó. Sau đó, các Ngài tự
lực tiến hóa, tức phát triển bản thân thành ra
các vị Bồ Tát hay Brăhmanas trên trời và dưới
đất để rồi cuối cùng trở thành
những người b́nh thường (simple men). “Các
Đấng sáng tạo ra thế giới được sinh ra ở
đây trên trần thế không biết bao nhiêu lần” – đúng vậy. Trong hệ thống
Phật giáo Đại Thừa (tức tôn giáo ngoại môn
b́nh dân), người ta dạy rằng trong khi rao giảng
Chánh Pháp trên Trần Thế, mỗi Đức Phật
đều biểu lộ đồng thời trong ba Cơi
giới: một Thiền Định Phật trong Vô sắc
giới, một Bồ Tát trong Sắc giới và một con
người Dục giới, cơi giới thấp nhất
của chúng ta. Xét về mặt nội môn, giáo lư này khác
hẳn. Chơn Thần thiêng liêng , thuần túy Tuệ giác
Tối Thượng biểu lộ như là Tuệ giác
vũ trụ, Đại
Tuệ giác tức Toàn Linh Trí
(the Maha- Buddhi, or Mahat) trong các triết hệ Ấn
Độ, Nguồn cội thiêng liêng Toàn tri, toàn năng
của Thiên Trí, linh
hồn vũ trụ tối cao
tức Huyền Âm (Logos). Nó giáng xuống “như một
ngọn lửa trải ra từ Lửa vĩnh cửu
như bất động, bất tăng bất giảm
bao giờ cũng vậy cho đến lúc kết liễu”
chu kỳ tồn tại và trở thành Sự Sống
Đại Đồng Vũ Trụ trên cơi Trần. Các phân
thân của Diệu Quang (the Sons of Light), các Thượng
Đế Bản Sinh (the Logoi of Life) xạ ra từ Cảnh
giới sinh hoạt hữu
thức này giống như là
bảy ngọn lửa; bấy giờ các Thiền
Định Phật đại định, các h́nh
tướng cụ thể của các Đấng Từ
Phụ vô h́nh, Bảy phân thân của Diệu Quang, vẫn an tĩnh, chúng ta có thể áp dụng cho các Ngài
nhóm từ ngữ huyền bí Bà La Môn: “Ngài là CÁI ĐÓ” –
Brahman. Từ các Thiền Định Phật này xạ ra
các Chhăyăs tức các H́nh bóng, các Bồ Tát thiên
giới, các nguyên kiểu của các Bồ Tất siêu
trần thế và các Đức Phật tại thế
cũng như là con người. Bảy “Phân Thân của
Diệu Quang” cũng được gọi là “Các V́ Sao”.
Theo Giáo lư Huyền bí,
con người được sinh ra dưới một
ngôi sao nào vẫn cứ chịu ảnh hưởng của
ngôi sao ấy măi suốt trọn chu kỳ lâm phàm trong
một chu kỳ Khai Nguyên. Nhưng
đó không phải là Ngôi sao chiêm tinh của y. Ngôi sao chiêm tinh (astrological star) liên quan
tới phàm ngă, c̣n ngôi sao nêu trên liên quan đến CHƠN NGĂ.
Vị “Thiên Thần” của Ngôi Sao đó tức vị
Thiền Định Phật liên quan đến nó, sẽ
hoặc là “Thiên Thần” hướng dẫn hoặc
chỉ là “Thiên Thần” chủ tŕ (tạm gọi như
vậy) trong mỗi kiếp tái sinh của Chơn Thần (vốn là một phần của
chính bản thể y) mặc dù
hiện thể của y, con người, có thể vẫn
không biết được sự kiện này. Mỗi
vị Thánh Nhân (Adepts) đều có Thiền Định
Phật của riêng ḿnh, tức “Linh Hồn Song Sinh”
(“Twin-Soul”) trưởng thượng của ḿnh, họ
vẫn biết điều đó và gọi nó là “Hồn Cha”
(“Father-Soul”) và “Lửa Cha” (“Father-Fire”). Tuy nhiên, chỉ vào
cuộc Điểm đạo cuối cùng và cao nhất,
khi diện đối diện với quang huy “Ảnh” th́
họ mới học được cách nhận ra nó.
Chẳng biết Bulwer Lytton hiểu được sự
kiện huyền bí này đến đâu mà trong một
cơn cảm hứng cao tuyệt, ông đă mô tả
việc Zanoni diện đối diện với quang huy
thể (Augoeides) của ḿnh ?
297
Người Ấn
Độ gọi Huyền Âm, tức cả thế giới
tiên thiên lẫn thế
giới hậu thiên là Ĩshvara, Đấng Chúa Tể,
mặc dù các nhà Huyền bí học mệnh danh nó khác
hẳn. Theo các tín đồ phái Vedanta, Ĩshvara là tâm
thức cao siêu nhất trong Thiên Nhiên. Các nhà Huyền bí
học đáp lại rằng tâm thức cao siêu nhất này
“chỉ là một đơn
vị tổng hợp trong
thế giới của Thượng Đế biểu
lộ - hay là trên cảnh giới hăo huyền; v́ nó là toàn
bộ tâm thức của các Thiền Định
Đế Quân”. Shankarăchărya dạy; “Hỡi kẻ minh
triết, hăy dẹp ngay đi cái quan niệm cho rằng phi
Tinh Thần chính là Tinh Thần”. Linh giác là phi Tinh Thần trong trạng thái Thái Cực
Thượng Đế tối hậu. Ĩshvara hay
Huyền Âm (Logos) là Tinh Thần. Theo Huyền bí học,
Huyền Âm là một đơn vị phức hợp gồm
các Chơn Linh biểu lộ, cội nguồn bảo
dưỡng tất cả các Chơn Thần thế
tục cùng với phản ánh thiêng liêng xuất phát từ
và quay vào trong Huyền Âm từng cái một khi đạt
đến mức tột đỉnh. Có bảy Thiền
Định Đế Quân chính; trong mọi tôn giáo,
người ta đều nhận ra và thấy bảy nhóm
này, v́ đó là BẢY CUNG bản sơ. Huyền bí học
dạy chúng ta rằng nhân loại được chia ra
thành bảy Nhóm riêng biệt, mỗi nhóm lại
được tế phân về mặt trí tuệ, tinh
thần và vật chất. V́ thế có bảy hành tinh chính,
đó là các bầu của bảy Chơn Linh chủ tŕ;
mỗi Nhóm người sinh ra dưới mỗi một
hành tinh này, chịu ảnh hưởng và sự chỉ
đạo của chúng. Chỉ có bảy hành tinh đặc biệt liên hệ với Trái Đất và
mười hai cung, chúng có hằng hà sa số khả
năng phối hợp các trạng thái của chúng. V́
mỗi hành tinh có thể tượng trưng cho mỗi
một trong mười hai trạng thái khác, nên các phép
phối hợp chúng lại phải hầu như là vô
tận. Thật vậy, chúng thật là vô tận chẳng
khác nào các năng lực tinh thần, tâm linh, trí tuệ, và
vật chất nơi vô số giống người khác
nhau, mỗi giống này sinh ra dưới một trong
bảy hành tinh và một trong vô số các phép phối
hợp hành tinh nêu trên.([313])
Thế th́, nếu
được xem như là NHẤT
NGUYÊN (ONE), Chơn Thần c̣n
vượt trên nguyên khí thứ bảy nơi Càn Khôn và con
người. Nếu được xem như là một Tam
Nguyên, nó lại là hậu duệ quang huy trực tiếp
của ĐƠN VỊ
PHỨC HỢP (COMPOUND UNIT)
nêu trên chứ không phải là LINH Khí của “Thượng
Đế”, người ta gọi Đơn vị ấy
như thế đó, mà cũng chẳng sáng tạo ra từ
hư vô. Một ư niệm như thế hoàn toàn chẳng có ư
nghĩa triết học nào, lại c̣n làm giảm giá
trị Đấng Thánh Linh, kéo Nó xuống một t́nh
trạng hữu hạn, có thuộc tính. Dịch giả Minh
Triết Bửu Giám đă diễn đạt điều
này như sau:
Mặc dù Ĩshvara là
“Thượng Đế” thường trụ trong ḷng sâu
thẳm nhất của chu kỳ hỗn nguyên cũng
như trong hoạt động tích cực nhất của
chu kỳ khai nguyên, song vượt quá Ngài vẫn là Linh
giác, c̣n xung quanh dinh thự của Ngài là u minh của Hăo
Huyền vĩnh cửu.([314])
298
Trong tất cả các
kiếp vị lai, các “Tam Nguyên” sinh ra cuối cùng một
hành tinh Tộc Trưởng (Parent-Planet), hay đúng hơn
là các bức xạ của cùng một Chơn Linh Hành Tinh
tức Thiền Định Phật, đều là chị
em, tức các linh hồn “song sinh” trên cơi đời này. Ư
niệm này cũng giống như ư niệm về Ba Ngôi
trong Thiên Chúa giáo (Tam Vị Nhất Thể) có điều là
nó c̣n có tính cách siêu h́nh hơn nữa: Đại Tinh
Thần Vũ Trụ, biểu lộ trên hai cảnh
giới cao, cảnh giới Bồ Đề và cảnh
giới Toàn Linh Trí. Đó là Ba Ngôi siêu h́nh nhưng không bao giờ nhân h́nh.
Đức Jesus đă
dạy: “Ta và Cha ta là một”; mọi Đạo đồ
cao cấp trong mọi thời đại và mọi xứ
đều rơ điều này.([315]) Khi Ngài dạy ở đâu đó: “Ta
thăng lên với Cha ta và Cha các
con”,([316]) nó cũng có ư nghĩa giống y
như điều vừa được tŕnh bày. Tung tích
(identity), đồng thời sự biến phân hăo huyền
của Chơn Thần Thiên
Thần (Angel-Monad) và Chơn
Thần Nhân Loại được tŕnh bày trong các câu sau
đây: “Cha ta vĩ
đại hơn ta”;([317]) “Vinh danh Cha của các con trên trời”,([318]) “Bấy giờ công lư sẽ soi sáng
như mặt trời trong Thiên quốc của Cha
chúng”(chứ không phải Cha chúng ta).([319]) Chẳng thế mà Thánh Paul lại
hỏi rằng : “Con có biết con là thánh điện của
Thượng Đế và Tinh
Thần của Thượng Đế ngự nơi con không?” ([320]) Tất cả mọi điều này
chỉ có nghĩa là nhóm đệ tử và tín đồ
theo Ngài cũng thuộc về một Thiền Định
Phật, Ngôi Sao hay Cha; Đấng Cha này lại thuộc
về cùng một lănh vực hành tinh với Ngài. Chúng ta
thấy Subba Row đă hiểu rơ được Giáo lư
Huyền bí này khi ông tŕnh bày trong phần phê b́nh tác phẩm T́nh
Thi Bạch Liên (The Idyll of the White Lotus) như sau:
Vào
cuộc Điểm Đạo cuối cùng, mỗi
Đức Phật đều hội diện với các
Đấng đă đạt được quả vị
Phật trong các thời đại trước … mỗi
từng lớp Cao đồ đều có mối liên giao tinh
thần riêng biệt, liên kết các Ngài với nhau… Cách
thức đa hiệu khả hữu duy nhất để
nhập vào bất cứ một tập đoàn nào như
vậy … là việc khép ḿnh vào trong ṿng ảnh hưởng
của ánh sáng tinh thần tỏa ra từ Thượng
Đế của riêng ḿnh. Ở đây, tôi có thể nêu rơ thêm
rằng… chỉ có thể có được sự liên giao
đó giữa những người có linh hồn
được cùng một Cung sinh ra và bảo dưỡng.
V́ có bảy Cung xạ ra từ “Mặt Trời Tinh Thần
Trung Ương” (the “Central Spiritual Sun”) nên mọi Cao
đồ và các Thiền Định Đế Quân
đều được chia thành bảy lớp, mỗi
lớp được chỉ đạo, kiểm soát và
ứng linh bởi một trong bảy dạng hay biểu
lộ của Minh Triết thiêng liêng.([321])
Thế th́ đó chính
là Bảy Phân Thân (the Seven Sons) của Ánh Sáng – gọi theo các
hành tinh và thường được quần chúng
đồng nhất hóa với chúng, nghĩa là Thổ Tinh,
Mộc Tinh, Thủy Tinh, Hỏa Tinh, Kim Tinh và giả sử là Mặt Trời và Mặt Trăng,
đối với nhà phê b́nh hiện đại, y chỉ
hiểu được các tôn giáo cổ một cách hời
hợt ([322]) – theo Giáo lư Huyền bí, đó là các
Thân quyến thiên giới (heavenly Parents), tức “Cha” chúng ta,
xét một cách tổng hợp. V́ thế, như chúng ta
đă nhận xét, thuyết Đa thần thực sự có
ư nghĩa triết học và chính xác (xét về sự
kiện và bản chất) hơn là thuyết Độc
thần nhân h́nh. Thổ Tinh, Mộc Tinh, Thủy Tinh và Kim
Tinh (bốn hành tinh ngoại môn) và ba hành tinh khác (vẫn
phải được giấu tên) là các thiên thể có liên
giao trực tiếp về mặt cảm dục và tâm linh,
đạo đức và vật chất, với Trái
Đất, hướng dẫn và chăm sóc nó. Các bầu
hữu h́nh của chúng cung ứng cho Nhân loại chúng ta các
đặc tính ngoại tại và nội tại, c̣n các
Đấng chủ tŕ chúng cung ứng cho nhân loại và
Chơn Thần các năng lực tinh thần. Để cho
chúng ta khỏi phạm phải các quan niệm sai lầm
mới, xin nêu rơ rằng ba Bầu tức các Thiên Thần
Tinh Đẩu bí mật, không hề bao hàm cả Thiên
Vương Tinh lẫn Hải Vương Tinh. Điều
này, chẳng những các Hiền Triết thời xưa
không biết tới các danh xưng của chúng mà c̣n v́
giống như mọi hành tinh khác, cho dù nhiều
đến đâu đi nữa, chúng cũng là chư Thiên của các Đấng Bảo Vệ
bảy Dăy hành tinh thất phân trong Thái Dương Hệ
chúng ta.
299
Hai hành tinh
lớn vừa được khám phá ra cũng không hoàn toàn
tùy thuộc vào Mặt Trời như các hành tinh c̣n lại.
Nếu không làm sao chúng ta có thể giải thích
được sự kiện là Thiên Vương Tinh
chỉ nhận được lượng ánh
sáng mà Địa Cầu của
chúng ta nhận được, c̣n Hải Vương Tinh
chỉ nhận được , hơn nữa các vệ
tinh của chúng lại có một chuyển động quay ngược đặc thù mà
không hành tinh nào khác trong Thái Dương Hệ có
được ? Dù sao đi nữa, những điều mà
chúng ta tŕnh bày vẫn áp dụng cho Thiên Vương Tinh,
mặc dù sự kiện này lại vừa mới
được đem ra tranh căi.
300
Dĩ nhiên chủ
đề này sẽ bị xem như chỉ là một
điều hoang tưởng ngông cuồng bởi tất
cả những kẻ nào lẫn lộn trật tự hiện
tồn Vũ Trụ với các hệ thống phân loại
của riêng họ. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ
vạch ra các sự kiện đơn giản của Giáo
lư Huyền bí, c̣n ai muốn chấp nhận hay bác bỏ
chúng th́ tùy ư. Có các chi tiết mà chúng tôi không thể
đề cập tới v́ chúng có tính chất quá trừu tượng,
siêu h́nh. V́ thế, chúng ta chỉ xác định rằng
chỉ có bảy hành tinh liên quan mật thiết với
Địa Cầu chúng ta, chẳng khác nào Mặt Trời có
liên quan mật thiết với các thiên thể tùy tùng có trong
Thái Dương Hệ. So với số thiên thể này, con
số nhỏ nhoi các hành tinh chủ yếu và thứ yếu mà Thiên văn học biết tới
h́nh như chẳng nhằm nhỏi ǵ.([323]) Do đó, lẽ cố nhiên là có khá
nhiều hành tinh (dù lớn hay nhỏ) chưa
được khám phá ra, song các nhà Thiên văn học
thời xưa – tất cả đều là Cao đồ
được điểm đạo – chắc chắn là
phải biết đến sự tồn tại của
chúng. Nhưng v́ liên hệ của các hành tinh này với
chư Thiên thật là thiêng liêng, nên nó vẫn phải bí
truyền cũng như danh xưng của nhiều hành tinh
và ngôi sao khác.
Ngoài ra, ngay cả
Thần học của Thiên Cháu giáo La Mă cũng đề
cập tới “bảy
mươi hành tinh chủ tŕ
vận mệnh của các quốc gia trên Địa
Cầu”; trừ sự áp dụng sai lầm ra, truyền
thuyết này c̣n bao hàm nhiều chân lư hơn thiên văn
học chính xác hiện đại. Bảy mươi hành
tinh có liên hệ với
bảy mươi bậc
trưởng thượng của dân Do Thái; ([324]) người ta có ư nói tới các
Đấng Chủ Tŕ các hành tinh này chứ không phải
chính các bầu hành tinh; từ ngữ bảy mươi là bức b́nh phong đối với 7 x 7 phân bộ.
Như chúng ta đă nói, mỗi dân tộc và mỗi quốc
gia đều có một Đấng Trông Chừng, chỉ
đạo trực
tiếp, Cha trên Trời tức
là một Chơn Linh Hành Tinh. Chúng ta sẵn sàng để
dành Thần Linh quốc gia của riêng họ (Jehovah) cho
những hậu duệ Do Thái, những kẻ tôn thờ
Sabaoth tức thần SATURN; thật vậy, các Chơn Thần của dân tộc được Ngài
tuyển định chính là các Chơn Thần của Ngài,
Thánh kinh không bao giờ cho đó là bí mật. Thường
th́ chỉ có bản Thánh kinh Tin Lành bằng tiếng Anh là
không nhất trí với bản Thánh kinh bằng tiếng Hy
Lạp và bản Thánh kinh bằng tiếng La Tinh. Trong
bản Thánh kinh Tin Lành, chúng ta thấy như sau :
Khi
Đấng Chí Tôn [không phải là Jehovah] chia gia tài cho các
quốc gia … Ngài qui định các giới hạn cho dân
chúng theo số trẻ con Do Thái.([325])
Trong bản Thánh kinh
bằng tiếng Hy Lạp, đoạn trên được
tŕnh bày là : “Theo số
Thiên Thần” (các Thiên Thần
Hành Tinh); đó là một bản dịch phù hợp với
sự thật hơn. Vả lại, mọi kinh
điển đều đồng ư rằng phần (portion) của Đấng Chí Tôn [Jehovah] là
dân của Ngài; Jacob là tất cả gia tài của Ngài”;([326]) thế là chúng ta đă giải
quyết được vấn đề này. “Đấng
Chí Tôn” Jehovah đă chọn Do Thái làm phần của ḿnh;
thế th́ các quốc gia khác có liên hệ như thế nào
với Thần Linh quốc
gia đặc biệt này ?
Thế th́ cứ để cho “Thiên Thần Gabriel” trông
chừng Ba Tư, c̣n “Mikael Jehovah” trông chừng Hebrews. Đó
không phải là chư Thần Linh của các quốc gia khác;
không hiểu tại sao mà tín đồ Thiên Chúa giáo lại
tuyển chọn một Thần Linh có các huấn
điều mà Đức Jesus tiên phong nổi dậy
phản kháng.
301
Các tín đồ phái
Ngộ Đạo đă giảng dạy về nguồn
gốc hành tinh của Chơn Thần tức Linh Hồn và
các năng lực của nó. Trên đường Nhập
thế cũng như trên đường Xuất thế,
dù theo con đường nào đi nữa, mỗi Linh
Hồn, vốn được sinh ra trong và từ “Vô
Lượng Quang” (“Boundless Light”)([327]) đều phải đi qua bảy
vùng hành tinh. Theo thời gian, các Đấng Thiền
Định và Thiên Thần của các tôn giáo xưa nhất
đă trở thành bảy Thiên Thần đặc sứ
của Ahriman, “mỗi vị bị cột vào hành tinh
của ḿnh”, ([328]) (đối với các tín đồ
Bái Hỏa giáo); các Asuras và một vài Thánh Hiền –
thiện, ác và vô thưởng vô phạt – (đối
với tín đồ Bà La Môn). Đối với tín
đồ phái Ngộ Đạo Ai Cập, đó là Thoth
tức Hermes, Ngài là thủ lănh của bảy Đấng
được Origen mệnh danh như sau: Adonai,
Thiên Thần của Mặt Trời; Tao, thiên thần của
Mặt Trăng; Eloi, thiên thần của Mộc Tinh; Sabaoth, thiên thần
của hỏa Tinh; Orai, thiên thần của Kim Tinh; Astaphai, thiên thần của Thủy Tinh và Ildabaoth (Jehovah), thiên thần của Thổ
Tinh. Cuối cùng, tác phẩm Pistis-Sophia – con
người hiện đại có thẩm quyền
nhiều nhất về các tín ngưỡng của phái
Ngộ Đạo ngoại môn, ông C. W. King (đă quá
cố), xem nó là “lâu đài quí giá về thuyết Ngộ
Đạo” – cũng phản ánh các tín ngưỡng cổ
đại, nhưng lại xuyên tạc nó để thích ứng
với các mục đích của giáo phái. Các Đấng Tinh
Anh chủ tŕ các hành tinh tạo ra các Chơn Thần tức
Linh Hồn từ chất liệu của chính ḿnh, “bằng
mồ hôi nước mắt”, phú cho chúng một
Điểm Linh Quang. Trong Quyển 3 và 4, chúng ta sẽ
hiểu tại sao “các Đấng Tinh Quân của Hoàng
Đạo và các Bầu hành tinh” này lại bị thần
học giáo phái biến thành các Thiên Thần Nổi Loạn (Rebellious
Angels) của các tín đồ
Thiên Chúa giáo, họ suy ra điều đó từ Bảy
Thiên Thần của ba Đạo sĩ mà không hiểu
được ư nghĩa của ẩn dụ. ([329])
Thông thường th́
cái ǵ ngay từ đầu đă có tính chất thiêng liêng,
thánh thiện, thuần khiết trong trạng thái nhất
nguyên bản sơ, sẽ trở thành ô trược và
đầy nhân tính – v́ nó bị biến phân qua cái lăng
kính méo mó của các quan niệm con người – do phản
ánh bản chất tội lỗi của con người.
Như thế, sớm muộn ǵ, những kẻ tôn thờ
chư Thần Linh khác sẽ sỉ vả Thổ Tinh. Các
quốc gia sinh ra dưới Thổ Tinh – chẳng hạn
như người Do Thái; đối với họ, Ngài
trở thành Jehovah, sau khi được những kẻ tôn
thờ rắn coi như là một người con của
Thần Saturn, tức Ilda-Baoth (điều này
được tŕnh bày trong Thánh thư Jasher) – luôn luôn giao
tranh với các quốc gia sinh ra dưới Mộc Tinh,
Thủy Tinh hoặc bất cứ hành tinh nào khác, ngoại
trừ Thổ Tinh - Jehovah. Bất kể các phổ hệ
và các lời tiên tri, Điểm
đạo đồ Jesus
(tức Jehoshua) – kiểu mẫu mà “lịch sử”
được mô phỏng – không phải thuộc ḍng dơi
thuần Do Thái, và v́ thế không thừa nhận Jehovah. Ngài
cũng không tôn thờ bất kỳ Hành Tinh Thượng
Đế nào (planetary God) ngoại trừ “Cha” của chính
Ngài, Đấng mà Ngài biết và giao tiếp với, như
mọi Điểm đạo đồ cao cấp, “Tinh
Thần với Tinh Thần, Linh Hồn với Linh Hồn”.
Điều này khó ḷng có thể được xem là
ngoại lệ, trừ phi nhà phê b́nh giải thích thỏa
đáng cho mọi người các câu nói mà tác giả của
Phúc Âm Thứ Tư đă gán cho Jesus khi Ngài tranh luận
với những người Pharisees :
302
Ta
biết rằng con là mầm mống của Abraham ([330])… Ta nói điều mà
ta đă chứng kiến với Cha ta; con làm điều mà
con đă được chứng kiến với Cha con… Con
thực hiện các hành vi của Cha con… Con là ma quỷ
đối với Cha con … Ngài là một kẻ sát nhân ngay
từ đầu và không ngự nơi chân lư, v́ không có chân
lư nơi Ngài. Khi Ngài nói dối th́ điều nói đối
đó chính là của Ngài v́ Ngài là một kẻ nói
đối và là Cha đẻ của nó. ([331])
Đấng “Cha” này
của người Pharisees chính là Jehovah, v́ Ngài đồng
nhất với Cain, Thổ Tinh, Hải Vương Tinh
v.v…tức hành tinh mà họ sinh ra dưới đó và
Thần Linh mà họ tôn thờ. Hiển nhiên là dù bị
dịch sai, các lời này và các lời khuyến cáo này
phải có một ư nghĩa Huyền bí, v́ chúng
được tuyên bố bởi một kẻ cứ
đem hỏa ngục ra dọa kẻ nào chỉ mới
bảo huynh đệ của ḿnh là Raca (đồ ngu).[332] Các hành tinh cũng hiển nhiên không
những là các bầu lấp lánh trong Không gian và chiếu
sáng chẳng có mục đích ǵ, mà c̣n là địa hạt
của nhiều thực thể khác nhau mà kẻ chưa
được điểm đạo c̣n lâu lắm mới
biết tới; tuy nhiên các Đấng này có một liên
hệ huyền bí, bền vững và mạnh mẽ với
con người và các bầu hành tinh. Mỗi thiên thể
đều là các Thánh Điện của một Thần Linh, chính chư Thần Linh
này lại là các Thánh Điện của THƯỢNG ĐẾ “Phi Tinh
Thần”, Bất khả tri. Trong Vũ Trụ chẳng có ǵ
là phàm tục (PROFANE). Toàn thể Thiên Nhiên là một chốn
thiêng liêng, Young đă diễn tả điều này như
sau :
Mỗi ngôi sao là một giáo
đường.
Như thế, mọi tôn giáo ngoại môn có thể tỏ ra là các bản sao trá ngụy của Giáo lư Nội môn. Chính giai cấp lễ sư (priest -hood) phải chịu trách nhiệm về phản ứng thuận lợi cho Chủ nghĩa duy vật của chúng ta hiện nay. Chính v́ việc tôn thờ và cưỡng bách quần chúng tôn thờ các lớp vỏ lư tưởng ngẫu tượng – được nhân cách hóa v́ mục đích ẩn dụ - nên tôn giáo ngoại môn cận đại nhất mới biến các xứ Tây phương thành ra một âm cảnh (pandemonium) trong đó các gia cấp thượng lưu tôn thờ con ḅ vàng, c̣n quần chúng hạ lưu, dốt nát phải tôn thờ một h́nh tượng với chân bằng đất sét.
303
TIẾT 11
TƯ
TƯỞNG CỔ TRUYỀN ĐƯỢC TR̀NH BÀY
THEO
LỐI HIỆN ĐẠI
(ANCIENT THOUGHT IN MODERN DRESS)
KHOA HỌC HIỆN
ĐẠI CHỈ LÀ TƯ TƯỞNG CỔ TRUYỀN
BỊ XUYÊN TẠC, không
hơn không kém. Tuy nhiên, chúng ta đă thấy các nhà khoa học có trực giác
đang suy nghĩ và bận tâm về điều ǵ, nay độc giả sẽ có
được một ít bằng chứng thêm nữa xác
định rằng hơn một Hội viên Hội Hoàng
Gia Anh đang tiến gần tới các Khoa Huyền bí
học (đă bị chế nhạo) một cách vô thức.
Xét về vũ
trụ khởi nguyên luận và vật chất bản
sơ, các điều suy lư hiện đại rơ ràng là
tư tưởng cổ truyền được cải tiến bởi các thuyết mâu thuẫn có nguồn gốc cận
đại. Toàn bộ nền tảng đều thuộc
về thiên văn học và vật lư học cổ
đại Ấn Độ và Hy Lạp (thời đó
người ta luôn luôn gọi chúng là triết học). Trong
tất cả các suy lư của người Aryan và
người Hy lạp, chúng ta đều thấy quan
niệm về một chất thuần trạng, hỗn
độn và thấm nhuần vạn vật, tức
Hồng nguyên khí (Chaos), các nhà khoa học hiện đại
lại gọi nó là “t́nh trạng tinh vân của vũ
trụ chất”. Cái mà Anaxagoras gọi là Hồng nguyên khí
trong tác phẩm Homoiomeria, nay lại được W. Thomson
gọi là “Lưu chất bản sơ”. Các nhà nguyên tử
luận Ấn Độ và Hy lạp – Ka nă da, Leucippus,
Democritus, Epicurus, Lucretius v.v… - nay được phản ánh,
như trong một chiếc gương trong sáng, nơi
những kẻ ủng hộ thuyết nguyên tử hiện
đại, bắt đầu với các Đơn Nguyên
(Monads) của Leibnitz và chấm dứt với các Nguyên
Tử Xoáy (the Vortical Atoms) của W. Thomson. ([333]) Thật vậy, thuyết hạt ánh
sáng thời xưa đă bị bác bỏ và thuyết sóng ánh
sáng đă thế chỗ nó. Nhưng vấn đề
đặt ra là liệu
thuyết sóng ánh sáng có đủ cơ sở vũng
chắc để không thể bị hạ uy thế
giống như thuyết hạt ánh sáng hay không? Xét về phương diện siêu h́nh,
ánh sáng đă được bàn luận rốt ráo trong
Nữ Thần Isis Lộ Diện như sau :
304
Nhà
Phúc âm và tín đồ Do Thái Bí giáo cho rằng Ánh Sáng là con
đầu ḷng và là phân thân thứ nhất của
Đấng Chí Tôn; Ánh Sáng cũng là Sự Sống. Cả
hai đều là điện – nguyên sinh khí, linh hồn vũ
trụ - thấm nhuần vũ trụ, điện làm linh
hoạt vạn vật. Ánh sáng là đại Pháp sư
biến h́nh, dưới Thiên Chí của Kiến Trúc Sư ([334]) (hay đúng hơn là
các kiến trúc sư, các nhà kiến tạo được
gộp lại làm Một), các luồng sóng toàn năng,
đa tạp của nó đă sản sinh ra mọi h́nh hài
sắc tướng cũng như là mọi sinh vật.
Từ trong ḷng tích điện tràn đầy của nó,
xạ ra tinh thần và vật chất. Bên trong các chùm tia
sáng này là cội nguồn của mọi tác dụng vật
lư và hóa học cũng như mọi hiện tượng
vũ trụ và tinh thần. Nó làm linh hoạt và giải
thể; nó nắm quyền sinh tử trong tay; từ
điểm khởi nguồn của nó, phát lộ ra
hằng hà sa số thế giới cùng với các thiên
thể hữu h́nh và vô h́nh. Theo Plato, Thượng
Đế đă dùng một tia của Mẹ Bản Sơ
Tam Vị Nhất Thể này để đốt lên
Thần Hỏa mà chúng ta gọi là Mặt Trời”, ([335]) Mặt Trời không
phải là nguyên nhân của ánh sáng hay nhiệt mà chỉ là
tiêu điểm hay thấu kính (tạm gọi như
vậy) – nhờ đó các tia sáng nguyên thủy mới
thể hiện được và tập trung trong Thái
Dương Hệ chúng ta, tạo ra mọi sự
tương hệ lực. ([336])
Đó là Ether, nó vừa được giải
thích theo quan điểm của Metcalf (được Bác
sĩ Richardson lặp lại) ngoại trừ việc
một vài chi tiết của nó phải được
sửa đổi cho phù hợp với thuyết sóng ánh sáng
hiện đại. Chúng tôi không hề chối bỏ
thuyết này, chúng tôi chỉ khẳng định rằng nó
cần phải được bổ túc và chỉnh
đốn lại. Nhưng về vấn đề này, các
nhà Huyền bí học không hề là những kẻ duy
nhất theo dị thuyết, v́ ông Robert Hunt, Hội viên
Hội Hoàng Gia , thấy rằng:
…thuyết
sóng ánh sáng không giải thích được các kết
quả thực nghiệm của ông. ([337]) Trong tác phẩm
Luận về Quang Họa, David Brewster chứng tỏ
rằng “màu sắc của cây cỏ là do … các cấu tử
của vật thể này có một hấp lực chuyên
biệt với các tia sáng có màu sắc khác nhau”, và “nhờ có
ánh sáng mặt trời nên các nước nhựa màu của
cây cối mới được đào luyện ra, màu
sắc của các vật thể mới thay đổi v.v…
Ông c̣n nhận xét rằng dễ ǵ mà các tác dụng như
thế lại có thể được tạo ra chỉ v́
sự chấn động của một môi trường
ether”. Ông cũng bắt buộc phải tuyên bố rằng “bằng vào hàng
loạt các sự kiện, người ta lư luận cứ
như thể ánh sáng là vật liệu [?]. Giáo sư Josiah P.
Cooke thuộc viện Đại học Harvard, tuyên bố
rằng: “ông không thể đồng ư với những
kẻ nào coi thuyết sóng ánh sáng như là một nguyên lư
đă xác định của khoa học”.([338]) Nếu thuyết
Herschel – vốn cho rằng tác dụng của mỗi ba
động, cường độ của ánh sáng tỷ
lệ nghịch với b́nh phương khoảng cách
tới vật sáng – mà đúng th́ nó sẽ gây thiệt
hại nặng nề cho, nếu không muốn nói là sẽ
bóp chết, thuyết sóng ánh sáng. Các cuộc thí nghiệm
bằng quang kế đă chứng minh đi chứng minh
lại rằng ông thật chí lư; thuyết sóng ánh sáng
vẫn c̣n tồn tại mặc dù nó đă bắt
đầu bị nghi ngờ nhiều rồi. ([339])
Có nhiều chuyện
giải đáp được cái nhận xét đó của
David Brewster – “bắt buộc phải lư luận như
thể ánh sáng là một vật liệu”. Theo một ư nghĩa
nào đó, ánh sáng chắc chắn là vật liệu cũng
như điện vậy. Nếu điện không phải là vật liệu, nếu nó chỉ là
một cách thức chuyển động thôi, th́ làm sao nó có
thể được tích
trữ trong các b́nh ac-quy của
Faure ? Helmholtz cho rằng điện cũng phải có tính
chất nguyên tử như vật chất; c̣n Giáo sư W.
Crookes, Hội viên Hội Hoàng Gia, lại bảo vệ quan
điểm này trong bài diễn văn tại Birmingham năm
1886 khi ngỏ lời với Bộ môn hóa học của
Hội Hoàng Gia Anh mà ông là chủ nhiệm. Helmholtz cho
rằng:
Nếu chúng ta chấp nhận giả
thuyết cho rằng các chất liệu nguyên tố
được cấu thành bởi các nguyên tử th́ chúng ta
không thể không kết luận rằng điện,
dương cũng như âm, cũng được chia
thành các phần tử sơ cấp nhất định,
chúng tác động như là các nguyên tử điện.([340])
305
Ở đây, chúng ta
phải lặp lại điều đă được
phát biểu trong Tiết 8, cho rằng từ nay, chỉ có
một khoa học duy nhất có thể chỉ đạo
công cuộc khảo cứu hiện đại đi theo con
đường duy nhất đưa tới việc khám
phá ra toàn bộ chân lư đến nay vẫn c̣n có tính cách
Huyền bí; đó là khoa học c̣n non trẻ nhất
(tức hóa học đă được cải cách như
hiện nay). Chẳng có khoa học nào khác (kể cả
thiên văn học) có thể hướng dẫn trực
giác khoa học một cách đúng đắn như hóa
học. Chúng ta có thể thấy hai bằng chứng
của điều này trong giới khoa học – hai nhà hóa
học lỗi lạc, mỗi người đều
thuộc thành phần xuất chúng nhất ở quê
hương ḿnh; đó là Giáo sư Crookes và Giáo sư Butlerov:
người th́ hoàn toàn tin tưởng vào các hiện
tượng phi thường, người lại tỏ ra
nhiệt thành với phong trào giáng ma chẳng kém ǵ việc tỏ
ra siêu quần trong lănh vực khoa học tự nhiên.
Hiển nhiên là trong khi suy gẫm về tính khả phân
tối hậu của Vật Chất và trong cuộc truy t́m
(đến nay vẫn c̣n chưa có kết quả) nguyên
tố có trọng lượng nguyên tử âm, trí óc
được đào tạo theo lối khoa học của
nhà hóa học đó ắt phải thấy ḿnh bị lôi
cuốn một cách không thể cưỡng lại về
phía các thế giới bí ẩn thăm thẳm khôn ḍ, chúng
h́nh như vẫn khép kín khi các kẻ quá duy vật toan tḥ
tay vén bức màn bí mật. Tín đồ Độc Thần
Bất khả tri cảnh cáo: “Chúng ta không biết được
nó và chẳng bao giờ
biết được nó đâu”. Nhà hóa học kiên tâm tŕ chí đáp
lại: “Không phải thế đâu. Chúng ta đang trên
đường t́m hiểu và chúng ta sẽ chẳng sờn
ḷng, chúng ta sẵn sàng bước vào lănh vực huyền bí
mà kẻ vô minh cho là không
biết được”.
Trong bài diễn
văn chủ nhiệm tại Birmingham, Giáo sư W.Crookes cho
rằng:
Chỉ
có mỗi một thứ là chúng ta không biết
được, đó là nền tảng tối hậu
của Tinh Thần [Không gian]. Tuy nhiên, v́ có sự biến
phân đó, Cái Không Tuyệt Đối và Đơn Nhất
vẫn tỏ ra bí ẩn đối với các giác quan
vật chất, và chỉ tỏ lộ với trí tuệ
tinh thần của con người; đó vốn là
đỉnh cao chói lọi của toàn khối không thể
biến phân.
Hai hay ba câu ở
tận cùng bài diễn văn của ông về sự Khởi thủy
của các Nguyên Tố (Genesis of the Elements), đă chứng tỏ rằng nhà khoa
học lỗi lạc ấy đang trên đường
khám phá ra nhiều điều vĩ đại. Có một
lúc ông đă tiên đoán về “nguyên h́nh chất” và đă kết luận rằng:
“Kẻ nào có được Ch́a khóa sẽ có thể
giải được một vài bí nhiệm sâu xa nhất
của sự sáng tạo”. Nhà hóa học đại tài
giải thích rằng:
Nguyên
h́nh chất (Protyle) là một từ ngữ tương
tự với nguyên sinh chất, dùng để diễn
đạt ư niệm về một chất nguyên thủy
tồn tại trước khi các nguyên tố hóa học
tiến hóa. Từ ngữ mà tôi đánh bạo sử dụng
cho mục đích này, hợp bởi “sớm hơn, có
trước” và “chất liệu cấu thành vạn
vật”. Từ ngữ này hầu như không phải là
một điều ǵ mới lạ được chế
ra, v́ 600 năm về trước, Roger Bacon đă tŕnh bày
trong tác phẩm Arte Chymiae như sau: “Các nguyên tố
đều được tạo ra từ Hỗn nguyên khí,
mỗi nguyên tố đều được chuyển
thành bản chất của một nguyên tố khác.
306
Sự thông thái của Roger Bacon không phải v́
được linh cảm mà v́ ông đă nghiên cứu các tác
phẩm cổ truyền về Pháp thuật ([341]) và thuật Luyện kim đan,
cũng như là có một ch́a khóa giải được
chân ư nghĩa của ngôn ngữ của chúng. Nhưng chúng ta
hăy xem Giáo sư Crookes tŕnh bày về Nguyên h́nh chất, nó
rất gần gũi với Hỗn nguyên khí vô
thức (unconscious Mũlaprakriti) của nhà Huyền bí học.
…
chúng ta hăy bắt đầu vào lúc nguyên tố thứ
nhất ra đời. Trước lúc đó, vật
chất, theo như chúng ta biết, không tồn tại.
Cũng không thể quan niệm được vật
chất mà không có năng lượng, cũng như là
năng lượng mà không có vật chất; theo một
quan điểm nào đó, cả hai từ ngữ này có
thể thay thế lẫn cho nhau. Trước khi nguyên
tử cất tiếng chào đời, tất cả các
dạng năng lượng – chúng hiển lộ khi vật
chất tác động lên vật chất – không thể
tồn tại được,([342]) chúng chỉ tiềm
tàng trong nguyên h́nh chất thôi. Trường hợp với
sự khai sinh ra các nguyên tử này, mọi thuộc tính và
đặc tính khiến chúng ta phân biệt nguyên tố hóa
học này với nguyên tố khác, cũng nảy sinh ra và
được cấp cho đầy đủ năng
lượng.([343])
Về mọi
mặt, do diễn giả có kiến thức uyên bác, nhà
Huyền bí học sẽ tŕnh bày khác đi. Y sẽ bảo
rằng chẳng Nguyên tử nào được “tạo ra”,
v́ các Nguyên tử thật là vĩnh cửu trong ḷng Nguyên Tử Duy Nhất – Cực Vi Tử”(“the Atom of Atoms”) –
trong Chu kỳ Khai Nguyên, nó được xem như là Jagad-Yoni, cái khuôn viên sáng tạo ra vật chất Thế giới. Hồng mông nhất
khí (Vật chất chưa biến hóa) – đó là dạng
sơ khai của Prakriti, tức Thiên Nhiên vật chất,
hữu h́nh cũng như
vô h́nh – và Purusha (Tinh Thần)
đều măi măi là một. Chúng chỉ là Nirupădhi (không có các đặc tính ngẫu
nhiên) trong Chu kỳ Hỗn nguyên và khi vượt qua bất
kỳ cảnh giới sinh hoạt ư thức nào. Nguyên
tử, theo như khoa học hiện nay biết
được, bất khả phân ly với Purusha, vốn là Tinh Thần, nhưng nay khoa
học gọi nó là “Năng lượng”. Vi tử Nguyên h́nh chất đă không bị tế phân hay tinh vi
hóa; nó đă chỉ chuyển vào trong cảnh giới này,
đó vốn không phải là cảnh giới, mà là trạng
thái vĩnh cửu vạn vật vượt ngoài tầm
các cảnh giới hăo huyền. Cả Tinh Thần (Purusha) và Hồng mông nhất khí (Pradhăna) đều bất di bất dịch
và bất hoại, tức Aparinămin
và Avyaya, trong vĩnh
cửu; trong các thời kỳ hăo huyền, cả hai
đều có thể được đề cập
tới như là Vyaya và Parinămin, tức là cái thể thành, trụ,
hoại, không và “vô thường”. Theo ư nghĩa này dĩ
nhiên là chúng ta phải phân biệt Tinh Thần với Thái Cực Thượng
Đế. Tuy nhiên, cái gọi
là “năng lượng” hay “lực” trong khoa học, và
đă được Metcalf giải thích như là một
lực lưỡng phân, thực ra chẳng bao giờ có
thể chỉ là năng lượng không thôi; v́ đó là
chất liệu của Thế giới, Linh Hồn của
nó, Sarvaga thấm nhuần vạn vật, cùng với Kăla
(Thời gian). Ba thứ này là Tam Vị Nhất Thể trong
Chu kỳ Khai Nguyên, Nhất Nguyên tiềm tàng vạn
vật, chúng tác động như là ba sự vật riêng biệt
trên Măyă (cảnh giới hăo huyền). Trong triết học
Orpheus cổ Hy Lạp, chúng được gọi là Phanes, Chaos và Kronos – Tam Nguyên của các triết gia
Huyền linh vào thời kỳ đó.
307
Nhưng chúng ta hăy xem Giáo sư Crookes ra
sức phớt lờ “Đấng Bất Khả Tri”
biết bao, và phải có biết bao nhiêu tiềm năng
để chấp nhận các chân lư Huyền bí trong các khám
phá của ông. Ông tiếp tục đề cập
đến sự tiến hóa của các Nguyên tử như
sau:
Chúng
ta hăy ngừng lại lúc kết liễu chấn
động hoàn chỉnh đầu tiên và xem xét kết
quả một chút. Chúng ta t́m thấy các yếu tố
nước, ammoniac, acid carbonic, khí quyển, cuộc
sống thực vật và động vật, phosphore cho
năo, muối cho biển, đất sét cho đất rắn
chắc… phosphat và silicat đủ cho một thế
giới và các cư dân không khác quá xa với những ǵ mà
chúng ta hưởng thụ hiện nay. Đúng thật là
người ta phải sống trong một t́nh trạng
mộc mạc, chất phác hơn, và sự thiếu phosphat
calci sẽ bất tiện cho sự phát triển
xương … ([344]) Ở đầu
dưới của đường cong … chúng ta thấy
một khoảng trống lớn… Ốc đảo này và
các chỗ trống trước và sau nó, có thể
được qui (một cách khá chắc chắn) cho
đường lối đặc biệt, theo đó trái
đất phát triển thành một phần tử của
thái dương hệ. Nếu đúng thế, th́ chỉ
trên địa cầu chúng ta mới có chỗ trống này
thôi, chứ đâu phải chỗ nào trong vũ trụ
cũng có.
Điều này biện minh cho nhiều
điều khẳng định trong các tác phẩm
Huyền bí.
Thứ nhất là, chúng ta không thể bảo rằng Mặt Trời và các ngôi sao được cấu thành bởi các nguyên tố trên địa cầu (đă quen thuộc với nhà hóa học, mặc dù tất cả đều tồn tại trong các lớp vỏ ngoài Mặt Trời) cũng như là một số lớn các nguyên tố mà khoa học cho đến nay c̣n chưa biết.
Thứ nh́ là, địa cầu chúng ta có pḥng thí nghiệm chuyên biệt ở tận ngoài vùng khí quyển; mọi Nguyên tử và phân tử khi băng qua đó đều được biến hóa khác với trạng thái nguyên thủy.
Thứ ba là, mặc dù trên Mặt Trời không
thiếu bất cứ nguyên
tố nào hiện hữu trên Trái Đất, song trên
Địa Cầu chúng ta, c̣n có nhiều nguyên tố khác
chưa được khám phá ra hoặc chưa ở trong
tầm tay của chúng ta.
Một vài nguyên tố có thể không hiện
hữu trong một vài ngôi sao và thiên thể đang tiến
tŕnh h́nh thành. Cũng có thể là mặc dù hiện hữu
nơi chúng, do t́nh trạng hiện nay, đến nay các
nguyên tố này vẫn chưa thể đáp ứng lại
với các cuộc trắc nghiệm khoa học thường
dùng.([345])
308
Giáo sư Crookes đề cập tới helium,
([346])
một nguyên tố có trọng lượng nguyên tử c̣n
nhỏ hơn hydrogen, một nguyên tố thuần là giả
thuyết xét về địa cầu chúng ta, mặc dù c̣n
đầy dẫy trong sắc cầu của Mặt
trời. Huyền bí học c̣n nói thêm rằng không có một
nguên tố nào được hóa học trọng vọng
như thế mà thực sự lại xứng danh.
Chúng ta lại
thấy Giáo sư Crookes lên tiếng tán thành :
Luận
chứng có giá trị của Tiến sĩ Carnelly ủng
hộ bản chất phức hợp của cái gọi là
các nguyên tố, v́ chúng tương tự với các rễ
mầm phức hợp.
Cho đến nay,
trong lịch sử cũng như trong các cái gọi là các
quốc gia văn minh, chỉ có Thuật luyện kim đan
là đă thu được một nguyên tố thực
sự, tức là một cấu tử vật chất
thuần trạng, Mysterium
Magnum của Paracelsus. Nhưng
điều này diễn ra trước thời Huân
Tước Bacon. ([347])
Nay chúng ta quay sang phần trên của sơ
đồ. Với hydrogen có trọng lượng nguyên
tử = 1, chúng ta c̣n mấy chỗ cho các nguyên tố khác (có
lẽ là ngoại trừ Helium giả thuyết). Nhưng
nếu chúng ta đi “xuyên qua cái gương soi” và băng qua
đường zero để t́m các nguyên khí mới, chúng ta
sẽ t́m thấy ǵ ở phía bên kia của đường
Zero ? Tiến sĩ Carnelly đ̣i hỏi là một nguyên
tố mới phải có trọng lượng nguyên tử
âm; ở đây tha hồ có đủ chỗ cho một
loạt các điều không thực chất dự phóng.
Helmboltz bảo rằng điện có lẽ là một trong
các nguyên tố âm, c̣n ether ánh sáng là một nguyên tố âm khác
không? Vật chất, như chúng ta biết hiện nay, không
tồn tại ở đây; các dạng năng lượng
có tính chất biểu kiến trong các chuyển động
của vật chất, đến nay vẫn chỉ là các
tiềm năng. Một chất có trọng lượng âm
chẳng phải là không thể quan niệm được.([348])
Nhưng liệu chúng ta có thể h́nh dung rơ rệt
được vật chất hóa hợp với các
chất khác theo các tỷ lệ có thể diễn
đạt bằng các tính chất âm hay chăng? ([349])
Một sự khởi sinh ra các nguyên tố
(như được phác họa ở đây) sẽ không
bị giới hạn trong thái dương hệ nhỏ bé
của chúng ta, mà có lẽ sẽ theo tŕnh tự diễn
biến nói chung giống như ở mọi trung tâm năng
lượng hay lộ rơ ra như là một ngôi sao.
Trước khi các nguyên tử bắt
đầu bị hút về phía nhau, không hề có áp lực
nào tác động. Nhưng ở phía ngoại biên của
bầu sương lửa (firemist sphere) (bên trong nó tất
cả đều là nguyên sinh chất) – các lực khủng
khiếp có liên quan tới sự khai sinh ra một nguyên
tố hóa học đang hoàn toàn thống trị ở
lớp vỏ trên bầu đó – ngoài nhiệt nóng bỏng
ra c̣n có các lực hấp dẫn dù để giữ cho các
nguyên tố mới sinh khỏi bay mất vào không gian. Khi
nhiệt độ tăng lên, sự bành trướng và
chuyển động phân tử cũng gia tăng, các phân
tử có khuynh hướng tách rời ra, các ái lực hóa
học của chúng mất đi. Nhưng áp lực
khổng lồ của lực hấp dẫn của
khối lượng của vật chất nguyên tử, bên
ngoài cái mà tôi có thể gọi một cách ngắn gọn là
lớp vỏ sinh sản, sẽ hóa giải được
tác dụng của nhiệt.
Bên ngoài lớp vỏ sinh sản là một vùng
không gian trong đó không có một tác dụng hóa học nào có
thể diễn ra được, v́ nhiệt độ
ở đó vượt quá cái gọi là điểm phân ră
của các hợp chất. Trong vùng không gian này, con sử
tử và con chiên sẽ cùng nhau nằm xuống; phosphore và
oxygen sẽ trộn lẫn với nhau mà không kết
hợp; hydrogen và clor sẽ tỏ ra không có khuynh
hướng liên kết với nhau chặt chẽ hơn,
ngay cả fluor, cái chất khí năng lượng (energetic
gas) mà các nhà hóa học chỉ mới ly trích (isolated)
được trong ṿng một, hai tháng qua, cũng sẽ
trôi nổi một cách tự do.
309
Bên ngoài vùng không gian vật chất nguyên
tử tự do này là một lớp vỏ khác, trong đó
các nguyên tố hóa học được tạo ra sẽ
nguội trở lại điểm hóa hợp. bấy
giờ, tŕnh tự các diễn biến mà ông Mattieu Williams
đă mô tả trong Nhiên Liệu của Mặt Trời
sẽ diễn ra, đạt tột điểm nơi
đất rắn chắc và sự khởi đầu
thời gian địa chất (trang 19).
Với một ngôn ngữ khoa học nghiêm chỉnh, nhưng không kém phần văn hoa, đây chính là sự mô tả cuộc tiến hóa của vũ trụ biến phân trong Giáo huấn Bí truyền. Khi học giả quư tộc kết thúc bài diễn văn của ḿnh bằng những lời lẽ mà mỗi câu thốt ra giống như là một tia sáng lóe lên từ bên ngoài bức màn duy vật tối tăm (măi đến nay, nó vẫn c̣n bao phủ khoa học chính xác và là một bước tiến về Huyền Linh Nội Điện. Ông tŕnh bày như sau:
Chúng
ta đă thoáng thấy sự khó khăn trong việc
định nghĩa một nguyên tố; chúng ta cũng
nhận thấy là nhiều nhà vật lư học và hóa
học lỗi lạc đă nổi dậy phản
đối ư nghĩa thông thường của từ
ngữ “nguyên tố”; chúng ta đă cân nhắc việc chúng
không thể tồn tại vĩnh cửu ([350]) được
tức là chúng khởi nguồn một cách ngẫu nhiên.
Về một điều c̣n lại, chúng ta đă gợi ư
rằng chúng có nguồn gốc là một diễn tŕnh tiến
hóa giống như sự tiến hóa của các thiên thể
theo Laplace, và sự tiến hóa của các cây cỏ và thú
vật của địa cầu chúng ta theo Lamarck, Darwin và
Wallace.([351]) Về sự bố
trí tổng quát của các nguyên tố (theo như chúng ta
biết) chúng ta đă thấy nó rơ rệt là gần
giống với cách bố trí của thế giới
hữu cơ. ([352]) V́ thiếu bằng
chứng trực tiếp và sự phân hủy của
bất kỳ nguyên tố nào, nên chúng ta t́m kiếm và t́m
thấy bằng chứng gián tiếp… Sau đó, chúng ta xét
qua quan điểm về sự khởi nguyên của các
nguyên tố; cuối cùng chúng ta đă duyệt lại
một sơ đồ về nguồn gốc của chúng
theo phương pháp mà Giáo sư Reynolds gợi ra để
minh họa phép phân loại tuần hoàn ([353])… Thật vậy, khi
tổng kết tất cả các nhận xét trên, chúng ta không
dám khẳng định dứt khoát rằng cái gọi là các
nguyên tố của chúng ta đă được tiến hóa
ra từ một chất nguyên thủy; nhưng chúng ta có
thể chủ trương rằng, theo tôi, bằng
chứng sẽ ủng hộ cho phép suy lư này.
310
Như thế khi rụt rè tiến
bước chinh phục các bí mật của Thiên Nhiên
với các tác dụng tối hậu trên cơi trần, khoa
học diễn dịch, gồm các ngành thiên văn, vật
lư và hóa học, đă quay về thời Anaxagoras và Chaldea
để khám phá ra: (a) nguồn gốc của hiện
tượng giới và (b) các cách thức tạo ra các
vật thể hợp thành Vũ Trụ. Sau khi đă bỏ
các giả thuyết vũ trụ khởi nguyên luận
của ḿnh để quay về với các tín ngưỡng
của các triết gia cổ sơ nhất và các hệ thống
của họ - tất cả các hệ thống này
đều dựa vào các giáo huấn của Giáo Lư Bí
Nhiệm đại đồng vũ trụ liên quan
tới Vật Chất bản sơ với các tính chất,
chức năng và định luật của nó – chẳng
lẽ chúng ta không có quyền hy vọng rằng chẳng bao
lâu nữa, khoa học sẽ đánh giá được Minh
Triết Cổ Truyền đúng đắn hơn mức
từ trước đến nay hay sao ?
311
Chắc chắn là
Huyền bí học có thể học được
nhiều điều nơi khoa học chính xác hiện
đại; nhưng mặt khác khoa học chính xác hiện
đại cũng có thể học hỏi được
nhiều vấn đề nơi minh triết cổ
truyền, chủ yếu là về vũ trụ khởi
nguyên luận. Chẳng hạn như nó có thể học
được ư nghĩa huyền bí, siêu việt thuộc
khoa luyện kim đan của nhiều chất bất khả lượng (imponderable) lấp đầy không gian liên hành tinh;
xuyên thấu qua mỗi thứ là nguyên nhân trực tiếp
(ở đầu dưới) của sự tạo ra các
hiện tượng tự nhiên biểu lộ xuyên qua cái
gọi là rung động. Tóm lại, chỉ mỗi sự
hiểu biết về bản chất thực sự (chứ
không phải là theo giả thuyết) của Dĩ Thái (hay
đúng hơn là Tiên thiên khí) và các bí nhiệm khác mà thôi
cũng có thể giúp chúng ta hiểu biết được
các Lực. Trường phái vật lư gia, nhất là ở
Pháp, ([354]) đă nổi lên chống lại
chất này, mặc dù vậy, khoa học chính xác vẫn
phải ủng hộ nó. Họ không thể diệt trừ
nó mà không chuốc lấy nguy cơ phá sập những cái trụ
chống ở Thánh Điện Khoa Học, giống như
một Samson thời nay, để khỏi bị chôn vùi
trong đống gạch vụn.
Những lư thuyết
dựa vào việc loại bỏ Thần Lực, ở ngoài và độc lập với Vật Chất đơn
thuần, đều tỏ ra
sai lầm. Chúng không và không thể có cơ sở vững
chắc, do đó, nhiều dữ kiện khoa học đă
tỏ ra là phản khoa
học. Trong kinh Purănas có
dạy rằng “Dĩ Thái tạo ra Âm Thanh”, thế th́ thiên
hạ phá lên cười. Người ta cải chính: “Âm
Thanh là kết quả của không khí bị chấn
động”. C̣n không khí là ǵ vậy? Liệu nó có thể
tồn tại được không, nếu trong Không gian
chẳng có môi trường ether nâng đỡ các phân tử
của nó ? Trường hợp này cũng đơn
giản thôi. Chủ nghĩa Duy Vật không thể thừa
nhận sự tồn tại của bất cứ thứ
ǵ ngoài Vật Chất, v́ nếu người ta chấp
nhận một Lực bất khả lượng – cội
nguồn và đứng đầu của mọi Lực
vật lư – th́ hầu như người ta cũng thừa
nhận các Lực thông
tuệ khác và như thế th́
khoa học đă phiêu lưu quá xa rồi. Suy ra, họ
cũng phải chấp nhận luôn là nơi Con
Người có tồn tại một năng lực c̣n
thiêng liêng hơn nữa, hoàn toàn độc lập, dù
chỉ một lần thôi, với bất cứ loại
vật chất nào mà các nhà vật lư học đă từng
biết tới. V́ thế, dưới mắt các nhà Duy
vật, khi không có Ether Không gian theo giả thuyết và các
thể vật lư thô thiển th́ toàn bộ Không gian tinh
đẩu vô h́nh chỉ là một hư không vô tận trong
Thiên Nhiên – mù quáng, đần độn và vô dụng.
Nay đến câu hỏi tiếp theo: Vũ Trụ Chất (Cosmic Substance) ấy là ǵ? Liệu sẽ đi đến đâu khi hoài nghi về bản chất của nó hoặc t́m cách khám phá cho bằng được các bí mật của nó, (nhờ thế mà chúng ta không lấy làm áy náy khi đặt TÊN cho nó?) Nhất là, liệu khoa học đă khám phá được các bí mật này tới đâu và nó đang làm ǵ để giải quyết vấn đề này ? Thú tiêu khiển mới nhất của khao học, Thuyết Tinh Vân, có thể giải đáp được cho chúng ta một vài điều về vấn đề này. Thế th́ chúng ta hăy thử xem Thuyết Tinh Vân này có đáng tin cậy hay không.
312
TIẾT 12
BẰNG
CHỨNG KHOA HỌC VÀ NỘI MÔN
ỦNG
HỘ VÀ PHẢN ĐỐI THUYẾT TINH VÂN HIỆN
ĐẠI
(SCIENTIFIC AND ESOTERIC EVIDENCE FOR,
AND
OBJECTIONS TO, THE MODERN NEBULAR
THEORY)
Mới đây, Vũ
Trụ khởi nguyên luận Nội môn thường bị
bóng ma của lư thuyết này và các giả thuyết hệ
quả của nó chống đối. Người ta đă
hỏi: “Các Cao đồ có thể chối bỏ cái giáo lư
có tính cách khoa học nhất này hay không?” Xin đáp: “Không
hẳn là không, nhưng chính sự thừa nhận của
các nhà khoa học đă bóp
chết nó; v́ vậy, các Cao
đồ (Adepts) cần ǵ
phải chối bỏ nó”.
Thật vậy, muốn cho khoa học trở thành một tổng thể hoàn chỉnh, cần phải nghiên cứu thế giới tinh thần và tâm linh cũng như là thế giới vật chất. Nếu không như thế th́ chẳng khác nào kẻ phàm phu bàn luận dài dài về cơ thể giải phẫu học con người theo quan điểm biểu kiến, mà chẳng hiểu tí ǵ về hoạt động bên trong. Ngay cả Plato, triết gia vĩ đại nhất ở xứ ông, trước khi được Điểm đạo, cũng c̣n sai lầm khi tuyên bố là chất lỏng đi qua phổi rồi mới chuyển xuống bao tử. Đúng như H.J. Slack đă nói, không có siêu h́nh học, chúng ta cũng khó ḷng thừa nhận được khoa học chân chính.
Tinh vân tồn tại; song
thuyết tinh vân lại sai lầm. Một tinh vân tồn
tại trong một trạng thái phân ră hoàn toàn về mặt
nguyên tố. Nó ở thể hơi, nó c̣n là một cái ǵ khó
có thể liên hệ với các chất hơi mà vật lư
học đă từng biết đến, nó c̣n tự phát
quang nữa. Nhưng chỉ có thế thôi. Sáu mươi hai
“điều trùng hợp” (“coincidences”) do Giáo sư Stephen
Alexander ([355])
liệt kê, để xác nhận Thuyết Tinh Vân
đều có thể được Nội môn Bí giáo
giải thích, mặc dù hiện nay chúng ta không thể ra
sức bắt bẻ, v́ đây không phải là một tác
phẩm về thiên văn học. Laplace và Faye đă
tiến gần tới chân lư hơn bất cứ kẻ nào
khác; tuy nhiên chẳng c̣n bao nhiêu điều suy lư của
Laplace trong lư thuyết hiện nay ngoại trừ các đặc
điểm chung.
Thế nhưng, John Stuart Mill lại dạy rằng :
Trong
thuyết của Laplace chẳng có điều ǵ
được xem là giả thuyết; đó là một cái
gương mẫu sống động của phép lư
luận chính thống từ hậu quả hiện tại
suy ra nguyên nhân quá khứ. Nó chẳng giả định
điều ǵ khác hơn là các vật thực sự tồn
tại đều tuân theo các định luật mà
người ta biết rằng tất cả các sự
vật trên trần thế khác giống như chúng
đều tuân theo”. ([356])
313
Đối
với một nhà luận lư lỗi lạc như Mill,
điều này hẳn là có giá trị, quư hồ
người ta chứng minh được rằng “các
sự vật trần tục giống như “các sự
vật thánh thiện chẳng khác nào các tinh vân giống các sự vật đó
một cách thực sự chứ không phải là biểu
kiến.
Theo quan điểm Huyền bí, trong thuyết hiện đại có một điều trá ngụy khác: đó là giả thuyết cho rằng tất cả các Hành Tinh đều từ Mặt Trời tách ra và được làm bằng chính chất liệu của nó. Thật ra, Mặt Trời và các Hành Tinh là các anh em sinh ra cùng cái khuôn mẫu, có cùng nguồn gốc tinh vân, nhưng theo một cách thức khác với định đề của thiên văn học hiện đại.
Một vài
người chống đối Thuyết Tinh Vân hiện
đại đă nổi lên phản đối tính thuần
trạng của Vật Chất nguyên thủy tản
mạn, họ dựa vào sự kiện là các Định
Tinh (the fixed Stars) có cấu tạo đồng chất.
Nhưng điều này không có ảnh hưởng một
chút nào đối với vấn đề tính thuần
trạng, mà chỉ ảnh hưởng đến chính
thuyết này thôi. Tinh vân thái dương của chúng ta có
thể không hoàn toàn thuần trạng (homogeneous), hay nói cho
đúng ra, th́ nó có thể không tỏ ra như vậy
đối với các nhà thiên văn học, song thực ra, nó lại thuần trạng. Các Ngôi sao
khác nhau về các vật liệu cấu tạo; thậm
chí, chúng c̣n phô ra các nguyên tố chưa từng
được biết tới trên Địa Cầu. Tuy
nhiên, đến nay, điều này cũng không ảnh
hưởng tới mức độ thuần trạng
của Vật Chất Bản Sơ – Vật Chất khi
mới biến phân lần
đầu tiên từ trạng
thái trung ḥa ([357]) – ở các khoảng cách bao la trong ḷng
sâu thẳm vô cùng, cũng như ở những nơi
chẳng cách xa ngoại biên của Thái Dương Hệ
bao nhiêu.
Cuối cùng, chẳng
có sự kiện đơn thuần nào được các học
giả đưa ra để chống lại Thuyết
Tinh Vân (dù cho nó có sai lầm, và v́ thế đủ tai
hại một cách phi lư đến đâu đi chăng
nữa đối với gỉ thuyết về tính
thuần trạng của Vật Chất) mà lại
đủ sức chịu đựng được
sự chỉ trích của thiên hạ. Sai lầm này sẽ
đưa tới sai lầm kia. Một tiền đề
sai lầm tự nhiên là sẽ đưa tới một
kết luận sai lầm, mặc dù một phép suy diễn
không thể chấp nhận được không nhất
thiết là sẽ ảnh hưởng đến giá trị
của chính đề của phép tam đoạn luận.
Như thế, chúng ta có thể xem mọi vấn đề
phụ và phép suy diễn từ các vạch quang phổ
như chỉ là tạm thời vào lúc này và để dành
mọi vấn đề chi tiết cho vật lư học.
Nhà Huyền bí học có nhiệm vụ bàn đến Linh Hồn và Tinh Thần của Không gian Vũ Trụ, chứ
không phải chỉ xét tới dáng vẻ và tác động
hăo huyền của nó. Vật lư học có nhiệm vụ
phân tích và nghiên cứu lớp vỏ của nó (Cứu cánh
của Vũ Trụ và Con Người, theo quan điểm
của Chủ nghĩa duy vật).
314
Huyền bí học
chẳng liên quan ǵ tới phần vỏ này. Vũ trụ
khởi nguyên luận Huyền bí chỉ có thể bàn
tới các thuyết của các học giả như Kepler,
Kant, Oersted và W. Herschel, họ đều tin tưởng vào
Thế giới Tinh Thần và thử thực hiện một
sự thỏa hiệp đích đáng. Nhưng quan
điểm của các nhà vật lư này khác xa với các
điều suy lư hiện đại nhất. Kant và Herschel
quan tâm tới các suy lư về nguồn gốc và số phận sau cùng, cũng như là trạng thái hiện
tại của Vũ Trụ theo một quan điểm có
tính cách triết học và tâm linh hơn nhiều; trong khi
đó, nay vũ trụ học và thiên văn học hiện
đại lại bác bỏ bất cứ điều ǵ
giống như việc thâm cứu về các bí nhiệm
của Hiện Tồn. Kết quả thật đúng
như chúng ta trông đợi: thất bại hoàn toàn và mâu
thuẫn tứ tung giữa ngàn lẻ một cái gọi là
các thuyết khoa học, và trong thuyết tinh vân này cũng
như mọi thuyết khác.
Mọi người đều biết rằng giả thuyết tinh vân (bao gồm cả thuyết cho rằng có tồn tại một Chất bản sơ tản mạn trong một trạng thái tinh vân) đâu phải mới xuất hiện trong thiên văn học. Anaximenes, thuộc trường phái Ionia, đă dạy rằng các thiên thể được tạo ra do sự cô đặc dần dần của một Hỗn nguyên khí, nó hầu như có trọng lượng âm và lan tràn khắp Không gian trong một trạng thái cực kỳ tinh anh.
Tycho Brahé (ông xem Ngân Hà như
là một chất ether) cho rằng ngôi sao mới xuất
hiện ở Cassiopeia vào năm 1572 đă được
tạo ra từ Chất đó. ([358])
Kepler tin tưởng rằng ngôi sao năm 1606 cũng đă
được tạo ra từ chất ether lấp
đầy vũ trụ. ([359])
Ông cũng gán sự xuất hiện một vành sáng xung quanh
Mặt Trăng (trong cuộc nhật thực toàn phần
được quan sát tại Naples vào năm 1605 ([360])
cho cũng chất ether đó. Sau đó, năm 1714, trong Các
Văn Kiện Khoa học chuyên môn, Halley đă thừa
nhận rằng có tồn tại một chất tự phát
quang. Cuối cùng, năm 1811, tờ báo mang tên đó công
bố giả thuyết nổi tiếng của nhà thiên
văn học lỗi lạc W. Herschel bàn về sự
tiến hóa của các tinh vân thành ra các V́ sao; ([361])
Thuyết Tinh Vân được các Hàn lâm viện Hoàng gia
chấp nhận.
Trong Năm năm Minh Triết Thiêng Liêng, trang 245, chúng ta có thể đọc thấy một bài nhan đề “Các Cao đồ có chối bỏ thuyết Tinh Vân không?” Sau đây là lời giải đáp :
Không, các Ngài không chối bỏ các đề án tổng quát của nó, cũng như là tính cách gần đúng với sự thật của các giả thuyết khoa học. Các Ngài chỉ chối bỏ tính hoàn chỉnh của giả thuyết hiện đại, cũng như là sự sai lầm hoàn toàn của nhiều cái gọi là các thuyết “bùng nổ” thời xưa; trong thế kỷ qua, hết thuyết này đến thuyết kia cứ nối đuôi nhau như thế đó.
Vào lúc đó,
người ta xem như đây là một “câu trả lời
tránh né”. Người ta đă luận chứng rằng
muốn cho khoa học chính thống khỏi bị khinh khi
như thế, chúng ta phải thay thế phép suy lư chính
thống bằng một lư thuyết khác hoàn chỉnh hơn
và có một cơ sở vững vàng hơn. Về vấn
đề này, chỉ có một câu trả lời duy
nhất : Thật là vô ích nếu tŕnh bày các
315
thuyết biệt
lập liên quan tới các sự vật được bao
hàm trong một hệ thống hoàn chỉnh và liên tục.
Ấy là v́, khi biệt lập với phần giáo lư chính,
tất yếu là chúng sẽ không c̣n mạch lạc, sinh
động nữa, và như thế chẳng giúp ích ǵ khi
được nghiên cứu độc lập. Để
có thể đánh giá và chấp nhận được các
quan điểm Huyền bí về thuyết Tinh Vân (the Nebular
Theory), chúng ta phải nghiên cứu toàn bộ hệ
thống vũ trụ khởi nguyên luận Nội môn.
Cũng chưa tới lúc yêu cầu các nhà thiên văn
học chấp nhận Vô
cực điện (Fohat) và các
nhà Kiến Tạo Thiêng Liêng. Ngay cả những
điều tiên đoán cũng không thể chối căi
được của W. Herschel, bản thân chúng chẳng có
ǵ là “siêu nhiên”; c̣n về phần Mặt Trời có lẽ nó
được gọi một cách ẩn dụ là một “hỏa cầu” (“globe of gire”) và các suy lư sơ bộ của ông
về bản chất của cái nay được gọi
là Lá Liễu Nasmyth (Nasmyth Willowleaf Theory), chỉ khiến cho
nhà thiên văn học lỗi lạc nhất này bị các đồng
nghiệp bất tài hơn cười nhạo; họ
đă thấy và đang thấy trong các ư tưởng
của ông toàn là các “thuyết tưởng tượng hoang
đường”. Trước khi các nhà thiên văn học
có thể đánh giá được toàn bộ Hệ
thống Nội môn đă được tŕnh bày, họ
phải quay về với một số “ư tưởng
cố hữu”, chẳng những là ư tưởng của
Herschel, mà c̣n là các giấc mơ của các nhà thiên văn
học Ấn Độ
cổ xưa nhất. Như thế, họ đă từ
bỏ các thuyết của chính ḿnh, chúng chẳng có ǵ là kém
“hoang đường” hơn v́ chúng đă xuất hiện
gần tám chục năm sau các thuyết này và nhiều ngàn
năm sau các thuyết kia. Nhất là họ sẽ phải
chối bỏ các ư niệm của ḿnh về tính rắn chắc và sự nóng
đỏ của Mặt
Trời; Mặt Trời dứt khoát là “chói lọi” nhưng
nó không “cháy bùng”. Thế rồi bàn về các “lá liễu” (W.
Herschel gọi như thế), các nhà Huyền bí học đă
nêu rơ rằng các “vật” ấy là các nguồn trực tiếp của ánh sáng và nhiệt
mặt trời. Mặc dù
Nội môn Bí giáo không xem các thứ này như ông – nghĩa là
như các cơ cấu dự phần vào bản chất
của sự sống, v́ các “thực thể” Thái
Dương sẽ khó ḷng chịu khép ḿnh vào trong tiêu
điểm của kính viễn vọng – song nó lại
khẳng định rằng toàn thể Vũ Trụ
đầy dẫy các “cơ cấu” như thế, hữu
thức và hoạt động tích cực tùy theo các cảnh
giới của chúng ở gần hay cách xa cảnh giới
tri thức của chúng ta. Cuối cùng, nhà thiên văn
học lỗi lạc ấy thật là chí lư khi suy đoán
về các “cơ cấu” giả định này, rồi cho
rằng : “chúng ta không biết các tác dụng sinh động
này không đủ khả năng phát triển ngay ra
nhiệt, ánh sáng và điện”. Nếu chấp nhận nguy
cơ bị toàn bộ giới vật lư gia chế
nhạo, các nhà Huyền bí học vẫn chủ
trương rằng tất cả các “Lực” của các nhà khoa học
đều bắt nguồn từ Nguyên sinh khí, SỰ
SỐNG DUY NHẤT (xét
một cách tập thể) của Thái Dương Hệ
chúng ta – “SỰ SỐNG” này là một phần (hay đúng
hơn là một trong các trạng thái) của SỰ SỐNG Vũ Trụ Duy Nhất.
316
V́ trong bài đang xét,
dựa vào uy quyền của các Đạo đồ,
người ta chủ trương rằng: “đă
đủ để tổng
kết lại những
điều mà nhà vật lư thái
dương không biết”, nên chúng ta có thể xác
định lập trường của ḿnh đối
với Thuyết Tinh Vân hiện đại và sự sai
lầm hiển nhiên của nó, bằng cách chỉ cần
vạch ra các sự kiện hoàn toàn mâu thuẫn với nó
dưới dạng hiện tại. Và thoạt đầu
nó dạy cái ǵ ?
Khi tổng kết lại các giả thuyết nêu trên, chúng ta thấy rơ rệt là thuyết của Laplace – nay chúng ta hoàn toàn không thể nhận ra nó được – là một thuyết bất hạnh. Định đề tiên quyết của ông là Vũ Trụ Chất (Cosmic Matter) tồn tại trong trạng thái tinh vân tản mạn “tế vi đến nỗi mà chúng ta khó ḷng có thể ngờ được là nó đang hiện diện”. Ông không hề thử thâm cứu Bí nhiệm về Hiện Tồn, trừ phi nó liên quan đến cuộc tiến hóa ngay trước mắt của Thái Dương Hệ nhỏ bé của chúng ta.
Do đó, dù cho người ta
có chấp nhận hay bác bỏ thuyết của ông về
phương diện liên quan tới các nan đề vũ
trụ học ngay trước mắt cần giải
quyết, chúng ta cũng chỉ có thể bảo rằng ông
đă giải quyết thêm được một chút
nữa bí nhiệm này. Laplace không hề thử giải
đáp nghi vấn đời đời sau đây: “Bản
thân Vật Chất ở đâu ra ? Đâu là nguồn
gốc của cái xung lực tiến hóa xác định các
sự kết tập và tan ră tuần hoàn của nó ? đâu
là nguồn gốc của sự trật tự và
đối xứng tuyệt diệu của các nhóm Nguyên
tử bản sơ?” Chúng ta phải đối diện
với một bản phác họa các nguyên lư tổng quát
khả hữu mà người ta giả sử là tiến
tŕnh hiện nay phải dựa vào đó. Tốt lắm,
thế th́ nay đâu là cái chủ điểm của
tiến tŕnh vừa nói? Liệu ông có tŕnh bày điều ǵ
mới lạ một cách kỳ diệu đến nỗi
mà dù thế nào đi nữa, nền tảng của nó vẫn
được dùng làm một cơ sở cho Thuyết Tinh
Vân hiện đại hay không? Sau đây là những
điều mà người ta thu thập được
từ nhiều tác phẩm thiên văn học khác nhau.
Laplace cho rằng các nguyên tử của tinh vân bản sơ cô đặc lại theo luật trọng lực, cái khối nay đang ở thể hơi (hoặc có lẽ phần nào ở thể lỏng) sẽ có được một chuyển động quay. Khi tốc độ của chuyển động quay này tăng lên, nó sẽ có dạng một cái đĩa mỏng; cuối cùng, lực ly tâm thắng được lực cố kết, các vành khổng lồ tách ra khỏi biên của các khối xoáy tṛn đang cháy đỏ. Tất nhiên là do lực hấp dẫn (như được chúng ta chấp nhận), các vành này sẽ thu rút lại thành ra các thể h́nh cầu, chúng tất nhiên là vẫn c̣n tiếp tục duy tŕ quỹ đạo của vùng ngoại biên mà chúng tách ra từ đó.([362]) Theo ông, tốc độ ngoại biên của mỗi hành tinh mới được sinh ra vượt quá tốc độ nội biên, điều này tạo ra một chuyển động quay quanh trục của ḿnh. Các vật thể thô đặc hơn sẽ bị tống ra sau cùng; rốt cuộc, trong t́nh trạng h́nh thành sơ bộ, đến lượt các bầu hành tinh mới tách ra lại tống ra một hay nhiều vệ tinh. Khi đào luyện nên lịch sử tan ră và biến thành hành tinh của các vành tinh vân, Laplace cho rằng:
317
Hầu
như mỗi vành hơi luôn luôn phải phân ra thành nhiều
khối khác nhau khi di chuyển tới một vận
tốc gần như là đều, các khối này phải
tiếp tục chu lưu cách đều xung quanh mặt
trời. Các khối này phải có một dạng h́nh
cầu với một chuyển động quay cùng
hướng với sự quay ṿng, v́ các phân tử bên trong
(các phân tử gần mặt trời nhất) phải có
tốc độ thực tế nhỏ hơn tốc
độ của các phân tử bên ngoài. Thế th́ chúng
đă phải tạo ra bao nhiêu là hành tinh ở trạng thái
hơi. Nhưng nếu một trong các hành tinh này mà lại
đủ mạnh để dùng hấp lực lần
lượt kết hợp tất cả các hành tinh khác
lại xung quanh tâm nó, th́ vành hơi phải được
biến thành ra một khối hơi tṛn chu lưu xung quanh
mặt trời với một chuyển động quay có
cùng hướng với sự xoay ṿng của nó.
Trường hợp sau thông thường hơn, nhưng
trường hợp đầu diễn ra trong thái
dương hệ nơi bốn hành tinh nhỏ di chuyển
giữa Mộc Tinh và Hỏa Tinh.
Trong khi chúng ta sẽ thấy là chẳng mấy ai chối bỏ “sự táo bạo tuyệt diệu của giả thuyết này”, chúng ta cũng phải không thể không thừa nhận các khó khăn không thể khắc phục được mà nó sẽ gặp phải. Chẳng hạn như, tại sao chúng ta lại thấy rằng các vệ tinh của Hải Vương Tinh và Thiên Vương Tinh có một chuyển động giật lùi? Tại sao, mặc dù gần Mặt Trời hơn, Kim Tinh lại có tỷ trọng nhỏ hơn Trái Đất? Hơn nữa, tại sao Thiên Vương Tinh xa hơn mà lại có tỷ trọng lớn hơn Thổ Tinh? Làm thế nào mà lại có biết bao nhiêu là biến thiên của độ nghiêng của trục và quỹ đạo của các con cháu giả định của bầu trời trung ương; các biến thiên đột ngột như thế của kích thước các Hành Tinh thật là đáng kể; các vệ tinh của Mộc Tinh có tỷ trọng 288 lần lớn hơn tỷ trọng của hành tinh mẹ; các hiện tượng hệ thống sao băng và sao chổi vẫn c̣n chưa được giải thích? Xin trích dẫn lời của một Thánh Sư:
Các Ngài [các Cao
đồ – Adepts] thấy rằng thuyết ly tâm của Tây
phương không thể đề cập đến
mọi vấn đề. Nếu không được
bổ túc thêm, nó không thể giải thích được
mọi dạng h́nh cầu dẹt và cũng chẳng
giải thích được các khó khăn hiển nhiên do
tỷ trọng tương đối của một vài
hành tinh. Thật vậy, làm sao mà bất kỳ phép tính toán
nào về lực ly tâm có thể giải thích
được cho chúng ta (chẳng hạn như) tại
sao Thủy Tinh (được biết) có chuyển
động quay “chỉ bằng một phần ba chuyển
động quay của Trái đất và có tỷ trọng
lớn hơn tỷ trọng Trái đất một
phần tư lần”, mà lại có một sức nén ở
cực mười
lần lớn hơn Trái Đất? Lại nữa, tại sao Mộc Tinh
(được biết) “có chuyển động quay ở
xích đạo hai mươi bảy lần lớn hơn
và tỷ trọng chỉ vào khoảng một phần
năm tỷ trọng của Trái Đất” mà lại có
sức nén ở cực mười bảy lần lớn
hơn sức nén của Trái Đất? Hoặc là tại
sao Thổ Tinh có vận tốc xích đạo năm
mươi lăm lần lớn hơn lực hướng
tâm ([363]) (centripetal force) của Thủy Tinh mà
lại có sức nén ở cực chỉ ba lần lớn
hơn sức nén của Thủy Tinh? Để ca ngợi
các điều mâu thuẫn trên, chúng ta được yêu
cầu phải tin tưởng vào các Lực Trung
Ương (theo khoa học hiện đại) ngay cả
khi vật chất xích đạo của mặt trời,
(với hơn bốn lần tốc độ ly tâm của
mặt xích đạo của trái đất, và chỉ có
chừng một phần tư lực hấp dẫn của
vật chất xích đạo) đă không biểu lộ
bất cứ khuynh hướng nào ph́nh ra ở xích
đạo thái dương, mà cũng chẳng tỏ ra
dẹt đi một tí nào ở các cực của trục
thái dương. Nói một cách khác và một cách rơ ràng
hơn, mặc dù lực ly tâm chỉ tác dụng lên mặt
trời với tỷ trọng bằng một phần
tư tỷ trọng của trái đất, thế mà
mặt trời cũng không có sức nén ǵ hết ở
cực ! Chúng ta thấy hơn một nhà thiên văn học
đă phản đối như vậy, nhưng
người ta vẫn chưa giải thích thỏa đáng,
theo như các “Cao đồ” được biết.
318
Do đó, các Cao đồ
cho rằng các nhà khoa học đại tài Tây phương …
hầu như chẳng biết ǵ về vật chất
của sao chổi, các lực ly tâm và hướng dẫn, bản
chất của tinh vân, cấu tạo vật lư của
mặt trời, các v́ sao, thậm chí cả mặt trăng
nữa. Họ thật là thiếu thận trọng khi
đề cập một cách tin tưởng tới
“khối trung ương của Mặt Trời”, xoáy tṛn
trong không gian tạo ra các hành tinh, các sao chổi, chứ
không có ǵ khác nữa. Chúng tôi quả quyết rằng
Mặt Trời tiến hóa nhưng nguyên sinh khí, linh hồn
của các thiên thể này, ban
ra và nhận lại nó trong thái
dương hệ bé nhỏ của chúng ta, với vai tṛ Ban
Cấp Cuộc Sống Vũ Trụ trong Vô Cùng Vô Tận.
Chúng tôi cũng quả quyết rằng Thái Dương
Hệ cũng là Tiểu
Thiên Địa của Đại Thiên Địa Duy Nhất chẳng khác nào con
người là tiểu thiên địa khi so với vũ
trụ thái dương bé nhỏ của riêng y. ([364])
Việc tất
cả các Hành vũ trụ và thế tục đều có
năng lực bản thể sản sinh ra bên trong ḿnh
một loạt các kết quả điều ḥa, một chuỗi
nhân quả là một bằng chứng hùng hồn chứng
tỏ rằng hoặc là chúng được kích
động bởi một ĐẤNG THÔNG TUỆ nội
tại hay ngoại tại, hoặc là chúng ẩn tàng như
thế bên trong hoặc đàng sau “bức màn biểu
lộ”. Huyền bí học không chối bỏ việc
Vũ Trụ chắc chắn là có nguồn gốc cơ
giới, nó chỉ đ̣i hỏi là tuyệt đối
cần phải có một loại cơ khí viên nào đó
ẩn sau hoặc bên trong các Hành này – đó là một giáo
điều đối với chúng ta. Chẳng phải là
sự trợ giúp ngẫu nhiên của các Nguyên tử
của Lucretius (chính ông cũng biết rơ như vậy)
đă kiến tạo nên vũ trụ và tất cả
những ǵ chứa trong đó. Chính thiên nhiên đă phản
đối một thuyết như vậy. Chúng ta không
thể cầu cứu tới Không gian Thiên giới (chứa
đựng Vật Chất tinh anh như Ether, có hoặc
không có hấp lực) để giải thích chuyển
động chung của các tập đoàn tinh đẩu.
Mặc dù sự ḥa hợp hoàn toàn của sự xoay ṿng
hỗ tương của chúng biểu thị rơ rệt là
trong Thiên Nhiên có hiện hữu một nguyên nhân cơ
giới, Newton, kẻ được mọi người có
thẩm quyền nhất tin tưởng vào các điều
suy diễn, đă bắt buộc phải từ bỏ ư
tưởng giải thích xung lực nguyên thủy
được ban cho hàng triệu tinh đẩu chỉ
bằng các luật đă định của Thiên Nhiên và các
lực vật chất của nó. Ông hoàn toàn thừa
nhận các giới hạn ngăn cách tác dụng của các
ĐẤNG THÔNG TUỆ khiến cho các luật bất di
bất dịch tác động một cách thứ tự. Và
nếu một bậc thiên tài như Newton mà c̣n phải
chối bỏ một hy vọng như thế th́ liệu
có những kẻ kém cỏi Duy vật hiện đại
nào có quyền bảo rằng: “Tôi biết nhiều hơn”
?
319
Để cho
được hoàn chỉnh và có thể hiểu
được, một vũ trụ khởi nguyên luận
phải khởi đầu với một chất Nguyên
Thủy tản mác khắp Không gian vô tận, có một Bản chất thiêng
liêng và thông tuệ. Chắc
đó phải là Linh Hồn và Tinh Thần, phần tổng
hợp và Nguyên Khí Thứ Bảy của Vũ trụ
biểu lộ; phải có nguyên khí thứ sáu, để dùng
làm hiện thể cho nguyên khí thứ bảy – đó là Vật Chất hồng trần nguyên
thủy (tạm gọi như
vậy) mặc dù các giác quan b́nh thường hữu
hạn của chúng ta sẽ chẳng bao giờ tri giác
được bản chất của nó. Nếu có năng
khiếu tưởng tượng, một nhà thiên văn
học có thể dễ dàng dựng nên một thuyết
về việc Vũ Trụ xuất lộ từ Hồng
nguyên khí, bằng cách chỉ cần áp dụng các nguyên lư
của cơ học. Nhưng một Vũ Trụ như
thế sẽ luôn luôn tỏ ra là một con quái vật
của Frankenstein đối với nhà khoa học sáng
tạo ra nó, nó sẽ khiến y lúc nào cũng bối
rối. Việc chỉ áp dụng các định luật
cơ học khoa học không thôi chẳng bao giờ có
thể khiến cho nhà suy lư vượt quá được
ngoại giới, nó cũng sẽ chẳng tiết lộ
cho con người nguồn gốc số phận cuối
cùng của Càn Khôn. Thuyết Tinh Vân đă đưa khoa
học đến chỗ đó. Nói một cách nghiêm
chỉnh th́ thuyết này là hai chị em sinh đôi của
Thuyết Ether, cả hai đều là sản phẩm
của nhu cầu, một thuyết thật là cần
thiết để giải thích sự truyền ánh sáng, c̣n
thuyết kia để giải thích vấn đề
nguồn gốc của các Thái Dương Hệ.
Đối với khoa học, vấn đề chính là làm
thế nào mà một Chất thuần trạng ([365]) lại có thể sản sinh ra các
thiên thể - Mặt Trời và các Hành Tinh và các vệ tinh –
theo các định luật Newton, có chuyển động y
như nhau và được tạo thành bởi các nguyên
tố hỗn tạp như thế.
Liệu Thuyết Tinh Vân có giúp chúng ta giải quyết được vấn đề này, cho dù chỉ được áp dụng vào các thiên thể được coi như là vô tri vô giác và vật chất hay chăng? Chúng tôi xin đáp: dứt khoát là không. Nó có được tiến bộ chút nào không từ năm 1811, khi tài liệu đầu tiên của W. Herschel (với sự kiện dựa vào quan sát và chứng tỏ rằng vật chất tinh vân có tồn tại) đă làm cho các Hội viên Hội Hoàng Gia “mừng rú lên” (“shout for joy”)? Từ lúc đó, một khám phá c̣n vĩ đại hơn nữa (nhờ vào việc phân tích quang phổ) đă khiến cho chúng ta có thể kiểm nghiệm lại và bổ chứng cho các lời phỏng đoán của W. Herschel. Laplace đ̣i hỏi phải có một loại “vũ trụ chất” bản sơ nào đó để chứng minh ư niệm vũ trụ tiến hóa một cách lũy tiến. Nay cũng chẳng khác nào hai ngàn năm về trước.
Từ thời xa
xưa nhất, người ta đă biết tới “vũ
trụ chất” (“world-stuff”) nay được gọi là tinh vân (nebulae). Anaxogaras dạy rằng khi biến
phân, cái kết quả (do các chất hỗn tạp trộn
lại với nhau) vẫn bất động và lộn
xộn, cho tới khi cuối cùng, “Toàn Linh Trí” – theo chúng tôi
đó là tập thể các Thiền Định Đế
Quân – bắt đầu tác động và truyền cho chúng
chuyển động và trật tự. ([366]) Nay người ta chọn dùng
phần đầu của thuyết này, c̣n phần chót,
phần cho rằng có bất kỳ “Trí Tuệ” (“Mind”) nào
can dự vào, lại bị bác bỏ. Phép phân tích quang
phổ tiết lộ sự tồn tại của các tinh
vân được tạo thành hoàn toàn bằng các chất
khí và các chất hơi phát quang. Liệu đó có phải là
Vật Chất tinh vân bản sơ không? Người ta
bảo rằng quang phổ tiết lộ t́nh trạng
vật lư của Vật Chất phát ra ánh sáng vũ trụ.
Quang phổ của các tinh vân khả giải và bất
khả giải khác hẳn nhau, quang phổ của tinh vân
bất khả giải có trạng thái vật lư là trạng
thái chất hơi chói sáng. Các vạch sáng của một
tinh vân tiết lộ sự tồn tại của hydrogen,
c̣n các vạch sáng của các tinh vân khác tiết lộ
sự tồn tại của các chất đă biết và
chưa biết. Về phần các bầu khí quyển
của Mặt Trời và các V́ sao th́ cũng vậy.
Điều này khiến chúng ta suy ngay ra rằng một Ngôi
sao được tạo thành do một tinh vân cô
đặc lại; v́ thế, ngay cả chính các kim loại
cũng được tạo ra trên trái đất do
sự cô đặc lại của hydrogen hoặc của
một chất nguyên thủy nào đó, có lẽ là một
chất có họ hàng với helium, hoặc là một chất
nào đó c̣n chưa được biết tới. Điều này không hề mâu
thuẫn với Giáo lư Huyền bí. Đó là vấn đề mà hóa học
đang ra sức giải quyết; sớm muộn ǵ nó
cũng phải thành công khi dù muốn dù không – nó cũng
phải chấp nhận Nội môn Bí giáo. Nhưng khi
điều này diễn ra, nó sẽ bóp chết Thuyết Tinh
Vân dưới dạng hiện nay.
320
Trong khi đó,
nếu phải được xem như là một khoa học chính
xác, th́ thiên văn học không
thể chấp nhận thuyết “tử hệ Tinh Tú” (the
Filiation of Stars) hiện nay về bất cứ phương
diện nào – cho dù Huyền bí học vẫn chấp
nhận theo cách riêng của ḿnh, xét v́ nó giải thích tử
hệ này khác hẳn – v́ thiên văn học không có tới một dữ
kiện vật lư để chứng tỏ nó. Thiên văn học có thể tiến
trước hóa học trong việc chứng tỏ sự
tồn tại của sự kiện này, nếu nó có
thể tŕnh bày việc một tinh vân hành tinh phô ra một
quang phổ có ba, bốn vạch sáng; dần dần đông
đặc lại thành ra một Ngôi sao, với một quang
phổ toàn là các vạch đen. Nhưng
Vấn
đề các tinh vân có thể biến đổi, ngay
cả về h́nh dạng, vẫn c̣n là một trong các bí
nhiệm của thiên văn học. Đến nay các dữ
kiện quan sát thu được vẫn c̣n có nguồn
gốc mới quá và bấp bênh quá khiến chúng ta không
thể khẳng định được điều ǵ.([367])
Từ khi
được khám phá ra, các quyền năng của quang
phổ kế đă chỉ tiết lộ cho các chuyên gia
một sự biến hóa đơn thuần của một
ngôi sao thuộc loại này. Ngay cả điều này
cũng chứng tỏ ngược lại với bằng
chứng cần để bênh vực cho Thuyết Tinh Vân;
v́ nó tiết lộ rằng một Ngôi sao biến thành tinh vân hành tinh. Trong tờ Đài Thiên Văn ([368]) có tường thuật rằng ngôi
sao tạm thời mà J. F. J. Schmidt khám phá ra trong cḥm sao Thiên
Nga vào tháng 11 năm 1876, có phô ra một quang phổ với
các vạch sáng chói. Dần dần quang phổ liên tục và
hầu hết các vạch biến mất, rốt cuộc
chỉ để lại một vệt sáng duy nhất nó
h́nh như là trùng với vạch xanh lục của tinh vân.
321
Mặc dù sự biến h́nh này chẳng
phải là không thể dung hào được với giả
thuyết đơn độc này không dựa vào bất
kỳ sự quan sát nào, lại cũng không dựa vào
sự quan sát trực tiếp nào. Sự việc này diễn
ra có thể là do nhiều nguyên nhân khác. V́ các nhà thiên văn
học có khuynh hướng nghĩ rằng các hành tinh
của chúng ta đang có khuynh hướng lao về phía
mặt trời, tại sao ngôi sao đó lại không bùng cháy
v́ có một sự va chạm của các hành tinh đó, hay
theo gợi ư của nhiều người, sự tiếp
cận của một ngôi sao chổi? Nếu như
thế, ví dụ được biết duy nhất về
sự biến hóa tinh tú từ năm 1811 đâu có ǵ
thuận lợi cho Thuyết Tinh Vân. Vả lại, vấn
đề thuyết này cũng như là các thuyết khác, các
nhà thiên văn học đâu có đồng ư với nhau.
Trong chính thời
đại chúng ta và trước khi Laplace đă từng
nghĩ tới Buffon (vốn quan tâm tới việc hành tinh
có chuyển động giống y nhau) là người
đầu tiên đề nghị giả thuyết cho
rằng các hành tinh và các vệ tinh phát nguyên từ trong ḷng
mặt trời. V́ mục đích ấy, ông đă phát sinh ra
một ngôi sao chổi chuyên biệt và giả sử nó
đă bị một ngọn cuồng phong chênh chếch
cuốn hút đi mất lượng vật chất
để tạo ra chúng. Laplace đă khai sinh ra “sao chổi”
ấy trong tác phẩm Tŕnh Bày Hệ Thống Thế
Giới.([369]) Nhưng người ta đă hiểu
rơ được ư niệm này, thậm chí c̣n cải
thiện được nó bằng một quan niệm
về sự luân chuyển tiến hóa (từ khối trung
ương của Mặt Trời) của các hành tinh hiển nhiên là không có tác dụng đối
với chuyển động của các hành tinh hữu h́nh
(dĩ nhiên là sự tồn tại của chúng cũng
chẳng khác nào chuyện “chú Cuội với chị
Hằng” (Moses in the Moon).
Nhưng thuyết
hiện đại cũng là một biến thái của
hệ thống do Kant và Laplace soạn thảo nên. Cả hai
đều cho rằng vào lúc khai thiên tịch địa,
mọi Vật Chất nào nay cấu thành các hành tinh
đều rải rác khắp vùng không gian bao gồm trong
Thái Dương Hệ - thậm chí c̣n vượt ra bên ngoài
nữa. Đó là một tinh vân có tỷ trọng thật
nhỏ; nhờ vào một cơ cấu cho đến nay
chưa bao giờ được giải thích, nó dần
dần cô đặc lại và sản sinh ra nhiều thiên
khải khác nhau của Thái Dương Hệ chúng ta. Đó
là Thuyết Tinh Vân nguyên thủy, nó lặp lại một
cách bất toàn nhưng trung thực – giống như
một chương ngắn ngủi của một pho sách
dày bàn về Vũ trụ khởi nguyên luận Nội môn –
các điều giảng huấn của Giáo Lư Bí Nhiệm.
Cả hai hệ thống (hệ thống của Kant và
hệ thống của Laplace) đều khác hẳn
thuyết hiện đại, đều đầy dẫy
các thuyết phụ, mâu thuẫn nhau lung tung và các giả
thuyết hoang tưởng. Các bậc Đạo Sư
dạy rằng:
322
Tinh hoa của vật
chất sao chổi [cũng như chất cấu thành các v́
sao] khác hẳn với
bất cứ hóa tính hoặc lư tính nào quen thuộc với
các nhà hóa học và vật lư học đại tài trên
thế giới… Trong khi kính
quang phổ đă chứng tỏ rằng địa
cầu và tinh tú chất (terrestrial and sidereal substance) có
thể giống nhau [do tác dụng hóa học của ánh sáng
địa cầu đối với các tia bị chặn
lại], th́ người ta vẫn chưa ḍ được
các tác dụng hóa học đặc biệt về các
bầu thiên thể tiến hóa khác nhau, và cũng không
chứng minh được chúng giống y như các tác
dụng được quan sát thấy trên chính hành tinh chúng
ta. ([370])
Giáo sư Crookes hầu như cũng tŕnh bày như vậy trong đoạn trích dẫn từ bài diễn văn của ông: Các Nguyên Tố và Siêu Nguyên Tố. C. Wolf, Viện sĩ Học viện Pháp quốc, nhà Thiên văn học làm việc tại đài Thiên văn Ba Lê, đă nhận xét rằng:
Để
bênh vực nó cùng với W.Herschel, cùng lắm th́ giải
thuyết tinh vân chỉ có thể tŕnh bày sự tồn
tại của các tinh vân hành tinh trong nhiều mức
độ cô đặc khác nhau và các tinh vân xoáy ốc
với các nhân cô đặc trên các nhánh và trung tâm. ([371]) Nhưng thật ra,
chúng ta vẫn chưa biết được mối liên
kết giữa các tinh vân và các tinh tú; và v́ không quan sát
trực tiếp được, nên chúng ta không thể xác
lập được mối liên kết này dựa vào
sự tương tự về cấu tạo hóa học.([372])
Bỏ qua mối khó
khăn chắc chắn là do có đủ thứ vật
chất cấu thành tinh vân, cho dù các nhà khoa học thừa
nhận theo Cổ nhân là chúng ta phải t́m kiếm nguồn
gốc của mọi thiên thể hữu h́nh và vô h́nh
nơi một vũ trụ chất thuần trạng nguyên
thủy, một loại Tiền Nguyên h́nh chất (Pre-Protyle),
([373]) th́ hiển nhiên là điều này
đâu phải làm cho họ hết đau đầu.
Nếu họ vẫn không thừa nhận rằng Vũ
Trụ hữu h́nh của chúng ta chỉ là thể thô
trược, Sthũla Sharĩra, của Càn Khôn thất phân,
th́ họ sẽ phải đối diện với một
vấn đề khác; nhất là họ dám chủ
trương rằng các thiên thể hữu h́nh hiện nay
là kết quả của sự cô đặc của cái
Vật Chất Nguyên Thủy duy nhất đó. Ấy là v́
chỉ một việc quan sát không thôi cũng đủ
để chứng tỏ cho họ thấy rằng tác
động tạo ra Vũ Trụ chân thực c̣n phức
tạp hơn nhiều so với những ǵ được
bao hàm trong thuyết đó.
Trước hết,
có hai loại vật chất bất khả giải (irresolvable) riêng biệt, nhưng chính khoa học
đă dạy như thế.
Kính viễn vọng không thể phân biệt được hai loại này, nhưng kính quang phổ có thể phân biệt được và ghi nhận được một sự dị biệt về bản chất giữa các cấu tạo vật lư của chúng.
323
Vấn đề tính khả giải của
các tinh vân đă thường được tŕnh bày một
cách quá khẳng định và hoàn toàn trái ngược
với các ư tưởng của người đă lừng
danh về việc thực nghiệm với quang phổ
của các cḥm sao này (ông Huggins). Được biết
mọi tinh vân có quang phổ chỉ bao hàm các vạch sáng
đều thuộc thể hơi, v́ thế, bất khả
giải; mọi tinh vân có một quang phổ liên tục
phải kết thúc bằng cách phân giải thành ra các ngôi sao
với một khí cụ có đủ năng lực.
Điều giả sử này trái ngược ngay với các
kết quả thu được cũng như là với
thuyết kính quang phổ. Tinh vân “Lyra”, tinh vân “Quả
tạ đôi” (the “Dumbl-bell” nebula),vùng trung tâm của tinh vân
Orion, h́nh như là khả giải và bày ra một quang
phổ gồm các vạch sáng; tinh vân Canes Venatici lại
bất khả giải và có một quang phổ liên tục.
Thật vậy, v́ kính quang phổ cho chúng ta biết t́nh
trạng vật lư của vật chất cấu thành các
ngôi sao; song không giúp chúng ta h́nh dung được các cách
thức tập hợp của chúng. Một tinh vân gồm có
các bầu bằng thể hơi (hoặc ngay cả các
hạt nhân mờ mờ sáng, được bao quanh bởi
một bầu khí quyển mănh liệt) sẽ có một
quang phổ gồm các vạch và vẫn c̣n khả giải;
đó h́nh như là trạng thái của vùng Huggins trong tinh vân
Orion. Một tinh vân gồm các cấu tử rắn hay
lỏng đang ở trong một trạng thái cháy
đỏ (đúng là một đám mây) sẽ có một quang
phổ liên tục và sẽ bất khả giải.
Theo Wolf, một số tinh vân này:
Có một quang phổ
gồm ba hay bốn vạch sáng, các tinh vân khác có một
quang phổ liên tục. Loại tinh vân thứ nhất
ở thể hơi, các tinh vân khác được tạo thành
bởi một vật chất ở dạng bột.
Loại tinh vân thứ nhất phải cấu thành một
bầu khí quyển thực sự; tinh vân thái dương
của Laplace được xếp vào trong số đó.
Các tinh vân khác tạo thành một tập hợp gồm các cấu
tử có thể được xem như là độc
lập, chuyển động quay
của chúng tuân theo các luật nội trọng
lượng: đó là các tinh vân mà Kant và Faye chấp
nhận. Sự quan sát khiến chúng ta có thể truy nguyên
chúng tới tận thế giới hành tinh. Nhưng khi chúng
ta cố gắng vượt ra ngoài và vượt lên
tới tận thời kỳ hỗn mang bản sơ
đă sản sinh ra toàn bộ các thiên thể, th́
trước hết, chúng ta phải giải thích sự
tồn tại đích thực của hai loại tinh vân này.
Nếu chất hỗn mang bản sơ là một chất
khí lạnh lẽo phát quang, ([374])
chúng ta có thể hiểu được làm thế nào mà
sự co rút do sức hút lại làm cho nó nóng lên và sáng lên.
Chúng ta phải giải thích việc chất khí này cô
đặc thành ra trạng thái các cấu tử cháy
đỏ; kính quang phổ tiết lộ cho chúng ta thấy
sự hiện diện của các cấu tử đó trong
một vài tinh vân. Nếu chất hỗn mang nguyên thủy
gồm có các cấu tử như thế, th́ làm thế nào
mà một vài phần tử của chúng lại chuyển
thành trạng thái hơi, trong khi các cấu tử khác
lại duy tŕ t́nh trạng bản sơ ?
Đó là phần tóm tắt các lời phản
đối và các khó khăn cản trở việc chấp
nhận Thuyết Tinh Vân. Nhà bác học Pháp tŕnh bày như
trên đă kết thúc luận chứng đặc sắc này
bằng cách tuyên bố như sau:
Thế
th́ phần đầu của vấn đề vũ
trụ khởi nguyên luận – chất hỗn mang bản
sơ là ǵ? Làm thế nào mà chất này lại sản sinh ra
mặt trời và các ngôi sao? – cho đến nay vẫn c̣n là
một chuyện huyền hoặc và chỉ là điều
hoang tưởng. ([375])
Nếu đây là phán
quyết cuối cùng của khoa học và chủ đề
này, th́ chúng ta c̣n biết đường nào mà ṃ ra xem
Thuyết Tinh Vân, giả sử là, dạy cái ǵ ? Thật ra,
thuyết đó là ǵ? H́nh như chẳng ai biết chắc
được nó là cái ǵ. Nhà bác học, tác giả của
Sinh Hoạt Thế Giới lại dạy cho chúng ta
biết nó không phải là ǵ. Ông cho rằng :
1. Nó
không phải là một thuyết tŕnh bày về sự
tiến hóa của Vũ Trụ. Đó chủ yếu là
một lời giải thích khởi nguyên về các hiện
tượng của thái dương hệ; ngoài ra, đó c̣n
là sự phối hợp trong một quan điểm chung
của các hiện tượng chính yếu trong bầu
trời tinh đẩu và tinh vân, trong tầm nh́n của con
người.
324
2.
Nó không xem các sao chổi như
là có dính líu tới sự tiến hóa đặc biệt
đă tạo ra Thái Dương Hệ. [Nội môn Bí giáo
lại xem như vậy, v́ nó cũng “thừa nhận các
sao chổi như là các h́nh thức tồn tại vũ
trụ phối hợp với các giai đoạn
đầu của cuộc tiến hóa tinh vân”. Nó thực
sự gán cho chúng việc chủ yếu là tạo nên
mọi thế giới].
3. Nó không chối bỏ việc sương lửa
phát quang có một lịch sử tiền phong [giai
đoạn tiến hóa thứ yếu của Giáo Lư Bí
Nhiệm] [và]… không tự cho là ḿnh đă đạt tới
một sự khởi đầu tuyệt đối.
[Thậm chí nó c̣n chấp nhận là] sương lửa này
trước kia đă từng tồn tại trong một
trạng thái vô h́nh, lạnh lẽo, tối tăm.
4. [Cuối cùng] nó cũng chẳng tự nhận
là đă t́m ra Cội nguồn của vạn vật mà
chỉ t́m được một cột mốc trong
lịch sử của vật chất [mặc cho] các
triết gia và các nhà thần học tha hồ mưu t́m
nguồn gốc của các cách thức hiện tồn. ([376])
Như thế đâu phải là hết. ngay cả triết gia lỗi lạc nhất của Anh quốc, ông Herbert Spencer, cũng nổi lên chống lại thuyết hoang đường này bằng cách cho rằng: (a) Nó đâu có “giải quyết được vấn đề tồn tại”; (b) Thuyết tinh vân đâu có minh giải được nguồn gốc vật chất tản mạn; (c) “thuyết tinh vân (như hiện nay) hàm ư là có một Nguyên Nhân Bản Sơ” (“First Cause”). ([377])
Chúng tôi e rằng thuyết này c̣n quá xa so với những ǵ mà các nhà vật lư học hiện đại đă dự tính. Như thế, h́nh như là “giả thuyết” khốn khổ ấy khó ḷng có thể mong đợi là được trợ giúp và bổ chứng ngay cả trong giới siêu h́nh học.
Thấy thế, các nhà
Huyền bí học vững tin rằng họ có quyền
tŕnh bày triết thuyết của ḿnh, cho dù là hiện nay nó
có thể bị hiểu lầm và tẩy chay. Họ
quả quyết rằng việc các nhà khoa học không khám
phá ra được chân lư hoàn toàn là v́ họ quá Duy vật
và xem thường các khoa học siêu việt. Song mặc dù
các nhà khoa học trong thế kỷ này chưa đạt
được thuyết tiến hóa chân chính, vẫn c̣n
một vài hy vọng nào đó cho tương lai, v́ ngay
cả hiện nay, chúng ta vẫn thấy một nhà khoa
học khác khiến chúng ta có được tia hy vọng
chập chờn.
Trong một bài đăng trên Tạp chí Khoa Học Phổ Thông bàn về “Các cuộc Khảo cứu cận đại trong Sự sống tế vi”, chúng ta thấy ông H. J. Slack cho rằng :
Hiển
nhiên là mọi khoa học – từ vật lư học tới
hóa học và sinh lư học – đều hội tụ về
một thuyết tiến hóa nào đó. Các sự kiện
của thuyết tiến hóa Darwin sẽ là một phần
của thuyết này, nhưng liệu cuối cùng thuyết
này sẽ ra sao, th́ chẳng có mấy (nếu không muốn
nói là chẳng hề có) bằng chứng. Có lẽ trí
người sẽ chỉ h́nh dung ra nó khi các cuộc
điều nghiên về vật lư học cũng như là
siêu h́nh học đă tiến xa hơn nữa. ([378])
Đây thật
đúng là một lời tiên đoán hay. Bấy giờ,
sẽ tới lúc mà “Sự Chọn lọc Tự nhiên”
(“Natural Selection”), do các ông Darwin và Herbert Spencer chủ
trương, sau khi đă biến hóa hết mức, chỉ
tạo thành một
phần của thuyết
tiến hóa Đông phương mà Đức Bàn Cổ và
Kapila sẽ thuyết minh về
mặt Nội môn.
325
TIẾT 13
LỰC
LÀ CÁC CÁCH THỨC CHUYỂN ĐỘNG
HAY
LÀ CÁC ĐẤNG THÔNG TUỆ
(FORCES
- MODES OF MOTION OR INTELLIGENCES)
THẾ th́, đó là
phán quyết cuối cùng của vật lư học măi tới
năm nay (1888). Các luật Cơ học sẽ không bao
giờ có thể chứng
tỏ được là Vật Chất Bản Sơ
(Primeval Matter) có tính thuần trạng, trừ phi
người ta suy diễn, xem như nó thật là cần
thiết trong lúc tuyệt vọng, khi không c̣n giải pháp nào
khác (chẳng hạn như trong trường hợp Ether).
Khoa học hiện đại chỉ vững ḷng trong phạm
vi riêng của ḿnh, bên trong các biên giới vật lư của
Thái Dương Hệ chúng ta. Bên ngoài các biên giới này,
mọi vật, mọi cấu tử Vật Chất
đều khác hẳn với Vật Chất mà khoa học
biết; vật chất ở đó tồn tại ở
các trạng thái mà khoa học không thể h́nh dung
được. Chất này, vốn thực sự là
thuần trạng, vượt quá tầm tri giác của con
người nếu tri giác này chỉ xuất phát từ
năm giác quan. Chúng ta cảm thấy các tác dụng của
nó xuyên qua các ĐẤNG THÔNG
TUỆ, vốn là kết
quả của sự biến phân bản sơ của nó.
Chúng ta gọi các Đấng này là các Thiền Định
Đế Quân (Dhyăn Chohans); trong các tác phẩm của Hermes,
các Ngài được gọi là “Bảy Đấng Cai
Quản” (“Seven Governors”); Pymander (Tư Tưởng Thiêng
Liêng) gọi các Ngài là các “Quyền Năng Kiến Tạo”
(“Building Powers”), c̣n Asklepios gọi các Ngài là “Chư Thần
Linh Siêu Việt”. Ngay cả một số nhà thiên văn
học cũng đă bị dồn vào thế phải tin
tưởng vào chất này – Chất Nguyên Thủy thực
sự, Thực Tượng của mọi “chất” mà chúng
ta đă biết tới – v́ họ thất vọng về
việc có thể giải thích được sự quay,
lực hấp dẫn và nguồn gốc của bất
kỳ luật vật lư cơ giới nào, trừ phi khoa
học thừa nhận các ĐẤNG
THÔNG TUỆ này. Trong tác
phẩm thiên văn học nêu trên của Wolf, ([379]) tác giả thừa nhận trọn
cả thuyết của Kant và thuyết sau (nếu không
phải xét chung th́ dù sao cũng là một vài đặc
điểm); điều này nhắc chúng ta nhớ ngay
tới một vài Giáo lư Nội môn. Ở đây, chúng ta có
hệ thống thế giới phục sinh từ đống tro tàn, qua một tinh vân – nó từ các thiên
thể xạ ra, bất động và tan ḥa trong Không gian,
do Trung Tâm Thái Dương cháy
đỏ - được
vật chất có thể cháy được của các hành
tinh khơi hoạt lại. Thuyết này được một
thanh niên vừa mới hai mươi lăm tuổi khai sinh
ra và phát triển, y chưa bao giờ rời khỏi nơi
sinh quán của ḿnh, là Konigsberg, một thị trấn ở
Bắc Phổ (Northern Prussia). Người ta khó ḷng mà không
nhận ra
326
được
sự hiện diện của một quyền năng linh
cảm ngoại tại hoặc là một bằng chứng
về sự tái sinh luân hồi trong thuyết đó theo
như các nhà Huyền bí học nhận thấy. Nó đă
lấp đầy được một khoảng
trống mà bậc thiên tài Newton cũng không làm
được. Nó chắc chắn là Vật Chất
Bản Sơ (Primeval Matter), Tiên Thiên khí (Ăkăsha), mà Kant đă
quan niệm ra khi ông nêu ra một định đề
về một Chất nguyên thủy thấm nhuần vũ
trụ để giải quyết khó khăn của Newton.
Ông đă không thể chỉ dùng các lực thiên nhiên không thôi
để giải thích xung lực nguyên thủy
được truyền thụ cho các hành tinh. Ấy là v́
như ông đă nhận xét trong Chương viii, nếu
một khi người ta thừa nhận rằng sự hài
ḥa toàn bích của các Ngôi sao và các Hành Tinh và sự trùng nhau
của các mặt phẳng quỹ đạo của chúng
chứng tỏ rằng có tồn tại một Nguyên nhân
tự nhiên (vốn là Nguyên nhân bản sơ) “Nguyên nhân
đó chẳng thể thực sự là vật chất tràn
lấp các không gian thiên giới ngày nay”. Nó phải là cái
đă tràn lấp Không gian – chính là Không gian – nguyên thủy;
chuyển động của nó trong Vật Chất đă
biến phân là nguồn gốc của các chuyển
động thực sự của các thiên thể; “khi cô
đặc lại trong chính thiên thể này, chất đó
sẽ từ bỏ vùng không gian nay đă trống rỗng”.
Nói cách khác, nó cũng là thứ vật Chất nay đang
tạo thành các hành tinh, các sao chổi và chính Mặt
Trời. Vật Chất đó, vốn đă hợp thành các
thiên thể này, lại duy tŕ tính chất chuyển
động cố hữu của ḿnh. Tính chất ấy
đang tập trung trong các hạt nhân của chúng và điều khiển
mọi chuyển động. Chỉ cần thay đổi
một chút cách dùng từ ngữ của thuyết này và
bổ sung thêm một ít điều th́ chúng ta sẽ
biến nó thành Nội môn Bí giáo.
Nội môn Bí giáo
dạy rằng Vật
Chất Nguyên Thủy, thiêng
liêng và thông tuệ này vốn là phân thân trực tiếp
của Toàn Linh Trí, Daiviprakriti – Ánh Sáng Thiêng Liêng ([380]) do Thượng Đế xạ ra –
nó tạo thành hạt nhân của mọi thiên thể “tự
hành” trong Càn Khôn. Đó là quyền năng linh động
hằng hữu, nguyên sinh khí, Sinh Hồn của các Mặt
Trời, Mặt Trăng, Hành Tinh, thậm chí của cả
Trái đất nữa. Một thứ tiềm tàng, một
thứ tích cực – đó là Đấng Vô H́nh chưởng
quản thể thô trược liên kết với Linh
Hồn của nó; song le, Linh Hồn này chính là phân thân tinh
thần của các Chơn Linh Hành Tinh tương ứng.
Một thuyết có
tính cách hoàn toàn Huyền bí khác là thuyết của Kant. Theo
thuyết này, vật chất cấu thành của các cư
dân và các con thú của các Hành Tinh khác có bản chất tinh anh hơn và cấu tạo
hoàn thiện hơn, tùy theo khoảng cách từ chúng tới
Mặt Trời. Mặt
Trời đầy tràn sinh điện và nguyên khí cung
ứng sự sống vật chất. Do đó, nhân loại
trên Hỏa Tinh thanh bai hơn chúng ta, trong khi nhân loại trên
Kim Tinh lại thô trược hơn, mặc dù thông minh
hơn nhiều (ít ra là về mặt tinh thần).
327
Thuyết sau cùng không
hoàn toàn là thuyết của chúng ta – thế nhưng các
thuyết này của Kant vẫn có tính cách siêu h́nh và siêu
việt như bất kỳ Thuyết huyền bí nào.
Nếu thiên hạ dám thố lộ cảm nghĩ của
ḿnh th́ ít ra là cũng có một nhà khoa học chấp
nhận chúng như Wolf. Từ cái Trí Tuệ và Linh Hồn
của các Mặt Trời và Tinh Tú của Kant tới Toàn
Linh trí và Vật Chất của kinh Purănas chỉ có một
bước. Tuy vậy, khoa học mà có thừa nhận
thuyết này th́ cũng chỉ là thừa nhận một
chính nghĩa tự nhiên thôi, cho dù nó có tin tưởng hay
không các điều siêu h́nh đó. Thế mà Toàn Linh Trí
lại là một “Thần Linh” và sinh lư học chỉ xem
“thể trí” như là một chức năng tạm thời
của khối óc vật chất, không hơn không kém.
Con Quỷ Duy Vật
(the Satan of Materialism) nay chế nhạo và chối bỏ
cả thế giới hữu h́nh lẫn thế giới vô
h́nh. Vốn chỉ thấy nơi ánh sáng, nhiệt,
điện, thậm chí cả hiện tượng sống
nữa, các tính cố hữu trong vật chất, nó
cười rộ lên bất cứ khi nào người ta
gọi sự sống là NGUYÊN
SINH KHÍ (VITAL PRINCIPLE) và
nhạo báng ư tưởng cho rằng nó độc lập
và riêng biệt với cơ thể.
Nhưng ở đây giới khoa học lại bất đồng ư kiến với nhau, có nhiều nhà khoa học chấp nhận các quan điểm giống y như quan điểm của chúng ta. Chẳng hạn như chúng ta hăy thử xem Bác sĩ Richardson – Hội viên Hội Hoàng Gia – đă được trích dẫn nhiều lần ở đâu đó, tŕnh bày về các nguyên sinh khí mà ông gọi là “Ether Thần Kinh”.
Tôi
chỉ đề cập tới một tác nhân vật
chất thật sự, mặc dù có thể là tinh anh
đối với quảng đại quần chúng,
nhưng nó vẫn có thực và có thực chất. Đó là
một tác nhân có trọng lượng và thể tích; một
tác nhân có thể bị hóa hợp, do đó nó có thể
bị thay đổi trạng thái vật lư; một tác nhân
thụ động, luôn luôn bị các tác dụng khác ảnh
hưởng tới chuyển động của ḿnh;([381]) một tác nhân không
có năng lực phát khởi, không có năng lực tự
nhiên; ([382]) tuy nhiên, nó vẫn
c̣n giữ một vai tṛ chủ yếu trong việc tạo
ra các hiện tượng do tác dụng của năng
lượng đối với chất hữu h́nh.([383])(visible matter)
V́ hiện nay, sinh
học và sinh lư học đều chối bỏ hoàn toàn
sự tồn tại của một Nguyên sinh khí,
đoạn văn trích dẫn trên, cùng với sự
thừa nhận của De Quatrefages, rơ rệt là xác nhận
rằng một số nhà khoa học có cùng quan điểm
về các “vấn đề Huyền bí” với các nhà Minh
Triết Thiêng Liêng và các nhà Huyền bí học. Họ
thừa nhận là có một Nguyên sinh khí riêng biệt
độc lập với cơ thể (vật chất) –
dĩ nhiên là như vậy, v́
Lực vật lư đâu có thể nào tách rời khỏi
Vật Chất – tuy nhiên, nó
được cấu thành bởi một Chất tồn
tại trong trạng thái mà khoa học c̣n chưa biết.
Đối với họ, Sự
Sống đâu phải đơn thuần chỉ là sự
tương tác của các phân tử và các nguyên tử. Nếu không có Nguyên sinh khí, sẽ
không bao giờ có các sự phối hợp phân tử trong
một cơ thể sống, lại càng không thể có
được trong cái gọi là Chất “thô sơ” của
cảnh giới tri giác của chúng ta.
Khi dùng sự từ ngữ “sự phối hợp phân tử”, dĩ nhiên là chúng ta có ư muốn nói tới sự phối hợp của Vật Chất phấn khích của tri giác hăo huyền hiện nay của chúng ta trên cảnh giới này. Đó chính là điều tranh luận chủ yếu. ([384])
328
Như thế, đâu
phải chỉ có một ḿnh các nhà Huyền bí học là tin
như vậy. Song le, họ cũng đâu có quá điên
rồ khi bác bỏ cả “trọng lực” của khoa
học hiện đại cùng với các luật vật lư khác, rồi lại chấp nhận sức hút và sức
đẩy thay vào đó. Hơn
nữa, họ chỉ xem hai Lực đối lập này là
hai khía cạnh của Vũ Trụ được
mệnh danh là THẦN TRÍ
BIỂU LỘ (MANIFESTING MIND). Nhờ vào các nhà Thần nhăn
đại tài, Huyền bí học đă tri giác
được nơi các trạng thái này một Đại
đoàn gồm hằng hà sa số các Thực Thể tác
động: đó là các Thiền Định Đế Quân,
các Thực Thể có bản chất lưỡng phân là Nguyên
nhân của mọi hiện tượng trên trần thế.
Bản thể ấy có cùng bản chất với Biển
Điện vũ trụ (universal Electric Ocean), tức là SỰ SỐNG,
và có tính cách lưỡng
phân – dương và âm – Chính các
bức xạ của lưỡng nguyên ấy nay đang tác
dụng trên trần thế và được mệnh danh là
“các cách thức chuyển động”. nay người ta c̣n
không muốn nhắc đến từ ngữ Lực, e rằng thiên hạ sẽ phân
biệt nó với Vật Chất (dù chỉ là mới
nghĩ thế thôi). Theo Huyền bí học, chính các tác
dụng lưỡng phân của bản thể lưỡng
phân ấy nay đă được gọi là lực ly tâm và
hướng tâm, cực dương và cực âm hay sự
phân cực, nóng và lạnh, ánh sáng và bóng tối v.v…
Người ta c̣n
quả quyết thêm nữa là khi tin tưởng – cho dù mù
quáng liên hệ và truy nguyên tất cả tới một
Thượng Đế nhân h́nh – vào các Thiên Thần, Tổng
Thiên Thần, Đại Thiên Sứ, Thiên Sứ Tối Cao
(Seraphs), Sao Mai, tóm lại, mọi khoái lạc thần
học của nhân loại đang chủ tŕ các Hành Vũ
Trụ, các tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă và Hy Lạp
thời xưa c̣n sáng suốt hơn khoa học khi hoàn toàn
không tin vào các Đấng này và ủng hộ các Lực
cơ giới. Ấy là v́ các thứ này thường tác
động c̣n thông minh và thích đáng hơn cả con
người. Tuy nhiên, người ta lại chối bỏ
trí thông tuệ này và gán cho nó sự may rủi mù quáng.
Nhưng nếu De Maistre thật là chí lư khi xem luật
hấp dẫn lực chỉ là một từ ngữ thay
thế cho “một điều ǵ chưa biết”, th́ chúng ta
cũng có lư khi nhận xét đúng như vậy về
mọi Lực khác của khoa học. Nếu
người ta phản đối rằng vị Bá
Tước ấy là một tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă
ngoan đạo, th́ chúng ta có thể trích dẫn Le Couturier,
một kẻ Duy vật nhiệt thành, ông cũng phát
biểu y như vậy, giống như Herschel và nhiều người
khác.([385])
Từ chư Thiên tới con người, từ Thế giới tới nguyên tử, từ Ngôi sao tới cây nến, từ Mặt Trời tới sinh nhiệt của thực thể hữu cơ tầm thường nhất, thế giới Tồn tại sắc tướng là một sợi xích bao la với mọi khâu xích đều liên kết với nhau. Luật Tương Tự (the Law of Analogy) là ch́a khóa đầu tiên để giải quyết vấn đề của thế giới, các khâu xích này phải được nghiên cứu một cách liên hợp xét về các quan hệ Huyền bí của chúng với nhau.
329
Do đó, khi Giáo Lư Bí Nhiệm – vốn có
một định đề cho rằng không gian hữu
hạn không thể tồn tại thực sự ngoại
trừ trong thế giới hăo huyền này, hoặc nói cách
khác, trong các năng lực tri giác của chúng ta – dạy
rằng mọi thực thể ở thượng giới
cũng như hạ giới đều ḥa hợp với
ngoại giới của riêng chúng ta và dạy rằng, xét
về vị trí, hàng triệu sự vật và thực
thể đang ở xung quanh, cùng với và trong chúng; đây
chẳng phải là lời nói bóng bẩy siêu h́nh, mà lại
là một chân lư nghiêm chỉnh trong Thiên Nhiên, mặc dù các
giác quan của chúng ta không hiểu được.
Nhưng người
ta phải hiểu cách nói của Huyền bí học
trước khí chỉ trích các điều mà nó khẳng
định. Chẳng hạn như, Nội môn Bí giáo –
cũng như khoa học, theo một ư nghĩa nào đó –
không chịu dùng các từ ngữ “trên”, “dưới”,
“thượng đẳng”, “hạ đẳng” khi
đề cập tới các cảnh giới vô h́nh, v́ ở đây, chúng chẳng có ư
nghĩa ǵ cả. Ngay cả các từ ngữ “Đông” và
“Tây” cũng chỉ là qui ước, chỉ cần dùng
để giúp cho các tri giác của con người. Ấy là
v́, mặc dù Trái Đất có hai cực Nam, Bắc là hai
điều cố định, song cả Đông lẫn Tây
đều tùy thuộc vào vị trí của chúng ta trên
mặt Địa Cầu, v́ do đó, tùy thuộc vào sự
quay của nó từ Tây sang Đông. V́ thế, khi nhà
Huyền bí học đề cập đến các “thế
giới khác” – dù là thiện hay ác, có tính cách tinh
thần hay vật chất, mặc dù cả hai đều
là vô h́nh – y không định vị các cảnh giới này ở bên ngoài hoặc bên trong Địa
cầu như các nhà thần học và các thi sĩ
thường lầm tưởng’ v́ kẻ phàm tục không
thể biết
được, hoặc h́nh
dung ra được vị trí của chúng trong không gian.
Chúng ḥa lẫn với thế giới chúng ta, xuyên thấu
qua nó, rồi bị nó xuyên thấu qua. Có hàng triệu
thế giới và bầu trời mà chúng ta có thể
thấy được, c̣n có nhiều thế giới
hơn nữa vượt quá tầm nh́n của kính viễn
vọng, nhiều thế giới thuộc loại này không
dính dáng ǵ với ngoại giới của chúng ta. Mặc dù
vô h́nh như thể ở bên ngoài Thái Dương Hệ
chúng ta hàng triệu dặm, song chúng vẫn tồn tại
cùng với chúng ta, gần gũi bên chúng ta, bên trong chính thế giới của chúng ta;
chúng cũng là vật chất ngoại cảnh đối
với các cư dân của riêng chúng chẳng khác nào thế
giới của chúng ta đối với chính chúng ta. Vả
lại, quan hệ của các thế giới này với
thế giới chúng ta không phải là quan hệ của
một loạt cái hộp giống như h́nh trứng
lồng vào nhau như các món đồ chơi
được gọi là tổ chim Trung Quốc; mỗi
thế giới đều hoàn toàn tuân theo các định
luật và điều kiện riêng của nó, không có quan
hệ trực tiếp với thế giói chúng ta. Như
đă nói, tất cả chúng ta đều biết hoặc
cảm thấy là có thể đi xuyên qua và chung quanh chúng ta như thể đi qua vùng không
gian trống rỗng; trú sở của chúng ḥa lẫn
với trú sở của chúng ta, mặc dù không làm xáo
trộn thị giác của chúng ta, v́ chúng ta chưa có các
năng khiếu để nhận rơ được chúng.
Thế nhưng, nhờ có linh nhăn, các Cao đồ, thậm
chí cả một vài nhà thần nhăn và thông linh nữa, luôn
luôn có thể nhận rơ được, trong một mức
độ nào đó, sự hiện diện gần gũi
với chúng ta của các Thực Thể thuộc về các
cảnh giới sinh hoạt khác. Các Đấng thuộc
về các cơi giới tinh thần cao siêu chỉ liên giao
với thế nhân nào đă có những nỗ lực
bản thân để thăng lên tới cảnh giới cao
mà các Ngài đang ngự.
330
Các đứa con ở Trần Thế (Bhũmi) coi
các đứa Con ở
Thiên Giới (Devas-lokas) như là chư Thiên của
ḿnh; các đứa con ở cơi giới thấp lại
ngưỡng mộ loài người ở Trần Thế như là chư Thiên của họ; con
người vẫn c̣n u mê chẳng biết ǵ về
điều này… Họ
[con người] run
sợ trước chúng trong khi sử dụng chúng [cho các mục đích pháp thuật]… Giống
người thứ Nhất là các “Đứa Con Trí Sinh” (“Mind-born Sons”) của
Đấng nêu trên. Các
Pitris và chư Thiên là tổ phụ của chúng
ta.([386])
Cái gọi là “lớp
người trí thức” thường chế giễu ư
niệm về Phong tinh linh (Sylphs), Hỏa tinh linh
(Salamanders), Thủy tinh linh (Undines); các nhà khoa học xem
bất cứ lời nào đề cập tới các
điều mê tín dị đoan như vậy là một
điều lăng mạ. Với một thái độ
khinh thường của lương tri ưa lư luận
(đó thường là đặc quyền của “giới
có thẩm quyền được thừa nhận”),
họ đă khiến cho những kẻ mà họ có bổn
phận dạy dỗ, có cảm tưởng rằng trong
khắp Càn khôn vũ trụ, hoặc dù sao đi nữa,
trong bầu khí quyển riêng của chúng ta, ngoài chúng ta ra ([387]) chẳng c̣n thực thể hữu
thức thông tuệ nào khác. Bất cứ giống
người nào khác (gồm có những con người riêng
biệt) – ngoại trừ giống người có hai chân
hai tay, một đầu và các đặc điểm
của con người – sẽ không được gọi
là nhân loại, mặc dù từ nguyên của từ ngữ
này h́nh như chẳng có liên quan ǵ mấy với dáng vẻ
xét chung của một tạo vật. Như vậy, trong
khi hoa học khắt khe bác bỏ ngay cả việc có
thể có các tạo vật vô h́nh, đối với chúng ta
nói chung, như thế, th́ xă hội lại bắt buộc
phải công khai chế nhạo ư tưởng này, mặc dù
tất cả lại âm thầm tin tưởng vào nó. Nó hoan
hô các tác phẩm như Bá Tước Gabalis, mà lại không
thể hiểu được rằng sự châm biếm công khai là
chiếc mặt nạ an toàn nhất.
Dù sao đi nữa, các thế giới vô h́nh như thế vẫn tồn tại. Cũng đầy dẫy dân cư như thế giới chúng ta, chúng rải rác khắp Không gian biểu kiến với số lượng không biết cơ man nào mà kể; một số có tính cách vật chất hơn thế giới chúng ta, một số lại tinh anh hóa dần dần cho đến khi chúng trở nên vô h́nh và giống như là các “Linh khí”. Sự kiện mắt phàm của chúng ta không thấy chúng chẳng phải là lư do khiến chúng ta không tin tưởng vào chúng. Các nhà vật lư học cũng đâu có thấy Ether, Nguyên tử, các “cách thức chuyển động tức Lực. Song họ vẫn chấp nhận và giảng dạy chúng.
331
Ngay cả trong thế giới
tự nhiên mà chúng ta đă từng quen thuộc, nếu chúng
ta đă thấy có những chất tương tự
phần nào với cái quan niệm khó hiểu về các
thế giới vô h́nh như thế, th́ h́nh như việc
thừa nhận rằng có thể có một sự hiện
diện như thế cũng đâu có khó thực hiện
bao nhiêu. Cái đuôi sao chổi – mặc dù khiến chúng ta chú
ư v́ nó sáng chói, song không cản trở tầm nh́n sự
vật của chúng ta; chúng ta vẫn trông thấy vạn
vật xuyên qua và vượt qua nó – chính là bước
đầu tiên dẫn tới một bằng chứng
về vấn đề này. Đuôi sao chổi lướt
nhanh qua chân trời của chúng ta mà chúng ta chẳng cảm
thấy hay tri giác được, ánh quang huy của nó
thường chỉ được nhận ra bởi
những người quan tâm tới hiện tượng này;
trong khi đó, mọi người khác vẫn không biết
ǵ về sự hiện diện của nó và việc nó băng ngang qua một phần trái đất của
chúng ta. Cái đuôi này có thể (hoặc chưa chắc)
đă là toàn bộ sao chổi, nhưng độ tinh anh
của nó vẫn giúp chúng ta dùng nó như là một minh
họa. Thật vậy, chẳng có ǵ là mê tín dị
đoan, mà chỉ là một kết quả của khoa
học siêu việt (và của luận lư nữa) khi chúng ta
thừa nhận sự tồn tại của các thế
giới được tạo thành bởi vật chất
c̣n tinh anh hơn đuôi sao chổi. Khi chối bỏ
một khả năng như thế, trong thế kỷ
vừa qua, khoa học đă chẳng làm lợi cho Triết
học cũng như là Tôn giáo chân chính, mà chỉ làm lợi
cho Thần học thôi. Đế có thể tranh luận
thắng lợi hơn về sự tồn tại của
nhiều thế giới vật chất (một niềm tin
mà nhiều giáo sĩ cho là không phù hợp với các giáo lư
trong Thánh kinh, ([388]) Maxwell đă phải vu cáo lưu danh
của Newton, và ra sức thuyết phục công chúng là các
nguyên lư bao hàm trong triết thuyết của Newton là các
“nguyên lư căn bản của mọi hệ thống vô
thần”.([389])
Giáo sư Winchell cho rằng: “Tiến sĩ Whewell đă tranh luận về việc có nhiều thế giới bằng cách cầu cứu tới bằng chứng khoa học”.([390]) Và nếu người ta có thể bàn căi hăng say bao nhiêu về việc có thể có cư dân trong các thế giới hồng trần của các hành tinh và hằng hà sa số sao lấp lánh trên đầu chúng ta, th́ lại có ít cơ may bấy nhiêu để cho người ta chấp nhận là có các thế giới vô h́nh bên trong vùng không gian trong suốt một cách biểu kiến của chúng ta !
Nhưng nếu chúng
ta có thể quan niệm ra một thế giới gồm có
Vật Chất c̣n tinh anh hơn đuôi sao chổi
(đối với các giác quan của chúng ta), v́ thế, cư
dân của nó cũng có mức độ tinh anh tỷ
lệ với bầu thế giới của chúng (cũng
như chúng ta khi so sánh với Địa Cầu vỏ
cứng nhắc đầy đất đá), th́ đâu có
ǵ đáng ngạc nhiên nếu chúng ta không tri giác
được chúng, không cảm thấy sự hiện hữu
và sự tồn tại của chúng. Có điều là ư
tưởng này có ǵ mâu thuẫn với khoa học không?
Chẳng lẽ chúng ta không thể giả sử là con
người, con vật, cây cỏ, đất đá
được phú cho một loạt giác quan khác hẳn
với các giác quan mà chúng ta có hay sao? Chẳng lẽ cơ
thể của chúng không thể được sinh ra, phát
triển và tồn tại theo các luật khác với các
luật chi phối thế giới bé nhỏ của chúng ta
hay sao? Mọi thực thể có nhất thiết phải
khoác lấy “các lớp áo bằng da” giống như Adam và
Eve trong huyền thoại Sáng Thế Kư không? Tuy nhiên, hơn
một nhà khoa học đă bảo với chúng ta rằng:
“Tính hữu thể có thể tồn tại trong những
t́nh huống rất khác nhau”.
332
Luận về việc có nhiều thế
giới, Giáo sư Winchell đă nhận xét như sau:
Không
lẽ các chất chịu được nhiệt lại
có thể trộn lẫn với các chất khác, mà chúng ta
biết hay không biết, v́ chúng nó có thể chịu
được mức độ biến thiên nhiệt
độ lớn hơn so với các cơ thể trên
địa cầu. Mô của các con thú trên địa
cầu th́ thích hợp với hoàn cảnh trên địa
cầu. Thế nhưng, ngay ở đây, chúng ta vẫn
thấy các loài thú vật khác nhau thích ứng với
cuộc thử thách của các t́nh huống rất khác nhau …
Việc một con vật phải có bốn chân hay hai chân
không tùy thuộc vào các nhu cầu tổ chức, bản
năng hay trí thông minh. Việc một con thú chỉ có
đúng năm giác quan không phải là một nhu cầu
của sự tồn tại có tri giác. Trên địa
cầu có thể có những con thú không có khứu giác mà
cũng chẳng có vị giác. Trên các thế giới khác
thậm chí ngay trên thế giới này, có thể có những
thực thể có nhiều giác quan hơn chúng ta.
Điều này hiển nhiên là khả hữu khi chúng ta xét
thấy rất có thể là có các tính chất khác, và các cách
thức tồn tại khác trong số các cội nguồn
của vũ trụ, thậm chí của cả vật
chất trên trái đất nữa. Có các con vật vẫn
sống sót ở những nơi mà con người có lư trí
sẽ chết mất – dưới đất, dưới
sông, dưới biển… (và trong những trường
hợp đó, tại sao lại không có những con
người với các cơ cấu tổ chức khác nhau?)…
Chẳng sự tồn tại có lư trí, phi thể, bị
khống chế về mặt nhiệt huyết cũng
như về mặt nhiệt độ nào làm thay
đổi được các dạng vật chất có
thể cấu thành cơ thể ấy. Có thể có các trí
thông tuệ được thể hiện dựa vào
một khái niệm nào đó không liên can tới các tiến tŕnh
ăn vào, đồng hóa và sinh dục. Các cơ thể
như thế hằng ngày đâu phải cần tới
thực phẩm và nhiệt lượng. Chúng có thể
bị đắm ch́m trong các vực thẳm của
đại dương, hoặc là bị ném lên trên một
vách đá lởm chởm do những cơn băo tố,
cuồng nộ vào một mùa đông ở Bắc Cực,
hoặc là bị nhận ch́m vào một núi lửa trong hàng
trăm năm; thế nhưng, chúng vẫn c̣n giữ nguyên
vẹn được tri thức của ḿnh. Điều
này cũng có thể quan niệm được. Tại sao
các bản chất tâm linh lại ẩn tàng trong viên đá
lửa và bạch kim bất hoại? Các chất này đâu
có bản chất thông tuệ hơn carbon, hygrogen, oxygen và
vôi. Nhưng chẳng cần suy nghĩ rốt ráo như
vậy [?], chúng ta cũng thấy một trí thông tuệ
xuất chúng không thể biểu lộ nơi các tâm
trạng dửng dưng với ngoại cảnh như cây
đan sâm ở vùng đồng bằng phía Tây, địa y
ở Labrador, giống như xa luân trùng (rotifers) vẫn khô
queo trong hàng năm hay là các vi khuẩn vẫn sống
được khi đi qua nước sôi… Các điều
gợi ư này để nhắc độc giả nhớ
rằng không thể luận chứng được bao nhiêu,
liên quan tới các điều kiện cần thiết
của sự tồn tại thông tuệ, có tổ chức
theo tiêu chuẩn của sự tồn tại vật
thể trên địa cầu. Xét về mặt bản
chất, trí thông tuệ cũng có tính chất phổ quát
đại đồng như các luật vũ trụ. Các
vật thể chỉ là sự thích ứng cục bộ
của trí thông tuệ với các biến thái đặc thù
của vật chất và thần lực vũ trụ. ([391])
333
Do các khám phá của cũng cái khoa học
chối bỏ hết cả đó, chẳng lẽ chúng ta
không biết rằng xung quanh chúng ta có hằng hà sa số
các sinh linh vô h́nh hay sao? Nếu các vi trùng, vi khuẩn và toàn
thể các sinh linh cực vi đều không thể thấy
được v́ chúng quá nhỏ, th́ ở cực kia,
chẳng lẽ không thể có các thực thể vô h́nh v́
cấu trúc hay vật chất của nó thật sự có
tính cách tế vi hay sao ? Ngược lại, về phần
tác dụng của vật chất sao chổi, chẳng
lẽ chúng ta không có một gương mẫu nào khác
về một h́nh thức bán hữu h́nh của Sự
Sống và Vật Chất hay sao? Khi rọi vào căn nhà
của chúng ta, tia sáng mặt trời làm lộ ra hằng hà
sa số các vi sinh vật tồn tại độc lập,
bất kể các giác quan vật chất thô trược
của chúng ta có tri giác được chúng hay không. Các vi
trùng, vi khuẩn và các thực thể vô h́nh giống như
vậy trong các nguyên tố khác cũng đều như
thế cả. Chúng ta đă thờ ơ không quan tâm tới
chúng trong hàng thế kỷ dài vô minh chán nản, sau khi
ngọn đèn minh triết trong các hệ thống triết
học thâm thúy và ngoại đạo không c̣n soi sáng cho các
thời đại cố chấp và mê tín của Thiên Chúa
giáo buổi sơ khai: nay chúng ta lại sẵn sàng lờ
chúng đi.
Thế mà, bấy giờ các sinh linh vẫn bao quanh chúng ta như hiện nay. Chúng đă tác động theo các luật riêng của chúng và chỉ tới khi khoa học dần dần tiết lộ tung tích chúng th́ chúng ta mới biết tới chúng và các hiệu quả do chúng tạo ra.
Thế giới
phải mất bao lâu mới được như hiện
nay ? Nếu chúng ta có thể bảo rằng ngay cả măi
tới hiện nay, bụi vũ trụ, “mà trước đó
chưa bao giờ thuộc về trái đất”,([392]) mới đến với địa
cầu chúng ta. C̣n ǵ hợp lư hơn là tin tưởng –
giống như các nhà Huyền bí học – rằng biết
bao nhiêu triệu năm trôi qua từ khi bụi đó tụ
tập lại và tạo thành Địa Cầu mà chúng ta
sống quanh hạt nhân của nó gồm Chất Liệu
Nguyên Thủy thông tuệ. Nhiều giống người – khác
hẳn với nhân loại chúng ta hiện nay, cũng
chẳng khác nào giống người sẽ tiến hóa trong
hàng triệu năm nữa khác với giống dân hiện
nay – đă xuất hiện rồi lại biến mất
khỏi địa cầu, chính chúng ta cũng vậy. Các
giống người sơ khai và xa xưa ấy đă
bị chối bỏ, v́ theo các nhà địa chất
học, họ đă không để lại một di tích rơ
rệt nào. Mọi dấu vết của họ đều
biến mất rồi, do đó, xem như họ chưa bao
giờ tồn tại. Thế nhưng, người ta
phải t́m ra các di tích của họ - mặc dù là có rất
ít – chúng phải được các cuộc khảo sát
địa chất khám phá ra. Nhưng dù chưa bao giờ
phát hiện được các di tích đó, cũng chẳng
có lư do ǵ tuyên bố rằng chẳng có ai đă từng
sống trong các thời kỳ địa chất mà chúng ta
gán cho sự hiện diện của họ trên địa
cầu. Ấy là v́, cơ thể của họ đâu
cần máu nóng, không khí, thực phẩm. Tác giả của
Sinh Hoạt Thế Giới thật là chí lư và chẳng có ǵ
là quá lố khi tin tưởng – giống như chúng ta –
rằng dựa vào các giả thuyết khoa học, nếu
đến này có thể có “các bản chất tâm linh ẩn
tàng trong viên đá lửa và bạch kim bất hoại”, th́
ắt cũng đă có các bản chất tâm linh ẩn tàng
trong các dạng Vật Chất Bản Sơ cũng bất hoại, đó chính là các tổ phụ của
Giống dân thứ Năm của chúng ta.
334
Do đó, trong quyển 3 và 4, khi đề
cập tới những người ở trên Quả
Đất này cách đây 18 000 000 năm, chúng ta không nghĩ
tới những người thuộc các giống dân
hiện nay, cũng như là các luật khí quyển, t́nh
trạng nhiệt v.v… Trái Đất và Nhân loại cũng
như là Mặt Trời, Mặt Trăng và các Hành Tinh,
tất cả đều tăng trưởng, biến
dịch, phát triển và tiến hóa dần dần trong các
chu kỳ sống của ḿnh. Chúng đều
được sinh, trở thành các hài nhi, thiếu nhi, thanh
niên, trung niên, già rồi chết. Thế th́ tại sao Nhân
loại lại không tuân theo các luật đại
đồng vũ trụ này ? Uriel bảo Enoch như sau :
Coi
này, Enoch, ta sẽ chỉ cho con mọi chuyện … Con
thấy mặt trời, mặt trăng và các Đấng
điều động các ngôi sao trên trời khiến chúng
tác động, tạo ra các mùa và các sự văng lai. Vào
thời buổi tội lỗi, năm tháng sẽ ngắn
đi… mọi sự việc trên địa cầu sẽ
bị đảo lộn… mặt trăng sẽ thay
đổi các luật của ḿnh.([393])
Thời buổi tội lỗi có nghĩa là thời buổi mà Vật Chất sẽ tung hoành trên Địa Cầu, con người đă phát triển tột độ về vóc dáng và thú tính. Điều này đă diễn ra trong thời Atlante vào khoảng giữa Căn chủng thứ Tư, nó đă bị nhận ch́m theo lời tiên tri của Uriel. Từ đó, con người đă giảm dần vóc dáng, sức lực, tuổi tác (điều này sẽ được tŕnh bày trong quyển 3 và 4). Nhưng, v́ chúng ta đang ở vào giữa phân chủng của Căn chủng thứ Năm – tột điểm vật chất của mỗi căn chủng – nên các xu hướng thúc giục, mặc dù thanh bai hơn, vẫn phát triển đều đặn, chúng ta thấy điều này rơ rệt nhất trong các xứ văn minh.
335
TIẾT 14
THẦN
LINH, CHƠN THẦN, NGUYÊN TỬ
(GODS, MONADS, ATOMS)
Cách đây một vài
năm, chúng tôi đă nhận xét rằng:
Nội
môn Bí giáo có thể được gọi là … “giáo lư
tuyến” [thread doctrine”), v́ giống như linh tuyến
Sũtrătmă [trong triết lư Vedanta], ([394]) nó đi qua và kiên
kết mọi hệ thống tôn giáo triết học
với nhau, và… dung ḥa và giải thích chúng.([395])
Nay chúng tôi xin nói rằng nó c̣n hơn thế nữa. Nó không những dung ḥa nhiều hệ thống khác nhau, xét theo bề ngoài c̣n mâu thuẫn với nhau nữa, mà c̣n kiểm soát các khám phá của khoa học chính xác hiện đại, chứng tỏ rằng một vài khám phá tất yếu là chính xác, v́ chúng được các Văn khố Cổ truyền bổ chứng. Chắc chắn là mọi phát biểu trên sẽ bị xem như là cực kỳ láo xược, bị kết tội là làm tổn thương khoa học; tuy nhiên, đó vẫn là một sự kiện.
Chắc chắn là
ngày nay, khoa học cực kỳ duy vật; nhưng theo
một ư nghĩa nào đó, nó lại được
biện minh. Kẻ phàm tục chỉ có thể thẩm
định được Thiên Nhiên, bao giờ cũng tác
động một cách huyền bí và bí hiểm, theo như
các tín đồ Do Thái Bí giáo đă nói, qua chính dáng vẻ
của nó; thế mà dáng vẻ này lại luôn luôn trá ngụy
trên cảnh giới hồng trần. Mặt khác, các nhà
Tự nhiên luận không chịu kết hợp vật lư
học với siêu h́nh học, Sắc Tướng với
Linh Hồn và Tinh Thần làm linh hoạt. Họ thích lờ
đi Tinh Thần và Linh Hồn. Đối với một
số người, đây là một vấn đề
để chọn lọc, trong khi thiểu số lại
nỗ lực mở rộng phạm vi của vật lư học
bằng cách lấn sang các vùng cấm địa của siêu
h́nh học mà một số nhà Duy vật đă chán ngấy.
Trong thế hệ của ḿnh, các nhà khoa học này thật
là sáng suốt. Mọi khám phá kỳ diệu của họ
sẽ chẳng đi đến đâu và vẫn chẳng
được ai quan tâm tới nếu họ không vén bức
màn Vật Chất lên và chống mắt lên nh́n ra bên ngoài. Nay khi họ đă nghiên cứu
đến bề dài, bề rộng, bề sâu cái khung
vật chất của Thiên Nhiên, th́ đă đến lúc
dời bộ khung này lên cảnh giới thứ nh́ và t́m
kiếm trong ḷng sâu thẳm khôn ḍ thực thể linh
động, Bản chất của nó – thực
tượng của Vật Chất phù du.
336
Chỉ bằng cách tác động theo
đường lối như vậy, chúng ta mới khám phá
ra được sự kiện về những
điều nay được gọi là “các điều mê
tín dị đoan bị vạch mặt chỉ tên” cũng
như là các di tích của minh triết cổ truyền.
Người ta
thấy một trong các tín ngưỡng “suy đồi”
như vậy – suy đồi theo quan niệm của kẻ
hoài nghi chối bỏ tất cả - nơi ư tưởng
cho rằng ngoài các cư dân trên các hành tinh ngoại giới
ra, Càn Khôn c̣n đầy dẫy các Thực Thể vô h́nh,
thông tuệ. Cái gọi là các Tổng Thiên Thần, Thiên
Thần, Chơn Linh của phương Tây, được
mô phỏng theo các nguyên kiểu Thiền Định
Đế Quân, Thiên Thần, Pitris của phương
Đông, chẳng phải các Thực Thể mà chỉ là
tưởng tượng. Về vấn đề này, khoa
học duy vật thật là khắt khe. Để bênh
vực cho lập trường của ḿnh, nó đă làm
đảo lộn công lư về tính đều đặn và
liên tục của các luật Tự Nhiên, và hàng loạt các
loại suy về sự tiến hóa của Hiện Tồn.
Người ta đă bắt số quần chúng phàm tục
phải tin tưởng rằng bằng chứng tích lũy
của lịch sử - nó tŕnh bày cả những kẻ vô
thần thời xưa, chẳng hạn như Epicurus và
Democritus, cũng như là những kẻ tin tưởng vào
chư Thần Linh – thật là sai lầm và các triết
gia thời xưa như Socrates và Plato (hai vị này quả
quyết rằng có những thực thể như vậy
tồn tại) đều là những kẻ cuồng tín sai
lầm. Nếu các quan niệm của chúng ta chỉ dựa
vào các nền tảng lịch sử, dựa vào thẩm
quyền của hàng loạt các Hiền Triết, các môn
đồ phái Tân Platon và các nhà Huyền học lỗi
lạc nhất từ xưa đến nay, từ Pythagoras
xuống tới các nhà khoa học và các giáo sư lỗi
lạc của thế kỷ hiện nay, th́ nếu họ
bác bỏ chư “Thần Linh” mà lại tin tưởng vào
các “Chơn Linh”, th́ liệu chúng ta có dám xem các nhân vật có
thẩm quyền như vậy là bạc nhược và
điên rồ chẳng khác nào một tín đồ Thiên Chúa
giáo La Mă gốc nông dân, tin tưởng và cầu nguyện
Tổng Thiên Thần Michael, đă từng là vị Thánh
sống của y hay chăng? Nhưng có ǵ khác nhau giữa
đức tin của người nông dân và đức tin
của những người Tây phương kế thừa
các nhà Hoa Hồng Thập Tự và các nhà Luyện đan
thời Trung Cổ? Liệu tất cả những
người như Van Helmonts, Khunraths, Paracelsuses và Agrippas
(từ Roger Bacon xuống tận St. Germain) đều là
nhưng kẻ cuồng nhiệt mù quáng, điên rồ,
bịp bợm, hay liệu một số những kẻ
hoài nghi hiện đại – “những kẻ lănh đạo
tư tưởng” – đều mắc chứng “nhắm
mắt phủ nhận hết”? Theo chúng tôi, chắc
chắn là trường hợp sau phải đúng. Thật
vậy, đúng là một phép lạ, một sự kiện
hoàn toàn bất thường trong lĩnh vực xác xuất
và luận lư, nếu một số ít những kẻ
phủ nhận lại là những kẻ duy nhất nắm
giữ chân lư, trong khi hàng triệu tập đoàn
người tin tưởng vào các Thần Linh, Thiên Thần
và Chơn Linh – chỉ ở Âu Châu và Mỹ Châu thôi –
nghĩa là các tín đồ Thiên Chúa giáo La Tinh và Hy Lạp,
các nhà Minh Triết Thiêng Liêng, các nhà Giáng ma, các nhà Huyền
học v.v… chẳng có ǵ khác hơn là những kẻ
cuồng tín bị lừa phỉnh, những đồng
tử bị ảo giác, nạn nhân của những kẻ
đại bịp bợm. Mặc dù cách thức tŕnh bày và
giáo điều có khác nhau, niềm tin vào Đại Đoàn các Đấng Thông Tuệ
vô h́nh thuộc nhiều cấp khác nhau đều có cùng
một cơ sở. Sự thật và trá ngụy trộn
lẫn với nhau tất cả. Chỉ trong Nội môn Bí
giáo Đông phương, chúng ta mới thấy
được tầm mức, bề sâu, bề rộng và
bề dài chính xác của các bí nhiệm Thiên Nhiên. Những
điều này có tầm mức sâu rộng đến
nỗi mà chẳng có bao nhiêu Đạo đồ cao
cấp nhất – chỉ
có một ít Cao đồ biết được sự
tồn tại của các Ngài –
có thể quán triệt được chúng. Song tất
cả vẫn c̣n đó, từng sự kiện (và tiến
tŕnh) một trong Thiên Nhiên vẫn được phép thâm
nhập vào khoa học chính xác, khi có một bàn tay bí mật
giúp một vài cá nhân phát hiện được các bí
nhiệm của nó. Các biến cố như thế
thường diễn ra vào lúc kết liễu các Chu kỳ
lớn, liên quan tới sự phát triển của các
giống dân. Chúng ta đang ở ngay lúc kết thúc chu
kỳ 5 000 năm thuộc Chu kỳ Mạt Pháp của
giống dân Ăryan hiện nay (the present Ăryan Kali Yuga). Từ
lúc này cho tới năm 1897, Bức màn bí mật che phủ
Thiên Nhiên sẽ bị xé toang, c̣n khoa học Duy vật
sẽ bị một đ̣n chí tử.
337
Nếu không hoài
nghi các tín ngưỡng cổ kính về bất cứ
phương diện nào, chúng ta sẽ bắt buộc
phải phân biệt đức tin mù quáng do thần học
chế ra, với minh triết (do các cuộc khảo
cứu độc lập của hàng thế hệ Cao
đồ), tóm lại đó là phân biệt tín ngưỡng
với minh triết. Chắc chắn là thời nào cũng
có những học giả đôn hậu chết đi
với những niềm xác tín cô đọng v́ đă
được dạy dỗ cho những tín ngưỡng
của các giáo phái. Đối với các tín đồ Tin
Lành, Vườn Địa Đàng là khởi đầu
của thảm kịch Nhân loại, c̣n bi kịch long
trọng trên đỉnh Calvary mở đường cho
một thời đại Hoàng Kim đă từng
được mong đợi. Đối với các tín
đồ Thiên Chúa giáo La Mă, Quỷ Vương ở
dưới đáy Càn Khôn, Đức Christ ở giữa,
c̣n Antichrist ở đỉnh. Đối với cả hai,
Đại Đoàn các Thực Thể bắt đầu và
chấm dứt trong khuôn khổ hẹp ḥi của các
thuyết thần học của chính họ: một
Thượng Đế nhân
h́nh tự sinh tự tạo,
một bài tán ca Thiên Giới, ca ngợi các Thiên Thần sáng tạo; ngoài ra, toàn là Thần Linh giả mạo, Quỷ Vương ma quái.
Thần Triết
(Theo-philosophy) theo những đường lối rộng
răi hơn. Ngay từ lúc khởi đầu của các vô
lượng thời – trong không gian và thời gian thuộc
cuộc Tuần Hoàn và Bầu Hành Tinh chúng ta – các đệ
tử của cũng các Thánh Nhân đó (nay lại vô h́nh)
đă ghi lại các bí nhiệm của Thiên Nhiên (dù sao đi
nữa, đó cũng là các điều mà nhân loại chúng ta
có quyền biết tới) nơi các h́nh dạng và biểu
tượng h́nh học. Ngoài ra, các ch́a khóa đă
được các Đấng Minh triết chuyển cho
người khác. Như thế, một vài biểu
tượng đă được chuyển từ
phương Đông sang phương Tây; Pythagoras,
người chẳng hề phát minh ra “Tam giác trứ danh”
đă du nhập chúng từ phương Đông. H́nh tam giác
cùng với h́nh vuông và h́nh tṛn là những thứ mô tả
tŕnh tự tiến hóa của Vũ trụ (về mặt
tinh thần, tâm linh cũng như vật chất) một
cách hùng hồn và khoa học hơn các pho sách mô tả vũ
trụ khởi nguyên luận và tiết lộ “Sáng Thế
Kư”. Mười điều bao hàm trong “Tam giác Pythagoras” này
c̣n có giá trị hơn mọi thần phổ học và thiên
thần học mà các nhà thần học đă từng
nghĩ ra. Kẻ nào giải thích được
mười bảy điểm này (bảy điểm Toán
học ẩn tàng) theo đúng h́nh thức và trật tự
đă định – sẽ thấy trong đó có hàng loạt
phổ hệ từ Con Người Thiêng Liêng bản sơ
tới Con Người Thế Tục. Ngoài việc tŕnh bày
trật tự của các Thực Thể ra, chúng c̣n tiết
lộ tŕnh tự tiến hóa của Càn Khôn, Địa
Cầu và các Hành nguyên thủy sản sinh ra Trái Đất.
V́ địa cầu được Thai nghén trong ḷng Sâu
thẳm khôn ḍ, vô h́nh vô ảnh của cùng một Bà Mẹ
với các hành tinh bạn, nên kẻ nào quán triệt được
các bí nhiệm của chính Trái Đất, cũng sẽ
thấu đáo được bí nhiệm của mọi
hành tinh khác.
338
Cho dù những kẻ vô minh, ngạo
mạn và cuồng tín có đề xướng ra
điều ǵ ngược lại đi chăng nữa,
vẫn có thể chứng tỏ là Vũ trụ học
Nội môn có liên hệ bất khả phân ly với cả
triết học lẫn khoa học hiện đại.
Chư Thần Linh và các Đơn Nguyên của Cổ nhân –
từ Pythagoras xuống tận Leibnitz – và các Nguyên tử
của các trường phái duy vật hiện này, (họ
đă vay mượn chúng từ các thuyết của các nhà
Nguyên tử luận Hy Lạp thời xưa) chỉ là
một đơn vị phức hợp, một đơn
vị có phân cấp giống như cấu tạo của
con người (bắt đầu bằng sắc tướng
và kết thúc bằng Tinh Thần). Trong Huyền bí học,
người ta có thể nghiên cứu chúng một cách riêng
rẽ, nhưng chúng ta sẽ chẳng bao giờ quán thông được
chúng nếu chúng ta khong xét chúng quan hệ hỗ tương
với nhau trong suốt chu kỳ sống và xem chúng như là
một Đơn vị Vũ Trụ trong suốt Chu
kỳ Hỗn Nguyên.
La Pluche đă tỏ ra thành thật, nhưng chỉ khiến chúng ta lờ mờ h́nh dung được các năng lực triết học của ông, khi bày tỏ quan điểm của ḿnh về Chơn Thần tức Điểm Toán Học. Ông cho rằng:
Chỉ
cần một điểm cũng đủ làm cho mọi
trường hợp trên thế giới đều bốc
cháy. Nhưng con người cần ǵ phải biết
tới điều đó, v́ sự tạo ra một
thực thể bé nhỏ như vậy ở ngoài tầm
tay của y? Huống chi triết học lại hành
động một cách bất ngờ, từ cái
điều khiến nó phải tận tâm suy gẫm,
triết học lại dám tự tiện chuyển sang
việc sản sinh ra thế giới.
Tuy nhiên, triết học sẽ chẳng bao giờ có được một quan niệm về một Đấng Thánh Linh đại đồng vũ trụ, tuyệt đối và hợp lư, nếu nó không dựa vào các suy lư của ḿnh vào Điểm Toán Học bên trong Ṿng Tṛn. Chỉ có Huyền Điểm biểu lộ - mà các giác quan chúng ta không ghi nhận được sau khi nó đă xuất hiện một cách tiên thiên trong vô cùng khiến chúng ta không tài nào tri thức được Ṿng Tṛn nữa – mới có thể dung ḥa được triết học và thần học (với điều kiện là thần học phải từ bỏ các giáo điều duy vật thô sơ của ḿnh). Cũng v́ thần học Thiên Chúa giáo đă dại dột bác bỏ Đơn Nguyên (Monad) và các h́nh dạng h́nh học của Pythagoras, nên nó mới chế ra vị Thượng Đế nhân h́nh, cái Ngôi vị quái gở khai sinh ra các giáo điều Cứu rỗi và Đày đọa. Cũng đúng là các giáo sĩ (vốn là Hội viên Tam Điểm và các Triết gia) đă độc đoán gán cho các Hiền Triết thời xưa cái ư tưởng quái gở cho rằng:
[Đối
với các Ngài], Đơn Nguyên tiêu biểu cho cái ngai
của Đấng Thượng Đế Toàn Năng, nó
tọa lạc ở giữa Thiên đ́nh để biểu
thị “Đấng Đại Kiến Trúc Sư của
Vũ Trụ”.([396])
Đây thật là một lối thuyết minh quái gở, theo quan điểm của Hội Tam Điểm hơn là theo quan điểm chính thống của Pythagoras.
339
“Biểu
hiệu thiêng liêng trong một Ṿng Tṛn hoặc một Tam giác
đều cũng không hề có nghĩa là “minh họa cho
tính đơn nhất của Bản Thể thiêng liêng”; v́
điều này được minh họa bằng mặt
phẳng của Ṿng Tṛn vô biên. Thực ra, nó có nghĩa là
Bản chất tam phân đồng đẳng của
Chất liệu biến phân
bản sơ, tức là sự đồng bản chất
của Tinh Thần, Vật Chất và Vũ Trụ biểu
lộ - “Con” của chúng – cả ba đều xuất phát
từ Huyền Điểm (Point), Huyền Âm Nội Môn chân
chính (the real Esoteric Logos) tức Đơn Nguyên của
Pythagoras. Đối với người Hy Lạp, Monas
có nghĩa gốc là Nhất Nguyên. Những kẻ nào không
thể thấu hiểu được sự dị
biệt giữa Đơn Nguyên – Đơn Vị Vũ
Trụ - và các Chơn
Thần tức là Nhất Nguyên
biểu lộ, cũng như là giữa Huyền Âm hằng
ẩn và Huyền Âm biểu lộ tức Thiên Đạo, đừng bao giờ dính dáng
đến triết học, chớ đừng nói chi
tới Nội môn Bí giáo. Chẳng cần nhắc nhở
độc giả nào có học thức một chút cũng
nhớ tới luận án của Kant để chứng minh
Nguyên lư mâu thuẫn thứ nh́ của nó. ([397]) Những người nào đă
đọc và hiểu nó sẽ phân biệt rơ
được Vũ Trụ lư tưởng tuyệt đối với Càn Khôn vô h́nh mặc dù đă
biểu lộ. Cả Nội môn Bí giáo lẫn Kant (chớ
đừng nói tới Leibnitz) sẽ chẳng bao giờ
thừa nhận rằng phần triển khai đó có
thể được cấu thành bở các phần tử
đơn giản chưa triển khai. Nhưng các nhà
thần học và các triết gia sẽ không thấu hiểu
được điều này. Ṿng tṛn và Huyền
Điểm – Huyền Điểm rút vào trong và ḥa lẫn
với Ṿng Tṛn, sau khi đă xạ ra ba Điểm bản
sơ và liên kết chúng với các tuyến, như thế
là đă tạo ra căn bản thực tượng
đầu tiên trong Tam giác thứ Nh́ trong Thế giới
Biểu lộ - giờ cũng là một chướng
ngại vật khiến cho thần học không thể
thăng lên tới các thiên giới theo giáo điều
được. Do uy quyền của biểu tượng
cổ sơ này, một Thượng Đế nam tính, nhân
h́nh (Đấng sáng tạo ra muôn loài) biến thành một
phân thân hạng ba, Sephira đứng hàng thứ tư
(từ trên xuống) và ở bên trái Ain Soph trong Cây
Trường Sinh của Thánh kinh Kabalah. V́ thế Đơn
Nguyên bị hạ xuống thành ra một Hiện thể -
một “Cái Ngai” (“Throne”) !
340
Đơn Nguyên -
chỉ là một phân thân và phản ánh của Huyền
Điểm (tức Huyền Âm) trong Hiện tượng
giới, trở thành “Từ Phụ”, với vai tṛ là
đỉnh của Tam giác đều biểu lộ.
Cạnh trái Lưỡng
Nguyên, hay “Từ Mẫu”,
được xem như là ma quỷ, nguyên khí hóa giải. ([398]) Cạnh phải tiêu biểu cho
“Hiếu Tử”, “Chồng của Mẹ ḿnh” trong mọi vũ trụ khởi nguyên luận,
đồng nhất với đỉnh. Cạnh đáy là cảnh giới
vũ trụ của Thiên Nhiên sinh hóa, hợp nhất
Cha-Mẹ-Con trên hiện tượng giới, chẳng khác
nào Cha-Mẹ-Con được hợp nhất ở
đỉnh trong Thế giới siêu phàm.([399]) Do sự biến hóa huyền bí, chúng
trở thành Tứ Nguyên (Quaternary) – Tam giác trở thành TỨ LINH DIỆU (TETRAKTYS).
Việc áp dụng
một cách siêu việt h́nh học vào thần phổ
học vũ trụ - Thủy và Chung của quan niệm
huyền học – đă được Aristotle rút gọn lại
theo Pythagoras. Bằng cách bỏ qua Huyền Điểm và
Ṿng Tṛn, cũng như là không kể đến cái
đỉnh, ông đă làm giảm giá trị siêu h́nh của ư
niệm này, như thế là đă giới hạn thuyết
biên độ thành ra một tâm Nguyên đơn giản – đường, mặt và khối (the line, the surface, and the body). Những
người thời nay thừa kế quan niệm của
ông – họ cũng theo Chủ nghĩa Duy Tâm – đă giải
thích ba h́nh dạng h́nh học này là Không gian, Thần lực
và Vật chất – “các mănh lực của một Nhất
Nguyên tương tác”. Vốn chỉ thấy cạnh đáy
của tam giác biểu
lộ - cảnh giới
Vật Chất – Khoa học duy vật đă thuyết minh
nó (một cách thực tế) như là VẬT CHẤT (Cha), VẬT
CHẤT (Mẹ) và VẬT CHẤT (Con) và một cách lư thuyết như
là Vật Chất, Thần Lực và Sự tương
hệ.
Nhưng theo nhận xét của một tín đồ Do Thái Bí giáo, đối với nhà vật lư học b́nh thường:
Giống
như các kư hiệu đại số đối với
toán học, Không gian, Thần Lực và Vật Chất
chỉ là những biểu tượng quy ước.
Thần Lực, Vật Chất đều hoàn toàn bất
khả tri chẳng khác nào vùng không gian (mà chúng ta giả
sử là trống rỗng) vốn là môi trường
tương tác của chúng. ([400])
Biểu tượng tiêu biểu cho các
điều trừu tượng.
Nhà vật lư đă đưa các giả
thuyết luận chứng về nguồn gốc của
vạn vật vào các điều này… Ông thấy cái gọi
là “sự sáng tạo” cần phải có ba điều :
Một nơi để sáng tạo, một môi
trường dùng để sáng tạo, một vật
liệu dùng để sáng tạo. Khi diễn đạt
một cách hợp lư giả thuyết này bằng các từ
ngữ “không gian, thần lực và vật chất”, y tin
rằng ḿnh đă chứng tỏ được sự
tồn tại của cái được tiêu biểu
bởi một trong ba thứ đó, theo quan niệm của
y. ([401])
Nhà vật lư nào xem Không gian chỉ là biểu hiện của trí chúng ta, hoặc là sự bành trướng không liên quan tới các sự vật bao hàm trong đó mà Locke xác định là không thể chuyển động, cũng không thể đề kháng; nhà Duy vật nghịch lư – xem như không gian là trống rỗng, v́ y không thấy Vật Chất trong đó – sẽ bác bỏ một cách cực kỳ khinh miệt cái đề an cho rằng không gian là
Một
Thực Thể có thực chất mặc dù là một sinh
linh hoàn toàn bất khả tri (xét một cách biểu
kiến). ([402])
341
Tuy nhiên, đó là giáo
lư của Do Thái Bí giáo cũng như của Triết học
Cổ truyền. Không gian là chân Thế giới, c̣n thế giới
của chúng ta chỉ là giả tạo. Đó là Nhất
Nguyên suốt vô cùng tận, trong ḷng sâu thăm thẳm
cũng như trên bề mặt của hăo huyền, một
bề mặt có rải rác hằng hà sa số hiện
tượng, Vũ Trụ, các Hệ thống và các Thế
giới ảo ảnh. Tuy vậy, đối với nhà
Huyền bí học Đông phương, xét cho cùng vốn
theo Chủ nghĩa Duy Tâm khách quan, trong chân Thế giới
(vốn là một Đơn Nhất Thần Lực), có
“một sự liên kết mọi Vật Chất trong Thái
Cực” (Leibnitz đă bảo như vậy). Điều này
được tiêu biểu trong Tam giác Pythagoras.
Nó gồm có
Mười Điểm nội tiếp giống như h́nh
Kim tự tháp (từ một tới bốn) trong ba cạnh;
nó tiêu biểu cho Vũ Trụ trong Lưỡng Nguyên Pythagoras
trứ danh. Điểm đơn độc ở trên là
một Đơn Nguyên và tiêu biểu cho một Điểm
Đơn Vị (đó là Nhất Nguyên sản sinh ra
vạn vật). Vạn hữu đều có cùng bản
thể với nó. Trong khi mười điểm trong Tam
giác đều tượng trưng cho hiện tượng
giới, th́ ba cạnh bao hàm Kim tự tháp (gồm các
điểm) lại là các hàng rào ngăn cách thực- tượng- chất với thế giới Tư
Tưởng.
Pythagoras xem một điểm như là
tương ứng tỷ lệ với đơn vị,
một đường với 2; một mặt với 3 và
một khối với 4. Ông định nghĩa một
điểm là một đơn nguyên có vị trí là khởi
thủy của vạn vật. Một đường
được xem như là tương ứng với
Lưỡng Nguyên, v́ nó được tạo ra do
chuyển động bản sơ của bản chất
vô h́nh và nối liền hai điểm, Một mặt
được so sánh với só ba, v́ nó tạo ra
trước nhất những ǵ mà chúng ta thấy trong các con
số. Ṿng tṛn, vốn là một h́nh tṛn chính yếu,
gồm có một bộ ba: tâm, không gian và chu vi. Nhưng
một tam giác – vốn là h́nh tuyến tính đầu tiên –
được bao hàm trong một bộ ba và có h́nh dạng
biến thiên theo con số đó. Nó bị các môn đồ
phái Pythagoras xem như là cha đẻ của mọi sự
vật hạ nguyệt tinh (sublunary things). Bốn
điểm ở đáy của tam giác Pythagoras, tương
ứng với một h́nh khối hoặc h́nh lập
phương, nó phối hợp các yếu tố bề dài,
bề rộng, bề dày, v́ không có khối nào có ít hơn
bốn điểm cực biên. ([403])
Người ta
luận chứng rằng “trí người không thể quan
niệm được một đơn vị bất khả
phân mà không làm tiêu tan mất ư niệm này và chủ thể
của nó”. Các môn đồ phái Pythagoras cũng như
một số các nhà Thần nhăn trước họ, đă
chứng tỏ rằng đó là một sai lầm, mặc
dù cần phải được huấn luyện chuyên môn
mới quan niệm được nó và trí phàm khó ḷng
lĩnh hội được nó. Nhưng có những
điều như “siêu
toán học” (“meta-mathematics”) và “H́nh
học siêu việt” (“Meta-geometry”). Ngay cả toán học đơn
thuần cũng đi từ phổ quát đến
đặc thù, từ điểm toán học bất khả
phân đến các h́nh khối. Giáo lư này phát nguyên từ
Ấn Độ và được Pythagoras giảng dạy
ở Âu Châu. Khi tŕnh bày về Ṿng Tṛn và Huyền
Điểm – mà không người nào có thể xác
định được khác hơn là các điều
trừu tượng không thể hiểu nổi – một
cách bí hiểm, Pythagoras đă cho là Vật Chất vũ
trụ đă biến phân bắt nguồn từ đáy
của Tam giác. V́ thế, Tam giác mới biến thành
dạng h́nh học sơ khai nhất. Khi bàn về các bí pháp
Do Thái Bí giáo, tác giả của Các Khía Cạnh Mới
của Sự Sống đă phản đối việc
khách quan hóa (tạm gọi như vậy) quan niệm
của Pythagoras và việc sử dụng tam giác đều;
ông bảo rằng đó là “một tên gọi sai lầm”
(“misnomer”).([404]) Ông biện luận rằng:
342
Đáy
của một khối đều cũng như là một
trong các cạnh của nó hợp thành các tam giác bằng nhau,
phải có bốn cạnh hay bốn mặt đồng
đẳng; trong khi đó, một mặt phẳng tam giác
ắt phải có năm cạnh. ([405])
- ngược lại, luận
chứng ấy đă minh xác tầm vóc vĩ đại
của quan niệm này khi nó được áp dụng
một cách Nội môn vào ư niệm về thời kỳ tiền
sinh và sinh thành của
Vũ Trụ. Dĩ nhiên là một Tam giác lư tưởng,
được mô tả bởi các đường toán
học tưởng tượng,
Có
thể chẳng có cạnh nào hết và chỉ là một
bóng ma của trí người. Nếu người ta gán cho
chúng các cạnh, đó ắt phải là các cạnh của
vật thể mà nó tiêu biểu cho về mặt cấu trúc. ([406])
Nhưng trong trường hợp như thế, hầu hết các giả thuyết khoa học đều chẳng có ǵ khác hơn là các “bóng ma trí người”; chúng không thể kiểm chứng được (trừ phi chúng ta dùng phép suy diễn) và đă chỉ được chọn dùng để đáp ứng các nhu cầu của khoa học. Hơn nữa, Tam giác lư tưởng –“với vai tṛ ư niệm trừu tượng về một vật thể về vật thể tam giác, do đó là kiểu mẫu của một ư niệm trừu tượng” – đă hoàn thành và hoàn thiện biểu tượng kư lưỡng phân được dự định. Khi giữ vai tṛ biểu hiệu có thể được áp dụng cho lư tưởng ngoại cảnh, tam giác đơn giản biến thành một khối. Khi được lặp lại đối diện với bốn phương chính, nó sẽ biến khối đó thành h́nh Kim tự tháp (biểu tượng của thế giới hiện tượng ḥa lẫn vào trong thế giới tư tưởng thực tượng ở đỉnh của bốn tam giác. Khi giữ vai tṛ “một h́nh tưởng tượng gồm có ba đường toán học, nó tiêu biểu cho các nội giới – các đường này bao hàm một không gian toán học – vốn tương đồng với hư không”. Sở dĩ có điều này v́ đối với các giác quan và tri thức lăo luyện của kẻ phàm tục và nhà khoa học, mọi vật vượt ngoài lĩnh vực Vật Chất đă biến phân – nghĩa là bên ngoài lĩnh vực của ngay cả chất liệu có tính cách tinh thần nhất – phải vẫn c̣n tương đồng với hư không măi măi. Đó là Ain Soph, Thái Hư (No THING).
Nhưng thật ra, các “bóng ma của trí người” này đâu có phải là các điều trừu tượng lớn lao hơn các ư niệm trừu tượng xét chung về phần sự tiến hóa và phát triển vật chất – chẳng hạn như Trọng Lực, Vật Chất, Thần Lực v.v… mà khoa học chính xác dựa vào. Các nhà hóa học và các nhà vật lư học lỗi lạc nhất của chúng ta đang nhiệt thành theo đuổi toan tính đầy triển vọng là rốt cuộc sẽ truy nguyên được tung tích của Nguyên h́nh chất tức cạnh đáy của tam giác Pythagoras. Như chúng tôi đă nói, tam giác Pythagoras là quan niệm cao cả nhất mà chúng ta có thể tưởng tượng được, v́ nó tiêu biểu cho cả vũ trụ lư tưởng lẫn vũ trụ hữu h́nh. ([407]) Ấy là v́
Nếu đơn vị khả hữu
chỉ là một khả năng với bản chất
thực tại chẳng khác nào một cá nhân nào đó, th́ mọi
sự vật cá biệt trong thiên nhiên đều có thể
phân ly được; khi phân ly, chúng không c̣n đơn nhất
nữa, tức không c̣n là một đơn vị nữa. ([408])
343
Điều này
chỉ đúng trong lĩnh vực khoa học chính xác trong
một thế giới hăo huyền. Trong lĩnh vực
Nội môn Bí giáo, Đơn vị phân ly vô tận; mỗi khi phân ly, thay v́ mất tính
đơn nhất của ḿnh, nó lại tiến gần
tới các cảnh giới của THỰC TẠI vĩnh
cửu duy nhất. Nhà Thần Nhăn có thể theo dơi và
chứng kiến nó đạt đến tột
đỉnh vinh quang vào những thời kỳ tiền sinh.
Chúng ta thấy trong phần tinh hoa của các Giáo lư của
Pythagoras và Plato – chỉ dành riêng cho các môn sinh ưu tú, có ư
niệm về việc Nội giới có thực, c̣n
Ngoại giới chỉ là hư ảo. Đề cập
tới Đơn Nguyên và Lưỡng Nguyên, Porphury cho
rằng chỉ có Đơn Nguyên mới được xem
như có thực, là “Hiện tồn đơn thuần
nhất, nguyên nhân của mọi nhất nguyên, kích
thước của vạn vật”.
Nhưng mặc dù là
nguồn gốc của Điều Ác tức Vật
Chất – v́ thế, có tính cách hư ảo trong
triết học – Lưỡng Nguyên vẫn c̣ là Bản
chất trong chu kỳ Khai Nguyên
và thường được gọi là Đơn
Nguyên thứ Ba trong Huyền bí học. Đó là
đường nối liền hai điểm hay hai số
xuất phát từ CÁI ĐÓ, “Vốn có trước mọi Số”
(theo lối nói của giáo sĩ Do Thái Barahiel). Từ
Lưỡng Nguyên này xạ ra mọi Tia của ba Cảnh
Giới Cao và bốn Cảnh Giới Thấp, chúng luôn luôn
tương tác và tương ứng với nhau. Đây là
một giáo lư chung của cả Thánh kinh Kabalah lẫn
Huyền bí học Đông phương. Trong Huyền bí
học có “Nguyên Nhân ĐỘC TÔN” và “Nguyên Nhân Bản Sơ”; nghịch lư thay, Nguyên Nhân Bản
Sơ lại trở thành Nguyên nhân thứ Nh́. Tác giả
của Thánh kinh Qabbalah, theo các Tác phẩm Triết học
của Ibn Gebirol, đă tŕnh bày điều này rơ ràng như
sau :
Khi
bàn về Nguyên Nhân Bản Sơ (the Primal Cause), chúng ta
phải xét tới hai điều: bản chất Nguyên Nhân
Bản Sơ và quan hệ của nó đối với
thế giới vô h́nh. ([409])
Như thế, ông đă chứng tỏ rằng những người Hebrew cổ sơ cũng như những người Ả Rập sau này đều nối gót triết học Đông phương (chẳng hạn như triết học Chaldea, Ba Tư, Ấn Độ v.v…). Thoạt tiên, Nguyên Nhân Bản Sơ của họ được chỉ định :
Bởi
Shaddai tam phân, Đấng Toàn Năng [tam phân], sau đó là
bởi Tứ Linh Tự YHVH, biểu tượng của
Quá khứ, Hiện tại và Tương lai. ([410])
Ngoài ra, xin kể thêm Hiện Tồn Vĩnh Cửu tức “TA LÀ” (“I AM”). Hơn nữa, trong Thánh kinh Kabalah, danh xưng YHVH (tức Jehovah) biểu thị một Nam Tử (He) và một Nữ Nhi (She), cả hai nhập một tức Chokmah và Binah, cũng như Shekinah của y ) đúng hơn là của họ) tức Tinh Thần tổng hợp (tức Thiên Ân – Grace), nó lại biến Lưỡng Nguyên thành Tam Nguyên. Điều này được biểu lộ trong Nghi lễ Do Thái giáo về Ngũ tuần tiết và lời cầu nguyện :
“Nhân
danh Nhất Nguyên, Hũ (Nam giới) Thiêng Liêng và She’keenah
của Ngài (Hũ ẩn tàng), xin ban ân cho YHVH [Tứ Nguyên –
the Quaternary] măi măi”. Nghe nói Hũ là hùng, c̣n Yah là thư, chúng
cùng nhau hợp thành YHVH duy nhất. Nó duy nhất, nhưng
lại có bản chất thư hùng. Trong Thánh kinh Qabbalah,
She’keenath luôn luôn được xem như là thư. ([411])
344
Trong các kinh Purănas
ngoại môn, nó cũng được xem như vậy v́
trong trường hợp đó, Shekinah chẳng có ǵ khác
hơn là Huyền Nữ
(Shakti) – đối với
nữ giới của bất kỳ Thần Linh nào –
Đối với các tín đồ Thiên Chúa giáo buổi
sơ khai cũng vậy, Thánh Thần của họ là
nữ giới, chẳng khác nào Sophia đối với tín
đồ phái Ngộ Đạo. Nhưng trong Thánh kinh
Kabalah siêu việt của dân Chaldea tức Số Mục Thánh Thư, Shekinah lại là phi giới tính và là
sự hườn hư thuần túy nhất, một
trạng thái giống như Niết Bàn, phi tâm, phi cảnh,
chẳng có ǵ khác hơn là một BẢN LAI DIỆN MỤC tuyệt đối (an absolute PRESENCE).
Như vậy,
chỉ trong các triết hệ nhân h́nh hóa – chẳng hạn
như phần lớn Thánh kinh Kabalah hiện nay - th́ Shekinah-Shakti
mới là nữ giới. Thế là nàng biến thành Lưỡng Nguyên của Pythagoras, hai đường
thẳng không thể tạo thành một dạng h́nh học
nào và là biểu tượng Vật Chất. Elohim tức
Đấng Thánh Linh trong Vũ Trụ, xuất lộ
từ Lưỡng Nguyên này khi nó kết hợp với cạnh
đáy của Tam giác trên hạ giới (tam giác
thượng của Cây Sephiroth), đối với tín
đồ Do Thái Bí giáo chân chính, Elohim là tước vị
thấp nhất mà trong Thánh kinh dịch là “Thần Linh”. ([412]) Các Đấng Elohim xạ ra các Tia (Scintillas).
Theo giáo
huấn của chúng tôi, các Tia này là các Linh Hồn, các Linh Hồn
ấy xuất hiện nơi dạng tam phân Chơn
Thần (Đơn vị); Nguyên tử và Thần Linh. Giáo lư vấn đáp Nội môn dạy:
Mỗi
Nguyên tử biến thành một đơn vị phức
hợp hữu h́nh [một phân tử]; một khi bị thu
hút vào trong phạm vi hoạt động trần thế,
Tinh Chất Chơn Thần chuyển sang các giới khoáng
vật, thực vật, động vật, rồi
biến thành người.
Lại nữa:
Thánh
Linh, Chơn Thần và Nguyên tử tương ứng
với Tinh Thần, Trí Tuệ và Sắc Tướng [Ătmă, Manas, Sthũla Sharĩra]
nơi con người.
Khi được kết tập thành bảy phần, chúng chính là “Con Người Thiêng Liêng” (“Heavenly Man”) theo nghĩa trong Thánh kinh Kabalah; như thế, con người thế tục chỉ là phản ánh nhất thời của Con Người Thiêng Liêng. Lại nữa:
Chơn
Thần [Nguyên sinh khí]
là Linh Hồn của các Nguyên tử, cả hai đều là
lớp vỏ mà các Đấng Thiền Định
Đế Quân [chư Thiên]
khoác lấy khi các Ngài cần có một h́nh hài sắc
tướng.
Điều này liên
quan tới các Chơn Thần vũ trụ và phân hành tinh,
chứ không liên quan tới Monas siêu vũ trụ, Đơn Nguyên
của Pythagoras (xét một cách tổng hợp, theo lối
nói của các môn đồ Phiếm Thần phái Tiêu Dao). Các
Chơn Thần mà chúng ta đang xét, được bàn
tới theo quan điểm Chơn Ngă, như là các Linh Hồn của Nguyên tử, trước
khi các Nguyên tử này giáng nhập vào h́nh hài thế tục
thuần túy. Ấy là v́ sự
giáng nhập vào vật chất cụ thể này đánh
dấu điểm trung gian của cuộc hành tŕnh cá
biệt của chúng. Khi mất hết cá tính trong giới
khoáng vật, chúng bắt đầu thăng lên qua bảy
giai đoạn tiến hóa trên trần thế tới
mức mà đă dứt khoát có được một sự
tương ứng giữa tâm thức nhân loại và
thần thức chư Thiên (thiêng liêng). Tuy nhiên, hiện nay
chúng ta không quan tâm tới các sự biến h́nh và khổ năo
trần thế của chúng, mà lại quan tâm tới
cuộc sống và tác động của chúng trong Không gian,
trên những cảnh giới mà các nhà hóa học và các nhà
vật lư học có trực giác nhất cũng không thể
tri giác được – thật vậy, trừ phi y phát
triển nơi ḿnh các năng khiếu thần thông cao
cấp.
345
Người ta
đă biết rơ rằng Leibnitz đă nhiều lần
tiến tới gần chân lư, nhưng ông đă định
nghĩa được cuộc Tiến hóa của
Đơn Nguyên một cách sai lầm. Điều này không có
ǵ đáng ngạc nhiên v́ ông không phải là một Điểm
đạo đồ, thậm chí, cũng chẳng phải
là một nhà huyền hoặc, mà chỉ là một triết
gia có nhiều trực giác. Thế nhưng, chưa có nhà
vật lư - sinh lư nào đă từng lĩnh hội
được khái niệm về sự tiến hóa của
Nội môn nhiều hơn ông. Như thế, chúng ta có
thể trần thuyết cuộc tiến hóa này – xét nó theo
nhiều quan điểm, tức là, với vai tṛ Đơn
Nguyên đại
đồng Vũ Trụ và cá
biệt và các trạng thái chính của Năng lượng
Tiến hóa sau khi đă biến phân, Năng lượng
thuần túy Tinh Thần, Năng lượng Trí Thức,
Năng lượng Tâm Linh và Năng lượng Vật
Chất – như một luật bất di bất dịch :
Tinh thần giáng nhập vào Vật Chất, tương
đương với việc vật chất tiến hóa
thăng lên; từ vực thẳm vật chất, nó
lại thăng lên tới nguyên trạng, tương
ứng với việc làm tiêu tan h́nh hài cụ thể và
chất liệu trở lại trạng thái TRUNG H̉A,
tức cái mà khoa học gọi là “điểm zero” và hơn
nữa.
Một khi mà chúng ta
đă lĩnh hội được tinh thần của
Nội môn Bí giáo, và chỉ xét theo luận lư và phép loại
suy thôi, th́ các trạng thái này trở thành tuyệt
đối cần thiết. Nay nhờ vào bộ môn hóa
học, vật lư học đă biết chắc
được định luật bất di bất
dịch của sự tiến hóa của các Nguyên tử này
– từ trạng thái “nguyên h́nh chất” xuống tới
trạng thái một cấu tử vật lư, rồi một
cấu tử hóa học tức phân tử - nên nó không
thể không xem các trạng thái này như là một luật
tổng quát. Một khi các địch thủ của nó – siêu
h́nh học và tâm lư học ([413]) – đă đánh bật nó ra khỏi
pháo đài kiên cố, th́ nó sẽ thấy rằng nay khó ḷng
mà không thể nhường chỗ cho các Chơn Linh Hành Tinh
(chư Thiên), các Hành khí, thậm chí cả các Âm Ma (the Elementary Spooks) và các thứ khác nữa. Figuier và
Paul D’Assier (hai người theo chủ nghĩa Thực
nghiệm và chủ nghĩa Duy vật) đă phải
uốn ḿnh theo nhu cầu luận lư này. Các nhà khoa học
khác c̣n lỗi lạc hơn nữa cũng sẽ bị “Sa
đọa” (“Fall”) về mặt trí thức như thế.
Họ sẽ bị hất văng ra khỏi địa
vị của ḿnh chẳng phải v́ các Hiện tượng
tinh thần, Minh Triết Thiêng Liêng hay bất kỳ
hiện tượng hồng trần hay trí tuệ nào khác,
mà chỉ v́ các khoảng trống hàng ngày mở ra
trước mắt họ, và sẽ c̣n như vậy măi, do
việc người ta khám phá được hết
điều này đến điều kia, cho đến khi
rốt cuộc, họ bị “hổng chân” bởi làn sóng
thứ chín của lương tri đơn thuần.
346
Chúng ta có thể nêu ra ví dụ về khám phá
mới nhất của Giáo sư W. Crookes về cái gọi
là Nguyên h́nh chất. Trong Giảng lư Chí Tôn Ca của một
trong các nhà siêu h́nh học và học giả phái Vedanta lỗi
lạc nhất ở Ấn Độ, khi đề
cập tới các “điều Huyền bí” trong tác phẩm
nội môn vĩ đại đó của Ấn Độ,
diễn giả đă đưa ra một nhận xét
vừa gợi ư, vừa thật là chính xác. Ông cho rằng :
Tôi
không cần đi vào chi tiết cuộc tiến hóa của
chính thái dương hệ. Bạn có thể có
được một ư niệm nào đó về cách
thức mà nhiều nguyên tố khác nhau xuất lộ
từ ba nguyên khí do Hỗn nguyên khí [Tam giác Pythagoras] biến
phân ra, bằng cách nghiên cứu bài diễn văn mà Giáo
sư Crookes đă tŕnh bày cách đây ít lâu, bàn về cái
gọi là các nguyên tố của hóa học hiện
đại. Bài diễn văn này sẽ khiến cho bạn
phần nào ư niệm được cách thức mà cái
gọi là các nguyên tố này phát sinh từ Vishvănara, ([414]) nguyên khí có tính cách
ngoại cảnh nhất (trong số ba nguyên khí) nó h́nh
như là thế chỗ cho nguyên h́nh chất mà bài diễn
văn đó đă đề cập tới. Ngoại
trừ một ít trường hợp đặc biệt,
bài diễn văn này h́nh như là phác họa một vài nét
về thuyết tiến hóa vật chất trên cảnh
giới Vishvănara. Theo chỗ tôi biết, đó là
bước tiến gần tới thuyết huyền linh
chân chính nhất mà các nhà nghiên cứu hiện đại
đă thực hiện được về vấn
đề này. ([415])
Mọi nhà Huyền bí học Đông phương sẽ cổ vũ và tán thành lập luận trên? Trong Tiết 11 có trích dẫn nhiều đoạn trong bài diễn văn của Giáo sư Crookes. Ông cũng đă đọc một bài diễn văn thứ nh́, nó cũng tuyệt vời không kém bài diễn văn đầu bàn về “Sự Khởi nguyên của các Nguyên tố”; ([416]) ngoài ra, c̣n có bài diễn văn thứ ba nữa. Ở đây, chúng ta lại được bổ chứng về các giáo lư của Nội môn Bí giáo liên quan tới cách thức tiến hóa bản sơ. Thật vậy, càng là một bước tiến gần tới Giáo Lư Bí Nhiệm của một đại học giả và một chuyên gia về hóa học [417] bao nhiêu, th́ nó lại càng xa rời bấy nhiêu với việc thích ứng các Chơn Thần và Nguyên tử với các giáo điều của siêu h́nh học thuần túy siêu việt, cũng như mối liên quan và tương hệ của chúng với “chư Thiên và các Chơn Thần hữu thức, thông tuệ”. Nhưng nhờ có một trong các đại diện cao cấp nhất của Âu Châu, hóa học nay đang thăng tiến. Nó không thể lùi lại thời kỳ mà Chủ nghĩa Duy vật xem các nguyên tố như là các đơn chất hoàn toàn thuần trạng, mà v́ vô minh, nó đă nâng lên hàng ngũ các Nguyên tố. Một bàn tay quá khéo léo đă mau chóng lột được chiếc mặt nạ, e rằng nó lại ngụy trang thêm nữa. Sau nhiều năm ngụy tạo ra các phân tử nghênh ngang với danh xưng là các Nguyên tố (mà đằng sau và bên ngoài nó chẳng có ǵ khác hơn là hư không), một Giáo sư hóa học lỗi lạc phải hỏi lại một lần nữa :
347
Các
nguyên tố này là ǵ? Chúng có nghĩa gốc từ đâu?
Chúng có ư nghĩa ǵ? Các nguyên tố này làm cho chúng ta phải
đau đầu khi khảo cứu chúng, chới với
khi suy lư về chúng, và chúng thường xuyên ám ảnh chúng
ta trong các giấc mơ. Chúng trải rộng ra như
một biển cả bất khả tri trước
mắt chúng ta – ngạo mạn, bí ẩn và th́ thào những
điều tiết lộ và khả năng kỳ diệu.
([418])
Những người được kế
thừa những điều thiên khải bản sơ
xưa nay đều có dạy về các khả năng này,
nhưng chẳng một ai chịu nghe theo họ. Các chân lư
được cảm ứng cho Kepler, Leibnitz, Gassendi,
Swedenborg v.v… bao giờ cũng bị hỗn hợp với
các suy lư của riêng họ theo một chiều hướng
đă định nào đó; v́ thế chúng đều bị
xuyên tạc. Nhưng nay, một trong các đại chân lư
đă bừng lên với một Giáo sư xuất chúng
về khoa học chính xác hiện đại. Ông đă
dũng cảm tuyên bố một công lư cơ bản cho
rằng, đến nay khoa học vẫn chưa quen
thuộc với các nguyên tố đơn thực sự.
Giáo sư Crookes đă tŕnh bày với thính giả như sau :
Nếu tôi dám tuyên
bố rằng các nguyên tố mà chúng ta thường
chấp nhận, không phải là các yếu tố đơn
thuần, bản sơ; chúng đă không được sản
sinh ra một cách t́nh cờ, máy móc, mà đă tiến hóa
từ các vật chất đơn thuần – hay thật
ra, có lẽ là từ một loại vật chất duy
nhất – bất quá tôi chỉ chính thức phát biểu lư tưởng
đă từng hỗn độn trong khoa học, tạm
gọi như vậy. Các nhà hóa học, các nhà vật lư
học, các triết gia tài ba nhất đă công khai tuyên
bố họ tin rằng bảy chục (hoặc khoảng
chừng đó) nguyên tố trong các sách giáo khoa của chúng
ta chẳng phải là những cây cột của Hercules mà
chúng ta ắt không bao giờ hy vọng vượt qua
được … Các triết gia trong hiện tại cũng
như trong quá khứ - những người chắc
chắn là không làm việc trong pḥng thí nghiệm – đă
đi đến cùng một quan điểm như vậy
theo một phương diện khác. V́ thế mà ông Herbert
Spencer đă tin chắc rằng: “Các nguyên tử hóa học
được tạo ra từ những nguyên tử
vật lư (tức nguyên tử chân chính) bằng các diễn
tŕnh tiến hóa trong những t́nh huống mà hóa học
chưa thể tạo ra được”… Thế rồi,
thi sĩ c̣n đoán trước triết gia nữa. Trong
Thiên Đàng Đă Mất, Quyển V. Milton đă để
cho Tổng Thiên Thần Raphael bảo bản năng Adam cùng
với ư niệm về sự tiến hóa rằng
Đấng Chí Tôn toàn năng đă tạo ra
…”Một
vật chất bản sơ,
Được phú cho nhiều dạng,
Nhiều
mức độ chất liệu khác nhau…”
Tuy nhiên, ư niệm này ắt vẫn c̣n cô đọng “trong lĩnh vực khoa học” và có lẽ không thâm nhập vào phạm vi Chủ Nghĩa Duy vật và thế nhân phàm tục trong những năm sắp tới, nếu Giáo sư Crookes không dũng cảm rút gọn nó thành ra các cấu tử đơn giản, và như thế là công khai bắt khoa học phải chú ư tới nó. Plutarcth dạy rằng :
Một
ư niệm là một thực thể phi vật thể, chính
nó không tồn tại, song nó lại ban cấp h́nh hài cho
vật chất vô h́nh, vô ảnh và trở thành nguyên nhân
của sự biểu lộ. ([419])
348
Cuộc cách mạng
mà Avogadro đă tạo ra trong Cựu Hóa học, chính là
bước đầu của “Tân Hóa học”. Nay Giáo sư
Crookes đă tiến bước thứ nh́ và đang táo
bạo nêu rơ bước cuối cùng có thể là ǵ. Ấy là
v́ một khi người ta đă chấp nhận và
thừa nhận Nguyên h́nh chất – cũng như Ether vô h́nh, cả hai đều cần
thiết cho luận lư và khoa học – th́ hóa học sẽ hầu như là
không c̣n tồn tại nữa: nó sẽ tái sinh với tư
cách là KHOA LUYỆN KIM ĐAN
MỚI tức siêu hóa học. Chẳng sớm th́ muộn,
người khám phá ra chất phát quang sẽ biện hộ
cho các công tác của dân Ăryan cổ sơ liên quan tới
Huyền bí học, thậm chí cả kinh Veda và kinh Purănas
nữa. Ấy là v́ biểu lộ của “Mẹ”,
“Cha-Con-Chồng” (Tiên Thiên Huyền Nữ (Aditi) và Daksha,
một dạng thức của Brahmă, trên cương vị
Đấng Sáng Tạo) và “Con” – ba “Đấng Bản Lai”
(the three “First-born”) – chẳng qua chỉ là hydrogen, oxygen và cái có biểu lộ trên trần
thế là Nitrogen. Ngay cả sự mô tả ngoại môn
Tam Nguyên “Bản Lai” này cũng tŕnh bày mọi đặc
tính của ba chất khí này. Priestley đă khám phá ra Oxygen,
tức điều đă biết tới từ xưa !
Thế nhưng, các
tác phẩm ngoại môn của Ấn Độ đă tiên
liệu được mọi giáo huấn của các thi
sĩ và các triết gia cổ sơ, trung cổ và hiện
đại. Các Xoáy Ngũ Hành mà Toàn Linh trí đă phát khởi
– Thái Cực gồm Vật Chất đă biến phân thành
các cấu tử của Descartes; lưu chất Ether
của Leibnitz và lưu
chất bản sơ của Kant
tan ḥa thành các nguyên tố; xoáy mặt trời và các xoáy thái
dương hệ của Kepler; tóm lại, qua Anaxagoras,
xuống tận Galileo, Torricelli và Swedenborg; sau đó, tới
các suy lư mới nhất của các nhà huyền học Âu Châu
– tất cả các thứ trên đều được bao
hàm trong các bài Thánh ca hay Thần chú của Ấn Độ
đề cập tới tập thể “chư Thần
Linh, Chơn Thần và Nguyên tử”, v́ tất cả
đều bất khả phân ly. Chúng ta thấy các quan
niệm siêu việt nhất về Vũ Trụ và các bí
nhiệm của nó, cũng như là các suy lư h́nh như là duy
vật nhất, đều được dung ḥa trong các
giáo lư nội môn, v́ các giáo lư này bao hàm toàn thể phạm vi
tiến hóa từ Tinh Thần tới Vật Chất.
Một nhà Minh Triết Thiêng Liêng Mỹ tuyên bố:
Các đơn
nguyên (monads)[của Leibnitz] có thể được gọi
là thần lực, theo
một quan điểm nào đó, hoặc là vật chất, theo một quan điểm khác.
Đối với Huyền bí học, thần lực và vật
chất chỉ là hai phương diện của cùng
một bản chất. ([420])
Xin độc giả nhớ dùm các “Đơn Nguyên” này của Leibnitz, mỗi Đơn Nguyên là một gương sống động của Vũ Trụ, mỗi Đơn Nguyên đều phản ánh mọi Đơn Nguyên khác, đồng thời so sánh quan điểm và định nghĩa này với một vài đoạn kinh Bắc phạn được William Jones dịch thuật. Trong các đoạn kinh đó có nói rằng cội nguồn sáng tạo của Thiên trí (Divine Mind)
Ẩn
tàng trong một bức màn âm u dày đặc, tạo ra các
chiếc gương nguyên tử trên thế giới, và
phản ánh chính gương mặt của ḿnh lên mỗi
nguyên tử.
Do đó, khi Giáo sư Crookes tuyên bố rằng:
Nếu
chúng ta có thể xác minh được làm thế nào mà cái
gọi là các nguyên tố hóa học đă được
sản sinh ra, th́ chúng ta sẽ có thể lấp đầy
được một khoảng trống lớn lao trong
tầm hiểu biết của chúng ta về vũ trụ.
349
Câu giải đáp đă sẵn sàng. Kiến
thức lư thuyết được bao hàm trong ư nghĩa
Nội môn của mọi vũ trụ khởi nguyên
luận của Hindu trong kinh Purănas. Việc chứng minh
được nó một cách thực tế ở trong
tầm tay của những kẻ sẽ chẳng
được ai thừa nhận trong thế kỷ này
(ngoại trừ một số rất ít người).
Đến nay, việc khoa học có khả năng khám phá
ra nhiều điều khác nhau, nhất định là
sẽ khiến cho khoa học chính xác phải chấp
nhận các quan điểm của Huyền bí học, chúng
bao hàm mọi tư liệu cần thiết để
lấp đầy các “lỗ trống” này, cho đến nay
lại bị phó mặc cho Chủ Nghĩa Duy Vật
hiện đại. Chỉ bằng cách hoạt động
theo chiều hướng của Giáo sư Crookes,
người ta mới có ít nhiều hy vọng nh́n nhận
một ít chân lư mà đến nay vẫn c̣n có tính cách
Huyền bí.
Trong khi đó, bất
cứ người nào khao khát muốn có khái quát một
đồ thị thực tiễn về sự tiến hóa
của Vật Chất nguyên thủy – khi phân ly và biến
phân theo sự thúc đẩy của dịnh luật
tuần hoàn. Vật Chất này phân thành bảy cấp CHẤT LIỆU, xét chung
– chẳng có tính cách nào khác hơn là xem xét các minh họa kèm
theo bài diễn văn của Giáo sư Crookes, Sự
khởi thủy của các Nguyên tố và suy gẫm kỹ
lưỡng về một vài đoạn trong bản
văn. Có chỗ ông đă dạy rằng :
Các
quan niệm của chúng ta về một nguyên tố hóa
học đă phát triển. Cho đến nay, phân tử
đă bị coi như là một tập hợp gồm hai
nguyên tử hay nhiều hơn nữa; người ta
cũng không đếm xỉa ǵ đến kiểu mẫu
kiến trúc mà các nguyên tử này đă tham gia vào. Chúng ta có
thể xét thấy rằng cấu trúc của một nguyên
tố hóa học thật là phức tạp hơn mức mà
người ta đă giả sử cho đến nay.
Giữa các phân tử mà chúng ta quen bàn đến trong các
phản ứng hóa học và các cực vi tử
được tạo ra trước tiên, c̣n có các phân
tử nhỏ hơn; tức tập hợp các nguyên tử
vật chất; các phân tử nhỏ này khác nhau tùy theo
vị trí mà chúng chiếm được trong cấu trúc
của yttrium.
Có
lẽ giả thuyết này sẽ đơn giản hơn
nếu chúng ta tưởng tượng rằng yttrium
được tượng trưng bởi một
đồng năm hào Anh. Bằng cách phân đoạn, tôi
đă chia nó thành 5 đồng hào riêng biệt và thấy
rằng các đồng hào này không phải là các âm bản
(counterparts), mà giống như các nguyên tử carbon trong ṿng
benzol, lại ghi dấu ấn vị trí của ḿnh, 1, 2, 3,
4, 5 lên trên chúng… Nếu tôi ném các đồng hào của ḿnh
vào nồi nấu kim loại, hoặc ḥa tan chúng về
mặt hóa học, dấu đúc tiền sẽ biến
mất và tất cả sẽ được chế ra
thành bạc. ([421])
Đó cũng là t́nh
trạng của mọi nguyên tử và phân tử khi chúng
đă phân ly khỏi các dạng hợp chất (khi bắt
đầu chu kỳ Hỗn Nguyên). Ngược lại
trường hợp này, hăy thử tưởng tượng
là một chu kỳ Khai Nguyên mới vừa lố dạng.
“Bạc” nguyên chất của vật liệu bị hấp
thụ một lần nữa sẽ phân ly thành ra BẢN CHẤT. Bản chất này sẽ sản sinh
ra các “Bản Thể Thiêng Liêng” có các “Nguyên Khí” ([422]) là các Hành Bản Sơ, các Hành thứ
yếu, các Năng Lượng Vật Chất, Vật
Chất ngoại cảnh nội tâm (tóm lại, đó là
chư THẦN LINH, CHƠN
THẦN và NGUYÊN TỬ). Nếu tạm thời bỏ qua các khía
cạnh siêu h́nh hay siêu việt của vấn đề -
tạm thời không xét tới các Thực Thể thông
tuệ và siêu phàm mà các tín đồ Thiên Chúa giáo và Do Thái Bí
giáo tin tưởng vào – và nếu chúng ta quay sang thuyết
nguyên tử tiến hóa, th́ khoa học chính xác vẫn c̣n bổ
chứng cho các Giáo lư Huyền bí học. Đến nay, ít ra
th́ các lời thú nhận của nó liên quan tới các Nguyên
tố được giả sử là “đơn
thuần”, cũng đột nhiên thoái hóa thành ra số bà con
thân thích xa. Ấy là v́ Giáo sư Crookes đă bảo chúng ta
rằng:
350
Cho
đến nay, người ta đă nhận thấy
rằng, nếu trọng lượng nguyên tử của
một kim loại, được xác định bởi
nhiều quan sát viên khác nhau, xuất phát từ các hợp
chất khác nhau, luôn luôn là hằng số … th́ kim loại
ấy phải có quyền được xếp vào hàng
ngũ đơn chất nguyên tố. Chúng ta biết
rằng… hiện nay không c̣n như vậy nữa. Ở
đây, chúng ta lại có hệ thống tổ chức
ăn khớp nhau. Gadolinium không phải là một nguyên
tố, mà lại là một hợp chất… Chúng ta sẽ
chứng tỏ rằng yttrium là một phức hợp
gồm có ít nhất là năm cấu tử mới. AI dám
phủ nhận rằng nếu bị tấn kích một
cách khác, nếu chúng ta áp dụng một cuộc trắc
nghiệm có mức độ khám phá tinh vi hơn cuộc
trắc nghiệm chất phát quang, th́ mỗi cấu tử
này c̣n có thể được chia nhỏ hơn nữa?
Bấy giờ, đâu là nguyên tố căn bản thực
sự? Chúng ta càng tiến, th́ nó lại càng lùi, chẳng khác
nào những chiếc hồ và những cánh rừng nhử
người lữ khách vừa mệt vừa khát trong sa
mạc. Khi mưu t́m chân lư, liệu chúng ta có phải bị
lừa gạt và cản trở như vậy không ? Bản
thân ư niệm bản sơ và căn cốt, h́nh như ngày
càng mơ hồ. ([423])
Trong Nữ Thần
Isis Lộ Diện, chúng tôi đă nói :
Cái
bí nhiệm về sự sáng tạo bản sơ, nó bao
giờ cũng làm cho khoa học thất vọng, thật là
thăm thẳm khôn ḍ trừ phi chúng ta chấp nhận giáo
lư của Hermes. Nếu Darwin chuyển cuộc t́m kiếm
của ḿnh từ thế giới hữu h́nh sang thế
giới vô h́nh, có thể là ông đă đi đúng
đường. Nhưng bấy giờ, ông sẽ nối
gót của các môn đồ phái Hermes. ([424])
Lời tiên tri của chúng tôi đă bắt đầu được xác nhận.
Nhưng giữa Hermes
và Huxley có một tiến tŕnh và điều trung gian.
Mặc cho các nhà khoa học chỉ bắt đầu
một cách nửa vời và suy tư chín chắn về các
thuyết của Leibnitz. Chúng ta đă chứng tỏ
rằng các thuyết của chúng ta liên quan tới sự
tiến hóa của các Nguyên tử - việc chúng rốt
cuộc hợp thành các phân tử hóa học được
tạo ra bên trong các xưởng ở trong bầu khí
quyển của Trái Đất chứ không ở đâu khác
– phù hợp một cách kỳ diệu với sự tiến
hóa của các Nguyên tử được tŕnh bày trong các
bản minh họa của Giáo sư Crookes. Trong tác phẩm
này, chúng ta đă nhiều lần xác định rằng
Mărtănda, tức Thái Dương, đă tiến hóa và tập
hợp lại, cùng với Bảy tiểu huynh đệ
của ḿnh, từ trong ḷng Mẹ ḿnh (Tiên Thiên Huyền
Nữ); cơi ḷng này chính là BẢN
NGUYÊN CHẤT (prima MATER-ia) –
Nguyên h́nh chất của diễn giả. Nội môn Bí giáo
dạy rằng có tồn tại
Một
dạng tiền năng lượng (antecedent form of energy) với
các chu kỳ tuần hoàn khi lên khi xuống, yên nghỉ và
hoạt động.([425])
Nay hăy xem một
bậc đại học giả trong lănh vực khoa
học yêu cầu thế giới chấp nhận
điều này như là một trong các định đề
của ông. Chúng ta đă tŕnh bày rằng “Từ Mẫu” nóng
bừng, đang trở thành người lạnh và phát
quang. Cũng chính nhà khoa học ấy đưa ra
định đề thứ nh́ – h́nh như đó là
một tất yếu khoa
học – như sau:
Một
tác động nội tại tương tự với
sự nguội lạnh, diễn ra từ từ trong Nguyên
h́nh chất.
351
Huyền bí học
dạy rằng “Từ Mẫu” nằm dài trong Vô Cực,
trong chu kỳ Hỗn Nguyên, như là Thái Uyên (great Deep), “Không
Gian Thủy khô ráo”, theo lối nói kỳ quặc của
Giáo lư vấn đáp, và chỉ biến thành ướt át sau khi Nărăyana tách rời ra và chờn
vờn trên mặt nước. Nărăyana chính là :
Đấng
Chơn Linh vốn là Ngọn Lửa Vô H́nh, không bao giờ
cháy, nhưng thiêu đốt mọi thứ mà nó chạm
tới, ban cho nó cuộc sống và sự sinh hóa.([426])
Nay khoa học lại
bảo chúng ta rằng “nguyên tố bản sơ… hầu
như liên kết với nguyên h́nh chất ắt là “hydrogen … có một thời gian, nó đă là
một dạng vật chất duy nhất tồn tại”
trong Vũ Trụ. Minh Triết Cổ truyền bảo sao
đây ? Nó xin đáp: Đúng như vậy. Nhưng theo chúng
tôi, Hydrogen và Oxygen – vào lúc chưa khai thiên tịch
địa – làm cho sinh hỏa thấm nhuần vào trong
“Từ Mẫu” bằng cách ấp ủ Tinh Thần, thực tượng của cái biến thành trong trạng
thái thô trược nhất, Oxygen, Hydrogen và Nitrogen trên
trần thế - Nitrogen không có nguồn gốc thiêng liêng, mà
chỉ là một chất dính kết trên trần thế,
dùng để liên kết các chất hơi và lưu
chất khác, có tác dụng như một miếng bọt
biển để hàm tích SINH
KHÍ, khí trời tinh khiết. ([427]) Trước khi các chất khí và các
lưu chất này trở thành t́nh trạng như hiện
nay trong khí quyển của chúng ta, chúng là Ether liên tinh tú;
trước nữa, trên một cảnh giới thâm u
hơn, chúng lại là một thứ ǵ khác nữa, và cứ như thế măi. Xin bậc học giả quư tộc
lỗi lạc hăy thứ lỗi cho một nhà Huyền bí
học v́ cứ trích dẫn của ông măi như thế.
Nhưng đó cũng là biện pháp trừng phạt
một hội viên của Hội Hoàng Gia dám mon men tới
gần biên giới Thánh Điện Bí Nhiệm Huyền Linh
đến mức hầu như là đă lấn sang vùng
cấm địa.
Nhưng đă
đến lúc dẹp vật
lư học hiện đại
qua một bên và quay sang khía cạnh tâm lư và siêu h́nh của
vấn đề này. Chúng tôi chỉ nhận thấy
rằng phải thêm một định đề thứ ba
[428] vào hai định đề rất
hợp lư mà diễn giả cần dùng “để có
được một khái niệm về một vài bí
nhiệm vẫn ẩn đàng sau cánh cửa Bất Khả
Tri”, định đề thứ ba ấy cho rằng các
suy lư của Leibnitz có một cơ sở thật là
vững chắc, đúng sự thật – khôn khéo
đừng đả kích nó lại có lợi. Phần
tổng kết đắn đo tuyệt vời về các
suy lư này – mà John Theodore Mertz đă tŕnh bày trong tác phẩm
“Leibnitz” – đă chứng tỏ cách thức mà ông đă
đề cập tới hầu hết các bí nhiệm
ẩn tàng của Thần phổ học Nội môn trong
Đơn Nguyên Luận của ḿnh. Thế nhưng,
triết gia này cũng khó ḷng mà đưa các suy lư của
ḿnh vượt lên trên các cảnh giới thứ nhất,
các nguyên khí hạ của Đại Thể Vũ Trụ
(the Cosmic Great Body). Thuyết của ông không thể vút cao
hơn tầm mức của sự sống biểu lộ, ngă thức và trí thông tuệ. Nó không
đá động ǵ tới cảnh giới của các bí
nhiệm trước khi khai thiên tịch địa, v́
lưu chất ether xuất hiện sau khi có các hành tinh.
352
Nhưng định đề thứ ba này
sẽ khó ḷng được các nhà khoa học hiện
đại chấp nhận. Cũng như Descartes, họ
thích tiếp tục chấp nhận các tính chất của
các ngoại vật – cũng như tính chất bành trướng,
chúng không thể giải thích được hiện
tượng chuyển động – hơn là chấp
nhận việc coi chuyển động như là một
Lực độc lập. Trong thế hệ này, họ
sẽ không chống lại Descartes, và cũng chẳng
thừa nhận rằng :
Quán
tính này không phải là một tính chất thuần túy h́nh
học, nó vạch rơ sự tồn tại của một
điều nào đó nơi các ngoại vật, nó vốn
chẳng phải chỉ là sự bành trướng không thôi.
Đó là ư
tưởng của Leibnitz mà Mertz đă phân tích. Ông c̣n nói
thêm rằng Leibnitz gọi “điều ǵ đó” là Lực và
khẳng định rằng các ngoại vật đều
được phú cho Thần Lực. Để vận
chuyển Thần Lực này, chúng phải có một Bản
chất, v́ chúng không phải là các khối bất
động, vô tri vô giác, mà là các trung tâm bao hàm h́nh hài sắc
tướng – đây là một lời khẳng định
thuần túy Nội môn, v́ đối với Leibnitz, lực là một nguyên khí chủ động – do kết luận này Trí Tuệ và
Vật Chất không c̣n phân ly với nhau nữa.
Theo
quan niệm của một nhà khảo cứu khoa học
thuần túy, các cuộc điều nghiên về toán học
và động lực học của Leibnitz sẽ không
đưa tới cùng một kết quả. Nhưng Leibnitz
không phải là một nhà khoa học theo nghĩa hiện
đại của từ ngữ này. Nếu là một nhà
khoa học, ông đă phải vạch ra quan niệm về
năng lượng, dùng toán học định nghĩa các
ư niệm về lực và công cơ học, đồng
thời đi đến kết luận cho rằng ngay
cả v́ mục đích thuần túy khoa học, chúng ta nên
xem lực là một đại lượng dẫn xuất
từ một giá trị nào khác chứ không phải là
một đại lượng bản sơ.
Nhưng may mắn thay cho chân lư :
Leibnitz
là một triết gia, v́ thế một vài nguyên lư đă
khiến ông bị thiên kiến quan niệm. Thế là
việc ông khám phá ra rằng “ngoại vật là các chất
liệu được phú cho thần lực”
được dùng ngay vào việc áp dụng các nguyên lư này.
Một trong các nguyên lư này là định luật liên tục
(law of continuity), nó khẳng định rằng toàn bộ
thế giới đều có liên hệ với nhau, không có
khoảng trống nào mà chẳng thể lấp đầy
được. Ông chịu không nổi sự tương
phản của các chất liệu bành trướng
biết suy tư. Chúng ta không thể tán thành được
định nghĩa về các chất h́nh tướng.
Như thế, dĩ nhiên là chúng ta cũng phải xem xét
lại định nghĩa về thể trí, chất
liệu biết suy tư (the thinking substance).
Mặc dù c̣n khiếm
khuyết và chưa được hoàn chỉnh theo quan
điểm của Huyền bí học, phép phân loại
của Leibnitz cũng biểu lộ một óc trực giác
siêu h́nh mà không có nhà khoa học nào, kể cả Descartes và
Kant, đă từng đạt được. Đối
với ông, bao giờ cũng có một cấp độ
tư tưởng vô tận. Ông cho rằng chỉ một
phần nhỏ của tư tưởng chúng ta vút lên
được tới cảnh giới của trực giác
và “toàn giác”. Đại đa số tư tưởng chúng
ta vẫn c̣n lộn xộn, mơ hồ, chỉ là “tri giác”
(“perceptions”) thế thôi. Descartes không cho là thú vật có linh
hồn. Cũng như các nhà Huyền bí học, Leibnitz cho
rằng mọi tạo vật đều có thể trí, theo
ông, thể trí này được phân ra thành vô số cấp
bậc. Mertz đă nhận xét thật là chí lư như sau :
Ngay
khi mở rộng phạm vi của cuộc sống trí
tuệ, dẹp hết sự tương phản giữa
vật chất linh động và vô tri giác, nó c̣n làm hơn
nữa – nó lại tác động lên quan niệm về
vật chất, về chất bành
353
trướng.
Ấy là v́ hiển nhiên là các ngoại vật chỉ bày ra
tính chất bành trướng với giác quan của chúng ta
thôi, chứ không hề đối với các năng lực
suy tư của chúng ta. Để tính toán các h́nh có dạng
h́nh học, nhà toán học đă bắt buộc phải chia
chúng thành ra vô số các phần tử cực vi, c̣n nhà
vật lư học thấy rằng vật chất có thể
phân thành nguyên tử một cách vô hạn. Cái khối
khiến cho ngoại vật có vẻ chiếm một
chỗ trong không gian là một tính chất mà chúng chỉ có
được v́ các giác quan của chúng ta thật là thô
trược…Leibnitz đă
tiếp tục luận chứng như vậy trong
một chừng mực nào đó, nhưng ông không chịu
thỏa măn với việc giả sử rằng vật
chất được tạo thành bởi một số hữu
hạn các phần tử cực vi. Óc toán học đă
bắt buộc ông phải tiến hành luận chứng
tới cùng. Thế th́ các nguyên tử biến thành ǵ bây
giờ. Chúng không c̣n kích thước nữa, chúng chỉ c̣n
giữ lại sức bền, chúng là các trung tâm lực.
Chúng bị thu gọn về các điểm toán học…
Nhưng nếu chúng không có kích thước trong không gian th́
cuộc sống nội tại của chúng lại sung măn
biết bao nhiêu. Khi giả sử rằng cuộc sống nội
tâm, chẳng hạn như cuộc sống của trí
người, là một kích thước mới, không
phải là một kích thước h́nh học, mà là một
kích thước siêu h́nh học (điều này đă
khiến cho các nguyên tử không c̣n kích thước h́nh
học nữa). Leibnitz đă phú cho chúng một sự bành trướng
vô tận, theo chiều hướng kích thước siêu h́nh
của chúng. Sau khi đă không c̣n thấy chúng nữa trong
thế giới không gian, thể trí đă lặn lội vào
trong một thế giới siêu h́nh để t́m ra và
lĩnh hội được bản chất thật
sự của cái chỉ hiện ra trong không gian như là
một điểm toán học… Một h́nh nón tựa vào
đỉnh của nó, một đường thẳng góc
chỉ cắt một mặt phẳng nằm ngang ở
một điểm toán học, nhưng có thể có
chiều sâu và chiều cao phát triển vô tận. Cũng
vậy, bản thể của các vật có thực chỉ
tồn tại như một điểm trong thế
giới hồng trần, nhưng lại có cuộc sống
nội tại sâu thăm thẳm trong thế giới tư
tưởng siêu h́nh. ([429])
Đó là tinh thần,
nền tảng của giáo lư Huyền bí. “Tinh
Thần-Vật Chất” và “Vật Chất-Tinh Thần” sâu thăm thẳm, cũng như “bản thể của
vạn vật” của Leibnitz, bản thể của các sự vật có
thực ở tầng thứ bảy. Trong khi đó, vật chất thô
trược và không có
thực của khoa học và
ngoại giới ở cực điểm thấp nhất
của các giác quan chúng ta. Nhà Huyền bí học biết rơ
được vật chất thô trược ấy có giá
trị hay không.
Nay chúng ta phải
chỉ cho môn sinh thấy rơ sự dị biệt cơ
bản giữa hệ thống của Leibnitz ([430]) và hệ thống của Huyền bí
học bàn về vấn đề Đơn Nguyên (Monads).
Chúng ta có thể thực hiện điều này bằng cách
tŕnh bày Đơn Nguyên
Luận (Monadologie) của Leibnitz.
Có thể xác định rằng nếu dung ḥa các hệ
thống của Leibnitz và Spinoza với nhau, chúng ta sẽ
thấy xuất hiện bản chất và tinh thần
của Nội môn Bí giáo. Do sự kết hợp của
cả hai hệ thống đó – để đối
lập với hệ thống của Descartes – các chân lư
của Giáo lư Cổ truyền mới xuất lộ. Cả
hai đều đối lập với siêu h́nh học
của Descartes. Đối với họ, việc Descartes
cho rằng hai Bản chất tương phản – Kích
thước và Tư Tưởng – khác nhau triệt
để và không thể phân giải lẫn nhau, thật là
quá độc đoán và chẳng có một ư nghĩa
triết học chút nào cả. V́ thế, Leibnitz biến hai
Bản chất của Descartes thành ra hai thuộc tính
của Nhất Nguyên vũ trụ; ông thấy Thượng
Đế trong đó. Spinoza chỉ nh́n nhận Bản
chất vũ trụ duy nhất bất khả phân, một
TỔNG
THỂ tuyệt đối, giống như Thái
Cực Thượng Đế. Trái lại, Leibnitz tri giác
được sự tồn tại của nhiều
Bản chất. Đối với Spinoza, chỉ có MỘT
Thực Thể, c̣n đối với Leibnitz, lại có vô
số thực thể xuất phát từ và ở trong Đấng Độc Tôn. V́
thế, mặc dù cả hai đều thừa nhận
một Thực Tại Duy
Nhất; trong khi Spinoza biến
nó thành ra vô ngă và bất khả phân, th́ Leibnitz chia
Thượng Đế nhân
h́nh thành ra một số
thực thể Thánh Linh và bán Thánh Linh. Spinoza là một nhà
Phiếm Thần nội
tâm (subjective Pantheist), c̣n Leibnitz
là một nhà Phiếm Thần ngoại cảnh (objective
Pamtheist), song cả hai đều là các triết gia lỗi
lạc có nhiều trực giác.
354
Nay nếu chúng
ta kết hợp hai giáo lư này lại, lấy giáo lư này
hiệu chỉnh giáo lư kia – và nhất là dẹp đi tính
cách nhân h́nh của Thực Tại Duy Nhất – tổng
kết lại, chúng sẽ chỉ c̣n bao hàm tinh thần
đích thực của Nội môn Bí giáo; đó là Bản
Thể Thiêng Liêng tuyệt đối, vô ngă, không có thuộc
tính, nó chẳng phải là “hiện tồn”, mà là căn
cốt của mọi Hiện Tồn. Hăy phân biệt rơ ràng
Bản thể bất khả tư nghị ấy với Bản
Lai Diện Mục mặc dù vô h́nh song vẫn khả tri
(Hỗn nguyên khí ‘Mũlaprakriti’ tức Shekinah). Âm Thanh
của Thiên Đạo rung động từ bên ngoài và xuyên qua Hỗn nguyên khí ấy. Từ đó
cũng tiến hóa ra hằng hà sa số Đại Đoàn
các Chơn Ngă thông tuệ, các thực thể hữu
thức cũng như là bán ư thức, trực quan và tri giác ([431]) có Bản thể là Thần Lực,
có Bản chất là các Nguyên tố, và có Sắc tướng
(nếu cần) là các Nguyên
tử - Giáo lư của chúng tôi
như thế. Leibnitz cho rằng:
Nguyên
tố bản sơ của mọi vật thể
đều là thần lực, nó không hề có đặc
tính của vật chất [ngoại cảnh] – chúng ta có
thể quan niệm được nó, nhưng nó không bao
giờ có thể là đối tượng của bất
kỳ lối tŕnh bày tưởng tượng nào.
Như thế, cái đối với ông là nguyên tố bản sơ và tối hậu trong mọi vật thể, lại không phải là các nguyên tử hay phân tử vật chất, tất nhiên là có một kích thước nào đó, chẳng hạn như các nguyên tử của Epicurus và Gassendi. Nhưng theo Mertz, đó là các Nguyên tử siêu h́nh và phi vật chất, các “điểm toán học” tức các linh hồn đích thực (theo lối giải thích của Henri Lachetier, Giáo sư Thạc sĩ Triết học, nhà viết tiểu sử người Pháp).
Cái
tồn tại bên ngoài chúng ta một cách tuyệt
đối là các Linh Hồn có bản thể là thần
lực. ([432])
355
Như thế, thực tại trong thế giới biểu lộ
gồm có một đơn vị bao hàm nhiều đơn
vị (tạm gọi như vậy), phi vật chất
(theo quan điểm của chúng ta) và vô tận. Leibnitz
gọi chúng là Đơn Nguyên; Triết học Đông
phương gọi chúng là Jĩva (Nguyên sinh khí); c̣n
Huyền bí học, các tín đồ Do Thái Bí giáo và tất
cả các tín đồ Thiên Chúa giáo, gọi chúng bằng nhiều
tên khác nhau. Đối với chúng ta cũng như là
đối với Leibnitz, chúng là “biểu lộ của
vũ trụ”;([433]) mọi điểm vật lư (physical
points) chẳng qua chỉ là biểu lộ hiện
tượng của Điểm thực tượng vô h́nh.
Việc ông phân biệt tri
giác với trực quan là biểu hiện triết học
(mặc dù mơ hồ) của Nội môn Bí giáo. Các “vũ
trụ thu gọn” của ông – có bao nhiêu Chơn Thần th́
có bấy nhiêu vũ trụ thu gọn – là sự tŕnh bày
một cách hỗn độn Hệ thống Thất phân
của chúng ta với các cảnh giới và các phân cảnh
giới.
C̣n về phía mối liên hệ giữa Chơn Thần và các Thiền Định Đế Quân, các Chơn Linh Vũ Trụ, chư Thiên và Hành khí (Elementals), chúng ta có thể mô phỏng lại một cách ngắn gọn ư kiến của một nhà Minh Triết Thiêng Liêng thông thái và ân cần bàn về vấn đề này, đó là ông C. H. A. Bjerregaard. Trong một tài liệu tuyệt vời “về các Hành khí, các Tinh Linh và Quan hệ của Chúng với Loài Người” mà ông tŕnh bày tại Hội Theosophy ở New York, ông Bjerregaard đă nêu rơ ư kiến của ḿnh như sau :
Đối
với Spinoza, chất liệu toàn là bất động,
nhưng đối với trí tuệ sắc sảo của
Leibnitz, vạn vật đều là hoạt động linh
hoạt và năng lượng tác động. Khi giữ
vững quan điểm này, ông c̣n vô cùng gần gũi
với Đông phương hơn bất kỳ nhà tư
tưởng đương thời hoặc hậu sinh nào.
Việc ông khám phá ra rằng “có một năng lượng
tác động tạo thành bản thể của chất
liệu” là một nguyên lư khiến ông có quan hệ trực
tiếp với các bậc Minh Sư của Đông
phương.([434])
Diễn giả c̣n
tiếp tục chứng tỏ rằng đối với
Leibnitz, các Nguyên tử và Nguyên tố là các Trung tâm Lực, hay đúng hơn là các “thực
thể tinh thần có bản chất tác động”,
Các
cấu tử nguyên tố này là các sinh lực, không tác
động một cách máy móc, mà lại tác động theo
một nguyên tác nội tại. Chúng là các đơn vị
tinh thần phi vật thể [“có thực chất” nhưng
chẳng phải là “phi vật chất” theo nghĩa của
chúng ta] không bị ngoại cảnh biến đổi… (và)
không thể bị bất cứ ngoại lực nào hủy
hoại. Các Đơn Nguyên của
Leibnitz khác với các nguyên tử ở những
đặc điểm sau đây chúng ta nên nhớ kỹ
chúng, nếu không, chúng ta sẽ không thể phân biệt
được các Hành khí và chỉ vật chất không thôi.
Các nguyên tử chẳng có đặc điểm nào khác
nhau, xét về mặt tính chất, chúng đều giống
nhau. Nhưng cũng xét về mặt tính chất,
đơn nguyên này khác với đơn nguyên kia, mỗi
đơn nguyên là một thế giới đặc thù. Các
nguyên tử lại không hề như vậy; chúng hoàn toàn
giống nhau về mặt định tính và định
lượng và không hề cá biệt. ([435]) Vả lại, có
thể xem các nguyên tử [đúng hơn là các phân tử]
của triết thuyết duy vật là các sự vật có
kích thước và khả phân, trong khi đơn nguyên chỉ
là các “điểm siêu h́nh” và bất khả phân. Cuối
cùng, đơn nguyên của Leibnitz rất giống với
các Hành khí của triết thuyết huyền học ở
điểm sau đây: chúng là các thực thể tiêu
biểu. Mọi đơn nguyên đều phản ánh các
đơn nguyên khác. Mọi Chơn Thần đều là
một chiếc gương linh động của vũ
trụ trong phạm vi của riêng ḿnh. Nên lưu ư
điều này, v́ năng lực mà các đơn nguyên này có
được đều dựa vào điều này, công tác
mà chúng có thể thực hiện cho chúng ta cũng tùy
thuộc vào điều này. Khi phản ánh thế giới,
đơn nguyên không phải chỉ là các tác nhân phản ánh
thụ động mà lại tác động một cách
tự phát, chẳng khác nào linh hồn tạo ra một
giấc mơ. Do đó, bậc Cao đồ có thể
biết được mọi chuyện (thậm chí cả
tương lai nữa) nơi mỗi đơn nguyên.
Mọi đơn nguyên (hay hành khí) đều là một
chiếc gương soi biết nói.
356
Triết thuyết của Leibnitz đă bị
sụp đổ do chính điểm này. Ông không thể
dự liệu, mà cũng chẳng phân biệt
được Đơn Nguyên “Hành khí” (“Elemental” Monad)
với Chơn Thần của một Chơn Linh Hành Tinh cao
cả, hoặc thậm chí Chơn Thần Nhân Loại
tức Linh Hồn. Ông c̣n có lúc đi đến mức hoài
nghi, liệu
Thượng
Đế đă từng chẳng tạo ra điều ǵ
ngoại trừ đơn nguyên tức căn bản
chất không có kích thước hay chăng ? ([436])
Ông phân biệt giữa Đơn Nguyên và Nguyên tử ([437]) v́ ông đă nhắc đi nhắc lại rằng :
Các
chất có đủ mọi đặc tính chỉ là
hiện tượng giống như cầu vồng. ([438])
Nhưng chẳng bao
lâu, ông đă biện minh được cho điều này
trong một sự tương ứng có thực chất,
một mối liên kết siêu h́nh giữa các Đơn
Nguyên. Nội môn Bí giáo – vốn dạy về Chủ
Nghĩa Duy Tâm ngoại
cảnh, mặc dù nó xem Vũ
Trụ ngoại cảnh và vạn hữu trong đó như
Hăo huyền – thực tế phân biệt giữa Đại
hăo huyền (theo quan điểm thuần túy siêu h́nh (với
các liên hệ ngoại cảnh trong đó giữa nhiều
Chơn Ngă hữu thức khác nhau chừng nào mà hăo huyền
này c̣n tồn tại. Do đó, bậc Cao đồ có
thể biết được tương lai nơi
một Đơn Nguyên Hành khí, nhưng để làm
được điều này, y phải tập hợp
lại một số lớn Đơn Nguyên Hành khí, v́
mỗi Đơn Nguyên chỉ tiêu biểu cho một
phần của Giới nó.
Các
Đơn Nguyên không bị giới hạn nơi
đối tượng, mà bị giới hạn nơi
sự biến đổi về việc nhận thức
đối tượng. Tất cả chúng đều
hướng một cách hỗn độn về vô tận,
về tổng thể, nhưng chúng bị giới hạn
và phân biệt tùy theo mức độ mà người ta tri
giác rơ rệt được chúng. ([439])
Leibnitz đă giải thích như sau:
Mọi
phân tử của vũ trụ đều được
tiêu biểu riêng biệt nơi các đơn nguyên, nhưng
có phân tử được phản ánh nơi đơn
nguyên này, có phân tử được phản ánh nơi
đơn nguyên khác.
Một số Đơn Nguyên có thể đồng thời tiêu biểu cho tư tưởng của hai triệu dân Ba Lê.
357
Nhưng về vấn đề này, Huyền
bí học bảo sao đây và có dạy thêm ǵ không ?
Họ dạy
rằng cái được Leibnitz gọi chung là Đơn
Nguyên, nay cứ tạm xét khái quát, chưa đi vào chi
tiết vội – có thể được chia thành ba
Tập Đoàn (Hosts) riêng biệt. ([440]) Tính từ trên các cảnh giới cao
nhất xuống, trước hết là Chư Thần Linh
tức các Chơn Ngă hữu thức, các Kiến Trúc Sư
thông tuệ hoạt động theo Thiên Cơ trong Thiên Trí. Rồi tới các Hành khí tức
“Đơn Nguyên”, xét chung, chúng đă hợp thành các Chiếc
Gương vĩ đại của Vũ Trụ, phản
ánh mọi vật liên quan tới các lĩnh vực riêng
của chúng. Cuối cùng, đến lượt các “Nguyên
tử” hay phân tử vật chất lại được
làm cho linh hoạt bởi các Chơn Thần “tri giác”,
chẳng khác nào mọi tế bào trong cơ thể con
người. Đến lượt hằng hà sa số các
Nguyên tử được phú linh như vậy lại làm
linh hoạt các phân tử. Có vô số Chơn Thần, hay
riêng các Hành khí và vô số các thần lực phi Chơn
Thần, v́ chúng thuần là phi vật thể, ([441]) ngoại trừ theo một vài
định luật, khi chúng khoác lấy một h́nh hài – không nhất thiết là
người. Các chất
liệu mà chúng khoác lấy – cái cơ thể biểu
kiến mà chúng triển khai ra xung quanh các trung tâm, từ
đâu mà ra ? Các Bức xạ Phi tướng (The Formless ‘Arũpa’ Radiations), đang tồn
tại trong sự hài ḥa của Ư Chí Vũ Trụ,
đồng thời cũng là tập hợp Ư Chí Càn Khôn trên
cảnh giới Vũ Trụ nội tâm – tập hợp
lại hằng hà sa số Chơn Thần – mỗi Chơn
Thần là chiếc gương phản ánh Thế giới
của riêng ḿnh – và như thế, đă nhất thời
biệt lập ngă tính một Thể Trí độc lập,
toàn tri và đại đồng vũ trụ cũng
nhờ có một tiến tŕnh tụ tập thu hút giống
như vậy, chúng tạo ra cho ḿnh các thể ngoại
cảnh, hữu h́nh, gồm các Nguyên tử liên tinh tú.
Từ lúc bắt đầu biến phân, các Nguyên tử và
Chơn Thần (dù kết hợp hay phân ly, đơn
thuần hay phức hợp), chẳng qua chỉ là các nguyên khí vật thể, tâm linh và tinh thần
của chư “Thiên” – chính chư Thiên cũng là các Bức
xạ của Thiên Nhiên Bản Sơ. Như thế,
dưới mắt nhà Thần nhăn, các Quyền Năng Hành
Tinh Thượng Đẳng hiện ra dưới hai phương
diện: phương diện nội tâm (như là các tác dụng) và phương diện ngoại
cảnh (như là các DẠNG huyền nhiệm). Theo luật Nhân
Quả, các dạng này lại trở thành một Bản Lai Diện
Mục (Presence). Tinh Thần và
Vật Chất Hợp Nhất, điều này đă
được nhắc đi nhắc lại nhiều
lần. Tinh Thần là Vật Chất trên cảnh giới thứ bảy; Vật Chất là Tinh Thần ở
mức độ hoạt động tuần hoàn thấp
nhất; cả hai đều là HĂO
HUYỀN (MĂYĂ).
358
Trong Huyền bí
học, các Nguyên tử được gọi là Chấn
động, cũng như là Âm Thanh – xét chung. Điều
này không dính líu ǵ tới khám phá khoa học của Giáo sư
Tyndall; trên nấc thang thấp nhât của chiếc thang
tồn tại Chơn Thần, ông đă truy ra toàn bộ
tiến tŕnh chấn
động của bầu khí quyển, điều này tạo thành phần ngoại cảnh của tiến tŕnh ấy trong Thiên
Nhiên. Ông đă truy nguyên và ghi nhận được tốc
độ vận động và truyền đạt
của chúng, lực tác động của chúng – các chấn
động được tạo nên trong màng nhĩ và
truyền tới các nhĩ kết thạch v.v… cho tới
khi chấn động của dây thần kinh thính giác
bắt đầu – thế là một hiện tượng
mới diễn ra: đó là phương diện nội tâm của tiến tŕnh tức việc nghe thấy âm thanh. Ông có tri giác hay thấy
được nó không ? Không, v́ kỳ công của ông chính là
việc khám phá ra tác động của Vật Chất.
Nhưng tại sao một nhà Tâm linh thông, một nhà Thần
nhăn – nếu dùng tới nội nhăn thông, y có thể thấy
xuyên qua bức màn Vật Chất – lại không thấy
được nó? Tất cả các ba động của
khoa học đều được tạo ra bởi
những Nguyên tử đang thúc đẩy các phân tử
bước vào hoạt động từ phía bên trong. Các Nguyên tử lấp đầy
Không gian bao la, do chúng chấn động liên tục, nên
chúng ta mới có được cái CHUYỂN ĐỘNG
sẽ giữ cho ṿng Sinh Tử luân hồi xoay măi. Chính công
tác nội tại đó đă tạo ra hiện
tượng tự nhiên được gọi là sự
tương hệ của các Lực. Có điều là
nguồn cội của mọi Thần Lực ấy chính
là Thực tượng chỉ đạo hữu thức
của nó: đó là Thiên Thần, tức Thần Linh, Vong Linh
tức Ma Quỷ, các quyền năng chủ tể, song
cũng chẳng có ǵ khác.
Theo lời mô tả của các nhà Thần nhăn – những người có thể thấy được chuyển động của các Tập Đoàn liên tinh tú, và dùng nhăn thông theo dơi sự tiến hóa của chúng – chúng sáng chói như các mẫu tuyết trinh nguyên dưới ánh mặt trời rực rỡ. Chúng có tốc độ nhanh hơn tư tưởng, nhanh hơn mức mà bất kỳ mắt phàm nào có thể theo dơi được; nếu xét tới chuyển động cực kỳ nhanh của chúng, th́ chúng ta thấy đó là chuyển động tṛn. Đứng trên một đồng bằng mở rộng, nhất là trên một đỉnh núi đồi đăm đăm quan sát ṿm trời bao la trên đầu và vùng không gian vô tận xung quanh, chúng ta sẽ thấy toàn bộ bầu không khí dường như chói lọi các vi tử, thấm nhuần các điểm lấp lánh. Đôi khi chúng chuyển động mănh liệt đến nỗi tạo ra các tia chớp lóe như hiện tượng Bắc Cực Quang. Quang cảnh thật là kỳ diệu đến nỗi mà khi nhà Thần nhăn quan sát nội giới và thấy các điểm lấp lánh xẹt qua ḿnh, y đâm ra bàng hoàng nghĩ tới các bí nhiệm khác c̣n vĩ đại hơn nữa ở bên ngoài và bên trong đại dương lóng lánh này.
Mặc dù giải thích về “chư Thần Linh, Chơn Thần và Nguyên tử” này thật là bất toàn, chúng ta vẫn hy vọng rằng, ít ra một số môn sinh và nhà Minh Triết Thiêng Liêng sẽ cảm thấy rằng thật sự có thể có một mối quan hệ chặt chẽ giữa khoa học duy vật và Huyền bí học. Huyền bí học chính là phần bổ túc và linh hồn đă thất tung của khoa học duy vật.
359
TIẾT 15
SỰ
TIẾN HÓA TUẦN HOÀN VÀ NGHIỆP QUẢ
(CYCLIC
EVOLUTION AND KARMA)
GIÁO điều cơ bản của Huyền bí học chính là sự tiến hóa tinh thần của Chơn Ngă bất tử. Để nhận thức được một tiến tŕnh xa vời như vậy, môn sinh phải tin tưởng vào (a) Sự Sống Vũ Trụ DUY NHẤT, độc lập với Vật Chất (hay cái mà khoa học xem là Vật Chất); và (b) Các Đấng Thông Tuệ cá biệt làm linh hoạt nhiều biểu lộ khác nhau của nguyên khí này. Giáo sư Huxley không tin vào Sinh Lực (Vital Force); các nhà khoa học khác lại tin tác phẩm Bàn về Nguyên sinh chất của Tiến sĩ J.H. Hutchinson đă gây thiệt hại nặng nề cho sự phủ nhận giáo điều này. Quyết định của Giáo sư Beale cũng bênh vực cho một Nguyên sinh khí (Vital Principle, c̣n các bài diễn văn của Bác sĩ B.W. Richardsn về Ether Thần kinh (Nervous Ether) đă được trích dẫn quá đủ rồi. Như thế, thiên hạ có ư kiến khác nhau nhiều.
SỰ SỐNG DUY
NHẤT có quan hệ mật
thiết với Định Luật Duy Nhất chi phối
thế giới Hiện Tồn: NGHIỆP
QUẢ. Xét về mặt
ngoại môn và theo sát nghĩa, nó chỉ có nghĩa là “tác
động”, hay đúng hơn là một “nguyên nhân tạo ra
hiệu quả”. Xét về mặt nội môn, nó lại là
một điều khác hẳn và có tác dụng đạo
đức sâu xa hơn nhiểu. Đó là LUẬT BÁO ỨNG không hề sai lệch. Thật vô ích
mà đi nói với những kẻ vô minh về ư nghĩa
thực sự, đặc tính và tầm quan trọng vô cùng
của Định Luật vĩnh cửu bất di bất
dịch mà không một định nghĩa thần học
nào về một Thượng Đế nhân h́nh có thể
giúp chúng ta h́nh dung được cái nguyên khí vô ngă song
vẫn hằng hữu và chủ động này. Chúng ta
cũng không hề gọi nó là Thiên Hựu. Ấy là v́
đối với các kẻ Hữu thần – chẳng
hạn như các tín đồ Thiên Chúa giáo Tin Lành – Thiên
Hựu là một nam nhân, c̣n đối với các tín
đồ Thiên Chúa giáo La Mă, nó lại là một mănh lực
âm. Wogan đă dạy; “Thiên Hựu (Providence) tôi luyện các
ân sủng của ḿnh để bảo đảm cho chúng
nó hiệu quả hơn”. Thật vậy, “Ngài” tôi luyện
chúng, c̣n Nghiệp Quả - một nguyên khí vô giới tính –
lại không làm như vậy.
360
Trong suốt hai
phần đầu, ([442]) chúng ta đă chứng tỏ rằng
vào lúc sự sống phục sinh mới bắt đầu
thoi thóp, vào mỗi kiếp tái sinh của Càn Khôn, Svabhăvat, “Ánh quang huy Vô thường của
U minh Thường tồn vô thức trong Vĩnh cửu”, đều chuyển từ một
trạng thái bất động sang trạng thái hoạt
động tích cực. Nó biến phân rồi bắt
đầu tác động qua sự biến phân đó. Tác
động này chính là NGHIỆP QUẢ.
Các Chu kỳ cũng chịu ảnh hưởng của hoạt động này.
Nguyên
tử Càn Khôn duy nhất biến thành bảy Nguyên tử
trên cảnh giới Vật Chất, mỗi nguyên tử này
lại biến thành một trung tâm năng lượng.
Cũng chính Nguyên tử đó lại biến thành bảy
Cung trên cảnh giới Tinh Thần; và bảy Thần
Lực sáng tạo của Thiên Nhiên, đang xạ ra từ
Bản Thể Cội Nguồn… cái th́ đi theo hữu
đạo, cái th́ đi theo tả đạo, chia tay nhau cho
tới cuối kiếp, song vẫn liên hệ chặt
chẽ với nhau. Cái ǵ liên kết chúng với nhau như
vậy? Đó chính là NGHIỆP QUẢ (KARMA).
Đến
lượt các Nguyên tử xuất phát từ trung Tâm
Điểm lại xạ ra các trung tâm năng lượng
mới. Khi chịu tác dụng của luồng linh khí
tiềm tàng của Vô
cực điện, các trung tâm
năng lượng này bắt đầu tác động
từ trong ra ngoài và làm sinh sôi, nảy nở các trung tâm khác.
Trong diễn tŕnh tiến hóa thăng thượng và giáng hạ,
đến lượt các trung tâm nhỏ này lại tạo
thành nguồn cội hay nguyên nhân triển khai ra các hiệu
quả mới (từ các thế giới và các bầu hành
tinh “có người ở” xuống tận các giống,
loại và lớp của tất cả bảy giới,
trong đó chúng ta chỉ biết có bốn giới. Trong
Tsong-kha-pa Bửu giám có dạy:
Các
hoạt động viên có diễm phúc đă nhận được Thyan-kam trong vĩnh
cửu.
Thyan-kam là quyền năng quán triệt việc điều động các xung lực của Năng Lượng Vũ Trụ một cách đúng đắn.
Phật tử chân
chính, vốn không nh́n nhận một “Thượng
Đế nhân h́nh”, một “Từ Phụ”, một
“Đấng Sáng Tạo ra Trời Đất”, vẫn c̣n tin
tưởng vào một Toàn
Thức (Absolute Consciousness), tức Tối Đại Bồ
Đề (Adi-Buddhi). Triết thuyết Phật giáo xác
nhận rằng có các Chơn Linh hành Tinh, các Thiền
Định Đế Quân. Nhưng theo triết thuyết
đó, mặc dù “Các Đấng Tinh Thần” được
thừa nhận, nhưng chỉ tồn tại nhất
thời trong vĩnh cửu, nên ngay cả các Đấng này
cũng chỉ là “Hăo huyền trong một Ngày của Brahmă”
(một chu kỳ Khai Nguyên ngắn ngủi có 4 320 000 000
năm. Con người đâu có quyền suy lư về Yin-Sin,
v́ Đức Phật đă tuyệt đối cấm
chỉ việc điều nghiên nó. Nếu các Thiền
Định Đế Quân và mọi Thực Thể Vô h́nh – Bảy Trung Tâm và các Phân Thần trực
tiếp của chúng tức các trung tâm Năng lượng thứ yếu – đều là phản xạ trực
tiếp của Ánh Sáng DUY NHẤT, th́ con người c̣n
lâu lắm mới đạt được tới
địa vị này, v́ toàn bộ Vũ trụ hữu h́nh đều gồm có “các thực
thể tự sinh tự
tại, các tạo vật
của Nghiệp Quả”. V́ thế, khi xem một Thượng
Đế nhân h́nh “chỉ là một bóng ma khổng lồ
phủ lên trên hư không do sự tưởng tượng
của những kẻ vô minh”, ([443]) họ dạy rằng chỉ có “hai
điều vĩnh cửu [xét về mặt ngoại
cảnh] đó là Tiên thiên khí và Niết Bàn”. Thực ra hai
điều này chỉ là một. Việc phân chia chúng
chẳng qua chỉ là hăo
huyền.
361
Vạn
vật đă xuất phát từ Tiên thiên khí [tức Svabhăvat
trên trần thế] theo một luật chuyển
động tiềm tàng trong đó; sau khi tồn tại
một thời gian chúng sẽ chết đi. Chẳng
hề có thứ nào thoát thai từ hư vô. Các Phật
tử không tin tưởng vào các phép lạ, họ không nh́n
nhận sự sáng tạo và không hề quan niệm ra
một hóa công. ([444])
Nếu chúng ta hỏi
người Bà La Môn theo thuyết Nhất nguyên luận,
liệu y có tin vào sự tồn tại của một
Thượng Đế không, có lẽ y sẽ trả
lời, như Jacolliot, là “Tôi chính là Thượng
Đế”. Trong khi đó, một Phật tử (nhất là
một người Tích lan) sẽ chỉ cười to lên
và đáp: “Làm ǵ có Thượng Đế, làm ǵ có Sáng
Tạo”. Thế nhưng triết thuyết căn cốt
của các học giả Nhất nguyên luận lẫn các
học giả Phật giáo đều
như nhau. Cả hai
đều tôn trọng sinh mạng của động
vật, v́ cả hai đều tin tưởng rằng
mọi tạo vật trên trần thế (dù tầm
thường, nhỏ bé đến đâu đi nữa)
cũng là một phần bất diệt của Vật
Chất bất diệt – đối với họ, Vật
Chất có ư nghĩa khác với quan niệm của tín
đồ Thiên Chúa giáo hoặc nhà Duy vật – và mọi
tạo vật đều chịu Nghiệp Quả.
Với mọi triết gia thời xưa, tín đồ Do Thái Bí giáo và tín đồ phái Ngộ Đạo buổi sơ khai, câu trả lời của tín đồ Ba La Môn thật là gợi ư. Nó bao hàm chính tinh thần của các huấn điều Delphi và Do Thái Bí giáo, v́ Nội môn Bí giáo đă giải quyết được vấn đề “nguồn gốc, hiện trạng và tương lai của con người” từ lâu rồi; nguồn gốc, chu kỳ sống – với các kiếp tái sinh, luân hồi vô cùng vô tận – và cuối cùng, sự phản bồn hoàn nguyên của y.
Nhưng chúng ta không
bao giờ có thể yêu cầu vật lư học giải
thích cho chúng ta vấn đề bí hiểm về Quá khứ
hoặc Tương lai của con người, v́ chẳng
triết gia nào có thể cho chúng ta biết tường
tận về con người bằng sinh lư học và Tâm lư
học. Khi đặt nghi vấn liệu con người là
một Thần Linh hay một con thú, khoa học nay đă
liên kết y với con thú và cho rằng con người thoát
thai từ thú vật. Chắc chắn là công việc phân tích
và phân loại con người như là một thú vật trần tục có thể được dành cho các nhà
khoa học, những người mà các nhà Huyền bí
học (cũng như mọi người) hằng tôn kính.
Họ thừa nhận cơ sở và công tŕnh kỳ
diệu mà nó đă thành đạt được, tiến
bộ và thành đạt được trong sinh lư học
và trong một chừng mực nào đó, cả trong sinh
học nữa. Nhưng không thể phó mặc bản
chất nội tâm, tinh thần, tâm linh hoặc thậm chí
đạo đức của con người cho một
Chủ nghĩa Duy vật đă thâm căn cố
đế. Ấy là v́ trong t́nh trạng bất toàn hiện
nay, với khuynh hướng dứt khoát là bất khả
tri, ngay cả khoa Tâm lư học cao siêu nhất của
phương Tây cũng không thể phán đoán
được về Chơn Ngă; nhất là các năng
khiếu và tri giác cao siêu, các trạng thái tâm thức của
Chơn Ngă – kẻ có thần quyền như Mill mà cũng
phải khoanh ṿng cấm xung quanh lĩnh vực này và
khuyến cáo “Đi tới đó thôi, đừng có
vượt qua”.
Chẳng có nhà Huyền bí học nào chối bỏ rằng – cùng với con voi và vi trùng, con sấu và thằn lằn, cọng cỏ và pha lê – xét về thể chất, con người là sản phẩm đơn thuần của các lực tiến hóa trong Thiên Nhiên qua hằng hà sa số chuỗi biến hóa. Nhưng y đặt vấn đề khác hẳn.
362
Mọi nhà Huyền bí học và bất cứ
kẻ nào tin tưởng vào Linh Hồn, không hề phản
đối các khám phá của động vật học và
nhân loại học, dựa vào các di tích hóa thạch của
loài người và loài thú, mà chỉ phản đối các
kết luận vô lối dựa vào các lư thuyết
đầy tiên kiến và được thích ứng
với một vài thành kiến. Các tiên đề của các
nhà khoa học đâu phải lúc nào cũng đúng; v́
một vài lư thuyết này cũng yểu tử đối
với các nhà Tiến hóa luận Duy vật, các điều
suy diễn từ các lư thuyết đó ắt phải là
phiến diện. Thế nhưng, hầu hết các nhà khoa
học thường được tôn vinh dựa vào các
thế lực phù du như vậy đó (trong khi họ
chẳng xứng đáng được tôn vinh bao nhiêu). ([445])
Để cho môn sinh hiểu rơ được tác động của Nghiệp Quả - trong sự canh tân tái tạo tuần hoàn của Vũ trụ - khi y quan tâm tới nguồn gốc và sự tiến hóa của con người, nay y phải cùng chúng ta xét tới tác dụng Nội môn của các Chu kỳ Nghiệp Quả đối với Đạo đức của Vũ Trụ. Vấn đề đặt ra là liệu các phân đoạn thời gian huyền bí (mà người Ấn Độ gọi là các Chu kỳ và các Thiên Kiếp, c̣n người Hy Lạp gọi một cách văn hoa là các chu kỳ, các vùng) có tác dụng hoặc có liên hệ trực tiếp nào không với cuộc sống con người ? Ngay cả triết học ngoại môn cũng đă giải thích rằng các chu kỳ thời gian vĩnh tồn này bao giờ cũng tuần hoàn một cách sáng suốt trong Không gian và Vĩnh cửu. Có các “Chu kỳ Vật Chất” ([446]) cũng như là các “Chu kỳ Tiến Hóa Tinh Thần”, các Chu kỳ của giống dân, quốc gia và cá nhân. Chẳng lẽ phép suy lư Nội môn lại không khiến chúng ta có thể hiểu sâu được các tác động của chúng ta sao ?
Ư tưởng này được tŕnh bày một cách tuyệt vời trong một tác phẩm khoa học rất hay.
363
Khả
năng thấu triệt được một hệ
thống phối hợp vượt xa (trong không gian và
thời gian) mọi tầm quan sát của con người là
một t́nh trạng đánh dấu việc con người
có năng lực vượt lên trên được các
hạn chế của vật chất vô thường, và
khẳng định quyền ưu thắng của con người
đối với chúng vô t́nh, hữu hoại. trong sự
diễn tiến tuần tự của các biến cố,
trong mối liên hệ của các vật cộng tồn, có
một phương pháp mà trí người có thể lĩnh
hội được. Khi dùng nó làm manh mối, y có thể
trở đi trở lại suốt hàng vô lượng
thời lịch sử của vật chất mà kinh
nghiệm con người không bao giờ kiểm chứng
được. Các biến cố nảy sinh ra rồi phát
triển. Chúng có một quá khứ liên quan tới hiện
tại; chúng ta tin chắc rằng tương lai tiền
định cũng sẽ tương tự liên hệ
như vậy với hiện tại và quá khứ.Sự
liên tục và đơn nhất này của lịch sử
lặp đi lặp lại trước mắt chúng ta trong
mọi giai đoạn diễn tiến khả niệm. Các
hiện tượng đă cung ứng cho chúng ta các cơ
sở để tổng quát hóa hai định luật
đích thực là các nguyên lư của phép tiên tri bằng khoa
học. Nhờ có các nguyên lư này, trí người mới thâm
nhập vào được các lĩnh vực bí hiểm
của quá khứ và tương lai. Định luật
đầu tiên là luật tiến hóa, hay (diễn
đạt theo mục đích yêu cầu của chúng ta)
luật tuần tự tương hệ hay lịch sử
có tổ chức nơi cá nhân (nó được minh họa
trong các giai kỳ tiến hóa của mọi hệ thống
kết quả đơn thuần đă chín muồi… Các
tư tưởng này đă thu tóm vào trong hiện tại
trước mắt của chúng ta quá khứ và tương
lai vô lượng của lịch sử vật chất.
Chúng hầu như mở ra các viễn ảnh suốt vô
cùng, phú cho trí người một sự tồn tại và một tầm nh́n không bị
hạn chế bởi thời gian, không gian và chuỗi nhân
quả hữu hạn. Chúng cũng nâng trí người lên
tới mức cao siêu, thấu triệt được
Đấng Thông Tuệ Vô Thượng ngự nơi
vĩnh cửu. ([447])
Theo giáo lư, Hăo
Huyền (Măyă) – dáng vẻ hư ảo của sự
sắp đặt các biến cố và các tác động
trên trần thế – thay đổi theo từng quốc gia
và nơi chốn. Nhưng các đặc điểm chính
trong cuộc đời chúng ta luôn luôn phù hợp với
“Cḥm Sao” mà chúng ta sinh ra đời dưới nó, hay (chúng ta
cũng có thể nói là) phù hợp với đặc tính
của nguyên khí làm linh hoạt nó hoặc Đấng Thánh
Linh chủ tŕ nó, cho dù chúng ta gọi nó là một Thiền
Định Đế Quân (như ở Á Châu) hay một
Tổng Thiên Thần (như các giáo hội Hy Lạp và La
Tinh). Trong Biểu tượng kư cổ truyền,
người ta luôn luôn giả sử rằng MẶT TRỜI
– mặc dù người ta có ư nói tới Mặt Trời Tinh
Thần chứ không phải là Mặt Trời hữu h́nh –
đă xạ ra các Đấng Cứu Thế và các Hóa Thân
chính yếu. V́ thế mới có mối liên kết giữa
các Đức Phật, các Hóa Thân và biết bao nhiêu là
hiện thân khác của BẢY Đấng Vô Thượng.
càng tiến gần tới Nguyên kiểu trên “Trời”,
kẻ phàm tục (có Phàm Ngă được Đấng Thánh
Linh nhân h́nh – Nguyên khí thứ Bảy – chọn làm trú sở
trên trần thế) càng trở nên hoàn thiện. Ấy là v́
khi nỗ lực thanh luyện và hợp nhất với Linh
Ngă này, một trong các Tia hạ đẳng sẽ ĺa ra,
thực thể tinh thần của con người sẽ
ngày càng được thu hút lên cao hơn về phía Tia thay
thế cho Tia thứ nhất, cho tới khi từ Tia này sang
Tia khác, Chơn Ngă sẽ được thu hút vào Chùm Tia Vô
Thượng Duy Nhất của MẶT TRỜI
Nguyên Thủy. Như thế, “các biến cố của nhân
loại kết hợp với dạng số lượng”
v́ mỗi một và tất cả đơn vị của
đại gia đ́nh nhân loại này đều xuất phát
từ cùng một nguồn gốc – Mặt Trời Trung
Ương và h́nh bóng của nó, tức là Mặt Trời
hữu h́nh. Ấy là v́ xét về mặt thiên văn học
và số lượng, các phân điểm và chí điểm,
các chu kỳ và giai kỳ khác nhau của hành tinh thái
dương, chỉ là các biểu tượng cụ
thể của thực tại hằng hữu, mặc dù
chúng dường như là các ư niệm trừu tượng
đối với thế nhân chưa được
điểm đạo. Điều này đă giải thích
được những sự trùng hợp phi thường
về số lượng với các quan hệ h́nh học
mà nhiều tác giả đă chứng tỏ.
364
Đúng vậy,
“số phận của chúng ta được ghi chép nơi
các ngôi sao”! Có điều là thế nhân phản ánh càng
kết hợp chặt chẽ với các nguyên kiểu thiên
giới bao nhiêu, th́ hoàn cảnh ngoại giới và (do
đó) các kiếp luân hồi (một điều mà cả
Phật lẫn Chúa cũng không tránh khỏi) càng bớt nguy
hiểm bấy nhiêu. Đây không phải là một
điều mê tín dị đoan, lại càng không phải là thuyết
định mệnh.
Thuyết định mệnh hàm ư là có một tiến tŕnh
mù quáng của một quyền năng c̣n mù quáng hơn
nữa, nhưng con người là một tác nhân tự do
khi c̣n tại thế. Y không thể tránh thoát được
cái Số Phận chi phối y, nhưng y có thể lựa chọn
một trong hai con đường đưa y theo chiều
hướng này. Y có thể tới đích khốn khổ -
nếu đó là định mệnh của y – trong bộ y
phục trắng tinh của kẻ tử v́ đạo,
hoặc trong bộ y phục nhơ nhuốc của một
kẻ tự ư đi theo con đường gian ác. Ấy là
v́ có các hoàn cảnh ngoại tại và nội tại ảnh hưởng tới quyết
định của ư chí chúng ta đối với các hành
động của chúng ta; chúng ta có quyền đi theo
một trong hai con đường đó. Kẻ nào tin
tưởng vào Nghiệp Quả ắt phải tin tưởng vào Số
Mệnh. Từ lúc cất
tiếng chào đời cho đến lúc nhắm mắt buông
tay, mỗi người đều dệt nên số
phận xung quanh ḿnh, chẳng khác nào con nhện giăng
tơ. Số Phận này được chỉ đạo
hoặc bởi diệu âm của Nguyên kiểu vô h́nh (the invisible Prototype) bên ngoài chúng ta, hoặc là bởi con
người tinh anh thân cận với chúng ta hơn,
đó chẳng qua rất thường là hung thần
của thực thể hiện thân là con người.
Cả hai đều dắt dẫn phàm nhơn, nhưng
một trong hai thứ phải chiếm phần ưu
thắng. Ngay khi lúc khởi đầu cuộc chiến vô
h́nh, Luật Bù Trừ (Law of Compensation) nghiêm minh, khắc nghiệt đă can
thiệp vào, kiên tŕ theo dơi những dao động của
cuộc chiến. Khi sợi chỉ cuối cùng đă
được dệt xong, con người dường
như bị trói buộc trong cái lưới do chính y
tạo ra, bấy giờ, y thấy ḿnh hoàn toàn bị đè
bẹp bởi cái Số Phận tự tạo này. Bấy giờ, hoặc là nó gắn
chặt y giống như cái vỏ ṣ bất động vào
tảng đá, hoặc là nó cuốn y đi như một
cọng lông giữa cơn gió lốc, bị cuốn lên do
chính các hành động của ḿnh. NGHIỆP QUẢ là thế đấy!
Bàn về các sự sáng tạo tuần hoàn của địa cầu chúng ta, một nhà Duy vật đă diễn tả bằng mỗi một câu như sau:
Toàn
bộ quá khứ của trái đất chẳng có ǵ khác
hơn là một hiện tại được bộc
lộ ra.
Tác giả lời phát biểu đó chính là Buchner. Ông đâu có ngờ rằng ḿnh đang lặp lại một công lư của các nhà Huyền bí học. Cũng hoàn toàn đúng, như Burmeister đă nhận xét rằng:
Sự
điều nghiên lịch sử phát triển của
địa cầu đă chứng tỏ rằng hiện
tại và quá khứ cùng dựa vào một nền tảng,
quá khứ đă triển khai giống như hiện
tại đang diễn tiến, c̣n các thần lực
đang tác động bao giờ cũng y như vậy. ([448])
365
Dĩ nhiên là các
“Lực” – đúng hơn là các Thực Tượng
của chúng – đều như nhau, do đó, các Lực
hiện tượng cũng phải như nhau. Nhưng làm
sao bất cứ người nào cũng cảm thấy
chắc chắn là các thuộc tính của Vật Chất
sẽ không bị biến đổi do tác dụng của Cuộc
Tiến Hóa biến h́nh? Làm sao bất cứ nhà Duy vật
nào có thể khẳng định (như Rossmassler) rằng:
Sự
tương đồng măi măi về bản chất của
các hiện tượng này, khiến cho chúng ta chắc
chắn rằng lửa và nước đă đồng
thời có cùng một năng lực và sẽ có măi măi.
Những kẻ
chỉ “làm cho vấn đề rắc rối với
những lời lẽ không hiểu biết” là ai vậy?
Nhóm Huxleys và Buchners biết ở đâu bây giờ khi
Đại Luật đă được dựng nên trên
trần thế? Cái tính thuần trạng của Vật
Chất và tính bất di bất dịch của các luật
thiên nhiên, mà Chủ nghĩa Duy vật đă từng
nhấn mạnh, chính là một nguyên lư cơ bản của
Huyền bí học. Nhưng tính đơn nhất này
lại dựa vào tính bất khả phân ly của Tinh
Thần với Vật Chất, nếu hai thứ này mà tách
rời với nhau, th́ toàn thể Càn Khôn sẽ quay về
t́nh trạng Hỗn Mang và Phi hiện tồn. Do đó,
thật là hoàn toàn sai
lầm (điều này
chẳng qua chỉ chứng minh thêm nữa sự kiêu
ngạo ghê gớm của thời đại chúng ta) mà
khẳng định (như các nhà khoa học) rằng
mọi biến động lớn lao về mặt
địa chất và mọi biến loạn kinh khủng
của quá khứ đă được các Lực vật lư thông
thường quen thuộc tạo ra. Ấy là v́ các Lực này chẳng qua
chỉ là các khí cụ và các phương tiện cuối
cùng để hoàn thành một vài mục đích. Chúng tác
động một cách tuần hoàn, và (xét một cách
biểu kiến) máy móc thông qua một xung lực nội
tại, ḥa lẫn với bản chất vật chất
nhưng lại ở bên ngoài nó. Trong mọi tác dụng
của thiên nhiên đều có một mục đích; tất
cả tác động này đều có tính cách tuần hoàn.
Nhưng người ta thường lẫn lộn các
Lực tinh thần với các Lực thuần túy vật
chất; các lực tinh thần bị chối bỏ, và v́
bị bỏ xó không ai ngó ngàng tới, nên chúng vẫn c̣n xa
lạ đối với khoa học. ([449]) Hegel cho rằng :
Lịch sử
của Thế giới bắt đầu với mục
tiêu tổng quát là nhận thức được ư niệm
Tinh Thần – có điều là dưới dạng tiềm ẩn (chẳng
hạn như Thiên Nhiên); một bản năng vô thức
tiềm ẩn sâu kín nhất và toàn bộ diễn tŕnh
Lịch sử đều được hướng
về việc biến xung lực vô thức này thành một
xung lực hữu thức. Như thế, khi xuất
hiện dưới dạng tồn tại tự nhiên không
thôi, ư chí tự nhiên – cái được gọi là
phương diện nội tâm – khát vọng của thể
xác, bản năng, đam mê, quyền lợi riêng tư,
cũng như là ư kiến và quan niệm của nội tâm –
sẽ đột nhiên xuất hiện ngay từ lúc
đầu. Hàng đống các quyết ư, quyền lợi
và hoạt động hợp thành các khí cụ và phương
diện của Tinh Thần Thế giới để
đạt tới mục tiêu của ḿnh, quan tâm tới nó
và nhận thức được nó. Mục tiêu này
chẳng có ǵ khác hơn là t́m lại chính ḿnh – đến
với chính ḿnh – và chiêm ngưỡng ḿnh một cách
thật là cụ thể. Nhưng việc các biểu lộ
của sinh lực về phần cá nhân và tập thể
(trong đó, họ t́m kiếm và thỏa măn các mục
đích riêng của ḿnh) đồng thời lại là các
phương tiện và khí cụ của một mục
đích cao xa hơn mà họ chẳng biết một tí ǵ
(mà họ nhận thức được một cách vô
thức) có thể được biến thành một
vấn đề hơn là bị nghi vấn… Về vấn
đề này, tôi đă công bố quan điểm của
ḿnh ngay từ đầu và khẳng định giả
thuyết của ḿnh … tin tưởng rằng Lư trí chi
phối Thế giới, và do đó, chi phối lịch
sử của nó. Về phần sự tồn tại
thực chất và đại đồng vũ trụ
một cách biệt lập, tất cả mọi thứ
khác đều phụ thuộc vào nó và là phương
tiện để cho nó phát triển. ([450])
366
Chẳng nhà Siêu
h́nh học hoặc nhà Minh Triết Thiêng Liêng nào có thể
phản đối các chân lư này, tất cả đều
được bao hàm trong Nội môn Bí giáo. Có một sự
tiền định trong cuộc sống địa
chất của bầu hành tinh chúng ta, cũng như trong
lịch sử quá khứ và tương lai của các
giống dân và các quốc gia. Điều này có liên hệ
mật thiết với cái mà chúng ta gọi là Nghiệp
Quả, c̣n các tín đồ Phiếm Thần Tây
phương gọi là Số Mệnh và các Chu kỳ.
Luật tiến hóa nay đang cuốn chúng ta theo cung
thăng thượng của chu kỳ chúng ta, khi các hiệu quả sẽ
lại tan ḥa vào và trở thành
các nguyên nhân nay đă bị hóa giải; mọi vật
chịu ảnh hưởng của luật tiến hóa
sẽ lại trở về trạng thái hài ḥa nguyên
thủy. Đó sẽ là chu kỳ của cuộc “Tuần
Hoàn” đặc biệt của chúng ta, một phút giây
ngắn ngủi trong suốt Đại Chu Kỳ (Mahăyuga).
Chúng ta thấy các nhận xét có ư nghĩa
triết học thâm sâu của Hegel cũng được
áp dụng trong các giáo lư của Huyền bí học (nó
chứng tỏ rằng Thiên Nhiên bao giờ cũng tác
động với một mục đích đă
định, với các kết quả là luôn luôn có hai
phương diện. Điều này đă được
phát biểu trong các tác phẩm Huyền bí đầu tiên
của chúng tôi như sau:
Mỗi
năm, hành tinh chúng ta quay một ṿng quanh mặt trời;
đồng thời mỗi hai mươi bốn giờ, nó
lại quay một ṿng xung quanh trục của chính ḿnh;
như thế là nó đă trải qua các chu kỳ nhỏ bên
trong một chu kỳ lớn hơn. Cũng vậy, công tác
của các tiểu chu kỳ được hoàn thành và
bắt đầu lại bên trong các Đại Chu Kỳ.
Theo giáo lư cổ truyền, kèm theo sự xoay ṿng của cơi
hồng trần, c̣n có sự xoay ṿng tương tự trong
cơi trí thức (sự tiến hóa tinh thần của thế
giới diễn tiến một cách tuần hoàn chẳng
khác ǵ sự tiến hóa vật chất. Như vậy, trong
lịch sử, chúng ta thấy có một sự luân phiên, khi
thăng khi trầm, trong trào lưu tiến hóa của nhân
loại. Sau khi đă đạt được tột
đỉnh tầm cỡ của ḿnh, các giới lớn
trên trần thế lại suy vi cũng theo chính cái luật
đă khiến cho chúng thăng lên. Măi đến khi đă
đạt tới điểm thấp nhất, nhân loại
mới dứt khoát leo lên lại; theo luật lũy
tiến tuần hoàn này, đỉnh cao mà nó đạt
được sẽ hơi cao hơn mức mà từ đó
nó bắt đầu đi xuống. ([451])
Nhưng các chu kỳ
này xoắn tít vào nhau, được biểu dương
một cách kỳ diệu và hàm súc bởi nhiều
Đức Bàn Cổ và Thánh Hiền khác nhau ở Ấn
Độ và các Kabeiri ở phương Tây([452]) - không
hề ảnh hưởng tới toàn thể nhân loại
trong cùng một lúc. V́ thế,
chúng ta mới thấy khó mà thấu hiểu và phân biệt
được các tác dụng tinh thần và vật chất
của chúng nếu chưa hoàn toàn quán triệt
được mối liên hệ và tác dụng của chúng
đối với các vị trí tương ứng của
các quốc gia và các chủng tộc, trong vận mệnh và
cuộc tiến hóa của chúng. Chúng ta không thể hiểu
được hệ thống này nếu tác dụng tinh
thần của các thời kỳ này – có thể nói là bị
tiền định bởi Luật Nghiệp Quả -
bị phân cách khỏi tiến tŕnh vật chất. Các phép
tính toán của các nhà Chiêm tinh học lỗi lạc nhất
sẽ sai lầm (hoặc dù sao đi nữa vẫn bất
toàn) trừ phi chúng ta cặn kẽ xét tới và quán
triệt tác dụng lưỡng phân này theo các
đường lối đó. Chúng ta chỉ có thể quán
triệt được như vậy thông qua sự ĐIỂM
ĐẠO.
367
Đại Chu Kỳ bao gồm sự
tiến hóa của nhân loại từ khi con người
nguyên thủy có h́nh hài bằng chất dĩ thái bắt
đầu xuất hiện. Nó thấu suốt các Chu kỳ
nội tại của cuộc tiến hóa lũy tiến
của con người từ dĩ thái xuống tới bán
dĩ thái và thuần túy hồng trần; xuống tới
sự cứu rỗi con người thoát khỏi “lớp
áo da dê” và vật chất. Sau đó, nó tiếp tục
chạy xuống rồi lại đi lên, hội tụ
ở tột đỉnh của một ṿng Tiến Hóa, khi
Con Rắn Chu Kỳ Khai Nguyên “nuốt đuôi của ḿnh” và
bảy Chu kỳ đă trôi qua. Đó là các Đại Chu
Kỳ chủng tộc ảnh hưởng tới mọi
quốc gia và mọi bộ lạc bao hàm trong Giống dân
đặc biệt ấy. Nhưng có các Chu kỳ nhỏ
của các quốc gia cũng như là bộ lạc bên trong
các Chu kỳ này, chúng diễn tiến độc lập
với nhau. Trong Nội môn Bí giáo Đông phương, chúng
được gọi là các chu kỳ Nghiệp Quả.
Ở Tây phương – từ khi Minh Triết ngẫu
tượng bị chối bỏ, coi như đă bị
kẻ Bàng Môn này luôn luôn chống lại Jehovah, bộ
lạc nhỏ bé – người ta đă quên hết ư
nghĩa trọng đại của Nghiệp Quả
(tức Số Mệnh Hy Lạp). Mặt khác, các tín
đồ Thiên Chúa giáo nên nhận thức cái chân lư thâm sâu
cho rằng Số Mệnh không có thuộc tính, trong khi
Nữ Thần dễ sợ (the dreaded Goddess) đó thật
là tuyệt đối và thường trụ như một
Nguyên khí, chính chúng ta (các quốc gia và các cá nhân) đă thúc
đẩy nó tác động theo đúng chiều
hướng của ḿnh. Nghiệp Quả - Số Mệnh
(Karma-Nemesis) sáng tạo ra các quốc gia và thế nhân,
nhưng một khi được tạo ra, chính chúng
sẽ biến nó thành ra một Thiên Thần hung tợn
hoặc một Thiên Thần ban thưởng. Đúng
vậy –
Sáng suốt thay
những kẻ tôn thờ Số Phận. ([453])
368
- theo như Chorus
đă dạy Prometheus. Cũng thật u mê thay cho những
kẻ nào tin tưởng rằng người ta có thể
làm nguôi giận Nữ thần bằng bất cứ sự
cúng tế hay cầu nguyện nào, hoặc Nữ Thần
sẽ chuyển hướng sau khi đă chọn hành tŕnh.
Chúng ta đă quên đi mất rằng “Định mệnh
tam h́nh (triform Fates) và cuồng nộ không nguôi” chỉ là các
thuộc tính của Nữ Thần trên Trần Thế. Không
thể nào quay về những con đường mà Nữ
Thần đă đi qua; thế nhưng, những con
đường này lại do chính chúng ta tạo ra, v́ chính
chúng ta (xét về mặt tập thể hoặc cá nhân)
đă chuẩn bị chúng. Nghiệp Quả-Số Mệnh
đồng nghĩa với THIÊN HỰU (PROVIDENCE), bớt đi Thiên Ư, hảo ư cùng với mọi
thuộc tính hữu hạn khác đă bị mê muội gán
cho Thiên Hựu. Một nhà Huyền bí học hoặc
một Triết gia sẽ không đề cập tới tính
thiện hay ác của Thiên Hựu. Nhưng khi đồng
nhất hóa nó với Nghiệp Quả-Số Mệnh, y
sẽ dạy rằng nó bảo tồn phần thiện và
trông chừng chúng trong kiếp này cũng như các kiếp
sau; nó trừng phạt kẻ làm điều xấu –
thật vậy, thậm chí tới kiếp luân hồi
thứ bảy – chừng nào mà hậu quả của
việc hắn làm xáo động nguyên tử nhỏ
nhất trong Thế giới Hài ḥa Vô hạn cuối cùng
đă được hiệu chỉnh lại. Ấy là v́
quyết nghị duy nhất của Nghiệp Quả -
một quyết định vĩnh cửu và bất di
dịch – chính là sự Hài ḥa tuyệt đối trong
thế giới Vật Chất cũng như là trong thế
giới Tinh Thần. Do đó, Nghiệp Quả không hề
thưởng phạt, mà chính chúng ta lại thưởng
phạt chúng ta tùy theo công việc mà chúng ta làm đối
với Thiên Nhiên, tuân theo hay vi phạm các định
luật chi phối sự hài ḥa đó.
Nếu người ta hoạt động
một cách hài ḥa, liên hợp (thay v́ bất ḥa và xung
đột) th́ làm ǵ đến nỗi chúng ta không t́m ra
được các cách thức tác động của
Nghiệp Quả. Nếu chúng ta qui tất cả các cách
thức tác động này về nguyên nhân chính xác của nó,
th́ vấn đề sẽ rơ ra ngay (một số
người gọi chúng là đường lối Thiên
Hựu, mù mờ và phức tạp; một số khác
lại thấy nơi chúng tác động của Thuyết
định mệnh mù quáng; c̣n một số nữa lại
cho rằng chỉ có May rủi chứ không có Quỷ
Thần nào điều động chúng). Khi hiểu rơ
(hoặc dù sao đi nữa, khi tin chắc) rằng các
kẻ lân cận với ḿnh chẳng hề làm hại chúng
ta, cũng như chúng ta không hề nghĩ tới việc
làm hại họ, th́ hai phần ba điều ác trên thế
gian sẽ tan thành mây khói. Nếu không có người nào làm
hại huynh đệ ḿnh, th́ Nghiệp Quả-Số
Phận chẳng có ǵ và cũng chẳng có phương
tiện nào để tác động. Chính sự kiện
giữa nhân quần, lúc nào cũng có mọi yếu tố
xung đột, tranh chấp, chia rẽ các chủng tộc,
quốc gia, bộ lạc, xă hội và cá nhân thành ra Cain và
Abel, chó sói và con chiên, mới là nguyên nhân chính của
“đường lối Thiên Hựu”. Hằng ngày, chúng ta
dùng chính đôi tay ḿnh mở nhiều đường
ngoằn nghoèo vào số phận của ḿnh; thế mà chúng
ta lại tưởng rằng chúng ta đang đi theo
đại lộ khả kính của thiên chức để
rồi lại phàn nàn v́ các con đường ṃn này
thật là tối tăm, rối rắm. Chúng ta hoang mang khi
đối diện với bí nhiệm về cấu tạo
của chính ḿnh và các vấn đề bí hiểm của
cuộc sống mà chúng ta sẽ không giải quyết,
để rồi lại buộc tội con Nhân Sư
khổng lồ (great Sphinx) là cứ ngấu nghiến chúng
ta. Nhưng đúng thật là không có một tai nạn nào
trong cuộc sống của chúng ta, không có một vận
rủi nào mà không thể được truy nguyên về các
hành vi của chính chúng ta trong một kiếp này hay một
kiếp khác. Nếu chúng ta vi phạm các luật Hài Ḥa,
hoặc (theo lối diễn đạt của một tác giả
Minh Triết Thiêng Liêng) “các định luật của
sự sống”, chúng ta phải sẵn sàng rơi vào t́nh
trạng hỗn loạn mà chúng ta đă tạo ra. Ấy là
v́, cũng theo tác giả trên:
Chúng
ta chỉ có thể kết luận một điều là các
định luật của sự sống này chính là các
kẻ báo phục (avengers); do đó, mọi thiên thần báo
ứng chỉ là một đại biểu của phản
ứng của chúng.
369
Do đó, nếu có kẻ nào vô phương
tự vệ trước các luật bất di bất
dịch này th́ đó không phải là chính chúng ta, những
kẻ tạo ra số phận của ḿnh, mà đúng hơn
lại là các Thiên Thần này, các Đấng duy tŕ sự Hài
Ḥa. Nghiệp Quả - Số Mệnh chẳng có ǵ khác
hơn là hiệu quả tinh thần năng động
của các nguyên nhân đă được tạo ra, và các
thần lực được khơi hoạt do chính các
hành động của chúng ta. Có một định
luật của động lực học Huyền bí (Occult
dynamics) cho rằng :
“Một
lượng năng lượng đă định hao
tổn trên cảnh giới tinh thần tạo ra các kết
quả lớn lao hơn nhiều so với cũng một
số lượng năng lượng đó khi hao tổn
trên cảnh giới hồng trần”.
T́nh trạng này
sẽ c̣n tồn tại cho tới khi con người đă
khai mở được trực giác tinh thần, khi chúng
ta đă vứt bỏ được các lớp vỏ Vật
Chất của ḿnh một cách rơ rệt, khi chúng ta bắt
đầu hành động từ bên trong, thay v́ cứ
mải mê nghe theo các xung lực xuất phát từ bên ngoài, các xung lực do các giác quan vật
chất và thể xác trọng trược của chúng ta
tạo ra. Tới lúc đó, các phương thuốc duy nhất
làm giảm bớt các điều ác trong cuộc sống
chính là sự hài ḥa, kết hợp – một t́nh trạng
Huynh Đệ THỰC SỰ chứ không phải chỉ là ḷng
vị tha trên danh nghĩa. Việc thủ tiêu chỉ
một nhân xấu thôi cũng sẽ thủ tiêu
chẳng phải chỉ một mà là nhiều quả
xấu. Nếu một Đoàn thể huynh đệ,
hoặc thậm chí một số Đoàn thể huynh
đệ, không thể ngăn cản được các
quốc gia đôi khi tàn sát nhau, th́ sự thống nhất
tư tưởng và hành động, việc dùng triết
học khảo cứu các bí nhiệm của hiện
tồn, sẽ vẫn c̣n luôn luôn ngăn cản
được một số người – đang cố
gắng t́m hiểu cái điều đối với họ
đến nay vẫn c̣n bí hiểm – tạo thêm các nhân ác
trong một thế giới đă dẫy đầy hận
thù, khốn khổ. Hiểu được vấn
đề Nghiệp Quả sẽ khiến cho chúng ta tin
chắc rằng nếu
….sự
kiện đức hạnh lâm nguy, tật xấu hoành hành
Biến nhân loại thành
ra những kẻ vô thần.
ấy chỉ là v́ nhân
loại đă lờ đi cái đại chân lư cho rằng
chính con người cứu rỗi ḿnh và cũng chính con
người hủy diệt ḿnh. Y không nên buộc tội
Trời, chư Thiên, Định Mệnh và Thiên Hựu
đă tạo ra sự bất công hiển nhiên hoành hành
giữa nhân quần. Tốt hơn, y nên nhớ kỹ và
nhắc đi nhắc lại áng văn minh triết Hy
Lạp sau đây, nó khuyến cáo con người
đừng buộc tội Cái Đó vốn
Công minh, mặc dù bí nhiệm. Nó dẫn dắt chúng ta
đi qua những con đường chính xác không
hề in
dấu tội lỗi phải bị trừng
phạt;
hay đó là các con đường mà các
đại cường quốc ở Âu Châu đang đi
theo. Mọi quốc gia và mọi bộ lạc của
Giống dân Ăryans Tây phương cũng như các huynh
đệ Đông phương thuộc Giống dân thứ
Năm, đều có Thời đại hoàng kim và Thời
đại suy vi của ḿnh. Chúng đă trải qua thời
kỳ vô tội tức Chu kỳ Chánh Pháp thuần
khiết, và nay nhiều quốc gia đă đạt tới
Thời đại suy vi, Chu kỳ MẠT PHÁP (KALI
YUGA); một thời kỳ hắc ám
đầy hăi hùng.
370
Mặt khác, đúng là
các Chu kỳ ngoại môn của mọi quốc gia
đều được chính xác dẫn xuất từ và
tỏ ra tùy thuộc vào các chuyển động tinh
đẩu. Các chuyển động tinh đẩu có liên
hệ bất khả phân ly với số phận của
các quốc gia và nhân loại. Nhưng theo ư nghĩa thuần
túy vật chất, Âu Châu chẳng biết Chu kỳ nào khác
hơn là các Chu kỳ thiên văn; nó đă tính toán theo các chu
kỳ đó. Nó cũng chưa hề nghe nói tới bất
kỳ ṿng tṛn tưởng
tượng nào trên bầu
trời lấp lánh ánh sao bao quanh chúng.
Các tinh cầu chính tâm và tâm sai,
nguệch ngoạc qua các chu kỳ và ngoại luân. ([454])
Nhưng đối
với các tín đồ Ngẫu tượng giáo (the Pagan) –
Coleridge đă nhận xét về họ rất đúng như
sau: “Thời gian, thời gian tuần hoàn, chính là việc
họ trừu tượng hóa Đấng Thánh Linh”,
“Đấng Thánh Linh” này chỉ biểu lộ xuyên qua và
liên hợp với Nghiệp Quả, và chính là NGHIỆP QUẢ - SỐ MỆNH đó – các Chu kỳ chẳng có ư
nghĩa ǵ khác hơn là một chuỗi các biến cố,
hoặc một thời gian tuần hoàn nào đó. Ấy là
v́ chúng thường được đánh dấu bởi
sự trở đi trở lại có một tính cách trí
thức và biến thiên hơn mức được phô bày
trong sự luân chuyển tuần hoàn của các mùa hoặc
của một vài cḥm sao. Minh triết hiện đại
thỏa măn với các phép tính và các phép tiên tri thiên văn,
dựa vào các định luật toán học chính xác. Minh
triết cổ truyền thêm vào cái lớp vỏ lạnh
lùng của thiên văn học các yếu tố phú linh
của linh hồn và tinh thần – đó là CHIÊM TINH HỌC. V́ các chuyển động tinh
đẩu vẫn điều chỉnh và xác định các
biến cố khác trên địa cầu – ngoài khoai tây và các
bệnh định kỳ của loại rau củ hữu
ích này ra (đó là một phát biểu mà nếu không
được giải thích, sẽ chỉ bị chế
nhạo, tuy vẫn được chấp nhận) – các
biến cố này phải bị tiền định theo các
tính toán đơn giản của thiên văn học.
Những người tin tưởng vào chiêm tinh học
sẽ hiểu được ư chúng ta, c̣n những kẻ
hoài nghi sẽ chế nhạo niềm tin này và giễu
cợt ư tưởng này. Thế là họ đă nhắm
mắt lại, giống như con đà điểu,
trước số phận của ḿnh. ([455])
371
Ấy là v́ cái gọi là thời kỳ lịch
sử ngắn ngủi của họ đâu có cho họ
biết ranh giới nào mà so sánh. Bầu trời tinh
đẩu mở ra trước mắt họ; mặc dù
linh nhăn của họ c̣n chưa khai mở, bụi khí
quyển có nguồn gốc địa cầu c̣n che
khuất mắt họ và trói buộc nó bên trong phạm vi
của các hệ thống vật chất, song họ
vẫn tri giác được các chuyển động và ghi
nhận được tác động của các sao băng
và sao chổi. Họ ghi nhận sự xuất hiện
định kỳ của các kẻ lang thang và các “sứ
giả cháy rực” này, và do đó, tiên tri được các
trận động đất, các trận mưa sao
băng, sự xuất hiện của một vài ngôi sao, sao
chổi v.v… Thế th́, sau rốt, họ có phải là
thầy bói không ? Không đâu, họ là các nhà thiên văn
học thông thái.
Thế th́, tại sao
người ta lại không tin tưởng vào các nhà
Huyền bí học và các nhà chiêm tinh (vốn cũng thông thái
chẳng kém các nhà thiên văn học này) khi họ tiên
đoán sự trở lại của một biến cố
tuần hoàn nào đó theo các nguyên lư toán học giống
như vậy? Tại sao người ta lại chế
nhạo khi họ tự cho là ḿnh biết sự trở
lại này? Các bậc tiền bối của họ đă
ghi nhận sự trở đi trở lại của các
biến cố đó vào thời họ, suốt một
thời kỳ bao hàm hàng trăm ngàn năm; sự giao
hội của các cḥm sao giống nhau, tất nhiên phải
tạo ra (dù sao đi nữa) các hiệu quả
tương tự, nếu không muốn nói là giống y
hệt. Liệu các lời tiên tri có bị chế nhạo
v́ tự cho là đă được thực hiện trong
hàng trăm ngàn năm quan sát, và hàng triệu năm
đối với các Giống người hay không?
Đến lượt khoa học hiện đại
lại bị những kẻ cứ khư khư bám
lấy niên đại Thánh kink chế nhạo, v́ các số
liệu về nhân loại học và địa chất
học của nó nhỏ nhoi hơn nhiều. Như thế,
Nghiệp Quả đă hiệu chỉnh cả sự
cười nhạo của con người, khiến cho các
giáo phái, các hội thông thái và các cá nhân nhạo báng lẫn
nhau. Song le, không có hiện tượng tâm linh nào dính dáng
tới sự tiên tri các biến cố tương lai như vậy; dù sao đi nữa, tất cả
đều được tiên đoán dựa vào thẩm
quyền của các sự tái lâm tuần hoàn. Nó chẳng
phải là sự tiên
đoán hay sự tiên tri, cũng giống như là việc ghi
nhận một ngôi sao chổi hoặc ngôi sao nhiều
năm trước khi nó xuất hiện. Chỉ có minh
triết và các phép tính toán chính xác về mặt toán học
mới khiến cho các bậc hiền triết ở
phương Đông tiên đoán (chẳng hạn như) là
nước Anh sắp bị một thảm họa nào
đó, nước Pháp đang tiến gần tới
mức thuộc Chu kỳ của nó, c̣n Âu Châu nói chung có nguy
cơ (hay đúng hơn sắp) bị một đại
họa mà Chu kỳ Nghiệp
Quả chủng tộc đă đưa nó tới. Dĩ nhiên là quan điểm của
chúng ta về sự đáng tin cậy của thông tin này c̣n
tùy thuộc vào việc chúng ta chấp nhận hay bác bỏ
lời tuyên bố là đă quan sát một thời kỳ
lịch sử rất dài. Các Điểm đạo
đồ Đông phương quả quyết rằng
họ đă bảo tồn được các tài liệu
về sự phát triển của nhân loại và các biến
cố có tầm quan trọng thế giới ngay từ lúc
khai sinh ra Giống dân thứ Tư (sự hiểu biết
của họ và các biến cố diễn ra trước thời
kỳ đó thật là cổ truyền). Vả lại,
những kẻ nào tin tưởng vào Thần Nhăn và các
Quyền Năng sẽ dễ dàng tin tưởng vào (ít
nhất là) tính cách tổng quát của thông tin
được tŕnh bày (cho dù nó là cổ truyền) một
khi mà truyền thống này đă được nhăn thông và
Minh Triết Nội Môn kiểm tra và hiệu chỉnh
lại. Nhưng trong trường hợp hiện nay, chúng
ta không tự cho rằng ḿnh chủ yếu là tùy thuộc
vào bất cứ niềm tin nào siêu h́nh như thế, v́
đă có bằng chứng dựa vào cái mà mọi nhà
Huyền bí học coi là bằng chứng hoàn toàn khoa học,
là các tài liệu được lưu trữ qua Hoàng Đạo suốt hàng vô lượng thời.
Nay người ta chứng tỏ rơ ràng rằng ngay cả các lá số Tử vi và Chiêm tinh học tiên đoán cũng không phải là hoàn toàn dựa vào tưởng tượng; do đó, các Ngôi sao và các cḥm sao có một tác dụng huyền linh và một liên hệ bí nhiệm với các cá nhân. Nếu nó có liên hệ với các cá nhân, th́ tại sao nó lại không có liên hệ với các quốc gia, các chủng tộc và nhân loại xét chung? Điều này lại là một tuyên bố dựa vào thẩm quyền của các tài liệu lưu trữ. Thế th́, chúng ta sẽ đi t́m xem Cổ nhân đă biết tới Hoàng Đạo từ bao lâu rồi và thiên hạ thời nay quên mất nó từ bao lâu rồi.
373
TIẾT 16
HOÀNG
ĐẠO THẬT LÀ XƯA CŨ
(THE ZODIAC AND ITS ANTIQUITY)
JORDAN cho rằng: “Mọi người đều hay kiêu hănh về sự hiểu biết của ḿnh và cứ khư khư bám lấy những ư kiến mà ḿnh chủ trương”. Ông c̣n nói thêm một cách chí lư như sau: “Thế nhưng, hầu hết mọi người đều được dẫn dắt bởi sự hiểu biết của kẻ khác, chứ không phải sự hiểu biết của chính ḿnh. Chúng ta có thể nói chính xác hơn là họ chấp nhận chứ không sáng tạo ra các ư kiến của họ”.
Điều này
chưa chắc đă đúng đối với các ư
kiến của khoa học về các giả thuyết
được đề ra để cứu xét – thành
kiến và tiên kiến của cái gọi là các “thẩm
quyền” thường quyết định về các
vấn đề có tầm quan trọng sinh tử nhất
đối với lịch sử. Các nhà Đông
phương học của chúng ta đă bám lấy nhiều
quan niệm tiền định như vậy, thế mà, ít
có quan niệm nào lại vô lư hơn điều sai lầm
tổng quát liên quan tới sự xưa cũ của Hoàng
Đạo. Nhờ vào tṛ tiêu khiển của một vài nhà
Đông phương học người Đức, các
học giả tiếng Bắc Phạn người Anh và
Mỹ đă chấp nhận ư kiến của Giáo sư
Weber cho rằng người Ấn Độ chẳng
biết ǵ về Hoàng Đạo trước khi có sự
xâm lược của người Macedonia, và người
Ấn Độ thời xưa đă du nhập nó vào
xứ sở của ḿnh từ Hy Lạp. Nhiều “nhân
vật có thẩm quyền” khác lại cho chúng ta biết
thêm rằng không có quốc gia Đông phương nào
biết ǵ về Hoàng Đạo trước khi mà
người Hy Lạp đă có hảo ư làm cho các lân bang
của ḿnh quen thuộc với phát minh đó. Ngay chính
họ cũng tuyên bố điều này trong Thánh thư Job
(xem như là giáo luật Hebrew xưa nhất và chắc
chắn là trước thời Moses). Đó là Thánh thư bàn về sự tạo lập của “Arcturus,
Orion và cḥm sao Rua [Osh, Kesil và Kimah] và các cung ở
phương Nam” ([456]); của cḥm sao Hổ Cáp (Scorpio) và
Mazaroth – MƯỜI HAI CUNG (the TWELVE
SIGNS) ([457]); những lời lẽ trên
chẳng có ư nghĩa ǵ khác hơn là ám chỉ rằng ngay
cả các bộ lạc du mục Ả Rập cũng
hiểu biết về Hoàng Đạo. Người ta
đă tuyên bố rằng Thánh
Thư Job có trước
thời Homer và Hesiod ít nhất là một ngàn năm (thế
mà hai thi sĩ Hy Lạp này lại sinh hoạt khoảng tám
thế kỷ trước T.C. (!!). Dù vậy, nhân tiện
kẻ nào ưa tin tưởng vào Plato – ông cho rằng Homer
c̣n sinh hoạt trước nữa – có thể nêu ra một
số cung Hoàng Đạo được đề cập
tới trong
374
Iliad và Odyssey, trong các
bài thơ của Orpheus và ở đâu đó nữa.
Nhưng v́ giả thuyết hoang đường của
một vài nhà phê b́nh hiện đại xem như quá xa
vời với thời Orpheus, Homer hoặc Hesiod, nên h́nh
như thật là mất th́ giờ nếu đề
cập tới tất cả các tác giả cổ sơ này.
Thật vậy, Job người Ả Rập cũng
đủ rồi; trừ phi nay người ta cũng
sẽ tuyên bố rằng tác phẩm than văn của ông, cùng
với các bài thơ của hai người Hy Lạp (chúng
ta có thể thêm vào các bài thơ của Linus) là tác phẩm
ngụy tạo có tính cách ái quốc của người Do
Thái Aristobulus. Nhưng nếu vào thời Job người ta
đă biết tới Hoàng Đạo th́ làm thế nào mà
người Ấn Độ văn minh và có óc triết
học lại vẫn c̣n không biết tới chúng?
Đánh liều
chịu những mũi dùi chỉ trích hiện nay – đă
khá cùn nhụt (blunted) do sự lạm dụng – độc
giả có thể làm quen với ư kiến của nhà thông thái
M. Bailly về vấn đề này. Những điều suy
lư diễn dịch có thể tỏ ra là sai lầm. Các phép
tính toán học c̣n có cơ sở vững chắc hơn.
Xuất phát từ nhiều tài liệu thiên văn học
trong Thánh thư Job, M. Bailly đă sáng chế ra một
phương tiện kỳ diệu chứng tỏ rằng
những người đầu tiên sáng lập ra khoa
học về Hoàng Đạo thuộc về một dân
tộc sơ khai, trước thời Đại Hồng
Thủy. Sự kiện ông sẵn ḷng thấy một vài
tộc trưởng trong Thánh kinh nơi Thoth, Seth và
người Trung Hoa Fohi (Phục Hy), không có dính dáng ǵ
tới giá trị của bằng chứng về sự
xưa cũ của Hoàng Đạo.([458]) Để luận chứng, cho dù có
chấp nhận rằng 3700 năm về trước T.C.
đúng là thời đại của Hoàng Đạo
học, thời kỳ này cũng chứng tỏ một
cách không thể chối căi được rằng
người Hy Lạp không hề phát minh ra Hoàng Đạo,
v́ lư do đơn giản là họ không tồn tại
như một quốc gia ba mươi bảy hế kỷ
trước T.C. (dù sao đi nữa không phải là một
chủng tộc lịch sử được các nhà phê
b́nh thừa nhận). Rồi M.
Bailly tính toán thời kỳ mà các cḥm sao biểu lộ tác
dụng khí quyển được Job gọi là “các tác
dụng êm dịu của cḥm sao Rua”, ([459]) tiếng Hebrew gọi là Kimah; các tác
dụng của Orion, Kesil; và các tác dụng của mưa sa mạc đối với cḥm sao Thần Nông (Hổ Cáp), cḥm sao thứ tám. Ông thấy rằng
v́ luôn luôn có sự phù hợp của các Cung Hoàng Đạo
với danh xưng của các hành tinh được thích
ứng theo cùng một trật tự ở bất cứ
nơi đâu và bất cứ khi nào, v́ không thể gán
hết điều này cho sự may rủi và sự “trùng
hợp” – “nó không bao giờ tạo ra những điều
tương tự như thế - nên đúng thật là
phải chấp nhận sự xưa cũ của Hoàng
Đạo. ([460])
375
Lại nữa, nếu chúng ta giả sử
rằng Thánh kinh có thẩm quyền đối với
bất cứ vấn đề ǵ – có một số
người vẫn c̣n coi như vậy, dù là quan
điểm Thiên Chúa giáo hay Do Thái giáo – bấy giờ rơ ràng
là Hoàng Đạo đă được đề cập
tới trong Thánh thư Vương Sử (Kings) II, xxiii, 5.
Trước khi đại lễ sư Hilkiah “t́m thấy
Pháp điển” (xxii, 8) người ta đă biết
tới và tôn thờ các cung Hoàng Đạo. Các cung Hoàng
Đạo này được tôn thờ chẳng khác nào
Mặt Trăng và Mặt Trời, v́
Các
lễ sư mà các vị vua Judah đă ra lệnh thắp
nhang … kính lễ Baal, mặt trời, mặt trăng, các
hành tinh và mọi tập đoàn Thiên giới. ([461])
hoặc kính lễ “mười
hai cung hay mười hai cḥm sao” (theo chú thích bên lề của Thánh kinh
tiếng Anh) – đều tuân theo lệnh này trong hàng thế
kỷ. Chỉ có Quốc vương Josiah (620 trước
T.C.) mới chặn đứng được sự tôn
sùng của họ.
Cựu
Ước đầy dẫy
những điều ám chỉ tới mười hai cung
Hoàng Đạo, và toàn bộ hệ thống – anh hùng, nhân
vật và biến cố - đều dựa vào nó. V́
thế, trong giấc mơ của Joseph (ông thấy
mười một “Ngôi Sao” nghiêng ḿnh trước Ngôi sao
thứ mười hai – đó là “Ngôi Sao” của chính ông), Hoàng Đạo cũng
được đề cập tới. Hơn nữa, các
tín đồ Thiên Chúa giáo La Mă đă thấy trong đó
một lời tiên tri về Đức Christ (theo họ,
Ngài là Ngôi Sao thứ mười hai), c̣n các ngôi sao khác là
mười một Tông đồ; sự khuyết tịch
của ngôi sao thứ mười hai cũng được
xem như là một điều tiên tri ám chỉ sự
phản bội của Judas. Lại nữa, mười hai
đứa con của Jacob cũng ám chỉ điều trên
(Villapandus đă phát biểu thật là chí lư như vậy).([462]) Trong Lịch sử Ba Tư, ([463]) Jemes Malcolm đă chứng tỏ
rằng Dabistăn cũng phản ánh một truyền
thuyết như vậy về Hoàng Đạo. Ông truy nguyên
sự sáng chế ra nó tận Thời Đại Hoàng Kim
của Ba Tư và nhận xét rằng một trong các
truyền thuyết ấy chủ trương rằng
chư Thần Linh của hành tinh được tiêu
biểu bởi các h́nh dáng mà các Ngài đă khoác lấy khi các Ngài xuất hiện
trước các bậc Đạo Sư, do đó, đă dẫn tới việc
lập nên các nghi thức dựa vào Hoàng Đạo.
Pythagoras và sau ông, Philo Judaeus, coi số 12 là con số rất linh thiêng.
Số
12 thật là toàn bích (perfect). Đó là số cung của Hoàng
Đạo mà mặt trời đi qua trong mười hai
tháng. Chính để tôn vinh con số này mà Moses đă chia quốc
gia ḿnh thành mười hai bộ lạc, lập nên
mười hai bánh thánh ([464]) và gắn
mười hai viên ngọc quí vào hộ tâm kính của các
vị giáo chủ ([465]).
Theo Seneca, Berosus đă dạy các tiên tri mọi biến cố và thảm họa tương lai bằng Hoàng Đạo. Người ta thấy các thời gian mà ông ấn định cho sự bùng cháy thế giới (Chu kỳ Hỗn Nguyên) và một trận Đại Hồng Thủy tương ứng với thời gian được tŕnh bày trong một tài liệu bằng giấy cỏ chỉ ở cổ Ai Cập. Một thảm họa như thế diễn ra vào lúc đổi mới một Chu kỳ Thiên Văn 25 868 năm. Danh xưng của các tháng của dân Akkadians lại được gọi theo và dẫn xuất từ danh xưng của các cung Hoàng Đạo, thế mà dân Akkadians lại c̣n tồn tại trước dân Chaldea nhiều. Trong Huyền Thoại và Các Điều Kỳ Diệu của Thiên Văn Học, ông Proctor đă chứng tỏ rằng các nhà thiên văn học thời xưa đă có được một hệ thống thiên văn học chính xác nhất vào khoảng 2 400 năm trước T.C. Người Ấn Độ xác định Chu kỳ Mạt Pháp theo một sự giao hội tuần hoàn vĩ đại của các hành tinh vào khoảng ba mươi mốt thế kỷ trước T.C.; mặc dù vậy, chính những người Hy Lạp có tham dự cuộc viễn chinh của Đại Tá Alexander mới dạy thiên văn học cho những người Ăryan Ấn Độ !
376
Cho dù Hoàng Đạo có nguồn gốc là
Ăryan hay Ai Cập đi nữa, th́ nó vẫn có nguồn
gốc rất xa xưa. Vào thế kỷ thứ sáu
trước T.C. Simplicius đă xác định rằng ông
luôn luôn nghe nói rằng người Ai Cập đă bảo
tồn được các tài liệu quan sát thiên văn trong
thời kỳ 630 000 năm. Phát biểu này dường
như làm cho ông Gerald Massey hoảng sợ, ông đă nhận
xét về nó như sau:
Nếu
chúng ta giải thích số năm này theo tháng mà Euxodus cho
rằng người Ai Cập gọi là một năm,
nghĩa là một thời kỳ dài bằng hai chu kỳ
tuế sai [51 736 năm]. ([466])
Diogenes Laertius kéo lùi các phép tính
toán thiên văn của người Ai Cập tới 48 863
năm trước thời Đại đế Alexander. ([467])
Martianus Capella bổ chứng điều này bằng cách cho
hậu thế biết rằng người Ai Cập đă
âm thầm nghiên cứu thiên văn học trong hơn 40 000
năm, trước khi truyền thụ cho thế giới.
([468])
Trong Sáng Thế Kư Tự Nhiên có trích dẫn nhiều đoạn có giá trị với quan điểm ủng hộ các thuyết của tác giả, nhưng chúng c̣n biện minh cho Giáo Lư Bí Nhiệm nhiều hơn nữa. Chẳng hạn như nó đă trích dẫn đoạn sau đây trong Cuộc đời Sulla của Plutarch:
Một
ngày kia khi bầu trời quang đăng, người ta nghe
thấy trong đó có một tiếng kèn inh ỏi, chói tai và
thê lương đến nỗi mà nó làm cho thiên hạ
phải hoảng sợ. Các bậc hiền triết Tuscan
bảo rằng đó là điềm báo trước sẽ
có một giống người mới và một sự canh
tân thế giới. Họ quả quyết rằng có tám
loại người, tất cả đều có cuộc
sống và h́nh thức khác nhau; mỗi loại người
đó đều được Trời phân chia cho một
thời hạn gồm có một đại niên [25 868
năm].([469])
Điều này nhắc chúng ta nhớ ngay tới Bảy giống người và Giống người thứ tám –“người thú” – vốn thoát thai từ Giống dân thứ Ba sau này, cũng như là sự đắm ch́m và hủy diệt lần lượt các lục địa, nó rốt cuộc sẽ quét sạch hầu hết mọi Giống người này. Iamblichus cho rằng:
Người
Assyria đă bảo tồn được không những là
các kư sự về 270 000 năm nữa (theo Hipparchus) mà c̣n là
toàn bộ các sự tận độ chúng sinh và thời
kỳ của Bảy Đấng Chưởng Quản
Thế Gian. ([470])
377
Kết quả này rất gần gũi với
phép tính toán của Nội môn Bí giáo. Căn chủng hiện
nay (Căn chủng thứ năm) đă xuất hiện
được khoảng 1 000 000 năm; khoảng 850 000
năm đă trôi qua từ khi cái đảo lớn cuối
cùng của lục địa Atlantis (đảo Ruta của
giống dân Atlante, Giống dân thứ Tư) bị nhận
ch́m. Trong khi đó, Daitya (một đảo nhỏ có
một giống dân hỗn hợp) bị hủy diệt
cách đây 270 000 năm, trong khoảng Thời Kỳ
Băng Hà (xem quyển 3 và 4). Nhưng Bảy Đấng
Chưởng Quản hay bảy triều đại Thánh
Vương, lại hiện diện trong các truyền
thuyết của mọi dân tộc vĩ đại
thời xưa. Bất cứ ở đâu mà số 12
được đề cập tới, th́ cứ y như
rằng đó là 12 Cung Hoàng Đạo.
Sự kiện này
hiển nhiên đến nỗi mà các tác giả theo phái Thiên
Chúa giáo La Mă – nhất là những kẻ ủng hộ Giáo
Hoàng – đă mặc nhiên thỏa thuận liên kết
mười hai Tộc Trưởng Do Thái với các cung
Hoàng Đạo. Điều này được thực
hiện một cách thần bí, tiên tri; đối với
những kẻ vô minh và ngoan đạo, nó chẳng khác nào
một điềm gở, một sự mặc nhiên
thừa nhận (một cách thiêng liêng) “dân tộc tuyển
định của Thượng Đế” – từ khi
bắt đầu sáng tạo, Ngài đă cố t́nh vạch
ra trên trời số Tộc Trưởng này. Chẳng
hạn như, kỳ diệu thay các tác giả này (trong
số đó có De Mirville) lại ghi nhận mọi
đặc tính của mười hai cung Hoàng Đạo,
trong lời trối trăn mà Jacob nói với các Con cũng
như ông xác định tương lai của mỗi
Bộ lạc. ([471]) Hơn nữa, được
biết các cờ hiệu tương ứng của các
bộ lạc ấy lại phô ra các biểu tượng và
các danh xưng giống như các cung Hoàng Đạo,
được lặp lại nơi mười hai viên
đá của Urim và Thummin và trên mười hai cánh của
hai vị Tiểu Thiên Sứ. Mặc cho các nhà Huyền
học nêu trên lo chứng minh sự chính xác của
điều tương ứng được viện
dẫn, chúng ta cứ việc trích dẫn nó như sau: Con
người, tức Bảo B́nh, ở trong phạm vi
của Reuben, Ngài bị tố cáo là “bất ổn như
nước” (Bản Thánh kinh bằng tiếng La Tinh bảo
rằng “hung hăng như nước”). Song Nam (Gemini)
ở trong phạm vi của Simcon và Levi, v́ các Ngài có mối
liên hệ huynh đệ thắm thiết với nhau. Mănh
Sư (Leo) ở trong phạm vi của Judah, “con Sư
Tử kiêu hùng” của bộ lạc ḿnh, “chú sư tử
con”. Song Ngư (Pisces) ở trong phạm vi của Zabulon,
Ngài “sẽ ngự nơi hải cảng”. Kim Ngưu (Taurus)
ở trong phạm vi của Issachar v́ Ngài là “một con
lừa khỏe mạnh đang rùn ḿnh xuống” v.v… và do
đó có liên hệ tới các chuồng ngựa. (Xử
Nữ) Hổ Cáp ở trong phạm vi của Dan, vốn
được mô tả như là “một con rắn,
một con rắn lục chực sẵn trên
đường để cắn người ta” v.v… Ma
Kết (Capricornus) ở trong phạm vi của Naphtali,
vốn là “một con hươu cái (một con hươu
đực) xổng chuồng”. Bắc Giải (Cancer) ở
trong phạm vi của Benjamin, v́ Ngài thật là “háu ăn”.
Thiên Xứng (Libra) ở trong phạm vi của Asher, “có bánh
ḿ sẽ biến thành mỡ”. Nhân Mă (Sagittarius) ở trong
phạm vi của Joseph, v́ “cây cung của Ngài biểu
dương sức mạnh”.([472]) Câu kết với Cung thứ
mười hai, Cung Xử Nữ (Virgo), độc lập
với Hổ Cáp, chúng ta có Dinah, đứa con gái
độc nhất của Jacob. Theo tục truyền, các
bộ lạc nêu trên ghi mười hai cung trên các hiệu
kỳ của họ. Nhưng thật ra, thêm vào các
điều trên, Thánh kinh cũng dẫy đầy các
biểu tượng nhân cách hóa thiên văn học, thần
học và vũ trụ luận.
378
Nếu số phận các Tộc Trưởng
sống thực mà lại gắn liền chặt chẽ
với Hoàng Đạo như thế, th́ chúng ta ắt
chẳng thể không tự hỏi tại sao sau khi
mười hai bộ lạc đă tiêu ma hết, mà
mười trong số mười hai cung lại không
mầu nhiệm rút lui ra khỏi trường tinh
đẩu ? Nhưng cần ǵ việc ấy. Tốt
hơn chúng ta nên quan tâm tới lịch sử của chính
Hoàng Đạo.
Độc giả nên nhớ tới một vài ư kiến về Hoàng Đạo của nhiều nhân vật có thẩm quyền nhất trong lĩnh vực khoa học.
Newton tin rằng, chúng ta có thể truy nguyên sự phát sinh ra Hoàng Đạo tới tận cuộc viễn du của các anh hùng Argonauts; c̣n Dulaure lại xác định rằng nó có nguồn gốc vào 6 500 năm trước T.C. chỉ có 2496 năm trước khi khai thiên tịch địa, theo niên đại Thánh kinh.
Greuzer cho rằng đâu có khó khăn ǵ mà chứng minh rằng hầu hết thần phổ học đều có liên hệ mật thiết với lịch tôn giáo và có liên quan tới Hoàng Đạo (về phần nguồn gốc bản sơ); nếu không phải Hoàng Đạo mà chúng ta biết hiện nay, th́ cũng là một cái ǵ rất tương tự với nó. Ông thấy chắc chắn là Hoàng Đạo và các liên hệ huyền nhiệm của nó là nền tảng của mọi thần thoại, dưới dạng này hay dạng khác. Nó đă tồn tại dưới dạng lạc hậu trong hàng thời đại, trước khi xuất hiện dưới dạng thiên văn học xác định hiện nay, do có một sự phối hợp đặc thù nào đó của các biến cố. ([473])
Cho dù “chư Thần
Linh hành tinh” (chư Thiền Định Đế Quân
thuộc các lĩnh vực siêu phàm) có hiện ra
trước các “đạo sư” (trong Dabistăn, người
ta cao rao như vậy) hay không đi chăng nữa, h́nh
như thế nhân và các chiến sĩ xuất sắc
vẫn được biệt đăi như vậy vào thời
xa xưa ở Chaldea, khi Pháp thuật Chiêm tinh và sự Giáng linh được
mật truyền.
Xenophon
(không có thường nhân nào) thuật lại với Cyrus …
rằng vào lúc lâm chung, y cảm ơn chư Thần Linh và
các anh hùng đă thường dạy cho ḿnh về các Cung
Hoàng Đạo trên Trời.([474])
Nếu không thừa nhận rằng Hoàng Đạo học có nguồn gốc xa xưa và phổ quát nhất, làm sao chúng ta có thể giải thích được sự kiện các Cung Hoàng Đạo được truy nguyên tới tận các Thần phổ học xưa cũ nhất? Được biết Laplace rất đổi sửng sốt khi nghĩ tới việc các ngày Thủy Tinh (Thứ Tư), Kim Tinh (Thứ Sáu), Mộc Tinh (Thứ Năm), Thổ Tinh (Thứ Bảy) và những ngày khác có liên hệ với những ngày trong tuần lễ, với thứ tự và danh xưng ở Ấn Độ giống y như ở Bắc Âu.
Với
hệ thống các nền văn minh bản xứ hiện
nay rất hợp thời, bạn cứ thử giải
thích xem làm thế nào mà các quốc gia không hề có cùng
tổ tông, truyền thống và sinh quán, lại có thể
thành công trong việc phát sinh ra một loại huyền
học thiên giới, đích thực là một t́nh trạng
hỗn độn các danh vị tinh đẩu; chẳng có
tŕnh tự hoặc đối tượng nào, chẳng có
liên hệ tượng h́nh với các cḥm sao mà chúng tiêu
biểu; thế mà xét về mặt biểu kiến, chúng
vẫn có ư nghĩa đối với các giai đoạn
của kiếp sống trần thế của chúng ta –
nếu như không có một ư đồ tổng quát,
một nguyên nhân và một tín ngưỡng đại
đồng thế giới làm nền tảng cho tất
cả mọi điều ấy !([475])
379
Dupuis cũng đă
khẳng định như trên một cách chí lư như sau:
Không thể t́m ra
được một chút sự tương đồng
nào giữa các phân khu trên trời và các số liệu mà các
nhà thiên văn học đă độc
đoán vạch ra; mặt khác, lại không thể có
được sự t́nh
cờ may rủi.([476])
Chắc chắn là không thể có được sự may rủi t́nh cờ. Không hề có sự t́nh cờ may rủi trong Thiên Nhiên, nơi mà vạn vật đều phối hợp và có các đơn vị liên hệ với nhau chính xác theo toán học. Coleridge cho rằng :
Sự
may rủi t́nh cờ chẳng qua chỉ là biệt danh
của Thượng Đế (tức Thiên Nhiên) v́ có
những trường hợp đặc biệt mà Ngài không
công khai chịu trách nhiệm.
Cứ thay thế
từ ngữ “Thượng Đế” bằng Nghiệp Quả, chúng ta sẽ có ngay một công lư
của Đông phương. Do đó, các điều “tiên
tri” tinh đẩu của Hoàng Đạo (theo như cách
gọi của các nhà huyền học Thiên Chúa giáo) không bao
giờ nhằm nói tới bất kỳ biến cố
đặc thù nào (cho dù nó có thể là long trọng và thiêng
liêng đối với một phần nhân loại đến
đâu đi chăng nữa) mà chỉ nhằm nói tới
các định luật tuần hoàn trong Thiên Nhiên (chỉ có
các Đạo đồ của chính chư Thần Linh tinh đẩu mới hiểu
được các định luật này).
Không nhà Huyền bí
học nào, không nhà Chiêm tinh học Đông phương nào
lại đồng ư với các nhà huyền học Thiên Chúa
giáo, hoặc thậm chí với cả thiên văn học
huyền bí của Kepler, mặc dù ông là một nhà khoa
học thông thái. Ấy là v́, nếu các tiên đề
của ông hoàn toàn đúng th́ các điều suy diễn
từ các tiên đề của ông lại bị thiên
lệch và phiến diện do có các thành kiến Thiên Chúa
giáo. Cái mà Kepler xem như là một điều tiên tri
trực tiếp ám chỉ Đấng Cứu Thế, th́ các
quốc gia khác chỉ thấy là một biểu
tượng của một luật vĩnh cửu, có
hiệu lực trong Chu kỳ Khai Nguyên hiện nay. Tại
sao lại thấy nơi Song Ngư điều trực
tiếp ám chỉ Đức Christ (một trong nhiều
vị cải cách thế giới, một Đấng
Cứu Thế đối với các môn đồ của
chính Ngài, song chỉ là một đại Điểm
đạo đồ vinh diệu đối với tất
cả những người khác) khi cḥm sao đó vẫn sáng
tỏ như là một biểu tượng của mọi
Đấng Cứu Rỗi Tinh Thần của quá khứ,
hiện tại và tương lai, ban rải ánh sáng chân lư và
xóa tan đêm đen của tâm hồn? Các nhà biểu
tượng học Thiên Chúa giáo đă cố gắng
chứng tỏ rằng cung này thuộc về Ephraim, con trai
của Joseph, kẻ được Jacob tuyển lựa; do
đó, “Đấng Cứu Thế được tuyển
lựa” của tín đồ Thiên Chúa giáo đầu tiên
phải được sinh ra vào lúc Mặt Trời đi
vào Cung Song Ngư. Nhưng nếu Jesus ở Nazareth là
Đấng Cứu Thế đó, liệu Ngài có thực
sự được sinh ra vào lúc ấy không, hay giờ
sinh của Ngài đă bị ấn định như
vậy do sự thích ứng của các nhà Thần học,
(họ chỉ t́m cách làm cho các tiên kiến của họ
thích hợp với các sự kiện tinh đẩu và
niềm tin tưởng b́nh dân? Mọi người
đều biết rằng chẳng ai biết ǵ về ngày
và năm sinh thực sự của Đức Jesus. Chính
những người Do Thái – các tổ tiên của họ
đă khiến cho từ ngữ Dag có nghĩa là cả
“Cá” lẫn “Đấng Cứu Thế” (“Messiah”) trong khi
bắt buộc phải phát triển ngôn ngữ giáo sĩ Do
Thái của ḿnh – mới là những kẻ đầu tiên
chối bỏ lời tuyên bố này của tín đồ
Thiên Chúa giáo. Ngoài ra, c̣n có sự kiện nào nữa đă
khiến các tín đồ Bà La Môn liên kết Đấng
Cứu Thế của ḿnh (Hóa Thân Vishnu bất diệt)
với một Con Cá và trận Đại Hồng Thủy,
c̣n dân Babylon cũng biến Dag – On (Nhân ngư và bậc
Đạo Sư) của ḿnh thành ra một Con Cá và một
Đấng Cứu Thế ?
380
Trong số các nhà Ai Cập học, có
những nhà thông thái chủ trương đả phá
ngẫu tượng, đă cho rằng :
Khi
dân Biệt phái (Pharisees) t́m kiếm một “cung trên
trời”, Đức Jesus đă phán rằng: “Sẽ không có
cung nào được ban ra đâu … chỉ có cung (sign)
của bậc đạo sư Jonas thôi” (Thánh thư Matthew,
xvi, 1, 4)… Cung của Jonas là cung Oan (người Cá Nineveh …)
Chắc chắn là không có cung nào khác hơn cung Mặt
Trời tái sinh nơi Song Ngư. Tiếng nói Minh Triết Bí
Nhiệm dạy bảo những kẻ mưu t́m các Cung,
chẳng thể nào khác hơn là tiếng nói của
Người Cá Ichthys, Oannes tức Jonas tái lâm – Y lại không
thể biểu hiện bằng xương bằng
thịt.
H́nh như Kepler
vẫn chủ trương rằng vào lúc “lâm phàm”, mọi
hành tinh đều giao hội nơi Cung Song Ngư (các tín
đồ Do Thái Bí giáo gọi nó là “cḥm sao của Đấng
Cứu Thế”). Kepler xác nhận:
Ngôi
sao của Pháp sư (Magi) ở chính cḥm sao này.
Phát biểu này (do De Mirville trích dẫn của
Tiến sĩ Sepp ([477])
đă khiến cho De Mirville đánh bạo nhận xét như
sau:
Khi loan báo cái ngôi sao mà nhiều quốc gia
đă thấy [!],([478])
mọi truyền thuyết Do Thái đều nói thêm rằng
nó sẽ hấp thu bảy mươi hành tinh chủ tŕ
vận mệnh của nhiều quốc gia khác nhau trên hành
tinh này.([479])
Tiến sĩ Sepp cho rằng: “V́ có các điều tiên tri
tự nhiên này, nơi các ngôi sao ở trên trời có ghi
rằng Đấng Cứu Thế sẽ ra chào đời
vào năm 4320 âm lịch, vào các năm đáng ghi nhớ khi
mà toàn bộ hợp khúc trên các hành tinh sẽ cử hành ngày
đại hội của ḿnh”.([480])
Vào đầu thế kỷ này, thiên hạ lồng lên đ̣i dân Ấn Độ phải trả lại cho người Do Thái những ǵ mà họ cướp bóc được: nào là thần linh, nào là tộc trưởng, nào là niên đại. Chính Đại Tá Wilford đă nhận ra Noah nơi Prithu và Satyavrata, Enos nơi Dhruva, thậm chí cả Assur nơi Ĩshvara. Sau khi đă lưu lại biết bao nhiêu năm ở Ấn Độ, ít nhất th́ một vài nhà Đông phương học cũng phải biết rằng giai cấp Bà La Môn đâu phải là những kẻ duy nhất có các h́nh tượng này, hoặc đă chia Đại Chu Kỳ của ḿnh ra thành bốn tiểu chu kỳ. Tuy nhiên, các tác giả có bài đăng trong tờ Khảo cứu Á Châu lại mải mê suy lư thật là quá trớn. S.A.Mackey, “triết gia, nhà thiên văn và thợ giày” ở Norwich, đă biện luận một cách thích đáng như sau :
381
Các
nhà Thần học Thiên Chúa giáo cho rằng họ có bổn
phận phải lên tiếng phản đối các thời
kỳ dài của niên đại Ấn Độ;
điều này có thể tha thứ được. Thế
nhưng, khi một học giả làm bại hoại các danh
xưng và số mục của cổ nhân, vo tṛn bóp méo chúng
thành ra một h́nh hài hoàn toàn xa lạ với ư của tác
giả thời xưa (khi bị cắt xén như thế,
chúng lại thích hợp với cái ư tưởng ngông
cuồng đă tồn tại sẵn trong đầu óc
của y một cách chính xác đến nỗi mà y phải
giả vờ sửng sốt khi khám phá ra nó), tôi cho rằng
y hoàn toàn không thể tha thứ được. ([481])
Đoạn trên c̣n nói tới Đại Úy (sau này là Đại Tá) Wilford, nhưng nó vẫn thích hợp hơn nữa với một trong các nhà Đông phương học thời nay. Đại Tá Wilford là người đầu tiên đă ca ngợi các suy lư quái gở của ḿnh bàn về niên đại của Ấn Độ và kinh Puranas bằng cách liên hệ 4 320 000 000 với niên đại Thánh kinh (có điều là ông đă rút gọn các con số trên thành 4320 năm, vốn được giả sử là năm giáng sinh âm lịch); c̣n Tiến sĩ Sepp đă chỉ mượn ư tưởng này của vị sĩ quan dũng cảm. Hơn nữa, ông cứ khăng khăng thấy chúng là vật đặc hữu của dân Do Thái cũng như là điều tiên tri của tín đồ Thiên Chúa giáo, do đó, tố cáo dân Ăryans là đă giúp cho điều thiên khải của dân Semite, trong khi ngược lại mới đúng. Vả lại, chẳng cần phải tố cáo người Do Thái là đă trực tiếp tước đoạt của người Ấn Độ các số liệu mà Ezra có lẽ là chẳng biết ǵ. Hiển nhiên là họ đă vay mượn các số liệu ấy của dân Chaldea cùng với chư Thần Linh Chaldea. Họ đă chuyển 432 000 năm của các Triều đại Thánh Linh Chaldea ([482]) thành ra 4 320 năm âm lịch từ lúc khai thiên tịch địa tới kỷ nguyên Thiên Chúa; c̣n về phần chư Thần Linh Babylonia và Ai Cập, họ đă âm thầm và khiêm nhượng biến các Ngài thành ra các Tộc Trưởng. Mọi quốc gia đều ít nhiều phạm tội đă thích ứng chư Thần Linh vũ trụ - đă từng chung cho tất cả - thành ra chư Thần Linh anh hùng quốc gia và bộ lạc. Nó đă là vật đặc hữu của dân Do Thái dưới dạng mới là bộ Ngũ Kinh Cựu Ước, thế mà có người Do Thái nào đă từng áp đặt nó lên trên bất cứ quốc gia nào khác đâu (lại càng không hề áp đặt lên dân Âu Tây).
382
Trong khi không
ngừng nhận xét các niên đại rất phản khoa
học này thật là vô dụng, chúng ta vẫn có thể
đưa ra một ít nhận xét tới nơi tới
chốn. 4 320 năm âm
lịch – trong Thánh kinh dùng
năm dương lịch – không hề hoang
đường như vậy, cho dù việc áp dụng chúng
thật là hoàn toàn sai lầm, v́ chúng chỉ là phản ánh méo
mó của Nội môn Bí giáo nguyên thủy và sau này là giáo lư Bà
La Môn liên quan tới các Chu kỳ. Một Ngày của Brahmă
bằng 4 320 000 000 năm; một Đêm của Brahmă
(tức Chu kỳ Hỗn Nguyên) cũng vậy; sau đó
một vừng THÁI DƯƠNG mới sẽ tưng bừng mọc lên qua
một Chu kỳ Khai Nguyên, nó sẽ chiếu sáng cho Dăy Hành
Tinh gồm Bảy Bầu Hành Tinh. Giáo lư này đă thâm
nhập vào các thế kỷ Âu Châu và Palestine trước
kỷ nguyên Thiên Chúa, ([483]) và hiện diện trong đầu óc
của các tín đồ Do Thái theo Moses. Họ dựa cái
tiểu Chu kỳ của ḿnh vào đó, mặc dù nó chỉ
được xiển dương nhờ vào các nhà niên
đại học Thánh kinh Thiên Chúa giáo, họ chấp
nhận nó cũng như ngày 25 tháng 12, ngày mà người ta
cho rằng mọi Thần Linh thái dương
đều đă lâm phàm. Thế th́, có ǵ lạ đâu
nếu người ta cứ bắt Đấng
Cứu Thế phải giáng sinh vào năm 4 320 âm lịch? “Mặt Trời Công Lư Cứu Nhân
Độ Thế” đă mọc lên lần nữa và đă
xua tan bóng đêm của Chu kỳ Hỗn Nguyên và Hư Vô
trên ngoại giới của Bầu Hành Tinh và Dăy Hành Tinh bé
nhỏ của chúng ta. Một khi vấn đề tôn
thờ đă được giải quyết xong, đâu có
ǵ khó mà làm cho các biến cố giả sử về sự
giáng sinh, cuộc đời và sự tịch diệt
của Ngài, phù hợp với các nhu cầu của Hoàng
Đạo và truyền thống cổ sơ, mặc dù trong
trường hợp này, chúng
cũng phải hiệu chỉnh lại ít nhiều.
383
Như thế,
những điều mà Kepler – trên cương vị một
nhà thiên văn học xuất chúng – tuyên bố cũng
dễ hiểu thôi. Ông nh́n nhận tầm quan trọng
lớn lao và đại đồng vũ trụ của
tất cả các cuộc giao hội hành tinh ấy và cho
rằng: “mỗi cuộc giao hội đó là một khúc quanh lịch sử của Nhân loại”.([484]) Sự giao hội hy hữu của
Thổ Tinh, Mộc Tinh và Hỏa Tinh thật là quan trọng
và đầy ư nghĩa đối với các nhà Huyền bí
học ở Ấn Độ, Trung Quốc cũng như
là ở Âu Châu, v́ nó tạo ra các kết quả lớn lao nơi các quốc gia này. Nay việc
chủ trương rằng Thiên Nhiên chỉ nhắm
tới Đức Christ khi dựng nên những cḥm sao quái
gở và vô nghĩa (đối với kẻ phàm tục),
chắc chắn chỉ là một điều giả
định. Nếu người ta cho là không sự t́nh
cờ nào có thể khiến cho các bậc kiến tạo
nên Hoàng Đạo (cách đây hàng ngh́n năm đánh dấu
h́nh ngôi sao (asterisk) lên h́nh Kim Ngưu, mà chẳng hề
chứng tỏ được là nó tiên tri về Thiên
Đạo tức Christ có giá trị hơn chữ aleph
của Kim Ngưu (Taurus) nghĩa là “ĐẤNG ĐỘC TÔN”(“ONE”) và “ĐẤNG
BẢN SƠ” (“FIRST”), c̣n
Christ cũng là alpha tức “ĐẤNG
ĐỘC TÔN”, th́ chúng ta có
thể chứng tỏ là “bằng chứng” này thật là vô
giá trị một cách kỳ lạ về nhiều
phương diện. Mở đầu mọi biến cố
là việc Hoàng Đạo tồn tại trước
kỷ nguyên T.C.; hơn nữa, mọi Thần Linh Thái
Dương (chẳng hạn như Osiris) đều có liên
hệ một cách huyền bí với cḥm sao Kim Ngưu và
đều được các tín đồ gọi là “ĐẤNG BẢN SƠ”. Vả lại, tất cả
những người chế ra các tôn danh huyền bí dành cho
Đấng Cứu Thế Thiên Chúa giáo đều ít
nhiều quen thuộc với ư nghĩa của các cung Hoàng
Đạo. Cũng chẳng khó khăn ǵ mà giả sử
rằng họ đă sắp xếp những lời tuyên
bố của ḿnh sao cho chúng phù hợp với các cung
huyền bí, đến nỗi mà các cung này sẽ tỏ ra
là một điều tiên tri đối với một
phần nhân loại trong hàng triệu năm, không kể vô
số thế hệ đă qua và sắp tới.
Chúng ta được biết:
Trong
một số lĩnh vực nào đó, chính sự t́nh
cờ may rủi không thể đặt lên ngai cái
đầu ḅ mộng [Kim Ngưu] đang ra sức đẩy
lùi một con Rồng với chiếc thập tự giá có
quai. Chúng ta cũng biết rằng cḥm sao Kim Ngưu này
được gọi là “đô thị lớn của
Thượng Đế và mẹ của các điều thiên
khải” và cũng là “kẻ thuyết minh diệu âm”, Apis
Pacis của Hermontis ở Ai Cập [theo lời quyết
đoán của các bậc giáo phụ (patristic fathers)], nó
đă tŕnh bày các sấm kư liên quan tới sự giáng sinh
của Đấng Cứu Thế. ([485])
Điều giả
sử này của thần học có nhiều lời giải
đáp. Một là, chiếc thập tự giá có quai của
Ai Cập (tức Tau), thập tự giá Jaina, tức chữ
Vạn và thập tự giá của Thiên Chúa giáo đều
có cùng một ư nghĩa. Hai là, trừ tín đồ Thiên Chúa
giáo ra, không có dân tộc hoặc quốc gia nào gán cho con
Rồng cái ư nghĩa đă được gán cho nó hiện
nay. Con Rắn là biểu tượng của MINH TRIẾT,
c̣n con Ḅ Mộng, Kim Ngưu, là biểu tượng của
sự sinh hóa vật chất, thế tục. Như thế
con Ḅ Mộng (tách rời khỏi con Rồng tức là Minh
Triết Thiêng Liêng) cùng với thập tự Tau – xét về
mặt nội môn, đó là nền móng của mọi
kiến trúc – sẽ có một ư nghĩa hoàn toàn sinh lư, sùng
bái sinh thực khí, nếu nó chưa có ư nghĩa nào khác mà các
nhà biểu tượng học và các học giả Thánh kinh
chưa biết tới. Dù sao đi nữa, nó không hề
đặc biệt liên quan tới Thiên Đạo của
Thánh John (có lẽ trừ trường hợp xét theo
một ư nghĩa tổng quát). Kim Ngưu – tiện thể
xin nói, đó là một con ḅ mộng chứ không phải là
một con chiên – thật là linh thiêng trong mọi
vũ trụ khởi nguyên luận, đối với dân
Ấn Độ cũng như là đối với các tín
đồ Hỏa giáo, đối với dân Chaldea cũng
như là đối với dân Ai Cập. Mọi học sinh
đều biết quá nhiều.
Có lẽ các nhà Minh Triết Thiêng Liêng sẽ nhớ tới một vài đoạn trong Thánh Thư Khải Huyền, nếu chúng ta đề nghị họ xét tới những điều tŕnh bày trong Nữ Thần Isis Lộ Diện [486] bàn về cḥm sao Xử Nữ và Thiên Long cùng với sự đại đồng vũ trụ của các kiếp tái sinh tuần hoàn của các Đấng Cứu Thế (chư Thần Linh Thái Dương).
384
Năm 1853, nhà Bác
học Erard-Mollien tŕnh bày tại Học viện Pháp
quốc một tài liệu có khuynh hướng chứng
tỏ nguồn gốc xa xưa của Hoàng Đạo
Ấn Độ (người ta thấy cội nguồn và
triết lư của mọi đại lễ tôn giáo quan
trọng nhất của Ấn Độ nơi các cung Hoàng
Đạo). Diễn giả ra sức chứng tỏ
rằng các lễ nghi tôn giáo này có nguồn gốc ít ra là 3
000 năm trước T.C. Theo ông, Hoàng Đạo của
người Ấn Độ c̣n xa xưa hơn Hoàng
Đạo của người Hy Lạp và khác hẳn nó
ở một vài đặc điểm. Trong đó,
người ta thấy Con
Rồng ngự trên một cái
Cây, ở dưới gốc cây, chúng ta thấy Xử
Nữ, Kanyă-Durgă, một trong các Nữ Thần xưa
nhất, cưỡi trên lưng con Sư Tử kéo lê
chiếc xe mặt trời. Ông cho rằng :
Đó
là lư do tại sao Trinh nữ Durgă này không phải chỉ
gợi cho chúng ta nhớ tới một sự kiện thiên
văn, mà c̣n thật sự là thần linh xưa nhất
trên Thiên giới của Ấn Độ. Nàng hiển nhiên
cũng là Đấng mà sự tái lâm được loan báo
trong mọi tác phẩm Tiên tri – một thời kỳ canh
tân thế giới … V́ những sắc dân nói tiếng
Malayălam (ở miền Nam Ấn Độ) vẫn c̣n
gọi tên các tháng theo Hoàng Đạo Ấn Độ này,
nên tại sao họ phải bỏ nó để dùng Hoàng
Đạo của người Hy Lạp ? Ngược
lại, mọi chuyện đều chứng tỏ
rằng các số liệu Hoàng Đạo này do người
Chaldea truyền lại cho người Hy Lạp
(người Chaldea kế thừa các số liệu của
tín đồ Bà La Môn).”([487])
Nhưng tất cả những điều này chẳng chứng minh được bao nhiêu. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ những điều mà các kẻ đương thời của Volney đă phát biểu và chấp nhận. Theo Volney, v́ Dương Cưu ở mười lăm độ vào năm 1 447 trước T. C. nên suy ra rằng độ thứ nhất của Thiên Xứng đă không thể trùng hợp với xuân phân sau năm 15 194 trước T.C. Ông luận chứng rằng nếu chúng ta kể thêm 1 790 năm đă trôi qua từ khi Đức Christ giáng sinh, dường như là 16 984 năm ắt đă phải trôi qua từ khi bắt đầu có Hoàng Đạo. ([488])
Vả lại, trong Vũ
trụ học Trung Hoa, Tiến sĩ Schlegel cho rằng thiên
văn học của Trung Hoa có nguồn gốc xa xưa
tới 18 000 năm. ([489])
Tuy nhiên, v́ việc trích dẫn các ư kiến mà không có các bằng chứng thỏa đáng, chẳng có ích lợi bao nhiêu, do đó, tốt hơn chúng ta nên quay sang bằng chứng khoa học. Bailly, nhà thiên văn học Pháp trứ danh ở thế kỷ vừa qua, Hàn lâm viện sĩ v.v… khẳng định rằng các hệ thống thiên văn học của Ấn Độ có nguồn gốc xa xưa nhất; kiến thức của người Ai Cập, Hy Lạp, La Mă (và thậm chí cả người Do Thái nữa) cũng đều từ đó mà ra. Để bênh vực các quan điểm này, ông đă cho rằng :
385
Các
nhà thiên văn học trước thời 1491 thoạt tiên
là những người Hy Lạp ở Alexandria; Hipparchus,
sinh hoạt 125 năm trước kỷ nguyên chúng ta và Ptolemy,
260 năm sau Hipparchus. Tiếp theo các vị này là
người Ả Rập, họ phục hồi việc
nghiên cứu thiên văn học vào thế kỷ thứ
chín. Tiếp theo là người Ba Tư và người
Tartars, họ lưu truyền lại cho chúng ta bảng
Nassireddin vào năm 1269 và bảng Ulug-beg vào năm 1437. Đó
là tŕnh tự các biến cố diễn ra ở Âu Châu
trước thời kỳ 1491 ở Ấn Độ.
Thế th́, một thời kỳ là cái ǵ? Đó là sự
quan sát kinh độ của một ngôi sao vào một lúc
đă định, vị trí trên bầu trời nơi chúng
ta quan sát thấy nó; vị trí này được dùng làm
một điểm qui chiếu, một khởi điểm
để tính toán các vị trí cả quá khứ lẫn
tương lai của ngôi sao theo chuyển động
đă từng được quan sát của nó. Nhưng
nếu chưa xác định được chuyển
động của ngôi sao, th́ một thời kỳ cũng
chẳng làm được ǵ. Một quốc gia mới
tập tễnh bước chân vào lănh vực khoa học và
bắt buộc phải kế thừa khoa thiên văn
học của nước ngoài, ắt chẳng thấy ǵ
khó khăn khi ấn định một thời kỳ, v́
người ta có thể quan sát một lần duy nhất
vào bất cứ lúc nào. Nhưng điều cần
thiết hơn hết, điều bắt buộc phải
vay mượn, lại là các yếu tố tùy thuộc vào
sự xác định chính xác và cần phải quan sát liên
tục (nhất là các chuyển động tùy thuộc vào
thời gian và chỉ có thể được xác
định một cách chính xác nhờ vào việc quan sát
trong hàng thế kỷ. V́ thế người ta phải vay
mượn các chuyển động này của một
quốc gia đă thực hiện các cuộc quan sát như
vậy trong hàng thế kỷ. Do đó, chúng tôi kết
luận rằng một dân tộc mới sẽ không
thể vay mượn các thời kỳ của một dân
tộc xưa mà lại không vay mượn của chúng các
“chuyển động trung b́nh” xuất phát từ nguyên
tắc đó, chúng ta sẽ thấy rằng các thời kỳ
1491 và 3102 của Ấn Độ không thể thoát thai
từ các thời kỳ của Ptolemy hoặc Ulug-beg.
Người
ta c̣n giả sử rằng khi so sánh các cuộc quan sát
của ḿnh vào năm 1491 với các cuộc quan sát do Ulug-beg
và Ptolemy thực hiện trước kia, người
Ấn Độ đă sử dụng các khoảng cách
giữa các cuộc quan sát để xác định các
chuyển động trung b́nh. Đối với một
sự xác định như vậy, nhật kỳ của
Ulug-beg thật là quá cận đại, trong khi nhật
kỳ của Ptolemy và Hipparchus lại chỉ vừa
đủ xa xưa. Nhưng nếu các chuyển
động của Ấn Độ đă được
xác định theo các sự so sánh này, th́ các thời kỳ
sẽ được liên kết với nhau. Xuất phát
từ các thời kỳ của Ulug-beg và Ptolemy, chúng ta
sẽ đạt tới tất cả các thời kỳ
của người Ấn Độ. V́ thế, đối
với người Ấn Độ, các thời kỳ
ngoại quốc thật là vô danh hoặc vô dụng. ([490])
Chúng
ta có thể thêm vào một nhận xét quan trọng khác. Khi
một quốc gia bắt buộc phải vay mượn các
lân bang ḿnh các phương pháp hoặc các chuyển
động trung b́nh của các bảng thiên văn, th́ nó c̣n
phải vay mượn thêm kiến thức về sự
bất đồng chuyển động của các thiên
thể, các chuyển động của điểm
viễn địa, của các tiết điểm và khuynh
độ của Hoàng Đạo; tóm lại, đó là các
yếu tố mà muốn xác định chúng, chúng ta cần
phải có thuật quan sát, một vài dụng cụ và
phải rất siêng năng, cần mẫn. Tất cả
các yếu tố thiên văn này ít nhiều khác với các
yếu tố của người Hy Lạp ở Alexandria,
người Ả Rập, người Ba Tư, người
Tartars, và cũng chẳng giống chút nào với các yếu
tố của người Ấn Độ. Do đó,
người Ấn Độ đâu có vay mượn ǵ
của các lân bang.
386
Nếu
người Ấn Độ không vay mượn th́ họ
ắt phải có một thời kỳ thực sự là
của chính ḿnh. Đây ắt phải là thời kỳ
năm 1491 sau T.C. hoặc thời kỳ năm 3102
trước T.C. (thời kỳ sau diễn ra trước
thời kỳ 1491 tới 4592 năm). Chúng ta phải
chọn lựa một trong hai thời kỳ này và quyết
định xem thời kỳ nào dựa vào sự quan sát.
Nhưng trước khi khởi sự các luận chứng
có thể và ắt phải quyết định vấn
đề này, chúng ta có quyền tŕnh bày một ít nhận
xét đối với những kẻ nào có khuynh
hướng tin tưởng rằng chính các cuộc quan sát
và các phép tính toán hiện đại đă khiến cho
người Ấn Độ có thể xác định các
vị trí đă qua của các thiên thể. Đâu có dễ ǵ
mà xác định các chuyển động thiên thể
đủ chính xác để ngược ḍng thời gian
trong 4 592 năm và mô tả các hiện tượng phải
diễn ra vào thời kỳ đó. Ngày nay, chúng ta có các
dụng cụ tuyệt hảo, nhờ vào các cuộc quan
sát chính xác trong hai, ba thế kỷ, chúng ta có thể tính toán
được một cách khá chính xác chuyển động
trung b́nh của các hành tinh. Nhờ có đặc tính rất
xa xưa so với hiện nay, các cuộc quan sát của dân
Chaldea, của Hipparchus và Ptolemy đă khiến cho chúng ta có
thể ấn định được các chuyển
động này một cách chắc chắn hơn. Song chúng
ta c̣n chưa thể đảm nhiệm việc tŕnh bày
một cách chính xác bất di bất dịch các cuộc quan
sát trong suốt thời kỳ dài giữa thời dân Chaldea
và thời đại chúng ta. Chúng ta lại càng không thể
đảm nhận việc xác định một cách chính
xác các biến cố diễn ra 4 592 năm trước
thời đại chúng ta. Cassini và Maier đă xác
định chuyển động trường kỳ
của mặt trăng, các số liệu của họ khác
nhau 3 phút 43 giây. Trong bốn mươi sáu thế kỷ,
sự dị biệt này đă tạo ra một độ
ngờ gần ba độ nơi vị trí của mặt
trăng. Chắc chắn là một trong các điều xác
định này phải chính xác hơn điều xác
định kia; chúng ta phải quyết định xem trong
số đó, cuộc quan sát nào có nguồn gốc xa xưa
nhất. Nhưng vào các thời rất xa xưa, đâu có
đủ các cuộc quan sát, nên chúng ta đâu có chắc
chắn ǵ về các hiện tượng. Thế th́ làm
thế nào mà người Ấn Độ có thể tính
ngược từ 1491 sau T.C. nếu họ chỉ mới
nghiên cứu về thiên văn học gần đây?
Người
Đông phương chưa bao giờ được
như chúng ta. Cho dù chúng ta có thể đánh giá cao tŕnh
độ hiểu biết của họ về thiên văn
học, chúng ta không thể giả sử rằng họ
đă từng có được hàng loạt các khí cụ
vốn là đặc điểm của các đài thiên
văn của chúng ta và là sản phẩm của sự
tiến bộ đồng thời trong nhiều kỹ
thuật khác nhau. Họ cũng không thể có được
cái thiên tài khám phá cho đến nay dường như
vẫn là độc quyền của Âu Châu nhờ thế
chỗ cho thời gian, nó sẽ tạo ra sự tiến
bộ nhanh chóng của khoa học và trí tuệ con
người). Nếu người Á Châu mà dũng mănh, thông
thái và minh triết, th́ chính quyền lực và thời gian
đă tạo ra công trạng và sự thành công đủ
loại của họ. Quyền lực đă dựng nên
hoặc hủy hoại các đế quốc của
họ; lúc th́ nó dựng nên các dinh thự nguy nga đồ
sộ, lúc nó lại biến chúng thành ra các tàn tích cổ
kính. Trong khi thế sự cứ thăng trầm th́ sự
kiên tâm tŕ chí đă tích lũy được kiến
thức và kinh nghiệm lâu dài sẽ tạo ra minh triết.
Chính tính cách cổ xưa của các quốc gia Đông
phương đă tạo nên uy danh khoa học của chúng.
Nếu
vào năm 1491, người Ấn Độ đă hiểu
biết về các chuyển động thiên thể
đủ chính xác để cho họ có thể tính toán
ngược ḍng thời gian tới 4 592 năm, th́ suy ra
rằng họ chỉ có thể hiểu biết
được như vậy do việc có các cuộc quan
sát rất cổ sơ. Công nhận họ hiểu biết
được như vậy, mà lại không chịu
thừa nhận các cuộc quan sát là nền tảng của
điều đó, thật đúng là giả sử một
điều không thể có được. Điều này
cũng chẳng khác nào việc giả sử rằng ngay
từ khi bắt đầu đời hoạt động
của ḿnh, họ đă gặt hái được kết
quả của kinh nghiệm và thời gian. Mặt khác
nếu giả sử rằng thời kỳ 3102 của
họ có thực th́ suy ra rằng người Ấn
Độ đă chỉ bắt kịp các thế kỷ liên
tiếp măi tới năm 1491 sau T.C. Như thế, chính
thời gian đă dạy dỗ họ; họ biết
được chuyển động của các thiên thể
trong các thời kỳ này v́ họ đă thấy
được chúng. Sự tồn tại lâu dài của
người Ấn Độ trên trần thế khiến
cho các tài liệu của họ thật đáng tin cậy và
các tính toán của họ thật là chính xác.
Dường
như vấn đề “thời kỳ nào trong số hai
thời kỳ 3102 và 1491 mới là thời kỳ có
thực” nên được giải quyết bằng
một nhận xét. Đó là: cổ nhân nói chung và
người Ấn Độ nói riêng đă chỉ tính toán
và do đó chỉ quan sát các cuộc thiên thực không thôi
(chúng ta có thể thấy điều này qua sự sắp xếp
các Bảng biểu của họ). Thế mà chẳng có
kỳ nhật thực nào vào thời kỳ 1491, mà cũng
chẳng có kỳ nguyệt thực nào trong ṿng mười
bốn ngày trước hoặc sau lúc đó. V́ vậy
thời kỳ 1491 không dựa vào một cuộc quan sát.
Về phần thời kỳ 3102, các tín đồ Bà La Môn
Tirvaloor xác định nó nhằm lúc mặt trời mọc
ngày 18 tháng 2. Bấy giờ mặt trời ở
điểm thứ nhất của Hoàng Đạo theo kinh
độ thực của ḿnh. Các Bảng khác chứng
tỏ rằng vào nửa đêm hôm trước, mặt
trăng cũng ở ngay chỗ đó, nhưng theo kinh
độ trung b́nh của ḿnh. Các tín đồ Bà La Môn
cũng cho chúng ta biết rằng điều đầu
tiên này (nguồn gốc Hoàng Đạo của họ)
ở 54 độ sau phân điểm vào năm 3102. Suy ra
rằng như thế, nguồn gốc (đầu tiên
của Hoàng Đạo) ở 6 độ Bảo B́nh.
387
Do
đó, vào thời gian và vị trí này, đă có diễn ra
một sự giao hội trung b́nh, thật vậy, sự
giao hội này được tŕnh bày trong các Bảng
biểu xuất sắc nhất của chúng ta: bảng
của La Caille dành cho mặt trời và bảng của Maier
dành cho mặt trăng. Không có nhật thực, c̣n mặt
trăng lại quá xa tiết điểm của ḿnh;
nhưng mười bốn ngày sau, khi tiến gần
đến tiết điểm, mặt trăng ắt
phải bị nguyệt thực. Khi được sử
dụng mà không hiệu chỉnh gia tốc, các bảng
của Maier tŕnh bày kỳ nguyệt thực này; nhưng
chúng xác định nó nhằm vào ngày mà người ta không
thể quan sát nó được ở Ấn Độ. Các
bảng của Cassini tŕnh bày là nó diễn ra vào ban đêm,
chứng tỏ rằng các chuyển động của
Maier thật là quá nhanh đối với các thế kỷ
xa xưa, khi chưa được phép gia tốc.
Điều này chứng tỏ rằng mặc dù tầm
hiểu biết của chúng ta đă được cải
tiến, chúng ta vẫn c̣n có thể không biết rơ về
dáng vẻ thực sự của các bầu trời thời
xưa.
Do
đó, chúng ta tin tưởng rằng trong số hai thời
kỳ của Ấn Độ, thời kỳ chân thực
chính là năm 3102, v́ nó kèm theo một kỳ thiên thực có
thể quan sát được và phải được dùng
để xác định nó. Đây là bằng chứng
trước tiên về tính xác thực của vĩ
độ mà người Ấn Độ đă gán cho mặt
trời và mặt trăng vào lúc đó. Bằng chứng này
có lẽ cũng đủ rồi nếu điều xác
định xa xưa này khong trở nên quan trọng vô cùng
đối với việc kiểm chứng lại
chuyển động của các thiên thể, và do đó
phải xuất phát từ mọi bằng chứng khả
hữu về tính xác thực của nó.
1.
Trước hết, chúng ta nhận thấy người
Ấn Độ h́nh như đă phối hợp hai
thời kỳ lại với nhau thành ra năm 3102. Tín
đồ Bà La Môn Tirvaloor chủ yếu là tính từ lúc
bắt đầu Chu kỳ Mạt Pháp, nhưng họ có
một thời kỳ thứ nh́ được xác
định 2 hay 3 giờ 32 phút 30 giây sau. Thời kỳ
thứ nh́ mới là thời kỳ thiên văn thật
sự, c̣n thời kỳ đầu dường như
chỉ là một kỷ nguyên thường. Nhưng nếu
thời kỳ này của Chu kỳ Mạt Pháp mà không có
thực và chỉ là kết quả của một phép tính
toán, th́ tại sao lại được phân chia như vậy?
Thời kỳ tính toán thiên văn của họ h́nh như
đă biến thành thời kỳ của Chu kỳ Mạt
Pháp, nó đă được xác định vào lúc mặt
trời giao hội với mặt trăng, chẳng hạn
như trường hợp các thời kỳ của ba
bảng khác. Ắt hẳn họ phải có một lư do nào
đó nên mới phân biệt hai thời kỳ này với
nhau; lư do chỉ có thể do hoàn cảnh và thời gian
của thời kỳ này; do đó, nó không thể là kết
quả của sự tính toán. Điều này đâu phải
là hết. Xuất phát từ thời kỳ thái dương
được xác định bởi lúc mặt trời
mọc ngày 18 tháng 2 năm 3102 và tính ngược lên 2 ngày 3
giờ 32 phút 30 giây sáng ngày 16 tháng 2, đó là lúc bắt
đầu Chu kỳ Mạt Pháp. Thật là kỳ lạ khi
thời đại này lại không khởi sự vào một
trong bốn phân đoạn lớn của một ngày.
Người ta có thể ngờ là thời kỳ này
nhắm vào nửa đêm, c̣n 2 giờ 27 phút 30 giây là một
sự hiệu chỉnh kinh tuyến. Nhưng cho dù lư do
để ấn định nó có thể thế nào đi
chăng nữa, rơ ràng là nếu thời kỳ này là kết
quả của sự tính toán, th́ việc dời nó
đến nửa đêm cũng dễ dàng như việc
khiến cho thời kỳ ấy tương ứng với
một trong các phân đoạn chính của một ngày, thay
v́ xác định nó vào một lúc tương ứng với
một phần của một ngày.
2.
Người Ấn Độ quả quyết rằng vào
lúc bắt đầu Chu kỳ Mạt Pháp, có một sự
giao hội của mọi hành tinh. Các Bảng của họ
đă tŕnh bày sự giao hội này trong khi các bảng
của chúng ta biểu thị rằng nó có thể là đă
thực sự xảy ra. Mộc Tinh và Thủy Tinh ở
ngay cùng một độ của Hoàng Đạo; Hỏa
Tinh cách xa nó 80, c̣n Thổ Tinh cách xa nó 17o..
Suy ra là vào khoảng thời gian đó, hoặc chừng
mười lăm ngày sau Chu kỳ Mạt Pháp bắt
đầu và khi mặt trời tiến tới trên Hoàng
Đạo, người Ấn Độ thấy bốn
hành tinh lần lượt lộ ra từ các tia Mặt
Trời; trước hết là Thổ Tinh, rồi tới
Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thủy Tinh; tất cả các hành
tinh này đều xuất hiện liên hợp trong một không
gian quá nhỏ. Mặc dù không có Kim Tinh trong số các hành tinh
đó, nhưng cái tật ưa thêm thắt khiến
người ta gọi đó là một sự giao hội
tổng quát của mọi hành tinh, ở đây chứng
cớ của các tín đồ Bà La Môn lại trùng hợp
với chứng cớ của các bảng biểu của
chúng ta; bằng chứng này (vốn là kết quả
của một truyền thống) phải được
dựa vào công cuộc quan sát thực sự.
388
3.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng người ta có
thể thấy được hiện tượng này vào
khoảng hai tuần lễ sau thời kỳ ấy và
đúng ngay lúc chúng ta phải quan sát được cuộc
nguyệt thực, nó dùng để ấn định
thời kỳ này. Hai cuộc quan sát này xác nhận lẫn
nhau; kẻ nào thực hiện cuộc quan sát này ắt
cũng phải thực hiện cuộc quan sát kia.
4.
Chúng ta cũng có thể tin rằng người Ấn
Độ đồng thời cũng xác định vị
trí tiết điểm của mặt trăng; sự tính
toán của họ dường như biểu thị
điều này. Họ tŕnh bày kinh độ của
điểm đó của quĩ đạo mặt trăng
vào lúc có thời kỳ của họ; họ c̣n thêm vào
đó một hằng số 40 phút, đó là chuyển
động của tiết điểm trong 12 ngày 14
giờ. Thật như thể là họ xác nhận rằng
sự xác định này được thực hiện
mười ba ngày sau thời kỳ họ; để làm cho
nó tương ứng với thời kỳ đó, chúng ta
phải thêm vào 40 phút mà nhờ đó tiết điểm
đă đi giật lùi trong khoảng ấy. Như thế
cuộc quan sát này xảy ra cùng lúc với kỳ nguyệt
thực; thế là chúng ta có ba cuộc quan sát xác nhận
lẫn nhau.
5. Theo
sự mô tả Hoàng Đạo Ấn Độ của M.C.
Gentil, h́nh như là vị trí của các ngôi sao
được mệnh danh là Mắt của Kim Ngưu và
Bông Lúa của Xử Nữ, có thể được xác
định vào lúc bắt đầu Chu kỳ Mạt Pháp.
Nay khi so sánh các vị trí này với các vị trí hiện nay
(đă được sự tuế sai rút gọn về lúc
đang xét); chúng ta thấy rằng điểm gốc
của Hoàng Đạo Ấn Độ phải ở
giữa năm và sáu độ Bảo B́nh. ([491]) Do đó các tín
đồ Bà La Môn thật là chí lư khi xác định nó ở
sáu độ của cung này; sự dị biệt nhỏ
nhoi ấy có thể do chuyển động riêng của các
ngôi sao mà chúng ta không biết. Như vậy, vẫn c̣n
một cuộc quan sát nữa, nó sẽ dẫn dắt
người Ấn Độ trong sự xác định vô
cùng chính xác điểm đầu tiên của Hoàng
Đạo di động của họ.
Dường
như chúng ta không thể nghi ngờ ǵ về sự tồn
tại của các cuộc quan sát thời xưa.
Người Ba Tư cho rằng có bốn ngôi sao trấn
giữ bốn góc của thế giới. Nay vào lúc bắt
đầu Chu kỳ Mạt Pháp (3000 hoặc 3100 năm
trước T.C.). Mắt của Kim Ngưu và Tâm của
Hổ Cáp ở đúng ngay các phân điểm, trong khi Tâm
của Mănh Sư và Nam Ngư (Southern Fish) ở khá gần
các chí điểm. Một cuộc quan sát cḥm sao Rua mọc
lên vào buổi chiều, bảy ngày trước thu phân,
cũng được thực hiện vào năm 3000
trước T.C. Trong các niên lịch của Ptolemy có sưu
tập cuộc quan sát này và các cuộc quan sát tương
tự, mặc dù ông không tŕnh bày các tác giả của chúng.
Các cuộc quan sát này có nguồn gốc xa xưa hơn các
cuộc quan sát của dân Chaldea nên chúng rất có thể là
công tŕnh của người Ấn Độ. Họ
rất quen thuộc với cḥm sao Rua; trong khi chúng ta gọi
nó bằng tục danh “Poussinière”, th́ họ lại gọi nó
là Pillălukodi ([492]) –“Gà mẹ và đàn
gà con”. Do đó, danh xưng này được lưu
truyền từ dân tộc này sang dân tộc khác, và
được các quốc gia cổ kính nhất ở Á Châu
truyền lại cho chúng ta. Chúng ta thấy rằng
người Ấn Độ đă phải quan sát cḥm sao
Rua mọc và đă sử dụng điều này để điều
chỉnh năm, tháng của ḿnh; ấy là v́ cḥm sao này
cũng được gọi là Krittikă. Nay họ có một
tháng cũng mang tên đó, sự trùng hợp này chỉ có
thể do sự kiện tháng này được tuyên bố
theo sự mọc hoặc lặn của cḥm sao đang xét.
389
Nhưng
có một điều c̣n quyết định hơn nữa
là việc chứng tỏ rằng Augustinus Riccius đă
đề cập tới sự kiện người Ấn
Độ quan sát các ngôi sao và (giống như chúng ta) dùng
kinh độ đánh dấu vị trí của chúng. Theo các
cuộc quan sát được gán cho Hermes thực hiện 1
985 năm trước thời Ptolemy, ngôi sao chói lọi trong
cḥm sao Thiên Cầm (Lyre) và ngôi sao ở tâm của cḥm sao Giao
Long (Hydra) đều ở bảy độ trước
vị trí riêng biệt của chúng ta mà Ptolemy đă xác
định. Sự xác định này dường như
rất khác thường. Các ngôi sao tiến đều so
với phân điểm; Ptolemy phải thấy các vĩ
độ đă vượt quá 28 độ so với các
vĩ độ vào lúc 1 985 năm trước thời
của ông. Ngoài ra, sự kiện này cũng có một
điểm đặc biệt đáng lưu ư; chúng ta
thấy vị trí của cả hai ngôi sao có một sự
sai lệch hoặc dị biệt như nhau; v́ vậy
sự sai lệch này là do một nguyên nhân nào đó có tác
dụng như nhau đối với cả hai ngôi sao.
Để giải thích đặc điểm này,
người Ả Rập Thebith đă cho rằng các ngôi sao
có một dao động khiến cho chúng tiến rồi
lại lùi. Giả thuyết này đă bị bác bỏ
một cách dễ dàng; nhưng người ta vẫn c̣n
chưa giải thích các cuộc quan sát gán cho Hermes. Tuy nhiên,
chúng ta thấy chúng được giải thích trong thiên
văn học Ấn Độ. Vào lúc người ta ấn
định cho các cuộc quan sát này (1958 năm trước
thời Ptolemy), điểm đầu tiên của Hoàng
Đạo Ấn Độ ở trước phân
điểm 35 độ; do đó, các kinh độ tính cho
điểm này vượt hơn 35 độ so với kinh
độ tính cho phân điểm. Nhưng sau 1 985 năm các
ngôi sao này sẽ tiến được 28 độ và
chỉ c̣n lại sự dị biệt 7 độ giữa
các kinh độ của Hermes và kinh độ của Ptolemy.
Sự dị biệt này đều như nhau đối
với hai ngôi sao, v́ nó thoát thai từ sự dị biệt
giữa các khởi điểm của Hoàng Đạo
Ấn Độ và khởi điểm của Ptolemy
(được tính từ phân điểm). Lối giải
thích này đương nhiên và đơn giản đến
nỗi mà nó ắt phải đúng. Chúng tôi không biết
liệu Hermes (vốn được trọng vọng
biết bao vào thời xưa) có phải là một
người Ấn Độ hay không, nhưng chúng tôi
thấy rằng các cuộc quan sát mà người ta gán cho
ông được tính theo lối Ấn Độ. Thế
là chúng tôi liền kết luận rằng chúng
được thực hiện bởi những
người Ấn Độ, họ có thể thực
hiện mọi cuộc quan sát mà chúng tôi đă liệt kê và
thấy ghi chú trong các bảng biểu của họ.
6.
Cuộc quan sát vào năm 3102 ( nó dường như đă
xác định thời kỳ của họ) đâu có ǵ khó
khăn. Sau khi đă xác định được
chuyển động hằng ngày của mặt trăng là
13o 10’ 35’’, người Ấn Độ đă
sử dụng nó để chia Hoàng Đạo ra thành 27 cḥm
sao liên quan tới chu kỳ của mặt trăng mà
cần phải mô tả mất 27 ngày.
Chính
nhờ phương pháp này mà họ xác định
được vị trí của các ngôi sao trong Hoàng
Đạo này. Như thế, họ sẽ thấy rằng
một ngôi sao nào đó của cḥm sao Thiên Cầm ở 8s
240, Tâm của cḥm sao Giao Long ở 4s 70;
đó là các kinh độ được gán cho Hermes,
nhưng được tính toán dựa vào Hoàng Đạo
Ấn Độ. Cũng vậy, họ khám phá ra rằng
Bông Lúa của Xử Nữ là phần đầu của
cḥm sao thứ mười lăm, c̣n Mắt của Kim
Ngưu là phần cuối của cḥm sao thứ tư; các
ngôi sao này lần lượt ở 6s 60 40’ và 1s 230
20’ của Hoàng Đạo Ấn Độ. Như
thế kỳ nhật thực đă xảy ra mười
lăm ngày sau Chu kỳ Mạt Pháp, đă diễn ra ở
một điểm giữa
Bông lúa của Xử Nữ và ngôi sao q của cùng cḥm sao đó. Các ngôi
sao này gần như là một cḥm sao riêng, ngôi sao này là phần
đầu của cḥm sao thứ mười lăm, c̣n ngôi
sao kia là phần đầu của cḥm sao thứ
mười sáu. Như vậy, đâu có ǵ khó khăn khi xác
định vị trí của mặt trăng bằng cách
đo khoảng cách từ nó tới một trong các ngôi sao
này. Từ đó, họ suy ra vị trí của mặt
trời (vốn nghịch với vị trí của mặt
trăng); bấy giờ, khi biết được vị
trí trung b́nh của chúng, họ tính toán được
rằng mặt trăng ở điểm đầu tiên
của Hoàng Đạo tùy theo kinh độ trung b́nh của
nó ở vào nửa đêm ngày 17 rạng ngày 18 tháng 2 năm
3102 trước T.C. c̣n mặt trời cũng ở vị
trí đó mười hai giờ sau tùy theo kinh độ
thực của nó; đó là một biến cố xác
định lúc khởi đầu một năm Ấn
Độ.
7.
Người Ấn Độ nêu rơ rằng 20 400 năm
trước Chu kỳ Mạt Pháp, điểm đầu
tiên của Hoàng Đạo của họ trùng với xuân
phân, mặt trời và mặt trăng giao hội ở
đó. Thời kỳ này hiển nhiên là giả
tưởng; ([493]) nhưng chúng ta có
thể điều tra xem người Ấn Độ
đă bắt đầu lập nên nó từ điểm nào
và thời kỳ nào. Khi lấy các giá trị của Ấn
Độ đối với sự xoay ṿng của mặt
trời và mặt trăng (nghĩa là 365 ngày 6 giờ 12 phút
30 giây và 27 ngày 7 giờ 43 phút 13 giây), chúng ta có :
20 400 lần sự xoay ṿng của
mặt trời = 7 451 277 ngày
2 giờ
272 724 lần
sự xoay ṿng của mặt trăng = 7 451 277 ngày 7 giờ
390
Đó
là kết quả thu được khi xuất phát từ
Chu kỳ Mạt Pháp; lời khẳng định của
người Ấn Độ cho rằng có một sự
giao hội vào lúc đă nêu, đă dựa vào các bảng
của họ. Nhưng nếu khi sử dụng cũng các
yếu tố đó, mà chúng ta xuất phát từ kỷ
nguyên năm 1491, hoặc từ một kỷ nguyên khác
thuộc năm 1282 mà chúng ta sẽ nói sau, th́ sẽ luôn luôn
có một sự dị biệt hầu như là một
hoặc hai ngày. Khi kiểm chứng lại các phép tính toán
của người Ấn Độ, cũng tự nhiên và
chí lư thôi nếu chúng ta kể tới các yếu tố
đă đem lại cùng một kết quả như
họ, và xuất phát từ cái thời kỳ của
họ khiến chúng ta có thể đạt tới thời
kỳ giả tưởng đang xem xét. Do đó, v́
để thực hiện phép tính toán này, họ phải
xuất phát từ thời kỳ thực của ḿnh
(thời kỳ đă dựa vào một cuộc quan sát
chứ không phải từ bất cứ điều nào
thoát thai từ chính phép tính toán dựa vào cuộc quan sát
đó), nên suy ra rằng thời kỳ thực sự
của họ chính là thời kỳ năm 3102 trước
T.C.
8.
Các tín đồ Bà La Môn Tirvaloor cho rằng chuyển
động của mặt trăng là 7s 20
0’ 7’’ ([494]) trên Hoàng Đạo di động,
và 9 s 7 0 45’ 1” liên quan tới phân
điểm trong một đại chu kỳ 1 600 984 ngày
tức 4386 năm và 94 ngày. Chúng tôi tin rằng chuyển
động này đă được xác định dựa
vào sự quan sát, chúng tôi cũng phải nêu rơ ngay từ
đầu rằng thời kỳ này có một mức
độ khiến cho nó chẳng phù hợp bao nhiêu với
phép tính toán các chuyển động trung b́nh.
Trong
các phép tính toán thiên văn, người Ấn Độ
sử dụng các thời kỳ 248, 3 031 và 12 372 ngày.
Nhưng ngoại trừ sự kiện các thời kỳ
này (mặc dù quá ngắn) không tŕnh bày sự bất tiện
của phép tính toán trên, chúng vẫn bao hàm, một số
chính xác ṿng quay của mặt trăng liên quan tới
điểm viễn địa của nó. Chúng thực
sự là các chuyển động trung b́nh. Đại chu
kỳ 1 600 984 ngày không phải là tổng số ṿng quay tích
lũy lại : chẳng có lư do tại sao nó lại bao hàm
1600 985 ngày. H́nh như là chỉ có quan sát mới xác
định được số ngày và đánh dấu
được sự khởi đầu và chấm dứt
của thời kỳ. Thời kỳ này kết thúc vào lúc 5
giờ 15 phút 30 giây ngày 21 tháng 5 năm 1282 sau T. C. tại
Benares. Theo người Ấn Độ, lúc bấy giờ
mặt trăng ở điểm viễn địa với
kinh độ là 7S
13 0 45’ 1’’
Theo Maier, kinh
độ của nó là
7 s 13 0 53’ 48’’
Và viễn
địa ở tại 7 s
14 0 6’ 54’’
Như
thế, người Bà La Môn xác định vị trí
của mặt trăng chỉ khác chúng ta chín phút, c̣n vị
trí viễn địa chỉ khác chúng ta hai mươi
mốt phút. Hiển nhiên là họ chỉ có thể
đạt được sự phù hợp với
những bảng biểu tuyệt hảo của chúng ta và
sự chính xác về vị trí của các thiên thể này
nhờ vào sự quan sát. Nếu lúc bấy giờ sự
quan sát đă xác định được sự chấm
dứt của thời kỳ này, th́ chúng ta có đủ lư
do để tin tưởng rằng nó cũng đă xác
định được sự khởi đầu
của thời kỳ đó. Nhưng thế th́ chuyển
động này (vốn được xác định
trực tiếp từ thiên nhiên) ắt phải khá phù
hợp với chuyển động thực của các thiên
thể.
Thật
vậy, trong thời kỳ dài 4 883 năm này, các chuyển
động của người Ấn Độ không
hề khác tới một phút so với các chuyển
động của Cassini và cũng phù hợp với các
chuyển động của Maier. Thế là hai dân tộc
(Ấn Độ và Âu Tây) ở hai phương trời xa
tít nhau trên thế giới đă đạt được
các kết quả giống y nhau về chuyển
động của mặt trăng; đây thật là
một sự phù hợp không thể tưởng
tượng nổi nếu nó không dựa vào sự quan sát
và sự mô phỏng thiên nhiên. Chúng ta phải nhận
thấy rằng; tất cả bốn bảng của người
Ấn Độ đều mô phỏng theo cùng một khoa
thiên văn học. Không thể chối căi được
các bảng của Thái Lan đă tồn tại vào năm
1687, khi chúng được ông de la Loubère mang từ Ấn
Độ tới. Vào lúc đó, các bảng của Cassini và
Maier vẫn chưa có; thế là người Ấn
Độ đă có được chuyển động
chính xác bao hàm trong các bảng này rồi, trong khi chúng ta c̣n
chưa có.([495]) Do đó, phải
thừa nhận rằng sự chính xác của chuyển
động Ấn Độ này chính là điểm quan sát.
Nó thật là chính xác trong suốt thời kỳ 4 383 năm
này v́ nó được thực hiện từ chính bầu
trời; nếu sự quan sát xác định
được sự kết liễu th́ chúng xác
định được sự khởi đầu
của nó. Đó là thời kỳ dài nhất đă
được quan sát và c̣n được ghi lại trong
các niên giám thiên văn. Nó có nguồn gốc là thời
kỳ năm 3102 trước T.C.; nó là một bằng
chứng xác nhận rằng thời kỳ này có thực. ([496])
391
Bailly
được đề cập đến nhiều
như vậy, v́ ông là một trong thiểu số nhà khoa
học đă ra sức đối xử công bằng với khoa thiên văn học
của người Ăryan. Từ John Bentley xuống tới “Sũrya Siddhănta” của Burgess, không có một nhà thiên
văn học nào đă tỏ ra công bằng đúng mức
với dân tộc thông thái nhất thời xưa này. Cho dù
Biểu tượng học Ấn Độ có bị xuyên
tạc và hiểu lầm đến đâu đi nữa,
chẳng một nhà Huyền bí học nào lại không
đối xử công b́nh với nó một khi y đă hiểu
biết được ít nhiều về Huyền bí
học. Y cũng sẽ chẳng ngoảnh mặt đi
trước lối thuyết minh huyền bí và siêu h́nh
về Hoàng Đạo của họ, cho dù toàn thể
Hội viên Hội Thiên văn học Hoàng Gia có nổi
dậy chống lại lối thuyết minh toán học
về Hoàng Đạo của họ. Sự giáng hạ
rồi thăng thượng của Chơn Thần tức
Linh Hồn không thể tách rời với các cung Hoàng
Đạo. Việc tin tưởng vào một sự cảm
thông huyền nhiệm giữa Linh Hồn siêu h́nh và các cḥm
sao chói sáng, và tác dụng của các cḥm sao đối
với linh hồn, xem như c̣n tự nhiên (theo nghĩa
sự ăn khớp của mọi chuyện) hơn là cái ư
niệm ngớ ngẩn cho rằng các Đấng Tạo
Hóa đă đặt trên Trời kiểu mẫu của mười
hai người Do Thái tồi bại. Và nếu (theo lời
khẳng định của tác giả Các Tín đồ phái
Ngộ Đạo và các Di Tích) mục tiêu của mọi
trường phái Ngộ Đạo và phái Platon sau này
chính
là việc thích ứng tín ngưỡng cổ truyền
với ảnh hưởng của Minh Triết Thiêng Liêng
theo Phật giáo (Buddhistic theosophy),
tinh hoa của Minh Triết Thiêng Liêng theo Phật giáo chính
là việc cho rằng hằng hà sa số thần linh
của thần thoại Ấn Độ chẳng qua
chỉ là danh xưng của các năng lượng của
Tam Nguyên Bản Sơ, khi đó lần lượt Hiện
Thân xuống với con người,
th́ liệu chúng ta nên quay về đâu để truy nguyên các ư niệm Minh Triết Thiêng Liêng này tới tận nguồn gốc của nó hơn là tới tận minh triết cổ truyền của Ấn Độ? Chúng tôi xin nhắc lại: sẽ chẳng có ai hiểu được Huyền bí học cổ sơ nếu nó không được tŕnh bày qua các phương tiện quen thuộc là Phật giáo và Ấn Độ giáo. Phật giáo thoát thai từ Ấn Độ giáo; cả hai đều thoát thai từ cùng một nguồn gốc: Minh Triết Cổ Truyền Lemuria Atlante.
393
TIẾT 17
TỔNG
KẾT LẬP TRƯỜNG
(SUMMARY OF THE POSITION)
Toàn bộ vấn
đề đă được tŕnh bày cho độc
giả từ hai phía; y chỉ c̣n phải quyết
định xem liệu cuối cùng nó có thuận lợi cho
chúng ta không. Nếu quả thật trong Thiên Nhiên có một
chân không, ắt là nó phải được tạo ra (theo
một luật vật lư) trong đầu óc của
những kẻ khốn khổ sùng bái “ánh sáng” khoa học,
họ tốn biết bao nhiêu th́ giờ vào việc
triệt hạ các luận thuyết của nhau. Lư
thuyết cho rằng “hai thứ ánh sáng tạo nên bóng
tối” liệu có bao giờ được áp dụng vào
trường hợp này không, khi mà một thứ áp đặt
các thần lực và các “cách thức chuyển động”
của ḿnh lên trên niềm tin của các tín đồ, c̣n
thứ kia lại chống đối sự tồn tại
của chính các thứ đó. Họ gọi “Ether, Vật
Chất, Năng Lượng” – Ba Ngôi thiêng liêng, là nguyên khí
của vị Thần Khoa Học thật là bất khả tri là THIÊN NHIÊN VẬT CHẤT (PHYSICAL NATURE)!
Người ta
chỉ trích và chế nhạo thần học v́ đă tin
tưởng vào sự kết hợp của Ba Ngôi nơi
Thượng Đế độc tôn (Thượng
Đế độc tôn xét về bản chất, Ba Ngôi xét
về cá thể); c̣n chúng ta bị cười nhạo v́
đă tin tưởng vào các giáo lư không được
chứng minh và không thể chứng minh được,
Thiên Thần và Ma Quỷ, Thần Linh và Vong Linh. Thật
vậy, điều khiến cho các nhà khoa học chiếm
phần ưu thắng so với thần học trong
“cuộc xung đột lớn giữa Tôn giáo và Khoa
học” chính là luận cứ cho rằng chẳng tung tích
của bản chất nào, chẳng tam vị tự xưng
tự mọc nào – sau khi đă được quan niệm
sáng chế trong tri thức thần học – có thể
được bất cứ phương pháp lư luận
diễn dịch khoa học nào chứng tỏ là tồn
tại (các giác quan của chúng ta lại càng không phát
hiện được bằng chúng diệt vong v́ nó
giảng dạy toàn là những điều huyền bí. Huyền bí là chối
bỏ lương tri, thế
là khoa học liền dẹp nó qua một bên. Theo Giáo sư
Tyndall, siêu h́nh học toàn là “bịa đặt”, chẳng
khác nào thơ phú (poetry). Nhà khoa học “chẳng tin vào
điều ǵ” và bác bỏ mọi điều không
được chứng minh cho y thấy, trong khi đó, nhà
thần học lại chấp nhận “mọi điều
dựa vào đức tin mù quáng”. Nhà Minh Triết Thiêng Liêng
và nhà Huyền bí học, vốn chẳng tin tưởng vào
điều ǵ, kể cả khoa học chính xác, nhà Giáng ma học, vốn chối
bỏ các giáo điều, nhưng lại tin tưởng
vào các vong linh và các thế
lực vô h́nh song mănh liệt,
đều cũng bị khinh khi như nhau. Được
lắm, nay nhiệm vụ chúng ta là xét lại lần chót
xem liệu khoa học chính xác có tác dụng giống y
như là Minh Triết Thiêng Liêng, thuyết Giáng ma và Thần
học hay chăng.
394
Trong một tác phẩm được xem
như là tác phẩm tiêu chuẩn bàn về khoa học của
ông S. Laing Khoa Học Hiện Đại và Tư
Tưởng Hiện Đại – theo lời b́nh luận tán
dương của tạp chí Times, “tác giả của nó
đă tŕnh bày một cách hùng hồn và hữu hiệu các
khám phá vĩ đại của khoa học cùng với vô
số các thắng lợi của nó đối với các
tư tưởng lạc hậu bất cứ khi nào chúng
liều lĩnh muốn thách thức đấu kết thúc
với nó”, chúng ta thấy có đoạn như sau đây:
Vũ
trụ vật chất gồm có những ǵ ? Ether, Vật
Chất và Năng Lượng.
Chúng ta ngừng lại hỏi: “Ether là ǵ ?” Nhân danh khoa học, ông Laing trả lời như sau :
Hiện
nay chúng ta chưa hiểu biết được Ether
bằng bất kỳ cuộc trắc nghiệm nào mà các
giác quan có thể tri thức được. Ether là một
loại chất liệu toán học mà chúng ta bắt
buộc phải giả định để giải thích
các hiện tượng ánh sáng và nhiệt. ([497])
Thế c̣n Vật Chất là ǵ ? Bạn có hiểu biết về nó nhiều hơn là tác nhân “giả định” Ether chăng ?
Nói
một cách nghiêm minh, đúng là các cuộc điều nghiên
hóa học chẳng trực tiếp cho chúng ta biết ǵ
về cấu tạo của sinh chất và … cũng nói cho
thật nghiêm xác, chúng ta chẳng biết ǵ về cấu
tạo của bất kỳ thể (vật chất) nào. ([498])
C̣n năng lượng? Bạn có thể xác định chắc chắn được Ngôi thứ ba của Ba Ngôi Vũ Trụ Vật Chất không? Chúng ta có thể trích dẫn câu trả lời từ bất cứ tác phẩm vật lư nào :
Năng
lượng là điều mà chúng ta chỉ biết nhờ
vào các tác dụng của nó.
Xin giải thích thêm v́ điều này hơi khá mơ hồ.
[Trong cơ học chúng ta có năng
lượng thực sự và thế năng: công
được thực sự tạo ra, và khả năng
tạo ra công. Về phần bản chất của Năng
lượng tức Lực phân tử], nhiều hiện
tượng khác nhau do các vật thể phô diễn đă
chứng tỏ rằng các phân tử của chúng chịu
ảnh hưởng của hai lực đối nghịch,
một lực có khuynh hướng kết hợp chúng
lại, một lực có khuynh hướng phân cách chúng ra…
Lực thứ nhất được gọi là sức hút phân tử… Lực
thứ hai là do động
lực. ([499])
Cũng thế,
bản chất của động
lực này chính là điều mà
chúng ta muốn biết. Nó là cái ǵ vậy?
Bao giờ chúng ta
cũng được trả lời: “CHÚNG TÔI KHÔNG BIẾT!” Trong Cơ Sở Vật Chất
của Sự Sống, Giáo sư Huxley đă giải thích:
“Đó là một bóng ma trống rỗng trong trí tưởng
tượng của tôi”.
395
Như thế toàn
bộ cấu trúc của khoa học hiện đại
được dựng trên một loại “trừu
tượng toán học”, một “Bản chất thiên
biến vạn hóa mà các giác quan không tài nào lĩnh hội
được” (Dubois Reymond) cũng như là các tác dụng, các bóng ma trơi mờ mờ ảo
ảo của một điều hoàn toàn bất khả tri
và ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Các nguyên
tử “tự hành” (“Self moving” Atoms)! Mặt trời, hành tinh và các
ngôi sao tự hành ! Nhưng thế th́ chúng là ai hoặc là ǵ
nếu chúng đều được tự phú cho
chuyển động ? Thế th́, tại sao quí vị (các
nhà vật lư) lại chế nhạo các “Đại Thiên
Sứ tự hành” (“Self-moving Archaeus”?) của chúng ta?
Khoa học đă bác bỏ và khinh thường những
điều huyền bí, nhưng Đức Cha Felix đă
nhận xét thật là chí lư như sau:
Khoa
học không thể thoát khỏi thế giới huyền bí.
Thế giới huyền bí là định mệnh (fatality)
của khoa học.
Nhà giảng đạo người Pháp ấy đă phát biểu giống y như chúng tôi, nên chúng tôi trích dẫn điều phát biểu đó trong Nữ Thần Isis Lộ Diện. Ông hỏi:
Trong
số quí vị (các nhà khoa học) ai là người đă
có thể thâm nhập vào bí nhiệm về sự tạo
thành một chất, sự sản sinh ra một nguyên
tử đơn ? Ở tâm của một nguyên tử
(chứ không phải tâm của mặt trời) có những
ǵ ? Ai đă thăm ḍ được tới tận đáy
vực sâu thăm thẳm của một hạt cát. Thưa
quí vị, hạt cát đă được khoa học nghiên
cứu trong bốn ngàn năm; khoa học đă lật
đi lật lại nó, chia măi nó ra, dùng những cuộc thí
nghiệm hành hạ nó, quấy rầy nó với những
câu hỏi cốt để thu được lời
giải đáp tối hậu về cấu tạo bí
nhiệm của nó, cứ ṭ ṃ hỏi nó măi: “Liệu chúng ta
có chia mi ra được măi không ? Thế rồi, cứ
đu đưa trên vực thẳm này, khoa học trở
nên ngập ngừng , chới với, xây xẩm, choáng váng
và thất vọng kêu lên : “TÔI
CHẲNG BIẾT”.
Nhưng
nếu quí vị chẳng biết ǵ về sự khởi
thủy và bản chất ẩn tàng của một hạt
cát như vậy, th́ làm sao quí vị có trực giác về
sự sản sinh ra một đơn sinh vật ? Sự
sống trong sinh vật từ đâu ra ? Nó khởi sự
ở đâu ? Nguyên sinh khí là ǵ ? ([500])
Các nhà khoa học có phủ nhận tất cả những lời tố cáo này không? Tuyệt nhiên không, v́ sau đây là một lời thú nhận của Tyndall, nó chứng tỏ rằng khoa học bất lực biết bao, ngay cả đối với thế giới vật chất.
Sự
kết tập đầu tiên của các nguyên tử (mà
mọi tác động sau đó tùy thuộc vào) đă làm
người ta bí lối nhiều hơn là kính hiển vi… Do
vấn đề hết sức phức tạp và chừng
nào mà công cuộc quan sát c̣n chưa giải đáp
được vấn đề, những kẻ có trí
thức lăo luyện nhất, có trí tưởng tượng
tinh vi và quy củ nhất, cũng phải co ṿi, hoang mang
ngơ ngẩn khi xét tới vấn đề nan giải
này. Chúng ta cứ thộn mặt ra với một sự
ngỡ ngàng mà không một kính hiển vi nào giải
quyết được. Không những chúng ta nghi ngờ
năng lực của dụng cụ này, mà c̣n tự
hỏi liệu bản thân chúng ta có đủ các yếu
tố trí thức khiến chúng ta có thể giáp mặt
với các năng lượng cấu trúc cực vi của
thiên nhiên hay chăng.
Thật vậy, dựa vào những lời thú nhận của chính các nhà khoa học, đă từ bao lâu nay chúng ta vẫn hoài nghi là Thế giới vật chất đă được hiểu biết ít ỏi biết bao. Nay có một vài nhà Duy vật đă dẹp bỏ cả Ether – khoa học muốn gọi cái Bản chất vô cực, cái thực tượng mà các Phật tử gọi là Svabhăvat là ǵ cũng được – lẫn các Nguyên tử, v́ cả hai quá nguy hiểm đối với khối tập hợp gồm có triết học cổ truyền và thần học Thiên Chúa giáo hiện nay. Từ các triết gia cổ sơ nhất (đă lưu truyền nhiều điều cho hậu thế) xuống tới thời đại hiện nay, nếu có chối bỏ các Thực Thể vô h́nh trong Không gian, nó cũng chẳng thể nào điên khùng đến mức phủ nhận một Thái Cực thuộc loại đó, sự Toàn Dung (Fulness) của Vũ Trụ vẫn là một tín điều được chấp nhận. Muốn biết Vũ Trụ bao hàm những ǵ, chúng ta cứ thử xem Hermes Trimegistus (trong bản dịch tuyệt vời của Bác sĩ Anna Kingsford) dạy như sau:
396
Về
Hư Không (Void)… chúng ta cho rằng nó không hề tồn
tại, chưa bao giờ tồn tại và sẽ không bao
giờ tồn tại. Tất cả các bộ phận khác
nhau của vũ trụ đều đầy tràn, cũng
như địa cầu dẫy đầy các vật
thể, có tính chất và h́nh dạng khác nhau, có giống loài
và độ lớn riêng, cái th́ lớn, cái th́ nhỏ, cái th́
rắn chắc, cái th́ tế vi. Vật lớn… c̣n dễ
thấy chứ vật nhỏ … thật là khó thấy,
hoặc hoàn toàn không thấy được. Chúng ta chỉ
biết được sự tồn tại của chúng
nhờ vào cảm giác; nhiều người không chịu
thừa nhận các thực thể này là các vật thể và
chỉ coi chúng như là các khoảng trống, ([501]) nhưng không thể
có được các khoảng trống như vậy.
Ấy là v́ nếu có một điều ǵ bên ngoài vũ
trụ… th́ bấy giờ đó sẽ là khoảng không bao hàm
các thực thể thông tuệ tương tự với
Thần Linh của vũ trụ… Tôi đề cập
đến chư Thần, v́ tôi chủ trương
rằng họ vẫn ở quanh quẩn chúng ta; tôi cũng
đề cập tới các bậc anh hùng ngự bên trên
chúng ta, giữa trời cao đất rộng, nơi
chẳng có mây mù băo tố. ([502])
Chúng tôi chủ
trương như vậy. Có điều là (như đă
tŕnh bày), không Đạo đồ Đông phương nào
lại đề cập tới các cảnh giới “ở trên chúng ta, giữa trời và
đất”, thậm chí ở cao nhất, v́ trong ngôn ngữ
Huyền bí học, không hề có sự phân chia hoặc
đo lường như vậy. Không có trên
mà chẳng có dưới, bao giờ cũng chỉ có ở bên trong, bên trong hai nội
giới khác, tức là nội
giới dần dần thấm nhuần vào ngoại
giới (đối với con người, đó là
cảnh giới chót, cảnh giới của chính y). Chúng ta
có thể kết thúc lời giải thích cần thiết
này ở đây bằng cách tŕnh bày (theo lời Hermes)
niềm tin tưởng vào điểm đặc biệt
này của toàn thể thế giới vào nhà huyền bí :
Có
nhiều cấp đẳng Thần Linh; trong tất cả
các cấp đẳng này đều có một phần thông
tuệ không được giả sử rằng họ
không ở trong tầm tri giác của chúng ta; ngược
lại, chúng ta tri giác được họ c̣n nhiều
hơn các thực thể được gọi là vô h́nh …
Thế rồi, có các Thần Linh siêu việt
được mọi sắc tướng : sau đó
tới các Thần Linh có nguyên khí là tinh thần; các Thần
Linh này có tính chất nhạy cảm phù hợp với
nguồn gốc lưỡng phân của ḿnh, biểu lộ
mọi chuyện bằng một bản chất nhạy
cảm, mỗi Thần Linh này minh giải công việc
của riêng ḿnh.([503]) Đấng Tối
Cao trên trời (hoặc tất cả những điều
ǵ bao hàm trong danh xưng này) là Zeus, v́ Zeus đă lấy
trời để ban sự sống cho vạn vật.
Đấng Vô Thượng của mặt trời là ánh
sáng, v́ nhờ có vầng thái dương mà chúng ta mới
được hưởng lợi của ánh sáng. Ba
mươi sáu lá số tử vi của các định tinh
có Đấng Tối Cao với tôn danh là Pantomorphos (Toàn H́nh)
v́ Ngài ban các h́nh hài thiêng liêng cho nhiều kiểu mẫu khác
nhau. Bảy hành tinh lang thang có các Đấng Tối Cao là
Số Phận và Vận Mệnh, các Ngài duy tŕ sự ổn
định măi măi của các luật Thiên Nhiên qua suốt bao
nhiêu biến đổi và xáo trộn không ngừng. Ether là
khí cụ hay phương tiện để tạo ra
vạn vật.([504])
397
Điều này hoàn toàn có ư nghĩa
triết học và phù hợp với tinh thần của
Nội môn Bí giáo Đông phương. Ấy là v́, xét về
mặt nội môn, tất cả mọi Lực như là Ánh
Sáng, Nhiệt, Điện v.v.. đều được
gọi là “chư Thần Linh”.
Thật vậy,
điều này phải như thế thôi, v́ Nội môn Bí
giáo ở Ai cập và Ấn Độ đều như nhau.
Do đó, kết quả chính thống phải là việc nhân
cách hóa Vô cực
điện, tổng hợp
mọi Lực biểu lộ trong Thiên Nhiên. Hơn nữa,
sau này chúng ta sẽ chứng tỏ rằng măi đến
nay, chúng ta mới biết tới các Lực Huyền bí có thực trong Thiên Nhiên (ngay cả
trong trường hợp này, chúng ta cũng chỉ biết
tới chúng qua khoa học phi chính thống, chứ không
phải là khoa học chính thống),([505]) mặc dù sự tồn tại
của chúng (dù sao đi nữa) cũng đă từng
một lần được bổ chứng và xác nhận
bởi vô số những người có học, thậm chí
bởi một vài nhà khoa học chính thống nữa.
Vả lại, phát
biểu trong ĐOẠN KINH 6 – đoạn ấy cho rằng Vô
cực điện phát động các Mầm mống nguyên
thủy của Thế giới, tức tập hợp các
Nguyên tử và Vật Chất Vũ Trụ, “một số
theo hướng này, một số theo hướng
nghịch lại” – xem như cũng đủ chính
thống và khoa học rồi. Ấy là v́ để bênh
vực cho lập trường này, trong mọi
trường hợp đều có một sự kiện
được khoa học hoàn toàn nh́n nhận như sau. Các
trận mưa sao băng định kỳ vào tháng 11 và
tháng 8 đều thuộc về một hệ thống di
chuyển trong một quỹ đạo h́nh ellip xung quanh
Mặt Trời. Điểm viễn nhật của ṿng này
ở ngoài quỹ đạo của Hải Vương Tinh
tới 1 732 triệu năm, mặt phẳng của nó
nghiêng so với quỹ đạo của Trái Đất
một góc 64o 3’, c̣n hướng của cụm sao băng di
chuyển xung quanh quỹ đạo này lại ngược với hướng
xoay ṿng của Trái Đất.
Sự kiện này,
mới chỉ được nhận ra vào năm 1833. Nó
chứng tỏ rằng đó chính là việc thời nay
đă khám phá lại những điều đă
được biết tới từ thời cổ. Vô cực điện dùng hai tay xoay chuyển “hạt
giống” và các “cục sữa đông” tức Vũ Trụ
Chất theo hai hướng đối diện nhau; nói rơ
hơn, nó đang xoay chuyển các cấu tử ở
trạng thái rất tế vi và các tinh vân.
Bên ngoài biên giới của Thái Dương Hệ, chính các Mặt Trời khác, nhất là ngôi Mặt Trời Trung Ương bí nhiệm – một vài giáo sĩ quí tộc đă gọi nó là “Chỗ ngự của Đấng Thần Linh Vô H́nh” – xác định chuyển động và chiều hướng của các thiên thể. Chuyển động đó cũng dùng để biến phân Vật Chất thuần trạng xung quanh và giữa nhiều vật thể thành ra các Nguyên tố và Phân nguyên tố xa lạ đối với Trái Đất chúng ta. Những thứ này được khoa học hiện đại xem như là các nguyên tố cá biệt, trong khi mà chúng chỉ là các sắc tướng nhất thời, thay đổi theo từng chu kỳ nhỏ trong Chu kỳ Khai Nguyên; một số tác phẩm Nội môn gọi chúng là các “Mặt Nạ Thiên Kiếp” (“Kalpic Masks”).
Trong Huyền bí
học, Fohat là chiếc ch́a khóa giúp chúng ta giải
được các biểu tượng và các ẩn dụ thiên h́nh vạn trạng trong cái gọi
là kho tàng thần thoại của mọi quốc gia. Nó
chứng tỏ cái triết lư tuyệt diệu và minh triết
sâu xa đối với các bí nhiệm của Thiên Nhiên, bao
hàm trong các tôn giáo của dân Ai Cập, Chaldea cũng như
là Ăryan. Khi được tŕnh bày
398
với tính cách chân
thực, Fohat chứng tỏ rằng mọi quốc gia
thời tiền sử đó đă thông thạo biết bao
nhiêu về mọi ngành nay được gọi là các ngành
vật lư học và hóa học của khoa học Tự
Nhiên. Ở Ấn Độ, Vô cực điện là khía
cạnh khoa học của cả Vishnu lẫn Indra (trong kinh
Rig Veda, Indra xưa hơn và quan trọng hơn Đấng
kế nghiệp giáo phái của ḿnh). Trong khi đó, ở Ai
Cập, Vô cực điện được biết
tới như là Toom xuất phát từ Noot ([506]) tức Osiris với tính cách là một
Thần Linh bản sơ, Đấng sáng tạo ra Trời
Đất và vạn hữu.([507]) Toom được xem như vị
Thần Linh thiên biến vạn hóa sản sinh ra các Thần Linh khác lấy bất cứ h́nh hài nào mà ḿnh
muốn, “Đấng Chúa Tể của Sự Sống, ban
nghị lực cho chư Thần Linh”. ([508]) Ngài giám
sát chư Thần Linh, “tạo
ra các vong linh, ban cho chúng h́nh hài và sự sống”; Ngài là
“Đấng Bắc Phong (the Norht Wind) và Chơn Linh Tây
Phương (the Spirit of the West)”; cuối cùng, Ngài là “Mặt
Trời Lặn của Sự Sống” tức sinh
điện lực rời cơ thể vào lúc lâm chung. V́
thế, Kẻ quá cố mới van nài Toom ban cho y linh khí từ
lỗ mũi phải (điện dương) để
cho y có thể sống trong h́nh hài thứ nh́. Cả
phần biểu ư tự lẫn văn bản trong Chương
xlii của Tử Vong Kinh đều chứng tỏ
rằng Toom chính là Fohat. Phần biểu ư tự tŕnh bày
một người đứng thẳng, tay lăm lăm
cầm các chữ tượng h́nh các linh khí. Chương xlii
của Tử vong kinh dạy:
Ta
tỏ bày với thủ lănh của An (Heliopolis). Ta là Toom. Ta
băng qua nước đă bị phân cách bởi Tho-Hapi,
Đấng Chúa Tể chân trời. Ta phân chia lănh địa
[Vô cực điện phân chia Không gian và cùng với bảy
Phân Thân, nó chia Địa Cầu ra làm bảy vùng]…
Ta
băng qua các tầng trời; Ta là hai Mănh sư. Ta là Ra, Ta
là Aam, Ta nuốt chửng kẻ thừa kế Ta.([509]) Ta lướt trên
vùng đất của cánh đồng Aanroo, ([510]) nó đă
được Đấng Chúa tể và Vô cực vô biên ban
cho Ta. Ta là một mầm mống của vĩnh cửu. Ta
là Toom, kẻ được ban cho sự vĩnh cửu.
399
Trong Quyển XI, chính
những lời lẽ ấy đă được áp
dụng cho Fohat, chính các tôn danh ấy đă được
ban cho Ngài. Trong các tài liệu bằng giấy cỏ chỉ
của người Ai Cập, chúng ta thấy rải rác
trong những câu riêng lẻ có tŕnh bày toàn bộ Vũ
trụ khởi nguyên luận của Nội môn Bí giáo,
thậm chí trong Tử Vong Kinh cũng có nữa. Trong đó,
Số bảy cũng được chú trọng chẳng
kém ǵ trong THIỀN ĐỊNH
CHÂN KINH (BOOK OF DZYĂN). “Người
ta bảo Đại Thủy [Thái Uyên, tức Hồng Nguyên
khí] sâu bảy cubit” - ở đây, dĩ nhiên là
“cubit” tượng trưng cho các phân khu, các vùng, các nguyên khí.
“Tất cả chư Thần Linh và Bảy Đấng Cao
Cả đều sinh ra trong Đại Mẫu”. Cả Toom
lẫn Vô cực điện đều được xem
như là “Các Đấng Cao Cả có Thất Đại
Huyền Lực”, các Ngài chế ngự được Con
Rắn Apap tức Vật Chất. ([511])
Tuy nhiên, môn sinh
Huyền bí học không nên bị lừa phỉnh bởi
ngôn từ thường được dùng trong các bản
dịch các tác phẩm nội môn để rồi tin
tưởng rằng (giống như vị tu sĩ, trong
bất cứ lúc đàm đạo nào) người Ai
Cập hoặc người Hy Lạp thời xưa
cũng đề cập tới một Đấng Tối
Cao, Thượng Đế, “Đấng Cha Lành Độc Tôn
Sáng Tạo ra muôn loài” v.v… theo lối mà chúng ta thấy trong
bất cứ tranh nào của các bản dịch như
vậy. Thật ra không hề như vậy; các bản
văn này không phải là
các bản văn nguyên bản của Ai Cập. Chúng do người Hy Lạp biên
soạn, bản văn xưa nhất cũng không hề
xuất hiện trước thời kỳ sơ khai
của triết thuyết Tân Platon. Không có tác phẩm
nội môn nào của người Ai Cập – chẳng
hạn như Tử Vong Kinh – mà lại đề cập
tới Thần Linh vũ trụ độc tôn của các
hệ thống độc thần. Nguyên nhân tuyệt
đối duy nhất của vạn vật thật là Bất khả tư nghị theo quan niệm của ông Herbert Spencer.
Về phần người Ai Cập nói chung, ông Maspero
đă nhận xét chính xác như sau:
Bất
cứ khi nào ông xét đến ư niệm về Nhất Nguyên
thánh linh, Thần Linh Độc Tôn vẫn chẳng bao
giờ chỉ là Thần Linh không thôi. Ông Lepage-Renouf đă
nhận xét chí lư rằng từ ngữ Noutir Nouti,
“Thượng Đế”, đă chẳng bao giờ không c̣n
là một tên gọi chung để biến thành một danh
xưng cá nhân.
Đối với họ, mỗi Thần Linh
đều là “Thần Linh duy nhất sống động”.
Thuyết
Độc Thần của họ có tính cách thuần túy
địa lư. Nếu người Ai Cập ở Memphis
tuyên cáo có tính cách đơn nhất của Phtah để
loại trừ Ammon, th́ người Ai Cập ở Thebes
lại tuyên cáo tính đơn nhất của Ammon để
loại trừ Phtah [nay chúng ta cũng thấy điều
này ở Ấn Độ trong trường hợp các tín
đồ tôn thờ Shiva và Vishnu]. Ra, “Thần Linh Duy
Nhất” tại Heliopolis, không hề đồng nhất
với Osiris, “Thần Linh Duy Nhất” tại Abydos, và có
thể được tôn thờ bên cạnh Ngài mà không
hề bị Ngài hấp thu. Thần Linhduy nhất chẳng
qua chỉ là Thần Linh của đô thị, Noutir Nouti, và
không hề loại trừ sự tồn tại của
Thần Linh duy nhất ở thành phố lân cận. Tóm
lại, bất cứ khi nào đề cập tới
thuyết Độc Thần ở Ai Cập, chúng ta
phải bàn tới các Thần Linh Duy Nhất của Ai
Cập, chứ không phải là “Thượng Đế
Độc Tôn”.([512])
Chúng ta phải trắc nghiệm tính xác thực của nhiều thứ được mệnh danh là Các Tác Phẩm Nội Môn (chủ yếu là ở Ai Cập) dựa vào đặc điểm này; các áng văn Nội môn Hy Lạp hoàn toàn không hề có đặc điểm này. Điều này chứng tỏ rằng môn đồ phái Tân Platon Hy Lạp hoặc có lẽ một tín đồ Thiên Chúa giáo không hề nhúng tay vào việc ấn hành các tác phẩm như vậy. Dĩ nhiên là phần triết lư căn bản vẫn được bao hàm trong đó và có nhiều chỗ vẫn c̣n nguyên vẹn. Nhưng cách hành văn đă bị biến đổi và trau chuốt theo một chiều hướng độc thần chẳng kém, nếu không muốn nói là c̣n hơn các bản dịch tiếng Hy Lạp và tiếng La Tinh của Sáng Thế Kư Hebrew. Chúng có thể là các tác phẩm nội môn, nhưng không phải các tác phẩm của hai Đấng Hermes – hoặc đúng hơn là của Thot Hermes, Đấng Thông Tuệ điều khiển Vũ Trụ ([513]) hay Thot có hóa thân trên trần thế là Trismegistus được ghi trên phiến đá Rosetta.
400
Nhưng trong thời đại chúng ta
đối với hàng trăm “chủ nghĩa” và phi tôn giáo,
tất cả đều là hoài nghi, phủ nhận,
đả phá thần tượng và dửng dưng tàn
bạo. Trừ Con Ḅ Vàng (the Golden Calf) ra, tất cả các
thần tượng đều bị sụp đổ tan
tành.
Bất hạnh thay,
không quốc gia, đơn vị hoặc cá nhân nào có
thể tránh khỏi định nghiệp của ḿnh.
Những kẻ tự xưng là sử gia bàn về chính
lịch sử cũng táng tận lương tâm chẳng
kém ǵ bàn về kho tàng thần thoại. Auguatin Thierry đă tu chính điều này một cách
thật là khả kính (nếu
chúng ta tin theo các kẻ viết tiểu sử của ông).
Ông phàn nàn là cái nguyên tắc sai lầm đó đă làm cho
tất cả những kẻ rắp ranh viết sử
đều lầm đường lạc lối, kẻ
nào cũng tự tiện sửa đổi cái truyền
thống cho rằng: “Trong mười lần th́ có tới
chín lần ư dân là ư Trời”. Cuối cùng ông thừa
nhận rằng chỉ ở trong huyền thoại mới có lịch sử chân
xác. Ông c̣n nói thêm :
Huyền
thoại là truyền thuyết sống động; trong
bốn lần th́ có tới ba lần nó đúng với
sự thật hơn cái mà chúng ta gọi là lịch sử. ([514])
Trong khi các nhà Duy vật chối bỏ mọi chuyện trong Vũ Trụ ngoại trừ Vật Chất, th́ các nhà khảo cổ học lại đang ra sức thu gọn thời Cổ đại lại và t́m cách phá hoại mọi lời xác minh của Minh Triết Cổ Truyền bằng cách giả mạo niên đại. Các nhà Đông phương học và các sử gia thời nay đối với các cổ sử cũng chẳng khác nào các con mối đối với các dinh thự ở Ấn Độ. C̣n nguy hiểm hơn cả các con mối này là các nhà khảo cổ học hiện đại – các “kẻ có thẩm quyền” về tương lai trong lĩnh vực lịch sử thế giới – họ đang chuẩn bị cho lịch sử của các quốc gia qua số phận của một vài dinh thự nào đó trong các xứ nhiệt đới. Michelet đă cho rằng :
Lịch
sử sẽ bị các nhà viết niên sử làm sụp
đổ tan tành, tiêu tan thành mây khói trong bối cảnh
thế kỷ hai mươi.
Thật vậy, chẳng bao lâu nữa, do các nỗ lực phối hợp của họ, nó sẽ cùng chung số phận với các đô thị đổ nát của Châu Mỹ, chúng đă bị vùi sâu dưới các khu rừng hoang chưa ai khai thác. Các sự kiện lịch sử sẽ vẫn c̣n bị che khuất bởi những khu rừng thẳm mịt mù của các giả thuyết, phủ nhận và chủ nghĩa hoài nghi hiện đại. Nhưng may mắn thay lịch sử chân xác cứ lặp đi lặp lại v́ nó diễn tiến theo chu kỳ (giống như mọi thứ khác). Các sự kiện và các biến cố đă bị cố t́nh nhận ch́m trong bể hoài nghi hiện đại, sẽ lại trồi lên, tái xuất hiện trên mặt.
Trong các Quyển 3 và 4, chính sự kiện cho rằng, một tác phẩm có cao vọng về mặt triết học để tŕnh bày các vấn đề bí hiểm nhất, phải được khởi sự bằng cách truy nguyên sự tiến hóa của nhân loại từ cái được xem là những thực thể siêu nhiên – các Chơn Linh – sẽ khơi dậy sự chỉ trích cay độc nhất. Tuy nhiên, những kẻ tin tưởng và bênh vực Giáo Lư Bí Nhiệm sẽ phải chịu đựng sự kết tội là điên rồ (và c̣n tệ hơn thế nữa) với thái độ của triết nhân giống như tác giả đă phải chịu biết bao nhiêu năm nay. Bất cứ khi nào một nhà Minh Triết Thiêng Liêng bị kết tội là điên, y nên trả lời bằng cách trích dẫn đoạn sau đây trong Các Lá Thư Ba Tư của Montesquieu :
Khi
mở ra bừa băi các nhà thương điên để
nhốt những kẻ bị giả sử là điên, thiên
hạ chỉ t́m cách bảo đảm với nhau rằng
ḿnh không phải là đồ điên.
CÁC CHÚ THÍCH BỔ SUNG
Siphra
Dzenioutha, trang 52. ([515])
Tức Siphra Dtzenioutha, tức Spra Dtzniovtha, Bí Nhiệm Thánh Thư, tức “sự quân b́nh của cái cân”. Trong Kabalah Denudata tức Vén Màn bí mật Thánh kinh Kabbalah của S.L. Mac Gregor Mathers, có bao hàm các Thánh Thư trong kinh Zohar. (1) Bí nhiệm Thánh Thư, (2) Đại Thánh Hội, (3) Tiểu Thánh Hội. Chúng được dịch ra tiếng Anh theo bản dịch tiếng La Tinh của Knorr von Rosenroth và được đối chiếu với nguyên bản bằng tiếng Chaldea và Hebrew. Xem Giáo Lư Bí Nhiệm, Quyển I, trang 262 và Quyển 2, trang 106.
Sapta
Samudra, trang 62.
Bảy đại dương này tượng trưng cho bảy Nguyên h́nh chất được đề cập tới đâu đó trong Giáo Lư Bí Nhiệm. Chúng là Toàn Linh Trí thuần trạng, Ngă Thức và năm Thức biến, tức cái yếu tố sơ cấp.
Hồng
mông nhất khí là một Nguyên nhân kém hơn Brahmă, trang 86, cước chú.
Xem trang 170. Trong đó có nói: “Bấy giờ Brahmă được tạo ra (?) và đồng nhất hóa với Toàn Linh Trí”. Điều sau phù hợp với giáo lư Ấn Độ.
Vyăkritis, trang 150, cước chú.
Từ ngữ này đúng ra là Vyăkritis, có nghĩa là “tuyên bố”. Các tín đồ Bà La Môn lặp đi lặp lại ba từ ngữ Bhũh, Bhuvah và Svah (tức Suvah) khi lễ bái và cầu nguyện hằng ngày.
Trị
số của từ ngữ Con Quạ, trang 161.
Trị số của p (pi) được tính là 555/113 chu vi được tính 355, c̣n đường kính là 133. Nay nếu ṿng tṛn được chia làm sáu phần, mỗi phần lại được chia làm sáu, th́ ṿng tṛn sẽ gồm có 355 x 6 tức 2130 phần, nghĩa là 213/0. Lại nữa, nếu ṿng tṛn được sáu đường kính chia ra làm mười hai phần như trên và mỗi phần này lại được chia làm sáu, th́ chúng ta sẽ có 355 x 12 tức 426/0 tức 213 x 2.
“Ánh Sáng có phải là một
Vật Thể hay không?
Trang 206.
Nay các nhà khoa học sẽ trả lời rằng ánh sáng vừa là vật thể, vừa không phải là vật thể.
Isaac
Newton, trang 218 v.v…
Nay người ta hoàn toàn tin tưởng vào các điều “dự đoán do cảm hứng” của Isaac Newton.
Tiết
4, trang 224.
Hầu hết các lư thuyết khoa học được xét trong Tiết này đă lỗi thời.
Tiết
5, trang 231.
Các ư niệm hiện đại được tŕnh bày trong Các quan niệm mới về Vật Chất của C.G. Darwin đă giải đáp Tiết này.
“khi giáng xuống biểu lộ… Ánh Sáng (có một cực là Tinh Thần thuần túy … c̣n cực kia là Vật Chất mà nó cô đọng trong đó) ‘kết tinh’ thành một loại ngày càng thô trược”, trang 204. Xem thêm Sự có thực chất của cái gọi là các Lực, trang 236
Chiếu theo các ư tưởng hiện nay về tính khả hoán của các lượng tử ánh sáng hoặc năng lượng và các đơn vị vật chất th́ các điều phát biểu như trên thật là rất có ư nghĩa.
So sánh Các quan niệm mới về Vật Chất, của C.G. Darwin.
“Các Tính chất của Âm Thanh”, trang 258.
Thứ tự như sau: (1) Shadja, (2) Rishaba, (3) Găndhăra, (4) Madhyama, (5) Panchama, (6) Dhaivata, (7) Nishăda. Âm giai của Ấn Độ (Sa, Re, Ga, Ma, Pa, Dha, Ni) là các chữ đầu tiên của các từ ngữ trên (ngoại trừ Sa và Re). Trong tiếng Bắc Phạn, Sa v.v… là chữ duy nhất.
Luật
Phân loại Tuần Hoàn,
trang 274.
Nay đồ thị thường được dùng nhất không hề có dạng một quả lắc hoặc một h́nh lemniscat. Tuy nhiên có một dạng duy nhất, đó là h́nh xoáy ốc logarit Johnson-Stoney. Ông C. Jinarăjadăsa đă chọn dùng dạng này trong ấn bản mới (1938) của tác phẩm Các Nguyên Lư Bản Sơ của Minh Triết Thiêng Liêng.
Nguyên
tử, xem Mục lục.
Định nghĩa
về nguyên tử của bà Blavatsky phải được
xuyên suốt làm cho rơ rệt. Chẳng hạn như ở
trang 291, Bà dạy: “Nguyên tử đồng nghĩa với
Linh Hồn… “ Hăy so sánh với tác phẩm mới của
Tiến sĩ Arundale Yoga
Biểu Tượng.
Hóa
học sẽ tái sinh như là “Khoa Luyện kim đan
mới hoặc Siêu hóa học”, trang 348.
Xem “Khoa Luyện kim đan mới” của E. Rutherford.
GHI CHÚ: Các môn sinh ở cả
phương Đông lẫn phương Tây đă cung
cấp các chú thích trên – Ban biên tập.
THƯ MỤC SÁCH THAM KHẢO
Các tác phẩm có ở trong thư viện Adyar được dùng để kiểm nghiệm lại các đoạn trích dẫn:
- Phân tích Kho Tàng Thần
Thoại Cổ Truyền, Jacob Bryant 1 807.
-
Anugĩtă.
-
Các tác phẩm của Arnobius.
-
Asgard và chư Thiên, do Mc
Dowell, 1886.
-
Khảo cứu Á Châu, London,
1809.
-
Chí Tôn Ca (Bhagavad Gĩtă), bản
dịch của K.T.T. Telang.
-
Vấn đáp Giáo Lư Đạo Phật, Henry S. Olcott.
-
Phật Giáo Trung Quốc, J. Edkins, Tiến sĩ Thần học.
-
Sự tương hệ các Lực Vật Lư, W.R.G. Cao học Nhân văn, Hội viên
Hội Hoàng Gia, 1874.
-
Các Áng Văn Cổ của
Cory, E. Richmond Hodges, 1876.
-
Cratylus của Plato, G.
Burges, Cao học Nhân văn, 1854.
-
Phê b́nh Lư Trí Thuần Túy, E.
Kant.
-
Các Tác phẩm Nội môn. T.
Subba Row.
-
Các Vong Linh, J.E.De Mirville,
1863, 6 quyển.
-
Các Con của Thượng Đế, Louis Jacolliot, 1875.
-
Năm năm Thần Triết, 1885.
-
Nguồn gốc và Ư nghĩa của Đại Kim Tự
Tháp, C. Staniland Wake.
-
Các Nhân Chủng, A. De
Quatrefage.
-
Nữ Thần Isis Lộ Diện, H. P. Blavatsky, 1886. (2 quyển).
-
Các tác phẩm của Irenaeus.
-
Vén màn bí mật Thánh kinh Kabbalah, (Kabbala Denudata), S. L. Mac Cregor Mathers, 1887.
-
Các khía cạnh mới của Sự Sống và Tôn giáo, Henry Pratt, Bác sĩ Y Khoa, 1886.
-
Luận lư học, Alexander
Bain, Tiến sĩ Luật khoa, 1876.
-
Các Khái Niệm và các Thuyết Vật Lư hiện đại,
J. B. Stallo, 1890.
-
Khoa học Hiện đại và Tư tưởng Hiện
đại. S. Laing, 1891.
-
Sáng Thế Kư Tự Nhiên, Gerald
Massey, London, 1883.
-
Tân Hóa Học, J. B. Cooke,
1892.
-
Hóa học Huyền linh, A.
Besant và C.W. Leadbeater, London, 1908.
-
Luật Bàn Cổ, Burnell và
Hopkins, London, 1884.
-
Tục sùng bái sinh thực khí, Hargrave Jennings, 1884.
-
Vật lư học của
Ganot, 1890.
-
Pistis Sophia, G. R. S. Mead,
1896.
-
Qabbalah, bản dịch
của Isaac Myer, Philadelphia; 1888.
-
Phép Cầu Phương Ṿng Tṛn, J. A. Parker.
-
Niên Sử và Cổ Vật của Răjasthan, 1898.
-
Bách Khoa Từ Điển Tam Điểm Hoàng Gia, 1876.
-
Sănkhya Kărika, 1887, Henry Thomas
Colebrooke dịch; Gaudapăda b́nh giải. Bản dịch
của H. H. Wilson, Cao học Nhân văn, Hội viên Hội
Hoàng Gia, 1887.
-
Nguồn gốc các Kích thước, J. Ralston Skinner (Cao học Khoa
học).
-
Ch́a khóa giải Bí Nhiệm Hebrew Ai Cập trong Nguồn gốc Các Kích
Thước, J. Ralston
Skinner.
-
Các di tích về Lịch sử Tinh Thần của Con
Người, S.F. Dunlap,
1861.
-
Tuyển tập Minh Triết Thiêng Liêng, Quyển I, London, 1888.
-
Đức Mẹ Thế Giới Đồng Trinh, bản dịch của Anna Kingsford,
1885.
-
Vishnu Purănas, bản
dịch của H.H. Wilson, 1864, 6 quyển.
- Bà Blavatsky thường đề
cập tới bộ Các Vong Linh (6 Quyển) của Hầu
Tước de Mirville. Trong nhiều trường hợp, bà
đă hội nhập vào bộ Giáo Lư Bí Nhiệm các điều tham khảo và các đoạn trích dẫn từ
bộ sách nói trên. Trong quyển này, các đoạn sau đây
được kiểm nghiệm lại :
- Trời và Đất, Reynaud, Các Vong Linh Quyển II, trang
xxiii; Achaica,
Pausanias, III, 284 – 285; Thiên văn học Cổ Truyền, iv, trang 41; Thiên văn học
Cổ đại, IV, trang
53; Lịch
sử Ba Tư, Malcolm, IV trang 54; Ai Cập Thời
Nay, Champollion, IV, trang 11;
Kabbala Denudata, IV, trang 154; Nguồn gốc các Tục
thờ cúng, Dupuis IV, trang
61;
Stromata, Glemens Alexandrinus IV,
trang 28; Thánh điện Jérusalem, IV, trang 58; Cuộc đời
Đức Chúa, IV, trang 67.
Các đoạn sau đây cũng
được hội nhập từ bộ Các
Vong Linh vào Giáo
Lư Bí Nhiệm, nhưng
chưa được truy nguyên ra các đoạn trích
dẫn tương ứng.
- Các Vong Linh (Des Esprits), Quyển II.
Tạp chí Hai Thế Giới;
Toàn Cảnh Thế Giới, Le Couturier; De Princippiis, do Herschel trích dẫn; Vật
lư học; Viện Bảo Tàng Khoa Học; Strabo; Maury; De Mysteriis Aegypt; Iamblichus; Nhập môn các Bí
pháp. Creuser; Zohar;
Kabbala, Franck; Nền
nông nghiệp Nabathean, Niên sử Triết học Thiên Chúa
giáo.
- Các Vong Linh, Quyển III.
Eusebius; Odyssey; Lịch sử Phénicienne; Sanchoniaton; Bác học tạp
chí; Phonizier, Lịch
sử Pháp Thuật,
bản dịch của Ennemoser.
- Các Vong Linh, Quyển IV.
Cratylus, Plato; De Placit, Plutarch; Prolus; Vũ trụ
khởi nguyên luận của Thánh Thư khải huyền, Godefroy; Diễn văn; Herschel; Fr. Secchi.
HẾT
QUYỂN 2
TRẦN
NGỌC LỢI
Dịch thuật
GIÁO LƯ
BÍ NHIỆM
(THE SECRET DOCTRINE)
(TỔNG HỢP
KHOA HỌC, TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC)
Tác giả :
H. P.
BLAVATSKY
QUYỂN 2
VŨ TRỤ
KHỞI NGUYÊN LUẬN
(COSMOGENESIS)
PHẦN 2 VÀ 3
[1] Chúng tôi đồng ư xét về “điều Thiên Khải.” Chúng tôi không đồng ư xét về “lịch sử nhân loại.” V́ lịch sử có mặt trong hầu hết các ẩn dụ và thần thoại của Ấn Độ và các biến cố thực sự đều ẩn tàng trong chúng.
[2] Khi các “thần học trá ngụy” đă biến mất, bấy giờ người ta sẽ t́m thấy các thực tại tiền sử và chân xác được bao hàm trong thần thoại của dân Ăryan và Cổ Ấn và ngay cả dân Hy Lạp trước thời Homer.
1
Xem tiếp tiết 9, Mặt Trăng; Nguyệt
Thần; Phoebe.
[3] Tiếng Tamil là Ơlai – lá cọ (palm-leaf).
1
Như thế, một
người Nhật chẳng hiểu một từ ngữ
nào của Trung Quốc, gặp một người
Trung Quốc chẳng thể hiểu ngôn ngữ
người Nhật, sẽ giao tiếp với y bằng
chữ viết và họ sẽ hiểu nhau một cách hoàn
toàn, v́ chữ viết của họ đều có tính cách
biểu tượng.
1
Trích từ một bản thảo, từ trang 1
đến trang 6. Xem chú thích ở cuối trang, Quyển 1,
trang 72
1
Trong quyển Guide au Musée của
Boulaq, trang 148-149.
1
Như chúng tôi đă nói trong bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện, quyển II, trang
438-439: ”Đến nay, bất chấp mọi tranh căi và công
tŕnh nghiên cứu, lịch sử và khoa học vẫn c̣n mù
tịt về nguồn gốc của dân Do Thái. Họ có
thể là những người Chandălas bị lưu
đầy của cổ Ấn Độ, ‘những
người thợ nề’ (‘bricklayer’s) mà Vyasa (soạn kinh
Veda) và Đức Bàn Cổ đă đề cập tới,
hoặc là những người Phoenicians của sử gia
Herodotus, hoặc là các vị vua Hyksos của sử gia
Josephus, hoặc là các hậu duệ của những
người chăn chiên Pali, hoặc là một sự
phối hợp của các giống dân trên. Thánh kinh mệnh danh người Tyrians như là
một dân tộc có cùng nguồn gốc, và đ̣i hỏi là
họ phải bị thống trị…. Song dù họ đă
là ǵ đi nữa, th́ họ cũng trở thành một dân
tộc lai giống, chẳng bao lâu sau thời Moses, v́ Thánh kinh cho thấy là họ
kết hôn tự do không những là với người
Canaanites, mà c̣n với mọi chủng tộc khác mà họ
đă từng tiếp xúc.”
1
Xem Bản thảo, trang 20.
1 Trích trong Kiến Thức,
Quyển I, xin xem thêm bức thư của Petrie gởi cho Hàn lâm viện ngày 17-12-1881.
2 Trích trong Nguồn Gốc và Ư Nghĩa của Đại Kim
tự Tháp, trang 8, chú thích cuối trang, 1882.
1 [Hiển nhiên là đề cập
tới tác phẩm của C. Staniland Wake ở trên.]
1 Phép
Cầu phương của H́nh tṛn của John A. Parker, từ trang
117-119.1851.
1 Sách đă dẫn, Quyển I, trang
519.
1 Nguồn
gốc và Ư nghĩa của Kim
tự tháp, trang 93, 1882.
2 Chương vii, 14.
1 Trang 224.
2 Quyển I, Phần I, trang 46.
3 Chương X, 10.
4 Xem Nữ Thần Iris Lộ
Diện, II, trang 442 - 443.
5 Về vùng đất hứa, ii,
21.
1 George Smith, Sáng Thế Kư theo dân Chaldean, trang 299 - 300.
1 Xin nhắc là tôn giáo nội môn của Moses đă
bị đàn áp biết bao nhiêu lần và tục sùng bái
Jehovah theo lối mà David đă chấn chỉnh lại và
Hezekiah đă hiệu chỉnh lại; xin hăy so sánh
đối chiếu trong Nữ
Thần Isis Lộ Diện Quyển II, trang 436 - 442.
Chắc chắn là phải có lư do như thế nào th́ tín
đồ giáo phái Sadducee – họ sản sinh ra hầu
hết mọi tu sĩ Trưởng của xứ Judea –
mới nghiêm chỉnh chấp hành Luật Moses và từ
chối huấn thị “Các Thánh thư của Moses”, Năm
quyển đầu Cựu
Ước (Pentateuch)
của Giáo hội Do Thái Talmud.
[4] Trong ấn bản năm 1888 là khối vuông.
1 Thêm một lần nữa, hăy
nhớ tới Vithoba của Ấn Độ [một h́nh
thái của Vishnu] bị hành h́nh trên thập tự giá trên
không trung; ư nghĩa của “kư hiệu linh thiêng” tức
chữ Vạn (Svastika); con người bị căng ra
như h́nh chữ X trên không trung của Plato v.v….
2 Xem Bản thảo, trang 27 v.v….
1 Xem thêm sự mô tả khi
được Điểm Đạo thời kỳ
đầu của dân Aryan. Thần Vishvakarman h́nh thành
Mặt Trời, tức Vikarttana, đă tối sầm
lại – trên một cái máy tiện có h́nh thập tự giá.
1 Skinner, Nguồn
Gốc của Kích Thước, ấn bản 1875,
tiết II, 24, trang 54 - 59.
[5] Con Người Sơ Thủy Lộ Diện; hay Nhân loại học của Thánh kinh, của tác giả (vô danh) của quyển Tinh Tú và Thiên Thần, trang 14, ấn hành năm 1870.
[6] Sách đă dẫn, trang 195.
[7] Đặc biệt là bất chấp bằng chứng có trong Sáng Thế Kư iv, 16, 17 của chính bộ Thánh kinh đầy thẩm quyền, nó tŕnh bày là Cain đi tới vùng đất Nod và lấy vợ ở đó.
[8] Sách đă dẫn trang 194.
[9] Sách đă dẫn, trang 55.
[10] Sách đă dẫn, trang 206 – 207.
1 Công
vụ các Sứ Đồ (Acts) xvii, 23, 24.
1 Từ ngữ Nguyên h́nh chất
(Protyle) do giáo sư Crookes, nhà hoá học lỗi lạc
chế ra; ông dùng nó để mệnh danh cho Tiền vật chất (Pre-Matter) – chúng ta cứ
tạm gọi chất liệu nguyên thuỷ và thuần tuư
đồng nhất là như thế - Khoa học không c̣n
ngờ vực nếu không muốn nói là chưa thực
sự t́m ra sự tồn tại của nó trong thành
phần tối hậu của nguyên tử. Nhưng vật
chất nguyên thuỷ bắt đầu phân ly thành các nguyên
tử và phân tử sau khi mà bảy nguyên h́nh chất đă
tiến hoá. Giáo sư Crookes đang t́m kiếm Nguyên h́nh
chất cuối cùng này, mới đây, ông đă phát hiện
được là nó có khả năng tồn tại trên
cảnh giới của chúng ta.
1 Xin so sánh Sănkhya Kărika, v, iii và phần giảng lư.
2 Xem Taittirĩyaka
Upanishad, Vallĩ thứ 2, Anuvăka 1.
1 Thánh Thư Ephesians, vi, 12.
2
[Theo sát nghĩa là các thực thể độc ác ở các
cảnh giới “cao”.]
1 Sấm
giảng của Zoroaster, “Effatum,” xvi.
2 Georgica, Quyển II, 325.
1 Nữ
Thần Isis Lộ Diện.
1 Sách đă dẫn, quyển I, v,
6-9, xem bản dịch của A. C. Burnell.
2 Sách đă dẫn v, 5.
3 Sách đă dẫn v, 11.
4 Sách đă dẫn v, 13.
1 Đỉnh lư tưởng Tam giác
Pythagoras.
[11] Xem bản dịch Burnell, do Tiến sĩ E. W. Hopkins, ấn hành
[12] Theo sát nghĩa là phần tử hay các phần tử của Tinh Thần Tối Thượng (Supreme Spirit).
[13] Theo sát nghĩa là đo lường (to measure).
1 Ahamkăra, được xem như
là Ngă Thức vũ trụ (universal Self-Consciousness), có ba
trạng thái cũng giống như
là Thần Trí. V́ thế, “quan niệm về Bản
Ngă” tức “Chơn Ngă” hoặc là ở trạng thái sattva “thuần thanh tịnh,”
hoặc là có vẻ như ở trạng thái rajas “hoạt động”
hoặc vẫn ở trạng thái tamas “tŕ trệ” trong u minh. Nó thuộc về
Trời và Đất và có tính cách của cả hai thứ.
1 Xem Sănkhya
Kărikă, v, iii và giảng lư.
1 Trong tiếng Hebrew, không có từ
ngữ “vĩnh cửu” mà nhà thần học Thiên Chúa giáo
dùng để thuyết minh từ ngữ “măi măi”. Từ
ngữ “Oulam” theo Le Clerc, chỉ có nghĩa là một
thời gian vô thuỷ vô chung. Nó không có nghĩa là “thời
kỳ dài vô tận”, và từ ngữ trong Cựu Ước chỉ có nghĩa là “thời
gian dài”. Trong các Thánh kinh Puranas,
từ ngữ “vĩnh cửu”
cũng không được dùng theo nghĩa dùng trong Thiên Chúa
giáo. V́ trong Thánh kinh Vishnu Puranas
người ta đă vạch rơ rằng “vĩnh cửu” và
“bất tử” chỉ có nghĩa là “tồn tại tới
cuối Thiên kiếp” (“Kalpa”). (Quyển II, chương
viii.)
[14] Thần phổ học của Orpheus có tinh thần thuần là Đông phương và Ấn Độ. Việc liên tiếp biến đổi nó nay đă khiến nó khác xa với Tinh Thần của Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận Cổ Truyền; ta có thể thấy điều này bằng cách so sánh nó ngay cả với Thần phổ học của Hesiod. Song trong cả hệ thống của Hesiod lẫn hệ thống của Orpheus đều có tinh thần Ăryan Ấn chân chính [xem tác phẩm xuất sắc của James Darmesteter “Vũ Trụ Khởi Nguyên Luận Ăryennes” (“Cosmogonies Ăryennes”) trong Tiểu luận Đông phương]. Như thế, quan niệm nguyên thuỷ của Hy Lạp về Hồng nguyên khí cũng chính là quan niệm của Giáo lư Huyền môn. Do đó, đối với Hesiod, Hồng ngyên khí thật vô tận, vô biên, vô thuỷ, vô chung, nó đồng thời vừa là huờn hư, vừa là một sự hiện diện hữu h́nh, không gian đầy u minh, nó vốn là vật chất nguyên thuỷ trong trạng thái tiền vũ trụ. V́ theo nghĩa gốc, Hồng nguyên khí là Không gian – theo Aristotle – và trong triết thuyết của chúng ta, Không gian là Thượng Đế bao giờ cũng Vô h́nh và Bất khả tri.
1 Sáng
Thế Kư, I, 2.
1
Tinh thần biểu lộ:
Tinh Thần Tuyệt Đối, Tinh Thần Thiêng Liêng là
một với Chất Liệu Thiêng Liêng tuyệt
đối. Parabrahman và Mũlaprakriti (Hỗn nguyên khí)
đều là một. Do đó, xét theo tính cách bản sơ,
Thiên Ư Hồng Nguyên (Cosmic Ideation) và Chất Liệu Càn Khôn
(Cosmic Substance) cũng là một.
2 Sepher
Yetzireh, Chương I, Mishna IX.
3 Như trên. Abram chính là chuyển
hoá từ của “Arba.”
1 [Trong ấn bản 1888 là Sephiroth.]
[15] Thánh kinh Zohar, I, 20.
[16] Sepher Yetzireh, Mishna ix, 10.
1 Khi viết về chủ
đề này trong bộ Nữ
Thần Isis Lộ Diện, chúng tôi đă nói là: Hồng
nguyên khí của cổ nhân, Linh Hoả của Bái hoả giáo
(the Zoroastrian Sacred Fire), tức Atash-Behram;
lửa-Hermes (Hermes-fire), lửa-Elmes (Elmes-fire) của dân
Đức thời xưa; Tia chớp của nữ
thần Cybele; Ngọn đuốc cháy bừng của
thần Apollo; Ngọn lửa trên bàn thờ của Thần
Pan; Lửa bất diệt ở thánh điện Acropolis và trong
thánh điện của Nữ thần Vesta; Ngọn lửa
trên nón của thần Pluto; các Tia sáng chói lọi trên nón
của hai anh em Dioscuri, trên tóc của chị em Gorgon, nón
của nữ thần Pallas và gậy của Thần Mercury;
Thần Ptah-Ra của Ai Cập; Cataibates
(Sự giáng hạ) của Thần Tối Cao Hy Lạp
Zeus theo địa lư gia Pausanias; các Ngọn lửa của
Lễ giáng lâm; Bụi cây đang cháy của Moses; Trụ
Lửa (the Pillar of Fire) trong Thánh thư Về Vùng Đất Hứa và “Ngọn Đèn
đang sáng” của Abram; Lửa Vĩnh Cửu của
“hố sâu thẳm”. Hơi nước uyên áo ở thành
phố Delphi (the Delphic oracular vapours); Đẩu Tinh Quang (Sidereal
Light) của Hoa Hồng Thập Tự; Tiên thiên khí (ĂKĂSHA)
của các Thánh Sư Ấn Độ; Tinh Tú Quang của
Éliphas Lévi; Hào quang Thần kinh (the Nerve-Aura) và Lưu chất
(Fluid) của Từ điển gia; Od (từ khí) của
Reichenbach; Từ khí tâm linh (Psychod) và Lực Cầu
Nguyện (Ectenic Force) của Thury; Lực Tâm Linh (the Psychic
Force) của Trung sĩ Cox, và từ điển khí quyển
của một số nhà Tự nhiên học; Điện do
tác dụng hoá học và cuối cùng là điện – tất
cả những thứ trên chẳng qua chỉ là nhiều
danh xưng khác nhau dành cho nhiều biểu lộ hoặc tác
dụng khác nhau của cùng một Nguyên nhân bí nhiệm,
thấm nhuần vạn vật; đó là Nguyên Sinh khí
(Archaeus) của người Hy Lạp. Nay chúng tôi xin nói thêm:
thế đấy và c̣n nhiều nữa (Quyển I, trang 125).
1 Xem Quyển 4, Phần 2, Tiết
4. Nhiều ư nghĩa của “Chiến Tranh trên Trời.”
1 Góp ư
với Thuyết Chọn Lọc Tự Nhiên.
[17] Plato, Timaeus.
[18] Suidas, ở dưới từ ngữ “Tyrrhenia.” Xem Các Áng Cổ Văn của Cory, trang 309, ấn bản thứ nh́.
[19] Độc giả phải
hiểu rằng khi dùng từ ngữ “năm”, người
ta có ư muốn nói “thời đại”(“ages”) chứ không
phải là thời kỳ gồm 13 tháng âm lịch.
[20] Cory, sách đă dẫn, trang 3.
[21] Nữ Thần Isis Lộ Diện, Quyển I, trang 342.
[22] Dân Ba Tư xem Mithras như là vị Thần sinh ra từ trong đá.
[23] Bordj được gọi là một núi lửa: do đó nó chứa lửa, đất đá và nước; các yếu tố dương, tích cực, và âm, tiêu cực. Thần thoại này thật là gợi ư.
1 Sách đă dẫn, I, trang 156.
1 Các Khía
Cạnh Mới Mẻ của Cuộc Sống của
Henry Pratt, Bác sĩ y khoa, trang 3 - 4.
1 Siphrah
Dzenioutha, i, Tiết 16.
1 Trong Thuyết thần học
của ḿnh, Damascius gọi nó là Dis, “Đấng an bài
vạn vật”. Trích từ Các
Áng Văn Cổ của Cory, trang 314.
2 Nữ
Thần Isis Lộ Diện, I, trang 341.
1 “Sự Di Cư của Abraham,”
trang 32.
2 [Trong ấn bản 1893 là “các
biểu tượng.”]
[24] Đối với người Hy Lạp, tất cả mọi “Hà Bá” (“River-Gods”) đều là con của Đại dương Bản sơ – tức Hồng nguyên khí trong thái dương – và lần lượt tổ phụ của giống dân Hy Lạp. Đối với họ, ĐẠI DƯƠNG là Cha của Chư Thiên, thế là về phương diện này, họ đă tiên liệu được các thuyết của Thales. Aristotle đă nhận xét điều này rất đúng. (Siêu h́nh học, Quyển I, trang 3-5.)
[25] Chương xxvi, 5.
[26] Nữ Thần Isis Lộ Diện, I, 133 - 134.
[27] “Tinh Thần ” tức tiếng nói ẩn tàng của các Thần chú, biểu lộ tích cực của Tiềm Lực, tức mănh lực huyền linh.
[28] Chúng tôi không có ư nói đến Thánh kinh thường dùng hay được chấp nhận, mà là Thánh kinh Do Thái thực sự, nay được giải thích theo Do Thái Bí giáo.
1 Xem Sáng
Thế Kư, ii, 4.
2 Nó “không phát âm được” v́ lư
do đơn giản là nó không tồn tại. Nó chẳng bao giờ là một danh xưng hoặc là một từ ngữ ǵ cả, mà
chỉ là một ư niệm không bao giờ có thể diễn
đạt được. Người ta đă tạo ra
một thứ thay thế cho nó trong thế kỷ
trước kỷ nguyên của chúng ta.
1 Theo Josephus (Di Tích Cổ, 1, viii, Chương xxii) Thánh
Điện Vũ Trụ mà Moses dựng lên trong sa mạc
tượng trưng cho Tứ Phương và Tứ
Đại (the four Cadinal Points and the four Elements). Ư
tưởng này xuất phát từ các Kim Tự Tháp ở Ai
Cập, cũng như là ở hải cảng Tyre, nơi mà
các Kim Tự Tháp này trở thành các trụ (pillars). Chư
Thần hay Chư Thiên đều lần lượt
ngự ở bốn phương này.
1 Thánh kinh Do Thái Bí giáo, của Isaac Myer, xuất bản
năm 1888, trang 415
2 Chẳng hạn như trong Thánh
kinh Vishnu Purănas, Quyển I,
Tập I.
1 Plutarch, Về
Iside và Osiride, Ivi.
2 Các Di
Tích của Lịch Sử Tinh Thần Con người,
của S. F. Dunlap, trang 189 (xuất bản năm 1858).
3 Movers, Phoinizer,
268.
4 Các Áng
Văn Cổ của Cory, trang 240.
1 Vishnu
Purănas, Quyển I, trang 66.
1 Cũng như Hỗn nguyên khí
(Mũlaprakriti) chỉ quen thuộc với Ĩshvara,
Thượng Đế (Subha Row gọi Ngài như vậy).
[29] Franck, Thánh kinh Do Thái Bí giáo, trang 126.
[30] Philo, Vấn và Giải.
[31]
Franck, sách đă dẫn, trang 153. Xem thêm Tiết 12
“Thần phổ học và các Thần Linh Sáng Tạo”
[32] “Bảy Thiên Thần Thánh Dung,” đối với các tín đồ Thiên Chúa giáo.
[33] Philosophumena, vi, 42.
[34] Xem Vén Màn bí mật Thánh kinh Do Thái Bí giáo, trang 47.
[35] Xem Thánh kinh Do Thái Bí giáo của Myers, trang 233.
[36] Arnobius, VI, xii.
[37] Chúng ta dùng từ ngữ như là một từ ngữ đă được chấp nhận và thừa nhận v́ được sử dụng rộng răi, do đó, độc giả thấy dễ hiểu hơn.
[38] Xem Dunlap, Sód: Các Bí nhiệm về Adoni, trang 23.
[39] Xem Bảo Tàng Viện Bulaq của Maspero.
1
Theo Le Clerc, đối với dân Do Thái thời xưa,
từ ngữ Oulom chỉ có nghĩa là một thời gian
vô thuỷ vô chung. Nói riêng, từ ngữ “Vĩnh cửu”
không hề tồn tại trong tiếng Hebrew với ư
nghĩa mà các tín đồ phái Phệ Đàn Đà áp
dụng cho Thái Cực Thượng Đế chẳng
hạn.
1 Zohar,
Phần I, trang 20a.
1
Trong đền thờ của Chư Thần Ấn
Độ, Thượng Đế lưỡng tính là Brahmă,
Đấng Sáng Tạo, có bảy đứa con “sinh ra
từ thần trí” là các Thánh Hiền bản sơ, các
“Đấng Kiến Tạo”.
1
Giáo sĩ Do Thái Simeon dạy: “Hỡi các bạn, con người
được xem như là một phân thân, vừa là nam
vừa là nữ, ở bên phía của ‘Cha’ cũng như là
ở bên phía của ‘Mẹ’. Và đó là ư nghĩa của
lời nói: ‘Và Elohim phán: Hăy có lấy Ánh sáng. Thế là có Ánh
sáng’; … và đó là con người lưỡng
phân.” (Auzzuge aus dem Sohar, 13, 15) Như thế, trong Sáng Thế Kư, Ánh sáng
tượng trưng cho Tia Bán thư Bán hùng, tức “Thiên
Đế”.
[40] Zohar, iii, trang 290.
[41] Sách đă dẫn, II, trang 261.
[42] Chương ix, 1.
[43] Cực đại.
[44] Sáng Thế Kư theo dân Chaldea, trang 62-63.
[45] Bảy Con Thiên Nga mà người ta tin tưởng là đă từ trên Trời giáng xuống hồ Mănasarovara, theo truyền thuyết của dân gian, chính là Bảy Thánh Hiền của cḥm Đại Hùng Tinh, các Ngài khoác lấy h́nh hài này để thăm viếng địa phương viết ra kinh Vedas.
1
Xem Petronius, Satyricon, cxxxvi.
1
Sự Tiến Triển
của Các Ư Niệm Tôn Giáo, Quyển I, từ trang 17 trở đi.
1
Phân tích Thần Thoại
Cổ Truyền, Quyển III, trang 165
2
Tử Vong Kinh,
Chương liv, 3.
3
Sách đă dẫn, Chương xxii,1.
4
Sách đă dẫn, Chương xlii,13.
5
Chương liv, 1, 2, Chương lxxvii, 1.
1
Vishnu Purănas, Quyển I,
Chương ii, trang 39 (cước chú).
[46] Sách đă dẫn, trang 39-40.
[47] Tử Vong Kinh, Chương xvii, trang 50-51.
[48] Sách đă dẫn, Chương XLII, trang 13.
[49] Sách đă dẫn, Chương lxxx, 9.
[50] Xem “Các Chữ số của chúng ta,” của Max Muller.
[51] Một tín đồ Do Thái Bí giáo có khuynh hướng nghiêng về việc tin tưởng rằng: cũng như tiếng Á Rập cifron bắt nguồn từ tiếng Bắc Phạn Shũnyam (Chân không); cũng vậy, từ ngữ Sephiroth (Sephrim) trong Thánh kinh Do Thái Bí giáo có nguồn gốc là từ ngữ cipher, không phải với nghĩa là “hư không”, mà với nghĩa là sự sáng tạo bằng số và các tŕnh độ tiến hoá. Và Sephiroth là 10 tức .
[52] Xem Các Tín đồ phái Ngộ Đạo và các Di tích của họ, của King, trang 370 (ấn bản thứ nh́).
[53] De Vita Pithag.
1
Người ta đưa ra năm sinh của ông 608
trước T.C.
2
Nghĩa là năm 332 trước T.C.
3
Siêu h́nh học, vii, F.
1
Lịch sử, Quyển
II. “Nữ Thần Euterpe.”
[54]
De
Cultu
[55] Trong ấn bản 1893 là thuật bói toán bằng trứng (oomancy).
[56] Chương xxi, trang 5 và tiếp nữa.
[57] Như trên, 16 - 17.
[58] Kerubim.
[59] II Các Thánh Vương (Kings), xviii, 4.
[60] Quyển III, trang 124.
[61] Movers, Phonizier, 282.
[62] [Xem Nữ Thần Isis Lộ Diện, Quyển I, trang 56.]
[63] Weber, Akad-Vorles, trang 213 và tiếp theo.
1
H́nh như người Trung Hoa đă tiên liệu
được thuyết của Sir William Thomson cho rằng
mầm sống đầu tiên đă từ một sao
chổi đang di chuyển rơi xuống địa
cầu. Xin hỏi: Tại sao lại cho đó là thuyết khoa học, c̣n ư
niệm của người Trung Quốc là một
thuyết điên rồ, mê tín dị đoan?
2
So sánh Movers, Phonizier, 268.
1
Các Nữ Thần tam phân của Ngài là Sati và Anouki.
2
Ptah vốn gốc là Tử Thần, Thần Huỷ Diệt giống như Shiva. Ngài
chỉ là Nhật Thần với tư cách là lửa
mặt trời huỷ diệt cũng như là làm linh
động. Ngài là thần quốc gia của
3 Số
Mục Thánh Thư.
1
Vishnu Purănas, Wilson,
Quyển I, Lời nói đầu, các trang lxxxiv-lxxxv.
1
Trong truyền thuyết nội môn của Đức
Phật Thích Ca cho rằng Đấng Thế Tôn tịch
diệt v́ bội thực thịt
heo và cơm, đó thực là một kết cuộc phàm
tục chẳng có ǵ là trang nghiêm. Người ta giải
thích điều này như là đề cập một cách ẩn dụ tới việc
Ngài đă được sinh ra trong kiếp “Heo Rừng”,
(tức Varăha Kalpa) khi Vishnu khoác lấy h́nh hài của con thú này
để kéo Trái Đất ra khỏi “Nước của
Không gian” (“Water of Space”). Nay v́ người Bà La Môn trực
tiếp thoát thai từ Brahmă và có thể nói là đồng
nhất hoá với Ngài, và v́ họ đồng thời
cũng là kẻ thù bất cộng đái thiên của
Đức Phật và Phật giáo (the mortal enemies of Buddha and
Buddhism) nên chúng ta mới có ẩn dụ kỳ cục này.
Bà La Môn giáo (của kiếp Heo Rừng tức Varăha Kalpa) đă tàn hại
Phật giáo ở Ấn Độ và đă quét sạch nó ra
khỏi xứ sở này, do đó; người ta mới nói
rằng Đức Phật, vốn đồng nhất hoá
với triết thuyết của Ngài, tịch diệt v́
ăn thịt heo rừng. Nội cái ư tưởng là
Đấng đă lập nên phép ăn chay nghiêm nhặt
nhất và cấm sát sinh – kiêng ăn cả trứng v́ nó là vận cụ của cuộc
sống tiềm tàng trong tương lai – mà lại
tịch diệt v́ bội thực thịt, cũng
đủ mâu thuẫn một cách vô lư rồi, nó đă
từng làm điên đầu nhiều học giả
Đông phương. Song lối thuyết minh này, khi vén màn
bí mật được ẩn dụ, cũng giải thích
được tất cả những ǵ c̣n lại. Tuy
nhiên, Varăha không những là con Heo Rừng, mà trước
hết h́nh như c̣n có nghĩa là một con vật sống
trên hồ trước thời đại hồng thuỷ
“vẫy vùng trong nước một cách khoái chí” (“delighting to
sport in water”) (Văyu Purăna).
1
Theo Đại Tá Wilford, trận “Đại chiến”
kết thúc vào năm 1 370 trước T. C. (Khảo Cứu Á Châu, ix, 88 - 89) theo Bentley, vào
năm 575 trước T.C.!! Song chúng ta có thể hy vọng
là trước khi thế kỷ này [19] chấm dứt, thiên
anh hùng ca Mahăbhărata sẽ được xem là đồng
nhất với các trận chiến của Napoleon vĩ
đại.
2
Xem Hội Khảo Cứu
Châu Á của Hoàng gia, ix, trang 364.
1
Xem Quyển v, trang 190 - 193.
2
Trong các Triết hệ Vedănta và Nyăya, Nimitta (ngữ
căn của Naimittika) được dịch là nguyên nhân
hữu hiệu, đối chọi với Upădăna, tức
Nguyên nhân Vật chất. Trong Triết hệ Số
Luận, Hồng Mông nhất khí (Pradhăna) là một nguyên nhân
kém cỏi hơn Brahmă, hay đúng hơn th́ bản thân Brahmă
là một nguyên nhân cao cấp hơn Hồng Mông nhất khí.
V́ thế, dịch “ngẫu nhiên” (“Incidental”) là sai; theo
một số học giả, nên dịch là “Nguyên nhân Lư
Tưởng” (“Ideal Cause”) thậm chí “Nguyên nhân Chân thực” (“Real
cause”) lại càng hay hơn.
1
XII, iv, trang 35 [Bhăgavata Purăna, của Purnendu Narăyan Sinba,
Skanda XII, chương iv, tŕnh bày bốn loại chu kỳ
Hỗn Nguyên là: Nitya, Nimittika, Prăkritika, Atyantika.]
1
Vayu Purăna.
2
Vishnu Purăna, Wilson,
Quyển V, trang 194.
[64] Đấng Thiên Tôn (the chief Kumăra) hay Vị Thần Trinh Khiết (Virgin-God) chính yếu, một vị Thiền Định Đế Quân (a Dhyăn Chohan) từ chối sinh hoá. Một nguyên kiểu của Thánh Michael, ông cũng không chịu giống như vậy.
[65] Xem những ḍng chót của Tiết “Hồng nguyên khí: Thượng Đế: Càn Khôn”.
[66] Quyển v, trang 195 - 196.
[67] Viễn ảnh này khó ḷng thích hợp với Thần học Thiên Chúa giáo, khoa Thần học này lại thích có một địa ngục đời đời dành cho các tín đồ của Thiên Chúa giáo.
1
Ở đây chúng ta phải hiểu từ ngữ
“Hành” không những theo nghĩa các yếu tố vật
chất hữu h́nh, mà c̣n theo nghĩa do Thánh Paul dùng, tức
là các Mănh lực tinh thần thông tuệ (Thiên Thần và Ma Quỷ trong các chu
kỳ khai nguyên).
2
Khi các nhà Đông phương học hiểu
được lời mô tả này một cách chính xác
hơn theo ư nghĩa nội môn, bấy giờ, người
ta sẽ thấy là sự tương hệ Vũ Trụ
của các Hành thế gian này có thể giải thích
được sự tương hệ của các lực
vật lư khá hơn mức hiểu biết hiện nay. Dù
sao đi nữa, các nhà Minh Triết Thiêng Liêng cũng
thấy là Prakriti có bảy h́nh
thức, tức nguyên khí “tính từ Mahat xuống tới
Địa”. Ở đây, “Nước” có nghĩa là
“Huyền Mẫu” (“Mother”); cái Tử Cung của Thiên Nhiên
Trừu Tượng (the Womb of Abstract Nature); Vũ Trụ
Biểu Lộ được thai nghén trong đó. Bảy “châu”
(“zones”) nhằm nói tới Bảy Phân khu của Vũ
Trụ này, tức Thực Tượng (Noumena) của các
Thần lực khơi hoạt nó. Tất cả toàn là
ẩn dụ.
1
Vishnu Purăna, Quyển V,
trang 196 - 200. Các lầm lẫn của
2
V́ Chu kỳ Hỗn Nguyên mà ta mô tả ở đây là
Mahă tức Đại, hay cái gọi là TỐI HẬU
(FINAL), nên vạn vật đều được tái
hấp thu vào trong Hành nguyên thuỷ ĐỘC NHẤT VÔ
NHỊ của nó (its original ONE Element); người ta nói là
“Chư Thiên, Brahmă v.v…. đều biến mất (disappear) suốt
trong ĐÊM dài vô tận này”.
[68] Các “Đấng Kiến Tạo” của các ĐOẠN THƠ TIẾNG PHẠN.
[69] Trích từ Siphra Dzenioutha, chương I, Tiết 16 và tiếp theo; trích lại từ Qabbalah của Myer, trang 232 - 233.
1
So sánh với Siphra
Dzenioutha.
2
Quyển I, trang 50.
1
Các trang 219 - 221.
1
Xem Các Con của
Thượng Đế và Ấn Độ của
người Bà La Môn, trang 230 của Jacolliot.
[70] Nếu điều này mà không có tính cách tiên tri th́ c̣n là ǵ?
[71] Vishnu Purăna, Wilson, Quyển IV, trang 224 - 229.
[72] Thánh kinh Matsya Purăna ghi là Katăpa.
[73] Vishnu Purăna, như trên.
[74] Max Muller dịch là Morya, thuộc triều đại Morya, Chandragupta thuộc về triều đại này. (Xem Lịch Sử Cổ Văn Tiếng Bắc Phạn). Trong chương cclxxii của Thánh kinh Matsya Purăna có nói tới triều đại của người Moryas (hay Maureyas). Cũng trong chương này, ngươi ta đă vạch rơ một ngày kia, triều đại Morya sẽ trị v́ Ấn Độ sau khi phục hồi giống người Kshattriya trong ṿng nhiều ngàn năm nữa. Có điều là sự trị v́ này có tính chất thuần tuư tinh thần chứ không phải là “thế tục”. Nó sẽ là địa hạt của Hoá Thân sắp tới. Đại Tá Tod tin rằng danh xưng Morya (hay Maurya) thoái hoá từ Mori, một bộ lạc Rajpũt; c̣n nhà b́nh giải Mahăvanso lại cho rằng một số hoàng thân quốc thích đă kế thừa danh xưng Maurya từ thành phố tên là Mori, hay theo Giáo sư Max Muller, là Morya-Năgara; theo nguyên bản Mahăvanso danh xưng chính xác hơn. Theo như Huynh Dewan Bădhădur R.Ragoonath Rao ở Madras cho chúng tôi biết th́ bộ Bách Khoa Từ Điển tiếng Bắc Phạn Văchaspattya xác định là Katăpa (Kalăpa) toạ lạc ở trên sườn phía Bắc của Hy Mă Lạp Sơn, do đó, ở Tây Tạng. Trong Bhăgavata Purăna, Skanda xii, cũng có nói như vậy.
[75]
Như trên Quyển III,
trang 325. Văyu Purăna khẳng
định là Moru sẽ phục hồi những
người Kshattriyas vào
1
Xem B́nh luận về Á
Châu.
2
Xem Đàm Luận, trang xi, v, 15.
1
Trong ấn bản 1888, là “ẩn bản” chớ không
phải “biểu tượng”.
1
Trong Nội môn Triết lư, Hoá Công, hay Thượng
Đế được xem như ĐẤNG SÁNG TẠO
(the CREATOR), chỉ là một từ ngữ trừu
tượng, một ư niệm giống như từ
ngữ “đạo quân”(“army”). Cũng như “đạo
quân” là từ ngữ bao quát dùng để chỉ một
đoàn thể các lực lượng hoạt động,
hay các đơn vị hoạt động, tức những
người lính. Cũng vậy, Hoá Công (Demiurge) là một
từ kép để chỉ vô số các Đấng Sáng
Tạo hay Kiến Tạo. E. Burnouf, một nhà Đông
phương học lỗi lạc đă quán triệt được
ư niệm này, khi ông cho rằng Brahmă không sáng tạo ra Trái
Đất, cũng như là phần c̣n lại của
vũ trụ. Ông nói:
Đă tiến hoá từ Linh
Hồn Vũ Trụ, một khi đă tách biệt với
Nguyên nhân Bản sơ, Ngài xạ toàn bộ Thiên Nhiên ra
khỏi ḿnh. Ngài không vượt lên trên nó, mà lại hoà
lẫn với nó; Brahmă và Vũ Trụ hợp thành một
thực thể, mỗi phần đều có Bản
thể Brahmă hoá hiện măi măi.
2
Chương lxxxi.
[76] Sáng Thế Kư I, 11.
[77] Trong các Thánh kinh Purăna của Ấn Độ, Vishnu, Thượng Đế Ngôi Một và Brahmă, Thượng Đế Ngôi Hai, tức là Đấng sáng tạo lư tưởng và thực tế, được lần lượt tŕnh bày tượng trưng: một Đấng biểu lộ hoa sen, một Đấng xuất phát từ đó.
[78] Xem Tiết 9, “Mặt Trăng; Nguyệt Thần, Phoebe”.
[79] Tuy nhiên, không phải là việc một đạo đồ khổ luyện các thần thông để thâm nhập vào Siêu h́nh học Đông phương và các Bí nhiệm của Thiên Nhiên sáng tạo. Kẻ phàm tục (the profane) trong các thời đại đă qua, đă làm giảm giá trị biểu tượng lư tưởng thuần tuư của việc khai thiên tịch địa, biến nó thành ra chỉ c̣n là một biểu hiện của các chức năng sinh dục của con người. Sứ mạng của Nội môn Bí giáo và các đạo đồ vị lai sẽ là cứu chuộc và cao thượng hoá trở lại quan niệm sơ khai đă bị các giáo sĩ và các nhà thần học làm bại hoại khi áp dụng một cách thô tục vào các giáo điều và nhân vật ngoại môn. Việc âm thầm tôn thờ Thiên Nhiên trừu tượng hay thực tượng, tức là biểu lộ thiêng liêng duy nhất, chính là tôn giáo cao cả nhất của Nhân loại.
[80] Nguồn gốc của Kích thước, bản thảo, trang 15 - 16.
[81]
Chắc chắn là
lời của vị được Điểm
Đạo vào các Bí pháp sơ
khai của Thiên Chúa giáo: “Con không biết rằng con là
Thánh Điện của Thượng Đế hay sao?” (1
[82] Người ta chỉ dùng như vậy trong Thánh kinh Do Thái và kẻ sao chép đê tiện của nó (its servile copyist) tức Thần học Thiên Chúa giáo.
[83] Nguồn gốc các Kích thước, bản thảo, trang 16 - 17.
1
Như trên, trang 17.
1
Xét về mặt ngoại môn, các diễn biến
về “vùng đất hứa” cũng bao hàm ư niệm này.
Chúa thường thử thách Pharaoh, và quấy rầy ông
với những bận tâm to tát,” kẻo nhà vua sẽ thoát
khỏi bị phạt, và như thế “dân tộc
được tuyển định”(“chosen people”) của
ông chẳng c̣n có cớ ǵ để ca khúc khải hoàn
lần nữa.
1
Về vùng đất
hứa (Exodus) ii, 10. Bảy đứa con gái của
vị tu sĩ thuộc bộ lạc Midianite đến múc
nước cũng được Moses giúp họ cho
bầy gia súc uống nước; nhờ đó, Moses
được vị tu sĩ gả con gái cho, đó là cô
Zipporah tức Sippara (sóng Nước chói lọi – the shining Wave)
(Về vùng đất hứa, ii 16 - 21). Tất cả
mọi điều này đều có ư nghĩa bí nhiệm.
1 Đối với
người Ai Cập, đó là sự phục sinh
để tái sinh, sau 3 000 năm thanh luyện, hoặc là
nơi Cực lạc (Devachan), hoặc là nơi các “hoạt
trường Chí phúc” (“Field of Bliss”).
[84] Người ta có thể thấy các “Nữ Thần cóc nhái” này ở Boulak tại Bảo Tàng Viện Cairo. Cựu giám đốc thông thái của Viện Bảo Tàng Boulak, ông Gaston Maspero, phải chịu trách nhiệm về lời phát biểu liên quan tới các đền thờ và những lời được khắc trên đó. (Xem Chỉ Nam Bảo Tàng Viện Boulaq, trang 146).
1
Trong Enipsychidion.
1
Nữ Thần Tam thân nơi tượng của
Alcamenes.
1
Thần thoại học cổ truyền bao gồm
cả thiên văn học cổ truyền cũng như là
chiêm tinh học. Các hành tinh là các chiếc kim chỉ ngày
giờ của một vài biến cố định kỳ
trên mặt đồng hồ Thái Dương Hệ của
chúng ta. Do đó, thần Mercury là sứ
giả được chỉ định để duy
tŕ thời gian trong khi có các hiện tượng nhật tinh
và nguyệt tinh hằng ngày. Mặt khác, Ngài có liên quan
tới Thần và Nữ Thần Ánh Sáng.
[85] Trang 7, 8.
[86] Phái Vedanta có một ư niệm hoạt kê và hẹp ḥi (caricatured and dwarfed) là Thái Cực Thượng Đế (Parabrahman) bao hàm toàn bộ vũ trụ, Ngài cũng chính là vũ trụ vô biên này, không có ǵ tồn tại bên ngoài nó.
[87] Ở Ấn Độ, cho tới nay cũng vậy, con ḅ mộng của Shiva và con ḅ cái tiêu biểu cho nhiều Shaktis tức là nữ thần.
[88] V́ thế người Hebrew mới tôn thờ Mặt Trăng.
[89] Hùng và thư, Ngài đă tạo ra chúng.
[90] Bản thảo, các trang 11 - 15.
[91] V́ nó quá linh thiêng. Trong Thánh kinh Phệ Đà, nó được gọi là CÁI ĐÓ (THAT). Nó là “Nguyên Nhân Vĩnh Cửu”, do đó, người ta không thể gọi nó là “Nguyên Nhân Bản Sơ”, từ ngữ này có hàm ư là vào một lúc nào đó, không có Nguyên Nhân.
[92] Bản thảo, các trang 18 - 20.
1
Như trên, trang 21 - 22.
1
Linh vật học: Các vong
linh, Quyển III, trang 117. “Khảo cổ học về
Đức Mẹ Đồng Trinh”.
1
Trang 23.
1 Myer’s Qabbalah (Qabbalah của Myer) trang 335 - 336.
1
Moreh Nebuchim, III, xxx.
2
Xem De Diis Syriis, Teraph., II, Synt, trang 31.
1
I, i, 21.
1
Xem Pausanias, viii, 35 - 38.
2
Cornutus, De Natura Deorum,
xxxiv,1.
1 Các tín đồ Thiên Chúa giáo
La Mă đă kế thừa ư niệm “Hiến dâng tháng Năm
cho Đức Mẹ Đồng Trinh” của kẻ
ngoại đạo Plutarch, ông đă chứng tỏ
rằng “Tháng Năm thật linh thiêng đối với Maia
tức Vesta,” đất được nhân cách hoá thành ra bà
mẹ nuôi dưỡng chúng ta.
1
Thot-Lunus là “Buddha-Soma” của Ấn Độ, tức
là “Thuỷ Tinh và Mặt Trăng.”
1 Dayaneesh.
[93] Ezekiel, viii, 16.
1 Trong ấn bản 1888 là
ẩn dụ khác.
2
Trong ẩn dụ, Thổ chạy trốn, Prithu
đuổi theo. Thổ biến thành ḅ cái, khiếp sợ,
chạy lồng lên và ẩn núp trong địa hạt
của Brahmă. Do đó, nó không
phải là Địa Cầu của chúng ta. Lại
nữa, trong mọi Thánh kinh Purăna,
con bê đều có tên
không giống nhau. Trong một Thánh kinh, nó là Bàn Cổ
Svayambhuva, c̣n trong một Thánh kinh khác, nó là Indra, trong Thánh kinh
thứ ba, nó chính là Hy Mă Lạp Sơn, c̣n núi Tu Di (Meru) là
người vắt sữa. Đây là ẩn dụ có ư
nghĩa thâm sâu hơn chúng ta tưởng.
1
Y nhận thức rơ rệt được những
điều mà người Ai Cập tiên tri về Jehovah (!)
và Đấng Cứu Thế vốn là hiện thân của
Ngài (con rắn lương hảo – the good serpent) v.v…., ngay
cả việc đồng nhất hoá con quái vật Typhon
với con Rồng độc
ác ở vườn Địa Đàng. Thế mà
điều này lại được công nhận như là
một khoa học nghiêm
chỉnh và đúng đắn!
1
Hathor là
1
Trích dẫn của De Mirville, ông hănh diện thú
nhận về sự tương tự mà ông ắt
biết. Xem “Khảo cổ học về Đức Mẹ
Đồng Trinh” trong bộ Các
Vong Linh, Quyển iii, trang 111 - 113.
[94] Pháp Thuật, trang 153.
1
De Mirville, như trên, trang 116 và 119.
2
Thánh ca dâng lên Minerva,
trang 19.
3
Sermon sur la Sainte Vierge. (Bài
giảng về Thánh Mẫu Đồng Trinh)
4
Verg. Ec. iv, 10.
5
Khải Huyền,
Chương xii.
1
Trích từ một bài Diễn văn của ông G.
Massey.
1
Wagner và Mc Dowall, Asgard và
1
Xem De Vita Apollonii, I, xiv.
1
Xem Gerald Massey, Sáng Thế
Kư Tự Nhiên, Quyển I, trang 340, xuất bản
năm 1883.
1
Diễn từ xv, v 1, 2.
2
Diễn từ xi, v. 37.
1
De opificio mundi (Philo
Judaeus), trang 30 và 419.
[95] Cũng v́ vậy, người ta mới cho là con người gồm có bảy nguyên khí, v́ chúng cũng mô tả ṿng tṛn giống như vậy trong chơn ngă và phàm ngă của con người.
[96] Như thế, phép chia ra làm bảy phần đúng là xưa nhất và c̣n có trước cả phép chia ra làm bốn phần. Nó là cơ sở của phép phân loại cổ sơ.
[97] Trong Phật giáo và Nội môn Bí giáo Trung Quốc, người ta tŕnh bày tượng trưng bốn thần như là Tứ Long Thần (four Dragon) – Các Đại Thiên Vương trong các đoạn thơ tiếng Bắc Phạn của Thiền Định Chân Kinh.
[98] Sách đă dẫn, Quyển II, trang 312 - 313.
[99] Như trên, Quyển I, trang 321.
1
Proclus, Timaeus, I.
2
Prep. Evang. I, iii, 3.
1
Sách đă dẫn, trang 366 - 368.
[100] Trong ấn bản 1 888, là “Christos gởi.”
[101] Thiên Khải, x, 4.
1
Thánh thư Job, ii, 1.
[102] Sáng Thế Kư. Vi, 2.
1
James. I, 13.
1
Padma Purăna.
1
Vishnu Purăna, Quyển I,
trang 7 - 8.
1
Quyển II, chương x.
1
Xem Chwolsohn, Nền Nông
nghiệp Nabathea, Quyển II, trang 217.
1
Một ngày của Brahmă dài tới 4 320 000 000 năm – cứ
như thế nhân con số này với 360 ! Ở đây, các
A-suras (phi thần linh tức ma quỷ) vẫn c̣n là các Suras, tức là chư thần
có đẳng cấp cao hơn chư thần thứ
yếu đến nỗi mà trong bộ kinh Phệ Đà không hề đề cập tới.
Chiến tranh kéo dài như vậy thật là có ư nghĩa, nó
cũng chứng tỏ rằng các chiến sĩ chỉ là
các quyền năng Vũ Trụ đă được nhân
cách hoá. Hiển nhiên là v́ lư do bè phái và v́ bị thần học dè bỉu (odium
theologicum), nên sau này khi san định các kinh điển
xưa, chẳng hạn như trong Thánh kinh Vishnu Purăna, người ta đă gán huyễn h́nh
Măyămoha (mà Vishnu khoác lấy) cho Đức Phật và các
Daityas, nếu không đó thật là một điều hoang
tưởng của chính Wilson. Tác giả này cũng tự
cho rằng ḿnh đă t́m ra một điều nói bóng gió
về Phật giáo trong Chí Tôn Ca
(Bhagavad Gĩtă), trong khi mà theo K. T. Telang, ông ta chỉ
tưởng lầm các nhà duy vật Chărvăka thời xưa
là các Phật tử. Theo Giáo sư
1
Phát biểu này liên quan tới cuộc Chiến tranh thứ ba, v́ người ta
đề cập tới các lục địa, sông ng̣i,
biển cả liên quan tới nó.
2
Vishnu Purăna, Wilson,
Quyển III, trang 203 - 205.
1
Vishnu Purăna, Wilson,
Quyển II, trang 36. Câu chuyện Prahlăda – Con của Hiranyakashipu,
Quỷ Vương trong kinh Purănas, kẻ thù lớn của
Vishnu và Đấng trị v́ Ba Cơi – được Vishnu
nhập vào trong tâm.
1
Như trên,
1
Vishnu Purăna, Quyển
III, trang 205.
2
II Biên niên sử, ii, 5.
1
Sáng Thế Kư, xii, 17; Về Vùng Đất Hứa,
viii tới xi.
[103]
“Ngày xưa, có một
lần các Con của
Thượng Đế vào bệ kiến Đức Chúa
Trời, và Quỷ Vương cùng các huynh đệ cũng
kéo nhau vào chầu Chúa Trời.” (Job ii, Abyss, bản văn
[104] Như trên, Quyển III, trang 205 - 207.
1
Tạp chí của Hội
Hoàng Gia Á Châu, xix, 302.
[105] Theo ư kiến của Wilson, kinh Vishnu Purăna là một sản phẩm của kỷ nguyên chúng ta, và dưới h́nh thức hiện nay, nó chỉ mới xuất hiện trong khoảng thế kỷ thứ 8 và thứ 17 là cùng (!!) thật là phi lư!
1
Trang 3.
2
Như trên, trang 2.
3
Như trên, trang 21.
1
Xem Nguyệt Sơn,
tháng Tư năm 1797.
1
[Liên hệ tới việc tiết thực các sinh
vật].
2
Thời xưa, geneto
được xem như có nghĩa là “được sản sinh ra” chứ không phải
chỉ là “hiện hữu”.
(Xem “Nhập môn tác phẩm Parmenides
của Plato” của
3
Chính v́ sự lẫn lộn “biên chu” (“bound”)
với “Vô cực”(“Infinite”)
nên Kapila mới dùng toàn những lời lẽ châm biếm
trong khi tranh luận với các đạo sĩ Yoga
thuộc Bà La Môn giáo, họ cứ khoe rằng ḿnh đă được
chiêm ngưỡng Đấng Chí Tôn trong các cơn linh
thị huyền nhiệm.
1
Như trên.
2
Xem bài của T. Taylor đăng trong Nguyệt San được trích đăng
lại trong Môn đồ phái
Platon, số tháng 2-1887 do T. M. Johnson, P. T. S., Osceola,
Missouri, xuất bản.
[106] Asgard và chư Thiên, trang 22.
[107] Văch “con ḅ cái xinh xắn, cho chúng ta một thứ sữa thật bổ dưỡng”. Thánh kinh Rig Veda mô tả như thế.
[108] Hăy so sánh với Khởi nguyên luận của các Giống dân Sơ Thuỷ, trong tác phẩm này.
1
Tạp chí Theosophist, tháng
12-1887, trang 302 - 303.
1
Như trên, trang 303 - 304.
1
Tạp chí Tam Điểm,
tháng 6 - 1886.
1
Dĩ nhiên là ngoại cảnh trong thế giới Hăo
huyền (the world of Măyă) th́ cũng vẫn có thực y
như chúng ta vậy.
1
Trong khi vũ trụ biểu lộ, nói cho đúng ra
th́ Daiviprakriti (Huyền Quang
của Thượng Đế) nên được gọi
là con của Ngài thay v́ là Mẹ của Ngài. (Tạp chí Theosophist, bài “Giảng lư Chí Tôn Ca” số tháng 2 năm 1 887).
[109] Những nhà thông thái, trong những người hiện đại chúng ta có thể kể Stanley Jevons, phát minh ra một phương pháp khiến cho một điều không thể hiểu được thành ra một thứ cụ thể rơ ràng, đều phải cầu cứu tới các con số và các dạng h́nh học.
1
Pranava tức
[110] Tạp chí Theosophist, số tháng 2 - 1887, trang 307.
[111] Tam Nguyên này chính là ư nghĩa của “ba bước của Vishnu” nghĩa là trong hiển giáo, Vishnu được xem như là Vô Cực; c̣n Thái Cực Thượng Đế xạ ra Hỗn nguyên khí. Tinh Thần (Purusha) (Thượng Đế) và Vật Chất; bốn dạng của Văch cùng với chính nó là phần tổng hợp. C̣n trong Thánh kinh Kabalah, Ain Soph, Shekinah, Adam Kadmon và Sephira, cả bốn (hay ba phân thân riêng biệt) vẫn là MỘT.
[112]
Số
Mục Thánh Thư của
dân
[113] Justin Martyr bảo rằng v́ không biết bốn môn học này, nên ông đă bị các môn đồ phái Pythagoras loại ra, không nhận là ứng viên nhập học trường phái của họ.
1
Diogenes Leartius, trong Vit.
Pythag.
1
31415 tức π, phần tổng hợp, tức
Tập Đoàn hợp nhất (the
Host unified) lại thành
Thượng Đế (Logos) và Huyền Điểm (Point);
Thiên Chúa giáo La Mă gọi nó là “Thiên Thần Bản Diện”
(the “Angel of the Face”), c̣n cổ Do Thái gọi nó là Michael “Đấng
[chẳng khác nào] Thượng Đế”, tượng
trưng cho sự biểu lộ của Ngài.
1
Xuất hiện vào lúc khởi đầu các
1
Sáng Thế Kư Tự Nhiên,
ii, trang 318.
2
Xem Oedipus Aegyptiacus, II,
trang 423.
1
Từ ngữ Ai Cập Naja này nhắc chúng ta nhớ
ngay tới từ ngữ Ấn Độ Năga, Thần Rắn.
Brahmă và Vishnu đều đội vương miện và có
liên quan tới Năgas – đó là dấu hiệu của
đặc tính tuần hoàn vũ trụ của các Ngài.
1
Giảng lư Yashna, trang
274.
2
Đệ Nhất
Đại Luận, trang 59.
1
Dịch giả quyển Qabbalah
của Avicebron nói về Tổng thể như sau:
“Chữ của Kether là Yod, chữ của Binah là Hé, kết
hợp cả hai lại là YaH, nữ Danh. Chữ thứ ba,
chữ của Hokmah là Vau, cả ba kết hợp lại
thành ra YHV của YHVH, tức Tứ Linh tự và thực
sự là các biểu tượng hoàn chỉnh của
hiệu năng của nó. Chữ cuối cùng (Hé) của Huư
danh này luôn luôn được
áp dụng cho sáu Sephiroth hạ đẳng và Sephiroth
cuối cùng, toàn thể hợp thành bảy Sephiroth c̣n
lại”. (Qabbalah của Myer,
trang 263). Như thế, Tứ Linh tự chỉ thiêng liêng
nơi phần tổng hợp trừu tượng. C̣n
về phần Tứ Nguyên bao hàm Bảy Sephiroth hạ
đẳng, điều này thật là sùng bái sinh thực
khí.
2
Dĩ nhiên là phát biểu này sẽ bị nhạo báng
là ngớ ngẩn, phi lư. Nhưng nếu người ta tin
rằng châu Atlantis cuối cùng đă bị nhận ch́m cách
nay 850 000 năm, trong Phật
giáo Nội môn đă dạy như thế - nó đă
bắt đầu ch́m dần dần trong Thời
đệ tam kỷ (Eocene) – th́ người ta cũng
phải chấp nhận phát biểu về cái gọi là
Lemuria, Lục địa của Căn chủng thứ Ba,
nó hầu như bị huỷ hoại bằng hoả tai
trước rồi mới bị ch́m. Giảng lư đă
dạy như sau: “Lục
địa thứ Nhất đă được thanh
luyện bởi bốn mươi chín Linh Hoả,
người dân của nó v́ được sinh ra từ
Lửa và Nước nên không thể chết
được …; Lục địa thứ Hai [cùng với
giống dân của nó] đă biến mất giống như
hơi nước tan biến trong không khí…; Lục
địa thứ Ba đă bị thiêu huỷ hết sau khi
biệt phân giới tính và ch́m xuống ḷng Đại
dương thăm thẳm. Điều này đă diễn ra
cách nay hai lần của tám mươi hai năm tuần
hoàn”. Thế mà một năm tuần hoàn chính là cái mà
chúng ta gọi là một năm thiên văn và có cơ sở
tuế sai. Năm thiên văn dài 25 868 năm thường,
do đó, thời kỳ được đề cập
trong Giảng lư tổng cộng là 4 242 352 năm. Chúng ta
sẽ có nhiều chi tiết hơn trong quyển 3 và 4. Trong
khi chờ đợi, giáo lư này được bao hàm trong
“Các Thánh Vương
1
Trong bộ Do Thái Pháp Điển (the Tamud) và trong mọi hệ thống quốc giáo (dù
là độc thần hay đa thần về mặt
nội môn) đều có thái độ dè dặt như
vậy. Chúng tôi xin trích ra đây một ít định
nghĩa trong lời cầu nguyện của Kippũr, trong
bài thánh thi tuyệt diệu của Tu sĩ Do Thái Bí giáo
Solomon ben Yehuda Ibn Gebirol nhan đề là “Kether Malkhuth”: “Ngài
là Đấng Độc Tôn cội nguồn của mọi
số mục (all numbers) là nền tảng của mọi
dinh thự (edifices). Ngài là Đấng Độc Tôn, kẻ
thông thái nhất cũng chơi vơi trong bí nhiệm
Nhất Nguyên của Ngài, v́ y có biết ǵ đâu. Ngài là
Đấng Độc Tôn, và tính Đơn Nhất của
Ngài thật là thường trụ, bất tăng bất
giảm. Ngài là Đấng Độc Tôn, nhưng đó chẳng phải là một
yếu tố để đếm v́ tính Đơn
Nhất của Ngài đâu có h́nh sắc, đâu có bị
biến phân. Ngài Hiện Tồn; nhưng những
người phàm tục làm sao mà hiểu và thấy
được sự tồn tại của Ngài; họ
cũng chẳng xác định được Địa
vị, Phương sách và Nguyên uỷ của Ngài (nor determine
for thee the Where, the How, and the Why). Ngài Tồn Tại
độc lập, chẳng cần đến một ai.
Ngài Tồn Tại ngoài ṿng giới hạn của không gian
và thời gian. Ngài Tồn Tại một cách thâm u và bí
nhiệm đến nỗi mà không một ai biết
được. Ngài Sống thênh thang ngoài ṿng kềm
toả của thời gian. Ngài đang Sinh động
chẳng phải cho một tinh thần hay một linh
hồn mà chính Ngài là Linh Hồn của Vạn Hồn (the
Soul of all Souls)”. Đấng Thánh Linh Do Thái Bí giáo này thật
là cách xa so với Jehovah trong Thánh kinh (vị Thần Linh
thích báo oán của Abram, Isaac và Jacob, y quyến rũ Abram
rồi lại vật lộn với Jacob). Không một tín
đồ phái Vedanta nào mà lại chối bỏ một Thái
Cực Thượng Đế như thế !
[114] Xem De Mirville, Các Vong Linh, Quyển II, trang 294.
[115] Xem Edkins, Phật giáo Trung Quốc, chương xx. Họ làm như vậy quả là khôn ngoan.
[116] Nếu Ngài bác bỏ nó th́ điều này đă được dựa vào cái gọi là những “biến dịch” (“changes”) hay nói khác đi, đó là những kiếp tái sinh của con người, biến đổi không ngừng. Cũng như chúng ta, Ngài không cho rằng phàm ngă của con người có tính cách bất tử chứ đâu phải Ngài cho rằng Chơn Nhơn không hề bất tử.
1 Các tín đồ Tin Lành có
thể chế nhạo Ngài, nhưng Thiên Chúa giáo La Mă không có
quyền chế giễu Ngài nếu họ không muốn
phạm tội báng bổ. Ấy là v́ Khổng Tử đă
được Thiên Chúa giáo La Mă phong Thánh ở Trung Quốc
từ hơn 200 năm nay; nhờ thế mà Thiên Chúa giáo La
Mă mới có thêm được nhiều tín đồ
cải đạo (converts) đă từng theo Khổng giáo
một cách dại dột (the ignorant Confucianists).
1
Trong Thánh kinh thiếu
ǵ con thú được xem là linh thiêng, chẳng hạn
như con Dê, Azazel tức
Thần Khải Hoàn. Aben Ezra cho rằng: “Nếu bạn có
thể hiểu được bí nhiệm về Azazel, bạn sẽ học
được bí nhiệm về Thánh danh của Ngài, v́ các
Thánh kinh đều có những điều liên quan
tương tự. Tôi sẽ ngầm nói cho bạn biết một
phần của bí nhiệm này, c̣n chừng nào bạn
được ba mươi ba
tuổi, th́ bạn sẽ hiểu tôi”. Bí nhiệm về
con rùa cũng thế thôi. Hân
hoan trước những ẩn dụ thơ mộng trong
Thánh kinh liên kết “các loại đá cháy đỏ”, “các con
thú linh thiêng” v.v…. với tôn danh của Jehovah, và trích dẫn
Thánh kinh Vence (XIX, trang 318),
một tác giả mộ đạo người Pháp đă
cho rằng: “Thật vậy, giống
như Thượng Đế, họ đều là Elohim, v́ nhờ vào một
sự tiếm đoạt thiêng liêng, các Thiên Thần này
đă có được Thánh danh của Jehovah mỗi khi
họ đại diện cho Ngài (De Mirville, Các Vong Linh, Quyển II, trang 294). Chẳng ai ngờ
rằng THÁNH DANH ắt đă bị tiếm đoạt khi Malachim tức là các Sứ
giả đă đội lốt Đấng Vô Cực
Bất Khả Tri, giáng lâm để ăn và uống
với con người. Nhưng nếu trong khi tiếm đoạt Thánh danh,
Elohim, thậm chí các Thực Thể hạ đẳng,
vẫn c̣n đang được tôn thờ, th́ tại sao
khi xuất hiện với danh xưng của các Thần
Linh khác, cũng những Elohim ấy bị gọi là Ma
Quỷ? ”
1
Mathieu, xxiv, 28.
[117] Ch́a khoá giải bí nhiệm Hebrew Ai Cập trong Nguồn Gốc Kích Thước, Phụ lục V, trang 249 (ấn bản 1875) [Xem chú thích bổ sung].
[118] Baraush.
[119] Bryant thật là chí lư khi cho rằng: “Đề cập tới Noah, Druid Bardesin cho rằng khi Noah bước ra khỏi chiếc bè (một chu kỳ mới ra đời) sau khi đă ở trong đó một năm và một ngày, tức là 364 + 1=365 ngày, ông được thần Neptune tán dương là ông đă sinh ra từ nước của trận Đại Hồng Thuỷ; thế rồi, Neptune lại c̣n chúc mừng Năm mới nữa. Xét về mặt nội môn, năm hay chu kỳ là giống người mới do đàn bà sinh ra sau khi đă phân chia giới tính, đó là ư nghĩa thứ yếu của ẩn dụ, ư nghĩa chủ yếu của nó là việc khởi đầu của cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, tức là Sáng Tạo mới. ”
1
Trích từ một bản thảo chưa xuất
bản, trang 11-12. Xem thêm Nguồn
Gốc Kích Thước.
1
Vishnu Purăna, Wilson,
Quyển I, trang 23.
2
Như trên, trang 73-75.
1
Orirgen, Contra Celsum, VI,
xxii.
2
Plato, Timaeus.
1
Theo một lời b́nh giải Fitzedward Hall dịch
lại khi cho ấn hành bản dịch của
2
Làm sao mà “chư thần” lại có thể
được tạo ra sau loài thú vật? Thành ngữ “thú
vật” có ư nghĩa nội môn là mầm
mống của mọi sinh linh động vật,
kể cả con người. Con người
được gọi là một con
vật hy sinh, nghĩa là trong số tạo vật
động vật, chỉ duy có nó là được
hiến dâng cho chư Thiên. Hơn nữa, người ta
cũng đă vạch rơ là trong các Thánh kinh, các “con thú linh
thiêng” thường có nghĩa là mười hai cung của
Hoàng Đạo.
3
Vishnu Purăna, Wilson,
như trên, trang 74 - 75.
1
Xem Luật Bàn Cổ,
I, v, 74, trang 10.
[120] Sách đă dẫn, I, ix.
[121] Qabbala của Myer, trang 415 - 416.
[122] Contra Haer, I, xvii, trang 1. Các tác phẩm của Irenaeus, 1, trang 73.
[123] Như trên, I, xxx.
[124] Chỉ cao cấp hơn các Chơn Linh, tức các “Tầng Trời” của Địa Cầu mà thôi.
[125] Như trên, I, v, 2.
[126] Xem Nữ Isis Lộ Diện, II, trang 183.
[127] Các tín đồ phái Ngộ Đạo và Các di tích của King, trang 97. Các giáo phái khác xem Jehovah như là chính Ildabaoth. King đồng nhất Ngài với Thần Saturn.
[128] Luật Bàn Cổ, I, v, 33.
[129] Irenaeus, I, xxx, 6.
1
Tuy nhiên, đặc tính này cũng bị lộ ra
ở đâu đó. Xem thêm phần trích dẫn của Ibn
Gebirol bàn về 7 tầng trời, 7 tầng đất v.v….
[130] Chúng ta không được lẫn lộn điều này với “U MINH” tiên thiên (precosmic “DARKNESS”), ĐẤNG TỔNG THỂ Thiêng Liêng (the Divine ALL).
[131] Chương i, 2, ngoài ra c̣n phần đầu của chương ii.
1
Trừ phi được xác định khác đi, khi
bàn về bảy Tạo Vật, tất cả các lời
trích dẫn sau đây đều được trích từ
Vishnu Purăna, của Wilson,
Quyển I, chương i đến chương v.
1 Brucker, như trên.
1
So sánh Sáng Thế Kư,
xix, 34 - 38 và iv, 1.
1
Vishnu vừa là Bhũtesha, “Ngũ hành Tinh Quân” (“Lord of
the Elements”), và “Vạn Hữu Tinh Quân”, vừa là
Vishvarũpa, “Chất Liệu Vũ Trụ” tức Linh
Hồn Vũ Trụ.
2
Vishnu Purăna, Wilson,
Quyển I, trang 33.
1
Về các hậu kiểu
(post-types) của chúng, xin so sánh bộ Đại
Luận do Trithemius, Sư phụ của Agrippa, soạn vào
thế kỷ thứ mười sáu, “liên quan đến
bảy Đấng Thông Tuệ Tinh Thần thứ yếu
đă khơi hoạt Vũ Trụ sau Thượng
Đế”. Ngoài các chu kỳ bí nhiệm và nhiều lời
tiên tri ra, Bộ Đại Luận này c̣n tiết lộ
một vài sự kiện và tín ngưỡng về chư
Thần Linh hay Elohim, các Ngài chủ tŕ và dẫn dắt
bảy Giai đoạn sinh hoá của Thế giới.
2
Ngay từ đầu, các nhà Đông phương
học đă thấy là ḿnh bị rất nhiều khó
khăn trở ngại khi muốn xác định bất
cứ trật tự khả hữu nào trong các Tạo Vật Purănas. Wilson
rất thường lẩm lẫn Brahman với Brahmă; v́
thế ông mới bị những người hậu sinh
chỉ trích kịch liệt về bản dịch Vishnu Purăna, ông Fitzedward Hall thích
các Kinh điển Bắc
Phạn Nguyên Thuỷ hơn là kinh sách do Wilson sử
dụng. Vị chủ nhân tác phẩm này đă cho rằng:
“Nếu Giáo sư
1
Sách đă dẫn, trang 74.
2
Trang 75.
[132] Văyu Purăna. [Xem Vishnu Purăna, Wilson, Quyển I, 77.]
[133] Tuyển Tập, Quyển III, trang 381.
[134] [Charăchara được hợp thành bởi chara (chuyển động) và achara (bất động).]
[135] Quyển I, trang 74.
[136]
Giáo sư
[137] Chẳng phải là cây cỏ, cũng chẳng phải là thú vật mà là một thực thể trung gian chuyển tiếp giữa hai giới đó.
[138] Năm Năm Minh Triết Thiêng Liêng, trang 276, “Chơn Thần Khoáng Vật”.
[139]
Giáo sư
[140] Xem Sănkhya Kărikă, v, 46.
[141] Parăshara, vị Thánh Hiền phái Vedas, người đă được Pulastya truyền thụ cho Vishnu Purăna để dạy lại cho Đức Di Lặc, đă được các nhà Đông phương học gán cho sống vào nhiều thời đại khác nhau. Từ điển cổ Ấn Độ đă nhận xét rất đúng rằng: “Các suy đoán về kỷ nguyên của ông khác nhau rất nhiều trong khoảng từ năm 675 trước Thiên Chúa giáng sinh đến 1391 trước T. C., và không thể tin tưởng được”. Đúng thế. Nhưng chúng cũng đâu có ǵ không đáng tin cậy hơn bất cứ nhật kư nào khác đă được ấn định bởi các nhà nghiên cứu tiếng Bắc Phạn vốn đă lừng danh biết bao trong lănh vực độc đoán và hoang tưởng.
[142] Các Ngài có thể thật sự là “tạo vật” đặc biệt hay ngoại hạng, v́ nhờ vào việc lâm phàm trong các xác người vô tri vô giác của hai Căn chủng đầu và một phần lớn Căn chủng thứ Ba nên các Ngài mới tạo ra một giống dân mới (tạm gọi như thế); đó là giống người thiêng liêng, hữu thức và biết suy tư.
1
Từ điển cổ điển Ấn
Độ.
2
[Danh sách thực sự là Sanaka, Sanandana, Sanatana, Ăsuri,
Kapila, Borhu và Panchashika. Xem giảng lư Gaudapăda về mục
x, 1.]
1
Linga Purăna, Tiết
trước lxx, 174.
1
Xem Bàn Cổ, I, 10.
2
Xem Linga, Văyu và Mărkandeya
Purănas. Xem Vishnu Purăna,
Wilson Quyển 1, trang 56 - 57.
1
Xem Quyển 3, Phần I ĐOẠN KINH 9, Phần b́nh luận.
1
[Sanat là một tôn danh
của Brahman (Huyền Không Thượng Đế)].
2
Theo lối tŕnh bày trong ấn bản 1888, là Thiên Thần có Bản diện là
MIKAEL.
3
Xem chương xii, 1.
1
Xem Phụ lục,
Tiết 11 và 12.
1
Movers, Phơnizier, trang 282.
[143] Weber, Akad, Vorles, trang 231 - 214, v.v….
[144] Quyển IX, trang 850.
1
Stromata, I, 2, v, 6.
[145] Xem Nữ Thần Isis Lộ Diện, Quyển I, trang 325.
1 Nếu tin theo lời của
đạo sư Jeremiah, th́ Gehenna trong Thánh kinh là một thung lũng ở gần
[146] I, vi, i.
[147] Nhân Loại Thánh Thư (Codex Nazaroeus), I, 47; xem them Thánh thi lxxxix.
[148]
Thánh thư
[149] Về các Thánh Danh, bản dịch của Darboy, trang 364 (Được trích dẫn trong Các Vong Linh, Quyển II, trang 322.)
[150] Xem De Mirville, Các Vong Linh, Quyển ii, trang 322.
[151] Sự Tương Hệ của các Lực Vật Lư, trang 89.
[152] Như trên, xiv.
1
II, Sam, xxii, 9, 11.
2
Thánh thư Đệ
nhị giới luật, iv, 24.
1
Sách đă dẫn, Quyển III, trang 415.
1
Thánh thư II, Samuel,
xxii, 14, 15.
2
Herodotus “Polymnia,” 190 - 191.
1
Chương vii, 24.
1
Kinh Pháp Hoa (Fa-hwa-King).
2
Xem Sứ mạng của
dân Do Thái.
1
Vén màn bí mật Trung
Quốc, trích dẫn trong Tục
thờ cúng sinh thực khí của Hargrave Jennings, trang 273.
1
Trang 202.
2
Sách đă dẫn, trang 60.
[153] Như trên, tức Shakti, quyền năng.
[154] O’Brien, Các Tháp Tṛn ở Ái Nhĩ Lan, trang 61, được Hargrave Jennings trích dẫn lại trong Tục sùng bái sinh thực khí (Phallicism), trang 246.
[155] Nhập môn tôn giáo học, trang 332.
1
Panthéon égyptien, text 3.
[156] Dĩ nhiên là tŕnh độ
trí thức của họ có bản chất khác hẳn
bất cứ thứ ǵ mà chúng ta có thể quan niệm ra
trên Trần Thế.
[157] Xem Bức thư thứ Ba
của ông gởi cho Bentley.
1 Thiên Đàng Đă Mất,
Quyển VII.
1 Chân Lư Lược Khảo
của Bacon.
[158] Thiên Đàng Đă Mất, Quyển III.
[159] Khái Niệm Về Vật Lư
Hiện Đại, trang XI, XII, Phần dẫn nhập của
bản thứ 2 và thứ 3.
1 “ Khảo cứu các thực
nghiệm về quan hệ giữa điện trở
của không khí và nhiệt độ của nó, trang 68,
dịch theo đoạn trích dẫn của Stallo, trang 12,
Phần dẫn nhập.
[160] Trích từ bài phê b́nh Khái
Niệm Về Vật Lư Hiện Đại đăng trên
báo Thiên Nhiên. Xem tác phẩm
của Stallo, trang XVI, Phần dẫn nhập[Bài phê b́nh
được đề cập tới được đăng
trên báo Quốc Gia ở
[161]
Bàn về vấn
đề nhiệt và ánh sáng trong Tạp
chí Khoa Học số tháng 11 năm 1881, ông Robert Ward đă
chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng khoa học không
biết ǵ về một trong các sự kiện quen thuộc
nhất của Thiên Nhiên, đó là nhiệt của Mặt
Trời. Ông cho rằng: “Vấn đề nhiệt của
mặt trời đă là chủ đề điều nghiên
của nhiều nhà khoa học:
[162] Xem Sự Tương Hệ Giữa Các Lực Vật Lư, Lời nói đầu trang xiii.
[163] Dạ Hội, quyển ii.
[164] Bất cứ người nào có khuynh hướng nghi ngờ phát biểu này cũng nên đọc tác phẩm nêu trên của Stallo Khái Niệm Về Vật Lư Hiện Đại, một tác phẩm đă bị kịch liệt chỉ trích và phản đối. Ông cho rằng: “Việc khoa học ra mặt chống đối với các lư luận của siêu h́nh học đă khiến cho đa số các chuyên viên khoa học giả định là các phương pháp và các kết quả của cuộc khảo cứu thực nghiệm hoàn toàn độc lập với sự kiềm chế của các luật tư tưởng . Họ hoặc là âm thầm lờ đi, hoặc là công khai chối bỏ các tiêu chuẩn đơn giản nhất của luận lư học, kể cả các luật phi mâu thuẫn (non-contradiction), và … vô cùng bực bội (resent) với mọi áp dụng của quy tắc phù hợp với các giả thuyết và lư thuyết của họ … và họ coi việc xem xét (chúng) … dưới ánh sáng của các luật này như là một sự can thiệp thô bạo của các nguyên tắc và phương pháp tiên nghiệm vào trong phạm vi các khoa học thực nghiệm. Những kẻ thuộc loại đó cứ t́m cách chủ trương rằng các nguyên tử hoàn toàn trơ, đồng thời lại khẳng định rằng các nguyên tử này đàn hồi hoàn toàn. Trong khi chủ trương rằng xét cho cùng, vũ trụ vật chất gồm toàn vật chất “trơ” th́ họ lại không chịu nh́n nhận rằng mọi năng lượng vật chất đều thực sự là động năng. Trong khi cho rằng xét cho cùng, mọi dị biệt hiện tượng trong ngoại giới đều do nhiều chuyển động khác nhau của các đơn vị vật chất hoàn toàn đơn giản, th́ họ lại bác bỏ kiến nghị cho rằng các đơn vị này bằng nhau“ (trang xix). Thật là mù quáng (the blindness of eminent) khi thấy các nhà vật lư lỗi lạc cứ lờ đi một vài hệ quả hiển nhiên nhất của các lư thuyết của chính họ. “Khi Giáo sư Tait ( cùng với Giáo sư Stewart) tuyên bố rằng ‘vật chất chỉ thụ động mà thôi’ (Vũ Trụ Vô H́nh, Tiết 104) và rồi, cùng với William Thomson, ông cho rằng ‘vật chất có một năng lực bẩm sinh chống lại các tác dụng ngoại lai’ (Luận Về Khoa Học Tự Nhiên, Quyển I, Tiết 126) chẳng nhẽ chúng ta lại xấc xược (hardly impertinent) hỏi xem làm thế nào có thể dung ḥa các phát biểu đó được. Giáo sư Du Bois Reymond … cứ khăng khăng đ̣i là phải thu gọn mọi tiến tŕnh của thiên nhiên thành ra các chuyển động của một cơ sở trơ trơ đầy thực chất (indifferent substratum), hoàn toàn không có tính chất nào (wholly destitute of quality) (Ueber die Grenzen des Naturerkennens, trang 5). Thế mà, ngay trước đó trong cùng một bài diễn văn, ông lại tuyên bố rằng: ‘Cứu cánh của khoa học tự nhiên chính là phân giải mọi biến dịch trong thế giới vật chất thành ra chuyển động của các nguyên tử mà các lực trung tâm cố định đă tạo ra‘. Nếu thấy hoang mang quá th́ chúng ta nên để chúng qua một bên.” (Lời nói đầu, xlii - iii).
1 Stallo, sách đă dẫn, trang
ix.
1 Tạp chí Silliman, Quyển
viii, trang 364 và tiếp theo.
2 Xem Luận Về
Điện của Clark Maxwell, và hăy so sánh với Luận
Tŕnh về sự Tán Sắc của Ánh Sáng, của Cauchy.
[165] Stallo, sách đă dẫn, trang x.
1 Thiên Nhiên, Quyển xxvii, trang
304.
[166] Sách đă dẫn, trang xxiv.
1 Stallo kêu lên: “Hơi khác à!
Thực ra từ ngữ ‘hơi’ (‘somewhat’) này có ư nghĩa là
xét theo bất cứ ư nghĩa khả niệm nào, môi
trường đang xét đều không hề có tính
chất nào của vật chất”. Mọi tính chất
của vật chất đều tùy thuộc vào những
dị biệt và những biến dịch, thế mà ether,
theo giả thuyết được xác định ở
đây, chẳng những không có các dị biệt mà lại
c̣n không thể dị biệt và biến dịch (theo
nghĩa vật lư). Điều
này chứng tỏ rằng nếu ether là “vật
chất”, th́ nó chỉ là vật chất theo nghĩa tinh thần (tức là một
cái ǵ vô h́nh vô hiện); thật vậy, nó là một Thực
Thể (Being) – nhưng không thuộc cảnh giới
của chúng ta – Hậu thiên khí tức Tiên thiên khí (Aether, or
Ăkăsha).
[167] Các nguyên nhân có thực (real causes) đối với vật lư học lại là các nguyên nhân hăo huyền đối với nhà Huyền bí học và ngược lại.
[168] Ngược lại, từ khi ra khỏi trạng thái trung ḥa, nó đă “biến phân” rất nhiều.
[169] Sách đă dẫn, trang xxiv – xxvi.
1 Bảy
Bài Học Vật Lư Tổng Quát, trang 38 và tiếp theo,
nhà xuất bản Moigno.
1 Định nghĩa 8.
Quyển I: Mệnh đề 69 “Giảng Lư Cổ Văn Hy
La” (“Scholium”).
2 Xem Chủ Nghĩa Duy Vật
Hiện Đại, của Wilkinson.
1 Le Couturier, một nhà Duy
vật cho rằng: “Đối với công chúng ngày nay,
hấp lực đă trở thành cái mà đối với
chính
[170] Nếu chúng ta phải tin tưởng vào “các Thần” (“God”) và các “Chơn Linh” (“Spirits”) tác động, trong khi lại bác bỏ một Thượng Đế nhân h́nh (personal God), th́ chúng ta xin đáp lại các nhà Hữu thần và các nhà Độc Thần: “Cứ thừa nhận rằng Jehovah của bạn là một trong các Đấng Elohim, và chúng tôi sẽ sẵn sàng nh́n nhận Ngài. Nếu các bạn cứ biến Ngài thành ra Thượng Đế Vô cùng, ĐỘC TÔN và Vĩnh Cửu, chúng tôi sẽ không bao giờ chấp nhận Ngài với tính cách này. Các vị thần của bộ lạc th́ có nhiều; c̣n Thượng Đế Độc Tôn Đại Đồng Vũ Trụ là một nguyên khí (the One Universal Deity is a principle), một ư niệm gốc trừu tượng (an abstract Root-Idea), không thể liên quan tới công tác ô trược của h́nh hài hữu hạn. Chúng tôi không tôn thờ Thần Linh, chúng tôi chỉ tôn kính các Ngài v́ cao cả hơn chúng ta. Về vấn đề này, chúng tôi đă tuân theo huấn điều của Moses, trong khi các tín đồ Thiên Chúa giáo lại không tuân theo Thánh Kinh, nhất là các nhà truyền giáo. Trong tác phẩm Về Vùng Đất Hứa, xxii, 28, Jehovah đă phán: “Đừng có lăng nhục chư Thần”, nhưng đồng thời, trong câu thơ 20, Ngài lại căn dặn: “Kẻ nào cúng tế bất cứ Thần Linh nào (ngoại trừ Chúa Trời ‘the Lord’) y sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn (he shall be utterly destroyed)”. Nay trong kinh điển nguyên bản, đó không phải là “Thần Linh”, mà là Elohim – chúng tôi thách ai căi lại được - và Jehovah là một trong các Đấng Elohim, điều này đă được chính Ngài xác nhận trong Sáng Thế Kư, iii, 22, khi “ Đức Chúa Trời phán: Xem ḱa, Con Người đang biến thành chính Ta”. V́ thế, cả những kẻ tôn thờ và cúng tế Elohim, các Thiên Thần và Jehovah lẫn những kẻ lăng nhục chư Thần của các tín đồ đều phạm trọng tội hơn là các nhà Huyền bí học hay bất cứ nhà Minh Triết Thiêng Liêng nào. Trong khi đó, nhiều nhà Minh Triết Thiêng Liêng lại thích tin tưởng vào một “Đấng Chí Tôn” nào đó và muốn làm ǵ tùy thích.
[171] Cứ xem “các loài phi vật chất giống như sắt gỗ (wooden iron)” và cứ chế nhạo Spiller v́ đă đề cập tới chúng như là “vật chất phi thể” (“incorporeal matter”) cũng không giải được bí nhiệm này. (Xem Các Khái Niệm và Lư Thuyết của Vật Lư Hiện Đại, trang 165 và sau này).
[172] Xem Vossius, Quyển II, trang 528.
1 De Coelo, L, 9.
2 De Motibus Planetarum Harmonicis,
trang 248.
1 Sinh Hoạt Thế Giới,
Giáo sư Winchell, Tiến sĩ Luật khoa, trang 50.
2 Toàn cảnh Thế giới
(Panorama des Mondes) trang 47 và 53.
[173]
[174] Như trên, trang 49 - 50.
1 Khi đọc các tác phẩm
của Isaac Newton một cách vô tư, chúng ta sẽ thấy
rơ là ông đă phân vân biết bao, không biết nên chọn
lực hấp dẫn, hấp lực, sức đẩy
hay một nguyên nhân chưa
biết nào khác để giải thích chuyển
động đều đặn của hành tinh. Nhưng
chúng ta hăy thử xem Luận
về Màu sắc của ông (Quyển III, Câu hỏi 31)
Herschel cho ta thấy rẳng
2 Theo quan điểm duy
vật trong vật lư học, không thể có chuyển
động thực sự rơ rệt trong không gian hay chân
không thần túy; do đó CHUYỂN ĐỘNG vĩnh cửu (the eternal MOTION) trong Vũ Trụ -
được xem như là Không gian vô cực – chỉ là
một điều bịa đặt. Một lần
nữa, quan niệm trên lại chỉ chứng tỏ là Tây
phương chưa bao giờ hiểu được các
thành ngữ của siêu h́nh học Đông phương
như là “Không gian thuần túy” (“pure Space”), “Hiện tồn
thần túy”(“pure Being”), “Tuyệt Đối”(“Absolute”)v.v….
3
[175] Trích từ Sinh Hoạt Thế Giới, của Winchell, trang 379
1 Sự Tương Hệ
của các Lực Vật Lư, trang 170 - 173.
[176] Xem Tạp chí Đức Quốc số ngày 31-12-1860, bài “Các Thư tín và Các cuộc mạn đàm của Alexandre Humboldt”.
1 Winchell, Sinh Hoạt Thế
Giới, trang 607.
2 Như trên.
[177] Winchell, Sinh Hoạt Thế Giới, trang 553
[178] Nhưng hăy xem Thiên văn học thời Trung cổ, của Delambre.
[179] Xem Nữ Thần Isis Lộ Diện, I, trang 270 - 271.
[180] Sinh Hoạt Thế Giới, trang 554
1 Godefroy, Vũ tụ khởi nguyên luận Thiên Khải.
[181] Các từ ngữ “cao” và “thấp” chỉ là tương đối so với vị trí của quan sát viên trong Không gian. Nếu việc dùng các từ này mà lại có khuynh hướng khiến chúng ta có cảm tưởng là chúng tượng trưng cho các thực tại trừu tượng, th́ tất nhiên điều này sai lạc.
2
Jacob Ennis, Nguồn Gốc
các V́ Sao.
3
Trang 99, Chú thích cuối trang.
4
Nếu quả đúng như vậy, làm sao khoa học
giải thích được kích thước tương
đối nhỏ của các hành tinh gần Mặt Trời
nhất? Lư thuyết về tập hợp sao băng
lại càng xa chân lư hơn là quan niệm tinh vân, thậm chí
không có được tính chất của lư thuyết tinh
vân – nguyên tố siêu h́nh của nó.
1
2
Faye, Phúc Tŕnh, Quyển xc, trang 640 - 642.
3
Wolf.
4
Toàn Cảnh Thế
Giới LeCouturier.
5 Winchell, Sinh
Hoạt Thế Giới, trang 140.
6 Diễn văn của William Thomson về
“Thuyết động lực tiềm tàng liên quan tới
nguồn gốc khả hữu, tổng nhiệt lượng
và chu kỳ sống của Mặt Trời”, 1887.
[183] Thomson và Tait: Thiên Nhiên Học. Bischof không đồng ư với Thomson về các số liệu này, và tính toán là trái đất cần phải mất 350 000 000 năm để nguội đi từ 20 0000 bách phân xuống c̣n 2000 bách phân. Đó cũng là ư kiến của Helmholtz.
1 Định luật Coulomb.
2
Bảo Tàng Viện Khoa
Học, số ra ngày 15-08-1857.
[184] Toàn Cảnh Thế Giới, trang 55.
[185] Tạp chí Hai Thế Giới (Revue des Deux Mondes), số ra ngày 15-7-1860.
[186] Vũ Trụ học.
[187] Dạ hội.
[188] Diễn văn, trang 165.
[189]
Trang 28.
[190]
Các Vong Linh, Quyển IV, trang 155 – 156.
[191] Khoa Học Hiện
Đại và Tư Tưởng Hiện Đại, của
Laing.
[192] Như trên, trang 17.
[193]
Trời và Đất.
[194]
Winchell, “Sinh Hoạt Thế Giới”, trang 196.
[195]
Vũ trụ giải thích theo Thiên Khải. Nhưng hăy
xem Đệ Nhị Luận Tŕnh của De Mirville. Tác
giả vốn là một địch thủ ghê gớm
của Huyền bí học, song lại viết ra các
đại chân lư.
[196]
Xem Kabbala Denudata, II, trang 67.
[197]
Về Sự Phân Biệt Các Lực, đăng trong
Kỷ Yếu Hàn Lâm Viện Khoa Học Montpellier, Quyển
II, tập I, năm 1854.
[198]
Der Weltoether als
[199] Xem
Tạp chí Khoa Học Phổ Thông, Quyển v, trang 329 – 334.
[200]
Xem Sự Tương Hệ
của các
[201]
Xem Điện Học của
Buckwell.
[202]
Schelling, Ideen v.v… trang 18.
[203] Sách đă dẫn, trang 161.
[204]
Nguyên lư, Định nghĩa, iii.
[205]
Tạp chí Triết Học,
Quyển ii, trang 252.
[206] Khái
niệm về Vật Lư Hiện Đại, trang xxxi,
Phần dẫn nhập ấn bản thứ nh́.
[207]
Lời đă dẫn.
[208] J.P.Cooke,
Tân Hóa Học, trang 5.
[209] Điều đó có nghĩa là các
khối lượng bằng nhau của mọi chất, khi
ở thể hơi và trong cùng một điều kiện
về áp suất và nhiệt độ, đều có
chứa số lượng phân tử nhu nhau. Do đó, suy ra
trọng lực của các phân tử tỷ lệ với
khối lượng riêng của các chất hơi; v́
vậy, nếu các chất hơi có khối lượng
riêng khác nhau, th́ trọng lượng của các phân tử
cũng khác nhau. V́ các phân tử của một vài chất
sơ cấp có tính đơn nguyên tử (mỗi phân
tử chỉ gồm có một nguyên tử) trong khi mà các
phân tử của nhiều chất khác lại chứa cùng
một số nguyên tử, nên các cực vi tử của các
chất như thế có trọng lượng khác nhau” (Khái
niệm về Vật Lư Học Hiện Đại, trang
34). Sau này, chúng ta sẽ thấy là nguyên lư chính yếu này
của hóa học lư thuyết hiện đại hoàn toàn mâu thuẫn với
đề nghị thứ nhất của thuyết nguyên
tử cơ giới – đó là: “các đơn vị
khối lượng nguyên thủy hoàn toàn bằng nhau”.
[210]
Wundt, Vật Chất Thuyết, trang 381.
[211]
Nazesmann, Nhiệt Hóa Học, trang 150.
[212] Tạp chí Khoa Học Chuyên Môn, Quyển xiv, trang 321.
[213]
Đề cập tới “Hào quang”,
một trong các Thánh Sư nói như sau trong Thế Giới
Huyền Linh: “Thật vậy, làm sao bạn có thể
hiểu được việc điều khiển các
lực bán thông tuệ, chúng liên giao với chúng ta chẳng
phải là bằng ngôn ngữ, mà là bằng âm thanh và màu
sắc tạo thành mối tương hệ giữa các
rung động của hai bên”. Chính mối tương
hệ này là điều mà khoa học hiện đại
không biết, mặc dù nó đă được các nhà
Luyện kim đan giải thích nhiều lần.
[214]
Tuy nhiên, Chất liệu
của nhà Huyền bí học đối với Chất
liệu tinh anh nhất của nhà vật lư học cũng
giống như Chất
liệu Quang huy (Radiant Matter) đối với da giày
của nhà hóa học.
[215]
Tất cả các danh xưng
của Bảy Tia – đó là Sushumnă, Harikesa, Visvakarman,
Visvatryarchăs, Sarvăvasu, và Svarăj, đều huyền bí, mỗi
danh xưng đều được áp dụng riêng trong
một trạng thái ư thức riêng biệt để
đạt được các kết quả huyền bí. Tuy
nhiên, tia Sushumnă – trong Nirkuta (II, 6) có nói là nó chỉ chiếu
sáng Mặt Trăng, là Tia mà các đạo sĩ Yoga
được điểm đạo rất quư chuộng.
Toàn bộ Bảy Tia lan tràn khắp Thái Dương Hệ,
cấu thành Upădhi [cơ
sở] vật chất (tạm gọi như thế)
của ether khoa học. Ánh
sáng, nhiệt, điện v.v… các Lực của khoa học
chính thống liên hệ với nhau trong Upădhi này để
tạo ra các hiệu quả trên trần thế. Với
tư cách là các hiệu quả tâm linh và tinh thần, chúng
bắt nguồn từ hiện thể siêu thái dương,
Dĩ Thái của các nhà Huyền bí học tức Tiên thiên
khí (Ăkăsha).
[216] Thuyết
Lưu Chất Ánh Sáng và Nhiệt của Leslie.
[217] Lịch sử Văn Minh của Buckle, Quyển iii, trang 384.
[218]
Trong ấn bản 1888, câu này
được tŕnh bày như sau: Do đó, xét về sự
hiểu biết cấu tạo tối hậu của
vật chất (tức là khi phân tích tối hậu –
đối nghịch với phân tích sơ bộ - trong hóa
học) mặc dù Huyền bí học có thể kém hiểu
biết hơn về tác dụng của các nguyên tố hóa
hợp trong nhiều trường hợp tương
hệ về vật lư khác nhau….
[219]
Trên cảnh giới
biểu lộ và vật chất hăo huyền có thể là
như thế; chẳng phải là không c̣n ǵ hơn nữa,
v́ thật ra c̣n hơn thế nhiều.
[220]
Trung ḥa tức Laya.
[221]
Các Bức Thư Khoa Học, Giáo
sư A. Butlerov.
[222]
Như trên.
[223]
Như trên.
[224] Như
trên.
[225]
Nhiệt mặt trời
được gọi là “kẻ uống nước” và nó
khiến cho nước bốc hơi.
[226]
Vishnu Puranăs,
[227]
Rămănujăchărya, người sáng
lập ra nó, sinh năm 1017, sau T. C.
[228]
Trong kinh
[229]
Trang 329 – 334.
[230]
Không những là “qua không
gian”, mà c̣n lấp đầy mọi điểm trong Thái
Dương Hệ, v́ đó là cặn bă vật chất
(tạm gọi như vậy) của Dĩ Thái, lớp lót (lining) của nó trên cảnh giới của chúng ta.
Ngoài việc làm tác nhân (agent)
truyền ánh sáng ra, Dĩ Thái c̣n được dùng cho các
mục đích vũ trụ và trần thế khác. Đó là
Lưu chất Tinh Tú (the Astral Fluid) tức “Tinh Quang” của
các tín đồ Do Thái Bí giáo và và “Thất Huyền Xạ”
(the “Seven Rays”) của Thái Dương-Vishnu (Sun-Vishnu).
[231]
Thế th́ cần ǵ có các sóng ether
để truyền ánh sáng, nhiệt v.v… nếu chất
liệu này có thể đi qua được chân không.
[232]
Làm sao khác hơn
được? Vật chất khả
lượng thô sơ (gross
ponderable matter) là thể là lớp vỏ của Vật
Chất hay Chất liệu, nguyên khí âm thụ động;
c̣n Vô cực điện là nguyên khí thứ nh́, Sinh khí (Prăna)
tức nguyên khí dương chủ động. Trên
địa cầu của chúng ta, Chất liệu này là
nguyên khí thứ nh́ là Hành thất phân (tức Địa);
trong khí quyển, nó là Phong tức là thể thô trược
vũ trụ; nơi Mặt Trời, nó trở thành Nhật Thể (the Solar Body) và nguyên khí Thất Huyền Xạ; trong Không
Gian Tinh Đẩu (Sidereal Space), nó tương ứng
với một nguyên khí khác v.v… Tổng thể chỉ là
một Nhất Nguyên đồng chất, c̣n mọi
phần tử đều là biến phân.
[233]
Hoặc là sự dội lại
của âm thanh trên cảnh giới chúng ta của
cái vốn là chuyển động trường kỳ
của Chất liệu đó trên cảnh giới cao.
Thế giới và các giác quan của chúng ta bao giờ
cũng là nạn nhân của Hăo
huyền (Măyă).
[234]
Điều này là một thú
nhận chân thật.
[235]
Song nó không phải là Dĩ Thái
(Ether), mà chỉ là một trong các nguyên khí của dĩ thái,
chính dĩ thái lại là một trong các nguyên khí của tiên
thiên khí (Ăkăsha).
[236]
Sinh
khí (Nguyên sinh khí)
thấm nhuần hết cả cơ thể sống
động của con người như thế đó;
nhưng nếu chỉ một ḿnh, không có một nguyên
tử để tác động lên, nó sẽ yên tịnh –
chết; nghĩa là sẽ ở trạng thái trung ḥa,
hoặc theo lối nói của Giáo sư Crookes, “bị
mắc kẹt trong nguyên h́nh chất”. Chính tác động
của Vô cực điện dối với một hợp
chất, thậm chí đối với một đơn
chất, đă tạo ra cuộc sống. Khi một vật
thể chết đi, nó chuyển thành dạng phân cực
giống như năng lượng, do đó, trục
xuất tác nhân tích cực; khi không c̣n kiểm soát
được tổng thể nữa, tác nhân tích cực
đó bám chặt lấy các phần tử tức các phân
tử (molecules), đó là tác dụng khoa học.
[237]
Thật vậy, trừ
phi các tín đồ Do Thái Bí giáo chọn dùng các thuật
ngữ huyền bí.
[238]
Chỉ “bất di bất
dịch” trong các chu kỳ khai nguyên, sau đó, nó lại ḥa
lẫn với Hỗn nguyên khí (Mũlaprakriti); có bản
thể “vô h́nh” măi măi, nhưng nếu biểu lộ thành ánh
quang huy hay phản chiếu, nó lại được các tín
đồ Do Thái Bí giáo hiện đại gọi là Tinh Tú
Quang (the Astral Light). Thế nhưng, có các thực thể cao
cả và hữu thức vẫn ngự và hoạt
động trong bản chất này.
[239]
Người ta phải thêm tính
từ (tĩnh từ) khả lượng để phân
biệt nó với chất Dĩ Thái vốn cũng là
vật chất, mặc dù là lớp nền móng (substratum).
[240]
Huyền bí học phát biểu
ngược lại và cho rằng chính Mặt Trời và
mọi Mặt Trời mới xuất phát từ nó; nó
được Mặt Trời
Trung Ương xạ ra vào lúc bắt đầu chu
kỳ khai nguyên.
[241]
Ở đây, chúng tôi xin cố ư
tŕnh bày khác với các học giả quí tộc. Chúng ta nên
nhớ rằng Hậu thiên khí này (Aether) – hoặc là Tiên
thiên khí (Ăkăsha), hoặc là nguyên khí thấp của nó tức
là Dĩ Thái – gồm có bảy phần. Theo ẩn dụ Tiên
thiên khí chính là Tiên Thiên Huyền Nữ (Aditi), mẹ của
Mărtanda (Thái Dương), Devamătri, Mẹ của chư Thiên.
Trong Thái Dương Hệ, Mặt Trời là Tuệ Giác
(Buddhi) và Hiện Thể (Văhan)
của nó, do đó là nguyên khí thứ sáu; trong Càn Khôn, tất
cả các Mặt Trời đều là Cảm dục
thể (the Kăma Rũpa) của Tiên thiên khí, Mặt Trời
của chúng ta cũng vậy. Chỉ khi nào được
xem là một Thực Thể cá biệt trong Địa
hạt của riêng ḿnh th́ Surya (Thái Dương) mới là
nguyên khí thứ bảy của đại thể vật chất.
[242]
Đúng hơn, chúng ta nên gọi
nó là thuyết bất khả tri. Thô tục nhưng thành
thật, Chủ nghĩa duy vật c̣n trung thực hơn
thuyết bất khả tri giả dối ngày nay. Cái
gọi là Nhất nguyên luận
của Tây phương (Western Monism)
chỉ là cái tṛ giả nhân giả nghĩa (Pecksniff) của
Triết học hiện đại, quay bộ mặt
dạo đức giả (a pharisaical face) về phía Tâm lư
học và Chủ nghĩa duy tâm, rồi quay bộ mặt
tự nhiên “phồng mang trợn mắt” (swelling his cheek with
his tongue) của tên Thầy bói La Mă (Roman Augur) về phía
Chủ nghĩa duy vật. Các nhà nhất nguyên luận
như thế c̣n tồi tệ hơn các nhà Duy vật; v́
trong khi cũng xét về Vũ Trụ và con người tâm
linh-tinh thần theo một quan điểm tiêu cực, các
nhà Duy vật c̣n tŕnh bày vô lư hơn nhiều so với các
kẻ theo thuyết hoài nghi của Giáo sư Tyndall, thậm
chí cả Giáo sư Huxley nữa, Herbert Spencer, Bain và Lewes c̣n
nguy hiểm cho các chân lư đại đồng vũ
trụ hơn cả Buchner nữa.
[243]
Sinh Hoạt Thế Giới của
Giáo sư Winchell.
[244]
Xem Năm năm Minh Triết Thiêng
Liêng, trang 245 – 262 – các bài: “Các Cao đồ có chối bỏ
Thuyết Tinh Vân không?” và “Mặt Trời có phải chỉ
là một Khối đang nguội đi không?” – để
có được Giáo lư Huyền bí chân chính.
[245]
Vật lư học, mục 142.
[246]
Thiên văn học, trang 342.
[247]
Giảng lư về ĐOẠN KINH
4, ở phía trước, Quyển I, trang 162.
[248]
Tạp chí Khoa Học
Phổ Thông. Quyển iv, trang 148.
[249]
Người ta sẽ
thấy là cả khối trung
ương nữa hay đúng hơn là trung tâm phản
chiếu.
[250]
“Vật chất” này
cũng giống như h́nh phản ánh trong một chiếc
gương của ngọn lửa xuất phát từ
một chiếc bấc đèn phát ra ánh sáng.
[251]
Xem Năm năm Minh
Triết Thiêng Liêng, trang 258 [Ấn bản 1 885] sẽ có
lời giải đáp suy lư này của Herschel.
[252]
Tạp chí Khoa Học
Phổ Thông, Quyển iv, trang 156.
[253]
Chẳng hạn như
[254]
Đúng hơn là thành
phần Luyện kim đan.
[255]
[256]
Tạp chí Khoa Học Phổ Thông,
Quyển x, trang 380 – 383.
[257]
De Generatione Hominis.
[258]
De Viribus Menbrorum. Xem
Cuộc đời của
[259]
Tạp chí Khoa Học Phổ Thông,
phần đă dẫn, trang 384.
[260]
Bản dịch của
K.T. Telang, Thánh Kinh Đông Phương, Quyển viii,
chương xiii, trang 292.
[261]
Như trên, chương xxxv, trang
384 – 385.
[262]
Từ xưa,
người ta đă phân loại năm giác quan. Nhưng khi
chấp nhận con số năm, chẳng triết gia
hiện đại nào đă tự hỏi làm thế nào mà
các giác quan này có thể tồn tại được
(nghĩa là được tri giác và sử dụng một
cách hữu ngă thức) nếu không có giác quan thứ sáu (trí giác) ghi nhận
chúng. Ngoài ra, đối với các nhà siêu h́nh học và các
nhà Huyền bí học, c̣n có GIÁC QUAN THỨ BẢY
để bảo tồn thành quả và kư ức tinh
thần của chúng, chẳng hạn như một Sổ
Bộ Đời liên quan đến Nghiệp quả (a Book
of Life which belongs to Karma). Cổ nhân phân loại năm giác
quan, chỉ v́ các đạo sư của họ (các
Đạo đồ) đă dừng lại ở thính giác
(với tư cách là các giác quan phát triển trên cảnh giới
hồng trần, hay đúng hơn là bị giới hạn
vào cảnh giới này) chỉ mới vào lúc khởi
thủy của Giống dân thứ Năm. Giống dân
thứ Tư đă bắt đầu mất trạng thái
tinh thần, vốn đă được tích cực phát
triển biết bao trong Giống dân thứ Ba.
[263]
Như trên, chương x, trang 277 –
278.
[264]
Bhagavad Gĩtă,
chương vii, như trên trang 73 – 74.
[265]
Ahamkăra, Tôi giả sử
là “Ngă Tính” đó đă đưa chúng ta đi lầm
đường lạc lối.
[266]
Ngũ hành là năm
Thức biến (Ta mă tras) Phong, Hỏa, Thủy,
Địa, Dĩ Thái, chúng tạo ra các hành thô trược.
[267]
Anugĩtă, chương
xx, như trên, trang 313.
[268]
Dẫn truyền theo ư
nghĩa Upădhi – một cơ sở vật chất; nhưng
với tư cách nguyên khí thứ hai của Đại
Hồn Vũ Trụ và Sinh Lực trong
[269]
Nếu có quá nhiều trong thần
kinh hệ, th́ cũng thường gây ra bệnh tật và
chết chóc. Nếu chính hệ thống động vật
sản sinh ra nó th́ chắc chắn lả sẽ không bao
giờ có trường hợp này. Như vậy t́nh
huống trên chứng tỏ rằng nó độc lập
với hệ thống và có liên hệ với Lực
Mặt Trời như Metcalfe và Hunt đă từng giải
thích như thế.
[270] Tạp
chí Khoa Học Phổ Thông, Quyển x, trang 387.
[271]
Paragranum; Cuộc đời
của
[272]
Trong một tác phẩm mới
đây về Biểu tượng kư trong Phật giáo và Thiên
Chúa giáo – đúng hơn là trong Phật giáo và Thiên Chúa giáo La
Mă; sau này, nhiều nghi lễ và giáo điều trong Phật
giáo Bắc Tông (dưới
dạng ngoại môn b́nh dân)
cũng giống hệt như các nghi lễ và Giáo hội La
Tinh – chúng ta thấy có một số sự kiện kỳ
lạ. Tác giả của quyển sách này tự cao tự
đại, đă nhét không phân biệt vào trong tác phẩm
của ḿnh các giáo lư Phật giáo xưa và nay; y lại c̣n
lầm lẫn một cách đau đớn Lạt Ma giáo
với Phật giáo (Lamaism with Buddhism). Ở trang 404 của
tác phẩm này, nhan đề là Phật
giáo ở các nước theo Thiên Chúa giáo (Buddhism in Christendom),
tức Jesus, the
Các nhà Minh Triết Thiêng Liêng
cũng quá biết rằng ông Rhys Davids cũng đă bày
tỏ ư kiến của ḿnh về các tín ngưỡng
của họ giống như vậy. Ông bảo rằng các
thuyết mà tác giả của Phật Giáo Bí Truyền
(Esoteric Buddhism) rao giảng “chẳng phải là Phật giáo,
mà cũng chẳng có tính cách bí truyền”. Nhận xét này là
do (a) lầm lẫn một cách tai hại nên mới
viết là “Phật giáo” (“Buddhism”) thay v́ “Minh Triết giáo”
(Budhaism hay Budhism”), nghĩa là có liên hệ với hệ
thống tôn giáo của Phật Thích Ca thay v́ có liên quan
tới Minh Triết Bí Nhiệm (the Secret Wisdom) mà Krishna,
Shankarăchărya và nhiều người khác cũng như là
Đức Phật rao giảng; và (b) Ông Rhys Davids không
thể biết ǵ về Giáo lư Nội môn chân chính. Tuy nhiên,
v́ ông là một học giả lỗi lạc về
tiếng
[273]
Các Chủng Loại
Người, trang 10, 11.
[274]
Theosophist ; cũng như Năm năm Minh Triết Thiêng
Liêng, trang 258.
[275]
Chẳng những nó không
chối bỏ sự tiếp diễn đó, mặc dù
người ta luôn luôn quy nó cho một nguyên nhân sai lầm,
thuyết này mâu thuẫn với thuyết kia (xem các
thuyết của Secchi, Faye và Young), các nhật ban tùy
thuộc vào sự tích lũy trên bề mặt các hơi
nước nguội hơn quang cầu (?) v.v… mà c̣n có các nhà
khoa học dùng các nhật ban đó phục vụ cho chiêm tinh học. Giáo sư Jevons quy mọi cuộc
đại khủng hoảng thương mại
định lỳ cho tác dụng của các nhật ban
mỗi mười một năm. (Xem Các điều nghiên
về Tiền tệ và Tài chính của ông). Điều này
chắc chắn là đáng khen và đáng khích lệ.
[276]
Mặt Trời, II, trang
184.
[277]
Sinh Hoạt Thế Giới, trang
48.
[278]
Đáng buồn thay, khi
các trang này được viết ra, do một sự phân
tích hóa học khá nghiêm chỉnh, “sự ngẫu sinh của
sự tồn tại trên trần thế” đă chuyển
thành một sự trầm hiện (precipiate) đơn
giản của sulfat vôi – v́ thế, theo quan điểm khoa
học, đó không phải là một chất hữu cơ !
[Cuộc đời thật là vinh quang qua đi chẳng
mấy chốc ! (So passes away the glory of this world)].
[279]
Vishnu Purăna,
[280]
Thiên Văn Học Phổ Thông,
trang 444.
[281]
Trong Sinh Hoạt Thế
Giới, (trang 48 – 49), phần chú thích cuối trang, Giáo
sư Winchell cho rằng: “Người ta thường
thừa nhận rằng nói chung, ở các nhiệt độ
cực cao, vật chất tồn tại ở trạng
thái phân giải (nghĩa là không thể có bất cứ
sự hóa hợp nào. Để chứng minh tính đơn
nhất của vật chất, chúng ta phải cầu
cứu tới quang phổ; nếu Vật Chất
đồng chất, quang phổ sẽ phô ra một
đường sáng, trong khi đó, nếu trong tinh vân
hoặc ngôi sao có nhiều phép bố trí phân tử th́ “quang
phổ sẽ gồm có hai hoặc ba đường sáng”!
Điều này sẽ không là bằng chứng cho cả nhà
vật lư học lẫn nhà Huyền bí học, họ
chủ trương rằng vượt quá một giới
hạn nào đó của Vật Chất hữu h́nh, th́
chẳng quang phổ, kính viễn vọng hoặc kính
hiển vi nào c̣n giúp ích được. Cả nhà Bác học Pháp Dumas – ông
gợi ra ư tưởng về “bản chất phức
tạp” của các “nguyên tố” dựa vào một vài quan
hệ về trọng lượng nguyên tử - lẫn ông
Crookes – với “chất quang huy” (“radiant matter”), mặc dù
“người ta hiểu các cuộc thí nghiệm của ông
rơ nhất do giả thuyết tính đồng chất
của các nguyên tố vật chất và tính liên tục
của các trạng thái vật chất” – đều khó ḷng
chứng minh hoặc bác bỏ được tính
đơn nhất của vật chất, của cái
vốn là Vũ trụ chất thực sự đối
với nhà Luyện kim đan hoặc “Đất của
Adam” (“Adam’s Earth”) (các tín đồ Do Thái Bí giáo gọi nó
như vậy). Ấy là v́ tất cả mọi thứ này
đều không vượt ra ngoài Vật Chất HỒNG TRẦN
(MATERIAL Matter),
tạm gọi như vậy, ngay cả cái được
phô ra dưới quang phổ, tức “
[282]
Khái niệm về Vật Lư
hiện Đại, trang vi.
[283]
Xem Vishnu Purăna,
[284]
Quyển I, trang 25, như trên.
Bản dịch của Fitzeward Hall.
[285]
Xem đoạn trích
dẫn trong Anugĩtă ở Tiết 7, “Sự Sống,
Thần Lực hay Trọng Lực”.
[286]
Từ ngữ “siêu nhiên”
có hàm ư vượt trên
hoặc ở bên ngoài thiên nhiên.
[287]
Khi đề cập
tới Chủ Nghĩa Duy Tâm (Idealism), thật là sai lầm
khi chứng tỏ rằng nó dựa vào “các giả
định bản thể học xa xưa cho rằng các sự
vật hoặc thực thể tồn tại độc
lập với nhau chứ không phải như là các
điều kiện” (Stallo). Dù sao đi nữa, thật là
sai lầm nếu triết học Đông phương quan
niệm như thế về Chủ nghĩa Duy Tâm và sự
tri thức của nó, v́ ngược lại mới đúng.
[288]
Độc lập theo ư
nghĩa nào đó, nhưng không thể biệt lập với nó.
[289]
Một nhà Huyền bí học
sẽ trả lời rằng: “Bằng Vô cực
điện th́ có lẽ đúng hơn”.
[290]
Chút nữa sẽ tŕnh bày
tại sao lại có các thần thông này.
[291]
Điều trên
được viết ra vào năm 1886 khi mà người ta
đang hy vọng tràn trề là “Động cơ Keely” (“
[292]
Chúng tôi biết rằng nhận xét
này không thể được áp dụng cho khám phá mới
nhất của ông Keely, chỉ có thời gian mới có
thể chứng tỏ được cái giới hạn
chính xác của các thành tích của ông.
[293]
Tuyển tập Minh
Triết Thiêng Liêng, Quyển I, số 9, trang 13.
[294]
Như trên, trang 16 – 17.
[295]
Như trên, trang 18.
[296]
Agni: lửa, ratha: xe.
[297]
Các nhà Huyền bí học
cũng phân chia như vậy nhưng theo các danh xưng khác.
[298]
Đúng vậy, v́ c̣n có
phân đoạn bảy, nó
cũng bắt đầu được liệt kê từ
đầu đến cuối trên một cảnh giới
khác cao hơn.
[299]
Trích từ tài liệu Tân Triết
Học của bà
[300]
Trong trường hợp
này các nhà bản thể luận người Mỹ đâu
có sai lầm, mặc dù các quan điểm của họ quá
nhân h́nh và Duy vật khiến
cho các nhà Huyền bí học khó chấp nhận
được khi họ luận chứng thông qua bà Bác
sĩ M. S. Organ như sau :
Phải có
các tính chất thực thể tích cực trong các vật có
một quan hệ cấu tạo với các dây thần kinh
cảm giác của động vật, nếu không, làm sao
chúng ta có tri giác được. Không thể có bất
cứ loại ấn tượng nào tác động lên năo
bộ, dây thần kinh và trí tuệ - không có sự kích thích
hành động – nếu không có một sự liên giao
thực sự và trực tiếp của một
động lực có thực chất. [Dĩ nhiên là
“Thực chất” trong phạm vi ư nghĩa rộng thông
dụng của từ - trong vũ trụ hăo huyền này chứ không phải trong THỰC
TẠI]. Lực này có thể là Thực Thể phi vật
chất tinh anh nhất [?]. Nhưng nó phải tồn
tại; v́ không giác quan, yếu tố hoặc năng
khiếu nào của con người có thể có một tri
giác, hoặc bị kích thích tác động, mà lại không
tiếp xúc với một lực thực chất nào đó.
Đó là lực cơ bản thấm nhuần toàn bộ
thế giới hữu cư và trí tuệ. Theo ư nghĩa
triết học chân chính, chẳng hề có tác động
độc lập v́ mọi lực hay vật chất đều
có tương hệ với một lực hay chất khác.
Chúng ta có thể khẳng định một cách công b́nh, xác
thực và hữu lư rằng không chất nào có bất
kỳ đặc tính vị giác hay khứu giác do các
chấn động gây ra, v́ thế, chúng chỉ là các
ảo tưởng của tri giác động vật …
[301]
Nhà địa chất
học lỗi lạc đó viết thư trả lời
cho một người bạn như sau: “Đế trả
lời cho bức thư của bạn, tôi chỉ có
thể nói rằng, hiện nay và có lẽ măi về sau, không
thể rút gọn (cho dù là một cách gần đúng)
thời gian địa chất thành ra hàng năm, hoặc
thậm chí hàng ngàn năm”. (Kư tên William Pengelly, Hội viên
Hội Hoàng Gia).
[302]
Khi đề cập
tới các Hành phi lư, hiếu động, “được
hợp bởi hỏa, phong, thủy, thổ”, Plato có ư
muốn nói tới Ma Quỷ Ngũ Hành (Elementary Daemons) (Xem
Timaeus).
[303]
Trong Timaeus, Plato đă dùng
từ ngữ “sự bài tiết” (“secretion”) ra các Hành
hiếu động.
[304]
Đại Luận
Nội Môn về Thuyết Gilgul của Valentinus.
[305]
Xem Bách Khoa Từ
Điển của Hội Tam Điểm Hoàng Gia của
Mackenzie, trang 250 – 251.
[306]
Xem Nữ Thần
[307]
[308]
Viveka Chũdămani,
được Mohini M. Chatterji dịch là Minh Triết
Bửu Giám. Xem Tạp chí Theosophist từ tháng 10 – 1885
đến tháng 8 – 1886.
[309]
[rdo. rje. hdsin (tiếng Tây
Tạng) = vajra – dhara (Bắc Phạn) nghĩa là Lôi tŕ
(thunderbolt-holder)].
[310]
[rdi. Rje. sems. Dpah =
vajra-sattva (tiếng Bắc Phạn); ở đây vajra có
nghĩa là kim cương, c̣n sattva là bản chất,
bản thể, nguyên khí v.v…]
[311]
Theo sát nghĩa Tanmătras
(Cơ bản kích lượng) là kiểu mẫu hay nền
móng phôi thai của một hành không có đặc tính. Xét
về mặt nội môn, đó là thực tượng bản sơ của cái
trở thành một Hành Vũ Trụ trong diễn tŕnh
tiến hóa, theo nghĩa được gán cho từ ngữ
này vào Thời xưa, chứ không phải theo nghĩa
của vật lư học. Đó là chư Thượng
Đế (Logoi), bảy phân thân tức bảy huyền xạ
của Thượng Đế.
[312]
Chương xxxvi.
[313]
Xem Tạp chí Theosophist,
tháng 8 – 1886, trang 729.
[314]
V́ nói chung, người ta
đều không thấu hiểu về giáo lư Huyền bí
của Cổ nhân, nên người ta mắc phải sai
lầm là gán cho cổ nhân việc chỉ biết tới
bảy hành tinh, chỉ v́ họ không đề cập
tới các hành tinh khác. Vấn đề không phải là
liệu họ có biết hay không sự tồn tại
của các hành tinh mới được khám phá sau đây,
mà liệu việc họ tôn kính bốn Đại Thiên
Thần ngoại môn và ba Đại Thiên Thần nội
môn (chư Thần Tinh Đẩu
– the Star-Angels) có một lư do chuyên biệt nào không. Tác
giả dám nói rằng có một lư do như vậy
được tŕnh bày như sau. Nếu họ biết
được nhiều hành tinh như chúng ta hiện nay –
vào lúc này khó ḷng quyết định được vấn
đề này về bất cứ phương diện nào –
họ cũng sẽ chỉ liên hệ bảy hành tinh này
với tục thờ phụng của tôn giáo họ, v́
bảy hành tinh này đặc biệt có liên hệ trực
tiếp với Địa Cầu của chúng ta, hoặc
nói theo nội môn, với bảy Dăy hành tinh của chúng ta.
[315] Thánh thư John, x, 30.
[316] Như trên, xx, 17.
[317] Như trên, xiv, 28.
[318] Thánh thư Matheu, v, 16.
[319]
Như trên, xiii, 43.
[320] Thánh thư 1 Corinthian, iii, 16.
[321]
Tạp chí Theosophist, tháng
8, 1 886, trang 706.
[322]
Đây là các hành tinh
chỉ được chấp nhận để giải
đoán về mặt chiêm tinh thôi. Phép phân chia thần
phổ tinh tú khác với phép phân chia trên: Mặt Trời, vốn
là một ngôi sao trung
ương chứ không phải là một hành tinh – cùng
với bảy hành tinh có quan hệ với Địa
Cầu chúng ta một cách
huyền linh và huyền bí hơn mức mà chúng ta
thường hiểu biết. Do đó, Mặt Trời
được xem là Bậc Cha chung của tất cả
Bảy “Cha”, điều này biện minh cho các biến thiên
giữa bảy và tám Đại Thiên Thần
của dân
[323]
Khi chúng ta nhớ rằng
với một kính viễn vọng đa hiệu, nhà thiên
văn học lỗi lạc William Herschel – chỉ đo
lường phần trời trong mặt phẳng xích
đạo mà Trái Đất chúng ta chiếm vị trí
gần trung tâm đă thấy 16 000 ngôi sao đi qua trong
một phần tư giờ đồng hồ. Áp dụng
phép tính toán này cho toàn thể “Ngân Hà”, ông thấy rằng
trong đó có không dưới 18 triệu MẶT TRỜI, người ta sẽ không
c̣n ngạc nhiên khi thấy là trong khi đàm đạo
với Napoleon I, Laplace đă gọi Thượng Đế
là một GIẢ
THUYẾT mà vật
lư học chính xác tuyệt
đối không thể suy đoán với bất cứ giá
nào. Chỉ Siêu h́nh học Huyền bí và Triết học siêu
việt mới có thể vén được chút xíu góc màn bí
mật không thể xuyên thấu được theo
chiều hướng này.
[324]
Số Mục Thánh Thư, xi, 16.
[325]
Thánh thư san định giáo luật, xxxii, 8.
[326]
Như trên, 9.
[327]
Trong tác phẩm Các Tín
đồ phái Ngộ Đạo và các Di tích (tang 344), King
đồng nhất hóa nó với “toàn bộ đạo tâm của người
Đông phương, Niết Bàn của các Phật tử,
‘sự yên nghỉ hoàn toàn theo Khoái lạc chủ nghĩa’,”
quan điểm này được diễn đạt
một cách thật là suồng să, mặc dù nó không hoàn toàn
sai hết.
[328]
Xem Bản sao các
Đồ thị của Những kẻ tôn thờ rắn
của Origen.
[329]
Xem thêm Tiết 14.
[330]
Abraham đồng
nhất với Thổ Tinh trong biểu tượng học
tinh đẩu. Ngài là Tổ phụ của các người
Do Thái duy-Jehovah.
[331]
Thánh thư John, viii, 37,
38, 41, 44.
[332]
Thánh thư Matthew, v, 22.
[333]
Các Xoáy Ngũ hành do
“Thể Trí” (“Mind”) phát khởi đă không được
phép biến đổi hiện đại này cải
tiến.
[334]
Người ta
thường quở trách tôi là đă dùng các thành ngữ trong
Nữ Thần Isis để biểu thị niềm tin vào
một Thượng Đế nhân
h́nh. Tôi không có ư như
thế đâu. Nói theo Thánh kinh Kabalah “Kiến Trúc Sư” là
danh xưng chung dành cho các Sephiroth, các Đấng Kiến
Tạo Vũ Trụ, cũng như “Toàn Linh trí” tiêu biểu
cho tập thể các Trí Tuệ của các Thiền
Định Đế Quân.
[335]
Timaeus.
[336]
Quyển I, trang 258.
[337]
Khảo cứu về Ánh
sáng với các Tương quan Hóa học.
[338]
Hóa Học Hiện Đại.
[339]
Nữ Thần
[340]
Các Bài Diễn Văn
về Faraday, 1 881.
[341]
Những điều mà
tác giả của pho sách này tŕnh bày cách đây mười
năm trong Nữ Thần Isis Lộ Diện h́nh như là có
tính cách tiên tri. Những điều đó như sau:
“Bằng cách tuân theo những điều mà các bộ
đại luận đă dạy và được mật
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
nhiều nhà huyền học đă khám phá được
nhiều điều mà ngay cả vào thời khoa học
chính xác hiện nay, chúng ta cũng không thể xem
thường chúng được. Tu sĩ Roger Bacon bị
nhạo báng, coi như một tên đại bịp; bấy
giờ người ta thường xem ông như là thuộc
vào loại tự khoe là có pháp thuật. Tuy nhiên, nay chính
những kẻ chế nhạo ông nhiều nhất lại
chấp nhận và sử dụng các khám phá của ông. Roger
Bacon có quyền, nếu không muốn nói là thực sự, có
chân trong các Đại Đoàn bao gồm tất cả
những kẻ nào nghiên cứu Huyền bí học. Sống
vào thế kỷ 13, do đó, hầu như là đồng
thời với Albertus Magnus và Thomas Aquinas, ông đă khám phá ra
nhiều điều – chẳng hạn như thuốc súng,
kính quang học, các thành tựu về cơ học – mà
mọi người đều xem như là phép lạ. Ông
bị kết tội là “đă bán linh hồn cho Quỷ”
(Quyển I, trang 64 – 65).
[342]
Đúng vậy “các
dạng năng lượng… biểu
lộ” trong pḥng thí nghiệm của nhà hóa học và
vật lư học; nhưng có các
dạng năng lượng khác liên kết với các
dạng vật chất khác, chúng
có tính cách siêu phàm, song các Cao đồ vẫn biết
được.
[343]
Diễn văn
[344]
Chính nhà Huyền bí
học đă quả quyết là trên các cảnh giới tâm
thức khác, có tồn tại một thế giới như
thế. Huyền bí học dạy rằng giống người
sơ thủy không có xương, có các thế giới mà
chúng ta không thấy được, cũng có dân cư
như thế giới chúng ta, ngoài số dân (populations) của các Thiền
Định Đế Quân ra.
[345]
Năm năm Theosophist,
trang 258 và tiếp theo.
[346]
[William Ramsay thu
được helium vào năm 1895].
[347]
Trong cùng bài diễn
văn, Giáo sư Crookes cho rằng: “Trong hóa học, vấn
đề làm đau đầu mà chúng ta gặp trước
hết là: “Các nguyên tố là ǵ?” Đến nay, trong số
các toan tính nhằm định nghĩa hay giải thích
một nguyên tố, không có nỗ lực nào thỏa măn
được các nhu cầu của trí người. Các sách
giáo khoa cho chúng ta biết rằng một nguyên tố là
‘một chất đă không bị phân hủy’, một ‘cái ǵ
mà ta có thể thêm vào, nhưng ta không thể rút
được ǵ ra từ đó’, một ‘chất tăng
trọng lượng khi có bất kỳ sự biến đổi
hóa học nào’. Các định nghĩa như thế rơ ràng
là chưa được hoàn chỉnh: chúng chỉ tạm
thời và mai đây, chúng có thể không có được áp
dụng cho bất kỳ trường hợp đă
định nào. Chúng không dựa vào bất cứ thuộc
tính nào của các sự vật được định
nghĩa, mà chỉ dựa vào các hạn chế của
năng lực con người: chúng là các minh chứng hùng
hồn của sự bất lực của trí năng”.
[348]
Thế rồi, diễn
giả lại trích dẫn lời phát biểu của George
Airy (trong tác phẩm Cuộc đời và các Bức thư
của Faraday, Quyển ii, trang 354) như sau: “Tôi có thể dễ
dàng quan niệm ra rằng có nhiều vật thể quanh ta
không chịu tác dụng lẫn nhau này, do đó chúng không bị hấp lực chi phối”.
[349]
Triết hệ Vedanta
cũng quan niệm như vậy; nhưng như thế
đâu phải là vật lư học mà lại là siêu h́nh
học; Giáo sư Tyndall gọi nó là “thi ca” và “tiểu thuyết”.
[350]
Nay theo chúng ta th́ sự
tồn tại dưới dạng nào ?
[351] Và (một cách đặc
biệt và xét cho cùng) theo Kapila và Đức Bàn Cổ.
[352] Đây chính là điều mà
khoa học bổ chứng cho luật tương ứng và
tương tự đời đời.
[353]
Theo Giáo sư Crookes,
phương pháp minh họa luật phân loại tuần hoàn
các nguyên tố do Giáo sư Emerson Reynolds (thuộc viện
Đại Học Dublin) đề nghị. Ông đă
…”vạch rơ rằng trong mỗi chu kỳ, các tính chất
chung của các nguyên tố thay đổi từ nguyên
tố này sang nguyên tố khác một cách khá đều
đặn cho đến khi chúng ta đạt tới nguyên tố thứ bảy, ít
nhiều ǵ đó cũng tương phản rơ rệt
với nguyên tố thứ nhất cũng của chu kỳ
ấy, cũng như là tương phản với nguyên
tố đầu tiên của chu kỳ kế tiếp. Do
đó, clor (nguyên tố thứ bảy của chu kỳ
thứ ba của Mendeleef) tương phản rơ rệt
với cả sodium (nguyên tố đầu tiên cũng
của chu kỳ đó) lẫn potassium (nguyên tố
đầu tiên của chu kỳ tiếp theo); thế mà,
mặt khác, sodium và potassium lại rất giống nhau. Sáu
nguyên tố (có trọng lượng nguyên tử trong
khoảng sodium và potassium) có các tính chất thay đổi
từ từ cho tới clor (nguyên tố tương
phản với sodium). Nhưng từ clor cho tới potassium
(nguyên tố tương tự với sodium), các tính
chất đă bị đột biến… Như thế
nếu chúng ta thừa nhận là nguyên tố đầu tiên
và nguyên tố cuối cùng của mỗi liệt nhóm (series)
có các tính chất tương phản với nhau một cách
rơ rệt, th́ chúng ta khó ḷng không thể thừa nhận
rằng có một điểm biến thiên trung b́nh bên trong
mỗi hệ thống. Nói chung th́ nguyên tố thứ tư
của mỗi liệt nhóm đều có tính chất
được kỳ vọng là thuộc về một
nguyên tố chuyển tiếp … V́ vậy, để minh
giải đồ thị, Giáo sư Reynolds thấy rằng
chúng ta có thể đặt nguyên tố thứ tư
của một chu kỳ - chẳng hạn như silicium –
tại đỉnh của một đường cong đối
xứng. Đối với chu kỳ đặc biệt
này, nó sẽ tiêu biểu cho chiều hướng biến
thiên của các tính chất của các liệt nhóm nguyên
tố có các trọng lượng nguyên tử tăng
dần”.
Nay tác
giả xin khiêm tốn thú nhận là ḿnh chẳng biết ǵ
về hóa học hiện đại và các bí nhiệm
của nó. Nhưng tác giả lại khá thông thạo về
Giáo lư Huyền bí liên quan tới các
sự tương ứng về kiểu mẫu và nguyên
kiểu trong thiên nhiên, cũng như là một luật
cơ bản trong Huyền bí học: “sự tương
tự toàn bích”. V́ thế, tác giả đánh bạo
đưa ra một nhận xét, nó sẽ làm chấn
động mọi nhà Huyền bí học, mặc dù khoa
học chính thống có thể chế nhạo nó.
Phương pháp minh họa luật tuần hoàn theo tác
động của các nguyên tố là một định luật của Huyền bí
học, cho dù nó vẫn có thể chỉ là một
giả thuyết của hóa học. Mọi nhà Huyền bí
học thông thái đều biết rằng phần tử thứ bảy và thứ tư – dù là trong
một chuỗi thế giới thất phân, một
đại đoàn thiên thần thất phân, hay trong cấu
tạo thất phân của con người, con vật, cây
cỏ hoặc nguyên tử khoáng vật – trong các tác
động đều đặn về mặt h́nh học
và toán học của các luật bất di bất dịch
của Thiên Nhiên, bao giờ cũng đóng một vai tṛ
chuyên biệt trong hệ thống thất phân. Từ các ngôi
sao lấp lánh trên trời cao tới các đốm lửa
túa ra từ ngọn lửa bập bùng mà người dă man
đốt lên trong rừng thẳm; từ các Đại
đoàn Thiền Định Đế Quân với các
cấu tạo bản thể - được tổ
chức để cho chúng ta lĩnh hội được
các điều thiêng liêng hơn cả tầm mức tri giác
mà nhà Tâm lư học Tây phương đă từng mơ
tới – xuống măi tới phép phân loại các côn trùng
tầm thường nhất trong Thiên Nhiên; cuối cùng,
từ các Thế giới tới các Nguyên Tử, vạn
cật trong Vũ Trụ (từ lớn tới nhỏ)
đều tiến hóa về mặt tinh thần và vật
chất một cách tuần hoàn từng bảy năm
một, và đều chứng tỏ rằng phần
tử thứ bảy và thứ tư (phần tử thứ tư là bước
ngoặt) đều tác động đúng theo luật
tuần hoàn Nguyên tử này. Thiên nhiên chẳng bao giờ
chơi tṛ “bước tiến nhảy vọt” (“
[354]
Một nhóm nhà điện
học vừa phản đối tân lư thuyết của
Clausius, vị Giáo sư trứ danh ở viện
Đại Học Bonn. Tính cách phản đối này
được biểu thị trong chữ kư của “
[355]
Các đóng góp của Smithson, xxi,
Mục I, trang 79 – 97.
[356]
Hệ thống Luận lư, trang 229.
[357]
Vượt quá các đường
tác dụng Zero.
[358]
Progymnasmata, trang 795.
[359]
De Stella Nova in Pede
Serpentarii, trang 115.
[360]
Các giả thuyết
vũ trụ khởi nguyên luận, của C. Wolf, 1886, trang 2.
[361]
Xem Các Văn kiện Khoa
học chuyên môn, trang 269 và tiếp theo.
[362]
“
[363]
Trong nguyên bản là ly tâm
(centrifugal).
[364]
Năm năm Theosophist,
trang 249 – 251. Mục “Các Cao đồ có chối bỏ
Thuyết Tinh Vân không?”
[365]
Nếu các nhà thiên văn
học trong t́nh trạng hiểu biết hiện nay mà
chỉ trung thành với giả thuyết của
[366]
Vật lư học của
Aristotles, viii, I.
[367]
Các giả thuyết
vũ trụ khởi nguyên luận của Wolf, trang 3.
[368]
Quyển I, trang 185, do Wolf
trích dẫn, trang 3. Luận chứng của Wolf
đước tóm tắt ở đây.
[369]
Chú thích vii, tóm tắt theo
Wolf, trang 6.
[370]
Năm năm Theosophist,
trang 241 – 242 và 239.
[371]
Nhưng quang phổ của các tinh
vân này vẫn chưa bao giờ được xác
định. Chỉ khi nào người ta thấy chúng
với các vạch sáng th́ bấy giờ, chúng ta mới có
thể kể đến chúng.
[372]
Các Giả thuyết Vũ trụ
khởi nguyên luận, trang 3.
[373]
Chúng ta không
được xem “Nguyên h́nh chất” (“Protyle”) của Giáo
sư Crookes như là chất liệu bản sơ mà các
Thiền Định Đế Quân dùng để tạo ra
Thái Dương Hệ chúng ta theo các luật bất di
bất dịch của
[374] Xem
ĐOẠN KINH 3, giảng lư
9, tŕnh bày về “Ánh Sáng” tức “Lửa lạnh”. Trong đó, người ta giải thích
rằng “Từ Mẫu” (Hồng nguyên khí) là một Lửa
lạnh, một ánh sáng quang huy mát mẻ, không màu sắc,
không h́nh tướng, không có mọi tính chất.
Người ta dạy rằng: “Chuyển
động, trên cương vị của Đấng
Độc Tôn Vĩnh Cửu, vẫn Hằng Hữu và bao
hàm các tiềm năng của mọi tính chất trong các
Thế giới Khai Nguyên”.
[375]
Các Giả Thuyết Vũ Trụ
khởi nguyên luận, trang 4 – 5.
[376]
Sinh Hoạt Thế Giới của
Winchell, trang 196.
[377]
Tạp chí Wesminster, XX, 27 – 7 – 1868.
[378]
Quyển xiv, trang 252.
[379]
Các Giả Thuyết Vũ trụ
khởi nguyên luận.
[380]
Chúng ta gọi “Ánh Sáng” này
là Vô cực điện (Fohat).
[381] Đây là một điều
sai lầm, v́ nó hàm ư rằng, có một tác nhân vật
chất, phân biệt với các tác dụng làm nó chuyển
động, nghĩa là vật chất mù quáng,và có lẽ
lại là “Thượng Đế”, trong khi SỰ SỐNG
DUY NHẤT này chính
là Thượng Đế và chư Thiên.
[382]
Cũng sai lầm như trên.
[383] Tạp chí Khoa Học Phổ
Thông, Quyển I.
[384]
Lưỡng lự
giữa khoa học duy vật và khoa học duy tâm, một
vài nhà Minh Triết Thiêng Liêng đă thắc mắc: “Liệu
Nguyên sinh khí có phải là một huyền thoại, theo
như khoa học bảo, hay không ?” Việc thực sự
khó lĩnh hội được các vấn đề
nội môn liên quan tới trạng thái căn bản của
vật chất lại chính là vấn đề nan giải
xưa nay: tâm và cảnh (objective and subjective).
Vật Chất là ǵ?
[385]
Xem Bảo Tàng Viện
Khoa Học, số tháng 8 – 1856.
[386]
Quyển II, trong Giảng
lư Thiền Định Chân Kinh.
[387]
Ngay cả vấn
đề có nhiều thế giới có cư dân hữu t́nh
cư ngụ, cũng bị bác bỏ hay là đề
cập tới một cách cực kỳ dè dặt. Thế
nhưng chúng ta hăy xem nhà thiên văn học đại tài
[388]
Tuy nhiên, dựa vào
bằng chứng trong chính Thánh kinh, cũng như của các
nhà Thần học Thiên Chúa giáo lỗi lạc như
Hồng Y Giáo Chủ
[389]
Xem Có Nhiều Thế
giới, Quyển II.
[390]
Về vấn đề này, xem
[391]
Sinh Hoạt Thế
Giới, trang 497 – 500 và tiếp theo.
[392]
Sinh Hoạt Thế Giới.
[393]
Thánh thư Enoch, bản
dịch của Tổng Giám Mục Laurence, lxxix.
[394]
Trong Triết thuyết
Vedanta, Linh Giác (Ătmă), Tinh Thần tức Linh Ngă, đi xuyên
qua năm Thể hay Nguyên khí (Koshas)
như một sợi chỉ, được gọi là
“Hồn dây” (“Thread-soul”) tức
Linh tuyến (Sũtrătmă).
[395]
Năm năm Theosophist,
“Nguyên khí Thất phân”, trang 197.
[396]
Tam giác Pythagoras, của
giáo sĩ G. Oliver, trang 36.
[397]
Xem Phê b́nh Lư Trí Thuần
Túy của
[398]
Plutarch,
[399]
Trong các Giáo hội La Tinh
và Hy Lạp – mà hôn lễ được xem như là
một trong các phép bí tích – vị lễ sư chủ tŕ
lễ cưới tiêu biểu cho đỉnh của Tam
giác. Cô dâu tiêu biểu cho cạnh trái (âm), chú rể tiêu
biểu cho cạnh phải, c̣n cạnh đáy
được tiêu biểu bởi hàng nhân chứng, phù dâu
và phụ rể. Nhưng đàng sau lễ sư là Mật
Điện bao hàm những bí nhiệm và ư nghĩa biểu
tượng; ngoài vị lễ sư đă thụ phong ra,
không ai có thể bước vào trong đó được.
Vào buổi sơ khai của Thiên Chúa giáo, hôn lễ là
một bí nhiệm và là một biểu tượng thực
sự. Tuy nhiên, hiện nay ngay cả các Giáo hội cũng
không c̣n lưu truyền được chân ư nghĩa
của biểu tượng kư này.
[400]
Các Khía Cạnh Mới của Sự Sống và Tôn giáo,
của Henry Pratt, Bác sĩ Y khoa, trang 7 (1886).
[401]
Như trên, trang 7 – 8.
[402]
Như trên, trang 9.
[403] Tam
giác Pythagoras, của Giáo sĩ G. Oliver, trang 18 – 19.
[404] Trang
387.
[405]
Trang 387.
[406]
Trang 387.
[407]
Trong Sắc giới,
biểu tượng kư, biểu hiệu thành các Kim tự
tháp, có cả tam giác lẫn h́nh vuông, bốn mặt hay tam
giác đồng đẳng, bốn điểm cơ
bản, c̣n điểm thứ năm là đỉnh.
[408]
Trang 385 – 386.
[409]
Sách đă dẫn của Isaac Myer,
trang 174.
[410]
Trang 175.
[411]
Trang 175.
[412]
“Tước vị thấp
nhất, tức Đấng Thánh Linh trong
[413]
Xin độc giả đừng
xuất phát từ thuật ngữ “Tâm lư học” mà liên
tưởng tới cái gọi là các “nhà Tâm lư học”
hiện đại. Chủ
nghĩa Duy Tâm của họ thực chất chỉ là
Chủ nghĩa Duy vật cố chấp, c̣n cái gọi là
Nhất nguyên luận của họ (monism) chẳng có ǵ khác
hơn là một mặt nạ để che giấu sự
trống rỗng của tri thức trong khung cảnh
tịch diệt tối hậu. Ở đây, có ư muốn
nói tới Tâm lư học Tinh
Thần.
[414]
“Vishvă
[415]
T. Subba Row.
[416]
Do Giáo sư W. Crookes
(Hội viên Hội Hoàng Gia, V. P. C. S.) đọc tại
Học viện Hoàng Gia, Luân Đôn, ngày 18 – 2 – 1887.
[417]
Nó chỉ được
chứng minh trọn vẹn biết bao khi việc Giáo
sư Crookes khám phá ra chất phát quang đă minh giải thêm
nữa về nguồn gốc thực sự của ánh sáng
và đă cách mạng hóa mọi điều suy lư hiện nay.
Việc ngày càng quen thuộc hơn với hiện
tượng Bắc cực
quang (aurora borealis) có thể giúp chúng ta nhận thức
được chân lư này.
[418]
Sự khởi nguyên của các
Nguyên tố, trang 1.
[419]
De Placitio Philosophorum.
[420]
Tạp chí Thánh
Đạo, tháng 1 – 1887, trang 297.
[421]
Trang 11.
[422]
Tương ứng trên qui mô vũ
trụ với Tinh Thần, Linh Hồn, Trí Tuệ, Sự
Sống và ba Hiện Thể - Dĩ Thái thể, Huyễn
h́nh và Thể xác (của nhân loại) cho dù người ta
phân chia thế nào đi nữa.
[423]
Như trên, trang 16.
[424]
Quyển I, trang 429.
[425]
Sự Khởi thủy của các
Nguyên tố, trang 21.
[426] “Thượng Đế là Lửa
thiêu hủy”. “Sự
Sống ở nơi Ngài, Sự Sống là ánh sáng của
nhân loại”.
[427]
Nếu được
phân ly bằng khoa luyện kim
đan, nó sẽ tạo ra Sinh khí và Trường Sinh Cam
Lộ (Elixir).
[428]
Nhất là định
đề cho rằng trong
[429]
Như trên, trang 144.
[430]
Theo chính tả, danh
xưng này là Leibnitz – chính ông đă phát âm như vậy. Ông
thuộc ḍng dơi
[431]
[Trong ấn bản 1888,
điều này được tŕnh bày là “các Thực Thể
hữu thức cũng như là bán ư thức, tri giác và trực quan”. Trong Các Tác phẩm Triết học,
của Leibnitz (do Mary Morris tuyển chọn và phiên dịch)
trong tiết bàn về các Nguyên lư, trang 23, thuyết của
Leibnitz … được tŕnh bày như sau: “Chúng ta nên phân
biệt giữa tri giác
(vốn là trạng thái nội tại của đơn
nguyên tiêu biểu cho ngoại vật) và trực quan (vốn là ư thức, tức kiến
thức phản ánh trạng thái nội tại này, nó không
được ban cho mọi linh hồn, cũng chẳng nhất
thiết được ban cho cùng một linh hồn”].
[432]
Đơn nguyên luận, Phần
dẫn nhập.
[433]
Giáo sư Lachelier cho
rằng: “Động lực luận của Leibnitz sẽ
chẳng khó hiểu bao nhiêu đối với ông,
đơn nguyên vẫn c̣n là một đơn nguyên tử thần lực mù quáng.
Nhưng … “Người ta hiểu hết sự bối
rối của Chủ nghĩa Duy vật hiện
đại.
[434]
Tạp chí Thánh Đạo, I, tháng 1
– 1887, trang 297.
[435]
Leibnitz là một nhà Duy tâm
tuyệt đối khi
chủ trương rằng: “các nguyên tử vật
chất thật là phi lư”. (Tân Hệ Thống, Erdmann, trang
126, cột 2). Đối với ông, vật chất chỉ đơn thuần tiêu
biểu cho Đơn Nguyên, dù là con người hay nguyên
tử. Cũng như chúng ta, ông cho rằng Đơn Nguyên
ở khắp nơi. Như thế, hồn người
cũng là một Đơn Nguyên, mọi tế bào trong
cơ thể con người đều có Đơn Nguyên,
chẳng khác nào tế bào hiện diện trong mọi
động vật, thực vật, thậm chí trong cái
gọi là chất vô cơ.
Nguyên tử của ông chính là phân tử của khoa học
hiện đại, c̣n Đơn Nguyên của ông chính là các nguyên tử đơn mà khoa
học duy vật đă tin tưởng vào, mặc dù nó
sẽ chẳng bao giờ hội
kiến được với chúng (ngoại trừ lúc
tưởng tượng). Nhưng Leibnitz có các quan
điểm khá mâu thuẫn về Đơn Nguyên. Khi th́ ông
xem các “Điểm Siêu h́nh”, các “Nguyên Tử Sắc
Tướng” (“Formal Atoms”) như là các thực tại, chiếm một vùng không gian; khi
th́ ông lại xem chúng chỉ là các ư niệm thuần túy tinh thần. Thế rồi,
ông lại cho chúng là ngoại cảnh, xem như chúng tụ
tập lại theo những vị trí nhất định
khi tương hệ với nhau.
[436]
Khảo sát các Nguyên
tắc của P. Malebranche.
[437]
Thật ra, ngoài danh
xưng ra, các Nguyên tử
của Leibnitz chẳng có điểm nào giống các nguyên
tử của nhà duy vật Hy Lạp, hoặc thậm chí
các phân tử của khoa
học hiện đại. Ông gọi chúng là các “Nguyên
tử sắc tướng” và so sánh chúng với các “h́nh hài
có thực chất” của Aristotle (Xem Tân Hệ Thống,
3).
[438]
Thư gửi cho
Đức Cha Desbosses, Thư Tín, xviii.
[439]
Đơn nguyên luận,
60. Cũng như Aristotle, Leibnitz gọi các Đơn Nguyên
được “sáng tạo” ra (các Hành khí th́ xuất phát
từ các Chơn Linh hay chư Thần Linh vũ trụ) là
Viên cực và “các thứ tự động phi vật
thể”. (Đơn nguyên luận, 18).
[440]
Trong cấu tạo
của con người, ba “phân bộ khái quát” này
tương ứng với Tinh Thần, Trí Tuệ (hay Linh
Hồn) và Sắc Tướng (Body).
[441]
Trong bài diễn văn
đă nêu, ông C.H.A. Bjerregaard đă khuyến cáo thính giả
đừng xem các Sephiroth như là các cá thể, nhưng đồng thời cũng
đừng xem họ là các hườn
hư (abstractions). Ông cho rằng: “Chúng ta sẽ chẳng
bao giờ đạt tới chân lư với ít nhiều
quyền năng phối hợp với các thực thể
thiên giới này, nếu chúng ta không quay về thời sơ
khai, đơn thuần và vô úy, khi loài người sống
lẫn lộn với chư Thiên; chư Thần Linh giáng
thế, dạy bảo chân lư thánh thiện cho loài
người” (trang 296). “Trong Thánh kinh, người ta gọi
các “Thiên Thần” bằng nhiều danh xưng khác nhau.
Điều này chứng tỏ rơ rệt là chúng ta phải
hiểu các hành khí của Thánh kinh Kabalah và các đơn
nguyên của Leibnitz chính là các thiên thần chứ không
phải là những ǵ mà chúng ta thường lầm
tưởng. Chúng được gọi là các ‘sao mai’
(‘morning stars’)… các ngọn lửa”, … các “Đấng
Đại Hùng”… Trong linh thị vũ trụ khởi nguyên
luận của Ngài,
[442]
Quyển 1, bao hàm Phần
1, Quyển 2, bao hàm phần 2 và 3.
[443]
Vấn đáp Giáo lư
Đạo Phật (Câu hỏi 122), của H.S. Olcott, Hội
Trưởng Hội Theosophy.
[444]
Như trên, câu hỏi 123.
[445]
Xin những kẻ nào xem
lời phát biểu này là một điều láo xược
đối với khoa học được chấp
nhận, hăy tham khảo tác phẩm Bàn Về Nguyên Sinh
Chất của Tiến sĩ
Nhà Bác
học lỗi lạc Huxley, thuộc hàng đầu về
sinh lư học và sinh học, mà c̣n tỏ ra chơi tṛ
“bịt mắt bắt dê” với các tiên đề và các
sự kiện như thế! Liệu các nhà khoa học “non
kém” (“small fry”) sau này có làm nên được ǵ không ?
[446]
“Các Chu kỳ Vật Chất” là
một danh xưng do Giáo sư Winchell đặt tên cho
một bài lược khảo soạn thảo năm 1860.
[447]
Sinh Hoạt Thế
Giới, trang 534 – 535 và 548.
[448]
Trích dẫn trong Lực
và Vật Chất, của Buchner.
[449]
Các nhà khoa học sẽ
bảo rằng: Chúng tôi chối bỏ, v́ chẳng có
thứ nào thuộc loại này đă từng ở trong
phạm vi kinh nghiệm của chúng tôi. Nhưng nhà Tâm lư học
Charles Richet lại lư luận: “Thế đấy ! nhưng
ít ra bạn có chứng tỏ ngược lại
được không ? Dù sao đi nữa, đừng
chối bỏ một cách tiên nghiệm. Khoa học hiện
đại chưa đủ tiến bộ để cho
bạn có quyền đó”. Trích từ tác phẩm: Phép Ám
Thị Trí Tuệ và Phép Tính Xác Suất.
[450]
Các Bài diễn giảng
về Triết Học Lịch Sử, trang 26. Bản
dịch tiếng Anh của Sibree.
[451]
Nữ Thần
[452]
Biểu tượng kư
này không hề bác bỏ trường hợp các nhân vật
nay h́nh như là huyền thoại này xưa kia đă ngự
trị trên trần thế, thực sự sống trong h́nh
hài con người, mặc dù đó đúng là những Con
người thiêng liêng Thánh Thiện. Ư kiến của
Đại
[453]
Đúng hơn là “sợ Nghiệp
Quả - Số Mệnh”.
[454]
Thiên Đàng đă
mất, Quyển viii.
[455]
Tuy nhiên, không phải là ai
ai cũng vậy, v́ có các nhà khoa học ngộ
được chân lư. Chúng tôi đă đọc
được đoạn sau đây: “Khi ngước nh́n
về bất cứ phía nào, chúng ta đều gặp
một bí nhiệm… chúng ta chẳng biết được
điều ǵ trong thiên nhiên. Thế nhưng, có nhiều
kẻ suy tư hời hợt cho rằng không ǵ có thể
được tạo ra bởi các lực tự nhiên
đă được quan sát thấy từ lâu rồi. Chúng
chỉ dành riêng cho sách vở và được tập
hợp lại một cách ít nhiều khôn khéo nhờ vào các
lư thuyết, mà vào lúc này, sự tồn tại nhất
thời đă chứng tỏ rằng chúng c̣n khiếm
khuyết. Tôi không tự nhận việc bác bỏ sự
khả hữu của các thực thể vô h́nh, có một
bản chất khác hẳn với bản chất của
chúng ta và có thể khiến cho vật chất tác
động. Suốt bao thời đại, các triết gia
thâm thúy đều đă thừa nhận điều này
như là một hệ quả của đại luật
liên tục hiện đang chi phối vũ trụ. Cái
cuộc sống trí thức mà chúng ta thấy phát khởi
(theo một cách nào đó) từ hư vô và dần dần
đạt tới con người, liệu nó có bất
thần dừng lại nơi con người, để
rồi chỉ tái xuất hiện trong vô cực, nơi
bộ máy điều chỉnh tối cao của thế
giới hay không? Chẳng có lẽ”. Do đó, “Tôi không
phủ nhận sự tồn tại của các vong linh
hơn là phủ nhận linh hồn, nhưng trong khi đó,
tôi vẫn cố gắng giải thích một vài sự
kiện mà không cần tới giả thuyết này”. Các
Lực Bất Định, Khảo Cứu Lịch Sử
và Thực Nghiệm, trang 3 (ấn hành tại
[456]
Chương ix, 9.
[457]
Chương xxxviii, 31, 32.
[458]
Thiên văn học Cổ
truyền, trang 53. Quyển iv, trong Các Vong Linh.
[459]
Mọi người
đều biết rằng cḥm sao Rua là bảy ngôi sao phía
bên ngoài cḥm sao Kim Ngưu, nó xuất hiện vào đầu
mùa Xuân. Trong Nội môn Bí giáo Ấn Độ, chúng có
một ư nghĩa rất huyền bí có liên quan tới Âm Thanh và các nguyên khí huyền
bí khác trong
[460]
Xem Thiên Văn Học
Cổ Truyền, trang 63 – 68.
[461]
Thánh thư Vương Sử
(Kings) II, xxiii, 5.
[462]
Thánh điện
[463]
Chương vii [Các Vong Linh,
Quyển iv, trang 55].
[464]
Tư giáo thư (Leviticus)
xxiv, 5.
[465] Được Mirville trích
dẫn trong Các Vong Linh, Quyển iv, trang 58 – 59.
[466]
Sáng
[467]
Lời nói đầu 2.
[468]
Thiên Văn Học
của
[469]
Sáng
[470]
Proclus, In Timaeum, i.
[471]
Sáng
[472]
Bỏ sót: Dương
Cưu (Aries) trong phạm vi của Gad, “Một đạo
quân sẽ thắng Ngài, nhưng cuối cùng Ngài sẽ ca
khúc khải hoàn”.
[473]
Symbolik, Quyển iii, trang
930.
[474]
Cyropaedia, Quyển iii,
trang 7, trích trong Các Vong Linh, Quyển iv, trang 55.
[475]
Các Vong Linh, Quyển iv,
trang 59 – 60.
[476]
Nguồn gốc mọi
tục Thờ cúng, “Hoàng Đạo”, như trên trang 61.
[477]
Cuộc đời
của Đức Chúa Jesus Christ, I, trang 9. Được
trích dẫn trong Các Vong Linh, Quyển iv, trang 67.
[478]
Cho dù nhiều quốc gia
có thấy cùng một ngôi sao đó hay không đi nữa, tát
cả chúng ta đều biết rằng “ba Pháp sư” –
với các tôn danh toàn là dân Teuton (Kaspar và Melchior), (Balthazar là
ngoại lệ duy nhất); hai vị lại chẳng có bao
nhiêu ḍng máu Chaldea trong người, có các lăng tẩm
được các lễ sư trưng bày nơi nhà thờ
chính nổi tiếng ở Calogne. (Thiên hạ không chỉ
giả sử mà lại tin chắc rằng thi hài của các
vị Pháp sư đă được chôn cất ở
đó).
[479] Truyền thuyết về bảy mươi hành tinh
chủ tŕ vận mệnh của các quốc gia, dựa vào
giáo lư vũ trụ khởi nguyên luận Huyền bí dạy
rằng, ngoài Dăy Hành Tinh gồm có bảy bầu hành tinh
của chúng ta ra, trong Thái Dương Hệ c̣n có nhiều
dăy hành tinh khác.
[480]
Các Vong Linh, Quyển iv, trang 67.
[481]
Chứng Minh Thiên Văn
Học Thần Thoại của
[482]
Dĩ nhiên là mọi
học giả đều biết rằng dân
[483]
Xem Nữ Thần
[484]
Độc giả
phải nhớ rằng khi được các nhà Huyền bí
học và huyền học sử dụng, câu “khúc quanh
lịch sử” có một ư nghĩa khác thường. Đó
không những là một thời kỳ khủng hoảng mà
người ta cứ hằng mong đợi là sẽ có
một vài biến đổi lớn lao về cấu
tạo của con người hay vũ trụ, mà c̣n là
một thời kỳ với các biến đổi về
tinh thần vũ trụ. Người Âu Tây gọi năm
thứ 63 là năm “đại khủng hoảng”; có lẽ
họ đă giả sử một cách chí lư rằng đó là
những năm kết thành do việc nhân 7 với các
số lẻ 3, 5, 7 và 9. Nhưng trong Huyền bí học, 7 là
con số tỷ lệ thực sự của
[485]
Các Vong Linh, Quyển iv,
trang 61.
[486]
Quyển II, trang 490.
[487]
Xem Tuyển Tập Hàn Lâm
Viện Văn Học, 1853, được trích dẫn trong
Các Vong Linh, Quyển IV, trang 62.
[488]
Tàn tích của các
Đế quốc, trang 360.
[489]
Xem các trang 54, 196 và tiếp theo.
[490]
Để có
được bằng chứng khoa học chi tiết và
kết luận này, xem trang 121 tác phẩm của Bailly, nó
chuyên môn bàn về chủ đề này.
[491]
Trong ấn bản 1888,
trang 663, là Thiên Xứng (Libra).
[492]
Một từ ngữ
tiếng Tamil.
[493]
Tại sao nó lại là
“giả tưởng” khi nó tỏ ra không rơ ràng đối
với các khoa học Tây phương.
[494]
7s 20 8’;
trong ấn bản 1888, trang 666.
[495]
“Sau đây là một
lời giải đáp cho các nhà khoa học có thể nghi
ngờ là các nhà truyền giáo của chúng ta đă đem
thiên văn học đến Ấn Độ và truyền
thụ lại cho người bản xứ.
1. Khoa thiên văn học
Ấn Độ có các dạng đặc thù của riêng
ḿnh nếu nó thoát thai từ khoa thiên văn học của
chúng ta, cần phải rất thông thái và tài giỏi mới
ngụy trang được sự vay mượn đó.
2. Khi chấp nhận
chuyển động trung b́nh của mặt trăng,
họ cũng đă chấp nhận khuynh độ của
Hoàng Đạo, tâm sai của mặt trời và kỳ gian
của một năm. Các yếu tố này khác hoàn toàn các
yếu tố của chúng ta và khá chính xác khi áp dụng cho
thời kỳ 3102; trong khi đó chúng lại rất sai
lầm nếu được tính toán cho thế kỷ
vừa qua.
3. Cuối cùng, vào năm 1687,
các nhà truyền giáo của chúng ta đă không thể
truyền thụ cho người Ấn Độ các
bảng của Cassini, (bấy giờ, chúng làm ǵ đă tồn
tại). Họ chỉ có thể biết được các
chuyển động trung b́nh của
Bảng
(Table)
Ngày Giờ
Phút Giây Giờ Phút
Giây
Alphonso 9 7 2 47 -
0 42 14
Copernicus 9 6 2 13 -
1 42 48
Tycho 9 7
54 40 +
0 9 39
Kepler 9 6
57 35 - 0
47 26
Longomontanus 9
7 2 13 - 0
42 48
Bouillaud 9 6
48 8 - 0
58 53
Riccioli 9 7
53 57 + 0 8
56
Cassini 9 7
44 11 - 0
0 50
“Ngoại trừ Cassini ra,
không có chuyển động trung b́nh nào phù hợp với các
chuyển động của người Ấn Độ.
Do đó, người Ấn Độ không hề vay
mượn các chuyển động trung b́nh của chúng ta,
v́ các số liệu của họ chỉ phù hợp với
các số liệu của Cassini, thế mà, các bảng
của Cassini không hề tồn tại vào năm 1687.
Như vậy, chuyển động trung b́nh của mặt
trăng này là của riêng người Ấn Độ,
họ chỉ có thể có được nó nhờ vào
sự quan sát”. Như trên, chú thích trang xxxvi, xxxvii.
[496]
Luận về Thiên
văn học Ấn
Độ và Đông phương, của Bailly trang xx và
tiếp theo (ấn bản 1787).
[497]
Khoa Học Hiện
Đại và Tư Tưởng Hiện Đại,
Chương iii, “Về Vật Chất”, trang 51.
[498]
Diễn giảng về
Nguyên sinh chất, của Giáo sư Huxley.
[499]
Vật lư học của
Ganot, trang 73, bản dịch của Atkinson.
[500]
Xem Quyển I, trang 338 –
339, trích dẫn từ Khoa Học và Thế Giới
Huyền Bí, Tham luận, Đức Cha Félix ở nhà thờ
Đức Bà.
[501]
Hăy xem công việc của
các
[502]
Đức Mẹ Thế
Giới Đồng Trinh, của Hermes Mercurius Trismegistus,
bản dịch tiếng Anh của Bác sĩ Anna Kingsford và
Bác sĩ Maitland, trang 83 – 84.
[503]
Ở đây, Hermes xem
Thần Linh như là gồm đủ các Lực bén
nhạy của
[504]
Như trên, trang 64 – 65.
[505]
Xem Tiết 9: “Lực
sắp tới”.
[506]
“Hỡi Toom, Toom !
xuất phát từ Đại [huyền nữ] ở trong
ḷng nước [Thái Uyên tức Không gian (the Great or Space)] sáng
chói qua hai Mănh sư”, Thần lực lưỡng phân, tức
năng lực của hai thái
dương nhăn (the two solar
eyes), tức các lực
điện âm và điện dương. Xem Tử Vong Kinh,
iii.
[507]
Xem Tử Vong Kinh, xvii.
[508]
Chương lxxix.
[509]
Một h́nh ảnh
biểu diễn sự kế truyền các chức năng
thiêng liêng, sự chuyển hóa từ một h́nh hài này sang
h́nh hài khác, tức sự tương hệ các lực. Aam
là điện lực dương, nó ngấu nghiến các
thứ khác giống như Thần Saturn ăn tươi
nuốt sống kẻ hậu duệ của ḿnh.
[510]
Aanroo ở trong
địa hạt của Osiris; đó là một cánh
đồng được chia thành mười bốn phần “xung quanh có hàng rào bằng sắt, bên trong có
mọc cây lúa của sự sống cao
bảy cubit”, đó là cảm dục giới của
người Ai Cập. Chỉ có những kẻ quá cố
nào biết được danh xưng của những
kẻ gác cửa “thất cung” mới sẽ nhận
được vào Amenti măi măi;
đó là những kẻ đă trải qua Bảy Giống
dân của mỗi cuộc
Tuần Hoàn; nếu không, họ sẽ ở trong các cánh đồng thấp. Nó cũng tiêu biểu cho
bảy cảnh giới Cực lạc liên tiếp. Trong khi
đó, ở Aanroo, “linh hồn của vong linh” (tức
Người quá cố) bị ngấu
nghiến măi bởi
[511]
Xem Tử Vong Kinh, cviii, 4.
[512]
Chỉ
[513]
Xem Tử Vong Kinh, xciv.
[514]
Tạp chí Hai Thế
Giới, 1865, trang 157 – 158.
[515]
Số trang theo bản
tiếng Anh. (ND)