TRẦN
NGỌC LỢI
Dịch thuật
GIÁO LƯ
BÍ NHIỆM
(THE SECRET DOCTRINE)
(TỔNG
HỢP KHOA HỌC, TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC)
Quyển
I
VŨ
TRỤ KHỞI NGUYÊN LUẬN
(COSMOGENESIS)
PHẦN
I
TÁC GIẢ
H. P.
BLAVATSKY
Quyển
I
VŨ
TRỤ KHỞI NGUYÊN LUẬN
(COSMOGENESIS)
PHẦN
I
Trần
Ngọc Lợi
Dịch
thuật
Tôi xin kính dâng tác phẩm này cho mọi
người Nghiên Cứu Minh Triết Thiêng Liêng chân chính
ở khắp bốn biển năm châu, thuộc
đủ mọi chủng tộc. Chính v́ họ mà nó đă
được soạn ra.
LỜI NÓI ĐẦU CỦA ẤN BẢN
LẦN THỨ NHẤT
Tác giả - bút giả th́ đúng hơn – xin
cáo lỗi cùng độc giả v́ công tác xuất bản
tác phẩm này đă bị tŕ trệ khá lâu. Đó là v́ tác
giả bị đau yếu măi trong khi công tác thật là
vĩ đại. Ngay cả hai quyển hiện nay
được phát hành cũng chưa hoàn tất
được kế hoạch và cũng chưa bàn rốt
ráo được các chủ đề liên hệ. Tôi đă
soạn ra một số lớn tài liệu bàn về lịch
sử của huyền bí học lồng trong cuộc
đời của các bậc Cao đồ của giống
dân Aryan, và chứng tỏ được huyền bí
học đă ảnh hưởng như thế nào
đến nếp sinh hoạt hiện hữu và lư
tưởng. Nếu các cuốn sách này mà được
nồng nhiệt đón tiếp th́ chúng tôi sẽ dốc
toàn lực ra để tiến hành toàn bộ công tác.
Quyển thứ ba đă hoàn toàn sẵn sàng; quyển
thứ tư cũng hầu như thế.
Xin nói thêm rằng khi lần đầu tiên
loan báo việc tiến hành công tác, chúng tôi không thể
dự trù như vậy. Theo lời loan báo sơ khởi,
chúng tôi dự trù rằng bộ Giáo
Lư Bí Nhiệm sẽ là một bản có hiệu đính
và bổ sung của bộ Nữ
Thần Isis Lộ Diện (Isis Unveiled). Tuy nhiên, chẳng
bao lâu sau, chúng tôi thấy ngay rằng cần phải có
một phương pháp soạn thảo khác dành cho các chú
giải mà chúng tôi có thể thêm vào phần đă
được tŕnh bày trong bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện và các tác phẩm
khác nói về nội môn bí giáo. V́ thế, tác phẩm này
chỉ có tổng cộng chưa đầy hai mươi
trang trích ra từ Nữ
Thần Isis Lộ Diện.
Tác giả thiết tưởng cũng
chẳng cần xin quí độc giả và các phê b́nh gia
miễn thứ cho nhiều khuyết điểm về cách
hành văn và Anh ngữ có thể có trong tác phẩm này, v́ bà
là một người ngoại quốc và mới chỉ học
Anh ngữ sau này. Bà dùng Anh ngữ v́ nó là phương
tiện phổ biến nhất để truyền
đạt các chân lư mà bà có bổn phận phải tŕnh bày
cho đại chúng.
Các chân lư này không hề được tŕnh
bày như một điều thiên
khải (revelation); tác giả cũng chẳng hề
tự xem ḿnh là một kẻ tiết lộ kho tàng
huyền bí học được công bố lần
đầu tiên trong lịch sử. Đó là v́ những ǵ bao
hàm trong tác phẩm này đều có rải rác trong hàng ngàn
quyển Thánh Kinh của các tôn giáo lớn ở Âu Châu
cũng như ở Á Châu, ẩn tàng trong các chữ
tượng h́nh và các biểu tượng, đến nay
chúng vẫn chưa được ai ghé mắt tới v́ có
bức màn che khuất. Nay ta thử ra sức thu thập các
giáo điều tối cổ lại khiến cho chúng thành
ra một tổng thể hài ḥa và mạch lạc. Tác
giả chỉ có mỗi một lợi điểm so
với bậc tiền bối là không cần phải
dựa vào các lư thuyết và các điều suy lư của riêng
ḿnh. Đó là v́ tác phẩm này chỉ tŕnh bày lại một
phần những ǵ mà chính tác giả đă được
các môn sinh cao cấp truyền dạy, chỉ có một vài
chi tiết là được bổ sung do công tŕnh học
hỏi và quan sát của chính tác giả. Trong ṿng vài năm
vừa qua, trong khi nỗ lực đào luyện ra một
hệ tư tưởng hoàn chỉnh theo một vài sự
kiện đă được truyền thụ trước
kia, nhiều nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng và môn sinh
thần bí học đă đi vào các cuộc suy luận hoang
đường; v́ thế, chúng tôi cần phải công
bố nhiều sự kiện được phát biểu
trong tác phẩm này.
Cũng chẳng cần giải thích rằng
tác phẩm này không phải là toàn bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, mà
chỉ là một tuyển tập các giáo điều căn
bản. Chúng tôi đă đặc biệt quan tâm tới
một vài sự kiện mà nhiều tác giả đă
chộp lấy để xuyên tạc và làm sai lệch chân
lư.
Nhưng có lẽ ta nên dứt khoát khẳng
định rằng mặc dù c̣n vụn vặt và bất
toàn, các giáo lư chứa đựng trong tác phẩm này không
hề riêng thuộc về Ấn Độ giáo, Bái Hỏa
giáo, Can Đê giáo, Ai Cập giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Do
Thái giáo hoặc Thiên Chúa giáo. Giáo Lư Bí Nhiệm là tinh hoa
của tất cả các tôn giáo này. Bắt nguồn từ
Giáo Lư Bí Nhiệm, đủ thứ hệ thống tôn giáo
này đang hội nhập về cái nguồn cội đă
phát triển và thể hiện ra mọi giáo điều bí
nhiệm.
Rất có thể là đa số công chúng
sẽ coi tác phẩm này là một chuyện Thần Tiên hoang
đường, v́ có ai đă nghe nói đến Thiền
Định Chân Kinh (Book of Dzyan) bao giờ đâu?
Do đó, tác giả xin sẵn sàng hoàn toàn
chịu trách nhiệm về những ǵ bao hàm trong tác
phẩm này; thậm chí, tác giả cũng sẵn sàng
đương đầu với việc bị tố cáo
là đă chế ra toàn bộ các điều đó. Tác
giả thừa biết là nó có nhiều khuyết
điểm. Tác giả chỉ xin tuyên bố rằng cho dù
nó có vẻ hoang đường đối với nhiều
người, lư luận mạch lạc và tính chất
“trước sau như một” khiến cho Tân Sáng Thế Kư
này ít ra cũng có quyền được xếp ngang hàng
với các “giả thuyết” để kiểm chứng mà
khoa học hiện đại đang tha hồ chấp
nhận. Hơn nữa, thiên hạ phải xét tới nó,
không phải v́ nó dựa vào bất kỳ thế lực
giáo quyền nào, mà chỉ v́ nó có gắn bó mật thiết
với Thiên Nhiên, đúng theo các định luật
đồng nhất và tương tự.
Như vậy, mục tiêu của tác phẩm
này có thể được xác định như sau:
a. Chứng tỏ rằng Thiên Nhiên không
phải là một sự tập hợp “ngẫu nhiên
của các nguyên tử”.
b. Chỉ định cho con người
vị trí đúng đắn của y trong hệ thống
Vũ Trụ.
c. Phục hưng các chân lư cổ sơ
vốn là nền tảng của mọi tôn giáo.
d. Trong một chừng mực nào đó,
bộc lộ nhất nguyên cơ bản vốn là nguồn
cội của mọi tôn giáo này.
e. Chứng tỏ rằng khoa học văn
minh hiện đại chưa bao giờ tiếp cận
được khía cạnh Huyền bí của Thiên Nhiên.
Chỉ cần điều này
được hoàn thành chút ít thôi th́ tác giả cũng
đủ măn nguyện rồi. Tác phẩm này
được viết ra để phụng sự nhân loại,
v́ thế, nó phải được nhân loại và hậu
thế phán xét. Tác giả không chấp nhận điều
kháng cáo tầm thường nào. Bà đă quá quen với
sự lăng mạ, bà cứ bị vu khống như
cơm bữa và vẫn mỉm cười âm thầm khinh
bỉ khi nghe thiên hạ nói xấu ḿnh.
LUÂN ĐÔN
Tháng 10 – 1888
H.P.B.
LỜI NÓI ĐẦU CỦA ẤN BẢN
LẦN THỨ BA
(ẤN BẢN HIỆU ĐÍNH)
Khi chuẩn bị ấn bản này
để đem in, chúng tôi đă ra sức sửa chữa
các tiểu tiết về văn chương, mà không hề
đụng chạm ǵ đến các vấn đề quan
trọng hơn. Nếu H. P. Blavatsky c̣n sống lâu
đến lúc phát hành ấn bản mới này, chắc
chắn bà cũng sẽ hiệu đính và bổ sung nó
một cách đáng kể. Điều này không
được thực hiện ắt hẳn là một
trong nhiều thiệt hại nho nhỏ xuất phát từ
sự mất mát lớn lao duy nhất đối với
chúng ta.
Các câu văn vụng về, do tŕnh
độ Anh văn c̣n yếu, đă được
sửa lại. Hầu hết các đoạn trích dẫn
đă được kiểm lại, chúng tôi cũng tŕnh
bày các cước chú tham khảo chính xác, đây là một
công tác thật khổ nhọc, v́ các cước chú tham
khảo trong các ấn bản trước thường
rất cẩu thả. Chúng tôi đă chọn dùng một hệ
thống nhất quán để phiên âm các từ ngữ
Bắc Phạn. Khi bác bỏ h́nh thức mà các Đông
phương học giả Âu Tây ưa chuộng nhất,
xem nó như là một thứ nói chung sẽ làm cho
độc giả lầm lạc, chúng tôi đă gán cho các
phụ âm không có trong bộ mẫu tự Anh ngữ,
những tổ hợp biểu diễn một cách gần
đúng các hiệu năng âm thanh của chúng; chúng tôi
cũng đă ghi thêm trường độ của các nguyên
âm (khi cần). Đôi khi chúng tôi đă ghi luôn các chú thích vào
bản văn, nhưng điều này rất ít khi dùng và
chỉ khi nào chúng rơ rệt là một phần của nó.
Chúng ta đă thêm vào một Mục lục
phong phú để giúp ích cho các môn sinh và đă đóng nó riêng
ra một quyển, để cho các bạn tham khảo
được dễ dàng. Chúng tôi và tất cả các môn
sinh xin chân thành cảm tạ ông A. J. Faulding đă bỏ công
lao khó nhọc để hoàn thành công tác này.
LUÂN ĐÔN 1893
ANNIE
BESANT
G. R. S.
MEAD
LỜI NÓI ĐẦU CỦA ẤN BẢN ADYAR
(ẤN BẢN LẦN THỨ TƯ) CỦA BỘ GIÁO LƯ BÍ NHIỆM.
Nhân dịp kỷ niệm năm mươi
năm xuất bản bộ Giáo
Lư Bí Nhiệm, Adyar đă phát hành một ấn bản
hoàn chỉnh gồm sáu quyển rất gọn mà công chúng có
thể mua với giá cực rẻ, thực tế là
bằng chi phí xuất bản.
Để thực hiện một ấn
bản như vậy, và để hoạch định
việc xuất bản các tác phẩm Minh Triết Thiêng
Liêng cổ điển khác, chúng ta phải trông cậy vào
quỹ Blavatsky, một tổ chức nhằm truyền bá
giáo lư Minh Triết Thiêng Liêng càng sâu rộng trong quần
chúng càng tốt.
Một ấn bản Giáo Lư Bí Nhiệm cổ như thế chỉ có
thể được thực hiện ở Adyar. Ấy là
v́ chẳng những nó cần tới sự chăm sóc chuyên
môn của các Hội viên lăo thông Minh Triết Thiêng Liêng và
lịch sử của Hội Theosophy, mà người ta c̣n
có cơ hội thường xuyên tham khảo Văn khố
của Hội. Chỉ Văn khố này mới có nguyên
văn tài liệu cần để kiểm tra việc
đối chiếu chữ in với chữ viết tay
trong bản thảo, ngơ hầu bảo đảm là ấn
bản này được thực hiện phù hợp
hết mức với các ư định ban đầu
của bà H. P. Blavatsky.
Dù sao đi nữa, không ấn bản nào có
thể hoàn chỉnh mà không bao gồm cái đă
được gọi là quyển thứ ba, mà một
số người đă hoàn toàn sai lầm khi cho rằng
đó không phải là một phần tác phẩm của chính
H. P. Blavatsky. Có đủ bằng chứng xác định
rằng quyển ba là một phần của mớ tài
liệu mà bà đă trù tính xuất bản trong tương
lai. Tại Adyar, chúng tôi có bản sao của nguyên bản
viết tay trong mớ tài liệu của Nữ Bá
Tước Wachtmeister và có lẽ của những
người khác nữa.
Để cho việc nghiên cứu tác
phẩm này được dễ dàng, chúng tôi đă thêm vào
những phần sau đây:
1. Bộ Giáo Lư
Bí Nhiệm được biên soạn như thế nào,
(phần này được soạn theo các tài liệu
lưu trữ trong Văn khố).
2. Khái lược về
cuộc đời của bà H. P. Blavatsky.
3. Mỗi quyển có kèm theo
một MỤC LỤC SÁCH THAM KHẢO.
4. MỘT PHẦN NGỮ
GIẢI NGẮN gọn đă được thêm vào
phần Mục Lục.
5. PHẦN MỤC LỤC
đă được duyệt lại, và một mục
lục mới đă được biên soạn cho
quyển thứ năm của ấn bản mới (trước
kia là quyển III).
6. Tựa đề của
một số tác phẩm khoa học và các sách tham khảo
khác đă được thêm vào trong mỗi quyển.
Tôi rất lấy làm hân hạnh khi nhiệm
kỳ Hội Trưởng của ḿnh lại
được ghi dấu bởi việc tái bản
phần thiên khải vĩ đại nhất về Minh
Triết Vô Thủy (Eternal Wisdom) c̣n tồn tại và khả
dụng đối với thế giới hiện
đại. Tôi xin chân thành cảm tạ tất cả
chư huynh nào đă góp phần vào việc thực hiện
kỳ tái bản này. Tôi xin đặc biệt cảm
tạ bà Josephine Ransom, một trong các môn sinh ưu tú
nhất và có thẩm quyền về bộ Giáo Lư Bí Nhiệm,
đă dốc hết thời giờ vào việc giám sát
kỳ tái bản này. Nếu không có bà th́ kỳ tái bản
này c̣n lâu mới hoàn thành được. Từ đầu
chí cuối, bà đă cẩn thận xem xét các chi tiết
nhỏ nhặt nhất để cho mỗi chữ trên
mỗi trang sách sẽ phản ảnh trung thực hết
mức ư tưởng của tác giả, đặc
biệt, bà Ransom đă có thể hợp nhất các ấn
bản 1888 và 1893, khiến cho không thiếu bất cứ
điều ǵ trong ấn bản 1888, trong khi những
điều tiện lợi cho việc đọc sách (nó là
điểm dị biệt chính yếu giữa hai ấn
bản) chẳng hạn như những điều sửa
đổi về văn phạm và cách xếp chữ
đều được bao hàm một cách trung thực
trong ấn bản Adyar. Như thế, ấn bản Adyar
đúng là hai ấn bản nhập một.
Chúng tôi ắt hẳn đă không làm tṛn
bổn phận của ḿnh đối với các môn sinh
nghiên cứu Giáo Lư Bí Nhiệm, nếu chúng tôi
lờ đi sự tận tụy và kiến văn
quảng bác của hai đệ tử ưu tú nhất
của bà H. P. Blavatsky, đó là Annie Besant và G. R. S. Mead.
Có khá nhiều môn sinh đă trợ giúp bà
Ransom trong công tác đầy trách nhiệm nặng nề
của bà, chúng tôi xin chân thành cảm tạ tất cả
các bạn đó.
Chính bà Ransom chịu trách nhiệm chủ
yếu trong việc chuẩn bị tổng quát về
sửa bản in thử. Ông A. J. Hamerster và ông Sidney Ransom
đă trợ giúp vào việc chuẩn bị. Cô Ethelwyn M.
Amery chịu trách nhiệm chính trong việc sửa bản
in thử, với sự giúp đỡ của một vài
công nhân sốt sắng. Ông Rohit Mehta đă dùng kiến
thức uyên bác của ḿnh để góp phần vào việc
soạn ra bảng Mục lục mới, một công tác
thật là tẻ nhạt. Công tác khảo cứu do cô G.
Watkin (quản thủ Thư viện Adyar) thực hiện.
Các độc giả ở Thư viện Adyar đặc
biệt khảo cứu về tiếng Bắc phạn,
tiếng Tây Tạng và tiếng Trung Quốc. Các bạn trong
cũng như ngoài nước khảo cứu về các
văn bản Hy Lạp, La Tinh và Hebrew. Ông Hirendranath Datta (Phó
Hội Trưởng Hội Theosophy) đă trợ giúp
một cách thật quí báu về các vấn đề liên
quan tới Triết học Ấn Độ. Tôi cũng xin
cảm tạ nhiều Hội viên Hội Theosophy Anh
quốc đă lo việc kiểm lại phần tham
khảo nhiều tác phẩm cổ không có trong thư
viện Adyar và phần tham khảo các tác phẩm khoa
học hiện đại.
Ông H. J. Nt. Van de Poll (Giám Đốc danh
dự của nhà xuất bản Theosophy Adyar) và ông C.
Subbarayudu (Quản Đốc Ấn Quán Vasanta, Adyar) chịu
trách nhiệm ấn hành ấn bản mới này (một
trách nhiệm kinh doanh chuyên biệt).
Như vậy, chúng ta đă khởi sự
tại Tổng Hành Dinh của Hội Theosophy, chính tại
nơi ở của bà H. P. Blavatsky (the very home itself of H. P.
Blavatsky). Nó vẫn c̣n thắm đượm bầu không
khí hào hùng mà bà đă tạo ra, nó vẫn c̣n ghi dấu vô số
tư liệu thực sự về công tŕnh của bà. Bà là
hiện thân của cái luồng năng lượng tâm linh
mạnh mẽ vốn là hoạt động sáng tạo
của hai sáng lập viên Nội môn của Hội Theosophy
cũng như là tác nhân chính của các Ngài nơi ngoại
giới; năm 1888, luồng năng lượng ấy h́nh
thành nơi bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm. Năm 1875, theo tinh thần Thượng
Đế Ngôi Hai, các Ngài tạo ra h́nh hài tức là Hội
Theosophy. Năm 1888, theo tinh thần của Thượng
Đế Ngôi Ba, các Ngài ban cho sự sống – đó là
bộ Giáo Lư Bí Nhiệm.
Năm 1893, sự sống này được
đổi mới. Năm 1938, nó lại được
đổi mới một lần nữa.
Như vậy, dưới sự chỉ
đạo của hai sáng lập viên Nội môn, H. P. Blavatsky
bao giờ cũng là người đầu tiên ban sự
sống mà một ngày kia sẽ tạo ra toàn thể tân
thế giới.
Trên cương vị một sứ giả,
bà đă bị hành hạ và sỉ nhục. Nhưng thế
nào cũng có ngày thiên hạ sẽ biết được
chân tướng của bà: đó là Kẻ Soi
Đường cho thời đại mới.
ADYAR, 1938
GEORGE
S. ARUNDALE
Hội Trưởng Hội
Theosophy
LỜI NÓI ĐẦU CỦA ẤN BẢN ADYAR
(ẤN BẢN LẦN THỨ NĂM)
Tôi thấy việc viết phần dẫn
nhập cho lần xuất bản thứ Năm công tŕnh
vĩ đại của bà Blavatsky, bộ Giáo Lư Bí Nhiệm,
dường như chính là một đặc quyền
lớn lao. Tiếp theo lần thứ Tư, lần
xuất bản thứ Năm này, chỉ kèm theo vài thay
đổi về h́nh thức, chẳng hạn như
việc sử dụng chữ thường thay cho chữ
hoa trong trường hợp một vài từ thông
thường. Những thay đổi này được bà
Josephine Ransom và ông Leslie-Smith thực hiện, chúng ta phải
cảm ơn sự cần mẫn làm việc của
cả hai vị này. Bà Ransom chẳng may qua đời vào
tháng mười hai năm 1960. Việc sửa bản in
thử đă được thực hiện rất
cẩn thận do ông Leslie-Smith và những vị trợ giúp
khác. Chữ Cổ Do Thái và những phần phiên dịch
đă được ông Zeuger duyệt xét lại ở Do
Thái. Tôi phải kể đến sự cộng tác của
ông K. S. Krishnamurti, Giám đốc Nhà xuất bản Theosophy
ở Adyar, và ông K. Ramanathan, Giám đốc Ấn quán Vasanta.
Chúng tôi hy vọng lần xuất bản này
của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm sẽ giúp cho
tầm hiểu biết được xa hơn và gieo
rắc rộng răi kho tàng tư tưởng và thị
kiến mà nhiều thế hệ độc giả -
thuộc Khoa Minh Triết Thiêng Liêng cũng như không
phải theo Minh Triết Thiêng Liêng – đang càng ngày càng khám
phá ra ở bộ sách này từ khi nó xuất hiện
lần đầu tiên.
ADYAR
N.
SRIRAM
Hội
Trưởng Hội Theosophy
KHÁI LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI CỦA
BÀ H. P. BLAVATSKY
HELENA PETROVNA BLAVATSKY là một trong những
nhân vật phi thường nhất trên thế giới trong
ṿng hai mươi lăm năm cuối cùng của thế
kỷ thứ mười chín. Bà là một nhân vật quá
lợi hại và là một thách đố quá lớn
đến nỗi mà Tôn giáo, Khoa Học, Triết học
hoặc Tâm Lư học không thể không biết đến bà
được. Bà chuyên môn đả phá thần
tượng, xé tan những lớp vỏ che khuất
Thực tướng (Real). Nhưng v́ đa số mọi
người c̣n quá gắn bó với các lớp vỏ qui
ước và xa lạ với Thực tướng, nên
họ đả kích và sỉ vả H. P. B. v́ bà dám cả
gan vén màn bí mật của những ǵ mà việc tiết
lộ dường như là một điều phạm
thượng. Nhưng thời gian đă dần dần
biện minh cho bà. Mặc dù bị lăng mạ bà vẫn
vui ḷng “phụng sự nhân loại” và chứng tỏ
sự minh triết của ḿnh khi để cho hậu
thế phán xét công nghiệp hiển hách của ḿnh. ([1])
Helena Petrovna Von Hahn sinh non vào lúc nửa
đêm 30 rạng ngày 31 tháng 7 (theo lịch Nga là ngày 12 tháng 8)
tại Ekaterinoslav, tỉnh Ekaterinoslav, ở miền Nam
nước Nga. Lúc bà cất tiếng chào đời và lúc bà
được rửa tội đă có nhiều chuyện
dị thường xảy ra, đến nỗi mà
những gia nhân người Nga đă tiên đoán là cuộc
đời bà sẽ rất xáo trộn (a life of trouble).
Như vậy,
Năm 1849, khi được mười tám
tuổi,
Năm 1851, Helena (nay là bà Blavatsky tức H.P.B)
lần đầu tiên gặp vị sư phụ bằng
xương bằng thịt, Ngài là bậc Huynh
Trưởng hay Chân Tiên đă luôn luôn hộ tŕ bà tránh
khỏi những tai nạn hiểm nghèo khi bà chơi đùa
nghịch ngợm trong thời thơ ấu. Từ đó
trở đi, bà là đệ tử thực thụ của
Ngài, sốt sắng hưởng ứng mọi ẩn ngôn và
chỉ thị của Ngài. Ngài hướng dẫn bà
học cách kiểm soát và điều động các
thần lực mà bà bị khống chế v́ có bản
chất khác thường. Ngài hướng dẫn bà
trải qua muôn ngàn kinh nghiệm phi thường trong lănh
vực “pháp thuật” và huyền bí học. Bà học cách
chuyển thông điệp từ Sư Phụ tới cho
người nhận, chẳng quản mọi hiểm nguy
và ngộ nhận giăng mắc giữa đường.
Theo bước lăng du của bà trong thời kỳ tập
sự này cũng chính là chứng kiến bà hoạt
động trên khắp thể giới. Bà có thời kỳ
sống ở vùng Hy Mă Lạp Sơn, tu học trong các
đạo viện c̣n bảo tồn các giáo huấn của
một vài đạo sư thông thái nhất của thời
quá khứ. Bà đă nghiên cứu sinh hoạt và các
Định Luật của nội giới và các qui luật
mà ta phải tuân theo để nhập vào nội giới.
Để lưu lại chứng cớ của giai
đoạn nghiên cứu huyền bí học này, bà đă
để lại cho hậu thế một bản dịch
tuyệt diệu các công lư thiêng liêng, đó là tác phẩm Tiếng Nói Vô Thinh.
Năm 1873, H.P. Blavatsky đi Mỹ
để thi hành công tác mà bà đă được huấn
luyện. Kẻ nào mà nhát gan một chút th́ chắc chẳng
dám liều mạng như vậy. Vốn chỉ là một
phụ nữ Nga vô danh tiểu tốt, bà đă lao
đầu vào phong trào Thần linh học (Spiritualistic); lúc
bấy giờ, nó đang làm cả nước Mỹ và
(trong một chừng mực nào đó) nhiều nước
khác xôn xao. Các khoa học gia đều băn khoăn đi
t́m ư nghĩa của các hiện tượng nhiệm
mầu, và thấy khó ḷng vượt qua được
mớ ḅng bong các điều trá ngụy để t́m ra chân
lư, H.P. Blavatsky đă ra sức giải thích cho họ theo hai
cách: 1. Bằng cách đích thân hiển lộng thần thông.
2. Bằng cách tuyên bố có một minh triết cổ
truyền bàn về các định luật thâm sâu của
sự sống; chỉ kẻ nào có thể sử dụng nó
một cách an toàn và từ thiện mới nghiên cứu và giữ
ǵn nó được. Các Đấng ở địa
vị cao cả được gọi là các “Chân Sư”,
mặc dù các Ngài c̣n có nhiều tôn danh khác như là Chân Tiên,
Đế Quân, Huynh Trưởng, Đại Đoàn
Chưởng Giáo…
Để bổ chứng cho các lời tuyên
bố của ḿnh, H.P.B. đă viết bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện
năm 1877 và Giáo Lư Bí Nhiệm năm 1888, cả hai
đều do các Chân Sư truyền dạy cho bà. Trong
bộ Nữ Thần Isis
Lộ Diện, bà đă dũng cảm biện minh cho
những bằng chứng mà bà đă thu thập
được từ các Thánh Kinh và các tài liệu khác,
đương đầu với chính thống giáo, chủ
nghĩa duy vật khoa học, tín ngưỡng mù quáng,
chủ nghĩa hoài nghi và sự vô minh. Thiên hạ đă
đối xử với bà một cách thật là xấc
xược, nhưng nền tư tưởng của
thế giới đă có những chuyển biến sáng
sủa hơn.
Khi bà H.P.B. được “phái” tới
Mỹ, một trong các nhiệm vụ quan trọng nhất
của bà là thành lập một Hội (khi thành lập nó
được gọi là Hội Theosophy – THE THEOSOPHICAL
SOCIETY), “để sưu tầm và phổ biến sự
hiểu biết về các định luật chi phối
Vũ Trụ” ([2]).
Hội kêu gọi “sự hợp tác huynh đệ của
những người có thể nhận thức
được tầm quan trọng của lănh vực
hoạt động của Hội và có cảm t́nh với
các mục tiêu phấn đấu của Hội” ([3]).
Sự “hợp tác huynh đệ” này đă trở nên
mục tiêu đầu tiên trong Ba Mục Tiêu hoạt
động của Hội. Trong nhiều năm, các mục
tiêu này đă được phác họa như sau:
Thứ nhất - Tạo ra một nhân tố
Huynh Đệ Đại Đồng giữa Nhân Loại,
không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, giới
tính, giai cấp hoặc màu da.
Thứ nh́ - Khuyến khích
việc nghiên cứu Tôn giáo đối chiếu, Triết
học và Khoa học.
Thứ ba - Điều
nghiên các định luật bí ẩn trong Thiên nhiên và các
quyền năng c̣n tiềm tàng trong con người.
Bà Blavatsky được chỉ thị
phải thuyết phục Đại Tá Henry Steel Olcott
cộng tác với bà để thành lập Hội Theosophy.
Ông là một người được công chúng Mỹ
rất trọng vọng và biết tiếng. Cũng như
H.P.B., ông đă hy sinh tất cả mọi chuyện
để xúc tiến sứ mạng mà các Chân Sư đă
giao phó cho họ.
Năm 1879, hai người đi Ấn
Độ và tại đây, họ đă đặt
những nền móng kiên cố đầu tiên cho công tác
của ḿnh. Hội truyền bá nhanh chóng từ xứ này
sang xứ khác. Việc tuyên bố phụng sự nhân
loại, có một diễn đàn cởi mở, có một
triết lư minh bạch và hợp lư, có một sự dẫn
dắt tinh thần đầy hứng cảm, đă
khiến cho Hội thu hút và thuyết phục
được nhiều người ủng hộ, H.P.B.
được các Chân Sư trao cho trách nhiệm phổ
biến Giáo Lư Bí Nhiệm,
tức Minh Triết Thiêng Liêng, cho thế giới – trên
cương vị là Đạo Sư tối cao; c̣n
Đại Tá Olcott được ủy nhiệm tổ
chức Hội, ông đă hoàn thành nhiệm vụ một
cách xuất sắc. Đương nhiên là hai vị tiên
phong này đều bị chống đối và hiểu
lầm, nhất là H.P.B. nhưng bà đă được
chuẩn bị để chịu bất cứ sự hy sinh
nào. Bà đă từng viết trong Lời nói đầu
của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm là “Bà đă quá quen
thuộc với việc bị lăng mạ, bà bị vu
khống hằng ngày và chỉ mỉm cười âm
thầm xem thường những điều thiên hạ nói
xấu ḿnh.
Thời kỳ rực rỡ và hữu
hiệu nhất trong cuộc đời của H.P.B. có
lẽ là thời kỳ ở Anh trong khoảng 1887 và 1891.
Các hậu quả của bản phúc tŕnh sai lệch của
Hội Khảo Cứu Tâm Linh vào năm 1885 về các
hiện tượng nhiệm mầu của bà, phối
hợp với sự đả kích của phái đoàn
truyền giáo Thiên Chúa ở Ấn Độ, đă phần
nào lắng dịu. Ngoài việc không ngừng viết lách,
biên tập sách vở và trả lời thư tín, bà c̣n
huấn luyện và dạy dỗ các môn sinh để
tiến hành công tác mà bà đă lập nên. Để thực
hiện mục đích đó, được ông Hội
Trưởng (Đại Tá Olcott) chính thức phê chuẩn,
bà đă tổ chức trường Bí Giáo của Hội
Theosophy. Vào khoảng năm 1890, bà đă d́u dắt hơn
một ngàn hội viên thuộc nhiều nước khác
nhau.
Chính tựa đề của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm cũng
đủ nói lên nội dung của nó rồi. Nó không hề
tŕnh bày “toàn bộ Giáo Lư Bí Nhiệm mà chỉ tŕnh bày
một tuyển tập các giáo điều cơ bản”.
1. Nó vạch rơ rằng nhờ vào việc so
sánh đối chiếu Vũ Trụ khai tịch luận
(Cosmogenesis) của cổ nhân, ta có thể tri giác
được các Phổ hữu chân thực (true Universals).
2. Nó cung cấp cho ta manh mối để
t́m ra lịch sử chủng tộc chân chính của nhân
loại.
3. Nó vén được bức màn ẩn
dụ và biểu tượng kư nhằm bộc lộ Chân
lư nhiệm mầu.
4. Nó tŕnh bày các “bí mật” khoa học của
Vũ Trụ để cho trí năng đang khao khát, cho
trực giác và cho các tri giác tinh thần lĩnh hội
được. Chừng nào mà c̣n chưa được
người ta nhận thức
ra th́ chúng vẫn c̣n là các bí mật.
H.P.B. qua đời vào ngày 8 tháng 5 năm 1891
và để lại cho hậu thế một di sản
vĩ đại bao gồm một số tư
tưởng tuyệt vời nhất đă từng
được tŕnh bày cho thế giới. Bà đă mở
được cánh cửa Bí nhiệm khép kín từ bao lâu
nay; bà đă chứng tỏ rằng Đại Đoàn
Chưởng Giáo vẫn hiện diện trên trần
thế, trông chừng và dẫn dắt thế giới. Bà
được muôn ngàn người trọng vọng v́ bà
đă và đang là ngọn hải đăng soi
đường dẫn tới các đỉnh cao mà mọi
người đều phải leo lên.
ADYAR
1938
JOSEPHINE RANSOM
18
BỘ GIÁO LƯ BÍ NHIỆM ĐƯỢC
VIẾT RA
NHƯ THẾ NÀO
Năm 1879 H.P. Blavatsky đă “đề
cập tới tác phẩm mới của ḿnh” lần
đầu tiên vào ngày 23 tháng 5 năm 1879 ([4]).
Đại Tá Olcott “đă góp ư với bà H.P.B. bằng
phần dàn bài bao gồm các ư tưởng thô thiển
để gợi ư cho một kẻ không hề có ư
định viết sách” ([5]).
Ngày 25 tháng 5, ông “đă giúp H.P.B. viết Lời nói
đầu của tác phẩm mới” ([6]);
và ngày Thứ tư 4 tháng 6, ông “đă giúp H.P.B. hoàn tất
Lời nói đầu…” ([7]).
Nhiều năm trôi qua mà công tác vẫn không tiến
triển, v́ H.P.B. và Đại Tá Olcott cứ mải lo thành
lập Hội Theosophy, hoạt động riêng ở
Ấn Độ, biên tập Tạp
chí Theosophist và trả lời một số thư
lớn lao.
Năm 1884, Phụ trương số tháng
giêng của Tạp chí Theosophist có đăng một
bài quảng cáo bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm, hậu thân của
bộ Nữ Thần Isis
Lộ Diện. Theo bài quảng cáo th́ “Từ khắp
nơi ở Ấn Độ, mọi người
đều yêu cầu áp dụng ngay một kế hoạch
nào đó để cho vấn đề bao hàm trong bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện
có thể được phổ biến tới tay
độc giả với một giá vừa với túi
tiền của những người không thể mua một
tác phẩm đắt như vậy ngay một lúc. Mặt
khác, khi thấy giáo lư đă được phác họa
một cách quá mù mờ, nhiều người đă đ̣i
phải được minh giải thêm. Tất nhiên v́
hiểu lầm giáo lư, họ đă giả sử sai lầm
là nó mâu thuẫn với các điều thiên khải sau này
(các điều thiên khải này đă từng bị ngộ
nhận hoàn toàn). Do đó, theo khuyến dụ của các
thân hữu, tác giả xin đề nghị xuất bản
tác phẩm này mỗi tháng một tập với một h́nh
thức hoàn hảo và minh bạch hơn. Tất cả
những phần quan trọng trong bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện cần ích
để quán triệt các đề tài huyền bí và các
đề tài triết học khác sẽ được
giữ lại, nhưng bản văn sẽ
được sắp xếp lại để tập
hợp một cách chặt chẽ các tài liệu liên quan
đến bất cứ một đề tài đă
định nào…Nhiều tài liệu bổ sung về các
đề tài huyền bí học sẽ được tŕnh
bày. Khi tác phẩm được xuất bản lần
đầu tiên, không tiện tŕnh bày các tài liệu này,
nhưng trong tám năm qua, việc tŕnh bày ấy đă
được dọn đường, nhất là khi
quyển Thế Giới
Huyền Bí (The Occult World), Phật Giáo Bí Truyền (Esoteric Buddhism) và các tác phẩm Minh
Triết Thiêng Liêng khác
19
được xuất bản. Trong các tác
phẩm nêu trên có nhiều ẩn ngôn minh giải cho nhiều
giáo lư đến nay vẫn c̣n bị hiểu lầm. Theo
dự trù th́ mỗi tập sẽ gồm bảy
mươi bảy trang giấy Royal 8vo
(tức là nhiều hơn mỗi tập thứ 24 của
nguyên tác là hai mươi lăm trang)… phải
được hoàn thành trong khoảng hai năm. Tập
thứ nhất phải được “phát hành vào ngày 15
tháng 3”.
Đầu năm nay, bà Blavatsky đă
viết thư bảo cho ông A.P. Sinnett biết rằng
mặc dù ông đă tŕnh bày cho thế gian các điều
vụn vặt của huyền bí học chân chính trong Phật Giáo Bí Truyền
(năm 1883), thế nhưng, chúng chỉ là những
mảnh vụn chớ không được xem là toàn
thể. Mặc dù đau ốm, nay bà lại “thức khuya
viết lại toàn bộ Nữ
Thần Isis Lộ Diện, với tựa đề
mới là Giáo Lư Bí Nhiệm và biến hai
quyển của nguyên bản thành ra ba hoặc bốn
quyển mới; Subba Row giúp tôi bằng cách viết hầu
hết các giảng lư và chú thích”.([8])
Bài quảng cáo kế tiếp đăng trên
trang 68, phụ trương số tháng 4 của Tạp chí Theosophist như sau:
“Giáo Lư Bí Nhiệm, hậu thân của Nữ Thần Isis Lộ Diện. Được H.P.
Blavatsky (Bí thư hướng dẫn giáo lư của Hội
Theosophy) chỉnh đốn lại nội dung, bổ sung
nhiều điều quan trọng, nhiều chú thích và
giảng lư. Phụ lực với bà Blavatsky là T. Subba Row
Garu, Cử nhân Văn khoa, Cử nhân Luật khoa, Hội
viên Hội Theosophy, Cố vấn của Hội…” Tập
thứ nhất phải được “phát hành vào ngày 15
tháng 6”. Lời quảng cáo được lặp lại,
nhưng trong số tháng 6, trang 92, thời hạn phát hành
được dời lại đến ngày 15 tháng 8,
rồi 15 tháng 9, và sau đó người ta không c̣n thấy
quảng cáo ǵ nữa.
Bác sĩ A. Keightley cho biết lần
đầu tiên ông nghe tin về bộ Giáo Lư Bí Nhiệm là khi đọc bài quảng cáo
đăng trong Tạp Chí
Theosophist. “Năm 1884, tôi được biết bà
Blavatsky đang đảm nhiệm việc viết một
tác phẩm… có tựa đề là Giáo Lư Bí Nhiệm, bà đă tham khảo ư kiến
nhiều người về kết cấu của pho sách,
và mọi điều c̣n đang trong ṿng tranh căi của
Triết học Ấn Độ đă được
đệ tŕnh cho .. T.Subba Row, ông cũng đă gợi ư khá
nhiều về kết cấu của nó. Sau đó, tôi
thấy ông đă làm như vậy, vạch ra một phác
họa rất sơ sài, nhưng không ai nghe theo ông” ([9]).
20
Khi đi Âu Châu, H.P.B. mang theo bản thảo và
làm việc bất cứ lúc nào bà rảnh rỗi. Từ Ba
Lê, trong khoảng tháng 4 đến tháng 6, bà đă viết
cho ông Sinnett là “một trong
những lư do khiến Mohini M. Chatterji đến đây là
để trợ lực tôi về phần chữ Bắc
Phạn của bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm… Tôi xin cảm
ơn ông v́ đă có ư định viết Lời Nói
đầu cho bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm; tôi không nhờ ông làm điều đó, các Chân
Sư và Mohhini ở đây, cùng với Subba Row ở kia
cũng quá đủ để giúp tôi hoàn thành nhiệm
vụ rồi. Nếu ông cho rằng “không thể thực
hiện được kế hoạch như đă loan báo
th́ tôi thật lấy làm tiếc cho linh tính trực giác
của ông. V́ Chân Sư có ư kiến khác ông, nên tôi sẽ
thử tuân theo lệnh và khuyến cáo của Ngài hơn là
nghe theo ông… Ông thật là phi lư khi bảo rằng tôi nên khôn
ngoan ra lệnh trả lại tiền đặt mua báo dài
hạn và rút lại lời loan báo. Tôi đâu có định
viết lại cuốn sách hiểm hóc đó (that infernal book)…
Nhưng dù muốn hay không, đó vẫn là bổn phận
của tôi. Sư Phụ ra lệnh và muốn nó
được viết lại, thế là tôi quyết tâm viết lại. Nếu
có người nào phụ giúp tôi trong công việc tẻ
nhạt này th́ càng tốt, c̣n nếu chẳng ai chịu giúp
tôi th́ cũng không sao. Dù sao đi nữa, biết đâu
ơn trên lại chẳng dun dủi giúp cho tôi viết ra
một tác phẩm tuyệt vời. Tôi cũng không
đồng ư… với quan điểm của ông cho rằng
“thật là điên rồ mà thử viết lại một pho
sách gồm nhiều tập xuất bản hàng tháng” một khi mà Sư Phụ đă
ra lệnh như vậy…Dù sao đi nữa, tôi cũng
đă hoàn thành một chương bàn về ‘Chư Thần
và Pitris, Chư Thiên và Chư Quỷ, Âm Ma và các Tinh Linh và các
loại ma quái khác’. Tôi đă t́m ra và theo một phương
pháp, thế là tôi đă viết lại hết chương
này đến chương khác một cách rất dễ
dàng. Việc ông gợi ư rằng nó không được
chỉ đơn thuần ‘giống như một bản
in lại của bộ Nữ thần
Cũng như bất cứ người nào
khác mà H.P.B. cho rằng có thể trông cậy
được, ông W.Q.Judge (lúc bấy giờ cũng có
mặt ở Ba Lê vào tháng 3 và tháng 4) cũng bị lôi kéo vào
làm việc. Tại căn nhà ở miền quê của ông bà
Bá Tước ở d’Adhémar, H.P.B. nhờ ông đọc
đi đọc lại bộ Nữ
Thần Isis Lộ Diện để ghi chú bên lề
những chủ đề nào phải được bàn
tới … chúng sẽ rất có ích cho bà” ([11]).
Việc thu thập tài liệu cho pho sách vẫn tiếp
tục.
Năm 1885, ngày 9 tháng giêng, Đại Tá Olcott
ghi vào Nhật kư đoạn
sau đây: “Chân Sư M. ([12])
đă phác họa kế hoạch về bộ Giáo Lư Bí Nhiệm cho H.P.B. Thật là
tuyệt vời! Đêm qua, Oakley và tôi đă làm thử,
nhưng kế hoạch này hay hơn nhiều” ([13]).
21
Âm mưu của Coulomb đă khiến cho H.P.B.
phải rời Adyar đi Âu Châu vào tháng ba. Bà đă đem
theo các bản thảo quí giá. “Khi chuẩn bị xuống
tàu, Subba Row bảo tôi viết bộ Giáo Lư Bí Nhiệm và mỗi tuần gởi cho ông
những ǵ mà tôi đă viết được. Tôi đă
hứa với ông điều đó và tôi quyết giữ
lời… Ông ta sẽ viết các chú thích và giảng lư,
thế rồi Hội Theosophy sẽ xuất bản pho sách
này” ([14])
Cũng chính trong năm ấy, Chân Sư K.H.
đă viết([15])
“Khi đâu vào đấy cả rồi, bộ Giáo Lư Bí Nhiệm sẽ là tác
phẩm chung của M.Upasika và [chính Ngài]([16]).
Sau khi làm
việc một ḿnh trong vài tháng ở
Bà Bá Tước thuật lại rằng t́nh
cảnh làm cho bà quan tâm và ngạc nhiên nhất là “thư
viện lưu động” của H.P.B. thật là nghèo nàn.
Song le, “các bản thảo của bà lại dẫy
đầy những điều tham khảo, trích dẫn, ám
chỉ, bắt nguồn từ một lô sách hiếm có và bí
hiểm bàn về đủ thứ đề tài”. Một
vài tác phẩm hoặc tài liệu này chỉ có ở Ṭa Thánh
Thiên hạ đă nhiều lần xin bà
dạy dỗ như bà đă dạy Đại Tá Olcott và
ông Judge, nhưng bà cho rằng nếu phải đảm
đương việc giáo huấn th́ ḿnh sẽ phải
dẹp bộ Giáo Lư Bí Nhiệm
qua một bên ([21]).
Người ta cám dỗ bà bằng cách đề nghị
trả tiền nhuận bút thật hậu hĩ nếu bà
chịu viết về bất cứ đề tài ǵ mà bà
thích cho các tờ báo Nga. Bà đă từ chối v́
“để viết một tác phẩm như bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, tôi phải
hướng tư tưởng của ḿnh tập trung
hết theo chiều ấy” ([22]).
“Hết ngày này qua ngày khác, bà cứ ngồi viết liên
tục hàng giờ…” ([23]).
22
H.P.B. đă cho Đại Tá Olcott biết
rằng bà đă sẵn ḷng gởi ba chương đă hoàn
tất cho Subba Row, nhờ ông xem lại, “sửa chữa, thêm
bớt… Nhưng ông phải xem lại phần Nhập đề. Sinnett lúc
nào cũng sốt sắng nhận làm, nhưng tôi không
thể chấp thuận chỉ v́ muốn có một thứ
Anh ngữ tao nhă hơn và những cao kiến về một
thứ bố cục văn chương máy móc (mechanical
arrangement) chứ không phải về bố cục siêu h́nh
(not metaphysical)…” ([24])
Năm 1886, trong bức thư đề ngày
6 tháng 1 năm 1886 ([25]),
gởi cho Đại Tá Olcott, hiển nhiên là H.P.B. đă
bỏ ư định cho rằng tác phẩm mới sẽ là
một bản hiệu đính của bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện.
Đại Tá đă gởi cho bà một Lời nói đầu nào đó dành cho một
bộ Nữ Thần Isis
đă hiệu đính; nhưng bà đă đốt phứt
nó đi và khuyên ông muốn trích ở hai quyển Nữ Thần Isis ra cái ǵ th́
cứ trích, rồi xuất bản nó thành từng tập
để gây quỹ cho Hội. Điều này chắc
chắn cũng làm nguôi ngoai được những
người nào đă đặt mua và đang trông chờ
bộ Giáo Lư Bí Nhiệm xuất bản mỗi tháng một
tập. Về phần ḿnh, bà phải gấp rút viết ra
bộ Giáo Lư Bí Nhiệm v́ nó
sẽ “biện minh” cho bà. Bà sẽ nhờ “bộ Giáo Lư Bí Nhiệm này chứng minh giùm liệu các Chân Sư
có thực hay không”, để đáp lại việc Hội
khảo cứu tâm linh kết án bà là người bịp
bợm (công chúng vẫn c̣n nhớ rơ điều này). Bà
lại đốc thúc Đại Tá Olcott cầu viện
Subba Row giúp đỡ về tất cả mọi
điều liên quan đến Nhất nguyên luận
(Advaitism) và huyền bí học của Tôn giáo cổ Aryan. Bà
muốn ông ta giúp thêm các câu trích dẫn xưa và có ư nghĩa
huyền bí. Bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm phải uyên bác, huyền bí và minh bạch hơn
gấp bội. Bà đă bảo sẽ gởi cho ông ta hai hay
ba chương, nếu không th́ bà sẽ bắt đầu
xuất bản ngay.
Ngày 3 tháng 3, H.P.B. viết thư cho ông Sinnett
bảo rằng về phần bộ Giáo Lư Bí Nhiệm , “cứ mỗi sáng là có một
điều triển khai và một bối cảnh mới. Tôi lại sống hai cuộc
đời. Sư phụ thấy tôi khó ḷng nh́n vào tinh tú
quang một cách hữu thức để chép bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, v́ thế… Sư phụ khiến cho tôi
thấy những ǵ cần thiết như thể tôi
đang nằm mơ. Tôi thấy các cuộn giấy vừa
dài vừa rộng có ghi mọi chuyện trên đó, thế
là tôi bèn nhớ lại chúng. Như vậy, tôi
được cho xem tất cả các Tộc trưởng
(patriarchs) từ Adam tới Noah – song song với chư Thánh
hiền (Rishis); c̣n ở giữa là ư nghĩa của các
biểu tượng - tức là các hiện thân. Chẳng
hạn như Seth và Bhrigu tiêu biểu cho giống dân phụ
thứ nhất của Giống dân chính, nghĩa là giống
dân phụ biết nói
tiếng người đầu tiên của Giống dân
thứ ba (xét về mặt nhân chủng học) và
đồng thời cũng có nghĩa là thời gian của
năm dương lịch vào lúc bấy giờ, kỳ gian
của giống dân của y
23
và nhiều điều khác nữa xét về
mặt thiên văn học – (y được 912 tuổi).
Cuối cùng là Enoch, có nghĩa là năm dương lịch
khi kỳ gian của ta đă ổn định, 365 ngày (y
về chầu Trời khi được 365 tuổi) v..v..
Điều này thật là cực kỳ phức tạp,
nhưng tôi đă kỳ vọng là sẽ giải thích cho
minh bạch một cách thỏa đáng. Tôi vừa hoàn
tất một Chương nhập đề phong phú
(hoặc Lời tựa, Lời nói đầu, ông muốn
gọi nó là ǵ th́ gọi) để chứng minh cho
độc giả thấy rằng theo thực chất
của bản văn th́ mỗi Tiết đều bắt
đầu với một trang dịch từ Thiền Định Chân Kinh (Book
of Dzyan) và quyển Kinh Bí Nhiệm của ‘Đức
Phật Di Lặc’ (Secret Book of ‘Maytreya Buddha’)… đều
không phải là chuyện bịa đặt, hoang
đường. Tôi được lệnh phải làm
như vậy, để phác họa đại khái về
những ǵ đă biết trong lịch sử và văn
chương, trong các chuyện cổ tích, chuyện dân gian
và thánh truyện – trong ṿng 500 năm trước và 500
năm sau kỷ nguyên Thiên Chúa – bàn về pháp thuật (magic), sự tồn tại của
một Giáo Lư Bí Nhiệm Đại Đồng Thế
Giới (a Universal Secret Doctrine) quen thuộc với các
triết gia và các Điểm đạo đồ ở
khắp nơi, thậm chí với cả nhiều
Đức Cha của Giáo hội nữa (chẳng hạn
như Clement ở Alexandria, Origen v..v.., chính họ đă
được điểm đạo). Tôi cũng
được lệnh phải mô tả các Bí pháp (Mysteries)
và một vài nghi thức; tôi có thể bảo đảm
với ông hầu hết các điều phi thường
được tŕnh bày hiện nay, toàn bộ câu chuyện
về cuộc Thập giá h́nh (Crucifixion) v.v.. (người
ta đă chứng tỏ nó dựa vào một nghi thức
xưa như trái đất - sự hành h́nh trên bàn quay
của ứng viên -), các điều khổ năo, việc
xuống địa ngục v.v.. đều thuộc
giống dân Aryan. Toàn bộ câu chuyện mà đến nay
chẳng Đông phương độc giả nào buồn
ngó ngàng tới, lại có mặt cả trong Thánh Kinh
ngoại môn, trong kinh Puranas và Brahmanas,
rồi lại được nội
môn bí giáo giải thích bổ sung… Tôi có đủ tài liệu để viết
ra tới hai mươi quyển giống như là Nữ Thần Isis, nhưng tôi
lại thiếu văn tài để biên tập các tài
liệu đó. Được rồi, chẳng mấy
chốc ông sẽ thấy Lời tựa này, đó là
phần khái lược về các Bí pháp sẽ
được tŕnh bày trong bản văn bao gồm 300 trang
khổ 34cm x 43cm” ([26]).
“Các bức tranh, toàn cảnh, bối cảnh
và diễn biến Đại hồng
thủy cùng với tất cả các điều đó” ([27]).
Ngày 12 tháng 3, trong bức thư viết
từ Wurzburg gởi cho ông Sinnett, Nữ Bá Tước
Wachtmeister cho biết rằng: “Tôi đă đâm ra lẫn
lộn các ‘Đoạn kinh’ và phần ‘Giảng lư’
đến nỗi mà tôi thật chẳng biết làm sao bây
giờ. Thế là bà Blavatsky bèn viết các Đoạn kinh,
bằng mực đỏ,
c̣n phần Giảng lư, được viết bằng mực đen; nhờ vậy,
nay chúng trở nên dễ hiểu hơn và người ta
không c̣n lẫn lộn các ư tưởng nữa…” ([28]).
24
H.P.B. quyết định năm nay bà sẽ
nghỉ hè ở
Nhưng hiển nhiên là Nữ Bá Tước
đă quay về đúng lúc để sao chép phần lớn
(nếu không muốn nói là tất cả) những ǵ mà H.P.B.
đă hoàn thành. Trong bức thư gởi cho ông Sinnett ngày 21
tháng 9 ([32])
và bức thư gởi cho Đại Tá Olcott ngày 23 tháng 9 ([33]),
H.P.B. đều cho biết rằng bà đă gởi
Quyển I của bộ Giáo Lư
Bí Nhiệm cho Adyar và nay đang viết phần Cổ
đại. Bà dặn là “trong Quyển I, phần Nhập
đề, có Bảy Tiết (hay Chương) và hai
mươi bảy Phụ Lục, mỗi tiết từ
một đến sáu đều có kèm theo nhiều Phụ
lục v..v…Tất cả điều này sẽ hợp thành
ít ra là một quyển, song đó không phải là Giáo Lư Bí
Nhiệm mà chỉ là Lời nói đầu của nó.
Phần này tối cần thiết, bằng không nếu
mọi người bắt đầu đọc quyển
sách về phần Cổ đại, họ sẽ phát khùng
(crazy) v́ những trang có tính cách quá siêu h́nh… “Bà cho phép ông
được tự do bố cục trong một chừng
mực nào đó, nhưng xin ông đừng để cho nó
nhảy trang hoặc cắt xén bản thảo… “Nên nhớ
rằng đây là một tác
phẩm lớn cuối cùng của tôi và tôi không thể
viết lại nếu nó bị mất, v́ tôi c̣n phải
bảo toàn mạng sống của ḿnh cũng như sinh
hoạt của Hội, nó c̣n quí giá hơn nữa…” “Hầu
hết tác phẩm đều do ‘Ông già Quân Tử’ (‘Old
Gentleman’) và Sư Phụ truyền dạy cho tôi” ([34]).
Đại Tá Olcott đă nhận
được bản thảo này ngày 10 tháng 12 ([35]);
trong bài diễn văn đọc tại Đại Hội
thường niên; ông cho biết ([36])
“Bản thảo của quyển I đă được gởi
tới cho tôi và đang được xem lại…” Ông c̣n nói
thêm rằng chẳng bao lâu nữa, quyển I tức là
Quyển nhập đề này sẽ được
xuất bản ở Luân Đôn và Nữu Ước.
Nhưng Subba Row không chịu làm ǵ khác hơn là đọc
nó, v́ nó có nhiều lỗi mà ông phải viết lại nó
hoàn toàn ([37]).
25
Bản thảo năm 1886 là một tài liệu
lư thú vô cùng. Nó do Nữ Bá Tước Wachtmeister và nhiều
người khác chép lại; theo đề nghị, một
vài đoạn Kinh đă được viết bằng
mực đỏ. Nó mở đầu với Tiết “Cùng
quí độc giả”. Đoạn một bắt
đầu như sau: “Sai lầm lăn tuồn tuột
xuống dốc, c̣n Chân lư ḅ ́ ạch lên đồi” (“Error
runs down on an inclined plane. While Truth has to laboriously climb its way up
hill”)([38]).
Tiết nhập đề của tác phẩm
được xuất bản đă được
quảng diễn một cách đáng kể. Trong đó bao
gồm phần mở đầu như sau: “Quyển I
của bộ Nữ Thần
Isis bắt đầu với một lời trích dẫn
từ Cổ thư ([39]),
đó là Tiết I của Chương I trong bản
thảo, mặc dù nó chỉ được sử dụng
có một phần và đă bị sửa đổi. Nó bàn
về các Cổ thư của Hermes và các Cổ thư khác.
Tiết II bàn về “Pháp thuật Chánh đạo và Ma
thuật (Black Magic), lư thuyết và thực hành”
được xuất bản (có hiệu đính và bổ
sung) trong Quyển III, ấn bản 1893, chủ yếu là
giống y như vậy (hầu như giống từng
chữ một). Tiết III bàn về Đại số siêu
việt và các chữ “được Thiên Khải” (“God-revealed”)
trong các Danh xưng Bí nhiệm (Mystic Names), chính là Tiết X
của Quyển III với phần tiết I, “Toán học và
H́nh học – các Ch́a khóa để giải các bài toán
đại đồng thế giới”. Trong khi đó,
phần tiết 2 trong bản thảo đă biến thành
Tiết XI – “H́nh lục giác với Tâm điểm v..v..”
trong quyển III. Trong bản thảo nó bắt đầu
như sau: -“Luận chứng về đức tính các danh
xưng (Baalshem), Molitor cho rằng”v.v… Tiết IV với phân
tiết l, “Bậc Chơn Tiên ở Tyana là ai?”, nó bắt
đầu như sau: - “Giống như hầu hết các
anh hùng thời thượng cổ…” ở trang 130 của
Quyển III. Phân tiết 2 “Giáo hội La Mă khiếp sợ
việc công bố Tiểu sử xác thực của
Apollonius” bị bỏ dở trong bản thảo, ngừng
lại ở câu “tức Alexander Severus…” trang 136, quyển
III.
Tiết V,
“[Kabeiri tức Chư Thần linh bí nhiệm] (Mystery God)-
theo giáo lư cổ truyền” được tŕnh bày nơi
trang 315, quyển III dưới tựa đề “Biểu
tượng kư về Mặt Trời và các Tinh Tú” và cũng
bắt đầu giống như vậy với
đoạn trích dẫn theo Hermes. Trong Phụ lục I bàn
về: “Sự tái lập, phát triển và lịch sử
của Tục thờ cúng Thiên Thần Tinh Tú (Star-Angel) trong Giáo
hội La Mă”, H.P.B. bắt đầu bằng cách bảo
rằng “nó được soạn thảo theo nhiều
nguồn tài liệu trong Văn khố của Ṭa Thánh
Chúng tôi đă tŕnh bày với độc
giả đầy đủ chứng cớ để
nhận thức được rằng Quyển III,
xuất bản năm 1897, chính là tài liệu xác thực
của H.P.B.
26
Nhân dịp lễ kỷ niệm bách niên sinh
nhật của H.P.B. (năm 1931) Nhà xuất bản Theosophy
ở Adyar dự tính lần đầu tiên xuất bản
bản thảo sơ khởi của Quyển I bộ Giáo Lư Bí Nhiệm mà H.P.B. đă
hoàn thành năm 1886, rồi gởi cho Đại Tá Olcott
để xin Subba Row phê chuẩn. Người ta đă
bỏ kế hoạch này v́ rất khó chuẩn bị
bản thảo để đem in và sửa nó từng trang
một để cho nó càng giống với nguyên bản càng
tốt, v́ bản thảo thật là vô phương pháp khi
sử dụng các ngoặc kép và gạch nối v.v.. và
rất khó đoán được xem liệu dấu
phẩy có nghĩa là dấu gạch hay không, hoặc
ngược lại ([40])…
Phần thứ hai của bản thảo
năm 1886 có tựa đề: “Giáo
Lư Bí Nhiệm, Phần I,
Thời Cổ Sơ, Chương I. Thoáng nh́n vào Thời
kỳ Vô tận, sự tiến hóa của Vũ Trụ theo
Bảy giai đoạn.
Tiết I có nhan đề là “Tài liệu có
từ thời Tiền sử” và mở đầu như
sau: “Trước mặt tác giả là một pho tài liệu
rất cổ, viết trên lá buông đă được
tẩm một thứ dược chất đặc
biệt để giữ cho đốt không cháy, thấm
nước không ướt và không thể hư hoại
trải qua thời gian”. Rồi, nó tiếp tục giới
thiệu ngay ṿng tṛn với một điểm ở tâm,
nhưng không đề cập đến đĩa
trắng vô nhiễm (the immaculate white disk). Sau hai mươi
bốn trang, người ta tŕnh bày Đoạn Kinh
đầu tiên và hứa hẹn là sau mỗi chương
sẽ có kèm theo một Phụ lục ngữ giải. Các
chú thích của mỗi ĐOẠN KINH đều
được tŕnh bày dưới dạng chú thích cuối
trang, chớ không xen kẽ trong bản văn như trong
ấn bản năm 1888. Phần giảng lư của
ĐOẠN KINH này mở đầu như sau: “Giáo Lư Bí Nhiệm kiến
nghị ba định đề cơ bản”. Ta sẽ
thấy câu này ở trang 14, phần Lời mở
đầu của ấn bản năm 1888 và trang 42 của
ấn bản năm 1893. Rồi đến phần đă
biến thành các giảng lư trong cuốn sách đă xuất
bản, c̣n tất cả các chú thích về mỗi
đoạn kinh đều được tŕnh bày liên
tục chứ không phải là theo từng Đoạn Kinh
một.
Trong bản thảo, tổng cộng chỉ
có mười chín trang của Quyển II. Chúng có tựa
đề là “Niên đại kư, Những chu kỳ, Nhân
chủng học cổ thời” (“Archaic Chronology, Cycles,
Anthropology”); một phần là mô h́nh thô sơ của
“Những lời giải thích mở đầu” của
quyển sách được xuất bản, và một
phần là sự biểu thị ngắn gọn về
đường lối của giáo lư về Niên đại
học và những Giống dân mà quyển sách phải
đề cập tới ([41]).
Khi Đại Tá Olcott nhận
được bản thảo, ông tuyên bố rằng:
“Chỉ cần đọc vội vàng cũng đủ
thỏa măn được những phê b́nh gia xuất
sắc hơn chính tôi; bản thảo đó sẽ là
một trong những sự đóng góp quan trọng nhất
đă từng được dâng hiến cho nền học
vấn triết lư và khoa học uyên bác, một đài danh
vọng của một tác giả trí thức, và một vinh
dự của Thư viện Adyar, mà bà là một trong những
sáng lập viên” ([42]).
Trong bài diễn văn thường niên, ông nói tác phẩm
này phải được khai triển thành chừng năm
quyển, quyển thứ nhất chẳng bao lâu nữa
sẽ được phát hành tại Luân Đôn và Nữu
Ước ([43]).
27
Ngày 4 tháng 1 năm 1887, khi viết thư cho
Đại Tá Olcott, H.P.B. nói rằng bà lấy làm sung
sướng v́ ông thích phần Lời nói đầu,
nhưng đó chỉ là một quyển sách mở
đầu, và giáo lư xác thực phải tiếp theo sau. Bà
đề cập đến một thanh niên người
Anh tên là E.D. Fawcett, y đă giúp bà tại Wurzburg và tại
Ostend, và về sau tại Anh, đặc biệt là về
những phần trong quyển thứ hai nói về giả
thuyết tiến hóa. “Y gợi ư, sửa chữa và
viết, và nhiều trang bản thảo của y
được H.P.B. gộp chung vào tác phẩm của bà”.
“Y cung cấp nhiều đoạn văn trích từ các tác
phẩm khoa học cũng như nhiều điều xác
nhận cho các giáo lư huyền môn phát xuất từ những
tài liệu tham khảo tương tự” ([44]).
H.P.B. lại yêu cầu ông Subba Row nên xem
bản thảo này và để cho ông muốn làm ǵ th́ làm –
“Tôi để cho ông toàn
quyền hành động. Tôi tin rằng ông ta hiểu
biết sâu rộng hơn tôi v́ tôi có thể không hiểu rơ
nhiều điều về cả Chân Sư lẫn Bậc
Tiền Bối (a point both Master and the Old Gentleman). Các Ngài
chỉ ban cho tôi những sự kiện và ít khi đọc
cho tôi viết liên tục… Tôi biết rằng những
sự kiện của tôi đều hoàn toàn mới mẻ…”
([45]).
Vào tháng giêng, bà viết thư báo cho ông Sinnett
biết là bà đă gởi phần giáo lư cổ truyền cho
ông trước khi nó đă thực sự sẵn sàng, v́ bà
“đang viết nó lại, xem đi xem lại, xóa bỏ và
thêm vào những lời chú giải do Thẩm quyền của
tôi” ([46]).
Nó đă được đệ tŕnh cho giáo sư W. Crookes.
Sau đó, H.P.B. viết thư cho ông Sinnett biết là bộ Giáo Lư Bí Nhiệm sẽ càng ngày
càng phát triển.([47])
Ở
Bác sĩ Keightley t́m gặp H.P.B. đang
sống tại
28
“Cái làm cho tôi sửng sốt nhất trong
phần mà tôi có thể đọc… là một số lớn
những đoạn văn trích dẫn của nhiều tác
giả khác nhau. Tôi biết rằng không có thư viện nào
để tham khảo và tôi thấy H.P.B. tổng cộng
không có tới ba mươi quyển sách, mà nhiều
quyển thuộc loại tự điển và nhiều tác
phẩm khác gồm từ hai quyển trở lên. Vào lúc
đó, tôi không thấy những ĐOẠN THÁNH KINH của
quyển THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH (STANZAS OF DZYAN), mặc
dù nhiều bài Vấn đáp
Bí Giáo (Occult Catechism) cũng
có ở trong bản thảo” ([50])
Vào mùa xuân, nhiều Hội viên người
Anh của Hội Theosophy thúc giục H.P.B. đến Luân
Đôn, ở đó bà có thể được chăm sóc
kỹ lưỡng hơn. Bà dọn đi với tất
cả những bản thảo của ḿnh vào ngày 1 tháng 5.
Suốt mùa hè, cả hai chú cháu nhà Keightley cứ đọc
đi đọc lại, chép và sửa lại một
chồng bản thảo cao ba bộ Anh. Sau vài tháng ở
“Bước kế tiếp là đọc
bản thảo lại một lần nữa và sắp
xếp lại một cách tổng quát tài liệu thuộc
về những mục có đầu đề là Vũ
trụ khởi nguyên luận và Nhân chủng học, chúng
phải tạo thành hai quyển đầu của bộ
sách này. Khi điều này đă được hoàn thành, và
H.P.B. đă góp ư một cách thỏa đáng, đă tán thành
những ǵ được hoàn tất, th́ toàn bộ bản
thảo được sắp đặt như vậy,
sẽ được những người chuyên nghiệp
đánh máy ra, rồi được đọc lại,
sửa lại, so sánh với bản thảo chính và tất
cả những đoạn văn trích dẫn bằng
tiếng Hy Lạp, Hy Bá Lai và Bắc Phạn do chúng tôi thêm
vào. Lúc bấy giờ dường như là toàn thể
Giảng Lư về những đoạn Thánh kinh của tác
phẩm này không có tới hơn hai mươi trang sách, v́
H.P.B. đă không theo sát bản văn khi viết bài. V́
vậy, chúng tôi đă phỏng vấn bà một cách nghiêm
trang, và đề nghị bà nên viết một bài b́nh
luận đặc biệt (trong những lời mở
đầu bà đă hứa với độc giả như
vậy)”. Giải pháp cho vấn đề này là : “Mỗi
câu Kinh của đoạn Thánh kinh được viết
(hay được cắt rời khỏi bản sao
đánh máy và dán lên đầu của một tờ
giấy) và rồi trên một tờ giấy rời được
ghim ở đây, có viết tất cả những câu
hỏi mà chúng tôi có đủ thời gian để trù
liệu cho câu Kinh này… H.P.B. nghĩ ra một số lớn
những câu hỏi, bà để cho chúng tôi viết
những lời giải thích đầy đủ hơn
hoặc ư tưởng riêng của chúng tôi… Về
điều mà độc giả trông mong bà nói; chính bà
viết nhiều hơn, sát nhập một ít tài liệu mà
bà đă viết về câu kinh đặc biệt này và tác
phẩm được soạn ra như thế” ([51]).
29
Bertram
Keightley viết: “Về các hiện tượng nhiệm
mầu liên quan tới bộ Giáo
Lư Bí Nhiệm, tôi có rất ít điều để nói mà
thôi. Những câu văn trích lục với những
điều tham khảo đầy đủ, từ
những quyển sách không bao giờ có trong nhà - những
đoạn trích lục chỉ được kiểm
chứng lại sau nhiều giờ t́m kiếm, đôi khi
phải đến viện bảo tàng Anh quốc, v́ sách
rất hiếm - thế mà, tôi đă thấy và kiểm
chứng được khá nhiều. Trong khi kiểm
chứng những đoạn này, đôi khi tôi thấy
một sự kiện lạ kỳ, đó là việc
những điều tham khảo về các con số bị
đảo ngược lại, nghĩa là trang 321 thay v́ 123,
nó minh họa cho sự đảo ngược của
đồ vật khi người ta thấy trong tinh tú quang
(astral light)” ([52])
Trong Tạp chí Theosophist ([53])
Đại Tá Olcott viết: “Thật là hoan hỷ khi
biết rằng Giáo Lư Bí
Nhiệm đang phát triển đều đều. Ông
Sinnett viết rằng đă hoàn tất được
một số tài liệu nhiều bằng một quyển
sách của bộ Nữ
Thần Isis. Dù cho vị Giám đốc nhà phát hành đă
đề nghị trả lại tiền cho tất cả
những người đă đặt cọc mua sách
(chừng 3.000 Ấn kim) từ lâu rồi, cũng rất
hiếm người chịu làm như vậy…” Trong bài
diễn văn thường niên vào tháng 12, Đại Tá
Olcott có nói rằng H.P.B. đă gởi cho ông “bản thảo
của bốn chứ không phải năm quyển của
bộ Giáo Lư Bí Nhiệm
để xem lại, và mong rằng quyển thứ
nhất sẽ được xuất bản ở Luân
Đôn trong ṿng mùa xuân năm tới” ([54])
Vào đầu năm 1888, H.P.B. lại
đề nghị gởi bản thảo cho ông Subba Row,
nhưng kết quả cũng chẳng hơn ǵ. Vào tháng 2,
bà cho Đại Tá Olcott biết là Tookaram Tatya đă viết
thư cho biết rằng Ông Subba Row sẵn sàng đọc
giúp và sửa chữa bộ Giáo
Lư Bí Nhiệm “miễn là tôi đừng đề
cập đến các vị Chân Sư!..Phải chăng ông
ta có ư nói rằng tôi phải phủ nhận các vị Chân
Sư hoặc là tôi chưa hiểu rơ các Ngài và xuyên tạc
những chuyện đă được truyền thụ
cho tôi…Chính tôi đă chứng minh sự tồn tại
của các vị Chân Sư cho thế gian và Hội Theosophy.
Tôi làm như vậy v́ các Ngài đă phái tôi thực hiện
công tác với vai tṛ là một cuộc khảo nghiệm
mới mẻ trong thế kỷ thứ XIX này, và tôi đă
làm hết sức ḿnh …” ([55]).
30
Mọi người đă bắt đầu
biết rằng ông Subba Row cứ khăng khăng không
chịu giúp một tay. Một nhóm hội viên ở Mỹ,
do ông Judge đứng đầu, viết thư cho H.P.B. nói
rằng họ có nghe đồn bà được yêu
cầu rút lại việc phát hành bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, v́ lư do một vài học giả
Ấn Độ có thể phản đối, và họ
sẽ đả kích hay chế giễu nó. Họ yêu cầu
H.P.B. đừng để ư, mà hăy xuất bản bộ Giáo Lư Bí Nhiệm càng sớm
càng tốt ([56]).
Ngoại trừ thông lệ theo nhận xét trên, một nhóm
hội viên người Ấn, do N.D. Khandalavala và Tookaram
Yatya đứng đầu, lại nói rằng nếu H.P.B.
ở Ấn Độ th́ bộ sách đă ra đời
từ lâu rồi. Họ nghĩ là H.P.B. không được
cho biết thích đáng về những đề nghị
khiến cho bộ sách chính xác hơn khi ám chỉ
đến nền văn chương Ấn Độ;
một vài cảm t́nh viên có thể thu xếp để cho
tác phẩm này được xem lại một cách dễ
dàng ([57]).
Từ Luân
Đôn, Bertram Keightley viết thư cho biết rằng
việc phát hành bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm đă khởi sự; ngay khi qui mô và phí tổn
của tác phẩm đă được tính toán một cách
dứt khoát, giá cả dành cho những người
đặt cọc mua sách được ấn
định, và thông báo được gởi đi, cho
người được quyền lựa chọn,
hoặc lấy sách hoặc rút lại tiền, nó đă
được gởi vào ngân hàng từ khi họ trả
tiền. “Bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm là một đề tài rộng răi, gồm
nhiều phương diện khác nhau đến đỗi
mà việc soạn thảo nó thật là một công việc
nặng nhọc và không thể ấn định
trước số quyển và cỡ sách cần thiết” ([58]).
H.P.B. đă viết “Khi toàn bộ bản
thảo tác phẩm này chưa rời khỏi bàn viết tôi
và bộ Giáo Lư Bí Nhiệm
c̣n chưa được mọi người biết
đến một cách hoàn toàn, th́ nó đă bị tố giác
là một sản phẩm do trí óc tôi chế ra, không hơn
không kém. Sau đây là những lời tâng bốc về tác
phẩm chưa xuất bản này được
đăng trong Tạp chí Điện Báo Buổi Chiều
(ở Mỹ) phát hành ngày
31
Khi Đại Tá Olcott sang nước Anh vào
tháng 8, ông nhận được một bức thư trong
buồng tàu. Chân Sư K.H. nói trong đó là: “Ta cũng đă
ghi nhận được những tư tưởng
của con về Bộ Giáo Lư
Bí Nhiệm. Những ǵ mà bà không chú thích là trích từ
những tác phẩm khoa học và những quyển sách khác
th́ chúng tôi cam kết là đă đưa ra và gợi ư cho bà.
Mỗi sự lầm lỗi và ư niệm sai lạc trong
nhiều tác phẩm của những nhà nghiên cứu Minh Triết
Thiêng Liêng khác mà bà đă sửa chữa và giải thích, là do ta chữa lại hoặc do
lời chỉ dạy của ta. Đó là một bộ sách có giá trị hơn bộ sách
trước, là một quyển tóm lược về
những chân lư huyền bí, khiến nó được xem là
một nguồn thông tri và chỉ giáo dành cho những môn sinh
chân chính nhiều năm tới” ([60]).
Khi đến Luân Đôn , Đại Tá Olcott thấy H.P.B.
đang làm việc tại bàn giấy của bà từ sáng
đến tối, chuẩn bị “bản sao” và sửa
chữa những bản in thử của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm. Cả hai
quyển phải được xuất bản trong tháng
ấy (tháng Tám). Tụ họp xung quanh bà là những nhà
nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng tận tụy, họ
đă tạm ứng 1500 Anh kim để dành cho việc
xuất bản bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm và nhiều loại
sách khác. “Ngay đến bộ Giáo
Lư Bí Nhiệm cũng có
chừng sáu nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng chăm lo
việc biên tập, họ đă giúp tôi sắp xếp tài
liệu, chữa lại tiếng Anh viết sai, và chuẩn
bị đem in. Nhưng từ đầu chí cuối, không
ai tự cho ḿnh là tác giả của giáo lư căn bản,
những phần kết luận về triết học và
giáo lư. Tôi đă chẳng chế ra điều ǵ, nó chỉ
được đưa ra theo như tôi đă
được chỉ dạy” ([61]).
Trong thời gian này H.P.B. bận làm việc
lu bù và mất sức, “càng ngày càng thức khuya dậy
sớm… Những ước tính của nhà in
được xem xét lại. Vài yêu cầu về khuôn
khổ và lề của trang sách cũng như bề dày và
phẩm chất của giấy là những điểm
đặc biệt đối với H.P.B… Khi những
điều này đă được quyết định
xong, cuốn sách bắt đầu được đem
in… Nó đă qua tay ba hay bốn người khác ngoài H.P.B.
nơi bản vỗ lần đầu để sửa,
hai bản xếp chữ in cũng như hai bản vỗ
lại. Bà là người chữa bài nghiêm khắc nhất
và chịu trách nhiệm đọc lại bản thảo,
với những kết quả kinh khủng trong bản
sửa chữa của bản tổng kê chữ in. Rồi
đến việc viết phần Đề tựa và sau cùng
cuốn sách được xuất bản” ([62])
“một kho tàng minh triết huyền bí vô song” ([63]).
“H.P.B. sung sướng trong ngày ấy” ([64]).
Bà viết phần mở đầu, quyển
I: Đối với những người xét đoán tôi qua
quá khứ và tương lai… tôi không có ǵ để
nói…Nhưng đối với đại chúng và quí
độc giả của bộ Giáo
Lư Bí Nhiệm, tôi có thể lặp lại điều mà
tôi đă bày tỏ từ lâu rồi và bây giờ tôi xin
mượn lời của văn hào Montaigne: “Thưa quí
vị, tôi chỉ tạo ra được một bó hoa
gồm những bông hoa chọn lọc, và tôi chẳng
đóng góp ǵ hơn là sợi dây để buộc chúng
lại” ([65]).
Vào tháng 10, bộ Giáo
Lư Bí Nhiệm mà mọi người trông đợi
từ bấy lâu, được “xuất bản cùng
một lượt ở Luân Đôn và Nữu Ước…Ấn
bản tại Anh đầu tiên gồm 500 quyển đă
bán hết trước ngày phát hành và ấn bản thứ
nh́ đang được chuẩn bị” ([66])
Ấn bản này được xuất
bản trước cuối năm.
Trọn ấn bản này được nhà
in H.P.B. (ấn quán của Theosophy) thực hiện; ấn
bản tại Anh được đăng kư tại Viện
các nhà xuất bản, trong khi ấn bản đồng
thời tại Mỹ được “H.P.B. đăng kư
(theo điều luật Quốc Hội năm 1888) tại
văn pḥng của vị Quản thủ thư viện
Quốc Hội tại thủ đô Hoa Thịnh
Đốn”.
32
Bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm không được báo chí quan tâm nhiều,
nhưng vẫn liên tục có lời yêu cầu giới
thiệu. Tạp chí Ngôi Sao
Luân Đôn nhận xét “thật là kỳ diệu, xét v́
quyển sách có một đặc tính huyền bí và khó
hiểu hơn bất kỳ quyển sách nào trước
đó” ([67]).
Trong bài đề tựa, H.P.B. đă xin
lỗi về sự chậm trễ trong kỳ xuất
bản cuốn sách này, lư do là v́ bà kém sức khỏe và qui
mô lớn lao của công tác. Bà viết: “ Ngay cả hai
cuốn này được phát hành cũng chưa hoàn
tất được kế hoạch và cũng không bàn
rốt ráo được những đề tài
được đề cập trong bộ sách… Nếu
những quyển sách này được đón tiếp
một cách khích lệ th́ chúng tôi sẽ không cần dè
dặt mà dốc toàn lực ra hoàn tất việc tiến
hành kế hoạch. Quyển thứ ba đă sẵn sàng
rồi, quyển thứ tư cũng gần như
vậy” ([68])
“Phải nói thêm là khi lần đầu tiên
loan báo việc tiến hành công tác, người ta không
hề dự định như vậy”. Rồi H.P.B.
đề cập tới ư định ban đầu
nhằm làm cho tác phẩm này là một bản tu chính của
bộ Nữ Thần Isis
Lộ Diện, nhưng
v́ có sự khác nhau trong phương pháp soạn thảo
cần thiết nên “những quyển sách này chứa
tổng cộng không đầy hai mươi trang trích
từ Nữ Thần Isis Lộ Diện”.
Khi đề cập đến những
quyển sách sẽ c̣n được xuất bản, bà
nói: “Trong quyển III của bộ sách này (quyển Sách
đă nói và quyển thứ IV hầu như đă sẵn
sàng) người ta sẽ tŕnh bày một tiểu sử
ngắn gọn của tất cả các vị Đại
Chân Sư được biết từ xưa và hiện
nay theo thứ tự niên đại, cũng như một
tổng quan về những Bí
Pháp (Mysteriers), sự ra đời, sự phát triển,
sự suy vi và rốt cuộc sự diệt vong của
chúng - tại Âu Châu. Điều đó không thể hiện
diện trong quyển sách này. Quyển IV sẽ hầu
như hoàn toàn chú trọng vào Giáo
Lư Huyền Môn” ([69]).
Khi đề cập đến những sự suy lư sai
lầm của các nhà Đông phương học liên quan
tới “những vị Thiền Định Phật
(Dhyani-Buddhas) và những phần tương ứng của
các Ngài trên cơi trần, những vị Phật tại thế
(Manushi- Buddhas) H.P.B. nói rằng: “Giáo lư thực sự
được ám chỉ ở một quyển sách sau này
(xem “Sự bí mật của Đức Phật”), và sẽ
được giải thích một cách đầy
đủ hơn ở đúng chỗ” ([70]).
Điều này chắc chắn là đề cập tới
“Sự bí mật của Đức Phật” ([71]).
Có thể là cái mà bà có ư nói tới vào năm 1886, “Bí mật tam
phân được tiết lộ” ([72]).
Năm 1888, những lời kết luận
của bà về bộ Giáo Lư
Bí Nhiệm là “Đă bắt
đầu thực hiện việc đốn ngă và nhổ
tận gốc những cây độc hại chết
người của sự dị đoan, thành kiến và vô minh
kiêu ngạo, để cho hai quyển này h́nh thành cho sinh viên
việc bắt đầu thích nghi với Quyển III và
Quyển IV. Chừng nào đống rác rưởi từ
bao thời đại c̣n chưa bị quét sạch khỏi
trí óc của những nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng
mà những quyển sách này được hiến dâng cho,
th́ người ta không thể hiểu được giáo lư
thực tiễn hơn chứa đựng trong quyển
thứ III. Như vậy, tùy theo quyển I và II có
được những nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng
Liêng và những nhà thần bí hoàn toàn tiếp nhận hay
không mà hai quyển sách này sẽ có được phát hành
hay không, dù chúng hầu như đă đầy đủ
rồi” ([73]).
33
Việc so sánh những sự tŕnh bày này
với những sự kiện đă chứng minh là chúng
trùng hợp với nhau, nghĩa là, trang 1- 432 của
Quyển III phác họa về lịch sử của một
vài vị Đại Chân Sư trên thế gian, c̣n trang 433-594 tŕnh bày huyền bí học thực tiễn
mà H.P.B. đă dạy cho các môn đồ của bà, và
“thoạt tiên chỉ được lưu hành nội
bộ trong một số đông môn sinh… Những bài vở
này… nay được công bố cho quần chúng và như
vậy là di sản văn chương của H.P.B. đă
được công bố hết” ([74]).
Năm 1890,
H.P.B. viết trong Tạp chí Lucifer
([75])
cho rằng nhu cầu về “kiến thức bí mật”
đă trở nên lớn đến nỗi mà khó ḷng đáp
ứng nhu cầu được. “Ngay cả bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, quyển sách
khó hiểu nhất của chúng ta - mặc dầu giá
tiền của nó rất kinh khủng, một cuộc âm
mưu chống đối im lặng, và một vài tờ
báo hàng ngày tung ra lời khinh bỉ thô lỗ - cũng đă
tỏ ra thành công về mặt tài chính”.
Vào cuối năm 1891, Ấn bản thứ II của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm đă bán hết. Ông G.R.S. Mead và bà Annie Besant chịu trách nhiệm xuất bản một ấn bản mới. Ông Mead là bí thư cho H.P.B. trong một vài năm nên ông tự cho là ḿnh đă ấn hành (theo một thể thức nào đó) hầu hết những tài liệu mà H.P.B. đă viết ra bằng tiếng Anh([76]). Ông là người cai quản lo lắng cho ấn bản mới, ông dùng tài uyên bác thượng thặng và sự hiểu biết về những nguyện vọng của H.P.B. để sửa lại những sự lầm lẫn về văn phạm và nhiều điều khác trong tác phẩm.
Một “Bố cáo quan trọng” được xuất bản trong tập Kỷ yếu Minh Triết Thiêng Liêng như sau: “Một ấn bản tu chính của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm. Ấn hành lần thứ hai của kiệt tác H.P.B. đă hết, ấn bản lần thứ ba phải được đến tay mọi người ngay. Người ta cố gắng xem lại ấn bản mới một cách kỹ lưỡng và ban biên tập thành thật yêu cầu tất cả các môn sinh Minh Triết Thiêng Liêng nào đă đọc bố cáo này hăy gởi cho chúng tôi bản ĐÍNH CHÍNH càng đầy đủ càng tốt. Sự kiểm chứng những đoạn tham khảo, trích văn, sai chính tả, những lỗi về lập bảng mục lục, chỉ dẫn những đoạn tối nghĩa v.v.., sẽ được đón nhận một cách hết sức ân cần. Điều quan trọng là bảng ĐÍNH CHÍNH của phần đầu Quyển I nên được gởi đi TỨC KHẮC.
Annie Besant, G.R.S. Mead” ([77])
34
Năm 1895, “Ấn bản tu chính là một công
tác lao tâm lao lực nhất, những chủ biên phải
hết sức cố gắng để kiểm chứng
lại mỗi đoạn trích văn và chữa lại
nhiều sự sai lầm về h́nh thức trong những
bản phát hành trước. Những sự sai lầm về
nội dung th́ các vị chủ biên không có quyền sửa
lại…” ([78]).
Bảng mục lục dành cho Ấn bản lần thứ
nhất và lần thứ hai không đầy đủ lắm.
Ông A.J Faulding đă dốc hết thời giờ vào
việc soạn ra một bảng mới và phong phú hơn,
nó được đóng riêng ra một quyển. “Về
việc quá nặng nhọc này, chúng tôi và các môn sinh phải
chịu ơn ông..” ([79]).
Từ đó, bảng Mục lục này luôn luôn tỏ ra là
đắc ư hơn hết. Một vài điều bổ túc
được thêm vào ấn bản Adyar, trong đó,
một bảng Mục lục của tất cả các
quyển sách được phối hợp lại thành
một bảng duy nhất.
Năm 1896,
dĩ nhiên có những đoạn bản thảo của
H.P.B. bị bỏ sót. Những đoạn này có trong tay bà
Besant, và sắp sửa được đem xuất
bản. Suốt trong thời gian chuẩn bị này,
người ta thấy một số ít bản thảo
dường như không phải là thành phần của
bộ Giáo Lư Bí Nhiệm. Những bản
thảo này được xuất bản trong Tạp chí Lucifer:
1. Các vị “Thần Linh” thuộc đủ
loại khác nhau ([80])
2. Phật giáo, Thiên Chúa giáo và Tục sùng bái
sinh thực khí (Phallicism) ([81]).
3. Những đoạn linh tinh: Sự Tôn Sùng
H́nh Tượng;
Những Vị Hóa Thân,
Những Sự Điểm Đạo; Về Những Chu
Kỳ và Những Điều Ngụy Biện Hiện
Đại ([82]).
Năm 1897. Đúng vào ngày 14 tháng 6 và cùng
một lúc, Quyển thứ ba được bán tại
Khi ông Jinarajadasa lục lọi trong văn
khố góp nhặt tài liệu rải rác để gộp
chung lại với nhau, ông t́m thấy một trang sách
độc nhất khác do H.P.B. viết tay gồm Giảng
lư và chú giải về ĐOẠN THÁNH KINH I (STANZA I).
Một bản mô phỏng của trang sách này
được in trong Tạp
chí Theosophist ([84]).
Bà Besant nói về việc soạn thảo bộ Giáo Lư Bí Nhiệm như sau:
“H.P.B. đă viết đi viết lại, chữa lại
ngay cả khi những bản in thử sau cùng đă sẵn
sàng được in ra… Những sự thay đổi
tiếng, sự thiếu sót chữ và sự sắp xếp
lại tài liệu của H.P.B. đă làm cho các môn sinh
hết sức say mê. Một lập luận điên rồ
về Ấn bản thứ nh́ của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm (1893) ([85])
(do nhà xuất bản Luân Đôn xuất bản sau khi H.P.B.
từ trần) vừa được đề
xướng ở Mỹ, cho rằng H.P.B. không hề
muốn vậy. Người ta ám chỉ rằng H.P.B.
bị “điều khiển” (“edited”) do một nhóm
người có trách nhiệm về ấn bản lần
thứ hai. Những di cảo được bà để
lại cho những người ǵn giữ các bản
thảo đă in và chưa xuất bản (tất cả
đều là những môn đồ thân tín của bà),
họ đă sống chung với bà trong nhiều năm và
họ chỉ sửa đổi những điều mà
chẳng khác nào do chính bà ra lệnh, chủ yếu là
sửa những lỗi về ngôn từ và văn phạm,
và sắp đặt tài liệu cho quyển III”.([86])
35
“Để tỏ ra công b́nh với ông Mead và bà
Besant… với sự hiểu biết của cá nhân tôi, tôi
muốn bày tỏ là, những lời tố cáo
thường được nhắc lại cho rằng
họ, hoặc một trong hai người, đă thực hiện
những thay đổi không chính đáng về ấn
bản tu chính kỳ ba của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm,
làm lộn xộn bản thảo của quyển thứ
ba, và hủy bỏ quyển thứ tư, th́ hoàn toàn sai
lầm, hoàn toàn vô căn cứ…v́ tôi từng ở Hội
Quán Luân Đôn trong bốn năm để trông nom nhà in và
in bản tu chính bộ Giáo Lư
Bí Nhiệm, nên tự nhiên là
tôi có nhiều cơ hội để hiểu biết
sự việc…
“Bản in
đầu tiên của bộ Giáo
Lư Bí Nhiệm được chia ra làm hai ‘ấn
bản’, do đó nó vẫn như nhau ngoại trừ ḍng
chữ ‘Ấn bản kỳ hai’ ở trong sách đề
tựa. Bản in được thực hiện bằng
cách in nổi, nhưng các khuôn bản in đúc vẫn
được chế tạo trong trường hợp
người ta cần một bản in khác. Tuy nhiên, khi đến
giờ khởi sự, chúng tôi thấy những khuôn đúc
lại bị hỏng v́ sự rủi ro, và tôi lại là
một trong những người khoái chí về sự
thiệt hại đó, v́ có dịp xem lại tác phẩm,
công việc nặng nhọc này được ông Mead và bà
Besant gánh vác… V́ bà Besant chỉ có thể dành ra một ít th́
giờ ngoài những hoạt động khác về Minh
Triết Thiêng Liêng, nên công việc xem lại bài hầu
như do ông Mead làm hết, ông được nhiều nhân
viên trong ban biên tập phụ giúp kiểm chứng lại
những đoạn văn trích và tham khảo…
“Trong khi xem
lại ấn bản đầu tiên của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, ông đă làm lại công tác mà ông đă làm
đối với các bản thảo của H.P.B.
trước kia, chỉ có thế mà thôi. Đó là v́ hiển
nhiên là đối với bất kỳ người nào
đă quen với chi tiết về lối viết văn và
kỹ thuật của việc phát hành sách th́ bản
thảo của bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm chưa được chuẩn bị đúng
đắn dành cho nhà in và việc đọc lại bản
in thử cũng không được làm một cách cẩn
thận, đến nỗi mà những lỗi văn
phạm c̣n rành rành (v́ tác giả không chú ư) vẫn
được để y nguyên như vậy. Ông Mead hay bà
Besant không thay đổi ǵ, ngoại trừ những
điều đă được sửa đổi trong
bản thảo chính trước khi cho in.
“Nhờ thông thái và tận tâm trong khi xem xét
lại, ông Mead đáng được hưởng ḷng tri ân
của tất cả những độc giả biết
xét đoán của bộ Giáo Lư
Bí Nhiệm (bà Besant cũng vậy, v́ bà gánh vác phần
công việc nặng nhọc của bà).
“Khi tôi hoàn tất việc in quyển I và II
th́ bà Besant đặt bản thảo quyển III trong tay
tôi… H.P.B. đă phải viết lại một vài trang sách
nhiều lần với những sự bôi xóa và thay
đổi, mà cũng không có một điều ǵ biểu
thị bản chép nào là bản tu chính sau cùng; bà Besant
phải quyết định là ḿnh cứ cố gắng làm
được đến đâu hay đến đó.
36
“V́ nó có ít đề tài hơn nhiều so
với các quyển sách khác, nên bà Besant bảo tôi rằng bà
có thể thêm vào đó những giáo huấn của
Trường Bí Giáo Minh Triết Thiêng Liêng v́ H.P.B. đă
bảo là bà có thể làm như vậy. Ta sẽ nhận
thấy là những giáo huấn này đề cập
đến những vấn đề bao hàm trong quyển
IV, mà ta chỉ t́m thấy một vài trang, chỉ đủ
để ghi nhận H.P.B. đă ngừng viết ở
chỗ nào. Tôi có khuynh hướng tin rằng bà có ư
định đem những giáo huấn này vào quyển IV và
bà đă nghĩ như vậy khi viết, một cách quá
lạc quan, là hai quyển sau cùng đă hầu như ‘hoàn
chỉnh rồi’. Một chồng bản thảo to cũng
được t́m thấy sau khi H.P.B. chết, nhưng
đó chỉ là bản thảo cũ của quyển I và II
được nhà in trả lại…” ([87])
Trong Tạp chí Lucifer, bà
Besant viết: ([88])
“Giá trị của bộ Giáo Lư
Bí Nhiệm không nằm trong những tài liệu riêng
biệt, mà ở trong việc kiến tạo chúng thành
một toàn thể kết hợp, cũng như giá trị
của một đồ án kiến trúc vẫn không bị
sút kém v́ ṭa nhà được làm bằng nhiều viên
gạch do nhiều bàn tay khác tạo ra… H.P.B. rất
luộm thuộm về phương pháp viết văn, bà
sử dụng bất cứ đoạn văn trích nào
chứng minh những lư luận của bà, xuất phát
từ bất kỳ nguồn gốc nào, ở cơi trần
hay cơi cảm dục, bà không chú ư bao nhiêu đến việc
sử dụng những dấu ngoặc kép. Thử hỏi
khi biên tập ấn bản vừa qua của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm, khuyết
điểm này có làm ông Mead và tôi chịu rất nhiều
cực khổ chăng?... Hỡi các bạn của tôi
ở khắp bốn biển năm châu, vốn đă
học ở H.P.B. những chân lư thâm sâu biến đời
sống tinh thần thành một thực tại, ta hăy
đứng vững để bênh vực bà, đừng
đ̣i hỏi sự hoàn toàn của bà, đừng yêu
cầu chấp nhận bà là một ‘người có thẩm
quyền’- nhưng hăy khẳng định sự thực
về sự hiểu biết của bà, mối liên hệ
của bà với các vị Chân Sư, sự hy sinh vinh
diệu của cuộc đời bà, sự phụng
sự vô giá mà bà đă thực hiện v́ chính nghĩa tinh
thần của nhân loại. Khi tất cả những
sự đả kích này bị lăng quên đi, th́ những
danh vị bất tử này sẽ c̣n măi cho hậu thế
tri ân”.
Adyar, 1938
Do Josephine
Ransom biên soạn
41
LỜI GIỚI
THIỆU
HĂY
NGHE MỘT CÁCH LỊCH SỰ,
HĂY PHÊ PHÁN MỘT CÁCH
DỄ THƯƠNG
SHAKESPEARE
(Henry Đệ V, Lời mở đầu)
Từ lúc văn chương Minh Triết
Thiêng Liêng xuất hiện tại Anh, người ta đâm
ra có thói quen gọi giáo lư Minh Triết Thiêng Liêng là “Phật
Giáo Bí Truyền” (“Esoteric Buddhism”). Một câu tục ngữ
xưa dựa vào kinh nghiệm hằng ngày nói “Sai lầm
lăn tuồn tuột xuống dốc, trong khi Chân lư ḅ ́
ạch lên đồi”.
Những sự thực hiển nhiên cũ
kỹ thường là khôn ngoan nhất. Trí óc con
người khó ḷng có thể hoàn toàn thoát khỏi thiên
kiến, những ư tưởng quyết đoán về
một vấn đề thường được
tạo ra trước khi ta khảo sát tỉ mỉ về
mọi khía cạnh của nó. Điều này nhằm nói
tới hai lỗi lầm phổ biến: a) giới hạn
Minh Triết Thiêng Liêng vào Phật giáo; b) lầm lộn
những lời dạy về triết lư tôn giáo do
Đức Phật Cồ Đàm thuyết giảng, với
những giáo lư được phác họa một cách
rộng răi trong quyển Phật
Giáo Bí Truyền ([89]).
Người ta khó ḷng có thể tưởng tượng ra
được bất cứ điều ǵ sai lầm
hơn điều này. Nó khiến cho các đối
phương của chúng ta có thể t́m thấy một khí
giới hữu hiệu chống lại Minh Triết Thiêng
Liêng, v́ một học giả lỗi lạc về
tiếng Pali (Nam phạn) đă tŕnh bày một cách rất
sắc sảo là quyển sách nêu trên “Không có tính cách bí
truyền, cũng chẳng thuộc về Phật giáo”.
Những chân lư bí truyền được tŕnh bày trong tác
phẩm của ông Sinnett, không c̣n có tính cách bí truyền
nữa khi nó được đưa ra cho công chúng;
quyển sách chứa đựng giáo pháp của Đức
Phật cũng vậy; bây giờ, có nhiều điều
nữa đă được giải thích và bổ túc trong
những quyển sách này, c̣n quyển trên chỉ là một
vài giáo điều rút ra từ một giáo lư đến nay
vẫn c̣n bí ẩn. Ngay cả quyển sách này, mặc dù
đă đưa ra nhiều giáo lư căn bản rút ra từ
Giáo Lư Bí Nhiệm của
Đông phương, vẫn chỉ vén được
một góc nhỏ của bức màn đen che giấu.
Đó là v́ không người nào, cũng như không một
vị Chân Sư c̣n đang giữ xác phàm nào đại tài
nhất, có thể được phép, hoặc có thể -
cho dù Ngài muốn – tŕnh bày cho một thế gian nhạo báng
và ngờ vực, cái giáo lư đă được giấu kín
một cách hữu hiệu trải qua nhiều thời
đại và giai đoạn xa xưa.
42
Quyển Phật Giáo Bí Truyền là
một kiệt tác với một tựa đề rất bất
lợi, dù nó không có ư nghĩa ǵ hơn tựa đề
của bộ Giáo Lư Bí Nhiệm
này. Nó tỏ ra bất lợi v́ mọi người luôn luôn
có thói quen phê phán mọi vật theo bề ngoài hơn là ư
nghĩa của chúng và v́ sự sai lầm hiện nay đă
trở thành phổ biến đến nỗi ngay cả
hầu hết những Hội viên Hội Theosophy cũng
đă trở thành nạn nhân của những sự
hiểu lầm như vậy. Tuy nhiên, thoạt tiên,
những người Bà La Môn và nhiều người khác
đă nổi lên chống đối tựa đề
đó; công tâm mà nói, tôi phải thêm là Phật Giáo Bí Truyền được tŕnh bày
như là một cuốn sách đầy đủ, và tôi hoàn
toàn không hiểu tác giả có ư ǵ khi đọc từng
chữ “Budhism”. Sự sai lầm này phải được
qui trách nhiệm cho những người nào đă đem
vấn đề này ra trước công chúng lần
đầu tiên mà lại quên không vạch ra sự khác
biệt giữa “Buddhism”- hệ thống tôn giáo về
đạo đức do Đức giáo chủ Cồ
Đàm thuyết giảng, theo danh hiệu Ngài là Phật (Buddha), “Đấng
Giác Ngộ”- và “Budhism” do chữ Budha,
Minh Triết hay sự Tri Thức (Vidya), quan năng tri
thức, do ngữ căn Bắc Phạn (Sanskrit) là Budh, hiểu biết. Chúng ta,
những nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng ở Ấn
Độ, mới là những người phạm tội
thực sự, mặc dù có lúc chúng ta đă làm hết
sức ḿnh để sửa lại lỗi lầm ([90]).
Muốn tránh việc gọi tên đáng tiếc này th́
cũng dễ thôi, chỉ cần sửa đổi cách
đánh vần chữ này bằng cách nhất trí đọc
và viết “Budhism” thay v́ “Buddhism”. Chữ sau chót không
được đánh vần và đọc lên một cách
đúng đắn, v́ trong tiếng Anh, nó phải
được gọi là Buddhaism; và những tín đồ
là “Buddhaits”.
Sự giải thích này rất cần khi
khởi sự một công tác như công tác hiện nay. Tôn
giáo Minh Triết là di sản của tất cả các
nước trên thế giới, mặc dù quyển Phật Giáo Bí Truyền ([91])
có ghi: “Cách đây hai năm (nghĩa là năm 1883), tôi
cũng như bất kỳ một người Âu Châu nào
khác sống ở đây, không hề biết
được phần vỡ ḷng của môn khoa học
lần đầu tiên được h́nh thành…” Sự
lơ đăng ắt tạo ra sự sai lầm này. Tác
giả cũng biết tất cả những ǵ
được “tiết lộ” trong quyển Phật Giáo Bí Truyền hoặc nhiều hơn nữa, nhiều năm trước
khi bà nhận nhiệm vụ (1880) truyền thụ một
phần nhỏ bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm cho hai nhà quí tộc Âu Châu mà một người
là tác giả quyển Phật
Giáo Bí Truyền. Chắc chắn tác giả ấy
(mặc dù bà chưa chắc) có đặc quyền
được sinh ra và được giáo dục ở Âu
Châu. Vả chăng, một phần đáng kể triết
lư do ông Sinnett thuyết giảng đă được
dạy tại Mỹ, (ngay cả trước khi quyển Nữ Thần Isis Lộ Diện được xuất
bản), cho hai người Âu Châu và bạn đồng môn
của tôi là Đại Tá Olcott. Trong số ba vị
Đạo Sư của ông Olcott, người thứ
nhất là người Hung Ga Ri được Điểm
Đạo, người thứ hai là một người Ai
Cập và người thứ ba là một người
Ấn Độ. V́ được phép, Đại Tá Olcott
đă đưa ra một vài giáo lư này theo nhiều
đường lối khác nhau; nếu hai người kia
không tŕnh bày giáo lư, đó là v́ họ chưa được
phép, v́ họ chưa đến phiên hoạt động
công khai. Nhưng đối với những người
khác th́ lại có dịp; sự xuất hiện nhiều
quyển sách hay của ông Sinnett là một chứng cớ
hiển nhiên của sự kiện này. Vả chăng,
phải nhớ rằng, không một quyển sách về Minh
Triết Thiêng Liêng nào đạt thêm được giá
trị dựa vào uy quyền giả tạo.
43
Adi hay Adi Budha, Đấng Duy Nhất (the
One), hay Đấng Đầu Tiên (the First), và Minh Triết
Vô Thượng (Supreme Wisdom); là một ngôn từ do
Đức Aryasanga sử dụng trong những bộ
luận bí ẩn của Ngài, và ngày nay th́ tất cả các
Phật giáo đồ thần bí Bắc Tông đều dùng.
Đó là một ngôn từ Bắc phạn và một danh
xưng do những người Aryan (Ấn Âu) sơ khai
nhất dành cho Đấng Thượng Đế Huyền
Vi (Unknown Deity); tiếng “Brahma” không có trong kinh Veda và trong những quyển
kinh buổi sơ khai. Nó có nghĩa là Minh Triết Tuyệt
Đối (Absolute Wisdom), và Adibhuta được Fitzedward
Hall dịch là “nguyên nhân bản sơ của sự
vật”. Những nguyên đại của một thời
gian dài vô hạn đă phải trôi qua trước khi tôn danh
Buddha được nhân tính hóa (humanized) (tạm gọi
như vậy) để cho ngôn tự này có thể
được áp dụng cho thế nhân, cuối cùng nó
sẽ được dành riêng cho những người có
đức tính và tri thức vô song khiến Ngài nhận
được tôn danh là “Đức Phật Minh Triết
Bất Di Dịch” (“Buddha of Wisdom Unmoved). Bodha có nghĩa là sở năng thiên phú của trí
thức hoặc kiến thức thiêng liêng; Buddha, sự hoạch đắc tri thức do
những sự cố gắng và công đức của
bản thân; trong khi Buddhi là
quan năng của sự tri thức, vận hà mà xuyên qua
đó tri thức thiêng liêng đến với Chân Ngă, sự
phân biện giữa điều thiện và điều ác,
cũng như là tâm thức thiêng liêng và Linh Hồn Cao Siêu
(Spiritual Soul), nó chính là hiện thể của Atma. “Khi
trực giác (Buddhi) hấp thụ Ngă thức (Egotism) của
chúng ta (ngă thức bị hủy diệt) với tất
cả những Vikaras của nó, Đức Quán Thế Âm
(Avalokiteshvara) trở thành biểu lộ đối với
chúng ta, và Niết bàn (Nirvana), hay Giải thoát (Mukti) sẽ
được đạt tới”. Mukti giống như
Nirvana, nghĩa là giải thoát được những
xiềng xích của Maya hay Ảo tưởng (Maya or
Illusion). Bodhi cũng là danh
hiệu của một trạng thái đặc biệt
của sự xuất thần gọi là Đại
Định (Samadhi), khi con người tiến tới
tột đỉnh của tri thức tinh thần.
Trong thời
đại của chúng ta, thật là khờ dại và mù
quáng mà oán ghét Phật giáo một cách không hợp thời và
v́ giận cá chém thớt mà phủ nhận luôn Giáo Lư Bí
Nhiệm của Phật giáo (đó cũng là giáo lư của
những người Bà La Môn) chỉ v́ cái danh hiệu
ấy gợi lên cho họ (trên cương vị là tín
đồ Độc Thần giáo) những giáo lư
độc hại. Ngu muội
(unwise) là một danh từ đúng đắn dùng trong
trường hợp này. Đó là v́ trong thời đại
duy vật chủ nghĩa phi lư và tục tằn này (this age
of crass and illogical materialism), chỉ có giáo lư bí nhiệm
mới được trù liệu để chống
lại những cuộc tấn công liên miên trên mọi
điều mà con người coi như là đáng quí và thiêng
liêng nhất cho đời sống tinh thần nội tâm
của ḿnh. Nhà triết học chân chính, môn sinh Minh Triết
Bí Truyền, đều hoàn toàn quên mất phàm ngă, những
tín đồ độc đoán và những tôn giáo chuyên
biệt. Vả chăng, Giáo Lư Bí Nhiệm dung ḥa tất
cả các tôn giáo, lột trần những lớp vỏ bên
ngoài do con người dựng nên và chỉ rơ rằng
nguồn gốc của mỗi tôn giáo cũng đều
giống như nguồn gốc của mọi tôn giáo khác. Nó
chứng tỏ sự cần thiết của một Nguyên
lư Tuyệt đối Thiêng liêng trong Vũ trụ. Nếu
nó phủ nhận Thượng Đế th́ không khác ǵ
phủ nhận mặt trời. Giáo Lư Bí Nhiệm không bao
giờ chối bỏ Thượng đế trong Vũ
trụ, và Thượng Đế trên cương vị là
Thực Thể Tuyệt Đối và Trừu tượng.
Nó chỉ bác bỏ sự nh́n nhận bất cứ vị
thần linh nào của cái gọi là những tôn giáo
độc thần, những vị thần do con người
sáng tạo giống như h́nh ảnh của riêng ḿnh -
một bức hoạt họa
44
phạm thượng và tồi tệ của
cái Bất Khả Tri Đời Đời (Ever- Unknowable).
Hơn nữa, chúng tôi có ư tŕnh bày cho độc giả
một số tài liệu bao hàm tất cả các giáo lư bí
truyền của khắp thế giới, từ lúc bắt
đầu có loài người chúng ta. Phật giáo Huyền
môn đă chỉ chiếm trong đó một vị thế
chính thống, không hơn không kém. Thật vậy, những
đoạn bí ẩn trong quyển Thánh kinh Dan hay Janna (Dhyana) ([92])
gồm những giáo lư siêu h́nh của Đức Cồ
Đàm (Gautama) - những giáo lư này chỉ có vẻ quan
trọng đối với một người nào chưa
biết các giáo lư của Tôn giáo Minh triết cổ thời
- chẳng qua chỉ là một đoạn rất ngắn
của trọn quyển sách. Nhà cải cách Ấn
Độ này giới hạn giáo lư công truyền của Ngài
trong phạm vi của Tôn giáo Minh Triết về luân lư và
sinh lư học thuần túy, của Luân lư và CON NGƯỜI mà
thôi. Về những điều “không thấy
được và vô h́nh thể” (“unseen and incorporeal”),
những sự bí mật về hữu thể ở bên
ngoài cơi trần của chúng ta, Đức Thầy vĩ
đại hoàn toàn không đề cập tới trong
những bài thuyết pháp của Ngài dành cho công chúng, mà Ngài
chỉ nói đến những chân lư bí ẩn cho một
số môn đồ chọn lọc của Ngài, những
vị La Hán (Arhats). Chư La Hán được Ngài
điểm đạo ở Thạch động danh
tiếng Saptaparna (Thất Diệp) (Sattapanni của Kinh
Mahavansa) ở gần núi Baibhar (gọi là Webhara trong bản
thảo tiếng Pali. Động này ở trong vùng Rajagriha,
cố đô của Vương quốc Magadha (Ma Kiệt
Đề); và cũng là Động Cheta của Đức
Fa-hian (Pháp Hiển) mà một vài nhà khảo cổ phỏng
đoán thật đúng ([93]).
Thời gian và
sự tưởng tượng của con người
đă mau chóng biến đổi sự thuần khiết và
triết lư của những giáo lư này, một khi mà chúng
đă được di chuyển từ Đoàn thể La
Hán bí mật và cao cả này đến một nơi
chưa sẵn sàng với những nhận thức siêu h́nh
bằng tư tưởng Ấn Độ (trong lúc
tiến hành công việc cải đạo); nghĩa là
một khi chúng được di chuyển qua Trung Quốc,
Nhật Bản, Thái Lan và Miến Điện. Muốn
biết sự thanh khiết nguyên thủy của những
điều tiết lộ quan trọng này được
bàn tới như thế nào, ta có thể nghiên cứu cái
gọi là các trường phái Phật giáo bí truyền
thuở xưa dưới một h́nh thức mới,
chẳng những tại Trung Quốc và các nước Phật
giáo khác nói chung, mà c̣n trong khá nhiều trường phái
ở Tây Tạng, chúng đă được các vị
Lạt Ma (Lammas) chưa được Điểm
Đạo và các nhà cải cách Mông Cổ chăm sóc.
45
V́ vậy, yêu cầu độc giả
phải ghi nhớ sự khác biệt rất quan trọng
giữa Phật giáo chính thống
– nghĩa là giáo lư công truyền của Đức
Phật Cồ Đàm – và Phật giáo bí truyền. Tuy nhiên, Giáo Lư Bí Truyền của Ngài
không hề khác với giáo lư của những Đạo
sĩ Bà La Môn được điểm đạo cùng
thời với Ngài. Đức Phật là một cậu bé
thuộc ḍng Ấn Âu (Aryan), một người Ấn
Độ chính tông, một người thuộc giai cấp
Vương tộc và là đệ tử của
“Đấng được cải tử hoàn sinh” (“twice-born”)
(những người Bà La Môn được điểm
đạo) hay là Dvijas. V́ thế, giáo lư của Ngài không
thể khác với giáo lư của họ, v́ toàn bộ
cuộc cải cách của Phật giáo chỉ cốt
đưa ra một phần giáo lư đă được
giữ bí mật đối với những người
ở ngoài đoàn thể “huyền ảo” (“enchanted”)
của những vị được Điểm
Đạo trong Thánh Điện và những nhà tu khổ
hạnh. V́ phải giữ lời hứa, nên Đức
Phật không thể dạy tất
cả những ǵ mà Ngài thụ huấn, dù Ngài đă
dạy một thứ triết lư được dựng
trên nền tảng của sự hiểu biết thực
sự bí truyền, Ngài chỉ đưa ra cho thế gian
cái thể vật chất bên ngoài và giữ lại phần
hồn dành cho những môn đồ ưu tú của Ngài.
Nhiều học giả Trung Quốc trong số những
Đông phương học giả đă từng nghe nói
tới “Tâm Pháp” (“Soul-Doctrine”). Dường như không có
một người nào hiểu được ư nghĩa
chân chính và sự quan trọng của giáo lư này.
Giáo lư này được giữ một cách
bí mật – có thể một cách hết sức bí mật – bên
trong Thánh Điện. Sự bí mật vốn che giấu
giáo điều và nguyện vọng chủ yếu của
nó – Nirana (Niết Bàn)- đă thử thách và kích thích sự ṭ
ṃ của những học giả nào đă có nghiên cứu
về điều này đến nỗi mà khi không thể
giải quyết được nó một cách hợp lư và một
cách thỏa đáng bằng cách mở được cái gút
Gordian (tức là giải quyết một vấn đề
hóc búa – LDG), họ cắt luôn cái gút bằng cách tuyên bố
rằng Nirvana có nghĩa là sự
tiêu diệt tuyệt đối.
Vào khoảng cuối phần tư
đầu tiên của thế kỷ này, ([94])
một loại văn chương riêng biệt xuất
hiện trên thế giới, khuynh hướng của nó càng
ngày càng được minh xác rơ rệt. Vốn
được căn cứ trên cái gọi là những cuộc
khảo cứu thông thái của các nhà ngữ học Bắc
Phạn và những nhà Đông phương học nói chung,
nó được coi là có tính cách khoa học. Ấn
Độ giáo, Ai Cập giáo và các tôn giáo khác nữa,
những chuyện thần thoại, những biểu
tượng đă được khiến cho tạo ra
bất cứ điều ǵ mà các nhà biểu tượng
học muốn tạo ra, và như vậy, h́nh dáng thô
thiển bên ngoài thường được tŕnh bày thay cho
ư nghĩa bên trong. Những
tác phẩm đáng chú ư nhất là nhờ có những suy
diễn và suy lư khéo léo, circulo
vicioso (ṿng lẩn quẩn) – các tiền đề trong
thuyết tam đoạn luận của hơn một
học giả Bắc Phạn và Nam Phạn đă
thường được thay thế bởi các kết
luận đă biết trước - với những bài
nghị luận về ḷng tôn sùng tính dục và sinh thực
khí hơn là biểu tượng học xác thực (bài này
mâu thuẫn với bài kia), xuất hiện rất nhanh và
rất liên tục, tràn ngập khắp các thư viện.
Đây có thể là lư do thực sự,
tại sao sự phác họa một vài chân lư căn bản
rút ra từ giáo lư bí truyền của những thời
đại cổ sơ, bây giờ mới được
phép ra đời, sau hàng ngàn năm được giấu
kín trong sự im lặng và bí mật thâm sâu nhất. Tôi
đă cố ư nói “một vài
chân lư” bởi v́ cái phải được giữ lại
không nói ra được, không thể được bao hàm
trong hàng trăm cuốn sách như thế, nó cũng không
thể được truyền thụ cho thế hệ
hiện nay của môn phái Sadducees. Nhưng ngay cả một
vài điều được đưa ra c̣n hơn là hoàn
toàn im lặng về các chân lư tối quan trọng. Ngày nay,
trong khi điên cuồng chạy đua về phía cái
huyền vi mà nhà vật lư học sẵn sàng lầm lộn
với cái bất khả tri, bất cứ khi nào vấn
đề rắc rối không c̣n ở trong tầm nhận
thức của y, thiên hạ đang nhanh chóng tiến trên
cơi vật chất, cơi đối nghịch với cơi tinh
thần. Bây giờ, nó đă trở thành một đấu
trường rộng lớn, một thung lũng thật
sự của mối bất ḥa và xung đột triền
miên, một băi tha ma, nơi chôn vùi những nguyện
vọng cao cả và thiêng liêng nhất của Thần
Hồn (Spirit- Soul) chúng ta. Cứ mỗi thế hệ
mới th́ linh hồn này càng tê liệt và càng suy
nhược. “Những người mất đức tin
dễ thương và những người trụy lạc
hoàn toàn” trong Hội, mà ông
46
Một trong những sự phản
đối quan trọng nhất và có lẽ là nghiêm chỉnh
nhất đối với sự chính xác và xác tín của
trọn bộ sách này sẽ là những ĐOẠN THÁNH KINH
(STANZAS) đầu tiên. Những sự tŕnh bày này trong
cuốn sách có thể được kiểm chứng
như thế nào? Thực vậy, dù một phần lớn
những tác phẩm Bắc Phạn, Trung Quốc và Mông
Cổ được trích dẫn trong quyển sách này
đă được một vài nhà Đông phương
học biết tới, song tác phẩm chủ yếu -
những ĐOẠN THÁNH KINH được trích ra từ
quyển sách này - lại không thuộc quyền sở
hữu của những thư viện ở Âu Châu.
Quyển THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH (THE BOOK OF DZYAN hay DZAN)
là tác phẩm mà những nhà ngôn ngữ học của chúng
ta hoàn toàn không biết ǵ, thậm chí, họ cũng chưa
bao giờ nghe nói đến tên của quyển sách này.
Dĩ nhiên, đó là một trở ngại lớn
đối với người nào theo những phương
pháp khảo sát do khoa học chính thức qui định,
nhưng đối với môn sinh Huyền bí học, và
đối với mọi nhà Huyền bí học chân chính, th́
điều này cũng chẳng mấy quan trọng. Song
bộ phận chính của những giáo lư được
đưa ra, lại rải rác trong hàng trăm hàng ngàn bản
thảo Bắc Phạn, vài đoạn đă
được dịch - thường thường
những bản dịch này đều bị xuyên tạc -
những đoạn khác đang chờ đến
lượt ḿnh. V́ thế, mọi học giả
đều có cơ hội kiểm chứng những phát
biểu được viết ra trong đó, và kiểm tra
lại hầu hết các đoạn văn trích. Một vài
sự kiện mới, chỉ mới
đối với các nhà Đông phương học
trần tục mà thôi, và những đoạn văn trích
từ những Giảng lư sẽ khó ḷng truy nguyên
được. Cho đến nay, nhiều giáo lư cũng
được truyền khẩu, thế nhưng dù sao
đi nữa, những giáo lư này cũng được nói
một cách bóng gió trong vô số sách vở của nền
văn học thánh điện thuộc Bà La Môn, Trung
Quốc và Tây Tạng.
Dù sao đi nữa, dù tác giả có bị
chỉ trích một cách ác ư đi nữa, song có điều
rất chắc chắn, những môn sinh của nhiều
trường bí giáo - trường của những
người bên kia Hy Mă Lạp Sơn, những chi nhánh
của trường này có thể được t́m
thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, ngay
cả ở Syria, cũng như ở Nam Mỹ - tự cho
là có sở hữu bản thảo cũng như là ấn
bản của toàn bộ Kinh sách thiêng liêng và thuộc
về triết lư; thực vậy, tất cả những
quyển sách này đă từng được viết
bằng nhiều thứ ngôn ngữ hoặc chữ, từ
những chữ tượng h́nh cho đến mẫu
tự của nhà ngôn ngữ học Cadmus và thứ ngôn
ngữ Thần linh (Devanagari) từ khi bắt đầu có
thuật viết chữ.
47
Từ khi Thư viện Alexandria ([95])
bị phá hủy, người ta không ngớt tuyên bố
rằng mọi tác phẩm có một đặc tính có
thể dẫn kẻ phàm phu tục tử đến
sự khám phá và sự hiểu biết tối hậu
về một vài sự bí mật của Khoa Học
Huyền bí, do những sự cố gắng phối
hợp của những Hội viên của các Đoàn
thể huynh đệ này, đă được tận tâm
t́m kiếm. Vả chăng, các thức giả c̣n thêm
rằng, họ đă có lần t́m thấy tất cả
những quyển sách bị thiêu hủy, ngoại trừ ba
bản sao của mỗi một trong những quyển kinh
này đă được ǵn giữ và lưu trữ một
cách an toàn. Ở Ấn Độ, bản chót của
những bản thảo quí giá này được giữ an
toàn và giấu kín trong thời trị v́ của Hoàng
Đế Akbar.
Giáo sư Max Muller chỉ rơ rằng, không sự
lo lót và hăm dọa nào của Hoàng Đế Akbar
đối với những người Bà La Môn, có thể
cưỡng đoạt được nguyên tác của Thánh kinh Vedas, tuy nhiên, ông khoe là
những nhà Đông phương học Âu Châu có nguyên
bản này ([96]).
Việc Âu Châu có được trọn
bộ kinh là một điều cực kỳ đáng
ngờ vực và trong tương lai, có thể xảy ra
những điều bất ngờ rất khó chịu dành
cho những nhà Đông phương học.
Vả chăng, người ta khẳng
định rằng mỗi quyển Thánh kinh thuộc
loại này (văn bản của quyển kinh không
được hoàn toàn che giấu bằng biểu
tượng học hoặc nó có đề cập trực
tiếp đến những điều bí mật xa xưa)
trước tiên được chép lại một cách
cẩn thận bằng những chữ ám hiệu, như
thể thách đố nhà cổ tự khéo léo và tài giỏi
nhất, rồi bị hủy bỏ đến bản chép
cuối cùng. Trong thời Hoàng Đế Akbar trị v́, vài
vị cận thần cuồng tín không ưa sự ṭ ṃ
tội lỗi của Đức vua đối với
những tôn giáo của người ngoại đạo, nên
chính họ đă giúp những người Bà La Môn giấu
kín những bản thảo này. Chẳng hạn như
Badaoni, ông đă công khai ghê
tởm sự say mê những tôn giáo ngẫu tượng
của Akbar.
Trong quyển Muntakhab
at Tawarikh, Badaoni đă viết:
V́ họ [những tu sĩ Shramana (Sa môn)] và
những người Bà La Môn đă vượt xa những
người có học thức khác nhờ những bộ
luận về đạo đức, về vật lư
học và những môn khoa học tôn giáo, và đạt
được một tŕnh độ cao về sự hiểu biết vị lai, về
quyền năng thiêng liêng, và sự hoàn thiện của con
người, nên họ đă đem lại những
bằng chứng dựa trên lư luận và chứng
cứ…họ đă ghi sâu những giáo lư của họ vào
tâm khảm một cách không có ǵ lay chuyển nổi…
đến nỗi mà không một người nào… bây giờ
có thể nghi ngờ về Đức Vua (Majesty) của
ḿnh cho dù những ngọn núi có thể bị sụp
đổ thành tro bụi, hay những từng trời có
bị xé tan ra làm hai…Đức Vua của y thích t́m hiểu
những môn phái của những người ngoại
đạo này, họ thật là nhiều không biết cơ
man nào mà kể, họ có không biết bao nhiêu là những quyển kinh thiên khải ([97]).
Quyển này
“được giữ ǵn bí mật và không được
phổ biến cho măi đến thời trị v́ của
Hoàng đế Jahangir”.
48
Vả chăng, trong tất cả những
đạo viện rộng lớn và sang trọng, có
những căn hầm dưới đất và những
tàng thư thạch động khoét trong đá, bất
cứ khi nào những Ẩn địa (Gonpa) ([98])
và những Thánh Điện (Lakhang)([99])
được dựng trên các ngọn núi. Ở bên kia
miền Tây Tsaydam, trong những con đường xuyên
sơn quạnh hiu của đèo Kuen-lun ([100]),
có rất nhiều chỗ chôn giấu như vậy. Dài theo
ngọn núi Altyn-Tāgh
(đến nay, không có dấu chân nào của người Âu
Châu đă dẫm lên đây), có một ngôi làng bị
giấu kín trong một khe núi thật sâu. Có một cḥm nhà
nhỏ, một xóm nhà hơn là đạo viện, trong
đó có một ngôi đền tồi tàn, và một vị
Lạt Ma già nua ẩn cư gần đó để giữ
ǵn đền. Những người đi hành hương
nói rằng những ngôi hầm và những căn pḥng ở
dưới đất có chứa một số sách chọn
lọc, một số kinh sách (theo sự ước tính)
lớn đến nỗi mà ngay cả Viện bảo tàng
Anh Quốc cũng không đủ chỗ chứa.
Cũng theo truyền thuyết đó,
những vùng hoang vu của miền đất Tarim khô
cằn - một hoang địa thực sự ở trung
tâm
Rất có thể những điều này
sẽ làm cho người ta mỉm cười ngờ
vực. Nhưng trước khi độc giả bác
bỏ sự trung thực của những bản phúc tŕnh
này, xin y hăy ngừng lại và suy gẫm những sự
kiện nổi tiếng sau đây. Những cuộc
khảo sát tập thể của các nhà Đông phương
học, và đặc biệt những công tŕnh khó nhọc
của những sinh viên ngữ học đối chiếu
và khoa tôn giáo trong những năm gần đây đă
khiến cho họ biết chắc rằng có vô số
bản thảo cũng như những ấn phẩm được biết là đă
hiện hữu, mà hiện nay không c̣n được t́m
thấy nữa. Những tác phẩm này đă biến
mất không c̣n để lại một chút vết tích mong
manh nào phía sau chúng. Nếu đó là những tác phẩm không
quan trọng th́ có thể là chúng đă bị để cho
tiêu luôn theo ḍng tự nhiên của thời gian, và tên sách
sẽ bị xóa nḥa trong kư ức của con người.
Nhưng đây lại không phải thế, v́ hiện nay, ta
biết chắc là hầu hết bản thảo
đều chứa đựng những ch́a khóa thực
sự dành cho những tác phẩm hiện c̣n lại, và bây
giờ hoàn toàn không thể
hiểu được đối với phần
lớn độc giả nếu họ không có những cuốn sách có chú thích thêm phần b́nh
luận và phần giải thích này.
Thí dụ những quyển kinh của Lăo
Tử, bậc tiền bối của Đức Khổng
Tử. Nghe đâu, Ngài đă viết được chín
trăm ba mươi quyển kinh về Đạo
đức học tôn giáo, và bảy mươi quyển
về pháp thuật, tất cả là một ngàn quyển. Tuy nhiên, tác phẩm vĩ
đại nhất của Ngài chính là Đạo Đức kinh, tâm pháp của Ngài, và
quyển Thánh kinh của Lăo giáo
(như giáo sư Stanislas Julien đă vạch rơ) “chỉ có
khoảng 5.000 chữ” ([101]),
không đủ dành cho mười hai trang sách. Song giáo sư
Max Muller nhận thấy rằng “tác phẩm này thật khó
hiểu nếu không có lời b́nh luận, đến
nỗi ông Julien khi có ư định dịch tác phẩm này,
đă phải tham khảo ư kiến hơn sáu chục nhà
b́nh luận (bản b́nh luận xưa nhất là vào
đầu năm 163 trước Thiên Chúa, và như chúng ta
thấy, không xưa hơn). Trong
suốt bốn thế kỷ rưỡi trước
“bản xưa nhất” này của những nhà b́nh luận,
có quá đủ thời gian để giấu giáo lư chân
truyền của Đức Lăo Tử đối với
mọi người ngoại trừ những tu sĩ
được điểm đạo của Ngài. Hiện
giờ, trong số những người Nhật Bản, có
những đạo sĩ và những môn đồ thông thái
nhất của Lăo Tử; họ đă cười nhạo
về những lỗi lầm và những giả thuyết
của những học giả Âu Châu, Trung Quốc; và
truyền thuyết quả quyết rằng những bài b́nh
luận mà những nhà Hán học Tây phương của
chúng ta đă có được, không phải là những
bản kinh chép lại thực
sự huyền bí, mà chỉ là những bức màn cố
ư che đậy, c̣n những bài b́nh luận xác thực
cũng như hầu hết tác phẩm này, th́ con mắt
phàm tục đă từ lâu rồi không c̣n thấy nữa.
49
Chúng ta hăy đọc những kinh sách
của Đức Khổng Tử:
Nếu quay sang Trung Quốc, chúng ta sẽ
nhận thấy rằng Khổng giáo được
dựng trên Tứ Thư và Ngũ Kinh - bản thân
những quyển sách này cũng đă rất vĩ
đại, thế mà bao quanh chúng lại c̣n vô số
Lời b́nh luận, nếu không có lời b́nh luận này th́
những học giả trí thức nhất cũng không dám
thăm ḍ độ sâu của giáo điều thiêng liêng
của Ngài ([102]).
Nhưng họ đă không thăm ḍ giáo lư này,
nên mới có lời than phiền của các tín đồ
Khổng giáo; vào năm 1881, tại Ba Lê, một hội viên
rất thông thái của hội Khổng giáo đă phiền
trách như vậy.
Nếu những học giả của chúng
ta quay sang nền văn học cổ truyền của
những tôn giáo của người Semite, những Thánh kinh
của người Can Đê, chị cả và cũng là
nữ huấn sư, nếu không phải là nguồn
gốc của Thánh kinh Moise, nền tảng và khởi
điểm của Thiên Chúa giáo, th́ những học giả
này sẽ t́m thấy ǵ? Cứ ghi măi kỷ niệm của
những tôn giáo xưa của thành Babylon, cứ ghi lại
cái chu kỳ dài nhất của những cuộc quan sát thiên
văn học của những vị pháp sư Can Đê,
cứ chứng minh truyền thuyết của nền
văn học huyền bí huy hoàng của họ, bây giờ
th́ c̣n lại ǵ? Chỉ có một vài bản kinh rời
rạc mà nghe nói là của
Berosus.
Tuy nhiên, những tác phẩm này gần
như cũng không có giá trị, ngay cả với vai tṛ là
một manh mối về đặc tính của cái đă
biến mất v́ những tác phẩm này đă qua tay
Đức Giám Mục Caesarea – ông tự coi ḿnh như là
người kiểm soát và ấn hành các bản kinh thánh
thuộc các tôn giáo của những người khác – và cho
đến ngày nay chắc chắn là chúng c̣n ghi dấu
thủ bút đáng tin cậy và thật thà của ông.
Bởi v́, đâu là lịch sử của các bộ luận
nói về tôn giáo vĩ đại ở
Bộ luận này được Berosus,
một mục sư của đền thờ Belus,
viết bằng tiếng Hy Lạp cho Đại Đế
Alexander, nó được rút ra từ những bản kinh
nói về chiêm tinh học và niên đại học do
những mục sư của đền này ǵn giữ,
những bản kinh này bao gồm một thời kỳ 200.000
năm, và bây giờ đă bị thất lạc. Vào thế
kỷ thứ I trước Thiên Chúa, Alexander Polyhistor đă
soạn được một loạt trích lục từ
bản kinh này, nhưng rồi chúng cũng bị thất lạc. Eusebius (270-340 sau
T.C.) đă dùng những đoạn trích này để
viết quyển Niên sử
của ḿnh. Những điểm tương đồng
giữa những kinh sách của người Do Thái và Can
Đê ([103])đă
khiến cho kinh sách Can Đê trở thành một điều
rất nguy hiểm cho Eusebius trong vai tṛ cả người bảo
vệ lẫn người bênh vực tín ngưỡng
mới, nó đă chấp nhận những quyển kinh Do
Thái và một niên đại kư phi lư.
50
Hiện nay, có một điều chắc
chắn là Eusebius đă không dung tha những bảng niên
biểu đối chiếu Ai Cập của sử gia
Manetho - đến nỗi nhà khảo cổ Bunsen ([104])
phải tố cáo ông là kẻ cắt xén lịch sử
một cách nhẫn tâm nhất, và Socrates, một sử gia
của thế kỷ thứ năm, và ông Syncellus, một
phụ tá giáo trưởng ở Constantinople vào đầu
thế kỷ thứ tám, đă tố cáo ông là kẻ
bịa đặt liều lĩnh và vô vọng nhất.
Như vậy, liệu ông có khoan dung cho những bản kinh
Can Đê này, chúng đă hăm dọa tôn giáo mới, vốn
đă được chấp nhận một cách quá vội
vàng chăng?
Ngoại trừ những bản kinh rời
rạc đáng ngờ hơn hết này, toàn bộ nền
văn học thiêng liêng của Can Đê cũng đă hoàn
toàn biến khuất mắt của những người
phàm tục như châu Atlantis đă thất tung. Một vài
sự kiện được ghi trong Lịch sử
của Berosus đă được đưa ra sau này, nó có
thể soi sáng thêm về nguồn gốc thực sự
của những vị Thiên Thần Sa Đọa (Fallen
Angels) được nhân cách hóa như là Bel và Con Rồng
(Dragon).
Bây giờ chúng ta quay sang mẫu văn chương
xưa nhất của người Ấn Âu (Aryan) là kinh Rig Veda; nếu chịu theo dơi
một cách nghiêm nhặt những dữ kiện do các nhà
Đông phương học cung cấp, th́ môn sinh huyền
bí học sẽ thấy rằng mặc dù Rig Veda chỉ chứa đựng khoảng 10.580
câu thơ hay 1.028 thánh ca, song bất chấp kinh Brahmanas và một số
lớn lời chú giải và b́nh luận, cho đến ngày
nay cũng không ai hiểu được nó một cách
đúng đắn. Tại sao vậy? Bởi v́ hiển nhiên
Brahmanas, “những
đoạn luận uyên thâm và xưa nhất” về các thánh
ca đầu tiên, cũng cần
phải có một ch́a khóa mà những nhà Đông
phương học c̣n chưa kiếm ra.
Lại nữa, những học giả
đă nói ǵ về văn chương Phật giáo? Chắc
chắn là không. Mặc dù có 325 quyển kinh Kanjur và Tanjur
của các tín đồ Phật giáo Bắc Tông, mà chúng tôi
được biết là mỗi quyển “cân nặng
từ bốn đến năm cân Anh” (1 cân Anh = 0,453kg – LDG)
chứ thật ra thiên hạ không biết ǵ về Lạt
Ma giáo. Tuy nhiên, giáo điều thiêng liêng được nói
trong kinh Saddharma-lankara (Diệu
pháp Lăng già) ([105])
chứa đựng 29.368.000 chữ hoặc là (nếu không
kể những lời b́nh luận và chú giải) bằng
năm hay sáu lần tổng số tiết mục chứa
đựng trong quyển Kinh
Thánh Thiên Chúa giáo (Bible) mà
(như Giáo sư Max Muller đă tŕnh bày) theo số liệu
lạc quan hơn hết, cũng chỉ có 3.567.180 chữ
mà thôi. Thế là bất chấp 325 quyển kinh này (thực
sự là có 333 quyển, kinh Kanjur
gồm có 108 quyển, và kinh Tanjur
có 225 quyển), “để biện minh cho những giáo lư
của nhiều trường phái của ḿnh, những
dịch giả đă xen vào những câu kinh này những
lời b́nh luận riêng của họ thay v́ cung cấp cho
chúng ta những bản dịch đúng đắn” ([106]).
Hơn nữa, “theo một truyền thuyết
được các trường phái Phật giáo Nam và
Bắc Tông ǵn giữ, giáo điều thiêng liêng của
Phật giáo gồm có nguyên gốc là 80.000 hay 84.000 bài kinh
ngắn, nhưng hầu hết đă bị thất truyền,
đến nỗi mà chỉ c̣n 6.000 bài” - vị giáo sư
này đă nói với các thính giả của ông như trên. Theo
thói thường, đối với người Âu Châu,
thế là thất truyền. Nhưng đối với tín
đồ Phật giáo và người Bà La Môn, ai có thể
hoàn toàn cả quyết rằng những bài kinh này cũng
đă bị thất truyền.
51
Xét v́ những ḍng viết về
Đức Phật và Chánh Pháp (Diệu Pháp) đều
được tôn sùng bởi các tín đồ Phật giáo,
việc mất gần 76.000 bài kinh ngắn dường
như thật là kỳ lạ. Nếu ngược lại
th́ người nào quen thuộc với tiến tŕnh tự
nhiên của những biến cố, sẽ tán thành lập
luận cho rằng trong số 76.000 bài kinh ngắn này, 5.000
hay 6.000 bài có thể bị
tiêu hủy trong những thời đàn áp tín ngưỡng
tại Ấn Độ, và những cuộc di cư
rời khỏi nơi này. Nhưng có một điều
chắc chắn hơn hết là những vị La Hán
Phật giáo bắt đầu cuộc di cư tôn giáo
của họ vào khoảng năm 300 trước Công Nguyên ([107]),
tới Trung Quốc vào năm 61 của kỷ nguyên Thiên Chúa
([108])
để truyền bá tín ngưỡng ra bên kia vùng Kashmir và
Hy Mă Lạp Sơn, khi Đức Kashyapa (Ca Diếp)
được Minh Đế (thời Đông Hán) (Emperor
Ming-ti) mời tới đây để cho bậc “Thiên
Tử” (“Son of Heaven”) làm quen với các giáo điều
của Phật giáo, dường như thật là kỳ
lạ khi nghe những nhà Đông phương học nói
về sự thất truyền đó như thể nó có
thể thực sự xảy ra. Dường như họ
không một lúc nào nh́n nhận rằng tác phẩm này có
thể bị thất truyền đối với Tây
phương và chính họ, hoặc nh́n nhận rằng dân
tộc Châu Á có một ḷng dũng cảm vô song để
ǵn giữ những bản kinh thiêng liêng nhất của ḿnh
không cho người nước ngoài đụng tới, v́
vậy, họ từ chối đưa kinh này cho những
dân tộc “vô cùng cao siêu” (“vastly superior”) đối với
họ, e rằng có thể bị lợi dụng, xúc
phạm.
Khi xét những sự hối tiếc và thú
nhận của hầu hết những nhà Đông
phương học ([109]),
công chúng có thể cảm thấy hoàn toàn bảo đảm
rằng :
a) Những môn sinh nghiên cứu về
những tôn giáo cổ truyền thực sự có rất ít
dữ kiện để dựng trên đó những kết
luận sau cùng như họ thường thực hiện
đối với những tín ngưỡng cũ, và
b) Việc không có dữ kiện đó không
thể ngăn ngừa họ độc đoán hóa tín
điều.
Người ta sẽ nghĩ rằng nhờ
vào vô số kinh sách về thần phổ học (theogony) và
bí pháp của người Ai Cập, được bảo
tồn nơi nền văn học cổ điển và
một số tác giả thời xưa, ít ra th́ những
nghi lễ và giáo điều của vị vua Pharaon Ai
Cập phải được hiểu rơ; ít nhất
cũng là được hiểu rơ hơn những môn
triết lư và thuyết Phiếm thần quá bí nhiệm
(Pantheism của Ấn Độ (trước khi bắt
đầu thế kỷ này, người Âu Châu hầu
như không hề nghĩ đến tôn giáo và ngôn ngữ của
người Ấn Độ). Cho đến giờ phút
này, dọc theo ḍng sông
52
Chúng ta thấy Kim Tự Tháp c̣n đứng
vững, và những di tích đổ nát của các
đền đài và những mê lộ, những tấm vách
tường có chạm khắc những chữ
tượng h́nh với những h́nh ảnh lạ kỳ
của các vị nam nữ thần. Chúng ta cũng có cả
những bản kinh rời rạc của cái gọi là
những bản kinh Thánh của người Ai Cập trên
những cuộn giấy chỉ thảo, dường
như nó không bị thời gian tàn phá. Tuy nhiên mặc dù
trong những bản kinh cổ xưa của dân tộc bí
mật, có nhiều điều đă được
giải ra, song động lực chính của Ai Cập giáo
và mục đích nguyên thủy của sự tôn sùng nghi
lễ của nó c̣n lâu mới được hoàn toàn
tiết lộ cho chúng ta ([110]).
Ở đây, những tài liệu bí mật
và chữ tượng h́nh này vẫn c̣n, nhưng những
ch́a khóa giải chúng đă biến mất.
Thật vậy, những nhà Ai Cập
học lỗi lạc nhất của chúng ta biết
rất ít về những nghi lễ tang chế của
người Ai Cập, và dấu hiệu bên ngoài của
sự khác nhau về đàn ông hay đàn bà trên các xác
ướp, đến nỗi mà nó dẫn đến
những sự lầm lạc hết sức buồn
cười. Cách đây chỉ một hay hai năm, một
trong những sự sai lầm này xảy ra tại Boulaq,
Tuy nhiên, khi thấy rằng “có một sự
liên quan tự nhiên giữa ngôn ngữ và tôn giáo” và “có
một tôn giáo chung của
người Ấn Âu (Aryan) trước khi có sự phân ly
của dân tộc Ấn Âu; một tôn giáo chung của người Semite trước khi có
sự phân ly của dân tộc Semite: một tôn giáo chung của người
Turanian trước khi có sự phân ly của người
Trung Quốc; và những bộ tộc khác thuộc lớp
người Turanian”; thật vậy, khi đă t́m thấy
“có ba trung tâm tôn giáo xưa” và “ba trung tâm ngôn ngữ”; và dù
vị giáo sư này hoàn toàn không biết ǵ về nguồn
gốc của những tôn giáo và ngôn ngữ nguyên thủy
của họ - ông cũng không ngần ngại tuyên bố
rằng: “người ta đă có được một nền tảng lịch sử thực
sự dành cho một bài khảo luận khoa học bàn
về những tôn giáo chính trên thế giới!”
Một “bài khảo luận khoa học” bàn
về một vấn đề không hề bảo
đảm cho “căn bản lịch sử” của nó. V́
thiếu dữ kiện như thế, nên không một nhà
ngôn ngữ học nào, ngay cả trong số những
người lỗi lạc nhất, đă có đủ
bằng chứng biện minh khi đưa ra những
kết luận của riêng họ về những sự
kiện lịch sử.
Chắc hẳn nhà Đông phương học lỗi
lạc này đă hoàn toàn chứng tỏ cho mọi
người thỏa măn rằng theo những qui tắc phát
âm của định luật Grimm, th́ Đức Odin và
Đức Phật là hai nhân vật hoàn toàn khác biệt
với nhau, điều này đă được ông
chứng minh một cách khoa
học. Tuy vậy, khi ông có cơ hội nói một
mạch rằng Đức Odin “được tôn sùng
như là vị Thượng Đế tối cao trong
suốt một thời kỳ dài trước thời
đại của Thánh kinh Veda và của Homer” ([111]),
th́ về điều này, ông không có một tí ǵ về “căn bản lịch sử”
mà chỉ bắt lịch
sử và sự kiện tuân theo những kết luận
của riêng ông; theo quan điểm của những học
giả Đông phương th́ nó có thể là rất “khoa
học”, nhưng nó c̣n quá xa sự thực. Những quan
điểm mâu thuẫn của các nhà Đông phương
học và những nhà ngữ học lỗi lạc khác nhau
(từ Martin Haug cho đến chính giáo sư Max Muller)
về vấn đề Niên đại học trong
trường hợp Thánh kinh Phệ
Đà, là
53
một bằng chứng hiển nhiên rằng
phát biểu này không có nền tảng “lịch sử”, “bằng chứng bên trong”
thường chỉ là một ngọn đèn ma trơi thay
v́ là một ngọn hải đăng an toàn để
hướng dẫn người ta. Khoa thần thoại
học đối chiếu hiện đại cũng
chẳng có lư luận nào vững chắc hơn để
chứng tỏ sự sai lầm của những tác giả
trí thức trong thế kỷ vừa qua cứ nằng
nặc yêu cầu phải có được “những
mảnh vụn của sự tiết lộ đầu tiên
được ban cho các thủy tổ của toàn nhân
loại… được giữ ǵn tại các Thánh
Điện của người Hy Lạp và Ư Đại
Lợi”. V́ đó là cái mà tất cả những vị
được điểm đạo ở Đông
phương và những vị học giả đôi khi
đă công bố cho mọi người biết. Trong khi
một vị Đại Đức người Tích Lan
đă quả quyết với tác giả rằng mọi
người đều thừa biết rằng những
bản kinh ngắn quan trọng nhất thuộc về giáo
điều thiêng liêng của Phật giáo được
cất giữ tại nhiều
nơi và nhiều vùng bất khả xâm phạm đối
với các vị Học giả người Âu Châu, th́
cố Đại Đức Svami Dayanand Sarasvati, nhà Phạn
ngữ học xuất chúng nhất đương thời
tại Ấn Độ, cũng quả quyết với
một vài Hội viên của Hội Theosophy sự kiện
tương tự đối với những kinh sách
xưa của người Bà La Môn. Một nhà hiền
triết thông thái đă cười phá lên khi người ta
bảo ông rằng trong những bài diễn thuyết của ḿnh, giáo sư Max Muller
đă tuyên bố trước quí thính giả là “cái thuyết cho rằng có một
sự tiết lộ đầu tiên siêu nhiên
được ban cho các thủy tổ của nhân loại,
hiện nay chẳng được hậu thuẫn bao
nhiêu”. Câu trả lời của ông thật là gợi ư:
“Nếu ông ‘Moksh Mooller’(ông đọc tên người ta
như thế) là một người Bà La Môn, và đến
gặp tôi, th́ tôi có thể dẫn ông ta đến một
cái động bí mật (một
cái hầm kín đáo), gần Okhee Math trong Hy Mă Lạp
Sơn, ở đây, chẳng bao lâu sau, ông sẽ t́m
thấy được là cái băng qua Kalapani (vùng biển
đen) từ Ấn Độ đến Âu Châu chỉ là những mảnh sao chép bị
vứt bỏ của một vài đoạn kinh
được trích ra từ những quyển Thánh kinh
của chúng tôi. Đă có một sự ‘tiết lộ
đầu tiên’ và nó vẫn c̣n; trên thế gian này nó sẽ
không bị thất truyền mà sẽ tái xuất hiện dù
Mlechchhas ([112])
tất nhiên sẽ phải chờ đợi”.
Khi hỏi thêm về điểm này, th́ ông
không nói ǵ thêm nữa. Việc này xảy ra tại
Vào thế kỷ vừa qua, tại Calcutta,
những người Bà La Môn chắc chắn là thật
độc ác khi lừa Đại Tá Wilford và ông William Jones,
nhưng cũng đáng đời thôi, không có một người
nào đáng chê trách trong việc này hơn là Phái bộ
truyền giáo và chính Đại Tá Wilford. Theo sự thổ
lộ của chính ông William Jones ([113])
th́ Đại Tá Wilford thật ngớ ngẩn (silly) khi
chủ trương rằng “những người Ấn
Độ bây giờ cũng gần giống như
những người Thiên Chúa giáo v́ Đấng Brahma, Vishnu
và Mahesha của họ cũng không khác ǵ Thượng
Đế Ba Ngôi của người Thiên Chúa giáo” ([114]).
Đó là bài học rất hay, nó làm cho các học giả
Đông phương phải cẩn thận gấp đôi,
nhưng có lẽ nó cũng làm cho một vài người quá
hổ thẹn, và do phản ứng, nó làm cho quả lắc
của những kết luận tiền định đă
lệch sang hướng khác quá nhiều. Đó là v́
để đáp
54
lại yêu cầu của Đại Tá Wilford,
“Mức cung đầu tiên phát xuất từ thị
trường Bà La Môn” hiện nay đă tạo ra một nhu
cầu và dục vọng hiển nhiên nơi các nhà Đông
phương học, khiến họ tuyên bố hầu
hết bản thảo Bắc Phạn tối cổ là
hiện đại đến nỗi mà Phái bộ
truyền giáo Thiên Chúa có dịp hoàn toàn biện minh cho ḿnh.
Việc họ làm như thế với đầy
đủ trí lực lộ rơ nơi những toan tính
mới đây để chứng tỏ rằng câu
chuyện kinh Purana nói về Đức Krishna là do những người Bà La Môn
đạo văn trong thánh kinh Thiên Chúa giáo! Những
sự kiện mà vị giáo sư ở Oxford kể lại
trong bài diễn thuyết của
ông liên quan đến những câu kinh thêm thắt vào
lừng danh hiện nay, tiền cát hậu hung đối
với Đại Tá Wilford, không hề can dự vào
những kết luận mà bất cứ người nào
nghiên cứu Giáo Lư Bí Truyền cũng đều phải
đi tới một cách không thể tránh được. V́
nếu kết quả cho thấy rằng Tân Ước kinh cũng như Cựu ước kinh đă không hề vay mượn bất cứ
điều ǵ của tôn giáo xưa hơn của
người Bà La Môn và Phật giáo, th́ không được
suy ra là người Do Thái hoàn toàn không vay mượn
của những kinh sách Can Đê những điều mà
họ đă biết, những quyển kinh Can Đê sau này
đă bị ông Eusebius cắt xén đi bớt. Về
phần những người Can Đê, chắc chắn là
những điều học hỏi đầu tiên của
họ phát xuất từ những người Bà La Môn v́ ông
Rawlinson chỉ rơ ảnh hưởng của kinh Phệ Đà thật là không
thể phủ nhận được trong môn thần
thoại học cổ xưa của thành phố Babylon; và
từ lâu, Đại Tá Vans Kennedy đă tuyên bố một
cách chính xác rằng thành phố Babylon có nguồn gốc là
thủ phủ của nền học thức Bắc
Phạn và Bà La Môn. Nhưng tất cả những bằng
chứng như thế không có giá trị nữa khi có sự
xuất hiện của thuyết mới nhất do giáo
sư Max Muller đưa ra. Mọi người đều
biết đó là ǵ. Qui tắc về những luật phát âm
bây giờ đă trở thành một dung môi chung dành cho
sự đồng nhất hóa và sự “liên hệ” giữa những
vị thần linh của nhiều nước trên thế
giới. V́ vậy, dù Đức Mẹ của Thần
Thủy Tinh (Mercury)(Buddha, Đức Thot-Hermes, v.v..) là Maia,
Đức Từ Mẫu của Đức Cồ Đàm,
cũng là Maya; và Đức Mẹ của Đức Jesus,
cũng là Maya (Ảo tưởng, v́ Mary là Mare, Biển
Cả, Đại Ảo mộng, nói một cách
tượng trưng) - tuy nhiên, ba chữ này không liên quan
với nhau, cũng như không thể có bất cứ
sự liên quan nào, v́ nhà ngữ học Bopp đă “đặt
ra qui tắc về những luật phát âm”.
55
Khi cố gắng góp nhặt chung lại
với nhau nhiều cuộn giấy lịch sử chưa
được viết ra, những nhà Đông phương
học chúng ta đă tiến một bước liều
lĩnh khi họ phủ nhận một cách tiên nghiệm
những điều ǵ không ăn khớp với những
kết luận đặc thù của họ. Như vậy,
trong khi càng ngày người ta càng khám phá ra những nền
nghệ thuật và khoa học vĩ đại đă có
từ lâu lắm rồi, th́ tuy nhiên, ngay cả sự
hiểu biết về cách viết chữ của một
vài nước xưa nhất cũng không được
công nhận, và người ta tin là họ c̣n dă man thay v́ có văn
hóa. Tuy nhiên, những vết tích của một nền
văn minh rộng lớn, ngay cả ở vùng Trung Á,
vẫn c̣n được t́m thấy. Một điều
không thể phủ nhận được là nền văn
minh này thuộc về thời
tiền sử. Có thể nào một nền văn minh mà
lại không có h́nh thức văn học, niên sử hay sao?
Chỉ nội lương tri cũng đủ bổ túc
cho những cái khoen bị đứt đoạn về
lịch sử của những nước bị tiêu
diệt. Toàn thể vùng cao nguyên Tây Tạng bị vây quanh
bởi những bức tường núi non liên tục và hùng
vĩ, từ thượng lưu của ḍng sông Khuan Khé
xuống đến đồi Karakoram, đă làm chứng
cho một nền văn minh trong suốt cả ngàn năm,
v́ có nhiều sự bí mật kỳ lạ để
kể cho nhân loại. Những phần đất của
miền Đông và miền Trung của những vùng này – là
vùng Nan-Shan và vùng Altyn-Tàgh – xưa kia đă có nhiều thành phố
có thể tranh đua với thành Babylon, toàn bộ một
địa kỳ (geological period) đă trải qua trên vùng
đất này từ khi những thành phố này không c̣n
nữa; những g̣ cát chuồi và lớp đất nay
đă khô cằn của những vùng đồng bằng bao
la tại trung châu khu vực sông Tarim c̣n làm chứng
điều này. Khách du lịch chỉ mới hời
hợt biết được những vùng đất biên
thùy này. Ở bên trong, những vùng cao nguyên đầy cát này
có nước và những ốc đảo phát triển
ở đó, song ở đấy không có một dấu chân
mạo hiểm nào của người Âu Châu đă từng
đặt lên hoặc dẫm lên vùng đất hiện nay
không đáng tin cậy này. Trong số những ốc
đảo đầy cây cỏ này, có một vài cái hoàn toàn
bất khả xâm phạm đối với du khách phàm
tục bản xứ. Những trận băo cát “có thể
thổi tung cát lên và quét sạch toàn thể những
đồng bằng”, song chúng không có khả năng phá
hủy những ǵ ở ngoài tầm của chúng. Những
tàng thư cổ viện dưới đất
được bảo vệ bằng cách xây dựng ở
sâu trong ḷng đất; và v́ đường vào hầm
được dấu kín nên chẳng lo bất cứ
người nào t́m ra chúng ngay cả khi nhiều đoàn quân
xâm lăng những vùng đất cát bỏ hoang này, nơi
mà –
Người ta
không thấy có một ao nước, một bụi cây,
một ngôi nhà,
Và
một dăy núi tạo nên một b́nh phong lồi lơm,
Chung
quanh những băi sa mạc nóng bỏng, khô khan.
Nhưng người ta không cần đưa
độc giả đi qua băi sa mạc. Khi những
bằng chứng tương tự của nền văn
minh cổ kính được t́m thấy trong những vùng
tương đối có dân cư của nước này.
Thí dụ như ốc đảo Cherchen ở một
nơi khoảng 4.000 bộ Anh trên mực nước
của ḍng sông Cherchan Daryba, bây giờ được bao
quanh tứ phía bởi những di tích đổ nát của
những thành phố và đô thị cổ sơ. Ở
đây, có lối 3.000 người tượng trưng cho
tàn tích của chừng 100 giống dân và 100 nước không
c̣n nữa, tên của những giống dân này ngày nay các nhà
dân tộc học của chúng ta cũng không biết.
Một nhà nhân loại học cũng cảm thấy
hết sức bối rối khi phải sắp loại,
phân loại và phân loại thêm nữa những giống dân
này, hơn thế, chính con cháu tất cả các giống dân
và bộ lạc trước thời hồng thủy này
như thể từ mặt trăng rơi xuống v́
họ biết rất ít về tổ tiên của chính ḿnh.
Khi mà có người hỏi về nguồn gốc của
họ, họ sẽ trả lời rằng họ cũng
không biết tổ tiên của ḿnh từ đâu tới,
nhưng họ nghe nói là những người đầu
tiên (hay xưa nhất), được cai trị bởi
những vị thần cao cả của những vùng sa
mạc này. Điều này có thể bị coi là vô minh và mê
tín, tuy nhiên, theo quan điểm của Giáo Lư Bí Nhiệm, câu
giải đáp này có thể được căn cứ vào
truyền thuyết của thời sơ khai. Chỉ có
một ḿnh bộ lạc Khorasàn tự cho là có nguồn
gốc nơi những người mà ngày nay
được biết là người
56
“Do có những trận cát chuồi và gió sa
mạc, bây giờ địa điểm của hai đô
thị này tràn ngập những di tích kỳ lạ và
tập hợp, như là những đồ sứ,
đồ sành, những nồi niêu vụn nát và những
bộ xương người. Những người
bản xứ thường t́m thấy những đồng
tiền vàng, tiền đồng, những thoi bạc đă
được nấu chảy, kim cương và ngọc
thạch và điều đáng chú ư nhất là những
mảnh kính bể… Những cái ḥm bằng một thứ
gỗ không hư mục trong đó người ta t́m
thấy những xác ướp được giữ ǵn
một cách tốt đẹp… Tất cả các xác
ướp đàn ông đều rất cao lớn, là
những đàn ông cường tráng, có mái tóc dài, dợn
sóng… Người ta cũng t́m thấy một hầm mộ
có mười hai xác chết đang
ngồi trong đó. Một lần khác, trong một cái ḥm
riêng biệt, chúng tôi đă t́m thấy một thiếu
nữ. Đôi mắt của người con gái này
được bịt lại bằng những đĩa
tṛn bằng vàng, và một cái kiềng vàng gắn chặt
hai bên hàm chạy dài từ dưới cằm lên tận
đỉnh đầu. Nàng mặc y phục bằng len
thật chật, những ngôi sao bằng vàng gắn trên
ngực nàng, c̣n đôi chân nàng không có mang chi cả” ([115]).
Về điều này, vị du khách danh
tiếng có thêm rằng, suốt theo ḍng sông Cherchen Darya, ông
có nghe nói đến huyền thoại về hai mươi
ba thành phố bị những trận cát chuồi của sa
mạc chôn vùi cách đây nhiều thời đại
rồi. Cũng truyền thuyết này hiện c̣n ở vùng
Lob-nor và ốc đảo Keriya.
Những vết tích của một nền
văn minh như thế và những truyền thuyết
tương tự khiến cho chúng ta có quyền tin vào
một kiến thức huyền thoại khác nữa,
được những người dân có học thức
và giáo dục đầy đủ của Ấn Độ
và Mông Cổ bảo đảm, họ nói về những
thư viện khổng lồ được khai quật
lên từ dưới cát cùng với di tích khác nhau của
nền học vấn Pháp thuật cổ truyền, chúng
đều đă được chôn giấu một cách an
toàn.
Tóm lại, Giáo Lư Bí Nhiệm là một tôn giáo
được phổ biến khắp nơi trên thế
giới xa xưa vào thời tiền sử. Những
bằng chứng của sự truyền bá giáo lư này,
những tài liệu xác thực về lịch sử
của nó, một loạt tài liệu đầy đủ,
đă chứng minh đặc tính và sự hiện diện
của nó ở khắp nơi, cùng với giáo lư của
tất cả các vị Đại Chân Sư, cho đến
nay vẫn c̣n trong các tàng thư cổ viện của Huyền
Môn Giáo Đoàn (Occult Fraternity).
Phát biểu này c̣n đáng tin cậy hơn
nữa nếu những sự kiện sau đây
được nghiên cứu kỹ: truyền thuyết nói
rằng hàng ngàn mảnh da thuộc xưa có chữ viết
được cứu thoát khi thư viện Alexandria
bị hủy diệt; hàng ngàn quyển kinh Bắc Phạn
ở Ấn Độ bị biến mất dưới
triều đại Akbar; tại Trung Quốc và Nhật
Bản th́ có một truyền thuyết phổ biến nói
rằng, hàng ngàn quyển kinh gồm những tác phẩm
thật xưa có những lời b́nh luận (chỉ có nó
mới giúp người ta hiểu được kinh sách)
từ lâu rồi không c̣n ở trong tay của kẻ phàm phu
tục tử; sự biến mất của nền văn
học vô cùng thiêng liêng và huyền bí của thành phố
Babylon; sự thất truyền của những ch́a khóa mà
chỉ có nó mới giải được hàng ngàn câu
đố bí ẩn của những kinh sách viết bằng
chữ tượng h́nh của người Ai Cập;
truyền thuyết tại Ấn Độ nói rằng
những lời b́nh luận thực sự bí mật
(chỉ có nó mới giúp người ta hiểu
được kinh Vedas), dù cặp mắt của
người phàm tục không c̣n thấy được chúng
nữa, nhưng (đối với người
được điểm đạo) chúng vẫn c̣n được
giấu kín trong những hang động và hầm mộ bí
mật, c̣n về phần những kinh sách bí mật của
Phật giáo th́ các tín đồ Phật giáo đều tin
tưởng giống như vậy.
57
Những nhà Huyền bí học xác nhận
rằng tất cả những tài liệu hiện nay
vẫn c̣n được bảo vệ khỏi sự
cướp đoạt của người Tây
phương, để rồi trong một thời kỳ
sáng sủa hơn, những tài liệu này sẽ tái xuất
hiện như cố Đại Đức Swami Dayanand
Sarasvati đă nói “những người Mlechchhas (những
người vô gia cư, tứ cố vô thân, man rợ,
những người ở ngoài lănh vực của nền
văn minh Ấn Âu) sẽ phải chờ đợi”.
Hiện nay, những tài liệu này đă
bị “thất truyền” đối với kẻ phàm
tục, không do lỗi của những người
được điểm đạo, cũng không v́
chủ trương của họ bị ḷng ích kỷ sai
khiến, hoặc do bất cứ dục vọng nào
để độc chiếm cái kiến thức làm
sống động cao siêu. Có những đoạn kinh trích
ra từ Khoa Học Huyền Bí (Secret Science) mà vô số
thời đại qua vẫn c̣n được giấu kín
không cho con mắt xoi mói của người phàm tục
thấy được. Nhưng bởi v́ việc
truyền thụ vô số bí mật quan trọng ghê gớm
như vậy cho kẻ chưa được chuẩn
bị, thật cũng giống như người ta giao
cho một đứa trẻ cầm đèn cầy đang
cháy đi vào kho thuốc súng.
Sự giải đáp một câu hỏi
thường thường xuất lộ trong trí của các
môn sinh khi họ gặp những phát biểu như thế,
có thể được phác họa một cách rơ rệt
ở đây.
Họ nói rằng, chúng tôi có thể hiểu
được nhu cầu giấu kín những điều
bí mật như chất Vril, hoặc là sức mạnh phá
vỡ đá do J.W. Keely của bang Philadelphia t́m ra, nhưng
chúng tôi không thể hiểu được làm thế nào mà
bất kỳ điều nguy hiểm ǵ lại có thể
xảy ra do sự tiết lộ một thứ giáo lư
thuộc về triết học thuần túy, thí dụ
như là sự tiến hóa của những Dăy Hành Tinh.
Sự nguy hiểm của những giáo lư nói
về Dăy Hành Tinh hay bảy Giống dân, là ở chỗ nó
ngay tức khắc đưa ra một manh mối về
bản chất thất phân của con người, v́
mỗi khí thể có liên quan đến một cơi, một
hành tinh và một giống dân, và trên mỗi cơi những khí
thể của con người có liên quan đến
những quyền năng huyền bí thất phân, những
quyền năng của các cơi cao hơn thật phi thường.
V́ vậy, bất cứ phép chia làm bảy nào cũng ngay
tức khắc đưa ra một manh mối cho những
quyền năng thần bí phi thường, sự lạm dụng
những quyền năng này sẽ gây ra vô số tội ác
đối với nhân loại; có thể nó không phải là
manh mối dành cho thế hệ hiện tại -
đặc biệt đối với người Tây
phương, vốn là những người mù quáng, duy
vật, vô minh và không tin vào huyền môn – tuy nhiên, trong
những thế hệ đầu của kỷ nguyên Thiên
Chúa, đó là một manh mối có giá trị thực sự
đối với những người hoàn toàn tin tưởng
vào chân lư của Huyền bí học, và đang đi vào
một chu kỳ thoái hóa biến họ thành những kẻ
lạm dụng những quyền năng huyền bí và pháp
thuật tồi tệ nhất.
58
Đúng là những tài liệu này đă
được giấu kín, nhưng chính kiến thức và
sự tồn tại thực sự của nó không bao giờ
bị các vị Đạo Trưởng trong Thánh
Điện biến thành một điều bí mật, trong
đó những PHÁP THUẬT HUYỀN BÍ (MYSTERIES) luôn luôn
được biến thành một sự khuyến khích các
đức tính và một giới luật. Đó là những
kiến thức rất xưa cứ được
tiết lộ hoài bởi các vị Đại Chân Sư,
từ Đức Pythagoras và Plato cho đến những môn
đồ của phái tân Platon. Nó là tôn giáo mới của
người Nazarenes, nó đă tồi tệ hơn do sách
lược của nhiều thế kỷ.
Vả chăng, có một sự kiện
nổi tiếng- một sự kiện rất kỳ
diệu đă được minh chứng cho tác giả
bởi một giáo sĩ quí tộc giúp việc tại Ṭa
Đại Sứ Nga trong nhiều năm – là có rất
nhiều tài liệu trong những thư viện Hoàng gia
Petersburg chỉ rơ rằng, hơn một nhà thần bí
học Nga đă du lịch sang Tây Tạng xuyên qua Rặng
núi Ural để mưu t́m kiếm kiến thức và
sự điểm đạo trong những hầm mộ chưa ai biết ở vùng
Trung Á, ngay trong những ngày gần đây, nghĩa là vào
cuối thế kỷ vừa qua và bắt đầu
thế kỷ hiện tại ([116]),
khi Hội Tam Điểm và những Hội kín về
thần bí học đă mọc lên một cách tự do
tại Nga. Nhiều năm sau đó, hơn một
người đă trở lại, mang theo nhiều tài
liệu đến nỗi y chưa hề thu
được chúng ở bất cứ nơi nào tại
Châu Âu. Nhiều trường hợp có thể
được kể ra và nhiều tên tuổi trứ danh
có thể được đưa ra, nhưng e rằng
sự công bố như thế có thể làm phiền
lụy đến những thân nhân c̣n sống của
những vị được điểm đạo
đă quá cố vừa nêu. Nếu bất cứ
người nào xem xét niên sử và lịch sử của
Hội Tam Điểm trong tàng thư cổ viện của
thủ đô nước Nga, th́ y sẽ tin chắc vào
sự kiện đă được tŕnh bày ở trên.
Đó là một bằng chứng của
điều đă được xác định nhiều
lần trước, khinh suất một cách đáng
tiếc vô cùng. Những lời tố cáo độc hại
về sự cố ư bịa đặt ra, sự lừa
gạt có mục đích, được tuôn xối xả
trên đầu kẻ đă khẳng định một
sự thật dù ít ai biết tới; thay v́ có lợi cho
nhân loại, điều này lại chỉ tạo ra
Nghiệp quả xấu cho những kẻ vu khống.
Nhưng bất chấp hậu quả, sự thật không
c̣n bị phủ nhận nữa, và ngày nay người ta
đă làm bậy rồi.
Thiên hạ cứ hỏi Minh Triết Thiêng
Liêng có phải là một tôn giáo mới không? Tuyệt nhiên
không, nó không phải là một “tôn giáo” cũng không phải
là một thứ triết lư “mới” v́, như đă
được khẳng định, nó đă có từ khi
con người biết suy nghĩ rồi. Những giáo
điều của nó không phải ngày nay mới
được công bố lần đầu, mà đă
được thận trọng đưa ra, do một vị
được điểm đạo người Âu Châu
giảng dạy - đặc biệt là do Đức Ragon
đă quá cố.
Hơn một đại học giả
đă khẳng định, chưa bao giờ có một nhà
sáng lập tôn giáo nào, dù là người Ấn Âu (Aryan),
người Semite hoặc người Turanian, đă phát minh ra được một tôn giáo mới, hay
đă tiết lộ một chân lư mới. Những nhà sáng
lập này toàn là những người truyền bá chứ không phải những vị
thầy chính gốc. Họ chỉ là tác giả của
những h́nh thức và những diễn giải mới
lạ, trong khi những chân lư vốn là nền tảng
của những giáo huấn của họ, lại đă có
từ khi có nhân loại. Như vậy, lúc khởi thủy,
trong số những chân lư đă được tiết
lộ bằng truyền khẩu cho con người,
được ǵn giữ và c̣n măi măi trong Mật
Điện (Adyta) của những Thánh Điện nhờ
vào sự điểm đạo, trong khi có những BÍ PHÁP
(MYSTERIES) và do sự chuyển đạt cá nhân, họ
đă sưu tập được một hay nhiều
sự thật vĩ đại như thế - những
hiện thực chỉ được thấy bằng
mắt của nhà Hiền triết và Tiên tri chân chính – và
tiết lộ cho quần chúng. Như thế, mỗi
nước luân phiên tiếp nhận một vài chân lư đă
nói, dưới mức màn che của biểu tượng
học đặc biệt và của từng địa
phương; khi thời gian trôi qua, nó sẽ phát triển
thành ra lối phụng thờ có ít hay nhiều triết lư,
một đền thần của Hy Lạp (Pantheon)
được ngụy trang một cách thần bí. V́
vậy, chính Đức Khổng Tử, một nhà lập
pháp rất xưa về niên đại học lịch
sử, dù Ngài là một nhà hiền triết rất hiện
đại trong lịch sử thế giới, cũng
đă được tiến sĩ Legge ([117]),
chứng tỏ rằng Ngài dứt khoát là “một nhà truyền thông, chứ không
phải là một nhà sáng lập”. Chính Đức Khổng
Tử đă nói rằng “Tôi chỉ lưu truyền, chứ
tôi không lập ra điều ǵ mới cả. Tôi tin
tưởng ở người xưa và v́ vậy tôi kính
mến họ” ([118])
{Thực ra là: Tôi chỉ là nhà truyền thông chứ không
phải là một người sáng lập, tin tưởng
và kính mến người xưa}.
59
Tác giả cũng kính mến họ
vậy, cho nên tác giả cũng tin tưởng ở các
bậc tiền bối này và những
người hiện nay đang thừa hưởng Minh
Triết của các Ngài. Và v́ tin tưởng cả hai nên bây
giờ tác giả cũng truyền thông cái mà tác giả
nhận được và chính ḿnh đă học
được; cho tất cả những ai sẽ tiếp
nhận Minh Triết này. Về phần những ai có
thể bác bỏ lời minh chứng của tác giả -
đại đa số - bà sẽ không có ác ư đối
với họ, v́ họ sẽ đúng trong đường
lối của họ khi chối bỏ cũng như bà
đúng trong đường lối của bà khi xác
định, v́ hai bên nh́n chân lư theo hai quan điểm hoàn
toàn khác nhau. Theo những qui tắc của nhà học
giả phê phán, nhà Đông phương học phải bác
bỏ một cách tiên nghiệm bất cứ bằng
chứng nào mà chính y không thể hoàn toàn kiểm chứng
được. Và làm thế nào mà một học giả Tây
phương lại có thể chấp nhận
được khi chỉ mới nghe đồn
điều mà họ chưa biết? Thực vậy,
điều được đưa ra trong những
quyển sách này, được sưu tầm từ giáo lư
truyền khẩu cũng như từ những giáo lư thành văn.
Cở sở đầu tiên của những giáo lư bí
truyền này được căn cứ trên những
đoạn Thánh Kinh vốn là những bản kinh sách
của một dân tộc chưa được nhân
chủng học biết tới. Nghe đâu, giáo lư này
được viết ra bằng một thứ tiếng
không có trong bảng danh mục các ngôn ngữ và thổ
ngữ mà khoa ngữ học biết được;
thứ ngôn ngữ nói đây phát xuất từ một
nguồn gốc mà khoa học đă phủ nhận –
nghĩa là Huyền bí học; sau cùng, nó được
hiến cho đời qua một sự trung gian, vốn luôn
luôn bị hoài nghi bởi tất cả những
người nào ghét những chân lư bị hất hủi
hoặc chỉ bênh vực một điều ǵ mà họ
đặc biệt ưa thích. V́ vậy, sự phủ
nhận giáo lư này có thể được trông đợi,
và phải được trông đợi trước. Không
một người nào tự gọi ḿnh là “học
giả”, trong bất cứ bộ môn nào của nền khoa
học chính xác, sẽ tự cho phép ḿnh cứu xét những
giáo lư này một cách nghiêm chỉnh. Trong thế kỷ 19 này,
chúng sẽ bị chế giễu và phủ nhận một cách tiên nghiệm nhưng chỉ trong thế kỷ này mà
thôi. Đó là v́ trong thế kỷ hai mươi của
kỷ nguyên chúng ta, những học giả sẽ bắt
đầu nhận thấy rằng Giáo Lư Bí Nhiệm không
hề do ai phát minh ra, cũng không do người nào phóng
đại, nhưng ngược lại nó chỉ
được phác họa; và sau hết giáo lư này đă có
trước kinh Vedas. Đây không phải là cao vọng tiên
tri mà chỉ là một phát biểu căn cứ trên sự
hiểu biết các sự kiện. Mỗi thế kỷ
đều có một toan tính để chỉ cho mọi
người thấy rằng Huyền bí học không
phải là một điều mê tín hăo huyền. Mỗi khi
mà cánh cửa này được phép hé mở một chút, th́
cứ mỗi thế kỷ mới, nó sẽ
được mở rộng hơn. thời gian sẽ
chín muồi đối với một sự hiểu
biết nghiêm chỉnh hơn mức cho đến bây
giờ đă được phép tiết lộ, dù
đến nay c̣n rất giới hạn.
60
Cách đây năm mươi năm, kinh Phệ Đà đă chẳng
bị chế giễu, phủ nhận và bị gọi là
“một sự lừa bịp hiện đại”
đấy ư? ([119])
Có một lúc nào đó, Lempriēre và nhiều học giả
khác đă chẳng công bố rằng tiếng Bắc
Phạn chỉ là một thổ ngữ xuất phát từ
tiếng Hy Lạp đấy ư? Theo giáo sư Max Muller,
vào khoảng năm 1820, những quyển Thánh kinh của
người Bà La Môn, của các thuật sĩ và của các
tín đồ Phật giáo “đều bị ngờ vực
v́ người ta chưa biết tới, không có một
học giả nào đă dịch được một ḍng
kinh Veda .. kinh Zend Avesta hay … Tam Tạng của Phật giáo đồ, thế
mà hiện nay, các kinh Vedas lại
được chứng tỏ là quyển kinh cổ
truyền nhất, việc bảo tồn nó hầu như
là một phép lạ” ([120]).
Người ta cũng sẽ nói như
vậy về Giáo Lư Cổ truyền Huyền Bí (Secret Archaic
Doctrine), khi mà sự hiện hữu và những kinh sách
của nó có những bằng chứng không thể phủ
nhận được. Những cũng phải mất
nhiều thế kỷ nữa th́ giáo lư này mới
được đưa ra nhiều hơn nữa. Khi nói
đến ch́a khóa để giải những sự Bí
Mật của các cung Hoàng Đạo (đối với
mọi người, nó đă gần như thất
truyền), cách đây lối mười năm, tác giả
đă nhận xét trong quyển Nữ
Thần Isis Lộ Diện rằng: “Cái ch́a khóa đă nói
phải được xoay bảy lần trước khi
toàn bộ hệ thống được tiết lộ.
Chúng tôi sẽ đưa ch́a khóa này ra nhưng chỉ có
một lần xoay mà thôi, để cho kẻ phàm phu thoáng
thấy được một chút bí mật. Hữu
phước thay cho kẻ nào hiểu biết
được tất cả!” ([121])
Chúng ta có thể nói như vậy về toàn
thể Hệ thống Bí truyền, một ṿng xoay của
ch́a khóa và không hơn nữa, đă được
đưa ra trong quyển Nữ
Thần Isis Lộ Diện. Trong những quyển sách
này, chúng ta sẽ giải thích nhiều hơn. Hồi
đó, tác giả biết rất ít tiếng Anh, thứ ngôn
ngữ dùng để viết ra tác phẩm này, và sự
tiết lộ nhiều điều mà nay được nói
tự do, trước kia đă bị ngăn cấm. Trong
thế kỷ hai mươi, một đệ tử nào
đó có học nhiều và có đủ tư cách hơn, có
thể được các Chân Sư Minh Triết phái
đến để đưa ra những bằng
chứng sau cùng và cũng không thể phủ nhận được
rằng có một nền khoa học gọi là môn Giáo Lư Bí Truyền (Gupta Vidyà),
và giống như những nguồn gốc bí mật xa
xưa của ḍng sông Nile, nguồn gốc của tất
cả các tôn giáo và triết học mà ngày nay mọi
người đều biết, đă bị quên lăng và
thất truyền trong nhiều thời đại qua,
nhưng cuối cùng vẫn được t́m thấy
lại.
Một tác phẩm như quyển sách này
phải không được mở đầu bằng
một lời nói đầu đơn giản mà đúng
hơn là phải được mở đầu bằng
một quyển sách - một quyển sách sẽ đưa
ra những sự kiện chứ không phải chỉ có
những sự khảo luận, v́ Giáo Lư Bí Nhiệm không phải là một bộ
đại luận, hoặc một loạt lư thuyết
mơ hồ, mà chứa đựng tất cả những
ǵ có thể được đưa ra cho thế gian vào
thế kỷ này.
61
Thật là vô ích khi công bố trong những trang
sách này ngay cả những phần trong Giáo Lư Bí Nhiệm nay đă không c̣n bị hạn
chế nữa trừ phi tính xác thực hay ít ra sự
khả hữu tồn tại của những giáo lư như
thế đă được xác định trước.
Những phát biểu như thế (mà ta sẽ thực
hiện bây giờ), phải được chứng minh là
do nhiều nhân vật có thẩm quyền bảo đảm,
chẳng hạn như những nhà triết học xưa,
những tác giả cổ điển và ngay cả các
vị Linh Mục có kiến thức trong Giáo Hội,
một vài người biết được giáo lư này v́
họ đă nghiên cứu chúng, đă thấy và đă
đọc những tác phẩm viết về giáo lư này;
thậm chí, đích thân một vài người đă
được điểm đạo vào những bí pháp
cổ truyền, trong khi thi hành những bí pháp này th́ giáo lư
huyền môn đă được tŕnh bày một cách ẩn
dụ. Tác giả sẽ phải đưa ra một số
tên tuổi lịch sử đáng tin cậy, và viện
dẫn những tác giả trứ danh xưa và nay, với
tài hiểu biết, sự phán đoán khôn ngoan, và sự chân
thực đă được công nhận, cũng như
kể tên một vài người lừng danh thông thạo
về nghệ thuật và khoa học huyền bí, cùng
với những bí pháp của những khoa vừa kể,
khi chúng được tiết lộ, đúng hơn là
được tŕnh bày một phần trước công chúng
dưới h́nh thức kỳ lạ cổ truyền.
Việc này được thực hiện
như thế nào? Cách thức tốt nhất để
đạt được một mục đích là ǵ? –
đây là một câu hỏi được lặp đi lặp
lại. Để làm sáng tỏ kế hoạch của chúng
ta, một minh họa có thể được thử
nghiệm. Khi một nhà du lịch xuất phát từ
một xứ đă được thám hiểm kỹ
lưỡng, bất thần đến biên giới của
một vùng đất xa lạ
(terra incognita) – nó được bao quanh và giấu kín
bằng một hàng rào đá tảng kín mít và kinh khủng –
y vẫn có thể không chịu nh́n nhận là đă tự
làm hỏng kế hoạch thám hiểm của ḿnh. Lối
đi vào phía bên kia bị ngăn cấm. Nhưng nếu cá
nhân y không thể đến thăm vùng bí mật này, y
vẫn có thể t́m thấy một cách để xem xét nó
từ một nơi gần nhất mà y có thể tới
được. Nhờ sự hiểu biết những
phong cảnh ở phía sau nên y có thể đạt
được một ư niệm tổng quát và gần
đúng về quang cảnh bị che giấu, nếu y
chỉ cần chịu khó trèo lên đỉnh cao nhất
của những chỗ cao trước mặt y. Một khi
đă ở trên đó, y có thể ung dung ngắm nh́n phong
cảnh, so sánh cái mà y thấy lờ mờ với cái mà y
vừa bỏ lại phía dưới, bây giờ, nhờ
những cố gắng bản thân, y có thể bất
chấp sương mù và những vách đá dốc
đứng cao thấu tận mây xanh.
Trong hai quyển sách này, một điều
nhận xét đầu tiên không thể được
cống hiến cho người nào chỉ muốn
đạt được một sự hiểu biết
chính xác hơn về những bí mật của những
thời kỳ tiền cổ đă được
đưa ra trong những kinh điển. Nhưng nếu
độc giả kiên nhẫn liếc sơ qua hiện
trạng của những tín ngưỡng ở Âu Châu, so
sánh đối chiếu điều này với cái mà họ
biết trong lịch sử của những thời
đại ngay trước hoặc sau kỷ nguyên Thiên Chúa,
th́ bấy giờ, y sẽ t́m thấy tất cả
những điều này ở trong một quyển vị
lai của tác phẩm này ([122]).
62
Một bản tổng kết ngắn gọn
trong quyển sách đó sẽ viết về tất cả
những vị Chân Sư chính mà lịch sử đă
biết rơ, và người ta sẽ mô tả sự suy tàn
của những Bí Pháp, sau đó th́ bản chất thực
sự của cuộc Điểm Đạo và nền Khoa
học Huyền linh cũng bắt đầu biến
mất và sau cùng bị loại ra ngoài kư ức của con
người một cách có hệ thống. Từ lúc đó
giáo lư này trở nên Huyền Bí học và môn pháp thuật
rất thường được ngụy trang
dưới danh hiệu khả kính (song thường gây
lầm lẫn) là nền Triết học của Hermes. Cũng
như trong những thế kỷ trước Công nguyên,
Huyền bí học chân chính đă thịnh hành trong tất cả
các nhà Thần bí học, cũng vậy, Pháp thuật (hay
đúng hơn là Ma thuật với những Thuật
huyền bí), cũng nối tiếp sự khởi
đầu của Thiên Chúa giáo.
Trong những thế kỷ đầu tiên
này, dù lớn lao và sốt sắng đến đâu đi
nữa, những cố gắng cuồng nhiệt nhằm
xóa sạch mọi dấu vết lao tâm mệt trí của
bọn ngoại đạo, đă thất bại, nhưng
từ đó, cũng tinh thần này của kẻ hung ác
tối tăm, cuồng tín và cố chấp đă làm
bại hoại một cách có hệ thống mọi trang
sách sáng ngời chân lư trong những thời kỳ
trước Thiên Chúa. Trong những tài liệu không đáng
tin cậy, ngay cả lịch sử cũng đă bảo
tồn được đủ di tích để soi sáng
một cách vô tư cho toàn thể. Vậy th́, xin độc
giả hăy dừng lại một chút cùng với tác giả
nơi điểm quan sát đă được chọn
lựa. Y sẽ được yêu cầu hết sức
chú ư vào khoảng 1.000 năm của những thời kỳ
trước và sau Thiên Chúa giáng sinh, được chia ra
bởi năm thứ nhất khi Thiên Chúa giáng sinh. Biến
cố này – dù có tính cách đúng với lịch sử hay
không – tuy nhiên cũng được dùng như là một
dấu hiệu đầu tiên để dựng lên
nhiều thành lũy khác nhau chống chọi lại bất
cứ sự có thể trở lại nào của, hoặc
ngay cả sự thoáng nh́n vào, những tôn giáo thù hận
của quá khứ; căm hờn và sợ hăi, v́ nó chiếu
một ánh sáng chói lọi vào sự thuyết minh cố t́nh
úp úp mở mở và mới lạ của cái mà bây giờ ta
biết như là “Tân Ước giáo” (“New Dispensation”).
Dù đă nỗ lực hết sức, các
vị linh mục Thiên Chúa giáo thuở xưa cũng hoàn toàn
thất bại, khi họ t́m cách xóa nḥa Giáo Lư Bí Truyền
trong kư ức của nhân loại. Chân lư không bao giờ
bị diệt vong; do đó, họ cũng thất bại
khi muốn quét sạch hoàn toàn những vết tích của
Minh Triết cổ truyền này ra khỏi mặt trái
đất, cũng như khi họ muốn xiềng xích và
bịt miệng người nào đă làm chứng cho nó.
Nếu người ta nghĩ đến hàng ngàn, có thể
hàng triệu kinh sách bị thiêu hủy, nghĩ đến
những lâu đài với những h́nh khắc và những
h́nh vẽ bằng biểu tượng rất khinh suất
(indiscreet) đă bị nghiền nát ra thành tro bụi,
nghĩ đến những nhà ẩn sĩ và những nhà
khổ tu thời xưa đi lang thang khắp nơi trong
những thành phố đổ nát của miền
Thượng và Hạ Ai Cập, trong sa mạc và nơi
đồi núi, dưới thung lũng và trên cao nguyên, t́m
kiếm để phá hủy mọi tháp bia và thạch
trụ, cuộn giấy hay mảnh da thuộc mà họ có
thể t́m thấy, nếu những cái này mang biểu
tượng chữ Tau hoặc bất cứ kư hiệu nào
khác được thứ tín ngưỡng mới vay
mượn và chiếm hữu - bấy giờ sẽ
thấy một cách rơ ràng làm thế nào mà chỉ c̣n lại
rất ít những văn khố của thời quá khứ.
Thật vậy, tinh thần quỉ quái (fiendish spirit)
của sự cuồng tín Thiên Chúa giáo nguyên thủy và
thời Trung cổ cũng như của Hồi giáo, ngay
từ đầu đă thích ở trong bóng tối và sự
vô minh; và cả hai đă tạo ra:
…mặt
trời giống như máu, trái đất như một
nấm mồ,
Nấm
mồ như một địa ngục, và chính địa
ngục như một nơi u ám mù mịt !
Cả hai tín ngưỡng này đă thu được
tân tín đồ bằng bạo lực; cả hai đă
dựng nhà thờ trên những lễ tế thần
với đống vật hy sinh nhân loại cao ngất
trời. Ở trên ngưỡng cửa của thế
kỷ thứ nhất của Công nguyên, những tiếng
đe dọa ghê gớm “NGHIỆP QUẢ CỦA
NƯỚC DO THÁI” đă chói sáng một cách nguy kịch. Trên
những ngưỡng cửa của thế kỷ thứ
19 chúng ta, những nhà tiên tri tương lai có thể
nhận ra được nhiều tiếng khác, nó sẽ vạch
rơ nghiệp quả dành cho việc ngụy tạo lịch
sử một cách khéo léo, dành cho những biến cố
bị làm cho bại hoại một cách có mục đích và
dành cho những đặc tính trọng đại bị
hậu thế phỉ báng, bị xé ra từng mảnh
khiến cho không ai c̣n nhận ra được, giữa hai
chiếc xe của Đức Jagannatha (Đức
Chưởng Quản Thế Gian) – là sự cuồng tín và
Chủ nghĩa duy vật; cái th́ chấp nhận quá
nhiều, cái th́ phủ nhận tất cả. Nhà hiền
triết là người giữ được Đức
trung dung quí báu, y tin tưởng ở luật công b́nh
trường cửu đối với mọi vật.
63
Faizi Diwan đă nói, “bằng chứng
của những lời nói phi thường của một
nhà tự do tư tưởng theo cả ngàn môn phái” :
Trong cuộc họp ngày phục sinh, khi mà
những lỗi lầm quá khứ đều
được tha thứ, những tội lỗi tại
Thánh Điện Ka’bah cũng sẽ được tha
thứ v́ lợi ích cho những mớ rác rưởi trong
những ngôi nhà thờ Thiên Chúa giáo.
Về điều này, giáo sư Max Muller
đă trả lời:
Những tội lỗi của người
Hồi giáo cũng vô giá trị
như mớ rác rưởi của Thiên Chúa giáo; vào ngày
phục sinh, cả người Hồi giáo lẫn Thiên Chúa
giáo sẽ thấy sự rỗng tuếch của những
giáo lư của họ. Trên trần thế, con người
đă đánh nhau v́ tôn giáo, nhưng trên cơi thiên đàng,
họ sẽ t́m thấy rằng chỉ có một tôn giáo
thực sự - Sự tôn sùng TINH THẦN của
Thượng Đế. ([123])
Nói cách khác, “KHÔNG CÓ TÔN GIÁO [HAY DIỆU PHÁP NÀO]
CAO HƠN CHÂN LƯ” – Satyat Nasti Paro
Dharmah – Câu châm ngôn của vị Đại Vương
(Maharaja) của thành phố Benares ([124]),
được Hội Theosophy chọn làm tiêu ngữ.
Như nói trong Lời
Tựa, Giáo Lư Bí Nhiệm không phải là một bản
thuyết minh của quyển Nữ
Thần Isis Lộ Diện như đă dự
định từ lúc đầu. Đúng hơn nó là một
bộ sách giải thích quyển Nữ
Thần
V́ chỉ quan tâm đến những thứ
triết lư trong ṿng các thời đại lịch sử và
khoa biểu tượng học nói về những
nước bị suy vi, nên chỉ một thoáng nh́n vào toàn
cảnh của Huyền bí học đă được
tŕnh bày trong hai quyển của bộ Nữ Thần
64
Quyển I của bộ Nữ Thần
…Quá cũ đến nỗi mà những nhà
khảo cổ học hiện đại của chúng ta có
thể suy gẫm về những trang sách của tác
phẩm này trong một thời gian vô hạn mà vẫn không
hoàn toàn đồng ư với nhau về bản chất
của vật liệu cấu tạo nên tác phẩm đă
được viết ra này. Tác phẩm hiện có bây
giờ là bản sao nguyên gốc duy nhất. Tài liệu
cổ nhất của người Hy Bá Lai nói về
kiến thức huyền môn – kinh Siphrah Dzenioutha - được biên soạn từ
quyển cổ thư này, và vào một thời gian khi
quyển kinh nêu trước đă được cứu
xét dưới ánh sáng của một tàn tích văn học.
Một trong những minh họa của nó tŕnh bày việc
Bản Thể Thiêng Liêng phát xuất từ ADAM ([126])
giống như một ṿng cung chói sáng tiến hành việc
h́nh thành một ṿng tṛn; rồi khi đă đạt
được điểm cao nhất của
đường viên chu, sự Vinh diệu khôn tả
uốn cong lại và trở về trần thế mang theo
luồng xoáy lốc một mẫu người cao cả
hơn. Khi tiến càng ngày càng đến gần tới hành
tinh của chúng ta, Phân thân lần lần trở thành mờ
tối, cho đến khi đụng tới mặt
đất, nó đen như là đêm tối.
Quyển “kinh rất xưa” nay là tác phẩm
nguyên thủy mà từ đó nhiều quyển sách của
bộ kinh Kiu-ti đă
được soạn ra. Chẳng những bộ kinh Kiu-ti và kinh Siphrah Dzenioutha, mà cả
đến kinh Sáng Thế (Sepher Yetzireh) ([127]) - tác
phẩm này do tín đồ Bí giáo Hy Bá Lai (Hebrew Kabalists) gán
cho vị tộc trưởng của họ là Abraham
viết ra (!)- kinh Thư (Shu-king). Thánh kinh đầu tiên
của người Trung Quốc, những quyển kinh thánh
của người Ai Cập Thoth Hermes, kinh Puranas của
Ấn Độ, kinh Bí Số (Book of Number) của
người Can Đê và chính Ngũ Kinh Cựu Ước
(Pentateuch); tất cả đều phát xuất từ
quyển kinh nguyên thủy này. Truyền thuyết c̣n nói
rằng quyển cổ thư này được ghi chép
bằng cổ tự Senzar, thứ ngôn ngữ bí mật
của các Đạo Sĩ, theo lời của Đấng
Thiêng Liêng, các Ngài đọc nó cho những đứa con
của ánh sáng ở vùng Trung Á vào lúc khởi thủy của
Giống dân thứ Năm chúng ta; v́ có một thời
kỳ, thứ ngôn ngữ này (tiếng Senzar)
được những Điểm đạo đồ tại
mọi nước trên thế giới biết tới, khi
đó, tổ tiên của những người Toltec hiểu
tiếng này một cách dễ dàng cũng như dân của
châu Atlantis đă sụp đổ vậy, đến phiên
họ lại thừa hưởng thứ tiếng này
từ các nhà hiền triết của Giống dân chính
thứ Ba, những vị Manushis, các Ngài học tiếng này
trực tiếp nơi các vị Thiên Thần (Devas) của
các Giống dân chính thứ Nh́ và thứ Nhất. Sự
minh họa được tŕnh bày trong quyển Nữ Thần Isis liên quan
tới sự tiến hóa của các giống dân này,
Giống dân chính thứ Tư và Giống dân chính thứ
Năm trong chu kỳ Khai nguyên hay cuộc Tuần hoàn do
Đức Vaivasvata chưởng quản; mỗi cuộc
tuần hoàn gồm có những tiểu chu kỳ (Yugas)
của bảy giai đoạn tiến hóa của Nhân
loại; hiện nay bốn giai đoạn đă qua rồi
trong chu kỳ sống của chúng ta, điểm giữa
của giai đoạn thứ Năm cũng gần
được đạt tới. Sự minh họa này
được xem như là tượng trưng và bao
gồm từ lúc khởi thủy, như mọi
người đều có thể hiểu rơ. Quyển
cổ thư này đă diễn tả sự Tiến hóa
của Vũ Trụ và giải thích nguồn gốc của
mọi vật trên trần thế, gồm cả con
người hữu h́nh; sau khi đưa ra lịch sử
thực sự của các Giống dân, từ Giống dân
thứ Nhất cho đến chính Giống dân thứ
Năm chúng ta, nó không tŕnh bày thêm ǵ nữa. Nó dừng
lại đột ngột vào lúc bắt đầu chu
kỳ Mạt Pháp (Kali Yuga), cách đây đúng 4.989 năm khi
Đức Krishna từ trần, Ngài chính là một vị
Thần Thái Dương (Sun-god) sáng ngời, một vị
anh hùng và nhà cải cách đương thời.
65
Nhưng c̣n một quyển kinh khác
nữa. Không sở hữu chủ nào coi nó là rất cổ,
v́ nó chỉ mới xuất hiện cách đây lối 5.000
năm nghĩa là vào lúc có chu kỳ Mạt Pháp (Kali Yuga).
Trong ṿng chín năm nữa, chu kỳ thứ nhất
khoảng 5.000 đầu tiên, khởi đầu bằng
đại chu kỳ Mạt Pháp, sẽ chấm dứt ([128]).
Bấy giờ, lời tiên tri cuối cùng chứa
đựng trong quyển sách này - quyển thứ nhất
của tài liệu tiên đoán về Hắc Ám Thời
đại (Black Age) - sẽ được hoàn tất.
Chúng ta sẽ không phải chờ đợi lâu, nhiều
người trong chúng ta sẽ thấy được
buổi b́nh minh của Chu Kỳ Mới này, vào cuối
thời đại này, giữa các giống dân, không ít món
nợ sẽ được thanh toán dứt khoát. Quyển
II nói về những sự tiên tri, hầu như đă
sẵn sàng, nó đă được chuẩn bị từ
thời Đức Shankaracharya, người nối
nghiệp cao cả của Đức Phật.
Người ta cần phải chú ư một
điểm quan trọng hơn, nó đứng đầu
trong một loạt những bằng chứng
được đưa ra nói về sự hiện
hữu của một Minh Triết toàn diện duy nhất
đầu tiên (ít ra là dành cho các sinh viên huyền môn và tín
đồ Do Thái Bí giáo Thiên Chúa). Ít ra, giáo lư này cũng
được nhiều vị Linh Mục trong giáo hội
biết một phần. Dựa vào những cơ sở thuần
túy lịch sử, người ta khẳng định
rằng Origen, Synesius cũng như Clemens Alexandrinus,
đều được điểm đạo vào
những bí pháp trước khi họ thêm vào môn phái Tân Platon
(Neo-Platonism) của trường dạy đạo ở
Alexandria những giáo điều của phái Ngộ
Đạo (Gnostics) được che giấu dưới
chiêu bài của Thiên Chúa giáo. Hơn nữa, một vài giáo lư
của trường bí giáo, dù không phải là tất cả,
cũng được Ṭa thánh Vatican giữ ǵn từ
đó, đă trở nên thành phần của những Bí Pháp,
dưới dạng những sự bổ túc xuyên tạc
của Giáo hội La Tinh cho các chương tŕnh của Thiên
Chúa giáo nguyên thủy. Đó là giáo điều độc
đoán duy vật hóa hiện nay về sự Thụ Thai
Trinh Nguyên (Immaculate Conception). Điều này giải thích cho
sự đàn áp mà Giáo Hội Cơ Đốc La Mă phát
khởi chống lại Huyền bí học, Hội Tam
Điểm (Masonry) và Thần bí học phi chính thống nói
chung.
66
Thời của Constantine Đại Đế
là khúc quanh sau cùng trong lịch sử, là giai đoạn tranh
đấu quyết liệt trong thế giới Tây
phương, nó chấm dứt sự bóp nghẹt những
tôn giáo xưa để ưu đăi tôn giáo mới
được dựng trên những xác chết của
chúng. Từ đó, viễn ảnh của quá khứ xa xôi
vượt qua trận Đại Hồng Thủy và
vườn Địa Đàng, bắt đầu khép kín
một cách chặt chẽ và không thương xót bằng
mọi cách (hay hoặc dở) để cho cái nh́n xoi mói
của hậu thế không thấy được. Mọi
lối thoát đều bị bế tắc, mọi tài
liệu có thể được t́m ra, cũng bị phá
hoại. Tuy nhiên, ngay cả trong số những kinh sách
đă bị cắt xén như thế, vẫn c̣n có tài
liệu quả quyết với chúng ta rằng, trong chúng có
mọi bằng chứng thiết yếu về sự
tồn tại thực sự của một thứ giáo lư
Nguyên Ủy (Parent Doctrine). Những bản kinh rời
rạc vẫn c̣n tồn tại sau những cuộc
đại biến về địa chất và chính trị
để kể lại nội vụ, và những phần
tồn tại của số kinh sách này đă chứng minh
rằng Minh Triết bí truyền bây giờ đă từng là
nguồn gốc duy nhất, một ḍng suối chảy măi,
nuôi tất cả những ḍng suối nhỏ - tức là
những tôn giáo sau này của tất cả các nước
trên thế giới - từ đầu đến cuối.
Giai đoạn này bắt đầu từ Đức
Phật và Đức Pythagoras, và chấm dứt ở môn
phái Tân Platon và phái Ngộ Đạo, là tụ điểm
duy nhất c̣n lại trong lịch sử, nơi hội
tụ lần chót của những tia sáng rực rỡ
xuất phát từ những nguyên đại của thời
quá khứ mà không một bàn tay nào của người
cuồng tín và ngu tín làm cho tối tăm được.
Điều này giải thích cho nhu cầu
khiến tác giả đă luôn luôn khổ nhọc để
giải thích những sự kiện đă được
đưa ra từ quá khứ xa xưa bằng những
bằng cớ được góp nhặt từ thời
kỳ có sử, bất chấp cả việc một
lần nữa tác giả có nguy cơ bị tố cáo là thiếu
phương pháp và hệ thống. Tác giả đă không có
một phương tiện nào khác ở trong tay. Mọi
người phải được làm quen với những
cố gắng của nhiều vị Chân Sư của
thế gian, của những nhà thơ, nhà văn cổ
điển được điểm đạo thuộc
mọi thời đại, phải giữ ǵn ít ra là sự
hiểu biết về sự tồn tại của một
nền triết lư như thế, nếu không phải là
những tín điều đích thực của nó trong các
văn khố của nhân loại. Những Điểm
đạo đồ năm 1888 hẳn thực sự là c̣n
chưa ai hiểu được, thậm chí c̣n
dường như là một chuyện hoang đường
không thể có được, họ không giống như
những điểm đạo đồ được
chứng minh là đă tồn tại trong mọi thời
đại lịch sử khác. Điều này chỉ có
thể được thực hiện bằng cách liệt
kê chương và câu thơ mà ta có thể t́m thấy sự
đề cập đến những đức tính quan
trọng nhất của các bậc siêu nhân, họ đă có
mặt trong một hàng dài vô tận các Chân Sư nổi
tiếng trong nhiều lănh vực nghệ thuật
trước và sau trận đại hồng thủy.
Như vậy, dựa vào thẩm quyền bán truyền
thuyết và bán lịch sử, người ta chỉ có thể
chứng minh rằng kiến thức huyền môn và
những quyền năng mà nó ban phát cho con người,
không phải hoàn toàn là những chuyện hoang
đường, mà xưa như trái đất vậy.
V́ vậy, tôi chẳng có ǵ nói với
những người phán đoán tôi trong quá khứ và
tương lai – dù họ là những phê b́nh gia đứng
đầu về văn chương hay các giáo sĩ
Hồi giáo la ó (howling dervishes) trong văn chương,
họ phê phán một quyển sách theo sự được
hay không được hâm mộ của tên tuổi tác
giả, và ít khi chịu liếc mắt nh́n vào nội dung
của quyển sách, họ giống như những con vi
khuẩn gây chết người, bám chặt vào những
chỗ yếu nhất trên cơ thể con người. Tôi
cũng sẽ chẳng hạ ḿnh quan tâm tới những
kẻ phỉ báng điên rồ - may thay chỉ có một
số rất ít - họ hy vọng lôi cuốn
được sự chú ư của mọi người
bằng cách làm mất uy tín những nhà văn tên tuổi
được biết nhiều hơn tên tuổi của
chính họ, cứ quát tháo sùi bọt mép (foam and bark) khi chỉ
thấy những h́nh bóng của họ mà thôi. Thoạt tiên,
trong nhiều năm qua, họ cứ lải nhải cho
rằng những giáo lư được đem ra dạy trong
Tạp chí Theosophist, và
đạt tột đỉnh trong Phật Giáo Bí Truyền, đều do chính tác
giả chế ra tất cả; cuối cùng họ lại
quay sang tố cáo quyển Nữ
Thần Isis Lộ Diện và những thứ khác là
một sự đạo văn của nhà thuật sĩ
Éliphas Lévis (!) của Paracelsus (!!) và thật hết chỗ nói, của Phật giáo và
đạo Bà La Môn (!!!). Cũng như Renan đă bị
tố cáo là ăn cắp kinh Phúc Âm để viết
quyển Cuộc đời
của Đức Chúa Jesus và giáo sư Max Muller đă
đạo văn những môn triết lư của
người Bà La Môn và Đức Phật Cồ Đàm
để viết ra quyển Những
Kinh Sách của Đông Phương hay Những mẩu chuyện linh tinh. Nhưng
đối với đại chúng nói chung và vài độc
giả của Giáo Lư Bí
Nhiệm nói riêng, tôi có thể lặp lại điều
mà tôi đă tŕnh bày từ lâu, và bây giờ tôi xin mượn
lời của văn hào Montaigne.
67
“Thưa quí vị Ở ĐÂY TÔI CHỈ
LÀM RA ĐƯỢC MỘT BÓ HOA VỚI NHỮNG BÔNG HOA MÀ
TÔI ĐĂ HÁI ĐƯỢC VÀ KHÔNG MANG LẠI G̀ CỦA RIÊNG
TÔI NGOẠI TRỪ SỢI DÂY BUỘC NHỮNG BÔNG HOA NÀY”.
Nếu bạn muốn, bạn cứ
việc tháo “sợi dây” buộc những bông hoa này và
cắt nó ra từng đoạn. C̣n về phần bó hoa
của những SỰ KIỆN (nosegay of FACTS), bạn không
bao giờ có thể tiêu diệt được. Bạn
chỉ có thể lờ những sự thực này đi và
không có ǵ hơn nữa.
Chúng tôi có thể chấm dứt bằng
một lời tạm biệt dành cho quyển sách
đầu tiên này. Trong một phần Nhập đề
nhằm giới thiệu những chương chủ
yếu là nói về vũ trụ khởi nguyên luận,
một vài vấn đề đưa ra có thể bị
coi là không phải chỗ, nhưng việc xét thêm những
vấn đề đă được đưa ra,
khiến tôi phải đá động tới chúng. Tất
nhiên, mỗi độc giả sẽ phê phán những
lời phát biểu này theo quan điểm của sự
hiểu biết, kinh nghiệm và lương tri của riêng
ḿnh, căn cứ sự xét đoán của ḿnh vào những
điều mà y đă học hỏi được. Sự
kiện này, tác giả bắt buộc phải thường
xuyên ghi nhớ; cũng v́ thế, trong quyển sách
đầu tiên này mới có những sự tham khảo
thường xuyên về những đề tài (mà nói
một cách chính xác) thuộc về một phần sau này
của bộ sách song không thể im lặng bỏ qua
được, e rằng độc giả sẽ xem
quyển sách này như một câu chuyện thần tiên -
một chuyện hoang đường của một bộ
óc hiện đại nào đó.
Như vậy, Quá khứ sẽ giúp
người ta nhận thức được Hiện
tại và Hiện tại lại giúp người ta đánh
giá Quá khứ một cách chính xác hơn. Những sự sai
lầm hôm nay phải được giải thích và xóa
bỏ, tuy nhiên, rất có thể - thậm chí, trong
trường hợp này, chắc chắn là - một lần
nữa, bằng chứng của lịch sử và của
những thời đại dài đăng đẳng
cũng sẽ không thể ảnh hưởng
được bất cứ ai, ngoại trừ
người nào có trực giác rất mạnh – nghĩa là
rất ít người. Nhưng trong trường hợp này
cũng như trong tất cả các trường hợp
tương tự, kẻ trung thực có thể tự an ủi
bằng cách tŕnh bày cho kẻ hoài nghi Sadducee hiện
đại bằng chứng toán học về sự
cuồng tín và ngoan cố không ǵ lay chuyển nổi của
y. Ở một nơi nào đó trong những văn khố
của Hàn Lâm Viện nước Pháp, vẫn c̣n có
định luật xác suất trứ danh do một vài nhà
toán học lập ra bằng một phương pháp
đại số để giúp ích cho những kẻ hoài
nghi. Vấn đề như sau: Đối với một
sự kiện, nếu có hai người cùng đưa ra
bằng chứng, mỗi người đưa ra xác
suất của sự kiện chỉ bằng 5/6 th́ xác
suất của sự kiện này sẽ tăng lên 35/36,
nghĩa là tính chất xác thực của kết quả
sẽ có tỷ lệ đối với sự không chính xác
của kết quả là 35 lần so với một lần.
Nếu có ba bằng chứng như thế cùng hợp chung
lại, th́ xác suất sẽ trở thành 215/216, nếu có
mười người cùng thỏa hiệp đưa ra
những bằng chứng của kết quả mà mỗi
người có ½ xác suất th́ tỷ số hóa ra là 1023/1024,
v..v…Nhà huyền bí học có thể bằng ḷng với
sự xác thực như thế, và họ không cần
để ư tới ǵ nữa.
69
LỜI NÓI ĐẦU
VỀ QUYỂN THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH
MỘT PHO SÁCH CỔ TỪ THỜI TIỀN
SỬ
Trước mặt tác giả là một pho
tài liệu rất cổ, viết trên lá buông, đă
được tẩm một thứ dược chất
đặc biệt để giữ cho đốt không
cháy, thấm nước không ướt và không thể
hư hoại trải qua thời gian. Trên trang đầu là
một đồ h́nh, gồm có một ṿng tṛn sơn trắng, trên một bối cảnh đen
sậm. Trên trang kế đó, cũng có một ṿng tṛn
tương tự, nhưng có thêm một điểm trung
tâm. Người học đạo biết rằng
đồ h́nh thứ nhất là biểu tượng
của Vũ Trụ trong Thời Gian Vô Cùng (Kosmos in Eternity),
Năng lượng c̣n đang đắm ch́m trong giấc
ngủ triền miên, trước khi lại thức
tỉnh để Mở màn cho những cuộc sáng lập
tương lai. Trong đồ h́nh thứ nh́, ở giữa
ṿng tṛn tượng trưng cho Không gian và Thời Gian Vô Cùng
trong Chu Kỳ Qui Nguyên (Pralaya), có một điểm trung tâm
ám chỉ lúc b́nh minh chớm nở của một cuộc
sáng tạo mới. Đó là trung tâm điểm của
Vũ Trụ Noăn (Mundane Egg), cái Mầm sống (Germ)
tiềm ẩn và sống động, nó sẽ trở thành
một Vũ trụ vô biên và xuất hiện từng chu
kỳ. Cái ṿng tṛn là biểu tượng của sự
Đồng nhất thiêng liêng, vừa là nguyên nhân, vừa là
cứu cánh của vạn vật. Chu vi của nó (một
biểu tượng đương nhiên là hạn hẹp
v́ sự giới hạn của tâm trí con người),
chỉ định một sự HIỆN DIỆN (PRESENCE)
trừu tượng, vô h́nh, bất khả tư nghị và
cái b́nh diện của nó ám chỉ cái Đại Ngă của
Vũ Trụ (Universe Soul), tuy rằng cả hai đều
là một. Chỉ có cái mặt ṿng tṛn là sắc trắng,
ở giữa một bối cảnh chung quanh toàn màu
đen, điều ấy chỉ rơ rằng đó là môi
trường duy nhất của sự hiểu biết mà
kiến thức của con người có thể
đạt tới, tuy nó vẫn c̣n lờ mờ và chưa
rơ rệt. Môi trường đó chính là nơi bắt
đầu xuất hiện những diễn biến
của một chu kỳ khai nguyên (manvantara) sau một giai
đoạn tiềm ẩn, nghỉ ngơi của Tư
Tưởng Thiêng Liêng (Divine Thought)([129])
tức Đại Ngă hay Đại Hồn của Vũ
Trụ, trong đó hàm súc cơ tiến hóa vĩ đại
cho một vũ trụ tương lai.
70
Đó là SỰ SỐNG DUY NHẤT (ONE LIFE),
trường cửu, vô h́nh, nhưng hiên diện khắp
nơi, vô thủy vô chung, nhưng biểu lộ đều
đặn từng chu kỳ. Ở khoảng giữa
những chu kỳ biểu lộ đó, ngự trị bí
mật sâu thẳm và Vô Ngă (Non-Being). Sự Sống Duy
Nhất đó tuy vô thức nhưng cũng là Tâm thức tuyệt
đối (absolute Consciousness), tuy bất khả tri,
nhưng là Chân Như Tự Tại (the one self-existing Reality),
“một Bí hiểm đối với giác quan, một Càn Khôn
đối với lư trí” (“a Chaos to the sense, a Kosmos to the
reason”). Cái đặc tính tuyệt đối duy nhất
của nó, sự Vận chuyển vô cùng vô tận,
được giới huyền môn mệnh danh là
“Đại Khí Vận” (“Great-Breath”)([130]),
tức là sự vận chuyển trường kỳ
của Vũ Trụ trong cơi Không Gian hằng hữu và vô
biên. Vật ǵ không có sự vận động, không thể
là Thiêng Liêng. Tuy nhiên, trên thực tế, th́ không có ǵ
tuyệt đối bất động trong ḷng Đại
Ngă (Universal Soul).
Hầu như năm thế kỷ
trước Công nguyên, Leucippus (Sư Phụ của
Democritus) đă chủ trương rằng Không Gian bao
giờ cũng đầy dẫy các nguyên tử không
ngừng chuyển động; đến khi mà chúng tụ
tập lại, các nguyên tử này sẽ tạo ra chuyển
động quay, tạo ra các chuyển động ngoại
biên do bởi chúng cứ đụng nhau. Epicurus và Lucretius cũng
dạy như vậy; tuy nhiên, ngoài chuyển động
ngoại biên của các nguyên tử ra, họ c̣n tŕnh bày thêm
ư niệm ái lực (affinity)- đó thật là một Giáo lư
huyền linh.
Kể từ khi bắt đầu có loài
người, kể từ lúc xuất hiện đầu
tiên của những bậc kiến tạo nên quả
địa cầu có người ở, Thượng
Đế đă được nh́n nhận và quan niệm
dưới khía cạnh triết lư duy nhất, đó là
sự Vận Hành của Vũ Trụ (Universal Motion), cái Khí
Vận Sáng Tạo trong Thiên Nhiên (Breath in Nature). Khoa Huyền
môn định nghĩa tóm tắt Sự Sống Duy Nhất
như sau: “Thượng
Đế là một NGỌN LỬA (FIRE) thiêng liêng thái cổ, sống động và
những vật chứng minh trường cửu cho sự
Hiện Diện vô h́nh ấy là Ánh Sáng, Nhiệt Lực và
Ẩm Thấp (Moisture)”, - bộ ba tam nguyên này vừa bao gồm vừa
là nguyên nhân của mọi hiện tượng trong Thiên
Nhiên ([131]).
Sự vận chuyển nội tại của Vũ Trụ
vốn trường cửu và bất tận, c̣n sự
vận chuyển ngoại tại, hữu h́nh của Vũ
Trụ vốn hữu hạn và định kỳ. Trong
trạng thái trừu tượng vĩnh cửu, nó luôn luôn
TỰ TẠI. Trong trạng thái biểu lộ, nó vốn
hữu hạn trên cả hai chiều xuôi ngược, văng
phản, cả hai chiều này đều là những
đối tượng tất yếu của những
cuộc tái tạo liên tiếp. Thái cực, trên nguyên tắc
là một Thực Thể, không dính dấp ǵ đến
những liên hệ nhân quả của Thế giới
hiện tượng. Chỉ khi nào đề cập
đến Linh Hồn của vũ trụ nội tại
(intra-cosmic Soul), tức Vũ Trụ lư tưởng c̣n trong
Tư Tưởng Thiêng Liêng bất biến, ta mới có
thể nói rằng: “Nó không bao giờ có lúc khởi thủy
và cũng không bao giờ có lúc cáo chung”. C̣n nói về phần
sắc tướng hay tổ chức cơ cấu của
vũ trụ, tuy người ta không thể nói rằng trong
dĩ văng đă từng có một cuộc tạo dựng
đầu tiên, hoặc trong tương lai sẽ có một
cuộc tạo dựng cuối cùng, nhưng ở vào
mỗi chu kỳ Khai Nguyên mới (Manvantara), cơ cấu
tổ chức của vũ trụ có thể coi như
một cơ cấu mới mẻ nhất và cũng
độc đáo nhất v́ mỗi lần như vậy,
nó lại tiến hóa trên một cơi cao hơn.
71
Cách đây mấy năm, tác giả có
viết trong bộ Nữ
Thần Isis Lộ Diện: ([132])
Giáo lư huyền môn cũng như Phật giáo
và Bà La Môn giáo và kinh Kabalah dạy rằng các Nguyên lư duy
nhất vô biên và bất khả tri vẫn hằng có từ
thuở vô cùng và trong những chu kỳ xuất hiện
đều đặn và liên tiếp, nó vẫn hằng có
hoặc trong trạng thái chủ động hay thụ
động. Trong Bà La Môn giáo, những trạng thái này
được gọi bằng những danh từ thi
vị là “Ngày” và “Đêm” của Brahma (the Days and the Nights of
Brahma). Brahma th́ “tỉnh thức” hay “đang ngủ” (The
latter is either “awake” or “asleep”. Các triết gia thuộc
trường phái Phật giáo xưa nhất mà nay vẫn c̣n
tồn tại ở
Đoạn trên sẽ được giải
thích đến mức tối đa trong quyển sách này.
Tuy rằng nó không có ǵ mới lạ đối với các
nhà Đông phương học, trên phương diện
nội môn, nó có thể chứa đựng nhiều
điều mà học giả phương Tây hoàn toàn mù
tịt chưa biết ǵ cả.
72
Đồ
h́nh thứ nhất là một ṿng tṛn, .
Đồ h́nh thứ nh́ trong khoa biểu tượng
cổ là một ṿng tṛn với một điểm trung tâm
ám chỉ sự phân hóa đầu tiên trong sự biểu
lộ từng chu kỳ của vũ trụ vô giới tính
và vô hạn, “Aditi trong CÁI ĐÓ” (“Aditi in THAT”) ([134]),điểm
trong ṿng tṛn, tức là Không Gian tiềm tàng bên trong Không Gian
trừu tượng. Ở giai đoạn thứ ba,
điểm trung tâm trở thành một đường kính ,
tượng trưng Tính Chất Mẫu Nghi (Mother-Nature) thiêng liêng vô nhiễm bên trong lư tuyệt
đối Vô Cực Đại Đồng (Infinitude) bao
trùm vạn vật. Khi có một đường dọc
chạy xuyên qua đường kính trên , đó
là cái h́nh Thập Tự Giá, ám chỉ lúc bắt đầu
nguồn gốc Sự Sống của con người, khi
nhân loại tiến đến giai đoạn Giống Dân
Thứ Ba (Third Root-Race). Khi cái ṿng tṛn biến mất,
chỉ c̣n cái Thập Tự Giá
,
đó là dấu hiệu chỉ rằng con người
đi sâu vào vật chất và Giống Dân Thứ Tư
(Fourth Race) bắt đầu. Thập tự giá trong cái ṿng
tṛn tượng trưng cho thuyết Phiếm Thần
(Pantheism) (Thuyết cho rằng Trời tức là tất
cả vũ trụ, vạn vật và tất cả vũ
trụ tức là Trời –LND) thuần khiết, không có ṿng
tṛn, nó là biểu tượng khí Dương hay năng
lực sáng tạo. Tuy nó c̣n có nhiều nghĩa khác nữa,
nó cũng đồng nghĩa với biểu tượng
TAU trong cái ṿng tṛn
,
hoặc với biểu tượng “Cái búa của thần
Thor” hay ṿng tṛn bao quanh h́nh chữ
Vạn .
Đồ h́nh thứ ba, ṿng tṛn có
đường kính ở giữa, ám chỉ sự biểu
lộ đầu tiên của mănh lực Thiên Nhiên, mănh
lực này hăy c̣n thụ động, tiêu cực và thuộc
âm. Tri giác lờ mờ đầu tiên của con
người về sự sinh sản có tính cách âm, v́ con
người hiểu biết mẹ y nhiều hơn cha. V́
thế, các nữ thần thiêng liêng hơn các nam thần. Do
đó, thiên nhiên có tính cách âm và (trong một chừng mực
nào đó) thuộc về ngoại cảnh hữu h́nh, c̣n
Nguyên Khí Tinh Thần (Spirit Principle)(vốn làm cho nó sinh sôi
nảy nở) lại ẩn tàng ([135]).
Nếu thêm vào một đường dọc là thành h́nh
chữ Tau, T, đó là biểu tượng của Giống
Dân Thứ Ba cho đến ngày Sa Đọa tượng
trưng của nó, (tức là khi xảy ra sự phân chia nam
nữ bằng phương pháp tiến hóa
tự nhiên). Khi đồ h́nh ấy trở thành , một
ṿng tṛn phân làm hai bằng đường kính dọc
tượng trưng cho sự phân chia nam nữ, hay sự
biến đổi đời sống sinh lư. Qua các
giống dân phụ của Giống Dân Thứ Năm, nó
trở thành Sacr’ (trong biểu tượng hệ) và N’cabvah
(của người Hê-brơ) của các Giống dân
được tạo ra lần đầu ([136]);
rồi
nó biến thành , biểu tượng
của sự sống của người Ai Cập, về
sau đổi thành dấu hiệu của Vệ Nữ hay
Kim
73
Tinh,
. Kế đó là h́nh chữ Vạn (Svastika,
cũng gọi là cái búa của thần Thor) tách rời ra khỏi
ṿng tṛn và trở nên biểu tượng của khí
Dương hay năng lực sáng tạo. Biểu
tượng nội môn bí truyền của Chu Kỳ Mạt
Pháp (Kali Yuga) là h́nh ngôi sao năm cánh lộn ngược , dấu hiệu phù thủy
trong nhân gian với hai cái sừng nhọn đưa lên trên,
một biểu hiệu mà các nhà Huyền học đều
biết rằng của phái Tả Đạo Bàng Môn và
được dùng trong ma thuật tế lễ.
Chúng
tôi hy vọng rằng khi bộ sách này ra đời, th́
những ư niệm sai lầm của người
đời về Phiếm Thần giáo sẽ thay
đổi. Nếu Parabrama (Thái Cực Thượng
Đế) của Bà La Môn giáo có thể xem như một
tiêu biểu điển h́nh cho những vị thần vô
danh và tiềm ẩn qua những tôn giáo khác, người ta
sẽ thấy rằng cái Nguyên Lư Tối Cao đó là cái
kiểu mẫu mà các vị thần khác đều rập
khuôn theo đó. Parabraman không phải là Thượng
Đế, v́ không phải là một vị Thần Linh. Kinh
Upanishad giải thích rằng: “Parabraman là cái tối
thượng và cũng không tối thượng ([137]).
Nó tối thượng khi nó là Nhân, nhưng không tối
thượng khi nó là Quả. Trên vị thế một Chân
Lư Độc Nhất Vô Nhị (a Secondless Reality), Parabraman
chỉ là cái Vũ Trụ Thái Cực (all-inclusive Kosmos) hay
Không gian Vô Cực (the infinite Cosmic Space), hiểu theo ư
nghĩa tâm linh cao cả nhất. Brahman (vô tính) vốn là cái
căn nguyên rốt ráo cùng tột, bất biến, thuần
khiết, tự do, không hư hoại, “Tồn tại chân
thật DUY NHẤT, Paramarthika”, và Chaitanya (Trí tuệ, Tâm
Thức) tuyệt đối, nên không thể là một
chủ thể tri giác, “v́ CÁI ẤY (THAT) không hề có
đối tượng tri giác”. Ngọn Lửa có thể
được gọi là Bản thể của Lửa
không? Bản thể (Essence) này là “SỰ SỐNG và ÁNH SÁNG
của Vũ Trụ, lửa và ngọn lửa vô h́nh là
sự hủy diệt, sự chết và điều ác”.
“Lửa và Ngọn Lửa hủy hoại h́nh hài của
một vị La Hán, bản thể của chúng khiến cho
Ngài bất tử” ([138]).
Shankaracharya dạy: “Giống như ánh quang huy của
mặt trời hay nhiệt trong lửa, sự hiểu
biết về Tinh Thần tuyệt đối chẳng có
ǵ khác hơn là chính Bản thể tuyệt đối.
Đó là Tinh Thần của Linh Hỏa chứ không phải
là bản thân Linh Hỏa; do đó, “các thuộc tính của
Lửa, Nhiệt hay Ngọn Lửa, không phải là các
thuộc tính của Tinh Thần mà là các thuộc tính của
cái mà Tinh Thần là nguyên nhân vô thức”. Câu trên chẳng
lẽ lại không phải là chủ điểm xác thực
của triết lư Hoa Hồng Thập Tự sau này hay sao?
Tóm lại, Thái Cực Thượng Đế (Parabrahman) là
tập thể Càn Khôn vô cùng vô tận, “CÁI ĐÓ” (THAT) và “CÁI
NÀY” (THIS) mà ta không thể áp dụng các tập hợp phân
bố được ([139]).
“Thoạt đầu, CÁI NÀY là Độc Ngă” ([140]).
Đức Shankaracharya đă giải thích là “CÁI NÀY” ám
chỉ Vũ Trụ (Jagat), cụm từ “lúc ban sơ”,
nghĩa là trước khi sinh hóa ra Hiện tượng
giới (phenomenal Universe).
74
Do đó, khi các tín đồ Phiếm Thần lặp
lại Áo Nghĩa Thư
(Upanishad) cũng như Giáo Lư Bí Truyền, vốn nêu rơ là
“Cái Này” không thể sáng tạo, họ
không hề chối bỏ một Đấng Sáng Tạo
(Creator)(hay đúng hơn là một tập thể các
Đấng Sáng Tạo), họ chỉ không chịu
(điều này thật là chí lư) gán “sự sáng tạo” và
nhất là sự tạo lập - một điều ǵ
hữu hạn – cho một Nguyên Lư Vô Cực (Infinite
Principle). Đối với họ, Thái Cực Thượng
Đế là một Nguyên nhân thụ động (v́
tuyệt đối), một Mukta (Bậc Giải thoát) vô
điều kiện. Người ta chỉ không chịu nh́n
nhận rằng Ngài đă toàn tri và toàn năng, v́ đó
vẫn c̣n là các thuộc tính phản ảnh trong tri giác
của con người; cũng v́ Thái Cực Thượng
Đế (vốn là TỔNG THỂ Vô Thượng, Tinh
Thần và Linh Hồn hằng vô h́nh của Vũ Trụ, có
tính cách thường trụ và vĩnh cửu) không thể
có các thuộc tính, nên lẽ dĩ nhiên là từ ngữ “Tính
Tuyệt Đối” phải không hề dính dáng ǵ
đến bất cứ ư niệm nào về cái hữu
hạn và có điều kiện. Và nếu tín đồ phái
Phệ Đàn Đà giả định là các thuộc tính
chỉ thuộc về phân thân của nó, rồi gọi nó
là Huyền Thiên Thượng Đế (Ishvara) cộng
với Hăo Huyền (Maya) và Avidya (có nghĩa là “Bất
khả tri” hơn là “Vô Minh”), th́ ta cũng khó ḷng thấy
được quan niệm này có bất cứ yếu
tố vô thần nào ([141]).
V́ trong một vũ trụ giả sử là vô biên không
thể có hai ĐẤNG VÔ CỰC (INFINITE) hay TUYỆT
ĐỐI (ABSOLUTE), nên ta khó ḷng có thể quan niệm
Đấng Tự Sinh Tự Tại (Self-Existence) này là
đang tự lực sáng tạo. Đối với tri giác
của các sinh linh hữu hạn. CÁI ĐÓ là Phi “Hiện Tồn”,
nghĩa là BẢN THỂ DUY NHẤT (One BE-NESS). Ấy là v́
TỔNG THỂ này có hàm súc một phân thân đồng
thời và đồng vĩnh cửu hay là một bức
xạ cố hữu, mà khi tuần hoàn biến thành Brahma
(Mănh lực thư hùng), nó phát triển thành ra Vũ Trụ
biểu lộ. “Narayana di chuyển trên Nước Không Gian
[trừu tượng]”, trở thành Nước của
vật chất, nước này do “người đó” làm
dấy động. “Người đó” nay biến thành
Đức Thượng Đế biểu lộ (WORD or
Logos).
{Về vấn đề này, nếu
Đức Bàn Cổ có thẩm quyền} th́ những
người Bà La Môn chính thống giáo - những
người kịch liệt chống đối phái
Phiếm Thần và những người Advaitas (Nhất
Nguyên Luận) mà họ cho là vô thần - bắt buộc
phải nh́n nhận rằng mỗi khi Đấng Hóa Sinh
tận số [- thọ 100 thiên kiếp, một thời
kỳ gồm hàng triệu tỷ năm trần thế -]
là Ngài “chết”. Nhưng chữ “chết” đối
với họ có nghĩa khác hơn là chữ “chết” theo
ta hiểu. Họ hiểu “chết” là sự “ngơi
nghỉ từng hồi” (periodical rest)(tức tạm
thời biến mất ra khỏi cơi tồn tại
biểu lộ).
75
Những nhà Huyền môn đồng ư với
các triết lư gia Vedanta (the Advaita Vedantin philosophers) về
điểm nói trên. Các nhà Huyền học không thể
chấp nhận trên căn bản triết lư cái ư niệm
cho rằng Đấng Tuyệt Đối tạo ra cái
Trứng Vàng (Kim Noăn - the Golden Egg) rồi chui vào trong đó
để biến thành Brahma, Đấng Sáng Tạo, rồi
vị này về sau tạo ra các thần minh và vũ trụ
sắc tướng hữu h́nh. Họ nói rằng cái nguyên
lư Tuyệt Đối không thể chuyển biến thành
Vạn Hữu, bởi v́ Vạn Hữu ngụ ư phải là
từ một cái ǵ đó để
phát triển, tăng
trưởng đến vô hạn định, xuyên qua
thời gian. C̣n cái Nguyên Lư Duy Nhất th́ giống như
Không Gian(- vốn là biểu diễn tâm trí và vật thể
duy nhất của nó trên cơi tồn tại trần thế -)
không thể là chủ thể hoặc khách thể nhận
biết được. Nếu người ta có thể
đặt giả thuyết rằng cái Tuyệt
Đối, Trường Cửu Vô Biên, thay v́ là một
Thực Thể thường hằng và Vĩnh Cửu,
lại trở thành một [Phổ hữu hoặc Nhân cách]
đa diện xuyên qua sự biểu lộ từng chu kỳ,
th́ sự đại đồng Duy Nhất kia sẽ không
c̣n nữa. Ông Lock cho rằng “không gian thuần túy không
thể chống kháng và vận hành được”. Ông
lầm to, bởi v́ không gian không phải là chỗ trống
không vô tận, nó cũng chẳng phải là sự “tràn
đầy” bị hạn định, mà nó là cả hai: trên
cảnh giới trừu tượng tuyệt đối,
nó là Thượng Đế bất khả tư nghị.
Ngài là sự trống rỗng đối với trí hữu
hạn của con người ([142]).
C̣n trên cơi giới đầy ảo
tưởng th́ có Cái Chứa Đựng tuyệt
đối của vạn vật hữu h́nh và vô h́nh. Do
đó, cái Đơn vị Duy Nhất ấy là Tuyệt
Đối. Vốn không có sự dị biệt giữa giáo
điều Cơ Đốc: “Nơi Ngài, chúng ta sống và
cử động và có cái thân xác của chúng ta”, với các
giáo điều Bà La Môn: “Vũ trụ sinh hoạt do Brahman,
xuất xứ từ Brahman và sẽ trở về Brahman”
bởi v́ Brahman, cái không biểu lộ, là cái Vũ Trụ
trừu tượng không sắc tướng, c̣n Brahma,
Đấng Biểu Lộ, là Thượng Đế
gồm đủ cả hai phương diện âm
dương ([143]).
Theo Tông Đồ được điểm đạo và
Bậc Hiền Triết th́ Thượng Đế vừa
là KHÔNG GIAN Hữu H́nh vừa là KHÔNG GIAN Vô H́nh. Theo ngôn
ngữ bí giáo th́ không gian được gọi là “Cha và
Mẹ Trường Tồn có Bảy Lớp Da”. (Tức là
Đức Thượng Đế Vĩnh Cửu, hiện
thân trong bảy cơi Trời –ND). Từ cơi nguyên thủy
(nghĩa là trong trạng thái bất biến hóa) đến
cơi tiến hóa có bảy lớp.
Sách bí giáo căn bản viết bằng
tiếng Senzar có câu này: “Cái điều trước kia
đă có, sau này vẫn có, dù có Vũ Trụ hay không, dù có các
vị thần minh hay không, điều đó là cái ǵ
vậy?” Và câu trả lời là: “KHÔNG GIAN” (“SPACE”).
76
Người ta không chối bỏ Đức
Thượng Đế Duy Nhất, huyền bí
trường tồn, toàn diện, nhưng người ta
chối bỏ vị Thượng Đế do Tín
điều của con người Tạo ra. Vị
Thượng Đế đó bị nhân cách hóa do sự tự đắc, sự
bất tài của con người tạo ra với những
tài liệu và kiến thức có sẵn trong đầu óc
hẹp ḥi. Đă vậy, con người c̣n bắt
đồng loại chấp nhận điều đó
như là một sự tiết lộ trực tiếp
của KHÔNG GIAN duy nhất và huyền vi ([144]).
Nhà Huyền bí học chấp nhận sự tiết lộ
này như một sự phát sinh nơi các Đấng Thiêng
Liêng c̣n hữu hạn, nơi các Đấng hữu h́nh
chứ không phải phát sinh nơi Đấng DUY NHẤT vô
h́nh. Nó phát xuất từ những Đấng gọi là Con
Người Nguyên Thủy (Primordial Man), các vị Thiền
Định Phật (Dhyani-Buddhas) hay Thiền Định
Đế Quân (Dhyan Chohans) các vị Sáng Tạo
(Rishi-Prajapati) của người Hindus, các thần lực
sáng tạo tức Con Thượng Đế của
người Do Thái (Elohim tức là Con Thượng
Đế) các vị Hành Tinh Chơn Quân của mọi
quốc gia (Planetary Spirits). Các vị này đều là các
vị Thượng Đế đối với con
người. Nhà Huyền bí học cũng xem Adi-Shakti là phát
sinh từ Mulaprakriti vốn là Căn nguyên vĩnh cửu
của “CÁI ĐÓ”. Nó cũng chứa cái khía cạnh “Nữ
Tính” của Căn Nguyên Sáng Tạo (Brahma), dưới
dạng Tiên Thiên Khí của Linh Hồn Vũ Trụ, với
vai tṛ triết học là Hăo Huyền (Maya) và tạo ra Hăo
Huyền của con người. Những quan điểm
này không làm cho y nghi ngờ sự tồn tại của nó
chừng nào mà nó c̣n tồn tại, nghĩa là trong một
77
Những tôn giáo cổ nhất là Ấn
Độ giáo, tôn giáo ở Ba Tư và Ai Cập, rồi
đến tôn giáo Chaldée là sản phẩm của mấy tôn
giáo trên, nay đă mất tích, nó đă thoái hóa thành tôn giáo
Sabéisme (Sabeanism) (theo những nhà khảo cổ). Tôn giáo Do
Thái – trong phạm vi bí giáo – theo con đường của
khoa pháp thuật thành
Quyển Bản Kinh Huyền Môn (Occult
Catechism) có những đoạn sau đây:
Cái ǵ luôn luôn
hiện tồn? Đó là Không Gian, là Anupadaka trường
cửu [Parentless]. Cái ǵ đă luôn luôn hiện diện? Chính
là Mầm trong Rễ. Cái ǵ luôn luôn đến và luôn luôn
đi không ngừng không nghỉ? Đó là Hơi Thở
Vĩ Đại (Great Breath). Vậy phải có ba Thực
Thể Trường Tồn chăng? Không phải. Ba
Thực Thể chỉ là Một. Cái ǵ luôn luôn có là Một.
Cái ǵ luôn luôn đă có là Một. Cái ǵ luôn luôn hiện
diện và luôn luôn biến đổi là Một: và đó là
Không Gian.
Hỡi
người đệ tử hăy giải thích đi.
-Thực thể Duy Nhất là một Ṿng Tṛn [Ring] không có chu
vi, v́ Nó không ở đâu cả và hiện diện khắp
nơi. Thực Thể Duy Nhất (the One) là Cơi vô biên
của H́nh Tṛn (Circle). Nó chỉ biểu lộ bằng
một Đường Kính trong những thời kỳ
hoạt động của thế giới hữu h́nh mà
thôi. Thực Thể Duy Nhất là Cái Chấm (.) bất
khả phân chia, mà người ta không thể t́m thấy
ở nơi nào, chỉ t́m thấy trong thời kỳ
hoạt động ấy mà thôi. Đó là những
đường Thẳng Đứng và Ngang.
Đường thẳng đứng là Cha, đường
Ngang là Mẹ. Thực ra, đỉnh và đáy của Cha,
hai cực của Mẹ, chẳng đi đến đâu,
v́ Thực Thể Duy Nhất là Ṿng Tṛn cũng như là các
ṿng tṛn bên trong của Ṿng Tṛn này. Ánh Sáng ở trong bóng
tối và Bóng Tối ở trong Ánh Sáng: “Linh khí vĩnh
cửu”. Nó tiến từ ngoài vào trong khi nó ở khắp
nơi và lan từ trong ra ngoài khi nó chẳng ở đâu
cả (nghĩa là Maya ([146]),
một trong
78
các trung tâm)([147]).
Nó bành trướng và co rút (thở ra và hít vào). Khi hơi
thở Đức Thượng Đế bành
trướng, th́ Mẹ lan rộng và được
rải rác khắp nơi. Khi nó co rút th́ Mẹ thu h́nh và
tụ tập lại. Hơi thở ra và hít vào làm nảy
sinh những Chu Kỳ Khai Nguyên và những Chu Kỳ Qui
Nguyên, tức Manvantara và Pralaya. Mầm mống th́ vô h́nh và
nóng bỏng. Cảnh giới của Ṿng Tṛn là Cội
Rễ. Cội Rễ th́ mát (nói bóng). Nhưng trong chu kỳ
hoạt động và tiến hóa, th́ áo Mẹ lạnh và
chói sáng. Hơi thở nóng là Cha, nó ngấu nghiến hậu
duệ của nguyên tố đa diện (dị trạng)
và chỉ để lại các yếu tố đơn
diện (thuần trạng). Hơi Thở mát là Mẹ.
Mẹ hoài thai, sinh sản và đón tiếp các con khi chúng
quay về ḷng Mẹ để Mẹ tái tạo chúng lúc B́nh
minh tới. [B́nh minh của một Ngày của Brahma hay là
của một
Để độc giả hiểu rơ
hơn, ta phải tuyên bố rằng: “Khoa học huyền
bí nh́n nhận bảy Nguyên
Tố Càn Khôn (seven Cosmic
Elements) - bốn nguyên tố hoàn toàn vật chất và nguyên
tố thứ năm (Dĩ thái – Ether) bán vật chất.
Vào cuối cuộc Tuần Hoàn Thứ Tư (Fourth round)
của chúng ta, chất dĩ thái này sẽ trở nên
hữu h́nh trong không khí, rồi nó sẽ ngự trị trên
các chất khác trong suốt cuộc Tuần Hoàn Thứ
Năm. Hai nguyên tố c̣n lại, hoàn toàn vượt
khỏi tầm hiểu biết của con người. Tuy
nhiên, chúng nó sẽ hiện ra trong Giống dân chánh thứ
Sáu và thứ Bảy (Sixth and Seven Race) của cuộc
Tuần Hoàn Thứ Tư này. Chúng nó sẽ tuần tự
được người ta biết đến trong
cuộc Tuần Hoàn Thứ Sáu và Thứ Bảy ([148]).
Bảy nguyên tố này với vô số nguyên tố phụ,
nhiều hơn cái số mà khoa học đă biết. Chúng
nó chỉ là những biến thể có giới hạn và
những trạng thái của một Nguyên Tố DUY
NHẤT. Nguyên tố DUY NHẤT này không phải là Dĩ Thái
([149]),
cũng không phải là chất Akasha mà là nguồn gốc của Dĩ Thái và Akasha. Nguyên
Tố Thứ Năm này (vốn đă được khoa
học hiện nay nh́n nhận) không phải là chất
dĩ thái giả tưởng của Sir Isaac Newton, mặc
dù ông đă dùng danh từ dĩ thái mà gọi nguyên tố
đó, có lẽ trong lúc đó, trong trí ông liên kết nguyên
tố “ether” với “Aether”. Aether đồng nghĩa
với Akasha, là “Cha Mẹ” sinh hóa ra h́nh tướng vạn
vật. Nói theo trực giác của ông 79
làm thành chất hơi; c̣n chất nặng
trược làm thành chất thanh nhẹ, và chất thanh
nhẹ, làm thành chất nặng trược. Như thế
th́ có lẽ vạn vật do Ether phát sinh ra” ([150]).
Chúng tôi xin nhắc để các độc
giả lưu ư rằng những Đoạn Kinh (Stanzas)
trong quyển Thiên Thơ này chỉ nói về phần khai
tịch luận, thuộc hệ thống hành tinh của
chúng ta hiện nay sau một Chu Kỳ Qui Nguyên Thái
Dương Hệ (Solar Pralaya). C̣n những phần bí giáo
liên quan đến sự tiến hóa của Toàn Thể
Vũ Trụ th́ không thể tiết lộ, v́ rất khó
hiểu, dù cho đối với những khối óc thông
minh, siêu việt nhất thời đại này và
dường như chỉ có một thiểu số rất
ít những bậc đă Điểm Đạo ở
những quả vị cao siêu nhất mới
được phép luận bàn về vấn đề này.
Hơn nữa, các vị Chơn Sư đă từng công khai
cho biết rằng thậm chí không có một vị nào trong
các Đấng Thiền Định Đế Quân cao cả
nhất (highest Dhyani-Chohans) đă thấu triệt
được những lẽ huyền vi bí nhiệm bên
ngoài ranh giới phân cách hàng tỷ thái dương hệ
với Ngôi Mặt Trời Trung Ương (Central Sun).
Bởi vậy, những giáo lư trong sách này chỉ dạy
về cái Vũ Trụ hữu h́nh của chúng ta hiện
nay, sau một Đêm của Brahma (Night of Brahma).
Trước khi quí độc giả bắt
đầu nghiên cứu những đoạn văn trong
quyển Thiền Định
Chân Kinh (Book of Dzyan) làm nền tảng cho quyển sách này,
có điều thiết yếu là quí vị cần phải
biết qua một vài quan niệm căn bản làm ṇng
cốt cho toàn bộ hệ tư tưởng mà y nên chú tâm.
Những quan điểm căn bản này chỉ có ít thôi,
nhưng rất cần thiết để giúp cho độc
giả có thể hiểu rơ tất cả những ǵ
được tŕnh bày sau đây. V́ vậy, thiết
tưởng bạn đọc nên làm quen với những
điều này trước, nhiên hậu mới đọc
kỹ chính tác phẩm này.
Giáo Lư Bí Truyền đưa ra ba điều
căn bản:
I. CHÂN NHƯ
TUYỆT ĐỐI
Có một Nguyên lư bất biến,
Trường cửu, Vô biên, Thấm nhuần vạn
vật, không thể đo lường và bất khả
tư nghị, v́ nó vượt ra khỏi tầm nhận
xét của phàm trí con người, không có ngôn ngữ, văn
tự nào của trần gian có thể diễn tả
nổi. Mandukya dạy là
“bất khả tư nghị” ([151]).
Để cho dễ hiểu hơn,
độc giả hăy đặt giả thuyết rằng
có một Chân Lư Tuyệt Đối làm hậu thuẫn
đằng sau mọi vật biểu lộ có h́nh hài
sắc tướng. Cái Nguyên Nhân Trường Cửu và Vô
Biên này là cái nguồn gốc tối hậu, cùng tột
của mọi vật hằng có trong quá khứ, hiện
tại và tương lai. Lẽ tất nhiên cái nguyên lư
phải hoàn toàn vô tính chất và không có liên hệ ǵ
đến cái sắc tướng biểu lộ hữu
hạn. Nó là cái “Tự Tại” vô tướng và hoàn toàn
bất khả tư nghị.
80
Trong Giáo Lư Bí Nhiệm, SỰ SỐNG TUYỆT
ĐỐI DUY NHẤT này (ONE ABSOLUTE) – BE-NESS -
được tượng trưng bằng hai
phương diện. Ở một phương diện, Nó
là Không Gian Trừu Tượng tuyệt đối. Nó
chỉ sự chủ quan. Nó là điều duy nhất mà trí
con người hiểu không được. Ở một
mặt khác, Nó là sự Vận Hành tuyệt đối,
trừu tượng, tượng trưng cho cái Tâm Thức
vô hạn định. Ngay cả các tư tưởng gia
Tây phương cũng chứng tỏ rằng nếu không
có sự thay đổi th́ ta không thể quan niệm
được tâm thức, và sự vận động là
điều tượng trưng điển h́nh nhất cho
sự thay đổi, là đặc trưng cốt yếu
của nó. Cái trạng thái thứ hai của Sự Sống
tượng trưng bằng danh từ “Hơi Thở Vĩ
Đại”. Vậy định đề căn bản
đầu tiên của Giáo Lư Bí Truyền là cái Sự
Sống Tuyệt Đối siêu h́nh đó, được
trí khôn hữu hạn của con người tượng
trưng bằng “Ba Ngôi Trời” (theological Trinity).
Ông Hernert Spencer giải thêm rằng: Ông xác
nhận cái bản chất của “Căn Nguyên Đầu
Tiên” (“First Cause”)([152])
là do căn nguyên Trường Tồn, Bất Khả Tri mà
phát sinh ra. Có thể nó chính là căn nguyên của tâm thức
trong chúng ta. Ông c̣n xác nhận rằng: cái Thực thể vô
ngă thấm nhuần Càn Khôn chính là cái Thực Thể
thuần khiết của tư tưởng. Bước
tiến này đưa ông đến rất gần giáo lư
Huyền môn Vedanta ([153]).
Thái Cực Thượng Đế, Chân
Như Tuyệt Đối, Độc Nhất Vô Nhị, là
cái trường sở thiên diễn của Tâm Thức
Tuyệt Đối, nghĩa là cái Tinh Hoa hoàn toàn ngoài ṿng
liên hệ với mọi h́nh thức sinh hoạt hữu
hạn. Nhưng một khi chúng ta phát khởi một ư
niệm trong tư tưởng từ cái vô vi tuyệt
đối này th́ chúng ta đă bước vào cơi giới nhị
nguyên tương đối, gồm những đối
tượng mâu thuẫn nhau như Tinh Thần (hay Tâm
Thức) và Vật Chất, Chủ Thể (Subject) và Khách
Thể (Object).
Tuy nhiên, Tinh Thần (hay Tâm Thức) và
Vật Chất không được xem như những
thực thể riêng biệt độc lập, mà như hai
phương diện hay khía cạnh khác nhau của Tuyệt
Đối (Parabrahma), nó c̣n làm nền tảng cho mọi
sự sinh tồn hữu hạn, dù là chủ thể hay
khách thể.
Nếu ta nhận xét cái Tam Nguyên siêu h́nh này
như cái nguồn gốc từ đó phát sinh ra mọi
biểu lộ dưới thế gian, th́ cái Đại Khí
Vận (Great Breath) (Đại Hô Hấp) khoác lấy tính
cách của Ư niệm tiền vũ trụ (pre-cosmic Ideation).
Nó là chỗ phát nguyên của Năng Lực và của
mọi Tâm Thức cá biệt và phát xuất ra cái trí thông minh
điều khiển, hướng dẫn trong cơ
tiến hóa vĩ đại của vũ trụ. Một
mặt khác, Hỗn Nguyên Khí (Mulaprakriti) là cái khía cạnh
của Tuyệt Đối, nó làm nguyên liệu căn
bản tạo dựng nên tất cả những cơi
giới sắc tướng ngoại tại trong Thiên nhiên.
81
Cũng như Ư niệm thiêng liêng là căn
nguyên của mọi Tâm Thức cá biệt, cũng vậy
Hỗn Nguyên Khí là căn bản Vật Chất nguyên
thủy trong mọi giai tầng biểu lộ phân hóa
của vật chất trong cơi hậu thiên.
Bởi vậy, sự mâu thuẫn của hai
khía cạnh trên của lư Tuyệt Đối hiển nhiên
là cần thiết cho sự hiện tồn của “Vũ
Trụ Ngoại Tại” (“Manifested Universe”). Nếu không có
Hỗn Nguyên Khí, th́ Ư Niệm Thiêng Liêng không phát triển
như một Tâm Thức cá biệt, bởi v́ tâm thức
chỉ có thể phát triển như một tự ngă riêng
biệt “Tôi là Tôi” (“I am I”) xuyên qua một thể cấu
tạo bằng vật chất. Cái tự ngă này là cái căn
bản vật chất cần thiết để một
tia sáng của Đại Ngă ở vào một giai tầng
phức tạp nhất định trụ vào đó. Một
mặt khác, nếu không có Ư Niệm Thiêng Liêng th́ Hỗn
Nguyên Khí rốt cuộc cũng vẫn là một thực
thể trừu tượng vô vi và không thể phát sinh ra Tâm
Thức.
Như vậy, Vũ Trụ Ngoại Tại
thấm nhuần cái Lư Nhị Nguyên, vốn là cái Tinh hoa
rốt ráo của sự “Biểu lộ”. Cũng như
những đối tượng mâu thuẫn Chủ Thể
và Khách Thể, Tinh Thần và Vật Chất chỉ là khía
cạnh của cái Nhất Nguyên (One Unity) bao gồm tổng
hợp cả hai mặt, cũng vậy trong Vũ Trụ
Biểu Lộ (Manifested Universe), cũng có một “cái ǵ
đó” vốn kết hợp, nối liền Tinh Thần và
Vật Chất, Chủ Thể và Khách Thể.
“Cái ǵ đó”, mà hiện nay bên Tây
phương không biết ǵ cả, các nhà Huyền môn
gọi là Fohat. Nó là “cái cầu thông thương” do những
Ư niệm hiện hữu trong Tư Tưởng Thiêng Liêng
được phản ảnh vào Hỗn Nguyên Khí
dưới h́nh thức những “Định Luật Thiên
Nhiên”. Như thế Fohat là cái năng lực động
của Ư Niệm Thiêng Liêng (Cosmic Ideation) nếu xét theo khía
cạnh khác, nó là cái trí thông minh, cái quyền năng
điều khiển, d́u dắt mọi h́nh thức sinh
hoạt biểu lộ, “Tư Tưởng Thiêng Liêng” (“Divine
Thought”) được chuyển đạt và thể
hiện do các Đấng Thiền Định Đế
Quân ([154])
là những vị kiến tạo nên Thế giới hữu
h́nh. Như vậy, do bởi Tinh Thần hay Ư Niệm Thiêng
Liêng mới có Tâm Thức (Consci -ousness), do bởi Hỗn
Nguyên Khí mới có sự cấu tạo nên các thể làm
những khí cụ vật chất để nhờ đó
Tâm Thức Thiêng Liêng trở thành cá biệt và đạt
tới phản ảnh Tự Ngă. C̣n Fohat, qua nhiều h́nh
thái biểu lộ khác nhau, là cái khoen bí mật nối
liền Tinh Thần và Vật Chất, cái động cơ
tiếp diễn và truyền sinh khí làm thức động
mỗi hột nguyên tử.
Bảng toát yếu sau đây sẽ giúp cho
độc giả một ư niệm rơ hơn:
1) CHÂN NHƯ TUYỆT ĐỐI (ABSOLUTE)([155]):
Thái Cực Thượng Đế (Parabrahman) của Ấn
giáo (Vedantins) hay Thực Tại Duy Nhất (One Reality). SAT,
như Hagel nói, vừa là Bản Thể Tuyệt Đối
(Absolute Being), vừa là Phi Bản Thể (Non- Being).
2) Thượng Đế Ngôi Một (The First Logos):
Thượng Đế vô vi, không biểu lộ, là
Đệ Nhất nguyên nhân, sau đó mới có
Thượng Đế biểu lộ. Đó là “Căn
nguyên thứ nhất” (“First Cause”), căn nguyên Vô ư thức
của những người Âu Châu tin theo thuyết
Phiếm Thần.
3) Thượng Đế Ngôi Hai (The Second
Logos): Tinh Thần-Vật Chất, SỰ SỐNG; “Tinh
Thần của Vũ Trụ”, Purusha và Prakriti.
82
4) Thượng Đế Ngôi Ba (The Third Logos):
Ư Niệm Thiêng Liêng, Mahat hay Đại Trí Tuệ,
Đại Hồn của Vũ Trụ; Thực Thể
của Vật Chất trong Vũ Trụ (the Cosmic Noumenon of
Matter), căn bản của mọi tác động khôn ngoan
ở trong và ở ngoài Thiên Nhiên, người ta cũng
gọi cái đó là Đại Bồ Đề (Mahat-Buddhi).
THỰC TẠI DUY NHẤT (The ONE REALITY)
với hai trạng thái trong Vũ Trụ hữu hạn
(conditioned Universe) ([156]).
II. ĐỊNH
LUẬT
Kế đó, Giáo Lư Bí Nhiệm khẳng
định toàn thể Vũ
Trụ, vô biên trong không gian và vô cùng trong thời gian, là cái
sân trường biểu lộ của vô số vũ
trụ luôn luôn xuất hiện và tan biến theo từng chu
kỳ. Tính cách trường cửu của điểm
Chơn Thần ([157])
chỉ ngắn ngủi như cái chớp mắt của
Tự Hữu Tự Tại (Self-Existence) (Thiền Định Chân Kinh). “Sự xuất
hiện và biến tan của các bầu Thế giới ví
như nước lớn, nước ṛng” ([158]).
Giáo điều này diễn tả sự
phổ cập tuyệt đối của định
luật chu kỳ trong vũ trụ, biểu hiện nơi
mực nước lên xuống của thuỷ triều, mà
khoa học vật lư đă quan sát và ghi nhận trên tất
cả mọi lănh vực trong cơi thiên nhiên. Sự nối
tiếp nhau giữa Ngày và Đêm, Sinh và Tử, Ngủ và
Thức là một sự kiện hoàn toàn phổ cập
khắp nơi, không hề có ngoại lệ đến
nỗi người ta rất dễ nhận thấy đó
là một trong những Định Luật căn bản
tuyệt đối của Vũ Trụ.
III. ĐỊNH
LUẬT TIẾN HOÁ
Sau nữa, Giáo
Lư Bí Nhiệm dạy rằng, tất cả mọi Linh
hồn đều đồng chung một tính chất
với Đại Ngă hay Đại Hồn của Vũ
Trụ; bản thân Đại Hồn là một khía cạnh
của Cội Rễ Bất Khả Tri. Mỗi Linh Hồn
là một điểm Linh Quang phát xuất từ Đại
Ngă, phải dự vào cuộc hành hương, trải qua
một chu kỳ nhập thế, theo định luật
Nhân Quả và Luân Hồi. Nói cách khác, không một Chơn Linh
nào có thể có một cuộc sống ư thức riêng
rẽ, độc lập, trước khi điểm Linh
Quang (Chân Thần) xuất phát từ Đại Ngă đă:
a. Trải qua một sự sống trong
mỗi h́nh thể thuộc về hiện tượng
giới của
83
b. Thu đạt được cá tính riêng
biệt, trước hết do sự thúc đẩy tự
nhiên, rồi kế đó do những cố gắng tự bản
thân (trong phạm vi Nhân Quả), và như vậy, cứ
vượt lên, xuyên qua tất cả mọi tŕnh độ
của Trí Tuệ, từ tŕnh độ thấp kém nhất
lên tới Thượng Trí, từ loài khoáng vật và
thảo mộc, cho đến quả vị cao cả
nhất của một Tổng Thiên Thần (Archangel) (Thiền
Định Phật – Dhyani – Buddha). Khoa huyền môn không
chấp nhận rằng con người do sự ngẫu
nhiên mà được những đặc ân hay có những
tài năng thiên phú đặc biệt, trừ phi y
đạt được những ân điển
đặc thù đó do bởi sự cố gắng tự
bản thân, trải qua một loạt dài gồm nhiều
kiếp sinh tử luân hồi. Bởi đó, Ấn giáo nói
rằng Vũ Trụ là Brahman (Đại Ngă) và Brahma
(Phạm Thiên), v́ Đại Ngă tiềm ẩn trong mỗi
nguyên tử của vũ trụ, c̣n sáu loại Nguyên khí
(Principle) trong Thiên Nhiên là những khía cạnh phân hoá dị
biệt của cái nguyên khí THỨ BẢY và DUY NHẤT, cái
Chân Tướng (Reality) độc nhất vô nhị trong
Vũ Trụ. Cũng bởi đó mà mọi sự biến
dịch thay đổi về tinh thần, tâm linh và thể
chất trên cơi giới sắc tướng biểu lộ
của Nguyên Khí Thứ Sáu (Brahmà là hiện thể của
Brahman) được xem như những ảo ảnh hay
ảo giác. Đó là v́ cái gốc rễ của nguyên tử
nói riêng và của mỗi h́nh thể nói chung vốn là Nguyên
Khí Thứ Bảy hay Chân Như Độc Nhất Vô Nhị
(One Reality), nhưng trong h́nh tướng biểu lộ
nhất thời của nó, nó không hơn ǵ một ảo
tưởng thoáng qua của giác quan chúng ta ([159]).
Trong sự tuyệt đối của nó, cái
Nguyên Khí Độc Nhất Vô Nhị (One Principle)
dưới hai trạng thái Parabrahman (Đại Ngă Vô
Cực) và Mulaprakriti (Hỗn Nguyên Khí) vốn là không phân
biệt âm dương, không lệ thuộc ngoại
giới và trường cửu bất biến. Sự
biểu lộ từng chu kỳ của nó (manvantara) cũng
là nhất nguyên hữu hạn trong hiện tượng và
bao gồm lưỡng tính âm dương. Đến khi phân
hoá, tất cả những biểu lộ của nó cũng
bao gồm lưỡng tính, để trở thành những
nguyên lư âm dương trong những khía cạnh thấp kém
hơn. Sau Chu Kỳ Hỗn Nguyên (Pralaya) dù là Đại hay
Tiểu Chu Kỳ (Tiểu Chu Kỳ vẫn giữ nguyên trạng ([160])
của các thế giới), vật đầu tiên thức
tỉnh để bắt đầu cuộc sống
mới là Akasha, Phụ Mẫu, Tinh Thần và Linh Hồn
của chất Dĩ Thái, hay là B́nh diện của Ṿng Tṛn
(the Plane of the Circle). Không Gian được gọi là
Mẹ trước chu kỳ sinh hoạt biểu lộ
của vũ trụ và được gọi là Phụ
Mẫu ở giai đoạn đầu của sự
thức tỉnh (Chu Kỳ Sáng Tạo). Trong kinh Kabala, nó
cũng là Cha-Mẹ-Con. Nhưng trong Giáo lư Đông
phương, Cha-Mẹ-Con là cái Nguyên Thể Thứ Bảy
của Vũ Trụ Hữu H́nh hay là Atma-Buddhi-Manas
(Spirit-Soul-Intelligence). Tam vị nhất thể này phân hoá chia
thành bảy Nguyên thể vũ trụ và bảy Nguyên
thể của con người; theo kinh Kabala phương Tây của các nhà Thần bí Thiên
Chúa giáo, th́ đó là Tam Vị nhất thể (Triad) hay là
Thượng Đế Ba Ngôi (Trinity) và đối với
các nhà Thần bí và Triết gia Đông phương, đó
chính là Jehovab bán thư bán hùng, Jah-Havah. Đó là điều
dị biệt giữa Thượng Đế Ba Ngôi
của bí giáo và của Thiên Chúa giáo. Các nhà Thần bí và
Triết gia, những người Phiếm Thần Đông
phương và Tây phương, tổng hợp “Tam vị
nhất thể” này trong một quan niệm trừu
tượng thiêng liêng và thuần khiết. Những
người theo Chính Thống giáo, Thiên Chúa giáo lại gán cho
Tam vị nhất thể này là h́nh dáng con người.
Hiranyagarba, Hari và Shankara - vốn là ba Thực Thể của
Tinh Thần Tuyệt Đối Tối Cao mà Địa
Cầu dùng nó để chào mừng Vishnu khi Ngài Hoá Thân
lần thứ nhất (first Avatara) - là những đặc
tính trừu tượng, triệt để siêu h́nh của
sự Sáng Tạo, Bảo Tồn
84
và Huỷ Diệt và là ba Thực Thể thiêng
liêng của cái vốn bất diệt đối với
những vật đă được sáng tạo (hay là
Achyuta, một danh hiệu của Đức Vishnu). C̣n
những người Thiên Chúa giáo chính thống th́ chia
Thượng Đế sáng tạo của họ ra làm ba
Vị (three Personages) ([161])
và không thừa nhận một vị Thượng
Đế nào cao hơn ba vị ấy. Trong Huyền bí
học, Thượng Đế được
tượng trưng bằng h́nh Tam giác trừu
tượng. C̣n đối với những người
Chính Thống giáo th́ Ngài được tượng
trưng bằng h́nh Lập phương hoàn bị (perfect
Cube). Những triết gia Đông phương cho
Thượng Đế Sáng Tạo hay toàn thể Thần
minh sáng tạo là những Bhrantidarshanatah,
là “h́nh dáng giả” (“false apprehen-sions”), v́ những vẻ
bề ngoài sai lạc nên bị xem là những h́nh hài vật
chất, và người ta giải nghĩa rằng những
vị thần đó sinh ra do cái quan niệm ảo
tưởng của Linh Hồn ích kỷ đầy cá tính
riêng tư (Nguyên Khí thấp Thứ Năm – lower Fifth
Principle). Điều này được tŕnh bày một cách
nên thơ trong bản dịch mới của kinh Vishnu Purana do ông
Khi vũ trụ được thức
tỉnh trong giai đoạn này, người ta tượng
trưng Vũ Trụ đang tỉnh thức bằng
một Ṿng Tṛn toàn bích với cái Chấm ở giữa.
Dấu hiệu này rất phổ biến. Dấu hiệu này
cũng có trong Kabala (kinh Bí giáo
Do Thái). Tuy nhiên, kinh ấy ở Tây phương – nay
bị lọt vào tay những nhà Thần bí Thiên Chúa giáo -
lại không có dấu hiệu này, tuy trong kinh Zohar có nói đến nó.
Những tín đồ ly khai này bắt đầu bằng
đoạn chót và lấy h́nh này tượng
trưng cho Vũ Trụ tiền sinh (pregenetic Kosmos) và
gọi là “Sự hợp nhất Hoa hồng với Thập
tự giá” (“Union of the Rose and Cross”), đó là sự bí mật
vĩ đại của sinh lư huyền bí, cho nên mới có
danh từ “Rosicrucian” (Hoa Hồng Thập Tự - Rose Cross)!
Như đă thấy, các nhà thần bí tân thời cũng
chưa bao giờ hiểu được một trong
những biểu tượng quan trọng nhất của
môn phái Rosicrucian. Biểu tượng này là con Chằng Bè
(Pelican) tự xé ngực ra để nuôi bảy đứa
con của nó. Đó là tín ngưỡng thật sự
của
85
Người
ta gọi Brahman (trung tính – neuter) là Kalahamsa (theo sự
giải thích của các học giả Tây phương
khảo cứu văn hoá Đông phương). Danh từ
Kalahamsa có nghĩa là con Thiên Nga trường tồn.
Đối với Brahma, người ta cũng tượng
trưng như vậy để chỉ Thượng
Đế Sáng Tạo. Nơi đây, ta sửa một
lỗi lầm trọng đại. Chính Brahman [trung tính] mà
người ta phải nói là Hamsa-vahana, là Đấng
cỡi Thiên Nga, chớ không phải là Brahmā, Đấng Sáng Tạo mới
thật là Kalahamsa, c̣n Brahman ) (trung tính) là Hamsa và A-hamsa
(điều này sẽ được giải nghĩa trong
phần b́nh luận). Phải hiểu rằng những danh
từ Brahma và Parabrahman được dùng nơi đây
không phải v́ chúng là những danh tư bí giáo, mà v́ các sinh
viên Tây phương quen thuộc với chúng hơn. Cả
hai danh từ này đều hoàn toàn tương
đương với các danh từ có một, ba và bảy
nguyên âm tượng trưng cho ĐẠI THỂ DUY
NHẤT, “Đấng Duy Nhất Tuyệt Đối”.
Đó là những quan niệm căn bản
của Giáo lư huyền môn.
Chúng tôi thiết tưởng không cần
phải dài ḍng để bênh vực hoặc chứng minh
sự thật đương nhiên của những giáo
đ́ều này và cũng không cần tŕnh bày bằng cách nào
những chân lư ấy được chứa đựng
(tuy rằng thường là ẩn giấu dưới
một h́nh thức che đậy rất phỉnh lừa)
trong mỗi hệ thống tư tưởng hay triết
thuyết xứng đáng với cái tên gọi này.
Một khi độc giả thấu
triệt được những chân lư ấy và nhận
thức rơ cái tia sáng mà chúng rọi vào mọi vấn
đề bí hiểm của đời người, th́ quí
vị sẽ không c̣n đ̣i hỏi một sự minh
chứng nào nữa, bởi v́ chừng đó sự thật
sẽ hiện ra trước mắt quí vị một cách
hiển nhiên như vầng thái dương ở giữa
nền trời. Bởi vậy, chúng tôi xin nói qua đề
tài các đoạn Kinh tŕnh bày trong sách này.
Lịch tŕnh Tiến Hoá của Vũ
Trụ, như tŕnh bày trong quyển Thiền Định Chân Kinh, có thể nói là cái
công thức toán học trừu tượng của Cơ
Tiến Hoá. Bởi đó, độc giả không nên mong
đợi t́m thấy ở đây một sự tŕnh giải
tường tận tất cả những giai đoạn
chuyển biến xảy ra kể từ khi bắt
đầu cuộc tiến hoá của vũ trụ cho
đến t́nh trạng của ta hiện thời.
Đưa ra một sự tŕnh giải như thế là
một việc không thể làm được, cũng
như không thể hiểu được đối
với một số đông người. Những
người này thậm chí cũng không thể hiểu tính
chất của cơi giới kế cận cơi hồng
trần là cơi mà tâm thức của họ tạm thời
bị giới hạn vào đó.
Bởi vậy, những ĐOẠN KINH
(STANZAS) chỉ tŕnh bày một công thức trừu
tượng có thể áp dụng cho tất cả mọi
giai tầng tiến hoá: từ cuộc tiến hoá của
quả Địa Cầu nhỏ bé của chúng ta,
đến sự tiến hoá của Dăy Hành Tinh mà thành
phần gồm luôn Địa Cầu, đến Thái
Dương Hệ gồm cả Dăy Hành Tinh nói trên, và cứ
như thế trong một giai tầng càng cao lên măi cho
đến khi tâm trí mệt mỏi không c̣n theo dơi
được nữa.
Bảy ĐOẠN KINH tŕnh bày trong các sách này
là bảy phần của cái công thức trừu
tượng nói trên. Bảy đoạn ấy diễn
tả bảy giai đoạn của Cơ Tiến Hoá mà
kinh Puranas gọi là “Bảy
Cuộc Sáng Tạo” và Thánh Kinh
Thiên Chúa giáo gọi là “Bảy Ngày Sáng Thế”.
ĐOẠN KINH I diễn tả trạng thái
của CHÂN NHƯ TUYỆT ĐỐI (ONE ALL) trong chu kỳ
Hỗn Nguyên, trước khi có sự thức tỉnh và
động tác biểu lộ đầu tiên của chu
kỳ sáng tạo mới.
86
Trạng thái đó chỉ có thể ngụ ư
bằng lời nói ẩn dụ, chứ không thể
diễn tả được bằng ngôn ngữ thông
thường. Nó cũng không thể diễn đạt
bằng lối tượng trưng, trừ phi bằng
những danh từ tiêu cực, lư do v́ đó là trạng thái
tuyệt đối nên nó không có những đặc tính
riêng để có thể diễn tả bằng những
danh từ xác thực. Do đó, người ta chỉ có
thể gợi ư để hiểu trạng thái đó
bằng những danh từ tiêu cực, đối
tượng của những đặc tính trừu
tượng nhất mà người ta có thể cảm
nhận, tức là hiểu bằng trực giác mà thôi
chứ không thể nào có được quan niệm rơ ràng,
cụ thể về vấn đề này.
ĐOẠN KINH 2 diễn tả giai
đoạn Sáng Thế, gần giống như giai
đoạn diễn tả trong ĐOẠN KINH 1,
đến nỗi, muốn tŕnh giải sự khác nhau
đó phải cần đến một quyển sách dày.
Bởi đó, độc giả hăy sử dụng đúng
mức tối đa những linh năng trực giác
của ḿnh để lănh hội được ư nghĩa
những câu bóng bẩy, ẩn dụ tŕnh bày trong
Đoạn này. Thật vậy, ta nên nhớ rằng,
sự học hỏi những Đoạn Kinh trong Thiền
Định Chân Kinh cần sử dụng những năng
khiếu tâm linh hơn là sự hiểu biết thông
thường bằng cái trí phàm.
ĐOẠN KINH 3 diễn tả sự
thức tỉnh của Vũ Trụ để bắt
đầu một chu kỳ hoạt động sau một
chu kỳ Hỗn Nguyên (Pralaya). Nó diễn tả sự
xuất hiện những điểm “Nhất Nguyên Chơn
Thần” (“Monads”) từ trạng thái hỗn hợp với
Thái Cực Tuyệt Đối, giai đoạn sơ khai
nhất và cao tột nhất trong việc tạo dựng
các bầu “Thế Giới”. Danh từ Đơn Nguyên
(Monad) là một danh từ có thể áp dụng cho cả
một Thái Dương Hệ cực lớn lẫn một
hột nguyên tử cực nhỏ.
ĐOẠN KINH 4 tŕnh bày sự phân hoá cái
“Nguyên Chủng” (“Germ”) của Vũ Trụ thành các Cấp
Đẳng Quyền Năng Thiêng Liêng theo qui mô con số
Bảy. Những cấp đẳng này là những biểu
lộ tích cực của Năng Lực Tối Cao Duy
Nhất. Đó là những Đấng phác hoạ kiểu
mẫu các h́nh thể sắc tướng của vạn
vật, những Đấng Sáng Tạo nên vũ trụ càn
khôn, d́u dắt, hướng dẫn sự sinh hoạt
của mọi loài, điều chỉnh và giám sát cơ
tiến hoá. Các Ngài là những Đấng thể hiện
sự biểu lộ của một ĐỊNH LUẬT
TUYỆT ĐỐI (ONE LAW) trong Thiên Cơ mà chúng ta biết
với mệnh danh là “Định Luật Thiên Nhiên” (“Laws of
Nature”).
Danh từ Huyền Môn gọi các Ngài là
những Thiền Định Đế Quân (Dhyan Chohans), tuy
rằng các Ngài chia ra nhiều nhóm khác nhau và mỗi nhóm có
một danh hiệu riêng trong Giáo Lư Bí Nhiệm.
Giai đoạn tiến hoá này
được thần thoại Ấn Độ gọi là
cuộc “Sáng Tạo của các Đấng Thần Linh” (“Creation
of the Gods”).
ĐOẠN KINH 5 diễn tả phương
thức tạo lập vũ trụ. Trước tiên là
Vật Chất Nguyên Thuỷ (Cosmic Matter), kế đó là
“Con Trốt Lửa Xoáy” (“Fiery Whirlwind”) tức giai
đoạn đầu thành h́nh một khối tinh vân
(nebula). Khối tinh vân cô đọng dần dần, và sau
khi đă trải qua nhiều cuộc biến đổi,
mới trở thành một Thái Dương Hệ, một
Dăy Hành Tinh hay một Hành Tinh đơn độc tuỳ trường
hợp.
ĐOẠN KINH 6 diễn tả những giai
đoạn kế tiếp trong việc tạo dựng nên
một bầu “Thế Giới”, diễn tŕnh tiến hoá
của một bầu Thế Giới cho đến
cuộc tuần hoàn thứ tư, tức là cuộc
tuần hoàn của chúng ta hiện nay.
ĐOẠN KINH 7 tiếp tục diễn
tả lịch tŕnh giáng lâm của Nguồn Sống Thiêng
Liêng xuống các cơi hạ giới cho đến việc
xuất hiện của Loài Người trên Địa
cầu và kết thúc Quyển Nhất của bộ Giáo Lư
Bí Nhiệm.
Quyển Nh́ diễn tả lịch tŕnh
tiến hoá của con người kể từ lúc bắt
đầu xuất hiện trên Địa cầu trong
cuộc tuần hoàn hiện tại cho đến nay.
87
Những ĐOẠN KINH trong sách này
được dịch từ quyển Thiền Định Chân Kinh (BOOK OF DZAN) thành ra phiên
bản hiện đại, v́ nếu giới thiệu
thuật ngữ tối cổ trong nguyên bản với phong
cách và ngôn từ bí hiểm th́ chỉ tổ khiến cho
đề tài này càng thêm khó hiểu. Thỉnh thoảng tác
giả có trích lục những bản dịch Trung Hoa, Tây
Tạng và Phạn Ngữ, phiên dịch từ một nguyên
văn cổ tự Senzar và đây là lần đầu tiên
mà những lời chú giải và b́nh luận quyển Thiên
Thư này được viết bằng Anh ngữ.
Tưởng không cần phải nói rằng chỉ có
một phần bảy ĐOẠN KINH được trích
ra trong sách này, v́ phần lớn các ĐOẠN KINH rất
khó hiểu đối với tất cả mọi
người trừ ra một số ít các nhà Huyền môn
thượng thặng. Cũng như không cần phải
nói với độc giả rằng không hơn ǵ phần
đông số người thế tục, tác giả hay nói
đúng hơn là người ghi chép khiêm tốn này cũng
không hiểu được những ĐOẠN KINH bí
hiểm đó. Để cho sự khảo cứu
được dễ dàng hơn, và tránh việc sử
dụng quá nhiều lời chú thích, tác giả nghĩ
rằng tốt hơn nên dùng những danh từ Phạn
ngữ và Tây Tạng trong những trường hợp không
thể tránh khỏi, hơn là đưa ra nguyên văn
(bằng cổ tự). Vả lại, những danh từ
ấy đều là những chữ đồng nghĩa
đă được giới Huyền môn chấp nhận,
c̣n nguyên văn chỉ được dùng khi một vị
Chân Sư dạy đệ tử.
V́ vậy, khi dịch Kinh ra Anh văn,
nếu chỉ dùng danh từ và tiếng chuyên môn giống
như trong bản kinh viết bằng tiếng Tây Tạng
và Senzar th́ đoạn kinh sẽ như vầy:
“Tho-ag trong Zhi-gyu
ngủ yên trong bảy Korlo. Zodmanas zhiba. Tất cả Nvug ḷng.
Konch-hog không; Thyan-Kam không; Lha-Chohan không; Tenbrel Chugnyi không;
Dharmakaya ngừng lại; Tgenchang không biến dịch;
Barnang và Ssa trong Ngovonyidi; chỉ có Tho-og Yinsin trong đêm
của Sun-chan và Yong-grub [Paranishpana] v.v..
Như thế chẳng ai mà hiểu nổi!
V́ sách này được viết ra
để dạy đạo cho các sinh viên Huyền môn
chứ không phải cho các nhà ngôn ngữ học nên chúng tôi
đă cố gắng tránh dùng những danh từ ngoại
ngữ mỗi khi có thể. Chỉ có những từ
ngữ không thể dịch được, không thể
hiểu được trừ phi được giải
thích ư nghĩa, mới được giữ lại,
nhưng tất cả các từ ngữ này đều
được tŕnh bày dưới dạng tiếng Bắc
Phạn. Thiết tưởng khỏi cần phải
nhắc độc giả nhớ rằng những danh
từ Bắc Phạn dùng nơi đây hầu hết
đều là những danh từ mới phát triển và liên
quan đến Giống dân chính thứ Năm. Người
Atlantis không hề nói tiếng Bắc Phạn mà nay chúng ta
biết, hầu hết các từ ngữ triết học
được dùng trong các triết hệ ở Ấn
Độ sau thời Mahabharatan đều không có trong kinh
Vedas, trong các ĐOẠN KINH nguyên thuỷ, chúng ta cũng
chẳng thấy chúng mà chỉ thấy các từ ngữ
tương đương. Nếu không phải là
người nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng, th́ quí
độc giả có thể xem những ǵ được
viết ra sau đây như một chuyện thần tiên
hoang đường, tuỳ ư thích, hoặc khá hơn,
như một trong những triết hệ chưa
được chứng minh của các triết gia mơ
mộng, hoặc tệ nhất như một giả
thuyết mới nữa cộng thêm vào những giả
thuyết khoa học của quá khứ, hiện tại và
tương lai, trong số đó, có một vài giả
thuyết đă chết và một số khác đang thoi thóp.
Dù sao đi nữa, nó cũng không tệ hơn nhiều
giả thuyết khoa học, nhưng chắc chắn là
hữu lư hon và có căn bản triết học vững vàng
hơn.
Ngoài phần giải nghĩa và b́nh luận
cần thiết và phong phú, có những điều ghi chú
để tham khảo ở mỗi trang sách và
được đánh dấu theo lối thông
thường. C̣n những câu kinh được b́nh
luận th́ được đánh dấu bằng những
mẫu tự. Trong chương nói về “Biểu tượng
học” có thêm tài liệu khác, các chương này chứa
nhiều thông tin hơn những lời nghị luận.
PHẦN I
SỰ TIẾN HOÁ CỦA VŨ TRỤ
BẢY ĐOẠN THÁNH KINH ĐƯỢC
PHIÊN DỊCH VỚI NHỮNG LỜI B̀NH LUẬN
TỪ QUYỂN
THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH
(SECRET
BOOK OF DZYAN)
Thuở
đó không có ǵ cả.
90
Trên cao, không có
bầu trời sáng
Cũng không có ṿm trời bao la giống mái
nhà phủ lên trên.
Cái ǵ bao phủ lên tất cả?
Cái ǵ che chở? Cái ǵ che đậy?
Có phải là vực sâu không đáy chứa
đầy nước không?
Thời đó không có ǵ chết và cũng
không có ǵ bất tử.
Không có ranh giới giữa ngày và đêm.
Đấng Duy Nhất Độc Tôn
vốn không có hơi thở, đă tự sức mà thở
ra.
Thuở đó, ngoại trừ CÁI ĐÓ th́
không có cái ǵ khác.
Chỉ có sự tối tăm, và thoạt
đầu, mọi sự đều bị che lấp trong
bóng tối thâm sâu-một đại dương không ánh
sáng.
Cái mầm sống đang nằm yên, ẩn
ḿnh trong vỏ cứng, bỗng nảy nở thành thiên nhiên
nhờ sức nóng nồng nhiệt
…………………
Ai biết điều bí mật? Ai tuyên
bố điều đó ở đây?
Do tự đâu, do tự đâu mà sự
sáng tạo muôn mặt này được phát sinh?
Măi về sau, các vị Thượng
Đế mới thành h́nh.
Ai biết được sự sáng tạo
vĩ đại này do tự đâu mà phát sinh?
Trọn vẹn sự tạo tác vĩ
đại này đă từ đâu đến?
Đại ư chí của vũ trụ đă
sáng tạo hay đă câm lặng?
Đấng Tiên Tri Tối Cao ngự trên
từng trời cao nhất biết điều đó -
hoặc có khi Ngài cũng không biết.
Nh́n vào vĩnh cửu,
trước khi nền tảng của
địa cầu được thành h́nh.
………………
Đă có Ngài rồi.
Và khi ngọn lửa dưới đất
tàn phá, ngục tù giam hăm nó và đốt cháy cái khuôn.
Th́ Ngài vẫn bất biến như xưa.
Không thay đổi khi thời gian sẽ
bị tiêu diệt.
Ôi! Tư tưởng vô cùng tận! Nền
VĨNH CỬU thiêng liêng.
Thánh Kinh Rig Veda (COLEBROOKE)
91
SỰ TIẾN HOÁ CỦA VŨ TRỤ
TRONG
BẢY
ĐOẠN THÁNH KINH TRÍCH DỊCH TRONG
QUYỂN
THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH
(THE
BOOK OF DZYAN)
ĐOẠN THÁNH KINH I
(STANZA 1)
1. Vị Phụ Mẫu Trường Tồn
cuộn ḿnh trong các chiếc Áo Ngàn Đời Vô H́nh
(Ever-Invisible Robes), một lần nữa lại ngủ trong
Bảy Đại Kiếp Trường Tồn (Seven
Eternities).
2. Không có Thời gian, v́ Thời gian ngủ
yên trong Trung Tâm Vô Cùng Tận của sự Tồn Tại
(Infinite Bosom of Duration).
3. Không có Đại Trí của Vũ Trụ
(Universal Mind) v́ không có Ah-hi để chứa đựng
Đại Trí ấy.
4. Không có Bảy Con Đường dẫn
đến Chí Phước. Không có những Nguyên Nhân Vĩ
Đại của sự Khốn Khó v́ không ai phát sinh ra chúng
và bị chúng trói buộc.
5. Chỉ có Bóng Tối tràn đầy trên
Đại Thể Vô Biên Giới (Boundless All), v́ Cha, Mẹ
và Con đă được hợp nhất thêm một
lần nữa và Con chưa thức tỉnh để bánh
xe mới mẻ xoay chuyển và để lại tiếp
tục cuộc Hành Hương trên đó.
6. Bảy Đấng Tối Cao (Seven Sublime)
và Bảy Chân Lư không c̣n nữa, và Vũ Trụ, Đứa
Con của Lẽ Tất Nhiên (Necessity), đắm ḿnh trong
Paranishpanna, để rồi sẽ được phóng ra
bởi cái ǵ vừa có thực thể, vừa là hư vô.
Thuở đó, không có ǵ cả.
7. Không có Căn Nguyên của Sự Sống
(the Cause of Existence). Cái Hữu H́nh thuở trước và cái
Vô H́nh thuở đó đều nghỉ ngơi trong cơi
Hư Vô Trường Tồn (Eternal Non-Being) - tức là
Thực Thể Duy Nhất (the One Being).
92
8. Đơn độc, H́nh Hài Duy Nhất
của Sự Sống lan tràn vô biên giới, vô cùng tận,
vô thuỷ, trong Giấc Ngủ Không Mộng Mị (Dreamless
Sleep); và Đời Sống vô tri thức đập
nhịp trong Không Gian Vũ Trụ trong suốt thời gian
Đại Thể Hiện Diện mà Con Mắt Giác Ngộ
của Dangma cảm thấy được.
9. Nhưng Dangma th́ ở đâu khi Linh Hồn (Alaya) của Vũ Trụ ở Paramartha và khi Bánh Xe Lớn là Đấng Vô Phụ Mẫu (Anupadaka).
ĐOẠN THÁNH KINH 2
(STANZA 2)
1. … Các vị Tạo Tác (Builders), các
Người Con Chói Sáng (Luminous Sons) của buổi B́nh Minh
của Đại Kiếp thuở đó th́ ở đâu?...
Ở trong sự Tối Tăm Huyền Bí (Unknown Darkness),
trong Ah-hi Paranishpanna. Các vị Sáng Tạo ra H́nh Hài từ cơi
vô h́nh - Nguồn cội của Thế gian – Devamatri và Svabhavat
nghỉ ngơi trong cơi Chí Phúc của Hư Vô.
2… Thuở đó, sự Im Lặng ở
đâu? Các lỗ tai để cảm nhận sự Im
Lặng ở đâu? Không,
thuở đó không có sự Im Lặng cũng không có Âm thanh,
không có ǵ hết; ngoại trừ Hơi Thở
Trường Tồn Không Ngừng Nghỉ (Ceaseless Eternal Breath),
nó cũng không tự tri được.
3. Giờ khắc chưa điểm; Tia Sáng
chưa chiếu vào Mầm Mống; Matripadma chưa
phồng lên.
4. Trái Tim của Ngài chưa mở ra
để Tia Sáng Duy Nhất (One Ray) chiếu vào rồi sa
xuống phía dưới, giống như số Ba sa vào
số Bốn, trong Ḷng của Ảo Tưởng (Maya).
5. Từ Mạng Lưới Ánh Sáng, Bảy
chưa được sinh ra. Chỉ có sự Tối
Tăm là Cha và Mẹ, Svabhavat; và Svabhavat c̣n ở trong sự
Tối Tăm.
6. Hai Cái Đó là Mầm Mống, và Mầm
Mống là Một. Vũ Trụ hăy c̣n được
ẩn kín trong Tư Tưởng và trong ḷng Thượng
Đế.
ĐOẠN THÁNH KINH 3
(STANZA 3)
1. …Làn Rung Động cuối cùng của
Đại Kiếp Trường Tồn Thứ Bảy rùng
ḿnh xuyên qua Nơi Vô Cùng Tận. Mẹ nở ra, lan tràn
từ trong ra ngoài, giống như nụ Bông Sen.
93
2. Làn Rung Động cứ lan măi, nó xoè cánh
nhanh lẹ và chạm vào toàn thể Vũ Trụ cùng cái
Mầm Mống đang ở trong cơi Tối Tăm, sự
Tối Tăm này thở hơi trên những Ḍng Nước
đang ngủ của Sự Sống (Water of Life).
3. Bóng Tối phóng ra Ánh Sáng, và Ánh Sáng
chiếu một Tia Sáng đơn độc vào những Làn
Nước trong ḷng Mẹ Thâm Sâu (Mother-Deep). Tia Sáng phóng qua
cái Trứng Trinh Nguyên. Tia Sáng làm cho cái Trứng Trinh Nguyên
rùng ḿnh và làm cho cái Mầm Mống không trường tồn
rụng xuống và đông đặc lại thành Trứng
Thế Gian (World – Egg).
4. Số Ba rớt vào số Bốn. Nguyên
thể Chói Sáng (Radiant Essence) trở thành Bảy ở phía
trong và Bảy ở phía ngoài. Cái Trứng Chói sáng mà bản
thể là Ba đông đặc lại và sắc trắng
như sữa lan tràn đi giống như sữa
đặc ở khắp mọi cơi Thâm Sâu của Mẹ,
cái Rễ nó lớn lên trong những cơi Thâm Sâu của
Đại Dương Sự Sống (Ocean of Life).
5. Cội Rễ vẫn c̣n, Ánh Sáng vẫn
c̣n, những nhóm Sữa Đặc vẫn c̣n và Oeaohoo
vẫn là Một.
6. Trong mỗi Giọt Nước của
Đại Dương Bất Tử đều có Nguồn
Cội của Sự Sống và Đại Dương là
Ánh Sáng Chói Chang, Ánh Sáng này là Lửa, Sức Nóng và Sự Luân
Chuyển. Bóng Tối biến đi và không c̣n nữa; nó
biến vào Nguyên thể của chính nó, vào h́nh thể
của Lửa và Nước, của Cha và Mẹ.
7. Hỡi người Đệ Tử, hăy
nh́n người Con Sáng Chói của Cha và Mẹ, Sự Vinh
Quang huy hoàng vô song – Vũ Trụ Chói Sáng, Con của Vũ
Trụ Tối Tăm, đă vươn ḿnh ra khỏi
chốn thâm sâu của những Làn Nước Tối
Tăm vĩ đại. Đó là Đức Oeaohoo, trẻ
tuổi hơn, Đức ***. Ngài chiếu sáng như
Mặt Trời, Ngài là Con Rồng Minh Triết Thiêng Liêng Chói
Loà (Blazing Divine Dragon of Wisdom); Eka (là một) ([163])
là Chatur (bốn), và Chatur lại gắn liền với Tri
(ba), sự phối hợp này phát sinh ra Sapta (bảy) trong
đó số bảy trở thành tridasha, những Đám
Đông và Vô Số. Hăy nh́n Ngài nâng nhắc tấm Màn Che và
trải nó ra từ Đông sang Tây. Ngài che kín phía Trên và
để hở phía Dưới để mọi
người nh́n thấy như là một Ảo
Tưởng Vĩ Đại (Great Illusion). Ngài đánh
dấu vị trí của những Đấng Chói Sáng (Shining
Ones) và xoay trở Phía Trên (Không Gian) thành một Biển
Lửa vô bờ bến và làm cho sự Duy Nhất Hữu
H́nh (One Manifested) (Nguyên Tố) trở thành những Ḍng
Nước Vĩ Đại.
94
8. Mầm Mống ở đâu? Và bây giờ
Bóng Tối nằm ở đâu? Hỡi người
Đệ Tử, Hồn của Ngọn Lửa đang cháy
trong cái Đèn của ngươi ở đâu? Mầm
mống là Cái Đó (That) và Cái Đó là Ánh Sáng, Người
Con màu Trắng Sáng Chói (White Brilliant Son) của người
Cha Ẩn Tàng và Tối Tăm (Dark Hidden Father).
9. Ánh Sáng là Ngọn Lửa Lạnh (Cold
Flame), và Ngọn Lửa là Lửa, rồi Lửa sinh ra
Sức Nóng, Sức Nóng sinh ra Nước, Nước
của Đời Sống nơi Đức Mẹ Cao
Cả (Great Mother).
10. Cha và Mẹ dệt một Mạng
Lưới, phần trên của Mạng Lưới th́
gắn vào Tinh Thần, Ánh Sáng của Bóng Tối Duy
Nhất, đầu dưới được gắn vào phía
dưới tối tăm, tức là Vật Chất;
Mạng Lưới này là Vũ Trụ, do Hai Thực
Chất (Two Substances) hợp nhất thành Một là Svabhavat
mà được dệt thành.
11. Nó mở ra khi Hơi Thở của
Lửa thổi lên nó; khi hơi thở của Mẹ
chạm vào nó th́ nó co rút lại. Rồi những
Người Con chia ĺa nhau mà đi rải rác khắp
nơi, để rồi lại trở về ḷng Mẹ
khi Ngày Vĩ Đại chấm dứt để lại
được hợp nhất với Mẹ. Khi nó nguội
lạnh đi th́ nó sáng chói. Những người con của
Mẹ nở rộng ra và co rút lại xuyên qua Bản
Thể và Trái Tim của chúng; chúng thâu gồm cả sự
Vô Cùng Tận (Infinitude).
12. Lúc đó Svabhavat gởi Fohat đi
để làm cho các Nguyên Tử rắn cứng lại.
Mỗi cái là một thành phần của Mạng
Lưới. Giống như một tấm gương,
mỗi nguyên tử phản chiếu “Đấng Tự
Tồn” (“Self-Existent Lord”), rồi khi đến lượt
nó, nó trở thành một Thế Giới.
ĐOẠN THÁNH KINH 4
(STANZA 4)
1. …Hỡi người Con của Trái
Đất, hăy nghe lời huấn thị của những
bậc thầy các ngươi – các Ngài là Người Con
của Lửa. Hăy biết rằng không có ǵ là đầu
tiên, cũng không có ǵ là cuối cùng; v́ tất cả là
Số Một Duy Nhất (One Number) phát sinh từ cái Không
Số (No-Number).
2. Hăy biết rằng chúng ta, hậu duệ
của Bảy Đấng Nguyên Thuỷ (Primordial Seven), chúng
ta sinh ra từ Ngọn Lửa Nguyên Thuỷ (Primordial Flame),
đă học hỏi của Cha chúng ta (our Fathers)…
3. Từ cái vẻ Huy Hoàng của Ánh Sáng – Tia
Sáng của Bóng Tối Trường Cửu (Ever – Datkness) -
những Thần Lực thức tỉnh xuất hiện
trong Không Gian; số Một từ Quả trứng, số
Sáu và số Năm. Kế đó là Ba, Một, Bốn,
Một, Năm – Hai lần Bảy, Tổng Số. Và đó
là những Nguyên Thể, những Ngọn Lửa, những
Nguyên Tố, những Đấng Sáng Tạo, những
Số, những ǵ Vô H́nh, những ǵ Hữu H́nh, và Thần
Lực hay là Con Người Thiêng Liêng (Divine Man) - Tổng
Số (Sum Total). Và từ Con Người Thiêng Liêng, tạo
ra những H́nh Thể, những Điểm Linh Quang (Sparks),
những Giống Vật Thiêng Liêng (Sacred Animals) và các Sứ
Giả (Messengers) của các Tổ Tiên Thiêng Liêng (Sacred Fathers)
bên trong số Bốn Thánh Thiện (Holy Four).
96
4. Đây là Đạo Binh của Diệu
Âm (Voice), Linh Mẫu (Divine Mother) của số Bảy. Các
Tia Lửa (Sparks) của số bảy tuỳ thuộc vào
và là tôi tớ của cái Thứ Nhất, Thứ Nh́, Thứ
Ba, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và cái Thứ
Bảy của số Bảy. Những Tia Lửa này
được gọi là các Bầu, các Tam Giác, các Khối
Lập Phương, các Đường Gạch (Lines) và các
Mẫu Khung (Modellers); chính đó là Nidana Trường
Cửu, tức là Oi-Ha-Hou (hay Oeaohoo).
5. Oi-Ha-Hou là Bóng Tối, cái Vô Biên, hay là Không
Số, tức Adi-Nidana Svabhavat, cái Ṿng Tṛn Vô Cực :
I. Adi-Sanat, một Con Số (the Number), v́ nó là
Đơn Nhất (One).
II. Tiếng Nói của Diệu Âm ([164]),
Svabhavat, những Con Số, v́ Ngài là Một và Chín.
III. “Các H́nh Vuông Không Có H́nh Dáng” (“Formless Square”).
Và cả Ba được đặt vào
trong ,
là số Bốn Thần Bí (Sacred Four); và số Mười
là Vũ Trụ Vô H́nh (Arupa Universe). Rồi đến
những “Người Con”, Bảy Chiến Sĩ (Seven
Fighters), số Một, cái Thứ Tám bỏ ra ngoài, và Hơi
Thở của Ngài tạo ra Ánh sáng (Light-Maker).
6….Rồi đến số Bảy Thứ Nh́, đó là các vị Nam Tào Bắc Đẩu (Lipika) do số Ba sinh ra. Người Con bị Từ Bỏ là Một. Các “Con Mặt Trời” (“Son Suns”) th́ nhiều vô số.
ĐOẠN THÁNH KINH 5
(STANZA 5)
1. Bảy Nguyên Thuỷ là Bảy Hơi
Thở đầu tiên của Rồng Minh Triết, lại
đến lượt tạo ra Con Trốt Lửa (Fiery
Whirlwind) từ những Hơi Thở Thánh Thiện Xoay Ṿng.
2. Chúng biến nó thành Sứ Giả
để phát huy Ư Chí của ḿnh. Dzyu trở thành Fohat:
người Con nhanh lẹ của các người Con Thiêng
Liêng (Divine Son), Con của các Ngài là các vị Nam Tào Bắc
Đẩu (Lipika) chạy theo ṿng tṛn. Fohat là con Tuấn Mă,
và Tư Tưởng là Người Cỡi Ngựa. Ngài
đi mau như chớp xuyên qua những đám mây lửa;
vượt qua Ba, Năm và Bảy Bước Dài của
Bảy Cảnh Giới Cao và Bảy Cảnh Giới
Thấp. Ngài cất cao Tiếng gọi vô số Đốm
Lửa rồi hợp nhất chúng lại.
96
3. Ngài là vị lănh đạo và
hướng dẫn tinh thần của chúng. Lúc bắt
đầu làm việc, Ngài phân chia các đốm Lửa
của Cảnh Giới Thấp, đang phiêu bạt và rung
động v́ vui vẻ trong trú sở sáng ngời, và
tạo thành Mầm Mống của các Bánh Xe (Germs of Wheels).
Ngài đặt chúng vào Sáu Hướng Không Gian (Six Directions
of Space) và Một đứng giữa, gọi là Bánh Xe Trung
Ương (Central Wheel).
4. Fohat vạch những đường
xoắn ốc để kết hợp cái thứ Sáu vào cái
thứ Bảy – Vương Miện (the Crown). Một
Đạo Binh của các Con của Ánh Sáng đứng
ở mỗi góc; các Đấng Lipika (Nam Tào Bắc
Đẩu) đứng ở Bánh Xe Trung Ương (Middle
Wheel). Các Ngài nói: “Việc này tốt”. Thế Giới Thiêng
Liêng đầu tiên sẵn sàng; cái Thứ Nhất ([165]),
cái Thứ Nh́. Rồi cơi “Vô Sắc Tướng Thiêng Liêng” (“Divine
Arupa”) tự phản chiếu trong Chhaya Loka, Lớp Áo
Đầu Tiên (First Garment) của vị Vô Phụ Mẫu
(Anupadaka).
5. Fohat tiến tới năm bước dài,
và xây dựng một bánh xe có cánh ở mỗi góc của
h́nh vuông cho Bốn Đấng Cao Cả…và những
Đạo Binh của các Ngài.
6. Các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu
(Lipika) vạch ṿng tṛn quanh h́nh Tam Giác, cái Thứ Nhất,
Khối Lập Phương, cái Thứ Nh́, rồi
đặt h́nh Ngôi Sao Năm Góc trong cái Trứng. Đó là
Ṿng Giới Hạn “Không Thể Vượt Qua” (“Pass Not”)
đối với những người đi xuống và
đi lên; đối với những ai trong Đại
Kiếp này đang tiến đến Ngày Vĩ Đại
“Được Hợp Nhất với Thượng
Đế” (“Be With Us”)… Những cơi Vô Sắc Tướng
(Arupa) và cơi Sắc Tướng (Rupa) được tạo
lập như sau: từ mỗi cái trong Bảy cái này, sinh ra
bảy lần Bảy Ánh Sáng. Các Bánh Xe giám sát Ṿng Tṛn…
ĐOẠN THÁNH KINH 6
(STANZA 6)
1. Nhờ uy lực của Đức Mẹ
Từ Bi và Minh Triết, Đức Quán Âm (Kawan-Yin) – “Tam
Nguyên” (“Triple”) của Quán Thế Âm (Kwan-Shai-Yin), ngự
nơi Quan Âm Thiên (Kwan-Yin-Tien) – Fohat, Hơi Thở của
Con Cháu các Ngài, Con của những người Con, đă
khiến cho H́nh Hài Ảo Tưởng (Illusive Form) của
Sien-Tchan cùng Bảy Nguyên Tố (Seven Element) được
thành h́nh từ cơi Hỗn Mang (the lower Abyss).
97
2. Đức Duy Nhất Nhanh Lẹ và Sáng Chói
phát sinh bảy Trung Tâm Biến Thể (seven Laya Centres), mà
không một ai có thể chiến thắng được
cho đến Ngày Vĩ Đại “Được Hợp
Nhất với Thượng Đế” (“Be With Us”); và
đặt Vũ Trụ lên trên những Nền Móng Vĩnh
Cửu đó (Eternal Foundations), bao quanh Vũ Trụ
(Sien-Chan) với những Mầm Mống Sơ Khai (Elementary
Germs).
3. Trong Bảy Nguyên Tố - Cái Đầu
Tiên được biểu lộ, Sáu cái được
giấu kín; Hai cái được biểu lộ, Năm cái
được giấu kín; Ba cái được biểu
lộ, Bốn cái được giấu kín; Bốn cái
được tạo ra, Ba cái được giấu kín;
Bốn và Một Phần (Tsan) tiết lộ, Hai và Một
Nửa bị giấu kín; Sáu cái sẽ được
biểu lộ, Một cái bị để sang một bên.
Sau cùng, Bảy Bánh Xe Nhỏ xoay ṿng; cái này sinh ra cái kia.
4. Ngài xây dựng chúng giống như
những Bánh Xe cũ trước, đặt chúng vào
những Trung Tâm Bất Diệt (Imperishable Centres).
Fohat đă xây dựng chúng theo cách nào? Ngài gom
góp Bụi Lửa (Fiery-Dust). Ngài tạo nên những Quả
Cầu Lửa (Balls of Fire), chạy xuyên qua chúng, xung quanh
chúng, truyền sự sống vào chúng, làm cho chúng chuyển
động; cái xoay chiều này, cái xoay chiều khác. Chúng
lạnh, Ngài làm chúng nóng lên. Chúng khô khan, Ngài làm chúng
ướt. Chúng chiếu sáng, Ngài quạt và làm cho chúng mát.
Đó là tác động của Fohat từ Hoàng Hôn (Twilight)
này đến Hoàng Hôn khác suốt Bảy Đại
Kiếp Trường Tồn (Seven Eternities).
5. Cái Thứ Tư, các Con nhận lệnh
phải sáng tạo ra H́nh Ảnh của họ. Một
phần ba từ chối. Hai phần ba vâng lời.
Lời Nguyền Rủa phát ra. Họ
phải ra đời trong cái Thứ Tư ([166]),
sẽ đau khổ và gieo rắc sự đau khổ.
Đó là Trận Chiến Thứ Nhất (First War).
6. Những Bánh Xe Cũ trước xoay
xuống và xoay lên. Cái Trứng của Mẹ (Mother’s Spawn)
tràn đầy khắp nơi. Có những Trận Chiến
giữa Đấng Sáng Tạo và Đấng Huỷ
Diệt, và có những Trận Chiến để giành Không
Gian; Cái Mầm xuất hiện và tái xuất hiện không
ngừng.
7. Hỡi Đệ Tử, hăy tính toán đi
nếu người biết đúng tuổi của Bánh Xe
Nhỏ của ngươi. Cái Căm Thứ Tư (Fourth
Spoke) của bánh xe là Mẹ chúng ta. Hăy tiến tới “Trái”
(“Fruit”) Thứ Tư của Con Đường Hiểu
Biết Thứ Tư dẫn đến Niết Bàn, và
ngươi sẽ hiểu v́ ngươi sẽ thấy…
ĐOẠN THÁNH KINH 7
(STANZA 7)
1. Hăy nh́n lúc khởi thuỷ của Sự
Sống hữu thức vô sắc tướng (sentient
Formless Life).
98
Trước hết, Đấng Cao Cả,
Đấng Duy Nhất phát sinh từ Tinh Thần Mẹ
(Spirit-Mother); rồi đến Đấng Tinh Thần; và
Ba phát sinh từ Một, Bốn phát sinh từ Một, và
Năm, từ đó phát sinh ra Ba, Năm và Bảy. Đó là
bội số của Ba (Three-fold) và bội số của
Bốn đi xuống (downward); các Con sinh ra từ Trí
của Đấng Cao Cả Thứ Nhất (First Lord), là
Bảy Chiếu Sáng. Hỡi Đệ Tử, các Ngài chính là
ngươi, là Ta ([167]),
là nó; các Ngài trông chừng ngươi và mẹ ngươi,
Bhumi ([168]).
2. Tia Sáng Duy Nhất sinh ra nhiều Tia
nhỏ hơn. Sự Sống có trước H́nh Thể và
Sự Sống tồn tại sau khi nguyên tử cuối cùng
biến mất. Tia Sáng Sự Sống, Duy Nhất, xuyên qua
vô số tia khác, giống như Sợi Chỉ xuyên qua
Chuỗi Hạt ([169]).
3. Khi Một biến thành Hai, th́ bội
số Ba hiện ra và Ba là Một; và đó là Sợi Chỉ
của chúng ta, Hỡi Đệ Tử, Trái Tim của Cây
Người (Man-Plant), gọi là Saptaparna.
4. Đó là Cội rễ bất tử; là
Lửa có Ba ngọn của Bốn Tim Bấc. Các Tim Bấc
này là những Đốm Lửa phát sinh từ Lửa có Ba
ngọn do Bảy phóng ra - Ngọn Lửa của chúng -
những Tia Lửa và Đốm Lửa (the Beams and Sparks)
của một Mặt Trăng được phản
chiếu trên những Làn Sóng nhấp nhô của mọi Sông
Ng̣i trên Địa Cầu.
5. Đốm Lửa treo lơ lửng
dưới Ngọn Lửa bằng sợi chỉ mảnh
mai nhất của Vô Cực Điện (Fohat). Nó chu du
(journeys) xuyên qua Bảy Thế Giới Ảo Tưởng.
Nó ngừng lại ở loài Thứ Nhất, và nó là Khoáng
Thạch (a Mental and a Stone); nó đi vào loài Thứ Hai và
trở thành Thảo Mộc; Thảo Mộc xoay qua bảy
ṿng thay đổi, trở thành con Thú Linh. Từ những
đặc tính phối hợp của những cái vừa
kể, Manu, Con Người biết suy tưởng
được h́nh thành. Ai tạo ra y? Chính là Bảy Sự
Sống và Một Sự Sống Nhất Nguyên (One Life). Ai
hoàn thành nên y? Chính là Năm vị Lha (The Fivefold Lha). Ai làm cho
H́nh Hài trở nên hoàn hảo? Loài Cá (Fish), Tội Lỗi
(Sin) và Xác Thân (Soma)…
6. Từ kẻ sinh ra Đầu Tiên
(First-born), Sợi Chỉ giữa Đấng Giám Sát Im
Lặng (Silent Watcher) và Cái Bóng của Ngài trở nên mạnh
và sáng hơn mỗi khi có sự thay đổi. Ánh Mặt
Trời buổi ban mai trở thành Ánh Sáng rực rỡ
giữa trưa…
99
7. Ngọn Lửa bảo với Đốm
Lửa: “Đây là Bánh Xe hiện tại của ngươi.
Ngươi chính là ta, là h́nh ảnh và cái bóng của ta.
Ở nơi bản thể của ngươi, ta đă
tự khoác áo lên ḿnh, và ngươi là Vận Cụ (Vahan)
của ta cho đến ngày ‘Hợp Nhất Với
Thượng Đế’(‘Be With Us’), khi ngươi sẽ
trở thành chính ta và những kẻ khác, chính ngươi và
ta”. Lúc đó, sau khi đă khoác Lớp Áo đầu tiên, các
Đấng Kiến Tạo giáng lâm xuống Địa
Cầu sáng chói và ngự trị Loài Người - họ
chính là ngươi vậy….
. .
Đến đây, chấm dứt
đoạn văn kể chuyện cổ xưa này, nó
tối nghĩa, lộn xộn, gần như không sao
hiểu nổi. Nay phải cố gắng chiếu ánh sáng
vào cái vùng tối tăm này, để t́m kiếm một ư
nghĩa cho đoạn văn bề ngoài dường
như VÔ NGHĨA này.
NHỮNG ĐOẠN THÁNH
KINH CỦA THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH
101
GIÁO LƯ BÍ NHIỆM
PHẦN
I
(THỜI THƯỢNG CỔ)
CHƯƠNG I
THOÁNG NH̀N VÀO VĨNH
CỬU, SỰ TIẾN HOÁ CỦA VŨ TRỤ TRONG BẢY
GIAI ĐOẠN
ĐOẠN THÁNH KINH I ([170])
(STANZA I)
Cha Mẹ Trường
Tồn (Không Gian) cuộn ḿnh trong
những chiếc áo ngàn đời vô h́nh (vật chất
tiền tinh vân trong vũ trụ) đă ngủ trong bảy
Đại Kiếp Trường Tồn (1), không có Thời
Gian v́ thời gian ngủ yên trong trung tâm vô cùng tận
của sự Tồn Tại. Không có Toàn Linh Trí, v́ thuở
đó không có các vị Thiền Định Đế Quân
(Dhyan Chohans) để chứa đựng và rồi
biểu lộ trí đó. Không có bảy con Đường
dẫn đến Chí Phước (Sự Giải Thoát-Moksha
– hay Niết Bàn). Không có những nguyên nhân Vĩ đại
của sự Khốn Khó (Nidana) (2) và Ảo Tưởng (Maya)
v́ không ai phát sinh ra chúng và bị chúng trói buộc. Chỉ có
sự TỐI TĂM (DARKNESS) tràn đầy lên Đại
Thể vô biên giới v́ Cha Mẹ và Con thêm một lần
nữa chỉ là một và Con chưa thức tỉnh
để bánh xe xoay chuyển (3). Không có bảy Chân Lư cao
cả và Bảy Bộ Thánh Kinh (4) và Vũ Trụ.
Người Con của Lẽ Tất Nhiên đắm ḿnh vào
Paranishpanna (sự toàn thiện toàn mỹ tuyệt
đối, Paranirwana ‘Đại Niết Bàn’ nó là Jong-grub)
để rồi được phóng ra bởi cái ǵ có
thực thể mà vẫn là hư vô (5). Không có ǵ cả.
Không có cả căn nguyên của Sự Sống, cái ǵ
hữu h́nh thuở xưa và cái ǵ vô h́nh thuở nay, nghỉ
ngơi trong Hư Vô Trường Tồn – đó là THỰC
THỂ DUY NHẤT (ONE BEING). Đơn độc, H́nh Hài
duy nhất của Sự Sống (6) lan tràn vô biên giới,
vô cùng tận, vô thuỷ trong Giấc Ngủ không mộng
mị: và đời sống vô tri thức đập
nhịp trong Không Gian Vũ Trụ trong suốt thời
kỳ của sự HIỆN DIỆN của ĐẠI
THỂ (ALL PRESENCE) mà
102
“Con
Mắt giác ngộ” (“ Opened Eye”) của Dangma cảm thấy
được. Nhưng Dangma ở đâu khi Alaya của
Vũ Trụ (Linh Hồn tuyệt đối) ở trong
PARAMARTHA (thực thể tuyệt đối) (7).
Bánh Xe lớn là Anupadaka? (“Bánh Xe lớn” là dăy hành tinh của
chúng ta, “Anupadaka” là không phụ mẫu).
ĐOẠN THÁNH KINH II
(STANZA II)
Các vị TẠO
TÁC (BUILDERS)(1) ở đâu, những người Con chói sáng của buổi B́nh Minh của Đại
Kiếp? Ở trong sự TỐI TĂM HUYỀN BÍ (UNKNOW
DARKNESS), ở nơi Paranishpanna (2) thuộc cảnh giới của các vị
Dhyan-Chohan hay cảnh giới Thiền Định cơi Bồ
Đề (Dhyani Buddhic). Những vị sáng tạo ra H́nh Hài
(hữu h́nh) tự cơi Hư Vô (vô h́nh), cội rễ
của thế gian Deva-Matri và
Svabhavat nghỉ ngơi trong cơi chí phước của Hư
Vô. Sự Im Lặng ở đâu? Những lỗ tai
để cảm thấy sự im lặng ở đâu?
Không; thuở đó không có sự im lặng, cũng không có
âm thanh. Không có ǵ cả, ngoại trừ Hơi Thở
(sự chuyển động) không ngừng nghỉ, không
tự tri (3). Giờ khắc chưa điểm; Tia sáng
chưa chiếu rọi vào MẦM MỐNG; Matri-Padma (Bông sen
Mẹ) chưa phồng lên (4), trái tim Mẹ chưa mở
ra để ánh sáng chiếu vào, rồi rớt vào ḷng
ảo tưởng (5). Bảy (Người Con) chưa
được sinh ra từ mạng lưới ánh sáng.
Chỉ có sự Tối Tăm là Cha và Mẹ, Svabhavat, và
Svabhavat ở trong sự TỐI TĂM. Hai cái đó là
mầm mống, và mầm mống là MỘT. Vũ Trụ
hăy c̣n ẩn trong tư tưởng và trong ḷng Thượng
Đế (6).
ĐOẠN THÁNH KINH III
(STANZA III)
Làn rung động cuối cùng của
Đại Kiếp Trường Tồn rùng ḿnh xuyên qua cơi
Vô Cùng Tận. Đức Mẹ nở ra, lan tràn từ trong ra ngoài giống
mầm hoa sen. Cánh nó lanh lẹ chạm vào vũ trụ cùng
một lúc và chạm vào cái mầm mống ở trong cơi
Tối Tăm, cơi Tối Tăm này thở hơi (chuyển
động) trên những ḍng nước đang ngủ yên
của đời sống. Sự Tối Tăm phóng ra Ánh
Sáng, và ánh sáng chiếu một Tia Sáng đơn độc
vào những làn nước của Không Gian Mẹ. Tia Sáng làm
cho “Cái Trứng Trinh Nguyên Trường Tồn” đơm
bông kết trái (làm nó hồi sinh) (1)… Nguyên thể sáng chói trong
Hiranya garbha (Trứng Vàng hay
Kim Noăn) đông đặc lại và lan tràn khắp nơi
thâm sâu (2) làm thành chất váng sữa trắng tinh trong
khắp nơi thâm sâu của Mẹ, cái cội rễ nó
lớn lên trong Đại Dương của Sự
Sống. Cội rễ vẫn c̣n; ánh sáng vẫn c̣n,
những khóm sữa đặc vẫn c̣n; và ba thứ
vẫn là một, v́ trong mỗi giọt nước của
Đại Dương (chứa nước Cam Lồ - of
Amrita) có nguồn cội của sự sống và giọt
nước cũng ở trong cội rễ và tất
cả đă nổi lềnh bềnh trong ánh sáng chói chang, ánh
sáng này là Lửa và Sức Nóng và là sự luân chuyển.
“Sự Tối Tăm” rút đi không c̣n nữa: nó biến
đi trong Nguyên Thể của chính nó, nguyên thể của
Lửa và Nước, của Cha và Mẹ. .. Hỡi
người Đệ Tử, hăy nh́n xem người Con chói
chang của
103
Cha và Mẹ, cái vinh quang huy hoàng không ǵ so sánh
kịp hiện ra từ những nơi thâm sâu của
những Làn Nước… Đó là * * * khi người
biết rằng (ai?) bây giờ là Quán Thế Âm (Kwai-Shai-Yin)
(4), Ngài chiếu sáng giống “Con Rồng Minh Triết thiêng
liêng” sáng chói (5) Eka - (một) trong đó có bảy và trong
bảy th́ có số đông. Ngươi hăy nh́n Ngài làm
việc trong các miền hiu quạnh của Biển Trời
tràn ngập các tinh tú làm cho Không Gian biến thành một
biển Lửa vô bờ bến và làm cho (Nguyên tố) duy
nhất hữu h́nh biến thành những Làn Nước
vĩ đại. -Mầm Mống ở đâu và sự
TỐI TĂM bây giờ ở đâu? Hỡi người
Đệ Tử, Hồn Lửa hiện giờ đang làm
cho đèn của ngươi cháy th́ ở đâu? Mầm
Mống là cái đó và cái đó là Ánh Sáng,
Người Con chói sáng và trắng trẻo của
người Cha ẩn tàng và tối tăm, đă sử
dụng Kala-hansa (thiên nga
đen hay ngỗng đen). Ánh sáng là ngọn lửa và
ngọn lửa là Lửa, và lửa phát sinh ra sức nóng,
sức nóng phát sinh ra nước, nước của
Đời Sống nơi Mẹ Vĩ Đại (Hỗn Mang
– Chaos). Cha Mẹ đặt một mạng lưới,
đầu trên lưới được gắn chặt
với Tinh Thần (Purusha) ánh sáng của sự Tối
Tăm vĩ đại và đầu dưới gắn vào
Vật Chất (Prakriti), và mạng lưới này là Vũ
Trụ, được dệt bằng hai nguyên chất
hợp nhất, đó là Svabhavat. Khi hơi thở của
lửa thổi trên nó th́ nó nở ra, các con cái nó (các nguyên
tố) tan ra, tan mất đi và trở lại nơi ḷng
mẹ để lại được hợp nhất
với mẹ; khi nó nguội lạnh, và lại chói sáng th́
các con nó nở ra và co rút lại xuyên qua bản thể và
trái tim riêng của chúng… để thâu gồm cơi vô cùng
tận, Svabhavat phóng Fohat ra
ngoài và làm cho nguyên tử cứng lại. Mỗi cái là
một thành phần của mạng lưới (Vũ
Trụ). Phản chiếu “Đấng Tự Sinh” (ánh sáng
nguyên thuỷ) - giống một tấm gương, khi
đến lượt nó mỗi cái trở thành một Thế
Giới..
ĐOẠN THÁNH KINH IV
(STANZA IV)
104
Hỡi người con của Địa
Cầu, hăy lắng nghe các vị giáo chủ của các
ngươi, những người con của Lửa hay là
các vị Hoả Đức Tinh Quân (l). Các ngươi hăy
biết rằng không có cái đầu tiên mà cũng không có
cái cuối cùng, v́ tất cả đều là MỘT (ONE)
phát sinh từ HƯ VÔ (No- NUMBER). Hăy học những
điều mà chúng ta – con cháu của Bảy Đấng
nguyên thuỷ (2) các Ngài phát sinh từ ngọn Lửa nguyên
thuỷ - đă học được của Cha chúng ta.
Từ vẻ huy hoàng của Ánh Sáng – Tia Sáng của BÓNG
TỐI NGÀN ĐỜI (EVER–DARKNESS)- những thần lực
được thức tỉnh trở lại (Dhyani-Chohans)
được nảy sinh trong Không Gian (3). Một cái từ cái Trứng, sáu cái và năm cái;
rồi MỘT Cái, BA Cái, NĂM Cái và hai lần BẢY
tổng số (4). Và đó là; những Nguyên Thể,
những Ngọn Lửa, những Nguyên Tố, những
vị Tạo Tác, những Số, cái Vô H́nh (không h́nh dáng),
cái Hữu H́nh (với h́nh
hài) và THẦN LỰC hay Người Trời (Divine Man) -Tổng
Số (5). Và từ nơi Người Trời nảy sinh
ra những H̀NH HÀI, những TIA LỬA, những Con Vật
linh thiêng (6) và những sứ giả của các vị
Tổ Tiên thiêng liêng trong phạm vi của số Bốn
thánh thiện. Đó là Đoàn Thiên binh của Thượng
Đế (7) - Bảy Thể thiêng liêng. Những Tia Lửa
của số bảy th́ tuỳ thuộc vào và là tôi tớ
của cái Thứ Nhất, Thứ Nh́, Thứ Ba, Thứ
Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy của
BẢY cái. Các “Tia Lửa” này được gọi là các
Khối Cầu, các h́nh Tam Giác. Các Khối Lập
Phương, các Hàng Kẻ (8) và những Đấng
Đắp H́nh, và v́ vậy mới có Nidana trường
tồn – OI-HA-HOU, (Adi-Nidana Svabhavat) v́ X, số lượng
bí mật – “Sự Tối Tăm”, cái Vô biên giới hay
“HƯ VÔ” I. Adi-Sanat (9) Con Số, v́ Ngài là một. II.
TIẾNG NÓI của Thánh Ngữ, Svabhavat (10) những Số,
v́ Ngài là MỘT và CHÍN. III. “H́nh Vuông Không H́nh Dáng” (Vô H́nh).
Và ba cái trên đây được đặt trong cái (Ṿng Tṛn Không Biên Giới) là số BỐN thiêng liêng và số MƯỜI là Vũ Trụ Vô H́nh tướng (chủ quan vô h́nh dáng) (11), rồi đến những người “Con”, Bảy Chiến Sĩ, số Một người thứ Tám được bỏ qua, (12) những Hơi Thở của họ (13) là kẻ Tạo ra Ánh Sáng (Bhaskara); rồi đến số BẢY thứ nh́, đó là các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu (14) phát sinh từ số BA (Thánh Ngữ, Âm Thanh và Tinh Thần) (15). Đấng bị Chối Bỏ (Mặt Trời là Một, các Mặt Trời nhỏ của Mặt Trời lớn, th́ vô số kể).
ĐOẠN THÁNH KINH V
(STANZA V)
Đến lượt số bảy căn bản, Bảy Hơi Thở đầu tiên của Con Rồng Minh Triết lại phát ra luồng gió lốc đầy Lửa (1) từ những hơi thở thánh thiện và xoay tṛn của chúng. Họ làm Ngài trở thành vị sứ giả của Ư Chí họ (2) Dzyu trở thành FOHAT (3) Người Con nhanh lẹ của các người Con Thượng Đế và những vị Nam Tào Bắc Đẩu (4) chạy theo ṿng tṛn dưới sự khích động của những Tư Tưởng hướng đạo của các Ngài. Ngài đi như sấm sét xuyên qua những đám mây Toé Lửa (sương mù của vũ trụ); tiến ba, năm và bảy bước xuyên qua bảy cảnh giới cao và bảy cảnh giới thấp (các thánh ngữ [những thế giới?] vị lai) (5). Ngài cất cao tiếng và kêu gọi vô số tia lửa (các nguyên tử) và hợp nhất chúng lại. Ngài là người lănh đạo và linh hồn hướng đạo của họ. Khi bắt đầu các tác động, Ngài phân chia những tia lửa nơi các cảnh thấp (các nguyên tử khoáng chất), chúng nổi lềnh bềnh và vui vẻ rùng ḿnh trong nơi trú sở chói sáng của chúng (các đám mây bằng chất hơi) và lấy những cái đó làm thành những mầm mống của bánh xe (6). Ngài đặt chúng trong sáu hướng của không gian và một cái ở trung tâm – bánh xe trung ương (7) Fohat vạch ra những đường xoắn ốc để nối liền sáu cái: một đội thiên binh của các Con của Ánh Sáng hay là các vị Quang Đức Tinh Quân trấn giữ ở mỗi góc và các vị Nam Tào Bắc Đẩu - ở bánh xe trung ương. Khi các Ngài (các vị Nam Tào Bắc Đẩu) nói - Điều này tốt – th́ cái Thế Giới thiêng liêng đầu tiên sẵn sàng, cái thứ nhất là cái thứ nh́ (8). Rồi “cơi Vô H́nh thiêng liêng” (Cảnh Giới không h́nh dáng) tự phản chiếu trong cơi Hữu H́nh của Cái Trí (Cảnh Giới Trường Tồn của h́nh hài), lớp áo đầu tiên của Thượng Đế (9) cơi Hồng Trần của những người con do Trí sinh ra. Fohat tiến năm bước (đă hoàn thành ba bước đầu tiên) và xây dựng bốn bánh xe có cánh ở mỗi góc của h́nh vuông, để cho bốn Đấng Thánh Thiện (10) và những đạo thiên binh của các Ngài (đám đông). Các vị Nam Tào Bắc Đẩu vẽ h́nh tṛn xung quanh h́nh tam giác, Ḍng Kẻ đầu tiên, Khối Lập Phương; Ḍng kẻ thứ nh́ và h́nh Sao năm cánh trong cái Trứng (ṿng tṛn). Đó là ṿng dây không thể “vượt qua được” (11) đối với những ai đi lên và đi xuống cũng như đối với những ai trong Đại Kiếp đang tiến đến ngày “Được hợp nhất với Thượng Đế” (12). Cơi Vô H́nh và cơi Hữu H́nh (thế giới không H́nh Dáng và thế giới của H́nh Hài) được thành lập như vậy: từ MỘT ÁNH SÁNG, bảy Ánh sáng; từ mỗi cái trong bảy cái lần ánh sáng. Các bánh xe “giám sát V̉NG TR̉N” (“watch the RING”).
105
ĐOẠN THÁNH KINH VI
(STANZA VI)
Nhờ uy lực của Quan Âm (Kwan-Yin),
Đức Mẹ Từ Bi và Minh Triết sáng chói, “Tam
Thế” của Quán Thế Âm (Kwan-Shi-Yin) ngự nơi
Kwan-yin-tien Fohat Hơi Thở của con cháu các Ngài, “Người
con của Mặt Trời” đă khiến cho h́nh hài ảo
tưởng của sientchen (vũ
trụ nhất như) thành h́nh tự nơi Hỗn Mang
ở cảnh giới thấp do bảy Nguyên Tố làm
thành: thoạt đầu, một
cái được biểu lộ, sáu cái được giấu kín; rồi hai cái được biểu
lộ, năm cái
được giấu kín; rồi ba cái được biểu lộ, bốn cái được
giấu kín; bốn và một
nửa được biểu lộ - hai và một nửa được giấu kín; sáu cái sẽ được
biểu lộ - một cái được dẹp qua
một bên (1). Sau chót, bảy bánh xe xoay chuyển cái này phát
sinh ra cái kia (2) Ngài xây dựng chúng giống như những
bánh xe (thế giới) cũ trước. Ngài xây dựng
chúng theo cách nào. Fohat gom góp bụi lại. Ngài lấy
bụi đó tạo thành những quả cầu lửa và
làm chúng xoay chuyển, có cái theo lối này, những cái khác
theo lối ngược lại. Chúng lạnh. Ngài làm cho chúng
nóng. Chúng khô khan, Ngài làm cho chúng ẩm ướt. Chúng chói
sáng, Ngài quạt chúng và làm cho chúng mát, làm chúng hết bóng
bẩy. Fohat tác động như vậy từ buổi
b́nh minh của NGÀY cho đến buổi hoàng hôn của
ĐÊM trong bảy Đại Kiếp Trường Tồn
(3)… Trong lúc cái thứ nhất khởi đầu, những
“Con” người nhận được lệnh phải
sáng tạo ra h́nh ảnh của chính họ. Một phần ba từ chối. Hai phần ba vâng
lời. Lời nguyền rủa được thốt ra.
Họ sẽ phải ra đời trong cái (hành tinh) thứ
Tư, sẽ đau khổ và gieo rắc sự đau
khổ… Đó là trận chiến thứ nhất…
Những bánh xe cũ trước đă xoay tṛn đi lên và đi xuống trong một, và nửa đại kiếp trường tồn. Trứng của Mẹ tràn đầy toàn thể (Vũ Trụ). Có những trận chiến giữa những vị Sáng tạo và những kẻ nổi loạn và những trận chiến để tranh giành không gian, hạt giống hiện ra và lại hiện ra không ngừng (4) khi bánh xe của chúng ta nhận được sự khích động đầu tiên… Hỡi vị Lạt Ma [Đệ Tử?], ngươi hăy tính toán đi nếu ngươi muốn biết đúng tuổi của bánh xe nhỏ của ngươi (5) Tia sáng thứ tư là Mẹ chúng ta (Địa Cầu). Hăy đến với “Trái” thứ tư của Con Đường minh triết Thứ Tư, nó dẫn đến Niết Bàn và ngươi sẽ hiểu v́ ngươi sẽ trông thấy (6).
ĐOẠN THÁNH KINH VII
(STANZA VII)
106
... Hăy nh́n lúc khởi thuỷ của
Đời Sống hữu thức vô h́nh. Trước
hết, Đấng Cao Cả từ ĐẤNG DUY
NHẤT, “Atman” (Tinh Thần), rồi –“Atman-Buddhi” (Tinh
Thần-Linh Hồn) cái này, ba, năm và bảy (1); rồi,
bội số Ba, bội số Bốn và xuống thấp;
những người Con phát sinh từ thể trí của
ĐẤNG CAO CẢ THỨ NHẤT (Prajapati)- Bảy
vị sáng chói (các Vị Tạo Tác) các Ngài chính là
ngươi, là ta, là nó (2), Hỡi người Đệ tử
(Oh Lanoo); các Ngài coi chừng ngươi và mẹ
ngươi là Bhumi (Trái đất). Tia sáng duy nhất làm
nảy nở các tia sáng nhỏ hơn (3). Sự Sống có
trước H́nh Hài và c̣n tồn tại sau sự tiêu
diệt của nguyên tử cuối cùng của Stula Sarira (h́nh hài ngoại
giới – external body) (4) Tia Sáng của đời sống,
cái Duy Nhất, tác động xuyên qua vô số tia sáng khác,
giống như sợi chỉ xuyên qua nhiều hạt
ngọc trai. Khi số một trở thành số hai – th́
“bội số Ba” hiện ra (5) Ba cái là một
(được liên kết thành một); hỡi
người Đệ Tử, đó là sợi chỉ
của chúng ta, trái tim của Cây Người (Man-Plant)
được gọi là Suptasarma [Saptaparna](6). Đó là
cội rễ bất tử, lửa có ba ngọn của
bốn cái Bấc Đèn (7). Những bấc đèn là các
đốm lửa, và sử dụng lửa có ba ngọn (8)
do số Bảy phóng ra, ngọn lửa của các Ngài; các tia sáng và đốm lửa
của một mặt trăng được phản
chiếu trong những làn sóng nhấp nhô của mọi con
sông của Bhumi (Địa Cầu) (9). Đốm lửa
dính vào ngọn lửa nhờ sợi chỉ Fohat mảnh
mai nhất. Nó chu du xuyên qua bảy và bảy cảnh
giới của Ảo
Tưởng. Nó ngừng lại ở loài thứ nhất
và ngươi hăy nh́n xem - một hành tinh; bảy lần thay
đổi nữa và nó trở thành một con vật.
Từ những đặc tính phối hợp của
những cái đă nói trên – Manu (con người) kẻ
biết suy nghĩ được thành h́nh. Ai làm ra y. “Đời
Sống Duy Nhất”; ai làm ra xác thân y? nhiều đời
sống (10) …Từ kẻ sinh ra đầu tiên (con
người đầu tiên hay nguyên thuỷ) sợi chỉ
giữa Đấng Giám Sát Im Lặng (Silent Watcher) và cái Bóng
của Ngài trở nên mạnh mẽ hơn và chói sáng hơn
mỗi khi có sự thay đổi (luân hồi)(11) Ánh sáng
mặt trời ban mai trở thành ánh nắng rực rỡ
giữa trưa…
Ngọn Lửa bảo với Đốm
Lửa rằng – đây là bánh xe hiện tại của
ngươi. Ngươi chính là ta, là h́nh ảnh và cái bóng ta.
Ở nơi bản thể ngươi, ta đă tự khoác
áo lên ḿnh và người là vận cụ của ta cho
đến ngày “Được hợp nhất với Thượng
Đế”, khi ngươi sẽ lại trở thành chính ta
và những kẻ khác, chính ngươi và ta (12)… Lúc đó
những Đấng Tạo Tác, sau khi đă khoác tấm áo đầu
tiên, giáng lâm xuống trái đất mát lạnh và cai trị
loài người (13) họ chính là các ngươi (14)…
QUYỂN II
107
MÔN NIÊN
ĐẠI HỌC TỐI CỔ, CÁC CHU KỲ, MÔN NHÂN
LOẠI HỌC
Facies
totius Universi, quamvis infinitis modis variet, manet tamen semper cadem.
(Tuy
luôn luôn thay đổi theo vô số đường lối,
bản chất của toàn thể vũ trụ luôn luôn
vẫn bất biến).
SPINOZA
ĐOẠN THÁNH
KINH
Cái (bánh xe) này chỉ lăn măi trong một
nửa Đại Kiếp Trường Tồn, sinh ra con
cháu; trước hết là khoáng chất – các đá mềm
về sau cứng lại; rồi đến thảo
mộc - những cây cứng rắn về sau mềm
đi; rồi những (côn trùng và loài vật) bé li ti hữu h́nh và vô h́nh chúng sinh sản ra và lan tràn, mỗi con theo
đường lối riêng và theo loại của nó. Khi
chúng lớn quá và nhiều quá th́ (Địa Cầu) làm chúng
rơi rụng khỏi lưng nó - một lần, hai
lần, nhiều lần… Rồi cái được nảy
sinh từ CÁI TRÍ (MIND-BORN), cái h́nh hài không xương (H́nh Hài
của các Đấng) truyền đời sống cho con
người đầu tiên được nảy sinh
từ cái trí, có những xương mềm… Con
người được sinh ra cách nào? Thoạt
đầu là ĐẤNG TỰ TỒN (DELF EXISTENT); rồi
Đấng Tự Sinh (Self-born) - những
người con của ư chí và Yoga; rồi đến con
người sinh ra từ MỒ HÔI (SWEAT-BORN), họ hăy c̣n
là một (bán thư bán hùng) khi họ nói – Chúng ta hăy sinh ra
những người con trai và con gái giống chúng ta, nhưng
với h́nh hài đông đặc (Massushya)([171])….
Rồi một biến thành hai.
[Quyển III B́nh luận
Thiền Định Chân Kinh].
[Trên đây là tất cả những ǵ
được nói ra trong bản thảo viết tay của
Những ĐOẠN THÁNH KINH trong Quyển II]
109
LỜI B̀NH LUẬN
VỀ BẢY ĐOẠN THÁNH KINH VÀ NHỮNG DANH
TỪ TRONG ĐÓ THEO SỐ THỨ TỰ TRONG NHỮNG
ĐOẠN KINH VÀ CÂU KINH.
ĐOẠN THÁNH KINH I
(STANZA I)
1. VỊ “PHỤ MẪU” TRƯỜNG
TỒN [KHÔNG GIAN] CUỘN M̀NH TRONG CÁC CHIẾC ÁO NGÀN
ĐỜI VÔ H̀NH (EVER-INVISIBLE ROBES), MỘT LẦN NỮA
LẠI NGỦ TRONG BẢY ĐẠI KIẾP TRƯỜNG
TỒN (SEVEN ETERNITIES).
Vị “Phụ Mẫu”, Không Gian, (The “Parent”,
Space) là Nguồn Cội của mọi sự, nó
trường tồn, luôn luôn hiện diện, là
THƯỢNG ĐẾ bất khả tri (incom-prehensible
DEITY); những “Tấm Áo Vô H́nh” (“Invisible Robes”) của Ngài
là Nguồn Cội thần bí của mọi Vật Chất
và của Vũ Trụ, Không Gian là thực thể trường tồn duy nhất mà
chúng ta có thể tưởng tượng một cách dễ
dàng nhất, trong trạng thái trừu tượng của
nó, nó không di chuyển và dù trong nó có hay không có một Vũ
Trụ hữu h́nh, th́ nó cũng không v́ thế mà bị
ảnh hưởng. Nó không có kích thước trong mọi
chiều hướng và nó tự tồn. Tinh thần và
sự biến hoá đầu tiên của CÁI ĐÓ (THAT),
Nguồn Cội Vô Thuỷ của cả Tinh Thần
lẫn Vật Chất. Như đă được
truyền dạy trong sách Bổn Bí Giáo (Esoteric Catechism), nó
không phải là “sự trống rỗng vô bờ bến” (“limitless
void”) mà cũng không phải là “sự tràn đầy bị
hạn định” (“conditioned fulness”) nhưng nó là cả
hai thứ đó. Xưa kia đă có nó và sau này sẽ măi măi
có nó.
Vậy th́ những “Tấm Áo” có nghĩa là
thực thể Vật Chất trong Vũ Trụ, Vật
Chất này c̣n trinh nguyên. Đó không phải là vật
chất như ta thường biết, nhưng là cái tinh hoa
thiêng liêng của vật chất, cũng trường
tồn như Không Gian và c̣n hợp nhất với Không Gian
trong ư nghĩa trừu tượng của nó. Thiên
Nhiên-Cội Rễ (Root-Nature) cũng là nguồn cội
của những đặc tính vô h́nh tế nhị của
vật chất hữu h́nh. Có thể nói rằng đó là
Linh Hồn của Tinh Thần Duy Nhất và Vô Cùng Tận
(One Infinite Spirit). Người Ấn Độ gọi nó là
Mulaprakriti và nói rằng đó là Thực Chất nguyên
thuỷ, Thực Chất này là nền tảng của Upadhi
hay Vận Cụ của mọi hiện tượng
thuộc về vật chất, tâm linh hoặc trí năo. Đó
là nguồn cội của Tiên Thiên Khí (Akasha).
“Bảy Đại Kiếp Trường
Tồn” (“Seven Eternities”) nghĩa là những thời gian
rất lâu dài. Danh từ “Trường Tồn” (“Eternity”)
theo quan niệm của Thần học Cơ Đốc, th́
vô nghĩa với người Á Châu, ngoại trừ khi
được áp dụng cho Đời Sống Duy
Nhất; danh từ “vô cùng tận” (“sempiternity”), nghĩa là
chỉ trường tồn trong tươnglai,
110
th́ cũng thế; sự dùng sai danh từ
quả thật là tai hại ([172]).
Những danh từ này không có và không thể có trong khoa siêu h́nh
học có tính cách triết lư và không được
người ta biết đến từ xưa cho măi
đến khi có Giáo Hội Cơ Đốc. Bảy
Đại Kiếp Trường Tồn nghĩa là bảy
thời gian hay một thời gian dài bằng bảy
thời gian của một Manvantara, dài suốt cả
một Mahakalpa (Đại Thiên Kiếp) hay “Thời Gian
Vĩ Đại” (100 năm của Brahma) tổng cộng
là 311.040.000.000.000 năm của ta; mỗi năm của
Brahma có 360 Ngày và 360 Đêm của Brahma (tính theo Chandrayana hay
âm lịch); và một Ngày của Brahma th́ có 4.320.000.000
năm của ta. Những Đại Kiếp Trường
Tồn này thuộc về các phép tính toán bí ẩn nhất,
trong đó mỗi con số phải là 7x nếu
muốn có tổng số đúng thực; mũ số x thay
đổi tuỳ theo bản tính của mỗi chu kỳ
trong cảnh giới chơn như hay cảnh giới
chủ quan; và mỗi con số th́ liên quan đến và
tượng trưng cho các chu kỳ khác nhau - từ cái
lớn nhất cho đến cái nhỏ nhất – trong
cảnh giới mộng ảo hay cảnh giới khách quan,
số đó dĩ nhiên phải là những bội số
của bảy. Người ta không thể đưa ra cái
ch́a khoá để hiểu rơ điều này, v́ trong đó có
sự bí mật của phép tính toán bí giáo và điều này
không có ư nghĩa ǵ đối với mục tiêu của phép
tính toán thông thường. Kinh
Bí giáo Do Thái (Kabalah) nói: “Số Bảy là số vĩ
đại của những Bí Mật Thiêng Liêng” số
mười là số của mọi kiến thức
trần gian (số mười của môn phái Pythagoras); 1.000
là số 10 với mũ số 3 (103 = 1.000), và v́
thế nên số 7.000 cũng có ư nghĩa tượng
trưng. Trong Giáo Lư Bí Truyền, con số và số 4 chỉ
tượng trưng cho dương tính trên cảnh giới
trừu tượng cao nhất; ở cảnh giới
hồng trần th́ số 3 có dương tính và số 4 có
âm tính - tức là hàng kẻ đứng ( ) và hàng kẻ nằm ( ) trong giai đoạn thứ
tư của biểu tượng học, khi những
biểu tượng trở thành những nét khắc
của năng lực sinh sản trong cảnh hồng trần.
2.
KHÔNG CÓ THỜI GIAN, V̀ THỜI GIAN NGỦ YÊN TRONG TRUNG TÂM VÔ
CÙNG TẬN CỦA SỰ TỒN TẠI.
“Thời Gian” chỉ là một ảo
tưởng phát sinh do sự tiếp diễn của các
trạng thái của tâm thức (consciousness) khi ta du hành xuyên
qua sự Tồn Tại Trường Tồn (Eternal
Duration); và ở chỗ nào không có tâm thức để phát
sinh ra ảo tưởng, th́ ở đó không có thời
gian, thời gian “ngủ yên”. Hiện Tại chỉ là
một hàng kẻ toán học ngăn cách cái phần của
sự Tồn Tại Trường Tồn mà ta gọi là
Tương Lai với phần mà ta gọi là Dĩ Văng. Không
có cái ǵ trên trái đất mà tồn tại thực sự
được v́ không có ǵ bất biến cả - hay là
cứ giống măi như lúc trước – trong một
phần ngh́n triệu của một giây đồng hồ;
và nếu chúng ta cảm thấy sự hiện tồn
của một Thời Gian được gọi là
Hiện Tại, th́ đó là v́ cái tia mắt thoáng nh́n tức
thời hay nhiều cái nh́n thoáng qua tiếp nối nhau cùng
với các đồ vật cảm nhận được
nhờ giác quan đă bị mờ đi, khi những
đồ vật ấy đi từ cảnh giới lư
tưởng, mà ta gọi là Tương Lai, đến
cảnh giới của kư ức, mà ta gọi là Dĩ Văng.
Cũng theo lối đó, chúng ta có một cảm giác
tồn tại khi một chớp nhoáng điện hiện
ra, v́ cảm giác in trên
111
vơng mô bị mờ đi và cứ tiếp
diễn. Một người thực sự th́ không phải
chỉ là cái h́nh ảnh mà ta nh́n thấy trong một lúc
đặc biệt nào đó, nhưng là tổng số các
trạng thái khác nhau và thay đổi từ khi người
ấy hay vật ấy hiện ra trong h́nh hài vật
chất cho đến khi tan biến khỏi trái
đất. Chính những “tổng số” này tồn tại
tự nơi trường tồn trong Tương Lai, và
lần lần đi xuyên qua vật chất để
tồn tại ở nơi trường tồn trong Dĩ
Văng. Không ai lại nói rằng, một thỏi kim khí
được liệng xuống biển th́ bắt
đầu sống khi nó rời bỏ vùng không khí và không
sống nữa khi nó rơi xuống nước và cả
thanh sắt chỉ là cái khoanh ngang đă bị cắt trong
một lúc nào đó, theo một đường đúng khít
với cái b́nh diện vốn vừa phân cách, vừa
nối liền vùng không khí với nước biển. Mà dù
người hay đồ vật đó, khi rơi từ
trạng thái “sẽ tồn tại” đến trạng thái
“đă tồn tại”, nhảy vọt từ Tương
Lai mà đi vào Dĩ Văng, th́ cũng đưa ra cho giác quan
ta cảm nhận thấy một thanh ngang bị cắt
của trọn vẹn thực thể của nó khi nó đi
xuyên qua Thời Gian và Không Gian (như là Vật Chất), khi
nó đi từ sự trường tồn này đến
sự trường tồn khác; cả hai sự
trường tồn đó làm thành sự Tồn Tại,
vốn chứa đựng cái Thực Thể hay
đời sống thực của mọi vật và giác quan
của chúng ta chỉ có thể nh́n nhận sự kiện
đó mà thôi.
3. KHÔNG CÓ ĐẠI TRÍ CỦA VŨ TRỤ
(UNIVERSAL MIND) V̀ KHI ĐÓ KHÔNG CÓ AH-HI ([173])
ĐỂ CHỨA ĐỰNG ĐẠI TRÍ ẤY ([174]).
“Thể Trí” (“Mind”) là một danh từ dùng
để chỉ định tổng số các Trạng
Thái Tâm Thức (States of Consciousness) liên quan đến Tư
Tưởng, Ư Chí và Cảm Xúc. Khi ta ngủ say, th́ các ư
nghĩ ngừng lại, không phát sinh ra ở cơi hồng
trần nữa, trí nhớ cũng ngừng lại, v́ trong
thời gian đó, cơ quan giúp Chân Nhân (Ego) biểu lộ
những ư niệm và trí nhớ trên cảnh hồng
trần, đă tạm thời ngừng nghỉ, không tác
động nữa. Một thực thể có thể
trở thành một hiện tượng trên bất cứ
cảnh giới nào của đời sống nếu
được nhờ một căn bản hay vận
cụ thích hợp mà tự biểu lộ; và trong Đêm dài
nghỉ ngơi mà người ta gọi là Pralaya, khi mọi
đời sống bị tan ră, “Đại Trí của
Vũ Trụ” vẫn tồn tại, hoặc với vai tṛ
là một khả năng trường tồn để tác
động trong cơi Trí, hoặc với vai tṛ Tư
tưởng tuyệt đối trừu tượng có
biểu lộ tương đối và cụ thể là Cái
Trí. Các vị Ah-Hi (Dhyan Chohans) (Thiền Định
Đế Quân) là các đoàn thể gồm các Đấng
thiêng liêng – các Thiên Thần của Cơ Đốc giáo, các
vị Elohim ([175])
và các “Thiên Sứ” (“Messengers”) của người Do Thái – các
Ngài là Vận Cụ để biểu lộ Tư
Tưởng và Ư Chí của Vũ Trụ hay của
Thượng Đế. Các Ngài là những Thần Lực
Sáng Suốt, ban hành và áp dụng những “Định
Luật” của Thiên Nhiên, rồi đến lượt các
Ngài, các Ngài cũng hành động theo đúng những
định luật mà các Đấng Cao Cả hơn đă
ban xuống một cách tương tự như trên;
nhưng các Ngài không phải là hiện thân của các Sức
Mạnh Thiên Nhiên, như người ta đă tưởng
lầm. Đẳng Cấp của các Đấng Thiêng Liêng
này, nhờ các Ngài nên Đại Trí của vũ trụ
mới tác động được - quả thật là
một đội quân – do đó mà lực lượng
chiến đấu của mỗi quốc gia có thể
tự biểu lộ, và gồm các quân đoàn, sư đoàn,
lữ đoàn, trung đoàn v.v… mỗi đoàn thể có
lối sống hay cá tính riêng của ḿnh, với sự
tự do hành động bị hạn định và
với những trách nhiệm có giới hạn; mỗi
đoàn thể được đặt dưới
một đoàn thể khác rộng lớn hơn; quyền
lợi của đoàn thể nhỏ phụ thuộc vào quyền
lợi của đoàn thể lớn và mỗi đoàn
thể lại bao gồm nhiều đoàn thể khác
nhỏ hơn.
112
4. KHÔNG CÓ BẢY CON ĐƯỜNG
DẪN ĐẾN CHÍ PHÚC (a) ([176]).
KHÔNG CÓ NHỮNG NGUYÊN NHÂN VĨ ĐẠI CỦA SỰ
KHỐN KHÓ ([177])
V̀ KHÔNG AI PHÁT SINH RA CHÚNG VÀ BỊ CHÚNG TRÓI BUỘC (b).
(a) Có “Bảy Con Đường” hay
“Đạo” để đi đến cơi “Chí Phúc” của
Vô Sinh tức là Thực Thể, Đời Sống và Tâm
Thức Tuyệt Đối. Thuở đó không có chúng v́
Vũ Trụ trống rỗng và chỉ có tư
tưởng của Thượng Đế mà thôi.
(b) V́ đó là … Thập Nhị Nhân Duyên (Twelve
Nidanas) hay Nguồn Cội của Đời Sống (Cause
of Being). Mỗi nguyên nhân là kết quả của nguyên nhân
trước và lại là nhân của cái kết quả sau;
tổng số các nguyên nhân được căn cứ trên
Tứ Diệu Đế, một giáo lư rất đặc
biệt của phái Tiểu Thừa (Hinayana System) ([178]).
Chúng thuộc về lư thuyết của ḍng định
luật tiếp nối nhau phát sinh ra công đức và
tội lỗi, và sau chót làm cho Luật Nhân Quả tác
động triệt để. Đó là một hệ
thống căn cứ trên cái triết lư cao siêu chủ
trương rằng sự luân hồi là một
điều đáng sợ, v́ đời sống ở cơi
hồng trần chỉ mang lại sự đau khổ
khốn khó, đau đớn cho con người, chính
sự chết cũng bất lực, không giải thoát
được con người, v́ sự chết chỉ là
một cái cửa dẫn con người đến một
kiếp sống khác trên trái đất sau một thời
kỳ nghỉ ngơi ngắn ngủi ở ngưỡng
cửa của nó - tại Devachan, cơi Thiên Đường.
Hệ thống Hinayana hay là Tiểu Thừa th́ rất
cổ xưa, c̣n Mahayana hay Đại Thừa th́ măi về
sau mới có và chỉ phát sinh sau khi Đức Phật
tịch diệt. Vậy mà, những giáo lư của
Đại Thừa cũng cổ xưa như những
ngọn đồi đă có từ đời rất xa
xưa, không ai nhớ lại được, và Tiểu
Thừa lẫn Đại Thừa thực ra đều
chung dạy một giáo lư. Yana là Vận Cụ (tiếng
Bắc Phạn gọi là Vahan) là một từ ngữ
thần bí; cả hai môn phái (Đại Thừa và Tiểu
Thừa) đều nhấn mạnh rằng con
người có thể tránh những đau khổ của
sự tái sinh và tránh cả cái hạnh phúc giả tạo
của cơi Devachan, nhờ hoạch đắc
được sự Minh Triết và Hiểu Biết;
chỉ có Minh Triết và Hiểu Biết (Wisdom and Knowledge)
là có thể làm tan những Quả của Ảo
Tưởng và Vô Minh (Illusion and Ignorance).
113
Maya hay là Ảo Tưởng (Maya or Illusion) là
một nguyên tố có trong mọi vật hữu hoại, v́
mọi vật hiện tồn chỉ có một thực
thể tương đối chớ không tuyệt
đối; c̣n có cái bề ngoài che giấu thực thể,
thay đổi tuỳ theo sức nhận xét và hiểu
biết của mỗi quan sát viên. Đối với con
mắt chưa được huấn luyện của
người bán khai th́ một bức họa chỉ là
những vết và những nét gạch, màu sắc lộn
xộn và vô nghĩa, c̣n con mắt của người trí
thức th́ nhận thấy ngay rằng đó là một
mặt người hay là một phong cảnh. Không có ǵ
trường tồn ngoại trừ Đời Sống
tuyệt đối, duy nhất và ẩn tàng, nó chứa
đựng bên trong nguồn cội của mọi thực
thể. Những đời sống trong mọi cảnh
giới, cho đến các vị Thiền Định
Đế Quân (Dhyan Chohan) cao cả nhất, th́ cũng
chỉ giống như những h́nh bóng do một chiếc
đèn thần chiếu rọi trên một màn ảnh không
màu sắc. Tuy nhiên, một cách tương đối,
mọi vật đều có thực thể, v́ kẻ
nhận biết cũng là một cái bóng, một sự
phản chiếu và do đó những sự vật mà y
nhận biết đều là có thật đối với
y, cũng giống như chính bản thân y vậy. Liệu
các sự vật có thực thể đến đâu, th́ ta
cũng nên coi thực thể đó - trước và sau
sự vật tồn tại – như là một tia chớp
nhoáng xuyên qua cảnh hồng trần v́ chúng ta không thể
nhận biết các đời sống ấy một cách
trực tiếp khi ta c̣n có các dụng cụ giác quan, chúng
chỉ có thể làm cho ta tri thức được
đời sống vật chất mà thôi. Dù tâm thức ta
hoạt động trên cảnh giới nào, th́ trong thời
gian đó, cả ta lẫn những sự vật thuộc
cảnh giới ấy đều là những thực
thể duy nhất đối với ta. Nhưng khi ta
tiến lên nấc thang tiến hoá, ta nhận thấy
rằng trong những giai đoạn mà ta vừa trải
qua, chúng ta đă tưởng lầm những cái bóng là
những thực thể, và sự tiến hoá của
một Chơn Nhơn là những sự thức tỉnh
liên tiếp ngày càng cao, mỗi bước tiến lên
lại mang theo ư niệm nghĩ rằng giờ đây ta
mới đạt được “chân lư”; nhưng chỉ
khi nào ta đạt được cái Tâm Thức tuyệt
đối (absolute Consciousness), và hợp nhất tâm thức
của ta vào đó, th́ ta mới thoát khỏi những
sự gạt gẫm của Ảo Tưởng.
5. CHỈ CÓ BÓNG TỐI TRÀN ĐẦY TRÊN
ĐẠI THỂ VÔ BIÊN GIỚI (a), V̀ CHA, MẸ VÀ CON
ĐĂ HỢP NHẤT THÊM MỘT LẦN NỮA VÀ CON
CHƯA THỨC TỈNH ĐỂ BÁNH XE MỚI MẺ ([179])XOAY
CHUYỂN VÀ ĐỂ LẠI TIẾP TỤC CUỘC HÀNH
HƯƠNG TRÊN ĐÓ (b):
(a). “Bóng Tối
là Cha Mẹ: ánh sáng là Con”, một câu cách ngôn cổ
xưa của phương Đông nói như vậy.
Người ta không thể quan niệm được ánh
sáng, trừ khi nó phát sinh từ một nguồn cội
tức là duyên do của ánh sáng; và trong trường hợp
Ánh Sáng Nguyên Thuỷ (Primordial Light), v́ người ta không
biết được nguồn cội này, (tuy lẽ
phải và luận lư đ̣i hỏi muốn biết), nên
chúng ta gọi nguồn cội ấy là “Bóng Tối”, căn
cứ trên một quan niệm thuộc lư trí. C̣n về
phần ánh sáng phụ thuộc được vay mượn
ở chỗ khác, th́ mặc dù nguồn cội nó là ǵ, nó
chỉ có một đặc tính ảo tưởng nhất
thời mà thôi. V́ vậy, Bóng Tối là cái Khuôn Trường
Tồn (Eternal Matrix), trong đó những Nguồn Cội
của Ánh Sáng hiện ra và biến đi. Không có ǵ
được thêm vào bóng tối để khiến cho nó
biến thành ánh sáng, và không có ǵ được thêm vào ánh
sáng để khiến nó biến thành bóng tối ở
cảnh giới của chúng ta. Ánh sáng và bóng tối có
thể đổi chỗ cho nhau; và theo khoa học th́ ánh
sáng chỉ là một trạng thái của bóng tối và ngược lại. Tuy nhiên,
cả hai đều là những hiện tượng
của một thực thể duy nhất – đó là bóng
tối tuyệt đối đối với đầu óc
khoa học, nhưng lại là ánh sáng lờ mờ
đối với con mắt của nhà thần bí b́nh
thường; c̣n đối với con mắt thiêng liêng
của người được Điểm Đạo,
th́ nó là ánh sáng tuyệt đối. Đến mức
độ nào chúng ta có thể phân biệt cái ánh sáng
chiếu rọi trong bóng tối? Điều này tuỳ
thuộc năng lực nh́n xa nh́n rộng của chúng ta. Cái
vốn là ánh sáng đối với chúng ta lại là bóng
tối đối với một số côn trùng và con
mắt của người có thần nhăn nh́n thấy ánh
sáng chói chang khi con mắt của người thường
chỉ nh́n thấy bóng tối mà thôi. Khi toàn thể Vũ
Trụ đắm ḿnh trong giấc ngủ - trở về
với nguyên tố căn bản duy nhất của nó – th́
không có trung tâm sáng chói, không có con mắt nào để nh́n thấy
ánh sáng, và dĩ nhiên là bóng tối tràn đầy trên
“Đại Thể Vô Biên Giới” (“Boundless All”).
114
(b). “Cha Mẹ” là nguyên lư âm và dương
của Thiên Nhiên Cội Rễ, là những cực
đối nhau, tự biểu lộ trong mọi vật
ở mọi cảnh giới trong Vũ Trụ - hay Tinh Thần
và Thực Chất, nói như vậy để
được rơ ràng hơn, và kết quả của
điều này là Vũ Trụ hay “người Con”. Họ
được hợp nhất thêm một lần nữa
trong thời kỳ Pralaya, trong Đêm của Brahma, khi toàn
thể Vũ Trụ hữu h́nh tan ră để trở
lại với cái căn nguyên trường tồn chủ
yếu duy nhất, để lại hiện ra trong
buổi b́nh minh sau – theo từng chu kỳ, Karana – cái Căn
Nguyên Trường Tồn – th́ đơn độc một
ḿnh. Nói một cách rơ hơn th́ Karana đứng đơn
độc một ḿnh trong những Đêm của Brahma.
Vũ trụ hữu h́nh thời trước đă tan ră
trong cái Căn Nguyên trường tồn, chủ yếu và
duy nhất của nó, và người ta có thể nói vũ
trụ bị pha loăng trong Không Gian, để rồi
lại được biến hoá và kết tinh lại trong
buổi b́nh minh của Đại Kiếp Sau (Manvantaric
Dawn), đó là sự khởi đầu của một ngày
mới hay một sự hoạt động mới của
Brahma – đó là dấu hiệu tượng trưng của
Vũ Trụ. Nói theo lối bí giáo, th́ Brahma là Cha-Mẹ-Con
(Father-Mother-Son), hay vừa là Tinh Thần, Linh Hồn,
vừa là H́nh Thể; mỗi Ngôi là tượng trưng cho
một đặc tính, và mỗi đặc tính hay
đức tính là một làn sóng có mức độ Hơi
Thở Thượng Đế được biến hoá
theo chu kỳ và theo sự tiến hoá, ly tâm và quy tâm. Theo ư
nghĩa vật chất nơi vũ trụ càn khôn, th́
đó là Vũ Trụ, Dăy Hành Tinh và Địa Cầu; theo ư
nghĩa thiêng liêng thuần khiết th́ đó là
Thượng Đế Huyền Vi (Unknown Deity), Chơn Linh
Hành Tinh (Planetary Spirit) và Con người (Man) - người
con của cả hai, sinh linh làm bằng Tinh Thần và
Vật Chất, một biểu hiện của Tinh Thần
và Vật Chất, khi y đầu thai theo chu kỳ trên
Địa Cầu trong thời kỳ của các “Bánh Xe” hay
là trong những Đại Kiếp (Manvantara).
6. BẢY ĐẤNG TỐI CAO VÀ BẢY
CHÂN LƯ KHÔNG C̉N NỮA (a) VÀ VŨ TRỤ, ĐỨA CON
CỦA LẼ TẤT NHIÊN, ĐẮM M̀NH TRONG PARANISH-PANNA ([180])
(b) ĐỂ RỒI SẼ ĐƯỢC PHÓNG RA BỞI
CÁI G̀ VỪA CÓ THỰC THỂ, VỪA LÀ HƯ VÔ, THUỞ
ĐÓ, KHÔNG CÓ G̀ CẢ (c).
115
(a) “Bảy Đấng Tối Cao” (“Seven Sublime
Lords”) là Bảy Đấng Thiêng Liêng Sáng Tạo (Seven Creative
Spirits), các vị Thiền Định Đế Quân (Dhyan
Chohan) tương đương với các vị Elohim
của Do Thái giáo. Đó là đẳng cấp Đại
Thiên Thần (Hierarchy of Archangels), trong đó có Thánh Michael,
Thánh Gabriel và các vị Thánh khác trong khoa siêu thần học
Cơ Đốc. Theo khoa thần học La Tinh độc
đoán th́ chỉ riêng Thánh Michael là được trông coi
mọi mũi đất và vịnh xung quanh biển,
nhưng theo Giáo Lư Bí Nhiệm th́ các vị Dhyani trông coi liên
tiếp một cuộc Tuần Hoàn ([181]),
và những giống dân chính của Dăy Hành Tinh chúng ta. Hơn
thế nữa, người ta nói riêng các Ngài gởi các
vị Bồ Tát (Bodhisattva) xuống trần, các vị
Bồ Tát đó là các hoá thân của các vị Dhyani Buddha
(Thiền Định Phật) trong mỗi Ṿng tiến hoá và
trong mỗi Giống dân chính. Trong số “Bảy Chân Lư” (“Seven
Truths”) hay Thiên Khải (Revelation) hay là những điều
bí mật được tiết lộ, chúng ta mới
biết được có bốn điều, v́ chúng ta
đang ở trong cuộc Tuần Hoàn Thứ Tư (Fourth
Round), và thế gian mới chỉ có được bốn
vị Phật, như ta đă thấy. Đây là vấn
đề rất khó hiểu và sẽ được
giảng giải rộng thêm sau này.
Những Phật Tử và những
người Ấn Độ nói: “Chỉ có Bốn Chân Lư và
Bốn Kinh Phệ Đà thôi”. Cũng v́ lư do tương
tự mà ông Irenaeus nhấn mạnh về lẽ
đương nhiên cần có Bốn kinh Phúc Âm (Four Gospels).
Và v́ mỗi Giống dân chánh mới, đứng đầu
ở một cuộc Tuần Hoàn, phải có những nhà
tiên tri riêng cùng với những điều thiên khải
riêng, cho nên cuộc Tuần Hoàn sau sẽ đưa ra kinh
Phúc Âm thứ Sáu v…v…
(b) “Paranishpanna” là sự Toàn Thiện Toàn
Mỹ Tuyệt Đối (Absolute Perfection) mà mọi
Đời Sống đạt được, khi một
thời gian hoạt động rất lâu hay Tối
Đại Kiếp (Mahamanvantara) được chấm
dứt, nhưng đời sống ấy yên nghỉ
nơi Paranishpanna suốt một thời kỳ nghỉ
ngơi kế tiếp. Theo tiếng Tây Tạng th́ đó là
“Yong- Grub”. Từ xưa cho đến thời kỳ
của môn phái Yogacharya (pháp môn Yoga Bí giáo), cái tính chất
thực sự của Đại Niết Bàn (Paranirvana)
được truyền dạy một cách công khai,
nhưng từ đó trở đi, giáo lư này hoàn toàn trở
thành bí truyền, v́ thế, nên có rất nhiều sự
giảng giải mâu thuẫn về nó. Chỉ ai là
người lư tưởng nhiệt thành mới hiểu
được nó. Phải nh́n xét mọi vật theo khía
cạnh lư tưởng nhất, ngoại trừ cảnh
Đại Niết Bàn, nếu ta muốn thông hiểu
trạng thái đó và thấu đạt được
rằng, do cách nào mà Vô Ngă (Non-Ego), sự Trống Rỗng
(Voidness) và Bóng Tối (Darkness), Ba cái được nhập
thành Một để tự tồn Một ḿnh và trở
nên toàn thiện, toàn mỹ. Tuy nhiên, nó chỉ tuyệt
đối theo một ư nghĩa tương đối mà
thôi, v́ nó phải để dành chỗ cho một sự toàn
thiện toàn mỹ tuyệt đối hơn, theo một
tiêu chuẩn thiện mỹ cao hơn trong một thời
kỳ hoạt động kế tiếp – cũng giống
như một bông hoa hoàn toàn phải chết đi, không c̣n
là một bông hoa trọn vẹn nữa, để biến
thành một trái cây hoàn toàn, nếu ta có thể so sánh như
thế được.
Giáo Lư Bí Nhiệm giảng giải về
sự phát triển dần dần của mọi vật,
từ các thế giới, cho đến các nguyên tử; và
người ta không thể quan niệm hay tưởng
tượng được lúc khởi đầu hay khi
kết thúc của sự phát triển kỳ lạ này.
“Vũ Trụ” của chúng ta chỉ là một trong vô số
Vũ Trụ khác, tất cả đều là “Những Người
Con của Lẽ Tất Nhiên” (“Son of Necessity”), v́ tất
cả đều là những sợi dây nối buộc trong
cái xâu chuỗi Càn Khôn vĩ đại, mỗi Vũ
Trụ là một hậu quả của Vũ Trụ
trước và là nguyên nhân của Vũ Trụ sau.
Người ta miêu tả Vũ Trụ
hiện ra và biến đi như là sự thở ra và hít
vào của “Hơi Thở Vĩ Đại” (“Great Breath”)
trường tồn và v́ là sự Luân Chuyển, nên nó là
một trong ba biểu tượng của Tuyệt
Đối Không Gian trừu tượng và sự Tồn
Tại là hai biểu tượng c̣n lại. Khi Hơi
Thở Vĩ Đại được phóng ra,
người ta gọi nó là Hơi Thở Thiêng Liêng và
được coi như là Hơi Thở của
Thượng Đế Bất Khả Tri (Unknowable Deity) -
Đời Sống Duy Nhất (the One Existence) – Ngài phóng ra
một tư tưởng và tư tưởng này trở
thành ngay một Vũ Trụ. Và cũng giống như
thể, khi Hơi Thở Thiêng Liêng hít vào, Vũ Trụ tan
biến đi trong ḷng Mẹ Vĩ Đại lúc đó
đang cuộn ḿnh ngủ yên “trong những Tấm Áo Ngàn
Đời Vô H́nh” (“Ever-Invisible Robes”).
116
(c) “Vừa có thực thể, vừa là
hư vô” muốn nói chính cái Hơi Thở Vĩ Đại
ấy mà chúng ta chỉ có thể nói đến như là
Đời Sống Tuyệt Đối, nhưng không
thể miêu tả cho trí tưởng tượng của
chúng ta biết được dưới một h́nh
thức nào của Sự Sống để ta có thể phân
biệt với trạng thái Vô Sinh (Non-Existence). Theo triết
lư bí giáo th́ ba thời kỳ: Hiện Tại, Dĩ Văng và
Tương Lai là một thời gian phức hợp và
cả ba đều là một số phức hợp,
chỉ liên quan đến cảnh giới hữu h́nh và
không có hiệu lực trừu tượng trên cảnh
giới nguyên thể. Như các Thánh kinh đă nói: “Dĩ Văng
là Hiện Tại mà cũng là Tương Lai nữa, tuy
Tương Lai chưa hiện hữu mà đă có thực
thể rồi”. Đúng với lời dạy của
Phật Giáo Tây Tạng, những tín điều của môn
phái này đă thường được người ta
biết đến từ khi nó rời bỏ những môn
phái thuần tuư bí truyền ([182])
để đi lạc lơng khắp nơi. Nói tóm lại,
những ư niệm của chúng ta về sự tồn tại
và thời gian đều tuỳ thuộc vào những
cảm xúc của chúng ta tuỳ theo những định
luật của sự liên tưởng. Tuy được
buộc chặt khăng khít với kiến thức
tương đối của con người, những ư
niệm này không sao có thực thể, ngoại trừ trong
kinh nghiệm cá nhân và sẽ chết đi khi tiến hoá lên
cao và làm tan ră Ảo Tưởng của Đời Sống
hữu h́nh. Vậy th́ thời gian là ǵ, nếu không phải
là sự liên tiếp tổng quát những trạng thái
của tâm thức ta? Một Chân Sư đă nói: “Ta cảm
thấy không bằng ḷng v́ phải dùng đến ba danh
từ vụng về - Dĩ Văng, Hiện Tại và
Tương Lai – đó là những quan niệm tồi tệ
về các giai đoạn khách quan của đại thể
chủ quan, những danh từ này dường như không
thích hợp để đạt mục tiêu, giống
như cái búa không thích hợp với việc chạm trổ
tinh vi”. Ta phải hoạch đắc Chân Lư Tối Cao
(Paramartha), nếu không th́ ta sẽ dễ dàng sa vào cạm
bẫy của Samvriti (sự sai lầm phù du và ảo
tưởng) – đó là một ngạn ngữ có tính cách
triết lư ([183]).
7. KHÔNG CÓ NHỮNG CĂN NGUYÊN CỦA SỰ
SỐNG (a). CÁI HỮU H̀NH THUỞ TRƯỚC VÀ CÁI VÔ H̀NH THUỞ
ĐÓ ĐỀU NGHỈ NGƠI TRONG CƠI HƯ VÔ
TRƯỜNG TỒN - TỨC LÀ THỰC THỂ DUY NHẤT
(b).
117
(a) “Những Căn Nguyên Sự Sống” (“The
Cause of Existence”) không những có nghĩa là những căn
nguyên vật chất mà khoa học đă biết, mà c̣n là
những căn nguyên siêu h́nh, căn nguyên chính đại là
ḷng ham sống, một sản phẩm Nhân Duyên và Ảo
Tưởng (Nidana and Maya). Ḷng khao khát sống một
đời sống nhạy cảm tự biểu lộ ở
mọi vật, từ một nguyên tử cho đến
một mặt trời, và đó là bóng dáng của Tư
Tưởng của Thượng Đế được
phóng vào đời sống hữu h́nh để thành
một định luật muốn rằng phải có
Vũ Trụ. Theo giáo lư bí truyền, cái căn nguyên thực
sự của ḷng khao khát đó và của mọi đời
sống th́ luôn luôn được giấu kín, và khi nó
toả ra lần đầu tiên, th́ đó là những sự
trừu tượng triệt để mà trí con
người không thể hiểu được. Dĩ
nhiên, những điều trừu tượng này phải
được xem như là căn nguyên của Vũ
Trụ hữu h́nh mà giác quan và trí khôn nhận biết
được và phải đứng ở phía sau những
mănh lực thứ yếu phụ thuộc của Thiên Nhiên,
những thần lực này đă được quần
chúng của mọi thời đại nhân cách hoá, và thờ
phượng như là những “Thượng Đế” (“God”)
và các “Thần Minh” (“gods”). Không sao có thể quan niệm
rằng một vật vô căn nguyên, nếu ta rán tin
như thế th́ trí ta sẽ bị trống rỗng.
Sự trống rỗng này là trạng thái tất nhiên của
trí ta lúc sau chót, khi ta cố gắng đi ngược ḍng
mà t́m kiếm chuỗi dây nhân quả, nhưng cả khoa
học lẫn tôn giáo cũng đă lanh lẹ nhảy
vội ngay vào trạng thái trống rỗng này, v́ cả hai
đều không biết những điều trừu
tượng siêu h́nh đó là những căn nguyên duy
nhất có thể quan niệm được, phát sinh ra các
hiện tượng vật chất. Những điều
trừu tượng này càng ngày càng trở nên cụ thể
khi chúng tiến gần đến cảnh giới
đời sống của chúng ta, cho tới khi, sau chót,
chúng trở thành những hiện tượng, dưới
h́nh thể của những Vũ Trụ hữu h́nh, do
một phương pháp vốn chuyển biến khoa siêu
h́nh học thành vật lư học. giống như khi hơi
nước được cô đọng lại thành
nước, và nước đông đặc lại thành
nước đá.
(b). Ư niệm về cái “Hư Vô
Trường Tồn” (“Eternal Non-Being”) tức là “Thực
Thể Duy Nhất” (“One Being”) dường như là một
điều mâu thuẫn phi lư đối với ai không
nhớ rằng chúng ta hạn định những ư
niệm của ta về Sự Sống, về Thực
Thể, nội trong cái tâm thức hiện hữu của
chúng ta, khiến nó trở thành một danh từ đặc
biệt, thay v́ một danh từ chỉ định
chủng loại. Nếu một hài nhi hăy c̣n ở trong
bụng mẹ mà có thể suy nghĩ được như
ta thường quan niệm, th́ dĩ nhiên nó sẽ theo
một đường lối tương tự mà hạn
định cái ư niệm của nó về đời
sống nội trong phạm vi của đời sống nơi
tử cung, v́ nó chỉ biết có mỗi một lối
sống đó mà thôi, nếu nó cố gắng diễn
tả cái ư niệm về đời sống sau khi rời
bụng mẹ (đó là một sự chết đối
với đời sống trong tử cung) th́ v́ thiếu tài
liệu để làm căn cứ, và v́ thiếu năng
khiếu để hiểu các tài liệu đó, dĩ nhiên
nó sẽ nói rằng đời sống ngoài bụng mẹ
là “Hư Vô mà cũng là Đời Sống Thực Sự” (“Non-Being
which is Real Being”). Trong những trường hợp của
chúng ta, Đời Sống Duy Nhất là thực thể
của mọi thực thể, các thực thể này là
nền tảng của mọi hiện tượng, như
ta đă biết, và chúng truyền lại cho những
hiện tượng này một vẻ thực tại
nhiều hay ít, nhưng hiện giờ ta chưa có
đủ giác quan và tri thức để nh́n nhận
điều đó. Các nguyên tử nhỏ li ti của vàng
được chứa rải rác trong một tấn
quặng vàng; mắt người thợ mỏ không thể
nh́n thấy chúng được, vậy mà không những y
biết có vàng trong quặng, y c̣n biết chính những nguyên
tử vàng đó đă khiến cho khối quặng có giá
trị, và mối liên quan giữa vàng và quặng có thể
h́nh dung được phần nào sự liên quan giữa
thực thể và hiện tượng. Người thợ
mỏ biết rằng, khi được gạn lọc và
rút ở quặng ra, th́ vàng sẽ đẹp như thế
nào, c̣n người thường th́ không sao có thể quan
niệm được cái thực tướng của
vật, nó không dính líu ǵ đến cái màn ảo
tưởng che phủ và chôn vùi nó. Chỉ riêng người
đă được điểm đạo có rất
nhiều kiến thức của biết bao thế hệ
tiền bối truyền lại, mới hướng “Con Mắt
của Dangma” (“Eye of Dangma”)([184])
vào chất tinh hoa của sự vật: Ảo Tưởng
không sao có thể ảnh hưởng đến chất
tinh hoa này. Chính ở nơi đây, những giáo lư của
Triết Học Bí Truyền liên quan đến Thập
Nhị Nhân Duyên (Nidanas) và Tứ Diệu Đế trở
nên hết sức quan trọng; nhưng đó là những
giáo lư mật.
118
8. ĐƠN ĐỘC, H̀NH HÀI DUY
NHẤT CỦA SỰ SỐNG (a) LAN TRÀN VÔ BIÊN GIỚI, VÔ
CÙNG TẬN, VÔ THỦY, TRONG GIẤC NGỦ KHÔNG MỘNG
MỊ (b); VÀ ĐỜI SỐNG VÔ TRI THỨC ĐẬP
NHỊP TRONG KHÔNG GIAN VŨ TRỤ SUỐT MỘT THỜI
GIAN ĐẠI THỂ HIỆN DIỆN MÀ CON MẮT GIÁC
NGỘ CỦA DANGMA ([185])
CẢM THẤY ĐƯỢC.
(a) Tư tưởng hiện thời có xu
hướng quay về ư niệm cổ xưa, cho rằng
những sự vật bề ngoài rất khác nhau, lại có
một nền tảng đồng nhất - sự
đồng nhất phát sinh sự dị biệt. Các nhà sinh
vật học hiện đang t́m kiếm nguyên h́nh chất
(Protoplasm) đồng nhất của họ, trong khi khoa
học t́m kiếm cái mănh lực nào, khi được
biến hoá, th́ phát sinh ra điện lực, từ lực,
nhiệt độ v..v… Giáo Lư Bí Truyền mang ư niệm này
vào lănh vực siêu h́nh học và giả định là có
“Một H́nh Thức Duy Nhất của Đời Sống”
(“One Form of Existence”), đó là nền tảng và căn nguyên
của vạn vật. Nhưng có lẽ từ ngữ
“Một H́nh Thức Duy Nhất của Đời Sống”
không được thích đáng. Danh từ Bắc Phạn
là Prabhavapyaya, “nơi chốn (hay cảnh giới) của
căn nguyên trong đó mọi vật được kết
thúc”, như một lời b́nh luận đă nói. Đó không
phải là “Mẹ của Thế Gian” như ông Wilson([186])
dịch, v́ như ông Fitzedward Hall đă chứng minh Jagad Yoni
không phải thật là “Mẹ của Thế Gian” (“Mother of
World”) hay là “Tử Cung chứa đựng Thế Gian” (“Womb
of the World”)([187]),
mà là “Căn Nguyên Vật Chất của Thế Gian” (“Material
Cause of the World”). Các nhà b́nh luận kinh Purana giải nghĩa đó là Karana, “Căn Nguyên”,
nhưng Triết lư bí giáo th́ lại giải nghĩa đó
là cái tinh thần lư
tưởng của căn nguyên ấy. Trong giai
đoạn thứ yếu của nó th́ đó là Svabhavat
của triết gia Phật giáo, Nhân và Quả Trường
Tồn, hiện diện khắp nơi nhưng trừu tượng,
đó là Nguyên thể và Cội Rễ mềm dẻo và
tự tồn của vạn vật, được quan
niệm dưới một góc cạnh nhị nguyên,
giống như người theo môn phái Vedanta nhận xét
về Parabrahman và Mulaprakriti vậy, một thực thể
duy nhất có hai khía cạnh. Dường như thật là
kỳ lạ khi thấy các học giả uyên thâm nghiên
cứu về khả năng của học thuyết Vedanta
và nhất là của học thuyết Uttara Mimamsa, lại cho
rằng những học thuyết đó được phát
sinh từ các giáo lư Phật giáo, nhưng thực ra, sự
thực trái ngược hẳn; chính Phật giáo, giáo lư
của Đức Phật Gautama đă được phát
sinh và hoàn toàn xây dựng căn cứ trên các nguyên lư của
Giáo Lư Bí Nhiệm, ở nơi đây, người ta
đang cố gắng phác hoạ một phần nào giáo lư
đó, chính Thánh kinh Upanishads
cũng được căn cứ trên
119
Giáo Lư Bí Nhiệm này ([188]).
Theo những giáo lư của Shri Shankaracharya th́ người ta
không sao phủ nhận được lời tranh luận
này của chúng tôi ([189]).
(b) “Giấc Ngủ Không Mộng Mị” (“Dreamless
Sleep”) là một trong bảy trạng thái của tâm thức
theo Giáo Lư Đông phương. Trong mỗi thành phần này,
mỗi thành phần khác nhau của cái trí lại tác
động, hay nói theo môn phái Vedanta, th́ cá nhân nhận
thức được mỗi cảnh giới khác nhau
của bản thể ḿnh. Trong trường hợp này, danh
từ “Giấc Ngủ Không Mộng Mị” được
áp dụng một cách tượng trưng cho Vũ Trụ
để diễn tả một trạng thái tương
tự giống như trạng thái tâm thức con
người; khi y đă thức tỉnh, y không nhớ
được trạng thái đó, nên dường như
đó là một sự trống rỗng, giống như
giấc ngủ của một người bị thôi miên;
khi trở lại trạng thái b́nh thường, y thấy
trong ḷng có một khoảng trống vô ư thức, mặc dù
y đă nói năng, hành động như người
tỉnh táo.
9. NHƯNG DANGMA Ở ĐÂU KHI LINH HỒN
(ALAYA) CỦA VŨ TRỤ ([190])
Ở PARAMARTHA (a)([191])
VÀ KHI BÁNH XE LỚN LÀ ĐẤNG VÔ PHỤ MẪU (ANUPADAKA)
(b)?
(a) Nơi đây, chúng ta đề cập
đến đề tài của sự tranh luận theo
triết lư kinh viện (scholastic disputation) ([192])
trong hàng bao thế kỷ. Hơn mọi danh từ thần
bí nào khác, hai danh từ “Alaya” và “Paramartha” đă là lư do
để các môn phái chia rẽ nhau và chia cắt chân lư thành
nhiều khía cạnh khác nhau. Alaya là Linh Hồn của
thế gian hay là Anima Mundi - Đại Hồn của Emerson
(the Over-Soul of Emerson)- theo giáo lư bí truyền th́ hồn này thay
đổi bản chất tuỳ theo các chu kỳ. Tuy nó
trường tồn và bất biến trong cái tinh hoa
nội tâm của nó trên những cảnh giới cao siêu mà
con người hay các vị thần minh trong vũ trụ
(các vị Thiền Định Phật - Dhyani Buddhas)
cũng không lên tới được. Alaya vẫn thay
đổi trong thời kỳ hoạt động ở
những cảnh giới thấp bao gồm các cảnh
giới của chúng ta. Trong thời gian đó, không những
các vị Thiền Định Phật được
hợp nhất Alaya nơi Linh Hồn và Yếu Tính,
nhưng cả con người giỏi về môn Yoga (Tham
Thiền Thần Bí - Mystic Meditation) “cũng có thể
hợp nhất linh hồn ḿnh với Alaya” như
Đức Aryasanga của môn phái Yogacharya đă nói. Đó
không phải là Niết Bàn, mà là một trạng thái gần
với Niết Bàn. Do đó có sự bất đồng ư
kiến. Trong khi môn phái
120
Yogacharya của Đại Thừa nói rằng
Alaya (Nyingpo và Tsang, nói theo tiếng Tây Tạng) là hiện
thân của sự trống rỗng, nhưng Alaya cũng là
nền tảng của mọi vật hữu h́nh và vô h́nh,
và mặc dù Alaya trường tồn và bất biến trong
yếu tính của nó, nó vẫn tự phản chiếu trong
vạn vật Vũ Trụ “giống như mặt
trăng soi trên mặt nước trong suốt và êm ả”;
các môn phái khác tranh luận lời tuyên bố này. Đối
với danh từ Parahmartha cũng vậy. Môn phái Yogacharya
cho rằng danh từ này nghĩa là điều phải
tuỳ thuộc các vật khác (paratantra),
và môn phái Madhyamikas nói rằng Paramartha bị hạn
định cho tới Paranishpanna hay là sự Toàn Thiện
Toàn Mỹ tuyệt đối; nghĩa là trong khi tŕnh bày
“Hai Chân Lư” đó, trong số Bốn Chân Lư, môn phái trên
chủ trương rằng ở cơi hồng trần dù sao
cũng chỉ có Samvritysatya hay là Chân Lư tương
đối mà thôi và môn phái sau dạy rằng có Paramarthasatya,
Chân Lư Tuyệt Đối ([193]).
“Hỡi các vị hành khất (mendicants), không một vị
La Hán nào có thể hoạch đắc được toàn
tri (kiến thức tối cao) trước khi hợp
nhất với Đại Niết Bàn (Paranirvana). Parikalpita
và Paratantra là hai kẻ đại thù của vị ấy” ([194]).Parakalpita
(theo tiếng Tây Tạng th́ đó là Kuntag) là sự sai
lầm của những kẻ không đủ sức
để nhận thức được sự trống
rỗng và tính cách mộng ảo của vạn vật,
họ tưởng có những sự vật, nhưng
thực ra không có ǵ cả - thí dụ như Vô Ngă. Và
Paratantra là bất cứ điều ǵ chỉ tồn
tại nhờ vào một sự liên hệ phụ thuộc
hay nguyên nhân, khi căn nguyên của nó được
dời đi th́ nó tan ră ngay - thí dụ như ngọn
lửa của tim đèn. Nếu ta phá huỷ hay tắt
ngọn lửa đi, ánh sáng biến ngay.
Triết học bí truyền dạy rằng
vạn vật đều sống động và thức
tỉnh, nhưng tất cả mọi đời sống
và mọi tâm thức đều không giống đời
sống và tâm thức con người, cũng không giống
đời sống và tâm thức của loài vật nữa.
Chúng ta coi đời sống như là một H́nh Thức Sinh
Hoạt Duy Nhất được biểu lộ trong cái
được gọi là Vật Chất, hay trong cái mà ta
gọi là Tinh Thần, Linh Hồn và Vật Chất trong con
người do phân chia một cách lầm lạc. Vật
chất là Vận Cụ để Linh Hồn tự
biểu lộ trong cảnh hồng trần này, và ở
một cảnh giới cao hơn, Linh Hồn là một
Vận Cụ để Tinh Thần tự biểu lộ,
và ba cái đó là một Tam Thể được liên kết
với nhau nhờ Đời Sống thấm nhuần
của chúng. Cái ư niệm về Đời Sống Phổ
Quát (Universal Life) là một trong những quan niệm cổ
xưa, nay lại quay về với trí óc con người
trong thế kỷ này, đó là v́ trí óc con người đă
được giải thoát ra khỏi khoa thần học
chủ trương Thượng Đế có h́nh dáng
giống con người (anthropomorphic theology). Quả
thật, khoa học lấy làm măn nguyện khi vạch hay
nêu ra những giả thuyết về những dấu
vết của Đời Sống Phổ Quát (Universal Life),
nhưng khoa học chưa đủ gan dạ để
nói th́ thầm “Anima Mundi” ! Ư niệm về “sự sống
kết tinh” (“crystalline life) hiện nay rất quen thuộc
với khoa học đáng lẽ ra phải được
khám phá từ nửa thế kỷ trước. Hiện
nay, các nhà thảo mộc đang nghiên cứu về dây
thần kinh của các loại cây, không phải v́ họ
tỷ dụ rằng cây cối có thể cảm xúc và suy
nghĩ như loài vật , nhưng v́ họ nghĩ rằng
phải có một sự cấu tạo nào đó liên quan
về cơ năng với đời sống thảo
mộc, giống như các dây thần kinh có liên quan về
cơ năng với đời sống của động
vật, để giải nghĩa sự dinh dưỡng
và phát triển của cây cối. V́ cứ dùng măi những
danh từ suông như “động lực”, “năng lực”
rất có thể rồi khoa học sẽ không hiểu
được rằng những vật có chứa sự
sống th́ đều là những sinh vật, dù chúng là nguyên
tử hay hành tinh.
121 122
Độc giả có thể hỏi:
“Nhưng c̣n các Trường Bí Giáo ở ṿng trong th́ tin
tưởng như thế nào? Các “Phật giáo đồ”
Nội Môn (Esoteric “Buddhists”) có những
giáo lư ǵ để nói về đề tài này? Chúng tôi xin
trả lời rằng đối với họ, danh từ
Alaya có hai, và có đến ba ư nghĩa. Trong hệ thống
tư tưởng của môn phái Yogacharya thuộc
Đại Thừa trầm tư mặc tưởng, th́
Alaya vừa là Đại Hồn của Vũ Trụ, Anima
Mundi, vừa là Chơn Ngă của một vị Chơn Tiên
cao cả. “Ai giỏi về pháp môn Yoga th́ có thể lấy
ư chí, nhờ sự tham thiền mà làm cho Alaya (Linh Hồn)
của ḿnh nhập một với cái thực thể
của Đời Sống”. Đức Aryasanga,
người đối lập với Đức Nagarjuna ([195])
nói: “Alaya có một đời sống trường tồn
và tuyệt đối”. Theo một ư nghĩa, th́ đó là
Pradhana, được giải nghĩa trong kinh Vishnu Purana
như sau: “Các nhà hiền triết nổi tiếng nhất,
thường trịnh trọng gọi cái căn nguyên
chưa biến hoá là Pradhana, nền tảng nguyên thuỷ,
nó cũng là Prakriti tinh vi, nghĩa là trường tồn có
thực thể [hay bao gồm thực thể], vừa là
hư vô [hay bao gồm hư vô], hay giản dị là sự
diễn tiến mà thôi ([196]).
“Cái căn nguyên lộ liễu đồng đều
vừa là nhân, vừa là quả, mà những ai thấu
triệt những nguyên lư đầu tiên đều gọi
là Pradhana và Prakiti, là Đức Brahma bất khả tri
đứng trên vạn vật” ([197]),
nghĩa là Đức Brahma không thúc đẩy sự
tiến hoá hoặc sáng tạo ra cái ǵ cả, Ngài chỉ phô
bày nhiều khía cạnh khác nhau của sự tiến hoá,
một khía cạnh là Prakriti, đó là một cục
diện của Pradhana. Dù sao, “Prakriti” cũng là một danh
từ không xác đáng, và danh từ Alaya có ư nghĩa rơ
hơn, v́ Prakriti không phải là “Đức Brahma bất
khả tri”. Các học giả và những ai không
biết một chút ǵ về sự phổ quát của các
giáo lư Huyền linh từ nơi nguồn cội của các
giống dân, đă chối bỏ ư niệm về sự
“thiên khải căn bản”, đă đều lầm
lẫn khi họ giảng dạy rằng nếu
người ta biết đến Anima Mundi, Đời
Sống Duy Nhất hay Đại Hồn Vũ Trụ, th́
đó là nhờ ông Anaxagoras hay nhờ thời đại
của ông. Triết gia này đă tŕnh bày giáo lư một cách đơn
giản để chống đối với những quan
niệm quá duy vật của Democritus về sự tạo
lập vũ trụ, Democritus căncứ vào những nguyên
tử được thúc đẩy một cách mù quáng mà
tạo nên lư thuyết công truyền của ông ta. Tuy nhiên,
Anaxagoras ở Clazomenae cũng không phải là người sáng
lập ra giáo lư đó, ông chỉ là người truyền
giáo mà thôi, giống như Plato vậy. Cái ông gọi là Trí
Khôn của Thế Gian (Mundane Intelligence), Nous, cái nguyên lư theo
ông nghĩ đă được hoàn toàn tách rời, thoát
khỏi vật chất và hằng tác động theo
mục đích, th́ ở Ấn Độ từ bao thời
đại, trước năm 500 trước Thiên Chúa,
đă được gọi là sự Chuyển Động
(Motion), ĐỜI SỐNG DUY NHẤT (ONE LIFE) hay Jivatma.
Nhưng các triết
gia Aryan không bao giờ gắn cái đặc
tính hữu hạn là sự “suy nghĩ” ([198])
cho nguyên lư đó; theo quan điểm của họ th́ nguyên
lư này có tính cách vô cùng tận, vô hạn định.
Dĩ nhiên, điều này dẫn ta
đến “Tinh Thần Tối Cao” (“Supreme Spirit”) của ông
Hegel và của những triết gia Đức theo thuyết
Tiên nghiệm (Transcendentalists)- đây là một sự mâu
thuẫn có lẽ cần phải nói rơ ra. Các môn phái của
ông Schelling và Fichte đă rất bất đồng ư
kiến ngay từ quan niệm cổ xưa và căn
bản về nguyên lư tuyệt đối, và đă chỉ
phản chiếu một khía cạnh của ư niệm
căn bản của môn phái Vedanta thôi. Ngay cả
đến cái “Tinh Thần Tuyệt Đối (Absoluter
Geist) được von Hartmann tŕnh bày trong triết lư bi quan
“Vô Tri Thức” (“Unconscious”) của ông, có lẽ là một
bước tiến của sự suy luận Âu Châu,
tiến đến thật gần giáo lư Advaita của
Ấn Độ, thật chỉ c̣n có chút xíu nữa thôi.
Theo Hegel, cái “Vô Tri Thức” không bao giờ
đảm đương công việc vĩ đại và
khó nhọc là làm cho Vũ Trụ tiến hoá, ngoại
trừ với hy vọng sẽ đạt được
một sự Tự Tri (Self-Consciousness) minh bạch. Về
điều này, ta nên nhớ rằng khi dùng từ ngữ
“Vô Tri Thức” để chỉ Tinh Thần, tiếng Tinh
Thần này được những người Phiếm
Thần Âu Châu dùng như một tiếng tương
đương với Parabrahman, họ không gán cho từ
ngữ này ư nghĩa thông thường của nó. Từ
ngữ này được dùng chỉ v́ không có từ
ngữ nào xác đáng hơn để diễn tả một
sự bí mật thâm sâu.
Họ nói với chúng tôi rằng “Tâm Thức
Tuyệt Đối (Absolute Consciousness) luôn luôn đứng
sau các hiện tượng” được gọi là “vô tri
thức” v́ không có chứa đựng một ư niệm nào
về tư ngă, th́ vượt khỏi tầm hiểu
biết của con người. Con người v́ không
thể xây dựng được một quan niệm
thuần khiết, trừ khi nào phải sử dụng
đến những hiện tượng và kinh nghiệm, cho
nên y bất lực do chính nơi bản chất y và không
thể vén bức màn che phủ lên sự oai nghiêm của
Đấng Tuyệt Đối. Chỉ có cái Tinh Thần
giải thoát là hơi hiểu được lờ mờ
về bản chất của nguồn cội đă phát sinh
ra nó và sau này nó sẽ quay trở về. V́ đến
như các vị Dhyan Chohan cao nhất cũng chỉ đành
cúi đầu v́ không biết ǵ về sự bí mật kinh
khủng của tuyệt đối, và dù ở trong
trạng thái sống động và thức tỉnh tột
đỉnh đó – “cá nhân được hợp nhất
với đại tâm thức của vũ trụ”, nói theo
Fichte – th́ cái Hữu hạn vẫn không thể quan niệm
được cái Vô hạn, cái hữu hạn không thể
lấy mực độ của những kinh nghiệm riêng
của trí ḿnh mà áp dụng cho cái vô hạn, vậy th́
người ta tại sao lại có thể nói rằng Vô Tri
Thức và Tuyệt Đối có thể có một sự
khích động theo bản năng hay là một hy vọng
để đạt được sự Tự Tri minh
bạch? ([199])
Hơn thế nữa, một tín đồ Vedanta sẽ
không bao giờ chấp nhận ư niệm của Hegel, và
một nhà Huyền bí học sẽ nói rằng ư niệm này
hoàn toàn thích hợp với riêng Mahat ([200])-
cái Đại Trí của vũ trụ đă được
phóng chiếu lên thế giới hữu h́nh như là
trạng thái đầu tiên của Tuyệt Đối
Bất Biến – nhưng không bao giờ thích hợp với
tuyệt đối. Chúng ta đă học rằng “Tinh
Thần và Vật Chất hay là Purusha và Prakriti chỉ là hai
khía cạnh căn bản của Đấng Độc
Nhất Vô Nhị mà thôi”.
123
Nous, Cái Trí Khôn của Thế gian làm di
chuyển vật chất, Linh Hồn sống động có
sẵn trong mỗi nguyên tử được biểu
lộ nơi con người, ẩn tàng trong ḥn đá, th́ có
uy lực ở nhiều mức độ khác nhau, và cái ư
niệm Phiếm Thần về một Đại Thần
Thiêng Liêng (Spirit-Soul) thấm nhuần cả Thiên Nhiên, là
một quan niệm triết lư cổ xưa nhất.
Chất Archaeus không phải do ông Paracelsus hay học tṛ
của ông là Van Helmont khám phá, v́ chất Archaeus ấy là
“Dĩ Thái Cha” (“Father-Ether”), căn bản và nguyên cội
hữu h́nh của vô số hiện tượng của
đời sống – đă được ấn
định nơi chỗ. Tất cả vô số những
sự suy luận như thế chỉ là những biến
thể của một đề tài duy nhất mà âm thanh
chính đại đă được vang lên trong sự
tiết lộ căn bản này.
(b) Danh từ “Anupadaka”, vô phụ mẫu, hay
là vô tổ tiên, là một danh từ thần bí có nhiều
nghĩa trong triết học của chúng ta. Người ta
thường dùng danh từ này để chỉ các
Đấng Thiêng Liêng, các Thiền Định Đế
Quân hay các Thiền Định Phật. Một cách thần
bí, các Ngài tương đương với các vị
Phật Sống (human Buddhas) và Bồ Tát, thường
được gọi là Manushi Buddha, các Ngài cũng
được gọi là Anupadaka. một khi trọn vẹn
tư ngă (personality) được hợp nhất với
thể Thứ Sáu và Thứ Bảy của các Ngài, hay là
Atma-Buddhi và các Ngài đă có “Linh Hồn Kim Cương” (“Diamond-Souled)
(các Đấng Vajrasattvas ([201])
hay là Mahatma trọn vẹn). “Đấng Cao Cả Ẩn
Tàng” (“Sangbai Dag-po”), “Đấng đă được
hợp nhất với Tuyệt Đối”, th́ không thể
có phụ mẫu được, v́ Ngài là Đấng
Tự Tồn và được hợp nhất với cái
Tinh Thần Thiêng Liêng của Vũ Trụ (Svayam -bhu)([202]),
Svabhavat trong trạng thái cao siêu nhất. Sự bí mật
về Đẳng Cấp Anupadaka là một sự bí mật
thâm sâu, chót đỉnh của nó là Đại Hồn và Tinh
Thần thiêng liêng của Vũ Trụ, và cấp bậc
thấp nhất của nó là các vị Phật Sống, và
mỗi con người có linh hồn cũng là một
trạng thái Anupadaka tiềm tàng. V́ vậy – khi nói
đến Vũ Trụ trong cái trạng thái vô h́nh,
trường tồn và tuyệt đối của nó,
trước khi nó được các vị tạo tác nhào
nặn thành h́nh - người ta mới dùng đến
từ này, “Bánh Xe lớn [Vũ Trụ] là Anupadaka”.
ĐOẠN
THÁNH KINH 2
(STANZA
2)
124
1… CÁC VỊ TẠO TÁC, CÁC NGƯỜI CON CHÓI
SÁNG CỦA BUỔI B̀NH MINH CỦA ĐẠI KIẾP,
THUỞ ĐÓ TH̀ Ở ĐÂU (a)?... Ở TRONG SỰ
TỐI TĂM HUYỀN BÍ, TRONG AH-HI ([203])
PARANISHPANNA. CÁC VỊ SÁNG TẠO RA H̀NH HÀI ([204])
TỪ CƠI VÔ H̀NH ([205])
- NGUỒN CỘI CỦA THẾ GIAN – DEVAMATRI ([206])
VÀ SVABHAVAT NGHỈ NGƠI TRONG CƠI CHÍ PHÚC CỦA HƯ VÔ (b).
(a) “Các Vị Tạo Tác” (“Builder”), “Các
Người Con Chói Sáng của buổi B́nh Minh Đại
Kiếp” (“Sons of Manvantaric Dawn”) là những Đấng Sáng
Tạo thực sự ra Vũ Trụ; và trong giáo lư này,
vũ trụ chỉ có nghĩa là Hệ Thống Hành Tinh
của chúng ta; v́ các Ngài là kiến trúc sư của hệ
thống hành tinh này, cho nên người ta cũng gọi các
Ngài là “Những Vị Trông Coi” (“Watchers”) Bảy Bầu, theo
giáo lư công truyền đó là bảy bầu hành tinh, và theo giáo
lư bí truyền th́ đó cũng là bảy địa cầu
(hay trái cầu) của Dăy chúng ta. Trong câu mở đầu
của Đoạn Thánh Kinh I, khi đề cập
đến “Bảy Đại Kiếp Trường Tồn”
(“Seven Eternities”) th́ danh từ được áp dụng cho
một Mahakalpa hay “một Đời của Brahma” (“the [Great]
Age of Brahma”) (311.040.000.000.000 năm – LND) và cũng áp dụng
cho chu kỳ Qui Nguyên trong Thái Dương Hệ và cho sự
hồi sinh kế tiếp của Hệ Thống Hành Tinh
của chúng ta trên một cảnh giới cao hơn. Có
nhiều thời kỳ Hỗn Nguyên khác nhau (sự tan ră
của một vật hữu h́nh) như sẽ
được chứng minh sau này.
(b) Xin nhớ
rằng “Paranishpanna” là Summun
bonum ([207]) là
Tuyệt Đối, đồng nghĩa với Đại
Niết Bàn (Paranirvana). Không những đó là trạng thái
rốt ráo, tuyệt đỉnh, đó c̣n là trạng thái
chủ quan, không liên lạc với bất cứ việc ǵ
ngoại trừ Chân Lư Tuyệt Đối và Duy Nhất
(Paramarthasatya) trên cảnh giới riêng biệt của nó.
Đó là trạng thái khiến ta thưởng thức
được một cách xác đáng cái ư nghĩa trọn
vẹn của Hư Vô (Non- Being) đó chính là Thực
Thể Tuyệt Đối (Absolute Being) như đă
được giải nghĩa ở đoạn trên. Không
sớm th́ muộn, tất cả những ǵ dường như đang được tồn
tại, sẽ thực sự được ở trong
trạng thái Paranishpanna. Nhưng
có một sự khác nhau rơ rệt giữa đời
sống tri thức và vô tri thức. Trạng thái
Paranishpanna mà không có Paramartha tức là cái Tâm Thức tự
phân tách và hiểu lấy ḿnh (Svasamvedana) th́ không phải là
trạng thái chí phúc, đó chỉ là sự tiêu diệt trong
Bảy Đại Kiếp Trường Tồn. Cũng
giống như một cục sắt được
đặt dưới ánh nắng gay gắt của mặt
trời th́ sẽ bị nóng lên, nhưng nó không cảm
thấy hay thưởng thức được sức nóng
giống như con người. Chỉ khi nào “có một cái
trí sáng suốt, không bị Phàm Nhân làm cho tối tăm
đi, và khi nào hiểu được công đức
của vô số Đời Sống đang tự hiến
dâng cho Đại Thể [toàn thể Vũ Trụ nhạy
cảm và sống động], “th́ con người mới
cởi bỏ được đời sống cá nhân
để đắm ḿnh vào hợp nhất với
Tuyệt Đối ([208])
và tiếp tục hoàn toàn chiến thắng được
Paramartha.
2. …THUỞ ĐÓ, SỰ IM LẶNG Ở
ĐÂU? CÁC LỖ TAI ĐỂ CẢM NHẬN SỰ IM
LẶNG Ở ĐÂU? KHÔNG, THUỞ ĐÓ KHÔNG CÓ SỰ IM
LẶNG, CŨNG KHÔNG CÓ ÂM THANH (a); KHÔNG CÓ G̀ HẾT NGOẠI
TRỪ HƠI THỞ ([209])TRƯỜNG
TỒN KHÔNG NGỪNG NGHỈ, NÓ KHÔNG TỰ TRI
ĐƯỢC (b)
125
(a) Cái ư niệm chủ trương rằng
mọi vật có thể không c̣n tồn tại nữa mà
vẫn có THỰC THỂ, là ư niệm căn bản của
tâm lư học Đông phương. Dưới sự mâu
thuẫn bề ngoài về danh từ này, có một sự
thật trong Thiên Nhiên, điều quan trọng là cần
phải lấy cái trí mà thông hiểu nó chứ đừng
dùng danh từ mà tranh luận về nó. Một thí dụ
rất thông thường điển h́nh cho một sự
mâu thuẫn tương tự là sự phối hợp
của các hoá chất. Vấn đề t́m hiểu xem khinh
khí và dưỡng khí có mất đi không, khi chúng phối
hợp với nhau để tạo ra nước, là
một vấn đề có thể mang ra thảo luận
được; có người nói rằng, khi nước
bị phân tích th́ người ta lại t́m thấy khinh khí
và dưỡng khí; vậy hai thứ khí này từ
trước đến giờ vẫn c̣n đó; những
người khác th́ lại viện lẽ rằng v́ hai
thứ khí đó đă được biến đổi
thành một chất hoàn toàn khác hẳn, th́ trong lúc này, chúng
không c̣n là chúng nữa; nhưng không nhóm nào có thể hiểu
đôi chút về cái trạng thái đúng thật của
một vật, nó trở nên cái ǵ khác mà vẫn tiếp
tục là nó. Đối với dưỡng khí và khinh khí, th́
sống dưới h́nh thức của nước là ở
trong một trạng thái Hư Vô, người ta có thể
nói như vậy, trạng thái này là một “Thực Tại
đích thực hơn” là khi chúng sống dưới h́nh
thức của khí hơi; và điều này có thể
tượng trưng phần nào cho cái trạng thái của
Vũ Trụ khi nó ngủ hay không tồn tại nữa,
trong những Đêm của Brahma - để rồi lại
thức dậy và lại hiện ra, khi buổi b́nh minh
của Đại Kiếp mới lại làm cho vũ
trụ hồi sinh.
(b) Từ ngữ “Hơi Thở” của
một Đời Sống Duy Nhất được khoa Bí
Giáo Cổ Xưa dùng để chỉ định cái khía
cạnh thiêng liêng của sự tạo lập vũ
trụ, nếu không th́ người ta lại phải dùng
một danh từ tương đương của cơi
hồng trần - Sự Di Chuyển. Cái Nguyên Tố
Trường Tồn Duy Nhất (The One Eternal Element), hay cái
Vận Cụ chứa đựng nguyên tố, là vũ
trụ không có kích thước bất cứ theo chiều
hướng nào, cùng tồn tại với Thời Gian Vô
Tận, Vật Chất căn bản (và v́ vậy mà không
thể huỷ hoại được) và Sự Di
Chuyển Tuyệt Đối “Sự Di Chuyển Không
Ngừng” (“Perpetual Motion”), nó là “Hơi Thở” của Nguyên
Tố “Duy Nhất” (the “One” Element). Như ta đă thấy,
Hơi Thở này không bao giờ có thể ngừng nghỉ,
dù trong những thời kỳ Hỗn Nguyên Trường
Tồn (Pralayic Eternities) cũng vậy.
Nhưng dù sao th́ “Hơi Thở của
Đời Sống Duy Nhất” (“Breath of the One Existence”)
cũng không chỉ định cái Căn Nguyên Duy Nhất Vô Thuỷ (One Causeless Cause) hay
là “Đời Sống
của Đại Thể” (“All-Be-Ness”) đối lập
với Đại Thể (All-Being) tức là Brahma hay Vũ
Trụ. Brahma, vị Thượng Đế có bốn
mặt, sau khi đă nhắc trái đất lên khỏi
nước, sau khi “đă hoàn thành sự sáng tạo” đă
chỉ được coi như là một Dụng Cụ
chứ không phải là Căn Nguyên Lư Tưởng như
người ta đă nói rơ. Không có một độc giả
nghiên cứu văn khoa Đông phương (Orientalist) nào
đă có vẻ hoàn toàn thông hiểu ư nghĩa thực sự
của những câu thơ trong kinh Puranas khi đề cập đến sự “sáng
tạo”.
126
Trong kinh này, Brahma là căn nguyên của mọi
tiềm lực, chúng sẽ phát sinh sau này để làm cái
công việc “sáng tạo”. Chẳng hạn như trong kinh Vishnu Puranas ([210]),
đoạn văn dịch: “và ở Ngài có những
tiềm lực sẽ được tạo ra sau khi chúng
trở thành cái căn nguyên thiệt thọ”, có lẽ
sẽ đúng hơn nếu được dịch như
sau: “và ở cái Đó có những tiềm lực sau này chúng
sẽ tạo ra vũ
trụ khi chúng trở thành
căn nguyên thiệt thọ [trong cảnh hồng
trần]”. Ngoại trừ cái Căn Nguyên Lư Tưởng Duy
Nhất (Vô Thuỷ) đó th́ không c̣n căn nguyên nào khác liên
quan đến Vũ Trụ nữa. “Mỗi vật
đều được sáng tạo ra nhờ cái bản
chất riêng [hay là cố hữu] của nó, xuyên qua tiềm
lực nó, nghĩa là tiềm lực của căn nguyên
ấy – quư báu nhất trong các vị khổ tu”. “Nếu,
trong môn phái Vedanta và Nyaya, nimitta là
căn nguyên thiệt thọ, đối lập với upadana, căn nguyên hữu h́nh,
[th́] trong môn phái Sankhya, pradhana hàm
súc nhiệm vụ của cả hai danh từ trên”; trong
Triết Lư Bí Giáo, nó dung hoà một hệ thống – và cái
vận cụ gần đúng thực chất của
triết lư này là hệ thống Vedanta như các triết gia
môn phái Advaita Vedanta đă tŕnh bày – th́ người ta chỉ
có thể suy luận về cái upadana
(căn nguyên hữu h́nh) mà thôi, chứ không thể suy
luận về căn nguyên nào khác. Theo trí óc những
người Vaishnavas (Vishiadvaitas)([211])
th́ người ta không thể suy luận một cách công khai
về cái ǵ có thực tính, nó là lư tưởng, đối
lập với cái h́nh hài – cũng như Parabra -hman ([212])
đối lập với Ishvara ([213])
- v́ lư tưởng này cũng chỉ là một danh từ
dùng sai chỗ khi nó chỉ định cái điều mà lư
trí con người, dù là lư trí của một vị Chơn
Tiên, cũng không thể thấu triệt được.
Muốn tự biết ḿnh th́ phải nh́n
nhận rằng tâm thức (consciousness) và tri giác (perception)
đều là những năng khiếu bị hạn
định khi tiếp xúc với bất cứ đề
tài nào, ngoại trừ với Parabrahman. Do đó mà có câu
“Hơi Thở Trường Tồn không tự tri
được”. Sự Vô Cùng Tận không thể hiểu
được sự Hữu Hạn. Cái ǵ vô biên giới
th́ không thể liên quan đến cái bị trói buộc và
cái bị hạn định. Trong những giáo lư của
Huyền bí học, Tạo Hoá Huyền Vi và Bất Khả
Tri, hay Đấng Tự Tồn (Self-Existing), là cái yếu
tính Thiêng Liêng Tuyệt Đối (Abso –lute Divine Essence). Và
như thế khi đă là Tâm Thức Tuyệt Đối
(Absolute Consciousness) và sự Di Chuyển Tuyệt Đối
(Absolute Motion) – theo giác quan hữu hạn của kẻ
đă cho rằng đó là điều không thể miêu tả
được – th́ đó là sự vô tri thức và bất
chuyển động. Tâm thức cụ thể không thể
nhờ tâm thức trừu tượng mà có
được; cũng giống như thế, cái tính
chất ẩm ướt không thể nhờ nước mà
có - sự ẩm ướt là một đặc tính riêng
biệt và nó là căn nguyên của sự ẩm ướt
ở nơi các vật khác. Tâm thức là bao hàm những
hạn định và những đặc tính; phải có cái
ǵ để biết điều đó. Nhưng Tâm Thức
Tuyệt Đối th́ chứa đựng cả kẻ
biết, những điều được người
ta biết tới và sự hiểu biết; trong nó cả ba
cái được hợp làm một.
Không có người nào lại biết được
hơn cái phần kiến thức mà y có thể sực
nhớ ra, trong lúc nào đó, và ngôn ngữ th́ thật là nghèo
nàn đến nỗi chúng ta không có đủ danh từ
để phân biệt cái kiến thức mà người ta
không chủ động nghĩ đến với cái
kiến thức mà người ta không thể nhớ
lại được. “Quên” là tiếng đồng
nghĩa “không nhớ”. Vậy, thật là một việc khó
khăn biết bao khi đi t́m những tiếng để miêu
tả, để phân biệt những sự kiện siêu
h́nh trừu tượng và những sự dị
đồng; cũng không nên quên rằng chúng ta đặt
tên cho các đồ vật tuỳ theo những vẻ
bề ngoài mà chúng phô trương ra. Chúng ta gọi sự
“vô tri thức” (“unconsciousness”) là Tri Thức Tuyệt
Đối (Absolute Consciousness), v́ đối với chúng ta
chắc phải là như thế, cũng như ta gọi
sự Tuyệt Đối (Absolute) là “Sự Tối Tăm”
(“Darkness”) v́ đó là một điều thực không sao
hiểu nổi đối với sự hiểu biết
bị hạn định của chúng ta; và chúng ta hoàn toàn
nh́n nhận rằng sự tri giác của ḿnh về mặt
vật chất là không đúng chút nào. Một cách vô tâm, chúng
ta phân biệt được trong trí chúng ta cái Tâm Thức
Tuyệt Đối vô ư và sự Vô Tri Thức
(Unconsciousness), bằng cách bí mật khoác lên
127
cái Tâm Thức Tuyệt Đối vô ư ấy
một đặc tính mơ hồ nào đó, tương
đương - ở trên một cảnh giới cao
hơn cảnh giới mà tư tưởng chúng ta có
thể vươn tới được – với cái mà ta
biết rằng đó là tâm thức của chúng ta. Nhưng
đây không phải là cái thứ tâm thức (consciousness) mà ta
có thể xoay sở để phân biệt nó với cái mà ta
cho là sự vô tri thức.
3. GIỜ KHẮC CHƯA ĐIỂM, TIA SÁNG
CHƯA CHIẾU VÀO MẦM MỐNG (a); MATRIPADMA ([214])
CHƯA SƯNG PHỒNG LÊN (b) ([215])
(a) “Tia Sáng” (“Ray”) của “Bóng Tối Ngàn
Đời” (“Ever Darkness”) khi được phóng ra th́ thành
một Tia Sáng huy hoàng hay là Đời Sống, và chiếu
vào “Mầm Mống”- cái Chấm trong cái Trứng của
Thế Gian (Mundane Egg) được tượng trưng
bởi vật chất trong cái ư nghĩa trừu tượng
của nó. Nhưng ta không hiểu danh từ “cái Chấm”
như là một điểm đặc biệt nào trong Không
Gian, v́ ở nơi trung tâm của mỗi nguyên tử
đều có mầm mống và toàn thể các Mầm Mống
nhỏ này làm thành “Mầm Mống Lớn”, hoặc là v́ con
mắt xác thịt của ta không thể nào nh́n thấy
một nguyên tử, nên toàn thể các nguyên tử này
(nếu ta có thể dùng từ ngữ đó mà chỉ
định điều ǵ vô biên giới và vô hạn
định) làm thành các thực thể của Vật
Chất trường tồn và bất diệt.
(b) Một trong các h́nh tượng trưng
cho cái Uy Lực Sáng Tạo Song Đôi (Dual Creative Power) trong
Thiên Nhiên (vật chất và động lực ở cơi
hồng trần) là “Padma”, bông sen của Ấn Độ.
Bông Sen là sản phẩm của sức nóng (lửa) và
nước (hơi hoặc dĩ thái), trong mọi hệ
thống triết lư và tôn giáo, ngay cả trong Cơ
Đốc giáo, lửa là tượng trưng cho Tinh
Thần Thượng Đế (Spirit of Deity) ([216]),
là nguyên lư gây giống, có dương tính và hoạt
động, và dĩ thái hay linh hồn của vật
chất, ánh sáng của lửa, là nguyên lư có âm tính và thụ
động sinh ra mọi vật trong Vũ Trụ. V́
vậy, dĩ thái hay nước là Mẹ và lửa là Cha.
Sir William Jones – và trước ông th́ có môn thảo mộc
học cổ xưa – đă chứng minh rằng, dù
trước khi nẩy mầm, hạt sen cũng đă
chứa đựng những cái lá hoàn toàn thành h́nh rồi
với h́nh dáng nhỏ xíu của cái cây thiệt thọ mà
sau này nó sẽ trở thành; như vậy, thiên nhiên đă
cho ta thấy rằng những sản phẩm của nó
đă được sáng tạo từ trước…
những hạt của các loại cây hiển hoa
thường trổ hoa, th́ thường chứa
đựng một bào thai nhỏ của cây đă sẵn
sàng thành h́nh rồi ([217]).
Điều này giải nghĩa câu “Matri Padma (Hoa Sen Mẹ)
chưa sưng phồng lên” – trong khoa biểu tượng
học cổ xưa, h́nh hài thường bị hy sinh cho
cái ư niệm bên trong hay ư niệm cội rễ.
Hơn nữa, Hoa Sen hay Padma là một
biểu tượng thích hợp và rất cổ xưa
của Vũ Trụ và của cả con người
nữa. Những lư do thông thường được
đưa ra, trước hết, sự việc vừa
kể trên: Hạt Sen chứa đựng bên trong ḿnh
một h́nh dáng nhỏ xíu nhưng hoàn hảo của cái cây
tương lai, tượng trưng cho việc: các nguyên
h́nh thiêng liêng của vạn vật đă có sẵn trong thế
giới vô h́nh trước khi vạn vật
được thành h́nh trên trái đất. Sau nữa, Cây
Sen mọc xuyên qua nước c̣n rễ th́ ở trong bùn, hoa
nó lại nở trong vùng không khí ở trên. Như vậy Hoa
Sen tượng trưng cho đời sống con
người của Vũ Trụ; v́ Giáo Lư Bí Truyền
dạy rằng những nguyên tố của con người
và của vũ trụ th́ đều giống nhau và cả
hai đều cùng phát triển về một chiều
hướng. Rễ Cây Sen chôn vùi trong bùn là tượng
trưng cho đời sống vật chất; thân cây đi
xuyên qua nước là tượng trưng cho cơi trung
giới, và bông hoa nổi trên mặt nước và nở ra
trên trời là tượng trưng cho đời sống
tinh thần.
128
4. TRÁI TIM CỦA NGÀI CHƯA MỞ RA
ĐỂ TIA SÁNG DUY NHẤT CHIẾU VÀO RỒI RƠI
XUỐNG PHÍA DƯỚI, GIỐNG NHƯ SỐ BA RƠI
XUỐNG SỐ BỐN, TRONG L̉NG ẢO TƯỞNG.
Nguyên chất Cơ Bản (Primordial Substance)
chưa vượt ra khỏi trạng thái tiềm ẩn
tiền vũ trụ của nó để đi vào trong
trạng thái biến hoá khách quan hay là để trở nên
vật chất nguyên thuỷ vô h́nh (invisible protyle) của
khoa học (dưới mắt của con người).
Nhưng v́ “giờ khắc đă điểm” (“hour strikes”)
nên nguyên chất này trở nên nhạy cảm và Fohat in
Tư Tưởng của Thượng Đế lên đó
- Thượng Đế hữu h́nh là cục diện có
dương tính của Anima Mundi, Alaya ([218]),
nên “Trái Tim” (“Heart”) nó mở ra. Nó biến hoá và Ba Ngôi (Cha,
Mẹ và Con) tiến hoá thành Bốn. Nơi đây có ẩn
tàng cội rễ của sự huyền vi về
Thượng Đế Ba Ngôi, và về việc Thụ Thai
Không Nhiễm Tội Tổ Tông (Immaculate Conception). Tín điều
đầu tiên và căn bản của Huyền bí học là
sự Duy Nhất của Vũ Trụ dưới ba khía
cạnh. Điều này có thể dẫn ta đến
một quan niệm về Thượng Đế v́ Ngài là
sự Duy Nhất Tuyệt Đối nên trí khôn hữu
hạn đến ngàn đời cũng không hiểu
được Ngài.
Nếu ngươi muốn tin tưởng
nơi Uy Lực (Power) tác động trong rễ cây hoặc
tưởng tượng đến cái rễ giấu ḿnh
dưới đất, th́ ngươi phải nghĩ
đến thân cây, lá cây và bông hoa. Ngươi không thể
tưởng tượng đến Uy lực này tách
rời khỏi thân cây, lá cây và bông hoa, người ta
chỉ có thể hiểu biết đời sống qua cây
Đại Thọ của Sự Sống… ([219])
Ư niệm về sự Duy Nhất Tuyệt Đối (Assolute Unity)
cần phải được chúng ta đập tan đi
trong quan niệm của ḿnh, v́ chúng ta cần phải có
trước mắt một vật ǵ cụ thể
để chứa đựng sự Duy Nhất đó. V́ đă
là Tuyệt Đối th́ Thượng Đế phải có
mặt khắp nơi; vậy nên không có một hạt
nguyên tử nào mà lại không có Thượng Đế bên
trong. Rễ cây, thân cây và những nhành lá là ba thứ khác nhau
nhưng chúng đều làm thành một thân cây. Các nhà Bí giáo
Do Thái nói rằng: “Thượng Đế là một, v́ Ngài
vô cùng tận. Ngài là Tam Thể v́ Ngài luôn luôn biểu lộ
ra”. Sự biểu lộ này có ba phương diện
(aspects), v́ như ông Aristotle đă nói, mỗi h́nh hài của
thiên nhiên muốn thành h́nh th́ cần phải có ba nguyên lư:
sự thiếu khuyết (privation), h́nh hài và vật chất
([220]).
Theo quan điểm của
129
triết gia cao cả này th́ sự thiếu
khuyết nghĩa là những ǵ mà các nhà Huyền bí học
gọi là các nguyên h́nh được in trong Ánh Sáng của
cơi Trung Giới (Astral Light) - cảnh giới và cơi thấp
nhất của Anima Mundi (Linh Hồn Thế Gian). Sự
hợp nhất của ba nguyên lư này tuỳ thuộc vào
nguyên lư thứ tư – đó là ĐỜI SỐNG (LIFE)
hằng toả ra từ nơi tột đỉnh tối
cao để trở thành cái yếu tính lan rộng phổ
quát trên mọi cảnh giới hữu h́nh của
Đời Sống (Existence). Và TỨ THỂ (QUATERNARY) này
(Cha, Mẹ, Con, trên cương vị HỢP NHẤT –
UNITY, và một Tứ Thể dưới một h́nh
thức biểu lộ sống động) đă là
những yếu tố làm nảy sinh cái ư niệm tối
cổ về sự Thụ Thai Không Nhiễm Tội Tổ
Tông, hiện nay đă được kết tinh thành
một tín điều của Giáo hội Cơ Đốc,
đoàn thể này đă đẩy xa ư niệm siêu h́nh nói
trên, xa đến một mức độ phi lư. V́ ta
chỉ cần đọc Thánh kinh Bí Giáo Do Thái (Kabala) và nghiên cứu những
phương pháp giải thích theo toán số của kinh
đó để t́m thấy cội rễ của tín
điều này. Đó là một ư niệm hoàn toàn có tính cách
thiên văn học, toán học và triết học siêu h́nh.
Cái Nguyên Tố có Dương Tính (Male Element) nơi Thiên Nhiên
(được tượng trưng bởi các vị
Thần Minh có nam tính và những vị Logoi – Viraj hoặc
Brahma, Horus hay Osiris v..v..) được phát minh xuyên qua
chớ không phải từ một nguồn cội trinh
nguyên mà “Mẹ” là tượng trưng, v́ cái Thực
Thể có dương tính đó đă có “Mẹ” th́ không
thể có “Cha” được nữa; Thượng
Đế trừu tượng th́ phi nam phi nữ, Ngài không
phải là một Đấng mà là Thực Tại hay
Đời Sống. Chúng ta hăy diễn tả tư
tưởng này theo ngôn ngữ toán học của Tác giả
quyển The Source of Measures
(Nguồn Cội của các sự Đo Lường).
Khi đề cập đến sự “Đo Lường
về Con Người” và cái giá trị của y theo toán
số (Kinh Bí giáo Do Thái), tác giả đă viết trong Genesis (Sáng Thế Kư) iv, I,
rằng:
Đó là sự Đo Lường của “Con
Người ngang bằng với Jehovah” (“Man even Jehovah”) (Thượng
Đế của Do Thái giáo – LND) và sự đo
lường ấy là tỷ dụ như thế này: 113 x 5
= 565 và giá trị 565 c̣n có thể được diễn
tả cách khác: 56,5 x 10 = 565. Nơi đây, số 113 của
con người trở thành thừa số (factor) của
56,5 x 10 và nếu ta đọc cái công thức toán số sau
chót này theo Bí giáo Do Thái th́ đó là Jod, He, Vau, He hay là Jehovah…
Số 565 được diễn tả cho dài ra thành 56,5 x
10 là có dụng ư muốn chứng tỏ cái nguyên lư
dương (Jod) do nguyên lư âm (Eva) phát sinh; hay là sự phát
sinh một nguyên tố dương từ một ngùôn
cội trinh nguyên, hay nói một cách khác, đó là sự
thụ thai không nhiễm tội lỗi tổ tông hay là
sự thụ thai trinh nguyên.
Theo lời những người có Thần
Nhăn th́, cũng giống như thế, sự bí mật
đă tác động lên cảnh giới thiêng liêng lại
được tái lập trên trái đất. “Người
Con” của Đức Nữ Đồng Trinh Trên Trời
không Nhiễm Tội Tổ Tông (Immaculate Celestial Virgin) (hay là
vật chất Nguyên Thuỷ Vũ Trụ chưa
được biến hoá, Vật Chất trong cái trạng
thái vô cùng vô tận của nó) lại được sinh ra
trên trái đất như người Con của bà Eva
của Địa Cầu, Trái Đất Mẹ của
chúng ta, và trở thành Nhân Loại xét chung – trong dĩ văng,
hiện tại và tương lai – v́ Jehovah, hay Jod-Hé-Vau-Hé,
th́ ái nam ái nữ, có cả nam lẫn nữ tính. Trên thiên
thượng th́ Người Con là trọn vẹn cả
VŨ TRỤ CÀN KHÔN (KOSMOS); dưới thiên hạ th́ Ngài là
NHÂN LOẠI (MANKIND). Tam Thể hay h́nh Tam Giác trở thành
khối Tetraktys ([221]),
con số thiêng liêng của môn phái Pythagoras, h́nh vuông hoàn
hảo và khối lập phương sáu mặt trên trái
đất. Macroprosopus (B́nh diện lớn) bây giờ là
Microprosopus (B́nh diện nhỏ), hay là theo những
người Bí giáo Do Thái (Kabalists) th́ Thượng
Đế Vô H́nh khi giáng lâm xuống Adam Kadmon (Người
Trời), cái vận cụ xuyên qua đó Thượng
Đế tự biểu lộ, th́ Ngài biến thành cái tên
Thánh có bốn âm thanh (Tetragrammaton) ([222]).
Bây giờ, Ngài ở “Trong Ḷng Māyā”, Đại Ảo
Tưởng, và giữa Ngài và Thực Tại th́ có Ánh Sáng
cơi Trung Giới (Astral Light), nó là kẻ thường gạt
gẫm các giác quan bị hạn định của con
người, trừ phi kiến thức đi xuyên qua
Paramarthasatya ([223])
mà tiến tới để cứu vớt.
130
5. TỪ MẠNG LƯỚI ÁNH SÁNG,
BẢY ([224])
CHƯA ĐƯỢC SINH RA. CHỈ CÓ SỰ TỐI
TĂM LÀ CHA VÀ MẸ, SVABHAVAT; VÀ SVABHAVAT TH̀ Ở TRONG SỰ
TỐI TĂM…
Trong những Đoạn Thánh Kinh
được đưa ra nơi đây, Giáo Lư Bí Nhiệm
nói nhiều đến, nếu không phải chỉ toàn nói
đến Thái Dương Hệ chúng ta, v́ vậy, “Bảy
Người Con” là các Đấng Sáng Tạo ra Dăy Hành Tinh
này. Giáo lư này sẽ được giảng giải
đầy đủ hơn về sau ([225])
Svabhavat, “Nguyên Thể Yếu tính Mềm
Dẻo” (“Plastic Essence”) tràn đầy trong Vũ Trụ là
cội rễ của vạn vật. Có thể nói rằng
Svabhavat là danh từ Phật giáo chỉ định các
cục diện cụ thể của cái thực thể
trừu tượng mà triết lư Ấn Độ gọi
là Mulaprakriti. Đó là h́nh hài của Đại Hồn (Soul),
cũng như Dĩ Thái (Ether) là h́nh hài của Tiên Thiên Khí (Akasha),
Tiên Thiên Khí chỉ là cái nguyên lư khiến dĩ thái thành h́nh.
Các nhà thần bí Trung Hoa đă xem Svabhavat là tiếng
đồng nghĩa với “Thực Thể” (“Being”). Trong
bản dịch kinh Elashloka-Shastra
ra tiếng Trung Hoa của Đức Nagarjuna (Long Thọ - Lung-shu - của
Trung Hoa), được gọi là bản kinh Yi-shu-lu-kia-lun, người ta
nói rằng “Thực Thể” (“Being”) hay “Subhava” (theo chữ
Trung Hoa th́ là Yu) ([226])
có nghĩa là “nguyên chất tự cung cấp nguyên chất
cho ḿnh”, Ngài cũng giảng giải nó c̣n có nghĩa là “không
hành động và có hành động”. Subhava ngữ căn
của tiếng Svabhavat, gồm hai phần: su: tốt
đẹp và bhava: thực thể hay là trạng thái của
thực thể.
6. HAI CÁI ĐÓ LÀ MẦM MỐNG, VÀ MẦM
MỐNG LÀ MỘT. VŨ TRỤ HĂY C̉N ĐƯỢC
ẨN KÍN TRONG TƯ TƯỞNG VÀ TRONG L̉NG THƯỢNG
ĐẾ.
“Tư Tưởng của Thượng
Đế” (“Divine Thought”) không ám chỉ một
Thượng Đế hằng Suy Nghĩ (Divine Thinker).
Vũ Trụ, không phải chỉ riêng trong dĩ văng,
hiện tại và tương lai – ư niệm thời gian
đó chỉ là một ư niệm bị hạn định
của con người được diễn tả
bằng tư tưởng hữu hạn – Sat (một
tiếng không thể dịch được)([227]),
Thực Thể Tuyệt Đối, với Dĩ Văng và
Tương Lai kết tinh thành một Hiện Tại
trường tồn là cái Tư Tưởng tự phản
chiếu vào một căn nguyên thứ yếu hay hữu
h́nh Brahman (trung tính – neuter) giống như cái Mysterium Magnum
(Sự Bí Mật vĩ đại) của ông Paracelsus, là
một bí mật tuyệt đối với trí
người. Đức Brahma có cả nam lẫn nữ
tính, là bóng dáng của Brahman mang h́nh hài con người, khi
được phản chiếu ra, th́ được ḷng
tín ngưỡng mù quáng chấp thuận ngay, tuy cái trí óc
trưởng thành của con người chối bỏ
Ngài, không chấp thuận ([228]).
131
V́ vậy nên đoạn đầu của
diễn tiến khai thiên lập địa, hay trong lúc
khởi đầu của sự tiến hoá trong vũ
trụ, th́ Vũ Trụ, hay “Người Con” hăy c̣n ẩn
ḿnh trong “Tư Tưởng của Thượng
Đế”, Tư Tưởng này chưa đi vào “Ḷng
Thượng Đế” (“Divine Bosom”). Xin hăy nhớ kỹ
rằng ư niệm này là cội rễ, là nguồn cội
của mọi lời ngụ ngôn nói về các “Người
Con của Thượng Đế” (“Son of God”) do các vị
nữ đồng trinh không nhiễm tội tổ tông sinh
ra.
ĐOẠN THÁNH KINH 3
(STANZA 3)
1. …LÀN RUNG ĐỘNG CUỐI CÙNG CỦA
ĐẠI KIẾP TRƯỜNG TỒN THỨ BẢY RÙNG
M̀NH XUYÊN QUA NƠI VÔ CÙNG TẬN (a), MẸ NỞ RA LAN TRÀN
TỪ TRONG RA NGOÀI GIỐNG NHƯ NỤ BÔNG SEN (b).
(a) Việc sử dụng từ ngữ
“Đại Kiếp Trường Tồn Thứ Bảy” (“Seventh
Eternity”) có vẻ như phi lư, v́ như vậy đă chia
cắt cái không thể chia cắt được song
Triết Lư Bí Giáo đă chấp nhận sự sử
dụng nó. Triết Lư Bí Giáo chia cắt Sự Tồn
Tại vô biên giới thành Thời gian phổ quát,
trường tồn, không bị hạn định (Kala) và
Thời gian bị hạn định (Khandakala). Thời
gian thứ nhất là sự trừu tượng hay là
thực thể của Thời gian vô cùng tận. Thời
gian thứ nh́, hiện ra theo chu kỳ, là hiện tượng
của Thời Gian thứ nhất đó là hậu quả
của Mahat, Trí Khôn của Vũ Trụ (Universal Intelligence),
bị những chu kỳ khai nguyên (manvantara) hạn
định. Theo một vài môn phái, Mahat là điều
đầu tiên được phát sinh từ Pradhana Nguyên
chất chưa biến hoá hay là Mulaprakriti, Cội Rễ
của Thiên Nhiên hiện ra theo chu kỳ), Pradhana này
được gọi là Maya, Ảo Tưởng. Về
phương diện này, tôi tưởng rằng Giáo Lư
Nội Môn (Esoteric) chủ trương khác hẳn với
những giáo lư Vedanta trong cả hai môn phái Advaita và
Vishistadvaita. V́ Giáo Lư Nội Môn nói rằng nếu Mulaprakriti
- thực thể được tự tồn, vô thuỷ,
nói tóm lại là vô phụ mẫu, là Anupadaka, v́ hợp
nhất với Brahman – th́ Prakriti, hiện tượng
của Mulaprakriti, hiện ra theo chu kỳ chỉ là cái bóng
ma của Mulaprakriti mà thôi; như vậy, Mahat, đứa
con đầu tiên của Jnana (hay Gnosis, Triết học
thần bí), Kiến Thức, Minh Triết hay Thượng
Đế hữu h́nh – là một bóng ma được
phản chiếu từ NIRGUNA Tuyệt Đối
(Parabrahman), Thực Tại Duy Nhất “không có đặc
tính và cá tính”; nhưng đối với một số
người theo môn phái Vedanta th́ Mahat là một sự
biểu lộ của Prakriti hay Vật Chất (Matter).
132
(b) V́ vậy, “Làn Rung Động cuối cùng
của Đại Kiếp Trường Tồn Thứ
Bảy” đă “được xếp đặt từ
trước”- không phải do một vị Thượng
Đế đặc biệt nào, nhưng đă phát sinh
từ Định Luật trường tồn bất
biến, do những định luật này mà có những
thời kỳ Hoạt Động và Nghỉ Ngơi, đă
được gọi rất đúng và rất nên thơ là
những Ngày và Đêm của Brahma. Mẹ nở “từ
trong ra ngoài”, cũng được gọi là “những Ḍng
Nước của Không Gian”,”Cái Tử Cung của vũ
trụ” v..v.. nơi đây , người ta không nói
đến một sự lan tràn từ trong ra ngoài từ
một trung tâm hay tiêu điểm nhỏ, mà người ta
muốn nói đến sự phát triển chủ quan vô biên
giới mà không nói đến kích thước, giới
hạn hay phẩm vị. “Cái
nguyên chất vô h́nh và vô thể ngàn đời (đối
với chúng ta) hiện diện nơi đại kiếp
trường tồn từ các cảnh giới riêng biệt
của nó, theo từng chu kỳ, nó phóng H́nh Bóng của nó vào
trong ḷng của Ảo Tưởng (Lap of Māyā)”.
Như thế, nghĩa là sự lan tràn này không phải là
một sự nở rộng ra – v́ trong sự lan tràn vô cùng
tận không có sự nở rộng – mà là một sự thay
đổi t́nh trạng. Nó nở rộng “giống như
nụ Bông Sen”, v́ không những cây Sen tồn tại như
một bào thai nhỏ xíu trong hạt sen (đó là một
đặc tính thuộc về vật chất), nhưng cái
nguyên h́nh của nó đă có mặt trong một h́nh hài lư
tưởng nơi Tinh Tú Quang (Astral Light), từ buổi
“B́nh Minh” (“Dawn”) đến “Đêm Tối” (“Night”) trong
suốt đại kiếp, giống như mọi vật
khác, quả thật là vậy đó, trong Vũ Trụ
hữu h́nh này, từ con người cho đến
đứa bé, từ những cây khổng lồ cho
đến cọng cỏ nhỏ li ti.
Khoa Học Bí Truyền (Hidden Science) dạy
rằng tất cả những điều đó chỉ là
phản ảnh nhất thời, là bóng dáng của cái nguyên
h́nh lư tưởng trường tồn trong Tư
Tưởng của Thượng Đế; một lần
nữa xin nhớ rằng danh từ “Trường Tồn”
(“Eternity”) ở đây chỉ có nghĩa là một “Vô
Lượng Thời” (“Aeon”) và chỉ trường tồn trong
suốt một chu kỳ hoạt động lâu dài
dường như vô tận nhưng vẫn có lúc chấm
dứt, mà chúng ta gọi là một Chu Kỳ Khai Nguyên
(Manvantara). Cái ư nghĩa bí truyền thật sự của
chữ Manvantara, hay đúng hơn chữ Manu-antara là ǵ?
Dịch thật sát nghĩa th́ như sau: “ở giữa hai
vị Bàn Cổ” (“between two Manus”), trong một ngày của
Brahma có mười bốn vị Bàn Cổ (Manus) và một
ngày của Brahma th́ có 1.000 thời kỳ, mỗi thời
kỳ gồm bốn Đời (Ages), 1.000 “Đời
vĩ đại (“Great Ages”) hay là Mahayugas. Nay ta hăy phân tích danh
từ hay danh hiệu “Manu”. Các học giả khảo
cứu văn hoá Đông phương có ghi trong các tự
điển của họ rằng danh từ “Manu” phát sinh
từ ngữ căn man, nghĩa
là “suy nghĩ”; do đó, họ kết luận “Manu” là
người “hằng suy nghĩ” (“thinking man”). Nhưng theo
bí giáo th́ mỗi vị Bàn Cổ, v́ là một vị
thần minh mang h́nh hài con người để làm việc
trong chu kỳ đặc biệt (hay cuộc tuần hoàn)
của Ngài, nên Ngài chỉ là hiện thân của “Tư
Tưởng Thượng Đế” (“giống như
Đức Pymander, nhà Luyện Kim), v́ vậy mỗi vị
Bàn Cổ là một thần đặc biệt, vị sáng
tạo và xây dựng mọi vật trong suốt chu kỳ
hoạt động của riêng Ngài hay Chu Kỳ Khai Nguyên.
Fohat khiến cho các vị Bàn Cổ (hay Dhyan Chohan) hằng
đi đây đi đó phải chuyển động và
khiến cho các nguyên h́nh lư tưởng bành trướng
từ trong ra ngoài, như thế nghĩa là lần lần
đi trở xuống và xuyên qua mọi cảnh giới,
từ cảnh giới của thực thể đến
cảnh giới hữu h́nh thấp nhất, để sau
chót đơm bông kết trái trở thành sự khách quan
trọn vẹn - tột đỉnh của ảo
tưởng hay là vật chất thô trược nhất.
2. LÀN RUNG
ĐỘNG CỨ LAN RA MĂI, NÓ XOÈ CÁNH NHANH LẸ VÀ CHẠM ([229])
VÀO TOÀN THỂ VŨ TRỤ CÙNG CÁI MẦM MỐNG ĐANG
Ở TRONG CƠI TỐI TĂM, SỰ TỐI TĂM NÀY THỞ
HƠI (BREATHES) ([230])
TRÊN NHỮNG D̉NG NƯỚC ĐANG NGỦ CỦA SỰ
SỐNG.
Người ta cũng nói rằng cái Monas
của môn phái Pythagoras th́ ở tại nơi vắng
lặng và “Tối Tăm” giống như “Mầm Mống”.
Ư niệm về “Hơi Thở” của sự Tối
Tăm di chuyển “những Ḍng Nước đang
chuyển động của Sự Sống” nhắc ta
nhớ lại chương đầu tiên của Sáng Thế Kư (Genesis); những
ḍng nước đang ngủ này là Vật Chất căn
bản với Tinh Thần ẩn tàng phía trên. Nguyên văn là
Brahmanical Narayana (Đấng Di Chuyển trên những Ḍng
Nước). Ngài là hiện thân của Hơi Thở Trường
Tồn của Đại Thể vô tri thức (hay là
Parabraman) theo các nhà Huyền bí học Đông phương.
Những Ḍng Nước của Sự Sống hay là sự
Hỗn Mang – cái nguyên lư có âm tính trong biểu tượng
học – là sự trống rỗng (đối với cái
trí của chúng ta) trong đó vật chất và tinh thần
tiềm tàng. Điều này khiến cho ông Democritus bắt
chước thầy của ông ta là Leucippus mà nói rằng
nguyên lư căn bản của mọi vật là các nguyên
tử và sự trống rỗng; trống rỗng đây có
nghĩa là không gian, chớ không có nghĩa là không gian
trống không, v́ “Thiên Nhiên rất ghê sợ sự trống
rỗng” (“Nature abhors a vacuum”), theo như các triết gia trong
học phái Tiêu Dao (Peripatetics) và các triết gia thời
cổ ([231]).
133
Trong một vũ trụ, “Nước”
cũng đóng một vai tṛ quan trọng như thế.
Đó là nền tảng và căn bản của đời
sống hữu h́nh. Các nhà khoa học, v́ lầm lẫn danh
từ với đồ vật, nên hiểu rằng
nước đây nghĩa là hợp chất hoá học do
dưỡng khí và khinh khí tạo thành, như vậy, họ
đă gán một ư nghĩa đặc biệt cho một danh
từ mà các nhà Huyền bí học dùng để chỉ
chủng loại (generic sense), các nhà Huyền bí học dùng
danh từ này trong vũ trụ luận với một ư
nghĩa siêu h́nh và thần bí. Băng (ice) không phải là
nước, mà cũng không phải là hơi nước, tuy
rằng cả ba thứ này đều có thành phần hoá
học giống nhau.
3. BÓNG TỐI PHÓNG RA ÁNH SÁNG, VÀ ÁNH SÁNG
CHIẾU MỘT TIA SÁNG ĐƠN ĐỘC VÀO TRONG
NHỮNG LÀN NƯỚC TRONG L̉NG MẸ THÂM SÂU. TIA SÁNG LÀM CHO
CÁI TRỨNG TRINH NGUYÊN RÙNG M̀NH VÀ LÀM CHO CÁI MẦM MỐNG
KHÔNG TRƯỜNG TỒN ([232])
RỤNG XUỐNG VÀ ĐÔNG ĐẶC LẠI THÀNH CÁI
TRỨNG THẾ GIAN.
“Tia Sáng đơn độc” (“solitary Ray”)
khi rơi vào “Ḷng Mẹ Thâm Sâu” (“Mother-Deep”) có thể
được xem như là Tư Tưởng hay Trí Thông
Tuệ của Thượng Đế thấm nhuần
sự Hỗn Mang. Dù sao, đó cũng là điều xảy
ra trên cảnh giới trừu tượng siêu h́nh hay trên
cảnh giới mà trong đó điều thường
được gọi là trừu tượng siêu h́nh
lại là một sự thật. “Cái Trứng Trinh Nguyên theo
một ư nghĩa nào đó, là trạng thái trừu
tượng của Trứng hay khả năng có thể
phát triển nhờ sự thụ thai, trứng này
trường tồn bất biến. Và cũng giống
như cái trứng đă nhận được mầm
sống trước khi lọt ra khỏi bụng, th́ cái
Mầm Mống không trường tồn và theo chu kỳ này
(trong môn biểu tượng học), biến thành Vũ
Trụ Noăn, khi lọt ra khỏi biểu tượng nói
trên, th́ nó chứa đựng ở ngay bên trong bản thân
sự hứa hẹn và tiềm lực” của toàn thể
Vũ Trụ. Tuy ư niệm này tự
nó là một sự trừu tượng, một cách
diễn tả theo biểu tượng, nhưng nó chính là
một biểu tượng thực sự, v́ nó gợi lên
cái ư niệm vô cùng tận giống như một h́nh tṛn vô
tận. Nó khiến cho cái trí nh́n thấy quang cảnh
của Vũ Trụ Càn Khôn hiện ra từ và ở trong
Không Gian vô tận, một vũ trụ mênh mông vĩ đại
không bờ bến, nếu không phải là vô tận trong
sự biểu lộ hữu h́nh của nó. Biểu
tượng là một cái trứng cũng diễn tả
điều mà Huyền Bí học đă truyền dạy:
h́nh hài đầu tiên của mọi vật hữu h́nh,
từ hạt nguyên tử cho đến quả địa
cầu, từ con người cho đến thiên thần,
đều là một khối tṛn - đối với
mọi quốc gia, khối tṛn tượng trưng cho
sự trường tồn và vô cùng tận – con rắn
ngậm lấy đuôi của nó. Tuy nhiên, muốn hiểu
rơ nghĩa, ta phải tưởng tượng đứng
ở trung tâm khối tṛn mà nh́n ra ngoài. Phạm vi sự nh́n
ngắm hay phạm vi tư tưởng th́ giống như
một khối tṛn với đường bán kính đi
từ bản thể ta tới mọi chiều
hướng và lan ra ngoài làm thành không gian, mở rộng
những quang cảnh vô biên giới ở xung quanh. Đó là
ṿng tṛn tượng trưng của Pascal và các nhà Bí giáo Do
Thái, “trung tâm của ṿng tṛn th́ ở khắp nơi c̣n
giới hạn của ṿng tṛn th́ không ở nơi nào
cả” – quan niệm này là thành phần của ư niệm liên
quan đến sự tượng trưng này.
134
“Cái Trứng của Thế Gian” (“World-Egg”) có
lẽ là một trong những dấu hiệu phổ thông
ở khắp nơi, rất gợi cảm theo cả ba
chiều hướng tinh thần, sinh lư và vũ trụ. V́
thế nên người ta thấy nó trong mọi thần
phổ học trên thế gian (world-theogony), nơi đó nó
được hợp nhất với h́nh tượng
của con rắn, h́nh rắn này có ở khắp nơi,
trong triết học cũng như trong biểu
tượng học có tính cách tôn giáo, đó là một sự
tượng trưng cho sự trường tồn, sự
vô hạn định, sự tái sinh, sự cải lăo hoàn
đồng cũng như sự tượng trưng cho
minh triết ([233]).
Sự bí mật của việc tự sinh và tiến hoá
xuyên qua uy lực sáng tạo của riêng nó đă nhắc
lại diễn tŕnh tiến hoá của Vũ Trụ,
nhưng ở một mức độ nhỏ bé hơn,
trong cái trứng - cả hai đều phát sinh từ
sức nóng và sự ẩm ướt dưới ảnh
hưởng của tinh thần sáng tạo vô h́nh chảy
chan hoà - sự bí mật này hoàn toàn chứng minh rằng
việc chọn lựa biểu hiện cái trứng này là
đúng. “Cái Trứng Trinh Nguyên” là biểu hiện nhỏ bé
của nguyên h́nh của đại vũ trụ (macrocosmic
Prototype), “Mẹ Trinh Nguyên”- Sự Hỗn Mang hay là Vực
Sâu Nguyên Thuỷ. Đấng Sáng Tạo có nam tính (mặc dù
Ngài mang danh hiệu nào) được phóng ra từ vị
nữ Đồng Trinh, Cội Rễ trinh nguyên đă
được Tia Sáng gieo mầm sống vào. Nếu
giỏi về thiên văn học và vạn vật học
th́ ai là người lại không nh́n thấy sự miêu
tả gợi h́nh gợi cảm này? Vũ Trụ, v́ là Thiên
Nhiên thụ nhận nên là một cái trứng đă
được truyền mầm sống – mà vẫn trinh
nguyên, v́ một khi vũ trụ được coi là vô biên
giới, th́ người ta chỉ có thể dùng một
khối tṛn mà tượng trưng cho nó thôi. Xung quanh cái
Trứng Vàng (Kim Noăn) có bảy Nguyên Tố thiên nhiên (dĩ
thái, lửa, không khí và nước), “bốn nguyên tố
đă được người ta biết đến
rồi, ba nguyên tố khác c̣n ở trong ṿng bí mật”.
Người ta có thể t́m thấy điều này trong kinh Vishnu Puranas, trong đó các nguyên
tố được dịch là “Các lớp vỏ” (“Envelopes”)
và một nguyên tố bí mật - Ahamkara được
kể thêm ([234]).
Trong nguyên bản của kinh này th́ không có Ahamkara;
người ta chỉ thấy nói đến bảy nguyên
tố mà không nói rơ ba nguyên tố chót.
4. SỐ BA ([235])
RỚT VÀO SỐ BỐN ([236])
NGUYÊN THỂ CHÓI SÁNG TRỞ THÀNH BẢY Ở PHÍA TRONG VÀ
BẢY Ở PHÍA NGOÀI (a). CÁI TRỨNG CHÓI SÁNG ([237])
MÀ BẢN THỂ LÀ BA ([238])ĐÔNG
ĐẶC LẠI VÀ SẮC TRẮNG NHƯ SỮA, LAN TRÀN
ĐI GIỐNG NHƯ SỮA ĐẶC Ở KHẮP
MỌI CƠI THÂM SÂU CỦA MẸ, CÁI RỄ NÀY NỞ TRONG
NHỮNG CƠI THÂM SÂU CỦA ĐẠI DƯƠNG CỦA
SỰ SỐNG (b).
(a) Cần phải giải thích tại sao
người ta dùng những dạng thức h́nh học và
thường hay ám chỉ đến số trong tất
cả những Thánh kinh cổ xưa, như trong kinh Puranas, trong Tử Vong Chân Kinh (Book of the Dead) của Ai Cập
và ngay cả trong quyển Thánh
kinh Cơ Đốc giáo (Bible). Trong quyển THIỀN
ĐỊNH CHÂN KINH (BOOK OF DZYAN) cũng như trong quyển
kinh Bí giáo Do Thái (Kabalah), có
hai loại chữ số cần phải học. Các con
số, chúng nhiều khi chỉ là những tấm màn che
phủ và các Con Số Thiêng Liêng, giá trị của các con
số này đều được truyền dạy cho các
nhà Huyền bí học do sự Điểm Đạo.
Những con số trên chỉ là những chữ
tượng h́nh theo mặc ước (conventional glyphs),
những con số dưới là các biểu hiệu căn
bản của vạn hữu. Như vậy là có nghĩa
rằng những con số trên th́ thuần tuư thuộc
về vật chất, c̣n những con số dưới th́
thuần có tính cách siêu h́nh; hai loại số này liên quan
với nhau giống như Vật Chất đối
với Tinh Thần – hai thái cực của một Nguyên
Chất DUY NHẤT (ONE Substance).
135
Như ông Balzac, nhà Huyền bí học vô tâm
của nền văn chương Pháp đă nói trong một
quyển sách, đối với cái trí cũng như
đối với vật chất, con số là “một
nguyên động lực không sao hiểu nổi” (“an
incomprehensible agent”). Có lẽ đối với kẻ phàm
tục th́ như vậy, nhưng đối với
người đă được Điểm Đạo
th́ không đúng như vậy đâu. Như nhà đại
văn hào đă nói, Con Số là một Thực Thể
sống động và đồng thời là Hơi Thở
phát sinh từ cái mà người được điểm
đạo gọi là Thượng Đế, mà chúng ta
gọi là Đại Thể (the All), Hơi Thở Duy
Nhất có thể xây dựng và xếp đặt nên Vũ
Trụ hữu h́nh, “trong đó không một vật nào được
thành h́nh nếu không nhờ Thượng Đế, đó
là hiệu quả của Con Số”. Thật là hữu ích
nếu chúng ta trích dịch đoạn văn sau đây
của Balzac về vấn đề này:
Những sự sáng tạo bé nhỏ nhất
cũng như sự sáng tạo vĩ đại nhất
đă chẳng được phân biệt cái nọ với
cái kia nhờ số lượng, phẩm chất, kích
thước, mănh lực và đặc tính của chúng,
tất cả đều do Con Số sản xuất ra hay
sao? Sự vô cùng tận của những con số là một
sự kiện đă được chứng minh cho cái trí
của chúng ta thấy, nhưng không thể đưa ra
những bằng chứng cụ thể được. Nhà
toán học sẽ nói với chúng ta rằng sự vô cùng
tận của những Con Số th́ có thật, nhưng
không thể chứng minh được. Thượng
Đế là một con số di chuyển, ta cảm
thấy điều này, nhưng không thể chứng minh nó
được. Với tư
cách là một đơn vị, Thượng Đế
đứng đầu các con số, nhưng Ngài không
giống những Con Số một chút nào cả… Sự
sinh tồn của các Con Số tuỳ thuộc vào
Đơn Vị, đơn vị này không có một Con
Số nào cả, mà lại sản xuất ra
được tất cả mọi con số… Thế nào?
Quí vị bất lực không thể đo lường
được sự trừu tượng đầu tiên
mà Thượng Đế đưa ra cho quí vị mà không
thể giữ lấy nó được, vậy mà quí
vị hy vọng lấy những cách thức đo
lường của quí vị mà áp dụng cho sự
huyền vi của các Khoa Học Bí Truyền phát sinh từ
nơi Thượng Đế hay sao?... Và quí vị sẽ
nhận thấy ǵ nếu tôi nhận ch́m quí vị trong
những vực thẳm của sự Di Chuyển (Motion),
cái Sức Mạnh (Force) vốn sắp xếp, gây dựng
nên các Con Số? Quí vị sẽ nghĩ ǵ nếu tôi nói thêm
rằng sự Di Chuyển và
Con Số ([239])
là do Huyền Âm, Thiên Đạo (the World) mà được
phát sinh ra, tiếng nói này là cái Lư Lẽ Tối Cao của
vị Thiên Tri và các người có Thần Nhăn, ngày xưa,
các Ngài đă cảm thấy được hơi thở
mănh liệt của Thượng Đế, một bằng
cớ của sự kiện này là quyển kinh Khải
Huyền (Apocalypse)? ([240])
(b) “Nguyên thể
Chói Sáng đông đặc lại và lan tràn trong các cơi Thâm Sâu”
của Không Gian. Theo quan điểm thiên văn học, điều này rất dễ giải thích,
đó là Ngân hà (Milky Way), Vật Liệu của Thế Gian
hay là Vật Chất Nguyên Thuỷ ở trong h́nh thức
đầu tiên của nó. Tuy nhiên, thật rất khó
giải nghĩa được điều này với
một ít chữ hay hàng chữ theo quan điểm của
Khoa Học Huyền Bí hay Biểu Tượng học v́
đây là chữ tượng h́nh (glyphs) phức tạp
nhất. Nó chứa đựng hơn mười hai
biểu hiệu. Trước hết, nó chứa
đựng trọn cả đồ vật ([241])
bí mật của vạn thần miếu ([242]), - mỗi
đồ vật này có một ư nghĩa huyền bí nhất
định – các vị Thần Minh “Khuấy động
Đại Dương để cho Vật Chất đông
đặc lại”, (“Churning of the Ocean”) nói theo thần
thuyết Ấn Độ. Ngoài Amrita, nước Cam
Lồ, vốn cho ta sự sống và trường sinh
bất tử, c̣n có Surabhi, “con ḅ cái ban phát sự phong phú” (“cow
of plenty”) được gọi là “nguồn sữa lỏng
và sữa đặc”, cũng nhờ cái “Biển Sữa”
ấy mà có. V́ thế nên ở đâu người ta cũng
thờ phụng ḅ cái và ḅ đực, một con là khả
năng sinh đẻ, một con là khả năng truyền
giống trong Thiên Nhiên: các biểu tượng này liên quan
đến cả các vị thần của Thái Dương
Hệ và các vị thần của Vũ Trụ. Những
đặc tính của “mười bốn báu vật”
để được sử dụng theo những
mục tiêu huyền bí chỉ được giảng
dạy trong kỳ Điểm Đạo thứ tư, nên
không thể tiết lộ nơi đây được,
nhưng chúng ta có thể chú ư đến điều sau
đây. Trong kinh Shatapatha Brahmana có
136
ghi
chú rằng “Đại Dương Sữa” được
khuấy động để cho đông đặc
lại trong thời đại hoàng kim (Satya Yuga), thời
đại đầu tiên tiếp theo “trận Đại Hồng
Thuỷ” (“Deluge”). Nhưng v́ cả hai quyển Thánh kinh Rig
Veda và Manu – hai quyển này đều có trước
trận “Đại Hồng Thuỷ” Vaivasvata, trận
hồng thuỷ của Giống dân chánh thứ Tư -
đều không đề cập đến trận
Hồng Thuỷ nói trên, nên rơ ràng đó không phải là trận
Đại Hồng Thuỷ, cũng không phải là trận
Hồng Thuỷ đă nhận ch́m châu Atlantis, cũng không
phải là trận Hồng Thuỷ của cụ tổ Noah
thường được nói đến trong sách này.
“Sự khuấy động sữa cho đông đặc
lại” nói trên liên quan đến một thời
đại có trước khi địa cầu thành h́nh và
liên lạc trực tiếp với một thần
thuyết phổ thông khác, đó là những thuyết khác
nhau và đối chọi nhau mà tột đỉnh của
chúng là Tín Điều Cơ Đốc giáo về “Trận
Chiến Tranh trên Trời” và “Sự Sa Đoạ của các
Thiên Thần” ([243]).
Kinh Brahmanas mà các học
giả khảo cứu văn hoá Đông phương chê
trách rằng đă chứa đựng những thuyết
đối chọi nhau về những đề tài
giống nhau thật ra là những tác phẩm hết sức huyền bí, v́
vậy nên được hữu ư sử dụng như là
những tấm màn che phủ. Những kinh này mà
được phép c̣n sót lại để cho đại
chúng sử dụng và sở hữu, chỉ v́ đại
chúng hoàn toàn không hiểu ǵ về những kinh đó cả.
Nếu không th́ những kinh ấy đă biến mất
đi, không được lưu truyền như thuở
xưa, trong thời đại Akbar.
5. CỘI RỄ VẪN C̉N, ÁNH SÁNG VẪN
C̉N, NHỮNG KHÓM SỮA ĐẶC VẪN C̉N VÀ OEAOHOO (a)
VẪN LÀ MỘT (b).
(a) Trong những lời b́nh luận, OEAOHOO
được dịch là “Cha Mẹ của các vị
Trời Thần” (“Father-Mother of the Gods”) hay là số SÁU TRONG
SỐ MỘT (SIX IN ONE), hay là Cội
Rễ có bảy Thể phát sinh ra vạn vật. Danh
từ này có nghĩa này hay nghĩa khác, đó là tuỳ theo
người ta đọc nhấn mạnh vào một nguyên
âm nào trong bảy nguyên âm của danh từ, bảy nguyên âm
này cũng có thể được đọc lên như
MỘT (ONE), ba hay bảy vần, bằng cách thêm chữ “e”
ở phía sau chữ “o”. Danh từ thần bí này
được tiết lộ, v́ rằng nếu
người ta không hoàn toàn hiểu thấu ba cách
đọc nó th́ nó không có hiệu lực ǵ cả.
(b) Khi viết “là Một”, người ta
đề cập đến sự Bất khả chia ly
(Non-Separateness) của chúng sinh, sự Duy Nhất này có
thực thể, dù ở trong trạng thái hoạt
động hay thụ động. Theo một nghĩa, th́
Oeaohoo là “Cội Rễ Nguyên Thuỷ của Vạn Vật”
(“Rootless Root of All”); v́ vậy, nên hợp nhất với
Parabrahman; theo một nghĩa khác, đó là một danh từ
để chỉ ĐỜI SỐNG DUY NHẤT hữu
h́nh, sự Duy Nhất sống động và vĩnh
cửu. Như trên đă giải nghĩa, “Cội Rễ” có
nghĩa là Kiến Thức Thuần Tuư (Sattva) ([244]),
trường tồn (nitya)
Thực Tại vĩnh cửu và vô hạn định hay là
Sat (Satya), dù gọi nó là Parabrahman hay Mulaprakriti, v́ cả hai
chỉ là hai biểu tượng của Đấng Duy
Nhất. “Ánh Sáng” th́ cũng vẫn là Tia Sáng Thiêng Liêng Vô
Sở Bất Tại đó (không nơi nào mà không có), nó
đă đi xuyên vào Cái Trứng Thiêng Liêng, đang làm cho
Trứng đó nảy mầm và thu hút vật chất
của vũ trụ để khởi đầu các
hệ thống biến hoá lâu dài. “Những Khóm Sữa
đặc” là sự biến hoá đầu tiên và dĩ nhiên
cũng liên quan đến vật chất đó của
vũ trụ, nó có lẽ là nguồn cội của dăy Ngân
Hà (Milky Way)- vật chất mà ta biết. Theo sự tiết
lộ của các vị Thiền Định Phật
(Dhyani-Buddhas), th́ “vật chất”này tinh vi, tế nhị,
nhuyễn nhỏ trong chu kỳ ngủ yên của Vũ
Trụ đến mức tối đa mà Pháp nhăn của
bậc Thập Địa Bồ Tát nhận thức
được; vật chất sáng chói và mát lạnh đó,
khi vũ trụ bắt đầu thức dậy và
chuyển ḿnh, bỗng được tung rải khắp
không gian; khi người ta từ trái đất nh́n lên th́
vật chất này giống như những chùm, tảng,
tựa như sữa loăng đông đặc lại. Đó
là những hạt giống của những thế giới
tương lai, “nguyên liệu của Tinh Tú” (“Star-stuff”).
137
6. TRONG MỖI GIỌT NƯỚC CỦA
ĐẠI DƯƠNG BẤT TỬ ([245]),
ĐỀU CÓ NGUỒN CỘI CỦA SỰ SỐNG, VÀ
ĐẠI DƯƠNG LÀ ÁNH SÁNG CHÓI CHANG, ÁNH SÁNG NÀY LÀ
LỬA, SỨC NÓNG VÀ SỰ LUÂN CHUYỂN. BÓNG TỐI
BIẾN ĐI VÀ KHÔNG C̉N NỮA; NÓ BIẾN VÀO NGUYÊN THỂ
CỦA CHÍNH NÓ, VÀO H̀NH THỂ CỦA LỬA VÀ NƯỚC,
CỦA CHA VÀ MẸ.
Nguyên thể của Bóng Tối là Ánh Sáng
Tuyệt Đối, Bóng Tối được dùng làm biểu
hiện thích đáng và có tính cách tượng trưng cho cái
trạng thái của Vũ Trụ trong Chu Kỳ Hỗn
Nguyên (Pralaya) hoặc là thời hạn của sự
Nghỉ Ngơi Tuyệt Đối (Absolute Rest) hay là Hư
Vô (Non-Being), đối với trí óc hữu hạn của
chúng ta. “Lửa, Sức Nóng và Sự Chuyển Động”
được nói đến nơi đây, dĩ nhiên không
phải là lửa, sức nóng và chuyển động
của khoa học vật chất, mà là những thực
thể trừu tượng, căn bản hay linh hồn
của nguyên thể phát sinh ra những sự biểu
hiện vật chất đó – đó là thực thể
của sự vật, như khoa học ngày nay đă nh́n
nhận; những dụng cụ của pḥng thí nghiệm
không thể hoàn toàn kiểm điểm được
thực thể này; trí óc con người cũng không
thấu triệt được thực thể ấy,
mặc dù trí đó khó ḷng mà từ chối, mà không kết
luận rằng tất nhiên là phải có những nguyên
thể căn bản của sự vật. Nơi đây,
“Lửa và Nước hay Cha và Mẹ” ([246])
có thể có nghĩa là Tia Sáng thiêng liêng và Sự Hỗn Mang.
Một đoạn văn của Hermes nói: “Sự Hỗn
Mang phát sinh từ sự hợp nhất với Tinh
Thần, cái Tinh Thần đang hoạch đắc
được giác quan, sáng ngời lên v́ khoái cảm và
Protogonos (Ánh Sáng nguyên thuỷ) được phát sinh theo
cách đó. Ông Damascius gọi nó là Dis, trong môn Thần Phổ học (Theogony), “Đấng
xếp đặt và điều hoà vạn vật” ([247]).
Theo giáo lư của môn phái Hoa Hồng Thập
Tự mà người phàm tục đă một lần
sử dụng và giải nghĩa đúng đắn, tuy
chỉ đúng đắn một phần nào thôi, th́
“Thực Thể của Ánh Sáng và Bóng Tối giống in nhau,
chính trí óc con người đă chia rẽ chúng ta”, và theo
Robert Fludd th́ “Bóng Tối đă chấp nhận sự
chiếu sáng để tự biểu hiện” ([248]).
Theo giáo lư Huyền bí học Đông phương th́ BÓNG
TỐI là Thực Tại Duy Nhất, là căn bản và
cội rễ của Ánh Sáng; không có Bóng Tối th́ Ánh Sáng
không bao giờ có thể tự biểu lộ hay tồn
tại được. Ánh Sáng là Vật Chất và BÓNG
TỐI là Tinh Thần thuần tuư. Tại nơi căn
bản siêu h́nh và nguyên thuỷ của nó, Bóng Tối là Ánh
Sáng tuyệt đối và chủ quan, c̣n Ánh Sáng có vẻ
dường như huy hoàng, lộng lẫy, nhưng thật
ra chỉ là một đám bóng tối mà thôi, v́ nó không bao
giờ trường tồn cả, mà chỉ là một
Ảo Tưởng hay Maya.
138
Ngay cả trong tác phẩm Sáng Thế Kư (Genesis) ([249])
thường làm cho ta rối trí và làm cho khoa học mệt
nhoài, ánh sáng được tạo ra từ bóng tối –“và
bóng tối bao phủ lên trên vực thẳm”- chớ không
phải trái ngược lại ([250]).
“Trong nó (trong bóng tối) có sự sống và sự sống
là ánh sáng của con người” ([251]).
Một ngày kia mắt con người sẽ được
mở ra và lúc đó họ sẽ hiểu nhiều hơn là
họ hiểu bây giờ về câu thơ trong kinh Phúc Âm
của Thánh John nói rằng: “Và ánh sáng chiếu trong bóng
tối, và bóng tối không hiểu ánh sáng”. Họ sẽ
thấy rằng chữ “bóng tối” không chỉ
định cái nhăn quan tinh thần của con người,
nhưng thực ra nó chỉ định “Bóng Tối”,
sự Tuyệt Đối, vốn không hiểu biết
(không thể nhận biết) được cái ánh sáng
nhất thời, mặc dù ánh sáng này cao cả bao nhiêu
đối với con mắt người đời. Demon est Deus inversus (Ma quỷ là
mặt trái của Trời). Bây giờ, Giáo hội Cơ
Đốc gọi Ma Quỷ là Bóng Tối. C̣n trong Thánh kinh Cơ Đốc (Bible),
trong Thánh kinh của Thánh Job
(Book of Job)([252]),
Ma quỷ được gọi là “Con Trai của
Thượng Đế” (“Son of God”), ngôi sao mai chói sáng,
Lucifer ([253]).
Có trọn cả một triết lư mánh lới giáo
điều, giải nghĩa tại sao vị Đại
Thiên Thần phát sinh từ những vực thẳm của
sự Hỗn Mang lại được gọi là Lux (Ánh
Sáng) (Lucifer), “Người Con chói rạng của Buổi
Sáng” hay là buổi B́nh Minh của Chu Kỳ Khai Nguyên. Giáo
Hội Cơ Đốc đă biến hoá vị Đại
Thiên Thần này thành Lucifer hay Chúa Quỷ (Satan), v́ vị
Đại Thiên Thần này cao cả hơn và nhiều
tuổi hơn Đức Jehovah, v́ vậy, ngựi ta hy sinh
vị Đại Thiên Thần này đi, để cho giáo
điều mới mẻ được chiến thắng
([254]).
7. HỠI NGƯỜI ĐỆ TỬ ([255]),
HĂY NH̀N NGƯỜI CON SÁNG CHÓI CỦA CHA VÀ MẸ, SỰ
VINH QUANG HUY HOÀNG VÔ SONG – VŨ TRỤ CHÓI SÁNG, CON CỦA
VŨ TỤ TỐI TĂM, ĐĂ VƯƠN M̀NH RA KHỎI
CHỐN THÂM SÂU CỦA NHỮNG LÀN NƯỚC TỐI
TĂM VĨ ĐẠI. ĐÓ LÀ ĐỨC OEAOHOO, TRẺ
TUỔI HƠN, ĐỨC ***([256])(a).
NGÀI CHIẾU SÁNG NHƯ MẶT TRỜI, NGÀI LÀ CON RỒNG
MINH TRIẾT THIÊNG LIÊNG CHÓI LOÀ, EKA ([257])
LÀ CHATUR, VÀ CHATUR LẠI GẮN LIỀN VỚI TRI, VÀ SỰ
PHỐI HỢP NÀY PHÁT SINH RA SAPTA, TRONG ĐÓ SỐ BẢY
TRỞ THÀNH TRIDASHA ([258]),
NHỮNG ĐÁM ĐÔNG VÀ VÔ SỐ (b). HĂY NH̀N NGÀI NÂNG
NHẮC TẤM MÀN CHE VÀ TRẢI NÓ RA TỪ ĐÔNG SANG TÂY.
NGÀI CHE KÍN PHÍA TRÊN ĐỂ HỞ PHÍA DƯỚI
ĐỂ MỌI NGƯỜI NH̀N THẤY NHƯ LÀ MỘT
ẢO TƯỞNG VĨ ĐẠI. NGÀI ĐÁNH DẤU
VỊ TRÍ CỦA NHỮNG ĐẤNG CHÓI SÁNG ([259]),
VÀ XOAY TRỞ PHÍA TRÊN ([260])
THÀNH MỘT BIỂN LỬA VÔ BỜ BẾN (c), VÀ LÀM CHO
SỰ DUY NHẤT HỮU H̀NH ([261])
TRỞ THÀNH NHỮNG D̉NG NƯỚC VĨ ĐẠI.
139
(a) “Không Gian Chói Sáng, Con của Không Gian Tối
Tăm”, th́ tương đương với Tia Sáng
được phóng xuống Vực Thẳm vĩ
đại của Vũ Trụ. Khi buổi b́nh minh mới
mẻ bắt đầu chuyển ḿnh, từ những
vực thẳm đó, Tía Sáng này lại nhô ra,
được biến hoá đi và trở thành “Đức
Oeaohoo. Đấng Trẻ Tuổi hơn” (“SỰ SỐNG
mới mẻ”) để trở thành Mầm Mống
của vạn vật khi chu kỳ của Đời Sống
được chấm dứt. Ngài là “Con Người Vô H́nh
chứa đựng nơi ḿnh cái Ư Niệm của
Thượng Đế”, Đấng phát sinh ra Sự
Sống và Ánh Sáng, nói theo từ ngữ của ông Philo
Judaeus. Người ta gọi Ngài là “Con Rồng Minh Triết
Chói Loà” (“Blazing Dragon of Wisdom”), v́ trước hết, theo
người Hy Lạp, Ngài chính là Thiên Đạo (Logos), là
Huyền Âm (Verbum) của Tư Tưởng Thượng
Đế, và sau nữa, v́ trong Triết lư Bí giáo, sự
biểu hiện đầu tiên này là sự tổng hợp
hay phối hợp của Minh Triết Phổ Biến
(Universal Wisdom), nên Đức Oeaohoo, “Người Con của
Mặt Trời”, chứa đựng nơi ḿnh Bảy
Đẳng Cấp Thần Minh sáng tạo (các Đấng
Sephiroth) và v́ vậy nên Ngài là tinh hoa của sự Minh
Triết được biểu lộ ra. “Ai đă đắm ḿnh trong ánh sáng của Đức
Oeaohoo th́ sẽ không bao giờ bị tấm màn Ảo
Tưởng lừa gạt”.
Đức “Kwan-Shai-Yin” (“Quán Thế Âm”) th́
tương đương và giống in với Đức
Avalokiteshvara, và v́ vậy nên Ngài là một vị thần ái
nam ái nữ giống như Tứ Linh Tự (Tetragrammaton) và
mọi vị Thượng Đế hữu h́nh thời
cổ. Chỉ có một vài giáo phái ở Trung Hoa đă nhân
cách hoá Ngài và gán cho Ngài những đặc tính của
nữ phái ([262]);
khi mang h́nh hài của phái nữ, Ngài thành Đức Quan Âm
(Kwan-Yin), vị nữ Bồ Tát Từ Bi (the Goddess of Mercy),
được mệnh danh là Quán Thế Âm, “Tiếng Nói
Thiêng Liêng” (“Divine Voice”) ([263]).
Đức Quán Thế Âm là vị Bồ Tát hộ tŕ xứ
Tây Tạng và đảo Puto ở Trung Hoa, tại những
nơi đó, cả hai vị Bồ tát đều có
một số tu viện ([264]).
Tất cả những vị thần cao
cả hơn ở thời cổ đều là “Những
Người Con Trai của Mẹ” trước khi trở
thành “Những Người Con Trai của Cha”. Giống
như thần Jupiter hay Zeus, Người Con của
Kronos-Saturn, “Thời Gian Vô Cùng Tận” (Kala), các vị
Thượng Đế hữu h́nh khi mới
được tạo tác th́ đều ái nam ái nữ.
Người ta nói rằng thần Zeus là “một vị Trinh
Nữ xinh đẹp” và thần Vệ Nữ (Venus) lại
có râu ở cằm. Thoạt đầu thần Apollo
(Thần Mặt Trời) th́ ái nam ái nữ cũng giống
như Đức Brahma-Vach trong kinh Manu và Purana.
Đức Osiris ([265])
có thể đổi thành Đức
140
(b) “Con Rồng Minh Triết” là số Một,
là “Eka” (tiếng Bắc phạn) hay là Saka. Thật là lạ
lùng khi thấy rằng danh hiệu của Đức Jehovah
trong tiếng Hy Bá Lai đáng lẽ ra cũng phải là Số
Một, Echad. Các vị tu sĩ Do Thái nói: “Danh hiệu
của Ngài là Echad”. Vậy th́ các nhà ngôn ngữ học
phải quyết định xem chữ nào do chữ kia mà
được phát sinh ra trong phạm vi ngữ học và
biểu tượng học; chắc chắn chữ
Bắc phạn “Eka” không do chữ “Echad” mà có. “Số
Một” và “Con Rồng” là những từ ngữ mà cổ
nhân thường dùng để chỉ những vị
Thượng Đế hữu h́nh của họ. Theo ư
nghĩa bí truyền (với tư cách là Elohim, Đấng
Thượng Đế Sáng Tạo), Đức Jehovah
cũng là Con Rắn mà Eva đă quyến rũ; và Rồng là
một biểu tượng cũ của Tinh Tú Quang (Nguyên
Lư Căn Bản), “Ánh Sáng này là sự Minh Triết của
trạng thái Hỗn Mang”. Triết lư tối cổ không công
nhận điều Thiện và điều Ác như là
một quyền lực căn bản và độc lập,
mà lại khởi đầu từ ĐẠI THỂ
Tuyệt Đối (Sự Toàn Thiện Toàn Mỹ
trường tồn ở khắp nơi); Triết lư
tối cổ t́m kiếm dấu vết của cả
điều thiện lẫn điều ác trong cái trào
lưu tiến hoá tự nhiên, đi từ Ánh Sáng thuần
tuư, nó từ từ đông đặc lại thành h́nh
thể và từ đó trở thành Vật Chất hay
Điều Ác. Về sau, các ông Cố Đạo dốt nát
(ignorant) thời xưa đă làm đồi truỵ cái ư niệm
cao cả, có giá trị về khoa học và triết học
của biểu tượng này thành điều mê tín dị
đoan phi lư, được gọi là “Ma Quỷ” (“Devil”).
Các ông Cố Đạo này mượn h́nh thức “Ma
Quỷ” đó của những tín đồ Bái Hoả giáo
gần đây; những người Bái Hoả giáo này xem
những vị Thiên Thần Ấn Độ (Hindu Devas)
như là Ma Quỷ hay Điều Ác, và do hai sự biến
đổi, tiếng Evil (Điều Ác) bỗng trở
thành D’Evil (Ma Quỷ)(Diabolos, Diable, Diavolo, Teufel)([268]).
Những người ngoại đạo ([269])
bao giờ cũng có một sự phân biệt có tính cách
triết lư về những biểu tượng của
họ. Biểu tượng cổ xưa của con rắn
tượng trưng cho sự Minh Triết thiêng liêng và
sự Toàn Thiện Toàn Mỹ và luôn luôn bênh vực
thuyết phục sinh và bất tử. V́ vậy nên
Đức Hermes mới gọi con rắn là con vật linh
thiêng nhất trong vạn vật; Đức Môi-Se (Moses)
được điểm đạo trong nền Minh
Triết của Đức Hermes cũng chủ
trương như thế trong tác phẩm Sáng Thế Kư (Vũ Trụ Luận); Con Rắn
Thần Bí trong Cơ Đốc giáo với bảy nguyên âm
trên đầu tượng trưng cho Bảy Đẳng
Cấp Thần Minh hay những Đấng Sáng Tạo ra các
Hành Tinh. Cũng do đó mới có con rắn Ấn
Độ tên là Shasha hay Ananta, “Đấng Vô Cùng” (“the
Infinite”), một danh hiệu của Đức Vishnu và
cũng là cái Hiện Thể (Vehicle) đầu tiên của
Ngài trên những Làn Nước Nguyên Thuỷ. Tuy nhiên,
cũng giống như các vị Thượng Đế
hữu h́nh và các Đẳng Cấp Thần Minh Uy Dũng
(Hierarchies of Power), ta cần phải phân biệt những
“Con Rắn” này. Shesha hay Ananta, “Giường Nằm của
Đức Vishnu” (“Couch of Vishnu”), là một sự trừu
tượng có ư nghĩa tượng trưng, biểu
hiện của Thời Gian vô cùng tận trong Không Gian,
chứa đựng Mầm Mống, và mỗi chu kỳ
lại biểu lộ ra ngoài sự đơm bông kết
trái của Mầm Mống, tức là Vũ Trụ hữu h́nh; c̣n Con Rắn
của phái Ngộ đạo (Gnostic Ophis) cũng chứa
đựng ba biểu tượng ấy trong bảy nguyên
âm, đó là Thánh danh Oeaohoo của giáo lư tối cổ
với một, ba và bảy vần, nghĩa là Thượng
Đế Ngôi Một Vô H́nh (One Unmanifested Logos),
Thượng Đế Ngôi Hai Hữu H́nh (Second Manifested),
h́nh Tam Giác (Triangle) được cụ thể hoá thành
Tứ Thể (Quaternary) hay là Tứ Linh Tự (Tetragrammaton)
và những Tia Sáng của Ngài trong cơi hồng trần.
Tuy nhiên, họ luôn luôn phân biệt Con Rắn
thiện với Con Rắn ác (Tinh Tú Quang theo các tín
đồ Do Thái Bí giáo – the Astral Light of the Kabalists), phân
biệt giữa Con Rắn thiện, hiện thân của Minh
Triết Thiêng Liêng trong lănh vực Tinh Thần, và Con Rắn
ác, Điều Ác, trong cơi Vật Chất. V́ cái Tinh Tú Quang
hay là Dĩ Thái - nếu ta dùng danh từ của những
người ngoại đạo thời xưa – th́ chính là
Tinh Thần - Vật Chất, c̣n danh từ Tinh Tú Quang này là
một danh từ rất mới mẻ. Khởi đầu
từ cảnh giới thuần tuư tinh thần, khi càng
xuống thấp th́ chất này càng trở nên nặng
trược cho tới khi nó trở thành Ảo Tưởng
(Maya) hay là con rắn quyến rũ và lừa gạt
của cảnh giới hồng trần chúng ta.
141
Đức Jesus công nhận con rắn có
nghĩa là sự Minh Triết và giáo lư của Ngài có chứa
đựng ư niệm đó: “Các ngươi hăy khôn ngoan
như loài rắn”. “Vào lúc
khởi đầu, trước khi Mẹ được
biến đổi thành Cha - Mẹ, Con Rồng lửa
chuyển động một ḿnh trong những cơi Không Gian vô
cùng tận” ([270]).
Kinh Aitareya Brahmana gọi địa cầu là Sarparajni,
“Hoàng Hậu Rắn” (“Serpent Queen”) và “Mẹ của vạn
vật biết chuyển động” ([271]).
Trước khi địa cầu của chúng ta có h́nh
như quả trứng (và cả Vũ Trụ cũng
thế), “th́ một vệt dài đầy bụi của
vũ trụ (hay là bụi lửa) di chuyển và vặn
ḿnh giống như con rắn trong Không Gian”. Mỗi quốc
gia đều tượng trưng cho “Thần Lực
của Thượng Đế di chuyển trong sự
Hỗn Mang” bằng h́nh dáng một con rắn lửa phun
lửa và phun ánh sáng trên những làn nước nguyên
thuỷ, măi cho đến khi nó ấp ủ xong vật
chất của vũ trụ và khiến vật chất này
thành h́nh cuộn tṛn của một con rắn miệng
ngậm lấy đuôi – h́nh này không những tượng
trưng cho sự trường tồn vĩnh cửu, mà c̣n
tượng trưng cho h́nh khối tṛn của mọi
vật thể được thành h́nh trong ḷng Vũ
Trụ phát sinh từ đám sương mù đầy
lửa ấy. Vũ Trụ, và cả Trái Đất,
lẫn Con Người, thường theo chu kỳ mà tự
lột những lớp da cũ và khoác lên ḿnh những
lớp da mới, sau một thời kỳ nghỉ ngơi,
giống như con rắn vậy. Chắc chắn con
rắn không phải là một h́nh ảnh kém duyên dáng xinh
đẹp hay là một h́nh thù ǵ gớm ghiếc hơn
nếu đem so sánh nó với con sâu và con nhộng phát sinh ra
con bướm; người Hy Lạp lấy con
bướm làm biểu hiện cho Psyche, linh hồn con
người! Đối với người Ai Cập
cũng như đối với phái Ngộ Đạo, “Con
Rồng” cũng là biểu hiện của Thượng
Đế. Theo Quyển sách
của Hermes, Đức Pymander, vị Thượng
Đế hữu h́nh thiêng liêng nhất và cổ xưa
của Lục địa Tây phương, hiện ra
với Đức Hermes dưới h́nh dáng một con
Rồng Lửa đầy “Ánh Sáng, Lửa và Ngọn
Lửa”. Đức Pymander, hiện thân của “Tư
Tưởng của Thượng Đế” nói rằng:
Ánh Sáng chính là Ta, Ta là Nuos [Cái Trí hay Manu], Ta là
Thượng Đế của ngươi, và Ta c̣n
nhiều tuổi hơn cái bản chất của con
người đă thoát khỏi bóng tối [sự Tối
Tăm – Dakness – hay Thượng Đế ẩn tàng]. Ta là
mầm mống của tư tưởng, là Tiếng Nói
sáng ngời, là Con của Thượng Đế. Vậy
nên chính Thánh Thể của Đức Chúa Tể hằng
trông thấy và nghe thấy ở bản thân ngươi.
Tư Tưởng (Mahat) chính là Thượng Đế, là
Đức Chúa Cha ([272]).
Đại Dương trên trời (celestial Ocean), biển
Dĩ Thái (Aether)… là Hơi Thở của Cha, là nguyên tố
phát sinh ra sự sống, là Mẹ, là Đức Thánh Linh
(Holy Spirit)… v́ các vị này không bị chia rẽ và sự hợp
nhất của các Ngài làm thành Đời Sống ([273]).
Nơi đây, chúng ta t́m thấy tiếng vang
đúng thật của Giáo Lư Bí Nhiệm tối cổ
như đang được giải nghĩa ở bộ
sách này. Tuy nhiên, Giáo Lư Bí Nhiệm không đặt Đức
Chúa Cha lên trên tột đỉnh của sự tiến hoá
của sự sống, v́ Ngài chỉ đứng ở
hạng thứ ba và chính là “Con của Mẹ”, nhưng Ngài
là “Hơi Thở Trường Tồn và Không Ngừng
Nghỉ của Đại Thể VŨ TRỤ CÀN KHÔN”
(“Eternal and Ceaseless Breath of the ALL”). Kinh Samkhya Sara ([274])
nói: Mahat (Sự Hiểu Biết, Toàn Linh Trí Tư
Tưởng v..v..), hiện ra như Vishnu ([275])
trước khi biểu lộ thành Brahma ([276])
và Shiva ([277]).
V́ vậy, Mahat có
142
nhiều vẻ, giống y như Thượng
Đế có nhiều vẻ. Trong sự Sáng Tạo Nguyên Sơ (Primary Creation),
người ta gọi Mahat là Đức Ngài (the Lord), theo ư
nghĩa đó, Mahat là sự Hiểu Biết ngự trị
khắp nơi hay là Tư Tưởng của Thượng
Đế; nhưng “Mahat đó được phát sinh ngay ra
lúc đầu tiên, về sau này bị người ta
gọi là ích kỷ, khi nó được sinh ra như là cái
Tôi (sự cảm biết được cái bản ngă
của ḿnh, nghĩa là sự sáng tạo lần thứ hai”
([278]).
Và dịch giả là một người Bà La Môn có tài và thông
thái, chứ chẳng phải là một người Âu Châu
khảo cứu văn hoá Đông phương) giải
nghĩa điều này trong một lời ghi chú cuối
trang: “Nghĩa là Mahat phát triển thành sự tự ư
thức (tự cảm biết được cái bản
thể của ḿnh), thành cái Tôi, th́ nó được
mệnh danh là sự ích kỷ”, nói theo lối Bí giáo của
chúng ta th́ điều đó có nghĩa là khi Mahat
được biến đổi thành Manas, Cái Trí của
con người (hay là cho đến Cái Trí của các vị
thần hữu hạn) và trở thành Ngă chấp (Aham-ship). Tại sao
người ta lại gọi nó là “Mahat của sự Sáng
Tạo Thứ phát (Secondary Creation)
(hay là sự sáng tạo lần Thứ
Chín, sự Sáng Tạo ra các Đấng Kaumara trong kinh Vishnu Purana) điều này
sẽ được giải thích trong Quyển 2 của
bộ sách này.
(c ) V́ vậy, “Biển Lửa” là siêu Tinh Tú
Quang (Super-Astral Light)( nghĩa là nguyên thuỷ), sự
chiếu sáng đầu tiên phát sinh từ Hỗn Nguyên Khí
(Root Mulaprakriti), cái Thực Chất chưa bị Biến
Hoá của Vũ Trụ (Undifferentiated Cosmic Substance), sau này
trở thành Vật Chất cơi Cảm
Dục (Astral Matter).
Người ta gọi nó là “Con Rắn Lửa” (“Fiery Serpent”),
như đă miêu tả ở trên. Nếu học giả
nhớ kỹ trong trí rằng chỉ có một Nguyên Tố
Duy Nhất Phổ Biến Khắp Nơi, vô cùng tận, vô
sinh, bất tử và tất cả các vật khác – như
ở trong cái thế giới hữu h́nh và phù du này - chỉ
là vô số những trạng thái biến hoá khác nhau và
những sự biến h́nh (nay được gọi là
những tương giao) của Nguyên Tố Duy Nhất
đó, từ đại vũ trụ xuống cho
đến tiểu vũ trụ, từ các vị siêu nhân
cho tới con người và đến các loài thấp kém
hơn nữa, nói tóm lại, toàn thể đời sống
hữu h́nh, như vậy sự khó khăn đầu tiên
và chính yếu sẽ mất đi và chúng ta có thể
thấu triệt được khoa Vũ Trụ Luận
Huyền Bí (Occult Cosmology) ([279]).
Tất cả những người Do Thái Bí
giáo và những người Huyền bí học Đông
phương và Tây phương đều nh́n nhận
rằng (a) “Cha-Mẹ” chính là Hậu Thiên Khí Nguyên Thuỷ
(Primordial Aether), hay Tiên Thiên Khí (Akasha)(Tinh Tú Quang); và (b)
trước khi “Người Con” tiến hoá trong phạm vi
Vũ Trụ, Người Con này là Vô Cực Điện (Fohat) – th́ Hậu thiên khí nguyên
thuỷ được thuần nhất, v́ đó là
Điện Vũ Trụ (Cosmic Electricity). “Fohat tung Bảy
Anh Em rải rác khắp nơi và làm cho họ cứng
rắn lại” ([280]),
câu này có nghĩa là vị Thần Minh Điện Lực
Nguyên Thuỷ (Electric Entity)- các nhà Huyền bí học Đông
phương nhấn mạnh rằng Điện Lực là
một Thực Thể Thông Linh (Entity) – phát sinh ra
điện và làm cho đời sống nảy sinh, và phân
biệt vật liệu nguyên thuỷ hay vật chất
tiền sinh (pregenrtic matter) thành những nguyên tử, chúng là
nguồn cội của mọi đời sống và tâm
thức (consciousness). “Có một
nguyên tố độc nhất và phổ biến trong
mọi h́nh hài và đời sống được gọi
là Od, Ob và Aour ([281]),
hoạt động và thụ động, âm và dương,
giống như ngày và đêm: đó là ánh sáng đầu tiên
trong sự Khai Thiên Lập Địa” (tác phẩm Kabalah của Éliphas Lévi) – Ánh
Sáng đầu tiên của vị Thượng Đế
Sáng tạo (Elohim) nguyên thuỷ, của Tổ Adam, Con
Người Nguyên Thuỷ “ái nam ái nữ” hay nói theo khoa
học th́ đó là ĐIỆN LỰC và ĐỜI SỐNG (ELECTRICITY AND
LIFE).
143
Cổ nhân lấy con Rắn tượng
trưng cho điều đó v́ “Fohat kêu rít lên khi nó
trườn ḿnh ḅ khắp đó đây” theo con
đường ngoằn ngoèo. Để chỉ nó, Giáo Lư Bí Truyền Do Thái (Kabalah)
dùng chữ Hy Bá Lai “Teth” tượng trưng cho con rắn,
nó đóng một vai tṛ quan hệ trong các Bí Pháp (Mysteries). Cái
giá trị phổ biến của nó là số chín, v́ đó là
chữ cái thứ chín trong bản mẫu tự và là cái
cửa số chín trong số năm mươi cái cửa
lớn hay cổng lớn dẫn dắt đến
những sự bí mật ẩn tàng của đời
sống. Đó chính là cái nguyên tố nhiệm mầu; trong
triết lư của môn phái Đức Hermes (Khoa luyện kim),
th́ nguyên tố đó chỉ “Đời sống
được truyền vào trong Vật Chất Nguyên
Thuỷ”, nguyên thể tạo nên vạn vật, tinh
thần ấn định h́nh hài vạn vật. Nhưng có
hai tác động luyện kim bí mật, một tác
động tinh thần, một tác động vật
chất tương liên và được hợp nhất
măi măi. Đức Hermes nói:
Nhà ngươi
phân chia đất ra khỏi lửa, chất thanh bai,
tế nhị ra khỏi chất đặc… cái chất
sẽ từ trái đất bốc lên tới trời,
rồi lại từ trời mà trở xuống
đất. Nó [ánh sáng tế nhị] là động lực
mạnh mẽ của mọi động lực, v́ nó
chiếm đoạt mọi vật tế nhị và
thấm nhuần mọi vật cứng đặc. Thế
giới thành h́nh như vậy đó.
Không phải chỉ có ông Zeno, vị sáng
lập ra môn phái Khắc Kỷ (Stoicism) dạy rằng
Vũ Trụ có tiến hoá và cái nguyên chất đầu
tiên của vũ trụ được biến đổi
từ trạng thái lửa đến trạng thái không khí,
rồi đến trạng thái nước v..v…Ông Heraclitus
Ephesus chủ trương rằng cái nguyên lư duy nhất
ẩn tàng trong mọi hiện tượng trong Thiên Nhiên là
lửa. Trí khôn khiến cho Vũ Trụ chuyển
động là lửa, và lửa là trí khôn, và trong khi ông
Anaximenes cũng nói như thế về không khí và ông Thales
Miletus (600 năm trước Thiên Chúa) cũng nói như
vậy khi đề cập đến nước, th́ Giáo
Lư Bí Truyền (Esoteric Doctrine) hoà giải tất cả các
triết gia đó bằng cách chứng minh rằng tuy
mỗi triết gia đều hữu lư, nhưng không ông nào
có một hệ thống tư tưởng đầy
đủ cả.
8. MẦM MỐNG Ở ĐÂU? VÀ BÂY GIỜ
BÓNG TỐI Ở ĐÂU? HỠI NGƯỜI ĐỆ
TỬ, HỒN CỦA NGỌN LỬA ĐANG CHÁY TRONG CÁI
ĐÈN CỦA NGƯƠI TH̀ Ở ĐÂU? MẦM MỐNG
LÀ CÁI ĐÓ VÀ CÁI ĐÓ LÀ ÁNH SÁNG, NGƯỜI CON MÀU TRẮNG
SÁNG CHÓI CỦA NGƯỜI CHA ẨN TÀNG VÀ TỐI TĂM.
Câu trả lời cho câu hỏi thứ
nhất, được câu hỏi thứ hai nhắc
nhở giúp, là câu trả lời của ông thầy nói
với học tṛ, câu nói giản dị này chứa
đựng một trong những chân lư thiết yếu
nhất của Triết học Huyền bí (Occult Philosophy).
Câu này chỉ rơ rằng có những vật mà giác quan
hồng trần của ta không nhận thấy
được, những vật này thật là quan trọng
hơn, thiết thực hơn và trường tồn
hơn những vật được giác quan nh́n nhận
và chú ư tới. Trước khi người Đệ
Tử có thể hy vọng hiểu được vấn
đề siêu h́nh cao tuyệt vời ở trong câu hỏi
thứ nhất, th́ y phải có thể trả lời câu
hỏi thứ hai, và chính câu trả lời cho câu hỏi
thứ hai sẽ nhắc nhở cho y có thể trả
lời câu hỏi thứ nhất cho trúng cách.
144
Trong Lời b́nh luận viết bằng
tiếng Bắc Phạn liên quan đến ĐOẠN THÁNH
KINH (STANZA) này, có nhiều danh từ được dùng
để chỉ cái Nguyên Lư ẩn tàng và không
được tiết lộ. Trong những tác phẩm
viết tay cổ xưa nhất của văn chương
Ấn Độ, vị Thượng Đế Trừu
Tượng Không Được Tiết Lộ (Unrevealed
Abstract Deity) này không có danh hiệu. Người ta
thường gọi Ngài là “Cái Đó” (“That”) (theo tiếng
Bắc Phạn là Tad), và người ta gán cho Ngài đủ
mọi danh từ đă có, đang có và sẽ có, hay bất
cứ danh từ nào mà trí óc con người có thể đặt
ra.
Trong số những danh từ đó, dĩ
nhiên là chỉ được tiết lộ trong Triết
Lư Bí Truyền (Esoteric Philosophy), thí dụ như “Sự
Tối Tăm Thâm Sâu Thăm Thẳm Không Đáy” (“Unfathomable
Darkness”), “Luồng Gió Lốc” (“Whirlwind”) v.v.. Ngài cũng
được gọi là “Đấng của Kalahansa” (“ It
of the Kalahansa”), “Kala-ham-sa” và cả “Kali Hamsa” (Con Thiên Nga
Đen). Nơi đây, chữ “m” và chữ ”n” có thể
đổi chỗ cho nhau và cả hai chữ này đều
được đọc như vần Pháp văn an và
am theo giọng mũi.
Giống như trong Thánh kinh Hy Bá Lai và cả Thánh Kinh
Bắc Phạn, nhiều danh hiệu thiêng liêng huyền bí
khi được đọc lên cho lỗ tai kẻ phàm
tục nghe th́ cũng không có ư nghĩa ǵ hơn những
tiếng tầm thường, hủ lậu, v́ những
danh hiệu thiêng liêng này được giấu kín theo lối
hoán tự (anagram) ([282])
hay lối khác. Chữ Hamsa hay Hansa chính là ở trong
những trường hợp giống như thế. Hamsa
có giá trị tương đương với “A-ham-sa” – ba
tiếng này có nghĩa là “Tôi là Ngài” (“I am He”); c̣n nếu
tiếng đó được chia cắt theo một
lối khác th́ sẽ thành “Soham”, nghĩa là “Ngài là Tôi” (“He
[is] I”)- Soham có giá trị tương đương với
Sah, nghĩa là “Ngài” (“he”) và aham, nghĩa là “Tôi” hoặc “Tôi
là Ngài”. Đối với người hiểu biết th́
chỉ riêng một chữ này cũng chứa đựng
ngôn ngữ của sự minh triết, sự bí mật cao
cả và cái giáo lư chủ trương rằng bản
chất con người giống in với bản chất
Thượng Đế. V́ vậy mới có biểu
tượng (glyph) và chuyện ngụ ngôn về Kalahansa (hay
Hamsa) và mới có danh hiệu gán cho Brahman (trung tính), và
về sau gán cho Đức Brahma có nam tính; v́ vậy mới
có biểu tượng về Hamsa-vahana, “Đấng dùng
Hamsa làm vận cụ”. Cũng vẫn tiếng đó có
thể đọc thành “Kalaham-sa” hay “Tôi là Tôi” trong sự
trường tồn của thời gian, tương
đương với câu “Ta là Linh Ngă” (“I am that I am”) trong
Thánh kinh Cơ Đốc hay có lẽ trong Thánh kinh của
Bái Hoả giáo th́ đúng hơn. Trong kinh Bí giáo Do Thái (Kabalah) cũng có giáo lư nói trên, bằng
cớ là đoạn văn sau đây được trích ra
từ một quyển sách viết tay, không xuất bản,
của ông S. Liddell Mc Gregor Mathers, một người Bí giáo
Do Thái uyên thâm:
Ba đại danh từ,….([283]),
Hua, Ateh, Ani – Ngài, Nhà Ngươi, Ta (Tôi) - được dùng
để tượng trưng cho những ư niệm về
Thượng Đế Tuyệt Đối Tối Cao
(Macroprosopus) và Thượng Đế Hữu H́nh
(Microprosopus) trong kinh Bí giáo Hy Bá Lai. Hua nghĩa là “Ngài”,
“Kẻ Đó”, được dùng để chỉ
Thượng Đế Tối Cao được che kín và
ẩn tàng; Ateh, “Nhà Ngươi” được dùng
để chỉ Thượng Đế Hữu H́nh; và Ani,
“Ta” được dùng để chỉ Thượng
Đế Hữu H́nh khi Ngài nói. (Xin
đọc Lesser Holy Assembly (Hội Nghị Tiểu Thánh),
trang 204 và kế tiếp ([284]).
Ta nên ghi nhớ rằng mỗi danh hiệu đó có ba
chữ, trong đó chữ Aleph ….([285]),
A là chữ chót của tiếng Hua và là chữ đầu
của tiếng Atah và Ani; chữ Aleph dường như là
sợi dây nối liền những tiếng đó lại
với nhau. Nhưng chữ… (2)… là tượng
trưng của sự Duy Nhất và do đó là tượng
trưng cho ư niệm bất biến chủ trương
rằng Thượng Đế tác động qua mọi
tiếng ấy. Nhưng ở đàng sau chữ…(2)
trong danh hiệu Hua có những chữ…(2) và…(2)
tượng trưng cho số Sáu và số Năm, Âm và
Dương, Ngôi sao sáu cánh và Ngôi sao năm cánh. Và những
con số của ba tiếng Hua, Ateh, Ani là 12, 406 và 61;
những số này được thu gọn trong ba số
căn bản là 3, 10 và 7 theo như kinh Bí Truyền Do Thái
với Chín Căn Pḥng, nó là một h́nh thức để
giải nghĩa qui luật Temura.
Thật là vô ích nếu chúng ta cố gắng
giải thích trọn vẹn cả sự bí mật này.
Những người duy vật và những nhà khoa học
kim thời sẽ không bao giờ hiểu nó cả, v́
muốn hiểu rơ ràng sự bí mật này, trước
hết, ta phải chấp nhận một thuyết giả
định chủ trương rằng, trong Thiên Nhiên có
một Thượng Đế trường tồn vô
sở bất tại, có mặt khắp nơi; thứ nh́,
phải hiểu sâu xa sự bí mật của
145
điện lực trong bản chất
thực thụ của nó; và thứ ba, phải tin
tưởng rằng ở cảnh giới hồng
trần, con người là cái biểu tượng có
bảy thể của Đơn Vị Cao Cả và Duy
Nhất tức là Thượng Đế, Ngài chính là cái
dấu hiệu có bảy nguyên âm, là Hơi Thở
được kết tinh thành Thánh Ngữ (Word)([286]).
Ai tin tưởng tất cả những điều này
cũng phải tin tưởng vào vô số những sự
phối hợp giữa bảy bầu hành tinh đó trong
Huyền bí học và trong kinh Bí giáo Do Thái với
mười hai cung Hoàng Đạo và - giống như chúng
tôi - phải biết rằng mỗi bầu hành tinh và
mỗi cḥm sao đều có một ảnh hưởng
“đặc biệt hoặc thiện hoặc ác tuỳ theo
vị tinh quân (planetaryspirit) chưởng quản bầu
hành tinh hay cḥm sao đó, Ngài có thể có ảnh hưởng
đến người và vật có tính cách hoà hợp
với Ngài, đồng thanh đồng khí với Ngài, “theo
lời ông Ely Star (một nhà Huyền bí học người
Pháp) đă nói. V́ những lư do đó và v́ ít người tin
tưởng vào những điều đă kể trên, cho
nên, trong cả hai trường hợp, hiện nay
người ta chỉ có thể tiết lộ rằng cái
biểu tượng Hansa (dù có nghĩa là Tôi, là Ngài, là con
Ngỗng hay con Thiên Nga) là một biểu tượng quan
trọng có nghĩa tỷ dụ như Minh Triết Thiêng
Liêng, sự Minh Triết trong cơi Tối Tăm (Wisdom in
Darkness) ngoài tầm hiểu biết của con người.
Như mọi người Ấn Độ đều
biết, theo ư nghĩa công truyền, Hansa là một con chim
kỳ diệu, theo sự tích ngụ ngôn, khi người ta
trộn sữa với nước cho nó uống th́ nó
lọc sữa ra khỏi nước, nó uống sữa và
để nước lại; như vậy chứng
tỏ rằng nó có sự minh triết bẩm sinh v́ sữa
là biểu hiệu của tinh thần và nước là
biểu hiệu của vật chất.
Tích ngụ ngôn này rất cổ xưa và có
từ thời đại tối cổ; điều này
được chứng tỏ trong kinh Bhagavad Purana, trong
đó, người ta nói đến một giai cấp
được mệnh danh Hamsa hay Hansa, đó là “giai
cấp duy nhất” tuyệt
luân, khi trong dĩ văng xa xôi mờ mịt đă bị
lăng quên, giữa những người Ấn Độ,
chỉ có một “kinh Phệ Đà Duy Nhất, một
Thượng Đế Duy Nhất, một Giai Cấp Duy
Nhất” (“One Veda, One Deity, One Caste”). Cũng có một
rặng núi trong Hy Mă Lạp Sơn được miêu
tả trong kinh sách cổ xưa rằng rặng núi này
đứng ở phía Bắc núi Tu Di ( 146
trái ngược thế. ”Con Thiên Nga hay con
Ngỗng” (Hansa) là biểu tượng của Thượng
Đế nhất thời hoặc có nam tính; Đức
Brahma, hiện thân của Tia Sáng căn bản,
được sử dụng như là Vận Cụ
của Tia Sáng Thiêng Liêng, nếu không th́ Tia Sáng này không
thể tự biểu lộ trong Vũ Trụ, nói theo lối
phản ngữ th́ Ngài được phát sinh chính từ cơi
Tối Tăm – dù sao, đối với trí óc loài
người của chúng ta th́ là như vậy đó.
Vậy th́ Đức Brahma là Kalahansa (Con Thiên Nga của
thời gian) và Tia Sáng là Hansa-vahana (Đấng cưỡi
Thiên Nga).
Cái hiện tượng lạ lùng
được lựa chọn như vậy thật
cũng hết sức gợi h́nh, ư nghĩa thần bí
thực sự là cái ư niệm về một cái Khuôn Tạo
Hoá (Universal Matrix) được h́nh dung bởi những Làn
Nước Nguyên Thuỷ của cơi Thâm Sâu hay là sự
mở ra để thâu nhận và do đó để phát ra
cái Tia Sáng Duy Nhất ấy (Đức Thượng
Đế hữu h́nh) tự nơi Ngài có chứa
đựng Bảy Tia Sáng Sáng Tạo hay là Bảy Uy Lực
(các vị Thượng Đế hữu h́nh hay các vị
Tạo Tác). V́ vậy nên môn phái Hoa Hồng Thập Tự
mới lựa chọn giống chim lội dưới
nước - hoặc con Thiên Nga hoặc con Bồ Nông ([288])
với bảy con chim con để làm thành một biểu
tượng mà tôn giáo của mỗi xứ đều
chấp nhận và sửa đổi lại. Ain Soph,
Đấng Tuyệt Đối được gọi là
“Linh Hồn chói lửa của chim Bồ Nông” trong số mục Thánh Thư (Book Of
numbers)([289]).
Trong mỗi Đại Kiếp, Ngài lại hiện ra
như là Đức Narayana hay Svayambhuva, Đấng Tự
Tồn (The Self-Existent), Ngài đi vào trong Vũ Trụ Noăn,
rồi về sau, khi thời kỳ ấp trứng kết
liễu, Ngài từ trong trứng đó mà đi ra và thành
Đức Brahma hay Prajapati, Đấng sinh ra Vũ Trụ
vị lai, rồi Ngài lại ngự trị ở nơi
đó. Ngài là Purusha (Tinh Thần), nhưng Ngài cũng là
Prakriti (Vật Chất) nữa. V́ thế cho nên Prajapati
chỉ trở thành Đức Brahma sau khi tự phân chia
thành hai – Brahma-Vach (có nữ tính) và Brahma-Viraj (có nam tính).
9. ÁNH SÁNG LÀ NGỌN LỬA LẠNH, VÀ
NGỌN LỬA LÀ LỬA, RỒI LỬA SINH RA SỨC NÓNG,
SỨC NÓNG SINH RA NƯỚC- NƯỚC CỦA
ĐỜI SỐNG NƠI ĐỨC MẸ CAO CẢ ([290]).
147
Phải nhớ rằng những danh từ “Ánh
Sáng”, “Ngọn Lửa” và “Lửa” đă được
dịch giả sử dụng theo ngữ vựng của
các “Triết gia tôn sùng Lửa” cổ xưa ([291])
đă khiến cho những danh từ và biểu
tượng được dùng trong bản văn chính
được sáng nghĩa hơn. Nếu không th́ một
độc giả người Âu sẽ không sao hiểu
nổi những danh từ và biểu tượng đó. Tuy
nhiên, đối với một sinh viên Huyền bí học,
th́ danh từ trên cũng đủ rơ ràng rồi.
Tất cả những tiếng “Ánh Sáng”,
“Ngọn Lửa” và “Lửa”, “Sức Nóng”, “Nước” và
“Nước của Đời Sống”, trong cảnh
giới này của chúng ta, th́ đều là con cháu của
ĐIỆN LỰC (ELECTRICTY) hay là những sự
tương quan với ĐIỆN LỰC, nói theo lối
của một nhà vật lư học hiện đại.
Điện Lực là một tiếng đầy uy lực
và là một biểu tượng c̣n nhiều uy lực
hơn. Đó là Đấng Thiêng Liêng phát sinh ra các con cháu
cũng thiêng liêng không kém; Ngài sinh ra Lửa - Lửa là
Đấng Tạo Tác, Đấng Ǵn Giữ và Đấng
Phá Huỷ; Ngài sinh ra Ánh Sáng – tinh hoa của các vị Tổ
Tiên thiêng liêng của chúng ta; Ngài sinh ra ngọn Lửa – linh hồn
của sự vật. Điện Lực là Đời
Sống trên một mức độ cao; ở một
mức độ thấp, nó là Chất Lỏng ở cơi
trung giới (Astral Fluid), là cái Ḷ của nhà Luyện kim
đan; đó là THƯỢNG ĐẾ (GOD) và MA QUỈ
(DEVIL), ĐIỀU LÀNH (GOOD) và ĐIỀU DỮ (EVIL)…
Nay tại sao trong các ĐOẠN THÁNH KINH
(STANZAS) người ta lại gọi Ánh Sáng là “Ngọn
Lửa Lạnh” (“Cold Flame”)? V́ (như nhà Huyền bí học
đă truyền dạy), trong cái trật tự của
sự Tiến Hoá trong Vũ Trụ, năng lượng
hằng làm cho vật chất sống động sau khi
được kết lại thành các nguyên tử, th́ ở
cảnh giới của chúng ta đây, nó được phát
sinh do Sức Nóng của Vũ Trụ; và trước
thời kỳ đó,Vũ Trụ không hiện tồn dưới
h́nh thức vật chất bị tan ră. Lời B́nh Luận
nói rằng Vật Chất Căn Bản Nguyên Thuỷ
trường tồn và cùng tuổi với Không Gian th́ “vô thuỷ vô chung, không nóng không
lạnh, nhưng có một bản chất riêng và
đặc biệt”. Sự nóng và sự lạnh là
những đặc tính tương đối và có liên quan
đến phạm vi của các thế giới hữu h́nh,
những thế giới này đều do vật chất
hữu h́nh mà có, ở trong cái trạng thái hoàn toàn ẩn
tàng của nó th́ vật chất này được gọi
là “Vị Đồng Trinh Lạnh Lùng” (“Cold Virgin”); khi nó
được thức tỉnh đối với đời
sống th́ nó được xem như là “người
Mẹ”. Những thần thoại Tây phương cổ nói
về vũ trụ, kể rằng, trước hết,
chỉ có đám sương mù lạnh lùng (người Cha)
và đất bùn ph́ nhiêu (Người Mẹ, Ilus hay Hyle), Con
Rắn của Thế Gian (Vật Chất)([292])
từ đó mà ḅ ra. V́ vậy, vật chất nguyên thuỷ
chỉ là “một sự chiếu sáng mát lạnh, không màu
sắc, không h́nh dáng, không mùi vị, không có một
đặc tính hay trạng thái nào cả” trước khi nó
phát sinh từ cảnh giới muôn đời vô h́nh và
được thức tỉnh khi Fohat thúc đẩy cho nó
rung động lên để tác động. Những
người con đầu tiên của nó cũng giống
như vậy; đó là “Bốn người Con Trai Duy
Nhất và sau này trở thành Bảy”- đó là những
Đấng v́ có những đặc tính và danh hiệu nên
được các nhà Huyền bí học cổ xưa của
Đông phương gọi là bốn trong bảy “Trung Tâm
Thần Lực” (“Centres of Force”) chủ yếu hay Nguyên
Tử, sau này được phát triển thành những
“Nguyên Tố” vĩ đại của Vũ Trụ,
hiện nay được chia thành bảy mươi hay
độ chừng bảy mươi tiểu nguyên tố
(subelements) mà khoa học đă biết. Bốn “Đặc
Tính Căn Bản” (“Primal Natures”) của những vị
Thiền Định Đế Quân đầu tiên, v́
thiếu những danh từ thích hợp hơn, nên
được gọi là Tiên Thiên Khí (Akashic), Dĩ Thái
(Ethereal), Nước (Watery) và Lửa (Fiery). Nói theo từ
ngữ của Huyền bí học thực hành th́ những
đặc tính này tương đương với
những cách mà khoa học định nghĩa các chất
hơi - để cho các nhà Huyền bí học cũng
như người thường có một ư niệm rơ ràng
về điều này - những chất hơi này có thể
được gọi là Siêu khinh khí (Parahydrogenic) ([293]),
Siêu dưỡng khí (Paraoxygenic), Dưỡng khí kiêm Khinh khí
(Oxyhydrogenic) và Xú dưỡng khí (Ozonic) và có lẽ cả
Đạm khí nữa (Nitrozonic); những lực hay
những chất hơi sau chót (theo Huyền bí học th́
giác quan không thể cảm thấy chúng được, tuy
nhiên, chúng là một chất nguyên tử - atomic substance) là
những chất có hiệu lực nhất và hoạt
động nhất khi chúng truyền năng lượng
cho cảnh giới thô trược hơn của vật
chất đă được biến hoá. Những nguyên
tố này vừa có dương điện vừa có âm
điện. Chúng và những nguyên tố khác có lẽ là
những sợi dây nối đang thiếu sót của môn hoá
học. Đối với khoa học Luyện kim đan và
những nhà Huyền bí học thường sử dụng
những quyền lực có tính cách hiện tượng
lạ th́ những chất này lại mang những tên khác.
Những hiện tượng lạ vĩ đại
nhất được phát sinh v́ người ta đă dùng
Lửa của cơi Trung giới để phối hợp,
tái hợp hoặc phân tán những “Nguyên Tố”.
148
10. CHA VÀ MẸ
DỆT MỘT MẠNG LƯỚI, PHÍA TRÊN CỦA MẠNG
LƯỚI ĐƯỢC GẮN VÀO TINH THẦN([294]),
ÁNH SÁNG CỦA BÓNG TỐI DUY NHẤT, ĐẦU
DƯỚI TH̀ GẮN VÀO PHÍA DƯỚI TỐI TĂM LÀ
VẬT CHẤT([295])
VÀ MẠNG LƯỚI NÀY LÀ VŨ TRỤ DO HAI THỰC
CHẤT HỢP NHẤT LÀM MỘT LÀ SVABHAVAT MÀ
ĐƯỢC DỆT THÀNH.
Trong kinh Mandukya
Upanishad ([296])
có viết: “Giống như con nhện buông mạng ra và thu
mạng vào, giống như cỏ ở dưới
đất mọc lên… Vũ Trụ được phát sinh
từ Đấng Duy Nhất bất hư hoại”,
tức là Đức Brahma, v́ “Mầm Mống của sự
Tối Tăm bí mật” là nguyên liệu phát sinh ra mọi
vật hằng tiến hoá và phát triển, “cũng giống
như nhện phát sinh ra mạng nhện, nước phát
sinh ra bọt nước vậy”,…. Thật là rơ rệt và
đúng thực nếu danh từ Brahma, “Đấng Sáng
Tạo”, được phát sinh ra từ ngữ căn brih có nghĩa là tăng
trưởng hay nảy nở và biến thành Vũ Trụ
được làm bằng bản chất của chính Ngài.
Ông Goethe đă diễn tả ư niệm này
một cách nên thơ khi ông nói:
Như
thế tôi đưa thoi trên cái khung cửi đang gào thét
của thời gian.
Và
dệt cho Thượng Đế cái tấm áo mà
ngươi thấy Ngài đang mặc.
11. NÓ ([297])
NỞ RA KHI HƠI THỞ CỦA LỬA ([298])THỔI
LÊN NÓ; KHI HƠI THỞ CỦA MẸ ([299])
CHẠM VÀO NÓ TH̀ NÓ CO RÚT LẠI. RỒI NHỮNG
NGƯỜI CON ([300])
CHIA L̀A NHAU MÀ ĐI RẢI RÁC KHẮP NƠI, ĐỂ
RỒI LẠI TRỞ VỀ L̉NG MẸ KHI NGÀY VĨ
ĐẠI CHẤM DỨT ĐỂ LẠI
ĐƯỢC HỢP NHẤT VỚI MẸ. KHI NÓ ([301])
NGUỘI LẠNH ĐI TH̀ NÓ SÁNG CHÓI. NHỮNG NGƯỜI
CON CỦA MẸ NỞ RỘNG RA VÀ CO RÚT LẠI XUYÊN QUA
BẢN THỂ VÀ TRÁI TIM CỦA CHÚNG; CHÚNG THÂU GỒM CẢ
SỰ VÔ CÙNG TẬN.
Vũ Trụ nở rộng ra dưới
“Hơi Thở của LỬA” (“Breath of FIRE”), câu nói này
rất gợi h́nh dưới ánh sáng của thời kỳ
“đám sương Lửa” mà khoa học hiện
đại đă nói đến rất nhiều, nhưng
thật ra biết về nó rất ít.
Lời B́nh Luận giải nghĩa rằng:
sức nóng quá khiến cho các nguyên tố phức hợp
bị vỡ nát và biến hoá các thiên thể trở thành cái
Nguyên Tố Nguyên Thuỷ Duy Nhất của chúng.
149
“Một khi bị
tan ră thành cái bản chất cấu tạo đầu tiên
của nó, khi bị một tiêu điểm trung tâm nhiệt
độ (năng lượng) thu hút và đụng
chạm tới - nhiều trung tâm như thế
được chuyên chở đi đi lại lại trong
không gian – th́ một thiên thể dù sống hay chết
cũng sẽ biến thành hơi và được giữ
‘trong ḷng Mẹ’ cho đến khi Fohat gom góp một ít
đám Vật Chất của Vũ Trụ [tinh vân] và
truyền cho nó một sự thúc đẩy, sẽ
khiến cho nó lại chuyển động, phát sinh ra
sức nóng cần thiết và để cho nó tiếp
tục sự phát triển mới mẻ của chính nó”.
“Cái mạng lưới”- tức là vật
chất cấu tạo nên thế gian, hay các nguyên tử -
khi nở rộng ra khi co rút lại,
như thế là diễn tả sự cử động
nhịp nhàng, v́ đó là sự co rút và sự nở rộng
đều đặn theo nhịp điệu của Đại
Dương vô bờ bến và vô cùng tận, của cái mà
chúng ta có thể gọi là thực thể của Vật
Chất, do Svabhavat (tức là Akasha, Tiên Thiên Khí) phát sinh,
khiến cho những nguyên tử trong khắp thế gian
rung động lên. Nhưng sự việc này cũng
khiến ta nghĩ đến một điều ǵ khác
nữa. Nó chứng tỏ rằng cổ nhân đă biết
rơ điều mà hiện giờ nhiều nhà khoa học và
nhất là các nhà Thiên văn học không sao hiểu
được – đó là nguyên do khiến cho vật
chất hay nguyên liệu của thế gian bốc cháy
lần đầu tiên, sự mâu thuẫn của sự co
rút v́ lạnh mà lại phát sinh ra được sức nóng
và nhiều sự bí mật khác nữa khó giải quyết
của vũ trụ - v́ không sao lầm lẫn
được, sự việc này chứng tỏ cổ
nhân biết rơ những hiện tượng như thế.
Những lời B́nh luận của bản thảo viết
tay nói: “Trong mỗi nguyên tử có sức nóng bên trong và
sức nóng bên ngoài”, tác giả đă được
đọc những lời B́nh luận này “Hơi Thở
của Cha” [Tinh Thần] và Hơi Thở [hay Sức Nóng]
của Mẹ [Vật Chất]”; những lời B́nh
luận này giảng giải rằng cái lư thuyết hiện
đại chủ trương rằng lửa của
mặt trời sẽ bị tắt đi v́ sức nóng
bị tiêu hao do phóng xạ là một lư thuyết sai lầm.
Lời ước đoán này sai lạc dù chính các nhà khoa
học có chấp nhận nó. V́ như Giáo sư Newcomb ([302])
đă nói rơ: “Khi tiêu hao sức nóng, một h́nh thể làm
bằng chất hơi co rút lại và sự co rút này phát
sinh ra một sức nóng lớn hơn sức nóng
đầu tiên mà h́nh thể ấy đă mất đi
để tạo ra sự co rút”. Sự mâu thuẫn
nghịch lư này làm nảy sinh ra những cuộc tranh
luận dằng dai, v́ theo nó th́ một h́nh thể khi bị
lạnh càng co rút vào bao nhiêu th́ lại càng trở nên nóng bấy
nhiêu. Người ta viện lẽ rằng sức nóng
dư thừa do sự phóng xạ bị mất đi và
nếu ta ước đoán rằng nhiệt độ
không bị giảm thấp cùng một tỷ lệ với
sự co rút của vật chất dưới một áp
lực luôn luôn đồng đều th́ tức là ta
phủ nhận định luật Charles. Sự co rút làm
cho sức nóng phát sinh, điều này đúng thật;
nhưng sự co rút (v́ lạnh) th́ không thể phát sinh
trọn vẹn một số nhiệt độ bất
cứ lúc nào cũng tồn tại trong khối đó hay là
cũng không thể giữ cho một h́nh thể có măi
một nhiệt độ đồng đều v..v.. Giáo
sư Winchell cố gắng giải quyết sự
nghịch lư này - thật ra đây chỉ là sự nghịch
lư bề ngoài mà thôi, như ông
150
Tuy nhiên, có thể rằng khi ta đọc
ĐOẠN THÁNH KINH này, tuy cách hành văn của nó thật
là cổ kính, ta vẫn thấy nó có tính cách khoa học
hơn là chính nền khoa học hiện đại bây
giờ.
12. LÚC ĐÓ, SVABHAVAT
GỞI FOHAT ĐI ĐỂ LÀM CHO CÁC NGUYÊN TỬ RẮN
CỨNG LẠI. MỖI CÁI ([305])
LÀ MỘT THÀNH PHẦN CỦA MẠNG LƯỚI ([306]).
GIỐNG NHƯ MỘT TẤM GƯƠNG, MỖI NGUYÊN
TỬ PHẢN CHIẾU “ĐẤNG TỰ TỒN” ([307]),
RỒI ĐẾN LƯỢT NÓ TRỞ THÀNH MỘT THẾ
GIỚI ([308]).
Fohat làm cho các Nguyên Tử cứng rắn
lại, nghĩa là truyền năng lượng vào chúng,
Fohat làm cho “các Nguyên Tử” hay Vật Chất Nguyên Thuỷ
rải rác khắp nơi. “Ngài
tự tung ḿnh ra khắp nơi, cùng một lúc, Ngài cũng
làm cho vật chất tung ra thành các nguyên tử”. (Những
lời B́nh luận của bản thảo viết tay).
Chính xuyên qua Fohat mà những ư niệm của
Toàn Linh Trí (Universal Mind) được in vào Vật
Chất. Chúng ta có thể có một quan niệm lờ
mờ về bản chất của Fohat nhờ danh từ
“Điện Lực của Vũ Trụ” mà có khi
người ta dùng để chỉ Fohat; nhưng trong
trường hợp này, ngoài những đặc tính thông
thường của điện, ta c̣n phải kể thêm
những đặc tính khác nữa kể cả trí khôn.
Thật là thú vị khi ta nhận thấy rằng khoa
học hiện đại đă phải kết luận
rằng mọi việc làm hay mọi sự hoạt
động của óc đều có kèm theo những hiện
tượng của điện ([309]).
ĐOẠN THÁNH KINH 4
(STANZA 4)
1. …HỠI CÁC CON
CỦA TRÁI ĐẤT, HĂY NGHE LỜI HUẤN THỊ
CỦA NHỮNG BẬC THẦY CỦA CÁC NGƯƠI – CÁC
NGÀI LÀ CON CỦA LỬA (a). HĂY BIẾT RẰNG KHÔNG CÓ G̀
ĐẦU TIÊN, CŨNG KHÔNG CÓ G̀ LÀ CUỐI CÙNG; V̀ TẤT
CẢ ĐỀU LÀ SỐ MỘT DUY NHẤT (ONE NUMBER), PHÁT
SINH TỪ CÁI KHÔNG SỐ (NO – NUMBER) (b).
a. Những danh từ “Con của Lửa”,
“Con của Hào Quang” v..v.. cần được giải
thích v́ chúng có liên hệ đến một điều bí
mật lớn nhất mà không dễ ǵ diễn giải cho
thật rơ ràng. Có một đoạn Thánh kinh Bhagavad Gita, trong đó Đức
Tôi sẽ nói lúc
[điều kiện]… mà những nhà mộ đạo
đi khỏi (cơi trần) và không bao giờ trở lại
[tái sinh]. Lửa, ngọn lửa, ban ngày, tuần trăng
trước rằm [mười lăm ngày may mắn], sáu
tháng mặt trời ở phía Bắc chí điểm, ra
đi [đang chết]… đó là lúc kẻ nào biết Brahma
[Yogis] đến với Ngài. C̣n lúc có khói, ban đêm,
tuần trăng từ rằm đến ba mươi
[mười lăm ngày không may], sáu tháng mặt trời
ở phía Nam chí điểm (suy vong) th́ lúc ấy là lúc
người mộ đạo đi vào ánh sáng (cung) của
mặt trăng [hay tinh tú quang] và trở về [tái sinh] sau
này. Hai con đường này, một sáng, một tối,
đều vĩnh cửu trong cơi đời này [hay là Thiên
Kiếp – Great Kalpa]([310]).
Trên một con đường, con người đi không
bao giờ trở lại, c̣n trên con đường kia th́
con người trở lại ([311]).
151
Những danh từ “Lửa”, “Khói”, “Ngày”,
“Đêm”, “thượng tuần”, v.v.. đưa đến
tận cùng của Thái Âm Lộ (Lunar Path) đều không
thể hiểu được nếu không có một kiến
thức về Huyền môn. Đó là tên những vị thần cai quản những
quyền năng tâm linh trong Vũ Trụ. Chúng ta
thường nghe nói về Huyền giai của “Ngọn
Lửa” (the Hierarchy of “Flames”) ([312]),
của “Những Con của Lửa” v.v…. Đức
Shankaracharya, vốn là Tối Đại Sư Huyền Môn
ở Ấn Độ, nói rằng: “Lửa có nghĩa là
vị thần minh cai quản của Thời Gian (Kala). Nhà
thông thái dịch giả quyển Bhagavad
Gita là ông Kashinath Trimbak Telang, Cao học văn
chương, ở Bombay, thú nhận rằng “ông không có
một ư niệm rơ rệt nào về ư nghĩa của
những đoạn thơ này”([313]).
Đối với người nào biết giáo lư huyền
môn th́ không phải thế. Ư nghĩa thần bí của
những biểu tượng thái dương và thái âm
đều có liên hệ đến những câu kinh nói trên.
Những Đấng Pitris là những vị Nguyệt Tinh
Quân (Lunar Deities) và cũng là Thuỷ Tổ của loài
người, bởi v́ các vị ấy tạo nên thể chất con người. Các
Đấng Agnishvatta và các Đấng Kumaras (Bảy Vị
Hiền Triết Thần Bí – the Seven Mystic Sages) là những
vị Nhật Tinh Quân (Solar Deities), tuy rằng các
Đấng Agnishvatta cũng là Nguyệt Tinh Quân, và tất
cả đều là những “Đấng cấu tạo nên
phần Tâm linh nội tại
của Con người” (“Fashioners of the Inner Man”). Các Đấng ấy là “Những
Đấng Con của Lửa”, gọi như vậy v́ các
vị là những Đấng đầu tiên xuất
hiện từ Lửa nguyên thuỷ (trong Giáo Lư Bí Truyền
gọi là các “Đại Trí”). Đấng Christ sẽ
được phát lộ với các vị thiên thần
của Ngài trong lửa đỏ phừng ([314]).Đấng
Thánh Linh (Holy Ghost) xuống với những vị Tông
Đồ của Chúa dưới h́nh thức “Ngọn
Lửa”([315]).
Vishnu sẽ đến; cưỡi trên con Ngựa Trắng
(White Horse) tên là Kalki, trên cương vị là Hoá Thân chót
(Avatara) ở chính giữa lửa và ngọn lửa, và ông
Soshios cũng sẽ xuống “trong cơn chốt lửa”
cưỡi Ngựa Trắng. Và tôi thấy trời mở
ra, rồi giữa đám lửa cháy phừng phừng
hiện lên con ngựa trắng và có người
cưỡi nó… người ấy là Thần Đạo
của Trời (Word of God)([316]).
Lửa là hậu thiên khí (Aether) trong trạng thái thuần
khiết nhất, bởi đó nó không được xem
như vật chất mà như sự đồng nhất
của hậu thiên khí (vị thần biểu lộ
thứ nh́). Nhưng có hai “Thứ Lửa” và giáo lư Huyền
môn phân biệt hai thứ đó. Một là Lửa tiên thiên, vô h́nh vô sắc, hàm súc trong Mặt Trời Tâm Linh Trung
Ương (Central Spiritual Sun), được xem như gồm ba
phương diện (Tam Thể) theo ư nghĩa siêu h́nh. C̣n
một là Lửa hậu thiên
của Vũ Trụ biểu lộ gồm Bảy khía
cạnh (thất phân) bàng bạc trong cả Vũ Trụ và
Thái Dương Hệ. Trong b́nh luận viết: “Lửa kiến thức
đốt cháy mọi hành động trên địa
hạt của ảo giác. Bởi đó, những ai đă
đạt được sự hiểu biết và giải
thoát, được gọi là ‘Lửa’”. Đề
cập đến thất
quan (seven senses),
được biểu tượng hoá như là các Hotris
(Lễ Sư), Narada đă dạy trong Anugita như sau: “Như vậy thất quan [vị
giác, khứu giác, màu sắc, âm thanh…] này là các nguyên nhân
giải thoát”; và dịch giả c̣n thêm rằng: “Chính Chân Ngă
giải thoát khỏi thất quan ấy, [trong câu ‘Ta … thiếu
các tính chất’] ‘Ta’ phải có nghĩa là bản ngă, chứ
không phải là người Bà La Môn đang nói” ([317]).
152
(b) Câu nói “tất cả là Số Một Duy
Nhất phát sinh từ cái Không Số” cũng có liên quan
đến giáo điều đă được giải
thích trong ĐOẠN THÁNH KINH 3 (B́nh luận 4). Cái tuyệt
đối, tất nhiên là Không Số, nhưng trong ư
nghĩa sau cùng, nó được áp dụng trong Không Gian
cũng như trong Thời Gian. Nó có nghĩa là không những
mỗi một sự tăng thêm thời gian là một
phần của một khoảng lớn hơn, chí
đến thời gian kéo dài đến vô tận mà phàm trí
con người có thể quan niệm được, mà c̣n
có nghĩa là không một vật biểu lộ nào có thể
quan niệm được, trừ phi nó là một phần
tử của một toàn thể rộng lớn hơn và
cái toàn thể rốt ráo là Vũ Trụ Biểu Lộ
xuất phát từ cái Không Biểu Lộ hay Tuyệt
Đối (Unmanifested or Absolute), được gọi là
Bất Tại (Non-Being) hay Không Số (No-Number) để
phân biệt với THỰC TẠI (BEING) hay “Số Một
Duy Nhất” (“One Number”).
2. HĂY BIẾT RẰNG
CHÚNG TA, HẬU DUỆ CỦA BẢY ĐẤNG NGUYÊN
THUỶ, CHÚNG TA SINH RA TỪ NGỌN LỬA NGUYÊN THUỶ,
ĐĂ HỌC HỎI CỦA CHA CHÚNG TA….
Đề tài đă được giải
thích rơ rệt trong Quyển 3 và 4, và câu “Ngọn Lửa
Nguyên Thuỷ” tăng cường ư nghĩa cho câu
đầu của ĐOẠN THÁNH KINH 4.
Sự dị biệt giữa những
Đấng Sáng Tạo Nguyên Thuỷ và Bảy Đấng
Sáng Tạo kế tiếp là những vị trước
xuất phát trực tiếp từ “Tứ Nguyên Đầu
Tiên” (“Sacred Four”), gọi là Tetraktys,
tức là Đấng Tự Tại (Self-Existent One)-
trường cửu trong
yếu tính, chứ không phải trong biểu lộ và
khác với cái MỘT Đại Đồng (Univeral ONE).
Tiềm tàng trong chu kỳ Hỗn Nguyên và hoạt
động trong chu kỳ Khai Nguyên, các Đấng “Nguyên
Thuỷ” xuất phát từ “Phụ Mẫu”, c̣n Tứ Nguyên
biểu lộ và Bảy vị sau này chỉ xuất phát
từ Ngôi Mẹ mà thôi. Chính Ngôi Mẹ này là Đức
Mẹ Đồng Trinh (Virgin-Mother) vô nhiễm, mà cái BÍ
MẬT của Vũ Trụ (Universal MYSTERY) lướt qua
ở trên chứ không thấm nhuần – khi Mẹ xuất
hiện từ trạng thái Tiên Thiên, vô cực (Laya:
trạng thái không phân hoá hay biểu lộ).Thật sự,
các Đấng chỉ là một, nhưng những
phương diện của các vị trên các cơi giới
đều khác nhau.
Những “Đấng Nguyên Thuỷ” là các
Đấng Cao Cả nhất trên giai tầng sinh hoạt.
Đó là những vị mà bên Thiên Chúa giáo gọi là các
vị Đại Thiên Thần, các Đấng không chịu
sáng tạo (hoặc đúng hơn là phân thân) cũng như
Michael trong Thiên Chúa Giáo và “Đứa Con Út sinh ra từ Trí”
của Brahma (Vedhas).
153
3. TỪ CÁI VẺ HUY
HOÀNG CỦA ÁNH SÁNG – TIA SÁNG CỦA BÓNG TỐI TRƯỜNG
CỬU (EVER –DARK -NESS) _ NHỮNG THẦN LỰC THỨC
TỈNH XUẤT HIỆN TRONG KHÔNG GIAN ([318]);
SỐ MỘT TỪ QUẢ TRỨNG, SỐ SÁU VÀ SỐ
NĂM (a). KẾ ĐÓ LÀ BA, MỘT, BỐN, MỘT, NĂM
– HAI LẦN BẢY, TỔNG SỐ (b). VÀ ĐÓ LÀ NHỮNG
NGUYÊN THỂ, NHỮNG NGỌN LỬA, NHỮNG NGUYÊN
TỐ, NHỮNG ĐẤNG SÁNG TẠO, NHỮNG SỐ (c),
NHỮNG G̀ VÔ H̀NH, NHỮNG G̀ HỮU H̀NH, VÀ THẦN LỰC
HAY LÀ CON NGƯỜI THIÊNG LIÊNG (DIVINE MAN) - TỔNG SỐ
(THE SUM TOTAL). VÀ TỪ CON NGƯỜI THIÊNG LIÊNG, TẠO RA
NHỮNG H̀NH THỂ, NHỮNG ĐIỂM LINH QUANG (SPARKS), NHỮNG
GIỐNG VẬT THIÊNG LIÊNG (SACRED ANIMALS)(d), VÀ CÁC SỨ
GIẢ (MESSENGERS) CỦA CÁC TỔ TIÊN THIÊNG LIÊNG (SACRED
FATHERS) ([319])
BÊN TRONG SỐ BỐN THÁNH THIỆN (HOLY FOUR) ([320]).
(a) Câu này có liên hệ đến khoa Thần
Số Bí Truyền (the Sacred Science of the Numerals); thực
vậy, trong việc nghiên cứu Huyền bí học, khoa này
có tính cách thiêng liêng và quan trọng đến nỗi mà ngay
cả trong một tác phẩm vĩ đại như tác
phẩm này, chúng ta cũng chỉ mới có thể bàn
lướt qua đề tài này. Điều bí mật
của toàn thể vũ trụ được xây dựng
trên những Cấp đẳng thiêng liêng và con số chính
xác của những Đấng ấy là những
Đấng vốn vô h́nh vô ảnh (đối với chúng
ta) trừ ra những trường hợp rất hiếm.
Chẳng hạn như các Kumaras, được gọi là
“Tứ Thiêng”, tuy rằng thật sự có đến
Bảy vị, bởi các vị Sanaka, Sananda và Sanatkumara là
những Đấng chính, v́ các Ngài xuất phát từ
“tứ nguyên huyền bí”. Để cho toàn bộ vấn
đề này rơ hơn nữa, ta phải quay sang việc
dùng các giáo điều quen thuộc hơn với một vài
độc giả (nghĩa là các tín đồ Bà La Môn)
để minh hoạ.
Theo Đức Bàn
Cổ, Hiranyagarbha là Brahma, kẻ
nam tử đầu tiên (the first male), do Nguyên Nhân Khôn
Tả Bản Sơ (Causeless Cause) tạo ra trong một
“Trứng bằng vàng chói lọi như Mặt Trời” (theo
Từ điển Ấn
Độ). Hiranyagargha có nghĩa là Kim Quang Noăn hay đúng
hơn là Quang Huy Noăn (the Golden, or rather the Effulgent, Womb or Egg).
Ư nghĩa này chẳng ăn khớp ǵ với tôn danh “nam
tử”. Chắc là ư nghĩa nội môn của câu này cũng
đủ minh bạch rồi. Trong Rig Veda có dạy như sau: “CÁI ĐÓ, Đấng
Chúa Tể Duy Nhất của vạn hữu… nguyên khí duy
nhất làm linh động chư thiên và loài người”,
xuất lộ ngay từ đầu, trong Kim Quang Noăn
(Hiranyagarbha); đó chính là Vũ Trụ Noăn, tức h́nh
cầu tạo thành Vũ Trụ chúng ta. Đấng này
chắc chắn là bán thư bán hùng, bằng chứng là
chuyện ẩn dụ Brahma phân thân làm hai và tự tạo
ra ḿnh là Viraj ở một trong các bán thân của ḿnh (Vach
thư tính – the fame Vach).
154
“Số Một xuất phát từ Trái Trứng,
số Sáu và số Năm”, hợp thành con số 1065,
trị số của Đấng Bản Sơ (về sau
biến thành Brahma – Prajapati thư hùng), Ngài lần
lượt tương úng với số 7, 14 và 21. Cũng
như các Đấng Sephiroth, Prajapati chỉ gồm có
bảy vị, kể cả Sephira tổng hợp của
Tam Nguyên (Triad) sản sinh ra các Ngài. Như vậy, từ
Hiranyagarbha, tức Prajapati, Ba Ngôi (Ba Ngôi Bản Sơ
của kinh Phệ Đà), xạ ra Bảy Đấng hay
mười Đấng khác (nếu ta phân tách Ba Ngôi Bản
Sơ vốn là tam vị nhất thể); vả lại,
tất cả đều được bao hàm trong
“Đấng Tối Cao” duy nhất, Parama, được
gọi là Guhya hay “Bí Nhiệm” và Sarvatman, “Đại
Hồn” (“Super-Soul”). “Bảy
Đấng Hiện Tồn ẩn
tàng trong Sarvatman cũng giống như tư tưởng
ẩn tàng trong óc”. Các Đấng Sephiroth cũng vậy.
Các Ngài gồm có bảy vị khi tính từ Tam Nguyên
thượng (Kether giữ địa vị cao nhất)
hoặc mười khi xét về mặt ngoại môn. Trong
kinh Mahabharata, các Đấng
Prajapati gồm có 21 vị, tức là mười, sáu và
năm (1065), ba lần bảy ([321]).
(b) Câu “Ba, Một, Bốn, Một, Năm”
tổng cộng là hai lần bảy hợp thành số
31415, tức thành phần các vị Thiền Định
Đế Quân thuộc nhiều Đẳng Cấp khác nhau
và cơi giới nội tại ([322]).
Khi được đặt trên biên chu của Ṿng giới
hạn – cũng được gọi là Dhyanipasha, “Sợi
dây của Chư Thiên”, “Sợi dây” ngăn cách Hiện
tượng giới với Thực tượng giới
(thế giới này không ở trong phạm vi tri thức
ngoại cảnh của chúng ta) – khi không được
khuếch đại bằng cách hoán vị và bành
trướng, con số này bao giờ cũng là 31415. Khi xét
theo hoán tự cũng như Thánh kinh Do Thái bí giáo nó
đều là con số của Ṿng tṛn và chữ Vạn
huyền bí, lại là “Hai lần Bảy”. Ấy là v́ cho dù
ta đếm hai tập hợp chữ số này như
thế nào chăng đi nữa, khi cộng từng chữ
số lại với nhau, hoặc là từ phải qua trái,
hoặc là từ trái qua phải, bao giờ chúng cũng
cứ cho ta kết quả mười bốn. Xét về
mặt toán học, chúng tŕnh bày một công thức trứ
danh, đó là tỷ số của đường kính
đối với chu vi của ṿng tṛn bằng 1 trên 3,1415
(tức là trị số của π (pi) - người ta
gọi nó như vậy đó. Tập hợp các chữ
số này phải có ư nghĩa giống như vậy, v́ 1
trên 314159 và 1 trên 3,1415927 đều là kết quả của
các phép tính toán bí nhiệm nhằm biểu diễn nhiều
chu kỳ và kiếp khác nhau của “Đấng Bản Lai”
(“First-born”), tức là 311.040.000.000.000 được chia
thành các phân số, bằng một tiến tŕnh mà nay ta không
quan tâm đến, nó cũng cho ta kết quả là 13415. Ta
có thể chứng tỏ là ông Ralston Skinner (tác giả
của quyển “Nguồn
Gốc các Kích Thước – The Source of Measures”) đă
thuyết minh trong ngôn ngữ Hy Bá Lai (Hebrew) chữ “Alhim”
theo các trị số giống như vậy - bằng cách
bỏ các số không và hoán vị - 13514 v́ (a) là 1; mẫu
tự (l) là 3 (30); (h) là 5; (i) là 1 (10); và (m) là 4
(40); và khi hoán tự, đó là 31415 (ông giải thích như
vậy đó).
Trong thế giới siêu h́nh, Ṿng Tṛn với
một Điểm trung tâm vốn không có số và
được gọi là Anupadaka (không cha mẹ và không
số) v́ nó không thể tính toán được, c̣n trong
thế giới biểu lộ, Vũ Trụ Noăn hay Ṿng Tṛn
được đặt nằm trong những nhóm gọi
là Đường Thẳng, Tam Giác, Ngũ Giác,
Đường Thẳng thứ nh́ và H́nh Vuông (Square) (hay là
13514) ([323]).
Và khi Điểm
155
chấm đă
vạch ra là một đường thẳng và trở
nên một đường kính tượng trưng cho
Thượng Đế lưỡng tính, th́ khi đó con
số trở thành 31415 tức là một tam giác, một
đường, một h́nh vuông ([324]),
một đường thứ nh́ và một h́nh ngũ giác ([325]).
“Khi Con tách rời khỏi
Mẹ, nó trở nên Cha”, đường kính
tượng trưng Thiên Nhiên hay âm nghi (feminine principle).
Bởi vậy, mới nói: “Trong
Thế Giới Thực Hữu (World of Being) ngoại
tại, Một Điểm Chấm tạo nên một
Đường, cái Khuôn Đúc Vô Nhiễm (Virgin Matrix)
của Vũ Trụ [con số không ‘O’ tượng trưng
quả trứng], và Mẹ đồng trinh sinh ra H́nh
Thể, nó phối hợp mọi h́nh thể”. Trong
Ấn giáo, Prajapati được gọi là người nam
đầu tiên có sinh sản và “chồng của mẹ y” ([326]).
Điều này là nguồn cội của tất cả
những lời nói ẩn dụ sau này về những
“Đấng Con Thiêng Liêng” (“Divine Son”) được sinh ra
do những “Đấng Mẹ Vô Nhiễm” (“Immaculate
Mothers”). Một việc đáng kể chứng minh
điều ấy là Anna Mẹ của Đức Thánh
Mẫu đồng trinh Mary mà Giáo hội Gia Tô cho rằng
đă sinh ra Đức Bà Mary trong sự vô nhiễm, vốn
là do tự căn Ana của xứ Chaldea có nghĩa là
Trời hay Tinh Quang (Anima Mundi). Bởi tự căn đó mà
nữ thần Devi-Durga của Ấn giáo, vợ của
thần Shiva, cũng được gọi là Annapurna và
Kanya (Đồng Trinh); bí danh là Uma-Kanya có nghĩa là “Ánh Sáng
Vô Nhiễm” (Virgin of Light”) tức là một trong vô số
phương diện của chất Tinh Tú Quang (Astral Light).
(c ) Những cấp đẳng Thiên Thần
của Ấn giáo, mệnh danh là các vị Devas, Pitris, Rishis;
chư thiên Suras và Asuras; Daityas và Adityas; Danavas và Gandharvas v..v…
đều có những danh từ đồng nghĩa trong
Giáo lư Huyền môn, cũng như trong kinh Kabalah và chuyện thần tiên Do Thái; nhưng nó vô
dụng trong việc cung cấp những tên cổ xưa
của danh từ này, v́ nó chỉ tạo ra sự lầm
lộn. Nhiều vị trong số đó cũng có trong các
Đẳng Cấp thiên thần của Gia Tô giáo với
những danh hiệu mới mẻ hơn và được
gọi là Thrones (Uy Thần), và Dominions (Quản thần),
Virtues (Dũng thần) và Principaities (Lănh thần), Cherubs
(Minh thần), Seraphs (Luyến Thần) và Chư Quỷ
(Demons), nhiều cư dân khác nhau của Tinh Giới,
tất cả đều là các mô phỏng hiện
đại của các nguyên kiểu cổ sơ. Khi
được chuyển dịch và sắp đặt theo
tiếng Hy Lạp và La Tinh, chính biểu tượng kư trong
các danh xưng của họ cũng đủ để
chứng minh điều này (chúng ta sẽ chứng tỏ
điều này trong nhiều trường hợp sắp
tới).
(d) Những “Vật Thiêng” (“Sacred Animals”)
đều được nói đến trong Thánh kinh (Bible) cũng như
trong kinh Kabalah và có ư nghĩa
sâu xa về nguồn gốc sự sống. Trong Sepher Yetzireth, có nêu rơ rằng
“Thượng Đế ghi khắc lên Tứ Linh Thánh Toà
Vinh Diệu (the Holy Four the Throne of his Glory) của Ngài,
Auphanim [các Diệu Luân – Wheel - tức các bầu thế
giới – World-Spheres], Seraphim (Luyến thần) và các con thú
linh thiêng, trên cương vị các Thiên Sứ; Ngài tạo
ra chỗ ngự của ḿnh từ Phong, Thuỷ, và Hoả
hay Dĩ Thái (Air, Water, and Fire or Ether)”.
156
Sau đây là bản dịch sát nghĩa của
các tiết IX và X:
Mười con số mà không có cái ǵ? Một:
Tinh Thần của Thượng Đế linh
động…Ai đă sống trong các chu kỳ vĩnh
cửu! Diệu Âm (Voice), Tinh Thần (Spirit) và Huyền Âm
(Word), đó là Thánh Thần (Holy Spirit). Hai: Khí (Air)([327])
xuất phát từ Tinh Thần. Ngài đă thiết kế và
đào luyện ra 22 chữ căn bản (gồm ba mẫu
âm, bảy chữ kép và mười hai chữ đơn) và
Tinh Thần duy nhất. Ba: Thuỷ (Water) xuất phát từ
Tinh Thần; Ngài đă thiết kế và đào luyện ra
cái khô cằn và trống rỗng, bùn và đất. Ngài
đă thiết kế chúng thành một luống hoa,
đẽo gọt chúng thành một bức tường và
lát đá chúng thành một nền đường. Bốn:
Lửa xuất phát từ Nước. Ngài đă thiết
kế và đào luyện ra thánh toà vinh diệu và các diệu
luân (the wheels), Luyến thần và các con thú linh thiêng trên
cương vị các Thiên Sứ. Ngài dùng ba thứ trên
để dựng nên chỗ ngự của ḿnh, Ngài tạo
ra chư thiên thần và các ngọn lửa để
phụng sự ḿnh !
Nhóm từ “dựng nên chỗ ngự của
ḿnh” chứng tỏ rằng trong kinh Kabalah cũng như ở Ấn Độ,
người ta xem Thượng Đế là Vũ Trụ,
chớ nguyên thuỷ (origin), Ngài không phải là
Thượng Đế ngoại Vũ Trụ như
hiện nay.
Như vậy, thế giới
được tạo ra “nhờ vào Ba Luyến thần
(Sepher, Saphar và Sipur)”, hoặc nhờ vào “Con Số, các Con
Số và Con Số được đếm (Numbered)”.
Đối với bí quyết thiên văn học, các “Con Thú
Linh Thiêng này” (“Sacred Animals”) biến thành các cung của Hoàng
Đới (Zodiac).
4. ĐÂY LÀ
ĐẠO BINH CỦA DIỆU ÂM (VOICE), LINH MẪU (DIVINE
MOTHER) CỦA SỐ BẢY. CÁC TIA LỬA (SPARKS) CỦA
SỐ BẢY TUỲ THUỘC VÀO VÀ LÀ TÔI TỚ CỦA CÁI
THỨ NHẤT, THỨ NH̀, THỨ BA, THỨ TƯ, THỨ
NĂM, THỨ SÁU VÀ CÁI THỨ BẢY CỦA SỐ BẢY
(a). NHỮNG TIA LỬA NÀY ĐƯỢC GỌI LÀ CÁC
BẦU, CÁC TAM GIÁC, CÁC KHỐI LẬP PHƯƠNG, CÁC
ĐƯỜNG GẠCH (LINES) VÀ CÁC MẪU KHUNG (MODELLERS);
CHÍNH ĐÓ LÀ NIDANA TRƯỜNG
CỬU, TỨC LÀ OI-HA-HOU (HAY OEAOHOO) (b) ([328]).
(a) Câu kinh này cũng phân tích sơ
lược Cấp Đẳng các vị Thiền
Định Đế Quân, ở Ấn Độ gọi là
Thiên Thần (Devas) (Gods), hay là những Quyền Năng có Ư
Thức Thông Tuệ (Conscious Intelligent) trong Thiên Nhiên. Cấp
Đẳng này cũng phù hợp với sự phân loại
của Loài Người, v́ toàn thể nhân loại thật
ra là sự biểu lộ của cấp đẳng
ấy, tuy hăy c̣n bất toàn. “Đạo binh của Diệu
Âm” (“Army of the Voice”) là một danh từ có liên hệ
chặt chẽ với bí mật của Âm thanh và Ngôn
ngữ, hậu quả và hệ luận của Tư
Tưởng Thiêng Liêng là Nguyên Nhân. Ông P. Christian, tác giả
quyển “Lịch sử Pháp
Thuật” và “Người Da
Đỏ Làm Ngói” (Histoire de le Magie and L’Homme Rouge des Tuileries) đă giải thích rơ ràng
điều này: những lỗi mà con người thốt
ra cũng như tên của người ta, đều
chỉ định một phần lớn số mạng
của ḿnh. Tại sao vậy? Bởi v́ :
“Khi tâm [tức là cái trí] tạo ra hay gợi
lên một tư tưởng, th́ tư tưởng ấy
ghi dấu vết trong chất lưu động của
thể cảm dục, nó tiếp nhận tư
tưởng đó và trở thành một tấm kính chói
lọi những biểu lộ tâm t́nh của con
người.
157
Dấu vết chỉ rơ sự việc, sự
việc của đức tính [ẩn tàng hay huyền bí]
của dấu vết.
Nói lên một lời tức là gợi lên
một tư tưởng và làm cho nó hiện lên. Uy lực
từ điển của lời nói con người là giai
đoạn đầu tiên của sự biểu lộ
trong Giới Huyền Môn. Nói lên một danh hiệu chẳng
những để xác định một Thực Thể,
mà c̣n để cho và buộc nó phải chịu tác dụng
của một vài mănh lực Huyền bí (nhờ việc
thốt ra huyền âm). Đối với tất cả
chúng ta, sự vật là cái mà Huyền Âm biểu diễn khi
định danh chúng. Lời nói của mọi người
là một lời ban phúc
hoặc một lời nguyền
rủa mà bản thân người ta không hề ư thức
được. Đó là lư do tại sao việc hiện nay
ta hoàn toàn mù tịt về những tính chất và thuộc
tính của ư tưởng,
cũng như của vật
chất, lại thường làm hại ta.
Đúng vậy, danh hiệu [và ngôn từ]
đều có tính cách lành hay dữ; theo một ư nghĩa
nào đó, chúng có thể độc hại hay bổ
dưỡng, tuỳ theo những tác dụng ẩn tàng
của Minh Triết Vô Thượng đối với các
phần tử của chúng, nghĩa là các chữ hợp
thành chúng, và các số tương
hệ với các chữ này.
Điều này thuộc phần giáo lư
nội môn mà tất cả các phái Huyền môn phương
Đông đều chấp nhận. Trong Phạn ngữ
cũng như trong tất cả thứ ngôn ngữ khác,
mỗi chữ đều có một ư nghĩa thần bí và
diệu dụng của nó: nó là một nguyên nhân và một
hậu quả của một nguyên nhân trước đó,
và sự phối hợp những yếu tố này
thường gây nên một ảnh hưởng kỳ lạ
nhất. Đặc biệt là những nguyên âm (vowels) có
chứa đựng những quyền năng thần
diệu và mănh liệt nhất. Người Bà La Môn biết
rơ cách đọc những chân ngôn hay Thần chú (Mantras), kinh
Phệ Đà cùng các Thánh kinh
khác.
“Đạo binh Diệu Âm” là nguyên h́nh
của “Đội Thiên Sứ của Trời” (“Host of the
Logos”), tức là “Huyền Âm” (“Word”) trong kinh Sepher Yetzireh; c̣n trong Giáo Lư Bí Truyền, nó
được gọi là “Số Duy Nhất phát xuất
từ Không Số” (“One Number issued from No-Number”)- Nguyên Lư
Vĩnh Cửu Duy Nhất (the One Eternal Principle). Thần
phổ học Huyền bí khởi sự với số
Một Biểu Lộ, bởi biểu lộ nên nó không
vĩnh cửu, nhưng nguyên thể của nó th́ trường
tồn – Nó là Con Số trong Nhiều Con Số và các Con
Số đă được kể ra. Những con số
đă được kể ra đó là do Tiếng Nói mà ra,
nó cũng do Shatarupa “với trăm h́nh thể” tức là
Thiên Nhiên vậy. Chính số 10, hay là Thiên Nhiên Sinh Hoá hay là Bà
Mẹ (số zero Huyền bí hay là “O” sinh hoá luôn luôn bằng
cách hiệp nhất với số “1” hay là Tinh Thần
của Sự Sống) sinh hoá ra trọn vẹn Vũ Trụ.
158
Trong quyển Anugita
([329]),
người ta có nói về cuộc đàm thoại giữa
người Bà La Môn với vợ y về nguyên nhân của
Lời nói và về đặc tính huyền bí của nó.
Người vợ hỏi nguyên nhân của Lời nói này, và
cái nào có trước? Lời nói hay Tư tưởng? Nhà Bà
La Môn trả lời rằng: “Chính hơi thở vô trở thành Ngài (Lord), rồi nó
biến đổi cái trí đó (cái trí đó không hiểu
Lời nói) ra trạng thái của Apana, và như thế nó
mở Trí. Đoạn y thuật một chuyện, một
sự đàm thoại giữa Lời Nói và Trí Khôn. Cả
hai đi đến nhà của Chân Ngă (nghĩa là Chân Nhân, theo
Nilakantha và Prajapati, theo nhà b́nh luận Arjuna Mishra), rồi
nhờ Chân Ngă giải nghi cho họ, và nói rơ xem tiếng nói
hay tư tưởng có trước và cao siêu hơn? Chân Ngă
trả lời rằng: “Cái Trí cao siêu hơn”. Nhưng
Tiếng nói trả lời lại Chân Ngă như vầy:
“Thật ra tôi chiều ư Ngài”, có ư muốn nói rằng:
“Nhờ Tiếng nói nên Ngài mới được toại
ḷng điều ǵ Ngài muốn”. Đoạn Chân Ngă c̣n thêm
rằng: “Có hai cái Trí, Trí bất động và Trí di
động. Ngài nói “Cái Trí bất động thuộc
về ta, c̣n Trí di động là thuộc về địa
hạt của ngươi” (nghĩa là Lời nói), trên cơi
vật chất. “Ngươi là kẻ bề trên của cái
Trí đó”.
Nhưng hỡi Đấng đẹp
đẽ ơi! Ngài tự ḿnh đến nói với tôi
một cách hănh diện theo như Ngài đă làm. Vậy
hỡi Sarasvati ơi! Bà sẽ không bao giờ nói sau khi Bà
thở ra. [Sarasvati là vị nữ thần Lời nói, là h́nh
thức hay trạng thái mới của Vach, Bà cũng là
thần của giáo lư bí truyền hay của sự Minh
Triết Huyền môn], luôn luôn ở giữa Prana và Apana.
Nhưng hỡi Bà cao quí ơi! Bà đi với khí Apana dù Bà
bị cưỡng bách không có Prana [hơi thở ra] Bà
chạy đến Brahma và nói rằng: “Lạy Ngài đáng
kính ơi! Ngài vui ḷng nhé!” Đoạn Prana hiện lên
một lần nữa, nó nuôi lời nói không bao giờ
được thốt ra sau khi thở ra mạnh. Nó luôn
luôn ồn ào hay im lặng. Vô thinh luôn luôn hơn lời nói
ồn ào… Lời nói nhờ Prana mà sinh ra trong thân thể con
người, rồi nó biến đổi ra Apana, và về
sau nó đồng hoá với những cơ quan vật
chất của lời nói (Udana)… rốt lại nó cư
ngụ tại rún (Samana), lấy h́nh thức âm thanh với
vai tṛ nguyên nhân vật chất của mọi ngôn từ
[theo Arjuna Mishra]. Đó là lối mà xưa kia lời nói
đă thốt ra. V́ thế cái trí nổi bật lên bằng
sự bất động của nó, c̣n nữ thần
lời nói bằng sự linh hoạt của nó ([330]).
Bài ngụ ngôn trên đây chỉ rơ gốc
rễ của luật huyền môn nói về sự im
lặng khi đă biểu hiện vài điều bí mật
và vô h́nh mà chỉ có trí tuệ tinh thần tri giác
được thôi (trí tuệ tinh thần đây là giác quan
thứ sáu) chớ lời nói không thể nào mô tả
được. Theo Arjuna Mishra, đoạn văn Anugita này giải nghĩa
về việc điều hoà hơi thở trong khi hành Yoga.
Tuy nhiên, cách hành Yoga này khi được dùng mà không
hiểu, hoặc không hiểu trọn vẹn về hai giác
quan trên (có bảy giác quan mà ta sẽ giải thích ở sau),
th́ lại thuộc về Yoga thấp. Những vị
đắc đạo La Hán đều luôn luôn khuyên dạy
đừng dùng môn Hatha Yoga. Các tư thế Hatha Yoga có
hại cho sức khoẻ và người ta không thể
nhờ nó mà đạt được môn Raja Yoga. Câu
chuyện trên đây cũng dùng chỉ tại sao, trong
những hệ thống xưa của siêu h́nh học, các
sinh linh khôn ngoan hay các Đấng Thông Tuệ đều
liên quan chặt chẽ với mỗi giác quan hay với
cơ năng vật chất hoặc trí tuệ. Giáo lư
Huyền môn quả quyết rằng trong con người và
trong thiên nhiên đều có bảy giác quan cũng như
bảy trạng thái tâm thức, điều này đă
được bổ chứng cũng trong tác phẩm
đó, Chương vii, bàn về Pratyahara ( sự
điều phục và chế ngự các giác quan, c̣n Pranayama
là sự điều phục và chế ngự các “sinh khí”
hay hơi thở). Nhà Bà La Môn nói về bảy thầy tu
Tư tế của Do Thái giáo như vầy: “Cái mũi, con
mắt, lưỡi, da, tai là ngũ
159
quan [hay nói cách khác: khứu giác, thị giác,
vị giác, xúc giác và thính giác là ngũ quan] c̣n cái trí và sự
hiểu biết là hai giác quan nữa. Tất cả là
bảy giác quan, chúng nó giống như bảy thầy tu Tư
Tế Do Thái đứng riêng ra từng người trong
một khoảng hẹp mà không thấy nhau – trên cơi giác quan
này - chỉ trừ cái trí thấy được mà thôi.
Bởi v́ cái trí nói: “Không có tôi, cái mũi thở không
được; không có tôi, con mắt không thấy được
màu sắc… Tôi là chủ vĩnh cửu tất cả
mọi yếu tố này (những giác quan). Không có tôi, mấy
giác quan này sẽ không biểu lộ ra được
giống như nhà trống trải, hoặc giả như
lửa đă tắt. Không có tôi, mọi sinh linh (như
củi nửa khô nửa ướt), không hiểu
được đặc tính đồ vật cũng
như đồ vật, mặc dù giác quan đang linh
động” ([331]).
Điều này dĩ nhiên nói về cái trí linh hoạt trên cơi cảm
giác mà thôi (dục giới). Cái Trí Tinh Thần là
THƯỢNG Trí (impersonal MANAS),
nó không biết ǵ về giác quan của con người
ở cơi vật chất. Người xưa hiểu sự
tương quan của những mănh lực, của tất
cả những hiện tượng mà ta vừa mới khám
phá ra, liên hệ tới những quan năng và những tác
động của cái trí và cái xác cùng với tất cả
những điều huyền bí khác nữa. Đọc
quyển sách quí Anugita nơi
chương vii và viii người ta sẽ thấy giáo lư
triết học và huyền môn. Hăy đọc sự
đối đáp của các giác quan về sự cao
thấp của chúng, và ư kiến của chúng là nhờ
Brahman, Đấng hoá sinh muôn loài, làm trọng tài. Ngài nói:
“Tất cả các ngươi đều cao thượng
nhất và không cao thượng nhất [hoặc cao siêu
hơn các đối tượng, nhưng không hề
độc lập với nhau – theo Arjuna Mishra). Tất
cả các ngươi ai nấy đều có các đức
tính của nhau. Tất cả các ngươi đều cao
thượng trong cơi riêng của các ngươi và các
ngươi hỗ trợ nhau. Có một điều bất
động là [Hơi thở
vào của phép Yoga], nó chính là hơi thở của
Đấng Duy Nhất (đó là Chơn Ngă mang nhiều h́nh
thể)” ([332]).
Hơi Thở này, Tiếng Nói này, Chơn Ngă
hay Hơi Gió này đều là cái tổng hợp của
Bảy giác quan; nói về
thực thể th́ chúng là những vị thần
thấp, c̣n nói về huyền môn, th́ chúng là Septenary (Thất Nguyên) và là “Đạo binh Diệu
Âm” (“Army of the Voice”).
160
(b) Kế đó Vật Chất Nguyên Thuỷ
tự phân tán và hợp thành những Nguyên Tố qui
định thành Tứ Đại trong Nguyên Tố thứ
năm, tức Dĩ Thái, một biến thể của
Akasha, tức chất Tinh Quang (Anima Mundi) hay Mẹ của
Vũ Trụ. Tại sao và bằng cách nào có sự h́nh thành
những “Chấm điểm, Đường thẳng, Tam
giác, Khối vuông, Ṿng tṛn” và sau cùng là những khối
“Bầu Tṛn”? Thiên b́nh luận nói rằng đó là luật
Thiên Nhiên và v́ Thiên Nhiên tự biểu lộ theo những
phương pháp h́nh học. C̣n một số định
luật chi phối không những là vật chất nguyên
thuỷ mà c̣n cả vật chất biểu lộ trong cơi
giới hiện tượng của chúng ta, theo đó, thiên
nhiên sắp xếp những dạng thức h́nh học,
kế đó là những nguyên tố hoá chất một cách
vô cùng tinh vi theo các qui mô nhất định, trong đó không
hề có sự ngẫu nhiên hay t́nh cờ. Một
định luật căn bản trong Huyền môn là không
bao giờ có sự ngừng nghỉ hay chấm dứt
sự chuyển động trong Thiên Nhiên ([333]).
Điều có vẻ như ngừng nghỉ chỉ là
sự đổi thay h́nh thức và đi đôi với
sự đổi thay h́nh thức là sự đổi thay
chất liệu theo như khoa vật lư Huyền linh
dạy chúng ta; và điều này dường như đă
được đưa ra rất lâu trước khi khoa
học khám phá ra luật
bảo tồn năng lượng trong cơi vật chất.
Phần Cổ Luận của ĐOẠN THÁNH KINH 4 dạy
([334])
:
Mẹ là Cá
của Sự Sống cháy rực (fiery Fish of Life). Nàng vung
văi trứng cá thế là Linh Khí (Breath) [Chuyển
Động-Motion] nung nóng và phấn khích nó. Các hạt
[trứng cá] thu hút lẫn nhau lại ngay và tạo thành các
cục ninh kết (curds) trong Đại Dương (Ocean) [Không
gian- Space]. Các cục lớn liên hiệp lại và đón
nhận trứng cá mới – đó là các chấm, tam giác và
khối vuông cháy rực; chúng chín muồi và đến
đúng lúc đă định, một số cục sẽ
tách ra và có dạng h́nh cầu; đó là tiến tŕnh mà chúng
chỉ thực hiện khi không có các yếu tố khác can
thiệp vào. Sau đó, định luật số *** sẽ
bắt đầu tác động. Chuyển động
(Motion) [Linh Khí - the Breath] biến thành cơn gió lốc và
khiến cho chúng ta quay tṛn ([335]).
5. OI-HA-HOU LÀ BÓNG TỐI, CÁI VÔ BIÊN, HAY KHÔNG
SỐ, TỨC ADI-NIDANA SVABHAVAT, CÁI V̉NG TR̉N VÔ CỰC :
I. ADI-SANAT, MỘT CON SỐ (THE
NUMBER), V̀ NÓ LÀ ĐƠN NHẤT (ONE) (a).
II. TIẾNG NÓI CỦA DIỆU ÂM,
SVABHAVAT, NHỮNG CON SỐ, V̀ NGÀI LÀ MỘT VÀ CHÍN ([336]).
III. “CÁC H̀NH VUÔNG KHÔNG CÓ H̀NH DÁNG” (“FORMLESS SQUARE”)([337]).
161
VÀ CẢ BA ĐƯỢC ĐẶT VÀO
TRONG ([338]),
LÀ SỐ BỐN THẦN BÍ (SACRED FOUR); VÀ SỐ MƯỜI
LÀ VŨ TRỤ VÔ H̀NH (ARUPA UNIVERSE) (b). RỒI ĐẾN
NHỮNG “NGƯỜI CON’, BẢY CHIẾN SĨ (SEVEN
FIGHTERS), SỐ MỘT, CÁI THỨ TÁM BỎ RA NGOÀI, VÀ HƠI
THỞ CỦA NGÀI TẠO RA ÁNH SÁNG (LIGHT-MAKER) (c) ([339]).
(a) “Adi-Sanat” dịch sát nghĩa là
“người Thái Cổ” (“Primeval Ancient”), danh từ này
đồng nhất hoá “Đấng Vô Lượng Thọ”
(“Ancient of Days”) của tín đồ Do Thái Bí giáo và
Đấng “Thánh Cổ” (“Holy Aged”) (Sephira và Adam Kadmon)
với Brahma, Đấng Sáng Tạo, cũng
được gọi là Sanat trong số nhiều tôn danh
khác.
“Svabhavat” là cái Tinh Hoa của thần bí,
Gốc rễ của Thiên Nhiên hữu h́nh tức những
“Con Số” khi biểu lộ trong thế giới hiện
tượng; “Con Số” trong trạng thái Nhất Thể
Đại Đồng (Unity of Substance), trên cơi giới cao
nhất. Đó là một danh từ của Phật giáo
đồng nghĩa với Tứ Nguyên Anima Mundi, tức
Thế Giới Kiểu Mẫu (Archetypal World) của huyền
môn Kabalah, từ đó xuất hiện ra những Thế
Giới Sáng Tạo, H́nh Thành và Vật Chất và các
Điểm Linh Quang (Scintillae or Sparks) - nhiều thế
giới khác bao hàm trong ba thế giới nêu trên. Tất
cả các Thế Giới đều có các Đấng
Chưởng Quản, đối với người
Ấn Độ, đó là các Đấng Thánh hiền và các
Pitris; đối với các tín đồ Do Thái và Thiên Chúa
giáo, đó là các Thiên Thần (Angels); đối với
Cổ nhân nói chung đó là Thần Linh.
(b) Cái ṿng tṛn vô cực “ “, số không, chỉ trở nên
một con số khi nào một trong chín con số đi
trước nó, để biểu lộ giá trị và
tiềm lực của nó. Nó là Huyền Âm (Word) hay Logos
hợp nhất với Tiếng Nói và Tinh Thần (Voice and
Spirit)([340])(biểu
hiện và nguồn cội của Tâm Thức), tiêu biểu
cho chín con số và hợp với số không; lại
trở thành số Mười toàn vẹn chứa
đựng bên trong toàn thể Vũ Trụ. Tam Nguyên (Triad)
nằm trong Ṿng Tṛn hợp thành Tứ Nguyên (Tetraktys) thiêng
liêng, H́nh Vuông bốn góc trong Ṿng Tṛn là phù hiệu có mănh
lực lớn nhất trong tất cả các đồ h́nh
của pháp môn huyền bí.
162
(c ) “Cái Một bị gạt bỏ ra ngoài” là
Ngôi Mặt Trời của Thái dương hệ chúng ta. Ta
có thể thấy lối thuyết minh ngoại môn trong các
Thánh kinh Bắc phạn xưa nhất. Trong kinh Rig Veda, Tiên Thiên Huyền
Nữ (Aditi), Không Gian vô biên – mà Giáo sư Max Muller đă
dịch là “Cái vô hạn hữu h́nh đối với
mắt phàm (!!); cái bành trướng vô tận vượt khỏi
đất, trời, chín từng mây” - lại tương đương
với “không gian Mẫu Nghi” (“Mother-space”), đồng
thời với “Tối Tăm”. Nàng rất xứng đáng
được tôn là “Mẹ của Chư Thiên” (“Mother of
Gods”); DEVA-MATRI, v́ tất cả các thiên thể thuộc thái
dương hệ của ta (Mặt Trời và các Hành Tinh)
đều sinh ra từ khuôn viên vũ trụ của nàng.
Nàng được mô tả một cách ẩn dụ như
sau: “Tám đứa con
đều sinh ra từ cơ thể của Tiên Thiên
Huyền Nữ, nàng đến gần chư thiên cùng
với bảy đứa con, nhưng lại từ bỏ
đứa thứ tám, tức Martanda”, mặt trời
chúng ta. Xét về mặt vũ trụ hay thiên văn,
bảy đứa con (tên là Adityas) chính là bảy hành tinh;
việc mặt trời bị loại ra khỏi đám
đó chứng tỏ rơ rệt rằng người Ấn
Độ có thể đă biết (và đích thực đă
biết) về một hành tinh thứ bảy, mà không
gọi nó là Thiên Vương Tinh (Uranus)([341]).
Nhưng xét về mặt nội môn và thần học
(tạm gọi như vậy), theo ư nghĩa nguyên thuỷ
nhất, Adityas là tám và mười hai đại thần
linh của chư Thần Linh Ấn Độ. Một
ngạn ngữ cổ truyền dạy: “Bảy
Đấng này để cho thế nhân thấy
được chỗ trú của ḿnh, nhưng chỉ
xuất hiện trước các bậc La Hán”; ở đây
“chỗ trú” của các Ngài tượng trưng cho các hành
tinh. “Cổ Luận” tŕnh bày và giải thích ẩn dụ sau
đây:
Từ mẫu
xây tám căn nhà: tám căn nhà dành cho Tám Đứa Con Thiêng
Liêng; bốn căn nhà lớn và bốn căn nhà nhỏ.
Tám Mặt Trời chói lọi, tuỳ theo tuổi tác và công
trạng. Bai-i-lu [Martanda] không
thoả măn, mặc dù nhà của y lớn nhất. Y bắt
đầu [làm] như các con voi khổng lồ. Y hít [hút]
sinh khí các huynh đệ ḿnh vào trong bao tử. Y ra sức
ngấu nghiến chúng. Bốn căn nhà to ở xa, xa
tận biên chu của cơi giới ḿnh ([342]).
Chúng không hề bị cướp đoạt [ảnh
hưởng] và cười nhạo. Chúng bảo:
“Đừng tưởng mày ngon! Mày đừng ḥng chạm
được đến chúng ta!”. Nhưng mấy căn
nhà nhỏ khóc ṛng. Chúng bèn đi mách Mẹ. Mẹ đày
Ba-i-lu đến tận trung tâm cơi y, y bị cấm cố
ở đó. [Từ đó], y [chỉ] trông coi và doạ
dẫm (watches and threatens). Y theo gót chúng và quay từ từ
xung quanh ḿnh; chúng quay nhanh ra xa y; từ xa, y theo hướng
mà anh em ḿnh di chuyển trên quĩ đạo bao quanh chỗ
trú của ḿnh ([343]).
Từ đó, y sống bằng mồ hôi tiết ra từ
cơ thể của Mẹ. Y hít đầy hơi thở
của Mẹ rồi tống đi. V́ thế, bà cũng
từ y luôn.
Như vậy đoạn trên đă chứng
tỏ rằng “Đứa Con bị từ bỏ” là
Mặt Trời của chúng ta, c̣n các “Mặt Trời Con” ám
chỉ không những là các hành tinh, mà c̣n là các thiên thể nói
chung. Surya (bản thân Ngài chỉ là một phản ảnh
của Mặt Trời Tinh Thần Trung Ương) chính là
nguyên kiểu của các thiên thể tiến hoá từ Ngài mà
ra. Trong kinh Phệ Đà, Ngài được gọi là
Loka-Chakshuh, “Con Mắt của Thế Gian” (thế giới
của hành tinh chúng ta) và là một trong ba vị thần linh
chính yếu. Ngài vừa được gọi là Con của
Dyaus, vừa được gọi là Con của Tiên Thiên
Huyền Nữ (Aditi), v́ chẳng ai thèm phân biệt ư
nghĩa nội môn của các tôn danh này. Do đó
người ta mô tả rằng Ngài được kéo
bởi bảy con ngựa, hoặc bởi một con
ngựa bảy đầu. Lối mô tả thứ nhất
ám chỉ có bảy hành tinh, lối mô tả thứ hai ám
chỉ chúng có cùng nguồn gốc chung là Hành Vũ Trụ
Duy Nhất (One Cosmic Element). “Hành Duy Nhất” (“One Element”) này
được gọi một cách bóng bảy là “HOẢ” (“FIRE”).
Kinh Phệ Đà dạy
rằng “lửa chính là tất cả các chư thần linh”
([344]).
163
Ư nghĩa của ẩn dụ thật rơ
ràng, v́ để giải thích nó, ta có cả phần
Giảng lư THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH (DYZAN) lẫn khoa
học hiện đại, mặc dù hai bên ít ra cũng khác
nhau một đặc điểm. Giáo lư Huyền môn bác
bỏ giả thuyết về khối Tinh Vân, cho rằng
bảy bầu hành tinh lớn xuất phát và lớn dần
từ khối lửa trung ương của Mặt Trời
vật chất hữu h́nh. Sự cô đọng đầu
tiên của vật chất nguyên thuỷ lẽ tất nhiên
là xảy ra chung quanh một điểm trung ương, là
ngôi Mặt Trời chủ thể của nó, c̣n mặt
trời của chúng ta chỉ tự nó tách rời sớm
hơn tất cả các hành tinh khác trong khi khối vật
chất xoay ṿng, co rút lại lần lần và như
vậy, nó chỉ là một thiên thể già dặn hơn và
“anh cả” các hành tinh khác chứ không phải “cha
đẻ” của các hành tinh này. Tất cả tám thần
linh Adityas đều được làm bằng chất
lượng vĩnh cửu (vật chất của sao
chổi ([345])
- Mẹ) tức “Thế gian chất” (“World-stuff”), chất
này là cả Nguyên Khí Vũ Trụ thứ năm lẫn
Nguyên Khí Vũ Trụ thứ sáu, Upadhi (tức cơ sở)
của Linh Hồn Vũ Trụ chẳng khác nào Manas ([346])
là Upadhi của Tuệ giác ([347])
nơi con người (Tiểu Vũ Trụ).
Có một bài thơ bàn về các trận
chiến tiên thiên (pregenetic battles) của các hành tinh đang
tăng trưởng trước khi Càn Khôn rốt cuộc
được tạo ra. Điều này giải thích
vị trí dường như bị nhiễu loạn
của các hệ thống hành tinh, mặt phẳng của
các vệ tinh của một vài hành tinh (chẳng hạn
như Hải Vương Tinh và Thiên Vương Tinh, nghe nói
cổ nhân chẳng biết ǵ về điều này) bị
nghiên khiến cho chúng có vẻ đang chuyển động
lùi. Các hành tinh này được gọi là Chiến Sĩ
(Warriors), Kiến Trúc Sư (Architects) và được Giáo
hội Thiên Chúa La Mă chấp nhận là thủ lănh của
các đạo quân Thiên Giới; như vậy, chúng cũng
chứng tỏ truyền thuyết đó. Ta được
bề trên dạy rằng sau khi đă từ Không Gian Vũ
Trụ tiến hoá ra - trước khi rốt cuộc
tạo ra các tinh vân sơ cấp và tiêu diệt các tinh vân
hành tinh - Mặt Trời đă thu hút vào tận trong khối
vật chất của ḿnh tất cả mọi sinh lực
vũ trụ mà y có thể hút được, đe doạ
sẽ nuốt chửng các “huynh đệ” yếu ớt
của ḿnh, trước khi luật hút và đẩy rốt
cuộc được điều chỉnh. Sau đó, y
bắt đầu được cấp dưỡng
nhờ vào “sự từ chối và mồ hôi của Mẹ”
tức là nhờ vào các phần tử hậu Thiên Khí (“Linh
Khí của Linh Hồn Vũ Trụ”- the “Breath of the Universal
Soul”), đến nay khoa
164
học vẫn chưa biết về sự
tồn tại và cấu tạo của chất này. V́ ông
William Grove ([348]),
ông đă tŕnh bày lư thuyết cho rằng thái dương
hệ “đang biến đổi dần dần nhờ
thêm vào hoặc bớt đi các bầu khí quyển hoặc
chất liệu tinh vân”, và “mặt trời có thể làm cho
chất hơi cô đọng lại khi nó du hành trong không
gian và như thế có thể tạo ra nhiệt” – đă
phát biểu một thuyết thuộc loại này, nên ngay
cả trong thời đại hiện nay, giáo lư cổ
truyền dường như cũng có đủ cơ
sở khoa học ([349]).
Ông W. Mattieu William gợi ư rằng vật chất phân tán
tức Ê-te (Ether) - vốn nhận các bức xạ
nhiệt của vũ trụ - bị hút vào tận khối
vật chất của mặt trời. Khi trục xuất
chất Ê-te đă bị cô đọng trước kia và
đă mất nhiệt ra khỏi mặt trời, nó đâm
ra bị nén lại và toả nhiệt. Đến
lượt nó lại bị trục xuất dưới
một trạng thái loăng và nguội để rồi
lại hấp thụ một lượng nhiệt mới
(ông giả sử là Ê-te đă hấp thụ nhiệt
như thế này) rồi lại được các Mặt
Trời trong Vũ Trụ tập trung và tái phân phối.
Khoa học không
thể ngờ rằng điều này cũng gần
giống với giáo lư Huyền linh, v́ Huyền bí học
giải thích nó bằng “tử khí” (“dead breath”) mà Martanda
thải ra và việc đó được cấp
dưỡng nhờ vào “mồ hôi và sự từ chối”
của “Mẹ Không Gian”. Những ǵ chỉ ảnh
hưởng chút ít tới Hải Vương Tinh ([350]),
Thổ Tinh và Mộc Tinh, lại giết chết những
“Căn Nhà” tương đối nhỏ như Thuỷ
Tinh, Kim Tinh và Hoả Tinh. V́ trước cuối thế
kỷ mười tám, con người chưa hề
biết tới Thiên Vương Tinh, nên đến nay, danh
xưng của hành tinh thứ tư mà ẩn dụ
đề cập tới, vẫn c̣n là một điều
bí mật đối với chúng ta.
165
“Hơi Thở” của tất cả “Bảy”
(hành tinh) được gọi là Bhaskara, tạo nên Ánh Sáng,
bởi v́ tất cả những hành tinh đều là
những sao chổi và mặt trời vào lúc nguyên thuỷ.
Chúng xuất hiện từ khối Hỗn Mang sơ khai
để bước vào chu kỳ khai nguyên (manvantara)
bằng cả cách kết nạp lẫn cách qui tụ
mọi sự phân hoá đầu tiên của Vật Chất
nguyên thuỷ theo như Thiên b́nh luận đă diễn tả
bằng câu văn thi vị: “Như
vậy những con của Ánh Sáng khoác vào ḿnh mảnh y
phục của Bóng Tối”. Chúng được gọi
bằng ngôn từ ẩn dụ là những con “Ốc
Trời” (“Heavenly Snails”), v́ có các đấng Cao Cả vô h́nh
(đối với mắt phàm chúng ta) cư ngụ một
cách tiềm ẩn trong những hành tinh và di chuyển chúng
một cách từ từ, chậm chạp như những
con ốc cùng với những vận hành của chúng trong
không gian. Giáo điều nói về một nguồn gốc
chung cho tất cả những thiên thể và hành tinh, đă
từng được các nhà thiên văn thời cổ đưa
ra trước Kepler,
6. … RỒI
ĐẾN SỐ BẢY THỨ NH̀, ĐÓ LÀ CÁC VỊ NAM
TÀO BẮC ĐẨU (LIPIKA) DO SỐ BA SINH RA ([351]).
NGƯỜI CON BỊ TỪ BỎ LÀ MỘT. CÁC “CON
MẶT TRỜI” (“SON SUNS”) TH̀ NHIỀU VÔ SỐ.
Các Đấng “Lipika” do tự căn Lipi (viết), dịch nghĩa
là “những vị Thủ Bút” (“Scribes”)([352]).
Về phương diện thần bí đó là những
Đấng Cao Cả có nhiệm vụ cai quản và
điều hành Luật Nhân Quả, v́ các Ngài là những
vị Ghi chép và Giữ ǵn những tài liệu
được in dấu vết vào những kư ức vô h́nh
(đối với chúng ta) của chất Tinh Tú Quang (Astral
Light) trong Vũ Trụ. Chất tinh tú quang này phản
ảnh một cách trung thực tất cả mọi hành
động, thậm chí mọi tư tưởng con người,
và tất cả mọi sự việc xảy ra trong quá
khứ, hiện tại và tương lai trong vũ trụ.
Nó được gọi là kư ức thiên nhiên hay BIA SỬ CỦA
CUỘC SỐNG (BOOK OF LIFE) (Điều này đă
được tŕnh bày trong Nữ
Thần Isis Lộ Diện). Đấng Lipika là
Đấng phác hoạ kế hoạch tạo lập nên
Vũ Trụ ngoại tại từ cái ư niệm trừu
tượng của Tư Tưởng Thiêng Liêng, theo đó
các Đấng Tạo Tác tái tạo lại Vũ Trụ sau
mỗi Chu Kỳ Hỗn Nguyên (Pralaya). Các Ngài có quả
vị tương đương với bảy
Đấng Thiên Thần hiện diện hay bảy
Đấng Tinh Quân của tín đồ Thiên Chúa giáo; như
vậy, các Ngài chính là các vị thơ kư trực tiếp
của Thiên Ư Vĩnh Cửu (hay “Tư Tưởng Thiêng
Liêng”, theo lối gọi của Plato). Kư ức thiên nhiên nói
trên không phải là chuyện hoang đường và chúng ta
cũng thấy có những kư ức giống như thế
trong cơi phàm trần vật chất. Bác sĩ Draper có nói:
Một cái bóng
hiện trên vách tường sẽ để lại trên
tường một dấu vết trường cửu mà
người ta có thể làm cho nó hiện ra rơ ràng bằng
cách sử dụng những phương pháp thích nghi…
Những h́nh ảnh của bạn bè quen thuộc hay phong
cảnh thiên nhiên mà ta đă nh́n thấy có thể biến
mất trước mắt chúng ta, nhưng chúng ta có thể
tái xuất hiện dưới một vài điều kiện
đặc biệt. Một bóng ma ẩn tàng trên một
mặt gương tráng bạc, cho đến khi ta dùng
thuật chiêu hồn (necromancy) khiến cho nó hiện ra trong
thế giới hữu h́nh. Trên bức tường của
những gian pḥng kín đáo riêng biệt mà ta tưởng
không ai có thể bước vào và chỉ có một ḿnh ta
ẩn trú trong đó thôi, có in dấu vết của mọi
hành động của ta và h́nh bóng của tất cả
những ǵ mà ta làm trong ấy ([353]).
166
Các Bác sĩ Jevon và Babbage tin rằng mọi
tư tưởng đều làm cho các cấu tử
của năo bộ dời chỗ và di chuyển, vung văi
khắp vũ trụ. Họ cho rằng “mỗi cấu tử
của vật chất đang tồn tại phải ghi
nhận được tất cả những ǵ đă
diễn ra” ([354]).
Như vậy, giáo lư cổ truyền đă bắt
đầu có thể xâm nhập vào trong lănh vực suy lư
của thế giới khoa học.
Bốn mươi vị “Bồi Thẩm” (“Assessors”),
chuyên môn buộc tội Linh Hồn trước Osiris ở
vùng Amenti (Luyện Ngục), cũng thuộc về
đẳng cấp thần linh giống như Lipika, và có
thể được gọi là tương
đương nếu người ta không hiểu một
cách lờ mờ như vậy về ư nghĩa nội môn
của chư thần linh Ai Cập. Ở Ấn Độ
Chitragupta (vị chuyên kê khai lư lịch của mọi linh
hồn theo cuốn sổ tên là Agrasandhani), các vị bồi
thẩm chuyên điều tra lư lịch theo Tâm của
người chết (nó biến thành một quyển sách
mở ngỏ trước mặt Diêm Vương (Yama,
Minos, Osiris hoặc Kama) đều là các mô phỏng và
biến dạng của Lipika và các Kư Ảnh Dĩ Thái (Astral
Records). Tuy nhiên, Lipika không phải là các thần linh liên quan
tới Sự Chết (Death), mà là các thần linh liên quan
tới Sự Sống đời đời bất
diệt (Life Eternal).
V́ các Đấng Lipika có liên hệ với
vận mệnh của mỗi người và sự ra
đời của mỗi đứa trẻ có cuộc
sống đă được ghi dấu trong Tinh Tú Quang
(Astral Light)- không phải là theo số mạng, mà chỉ v́
Tương Lai cũng như Quá Khứ bao giờ cũng
sống động trong HIỆN TẠI – nên người ta
cũng có thể bảo là các Ngài có một tác dụng
đối với khoa tử vi đẩu số (horoscopy).
Dù muốn hay không, chúng ta cũng phải thừa nhận là
điều trên có thực. Một trong các Giáo sư chiêm tinh
học hiện đại đă nhận xét như sau:
Nay, khi thuật nhiếp ảnh đă tiết lộ cho chúng ta tác dụng hoá học của hệ thống tinh tú bằng cách ghi lên kính ảnh của dụng cụ quan sát hàng tỷ ngôi sao và hành tinh (cho đến nay, các kính viễn vọng mạnh nhất vẫn không thể khám phá ra) th́ ta cũng dễ dàng hiểu được cách thức mà Thái dương hệ ta – vào lúc đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời – tác dụng vào năo bộ của nó (vẫn c̣n trinh nguyên đối với bất kỳ ấn tượng nào) một cách nhất định tuỳ theo sự hiện diện trên thiên đ́nh của một cḥm sao Hoàng Đới nào đó ([355]).
ĐOẠN THÁNH KINH 5
(STANZA 5)
1. BẢY NGUYÊN
THUỶ LÀ BẢY HƠI THỞ ĐẦU TIÊN CỦA
RỒNG MINH TRIẾT, LẠI ĐẾN LƯỢT TẠO
RA CON TRỐT LỬA (FIERY WHIRLWIND) TỪ NHỮNG HƠI
THỞ THÁNH THIỆN XOAY V̉NG.
167
Đây có lẽ là đoạn khó giải
nhất của tất cả các ĐOẠN KINH trong
quyển Thiền Định
Chân Kinh. Ngôn từ của nó chỉ có thể hiểu
được đối với người nào đă hoàn
toàn thấu triệt khoa biểu tượng của
huyền môn phương Đông và những cách nói ẩn
dụ mập mờ của khoa ấy. Chắc có
người sẽ hỏi: Các nhà Huyền bí học có tin
nơi tất cả các Đấng “Sáng Tạo”, “Lipika” và
“Các Con của Ánh Sáng” vừa kể trên như những
Đấng Cao Cả có thật, hay đó là những h́nh
ảnh hăo huyền do sự tưởng tượng mà
thôi? Câu trả lời thật rơ rệt và dứt khoát là:
“Một mặt vẫn có sự tượng h́nh những
Quyền Năng thiêng liêng dưới h́nh ảnh nhân cách hoá
(the imagery of personified Powers), nhưng chúng ta phải nh́n
nhận sự hiện diện của những Thực
Thể đó nếu chúng ta chấp nhận có một khía
cạnh tâm linh của nhân loại bên trong cái nhân loại
phàm trần hữu h́nh. Bởi v́ những cấp
đẳng các “Đấng Con của Ánh Sáng” và “Tinh Quân”
xuất phát từ Tia Sáng biểu lộ nguyên thuỷ
của Đại Ngă vô cực bất khả tri (Unknown
All), chính là nguồn gốc của Nhân Loại Tâm Linh (Spiritual
Man). Trừ phi chúng ta muốn tin nơi điều vô lư và
phản triết học cho rằng có một linh hồn
mới được sáng tạo đặc biệt cho
mỗi người vào lúc khai sinh kể từ thời ông
“Adam” cho đến nay, th́ chúng ta phải chấp nhận
giáo lư huyền môn như đă tŕnh bày ở trên.
167
Giáo lư Huyền môn dạy rằng,
để trở thành một Đấng Thần Minh thiêng
liêng và có ư thức hoàn toàn, cho đến Đấng Cao
Cả nhất, những Đấng ấy phải có đi
qua giai đoạn tiến hoá của nhân loại. Khi chúng
tôi nói “nhân loại”, điều này không phải chỉ áp
dụng cho nhân loại của địa cầu chúng ta mà
thôi, mà c̣n chỉ những nhân vật đang sống trên
mọi bầu thế giới, tức là những sinh linh
đă đạt tới mức quân b́nh giữa tinh thần
và vật chất như chúng ta ngày nay, kể từ khi trào
lưu tiến hoá đă vượt qua điểm trung b́nh
ở khoảng giữa Giống dân thứ Tư của
cuộc Tuần hoàn thứ Tư. Mỗi Thực Thể
hay Chân Linh phải tự định đoạt cho ḿnh cái
quyền trở nên siêu phàm, nhập thánh qua kinh nghiệm
bản thân. Đại triết gia Đức Hegel, hẳn
đă có hiểu biết hoặc cảm nhận
được bằng linh giác cái chân lư này khi ông ta nói
rằng cái Vô Thức (Unconscious) tạo nên Vũ Trụ
ngoại tại chỉ là “với niềm hy vọng
đạt tới ư thức tự ngă (Self-consciousness)” riêng
biệt, nói khác đi, là để trở nên NGƯỜI
(MAN); đó là ư nghĩa ẩn giấu của một câu
trong kinh Purana, nói rằng
Brahma luôn luôn bị “thúc đẩy bởi ư muốn sáng
tạo”. Điều này cũng giải thích câu nói bí
hiểm trong kinh Kabalah:
“Hơi Thở trở nên khoáng chất, khoáng chất
trở nên thảo mộc, thảo mộc trở nên
cầm thú, cầm thú trở thành người, người
trở thành Tiên Thánh (spirit), Tiên Thánh thành Thượng
Đế”. Những Đấng Tinh Quân, các Đấng
Thánh Triết (Rishis), các Đấng Kiến Tạo v..v..
đều là người – dù là với những h́nh thể
sắc tướng nào – trong những bầu thế
giới khác và trong những chu kỳ Khai Nguyên trước.
Chủ đề này thật là huyền bí
đến nỗi khó giải thích nó một cách tỉ
mỉ và theo mọi phương diện, v́ toàn bộ bí
nhiệm về sự sáng tạo tiến hoá đều
được bao hàm trong đó. Chỉ một, hai câu kinh
cũng khiến ta nhớ tới các câu tương tự
trong kinh Kabalah và cú pháp
của vua David ([356]).
Khi đề cập đến Thượng Đế,
cả hai đều tŕnh bày là Ngài biến Gió thành sứ
giả của ḿnh và “biến các sứ giả của ḿnh
thành một ngọn lửa”. Nhưng trong nội môn bí giáo,
nó lại được dùng một cách bóng bẩy. Con
“Trốt Lửa” (“Fiery Whirlwind”) là bụi lửa tiên thiên,
nó chỉ tuân theo tư tưởng chỉ đạo
của “Lực Sáng Tạo” (“Creative Forces”) giống như
chất bụi sắt theo sát một khối đá nam châm.
Tuy nhiên, bụi tiên thiên ấy c̣n là một cái ǵ khác hơn,
v́ mỗi hột nguyên tử Vũ Trụ có cái tiềm
năng chứa đựng tâm thức riêng biệt và
cũng như những điểm nhất nguyên Chân
Thần (Monads) của Leibnitz, tự nó là một vũ
trụ riêng biệt. Nó là một
nguyên tử và một thiên thần.
168
Về vấn đề này nên lưu ư rằng
một trong các nhân vật ưu tú của trường phái
tiến hoá luận hiện đại, ông A.R. Wallace
thực tế là đă chấp nhận toàn bộ vấn
đề về sự thiếu thoả đáng của
“sự chọn lọc tự nhiên” trên cương vị là
nhân tố duy nhất trong sự phát triển của con
người vật chất. Ông cho rằng sự tiến
hoá của con người được chỉ
đạo và hộ tŕ bởi các Đấng Thông Tuệ
Cao Cả vốn là một nhân tố thiết yếu trong
cơ tiến hoá Vũ Trụ. Nhưng một khi mà có
nơi đă thừa nhận tác động của
Đấng Thông Tuệ này th́ việc phát triển nó thêm
nữa cũng hợp lư thôi. Ta không thể vạch ra
đường lối bất di bất dịch.
2. CHÚNG BIẾN NÓ THÀNH
SỨ GIẢ ĐỂ PHÁT HUY Ư CHÍ CỦA M̀NH (a). DZYU
TRỞ THÀNH FOHAT : NGƯỜI CON NHANH LẸ CỦA CÁC
NGƯỜI CON THIÊNG LIÊNG (DIVINE SON), CON CỦA CÁC NGÀI LÀ CÁC
VỊ NAM TÀO BẮC ĐẨU (LIPIKA) ([357]),
CHẠY THEO V̉NG TR̉N. FOHAT LÀ CON TUẤN MĂ, VÀ TƯ
TƯỞNG LÀ NGƯỜI CỠI NGỰA ([358]).
NGÀI ĐI MAU NHƯ CHỚP XUYÊN QUA NHỮNG ĐÁM MÂY
LỬA (b) ([359]);
VƯỢT QUA BA, NĂM VÀ BẢY BƯỚC DÀI CỦA
BẢY CẢNH GIỚI CAO VÀ BẢY CẢNH GIỚI
THẤP ([360]).
NGÀI CẤT CAO TIẾNG GỌI VÔ SỐ ĐỐM LỬA
RỒI HỢP NHẤT CHÚNG LẠI (c).
(a) Câu này có nghĩa là “Bảy Đấng
Sơ Nguyên” (“Primordial Seven”) sử dụng Fohat làm cái
thể của họ (Thể hay chủ thể biểu
lộ, trở nên biểu tượng của Quyền
Năng điều khiển nó). Bởi đó, Fohat
được gọi là “Sứ Giả của Ư Chí”
của các Ngài, tức là “Con Trốt Lửa” (“Fiery
Whirlvind”).
(b) “Dzyu trở thành Fohat”. Dzyu là Chân Tri
Thức (Knowledge) hay Minh Triết Huyền Môn (Occult Wisdom) nói
về những chân lư trường cửu và những nguyên
nhân sơ khởi cùng tột trở nên hầu như toàn
lực khi nó được áp dụng theo đúng
đường lối. Đối lập với nó là
Dzyu-mi, là cái chỉ nói về Ảo Ảnh hư giả
bề ngoài, cũng như khoa học hiện đại.
Trong trường hợp này, Dzyu là sự biểu lộ
Minh Triết của các Đấng Thiền Định
Phật (Dhyani-Buddhas).
169
V́ giả sử độc giả chưa quen
biết với đề tài Thiền Định Phật,
nên chúng tôi xin nói ngay rằng, theo
các nhà Đông phương học, có năm vị
Thiền Định Phật, mà những vị Phật
ở thế gian là những biểu lộ của các Ngài
trong thế giới vật chất hữu h́nh. Tuy nhiên, theo
ư nghĩa nội môn, th́ có bảy vị Thiền
Định Phật, trong đó chỉ có năm vị giáng
trần từ trước đến nay ([361])
c̣n hai vị sẽ xuất hiện trong những Giống
dân thứ Sáu và Thứ Bảy. Các Ngài là những
Đấng kiểu mẫu trường cửu của
những vị Phật xuất hiện trên Địa
Cầu, mỗi vị có một cốt cách, phong thái
thần diệu đặc biệt. Thí dụ như Amitabha
là Thiền Định Phật của Gautama Thích Ca Mâu Ni
(Amitabha is the Dhyani-Buddha of Gautama Shakyanumi), biểu lộ
xuyên qua Đức Thích Ca mỗi khi Ngài hoá thân ở cơi
hạ giới như Ngài đă xuất hiện ở Tây
Tạng với danh hiệu là Tsong-khapa ([362]).
Cũng như Avalokiteshvara là vị Phật đầu tiên
(the Logos), Amitabha là “Đấng Chủ Tể Tâm Linh” (“God”)
của Gautama và được Phật giáo Trung Hoa mệnh
danh là Phật A Di Đà (Amida). Như Rhys Davids đă nói
rất đúng: “Các Ngài là đối tượng huy hoàng
trên cơi giới tâm linh, không bị ô nhiễm bởi cuộc
sống ô trọc của cơi trần”. Mỗi vị
Phật thế gian có sứ mạng cai quản sự
sống tâm linh trên Địa Cầu trong cuộc Tuần
Hoàn hiện tại. Các Ngài là những vị “Phật Vô Vi
Tự Tại” (“Buddhas of Contemplation) và Bất Sinh Bất
Diệt (Anupadaka), tức là tự sinh, tự hữu do
nguồn gốc thiêng liêng. Giáo lư ngoại môn dạy
rằng mỗi vị Thiền Định Phật
đều có khả năng tạo ra từ chính ḿnh
một phân thân thiêng liêng tức một Thiền
Định Bồ Tát (Dhyani-Bodhisattva); sau khi Đức
Phật tại thế tịch diệt, Thiền
Định Bồ Tát phải tiến hành công tác của
Đức Phật. Giáo lư trên dựa vào sự kiện cho
rằng do Đấng được “Tinh Thần của
Đức Phật ứng linh” – Các Đông phương
học giả tin rằng Ngài đă tạo ra năm
Thiền Định Phật !- đă hoàn thành
được cuộc điểm đạo cao nhất;
nên một ứng viên gần như biến thành một
vị Bồ Tát mà Đấng Điểm Đạo Cao
Cả đă tạo ra.
(c ) Fohat, v́ là một trong những yếu
tố quan trọng nhất trong khoa Vũ trụ khởi
nguyên luận huyền môn, nên cần phải
được diễn tả rơ ràng. Cũng như trong
Vũ Trụ khởi nguyên luận xưa nhất của Hy
Lạp (nó khác hẳn thần thoại sau này), Eros là Ngôi
thứ ba trong ba ngôi bản sơ, Chaos, Gaera, Eros –
tương ứng với Ba Ngôi của Do Thái Bí giáo, Ain
Soph, TỔNG THỂ Vô Biên (the Boundless ALL)(v́ Chaos là Không Gian,
ngữ căn Xaivw, tức
là mở rộng, trống rỗng) Shekinah và Đấng Vô
Lượng Thọ (Acient of Days), tức Đấng Thánh
Linh – cũng vậy, Fohat trong Vũ Trụ Chưa Biểu
Lộ (Unmanifested Universa), tức trong trạng thái tiên thiên,
khác hẳn với Fohat trong cơi giới hiện
tượng, hay trạng thái hậu thiên. Trong hiện
tượng giới, Fohat là quyền năng thần
diệu, là sinh khí hay điện lực. Dưới
ảnh hưởng của Ư Chí của Huyền Âm Sáng
Tạo (Creative Logos) điện lực thần diệu
ấy kết hợp tất cả mọi h́nh thể
với nhau, rồi truyền vào đó cái sức thúc
đẩy, cái động lực đầu tiên, lâu dần
nó sẽ trở thành định luật. Nhưng trong
Vũ Trụ Tiên Thiên (Unmanifested Universe), Fohat chỉ là cái
nguyên lư trừu tượng của điện lực
cũng ví như Eros trong thần thoại Hy Lạp chỉ
là nguyên lư trừu tượng của t́nh yêu, chưa
biểu lộ thành t́nh yêu thực sự giữa nam và
nữ, được tượng trưng bằng Cupid có
mọc hai cánh. Trong trạng thái tiên thiên, Fohat chưa có liên
hệ ǵ với Vũ Trụ, v́ Vũ Trụ chưa xuất
hiện và các Đấng thần minh hăy c̣n ngủ yên
một cách tiềm ẩn trong ḷng của Phụ Mẫu
(hay âm dương chưa định). Nó hăy c̣n là một ư
niệm triết lư trừu tượng. Tự nó, nó
chưa sáng tạo ǵ được cả. Nó chỉ là cái
tiềm năng sáng tạo, và bởi hành động
của nó, mà cái Thực Thể (Noumenon) của mỗi
hiện tượng tương lai mới tự biểu
lộ và phát động mănh lực sáng tạo. Khi
“Đấng Con Thiêng Liêng” (“Divine Son”) xuất hiện, Fohat
trở nên cái động lực thúc đẩy quyền
năng chủ động, nó làm cho MỘT (ONE) trở thành
HAI (TWO) và BA (THREE) trên cơi giới hiện tượng của
vũ trụ biểu lộ. Rồi từ cái Ba, phân hoá ra
thiên h́nh vạn trạng (nhất sinh nhị, nhị sinh tam
và tam sinh vạn vật), khi đó Fohat biến thành cái mănh
lực có kết hợp những nguyên tử sơ khai và
làm cho chúng phối hợp thành những nguyên tố vật
chất. Chúng ta thấy một phản ảnh của giáo
lư cổ sơ này trong thần thoại Cổ Hy Lạp.
Erebus và Nux sinh ra từ Chaos và – do tác động của
Eros- đến lượt chúng lại sinh ra Aether và Hemera,
ánh sáng của thượng giới và ánh sáng của hạ
giới tức trần thế. Bóng tối sinh ra ánh sáng.
Chúng ta hăy thử so sánh ư muốn sáng tạo của Brahma
trong kinh Puranas và giáo lư
dạy rằng Dục vọng (Pothos) là nguyên khí sáng tạo
trong vũ trụ khởi nguyên luận Phoenicia của
Sanchuniathon.
170
Fohat có liên hệ chặt chẽ với
“SỰ SỐNG DUY NHẤT” (“ONE LIFE”). Từ Vô cực sinh
ra Thái cực, tức Thượng Đế toàn năng, vô
biên, biểu lộ từng chu kỳ. Đó là Đại
Ngă hay Toàn Linh Trí, Đại Hồn của vũ trụ
xuất hiện và chia ly khỏi cái nguồn gốc ẩn
vi tối cao được Huyền học Kabalah gọi
là Thượng Đế hay Huyền Âm Sáng Tạo và
Ấn giáo gọi là Brahma tứ diện. Trong cái cơ
cấu toàn diện, xét theo quan điểm huyền môn
về cái Tư Tưởng Thiêng Liêng biểu lộ, th́
Thái Cực tiêu biểu cho toàn thể cấp đẳng
thượng tầng các Đấng Thiền Định
Đế Quân Sáng Tạo. Cùng một lúc với sự
tiến hoá của Đại Ngă (Universal Mind) th́ cái Minh
Triết Ẩn Vi của Phật A Di Đà (Concealed Wisdom of
Adi-Buddha), tức Đấng Tối Cao Duy Nhất và
Trường Cửu tự biểu lộ dưới danh
hiệu Avalokiteshvara (hay Ishvara biểu lộ) tức Osiris
của người Ai Cập, tức Ahura Mazda của
Hoả giáo; Thiên Nhân (Heavenly Man) của môn phái Hermes,
Huyền Âm (Logos) của môn phái Platon và Atman của phái
Vedanta ([363]).
Do hành động của Minh Triết Biểu Lộ, hay
Mahat, được tiêu biểu nơi vô số trung tâm
năng lượng tâm linh trong Vũ Trụ, sự
phản ánh của Đại Ngă, vốn là Thiên Ư Hồng
Nguyên (Cosmic Ideation) và cái Trí Lực (Intellectual Force) đi song
song với nó, trở thành Fohat ngoại tại của
Phật giáo nội môn. Fohat đi cùng với bảy
loại nguyên khí của chất Tinh Quang (Akasha) tác
động trên Vật Chất biểu lộ hay Nguyên
Tố Duy Nhất như đă nói ở trên. Bằng cách phân
tán vật chất ấy thành những trung tâm năng
lượng, Fohat làm vận chuyển định luật
Tiến Hoá Vũ Trụ và định luật này tuân theo Ư
Niệm thiêng liêng của Đại Ngă, tạo nên mọi
trạng thái sinh hoạt thuộc mọi giai tầng trong
Thái Dương Hệ.
Thái Dương Hệ tạo dựng nên
bởi những yếu tố trên, gồm có Bảy Nguyên
Khí (Seven Principles) cũng như bất cứ vật ǵ
nằm bên trong những trung tâm đó. Đó là giáo lư của
khoa Huyền môn Tây Tạng (bên kia dăy Hy Mă Lạp Sơn). Tuy
nhiên, mỗi triết hệ đều có một
phương pháp riêng để phân loại những nguyên khí
này.
171
Như thế, Fohat là cái quyền năng
điện lực có tính cách kết hợp tất cả
mọi năng lượng vũ trụ trên cơi vô h́nh
cũng như hữu h́nh. Tác động của nó giống
như tác động trên một qui mô vĩ đại
của một Mănh lực sống động tạo nên
bởi Ư CHÍ, trong những hiện tượng mà chủ thể
tác động trên khách thể và thúc đẩy cho nó
hoạt động. Fohat không những là cái Biểu
tượng và cái B́nh chứa sống động của
Mănh lực đó, mà c̣n được các nhà Huyền bí
học xem như một thực thể, v́ những sức
mạnh chịu sự tác động của nó thuộc
mọi giai tầng vũ trụ, địa cầu và con
người và tạo ảnh hưởng thích nghi trên
tất cả những giai tầng đó. Trên b́nh diện
nhân gian, ảnh hưởng của nó được
nhận thấy trong sức mạnh từ điện
tạo ra bởi ư muốn mạnh mẽ của
người truyền điện. Trên b́nh diện Vũ
Trụ, nó hiện diện trong quyền năng xây dựng,
sáng tạo vạn vật, từ một hành tinh hệ
đến một con đóm đóm nhỏ hay một cái hoa
dại. Đó là cái quyền năng sáng tạo thi hành
kế hoạch của Thiên Cơ. Kế hoạch này
vốn được quan niệm sẵn trong ư niệm hay
Tư Tưởng Thiêng Liêng, về sự sinh trưởng
của mỗi vật liên hệ. Trên khía cạnh siêu h́nh, nó
là tư tưởng biểu lộ ngoại tại của
các Đấng thần minh, sự thể hiện của
Diệu Âm, trên một giai tầng thấp hơn, và sứ
giả thừa hành những ư niệm sáng tạo về
vũ trụ và con người, tức cái sức mạnh
chủ động của sự sinh hoạt trong Vũ
Trụ. Trên khía cạnh phụ thuộc của nó, Fohat là
tinh lực Mặt Trời, sinh lực điện khí ([364]),
Nguyên khí bảo tồn thứ Tư, có thể nói là cái linh
hồn của Thiên Nhiên hay Điện Lực.
Ở Ấn Độ, Fohat có liên quan
đến Vishnu (Thượng Đế Sáng Tạo Ngôi Hai)
và Surya (ngôi Mặt trời) trong đặc tính ban sơ
của Thượng Đế đă nói trước; v́ trong
kinh Phệ Đà (Rig Veda)
Đức Vishnu không được xem như là một
vị Thượng Đế. Danh từ Vishnu có từ
nguyên là Vish, có nghĩa là
“thấu nhập” và Fohat (Vô Cực điện)
được gọi là “Kẻ Thấu Nhập” (“Pervader”)
và là Người Tạo Tác (Manufacturer), bởi v́ nó làm ra
h́nh dáng cho những nguyên tử bằng nguyên liệu thô
sơ ([365]).
Trong những đoạn Thánh Thư của kinh Phệ Đà, Vishnu “cũng là
một sự biểu lộ của năng lượng
mặt trời” và nó được diễn tả như
là bước ba bước xuyên qua bảy cơi trong vũ
trụ; trong những thời gian sau này, Thượng
Đế của kinh Phệ
Đà cũng không giống Vishnu mấy. V́ vậy cả
hai tiếng này đều có một nét đặc biệt
giống nhau, và cái này là bản sao của cái kia.
172
Ba và Bảy “Bước dài” (“Strides”) là nói
về bảy bầu thế giới của Huyền môn và
bảy cơi Địa Cầu. Mặc dù có nhiều
người tự nhận làm những nhà Đông
phương học đă phản đối quan niệm
này, nhưng Bảy bầu Thế giới hay là Bảy
bầu Hành Tinh của Dăy Hành Tinh chúng ta cũng đă có
được các kinh sách công truyền của Ấn
Độ giáo nói đến một cách rơ ràng. Nhưng
lạ làm sao tất cả những con số trong khoa vũ
trụ khởi nguyên luận khác và với những biểu
tượng của khoa này, chúng ta có thể thấy như
vậy theo những sự so sánh do các sinh viên của các tôn
giáo thời cổ thực hiện. “Ba bước dài
của Đức Vishnu” (Đức Thượng
Đế Sáng Tạo Ngôi Hai) xuyên qua “bảy vùng của Vũ
Trụ” ở trong kinh Phệ Đà (Rig Veda) đă
được các nhà b́nh luận giải thích theo nhiều
cách khác nhau. Chẳng hạn như có nghĩa là lửa, tia
chớp và mặt trời (nói về mặt vũ trụ)
được thực hiện trên trái đất, bầu
khí quyển và bầu trời, cũng như là “ba
bước” của Người lùn (hoá thân của
Đức Vishnu); dù theo ư nghĩa triết lư hơn – và nói
về thiên văn học, th́ ư nghĩa này cũng rất
đúng – câu này cũng được nhà b́nh luận
Phạn ngữ Aurnavabha giải thích như là vị trí thay
đổi của mặt trời, lúc mặt trời
mọc, lúc đứng bóng và lúc mặt trời lặn.
Chỉ có triết lư bí truyền mới giải thích câu này
một cách rơ ràng, mặc dù kinh
Zohar phát biểu câu này một cách thực là có triết
lư và hàm súc. Trong đó, câu này được bày tỏ
một cách rơ ràng, lúc khởi thuỷ, những vị Elohim
(Alhim) (những vị thần sáng tạo) được
gọi là Echad, là “Đấng Duy Nhất” hay “Đức
Thượng Đế, Đơn Nguyên trong Đa Nguyên”, là
một ư niệm rất đơn giản trong quan niệm
của Phiếm thần học – dĩ nhiên là quan niệm
Phiếm thần học theo ư nghĩa triết lư. Rồi có
một sự thay đổi xảy ra, “Đức
Thượng đế có nam nữ tính (Đức Jehovah)
cũng chính là những vị thần sáng tạo (Elohim)”,
như vậy là thống nhất đa nguyên và tiến
một bước đầu tiên về phía thuyết
Độc Thần. Bây giờ, đến câu hỏi này,
“C̣n Đức Jehovah và Elohim th́ thế nào?” Câu giải
đáp là “do Ba Bước” từ bên dưới. Ư nghĩa
điều này thật rơ ràng. Những bước này là
những biểu tượng của Tinh Thần, của
Linh Hồn và của Thể xác (của CON NGƯỜI),
được tượng trưng như là có liên quan và
hỗ tương với nhau; những bước này
cũng tượng trưng cho cái Ṿng tṛn biến thành ra
Tinh Thần, Linh Hồn của Thế Gian và Thể xác
của thế gian (hay là Địa Cầu). Khi bước
ra ngoài Ṿng Tṛn Vô Cùng (Circle of Infinity) mà không một
người nào hiểu được. Ain Soph (Cái Vô Biên) –
trong môn phái Do Thái Bí giáo là một tiếng đồng
nghĩa với Parabraman (Thái Cực Thượng
Đế) với tiếng Zeroana Akerna (Thời gian vô
hạn của người Bái Hoả giáo, hay là với
bất cứ một từ ngữ nào khác có nghĩa là
“BẤT KHẢ TRI” (“UNKNOWABLE”) sẽ trở thành
“Đấng Duy Nhất” (tức ECHAD, EKA, AHU); rồi
nhờ sự tiến hoá, vị này, (hay là cái này) biến
thành “Đơn Nguyên trong Đa Nguyên”, những vị
Thiền Định Phật, hay là những vị Thần
Sáng Tạo (Elohim), hay thêm nữa là những Đấng
Tạo Hoá (Amshaspends) và bước thứ Ba là Ngài tạo
ra da thịt hay “Con Người”. Và từ Con Người
hay là Đức Jah-Hovah, “có nam nữ tính”, thực thể
thiêng liêng bên trong, một
lần nữa lại trở thành những vị Sáng
Tạo (Elohim) ở trên cơi siêu h́nh.
Những con số 3, 5, và 7 là những con
số đáng chú ư trong khoa Tam Điểm suy lư (speculative
Masonry) như chúng tôi đă chỉ rơ trong bộ Nữ Thần Isis Lộ
Diện. Một hội viên Tam Điểm đă
viết:
Có 3, 5 và 7 bước để chỉ rơ
một cuộc đi dạo ṿng quanh. Ba mặt của
số 3, 3; 5, 3; và 7, 3 v.v.. đôi khi có dạng của công
thức này: = 376,5 và = 3817,5 và tỷ số của
bộ (feet : 0, 3048 m) đối với đơn
vị đo chiều dài cubit (cubit: trượng, bằng 0,4572
m) cho ta những số đo của Đại Kim
Tự Tháp v.v…
173
Số ba, số năm và số bảy là
những con số bí mật, con số cuối và con số
đầu được các Hội Viên Tam Điểm
cũng như tín đồ Hoả giáo (Parsis) vô cùng kính
trọng - khắp nơi, h́nh tam giác này được dùng
làm biểu tượng cho Thượng Đế ([366]).
Dĩ nhiên là các vị Tiến sĩ thần học,
chẳng hạn như ông Cassel, đă chỉ rơ là kinh Zohar vừa giải thích
vừa ủng hộ thuyết Tam Nguyên Đồng Nhất
(Trinity) của Thiên Chúa giáo (!) Tuy nhiên, Tam Nguyên sau này lại
phát sinh từ h́nh tam giác Δ, theo Huyền bí học cổ
truyền và Khoa biểu tượng học của
Người ngoại đạo (Heathen). Nói về siêu h́nh
học, ba bước dài này có liên quan đến sự
nhập thể của Tinh Thần vào Vật Chất,
sự nhập thể của Thiên Đạo (Logos) giống
như là Tia Sáng rơi vào Tinh Thần rồi rơi
xuống Linh Hồn và sau cùng rơi vào h́nh thể hữu
h́nh của con người, trong h́nh thể này nó trở
thành Sự Sống.
Quan niệm của môn phái Do Thái Bí giáo
cũng giống như Thuyết bí truyền của
thời cổ đại. Thuyết bí truyền này chung cho
tất cả các giống dân, nó không chỉ thuộc
Giống chính thứ Năm người Âu Ấn (Aryan), hay
là thuộc bất cứ những giống dân phụ nào.
Thuyết này không thuộc người Turanians, người
Ai cập, người Trung Quốc, người Chaldea (Can
Đê) hay bất cứ giống dân phụ nào của
Giống dân chính thứ Năm, mà thực sự nó thuộc
Giống dân chính thứ Ba và thứ Tư. Chúng ta thấy
con cháu của các giống dân này ở trong Mầm Mống
của Giống dân chính thứ Năm tức là những
người Cổ Âu Ấn. Đối với mọi
nước, h́nh tṛn cũng là biểu tượng của
cái Huyền vi tức là “Không Gian Vô Biên” (“Boundless Space”),
lớp áo trừu tượng luôn luôn hiện diện – có
một Đấng Thiêng Liêng Bất Khả Tri Luận
(Incognizable Deity). H́nh tṛn tượng trưng cho cơi Thời
gian vô hạn trong cơi Trường cửu. Tiếng Zeroana
Akerne cũng có nghĩa là “Ṿng Tṛn Vô Biên của Thời Gian
Bất Khả Tri” (“Boundless Circle of Unknown Time”), từ Ṿng
tṛn này, Ánh Sáng rực rỡ sinh ra – đó là NGÔI MẶT
TRỜI của Vũ Trụ hay là Ormazd ([367]) – và vị này
cũng giống như vị thần cao cả của
Thời gian vô cùng (Kronos), dưới dạng một cái Ṿng
tṛn, trong h́nh dáng của vị Thần gió (Aeolian). Ṿng tṛn
này tiếng Chaldea gọi là Sar và tiếng Hy Lạp là Saros
hay là
174
Trở lại phần B́nh luận thứ
tư của ĐOẠN THÁNH KINH 4, bây giờ độc
giả sẽ hiểu tại sao, trong khi bên kia dăy Hy Mă
Lạp Sơn, Luân xa bao hàm h́nh r|£|¶-
tức là h́nh tam giác, đường thẳng thứ
nhất, vuông ([368]),
đường thẳng thứ nh́ và h́nh năm góc với
một điểm ở chính giữa, như vậy,
hoặc là h́nh ¶ hay là có một vài
sự thay đổi khác nữa – Ṿng tṛn của phái Do Thái
Bí giáo, của những vị thần Elohim, khi những
chữ của tiếng này..([369])
(Alhim hay là Elohim) được đọc bằng số,
cũng tiết lộ những con số trứ danh 13514,
hay (bằng cách hoán vị) là số 31415 - chữ π (pi)
của môn thiên văn học, hay là ư nghĩa bí ẩn
của các vị Thiền Định Phật, của các
vị Gebers, các vị Geburin, những vị Kabeiri và
những vị Elohim, tất cả đều có nghĩa là
“Những Người Vĩ Đại” (“Great Men”),
“Những Người Khổng Lồ” (“Titans”), “Những
Người ở trên Trời” (Heavenly Men) và ở trên
trần thế, họ là những người “Khổng
Lồ” (“Giants”).
Đối với mọi nước,
số Bảy là một số Thiêng Liêng nhưng không
nước nào b́ kịp những người Hy bá Lai quá duy
vật khi áp dụng nó vào cách sử dụng về sinh lư
học. Đối với họ con số 7 này là con số
sáng tạo tuyệt diệu, và con số 9 là nguyên nhân duy
nhất có nam tính, h́nh thành những cây (aiz hay otz)
được những môn dồ Do Thái Bí giáo chỉ rơ bằng
những con số này…([370])
(90, 70) hay là “Cây của vườn Địa Đàng” (“the
Tree of the Garden of Eden”), c̣n đối với Giống dân
chánh thứ Tư, đó là “Cây gậy đôi lưỡng
tính” (“the double hermaphrodite rod”). Đó là biểu tượng
của “Mật Điện Thánh Điện” (Holy of Holies”),
tượng trưng cho con số 3 và 4 của sự tách ra
nam nữ tính. Hầu như mỗi một trong 22 chữ
của người Hy Bá Lai đều chỉ là những
biểu tượng tôn sùng sinh thực khí (phallic symbols) mà
thôi. Như người ta đă chỉ rơ ở trên, một
trong hai chữ này, chữ ayin
(cái không có ǵ cả), là một chữ có nữ tính tiêu
cực, được tượng trưng bằng
một con mắt; c̣n chữ kia, là chữ tza th́ có dương tính, được
tượng trưng bằng một lưỡi câu hay là
một cây lao. Trong khi đó, theo những người
Ấn Độ, và nói chung là những người Ấn
Âu, nó có nhiều ư nghĩa và gần như là hoàn toàn có liên
quan đến những chân lư thuộc về thiên văn
học và siêu h́nh học thuần tuư. Những vị Thánh
Triết (Rishis) và những vị Thần Minh, Ma Quỷ và
những bậc Anh hùng của họ đều có ư
nghĩa lịch sử và đạo đức.
Tuy nhiên, một môn đồ Do Thái Bí giáo
đă dạy chúng ta, trong một tác phẩm chưa
được phát hành, ông đă đối chiếu kinh bí
pháp Kabalah, kinh Zohar với Thuyết bí
truyền của người Ấn Âu là:
Những cách
diễn đạt của người Hy Bá Lai th́ rơ ràng,
ngắn gọn, không rườm rà và trung thực,
vượt xa lối nói luộm thuộm của
người Ấn Độ - như một bậc Thánh
thi đă nói, theo lối đối ngẫu “Miệng tôi nói
với lưỡi tôi, tôi không biết rơ về những con
số của bạn” (lxxi, 15). Chữ tượng h́nh
của người Ấn Độ tỏ ra thiếu sót,
v́ đă pha trộn nhiều tiếng nước ngoài
như là thứ ngôn ngữ vay mượn của
người Hy Lạp (những xảo ngôn của
người Hy Lạp) và Hội Tam Điểm; thứ
tiếng độc âm thô thiển và nghèo nàn (một cách
biểu kiến) của người Hy Bá Lai chứng
tỏ rằng nó được truyền lại từ
một thời xa xưa hơn bất cứ ngôn ngữ nào
khác và là nguồn gốc [!?], hay là (so với bất cứ
ngôn ngữ nào) gần gũi với nguồn gốc nguyên
thuỷ cũ hơn.
Điều này hoàn toàn sai lầm. Vị
đạo hữu và thông tín viên thông thái của chúng ta
đă phê phán một cách biểu kiến những hệ
thống tín ngưỡng của người Ấn
Độ, theo bản dịch mới nhất về
những quyển Kinh luận
(Shastras) và những kinh
Puranas, chúng có thể bị các nhà Đông phương
học xuyên tạc ư nghĩa. Chúng ta phải quay sang
những hệ thống triết lư của người
Ấn Độ, nhất là Giáo lư nội môn của họ
nếu chúng ta muốn so sánh. Chắc hẳn những
biểu tượng trong
Ngũ kinh cựu ước (Pentateuch) cũng như
trong kinh Tân ước (New
Testament) đều xuất phát từ nguồn gốc
tương tự như vậy. Nhưng chắc chắn
Đại Kim Tự Tháp Cheops mà những số đo đă
hoàn toàn được Giáo sư Piazzi Smyth t́m thấy,
được lặp lại trong Thánh Điện Solomon
thần thoại và giả định, cũng không xuất
hiện sau những quyển kinh của Thánh Moise chứ?
Từ đó, nếu người ta tuyên bố là có một
điểm nào đó thực sự giống nhau, th́ ắt
phải do việc sao chép tồi tệ về phần
người Do Thái, chứ không phải người Ai
Cập. Những chữ tượng h́nh
175
của người Do Thái – cũng như
thứ ngôn ngữ của họ, tiếng Hy Bá Lai – không có
ǵ mới lạ. Những chữ tượng h́nh này
được mượn từ tiếng Ai Cập, (Thánh
Moise cũng tiếp thu từ Ai Cập Minh Triết của
Ngài) từ tiếng địa phương của
người Cổ giáo Ai Cập (Coptic), (họ có lẽ là
bà con của người Phoenician) và từ thứ tiếng
của người Hyksos mà Thánh Josephus ([371])
đă chứng minh đó là tổ tiên (viện cớ - alleged)
của những người này. Đúng vậy, những
vị vua Du mục (Hyksos) là ai? Và người Ai Cập là
ai? Lịch sử hoàn toàn không biết ǵ về câu hỏi
này, các nhà sử học ([372])
cũng chỉ suy đoán và lư thuyết hoá theo những
chỗ tận cùng của những tâm thức riêng mỗi
người. Môn “Cổ ngữ học Ai Cập, hay là
tiếng Cổ Thổ ngữ Ai Cập (Coptic) th́ xuất
phát từ miền Tây Châu Á và chứa đựng một vài
tiếng gốc của người Semit, như vậy,
chứng tỏ cùng một nguồn gốc nguyên thuỷ
của hai giống dân Ấn Âu và Cổ Do Thái (Semit)” như
sử gia Bunsen đă nói, ông đă xác định những
biến cố vĩ đại tại Ai Cập vào năm
9000 trước Thiên Chúa. Thuyết bí truyền cổ
đại và tư tưởng của người Âu
Ấn cho chúng ta thấy một nền triết học
xuất chúng, c̣n trong những kinh sách của người Hy
Bá Lai, chúng ta chỉ thấy một sự tinh xảo
kỳ diệu nhất trong việc phát minh ra sự tôn sùng
sinh thực khí và khoa thần phổ học tính dục.
Người ta có thể t́m thấy trong các
kinh sách công truyền của Ấn Độ là những
người Ấn Âu không bao giờ dựa tôn giáo của
họ trên những biểu tượng về sinh lư
học như những người Cổ Hy Bá Lai. Hầu
như trong mỗi quyển kinh Purana
và mỗi quyển Thánh Thi anh hùng ca, người ta
đều t́m thấy có sự giải thích khác nhau;
việc những bài tường thuật này chỉ là
những tấm b́nh phong, được chỉ cho thấy
nơi sự mâu thuẫn lẫn nhau của chúng. Tuy nhiên,
nếu người ta thuyết minh những bài này theo ư
nghĩa bí truyền th́ tất cả đều sẽ có
một ư nghĩa tương tự. Như vậy, một
bài tường thuật chỉ kể có bảy bầu
thế giới ngoại trừ những bầu thế
giới phía dưới vốn cũng có bảy bầu;
mười bốn bầu thế giới ở trên và ở
dưới này không có dính dáng ǵ với sự xếp
loại cả Dăy Hành Tinh và thuộc về những bầu
thế giới vô h́nh bằng chất dĩ thái thuần
tuư. Những bầu thế giới này sẽ
được đề cập đến ở một
nơi khác. Đối với hiện tại, chỉ
cần nêu rơ rằng, các bầu thế giới này
được cố ư đề cập tới như
thể là chúng thuộc về Dăy Hành Tinh của chúng ta.
“Một cách liệt kê khác cũng gọi bảy bầu
thế giới là địa cầu (earth), bầu trời
(sky), cơi thiên đàng (heaven), cơi trung giới (middle region), cơi
sinh ra (place of birth), cơi phúc lạc (mansion of the blest) và cơi chân
lư (above of truth); người ta đặt ‘Những Con
của Brahma’ ở trong cơi thứ sáu, người ta
cũng nói là cơi thứ năm hay Jana-loka, là nơi mà loài thú
tái sinh sau khi đă bị huỷ diệt bằng một
trận hoả tai toàn diện” ([373])
Một vài Giáo lư bí truyền thực sự nói về
Biểu tượng học sẽ được
đưa ra trong những chương tiếp theo.
Người nào được chuẩn bị sẽ
hiểu rơ bí ẩn này.
1. NGÀI LÀ VỊ LĂNH
ĐẠO VÀ HƯỚNG DẪN TINH THẦN CỦA CHÚNG.
LÚC BẮT ĐẦU LÀM VIỆC, NGÀI PHÂN CHIA CÁC ĐỐM
LỬA CỦA CẢNH GIỚI THẤP ([374]),
ĐANG PHIÊU BẠT VÀ RUNG ĐỘNG V̀ VUI VẺ TRONG TRÚ
SỞ SÁNG NGỜI ([375]),
VÀ TẠO THÀNH MẦM MỐNG CỦA CÁC BÁNH XE (GERMS OF
WHEELS). NGÀI ĐẶT CHÚNG VÀO SÁU HƯỚNG KHÔNG GIAN (SIX
DIRECTIONS OF SPACE) VÀ MỘT ĐỨNG GIỮA, GỌI LÀ BÁNH
XE TRUNG ƯƠNG (CENTRAL WHEEL).
176
Như đă giải thích, “Bánh xe” là những
trung tâm thần lực mà vật chất nguyên thuỷ
của Vũ Trụ toả ra ở chung quanh và sau khi đă
trải qua tất cả sáu giai đoạn củng cố,
đông đặc, nó trở nên khối cầu tṛn và sau
cùng trở thành những bầu thế giới. Một
trong các tín điều căn bản của Vũ trụ
học nội môn, là trong những Thiên Kiếp (Kalpa), th́
sự VẬN ĐỘNG (MOTION)
vẫn thoi thóp và rung động xuyên qua mỗi nguyên tử
trong những chu kỳ nghỉ ngơi, lần
đầu tăng trưởng cái khuynh hướng
chuyển động xoay ṿng kể từ lúc thức
tỉnh đầu tiên của vũ trụ cho đến
một “Ngày” mới (của Phạm Thiên). “Thần Linh
trở nên một con TRỐT XOÁY (WIRLWIND)”. Người ta có
thể hỏi, v́ tác giả không quên hỏi: “Ai dám quả
quyết rằng có sự khác nhau trong sự Chuyển
Động này, v́ toàn thể Thiên Nhiên đă bị thu
gọn về bản thể nguyên thuỷ và không một ai
thấy được điều này – ngay cả
đến một vị Thiền Định Đế
Quân, các Ngài đều đang nhập Niết Bàn, cũng
không thấy - Giải đáp của câu hỏi này là: Trong
Thiên Nhiên, mọi vật đều được xét
đoán theo luật tương đồng. Dù các Đấng
Thiêng Liêng Cao Cả nhất (những vị Thiên Thần hay
là những vị Thiền Định Phật [Dhyani-Buddha])
đều không thể thấu triệt những sự bí
mật rất xa ngoài Hành tinh hệ chúng ta và Càn Khôn hữu
h́nh này, song vào những thời đại cổ, có
những nhà đại tiên tri và những nhà linh thị danh
tiếng lại đủ sức nhận thức
được sự bí mật của Hơi Thở và
sự Chuyển Động bằng cách hồi niệm, khi
mà những hệ thống Thế giới c̣n ở trong
thời kỳ nghỉ ngơi và ch́m sâu trong giấc ngủ
có định kỳ.
Những Bánh Xe này cũng được
gọi là những Pháp Luân (Rotae)- tức là những bánh xe
đang chuyển động của những tinh cầu
trên trời, chúng dự phần vào việc tạo lập
thế gian – khi nó có ư nghĩa được xem như cái
nguyên lư làm chuyển động các ngôi sao và các hành tinh; v́
trong kinh bí pháp Kabalah những
bánh xe này được tượng trưng bằng
những vị Auphanim, những vị Thiên Thần của
các Bầu hành tinh và của các Ngôi sao, mà chúng là những Linh
Hồn làm linh hoạt ([376]).
Định luật vận động xoay
ṿng (vortical movement) trong vật chất nguyên thuỷ là
một trong những quan niệm cổ nhất của
triết học Hy Lạp, mà những vị Hiền
giả đầu tiên trong lịch sử xứ ấy,
hầu hết đều là những vị Điểm
đạo đồ trong các Bí pháp. Người Hy Lạp
học được điều ấy của
người Ai cập, người Ai Cập học
được của người Chaldea, và những
người này là môn đệ của người Bà La Môn
về đạo học bí truyền. Leucippus và Democritus
đă từng dạy rằng chuyển động xoay ṿng
của những nguyên tử và các bầu thế giới
vẫn có từ thuở vô cùng ([377]).
Các triết gia Hicetas, Heraclides, Ecphantus, Pythagoras và tất
cả các môn dệ của các Ngài, đều dạy
rằng trái đất xoay tṛn; và các triết gia Aryabhata
ở Ấn Độ, Aristarchus, Seleuchus và Archimedes
đều đă ước
177
tính sự xoay tṛn của trái đất
một cách khoa học giống như các nhà thiên văn
học bây giờ đang làm; trong khi đó, triết gia
Anaxagoras cũng đă biết rơ thuyết nói về
những Xoáy Nguyên Tố (Elemental Vortices) và chính ông đă
chủ trương thuyết này từ 5.000 năm
trước Thiên Chúa hay là gần 2.000 năm trước
khi các nhà vật lư học Galileo, Descartes, Swedenborg khám phá ra
và cuối cùng là ông W. Thomson ([378])
có những hiệu chỉnh không quan trọng. Tất
cả những sự hiểu biết như thế
chỉ là một tiếng vang của các giáo lư cổ
truyền (nếu công tâm mà nói), một sự giải thích
điều này đang được thực hiện.
Một câu hỏi mà người ta cần phải bàn riêng
là, trong vài thế kỷ qua, làm thế nào mà con người
biết được những quan niệm tương
tự và những điều kết luận
được dạy như là những sự thực
hiển nhiên trong sự bí mật của những Mật
Điện (Adyta) cách đây khoảng 12.000 năm. Một
vài người này biết được những sự
bí mật này nhờ những tiến bộ tự nhiên
của môn vật lư học và do sự khảo sát
đơn phương. Một vài người khác như
ông Copernicus, Swedenborg và một vài người nữa,
mặc dù có kiến thức rộng răi, cũng có
được kiến thức do trực giác nhiều
hơn do việc hoạch đắc những ư niệm
được phát triển bằng một cuộc nghiên
cứu theo cách thông thường ([379]).
Bằng chứng là Swedenborg, ông cũng không
thể biết bất cứ điều ǵ về những
quan niệm bí truyền của Phật giáo, đă có
những nhận định đại cương gần
gũi với giáo lư huyền môn (một cách độc
lập) tác phẩm tiểu luận của ông về
thuyết Xoáy Tṛn (Vortical Theory) đă chứng tỏ
điều này. Trong bản dịch tác phẩm này, của ông
Clissold, do Giáo sư Winchell trích dẫn ([380]),
chúng ta thấy ông tóm tắt như sau:
Nguyên nhân
đầu tiên là cái vô cùng hay vô hạn. Nguyên nhân này phát sinh
ra cái đầu tiên hữu hạn [Sự Sáng Tạo
của Thiên Đạo (Logos) và của Vũ Trụ]. Cái
tạo ra một sự giới hạn th́ giống với
sự chuyển động. [Xem ĐOẠN THÁNH KINH 1
ở trên]. Giới hạn được tạo ra là
một điểm, bản chất của điểm này
là sự chuyển động; nhưng v́ bản chất
này không có những thành phần khác nhau, nên nó không phải là
chuyển động thực tế, mà chỉ là một nỗ
lực chuyển động (conatus). [Trong giáo lư chúng ta, nó
không phải là một “nỗ lực” (“conatus”) mà là một
sự biến đổi từ sự Rung Động
Trường Cửu (Eternal Vibration) trong vũ trụ
tiến triển cho đến sự Chuyển Động
Xoáy Tṛn (Votical Motion) trong Thế giới hiện
tượng hay là hậu thiên]. Từ cái đầu tiên này,
không gian, h́nh ảnh và sự nối tiếp hay thời
gian, sự bành trướng được sản sinh ra.
Như trong h́nh học, một điểm sinh ra
đường thẳng, một đường thẳng
sinh ra một mặt phẳng và một mặt phẳng sinh
ra một khối, cũng vậy, ở đây, nỗ
lực của điểm này là hướng về
những đường thẳng, những mặt
phẳng và những thể khối. Nói cách khác, Vũ
Trụ được chứa đựng trong mầm
mống trong điểm đầu tiên của thiên nhiên.
Sự Chuyển
Động mà nỗ lực hướng về là chuyển
động xoay tṛn, v́ h́nh tṛn là h́nh hoàn hảo nhất trong
tất cả các h́nh… “H́nh hoàn hảo nhất của sự
chuyển động nêu trên phải là sự xoay tṛn liên
tục, nghĩa là nó phải tiếp diễn từ trung tâm
ra đến ngoại biên và từ ngoại biên đi vào
trung tâm” ([381]).
Đây chính là Huyền bí học thuần tuư
và đơn giản.
“Sáu Phương Hướng của Không
Gian” (“Six Direction of Space”) có nghĩa là “H́nh Tam Giác Đôi”
(“Double Triangle”) tượng trưng cho sự giao tiếp và
hỗn hợp giữa Tinh Thần và Vật Chất,
Hữu sắc và Vô sắc, mà những h́nh Tam Giác đó chính
là một Biểu Tượng. H́nh Tam Giác đôi này là kư
hiệu của Đức Vishnu; đó là ấn tín của
vua Solomon và cũng là ấn tín h́nh tam giác đôi của
người Bà La Môn (Shri-Antara hay là Shriyantra).
178
4. FOHAT VẠCH NHỮNG
ĐƯỜNG XOẮN ỐC ĐỂ KẾT HỢP CÁI
THỨ SÁU VÀO CÁI THỨ BẢY – VƯƠNG MIỆN (THE
CROWN)(a). MỘT ĐẠO BINH CỦA CÁC CON CỦA ÁNH SÁNG
ĐỨNG Ở MỖI GÓC; CÁC ĐẤNG LIPIKA (NAM TÀO
BẮC ĐẨU) ĐỨNG Ở BÁNH XE TRUNG ƯƠNG
(MIDDLE WHEEL)(b). CÁC NGÀI (ĐẤNG LIPIKA) NÓI: “VIỆC NÀY
TỐT”. THẾ GIỚI THIÊNG LIÊNG ĐẦU TIÊN SẴN
SÀNG; CÁI THỨ NHẤT, CÁI THỨ NH̀ ([382]).
RỒI CƠI “VÔ SẮC TƯỚNG THIÊNG LIÊNG” (“DIVINE ARUPA”)([383])
TỰ PHẢN CHIẾU TRONG CHHAYA LOKA ([384]),
LỚP ÁO ĐẦU TIÊN (FIRST GARMENT) CỦA ĐẤNG VÔ
PHỤ MẪU (ANUPADAKA) (c).
(a) Câu “vạch những đường
xoắn ốc” ngụ ư về sự tiến hoá của
những Nguyên Khí trong Con Người và trong Thiên Nhiên;
một sự tiến hoá diễn ra một cách tuần
tự như bất cứ vật ǵ khác trong vũ trụ.
Nguyên Khí Thứ Sáu trong con người, tức Thể
Bồ Đề hay Trực Giác (Buddhi, the Divine Soul), tuy
rằng vô cùng tế nhuyễn, nhưng vẫn c̣n là một
thể kém khinh thanh hơn so với thể Ư Chí hay Tinh
Thần (Atma), mà nó là cái vỏ bọc ngoài. Fohat, trong
năng lực của nó là T̀NH BÁC ÁI THIÊNG LIÊNG – DIVINE LOVE
(Eros) - tức là cái quyền năng từ điển thu
hút của t́nh thương và ḷng ưu ái, có tác động
kết hợp Tinh Thần thuần tuư (Tia Sáng Chân Như
Tuyệt Đối) với Linh Hồn. Trong Con
Người, cả hai điều này hợp thành CHƠN
THẦN (MONAD) và trong thiên nhiên, nó là mối liên kết
đầu tiên giữa tiên thiên và hậu thiên. Câu “cái
thứ Nhất bay giờ là cái thứ Nh́”[bầu Thế
Giới] cũng có ư nghĩa tương tự.
(b) “Đạo binh” ở mỗi góc là
cấp đẳng Thiền Định Đế Quân, có
nhiệm vụ trông nom d́u dắt sự tiến hoá ở
mỗi khu vực liên hệ, từ lúc bắt đầu
đến lúc chấm dứt một
(c ) “Cái Thứ Nhất là cái Thứ Nh́”. Cái
“Thứ Nhất” thật ra không thể đếm hay coi
như Thứ Nhất v́ nó là địa hạt của
thực thể ở giai đoạn biểu lộ sơ
khai: ngưỡng cửa đưa vào Cơi Chân (World of Truth),
hay Sat, xuyên qua đó năng lực trực tiếp thoát ra
từ CHÂN NHƯ (ONE REALITY) - Thượng Đế Vô Vi
(Nameless Deity) - đến với chúng ta. Một lần
nữa, ở đây, ngôn từ Sat (Bản Thể: Beness)
không thể dịch được, cũng dẫn
người ta tới một sự nhận thức
lầm lạc, v́ cái hậu thiên không thể là Sat mà chỉ
là một vật ǵ đó thuộc về hiện
tượng, không tồn tại măi, cũng như không
trường cửu. Nó vốn là một với Sự
Sống Duy Nhất, “Độc Nhất Vô Nhị”, nhưng
trong trạng thái biểu lộ, nó vẫn là một Ảo
Ảnh (Maya) như tất cả mọi vật khác. Cái “Cơi
Chân” này (“World of Truth”) chỉ có thể diễn tả trong
thiên b́nh luận như là “Một
ngôi sao sáng rớt xuống từ Trung Tâm của Vô Cực
(Heart of Eternity); ngọn hải đăng (beacon) hy vọng
với Bảy Cơi treo trên Bảy Tia Sáng của nó”. Thật
vậy, v́ những Tia Sáng đó là bảy Ánh Sáng mà những
phản ảnh là những Chơn Thần bất tử
của con người, tức Atma hay Tinh Thần của
mọi người trong nhân loại, trước hết là
ánh sáng có bảy cung vừa nói, kế đó là “Cơi Thiêng
Liêng” – vô số ánh sáng thắp lên từ Ánh Sáng nguyên
thuỷ - tức là những Buddhis (Bồ Đề) hay Linh
Hồn Thiêng Liêng không h́nh thể của Cơi Vô Sắc
Giới cuối cùng: “Toàn Thể” (“Sum Total”), theo lối nói
của ĐOẠN KINH cổ.
179
Trong cổ thư (Catechism) có ghi lời
Chơn Sư hỏi đệ tử:
“Hỡi Đệ
Tử, hăy ngẩng mặt lên xem, con có thấy chăng
một hay vô số ánh sáng chiếu trên nền trời
tối đen của ban đêm?”
“Bạch Sư
Phụ, con cảm thấy một Ngọn Lửa, con
thấy vô số điểm chói rạng trên đó”.
“Con nói đúng và
bây giờ con hăy nh́n chung quanh và nh́n vào nội tâm con. Cái ánh
sáng chiếu trong ḷng con có khác ǵ cái ánh sáng đang chiếu
trong ḷng những kẻ khác chăng?”
“Không khác ǵ
cả, tuy rằng nó bị nghiệp quả trói buộc
như một kẻ tù phạm, và những chỗ bao
bọc bên ngoài nó làm cho kẻ vô minh nói rằng ‘Linh Hồn
anh và Linh Hồn tôi’ “.
Sự duy nhất căn bản của “cái
tinh hoa rốt ráo” của mọi vật trong Thiên Nhiên -
từ ngôi sao cho đến nguyên tử khoáng chất,
từ Đấng Thiền Định Đế Quân
tối cao, cho đến con vi khuẩn nhỏ nhất, dù
áp dụng trên các cơi tâm linh, trí tuệ hay vật chất -
sự duy nhất này là định luật căn bản
duy nhất trong khoa Huyền học. Một sáo ngữ
Huyền môn nói rằng: “Thượng Đế là sự
nới rộng vô biên và vô cùng”, từ đó mới có
(như ta nhận xét trước) danh từ Brahma, do
ngữ căn Brih có nghĩa
là bành trướng hay phát triển (to expand or grow) ([385]).
180
Sự tôn sùng Mặt Trời và Lửa, ḷng tôn
sùng xưa nhất trên thế gian, có nền tảng là
một triết lư thâm sâu. Trong tất cả những Nguyên
Tố mà khoa vật lư học đă biết, Lửa là cái
luôn luôn thoát khỏi sự phân tích xác định.
Người ta xác nhận rằng không khí là thứ hỗn
hợp chứa dưỡng khí và đạm khí. Chúng ta xem
Vũ Trụ và Trái Đất như một khối
vật chất hợp bằng những phân tử hoá
học cố định. Chúng ta nói rằng có mười
chất thể căn bản đầu tiên (primitive ten
earths), mỗi chất được người ta
đặt cho một tên bằng tiếng Hy Lạp hay
tiếng La Tinh. Về hoá học, chúng ta nói nước là
một hợp chất của dưỡng khí và khinh khí,
nhưng c̣n LỬA là ǵ? Người ta trang trọng trả
lời rằng nó là kết quả của sự
đốt cháy. Nó là hơi nóng, ánh sáng, sự chuyển
động và nói chung là một sự hỗ tương
của những lực vật lư và hoá học. Và
định nghĩa khoa học này được bổ túc
một cách triết lư bằng một định nghĩa
về thần học trong quyển tự điển Webster,
nó giải thích lửa như là “dụng cụ để
trừng phạt, hay là trong một hiện trạng khác
nữa, đó là sự gia h́nh những người không
biết ăn năn hối cải” – nhân tiện xin nói
“hiện trạng” này được giả sử là
thuộc về tinh thần; nhưng than ôi! sự biểu
hiện của lửa dường như là một
bằng chứng xác nhận bản chất thuộc về
vật chất của nó. Tuy nhiên, khi đề cập
tới ảo tưởng về những hiện
tượng được xem như là giản dị,
bởi v́ những hiện tượng này đă quen
thuộc, Giáo sư Alexander Bain đă nói:
Có nhiều sự kiện rất quen
thuộc dường như có thể tự đứng
vững mà không cần phải giải thích và cũng là
phương tiện để giải thích bất cứ
cái ǵ có thể bị đồng hoá vào chúng. Như vậy,
sự sôi và sự bốc hơi của một chất
lỏng được giả sử như là một
hiện tượng rất đơn giản không cần
đ̣i hỏi sự giải thích và là phương tiện
thoả đáng để giải thích những hiện
tượng hiếm hơn. Đối với một cái
trí chưa được huấn luyện, sự bốc
hơi của nước là một điều hoàn toàn
dễ hiểu; trong khi đó đối với một
người có kiến thức về khoa vật lư học
th́ trạng thái lỏng này là một điều bất b́nh
thường và không thể giải thích được.
Một điều rất khó hiểu đối với
khoa học là khi người ta phải dùng một ngọn
lửa để làm cho lửa cháy lên; tuy nhiên, ít có
người nào đă nghĩ như thế được
([386]).
Giáo lư nội môn đă nói ǵ về Lửa? “Ở trên Trời cũng như
ở dưới thế gian, Lửa là một sự
phản ánh hoàn hảo nhất không thể nguỵ tạo
được của một NGỌN LỬA DUY NHẤT
(ONE FLAME). Nó là Thuỷ và Chung (Life and Death) của mọi
điều vật chất. Nó là cái “Bản thể thiêng
liêng”. V́ vậy, chẳng những nhóm người tôn
sùng lửa, những tín đồ Hoả Thần giáo (Parsi)
mà ngay đến những bộ lạc du mục dă man
ở Mỹ Châu - họ tự nhận là “những
đứa con của lửa” – cũng có những tín
ngưỡng hợp khoa học và những điều mê
tín dị đoan xác thực hơn là tất cả
những cuộc suy lư của những nhà vật lư học
và những nhà thông thái hiện đại. Những
người Thiên Chúa giáo nào nói rằng: “Đức Chúa
Trời là một ngọn Lửa sinh động” (“God is a
living Fire”) và cũng nói về “những ngọn Lửa”
(“Tongues of Fire”) của ngày lễ Pentecost (Lễ Ngũ Tuần)
và những “Bụi rậm cháy rực” (“Burning Bush”) của
Thánh Moses, th́ cũng là một người tôn sùng lửa
như bất cứ một người “Ngoại
đạo” nào khác. Trong đó tất cả những nhà
thuật sĩ, những tín đồ Do Thái Bí giáo, những
tín đồ Hoa Hồng Thập Tự đều
định nghĩa Lửa một cách đúng đắn
nhất. Bạn hăy kiếm một cây đèn dầu
loại sáu xu (tiền Anh) và chỉ cần đổ dầu
vào cây đèn này, là bạn có thể dùng nó để
đốt lên những cây đèn dầu khác (lamps), những
cây đèn cầy (candles) và những ngọn lửa ở
khắp nơi trên thế gian, mà ngọn lửa của
bạn không giảm bớt ǵ cả. Nếu Thượng
Đế là trường cửu và là một Chất
Liệu vô biên không tăng không giảm, th́ Giáo lư Huyền
Môn không phải là vô lư khi nói rằng “Những Cơi Vô Sắc
Tướng và Sắc Tướng được cấu
tạo như sau: từ MỘT Ánh Sáng thắp lên Bảy
Ánh Sáng; từ mỗi cái trong Bảy cái này phân hoá thêm thành
bảy lần Bảy” v.v…
5. FOHAT TIẾN TỚI
NĂM BƯỚC DÀI ([387])
(a), VÀ XÂY DỰNG MỘT BÁNH XE CÓ CÁNH Ở MỖI GÓC
CỦA H̀NH VUÔNG CHO BỐN ĐẤNG CAO CẢ … VÀ
NHỮNG ĐẠO BINH CỦA CÁC NGÀI (b).
181
(a) Như đă giải thích ở phần b́nh
giải ĐOẠN KINH 4, “Những bước dài” nói
về những Nguyên Khí trong vũ trụ và trong con
người, theo ngoại giới gồm có ba (Tinh Thần,
Linh Hồn và Thế xác). Nhưng theo khoa nội môn bí
truyền th́ có bảy (ba thể thượng của tinh
hoa và bốn thể hạ ([388]).
Ai đă có đọc quyển Phật
Giáo Nội Môn (Esoteric Buddhism) của A.P. Sinnett có thể
hiểu dễ dàng sự phân loại này. Có hai chi phái
Huyền môn, một để truyền thụ cho các
đệ tử nội môn chính thức và một
để dạy đạo cho những đệ tử
ngoại môn c̣n ở ngoài thế tục. Chi phái thứ
nhất truyền dạy sự phân loại gồm bảy
Nguyên khí, c̣n môn phái kia dạy sự phân loại có sáu Nguyên
khí con người.
Theo quan niệm vũ trụ, Fohat “làm Năm
Bước Dài” (“Five Strides”), ngụ ư năm cơi trên của
Tâm Thức và Nội Tại (Consciousness and Being), c̣n
bước thứ sáu và thứ bảy (từ trên
đếm xuống) ngụ ư hai cơi thấp tức cơi trung
giới và cơi trần.
(b) “Bốn Bánh Xe có cánh ở mỗi góc… cho
Bốn Đấng Cao Cả và những đạo binh
của các Ngài”. Những Đấng này là “Tứ
Đại Thiên Vương” (“Four Maharajas”), Chủ Tể
của các vị Thiền Định Đế Quân, cai
quản bốn phương hướng của Vũ
Trụ. Các Ngài là những vị Đại Thiên Thần
thống lănh những Thần Lực của Vũ Trụ
ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi
thứ Thần Lực ấy đều có liên hệ
đến Luật Nhân Quả, v́ luật này cũng cần
có những vị trung gian làm khí cụ để thừa
hành mệnh lệnh của nó. Thí dụ như là khoa
học đă công khai thừa nhận rằng bốn
loại gió có những h́nh ảnh tốt và xấu riêng
biệt đối với sức khoẻ của mọi
người được triết lư Huyền môn của
giáo lư Cơ Đốc La Mă truy nguyên ra từ những
vị “Sứ Giả” (“Messengers”) vô h́nh từ phương
Bắc và từ phương Tây, họ đă tạo những
trận dịch, những cuộc chiến tranh và nhiều
tai biến khác nữa. Thánh thư Ezekiel ([389])
cũng đă nói “Sự vinh diệu của Thượng
Đế xuất phát từ con đường ở
phương Đông”; trong khi đó các nhà hiền triết
Jeremiah, Isaiah và các bậc Thánh Thi (Psalmist), đều quả
quyết với các độc giả rằng, tất
cả những ảnh hưởng xấu dưới ánh
mặt trời này, đều xuất phát từ
hướng Bắc và hướng Tây – khi áp dụng cho
nước Do Thái, điều này có vẻ giống như
một điều tiên tri không thể chối căi
được. Và cũng v́ lư do này mà Thánh Ambrose ([390])
đă tuyên bố một cách rơ ràng rằng “Chúng ta hăy
nguyền rủa Gió phương Bắc, và trong khi làm
lễ rửa tội, chúng ta hăy khởi sự quay về
hướng Tây (hướng có ngôi sao mọc), để
chối bỏ người nào đă ở đó, sau đó,
chúng ta hăy quay về hướng Đông”.
182
Sự tín ngưỡng về Tứ
Đại Thiên Vương (Four Maha -rajas) - tức là
những vị Giám quan của bốn phương trời
– th́ rất phổ thông và hiện nay chính là tín
ngưỡng của các tín đồ Thiên Chúa giáo, họ
gọi những vị này theo Thánh Augustine, là những
vị “Kiết Thần” (“Angelic Virtues”) và những vị
“Thánh Thần” (“Spirits”) và “Ma Quỷ” (“Devils”) (như
những người Ngoại đạo đă gọi).
Nhưng trong trường hợp này, giữa người
Ngoại đạo và người Thiên Chúa giáo có sự khác
nhau như thế nào? Ông Vossius, một học giả danh
tiếng đă nói:
Dù Thánh Augustine đă nói rằng mỗi sinh
vật hữu h́nh trong thế gian này đều có một
vị Kiết Thần trên cương vị là một
vị thần hộ mạng ở gần sinh vật này,
phải hiểu rằng đó không phải là những cá
thể, nhưng hoàn toàn là các loại sinh vật, mỗi
loại sinh vật có một vị thần đặc
biệt theo bảo vệ nó. Ngài nhất trí với tất
cả những nhà triết học về điều này…
Đối với chúng ta, những vị thần này chính là
những vị thần linh hoàn toàn tách biệt với
mọi vật… trong khi đó, các nhà triết học
(Ngoại đạo) vẫn xem họ như các vị thần
linh ([391]).
Khi người ta nghiên cứu đến
nghi lễ dành cho các vị “Thần Ngôi Sao” (“Spirit of the
Star”), do Giáo hội Cơ Đốc La Mă dựng lên, th́ các
vị này giống một cách khả nghi như những
“vị thần linh” (“gods”), nhưng các vị này không
được người xưa kính trọng hay là tôn sùng
(những người Ngoại đạo hiện nay
cũng vậy) hơn ngày nay tại La mă, những tín
đồ Thiên Chúa giáo Cơ Đốc rất văn minh tôn
sùng các vị thần linh này.
Tiếp theo triết gia Plato, Aristotle đă
giải thích rằng, ngôn từ …([392])
chỉ được hiểu như có nghĩa là những
nguyên khí vô h́nh được đặt ở trong bốn
vùng rộng lớn của bầu thế giới vũ
trụ của chúng ta, để trông nom bốn vùng này. V́
vậy, những người Thiên Chúa giáo cũng như
người Ngoại đạo, đều không thờ phụng và tôn sùng các
Hành (Elements) và những phương trời này (có tính cách
tưởng tượng), mà chỉ tôn sùng “những vị
thần” đă thống trị những vùng riêng biệt
vừa nói. Đối với Giáo hội, có hai loại sinh
vật ở trên trời, một là những vị Thiên
Thần và hai là những loài Ma Quỷ yêu tinh. Đối
với những người Do Thái Bí giáo, và những nhà
Huyền bí học, th́ chỉ có một hạng duy nhất,
không nhà Huyền bí học cũng như nhà Do Thái Bí giáo nào
phân biệt “những vị Giám hiệu của Ánh Sáng”
(Rectores of Light”) và “những vị Giám hiệu của Bóng
Tối” (“Rectores Tenebrarum”) hay là những Đấng tạo
lập vũ trụ (Cosmocratores); nơi những vị
“Giám hiệu của Ánh Sáng” (“Rectors of Light”), Giáo hội La Mă
tưởng tượng và t́m ra các Đấng Tạo
Lập Vũ Trụ ngay khi một trong những vị này
được gọi dưới một danh hiệu khác
hơn danh hiệu mà người ta vừa nói. Không phải
là những vị Giám hiệu hay là những vị
Đại Thiên Vương (Maharaja) thưởng hay
phạt, với sự cho phép hay là không cho phép, hoặc là có
lệnh hay không có lệnh của Thượng Đế”,
mà chính là những hành vi (hay là nhân quả - Karma) của con
người, mới hấp dẫn mọi loại ảnh
hưởng xấu và độc ác của một cá
thể hay của một số đông (như là đôi khi
xảy ra cho nhiều nước trên thế giới). Chúng
ta tạo ra những NGUYÊN NHÂN, những nguyên nhân này đánh
thức những quyền năng tương ứng trong
Bầu Thế Giới Tinh Tú, những quyền năng này,
một cách không thể cưỡng chế nổi và có
từ tính, bị hấp dẫn và có phản ứng
đối với những người nào đă tạo ra
nguyên nhân như thế; dù là những người thực
sự gây ra tội ác, hay là những “nhà tư tưởng”
chỉ mới ấp ủ ác ư. V́ tư tưởng là
vật chất (khoa học hiện đại đă
dạy chúng ta như vậy); trong quyển “Những Nguyên Lư của Khoa Học” (“Principles of
Science”), các ông Jevons và Babbage đă nói với người
phàm (profane) là “tất cả những ǵ xảy ra
đều phải được ghi lại trong mỗi phân
tử của vật chất biểu hiện”. Càng ngày, khoa
học tân tiến càng bị ḍng nước xoáy của
Huyền bí học lôi cuốn, sự lôi cuốn này rất
rơ rệt, mặc dù vô ư thức.
183
Dĩ nhiên, “tư tưởng là vật
chất”, không theo ư nghĩa như ông Moleschott, một nhà duy
vật người Đức đă quả quyết
với chúng ta rằng “tư tưởng là sự
chuyển động của vật chất” – đó là
một lời nói hết sức phi lư không ai b́ kịp.
Như thế, những trạng thái của tư
tưởng và trạng thái của thể xác đă hoàn toàn
được đối chiếu ngược nhau,
nhưng điều này không có ảnh hưởng
đến lập trường cho rằng mỗi tư
tưởng, ngoài phần đồng hành của thể xác
(là sự biến đổi của năo bộ ra) đều
biểu hiện một trạng thái khách quan – dù đối
với chúng ta, đó là cái khách quan siêu cảm giác – trên cơi
trung giới ([393]).
Hai lư thuyết khoa học chủ yếu bàn
về những sự liên quan giữa Tinh Thần và Vật
Chất là thuyết Nhất Nguyên (Monism) và Chủ Nghĩa
Duy Vật (Materialism). Ngoại trừ những quan niệm
gần như là huyền bí của những trường
phái Phiếm Thần học của người
Đức, cả hai thuyết này bao hàm toàn bộ lănh
vực của khoa tâm lư học tiêu cực.
Những quan niệm của những nhà
tư tưởng khoa học hiện nay của chúng ta
về những liên quan giữa tinh thần và vật
chất, có thể được thu gọn về hai
giả thuyết sau đây. Hai giả thuyết chứng
minh rằng cả hai quan niệm trên đều loại
bỏ việc có thể có một linh hồn độc
lập, linh hồn này hoạt động xuyên qua và phân
biệt với bộ óc thể xác. Hai quan niệm này là:
(I) CHỦ NGHĨA DUY VẬT (MATERIALISM)
thuyết này xem những hiện tượng của tư
tưởng như là đều do những biến
đổi phân tử trong năo bộ sinh ra; nghĩa là như
là kết quả của một sự biến đổi
chuyển động thành ra t́nh cảm (!) Có một
lần, trường phái thô lỗ (cruder) này đă đi quá
xa đến nỗi đồng nhất hoá tư
tưởng với “một cách chuyển động
dị kỳ” (!!), nhưng ngày nay, may mắn thay quan
niệm này bị hầu hết các nhà khoa học xem như
là phi lư.
(II) THUYẾT ĐƠN NGUYÊN (MONISM) hay là
thuyết dạy về Bản Thể Độc Nhất
(Single Substance), là một h́nh thức tinh vi của khoa tâm lư
học tiêu cực, mà một trong những người
ủng hộ thuyết này là Giáo sư Bain, cũng đă tài
t́nh nói rằng đó là “chủ nghĩa duy vật dự
pḥng” (“guarded materialism”). Chủ nghĩa này đă
được một số rất lớn các nhà triết
học tán thành, trong số này có các triết gia Lewes, Spencer,
Ferrier và nhiều người khác; nói chung, họ giả
sử vật chất là cái tương phản chính
đối với những hiện tượng về
tư tưởng và tinh thần, xem chúng chỉ như là
hai khía cạnh, hay hai hiện trạng của một trong
những trạng thái của cùng một bản chất.
Họ nói rằng bản thân tư tưởng hoàn toàn
tương phản với những hiện tượng
vật chất nhưng nó cũng phải được
xem như “khía cạnh chủ quan của vận
động thần kinh” mà thôi (các nhà thông thái của chúng ta
muốn hiểu câu này ra sao th́ hiểu).
Theo ông Clemens Alexandrinus, trong các đền
thờ của Ai Cập, nơi thờ phượng
được tách biệt (bởi một tấm vách
ngăn rộng lớn) ra khỏi chỗ hội họp.
Những đền thờ của người Do Thái
cũng vậy. Tấm vách ngăn của cả hai nơi
thờ phượng này được giăng qua năm
cây trụ (h́nh năm góc), vừa tượng trưng cho
năm giác quan, vừa tượng trưng cho năm giống
dân chánh (nói theo bí truyền) trong khi bốn màu sắc
của tấm vách tượng trưng cho bốn
phương trời và bốn Nguyên tố địa
cầu. Tất cả những điều này chỉ là
biểu tượng có ẩn ư. Chính nhờ bốn vị
Phán Quan (Rulers) cao cả coi bốn phương trời và
những Nguyên Tố này mà năm giác quan của chúng ta có
thể biết được những chân lư bí ẩn
của Thiên Nhiên, như ông Clemens đă tŕnh bày, hoàn toàn không
phải là
184
chính những nguyên tố đă cung cấp cho
người Ngoại đạo Minh Triết Thiêng Liêng hay
là Minh Triết của Trời ([394]).
Trong khi biểu tượng của người Ai Cập
thuộc về tinh thần, th́ biểu tượng của
người Do Thái chỉ chú trọng đến những
Hành mù quáng (the blind Elements) và những “phương trời”
tưởng tượng (imaginary “points”). V́ ư nghĩa ǵ mà
Thánh Moses lại dựng lên ngôi nhà thờ Do Thái h́nh vuông
trong những vùng hoang địa, nếu không phải là v́
cùng cái ư nghĩa vũ trụ ấy? “Con đă làm ra một
tấm màn … màu xanh, màu đỏ tía và màu đỏ
tươi … những cây trụ rất đẹp
đẽ bằng danh mộc shittim để treo màn lên …
ở bốn góc có bốn cái khoen bằng đồng …
những tấm bảng bằng danh mộc dành cho bốn
hướng Bắc, Nam, Tây, Đông … của Thánh
Điện (Tabernacle) … có những tiểu Thiên Thần
(Cherubims) của tác phẩm tuyệt hảo” ([395]).
Nhà thờ của người Do Thái và cái cân h́nh vuông, những
tiểu Thiên Thần và tất cả những cái khác
đều hoàn toàn giống như những cái có trong
đền thờ của người Ai Cập. Nhà thờ
Do Thái có h́nh vuông bốn góc, có một ư nghĩa mà cho
đến ngày nay vẫn c̣n trong tín ngưỡng công
truyền của người Trung Quốc và người
Tây Tạng - bốn phương trời có ư nghĩa
bốn cạnh của những Kim tự tháp, những bia
h́nh chóp và những kiến trúc có h́nh vuông như thế. Toàn
thể sự việc này cũng đă được
Josephus giải thích một cách cẩn thận. Ông tuyên
bố rằng những cột trụ của nhà thờ
người Do Thái cũng giống với cột trụ
dựng lên tại thành Tyre dành cho
Tứ Đại (four elements), những cột trụ
này được đặt trên những bệ có bốn
góc quay mặt hướng về bốn phương
trời; ông c̣n thêm rằng, “Những góc của các bệ
này có bốn h́nh của Hoàng Đạo (Zodiac)” ở trên
đó, những h́nh này cũng chỉ phương
hướng tương tự ([396]).
Những ư niệm này có thể c̣n để
lại tàn tích trong những thạch động của các
tín đồ Hoả Thần giáo, trong các đền thờ
chạm trổ trong đá ở Ấn Độ và tất
cả những đền đài thiêng liêng h́nh vuông của
thời cổ c̣n tồn tại cho đến ngày nay. Chính
ông Layard đă xác định điều này, ông đă t́m
thấy bốn phương trời và bốn nguyên tố
đầu tiên ở trong tôn giáo của mọi nước
trên thế giới, dưới h́nh dáng những thạch bi
(obelisks), chóp tháp h́nh vuông, những Kim tự tháp có bốn
cạnh v.v.. Về những nguyên tố này và những
phương trời, th́ Tứ Đại Thiên Vương
(Four Maharajas) là những vị thần điều khiển
và thống trị.
185
Nếu sinh viên huyền môn muốn biết
nhiều hơn nữa về các vị này, y chỉ cần
so sánh Linh thị của Ezekiel (ch.1) với cái mà Phật giáo
Trung Quốc đă biết, ngay cả trong giáo lư công
truyền, và xét lại h́nh dáng bên ngoài của những
vị “Đại Vương (Great Kings) [của các
Thần Linh – of the Devas] này”. Theo ư kiến của
Đức Giám mục Joseph Edkins, “mỗi một trong các
vị này thống trị một trong bốn lục
địa, (thế gian này đă được
người Ấn Độ phân chia như thế)…
Mỗi vị thống lĩnh một đội binh
thần linh để che chở cho nhân loại, và
để bảo vệ cho Phật giáo” ([397]).
Ngoại trừ sự thiên vị đối với
Phật giáo, Bốn nhân vật ở trên trời này (the four
Celestial Beings) đúng là như vậy. Song những
người Ấn giáo lại chia thế giới này ra làm
bảy lục địa, nói về công truyền cũng
như bí truyền; c̣n về bốn vị Thần trông coi
Vũ Trụ (Cosmic Devas), th́ họ nói là có tám vị, có
nhiệm vụ trông coi tám hướng trên la bàn chứ không
phải trên các lục địa.
“Bốn vị Thần” chính là bốn vị
thần bảo vệ nhân loại và cũng là vị thi hành
Nhân Quả (Karma) trên Trần Thế, trong khi các vị
thần cầm cân Nhân Quả (Lipika) lại lo lắng cho
kiếp sau của nhân loại. Theo linh thị của
Ezekiel, th́ trong lúc đó, các Ngài cũng là bốn sinh vật
“giống như con người”, mà các dịch giả Thánh
kinh Thiên Chúa giáo (Bible) gọi là những vị “Tiểu
Thiên Thần” (Cheru-bim) và những “Thiên Thần Tối Cao”
(“Seraphim”) v.v.., c̣n các nhà Huyền bí học gọi những
vị này là “những Hành Tinh có Đôi Cánh” (“Winged Globes”),
“Những Bánh Xe Bằng Lửa” (“Fiery Wheels”); và theo
Phiếm Thần học Ấn Độ, người ta
lại c̣n dùng nhiều danh từ khác nữa. Tất cả
những danh từ Ganharvas (các vị Thần du ca),
“những Ca Sĩ Dễ Thương” (“Sweet Songsters”),
những vị Asuras (Thần Quỷ), riêng những vị
Kinnaras (các vị Thần nửa người nửa
ngựa) và những vị Nagas (các Long Thần đều
là những cách diễn tả có ngụ ư dành cho Tứ
Đại Thiên Vương (Maharajas). Seraphim là những Con
Rắn Lửa ở trên Trời mà chúng ta t́m thấy trong
một đoạn kinh mô tả ngọn núi Tu Di (Meru) như
là “Một số điều vinh diệu được tán
dương sùng kính mà con người đầy tội
lỗi không thể nào tới được…bởi v́
những nơi đó được những Con Rắn
canh giữ. Những vị này được gọi là
những Kẻ Báo Thù (Avengers) và “Những Bánh Xe Có Cánh”
(“Winged Whells”).
Nhiệm vụ và đặc tính của
những vị này đă được giải thích, ta hăy
thử xem các dịch giả Thánh kinh Thiên Chúa giáo nói
những vị tiểu Thiên Thần (Cherubim) như thế
nào. “Trong tiếng Hy Bá Lai, tiếng này có nghĩa là
đầy đủ sự Tri Thức; những vị
Thiên Thần được gọi như thế, do tri
thức hoàn hảo của họ, và v́ vậy, họ
được dùng để trừng phạt những
người nào đụng chạm đến minh triết
thiêng liêng” (Trong Sáng Thế Kư
(Genesis), phụ dẫn iii, 24, do Cruden diễn giải).
Rất đúng, và mặc dù tin tức này cũng c̣n mập
mờ, nó vẫn chỉ cho thấy rằng, những
vị Tiểu Thiên Thần này (Cherub) được
đặt giữ cổng vào vườn Địa
Đàng (Gold of Eden) sau khi có sự “Sa Ngă” (“Fall”) của con
người, đă gợi ra cho các nhà diễn giải
khả kính ư niệm về sự trừng phạt liên quan
đến môn Khoa học bí ẩn hay Minh Triết thiêng liêng
– khoa học này cũng thường dẫn tới một
sự “Sa Ngă” khác nữa mà theo sự phỏng đoán
của con người, đó là sự sa ngă của các
vị thần linh hay là của “Đức Chúa Trời”.
Nhưng v́ ông già hiền hậu Cruden không hiểu ǵ về
Nhân Quả (Karma) nên người ta có thể tha thứ cho
ông. Tuy nhiên, sự ngụ ư cũng thật là gợi ư.
Khoảng cách từ núi Tu Di, nơi trú ẩn của các
vị thần linh, cho đến vườn Địa
Đàng rất ngắn, và từ những Con Rắn của
người Ấn Độ giáo cho đến những
vị Tiểu Thiên Thần của phái thờ Rắn (Ophite
Cheubim) - vị thần thứ ba trong số bảy vị
thần này chính là con Rồng – th́ sự ngăn cách lại
c̣n nhỏ hơn nữa, v́ cả hai đều canh giữ
cửa vào lănh địa của sự Tri Thức Huyền
Bí. Vả chăng Ezekiel đă diễn tả một cách rơ
ràng bốn vị Thiên Thần trong Càn Khôn này như sau:
Tôi đă
thấy và chứng kiến một luồng gió lốc…
một … đám mây mù và đốm lửa bao bọc lấy
nó… cũng từ trong ḷng của luồng gió lốc, h́nh
ảnh bốn sinh vật xuất hiện … h́nh dáng chúng
giống như một con người. Mỗi sinh vật
này có bốn mặt … và bốn cánh … mặt có h́nh một
con người ([398]),
và mặt có h́nh một con sư tử … mặt có h́nh
một con ḅ và … mặt có h́nh một con ó … Bây giờ tôi
thấy những sinh vật này giống như tôi thấy
một bánh xe trên Trái đất … với bốn mặt …
cũng như nó là một bánh xe ở chính giữa của
một bánh xe … v́ linh hồn của sinh vật này cũng
ở trong bánh xe này ([399]).
186
Có ba Nhóm chính gồm các Đấng Sáng
Tạo và cũng bấy nhiêu Nhóm gồm những vị Tinh
Quân và các Đấng Lipika, mỗi Nhóm lại chia ra làm
bảy tiểu tổ. Ngay cả trong một tác phẩm
vĩ đại như thế này, người ta cũng
không thể nào khai triển việc kiểm soát tỉ mỉ
ba Nhóm chính này v́ nó sẽ cần một quyển sách phụ
trội. Các Đấng Sáng Tạo là những vị
đại diện của những Đấng Tứ
Đại Thiên Vương của những Thực Thể
do “Cái Trí Sinh Ra” Đầu Tiên (First “Mind-Born”), v́ vậy, các
Ngài cũng là đại diện cho những vị Hoá Công
(Rishi-Prajapati) đầu tiên, cũng như các Đấng
mà người Ai Cập gọi là Bảy Vị Thần
vĩ đại, mà thần Osiris là vị thần chủ yếu;
của các Đấng mà tín đồ Hoả Thần giáo
gọi là “Bảy Đấng Tạo Lập Vũ Trụ”
(“Seven Amshaspends”), mà Đấng Ormazd (Thần Thái
Dương) đứng đầu; của “Bảy Vị
Thần Linh của Thánh Dung” (“Seven Spirits of the Face”); của
Bảy Vị Thần Sáng tạo (Sephiroth) độc
lập với Tam Thể đầu tiên (first Triad) v..v…([400])
Các Ngài xây dựng hay nói đúng hơn là tái tạo mỗi
Hành Tinh Hệ sau mỗi chu kỳ huỷ diệt hay
“Đêm” của Phạm Thiên. Nhóm Thứ Hai của Đấng
Sáng Tạo là những vị Kiến Trúc xây dựng
đặc biệt của Dăy Hành Tinh hiện tại, c̣n
Nhóm Thứ Ba là những Đấng Trưởng
Thượng (Progenitor) của Nhân Loại chúng ta tức các
Đấng kiểu mẫu của tiểu thiên địa
trong vũ trụ càn khôn.
Các Đấng Tinh Quân (Planetary Spirit) là
những Đấng Chủ Tể của các v́ Tinh Tú nói
chung và các bầu Hành Tinh nói riêng. Các Ngài cai quản vận
mệnh của những người sinh ra dưới
ảnh hưởng của những tinh tú đặt
dưới sự điều khiển của các Ngài; các
Nhóm Thứ Nh́ và Thứ Ba cai quản những hành tinh
hệ khác, đều có những chức vụ
tương tự và tất cả đều cai quản
những ngành sinh hoạt khác nhau trong Thiên Nhiên. Trong
Phiếm Thần học công truyền của Ấn
Độ giáo, các Ngài là những vị thần bảo
vệ có nhiệm vụ cai quản tám hướng trên la
bàn - tức là bốn phương chính và bốn
phương trung gian – và được gọi là những
vị Lokapalas, là những vị “Bảo vệ và Trông nom
thế gian” (trong Vũ Trụ hữu h́nh của chúng ta,
(ở phương Đông) th́ có vị thần Indra (vị
thần trông coi bầu trời), (ở phương Nam) th́
có vị thần Yama (Thần chết), (ở phương
Tây) th́ có thần Varuna (Thuỷ Thần), và (ở
phương Bắc) th́ có vị thần Kuvera (Thổ
Thần) là chủ tể; dĩ nhiên, những con voi và
người vợ của các vị thần này đều
thuộc về hoang tưởng và sự diễn giải
sau này, dù tất cả những điều này đều
có một ư nghĩa huyền bí.
Trong ĐOẠN THÁNH KINH 4, Lời b́nh
luận 6, các Đấng Lipika là những vị Tinh Quân
của Vũ Trụ, c̣n những Đấng Tạo Tác
chỉ cai quản những bầu hành tinh trong hành tinh
hệ hiện tại của chúng ta mà thôi. Những vị
trước thuộc về phần huyền bí nhất
của Vũ Trụ học, mà người ta không thể
đưa ra đây được. Liệu những
Đức Chơn Sư (Adepts) – ngay cả những
Đấng Cao Cả nhất – có biết được
đẳng cấp của những vị thiên thần này
một cách đầy đủ với ba cấp bậc,
hay chỉ biết một bậc thấp hơn liên quan
đến những kư ảnh của thế giới chúng
ta, là một điều mà tác giả cũng chưa
được chuẩn bị để nói ra, nên tác
giả thiên nhiều hơn về giả thuyết sau.
Chỉ có một điều được dạy về
cấp bậc cao nhất của các vị này. Các
Đấng Lipika có liên hệ đến Luật Nhân
Quả, các Ngài ǵn giữ kho kư ức nghiệp quả
của vũ trụ. Cây Trường Sinh (Tree of Life) là cái
biểu tượng phổ thông dành cho Minh Triết Thiêng
Liêng và Huyền bí vào thượng cổ thời
đại, nó cũng có nghĩa là một Thánh kinh hay
một Tàng thư lưu kư. Từ đó mới có tiếng
Lipika, có nghĩa là những Người Viết Lách và Biên
Chép; những “Con Rồng” tượng trưng cho sự
Minh Triết, chúng ǵn giữ những cây Tri Thức (Trees of
Knowledge); Cây Táo “vàng” (the “golden” Apple-Tree) ở vườn
Hesperides; những “Cây Tươi Tốt” (“Luxuriant Tree”) và loại
thực vật ở núi Tu Di (Meru) được các Con
Rắn bảo vệ. Món quà của Nữ thần Juno dành
cho thần Jupiter trong ngày hôn lễ là một Cây có trái vàng,
nó c̣n có một h́nh thức nữa là món quà của bà Eve
(E-Và) dành cho ông Adam, đó là Trái Táo hái từ Cây Tri Thức.
187
6. CÁC ĐẤNG
NAM TÀO BẮC ĐẨU (LIPIKA) VẠCH V̉NG TR̉N QUANH H̀NH TAM
GIÁC, CÁI THỨ NHẤT([401]),
KHỐI LẬP PHƯƠNG, CÁI THỨ NH̀, RỒI
ĐẶT H̀NH NGÔI SAO NĂM GÓC TRONG CÁI TRỨNG (a). ĐÓ LÀ
V̉NG GIỚI HẠN “KHÔNG THỂ VƯỢT QUA” (“PASS NOT”)
ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐI XUỐNG VÀ ĐI LÊN; ĐỐI
VỚI NHỮNG AI TRONG ĐẠI KIẾP NÀY ĐANG
TIẾN ĐẾN NGÀY VĨ ĐẠI “ĐƯỢC
HỢP NHẤT VỚI THƯỢNG ĐẾ” (“BE WITH US”)
(b)… NHỮNG CƠI VÔ SẮC TƯỚNG (ARUPA) VÀ CƠI SẮC
TƯỚNG (RUPA) ĐƯỢC TẠO LẬP NHƯ SAU ([402]):
TỪ MỖI CÁI TRONG BẢY CÁI NÀY, SINH RA BẢY LẦN
BẢY ÁNH SÁNG. CÁC BÁNH XE GIÁM SÁT V̉NG TR̉N…
ĐOẠN KINH
này tiếp tục với một bảng liệt kê tỉ
mỉ những Cấp đẳng các Đấng Thiên
Thần. Những Nhóm Thiên Thần có Mười vị do
Cái Trí sinh ra, Nhóm Mười hai vị, Nhóm Hai mươi
mốt vị v..v…đều có nguồn gốc từ Nhóm
Bốn và Bảy vị thần linh, một lần nữa,
tất cả đều được chia thành những
nhóm phụ của nhóm Heptads, của nhóm Enneads, của nhóm
Dodecads ([403])
và tiếp tục măi cho đến khi nào cái trí không c̣n
đủ sức đếm cái số vô cùng của
những nhóm Thần linh và những Sinh vật ở trên
trời, mỗi vị đều có một trách vụ rơ
rệt trong việc cai quản Vũ Trụ hữu h́nh
trong chu kỳ sinh hoạt.
(a) Ư nghĩa Huyền bí của câu
đầu trong Đoạn kinh là những Đấng
gọi là Lipika hay các Đấng Cầm Cân Nghiệp
Quả, dựng một bức rào chướng ngại
giữa LINH HỒN hữu ngă (personal EGO) và CHÂN LINH vô ngă
(impersonal SELF) tức cái Thực Thể của nguồn
gốc linh hồn. Do đó mới có cái biểu
tượng Các Ngài đặt cái thế giới vật
chất biểu lộ bên trong “Ṿng Giới Hạn” không
thể vượt qua. Thế giới này là biểu
tượng khách thể của NHẤT NGUYÊN (the ONE) phân hoá
ra Vạn Hữu, các cơi của Ảo Giác và Nhất Nguyên
này là tổng hợp của những Đấng Sáng
Tạo hay Kiến Trúc Sư của Vũ Trụ hữu
h́nh. Trong Huyền bí học Hy Bá Lai, danh hiệu này gồm
cả hai tiếng Echath, là “Số Một” thuộc về
giống cái và tiếng Echad, một lần nữa cũng
là “Số Một” nhưng thuộc về giống
đực. Những nhà Độc Thần học
(Monotheists) đă và c̣n đang lợi dụng thuyết bí
truyền thâm sâu của kinh bí pháp
Kabalah, họ đă áp dụng danh hiệu của Nguyên
Thể Thiêng Liêng Duy Nhất (One Supreme Essence) cho sự
biểu lộ của NÓ (ITS manifestation), các vị Thần
Sáng Tạo (Sephiroth-Elohim), và gọi là Jehovah.
188
Nhưng điều này hoàn toàn là độc
đoán chống lại tất cả lư lẽ và lư luận
(reason and logic), v́ ngôn ngữ Elohim là một danh từ
chỉ số nhiều, giống như tiếng Chiim (Sự
Sống) cũng chỉ số nhiều và thường
kết hợp với nó. Trong kinh Tạo thiên Lập Địa (Sepher Yetzireh) cũng
như trong nhiều quyển kinh khác có câu này
“Achath-Ruach-Elohim-Chiim”, ư nghĩa của câu này là
Thượng Đế Sáng Tạo (Elohim) trên cương
vị cùng lắm là có lưỡng tính, nhưng yếu
tố thuộc về nữ tính chiếm ưu thế
nhất, và câu này được đọc như vầy:
“Ngài là số MỘT, là Tinh Thần của Thượng
Đế Sáng Tạo (Elohim) của Sự Sống”. Như
đă nói, tiếng Achath (hay là Echath) thuộc giống cái và
tiếng Achad (hay là Echad) thuộc giống đực,
nhưng cả hai đều có nghĩa là số MỘT (ONE).
Vả chăng, trong các khoa siêu h́nh học
Huyền bí (Occult metaphysics), nói cho đúng th́ có hai số
“MỘT” - số “Một” thứ nhất chỉ cái
Tuyệt Đối (Absoluteness) và Vô Cùng (Infinity) ở trên
cơi không thể đạt tới, ở trên cơi mà
người ta không thể suy lư được; c̣n số
“Một” thứ nh́ ở trên cơi của những Phân Thân
(plans of Emanations). Con số trước không thể sinh ra,
cũng không thể bị phân chia, v́ nó trường cửu,
tuyệt đối và bất di bất dịch; nhưng con
số thứ Nh́ có thể nói là phản ánh của số
Một Đầu Tiên (v́ nó chính là Thượng Đế
Ba Ngôi (Logos) hay là Thượng Đế hữu h́nh (Ishvara)
trong bầu Vũ Trụ Ảo Tưởng), có thể
biểu hiện. Nó tự sinh ra - giống như là Tam
Thể Sáng Tạo (Sephirothal Triad) trên cao, từ đó
bảy Đấng Sáng Tạo (Sephiroth) ở dưới
thấp được sinh ra - tức là bảy Cung hay
bảy vị Thiền Định Đế Quân; nói
một cách khác, cái đồng nhất trở thành cái
dị biệt (Homogenous becomes the Heterogenous), cái Nguyên h́nh chất
(Protyle) phân hoá ra từng nguyên tố. Nhưng nếu
những nguyên tố này không trở về nguyên tố khởi
thuỷ, th́ chúng không thể nào vượt ra khỏi
Điểm trung hoà (Laya) hay là điểm không (zero-point).
Giáo điều siêu h́nh học này khó ḷng có thể
được diễn đạt hay hơn những bài
diễn thuyết của ông T. Subba Row về Chí Tôn Ca (Bhagavad Gita):
Hỗn Nguyên Khí
(Mulaprakriti) {là tấm màn che Bản Thể Tối Thiêng Liêng
(Parabrahman)}, tác động như một năng
lượng duy nhất xuyên qua Thượng Đế Ba
Ngôi (Logos) hay Thượng Đế hữu h́nh (Ishvara). Bây
giờ Bản Thể Tối Thiêng Liêng (Parabraman).. là nguyên
thể duy nhất mà từ đó một trung tâm năng
lượng bắt đầu biểu lộ, cái mà
hiện nay tôi sẽ gọi là Thượng Đế Ba
Ngôi (Logos)… Ngài được gọi là Thượng
Đế Ngôi Lời (Verbum).. như tín đồ Thiên Chúa
giáo đă gọi và đó là Đấng Thánh Thiện
(Christos) thiêng liêng ở đời đời trong ḷng Đức
Chúa Cha. Bản thể này cũng được tín
đồ Phật giáo gọi là Quán Thế Âm (Avalokiteshvara)
.. Trong hầu hết mọi giáo lư, họ đă đào
luyện ra sự biểu hiện của một trung tâm
năng lượng Tinh Thần bất sinh và trường
cửu, và trong thời gian của chu kỳ hỗn nguyên, nó
biểu hiện trong ḷng của Bản Thể Tối Thiêng
Liêng (Parabraman) và khởi sự như một trung tâm
năng lượng của tâm thức vào lúc vũ trụ
hoạt động…. ([404])
Đó là v́ như diễn giả đă nói
trong lời mở đầu, Bản Thể Tối Thiêng
Liêng không phải là cái này, cũng không phải là cái kia, nó
cũng không phải là tâm thức, v́ nó không liên quan
đến vật chất hay bất cứ vật ǵ có
điều kiện. Nó không phải là Chơn Ngă (Ego),
cũng không phải là phi ngă (Non-Ego), cũng như không
phải là Tiên Thể (Atma), mà thực sự nó là nguồn
gốc duy nhất của tất cả những sự sáng
tạo và những cách biểu hiện.
189
V́ vậy, trong sự ngụ ư này, Đấng
Lipika phân chia cơi giới Tinh thần với cơi vật
chất. Những kẻ “xuống và lên”, tức là những
Chơn Thần đi đầu thai xuống hạ
giới và những người cố gắng công phu tu
luyện để tiến lên nhưng vẫn chưa
đạt tới đích. Họ chỉ có thể
vượt qua Ṿng “Giới Hạn” (“Pass Not”) vào ngày
“Đến Với Chúng Ta” (“Be With Us”), là ngày mà con
người, khi đă tự giải thoát khỏi những
trói buộc của vô minh và hoàn toàn nhận thức
được sự đồng nhất của bản
thể linh hồn (hay Chơn Ngă) với ĐẠI NGĂ
VŨ TRỤ (UNIVERSAL EGO), bèn sáp nhập với Đại
Ngă để không những hợp nhất “với Chúng Ta”
(tức những sinh vật biểu lộ trong vũ
trụ gồm thành Sự Sống “DUY NHẤT”) mà c̣n
trở thành chính Sự Sống ấy.
Theo quan điểm của Thiên văn
học, “Ṿng Giới Hạn” mà Đấng Lipika vạch ra
để bao bọc chung quanh h́nh tam giác, cái Thứ
Nhất, Khối Lập Phương (the Cube), cái Thứ
Nh́, và Khối Năm Góc (Pentacle), được nêu ra
như trên để tŕnh bày con số biểu tượng
31415, tức hệ số Pi (π) luôn luôn được
dùng đến trong toán học. Những h́nh học nêu trên
tượng trưng cho những con số. Theo giáo lư
triết học đại cương, Ṿng này ở ngoài
khu vực của cái được gọi là tinh vân trong
Thiên văn học. Nhưng đấy cũng là một quan
niệm sai lầm như quan niệm về địa h́nh
và sự diễn tả về 1.008 bầu thế giới
của những thế giới và những bầu trời
thuộc về nơi ở của những vị Thần
linh (Deva-loka) mà kinh Purana và
những kinh sách công truyền khác đưa ra. Dĩ nhiên,
trong giáo lư bí truyền, cũng như theo lời dạy
của khoa học phàm tục, có những thế giới
cách xa ta vô cùng đến nỗi mà mặc dù chỉ mới
vừa đạt tới những người Căn
Đê hiện tại của chúng ta, ánh sáng của thế
giới gần nhất, có thể rời khỏi nguồn
ánh sáng gốc trước ngày mà người ta tuyên bố
“Hăy để cho Ánh Sáng xuất hiện”; nhưng những
bầu thế giới này không phải là những bầu
thế giới ở trên cơi của các vị Thần Linh
ở trong Vũ Trụ của chúng ta.
Nhà hoá học chuyển đến
điểm trung hoà (laya) hay điểm không của cơi
vật chất, mà y bàn tới, rồi dừng ngang lại.
Nhà vật lư học hay nhà thiên văn học tính
được đến hàng triệu triệu dặm Anh
ở bên kia các Tinh Vân, nhưng rồi cũng ngừng
lại. Điểm trung hoà này cũng sẽ
được nhà huyền bí học được
điểm đạo bán chính thức tŕnh bày như là
vừa biểu hiện trên một vài cơi nào đó, nếu
không phải là cơi trần th́ cũng là cơi mà trí con
người có thể nhận thức được.
Nhưng một người được điểm
đạo hoàn toàn biết rơ rằng Ṿng “Giới Hạn”
này không phải là một vùng, cũng không có khoảng cách
nào đó để đo được, nhưng biểu
hiện trong tính tuyệt đối của Vô Cùng.
Đối với người được Điểm
Đạo hoàn toàn, cái “Vô Cùng” này không có bề cao, không có
bề rộng, cũng không có bề dày, nhưng tất
cả chỉ là cái vực sâu không ḍ được, từ
“cái siêu h́nh vô hạn” (“para-metaphysical”)([405])
xuống cho đến cái hữu h́nh. Khi dùng tiếng
“xuống” này, người ta có ư nói cái vực thẳm
chủ yếu – “ở khắp nơi” và “không ở chỗ
nào cả” - chứ không phải cái vực sâu của
vật chất hữu h́nh.
190
Nếu một người nào chịu khó
khảo sát một cách cẩn thận về các điều
ngụ ư của nhân thần đồng h́nh thô kệch và
thuộc về công truyền của những tôn giáo dân gian
(popular religions) th́ cái ṿng tṛn “Giới Hạn” vốn là
hiện thân giáo lư của các tôn giáo này và được các
vị Cầm Cân Nhân Quả canh giữ, có thể
được họ nhận thức ra một cách lờ
mờ. Như vậy, ngay cả trong giáo lư của chi phái
Vedanta Phi Nhị Nguyên (Vishishtadvaita), trên toàn thể
nước Ấn Độ, đó là giáo lư nhân thần
đồng h́nh kiên tŕ gắn bó nhất, ta cũng thấy
điều này, v́ chúng ta có đọc đoạn nói về
sự giải thoát của linh hồn, sau khi nó đạt
được trạng thái giải thoát (Mosksha) - một
trạng thái chân phúc, có nghĩa là “sự giải phóng
được những ràng buộc trên thế gian này
(Bandha)”, hay là thân phận nô lệ của con người –
linh hồn hưởng chân phúc ở một nơi
được gọi là Paramapada (cơi Cực Lạc), nơi
không thuộc về cơi vật chất, nhưng
được làm bằng Nguyên Thể Rực Sáng Vô H́nh
(Shuddasattva hay Suddasatwa) tức là cái nguyên thể dùng
để tạo ra thân thể của Thượng Đế
hữu h́nh (Ishvara), tức là “Đấng Cao Cả” (“Lord”)
trên thế gian này. Khi người nào đă đạt
được trạng thái siêu thoát rồi (Moksha), họ
chính là những vị Muktas (những Linh Hồn
được giải thoát) hay là những Linh Hồn thiêng
liêng (Jivatmas) tức là những Chơn Thần (Monads),
ở cơi đó các Ngài không c̣n chịu ảnh hưởng
của những đặc tính của vật chất hay là
những đặc tính của Nhân Quả nữa (Karma).
Nhưng nếu các Ngài muốn
v́ mục đích phụng sự thế gian, các Ngài có
thể hoá thân trên trần thế ([406]).
Con đường đưa tới cơi Cực Lạc
(Paramapada), hay là con đường đưa tới cơi phi
vật chất, xuất phát từ thế gian này,
được gọi là con đường thần linh
(Devayana). Khi một người đạt được
trạng thái siêu thoát (Moksha) và thể xác của họ
chết:
….Điểm Linh Quang (Jiva hay là Linh Hồn)
mang theo Thể Tinh Anh (Sukshma
Sharira)([407])
đi từ trái tim của thể xác, xuyên qua Trung Quang
tuyến (Sushumna), một dây thần kinh nối liền
quả tim với đỉnh đầu, rồi đi
khỏi bí huyệt ở đỉnh đầu (Brahmaranda).
Điểm Linh Quang này (Jiva) vượt ra khỏi
đỉnh đầu và theo những tia sáng đi vào vùng
Mặt Trời (Suryamandala). Rồi nó đi xuyên qua một
nơi tối tăm trong vùng Mặt Trời để
đi vào cơi Cực Lạc (Paramapada)… Điểm Linh Quang
này (Jiva) được điều khiển đúng
đường… là những Minh Triết Thiêng Liêng hoạch
đắc bằng pháp môn Thiền định (Yoga) ([408]).
Như vậy Điểm Linh Quang này tiến về cơi
Cực Lạc (Paramanpada) nhờ sự hỗ trợ
của những vị Adhivahikas (những người mang
chuyển đi – bearers in transit) mà người ta
được biết dưới nhiều danh hiệu
khác nữa là những vị Archis, những vị Ahas…
những vị Aditya… những vị Prajapatis… Những vị
Archis [v.v…] được
đề cập ở đây, là một vài Linh Hồn trong
sạch vv…([409]).
Không một Đấng nào ngoài các
Đấng Cầm Cân Nghiệp Quả (Lipika) đă
từng hoặc đă vượt qua Ṿng “Giới Hạn”
từ nay cho đến ngày bắt đầu chu kỳ Qui
Nguyên mới (next Pralaya), v́ nó là biên giới cách biệt cái
Hữu Hạn với cái VÔ CÙNG. Như vậy, những
vị “lên và xuống” nói trên là tập thể các
Đấng mà ta gọi là Thiên Thần. Nhưng thực ra
các Ngài là những Đấng Cao Cả, ngự trên các cơi
cao, rất cao trên giai tầng thượng đẳng
đến nỗi chúng ta quan niệm toàn thể các Ngài
như là hiện thân của Thượng Đế.
Nhưng trên qui mô những khả năng đặc
biệt của ḿnh, loài kiến cũng phải thấy
đám thế nhân chúng ta như vậy. V́ tất cả
chúng ta đă biết rằng con kiến này cũng có
thể thấy ngón tay báo thù trong bàn tay của một
đứa bé tinh nghịch là hiện thân của
Thượng Đế có phàm tính; trong một lúc nào đó,
do một sự thúc đẩy của ác tâm, đứa bé
này đă phá hỏng cái ổ kiến đă phí mất
nhiều tuần lễ cực nhọc xây dựng – theo niên
biểu kư của loài sâu bọ th́ đó là nhiều năm
dài. Con kiến, vốn cũng có cảm xúc tinh vi về
sự kiện đó, có thể bắt chước con
người đổ lỗi cho Đấng Hoá Công và
tội ác đă đồng loă tạo ra tai hoạ oan
uổng này và thấy trong tai hại này hậu quả
tội lỗi của ông cha nó tạo ra. Ai biết và ai có
thể xác nhận hay phủ nhận? Trong toàn thể
191
Thái Dương Hệ này, trên cơi của nhân
loại, sự từ chối chấp nhận bất
cứ một sinh vật nào khác con người mà lại có
lư luận và có trí tuệ, chính là một sự kiêu ngạo
trọng đại nhất trong thời đại chúng ta.
Khoa học chỉ có quyền xác nhận rằng không có
những sinh vật trí khôn và vô h́nh hiện sống trong
những hoàn cảnh tương tự như chúng ta hiện
sống. Nó không thể phủ nhận thẳng thừng
việc có thể có những thế giới ở trong
bầu thế giới, ở trong điều kiện hoàn
toàn khác với những điều kiện cấu tạo
nên bản chất của bầu thể giới của
chúng ta; nó cũng không thể nào phủ nhận việc có
thể có một vài sự giao tiếp hữu hạn
giữa một vài bầu thế giới này với bầu
thế giới riêng của chúng ta.
Emmanuel Kant, triết gia vĩ đại sinh
trưởng tại Âu Châu, đă quả quyết với
chúng ta rằng, chắc chắn có sự thông thương
thực sự này.
Tôi xin thú nhận rằng tôi có khuynh
hướng xác nhận sự hiện tồn của
những sinh vật phi vật chất của thế
giới này, và tôi cũng đặt linh hồn của riêng
tôi vào hạng sinh vật này. Từ đó trở đi, tôi
không biết ở đâu hay lúc nào, tuy nhiên, người ta
sẽ chứng tỏ rằng linh hồn của con
người trong đời sống này vẫn có một
sự liên quan vật chất trong thế giới của
các thần linh, nó có sự tác động hỗ
tương với các sinh vật này và nó cũng tiếp
nhận ảnh hưởng của những sinh vật này
([410]).
Chúng ta được dạy rằng trong
bầu thế giới cao nhất [của các bầu
thế giới này] là chỗ ngự của bảy thứ
bậc của các vị Thần hoàn toàn thiêng liêng; sáu
hạng thấp hơn là trú sở của những Giai
cấp thần linh mà con người có dịp thấy và
nghe nói đến, các vị này cũng có tiếp xúc với
con cháu trên Địa Cầu này; một ḍng dơi có liên hệ
với các vị này, mỗi Khí thể trong con người
có nguồn gốc trực tiếp nơi bản chất
của những sinh vật vĩ đại này, họ
đă lần lượt cung cấp cho ta những nguyên
tố vô h́nh trong người chúng ta. Khoa học hữu h́nh
cứ việc suy lư về cơ năng sinh lư của các
sinh vật, và theo đuổi những cố gắng vô
hiệu để thử phân giải những t́nh cảm
(feeling), những cảm xúc (sensations) của tư
tưởng và tinh thần chúng ta thành những tác dụng
của phương tiện hữu cơ. Tuy nhiên, khoa
học không thể nào tiến xa hơn nữa, v́ tất
cả mọi điều đó sẽ luôn luôn
được hoàn tất theo hướng đă
định sẵn. Ở trước bức tường
cùng này (a dead wall), khoa học chỉ tưởng
tượng ra những khám phá vĩ đại về sinh
lư học và tâm linh, mà nó c̣n truy nguyên ra trên bức
tường này, mọi sự khám phá ấy sẽ
được chứng minh sau này là không hơn ǵ những
mạng nhện do sự không tưởng và ảo tưởng
của khoa học dệt thành. Chỉ có những mô của
cơ thể khách quan của chúng ta mới bị khoa sinh lư
học phân tích và khảo sát. C̣n sáu Khí thể (nguyên khí) cao
hơn, th́ bàn tay của khoa học không bao giờ t́m ra
được, v́ nó do ư lực hướng dẫn, mà ư
lực này lại cố ư không biết tới và phủ
nhận Khoa học Huyền bí. Tất cả những
cuộc khảo sát của khoa sinh lư học hiện
đại liên quan tới những vấn đề tâm lư
học đều chứng minh rằng, mỗi tư
tưởng, mỗi sự cảm xúc và mỗi t́nh cảm
đều có kèm theo sự phối hợp của những
phân tử của một vài dây thần kinh (do bản
chất của sự vật). Những nhà khoa học
thuộc loại Buchner, Vogt và nhiều nhà khoa học khác
đă kết luận rằng, tư tưởng là sự
vận chuyển của các phân tử, kết luận này
cần có kết quả là tâm thức chủ quan của
chúng ta được biến thành trừu tượng
trọn vẹn.
192
Như vậy, Ngày Vĩ Đại “Ở
VỚI CHÚNG TA” (“BE WITH US”) là một câu mà công trạng độc
nhất ở nơi việc dịch từng chữ. Ư
nghĩa này không dễ ǵ tiết lộ cho công chúng, v́
họ chưa hiểu được giáo lư bí ẩn
của Huyền bí học, hoặc đúng hơn là của
Minh Triết Bí Truyền (Esoteric Wisdom) hay là của “Minh
Triết giáo” (“Budhism”). Đối với giáo lư sau này, nó là
một câu đặc biệt. Đối với
người ngoại đạo th́ nó cũng mập mờ
như một câu nói của người Ai Cập, họ
gọi nó là “NGÀY ĐẾN VỚI CHÚNG TA” (“DAY COME TO US”),
câu này cũng giống câu trước – dù tiếng “ở”
(“be”) trong ư nghĩa này có thể c̣n được thay thế
bằng hai ngôn từ khác nữa “ở lại” (“remain”) hay
là “ở lại với chúng ta” (“rest with us”). Ngày Đại
Nhật “đến với chúng ta” theo ư nghĩa ẩn
giấu của Huyền môn, là thời kỳ yên nghỉ
trong niềm phúc lạc vô biên gọi là Đại Niết
Bàn (Paranirvan). “Ngày đến với chúng ta” chính là ngày mà
thần Osiris (Thượng Đế Sáng Tạo Ngôi
Một của Ai Cập) đă nói với Thần Thái
Dương: “Hăy lại đây! Ta đă thấy y gặp
được Thần Thái Dương trong Vương
quốc các Thần linh (Amenti)” ([411]).
Ở đây, Thần Thái Dương tượng trưng
cho Thượng Đế Ba Ngôi (Logos hay là Đấng Hoàn
Thiện – Christos – hay là thần Horus), như là Nguyên Thể
có tính cách tổng hợp (the central Essence synthetically) và
như là một nguyên thể để khuếch tán (diffused
essence) của những Thực Thể được
xạ ra, khác nhau về vật chất, nhưng không khác
nhau về tinh hoa của vật chất. Như một
diễn giả của Chí Tôn Ca
đă diễn tả: “không được giả sử
là Thượng Đế Ba Ngôi (Logos) chỉ là một trung
tâm năng lượng duy nhất được Bản
Thể Tối Thiêng Liêng biểu lộ. Tuy nhiên, c̣n có một
số trung tâm năng lượng khác nữa, trong ḷng
Bản Thể Tối Thiêng Liêng, con số trung tâm này
thật là vô cùng”. Từ đó mới có những câu này “Ngày
Đến Với Chúng Ta” và “Ngày Ở Với Chúng Ta” v..v..
Cũng như H́nh Vuông là Biểu Tượng của
Bốn Động Lực hay là Bốn Quyền Năng
thiêng liêng - tức là Tứ Linh Diệu (Tetraktys) – cũng
vậy, Ṿng Tṛn chỉ biên cương ở bên trong Vô Cùng
mà không có người nào, cũng không có vị thần
(spirit) hay thần linh (deva) nào hay là vị Thiền
Định Chơn Quân nào (Dhyan Chohan) có thể vượt
qua được. Trong suốt chu kỳ tiến hoá,
những vị thần linh của các Đấng “đi
xuống đi lên”, sẽ vượt qua “bầu thế
giới được bao bọc bằng sắt”
(“iron-bound world”), chỉ vào ngày mà các Ngài tiến tới
ngưỡng cửa của cơi Đại Niết Bàn.
Nếu các Ngài đạt được cơi Đại
Niết Bàn, các Ngài sẽ nghỉ trong ḷng của Bản
Thể Tối Thiêng Liêng (Parabraman), hay là cả “Bóng Tối
Vô Tri” (“Unknown Darkness”), đối với tất cả các
Ngài, bây giờ, cái này sẽ trở thành ánh sáng, trong
thời của Đại Chu Kỳ Hỗn Nguyên
(Mahapralaya), “Đêm Vĩ Đại” nghĩa là
311.040.000.000.000 năm bị hấp thụ vào Bản
Thể Thiêng Liêng (Brahman). Ngày “Ở LẠI VỚI CHÚNG TA”
là giai đoạn nghỉ ngơi này, là cơi Đại
Niết Bàn (Paranirvana). Xét theo tín đồ Thiên Chúa giáo, nó
cũng tương ứng với ngày Phán Xét Cuối Cùng mà
trong tôn giáo này, người ta lại duy vật hoá một
cách đáng buồn ([412]).
193
Cũng như theo sự giải thích công
truyền về nghi lễ của người Ai Cập,
linh hồn của mọi người quá văng - từ
một vị Đạo Trưởng (Hierophant) xuống
tới con ḅ thiêng Apis (Hoá Thân của Osiris) - đều trở
thành một vị Thần Osiris, sẽ được
Osiris hoá, (tuy nhiên, Giáo Lư Bí Truyền dạy rằng sự
Osiris hoá này chỉ là số mạng của mỗi Chơn
Thần (Monad) sau 3.000 chu kỳ của Kiếp Sống mà
thôi). Trường hợp hiện nay cũng vậy,
Chơn Thần sinh ra với bản thể (nature) và chính
Nguyên Thể (Essence) của “Số Bảy” (Khí thể cao
nhất của nó được đặt vào Nguyên Tố
Thứ Bảy của Càn Khôn), cũng phải thực
hiện sự hồi chuyển bảy lần xuyên qua Chu kỳ
của Sự Sống và Chu kỳ của Sắc Tướng,
từ cái cao nhất đến cái thấp nhất; rồi
một lần nữa từ con người cho đến
Thượng Đế. Trước ngưỡng cửa
của Đại Niết Bàn, Chơn Thần lại
nhận lấy Nguyên Thể đầu tiên và một
lần nữa nó trở thành cái Tuyệt Đối.
ĐOẠN THÁNH KINH 6
(STANZA 6)
1. NHỜ UY LỰC
CỦA ĐỨC MẸ TỪ BI VÀ MINH TRIẾT (a),
ĐỨC QUÁN ÂM (KWAN-YIN) – “TAM NGUYÊN” (“TRIPLE”) CỦA QUÁN
THẾ ÂM (KWAN-SHAI-YIN), NGỰ NƠI QUAN ÂM THIÊN (KWAN-YIN-TIEN) (b)
– FOHAT, HƠI THỞ CỦA CON CHÁU CÁC NGÀI, CON CỦA
NHỮNG NGƯỜI CON, ĐĂ KHIẾN CHO H̀NH HÀI ẢO
TƯỞNG (ILLUSIVE FORM) CỦA SIEN-TCHAN CÙNG BẢY NGUYÊN
TỐ (SEVEN ELEMENT) ĐƯỢC THÀNH H̀NH TỪ CƠI HỖN
MANG (THE LOWER ABYSS).
Đoạn Thánh Kinh này được
dịch từ những tác phẩm của người Trung
Quốc và những danh từ được đưa ra
ở đây như là những tiếng tương
đương với những ngôn từ gốc vẫn
được giữ nguyên. Bảng thuật ngữ bí
truyền này không thể được đưa ra ở
đây v́ nó chỉ làm cho độc giả rối trí thêm
thôi. Giáo lư Bà La Môn không có những danh từ tương
đương như thế. Chữ Vach, vị
Thượng Đế Sáng Tạo có nữ tính, về
nhiều phương diện, dường như gần
giống với tiếng Quan Âm (Kwan – Yin) của
người Trung Hoa, nhưng ở Ấn Độ danh
hiệu Vach không được tôn sùng thường xuyên
như tiếng Kwan-Yin bên Trung Hoa. Không có một hệ
thống tôn giáo công truyền nào đă từng nh́n nhận
một Đấng Hoá Công có nữ tính, và như vậy,
từ lúc khởi sự có những tôn giáo trong dân gian, th́
người đàn bà đă bị đối xử và xem
như thấp hèn hơn người đàn ông. Chỉ
ở Trung Quốc và Ai Cập là Đức Từ Mẫu
(Kwan-Yin) và Đức Mẹ Đồng Trinh (Isis)
được đặt ngang hàng với các vị nam
thần. Thuyết bí truyền không cần biết tới
cả hai nam nữ tính này. Đấng Thiêng Liêng cao nhất
th́ vô giới tính và phi sắc tướng, không có Cha
cũng như không có Mẹ, và những sinh vật
được sáng tạo đầu tiên của
Đấng Thiêng Liêng này, ở trên trời cũng như
ở dưới thế gian, dần dần trở thành có
lưỡng tính và sau cùng tách ra làm hai giới tính rơ rệt.
(a) “Đấng Từ Mẫu Đại
Từ Bi và Minh Triết” được gọi là “Tam Nguyên”
(“Triple”) của Quan Thế Âm, bởi v́ trong những liên
hệ siêu h́nh và thần bí, Ngài là “Từ Mẫu (Mother),
Hiền Phụ (Wife) và Thánh Nữ (Daughter)” của Diệu
Âm (Logos), cũng như theo sự diễn dịch về sau
này, th́ Ngài trở nên “Đấng Cha, Đấng Con và
Đấng Thánh Linh (nữ)” – Shakti hay Tinh Lực (Energy)-
tức là Tinh Hoa của cả Ba Ngôi kể trên. Như
vậy, trong Thuyết bí truyền của người
Phệ Đàn Đà (Vedantins), chữ Daiviprakriti (Ánh Sáng
Nguyên Thuỷ), là ánh sáng biểu lộ xuyên qua Thượng
Đế hữu h́nh (Ishvara), tức Thượng
Đế Ba Ngôi (Logos) ([413])
vừa là Mẹ vừa là Con Gái của Thượng
Đế Ba Ngôi, hay là Ngôi Lời (Verbum) của Bản
Thể Tối Thiêng Liêng (Parabrahman), trong khi đó, theo
hệ thống thần phổ học ngụ ư và siêu h́nh
của nội môn bí giáo ở bên kia dăy Hy Mă Lạp Sơn,
nó là “ĐỨC MẸ” hay là một thứ vật chất
lư tưởng trừu tượng, Hỗn Nguyên Khí
(Mulaprakriti), cội rễ của thiên nhiên; c̣n đứng
trên quan điểm siêu h́nh, th́ nó có liên quan tới Bản
Thể đầu tiên (Adi-Bhuta)([414]),
Đức Quán Thế Âm (Avalokiteshvara), được sáng
tạo trong ḷng Thượng Đế Ba Ngôi. Đứng
trên quan điểm Huyền môn và vũ trụ học
thuần tuư, th́ nó là Fohat, “Đứa Con của Đứa
Con”, năng lực lưỡng tính do “Ánh Sáng của
Thượng Đế Ba Ngôi” tạo ra nó biểu lộ
trên cơi của bầu Vũ Trụ khách quan này như
một thứ Điện Khí bí ẩn, cũng như trong
thứ điện khí sẽ được tiết lộ
- đó chính là SỰ SỐNG. Đức T. Subba Row đă
nói:
194
“Sự tiến hoá được bắt
đầu là do năng lượng trí tuệ của
Thượng Đế Ba Ngôi (Logos),…chứ không…do những
tiềm năng chứa trong Hỗn Nguyên Khí (Mulaprakriti)… Ánh
Sáng này của Thượng
Đế Ba Ngôi là sợi dây liên kết… giữa vật
chất khách quan và tư tưởng chủ quan của
Thượng Đế hữu h́nh (Ishvara hay là Logos). Nhiều kinh sách Phật giáo
gọi sợi dây này là Fohat.
Nó là dụng cụ duy nhất mà Thượng
Đế dùng để tạo ra tất cả ([415]).
(b) Quán Âm Thiên (Kwan-Yin-Tien) là cơi ngự
trị của Đức Quán Âm hay Thiên Âm, dịch sát
nghĩa là “Âm Thanh Của Trời” (“Divine Voice”), “Âm Thanh” này
vốn đồng nghĩa với Ngôi Lời (Verbum); “Ngôn
Ngữ” của sự biểu lộ của Tư
Tưởng. Như vậy, tiếng này được truy
nguyên như có sự hỗ tương và cùng có một
nguồn gốc với tiếng Bath-Kol của người
Hy Bá Lai, là “Con Gái của Tiếng Nói Thiêng Liêng” (“Daughter of
the Divine Voice”), hay là Ngôi Lời (Verbum) hay Thượng
Đế Ba Ngôi có nam nữ tính, là “Con Người của
Trời” (“Heavenly Man”) hay là vị Thuỷ Tổ nhân
loại (Adam Kadmon). Ngài đồng thời cũng là một
vị thần sáng tạo (Sephira). Vach (Thượng
Đế có nữ tính) của người Ấn
Độ chắc chắn là có trước Sephira và chính là
vị thần của Ngôn Ngữ hay nữ thần của
Lời Nói. V́ Vach – như đă được người
ta diễn tả, chính là Con Gái của Thượng
Đế có nam tính (Brahma) và một thành phần nữ tính
của Ngài, một người “do các vị thần linh
sinh ra” – cùng với Quan Âm (Thượng Đế có nữ
tính), với Isis (cũng có nghĩa là con gái, vợ và chị của thần Osiris) và
nhiều vị nữ thần khác, chính là Thượng
Đế Ba Ngôi có nữ tínhh (female Logos), tạm gọi
như vậy; đó là nữ thần của quyền
năng tích cực trong Thiên
Nhiên, Lời Nói, Tiếng Nói hay Âm Thanh và Ngôn Ngữ. Nếu
Kwan-Yin là “Tiếng Nói du dương”, th́ Vach cũng có
nghĩa là “con ḅ dễ thương, nó tạo ra chất
bổ dưỡng và nước [nguyên lư có nữ tính – the
female principle]… chính nó ban cho chúng ta thức ăn và thức
uống”, trên cương vị là Mẹ của Thiên Nhiên.
Người đă hợp tác với những thuỷ
tổ nhân loại (Prajapati) trong thời kỳ tạo thiên
lập địa. Người vừa đàn ông, vừa
đàn bà tuỳ ư (ad libitum)
giống như bà Eve và ông Adam. Và người là một
dạng của Aditi (trạng thái trừu tượng
của Bản Thể Tối Thiêng)- là khí thế cao hơn
Aether – là một dạng chất Tiên Thiên Khí (Akasha), là
tổng hợp của tất cả những mănh lực
trong Thiên Nhiên. Vậy, Vach và Kwan-Yin là hai cái tiềm tàng
kỳ diệu của Âm Thanh huyền bí trong Thiên Nhiên và
Aether – “Tiếng Nói” của nó phát khởi Sien Chan (cơi Chân
Phúc), h́nh dáng ảo tưởng của bầu Vũ
Trụ, từ Hỗn Mang và Bảy Nguyên Tố này.
V́ vậy, trong kinh Bàn Cổ (Manu), Đức Thượng Đế
Sáng Tạo có nam tính (Brahma) (cũng là Thượng
Đế Ba Ngôi) được chứng minh là phân chia thân
thể của Ngài ra làm hai phần nam và nữ và sáng
tạo trong phần nữ, đó là Thượng Đế
sáng tạo có nữ tính (Vach), Đức Thượng
Đế có nam tính (Viraj) mà một lần nữa, chính là
Đức Thượng Đế sáng tạo có nam tính
(Brahma). Một nhà Huyền bí học danh tiếng Vedanta
đă nói như sau về “vị nữ thần” này,
để giải thích lư do tại sao Đức
Thượng Đế hữu h́nh (Ishvara) hay là Thượng
Đế sáng tạo có nữ tính (Brahma) được
gọi là Ngôi Lời (Verbum) hay là Thượng Đế Ba
Ngôi (Logos); thực vậy, v́ sao Ngài được gọi
là Thượng Đế vô hiện (Sabda Brahman):
Lời giải thích mà tôi sắp sửa
đưa ra cho bạn là một lời giải thích
rất bí ẩn; nhưng dù bí ẩn, nó vẫn có ư nghĩa
phi thường khi được người ta hiểu
biết đúng đắn. Những nhà văn xưa
của chúng ta nói rằng Vach có bốn loại… [xem kinh Rig Veda và Áo Nghĩa Thư (Upanishad)]. Cái mà chúng ta muốn
bày tỏ là Vaikhari Vach. Mỗi loại của Tiếng Nói
Bày Tỏ (Vaikhari Vach) biểu hiện trong cái không có
khởi thuỷ cũng không có cáo chung
195
(Madhyama), hơn nữa là ở trong âm thanh
bị phân hoá (Pashyanti) và cuối cùng là ở trong h́nh dáng vô
cùng (
2. ĐỨC DUY
NHẤT NHANH LẸ VÀ SÁNG CHÓI PHÁT SINH BẢY TRUNG TÂM BIẾN
THỂ (SEVEN LAYA ([418])
CENTRES) (a), MÀ KHÔNG MỘT AI CÓ THỂ CHIẾN THẮNG
ĐƯỢC CHO ĐẾN NGÀY VĨ ĐẠI
“ĐƯỢC HỢP NHẤT VỚI THƯỢNG
ĐẾ” (“BE WITH US”); VÀ ĐẶT VŨ TRỤ LÊN TRÊN
NHỮNG NỀN MÓNG VĨNH CỬU ĐÓ (ETERNAL FOUNDATIONS),
BAO QUANH VŨ TRỤ (SIEN-CHAN) VỚI NHỮNG MẦM
MỐNG SƠ KHAI (ELEMENTARY GERMS) (b).
(a) Bảy Trung Tâm Laya là bảy điểm
số không (dùng danh từ số không theo ư nghĩa hoá
học) để chỉ một điểm mà theo
Huyền môn, là nơi bắt đầu mọi giai tầng
biểu lộ và phân hoá. Ngoài những trung tâm này, triết
học nội môn cho phép ta nhận thức những nét khái
quát siêu h́nh của “Bảy Người Con” (“Seven Sons”)
của Sự Sống và Ánh Sáng tức là Bảy
Đấng Huyền Thiên (Seven Logoi) của phái Hermetic và
của tất cả những triết phái khác. Từ
những trung tâm đó bắt đầu sự phân hoá
của Nguyên Tố cấu tạo nên Thái Dương
Hệ. Thông thường, người ta hỏi những
quyền năng và chức năng của Vô cực
điện (Fohat) được định nghĩa chính
xác như thế nào, v́ những tín ngưỡng dân gian cho
rằng Fohat dường như thực thi những
quyền năng giống như vị Thượng
Đế nhân h́nh (Personal God). Chắc chắn câu giải
đáp này đă được đưa ra trong lời b́nh
luận về ĐOẠN THÁNH KINH 5 (STANZA 5). Như đă
tŕnh bày rơ ràng trong những bài Giảng lư quyển Bhagavad Gita, “toàn thể vũ
trụ đương nhiên phải có sẵn trong nguồn
gốc tinh lực duy nhất từ đó xuất phát
điện lực Fohat”. Dù chúng ta đếm những khí thể
trong Vũ Trụ hay con người là bảy, hay chỉ có
bốn, những mănh lực trong Thiên Nhiên vẫn là Bảy.
Cũng diễn tả ấy nói rằng: “Prajna hay là khả
năng nhận thức, cũng có bảy trạng thái khác
nhau tương ứng với bảy trạng thái của
vật chất”. Bởi v́, “cũng như con người
có bảy nguyên khí, vật chất ngoại tại trong thái
dương hệ có bảy trạng thái khác nhau” ([419]).
Fohat cũng vậy. Như đă biết, Fohat có vài
nghĩa. Nó được gọi là “Nhà Kiến Tạo
của những Nhà Kiến Tạo”, Thần Lực mà nó
nhân cách hoá tạo nên Bảy Thất Phân của chúng ta. Nó là
Một và Bảy. Trong vũ trụ, nó vốn là cái thực
thể ẩn vi của tất cả những mănh lực
biểu lộ như ánh sáng, nhiệt lực, âm thanh, mănh
lực hàn gắn, co rút, v.v.. và là “tinh hoa” (“Spirit”) của
ĐIỆN KHÍ (ELECTRICITY), tức SINH KHÍ (LIFE) của Vũ
Trụ. Với vai tṛ là một thực thể trừu
tượng, nó được gọi là SỰ
196
SỐNG DUY NHẤT (ONE LIFE). Với vai tṛ là một
chân tướng hữu thể ngoại tại, nó
được quan niệm như một giai tầng
biểu lộ có bảy tŕnh độ, bắt đầu
từ tŕnh độ cao nhất với cái NGUYÊN NHÂN Cùng
Tột Bất Khả Tri (One Unknowable CAUSALITY), và kết thúc
với vị thế của Đại Trí Tuệ Vô Sở
Bất Tại (Omnipresent Mind) và Sự Sống tiềm tàng
trong mỗi nguyên tử Vật Chất. Như thế, trong
khi khoa học nói về sự biến hoá của nó xuyên qua
vật chất, như một mănh lực vô tri và vận
động lực vô thức, khoa Huyền môn nói về
ĐỊNH LUẬT Sáng
suốt (Intelligent LAW), thông minh và SỰ SỐNG có Tri Giác (Sentient LIFE) và nói thêm
rằng Fohat là Tinh Thần chủ động, điều
khiển d́u dắt tất cả những cái ấy. Tuy
nhiên, đó không phải là Thượng Đế nhân h́nh ǵ
cả, mà chỉ là phân thân của tất cả các
quyền năng khác ẩn sau Ngài mà các tín đồ Thiên
Chúa giáo gọi là những “Sứ Giả” của
Thượng Đế họ (“Messengers” of their God)
(thực sự đó chính là của những vị thần
sáng tạo (Elohim) hoặc, đúng hơn, là một trong
bảy Đấng Sáng Tạo mà người ta gọi là
những vị Elohim, và chúng ta gọi là “Sứ giả
của những Con đầu tiên của Sự Sống và
Ánh Sáng”.
(b) “Những Mầm Sơ Khai” (“Element Germs”)
mà nó bao phủ Vũ Trụ từ cái Thiên Tính (cái tuyệt
đối) là những Nguyên tử của khoa học và
điểm Nhất Nguyên (Monads) của Leibnitz.
3. TRONG BẢY NGUYÊN
TỐ (ELEMENT) – CÁI ĐẦU TIÊN ĐƯỢC BIỂU
LỘ, SÁU CÁI ĐƯỢC GIẤU KÍN; HAI CÁI
ĐƯỢC BIỂU LỘ, NĂM CÁI ĐƯỢC
GIẤU KÍN; BA CÁI ĐƯỢC BIỂU LỘ, BỐN CÁI ĐƯỢC
GIẤU KÍN; BỐN CÁI ĐƯỢC
TẠO RA, BA CÁI ĐƯỢC GIẤU KÍN; BỐN VÀ MỘT PHẦN (TSAN) ([420])
TIẾT LỘ, HAI VÀ MỘT NỬA BỊ GIẤU KÍN; SÁU
CÁI SẼ ĐƯỢC BIỂU LỘ, MỘT CÁI BỊ
ĐỂ RA MỘT BÊN (a). SAU CÙNG, BẢY BÁNH XE NHỎ XOAY
V̉NG; CÁI NÀY SINH RA CÁI KIA (b).
(a) Tuy rằng những Đoạn Kinh này nói
về toàn thể Vũ Trụ sau, một Chu Kỳ Qui
Nguyên lâu dài (Mahapralaya), câu này cũng nói về sự
tiến hoá và h́nh thành rốt ráo của Bảy Nguyên Tố
sơ khai trên Địa Cầu. Trong số này có bốn
nguyên tố đă hoàn toàn biểu lộ, c̣n cái thứ
năm là chất Dĩ thái (Ether) chỉ biểu lộ có
một phần, v́ chúng ta chỉ mới vừa vượt
qua giai đoạn ở giữa cuộc Tuần Hoàn
Thứ Tư, và do đó, Nguyên Tố thứ năm chỉ
biểu lộ hoàn toàn trong cuộc Tuần Hoàn Thứ
Năm. C̣n bầu Thế Giới gồm luôn Địa
Cầu thuở sơ khai cũng giống như những cái
mầm, biến hoá từ một Nguyên Tố DUY NHẤT
trong giai đoạn thứ nh́, nói theo khoa học là bụi
Vũ Trụ, hay Lửa Sa Mù (Fire – Mist), nói theo Huyền môn
là Akasha, Jivatma, Tinh Quang Thiêng Liêng (Divine Astral Light) hay “Linh
Hồn của Thế Giới” (“Soul of World”). Những giai
đoạn Tiến hoá đầu tiên này đă qua và
tiếp theo là giai đoạn kế đó. Không một
bầu thế giới hay một thiên thể nào có thể
được cấu tạo thành h́nh nếu những
Nguyên Tố không đủ phân hóa đúng mức từ Ilus sơ khai (primeval Ilus), yên nghỉ trong Laya. Chữ sau này là chữ
đồng nghĩa với Niết Bàn. Thật ra, đó là
sự tan ră của tất cả mọi chất liệu
sau một chu kỳ sinh hoạt và hoà hợp trở về
trạng thái sơ khai nguyên thuỷ. Đó là cái bóng sáng
nhưng vô h́nh thể của Vật Chất sơ khai, lănh
vực của bất tại, trong đó tiềm tàng
những Mănh Lực tích cực của Vũ Trụ trong
thời kỳ yên nghỉ.
197
Hiện nay, khi nói đến những Nguyên
Tố này, người ta đều trách các bậc Tiền
bối, v́ họ “đă giả sử rằng những
Nguyên Tố này đơn giản và không thể phân tích
được (undecomposable)”. Bây giờ vong linh của
tổ tiên chúng ta trong thời tiền sử có thể
trả lại lời khen ngợi cho các nhà vật lư
học hiện đại, c̣n những cuộc khám phá
mới về hoá học đă khiến cho Giáo sư W.
Crookes, Hội viên Hiệp Hội Hoàng Gia (F.R.S.) nh́n nhận
rằng khoa học cũng c̣n lâu lắm mới hiểu
được bản chất cấu tạo của
những phân tử đơn giản nhất. Chúng ta c̣n
học ở ông này một điều khác nữa, đó là:
Một phân tử thực hoàn toàn đơn giản
đồng nhất, đối với môn hoá học,
cũng c̣n là vùng đất bí
ẩn (terra incognita). Ông hỏi “Chúng ta phải phân ranh
giới ở đâu? Không lẽ không có cách nào để ra
khỏi sự hoang mang này sao? Chúng ta phải cứng
rắn để cho chỉ có 60 hay 70 ứng viên qua
được những cuộc khảo nghiệm sơ
khởi, hoặc là chúng ta phải mở rộng những
cánh cửa khảo thí đến mức thu nhận toàn
bộ số ứng viên hay sao?” Rồi nhà hoá học danh
tiếng này đưa ra những thí dụ đáng chú ư, ông
nói:
Chúng ta hăy xét trường hợp chất
ít-tri-um (Yttrium). Chất này có trọng lượng nguyên
tử nhất định về mọi phương
diện, nó tác dụng như một nguyên tố, một
đơn chất, thực vậy, đối với
chất này, chúng ta có thể thêm vào mà không thể lấy ra.
Tuy nhiên, chất yttrium này được hoá giải thành
những phần không hoàn toàn giống nhau (khi toàn thể
chất này được giả sử như là
đồng nhất và chịu một phương pháp phân
đoạn nào đó) và biểu hiện một sự phân
cấp đặc tính. Hay là chúng ta hăy xét trường
hợp chất didymium. Đây là một chất phát lộ
tất cả những đặc tính của một nguyên
tố được xác nhận. Người ta có thể
tách chất này ra khỏi các chất khác có những
đặc tính gần giống chất này, trong tiến
tŕnh quyết liệt này, nó đă phải chịu một
cuộc chế hoá rất cẩn thận và sự xem xét
chặt chẽ. Nhưng rồi đến một nhà hoá
học khác nữa, ông này chế hoá cái chất có vẻ
như đồng nhất này bằng một phương
pháp phân đoạn đặc biệt, ông đă phân
giải nó thành ra hai chất praseodymium và neodymium, giữa hai
chất này có sự dị biệt rơ rệt. Vả
chăng, hiện nay, chúng ta cũng không dám quả quyết
rằng neodymium và praseodymium là những đơn chất.
Trái lại, hai chất này cũng tỏ lộ triệu
chứng của sự bể ra. Bây giờ, nếu một
nguyên tố được giả sử (bằng một
cuộc chế hoá thích đáng) là gồm những phân
tử dị biệt, nếu chế hoá đúng cách th́
chẳng lẽ những kết quả tương tự
không thể đạt được nơi những nguyên
tố khác (chúng ta được các bảo đảm
chắc chắn như vậy), có thể nói tất cả
những nguyên tố (dĩ nhiên đó là một tiến
tŕnh hàm ư có những sự thay đổi giữa mỗi
loại phân tử cá biệt). Chúng ta có thể hỏi
tiến tŕnh sự phân loại (Process of sorting-out) sẽ
dừng lại nơi nào. Tự nhiên là trong những sự
tách biệt liên tục này, chúng ta sẽ thấy những
chất khác nhau dần dần tiến gần tới nhau
một cách chặt chẽ ([421]).
198
Một lần nữa, sự bài bác chống
lại các bậc tiền bối này là một phát biểu
không thể đảm bảo được. Trong bất
cứ trường hợp nào, những nhà triết học
được điểm đạo cũng khó có thể
bị buộc tội như vậy, chính v́ họ đă
chế ra những điều ngụ ư và những huyền
thoại về tín ngưỡng từ thời khởi thuỷ.
Nếu họ không biết ǵ về sự dị biệt
của những nguyên tố, th́ họ không nhân cách hoá
Lửa, Không Khí, Nước, Đất và Dĩ Thái (Aether);
các vị nam thần và nữ thần vũ trụ của
họ đă chẳng bao giờ được thần
thánh hoá với đám con trai và con gái (so many sons and daughters),
những nguyên tố được sinh ra từ mỗi nguyên tố riêng biệt và bên trong
những nguyên tố này. Ngay cả, theo lư thuyết,
những hiện tượng huyền bí và khoa luyện kim
đan đều là một sự lừa đảo và
một sự gài bẫy, nếu các bậc Tiền bối
hoàn toàn không biết ǵ về các tiềm năng và những
chức năng hỗ tương cùng với những
đặc tính của mọi nguyên tố kết hợp
thành Không Khí, Nước, Đất và cả Lửa nữa - chất sau
này, cho đến nay, c̣n là một vùng đất bí ẩn (terra incognita) đối
với các khoa học tân tiến, người ta bắt
buộc phải gọi nó là sự Chuyển động,
sự tiến hoá của ánh sáng và hơi nóng, trạng thái
của sự bốc cháy – nói một cách vắn tắt,
người ta chỉ định nghĩa nó theo những
trạng thái bên ngoài mà không biết được bản
chất của nó.
Nhưng cái mà khoa học tân tiến, hầu
như không nhận thức được, chính là: cho dù
những nguyên tử hoá học đơn giản có thể
bị phân hoá – mà triết học cổ truyền gọi là
“những tay thợ tạo ra những Thân quyến (Parents)
riêng biệt”, những người cha, những
người anh, những người chồng của
mẹ các vị này, và những người mẹ này chính
là những người con gái của những đứa
con riêng của họ (and these mother the daughters of their own
sons), chẳng hạn như Mẹ của các vị
thần (Aditi và Daksha) - cho dù những nguyên tố này đă
bị phân hoá trong lúc khởi thuỷ, song những nguyên
tố này lại không phải là những hợp chất mà
khoa học biết như hiện nay. Nước, Không Khí,
cũng như là Đất (nói chung là những chất
giống như chất đặc) đều đă không
biểu hiện trong h́nh thức hiện tại,
tượng trưng cho ba trạng thái của vật
chất mà khoa học đă biết, v́ tất cả
những chất này, và ngay cả lửa, đều là
những sản phẩm đă được tái hoá hợp
nhờ bầu khí quyển của các bầu hành tinh đă
h́nh thành trọn vẹn, sao cho những giai đoạn
đầu tiên của sự h́nh thành trái đất,
những bản chất này là một vật nào đó hoàn
toàn cá biệt (sui generis). Bây
giờ, khi những điều kiện và các định
luật hiện đang thống trị Thái Dương
Hệ của chúng ta đă phát triển đầy
đủ, và khi bầu khí quyển của trái đất
chúng ta, cũng như bầu khí quyển của mọi hành
tinh khác đă biến thành ḷ luyện của chính ḿnh
(tạm gọi như vậy), Khoa học Huyền bí
dạy rằng, trong không gian có một sự hoán
đổi liên tục để thay thế những phân
tử, hoặc đúng hơn là những nguyên tử có liên
quan đến, và như vậy, thay đổi những
chất tương đương phối hợp trên
mỗi hành tinh. Một vài nhà khoa học trong số
những nhà vật lư học và hoá học danh tiếng,
bắt đầu ngờ vực sự kiện này, mà
từ nhiều thời đại qua, các nhà Huyền bí học
cũng đă hiểu rơ. Kính quang phổ chỉ chứng
minh sự đồng loại gần đúng về bản
thể của trái đất và của tinh tú (dựa vào
bằng chứng bên ngoài); người ta cũng không
thể nào tiến xa hơn nữa, hoặc là chứng minh
liệu có hay không việc nguyên tử này bị hấp
dẫn về nguyên tử kia theo cùng một hướng, và
trong cùng một điều kiện giống nhau (về phương
diện vật lư và hoá học), người ta có thể
giả sử điều này vẫn xảy ra trên hành tinh
chúng ta. Thang nhiệt độ, từ mức độ cao
nhất đến mức độ thấp nhất;
đều có thể được quan niệm đối
với toàn thể Vũ Trụ, và điều có thể
được tưởng tượng ra là hoàn toàn giống
nhau, tuy nhiên, trên mỗi hành tinh, nó đều có các
đặc tính khác nhau, khác hơn cả đặc tính phân
tán và tái phối hợp; như vậy, khoa vật lư
học không thể mơ tưởng và không thể
biết ǵ về những nguyên tử đang bước
vào những h́nh thức mới của sự sống. Thí
dụ, trong quyển Năm
năm hoạt động của Theosophy (Five years of
Theosophy)([422])
có mô tả nguyên thể vật chất của sao chổi
th́ “hoàn toàn không giống chút nào
với những đặc tính về hoá học hay là
về vật lư mà các nhà hoá học hay các nhà vật lư
học danh tiếng nhất đă từng biết tới”.
Trong suốt đoạn đường vượt nhanh
qua bầu khí quyển của chúng ta, ngay cả bản
thể của thứ vật chất này cũng chịu
một sự thay đổi nào đó.
199
Như vậy, chẳng những các nguyên
tố của hành tinh chúng ta, mà ngay cả đến
những nguyên tố của tất cả những hành tinh
tỷ muội trong Thái Dương Hệ này đều có
những sự hoá hợp khác nhau một cách rộng
lớn từ hành tinh này đến hành tinh kia, cũng
như những nguyên tố của Vũ Trụ ở ngoài
giới hạn của Thái Dương Hệ của chúng ta.
([423])
V́ thế, những nguyên tố này không
thể được dùng như là một tiêu chuẩn
để so sánh với những nguyên tố trên những
bầu thế giới khác. Thực vậy, mỗi thế
giới có một thứ Vô cực điện (Fohat) riêng,
nó hiện diện khắp nơi trong phạm vi hoạt
động riêng biệt của nó. Nhưng có bao nhiêu
bầu thế giới th́ có bấy nhiêu thứ Fohat,
mỗi thứ có một quyền năng và mức
độ biểu lộ khác nhau. Các Vô cực điện
cá thể làm ra một thứ Vô cực điện toàn
diện và tổng hợp đó chính là hiện trạng
thực thể của cái Phi Thực Thể (Non-Entity) duy
nhất tuyệt đối, vốn là Bản Thể
Tuyệt Đối (Be-ness) là SAT. Người ta nói rằng
“Vào mỗi
Mỗi nguyên tử được chôn
chặt trong trạng thái trinh nguyên về nguyên thuỷ trong
ḷng của Đức Mẹ Trường Cửu (Eternal
Mother), nó được sinh ra ở bên ngoài ngưỡng
cửa lănh địa của Mẹ và bị sự phân hoá
liên tục định đoạt. “Đức Mẹ ngủ yên, tuy nhiên, người
thở không ngừng”. Mỗi hơi thở của
người gởi vào cơi biểu lộ những sản
phẩm hay biến đổi, chúng bị lượn sóng
trào ra mang đi, bị Vô cực điện phân tán và chúng
bị tống về phía bầu khí quyển của hành tinh
này hay bị đẩy ra ngoài bầu khí quyển của
hành tinh kia. Một khi mà hơi thở được
bầu khí quyển sau này giữ lại, nguyên tử bị
mất đi; sự trinh nguyên nguyên thuỷ của hơi
thở đă vĩnh viễn mất đi, trừ phi
Định-mệnh biệt lập nó, hướng dẫn
nó về phía “ḍng LƯU XUẤT” (“current of EFFLUX”) (một
ngôn từ về Huyền môn có nghĩa là một tiến
tŕnh khác hẳn với tiến tŕnh mà ngôn từ này
thường ám chỉ), khi mà, một lần nữa,
hơi thở này có thể bị đẩy tới ranh
giới, ở đó, nó đă bị huỷ diệt
trước kia và bay đi, không phải vào Không Gian bên trên (Space above), mà là vào khoảng Không Gian bên trong (Space within),
được đặt dưới một t́nh trạng
quân b́nh vi-sai (differential equilibrium) và lấy làm thích thú mà
được tái thấu nhập. Nếu một nhà
Huyền bí học Luyện kim đan (Occultist-Alchemist)
được thực sự thông thái về “Đời
sống và những cuộc Mạo hiểm của một
Nguyên tử”, th́ do đó, ông sẽ hứng chịu sự
khinh miệt quá mức của các nhà hoá học tiên tiến,
dù may ra về sau, sẽ có sự biết ơn của
họ. Thực vậy, nếu một nhà hoá học mơ
mộng như vậy, bất ngờ có được
trực giác và có một lúc nào đó bước ra khỏi
lề thói thông thường của môn “khoa học chính xác”
200
như những nhà Luyện kim đan thời
xưa đă thực hiện, th́ y phải trả giá cho ḷng
can đảm của ḿnh. Tuy nhiên, có thể như Lời b́nh
luận đă nói: “Hơi
thở của Phụ mẫu sinh ra hơi lạnh của
sự chói sáng, nó nhận lấy hơi nóng và sự huỷ
hoại,một lần nữa, nó trở nên nguội và
được tinh luyện trong ḷng trường cửu
của Không gian bên trong”. Con người hấp thụ không
khí trong sạch lạnh lẽo ở tận trên
đỉnh núi, và họ đuổi ra ngoài thứ không khí ô
nhiễm, nóng và biến thể. V́ vậy, bầu khí
quyển ở trên cao của mỗi bầu hành tinh chính là
miệng của nó, c̣n bầu khí quyển ở dưới
thấp là buồng phổi, con người cả hành tinh
chúng ta chỉ thở “những chất hơi thải ra
của Từ Mẫu”; v́ vậy, “như vậy, số y
phải chết”. Ai có thể thù h́nh hoá (allotropize)
dưỡng khí tŕ độn thành ra xú dưỡng khí
(Ozone) ở một mức độ tác động của
khoa Luyện kim đan, phân giải nó thành ra tinh hoa thuần
tuư của chất khí này (người ta có nhiều cách
để thực hiện), th́ do đó, y sẽ t́m ra
được một chất thay thế cho một
loại “Thuốc Trường Sinh” (“Elixir of Life”) và
điều chế chất này để dùng trong thực
tế.
(b) Sự việc gọi là “những Bánh Xe
Nhỏ, cái nọ sinh ra cái kia”, diễn ra trên cơi thứ sáu
kể từ trên đếm xuống và trên cơi hồng
trần. “Bảy Bánh Xe” ám chỉ Dăy Hành Tinh hiện
tại. Ư nghĩa thông thường của chữ “Bánh Xe”
dùng để chỉ những bầu thế giới và
những trung tâm thần lực, nhưng ở đây th́ có
nghĩa là dăy hành tinh gồm bảy Bầu thế giới.
4. NGÀI XÂY DỰNG CHÚNG
GIỐNG NHƯ NHỮNG BÁNH XE CŨ TRƯỚC,
ĐẶT CHÚNG VÀO NHỮNG TRUNG TÂM BẤT DIỆT
(IMPERISHABLE CENTRES) (a).
FOHAT ĐĂ XÂY DỰNG
CHÚNG THEO CÁCH NÀO? NGÀI GOM GÓP BỤI LỬA (FIERY-DUST). NGÀI
TẠO NÊN NHỮNG QUẢ CẦU LỬA (BALLS OF FIRE),
CHẠY XUYÊN QUA CHÚNG, XUNG QUANH CHÚNG, TRUYỀN SỰ SỐNG
VÀO CHÚNG, LÀM CHO CHÚNG CHUYỂN ĐỘNG; CÁI XOAY CHIỀU
NÀY, CÁI XOAY CHIỀU KHÁC. CHÚNG LẠNH, NGÀI LÀM CHÚNG NÓNG LÊN.
CHÚNG KHÔ KHAN, NGÀI LÀM CHÚNG ƯỚT, CHÚNG CHIẾU SÁNG, NGÀI
QUẠT VÀ LÀM CHO CHÚNG MÁT (b). ĐÓ LÀ TÁC ĐỘNG CỦA
FOHAT TỪ HOÀNG HÔN (TWILIGHT) NÀY ĐẾN HOÀNG HÔN KHÁC
SUỐT BẢY ĐẠI KIẾP TRƯỜNG TỒN
(SEVEN ETERNITIES) ([424]).
(a) Những thế giới được
tạo tác “giống như những Bánh Xe cũ”, có nghĩa
là giống như những bầu thế giới đă
từng xuất hiện trong những Chu Kỳ Khai Nguyên
(Manvantaras) trước đây và đă tan ră trong Chu Kỳ
Hỗn Nguyên (Pralaya), theo Định Luật thành, trụ, hoại,
không (the Law for the birth, growth and decay of everything) cai quản
vạn vật trong Vũ Trụ, từ ngôi Mặt Trời
chí đến loại côn trùng nhỏ bé nhất. Đó là
một công tŕnh tiến hoá diễn ra thường xuyên và
luôn luôn đổi mới nhưng c̣n cái Chất Liệu
Vật Chất (Substance-Matter) và Năng Lực vẫn là
một và không hề biến đổi. Nhưng
Định Luật này hành động trên mỗi hành tinh
qua những định luật nhỏ hơn và khác nhau.
Những “Trung Tâm [Laya] Bất Diệt” (“Imperi-shable
[Laya] Centres”), có một tầm quan trọng rất lớn
và cần được hiểu rơ. Nếu chúng ta có
một nhận thức rơ ràng về khoa Vũ Trụ
học Cổ truyền, bây giờ, những lư thuyết này
đă biến thành những lư thuyết của Huyền bí
học. Các bầu thế giới được tạo
tác không phải ở trên hay
ở trong những Trung tâm
Laya, v́ điểm số không là một trạng thái chứ
không phải là một điểm trong toán học.
201 202
(b) Nên nhớ rằng Fohat, Mănh Lực tạo
tác của Điện lực trong Vũ Trụ,
được diễn tả một cách bóng bẩy là “xuất hiện từ Bộ Óc
của Từ Phụ và Trong Ḷng Từ Mẫu”, rồi
kể từ đó tự biến thành một nam và một
nữ, tức lưỡng cực thành điện âm và
điện dương. Nó có “Bảy
Đứa Con” là anh em của nó, và Fohat bị bắt
buộc phải tái sinh nhiều lần liên tiếp: mỗi
khi có hai trong những đứa “Con Anh Em” (“Son-Brothers”)
tiến sát đến quá
gần nhau dù đó là sự hấp dẫn hay xung
đột. Để tránh việc ấy, nó kết hợp
những “đứa” có tính chất khác nhau và chia rẽ
những “đứa” có tính chất giống nhau.
Điều này tất nhiên ám chỉ định luật
hấp dẫn hai vật có lưỡng cực khác nhau và xô
đẩy hai vật có lưỡng cực giống nhau.
Tuy nhiên, Bảy “người Con Anh Em” tiêu biểu và nhân cách
hoá bảy loại từ điện của vũ trụ
mà những năng lượng biểu lộ gồm có
Điện khí, Từ khí, Âm thanh, Ánh sáng, Nhiệt lực,
Dẫn lực v.v…Khoa Huyền Môn định nghĩa
tất cả những mănh lực đó như kết
quả siêu thức trong những tác động tiềm
ẩn và như những hiện tượng khách thể ngoại
tại trong thế giới giác quan, cái trước cần
có những giác quan siêu nhiên mới nhận thức
được, c̣n cái sau chỉ cần giác quan thông
thường. Tất cả, đều là những biểu
lộ của những đặc tính tâm linh siêu thức
thuộc về những NGUYÊN NHÂN hữu thức (conscious
CAUSE) và THỰC TẠI (ENTITIES) mà người ta không
thể nào diễn tả bằng ngôn từ thông
thường. Độc giả nên nhớ rằng, giáo lư
Huyền môn thường vẫn xem Vũ Trụ hiện
tượng như một Đại ẢO ẢNH (Great
ILLUSION), một vật thể càng tiến gần
đến với cái CHẤT LIỆU BẤT KHẢ TRI
(UNKNOWN SUBSTANCE) chừng nào, th́ nó càng đến gần
hơn với Thực Tại, v́ nó tách rời xa hơn
khỏi cái thế giới Hư Ảo (Maya). Bởi
vậy, tuy rằng người ta không thể biết
được thành phần nguyên tố vật chất
cấu tạo nên những thể bên ngoài do những
biểu lộ của chúng trên cơi tâm thức hạ giới
này, nhưng theo quan điểm của nhà Huyền môn, chúng
cũng có một cơ cấu ngoại tại rơ rệt,
nếu không là một cơ cấu vật chất trong
vũ trụ tương đối thực thể siêu h́nh
theo ư nghĩa nghịch với ư nghĩa cơi giới hiện
tượng hữu h́nh. Nhà khoa học có thể gọi
chúng là Năng lực hay Mănh lực do vật chất
tạo nên, hoặc là những phương thức vận
động tuỳ ư; nhưng khoa Huyền môn nh́n thấy
những kết quả đó có những Mănh lực tác
động và trong những nguyên nhân trực tiếp gây nên
những kết quả đó, có bàn tay vô h́nh của
những Đấng Tạo Tác thông minh (intelligent Divine
Workmen). Sự liên hệ chặt chẽ giữa những
Mănh Lực thiên nhiên đó (dưới bàn tay d́u dắt
của các Đấng Cao Cả) với các loại ngũ
hành của Vật chất thuần tuư tạo nên những
hiện tượng vật chất như ánh sáng, nhiệt
lực, từ điện, v.v.. Lẽ tất nhiên, chúng ta
sẽ không bao giờ đồng ư với các nhà Bản
thể luận người Mỹ ([425])
mà gọi những Lực
và Năng lượng kể trên - dù là Ánh Sáng, Nhiệt, Điện
hoặc Lực cố kết là những “Thực Thể”,
v́ như vậy, chẳng khác nào như ta gọi tiếng
động gây nên bởi bánh xe đang chạy là một
THỰC THỂ (ENTITY). Trong trường hợp đó ta
lầm tưởng và đồng hoá “tiếng động”
đó với người “đánh xe” bên ngoài và người “Chủ Thông Minh” (“Master
Intelligence”) ngồi trong xe.
Nhưng chắc chắn là chúng ta gán danh hiệu đó cho
“người đánh xe” và cho những Đấng Thiền
Định Đế Quân là những bậc “Đại Trí
Thông Minh” điều khiển, như đă nêu ở trên.
Những Mănh Lực Thiên Nhiên (Nature-Forces) là những nguyên
nhân phụ thuộc, tác động tuy vô h́nh hay đúng
hơn là không cảm nhận, và là kết quả của
những nguyên nhân đầu tiên ẩn tàng đằng sau
bức màn của mọi hiện tượng vật
chất (terrestrial phenomena). Điện lực, ánh sáng,
nhiệt lực v..v… đă được gọi một
cách chính xác là “Cái Bóng của Vật Chất Vận
Chuyển” (“Ghost or Shadows of Matter in Motion”), tức là
những trạng thái siêu thức (supersensuous states) của
Vật Chất mà chúng ta chỉ có thể nhận thức
được những tác động hậu quả.
Bây giờ, hăy nói rộng hơn một chút.
Cảm giác về ánh sáng có thể ví như tiếng
động của những bánh xe đang chạy, đó
chỉ là một tác dụng hiện tượng (phenomenal
effect), vốn không có thật ngoài cảm quan của
người nhận xét, nguyên nhân của cảm giác ấy
ví như người đánh xe, một trạng thái siêu
thức của vật chất chuyển động,
một Mănh Lực Thiên Nhiên (a Nature-Force or Elemental). Nhưng,
đằng sau mănh lực này, có tiềm ẩn những
nguyên nhân thâm diệu cao xa hơn, cũng như
người chủ xe điều khiển người
đánh xe từ bên trong. Đó là những Đấng Thông Tuệ, sáng suốt, từ tinh hoa
của các Ngài phát xuất những trạng thái “Mẹ”,
tạo nên vô số Tinh Linh (Elementals or Psychic Nature-Spirits)
thuộc về ngũ hành trong thiên nhiên, cũng như
mỗi giọt nước chứa đựng vô số
Sinh vật vô cùng nhỏ bé (Infusoria) ([426]).
Chính Vô cực điện Fohat d́u dắt sự chuyển di
những nguyên khí từ một hành tinh này đến hành
tinh khác, từ một tinh tú này đến tinh tú khác. Khi
một hành tinh chết, các nguyên khí của nó chuyển di
sang một trung tâm yên nghỉ
(laya) trong đó đă có sẵn năng lực tiềm
ẩn hay mới thức tỉnh lại và bắt
đầu thành h́nh một thiên thể mới (new sidereal
body).
203
Một điều đáng chú ư là, trong khi
người ta tự thú nhận một cách thành thật là
hoàn toàn không biết ǵ về bản chất thực sự
của ngay cả vật chất của cơi trần -
bản chất nguyên thuỷ được xem như là
một giấc mơ hơn là một thực tại
đơn thuần – tuy nhiên, những nhà vật lư học
lại làm ra vẻ xét đoán thứ vật chất đó
và tự cho là ḿnh biết cái ǵ có thể và không thể
thực hiện được, theo những cách hóa hợp
khác nhau. Những nhà khoa học chỉ mới biết
được thứ vật chất này một cách
hời hợt, tuy nhiên, họ sẽ quyết đoán nó.
Đó cũng chỉ là “một cách chuyển động”
chứ không có ǵ khác! Nhưng cái
lực có sẵn trong một hơi thở của con
người c̣n sống, khi người ta thổi một
vết bụi ở trên bàn, th́ cũng, một cách không
thể nào phủ nhận được, là “một cách
chuyển động”. Người ta không thể chối
căi rằng đó không phải là một đặc tính
của vật chất hay là những phân tử của
vết bụi đó, dù sự kích động này có
được sinh ra một cách hữu thức hay là vô
thức, th́ cái Thực Thể c̣n sống và có suy tư
thở hít này vẫn phát sinh ra nó. Thật ra, việc đó
phú cho vật chất (mà cho đến nay, người ta
c̣n chưa biết) một đặc tính cố hữu
được gọi là Động Lực (Force), có
bản chất c̣n chưa được hiểu mấy,
c̣n tạo ra một sự khó khăn nghiêm trọng hơn
cả việc chấp nhận sự can thiệp của
các “Loài Tinh Linh” (“Nature Spirits”) trong mọi hiện
tượng tự nhiên.
Nhà Huyền bí học nói rằng không
phải vật chất, mà chỉ có tinh hoa của vật chất (Mulaprakriti) là
bất diệt và trường cửu. Họ nói rằng
tất cả những Mănh Lực Thiên Nhiên như
Điện Lực, Từ Lực, Ánh Sáng, Nhiệt Lực
v.v.. không phải là những phương tiện vận
chuyển của những vi tử vật chất, mà là
những khía cạnh biểu lộ, phân hoá của
Đại Khí Vận hay sức Chuyển Động trong
Vũ Trụ (Universal Motion) như đă giải thích trong
những trang đầu của quyển sách này. Khi nói
rằng Fohat tạo nên “Bảy Trung Tâm Laya” (“Seven Laya
Centres”), điều ấy có nghĩa là v́ mục đích
sáng tạo, ĐỊNH LUẬT LỚN TRONG VŨ TRỤ
(GREAT LAW) (hay Thượng Đế) thay đổi sự
vận chuyển trường kỳ của nó trên bảy
điểm vô h́nh trong phạm vi khu vực sáng tạo nên
Vũ Trụ Ngoại Tại (Manifested Univese). “Đại Khí Vận (The Grear Breath) xuyên qua Không Gian, xoi
bảy lỗ trong Laya làm cho chúng xoay ṿng suốt
204 205
Trong trạng thái tiền sinh hay trạng thái
nguyên sinh, nguyên tử nguyên thuỷ (Anu) không thể nào gia
tăng thêm, v́ vậy nó được gọi là “TỔNG
SỐ CHUNG” (“SUM TOTAL”), dĩ nhiên là nói theo nghĩa bóng, v́
“TỔNG SỐ CHUNG” này là số vô biên. Cái vốn là vực
sâu trống không đối với các nhà vật lư học
(họ chỉ biết cái thế giới của những
nguyên nhân và kết quả thấy được) th́
đối với nhà Huyền bí học lại chính là Không
Gian vô biên (boundless Space) của Thái Cực Thiêng Liêng (Divine
Plenum). Trong số nhiều sự phản đối khác
về giáo lư nói rằng có một sự tiến hoá vô cùng và
có một sự thoái hoá (hay là một sự tái hoá nhập “reabsorption”)
của càn khôn – theo Giáo Lư Bí Truyền và Bà La Môn giáo th́ đó
là một tiến tŕnh không có khởi thuỷ hoặc cáo
chung – nhà Huyền bí học được biết rằng
nó không thể có được, v́ “theo mọi điều
được công nhận của triết lư khoa học
tiến bộ, Thiên Nhiên tất nhiên phải kiệt
quệ”. Đối với khoa Vũ Trụ huyền Bí,
nếu cái khuynh hướng “kiệt quệ” (“to run down”)
của thiên nhiên được xem như là một sự
phản đối mănh liệt, th́ làm sao tôi có thể yêu
cầu các nhà Duy thực chủ nghĩa, những nhà Tự
do tư tưởng và các nhà khoa học của bạn
giải thích được sự tổ chức những
hệ thống tinh tú hoạt động chung quanh chúng ta?
Những hệ thống này măi mới chịu kiệt
quệ, thế th́ tại sao Càn Khôn này không phải là
một khối khổng lồ bất động? Theo
giả thuyết, người ta cũng chỉ tin rằng
mặt trăng là một hành tinh chết, kiệt quệ và
thiên văn học hầu như cũng không biết có
nhiều hành tinh chết như thế ([427]).
Câu hỏi không thể có lời giải đáp. Nhưng ngoài
việc này ra, ư niệm về một số “năng
lượng khả biến” (“transformable energy”) trong hệ
thống hành tinh bé nhỏ của chúng ta bị tàn lụi,
th́ hoàn toàn đặt trên nền tảng của quan
niệm sai lầm về “một mặt trời đỏ
rực cháy sáng trắng” (“white-hot, incandescent sun”), phóng
hơi nóng vào không gian một cách liên tục mà không có sự
hồi phục. Về điểm này, chúng tôi xin trả
lời rằng thiên nhiên kiệt quệ và biến mất
khỏi cơi khách quan, chỉ tái xuất hiện trong cơi
chủ quan sau một thời gian nghỉ ngơi rồi
lại đi lên. Sau mỗi Chu Kỳ Hỗn Nguyên, Càn Khôn
(Kosmos) và bầu Thiên Thể chúng ta chỉ ngừng hoạt
động để tái xuất hiện trên một cơi hoàn
hảo nhất. Thứ VẬT CHẤT (MATTER) của
những nhà Triết học Đông Phương không
phải là “thứ vật chất” và bầu thiên nhiên
của những nhà siêu h́nh học Tây phương. V́
Vật Chất là ǵ? Trên tất cả, ngoài cái mà triết
gia Kant đă định nghĩa một cách rất chính xác
và rất tao nhă là “môn khoa học của những giới hạn đối
với kiến thức chúng ta” (“science of the limits to our knowledge”), th́ triết lư khoa học
của chúng ta là ǵ? Nhiều cuộc thử nghiệm
của khoa học để buộc lại, để
kết hợp và để xác định tất cả
những hiện tượng của đời sống
hữu cơ, bằng những biểu lộ đơn
thuần có tính chất vật lư và hoá học đă
đưa nó tới đâu? Nói chung là chỉ tới những
cuộc suy lư - trước khi các nhà khoa học
được phép t́m ra những sự kiện có thực,
th́ đó chỉ là những bọt xà pḥng bị nổ tung
hết cái này đến cái kia. Tất cả điều
này ắt đă tránh được và tiến tŕnh kiến
thức sẽ tiếp diễn bằng những
bước dài khổng lồ, nếu khoa học và
triết học đừng chấp nhận những
giả thuyết chỉ dựa vào sự hiểu biết
phiến diện về Vật Chất của họ. Tác động của Thiên
Vương Tinh và Hải Vương Tinh - người ta
nghĩ rằng những hành tinh này
lần lượt có bốn hộ tinh và
một hộ tinh quay trên những quỹ đạo của
chúng từ Đông sang Tây, trong khi tất cả các hành tinh
khác lại quay tṛn từ Tây sang Đông – đó là một thí
dụ rất hay cho con người thấy tất cả
những suy luận tiên nghiệm chẳng đáng tin
cậy chút nào, ngay cả khi mà những cuộc suy lư này
dựa trên khoa giải tích toán học chính xác nhất.
Giả thuyết nổi tiếng nói về sự h́nh thành
của Thái Dương Hệ chúng ta từ những vành
đai tinh vân, do Kant và
Nếu trong trí óc xác thịt nào có thể
đếm được những hột cát bao phủ
bờ biển trong một vài dặm Anh, hay là ḍ
được bản chất cơ bản và tinh hoa
của những hạt cát này khi mà chúng nó có thể bị
nhà tự nhiên học sờ được và thấy
được trên bàn tay, th́ người duy vật làm
thế nào có thể giới hạn được
những định luật điều khiển những
sự thay đổi về điều kiện và sự
sống của những nguyên tử trong chất Hỗn Mang
Nguyên Thuỷ (Primordial Chaos), hoặc họ làm thế nào
để biết chắc bất cứ một
điều ǵ về khả năng và những mănh lực
của các phân tử và nguyên tử, trước và sau khi
chúng h́nh thành ra những bầu thế giới này? Những
phân tử trường cửu và bất biến này – chúng
có vô số trong không gian nhiều hơn những hạt cát
trên bờ đại dương – có thể khác nhau về
sự cấu tạo của chúng theo đường
lối của những cơi của sự sống, cũng
như linh hồn bản thể th́ khác với hiện
thể của nó tức là cái xác. Chúng ta đă
được dạy rằng, bảy cơi của sự
sống và sự biểu hiện đều có mỗi
loại nguyên tử khác nhau, mỗi cơi đều do
định luật riêng của sự tiến hoá và sự
hoá nhập điều khiển. Không ai biết
được (cho dù chỉ là gần đúng) những
dữ kiện niên đại kư (chronological) khởi
thuỷ trong khi thử quyết định tuổi của
hành tinh chúng ta hay nguồn gốc của thái dương
hệ này, những nhà thiên văn học, những nhà
địa chất học và những nhà vật lư học,
mỗi người đều có một giả thuyết
mới đang bị cuốn đi xa dần khỏi biên
giới của sự thực rồi rơi vào vực
thẳm không đáy của bản thể học suy lư ([428]).
Trong kế hoạch cấu tạo giữa những hệ
thống phía bên kia mặt trời và những hành tinh hệ
của mặt trời, Định Luật Tương
Đồng (the Law of Analogy) không nhất thiết tác
dụng tới những điều kiện giới
hạn và mọi
206
vật hữu h́nh đều phải chịu
trong cơi của đời sống chúng ta. Trong Khoa học
Huyền bí, Định Luật Tương Đồng này
là cái ch́a khoá đầu tiên quan trọng nhất đối
với khoa Vật lư Vũ Trụ, nhưng nó cần
phải được nghiên cứu tỉ mỉ từng
chi tiết, và trước khi người ta hiểu
được nó, nó cần phải được “xoay
bảy lần”. Chỉ có Triết lư Huyền môn mới có
thể dạy rơ điều này. Vậy người ta làm
thế nào để cái chân lư và phi chân lư qua sự
đề xướng của nhà Huyền bí học, “trong
sự kết hợp vô điều kiện th́ Vũ
Trụ là trường cửu, c̣n trong sự biểu
lộ có điều kiện th́ Vũ Trụ lại
hữu hạn”, dựa vào điều bày tỏ phiến
diện của vật lư học cho rằng “Thiên nhiên
cần phải bớt hoạt động?” (“it is a necessity
of Nature to run down?”) ([429]).
MỘT VÀI SỰ THỰC
VÀ NHỮNG SỰ GIẢI THÍCH
Những câu kinh này kết thúc phần giáo lư trong
ĐOẠN KINH 6 nói về Vũ trụ khai tịch
luận, sau chu kỳ Đại Hỗn Nguyên (Mahapralaya).
Cuối cùng, nó sẽ quét sạch ra khỏi không gian tất
cả mọi vật biểu lộ ngoại tại,
từ các vị Thần cho đến các Nguyên tử
cũng như các lá cây vàng úa. Từ câu này trở về sau,
các ĐOẠN KINH chỉ nói đại cương về
Thái Dương Hệ, các Dăy Hành Tinh và đặc biệt
là lịch tŕnh Trái Đất của chúng ta trong Dăy
Địa Cầu hiện tại. Tất cả những
ĐOẠN và câu kinh tiếp theo trong quyển I này chỉ
nói về sự tiến hoá trên Dăy Địa Cầu. Có
một luận cứ kỳ lạ thuộc về trái
đất này, nó chỉ kỳ lạ theo quan điểm
khoa học mà chúng ta nên phổ truyền.
Tuy nhiên, trước khi tŕnh cho độc
giả những lư thuyết mới và hơi lạ, cần
giải thích vài lời. Điều này tuyệt đối
cần thiết bởi v́ những lư thuyết này chẳng
những chống lại khoa học tân tiến, mà bởi
v́ chúng nó c̣n nghịch với vài điểm do các nhà Thông
Thiên Học khác viết ra ([430]).
Các vị này tự cho là căn cứ lập luận
của họ và những lời giải thích trên cùng
một uy quyền với chúng ta.
207
Điều này có thể khiến người
ta nghĩ rằng có mâu thuẫn ngay giữa những
người cùng dạy một giáo lư, trong khi thật ra,
sự dị biệt đó là do sự báo cáo cho các tác
giả đầu tiên không được toàn vẹn, nhân
đó, họ kết luận sai và truy cứu quá sớm,
trong khi họ muốn đưa ra cho công chúng một hệ
thống hoàn hảo. V́ vậy, độc giả nào đă
là nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng, cũng
đừng ngạc nhiên khi thấy trong những trang sách
này có sửa chữa nhiều luận cứ đă
được dạy trong nhiều sách Thông Thiên Học, và
họ cũng đừng ngạc nhiên khi thấy sự
giải thích nhiều điểm tối tăm, bởi v́
chúng tất nhiên là bất toàn. Có nhiều vấn đề
mà tác giả trong quyển Phật
Giáo Bí Truyền (Esoteric Buddhism) (là quyển hay nhất và
ít sai lầm nhất trong các quyển sách ấy) không
giải thích. Lại nữa, chính tác giả quyển đó
đă thêm vào nhiều ư niệm sai lầm, mà hiện nay, ta
phải tŕnh bày nó dưới ánh sáng bí ẩn thực
sự trong khuôn khổ khả năng của tác giả
quyển này.
Nhân tiện, chúng ta hăy tạm ngưng trong
một lúc sự học hỏi các đoạn kinh
để duyệt xét lại vài điểm trong giáo lư huyền
môn trước đây đă tŕnh bày cho công chúng một cách
không được chính xác lắm và có chỗ sai lầm.
VÀI QUAN ĐIỂM SAI LẦM TRƯỚC ĐÂY
VỀ CÁC BẦU HÀNH TINH, CÁC CUỘC TUẦN HOÀN VÀ CON
NGƯỜI
Trong số mười một ĐOẠN
KINH không được đề cập đến trong
quyển này, có một đoạn diễn tả
đầy đủ sự thành lập liên tiếp các Dăy
Hành Tinh kể từ khi bắt đầu Chu Kỳ Khai
Nguyên, sau một Chu Kỳ Hỗn Nguyên. Không cần phải
nói những định luật tác động khi
Thượng Đế bắt đầu sáng tạo,
bởi v́:
a) ĐỊNH LUẬT vốn trường
cửu và bất sinh bất diệt.
b) Thượng Đế tức là
ĐỊNH LUẬT và ĐỊNH LUẬT tức là
Thượng Đế.
Hơn nữa, ĐỊNH LUẬT
trường cửu duy nhất phát triển mọi vật
trong Thiên Nhiên theo qui mô số 7 và vô số Dăy Hành Tinh,
mỗi dăy có bảy Bầu thế giới (Globes), được
sắp đặt theo giai tầng thanh trọc khác nhau trên
bốn cơi thấp nhất của Vũ Trụ biểu
lộ ngoại tại (World of Formation), c̣n ba bầu trên
thuộc về giai đoạn Vũ Trụ kiểu mẫu
nội tại (Archetypal Universe). Trong số bảy bầu
này chỉ có MỘT BẦU thấp
nhất và nặng trọc nhất là có thể cảm
nhận và tri thức được bằng giác quan chúng
ta, c̣n sáu bầu kia ở ngoài tầm giác quan, bởi
vậy, mắt phàm không nh́n thấy được. Mỗi
Dăy Hành Tinh đó là sản phẩm của một Dăy thấp hơn và đă chết, có thể nói là sự tái sinh của dăy này.
Chúng tôi được biết trong số các hành tinh, chỉ có bảy bầu là
được coi như linh thiêng v́ chúng được
đăt dưới sự ngự trị của các
Đấng Cao Cả thiêng liêng (the highest Regents or Gods),
chứ không phải v́ Cổ nhân (Ancients) không biết ǵ
về những bầu khác ([431]).
Mỗi bầu hành tinh đó, dù đă được
biết hay chưa được biết, đều
thuộc về thành phần một Dăy Hành Tinh gồm có
bảy bầu, cũng như Dăy Địa Cầu có
bảy bầu thế giới mà Địa Cầu là
một. Thí dụ, các thiên thể như Thuỷ Tinh, Kim
Tinh, Hoả Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh hay Địa
Cầu đều hữu h́nh đối với chúng ta,
cũng như Trái Đất có lẽ là hữu h́nh
đối với những nhân vật (nếu có) của
những hành tinh khác, bởi v́ tất cả đều
thuộc về cơi hồng trần, c̣n những bầu
thế giới thanh nhẹ hơn cùng chung một dăy
với các hành tinh trên đều thuộc về những
cơi giới khác, hoàn toàn ngoài tầm nhận thức của
giác quan phàm tục. Vị trí của những bầu hành
tinh ấy sẽ được tŕnh bày sau, bây giờ,
chỉ cần thêm vài lời giải thích. Những bầu
thế giới vô h́nh trùng hợp một cách lạ lùng
với điều gọi là các “nguyên khí trong Con Người”
(“principles in Man”). Bảy bầu toạ lạc trên ba cơi
vật chất và một cơi tâm linh tương
đương với ba thể vật chất (Upàdhis) và
một thể tâm linh (Vāhana)
trong bảy Nguyên khí con người. Để có một
quan niệm rơ ràng hơn, nếu chúng ta thử tưởng
tượng các Nguyên khí của con người như
được sắp đặt theo sơ đồ
dưới đây, th́ chúng ta sẽ có một sơ
đồ kế bên chỉ sự trùng hợp với
những bầu thế giới trong một dăy hành tinh:
208
V́ ở đây, chúng ta đang xét từ
Toàn thể đến Đơn vị, thay v́ dùng phép qui
nạp của Aristotle, nên các con số đều
ngược chiều. Người ta để tinh thần
ở chỗ thứ nhất, thay v́ để ở cơi
thứ bảy (như người ta thường làm)
nhưng thật ra không nên làm
như vậy.
ĐỒ H̀NH 1
CÁC NGUYÊN
KHÍ CỦA CON NGƯỜI |
PHÂN
LOẠI DĂY HÀNH TINH |
209
Các nguyên khí của con người – như
đă thường kể ra trong quyển Esoteric Buddhism và các quyển khác là :
1. Atma.
2. Buddhi (hay là Linh Hồn
Tinh Thần – Spiritual Soul).
3. Manas (hay là Linh Hồn Con
Người –Human Soul)
4. Kama Rupa (hay là Thể Ham
Muốn và Đam Mê – Vehicle of Disires and Passions).
5. Prana.
6. Linga Sharira.
7. Sthula Sharira.
Những đường ngang nét đậm
ở những ngăn dưới là những Thể
vật chất hay lớp vỏ (Upadhis) trong sơ
đồ bên trái (Nguyên Khí Con Người) và chỉ
những cơi giới trong sơ đồ bên mặt (Dăy Hành
Tinh). Lẽ tất nhiên, sơ đồ bên trái về Nguyên
Khí Con Người không sắp đặt các nguyên khí hoàn
toàn đúng theo trật tự, nhưng nó chỉ sự
tương hợp và giống nhau giữa hai đối
tượng: con người và thiên thể mà độc
giả nên lưu ư. Như độc giả sẽ
thấy, đó là trường hợp giáng xuống vật
chất, sự điều chỉnh cả hai loại giác
quan : thần bí và phàm trần, cùng sự hỗn hợp
cả hai hầu chuẩn bị cho sự tranh đấu
để sinh tồn, nó chờ đợi cả hai Thực thể trong giai
đoạn sắp đến. Chữ “Thực Thể” (“Entity”)
có thể xem như một danh từ lạ kỳ dùng
để chỉ một Bầu thế giới, nhưng
các triết gia thời cổ từng xem Địa Cầu
như một “sinh vật” (“animal”) khổng lồ, đă
tỏ ra khôn ngoan sáng suốt hơn các nhà địa
chất học trong thế hệ hiện tại. Pliny
gọi Trái Đất là người mẹ và là người
vú tốt, Hành (Element) duy nhất không chống đối
với con người. Ông Pliny đă nói một cách chân
thật hơn ông Watts,
…….dẫn
tới những nơi trú ngụ vinh quang,
Ở
đây, đám đông luôn luôn lật đật trẩy qua.
Nhưng điều này chỉ rơ Triết
học Huyền môn thích ứng một cách đáng khen
biết chừng nào - với tất cả những ǵ trong
Thiên Nhiên và những luận cứ của nó hữu lư
hơn những quan sát ức thuyết (hypothetical) của
khoa vật lư biết bao.
Khi học xong điều này, th́ nhà thần
bí học sẽ được chuẩn bị hay hơn
để hiểu giáo lư huyền môn, dù chắc chắn là
mọi người nghiên cứu chính thức khoa học tân
tiến đều cho giáo lư này là một điều phi lư.
Tuy nhiên, nhà học giả Huyền môn quả quyết
rằng lư thuyết mà chúng ta đang thảo luận lúc này
có ư nghĩa triết lư và chắc chắn hơn là lư
thuyết kia. Ít ra là nó hợp lư hơn là lư thuyết
mới đưa ra xem mặt trăng là một miếng
của trái đất bị tung ra, khi trái đất c̣n là
một bầu thế giới đang bị nóng chảy ([432]).
210
Có chỗ cho rằng những Dăy Hành Tinh
với những chu kỳ sinh hoạt hay sáng tạo và
những chu kỳ huỷ diệt hay nghỉ ngơi, sinh
hoạt trong không gian giống như con người sinh
hoạt trên mặt đất : chúng cũng sinh sôi nảy
nở, trở nên già cỗi và hư hoại, chỉ có
những nguyên khí tâm linh của chúng là c̣n sống sót trong
những hậu duệ do chúng sinh ra do sự di truyền.
Muốn diễn tả toàn thể diễn
tŕnh của cơ tiến hoá đó với tất cả
mọi chi tiết, quả là một việc khó khăn,
nhưng vài nét khái quát có thể được nêu ra
để tŕnh bày cho độc giả một ư niệm
tổng quát về vấn đề này. Khi một Dăy Hành
Tinh đă đi vào Cuộc Tuần Hoàn cuối cùng, th́
Bầu A, trước khi tắt nghỉ, phóng ra tất
cả năng lượng của nó và các “nguyên khí” (“principles”)
vào điểm trung hoà, có mănh lực tiềm ẩn gọi
là “trung tâm laya”, và bằng cách đó, thức động
một cứ điểm mới của khí Tiên Thiên làm cho
nó hoạt động, hoặc chuyển sinh khí vào đó.
Hăy giả sử rằng diễn biến đó xảy ra
trên Dăy Nguyệt Cầu, và tạm cho rằng Mặt
Trăng già hơn Trái Đất rất nhiều. Ta hăy
tưởng tượng sáu bầu thế giới bạn
của Mặt Trăng (hàng tỷ năm trước khi
bầu thứ nhất của Dăy Địa Cầu
xuất hiện) ở đúng vào vị trí giống như
những Bầu thế giới của Dăy Địa
Cầu đối với Trái Đất trong hiện
tại. Bây giờ ta có thể tưởng tượng
dễ dàng rằng bầu A của Dăy Nguyệt Cầu di
chuyển năng lượng của nó sang bầu A của
Dăy Địa Cầu rồi tắt nghỉ; rồi
Bầu B của nó cũng làm như vậy với Bầu B
của Dăy Địa Cầu; kế đó, đến
Bầu C của nó tạo nên Bầu C của Dăy Địa
Cầu, rồi đến lượt Mặt Trăng
vệ tinh của trái đất, chuyển tất cả
năng lượng và sinh khí của nó sang Bầu thấp
nhất của Dăy Địa Cầu, tức là Bầu D là
Trái Đất của chúng ta, và sau khi chuyển di tất
cả qua một trung tâm mới, nó trở nên một hành tinh chết và sự
chuyển xoay ṿng hầu như đă ngừng nghỉ
từ khi Địa Cầu xuất hiện. Chắc
chắn rằng: mặt trăng là vệ tinh của Trái
Đất, nhưng điều này không bác bỏ lư
thuyết cho rằng: mặt trăng cho trái đất
tất cả, chỉ trừ xác chết của nó. Muốn
cho lư thuyết của
211
Hiện nay mặt trăng là những
bụi nguội (cold residual quantity), là một bóng mờ
(shadow), sau khi đă di chuyển những năng lực
sống (living power) và những “nguyên khí” (“principles”) của
nó qua một h́nh thể đổi mới khác. Hiện nay,
nó bị bắt buộc phải theo sau Trái Đất trong
nhiều thế kỷ; nó hút Trái Đất và bị Trái
Đất hút lại. Mặt Trăng luôn luôn bị con ḿnh
là Trái Đất rút rỉa
(vampirized), nên chống trả lại bằng cách đem
thần lực xấu xạ xuống và đầu
độc nó bằng cái thuộc về thành phần
huyền môn của bản tánh, bởi v́ Mặt Trăng là
một xác chết mà vẫn
sống. Những mảnh vụn của xác thân đang
tan ră của nó có đầy sự sống sinh động
và phá hoại dù xác thân xưa kia chúng nó tạo ra th́ không
hồn và không có sự sống. Nhân đó, những bốc
hơi (emanations) của nó vừa tốt vừa xấu,
đó là trường hợp mà ta cũng thấy trên trái
đất, tức là sự kiện cỏ và cây không
mọc đâu tốt bằng mọc trên mả; c̣n
những bốc hơi của nghĩa địa và của
thây ma rất độc. Giống như hầu hết ma
hút máu, ma hiện h́nh, Mặt Trăng là bạn của nhà
phù thuỷ và nghịch với người dại khờ.
Từ thời vô thuỷ vô chung và thời cận
đại, các nhà phù thuỷ ở Thessaly và vài người
ở Tantrikas hiện nay tại Bengal, cùng tất cả nhà
Huyền môn, đều biết bản tính và tính chất của
Mặt Trăng, nhưng đó là một quyển sách
đóng kín trước nhà vật lư học.
Đó là Mặt Trăng được xét
về mặt thiên văn, vật lư và địa chất
học. C̣n về bản tính siêu h́nh và tinh thần th́ nó
vẫn c̣n là một sự bí mật huyền môn trong
quyển sách này cũng như trong quyển sách nhan
đề Phật Giáo Bí
Truyền (Esoteric Buddhism) dù quyển đó có tuyên bố
hơi liều lĩnh rằng: “Không có nhiều bí ẩn
nữa trong câu đố về bầu thế giới
thứ tám” ([434]).
Thật ra đó là một trong nhiều đề tài mà “các
vị Chơn Sư rất dè dặt khi truyền
đạt cho các vị đệ tử chưa
được điểm đạo” ([435]),
và v́ chúng nó chưa được phê chuẩn và chưa
được cho phép đưa ra cho công chúng, nên tốt
hơn là nói ít về điều đó.
212
Tuy nhiên, không đặt chân tới vùng
đất cấm của “bầu hành tinh thứ tám này” (“eighth
sphere”), người ta nên tŕnh bày một vài sự kiện
bổ túc về phần những Chơn Thần cũ
của Dăy Nguyệt Cầu này - tức những vị
“Tổ Phụ thuộc Mặt Trăng” (“Lunar Ancestor”) – v́
các vị này giữ một vai tṛ hướng dẫn trong
khoa Nhân chủng khởi nguyên học (Anthropogensis) sắp
tới. Điều này trực tiếp đem chúng ta
tới vấn đề Cấu Tạo Thất Nguyên
của con người (Septernary Constitution of man), và v́
mới đây đă có một vài cuộc thảo luận
về cách phân loại hay nhất phải được
chấp nhận cho sự phân chia thực thể tiểu
vũ trụ này, nên bây giờ, để so sánh,
người ta đính kèm hai hệ thống. Ông T.Subba Row,
một học giả danh tiếng Vedanta có viết phụ
thêm một mục nhỏ trong bảng sắp loại này.
Ông thích sự phân chia của pháp môn Thiền Định Trí
Tuệ (Raja Yoga) của người Bà La Môn, và đứng
trên một quan điểm siêu h́nh học, th́ ông hoàn toàn có
lư. Nhưng đó chỉ là một vấn đề lựa
chọn và thích nghi, nên trong tác này, chúng ta chỉ tŕnh bày
sự phân loại cổ kính của “Phái Bí Truyền dành cho
các vị La Hán” (“Ahart Esoteric School”) bên kia Hy Mă Lạp
Sơn. Bảng kê sau đây và những lời giải thích
được trích ra từ Tạp
Chí Theosophist và trong quyển Năm
năm hoạt động với Minh Triết Thiêng Liêng ([436]).
SỰ PHÂN CHIA
THẤT NGUYÊN CHO NHỮNG HỆ THỐNG TRIẾT HỌC
KHÁC NHAU CỦA ẤN ĐỘ
Trong h́nh thức bảng phân loại về các nguyên khí, chúng tôi xin đưa ra đây những sự sắp loại đă được các Đức Thầy Phật giáo và Vedanta đă chấp nhận:
PHẬT GIÁO BÍ TRUYỀN (ESOTERIC BUDDHISM) |
PHÁI VEDANTA |
PHÁI PHÁP MÔN THIỀN ĐỊNH TRÍ TUỆ TARAKA |
|
1. Sthula Sharira
(Thể Xác) |
Annamayakosha([437]) |
Sthulopadhi([438]) |
|
2. Prana (Sinh khí)([439]) |
Prānamayakosha |
||
3. Vận cụ của Sinh Khí ([440]) |
|||
4. Cảm Dục Thể |
|
|
|
5. Thể Trí |
a) Những ư chí và t́nh cảm… |
Manomayakosha |
Sukshmopadhi |
b) Thượng Trí (Vijnanam) |
Vijnānamayakosha |
||
6. Spiritual Soul (Linh Hồn Thiêng
Liêng) |
Ānandamayakosha |
Kāranopadhi |
|
7. Ātmā (Tiên Thể) |
Ātmā |
Ātmā |
Từ bảng nêu trên, người ta
thấy rằng, nguyên khí thứ ba trong bảng sắp
loại của Phật Giáo không được đề
cập đến một cách riêng biệt trong bảng phân
chia của phái Vedanta, v́ nó chỉ là hiện thể của
Sinh lực (vehicle of Prana). Người ta cũng thấy
rằng nguyên khí thứ tư được bao hàm trong
thể thứ ba (third Kosha - lớp vỏ), v́ chính nguyên khí đó
chỉ là hiện thể của quyền năng ư chí,
vốn chỉ là năng lượng của cái trí. Chúng ta
cũng phải ghi nhận rằng thể Thượng Trí
(Vijnanamayakosha) được xem như là khác với Hạ
Trí (Manomayakosha), v́ sau khi chết, có xảy ra sự phân chia
giữa phần thấp của cái trí (phần này có liên quan
chặt chẽ với nguyên khí thứ tư hơn là với
nguyên khí thứ sáu) và phần cao của thể trí (vốn
gắn liền với nguyên khí thứ sáu thực sự),
phần này là nền tảng của Chơn Ngă thiêng liêng cao
cả nơi con người.
213
Ở đây, chúng ta cũng có thể chỉ
cho độc giả thấy rằng, trên thực tế
của sự sắp loại được đề
cập ở trong cột chót, th́ liên quan đến pháp môn
Thiền Định Trí Tuệ (Raja Yoga), phái tốt
nhất và đơn giản nhất. Dù trong con
người có bảy nguyên khí, nhưng chỉ có ba Vận
cụ (Upadhis – cái cơ bản) riêng biệt nơi một
trong các nguyên khí này, Tiên Thể (Atma) con người có
thể hoạt động một cách độc lập
với phần c̣n lại. Một vị Chơn Sư
(Adept) có thể tách rời ba vận cụ này ra mà không
chết. Ngài không thể nào tách rời bảy nguyên khí này ra
mà không huỷ diệt sự cấu tạo của ḿnh.
Bây giờ sinh viên sẽ được
chuẩn bị kỹ hơn để thấy rằng
giữa ba Vận cụ (Upadhis) và Tiên Thể (Atma) của
phái Pháp Môn Thiền Định Trí Tuệ và ba vận
cụ cùng với Tiên Thể của chúng ta và ba sự phân
chia khác nữa, thực sự chúng chỉ có sự khác nhau
rất nhỏ thôi. Vả chăng, v́ tất cả Chơn
Sư ở tại Ấn Độ, bên này hay bên kia Hy Mă Lạp
Sơn của môn phái Patanjali, Đức Vô Trước
(Aryasanga), hay là của Đại Thừa (Mahayana)
đều phải trở thành một vị Thiền
Sư (Raja Yogi), cho nên, trên nguyên tắc lư thuyết, Ngài
phải chấp nhận bảng sắp loại của phái
thiền định Taraka, bất chấp bảng sắp
loại mà các Ngài cần dùng cho những mục đích
thực hành và cho mục đích Huyền bí. V́ vậy,
người ta có nói đến ba
Vận Cụ (Upadhis) với ba trạng thái và Tiên
Thể, thành phần tổng hợp trường cửu và
bất tử, hoặc chúng là “Bảy Nguyên Khí” (“Seven
Principles”) th́ cũng chẳng có ǵ quan trọng.
Để giúp người nào không thể
đọc được, hoặc không thể hiểu
được giáo lư nói về các dăy gồm bảy Bầu
Thế Giới trong Thái Dương Hệ (Solar Kosmos) này
(nếu họ đă đọc những sách Thông Thiên
Học); về các dăy hành tinh trong thái dương hệ,
giáo lư huyền môn được tóm tắt như sau:
1. Mọi vật trong Vũ Trụ, siêu h́nh
cũng như hữu h́nh đều được cấu
tạo theo qui mô số bảy, do đó, mỗi thiên
thể, mỗi hành tinh, dù hữu h́nh hay vô h́nh, đều
có sáu Bầu thế giới đi kèm. Sự tiến hoá
của vạn vật diễn ra trên bảy Bầu thế
giới hay thiên thể đó (Globes or bodies) qua Bảy
Cuộc TUẦN HOÀN hay Bảy Chu Kỳ (Seven ROUND or Seven
Cycles).
2. Những Bầu thế giới
được cấu tạo bởi một phương
pháp mà các nhà Huyền học gọi là “sự tái sinh của
những Dăy Hành Tinh” (“rebirth of Planetary Chains – or Rings”). Khi
Cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy và cuối cùng của
một trong những dăy hành tinh đó đang tiếp
diễn, th́ bầu A tức Bầu thứ nhất và cao
nhất, thay v́ bước vào giai đoạn nghỉ
ngơi như trong cuộc tuần hoàn trước đó,
bắt đầu tắt nghỉ và những bầu khác
cũng tuần tự luân phiên nối gót theo sau.
3. Quả Địa Cầu, trên vị
thế một đại diện hữu h́nh của các
bầu thế giới bạn, những “Nguyên Khí” vô h́nh và
thanh cao hơn, phải sống, cũng như những
bầu thế giới trên trải qua bảy cuộc
Tuần Hoàn. Trong ba cuộc Tuần Hoàn đầu tiên, nó
thành h́nh và cô đọng, trong cuộc Tuần Hoàn thứ
Tư, nó được củng cố chắc chắn và
trở nên cứng rắn. Trong ba cuộc Tuần Hoàn
cuối cùng, nó dần dần biến đổi, trở
về các h́nh thức mảnh mai, thanh nhẹ như lúc
khởi thuỷ, có thể nói là nó được thăng
hoa vậy.
214
4. Nhân loại trên Địa Cầu chỉ
hoàn toàn phát triển trong cuộc Tuần Hoàn thứ Tư,
tức cuộc Tuần hoàn hiện tại.Trước
cuộc Tuần Hoàn thứ Tư này, nó cũng gọi là
“Nhân Loại” (“Humanity”) chỉ v́ thiếu danh từ chính xác
hơn. Cũng như con sâu biến thành nhộng và
bướm th́ con người hay đúng hơn là sinh
vật sẽ trở thành người, cũng trải qua
mọi h́nh thể và mọi loài trong cuộc Tuần Hoàn
thứ Nhất, và trải qua tất cả những h́nh
thể con người trong hai cuộc Tuần Hoàn kế
tiếp. Đến quả Địa Cầu lúc khởi
đầu cuộc Tuần Hoàn thứ Tư trong một
loạt tiểu Chu kỳ sinh hoạt và những Giống
dân, CON NGƯỜI là h́nh thể đầu tiên xuất
hiện trên đó sau hai loài khoáng thạch và thảo
mộc, thậm chí loài sau này cũng c̣n phải phát triển và tiếp tục
sự tiến hoá của nó qua
con người. Trong ba cuộc Tuần Hoàn tương
lai, Nhân Loại cũng như quả Địa Cầu mà
họ sống trên đó, sẽ dần dần biến
đổi để trở lại h́nh thể sơ khai
nguyên thuỷ, tức là pháp thân của một vị
Thiền Định Đế Quân. Con người sẽ
trở thành một vị bất diệt và qui nguyên về
Thượng Đế, cũng như mỗi Nguyên tử
trong Vũ Trụ.
Bắt
đầu cuộc Tuần Hoàn thứ Hai, Cơ Tiến Hoá
đă diễn ra trên một b́nh diện hoàn toàn khác hẳn.
Chỉ có Cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất mà Chơn
Thần mới trở nên một con người trong
bầu A, rồi lại trở về loài khoáng thạch,
thảo mộc và thú cầm trên những bầu B và C v.v…
sự biến dịch này hoàn toàn thay đổi kể
từ cuộc Tuần Hoàn thứ Hai….([442]).
5. Mỗi Chu kỳ sinh hoạt trên bầu D
(Địa Cầu) có bảy Giống dân. Những
Giống dân này bắt đầu với những h́nh
thể khinh thanh và kết thúc với thể tâm linh, sau
đó trải qua một lịch tŕnh tiến hoá song đôi
về thể chất và tinh thần từ lúc bắt
đầu cho đến lúc chấm dứt một tiểu
Chu kỳ sinh hoạt trên Trái đất, gọi tắt là
một chu kỳ thế giới hay là một “Chu Kỳ
Bầu” (“Globe Round”).
Điều này được diễn
tả rơ ràng trong Phật Giáo Bí
Truyền và không cần phải giải thích thêm nữa.
6. Giống dân thứ Nhất, tức
giống “Người” đầu tiên trên địa
cầu (bất luận về h́nh thể) là hậu duệ
của những “Thiên Nhân” (“Celestial Men”) mà triết học
Ấn Độ gọi rất đúng là những “Thái Âm
Tinh Quân” (“Lunar Ancestor”) hay Pitris, gồm có bảy
Đẳng cấp hay Thành phần. V́ tất cả
điều này sẽ được giải thích một
cách đầy đủ trong những tiết mục sau
này và trong những Quyển 3 và 4, nên ở đây chúng tôi
không cần phải nói rơ điều này.
Nhưng cả hai tác phẩm vừa
được đề cập (cả hai đều
luận về những đề tài thuộc giáo lư
Huyền môn) cần có những lời chú thích riêng. Các
giới Minh Triết Thiêng Liêng cũng như bên ngoài
đều biết rất rơ quyển Phật Giáo Bí Truyền, v́ ở đây, tác
phẩm này cần được khai triển. Đó là
một tác phẩm xuất sắc và đă thực hiện
được một công tŕnh tuyệt hảo. Nhưng
điều này cũng không sửa đổi sự
kiện cho rằng tác phẩm này đă chứa đựng
vài quan niệm sai lầm và nó sẽ đưa nhiều nhà
nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng cùng độc giả
thế tục đến một nhận thức sai
lạc về Giáo Lư Bí Nhiệm Đông phương. Hơn
nữa, tác phẩm này dường như có thể hơi
quá duy vật.
215
C̣n quyển Con
Người ([443])
mới vừa xuất bản sau này, đă thử tŕnh bày
giáo lư cổ truyền theo một quan điểm lư
tưởng hơn, nó mô tả lại một vài linh
thị của Tinh Tú Quang (Astral Light), nó cũng diễn
tả từng phần một, vài giáo lư đă
được thu thập từ tư tưởng của
một vị Chân Sư, nhưng rủi ro thay lại
bị hiểu lầm. Tác phẩm này cũng nói về
sự tiến hoá các Giống dân sơ khai của loài
người trên Trần thế và một vài trang có tính
chất triết học rất hay. Nhưng đến nay,
tác phẩm này chỉ là một truyện thú vị có chút ít
thần bí. Tác phẩm này không đạt được
mục đích, v́ những điều kiện cần
thiết cho một sự diễn tả chính xác những
linh thị này c̣n chưa có. Do đó độc giả
cũng đừng lấy làm ngạc nhiên nếu những
quyển sách của chúng tôi có nhiều điểm
đặc biệt nói ngược lại những sự
diễn tả đầu tiên này.
Trong hai quyển sách này và trong những tác
phẩm Thông Thiên Học khác, do một số người mới tập viết
đơn phương soạn ra, có sự khác nhau rất
quan trọng về vũ trụ học bí truyền nói chung
và sự tiến hoá của Chơn Thần con người
nói riêng đến nỗi người ta không thể nào theo
kịp tác phẩm này mà không cần có sự đề
cập đặc biệt đến hai tác phẩm
trước, v́ cả hai đă có một số độc
giả hâm mộ - nhất là quyển Phật Giáo Bí Truyền. Đă tới lúc
để chúng ta giải thích một vài vấn đề
theo chiều hướng này. Bây giờ những sự sai
lầm cần phải được sửa lại cho
đúng bằng cách đối chiếu với giáo lư nguyên
thuỷ. Nếu một trong hai tác phẩm đă nói này có
khuynh hướng quá rơ rệt về khoa học duy vật,
th́ quyển kia lại có khuynh hướng quá duy tâm và
đôi khi hoang tưởng.
Những quan niệm sai lầm đầu
tiên này sinh ra từ phía giáo lư nói về những Chu kỳ
nghỉ ngơi và những 216
mặt Oedipus và dung hoà hai lối tŕnh bày này. Và
v́ các vị Chân Sư cũng giữ im lặng như chính
con Nhân Sư bằng đá, nên chính các Ngài cũng bị
tố cáo là “mâu thuẫn”, “tiền hậu bất nhất”
và “tương phản”. Nhưng các Ngài chỉ cho phép các
cuộc suy cứu tiếp diễn với mục đích là
để dạy một bài
học cho những bộ óc Tây phương đang tha
thiết cần tới với ḷng kiêu căng tự
phụ, với thói quen duy vật hoá mọi quan niệm và
từ ngữ siêu h́nh mà không nh́n nhận bất cứ
giới hạn nào của ngụ ư và ẩn dụ của
Đông phương, những nhà Đông phương
học đă làm xáo trộn triết lư công truyền của
Ấn Độ, và bây giờ, các nhà nghiên cứu Minh
Triết Thiêng Liêng cũng đang làm rối loạn giáo lư
nội môn. Cho đến nay, rơ ràng là các nhà Minh Triết
Thiêng Liêng đă hoàn toàn không hiểu được ư
nghĩa của từ ngữ “những Người của
cuộc Tuần Hoàn thứ Năm và thứ Sáu”. Nhưng
đó chỉ là như sau: “Mỗi cuộc Tuần Hoàn” mang
đến một sự phát triển mới lạ và
hơn nữa, một sự tuần hoàn thay đổi
trong toàn bộ cơ cấu thể chất, tinh thần và
tâm linh con người; tất cả những nguyên khí này
đều tiến hoá trên một giai tầng càng lên cao măi
không ngừng. Bởi vậy, những người như
Khổng Tử và Platon chẳng hạn, là những vị
thuộc giai tầng tiến hoá cao hơn người
thường về mọi phương diện trí tuệ,
tâm linh và tinh thần, tuy là ở cuộc Tuần Hoàn
thứ Tư, nhưng đă có tŕnh độ tiến hoá
vượt bực, mà nhân loại nói chung, ở thời
đại này chỉ có thể đạt tới trong
cuộc Tuần Hoàn thứ Năm. Cũng y như thế,
Phật Gautama, hiện thân của Minh Triết, c̣n cao
cả hơn các vị mệnh danh là “Siêu Nhân bậc
Năm” vừa kể trên. Những vị như Phật
Gautama và Shankaracharya được gọi theo danh từ
ẩn dụ của huyền môn là “Siêu Nhân bậc Sáu”. Do
đó mới lại có minh triết bí ẩn của
nhận xét mà có một lúc đă bị xem là “có tính cách né
tránh”- “một vài giọt mưa không đủ làm thành
một mùa mưa dù những
giọt mưa này báo hiệu mùa mưa”.
Trong Phật Giáo
Bí Truyền, tác giả đă nói rất đúng:
Khi mà những
sự kiện phức tạp của một khoa học
hoàn toàn mới lạ được tŕnh bày lần
đầu tiên cho những khối óc chưa
được chuẩn bị, th́ không thể nào
đưa giáo lư ấy ra với tất cả mọi
đặc tính thích nghi… và những khía cạnh lạ lùng…
Chúng ta phải áp dụng những qui luật tổng quát
trước đă, rồi nhiên hậu mới nói
đến các trường hợp ngoại lệ. Nhất
là trong sự học hỏi về khoa huyền môn,
người ta thường áp dụng phương pháp cổ truyền nhằm mục
đích gieo ấn tượng mới vào trí nhớ bằng
cách tạo nên sự ngạc nhiên và hoang mang trước
đă để rồi giải đáp sau ([444]).
V́ chính tác giả của nhận xét (như
ông đă nói) “chỉ là một cái trí chưa được
huấn luyện” trong Huyền bí học, những điều
suy diễn và sự hiểu biết cùng những cuộc
suy lư về thiên văn học hiện đại của
ông c̣n nhiều hơn sự hiểu biết về giáo lư
cổ truyền, nên điều này tự nhiên đă dẫn
ông tới việc phạm vào một vài lỗi lầm
nhỏ nhặt, hơn là lầm lẫn bất cứ ”qui
tắc rộng răi nào”. Bây giờ, một điều sai
lầm như vậy sẽ được chúng ta
để ư. Đó là một sự sai lầm vặt vănh,
song người ta trù liệu nó sẽ dẫn nhiều
kẻ mới tập sự vào nhiều nhận thức sai
lầm. Nhưng, cũng như khái niệm nhầm lẫn
của những ấn bản lần trước đă
được sửa lại trong những lời chú
giải của ấn bản lần thứ năm, cũng
vậy, ấn bản lần thứ sáu có thể
được tu chính và làm cho hoàn hảo hơn. Những sự
lầm lẫn này có nhiều lư do:
217
(1) V́ nhu cầu các vị Chân Sư cần
đưa ra cái được xem như là “những câu
trả lời tránh né”; những câu hỏi mà các Ngài phải
nhất mực làm ngơ trong khi mặt khác, các Ngài chỉ có thể giải đáp
một phần.
(2) Mặc dù có lập trường này,
lời thú nhận “có được nửa ổ bánh ḿ c̣n
hơn không có bánh ḿ” thường bị hiểu lầm và
hầu như không được đánh giá đúng
mức. Kết quả là đôi khi, những đệ
tử Âu Tây c̣n ở “ṿng ngoài” hay nói những điều vô
căn cứ. Trong đó có lời tuyên bố sai lầm là
hai bầu thế giới cao của Dăy Địa Cầu
là hai hành tinh quen thuộc của chúng ta; “ngoài địa
cầu, chỉ có hai bầu
thế giới khác trong dăy của chúng ta là hữu h́nh. Đó
là hai bầu Mars và Mercure” ([445]).
Đó là sự sai lầm to lớn. Nguyên do
câu trả lời của Chân Sư đáp lại câu hỏi
mơ hồ và không rơ rệt của một vị
đệ tử. Người đệ tử hỏi:
“Trong số những hành tinh mà khoa học đă biết th́
những hành tinh nào ngoài bầu Thuỷ Tinh ra thuộc
về hệ thống hành tinh của chúng ta?” Ở đây
có sự lầm lẫn về danh từ. Khi dùng chữ
“hệ thống hành tinh”, nếu người hỏi
muốn nói về Dăy Địa Cầu hiện tại thay
v́ “Hệ Thống Hành Tinh trong Thái Dương Hệ “ th́
lẽ tất nhiên câu trả lời có thể bị
hiểu lầm. Bởi v́ câu trả lời là: “Hoả Tinh và bốn hành tinh khác
mà Khoa thiên văn không biết ǵ cả. Không ai biết
về những bầu A, B hay những bầu Y, Z, v́
những bầu này không nh́n thấy được bằng
những phương tiện vật chất cho dù tinh vi
đến đâu” ([446]).
Có điều này là rơ rệt:
a) Khoa thiên văn thực sự chưa
biết ǵ về những hành tinh dù là hành tinh cũ hay hành
tinh mới khám phá vào thời hiện đại.
b) Không một hành tinh bạn nào từ bầu A đến bầu Z,
tức là những Bầu cao nhất của bất cứ
Dăy Hành Tinh nào trong Thái Dương Hệ, có thể nh́n
thấy được bằng mắt phàm. C̣n Hoả Tinh,
Thuỷ Tinh và “bốn hành tinh khác” có liên hệ như
thế nào với Địa Cầu th́ không bao giờ
một vị Chân Sư hay một nhà Huyền môn nào
muốn nhắc đến, đừng nói chi là giải
thích tính chất chúng ra sao.
218
Cũng trong bức thư trả lời
ấy, Chân Sư có nói rơ: “Nên
hiểu rằng con đang đưa cho ta những câu
hỏi thuộc về tŕnh độ Điểm
Đạo cao tột. Ta chỉ có thể phác hoạ
những nét khái quát, nhưng ta không có thẩm quyền
đi sâu vào chi tiết…” ([447])
Bản sao của tất cả các bức thư đă
được gởi đi, hoặc nhận
được, chỉ trừ một vài bức thư
riêng - “mà trong số đó không
có lời dạy bảo”, Đức Thầy nói -
được gởi cho tác giả. Từ lúc đầu,
v́ bà có bổn phận trả lời và giải thích một
vài điểm không được đề cập
đến, nên mặc dù có nhiều lời giải trong
những bản sao này, nhưng có lẽ tác giả c̣n
dốt tiếng Anh và sợ nói nhiều, nên tác giả
đă lầm lẫn những điều mà Ngài đă
tiết lộ. Trong mọi
trường hợp hay trong bất cứ trường
hợp nào, tác giả xin nhận lănh tất cả mọi
điều chê trách về việc đó. Nhưng tác
giả không thể nào chấp nhận để cho các sinh
viên giữ măi những cảm nghĩ sai lầm, hoặc
để cho họ tin rằng lỗi này do các hệ phái bí
truyền.
Như vậy cần nói rơ ràng là giả
thuyết nêu trên không thể chấp nhận
được, dù có hay không có thêm bằng chứng của
thiên văn học. Khoa vật lư có thể đưa ra
những bằng chứng, tuy rằng rất mập
mờ, chỉ liên quan tới những thiên thể vật
chất hữu h́nh của Vũ Trụ ngoại tại.
Mars và Mercury, Venus và Jupiter cũng như mọi hành tinh khác
đă, hay chưa được khám phá đều là
những Bầu đại diện cho những dăy hành tinh
trên cơi hồng trần. Như các bức thư của Chân
Sư gởi cho ông Sinnett có nói rơ: “Có vô số những dăy hành tinh trong chu kỳ khai nguyên
là đất sống của những nhân vật thông minh,
trong và ngoài thái dương hệ” ([448]).
Nhưng Mars và Mecury không thuộc về dăy địa
cầu của chúng ta. Hai bầu đó, cùng với những
hành tinh khác đều là các Đơn vị thất nguyên
trong những Dăy hành tinh của thái dương hệ, và
tất cả đều hữu h́nh cũng như những
Bầu khinh thanh trong các dăy liên hệ đều vô h́nh.
Nếu người ta c̣n biện luận
rằng, trong những bức thư của Đức
Thầy có một vài câu có lẽ phỉnh lừa, th́ câu
trả lời của Ngài sẽ là : Amen, đó là sự
thực. Tác giả quyển Phật
Giáo Bí Truyền có lẽ cũng hiểu rơ điều
này khi ông viết: “Những phương pháp giáo huấn
cổ truyền… bằng cách tạo ra sự hỗn mang”,
tuỳ trường hợp, những
phương pháp này có thể thay phiên nhau. Dù thế nào
đi nữa, nếu người ta nhấn mạnh
rằng lẽ ra điều này nên được giải
thích sớm hơn, và bản chất thực sự của
các hành tinh nên được đưa ra bây giờ, th́ câu
trả lời sẽ là: “Vào lúc đó, người ta
thấy không tiện làm như vậy, v́ nó sẽ mở
đường cho một loạt câu hỏi bổ túc mà người ta sẽ không bao giờ
trả lời được v́ chúng có tính chất Bí
truyền, và như vậy chỉ trở thành rắc
rối. Ngay từ đầu, điều này đă
được công bố; từ đó người ta
cứ luôn luôn quả quyết rằng:
1) Không có một nhà Minh Triết Thiêng Liêng nào
cũng như không có một
vị đệ tử (chela) đă được chấp
nhận nào, chứ đừng nói tới những môn
sinh tại thế, có thể trông mong là giáo lư nội môn
sẽ giải thích cho y một
cách đầy đủ và tỉ mỉ trước khi
y tự thệ nguyện
trước Quần Tiên Hội (Brotherhood) và ít nhất là
đă trải qua một lần Điểm Đạo, v́
không con số nào và chữ số nào có thể
được đưa ra cho công chúng, v́ con số và chữ
số đó là ch́a khoá của hệ phái Bí truyền.
219
2) Cái được tiết lộ cũng
chỉ là lớp lót Bí truyền của cái được
chứa đựng trong hầu hết các kinh sách công
truyền của các tôn giáo trên thế gian - nhiều
nhất là trong kinh Brahmanas, và
Áo Nghĩa Thư (Upanishads) của kinh Vedas cũng như kinh Puranas. Nó chỉ là phần nhỏ
của cái bây giờ được tiết lộ một
cách đầy đủ hơn nhiều trong những
quyển sách này; và ngay đến điều này vẫn c̣n
rất thiếu sót và rời rạc.
Khi quyển sách này bắt đầu
được viết ra, tin chắc rằng lời tuyên
bố kể trên về hai bầu Mars và Mercury là một
điều sai lầm, tác giả có viết thư thỉnh
cầu các Chân Sư giải thích và thỉnh cầu các Ngài
cho một bản chỉ giáo dứt khoát. Cả hai
đều đúng như tác giả mong đợi và
dưới đây là bản trích lục những văn
kiện ấy. Chân Sư viết:
“… Đúng là
Hoả Tinh (Mars) hiện nay đang ở vào t́nh trạng
huỷ diệt, c̣n Thuỷ Tinh (Mercury) th́ vừa thoát
khỏi t́nh trạng ấy. Kim Tinh (Venus) đang ở vào
cuộc Tuần Hoàn cuối cùng… Nếu cả hai Venus và
Mercury đều không có vệ tinh, đó là những lư do
[xem những lư do nêu ra ở đoạn phụ chú]…và
cũng bởi v́ Hoả Tinh có hai vệ tinh mà nó không có
quyền….Phobos mà người ta tưởng là một
vệ tinh NỘI TẠI (INNER), không phải là một
vệ tinh. Như vậy, con thấy đấy, các chú
giải này do Laplace đă đưa ra từ lâu, bây giờ
Faye lại không đồng ư (hăy đọc những
bản tường tŕnh, Quyển XC, trang 569). Như Faye
đă nhận xét một cách chính xác, hộ tinh Phobos chỉ
xuất hiện trong một thời gian ngắn có
định kỳ, v́ vậy, ư niệm gốc của
thuyết này ‘phải có một vài khuyết điểm’…
Rồi Mars và Mercury đều là những dăy có bảy
bầu thế giới, hoàn toàn không có liên hệ ǵ
đến các bầu cao của Dăy Địa Cầu,
cũng như con không có liên hệ ǵ với ‘nguyên khí’
của người bạn thân nhất… Bacon có nói: “Mục
đích của sự hiểu biết của một vài
người là để thoả măn sự ṭ ṃ”, ông thật
rất đúng khi giả định sự thực
hiển nhiên này, cũng như trước ông, người
nào đă quen với sự thực này th́ cũng đúng khi
họ loại bỏ Kiến Thức (Knowledge) ra khỏi
MINH TRIẾT (WISDOM) và truy nguyên các giới hạn tới cái
mà người ta có một dạo đă đưa ra…Con hăy
nhớ rằng:
… kiến
thức là sự nhồi sọ với tư tưởng
của người khác, c̣n Minh Triết
chỉ đến với
người biết lo chăm sóc tư
tưởng của ḿnh…
“Con hăy nhắc
nhở những điều này luôn luôn để in sâu vào
trí năo của các sinh viên mà con muốn chia sẻ ít nhiều
Giáo lư huyền môn…”
Dưới đây là đoạn trích lục
ở một bức thư khác do Chân Sư trả lời
những thắc mắc của một đệ tử.
Những điều dị nghị này căn cứ vào
một lư lẽ vừa khoa học, vừa vô ích, nói về
việc dung hoà những lư thuyết Huyền môn với
những quan sát khoa học tân tiến. Chúng do một nhà
nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng trẻ tuổi viết
ra với ư định khuyến cáo chống lại Giáo Lư
Bí Nhiệm và có đề cập tới vấn đề
hiện hữu. Y tuyên bố rằng, nếu quả
thật có những Bầu thế giới bạn “th́ chúng
sẽ ít vật chất hơn bầu thế giới
của chúng ta một chút”. Vậy tại sao chúng ta không
thấy chúng nó? Câu trả lời sau:
“…Nếu
người ta hiểu rơ hơn những lời dạy
về tâm linh và tinh thần, th́ người ta hầu
như cũng sẽ chẳng thể tưởng
tượng ra được một điều phi lư
như vậy. Nếu người ta không
220
chịu khó dung hoà
những điều ǵ không thể dung hoà được - đó
là các khoa học siêu h́nh và khoa học tâm linh (the metaphysical
and spiritual sciences) với triết lư hữu h́nh hay tự
nhiên (with physical or natural philosophy), danh từ “tự nhiên” [
đối với các nhà khoa học] là đồng nghĩa
với chất được tri giác bởi các giác quan xác
thịt của họ - th́ không thể tiến hoá thực
sự được. Địa Cầu chúng ta, như
đă dạy lúc đầu, ở chỗ cuối ṿng cung
đi xuống là nơi vật chất biểu lộ
trạng thái nặng trọc nhất. Do đó, những
bầu cùng dăy với trái đất tất nhiên phải
ở trên những cơi khác thanh cao hơn… Nói tóm lại,
những Bầu ấy không phải được CẤU
TẠO BẰNG VẬT CHẤT HỒNG TRẦN NHƯ ĐỊA
CẦU (IN CONSUBS-TANTIALITY WITH OUR EARTH), và như vậy, nó thuộc
về trạng thái tâm thức khác hẳn. Địa
cầu chúng ta cũng như hành tinh hữu h́nh khác, phù
hợp, thích nghi với trạng thái của nhân loại
đang sống trên đó. Trạng thái này giúp cho nh́n
thấy bằng mắt những thiên thể cùng chung
một cơi hạ giới và cùng chung vật chất hồng
trần, cũng như những nhân vật trên Hoả Tinh,
Mộc Tinh và những hành tinh khác có thể nh́n thấy trái
đất; v́ mặc dù khác nhau về mức độ,
song các cơi tâm thức (planes of consciousness) của ta cũng
thuộc về một loại và ở trên cùng một
lớp vật chất đă biến phân… Ta có viết:
“Tiểu chu kỳ Qui Nguyên (the ninor Pralaya) chỉ có ở
trong Dăy Hành Tinh mà thôi… Trái Đất thuộc về một
trong những Dăy Hành Tinh đó”. Điều này chỉ rơ
rằng, những hành tinh khác cũng thuộc về Dăy liên
hệ… Nếu y [người đặt câu hỏi] muốn
nh́n thấy dù chỉ cái bóng mờ của một bầu
thế giới trên các cơi cao, trước hết y phải
dẹp tan bức màn u ám của chất thanh khí, nó là cái
chướng ngại giữa đôi mắt y với cái
kế cận”.
Đó là lư do tại sao chúng ta không thể
nh́n thấy những ǵ vượt ra ngoài cơi giới
vật chất, dù cho ta sử dụng những viễn
vọng kính tinh vi nhất. Chỉ có những vị Tiên
Thánh là những vị có nhăn quan thần thông, biết cách
chuyển di cả hai loại tâm thức thể chất và
tâm linh lên cơi trên mới có thể nói về những vấn
đề ấy một cách chính xác. Các Chân Sư đă nói
rơ với chúng ta:
221
“Hăy sống
đời sống tâm linh cần thiết cho sự
hoạch đắc các kiến thức và quyền năng
siêu nhiên, rồi minh triết sẽ tự nhiên tới
với con. Khi nào con có thể hoà hợp tâm thức của
ḿnh với một trong bảy âm giai của ‘Tâm Thức
Vũ Trụ Đại Đồng’ [‘Universal Consciousness’]
luôn luôn rung động trong thời gian vô tận, khi con
đă thấu triệt ‘Diệu âm của bầu thế
giới’ [‘Music of the Sphares’], chừng đó con mới
được hoàn toàn tự do để chia sớt
sự hiểu biết của con với kẻ khác một
cách an toàn. Trước khi đạt tới đó, con hăy
thận trọng. Con chớ tiết lộ những Chân Lư
trọng đại liên quan đến những giống dân
tương lai cho thế hệ hiện tại của chúng
ta. Chớ nên vén bức màn bí mật của thực tại
và bất tại cho những kẻ không thể hiểu ư
nghĩa ẩn giấu của tiếng ĐÀN THẤT
HUYỀN của thần Apollo
(Apollo’s HEPTACHORD), cây đàn
của Thái dương chói rạng, trong mỗi sợi dây
của nó có ngự Tinh Thần, Linh Hồn và Thể Vía
của Vũ Trụ mà chỉ có vỏ ngoài ngày nay rơi
vào tay của khoa học hiện đại… Chúng ta nói
lại, con hăy thận trọng và khôn ngoan, và trên hết hăy
cân nhắc những điều mà con dạy cho kẻ khác,
e rằng do sự lầm lạc của họ mà họ sẽ
làm cho những kẻ khác sẽ đi sai đường, …
bởi v́ đó là định mệnh của thế nhân
mỗi khi gặp phải một chân lư hoàn toàn mới
lạ mà họ chưa hề quen thuộc… Tốt hơn là
hăy để cho những Dăy Hành Tinh và những điều
bí ẩn của vũ trụ cứ vẫn là một điều
mộng ảo, hoang đường đối với
những kẻ tai phàm mắt tục, họ không bao giờ
nh́n thấy và cũng không bao giờ tin rằng kẻ khác có
thể nh́n thấy”.
Rất tiếc là trong chúng ta, ít có
người nào theo lời chỉ dạy khôn ngoan này. Và
nhiều hạt trân châu vô giá, nhiều minh triết bửu
giám đă bị lọt vào tay kẻ nghịch, y không
thấu được giá trị của chúng; điều
này làm cho chúng ta vô vàn đau xót.
Vị Chân Sư có viết cho hai
người đệ tử “ṿng ngoài” (“lay chelas”) như
sau: “Chúng ta hăy thử
tưởng tượng RẰNG TRÁI ĐẤT LÀ
MỘT TRONG NHÓM BẢY HÀNH TINH HAY BẢY BẦU THẾ
GIỚI CÓ NGƯỜI Ở… [‘BẢY bầu thế giới này’ là bảy hành tinh thiêng liêng
thời cổ và tất cả đều là thất nguyên
tức là gồm thâu bảy bầu khác (vô h́nh) trong một
dăy]. Trào lưu sinh hoạt
tiến tới bầu A hay cái sẽ trở thành bầu A,
nhưng trước đó vẫn chỉ là chất bụi
tiên thiên [một trung tâm Laya]…” v.v..([449])
Trong việc trao đổi với Chân Sư
hồi buổi đầu, những từ chuyên môn chưa
có sẵn, phải đặt ra để tạm dùng nên
thường có sự lầm lẫn. Sự lầm lẫn
đó là do bởi chưa có sự thống nhất danh
từ, chẳng hạn chữ “Ṿng” (“Rings”) thường
trở thành “Cuộc Tuần Hoàn” (“Rounds”) và “Cuộc
Tuần Hoàn” (“Rounds”) trở thành “Chu kỳ Sinh Hoạt”
(“Life-Rings”) và ngược lại. Trả lời thư
của một đệ tử gọi một “Cuộc
Tuần Hoàn” là “Chu Kỳ Thế Giới” (“World-Ring”), Chân
Sư viết: “Ta e rằng
điều này sẽ đưa đến một lầm
lẫn khác nữa. Chúng ta đă thoả thuận
định nghĩa Cuộc Tuần Hoàn là thời kỳ
tiến hoá của một điểm Chơn Thần
trải qua bảy bầu thế giới, từ bầu A
đến bầu Z hay G. Việc định nghĩa ‘chu
kỳ thế giới’ hay ‘chu kỳ bầu’ như vậy là đúng…Như ông Sinnett đă
đề nghị, ta hăy thoả hiệp với nhau
trước về việc thống nhất danh từ, trước
khi tiếp tục học hỏi” ([450]).
Mặc dù có việc thoả thuận từ
trước, nhưng v́ sự lầm lẫn nói trên nên có
nhiều điểm sai lầm đă xen vào những giáo lư
đầu tiên. Thậm chí đến danh từ những
“Giống Dân” (“Races”) thỉnh thoảng cũng bị
lẫn lộn với những “Ṿng” (“Round” và “Ring”), và
đưa đến những sai lầm tương tự
trong quyển “Con Người:
Vài Chân Lư đă bị lăng quên” (“Man: Fragments of Forgotten Truth”). Từ
lúc đầu, Chân Sư đă viết: “Ta không được phép tiết lộ cho con
biết hết chân lư toàn diện hay một số những
phần lẻ tẻ…nên ta không thể làm thoả măn con
được” ([451]).
Đó là để trả lời câu hỏi:
“Phải chăng con người phải trải qua 637
kiếp sống trên trái đất?” Đáp lại những
câu hỏi về những con số chính xác, Chân Sư
viết: “Hăy thử giải
đáp bài toán đưa đến đáp số 777 kiếp
đầu thai (trên địa cầu)… Tuy ta bị bắt
buộc phải giữ kín những điều bí mật…
nhưng nếu con tự lực cố gắng giải
đáp bài toán bí hiểm này, ta có bổn phận nói rơ cho con
biết” ([452]).
222
Nhưng điều này không bao giờ
được thực hiện khiến cho sự hoang mang
và lầm lạc cứ măi tái diễn.
Ngay cả giáo lư về cấu tạo
gồm bảy phần của những thiên thể và
đại vũ trụ - nhân đó mới có sự chia ra
bảy phần của tiểu vũ trụ hay Con
Người - đến nay vẫn c̣n là những luận
cứ huyền môn thượng thặng. Thuở xưa,
người ta chỉ tiết lộ nó vào lúc điểm
đạo mà thôi, nghĩa là lúc người ta cho biết
số linh thánh của các chu kỳ. Bây giờ ta xin nói –
như một tờ Tạp chí Minh Triết Thiêng Liêng ([453])
đă vạch rơ - rằng lúc ấy, người ta không
dự định bộc lộ tất cả hệ
thống vũ trụ luận và người ta cũng không
nghĩ rằng điều này có thể làm được,
trong lúc đó, (là lúc phải trả lời vô số câu
hỏi của tác giả quyển Phật Giáo Bí Truyền) th́ chỉ giải bày vài
chỗ mà thôi. Trong những câu hỏi này, có những câu liên
quan tới các bài toán đố như sau: “Không một CHÂN SƯ nào, dù cao cả và độc
lập đến đâu, có quyền trả lời mấy
câu hỏi đó và tiết lộ như thế cho
đời biết những bí ẩn cổ kính nhất
của các đền thờ và trường học
đạo cổ xưa”. Do đó, chỉ vài giáo lư
được tiết lộ và chỉ nói tổng quát mà
thôi, c̣n những chi tiết luôn luôn được giấu
kín và mọi cố gắng để t́m hiểu thêm về
điều đó luôn luôn bị né tránh. Đó là điều
hoàn toàn tự nhiên. Bốn Vidyas (rút trong bảy ngành
Hiểu biết mà người ta nói trong kinh Puranas) – nghĩa là Yajna Vidya, là
làm nhiều nghi lễ tôn giáo để đạt vài
kết quả; Maha Vidya, là sự hiểu biết vĩ
đại hiện giờ bị bại hoại thành
sự cúng kiến Tantrika; Guhya Vidya, là khoa Thần chú và
sự đúng nhịp của chúng hay ngân những câu hát bí
ẩn v..v…; Atma Vidya, hay là Minh
Triết tinh thần và thiêng
liêng thật sự - chỉ có Atma Vidya này là có thể
rọi ánh sáng cuối cùng và tuyệt đối trên các
lời dạy về ba Vidyas trước kia. Không có Atma
Vidya giúp đỡ th́ mấy Vidya kia chỉ là những khoa học
ngoài mặt, những
độ lớn h́nh học, nghĩa là có bề dài, bề
ngang mà không có bề sâu. Chúng có hơi giống với linh
hồn, tứ chi và cái trí của một người
đang ngủ, có khả năng làm những cử
động máy móc, nằm chiêm bao lộn xộn, cho chí
vừa ngủ vừa đi, có thể tạo ra nhiều
hậu quả thấy được; nhưng những
hậu quả này sinh ra bởi lư do bản năng chứ
không có tính toán trước, lại càng không do những thúc
đẩy của tinh thần với tràn đầy ư
thức. Người ta có thể giảng dạy nhiều
về ba khoa Vidyas thứ nhất, nhưng trừ phi ch́a
khoá của sự dạy dỗ này được khoa Atma
Vidya cung ứng, chúng sẽ vẫn giống như những
thành phần của một quyển sách vụn nát,
giống như cái bóng của các đại chân lư
được lờ mờ trông thấy bởi các vị
có tinh thần tiến hoá nhất (the most spiritual), nhưng
đă bị biến dạng do những kẻ muốn
đóng đinh bất cứ một bóng nào trên vách
tường.
223
C̣n một điều khó xử cho cái trí
của học giả nữa, khi họ đứng
trước một sự tŕnh bày bất toàn của giáo lư
tiến hoá về Chân Thần. Muốn hiểu thấu giáo
lư này, th́ phải qua sát chính sự diễn tiến này và
sự diễn tiến của sự sinh hoá các Bầu
thế giới, dưới trạng thái siêu h́nh nhiều
hơn trạng thái mà chúng ta gọi là “thống kê” (nghĩa
là trạng thái chỉ tŕnh bày các số và chữ số,
việc sử dụng chút ít được phép). Rủi
thay, chỉ có ít người quan sát một cách siêu h́nh
mấy giáo lư đó mà thôi. Ngay cả các tác giả
phương Tây hảo hạng cũng viết về chính
đề tài đó trong quyển sách của ông (trong lúc ông
nói về sự tiến hoá của Chân Thần) như sau:
“Chúng ta hiện nay không lo về phần siêu h́nh thuần tuư
như thế đó” ([454]).
Nhưng lúc bấy giờ, vị Chân Sư của ông đă
nói: “Tại sao giảng một
giáo lư? Tại sao có tất cả việc làm cực
nhọc ấy? Tại sao phương Tây… lại học
với phương Đông… điều mà không bao giờ làm
thoả măn được thị hiếu đặc
biệt của nhà thẩm mỹ? Và Ngài nhắc vị
thư tín viện của Ngài lưu tâm về những
nỗi khó khăn to lớn mà các vị Chân Sư gặp
phải mỗi lần các Ngài cố gắng giảng
về siêu h́nh học cho cái trí của Tây phương”.
Và phải như thế mới
được, bởi v́ nếu không có siêu h́nh học th́
không một triết lư huyền linh nào có thể có
được. Điều này cũng như người
ta rán cắt nghĩa ḷng hoài băo, t́nh thương yêu, ḷng bác
ái và sự oán ghét (những việc mật thiết
nhất; linh thánh nhất của linh hồn và trí óc con
người sống) bằng cách miêu tả sự giải
phẫu của ngực và óc của một xác chết.
Nay, chúng ta hăy xét hai giáo điều nêu trên
nhưng rất ít khi được ám chỉ trong Phật Giáo Bí Truyền và
bổ túc chúng theo sự hiểu biết của ta.
GIẢI THÍCH
THÊM VỀ NHỮNG BẦU THẾ GIỚI
VÀ NHỮNG ĐIỂM CHÂN THẦN
Xin độc giả chú ư hai điểm nêu
ra trong quyển Phật Giáo Bí
Truyền, trong đó, tác giả viết:
Những điểm Chân Thần… không có hoàn
tất sự sống trong loài kim thạch trên Bầu A,
lại hoàn tất trong Bầu B và tiếp theo. Chúng trải
qua nhiều chu kỳ xuyên qua các bầu thế giới trong
loài khoáng thạch, rồi lại trải qua nhiều chu
kỳ trong loài thảo mộc và nhiều chu kỳ trong loài
động vật. Chúng tôi miễn đi sâu vào chi tiết
nói về các con số v.v.. ([455])
Thật là khôn ngoan mà chọn như vậy,
xét về những chữ số và các con số đă
được duy tŕ một cách rất bí mật. Hiện
nay, sự kín miệng này đă bị bỏ một
phần, nhưng có thể vào lúc đó, những con số
thực sự liên quan đến những Cuộc Tuần
Hoàn và những chu tuần tiến hoá xoáy trôn ốc,
hoặc nên được hoàn toàn tiết lộ hay là nên được
giấu kín trọn vẹn. Ông Sinnett đă hiểu rơ sự
khó khăn này nên ông nói:
V́ lư do người ngoài không thể đoán trước
một cách dễ dàng, nên những người có sở
năng kiến thức Huyền bí đặc biệt,
miễn cưỡng đưa ra những sự kiện
bằng số có liên quan đến khoa vũ trụ
học, mặc dù đối với những người
chưa được điểm đạo th́ họ khó
ḷng hiểu được tại sao những sự
kiện này nên được giấu kín ([456]).
224
Rơ ràng có những lư do như thế. Tuy nhiên
chính v́ có sự kín đáo này, nên một vài đệ tử
Đông phương cũng như Tây phương mới
mắc phải những ư niệm lầm lộn. Việc
chấp nhận những giáo điều đặc
biệt đang xét này có những khó khăn dường
như là rất quan trọng, cũng chỉ v́ không có
bất cứ dữ kiện nào để cho người
ta tiến hành công việc. Nhưng thế đấy, v́ các
Đức Thầy đă nhiều lần tuyên bố,
những con số thuộc các phép toán Huyền bí không
thể nào được đưa ra ngoài các nhóm
đệ tử đă thệ nguyện, cũng như không
người nào có thể phạm vào qui tắc dành cho
vấn đề này được.
Để giải thích những điều
sau này một cách rơ rệt hơn mà không đá động
ǵ tới những h́nh thức toán học của giáo lư này,
một vài điểm tối nghĩa có thể
được giải quyết và giáo lư đă
được đưa ra có thể được khai
triển. V́ sự tiến hoá của các Bầu hành tinh và
sự tiến hoá của các Chân Thần đă hoà lẫn
với nhau một cách hết sức nhuần nhuyễn, nên
chúng ta sẽ hợp nhất hai thứ giáo lư này lại. Nói
về những điểm Chân Thần, độc giả
nên nhớ rằng triết học Đông phương bác
bỏ tín điều thần học của Tây
phương về việc có một linh hồn mới
được sáng tạo cho mỗi hài nhi vừa mới
được sinh ra, v́ đó là một tín điều
phản triết học và không thể có trong thiên nhiên.
Phải có một số giới hạn các điểm Chân
Thần tiến hoá và phát triển lần lần
đến mức toàn thiện trải qua nhiều kiếp
và nhiều cá tính liên tiếp nhau trong mỗi Chu Kỳ Khai
Nguyên mới. Đó là một điều tuyệt
đối cần thiết theo những giáo lư về sự
Luân Hồi, Nhân Quả và sự tuần tự tiến hoá
của Chân Thần con người trên đường
phản bổn hoàn nguyên để trở về nguồn
cội là Thượng Đế. Như vậy, tuỳ
thành phần những điểm Chân Thần trên những
giai tầng tiến hoá khác nhau gồm một tổng
số nhiều vô kể, nhưng số ấy vẫn có
hạn, cũng như tất cả mọi vật khác trong
Vũ Trụ phân hoá hữu hạn.
Như đă tŕnh bày trong đồ h́nh
số I, các Nguyên Khí con người và các Bầu Thế
Giới trong Dăy Hành Tinh có sự liên hệ nhân quả
trường kỳ và sự tương hợp song đôi
hoàn toàn đi xuyên qua và nối liền nhau, tất cả
mọi con đường tiến hoá. Vật này sinh ra
vật kia, dù các Bầu thế giới hay con người
cũng vậy. Nhưng chúng ta hăy bắt đầu từ
chỗ khởi đầu.
Những nét khái quát về phương thức cấu tạo nên Dăy Hành Tinh nối tiếp nhau vừa được tŕnh bày trên đây. Để ngăn ngừa những quan niệm sai lầm về sau này, chúng tôi xin đưa ra một vài chi tiết có thể làm sáng tỏ lịch sử của Nhân Loại trên Dăy Địa Cầu hiện tại, là hậu duệ của Nhân Loại trên Dăy Nguyệt Cầu.
ĐỒ H̀NH II
H̀NH I DĂY
NGUYỆT CẦU DĂY ĐỊA CẦU H̀NH II
Trong đồ h́nh II, sơ đồ bên mặt chỉ Dăy Nguyệt Cầu gồm bảy Bầu thế giới vào lúc bắt đầu cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy hay cuối cùng, c̣n sơ đồ bên trái chỉ “Dăy Địa Cầu” tương lai, nhưng chưa thành h́nh. Bảy Bầu của mỗi Dăy được phân biệt theo trật tự vận hành bằng những chữ cái từ A tới G, những Bầu của Địa Cầu được ghi thêm chữ thập (+), biểu tượng của Địa Cầu. Ta nên nhớ rằng các Chân Thần luân chuyển trên bất cứ Dăy thất phân nào cũng đều chia ra làm bảy Loại hay bảy Thành phần, tuỳ theo các mức độ tiến hoá, phát triển tâm thức và công quả liên hệ của chúng. Chúng ta hăy theo dơi trật tự xuất hiện của chúng trên Bầu A, trong cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất. Thời gian giữa những chu kỳ xuất hiện của những Thành phần hay loại đó trên bất cứ bầu nào được điều chỉnh cách nào để khi Loại 7 (là loại cuối cùng) xuất hiện trên Bầu A, th́ loại 1, tức là loại đầu tiên, đă vừa chuyển qua Bầu B, và cứ thế tuần tự khắp từng bước một ṿng quanh khắp Dăy.
225
Lại nữa, trong cuộc Tuần Hoàn
thứ Bảy trên Dăy Nguyệt Cầu, khi Loại 7 (Class 7)
rời khỏi Bầu A, th́ Bầu này, thay v́ ngủ yên
như trong các Cuộc Tuần Hoàn trước, bắt
đầu tắt nghỉ ([457]),
khi đó nó di chuyển dần dần, như đă nói trên,
những nguyên khí hay sinh khí, năng lượng v.v.. của
nó tuần tự từng thứ một, sang một trung tâm
Laya mới để bắt đầu cấu tạo nên bầu
A của dăy Địa Cầu. Một phương thức
tương tự diễn ra cho mọi bầu Dăy Nguyệt
Cầu, tuần tự từng Bầu một, cái nọ
sang cái kia, mỗi Bầu như thế tạo nên một
Bầu mới của Dăy Địa Cầu. Mặt
Trăng là Bầu thứ tư của Dăy Nguyệt Cầu
và cũng thuộc về vật chất hồng trần
như Trái Đất. Những Bầu A của Dăy
Nguyệt cầu không hoàn toàn “chết” trước khi các
Chân Thần đầu tiên của Loại 1 (first Class)
đă từ Bầu G (hay Z), tức Bầu cuối cùng
của Dăy Nguyệt Cầu, bước vào Niết Bàn
vẫn chờ đợi chúng ở khoảng giữa hai
Dăy. Điều này cũng diễn ra tương tự
với tất cả những Bầu khác như đă nêu
trên, mỗi bầu đó lại sinh sản ra một
bầu tương đương trên Dăy Địa
Cầu.
226
Khi Bầu A của Dăy hành tinh mới
sẵn sàng, các Chân Thần loại 1 từ Dăy Nguyệt
Cầu chuyển tiếp sang đó trong loài thấp nhất
và cứ như thế mà tiến lên liên tục.
Điều này đưa đến kết quả là
chỉ có Chân Thần Loại 1 đạt tới tŕnh
độ tiến hoá của loài người trong Cuộc
Tuần Hoàn đầu tiên, bởi v́ Loại 2 trên mỗi
Bầu, v́ đến sau nên không đủ th́ giờ
đạt đến tŕnh độ đó. Như vậy,
những Chân Thần Loại 2 chỉ đạt tới
tŕnh độ nhân loại trong Cuộc Tuần Hoàn thứ
Hai và cứ như thế cho đến khoảng giữa
Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư. Nhưng đến
điểm này – và trong Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư,
giai đoạn tiến hoá của nhân loại sẽ
được hoàn toàn phát
triển – “cánh cửa” đưa vào hàng ngũ nhân loại
bị khép chặt, và từ đó trở đi, số Chân
Thần “con người”, tức là những Chân Thần
trong giai đoạn tiến hoá của nhân loại, đă
đầy đủ. V́ các Chân Thần chưa đạt
tới tŕnh độ nhân loại vào điểm đó,
trong khi nhân loại vẫn tiếp tục tiến hoá,
sẽ không theo kịp và bị ở lại rất xa,
đến nỗi chúng chỉ đạt tới tŕnh
độ nhân loại vào cuối cùng của cuộc
Tuần Hoàn thứ Bảy. Bởi vậy, chúng sẽ không
được thành người trong Dăy này và sẽ gia
nhập hàng ngũ Nhân Loại của một Chu kỳ Khai
Nguyên tương lai (future Manvantara) và sẽ được
trở nên “người” trên Dăy hành tinh thanh cao hơn theo
định luật thừa trừ. Chỉ có một trường hợp
ngoại lệ duy nhất, v́ những lư do chánh đáng
mà chúng tôi sẽ tŕnh bày sau. Nhưng điều này sẽ
giải thích sự khác nhau của các Giống dân.
Do sự kiện trên, người ta thấy
rơ có sự tương đồng chặt chẽ giữa
những phương thức tác động của Thiên
Nhiên trong Vũ Trụ và trong con người. Con
người sống trọn một kiếp sống
của ḿnh rồi chết. Những “nguyên khí cao” (“higher
principles”) của y, tương đương với các
Chân Thần luân chuyển trong cơ tiến hoá của Dăy
Hành Tinh, đi vào Devachan, cơi này tương ứng với
cơi Niết Bàn và những trạng thái yên nghỉ giữa
hai Dăy Hành Tinh. Các “nguyên khí” thấp hơn của con
người tan ră kịp thời và lại được
Thiên Nhiên sử dụng để tạo nên những nguyên
khí mới. Sự tan ră và cấu tạo các Bầu Thế
Giới cũng diễn ra với những phương
thức giống như vậy. Như thế, cái ư
tưởng tương đồng là phương châm
chắc chắn nhất để giúp ta hiểu rơ Giáo lư
Huyền môn.
Đây là một trong “bảy bí mật
của Mặt Trăng” và bây giờ sự bí mật này
đă được tiết lộ. Người Nhật
Bản gọi bảy bí mật này là Yama-booshis,, các pháp sư của chi phái Lăo Tử và
các tu sĩ khổ hạnh tại Kyoto gọi bảy
sự bí mật này là Dzenodoo – là “Bảy viên ngọc quí báu”
(“Seven Jewels”); nếu có thể, chỉ có những tín
đồ Phật giáo khổ hạnh của Nhật
Bản và Trung Quốc, cùng những vị được
Điểm Đạo, th́ mới kín đáo hơn các tín
đồ của Ấn giáo khi họ đưa ra môn khoa
học huyền bí.
227
Nhưng độc giả không được
phép quên mất các Chân Thần này và phải hiểu rơ
bản chất của chúng (trong chừng mực
được phép) mà không xâm phạm vào những
điều bí mật cao siêu nhất; mà về bất
cứ phương diện nào, tác giả cũng không
tự nhận là ḿnh hiểu rơ rốt ráo.
Tập thể các Chân Thần có thể chia
làm ba Loại chính:
1. Các Chân Thần tiến hoá nhất, gọi
là Nguyệt Tinh (the Lunar Gods or “Spirits”), bên Ấn Độ
gọi là Pitris. Trong Cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất, các
Chân Thần này phải tiến hoá qua ba chu kỳ trong các
loài khoáng vật, thảo mộc và cầm thú, trong những
h́nh thể mảnh mai, tinh tế, khinh thanh nhất
để có thể đồng hoá và thích nghi với tính
chất của Dăy hành tinh mới sáng tạo. Đó là các
Chân Thần đầu tiên khoác lấy h́nh thể con
người trên Bầu A trong Cuộc Tuần Hoàn thứ
Nhất (nếu có thể gọi là h́nh thể trên một
cơi giới khinh thanh hầu như c̣n ở trong trạng
thái chủ thể chưa phân hoá rơ ràng). Do đó, chính
những Chân Thần này hướng dẫn và tiêu biểu
cho thành phần nhân loại trong những Cuộc Tuần
Hoàn thứ Hai và thứ Ba, và sau cùng phát triển h́nh thể
tế nhuyễn của chúng vào lúc bắt đầu
cuộc Tuần Hoàn thứ Tư cho Loại 2, tức là
Chân Thần đến sau chúng.
2. Các Chân Thần đầu tiên đạt
tới giai đoạn tiến hoá của nhân loại trong
ba Cuộc Tuần Hoàn rưỡi và trở thành
người (không hẳn là người như chúng ta
hiện nay, nhưng là những thực thể biết suy
tư, có trí óc, tư tưởng).
3. Những Chân Thần lạc hậu,
chậm trễ, không đạt tới tŕnh độ
của nhân loại trong Cuộc Tuần Hoàn hiện tại
v́ lư do Nghiệp Quả, trừ một trường
hợp ngoại lệ sẽ nói sau.
Chúng ta bắt buộc phải dùng tiếng
không được đúng ở trên là tiếng “Con
Người” và đây là bằng chứng rơ ràng cho thấy
bất cứ ngôn ngữ nào của người Âu Châu
cũng không thích hợp mấy để diễn đạt
sự dị biệt tinh vi này.
Lẽ cố nhiên là những “Con
Người” này không giống với con người ngày
nay, cả về h́nh dáng lẫn tính chất. Vậy th́,
người ta có thể hỏi, tại sao tất cả
đều được gọi là “con người”?
Bởi v́ trong bất cứ các thứ ngôn ngữ nào
của Tây phương, cũng đều không có một
ngôn ngữ nào khác có thể truyền đạt ư niệm
này một cách xác đáng. Tiếng “con người” này ít
nhất là để chỉ rằng các sinh vật này là
những vị “BÀN CỔ” (“MANUS”) ([458]),
là những thực thể biết suy tư, mặc dù các
thực thể này có h́nh dáng và trí khôn khác với chúng ta.
Nhưng thực ra, xét về mặt tinh thần và trí khôn,
các sinh vật này là “những vị thần linh” hơn là
“Con Người”.
226
Người ta thường gặp những
khó khăn về ngôn ngữ khi diễn tả những “giai
đoạn” mà Chân Thần phải trải qua. Dĩ nhiên,
khi nói về mặt siêu h́nh học, thật là một
điều phi lư khi nói rằng có “sự tiến hoá”
của một Chân Thần, hoặc nói rằng Chân Thần
trở thành “con người”. Nhưng bất cứ một
sự cố gắng nào để duy tŕ sự xác thực
của ngôn ngữ siêu h́nh học khi người ta sử
dụng một thứ tiếng như là tiếng Anh,
đều cần tới ít ra là ba quyển sách phụ
trội của tác phẩm này, và khiến người ta
lặp lại những tiếng, vốn thật hết
sức vô vị. Lẽ cố nhiên, một Chân Thần không
thể nào phát triển hay tiến hoá hay thậm chí bị
ảnh hưởng bởi những sự thay đổi
của trạng thái mà nó trải qua. Chân Thần không ở trong thế giới này, cũng
không ở trong cơi này, và người ta chỉ có thể
so sánh nó với một ngôi sao bất diệt của ánh sáng
và ngọn lửa thiêng được phóng xuống
Địa Cầu chúng ta, giống như một mảnh
ván để cứu vớt các phàm nhơn mà Chân Thần
đang trú ẩn bên trong. Phàm nhơn này phải giữ
chặt lấy Chân Thần và như vậy, chia sẻ
những bản chất thiêng liêng để
được bất tử. Nếu để tự
nhiên, Chân Thần sẽ không bám chặt lấy ai, nhưng
giống như một mảnh ván, nó bị ḍng tiến hoá
không ngừng cuốn đi về một kỳ hóa sinh khác
nữa.
Sự tiến hoá của h́nh thể hay
thể xác bên ngoài bọc
quanh thể tinh anh (thể phách) là do những mănh lực
hồng trần tạo nên, cũng như trường
hợp những loài thấp hơn, nhưng c̣n sự
tiến hoá của con người thật ở bên trong, tức CHÂN NHÂN, là
thuần tâm linh. Bây giờ th́ không c̣n phải là sự di
chuyển của Chân Thần vô ngă xuyên qua nhiều h́nh
thức vật chất khác nhau nữa (mà trạng thái cao
nhất là có được bản năng và tâm thức
ở trên một cơi hoàn toàn khác hẳn) như trường
hợp tiến hoá của h́nh thể bên ngoài, mà là một
cuộc hành hương của linh hồn xuyên qua nhiều
trạng thái khác nhau, không những của vật chất mà
c̣n của tâm thức tự ngă và tri thức, hay qua tri thức từ trạng thái trực giác
(perception from apperception).
CHÂN THẦN thoát ly từ trạng thái vô
thức tâm linh và trí tuệ, vượt qua hai cơi giới
đầu tiên – là hai cơi quá gần với TUYỆT
ĐỐI (ABSOLUTE) để có thể giao tiếp với
bất cứ vật ǵ ở một cơi thấp hơn – nó
đi thẳng vào cơi Trí Tuệ. Nhưng không có cơi nào trong
toàn thể vũ trụ, với một môi trường
hoạt động rộng lớn hơn cơi này, với
những tŕnh độ tính chất hầu như vô tận
của nó về tri thức và vô thức. Cơi trí tuệ này
cũng có một cơi thích nghi nhỏ bé hơn cho mỗi h́nh
thể, từ Chân Thần Khoáng Thạch cho đến khi
nó tiến hoá dần dần trải qua thời gian
để trở thành một CHÂN THẦN THIÊNG LIÊNG (DIVINE
MONAD), siêu phàm. Nhưng lúc nào nó cũng vẫn là một Chân
Thần bản nguyên duy nhất, chỉ đổi khác trong
những kiếp hoá thân xuyên qua những chu kỳ luôn luôn
nối tiếp nhau, một là chu kỳ che ám tinh thần
một phần hay toàn diện, hai là chu kỳ tắt
nghỉ một phần hoặc toàn diện về vật
chất (hai đối tượng lưỡng cực)
trong khi nó tiến lên những cơi giới tâm linh trí tuệ,
hay giáng xuống những hạ tầng sâu thẳm của
cơi vật chất.
Chúng ta hăy trở lại quyển Phật Giáo Bí Truyền. Đề
cập đến thời
kỳ lâu dài diễn ra giữa thời đại khoáng
chất trên Bầu A và thời đại con người
(man epoch), ngôn từ “thời kỳ của con người”
được dùng ở đây bởi v́ người ta
cần phải có một tên để đặt cho
giới thứ tư này, nó tiếp theo giới cầm thú,
mặc dù trong cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất, thực
sự “Con Người” ở trên Bầu A không phải là
con người mà chỉ là nguyên kiểu của con
người hay là h́nh ảnh không có bề đo xuất
phát từ những cảnh của cơi tinh anh (astral regions).
Tác giả viết như sau:
229
Sự phát
triển hoàn toàn của thời đại khoáng chất
trên Bầu A dọn đường cho sự tiến hoá
của loài thảo mộc và khi giai đoạn này bắt
đầu th́ động lực của sự sinh hoạt
khoáng chất tràn qua Bầu B. Kế đó, khi sự
tiến hoá của loài thảo mộc trên Bầu A đă
hoàn tất và sự tiến hoá của loài cầm thú
bắt đầu, th́ động cơ sinh hoạt
thảo mộc tràn qua Bầu B và động cơ sinh
hoạt khoáng vật chuyển qua Bầu C. Kế đó, sau
cùng, động cơ sinh hoạt của nhân loại
mới xuất hiện trên bầu A ([459]).
Trào lưu sinh hoạt đó cứ diễn
tiến y như vậy trong ba Cuộc Tuần Hoàn, khi
đó, nó mới đi chậm lại và sau cùng th́ ngừng
hẳn ở ngưỡng cửa Trái Đất trong
cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, bởi v́ bây giờ, ḍng
tiến hoá đă đạt tới thời kỳ của
nhân loại, tức là thời kỳ thứ bảy. Điều
này đă hiển nhiên, v́ như đă nói:
… Có những con đường tiến hoá
đi trước loài khoáng thạch, và như vậy
một luồng sóng tiến hoá, thật ra là nhiều
luồng sóng tiến hoá, đi trước luồng sóng
của loài khoáng thạch trong sự diễn tiến
của nó ṿng quanh các bầu thế giới ([460]).
Bây giờ, chúng tôi xin trích dẫn một
đoạn khác trong tác phẩm Năm
năm với Minh Triết Thiêng Liêng nói về Chân
Thần khoáng thạch:
Có bảy loài trong thiên nhiên. Nhóm đầu
tiên gồm ba tŕnh độ tinh hoa chất hay trung tâm sinh
lực (từ giai đoạn phân hoá đầu tiên của
vật chất nguyên thuỷ [Mulaprakriti] đến giai
đoạn thứ ba) nghĩa là từ trạng thái vô
thức hoàn toàn đến trạng thái bán tri thức. Nhóm
thứ nh́ gồm những loài từ thảo mộc
đến con người. Loài khoáng chất là điểm
trung gian hay khúc quanh trong những giai tầng của
“Chơn Linh Khí” (“Monadic Essence”), được xem như
một năng lượng đang tiến hoá. Ba giai
đoạn [dưới vật chất – sub-physical] về
phía tinh hoa chất, loại khoáng thạch, ba giai
đoạn về phía vật chất hồng trần ([461]),
đó là bảy khoen của sợi dây, hoặc bảy
nấc đầu tiên hoặc sơ khai của cái thang
tiến hoá ([462]).
“Bảy nấc sơ khai” bởi v́ là
những nấc dự bị và thuộc về cơi tự
nhiên, nhưng chúng có thể được diễn tả
đúng hơn như là thuộc về con đường
tiến hoá tự nhiên. Diễn tŕnh tiến hoá này ngừng
lại ở giai đoạn thứ ba, tại
ngưỡng cửa giai đoạn thứ tư khi nó
thực sự bắt đầu giai đoạn tiến
đến tŕnh độ con người trên con
đường tiến hoá tự nhiên. Cùng với ba loài
tinh hoa chất nữa là thành số mười, con số
các Đại Thiên Thần (Sephiroth) của Do Thái giáo. Chính
ở điểm này mới bắt đầu :
Sự giáng lâm tinh thần sáp nhập vào
vật chất tương đương với sự
vươn lên trong cuộc tiến hoá thể chất,
một sự tái vượt lên từ trạng thái nặng
trược thấp nhất của vật chất (loài
khoáng thạch) cho đến cơi Niết Bàn và điểm
tan biến của vật chất phân hoá ngoại tại ([463]).
Điều này chỉ rơ tại sao cái mà
quyển Phật Giáo Bí
Truyền gọi là “luồng sóng tiến hoá” và những
“động cơ sinh hoạt của khoáng thạch,
thảo mộc, cầm thú và nhân loại”, ngừng lại
ở ngưỡng cửa Địa Cầu trong cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư. Chính ở tại điểm này
mà Chân Thần Vũ Trụ (Buddhi) sẽ được
phối hợp với và trở nên cái thể của Tia
Sáng Tâm Linh (Atmic Ray); nghĩa là Kim Thân (Buddhi) sẽ thức
tỉnh để trực giác được Tiên Thể
Atma và bước lên nấc đầu tiên của một
thang tiến hoá mới có bảy giai tầng, để
rồi cứu cánh sẽ được đưa lên giai
tầng thứ mười (đếm từ dưới
lên trên) của cấp đẳng thiêng liêng mà Do Thái giáo
gọi là Sephiroth (Đại Thiên Thần) tức là giai
tầng thượng đẳng mà biểu tượng là
Vương Miện (cái măo – the Crown).
230
Mọi vật trong Vũ Trụ đều noi
theo qui tắc tương đồng: “Thiên địa
vạn vật đồng nhất lư” (“Trên sao dưới
vậy”) (“As above, so below”). Con người là một
Tiểu thiên địa được cấu tạo
rập theo qui mô của Vũ Trụ. Những ǵ diễn ra
trên cơi giới tâm linh, cũng tái diễn lại trên cơi
vật chất của Vũ Trụ ngoại tại.
Mọi sự biểu lộ cụ thể noi theo những
đường lối của thực thể siêu h́nh;
tương ứng với cái cao nhất phải là cái
thấp nhất; vật chất đối với tinh
thần. Như vậy, có ba loại tinh hoa chất có
trước giới kim thạch ([464])
tương ứng với ba Ngôi Sao Sáng Tạo (Sephiroth
Crown) hay là Tam Nguyên Thượng và nếu người ta
sử dụng đến ngôn ngữ của những tín
đồ Do Thái Bí giáo (Kabalists) trong sự phân hoá vũ
trụ, từ cơi thiêng liêng cao siêu đến những cơi
Nguyên h́nh.
Vậy th́ Chân Thần là ǵ? Sự
tương quan của nó đối với Nguyên Tử là
thế nào? Lời giải đáp sau đây căn cứ
trên các giải thích của tác giả để đáp
lại câu hỏi đó. Trả lời câu hỏi thứ
hai :
Chân Thần có một mối tương quan
ǵ với nguyên tử hay phân tử theo khoa học hiện
tại. Nó không thể so sánh với cơ phận vị
khuẩn trước đây được xếp vào
loại trích trùng (infusoria) nhưng nay lại
được xem như thảo mộc và xếp vào
loại rong rêu. Cũng không phải là monas của phái Ta Bà (Peripatetics). Lẽ tất
nhiên, Chân Thần khoáng thạch khác hẳn với Chân
Thần con người về thể chất hay thành
phần, v́ Chân Thần con người không thuộc vật
chất và thành phần của nó cũng không thể xác
định bằng kư hiệu hoá học và nguyên tố ([465]).
Nói tóm lại, cũng giống như Chân Thần Tâm Linh và Duy Nhất, Đại Đồng Vô Biên, tự tại mà những Tia Sáng hợp thành cái gọi là “Chân Thần Cá Biệt” (“Individual Monads”) của con người, th́ Chân Thần khoáng thạch ở tại điểm đối diện của ṿng tṛn, cũng là Một (One), từ đó xuất phát vô số những nguyên tử vật chất mà khoa học bắt đầu xem như là những vật hữu thể.
Nếu không như vậy, làm sao
người ta có thể giải thích bằng phép toán
học diễn tŕnh tiến hoá của bốn loài sinh
vật theo h́nh khu ốc? Chân Thần là sự phối
hợp của hai nguyên khí cuối cùng của con
người, tức là nguyên khí thứ sáu và thứ bảy.
Nói đúng hơn, từ ngữ “Chân Thần Con
Người” (“Human Monad”) chỉ áp dụng cho Tinh Thần
song đôi Atma-Buddhi chứ không phải chỉ áp dụng
cho nguyên khí tâm linh cao nhất (Atma) không mà thôi. Nhưng
người ta đă gọi Chân Thần như vậy v́
Linh Hồn Thiêng Liêng không thể có sự sống và không
biểu lộ được, nếu nó tách khỏi nguyên
khí vừa nêu (Atma)… Chơn linh khí hay tinh hoa vũ trụ
(Monadic, or rather Cosmic, Essence) trong khoáng thạch, cây cỏ và
động vật, tuy vẫn là trải qua hàng loạt chu
kỳ tiến hoá từ loài tinh hoa chất thấp nhất
lên tới cấp đẳng Thiên Thần, nhưng có khác
nhau trong mỗi giai tầng tiến triển. Thật
rất sai lầm mà tưởng tượng một Chân
Thần như một thực thể cá biệt tuần
tự tiến một cách chậm chạp trên con đường
riêng rẽ xuyên qua những loài thấp hơn, và sau một
loạt biến đổi trong vô lượng kiếp,
mới đạt tới tŕnh độ con người, chẳng
hạn, Chân Thần một nhà bác học được
truy nguyên từ Chân Thần của một nguyên tử khoáng
thạch. Thay v́ nói một Chân Thần khoáng thạch, có
thể dùng một câu đúng hơn theo khoa vật lư
học gọi đó là Chân Thần biểu lộ trong h́nh
thức vật chất (Prakriti) gọi là khoáng thạch.
Một nguyên tử, như được h́nh dung theo
giả thuyết khoa học thông thường, không phải
là một bộ phận nhỏ nhất của một
vật ǵ được chuyển sinh khí vào bởi một
cái ǵ thần bí, để rồi, trải qua những ḍng
thời gian vô tận, sẽ biến hoá trở thành một
người. Nhưng đó là sự biểu lộ cụ
thể của năng lượng vũ trụ, chính
năng lượng này cũng chưa trở nên hữu
thể. Đại Dương Vật Chất vẫn không
phân chia thành từng giọt riêng rẽ có chứa
đựng tiềm năng, cho đến khi trào lưu
của động cơ sinh hoạt đạt đến
giai đoạn tiến hoá của con người. Khuynh
hướng phân chia thành những Chân Thần cá biệt
vẫn đi từ từ và trong những loại
động vật tiến hoá nhất, nó gần như
đạt tới điểm đó. Phái Ta Bà áp dụng danh
từ Monas cho toàn thể vũ trụ theo ư nghĩa
Phiếm Thần. C̣n các nhà huyền môn, tuy rằng chấp
nhận tư tưởng đó v́ lư do tiện lợi,
vẫn phân biệt với những giai đoạn tuần
tự của diễn tŕnh tiến hoá từ trừu tượng
tới cụ thể bằng những danh từ chẳng
hạn như câu: Chân Thần khoáng thạch, Chân Thần cây
cỏ, Chân Thần cầm thú v.v.. là những thí dụ
điển h́nh. Danh từ này có nghĩa là giai đoạn
cao tột của trào lưu tiến hoá tâm linh đang đi
qua ṿng cung nói trên trong chu kỳ của nó. Chân Linh Khí (Monadic
Essence) bắt đầu phân hoá một cách lặng lẽ
để tiến đến tâm thức cá biệt trong loài
thảo mộc v́ Chân Thần là những vật đơn
thuần như Leibnitz đă định nghĩa rất
đúng, chính cái tinh hoa tâm linh làm cho chúng sống động
trong những tŕnh độ phân hoá và hợp thành những
điểm Chân Thần, chứ không phải sự kết
hợp nguyên tử, nó chỉ là cái thể và chất liệu
để biểu lộ sự rung động của
những giai tầng thượng và hạ trí ([466]).
231
Leibnitz đă quan niệm những Chân
Thần này giống như những đơn vị sơ
cấp và bất diệt, chúng được ban cho
quyền năng cho ra và
nhận về đối với các đơn vị
khác, và như vậy, chúng có năng lực xác định
được tất cả những hiện tượng
vật chất và tinh thần. Chính ông đă chế ra danh
từ thông giác (apperception) cùng với cảm giác của
thần kinh (nhưng không phải là sự nhận thức
của thần kinh), từ ngữ này diễn tả
được trạng thái của tâm thức Chân Thần
xuyên qua các giới đến tận Con Người.
Như vậy, theo đường lối
siêu h́nh học nghiêm mật, việc người ta gọi
Chân Linh (Atma-Buddhi) là một CHÂN THẦN, có thể là sai, v́
đứng trên quan điểm duy vật, Chân Thần là
một nhị nguyên và v́ vậy, nó là một hợp
thể. Nhưng cũng như vật chất là tinh
thần, và ngược
lại, và v́ Vũ Trụ cũng như Thượng
Đế làm linh hoạt nó, thật bất khả tư
nghị khi cách biệt nhau, nên trường hợp Chân Linh
này cũng vậy. Buddhi là vận cụ của Atma, Buddhi có
liên quan với Atma, cũng như con người nguyên h́nh
(Adam-Kadmon), Thượng Đế Ba Ngôi của tín
đồ Do Thái Bí giáo có liên hệ tới cái vô cùng, vô
hạn (Ain Soph) hay là Hỗn Nguyên Khí (Mulaprakriti) có liên quan
đến Bản Thể Tối Thiêng (Parabraman).
Xin nói thêm vài lời về Nguyệt Cầu.
Người ta có thể hỏi “Những
Chân Thần Nguyệt Tinh” (“Lunar Monads”) vừa
được đề cập tới là ǵ? Bảy
hạng Nguyệt Tinh Quân sẽ được diễn
tả sau, nhưng bây giờ, chúng tôi chỉ có thể
đưa ra một lời giải thích đại
cương. Chúng ta phải cho mọi người biết
rơ những vị này chính là những vị Chân Thần, chu
kỳ sự sống của các Ngài đă chấm dứt
trên Dăy Nguyệt Cầu, Dăy này thấp hơn Dăy Địa
Cầu, nên các Ngài giáng sinh xuống Dăy Địa Cầu
này. Nhưng có một vài chi tiết thêm nữa mà chúng tôi có
thể bổ túc, mặc dù chúng tiếp giáp một cách mật
thiết với vùng đất bất khả xâm phạm mà
chúng tôi đă tŕnh bày một cách đầy đủ.
Tiếng bí mật cuối cùng này chỉ được
tiết lộ cho các Chân Sư Minh Triết (Adepts) mà thôi,
nhưng người ta có thể nói rằng hộ tinh
chỉ là thể thô kệch của những nguyên khí vô h́nh.
Rồi chúng ta cũng sẽ thấy rằng có bảy Trái
Đất, như vậy, cũng có bảy Mặt
Trăng, và chỉ có mặt trăng chót là thấy
được, điều này cũng giống như
vậy đối với Mặt Trời, mà thể hữu
h́nh của nó cũng được gọi là Ảo
Ảnh (Maya), là một phản ảnh, cũng như
thể xác của con người là một ảo ảnh.
Một châm ngôn Huyền bí đă nói: “Mặt Trời và Mặt Trăng th́ cũng vô h́nh
như con người thực”.
232
Nhân tiện, người ta có thể nhận
xét rằng các bậc Tiền bối không dại dột ǵ
mà đề xướng ư tưởng “Bảy Mặt
Trăng”. V́ mặc dù quan niệm này ngày nay đă
được xem như một phép đo thời gian
của thiên văn học với một h́nh thức
hết sức cụ thể, tuy nhiên, ẩn dưới
lớp vỏ bên ngoài này, người ta c̣n có thể
biết được những dấu vết của
một ư niệm triết lư thâm sâu.
Thực sự Mặt Trăng chỉ là
vệ tinh của Trái Đất trên một phương
diện, nghĩa là trên khía cạnh vật chất, th́
Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, nhưng trên mọi
phương diện khác, Trái Đất lại là vệ
tinh của Mặt Trăng chứ không thể nói ngược lại.
Điều này tuy có vẻ lạ lùng nhưng nó không
phải là không được xác nhận bởi khoa
học. Nó được chứng minh bởi nước
triều lên xuống, bởi những biến thái của
nhiều chứng bệnh theo từng chu kỳ trùng hợp
với chu kỳ mặt trăng. Hiện tượng
ấy có tác dụng trong sự trưởng thành của
loài cây cỏ và biểu lộ rất rơ rệt trong sự
sinh nở và thụ thai của con người. Mọi tôn
giáo xưa, nhất là Do Thái giáo, đă hiểu
được sự quan trọng của Mặt Trăng
và ảnh hưởng của nó trên Địa Cầu,
nhiều nhà quan sát hiện tượng về vật
chất và tâm linh cũng lưu ư điều này. Nhưng
theo như khoa học biết, tác động của Trái
Đất trên Mặt Trăng giới hạn vào hấp
lực hữu h́nh, nó tạo ra sự quay tṛn của trái
đất trên quỹ đạo. Và nếu một
người phản đối nhấn mạnh rằng
sự kiện này là một bằng chứng đủ cho
thấy rơ rằng thực sự Mặt Trăng là hộ
tinh của Trái Đất trên những cơi hoạt
động khác, th́ người ta có thể trả lời
bằng cách hỏi liệu một người mẹ
đi xung quanh cái nôi của đứa con bà, trông nom đứa
trẻ này, có phải là thuộc hạ của đứa
con bà, hay lệ thuộc nó không? Mặc dù, theo một ư
nghĩa, bà là hộ tinh của con bà, song chắc chắn là
bà già hơn và phát triển đầy đủ hơn
đứa trẻ mà bà trông nom.
Vậy th́ chính Mặt Trăng đóng vai tṛ
lớn nhất, quan trọng nhất trong việc cấu
tạo nên Trái Đất cũng như trong việc làm cho
Trái Đất có người ở. Các Chân Thần Mặt
Trăng hay Thái Âm Tinh (Pitris), thuỷ tổ loài người
thật ra là trở thành con người của thế
hệ hiện tại. Họ là những Chân Thần đă
bước vào chu kỳ tiến hoá trên Bầu A sau khi
đi giáp một Cuộc Tuần Hoàn trên Dăy hành tinh, mới
tiến thành người như đă nói trên. Vào lúc bắt
đầu giai đoạn tiến hoá nhân loại của
Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư trên Địa Cầu,
họ xuất tinh tú thể (thể phách) ra khỏi xác
giống như h́nh khỉ mà họ đă h́nh thành trong
cuộc Tuần Hoàn thứ Ba. Chính cái h́nh thể mảnh
mai tế nhị này làm kiểu mẫu để cho Thiên Nhiên
tạo nên thể xác con người. Chính những
điểm Chân Thần hay điểm Linh Quang này là
những Thái Âm Tinh (Pitris) tức là tổ tiên trên Mặt
Trăng của “Con Người” ngày nay. Bởi v́ các Thái Âm
Tinh đó phải trở thành người để cho Chân
Thần của họ có thể đạt tới một
cơi giới hoạt động tâm thức cao hơn,
tức là cơi của các Manasa-Putras, là những vị làm cho
lớp vỏ vô tri giác do các Thái Âm Tinh tạo nên có
được “trí khôn” trong giai đoạn cuối của
căn chủng thứ Ba.
233
Cũng y như thế, Chân Thần hay Chân Ngă
của những người thuộc cuộc Tuần Hoàn
thứ Bảy của Địa Cầu chúng ta, khi trải
qua những bầu A, B, C, D v.v… và bỏ lại năng
lượng sinh khí của họ, sẽ làm thức
động những trung tâm Laya khác có nhiệm vụ phải
sống và hoạt động trên một cơi giới
thực tại cao hơn nữa. Cũng y như thế,
những tổ tiên trên trái đất sẽ tạo nên
giống người tương lai sẽ tiến hoá cao
hơn họ.
Chúng ta đă thấy rơ rằng, trong Thiên
Nhiên có một cơ tiến hoá gồm ba con
đường, nhằm cấu tạo nên ba thể
(Upadhis) xuất hiện từng chu kỳ hay đúng hơn
là ba cơ tiến hoá riêng biệt có liên đới
chằng chịt với nhau trong hệ thống hiện
tại và phối hợp nhau chặt chẽ từng
điểm. Đó là những con đường tiến
hoá Tâm Linh, Trí Tuệ và Thể Chất. Ba con
đường này là những phương diện hữu
hạn, hay những phản ảnh của ATMA, nguyên khí
thứ Bảy, CHÂN THỰC TẠI DUY NHẤT (ONE REALITY)
trên địa hạt Hư Ảo toàn diện của
Vũ Trụ.
1. Con đường tiến hoá tâm linh có
liên hệ tới sự tăng trưởng và tiến hoá
của Chân Thần trên những giai đoạn hoạt
động cao hơn nữa, cùng một lượt
với:
2. Con đường tiến hoá trí tuệ,
dưới sự hướng dẫn của các Thái
Dương Tinh Quân (the Solar Devas or Agnishvatta Pitris) là
những Đấng “ban trí tuệ và tâm thức” cho con
người.
3. Con đường tiến hoá Thể
Chất, được tiêu biểu bởi những h́nh
thể kiểu mẫu (Chhayas) của các Thái Âm Tinh (the Lunar
Pitris) mà Thiên Nhiên dùng để tạo nên thể xác con
người hiện tại. Thể xác này dùng làm các lớp
vỏ nơi đó diễn ra những sự biến đổi
và tiến hoá bằng Trí Tuệ và thu thập kinh nghiệm
của cái Hữu hạn (Finite) để trở thành cái VÔ
HẠN (INFINITE), của cái Vô thường giả tạm
(Transient) để trở thành cái trường cửu và
Tuyệt Đối (the Eternal and Absolute).
Mỗi một trong ba ṿng tiến hoá kể
trên đều có những định luật riêng,
được cai quản và d́u dắt bởi những
thành phần khác nhau của các vị Thiên Đế (Logoi).
Mỗi ḍng ấy đều có tác dụng trong việc
cấu tạo nên thành phần Con Người, là Tiểu
Thiên Địa trong Vũ Trụ. Chính sự phối
hợp của ba ḍng tiến hoá ấy trong con người
để tạo nên cái nhân vật phức tạp là con
người ngày nay.
Thiên Nhiên, tức động cơ tiến
hoá Vật Chất, không bao giờ có thể tạo nên Trí
Tuệ mà không có sự trợ giúp từ bên ngoài. Nó chỉ
có thể tạo nên những “h́nh thức vô tri giác” (“senseless
form”) như sẽ bàn đến trong chương nói về
NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI (ANTHRO-POGENESIS). Những
Chân Thần Thái Âm không thể tiến hoá, v́ chúng chưa
tiếp xúc đủ với những h́nh thể do “Thiên
Nhiên” tạo nên để chúng có thể thu thập kinh
nghiệm xuyên qua sự tiếp xúc đó. Sự thiếu
sót này được bổ túc do các Đấng Thái
Dương Tinh Quân (Manasa-Dhyanis) tiêu biểu cho khả
năng tiến hoá của Trí Tuệ, Thông Minh, cái khoen
nối liền Tinh Thần và Vật Chất trong cuộc
Tuần Hoàn hiện tại.
Ta cũng nên nhớ rằng những Chân
Thần bước vào chu kỳ tiến hoá trên Bầu A
trong cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất đều ở
trong những giai đoạn phát triển rất khác nhau. Do
đó mà vấn đề trở nên khá phức tạp.
Chúng tôi xin tóm lược lại phần đă tŕnh bày ở
đoạn trên.
234
Những Chân Thần tiến hoá nhất trên
Thái Âm đạt tới giai đoạn sắp thành
người trong Cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất,
trở nên những nhân vật có h́nh người, tuy
rằng rất khinh thanh, tinh tế, vào cuối cuộc
Tuần Hoàn thứ Ba, ở lại trên Địa Cầu
suốt thời kỳ “qui nguyên” (“obscuration”) như mầm
mống của nhân loại tương lai trong cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư và trở nên những nhân vật
tiên phong của nhân loại vào lúc bắt đầu
cuộc Tuần Hoàn thứ Tư. Những Chân Thần khác
chỉ đạt tới tŕnh độ nhân loại trong
những cuộc Tuần Hoàn sau, nghĩa là Hai và Ba hay trong
phân nửa đầu tiên của cuộc Tuần Hoàn
thứ Tư. Sau cùng, những Chân Thần chậm trễ
nhất, nghĩa là vẫn c̣n khoác h́nh cầm thú sau giai
đoạn khúc quanh ở điểm giữa cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư, sẽ không được
trở thành người trong chu kỳ hiện tại. Chúng
chỉ đạt đến giai đoạn sắp thành
người vào cuối cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy,
để rồi, đến lượt chúng sẽ
được dẫn sang một Dăy Hành Tinh mới sau
một Chu kỳ huỷ diệt, dưới sự
điều động của những kẻ tiên phong già
dặn hơn, là những tổ tiên của nhân loại hay
mầm mống nhân loại (Shishta), tức là những
người dẫn đầu tất cả vào giai
đoạn cuối của những cuộc Tuần Hoàn
hiện tại.
Về vai tṛ của Bầu Hành Tinh thứ
Tư và cuộc Tuần Hoàn thứ Tư trong cơ
tiến hoá này, người ta cũng không cần giải
thích thêm nữa cho các môn sinh.
Trong những đồ h́nh trước
đây, có thể áp dụng không phân biệt cho các cuộc
Tuần Hoàn, Bầu thế giới hay Giống dân,
người ta sẽ thấy rằng bầu thứ tư
của toàn bộ chiếm một vị trí độc
đáo. Không như những bầu khác, bầu thứ
Tư không có bầu sánh đôi trên cùng một cơi với nó,
và như vậy, nó là cái trục của “đ̣n cân” thăng
bằng Dăy hành tinh. Nó là bầu của những cuộc
điều chỉnh cuối cùng trong cơ tiến hoá
bầu thế giới của cán cân Nhân Quả (Karmic
scales), Hành Lang Công Lư (the Hall of Justice) nơi đó đ̣n cân
thăng bằng sẽ quyết định số phận
tương lai của điểm Chân Thần trong phần
c̣n lại của những kiếp đầu thai của nó
trong Chu kỳ sinh hoạt. Bởi vậy, sau khi đă
vượt qua khúc quanh ở điểm giữa
Đại Chu kỳ, nghĩa là sau điểm giữa
của Giống dân thứ Tư trong cuộc Tuần Hoàn
thứ Tư trên Địa Cầu, không có thêm một Chân
Thần nào nữa được bước vào giai
đoạn tiến hoá của nhân loại. Cánh cửa nhân
loại đă khép chặt trong chu kỳ hiện tại,
theo sự quyết định của thiên cơ. Bởi
v́, nếu không như vậy, nếu “một linh hồn
mới” được sáng tạo cho mỗi người
trong vô số sinh linh đă quá văng, và nếu không có sự
tái sinh, th́ thật khó mà đủ chỗ chứa cho
tất cả những linh hồn đă thoát xác và
người ta không bao giờ giải thích được
nguồn gốc và nguyên nhân của sự khổ. Chính do
sự dốt nát về đạo lư và sự áp đặt
những quan niệm sai lầm dưới chiêu bài giáo
dục tôn giáo, mới sinh ra chủ nghĩa duy vật, vô
thần như là phản kháng lại trật tự thiêng
liêng của vạn vật.
Những trường hợp duy nhất
ngoài qui luật vừa kể trên là những “giống dân
câm” (“dumb races”) mà Chân Thần đă đạt tới
gần giai đoạn tiến hoá của nhân loại,
bởi sự kiện rằng những “động vật”
(“animals”) đó gần giống như loài người v́
những hậu duệ cuối cùng của chúng thuộc
loại khỉ đột và những loài khỉ lớn
khác. Những động vật nhân h́nh này (“human present-ments”),
thật ra chỉ là những bản sao xiêu vẹo. lệch
lạc của nhân loại sơ khai. Nhưng vấn
đề này sẽ được tŕnh giải đầy
đủ hơn trong Quyển 3 và 4.
235
Thiên b́nh luận viết:
1. Mỗi h́nh
thể trên địa cầu và mỗi nguyên tử trong
không gian đều cố gắng tiến đến
việc tự cấu tạo, h́nh thành để noi theo
kiểu mẫu đặt ra cho nó trong “THIÊN NHÂN” (“HEAVENLY
MAN”)… Sự nhập thế và xuất thế của nó
[hột nguyên tử], sự trưởng thành cùng sự
tiến hoá nội tại và ngoại tại của nó,
chỉ có một mục đích duy nhất: trở thành Con
Người; Con Người như cái h́nh thể vật
chất tột đỉnh và rốt ráo trên Địa
Cầu và điểm Chân Thần trong sự toàn diện
tuyệt đối và trong trạng thái thức tỉnh
của nó, như sự cực điểm vinh quang của
những kiếp hoá thân thiêng liêng trên Địa
Cầu.
2. Những
vị Dhyanis [Pitris] là những vị đă xuất phát
THỂ PHÁCH (BHUTA) ra khỏi họ, cái thể này trở nên
thể của những điểm Chân Thần [nguyên khí
thứ Sáu và thứ Bảy] đă hoàn tất chu kỳ
chuyển kiếp của họ trong ba cuộc Tuần Hoàn
trước đây. Kế đó, những thể tinh tú
ấy trở nên những người của Giống dân
thứ Nhất của cuộc Tuần Hoàn hiện tại.
Nhưng họ chưa được h́nh thành đầy
đủ trọn vẹn, và hăy c̣n là vô tri giác.
Điều này sẽ được
giải thích trong những quyển sách sau. Trong khi đó, con
người hay Chân Thần của y đă từng sống
trên Địa Cầu kể từ lúc bắt đầu
cuộc Tuần Hoàn hiện tại. Nhưng từ đó
trở đi cho đến Giống dân thứ Năm,
những h́nh thể bao bọc bên ngoài của các Thể Tinh
Tú thiêng liêng (those divine Astral Doubles) đó đă thay
đổi và củng cố chắc chắn thêm với
mỗi phụ chủng (subrace). Đồng thời, h́nh
dáng và cơ cấu thể chất của động
vật cũng thay đổi v́ lư do phải thích ứng
với t́nh trạng sinh hoạt luôn luôn biến đổi
không ngừng trên Địa cầu trong những giai
đoạn địa chất bồi đắp của
chu kỳ h́nh thành trái đất. Những h́nh thể cơ
cấu đó cũng tiếp tục đổi thay với
mỗi Mẫu Chủng (every Root-Race) và mỗi phụ
chủng chính (every chief sub-race), chí đến
phụ chủng cuối cùng của mẫu chủng thứ
Bảy trong cuộc Tuần Hoàn hiện tại.
3. Con
người nội tại bấy giờ c̣n ẩn
giấu, hồi đó (lúc khởi thuỷ) là con
người ngoại tại. Hậu duệ của các
vị Tinh Quân Dhyanis [Pitris], y là “người con giống
như cha y”. Giống như hoa sen mà h́nh dáng bên ngoài lần
lần tượng h́nh theo các kiểu mẫu nội
tại của nó, h́nh thể con người lúc khởi
thuỷ tượng h́nh từ trong ra ngoài. Sau chu kỳ mà
con người bắt đầu sinh sản theo
đường lối của loài động vật
hiện tại, nó trở nên ngược hẳn lại.
Bào thai con người ngày nay tượng h́nh theo những
h́nh dáng thể xác vật chất mà con người đă
từng khoác lấy qua ba cuộc Tuần Hoàn đầu
tiên, trong những cố gắng của vật chất vô
tri, bất toàn để tượng h́nh chung quanh điểm
Chân Thần trong sự ḍ dẫm vô thức của nó. Trong
thế hệ hiện tại, bào thai vật chất là cây
cỏ, là loài ḅ sát, một động vật, trước
khi nó trở nên con người, đồng thời tự
tạo lấy bên trong của nó một thể thanh. Lúc
khởi thuỷ, chính thể thanh đó [thể phách] v́ là vô
tri giác, đă bị ô nhiễm và mắc kẹt trong
những màn lưới của vật chất.
236
Nhưng “con người” này thuộc về
cuộc Tuần Hoàn thứ Tư. Như đă tŕnh bày,
điểm Chân Thần đă trải qua và bị giam hăm
trong mỗi h́nh thể phù du hữu hoại xuyên qua mỗi
loài trong thiên nhiên trong ba cuộc Tuần Hoàn trước.
Nhưng điểm Chân Thần đă trở nên
người, vốn không
phải là Người. Trong cuộc Tuần Hoàn hiện
tại (trừ ra những loài động vật tiến
hoá nhất sau con người), những loài khỉ
đột giống như h́nh người có định
mệnh phải tuyệt diệt trong giống người
hiện nay và chuyển sang h́nh người của giống
dân thứ sáu và thứ bảy, và kế đó chuyển sang
h́nh người thấp kém nhất trong cuộc Tuần
Hoàn thứ Năm, không một đơn vị của loài
nào c̣n được sinh động bởi những Chân
Thần đă định phải trở thành người
trong giai đoạn tới mà chỉ có sinh động
những Tinh Linh thấp thỏi (lower Elementals) của
những loài liên hệ. Những Tinh Linh này sẽ trở
thành Chân Thần con người, theo thứ tự thời
gian, vào
Điểm Chân Thần cuối cùng của
con người đă đầu thai chuyển kiếp
trước khi bắt đầu Giống dân thứ
Năm. Thiên nhiên không bao giờ tự lặp lại cái ǵ
cả v́ vậy giống khỉ người (dă nhân)
của chúng ta chỉ bắt đầu xuất hiện vào
giữa thời kỳ Trung Tân (Miocene period), như tất cả
các giống lai, để bộc lộ khuynh hướng
ngày càng rơ rệt nhằm quay về mẫu người
tổ tiên đầu tiên của họ là một giống
người khổng lồ Đại Tây Cổ Phi (Lemuro-Atlantean)
da đen và da vàng. Sự t́m kiếm “ḍng dơi đă mất” (“missing
link”) này chẳng có ích lợi ǵ. Hàng triệu năm về
sau, những giống dân hiện đại của chúng ta
(hay đúng hơn là các di tích hoá thạch của họ)
sẽ xuất hiện như là giống người có h́nh
dáng như loại khỉ đột nhỏ nhắn
(một giống dân đă bị diệt vong của loài
người) trước mắt những nhà thông thái
của Giống dân chánh thứ Sáu cuối cùng, đă
mất tích từ lâu.
Những giống khỉ người (dă
nhân) như thế tạo thành một biệt lệ, v́
Thiên Nhiên không có ư định tạo ra họ, nhưng
họ là sản phẩm trực tiếp và là sự sáng
tạo của con người “không có giác quan” (“senseless”
man). Đối với giống khỉ đột và loài
khỉ này, người Ấn Độ cho rằng
giống này có một nguồn gốc thiêng liêng bởi v́
con người của Giống dân thứ Ba là những vị
thần xuất phát từ một cơi khác, họ đă
trở thành giống người trần “không có giác quan”
này. Cách đây lối mười hai năm, vấn đề
đă được đề cập trong quyển Nữ Thần Isis Lộ
Diện, một cách rơ ràng hết mức so với lúc
bấy giờ. Ở trong đó, người ta đề
nghị độc giả nên tham khảo những
người Bà La Môn, để biết lư do tại sao
họ coi trọng loài khỉ này.
Y [độc
giả] có thể học hỏi - nếu người Bà La
Môn xét thấy y đáng được ban cho một lời
giải thích - rằng người Ấn Độ đă
thấy trong loài khỉ đột này chẳng qua chỉ là
cái mà Đức Bàn Cổ (Manu) muốn: “Sự biến
thể của loài liên quan trực tiếp nhất với
sự thay đổi của gia đ́nh nhân loại -
một nhánh tạp chủng được ghép vào một
ḍng giống riêng của họ trước khi gia đ́nh
nhân loại rốt cuộc được hoàn hảo.
Hơn nữa, y có thể học biết rằng
dưới mắt của người “ngoại
đạo” có học thức (educated “heathen”), con
người thiêng liêng hay con người bên trong là một
vật, c̣n cái xác bằng vật chất của cơi trần
của y lại là một thứ khác. Cái bản chất
hữu h́nh này, sự phối hợp rộng lớn
của những thứ hỗ tương của những
động lực hữu h́nh này, đều luôn luôn
tiến về sự hoàn thiện, nó phải sử
dụng nguyên liệu có sẵn trong tay; nó tiếp tục
nhồi, nắn lại mẫu h́nh và hoàn tất công tŕnh
tuyệt hảo nơi con người, tŕnh diện con
người như là một thánh điện thích nghi dành cho
Tinh Thần Thiêng Liêng pḥ hộ.
237
Vả lại, trong một đoạn chú thích
phía dưới, trên cùng một trang sách, một tác phẩm
khoa học của người Đức đă
được đề cập tới. Nó dạy: Một
nhà khoa học người
Nhưng dù những con khỉ này là hậu
duệ của con người, sự kiện này cũng
chắc chắn không phải là Chân Thần của con
người lại hoá thân vào h́nh thể của một con
thú ([467])
khi mà nó đạt tới tŕnh độ của con
người rồi.
Chu kỳ “chuyển kiếp” (the cycle of
“metemp-sychosis”) của Chân Thần con người đă
bế mạc, v́ nhân loại đang ở vào cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư và Giống dân thứ Năm.
Độc giả nên nhớ rằng những ĐOẠN
KINH (STANZAS) tiếp theo trong Quyển này và Quyển hai
chỉ nói về cơ tiến hoá trong cuộc Tuần Hoàn
thứ Tư của chúng ta hiện nay mà thôi. Cuộc
Tuần Hoàn này và chu kỳ của điểm giao thời,
sau đó th́ vật chất, khi đă đạt tới
hạ tầng thấp thỏi, nặng trược
nhất, mới bắt đầu tiến tới và
thăng hoa trở lên với mỗi giống dân mới và
một chu kỳ mới. Bởi vậy, người
học đạo hăy cẩn thận đừng
tưởng lầm là có sự mâu thuẫn, v́ trong quyển
Phật Giáo Bí Truyền, những
cuộc Tuần Hoàn được đề cập
đến một cách tổng quát, đại cương,
c̣n trong sách này, tác giả chỉ nói tới cuộc Tuần
Hoàn thứ Tư, tức là cuộc Tuần Hoàn hiện
tại mà thôi. Trước cuộc Tuần Hoàn này là công
việc tạo dựng, c̣n trong hiện tại th́ là công
việc cải tiến và hoàn thiện.
Sau chót, để chấm dứt lời
giải thích này, nó có liên hệ đến nhiều sự
ngộ nhận không sao tránh khỏi, chúng ta phải
đề cập tới một phát biểu trong quyển Phật Giáo Bí Truyền, nó
đă tạo ra trong trí của nhiều nhà Thông Thiên Học
một cảm tưởng rất tai hại. Một câu nói
đáng tiếc (one unfortunate sentence) được
người ta trích ra từ tác phẩm này, luôn luôn
được viện dẫn để chứng tỏ là
giáo lư này thiên về duy vật chủ nghĩa. Khi nói về
sự tiến hoá của các cơ năng sinh vật trên
những Bầu hành tinh, tác giả này nói rằng:
Loài kim thạch không thể nào tiến hoá
thành loài thảo mộc… cũng như ở trên Địa
Cầu này, loài khỉ đột không thể nào tiến hoá
thành con người, khi mà nó chưa nhận được
một xung lực (impulse) ([468]).
Liệu câu này đă tŕnh bày từng chữ
về tư tưởng của tác giả hoặc chỉ
là một sự ngộ bút (vô
t́nh viết sai chữ) – chúng tôi tin như vậy – có
thể cũng c̣n là một nghi vấn bỏ ngỏ.
238
Thực sự có một điều bất
ngờ là chúng ta nhận ra sự kiện là có một vài nhà
nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng hiểu biết rất
ít về quyển Phật Giáo
Bí Truyền đến nỗi họ bị đưa
đẩy tới chỗ tin rằng quyển sách này hoàn
toàn ủng hộ thuyết tiến hoá của Darwin,
nhất là quyển nói về việc con người do
tổ tiên thuộc loài vượn sinh ra. Như một
hội viên Theosophy đă viết: “Tôi giả sử rằng
bạn đă hiểu rơ được là ba phần tư
người nghiên cứu Minh Triết Thiêng Liêng cũng
như những người ở ngoài Minh Triết Thiêng
Liêng đă tưởng tượng rằng, xét về
sự tiến hoá của con người, th́ có sự hỗ
tương giữa thuyết tiến hoá của Darwin và giáo
lư Minh Triết Thiêng Liêng”. Theo chỗ chúng tôi biết, trong
quyển Phật Giáo Bí
Truyền, không có bất cứ điều ǵ thuộc
loại đó đă từng được người ta
hiểu rơ, cũng như không có sự bảo đảm
vững chắc nào về điều đó. Người ta
nhắc lại rằng, sự tiến hoá của
Đức Bàn Cổ (Manu) và Đức Ca Tỳ La (Kapila)
đă dạy, là nền tảng của những giáo lư tiến
bộ, nhưng không phải Huyền bí học, cũng
như không phải Theosophy đă từng bảo vệ
những lư thuyết phản văn minh của những
người theo thuyết Darwin hiện tại – nó lại
càng không bênh vực vấn đề con người
được sinh ra từ một con khỉ. Về
điều này, sau này chúng ta sẽ nói thêm. Nhưng chỉ
cần lật lại trang 47 của quyển sách kể
trên, người ta sẽ t́m thấy lời phát biểu
như sau:
Con người
thuộc một loài hoàn toàn khác với loài thú.
Trước mắt độc giả,
lời nói này thật quá rơ rệt và không c̣n nghi ngờ ǵ
cả, nên thật là một điều rất lạ khi
bất cứ một sinh viên thận trọng nào lại có
thể bị lầm lạc như vậy, trừ phi y
đang chuẩn bị tố cáo là tác giả thật quá
đỗi mâu thuẫn.
Mỗi cuộc Tuần Hoàn lại tái
diễn trên một giai tầng cao hơn công tŕnh tiến
hoá của cuộc Tuần Hoàn trước đó. Ngoại
trừ trường hợp của một vài loại
khỉ nhân h́nh đă tiến hoá như đă kể trên, trào
lưu tiến hoá của Chân Thần hay tiến hoá nội
tại, đă chấm dứt cho đến khi bắt
đầu chu kỳ sinh hoạt tới. Ta nên luôn luôn
nhớ rằng những Chân Thần (con người) đă
hoàn toàn phát triển phải được phát lạc
trước nhất (to be first disposed of) trước khi
tập thể các thí sinh mới xuất hiện trên
Địa Cầu vào lúc bắt đầu Chu kỳ
tới đây. Thế là có giai đoạn ngừng
nghỉ, và đó là lư do tại sao trong cuộc Tuần Hoàn
thứ Tư, con người xuất hiện trên
Địa Cầu sớm hơn mọi loài động
vật khác, như đă giải thích sau.
Có người nói rằng tác giả
quyển Phật Giáo Bí Truyền
đă rao giảng thuyết tiến hoá của
Như vậy, đối với những
người nào đă đối chiếu các nhà Huyền bí
học với những ḍng chữ trong quyển sách kể
trên :
Chỉ cần chứng minh rằng chúng ta có
thể - nếu chúng ta muốn nói đến tất cả
những vấn đề này, th́ chúng ta phải – quan
niệm một nguồn sinh lực tạo ra những h́nh
dáng của loại kim thạch một cách hợp lư như
một thứ xung lực tương tự có quan hệ
đến việc biến
một giống dân khỉ thành một giống dân
người nguyên thuỷ (raise a race of apes into a race of
rudimentary men) ([469]).
239
Đối với người nào đă
viện dẫn điều này để chứng minh
“thuyết tiến hóa của Darwin đă được
quyết định”, th́ những nhà Huyền bí học
sẽ trả lời bằng cách chỉ cho họ thấy
lời giải thích của một vị Chân Sư, là
Sư Phụ của ông Sinnett, Ngài sẽ đính chính
những ḍng chữ này nếu chúng được viết
ra theo tinh thần mà người ta gán cho chúng. Một
bản sao bức thư này được gởi cho tác
giả bộ sách này, cách đây lối hai năm (1886) cùng
với nhiều bức thư khác, với những chú thích
bên lề, để tác giả trích dẫn ra viết thành
bộ Giáo Lư Bí Nhiệm.
Nó bắt đầu bằng cách nhận xét
là sinh viên Tây Phương đă gặp khó khăn khi đang
dung hoà những sự kiện đă được
đưa ra trước đây với sự tiến hoá
của con người từ loài thú, nghĩa là từ loài
kim thạch, thảo mộc và cầm thú, và nó cũng khuyên
sinh viên nên nhớ kỹ giáo lư nói về sự tương
đồng và những sự tương ứng. Rồi nó
đề cập đến sự bí mật của các
vị Thần (Devas) cũng như các vị Thiên Đế
(Gods), các vị này đă trải qua nhiều trạng thái mà
người ta đă đồng ư đề cập tới
chúng như là “sự kim thạch hoá, sự thảo mộc
hoá, sự động vật hoá và sau cùng là sự hoá thân”
(“Immetallization, Inherbation, Inzoonization and finally Incarnation”) và giải
thích điều này bằng cách ám chỉ đến nhu
cầu của những sự thất bại ngay cả
nơi giống dân chỉ có thể phách (ethereal races)
của các vị Thiền Định Đế Quân (Dhyan
Chohans). Khi đề cập đến điều này, nó
nói rằng:
“Tuy vậy,
những sự thất bại này đă phát triển
rất xa và được tinh thần hoá nên không thể
từ t́nh trạng của những vị Thiền
Định Đế Quân rơi vào luồng gió lốc
của một ḍng tiến hoá nguyên thuỷ mới, xuyên qua
nhiều loài thấp kém hơn…”([470]).
Sau đó, người ta chỉ đưa ra
một điều ám chỉ về sự bí mật
chứa đựng trong ngụ ư nói về những vị
Thần Quỉ (Asuras) bị sa ngă, điều này
được chúng tôi khai triển và giải thích trong
quyển ba và bốn. Khi
“Ở trong giai
đoạn tiến hoá của nhân loại, Nghiệp
Quả (Karma) đă đến với họ rồi: họ
đă uống hết giọt nước cay đắng cuối
cùng của ly nước trừng phạt (bitter cup of
retribution). Rồi họ trở thành một động
lực tích cực và phối hợp với những loài
tinh hoa chất, hoặc là với thực thể tiến
hóa của loài thú thuần túy, để phát triển
dần dần thành một mẫu người hoàn hảo”
([471]).
Như chúng ta đă thấy, những vị
Thiền Định Đế Quân này không phải trải
qua ba loài như các vị Nguyệt Tinh Quân (Pitris) thấp
hơn; các Ngài cũng không giáng sinh vào hàng nhân loại cho
đến khi có Giống dân chính thứ Ba. Giáo lư huyền
môn dạy như sau:
“Trong cuộc
Tuần Hoàn thứ Nhất và Giống dân thứ Nhất
trên bầu D tức Địa Cầu, con người là
một sinh vật khinh thanh (một Thái âm tinh trong h́nh
thể con người [‘à Lunar Dhyani, as man’]), không thông minh
nhưng siêu tâm linh (non-intelligent but super-spiritual), và theo
luật tương quan so sánh, phù hợp với giai
đoạn một và cuộc Tuần Hoàn thứ Tư. Trong
mỗi giai đoạn và phụ chủng kế tiếp… Y
dần dần càng ngày càng phát triển thành một sinh
vật hữu thể nhưng tựu trung vẫn c̣n
mỏng như sương mờ… Một sinh vật không có
phái tính (sexless) và giống như loài động vật và
cây cỏ, y phát triển những thể xác khổng lồ
phù hợp với những cảnh vật thô kệch chung
quanh y.
240
“Cuộc Tuần
Hoàn thứ Hai. Con người vẫn c̣n là những sinh
vật khổng lồ và thanh nhẹ như sương và
dần dần phát triển thành một thể xác rắn chắc
hơn và cô đọng hơn thành một người có
thể chất cứng cáp hơn. Tuy vậy, y vẫn c̣n kém
trí khôn hơn là mở mang về phần tâm linh (1), v́
sự tiến hoá về trí tuệ vốn chậm chạp
và khó khăn hơn sự tiến hoá của thể xác…
“Cuộc
Tuần Hoàn thứ Ba. Con Người có một thể xác
hoàn toàn đông đặc và cụ thể, trước
hết có một h́nh dáng một con khỉ khổng lồ,
và nay là một sinh vật thông minh hơn, hay tinh quái hơn
là thuần tâm linh, bởi v́ trên ṿng cung đi xuống này, y
đă đạt tới một điểm mà tính chất
tâm linh nguyên thuỷ của y bị che khuất và lấn áp
bởi trí tuệ vừa phát sinh (2). Trong phân nửa
cuối cùng của cuộc Tuần Hoàn thứ Ba, vóc dáng
khổng lồ của y trở nên tinh tế hơn, và y
trở nên sinh vật hợp lư hơn (he becomes a more rational
being), tuy vẫn c̣n giống khỉ hơn là giống
một vị Thần (Deva)… [Tất cả những
đặc tính trên lại tái diễn hầu như nguyên
vẹn trong Giống dân thứ Ba của cuộc Tuần
Hoàn thứ Tư].
“Cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư. Trí khôn (Intellect) con người
đă phát triển rất mạnh, những giống dân câm
từ trước đến nay, bắt đầu có ngôn
ngữ con người trên Địa Cầu. Kể từ
giai đoạn thứ Tư trở về sau, ngôn ngữ
được kiện toàn và kiến thức ngày càng
tăng gia. Ở điểm giữa khúc quanh cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư, kể từ giai đoạn
thứ Tư hay giống dân chính Atlan, nhân loại
vượt qua điểm trục trung tâm của tiểu
Chu kỳ Khai nguyên (minor Manvantaric
cycle)… thế gian tràn đầy kết quả của
hoạt động tri thức và xuống dốc tâm linh…” ([472]).
Điều này được trích ra từ
bức thư chính (authentic letter); c̣n phần tiếp theo
chỉ là những lời ghi chú sau này và những lời
giải thích bổ túc do chính Đức Thầy viết ra
dưới h́nh thức của những lời chú thích phía
dưới.
“ (1)…Bức
thư nguyên bản này chứa đựng những lời
dạy khái quát - một ‘quan điểm đại
lược’ (a ‘bird’s-eye view’) - chứ không có ǵ đặc
thù… Khi nói đến ‘con người vật chất’, trong
khi giới hạn phát biểu vào những cuộc Tuần
Hoàn đầu tiên, ắt là nói tới ‘những lớp da’
kỳ diệu và phù du của con người… ‘Bản
chất’ đầu tiên, ‘thể xác’ đầu tiên, ‘cái trí’
đầu tiên ở trên cơi tri thức đầu tiên này,
ở trên Bầu hành tinh thứ nhất trong cuộc
Tuần Hoàn thứ Nhất này, chính là điều mà
người ta có ư nói tới. V́ Nghiệp Quả và sự
tiến hoá –
‘…đă tập trung vào bản tính cực
đoan kỳ lạ của chúng ta!
Từ những bản chất khác nhau ([473])
được phối hợp một cách kỳ diệu…’
“ (2) Phục
hồi; bây giờ con người đă đạt tới
điểm [do sự tương đồng, với vai tṛ
là Giống dân thứ Ba trong cuộc Tuần Hoàn thứ
Tư] mà tính thiêng liêng nguyên uỷ [của ‘con người thiên thần’ (‘the
angel’ – man’s)] của họ bị cái trí mới sinh của
con người che giấu và làm lu mờ, và c̣n có lối
tường thuật xác thực về bài lược
thuật của con… “
241
Đó là những lời dạy của Sư
Phụ; những đoạn kinh (text) những ngôn từ
(words) và những câu kinh ở trong ngoặc kép, và những
chú thích cuối trang. Ta nên hiểu rằng phải có
một sự dị biệt lớn lao trong những danh
từ như là “khách thể” (“objectivity”) và “chủ thể”
(“subjectivity”), “vật chất” (“materiality”) và “tâm linh”
(“spirituality”), khi mà những danh từ này được áp
dụng cho những cơi giới khác nhau về phương
diện sinh hoạt và tri thức. Tất cả đều
phải được hiểu theo ư nghĩa tương
quan, tương đối mà thôi. V́ vậy, nếu phó
mặc cho y suy cứu, th́ người ta cũng chỉ có
một chút ngạc nhiên, khi một tác giả, dù khao khát
muốn học hỏi, nhưng vẫn rơi vào sự
lầm lạc, v́ chưa đủ kinh nghiệm để
học hỏi những giáo lư trừu tượng này. Trong
những bức thư đă nhận được,
người ta cũng chưa xác định một cách rơ
ràng được sự khác nhau giữa những cuộc
tuần hoàn và các giống dân, v́ không có một thứ ǵ
thuộc loại đó đă được cần dùng
trước, như một đệ tử b́nh
thường người Đông phương đă khám phá
ra được sự dị biệt này trong giây lát. Ngoài
ra, chúng tôi xin trích dẫn thêm một bức thư của
Đức Thầy này:
“Những giáo lư
này được đưa ra trong hoàn cảnh bị
phản đối … có thể nói, những giáo lư này là
những món hàng buôn lậu (smuggled goods)… khi tôi c̣n
đối diện với một thông tín viên, th́
người kia, Ông…đến nay đă xào bài lên hết (the
cards into confusion) đến nỗi chỉ có một ít
điều được nói ra là không vi phạm các
định luật”.
Những người nghiên cứu Minh
Triết Thiêng Liêng “hữu quan” sẽ hiểu nó có nghĩa
là ǵ. Kết quả của tất cả các điều này
là trong những bức thư này, không có cái ǵ bảo
đảm chắc chắn rằng Giáo lư huyền môn đă
từng dạy, hoặc bất cứ một vị Chân
Sư đă tin vào cái thuyết hiện đại phi lư
về sự sinh ra của con người từ một
vị tổ tiên chung với loài khỉ - đó là giống
khỉ người của loài thú đích thực.
Đến nay, ở khắp trên thế gian có đầy
“những con người giống khỉ”, nhiều hơn
ở trong rừng có “những con khỉ giống
người”. Ở Ấn Độ, con khỉ là một
sinh vật thiêng liêng, bởi v́ những người
được Điểm Đạo biết rơ nguồn
gốc của giống vật này, dù cho nguồn gốc này
c̣n được giấu kín dưới một bức màn
ẩn ư dày đặc. Hanumana (vị thần khỉ) là con
của thần Pavana (cũng là Vayu, “Thần Gió”), do
thần Anjana (là con rắn), vợ một con quái vật có
tên là Kesari, dù phổ hệ của loài này thay đổi măi
măi. Độc giả nào nhớ điều này sẽ
thấy tất cả những giải thích về
điều ngụ ư khéo léo này ở nhiều chỗ trong
quyển ba và bốn. “Con người” của Giống dân
thứ Ba, (họ đă tách rời ra) chính các vị
Thần Linh (Gods), nhờ tinh thần và sự trong sạch
của họ, dù họ chưa có giác quan, và đến nay
vẫn chưa có cái trí như con người.
Những “Người” của Giống dân
thứ Ba, tổ tiên của dân Atlante, cũng là những
người khổng lồ, h́nh thù giống khỉ và vô tri
thức như những người tiêu biểu cho nhân
loại trong cuộc Tuần Hoàn thứ Ba. Vô trách nhiệm
về phương diện luân lư, chính con người
thuộc Giống dân thứ Ba này, qua sự giao phối
hỗn tạp với những loài động vật
thấp kém hơn, đă tạo nên một giống dân
đặc biệt gọi là cái khoen dang dở (missing link),
giống người này, trong nhiều thế hệ về
sau (chỉ trong thời kỳ đệ tam kỳ) đă
trở nên tổ tiên xa xôi của loài khỉ đột
như ta thấy hiện nay.
Nếu điều cho người ta
thấy có sự chống đối lại lời phát
biểu chỉ rơ rằng con thú xuất hiện sau con
người, th́ độc giả sẽ được
yêu cầu nên nhớ rằng, giống thú này chỉ có
nghĩa là loài động vật có vú, có nhau. Trong thời đại ấy, đó
chính là những loài thú mà khoa động vật học trong
thời đại của riêng ta chưa mơ tới
nữa; và những cách sinh
sản của loại này th́ không giống với
những quan niệm mà khoa sinh lư học hiện đại
đă có được vấn đề này. Thật không
hoàn toàn thích hợp để cho người ta đề
cập đến những câu hỏi ấy trước
đại chúng, nhưng bất cứ việc ǵ trong
vấn đề này cũng không phải là không thể có
được hoặc không có sự mâu thuẫn.
242
Như vậy, những giáo lư đầu tiên
này, dù là có khuyết điểm, mơ hồ và rời
rạc, cũng không dạy về sự tiến hoá của
“con người” từ “con khỉ”. Tác giả quyển Phật Giáo Bí Truyền cũng
không xác nhận nó ở bất cứ chỗ nào trong tác
phẩm của ông bằng nhiều ngôn từ như
thế, nhưng v́ có khuynh hướng về khoa học
tiến bộ nên ông dùng thứ ngôn ngữ có thể
chứng minh một lời suy diễn như vậy. Con
người có trước Giống dân thứ Tư,
tức là giống Atlante, dù có thể có h́nh giống như
một “con khỉ không lồ” – “là một sự giả
dạng của con người chưa có đời
sống của một con người” - vẫn là một
người biết suy tư và biết nói tiếng
người. Người Lemuro-Atlantean, là một giống dân
có tŕnh độ văn minh cao, và nếu người ta nh́n
nhận truyền thuyết – th́ truyền thuyết này là
một huyền sử hay hơn cả huyền thoại
suy lư, mà bây giờ xuất hiện dưới cái tên này -
họ cao hơn chúng ta về cả phương diện
khoa học và cả về nền văn minh thoái hoá
hiện nay (degraded civilization) của chúng ta; trong bất
cứ trường hợp nào, người Lemuro-Atlantean
cũng là Giống dân chót của Giống dân chánh thứ Ba.
Bây giờ xin trở lại những
ĐOẠN KINH.
5. CÁI THỨ TƯ ([474])
(a), CÁC CON NHẬN LỆNH PHẢI SÁNG TẠO RA H̀NH ẢNH
CỦA HỌ. MỘT PHẦN BA TỪ CHỐI, HAI PHẦN
BA VÂNG LỜI.
LỜI NGUYỀN
RỦA PHÁT RA (b): HỌ PHẢI RA ĐỜI TRONG CÁI
THỨ TƯ, SẼ ĐAU KHỔ VÀ GIEO RẮC SỰ
ĐAU KHỔ, ĐÓ LÀ TRẬN CHIẾN THỨ NHẤT
(FIRST WAR) (c).
Người ta chỉ có thể quán triệt
được trọn vẹn ư nghĩa của câu kinh này
sau khi đă đọc những lời giải thích bổ
túc với đầy đủ chi tiết trong phần có
những Giảng lư về Nhân sinh khởi nguyên luận trong
các quyển 3 và 4. Giai đoạn này và Giai đoạn 4 là
diễn tŕnh tiến hoá của những thế hệ lâu
dài, và bây giờ là bắt đầu chớm nở
buổi b́nh minh, mở màn cho thế hệ khác. Vở
kịch diễn biến trên Địa Cầu của chúng
ta ở vào lúc khởi đầu màn thứ tư, nhưng
để hiểu rơ hơn toàn thể vở kịch,
độc giả sẽ quay trở lại những màn
trước đây trước khi tiếp tục. V́ câu
trên thuộc về phần Vũ Trụ Khai Tịch
Luận đại cương được tŕnh bày trong
những quyển sách cổ, c̣n Quyển 2 tŕnh bày cuộc
diễn tiến từng chi tiết của Cơ Sáng
Tạo hay nói đúng hơn là sự h́nh thành giống
người đầu tiên, kế đó là giống
người cấp hai, rồi tới cấp ba, hay nói theo
danh từ huyền môn là Giống dân thứ Nhất,
thứ Hai và thứ Ba. Cũng như Địa Cầu
bắt đầu thành h́nh như là một quả cầu
bằng lửa lỏng, bụi lửa nguyên h́nh chất
chứa cô đọng, th́ con người cũng vậy.
(a) Điều gọi là “cái thứ Tư”
được giải thích như là cuộc Tuần Hoàn
thứ Tư, theo uy tín Thiên b́nh luận. Nó cũng có thể
được hiểu là
243
Như độc giả sẽ thấy, chính
ở vào giai đoạn này (trong thời kỳ phát
triển cực điểm của nền văn minh,
kiến thức, trí tuệ thông linh của giai đoạn
thứ Tư (Atlante) và do bởi cơn khủng hoảng
cuối cùng của sự điều chỉnh sinh lư và tâm
linh của các Giống dân – mà nhân loại chia làm hai phái theo
hai đường đối lập rơ rệt: con
đường Hữu phái (chánh đạo) và Tả phái
(tà đạo). Thiên b́nh luận viết :
Những mầm
mống của hai phái Chánh và Tà đạo được
gieo rắc trong nhân loại vào thời kỳ đó.
Những mầm mống ấy tiềm ẩn trong một
thời gian để rồi lại phát triển trong giai
đoạn đầu của Giống dân thứ Năm,
tức là chủng tộc văn minh hiện tại.
Các thanh niên thánh thiện (Thần
minh) [the Gods] từ khước sinh sản để
tạo nên hậu duệ ḍng giống thần tiên như
họ. Họ không phải là những h́nh thể thích
hợp với chúng ta. Họ phải trưởng thành.
Họ từ khước không nhập vào những h́nh bóng
(Chhayas) của những kẻ thấp kém hơn. Như
thế, tư tưởng ích kỷ đă ngự trị
ngay từ lúc đầu, dù rằng trong giới thần tiên,
và họ đă bị đoạ lạc dưới nhăn quan
của các Đấng cầm cân nghiệp quả (Lipikas).
Họ phải chịu đau khổ về
việc đó trong những kiếp tương lai. Có
một sự tin tưởng theo truyền thống chung là
trước khi có sự “đoạ lạc” sinh lư
(physiological “Fall”) th́ sự sinh sản để truyền
giống, dù là trong loài người hay loài động
vật, được thể hiện do Ư CHÍ của các
Đấng Tạo Tác (the WILL of the Creators) hay hậu
duệ của các Ngài. Đó là sự Đoạ Lạc
của Tinh Thần (the Fall of Spirit) chứ không phải
sự Đọa lạc của Con người phàm tục
(the Fall of mortal Man). Ở trên đă nói rằng để
trở nên một Tinh Thần có ư thức tự ngă
(Self-Conscious), Tinh Thần đó phải trải qua mọi
chu kỳ sinh hoạt, tự hữu để tiến lên
giai đoạn cực điểm trên trái đất trong
Con người. Tinh Thần tự nó vốn là một
TRỪU TƯỢNG (ABSTRACTION) tiêu cực và vô thức.
Sự thuần khiết của nó vốn nội tại
chứ không thể đạt được bằng
sự cố gắng hay tài giỏi. Bởi đó, như
đă giải thích, muốn trở nên một Thiền
Định Đế Quân cao cả nhất (the highest Dhyan
Chohan), mỗi linh hồn cần đạt tới ư
thức tự ngă viên măn trong con người, nghĩa là
một nhân vật tự hữu có thể ư thức
được tổng hợp thành con người.
Những vị đạo sĩ bí pháp Do Thái (Jewish Kabalists)
lư luận rằng, không có Linh Hồn (Spirit) nào có thể
thuộc về Hệ cấp thiêng liêng (the divine Hierarchy)
trừ phi linh khí (Ruach) (Spirit) hợp nhất với
Cảm Dục sinh khí thể (Nephesh) (Linh hồn c̣n sống
– Living Soul), họ cũng chỉ lặp lại Giáo Lư Bí
truyền Đông phương mà thôi:
Một
Đấng tự giác (Dhyani) phải là một Tiên Thể
Kim Thân (Atma-Buddhi). Một khi Kim Thân-Trí Tuệ (Buddhi-Manas)
rời khỏi Tiên Thể (Atma) bất diệt, mà nó (Buddhi)
là cái thể bọc ngoài, th́ Atma bước vào giai
đoạn BẤT TẠI (NON-BEING) cũng là Thực
Tại Tuyệt Đối (Absolute Being).
Đó có nghĩa là trạng thái Niết Bàn
thuần tuư; là diễn biến của Tinh Thần trở
vô trạng thái trừu tượng lư tưởng của
Thực Tại (Beness), nó vốn không có liên hệ ǵ
đến cơi giới trên đó Vũ Trụ đang
thực hiện chu kỳ sinh hoạt của nó.
244
b) “Lời nguyền được thốt
lên” ở đây không có nghĩa là do một vị Thần
minh hay Đấng Cao Cả nào thốt ra, mà chỉ có
nghĩa là nguyên nhân tạo nên nghiệp xấu đă
được gây ra, và những hậu quả của
một nguyên nhân tạo nghiệp chỉ có thể
đưa những vị nào hành động trái với
định luật thiên nhiên làm ngăn trở cái đà
tiến hoá tự nhiên của Trời Đất,
bước vào những kiếp đầu thai đầy
đau khổ.
c) “Chiến tranh” ở đây là nói về
những sự tranh đấu trong việc điều
chỉnh về mọi mặt tâm linh vũ trụ và càn
tượng (astronomical), nhưng trên hết là nói về
sự huyền nhiệm trong cơ tiến hoá của con
người như trong giai đoạn hiện tại.
Những Quyền năng hay những Tinh hoa thuần tuư
“được người ta nói tới là để sáng
tạo” – như người ta đă nói – có liên quan
đến một điều bí mật đă
được giải thích ở một chỗ khác trong
bộ sách này. Chẳng những đó là một trong
những bí mật kín đáo nhất của Thiên Nhiên – bí
mật của sự sinh sản mà các nhà phôi thai học,
để giải quyết nó, đă phối trí với nhau
một cách hoài công – mà nó cũng có một thiên chức bao
gồm sự bí mật vĩ đại về tín
ngưỡng hoặc đúng hơn là sự bí mật
của giáo điều độc đoán tức là sự
“Sa ngă” của các Thiên Thần (như người ta đă
gọi). Con Quỷ cám dỗ (Satan) và bè lũ nổi
loạn của nó, như vậy sẽ không nhận lấy
nhiệm vụ tạo ra con người bằng thể xác
mà chỉ muốn trở thành trực tiếp những
Đấng Cứu Thế và những Đấng Sáng Tạo
của “Con người thiêng
liêng” (Saviours and Creators of “divine
Man”) (khi ư nghĩa về điều ngụ ư này đă
được giải thích). Giáo lư về biểu
tượng này c̣n hơn mức huyền bí và sự tôn sùng
như chúng ta sẽ thấy sau này, giáo lư này hoàn toàn
thuộc về khoa học. Đó là v́, thay v́ vốn chỉ
là một phương tiện hoạt động mù quáng do
ĐỊNH LUẬT thâm sâu dẫn dắt và thúc đẩy,
vị Thiên Thần “nổi loạn” (the “rebellious” Angel)
lại đ̣i hỏi thi hành quyền phán đoán và ư
nghĩa độc tôn, quyền tự do hoạt
động và trách nhiệm, v́ Con Người và Thiên
Thần đều bị Định Luật Nhân Quả
chi phối.
Để giải thích quan điểm
của các nhà bí pháp Kabal tác giả quyển Những Hiện Trạng mới của Đời
Sống (New Aspects of Life) đă nói về những vị
Thiên Thần sa ngă là:
Theo giáo ư của biểu tượng học
… linh hồn (spirit) đó chỉ là một nhân vật
thừa hành của Thượng Đế (God) nên tự ư
phát huy hành động, nó lấy ư muốn riêng để
thay thế cho ḷng ham muốn Thiêng Liêng cho riêng phần nó,
nên nó bị sa ngă. Do đó, loài tinh linh và sự hoạt
động của các tinh linh vốn là sản phẩm
của ḷng ham muốn của linh hồn, bèn ở bên ngoài
chống lại hành động của Thượng
Đế và thế giới của linh hồn (trang 233).
Như vậy, rất đúng; nhưng tác
giả muốn nói ǵ khi bảo:
Khi con người được tạo ra,
y có cấu tạo của nhân loại, có những t́nh
cảm của nhân loại, có những hy vọng và
nguyện vọng của nhân loại. Từ t́nh trạng
này, y sa ngă thành kẻ tàn ác và dă man.
Đó là sự đối lập trực
tiếp với giáo lư phương Đông của chúng ta,
cũng như đối với quan niệm của tín
đồ Do Thái Bí giáo theo như chúng ta hiểu, nó cũng
đối lập với cả Thánh
kinh Thiên Chúa giáo (Bible). Điều này giống như
chủ nghĩa Bản Thể (Corporealism) và Duy Vật
Chủ Nghĩa (Substantialism), mang màu sắc của Triết
Lư Thực Nghiệm (Positive Philosophy), mặc dù hơi khó
để người ta có thể hoàn toàn cảm thông
được chắc chắn tác giả định nói
ǵ. Tuy nhiên, một sự sa ngă “từ cái tự nhiên
đến cái siêu nhiên và đến con thú” – trong
trường hợp này, cái siêu nhiên có nghĩa là linh hồn
thuần tuư bao hàm cái mà chúng ta đề xướng. Kinh Tân Ước có nói đến
một trong những “Cuộc chiến tranh” này như sau:
Đă có
nhiều cuộc chiến tranh ở trên cơi Thiên Đàng;
Thánh Micheal và những vị thiên thần của
người đă chiến đấu để chống
lại con Rồng (Dragon); con Rồng cũng đă xáp
chiến, nhưng nó không thắng nổi các vị thiên
thần; nên người ta không t́m thấy có bất cứ
chỗ nào để cho chúng ở lại cơi Thiên Đàng.
Con Rồng khổng lồ này nay bị đuổi ra
khỏi cơi Thiên Đàng. Nó chính là con xà tinh cổ lổ (old
serpent), nó được gọi là loài Yêu Tinh (Devil) và
Quỷ Quái (Satan) để phỉnh lừa mọi
người” ([475]).
245
Lối tường thuật của
người Kabal về cùng cốt truyện ấy đă
được đưa ra trong quyển Codex Nazaraeus là một quyển kinh của môn
đồ Nazarenes, là những tín đồ Ky Tô giáo thần
bí chân chính của Thánh John Baptist, là những vị
được điểm đạo của Đức
Chúa Trời (Christos), là Đấng Toàn Thiện.
Đấng Bahak Zivo, là “Cha đẻ của các vị
Thần Linh” (“Father of the Genii”), được lệnh tạo
ra các sinh vật (sáng tạo). Nhưng v́ Ngài “không biết ǵ
về Địa ngục không đáy” (“ignorant of Orcus”) nên
Ngài bị thất bại và kêu gọi đến
Đấng Hoá Công thấp hèn (Fetahil), một linh hồn
trong sạch hơn để giúp ḿnh, nhưng rồi, y c̣n
bị thất bại tồi tệ hơn. Đó một
sự nhắc lại về sự sa ngă của các
“Đức Cha” (“Father”), những Đấng Cao Cả
của Ánh Sáng, các Ngài đă thất bại, hết
Đấng này tới Đấng kia ([476]).
Bây giờ chúng tôi xin trích dẫn một vài
đoạn trong những quyển sách trước kia
của chúng tôi ([477]).
Rồi đến giai đoạn tạo ra
“tinh linh” (“spirit”) - của Địa Cầu như
người ta đă gọi, hay là Linh Hồn, Hồn thú
(Psyche) mà Thánh James gọi là những “loài yêu tinh” (“devilsh”) -
phần thấp của Linh Hồn thế gian (Anima Mundi) hay
là Tinh Tú quang (Astral Light) [xem phần chót của câu kinh này].
Theo những tín đồ Nazarenes và các tín đồ phái
Ngộ Đạo (Gnostics) th́ loài Tinh Linh này có đặc tính nữ. Như
vậy, Tinh Linh của Trái Đất thấy rằng
đối với Đấng Tạo Hoá thấp hèn (Fetahil)
([478]) con người mới nhất (newest
man), sự vinh diệu đă “đổi thay”, và đối
với sự vinh diệu này, “sự suy tàn và sự sụp
đổ” đă xuất hiện, bèn đánh thức tinh
linh có ḷng ham muốn mù quáng (Karabtanos) ([479]),
“loài tinh linh này th́ cuồng dại, không có ư thức và sự suy xét”, và nói với y là:
“Ngươi hăy dậy đi, hăy xem ḱa, sự vinh diệu
(Ánh Sáng) của Con người mới
nhất này (Fetahil) đă thất bại (để sinh
ra hay tạo ra con người) và người ta thấy rơ
sự vinh diệu này đă bị giảm dần.
Ngươi hăy đứng lên rồi đến Mẹ
ngươi (Spiritus) và giải thoát ngươi khỏi
những giới hạn đă giữ chặt lấy
ngươi, những giới hạn rộng lớn hơn
toàn thế gian”. Sau đó là sự kết hợp của
thứ vật chất cuồng dại và mù quáng đó, nó
để cho những sự ám chỉ của Linh Hồn
điều khiển (không phải là Hơi Thở Thiêng Liêng, mà là Linh Hồn của
Thể Phách (Astral Spirit), mà do bản chất nhị phân,
đă bị vật chất làm cho hư hỏng) và khi quà
tặng của người Mẹ đă được
nhận, Spiritus quan niệm ra “Bảy Mặt” (“Seven Figures”)
và Bảy Ngôi Sao (Seven Stellars) (Hành Tinh – Planets), chúng cũng
tượng trưng cho bảy
tội lỗi chính, là con cái của một Linh Hồn
đẩu tinh (Astral Soul) đă tách rời khỏi nguồn
gốc thiêng liêng của nó (tinh thần), và vật chất, con quỷ dâm dục mù quáng. Khi
thấy điều này, Đấng Tạo Hoá thấp hèn
(Fetahil) nới rộng ṿng tay của người
đến tận vực thẳm vật chất, và nói:
“Hăy để cho trái đất xuất hiện, cũng
như nơi đây những Quyền năng đă biểu
hiện”. Khi nhúng tay vào cái hỗn mang (chaos), mà Người
làm đông đặc lại, Người tạo ra hành tinh
của chúng ta.
Rồi quyển Cựu kinh (Codex) cũng nói
thêm, làm thế nào mà Cha của các vị Thần Linh (Bahak
Zivo) được tách ra khỏi Mẹ của các Thần
Linh (Spiritus) và các vị Thần Linh (Genii) hay là các vị
Thiên Thần được tách ra khỏi các nhóm Thần
nổi loạn ([480]).
Rồi vị Thuỷ Tổ nhân loại (Mano) (người
vĩ đại nhất) ([481]),
Người ở với quyền năng sáng tạo cao
siêu nhất và vĩ đại nhất Ferho, gọi vị
Chúa Tể của các Đấng Sáng Tạo (Kebar Zivo)
(cũng được biết với các danh hiệu là
Nebat lavar barlufin), Bánh lái và Nho dùng làm Thức ăn cho Sự
Sống ([482])
- Người cũng là Sự Sống thứ ba, cũng
thương hại cho những vị thần phản
loạn và cuồng si, v́ họ đầy ḷng tham vọng,
và nói: “Hỡi vị Chúa Tể của các vị Thần
Linh ([483])
(Aeons) hăy xem cái mà các vị Thần Linh (những vị Thiên
Thần nổi loạn – the Rebellious Angels) đă làm và cái mà
họ đang đem ra để thảo luận ([484]).
Họ trả lời: “Hăy để chúng tôi tạo ra
bầu thế giới, hăy để cho chúng tôi tạo ra
những “Quyền năng” (“Powers”). Những vị Thần
Linh là những tay Cự Phách (Princes) (những Nguyên Khí –
Principes), những đứa Con của Ánh Sáng, nhưng
Ngươi là vị Sứ giả của Sự Sống”.
246
Để hoá giải ảnh hưởng
của bảy nguyên khí “có khuynh hướng xấu”, con cháu
của thần Spiritus, Kebar Zivo (hay là Cabar Zio), Đấng
Chúa Tể vinh diệu đầy quyền uy, tạo ra bảy kiếp sống khác (những
đức tính chủ yếu), trong h́nh dáng riêng của ḿnh,
chúng rực sáng “từ trên cao” ([485])
như vậy, Ngài tái lập sự quân b́nh giữa
điều thiện và điều ác, giữa ánh sáng và bóng
tối.
Ở đây, người ta nhận thấy
có một sự lập lại những hệ thống
nhị nguyên ẩn ư
đầu tiên như là của những tín đồ
Hoả giáo (Zoroastrian) và người ta cũng khám phá ra
được một mầm mống của những tín
ngưỡng về nhị nguyên và giáo điều
độc đoán trong tương lai, một mầm
mống đă nảy nở thành ra cây tươi tốt
trong giáo hội Ky Tô. Tôn giáo này đă phác họa ra hai cái
“Tối thượng”: Đức Chúa Trời và Ác Quỷ
(Satan). Nhưng trong những đoạn Thánh kinh này, không có
một tư tưởng nào giống như vậy.
Hầu hết những đạo sĩ
Kabal của Ky Tô giáo phương Tây - nhất là Éliphas Lévi –
khi muốn dung hoà các khoa học huyền bí với những
giáo điều độc đoán của giáo hội, đă
làm hết sức ḿnh để biến Tinh Tú quang (Astral
Light) chỉ và chủ yếu là thành cái mà các Đức Cha
đầu tiên của nhà thờ gọi là nơi ở
của các vị thần vô h́nh (Pleroma), nơi ở của
các nhóm Thiên Thần Sa Đoạ (Fallen Angels), của
những vị “Hành Tinh quân” (“Archons”) và của những
“Quyền Năng” (“Powers”). Nhưng Tinh tú quang, dù chỉ là
trạng thái thấp của Tuyệt Đối, song le
vẫn c̣n nhị nguyên. Đó chính là Linh Hồn Thế Gian
(Anima Mundi) và người ta cũng không bao giờ
được xem nó như là một cái ǵ khác nữa,
ngoại trừ với những ư đồ Do Thái Bí giáo.
Sự khác nhau giữa “Ánh Sáng” (“Light”) và “Lửa Sống
Động” (“Living Fire”) của nó phải luôn luôn hiện
ra trong trí của những nhà Linh Thị và Tâm Linh. Trạng
thái cao của “Ánh Sáng” này (không có nó th́ chỉ những sinh
vật bằng vật chất mới có thể sinh ra) là
thứ lửa sống động và là nguyên khí thứ
bảy của nó. Điều này đă được tŕnh
bày trong quyển Nữ Thần
Isis Lộ Diện với một sự diễn tả
đầy đủ như sau:
“Tinh tú quang hay là
Linh Hồn Thế Gian có đặc tính nhị nguyên và
lưỡng tính. Phần nam tính (lư tưởng) của nó
th́ hoàn toàn thiêng liêng và thuộc về tinh thần; nó là Minh
Triết, nó cũng là Tinh Thần hay là Purusha; trong khi
phần có đặc tính nữ (mà người Nazarenes
gọi là Spiritus) (theo một ư nghĩa) bị làm hư
hỏng bởi vật chất, v́ vậy mà nó trở thành
điều ác. Nó là cái nguyên lư sự sống của mọi
sinh vật, nó ban cho con người, cho loại thú, cho loài
chim trên trời và mọi vật c̣n sống cái linh hồn
đẩu tinh (astral soul), một thứ linh mạc
uyển chuyển (fluidic perisprit). Chỉ có loài thú mới có
cái mầm tiềm ẩn của linh hồn bất tử
cao siêu nhất ở trong đó. Linh hồn này sẽ
chỉ phát triển sau một loạt vô số lần
tiến hoá; giáo lư dạy về sự tiến hoá này
được chứa đựng trong một câu châm ngôn
của tín đồ Do Thái Bí giáo: “Một cục đá
trở thành một cái cây, một cái cây trở thành một
con thú, một con thú trở thành một con người;
một người trở thành một vị thần
(spirit); một vị thần trở thành một vị
Thượng Đế” ([486]).
247
Bảy nguyên lư của những người
được điểm đạo Đông phương
chưa được giải thích khi quyển Nữ Thần Isis Lộ Diện
được viết ra, nhưng trong Thánh kinh Kabal ([487])
bán công truyền, chỉ có ba mặt của môn phái Kabal.
Những nguyên lư này đă diễn tả bản chất
huyền bí của nhóm Thiền Định Đế Quân
(Dhyan Chohans) đầu tiên trong cơi
rực sáng (regimen ignis), là vùng cũng là nơi “thống
trị (hay cai quản) của lửa” (“rule ‘or government’ of
fire”), nó được chia làm ba hạng, và do nhóm
đầu tiên tổng hợp để tạo ra số bốn hay là “Bốn Mặt”
(“Tetraktys”) ([488]).
Nếu người ta chịu nghiên cứu những lời
B́nh luận này một cách chăm chỉ, người ta
sẽ thấy một tiến tŕnh tương tự
nơi các bản chất của các vị Thiên Thần, nghĩa
là từ cái bản chất thụ
động đến bản chất tích cực; Đấng Thiên Thần cuối cùng
gần với Đơn vị Ngă Thức (Ahamkara Element) –
vùng hay là cơi ở đó một Ngă
Tính (Egoship), hay là cảm giác về Bản Ngă (I-am-ness) bắt đầu
được xác định – cũng như Đấng
trước nhất gần với Nguyên Thể phi nhân hoá
(undifferentiated Essence), những Đấng đầu tiên th́
vô h́nh hay là Arupa, những Đấng sau th́ hữu h́nh hay là
Rupa.
Trong Quyển II của tác phẩm này ([489]),
những hệ thống triết lư của những tín
đồ phái Ngộ Đạo (Gnostics) và những
người Do Thái Ky Tô giáo (Jewish Christians) nguyên thuỷ,
của những người Ebionites được cứu
xét một cách đầy đủ. Người ta chỉ
cho thấy những quan niệm về Thượng
Đế lưỡng tính (Đức Jehovah)
được ǵn giữ vào những ngày ấy ở bên
ngoài Giáo hội Do Thái giáo của Thánh Moises. Tất cả
những tín đồ phái Ngộ Đạo cho rằng
vị Thượng Đế giống với nguyên lư ác
hơn là nguyên lư thiện. Đối với họ, Ngài
chính là đứa trẻ được sinh ra từ cái
Trứng (Ilda-Baoth), “Đứa Con của Bóng Tối” (“Son
of Darkness”), mẹ của nó (Sophia Achamoth) là con gái của
Sophia, Minh Triết Thiêng Liêng (Divine Wisdom) - mà những tín
đồ Thiên Chúa giáo nguyên thuỷ gọi là Đức
Chúa Thánh Thần có nữ tính (the female Holy Ghost) - Nguyên linh
khí (Akasha); Sophia Achamoth được nhân cách hoá là một thứ
Tinh tú quang bậc thấp (Lower Astral Light) có sự liên quan
với Tiên Thiên Khí (Akasha) và Linh
Hồn Thế Gian (Anima Mundi), cũng giống như con
Ác Quỷ (Satan) có liên quan với Thượng Đế
(Deity). Cả hai là một và cũng là một sự vật
giống nhau được nh́n
thấy dưới hai trạng thái, trạng thái tinh
thần và trạng thái tâm linh - trạng thái siêu dĩ thái
(super-ethereal) hay là sợi dây nối liền giữa vật
chất và tinh thần thuần tuư – và trạng thái vật
chất ([490]).
Tiếng Ilda-Baoth là một danh từ kép gồm có tiếng Ilda (Yalda)…([491])
là đứa trẻ [gái] và tiếng Baoth [Bahoth]; tiếng sau này gốc là tiếng …([492])
là một cái trứng và tiếng … ([493])
là cái hỗn mang (chaos), trống không hay là tiêu điều;
hoặc cũng có nghĩa là đứa trẻ
được sinh ra trong cái Trứng của Hỗn Mang,
giống như Thượng Đế sáng tạo
lưỡng tính (Đức Brahma) – hay là Thượng
Đế nam nữ tính (Jehovah), chỉ là một trong
những Đấng Sáng Tạo (Elohim), Bảy vị
thần sáng tạo và là một trong các vị thần sáng
tạo thấp hơn (Sephiroth). Ilda-Bahoth [Yalda-Bahoth] tự
Ngài sinh ra Bảy Đấng Thượng Đế khác
nữa (Goda): “Những Vị Tinh Quân” (“Stellar Spirits”) hay là
những vị Tổ Tiên ở trên Nguyệt Cầu (Lunar
Ancestor) ([494])
v́ tất cả những vị này đều giống nhau
([495]).
Các Ngài đều theo h́nh bóng
riêng biệt của Ngài những “vị thần linh có
nhiều mặt” mà Đấng này phản ảnh
Đấng kia, các Ngài trở nên tối tăm hơn và
vật chất hơn khi dần dần tránh xa nguồn
cội của các Ngài. Các Ngài cũng ở trong bảy vùng
được sắp đặt giống như một
cái thang, v́ các nấc thang của nó đi lên và đi
xuống trên thang của tinh thần và vật chất ([496]).
Theo những người ngoại đạo và những
người Thiên Chúa giáo, theo những người Ấn
Độ giáo và Chaldean, theo những người Hy Lạp
cũng như những tín đồ Cơ Đốc giáo La
Mă – kinh điển của họ giải thích theo nhiều
cách hơi khác nhau - tất cả những vị này
đều là những vị Thần của bảy hành tinh
và của bảy bầu hành tinh của dăy gồm
248
bảy hành tinh của chúng ta, mà trái đất
là bầu hành tinh thấp nhất, điều này liên
kết “những vị Tinh Quân” (“Stella”) và những vị
“Nguyệt Tinh Quân” (“Lunars”) với những Thiên Thần hành
tinh cao hơn và bảy Đấng Thánh Triết (Rishis)
của người Ấn Độ (họ gọi là
Saptarishis) - những vị thiên thần trợ tá, hay là
những vị sứ giả của các vị Thánh
Triết này, mà trên nấc thang đi xuống, họ là phân
thân của những vị Thánh Triết. Theo quan niệm
của những người theo phái Ngộ Đạo
(Gnostics), ngày nay, các vị này được các tín
đồ Thiên Chúa giáo tôn sùng như là Đức Chúa
Trời (God) và các vị Thiên Thần! Như vậy, câu
chuyện về “những vị Thiên Thần sa đoạ”
(“Fallen Angels”) là huyền thoại về cuộc “Chiến
Tranh ở trên Trời” (“War in Heaven”) có nguồn gốc hoàn
toàn của người ngoại đạo, và nó xuất
phát từ Ấn Độ xuyên qua Ba Tư và Chaldea. Về
những câu chuyện này th́ trong các kinh điển của
người Ky Tô giáo, chỉ có Thiên
Khải xii là đề cập tới (chúng tôi đă
trích dẫn cách đây vài trang).
Như vậy, một lần nữa “CON ÁC
QUỶ” (“SATAN”) trở nên h́nh ảnh vĩ đại
của kẻ tạo ra một Con Người thiêng liêng (một khi
người ta không c̣n xét Satan theo một tinh thần phi
triết lư, mê tín và độc đoán của các giáo hội
nữa); trong suốt giai đoạn dài đăng
đẳng của Đại thiên kiếp (Mahakalpa),
người thiêng liêng ấy đă ban cho y định
luật về Tinh Thần của Sự Sống và cũng
giải thoát cho y khỏi tội Vô Minh đó, thoát khỏi
Cái Chết.
6. NHỮNG BÁNH XE
CŨ TRƯỚC XOAY XUỐNG VÀ XOAY LÊN (a)… CÁI TRỨNG
CỦA MẸ (MOTHER’S SPAWN) TRÀN ĐẦY KHẮP NƠI ([497]).
CÓ NHỮNG TRẬN CHIẾN GIỮA ĐẤNG SÁNG TẠO
VÀ ĐẤNG HUỶ DIỆT, VÀ CÓ NHỮNG TRẬN
CHIẾN ĐỂ GIÀNH KHÔNG GIAN; CÁI MẦM XUẤT HIỆN
VÀ TÁI XUẤT HIỆN KHÔNG NGỪNG (b) ([498]).
a) Ở đây, bây giờ, sau khi những
vấn đề phụ của chúng ta chấm dứt
nơi đây – tuy nhiên, những câu hỏi này cũng
cần để làm sáng tỏ toàn thể vấn
đề, dù chúng ta đă cắt đứt câu chuyện
đang kể - để hiểu rơ toàn diện cơ
cấu vũ trụ, độc giả hăy trở lại
một lần nữa với Vũ trụ khai tịch luận.
Câu “Bánh Xe Cũ” (“Older Wheels”) là nói về những Bầu
Thế Giới của Dăy Hành Tinh hiện tại trong
những cuộc Tuần Hoàn trước đây.
Người ta thấy ĐOẠN KINH này khi
được giải thích theo ư nghĩa huyền môn, hoàn
toàn nằm gọn trong những Kinh điển huyền môn
Kabala. Trong những kinh Kabala này, người ta thấy
diễn tả lịch tŕnh tiến hoá của vô số
Bầu Thế Giới sau một chu kỳ huỷ diệt,
được tái tạo lại từ những chất
liệu cũ để tạo thành những h́nh thể
mới. Những Bầu Thế Giới cũ trước
đây tan ră và tái xuất hiện dưới h́nh thức
biến đổi và kiện toàn để thích ứng với
một chu kỳ sinh hoạt mới. Trong Kinh Bí Pháp Kabala, người ta so sánh
những bầu thế giới này với những
đốm lửa vọt ra từ dưới lưỡi
búa của Đấng Hoá Công vĩ đại - ĐẠI
LUẬT, chính là Đại Luật (Law) thống trị
những Tay Thợ Tạo nhỏ hơn (the smaller Creators).
Đồ h́nh III chỉ
sự tương hợp giữa hai triết hệ
huyền môn, triết hệ Kabala và triết hệ Đông
phương. Ba giai tầng trên là ba cơi tâm thức thượng
đẳng chỉ được tiết lộ và
giải thích trong hai đạo phái trên cho những vị
đă được Điểm Đạo, c̣n các giai
tầng dưới là bốn cơi thấp hơn, cơi thấp
nhất là hồng trần, hay Vũ Trụ sắc tướng
hữu h́nh.
249
Bảy cơi liên quan tới bảy trạng
thái tâm thức con người. Con người c̣n
phải hoà hợp ba trạng thái tâm thức siêu
đẳng của ḿnh với ba cơi giới thượng
tầng trong Vũ Trụ. Nhưng trước khi y có
thể hoà hợp, y phải làm thức động ba
thể thượng cho sống dậy và hoạt
động. Có bao nhiêu người có thể dẫn ḿnh đến
một sự hiểu biết nông cạn về kiến
thức Tinh Thần (Atma Vidya), hay là cái mà các đạo
sĩ thần bí học Hồi giáo (Sufis) gọi là các môn bí
pháp chân truyền (Rohanee)?([499])
([500])
([501])
250
b) “Cái mầm xuất hiện và biến
mất một cách liên tục”. Cái Mầm ở đây có
nghĩa là “Mầm của Thế Giới” (“World-Germ”) mà khoa
học xem như những phân tử vật chất trong
một trạng thái rất loăng, nhưng Lư học Huyền
môn coi như “phân tử tâm linh” tức là vật chất
siêu thức, tồn tại trong một trạng thái phân hoá
sơ khởi. ([502]).
Trong khoa thần phổ (Theogony), mỗi
Mầm (Seed) là một cơ thể bằng dĩ thái
(ethereal organism), trải qua nhiều thời gian, để
tiến hoá thành Thiên Thần, một Thượng
Đế.
Lúc “Khởi thuỷ” (“Beginning”), cái gọi là
“Ư muốn của Vũ Trụ” (“Cosmic Desire”), nói theo ngôn
ngữ huyền học, tiến hoá thành ánh sáng tuyệt
đối. Ánh sáng mà không phát ra cái bóng nào, tức là ánh sáng
tuyệt đối, hay nói cách khác, là bóng tối tuyệt
đối điều mà khoa vật lư đang t́m cách
chứng minh. Bóng tối đó xuất hiện dưới
h́nh thức vật chất nguyên thuỷ, được
quan niệm một cách ẩn dụ dưới h́nh
thức tinh thần của lửa Sáng Tạo hay Nhiệt
Lực sáng tạo. Hăy dứt bỏ cách nói ẩn dụ,
bóng bẩy hay ngôn từ thi vị, nếu khoa học
muốn nói đó là lửa nguyên thuỷ, th́ cũng vẫn
được. Dù muốn gọi theo cách này hay cách khác,
hoặc gọi đó là điện lực hay năng
lực, nói theo khoa học th́ nó vẫn là một vật
không tên, và khó định nghĩa cũng như Fohat,
một cái ǵ đó “làm cho Vũ Trụ vận hành theo ṿng
tṛn”, nói theo Platon. Giáo lư huyền môn diễn tả như
sau :
Mặt trời
trung ương làm cho Fohat quến bụi nguyên thuỷ
lại thành h́nh những bầu tṛn, làm cho chúng vận
chuyển theo những đường hướng qui tâm,
rồi sau cùng xích lại gần nhau và phối hợp
với nhau… Phân tán trong Không Gian không theo trật tự hay
hệ thống, những Mầm Thế Giới (World-Germs)
thường va chạm nhau và sau cùng phối hợp với
nhau, sau đó chúng trở nên những Vĩ Tinh (Sao
chổi). Kế đó, những trận chiến và xung
đột bắt đầu. Những thiên thể già thu
hút những thiên thể trẻ hơn, trong khi những thiên
thể khác lại xô đẩy chúng. Nhiều thiên thể
bị loại, bị nuốt sống bởi những
bầu mạnh hơn. Những thiên thể thoát
được trở nên những bầu thế giới ([503]).
Ngay trong giai đoạn mới đây
của chúng ta, khi mà điều này được phân tích
và suy gẫm một cách cẩn thận th́ chúng ta sẽ
thấy sự kiện này thuộc về khoa học có
thể thực hiện được.
251
Chúng ta cũng được bảo
đảm rằng, có rất nhiều tác phẩm khảo
cứu hiện đại có tính cách tưởng
tượng, đă nói về những cuộc tranh
đấu giành sự sống trên cơi của các tinh tú,
nhất là những tác phẩm bằng tiếng Đức.
Chúng ta hân hạnh được nghe nói tới điều
này, v́ giáo lư của chúng ta là giáo lư huyền môn đă bị
ch́m trong bóng tối của thời Thượng cổ.
Chúng tôi đă có tŕnh bày điều này một cách
đầy đủ trong bộ Nữ
Thần Isis Lộ Diện ([504])
và ư niệm về sự tiến hoá giống như
kiểu Darwin về sự tranh đấu để
sống c̣n và có uy quyền tối thượng, và về
sự “tồn tại của cái thích nghi nhất”, trong
số những nhóm Thiên Thần (Host) ở trên, cũng
như những nhóm Thiên Thần dưới, chúng rải rác
khắp trong hai quyển sách của tác phẩm trước
kia của chúng tôi, nó đă được viết ra vào
năm 1876. Nhưng quan niệm này không phải là của
chúng tôi v́ nó đă có từ thời Thượng cổ. Ngay
cả tác phẩm của kinh
Puranas cũng đă phối hợp một cách khéo léo
chuyện ngụ ư với những sự kiện vũ
trụ và những biến cố của con người.
Bất cứ nhà biểu tượng học nào cũng
đều có thể phân biệt được những
ẩn ư vũ trụ tinh tú của chúng cho dù y không thể
nào hiểu được trọn vẹn ư nghĩa này.
Những trận “đại chiến ở trên Trời”
như trong kinh Puranas đă
nói; những cuộc chiến tranh của những
người Khổng Lồ (Titans) trong tác phẩm của
Hesiod và của nhiều tác giả cổ điển khác;
cũng như những “cuộc chiến đấu”
giữa những thần Osiris và thần Typhon trong thần
thoại Ai Cập; cũng như những cuộc chiến
tranh trong những huyền thoại của vùng bán
đảo Bắc Âu, tất cả đều nhắm
một đề tài giống nhau. Thần thoại Bắc
Âu coi cuộc chiến tranh này như là trận kịch
chiến của những Ngọn Lửa là những
đứa con của Hoả Thần Muspel đă giao tranh
trên chiến trường Wigred. Tất cả các
điều này có liên quan đến các cơi Trời và
Đất và có hai ư nghĩa, và được áp dụng
về mặt bí truyền cho những sự vật ở
trên trời cũng như sự vật ở cơi trần.
Những cuộc chiến tranh này thường liên hệ
đến thiên văn học, thần phổ học và
những cuộc chiến tranh của nhân loại, chúng
cũng liên quan đến sự điều chỉnh các
thiên thể, và quyền bá chủ trong số tất cả
các nước, và các bộ lạc. “Tranh đấu
để sống c̣n” và “thích nghi để tồn tại”
đă ngự trị trên hết từ khi bầu Vũ
Trụ này được sáng tạo ra, chúng không thể nào
thoát khỏi con mắt quan sát của các nhà hiền
triết thời cổ. Từ đó, có những cuộc
chiến tranh không ngừng giữa hai vị thần trông
coi cơi trời (là thần Indra) với những vị
Thần Quỷ (Asuras) - những vị thần này bị
giảm giá trị từ những vị thần cao cả
xuống thành loài ma quỷ trong vũ trụ - cả
đến con quỷ che mưa gây hạn hán (Vitra hay Ahi, là
con Rắn), những trận giao chiến giữa các ngôi sao
và các cḥm tinh tú, giữa những mặt trăng và các hành
tinh – sau này chúng hoá thân thành vua chúa và những người
thường. Từ đó, cũng xảy ra trận
chiến tranh ở trên trời giữa Thánh Michael và nhóm
thiên thần của Ngài chống lại con Rồng (Dragon) -
giữa Mộc Tinh và Kim Tinh (Jupiter and Lucifer Venus) – khi đó
một phần ba ngôi sao của nhóm dấy loạn bị
ném vào Không Gian và “không c̣n chỗ nào cho chúng ở lại trên
cơi trời’. Như chúng tôi đă viết từ lâu rồi :
Đó là viên
đá đặt nền tảng cho những chu kỳ bí
mật. Nó chỉ cho thấy rằng, những người
Bà La Môn và những người Do Thái được
điểm đạo (Tanaim)… đă suy lư về sự
tạo lập và sự phát triển của bầu thế
giới này, hoàn toàn theo đường lối như Darwin,
cả hai nhóm người này đă biết trước
Darwin và môn phái của ông về sự chọn lọc
tự nhiên, sự phát triển và sự đổi thay
dần dần của các loài ([505]).
Có những bầu thế giới cũ
đă bị tan ră và bị bầu thế giới mới
chinh phục v..v… Người ta quả quyết rằng,
tất cả những bầu thế giới này (ngôi sao,
hành tinh v..v.) – ngay khi một cái nhân của vật chất
nguyên thuỷ, trong trạng thái trung hoà (phi nhân hoá: undifferentiated)
được những nguyên khí đă thoát ly của
một thiên thể vừa mới
chết, làm linh hoạt - trước nhất, chúng trở thành những sao chổi,
rồi đến những mặt trời, kế đó
nguội đi để thành những bầu thế
giới (worlds) có thể ở được, đó là
một giáo lư xưa như các vị Thánh Triết (Rishis).
252
Như vậy, chúng ta đă thấy những
quyển kinh bí mật (Secret Books) dạy rơ ràng về
một khoa thiên văn học mà không có một suy lư hiện
đại nào có thể phủ nhận, nếu sự suy lư
này hiểu một cách tường tận được
những giáo lư của các kinh sách bí mật.
V́ khoa thiên văn học cổ truyền và
những môn khoa học về vật lư và toán học
thời xưa đă diễn đạt những quan
điểm giống các môn học của nền khoa
học hiện đại, có nhiều quan niệm có
tầm quan trọng hơn nhiều. Câu “tranh đấu
để sống” và câu “phải thích nghi để
sống c̣n” trong những bầu thế giới ở bên
trên và trên hành tinh chúng ta dưới đây, đă
được người ta dạy một cách rơ ràng. Tuy
nhiên, dù giáo lư này không bị khoa học “hoàn toàn phủ
nhận”, chắc chắn nó cũng bị bác bỏ với
vai tṛ là một tổng thể toàn vẹn. V́ người
ta cũng xác nhận rằng, chỉ có bảy Đấng
Cao Cả đầu tiên, đó là Đấng Duy Nhất Tam
Nguyên đồng nhất thể sinh ra. Nói cách khác,
điều này có nghĩa là tất cả những bầu
thế giới, hay những thiên thể - luôn luôn căn
cứ theo một sự tương đồng khăng
khít - đều có tính chất cái này tạo ra cái kia, sau khi
sự biểu lộ đầu tiên được hoàn
tất vào lúc khởi đầu “Đại Kiếp” (“Great
Age”).
Sự phát sinh những thiên thể trong không
gian được so sánh với rừng “người hành
hương” tại ngày lễ “Lửa”. Bảy vị tu sĩ
khổ hạnh xuất hiện nơi cửa đền,
tay cầm bảy cây nhang đốt cháy. Với ngọn
lửa trên bảy cây nhang này, hàng đầu những
người hành hương đốt nhang của họ.
Sau đó, mỗi tu sĩ bắt đầu hươi cây
nhang quanh đầu của họ và cho những
người khác mồi lửa. Những thiên thể
cũng làm như thế. Một trung tâm Laya được
thắp sáng và khởi động bởi những ngọn
lửa của một bầu di động sau đó, trung
tâm mới xẹt mau trong không gian và trở nên một sao
chổi. Chỉ sau khi đă mất trớn, và bởi
đó mất luôn cái đuôi, con “Rồng Lửa” mới trụ
lại trong một đời sống định tĩnh
và yên lặng như một công dân khả kính và mực
thước của gia đ́nh thiên thể. Bởi vậy,
mới có nói :
Sinh ra trong
những vực thẳm khôn ḍ của Không Gian, từ cái
Nguyên lư thuần nhất gọi là Đại Hồn
của Vũ Trụ, mỗi hạch tâm vật chất
nguyên thuỷ đột nhiên được phóng vào
cuộc thể sinh tồn, bắt đầu cuộc
sống của nó trong những hoàn cảnh khắc
nghiệt nhất. Trải qua một loạt vô
lượng thế hệ, nó phải chinh phục lấy
cho ḿnh một đơn vị trong cơi vô cùng. Nó luân
chuyển theo ṿng tṛn, giữa những thiên thể đông
đặc hơn và đă cố định, di động
theo cách nhảy vọt và hướng về một
điểm hay một trung tâm nhất định có dẫn
lực thu hút lấy nó và như một chiếc tàu trôi
dạt vào một vùng đầy những thác ghềnh và
đá ngầm lởm chởm, nó cố tránh những thiên
thể khác lần lượt, khi th́ thu hút, khi th́ xô
đẩy nó. Nhiều đơn vị bị loại,
tầng khối bị tan ră và do sự va chạm với
những khối khác mạnh hơn khi chúng sinh ra trong
tầm mức của một hệ thống tinh tú, th́ chúng
bị huỷ diệt mau chóng bởi sức nóng thiêu đốt
của các định tinh và Mặt Trời khác nhau.
Những đơn vị nào di động chậm hơn
và bị đẩy vào một quỹ đạo h́nh
bầu dục th́ sớm muộn ǵ cũng bị huỷ
diệt. Những Đơn vị khác di chuyển theo h́nh
cầu vồng (parabolic curves), thường là khỏi
bị huỷ diệt nhờ tốc độ mau lẹ
của chúng. (Xem lời b́nh luận 10 ĐOẠN THÁNH
KINH 4).
Có lẽ một số độc giả
sẽ nghĩ rằng, giáo lư nói về giai đoạn h́nh
thành sao chổi, mà tất cả thiên thể đều
phải trải qua, là trái ngược với những giáo
điều trước đây nói về Mặt Trăng là
mẹ Trái Đất. Có lẽ họ sẽ nghĩ
rằng cần phải dùng đến trực giác
để dung hoà hai giáo lư ấy, nhưng thực ra,
điều này không cần đến trực giác. Khoa học
biết ǵ về các sao chổi, phương thức
cấu tạo, sự trưởng thành và động tác
rốt ráo của chúng? Và có ǵ là không thể được
đến nỗi một trung tâm Laya (một khối nguyên
h́nh chất sơ khởi thuần nhất và tiềm
ẩn, đột nhiên bị khích động hay bùng cháy
lên) phải phóng xuất ra từ nơi yên nghỉ của
nó trong không gian và xoay tít trong những vực sâu thẳm
để tăng cường cơ phận thuần nhất
của nó bằng cách thu thập và qui tụ thêm những
phân hoá? Và tại sao một sao chổi như thế không
định tụ lại trong cuộc sinh hoá, sống và
trở nên một bầu thế giới có thể ở
được?
Giáo lư huyền môn dạy: Fohat có nhiều nơi trú ngụ. Nó đặt
Bốn Con Trốt Lửa (Four Fiery Sons) [điện
dương] của nó trong “Bốn Ṿng Tṛn”, những ṿng
tṛn này là xích đạo, hoàng đạo (the ecliptic) và hai
đường Thiên độ song song (parallels of declination)
và hai chí tuyến (tropic). Bốn thực thể thần bí được
đặt ra (Four Mystical Entities) để cai quản và
chăm nom khí hậu của những vùng đó. “Bảy Người Con khác
được uỷ thác nhiệm vụ cai quản
bảy cơi nóng và bảy cơi
lạnh ở hai đầu của Quả Trứng Vật
Chất (Quả Đất hai cực)”. Bảy Cơi có
chỗ cũng gọi là “Ṿng tṛn khoen” (“Ring” and the “Circles”).
Người xưa đă tạo ra bảy ṿng cực như người Âu Châu đă
làm, v́ người ta nói rằng ngọn núi Meru vốn
dĩ là cực Bắc, có bảy bước bằng vàng và
bảy bước bằng bạc để dẫn
tới nó.
Trong đoạn kinh có câu: “Những Tiếng ca của Fohat và các Con của nó SÁNG
RỠ (RADIANT) như Mặt Trời giữa trưa và
Mặt Trăng hợp lại”, và Bốn Con trên Ṿng Tṛn
Tứ nguyên trung ương “THẤY
những Tiếng Ca của Cha
họ, và NGHE sự chói rạng như mặt trời
của y”. Câu kinh lạ lùng này được Thiên b́nh
luận giải thích như sau: “Sự
chuyển động của điện lực Fohat ở hai đầu lạnh
[Bắc cực và Nam cực] của Trái Đất nên
gọi một sự chói rạng muôn màu lúc ban đêm, có hàm
súc nhiều đặc tính của Akasha [Ether] màu sắc và
âm thanh”.
Âm thanh là đặc tính
của Akasha, nó tạo nên không khí mà tính chất là Xúc giác, do
sự cọ xát, không khí tạo nên Màu Sắc và Ánh Sáng” ([506]).
254
Có lẽ câu trên đây sẽ bị xem như
một điều cổ lỗ vô lư, nhưng nó sẽ
dễ hiểu hơn nếu độc giả nhớ
rằng những hiện tượng Bắc cực quang
(Aurora Borealis) và Nam cực quang (Aurora Australis) đều
xảy ra ở đúng những trung tâm điện lực
và từ khí của Địa Cầu. Lưỡng cực
của Trái Đất được coi như những kho
chứa, chỗ tiếp nhận và giải toả của
điện cực địa cầu. Nếu không nhờ
hai xú báp (valves) an toàn tự nhiên đó, th́ số thặng
dư của điện lực vũ trụ trên có lẽ
đă làm cho địa cầu tan vỡ và nổ tung từ
lâu, đồng thời một giả thuyết gần
đây đă trở nên một định lư rơ rệt và
hiện tượng những cực quang thường gây
nên và đi kèm với những tiếng động
mạnh, như tiếng huưt gió, tiếng hú và tiếng
nổ (Xem những tác phẩm của Giáo sư Humboldt, nói
về Bắc cực quang và thư tín của ông dành cho
vấn đề c̣n đang trong ṿng tranh căi này).
7. HỠI ĐỆ
TỬ, HĂY TÍNH TOÁN ĐI NẾU NGƯƠI BIẾT ĐÚNG
TUỔI CỦA BÁNH XE NHỎ CỦA NGƯƠI ([507]).
CÁI CĂM THỨ TƯ (FOURTH SPOKE) CỦA BÁNH XE LÀ MẸ
CHÚNG TA ([508])
(a). HĂY TIẾN TỚI “TRÁI” (“FRUIT”) THỨ TƯ CỦA CON
ĐƯỜNG HIỂU BIẾT THỨ TƯ DẪN
ĐẾN NIẾT BÀN, VÀ NGƯƠI SẼ HIỂU V̀
NGƯƠI SẼ THẤY (b)…
(a) “Bánh Xe Nhỏ” là Dăy Hành Tinh của chúng ta
và “Cái Căm Thứ Tư” là quả Địa Cầu,
tức là Bầu thứ tư của dăy. Đó là một trong
những bầu “hơi thở nóng (dương) của
Mặt Trời” có một ảnh hưởng trực
tiếp.
Bảy sự biến thể căn bản
của những Bầu hành tinh là những bầu thiên
thể này, hoặc đúng hơn là của những
phần tử vật chất cấu tạo nên chúng
được diễn tả như sau: (1) đồng tính (homogeneous); (2) có dạng không khí và
phóng xạ (aeriform and radiant) - thuộc về
thể hơi (gaseous); (3) có h́nh
dáng cục sữa đông đặc (curd-like) - giống
như mây (nebulous); (4) thuộc
về nguyên tử (atomic), thuộc về dĩ thái (ethereal)
- bắt đầu chuyển động, do đó
mới có sự phân hoá; (5) có
mầm mống (germinal), nóng cháy (fiery) - bị phân hoá,
nhưng trong những trạng thái đầu tiên chúng
chỉ gồm những mầm của các Nguyên Tố, khi
chúng phát triển một cách đầy đủ ở trên
địa cầu chúng ta, th́ chúng sẽ có bảy trạng
thái; (6) có bốn phần
(four-fold); giống như hơi (vapoury) – Trái Đất
tương lai; (7) lạnh và
lệ thuộc (cold and depending) – vào mặt trời
để có sự sống và ánh sáng.
Tuy nhiên, muốn đoán biết tuổi
của nó, như trong ĐOẠN KINH vừa bảo
người đệ tử, th́ rất khó v́ chúng tôi không
được cho biết những con số của
đại chu kỳ và không được phép công bố
con số của những tiểu thế (Small Yugas) trừ
việc phỏng đoán thời gian mà thôi. “Những Bánh Xe cũ hơn xoay ṿng trong một
Ngươn (Eternity) rưỡi trong thời gian vô tận”.
Chúng ta biết rằng một ngươn là một
phần bảy của 311.040.000.000.000 năm, hay là một
thế hệ của Brahma. Nhưng thế nghĩa là ǵ?
Chúng ta cũng biết rằng nếu căn cứ vào
những con số trên đây, trước hết, chúng ta
phải loại bỏ trong số 100 năm của Brahma
(tức 311.040.000.000.000 năm của trần gian) hai năm của Brahma là thời
gian của những lúc “xế chiều” (“twilight”), c̣n
lại 98 tức là con số phối hợp thần bí 14 x
7. Nhưng chúng tôi không được biết chính xác
thời kỳ bắt đầu việc h́nh thành và
tiến hoá của Địa Cầu. Bởi vậy không
thể nào tính ra tuổi của Trái Đất nếu
người ta không biết được thời kỳ
khai sinh của nó, mà điều này từ trước
đến nay các Sư Phụ vẫn từ chối không
chịu tiết lộ. Hơn nữa, chúng ta nên nhớ
rằng luật tương đồng vẫn đúng cho
các bầu thế giới cũng như cho con người.
Nên nhớ giáo lư dạy rằng “MỘT [Thượng Đế] sinh
255
Hai (Thiên Thần:
Deva or Angel) và Hai sinh Ba [Con Người]” v..v.. cũng y
như thế, những khí cô đọng (chất liệu
của vũ trụ) trở nên những Sao Chổi,
những sao chổi này trở thành tinh tú, tinh tú sẽ
trở thành mặt trời và
những hành tinh. Điều này không thể phi khoa học như vậy,
v́ Descartes cũng nghĩ rằng: những hành tinh này xoay
tṛn trên trục v́ chúng đă có dạo là những ngôi sao sáng
chói, những trung tâm xoáy tṛn”.
(b) Các kinh sách ngoại giáo cho biết có
bốn cấp Điểm Đạo gọi là Tu Đà Hoàn
(Srotapanna), Tư Đà Hàm (Sakridagamin), A Na Hàm (Anagamin) và La Hán
(Ahart), là Bốn đẳng cấp trên Đường
Đạo đưa đến Niết Bàn trong cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư hiện tại. Vị La Hán, tuy có
thể thấu triệt dĩ văng, hiện tại và
tương lai, vẫn chưa phải là đạt tới
quả vị Điểm Đạo cao nhất. Mỗi
vị Siêu Nhân đă đạt tới tŕnh độ điểm
đạo gọi là đạo đồ (Initiate), sẽ
trở nên đệ tử của một Đấng có
quả vị cao hơn nữa. Vị La Hán c̣n phải
vượt lên ba cấp đẳng cao hơn nữa
mới đạt tới quả vị tột đỉnh
đưa đến quả vị Bồ Tát. Có vị
đă đạt tới quả vị đó trong Giống
dân thứ Năm của nhân loại hiện nay, nhưng
những khả năng cần thiết để
đạt tới những cấp đẳng cao siêu đó
chỉ được phát triển hoàn toàn trong một
vị tu sĩ trung b́nh vào giai đoạn cuối của
Giống dân thứ Năm và trong thời kỳ của
những giai đoạn Sáu và Bảy. Như vậy trên
thế gian luôn luôn sẽ có những bậc Cao đồ và
những kẻ Phàm phu cho tới tiểu chu kỳ hiện
tại, những vị La Hán của “Mù sương Lửa”
(“Fire-Mist”) của Giai tầng thứ Bảy (the Seven Rung)
chỉ cách có một Bậc so với căn gốc của
Đẳng cấp các Ngài, là quả vị cao nhất trên
Địa Cầu và trên Dăy hành tinh hiện tại của
chúng ta. Cái căn gốc ấy có một tôn chỉ có
thể dịch ra tiếng Anh bằng nguyên một câu
đại khái là “Cây Đa Người hằng sống”
(“Ever-Living-Human-Banyan”). “Đấng Cao Cả huy hoàng” này
(“Wondrous Being”), theo truyền thuyết, giáng trần từ
“cơi cao” (“high region”), trong buổi đầu của Thế
hệ thứ Ba (Third Age), trước thời kỳ phân
chia nam nữ của Giống dân thứ Ba.
Giống dân thứ Ba này đôi khi
được gọi bằng một danh hiệu chung là
“Các Con của Yoga tiêu cực” (“Sons of Passive Yoga”), nghĩa là
được tạo ra một cách vô thức bởi
Giống dân thứ Hai. Giống dân thứ Hai này v́ trí khôn
chưa mở nên được coi như luôn luôn
đắm ch́m trong cơn đại định vắng
lặng hư không, như trạng thái xuất thần
của môn pháp Yoga. Trong thời kỳ sinh hoạt
đầu tiên của Giống dân thứ Ba, trong khi họ
vẫn c̣n ở trong trạng thái hồn nhiên thuần
khiết, các “Con của Minh Triết” đă chuyển
kiếp vào Giống dân thứ Ba này, dù Quyền năng ư chí
(Kriya-shakti) tạo nên một hậu duệ gọi là
những “Con của Sương Lửa” (“ ‘Sons of Ad’ or of the
‘Fire-Mist’ “), “Con của ư chí và Yoga” (“Sons of Will and Yoga”) v.v..
Các Đấng ấy xuất hiện do sự tạo tác có
ư thức, v́ một nhóm trong đẳng cấp các Ngài
đă được thức động với một
điểm Linh Quang thiêng liêng của thượng trí,
tức là trí tuệ siêu linh. Hậu duệ này không phải
là một chủng tộc. Trước hết, đó là
một Đấng Cao Cả, mệnh danh là “Đấng cầm
quyền Điểm Đạo” (“Initiator”) và sau Ngài là
một nhóm những Đấng siêu phàm, nửa Tiên nửa
Phàm. Giáo lư huyền môn nói rằng các Ngài là những hoá thân
của các vị Thiền Định Đế Quân,
những Đấng Chơn Sư và Thánh triết cao cả
của những chu kỳ tiến hoá trước đây do
thiên cơ chỉ định với một sứ mạng
đặc biệt để tạo dựng cơ sở
cho những vị Tiên Thánh
tương lai xuất phát từ những hàng ngũ nhân
loại. Những Đấng “Con của Ư Chí” và “con
của Yoga” nói trên sinh ra bằng cách vô nhiễm sẽ hoàn
toàn biệt lập hẳn với hàng ngũ nhân loại.
256
Đấng Cao Cả nói trên, vốn không
danh hiệu và phải không tên tuổi, là cái gốc mà
những thế hệ về sau đă phát sinh ra tất
cả các bậc Hiền Triết và Đại giáo chủ
của lịch sử nhân loại, như các Đấng
Kapila, Hermes, Enoch, Orpheus v.v… Trong cương vị khách
thể của một người,
Ngài là nhân vật huyền bí, vô h́nh, nhưng luôn luôn
hiện diện trong Nhân Loại, những huyền
thoại nói về Ngài có đầy dẫy ở Đông
phương, nhất là trong các giới huyền môn, chính
Ngài là Đấng luôn luôn thay đổi h́nh dáng, nhưng bao
giờ cũng vẫn y như thế. Chính Ngài là
Đấng Chủ Tể cai quản đời sống tâm
linh của những bậc Thánh nhân được
điểm đạo khắp thế gian. Như đă nói,
Ngài là “Đấng vô danh” (“Name-less One”) mà người
đời đặt cho rất nhiều tên gọi,
nhưng tuy vậy, những tên gọi và tính chất
của Ngài hoàn toàn bí ẩn không ai được biết
Ngài là “Đấng Điểm Đạo Độc Tôn”
(“Initiator”), cũng gọi là “ĐẤNG ĐẠI HY SINH”
(“GREAT SACRIFICE”). Đó là v́ ngồi trên Ngưỡng cửa
ÁNH SÁNG (Threshold of LIGHT), Ngài nh́n rơ từ bên trong ṿng của
Bóng Tối, mà Ngài sẽ không vượt qua, cũng như
không rời khỏi nhiệm sở cho đến ngày
cuối cùng của chu kỳ sinh hoạt hiện tại.
Tại sao Đấng Giám Sát Biệt Lập (Solitary Watcher)
lại ở tại nhiệm sở do Ngài tự chọn?
Tại sao Ngài ngồi bên Ngọn suối Minh Triết Nguyên
Thuỷ (Primeval Wisdom) mà Ngài không c̣n uống được
trong ḍng suối ấy nữa, v́ Ngài không c̣n ǵ phải
học hỏi và không có ǵ mà Ngài không biết, dù trên
Địa Cầu này hay trên Trời. Bỏi v́ những
kẻ Hành Hương cô đơn, mệt mỏi, trên
đường trở về nguyên
quán, không bao giờ có thể biết chắc cho đến
lúc cuối cùng là họ sẽ không bị lạc lối
trong cơi sa mạc vô biên của Ảo giác và Vật chất
mà người ta gọi là Cuộc đời Trần gian.
Bởi v́ Ngài sẽ chỉ đường dẫn lối
đưa vào cơi giải thoát và ánh sáng, cơi mà Ngài tự tách
rời ra khỏi trong sự t́nh nguyện đoạ
đày cho những người nào đă thành công trong
việc tự giải thoát khỏi những kiềm
toả của xác thịt và ảo giác. Nói tóm lại,
bởi Ngài đă tự hy sinh v́ hạnh phúc của Nhân
loại, tuy rằng chỉ có một số ít những
kẻ được chọn mới hưởng ân
huệ của sự HY SINH VĨ ĐẠI này (GREAT
SACRIFIC).
Chính là sự d́u dắt trực tiếp và âm
thầm của ĐẤNG ĐẠI TÔN SƯ (MAHA-GURU) mà
tất cả những Giáo Chủ khác của nhân loại
ở quả vị thấp hơn, kể từ lúc
thức tỉnh đầu tiên của tâm thức con
người, đă trở nên những nhà hướng
dẫn nhân loại vào buổi sơ khai. Chính là nhờ
Đấng “Con của Thượng Đế” mà Nhân
Loại ấu trĩ tiếp nhận được
những ư niệm đầu tiên về tất cả
mọi ngành nghệ thuật và khoa học, cũng như
về kiến thức tâm linh. Chính các Ngài đă đặt
nền tảng đầu tiên cho những nền văn
minh cổ đă từng làm ngạc nhiên đến tột
độ các học giả hiện đại.
257
Người nào c̣n nghi ngờ phát biểu này
th́ dựa vào bất cứ lư lẽ nào khác, cứ thử
giải thích sự bí mật của kiến thức phi
thường mà người xưa đă có - bị gán cho là
đă tiến hoá từ những người c̣n dă man
thấp kém giống như loài thú, “những người c̣n
ăn lông ở lỗ” (“cave-men”) của thời cổ
thạch (palaeolithic age) ! Cứ thử để họ quay
sang thí dụ như những tác phẩm kiến trúc của
Vitruvius Pollio dưới thời đại Augustus, tất
cả những qui tắc về sự cân xứng trong những
tác phẩm này, hồi xưa
đă được đem ra dạy tại những
cuộc Điểm Đạo, nếu họ biết
được kỹ thuật
thực sự thiêng liêng và hiểu được ư
nghĩa bí truyền thâm sâu c̣n giấu kín trong mọi qui
tắc và định luật của sự cân xứng này. Không
một người nào được sinh ra từ một
con người c̣n ăn lông ở lỗ của thời
kỳ cổ thạch, đă từng có thể phát triển
được một nền khoa học như thế, mà
lại không cần có sự trợ giúp, ngay cả khi đă
có tư tưởng và sự tiến hoá trí tuệ trong hàng
ngàn năm. Chính các đệ tử của các Đấng
Thánh Triết (Rishis) và những vị thần (Devas) hoá thân
này của Giống dân chánh thứ Ba - từ những
thế hệ này đến thế hệ khác – đă trao
truyền kiến thức của họ cho những
người Ai Cập, Hy Lạp, với qui luật về
sự cân xứng bây giờ đă bị đánh mất,
chẳng khác nào đệ tử của các bậc
đắc đạo của Giống dân thứ Tư
(những người Atlante) đă trao truyền qui luật
này cho những người Khổng Lồ một mắt
(Cyclopes), “những đứa con của các chu kỳ” hay
những “đứa con của cơi vô cùng” mà từ đó,
danh hiệu này đă được lưu truyền cho
đến những thế hệ sau này của các tu sĩ
phái Ngộ Đạo.
Nhờ sự hoàn hảo thần diệu này
của những sự cân xứng và kiến trúc mà Cổ
nhân có thể dựng lên được những kỳ quan
dành cho tất cả các thời đại sau này, những
Đền thờ, những Kim Tự Tháp, những Thánh
điện thạch động, những Mộ đá
(Cromlechs), những Mộ đá kỷ niệm, những Bàn
thờ, chứng tỏ rằng họ có những “sức
mạnh máy móc” và một kiến thức về cơ
học mà sự tinh xảo hiện đại chỉ
giống như một tṛ chơi trẻ con, và sự tinh
xảo này được xem như là “công tŕnh của
những người khổng lồ có hàng trăm bàn tay” ([509]).
Những nhà kiến trúc tân tiến không
thể nào thờ ơ với những qui tắc này, mà
họ đă bổ túc nhiều hơn những sự
sửa đổi dựa vào những kinh nghiệm,
để thủ tiêu những sự cân xứng trung
thực này. Chính nhà kiến trúc Vitruvius đă đưa ra
cho hậu thế các qui tắc về kiến trúc
để dựng lên những thánh điện của
những người Hy Lạp thờ các vị thần
linh bất tử. Nói tóm lại, mười quyển sách
về kiến trúc của Marcus Vitruvius Pollio (một người đă
được Điểm Đạo) chỉ có thể
được nghiên cứu theo đường lối bí
truyền mà thôi. Những Ṿng đá cổ thời, những
Mộ đá, những Đền thờ của
người Ấn Độ, Ai Cập và Hy Lạp,
những cái Tháp và 127 thành phố ở Âu Châu mà Học
viện của Nước Pháp đă t́m thấy là có
“nguồn gốc” của người Khổng lồ
độc nhăn, đều là công tŕnh của các vị
Đạo sĩ kiến trúc đă được
điểm đạo (initiated Priest-Architects), con cháu
của các Đấng đă được “Các Con của
Thượng Đế” dạy trước tiên, mà
người ta gọi một cách đúng đắn là “Các
Đấng Kiến Tạo” (“Builders”). Sau đây là những
điều mà hậu thế thẩm định đă nói
về các hậu duệ này:
“Họ không dùng
hồ, cũng không dùng xi măng, không dùng thép mà cũng không
dùng sắt để đẽo đá; tuy thế, chúng
đă được biến chế khéo léo đến
nỗi có nhiều chỗ giáp mối của những
tảng đá mà người ta không thể nào thấy
được, mặc dù có nhiều tảng đá như
ở Peru dài đến 38 bộ Anh (độ 11,5m – LND),
rộng 18 bộ (5,4m) và dày 6 bộ (1,8m), và ở những
tấm vách thành Cuzco có những tảng đá mà kích
thước c̣n lớn hơn nhiều” ([510]).
Lại nữa:
Những cái
giếng ở Syene đă được tạo ra cách
đây 5.400 năm, khi đó, chỗ này ở ngay
dưới chí tuyến, bây giờ nó không c̣n ở đó
nữa, đă … được dựng lên sao cho lúc giữa
trưa vào đúng lúc mặt trời ở xa xích đạo
nhất th́ người ta thấy toàn thể đĩa tṛn
(disk) của mặt trời được phản
chiếu trên mặt giếng này – đó là một công tŕnh mà
sự tuyệt hảo kết hợp với tất cả
những nhà thiên văn học Châu Âu ngày nay cũng không
thể nào thực hiện được ([511]).
258
Dù những đề tài này đă rất ít khi
được ám chỉ trong bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện, song cũng
cần nhắc nhở cho độc giả nhớ rơ cái ǵ
đă được người ta nói ở đây ([512])
về một Thánh đảo nào đó ở vùng Trung Á và
đề nghị họ tham khảo thêm nhiều chi
tiết trong Tiết nói về “Những Đứa Con
của Đức Thượng Đế và cái Thánh
Đảo” (“The Sons of God and the Sacred Island”), gắn liền
với ĐOẠN THÁNH KINH 9 của Quyển 3. Tuy nhiên,
một số rất ít những lời giải thích
nữa, dù đă được đưa ra dưới
h́nh thức rời rạc, cũng có thể giúp cho sinh viên
huyền môn thoáng thấy được bí mật hiện
tại.
Ít nhất cũng phải có một chi
tiết để tŕnh bày rơ ràng cho độc giả
biết về “Những Đứa Con Bí Mật của
Thượng Đế”: chính những Đấng
Brahmaputras này sản sinh ra những đứa con tái sinh
(Dvijas) cao cả ngày xưa; đó chính là những
người Bà La Môn đắc đạo, trong khi những
người Bà La Môn hiện tại th́ lại muốn
những giai cấp thấp hơn tin theo sát từng
chữ rằng họ (những người Bà La Môn)
được sinh ra trực tiếp từ cửa
miệng của Đức Brahma. Đó là giáo lư nội môn
(Esoteric teaching); vả lại người ta cũng c̣n nói
thêm rằng dù những kẻ này (dĩ nhiên là nói về tinh
thần) được sinh ra từ “Những Đứa
Con của Ư Chí Yoga” (“Sons of Will and Yoga”) mà chẳng chóng th́
chầy sẽ phân ra làm hai giống đối nghịch
như chính tổ tiên họ; “quyền năng sáng tạo”
(“Kriyashakti”) sẽ được thực hiện sau này;
tuy nhiên cho đến ngày nay; những ḍng dơi thoái hoá của
họ vẫn c̣n xét nó dưới ánh sáng của một
thứ nghi lễ và tôn giáo; trong khi những nước
văn minh hơn lại xem điều này chỉ như là
một chức năng thú tính. Về những đề tài
này người ta có thể so sánh các quan điểm sự
thực hành của những người Tây phương
với những luật lệ của Đức Bàn Cổ
(Manu) phần nói về luật lệ dành cho một gia
trưởng (Grihstha) hay là đời sống hôn nhân (married
life). Thật vậy, những người Bà La Môn chính tông
là “kẻ có bảy đời tổ tiên đều
được uống nước mật của cây Soma
(cây Mặt Trăng: Moon-plant) và cũng chính người
“Trisuparna” v́ đă hiểu được sự bí mật
của kinh Vedas.
Đến nay, những người Bà La Môn
đó cũng biết rằng, trong những lúc đầu
tiên của giống dân này, khi mà cái trí của thể xác và
tâm linh c̣n ngủ say và tâm thức vẫn chưa phát triển;
những quan niệm về tinh thần nó vẫn hoàn toàn
không có liên hệ ǵ với những nơi lân cận
của thể xác; con người thiêng liêng ở trong h́nh
dáng của con thú dù bên ngoài có h́nh dáng con người,
nếu y có bản năng th́ y sẽ không có ngă thức
để soi sáng cho bóng tối của cái Nguyên khí thứ
Năm (Fifth Principle) bí ẩn. Khi các Đấng Cao Cả
Minh Triết do luật tiến hoá điều động,
trút vào họ cái điểm linh quang của Tâm thức,
cảm giác đầu tiên mà nó đă đánh thức
được sự sống và sự hoạt động
là một thứ cảm giác liên đới, hợp nhất
với các Đấng Sáng Tạo Thiêng Liêng của ḿnh. Cảm
giác đầu tiên của đứa trẻ đối
với người mẹ và người và người vú
của nó như thế nào, th́ những khát vọng
đầu tiên của tâm thức được thức
tỉnh trong con người nguyên thuỷ đối
với những người có yếu tố (for those whose
element) mà y cảm thấy ở trong chính y, thế nhưng
họ vẫn ở ngoài và độc lập với y
cũng giống hệt như vậy. Cảm giác này kích
thích ḷng tôn sùng và nó trở thành động cơ
đầu tiên và độc nhất trong bản chất, v́
đó là đức tính độc nhất tự nhiên ở
trong tâm của y và cũng là cái thiên bẩm trong con
người y, mà chúng ta thấy chẳng khác ǵ nhau nơi
một con người mới sinh, cũng như nơi
một con thú c̣n nhỏ. Cái t́nh cảm khát vọng bản
năng không thể chế ngự được này trong
con người nguyên thuỷ đă được Carlyle mô
tả một cách tài t́nh, và người ta có thể nói là
bằng trực giác, khi ông kêu lên :
259
Tâm hồn
vĩ đại của thời thượng cổ
giống như tâm hồn giản dị của một
đứa trẻ, giống như tâm hồn cao
thượng đúng đắn nhất và thâm sâu của con
người biết là dường nào! Ở trên
Địa Cầu này, y đi đứng ở đâu th́
bầu trời vẫn ở trên đầu y, nó biến
toàn thể Trái Đất thành một Thánh Điện bí
mật đối với y và biến mọi việc trên
Địa Cầu thành một thứ tôn sùng. Trong ánh sáng
thường của mặt trời, những h́nh thoáng qua về
những sinh vật sáng chói sẽ loé lên; những vị
thiên thần vẫn c̣n bay lượn, vẫn c̣n mang
những thông điệp của Thượng Đế
đến cho mọi người… Sự phi thường,
sự kỳ diệu bao quanh con người, y sống trong
một yếu tố phi thường ([513])…
Một định luật vĩ đại về Thiên
trách (Duty), nó cao cả như cái vô cùng này [thiên đàng và
địa ngục], nó làm cho mọi cái khác nhỏ lại,
nó cũng làm cho tất cả những cái khác tan ră… đó là
một Chân Lư, và nó là duy nhất: chỉ có lớp áo của
nó chết mà thôi; nguyên thể của nó sống măi xuyên qua
mọi Thời đại và trong tất cả những cơi
Trường cửu ! ([514])
Người ta không thể phủ nhận
sự sống của các nguyên thể này, mọi sức
lực và quyền năng của nó đă ăn sâu trong tâm
của người Ấn Âu Châu Á (Aryan), từ Giống dân
thứ Ba trực tiếp, qua những đứa con của
Trí Tuệ đầu tiên, chúng chính là kết quả của
Quyền Năng Tạo Tác (Kriyashakti). Khi thời gian trôi
qua, từ thời đại này đến thời
đại kia, những sinh vật hoàn hảo như
thế được sinh ra từ giai cấp thánh
thiện của các bậc đắc đạo (nhưng
rất hiếm); đó là những sinh linh cá biệt ở
trong, mặc dù ở bên ngoài chúng vẫn giống với
người nào đă sinh ra chúng.
Trong thời kỳ ấu trĩ của
Giống dân thứ Ba nguyên thuỷ:
Một tạo vật thuộc
loại một cao siêu hơn;
Nhưng vẫn chưa đầy
đủ, v́ vậy, người ta trù định cho nó,
Có tri thức về tư tưởng, có
một tấm ḷng rộng răi hơn,
Để tạo ra cái uy quyền bá chủ
và thích nghi để thống trị các sinh vật khác.
Nó được ra đời, một
vận cụ hoàn hảo và mẫn cán dành cho những nhân
vật đang hoá thân của những cơi cao, họ tức
khắc chiếm lấy những h́nh dáng này để làm
nơi trú ẩn, những h́nh dáng này được sinh ra
từ ư chí thiêng liêng và cái quyền năng thiêng liêng tự
nhiên nơi con người. Sinh vật này là một
đứa con của tinh thần thuần tuư có cái trí không
bị trộn lẫn với bất cứ sắc thái nào
của yếu tố trần tục. Chỉ có thể xác
của nó là tuỳ thuộc vào thời gian và kiếp
sống, và trí khôn của nó trực tiếp xuất phát
từ những cơi trên. Nó là cái cây Minh Triết Thiêng Liêng Linh
Hoạt (The Living Tree of Divine Wisdom); v́ vậy, nó có thể
được so sánh với cái Cây Thế Gian (Mundane Tree)
trong những câu chuyện thần tiên của người
Na Uy, nó không thể khô héo và chết cho đến khi
trận giao chiến sau cùng của kiếp sống xảy
ra, trong khi trải qua mọi thời đại, rễ nó
cứ bị Con Rồng Nidhogg (con Rắn Thế Gian) gặm
nhấm. Tuy vậy, đó là v́ Đứa Con thánh thiện
đầu tiên của Kriyashaktu có cái thể xác bị hàm
răng của thời gian ăn ṃn, nhưng rễ của
bản thể bên trong của nó vẫn luôn luôn c̣n mănh
liệt và bất tử, v́ nó nảy nở và phát triển
ngay ở trên Trời, chứ không phải ở cơi
trần. Đó là người thứ nhất, của
giống ĐẦU TIÊN, và cũng là mầm mống của
tất cả các thứ khác. Có những đứa con khác
nữa của Quyền Năng Tư Tưởng do một
sự cố gắng thứ nh́ của tinh thần sinh ra,
nhưng đứa con đầu tiên này c̣n giữ lại
cho đến ngày nay cái hạt giống minh triết thiêng
liêng, Đấng Duy Nhất và Đấng Thiêng Liêng, trong
số tất cả “Các Con Minh Triết” (“Sons of Wisdom”)
ở cơi trần. Chúng tôi không thể nói nhiều hơn
nữa về vấn đề này, trừ ra chúng tôi có
thể nói thêm là, trong mọi thời gian – ngay trong thời đại
chúng ta – đă có những bộ óc vĩ đại hiểu
được vấn đề này một cách đúng
đắn.
260
Nhưng làm thế nào để cho
thể xác chúng ta có thể tiến đến cái trạng
thái hoàn thiện con người phải trải qua hoặc
sinh ra từ loài thú như Chủ Nghĩa Duy Vật
(Materialism) đă dạy. V́, như Carlyle đă nói :
Cái tinh hoa
(essence) của bản thể chúng ta, sự bí mật trong
chúng ta, mà chính nó tự gọi là “cái ta” – và, đối
với những điều này, chúng ta có những tiếng
ǵ để gọi? – là một hơi thở trên cơi thiên
đàng, là cái ngă cao siêu nhất tự biểu lộ trong
con người. Thể xác này, những quan năng này,
tất cả chẳng phải như một lớp áo dành
cho cái không Tên Tuổi? (Unnamed) ([515]).
“Hơi thở”
ở trên trời (The “breath”
of Heaven) hay đúng hơn là hơi thở của sự
sống, Thánh Kinh Thiên Chúa giáo đă
gọi nó là Nephesh, có trong mọi con thú, mọi hạt
bụi linh động và trong mọi nguyên tử của
loài kim thạch. Nhưng không có cái ǵ của những sinh
vật hay có tâm thức của bản chất của “Cái
Ngă cao siêu nhất” này ([516])
giống như người, cũng như không có cái ǵ có
sự điều hoà thiêng liêng trong h́nh dáng con người
đă có.
Như Novalis đă nói – không có người
nào nói điều này hay hơn – và Carlyle đă nhắc
lại :
“Chỉ có
một Thánh Điện duy nhất trong Vũ Trụ này …
đó chính là thể xác của con người. Không có
một h́nh dáng nào thánh thiện hơn h́nh dáng cao cả này…
Khi nào chúng ta đặt được một bàn tay chúng ta
lên thể xác con người, th́ chúng ta đă tiếp xúc
được với cơi thiên đàng !” ([517])
Điều này có vẻ như là sự thêm
mắm muối của biện tài vô ngại, nhưng không
phải như vậy. Nếu người ta suy đi
ngẫm lại, nó sẽ biến ra là một sự
kiện khoa học, đó là sự diễn đạt…
của cái chân lư thực tại của sự vật. Chúng
ta là cái phi thường trong những cái phi thường, là
sự bí mật vĩ đại không thể nào hiểu
được….
ĐOẠN
THÁNH KINH 7
STANZA 7
1. HĂY NH̀N LÚC KHỞI
THUỶ CỦA SỰ SỐNG HỮU THỨC VÔ SẮC
TƯỚNG (SENTIENT FORMLESS LIFE) (a).
TRƯỚC HẾT,
ĐẤNG CAO CẢ (b), ĐẤNG DUY NHẤT PHÁT SINH
TỪ TINH THẦN MẸ (SPIRIT-MOTHER); ([518])
RỒI ĐẾN ĐẤNG TINH THẦN (c) ([519]);
VÀ BA PHÁT SINH TỪ MỘT (d), BỐN PHÁT SINH TỪ MỘT
(e), VÀ NĂM (f), TỪ ĐÓ PHÁt SINH RA BA, NĂM VÀ BẢY
(g). ĐÓ LÀ BỘI SỐ CỦA BA (THREE-FOLD) VÀ BỘI
SỐ CỦA BỐN ĐI XUỐNG (DOWNWARD); CÁC CON SINH RA
TỪ TRÍ (MIND-BORN) CỦA ĐẤNG CAO CẢ THỨ
NHẤT (FIRST LORD) ([520])
LÀ BẢY CHIẾU SÁNG ([521]).
HỠI ĐỆ TỬ, CÁC NGÀI CHÍNH LÀ NGƯƠI, LÀ TA ([522]),
LÀ NÓ; CÁC NGÀI TRÔNG CHỪNG NGƯƠI VÀ MẸ NGƯƠI,
BHUMI (Trái Đất).
261
a) Tập Đoàn những Quyền Năng Sáng
Tạo (The Hierarchy of Creative Powers) chia làm Bảy (hay bốn
và ba) theo ư nghĩa nội môn, trong Mười hai
Đẳng Cấp lớn ghi nhận trong mười hai
cung Hoàng Đạo; hơn nữa, số Bảy của
giai tầng biểu lộ có liên quan tới Bảy Hành Tinh.
Tất cả đều chia thành nhiều Nhóm gồm thành
phần các thiên thần thuộc các đẳng cấp khác
nhau.
Những Hệ cấp chủ yếu trong
số những hệ cấp này được ám chỉ
trong Tứ thể vĩ đại (Quaternary) hay nói theo công
truyền, đó là “bốn thể và ba quan năng” của
Thượng Đế Sáng Tạo nam tính (Brahma) và của
Năm Vị Thượng Đế Sáng Tạo nam tính
(Panchasya), hay là năm vị Thiền Định Phật
(Dhyani-Buddhas) trong hệ thống Phật giáo.
Nhóm cao siêu nhất th́ gồm có cái gọi là
những Linh Hoả mà người ta có thể nói tới
như là “những con Sư Tử Lửa” (“Fiery Lions”) và
những “con Sư Tử của Sự Sống” (“Lions of
Life”) mà thuyết bí truyền đă được giấu
kín một cách an toàn nơi cung hoàng đạo Mănh Sư
(Leo). Nó là trung tâm điểm của những Bầu
Thế Giới Thiêng Liêng Cao Cả (The superior Divine World). Các
Linh Hoả này (Divine Flame) chính là những Hơi Thở
Rực Lửa Vô H́nh (the Formless Fiery Breaths), xét về khía
cạnh nào đó, chúng giống như tam thể
thượng của Ba Ngôi Thượng Đế Sáng
Tạo (Sephirothal Triad) mà những tín đồ Do Thái Bí giáo
(Kabalists) đặt ở trong bầu “Thế Giới Nguyên
H́nh” (“Archetypal World”).
Cũng trong Hệ cấp này với
những con số tương tự được t́m
thấy nơi “Những cái khởi thuỷ” (“Begin nings”)
trong hệ thống Nhật Bản mà cả hai tông phái
Thần Đạo (Shinto) và Phật giáo đều có
dạy. Trong hệ thống này, khoa Nhân chủng khởi
nguyên học (Anthro –pogenesis) lại có trước khoa vũ
trụ khởi nguyên học (Cosmogenesis), giống như
sự thiêng liêng hoà hợp trong con người và tạo
dựng nên bầu Vũ Trụ hữu h́nh này - ở chính
giữa con đường nhập vào vật chất -
những nhân vật thần thoại mà Omoie đă nhận
xét một cách tôn kính là “phải được hiểu
như là cái hiện thân khuôn đúc của cái giáo lư (bí
mật) cao cả và các chân lư cao siêu”. Chúng ta phải mất
nhiều trang sách để tŕnh bày từ đầu chí
cuối cái hệ thống cũ kỹ này; dù thế, nói
một đôi lời về hệ thống cũng không
thể là sai chỗ. Một phần tóm tắt về
vấn đề vũ trụ Nhân chủng Khởi nguyên
học (Anthropo-Cosmogenesis) được đưa ra sau
đây, nó chứng minh là những nước đă bị
tách rời ra xa nhất đă nhất trí lập lại giáo
lư cổ ấy biết là dường nào.
Khi tất cả c̣n ở trong trạng thái
Hỗn Mang (Chaos hay Conton), trên diễn trường sáng
tạo sắp tới, có ba Đấng Thiêng Liêng xuất
hiện:
1) Đức
Thượng Đế ở cơi Trời Trung Ương
(Ame no ani naka nushi no Kami);
2) Con cháu của
Thượng Đế ở trên Trời và dưới
Đất đều được tán dương (Taka mi
onosubi no Kami);
3) Con Cháu của
các Thần Linh (Kamu mi musubi no Kami) chỉ có thế mà
thôi.
Những Đấng này không có h́nh dáng hay
bản thể - Tam thể thượng vô sắc
tướng của chúng ta – và bản thể ở trên
trời và bản thể ở cơi trần đều
chưa phân hoá, “cái nguyên thể của sự vật
cũng chưa được h́nh thành".
b) Cái vận cụ thiêng liêng này không xuất
hiện thường xuyên trong kinh Zohar, tác phẩm bây
giờ đă được Moses de Leon sắp xếp và tái
ấn hành, với sự trợ giúp của những
người Syria và những nhà triết học bí truyền
Công giáo Can Đê trong thế kỷ 13, c̣n sau này, do nhiều
bàn tay của nhiều người Thiên Chúa giáo sửa chữa
và tu chính, nó chỉ ít công truyền hơn chính quyển Thánh kinh Thiên Chúa giáo (Bible)
một chút, như trong
262
kinh Bí Số (Book
of Number) của người Can Đê. Đúng là Ain Soph,
cái TRỐNG KHÔNG TUYỆT ĐỐI VÔ CÙNG (the ABSOLUTE ENDLESS NO-THING),
cũng sử dụng cái h́nh thể của Số MỘT
(ONE), tức là “Con người ở trên Trời” biểu
lộ (the manifested “Heavenly Man”) (NGUYÊN NHÂN ĐẦU TIÊN – the
FIRST CAUSE), như là Chiếc xe (tiếng Hebrew gọi là
MECRABAH, tiếng Phạn gọi là VAHAN) hay là vận cụ
để nhập vào thế giới hiện tượng,
và tự biểu lộ trong cơi hiện tượng.
Nhưng những tín đồ Do Thái Bí giáo (Kabalits) không nói
rơ làm thế nào cái Tuyệt Đối có thể sử
dụng bất cứ điều ǵ, hoặc là vận
dụng bất cứ đặc tính nào v́ trên cương
vị là cái tuyệt đối, nó không có đặc tính ǵ
cả; họ cũng không giải thích rằng đó chính là
cái Nguyên Nhân Đầu Tiên (Plato gọi là Thượng
Đế Ba Ngôi – Logos) là THIÊN Ư nguyên thuỷ và
trường cửu, nó biểu lộ xuyên qua con
người nguyên thuỷ, hay có thể nói, đó là
Thượng Đế Ngôi Hai. Trong kinh Bí Số, người ta giải thích rằng
tiếng Ain này là cái tự tại duy nhất (En: cái
trống không, hoặc là Aior: tự tại) c̣n cái “vực
thẳm” của nó mà những tín đồ phái Ngộ
Đạo (Gnostics) gọi là Bythos, cũng được
người ta gọi là ánh sáng không đo được,
hay Propator, th́ chỉ xuất hiện từng giai
đoạn. Danh từ sau này chính là Thượng Đế
Sáng Tạo nam tính (Brahma) do Bản Thể Thiêng Liêng (Brahman)
hay là Bản Thể Tối Thiêng Liêng (Parabrahman) phân hoá ra. Nó
là cái Vực sâu (Depth) vĩ đại, là Nguồn gốc
của Ánh Sáng không ḍ được (Propator), vốn chính là
THƯỢNG ĐẾ BA NGÔI Vô
Hiện (Unmafested LOGOS) hay là Thiên
Ư trừu tượng; chứ không phải là cái
trống không vô hạn (Ain Soph) mà Điểm Linh Quang
của Ngài dùng con người nguyên thuỷ (Adam Kadmon) - có
“nam nữ tính” – (hay vị Thượng Đế Biểu
Lộ bầu Vũ Trụ khách quan), như là Chiếc xe
xuyên qua đó mà biểu lộ. Nhưng chúng ta thấy
một câu không thích đáng sau đây trong kinh Zohar: “Cái h́nh dáng xưa hơn
được giấu kín và bị rút lại, cái mặt
nhỏ (Microproposus) được tiết lộ và cũng
bị giấu kín” ([523]).
Điều này chỉ là một sự lừa phỉnh,
v́, cái mặt nhỏ hay là Tiểu vũ trụ (Microcosm)
chỉ có thể hiện hữu trong những thời
kỳ biểu lộ mà thôi, và nó bị tiêu diệt trong
những chu kỳ Đại Qui Nguyên (Mahapralayas). Quyển
kinh Kabbala của Rosenroth
không phải là quyển sách chỉ nam, mà nó sẽ là một
vấn đề nan giải thường xuyên đối
với chúng ta.
CẤP BẬC
ĐẦU TIÊN (The FIRST ORDER) là cấp Thiêng Liêng. Như
trong các khoa Vũ trụ luận Ai Cập, Nhật bản
và mọi giáo lư cổ xưa, do NGỌN LỬA thiêng liêng
“Duy nhất” mới thắp sáng trong ba Nhóm (Group) đi sau.
Vốn có cái bản thể ẩn tàng ở trong nhóm cao, bây
giờ chúng trở thành những Thực Thể khác nhau và
riêng biệt. Những thực thể này được
gọi là sinh vật có sự sống đồng trinh
(Virgins of Life), là Đại Ảo Mộng (Great Illusion) v.v..
và được người ta gọi chung là ngôi sao sáu
cánh. Gần như là trong mọi tôn giáo, ngôi sao này
đều là biểu tượng của Thượng
Đế Ba Ngôi (Logos), trên cương vị là cái nguồn
gốc được sinh ra đầu tiên. Ở Ấn
Độ, nó là kư hiệu của Thượng Đế
Sáng Tạo Ngôi Hai (Vishnu), Luân Xa (Chakra) hay là cái Bánh Xe; và kư
hiệu của Thượng Đế có bốn chữ
(Tetragrammaton), trong kinh bí pháp Kabalah “Ngài được
gọi bằng Bốn Chữ” (“He of the Four Letters”), hay nói
một cách ẩn dụ là “Tay chân của Sắc diện
nhỏ” (“Limb of Microproposus”), sắc diện này lần
lượt (respectively) có mười và sáu tay chân.
Tuy nhiên, những tín đồ Do Thái Bí giáo
sau này, nhất là những nhà Thần bí học Thiên Chúa giáo
đă phá hoại cái biểu tượng đẹp
đẽ này. Thực vậy, cái Mặt nhỏ này -
nếu nói một cách triết lư, th́ nó hoàn toàn tách khỏi
Thượng Đế Ba Ngôi vô hiện trường
cửu, để “hợp nhất với Từ Phụ” và
cuối cùng sau nhiều thế kỷ cố gắng
nguỵ biện và nghịch lư không ngừng, đă
được xem như hợp nhất với
Thượng Đế sáng tạo lưỡng tính (Jehovah)
hay là Thượng Đế DUY NHẤT linh hoạt (the ONE
living God) (!), trong khi Thượng Đế sáng tạo nam
nữ tính (Jehovah) không hơn ǵ một Đấng Sáng
Tạo có nữ tính (Binah). Sự kiện này không thể
tạo cho độc giả một ấn tượng
thường xuyên. V́ “Mười
cái Chân tay” (“Ten Limbs”) của
Con Người ở trên Trời chính là mười
Đấng Sáng Tạo (Sephiroth); nhưng Con Người
ở trên Trời đầu tiên này
263
là Tinh Thần vô hiện của Vũ Trụ,
và không bao giờ bị làm giảm giá trị thành ra
Microprosopus, tức là cái Sắc diện (Countenance) hay cái
Mặt nhỏ hơn (the Lesser Face), là cái kiểu mẫu
nguyên thuỷ của con người ở trên cơi trần
này. Như người ta vừa nói, Cái Mặt nhỏ
hơn này là Ngôi Thiên Đế biểu lộ và cũng
của nhiều vị Thiên Đế khác nữa. Tuy nhiên,
về điều này, chúng tôi sẽ nói sau. Ngôi sao sáu cánh ám
chỉ sáu Động Lực hay sáu Quyền Năng của
Thiên Nhiên, sáu cơi, sáu nguyên khí v.v.., tất cả đều
do cái thứ bảy tổng hợp đó là điểm
chính giữa của Ngôi Sao này. Tất cả bao gồm
những Hệ cấp cao và thấp, đều phát sinh
từ Đức Mẹ Trinh Nguyên ở cơi Trời, mà trong
các tôn giáo, người ta gọi là Đức Đại
Từ Mẫu (Great Mother), là con người nguyên thuỷ
sáng tạo lưỡng tính (Sephira Adam Kadom). Đấng Sáng
Tạo Tối Cao (Sephira) chính là Ngôi Thiên Đế thứ
nhất (KETHER), chỉ ở trong cái nguyên lư trừu
tượng, giống như chữ x của toán học để chỉ một
ẩn số. Ở trên cơi của thiên nhiên đă phân hoá,
Ngài là mẫu người nữ của con người
Nguyên Thuỷ (Adam Kadmon) là Đấng lưỡng tính
đầu tiên. Kinh Kabalah dạy
rằng, những tiếng “Hăy
có lấy Ánh Sáng” (“Figat Lux”)([524])
nhằm nói tới sự tạo lập và sự tiến
hoá của các Đấng Sáng Tạo (Sephiroth), chứ không
phải nhằm nói tới ánh sáng với vai tṛ là cái
đối lập của bóng tối. Đạo sĩ
Simeon đă nói:
Hỡi các đạo hữu, con
người trên cương vị là cái nguồn gốc
được sinh ra bởi cả đàn ông lẫn đàn
bà, nói một cách thực sự, đó là con người
nguyên thuỷ (Adam Kadmon), đó là ư nghĩa của những
tiếng: “Hăy để cho có Ánh Sáng và thế là có Ánh Sáng”.
Đó chính là con người nhị phân.
Trong trạng thái Đơn Nguyên (Unity), Ánh
Sáng Nguyên Thuỷ là nguyên khí thứ bảy, hay là nguyên khí cao
nhất, là Ánh Sáng của Thiên Đế Vô Biên (Daiviprakriti).
Nhưng lại bị phân hoá, nó trở thành điện
năng nguyên thuỷ (Fohat), hay là “Bảy Đứa Con”. Ánh
sáng nguyên thuỷ được tượng trưng
bởi điểm chính giữa ở trong Tam Giác Đôi, và
điện năng nguyên thuỷ được
tượng trưng bởi chính h́nh Lục Giác, hay là “Sáu
Chân Tay” của cái Mặt nhỏ, cái thứ Bảy chính là
Đức Mẹ thế gian hay là vị Nữ Vương
(Malkuth) mà các nhà Do Thái Bí giáo Thiên Chúa gọi là “vị Hôn Thê”
(“Bride”) hay là Địa Cầu của chúng ta. Do đó,
người ta diễn tả như sau:
Sau “số
Một” cái đầu tiên chính là Ngọn Lửa Thiêng Liêng;
cái thứ nh́ là Ngọn Lửa Dĩ Thái (Ether); cái thứ
ba gồm có Lửa, Dĩ Thái và Nước; cái thứ
tư là Lửa, Dĩ Thái, Nước và Không Khí. Số
Một không có liên quan ǵ đến những Bầu hành tinh
có mang theo Con người, nhưng lại có liên hệ
đến những Bầu hành tinh vô h́nh bên trong.
“Đứa con sinh ra đầu tiên” chính là SỰ SỐNG,
Trái Tim và Nhịp Đập của Vũ Trụ;
đứa thứ Nh́ là CÁI TRÍ hay Tâm Thức của nó.
Những nguyên tố Lửa, Không Khí v.v.. này
không phải là những nguyên tố kết hợp của
chúng ta và “Tâm Thức” này không liên hệ ǵ đến tâm
thức của chúng ta. Tâm thức của “Số Một
Biểu Lộ”, nếu không phải là tuyệt đối,
th́ cũng vẫn là không có điều kiện. Đại
trí (Mahat), Cái Trí của Vũ Trụ (Universal Mind) là sản
phẩm đầu tiên của Thượng Đế Sáng
Tạo nam tính (Brahma-Creator) nhưng cũng là của vật
chất chưa phân hoá (Bradhana).
264
c) ĐẲNG CẤP THỨ HAI (The SECOND ORDER) của các Thực Thể Thiên
Thần (Celestial Beings), những vị Thần Lửa và
Dĩ Thái, tương quan với Tinh Thần và Linh Hồn
hay Atma-Buddhi, có rất nhiều tên gọi, vẫn c̣n là vô
sắc tướng nhưng cụ thể hơn một
cách rơ rệt. Các vị là sự biểu lộ phân hoá
đầu tiên trong Cơ Sáng Tạo hay Cơ Tiến Hoá
Thứ Hai (the Secondary Evolution or “Creation”) - một danh từ
dễ lầm lẫn. Như tên gọi, các vị là
những kiểu mẫu điển h́nh của những Chân
Thần giáng thế và được cấu tạo
bởi Lửa Tinh Hoa của Sự Sống. Chính là do các
vị này mà một Tia Sáng đi xuyên qua như một tia
nắng mặt trời, đó là tia sáng của Tinh Thần
(Atma) với cái thể tương lai của nó là Hồn
Thiêng hay Tuệ Giác (Divine Soul, Buddhi). Những nguyên khí này có
liên hệ trực tiếp với những đẳng
cấp thiên thần cao hơn trong Thái dương hệ.
Từ những đơn vị Lưỡng thể này
xuất phát ra cái “Tam Thể” (“Threefold”).
Trong khoa vũ trụ khởi nguyên luận
Nhật Bản, khi từ cái Hỗn Mang, một cái nhân có
h́nh trứng xuất hiện, bên trong nhân này có cái mầm
mống mănh lực của toàn bộ sự sống trong
vũ trụ cũng như trên cơi trần của
địa cầu, th́ cái biến phân chính là cái mà
người ta vừa gọi là cái Tam Thể (tam nguyên).
Nguyên khí dương tinh anh (Yo) thăng lên, c̣n nguyên khí âm thô
trược, vật chất (In) bị quẳng vào vũ
trụ vật chất, khi nguyên khí thiên giới và nguyên khí
hạ giới chia tay nhau. Thực thể khách quan bản
sơ được sinh ra từ nguyên khí âm, nguyên khí
Mẹ. Thực thể này thật là tinh anh, chẳng có h́nh
dáng, cũng chẳng có giới tính, tuy nhiên, chính từ nó và
Mẹ, mà Bảy Chơn Linh Thiêng Liêng (the Seven Divine Spirits)
được sinh ra, chính từ Bảy Đấng này mà
Bảy cuộc sáng tạo mới được phát sinh
ra; chẳng khác nào trong kinh Codex Nazaraeus, bảy tinh linh
(vật chất) có khuynh
hướng ác được sinh ra từ Karabtanos (linh
hồn vô ư thức) và Linh
Hồn Mẹ. Nếu kể hết ra đây các danh
hiệu của người Nhật th́ rất dài ḍng,
nhưng khi phiên dịch, người ta sắp chúng theo
thứ tự sau đây:
1) “Đấng Chăn Đơn Gối
Chiếc Vô H́nh” (“Invisible Celibate”) chính là Huyền Âm Sáng
Tạo (Creative Logos) của “Từ Phụ” phi sáng tạo,
hay là tiềm năng sáng tạo của Từ Phụ
được biểu lộ.
2) “Tinh thần (hay Đấng Thiêng Liêng –
God) của những Thái uyên âm u (rayless Depths) [Chaos]”, trở
thành vật chất biến phân, hay vật liệu thế
gian (world-stuff), cũng chính là giới khoáng thạch.
3) “Chơn Linh của Giới Thực
Vật” của “Cây cỏ sum suê”.
4) “Chơn Linh của Địa Cầu” và
“Chơn Linh của Cát” (“Spirit of the Sands”), một Thực
Thể có bản chất nhị phân, Chơn Linh
trước bao hàm tiềm năng của nguyên tố
dương, c̣n Chơn Linh sau bao hàm tiềm năng của
nguyên tố âm, cả hai tạo thành một bản chất
phối hợp. Cả hai chỉ là MỘT, song đến
nay, chúng vẫn chưa biết rằng ḿnh “tuy một mà
hai”.
Trong nhị nguyên này có bao hàm: (a) I su no gai Kami, Thực Thể dương tính, u mê ám
chướng, vai u thịt bắp; và (b) Eku gai no Kami, Thực
Thể âm tính liễu yếu đào tơ, mảnh mai.
Thế rồi:
5) và 6) Các Chơn Linh lưỡng tính bán
thư bán hùng.
7) Chơn Linh thứ Bảy, Chơn Linh
cuối cùng do “Từ Mẫu” xạ ra, nó xuất hiện
như là con người thiêng liêng đầu tiên có h́nh dáng
nam nữ phân biệt rơ rệt. Đó là cuộc “sáng
tạo” thứ bảy, cũng như trong kinh Puranas, con người là cơ
sáng tạo thứ bảy của Brahma (Phạm Thiên).
Những Đấng này, Tsanagi- Tsanami, giáng sinh vào Vũ Trụ qua Thiên
Kiều (Celestial Bridge), Ngân Hà (Milky Way), và “khi thấy măi tít
bên dưới có khối hỗn độn toàn là mây mù và
nước, Tsagani liền phóng cây lao có cẩn ngọc
thạch xuống các vực thẳm, thế là vùng
đất khô ráo hiện ra. Sau đó, hai bên chia tay nhau
để đi thám hiểm Onokoro,
ḥn đảo thế gian mới được tạo ra”
(Omoie).
265
Đó là những ngụ ngôn công truyền
của Nhật Bản, lớp vỏ che kín hạt nhân
của cùng một chân lư duy nhất của các Giáo Lư Bí
Truyền.
d) ĐẲNG CẤP THỨ BA (The THIRD ORDER)
tương quan với Tinh Thần, Tuệ Giác và Trí Tuệ
(Atma-Buddhi-Manas) và được gọi là Tam Thể
Thượng.
e) ĐẲNG CẤP THỨ TƯ (The FOURTH
ORDER) là những Thực Thể hữu sắc
tướng. Đó là Nhóm cao nhất trong các sắc
tướng (Rupas), là nơi đào tạo những Linh
Hồn ư thức và tâm linh con người. Đẳng
cấp này được gọi là những “Linh Hồn
Bất Tử”, (“Imperishable Jivas”) và xuyên qua Đẳng
cấp thấp hơn kế đó, tạo thành nhóm thứ
nhất của Tập đoàn Bảy Đấng
đầu tiên. Tập đoàn này là môi trường hàm súc
một cách tiềm ẩn cái Mầm, nó sẽ sinh sôi
nảy nở trong cuộc sinh hoá ra vạn vật. Cái
Mầm ấy sẽ trở nên tiềm năng tâm linh trong
tế bào vật chất hướng dẫn sự phát
triển của bào thai, nó là nguyên nhân của sự di
truyền khả năng và đức tính trong con
người. Tuy nhiên, giả thuyết của
Nên nhớ rằng Lửa, Nước, Không
Khí của Huyền bí học hay cái gọi là “Các Nguyên
Tố của Kỳ Tạo Lập Đầu Tiên”, không
phải là những nguyên tố kết hợp trên cơi
trần, mà là những nguyên tố đồng tính của
Bản Thể - là Linh Hồn của cái trước.
Rồi tiếp theo là những Nhóm hoặc những Đoàn
Thất Nguyên (Septenary). Trong những đồ h́nh,
người ta sắp đặt những nhóm này song song
với những nguyên tử, những bản chất
của sinh vật này được xem như là
tương ứng với những nguyên tố kết
hợp theo một cách giống hệt về mặt toán
học như là tương đồng (trên nấc thang
đi xuống của sự phát triển). Dĩ nhiên,
điều này chỉ nhằm nói tới các đồ h́nh
của
266
những nhà Huyền bí học bí mật phác
hoạ; v́ nếu nấc thang của những Thiên Thần
được đặt song song với nấc thang
của những nguyên tử của khoa học - từ
chất Helium theo giả thuyết (hypothetical Helium) cho
đến chất Uranium – dĩ nhiên là người ta
thấy chúng có khác nhau, v́ những nguyên tử chỉ có
bốn hạng thấp nhất với vai tṛ là các phần
tương ứng trên cơi giới Cảm dục (cơi trung
giới – The Astral Plane), nên ba nguyên khí cao trong một nguyên
tử hay đúng hơn là trong phân tử, hay là trong nguyên
tố hoá học, th́ chỉ có con mắt giác ngộ (Dangma’s
eys) của bậc đắc đạo mới nhận
thức được mà thôi. Nhưng rồi, nếu hoá
học muốn ở trên con đường ngay thẳng,
th́ nó phải sửa chữa theo bảng sắp hạng do
các nhà Huyền bí học thực hiện, đó là
điều ắt nó không chịu làm. Theo Triết học Bí
truyền, mỗi phần tử vật chất đều
tương ứng với và tuỳ thuộc vào bản
thể cao hơn - Hữu thể (Being) mà bản chất
của nó tuỳ thuộc vào; và trên sao dưới vậy,
Linh Hồn do cái thiêng liêng sinh ra, tâm trí th́ do linh hồn sinh
ra - ở trên cơi thấp hơn, nó bị Thể Phách (Astral)
làm biến chất – toàn thể thiên nhiên sinh động và
(dường như) bất sinh động này phát triển
song song và lôi cuốn những đặc tính của ḿnh
từ cơi cao cũng như cơi thấp.
Con số bảy, khi được áp
dụng cho ngôn từ “Nhóm thất nguyên” vừa
được đề cập ở trên, chẳng
những ám chỉ bảy Thực Thể mà c̣n lại ám
chỉ bảy Nhóm hay bảy Đoàn như đă
được chúng tôi giải thích trước đây. Nhóm
cao nhất, những vị thần quỷ (Asuras) do thân
thể đầu tiên của Thượng Đế sáng
tạo nam tính (Brahma) sinh ra, nó biến thành “Đêm”, có
bảy loại, nghĩa là họ được phân chia
thành bảy hạng giống như các vị Tổ Phụ
(Pitris) phóng chiếu ra những con người trần
tục đầu tiên.
f) ĐẲNG CẤP THỨ NĂM (The FIFTH
ORDERS) là một đẳng cấp rất huyền bí, v́ nó
liên hệ đến Tiểu thiên địa Ngũ giác,
tức là ngôi sao năm cánh tiêu biểu cho con người.
Ở Ấn Độ và ở Ai Cập, những vị
Thiền Ni này có liên hệ đến con Cá sấu, và
nơi trú ẩn của các Ngài là cḥm sao Ngưu (Capricoanus).
Nhưng trong khoa chiêm tinh học Ấn Độ, những
ngôn từ này có thể thay đổi được, v́
cung thứ mười của Hoàng Đạo (Zodiac)
vốn được gọi là Makara, lại
được dịch một cách tuỳ tiện là “Cá
Sấu” (“Crocodile”). Chính tiếng này đă được
giải thích bằng nhiều cách khác nhau về mặt
huyền bí như sẽ được chỉ rơ sau này.
Ở Ai Cập, người quá cố (Defunct) -
được tượng trưng bằng ngôi sao năm
cánh, các đỉnh của nó tượng trưng cho tay chân
của con người - được chứng minh
một cách biểu tượng là đă biến thành
một con cá sấu. Theo ông Gerald Massey, vị thần
thời gian Sebekh hay Sevekh (hay là “cái thứ Bảy”) thực
sự là một con rồng, chứ không phải là một
con cá sấu, điều này đă chứng minh rằng nó
thuộc loại có trí khôn. Vị này chính là “Con Rồng Minh
Triết”, hay Manas, Linh Hồn của Con Người, Cái
Trí, nguyên khí Trí Tuệ theo triết học nội môn
của chúng ta, nó được gọi là Nguyên Khí Thứ Năm (Fifth Principle).
Trong Tử Vong
Kinh (Book of the Dead) hay trong quyển Nghi Lễ (Ritual),
người ta nói là người quá văng “được
thần thánh hoá” dưới kư hiệu của một
Đấng Cao Cả có dạng xác ướp với
đầu cá sấu:
Ta là con sấu
điều khiển sự sợ hăi, Ta là vị thần cá
sấu chủ tŕ linh hồn mọi người khi
xuống thế. Ta là thần cá sấu sẽ đem
đến cho mọi người sự chết chóc.
267
Đó là điều ám chỉ việc huỷ
hoại sự trong sạch của linh hồn thiêng liêng khi
con người đạt được sự hiểu
biết về điều thiện và điều ác, nó
cũng ám chỉ những vị thần “sa đoạ”
(“fallen” Gods) của mọi khoa thần phổ học.
Ta là con cá
của thần Horus vĩ đại [v́ Makara là “Cá Sấu”
vận cụ của thuỷ thần [Varuna]. Ta hoà ḿnh trong
cơi Thiên Đàng (Sekhem) ([525]).
Câu sau chót này củng cố và nhắc
lại triết lư của Phật Giáo Bí Truyền v́ nó ám
chỉ Nguyên Khí Thứ Năm (Thể Trí) hay đúng hơn
là cái phần thiêng liêng nhất của nguyên thể của
khí thể này; sau khi con người từ trần, nó
sẽ hoà hợp vào Atma-Buddhi, được Chơn Linh này
thấu nhập và hợp nhất với Chơn Linh này. V́ cơi
Thiên Đàng (Sekhem), một trạng thái chân phúc, là nơi trú
ẩn hay là cơi (Loka) của Đức Chúa Cha, Đức
Chúa Con (Horus-Osirus, hay là Từ Phụ và Hiếu Tử) nên
do đó nó là cơi chân phúc (Devachan) của Chơn Linh
(Atma-Buddhi). Trong Tử Vong kinh, người quá văng
được chứng minh là nhập vào cơi Thiên Đàng
(Sekhem) với Đấng Cao Cả Horus-Thot và “xuất
lộ trong đó như là một linh hồn trong sạch”.
Người chết nói như vầy :
Ta thấy h́nh
dáng của chính ta, cũng như nhiều kẻ khác
biến dạng không ngừng… Ta biết rơ chương này.
Ai biết được chương này … th́ sẽ có
được tất cả những loại h́nh dáng
sống động ([526]).
Dưới dạng công thức pháp
thuật, khi đề cập tới cái được
gọi là “quả tim truyền kiếp” (“ancestral heart”) hay
khí thể luân hồi, Chơn Ngă (Ego) vĩnh cửu,
người quá cố nói:
Hỡi quả
tim của ta, quả tim truyền kiếp của ta vốn
là nhu cầu đối với sự thay đổi h́nh
dạng của ta, … trước vị thần nhân quả,
ngươi đừng tách rời ra khỏi ta.
Ngươi chính là phàm nhân ở trong ḷng ta, là người
bạn thiêng liêng đă trông nom xác thịt của ta [thể
xác của ta] ([527]).
Chính ở trong cơi Thiên Đàng (Sekhem) mà cái
“Mặt Bí Mật” (“Mysterious Face”) này được
giấu kín, đó là Chơn Nhơn bị phàm nhơn ảo
ảnh che giấu, là con sấu tam phân của người
Ai Cập, biểu tượng của Tam Nguyên đồng
nhất hay là Tam Thể thượng (Triad) của con
người tức là Chơn Thần thiêng liêng (Atma) Linh
Hồn thiêng liêng (Buddhi) và Thượng Trí (Manas).
Một trong những sự giải thích ư
nghĩa thực sự mặc dù bí ẩn của kư hiệu
tôn giáo này của người Ai Cập th́ không khó khăn
ǵ. Con sấu là con vật đầu tiên chờ và đón
nhận các tia lửa như thiêu đốt của mặt
trời buổi sáng, thế là chẳng bao lâu sau, nó
được dùng để nhân cách hoá sức nóng của
mặt trời. Khi mặt trời mọc, điều này
giống như là việc “linh hồn thiêng liêng đang làm
linh hoạt các vị Thần linh” đến với
thế gian, giữa nhân loại. Từ đó mới có khoa
biểu tượng học dị thường này. Một
xác ướp có một đầu cá sấu đă chỉ
cho biết rằng đó là Linh Hồn xuống thế gian.
Trong tất cả những tài liệu
bằng giấy chỉ thảo cổ xưa, con sấu
được gọi là Sebekh (Cái thứ bảy), c̣n nói
về mặt nội môn, nước cũng tượng
trưng nguyên khí thứ năm; và như chúng tôi đă tŕnh
bày, ông Gerald Massey chứng minh rằng con sấu là “Linh
Hồn thứ bảy, linh hồn cao siêu nhất trong
số bảy linh hồn – nhà Linh Thị vô h́nh”. Ngay cả,
nói về mặt công truyền, cơi Thiên Đàng (Sekhem)
cũng là nơi trú ẩn của Đức Chúa Cha,
Đức Chúa Con (God Khem) và Khem chính là thần Horus đă
phục thù cho cái chết của cha Ngài là Osiris, do đó,
Ngài đă trừng phạt Tội lỗi của con
người khi con người trở thành một Linh
Hồn không hoá thân. Như vậy, người chết
“được thánh thiện hoá” (“Osirified”) đă trở
thành vị thần Khem; Ngài “sẽ gặt lúa ở cánh
đồng Aanroo” (cánh
đồng lúa ḿ thứ nh́ ở trên trời); nghĩa là
Ngài gặt lấy sự khen thưởng hay là sự
trừng phạt, v́ cánh đồng này là nơi trú ẩn
ở trên trời (Devachan) cơi Thiên Đàng, chổ ở
của các vị thần linh, ở đó, người
chết được ban cho lúa ḿ, thức ăn của
sự công b́nh thiêng liêng. Nhóm thứ Năm các Thiên Thần
được xem như hàm súc đặc tính lưỡng
cực nhị nguyên của cả hai phương diện
tâm linh và thể chất của vũ trụ. Có thể nói,
đó là lưỡng cực của Mahat hay là Trí Tuệ
của Vũ Trụ và tính chất nhị nguyên của con
người, tâm linh và thể chất. Bởi đó, số
Năm của nhóm nhân lên thành Mười, kết liên nhóm
ấy với Cung Ma Kết (Makara) là cung thứ mười
của ṿng Hoàng Đạo.
268
g) NHÓM THỨ
SÁU và THỨ BẢY (The SIXTH and SEVENTH) có đặc tính thấp hơn của
Tứ thể hạ (Quaternary). Đó là những Thực
Thể hữu thức, thể chất mong manh như
sương và vô h́nh như chất Dĩ Thái, xuất phát
từ nhóm trung ương đầu tiên gồm có Bốn
vị Thiên Vương. Đến lượt các Nhóm
ấy lại phóng phát ra vô số các nhóm nhỏ, nhóm
thấp nhất là những tinh linh ngũ hành, gồm vô
số loại, từ những loại vô sắc và không có
thể chất - những TƯ TƯỞNG tuyệt
đích của các Đấng sáng tạo ra chúng - dẫn
xuống đến vi trần mà mắt người không
nh́n thấy. Những vi trần này được coi
như là các “linh hồn của nguyên tử” (“spirits of atoms”)
v́ chúng là những sinh vật có tri giác tuy không có trí khôn.
Tất cả những sinh vật này đều chịu
sự chi phối của luật nhân quả và phải thanh
toán nghiệp quả trong mọi chu kỳ sinh hoạt. V́,
như GIÁO LƯ có dạy, ở trong Vũ Trụ này không có
Sinh vật nào được ưu đăi như thế, dù
trong Thái Dương Hệ này của chúng ta, hay ở trong
Thái Dương Hệ khác, ở trong Bầu Thế
Giới bên ngoài hay là ở trong những Bầu Thế
Giới bên trong ([528]),
chẳng hạn như là những vị thiên thần
của các tôn giáo phương Tây và của người Do
Thái. Một vị Thiền Định Đế Quân (Dhyan
Chohan) là thành quả của một cơ tiến hoá
trường kỳ chứ không thể ngẫu nhiên sinh ra
hay xuất hiện th́nh ĺnh trong cơi sinh hoá như một
vị Thiên Thần. Các Đẳng cấp Thiên Thần
của Chu kỳ hiện tại sẽ được hoán
chuyển qua những Bầu Thế Giới cao hơn và
tiến hoá hơn trong Chu kỳ sinh hoạt tương lai
và sẽ nhường chỗ cho một Đẳng cấp
gồm những phần tử ưu tú chọn lọc trong
hàng ngũ nhân loại chúng ta ngày nay. Thực Tại là
một ṿng chu kỳ bất tận trong cái Duy Nhất
Trường Cửu Tuyệt Đối, trong đó
diễn ra vô số chu kỳ nội tại, hữu hạn
và tương đối. Những vị Thần minh
ngẫu nhiên được sáng tạo nên sẽ không
chứng minh được giá trị thực sự
của ḿnh. Bởi vậy, nhóm “Ba” và nhóm “Bốn” phải
luân hồi chuyển kiếp như tất cả mọi
chúng sinh. Hơn nữa, Nhóm Sáu này hầu như không thể
tách rời hay cách biệt với con người, con
người tiếp nhận tất cả nhóm ấy
ngoại trừ những nguyên khí cao nhất và thấp
nhất tức là tinh thần và thể xác. C̣n năm nguyên
khí trung gian là tinh hoa của những bậc Thiên Thần
đó (Dhyanis). Triết gia Paracelsus gọi nhóm này là những
vị thần hộ mạng (the Flagae); những
người Thiên Chúa giáo gọi họ là những vị
Thiên Thần che chở; các nhà Huyền bí học gọi
họ là những Thuỷ Tổ của nhân loại. Họ
là những vị Thiền Định Đế Quân có các nguyên
tố thiêng liêng để cấu tạo thành những thân
thể của các Ngài - thực vậy, các Ngài giống
như con người, chỉ thiếu thể xác mà thôi.
269
Chỉ độc nhất có Chơn
Thần thiêng liêng (Atma) là Điểm Linh Quang mà số
Một trực tiếp sinh ra. Khi được hỏi làm
thế nào để có thể như thế
được? Làm thế nào để có thể quan
niệm được các vị thần này hay là những
vị thiên thần này đồng thời là các phân thân và
những phàm ngă của các Ngài? Liệu có ư nghĩa
tương tự như vậy không trong thế giới
vật chất này nơi mà theo đường lối nào
đó, đứa con lại là cha của nó, là máu huyết
của cha nó, xương của cha nó và xác thịt của
cha nó. Về điều này, các Đức Thầy đă
trả lời: Thực sự là như vậy nhưng
người ta phải đi sâu vào trong bí mật của
SỰ SỐNG (mystery of BEING) trước khi người ta
có thể hiểu được chân lư này một cách
đầy đủ.
2. TIA SÁNG DUY NHẤT
SINH RA NHIỀU TIA NHỎ HƠN. SỰ SỐNG CÓ
TRƯỚC H̀NH THỂ VÀ SỰ SỐNG TỒN TẠI SAU
KHI NGUYÊN TỬ CUỐI CÙNG BIẾN MẤT ([529]).
TIA SÁNG SỰ SỐNG, DUY NHẤT, XUYÊN QUA VÔ SỐ TIA KHÁC,
GIỐNG NHƯ SỢI CHỈ XUYÊN QUA CHUỖI HẠT (MANY
BEADS) ([530]).
Câu kinh này diễn tả quan niệm về
đường Kim Quang (Sutratma) chạy xuyên qua những
thế hệ liên tiếp, là một quan niệm hoàn toàn
của kinh Phệ Đà mà chúng ta đă giải thích ở
đâu đó rồi. Vậy th́ làm thế nào để
giải thích câu này? Người ta phải nhờ
đến một sự so sánh, một minh hoạ quen
thuộc mặc dù tất nhiên là thiếu sót (tất cả
những sự so sánh tương đồng khả
dụng của chúng ta đều phải chịu như
vậy). Tuy nhiên, trước khi trông cậy vào cách so sánh
này, tôi muốn hỏi, đối với bất cứ
người nào trong chúng ta, khi chúng ta khảo sát tiến
tŕnh phát triển và lớn lên của một bào thai thành ra
đứa trẻ khoẻ mạnh, nặng lối vài cân
Anh ([531])
th́ điều này có không được tự nhiên hay
thậm chí “siêu nhiên” chăng? Tiến triển từ cái ǵ?
Từ một phần của một tiểu noăn cực
kỳ bé nhỏ và một con tinh trùng. Rồi th́ chúng ta
sẽ thấy đứa bé lớn lên thành một
người cao lối 6 bộ (độ 1,8m – LND)!
Điều này nhằm nói tới sự bành trướng
của vật chất và của nguyên tử, từ một
vật nhỏ như vi sinh vật, cho đến một
vật nào đó cực đại, từ một vật
không thấy được bằng mắt trần, cho
đến vật khách quan và thấy được. Khoa học
đă tŕnh bày tất cả các điều này, và tôi dám nói
là, những lư thuyết về phôi sinh học, về sinh
vật học và về sinh lư học của khoa học
thật là đúng chừng nào mà nó c̣n quan sát vật chất
một cách đúng đắn. Tuy nhiên, hai sự khó khăn
chính của phôi sinh học – nghĩa là những động
lực ǵ có tác dụng tạo thành bào thai và đâu là nguyên
nhân của “sự truyền đạt di truyền” của
sự tương đồng về thể xác, về t́nh
cảm hay về tư tưởng – chưa bao giờ
người ta giải đáp một cách thoả đáng;
nhưng khó khăn này cũng chưa bao giờ giải
quyết được; cho đến khi nào các nhà khoa
học hạ ḿnh chấp nhận những lư thuyết
của huyền môn. Nhưng nếu không có một
người nào ngạc nhiên về hiện tượng
hữu h́nh này, ngoại trừ việc này đă làm bối
rối những nhà phôi sinh học, th́ tại sao sự phát
triển bên trong của cái trí chúng ta, sự tiến hoá
của Linh Hồn Con Người thành ra Linh Hồn Thiêng
Liêng, lại được xem như là, hoặc
dường như là không thể nào có được
hơn điều kia?
270
Những nhà Duy Vật Chủ Nghĩa và
những nhà Tiến Hoá Chủ Nghĩa của phái Darwin,
hẳn thật là dại dột khi chấp nhận
những lư thuyết mới được chế ra
của Giáo sư Weissman, tác giả quyển Beitrage Zur
Descendenzlehre, về một trong hai sự bí mật của
khoa phôi sinh học (như đă được chỉ rơ
ở trên) mà dường như ông nghĩ ḿnh đă
giải quyết xong, v́ khi điều này được
giải quyết một cách đầy đủ, th́ khoa
học sẽ bước vào lănh vực của huyền môn
thực sự và vĩnh viễn vượt ra ngoài cả
lănh vực của sự thay h́nh đổi dạng như
Darwin đă dạy. Theo quan điểm của Chủ
nghĩa duy vật, th́ hai lư thuyết này không thể dung hoà
được. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhà
Huyền bí học, th́ lư thuyết mới này có thể
giải quyết được tất cả những bí
mật này. Người nào chưa biết được
sự khám phá của Giáo sư Weissmann – ông đă có thời
theo phái
Ta đây bổ túc Nguyên sinh chất Hồng
trần (the Physical Plasm) nói trên, tức là “Chủng bào”
(“Germinal Cell”) của con người có hàm chứa tất
cả tiềm năng vật chất của nó với
“Nguyên sinh chất Tâm Linh” (“Spiritual Plasm”) hay cái chất
liệu vô h́nh chứa đựng năm nguyên khí thấp
nhất của bậc siêu nhân có đủ Sáu nguyên khí,
rồi ta sẽ nắm được bí quyết của
vấn đề.
271
Bây giờ chúng ta hăy làm một sự so sánh hay
đối chiếu.
Khi mầm
mống của người nam được gieo vào
tử cung người nữ, cái mầm đó không thể
đâm chồi nảy lộc trừ phi nó được
sinh động bởi năm loại khí lực [phóng ra
từ nguyên khí] của “Thiên nhân lục thể” (“Six-fold
Heavenly Man”). Bởi vậy Tiểu thiên địa (Microcosm)
được biểu hiện bằng một h́nh năm
góc (pentagon) ở trong một Ngôi Sao Sáu góc biểu
tượng của Đại vũ trụ (Macrocosm) ([532]).
Kế đó: những
tác dụng của Sự Sống trên Trái Đất có tính
cách ngũ nguyên (five-fold character). Trong nguyên tử khoáng
chất, nó liên hệ đến những nguyên khí thấp
nhất của Tinh Quân Địa Cầu (những Tinh Quân
lục thể - the Six-fold Dhyanis). Trong tế bào thảo mộc,
có liên hệ đến nguyên khí thứ nh́, tức Sinh khí
(Prana). Trong tế bào động vật, nó liên hệ
đến tất cả những nguyên khí trên, thậm chí
thể thứ ba và thể thứ tư. Trong con
người, cái mầm phải tiếp nhận đủ
kết quả của năm nguyên khí. Nếu không th́ khi sinh
ra, y sẽ không hơn một con vật, y sẽ là một
kẻ ngẩn ngơ, khờ khạo.
Như thế, chỉ có ở trong con
người, Sự Sống mới có đầy đủ
hoàn toàn. C̣n nói về nguyên khí thứ bảy, nó chỉ là
một trong những Tia Sáng (Beams) của Vầng Thái Dương
Vũ Trụ (the Universal Sun). Mỗi nhân vật chỉ
tiếp nhận được tạm thời những ǵ
cần dùng rồi lại trả về cho cái nguồn
gốc của chúng, trong khi thể xác y được
cấu tạo h́nh thành bởi những Sinh vật thấp
nhất của hạ giới, qua sự tiến hoá thể
chất, hoá chất và sinh lư; trong quyển Khoa học bí truyền (Kabalah) và quyển Bí số của Can Đê có
nói “những bậc Thánh thiện không có dính dáng ǵ với
sự thanh luyện vật chất”.
Như thế, con người trong cái h́nh
thức kiểu mẫu sơ khai, là hậu duệ của
vị thuỷ tổ nhân loại (Pitris). Trong khía cạnh
thể chất và tinh thần, y là hậu duệ trực
tiếp của các vị tổ tiên hay Tinh Quân của
Địa cầu. Về khía cạnh tâm lư, tinh thần và
tâm linh, y được cấu tạo bởi một Nhóm
những vị Thiên Thần mà tên gọi và tính chất
sẽ được nêu ra trong quyển 3 và 4. Trên
phương diện tập thể, con người là công
tŕnh tạo tác của nhiều đẳng cấp Tinh Quân
khác nhau. Trong Giống dân thứ Năm thuần vật
chất như hiện nay, Tinh Quân Địa Cầu
của Giống Dân thứ Tư vẫn c̣n ảnh
hưởng mạnh trong con người; nhưng chúng ta
đang tiến đến giai đoạn mà chu kỳ văng
phản của trào lưu tiến hoá sẽ vượt lên
cao một cách rơ rệt, đưa nhân loại trở
về đường lối song hành với Giống dân
chánh thứ Ba nguyên thuỷ về mặt tâm linh. Trong
thời kỳ thơ ấu, nhân loại gồm có toàn
thể Đạo Binh Thiên Thần đó (that Angelic Host), các
vị này là phần Tinh Thần nội tại làm sống
động những thể xác khổng lồ của Giống
dân thứ Tư, được cấu tạo bởi
sự kết hợp của vô số Sinh vật vi
khuẩn (countless myriad of Lives). Khoa học có thể t́m
thấy các loại vi trùng và những sinh vật nhỏ li
ti khác trong con người và cho rằng đó chỉ là
những sinh vật nhất thời đột nhập vào
cơ thể và gây nên bệnh tật. Huyền bí học – vốn
nhận biết sự sống trong mỗi nguyên tử và
phân tử dù là trong khoáng chất hay trong con người,
trong không khí, lửa hay nước, khẳng định
rằng toàn thân con người được cấu
tạo bởi sự sống của những sinh vật
đó. Những loại vi khuẩn nhỏ nhất ở
dưới kính hiển vi có độ lớn so với
chúng cũng giống như một con voi so với loài
thảo mao trùng nhỏ nhất.
272
Những “thánh điện” (“tabernacles”)
được đề cập tới ở trên đă
được cải tiến về kết cấu và h́nh
dạng đối xứng, phát triển cùng với Bầu
hành tinh mang chúng, nhưng sự cải tiến về
mặt vật chất đă làm phương hại
đến Chơn Nhơn và Thiên Nhiên. Theo từng giống
dân, ba nguyên khí giữa trên địa cầu và nơi con
người, đă trở nên vật chất hơn; Linh
Hồn lùi bước để nhường chỗ cho TRÍ
NĂNG VẬT CHẤT (PHYSICAL INTELLECT): tinh hoa của các
Hành (Elements) biến thành các nguyên tố vật chất và
phức hợp mà ngày nay ta biết.
Con người chẳng phải và y cũng
chẳng bao giờ có thể là một sản phẩm hoàn
chỉnh của “Đức Chúa Trời” (“Lord God”); nhưng
y là con của Đấng Elohim đă bị độc
đoán biến thành con số đơn giản và giống
đực. Khi được giao cho trách nhiệm tạo
ra con người theo h́nh ảnh của ḿnh, các Đấng
Dhyanis đầu tiên chỉ c̣n biết cách phóng chiếu các
h́nh bóng của ḿnh ra, dùng làm khuôn mẫu tinh tế
để cho các Tinh Linh Ngũ Hành (Nature Spirits) vật
chất tác động vào đó. Không c̣n nghi ngờ ǵ
nữa là, xét về mặt vật chất, con người
đă được tạo ra từ cát bụi của
Địa Cầu, nhưng y có rất nhiều Đấng
sáng tạo. Người ta cũng không thể nói là
“Đức Chúa Trời phà Sinh khí vào lỗ mũi y”,
trừ phi Đức Chúa Trời này được
đồng nhất với “CUỘC SỐNG DUY NHẤT”
(“ONE LIFE”), vô sở bất tại mặc dù vẫn vô h́nh,
và trừ phi cũng tiến tŕnh ấy được gán
cho “Đức Chúa Trời” và mọi Linh Hồn sống động (living Soul), nó
vốn là Sinh Hồn (Vital Soul hay Nephesh), chứ không
phải là Tinh Thần Thiêng Liêng (Ruach), chỉ có nó mới
bảo đảm cho con người một mức
độ thiêng liêng bất tử mà không một con thú nào có
thể đạt được trong chu kỳ lâm phàm này.
Chính v́ những sự phân biệt kém thoả đáng
của người Do Thái, và bây giờ các nhà siêu h́nh
học Tây phương, họ không thể hiểu
được và v́ thế không thể chấp nhận
được một cái ǵ khác hơn là một con
người có ba phần – Tinh Thần, Linh Hồn và
Thể Xác (Spirit, Soul, Body) – nên “Sinh khí” (“Breath of Life”) đă bị
lầm lẫn với “Tinh Thần” bất tử.
Điều này cũng áp dụng trực tiếp cho các nhà
thần học Tin Lành khi dịch một vài câu thơ trong
quyển Phúc Âm ([533]),
họ đă hoàn toàn xuyên tạc ư nghĩa của nó.
Người ta đă dịch lộn là “gió thổi nơi
nào nó nghe thấy” thay v́ “tinh thần đi đến
nơi nào nó muốn” như trong nguyên bản, cũng như
trong bản dịch của giáo hội Đông phương
Hy Lạp.
Bác sĩ H. Pratt, tác giả thông thái và có tinh
thần triết học của quyển Các Khía Cạnh Mới Của Sự Sống đă
nhấn mạnh với
độc giả rằng, theo người Hebrews, Nephesh
Chaiah (linh hồn) :
273
…phát xuất
từ, hoặc được tạo ra do sự thấm
nhuần của tinh thần hay sinh khí, vào trong cơ thể
linh hoạt của con người và phải thay thế cho
tinh thần này trong cấu tạo đó của bản ngă -
đến nỗi mà tinh thần bị chuyển vào, bị
biến nhập vào linh hồn.
Theo ông, cơ thể con người phải
được coi như là một cái khuôn viên, trong đó và
từ đó, Linh Hồn (mà dường như ông trọng
vọng hơn Tinh Thần) phải phát triển. Xét về
mặt chức năng và
hoạt động, chắc chắn là Linh Hồn cao siêu
hơn, trong thế giới hăo huyền hữu hạn này.
Ông cho rằng Linh Hồn “rốt cuộc đă
được tạo ra từ cơ thể linh hoạt
của con người. Như vậy, tác giả
đồng nhất hoá “Tinh Thần” (Atma) với “Sinh khí”
không thôi. Các Huyền bí gia Đông phương sẽ
phản đối phát biểu này, v́ nó được
dựa vào quan niệm sai lầm cho rằng Prana và Atma, hay Jivatma, cũng như nhau. Tác
giả đă bênh vực luận chứng ấy bằng
cách chứng tỏ rằng đối với người
Hebrews, Hy Lạp thời xưa, thậm chí cả người
La Tinh nữa, Ruach, Pneuma và Spiritus có nghĩa là Khí (Wind) -
chắc chắn là đối với người Do Thái và
rất có thể đối với người Hy Lạp
và La Mă; từ ngữ Hy Lạp Anemos (Gió) và từ ngữ La
Tinh Animus (Linh Hồn) có một quan hệ khả nghi
với nhau.
C̣n lâu ta mới thấy được
điều này. Nhưng người ta khó ḷng mà t́m thấy
được một băi chiến trường chính
thống để quyết định vấn đề
này v́ Bác Sĩ Pratt dường như là một siêu h́nh gia
thực tiễn, một loại tín đồ Do Thái Bí giáo
thực nghiệm, trong khi các siêu h́nh gia Đông phương,
nhất là tín đồ phái Phệ Đàn Đà, toàn là theo
thuyết Duy Tâm. Các Huyền bí gia cũng thuộc về
phái Phệ Đàn Đà cực kỳ bí truyền, và
mặc dù họ gọi Sự Sống Duy Nhất (Parabraman)
là Đại Linh Khí (the Great Breath) và Cơn Gió Lốc
(Whirlwind), song họ đă tách rời hoàn toàn nguyên khí
thứ bảy với vật chất, và phủ nhận
rằng chẳng có liên hệ ǵ với vật chất.
Như vậy, triết lư về các liên
hệ tâm linh, tinh thần và trí tuệ của con
người với các cơ năng vật chất của
y hầu như rối mù lên. Hiện nay, chẳng ai
hiểu đúng được tâm lư học Ai Cập
cũng như Cổ Ấn Âu, người ta cũng không
thể lĩnh hội được chúng nếu không
chấp nhận phép phân chia ra làm bảy của Nội môn
bí giáo, hoặc ít ra là phép phân chia ra làm năm của phái
Phệ Đàn Đà, đối với các nguyên khí nội
tại của con người, nếu không chịu làm
như vậy, người ta sẽ không bao giờ quán
triệt được các quan hệ siêu h́nh và thuần tuư
tâm linh cũng như là về sinh lư giữa các Thiền
Định Đế Quân tức các Thiên Thần (Angels) trên
một cảnh giới và Nhân Loại trên một cảnh
giới khác. Đến nay, chưa có tác phẩm Nội môn
nào của người Ấn Âu Đông Phương đă
từng được xuất bản, nhưng chúng ta có
các cuộn giấy chỉ thảo của người Ai
Cập, chúng đề cập rơ ràng tới bảy nguyên khí,
hay “Bảy Linh Hồn của Con Người” (“the “Seven Soul
of Man”). Tử Vong Chân Kinh tŕnh
bày một danh sách hoàn chỉnh gồm những sự
biến thể mà mọi người quá cố đều
phải chịu, trong khi lột bỏ từng nguyên khí
một – v́ để cho rơ ràng, chúng ta đă được
thể hiện thành ra các thực thể hoặc các thể
tinh anh. Vả lại, ta phải nhắc nhở những
kẻ nào đang ra sức chứng tỏ rằng người
Cổ Ai Cập không hề dạy Thuyết Luân Hồi,
nhớ là, người ta bảo rằng Linh Hồn
(Chơn Ngă) đang sống trong Vĩnh Cửu: nó có tính
chất bất tử, đồng thời tồn tại
và biến mất với cái tàu Thái Dương, nghĩa là
trong chu kỳ thiết yếu. “Linh Hồn” này xuất lộ từ Tiaou (cơi
của Nguyên Nhân của Sự
Sống), ban ngày đến gặp người sống
trên trần thế c̣n ban
đêm lại quay về Tiaou. Điều này tŕnh bày
những kiếp luân hồi của Chơn Ngă ([534]).
274
H́nh bóng
(Shadow), tức Thể Phách (Astral Form), bị huỷ
diệt, bị Uraeus ngấu nghiến ([535])
các Manes (các vong linh) sẽ bị tiêu diệt, hai anh em sinh
đôi (Nguyên khí thứ Tư và thứ Năm) sẽ chia tay
nhau; nhưng con Chim Linh Hồn, con chim Én Thần Linh và Uraeus
của Ngọn Lửa (Manas và Atma-Buddhi) sẽ sống trong
vĩnh cửu v́ chúng là chồng của mẹ ḿnh.
Giữa nội môn bí giáo của người
Ấn Âu tức là Bà La Môn và Nội môn Bí giáo của
người Ai Cập, có một sự tương tự
gợi ư khác. Nội môn bí giáo của người Ấn Âu
gọi các vị Pitris là các “Nguyệt Tinh Quân” (“Lunar
Ancestors”) của loài người, c̣n người Ai Cập
tôn vị Nguyệt Thần (That-Esmun) là Tổ Phụ
đầu tiên của nhân loại.
Nguyệt Thần (Moon-God) này biểu lộ
Bảy quyền năng tự nhiên có trước y và
kết tinh nơi người y như là bảy linh hồn
mà y là kẻ biểu lộ trên cương vị Linh
Hồn Thứ Tám [v́ thế mới có bầu thế
giới thứ tám]… Bảy tia sáng của Heptakis hay Iao
của người Can Đê trên các tảng đá Ngộ
Đạo (Gnostic stones), cũng biểu lộ bảy linh
hồn ấy… Ta thấy h́nh dạng đầu tiên của
thất nguyên huyền bí hiện diện trên trời nơi
bảy ngôi sao lớn của Đại Hùng Tinh, cḥm sao mà
người Ai Cập gán cho Mẹ của Thời Gian và
của bảy Mănh Lực Ngũ Hành ([536]).
Mọi người Ấn Độ
đều biết rằng cḥm sao này tượng trưng
cho Bảy Thánh Hiền (Rishis) và được gọi là
Riksha và Chitrashikandin.
Ḍng nào giống nấy (Like alone produces like).
Trái Đất ban cho Con Người h́nh hài sắc
tướng, chư Thần Linh (Dhyanis) ban cho y năm nguyên
khí nội tại. H́nh bóng tâm linh, mà chư Thần Linh
thường là nguyên khí làm linh hoạt. TINH THẦN (Atma) là
đơn nhất và kết hợp mạch lạc. Nó không
ở trong Tiaou.
Thế Tiaou là cái ǵ vậy? Việc
thường xuyên ám chỉ nó trong Tử Vong Chân Kinh bao hàm một điều bí mật.
Tiaou là Con đường của Mặt Trời Đêm
(Night-Sun), hạ bán cầu, tức vùng địa ngục
của người Ai Cập, họ xác định nó
ở phía bị che khuất
của Mặt Trăng. Trong nội môn bí giáo của
họ, con người xuất phát từ Mặt Trăng -
vốn là một bí nhiệm tam phân, vừa thuộc về
thiên văn học, vừa thuộc về sinh lư học,
vừa có tính cách tâm linh; y trải qua toàn bộ chu kỳ
sống rồi lại trở về sinh quán, trước
khi xuất phát từ đó. Như thế, người ta
tŕnh bày là người quá cố tới phương Tây,
được Osiris phán xét, phục sinh thành thần Horus và
chu lưu quanh các bầu trời tinh đẩu (sidereal
heaven), đó là ẩn dụ việc y bị thấu
nhập vào Ra (Mặt Trời); rồi sau khi đă băng
qua Noot, Vực Thẳm ở trên Trời (the Celestial Abyss),
một lần nữa y lại quay về Tiaou; một
thấu nhập vào Osiris với tư cách là Thần của
sự sống và sự sinh sản, Ngài ngự trị
nơi Mặt Trăng.
275
Plutarch ([537])
có tŕnh bày người Ai Cập cử hành một lễ
gọi là “sự xâm nhập của Osiris vào Mặt
Trăng”. Trong quyển Nghi
Lễ (Ritual) ([538]),
người ta hứa hẹn là vẫn c̣n sự sống
sau khi chết; và sự đổi mới cuộc sống
được đặt dưới quyền bảo
trợ của Osiris-Lunus, v́ Mặt Trăng là biểu
tượng của sự tái sinh luân hồi, v́ cứ
mỗi tháng nó lại tăng trưởng, suy vi, tiêu vong và
tái xuất hiện. Trong quyển Dankmoe ([539])
có dạy: “Osiris Lunus đă giúp mi canh tân”. C̣n Sabekh nói với
Seti I: “Mi hăy canh tân ḿnh như Thần Lunus, khi c̣n là một
đứa bé” ([540]).
Nó c̣n được giải thích rơ rệt hơn trong
một cuộn giấy chỉ thảo ở Viện
Bảo Tàng Louvre ([541]):
“Các cặp và các cuộc thụ thai thật là đầy
dẫy khi người ta thấy Osiris Lunus trên trời vào
ngày đó”. Osiris dạy: “Mỗi chùm tia sáng đơn
độc rực rỡ của Mặt Trăng ơi! Ta
xuất phát từ hằng hà sa số các v́ tinh tú đang chu
lưu… Hăy mở Tiaou cho ta, cho Osiris N. Ta sẽ xuất phát
vào ban ngày để làm điều mà Ta phải thực
hiện trong đám sinh linh” ([542])
– nghĩa là tạo những sự thụ thai.
Osiris là “Thần biểu lộ nơi sự
sinh sản”, v́ cổ nhân c̣n biết nhiều hơn
những người thời nay về các tác dụng
huyền bí thật sự của nguyệt thể (lunar
body) đối với các điều bí mật về
sự thụ thai. Trong các hệ thống xưa nhất, ta
thấy Mặt Trăng luôn luôn là có nam tính. Như thế,
đối với người Ấn Độ, Soma là
một loại sở khanh Tinh Đẩu (sidereal Don Juan),
một “Thánh Vương”, một người cha (mặc dù
không chính thống) của Budha tức Minh Triết.
Điều này nhằm nói tới Huyền Linh Học,
một thứ minh triết được thu thập
nhờ hoàn toàn làm quen với bí mật của Mặt
Trăng, kể cả các bí mật của sự sinh
dục. Và sau này, khi Mặt Trăng có liên quan tới các
nữ thần như Diana, Isis, Artemis, Juno v.v… th́ sự liên
hệ này cũng là do sự quán triệt được
sinh lư học và nữ tính, về mặt thể xác cũng
như về mặt tâm linh ([543]).
Nhưng trước hết, Mặt Trời
và Mặt Trăng chỉ là những vị thần linh
hữu h́nh và có thể nói là có những tác dụng rành rành
về mặt tâm linh và sinh lư – Cha và Con – trong khi Không Gian hay
Không Trung (Space or Air) nói chung, tức cái Bầu trời
rộng mở mà người Ai Cập gọi là Noor,
lại là Tinh Thần hay Linh Khí (Spirit or Breath) ẩn tàng của
cả hai. “Cha và Con” có cùng các chức năng có thể thay
đổi lẫn nhau và cộng tác với nhau một cách
hài hoà nhằm tác dụng vào bản chất và nhân loại
trên trần thế; v́ vậy, tuy là Hai Thực Thể cá
biệt, họ được coi như là MỘT. Cả
hai đều là những bậc trượng phu và cả
hai đều có những công tác riêng biệt, mặc dù
kết hợp, nhằm tạo ra sự sinh sản của
Nhân Loại. Xét theo quan điểm vũ trụ và thiên
văn, có quá nhiều điều đă
276
được xem xét và diễn đạt
bằng ngôn từ biểu tượng, chúng đă trở
thành thần học và giáo điều trong các giống dân
mới đây của chúng ta. Nhưng đàng sau bức màn
biểu tượng Chiêm Tinh và Vũ Trụ này, có các Bí
nhiệm huyền linh về Nhân loại học và nguồn
gốc bản sơ của con người. Và về
vấn đề này, không một kiến thức nào về
các biểu tượng hay thậm chí không một ch́a khoá
nào để giải ngôn ngữ biểu tượng hậu đại hồng
thuỷ của người Do Thái, có thể giúp ích ǵ
được, ngoại trừ việc đề cập
tới cái đă được tŕnh bày trong các Thánh kinh công
truyền của nhiều nước, mặc dù đă
được che giấu một cách khéo léo, toàn bộ
những kiến thức này chẳng qua chỉ là một
phần nhỏ nhất của lịch sử sơ khai chân
chính của mỗi dân tộc; vả lại cũng như
trong Thánh kinh Hebrew, chúng thường chỉ đề
cập tới cuộc sống trần thế của con
người, chứ không phải là cuộc sống thiêng
liêng của quốc gia đó. Yếu tố tâm linh và tinh
thần ấy lại thuộc về các BÍ PHÁP (MYSTERIES) ([544])
và sự ĐIỂM ĐẠO (INITIATION). Có những
điều không bao giờ được ghi trên những
cuộn giấy, nhưng lại được khắc
trên những tảng đá hoặc trong những hầm
mộ dưới đất, chẳng hạn như trong
vùng Trung Á.
Tuy nhiên, có một dạo, toàn thể thế
giới đều hiểu biết như nhau, và con
người biết về nguồn gốc của ḿnh
nhiều hơn mức hiện nay; và như thế, họ
biết rằng mặc dù có thể đóng một vai tṛ
quan trọng trong sự cấu tạo và những sinh
trưởng của cơ thể con người, Mặt
Trời và Mặt Trăng không phải là các nguyên nhân
trực tiếp của việc y xuất hiện trên
Trần Thế (Earth); đó là v́ thực ra, các tác nhân này
chính là các Quyền năng thông tuệ và linh động mà
các nhà Huyền bí gọi là các Đế Quân.
Về vấn đề này, một học
giả vẫn từng hâm mộ Nội môn bí giáo Do Thái cho
ta biết rằng :
Kinh Kabalah nói
rơ rằng Elohim là một điều “trừu tượng
nói chung”, cái mà trong toán học ta gọi là “một hệ
số không đổi” (“a constant co-efficient”) hoặc là
“một hàm số tổng quát” (“a general function”), tham gia vào
mọi cấu trúc, không riêng cái nào; nghĩa là tỷ số
chung của 1 với 31415, các con số của Elohim và
của các Thần Linh Tinh Tú (Astro-Dhyanic).
Nhà Huyền bí Đông phương xin trả
lời điều này như sau: Đúng vậy, họ là
một điều trừu tượng đối với
các giác quan vật chất của ta. Tuy nhiên đối
với các tri giác tinh thần và nội linh nhăn của ta,
Elohim hoặc các Thần Linh (Dhyanis) cũng chẳng có ǵ
trừu tượng hơn linh hồn và tinh thần
của ta đối với chính chúng ta. Nếu bác bỏ
điều này, th́ cũng có nghĩa là bác bỏ
điều kia, v́ đó là Thực
Thể sinh tồn nơi chúng ta (the surviving Entity in us), một phần là phân thân
trực tiếp của các Thực Thể thiêng liêng ấy,
c̣n một phần chính là các
Thực Thể ấy. Có một điều chắc
chắn là người Do Thái hiểu rất rơ về
thuật phù thuỷ và nhiều mănh lực ác hại khác
nhau, nhưng ngoại trừ một vài bậc đại
tiên tri và linh thị như Daniel và Ezekiel – Enoch thuộc
về một giống dân xa xưa hơn với tư cách
là tính chất chung và không thuộc về bất kỳ
quốc gia nào, mà thuộc về tất cả - họ
chẳng biết bao nhiêu, và họ cũng chẳng bàn
tới Huyền bí học thiêng liêng thực sự;
đặc tính quốc gia của họ trái ngược
với bất cứ điều ǵ không có liên quan trực
tiếp tới các quyền lợi cá nhân bộ lạc và
dân tộc của họ - chứng kiến các bậc tiên
tri của chính họ và những lời nguyền rủa
được những vị ấy tuôn xối xả lên
“giống dân cứng cổ”. Nhưng ngay cả kinh Kabalah cũng vạch rơ sự
liên hệ trực tiếp giữa các Đấng Sephiroth
hoặc Elohim với con người.
277
Do đó, khi người ta chứng minh rằng
việc kinh Kabalah đồng
nhất hoá Jehovah với Binah (một Sephira nữ tính) c̣n
bao hàm một ư nghĩa bán huyền linh, th́ bấy giờ và
chỉ bấy giờ, các nhà Huyền linh học mới
sẵn sàng truyền thụ minh triết hoàn thiện cho tín
đồ Do Thái Bí giáo. Cho tới lúc đó, người ta
vẫn khẳng định rằng v́ Jehovah (theo ư nghĩa
trừu tượng là Thần Linh đang sống
động duy nhất) là một con số đơn
giản, một điều bịa đặt siêu h́nh và
chỉ là một thực tại khi được
đặt đúng chỗ với vai tṛ là một phân thân và
một Sephira, nên ta có quyền khẳng định rằng
kinh Zohar, điển h́nh là
kinh Bí Số, dù sao đi
nữa, cũng tŕnh bày thời nguyên thuỷ cùng một giáo
lư như chúng ta (nghĩa là khiến cho con người không
hề xuất phát như một Thiên Nhân duy nhất (one
Celestial Man), mà lại xuất phát từ một Nhóm gồm
Bảy Thiên Nhân, tức Thiên Thần, chẳng hạn
như trong Pymander, Tư Tưởng thiêng liêng)
trước khi mà các tín đồ Do Thái Bí giáo Thiên Chúa
đă xuyên tạc nó và họ vẫn c̣n tŕnh bày giáo lư
ấy.
3. KHI MỘT BIẾN THÀNH
HAI, TH̀ BỘI SỐ BA HIỆN RA (a). BA LÀ ([545])
MỘT; VÀ ĐÓ LÀ SỢI CHỈ CỦA CHÚNG TA, HỠI
ĐỆ TỬ, TRÁI TIM CỦA CÂY NGƯỜI (MAN-PLANT),
GỌI LÀ SAPTAPARNA (b).
(a) “Khi cái Một trở thành cái Hai, cái Ba
xuất hiện”, nghĩa là khi cái Một Trường
Cửu phản ánh vào cơi Biểu Lộ, th́ sự phản
ánh đó, tức là cái “Tia Sáng” phân hoá “Không Gian Thuỷ”
(“Water of Space”). Tử Vong Kinh dạy:
“Nhờ vào đại quyền năng của linh từ
của Ngôi Mặt Trời Trung Ương, nhờ vào ánh
quang huy chói lọi của Tia Sáng Nguyên Thuỷ (the Ray of
Primordial Light) xua tan mọi bóng đêm, Hỗn Mang không c̣n
nữa. Hỗn Mang biến thành thư hùng lưỡng tính,
c̣n Nước được Ánh Sáng ấp ủ và
Đấng Tam Phân được xạ ra như là
đứa con “đầu ḷng” của nó. Trong chu kỳ
ấy, “Ra [tức là Osiris Ptah] tạo ra Chân tay của chính
ḿnh [giống như Brahma] bằng cách tạo ra những
vị Thần được dùng để nhân cách hoá các
thời kỳ của Ngài” ([546]).
Thần Ra của người Ai Cập xuất phát từ
THÁI UYÊN (the DEEP), là Linh Hồn Vũ Trụ Thiêng Liêng
đang biểu lộ, Narayana (Purusha “ẩn tàng trong Tiên Thiên Khí và hiện diện trong
Dĩ Thái”) cũng vậy.
278
Đó là sự giải thích siêu h́nh, nói về
lúc bắt đầu Cơ tiến hoá, hoặc đúng
hơn là Thần phổ học (Theogony). Khi được
giải thích theo một quan điểm khác, ư nghĩa
của ĐOẠN KINH đề cập tới sự bí
mật của con người và nguồn gốc của y
c̣n khó hiểu hơn nữa. Đó là một quan niệm rơ
ràng về câu: “Cái Một trở thành Hai và kế đó
biến thành Ba”, người học đạo cần
phải thấu triệt ư nghĩa của cái gọi là
Cuộc Tuần Hoàn. Nếu tham khảo quyển Phật Giáo Bí Truyền – tác
phẩm đầu tiên để thử phác hoạ giáo lư
về nguồn gốc vũ trụ cổ sơ một
cách gần đúng – y sẽ thấy rằng một
Cuộc Tuần Hoàn có nghĩa là cuộc tiến hoá của
mọi loài khoáng thạch, thảo mộc và động
vật (gồm luôn cả loài người đứng
đầu loài động vật) trên bảy Bầu
thế giới của Dăy hành tinh hiện tại ([547])
trong suốt thời gian của một chu kỳ sinh
hoạt mà Ấn giáo gọi là “một Ngày của Brahma”. Tóm
lại, đó là một ṿng chu chuyển của cái “Bánh Xe
lớn”, (Dăy Hành Tinh chúng ta) gồm có bảy Bầu thế
giới, mỗi bầu thế giới này cũng
được gọi là “Bánh Xe” nhỏ riêng biệt. Khi
cuộc tiến hoá đă diễn ra trên cái đà đi
xuống để sáp nhập vào vật chất từ
Bầu A đến Bầu G, th́ đó là một Cuộc
Tuần Hoàn. Ở khoảng giữa của ṿng chu
chuyển thứ tư, tức là Cuộc Tuần Hoàn
hiện tại, “Cơ tiến hoá đă đạt tới
mức tột điểm của sự tiến bộ
vật chất, được thể hiện bằng con
người với một thể xác kiện toàn và từ
điểm đó trở đi, mới bắt đầu
diễn tŕnh tiến hoá về tinh thần”. Ta không cần
lặp lại tất cả những điều này, v́ nó
đă được giải thích tỉ mỉ trong
quyển Phật Giáo Bí
Truyền. Tuy nhiên, điều đă chỉ
được đề cập tới sơ sài (thế
mà chỉ một ít điều nói ra cũng làm lầm
lạc biết bao nhiêu người!) là nguồn gốc
của con người, và bây giờ, ta có thể soi sáng thêm
một chút nữa về điều này, chỉ đủ
cho ĐOẠN KINH trở nên dễ hiểu hơn, v́
diễn tŕnh này sẽ được giải thích tỉ
mỉ một cách chính thức trong Quyển 3 và 4.
Mỗi Cuộc Tuần Hoàn (trên nấc thang
đi xuống thấp) chỉ là sự tái diễn
dưới một h́nh thức cụ thể hơn của
Cuộc Tuần Hoàn trước đó, cũng như
mỗi Bầu thế giới chí đến Địa Cầu
là Bầu thứ Tư, là một sự tái diễn trong h́nh
thể đông đặc và vật chất hơn của
Bầu thanh nhẹ trước đó theo trật tự
nối tiếp nhau liên tục trong ba cơi cao hơn ([548]).
Trên đường thăng tiến của ṿng cung đi
lên, Cơ tiến hoá thăng hoa tính chất toàn diện
của vạn vật đưa nó lên ngang mức
độ của cơi giới trên đó nằm hai Bầu
song đôi đối diện nhau. Kết quả là khi trào
lưu tiến hoá đă đi đến Bầu thứ
bảy (của bất cứ Cuộc Tuần Hoàn nào), tính
chất mọi vật đang tiến hoá lại trở
về trạng thái cũ của nó như lúc khởi
điểm, nhưng mỗi lần như vậy, lại
có thêm một tŕnh độ mới và cao hơn trong
những trạng thái tâm thức. Như thế, cái gọi
là nguồn gốc con người trong cuộc tuần hoàn
hiện tại hay trong chu kỳ sinh hoạt trên Địa
Cầu, hẳn phải là ở cùng một vị trí trong
cùng một qui mô trật tự giống như trong Cuộc
Tuần Hoàn trước. Lại nữa, ta nên nhớ
rằng công việc của mỗi Cuộc Tuần Hoàn
được đặt dưới sự giám sát
điều khiển của một Nhóm các Đấng Sáng Tạo
hay Kiến Trúc khác nhau. Cũng y như thế, diễn tŕnh
tiến hoá của mỗi Bầu thế giới cũng
được đặt dưới sự trông nom, d́u
dắt của các Đấng Tạo Tác (Builders) hay Giám
Sứ (Watcchers) thuộc các đẳng cấp Thiền
Định Đế Quân khác nhau.
279
Như vậy, các Đấng Tạo Tác
trong đẳng cấp có sứ mạng sáng tạo nên con
người thuộc về một nhóm đặc biệt.
Chữ “sáng tạo” (“creator”) này không phải là một danh
từ chính xác mà chỉ để dùng tạm, v́ không
một tôn giáo nào tin tưởng nơi thuyết sáng
tạo từ chỗ hư vô như đạo Thiên Chúa và
Do Thái, mà là tin ở thuyết tiến hoá từ những
chất liệu đă có từ trước.
Nhóm này tạo nên con người sơ khai
(hăy c̣n là h́nh bóng chưa có thể xác tạm gọi là
“người bóng” (“shadowy man”) trong
Nói rơ hơn, một thực thể vô h́nh có
thể hiện diện trong xác phàm trên thế gian mà vẫn
không từ bỏ cương vị và chức vụ
của ḿnh trên cơi cao. Nếu cần phải giải thích
thêm, độc giả hăy nhớ lại những
trường hợp tương tự trong “Giáng ma học”
(“Spiritualism”), tuy rằng những trường hợp
đó rất hiếm. Ít nhất, hăy xét về tính chất
của những Thực Thể đă chuyển kiếp hay
đang tạm thời nhập xác đồng tử (các
“Vong linh”[“spirits”] thỉnh thoảng nhập xác các
đồng tử không phải là các Chơn Thần [Monads]
hay những nguyên khí cao của những nhân vật đă
bỏ xác). Một “vong linh” đó chỉ có thể là
hồn người chết bao bọc trong thể vía c̣n
vấn vương ở Cơi cảm dục [Elementaries],
hoặc là những vị hoá thân (Nirmanakaya). Cũng như
một vài người hoặc là do việc có một cơ
cấu đặc biệt, hoặc do việc thủ
đắc được kiến thức huyền bí, có
thể xuất hiện được trong thể “phách”
(“double”) trong khi xác thân của họ ở cách xa đó hàng
triệu dặm; cũng vậy, trong trường hợp
những Đấng Cao Cả điều này cũng có
thể xảy ra.
280
Xét về mặt triết học, con
người có h́nh dáng bên ngoài chỉ giống như
một động vật, chẳng hoàn thiện hơn bao
nhiêu so với vị Tổ Phụ giống như khỉ
của y trong cuộc Tuần Hoàn thứ Ba. Y là cơ
thể sống động, chứ không phải là một
thực thể linh động, v́ muốn nhận thức
được sự tồn tại, th́ cần phải có
ngă thức, một con vật chỉ có trực thức hay
bản năng. Cổ nhân hiểu điều này rơ rệt
đến nỗi mà ngay các tín đồ Do Thái Bí giáo
cũng coi linh hồn và sắc tướng như là hai
thực thể đối lập nhau. Trong quyển Các Khía Cạnh Mới của
Sự Sống, tác giả đă vạch rơ giáo lư của
Do Thái Bí giáo như sau:
Họ cho rằng xét về mặt chức
năng, tinh thần và vật chất có độ mờ
đục và tỷ trọng tương ứng, có khuynh
hướng cố kết; họ cũng cho rằng trong
t́nh trạng thoát xác, các vong linh được tạo ra
như vậy, được cấu tạo trên một qui
mô mà độ trong hoặc đục của tinh thần
hay vong linh chưa được tạo ra, được
mô phỏng theo đó. Họ cũng cho rằng trong khi hoá
thân, các vong linh này hấp dẫn, chiếm hữu,
đồng hoá tinh linh và tinh linh chất vốn có t́nh
trạng phù hợp với t́nh trạng của chính chúng… Do
đó, họ dạy rằng t́nh trạng của các vong linh
được tạo ra khác nhau rất nhiều, trong khi
thế giới tâm linh (spirit-world) và thế giới vật
chất (world of matter) kết hợp sâu xa với nhau, các
vong linh mờ đục đang thoát xác, bị thu hút
về phía những vùng thô trược của thế
giới vật chất, và do đó, hướng về trung
tâm của địa cầu, ở đó, họ t́m
thấy hoàn cảnh thích hợp nhất với t́nh
trạng của họ; trong khi đó, các vong linh trong
suốt (transparent spirits) chuyển sang bầu hào quang hành
tinh, các vong linh trong sạch nhất ngự nơi mặt
trăng ([549]).
Điều này chỉ liên quan độc
nhất đến các Tinh Linh (Elemental Spirits), chứ không
dính dáng ǵ đến các Mănh Lực Thông Tuệ Hành Tinh, Tinh
Thần, Tinh Đẩu, Vũ Trụ hoặc Liên Dĩ Thái
(Inter-Etheric), tức là các “Thiên Thần” (Angels) theo lối
nói của Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mă. Các tín đồ Do
Thái Bí giáo, nhất là các Huyền bí gia thực hành chuyên lo
về pháp thuật nghi lễ, chỉ quan tâm tới các vong
linh của các hành tinh và cái gọi là các “Tinh Linh”
(“Elementals”). Do đó, đoạn nêu trên chỉ bao hàm
một phần của Nội môn bí giáo.
Linh Hồn (Soul) có hiện thể là thể
phách (astral) có thể chết đi mà con người
vẫn c̣n sống trên trần thế. Điều này có
nghĩa là linh hồn có thể cao chạy xa bay và rời
khỏi tổ ấm của ḿnh v́ nhiều lư do, chẳng
hạn như v́ điên, hoặc v́ tinh thần hay thể
xác bị suy đồi v.v.. Sự việc “Linh Hồn”,
nghĩa là Chơn Ngă Tâm Linh vĩnh cửu, ngự nơi
các thế giới vô h́nh, trong khi h́nh hài sắc tướng
vẫn tiếp tục sống trên Trần Thế, là
một giáo lư vô cùng huyền bí, nhất là trong Triết
học Trung Quốc và Phật giáo. Có biết bao nhiêu kẻ
không có linh hồn giữa
chúng ta (soulless men amongus),
bởi v́ trường hợp này chẳng những xảy ra
đối với kẻ duy vật độc ác (wicked
materialists) mà c̣n xảy ra cả những “bậc thánh
thiện không c̣n vướng ṿng tục luỵ, không c̣n tái
sinh luân hồi nữa” ([550]).
281
Do đó, v́ không có thể xác ngăn trở
nữa nên các Đấng Thần Quân (Dhyanis) c̣n có thể
thực hiện hoàn hảo hơn những ǵ mà
người sống (điểm đạo đồ) có
thể thực hiện được. Đây là niềm
tin tưởng của những người sống
trước thời đại hồng thuỷ
(Antediluvians), nó đă nhanh chóng biến thành niềm tin
tưởng vào “Giáng ma học” của giới trí thức
hiện đại, họ cũng tin tưởng vào các Giáo
Hội La Mă và Hy Lạp vốn dạy rằng các thiên
thần của họ hiện diện khắp mọi
nơi. Các tín đồ Bái Hoả giáo xem các Đấng Amshaspends
của ḿnh như là các thực thể lưỡng phân
(Ferouers), và áp dụng lưỡng nguyên này – ít ra là trong
Nội môn bí giáo – cho mọi cư dân thiêng liêng và vô h́nh
của vô số bầu thế giới hữu h́nh trong không
gian. Ta thấy bằng chứng hùng hồn của tính
chất đại đồng thế giới của giáo
lư này trong một chú giải của Damascius (thế kỷ
thứ 6) về các Sấm giảng (Oracles) của người
Can Đê; ông dạy: “Trong các Sấm giảng này, bảy
Đấng Kiến Tạo Thế Giới [các Cột
Trụ của Thế Giới] mà Thánh Paul cũng có
đề cập tới, chia ra làm hai nhóm, một nhóm có
nhiệm vụ cai quản các thượng giới, (các
thế giới tinh thần và tinh đẩu), c̣n nhóm kia chỉ
đạo và giám sát các thế giới vật chất”.
Đó cũng là quan niệm của Iamblichus, ông đă phân
biệt rơ rệt các Tổng Thiên Thần (Archangels) với
các Đấng Archontes ([551]).
Điều trên có thể được áp
dụng cho sự phân biệt giữa các cấp
đẳng các Đấng Thiêng Liêng và Giáo Hội Thiên Chúa
giáo La Mă đang ra sức thuyết giảng sự dị
biệt theo ư nghĩa này. Đó là v́ trong khi dạy rằng
các Tổng Thiên Thần là thiêng liêng thánh thiện, nó lại
tố cáo các “H́nh Bóng” (“Doubles”) của các Ngài là Ma Quỷ.
Nhưng ta không được hiểu từ ngữ Ferouer
theo ư nghĩa này, v́ nó chỉ có nghĩa là phương
diện đối nghịch của một thuộc tính
hoặc tính chất nào đó. Như vậy, khi nhà Huyền
linh học bảo rằng “Ma Quỷ là mặt trái của
Thượng Đế” - điều ác là mặt trái
của tấm huy chương – y không hề có ư muốn nói
rằng đó là hai thực tại riêng biệt, song y
chỉ nhằm nói tới hai phương diện của
cùng một Thực Thể duy nhất. Thế nhưng, khi
được so sánh sát cánh với một Tổng Thiên
Thần – như thần học đă mô tả - con
người đức hạnh nhất lại
dường như ma quỷ. Do đó, người ta
cũng đâu phải là không có lư khi xem thường
một “H́nh bóng hạ đẳng”, nó đă ch́m sâu vào trong
vật chất hơn Đấng Nguyên Thuỷ. Nhưng
cũng chẳng có bao nhiêu lư do để xem chúng như Ma
Quỷ, và đây chính là cái mà các tín đồ Thiên Chúa giáo La
Mă cứ khăng khăng chủ trương, bất
chấp cả lư luận lẫn lư trí.
Sự đồng nhất giữa Tinh
Thần và “H́nh Bóng” vật chất (material “Double”) của nó
– nơi con người th́ ngược lại – c̣n giải
thích rành mạch hơn sự lẫn lộn (đă từng
được ám chỉ trong tác phẩm này) về các danh
xưng và tung tích cũng như số mục của các
Đấng Thánh Triết và các Đấng Prajapatis; nhất
là các thứ trên Chu kỳ Chánh pháp (Satya Yuga) và Thời
kỳ Mahabharata. Nó cũng minh giải thêm nữa về
điều mà Giáo Lư Bí Truyền giảng dạy về các
vị Bàn Cổ của các Dăy Hành Tinh và các Cuộc tuần
hoàn. Bề trên dạy ta rằng chẳng những các
Tổ Phụ của chính nhân loại, mà ngay cả mọi
người cũng đều có nguyên kiểu của ḿnh
ở trong các cơi Tinh Thần, nguyên kiểu này là bản
thể cao siêu nhất của Nguyên Khí Thứ Bảy
của y. Như thế, bảy vị Bàn Cổ biến
thành mười bốn vị. Đấng Bàn Cổ
của giống dân chính là Nguyên nhân bản sơ, c̣n
Đấng Bàn Cổ của Cuộc tuần hoàn là hiệu
quả của nó, và từ Chu kỳ Chánh pháp (giai
đoạn một) cho tới thời kỳ Mahabharata,
số lượng các Đấng Thánh Hiền hoặc Bàn
Cổ này lên tới hai mươi mốt vị.
282
(b) Câu kết của đoạn kinh này chỉ
rằng thời cổ xưa nhất đă có sự tin
tưởng và giáo lư dạy về thành phần bảy
thể của con người. “Sợi chỉ sinh tồn”
đang thức động con người và đang đi
xuyên qua tất cả những phàm ngă hay tất cả những
kiếp tái sinh của y trên thế gian, là lời nói ẩn
dụ chỉ đường kim quang. Vả lại, đó
là sợi chỉ xỏ qua tất cả mọi “Chơn
Linh” của y, nó được kết bằng tinh hoa
của “Tam”, “Tứ” và “Ngũ” vốn là hàm súc tất
cả như đă nói trên. Theo Padma
Purana, Panchashikha ([552])
là một trong bảy Đấng
Thiên Tôn (the seven Kumaras) đi tới Bạch
Đảo (Shveta Dvipa) để tôn thờ Vishnu. Sau này,
chúng ta sẽ thấy các thế nhân có liên hệ như
thế nào với các đứa Con trai trinh nguyên và vẫn
“độc thân” (“celibate”) của Phạm Thiên, họ
cứ khăng khăng không chịu sinh sôi nảy nở”.
Trong khi đó hiển nhiên là “Cây Người” (“Saptaparna”)
nhằm nói tới bảy nguyên khí, và con người
được so sánh với cái cây có bảy lá, nó thật
vô cùng thiêng liêng đối với các Phật tử. Trong Tử Vong Kinh của Ai
Cập, cái chuyện ẩn dụ liên quan tới “sự
khen thưởng Linh Hồn” đă ám chỉ giáo lư thất
phân của ta một cách thật là gợi ư cũng như
thi vị. Người quá cố được cấp cho
một mảnh đất trong cánh đồng Aanroo,
những h́nh bóng được thần thánh hoá của
kẻ quá cố (Manes) gặt hái những ǵ mà họ đă
gieo bằng chính các hành động của họ buổi
sinh thời, trong cánh đồng đó, họ thu hoạch
được lúa cao bảy cubits, nó mọc trong một khu
đất chia thành bảy và mười bốn. Lúa này là
thực phẩm mà họ sẽ dùng để nuôi thân và phát
triển, hoặc nó sẽ giết chết họ nơi
Amenti, cơi mà cánh đồng Aanroo là một địa
hạt. Đó là v́, người quá cố hoặc là bị
tiêu diệt trong đó, hoặc sẽ trở thành tinh
thần thanh khiết măi măi do kết quả của
“bảy lần bảy mươi bảy kiếp sống”
(“seven times seventy-seven lives”) đă qua, hoặc phải
trải qua trên Trần Thế. Ư niệm gặt lúa với
vai tṛ là “kết quả của các hành động của
chúng ta” thật là gợi h́nh.
4. ĐÓ LÀ CỘI RỄ
BẤT TỬ, LÀ LỬA CÓ BA NGỌN CỦA BỐN TIM
BẤC (a)… CÁC TIM BẤC NÀY LÀ NHỮNG ĐỐM LỬA
PHÁT SINH TỪ LỬA CÓ BA NGỌN ([553])
DO BẢY PHÓNG RA, NGỌN LỬA CỦA CHÚNG; NHỮNG TIA
LỬA VÀ ĐỐM LỬA (THE BEAMS AND SPARKS) CỦA
MỘT MẶT TRĂNG ĐƯỢC PHẢN CHIẾU TRÊN
NHỮNG LÀN SÓNG NHẤP NHÔ CỦA MỌI SÔNG NG̉I TRÊN
ĐỊA CẦU ([554])
(b).
(a) “Lửa ba ngọn bất tử”
(“Three-tongued Flame that never dies”) là Tam Thể Thượng tâm
linh bất diệt hay Tiên Thể (Atma) Kim Thân (Buddhi, c̣n
dịch là Tuệ giác thể) và Thượng Trí (Manas), hay
đúng hơn là sự đơm bông kết trái của thượng
trí được Tiên Thể và Tuệ Giác đồng hoá
sau mỗi kiếp sống ở cơi trần. “Bốn Tim
Bấc” (“Four Wicks”) đă bị tắt lửa là bốn
nguyên khí thấp, gồm luôn cả thể xác con
người.
283
Người quá cố nói: “Ta là Lửa Ba
Ngọn, c̣n các Tim Bấc của ta thật là bất
tử. Ta nhập vào cơi của Sekhem [Vị Thần vung tay
gieo hạt giống hành động mà linh hồn thoát xác
đă tạo ra], ta nhập vào vùng của các Ngọn
Lửa đă huỷ diệt các đối thủ của
ḿnh, nghĩa là, tiêu diệt Bốn Tim Bấc đă tạo
ra tội lỗi ([555]).
[“Lửa Ba ngọn của Bốn Tim
Bấc” tương ứng với bốn Nhất Nguyên và
ba Lưỡng Nguyên của cây Sephiroth].
(b) Cũng như hàng tỷ đốm lửa
sáng nhảy nhót trên mặt nước của đại
dương, trên đó chỉ có một ánh trăng chiếu
rạng; các Phàm ngă giả tạm của chúng ta, tức những
hạ thể hữu hoại của CHƠN THẦN và
CHƠN NHƠN bất diệt, cũng ẩn hiện
chập chờn, vô định trên luồng sóng của
Ảo giác (Maya). Chúng xuất hiện và trụ một
thời gian; cũng như hàng ngh́n đốm sáng do ánh
trăng gây nên, và chỉ tồn tại bao lâu mà Chị
Hằng (the Queen of the Night) c̣n toả ánh sáng huy hoàng trên
những “Ḍng Nước Cuộn” (“Running [Waves] waters”)
của Sự Sống, thời gian của một Chu kỳ
Khai Nguyên (Mavantara). Và sau đó, chúng sẽ biến mất
chỉ c̣n lại những “Tia Sáng” (“Beams”), biểu
tượng của Chơn Nhơn và tâm linh bất diệt
là c̣n sống sót, và tái nhập làm một với nguồn
gốc Mẹ của Vạn Vật (Mother-Source).
5.
ĐỐM LỬA TREO LƠ LỬNG DƯỚI NGỌN LỬA BẰNG SỢI CHỈ MẢNH
MAI NHẤT CỦA VÔ CỰC DIỆN (FOHAT). NÓ CHU DU (JOURNEYS)
XUYÊN QUA BẢY THẾ GIỚI ẢO TƯỞNG (a). NÓ
NGỪNG LẠI Ở LOÀI THỨ NHẤT ([556]),
VÀ NÓ LÀ KHOÁNG THẠCH (A MENTAL AND A STONE); NÓ ĐI VÀO LOÀI
THỨ HAI ([557])
VÀ TRỞ THÀNH THẢO MỘC; THẢO MỘC XOAY QUA
BẢY V̉NG THAY ĐỔI, TRỞ THÀNH CON THÚ LINH ([558])
(b).
TỪ NHỮNG
ĐẶC TÍNH PHỐI HỢP CỦA NHỮNG CÁI VỪA
KỂ, MANU ([559]),
CON NGƯỜI BIẾT SUY TƯỞNG ĐƯỢC H̀NH
THÀNH.
AI TẠO RA Y? CHÍNH LÀ
BẢY SỰ SỐNG VÀ MỘT SỰ SỐNG (ONE LIFE). AI
HOÀN THÀNH NÊN Y? CHÍNH LÀ NĂM VỊ LHA (THE FIVEFOLD LHA). AI LÀM CHO
H̀NH HÀI TRỞ NÊN HOÀN HẢO ? LOÀI CÁ (FISH). TỘI LỖI
(SIN) VÀ XÁC THÂN (SOMA) (d) ([560]).
Câu “xuyên qua Bảy Thế Giới của
Ảo Giác” ở đây là nói về bảy Bầu của
Dăy Hành Tinh và bảy Cuộc Tuần Hoàn hay bốn
mươi chín trạm sinh hoạt tích cực có
trước “Đốm Sáng” hay Chơn Thần (Monad) vào lúc
khởi đầu mỗi Chu Kỳ Khai Nguyên. “Sợi
chỉ điện lực Fohat” là Đường Kim Quang
nói trên.
Điều này
có liên quan đến một vấn đề triết
học khó khăn nhất, tức là tính chất vật
thể hữu h́nh của Sự Sống, tính chất
độc lập của nó bị khoa học hiện
đại phủ nhận bởi v́ khoa học không thể
hiểu được cái tính chất đó. Chỉ có
những người tin tưởng ở thuyết luân
hồi mới nhận thức một cách mơ màng
rằng toàn bộ bí ẩn của sự sống vốn
nằm trong những hiện tượng biểu lộ
liên tục dù là ở trong hay ở ngoài xác thân vật
chất hữu h́nh. Đó là v́ cho dù:
“Sự sống làm ô nhiễm
ánh quang huy trinh bạch của vĩnh cửu.
Giống
như một mái ṿm bằng thuỷ tinh nhiều màu.
Shelley, Adonais.
284
song bản thân nó vẫn là một phần tử
của Thời Gian Vĩnh Cửu ấy, bởi v́ chỉ
có Sự Sống mới hiểu được Sự
Sống.
Cái “Đốm Lửa vốn treo lơ
lửng từ Ngọn Lửa” đó là ǵ? Đó là JIVA,
tức là điểm Chơn Thần phối hợp
với Trí Tuệ, hay đúng hơn là cái hương vị
của nó, cái c̣n sót lại từ mỗi phàm ngă, nếu
đó là một phàm ngă tốt lành xứng đáng và treo
lơ lửng từ Atma-Buddhi, tức Ngọn Lửa, do
Đường Kim Quang. Dù được diễn
đạt bằng cách nào và dù quan niệm con người
gồm có bao nhiêu nguyên khí, người ta cũng có thể
chứng minh dễ dàng rằng giáo điều này đă
được xác nhận bởi tất cả những
tôn giáo cổ, từ Veda của Ấn Độ
đến Ai Cập giáo, từ Hoả giáo đến Do
Thái giáo. Trong trường hợp vừa nêu trên, các tác
phẩm của Do Thái Bí giáo đă minh chứng hùng hồn
cho phát biểu này. Toàn bộ hệ thống số mục
của Do Thái Bí giáo đều dựa trên Thất nguyên
Thiêng liêng treo lơ lửng từ Tam Nguyên, thế là
hợp thành Nhị Nguyên và các hoán vị 7, 5, 4 và 3 và sau
rốt tất cả lại hoà nhập vào chính Nhất
Nguyên, thật đúng là một ṿng tṛn vô biên.
Kinh Zohar
dạy:
Đấng Thánh
Linh [Bản Lai Diện Mục hằng vô h́nh] biểu
lộ thông qua mười Sephiroth, đó là những phân thân
minh chứng cho Ngài. Đấng Thánh Linh chẳng khác nào
biển cả vốn là nơi phát nguyên ra một ḍng
suối có tên là MINH TRIẾT, nước suối Minh
Triết chảy vào cái hồ được mệnh danh là
TRÍ TUỆ. Bảy Sephiroth phát xuất từ hồ chứa
chẳng khác nào bảy con kênh … Ấy là mười
bằng bảy : Thập Nguyên bao hàm bốn Nhất Nguyên và
ba Lưỡng Nguyên.
Mười Sephiroth tương ứng
với Tứ Chi CON NGƯỜI.
Khi Ta [Elohim]
đào luyện ra Adam Kadmon, Tinh Thần của Đấng
Vĩnh Cửu xạ ra khỏi cơ thể của Ngài,
chẳng khác nào một tia chớp ngay tức khắc loé lên
những lượn sóng cả của bảy triệu
bầu trời, thế là mười vẻ Huy Hoàng của
Ta biến thành Tứ Chi của y.
Nhưng thiên hạ đừng ḥng thấy
được Đầu và Vai của Adam Kadmon. Do đó,
trong Siphra Dzennioutha (Bí
Nhiệm của Thánh Thư) mới có đoạn sau
đây:
Thoạt kỳ
thuỷ, sau khi Elohim [các “Phân thân của Ánh Sáng và Sự
Sống” tức các Đấng Kiến Tạo] đă khai
thiên tịch địa từ Bản Thể vĩnh
cửu, các Ngài tạo ra từng sáu thế giới một.
Bầu thứ bảy là Malkuth, tức Địa cầu ([561])
trên cảnh giới riêng của ḿnh, cảnh giới
tồn tại hữu thức thấp nhất. Quyển Số Mục Thánh Thư
của dân Chaldea có một đoạn giải thích tỉ
mỉ tất cả những điều này.
Người ta đừng ḥng thấy
được Tam Nguyên bản sơ của cơ thể
của Adam Kadmon [ba cảnh giới cao trong số bảy
cảnh giới] ([562])
trước khi Linh Hồn diện kiến Đấng Vô
Lượng Thọ.
285
Sephiroth của Tam nguyên thượng này là : “ (1)
Kether (Vương miện),
được tượng trưng bằng cái trán của
Đại Dung (Macroprosopus); (2) Chokmah
(Minh Triết, một nguyên khí dương)
được tượng trưng bằng vai phải
của Ngài; và (3) Binah (Trí
Tuệ, một nguyên khí âm) được tượng
trưng bằng vai trái của Ngài”. Rồi tới bảy Tay Chân (Sephiroth) trên các
cảnh giới biểu lộ; toàn thể bốn cảnh
giới này được tượng trưng bằng Tiểu Dung (Microprosopus)
tức Tứ Linh Tự Bí Nhiệm (the “four-lettered” Mystery).
“Bảy Tay Chân biểu
lộ và ba Tay Chân ẩn tàng
là Cơ Thể của Đấng Thánh Linh”.
Như vậy, Trái Đất (Malkuth) vừa
là Bầu Thế Giới thứ
bảy, vừa là Bầu Thế Giới thứ tư; nó là Bầu thứ bảy khi tính
từ Bầu thứ nhất trở lên, nó là Bầu
thứ tư khi tính theo các cảnh giới. Nó
được sản sinh ra bầu thứ sáu hay Sephira, gọi
là Yesod (Nền tảng), hoặc, nói theo Số Mục Thánh Thư, “bởi Yesod, Bậc
Trượng Phu {Adam Kadmon] đă khiến cho Heva [Eva tức
Trái Đất] nguyên sơ khai sinh sản. Khi
được tŕnh bày bằng ngôn ngữ huyền bí,
điều này giải thích tại sao Malkuth (vốn
được gọi là Thứ Mẫu, Matrona, Nữ Hoàng
của cơi cơ bản) lại được tŕnh bày là Vợ
mới cưới của Tứ Linh Tự (the Bride of
Tetragrammaton), tức Tiểu Dung (Thượng Đế
Ngôi Hai), Thiên Đế. Khi hoàn toàn vô nhiễm (nghĩa là vào
lúc có Giống dân thứ Bảy của cuộc Tuần Hoàn
thứ bảy), nàng sẽ hợp nhất với
Thượng Đế, sau khi đă phục sinh vào ngày
“SABBATH”. Ấy là v́ “Ngày Thứ
Bảy” lại có ư nghĩa huyền linh mà các nhà thần
học của ta chưa hề mơ ước tới.
Khi Matronitha (Từ Mẫu) đă
được cô lập ra và dần dần đến
tŕnh diện với Đấng Thánh Vương nhân ngày
lễ Sabbath, mọi thứ đều biến thành một
thể Duy Nhất” ([563]).
“Biến thành một thể duy nhất”
nghĩa là vạn vật lại được hấp thu
một lần nữa vào trong Nguyên Tố Duy Nhất.
Chơn Linh của con người biến thành Đấng
nhập Niết Bàn, c̣n các yếu tố khác nữa của
vạn hữu lại trở về trạng thái
trước kia (trạng thái Nguyên h́nh chất tức
chất liệu chưa biến phân). “Sabbath” có nghĩa là
Yên nghỉ, tức là Niết Bàn. Nó không phải là “ngày thứ bảy” sau sáu ngày, mà lại là một
thời kỳ dài bảy “ngày” hoặc bất cứ
thời kỳ nào gồm có bảy phần. Như vậy,
một chu kỳ Qui Nguyên dài bằng một chu kỳ Khai
Nguyên, tức là một Đêm của Phạm Thiên dài
bằng một Ngày của Phạm Thiên. Nếu các tín
đồ Thiên Chúa giáo muốn noi theo tập tục của
Do Thái giáo, họ chỉ nên chấp nhận tinh thần
của nó, chứ đừng nên chấp nê văn tự. Họ
nên làm việc một tuần bảy ngày rồi nghỉ bảy ngày. Việc
Đức Jesus tỏ ra xem thường ngày Sabbath, cùng
với những điều được tŕnh bày trong Thánh Thư Luke ([564]),
đă chứng tỏ rằng từ ngữ “Sabbath” có
một ư nghĩa bí nhiệm. Trong đoạn đó, Sabbath
được xem như là trọn
tuần lễ. Cứ thử xem bản văn bằng
tiếng Hy Lạp, ta sẽ thấy rằng tuần lễ
được gọi là “Sabbath”. Nguyên văn “Tôi nhịn
ăn hai lần trong một kỳ Sabbath”. Thánh Paul (một
Điểm đạo đồ) hẳn biết thừa
điều này khi coi Sabbath là sự nghỉ ngơi chí phúc
đời đời trên Thiên Đàng([565]):
“và họ sẽ hạnh phúc đời đời v́ họ
sẽ măi măi hợp nhất với Đức Chúa Trời
và sẽ hưởng một kỳ
Sabbath vĩnh cửu”([566]).
286
Thật ra, kinh Kabalah
và Nội môn bí giáo – xem kinh Kabalah
là phần bao hàm trong Số
Mục Thánh Thư của dân Chaldea, chứ không phải
là bản kinh Kabalah nay đă
bị xuyên tạc của các nhà thần bí học Thiên Chúa
giáo – cũng chẳng khác bao nhiêu, chúng bất quá chỉ khác
nhau về mặt h́nh thức và cách diễn đạt.
Như vậy, Huyền linh học Đông phương coi
Trái Đất là Bầu Thế Giới Thứ Tư,
bầu thấp nhất của Dăy Hành tinh, hai bên là sáu
Bầu phân bố trên các đường cong, mỗi bên ba
bầu. Mặt khác, kinh Zohar xem
Trái Đất là bầu thấp nhất, bầu thứ bảy; nó c̣n dạy
thêm rằng tất cả mọi điều trong đó
(Tiểu Dung) đều tuỳ thuộc vào sáu bầu.
Quyển kinh trên cũng dạy: “Tiểu Dung (tiểu v́
biểu lộ và hữu hạn) gồm có sáu Sephiroth”.
“Bảy Thánh Vương đă giáng lâm và tiêu vong trong Bầu Thế Giới bị huỷ
diệt ba lần [Malkuth, tức Trái Đất, bị
huỷ diệt sau mỗi một trong Ba Cuộc Tuần
Hoàn mà nó đă trải qua]. Và sự trị v́ của
Bảy Thánh Vương đă bị sụp đổ” ([567]).
Điều này liên hệ tới Bảy Giống dân, trong
đó năm giống dân
đă xuất hiện rồi, c̣n hai giống dân nữa sẽ xuất hiện trong
Cuộc Tuần Hoàn này.
Ở Nhật, những chuyện ẩn
dụ của Thần Đạo bàn về nguồn gốc
của vũ trụ và con người cũng ám chỉ
một sự tin tưởng như vậy.
Sau gần chín năm nghiên cứu tôn giáo là
nền tảng của nhiều giáo phái nơi các tu viện
ở Nhật, Đại Uư C. Pfoundes đă tuyên bố:
Thần Đạo quan niệm về sự
sáng tạo như sau : Địa Cầu (In), vốn là
cặn bă, được phóng ra từ Hỗn Mang (Kon-ton),
Thiên (Yo) vốn là bản chất tinh anh, thăng lên: Nhân (Man)
(Jin) xuất hiện giữa hai thứ. Người
đầu tiên được gọi là Kuni-to ko
tatchino-mikoto cùng với năm
danh hiệu khác, thế là loại người nam nữ
xuất hiện. Isanagi và Isanami sinh ra Tenshoko doijin, vị
Thần đầu tiên trong số năm vị Thổ
Thần.
Các “Thần Linh” (“Gods”) này chỉ là Năm
Giống dân, Isanagi và Isanami là hai loại Tổ Phụ, hai
giống dân trước đă sinh ra người thú và con
người có lư trí.
Trong quyển 3 và 4, ta sẽ chứng minh
rằng con số 7 cũng như thuyết “cấu tạo
thất phân của con người” đều là phần
chủ yếu trong mọi hệ thống bí nhiệm. Trong
kinh Kabalah của Tây phương, nó đóng một vai tṛ
quan trọng chẳng kém ǵ trong Huyền bí học của
Đông phương. Éliphas Lévi gọi số bảy là “ch́a
khoá giải bí nhiệm về sự sáng tạo của Moses
và về các biểu tượng của mọi tôn giáo”. Ông
tŕnh bày kinh Kabalah theo đúng phép phân chia con người ra
làm bảy phần, v́ đồ h́nh mà ông tŕnh bày trong
quyển Ch́a khoá giải các
Đại bí nhiệm ([568])
gồm có bảy phần. Chỉ cần nh́n sơ qua chúng
ta cũng thấy được điều này, cho dù ư
tưởng chính xác có được ngụy trang khéo léo
đến đâu đi nữa. Muốn t́m thấy
điều trên, (mặc dù đă được thuyết
minh khác đi), ta cũng chỉ cần xem xét đồ h́nh
“cấu tạo của linh hồn” trong “Vén màn bí mật kinh Kabalah” của Mathers đăng
trong tác phẩm nêu trên của Lévi.
287
ĐỒ
H̀NH IV
([569])
([570])
Kèm theo đồ h́nh là các danh hiệu
của cả kinh Kabalah lẫn Huyền bí học.
288
Nephesh đích thực là “Sinh Khí động
vật” được phà vào Adam, Con Người bằng
Cát Bụi; do đó, nó là Điểm Linh Quang, Nguyên Tố
phú linh. Không có Manas, “Linh Hồn biết suy lư” tức Trí
Tuệ mà đồ h́nh của Lévi đă gọi lầm là
Nephesh, Atma-Buddhi sẽ không có được lư trí trên
cảnh giới này và không thể tác dụng
được. Chính Buddhi mới là kẻ trung gian linh
động chứ không phải là Manas, “kẻ trung gian thông
tuệ giữa Tam Nguyên Thượng và Tứ Thể
Hạ”. Nhưng trong tác phẩm của Do Thái Bí giáo lại
có nhiều biến cải quái gở - đó là một
bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng thứ
văn chương ấy đă trở thành một sự
lộn xộn đáng tiếc. Ngoại trừ trong
trường hợp đặc biệt này để
chứng tỏ những điểm tương
đồng, chúng tôi nhất quyết không chấp nhận
phép phân loại đó.
Nay, chúng tôi xin tŕnh bày
dưới dạng bảng biểu những ǵ mà Éliphas Lévi
đă thận trọng phát biểu để giải thích
đồ h́nh của ḿnh và những ǵ mà Nội môn Bí giáo
giảng dạy, rồi, so sánh chúng với nhau. Lévi cũng
phân biệt Linh vật học Do Thái Bí giáo với Linh
vật học Huyền bí (Occult Pneumatics).
Tín đồ Do
Thái Bí giáo Éliphas Lévi dạy: |
Các nhà Thông Thiên
Học dạy: |
||
LINH VẬT HỌC DO THÁI BÍ GIÁO |
LINH VẬT HỌC NỘI MÔN |
||
1. Linh hồn
[hay Chơn Ngă- Ego] là một ánh sáng được bao
bọc; ánh sáng này có ba phần. |
1. Cũng
vậy; v́ đó chính là Atma-Buddhi- Manas. |
||
2. Neshamah - Tinh
Thần thuần tuư. |
2. Cũng
vậy ([571]) |
||
3. Ruach – Linh
Hồn hay Chơn Linh (Soul or Spirit). |
3. Linh Hồn
Thiêng Liêng (Spiritual Soul) |
||
4. Nephesh - kẻ trung gian linh
động (Plastic Mediator)([572]) |
4. Kẻ trung
gian giữa Tinh Thần và Phàm Nhơn, Trú sở của lư
trí (Reason), Trí Tuệ nơi Con người. |
||
5. Lớp
vỏ của Linh Hồn là vỏ bọc ngoài [thể]
của H́nh dáng [Thể Phách- astral Soul]. |
5. Đúng. |
||
289 |
6. Tiết
lộ toàn những điều vô ích. Sao không bảo
rằng Thể Phách phản
ánh con người tốt cũng như con người
xấu. Người nào không luôn luôn hướng về Tam
Thể Thượng th́ chắc chắn sẽ diệt
vong theo Tứ Thể Hạ. |
||
7. [H́nh bóng -
Cơ thể] |
7. Xác Phàm (the
Earthy Image) |
||
|
|||
LINH VẬT HỌC HUYỀN BÍ (Do Éliphas Lévi tŕnh bày) |
LINH VẬT HỌC HUYỀN BÍ (Do Nhà huyền bí tŕnh bày). |
||
1. Nephesh bất
tử v́ nó phục sinh bằng cách huỷ diệt h́nh hài
sắc tướng. [Nhưng Nephesh
(“Sinh khí” - “Breath of Life”) là do người ta gọi
lầm và làm cho môn sinh bối rối]. |
1. Manas
(Thượng Trí) bất tử, v́ sau
mỗi kiếp luân hồi, nó lại
cấp thêm cho Atma - Buddhi một thứ ǵ của chính ḿnh.
Do đó nó được đồng hoà với Chơn
Thần, chia sẻ tính bất tử của Chơn
Thần. |
||
2. Ruach tiến
triển nhờ vào sự tiến hoá của các ư
tưởng [!?] |
2. Buddhi có được tri
thức nhờ vào phần đóng góp của Thượng
Trí (Manas), khi con người chết đi sau mỗi
kiếp luân hồi mới. |
||
3. Neshama
tiến bộ mà không hề quên lăng hay bị huỷ
diệt. |
3. Atma chẳng tiến bộ,
chẳng nhớ mà cũng chẳng quên. Nó không thuộc
về cơi hồng trần: nó chẳng qua chỉ là Tia Sáng đời
đời chiếu diệu qua đêm đen Vật
chất – khi vật chất sẵn ḷng (willing). |
||
4. Linh Hồn có
ba trú sở (three dwellings) |
4. Linh Hồn –
xét chung như là Tam Nguyên Thượng - sinh hoạt trên ba Cơi (ngoài cơi thứ tư, cơi hồng
trần ra). Nó tồn tại trên cơi cao nhất trong ba cơi
đó. |
||
5. Các trú sở
này là: Cơi Thế Nhân (the Plan of Mortals),
Vườn Địa Đàng Cao và Vườn
Địa Đàng Thấp (the Superior Eden and the Inferior
Eden). |
5. Các trú sở
này là: Trần Thế dành cho phàm nhơn tức Sinh Hồn
(Animal Soul); Kama Loka (Dục Giới) Dành cho kẻ thoát xác
hoặc Ma h́nh của y (Shell); Cực Lạc dành cho
Tam Nguyên Thượng. |
||
290 |
6. Đúng. |
||
7. H́nh bóng
hữu hoại [Thể Phách- the Astral] ban cho Nephesh các
năng khiếu nhưng Ruach có thể thay thế cho
Nephesh (ô trược) này. H́nh bóng bị chế ngự theo
các linh cảm của Neshamah. |
7. Nhờ Kama
(Dục vọng) Thể Phách luôn luôn kéo Trí Tuệ
xuống cơi vật dục. Nhưng nếu Chơn Nhơn
hay Trí Tuệ ra sức vượt thoát khỏi hấp
lực trí mạng (the fatal
attraction) này và chuyển các hoài băo của ḿnh hướng về
Atma (Neshamah), th́ Buddhi (Ruach) sẽ chế ngự
được Trí Tuệ và mang nó lên cơi Tinh Thần
bất tử. |
Hiển nhiên là nhà Do Thái Bí giáo người
Pháp ấy hoặc là chưa quán triệt được
chân lư, hoặc là xuyên tạc nó cho phù hợp với các
mục tiêu của ḿnh. Thế mà khi bàn về cũng
đề tài ấy, ông ta lại dạy như sau, c̣n nhà
Huyền bí như chúng tôi cũng xin đáp lại nhà Do Thái
Bí giáo đă quá cố ấy và các môn đồ như sau:
1. Cơ thể
là khuôn mẫu của Nephesh;
Nephesh là khuôn mẫu của Ruach; Ruach là khuôn mẫu
của lớp vỏ của Neshamah. |
1. Cơ thể
tuân theo tánh bất thường, dù tốt hay xấu,
của Trí Tuệ; Trí
Tuệ cố gắng noi theo Ánh Sáng của Buddhi, nhưng
thường thất bại. Buddhi là khuôn mẫu của
“lớp vỏ” của Atma; v́ Atma không phải là h́nh hài
sắc tướng hoặc bất cứ thứ ǵ, và v́
Buddhi chỉ là Hiện Thể của nó theo nghĩa bóng. |
||
2.
Ánh Sáng [Linh Hồn] phàm hoá chính ḿnh khi khoác lấy [một
Sắc Tướng – with a Body]; và phàm ngă chỉ
trường tồn khi lớp vỏ đă hoàn hảo. |
2
Chơn Thần biến thành một Phàm ngă khi lâm phàm; phàm
ngă ấy vẫn c̣n lưu lại được một
điều ǵ đó nhờ Trí Tuệ, khi trí tuệ đă
đủ hoàn hảo để đồng hoá
được Buddhi. |
||
3.
Chư Thiên (Angels) đều ao ước được
thành người; một Con Người Hoàn Thiện,
một Người Trời (Man-God), c̣n cao hơn cả
Thiên Thần (Angels). |
3.
Đúng. |
||
291 |
4.
Mười bốn (14) vị Bàn Cổ trị v́ trong
một thời kỳ, một “Đại Kiếp” (“a
Great Age”) hay là một Ngày của Phạm Thiên (a Day of
Brahma). Sau đó là đến chu kỳ Hỗn Nguyên
(Pralaya) khi tất cả các Linh Hồn (Chơn Ngă)
đều nhập Niết Bàn. |
Đó là những đoạn xuyên tạc mô
phỏng theo Nội môn Bí giáo trong kinh Kabalah. Nhưng ta hăy trở lại câu 5 của
ĐOẠN KINH 7 ([573]).
(b) Một câu ngạn ngữ nổi
tiếng của huyền môn Kabalah nói rằng: “ một
tảng đá trở thành một cái cây, cái cây trở thành
một con thú, con thú trở thành một con người, con
người trở thành một siêu nhân và siêu nhân trở
thành Tiên Thánh (god)”. “Đốm Lửa” lần lượt làm
thức động tất cả mọi loài trước
khi nó phát triển nên một Siêu Nhân, mà sự dị
biệt với một người phàm thật vô cùng
lớn lao. Sáng Thế Kư khởi
đầu khoa nhân loại học của ḿnh một cách sai
lầm - hiển nhiên dùng để làm một bức b́nh
phong – nên chẳng đi đến đâu. Các chương
dẫn nhập của Sáng
Thế Kư chưa bao giờ được dự tính
dùng để tŕnh bày ngay cả một ẩn dụ xa
xăm về sự sáng tạo ra Trái Đất. Chúng bao hàm
một quan niệm siêu h́nh về thời kỳ vô hạn
nào đó trong vĩnh cửu, khi luật tiến hoá đă tạo
ra những toan tính liên miên – lúc tạo lập vũ trụ.
Kinh Zohar đă tŕnh bày
điều này một cách minh bạch như sau:
Có những Bầu Thế Giới xưa vô
h́nh, chúng chết yểu ngay khi mới cất tiếng chào
đời và được gọi là các Điểm Linh
Quang (Spark). Như vậy, khi đập sắt,
người thợ rèn đă làm cho các đốm lửa
bắn tung toé ra tứ phía. Các Điểm Linh Quang là các
bầu Thế Giới nguyên thuỷ, chúng không thể
tiếp tục v́ Đấng Thánh Thượng (Sephira)
vẫn chưa khoác lấy h́nh hài của ḿnh (bán thư bán
hùng hay đối lập giới tính) là Thánh Vương và
Nữ Vương (Sephira và Kadmon) và Bậc Sư
Trưởng vẫn chưa ra tay hành động” ([574]).
Đấng Vô Thượng (The Supreme)
đang thỉnh giáo cao kiến của vị kiến trúc
sư thế giới - Thượng Đế - về
sự sáng tạo.
Nếu Sáng
Thế Kư khởi đầu đúng cách, th́ người
ta ắt phải thấy trước hết là
“Đấng Thiên Đế” (“Heavenly Man”), Ngài tiến hoá
như là một đơn vị phức hợp gồm các
vị Thượng Đế (as a Compuond Unit of Logoi), sau
giấc ngủ hỗn nguyên - giấc ngủ gom các con
số rải rác trên các cơi hăo huyền lại thành một
chẳng khác nào các giọt thuỷ ngân riêng rẽ trên
một phiến sắt gom lại thành một khối – các
vị Thượng Đế lại xuất hiện toàn
bộ từ Đơn vị đó trên cương vị
là “Đấng Thư Hùng” (“Male and Female”) bản sơ
tức Adam Kadmon, Fiat Lux [Hăy có lấy Ánh Sáng] trong Thánh Kinh (Bible), như ta
hẳn đă thấy điều này rồi. Nhưng sự
biến hoá này không hề diễn ra trên Trái Đất hay
bất kỳ cảnh giới vật chất nào, mà lại
diễn ra trên những Thái Uyên (Depths) của sự biến
phân đầu tiên của Hỗn Nguyên Khí vĩnh cửu
(the eternal Root-Matter). Trên Trái Đất mới sinh ra của
ta, mọi sự việc lại diễn tiến khác
hẳn, Quyển Nữ Thần Isis Lộ Diện
(quyển II, trang 302) có tŕnh bày là trước hết,
điểm Chơn Thần hay Jiva do sự tác động
của Luật Tiến Hoá mà giáng xuống loài kim thạch
là h́nh thức vật chất thấp kém nhất. Sau
một chu kỳ tiến hoá xuyên qua bảy ṿng trong loài
khoáng thạch (hay là cái sẽ trở thành khoáng thạch
trong cuộc Tuần Hoàn thứ Tư), nó từ trong khoáng
chất ḅ ra dưới h́nh thức một cọng rêu.
Rồi từ đó, lại sau một chu kỳ tiến
hoá, trải qua tất cả mọi h́nh thức cây cỏ,
nó sẽ bước vào một giai đoạn mới
để trở nên cái mầm sống của loài
động vật và loài người. Tất cả
những diễn biến kể trên, cho đến cuộc
Tuần Hoàn thứ Ba, đều là vô sắc tướng
và vô tri giác. Đó là v́ điểm Chơn Thần (Jiva) không
thể gọi là Tinh Thần: nó là một Tia Sáng (Ray),
một Hơi Thở (a Breath) của ĐẤNG TUYỆT
ĐỐI (ABSOLUTE) hay Lư
Tuyệt Đối (Absoluteness) và sự Thuần
Nhất Tuyệt Đối (Absolute Homogeneity) vốn không có
liên hệ ǵ đến cái hữu hạn tương
đối, nên vẫn là vô thức trên cơi giới hiện tượng.
Bởi vậy, ngoài cái chất liệu cần thiết
để cấu tạo nên thể xác tương lai
của con người, Điểm Chơn Thần cần
có:
292
Một kiểu mẫu tâm linh để
làm khuôn mẫu cho sự tượng h́nh chất liệu
của thể xác.
Một tâm
thức thông tuệ để d́u dắt, hướng
dẫn sự tiến hoá và phát triển của nó.
Trong hai điều này, không điểm nào có
sẵn trong Điểm Chơn Thần thuần nhất hay
trong vật chất vô tri tuy vẫn có sự sống, “Cát
bụi Adam” cần được tiếp nhận hơi
thở của “Linh Hồn
của Sự Sống”; đó là hai Nguyên Khí trung gian,
tức là Sự Sống có tri
giác của động vật tính chưa biết suy
tư và Linh Hồn Con Người, v́ cái trước không
hợp lư nên không có cái sau. Chỉ khi nào từ một sinh
vật có tiềm năng thư hùng lưỡng tính
(androgyne), con người đă trở nên có sự phân chia
nam nữ, th́ y mới có được một linh hồn
cá thể hữu thức và hợp lư, tức “trí tuệ
của Elohim”. Để tiếp nhận trí khôn hữu thức,
biệt biện và cá thể này, con người phải
“ăn trái cấm” của sự Hiểu Biết, từ cái
Cây Thiện và Ác. Làm sao con người có thể sở
đắc được tất cả điều này?
Giáo lư Huyền môn dạy rằng trong khi Điểm
Chơn Thần đi theo ṿng xoáy từng chu kỳ mà giáng
xuống cơi vật chất, th́ chính những Đấng
Tinh Quân ấy (Elohim hay Pitris) - những vị Thiền
Định Đế Quân ở các đẳng cấp
thấp – cũng đang tiến hoá đồng thời với nó trên cơi tâm linh cao
cả hơn. Các vị này cũng tương đối
giáng xuống vật chất trên cơi tâm thức riêng của họ
sau khi đă đạt tới một điểm nào đó,
họ sẽ gặp Điểm Chơn Thần vô tri giác
nhập thế và giam hăm trong khối vật chất
nặng trược nhất. Sự hỗn hợp cả
hai tiềm năng Tinh Thần và Vật Chất sẽ
tạo nên cái biểu tượng ở hạ giới
của “Thiên Nhân” trong không gian tức CON NGƯỜI HOÀN
TOÀN (PERFECT MAN). Trong triết thuyết Số Luận,
người ta xem Purusha (Tinh Thần là đồ bỏ,
bất lực, trừ phi nó cưỡi trên vai Prakriti (Vật
Chất) - nếu bị bỏ mặc một ḿnh th́
Vật Chất cũng chỉ trơ trơ như phỗng
đá (senseless). Nhưng, trong Nội môn Bí giáo, người
ta lại xem chúng như là có ngôi thứ đàng hoàng. Tinh
Thần và Vật chất tuy vẫn là một và cùng chung
nguồn gốc, nhưng khi đă biểu lộ, phân hoá,
mỗi thứ liền bắt đầu diễn tŕnh
tiến hoá của nó theo những đường lối
tương phản đối nghịch nhau: Tinh Thần
lần lần giáng xuống để nhập vào Vật
Chất, Vật Chất từ từ thăng hoa để
trở về trạng thái nguyên thuỷ, tức trạng
thái của một chất liệu thuần Tâm Linh. Cả
hai đều bất khả phân, nhưng lại luôn luôn
chia rẽ. Trên cơi hồng trần, hai cực giống nhau
luôn luôn đẩy nhau, c̣n hai cực âm và dương luôn
luôn hút nhau. Luật lưỡng cực tương cầu
này cũng áp dụng cho Vật Chất và Tinh Thần, là hai
cực đối tượng của một nguyên chất
thuần nhất, tức là Nguyên Lư căn bản của
Vũ Trụ.
293
Bởi vậy, khi thời giờ đă
điểm cho Purusha (Tinh Thần dương) cưỡi
trên vai của Prakriti (Vật Chất âm) để cấu
tạo nên Con Người Hoàn Toàn (Perfect Man) – con
người sơ khai của Hai Giống dân rưỡi đầu tiên chỉ là con
người mới khởi đầu, lần lần
tiến hoá thành loại nhũ
động vật hoàn toàn nhất (the most perfect of mammals) - những
tổ tiên siêu phàm của y mới bước vào cơi
hồng trần cũng như những Đấng Pitris
đă bước vào cơi này trước họ để
tạo nên con người thể chất hay “người
thú” và chuyển kiếp trong hàng ngũ nhân loại. Như
vậy, hai phương thức sáng tạo nên “người
thú” và “con người thiêng liêng” khác nhau rất xa. Các
vị Tổ Phụ (Pitris) vốn có h́nh thể khinh thanh
như dĩ thái, tự phân thân ra thành muôn ngh́n thể,
gọi là “thể phách” (“double”) hay “hào quang” (“astral forms”) c̣n
mảnh mai tinh tế hơn nữa và giống y như các
Ngài ([575]).
Những thể này dùng làm chỗ cư trú đầu tiên
cho Điểm Chơn Thần, và làm cái chất liệu vô
tri giác với một kiểu mẫu bao bọc chung quanh
để làm cái khuôn cho thể xác tương lai của con
người. Nhưng Con
Người vẫn c̣n bất toàn. Từ Svayambhuva Manu ([576])-
Ngài là thuỷ tổ của bảy vị Bàn Cổ hay
Prajapatis bản sơ, mỗi vị Bàn Cổ này là thuỷ
tổ của một Giống dân người sơ khai -
xuống măi tới kinh Kodex
Nazaraeus – trong kinh này, Karabtanos hay Fetahil (Vật Chất
tham dục mù quáng) đă khiến cho Mẹ ḿnh (Spiritus, Tinh
Thần) sinh ra bảy Nhân Vật, mỗi nhân vật
đóng vai tṛ thuỷ tổ của một trong bảy
Giống dân sơ khai, giáo thuyết này đă chi phối
mạnh mẽ mọi Thánh kinh cổ sơ.
“Ai tạo nên Con Người và ai đă
tạo nên thể xác của nó? Đó là Sự Sống và
những h́nh thức Sinh Hoạt (the Life and the Lives), Tội
Lỗi ([577])
và Mặt Trăng”. Trong câu này, danh từ Con Người tâm
linh, siêu phàm tức là Chân Nhân tự tại và bất
diệt trong chúng ta, vốn là sự phóng xuất (emanation)
trực tiếp của “Sự Sống Duy Nhất” (“One
Life”) hay Thượng Đế Tuyệt Đối. C̣n
về phần thể xác của ta, chỗ dựng lên thánh
điện của Linh Hồn, Triết giáo dạy một
bài học kỳ cục đến nỗi mà nếu thiên
hạ c̣n chưa được giải thích cặn kẽ
và thấu triệt được nó, th́ chỉ có khoa
học chính xác trong tương lai mới đủ sức
biện minh trọn vẹn được thuyết này mà
thôi.
294
Trước đây đă có nói rằng
Huyền môn không chấp nhận bất cứ vật ǵ
không có cơ năng cơ phận (inorganic) trong Vũ
Trụ. Danh từ “chất vô cơ” (inorganic substance”) nhà
khoa học dùng chỉ có nghĩa là sự sống tiềm
ẩn trong những phân tử vật chất vô tri bất
động vốn không thể nhận biết bằng giác
quan thường. TẤT CẢ ĐỀU LÀ SỰ
SỐNG (ALL IS LIFE), chí đến mỗi nguyên tử
của một hạt bụi khoáng chất cũng chỉ
là một SINH VẬT (LIFE), mặc dù vượt ra ngoài tầm
hiểu biết của chúng ta, v́ nó c̣n ở ngoài phạm vi
của những định luật mà kẻ bác bỏ
Huyền bí học đă từng biết tới. Tyndall cho
rằng “Chính các nguyên tử dường như có một
bản năng là tính hiếu sinh”. Thế th́ chúng ta xin
hỏi “Cái khuynh hướng qui về dạng hữu
cơ ở đâu ra đây?” Nếu không chiếu theo giáo lư
Huyền bí học th́ liệu ta có cách nào giải thích
được nó không? Thiên b́nh luận viết:
Người phàm
tục cho rằng những bầu Thế Giới
được cấu tạo bằng các Nguyên Tố
(Elements). Bậc La Hán quan niệm rằng chính các Nguyên
Tố đó cũng là Sự Sống Thiêng Liêng và trên cơi
biểu lộ, đó là vô số Sinh Vật ([578]).
Trên cơi Nhất Nguyên; Lửa
tiên thiên là MỘT, nhưng trên cơi biểu lộ Nhị
Nguyên, tức là cơi sống trong ảo giác, những phân
tử của nó (its particles) là những sinh vật khác mà nó
đốt cháy. Bởi vậy, chúng được gọi
là “NHỮNG KẺ THIÊU ĐỐT” (“DEVOURERS”)… Mỗi
vật hữu h́nh trong vũ trụ đều
được cấu tạo bằng những SINH VẬT
(LIVES) đó, từ con người sơ khai, hữu
thức và thiêng liêng, chí đến những động
lực vô thức cấu tạo vật chất … Từ
SỰ SỐNG DUY NHẤT (ONE LIFE), vô sắc tướng,
bất sinh bất diệt, phát sinh ra Vũ Trụ của
mọi Sinh Vật (the Universe Of Lives). Thoạt tiên, từ
khối Hỗn Mang (Chaos)
mới biểu lộ ra lửa lạnh và sáng (ánh sáng
mờ ảo như chất hơi) h́nh thành những
chất Cô đọng (Curds) trong Không Gian [có lẽ là
khối tinh vân?]… Những chất cô đọng này va
chạm lẫn nhau, phát ra nhiệt lực và gây nên sự
vận chuyển xoay ṿng. Kế đó mới có sự
biểu lộ đầu tiên của Lửa Hậu Thiên
(VẬT CHẤT), những Ngọn Lửa nóng, những Sao
Chổi [Comets] trên không gian. Nhiệt lực tạo nên
hơi ấm, hơi ấm tạo nên nước
đặc (solid water) [?]; rồi đến sương mù
khô, sương mù ướt, lỏng như nước, nó
dập tắt sức nóng chói rạng của những
kẻ hành hương [Sao Chổi?] và h́nh thành những Bánh
Xe đặc sệt (những Bầu Thế Giới
VẬT CHẤT – MATTER Globes). Địa Cầu (Bhumi)
xuất hiện với sáu bầu chị em của nó.
Những bầu này do sự vận chuyển liên tục
mới tạo nên lửa hậu thiên (inferior fire), nhiệt
lực và sương mù đặc, nó sản xuất ra
NƯỚC (Nguyên Tố thứ ba – the third World-Element) và do
khí vận trên không gian và sinh ra KHÔNG KHÍ [gió]. Tứ nguyên hay
tứ đại này là bốn nguyên tố của bốn
Cuộc Tuần Hoàn (Rounds) đầu tiên trong Chu kỳ Sáng
Tạo (Manvantara). C̣n ba nguyên tố nữa sẽ tiếp
theo sau.
295
Thiên b́nh luận viết: “Bhumi (Địa Cầu) xuất hiện cùng với
sáu chị em”. Có một giáo lư Phệ Đà dạy
rằng “có ba bầu Trái Đất tương ứng
với ba cơi trời, và Trái Đất của chúng ta
[bầu thứ tư] được gọi là Bhumi”.
Đây là lời giải thích của các nhà Đông
phương học ngoại môn của phương Tây.
Nhưng ư nghĩa nội môn và ẩn dụ của
đoạn kinh Phệ Đà này lại là như sau: nó ám
chỉ dăy hành tinh của chúng ta, “ba Bầu” trên cung giáng
hạ và “ba Cơi Trời” vốn cũng là ba Bầu hành tinh,
có điều là tinh anh hơn nhiều) trên cung thăng
thượng tức cung tinh thần. Ta giáng xuống
Vật Chất qua ba bầu đầu tiên, ta thăng lên
Tinh Thần qua ba bầu kia, bầu thấp nhất, Bhumi
(Địa Cầu) tạo thành khúc quanh (tạm gọi như
vậy) và tiềm tàng bao hàm mức độ Tinh Thần
và Vật Chất cân bằng với nhau. Nhưng chúng ta
sẽ bàn về vấn đề này sau.
Nói chung, Thiên b́nh luận dạy rằng
mỗi Cuộc Tuần Hoàn mới lại phát triển
một Nguyên Tố thiên nhiên, như khoa học đă
biết, nhưng lại bác bỏ sự phân loại
đầu tiên và lại chia tỉ mỉ thêm thành từng
bộ phận kết hợp. Nếu Thiên Nhiên là cái ǵ luôn
luôn đổi mới và tiến triển trên cơi biểu
lộ, th́ Nguyên Tố ấy cũng phải
được quan niệm giống như vậy, chúng
phải tiến hoá, phát triển và tăng trưởng cho
đến lúc măn chu kỳ.
Như vậy, chúng ta được
biết rằng cuộc Tuần Hoàn thứ Nhất chỉ
phát triển có một nguyên tố, với một tính
chất; và nhân loại, trong điều có thể gọi là
một khía cạnh của Thiên Nhiên, mà có người
gọi là “Không Gian một chiều đo”.
Cuộc Tuần Hoàn thứ Hai đưa ra
phát triển hai nguyên tố là Lửa và Đất; và nhân
loại thích ứng với điều kiện Thiên Nhiên
của thời kỳ đó (nếu chúng ta có thể dùng
danh từ nhân loại để chỉ những sinh
vật sống trong những điều kiện hoàn toàn
khác hẳn với con người thời nay). Nhân loại
trong cuộc Tuần Hoàn thứ Hai là một “loại
người có hai chiều đo” (chúng ta lại dùng một
nhóm từ quen thuộc theo một nghĩa hoàn toàn bóng
bẩy, đó là cách duy nhất khiến ta có thể sử
dụng nó một cách chính xác).
296
Những diễn tŕnh tiến hoá tự nhiên mà
chúng ta đang xem xét sẽ lập tức làm sáng tỏ
sự tranh luận về những đặc tính của
những chiều đo Không Gian. Nhưng tạm thời, có
lẽ cũng cần nêu ra ư nghĩa của sự linh
cảm lành mạnh, tuy hăy c̣n thiếu sót, nó đưa
đến việc sử dụng câu “chiều đo
thứ tư của Không Gian trong các giới Huyền
học và Khoa học hiện đại ([579]).
Để bắt đầu, tưởng không cần
phải giải thích rơ rằng Không Gian lẽ tất nhiên
không thể đo lường về bất cứ hướng
nào. Câu nói trên chỉ là một câu nói vắn tắt, đáng
lẽ phải nói một cách đầy đủ hơn là
“chiều đo thứ tư
của VẬT CHẤT trong Không Gian” (“Fourth dimension of MATTER,
in Space”) ([580]).
Nhưng cũng c̣n là một câu thiếu sót, v́ rằng
quả thật đúng là cơ tiến hoá có mục đích
đưa đến cho chúng ta sự hiểu biết
về các đặc tính mới mẻ của vật
chất, nhưng những đặc tính mà chúng ta đă quen
thuộc thật ra c̣n nhiều hơn là ba chiều đo.
Những đặc tính của vật chất phải luôn
luôn có liên quan trực tiếp với giác quan của con
người. Vật chất có qui mô, màu sắc, sự
vận chuyển (chuyển động của phân tử),
hương vị tương đương với
những giác quan hiện tại của con người, và
vào thời kỳ mà nó hoàn toàn phát triển một đặc
tính mới nữa, tạm thời hăy gọi nó là tính “THÂM
NHẬP” (“PERMEABILITY”), đặc tính này sẽ tương
hợp với giác quan mới của con người
tạm gọi là “NHĂN QUAN THÔNG SUỐT” (“NORMAL CLAIRVOYANCE”) hay
Nhăn Thông. Như vậy, khi một tư tưởng gia táo
bạo đi t́m một chiều đo thứ tư
để giải thích hiện tượng vật chất
đi xuyên qua vật chất, th́ thật ra cái mà họ
thiếu là đặc tính
thứ sáu của vật chất. Ba chiều đo
thật ra chỉ thuộc về một đặc tính
của vật chất, đó là qui mô (extension); quan niệm
b́nh dân thông thường luôn luôn phản đối ư
niệm cho rằng sự vật dưới bất cứ
h́nh thái nào, lại có thể có nhiều hơn ba chiều
đo, là bề dài, bề rộng, bề sâu. Những danh
từ này, ngay cả danh từ chiều đo đều
thuộc về một b́nh diện tư tưởng,
một giai đoạn tiến hoá, một đặc tính
vật chất. Bao giờ mà c̣n có những qui luật
cố định trong phạm vi tài nguyên Vũ Trụ,
để áp dụng cho vật chất, th́ người ta
vẫn chỉ có thể đo lường nó theo ba
chiều mà thôi. Và kể từ lúc mà ư niệm “sự đo
lường” lần đầu tiên chiếm một vị
thế trong sự hiểu biết của con người,
th́ người ta chỉ có thể áp dụng cách đo
lường trong ba chiều mà thôi. Nhưng quan niệm trên
không thể phủ nhận sự thật rằng, trải
qua ḍng thời gian, khi mà khả năng con người càng
tăng trưởng, th́ những đặc tính của
vật chất cũng sẽ tăng lên nhiều hơn
như vậy. Trong khi đó, thành ngữ này c̣n sai lầm
hơn nhiều so với cả câu nói quen thuộc : mặt
trời “mọc” hay “lặn”.
297
Bây giờ, chúng ta hăy trở lại việc
nghiên cứu sự tiến hoá của vật chất qua các
Cuộc Tuần Hoàn (Rounds). Vật chất trong Cuộc
Tuần Hoàn thứ Hai,
như trên đă nói, có thể quan niệm một cách bóng
bẩy như là có hai chiều đo. Nhưng ở đây
lại c̣n có một nghi vấn
khác nữa. Câu nói bóng bẩy mơ hồ trên có thể
được coi như tương đương
với đặc tính thứ hai của vật chất,
ứng hợp với giác quan thứ hai của con
người. Nhưng hai giai đoạn tiến hoá
tương liên này có liên hệ đến những
phương thức đang diễn ra trong phạm vi
của một Cuộc Tuần Hoàn mà thôi. Sự nối
tiếp nhau giữa những khía cạnh sơ khai của
Thiên Nhiên liên quan tới sự nối tiếp của
những Cuộc Tuần Hoàn cũng có liên hệ, như
đă nói ở trên, với sự phát triển của
những “Nguyên Tố” (“Elements”) – theo ư nghĩa huyền môn
- : Lửa, Gió, Nước, Đất. Chúng ta chỉ
mới ở trong cuộc Tuần Hoàn thứ Tư và
bảng liệt kê hăy c̣n ngừng lại ở bốn Nguyên
Tố. Tŕnh tự đề cập đến các Nguyên
Tố này trong câu vừa nêu trên, thật là chính xác
đối với các mục đích Nội môn cũng
như theo Giáo Lư Bí Truyền (Secret Teaching). Milton thật là
chí lư khi đề cập tới “các quyền năng
của Hoả, Phong, Thuỷ, Thổ”; Trái Đất
như chúng ta biết hiện nay không hề tồn tại
trước Cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, cách đây
nhiều trăm triệu năm khi bắt đầu có Trái
Đất địa chất (geological Earth). Giảng lư
dạy: “trong khi có Cuộc
Tuần Hoàn thứ Nhất, Địa Cầu cháy rực,
nguội lạnh và chói lọi, chẳng khác nào các con
người và con thú tinh anh của nó”- đây là
điều mâu thuẫn hoặc nghịch lư theo quan
điểm của khoa học hiện nay – “trong ṿng Cuộc Tuần Hoàn thứ Hai, nó chói sáng,
trọng trược hơn, trong ṿng cuộc Tuần Hoàn
thứ Ba, nó giống như là nước”. Các Nguyên
Tố đă bị đảo ngược.
Những trung tâm tâm thức (the centres of
consciousness) (sẽ phát triển trong nhân loại như chúng
ta đă biết) của con người trong cuộc
Tuần Hoàn thứ Ba đă đến giai đoạn
nhận thức Nguyên Tố thứ ba là chất
Nước. Nếu bắt buộc phải rút ra các kết
luận về các dữ kiện do các nhà địa
chất học cung cấp, th́ ắt hẳn ta sẽ
bảo rằng không hề có nước thật sự,
ngay cả trong thời kỳ Thán Kỷ (Carboniferous Period).
Ta được biết rằng các khối Carbon không
lồ, xưa kia vốn bàng bạc dưới dạng acid
carbonic trong khí quyển, đă bị cây cỏ hấp
thụ, c̣n một phần lớn chất khí đó lại
được trộn lẫn trong nước. Nay, nếu
quả thực là thế, nếu chúng ta tin tưởng
rằng hết thảy lượng acid carbonic vốn
cấu thành những loại cây đă tạo ra than béo, than
gầy v.v.. và tiến hoá tạo thành đá vôi v.v.. nếu
chúng ta phải tin rằng tất cả các điều này
đă diễn ra vào thời kỳ ấy trong bầu khí
quyển dưới dạng hơi, th́ ắt hẳn
phải có các biển và đại dương acid carbonic
lỏng! Nhưng thế th́ dựa vào giả thuyết này,
làm thế nào mà các Thời đại Devon và Silur (the Devonian
and Silurian Ages) – các Thời đại của loài cá và
loại nhuyễn thể - lại có trước
được Thời đại carbon ? Vả chăng áp
suất khí quyển đă phải vượt quá nhiều
trăm lần áp suất của bầu khí quyển
hiện nay. Làm thế nào mà các cơ thể, cho dù đơn
giản như cơ thể của một vài loài cá và loài
nhuyễn thể có thể chịu nổi? Chúng tôi khuyên
độc giả nên quan tâm tới một tác phẩm
tuyệt vời của Blanchard bàn về Nguồn gốc
của Sự Sống, trong đó ông có chứng tỏ
một vài điều mâu thuẫn và lẫn lộn quái
gở trong các thuyết của các bạn đồng
nghiệp của ḿnh.
Các giác quan của con người trong
cuộc Tuần Hoàn thứ Tư đă thêm chất
Đất như một trạng thái vật chất vào ba
Nguyên Tố trong giai đoạn biến đổi hiện
tại của chúng.
298
Nói tóm lại, không một Nguyên Tố nào trong ba
Cuộc Tuần Hoàn trước đây có trạng thái
giống như bây giờ. LỬA trước kia có thể
là AKASHA thuần tuư, Vật Chất bản sơ,
“Đại Nghiệp” (“Magnum Opus”) của các Đấng
Sáng Tạo và Kiến Tạo, loại Tinh Tú Quang (Astral Light)
mà Éliphas Lévi đầy nghịch lư đă gọi một
mạch là “Cơ Thể của Chúa Thánh Thần” và kế
đó là “Baphomet”, “Con dê bán thư bán hùng Mendes” (“Androgyne Goat
of Mendes”); PHONG (AIR) chỉ là Nitrogen, “Linh Khí của những
Kẻ đội Ṿm Trời” (theo lối nói của các nhà
Thần bí Hồi giáo); THUỶ (WATER) là loại lưu
chất nguyên thuỷ cần để tạo ra một
“Linh Hồn Sống Động” (theo Moses). Và điều này
có thể giải thích rơ ràng t́nh trạng tương
phản và các phát biểu phản khoa học trong Sáng Thế Kư. Cứ thử
tách rời chương một ra khỏi chương hai,
giải thích chương một như là một Thánh kinh
của các tín đồ duy Elohim, và chương hai như là
một Thánh kinh của tín đồ duy Jehovah măi về sau
này, nếu thuyết minh theo lối “ư tại ngôn ngoại”,
chúng ta sẽ thấy cùng một tŕnh tự xuất
hiện các tạo vật, nghĩa là Hoả (Quang), Phong, Thuỷ
và Nhân (tức Địa). Ấy là v́ câu sau đây trong
chương một (của Elohim), “Thoạt đầu,
Đức Chúa Trời Khai Thiên tịch địa” là
một câu dịch sai; đó không phải là “thiên và
địa” mà là cơi trời lưỡng phân, Thượng
Thiên và Hạ Thiên, tức là sự phân tích của vật chất
nguyên thuỷ - vốn có phần trên là ánh sáng, c̣n phần
dưới (Vũ Trụ biểu lộ) là bóng tối – ra
hai phần vô h́nh và hữu h́nh đối với
các giác quan của chúng ta. “Đức Chúa Trời ngăn
cách ánh sáng với bóng tối” và rồi tạo ra bầu
trời (Phong). “Hăy lấy một bầu trời ở
giữa nước, phân cách nước với nhau”
nghĩa là “phân cách nước ở dưới bầu
trời [vũ trụ biểu lộ hữu h́nh] với nước
ở trên bầu trời
[các cơi tồn tại vô h́nh đối với chúng ta]”. Trong
chương hai (duy Jehovah), cây cỏ được tạo
ra trước nước, chẳng khác nào trong
chương một, ánh sáng
được tạo ra trước mặt trời. “Đức Chúa Trời khai thiên
tịch địa tạo ra mọi loại cây ngoài
đồng trước khi nó
mọc dưới đất, tạo ra mọi loại
cỏ ngoài đồng trước
khi nó tăng trưởng, ấy là v́ Đức Chúa
Trời (Lohim) đă không tạo ra mưa trút xuống
đất v.v…”- nếu ta không chấp nhận lối
thuyết minh nội môn th́ câu trên thật là phi lư, ngớ
ngẩn. Cây cối được tạo ra trước khi
chúng mọc dưới đất – v́ bấy giờ không có đất như hiện nay – c̣n
cỏ ngoài đồng đă tồn tại trước khi
nó tăng trưởng như hiện nay, vào cuộc
Tuần Hoàn thứ Tư.
299
Khi giải thích và bàn về bản chất
của các Nguyên Tố vô h́nh và “Lửa Nguyên Thuỷ”
(“Primodial Fire”) nêu trên, Éliphas Lévi bao giờ cũng gọi nó
là Tinh Tú Quang”; nó chính là “Đại tác nhân Pháp thuật”
(“Grant Agent Magique”) đối với ông. Chắc chắn là
như thế rồi, nhưng chỉ như thế, xét
về mặt Ma thuật (Black Magic) và trên các cảnh
giới thấp nhất của cái mà ta gọi là Dĩ Thái
(Tiên thiên khí là bản thể của nó) và ngay cả
điều này cũng bị các nhà Huyền bí chính thống
coi là không đúng. “Tinh Tú Quang” chỉ là “đẩu Tinh
Quang” (“sidereal Light”) thời xưa của Paracelsus, khi bảo
rằng “vạn hữu đều phát sinh từ nó, nó
bảo toàn vạn vật và khiến cho chúng sinh sôi nảy
nở”, ông chỉ phát biểu chân lư một cách bất toàn
(tức chỉ có mệnh đề thứ hai là đúng).
Mệnh đề thứ nhất không đúng, v́ nếu
vạn hữu tiến hoá thông qua nó, th́ nó ắt hẳn
chẳng phải là Tinh Tú Quang, Tinh Tú Quang chẳng hề bao
hàm vạn hữu mà cùng lắm cũng chỉ phản ánh
vạn hữu thôi. Éliphas Lévi thật là chí lư khi tŕnh bày nó là
“một lực lượng Thiên Nhiên”, nhờ đó,
“một thường nhân làm chủ được nó…
cũng có thể làm xáo trộn thế giới và thay
đổi bộ mặt của nó”, v́ đó là “Đại
Bí Nhiệm của Pháp thuật cao siêu”. Khí trích dẫn
lời của nhà Do Thái Bí giáo lỗi lạc Tây
phương dưới dạng dịch thuật ([581]),
có lẽ chúng ta có thể giải thích chúng hay hơn
bằng cách thỉnh thoảng thêm vào một, hai từ
để chứng tỏ sự dị biệt giữa các
lối thuyết minh của Tây phương và Đông
phương về cùng một đề tài. Tác giả nói
về Đại Tác Nhân Pháp Thuật như sau:
Các loại lưu chất thấm nhuần
vạn vật này (this ambient and allpenetrating fluid), cái tia sáng
tách rời khỏi ánh huy hoàng của Mặt Trời [Tinh
Thần Trung Ương] này … bị khống chế bởi
bầu khí quyển [!?] và hấp lực trung tâm… Tinh Tú Quang,
ê-te điện từ này (this electromagnetic ether), nhiệt
tố sinh động và chói sáng này, được tiêu
biểu nơi những đền đài cổ bằng
sợi dây nịt của Nữ Thần Isis, quấn quanh
chiếc cột.. c̣n trong các thần phổ học ngày
xưa, nó được tượng trưng bằng con
rắn nuốt đuôi nó, biểu hiện của sự
thận trọng và của Saturn [biểu hiệu của vô
cực, sự bất tử và Kronos - Thời gian - chớ
không phải là Thần Saturn hay Thổ Tinh]. Đó là con
Rồng có cánh Medea, con rắn kép trên cây dực xà
trượng (caduceus), và kẻ cám dỗ trong Sáng Thế Kư;
nhưng đó cũng là con rắn bằng đồng thau
của Moses quấn quanh chữ Tau… cuối cùng, đó là con
quỷ của thuyết giáo điều ngoại môn, và
đích thực là lực mù quáng [Lévi thừa biết nó
đâu có mù quáng] mà linh hồn phải chế ngự
để thoát ṿng tục lụy (the chain of Earth), v́ nếu
không, chúng sẽ bị hấp thu bởi chính cái quyền
năng trước kia đă tạo ra chúng và sẽ quay
về với lửa vĩnh cửu của trung tâm.
Nay chỉ có
mỗi một người (J. W. Keely ở Bang
Philadelphia) đă công khai t́m ra và sử dụng
được bậc Đại Thái cổ này (this great Archaeus).
Tuy nhiên, những người khác đă phát hiện
được nó, song hầu như không sử dụng
được nó. “Bạn sẽ chỉ đạt
đến mức đó mà thôi…“
Tất cả những điều trên
đều thực tiễn và chính xác, ngoại trừ
một sai lầm mà chúng ta đă giải thích. Éliphas Lévi
đă phạm một sai lầm quan trọng khi luôn luôn cho
rằng Tinh Tú Quang (the Astral Light) với cái mà ta gọi là
Tiên Thiên Khí (Akasha) đều là tương đồng.
Thực hư ra sao sẽ được giải thích trong
Quyển 4.
Éliphas Lévi c̣n tŕnh bày thêm như sau:
Đại Tác Nhân Pháp Thuật (the great Magic
Agent) là phân thân thứ tư của nguyên sinh khí [theo chúng tôi
đó là phân thân thứ nhất trong nội giới và phân
thân thứ nh́ nơi ngoại giới] c̣n Mặt Trời là
dạng thứ ba của nguyên sinh khí (life principle)… ấy là
v́ nhật tinh (day-star) [Mặt Trời - the Sun] chỉ là
phản ánh và h́nh bóng vật chất của Mặt Trời
chân lư Trung Ương (Central Sun of truth) vốn soi sáng
thế giới trí tuệ (vô h́nh) Tinh Thần và bản thân
nó chẳng qua chỉ là ánh sáng chập chờn vay
mượn của TUYỆT ĐỐI (ABSOLUTE) ([582]).
300
Đến đây th́ ông vẫn c̣n có lư. Tuy
nhiên, khi nhà Do Thái Bí giáo Tây phương có nhiều thẩm
quyền ấy nói thêm rằng “đó không phải là tinh
thần bất tử như các bậc Đạo
Trưởng Ấn Độ thường lầm
tưởng, th́ chúng ta xin đáp rằng ông đă nói
xấu các bậc Đạo Trưởng nêu trên, v́ các
vị ấy đâu có quan niệm như vậy, ấy là
v́ ngay cả các kinh Puranas ngoại môn cũng cực lực
bác bỏ điều khẳng định này. Chẳng có người
Ấn Độ nào đă từng lầm lẫn Prakriti
[Vật Chất] - Tinh Tú Quang ở trên cảnh giới
Vật Chất thấp nhất, Vũ Trụ vật chất
- với “Tinh Thần bất tử”. Vật Chất bao
giờ cũng bị gọi là Hăo Huyền và có số
phận là phải bị diệt vong cùng với những
thứ khác, kể cả chư Thần Linh, khi chu kỳ
Qui Nguyên đă tới. V́ người ta đă chứng
tỏ là Tiên Thiên Khí chẳng phải là Dĩ Thái nên chúng ta
càng không được lầm tưởng rằng có thể
là Tinh Tú Quang. Những kẻ không thể hiểu kinh Puranas theo lối “ư tại ngôn
ngoại” đôi khi đă lẫn lộn. Tiên Thiên Khí với
Vật Chất, với Dĩ Thái, thậm chí với cả
Bầu tṛi xanh ngắt nữa ! Cũng đúng là những
kẻ cứ luôn luôn dịch từ ngữ Tiên Thiên Khí
(Akasha) là “Dĩ Thái”- chẳng hạn như Wilson – khi
thấy bảo “nguyên nhân vật chất của âm thanh”
lại c̣n có thêm tính chất đơn
giản duy nhất này, liền tưởng tượng
một cách ngu dốt rằng nó có tính cách “vật chất”
theo ư nghĩa hồng trần. Cũng đúng là v́ không có
một thứ ǵ có tính cách vật chất (và do đó có tính
cách hữu hạn và phù du) mà lại có thể bất
diệt – theo siêu h́nh học và triết học – nên suy ra
rằng Tiên Thiên Khí chẳng vô hạn mà chẳng bất
diệt. Nhưng tất cả những điều này
đều sai lầm, v́ người ta đă hiểu
lầm cả từ ngữ Pradhana (Hồng Mông Nhất Khí)
lẫn Âm Thanh với vai tṛ là một tính chất; từ
ngữ Hồng Mông Nhất Khí chắc chắn là
đồng nghĩa với Hỗn Nguyên Khí (Mulaprakriti) và
Tiên Thiên Khí (Akasha), c̣n Âm Thanh đồng nghĩa với Ngôi
Lời (Verbum), Huyền Âm (Word) tức Thiên Đạo
(Logos). Muốn chứng tỏ điều này th́ cũng
dễ thôi, v́ nó đă được nêu ra trong câu sau đây
của kinh Vishnu Puranas ([583]):
“Chẳng có ngày mà chẳng có đêm, chẳng có trời mà
chẳng có đất, chẳng có ánh sáng mà chẳng có bóng
tối, chẳng có bất cứ thứ nào khác, ngoại
trừ Đấng Duy Nhất (One) bất khả tư
nghị hoặc Phạm Thiên (Brahma), Pums [Tinh Thần] và
Pradhana [Hồng Mông Nhất Khí].
Nay, nếu Hồng Mông Nhất Khí không
phải là Hỗn Nguyên Khí (Cội nguồn của Vạn
vật – the Root of All) dưới một h́nh dạng khác th́
nó là cái ǵ? Ấy là v́ mặc dù nghe nói Hồng Mông Nhất
Khí c̣n hoà nhập vào Đấng Thánh Linh (Deity) như vạn
hữu để ĺa khỏi NHẤT NGUYÊN (ONE) trong chu
kỳ Hỗn Nguyên, song nó lại được coi là vô
hạn và bất diệt. Câu dịch sát nghĩa như sau:
“CÁI ĐÓ là Tinh Thần Phạm Thiên Hồng Mông Nhất Khí”
(“One Pradhanika Brahma Spirit: THAT was”); nhà b́nh giải chú thích
từ ngữ kết hợp này là một từ ngữ
thực thể, chứ không phải là một chuyển hoá
từ được dùng như một thuộc từ, nghĩa
là như một điều ǵ “có liên hệ với Hồng
Mông Nhất Khí” ([584]).
Vả lại môn sinh phải lưu ư rằng hệ
thống Puranas có tính cách nhị nguyên chứ không hề có
tính cách tiến hoá và xét về phương diện này, chúng
ta sẽ thấy nhiều điều hơn nữa (xét theo
một quan điểm nội môn) trong phái Số Luận
(Sankhya), thậm chí trong cả Manava-Dharma-Shastra
(Luật Bàn Cổ) nữa, mặc dù Luật Bàn Cổ
khác hẳn phái Số Luận. V́ thế, ngay cả trong kinh
Puranas, Hồng Mông Nhất
Khí cũng là một dạng của Thái Cực
Thượng Đế (Parabrahman) chứ không phải là
một cuộc tiến hoá và phải giống như Hỗn
Nguyên Khí của phái Phệ Đàn Đà (Vedanta). Một
học giả Vedanta dạy: “Trong trạng thái nguyên sơ, Vật Chất
chính là Tiên Thiên Khí” ([585]).
Nó hầu như Vũ Trụ trừu tượng (abstract
Nature).
301
Thế th́ Tiên Thiên Khí (Akasha) chính là Hồng Mông
Nhất Khí dưới một dạng khác và chính nó
chẳng phải là Dĩ Thái, tác nhân vô h́nh mà cả vật
lư học cũng phải ao ước, qụy lụy
(court). Nó cũng không phải Tinh Tú Quang. Như chúng ta đă
nói, nó là bản thể của Vật Chất biến phân
bảy lần ([586])
– “Bà Mẹ” hằng trinh nguyên của “Đứa Con” không có cha, nó biến thành “Cha”
trên cơi biểu lộ thấp. Ấy là v́ Toàn Linh Trí là
sản phẩm đầu tiên của Hồng Mông Nhất
Khí, tức Tiên Thiên Khí, và Mahat – Toàn Linh Trí, “có đặc tính là Bồ
Đề”- chẳng có ǵ khác hơn là Thiên Đạo (Logos), v́ Ngài được tôn
xưng là Huyền Thiên Thượng Đế (Ishvara),
Brahma, Bhava v..v…([587])
Tóm lại, Ngài là “Đấng Sáng Tạo” hay Thiên Trí (Divine
Mind) đang hoạt động sáng tạo, “Nguyên nhân
của vạn vật”. Ngài là “Đấng Bản Lai” (“First
Born”) mà kinh Puranas đă cho
rằng “Đất là Toàn
Linh Trí là các nội biên và ngoại biên của vũ
trụ”, hoặc theo lối nói của chúng ta, cực âm và
cực dương của Vũ Trụ lưỡng phân (trừu
tượng và cụ thể) v́ kinh Purana có thêm rằng:
Như thế, - nghĩa là bảy dạng
[nguyên khí] Vật Chất tính từ Toàn Linh Trí xuống
tới Thổ (Earth)- vào lúc tan hoà nguyên tố (pratyahara); bảy dạng này
lần lượt tái thâm nhập vào nhau. Thiên Noăn (Sarvamandala) bị tiêu tan cùng với bảy châu (dvipa) bảy đại
dương, bảy vùng v..v…([588])
Các nhà Huyền bí hẳn cũng có nhiều
lư do khi không chịu gọi Tiên Thiên Khí là Tinh Tú Quang hay
Dĩ Thái. Câu “Nhà Cha ta có nhiều căn” có thể mâu
thuẫn với câu châm ngôn huyền bí “Nhà Mẹ ta có
bảy căn” tức bảy cơi, cơi thấp nhất ở
bên trên và xung quanh ta, đó là Tinh Tú Quang (the Astral Light).
Những Nguyên Tố, dù đơn thuần
hay phối hợp, không thể giữ măi trong trạng thái
giống y như trước kể từ lúc bắt
đầu cuộc tiến hoá của Dăy Hành Tinh hiện
tại. Vạn vật trong Vũ Trụ đều
tuần tự tiến hoá trong Đại Chu Kỳ, trong khi
chúng vẫn không ngừng tiến hoá theo nhịp độ
khi thăng khi giáng trong những Chu Kỳ nhỏ hơn.
Thiên Nhiên không bao giờ ngưng đọng một chỗ trong
một Chu Kỳ Khai Nguyên (Manvantara), nó luôn luôn tiến hoá trường
kỳ bất tận ([589]).
Sự sống của khoáng thạch, cây cỏ, loài
người cũng luôn luôn làm cho cơ thể chúng thích
ứng với những Nguyên Tố đương
thời, và bởi vậy, các Nguyên Tố của những
thời kỳ trước được thích ứng
với các loài trong thời kỳ đó, cũng như chúng đang
thích ứng với đời sống nhân loại trong
thời kỳ hiện tại. Trong cuộc tuần hoàn
tới là cuộc Tuần Hoàn thứ Năm, một Nguyên
Tố thứ Năm là chất Dĩ Thái (Ether), tức là
cái thể nặng trược của Akasha, sẽ xuất
hiện và trở nên một sự kiện thông
thường trong Thiên Nhiên cũng như Không Khí của
chúng ta bây giờ. Chừng đó, nó sẽ không c̣n là một
giả thuyết mơ hồ như ngày nay nữa,
302
mà sẽ là một khí cụ có tác dụng
hữu hiệu trong nhiều lănh vực. Và cũng trong
Cuộc Tuần Hoàn tới đây, những khả năng
siêu đẳng của con người có thể nảy
nở và phát triển hoàn toàn để thích ứng với
tác động của Akasha trong cơi thiên nhiên. Như đă
nói ở trên, một đặc tính thứ sáu của
vật chất là đặc tính Thấm nhập
(Permeability) cũng sẽ xuất hiện đồng
loạt với sự phát triển giác quan thứ sáu và con
người cũng sẽ một phần nào quen thuộc
với đặc tính mới ấy vào một giai
đoạn thích nghi trong Cuộc Tuần Hoàn thứ Năm
tới đây. Nhưng khi một Nguyên Tố mới
xuất hiện trong cuộc Tuần Hoàn thứ Năm th́
đặc tính Thấm nhập
của vật chất sẽ trở nên rơ rệt
đến nỗi những h́nh thức vật chất
nặng trược nhất sẽ hiện ra dưới
nhăn quan con người như đám sưong mù dày
đặc thế thôi chứ không có ǵ hơn.
Bây giờ, chúng ta hăy quay về Chu Kỳ Sinh
Hoạt (Life-Cycle). Không nói dài ḍng về SỰ SỐNG trên
các Cơi cao (the Higher LIVES), chúng ta chỉ tạm thời chú ư
đến Địa Cầu và các sinh vật sống trên
đó. Chúng tôi được biết rằng trong Cuộc
Tuần Hoàn thứ Nhất,
Địa Cầu được cấu tạo bởi
những “Hoả Tinh Quân” (“Devourers”) những vị này làm
tiêu huỷ và phân hoá những mầm mống khác trong các
Nguyên Tố ngũ hành. Đại khái cũng giống
như trong giai đoạn tiến hoá hiện tại,
những loại vi khuẩn làm rời rạc, tan ră cơ
cấu hoá chất trong một cơ thể sinh vật, làm
biến đổi thể chất động vật và
tạo ra những chất với những thành phần khác
nhau. Như vậy, Huyền bí học đă dẹp tan
được cái gọi là Thời Đại Vô Sinh (Azoic
Age) của khoa học, v́ nó đă chứng tỏ rằng
trên Địa Cầu chẳng có lúc nào mà lại không có
sự sống. Bất cứ chỗ nào có một phân
tử hay nguyên tử vật chất, dù trong trạng thái
khinh thanh của chất hơi, là có sự sống trên
đó, tuy rằng c̣n tiềm ẩn và vô thức.
Bất cứ
vật ǵ rời khỏi Trạng thái Laya (thuần
nhất) sẽ trở nên Sự Sống tích cực, nó
sẽ bị lôi cuốn vào ṿng xoáy quay cuồng của
sự CHUYỂN ĐỘNG (MOTION). Tinh Thần và Vật Chất là hai Trạng thái
của cái DUY NHẤT (ONE),
nó không phải Tinh Thần hay Vật Chất mà cả hai
đều là Sự Sống Tuyệt Đối (Absolute
Life), tiềm tàng… Tinh Thần là sự phân hoá đầu
tiên của [và trong] KHÔNG GIAN;
c̣n Vật Chất là sự phân hoá đầu tiên của
Tinh Thần. Cái không phải là Tinh Thần hay Vật
Chất, chính là CÁI ẤY (IT) – cái NGUYÊN NHÂN Vô nguyên
nhân (the Causeless CAUSE) của
Tinh Thần và Vật Chất, là Nguyên nhân của Vũ
Trụ. Và CÁI ẤY (THAT),
chúng ta gọi là SỰ SỐNG DUY NHẤT (ONE LIFE) hay luồng Khí Vận Nội
Tại của Vũ Trụ (the Intra-Cosmic Breath) ([590]).
Một lần nữa, chúng ta nói vạn vật đồng
nhất lư và cũng đồng nhất tính (like must produce
like). Sự Sống Tuyệt Đối không thể
tạo ra một nguyên tử vô cơ phận (inorganic atom),
dù đơn thuần hay phức tạp và thậm chí trong
“Trung hoà điểm” (Laya) cũng có sự sống, cũng
như một người trong trạng thái hôn mê, bề
ngoài coi như xác chết, nhưng vẫn là một
người sống.
303
Khi
những “Kẻ Huỷ Diệt” (“Devourers”) - nếu
muốn (v́ các nhà Huyền bí không hề phản đối
điều này), các khoa học gia, cứ tự tiện xem
xét thấy các nguyên tử Sương Lửa (Fire-Mist)
nơi các kẻ “huỷ diệt”
này với một lư do nào đó – đă phân hoá những
“Nguyên Tử Lửa” (Fire Atoms”) bằng một phương
pháp phân tích lạ lùng, những nguyên tử này trở thành
những Mầm Sống (Life-Germs) kết hợp với
nhau theo định luật hấp dẫn và tương
cầu (the laws of cohesion and affinity). Kế đó, các Mầm
Sống (Life Germs) tạo ra những Sinh Vật thuộc
một loại khác, loại này góp sức vào việc
cấu tạo nên các Bầu Thế Giới.
Như vậy, trong Cuộc Tuần Hoàn
thứ Nhất, Địa Cầu được tạo
tác bởi các Hoả Tinh Quân sơ khai (the primitive Fire-Lives)
chỉ mới h́nh thành như một bầu tṛn, hăy c̣n
lỏng sệt chưa đông đặc, không có tính
chất, h́nh dáng hay màu sắc ngoài tính chất chói sáng và
lạnh. Chỉ vào cuối Cuộc Tuần Hoàn thứ
Nhất, nó mới phát triển thành một Nguyên Tố
lửa trong cuộc tuần hoàn hiện tại và phổ
cập khắp nơi trong toàn Thái Dương Hệ. Trái
Đất có h́nh tướng đầu tiên (first Rupa)
với bản thể là Nguyên Khí Tiên Thiên Khí được
mệnh danh là ***. Đó chính là cái nay được
biết và được gọi một cách rất sai lầm
là Tinh Tú Quang, mà Éliphas Lévi gọi là “Trí Tưởng
Tượng của Thiên Nhiên” (“Imagination of Nature”). Có lẽ
để tránh việc tŕnh bày danh hiệu chính xác của nó
như những người khác thường làm.
Trong Lời tựa của quyển Lịch Sử Pháp Thuật, khi
đề cập đến nó, Éliphas Lévi đă cho rằng
:
Mọi trung khu thần kinh liên giao với
nhau một cách bí mật thông qua Thần Lực này,
thiện cảm và ác cảm nảy sinh từ nó, các
giấc mơ của ta cũng bắt nguồn từ nó,
hiện tượng linh thị siêu nhiên cũng phát nguyên
từ nó… Khi tác dụng dưới ảnh hưởng
của các ư chí mạnh mẽ, Tinh Tú Quang huỷ hoại,
đông đặc (coagulate), tách rời, phá vỡ và tụ
tập vạn vật lại… Thượng Đế
đă tạo ra nó khi Ngài phán: “Hăy
có lấy ánh sáng” (“Fiat Lux”)!... Nó được
điều khiển bởi các Đấng Egregores, nghĩa
là kẻ đứng đầu của các linh hồn
vốn là các chơn linh của năng lượng và tác
động” ([591]).
Éliphas Lévi nên nói thêm rằng Tinh Tú Quang,
tức Chất Liệu Nguyên Thuỷ (Primordial Substance),
(nếu cái gọi là ánh sáng, Lux, giải thích theo bí giáo, là thể của chính các Chơn
Linh ấy và chính là bản thể của họ. Ánh sáng
vật chất là biểu lộ trên cơi hồng trần và
là phản ánh của Linh Quang (the Divine Light) xạ ra từ
thể tập hợp của các Đấng
được gọi là “CÁC ÁNH SÁNG” (“LIGHTS”) và “CÁC NGỌN
LỬA” (“FLAMES”). Nhưng Éliphas Lévi hơn hẳn bất
cứ nhà Do Thái Bí giáo nào khác về cái tài chồng chất
mâu thuẫn này lên mâu thuẫn kia, tŕnh bày hết nghịch
lư này đến nghịch lư khác trong cùng một câu văn
lưu loát. Ông đă dẫn dắt độc giả
của ḿnh đi xuyên qua những thung lũng yêu kiều
với muôn cánh hoa tươi thắm, để rồi sau
đó lạc bước tới sa mạc khô cằn và
một ḥn đảo lởm chởm những đá.
Giảng lư dạy:
Bảy
Đại Lượng rời rạc [Nguyên Tố] mà
sự Chuyển Động (Motion) và sự Kết Hợp
hài hoà (harmonious Union) tạo ra Vũ Trụ Vật Chất
biểu lộ, đă được sinh ra xuyên qua và từ
bức xạ của bảy Thể (the seven Bodies) của
Bảy Đẳng Cấp Tinh Quân (the Seven Orders of Dhyanis).
304
Cuộc Tuần Hoàn thứ Hai làm biểu
lộ Nguyên Tố thứ hai, tức KHÔNG KHÍ (AIR), là nguyên
tố mà sự thuần khiết bảo đảm sự
sống liên tục cho người sử dụng nó. Ở
Âu Châu, chỉ có hai nhà Huyền bí đă khám phá ra nó và
thậm chí phần nào áp dụng nó vào thực hành, mặc
dù các Điểm Đạo đồ Đông phương
cao cấp nhất đều luôn luôn biết rơ thành
phần cấu tạo của nó. Khí Ozone của hoá học
hiện đại chỉ là chất độc so với
Dung Môi Vũ Trụ (Universal Solvent) thực sự, nó
thật là bất khả tư nghị trừ phi tồn
tại trong Thiên Nhiên.
Từ Cuộc
Tuần Hoàn thứ Hai trở đi, quả Địa
Cầu từ trước vẫn là một bào thai kết
tụ trong ḷng của Không Gian, mới bắt đầu
cuộc sống thực của nó, đó là sự phát
triển Sự Sống hữu thức cá biệt là cái Khí
Thể thứ nh́ của nó. Khí thể thứ hai
tương hợp với khí thể thứ sáu và cái
thứ nh́ là Sự Sống liên tục, cái kia là Sự
Sống tạm thời.
Cuộc Tuần Hoàn thứ Ba phát triển
Nguyên Tố thứ ba (third Priciple) là NƯỚC: trong khi
Cuộc Tuần Hoàn thứ
Tư biến đổi những chất lỏng
bốc hơi và h́nh thể mềm dẻo của Trái
Đất thành một Bầu vật chất đông
đặc, cứng rắn như địa cầu ngày
nay. Trái Đất đă đạt tới Nguyên Khí thứ tư của nó, và
sẽ đạt tới cái chân tướng rốt ráo cùng
tột của nó, tức cái vô cùng đông đặc, vào
cuối Cuộc Tuần Hoàn thứ Bảy là lúc chấm
dứt Chu Kỳ Sáng Tạo (Manvantara). Về vấn
đề này, người ta có thể phản đối
là luật tương đồng (law of analogy) vốn
đă được nhấn mạnh biết bao, đă
bị vi phạm. Tuyệt nhiên không phải như thế
đâu. Eugenius Philalethes thật là chí lư khi “lấy danh
dự” mà bảo đảm với quí độc giả
rằng chưa có ai đă từng thấy được
“Trái Đất”, nghĩa là VẬT CHẤT dưới
dạng bản thể. Đến nay Trái Đất
vẫn c̣n ở trong trạng thái cảm dục (Kamarupic state)
- Thể Vía (Astral Body) với các Dục Vọng của Ngă
Thức u mê, sản phẩm của Toàn Linh Trí trên hạ
giới.
Không phải thứ vật chất cấu
tạo bằng nguyên tử hay thể xác của con
người là phần nặng trược nhất của
tất cả các “Khí Thể” (“Principles”) của chúng ta.
Thực ra đó là Khí Thể (Nguyên Khí) trung gian (the middle Principle),
Trung Tâm thực sự của Thú Tính và dục vọng (the
real Animal Centre), c̣n xác phàm con người chỉ là cái
vỏ bọc ngoài, cái yếu tố vô trách nhiệm và cái
phương tiện nhờ đó mà tính thú dục trong con
người hành động suốt kiếp của nó.
Mọi nhà Theosophy trí thức ắt đều hiểu tôi
muốn thực sự nói ǵ. Như vậy, cái ư niệm cho
rằng thể xác con người được cấu
tạo bằng vô số Sinh
vật cũng như cái
vỏ cứng của Trái Đất được
cấu tạo y như vậy, không có ǵ vô lư quá đáng
đối với nhà Huyền học chân chính. Khoa học
cũng không phản đối giáo lư Huyền môn về
điều này, v́ không phải bởi lư do ống kính hiển
vi không nh́n thấy được hột nguyên tử hay
sự sống cực nhỏ mà họ có thể bác bỏ
giáo lư trên.
(c ) Khoa học dạy chúng ta rằng cơ
thể sống hay chết của con người hay
động vật đều gồm vô số vi khuẩn
hằng trăm loại khác nhau. Cứ mỗi khi hít vào là ta
lại có nguy cơ bị vi trùng bên ngoài xâm nhập vào
cơ thể; c̣n trong nội bộ cơ thể, ta cũng
bị đe doạ bởi các chất leucomaines, các vi
khuẩn hiếu khí, kỵ khí v.v… Nhưng khoa học
vẫn chưa bao giờ đi xa hơn nữa để
cùng với Huyền học xác nhận rằng thể xác
con người cũng như loại thú vật, cây cỏ
hay khoáng chất đều được cấu tạo
bằng những vi khuẩn đó, mà ống kính hiển vi
không thể nào t́m ra, trừ những loại vi trùng to
lớn hơn. Cho đến nay, nói về khía cạnh
thuần vật chất và động vật của con
người, khoa học đang đi trên con
đường t́m ṭi, khám phá với nhiều triển
vọng khả quan đưa đến sự xác nhận
lư thuyết trên. Hóa học và sinh lư học là hai ngành học
thuật vĩ đại nhiệm mầu của
tương lai, có triển vọng thức tỉnh nhân
loại để cho họ nhận thức những chân lư
trọng đại trên địa hạt vật lư.
Với mỗi ngày qua,
305 306
người ta càng nhận thấy rơ sự
đồng nhất giữa loài vật và con người và
cây cỏ, thậm chí giữa loài ḅ sát và tảng đá mà nó
làm tổ và con người. Những phân tử vật
chất và hoá học của tất cả mọi loài đă
được thấy là đồng nhất, khoa học
có thể nói rằng không có ǵ khác nhau giữa vật
chất cấu tạo nên thể xác con ḅ với vật
chất cấu tạo nên xác phàm của con người.
Nhưng giáo lư Huyền môn c̣n nói rơ hơn nhiều. Khoa
Huyền môn nói: “Chẳng những các hoá chất đều
giống y như nhau, mà c̣n có sự đồng nhất
giữa những Vi sinh vật
vô h́nh hợp thành những nguyên tử trong khối khoáng
thạch và những tế bào của một cái hoa, của
một con người và của một con kiến, của
một con voi và của tàng cổ thụ che mát cho nó
dưới ánh mặt trời. Mỗi phân tử vật
chất, dù hữu cơ hay vô cơ, là một vật có
Sự Sống. Mỗi nguyên tử và phân tử trong Vũ
Trụ vừa đem sự
sống vừa đem
sự chết cho cái h́nh thể bên ngoài, cũng như
bằng phương pháp kết hợp, nó cấu tạo
nên vũ trụ và những thể
tạm, sẵn sàng tiếp nhận linh hồn
đầu thai. Nó cũng luôn luôn huỷ diệt và thay
đổi h́nh thể, và trục xuất (expel) những
linh hồn đó ra khỏi những thể xác này là nơi
cư trú tạm thời của họ. Nó vừa sáng
tạo, vừa huỷ diệt, nó cũng vừa tự sinh
và tự diệt. Nó sáng tạo và huỷ diệt điều
bí ẩn nhất của các điều bí ẩn, là cái thể xác sống động
của con người, cầm thú hay cây cỏ, mỗi
giây đồng hồ trong thời gian hay không gian. Nó
cũng đem lại sự sinh và tử, đẹp và
xấu, thiện và ác, thậm chí có cả những cảm
giác thích thú và khó chịu, tốt lành và bỉ ổi. Nó là SỰ
SỐNG huyền bí được tiêu biểu tập
thể bởi vô số Sinh Linh (Lives). Do một
đường lối rời rạc riêng biệt của
nó, sự sống ấy vẫn theo định luật bí
hiểm của sự Di truyền cách thế (Atavism); mô
phỏng những điểm tương tự trong gia
đ́nh, cũng như là những điểm tương
tự mà nó thấy c̣n ghi dấu trong hào quang của các
bậc sản sinh ra mọi người trong tương
lai; tóm lại, đó là một bí nhiệm mà ta quan tâm
tới hơn nữa ở một nơi khác. Hiện
thời, ta có thể đưa ra một thí dụ
để minh hoạ. Khoa học hiện đại
đang bắt đầu khám phá ra rằng chất ptomaine,
một độc tố có tính kiềm (alkaloid poison) do các
xác chết và vật chất đang phân huỷ sinh ra –
cũng là một sự
sống – khi được trích ra bằng ether dễ
bay hơi, sẽ toả ra một mùi nồng nặc như
là mùi cam tươi đang chín rộ. Nhưng khi không có
oxygen, các chất kiềm đó sẽ toả ra hoặc là
một mùi xú uế khiến người ta nôn mửa,
hoặc là một mùi thơm ngào ngạt, khiến
người ta nhớ ngay đến hương thơm
của các đoá hoa kiều diễm nhất. Người
ta ngờ rằng mùi thơm ngào ngạt đó là do chất
độc ptomaine. Độc tố của một loại
nấm cũng gần giống như nọc độc
của loài rắn hổ mang Ấn Độ, loại
rắn độc nhất. Các nhà bác học Pháp Arnaud, Gautier
và Villiers đă t́m thấy trong nước bọt của
người sống cũng có chất kiềm có
độc tính giống như trong nước bọt của
con cóc, con kỳ nhông, rắn hổ mang và rắn
độc đầu tam giác ở Bồ Đào Nha.
Người ta đă chứng minh được rằng, người
sống, cây cỏ và thú vật đều sản sinh ra
một chất độc kinh khủng nhất, dù
được gọi là ptomaine, leucomaine hay alkaloid. Gautier
cũng t́m ra một alkaloid trong xác người mới
chết và trong năo bộ, cùng với một chất
độc mà ông gọi là xantho-creatinine, tương tự
như chất được trích ra từ nước
bọt có chất độc của loài ḅ sát. Người
ta ngờ rằng chính các mô bắp thịt, các
cơ quan hoạt động nhiều nhất
trong cơ thể sinh vật, chính là những nhân tố
sản sinh ra các chất độc vốn có tầm quan
trọng chẳng khác ǵ acid carbonic và urê trong các chức
năng sinh hoạt, và là các sản phẩm tối hậu
của sự biến dưỡng bên trong cơ thể. Và
mặc dù người ta chưa xác định rốt ráo
được là liệu các cơ thể sinh vật có
thể tạo ra được các chất độc hay
không, khi không có vi trùng tham dự và can thiệp vào, nhưng
người ta xác nhận rằng loài vật quả
thật có tạo ra các chất độc dưới
dạng sống động hay sinh lư.
Như vậy, khi đă khám phá ra
được những hậu quả, khoa học c̣n
phải t́m ra những nguyên nhân ĐẦU TIÊN (PRIMARY Causes),
mà điều này không bao giờ có thể t́m ra nếu không
có sự trợ giúp của các khoa học cổ xưa,
của Khoa luyện kim đan và Huyền học. Chúng ta
biết rằng, mỗi trạng thái biến đổi
sinh lư, ngoài những hiện tượng bệnh lư,
đều do bởi những trạng thái thay đổi
trong những tổ chức tế bào, nó tạo ra môi
trường thuận lợi cho sinh khí tác động trong
cơ thể, và tất cả những sự diễn
biến này đều do hành động của những
KẺ TẠO TÁC, và HUỶ DIỆT vô h́nh (unseen CREATORS and
DESTOYERS) mà người ta gọi một cách hời hợt
là “vi trùng”. Người ta có thể giả sử là các Sinh
hoá tố (Fiery Lives) này chẳng khác ǵ vi trùng của khoa
học. Không phải như thế đâu. Các Sinh hoá tố
thuộc về phân cảnh thứ bảy và cao nhất (the
seventh and highest sub-division) của cơi vật chất, và là
phần tương ứng của con người với
Sự Sống Duy Nhất của Vũ Trụ, mặc dù
chỉ ở trên cơi vật chất đó thôi. C̣n vi trùng
của khoa học th́ thuộc về phân cảnh thứ nhất
và thấp nhất trên cảnh giới thứ hai - cảnh
giới của Sinh lực hồng trần (material Prana) hay
Sự Sống. Cứ bảy năm một lần, con
người phải chịu một sự thay đổi
cấu trúc hoàn toàn; nó được bảo dưỡng
hay bị huỷ diệt là do các chức năng luân
chuyển của các Sinh hoá tố với vai tṛ Huỷ
Diệt và Kiến Tạo. Chúng Kiến Tạo bằng cách
hiến ḿnh dưới dạng sinh lực để
kiềm chế tác dụng huỷ diệt của các vi
trùng. Nhờ vào việc cung cấp những ǵ thiết
yếu cho các vi trùng, chúng khống chế được
các vi trùng ấy để kiến tạo nên thể xác và
các tế bào. Chúng cũng đóng vai tṛ Huỷ Diệt khi
không c̣n kiềm chế nữa, và các vi trùng, khi không c̣n
được cung cấp sinh năng kiến tạo, nên
tự chạy hỗn loạn (to run riot) với vai tṛ là các
tác nhân huỷ hoại.
Như vậy, trong ṿng phân nửa đầu tiên của
đời người, gồm năm
thời kỳ, mỗi thời kỳ là bảy năm,
các Sinh hoá tố gián tiếp tham dự vào tiến tŕnh
kiến tạo thể xác của con người; Sự
Sống trên đà tăng tiến và thần lực
được dùng vào việc kiến tạo và tăng
trưởng. Sau thời kỳ này là tới thời kỳ
suy thoái, các Sinh hoá tố đều kiệt sức, công tác
huỷ hoại và suy thoái cũng bắt đầu.
307
Ở đây, ta có thể truy nguyên
được một điều tương tự
giữa các biến cố vũ trụ khi Tinh Thần giáng
xuống nhập vào Vật Chất trong ṿng phân nửa
đầu tiên của Chu Kỳ Khai Nguyên (của một
hành tinh cũng như của con người), và khi Tinh
Thần thăng lên làm hại cho Vật Chất trong ṿng
phân nửa thứ hai của chu kỳ đó. Các nhận xét
này chỉ dính dáng tới cơi vật chất, nhưng tác
dụng kiềm chế của các Sinh Hoá Tố đối
với cảnh giới thấp nhất của cơi thứ
hai (tức các vi trùng) đă được xác nhận qua
sự kiện mà thuyết nêu trên của Pasteur đă
đề cập tới. Đó là: khi không kiếm
được đủ oxygen, tế bào của các cơ
quan phải tự thích ứng với điều kiện
ấy và tạo ra các chất men; nhờ hấp thụ
được oxygen của các chất tiếp xúc với
chúng, các chất men này đă tạo ra sự huỷ
diệt chúng. Như thế, tiến tŕnh này bắt
đầu qua việc một tế bào cướp lấy
nguồn sinh lực của tế bào lân cận khi nó không
được cung cấp đủ; thế là sự
huỷ diệt cứ măi theo đà đó mà tiến
triển.
Những nhà thực nghiệm như Pasteur
chính là những người bạn thân thiết và những
kẻ trợ giúp tích cực nhất cho những kẻ
huỷ diệt, và là những kẻ thù nguy hiểm nhất
của các Đấng Sáng tạo - nếu các Đấng
Sáng Tạo cũng không đồng thời là kẻ huỷ
diệt. Tuy nhiên, có thể là có một điều chắc
chắn: căn bản của PHÁP THUẬT (MAGIC) chính là
việc tri thức về các nguyên nhân ban sơ này, và tri
thức về bản thể căn cốt của mọi
Nguyên Tố, các Sinh Hoạt, chức năng, tính chất và
trạng thái biến đổi của chúng. Trong ṿng các
thế kỷ gần đây của kỷ nguyên Thiên Chúa, có
lẽ Paracelsus là người duy nhất thông hiểu bí
nhiệm này. Nếu kẻ tội phạm không ra tay kết
liễu mạng sống của ông trước khi ông
thực sự tới số, th́ ắt khoa Pháp thuật sinh
lư (physiological Magic) đă chẳng có đầy dẫy các
điều bí nhiệm đối với thế giới
văn minh như hiện nay.
(d) Câu nói bí
hiểm “Cá, Tội Lỗi và Mặt Trăng” trong
ĐOẠN KINH này có liên hệ ǵ đối với các Sinh
Vật đă nói trên? Thật ra không có ǵ, trừ phi
những sinh vật này sử dụng cái thể bằng cát
bụi của chúng ta đă chuẩn bị sẵn. Nhưng
câu ấy có một liên hệ rất nhiều với Con
Người thiêng liêng toàn thiện, v́ “Cá, Tội Lỗi và Mặt
Trăng” hợp chung lại thành biểu tượng Tam
Nguyên của Đấng Siêu Phàm bất diệt.
Đó là tất cả những ǵ mà chúng ta có
thể tŕnh bày. Tác giả cũng chẳng hề tự cho
là ḿnh hiểu biết các biểu tượng kỳ lạ
này nhiều hơn mức mà người ta có thể suy
diễn được theo các tôn giáo ngoại môn – có lẽ
là theo bí nhiệm ẩn tàng sau Hoá thân cá (Matsya) của Vishnu,
Oanness (Người Cá) của dân Chaldea, được ghi
lại nơi cung Hoàng Đạo bất diệt Song Ngư
xuyên suốt qua hai kinh Tân và Cựu Ước nơi các nhân
vật Joshua “con của Nun (Con Cá)” và Jesus; theo “Tội
Lỗi” ẩn dụ tức là sự sa đoạ của
Tinh Thần vào trong Vật Chất; và theo Mặt Trăng -
chừng nào mà nó c̣n liên quan tới các Nguyệt Tinh Quân
(Pitris).
Hiện thời, thiết tưởng
cũng cần nhắc độc giả nhớ là trong
mọi kho tàng thần thoại, nhất là thần thoại
Hy Lạp, các Nữ Thần Nguyệt Tinh (Moon-Goddesses)
đều có liên hệ với sự sinh sản, v́ Mặt
Trăng có ảnh hưởng đối với phụ
nữ và sự thụ thai; thế mà cho đến nay, sinh
lư học chẳng biết ǵ về mối quan hệ
huyền bí và có thực của Mặt Trăng với
sự thụ thai (nó lại c̣n xem mọi nghi thức dân
gian về vấn đề này là một điều mê tín
dị đoan tồi bại nữa). V́ cũng chẳng
cần bàn tỉ mỉ những điều này, nên hiện
thời, ta chỉ có thể tạm ngừng để
lưu ư đến biểu tượng kư nguyệt tinh
một cách hời hợt, để chứng tỏ
rằng cái điều mê tín vừa nói lại thuộc
về các tín ngưỡng xa xưa nhất, thậm chí
cả Do Thái giáo (nền tảng của Thiên Chúa giáo)
nữa. Đối với người Do Thái, Jehovah có
chức năng chính là sinh con đẻ cái, khi
được thuyết minh theo Do Thái Bí giáo, nội môn bí
giáo của Thánh kinh chắc chắn đă chứng tỏ
rằng Mật Điện trong Thánh Điện chỉ là
biểu tượng của tử cung (the Holy of Holies in the
Temple was simply the symbol of the womb). Nay điều này đă
được chứng tỏ một cách không thể nghi
ngờ và chỉ trích được bằng cách dùng các con
số để thuyết minh Thánh
Kinh nói chung và Sáng Thế Kư
nói riêng. Chắc chắn là người Do Thái đă vay
mượn ư niệm này của dân Ai Cập và Ấn
Độ; người Ai Cập dùng Pḥng Thánh Vương
(King’s Chamber) trong Đại Kim Tự Tháp ([592])
để tượng trưng cho Mật Điện
của người Do Thái, c̣n người Ấn Độ
lại tượng trưng nó bằng các biểu
tượng Âm hộ (Yoni Symbol) của ngoại môn. Để
cho vấn đề được rơ rệt hơn và
đồng thời để chứng tỏ sự dị
biệt lớn lao theo tinh thần của sự thuyết
minh ư nghĩa nguyên thuỷ của các biểu tượng
như nhau giữa các nhà Huyền bí Đông phương
thời xưa và các nhà Do Thái Bí giáo, chúng tôi đề
nghị quí độc giả nên tham khảo tiết bàn về
“Mật Điện” (“The Holy of Holies”) trong Quyển 4.
308
Tục thờ cúng sinh thực khí chỉ
bành trướng khi người ta đă làm mất các ch́a
khoá để giải chân ư nghĩa của các biểu
tượng. Đó chính là sự lệch lạc cuối
cùng và tai hại nhất khiến người ta rời khỏi
chánh đạo tràn đầy chân lư và minh triết thiêng
liêng để đi vào tả đạo đầy hư
ảo, được xây dựng thành giáo điều do ḷng
người c̣n ưa trá nguỵ và nấu nung tham vọng
giáo phẩm.
6.
TỪ KẺ SINH RA ĐẦU TIÊN (FIRST-BORN) ([593]),
SỢI CHỈ GIỮA ĐẤNG GIÁM SÁT IM LẶNG (SILENT
WATCHER) VÀ CÁI BÓNG CỦA NGÀI TRỞ NÊN MẠNH VÀ SÁNG HƠN
MỖI KHI CÓ SỰ THAY ĐỔI ([594]).
ÁNH MẶT TRỜI BUỔI BAN MAI TRỞ THÀNH ÁNH SÁNG RỰC
RỠ GIỮA TRƯA…
Câu “Sợi Chỉ giữa Đấng Giám Sát Im Lặng và Cái Bóng [Con
Người] trở nên chắc mạnh hơn đối
với mỗi kiếp Tái Sinh”, là một điều bí
hiểm tâm lư khác nữa, sẽ được giải
thích trong Quyển 3 và 4. “Đấng Giám Sát"”và những
“Cái Bóng” – bao nhiêu bóng là bấy nhiêu kiếp tái sinh cho
Chơn Thần - chỉ là một. Đấng Giám Sát hay
Kiểu Mẫu Thiêng Liêng (Divine Prototype) vẫn ở
nấc tột điểm của Thang Tiến Hoá (the Ladder
of Being), c̣n cái Bóng ở nấc thấp hơn. Vả
lại, trừ trường hợp mà sự sa đoạ
tinh thần cắt đứt sự liên quan mật
thiết, làm cho con người chới với và “lạc
loài vào Nẻo Âm Đạo” (“astray into the Lunar Path”) – nói theo
danh từ huyền môn - điểm Chơn Thần của mỗi sinh vật là một vị Thiền
Định Đế Quân biệt lập (an individual Dhyan
Chohan), khác hẳn những vị khác, một Cá Tính tâm linh
(spiritual Individuallity) độc đáo trong một Chu
Kỳ Sáng Tạo đặc biệt (one special Manvantara).
Linh hồn hay Tiểu Ngă (Atman) của vị ấy lẽ
tất nhiên hợp nhất với Đại Ngă (Paramatma)
hay Đại Hồn của Vũ Trụ, nhưng c̣n cái
thể bọc ở ngoài của nó, tức Buddhi (Tuệ
giác thể), là một phần hay một mảnh tinh hoa
của vũ trụ. Điều này là bí quyết của
sự Toàn Thông (ubiquity), tức
là quyền năng hiện diện ở khắp nơi
trong vũ trụ đă giải thích ở những trang
trước đây. Thánh kinh Thiên Chúa giáo nói: “Cha của Tôi
ở trên Trời và tôi chỉ là một” ([595]).
Câu này dù sao cũng là phản ánh trung thực của giáo lư
Huyền môn.
309
7. NGỌN LỬA
BẢO VỚI ĐỐM LỬA: “ĐÂY LÀ BÁNH XE HIỆN
TẠI CỦA NGƯƠI, NGƯƠI CHÍNH LÀ TA, LÀ H̀NH
ẢNH VÀ CÁI BÓNG CỦA TA, Ở NƠI BẢN THỂ
CỦA NGƯƠI, TA ĐĂ TỰ KHOÁC ÁO LÊN M̀NH VÀ
NGƯƠI LÀ VẬN CỤ (VAHAN) ([596])
CỦA TA CHO ĐẾN NGÀY “HỢP NHẤT VỚI
THƯỢNG ĐẾ” (“BE WITH US”), KHI NGƯƠI SẼ
TRỞ THÀNH CHÍNH TA VÀ NHỮNG KẺ KHÁC, CHÍNH NGƯƠI VÀ
TA” (a). LÚC ĐÓ, SAU KHI ĐĂ KHOÁC LỚP ÁO ĐẦU TIÊN,
CÁC ĐẤNG KIẾN TẠO GIÁNG LÂM XUỐNG ĐỊA
CẦU SÁNG CHÓI VÀ NGỰ TRỊ LOÀI NGƯỜI - HỌ
CHÍNH LÀ NGƯƠI (b).
(a) Ngày mà “Đốm Lửa trở thành
Ngọn Lửa (khi con người hợp nhất với
vị Dhyan Chohan) rồi trở thành ta và kẻ khác,
ngươi và Ta”, câu này có nghĩa là: “Trên cơi Đại
Niết Bàn, khi chu kỳ huỷ diệt Pralaya đă làm cho
những thể vật chất và tinh thần, thậm chí
các Chơn Ngă tâm linh tan biến trở lại nguyên khí
căn bản của buổi sơ khai, th́ Nhân Loại
của Dĩ Văng, Hiện Tại và Tương Lai cũng
như tất cả vạn vật đều sẽ
hợp nhất làm một. Chừng đó, tất cả
đều sẽ tái nhập vào Đại Khí Vận (the
Great Breath). Nói cách khác, tất cả vạn vật
đều hợp nhất và qui nguyên với Đại Ngă
(Brahman) hay hợp nhất với Thượng Đế.
Phải chăng đó là tịch diệt
(annihilation) như có người vẫn tưởng? Hay
phải chăng đó là cơi Hư
Vô, Vô Thần (Atheism), theo quan niệm phản triết
học của những người thờ phụng
một Đấng Thượng Đế hữu thể, cá biệt và tin tưởng
nơi cơi Thiên Đàng đời đời? Cả hai
đều không cái nào đúng. Thật không ích ǵ mà tranh
luận trở lại về quan niệm cho rằng
trạng thái tâm linh thuần chân vô ngă, cao khiết nhất
vốn hàm súc một tính cách vô thần. Quan niệm rằng
Niết Bàn là tịch diệt chẳng khác nào nói rằng người đắm ch́m trong
giấc ngủ say không mơ, cũng bị tịch
diệt (giấc ngủ say không mơ là giấc ngủ
không ghi ấn tượng trên kư ức và bộ óc thể
chất v́ Chơn Ngă của đương sự ở vào
trạng thái nguyên thuỷ của Tâm Thức Tuyệt
Đối). Thí dụ này chỉ giải đáp có
một khía cạnh của vấn đề, tức khía
cạnh vật chất mà thôi, bởi v́ sự tái nhập
hay “tái hợp” nói trên không phải là một “giấc
ngủ không mơ” mà trái lại là một sự Tự
Tại Tuyệt Đối
(Absolute Existence), một trạng thái hợp nhất
kỳ diệu mà ngôn ngữ trần gian không làm sao diễn
tả nổi. Phương pháp duy nhất để có
một quan niệm đại khái về sự tái hợp
này chỉ có thể được thực hiện
bằng cái nh́n bao quát của linh hồn trong cơn
đại định, xuyên qua những chân niệm
(ideations) tâm linh của Chơn Thần thiêng liêng (the divine
Monad). Trong sự “tái hợp” đó, Chơn Ngă hay chí
đến cái Tinh hoa của Phàm Ngă nếu có c̣n sót lại,
cũng không hề mất đi đâu, v́ tất cả
đều tái hợp với Đại Ngă thiêng liêng. Đó
là trạng thái vô vi tịch tĩnh của Đại
Niết Bàn, dù rằng vô giới hạn theo quan điểm
của người trần tục, vẫn là hữu
hạn trong thời gian vô cùng. Khi đă đạt tới
Đại Niết Bàn, Điểm Chơn Thần sẽ
lại xuất ra khỏi trạng thái đó trong
cương vị một Đấng Cao Cả hơn
nữa, trên một cảnh giới c̣n cao siêu hơn
nữa, để lại bắt đầu một chu
kỳ tiến hoá siêu đẳng cho đến mức hoàn
thiện. Trong giai đoạn tiến hoá tạm thời, trí
tuệ con người không thể nào đạt tới
tầm mức tư tưởng trên cơi giới đó, mà
dừng lại ở đây, trên bờ vực thẳm
của Vô Cực Tuyệt Đối bất khả tư
nghị.
(b) Những “Đấng Giám Sát” (“Watchers”) cai
quản loài người trong suốt thời đại
Satya Yuga, và những tiểu thời đại kế
tiếp, chí đến lúc bắt đầu Giống dân
thứ Ba, sau đó là những vị Tộc Trưởng
(Patriarchs), Lănh Tụ (Heroes), Thần Linh (Manes) (cũng
như trong các triều đại Ai Cập được
kể ra bởi các vị tư tế đến Solon), các
Dhyanis lâm phàm với đẳng cấp thấp dần
xuống đến vua Menes và các vị Quốc vương
của các nước khác. Tất cả đều
được ghi lại cẩn thận. Xét theo quan
điểm của các nhà biểu tượng học, Thời
đại Thần thoại này dĩ nhiên chỉ
được xem như là câu chuyện thần tiên. Tuy
nhiên, v́ trong các niên sử của mọi quốc gia
đều có các truyền thuyết (thậm chí cả các
niên sử nữa) về các triều đại Thánh
Vương đó, về chư Thần Linh cai trị con
người tiếp theo sau là các triều đại các
vị Anh Hùng hay các vị Khổng Lồ (Giants), nên không
hiểu tại làm sao mà mọi dân tộc đang tồn tại
- một số dân tộc bị ngăn cách với nhau
bởi những đại dương mênh mông và thuộc
về các bán cầu khác nhau, chẳng hạn như
người Peru và Mễ Tây Cơ thời xưa, cũng
như là dân Chaldea - lại có thể tạo ra các “chuyện
thần tiên” giống nhau theo cùng một tŕnh tự diễn
biến ([597]).
Tuy nhiên, v́ Giáo Lư Bí Nhiệm dạy về lịch sử - mặc dù có tính cách truyền
thuyết và nội môn, song lịch sử này vẫn c̣n
đáng tin cậy hơn lịch sử phàm tục – nên chúng
ta có quyền tin tưởng chẳng kém ǵ bất cứ
kẻ nào khác, dù là có theo một tôn giáo nào hay theo chủ
nghĩa hoài nghi. Giáo lư Bí Nhiệm cũng dạy rằng các
Đấng Dhyanis - Buddhas thuộc hai đẳng cấp cao
nhất, mệnh danh là Những Vị Giám Sát hay Kiến
Tạo (the Watchers or the Architects), đem đến cho
nhiều giống dân khác nhau những vị Thánh
Vương và Lănh Tụ của họ, chính những lănh
tụ hay tù trưởng này đă dạy cho nhân loại
biết bao ngành nghệ thuật, khoa học và các vị
Thánh Vương đă tiết lộ cho họ những chân
lư chánh đại thuộc về Thế Giới tinh
thần.
Như
ĐOẠN KINH (STANZA) đă nói, các Vị Giám Sát “giáng
trần và ngự trị loài người, họ chính là họ (who are themselves)”. Những ông Vua
trị v́ trong dân gian thời cổ đă hoàn tất chu
kỳ tiến hoá của họ trên Địa Cầu và
trên những bầu Thế Giới khác trong những
Cuộc Tuần Hoàn trước. Trong những
Đó là diễn tŕnh của những chu
kỳ tiến hoá theo qui mô con số bảy bao gồm
Bảy loại tính chất trong Con Người; tính
chất tâm linh hay thiêng liêng; tính chất thần bí hay bán
thiêng liêng (Psychic semi-divine); tính chất trí tuệ; tính
chất đam mê, lệ thuộc bản năng hay nhận
thức; tính chất bán thể chất; và thuần thể
chất. Tất cả những tính chất đều
tiến hoá từng chu kỳ đi từ loại này sang
loại khác, theo một chiều song đôi, ly tâm và
hướng tâm, gồm tất cả bảy khía cạnh, nhưng tựu trung, cái tinh hoa
rốt ráo vốn là một.
Tính chất thấp kém nhất, lẽ tất nhiên là cái
tuỳ thuộc vào năm giác quan của con người
(thật ra theo các Áo Nghĩa Thư xưa nhất,
có tới bảy giác quan, chúng ta sẽ tŕnh bày vấn
đề này sau). Đời sống hữu thức
của con người, loài vật và cây cỏ, từ
trước đến nay vẫn là tiểu thiên
địa, phản ánh một đại vũ trụ c̣n
lớn hơn. Theo cùng nguyên lư đó, Vũ Trụ cũng
biểu lộ từng chu kỳ, v́ mục đích tiến
hoá của vô số chúng sinh cùng hấp thụ sinh khí
của Sự Sống Duy
Nhất (the One Life). Xuyên qua
trào lưu diễn biến không
ngừng, mỗi nguyên tử trong Vũ Trụ vô biên
tiến hoá từ trạng thái vô sắc tướng
đến trạng thái vật chất hoàn toàn biểu
lộ rồi quay trở về, vượt lên từng giai
đoạn với mỗi chu kỳ mới để ngày
càng tiến gần đến mục đích rốt ráo cùng
tột, để cho mỗi nguyên tử, qua những
cố gắng công phu cá biệt, có thể đạt
tới cơi giới siêu thức và hợp nhất làm một
với Đại Ngă Duy Nhất (the One Unconditioned ALL).
Nhưng diễn tŕnh hành hương lâu dài đó phải
đi qua một con đường chông gai khổ nhọc.
Con đường thoạt tiên đi xuống rồi
lại lượn ngoằn ngoèo.
311
…… trực chỉ lên đồi.
Đúng vậy, tiến đến cùng ([599]).
Sau khi khởi sự cuộc hành tŕnh dài vô
nhiễm (the long journey immaculate), ngày càng lún sâu vào vũng bùn
vật chất đầy tỗi lỗi, sau khi đă
gắn liền ḿnh với mọi nguyên tử trong Không Gian biểu lộ, đă
phấn đấu qua mọi chúng sinh và chịu đau
khổ trong đó hành giả cũng chỉ mới ở
đáy vực thẳm vật chất và đi
được nửa đoạn đường, một
khi y đă đồng nhất ḿnh với tập thể
Nhân Loại. Y đă thực
hiện điều này theo h́nh ảnh riêng của ḿnh. Để
tiến đến chỗ phản bổn hoàn nguyên,
“Thượng Đế” nay phải ́ ạch leo lên
đỉnh
313
TỔNG KẾT
(SUMMING UP).
Lịch sử
Sáng Tạo và Lịch sử của Thế Giới này,
từ lúc khởi thuỷ măi cho đến nay, gồm có
tất cả bảy chương. Chương thứ
bảy vẫn chưa được viết ra. – T.
Subba Row. ([600])
Ta đă thử tŕnh bày chương
đầu tiên, và nay nó đă kết thúc. Mặc dù chỉ
là một bản thuyết tŕnh bất toàn và kém cỏi, dù
sao, nó cũng vẫn gần giống – dùng từ ngữ này
theo nghĩa toán học – như là cơ sở cổ
nhất của mọi vũ trụ khởi nguyên luận
tiếp theo sau. Thật là bất toàn khi cố gắng dùng
một ngôn ngữ Tây phương để diễn
đạt toàn cảnh về Thiên Luật cứ tái
diễn tuần hoàn, tác động lên trí óc dễ uốn
nắn của những Giống dân đầu tiên có Tâm
Thức, do những giống dân vốn phản ánh Tâm
Thức của Toàn Linh Trí; đó là v́ trừ tiếng
Bắc Phạn - vốn là ngôn ngữ của Chư Thiên ra
– không một ngôn ngữ nào của loài người có
thể thành đạt được mục tiêu đó
một cách thoả đáng. Nhưng v́ tác phẩm này có
động cơ thúc đẩy chính đáng nên ta phải
miễn thứ cho những khuyết điểm của nó.
Nh́n chung, chúng ta không thể thấy toàn
bộ phần trên cũng như phần tiếp theo ở
bất cứ nơi đâu. Nó không hề được
giảng dạy trong bất kỳ trường phái nào
của sáu Trường phái triết học Ấn
Độ, v́ nó thuộc về Trường phái thứ
bảy tổng hợp chúng lại, đó là Huyền bí
học. Người ta cũng không hề truy nguyên
được nó trên bất kỳ mẫu giấy chỉ
thảo nào của Ai Cập, nó cũng chẳng c̣n
được ghi khắc trên miếng ngói hoặc bức tường
bằng đá hoa cương của
Upanishad thường được dịch
là “nội môn bí giáo” (“esoteric doctrine”). Các bộ đại
luận này là một phần của Shruti, tức Minh
Triết “thiên khải” và thường gắn liền
với (portion) Brahmana của kinh Vedas, xem như là phẩm
thứ ba của nó ([601]).
314
Các nhà Đông phương học đă
liệt kê ra 150 Áo Nghĩa
Thư, họ tin rằng bản kinh xưa nhất có lẽ đă được
viết ra vào lối năm 600 trước Thiên Chúa,
nhưng số kinh điển chân chính không có tới
một phần năm của con số nêu trên. Áo Nghĩa Thư đối
với kinh Vedas cũng
chẳng khác nào kinh Kabalah
đối với Thánh kinh
Do Thái. Chúng giải thích và bàn về ư nghĩa bí nhiệm
của kinh Vedas. Chúng bàn về nguồn gốc của
Vũ Trụ, bản chất của Thượng
Đế, Tinh Thần và Linh Hồn, cũng như quan
hệ siêu h́nh của Trí Tuệ với Vật Chất. Tóm
lại, chúng BAO HÀM toàn bộ
tri thức của nhân loại từ đầu tới
cuối, nhưng từ ngày Đức Phật giáng lâm
trở đi, chúng không c̣n TIẾT LỘ kho tàng tri thức ấy nữa. Bằng không,
người ta đâu có thể bảo Áo Nghĩa thư là bí truyền được, v́
nay chúng đă công khai gắn liền với các Thánh thư
Bà La Môn, thế mà hiện nay, ngay cả kẻ ngoài giai
cấp riêng biệt ở xă hội Ấn Độ
(out-castes) ([602])
và các nhà Đông phương học Âu Mỹ cũng
đến gần được Thánh thư này. Trong
mọi Áo Nghĩa Thư
đều luôn luôn có một điều biểu thị
nguồn gốc xa xưa của chúng và chứng tỏ
rằng:
a. Có một vài phần được
viết ra trước khi hệ thống giai cấp
biến thành một định chế độc đoán
như hiện nay.
b. Nội dung của chúng đă bị
loại bỏ một nửa, c̣n vài phần đă
được viết lại và tóm tắt.
“Người ta cứ liên tục tŕnh bày các
bậc Đại Đạo Sư về Minh Triết
thượng thừa và người Bà La Môn đến
bệ kiến Thánh Vương thuộc Giai cấp quân nhân
để xin làm đệ tử”. Giáo sư Cowell đă
nhận xét một cách thích đáng rằng Áo Nghĩa Thư “đă toát ra một tinh thần
khác hẳn (các tác phẩm Bà La Môn giáo khác), một tư
tưởng phóng khoáng không hề có trong bất kỳ tác
phẩm cổ truyền nào khác, ngoại trừ trong chính
các bài Thánh ca của Rig Veda”.
Một truyền thuyết c̣n được ghi lại
nơi một trong các bản thảo viết về
cuộc đời của Đức Phật đă
giải thích được sự kiện thứ nh́. Nó cho
rằng Áo Nghĩa Thư có
một nguồn gốc gắn liền với kinh Brahmanas sau khi cuộc cải
cách đă bắt đầu. Cuộc cải cách ấy
đưa tới hệ thống giai cấp độc
quyền Bà La Môn hiện nay, chỉ có vài thế kỷ sau
khi giai cấp được “cải tử hoàn sinh”
(“Twice-born”) đă xâm nhập vào Ấn Độ. Ngay từ
thời đó, chúng đă hoàn chỉnh rồi và
được dùng để dạy các đệ tử
đang chuẩn bị được Điểm
Đạo.
Điều này vẫn c̣n tồn tại
chừng nào mà kinh Vedas và kinh
Brahmanas vẫn c̣n do giai cấp
Bà La Môn thánh điện (the temple-Brahmans) độc
quyền nắm giữ, khi ngoài giai cấp thánh điện
ấy ra, không một ai khác có quyền nghiên cứu thậm
chí đọc chúng nữa. Rồi tới Đức Cồ
Đàm (Gautama), Vị Thái Tử ở Ca Tỳ La Vệ. Sau
khi đă học
được toàn bộ minh triết của Bà La Môn
giáo trong kinh Rahasya hay Áo Nghĩa Thư (Upanishads), và
thấy rằng các giáo lư đó chẳng khác bao nhiêu (nếu
không muốn nói là chẳng khác chút nào) với giáo lư của
các bậc Đạo Sư ẩn cư nơi dăy Hy Mă
Lạp Sơn quanh năm tuyết
315
phủ ([603]),
các môn đồ của Bà La Môn phẫn nộ khi thấy
Minh Triết Thiêng Liêng bị giai cấp Bà La Môn độc
quyền chiếm giữ nên quyết định truyền
bá nó để cứu nhân độ thế. Bấy giờ
khi thấy rằng Minh Triết Thiêng Liêng Huyền Bí
của ḿnh đă lọt vào tay “Bọn ngoại đạo”
(“Mlechchhas”), giai cấp bà La Môn bèn rút ngắn kinh
điển Áo Nghĩa Thư
lại, song không hề sửa đổi một chữ nào
của kinh điển (thoạt đầu, Áo Nghĩa Thư bao hàm tới
gấp ba lần các đề tài trong kinh Vedas và kinh Brahmanas
gộp lại). Họ chỉ rút ra khỏi bản thảo
các phần quan trọng nhất bao hàm tri thức rốt ráo
về bí nhiệm của Hiện Tồn. Từ đó,
chỉ các Điểm đạo đồ mới có
được ch́a khoá để giải bộ mật mă
bí hiểm của Bà La Môn giáo, thế là người Bà La Môn
bèn giữ lập trường công khai chối bỏ tính
đúng đắn của giáo lư của Đức Phật
bằng cách cầu cứu tới bộ Áo Nghĩa Thư,
đă im hơi lặng tiếng măi măi về những câu
hỏi chủ yếu. Đó là truyền thuyết nội
môn phía bên kia Hy Mă Lạp Sơn.
Shri Shankaracharya, Điểm Đạo
đồ cao cả nhất trong thời có sử, đă
viết nhiều giảng lư Áo
Nghĩa Thư. Nhưng có nhiều lư do để
giả sử rằng các bộ Đại luận nguyên
bản của Ngài chưa hề lọt vào tay người
Philistine, v́ chúng đă được giữ kín trong các
đạo viện của Ngài. Ngoài ra, c̣n có các lư do vững
chắc hơn khiến ta tin tưởng rằng các
giảng lư vô giá bàn về Nội môn bí giáo Bà La Môn của
các minh sư cao cả nhất trong bao thời đại
vẫn là một vấn đề bí hiểm đối
với hầu hết những người Ấn Độ,
ngoại trừ nhóm người Bà La Môn Smarta. Giáo phái này –
do Shankaracharya lập nên, vẫn c̣n có nhiều thế
lực ở
316
Do đó, khi phát biểu như trên, tác giả
cần chuẩn bị cho tinh thần để đối
phó với sự chống đối kịch liệt,
thậm chí với cả sự bác bỏ hoàn toàn các phát
biểu được nêu ra trong tác phẩm này nữa. Tác
giả cũng chẳng bao giờ vỗ ngực khoe
rằng tất cả những ǵ ḿnh viết ra đều
không thể sai lầm và hoàn toàn chính xác đến từng
chi tiết một. V́ đó là các sự kiện nên dễ ǵ
mà chối bỏ được chúng. Tuy nhiên, v́ bản thân
các đề tài được bàn tới thật là khó
hiểu và v́ Anh ngữ cũng như toàn thể các ngôn
ngữ Tây phương khác đều có hạn chế
hầu như không thể khắc phục được
khi muốn diễn đạt một vài ư tưởng, nên
rất có thể là tác giả đă không tŕnh bày
được các điều giải thích dưới
một dạng minh bạch nhất và tối ưu. Thế
nhưng, bất chấp mọi nghịch cảnh, tác
giả đă phấn đấu làm hết sức ḿnh,
đến mức tối đa có thể mong đợi
được nơi bất kỳ bút giả nào.
Bây giờ, chúng tôi xin tóm lược
những ǵ đă nói ở đoạn trên, để cho
thấy rằng v́ tính cách vĩ đại bao la của
vấn đề được tŕnh bày, thật là một
việc khó khăn biết bao nhiêu (nếu không muốn nói
là không thể thực hiện được) để
giải bày tất cả mọi lẽ cho tường
tận.
1) Giáo Lư Bí Nhiệm là nền Minh Triết
được tàng trữ trải qua nhiều Thời
đại, nó đưa ra một khoa học khảo sát
về vũ trụ vô cùng độc đáo và dồi dào
phong phú, ngay cả khi ẩn khuất trong ngoại môn
hiển giáo của kinh Puranas. Nhưng
cái quyền năng bí ẩn của khoa biểu
tượng học Huyền Môn c̣n mầu nhiệm
đến nỗi những sự kiện huyền bí mà bao
thế hệ các đạo gia và các nhà huyền bí học
hiện tại đă dày công nghiên cứu, sưu tầm,
sắp đặt và giải thích, tất cả đều
được ghi lại chỉ trên vài trang giấy
với những dấu hiệu h́nh học và phù hiệu bí
mật. Cái nh́n sắc sảo của các nhà linh thị
(seers) này đă thấu nhập vào tận lơi tuỷ của
vật chất, và ghi lại được linh hồn
của vạn vật ở đó, trong khi một quan sát
viên phàm phu tục tử, dù kiến văn có quảng bác
đến đâu đi chăng nữa, cũng chỉ tri
giác được h́nh hài sắc tướng bên ngoài.
Nhưng khoa học hiện đại đâu có tin
tưởng vào “linh hồn của vạn vật”, và v́
thế sẽ bác bỏ toàn bộ hệ thống Vũ
trụ khởi nguyên luận cổ truyền. Tưởng
không cần phải nói rằng, phương pháp ghi chép
bằng các h́nh biểu tượng này, không phải do óc
tưởng tượng của một vài cá nhân riêng
rẽ nào phát sinh ra. Nó là một phương pháp tàng trữ
liên tục trải qua hàng ngàn thế hệ đạo gia
huyền môn chân chính, các vị này đă dùng những giác quan
siêu phàm làm những cuộc thí nghiệm để
truyền từ giống dân này qua giống dân khác, và từ
buổi sơ khai đă được truyền thụ cho
họ bởi những Đấng Cao Cả Thiêng Liêng có
sứ mạng trông nom d́u dắt Nhân Loại c̣n ấu
trĩ. Trải qua nhiều thế hệ, những bậc
Thánh nhân hiền triết của Giống dân thứ Năm
trong số những người được bảo
vệ an toàn và cứu thoát khỏi thiên tai cuối cùng làm
rung chuyển lục địa, đă dùng suốt cuộc
đời họ để
học hỏi chớ không đi truyền giáo. Họ làm
vậy bằng cách nào? Đó là bằng cách phối
kiểm, chiêm nghiệm, thử thách trở đi trở
lại nhiều lần các truyền thống đạo lư
cổ xưa được lưu truyền trong dân gian do
những khám phá riêng rẽ bằng linh thị hay nhăn quan
thần thông của các Chân Sư cao cả, tức là
những bậc đă phát triển và hoàn thiện những
cơ cấu thể chất, trí tuệ, tinh thần và tâm
linh đến mức độ tột điểm. Không
một sự kiện khám phá nào bằng linh thị của
một vị Chân Sư được chấp nhận
trừ khi nó được phối kiểm chặt
chẽ và xác nhận bởi những điều khám phá
bằng nhăn quan thần thông của những vị Chân
Sư khác, và bởi nhiều cuộc thí nghiệm của
các nhà Huyền học và Đạo gia trải qua nhiều
thế kỷ.
2) Định luật căn bản của
hệ thống nêu trên, điểm cốt yếu phát sinh ra
mọi vật đều từ đó mà có và rốt
cuộc lại trở về đó, nguồn cảm
hứng của mọi hệ thống triết học và
tư tưởng, chính là cái ĐẠI THỂ NGUYÊN LƯ
Tối Cao Thiêng Liêng Duy Nhất (the One Homogeneous Divine
SUBSTANCE-PRINCIPLE), cái Nguyên Nhân Cùng Tột của vạn
vật (One Radical Cause).
…..Một vài người có điểm linh
quang sáng rực đă được dẫn dắt từ
nguyên nhân này đến nguyên nhân khác, măi măi tới tận
cội nguồn bí nhiệm của thiên nhiên…
Gọi là “Đại Thể Nguyên Lư”
(“Substance-Principle”), bởi v́ nó trở nên “Đại
Thể” (“Substance”) trên cơi Vũ Trụ biểu lộ,
một Ảo giác hay Ảo ảnh (Illusion), tuy nó vẫn là
một “Nguyên Lư” (“Principle”) trong KHÔNG GIAN trừu
tượng, hữu h́nh và vô h́nh, vô thuỷ, vô chung. Nó là
Chân Như Thực Tại (Reality), hiện diện khắp
nơi, vô ngă vô tướng bởi v́ nó bao gồm và
chứa đựng tất cả vạn hữu. Tính chất vô ngă của nó
vốn là quan niệm căn bản của cả Hệ
thống. Nó vốn tiềm ẩn trong mỗi nguyên
tử của Vũ Trụ và nó chính là Vũ Trụ vậy
([604]).
317
3) Vũ Trụ là sự biểu lộ
từng chu kỳ của Bản Thể Tuyệt
Đối (Absolute Essence) nói trên. Song le, gọi nó là “Bản
Thể” (“Essence”) th́ thật đúng là mắc tội
phản lại chính Tinh Thần của triết học.
Đó là v́ mặc dù trong trường hợp này, danh từ
nêu trên có thể là một chuyển hoá từ của
động từ esse
(“tồn tại”-“to be”), nhưng người ta không thể
đồng nhất hoá Nó (IT) với một “thực
thể” (“being”) thuộc bất cứ loại nào mà trí
người có thể quan niệm được. Sự
diễn tả hay nhất của nó là không phải Tinh
Thần, cũng không phải Vật Chất, mà là cả
hai. “Parabraman” và “Mulaprakriti” thật ra là Một, nhưng lại
là Hai trong quan niệm Vũ Trụ biểu lộ, ngay
cả theo quan niệm của Thiên Đạo Duy Nhất
(One Logos), “Biểu Lộ” đầu tiên của nó. Trong
“Giảng Lư Chí Tôn Ca” (“Bhagavad
Gita”) vị diễn giả đại tài đă chứng
tỏ rằng nó xuất lộ (theo quan điểm
ngoại cảnh) như là Hỗn Nguyên Khí (Mulaprakriti)
chớ không phải là Thái Cực Thượng Đế
(Parabraman); nó xuất hiện như một tấm màn che,
chứ không phải là THỰC TẠI Duy Nhất (One REALTY)
ẩn đàng sau vốn thênh thang tuyệt đối.
4) Vũ Trụ cùng với vạn vật
trong đó được gọi là Ảo Ảnh (Maya),
bởi v́ trong đó tất cả đều là hư
giả, từ cuộc sống ngắn ngủi của con
thiêu thân đến kiếp sống của vầng thái
dương. So với NHẤT NGUYÊN thường trụ,
Vũ Trụ với các h́nh hài sắc tướng phù du, vô
thường, tất nhiên phải không hơn ǵ một bóng
ma trơi theo quan niệm của một triết gia. Tuy
nhiên, Vũ Trụ không có đủ tính chất thực
của nó đối với chúng sinh sống trong đó,
nhưng chính những chúng sinh này lại là hư, cũng
như vũ trụ vốn không thực vậy.
5) Mọi vật trong Vũ Trụ, kể
tất cả mọi loài, đều là HỮU THỨC
(CONSCIOUS): nghĩa là do tâm thức riêng của từng loài và
trên cơi nhận thức riêng của chúng. Không phải v́ ta
không nhận thấy dấu hiệu tâm thức trong
tảng đá mà ta có quyền nói rằng khoáng thạch không
có tri giác. Không có cái ǵ gọi là vật chất “chết” hay
“vô tri”, v́ trong trời đất không có Định
Luật vô tri và vô thức. Những điều này không
thể có trong quan niệm Triết học Huyền môn.
Huyền bí học không bao giờ dừng lại nơi các
h́nh thái sắc tướng bên ngoài, và đối với nó
Bản thể thực
tượng (noumenal
Essence) có thực hơn các đối phận ở
ngoại cảnh (objective counterparts); về phương
diện này, nó giống như Triết hệ duy danh
thời Trung Cổ (the mediaeval Nominalists); theo triết
hệ này, chính cái phổ hữu (universals) mới là
thực tại, c̣n các điều đặc thù chỉ
tồn tại trên danh nghĩa và trong sự tưởng
tượng của con người.
318
6) Vũ Trụ tác động và
được hướng
dẫn từ trong ra ngoài. Thiên địa vạn vật
đồng nhất lư. Do đó, con người, một
tiểu thiên địa theo qui mô và h́nh ảnh vũ
trụ, là nhân chứng sống của Định Luật
trên phương pháp tác động của nó. Chúng ta
thấy rằng mỗi cử động, hành động
bên ngoài, dù cố ư hay vô tâm, thuộc về cơ thể hay
trí năo, đều được tạo ra và gây nên bởi
một cảm xúc, ư muốn hay tư tưởng nội
tại. Không một cử chỉ hay vận động bên
ngoài nào của thể xác con người có thể diễn
tả ra trừ phi do sự thúc đẩy bởi một
động lực nội tại xuất phát ra xuyên qua
một trong ba nguyên do kể trên, th́ Vũ Trụ biểu
lộ ngoại tại cũng vậy. Toàn thể Vũ
Trụ được hướng dẫn, kiểm soát và
sinh động bởi hầu như vô số cấp
đẳng các Đấng Cao Cả thiêng liêng. Mỗi
cấp đẳng có một sứ mạng phải thi hành
trong Thiên Cơ. Dù chúng ta gán cho các cấp đẳng ấy
một danh hiệu nào, gọi các Ngài là Dhyan Chohans hay Thiên
Thần (Angels), các Ngài chỉ là “Sứ Giả” (“Messengers”),
trong cái ư nghĩa là những vị thi hành các Định
Luật của Vũ Trụ. Các vị đều khác nhau
đến vô cùng tận về tŕnh độ tâm thức và
trí tuệ. Việc gọi là Tinh Thần thuần tuư, không
pha trộn bất cứ yếu tố phàm tục nào “mà
thời gian quen ŕnh rập”, chỉ khiến cho thiên hạ
tưởng tượng mông lung. Đó là v́ mỗi vị
ấy hoặc đă từng là người, hoặc
chuẩn bị để trở thành người, nếu
không phải trong hiện tại, th́ cũng trong quá khứ,
hoặc trong chu kỳ tương lai. Các vị là những
người toàn thiện, và từ trên những cơi cao
hơn, chỉ khác với người phàm ở chỗ các
vị hoàn toàn không có ư thức phàm ngă và tính chất xúc
cảm của người trần gian, là hai đặc
tính thuộc về cơi hạ giới. Đẳng cấp
này gồm các vị toàn thiện đă loại bỏ
hản những đặc tính kể trên, bởi v́:
a. Các vị không c̣n mang xác phàm bằng
xương thịt, là cái gánh nặng trầm trệ
của Linh Hồn, và
b. V́ yếu tố tâm linh thuần tuư
được tự do, vô chướng ngại, các vị
ít bị ảnh hưởng bởi những ảo giác
như con người, ấy là một bậc siêu nhân
đă giải thoát và giữ cho hai cá tính tâm linh và thể
chất hoàn toàn cách biệt nhau.
Những đẳng cấp khác nhau chưa
hề mang xác phàm, nên không thể có ư thức phàm ngă hay ích
kỷ. Phàm ngă có nghĩa là một hạn chế và một
quan hệ, hoặc (theo định nghĩa của Coleridge)
“bản thân Chơn Ngă nhưng có một bản chất dùng
làm cơ sở”, dĩ nhiên là từ ngữ này không thể
áp dụng cho các thực thể phi Nhân Loại. Tuy nhiên,
biết bao nhiêu thế hệ các nhà Linh thị đă
nhấn mạnh rằng: không có một vị nào, dù cao hay
thấp, có cá tính hay phàm ngă riêng biệt, hiểu theo ư
nghĩa cá tính của một người khi y nói rằng: “Tôi là tôi chứ không là một
người nào khác” (“I am myself
and no one else”). Nói cách khác, các vị ấy không hề có ư
thức về sự cách biệt rơ rệt về
người với ta như ở cơi trần. Cá tính
(Individuality) là đặc điểm của những
Đẳng cấp nói chung, chứ không phải là của
các Ngài nói riêng từng đơn vị một, những
đặc điểm này chỉ khác nhau tuỳ theo giai
tầng các cơi liên hệ với những đẳng
cấp ấy. Càng gần vùng Đồng Nhất và
Nhất Nguyên Thiêng Liêng, Chơn Ngă nơi Đẳng
cấp ấy lại càng tinh anh hơn và ít được
chú trọng hơn. Các Ngài hữu hạn về mọi
mặt, ngoại trừ các nguyên khí thượng
đẳng – các Điểm Linh Quang bất diệt
phản ánh Ngọn Lửa Thiêng Liêng Vũ Trụ, chỉ
bị biệt lập ngă tính (individualized) và phân cách nơi
các cơi cao hăo huyền chẳng kém ǵ những thứ khác. Các
vị là những “Đấng Sinh Linh” (“Living Ones”),
những ḍng sinh khí phóng lên bức màn ảo ảnh của
Vũ Trụ từ SỰ SỐNG TUYỆT ĐỐI (THE
ABSOLUTE LIFE), những Vị mà sự sống không bao giờ
tắt nghỉ, trước khi ngọn lửa vô minh đă
tắt nơi những kẻ nào ư thức được
những Sinh Linh đó. Sau khi đă được ra
đời dưới tác dụng thúc đẩy của Tia
bản lai (uncreated Beam), phản ánh của vầng
Đại Nhật Trung Ương (the great Central Sun)
chiếu diệu trên bờ Sông Sinh Hoạt (River of Life),
chính nguyên khí nội tại nơi các Ngài mới thuộc
về Ḍng Nước Bất Diệt (the Water of Immortality),
c̣n lớp vỏ đă biến phân của nó cũng hữu
hoại như thể xác của con người. Do đó,
Young thật là chí lư khi cho rằng:
319
Thiên Thần (Angels) chính là
loại người thuộc một đẳng cấp
cao…
không hơn không kém. Các Ngài
không phải là những Thiên Thần che chở hay hộ
mạng, hay “Sứ Giả của Đấng Tối Cao”,
cũng không phải là “Sứ Giả của Tai Hoạ”
để trút cơn thịnh nộ của một vị
Thượng Đế nào lên đầu chúng ta, do óc
tưởng tượng của một con người
tạo ra. Cầu xin sự che chở của các Ngài là làm
một việc vô lư và dại khờ, cũng như tin
tưởng rằng làm cảm động đến các
Ngài bằng những hành động cứu chuộc
tội lỗi, bởi v́, chính các vị ấy cũng
như con người, đều phải chịu sự
chi phối và hành động của Định Luật
Nghiệp Quả và các Định Luật khác của Vũ
Trụ. Lư do thật là hiển nhiên. Vốn có bản
thể (essence) không bao hàm yếu tố nào của phàm ngă,
các Ngài không thể có đặc tính nào của phàm ngă,
chẳng hạn như những tính chất mà con
người gán cho vị Thượng Đế nhân h́nh
(anthropomorphic God) của ḿnh trong các tôn giáo ngoại môn –
đó là một vị thần linh ghen tương và kênh kiệu,
hí hửng chán rồi lại “nổi tam bành”, khoái chí khi
được cúng tế, độc đoán huênh hoang
hơn bất kỳ con người điên cuồng
hữu hạn nào. Như sẽ nói trong Quyển 3 và 4, con
người vốn là sự phối hợp những tinh
hoa của tất cả các Đẳng cấp Thiên Thần
nói trên, cho nên hiểu theo một ư nghĩa, y có thể thành
công trong sự công phu tu luyện để tự làm cho ḿnh
cao cả hơn bất kỳ một Đẳng cấp
nào, hay chí đến tập thể mọi đẳng
cấp nói chung. “Con người không thể mua chuộc hay
chỉ huy các vị Thiên
Thần”. Nhưng bằng cách chế ngự phàm ngă và do
đó đạt tới sự hiểu biết hoàn toàn
về tính cách đồng
nhất giữa Chân Ngă của ḿnh với Đại Ngă
Tuyệt Đối (One Absolute SELF), con người có
thể trở nên siêu phàm ngay khi c̣n sống ở thế
gian. Như thế, nhờ ăn trái cây minh triết xoá tan vô
minh mà con người biến thành giống như một
trong các Đấng Elohim tức Dhyanis (Thần Quân). Một
khi y đă ở trên cảnh giới của các Ngài, Tinh
Thần Liên Đới (the Spirit of Solidarity) và Hài Hoà Toàn Bích
(Perfect Harmony), vốn ngự trị nơi mọi
Đẳng cấp, ắt phải bao trùm và che chở y
trong mọi chi tiết.
320
Chủ nghĩa duy vật là trở ngại
chính ngăn cản không cho các khoa học gia tin tưởng
vào các Chơn Linh và các tinh linh ngũ hành (nature spirits). Nhà
giáng ma học (Spiritualist) trong khi vẫn tin tưởng
một cách mù quáng vào “Vong Linh” (“Spirits”) của Người
quá cố (Departed), lại cũng gặp một trở
ngại chính ngăn không cho y tin vào điều nêu trên,
đó là: mọi người - ngoại trừ một vài
nhà Huyền bí và tín đồ Do Thái Bí giáo – nói chung
đều chẳng biết ǵ cả về bản thể
và bản chất của Vật Chất. Sự tin
tưởng hoặc không tin tưởng là “ngoài các Vong linh
của người chết, xung quanh ta c̣n tồn tại
các Thực Thể hữu thức khác, chủ yếu là
tuỳ thuộc vào việc người ta chấp nhận
hay bác bỏ thuyết Vạn hữu đều có
bản thể căn cốt như nhau. Muốn
được tỏ ngộ hơn nữa về Vũ
trụ khởi nguyên luận huyền bí, muốn có
được manh mối chắc chắn duy nhất giúp y
có thể tiếp tục tu học, môn sinh cần phải
quán triệt được sự Tiến hoá bản sơ
của Tinh Thần Vật Chất (Spirit-Matter) và Bản
Thể đích thực của nó.
Nói cho thực, như ta vừa nêu trên,
mỗi Đấng gọi là “Thần Linh” (“Spirit”)
đều là một người đă thoát xác, hoặc sẽ là một người
tương lai. Kể từ vị Đại Thiên
Thần cao cả nhất (Dhyan Chohan) xuống đến
vị Tạo Tác thấp nhất (những Thực Thể
Tâm Linh thuộc Cấp đẳng hạ tầng) tất
cả đều xuất phát từ hàng ngũ nhân loại
và đều là những người đă từng sống
hằng bao nhiêu thế hệ trước đây, trong
những Chu Kỳ Sáng Tạo trước, trên Bầu
thế giới này hay Bầu thế giới khác; cũng y
như thế, các Tinh linh ngũ hành thuộc đẳng
cấp thấp kém hơn, không có trí khôn hay chỉ có trí khôn
nửa vời, tất cả đều sẽ trở thành
người trong tương
lai. Chỉ là một sự kiện duy nhất rằng,
Thần Linh là một vị có trí thông tuệ, cũng
đủ là một bằng chứng cho nhà Huyền học
tin rằng Đấng ấy đă từng là người, từng sở
đắc được trí khôn và kiến thức
trải qua một chu kỳ tiến hoá trong hàng ngũ nhân
loại. Trong Vũ Trụ chỉ có một Đại Trí
Tuệ Toàn Thông, Tuyệt đối và bất khả phân,
tác động xuyên qua mỗi nguyên tử và mỗi
điểm cực tế vi của toàn thể Vũ
Trụ vô biên mà ta gọi là KHÔNG GIAN, bất luận
những ǵ được chứa đựng trong đó.
Nhưng sự phân hoá đầu tiên của Đại Trí
Tuệ Toàn Thông đó khi nó phản
ánh trong Vũ Trụ biểu lộ vốn thuần tâm
linh và các sinh linh được cấu tạo trong đó,
không được ban cho một tâm thức như chúng ta
có thể quan niệm. Chúng không thể có tâm thức hay trí
khôn của con người trước khi chúng đă tự
cố gắng bản thân để hoạch đắc
được. Điều này có thể là một bí
mật, song đó lại là một sự kiện trong
Nội môn Bí giáo và cũng là một sự kiện rất hiển
nhiên.
Toàn thể trật tự cơ cấu trong
thiên nhiên chứng minh một sự tiến hoá tuần
tự hướng về đời
sống cao cả siêu việt. Các mănh lực
dường như mù quáng nhất cũng được
trù liệu cẩn thận trước khi tác động.
Toàn bộ diễn tŕnh tiến hoá với vô số những
thích ứng trong cuộc sinh hoạt là một bằng
chứng hiển nhiên. Mặc dù thật là tàn nhẫn trong
tác động trước mắt, các định luật
bất di bất dịch – chúng quét sạch các loài yếu
ớt để nhường chỗ cho các loài khoẻ
mạnh, và bảo đảm sự sống c̣n của loài
nào thích hợp nhất - đều đang hướng
về cứu cánh cao cả ấy. Sự kiện rằng
có những thích ứng với hoàn cảnh, rằng trong
sự tranh đấu để sinh tồn, những sinh
vật khoẻ nhất là sống c̣n, chỉ có cái gọi
là “Thiên Nhiên vô thức” (“unconscious Nature”)([605])
thật ra là một tập hợp những mănh lực
dưới sự điều dụng của những Tinh
Linh ngũ hành, với sự d́u dắt hướng dẫn
của những vị Thiên Sứ hay Tinh Quân (High Planetary
Spirits (Dhyan Chohans). Các vị này hợp chung lại vốn
là DIỆU ÂM Biểu Lộ (Manifested VERBUM) của
THƯỢNG ĐẾ Vô Vi (the Unmanifested LOGOS) (không
biểu lộ), đồng thời cũng biểu
hiện cái TRÍ THÔNG TUỆ (MIND) và Định Luật
trường cửu bất biến của Vũ Trụ.
321
Nội môn Bí giáo dạy ta ba nét tiêu biểu
riêng biệt của Vũ Trụ với ba khía cạnh khác
nhau: trạng thái TIÊN THIÊN (PRE-EXISTING), xuất phát từ
trạng thái HẰNG CỬU (EVER-EXISTING) và trạng thái
HIỆN TƯỢNG (PHENOMENAL) - tức thế giới hăo
huyền, là phản ánh h́nh bóng của trạng thái hằng
cửu. Trong ṿng chu kỳ sinh hoạt vô cùng bí nhiệm và bi
tráng (drama of life) mà ta gọi là Chu Kỳ Khai Nguyên (Manvantara),
vũ trụ thực tượng (real Kosmos) giống như
đồ vật ở đàng sau tấm màn ảnh
trắng tinh mà các h́nh bóng được chiếu lên trên.
Các h́nh ảnh và sự vật có thực vẫn vô h́nh, trong
khi những bàn tay vô h́nh lại kéo những sợi dây
tiến hoá. Như vậy, con người và sự vật
chẳng qua chỉ là những phản ánh trên nền
trắng của những thực tại ẩn đàng sau các cạm bẫy
của Đại Hăo Huyền (Mahamaya or Great Illusion).
Người Trung Hoa và các Hiền triết Hy Lạp đă
giảng dạy điều này trong mọi triết thuyết,
mọi tôn giáo trước cũng như sau khi có trận
đại hồng thuỷ ở Ấn Độ và
Tác giả hy vọng rằng mặc dù các
giảng lư về Bảy ĐOẠN KINH có thể là
hời hợt, song trong phần Vũ Trụ khởi nguyên
luận của tác phẩm này, ta đă tŕnh bày vấn
đề đủ để chứng tỏ rằng xét
theo bề ngoài, giáo lư cổ sơ c̣n có tính cách khoa học (theo nghĩa hiện đại
của từ ngữ này) hơn là bất cứ Thánh kinh
cổ truyền nào khác khi chỉ xét theo khía cạnh
ngoại môn. Tuy nhiên, như đă thú nhận trước,
v́ tác phẩm này chỉ tŕnh bày một phần nhỏ của
chân lư, nên xin mời các môn sinh cứ việc sử dụng
trực giác của chính ḿnh. Mối quan tâm chính của chúng
ta là:
a. Minh giải những ǵ đă
được tŕnh bày, và rất tiếc là đôi khi
rất sai lầm.
b. Bổ túc phần tri thức đă
được ám chỉ (nếu có thể
được).
c. Củng cố các giáo lư của chúng ta
chống lại những sự đả kích kịch liệt
của Chủ nghĩa bè phái hiện đại (modern
Sectarianism), nhất là chống lại những sự
đả kích của Chủ nghĩa duy vật cận
đại, thường bị gọi lầm là khoa
học, trong khi thực ra, chỉ nội cái từ ngữ
“khoa học gia” và “học giả nửa mùa” (“sciolists”)
cũng phải chịu trách nhiệm cho nhiều thuyết
vô lư được tŕnh bày trên thế giới. Vốn
hết sức vô minh trong khi mù quáng chấp nhận bất
cứ điều ǵ xuất phát từ các “nhân vật có
thẩm quyền” và cảm thấy ḿnh có bổn phận
phải coi mọi phán quyết của một khoa học
gia là một sự kiện xác minh, chính công chúng đă
được dạy là phải chế nhạo bất
cứ điều ǵ xuất phát từ các nguồn
“ngoại đạo” (“heathen” source). Do đó, v́ các khoa
học gia duy vật có thể chiến đấu một
cách đơn thương độc mă - bằng cách tranh
căi và luận chứng – nên mỗi quyển đều có
thêm phần phụ lục ([607])
lần lượt đối chất các quan điểm và
chứng tỏ ngay cả các nhân vật có thẩm quyền
cũng có thể sai lầm thường xuyên đến
chừng nào. Chúng ta tin tưởng rằng điều này
có thể thực hiện một cách hữu hiệu,
322
bằng cách chứng tỏ các nhược
điểm của các đối thủ của chúng ta,
bằng cách chứng tỏ rằng những lời luôn luôn
nguỵ biện của họ - chúng làm cho ta nhầm
lẫn với những quyết đoán của khoa học
- đều chẳng đúng ǵ cả. Chúng ta trung thành
với Hermes và “Minh Triết” của Ngài với tính chất
đại đồng vũ trụ, c̣n họ lại trung
thành với Aristotle với vai tṛ chống lại trực
giác và kinh nghiệm của biết bao Thời đại
tưởng rằng Chân Lư chỉ riêng thuộc về
thế giới Tây phương. V́ thế, hai bên mới
bất đồng ư kiến với nhau. Hermes có dạy:
“Tri thức khác hẳn giác quan, v́ giác quan liên quan đến
những sự vật vượt qua nó, c̣n tri thức là
cứu cánh của giác quan” nghĩa là cứu cánh hăo
huyền do óc phàm với trí năng; như vậy, Ngài
đă nhấn mạnh tới sự tương phản
giữa tri thức mà các giác quan và Trí Tuệ (Manas) khổ
công thu thập và trực giác toàn tri của Linh Hồn Thiêng
Liêng (Buddhi).
Những ǵ được viết ra trong
quyển sách này, mặc dù sẽ được đón
nhận như thế nào trong một tương lai xa xôi
về sau, chúng tôi hy vọng là đă chứng minh
được trong những trang trước, những
sự kiện dưới đây:
1) Giáo Lư Bí Nhiệm không dạy Thuyết Vô
Thần, trừ phi có sự chủ trương bác bỏ
việc thờ h́nh
tượng, gồm cả việc tôn sùng các Thần
dưới h́nh thức giống như người. Theo ư
nghĩa này, mọi nhà Huyền bí đều đả phá
thần tượng.
2) Giáo lư ấy chấp nhận có một
Đấng Thượng Đế hay một Đấng
“Sáng Tạo” Vũ Trụ, hiểu theo ư nghĩa một
“Đấng Kiến Trúc” (“Architect”) hay “Tạo Tác” (“Creator”)
nên một lâu đài, nhưng không trực tiếp nhúng tay
vào việc xây cất, mà chỉ phác hoạ bản
đồ để giao phó mọi việc xây cất cho các
toán thợ. Trong trường hợp sáng tạo nên Thế
Giới, cái bản đồ xuất phát từ ư niệm
Vũ Trụ trong tư tưởng thiêng liêng, và công
việc tạo dựng được giao phó cho các cấp
đẳng, những Quyền năng và Sức mạnh có
trí lực thông tuệ. Nhưng Đấng Sáng Tạo không
phải là một vị Thượng Đế ngoại vũ trụ bất
toàn, mà chỉ là sự tổng hợp các Đấng Dhyan
Chohans và các Mănh lực khác.
3) Các vị Dhyan Chohan có đặc tính
lưỡng nguyên là v́ gồm có:
a. Năng Lượng thô bạo, vô thức,
tiềm ẩn trong vật chất, và
323
b. Tinh Thần sáng suốt thông tuệ hay Tâm
Thức vũ trụ, đang điều khiền và
hướng dẫn Năng Lượng nói trên, và là Tư Tưởng siêu việt
phản ánh Ư Niệm thiêng liêng của Đại Trí Tuệ
Vũ Trụ. Điều này đưa đến
kết quả là sự tiếp diễn trường
kỳ bất tận những biểu lộ vật
chất và ảnh hưởng tinh thần trên Địa
Cầu trong các chu kỳ sáng tạo dưới sự chi
phối của Nghiệp Quả. Diễn tŕnh này không
phải là luôn luôn được kiện toàn, mà vẫn có
những khuyết điểm, thậm chí cũng
thường đưa đến các thất bại rơ
rệt. Bởi vậy, không một đẳng cấp sáng
tạo tập thể hay quyền năng tạo tác cá
biệt nào là những thần tượng xứng đáng
được tôn thờ hay sùng kính như Đấng
Thiêng Liêng.Tuy vậy tất cả đều có quyền
lực được nhân loại sùng kính, và con
người phải luôn luôn nỗ lực trợ giúp
sự tiến hoá thiêng liêng của Thiên Ư, bằng cách rán hết sức ḿnh để
trở thành một cộng tác
viên của Thiên Nhiên trong công tác tuần hoàn. Chỉ có cái
Nguyên Nhân bất khả tri
và bất khả tư nghị, cái Nguyên Nhân cùng tột rốt ráo của tất
cả mọi nguyên nhân mới nên được tôn sùng
ở tận chỗ thâm sâu, tiềm ẩn và kín đáo
nhất trong cơi ḷng của chúng ta. Nó là cái ǵ vô h́nh vô
ảnh, không thể nhận thức được,
trừ phi xuyên qua diệu âm im lặng, vô thinh của tri
thức tâm linh của chúng ta. Người ta chỉ nên chiêm
ngưỡng cái nguyên lư đó trong im lặng và cô tịch
của Linh Hồn ([608]);
đem Tinh Thần làm cái trung gian duy nhất giữa linh
hồn ḿnh với Đại Hồn Vũ Trụ, lấy
sự hành thiện và công quả tốt lành làm giáo sĩ
của ḿnh và những ư đồ tội lỗi của
ḿnh là những vật hy sinh trước Đấng Thiêng
Liêng.
4) Vật Chất Trường Cửu là cái
thể chất căn bản của Đại Trí Vũ
Trụ Duy Nhất Vô Biên (the One Infinite Universal Mind)
để thể hiện những ư niệm của nó trên
đó. Bởi thế, các nhà Huyền học cho rằng
không có vật chất vô tri giác hay vô cơ phận trong thiên
nhiên, sự phân biệt hai thứ vật chất trên
của khoa học vừa không có cơ sở lại
vừa độc đoán vô lư. Tuy nhiên, dù khoa học có
chủ trương như thế nào đi chăng nữa
– theo kinh nghiệm, tất cả chúng ta đều biết
rằng khoa học chính xác
chỉ là một con mụ bốc đồng (exact science is
a fickle dame) - Huyền bí học cũng hiểu biết và
giảng dạy khác hẳn từ biết bao lâu nay, từ
Đức Bàn Cổ và Hermes xuống măi tới Paracelsus và
những người kế tiếp.
Đức Hermes, Ba Lần Vĩ Đại
(Hermes, the Thrice Great, Trismegistus) đă dạy:
Con ơi,
vật chất biến dịch; xưa kia nó đă tồn
tại v́ vật chất là hiện thể của biến
dịch. Biến dịch là cách thức hoạt động
của Thượng Đế bản lai và tiên tri. Sau khi
đă được phú cho mầm mống biến dịch
(germ of becoming), vật chất (ngoại cảnh) liền
được khai sinh v́ lực sáng tạo uốn nắn
nó theo các h́nh dạng lư tưởng. V́ chưa
được sản sinh ra nên vật chất không có h́nh
hài sắc tướng, nó biến dịch khi nó bắt
đầu tác động ([609]).
Trong một chú thích cuối trang, Bác Sĩ
Anna Kingsford, người có tài biên tập và dịch các áng
văn của Hermes, đă nhận xét về điều này
như sau:
Tiến sĩ Ménard nhận thấy rằng
trong tiếng Hy Lạp, cùng một từ ngữ mà lại
có nghĩa là được
sinh ra và biến dịch (to
be born and to become). Ở
đây, người ta có ư nói là xét về bản thể,
chất liệu của thế giới thật là vĩnh
cửu, nhưng trước khi sáng tạo hay “biến
dịch” (before creation or “becoming”) , nó lại ở trong
một trạng thái thụ động. Như thế, nó
“đă tồn tại” (it “was”) trước khi
được khởi động; nay nó “biến dịch”
(“becomes”) nghĩa là di động và tiến triển.
Bà c̣n tŕnh bày thêm giáo lư thuần tuư Vedanta
của triết thuyết Hermes nhu sau:
324
Như vậy sáng
tạo là thời kỳ hoạt động [Chu Kỳ Khai
Nguyên - Manvantara] của Thượng Đế. Theo Hermes,
(hoặc theo phái Vedanta), Thượng Đế có hai
trạng thái: Hoạt Động hay Tồn Tại
(thăng thượng tiến hoá) và Thụ Động,
Hỗn Nguyên [Pralaya] (giáng hạ tiến hoá). Cả hai
trạng thái đều toàn bích và hoàn chỉnh, chẳng khác
nào các trạng thái thức và ngủ của con
người. Triết gia Đức Fichte phân biệt
Hiện Tồn (Sein) là Nhất Nguyên (One), mà chỉ biết
qua sự tồn tại (Dasein) là Đa nguyên. Quan
điểm này hoàn toàn là của Hermes. Các “H́nh Dạng Lư
Tưởng” (the “Ideal Forms”)… là các ư niệm nguyên h́nh hay
tạo h́nh của môn phái Tân Platon; các khái niệm vĩnh
cửu và nội tại về vạn vật đă tồn
tại trong Thiên Trí trước khi có sự “sáng tạo” hay
biến dịch (“creation” or becoming).
Thế là trong triết thuyết của
Paracelsus, người ta lại dạy:
Vạn vật đều là sản phẩm
của một nỗ lực sáng tạo vũ trụ duy
nhất … Trong Thiên Nhiên chẳng có ǵ chết mất. Vạn vật đều
sống động và có tính hữu cơ, do đó, toàn
thế giới dường như là một cơ thể
sinh động.
5) Vũ Trụ được tạo theo
một kế hoạch lư tưởng, được ǵn
giữ trải qua Thời Gian vô cùng (Eternity) trong cơi Vô
Thức (Unconsciousness) của Đại Phạm Thiên
(Parabrahman). Điều này cũng trùng hợp với
những kết luận của triết học Platon, nói
về “những Ư niệm nội tại, trường
cửu và tự hữu, tự tại” mà hiện nay
đang được triết gia Von Hartmann phân tích. Cái
“Bất Khả Tri” (“Unknowable”) của Hermes Spencer chỉ
phảng phất giống với cái Thực Tại siêu
việt mà các nhà Huyền bí tin tưởng vào,
thường chỉ xuất hiện như là sự nhân
cách hoá của một “thần
lực ẩn sau các hiện tượng” – đó là
một năng lượng vô hạn và vĩnh cửu, phát
sinh ra vạn vật, trong khi mà tác giả của Triết lư về Vô Thức
(Philosophy of the Unconscious) (về phương diện này)
cũng chỉ giải được đại bí
nhiệm này ở mức giống như thế nhân mà thôi.
Dù trong triết học cổ truyền hay triết học
thời Trung Cổ, ít có người nào dám đề
cập tới nó bằng cách suy đoán; trong tác phẩm Paracelsus mà ta vừa mới
trích dẫn, Bác sĩ F. Hartmann, Hội viên Hội Theosophy,
đă tổng hợp một cách tài t́nh các ư tưởng
của Paracelsus.
Mọi tín đồ Do
Thái Bí giáo Thiên Chúa đều hiểu rơ ư niệm căn
cốt của Đông phương. Cái quyền năng
chủ động tích cực, “Sự Chuyển Vận
Trường Kỳ của Đại Khí Vận” (the
“Perpetual Motion of the great Breath”) chỉ thức tỉnh Vũ
Trụ vào lúc b́nh minh của mỗi Chu kỳ sáng tạo mới,
thúc đẩy sự vận hành của nó bằng hai
thứ Mănh Lực đối nghịch, và do đó, làm
cho nó trở nên biểu lộ ngoại tại trên cơi
giới Ảo Ảnh (the plan of Illusion). Nói cách khác, sự
vận động lưỡng cực nhị nguyên đó
di chuyển Vũ trụ từ cơi giới Lư Tưởng Trường
Cửu (the Eternal Ideal) của biểu lộ hữu
hạn, hay từ cơi thực
tượng vô vi qua cơi hiện tượng hữu
h́nh (from the noumenal to the phenomenal plane). Mọi vật đă và đang tồn tại vẫn có tồn tại luôn
luôn trong thời gian, thậm chí vô số h́nh thể sắc
tướng trên thế gian chỉ hữu hạn và hữu
hoại trong cái h́nh thức biểu lộ ngoại tại,
chứ không phải trong h́nh thức lư tưởng. Chúng vốn tự hữu
dưới h́nh thức Ư niệm trong cơi Vô cùng và khi chúng tan
biến đi th́ cũng vẫn sẽ tồn tại
dưới h́nh thức phản ánh. Huyền bí học
dạy rằng Thiên Nhiên hoặc con người không
thể cung cấp h́nh hài cho bất cứ điều ǵ mà
kiểu mẫu lư tưởng c̣n chưa tồn tại trên
nội giới, hơn nữa, nó c̣n dạy rằng không
một h́nh tướng nào có thể xâm nhập vào tâm
thức con người, hoặc phát sinh trong trí tưởng
tượng của y, mà lại không tồn tại
dưới dạng nguyên kiểu (prototype), ít ra th́ cũng
gần giống như vậy. Không một h́nh thể con
người, cầm thú, cây cỏ, khoáng chất nào đă
325
được “đột nhiên sáng tạo
nên”. Chỉ ở trên cơi hồng trần của chúng ta mà
những h́nh thể ấy mới bắt đầu “h́nh
thành”, tức là xuất hiện ngoại tại trong cái
thể vật chất hiện thời hay là nảy nở từ trong ra ngoài, từ cái
tinh tuư tế vi và thăng hoa nhất để trở thành
cái h́nh dáng thô kệch nặng trược nhất. Bởi
vậy, những h́nh thể con người như chúng ta ngày nay đă từng có
trong Thời Gian Vô Cùng dưới h́nh thức kiểu
mẫu tế vi, khinh thanh như dĩ thái, hay như
chất thanh khí của cơi cảm dục. Rập theo
những kiểu mẫu đó, những vị Ngươn
Thần (Spiritual Beings or Gods) có sứ mạng trợ giúp
sự tiến hoá của nhân loại mới dùng chất
tinh hoa của các Ngài, phát triển nên những h́nh thể
sơ khai bằng nguyên h́nh chất để dùng cho
những Linh Hồn con người trong tương lai. Sau
đó, khi cái thể chất căn bản, hay cái khuôn
mẫu đă sẵn sàng, các Mănh lực thiên nhiên mới
bắt đầu tác động trên những khuôn mẫu
vô h́nh tế vi đó. Những
khuôn mẫu này, ngoài những nguyên tố riêng của chúng,
c̣n chứa đựng nguyên tố của tất cả các
h́nh thể thảo mộc quá khứ, và h́nh thể
động vật tương lai trên Địa Cầu.
Bởi vậy, lớp vỏ bọc ngoài của con
người đă trải qua mọi h́nh thể thảo
mộc và động vật trước khi nó khoác lấy
h́nh thể con người như ngày nay. Nhưng v́
điều này sẽ được mô tả tỉ mỉ
trong phần giảng lư của Quyển 3 và 4, nên ở
đây, chúng ta không cần đề cập tới nó
nhiều hơn nữa.
Theo triết thuyết Hermes – Do Thái Bí giáo
của Paracelsus, chính Yliaster - thuỷ tổ của Nguyên h́nh chất mới sinh
(the Justborn Protyle) mà Giáo
sư Crookes đưa vào hoá học - tức Vật chất nguyên h́nh
bản sơ (Primordial Protomateria),
đă phát triển thành ra Vũ Trụ.
Khi sự sáng tạo (sự tiến hoá)
đă diễn ra, Yliaster phân hoá; có thể nói là nó tan hoà và
phát triển thành ra Ideos tức Hỗn Mang (Đại bí
nhiệm, Iliados, Limbus major tức Hỗn Nguyên Khí). Hỗn
Nguyên Khí này có bản chất đơn nguyên và biểu
lộ chẳng những như là một sinh hoạt (vital
activity), một sức mạnh tâm linh, một năng
lượng vô h́nh, khôn tả và bất khả tư
nghị, song cũng là một sinh chất cấu thành
chất liệu của các sinh vật. Chất liệu
của vạn vật được bao hàm trong Limbus hay
Ideos của chất liệu nguyên thuỷ… khuôn viên duy
nhất của mọi tạo vật. Cổ nhân mô tả
nó là Hỗn Mang (Chaos)… Đại Thiên Địa (Macrocosmos)
và sau đó (do phân hoá và tiến hoá trong Mysteria speccialia ([610]);
mỗi thực thể riêng biệt đều phát sinh
từ đó. Vạn vật và mọi nguyên tố
đều được bao hàm trong đó một cách tiềm tàng, nhưng không thực sự ([611]).
Điều này khiến cho dịch giả,
Bác sĩ Hartmann, đă phải nhận xét một cách chí lư
là “dường như Paracelsus đă tiên liệu
được khám phá hiện nay về mănh lực vật
chất cách đây đă 300 năm”.
Thế th́, Magnus Limbus hay Yliaster của
Paracelsus, chỉ là ông bạn già “Phụ Mẫu” của
chúng ta ẩn bên trong (our old friend “Father-Mother”, within), trước khi nó
xuất hiện trong Không Gian ([612]).
Đó là Khuôn Viên Vũ Trụ (Universal Matrix of Kosmos),
được nhân cách hoá nơi tính cách lưỡng phân của
Đại Thiên Địa và Tiểu Thiên Địa
(tức Vũ Trụ và Địa Cầu) ([613])
xuyên qua Aditi Prakriti (Thế giới tâm linh và Thế giới
vật chất). Đó là v́ ta thấy Paracelsus đă
giải thích rằng:
326
Magnus Limbus là vườn ươm cây,
sản sinh ra mọi tạo vật chẳng khác nào một
cái cây có thể phát triển từ một hạt giống
nhỏ. Tuy nhiên, có một điều dị biệt là
đại Limbus bắt nguồn từ Huyền Âm
Thượng Đế (Word of God), trong khi tiểu Limbus
(mầm mống phàm tục) bắt nguồn từ trần
gian. Đại Limbus là mầm mống phát sinh ra vạn
vật, c̣n tiểu Limbus là mỗi tạo vật tối hậu,
mô phỏng theo h́nh dáng của nó và chính nó đă
được Đại Limbus tạo ra. Tiểu Limbus có
đủ mọi đặc tính của Đại Limbus,
chẳng khác nào một đứa con có cấu trúc
tương tự như cấu trúc của cha nó… Khi…
Yliaster tan ra, Ares, năng lượng phân hoá, biến phân và
biệt lập ngă tính [Vô
cực điện, một ông bạn cố tri khác – Fohat, another old friend]… bèn
bắt đầu tác động. Mọi sự sản sinh
đă diễn ra tiếp theo sau sự phân cách. Từ Ideos
phát sinh ra các hành (elements) Hoả, Thuỷ, Phong và Thổ, tuy
nhiên, sự sản sinh ra chúng đă không diễn ra theo
dường lối vật chất hoặc do sự phân
cách đơn thuần, mà lại diễn ra theo
đường lối tinh thần và mănh liệt [thậm
chí không hề do các sự phối hợp phức tạp –
nghĩa là sự pha trộn máy móc, tương phản
với sự hoá hợp] chẳng khác nào lửa có thể
xuất phát từ một viên sỏi hay một cái cây phát
sinh từ một hạt giống, mặc dù, thoạt tiên
trong viên sỏi không có lửa và trong hạt giống không có
cây. “Tinh Thần thật là sinh động, Sự Sống
lại chính là Tinh Thần, và Sự Sống và Tinh Thần
[Prakriti, Purusha (?)] tạo ra vạn vật, song chúng có
bản chất là một chớ không phải là hai”… Các hành
cũng có Yliaster của riêng nó, v́ mọi hoạt
động của vật chất dưới mọi
dạng chỉ là một chi lưu của cùng một ḍng suối.
Nhưng cũng như hạt giống phát triển thành
rễ với các thớ (fibres), sau đó phát triển thành
cái cuống với cành lá sum suê, rồi cuối cùng phát
triển thành hoa và hạt giống; cũng vậy, vạn
vật được sinh ra từ các nguyên tố, và
gồm các nguyên tố có thể cấu thành các h́nh hài
sắc tướng khác, với các đặc tính của
tổ phụ ([614]).
Với vai tṛ là mẹ của mọi tạo vật, các nguyên
tố đều có một bản chất vô h́nh, tâm linh và
đều có linh hồn ([615]).
Tất cả đều phát xuất từ Mysterium magnun.
Ta hăy so sánh đoạn này với kinh Vishnu
Purana.
Sự phát triển (tiến hoá) bất b́nh
đẳng của các tính chất này xuất phát từ…
Hồng Mông nhất khí (Pradhana), do Linh Hồn (Kshetrajna)
[“vong linh” (embodied spirit”) (?)] chủ tŕ. Nguồn gốc
của các nguyên tố (tinh anh) và các giác quan được
tạo ra từ đại nguyên khí Toàn Linh Trí (Mahat)([616]).
Như vậy, chúng ta có thể chứng
tỏ rằng thời xưa, mọi chân lư cơ bản
của Thiên Nhiên đều có tính cách đại
đồng thế giới và mọi ư niệm cơ
bản về Tinh Thần, Vật Chất, và Vũ Trụ,
về Thượng Đế, Bản Chất và Con
Người, đều y hệt như nhau. Cứ thử
xét hai triết thuyết tôn giáo xưa nhất trên
địa cầu (Ấn Độ giáo và thuyết Hermes) theo
các Thánh kinh của Ấn Độ và Ai Cập, chúng ta
sẽ dễ dàng nhận ra được là cả hai
đều chẳng khác ǵ nhau.
327
Điều này thật là hiển nhiên
đối với kẻ nào đă đọc bản
dịch mới nhất về các “Áng văn của Hermes”
(“Hermetic Fragments”) của bác sĩ Anna Kingsford mà chúng ta trích
dẫn. Nhờ có trực giác và tài năng tuyệt vời,
tác giả đă lĩnh hội được các khuyết
điểm trong các đoạn văn đă bị các giáo
phái Hy Lạp và Thiên Chúa giáo xuyên tạc và đă ra sức
hiệu chính lại chúng bằng các chú thích và chú thích
cuối trang. Bà cho rằng:
Việc các “thần linh tác động” (Titans),
với vai tṛ là các tác nhân của Thượng Đế ([617]),
sáng tạo ra thế giới hữu h́nh là một ư niệm
hoàn toàn của Hermes, mà ta có thể nhận thấy trong mọi hệ thống tôn giáo
và phù hợp với sự khảo cứu của khoa
học hiện đại [?]. Nó cho chúng ta thấy rằng
khắp nơi Quyền Năng của Thượng
Đế cũng tác động qua các Thần lực
tự nhiên.
Xin trích dẫn một đoạn dịch:
Thực thể Vũ Trụ ấy vốn bao
hàm tất cả và chính là vạn vật, đă khởi
động linh hồn và thế giới, gồm cả
những ǵ bao hàm trong thiên nhiên. Trong sự đơn
nhất đa tạp (the manifold unity) của sự sống
vũ trụ, vô số cá thể với biết bao biến
thiên dị biệt, lại kết hợp với nhau sao cho
tổng thể chỉ là một và vạn vật
đều xuất phát từ nhất nguyên (unity)([618]).
Xin trích dẫn thêm một đoạn
dịch khác:
Thượng Đế không phải là
một trí tuệ (mind), mà là nguyên nhân của Trí Tuệ; Ngài
không phải là Tinh thần, mà
là nguyên nhân của Tinh Thần, Ngài không phải là ánh sáng, mà
là nguyên nhân của Ánh Sáng ([619]).
Đoạn trên chứng tỏ rơ ràng
rằng, mặc dù có vài đoạn bị tín đồ
Thiên Chúa giáo “gọt giũa” lại, song “Pymander thiêng liêng”
vẫn là một tác phẩm của một triết gia,
trong khi hầu hết cái gọi là “các Áng văn
chương của Hermes” lại là sản phẩm của
các giáo phái phàm tục, có khuynh hướng sùng bái một
vị Thượng Đế nhân h́nh. Thế nhưng,
cả hai đều là phản ánh của nội môn bí giáo
và kinh Puranas của Ấn
Độ.
Ta thử so sánh hai lời khấn nguyện,
một lời với Đấng “Toàn Thể Tối Cao”
(“Supreme All”) của Hermes, lời kia với Đấng “Toàn
Thể Tối Cao” của người Aryan sau này. Theo
một Áng văn của Hermes do Suidas trích dẫn:
Con nguyện có
Trời đất chứng minh cho công tác thiêng liêng của
bậc Đại Thần Linh, con nguyện xin Diệu Âm
của Từ Phụ (Voice of the Father) thốt ra lúc khai thiên tịch địa; con nguyện cầu cho Thế
Giới, Đứa Con duy nhất của Cha hộ tŕ
vạn vật; mong sao quốc thái dân an (be favourable, be
favourable) ! ([620])
Trước đoạn này là đoạn sau
đây:
Như thế Ánh Sáng Lư Tưởng (the Ideal
Light) có trước Ánh Sáng Lư Tưởng (the Ideal Light), Trí
Thông Tuệ quang huy (the luminous Intelligence) của Trí Thông
Tuệ vẫn hằng cửu, và
sự đơn chất của nó chẳng có ǵ khác hơn
là Tinh Thần bao hàm Vũ Trụ. Bên ngoài Ngài [Nó] chẳng
có Thần Linh hoặc Chư Thiên, cũng chẳng có
bất kỳ thứ ǵ khác hơn bản thể, v́ Ngài
[Nó? (It?)] là Chủ Tể của vạn vật, Chủ
Tể của Quyền Năng và Bản Quang (Light); tất
cả đều tuỳ thuộc vào Ngài [Nó (It)] và ngự
nơi Ngài [nó (It)].
Đó là một đoạn mâu thuẫn
với những điều mà người ta coi là
Đức Hermes Ba Lần Vĩ Đại đă dạy
như sau:
328
Không thể
đề cập tới Thượng Đế. Đó là
v́ cái có sắc tướng không thể diễn đạt
được cái phi tướng (the corporeal cannot express the
incoporeal)… Không thể dùng giác quan để lĩnh hội
được cái không có h́nh thể (body), sắc
tướng (appearance), h́nh hài (form), vật chất. Hỡi Tatios, ta hiểu rơ cái không
thể xác định được – đó là
Thượng Đế ([621]).
Hai đoạn trên rơ rệt là mâu thuẫn
nhau. Điều này chứng tỏ rằng:
a. Hermes là bút hiệu chung của hàng loạt
các thế hệ Thần bí gia thuộc đủ mọi
khuynh hướng.
b. Chúng ta phải hết sức phân biện
trước khi chấp nhận một Áng văn là giáo
huấn nội môn chỉ v́ nó rơ ràng là cổ. Nay chúng ta
thử so sánh đoạn trên với lời khấn
nguyện tương tự trong các Thánh kinh Ấn
Độ - chắc chắn là cũng cổ như vậy,
nếu không muốn nói là cổ hơn. Nó như sau:
Parashara, “Hermes” của dân Aryan, giáo huấn Đức Di
Lặc, Tổ Y học (Asclepios) của Ấn Độ,
và cầu khẩn với Vishnu ba ngôi:
Vinh danh Đấng Vishnu tối
thượng, trường cửu, thánh thiện,
thường trụ, có bản chất đại
đồng thế giới, uy dũng hơn tất cả.
Vinh danh Hiranyagarbha, Hari và Shankara [Brahma, Vishnu và Shiva],
Đấng Sáng Tạo, Bảo dưỡng và Huỷ
diệt thế gian. Vinh danh Vasudeva, Đấng giải thoát
cho các tín đồ. Vinh danh Đấng có bản thể
vừa đơn thuần vừa đa tạp; vừa tinh
anh vừa trần tục; vừa rời rạc vừa
cố kết. Vinh danh Đấng Vishnu, nguyên nhân của
sự giải thoát tối hậu. Vinh danh Đấng Vishnu
tối cao, nguyên nhân của sự sáng tạo, sự
tồn tại và sự diệt vong của thế giới
này. Ngài là cội nguồn của thế giới và bao
gồm thế giới ([622]).
Đây là lời khấn nguyện cao cả,
bao hàm một ư nghĩa triết học thâm sâu; nhưng
đối với quần chúng phàm tục, nó lại có tính
cách gợi ư chẳng khác nào lời cầu nguyện Hermes
của một Đấng nhân h́nh. Chúng ta phải tôn
trọng toát ra từ hai lời cầu nguyện; tuy nhiên,
chúng ta không thể thấy nó mâu thuẫn hoàn toàn với ư
nghĩa nội tại của chính nó, thậm chí với
cả ư nghĩa trong cùng bộ đại luận của
Hermes như sau:
Đấng Hermes ba lần vĩ đại
(Trismegistos): Con ơi
Thực Tại không thể tồn tại trên trần
thế… Trên trần thế không có ǵ là chân thực, chỉ
có sắc tướng… Con ơi, y [con người] không
phải là Chơn Nhơn, Bản thân thực tại
vẫn như như, tự tại… Con người
thật là phù du, v́ thế y không phải là thực tại,
y chẳng qua chỉ là sắc tướng, thế mà
sắc tướng lại cực kỳ hăo huyền
(illusion).
Tatios: Thế th́,
thưa Cha, phải chăng chính các thiên thể không có
thực, v́ chúng cũng biến đổi?
Hermes: Bất
cứ thứ ǵ vô thường và hữu sinh hữu
diệt, đều không có thực…chúng bao hàm một
điều hư ảo nào đó xét v́ chúng cũng biến
đổi…
Tatios: Thưa Cha,
thế th́ đâu là Thực Tại nguyên thuỷ?
Hermes: Hỡi Tatios,
đó là Đấng [Cái (That Which)] vốn duy nhất
đơn nhất; Đấng [Cái (That Whhich)] không ngự
trong h́nh hài sắc tướng bằng vật chất nào,
Đấng [Cái (Which)] không có màu sắc, chẳng có h́nh dáng,
Đấng [Cái (Which)]
thường trụ, không hề được truyền
đạt nhưng vẫn hằng cửu ([623]).
Điều này hoàn toàn phù hợp với các
giáo lư Vedanta. Tư tưởng chỉ đạo (leading
thought) thật là huyền bí, trong các Áng văn của Hermes
lại có nhiều đoạn có nội dung thuộc về
Giáo Lư Bí Nhiệm.
329
Giáo lư này truyền dạy có những Thần
Lực và Quyền Năng thông tuệ và bán thông tuệ
chưởng quản Vũ Trụ (như đă khẳng
định điều này ngay từ đầu). Thần
học Thiên Chúa giáo thừa nhận (thậm chí c̣n áp
đặt) điều này, nhưng nó đă độc đoán
phân loại các vị ấy, gọi là “Thiên Thần”
(“Angels”) và “Ma Quỷ” (“Devils”). Khoa học chối bỏ
sự tồn tại của cả hai và chế nhạo
chính ư niệm ấy. Các nhà Giáng ma học tin tưởng
vào “Vong linh của người chết”, ngoài ra, họ
chối bỏ hoàn toàn bất cứ loại thực
thể vô h́nh nào khác. Như thế, các nhà huyền bí và các nhà
Do Thái bí giáo là những kẻ duy nhất giải thích các
truyền thuyết thời xưa một cách thuần lư;
nay các nhà truyền thuyết này đă phát triển cực
độ, một mặt thành ra sự tin tưởng có
tính cách giáo điều, mặt khác thành ra sự chối
bỏ giáo điều. Đó là v́ cả sự tin
tưởng lẫn sự không tin tưởng đều
chỉ bao gồm một góc nhỏ của các chân trời
vô biên của các biểu lộ vật chất và tinh
thần. Như vậy, cả hai đều đúng theo quan
điểm riêng của ḿnh, song cả hai đều sai
lầm khi tin tưởng rằng họ có thể bao
gồm toàn thể bên trong các giới hạn hẹp ḥi và
chuyên biệt của riêng ḿnh, v́ họ chẳng bao giờ
có thể làm được như thế. Về
phương diện này, khoa học, thần học,
thậm chí cả Giáng ma học nữa, đều tỏ
ra chẳng khôn ngoan hơn con đà điểu bao nhiêu, khi
nó vùi đầu xuống cát dưới chân, cảm
thấy chắc chắn là như thế, không một
điều ǵ có thể nằm ngoài tầm quan sát của
riêng nó và vùng không gian hạn hẹp mà cái đầu ngu xuẩn
của nó đă chiếm lấy.
329
V́ các Thánh Thư của Hermes (hay đúng
hơn là các Áng văn của Hermes) là các tác phẩm duy
nhất hiện nay c̣n tồn tại bàn về đề
tài mà ta đang xem xét, trong tầm tay của kẻ phàm phu
tục tử của các dân tộc “văn minh” Tây
phương, nên ở trường hợp hiện nay, chúng
ta có thể đối chiếu chúng với Nội môn Bí
giáo. Muốn đạt được mục đích này mà
lại trích dẫn bất cứ tác phẩm nào khác, th́
thật là vô ích, v́ công chúng chẳng biết ǵ về các tác
phẩm của người Chaldea, chúng đă
được một vài điểm đạo đồ
phái Sufi dịch ra tiếng Ả Rập và bảo tồn.
Do đó, để so sánh đối chiếu, chúng ta
phải tham khảo tác phẩm “Các định nghĩa
của Asclepios” do Bác sĩ Anna Kingsford, Hội viên Hội
Theosophy, biên tập và chú giải; một vài phát biểu
trong đó rất phù hợp với Nội môn Bí giáo Đông
phương. Mặc dù có không ít đoạn chịu ảnh
hưởng sâu sắc của một tín đồ Thiên Chúa
giáo sau này, nhưng nói chung, chư thần linh đều có
đặc tính của giáo lư Đông phương, mặc dù
nói về các điều khác, có những đoạn khác xa
với giáo lư của chúng ta.
Về phần chư Thần Linh (Genii), các thực thể mà chúng ta gọi là Chư Thiên, Thiền Định Đế Quân, Chikhala (Đức Quan Âm của các Phật tử) và nhiều danh hiệu khác nữa, th́ các triết gia phái Hermes lại gọi là Theoi (Chư Thiên), Chư Thần và Daimones. Theo nghĩa mà Socrate dùng, thậm chí theo nghĩa mà thần học La Tinh và Đông phương dùng. Daimones là các vị thần hộ mạng của nhân loại, “những Đấng ở gần những vị bất tử và từ đó trông nom các sự việc của loài người” (theo Hermes). Trong ngôn từ nội môn, các Ngài được gọi là Chitkala, một vài Đấng đă dùng bản thể của chính ḿnh để cung ứng cho con người nguyên khí thứ tư và thứ năm của y, c̣n các Đấng khác được gọi là các Pitris. Chúng ta sẽ giải thích điều này khi bàn đến việc tạo ra con người hoàn chỉnh. Danh hiệu trên có từ nguyên là Chit, “cái giúp chúng ta tuyển chọn các hậu quả của các hành vi, các loại kiến thức để cho linh hồn sử dụng”, tức lương tâm, tiếng nói nội tâm của con người. Đối với các đạo sĩ Yoga, Chit đồng nghĩa với Mahat (Thiên Trí) nhưng trong Nội môn Bí giáo, Mahat lại là nguồn cội của Chit, mầm mống của nó; c̣n Chit ([624]) lại là một tính chất của trí tuệ phối hợp với Buddhi, do ái lực tâm linh, tính chất ấy hấp dẫn một Chitkala về phía ḿnh, khi nó phát triển đầy đủ nơi con người. Đó là lư do tại sao người ta bảo rằng Chitti ([625]) là một tiếng nói thủ đắc được cuộc sống thần bí và biến thành Quan Âm (Kwan-Yin).
330
CÁC ĐOẠN TRÍCH TỪ
MỘT GIẢNG LƯ
ĐÔNG PHƯƠNG RIÊNG TƯ ĐẾN NAY VẪN C̉N BÍ
MẬT ([626])
(xvii) Vào lúc
Khởi đầu Đại chu kỳ Khai Nguyên (Manvantara)
[tiếp theo sau Đại Chu kỳ Hỗn Nguyên (Mahapralaya)
vốn tiếp nối mỗi Kiếp của Brahma (every Age
of Brahma)], tồn tại bản sơ là một TÍNH CHẤT
TÂM LINH HỮU THỨC (A CONSCIOUS SPIRITUAL QUALITY). Trong các
THẾ GIỚI biểu lộ (the Manifested WORLD) [các Thái
Dương Hệ], trong trạng thái NỘI TÂM NGOẠI
CẢNH (OBJECTIVE SUBJECTIVITY), nó giống như một
bức màn che một Linh Khí (a Divine Breath) khuất mắt
nhà linh thị xuất thần. Khi xuất phát từ Laya ([627]),
nó lan tràn khắp Vô Cực giống như một lưu
chất tâm linh vô sắc. Nó ở trên CƠI THỨ BẢY (the
SEVENTH PLANE) và Trạng Thái thứ Bảy của nó ở
nơi Bầu Hành Tinh của chúng ta ([628])
.
(xviii) Đó là
bản chất đối với linh nhăn CỦA CHÚNG TA (OUR
spiritual sight). Con người trong TRẠNG THÁI THỨC
TỈNH (WAKING STATE) không thể gọi nó như thế, do
đó, v́ vô minh, họ gọi nó là “Thần Linh” (“God Spirit”).
(xix) Nó tồn
tại khắp nơi và tạo thành UPADHI [Nền tảng –
Foundation] bản sơ mà thế giới của chúng ta [Thái
Dương Hệ] được tạo thành dựa trên
đó. Bên ngoài Thái Dương Hệ, người ta chỉ
thấy nó trong thiên thần nguyên sơ giữa [Thái
Dương Hệ hoặc] các Ngôi Sao trong Vũ Trụ, các
Thế Giới đă hay đang được tạo ra;
trong khi đó các thế giới trong trạng thái LAYA
vẫn ở trong ḷng nó. V́ chất liệu của nó
thuộc loại khác với chất liệu mà chúng ta biết
trên Địa Cầu, nên cư dân trên địa cầu,
nh́n QUA TRÁI ĐẤT (THROUGHT IT), một cách hăo huyền và
vô minh, đă tin tưởng rằng đó là một không
gian trống rỗng. Trong toàn thể [Vũ Trụ] vô biên,
chẳng có một không gian trống rỗng nào, dù chỉ
rộng bằng ngón tay [angula]…
331
(xx) Dù ở bên
trong hay bên ngoài Thế Giới chúng ta, vật chất hay
chất liệu cũng đều gồm có bảy phần.
Hơn nữa, mỗi trạng thái hoặc nguyên khí của
nó lại được chia thành bảy cấp độ
tỷ trọng. Trong phản ánh vô h́nh của ḿnh, SURYA
[Mặt Trời] phô bày trạng thái đầu tiên hay
thấp nhất của BẢN LAI DIỆN MỤC Vũ
Trụ (the Universal PRESENCE), trạng thái thuần khiết
nhất, Linh Khí (Breath) biểu lộ bản sơ của
Hữu Thể (Sat) hằng vô hiện. Tất cả các
Mặt Trời trung ương hồng trần hay ngoại
cảnh đều có bản chất là trạng thái
thấp nhất của nguyên khí bản sơ hay LINH KHÍ
(BREATH). Tất cả những thứ này cũng chẳng có
ǵ khác hơn là PHẢN ÁNH (REFLECTIONS) của các VẬT NGUYÊN
SƠ (PRIMARIES). Chẳng ai thấy được chúng
ngoại trừ các Đấng Thiền Định
Đế Quân, các Ngài có bản chất thuộc về phân bộ
thứ năm (fifth division) của Nguyên Khí thứ bảy
của Hỗn Nguyên Khí (Mulaprakriti), và do đó, cao hơn
bốn cấp so với chất liệu phản ánh của
mặt trời. Cũng như có bảy Dhatu [chất
liệu chính trong cơ thể con người], cũng
vậy, có bảy Thần Lực nơi Con Người và
trong khắp Thiên Nhiên.
(xxi) Chất
liệu thực sự của Concealed [Mặt Trời]
ẩn tàng là một hạt nhân của Hỗn Nguyên Khí
(Mother Substance) ([629]).
Đó là Trái Tim và Tử Cung của mọi lực sống
động tồn tại trong Thái Dương Hệ
của chúng ta. Đó là Hạt Nhân phát sinh ra (nhằm phân
bố trong các cuộc du hành tuần hoàn) mọi Quyền
năng khởi động các Nguyên Tử với các
nghĩa vụ theo chức năng (functional duties). Đó
cũng là Trung Tâm mà cứ mỗi năm thứ bảy,
chúng ta lại hội tụ nơi Bản Thể thứ Bảy.
Có kẻ nào bảo bạn là y đă thấy Mặt
Trời th́ bạn cứ việc cười vào mũi y ([630]),
như thể y đă bảo rằng Mặt Trời
tiến thực sự trên quĩ đạo ban ngày…
(xxiii) Chính v́ có
bản chất thất phân nên Mặt Trời mới
được cổ nhân xem như là kẻ bị kéo
bởi bảy con ngựa bằng với các nhịp
thở của kinh Vedas. Cũng v́ thế mà mặc dù bị
đồng nhất hoá với BẢY “Gana” (the SEVEN “Gana”) [loại
Thực Thể] nơi tinh cầu của ḿnh, song Ngài
vẫn phân biệt với chúng ([631]),
quả thực là như vậy. Cũng v́ thế mà Ngài
mới có BẢY TIA (SEVEN RAYS), quả thực là như
vậy…
(xxv) Bảy
Đấng ở Mặt Trời là bảy Đấng
Thiêng Liêng, tự sinh do quyền năng cố hữu trong
khuôn viên của Hỗn Nguyên Khí. Chính các Ngài đă phóng ra
Bảy Thần Lực Chính Yếu, gọi là bảy Cung,
vào lúc khởi đầu Chu kỳ Hỗn Nguyên, bảy cung
này sẽ tập trung vào bảy Mặt Trời mới dành
cho Chu Kỳ Khai Nguyên sắp tới. Năng lượng
thúc đẩy chúng tồn tại hữu thức nơi
mọi Mặt Trời, chính là cái mà một số
người gọi là Vishnu, đó vốn là Linh Khí (Breath)
của TUYỆT ĐỐI (ABSOLUTE). [Xem chú thích số 2
ở trước về Vishnu].
Ta gọi nó là
Sự Sống Biểu Lộ Duy Nhất – chính nó là một
phản ánh Tuyệt Đối…
(xxvii) Ta không bao
giờ được dùng ngôn ngữ đề cập
tới Tuyệt Đối, KẺO NÓ SẼ RÚT ĐI
MỘT VÀI NĂNG LƯỢNG TÂM LINH CỦA TA (LEST IT SHOULD
TAKE AWAY SOME OF OUR SPIRITUAL ENERGIES) vốn bị hấp
dẫn về phía trạng thái của nó, bao giờ cũng
bị thu hút về phía NÓ (IT) về mặt tinh thần,
chẳng khác nào toàn thể vũ trụ vật chất
bị thu hút về phía trung tâm biểu lộ của NÓ (IT)
- về mặt vũ trụ.
(xxviii) Ta có
thể gọi tên - sự Tồn Tại bản sơ, trong
khi mà trong trạng thái tồn tại này, như đă
giải thích, SỰ SỐNG DUY NHẤT (the ONE LIFE) lại
là một BỨC MÀN (a FILM) dùng để sáng tạo
hoặc tạo h́nh. Nó biểu lộ thành bảy trạng
thái. Mỗi trạng thái này lại gồm có bảy thành
phần, như vậy là hợp thành BỐN MƯƠI CHÍN
LINH HOẢ (the FORTY-NINE FIRES) mà các Thánh thư thường
đề cập đến…
332
(xxix) Thoạt tiên là … “Hỗn Nguyên
Khí” [VẬT CHẤT nguyên thuỷ - Prima MATERIAL]: Khi tự phân chia
thành ra bảy trạng thái bản sơ, nó bèn giáng xuống
một cách tuần hoàn; khi đă tự củng cố
nơi nguyên khí cuối cùng thành ra vật chất thô
trược ([632])
nó bèn quay chung quanh ḿnh và dùng phân thân thứ bảy của
nguyên tố cuối cùng để làm linh hoạt nguyên
tố đầu tiên và thấp nhất (con rắn nuốt
đuôi ḿnh). Trong một huyền giai, phân thân thứ
bảy của nguyên tố cuối cùng của nó như sau:
a) Trong Khoáng
chất, đó là một Điểm Linh Quang ẩn tàng trong
đó, và được phát khởi cuộc sống phù du
do phần Dương khởi dậy phần Âm (the Positive
awakening the Negative) [v..v..]…
b) Trong Cây
cỏ, đó là Thần lực sinh động và thông
tuệ làm linh hoạt hạt giống và phát triển nó
thành ra ngọn cỏ, rễ cây và cây con. Đó là cái mầm
mống sẽ biến thành CƠ SỞ (the UPADHI) của
bảy nguyên khí của vật mà nó ngự nơi đó,
xạ chúng ra khi vật này tăng trưởng và phát
triển.
c) Nơi mọi
thú vật, nó cũng y như vậy. Đó là Nguyên Sinh Khí
(Life - Principle) và sinh năng của nó; bản năng và tính
chất của nó, đặc tính và những đặc
chất đặc biệt của nó (its characteristics and
special idiosyncrasies)…
d) Nó ban cho Con
Người tất cả những ǵ mà nó đă ban cho
tất cả các đơn vị biểu lộ khác trong
Thiên Nhiên; nhưng ngoài ra, nó phát triển phản ánh của
tất cả BỐN MƯƠI CHÍN LINH HOẢ của ḿnh
nơi y. Mỗi một trong bảy nguyên khí của y
đều kế thừa đầy đủ và tham
dự vào bảy nguyên khí của “Đại Mẫu” (“Great
Mother”). Linh khí của nguyên khí đầu tiên của Mẹ
là Tinh Thần [ATMA] của y. Nguyên khí thứ hai của
Mẹ là BUDDHI [Linh Hồn]. Chúng ta thật sai lầm khi
gọi nó là nguyên khí thứ bảy. Nguyên khí thứ ba cung
cấp cho y vật liệu suy tư trên cơi trần và TRÍ
TUỆ (MIND) đang di chuyển nó (tức là Hồn
Người – H.P.B.) theo các năng lực hữu cơ
của ḿnh (his organic capacities).
e) Đó là
Thần Lực chỉ đạo trong các Nguyên Tố
của vũ trụ và địa cầu. Nó ngự nơi
Lửa được phát khởi từ trạng thái
tiềm tàng ra trạng thái hoạt động; đó là v́
toàn bộ bảy phần của nguyên khí *** tàng ẩn trong
Lửa của đất (terrestrial Fire). Nó cuốn tṛn trong
cơn gió hiu hiu, thổi ào ào theo cơn băo táp và khởi
động không khí; các phần tử không khí cũng tham gia
vào một trong các nguyên khí của nó. Vốn tiến
triển một cách tuần hoàn, nó đă điều
chỉnh chuyển động của nước, hút và
đẩy các lượn sóng([633]),
theo những định luật mà nguyên khí thứ bảy
của nó là linh hồn làm linh hoạt.
f) Bốn nguyên
khí thượng đẳng bao hàm cái Mầm mống phát
triển thành các Thần Linh Vũ Trụ; ba nguyên khí hạ
đẳng nuôi dưỡng Sự Sống của các Nguyên
Tố (Hành khí – Elementals).
333
g) Trong Thái
Dương Hệ của chúng ta, Hữu Thể Duy Nhất
(the One Existence) là Trời và Đất, Rễ và Hoa, Hành Động
và Tư Tưởng. Nó ở trong Mặt Trời và ở
nơi con đom đóm. Không một nguyên tử nào có
thể thoát được nó. Do đó, các Hiền Triết
thời xưa thật là sáng suốt khi gọi nó là
Thượng Đế biểu lộ trong Thiên Nhiên…
Về vấn đề này, thiết
tưởng cũng cần nhắc độc giả
nhớ điều mà T. Subba Row dạy về các thần
lực - được định nghĩa theo huyền bí
học.
Kanya [cung thứ sáu của Hoàng Đạo,
tức cung Xử Nữ] có nghĩa là một trinh nữ và
tiêu biểu cho Shakti (Huyền Nữ) tức Mahamaya
(Đại Hăo Huyền). Cung đang xét là Rashi (phân bộ)
thứ sáu và biểu thị rằng có sáu thần lực
bản sơ trong Thiên Nhiên (do thần lực thứ
Bảy tổng hợp lại)…
Các Shaktis này như sau:
1. Parashakti. – Nghĩa
đen là đại quyền năng hay vô thượng
thần lực. Nó bao gồm và có nghĩa là quyền năng của ánh sáng và nhiệt (the power of
light and heat).
2. Jnanashakti.- Nghĩa
đen là đại quyền năng của trí tuệ…
của chân minh triết. Nó gồm có hai trạng thái.
I. Sau đây là một
vài biểu lộ của nó khi chịu tác dụng khống chế của môi
trường vật chất.
a. Năng lực thuyết minh các cảm giác
của tâm trí.
b. Năng lực nhớ lại các ư
tưởng đă qua (kư ức) và dự đoán
tương lai.
c. Năng lực mà các tâm lư gia hiện
đại tŕnh bày thông qua cái gọi là “luật liên
tưởng” (“the law of association”) khiến cho nó có thể
tạo ra những mối liên hệ dai dẳng giữa
nhiều nhóm cảm giác và khả năng cảm giác khác
nhau, nhờ thế, mới sinh ra ư niệm về
đối tượng ngoại cảnh.
d. Năng lực gắn liền các ư
tưởng của ta với nhau nhờ vào mối liên
kết bí nhiệm của quá khứ, do đó mới
tạo ra ư niệm về bản ngă.
II. Sau đây là một vài biểu lộ
của nó khi thoát khỏi các
ràng buộc của vật chất.
1) Thần nhăn
(Clairvoyance).
2) Trắc tâm thuật
(Psychometry).
3) Ichchhashakti. – Nghĩa đen là quyền năng
của ư chí. Biểu lộ
thông thường nhất của nó là tạo ra một
vài luồng thần kinh, các luồng này khởi động
các bắp thịt để hoàn thành mục tiêu mong
muốn.
4) Kriyashakti.- Quyền năng của tư
tưởng khiến nó có thể tạo ra những kết
quả hiển nhiên, thuộc các hiện tượng
ngoại cảnh do năng lượng cố hữu
của riêng nó. Cổ nhân cho rằng bất cứ ư
niệm nào sẽ biểu lộ ra bên ngoài nếu chú tâm
của người ta được tập trung sâu
sắc vào đó. Tương tự như vậy, một
quyết ư mănh liệt sẽ tạo ra kết quả
như mong muốn.
Một nhà Yoga thường hiển lộng
thần thông nhờ vào Ichchhashkti và Kriyashakti.
5) Kundalini Shakti. - Quyền năng hay thần lực
di chuyển theo h́nh cong, ngoằn ngoèo như rắn. Đó
là nguyên sinh khí vũ trụ biểu lộ khắp nơi
trong Thiên Nhiên. Thần lực này bao gồm hai lực
lớn: lực hút và lực đẩy. Điện và
từ lực chẳng qua chỉ là các biểu lộ
của nó. Đó là quyền năng hay thần lực
tạo ra “sự thích ứng liên tục các quan hệ nội tại với quan hệ
ngoại tại” vốn là bản thể của sự
sống theo Herbert Spencer. Nó cũng tạo ra sự “thích
ứng liên tục quan hệ
ngoại tại với các quan hệ nội tại”, vốn
là nền tảng của sự đầu thai chuyển
kiếp, luân hồi tái sinh (Punarjanman) theo giáo lư của các
triết gia Ấn Độ thời xưa.
Một nhà Yoga phải làm chủ
được hoàn toàn quyền năng này hay thần
lực này, trước khi y có thể đạt
được Giải Thoát (Moksha). Thần lực này chính
là đại xà (rắn lớn) trong Thánh kinh.
6) Mantrikashakti.- Nghĩa đen là thần lực hay
quyền năng của ngôn từ hay âm nhạc. Toàn bộ
kinh Mantra Shastra thời
xưa đă có nói đến thần lực hay quyền
năng này với mọi biểu lộ… Ảnh
hưởng âm nhạc là một trong các biểu lộ thông
thường của nó. Quyền năng của huư danh
kỳ diệu (mirific ineffable name) là tột đỉnh
của Shakti này.
334
Khoa học hiện đại bất quá
chỉ mới điều nghiên được một
phần về các quyền năng này hay thần lực
thứ nhất, thứ hai và thứ năm nêu trên, song
lại hoàn toàn mù tịt về các quyền năng c̣n
lại… Sáu thần lực xét chung được tiêu
biểu bởi Tinh Tú Quang (the Astral Light) [Daiviprakriti,
quyền năng thứ bảy, Huyền Quang (Light) của
Thượng Đế) ([634]).
Đoạn trên được trích dẫn
để tŕnh bày các ư tưởng chân thật của
Ấn Độ về đề tài này. Nó hoàn toàn có tính
cách bí truyền, mặc dù chưa bao hàm đến một
phần mười những ǵ mà chúng ta có thể tŕnh bày. Có một điều là sáu danh
hiệu của sáu thần lực vừa nêu trên chính là danh
hiệu của sáu Huyền giai
Thiền Định Đế Quân (the six Hierarchies of Dhyan Chohans), tổng hợp
lại thành Huyền Giai
bản sơ thứ bảy – nó là hiện thân của
Nguyên Khí thứ Năm của Vũ Trụ hay “Mẹ” theo ư
nghĩa thần bí. Chỉ nội việc liệt kê các
Quyền Năng Yoga cũng phải mất mười
quyển sách rồi. Mỗi Thần lực này do một Thực Thể Hữu Thức
sống động (a living Conscious Entity) cầm
đầu, nó là một phân thân của Thực Thể này.
Nhưng ta hăy thử so sánh giảng lư nêu trên
với các huấn từ của Đức Hermes Ba Lần
Vĩ Đại:
Việc mặt trời tạo ra sự
sống cũng liên tục như ánh sáng của nó, không ǵ
ngăn cản hoặc hạn chế nó. Hằng hà sa
số đoàn Thiên Thần tụ tập chung quanh y
chẳng khác nào một đoàn vệ tinh. Đám này ở
bên cạnh những người bất tử và từ
đó, trông nom các sự việc của nhân loại. Họ
thi hành ư chí của các Thần Linh [Nghiệp Quả- Karma]
bằng cách tạo ra băo tố, hoả hoạn,
động đất cũng như là đói kém và
chiến tranh để trừng phạt những kẻ
bất kính (for the punishment of impiety) ([635])…
Chính mặt trời bảo dưỡng
vạn vật. Thậm chí cũng như thế giới lư
tưởng bao quanh các thế giới hữu h́nh, cung
cấp cho các thế giới này hằng hà sa số h́nh dáng
khác nhau trong vũ trụ, cũng vậy, mặt trời
bao bọc vạn vật trong ánh sáng của ḿnh và đâu
đâu cũng giúp cho sự sinh thành của vạn vật…
“Dưới trướng y là đội thiên thần, hay
đúng hơn là các đội thiên thần, v́ có nhiều
đội khác nhau, và số đội tương ứng
với số sao (stars). Mỗi ngôi sao đều có vị
thần của ḿnh, thiện hay ác tuỳ theo bản
chất hay tác động của họ, v́ tác động
là bản thể của thiên thần (genii)… Tất cả
các thần này chủ tŕ các sự việc trên thế gian ([636]),
họ làm đảo lộn cấu tạo của các
quốc gia và cá nhân; họ khiến cho linh hồn chúng ta
giống hệt như họ, họ hiện diện trong
dây thần kinh chúng ta, trong tuỷ, động mạch,
tĩnh mạch và chính năo chất của chúng ta… Vào lúc
mỗi người trong chúng ta chào đời, y đều
chịu sự phụ trách của chư thần (các Tinh
Linh – Elementals) chủ tŕ sự sinh sản ([637])
và được xếp vào dưới quyền năng
thuộc cảm dục giới (astral powers) [Các Vong Linh
cảm dục giới siêu nhân loại – superhuman astral
Spirits]. Họ thay đổi măi, không phải lúc nào cũng
y như nhau, mà cứ luân chuyển liên hoàn ([638]).
Họ dùng sắc tướng thấm nhuần hai phần
linh hồn, khiến cho nó có thể nhận tác dụng
của năng lượng của chính nó từ mỗi
phần. Nhưng phần có lư trí của linh hồn không
chịu sự kiềm toả của chư thần;
người ta dự kiến dùng nó để tiếp
nhận Đấng Thánh Linh (God) ([639]),
vốn dùng một tia
335
nắng soi sáng nó. Chẳng có mấy kẻ
được soi sáng như vậy, chư thần lại
nể mặt (abstain) các kẻ này, v́ chẳng vị
thần nào có bất cứ quyền năng ǵ khi một tia
đơn độc của Thượng Đế
hiện diện ([640]).
Nhưng tất cả những người khác, cả linh
hồn lẫn sắc tướng đều
được điều khiển bởi chư thần;
họ gắn bó với và ảnh hưởng tới các tác
động… Thế là chư thần đă kiểm soát các
sự việc trần gian và dùng các cơ thể của ta
làm các khí cụ ([641]).
Ngoại trừ một số ít điểm
hẹp ḥi, bè phái, đoạn trên tiêu biểu cho cái đă là
một tín ngưỡng đại đồng thế
giới, chung cho mọi quốc gia, măi cho tới cách đây
chừng một thế kỷ. Trong những tín đồ
ngoại đạo, cũng như tín đồ Thiên Chúa
giáo, ngoại trừ một số ít nhà Duy vật và khoa
học gia, nó vẫn c̣n các nét khái quát chính thống.
Đó là v́ cho dù người ta có gọi
“Chư Thần” của Hermes là các “Quyền năng U minh”
(“Power of Darkness” và các “Thiên Thần” (“Angels”) như trong Giáo
hội Hy Lạp và La Tinh; hoặc là “Vong linh của
Người chết” (“Spirits of the Dead”) như là trong Giáng Ma
Học; hoặc là Bhuts và Devas, Shaitan hay Djin, như
người ta c̣n gọi ở Ấn Độ và các
xứ Hồi giáo – th́ tất
cả đều là một và như nhau – HĂO HUYỀN
(ILLUSION). Tuy nhiên, xin đừng hiểu lầm điều
này theo ư nghĩa mà giáo lư triết học cao cả Vedanta sau
này đă bị các trường phái Tây phương xuyên tạc.
Mọi điều xuất phát từ
TUYỆT ĐỐI (ABSOLUTE) – do đặc tính Đơn Nhất
tuyệt đối là Thực Tại Duy Nhất, do đó,
mọi điều ở ngoài Tuyệt Đối này,
yếu tố sinh sản và nhân quả (the generative and
causative Element), dứt khoát phải là một Hăo
Huyền. Nhưng điều này chỉ như vậy theo
quan điểm thuần tuư siêu h́nh. Một người
tự coi ḿnh là có tâm trí b́nh thường, và cũng
được người láng giềng coi như vậy,
cũng gọi các linh thị của một huynh đệ
bị loạn trí - rất
có thể là các ảo giác khiến cho nạn nhân sung sướng hoặc cực
khổ - là hăo huyền và hoang đường. Nhưng
đâu là cái người điên mà h́nh bóng gớm ghiếc
trong tâm trí điên loạn (các hăo huyền) của y lại
tạm thời không có thực như những sự
vật mà vị y sĩ hay người trông coi y có thể
thấy được? Trong thế giới này, mọi
chuyện đều tương đối, vạn hữu
đều hăo huyền. Nhưng kinh nghiệm trên bất
kỳ cảnh giới nào cũng đều là một
thực tại đối với kẻ tri giác đang
trụ tâm thức vào cảnh giới ấy, mặc dù xét
theo quan điểm thuần tuư siêu h́nh, kinh nghiệm nói trên
có thể bị xem là không có thực nơi ngoại
cảnh. Nhưng nội môn bí giáo phải chiến
đấu chống lại các nhà vật lư và các nhà duy
vật chứ không phải các nhà siêu h́nh. Thế mà
đối với các nhà vật lư và các nhà duy vật, Sinh
Lực, Ánh Sáng, Âm Thanh, Điện, thậm chí cả
hấp lực ngoại cảnh của từ khí nữa,
không tồn tại nơi ngoại cảnh và bị coi là
chỉ tồn tại như các “cách thức chuyển
động” (“modes of motion”), “các cảm giác và cảm xúc vật chất”
(“sensations and affections of
matter”).
336
Các nhà Huyền bí nói chung và các nhà nghiên cứu
Minh Triết Thiêng Liêng nói riêng đều không hề bác
bỏ (như một vài người thường lầm
tưởng) các quan điểm lư thuyết của các khoa
học gia hiện đại chỉ v́ các quan điểm
này đối nghịch với Minh Triết Thiêng Liêng. Nguyên
tắc của Hội chúng ta là phải trả lại cho
Caesar cái ǵ của Caesar. Do đó, hơn ai hết, các nhà Minh
Triết Thiêng Liêng là những người công nhận giá
trị cố hữu của khoa học. Nhưng khi các nhà
đầu năo khoa học thu gọn ư thức thành ra một
thứ tiết ra từ chất xám của năo bộ, và
mọi điều khác trong thiên nhiên thành ra một cách
thức chuyển động, th́ chúng ta kịch liệt phản
đối học thuyết đó là phi triết học,
tự mâu thuẫn và phi lư theo quan điểm khoa học,
chứ đừng nói là theo khía cạnh Huyền bí của
Bí giáo Nội môn.
Đó là v́ Tinh Tú Quang của các tín đồ
Do Thái Bí giáo bị chế nhạo và quả thực là
một bí nhiệm và hăo huyền đối với
những kẻ nào có thể thấy được
những ǵ trong đó. Các điều
bí mật ẩn tàng trong các lượn sóng và biến
ảo không ngừng của nó cứ sờ sờ ra đó,
bất chấp sự kiện các nhà duy vật cứ nhao
nhao lên giễu cợt.
Tinh Tú Quang của các tín đồ Do Thái Bí
giáo đă bị một vài người dịch ra một
cách rất sai lầm là “Dĩ Thái” (“Ether”); Dĩ Thái lại
bị lầm lẫn với ether theo giả định
của khoa học, và một vài nhà Theosophy lại coi cả
hai thứ trên là đồng nghĩa với Tiên Thiên Khí
(Akasha). Thật là một sự lầm lẫn.
Tác giả của Một
Sự Bài Bác Thuần Lư (A Rational Refultation) đă vô t́nh
bênh vực Huyền bí học khi cho rằng:
Chỉ cần tŕnh bày đặc tính của
Tiên Thiên Khí là ta sẽ chứng tỏ được
thật là sơ suất biết bao khi diễn tả nó là
ether. Xét về mặt kích thước, nó thật là …vô hạn,
nó không hề bao gồm các phần tử, nó cũng
chẳng dính dáng ǵ tới màu sắc, mùi vị, h́nh dáng. Nó
luôn luôn tương ứng chính xác với thời gian, không
gian, Ishvara [Đấng Chúa Tể, song đúng hơn là mănh
lực sáng tạo và linh hồn – Linh Hồn Thế
Giới] và linh hồn. So với điều đó th́ nó có
đặc điểm là nguyên nhân vật chất của âm
thanh. Trừ điều đó ra, người ta có thể
xem nó là đồng nhất với hư không ([642]).
Nó chắc chắn là hư không, nhất là đối với các nhà Duy
lư (Rationalists). Dù sao đi nữa, chắc chắn là Tiên Thiên
Khí đă làm cho nhà duy vật thấy đầu óc ḿnh
trống rỗng. Song le, dù cho Tiên Thiên Khí chắc chắn
không phải là ether của khoa học - thậm chí cũng
không phải là Dĩ Thái của nhà huyền bí, y chỉ xem
dĩ thái là một trong những nguyên khí của Tiên Thiên Khí
thôi – cùng với thuỷ tổ của ḿnh, nó nhất
định phải là nguyên nhân của âm thanh, là một
nguyên nhân tâm linh và tinh thần, chứ tuyệt nhiên không
phải là một nguyên nhân vật chất. Ta có thể xác
định quan hệ của Dĩ Thái với Tiên Thiên Khí
bằng cách áp dụng cho cả hai khí này câu nói về
Thượng Đế trong kinh Vedas như sau: “Như
vậy, Ngài quả thật là con của chính ḿnh” (“So himself
was indeed (hisown) son”), cái này hậu duệ của cái kia, song
cũng là chính nó. Đây có thể là một câu đố khó
hiểu đối với kẻ phàm phu tục tử,
nhưng lại rất dễ hiểu đối với
bất kỳ người Ấn độ nào, cho dù y không
phải là nhà thần bí (mystic).
337
Các bí mật này của Tinh Tú Quang, cùng với
nhiều bí nhiệm khác, sẽ vẫn không hề tồn
tại đối với các Nhà Duy Vật ở thời
đại ta, chẳng khác nào Châu Mỹ đă là huyền
thoại không có thực đối với người Châu
Âu trong giai đoạn sơ khai thời Trung Cổ
(mediaeval), trong khi mà người Bắc Âu và người Na
Uy đă thực sự đặt chân lên và định
cư ở vùng “Tân Thế Giới” rất cổ xưa này
trước đó nhiều thế kỷ. Thế nhưng
một Columbus đă ra đời để tái khám phá và
bắt Cựu Thế Giới phải tin vào các xứ
ở đối chích điểm (antipodal) trên địa
cầu, cũng vậy, sẽ có các khoa học gia ra
đời để khám phá ra các điều kỳ
diệu mà hiện nay, các nhà Huyền bí khẳng
định là tồn tại trong các vùng dĩ thái, với
hằng ha sa số cư dân biến ảo và Thực
Thể hữu thức. Lúc bấy giờ, dù muốn hay không, khoa học cũng sẽ
phải chấp nhận “điều mê tín dị đoan”
xưa cũ (như đă từng chấp nhận nhiều
điều khác). Một khi đă bắt buộc phải
chấp nhận nó, rất có thể là – khi “ôn cố”
chẳng hạn như việc Mesmer thuật và từ
điển thuật hay được tái mệnh danh là
thuật thôi miên – các Giáo sư thông thái sẽ khai sáng ra
sự việc và bác bỏ danh xưng. Đến lượt
danh xưng mới lại tuỳ thuộc vào “cách thức
chuyển động” – tên mới của “các tiến tŕnh
vật lư tự động ở trong số các dây thần
kinh của bộ óc” [khoa học] của Moleschott – và
cũng có thể là tuỳ thuộc vào bữa ăn
cuối cùng của người đặt tên, v́ nói chung
“hoạt động trí óc cũng chẳng khác nào sự
dưỡng trấp hoá” (chylification) ([643])
(theo người sáng lập ra Hệ phái Tân Vật Tâm
Luận – the new Hylo-Idealistic Scheme). Như thế, nếu
người ta phải tin vào mệnh đề phi lư này, th́
danh xưng mới của chân lư cổ sơ ắt phải
đánh liều cho cảm hứng của người
đặt tên quyết định; chỉ bấy giờ
th́ các chân lư mới có cơ may trở thành chân lư khoa
học!
Tuy nhiên, mặc dù không hấp dẫn
đối với đại chúng mù quáng nói chung, CHÂN LƯ
vẫn luôn luôn được ủng hộ bởi
những kẻ sẵn sàng “xả thân cầu đạo”,
các nhà Huyền bí sẽ không hề phản đối khoa
học chấp nhận nó với bất cứ danh xưng
nào. Thế nhưng, nếu chưa được các khoa
học gia biết tới và chấp nhận, th́ nhiều
chân lư huyền linh sẽ c̣n bị cấm đoán chẳng
hạn như việc các hiện tượng Giáng ma
học và các biểu hiện tâm linh khác, để rồi
cuối cùng bị những kẻ đă từng xuyên
tạc nó chiếm lấy làm của riêng không một
lời cảm tạ hoặc cảm ơn. Nitrogen đă góp
phần lớn lao vào kho tàng kiến thức hoá học,
nhưng Paracelsus, người khám phá ra nó, cho đến nay
vẫn bị xem là một “lang băm” (“quack”). Trong tác
phẩm tuyệt vời Lịch
Sử của Văn Minh (History of Civilization), T.T.Buckle
thật là chí lư biết bao khi cho rằng:
Do những hoàn cảnh mà ta c̣n chưa
biết [Nghiệp quả dự liệu (Karmic provision) –
H.P.B.] thỉnh thoảng chúng ta lại thấy các nhà tư
tưởng vĩ đại xuất hiện. Họ
hiến ḿnh trọn đời cho một mục đích duy
nhất, họ có thể tiên đoán được sự
tiến bộ của nhân loại và khai sáng ra một tôn
giáo hoặc một triết thuyết, mà nhiên hậu sẽ
tạo ra những hiệu quả quan trọng. Nhưng
nếu lật lại những trang sử cũ, th́ chúng ta
sẽ thấy rơ rằng, mặc dù nguồn gốc của
một ư kiến mới có thể chỉ do một
người duy nhất, song kết quả của ư
kiến mới đó lại tuỳ thuộc vào t́nh
cảnh của đám người mà nó được
truyền bá trong đó. Nếu một tôn giáo hoặc
một triết thuyết lại quá tiên tiến so với
một quốc gia, th́ nó chẳng có ích ǵ vào lúc đó, mà
phải chờ thời ([644])
cho đến khi tâm trí của người ta đủ chín
chắn để tiếp nhận nó… Mọi khoa học,
mọi tín ngưỡng đều có những kẻ xả
thân cầu đạo. Theo ḍng
thời gian, một vài thế hệ sẽ đi qua,
rồi sẽ tới một thời kỳ mà chính các chân lư
này sẽ bị xem là những sự kiện thông
thường và ít lâu sau, lại tới thời kỳ mà
chúng được xem là cần thiết, thậm chí
kẻ đần độn nhất cũng thắc
mắc không biết làm sao mà thiên hạ lại đă
từng chối bỏ chúng ([645]).
338
Rất có thể là các thế hệ
hiện tại có tâm trí chưa đủ chín chắn
để tiếp nhận các chân lư Huyền bí. Có lẽ
chỉ có các nhà tư tưởng tiên tiến của
Giống dân chính thứ Sáu mới được trang
bị cho sự nội quan để tiếp nhận Bí
giáo Nội môn - một cách trọn vẹn và vô điều
kiện. Trong khi đó, các thế hệ thuộc Giống
dân thứ Năm chúng ta, sẽ tiếp tục bị thành kiến
và tiên kiến làm cho lầm đường lạc lối.
Huyền bí học sẽ bị bọn đầu
đường xó chợ tha hồ mà nhạo báng, thiên
hạ sẽ mặc sức chế giễu và chà
đạp nó nhân danh Chủ nghĩa duy vật và cái gọi
là khoa học, và để cho chúng được danh
tiếng hơn. Tuy nhiên, để chủ động
giải đáp cho nhiều điều phản đối
của khoa học trong tương lai mà chúng ta đă tiên
liệu sẵn, tác phẩm này xin tŕnh bày lập
trường chân thực và hỗ tương của phe
nguyên cáo và bị cáo. Các nhà nghiên cứu Minh Triết Thiêng
Liêng và các nhà Huyền bí nguyện đoàn kết, sát cánh
với công luận đang giương cao ngọn cờ
khoa học suy diễn. Thế mà, người ta đă xét
tới các khoa học suy diễn rồi, điều này
phải chứng tỏ rằng các thành tựu và các khám phá
của chúng trong lănh vực định luật tự nhiên
đă đối nghịch với các sự kiện trong
thiên nhiên c̣n nhiều hơn là đối nghịch với
những lời khẳng định của chúng tôi. Nay
đă đến lúc xác định xem liệu những
bức tường luỹ của thành
Ta phải xem xét cẩn thận cái gọi là
“Lực” (“Force”) (mà dấu vết Ánh Sáng và Điện) và
cấu tạo của Mặt Trời, cũng như là
thuyết Trọng Lực và thuyết Tinh Vân. Ta phải
thảo luận về bản chất của dĩ thái và
các Hành (Elements) khác, như thế là đối chiếu
học thuyết khoa học với giáo lư Huyền bí
học, trong khi tiết lộ một vài giáo điều
đến nay vẫn c̣n bí nhiệm của huyền bí
học.
Cách đây chừng mười lăm
năm, hơn ai hết, tác giả đă lặp lại theo
các nhà Do Thái Bí giáo, các huấn điều minh triết trong
“Vấn đáp Giáo lư nội môn” (Esoteric Catechism).
Hăy cẩn ngôn
(close thy mouth), kẻo con sẽ tiết lộ điều
bí mật này, hăy bế tâm con lại kẻo con sẽ
buột miệng thốt ra những suy tư của ḿnh: và
nếu tâm con đă phóng ra ngoài, th́ hăy đem tâm con trở
về chỗ của nó, v́ đó là mục tiêu của
sự liên minh của chúng ta ([646]).
Lại nữa, theo các Qui luật Điểm Đạo:
Đây là một
điều bí mật cho sự chết: hăy cẩn ngôn
kẻo con sẽ tiết lộ điều này cho
thường nhân; hăy giữ ǵn chặt chẽ trí óc của
con để không có một điều ǵ được
tiết lộ ra ngoài.
Một vài năm sau, một góc màn che
khuất Nữ Thần Isis đă được vén lên, và
bây giờ một sự hiển lộ khác rộng lớn
hơn sẽ được hoàn thành.
Nhưng các sai lầm trong quá khứ đă
từng được tôn trọng – mà càng ngày chúng ta càng
thấy rơ ràng hơn – nay vẫn c̣n nguyên vẹn hàng ngũ
như trước đây. Do sự bảo thủ mù quáng,
tính kiêu căng và thành kiến hướng dẫn, những
sai lầm ấy lăm le sẵn sàng bóp nghẹt mọi
chân lư vừa đến, sau khi tỉnh thức khỏi
một cơn mê dài. Trường hợp đó luôn xảy
ra kể từ khi nhân loại bắt đầu kiếp
thú. Điều này minh chứng trong mọi trường
hợp rằng bất cứ kẻ nào minh giải
được chân lư cổ sơ đều phải
bị chết về mặt
luân lư (moral death). Điều
trên cũng chắc chắn như việc nó ban sự sống và sự tái sinh (regeneration) cho
những ai sẵn sàng lợi dụng được
thậm chí chút ít ánh sáng chân lư nay đang được
tiết lộ cho họ.
CÁC CHÚ THÍCH BỔ SUNG
340
Phần nhập
đề, trang 48.
Lưu vực sông Tarim ở vùng
Trang 54 – 56:
Ở ḍng chót của trang 54, tên ḍng sông
Khuan-Khé có lẽ là Kan-Chou. Ở ốc đảo Keriya,
Aurel đă t́m thấy các bài vị viết bằng tiếng
Kharoshthi thời xưa. Ở trang 55 và 56 người ta có
đề cập tới Tướng Nicholas Prjevalsky (hay
Przhevalsky), hai quyển sách ghi lại các cuộc du hành
của ông vào vùng bên trong Châu Á đă được nhà thám
hiểm Thuỵ Điển Sven Hedin dịch ra và rút gọn
thành một quyển.
Phần tham
khảo Nữ Thần Isis Lộ Diện, trang 64.
Xem Chú thích cuối trang: danh xưng
được dùng theo nghĩa từ ngữ Hy Lạp
anthropos. Chân Sư K.H. nhận xét về bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện
nói chung và đoạn này nói riêng như sau: “Tuy có
người sửa bản in thử, một vài lỗi
thực sự đă xảy ra, chẳng hạn ở trang
1, chương I, quyển I người ta để cho Adam
xạ ra Bản thể thiêng liêng thay v́ ngược lại.
Xem Các Thánh Thư của các
Chơn Sư, trang 45 ấn bản kỳ 2 năm 1930.
Trang 65, Chú thích cuối trang.
Có hai
1) Chu kỳ Mạt pháp thiên văn (astronomical
Kali Yuga) bắt đầu năm 3102 trước T.C.,
rất có thể là do Aryabhata I, xác định vào năm 499
sau T.C. Đây là một Chu kỳ Mạt Pháp hư ảo (bắt đầu vào ngày 17 – 18 tháng 2
năm 3.012 trước T.C.) và nhất định là
kết quả của một phép tính toán hồi qui (a
calculation backwards) mà Bentley, Burgess v.v.. đă ḍ ra và tôi đă
bổ chứng rốt ráo quan điểm của họ.
Burgess cho rằng: “Dường như không c̣n nghi ngờ ǵ
nữa là người ta đă xác định
được thời kỳ này bằng phép tính toán thiên văn hồi quy” (“astronomical
calculation backward”). Theo lối tính toán Chu kỳ Mạt
Pháp này, vào năm 899 – 1900 sau T. C. tức năm Shaka 1821,
chúng ta đă trải qua 5.000 năm. Tôi chưa hề t́m
thấy bất cứ bằng chứng văn học,
hoặc bằng chứng nào khác về phép tính toán Chu kỳ
Mạt Pháp này trước thời Aryabhata I, nghĩa là
năm 499 sau T.C.
2) Chu kỳ Mạt pháp khác mà chúng ta thấy Mahabharata và kinh Puranas đề cập tới, bắt đầu
vào ngày 7 tháng 1 năm 2454 trước T.C. với ngày đông
chí là ngày trăng tṛn gần ngôi sao Regulus. Rồi tới
thời kỳ sandhi (thời
khoảng) 100 năm trong đó trận chiến Bharata đă
diễn ra vào năm 2449 trước T.C. và vấn
đề Đức Shri Krishna đă tịch diệt vào
năm 2413 trước T.C. C̣n 609 năm nữa (nghĩa là
năm 2547 sau T.C.) th́ ta mới trải qua 5.000 năm
của Chu kỳ Mạt pháp này. Trong tất cả mọi
công tŕnh khảo sát của ḿnh, riêng cá nhân tôi đă chấp
nhận chu kỳ này là
(Chú thích do Probodh
Chandra Sen Gupta cung cấp, theo yêu cầu của ông Hirendranath
Datta).
341
Các Áng
văn cổ của Cory, trang
137.
Trong ấn bản mới có bổ sung
năm 1876 của E. Richmond Hodges, việc đánh số trang
lại khác hẳn, ấn bản này gồm có 203 trang, trong
khi ấn bản trước có trên 300 trang. Trong phần
Lời nói đầu, trang xii, vị chủ biên của
ấn bản năm 1876 này cho biết rằng ông đă
bỏ đi: 1. Lời nói đầu của Cory, và 2. Các
điều nguỵ tạo của phái Tân Platon ở
cuối quyển sách.
Hội Nghị
Tiểu Thánh, trang 144.
Hội Nghị
Tiểu Thánh (The Lesser Holy Assembly) là phần III của
kinh Zohar, từ trang 287
tới trang 296b; xem Kabalah
Denudatta, Formus Secundus, Phần ii, các trang 247 – 598 (theo A.
E.Waite, Giáo Lư Bí Nhiệm (The
Secret Doctrine) ở Do Thái, chương 3 trang 45.
Jod. Vau và hai
lần Hé, trang 154, chú thích
cuối trang.
Người ta đă vạch rơ rằng
Jod=10, Vau=6 và hai lần Hé (mỗi Hé=5) phải hợp thành
26 chứ không phải 21. Có lẽ trị số của
một Hé đă bị bỏ đi v́ mục đích của
các trị số mà bà Blavatsky quan tâm tới.
Các Chân Thần
bị cầm tù, trang 310.
Trong đoạn 2, trong 2 câu cuối, chúng ta
thấy có những chữ: “Chân Thần của họ nay có
thể vẫn c̣n bị giam cầm – bán ư thức:
(semi-conscious) – trong loại thông minh nhất của giới
động vật, trong khi mà các nguyên khí hạ đẳng
của họ có lẽ đang làm linh hoạt các kiểu
mẫu cao siêu nhất của giới thực vật”.
Người ta đă thúc giục mạnh mẽ là các cáo
từ cuối cùng này nên được đọc là: “trong
khi mà các kiểu mẫu hạ đẳng của họ, có
lẽ… các loài cao siêu nhất của giới động
vật”.
LƯU Ư: Dù sao đi nữa, người ta
nên phát âm Kali Yuga với một âm a ngắn. Kali có nghĩa là đấu tranh (strife, struggle); c̣n
kālā, kālī có nghĩa đen (black, dark).
HẾT
QUYỂN I
TRẦN NGỌC LỢI
Dịch thuật
GIÁO LƯ BÍ NHIỆM
(THE
SECRET DOCTRINE)
(TỔNG HỢP
KHOA HỌC, TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC)
TÁC
GIẢ
H. P. BLAVATSKY
Quyển I
VŨ TRỤ KHỞI NGUYÊN LUẬN
(COSMOGENESIS)
PHẦN I
[1]
Xem lời nói đầu của H.P.B. dành cho ấn bản 1888,
được in lại trong quyển này.
[2]
“Điều lệ sơ khởi” chương 11
[3]
“Tiền Đề” (Early Preamble).
[4]
Hồi kư của Đại Tá Olcott
[5]
Như trên, ngày 24 tháng 5.
[6]
Như trên.
[7]
Như trên. Xem thêm Hồi kư của Đại Tá Olcott, II, trang 90.
[8]
Thư của H.P.B. gửi cho A.P.Sinnet, do A.T.Baker biên
soạn, trang 64, ấn bản 1925.
[9]
Hồi kư về H.P.B. và bộ “Giáo Lư Bí Nhiệm” của
Nữ Bá Tước C. Wachtmeister và những người
khác, trang 96 (ấn bản 1893)
[10]
Thư của H.P.B. gửi cho A.P.Sinnett, trang 87-89.
[11]
Hồi kư, trang 102.
[12]
Trong Nhật kư chỉ đề bí danh của Ngài thôi.
[13]
Oakley là ông A. J. Cooper-Oakley. Xem thêm Hồi kư của
Đại Tá Olcott, quyển III, trang 199 – 200.
[14]
Tạp chí Theosophist, tháng 3, 1925, trang 784.
[15]
Thánh thư của các Chân Sư Minh Triết (Quyển II). C.
Jinarajadasa sao lại và chú thích, trang 126 (ấn bản 1925).
[16]
“Sư Phụ và Chân Sư K.H. (người
[17]
Hồi kư trang 23.
[18]
Như trên, trang 24 “Bà sao lại hết” (thư của H.P.B.
gửi cho H.S.O. ngày 6 tháng 1 năm 1886)
[19]
Như trên, trang 32.
[20]
Như trên, trang 35. Xem Tạp chí Lucifer, trang 355 (ấn
bản 1888)
[21]
Như trên, trang 41.
[22]
Như trên, trang 48.
[23]
Như trên, trang 55.
[24]
H.P.B. gửi H.S.O. ngày 25 tháng 11 năm 1885.
[25]
Được in trong Tạp chí Theosophist, tháng 8 năm 1931,
trang 664-8
[26]
Thư của H,P.B. gởi A.P.S. trang 194 – 5.
[27] Thư của H.P.B. gởi A.P.S.
trang 244.
[28]
Như trên, trang 294.
[29]
H.P.B. gởi H.S.O. được in trong Tạp chí
Theosophist, tháng 5-1908, trang 756.
[30]
Nhà xuất bản George Redway, Luân Đôn.
[31]
Ông Judge đă khuyên H.P.B. nên bảo vệ bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm ở Mỹ; điều này có thể thực
hiện được v́ bà đă là một công dân Mỹ
(bà đă nhập tịch Mỹ năm 1878). Thư của
H.P.B. gởi cho A.P.S. trang 244.
[32]
Thư của H.P.B. gởi cho A.P.S. trang 222.
[33]
Tạp chí Theosophist, số tháng 3 năm 1909, trang 588. “Dư
âm của Dĩ văng”
[34]
“Ông Già Quân Tử” có lẽ là Chân Sư Jupiter, Thánh Hiền
Agastya. Thư của H.P.B. gởi cho H.S.O. ngày 21 tháng 10
năm 1886.
[35]
Nhật kư.
[36]
Phúc tŕnh tổng quát, năm 1886, trang 8.
[37]
Hồi kư của Đại Tá Olcott, III, trang 385.
[38]
Trang XVII, ấn bản 1888; trang l, ấn bản 1893.
Muốn xem đoạn in lại của phần này trong
bản thảo thời xưa, xin xem Tạp chí Theosophist,
số tháng 8 năm 1931, trang 601 – 7.
[39]
Trang XLII, ấn bản 1888; trang 25, ấn bản 1893.
[40]
Tạp chí Theosophist, tháng 7 năm 1931, trang 429. C̣n một
loạt bài nữa được đăng trong Tạp
chí Theosophist, LIV, năm 1932-1933, trang 27, 140, 265, 397, 538, 623.
[41]
Xem Tạp chí Theosophist tháng 3-1925, trang 781-3, ông C. Jinarajadasa
viện dẫn nội dung của bản thảo trong
đó.
[42]
Tạp chí Theosophist tháng 1 năm 1887, bản phụ
trương, trang XLVII.
[43]
Phúc tŕnh tổng quát, năm 1886, trang 8.
[44]
Hồi niệm, trang 94 – 97 – 99.
[45]
Phỏng theo Tạp chí Theosophist, tháng 8 năm 1931, trang 683.
[46]
Những bức thư của H.P.B. gởi cho A.P.S. trang 226
– 7.
[47]
Như trên, trang 242.
[48]
Hồi niệm, trang 73.
[49]
Như trên, trang 75.
[50]
Hồi niệm, trang 96 – 97.
[51]
Hồi niệm, trang 92 – 3 (Xem Tạp chí Theosophist, tháng 9
năm 1931, trang 708, Những hồi niệm về H.P.B.
của Bertram Keightley).
[52]
Như trên, trang 94.
[53]
Tạp chí Theosophist, tháng 10 năm 1887, trang 62.
[54]
Phúc tŕnh tổng quát, năm 1887, trang 9.
[55]
Trích từ một bức thư c̣n lưu lại văn
khố đề ngày 24-4-1888.
[56]
Thánh Đạo, tháng 2 năm 1888, trang 354 – 5.
[57]
Thánh Đạo, tháng 6 năm 1888, trang 97 – 8.
[58]
Tạp chí Theosophist, tháng 5 năm 1888, bản phụ
trương, trang XXXVII.
[59]
Giáo Lư Bí Nhiệm, quyển II, ấn bản năm 1888, trang
441, ấn bản 1893, trang 460, chú thích cuối trang
[60]
Được in trong Những bức thư của các
vị Chân Sư Minh Triết, do C. Jinarajadasa biên soạn,
trang 54 (1919).
[61]
H.P.B., trong “Những cuốn sách của tôi”, Tạp chí
Lucifer tháng 5 năm 1891, trang 246.
[62]
Hồi niệm, trang 94.
[63]
Tạp chí Theosophist, tháng 11, năm 1888, trang 69.
[64]
Hồi niệm trang 85.
[65]
Ấn bản năm 1888, trang XLV-XLVI; ấn bản 1893,
trang 29.
[66]
Tạp chí Theosophist, tháng 12 năm 1888, bản phụ
trương trang xxxa. Xem thêm chú giải trên
những Ấn bản, trang 36.
[67]
Trích trong Tạp chí Lucifer tháng 12 năm 1888, trang 346.
[68]
Quyển I trang VII. Trong ấn bản năm 1893, câu chót này
bị in sót, trang XIX. Muốn tham khảo quyển III, xin xem
thêm trang 369, ấn bản năm 1888 và trang 386, ấn
bản năm 1893.
[69]
Quyển II, trang 437, ấn bản 1888.
[70]
Quyển I, trang 52, ấn bản năm 1888, xem Quyển III,
năm 1893, trang 376.
[71]
Quyển III, trang 359.
[72]
Hồi niệm , trang 68.
[73]
Quyển II, trang 797 – 8, ấn bản năm 1888.
[74]
G.R.S. Mead trong Tạp chí Lucifer tháng 7 năm 1897 trang 353.
[75]
Tháng 3 năm 1890, trang 7.
[76]
G.R.S Mead trong Tạp chí Lucifer tháng 7 năm 1897 trang 354.
[77]
Xem Tạp chí The Vahan, tháng 1 năm 1891, Tạp chí Theosophist,
bản phụ trương tháng 12, trang XXXII và Thánh Đạo tháng 12 năm 1891,
trang 296.
[78]
G.R.S. Mead trong Tạp chí Lucifer tháng 7 năm 1897, trang 353.
[79]
Đề tựa của Ấn bản tu chính (kỳ III)
năm 1893.
[80]
Tháng 6 năm 1896, trang 273.
[81]
Tháng 7 năm 1896, trang 361.
[82]
Tháng 8 năm 1896, trang 449 và kế tiếp
[83]
Tạp chí Theosophist, tháng 9 năm 1897, trang 766.
[84]
Tháng 8 năm 1931, trang 560. Được mô phỏng lại
trong đó.
[85]
Xem chú thích và ấn bản trên, trang 36.
[86]
Tạp chí Theosophist, tháng 3 năm 1922, trang 534.
[87]
James Mogan Pryse trong Tạp chí Theosophist Gia Nă Đại, tháng
9 năm 1926, trang 140 – 1. Ông Pryse trông nom Công ty xuất
bản Theosophy, nó đă xuất bản bộ Giáo Lư Bí
Nhiệm và nhiều tác phẩm MTTL khác.
[88]
Tháng 5 năm 1895, trang 179 – 8.
[89]
Của ông Sinnett, năm 1883.
[90]
Xem Tạp chí Theosophist tháng 6 năm 1884.
[91]
Lời tựa ấn bản lần đầu.
[92]
Dan, theo lối phát âm của tiếng tân Trung Quốc và Tây
Tạng là Ch’an, là ngôn từ tổng quát dành cho các
Trường Bí giáo và văn chương của các
trường này. Trong những kinh sách cổ, tiếng Janna
được định nghĩa là “tự tu sửa
nhờ tham thiền và sự tri thức”, một sự tái
sinh bên trong. Từ đó mới có Dzan, Djan (xét về cách
phát âm), Thiền Định
Chân Kinh (Book of Dzyan). Xem Edkins, Phật Giáo Trung Quốc, trang
129 chú thích.
[93]
Chúng tôi tin rằng ông Beglor, một vị Chánh kỹ sư
ở Bồ Đề Đạo Tràng (Buddha Gaya) và là
một nhà khảo cổ lỗi lạc, là người
đầu tiên đă t́m ra điều này.
[94]
Thế kỷ 19.
[95]
Xem quyển Nữ Thần Isis Lộ Diện, quyển II,
trang 27.
[96]
Quyển Tôn giáo học nhập môn, trang 23.
[97]
Quyển Ain I Akbari do Tiến sĩ Blochmann dịch, do Max
Muller trích ra trong tác phẩm đă dẫn.
[98]
Nơi ẩn dật
[99]
Thánh điện (
[100]
Thuộc rặng núi Karakoram, phía Tây của xứ Tây
Tạng.
[101]
Đạo Đức Kinh, trang xxvii
[102]
Max Muller, tác phẩm đă dẫn, trang 114.
[103]
Chỉ ngày nay mới được t́m thấy và được
chứng minh, nhờ vào những điều khám phá của
Georges Smith (xem quyển Sáng Thế Kư Can Đê) và v́ nhà
ngụy tạo Armenie này mà tất cả các “nước
văn minh” đă bị lầm lạc trên 1.500 năm khi
chấp nhận những điều dẫn xuất
của Do Thái là sự Tiết Lộ Thiêng Liêng trực
tiếp.
[104]
Vị trí của Ai Cập trong Lịch sử, trang 200.
[105]
Quyển Những Huyền Thoại và Lư Thuyết của
Phật giáo của Spencer Hardu, trang 66.
[106]
E. Schlagintweit, quyển Phật Giáo Tây Tạng, trang 77.
[107]
Lassen (Ind. Althertumskunde, II, trang 1072) chỉ rơ là một tu
viện Phật giáo được dựng lên tại núi
Kailas vào năm 137 trước Thiên Chúa và Tướng
Cunningham nói rằng c̣n có thể xưa hơn nữa.
[108]
Quyển Phật giáo Trung Quốc, trang 87 của giáo sĩ
J.Edkins.
[109]
Xem Những bài diễn thuyết của Max Muller chẳng
hạn.
[110]
Sách đă dẫn, trang 118.
[111]
Sách đă dẫn trang 318.
[112]
Những người nước ngoài.
[113]
Quyển Những cuộc khảo sát về Á Châu, I, trang
272.
[114]
Xem Max Muller sách đă dẫn, trang 288 và tiếp theo.
Điều này liên quan tới sự ngụy tạo khéo léo
bằng những tờ lá buông được ghép vào những
bản thảo cũ của kinh Purana, và được
viết rất đúng
bằng tiếng Bắc Phạn cổ truyền
về tất cả những điều mà các vị
học giả ở Ấn Độ đă nghe Đại
Tá Wilford nói về Adam và Abraham, Noah và ba đứa con v..v..
[115]
Trích trong bài diễn thuyết của N.M. Prjevalsky.
[116]
Thế kỷ thứ 19.
[117]
Luận Ngữ (Lūn
Yū) (chương
Ia), Văn chương Trung Quốc của Schott, trang 7, do
Max Muller trích dẫn.
[118]
Cuộc đời và giáo lư của
Đức Khổng Tử của ông J.Legge, Quyển
I, trang 95.
[119]
Được viết vào năm 1887 hay 1888.
[120]
Bài diễn thuyết nói về kinh Vedas.
[121]
Quyển Nữ Thần Isis
Lộ Diện II, trang 461.
[122]
Những tiếng này trong ấn bản 1888 viết là “trong
Quyển III của tác phẩm này”.
[123]
Sách đă dẫn, trang 257.
[124]
(Bây giờ đọc là Vàrànasi).
[125]
Sách đă dẫn I , trang 1
[126]
Danh hiệu này được dùng theo ư nghĩa của
tiếng Hy Lạp Anthropos.
[127]
Đạo sĩ Jehoshua Ben Chananea (Ngài chết vào năm 72
của kỷ nguyên này) đă tuyên bố công khai rằng Ngài
đă thực thi được những “phép lạ”
nhờ có quyển kinh Sepher Yetzireth, và đă thách thức
mọi kẻ hoài nghi. Nhà triết học Fanck, khi trích
dẫn quyển kinh Talmud của người Babylon, đă
nêu tên hai nhà pháp thuật khác nữa là Đạo sĩ
Chanina và Oshoi (xem quyển Jerusalem Talmud, Sanhedrin, ch. 7 v.v.. và
quyển Die Kabbala của Franck
trang 55-56). Nhiều nhà Huyền Bí Học thời Trung
cổ, nhà Luyện kim đan và những tín đồ Do Thái
Bí giáo cũng đă tự cho là ḿnh làm được
như vậy, ngay cả nhà Pháp thuật đă quá cố
hiện đại Éliphas Lévi, cũng đă công khai xác
nhận điều đó trong sách Pháp thuật của ông.
Xem chú thích bổ túc, trang 340 (cuối quyển I – ND)
[128]
H.P.B. đă viết trong Tạp chí Vahan, tháng 12 năm 1890, rằng:…”Nếu
bạn thực sự muốn phụng sự chính nghĩa
cao quí này, ngay bây giờ, bạn phải thực hiện
như thế: v́ một vài năm nữa, những cố gắng
của bạn và của chúng tôi sẽ không có một
kết quả ǵ…Chúng ta đang ở giữa bóng tối Ai
Cập của Kali Yuga, Hắc Ám thời đại; 5.000
năm đầu tiên của chu kỳ đó đang
chuẩn bị chấm dứt trên thế gian vào giữa
năm 1897 và năm 1898, đó là chu kỳ ảm đạm
thứ nhất của nó. Trước thời đại
này, nếu chúng ta không đặt nổi Hội Theosophy
ở bên phía an toàn của trào lưu tinh thần, th́ nó
sẽ bị lôi cuốn vào vực sâu của sự suy tàn
một cách hết thuốc chữa và những lượn
sóng vô t́nh của sự lăng quên sẽ vây bổ trên
đầu vận số của nó. Thế là một
hiệp hội duy nhất có những mục tiêu, những
qui luật, những mục đích nguyên thủy đáp
ứng được từng chi tiết (nếu hoàn thành)
với những tư tưởng căn bản thâm sâu và
giấc mơ đẹp nhất T̀NH THƯƠNG HUYNH
ĐỆ ĐẠI ĐỒNG CỦA CON NGƯỜI,
của mọi vị Huấn Sư Cải Cách sẽ
bị tiêu diệt một cách ô nhục”.(Xem Chú thích bổ
túc ở trang cuối quyển I).
[129] Thiết tưởng cũng chẳng
cần nhắc độc giả nhớ rằng, giống
như từ ngữ Toàn Linh Trí (Universal Mind), ta không
được xem từ ngữ Tư Tưởng Thiêng
Liêng như là chỉ lờ mờ phác họa một
tiến tŕnh suy tư tương tự với tiến
tŕnh mà con người biểu lộ. Theo von Hartmann, “Vô
Thức” (“Unconscious”) đạt tới cơ sáng tạo
vĩ đại (hay đúng hơn là cơ tiến hóa)
“nhờ vào một minh triết bất khả tư
nghị” (theo lối nói của phái Vedanta, đó chính là Minh
Triết Tuyệt Đối). Chỉ những kẻ nào
nhận ra được sự chênh lệch một
trời một vực giữa trực giác và các tiến
tŕnh suy tư trễ nải theo phép tam đoạn luận,
mới lờ mờ h́nh dung được cái Minh Triết
Tuyệt Đối vượt hẳn cả các ư niệm
về Thời Gian và Không Gian. Thể Trí (theo như ta
biết) có thể phân giải thành ra các trạng thái ư
thức, có kỳ gian, cường độ, tính phức
tạp… rất biến thiên; xét cho cùng, tất cả
đều dựa vào cảm
giác, thế mà cảm giác lại Hăo huyền (Maya).
Vả lại, theo định đề, cảm giác
tất nhiên là hữu hạn. Thượng Đế Nhân
H́nh của thuyết Hữu Thần chính thống cũng
tri giác, suy tư và xúc động; Ngài cũng ăn năn
hối hận và “nổi trận lôi đ́nh”. Nhưng ư
niệm về các tâm trạng như vậy rơ rệt
là bao hàm định đề bất khả tư nghị
về tính ngoại tại của các kích thích, chưa
kể việc không thể gán tính chất thường
trụ cho một Đấng có các cảm xúc dao
động theo các biến cố diễn ra trong các thế
giới mà Ngài chưởng quản. Như vậy, các quan
điểm cho rằng một Thượng Đế Nhân
H́nh có tính cách thường trụ và vô hạn, thật là
phi tâm lư và tệ hơn nữa, phi triết lư.
[130]
Trong Cratylus, Plato đă tỏ ra là một Điểm
đạo đồ khi bảo rằng Theos có từ nguyên
là Theein (di chuyển, vận hành), ấy là v́ các nhà thiên
văn học đầu tiên quan sát chuyển động
của các thiên thể, đă gọi các hành tinh là Theoi (
[131]
Các nhà duy danh (nominalists), cứ cải lư với Berkeley
rằng “không thể… h́nh dung được ư niệm
trừu tượng về các chuyển động tách
biệt với vật thể đang chuyển động
(Các Nguyên Lư của Kiến Thức Nhân Loại, phần
Dẫn nhập, trang 10), có thể chất vấn như
sau: Cái vật thể tạo ra chuyển động ấy
là cái ǵ vậy? Nó có phải là một bản chất không?
Vậy là bạn tin vào một Thượng Đế Nhân
H́nh Hay sao? v..v… Điều này sẽ được
giải đáp sau, trong khi chờ đợi, ta cứ
việc chủ trương thuyết Duy Niệm (Con
ceptionalists) chống lại các quan điểm duy vật
về thuyết Duy Thực (Realism) và thuyết Duy Danh
(Nominalism) của Roscelini. Edward Clodd. một trong những
người nhiệt thành ủng hộ nó nhất, đă
cho rằng: “Liệu khoa học có tiết lộ
điều ǵ lung lạc hoặc đối nghịch
với những lư thuyết cổ truyền bao hàm tinh hoa
của mọi tôn giáo quá khứ, hiện tại và
tương lai (hành vi quang minh chính đại, mở ḷng
từ bi, sùng kính Thượng Đế) chăng?” Ta
sẽ đồng ư ngay nếu từ ngữ Thượng
Đế không hàm ư là thuyết thần nhân đồng h́nh
thô thiển (nó vẫn là phần căn cốt của
thần học hiện hành), mà lại là quan niệm
biểu tượng về cái vốn là Sự Sống và
Chuyển Động của Vũ Trụ. Nếu biết
được tŕnh tự vật chất của nó, th́ ta
cũng sẽ biết được thời gian quá
khứ, hiện tại và vị lai khi các hiện
tượng lần lượt tiếp diễn. Nếu
biết được tŕnh tự đạo đức
của nó th́ ta sẽ biết được những ǵ
đă, đang và sẽ diễn ra trong thần thức con
người. (Xem Khoa Học và Xúc Cảm một bài
thuyết pháp được giảng dạy tại
Tiểu giáo đường
[132]
Trong khi trích dẫn, H.P.B. đă sửa đổi nhiều
từ ngữ trong nguyên bản của tác phẩm Nữ
Thần Isis Lộ Diện; chúng tôi đă theo sát tất
cả các điều này. Xem chú thích cuối trang 57,
Quyển III, ấn bản 1897 và Quyển V, ấn bản 1938
hiện nay.
[133]
Nữ Thần Isis Lộ Diện, II, trang 264 – 265. Xem thêm
Ngày và Đêm của Brahma. Phần II, Tiết 7.
[134]
Rig Veda
[135]
Các nhà toán học Tây phương và một vài tín đồ
Do Thái Bí giáo Mỹ cho ta biết rằng trong Thánh kinh Kabalah,
“trị số của danh xưng Jehovah chính là trị
số của đường kính của một ṿng tṛn”.
Nếu thêm vào điều này sự kiện “Jehovah là
Sephiroth thứ ba, Binah, một từ ngữ âm tính”, th́ ta
sẽ có ch́a khóa để giải bí nhiệm. Nhờ vào
một vài phép biến đổi Do Thái Bí giáo, danh xưng
này (vốn bán thư bán hùng trong các chương đầu
tiên của Sáng Thế Kư) biến ra hoàn toàn dương tính,
duy Can và sùng bái sinh thực khí (cainite and phallic). Việc
chọn một thần linh trong nhóm chư thần ngoại
đạo, biến nó thành một Thần linh quốc gia
chuyên biệt, tôn xưng nó là “Độc Sinh Thần”, “Vô
Thượng Thần”, rồi tuyên bố tục sùng bái này
có tính cách độc thần, không hề biến nó ra thành
nguyên khí duy nhất có “Tính cách đơn nhất không
thể biến phân, thay đổi hoặc tạo ra”,
đặc biệt trong trường hợp một dâm
thần, như Jehovah nay đă bị lộ tẩy.
[136]
Xem tác phẩm gợi ư “Cội nguồn các Số
đỏ” trong đó tác giả giải thích ư nghĩa
thực của từ Sacr’, vốn phát sinh ra “linh thiêng”,
“phép bí tích”, những từ giờ đây đâm ra
đồng nghĩa với thánh thiện, mặc dù
thuần túy sùng bái sinh thực khí [ H.P.B. tham khảo
“Cội nguồn các Số đỏ” theo một bản
thảo trong đó có ghi chép: “Tôi, Ralston Skinner, sẽ gửi
bản thảo nguyên tác này cho bà Blavatsky ở Ostend ngày 10
tháng 1 năm 1887]
[137]
Māndūkya Upanishad, I, trang 28.
[138] Bodhimur, Quyển II.
[139]
Xem Vedanta Sara của Thiếu Tá G.A.Jacob; và xem thêm Châm ngôn
của Shandilya, bản dịch của Cowel, trang 42.
[140]
Aitareya Upanishad.
[141]
Tuy nhiên, các nhà Đông phương học theo Thiên Chúa giáo
đầy thành kiến và khá cuồng tín, lại muốn
chứng tỏ rằng điều này hoàn toàn là thuyết
vô thần. Để chứng tỏ điều này, ta
cứ việc so sánh Vedanta Sara của Thiếu Tá Jacob.
Thế nhưng cổ nhân (chẳng hạn như Lucretius
trong tác phẩm De Rerum Natura, II, 646-647) đă lặp lại
tư tưởng đó như sau (phỏng dịch): “
[142]
Lẽ ra th́ chính tôn danh của hai thần linh chính yếu
(Brahma và Vishnu) cũng đă phải gợi ra ư nghĩa
nội môn của chúng từ lâu rồi. Một số
người cho rằng Brahman hay Brahm có từ nguyên là Brih
(phát triển, tăng trưởng) (xem Tạp chí Calcutta,
quyển lxvi, trang 14); c̣n Vishnu có từ nguyên là Vish (thấm
nhuần, thấm nhập vào bản chất của bản
thể; như thế Brahma-Vishnu chính là Không Gian vô cực,
trong đó chư Thiên, chư Thánh Hiền và chư Bàn
Cổ, cũng như vạn hữu trong Thế giới
này, chỉ là các Mănh lực.
[143]
Xem bài tường thuật của Đức Bàn Cổ
về việc Brahma phân thân thành ra nam nữ (nữ là Vach,
Ngài tạo ra Virag trong Vach) và so sánh điều này với
nội môn bí giáo trong các Chương II,III và IV của Sáng
Thế Kư.
[144]
Vào cuối thế kỷ này, Huyền bí học thật là
“tùm lum” (“in the air”). Trong số nhiều tác phẩm mới
được xuất bản gần đây, chúng tôi xin
đặc biệt giới thiệu với các môn sinh
Huyền bí học lư thuyết (họ ắt không dám phiêu
lưu ra ngoài phạm vi cảnh giới nhân loại chuyên
biệt của ta) tác phẩm “Các Khía Cạnh Mới
của Tôn Giáo và Sự
Sống” của Henry Pratt, Bác sĩ Y khoa, Hội viên
Hội Theosophy. Nó bao hàm toàn là giáo lư nội môn và triết
học, tuy nhiên, trong các chương cuối, triết lư
đă bị hạn chế khá nhiều bởi cái có vẻ
là tinh thần duy thực nghiệm có điều kiện.
Tuy nhiên, phần tŕnh bày Không Gian là “Nguyên Nhân Bất Khả
Tri” thật đáng trích dẫn.
“Cái
điều bất khả tri này, vốn được xem
như và đồng nhất hóa với hiện thân bản
sơ của nhất nguyên đơn thuần, lại vô
h́nh, vô ảnh [dĩ nhiên trên đơn vị không gian
trừu tượng]; và v́ thế nên nó thật là bất
khả tư nghị. Tính chất bất khả tư
nghị này đă khiến người ta giả sử
một cách sai lầm rằng nó chỉ là hư không
tuyệt đối, ta cũng phải thừa nhận
rằng hoặc là nó tự sinh tự tại, vô biên vĩnh
cửu, hoặc là nó đă có một nguyên nhân bản sơ
ở bên ngoài, đằng sau và vượt quá nó.
Thế
nhưng, nếu ta có thể t́m ra và xác định
được một nguyên nhân như vậy, th́
điều này cũng chỉ đưa đến việc
gán thêm các thuộc tính khác cho không gian, nghĩa là chỉ giúp
ta tiến thêm một bước nữa trong công cuộc
truy nguyên thiên vạn gian nan, mà chẳng hề soi sáng cho
vấn đề nguyên nhân nhân bản sơ”.(Sách đă
dẫn, trang 4 – 5).
Đây chính
là công tác của những kẻ tin tưởng vào một
Đấng Sáng Tạo nhân h́nh, một Thượng
Đế ngoại vũ trụ thay v́ một Thượng
Đế nội vũ trụ. Nhiều đề tài – có
thể nói là hầu hết - của Bác sĩ Pratt chính là các
ư niệm và lư thuyết cổ truyền của Do Thái Bí giáo
được ông tŕnh bày dưới một h́nh thức
hoàn toàn mới lạ (thật vậy, đó là các khía
cạnh của Thiên Nhiên Huyền Bí). Tuy nhiên, cũng như
nguyên nhân bản sơ bất khả tri, việc xem Không
Gian như là một Nhất Nguyên Bản Thể (Nguồn
Sống) lại là giáo điều xưa cũ nhất
của Huyền Bí học, nó có nguồn gốc cả ngàn
năm xưa hơn Hậu Thiên Khí (Pater-Aether) bản sơ
của người Hy Lạp và La Tinh. “Thần Lực và
Vật Chất, được xem như các Mănh Lực
của Không Gian, bất khả phân ly, và tiết lộ
những ǵ bất khả tri”, cũng y như vậy. Trong
triết học Aryan, ta thấy chúng đều
được nhân cách hóa thành ra Vishvakarman, Indra, Vishnu
v.v…Thế mà, trong tác phẩm nêu trên, chúng được
tŕnh bày với ư nghĩa triết học thâm sâu dưới
nhiều khía cạnh khác thường.
[145]
Mulaprakriti gồm hai chữ
Mula nghĩa là cội rễ và prakriti nghĩa là bản tính.
Mulaprakriti nghĩa là chất khí đầu tiên chưa
biểu lộ, nhà Luyện kim đan phương Tây
gọi nó là “Đất của Adam”. Trái với thế
giới vật chất biểu lộ, từ ngữ
Mulaprakriti được các tín đồ phái Phệ Đàn
Đà áp dụng cho Thái Cực Thượng Đế
(Parabrahman). Cũng như vạn vật trong vũ trụ,
vật chất có tính lưỡng phân trong giáo lư nội môn.
Trên cương vị là Mulaprakriti, nó c̣n chưa biến phân
và vĩnh cửu, trên cương vị là Vyakta (đă
biểu lộ), nó bèn biến phân và bị khống chế
(theo Shvetashvatara Upanishad, I, 8 và Devi Bhagavata Purana). Đề
cập tới Hỗn Nguyên Khí (Mulaprakriti), tác giả
của Bốn bài thuyết tŕnh về Chí Tôn Ca đă cho
rằng: “Theo quan điểm của Thiên Đạo [the
Logos’], Thái Cực Thượng Đế (Parabrahman)
dường như là Hỗn Nguyên Khí… Dĩ nhiên, Hỗn
Nguyên Khí này có tính cách vật chất đối với nó
cũng như bất kỳ vật thể nào có tính cách
vật chất đối với chúng ta… Thái Cực
Thượng Đế là một thực tại tuyệt
đối và không bị khống chế, c̣n Hỗn Nguyên
Khí là một loại bức màn che trên đó. (Tạp Chí
Theosophist, VIII, tháng 2, 3, 4 năm 1887) [Xem trang 14, Triết Lư
Chí Tôn Ca, ấn bản Adyar lần thứ ba, năm 1931,
gồm các bài thuyết tŕnh này xuất bản thành sách].
[146]
Vốn xem mọi vật hữu hạn là Maya (tức hăo
huyền của vô minh), Nội môn bí giáo ắt cũng
phải quan niệm như vậy về mọi hành tinh và
vật thể nội Vũ Trụ, xét v́ nó có tổ
chức (cho nên mới hữu hạn). Do đó, mệnh
đề đầu tiên của câu “nó tiến từ ngoài
vào trong” ám chỉ buổi ban sơ của Chu Kỳ Khai
Nguyên (tức sự tái tiến hóa vĩ đại sau
một trong các chu kỳ tan ră hoàn toàn của mọi hợp
thể trong Thiên Nhiên - từ một hành tinh tới một
nguyên tử - thành ra bản thể, hoặc yếu tố
cùng cực). C̣n mệnh đề thứ nh́ nhằm nói
tới Chu Kỳ Khai Nguyên từng phần hay cục
bộ, đó có thể là
[147]
Ở đây ta có ư nói tới
một “trung tâm” năng lượng hoặc một tiêu
điểm vũ trụ. Khi cái gọi là “sự sáng
tạo” hoặc sự tạo lập một hành tinh đă
được hoàn thành bởi các loại lực mà các nhà
Huyền bí học gọi là SỰ SỐNG và khoa học
gọi là “năng lượng”, th́ bấy giờ tiến
tŕnh sẽ tiếp diễn từ trong ra ngoài; người
ta bảo rằng mọi nguyên tử đều hàm súc
năng lượng sáng tạo của linh khí. Sau một chu
kỳ Hỗn Nguyên Tuyệt Đối, khi vật liệu
tiên thiên (pre-existing material) chỉ gồm có một Hành DUY
NHẤT (ONE Element) và LINH KHÍ (the BREATH) ở khắp nơi,
Linh Khí sẽ tác dụng từ ngoài vào trong. Trong khi đó,
sau một Chu Kỳ Hỗn Nguyên thứ yếu, khi vạn
vật vẫn ở trong nguyên trạng - một t́nh
trạng đông lạnh (tạm gọi như vậy)
giống như mặt trăng – th́ lúc Chu Kỳ Khai Nguyên
bắt đầu ló dạng, các hành tinh sẽ bắt
đầu phục sinh từ trong ra ngoài.
[148]
Trong các chu kỳ tiến hóa của các ư niệm, kỳ
diệu thay chúng ta lại thấy phép suy lư hiện
đại phản ánh biết bao nhiêu là tư tưởng
cổ truyền. Khi viết một đoạn nào đó
trong Các Nguyên Lư Bản Sơ (First Principles)(trang 482), liệu
ông Herbert Spencer có đọc và nghiên cứu các triết gia
Cổ Ấn Độ chăng? Hay là chính một tia
chớp lóe độc lập của tri giác nội tâm
đă khiến ông phát biểu nửa đúng nửa sai
như sau: “chuyển động cũng như là vật
chất vốn bất tăng, bất giảm (?), h́nh
như là khi sự biến thiên của sự phân bố
vật chất mà chuyển động tạo ra, đă
đạt tới một giới hạn theo bất cứ
hướng di chuyển (?) nào, th́ chuyển động
bất hoại như vậy cần phải
được phân bố ngược lại. Xét theo
bề ngoài, các lực hút và đẩy cộng tồn
của vũ trụ (ta thấy là chúng cần có tiết
điệu nhịp nhàng trong mọi biến thiên nhỏ
nhặt khắp vũ trụ) cũng cần phải có
tiết điệu nhịp nhàng trong toàn bộ các biến
thiên (nay chúng tạo ra một vô lượng thời trong
đó các hấp lực ưu thắng, gây ra t́nh trạng
vũ trụ qui tâm, và rồi một vô lượng
thời trong đó các lực đẩy ưu thắng gây
ra t́nh trạng vũ trụ ly tâm); đó là các kỷ nguyên
luân chuyển tiến hóa phát triển rồi lại qui
nguyên”.
[149]
Cho dù vật lư học có tŕnh bày quan điểm của ḿnh
về vấn đề này ra sao đi chăng nữa,
Huyền bí học cũng đă giảng dạy từ
biết bao lâu nay xét về mặt vũ trụ, Tiên Thiên Khi
(Akasha) (Dĩ Thái là dạng thô trược nhất của
nó), Nguyên khí vũ trụ thứ năm (nó tương
ứng với và sinh ra tâm trí của con người) là
một chất quang huy, nguội lạnh, thấu nhiệt,
mềm dẻo, có bản chất hồng trần sáng
tạo, tương hệ trong các khía cạnh và phần tử
thô trược nhất, có các nguyên khí thượng
đẳng bất di dịch. Trong trạng thái sáng tạo,
nó được gọi là Phó Căn (Sub-Root); khi phối
hợp với nhiệt quang huy, nó “làm phục sinh các
thế giới đă bị diệt vong”. Trong trạng thái
thượng đẳng, đó là Linh Hồn Vũ Trụ,
trong trạng thái hạ đẳng, đó là ĐẤNG
HỦY DIỆT (The DESTROYER).
[150]
Giả thuyết, 1675
[151] Trong bản thảo 1886 là “bất
khả xác định” (indefinable); “bất khả
thuyết” (unpronounceable).
[152]
“Đầu tiên” trên đây có nghĩa là “sinh ra trước
nhất”, là hạng nhất trong không gian, trong thời gian
và trong hàng ngũ”, nghĩa là cái ǵ có giới hạn và
nhất định. Hễ “đầu tiên” th́ không thể
Tuyệt Đối v́ nó là
một sự biểu lộ. Do đó, Huyền bí học
Đông phương gọi Tổng Thể Trừu
Tượng là “Nguyên Nhân Bản Sơ Duy Nhất”, Cội
Nguồn Bản Sơ và chỉ dùng từ ngữ “Nguyên Nhân
Bản Lai” để chỉ Thiên Đạo (theo nghĩa mà
Plato gán cho từ ngữ này).
[153]
Xem Bốn bài thuyết tŕnh tuyệt diệu của Subba Row
bàn về Chí Tôn ca đăng trong Tạp chí Theosophist năm
1887.(Xem thêm Triết lư của Chí Tôn Ca, trang 11 – 14).
[154]
Thần học Thiên Chúa giáo gọi các Ngài là Tổng Thiên
Thần (Archangels), Seraphs v..v..
[155]
Trong ấn bản năm 1893 và trong bản thảo năm 1886
là : Tuyệt đối tính
(Absoluteness).
[156]
[Không được lẫn lộn Ba Ngôi Thượng
Đế nội tâm này với Ba Ngôi Thượng
Đế ngoại cảnh biểu lộ, khi Thượng
Đế nội tâm Ngôi Ba biến thành Thượng
Đế Sáng Tạo ngoại cảnh Ngôi Một; Toàn Linh
Trí (Universal Mind, Mahat) làm cho vạn vật thấm nhuần
Sự Thông Tuệ. Xem Tâm Thức Học của Annie Besant,
Tiết nói về các Căn Nguyên]
[157]
Chân Thần (Monad) (Lưỡng Vị Nhất Thể - the
Two in one) trong chu kỳ lâm phàm được gọi là “Hành
giả” (“Pilgrim”). Đó là nguyên
khí Duy Nhất có tính cách bất tử và vĩnh
cửu của con người, nó là một phần bất
khả phân ly của Tổng thể viên măn (Tinh Thần
Vũ Trụ), tổng thể này xạ ra nó và hấp
thụ nó vào lúc kết liễu chu kỳ. Khi ta bảo
rằng nó từ Tinh Thần Duy Nhất xạ ra, ta đă
phải tạm thời dùng một lối diễn
đạt vụng về và thiếu chính xác. V́ Anh ngữ
không có từ ngữ diễn đạt thoả đáng. Các
tín đồ phái Vedanta gọi nó là Sutratma (Hồn Dây –
Thread- Soul) nhưng họ giải thích hơi khác với các
nhà Huyền bí học. Tuy nhiên, ta xin dành cho các tín đồ
phái Vedanta giải thích xem hai bên khác nhau như thế nào.
[158]
Xem Quyển II, Phần II, Ngày và Đêm của Brahma.
[159] Xem quyển II, Phần 3, Tiết 14, Chư Thần Linh, Chơn
Thần và Nguyên Tử.
[160]
Trong các Đại Chu Kỳ Qui Nguyên Vũ Trụ (hoặc
thậm chí cả các Chu Kỳ Qui Nguyên Thái dương
hệ nữa), phần vẫn c̣n nguyên trạng không
phải là các cơ thể vật chất, lại càng không
phải là các nguyên khí tâm linh, mà là các “h́nh ảnh” dĩ thái
hoặc tiên thiên khí. Nhưng trong các tiểu chu kỳ
hỗn nguyên, một khi “Màn Đêm” buông xuống, các hành tinh
vẫn c̣n nguyên vẹn, mặc dù đă chết, chẳng
khác nào một con thú khổng lồ, bị chôn vùi
dưới lớp băng ở cực, vẫn c̣n y nguyên
qua bao nhiêu thời đại.
[161]
Ba vị ấy là Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và
Đức Chúa Thánh Thần –LND.
[162]
Spencer – cũng như Schopenhauer
và Von Hatmann, ông chỉ phản ánh một khía cạnh
của các triết gia nội môn thời xưa, và v́
thế đă dẫn độc giả tới bên bờ
quạnh hiu đầy sự tuyệt vọng bất
khả tri – đă kính cẩn phát biểu một đại
bí nhiệm như sau: “Cái vốn bất tăng bất
giảm, nhưng thiên h́nh vạn trạng trong
Vũ Trụ biểu lộ ra trước mắt
chúng ta, là một quyền năng bất khả tri mà ta
bắt buộc phải thừa nhận là vô biên và vô
thuỷ vô chung”. Chỉ có thần học mới dám thăm
ḍ vô cực và vén màn bí mật của cái Bất khả tri
và sâu thẳm, c̣n khoa học và triết học th́ không bao
giờ dám.
[163]
Eka = một, Chatur = bốn, Tri = ba, Sapta = bảy; Tridasha: tri
= ba x dasha = (mười) ba chục hay một đám
đông.
[164]
Trong kỳ xuất bản năm 1888, được
gọi là Đấng Cao Cả (Lord).
[165]
Trong bản thảo viết tay năm 1886, là: “Cái thứ
nhất là cái thứ hai”. Trong ấn bản năm 1888 là:
“Cái thứ nhất bây giờ là cái thứ hai”.
[166]
Hành Tinh thứ Tư.
[167]
Ở nguyên bản tiếng Anh, trong kỳ xuất bản
năm 1962, chữ “I” được dùng. Trong bản
thảo viết tay năm 1886 và kỳ xuất bản
năm 1888 “Me” được dùng.
[168]
Bhumi là Trái Đất.
[169]
Trong nguyên bản tiếng Anh, ấn bản năm 1962
viết là “Beads”, trong bản thảo viết tay năm 1886
là chữ “Pearls” và trong ấn bản năm 1888 là chữ
“Jewels”.
[170]
Những ĐOẠN THÁNH KINH nơi đây được
in giống như trong bản thảo viết tay năm 1886.
Người ta không sửa lại chính tả và dấu
chấm câu.
[171]
Manushya.
[172]
Trong kinh Vishnu Purana, Quyển II, chươngVIII, có nói:
“Bất tử nghĩa là sống đến cuối
Đại Kiếp”; và dịch giả Wilson có ghi chú ở
cuối trang: “Theo kinh Phệ Đà
th́ đó là tất cả những ǵ mà ta cần
hiểu về sự bất tử [hay trường
tồn] của các Thần Minh: các Ngài chết vào
đoạn chót khi vũ trụ tan ră [hay Pralaya]”. Và
triết lư Bí Truyền nói: “Các Ngài không chết, nhưng
bị thu hút trở về”.
[173]
Ah-Hi: các Đấng Thiêng Liêng (Celestial Beings).
[174]
Và do đó mà biểu lộ được nó.
[175]
Elohim: thần lực sáng tạo trong vũ trụ. LND.
[176]
Nirvana: Niết Bàn. Trung Hoa gọi là Nippang; Miến
Điện gọi là Neibban; Ấn Độ gọi là
Moksha.
[177]
Nidana (Nguyên nhân tối cao) và Maya (Ảo Tưởng).
Thập nhị nhân duyên; Tây Tạng gọi là Ten-brel Chug-nyi,
là nguyên do chính của đời sống, những phát sinh
từ một chuỗi nhân liên tiếp.
[178]
Xin đọc tác phẩm Der Buddhismus trang 97-128 của ông
Wassilief.
[179]
Danh từ “Bánh Xe” là một từ tượng trưng cho
một thế giới hay một bầu hành tinh,
điều này chứng tỏ cổ nhân đă biết
rằng Trái Đất của chúng ta là một trái cầu
xoay quanh, chứ không phải là một h́nh vuông bất
động như một số các ông Cố Đạo
đă dạy. “Bánh Xe Lớn” là trọn vẹn cái thời
gian tồn tại của chu kỳ chúng ta, hay là Đại
Thiên Kiếp (Mahakalpa), nghĩa là trọn vẹn sự xoay
chuyển của Dăy Hành Tinh riêng của chúng ta gồm
bảy hành tinh hay bảy bầu, từ lúc bắt
đầu cho đến lúc kết thúc; các “Bánh Xe Nhỏ”
có nghĩa là các Ṿng Tiến Hoá, cũng có Bảy Ṿng
Tiến Hoá.
[180]
Đó là sự toàn thiện toàn mỹ tuyệt đối,
Đại Niết Bàn, cũng là Yong - Grub.
[181]
Một cuộc Tuần Hoàn (a Round) là một chu kỳ
gồm sự tiến hoá của bảy Giống dân chính
trên một Hành Tinh. Khi một cuộc Tuần Hoàn kết
thúc, th́ đời sống được chuyển sang
một Hành Tinh khác. Bảy cuộc Tuần Hoàn làm thành
một Dăy Hành Tinh – LND.
[182]
Xin đọc tác phẩm Mani Kumbum của tác giả
Dzungarian “Quyển kinh có 10.000 Qui điều”. Xin tham
khảo cả tác phẩm DerBuddhismus của tác giả
Wassilief.
[183]
Nói một cách rơ hơn: Ta phải hoạch đắc Tâm
Thức Tự Tri (Self-Consciousness) để có thể
hiểu dược Samvriti hay “Căn nguyên của sự sai
lầm”. Paramartha là tiếng đồng nghĩa với
Svasamvedana hay là “h́nh ảnh được phản chiếu
tự t́m hiểu lấy ḿnh”. Có một sự dị
biệt trong việc giải nghĩa chữ Paramartha
giữa các môn phái Yogacharyas và các môn phái Madhyamikas (Phật
Giáo Tây Tạng); tuy nhiên, cả hai bên không bên nào giải
được cái ư nghĩa bí truyền thực sự và
đúng thực của từ ngữ đó. [Theo sát nghĩa
th́ Sva là tự (self), Samvedanasam và ngữ căn vid – nghĩa
là biết; tóm lại đó là sự hiểu biết
trọn vẹn về cái Ngă]. Xin xem câu kinh số 9 (Shloka 9).
[184]
Dangma: Linh Hồn đă được tinh luyện – LND.
[185]
Ở Ấn Độ, đó là “Con Mắt của Shiva”, nhưng
ở bên kia dăy núi vĩ đại Hy Mă Lạp Sơn, nói
theo danh từ bí giáo th́ đó là “Con Mắt Giác Ngộ của
Dangma”. Dangma nghĩa là một linh hồn đă được
tinh luyện, một người đă trở thành một Đấng Jivanmoukta (Đấng
đă giải thoát, LND), một vị Chân Tiên tối cao hay
một vị Mahatma. Con Mtắ Giác Ngộ của Ngài là con
mắt thiêng liêng nội tâm của nhà thấu thị, và
quan năng biểu lộ thông qua đó không phải là thần
nhăn theo ư nghĩa thông thường, nghĩa là quyền năng
có thể nh́n xa, mà là cái năng
khiếu trực giác thiêng liêng khiến ta có thể biết
một cách trực tiếp và chắc chắn. Năng khiếu
này có liên quan mật thiết đến “con mắt thứ
ba”; theo truyền thuyết thần thoại, th́ một số
giống dân có con mắt thứ ba đó.
[186]
Kinh Vishnu Purana, I, Chương II, trang 20.
[187]
Như trên, I, ii, trang 21.
[188]
Vậy mà, một người rất có thẩm quyền.
Sir Monier Williams Giáo sư dạy tiếng Bắc Phạn ở
[189]
Người ta c̣n căi rằng Sáu Darshanas hay Sáu Môn Triết Học
có mang dấu vết và chịu ảnh hưởng của Đức
Phật, v́ các môn phái này được phát sinh từ Phật
giáo hay từ giáo lư Hy Lạp! (Xin đọc tác phẩm của
các ông Weber, Max Muller v..v.. ).Chúng tôi thiết tưởng ông
Colebrooke, “người có thẩm quyền tối cao” về
các vấn đề này đă giải quyết câu chuyện
từ lâu, khi chứng minh rằng: “Trong trường hợp
này những người Ấn Độ là những bậc
thầy, chớ không phải là học tṛ.
[190]
Linh Hồn, hay là Anima Mundi, nền tảng của vạn
vật.
[191]
Đời Sống Tâm Thức Tuyệt Đối, nó
cũng là Hư Vô Tuyệt Đối.
[192]
Triết học kinh viện chủ trương rằng phải
phân tách ḷng tín ngưỡng hay tôn giáo khỏi lư trí và khoa học.
LND.
[193]
“Paramarthasatya” là tự tri thức (self-consciousness), Svasam-vedana,
hay là sự phản chiếu tự phân giải – do Parama
nghĩa là tối cao, và artha nghĩa là thông hiểu – satya
nghĩa là thực thể chân như tuyệt đối, là
bản tính. Theo tiếng Tây Tạng th́ Paramarthasatya là
Kundzab-chi-denpa, “cái bề ngoài phát sinh ra ảo tưởng”.
[Samvriti – xin xem Quyển IV, phần Ngữ Giải].
[194]
Tác phẩm Aphorisms of the Bodhisattvas.
[195]
Đức Aryasanga là một vị Chân Tiên ở thời
kỳ tiền Cơ Đốc và là vị sáng lập
một Trường Bí Giáo Phật Giáo, mặc dù ông Csoma de
Koros không biết v́ lư do nào đă nói rằng Ngài sống vào
thế kỷ thứ bảy sau Thiên Chúa. Có người khác
nói rằng Aryasanga đă sống trong những thế
kỷ đầu tiên của Tây lịch kỷ nguyên, có
lẽ nhà học giả Hung Ga Ry này đă lầm về hai
vị đó.
[196]
Kinh Vishnu Purana, I, ii, trang 20 ,
những ghi chú cuối trang
[197]
Kinh Vishnu Purana, do Wilson, I, Chương II, trang 21; trích ở
đoạn kinh Vayu Purana.
[198]
Tôi muốn nói đó là sự tự tri (self-consciousness) có
hạn định. V́ biết làm cách nào để Cái
Tuyệt Đối có thể biết được
sự tự tri có hạn định ấy, nếu không
lấy tư cách là một trạng thái đơn thuần
mà thôi? Cái trạng thái tương tự và cao nhất mà ta
biết được, đó là tâm thức con
người.
[199]
Xin đọc tác phẩm Handbook of the History of Philosophy (Khái
miệm về lịch sử của Triết Học) do
Schwegler viết và
[200]
Mahat: Thượng Đế Ngôi Ba, Tư Tưởng
của Thượng Đế trong Vũ Trụ,
Đại Trí của Vũ Trụ (Toàn Linh Trí) LND.
[201]
Vajrapani hay Vajradhara nghĩa là kẻ giữ kim cương;
theo tiếng Tây Tạng th́ đó là Dorje-sempa, sempa nghĩa là
linh hồn, cái tính chất cứng rắn của nó liên quan
đến sự bất hư hoại từ nay trở
đi. Lời giảng giải về Anupadaka trong tác
phẩm Kala Chakra, lời giảng giải đầu tiên
trong đoạn Gyut [Guud] của kinh Kanjur th́ bán bí truyền
(bí truyền một nửa). Lời giảng giải này
đă dẫn dắt các học giả khảo cứu văn
hoá Đông phương đến những suy luận sai lầm
về các vị Thiền Định Phật (Dhyani-Buddhas) và
các hoá thân của các Ngài trên trái đất là các vị Phật
Sống (Manushi-Buddhas). Cái nguyên lư thực sự sẽ được
nói đến trong các sách sau một cách xa xôi và được
giải nghĩa đầy đủ hơn trong một vị
trí riêng cho nó.
[202]
Nơi đây xin trích lại một đoạn văn của
ông Hegel, ông này và ông Schelling, trên thực tế, đă chịu
nhận cái quan niệm Phiếm Thần về các Đấng
Hoá Thân của Thượng Đế theo chu kỳ (những
kiếp đặc biệt của Tinh Thần Thế Gian
đầu thai vào nơi con người, như đă được
chứng kiến trong trường hợp của tất cả
các nhân vật cao cả cải cách tôn giáo): “Yếu tính của
con người là tinh thần…y chỉ cần lột bỏ
cái tính cách hạn định của y và hàng phục sự
tự tri thuần khiết là y hoạch đắc được
chân lư ngay. Con người có bản chất của Đức
Christ chứa đựng nơi ḿnh sự hợp nhất
giữa Thượng Đế với con người [sự
đồng nhất của Tâm Thức cá nhân với Đại
Tâm Thức của vũ trụ như các môn phái Vedanta và một
số các môn phái Advaita đă thường truyền dạy]
khi y chết và trong lịch sử của y, y thường
tŕnh bày câu chuyện hay cái lai lịch thường tồn của
Tinh Thần - một sự diễn tiến mà bất cứ
người nào cũng phải hoàn thành để có thể
tồn tại trên cương vị là một Tinh Thần
- Tác phẩm Philosophy of History (Triết lư của lịch sử)
bản dịch ra Anh văn của ông Sibree, trang 340.
[203]
Cảnh giới của các vị Đế Quân và Thiền
Định Phật.
[204]
Rupa (hữu h́nh).
[205]
Arupa (vô h́nh)
[206]
“Mẹ của các vị Thần Minh”, Aditi hay là Không Gian
trong Vũ Trụ. Trong kinh Zohar, người ta gọi Ngài
là Sephira, Mẹ của các vị Sephiroth và là Shekinah, trong
h́nh hài nguyên thuỷ.
[207]
Điều toàn thiện toàn mỹ - LND.
[208]
Do đó, Hư Vô là “THỰC THỂ TUYỆT ĐỐI”
theo Triết Lư Bí Truyền. Theo nguyên lư của triết lư này,
cả đến Adi-Buddha (Sự Minh Triết Đầu Tiên
hay Cơ Bản) nếu Hữu H́nh th́ cũng chỉ là Ảo
Tưởng, là Maya theo một ư nghĩa nào đó, và tất
cả các vị thần minh, kể cả Brahma đều
phải chết khi một đời của Brahma (Age of
Brahma) chấm dứt. Điều trừu tượng được
gọi là Parabrahma - hoặc chúng ta gọi nó là Ain Soph, hay bắt
chước ông Herbert Spencer mà gọi nó là điều Bất
Khả Tri (The Unknowable) – là Thực Tại Tuyệt Đối
Duy Nhất. Đời sống độc nhất vô nhị
là Advaita, “Vô nhị”; mọi thứ c̣n lại đều là
ảo tưởng; Triết lư Advaita dạy như thế đó.
[209]
Sự di chuyển.
[210]
Do ông
[211]
Đó là những người thờ Đức Vishnu,
Thượng Đế Ngôi Hai trong Ấn Độ giáo.
Họ là một chi nhánh của môn phái Vedana - LND
[212]
Tuyệt Đối, Thượng Đế Vô H́nh LND.
[213]
Thái Dương Thượng Đế (hữu h́nh) LND.
[214]
Hoa sen Mẹ (Mother-Lotus).
[215]
Đó là một từ ngữ không nên thơ chút nào nhưng
rất đúng.
[216]
Xin xem Quyển 2, phần 2, Mục 3, Nguyên Chất Cơ Bản
và Tư Tưởng của Thượng Đế.
[217]
Xin đọc The Heathen Religion (Ngoại giáo) của ông Gross,
trang 195.
[218]
Alaya: Linh hồn của thế gian – LND.
[219]
Tác phẩm Precepts for Yoga (Giới luật của pháp môn
Yoga).
[220]
Một người theo môn phái Vedanta của triết lư
Vishishtad -vaita (tôn thờ Đức Vishnu, Thượng Đế
Ngôi Hai) sẽ nói rằng: tuy là Thực Thể độc lập
duy nhất, Parabrahman vẫn bất khả chia ly với
Thượng Đế Ba Ngôi; Ngài là Ba, “Parabrahman, Chit và
Achit”; Chit và Achit là hai Thực Thể hỗ tương, không
thể tồn tại riêng rẽ, hay nói một cách khác rơ hơn,
Parabrahman là NGUYÊN CHẤT (SUBSTANCE)- bất biến, trường
tồn và bất khả tri – và Chit (Atma) cùng Achit (Anatma) là những
đặc tính của Parabrahman, cũng giống như h́nh
thể và màu sắc là đặc tính của mọi vật.
Hai cái này là lớp áo hay h́nh hài, hay là những cục diện
(sharira) của Parabrahman. Nhưng một nhà Huyền bí học
có thể t́m thấy rất nhiều điều để
đưa ra, ngơ hầu chống lại với lời tuyên
bố này, và cả người theo môn phái Advaita Vedanta th́ cũng
làm như thế được.
[221]
Đó là một h́nh khối rất phức tạp nhưng
đều đặn do các khối tứ diện
đều nhau phối hợp làm thành – LND.
[222]
Đó là Jod-Hé-Vau-Hé – LND.
[223]
Đó là Thực Thể Tuyệt Đối, Thượng
Đế - LND.
[224]
Bảy Người Con.
[225]
Xin xem Phần 2, Mục 12, Thần Thống của các
vị Thượng Đế Sáng tạo (The Theogony of the
Creative Gods).
[226]
“Yu” nghĩa là đời sống.
[227]
Sat: Đời Sống Tối Cao và Trừu Tượng.
LND
[228]
Xem Quyển 2, Phần 2, Tiết 3, Chất Liệu Nguyên
Thuỷ và Tư Tưởng Thượng Đế.
[229]
Cùng một lúc (simultaneously).
[230]
Di chuyển (moves).
[231]
Peripatetics: học phái Tiêu Dao, môn đệ của Aristote,
vừa giảng triết lư vừa đi du ngoạn chỗ
này chỗ kia . LND.
[232]
Không trường tồn v́ nó hiện ra theo chu kỳ
(periodical).
[233]
Xin xem Phần 2, Tiết 10, Sự thờ phụng Cây,
Rắn và Cá Sấu.
[234]
Xin đọc Vishnu Purana, do ông
[235]
H́nh tam giác
[236]
Tứ thể (Quaternary).
[237]
Hiranyagarbha.
[238]
Đây là ba thực thể của Brahma hay Vishnu, ba Avasthas.
[239]
Điều này đúng với Con Số, nhưng không bao
giờ đúng với sự Di Chuyển. Theo Huyền Bí
học, chính sự Di Chuyển đă sản xuất ra
Thượng Đế, Huyền Âm. Thiên Đạo.
[240]
Đây là quyển chót của Kinh Tân Ước, nói về
sự vinh quang tối hậu của Cơ Đốc
giáo. LND
[241]
“Mười bốn báu vật”. Câu chuyện hay ngụ ngôn
này được ghi trong kinh Shatapatha Brahmana và các kinh sách
khác. Khoa học Huyền bí Nhật Bản của các nhà
Thần bí Phật giáo, môn phái Yamabooshi có bảy báu vật.
Về sau này chúng ta sẽ nói đến chúng.
[242]
Đền thờ tất cả các vị thần LND.
[243]
Xin xem quyển 2 và Kinh Khai Huyền (Revelation), XII.
[244]
“Nguyên thuỷ của sự Hiểu Biết là Sattva mà
Đức Shankara gọi là Antahkarana. Ngài nói: ‘Nó đă
được tinh luyện nhờ những sự hy sinh và
những tác động tinh luyện khác’. Trong kinh Katha, trang
148, Đức Shankara dịch chữ Sattva là Bồ
Đề (Buddhi)- theo ư nghĩa thông thường của
chữ đó”. (Kinh Bhagavad Gita với kinh Sanatsugatiya và Anugita
do ông Kashinath Trimbak Telang, Cao học văn chương
dịch, do ông Max Muller phát hành, trang 193). Dù các phái khác nhau gán
cho danh từ này ư nghĩa thế nào đi nữa, các sinh
viên Huyền bí học của môn phái Đức Vô
Trước (Aryasanga) dùng danh từ Sattva để chỉ
Chơn Thần nhị nguyên (Monad), hay là Atma-Buddhi, và ở
cảnh hồng trần này. Atma- Buddhi tương
đương với Parabrahman, c̣n cảnh giới cao
hơn th́ tương đương với Mulaprakriti.
[245]
Amrita, Nước
[246]
Xin xem “Kwan-Shi-Yin” (Quán Thế Âm). Người ta không thể
tiết lộ danh từ đích thật của bản
văn.
[247]
Tác phẩm Ancient Fragments (Những Đoạn Văn Cổ)
của Cory, trang 314. Xin xem những lời phụ chú trang
340.
[248]
Tác phẩm: On Rosenkranz (Nói về Đức Rosenkranz).
[249]
i, 2, 3.
[250]
Không phải vực thẳm bao phủ lên bóng tối LND.
[251]
Phúc Âm, Thánh John (Jean) i, 4.
[252]
i, 6.
[253]
Isaiah, xiv, 12.
[254]
Xin xem quyển 3 và 4.
[255]
Người Đệ Tử, Lanoo, là một sinh viên, một
người đệ tử khảo học về Bí giáo
thực hành (pratical Esotericism).
[256]
“Giờ đây, người biết Ngài là Đức Quán Thế
Âm (Kwan-Shai-Yin)” - Lời b́nh luận.
[257]
Eka là Một; Chatur là Bốn; Tri là Ba; và Sapta là Bảy.
[258]
“Tridasha” hay Ba mươi, ba lần mười, ám chỉ
những vị thần minh Phệ đà, tính cho chẵn ba
chục, hay nói đúng hơn th́ là 33 - một con số
thiêng liêng. Đó là 12 vị Adityas (thần minh coi 12 tháng
trong năm), 8 vị Vasus (thần minh coi tám hướng),
11 vị Rudras (thần minh có nhiệm vụ phá huỷ
những h́nh hài không thích hợp) và hai vị Ashvins (thần
minh điều khiển cái xe chói sáng của buổi b́nh
minh, tượng trưng cho Minh Triết thiêng liêng
được truyền dạy cho con người) -
tức là hai người con sinh đôi của Mặt
Trời và Bầu Trời (Sun và Sky). Đó là con số
cội rễ của Vạn thần miếu Ấn
Độ gồm có 33 crores (mỗi crore là 10 triệu) hay
330 triệu thần minh và nữ thần minh.
[259]
Các Tinh Tú (Stars).
[260]
Tức là Không Gian (Space).
[261]
Nguyên Tố (Element).
[262]
Không một biểu tượng có tính cách tôn giáo nào có thể
thoát khỏi cảnh đồi truỵ và cả sự chế
giễu trong thế hệ chính trị và khoa học này của
chúng ta. Tại miền
[263]
Triết lư Bí Truyền, “Minh Triết” tức “Mẹ”
của Đấng đầu tiên do Thượng
Đế sinh ra (theo một ư nghĩa th́ đó là Aditi, Vị
Thánh Mẫu bao la, Không Gian vô cùng tận với tám người
con trai của Ngài), là Đức Thánh Linh (Holy Ghost) và Đấng
Sáng Tạo ra Vạn Vật, giống như những hệ
thống giáo lư cổ xưa. “Đức Chúa Cha” (Father”) là một
sự bịa đặt măi về sau này mới có. Ở khắp
mọi nơi, Đức Thượng Đế hữu h́nh
đầu tiên là Đấng có nữ tính, Mẹ của bảy
vị Hành Tinh Thượng Đế.
[264]
Xin đọc Chiness Buddhism (Phật Giáo Trung Hoa), của Đức
Cha Joseph Edkins, ông luôn luôn đưa ra những sự việc
đúng thật, mặc dù những kết luận của ông
thường rất hay sai lầm. Xin đọc Quyển
2, Phần 2, Tiết 15 của bộ sách này nói về Đức
Quán Thế Âm (Kwan-Shai-Yin), và Đức Quan Âm (Kwan-Yin).
[265]
Osiris: Thượng Đế hữu h́nh có nam tính trong Ai
Cập giáo . LND
[266]
[267]
Horus: Vị thần thái dương (Mặt Trời)
của Ai Cập giáo . LND
[268]
Diabolos (chữ Hy Lạp); Diable (chữ Pháp); Diavolo (chữ
Ư); Teufel (chữ Đức) tất cả đều có
nghĩa là Ma Quỷ - LND.
[269]
Tức là không phải tín đồ Cơ Đốc giáo.
[271]
[Xin xem kinh Das Kaushitaki Brahmana (Bắc Phạn) do B. Lindner,
Tiến sĩ chuyên khoa, phát hành, trang 132 (năm 1887) và kinh
Rigveda Brahmanas, do Tiến Sĩ Văn chương A.
Berriedale Keith dịch, trang 511, lời ghi chú cuối trang
số 2 (năm 1920)].
[272]
Chữ “Thượng Đế, Đức Chúa Cha” đây
chính có nghĩa là cái nguyên khí cao nhất, cái thể thứ
bảy nơi Con Người và nơi Vũ Trụ. Đó
cũng là Thượng Đế hữu h́nh (Logos) của
người Hy Lạp, và Đức Avalokitshvara của các
Phật tử Bí giáo.
[273]
Xin xem tác phẩm The Divine Pymander (Đức Pymander Thánh
Thiện) do Bác Sĩ Everard dịch (năm 1650) và do ông
Hargrave Jennings tái phát hành (năm 1884) trang 8 – 9.
[274]
Do ông Fitzedward Hall cho in ra trong quyển Bibliotheca Indica, trang
16.
[275] Vishnu: Thượng Đế Ngôi Hai với thiên chức giữ ǵn Vũ Trụ.
LND.
[276]
Brahma: Thượng Đế Ngôi Ba, sáng tạo ra Vũ Trụ
LND.
[277]
Shiva: Thượng Đế Ngôi Một, có thiên trách tiêu diệt
các h́nh hài không thích hợp. LND
[278]
Tác phẩm Anugita, chương xxvi, trang 333, bản dịch
của K.T. Telang.
[279]
V́ vậy, trong khoa thần phổ (theogony) Ai Cập, Ấn
Độ có một vị Thượng Đế Ẩn Tàng
(Concealed Deity), Đấng DUY NHẤT và một vị Trời
sáng tạo ái nam ái nữ; Đức Shu là vị Trời Sáng
Tạo, và Đức Osiris dưới cái thánh thể sơ
khai đầu tiên của Ngài là vị Trời mà danh hiệu
chưa được người ta biết đến.
Xin đọc tác phẩm
[280]
THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH (BOOK OF DZYAN)
[281]
Od là ánh sáng thuần khiết ban phát cho ta sự sống hay
là ḍng từ lực; Ob là sứ giả của sự
chết mà những người phù thuỷ sử dụng,
là ḍng tà khí gớm ghiếc; Aour là sự tổng hợp
của hai thứ trên, chính là Tinh Tú Quang. Xin hỏi các nhà
ngôn ngữ học có thể nói tại sao Od - một danh
từ mà ông Reichenbach dùng để chỉ ḍng sinh khí (vital
fluid) - lại cũng là một tiếng Tây Tạng có
nghĩa là ánh sáng, sự sáng chói, sự chiếu sáng?
Chữ này cũng có nghĩa là “Bầu Trời” (“Sky”) theo
một ư nghĩa Huyền bí. Vậy th́ ngữ căn
của chữ đó là ǵ? Tiên Thiên Khí (Akasha) không phải
hoàn toàn là Dĩ Thái (Ether), Tiên Thiên Khí c̣n cao hơn Dĩ
Thái, như sau này sẽ chứng minh.
[282]
Hoán tự: cách đổi vị trí một chữ trong
một tiếng để làm thay đổi ư nghĩa và
giấu kín nghĩa chính của chữ đó, thí dụ
chữ “signe” (dấu hiệu) đổi thành “singe” (con khỉ)
.LND.
[283]
Chỗ này trong nguyên bản tiếng Anh dùng chữ
tượng h́nh, nên người dịch không đưa
chữ tượng h́nh ấy vào, v́ nghĩ rằng có
lẽ không có ai đọc được - LND
[284]
Xem Additional Notes (Những lời ghi chú thêm) ở cuối
quyển.
[285]
Những chỗ này trong nguyên bản tiếng Anh dùng chữ
tượng h́nh, nên người dịch không đưa chữ
tượng h́nh ấy vào, v́ nghĩ rằng có lẽ không có
ai đọc được.
LND.
[286]
Một lần nữa, điều này lại giống giáo lư
của ông Fichte và những người Phiếm Thần Đức
Quốc. Ông Fichte tôn thờ Đức Jesus như là một
vị Đại giáo chủ đă truyền dạy rằng
Tinh Thần con người và Tinh Thần Thượng Đế
hay cái Nguyên Lư Phổ Biến chỉ là Một (Giáo lư Nhất
Nguyên Luận). Giáo lư này rất cao siêu, chỉ nh́n nhận
Thượng Đế tuyệt đối vô h́nh và xem mọi
vật như là ảo tưởng nhất thời. Thật
khó ḷng mà t́m thấy trong khoa siêu h́nh học Tây phương
một sự suy luận nào chưa hề được
Triết lư cổ truyền Đông phương ghi nhận
từ trước. Từ ông Kant cho đến Herbert
Spencer, tất cả khoa siêu h́nh học Tây phương chỉ
là những tiếng vang bị xuyên tạc nhiều hay ít của
các giáo lư đại cương Nhị Nguyên Luận (giáo lư
chủ trương bản chất con người dị
biệt với Thượng Đế), Nhất Nguyên Luận,
Phệ Đàn Đà (môn phái Vedanta nghiên cứu về bản
thể Thượng Đế).
[287]
Xin so sánh với quyển Dictionary of Hindu Mythology (Tự điển
Thần thoại học Ấn Độ) của ông Dowson,
trang 57.
[288]
Dù giống chim này là Thiên Nga, Ngỗng hay Bồ Nông th́ đó
là điều không quan hệ, v́ nó vẫn là giống chim sống
dưới nước; giống như tinh thần, nó bơi
lội trên những ḍng nước và do đó xuất phát từ
những ḍng nước mà sinh ra những sinh vật khác.
Đó chính là ư nghĩa thực sự của cái biểu
tượng của Cấp bậc Thứ mười tám của
môn phái Hoa Hồng Thập Tự, tuy rằng sau này nó được
thi vị hoá thành h́nh mẫu tử của con chim Bồ Nông
tự xé ngực ra mà lấy máu nuôi bảy con nhỏ dại.
[289]
Cái lư do tại sao Đức Moses cấm ăn chim Bồ Nông
và Thiên Nga (kinh Tái lập giáo phái – Deuteronomy, xiv, 16,17) cho rằng
hai thứ chim này là ô trược, và chỉ cho phép ăn “loài
châu chấu trơ trụi…., ăn bọ dừa… và cào cào cùng
các con đồng loại” (Kinh Giáo Pháp Levi, xi, 22), là lư do hoàn
toàn có tính cách sinh lư và liên quan đến môn biểu tượng
học thần bí, ta chẳng nên hiểu chữ này cũng
như bất cứ chữ nào khác theo nghĩa đen; v́ cũng
giống như tất cả các chữ khác, đây là một
chữ bí truyền và nó có thể có nghĩa là “thánh thiện”
hoặc “không thánh thiện”. Đó là một tấm màn che rất
gợi h́nh liên quan đến một vài điều mê tín dị
đoan – thí dụ như dân Nga không bao giờ ăn thịt
chim bồ câu, không phải v́ nó ô trược mà v́ người
ta tin rằng Đức Thánh Linh đă hiện ra dưới
h́nh thức một con chim bồ câu. Xin đọc Quyển
2, Phần 2, Tiết 5, nói về Thượng Đế Ẩn
Tàng, những Biểu Tượng và Dấu Vết của
Ngài.
[290]
Sự Hỗn Mang (Chaos).
[291]
Đây không phải là những nhà Luyện kim đan
thời Trung Cổ, mà là những pháp sư và những
người tôn sùng Lửa, họ đă cho các người
thuộc môn phái Hoa Hồng Thập Tự hay các Triết gia
thờ lửa, những người kế nghiệp
những vị có phép thần thông, mượn tất
cả các ư niệm của họ có liên quan tới lửa,
một nguyên tố thiêng liêng và thần bí.
[292]
Tác phẩm Nữ Thần Isis Lộ Diện, Quyển I,
trang 146.
[293]
“
[294]
Purusha.
[295]
Prakriti.
[296]
I, I,
7.
[297]
Mạng lưới
[298]
Người Cha.
[299]
Cội Rễ của Vật Chất.
[300]
Các Nguyên Tố với những Uy Lực hay Trí Sáng Suốt
của chúng.
[301]
Mạng lưới.
[302]
Tác phẩm Popular Astronomy (Thiên văn học phổ thông)
trang 507-508.
[303]
American Journal of Science (Tạp chí Khoa học Hoa Kỳ) tháng 7
năm 1870.
[304]
Tác phẩm World-Life or Comparative Geology (Đời sống của
thế gian hay là môn Địa chất học đối
chiếu) do tác giả Alexander Winchell, Tiến sĩ Luật
khoa, trang 85 (1883).
[305]
Mỗi Nguyên Tử.
[306]
Vũ Trụ.
[307]
Ánh Sáng nguyên thuỷ.
[308]
Như thế có nghĩa là ngọn lửa từ một nguồn
lửa th́ không sao tắt được, và Ánh Sáng của
toàn thể Vũ Trụ có thể được châm từ
một cái đèn nhỏ mà không làm cho ngọn lửa của
đèn giảm bớt đi.
[309]
Muốn biết nhiều chi tiết khác về Fohat, xin xem
ĐOẠN THÁNH KINH 5 và những lời B́nh luận.
[310]
Kalpa là trọn cả thời gian hoạt động hay nghỉ
ngơi; Maha Kalpa hay là Đại Kiếp của Brahma (100 năm
của Brahma) là 311.040.000.000.000 năm. Mỗi năm của
Brahma có 360 ngày và 360 đêm. Mỗi ngày của Brahma là
4.320.000.000 năm. LND
[311]
Rút trong quyển Sacred Book of the East (Các Thánh thư ở
phương Đông), Chương viii, trang 80 – 81, bản dịch
của Telang.
[312]
Xem quyển 3 và 4.
[313]
Sách đă dẫn, trang 81, chú thích cuối trang.
[314]
Thánh thư Thessalonians, i, 7, 8.
[315]
Thánh truyện (Acts) ii, 3.
[316]
Khải Huyền (Apocalyse), xix, 11 và 13.
[317]
Các Thánh Thư ở phương Đông (Sacred Books of the
East), bản dịch của Telang, viii, trang 278.
[318]
Dhyan Chohans
[319]
Pitris.
[320]
Trong số học huyền linh, số 4 được tiêu
biểu bằng Tứ Linh Diệu (Tetraktys), H́nh Vuông Thiêng
Liêng hay toàn bích, là một Con Số Linh Thiêng đối với
các nhà Huyền linh học thuộc mọi quốc gia và chủng
tộc. Nó có cùng một ư nghĩa trong Bà La Môn giáo, Phật
giáo, Do Thái giáo và trong các hệ thống đếm số của
Ai Cập,
[321]
Trong kinh Kabalah, cũng chính những con số ấy, nghĩa
là 1065, là một trị số của Jehovah, v́ trị số
của ba chữ hợp thành danh xưng của Ngài – Jod, Vau
và hai lần Hé - lần lượt 10, 6, 5, tức là ba lần
bảy hay 21. Hermes dạy “Số mười là Mẹ của
Linh Hồn, v́ Sự Sống và Ánh Sáng được hợp
nhất trong đó. Ấy là v́ số một sinh ra từ
Tinh Thần, c̣n số mười sinh ra từ Vật Chất
(Hỗn Nguyên Khí, âm); đơn vị đă tạo thành số
mười, số mười đă tạo thành đơn
vị” ( Bí quyết Thánh Thư – Book of the Keys). Theo giáo sĩ
Do Thái Yogel, nhờ vào Temura (phương pháp hoán tự của
kinh Kabalah) và sự hiểu biết về 1065 (21), ta có thể
có được khoa học đại đồng thế
giới liên quan đến Vũ Trụ và các bí nhiệm của
nó. Các giáo sĩ Do Thái coi các số 10, 6, và 5 là các con số linh thiêng nhất.
(Xem ghi chú bổ túc cuối quyển).
[322]
Ta có thể cho độc giả biết rằng, nay, một
tín đồ Do Thái bí giáo người Mỹ cũng t́m ra
con số ấy đối với Elohim. Nó được
dân
[323]
Trong ấn bản năm 1888 và bản thảo năm 1886,
những điều này được tŕnh bày là: Đường
Thẳng, h́nh Tam Giác, h́nh Ngũ Giác, Đường Thẳng
thứ nh́ và h́nh Khối Vuông (Cube)
[324]
Trong ấn bản năm 1888 là Khối Vuông (Cube).
[325]
Trong ấn bản năm 1888 và bản thảo 1886, các điều
này được tŕnh bày là: một tam giác, một khối
vuông, một đường thứ nh́ và một h́nh ngũ
giác.
[326]
Ở Ai Cập, ta cũng thấy lối diễn đạt
y như vậy. Mout có nghĩa là “Mẹ” và biểu thị
tính cách mà người ta gán cho nàng trong tam nguyên (triad) của
xứ này. Nàng vừa là mẹ vừa là vợ của Ammon,
một trong các tôn danh chính yếu của vị thần linh
vốn là “chồng của mẹ ḿnh”. Người ta tôn xưng
nữ thần Mout hay Mut là “Mệnh phụ phu nhân” (“Our
Lady”), “Nữ Hoàng Thiên Giới” (“Queen of Heaven”), “Nữ Hoàng
Địa Cầu”, như vậy “nàng có cùng tôn danh với
các nữ thần mẫu nghi khác như Isis, Hathor v..v..”
(Maspero).
[327]
Trong ấn bản năm 1888 là Tinh Thần (Spirit).
[328]
Trong nội bộ các nhà Huyền linh học Đông phương
ở miền Bắc, từ ngữ này có nghĩa đen là
một cơn gió lốc. Nhưng trong trường hợp
này, đó là một từ để chỉ Chuyển Động
Vũ Trụ vĩnh viễn, không ngừng nghỉ, hoặc
đúng hơn là thần lực làm nó vận chuyển, thần
lực này được mặc nhiên chấp nhận là
Thượng Đế, nhưng không bao giờ được
định danh. Đó là Karana vĩnh cửu, Nguyên Nhân hằng
tác động. (Xem Chhandogya Upanishad, Chương 1, Tiết
XIII, V. 1 – 3. Với một ngôn
từ bí hiểm, ba câu thơ đă tŕnh bày đại
cương về toàn bộ những ǵ được tóm
tắt ở đây trong Chương I).
[329]
VI. 15, Anugita là một phần của Ashvamedha Parvan của bộ
Mahabharata. Dịch giả quyển Chí Tôn Ca (do Max Muller biên tập)
xem tác phẩm trên là tác phẩm nối tiếp Chí Tôn Ca
(Bhagavad Gita). Nó thoát khai từ một trong các Áo Nghĩa Thư
(Upanishad) cổ nhất.
[330]
Anugita, bản dịch của K.T. Telang Các Thánh Thư ở
phương Đông, trang 246 -266.
[331]
Sách đă dẫn, Chương vii, trang 267-268. Điều này
chứng tỏ rằng cũng như tất cả Hegels,
Berkeleys, Schopenhauers, Hartmanns. Herbert Spencers, xưa và nay (thậm
chí cả các nhà Vật tâm luận (Hylo-Idealists) hiện
đại nữa), các nhà siêu h́nh học hiện đại
chỉ là những người sao chép lại quá khứ xa xưa
không hơn không kém.
[332]
Sách đă dẫn, chương viii, trang 273 – 274.
[333]
Nhờ quán triệt định luật này, vị La Hán có
thể hiển lộng thần thông như làm tan ră vật
chất, dời một vật từ nơi này sang nơi
khác v..v…
[334]
Đây là phần Cổ luận có kèm theo phần Ngữ
giải hiện đại của các ĐOẠN KINH, v́
phần Cổ luận dưới dạng ngôn ngữ biểu
tượng thường khó hiểu chẳng kém ǵ chính các
ĐOẠN KINH.
[335]
Trong một tác phẩm bút chiến khoa học Sáng Thế Kư
Hiện Đại (Modern Genesis) trang 48, khi phê phán lập
trường của các nhà thiên văn học, Giáo sĩ W.B.
Slaughter đă hỏi: “Thật đáng tiếc là những kẻ
ủng hộ thuyết tinh vân đă không tham dự rộng
răi vào cuộc thảo luận về nguồn gốc của
chuyển động quay. Chẳng ai thèm tŕnh bày căn bản
lư luận của nó. Tiến tŕnh làm nguội lạnh và co rút
khối vật chất truyền cho nó một chuyển động
quay như thế nào? (Winchell trích dẫn trong Sinh Hoạt Thế
Giới (World-Life), trang 94). Vấn đề này sẽ được
bàn tỉ mỉ hơn trong phần phụ lục. Khoa học
duy vật đừng mong giải quyết được
nó. Một Giáo lư huyền linh dạy: “Chuyển động
có tính cách vĩnh cửu trong thế giới tiên thiên và tuần
hoàn trong thế giới hậu thiên. Chỉ khi nào nhiệt
do Ngọn Lửa giáng xuống vật chất nguyên thuỷ
đă làm chuyển vận cấu tử của nó th́ chuyển
vận mới thành cơn gió lốc”. Một giọt chất
lỏng có dạng h́nh cầu v́ các nguyên tử của nó tự
quay ḿnh trong bản chất thực tượng, cực vi
và bất khả phân giải (ít ra th́ cũng bất khả
phân giải đối với Vật lư học).
[336]
Tức là Mười hay con số toàn vẹn để chỉ
“Đấng Tạo Hoá” (“Creator”), là danh từ áp dụng cho
toàn thể các Đấng Sáng Tạo hỗn hợp làm Một,
chẳng hạn như “Elohim”, Adam Kadmon hoặc Sephira
(Vương Miện) là tổng hợp bán thư bán hùng của
mười Sephiroth, các Ngài tượng trưng cho Vũ Trụ
biểu lộ trong kinh Kabalah b́nh dân. Tuy nhiên, nối gót các
nhà Huyền linh học Đông phương, các tín đồ
Do Thái Bí giáo đă phân cách tam giác Sephiroth (tức Sephira,
Svabhavat, các Đông phương học giả giải thích
rằng từ ngữ này có nghĩa là Vũ Trụ chất
mềm dẻo thấm nhuần khắp Không Gian (như vậy,
có lẽ họ chẳng quan tâm bao nhiêu tới Dĩ Thái của
khoa học). Nhưng các nhà Huyền bí học xem nó như là
đồng nhất với “PHỤ MẪU” (“FATHER-MOTHER”) trên
cảnh giới huyền bí.
[337]
Arupa.
[338]
Ṿng Tṛn không giới hạn
[339]
Bhaskara.
[340]
Điều này ám chỉ Tư Tưởng Trừu Tượng
và Tiếng Nói Cụ Thể, tức là sự biểu lộ
của nó, hiệu quả của Nguyên Nhân. Trong kinh Thánh
Kabalah, Adam Kadmon (tức Tứ Linh Tự) chính là Huyền Âm.
Do đó, cũng trong kinh trên, Tam Nguyên này tương đương
với Tam Giác vô thượng Kether, Chokmah và Binah; Binah là một
mănh lực âm, đồng thời cũng là Jehovah dương,
trên cương vị kẻ chia sẻ bản chất của
Chokmah, tức Minh Triết dương.
[341]
Giáo Lư Bí Truyền dạy rằng Mặt Trời là một
Ngôi Sao trung ương chứ không phải là một hành
tinh. Thế nhưng cổ nhân đă biết tới và tôn thờ
bảy vị đại thần linh, ngoại trừ Mặt
Trời và Địa cầu. Đâu là vị “Thần Linh Bí
Nhiệm” (“Mystery God”) mà họ đă dẹp qua một bên? Dĩ
nhiên, đó không phải là Thiên Vương Tinh, hành tinh này mới
chỉ được Herschel khám phá ra vào năm 1781. Nhưng
liệu người ta có thể biết tới nó với một
danh xưng khác chăng? Ragon cho rằng: “Nhờ vào các phép tính
toán thiên văn, Huyền bí học đă khám phá ra rằng phải
có bảy hành tinh, điều này khiến cho cổ nhân phải
đưa Mặt Trời vào âm giai của các hợp âm thiên
giới và để cho nó chiếm vị trí bỏ trống.
Như vậy, mỗi khi cảm thấy một tác dụng
không thuộc về một trong sáu hành tinh đă biết, họ
liền gán cho mặt trời…Sai lầm này dường như
là quan trọng, nhưng xét về các kết quả thực
tế, th́ nó lại không hề như vậy, nếu các nhà
chiêm tinh học thay thế Thiên Vương Tinh bằng Mặt
Trời…, Mặt Trời là một Ngôi Sao trung ương
tương đối bất động, chỉ quay chung
quanh trục của ḿnh, điều chỉnh thời gian và
kích thước; người ta không thể xuyên tạc các
chức năng thực sự của nó”. (Tam Điểm
Huyền Linh – Maconnerie Occulte, trang 447). Danh xưng các ngày
trong tuần cũng sai lầm. Học giả nêu trên nói thêm:
“Lẽ ra ngày Mặt Trời (Chủ Nhật) phải là ngày
Thiên Vương Tinh”.
[342]
Hành Tinh Hệ.
[343]
Theo thiên văn học, “Mặt Trời luôn luôn quay trên trục
của ḿnh theo cùng hướng mà các hành tinh quay trên quỹ
đạo của riêng chúng.
[344]
Xem Anugita của Telang, ix, 9 và Aitareya Brahmana, của Haug, trang
1.
[345]
Theo huyền bí học, tính chất sao chổi này khác hẳn
với bất kỳ lư tính hoặc hoá tính nào mà khoa học
hiện đại đă biết. Dưới dạng nguyên
thuỷ ở bên ngoài các Thái dương hệ, nó có tính cách
thuận trạng và chỉ biến phân hoàn toàn một khi nó
băng qua biên giới của vùng trái đất; bị ô
nhiễm bởi bầu khí quyển của các hành tinh và vật
chất đă phức hợp của chất liệu liên hành
tinh, nó chỉ có tính cách dị trạng trong thế giới
biểu lộ của chúng ta.
[346]
Manas- Nguyên Khí Thần Trí, tức Nhân Hồn (Human Soul).
[347]
Buddhi – Linh Hồn (the Divine Soul).
[348]
Xem Sự tương hệ của
các Lực vật lư, trang 81, ấn bản năm 1843 và Diễn
từ gởi Hội Anh Quốc, năm 1866.
[349]
W. Mattieu Williams trong Về Sự Bảo Toàn Năng Lượng
Mặt Trời (Tạp chí Thiên Nhiên, XXV, trang 440 – 444,
9-3-1882); và Tiến Sĩ P.Martin Duncan trong một Diễn từ
trên cương vị Hội Trưởng Hội Địa
Chất Luân Đôn vào tháng 5 – 1877, đă tŕnh bày các ư tưởng
tương tự như vậy. Xem Sinh Hoạt Thế Giới
của Winchell trang 53 và tiếp theo.
[350]
Ta nói tới Hải Vương Tinh (Neptune) trên cương
vị là người Âu Châu chứ không phải là nhà Huyền
bí học. Nhà Huyền bí học Đông phương chân chính
sẽ khẳng định rằng trong khi có nhiều hành
tinh vẫn c̣n chưa được khám phá ra trong thái
dương hệ của chúng ta, Hải Vương Tinh thực
ra lại không thuộc về thái dương hệ, mặc
dù nó có liên hệ một cách biểu kiến với Mặt
Trời và Mặt Trời có ảnh hưởng đến
nó. Theo họ, mối liên hệ này chỉ là hư ảo hăo
huyền.
[351]
Huyền Âm, Diệu Âm và Tinh Thần (Word, Voice and Spirit).
[352]
Đó là bốn “Đấng Bất Tử” (“Immortals”) mà kinh
Atharva Veda đă đề cập tới dưới danh hiệu
“Các Đấng trông coi” hay “Đấng trấn giữ bốn
phương trời”. (Xem Chương lxxvi, 1 – 4 và tiếp
theo.
[353]
Lịch sử cuộc xung đột giữa Khoa học và
Tôn giáo, trang 132- 133.
[354]
Các nguyên lư khoa học, II, trang 455.
[355]
Tử vi đẩu số Bí nhiệm, của Ely Star, trang
xi.
[356]
Thánh thi (Psalms), civ, 4.
[357]
Ta không được quên sự dị biệt giữa các Đấng
Kiến Tạo, các Chơn Linh Hành Tinh và các Đấng
Lipika (Xem câu kinh 5 và 6 của phần Giảng Lư).
[358]
Nghĩa là y bị tư tưởng của họ chỉ
đạo.
[359]
Sương mù vũ trụ.
[360]
Thế giới hiện tồn.
[361]
Xem Phật Giáo Nội Môn của A.P.Sinnett, ấn bản lần
thứ 5, có chú giải, trang 171 – 173.
[362]
Nhà đại cải cách Tây Tạng đầu tiên, đă lập
nên nhóm “Mũ Vàng” Gelukpas (tiếng Tây Tạng là Dge-lugs-pa).
Ngài sinh năm 1355 sau Công nguyên, ở miền Amdo, và là hoá thân
của A Di Đà Phật, tôn danh Thiêng Liêng của Phật
Thích Ca.
[363]
T. Subba Row dường như đồng nhất hoá Ngài với,
và gọi Ngài là Thiên Đạo (xem các bài Diễn văn bàn
về Chí Tôn ca (Bhagavad Gita) trong Tạp chí Theosophist, Quyển
viii; xem thêm Triết lư của Chí Tôn Ca, ấn bản Adyar lần
thứ ba, 1931.
[364] Năm 1882, vị Hội Trưởng
Hội Theosophy là Đại Tá Olcott có nhiệm vụ minh
xác trong một bài diễn thuyết của ông rằng
Điện khí là vật chất. Tuy nhiên, điều này
đă được dạy trong Giáo Lư Huyền môn,
“Lực” (“Force”), “Năng lượng” (“Energy”) có thể là
những danh từ hay hơn dành cho nó, chừng nào khoa
học của người Âu Châu c̣n biết rất ít
về bản chất thực sự của nó; song nó là
một thứ vật chất, cũng như dĩ thái là
vật chất; v́ nó cũng thuộc về nguyên tử, dù
khác xa chất Dĩ Thái (Ether). Dường như là phi lư
khi biện luận rằng v́ khoa học chưa thể cân
đo được một vật nên vật đó không
thể gọi là vật chất được.
Điện khí là thứ “phi vật chất” theo ư nghĩa
là phần tử của nó không bị nhận thức và
thực nghiệm; tuy nhiên, như Huyền bí học đă
nói, nó có thể là thuộc về nguyên tử; v́ vậy, nó
là vật chất. Nhưng ngay cả khi người
ta giả sử rằng thực là phi khoa học khi dùng những
ngôn từ như thế để nói đến nó, một
khi, theo khoa học, điện khí được gọi là
một nguồn năng lượng, năng lượng đơn
thuần và là một lực - liệu người ta có thể
nghĩ đến Lực và Năng lượng này mà không có
ư niệm vật chất chăng? Ông Maxwell, một nhà toán học,
và cũng là một nhân vật có thẩm quyền nhất
trong lănh vực điện học và hiện tượng điện
lực cách đây nhiều năm, đă nói rằng điện
khí là vật chất chứ không phải là một sự
chuyển động. “Nếu ta chấp nhận giả
thuyết cho rằng những nguyên tố này được
cấu tạo bởi những nguyên tử th́ chúng ta không thể
không kết luận rằng điện khí (dù là dương
điện hay âm điện) cũng được phân
chia thành những phần tử sơ thuỷ nhất định,
chúng tác động giống như những nguyên tử điện”.
(Bài diễn thuyết về Faraday của Helmholtz, 1881). Chúng
tôi sẽ đi xa hơn điều này và xác nhận rằng
điện chẳng những là vật chất mà nó c̣n do một
Thực Thể sinh ra, đó không phải là Trời, cũng
không phải là Ma Quỷ, mà là một trong vô số Thực
Thể chi phối và hướng dẫn cơi thế gian của
chúng ta theo Định Luật Nhân Quả trường tồn.
[365]
Người ta biết rơ là cát, khi được đặt
trên một tấm kim loại đang rung động, th́ gom
lại một số h́nh vẽ điều hoà khác nhau. Về
kết quả này, khoa học có thể đưa ra một
sự giải thích đầy đủ không ?
[366]
Xem quyển Bách Khoa Tự Điển của Hội Tam Điểm
của Mackenzie và quyển H́nh Tam Giác của Pythagoras của
Oliver.
[367]
Ormazd là Thiên Đạo, “Đấng Sinh Ra Đầu Tiên” và
Ngôi Mặt Trời.
[368]
Trong ấn bản năm 1888 là khối vuông.
[369]
Chỗ này là chữ tượng h́nh.
[370]
Chỗ này là chữ tượng h́nh.
[371]
Chống Apion (Against Apion), I,
trang 25.
[372]
Xem quyển Nữ Thần Isis Lộ Diện, II, 430 - 438.
[373]
Xem quyển Tự điển cổ điển Ấn
Độ của Dowson.
[374]
Những nguyên tử khoáng chất.
[375]
Những đám mây khí thể (Gaseous Clouds).
[376]
Xem quyển kinh Kabalah Denudata, phần nói về “Linh Hồn”
(“De Anima”), trang 113.
[377]
“Giáo lư nói về sự quay tṛn của trái đất xung quanh một trục do Hicetas (một
người thuộc môn phái Pythagoras) đă dạy, có
thể là vào khoảng gần 500 năm trước Thiên
Chúa. Giáo lư này cũng được môn đệ của
ông Ecphantus và Heraclides, một môn đệ của triết
gia Plato, dạy như thế. Vào khoảng năm 281
trước Thiên Chúa, nhờ vào những giả thuyết
phù hợp với những kết quả của sự quan
sát, triết gia Aristarchus of samos đă chỉ cho chúng ta
thấy sự bất động của mặt trời và
sự xoay quanh trên quỹ đạo của trái
đất. Vào năm 150 trước Thiên Chúa, nhà triết
học Selecus of Seleucia, ở thành Tigris, cũng đă
dạy thuyết Nhật Tâm [thuyết này cũng đă
được Đức Pythagoras dạy vào năm 500
trước Thiên Chúa – H.P.B.]. Người ta cũng nói
rằng nhà vật lư học Archimedes đă đề
xướng thuyết nhật tâm (the heliocentric theory), khi ông
viết một tác phẩm có nhan đề là Sa Thạch
(psamites). Đức Aristotle cũng đă dạy một cách
rơ ràng về việc trái đất có h́nh cầu, ông đă
đưa ra bằng chứng là h́nh dạng của bóng
địa cầu lúc nguyệt thực (quyển De Coelo
của Aristotle, phần II, chương XIV). Ông Pliny cũng
bảo vệ quan niệm này (quyển Vạn vật
học, II, 65). Hơn 1.000 năm qua, dường như
người ta không c̣n biết tới những quan niệm
này nữa”. (Quyển Sự Sống của Thế Giới
[World life]) của Winchell, trang 551 – 552.
[378]
Quyển Nói về những nguyên tử xoáy tṛn (On Vortex
Atoms).
[379]
Xem Sự Bí Mật của Đức Phật, quyển V,
Tiết 43.
[380]
Cũng trong quyển sách này, trang 567.
[381]
Quyển tóm lược về Những nguyên lư của Thiên
Nhiên (Principia Rerum Naturalium).
[382]
Nghĩa là : Cái đầu tiên bây giờ là Bầu Thế
Giới thứ nh́.
[383]
Bầu Vũ Trụ Vô H́nh của Tư Tưởng.
[384]
Thế Giới H́nh Bóng (Shadowy World) của Sắc
Tướng đầu tiên hay là thế giới của Lư
Trí.
[385]
Trong kinh Rig Veda, chúng ta thấy những danh từ Brahmanaspati và Brihaspati được dùng
thay đổi với nhau, tiếng này tương
đương với tiếng kia. Xem thêm quyển kinh Áo
Nghĩa Thư (Brihadaranyaka Upanishad); Brihaspati là một
Đấng Thiêng Liêng được gọi là “Cha của
các vị Thần Linh” (“Father of the Gods”).
[386]
Quyển Luận Lư Học (Logic), II, trang 125 (1873).
[387]
Đă làm ba bước đầu tiên rồi.
[388]
Bốn thể hạ là thể xác, sự sống của nó
hay sinh lực, và “song trùng thể” (the “double” of the body)
của thể xác – tam thể hạ biến mất khi
một người chết – và Cảm dục thể phân
hoá trong Dục giới.
[389]
Chương iii, 4.
[390]
Kinh Amos, iv.
[391]
Quyển Thần học (Theo
1. Cir. I, vii.)
[392]
Chỗ này chữ viết theo loại cổ ngữ.
[393]
Xem quyển Thế Giới Huyền Bí (The Occult World), trang 89-90.
[394]
Như vậy, câu này “Natura Elementorum obtinet revelationnem Dei”
[Sự tiết lộ của Trời được
chứng minh bằng bản chất của các nguyên tố]
(Quyển Stromata của Clemens,
IV, 6) có thể được áp dụng cho cả hai
hoặc không áp dụng cho cái nào cả. Tham khảo
quyển Zends, II, 228 và quyển De Iside et Osiride, do Layard so
sánh trong Tạp chí Hàn Lâm Viện Văn Học, 1854,
Quyển XV.
[395]
Xem quyển Những cuộc di dân Do Thái (Exodus), xxvi, 26-32.
[396]
Quyển Những Cổ Vật (Antiquities) của Josephus, I,
VIII, ch, xxii.
[397]
Xem quyển Phật Giáo Trung Quốc (Chinese Buddhism) tr. 216.
[398]
Ở đây, “Con Người”
được thay thế cho “Con Rồng”. Người ta
so sánh những vị này giống như những vị
Thần của phái thờ Rắn (Ophite Spirits). Những
vị thần được Giáo hội Cơ Đốc
công nhận tương ứng với các Mặt này
đối với những tín đồ thờ Rắn: Con
Rồng với Thánh Raphael; Con Sư Tử với Thánh
Michael. Ḅ Rừng hay Con Ḅ Nhà (Bull or Ox) với Thánh Uriel. Con Ó
với Thánh Gabriel. Bốn vị truyền giáo Phúc Âm giao du
thân mật với bốn vị này và các Ngài giới
thiệu kinh Phúc Âm.
[399]
Ezeliel, i.
[400]
Ngoại trừ những người Do Thái Bí giáo, những
người Do Thái không có danh từ nào để gọi
hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, họ diễn tả tư
tưởng này bằng những tiếng có nghĩa là phía
trước, phía sau, bên phải và bên trái, rất thường
bị lầm lẫn với những ngôn ngữ công truyền,
v́ vậy trong Thánh kinh Thiên Chúa giáo (Bible), có những sự
che giấu khiến người ta rất dễ bị lầm lẫn và rất khó thuyết minh.
Thêm vào điều này là sự kiện trong số bốn
mươi bảy dịch giả của Vua James I
để dịch Thánh kinh của nước Anh, “chỉ
có ba người hiểu tiếng Hy Bá Lai, và hai trong ba
người này đă chết trước khi Thánh thi
được dịch ra” (Bách khoa Tự Điển
của Hội Tam Điểm Hoàng Gia) và người ta có
thể hiểu dễ dàng bản dịch Thánh kinh bằng
tiếng Anh đáng tin đến mức nào. Trong tác
phẩm này, người ta hay theo [chứ không phải luôn
luôn] bản dịch của Cơ Đốc giáo La Mă Douay.
[401]
Đường thẳng đứng hay h́nh dáng I.
[402]
Thế Giới Vô H́nh và Thế Giới Hữu H́nh.
[403]
Heptads: nhóm bảy vị; Enneads: nhóm chín vị; Dpdecads: nhóm
mười hai vị.
[404]
Tạp chí Theosophist, tháng 2 – 1887, trang 303. Cũng cần xem
quyển Triết lư của kinh Chí Tôn Ca của Subba Row 1912, trang 11, 12, 15.
[405]
Trong ấn bản năm 1888 ghi là Para-para-metaphysical.
[406]
Trong giáo lư chúng ta, những cuộc luân hồi t́nh nguyện
này được đề cập tới như là những
vị Hoá Thân (Nirmanakayas), tức là những nguyên khí thiêng liêng
c̣n sống của con người.
[407]
Sukshma Sharira là thể ảo mộng “giống như mơ”
(“dream-like”) mà những vị Thiền Ni (Dhyanis) bậc thấp
thuộc Huyền giai trên trời mặc vào.
[408]
Chúng ta hăy so sánh Giáo Lư Bí Truyền (Esoteric tenet) với Giáo lư
của các tín đồ Ngộ Đạo (Gnostic) trong Kiến
Thức Minh Triết (Pistis-Sophia) mà người ta luận rằng
Sophia (Achamoth) được chỉ cho thấy là nó tan biến
trong ḍng nước của Hỗn Mang (Chaos)(Vật Chất),
trên đường hướng về Ánh Sáng Thiêng Liêng và
trên Chánh Đạo, có Đấng Toàn Thiện (Christos) giải
phóng và giúp đỡ nàng. Có điều đáng ghi chú là chữ
“Christos” (Sự Hoàn Thiện) theo phái Ngộ Đạo th́ nó
được giải thích là Nguyên Khí Vô Ngă (Impersonal
Principle), Atma của Vũ Trụ, và Tiên Thể (Atma) mà mỗi
linh hồn con người đều có, chứ không phải
là Đấng Jesus; mặc dù trong bản thảo cũ của
những người Cổ giáo Ai Cập địa phương,
trong viện bảo tàng Anh quốc, chữ “Christos” lại được
thay thế bằng chữ “Jesus” và nhiều ngôn từ khác nữa.
[409]Quyển
Giáo lư vấn đáp về triết lư Vedanta Phi Nhị Nguyên
(A Catechism of the Visishtadvaita Philosophy) của N. Bhashya -charya,
Hội viên Theosophy, một nguyên học giả của
thư viện Adyar, trang 50 – 51 (1890).
[410]
Quyển Traume eines Geitersehers, do C. C.Massey trích dẫn trong bài
đề tựa nói về Thần Linh Học (Spiritismus) của
Von Hartmann.
[411]
Thánh Tử ca (Le Livre des Morts) của Paul Pierret, Chương
xvii, trang 61.
[412]
Cũng cần xem giáo lư khác nói về câu văn đặc
biệt này. Ngày “Đến với Chúng Ta”, trong quyển Những
Tang Lễ của người Ai Cập của Vicomte de Rougé.
[413]
Tạp chí Theosophist, tháng 2-1887, trang 305, cũng cần xem bài
Triết lư của kinh Chí Tôn Ca (Bhagavad Gita) trang 16.
[414]
Trong ấn bản năm 1893 ghi là Adi-Budha, Adi-bhuta: cái khởi
thuỷ, cái sinh ra đầu tiên; Adi-Budha hay Buddha: được
trí thức lúc khởi thuỷ.
[415]
Cũng trong Tạp chí Theosophist, trang 306, cũng bài Triết
lư Chí Tôn Ca, trang 18 – 19.
[416]
Madhya được gọi là vật mà lúc khởi thuỷ
và lúc cáo chung không ai biết được. “
[417]
Cũng trong Tạp chí Theosophist, trang 307.
[418]
Trong tiếng Bắc phạn, Laya là điểm vật chất
nơi đó mỗi sự phân hoá đă gia tăng.
[419]
Năm năm với Minh Triết Thiêng Liêng, Bài “Thượng
Đế Hữu Ngă và Vô Ngă”, trang 200, lần xuất bản
1885.
[420]
Phần (Fraction).
[421]
Diễn văn của Hội Trưởng trước Hội
Hoàng Gia các nhà hoá học, tháng 3 năm 1888.
[422]
Trang 242, xuất bản 1885.
[423]
Một lần nữa, điều này đă được
chính nhà khoa học ấy xác nhận trong bài diễn thuyết
nêu trên khi trích dẫn nhà Thông thái Maxwell, ông nói rằng “những
nguyên tố này không hoàn toàn đồng tính”. Ông viết:
“Người ta khó ḷng mà biết được cách chọn
lựa và loại bỏ những biến thái của trung
gian, v́ (như chúng ta có lư do để tin tưởng) những
phân tử bị loại bỏ này có thể đi về đâu,
nếu khinh khí v..v… của những ngôi sao cố định
được cấu tạo bằng những phân tử
giống với những phân tử trên hành tinh chúng ta về
mọi mặt… Trước hết, chúng ta có thể tỏ
ư nghi ngờ t́nh trạng giống nhau tuyệt đối của
những phân tử, v́ đến nay, chúng ta không có cách nào để
kết luận, ngoại trừ cách sử dụng kính quang
phổ, trong khi người ta nh́n nhận rằng để
so sánh và phân biệt một cách chính xác những quang phổ
của hai vật thể, chúng phải được khảo
nghiệm dưới những trạng thái như nhau về
nhiệt độ, áp suất và mọi điều kiện
vật lư khác nữa. Trong quang phổ của mặt trời,
chắc chắn chúng ta đă thấy những tia sáng mà chúng
ta không thể nhận ra được.
[424]
Một chu kỳ của 311.040.000.000.000 năm theo sự tính
toán của Bà La Môn giáo.
[425]
Xem Diễn đàn Khoa học *Scientific Arena), một nguyệt
san dành riêng cho giáo huấn triết học hiện hành và ảnh
hưởng của nó đối với tư tưởng
tôn giáo hiện đại, Nữu Ước. Chủ Biên:
A. Wilford Hall, Tiến Sĩ Chuyên khoa, Tiến sĩ Luật
Khoa. Số tháng 7, 8 và 9 năm 1886.
[426]
Xem quyển 2, Tiết 14, nói về các Thần, Chơn Thần
và các Nguyên tử.
[427]
Mặt trăng chỉ chết xét về những nguyên khí bên
trong của nó – nghĩa là, nói về tâm linh và tinh thần, mặc
dù sự xác nhận này có thể là vô lư. Về mặt vật
lư, nó chỉ là một thiên thể bán tê liệt mà thôi. C̣n
đối với Huyền bí học, mặt trăng được
xem như là “người Mẹ mất trí”, là một thiên
thể vĩ đại điên loạn.
[428]
Tuy nhiên, những nhà Huyền bí học, vốn có sự tin
tưởng hoàn hảo nhất về những kinh sách chính
xác riêng của họ theo chiêm tinh học và toán học,
đă tính ra được tuổi của nhân loại và
quyết đoán rằng, con người (với hai giống
tách rời ra) đă xuất hiện trong cuộc tuần hoàn
này được đúng 16.618.727 năm, như giáo lư Bà La
Môn cũng như vài quyển lịch của người Ấn
Độ đă công bố.
[429]
Các lời b́nh luận về những ĐOẠN THÁNH KINH này
sẽ được tóm tắt sau.
[430]
Trong Phật Giáo Bí Truyền, 1883 và Con Người: Di Tích của một Lịch Sử
đă ch́m vào quên lăng, của hai đệ tử, 1885.
[431]
Các hành tinh nêu ra trong các Mật thư cổ (Secret Books) c̣n
nhiều hơn trong các sách Thiên văn học hiện đại.
[432]
Ông Samuel Laing, tác giả quyển
Modern Science and Modern Thought (Khoa Học và Tư
Tưởng Hiện Đại) có nói rằng: “Những
kết quả Thiên văn đầu tiên là những lư
luận căn cứ trên những lư luận khả nghi cho
đến nỗi trong vài trường hợp, chúng nó cho
những số quá nhỏ, không thể tin được,
như có 15 triệu năm
để chỉ sự diễn tiến viên măn
của một sự tạo lập một thái dương
hệ; trong những trường hợp khác, các kết
quả thiên văn này đưa đến một thời
gian quá dài khiến cho chúng ta không thể tin được.
Tỷ như khi người ta phỏng định rằng
khi mặt trăng đă bị văng ra, trong khi trái
đất xoay tṛn trong ba giờ, trong khi sự trễ nhất
hiện nay do sự quan sát là phải mất 600 triệu năm
để làm cho nó xoay trong 23 giờ chứ không phải
trong 24 giờ (trang 48, quyển nêu trên). Và nếu các nhà vật
lư học cứ nằng nặc suy lư như vậy, th́ tại
sao người ta lại chế nhạo niên đại kư
(chronology) của người Ấn Độ giáo, cho rằng
họ phóng đại ?
[433]
Xem Sinh hoạt Thế Giới (World Life) của Winchell, trang
379 và tiếp theo.
[434]
Trang 113, ấn bản lần thứ 5.
[435]
Cùng trang sách nói trên.
[436]
Trang 185 – 186.
[437]
Kosha được dịch từng chữ là “lớp vỏ”,
lớp vỏ của mọi
nguyên khí.
[438]
Thể Bồ Đề (Buddhi).
[439]
Sự Sống.
[440]
Thể sinh lực, thể dĩ thái, Sthūla-upādhi hay là cơ bản của các
nguyên khí.
[441]
Xem đồ h́nh 2.
[442]
Trích lục Những bức thư của Chân Sư gởi
ông A.P.Sinnett trang 177 – 178
[443]
Con Người, những mẩu chuyện về Lịch Sử
đă bị lăng quên.
[444]
Phật Giáo Bí Truyền, trang 145, 1885, ấn bản lần
thứ năm.
[445]
The Mahatma Letters to A. P. Sinnett, trang 136.
[446]
Thư của Chân Sư gởi ông Sinnett, trang 176.
[447]
Thư của Chân Sư gởi ông Sinnett, trang 177.
[448]
Thư của Chân Sư gởi cho ông Sinnett, trang 119.
[449]
Thư của Chân Sư gởi cho ông Sinnett, trang 94.
[450]
Thư của Chân Sư gởi cho ông Sinnett, trang 80.
[451]
Thư của Chân Sư gởi cho ông Sinnett, trang 81.
[452]
Thư của Chân Sư gởi cho ông Sinnett, trang 83.
[453]
Lucifer, tháng 5 – 1888.
[454]
Phật Giáo Bí Truyền , trang 46.
[455]
Phật Giáo Bí Truyền, trang 49.
[456]
Phật Giáo Bí Truyền, trang 140.
[457]
Khoa huyền môn chia các
[458]
[Gốc tiếng Phạn là “man” nghĩa là suy nghĩ, tưởng
tượng].
[459]
Phật Giáo Bí Truyền, trang 48, 49. Ấn bản lần thứ
5.
[460]
Như trên.
[461]
Ở đây, tiếng “vật chất” (“physical”) có nghĩa
là bị phân hoá v́ những mục đích và công tŕnh của
vũ trụ. Tuy nhiên, tiếng “khía cạnh vật chất”
(“physical side”) này; mặc dù thuộc về khách quan
đối với nhận thức của sinh vật
từ những cơi khác, song lại hoàn toàn chủ quan đối
với chúng ta ở trên cơi của chúng ta.
[462]
Trang 276 và kế tiếp.
[463]
Như trên.
[464]
Xem đồ h́nh trong quyển trên, trang 277.
[465]
Như trên, trang 273 – 274.
[466]
Như trên, trang 274 – 275.
[467]
Quyển Nữ Thần Isis Lộ Diện.
[468]
Trang 48, ấn bản lần thứ năm, hay trang 49 của
ấn bản 1918
[469]
Trang 46, ấn bản thứ 5 hay trang 48, ấn bản 1918.
[470]
Thư của Thánh Sư (The Mahatma Letters), trang 87.
[471]
Như trên, trang 87.
[472]
Đối chiếu với Mahatma Letters, trang 87 và kế
tiếp, ấn hành năm 1930.
[473]
Ở đây có nghĩa là những bản chất của
bảy Hệ cấp hay là bảy hạng Tinh Quân (Classes of
Pitris) và Thiền Định Đế Quân, hợp thành
bản chất và các thể của chúng ta.
[474]
Sự luân lưu Sự Sống (Life) và Thực Thể
(Being) chung quanh “bảy Bánh Xe nhỏ hơn” (“seven smaller
Wheels”).
[475]
Kinh Thiên Khải, xii, 7 – 9.
[476]
Xem Quyển 3, Câu kinh 17.
[477]
Bộ Nữ Thần Isis Lộ Diện, trang 299, 300. Cũng
cần đối chiếu với những quyển “Những
Bí Mật của Tôn giáo”, Con cái của Nhân Loại, của
S.F. Dunlap, trang 50 và kế tiếp (1861).
[478]
Fetahil giống như nhóm các vị Nguyệt Tinh Quân (Pitris)
“tạo ra con người” với vai tṛ là chỉ có một
“lớp vỏ” mà thôi. Những người Nazarenes nói rằng
Người là Vua của Ánh Sáng (King of Light) và là Đấng
Tạo Hoá (Creator); nhưng trong trường hợp này,
Người chỉ là Prometheus bất hạnh không giữ được
Ngọn Lửa Sống Động (Living Fire) cần cho sự
sáng tạo Linh Hồn Thiêng Liêng (Divine Soul), v́ Người
không biết được danh hiệu bí mật, danh hiệu
không thể tả được, danh hiệu không thể
truyền đạt được của những tín đồ
Do Thái Bí giáo.
[479]
Linh hồn Vật Chất và Nhục Dục (The spirit of
Matter and Concupiscence); Cảm dục thể (Kama Rupa) bớt đi
cái trí (Manas).
[480]
Quyển Codex Nazaraeus; ii; 233
[481]
Tiếng Manos này của người Nazarenes giống một
cách kỳ lạ với tiếng Manu của người Ấn
Độ, Con Người ở trên Trời (the Heavenly Man)
của kinh Vedas.
[482]
“Tôi là Nho thục sự (I am the true Vine), và cha tôi là một
người làm ruộng (husbandman)” (John xv, 1) .
[483]
Theo những nhà triết học nội môn, th́ Đấng
Hoàn Thiện (Christ), cũng như Thánh Michael, Ngài vốn đồng
nhất với Đấng Christ về một vài phương
diện là vị “Chủ Tể các phân thân (Aeons)”
[484]
Codex Nazaraeus , i, 135.
[485]
Xem Vũ Trụ học của Pherecydes.
[486]
Quyển I, trang 301, ghi chú.
[487]
Tuy nhiên, những nguyên lư này được t́m thấy trong
Kinh Bí Số (Book of Numbers) của người Can Đê
(Chaldean).
[488]
Xem những lời b́nh luận của ĐOẠN THÁNH
KINH 7.
[489]
Như trên, II, trang 183 và kế tiếp.
[490]
Về sự khác nhau giữa tiếng nous, Minh triết thiêng
liêng cao cả và tiếng psyche, là Minh Triết thấp hơn
thuộc cơi trần, xem Quyển Thánh James, iii, xxx 15 – 17, xem
Quyển II, Phần 2 tiết 2, nói về “Ma Quỷ là mặt
trái của Thượng Đế” (Demon est Deus Inversus).
[491]
Chỗ này là chữ tượng h́nh.
[492]
Chỗ này là chữ tượng h́nh.
[493]
Chỗ này là chữ tượng h́nh
[494]
Sự tương quan giữa Thượng Đế có nam
nữ tính (Jehovah) với mặt trăng trong Kinh Bí pháp
Kabalah được các sinh viên huyền môn biết rơ.
[495]
Về những người Nazarenes, có thể xem quyển Nữ
Thần Isis Lộ Diện, trang 131 và 132. Những đạo
đồ chân chính của Đấng Hoàn Thiện (Christos)
thực sự cũng là những người Nazarenes và Thiên
Chúa giáo, và đều là địch thủ của các tín đồ
Thiên Chúa giáo sau này.
[496]
Xem đồ h́nh II chỉ Dăy Nguyệt Cầu có bảy bầu
thế giới trong đó cũng như Dăy Hành Tinh riêng của
chúng ta hay bất cứ dăy hành tinh nào khác, những bầu
thế giới ở trên th́ thuộc về tinh thần,
trong những bầu thế giới thấp nhất, dù Mặt
Trăng, Trái Đất hay bất cứ bầu nào khác cũng
đều tối tăm v́ vật chất.
[497]
Vũ trụ được đề cập đến
trong những ĐOẠN THÁNH KINH chỉ có nghĩa là Thái
Dương Hệ mà thôi, chớ không phải Vũ Trụ
Vô Cực (Infinite Universe).
[498]
Điều này hoàn toàn thuộc về Thiên văn học.
[499]
Để có thể được một giải thích rơ
hơn về chữ trên, nên xem chữ Saptaparna trong phần
phụ lục.
[500] Chữ “Nguyên Mẫu” (Archetypal”) không được hiểu theo nghĩa mà những tư tưởng gia trường phái Platon gán cho nó, nghĩa là, Thế Giới như nó đă hiện hữu trong Trí của Thượng Đế; nhưng nguyên mẫu của một Thế Giới được tạo tác như một kiểu mẫu đầu tiên để những Thế Giới kế tiếp noi theo và cải tiến theo nó trên phương diện vật chất – dù nó sa sút về mặt tinh anh.
[501] Có bốn cơi thấp của Tâm Thức Vũ Trụ, ba cơi cao hoàn toàn có liên hệ với một câu hỏi khác.
[502] Để thấy và đánh giá được sự dị biệt – cái vực thẳm bao la ngăn cách vật chất của cơi trần với những cấp độ tinh anh của vật chất siêu cảm giác - mọi nhà thiên văn, nhà hoá học và nhà vật lư ít nhất phải là một trắc tâm kế (Psychometer: Máy đo tâm lư); y phải có thể cảm biết được cho chính ḿnh sự dị biệt mà ngày nay y không thèm tin. Bà Elizabeth Denton, một phụ nữ thông thái nhất, và cũng là một trong những kẻ duy vật đa nghi nhất trong thời kỳ ấy – phu nhân của Giáo sư Denton, nhà địa chất học lừng danh ở Mỹ, tác giả quyển “Linh hồn của vạn vật” - mặc dù theo thuyết hoài nghi, vẫn là một trong những trắc tâm kế tài t́nh nhất; bà đă mô tả một trong những cuộc thực nghiệm của ḿnh như sau: Người ta để một phong b́ có đựng một cục vẩn thạch trên trán bà; chẳng biết bên trong có cái ǵ, thế mà bà cũng nói:
“Có biết
bao nhiêu là sự dị biệt giữa cái mà chúng ta công nhận
là vật chất ở đây và cái dường như là vật
chất ở kia ! Nơi thứ này, các phân tử thô
kệch và sắc cạnh quá đáng, nên tôi cũng chẳng
biết chúng ta có thể chịu nổi nó nhiều hơn mức
mà ta muốn tiếp tục quan hệ với nó chăng; nơi
thứ kia, tất cả các phần tử đều rất
tinh anh, chúng không có những góc cạnh lồi lơm (vốn là
đặc điểm của những phần tử ở
đây đến nỗi mà tôi không thể nào coi thứ vật
chất đó là có thực hơn thứ vật chất này”.
Sách đă dẫn, III, trang 346.
[503]
Thiền Định Chân Kinh (Book Of Dzyan).
[504]
Xem phần Mục Lục về những từ “Sự tiến
hoá”, “Darwin”, “Kapila”, “Trận chiến tranh dành sự sống’
v..v..
[505]
Bộ Nữ Thần Lộ Diện, II, trang 260.
[506]
Kinh Vishnu Purana, Quyển I,
Chương ii, trang 34-35 [Đoạn này không phải là một
đoạn trích thực sự mà chỉ là phần tóm tắt
của các phát biểu].
[507]
Dăy hành tinh.
[508]
Địa cầu.
[509]
Xem quyển Thiên Đế Kinh (The Book of God) của Kenealy,
trang 118 [thật ra tác giả của quyển sách này không được
đưa ra nhưng lại được tượng trưng
bằng một chấm trong ṿng tṛn].
[510]
Xem quyển Acosta, vi, trang 14.
[511]
Cũng trong Book of God của Kenealy, trang 118.
[512]
Quyển I, trang 589 – 591.
[513]
Đối với con người nguyên thuỷ th́
điều này có vẻ tự nhiên, nhưng bay giờ
đối với chúng ta nó trở thành phi thường và
điều mà đối với con người nguyên
thuỷ là một sự phi thường, th́ không bao giờ
diễn đạt được bằng ngôn ngữ của
chúng ta.
[514]
Quyển Quá khứ và hiện tại, trang 104 (1874).
[515]
Như trên, trang 10.
[516]
Không một nước nào trên thế giới mà có ḷng tôn sùng
tín ngưỡng thần bí phát triển và nổi bật nhiều
hơn dân Ấn Độ. Chúng ta hăy xem Max Muller nói ǵ về
nét đặc thù của nước này trong những tác phẩm
của ông. Đó là một di sản trực tiếp xuất
phát từ nhân loại có tri thức đầu tiên của
Giống dân thứ Ba.
[517]
Những bài diễn thuyết nói về những bậc anh
hùng (Lectures on Heroes) trang 9 (1874).
[518]
Atma
[519]
Atma-Buddhi, Spirit-Soul. Đây là Tam thể thượng của
vũ trụ.
[520]
Avalokiteshvara.
[521]
Bảy Đấng Tạo Tác (Builders).
[522]
Ở nguyên bản tiếng Anh, trong kỳ xuất bản
năm 1962, chữ “I” được dùng. Trong bản
thảo viết tay năm 1886 và kỳ xuất bản
năm 1888 “Me” được dùng.
[523]
Quyển sách bí mật (Liber Mysterii) của Rosenroth, IV, trang
1.
[524]
Sáng Thế Kư (Genesis) i.
[525]
Tử Vong Chân Kinh (Book of the Dead), lxxxviii.
[526]
Chương lxiv, trang 29 - 30
[527]
Cũng trong quyển này, trang 34, 35.
[528]
Một Bầu Thế Giới, khi được gọi là
“Bầu Thế Giới cao”, không phải cao v́ vị trí của
nó, mà v́ tính chất hay bản chất của nó cao hơn.
Tuy nhiên, một Bầu Thế Giới như thế thường
được người phàm tục hiểu là cơi “Thiên
Đàng” (“Heaven”) ở trên địa cầu chúng ta.
[529]
Của h́nh hài thể xác.
[530]
Trong bản thảo viết tay năm 1886 là chữ “Pearls”.
[531]
Một cân Anh (pound) = 0,453 kg (LND).
[532]
… một tác phẩm nói về Phôi sinh học Huyền bí, Quyển
I.
[533]
John iii, 8.
[534]
Tử Vong Chân Kinh (Book of the Dead).
[535]
Như trên cxlix, 51.
[536]
Bảy Linh Hồn của Con Người, trang 2; một bài
diễn văn của Gerald Massey.
[537]
De Iside và Osiride, xliii.
[538]
Chương Xli.
[539]
Chương iv, 5.
[540]
[541]
Ai Cập học của Pieret.
[542]
Nghi Lễ (Ritual) ii.
[543]
Thay v́ được dạy những bài học vô ích trích
ra từ Thánh kinh ở những Trường ngày chúa
nhật, nếu đám rách rưới và nghèo nàn được
dạy về Chiêm tinh học - dù sao đi nữa, xét về
các tính chất huyền bí của Mặt Trăng và các tác dụng
ẩn tàng của nó đối với sự sinh sản –
th́ cũng chẳng cần phải lo âu về sự gia tăng
dân số, hoặc là phải cầu cứu tới tác phẩm
c̣n đang được tranh căi của Malthus để chận
đứng lại đà gia tăng dân số. Đó là v́ chính
mặt trăng và các cuộc giao hội (conjunction) đă điều
chỉnh sự thụ thai (mọi chiêm tinh gia ở Ấn Độ
đều biết điều này). Trong những giống dân
trước, và ít ra là vào lúc bắt đầu giống dân
hiện nay, những kẻ nào ngụp lặn trong bể ái
ân trong một vài tuần trăng đặc biệt có tác dụng
hiếm muộn đều coi là phù thuỷ và kẻ có tội.
Nhưng hiện nay ngay cả những tội lỗi xa xưa
này, nó phát xuất từ việc lạm dụng các kiến
thức huyền bí, đều dường như chẳng
ăn thua ǵ so với các tội lỗi hiện thời, chúng
đă được tạo ra v́ hoàn toàn mù tịt về các
tác dụng Huyền bí như trên.
[544]
Trong ấn bản 1888, viết là “THUỘC VỀ BÍ PHÁP”
(“MYSTERY”)
[545]
Nối liền.
[546]
Tử Vong Kinh, XVII, 4.
[547]
Người ta cứ nôn nao đưa ra nhiều lời chỉ
trích thù nghịch để chứng tỏ rằng trong quyển
trước kia của chúng tôi, Nữ Thần
[548]
Xem đồ h́nh 3
[549]
Xem “Nguồn gốc của Linh Hồn” (“Genesis of the Soul”),
trang 340 – 351.
[550]
Xem Nữ Thần
[551]
De Mysteriis (Về các Bí Pháp), ii, 3.
[552]
Panchashikha (tiếng Bắc Phạn) = một tập hợp
gồm năm mươi
[553]
Tam Thể Thượng của nó.
[554]
Bhumi hay Pithivi.
[555]
Tử Vong Chân kinh, i, 7. So sánh thêm: Các điều bí mật của
Rostan.
[556]
Loài (Kingdom).
[557]
Loài
[558]
Cái Bóng đầu tiên của Con Người Thể Chất.
[559]
Con Người.
[560]
Mặt Trăng.
[561]
Xem Thánh Mẫu Pháp Điển (
[562]
Ư niệm này sẽ rơ ra ngay nếu ta quán triệt
được vấn đề cấu tạo của “Linh
Hồn” tức Con Người. Trong Thánh Kinh (Bible), “Linh
Hồn” (“Living Soul”) đồng nghĩa với Con
Người. Đó là bảy “Nguyên Khí” của chúng ta.
[563]
Ha Idra Zuta Kadisha, xxii, 746.
[564]
Xviii, 12.
[565]
Thánh Thư Hy Ba Lai, IV.
[566]
Xem Mục lục Thánh kinh của Cruden.
[567]
Số Mục Thánh Thư , 1, viii, 3.
[568]
Trang 389
[569] Tam Nguyên Thượng này bị
cắt rời khỏi Tứ Thể Hạ, cũng như
nó bị phân ră sau khi chết.
(Chú thích của Đồ h́nh IV)
[570] Cái mà ta gọi là Trí Tuệ th́
Lévi lại gọi là Nephesh và ngược lại. Nephesh là
Sinh Khí (động vật) nơi con người – Sinh khí
bản năng nơi con vật; c̣n Trí Tuệ là Linh Hồn
Thứ Ba – nhân hồn xét theo khía cạnh thông tuệ và sinh
hồn khi có liên hệ với Samael tức là Cảm
dục. (Chú thích của Đồ h́nh IV).
[571]
Chẳng biết Éliphas Lévi cố t́nh hay vô ư mà lại lẫn
lộn các con số: đối với chúng tôi, số 2 của
ông lại là số 1 (Tinh Thần). Khi cho Nephesh vừa là kẻ
Trung gian linh động vừa là Sinh lực, thực ra ông
chỉ tŕnh bày có sáu nguyên khí, v́ ông đă lặp lại hai
nguyên khí đầu tiên.
[572]
Nội môn bí giáo cũng dạy như vậy. Nhưng Trí Tuệ
không phải là Nephesh; Nephesh không phải là Thể Phách, mà là
Nguyên Khí Thứ Tư, và cũng là Nguyên Khí Thứ Hai tức
Sinh Khí (Prana), v́ Nephesh là “Sinh Khí” (“Breath of Life”) nơi con
người cũng như là con vật hay sâu bọ. Đó
là sinh khí hồng trần chứ không hề bao hàm tính cách
thiêng liêng.
[573]
Xem Các vị Bàn Cổ đầu tiên của Nhân Loại,
ĐOẠN KINH 10, Quyển 3.
[574]
Zohar “Idra Suta”, Quyển iii, trang 292.
[575]
Xem giáo lư về kinh Codex Nazaraeus trong Nữ Thần
[576]
Manu – Bàn Cổ, Quyển I.
[577]
Từ ngữ “Sin” thật là quái gở; nhưng ngoài việc
là từ ngữ của dân
[578]
Thoạt đầu, Giảng Lư đề cập tới “hằng
hà sa số Sinh Linh”. Phải chăng Pasteur đă vô t́nh tiến
bước lại gần Huyền bí học khi tuyên bố
điều đó? Nếu dám cả gan phát biểu ư kiến
rốt ráo của ḿnh về vấn đề này, ắt hẳn
ông sẽ bảo rằng các tế bào hữu cơ được
phú cho một mănh lực sinh động vẫn không ngừng
hoạt động khi không c̣n một luồng oxygen nào
hướng dẫn về chúng nữa, và v́ thế, không cắt
đứt quan hệ với chính sự sống, vốn được
tác dụng của chất khí này phù trợ. Pasteur nói tiếp:
“Tôi xin nói thêm rằng sự tiến hoá của vi trùng
được thực hiện nhờ vào những hiện
tượng phức tạp, trong đó, chúng ta phải
kể tới các tiến tŕnh lên men”. Theo Claude Bernard và
Pasteur, sự sống chẳng có ǵ khác hơn là một
tiến tŕnh lên men. Cũng chính các khoa học gia ấy
đă chứng minh được rằng trong thiên nhiên có
tồn tại những sinh vật có thể sinh sôi nảy
nở mà không cần không khí, ngay cả trên địa
cầu này. Pasteur thấy rằng nhiều sinh vật
hạ đẳng, chẳng hạn như loài khuẩn h́nh
dấu phẩy, cũng như các vi trùng và vi khuẩn khác,
có thể tồn tại mà không cần có không khí -
ngược lại, nếu có không khí th́ chúng sẽ bị
giết chết. Chúng chuyển hoá oxygen cần thiết cho
sự nhân giống của ḿnh từ nhiều chất khác
nhau xung quanh chúng. Ông gọi chúng là các vi sinh vật hiếu
khí, sống bám nơi những mô vật chất, khi các mô
này đă không c̣n là một phần tử của một
tổng thể sống động và toàn vẹn (lúc
bấy giờ khoa học đă gọi nó một cách
rất phản khoa học là “vật chất chết” (“dead
matter”) và các vi sinh vật kỵ khí. Loại này liên kết
oxygen, góp phần đáng kể vào việc huỷ hoại
sự sống động vật và các mô thực vật,
cung cấp cho bầu khí quyển các vật liệu sau này sẽ
tham gia vào cấu tạo của các cơ cấu khác; c̣n
loại kia, rốt cuộc sẽ huỷ hoại, hoặc
đúng hơn là tiêu huỷ, cái gọi là chất hữu
cơ; nếu không có sự góp phần của chúng th́ không
thể nào có được sự phân huỷ tối
hậu. Một vài tế bào vi sinh vật, chẳng hạn
như các loại men bia phát triển ra và sinh sôi nảy
nở trong không khí, nhưng khi thiếu không khí, chúng sẽ
tự thích ứng với sự sống thiếu không khí và
biến thành chất men, hấp thụ oxygen từ các
chất tiếp xúc với ḿnh và do đó phân huỷ các
chất này. Khi thiếu oxygen tự do, các tế bào trong trái
cây tác dụng như là các chất men và kích thích sự lên
men. “Do đó, trong trường hợp này, tế bào
thực vật sinh hoạt như là một sinh vật khí.
Thế th́, trong trường hợp này, tại sao một
dạng tế bào hữu cơ lại không tác dụng như
vậy?” Giáo sư Bogolubof đă nêu ra câu hỏi trên. Pasteur
chứng tỏ rằng trong chất liệu của các mô và
các cơ quan của ta, khi không kiếm được
đủ oxygen cho ḿnh, tế bào liền kích thích sự lên
men, giống như tế bào trái cây, c̣n Claude Bernard cho
rằng ư kiến của Pasteur về sự tạo lập
các chất lên men được ứng dụng và bổ
chứng qua sự kiện là trong quá tŕnh ngộp thở,
lượng u rê gia tăng trong máu. Do đó, trong vũ
trụ, đâu đâu cũng có SỰ SỐNG và – theo
Huyền bí học – trong nguyên tử cũng có sự
sống nữa.
[579]
Nhiều khoa học gia (chẳng hạn như Giáo sư
[580]
“Chủ Nghĩa Duy Thực (Realism) đă sai lầm khi cho rằng
các điều trừu tượng là có thực. Không Gian và
Thời Gian được xem là không dính dáng ǵ tới mọi
kinh nghiệm cụ thể của tâm trí, thay v́ những sự
tổng quát hoá của một vài khía cạnh của các kinh
nghiệm này.
[581]
Pháp thuật bí nhiệm (The Mysteries of Magic) của A. E.
Waiter, trang 69 – 70, ấn bản 1897.
[582]
Như trên (Mysteries of Magic), trang 70.
[583]
[584]
Như trên, trang 24.
[585]
Năm năm của Theosophy, trang 169, ấn bản 1885.
[586]
Trong triết hệ Số Luận, bảy Prakritis (tức
“sản phẩm tạo tác”) là Toàn Linh Trí (Mahat), Ngă Thức
(Ahamkara) và năm Thức biến (Tanmatras). Xem Sankhya Karika III
và Giảng Lư.
[587]
Xem Linga Purana, Tiết trước, lxx, 12 và tiếp theo và
Vayu Purana, chương iv, nhưng đặc biệt là
Purana, Tiết trước, viii, 67 – 74.
[588]
[589]
Cũng theo siêu h́nh gia lỗi lạc Hégel. Đối với
ông, Thiên Nhiên biến dịch không ngừng. Thật là một
quan niệm nội môn thuần tuư. Người ta hoàn toàn khổng
thể quan niệm được sự Sáng tạo hay Nguồn
gốc theo nghĩa Thiên Chúa giáo. Tư tưởng gia vừa
nêu trên đă cho rằng: “Thượng Đế (Tinh Thần
Vũ Trụ) biểu lộ ra ngoại cảnh thành Thiên
Nhiên và lại xuất lộ từ đó.
[590]
THIỀN ĐỊNH CHÂN KINH (BOOK OF DZYAN), b́nh luận III,
trang 18.
[591]
Trang 19.
[592]
Xem quyển Nguồn gốc các Kích thước.
[593]
Con người Đầu tiên hay Nguyên thuỷ.
[594]
Sự Luân Hồi
[595]
Xem Thánh Thư John, x, 30.
[596]
Vận cụ (Vehicle)
[597]
Chẳng hạn như xem Các Bí Pháp thiêng liêng trong đám
người Mayas và Quiches (Sacred Mysteries among the Mayas and the
Quiches) [cách đây 11.500 năm] của Augustus le Plongeon, ông chứng
minh rằng các nghi lễ và tín ngưỡng của dân Ai Cập
cũng giống hệt như các nghi lễ và tín ngưỡng
của các dân tộc mà ông mô tả. Các mẫu tự tượng
h́nh (hieratic alphabets) cổ truyền của người Maya
và người Ai Cập cũng y hệt nhau.
[598]
Xem Các Chú thích bổ sung, trang 341.
[599]
Christina Rossetti.
[600]
Tạp chí Theosophist 1881.
[601]
Kinh Vedanta có hai ư nghĩa riêng biệt - một ư nghĩa được
diễn tả bằng nghĩa svara (âm điệu –
intonation), vốn là … sức sống của kinh Vedas… Các học
giả Ấn Độ và các nhà ngữ học dĩ nhiên sẽ
bác bỏ là svara chẳng có ǵ dính dáng đến triết học
hoặc nội môn bí giáo cổ truyền, nhưng quan hệ
bí nhiệm giữa svara và ánh sáng là một trong những điều
bí mật thâm sâu nhất của nó. T. Subba Row, Năm năm
Minh Triết Thiêng Liêng, trang 154, ấn bản 1885.
[602]
Nghĩa đen là một người ngoại quốc, một
người không thuộc ḍng giống Aryan.
[603]
Tài liệu của Trung quốc c̣n gọi các Ngài là “Các Con của
Minh Triết”, “Con của Sương Lửa” và “Huynh đệ
của Mặt Trời”. Trong các bản thảo ở thư
viện thiêng liêng của tỉnh Phúc Kiến, người
ta có bảo rằng Si-dzang (ở Tây Tạng) là trung tâm của
Huyền bí học từ hàng bao nhiêu thời đại
trước khi Đức Phật giáng sinh. Nghe nói Vua Vũ
(Emperor Yu; Đại Vũ, 2207 trước T.C), một thần
bí gia mộ đạo và một bậc Đại Thánh,
đă thụ giáo với các bậc “Đại Đạo Sư
Tuyết Sơn” ở Si-dzang.
[604]
Xem Quyển 2, Tiết 3, Chất liệu nguyên thuỷ và Tư
Tưởng Thiêng Liêng.
[605]
Đó là v́ xét theo nghĩa trừu tượng, Thiên Nhiên
chẳng thể nào “vô thức” (“Uncounscious”) v́ nó là phân thân,
và do đó là một trạng thái trên cơi biểu lộ,
của Tâm Thức TUYỆT ĐỐI (ABSOLUTE Consciousness).
Ai dám chối bỏ việc cây cỏ (thậm chí cả
đất đá nữa) đều có một tâm thức
riêng của ḿnh? Y chỉ có thể nói rằng tâm thức
này ở ngoài tầm hiểu biết của y.
[606]
Đó là trường phái Nyaga (luận lư), Vaisheshika, Sankhya
(Số Luận), Yoga, Mimamsa (Di Mạn tát) và Vedanta.
[607]
Xem quyển 2, phần 3; và quyển 4, phần 3.
[608]
“Khi cầu nguyện, con đừng bắt chước kẻ
đạo đức giả … song hăy khép cửa ḷng lại
và cầu nguyện với Cha con đang đắm ch́m trong
bí nhiệm”. Thánh thư Matthew, vi, 5, 6 và Thánh kinh
[609]
Đức Mẹ Đồng Trinh của Thế Giới ,
trang 133, 134.
[610]
Theo nguyên văn của
[611]
Sách đă dẫn, trang 41 – 42.
[612]
Xem ĐOẠN KINH 2 v.v…
[613]
Chỉ có các tín đồ Do Thái Bí giáo thời Trung Cổ Mới
bắt chước tín đồ Do Thái và một hay hai
người theo môn phái Tân Platon mà áp dụng từ ngữ Tiểu
Thiên Địa cho con người. Triết học cổ
truyền gọi Địa Cầu là Tiểu Thiên Địa
của Đại Thiên Địa, và con người là kết
quả của cả hai.
[614]
Dịch giả nhận xét: “Giáo lư này đă được
rao giảng cách đây 300 năm, lại giống hệt như
học thuyết đă từng cách mạng hoá nền tư
tưởng hiện đại, sau khi đă được
[615]
Nhà huyền bí Đông phương cho rằng chúng được
chỉ đạo và làm cho linh hoạt bởi các Đấng
Tâm Linh (Spiritual Beings), các Kẻ Hoạt Động (Workmen)
trong Thế Giới vô h́nh, ẩn sau bức màn che khuất
của Thiên Nhiên huyền bí.
[616]
Wilson, 1, ii, trang 29 – 34.
[617]
Đó là một thành ngữ thường được
dùng trong các “Áng văn” đă nêu mà chúng ta kịch liệt
phản đối. Toàn Linh Trí (the Universal Mind) không phải
là một Đấng hay một Thần Linh (“God”).
[618]
Đức Mẹ Đồng Trinh của Thế Giới,
trang 47. “Tổ sư y học bàn về nhập môn”
(“Asclepios on Initiation”), phần I.
[619]
Pymander thiêng liêng, ix, trang 64.
[620]
Đức Mẹ Đồng Trinh của Thế Giới,
trang 153.
[621]
Sách đă dẫn, trang 139, 140. Các đoạn văn trích từ
“Mục đồng ca” và “Thi tập” của Stobaeus.
[622]
Wilson, Vishnu Purana, I, ii, 13, 15.
[623]
Sách đă dẫn, trang 135 – 138.
[624]
[Biết, tri thức (to know, to be aware or conscious of)]
[625]
Suy tư, hiểu biết, minh triết.
[626]
Giáo lư này không đề cập tới Vật Chất-Tinh
Thần (Prakriti Purusha) bên ngoài các biên giới của vũ
trụ nhỏ bé của chúng ta.
[627]
Trạng thái thanh tịnh tối hậu; trạng thái Niết
Bàn của Nguyên Khí thứ Bảy.
[628]
Toàn bộ giáo lư đều được tŕnh bày từ cơi
tri thức của chúng ta.
[629]
Tức “Giấc mơ của khoa học”, vật chất bản
sơ thực sự đồng nhất mà không thế nhân
nào có thể biểu lộ ra ngoại cảnh trong Giống
dân hoặc Cuộc Tuần Hoàn này.
[630]
Dưới dạng năng lượng hoạt động,
Vishnu không bao giờ mọc hay lặn. Ngài vừa là mặt
trời thất phân, vừa chẳng dính dáng ǵ tới nó!
(Theo Vishnu Purana Wilson II, ix, 296).
[631]
“Cũng như khi tới gần một tấm gương
đặt trên một cái giá, một người thấy được
h́nh ảnh của chính ḿnh trong gương, cũng vậy,
năng lượng (hay phản ánh) của
[632]
So sánh với “Thiên Nhiên” (“Nature”) của Hermes “tuần hoàn giáng
xuống vật chất khi nó gặp “Thiên Đế”
(“Heavenly Man”)
[633]
Các tác giả của đoạn trên đă quán triệt
được nguyên nhân vật lư của thuỷ triều,
sóng biển v.v.. Ở đây, người ta có ư nói tới
Tinh Thần làm linh hoạt toàn bộ Thái Dương
Hệ, nó cũng được ám chỉ bất cứ khi
nào mà các thành ngữ như vậy đă được dùng
theo quan điểm thần bí.
[634]
Năm năm Minh Triết Thiêng Liêng, ấn bản 1885, trang
100 – 111. “Mười Hai Cung Hoàng Đạo”.
[635]
Xem các ĐOẠN KINH 3 và 4 và
phần giảng lư của ĐOẠN KINH 4, bàn về các vị Lipika và bốn
vị Đại Thiên Vương, các tác nhân của Nghiệp
Quả.
[636]
Và chư “Thần Quân” nữa, chứ không phải chỉ có
[637]
Ư nghĩa của điều này như sau: v́ con
người có đủ cả Ngũ đại: Hoả,
Phong, Thuỷ, Địa và Dĩ Thái – nên các TINH LINH
(ELEMENTAL) lần lượt
thuộc vào các Hành (Elements) này cũng thu hút về phía con
người do việc có cùng bản thể (co-essence). Hành
nào ưu thắng trong một cấu tạo nào đó
sẽ là hành chủ tŕ suốt đời. Chẳng hạn
như nếu một con người có hành Địa
trội nhất, các Thổ Địa (Gnomes) sẽ dẫn
dắt y hướng về các kim loại đồng hoá
(assimilating metals) - tiền bạc, của cải v.v.. Paracelsus
đă dạy: “Người thú là hậu thân của các
yếu tố thú vật phát sinh ra linh hồn (sự
sống) của y, c̣n các con thú là các tấm gương
phản chiếu con người. (Minh Triết căn
bản). Paracelsus rất thận trọng nên mới
muốn ḿnh nói ra điều ǵ là phải phù hợp với
Thánh Kinh, do đó ông đâu có tiết lộ hết mọi
điều.
[638]
Tiến triển tuần hoàn.
[639]
Đấng Thánh Linh nơi con người và thường
là hiện thân của một Thần Linh, một Thiền
Định Đế Quân thiêng liêng cao cả nơi y, ngoài
sự hiện diện của Nguyên Khí Thứ Bảy
của chính y ra.
[640]
Nay, ở đây “Đấng Thánh Linh” có nghĩa là ǵ? Đó
không phải là Đức Chúa Cha, một sản phẩm
nhân h́nh của óc tưởng tượng; v́ Đấng
Thánh Linh ấy là tập thể Elohim, và không có thực
thể ǵ nếu không được xét chung như vậy.
Ngoài ra, một Đấng Thánh Linh như vậy thật là
hữu hạn và bất toàn. Câu “chẳng có mấy kẻ”
(“few in number”) ở đây ám chỉ các cao đồ và các
đạo đồ cao cấp. Đó chính là các bậc tin
tưởng vào “chư Thần Linh” và chẳng biết
“Đấng Thánh Linh” nào khác hơn là một Đấng
Thiêng Liêng Đại Đồng, vô hạn.
[641]
Đức Mẹ Đồng Trinh Thế Giới, trang 104 –
105, “Các định nghĩa của Tổ Y Học Asclepios”.
[642]
Trang 120.
[643]
Nhà cải cách Quốc gia, 9-1-1887. “Vũ Trụ Năo sinh
học” của bác sĩ Lewins.
[644]
Đó là luật tuần hoàn (Cyclic law), nhưng chính luật
này thường bị sự ngoan cố của con
người thách thức.
[645]
Quyển I, trang 256.
[646]
Sepher Yetzireh.