ĐƯỜNG ĐẠO TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

(DISCIPLESHIP IN THE NEW AGE)

 

 

 

 

QUYỂN 1

 

 

Tác giả: ALICE A. BAILEY

Dịch giả: NGUYỄN HỮU KIỆT

 


 

MỤC LỤC

GHI CHÚ CỦA minhtrietmoi.org. 3

TIỂU SỬ TÁC GIẢ.. 4

CÁC LỜI CẦU KHẤN VĨ ĐẠI 17

CHƯƠNG I: HUẤN TỪ GỞI CÁC ĐỆ TỬ.. 19

PHẦN I 19

PHẦN II 26

PHẦN III 31

PHẦN IV.. 41

PHẦN V.. 50

PHẦN VI 59

PHẦN VII 65

PHẦN VIII 73

PHẦN IX.. 84

CHƯƠNG II: VÀI HUẤN THỊ CÁ NHÂN.. 92

Gửi: E.S.D. 92

Gửi L.Đ.O.. 101

Gửi J.A.C.. 104

Gửi F.C.D.. 105

Gởi J.W.P. 108

Gửi: I.A.P. 110

Gửi: S.S.P. 112

Gửi I.F.U.. 115

Gửi I.B.S. 119

CHƯƠNG III: SÁU GIAI ĐOẠN TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO.. 134

PHẦN I 135

PHẦN II 139

PHẦN III 144

PHẦN IV.. 154

Giai đoạn 1 – Người đệ tử sơ cơ. 156

Giai đoạn II – Người đệ tử trong ánh sáng. 159

Giai đoạn III - Con đường đệ tử chính thức. 168

Giai đoạn IV – Người đệ tử trên đường dây. 174

Giai đoạn V: Người đệ tử trong hào quang. 178

CHƯƠNG IV: TÓM LƯỢC CÔNG TR̀NH CỦA CHÂN SƯ TÂY TẠNG.. 193

GHI CHÚ CỦA MINHTRIETMOI.ORG

Bản dịch “Đường đạo trong kỷ nguyên mới” quyển I do dịch giả Nguyễn Hữu Kiệt dịch vào những năm 1976-1977 và được đánh máy phổ biến hạn chế trong ṿng hội viên quen biết của hội Theosophia Việt Nam. Những người yêu thích Minh triết Thiêng Liêng lại một lần nữa cám ơn Ông v́ những ǵ Ông đă làm: chuyển tải các tác phẩm Huyền môn nổi tiếng của thế giới sang tiếng Việt, với một lối dịch thanh thoát, khúc triết. Tuy rằng không phải tất cả bản dịch của Ông đều chuẩn xác, và nhiều bản dịch của Ông là bản dịch thoát, không dịch đầy đủ theo nguyên tác (chẳng hạn quyển “Các bậc Chân sư Yogi Ấn độ” dịch “the Autobiography of A Yogi”, Ông lược bỏ nhiều chương trong quyển sách), những ǵ Ông đă làm vô cùng quí giá và hữu ích cho người học đạo. Website www.minhtrietmoi.org đă cho đánh máy lại và phổ biến một tác phẩm quan trọng của Chân sư D.K với bạn đọc. Tuy nhiên, trong quá tŕnh biên tập, chúng tôi xin mạn phép tác giả chỉnh lư một vài từ cho phù hợp với thời hiện nay.

1. Từ Tập đoàn Tiên Thánh hoặc Hội đoàn Tiên thánh tác giả dịch từ tiếng Anh the Hierarchy, Hội Theosophia dùng từ the White Brotherhood. Chúng tôi nhận thấy từ Tập đoàn Tiên thánh có thể khiến bạn đọc ngày nay hiểu lầm, do đó xin mạn phép đổi thành Đại Đoàn Chưởng Giáo, như cách dịch của Trân Châu và một vài dịch giả khác (mặc dù công việc của the Hierarchy không chỉ bao gồm trong việc Giáo dục – Tôn giáo).

2. Từ thể phách, thể vía dịch giả dùng để dịch the etheric body, the astral (hay emotional) body, xin đổi thành thể dĩ thái (hoặc thể sinh lực) và thể t́nh cảm.

3. Từ Đệ tử nhập môn dịch giả dùng để dịch từ the Accepted Disciple, chúng tôi thấy chưa phản ánh đúng ư nghĩa của từ. The Accepted Disciple là đệ tử đă được Chân sư thâu nhận chính thức sau khi đă trải qua giai đoạn đệ tử dự bị, do đó nên dùng từ Đệ tử Chính thức để dịch the Accepted Disciple.

4. Lời Đại khấn nguyện phần III, chúng tôi sử dụng bản dịch trên website của lucistrust.org.

4. Ngoài ra, chúng tôi giữ lại toàn bộ bản dịch của dịch giả. Chỉ lưu ư bạn đọc là dịch giả dịch các từ glamour và illusion thành ảo giác và ảo tưởng. Glamour và Illusion là chủ đề rất tinh tế của cả một quyển sách Glamours – A World Problem. Do đó bạn đọc nên tham khảo quyển sách Glamours – A World Problem để hiểu thêm những ǵ Chân sư D.K nói về ảo ảnh và ảo giác ở đây. Cũng lưu ư là Nguyễn Hữu Kiệt không dịch hết toàn bộ quyển Discipleship in the New Age, Vol I. Ông bỏ bớt nhiều thư từ Chân sư gởi cho các đệ tử.

www.minhtrietmoi.org

TIỂU SỬ TÁC GIẢ

ALICE ANN BAILEY nhũ danh là ALICE Latrobe Boteman, sinh ngày 16-6-1880 tại Manchester Anh Quốc, con một kỹ nghệ gia, chủ nhân một trong những xí nghiệp to lớn nhất tại Anh, thuộc ḍng quí phái có tước vị của triều đ́nh Anh.

Bà sinh trưởng trong một gia đ́nh Thiên-chúa giáo với những quan niệm chính thống, cổ hủ, hẹp ḥi.

Gặp gỡ Chân Sư - Một biến chuyển quan trọng xảy đến trong đời bà vào ngày 30-6-1895 khi bà mới 15 tuổi. Đó là việc tiếp xúc với Chân Sư K.H., một kinh nghiệm độc đáo mà bà không bao giờ quên.

Bà đang bị băn khoăn, thắc mắc về những mâu thuẫn của tôn giáo, một đàng là sự cao quư của nghi thức lễ bái trong giáo đường, một đàng là các tín điều chật hẹp g̣ bó của Gia Tô giáo. Theo quan niệm thời ấy, thế gian chia làm hai thành phần: Những người nào tin rằng Chúa Jesus chịu pháp nạn trên Thành giá đă lấy máu ḿnh để cứu chuộc tội lỗi của thế gian và những người chịu phép phép rửa tội vào đạo sẽ lên Thiên đàng, c̣n những người ngoại đạo không tin tưởng sẽ phải xuống hỏa ngục đời đời, kiếp kiếp.

Một đàng là người Gia Tô giáo cố gắng cứu rỗi linh hồn của kẻ khác và một đàng là những người ngoại đạo tôn thờ h́nh tượng bằng gỗ đá. Họ không hề nhận thấy rằng Đức Phật cũng được tôn thờ bằng h́nh tượng, và các tượng Phật cũng chẳng khác ǵ những h́nh tượng Chúa Jesus trong các nhà thờ. Bà hoang mang, thắc mắc vô cùng, chẳng khác nào đi trong đám mây mù, không biết đâu là ánh sáng.

Trong cơn khủng hoảng tâm linh đó, một trong các chân Sư minh triết đă xuất hiện trước bà. Đây là lời bà thuật lại trong quyển “Tự thuật” (An unfinished Autobiography):

“Một buổi sáng chúa nhật, cả nhà đều đi lễ nhà thờ, chỉ có một ḿnh tôi ở nhà. Tôi đang ngồi đọc sách trong pḥng khách, th́nh ĺnh cánh cửa mở và một người lạ mặt bước vào. Đó là một người Đông Phương, tầm vóc cao lớn, mặc bộ Âu phục cắt rất khéo, đúng thời trang và có bịt khăn trên đầu. Người ấy ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi vô cùng ngạc nhiên v́ không biết người là ai và đâm ra sợ sệt đến nổi tôi không thốt lên được một lời nào, hoặc hỏi người đến có việc ǵ. Kế đó, người ấy bắt đầu nói chuyện. Người ấy nói với tôi rằng: Có một công việc do Thiên cơ dự định mà tôi có thể làm cho thế gian, nhưng tôi cần thay đổi tâm t́nh tính chất của tôi rất nhiều trước khi bắt tay vào việc. Tôi phải tập lấy đức tự chủ đến một mức độ nào đó để có thể trở nên hữu dụng cho Ngài và cho thế giới trong tương lai. Nếu được như vậy, tôi sẽ được giao phó một sứ mạng với sự tin cậy của Ngài và sẽ đi du lịch khắp nơi trên thế giới để làm công việc của Ngài …

Kể từ đó về sau, những lời này luôn luôn văng vẳng bên tai tôi. Ngài nhấn mạnh rằng vấn đề này tùy nơi tôi được tự do quyết định và nói thêm rằng Ngài sẽ tiếp xúc với tôi từng kỳ hạn cách khoảng độ vài năm một lần …

Cuộc gặp gỡ đó rất ngắn. Tôi không biết nói ǵ mà chỉ ngồi nghe Ngài với một giọng rất cả quyết và dơng dạc, khi đă nói xong những điều cần thiết, Ngài đứng dậy bước ra, đi tới ngưỡng cửa c̣n quay đầu lại nh́n tôi trong một phút với một cái nh́n linh động mà đến bây giờ tôi vẫn c̣n nhớ rất rơ ràng.

Lúc ấy, bà c̣n hoang mang và không hiểu ǵ cả, với thời gian qua, bà nhận thấy rằng, cứ cách khoảng 7 năm một lần, bà lại có chứng nghiệm về sự săn sóc và che chở của Ngài. Năm 1915 khi được 35 tuổi, bà mới khám phá ra Ngài là ai và thấy rằng có nhiều người khác cũng được biết Ngài. Kể từ đó về sau, sự liên hệ của bà với Chân Sư trở nên ngày càng mật thiết hơn và sau cùng có thể tiếp xúc với Ngài bất cứ lúc nào tùy ư.

Sự tiếp xúc này là một ân huệ đặc biệt mà Chân Sư chỉ ban cho người đệ tử khi người này đừng lạm dụng cơ hội để quấy rầy Ngài v́ những việc lặt vặt và có tính cách ích kỷ cá nhân, trừ phi trong những trường hợp khẩn thiết để phụng sự nhân loại. Bà được biết Ngài là Chân Sư K.H. một vị Chân Sư hợp tác rất chặt chẽ và thân cận với Đức Chưởng Giáo, thuộc về cung Minh Triết và Bác Ái, chăm lo về việc giáo hóa, dạy dỗ nhân loại trên địa hạt Tôn giáo và Giáo dục.

Bà đă bắt đầu phụng sự Ngài từ lúc bà 15 tuổi và về sau bà trở nên một đệ tử cao cấp trong nhóm đệ tử của Ngài.

Trên thế gian này có rất nhiều đệ tử huyền môn, ngày nay đă đến lúc mà các vị đệ tử không cần phải che dấu địa vị của ḿnh như trước nữa, mà phải xuất đầu lộ diện để chứng minh sự hiện diện của các Chân Sư cùng công việc của các Ngài để giúp đỡ sự tiến hóa của nhân loại. Đó là một sự chứng minh chánh đáng bằng đời sống gương mẫu của các vị đệ tử huyền môn.

GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH

Năm 22 tuổi, nhờ có sự huấn luyện đầy đủ về giáo lư Gia tô ở nhà trường từ nhỏ, bà ra làm việc xă hội trong Hiệp hội Phụ nữ Công giáo Anh Quốc (YVVCA). Bà làm công việc thuyết giảng giáo lư, cố gắng cứu rỗi những linh hồn lạc lơng và đem họ vào Tôn Giáo. Tuy nhiên bà vẫn cảm thấy một sự xung đột trong nội tâm v́ những tín điều g̣ bó chật hẹp của Tôn Giáo, điều này không làm cho bà được thỏa măn lư trí và tâm linh. Bà vẫn luôn luôn đặt những câu hỏi về địa hạt thần bí, siêu h́nh mà chưa ai có thể giải đáp thỏa đáng.

Giai đoạn kế đó, bà nhận lănh chức vụ Nữ trợ tá Xă hội và Tuyên Úy trong quân đội. Ở Anh Quốc, Cơ quan Tuyên Úy do tư nhân đảm trách, dưới sự bảo trợ của Chánh Phủ. Đó là một Cơ quan cư xá của binh sĩ do một nhà từ thiện là bà Elise Sandes sáng lập, dùng toàn nữ nhân viên trợ giúp.

Bà Sandes đă dành trọn cuộc đời vào công tác xă hội này để cải thiện đời sống binh sĩ. Bà quản trị những cư xá này theo đường lối khác hẳn với những cơ quan Tuyên úy trong quân đội. Cơ quan Tuyên úy của bà có nhiều chi nhánh ở IRLANDE và ở Ấn Độ.

Trước hết, bà Alice Latrobe Boteman làm việc tại cư xá Belfast. Công việc của một nữ Tuyên úy là tiếp xúc với các binh sĩ lưu trú tại cư xá. Trong những giờ nghỉ ngơi, tiêu khiển sau bữa cơm chiều, các binh sĩ thường tụ họp ở các pḥng công cộng để viết thư về nhà, đọc báo chí sách vở, hoặc đánh cờ và chơi các tṛ giải trí. Các nữ Tuyên úy có nhiệm vụ hỏi han săn sóc họ nếu họ cảm thấy cô đơn, chán nản hoặc nhớ nhà. Thường th́ có hai nữ Tuyên úy giúp việc trong mỗi cư xá và các cô đều có nơi trú ngụ riêng biệt. Trong cư xá có một pḥng giảng kinh Phúc âm, có dương cầm, Thánh kinh, các nữ Tuyên úy thay phiên nhau giảng Thánh kinh Phúc âm để cứu rỗi linh hồn các binh sĩ.

Ngoài việc giảng kinh các cô c̣n có một phận sự làm quen với các binh sĩ, nói chuyện, đánh cờ với họ, hoặc viết thư cho các binh sĩ với một thái độ cởi mở, vô tư đối với mọi người, và đồng thời gây cho họ cái cảm giác là ḿnh săn sóc, lưu tâm và muốn giúp đỡ họ để nâng đỡ tinh thần binh sĩ cho khỏi cô đơn, lạc lơng khi sống xa gia đ́nh.

Một ngày nọ, bà Elise Sandes, Giám đốc Cơ quan Tuyên úy nhận được một bức thư cho hay vị Trưởng chi nhánh cơ quan Tuyên úy ở Ấn Độ là bà Theodora bị đau yếu cần phải về xứ để dưỡng bệnh. Bà đang lo âu v́ không t́m được người thay thế. Rốt cuộc, bà Giám đốc mới nói với Alice: “Lúc này cơ quan đang thiếu hụt phương tiện tài chính, chớ nếu đủ tiền tôi sẽ gởi em sang Ấn Độ”. Hồi đó tiền tàu sang Ấn Độ rất mắc, vă lại bà Giám đốc c̣n phải trả tiền tàu cho bà Theodora về xứ.

Với phản ứng tự nhiên, bà Alice nói: “Nếu Thượng Đế muốn cho em qua đó th́ Ngài sẽ gởi tiền”.

Vài ngày sau trong giờ ăn điểm tâm, bà Giám đốc mở một bức thư mới nhận được, bà thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên và đưa cho bà Alice xem. Trong thư chỉ có một ngân phiếu 500 Anh kim với ḍng chữ: “ĐỂ LÀM VIỆC BÊN ẤN ĐỘ”, ngoài ra không có thư từ ǵ cả, cũng không có đề tên người gởi ở ngoài bao thư. Cả hai bà đều không biết số tiền đó do đâu gửi đến và phải chấp nhận nó như một ân huệ trực tiếp của Thượng Đế. Bà Alice tự hỏi, phải chăng đó là tiền của Chân Sư gửi cho bà. V́ bà cần phải sang Ấn Độ để thâu thập ít nhiều kinh nghiệm và xây dựng nền tảng cho công việc mà Chân Sư đă nói với bà trước đó nhiều năm rằng bà có thể làm cho Thiên Cơ và cho Ngài. Tuy nghĩ như vậy, nhưng về sau bà cũng không hề hỏi Chân Sư về việc đó nữa, v́ bà cho rằng đó không phải là điều quan trọng.

Sau 4 năm làm nữ Tuyên úy Công giáo tại Ấn Độ, v́ khí hậu nóng nực, v́ công việc bề bộn, và trách nhiệm quá nặng nề, sức khỏe bà suy kém, bà đau nặng phải vào nằm bệnh viện. Ngoài ra bà c̣n bị sự căng thẳng thần kinh và xúc động tâm lư dày ṿ. Đây là lời bà thuật lại: “Một đêm nọ tại LUCKINOW khí trời oi bức, tôi không sao ngủ được. Tôi đi tới lui trong pḥng, nhưng không thấy mát hơn, lại c̣n bị đàn muỗi quấy rầy. Tôi trở vào pḥng và đứng trước tủ kiếng một phút. Th́nh ĺnh trong pḥng có hào quang sáng rực và tôi nghe giọng nói của vị Chân Sư đă đến với tôi hồi tôi 15 tuổi. Lần này tôi không nh́n thấy Ngài, tôi chỉ đứng ngay giữa pḥng và nghe giọng nói của Ngài. Ngài trấn an tinh thần tôi và khuyên tôi đừng quá lo âu thắc mắc. Ngài nói rằng tôi đang được đặt dưới sự săn sóc che chở của Ngài và tôi đang làm những ǵ Ngài muốn. Ngài nói với tôi rằng mọi việc đang được trù liệu và công việc mà Ngài định giao phó cho tôi trước đây cũng sắp bắt đầu nhưng theo một đường lối mà tôi sẽ không nhận ra. Ngài dặn tôi hăy chuẩn bị để thi hành sứ mạng …”

GIAI ĐOẠN THÀNH HÔN (27 đến 35 tuổi)

V́ làm việc quá sức, bà bị thần kinh suy nhược phải về xứ dưỡng bệnh. Kế đó là giai đoạn thành hôn khi bà 27 tuổi. Chồng bà là ông Walter Evan, một vị mục sư Tin Lành, nhưng cuộc hôn nhân này bị thất bại một cách bi đát sau khi bà sanh được ba đứa con gái. Chồng bà lúc đầu vẫn b́nh thường nhưng về sau đâm ra nóng nảy, vũ phu, cộc cằn. Gia đ́nh đă xảy ra nhiều cơn sóng gió với những sự bất đồng xung đột ư kiến. Trong một cơn nóng giận, chồng bà xô bà té xuống thang lầu khi bà đang có thai đứa con gái út, làm động đến cái thai. Bà sinh non tháng, đứa bé rất èo uột khó nuôi, tưởng là non yểu, nhưng nhờ trời, rốt cuộc nó vẫn sống và mạnh khỏe lần lần.

Kết quả là cuộc ly di xảy ra vào năm 1918 sau thế chiến thứ I chấm dứt. Nhưng trên thực tế, bà đă sống ly thân từ năm 1915 khi bà được 35 tuổi.

GIAI ĐOẠN NGHÈO TÚNG PHẢI LÀM
 CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG

Sau khi ly thân với chồng, bà phải sống tự túc và t́m việc làm để nuôi con. Bà xin được việc làm tại một xưởng làm cá hộp. Bà chịu trả nửa tháng lương của bà cho một người láng giềng để nhờ họ săn sóc và chăm nom giùm ba đứa con gái c̣n ấu thơ trong những giờ bà đi t́m việc. Mỗi ngày bà vô hộp trung b́nh 10.000 con cá ṃi, tính ra đến hàng trăm hộp cá mỗi ngày.

Một người phụ nữ ở giai cấp quư phái mà ngày nay phải làm một việc lao động chân tay, dầu mỡ lấm lem như vậy, kể như cuộc đời bà đă xuống dốc. Khách đến viếng xưởng cá hộp của bà đă thốt ra lời b́nh phẩm:

- Một người đàn bà như vậy sao lại lọt vào đây.

- Bà ta có vẻ quá cao sang để làm công việc này, nhưng không biết cao sang thật không?

- Cái ngữ này chắc là có làm chuyện ǵ không hay ở ngoài đời, sống hết nổi với thiên hạ rồi mới lọt vào đây chớ ǵ.

- Đừng thấy h́nh dáng bề ngoài mà lầm. Coi chừng mắc phải quả trứng thối.

Những lời b́nh phẩm có tính cách thóa mạ đó làm cho bà run lên v́ tức giận. Nhưng một người cai xưởng đứng gần bên nghe rơ đầu đuôi, khi thấy đă đi xa, bước tới gần để an ủi bà:

- Bà đừng buồn hởi bà Evans, ở đây chúng tôi đều gọi bà là một viên ngọc quư rớt xuống vũng bùn.

Lời nói đầy thiện cảm này đă bù lại rất nhiều sự thóa mạ của những người kia. Nó tỏ cho bà thấy rằng tựu trung bản tánh nhân loại vẫn tốt lành như bà vẫn thường tin tưởng với một niềm tin vững chắc tuyệt đối.

TIẾP XÚC VỚI GIÁO LƯ HUYỀN MÔN

Ở gần nhà có hai phụ nữ người Anh, cùng ở giai cấp quư phái như bà. Hai bà này có tổ chức tại nhà họ một cuộc hội họp pḥng khách hằng tuần để nghe giảng về một môn học huyền bí gọi là Giáo lư Huyền Môn. Do sự giới thiệu của một người bạn, bà có dịp tiếp xúc với giới này và bắt đầu học hỏi Giáo lư Huyền Môn từ đó. Hai bà bạn mới sẵn ḷng chỉ dẫn cho bà những giáo lư căn bản và cho bà mượn sách, vở, tài liệu đem về nhà.

Chuỗi ngày của bà từ đó trở nên rất bận rộn và rất dài: 4 giờ sáng thức dậy, quét nhà, dọn bữa ăn sáng cho ba đứa con vào lúc 6 giờ. Lúc 6g30 giao con cho người láng giềng coi sóc, rồi đi làm tại xưởng cá hộp. Ăn trưa và nghỉ trưa tại xưởng hết 1 giờ. Xong lại làm việc đến 4 giờ chiều mới về nhà. Những buổi chiều mùa đông mưa gió, tuyết lạnh, bà ở nhà chơi với con. Mùa hè nóng nực, bà đưa chúng ra bờ bể. Đến 7 giờ mới về nhà, ăn cơm tối xong cho chúng đi ngủ. Bà giặt giũ quần áo, lên giường chong đèn ngồi đọc sách đến nửa đêm mới ngủ.

Do bản chất tự nhiên, bà chỉ cần ngủ rất ít, bác sĩ nói mỗi đêm, bà chỉ ngủ có 4 giờ và bà cảm thấy rất đúng. Nhịp độ sinh hoạt hàng ngày của bà vẫn tiếp diễn y như trên, nhờ đó bà có thể làm việc rất nhiều.

Giai đoạn kế đó, bà gia nhập Hội Thông Thiên Học và hoạt động giúp Hội rất đắc lực trong các công việc quản trị và truyền bá giáo lư. Bà cũng làm những công tác điều khiển các buổi học Giáo lư Huyền Môn và thuyết pháp trên diễn đàn công cộng v.v…

GẶP GỠ ÔNG FOSTER BAILEY VÀ TIẾP XÚC VỚI
 CHÂN SƯ TÂY TẠNG (DJW AL KUL)

Năm 1919, bà gặp ông Foster Bailey tại Krotona, trụ sở hội T.T.H tại California.

Ông Bailey hành nghề luật sư có nhiều thân chủ và sự nghiệp rất phát đạt. Trong trận thế chiến 1914-1918, ông ṭng chinh ở mặt trận Tây Âu với chức vụ huấn luyện phi công trinh sát. Lúc chiến tranh sắp kết liễu, ông bị tai nạn phi cơ, bị thương nặng và giải ngũ. Sau một thời gian dưỡng bệnh và phục hồi sức khỏe, ông định tiếp tục ở lại hành nghề luật sư. Nhưng từ khi gặp bà và nhận thức sứ mạng cao cả của bà đối với Thiên Cơ, ông liền từ bỏ mọi việc để cùng bà hợp tác trong công việc phụng sự. Kế đó, ông bà đính hôn với nhau một thời gian trước khi làm hôn lễ chính thức. Cuộc hôn nhân này rất tương đắc, kéo dài đến 26 năm cho đến khi bà mất.

Tháng 11-1919, bà tiếp xúc lần đầu tiên với Đức DJWAL KUL trong một dịp khá ly kỳ. Bà tường thuật cuộc tiếp xúc đó như sau:

Sáng hôm đó bà đưa con đi học, xong xuôi có vài phút rảnh rang bà mới đi lên ngọn đồi ở cạnh nhà để suy tư trong giây lát. Th́nh ĺnh và giựt ḿnh và nghe dường như có một âm thanh kỳ diệu như tiếng nhạc vang lên trong không gian, xuyên qua ngọn đồi và xuyên qua người bà. Kế đó bà nghe từ trên không một giọng nói với bà rằng: Có vài quyển sách mà chúng tôi thấy cần được viết ra cho người thế gian. Bà có thể làm được việc này. Bà có chịu nhận làm công việc đó không?

Bà không chút do dự, nói ngay: “Chắc là không. Tôi không phải là đồng cốt và tôi không muốn dính líu ǵ với việc đó.”

Bà cũng giựt ḿnh mà thấy ḿnh bỗng nhiên nói lớn tiếng. Giọng nói kia tiếp theo rằng người khôn ngoan không bao giờ xét đoán vội vàng, rằng do bản chất tự nhiên, bà có khả năng lạ lùng về môn thần giao cách cảm thuộc loại siêu đẳng, công việc mà bà được giao phó không có chút ǵ thuộc về chuyện đồng cốt, quàng xiên. Bà trả lời rằng bà không cần, v́ bà không thích làm việc ǵ có tính cách Thần Linh. Người khuất mặt khi đó mới nói rằng bà cần có thời giờ suy nghĩ trước khi quyết định, và người không chấp nhận sự trả lời của bà hôm đó. Người sẽ gặp lại bà sau ba tuần lễ và hy vọng bà sẽ đổi ư.

Bà trở về nhà và hoàn toàn quên hẳn việc đó, cũng không nói cho ông Bailey nghe câu chuyện xảy ra. Sau 3 tuần lễ, giọng nói ấy lại trở lại khi bà đang ngồi nơi pḥng khách vào lúc chiều tối sau khi mấy đứa con bà đă đi ngủ. Giọng nói ấy nhắc lại việc hôm trước. Lần này bà có ư ṭ ṃ tuy rằng không bị thuyết phục. Bà định làm việc ấy trong vài tuần hay một tháng thử xem, rồi mới quyết định. Chính trong vài tuần này mà bà viết những Chương đầu của quyển “ĐIỂM ĐẠO HUYỀN MÔN” (Initiation, Human-Solar) qua sự tiếp xúc với Chân Sư bằng Thần giao cách cảm.

Sau khi viết sách gần một tháng cho Chân Sư Tây Tạng, bà đâm hoảng sợ và ngưng mọi công việc. Bà thưa với Chân Sư (bằng Thần giao cách cảm) rằng: bà c̣n phải nuôi ba đứa con gái, nếu v́ làm công việc này bà bị đau yếu hay phát điên (như nhiều người đồng cốt đă bị) th́ con bà không ai nuôi dưỡng, nên bà không dám mạo hiểm tiếp tục công việc. Chân Sư D.K. chấp nhận quyết định này nhưng yêu cầu bà hăy tiếp xúc với Sư Phụ bà là Chân Sư K.H. và tŕnh bày mọi việc với Ngà. Sau khi suy nghĩ cẩn thận độ một tuần lễ, bà mới quyết định tiếp xúc với Chân Sư K.H. bằng một phương pháp riêng mà Ngài đă dạy bà trước đây. Trong cuộc tiếp xúc đó, Ngài dạy rằng công việc bà đang làm không có ǵ nguy hiểm về thể chất hay tinh thần, và đó là một cơ hội phụng sự rất quư báu. Ngài cũng cho biết rằng chính Ngài cũng đề nghị với Chân Sư D.K hăy đến t́m bà để nhờ bà trợ giúp trong công việc này. Khi đó bà mới tuân lệnh Sư Phụ và trở về tiếp tục công việc viết sách cho Chân Sư D.K.

Việc viết sách này được thực hiện bằng hai phương pháp. Trong giai đoạn đầu bà ngồi viết vào những giờ nhất định và nghe giọng nói của Chân Sư đọc cho bà viết từng chữ, từng câu rơ ràng như viết ám tả. Phương pháp đó có thể coi như phương pháp dùng thần nhĩ (clair-audience) do âm thanh vang dội trong lỗ tai.

Về sau khi đă có sự ḥa hợp tâm linh giữa Chân Sư với bà, th́ phương pháp trên không cần thiết nữa. Bà chỉ cần tập trung tư tưởng và bắt được ḍng tư tưởng của Chân Sư do Ngài gieo vào tâm trí bà bằng đường lối thần giao cách cảm (Telepathy).

Nội dung các quyển sách này gồm tất cả phần giáo lư đều là lời dạy của Đức D.K. C̣n bà Alice chỉ là người ghi chép lại và sửa đổi vài chỗ về phần h́nh thức, về văn phạm và bút pháp cho hợp với các tŕnh bày mới mẽ tân tiến thôi. C̣n về phần ư nghĩa, nội dung th́ bà hoàn toàn không hề thêm bớt hay sửa đổi một chữ nào dầu rằng có nhiều đoạn bà không đồng ư, hoặc không hiểu rơ. Như thế, tuy bà đứng tên là tác giả quyển sách này, nhưng thật ra th́ tác giả chính là Đức DJWAL KUL. Kể từ đó về sau, suốt 27 năm bà tiếp tục làm công việc này và viết thêm nhiều quyển khác nữa như: “ĐƯỜNG ĐẠO TRONG KỶ NGUYÊN MỚI”, “LUẬN VỀ LỬA TIÊN THIÊN” (Treatise on Cosmic Fire) …

Những sách mà Đức D.K. đọc cho bà viết gồm những chân lư mới mà nhân loại cần biết trong thời đại tân tiến ngày nay. Những giáo lư mới, cùng với đường lối công phu Tu luyện và chuẩn bị cho thí sinh trở thành đệ tử cũng được tŕnh bày cho nhân loại trong kỷ nguyên mới.

GIAI ĐOẠN THÀNH LẬP TRƯỜNG NỘI MÔN BÍ GIÁO
(Arcane School)

Trong những ngày đầu tiên không ai ngờ rằng công việc phổ biến và truyền bá đạo lư mà hai ông bà Bailey theo đuổi với tinh thần hiến dâng trọn vẹn cuộc đời, sẽ có thể bánh trướng đến mức đại qui mô, với nhiều chi nhánh trên thế giới được thừa nhận và ảnh hưởng sâu xa đến cuộc đời của nhiều trăm ngàn người. Công việc ban đầu chỉ có 2 ông bà Bailey với bạn hữu đứng ra tổ chức. Tài chánh không có và tương lai rất mịt mờ. Hai ông bà chỉ có lúc khởi công. Lúc đó nhằm cuối tháng, tiền nhà chưa trả, tiền đèn nước c̣n thiếu, hóa đơn thực phẩm chưa trả tiền từ tháng trước. Trong lúc quẩn bách, thiếu thốn mọi phương tiện, một đêm nọ bà cầu nguyện ơn trên trợ giúp. Sáng hôm sau, khi bước ra cửa, bà thấy trên ngưỡng cửa có 1 gói bạc đựng đủ số tiền mà bà đang cần dùng, và vài ngày sau ông Foster Bailey nhận được một bức thư của ông Ernest Suffern mời ông nhận chức Thư kư Chi bộ TTH tại NEW YORK với số lương 300$ một tháng, có nhà ở.

Do đó, hai ông bà dọn nhà về ở thành phố này và bắt đầu công việc đưa đến việc thành lập TRƯỜNG NỘI MÔN BÍ GIÁO. Trong khi đó bà vẫn tiếp tục viết những bộ sách HUYỀN MÔN dưới sự chỉ đạo của Đức D.K. và đă xuất bản được ba quyển.

Do kết quả việc xuất bản những bộ sách này mà công chúng gửi thư về tới tấp về học hỏi đạo mầu. Nhu cầu mở những lớp học bộ sách Giáo lư Bí truyền của bà Blavataky cùng những lời kêu gọi giúp đỡ về đời sống tâm linh của công chúng đ̣i hỏi một sự giải quyết thỏa đáng. Chính v́ lư do đó mà vào tháng tư 1923, bà tổ chức việc thành lập trường NỘI MÔN BÍ GIÁO, dạy đạo cho công chúng bằng cách hàm thụ.

Bà chỉ bắt đầu với sự thiện chí, mong ước mănh liệt được giúp đỡ, phụng sự người khác và một vốn liếng tinh thần là 3 quyển sách Đạo vừa mới xuất bản. Vậy mà kể từ đó về sau đă có trên 30.000 người nhập học. Công việc của trường NỘI MÔN BÍ GIÁO được phát triển trên quy mô quốc tế và được hầu hết các nước trên thế giới công nhận. Trong công việc vĩ đại này, bà được sự trợ giúp và hợp tác vô cùng quư báu của chồng bà, ông Foster Bailey, mà bà nói rằng, nếu không có ông, bà không thành công được.

Thật không phải là một việc dễ dàng mà điều khiển một cơ quan Nội Giáo Bí Truyền với bao nhiêu sinh hoạt phức tạp và trách nhiệm nặng nề. Bà nói, nếu không nhờ có sự trợ giúp và óc khôn ngoan sáng suốt của ông Bailey, th́ có thể rằng bà đă vấp bao nhiêu lỗi lầm về mặt quản trị, tổ chức nội bộ cơ quan, cùng những sự xét đoán sai lầm về mặt nhan sự, giao tế và đối ngoài và có thể bà đă bị kẹt nặng nhiều về phương diện pháp lư. Nhờ sự thông suốt về luật pháp, sự hành động sáng suốt vô tư và thái độ b́nh tĩnh điềm đạm của ông Bailey, không bao giờ rối loạn trước nghịch cảnh hay biến cố bất thường, nên bà luôn luôn được gỡ rối và giải quyết mọi việc được trôi chảy êm đẹp.

Về mặt truyền bá đạo lư, trách nhiệm của bà thật nặng nề, không phải chuyện dễ dàng mà hướng dẫn các học viên về công phu thiền định. Đó là một con đường nguy hiểm, chật hẹp và bén nhọn như lưỡi dao cạo, nếu hành giả tu luyện sái phép và đi lầm đường.

Ngoài ra c̣n phải đảm đương trách nhiệm về sự sinh hoạt tâm linh của học viên, khi họ t́nh nguyện giao phó đời sống tinh thần của họ trong tay bà để được bà hướng dẫn, huấn luyện và bà phải đáp ứng thỏa đáng mọi nhu cầu tâm linh đó cho đúng với nhiệm vụ của một nhà lănh đạo tinh thần.

Trong công việc vĩ đại đó, bà được sự trợ giúp quư báu của những nhân viên cộng tác tại trụ sở chánh Cơ quan và của các cộng tác viên ở hải ngoại.

Năm 1947, ngoài trụ sở chánh ở New York với một số đông nhân viên thường trực, c̣n có một số chi nhánh cơ quan ở Anh, Ḥa Lan, Ư và Thụy Sĩ với một nhóm gồm 140 thư kư và học viên cao cấp để hướng dẫn các học viên mới. Những vị thư kư này rải rác khắp nơi trên thế giới, và nhờ có tinh thần phụng sự vị tha vô kỷ, làm việc không lương trong nhiều năm liên tiếp mà công việc mới tiếp tục trôi chảy đến ngày nay.

Ngày nay, Cơ quan đă bành trướng rộng răi thêm với một chi nhánh ở Nam Mỹ, Thổ Nhỉ Kỳ và Tây Phi và với những học viên rải rác ở nhiều nơi trên thế giới.

Trường Nội Môn Bí Giáo (Arcane School) vẫn tiếp tục phát triển không ngừng và trong tâm linh bà nhận thức được rằng, bà đang làm sứ mạng mà Chân Sư K.H. đă nói với bà năm 1895 khi bà mới 15 tuổi.

Chương tŕnh học của trường mỗi lúc càng mở rộng thêm lần lần. Bà vẫn giữ cho công việc được linh động, uyển chuyển để đáp ứng với những nhu cầu của thời đại mới, của trào lưu tiến hóa.

Trường Nội Môn Bí Giáo nay đă có Cơ sở rất vững vàng gồm thêm 1 Công ty ấn loát để phổ biến các bộ sách mới về giáo lư Huyền Môn. Bắt đầu với một nhóm nhỏ vài ba người học viên thân tín, nay cơ quan của bà Alice Bailey sáng lập đă phát triển mạnh và c̣n dự định một kế hoạch về sinh hoạt tinh thần để phụng sự nhân loại trong tương lai.

(Soạn theo tài liệu “AN UNFINISHED AUTOBIOGRAPHY” của ALICE A. BAILEY)

Quyển sách này xét trên nhiều phương diện là một pho tài liệu độc đáo. Theo tôi biết xưa này chưa từng có một tài liệu nào như vậy đă được phổ biến.

Sách này gồm những lời huấn giáo do một trong các Chân Sư Minh Triết giảng dạy cho vài vị đệ tử nội môn và những huấn thị dạy riêng cho từng người trong một nhóm đệ tử khác. Nhiều vị đệ tử trong nhóm này hoàn toàn xa lạ đối với tôi khi tôi được lưu ư đến họ. Về sau tôi có được gặp vài người, cũng có những người khác mà tôi không hề gặp bao giờ. Tôi được biết rơ vài người và có thể hiểu v́ sao họ được chọn, lư do là bởi họ đă tự nguyện hiến dâng cho đời sống tinh thần và t́nh thương nhân loại. Có một hay hai người mà lúc đầu tôi cho rằng không xứng đáng được chọn nhưng về sau tôi đă đổi ư và nh́n nhận rằng sự chọn lựa đó được quyết định bởi một trí thông tuệ, sáng suốt hơn tôi nhiều.

Tôi cũng được biết rằng nghiệp duyên (relationships) được tạo ra từ nhiều tiền kiếp cũng là những yếu tố quyết định, và bởi đó mà một vài đệ tử đă có thẩm quyền được chọn, dẫu rằng tŕnh độ tâm linh của họ có vẻ chưa đúng mức dưới tầm mắt nhận xét của kẻ bàng quan.

Nhiều giáo lư được đưa ra trong sách này rất mới lạ về h́nh thức và vài giáo lư cũng mới trên thực tế.

Có một điểm nổi bật rơ ràng là những quy luật cổ xưa về nếp sinh hoạt của người đệ tử trải qua nhiều thế kỷ trước đây, nay vẫn c̣n áp dụng nhưng có thể được diễn đạt một cách mới mẽ và thường là khác hẳn. Sự hành đạo công phu (training) được truyền dạy cho các đệ tử trong kỷ nguyên mới sắp tới đây sẽ phù hợp với tŕnh độ tiến hóa cao hơn của họ. Diễn tŕnh tiến hóa từ thế kỷ này sang thế kỷ khác đă tạo cho con người một trí óc trưởng thành và phát triển liên tục mà Chân Sư có thể tác động một cách hữu hiệu.

Bởi đó tiêu chuẩn để chọn lựa đệ tử cũng theo cái đà đó mà tăng lên cao hơn. Điều này tự nó đ̣i hỏi một quan niệm mới, một sự tŕnh bày chân lư trên một nền tảng rộng răi hơn, và cho phép người đệ tử có một sự tự do hành động lớn lao hơn.

Yếu tố thời gian cũng khác hẳn. Thời cổ xưa, Chân Sư đưa ra một ẩn ư hay một điểm Chân lư nào đó để suy ngẫm, thiền định, hoặc Ngài có thể chỉ cho y thấy cần thay đổi những tư tưởng cố hữu của y.

Kế đó người đệ tử lui về và trải qua nhiều năm hoặc suốt cả một cuộc đời để suy tư quán tưởng (thought) và tập sửa thái độ tâm linh của ḿnh mà không càm thấy có sự thúc bách của thời gian.

Ngày nay v́ thời giờ cấp bách và nhu cầu trợ giúp cho nhân loại rất khẩn trương nên lời nói úp mở kín đáo khi xưa nay đă nhường chỗ cho sự giải thích rơ ràng, và người đệ tử được truyền thụ những chân lư từ trước vẫn giữ kín chưa được tiết lộ. Người đệ tử được coi như đă đạt tới một giai đoạn phát triển tâm linh mà y có thể tự quyết định lấy mọi sự và tiến bộ mau chóng nếu y muốn.

Có những lư do nhất định khiến cho tôi muốn phổ biến những huấn từ này cho những người tầm đạo (aspirant) ở khắp mọi nơi, sau khi đă có sự đồng ư của các vị đệ tử được ban những huấn từ ấy. Lư do thứ nhất là cần công bố cho đại chúng biết sự kiện rằng có một “Cơ quan Thiên đ́nh” gồm các vị Thánh sư. Những vị này rất chú trọng đến sự tiến hóa của nhân loại và có một kế hoạch nhất định để truyền đạo cho thế gian, khả dĩ giúp con người thoát kiếp sống làm người để bước vào cơi giới siêu linh (kingdom of GOD).

Sự tiến bộ trên đường đạo, thoát kiếp làm người để bước vào cơi Thần tiên (fifth kingdom) có thể được thực hiện một cách ư thức, một cách khoa học với sự hoàn toàn thỏa hiệp và hợp tác của người tầm đạo. Nay đă đến lúc mà sự tin tưởng có thể nhường chỗ cho sự hiểu biết, một sự hiểu biết đạt được trước hết bằng sự chấp nhận một giả thuyết, với một sự quả quyết rằng giả thuyết này vốn căn cứ trên những bằng chứng đầy đủ và những kinh nghiệm có dự tính. Chừng đó, trí suy luận của người đệ tử có thể thâu nạp thành công và thất bại mà y gặp phải trong giai đoạn huấn luyện và học những bài học mới được chỉ định cho y. Y nhận thấy rằng sự tiến bộ trên đường đạo đưa hành giả (a nan) đến việc tiếp xúc có ư thức và chặt chẽ hơn với các ĐẤNG CAO CẢ đă từng đi trên con đường đường ấy trước đây, và con đường siêu phàm nhập thánh (the way into the Hcerachy) là một con đường kỷ luật, tuần tự giác ngộ, phụng sự nhân loại và tăng gia sự ứng đáp bén nhạy đối với sự vật và tha nhân mà người trung b́nh không hề biết.

Lư do thứ hai để công bố quyển sách này là cần thay đổi quan niệm của đại chúng về tính chất các Chân Sư. Trong khi huấn luyện cho đệ tử chuẩn bị cho họ được điểm đạo, các Ngài cũng ảnh hưởng đến quần chúng xuyên qua các đệ tử này.

Người ta đă viết và nói nhiều chuyện vô lư, ngu xuẩn về sự liên hệ giữa Chân Sư và đệ tử đến nổi chúng tôi cảm thấy rằng cần đưa ra cho người đời thấy rơ những bằng chứng về sự lành mạnh, tầm nhăn quang rộng răi, bao quát và minh khiết của một Chân Sư là như thế nào.

Điều đó chỉ có lợi và chúng tôi cũng nhận thấy rằng Ngài rất sẵn ḷng để cho những lời huấn giáo của Ngài được công bố cho đại chúng.

Lư do thứ ba là cần làm sáng tỏ một điểm luôn luôn được các Chân Sư nhấn mạnh, và có một tầm quan trọng rất lớn, đối với mỗi đạo sinh (aspirant) chỉ có người nào bắt đầu chịu ảnh hưởng và đặt ḿnh dưới sự kiểm soát của linh hồn, và bởi đó được điều chỉnh về phần trí năo, mới được truyền thụ đạo pháp (training) của Huyền Môn. Ḷng sùng tín, xúc cảm và ḷng ưu ái vẫn chưa đủ. Việc học đạo cũng là một vấn đề vô tư, nó có liên quan đến sự phát triển tâm thức và sự nới rộng tâm thức để bao dung chứ không loại bỏ, tất cả những h́nh thức sinh hoạt thấm nhuần sự sống và t́nh thương của Thượng Đế. Người đệ tử luôn luôn cởi mở, bao dung và không hề khép chặt cơi ḷng ḿnh. Chính sự cởi mở bao dung đó là dấu hiệu của tất cả những nhà Chân chính. Nếu không có nó, hành giả vẫn chỉ là một đạo sinh, không phải là đệ tử chân chính.

Ngày nay có quá nhiều tinh thần phân cách để chiếm một vị thế độc tôn trong các giới Huyền Linh và chi phái Bí Giáo Nội Môn. Chúng tôi nghĩ rằng những lời huấn giáo trong quyển sách này có thể loại trừ cái khuynh hướng tệ hại đó và có thể góp phần để mở rộng Cửa đạo (The door into the Kingdom of GOD).

Trong sách này có những điều mới lạ, nhiều giáo lư cổ, đă được thử thách và chứng minh. Trong số những người được chọn vào nhóm đệ tử của Chân Sư không ai là Thánh hay hoàn toàn. Tuy nhiên tất cả đều là những đạo sinh chân chính và sẽ tiếp tục đi đến cùng, mặc bao nhiêu đau khổ buồn rầu, thành công hay thất bại, và mặc dù họ nh́n nhận những mục đích hầu như không đạt được. Vài vị đă từng đi trên con đường đệ tử chính thức (path of accepted disciplleship) trong nhiều kiếp. Vài vị mới mạo hiểm lần đầu tiên một cách ư thức và tận lực để cố gắng đi trên đường đạo (the way to GOD). Tất cả đều là những người b́nh thường sống một cuộc đời hữu ích, tân tiến ở nhiều nước trên thế giới. Vài người vốn là Mục sư Tin Lành chính thống. Những người khác có đạo Gia Tô, có những người thuộc phái Bác học Công giáo hay một chi phái tinh thần nào đó. Vài người lại hoàn toàn độc lập tư tưởng và không dính dáng đến một tổ chức tôn giáo nào. Không một người nào trong số đó coi tín ngưỡng hay tôn giáo đặc biệt của ḿnh là cần thiết cho sự giải thoát. Họ biết rằng điều quan trọng nhất là tin tưởng nơi sự thật tâm linh và tính chất thiêng liêng căn bản của con người.

Sự tin tưởng đó đương nhiên tạo nên một tấm ḷng đầy t́nh thương, một trí óc cởi mở và được soi sáng bởi sự nhận định ngay-chính hướng về chân lư, và một đời sống hiến dâng cho lư tưởng phụng sự để làm nhẹ bớt gánh nặng của thế gian. Đó là mục đích nhất định của tất cả những vị đệ tử mà lời huấn giáo được đưa ra trong quyển sách này, một mục đích mà họ chưa đạt được và một lối sống mà họ chưa kiện toàn. Tuy nhiên họ vẫn kiên quyết thăng tiến trên con đường của họ, đó là con đường ĐẠO.

Đấng CHRIST có nói: Ta là con đường, là Chân lư và sự sống. Những đạo sinh ấy hành đạo công phu dưới sự chỉ dẫn của một Chân Sư, đệ tử của Đức Chưởng Giáo (Christ), bắt đầu nhận thức phần nào ư nghĩa bóng bẩy ẩn dụ của lời tuyên bố trên, nó vẫn đúng trải qua thời gian và đối với tất cả các vị đệ tử, bởi v́: “Ngài như thế nào th́ chúng ta cũng như thế ấy dưới thế gian”.

Công việc hành đạo với nhóm đệ tử đặc biệt ấy đă bắt đầu từ 12 năm nay. Những huấn từ được ban cho mỗi vị đệ tử theo một trật tự thời gian liên tục từng năm một để cho thấy rơ nổi bật lên rơ ràng cái h́nh ảnh thật của mỗi đương sự, với những khó khăn chướng ngại cùng những thành quả đạt được hay những thất bại của y. Quyển sách này có tính cách khích lệ, v́ nó đính chánh cái quan niệm cho rằng muốn trở nên một vị đệ tử chánh thức hành giả phải có hạnh kiểm hoàn toàn đến mức siêu quần và một đời sống đầy nguyện vọng cao cả khác với người thế tục. Họ là những người với những nỗi khó khăn mà họ đang cố gắng giải quyết, với những khuyết điểm về tánh t́nh mà họ cố gắng để vượt qua. Họ tiêu biểu cho những trường hợp điển h́nh của những người nam cũng như nữ, không chịu xử thế theo thường t́nh đối với những vật trần gian, và quyết xả thân cầu Đạo để t́m đường trở về nguồn cội là ĐẤNG TỪ PHỤ. Họ là h́nh ảnh của những người “Khi đă đặt tay lên cái cầy, không quay trở lại nữa mà cứ thẳng tiến đến mục đích cao cả thiêng liêng”. Danh tính của họ sẽ không được tiết lộ. Các chữ viết tắt, tên của đệ tử ở đầu của nhiều huấn từ khác nhau và các ngày tháng đều không cung cấp một tin tức nào cả, các huấn từ có thể đă không ban ra vào ngày tháng ghi và các chữ viết tắt cũng có thể không đúng thực là tên của đệ tử . bất kỳ người nào trong chúng tôi, dù biết rơ quan hệ giữa các chữ viết tắt và đệ tử, sẽ không hiến một tin tức nào. Các thắc mắc về tung tích của đệ tử sẽ không bao giờ được giải đáp. Chính chủ đề của lời giáo huấn mới là quan trọng chứ không phải là danh tính của đệ tử v́ những ǵ được giảng dạy có thể áp dụng cho tất cả những người tầm đạo.

Một lư do khác nữa có thể được nêu ra để nói lên giá trị của sách này. Trong mọi trường hợp người đệ tử được cho biết những năng lực nào trong Thiên Cơ. Nhờ đó người đệ tử biết rơ những sở trường, sở đoản của ḿnh, cùng những đường lối nào là thuận hay nghịch trong cơ cấu sinh hoạt của ḿnh để tùy nghi ứng phó.

Vài người trong số đó đă làm việc phụng sự, với tư cách đạo sinh trong trường Nội Môn Bí Giáo. Những người khác không hề làm việc ấy, những người khác nữa nghe nói về trường hợp này do sự tiếp xúc với đức D.K. đă công quả trong trường để giúp đạo sinh.

Khoa Triết học Huyền môn dạy rằng khi bắt đầu Cơ sáng tạo, có 7 luồng thần lực được phóng phát từ Thượng Đế gọi là 7 cung, do đó mới sinh hóa ra muôn loài. Giáo điều này cũng có thể truy nguyên ra trong Thánh Kinh, linh hồn của tất cả mọi chúng sinh, cũng như mọi h́nh thể sắc tướng đều thuộc về 1 trong 7 cung đó. Bẩy cung đó tạo nên 7 loại tâm lư chính được gọi là:

Cung 1 là cung quyền lực, ư chí. Nhiều nhà lănh đạo của tổ chức thuộc về cung này như J. CAESR.

Cung 2 là cung Minh Triết, Bác ái. Đấng Christ và Đức Phật thuộc về cung này. Đó là cung của những nhà Giáo dục, dạy dỗ.

Cung 3 là cung Trí tuệ, gồm thành phần các người trí thức thông minh nhân loại.

Cung 4 là cung điều ḥa qua sự mâu thuẫn, xung đột. Gồm những người có nguyện vọng tâm linh, những người có thiện chí đang c̣n phải tranh đấu với nghịch cảnh, hay những người đang cố gắng làm việc để thực hiện sự hợp nhất.

Cung 5 là cung Khoa học, hay kiến thức cụ thể. Gồm những nhà bác học và những người thuần khiết mở trí, dùng trí để giải quyết mọi sự.

Cung 6 là cung sùng tín hay lư tưởng. Gồm phần đông là những tín đồ Gia tô, những người cuồng tín, những giáo sĩ sốt sắng nhiệt thành của tất cả những tôn giáo trên thế giới.

Cung 7 là cung Nghi thức hay Pháp môn. Gồm những người trong Pháp Môn Tam Điển (MASONS), những tài phiệt, những nhà kinh doanh lớn và những nhà tổ chức quy mô thuộc mọi ngành, các nhà chấp hành.

Tuy nhiên chỉ khi nào một người đă tiến hóa cao và gần bước vào con đường của người đệ tử th́ người học đạo mới có thể nhận định một cách đúng đắn là người ấy thuộc về của cung nào. Con người thuộc đủ mọi loại nghề nghiệp có thể thuộc về tất cả các cung. Sự mâu thuẫn, xung đột trong đời của một người đệ tử có thể do bởi sự kiện rằng cung linh hồn và cung phảm ngă của y thuộc vị trí đối nghịch nhau. Đồng thời tính cách t́nh cảm, trí lực và bộ óc vật chất của y cũng chịu ảnh hưởng của 1 trong 7 cung và trong sự liên hệ ngũ nguyên đó có ẩn tàng cái bí quyết của sự tiến hóa.

Đức D. K. cho các đệ tử trong nhóm của Ngài biết năm cung nào ảnh hưởng đến từng cá nhân của mỗi người nam cũng như nữ, không chịu xử thế theo thường t́nh đối với những vật trần gian, và quyết xả thân cầu đạt để t́m đường trở về nguồn cội là ĐẤNG TỪ PHỤ. Họ là h́nh ảnh của những người khi đă đặt tay lên cái cày, không quay trở lại nữa, mà cứ thẳng tiến đến mục đích cao cả Thiêng liêng.

Vài người trong số đó đă làm việc phụng sự với tư cách đạo sinh trong trường Nội Môn Bí Giáo. Những người khác không hề làm việc ấy, những người khác nữa nghe nói về trường hợp này do sự tiếp xúc với Đức D.K. đă công quả trong trường để giúp đạo sinh.

Một lư do khác nữa có thể được nêu ra để nói lên giá trị của sách này. Trong mọi trường hợp người đệ tử được cho biết những năng lực nào mà loại mà y đáp ứng dễ dàng nhất và y thuộc về cung nào trong Thiên Cơ. Nhờ đó người đệ tử biết rơ những sở trường, sở đoản của ḿnh, cùng những đường lới nào là thuận hay nghịch trong cơ cấu sinh hoạt của ḿnh để tùy nghi ứng phó.

Khoa Triết học Huyền môn dạy rằng khi bắt đầu của Cơ sáng tạo, có 7 luồng thần lực được phóng phát từ Thượng Đế gọi là 7 cung, do đó mới sinh ra muôn loài. Giáo điều này cũng có thể truy nguyên ra trong thánh kinh, linh hồn của tất cả mọi chúng sinh, cũng như mọi h́nh thể sắc tướng đều thuộc về một trong 7 cung đó. Bảy cung đó tạo nên 7 loại tâm lư chính đại đó là: người và các đệ tử sẽ học được rất nhiều bằng cách nghiên cứu những điều Ngài nói.

Trong những trường hợp mà tôi được biết rơ cá nhân của đương sự và biết ít nhiều về những khó khăn của y, thật là vô cùng lư thú mà nhận thấy Đức D.K. nói đúng những cung của y rất chính xác. Khi đọc những lời huấn giáo này, ta nên nhớ rằng tuy Chân Sư thường nói về linh hồn, Ngài cũng dùng danh từ Chơn Nhơn, ngụ ư đó là CHÂN NGĂ TÂM LINH, chớ không phải là Phàm ngă cá nhân theo các nhà tâm lư học.

Chúng tôi thấy không tiện nêu ra những Pháp Môn Thiền Định hay pháp luyện hơi thở, trừ ra vài trường hợp. Những pháp công phu đó có tính cách đặc biệt cá nhân, phù hợp với riêng từng người và áp dụng cho những khó khăn riêng của mỗi d. tuy nhiên, trong một hai trường hợp, sau khi có cứu xét kỹ lưỡng, chúng tôi đă cho ghi lại một vài phép thiền định với chút ít sửa đổi, với sự ước mong rằng việc ấy chỉ có thể đem lại những tác dụng tốt lành.

Ở cuối mỗi huấn thị, chúng tôi đă ghi 1, 2 câu hiến tin tức về công tác của đệ tử trong Đạo Viện. Điều này sẽ tỏ ra đặc biệt có sức làm sáng tỏ vấn đề, chẳng hạn như trong các trường hợp của P.D.W và K.E.S khi Thánh Sư TÂY TẠNG ban ra lời tiên tri nhất định và cho biết rằng cả 2 vị này qua đời ít năm sau. Rơ rệt là Ngài đang chuẩn bị họ cho sự quá độ vĩ đại này.

Trước khi hết lời, tôi muốn cảm tạ tất cả các đệ tử đă tử tế biết bao khi cho tôi toàn quyền sử dụng các huấn thị của cá nhân ḿnh, trong một nỗ lực phụng sự cho thế hệ đệ tử sắp tới. Trong nhiều trường hợp, họ đă giúp tôi soạn tài liệu để đem ấn hành. Tôi cũng muốn cảm tạ những người đă giúp tôi soạn bản văn này để sẵn sàng đem phát hành, nhất là Joseph Lovejoy đă bỏ ra biết bao ngày lao động v́ quyển sách này, anh đă giúp tôi chuẩn bị đem phát hành các sách của Thánh Sư trong nhiều năm.

Chúng tôi hy vọng rằng các độc giả của quyển sách này sẽ nhận được nguồn cảm hứng tâm linh mà chúng tôi đă nhận được.

Chúng tôi cũng hy vọng rằng:

Họ sẽ vững đức tin nơi ĐOÀN TIÊN THÁNH cùng sự hiện diện của ĐẤNG CHƯỞNG GIÁO và những đệ tử của Ngài là các CHÂN SƯ.

Mong rằng đức tin ấy sẽ có được một sức thúc đẩy dũng mănh để cho có nhiều người nữa bước vào đường ĐẠO, tăng cường thêm số đạo sinh ở mỗi quốc gia trên thế giới hiện đang cố gắng đi trên đường Đạo bằng cách thể hiện đạo lư ngay bản thân.

Tháng Mười 1943

ALICE A. BAILEY

 

CÁC LỜI CẦU KHẤN VĨ ĐẠI

Hăy để cho các lực lượng ánh sáng đem giác ngộ đến cho nhân loại.

Hăy để cho tinh thần thái b́nh được lan rộng ra ngoài.

Mong sao các thiện chí viên khắp nơi hội lại trong một tinh thần hợp tác.

Hăy để cho quyền năng đi kèm với nỗ lực của Đấng Cao Cả.

Cứ để mặc nó như thế và giúp chúng tôi thi hành phần việc của ḿnh

1936

 

Hăy để cho Đấng giải thoát (Lord of Liberation) xuất hiện,

Hăy để cho Ngài cứu giúp các đứa con nhân loại.

Hăy để cho Đấng Bạch Mă Hóa Thân (Rider) giáng lâm từ Mật địa và xuống cứu rỗi.

Xin Ngài hăy giáng lâm hỡi Đấng Đại Hùng (Mighty One)

Hăy để cho linh hồn con người thức tỉnh với Ánh sáng

Và mong sao cho họ đồng tâm nhất trí sát cánh nhau.

Hăy để cho Quyết lệnh của ĐẤNG CAO CẢ được ban bố ra

Thế là hết hận thù, cừu địch

Xin Ngài hăy giáng lâm hỡi ĐẤNG ĐẠI HÙNG

Nay đă tới lúc 6 thần lực cứu rỗi hoạt động

Hăy để cho nó được lan rộng ra ngoài, hỡi ĐẤNG ĐẠI HÙNG

Hăy để cho Ánh Sáng T́nh Thương, Quyền Năng và Tử Vong

Hoàn thành ư đổ của ĐẤNG GIÁNG THẾ (COMING ONE)

Ư chí cứu rỗi đă sẵn đây

T́nh thương để thực thi công tác đă được phổ biến rộng răi ra ngoài.

Sự trợ giúp tích cực của mọi chân lư cũng đă sẵn đây.

Xin Ngài hăy giáng lâm, hỡi ĐẤNG ĐẠI HÙNG họp cả 3 thứ trên lại.

Dựng nên một bức tường thành pḥng vệ vĩ đại.

Nay phe ác đă hết thời.

III. Từ nguồn Ánh sáng trong Trí Thượng Đế

Cầu xin Ánh sáng tràn vào Trí Con người

Cầu xin Ánh sáng giáng xuống trần gian

 

Từ nguồn T́nh thương trong Tâm Thượng đế

Cầu xin T́nh thương tràn vào Tâm Con người

Cầu xin Đấng Christ trở lại trần gian

 

Từ Trung tâm biết được Ư chí Thượng đế

Cầu xin Thiên Ư dẫn dắt ư chí nhỏ bé của Con người

Thiên Ư mà các Chân sư đều biết và phụng sự

 

Từ trung tâm mà chúng ta gọi là Loài người

Câu xin Thiên Cơ, T́nh thương và Ánh sáng được thực thi

Và cầu mong Thiên cơ đóng kín cửa vào nẻo ác

 

Cầu xin Ánh sáng, T́nh thương và Quyền năng phục hồi Thiên cơ trên Trần gian

1945

CHƯƠNG I: HUẤN TỪ GỞI CÁC ĐỆ TỬ

PHẦN I

 

Hỡi chư môn đệ,

Có điều quan trọng là chư môn đệ cần nhận biết rằng ngày nay có một cái ǵ mới đang diễn ra. Đó là việc xuất hiện của một cơi giới mới trong thiên nhiên , tức Cơi giới của Thượng Đế trên thế gian, hay Cơi giới Linh hồn. Cơi giới ấy đang đột khởi trên địa cầu và sẽ gồm những kẻ có ư thức tập thể và có thể hoạt động từng nhóm hay tập đoàn. Điều này có thể thực hiện được bởi v́ những người ấy sẽ đạt tới một trạng thái toàn thiện do tự lực công phu (dẫu rằng hăy c̣n tính chất tương đối) và sẽ đồng hóa với những hoạt động tâm thức phát triển tập thể. Ngoài ra, đó cũng bởi v́ họ đă mở rộng t́nh thương đối với kẻ đồng loại, cũng như họ chỉ biết thương chính ḿnh trong thời quá khứ.

Chư môn đệ hăy suy ngẫm rơ ràng về điều này, và nếu có thể hăy thấu triệt ư nghĩa của câu sau này:

Công việc của họ phần lớn sẽ là đúc kết và hiệu năng hóa chương tŕnh của hai Đấng sứ giả cao cả của Thượng Đế là Đức Phật và Đức Christ.

Như chư môn đệ đă biết, một trong hai Đấng ấy đă đem ánh sáng giác ngộ cho thế gian và thể hiện đức Minh Triết, c̣n Đấng thứ hai đem t́nh thương cho nhân loại và thể hiện nơi chính bản thân Ngài một định luật lớn của vũ trụ, đó là định luật của t́nh thương. Bằng cách nào ta có thể làm cho công tŕnh của các Ngài được trở nên hữu hiệu. Phương thức này noi theo 3 đường lối sau đây:

1) Sự cố gắng của bản thân của người đệ tử, áp dụng kỹ thuật buông xả, vô dục và phân biện mà PHẬT dạy.

2) Việc điểm đạo tập thể, có thể thực hiện được bằng sự cố gắng tự lực công phu của các đệ tử theo như lời răn của Đấng Christ, và đưa việc đặt phàm ngă và cá đơn vị cá nhân hoàn toàn lệ thuộc vào việc công ích và quyền lợi tập thể.

Sự cố gắng tập thể, thực hiện do từng nhóm nhằm ban rải t́nh thương cho tất cả muôn loài và t́m hiểu ư nghĩa thật sự của t́nh thương tập thể và công tác tập đoàn là những nét đặc thù trong cơ tiến hóa của nhân loại trong thế hệ Bảo b́nh (Aquarius)

Tôi nghĩ rằng một sự ḥa hợp tâm trí của chư môn đệ để suy gẫm về công tŕnh của PHẬT và Đấng Christ có thể đem lại kết quả hữu ích và đem đến cho tất cả môn đệ một ư niệm về hai pháp môn tu luyện của các Ngài. Một để chuẩn bị bước vào con đường đệ tử chánh thức và một để chuẩn bị bước vào cửa điểm đạo, cả hai pháp môn này đều có liên hệ hỗ tương và nối tiếp theo nhau. Sự tổng hợp chương tŕnh của các Ngài là một điều mà chúng tôi nhận thấy rơ ràng, v́ chúng tôi làm việc với một tầm nhăn quang bao quát hơn và với một quan niệm ít g̣ bó hơn chư môn đệ hiện nay.

Bởi vậy tôi chia các đệ tử của tôi thành từng nhóm để cho họ có thể làm việc trên những khía cạnh khác nhau của Thiên Cơ và tôi cũng đặt nền tảng cho công tác tập thể, nó sẽ giúp đỡ rất nhiều cho mọi người, và trên mọi sự, nó cũng sẽ thúc đẩy đại sự trong kỷ nguyên mới.

Bởi vậy tôi có ư định đi sâu vào chi tiết hơn khi nói về những nhóm này. Thời giờ của tôi rất giới hạn và tôi sẽ phải đưa nhiều tài liệu vào những huấn từ này vào trong những lời huấn giáo cá nhân mà tôi có thể ban cho các đệ tử, có lẽ từng kỳ hạn lâu dài. Trên căn bản, tôi không viết riêng cho một môn đệ nào, mà là để đặt nền tảng cho việc làm công tác tập thể trên thế gian trong những năm tới. Những ǵ tôi nói đây cần phải được xem xét cẩn thận, v́ chữ viết có thể chứa đựng nhiều ư nghĩa, mà đạo sinh chỉ cảm nhận được bằng trực giác.

Tôi, Người Anh cả Tây Tạng của chư môn đệ, tin tưởng rằng mỗi đệ tử của tôi phải có ít nhất một đức tính căn bản này là ḷng nhiệt thành kiên cố không ǵ lay chuyển. Mỗi người trong chư môn đệ bắt đầu công phu hành đạo với ít nhiều đức tính căn bản. Mỗi người đang bắt đầu công phu tu luyện để bước vào cửa điểm đạo với ít nhiều khuyết điểm, nó tác động như những chướng ngại. Mỗi môn đệ đă được thừa nhận nhờ bởi sự sáng suốt và những tiềm năng của ḿnh. Với những vốn liếng tinh thần đó, chúng ta phải cố gắng đến mức tối đa. Bởi vậy các môn đệ hăy ghi nhận vấn đề khó khăn của các Đấng Cao Cả đang d́u dắt sự tiến hóa của nhân loại và đang t́m kiếm những người có thể trợ giúp trong công việc của các Ngài.

Tôi sẽ chỉ dẫn chư môn đệ. Các môn đệ có thụ hưởng được ích lợi nào không do sự giáo huấn này, hoàn toàn là do chư môn đệ, đó là điều mà người đệ tử trong kỷ nguyên mới cần phải biết. Không có sự vâng lời tuyệt đối như thường được dạy trong các Đạo viện xưa nay.

Thời cổ, ở Phương Đông, vị Đạo sư đ̣i hỏi người đệ tử phải có sự vâng lời tuyệt đối, điều này đương nhiên đặt trách nhiệm nơi vị Đạo sư. Vị ấy phải hứng nặng trên vai ḿnh toàn thể vận mạng hay nghiệp quả của người đệ tử. Điều kiện ấy ngày nay không c̣n áp dụng. Ngày nay con người đă mở mang trí khôn đến mức không c̣n cần phải đặt ra một điều kiện như thế nữa.

Trong kỷ nguyên sắp tới đây, vị Chân Sư chỉ trách nhiệm đưa đến Cơ hội tốt cho đệ tử và truyền giảng chân lư một cách chính xác thế thôi. Trong thời đại mới con người đă được hiểu biết sáng suốt hơn, vị đạo sư không c̣n khoác lấy một tư thế độc tôn như thời xưa, và tôi cũng không làm như vậy. Tôi sẽ nói thẳng. Tôi biết rơ các đệ tử của tôi v́ không một đệ tử nào được nhập vào một đạo viện mà không được vị đạo sư xem xét từ trước một cách tỉ mỉ. Tôi sẽ nói bằng lời ẩn dụ và biểu tượng những ǵ cần được truyền dạy, và những đệ tử nào có trực giác, linh cảm và ḷng khiêm tốn thật sự sẽ ghi nhận và hiểu rơ. Nếu họ chưa hiểu được ngay th́ thời gian sẽ tác động một cách âm thầm, và rốt cuộc sự giác ngộ cũng sẽ đến.

Bởi vậy tôi không đ̣i hỏi một sự vâng lời mù quáng. Tuy nhiên nếu những lời răn đe đây được chấp nhận, và các môn đệ tự ư muốn theo những lời giáo huấn của tôi do bởi ư chí tự do của chính ḿnh, th́ phải tuân theo một cách chính xác. Một điều nữa là không nên lúc nào cũng trông đợi kết quả và mong chờ những hiện tượng nhiệm mầu là các điều chướng ngại rất lớn nó vẫn thường ngăn chận sự tiến bộ của nhiều đệ tử có triển vọng.

Đây cũng là một cuộc thí nghiệm đối với tôi, v́ những nhân viên có cấp đẳng trên Thiên đ́nh như chúng tôi đương nhiên phải thay đổi các đường lối cũ và tùy nghi áp dụng những phương pháp xưa vào thời đại mới cho thích hợp với trào lưu tiến hóa. Nhiều đệ tử và đạo sinh đă chịu thử thách đó, và đă mệt mỏi, cần phải trải qua những cuộc thí nghiệm trong đó có việc áp dụng những quy luật để theo một phương pháp tân tiến. Các đệ tử của thời cổ vốn là sản phẩm của những thời đại thanh b́nh. Trí lực của họ chưa phát triển mạnh, cũng chưa bị nhuộm màu bởi những trào lưu tư tưởng phong phú như ngày nay.

Thời nay kiến thức được phổ biến sâu rộng và nhiều người đă tự lực suy tư để t́m chân lư. Cái đối tượng để Chân Sư hướng dẫn trên đường đạo, và loài người cần khai triển tâm linh để được đưa đến sự giác ngộ, ngày nay có một phẩm chất và tŕnh độ cao hơn. Việc thay đổi phương pháp và áp dụng kỹ thuật mới về công tác tập thể cần phải được thực hiện giữa sự ồn ào náo nhiệt của nền văn minh Tây phương. Điều này áp đặt cho tất cả những người được chọn để tham dự vào công việc này, một sự cố gắng vược bực, nhưng nếu họ có thể tiếp tục và đi đến thành công, th́ họ được trui rèn đến một tŕnh độ khả năng tinh vi hơn.

Như tôi đă nói, những chốn phồn hoa nào động của Phương Tây, chính là những vùng rừng sâu, núi thẳm của Phương Đông. Đó là cái bối cảnh để tập cho ta t́m thấy sự b́nh an giữa nơi náo động, sơ đắc được sức mạnh trong cơn mệt mỏi, trung kiên bền chí khi thể chất suy nhược và thông cảm hiểu biết giữa sự cạnh tranh ồ ạt của Đời sống Phương Tây.

Bởi vậy, sự tiến bộ vẫn được thực hiện dù trong những hoàn cảnh trái ngang. Đối với những đệ tử như hàng môn đệ mà tôi sẽ hướng dẫn, không có việc rút lui ra khỏi cuộc đời thế tục. Không cần phải có điều kiện yên tĩnh và bằng an của thể chất để thúc động đến linh hồn và để thực hành công phu tu luyện như trong cơn im lặng, yên nghỉ của trạng thái xuất thần đại định mà Ấn Giáo gọi là Samadhi, tức là trạng thái hoàn toàn tách rời khỏi mọi trần duyên ngoại cảnh. Công phu hành đạo phải diễn tiến trong cơn náo động. Sự định tâm phải được giữa lúc tranh đấu ào ạt. Sự minh triết phải sở đắc được giữa cơn tâm trí giao động và công việc hợp tác với Đại Đoàn Chưởng Giáo về phương diện bí ẩn nội tàng phải diễn tiến giữa cơn xuẩn động cuồng loạn giữa nếp sinh hoạt tân thời ở các thành phố lớn. Đó là vấn đề khó khăn của chư môn đệ và cũng là vấn đề khó khăn của tôi trong việc huấn luyện trợ giúp các đệ tử.

Đối với tôi, c̣n vấn đề phung phí quá nhiều năng lực khi tôi cố gắng tiếp xúc với một đệ tử riêng biệt và khảo sát từng người trong từng kỳ hạn. Trong đó kế hoạch trường kỳ … tôi c̣n có công việc đọc tư tưởng, xem xét mức tiến bộ và tăng cường sinh khí cho hào quang của chư môn đệ. Điều này từ trước đến nay không phải là việc của các Đạo Sư Phương Đông, trừ ra vài trường hợp rất hiếm.

Những đệ tử hiện nay đang hoạt động trên thế giới tân tiến, dưới sự d́u dắt của các Thánh Sư Minh Triết, đă từng trải qua một giai đoạn điều chỉnh tâm linh sơ khởi và một giai đoạn huấn luyện nên nhớ rằng tôi cũng có một vấn đề khó khăn mà tôi sẵn ḷng đảm nhận v́ nhu cầu của thế gian, và để góp phần vào việc kiến tạo nên một kỷ nguyên mới có nhiều triển vọng hơn.

Bởi vậy, chúng ta hăy trợ giúp nhau để cho những cố gắng của chúng ta được thực hiện dễ dàng.

Tôi không hứa hẹn là sẽ đem lại những kết quả mau chóng. Tôi không cam kết đem lại những sự tiến bộ độc đáo. Các kết quả hoàn toàn do nơi chư môn đệ thực hiện. Tùy nơi ḷng kiên nhẫn, sự chính xác trong chi tiết, tinh thần kỷ luật mà chư môn đệ muốn áp đặt vào đời sống của ḿnh và đức vị tha quên ḿnh của chư môn đệ. Tôi yêu cầu chư môn đệ hăy đừng nghĩ đến kết quả và hăng hành động với tinh thần vô dục vô cầu, v́ chư môn đệ không thể biết chắc những mục đích mà tôi đặt ra cho chư môn đệ như thế nào. Tôi cũng yêu cầu chư môn đệ hăy gác bỏ sự tự kiểm thường xuyên, liên tục, nó vẫn là đặc tính hướng nội thông thường của nhà Huyền học Tây Phương có nhiều tham vọng.

… Vậy th́ tôi đứng ở vào tư thế nào? Vốn là một nhân viên trong một nhóm lớn các đệ tử Huyền Môn, từ người đạo sinh khiêm tốn nhất đến Đấng Cao Cả nhất trong Đại Đoàn Chưởng Giáo, làm cái gạch nối giữa nhân loại với cơi tâm linh, tôi có thể dạy chư môn đệ những quy luật xưa và đưa ra những sự gợi ư để chư môn đệ có thể tiến mau hơn trên đường ĐẠO và đạt tới hiệu năng lớn lao hơn để phụng sự nhân loại, không hề có mảy may ngụ ư nào ám chỉ lời tuyên bố đầy uy quyền của Một Đấng Nào trong Đại Đoàn Chưởng Giáo, mà lời nói là quyền phép và phải được tuân theo. Điều này cần được nhớ rơ, nếu không th́ không thể thực hiện được điều ǵ, những nguy cơ có thể xen vào và sự cố gắng hiện tại sẽ thành vô bổ. Sự ẩn danh của tôi vẫn luôn luôn được ǵn giữ và sẽ tiếp tục như thế tuy rằng những thành viên trong nhóm đệ tử này biết tôi là ai. Như Môn đệ biết tôi như một đạo sư, một đệ tử Tây Tạng và một vị Điểm Đạo ở một cấp bực nào đó, điều này không có ǵ chỉ có giáo lư mà tôi sẽ đưa ra cho chư môn đệ mới đáng kể mà thôi. Tôi là một Đạo đồ đi sâu vào những bí hiểm của đời sống. Lời tuyên bố này tự nó có hàm xúc ư nghĩa đối với người biết chuyện. Chư môn đệ cũng biết rằng tôi là một người mang xác phàm và trú ngụ tại Miền Bắc Ấn Độ. Bấy nhiêu cũng đủ và không nên để cho sự ṭ ṃ làm cho chư môn đệ bị mù quáng đối với các giáo lư.

Chúng ta cùng sát cánh với nhau trong công tŕnh thực hiện tâm linh. Tất cả chư môn đệ đă tự nguyện và không cho một áp lực nào bắt buộc, tuyên bố sẵn sàng tiến bước vào một đời sống tâm linh phong phú hơn. Điều này chư môn đệ phải làm trong sự tự do của linh hồn ḿnh và bằng khả năng trí lực của ḿnh. Chư môn đệ sẽ tuân theo những huấn giáo nào mà tự ḿnh thấy đúng và hợp lư, nhưng khi đă quyết định tuân theo th́ phải làm tṛn những lời yêu cầu một cách đúng đắn. Chư môn đệ sẽ phân tích và chất vấn những lời yêu cầu thỉnh thoảng do tôi đưa ra và sẽ không chấp nhận lời lẽ ngôn từ một cách máy móc. Ngôn từ bao giờ cũng bị giới hạn và là những chướng ngại. Chư môn đệ cũng sẽ làm việc dưới ảnh hưởng của sức khỏe và hoàn cảnh và sẽ luôn luôn nhớ rằng quả vị Thánh Sư chỉ được đạt tới bằng sự nỗ lực chiến thắng để thành công, chứ không phải bằng sự vâng lời bất cứ một người nào. Nên biết rằng tôi, thầy của chư môn đệ, không phải luôn luôn biết rơ t́nh trạng thể chất hay hành động hàng ngày của mỗi đệ tử. Tôi không quan tâm đến việc riêng của từng cá nhân và những người nào tưởng lầm rằng các Thánh Sư luôn luôn chỉ bảo họ việc ǵ phải làm, và d́u dắt họ trong những việc cá nhân riêng rẽ, hăy c̣n cách rất xa, tŕnh độ của người đệ tử chính thức.

Hăy nhớ rằng ánh sáng sẽ chiếu rọi vào một tâm hồn biết tự chủ mà không bị lệ thuộc vào một cá nhân nào về phương diện lư trí, khi những lời sơ giải này đă được hiểu rơ, chúng ta hăy bước qua việc nêu lên những nguyên tắc và cứu xét xem những ǵ ta có thể làm.

Điều thứ nhất: Hăy luôn luôn nhớ rằng con đường của người đệ tử trong thời đại mới là một sự thực nghiệm công tác chung từng nhóm, mục đích chính không phải là sự kiện toàn cá nhân của riêng một đệ tử nào trong tập thể. Tôi coi lời tuyên bố đó như một điều căn bản cần thiết. Cá nhân đều có tác dụng bổ khuyết và bồi đắp cho nhau. Sự tổng hợp những ưu điểm của họ là cứu cánh phải tạo nên một nhóm có khả năng biểu lộ những đặc tính tâm linh, xuyên qua nhóm ấy, thần lực và ân huệ thiêng liêng có thể tuôn tràn xuống để giúp đỡ nhân loại. Công việc phải làm là ở trên cơi thượng giới (cơi trí tuệ).

Những lănh vực công tác của những đệ tử nói riêng vẫn giống y như trước, nhưng ngoài những địa bàn hoạt động khác nhau của từng cá nhân sẽ c̣n có thêm những sinh hoạt và đời sống tập thể, điều này sẽ trở nên mỗi lúc càng rơ rệt hơn với thời gian qua. Như thế mục đích đầu tiên là củng cố và thống nhất nhóm đệ tử tậpt hể để cho mỗi người trong nhóm có thể làm việc trong sự ḥa hợp trí năng và hợp tác tâm linh một cách chặt chẽ với những người khác. Việc này tất nhiên là phải mất nhiều thời giờ, và sự thành công của cố gắng mới này của Đại Đoàn Chưởng Giáo sẽ tùy nơi thái độ dung ḥa khoan hậu và sự ban rải t́nh thương của mỗi thành viên trong nhóm. Điều này sẽ được thực hiện khá dễ dàng đối với vài đệ tử, nhưng rất khó đối với những người khác.

Ngày nay, nhiều người tiến hóa cao, có một trí óc phân tích quá tỉ mỉ. Tuy nhiên với thời gian qua, và nếu có sự cố gắng sửa đổi th́ sự hàn gắn sẽ đạt được nhiều tiến bộ. Bởi vậy, đây là sự cố gắng đầu tiên của nhóm đệ tử của mỗi vị Chân Sư và là một thành quả của chính Đại Đoàn Chưởng Giáo vậy đó là: Sự hợp nhất tập thể.

Mỗi đệ tử phải đặt những ư tưởng riêng tư về sự tiến bộ cá nhân của ḿnh tùy thuộc những nhu cầu tập thể, bởi v́ muốn có một nhóm thật ḥa hợp và hoạt động như một đơn vị hữu hiệu, th́ vài đệ tử sẽ phải hối thúc sự tiến bộ của ḿnh trên vài phương diện và những đệ tử khác sẽ phải tạm thời tŕ hoăn sự tiến bộ của họ cho vừa tầm mức của đa số. Điều này sẽ diễn ra một cách đương nhiên, nếu tinh thần đồng hóa với tập thể là yếu tố hàng đầu trong tư tưởng của mỗi đệ tử, c̣n sự tiến bộ cá nhân, muốn được sự thỏa măn tâm linh cho riêng bản thân ḿnh th́ phải được đặt xuống hàng thứ yếu.

Những nhóm đệ tử trong khuôn khổ của mỗi Đạo Viện (Ashram) cứu cánh sẽ làm việc với nhau, cũng như những phân chi, cục, bộ khác nhau của một tổ chức đại quy mô đều hoạt động ăn khớp với nhau một cách hữu hiệu như một đơn vị duy nhất.

Họ phải hoạt động một cách điều ḥa, êm ái và thông minh. Điều này có thể thực hiện được khi nào những thành viên của các nhóm và những nhóm riêng rẽ đều quên những cá tính biệt lập của ḿnh để cố gắng làm cho cuộc thực nghiệm của Đại Đoàn Chưởng Giáo được thành công. Những xúc cảm, những phản ứng, ước vọng và thành công của cá nhân đều tuyệt đối không đáng kể. Chỉ có những ǵ trợ giúp cho sự cố gắng tập thể và bồi dưỡng cho tâm thức của toàn nhóm mới là quan trọng mà thôi. Thí dụ chỉ có những ǵ giúp thêm sức mạnh tâm linh cho nhóm đệ tử của tôi hoặc làm tăng hay giảm ánh sáng diệu quang tâm linh của nhóm mới làm cho tôi phải chú ư. Hăy nhớ rằng tôi luôn luôn nh́n vào những nhóm đệ tử của tôi với tầm nhăn quang nội tàng và coi họ như một tập thể duy nhất.

Tôi chỉ thấy cái diệu quang của toàn thể, tôi chỉ ghi nhận cái tiết điệu thống nhất, cái âm giai và mầu sắc tổng hợp, tôi chỉ nghe cái âm thanh hợp tấu mà họ cùng đồng loạt thốt ra. Tôi lập lại rằng trên một ư nghĩa, những bản chất cá biệt của mỗi đệ tử không quan trọng ǵ đối với tôi, trừ phi họ nâng cao hay hạ thấp âm ba rung động của toàn nhóm. Trên cương vị bản ngă cá nhân, chư môn đệ không đáng kể đối với chúng tôi, là những Chân Sư trên khía cạnh ẩn vị, nội tại của cuộc sống. Nhưng trái lại, trên cương vị linh hồn hay Chân Ngă, chư môn đệ rất quan trọng.

Mỗi đệ tử trong nhóm của một vị chân sư có thể có nhiều khuyết điểm và yếu kém, nó tác động như những chướng ngại đối với những đệ tử khác trong nhóm. Nhưng trên cương vị linh hồn, các đệ tử đó có phần thức tỉnh và sống động, đă đạt được ít nhiều kết quả. Tất cả chư môn đệ trong nhóm của tôi cũng ở vào t́nh trạng ấy. Tôi mến yêu chư môn đệ như những Chân Ngă bất diệt, mà tôi t́m cách giúp đỡ và nâng cao, để chư môn đệ được phát triển và soi sáng tâm linh.

Đến đây, tôi muốn nhấn mạnh về một điểm khi chúng ta xem xét mỗi cá nhân trong nhóm và mối tương quan của y trong tập thể. Hăy cẩn thận kiểm soát tư tưởng của ḿnh đối với bạn đồng môn, lập tức diệt trừ tất cả mọi sự nghi ngờ, chỉ trích và t́m cách đoàn kết chặt chẽ với nhau trong ánh sáng của T́nh thương.

Chư môn đệ không hề biết rằng một cố gắng như thế vốn có một mănh lực hay tiềm năng giải tỏa nhưng sự trói buộc giữa người nọ với người kia và nâng cao toàn nhóm lên một vị thế cao tột.

Bằng sự chiếu diệu ánh sáng tinh khiết của t́nh thương giữa các bạn đồng môn với nhau, chư môn đệ có thể tiến đến gần tôi hơn và gần với các Chân Sư hơn trên khía cạnh ẩn vị nội tại của đời sống và tiến bước mau hơn vào cửa Đạo Diệu Huyền. Chư môn đệ có cơ hội chứng tỏ cho nhau thấy giá trị khoa học và quyền năng của t́nh thương, vốn được coi như một sức mạnh trong thiên nhiên. Hăy cố gắng chứng minh điều ấy.

Như thế nào chư môn đệ sẽ giải tỏa lần cho nhau tất cả những năng lực cần thiết để đưa đến những thay đổi độc đáo trong nếp sống và mục đích của những thành viên trong nhóm.

T́nh thương không phải là một t́nh cảm hay một cảm xúc, nó cũng không phải là một dục vọng hay một động cơ ích kỷ để làm điều phải trong đời sống hàng ngày. T́nh thương là sự phát động một sức mạnh nó làm vận chuyển bầu thế giới, nó đưa đến sự hội, sự ḥa hợp (intergration) sự đoàn kết, chính nó là cái động lực thúc đẩy Thượng Đế hành động, sáng tạo.

T́nh thương là một vật khó vun trồng, v́ tính chất con người vốn ích kỷ. Nó là một điều khó áp dụng vào tất cả mọi trạng thái của cuộc đời và sự biểu lộ t́nh thương đ̣i hỏi chư môn đệ phải ban rải ra đến mức tối đa, loại trừ những hành động cá nhân ích kỷ.

Các đệ tử trong nhóm của một vị Chân Sư phải thương yêu nhau một cách thông minh và thành thật gắn bó, như vậy để tạo nên cái ánh sáng và quyền năng cuối cùng sẽ làm cho cả nhóm trở nên có giá trị hữu hiệu trên thế gian.

Trong sự liên hệ tiếp xúc giữa Tôi với chư môn đệ trong tương lai, tôi sẽ không cần phải khéo léo che đậy những sự thật mà tôi cần nói với mỗi người bằng cách nào để cho khỏi chạm ḷng tự ái. Trong tương lai, tôi sẽ không quan tâm đến những xúc cảm hay phản ứng của phàm ngă v́ tôi trông cậy nơi sự thành thật của chư môn đệ.

Có lẽ cần nên nhớ rằng, theo lệ thường không ai tin những ǵ người khác nói với ḿnh, bất luận điều ấy thật đến đâu, bất luận ḿnh chấp nhận sự thật đến độ nào. Chỉ có những chân lư nào đến với ta do kinh nghiệm bản thân mới thật sự thấm nhập vào tâm thức và đem lại kết quả hữu ích.

Trong sự cố gắng tập thể mà chúng ta đang theo đuổi, tất cả những người trong nhóm đều được cho biết những ǵ được nói riêng với một đệ tử.

Sự kiện ấy thật rất hữu ích và sẽ điều chỉnh mọi sự lệch lạc một cách mau chóng hơn nhiều, miễn là trong sự hợp nhất và trong t́nh thương, tất cả mọi người sẽ giúp người đệ tử ấy thay đổi cái khía cạnh bất hảo. Hỡi chư môn đệ, tôi chỉ trông cậy có một điều, đó là ḷng thành thật của chư môn đệ. Không phải là một việc làm tiêu cực (như có vài người thường nói) mà vạch ra một khuyết điểm hay lỗi lầm khi ánh sáng tỏ rạng của Chân Ngă càng biểu lộ nó sẽ lột trần mặt thật của phàm ngă.

Nếu thật có ḷng rứt bỏ, nhóm đệ tử này có thể nh́n mọi sự một cách thản nhiên và sẽ không động ḷng v́ sự tiết lộ những tính chất tốt đẹp hay bất hảo. Nếu chư môn đệ bị xuống tinh thần, hay bực ḿnh va chạm v́ sự tiết lộ đó, ấy là dấu hiệu chứng tỏ sự thiếu hạnh dứt bỏ, hăy c̣n quá thiết tha với Phàm Ngă và dư luận của người khác.

Điều thứ hai: Tất cả những đệ tử trong một Đạo Viện cần phải Thiền Định, hiểu theo ư nghĩa Huyền Môn chớ không theo ư nghĩa thần bí. Trong mọi công phu thiền định mà chư môn đệ đang thực hành ngay trong hiện tại hoặc trong tương lai, mục đích của chư môn đệ là đạt tới điểm cao nhất càng sớm càng hay, sau khi vượt qua mau chóng các giai đoạn tập trung, định trí và nhập thiền. Sau khi đạt tới điểm đó, chư môn đệ phải cố gắng giữ lấy nó, và như vậy hăy tập tác động như một linh hồn trên cơi riêng của nó, định thần nơi cơi giới năng lượng trong đó tất cả các bậc đă điểm đạo đều hoạt động, và có ngày chư môn đệ cũng phải đạt tới trong kiếp này hay một kiếp khác.

Trạng thái tâm linh đó phải được đạt tới một cách thận trọng, phải quan sát đúng đắn sau khi đă đạt được và ghi nhận các ấn tượng một cách chính xác. Bởi vậy, chư môn đệ phải hợp thành một nhóm thiền môn tích cực công phu và kết quả sẽ dễ dàng nếu chư môn đệ chịu suy gẫm và cố gắng thực hiện được điều kiện đầu tiên của sự sinh hoạt tập thể, ấy là sự hợp nhất của nhóm.

Điều thứ ba: Sự hợp nhất này sẽ phát sinh từ công phu thiền định (do đó) linh hồn tự biết ḿnh là một với tất cả những linh hồn khác), phải được thể hiện trong vài h́nh thức sinh hoạt tập thể. Điều này phải được lập tức chứng tỏ ngay, trong nhóm và về sau này, khi sự thống nhất đă được hoàn bị hơn, nó phải được biểu lộ ra ngoài thế gian.

Chính bằng cách đó mà những Đạo Viện của các Thánh Sư sẽ được biểu hiện ngoại tại trên địa cầu và Đại Đoàn Chưởng Giáo sẽ công khai hoạt động trên cơi hồng trần hạ giới chứ không c̣n tiềm ẩn một cách kín đáo phía sau hậu trường như từ trước đến nay. Chừng đó th́ việc phục hưng qua Huyền Môn sẽ được thực hiện.

PHẦN II

Đến đây một câu hỏi có thể được đặt ra: bằng cách nào điều này có thể thực hiện trong một nhóm đệ tử, tất cả đều là những cá nhân riêng biệt nhưng thành thật mong muốn hợp tác và trợ giúp trong công việc này.

Tôi xin đưa ra một câu trả lời rơ ràng và dứt khoát: chư môn đệ đă t́nh nguyện hợp tác chung với nhau khi cơ hội ấy được tôi đưa ra. Chư môn đệ nhắm mục đích tiến tới một sự đoàn kết tập thể, căn cứ trên sự kiện rằng tất cả đều là những linh hồn bất diệt. Điều này rốt cuộc phải tự biểu lộ dưới h́nh thức một sự liên giao tư tưởng tập thể, một sự thông cảm tập thể đối với những sự khó khăn thắc mắc của nhau, và do đó một cơ hội chung của tập thể để trợ giúp lẫn nhau. Sự trợ giúp này không nên được thực hiện qua sự cố gắng hay tiếp xúc cá nhân hoặc nêu lên những vấn đề liên quan đến hoàn cảnh và tánh hạnh hoặc đưa ra những lời khuyên và trợ giúp ư kiến. Chúng tôi không đối xử với Phàm Ngă trong sự giao tiếp giữa những người bạn đồng môn với nhau, trong một nhóm đệ tử của Chân Sư. Đồng thời các đệ tử, phải tập củng cố tinh thần và trợ giúp lẫn nhau, luôn luôn tránh việc xen vào phàm ngă cá biệt. Mỗi người có thể tập chuyển đi đức tính thuộc về cung linh hồn của ḿnh cho một bạn đồng môn, khích động cho y có ḷng can đảm, dũng mạnh hơn, có một động lực thuần khiết hơn, và một t́nh thương sâu rộng hơn, nhưng tránh việc tăng cường những đặc tính thuộc về phàm ngă của y. Hăy luôn luôn tập coi bạn đồng môn của ḿnh như những linh hồn bất diệt chứ không phải như những phàm nhân khiếm khuyết bất toàn.

Bởi vậy chúng ta có 3 mục tiêu như sau:

1) Ḥa hợp tập thể bằng tư tưởng, hiểu biết lẫn nhau và thường xuyên ban rải t́nh thương.

2) Thiền định tập thể … như một nhóm thiền sinh, đặt nền móng vững vàng cho nhóm ấy trong cơi giới linh hồn và tăng cường tất cả những đệ tử liên hệ.

3) Hoạt động tập thể … đưa đến kết quả trợ giúp lẫn nhau trong vấn đề tánh hạnh trau dồi chứ không phải vấn đề sửa đổi hoàn cảnh. Chư môn đệ hăy suy gẫm về sự dị biệt này.

Về sau, khi nhóm đă thật sự củng cố vững vàng, nó phải bắt đầu hoạt động ngoại tại và sự sống của nhóm phải bắt đầu làm cho thế gian chú ư. Nó phải luôn luôn hướng về việc tăng cường sức mạnh tâm linh của tất cả các nhóm mà những thành viên của nhóm có sự quan hệ liên đới và có thể kết hợp với các nhóm này. Tôi đề cập đến tất cả những nhóm đệ tử thuộc về kỷ nguyên mới và đang hoạt động theo những đường lối cứu chữa những nỗi khổ đau của nhân loại: khổ đau về vật chất, tinh thần, tâm trí và t́nh cảm.

Có những quy luật giản dị nhưng tất yếu cai quản đời sống tâm linh nội tại của những đạo sinh sơ đẳng đang chịu sự huấn luyện để bước vào những giai đoạn khác nhau trên đường đệ tử Huyền Môn. Tôi xin phác họa những đề nghị của tôi cho công việc giản dị và cấp bách đó.

Trước hết các đệ tử hăy thực hành môn thiền định đều đặn và thường xuyên mỗi ngày. Mỗi pháp môn thiền định đều thích ứng với mỗi đệ tử liên hệ, và thay đổi tùy theo Cung, tŕnh độ tiến hóa và giai đoạn trên đường đệ tử, là mục tiêu tiếp dẫn. Những pháp môn đó không thể công bố ra ở đây, mà chỉ được đưa ra như những đề nghị để chư môn đệ áp dụng và chấp nhận đến một giai đoạn nào đó trong Cơ thiền định, Chư môn đệ hăy cố gắng giao cảm trực tiếp với tôi, nhưng hăy để cho sự giao cảm này diễn ra sau khi Chư môn đệ đă cố gắng công phu để tự điều chỉnh với linh hồn ḿnh. Lư do v́ sao phải điều chỉnh trước khi giao cảm, là bởi v́ chừng đó chư môn đệ có thể tránh khỏi những ảo ảnh và ảo giác của cơi Trung Giới là nơi những h́nh tư tưởng và những vong linh bất hảo vẫn thường hay trá h́nh làm những bậc đạo sư và Chân sư và chứng đến rất nhiều đến vô số.

Trong cơn Thiền định, chư môn đệ cũng nên dành một ít th́ giờ để thử giao cảm với các bạn đồng môn, gửi đến cho họ t́nh thương, năng lượng tinh thần và sự trợ giúp tâm linh.

Chư môn đệ sẽ thấy hữu ích mà giữ một quyển nhật kư về sự sinh hoạt tâm linh. Đây không phải là một quyển nhật kư thường và sẽ không ghi chép những sự việc thuộc về phàm ngă. Trong quyển nhật kư này, chư môn đệ hăy ghi những điều sau đây:

1) Mọi kinh nghiệm tâm linh có thể đến với ḿnh, chẳng hạn như tiếp xúc với một sự hiện diện vô h́nh nào đó, hoặc là chính linh hồn ḿnh, hoặc Đấng Thiên Thần hiện diện, hoặc tiếp xúc với một đệ tử và sau hết khi mà đời sống, việc làm và kỷ luật của Chư môn đệ đă đến mức khả quan, tiếp xúc với một vị Chân Sư. Hăy ghi chép một cách vô tư, giữ một thái độ khoa học và luôn luôn t́m một giải thích thực tế trước khi chấp nhận một sự giải thích tâm linh. Một tinh thần khoa học sẽ có giá trị thật sự đối với một đạo sinh sơ cơ và giúp cho y thoát khỏi những cạm bẫy của ảo giác và ma thuật.

2) Mọi sự giác ngộ có thể đến với ḿnh, làm sáng tỏ một vấn đề khó khăn và chỉ đường lối cho chư môn đệ hoặc toàn nhóm phải noi theo. Mọi linh cảm xác nhận bởi lư trí, đưa chư môn đệ tới sự hiểu biết và khêu gợi sự sáng suốt của linh hồn.

3) Mọi động tác thần giao cách cảm xảy ra giữa ḿnh với các bạn đồng môn. Động tác này phải được chăm sóc vun bón, nhưng nó phải được kiểm đi kiểm lại cẩn thận nhiều lần và giữ cho được tuyệt đối chính xác. Như thế chúng ta sẽ có được tinh thần xiễn dương chân lư, nó là cái nguyên tắc cai quản mọi phương pháp chuyển đi bằng Thần giao cách cảm khi nó được tổ chức một cách hoàn bị và đúng đắn.

4) Mọi hiện tượng có tính cách thần bí và Thượng Đế cũng phải được ghi nhận. Việc nh́n thấy ánh sáng trong đầu được xếp vào loại này. Ghi nhận sự chói rạng, sự tăng trưởng và lu mờ của nó, sự nghe được tiếng nói của im lặng, nó là tiếng nói của linh hồn nhưng không phải là của tiềm thức và thâu nhận những thông điệp của linh hồn hay của những đệ tử khác và những người phụng sự thế gian, những sự khai triển tâm thức nó mở cửa cho ḿnh bước vào đời sống ư thức của Thượng Đế biểu lộ qua mọi h́nh hài sắc tướng và sự nghe được cái tiết điệu âm giai của vạn vật. Việc nghiên cứu phần thứ ba của quyển YOGA SUTRA của PATANJALI sẽ chỉ loại hiện tượng nào cần ghi chép trong quyển nhật kư này.

5) Mọi kinh nghiệm thuộc loại tâm linh ngoài những loại kể trên. Những loại vừa nêu trên thuộc về loại tâm linh thượng đẳng và liên quan đến những khả năng tâm linh thanh cao như sự nhận thức tâm linh, hiểu biết do linh cảm, trực giác thần giao cách cảm căn cứ trên hoạt động của luân xa thái dương, hay bí huyệt nơi rún.

Những kinh nghiệm thần linh thấp kém cũng có thể được ghi nhận dù tốt hay xấu. Tuy nhiên, khi đă nhận xong loại này th́ hăy bỏ qua v́ chúng không có ǵ đáng kể.

Có thể nhiều ngày tháng trôi qua mà không có ǵ đáng ghi nhận. Điều này không nên làm cho Chư môn đệ thắc mắc, băn khoăn. Sự nhạy cảm của linh hồn đối với những linh động tâm linh phải được vun bón, tập luyện, và sự nhạy cảm đang có đối với những ấn tượng thần linh hạng thấp phải được loại trừ. Có nhiều âm thanh kêu gào đ̣i hỏi được chú ư, nhiều ấn tượng xuất phát từ những h́nh thể thuộc cơi hồng trần và cơi trung giới ghi sâu vào tâm thức chúng ta nhiều đến nỗi những rung động và âm thanh đến từ cơi giới tâm linh nội tại bị mất đi không được tiếp thu và ghi nhận.

Sau độ vài năm Chư môn đệ sẽ thấy thích thú mà nhận thấy sự dị biệt giữa những điều đă ghi vào nhật kư và sự phát triển khả năng nhạy cảm đối với loại ấn tượng tốt lành. Điều này chỉ có thể thực hiện sau một thời gian khá lâu, sau khi đă nhận ra và loại trừ nhiều loại ảo giác thuộc cơi trung giới: ảo ảnh, trá h́nh, giả mạo và h́nh tư tưởng.

Đến đây một câu hỏi khác có thể được nêu ra: Những đệ tử trong nhóm của một vị Chân Sư lấy ǵ làm bằng chứng cho sự thành công của sinh hoạt tập thể. Trước hết và ở hàng đầu, Chư môn đệ đă biết rơ là sự đoàn kết và thống nhất. Không có điều này th́ không thể làm được. Sự liên kết tâm linh nội tại của các đệ tử với nhau trong một nhóm, và sự liên kết giữa nhóm này với những nhóm khác cùng làm công tác đặc biệt trong một Đạo Viện, và do hậu quả của việc ấy, sự tạo nên một tâm thức cộng đồng của toàn thể Đạo Viện là những mục tiêu thiết yếu. Hy vọng rằng điều này cũng sẽ gây nên một động tác Thần giao cách cảm nó sẽ đưa đến những kết quả độc đáo và việc làm đối với ngoại hữu hiệu.

Từ những sinh hoạt này sẽ phát sinh một sự luân chuyển năng lực tập thể nó sẽ có tác động hữu hiệu trong việc cứu độ thế gian. Mỗi đệ tử hăy nên nhớ rằng một thể xác tinh khiết, những cảm xúc không vọng động và một tâm trí vững vàng là những đức tính cần yếu căn bản và phả được tập luyện hàng ngày.

Tôi luôn luôn nói trở đi trở lại về những nhu cầu thiết yếu này, và dầu cho nó có thể là nhàm chán, tôi vẫn yêu cầu chư môn đệ hăy tập luyện những đức tính ấy. Tôi cũng muốn nhắc nhở rằng Chư môn đệ là những người nam và người nữ đă trưởng thành và già dặn, không cần phải nói quá rơ về những đức tính này hay những khuyết điểm kia. Tôi chỉ t́m cách gợi ư, v́ đó là tất cả những ǵ tôi muốn đưa ra.

Người đệ tử phải được tự do noi theo một điểm gợi ư hay một đề nghị kín đáo tùy theo sự nhận định của y. Toàn thể công việc này có thể coi như một cuộc thí nghiệm về tinh thần hợp lư nội tại và về sự sẵn ḷng chấp nhận những điểm gợi ư. Đó là một sự thử thách cho linh cảm trực giác và cho đức tính phân biện. Công việc này, trong đó tôi kêu gọi đến sự hợp tác của chư môn đệ, cũng là một sự thí nghiệm đức tính vô tư, sẵn sàng muốn cộng tác và học hỏi, tự do chọn lựa hay loại bỏ óc quan sát và kỹ thuật hành động. Tất cả đều có giá trị của nó.

Đó cũng là một cuộc thí nghiệm đối với tôi. Từ trước đến giờ tôi chỉ làm việc với 3 đệ tử Âu Tây mà A. Bailey là một. Hai người kia hoàn toàn xa lạ đối với Chư môn đệ. Tôi yêu cầu sự giúp đỡ và hợp tác của Chư môn đệ trong những giai đoạn đầu tiên của công việc này. Hăy luôn luôn đứng sát cánh với nhau, dù việc ǵ xảy đến và bất luận mănh lực nào t́m cách chia rẽ Chư môn đệ với nhau. Các đệ tử hăy thương yêu nhau mặc dù có sự dị biệt về tánh t́nh và về Cung của mỗi người. Hăy thành tín làm việc chung với nhau để thực hiện sự ḥa đồng và hợp nhất tập thể, bất luận về dị biệt ư kiến hay bất cứ việc ǵ xảy ra trải qua thời gian. Nếu chư môn đệ có thể đoàn kết với nhau lâu dài và suốt trọn chu kỳ sinh hoạt hiện tại, th́ chừng đó nhóm đệ tử Huyền Môn chúng ta sẽ có thể tiếp tục công việc trong tương lai và hoạt động trên những cơi giới khác nữa, như thế để bảo tồn năng lực.

Chư môn đệ có thể tiếp nối công việc với một sự bền bỉ trung kiên như thế chăng? Một động tác thần giao cách cảm có thể được tạo nên như thế nào để cho sự chết không c̣n là một chướng ngại nữa, và để nối tiếp sự giao cảm với nhau măi măi không c̣n phân biệt âm dương cách trở.

Nhiều câu hỏi tương tự được nêu ra và chỉ có thời gian mới đưa ra câu trả lời. Nếu có sự kiên tâm cố gắng, nếu có sự liên lạc bền bỉ của t́nh thương, nếu có sự trung thành của lư tưởng sinh hoạt tập thể và nếu có sự khoan ḥa, thông cảm và kiên nhẫn hỗ tương với nhau, th́ nhóm đệ tử này có thể đoàn kết thành một đơn vị, nó sẽ thật sự là một nguyên tử sống động trong một đại thể của Huyền Cơ Máy Tạo. Tất cả Chư môn đệ đều đang ở vào một giai đoạn này hay giai đoạn khác trên đường đạo của người đệ tử, và cơ hội vốn nằm sẵn trong tầm tay.

Đây là một nhóm đệ tử thật ra hăy c̣n nhỏ bé và mặc dù nó có những khuyết điểm, giới hạn và công phu hành đạo sai lạc) nhưng do bởi ḷng thành sùng đạo, sự cố gắng làm bổn phận và do liên hệ nghiệp quả hỗ tương giữa họ với nhau và với tôi đă được chọn lựa để làm việc chung với nhau nhằm một mục đích nhất định là thành lập một trung tâm năng lực và sức mạnh tâm linh để giúp đỡ nhân loại. Nhưng trên hết mọi sự đó là một nhóm được thành lập để khai trương những phương pháp của KỶ NGUYÊN MỚI về việc làm công tác tập thể và huấn luyện đệ tử để chuẩn bị cho họ được điểm đạo, cùng với những nhóm khác trên khắp thế giới. Những nhóm này đă thấm nhuần một quan niệm mới và đang hoạt động dưới sự cảm hứng và d́u dắt của các Chân Sư.

Việc thành lập và phục hưng những Đạo Viện Huyền Môn này cho thế gian mà tôi có đề cập tới trong quyển “THƯ TÍN NÓI VỀ THIỀN ĐỊNH” sẽ có thể thực hiện nếu tất cả chư môn đệ đều đủ sức nắm lấy cơ hội. Điều này cần được ghi nhớ. Sự thí nghiệm ấy có thể thất bại. Nhưng dù sao, sự thành công hay thất bại rốt cuộc vẫn đưa đến lợi ích thật sự … Sự mong ước thành thật của tôi là chư môn đệ sẽ biết nắm lấy cơ hội để xúc tiến công việc trong ba cơi TAM GIỚI và trong cơi giới thoát ly ánh sáng của linh hồn.

 

PHẦN III

 

V́ Chư môn đệ gặp được cơ hội này trong một thế giới đang trải qua một cơn khủng hoảng lớn, tôi muốn nhắc nhở rằng tất cả các đệ tử và đạo sinh đang phụng sự hăy lưu tâm đến ba điều sau đây để có thể phụng sự hữu hiệu và như ư muốn.

Điều thứ nhất: Các đệ tử nên biết rằng các Chân Sư có ba hạng phụng sự viên. Trước hết nhóm thứ nhất là những người làm công tác khó khăn ở ngoài đời. Họ là những h́nh thể mà Đại Đoàn Chưởng Giáo có thể dùng để biểu lộ ư muốn của các Ngài và họ là những khí cụ để tiếp xúc với người thế gian. Có nhiều đệ tử thuộc về hạng này. Họ đang làm việc đó do họ tự ư chọn lựa bởi v́ họ nhận thức nhu cầu cấp bách và tương lai của nhân loại, và họ đă cam kết tự nguyện phụng sự.

Kế đó, nhóm thứ hai đóng vai tṛ trung gian giữa các Chân Sư Minh Triết đại diện cho Thiên Cơ và những người phụng sự nói trên. Họ không phải là người liên lạc giữa Chân Sư với người đệ tử, v́ đó là một mối liên hệ trực tiếp mà không ai có thể xen vào, nhất là ở những giai đoạn tiến hóa cao. Tuy nhiên, nhóm đệ tử phụng sự này hành động như những người trung gian trong việc thực hiện Thiên Cơ trên thế gian, và họ tự chuẩn bị sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào khi được cần đến. Như vậy họ sử dụng minh triết và kinh nghiệm của ḿnh để trợ giúp và bổ túc khả năng của các người phụng sự ở ngoài đời.

Hiện nay có nhiều đệ tử thuộc hạng này gửi đi công tác ngoài đời để hối thúc công việc mỗi khi có thể và tăng cường sức hấp dẫn từ điển của những trung tâm thần lực xuyên qua đó sức mạnh tâm linh của Kỷ Nguyên Mới có thể luân chuyển.

Tất cả những việc này đang được thi hành để chuẩn bị dọn đường cho một số cố gắng phi thường mà Đại Đoàn Chưởng Giáo dự định sẽ thực hiện. Nếu trong lúc này tất cả Chư môn đệ ở ngoài đời làm việc với một tấm ḷng hiến dâng và thành tín hoàn toàn để hết cả th́ giờ và tâm trí vào công việc phụng sự th́ việc dọn đường nói trên có thể diễn ra êm đẹp để cho sự cố gắng sắp tới đây của các Chân Sư sẽ đáp ứng với t́nh thế và thành tựu mỹ măn.

Nhóm thứ ba gồm các Chân Sư và những vị đạo đồ (đệ tử đă được điểm đạo) hợp tác chặt chẽ với các Ngài. Các Ngài hoạt động trên khía cạnh ẩn vi nội tàng. Những hoạt động của Ngài phần lớn đều tập trung vào coi trọng thượng giới và vào việc sử dụng tư tưởng một cách khoa học. Bằng cách đó, các Ngài d́u dắt những người trợ giúp và phụng sự và điều khiển những vị đệ tử hoạt động ở ngoài thế gian.

Trong thời kỳ này, đang có một ư kiến ẩn tàng muốn dung ḥa những phương pháp Đông Phương và Tây Phương trong việc hướng về nền đạo lư cổ truyền và đời sống siêu linh. Để thực hiện điều này một cách hoàn bị, th́ sự hợp tác và trao đổi kiến thức và minh triết với nhau là cần thiết. Những mục tiêu của cả 2 phương pháp, thần bí và huyền môn vẫn giống như nhau.

Điều thứ hai: Trong giai đoạn hiện tại, những đệ tử hoạt động cần nhận định rơ t́nh thế cấp bách. Có một cuộc khủng hoảng trong việc thế sự của trần gian. Cơn khủng hoảng này phải được quan niệm như một cơ hội chứ không phải như một tai họa. Cũng như trong đời của người học đạo, sẽ có một hay nhiều kiếp trong đó sự xung đột trực tiếp giữa linh hồn cao cả và tính chất thấp hèn, th́ ngày nay cũng có một con người khủng hoảng tương tự trên thế giới. Trong cả hai trường hợp mục tiêu đều là sự kiểm soát của linh hồn với khía cạnh h́nh hài thể chất.

Nh́n vào vấn đề này từ một khía cạnh khác, linh hồn của trái đất hoạt động dưới h́nh thức một Đại Đoàn Chưởng Giáo trong đó các vị Chân Sư đang xung đột trực tiếp với những lực lượng hắc ám của thế gian. Tuy nhiên, hăy nhớ rằng những lực lượng ấy cũng họp thành một tổ chức các cấp đẳng chân linh, gồm những h́nh thể vật chất, và bởi đó là đúng và thật trong cương vị của chúng. Thật ra đó là một vấn đề đặt mục tiêu cho mỗi chu kỳ thời gian nhất định. Mục tiêu hiện thời là gia đ́nh nhân loại nói chung hiện nay phải thực hiện 3 điều sau đây và bất cứ việc ǵ trái lại đều là hắc ám, tà vạy.

1) Biểu lộ tính chất của linh hồn xuyên qua phàm ngă. Tính chất của linh hồn là t́nh thương và ư chí hành thiện.

2) Chuyển di năng lực hiện thời đang hướng về việc tăng cường sinh khí cho thể xác và tạo tác giống ṇi, cho nó hướng về việc nuôi dưỡng khả năng sáng tạo trên cơi trí tuệ. Như thế toàn thể gia đ́nh nhân loại sẽ được thăng hoa trở thành một cơ cấu sinh động, tự ư thức và sáng tạo.

3) Phát động một thời kỳ khai triển tâm linh trong mọi loài trong thiên nhiên. Vào cuối thế kỷ này, cửa ngỏ đưa vào sự tiến hóa của loài cầm thú sẽ được mở lại, và những linh hồn ấu trĩ c̣n đang chờ đợi đầu thai sẽ được cung hiến cơ hội này.

Vào lúc ấy cũng có nhiều linh hồn được điểm đạo, và như vậy là có sự quân b́nh lực lượng ở cả hai đầu con đường tiến hóa của nhân loại. Điều này phải đến do sự tái diễn hoạt động từng chu kỳ của Đại Đoàn Tiên Thánh và sẽ được thúc đẩy tiến tới qua sự trung gian của những năng lực phát động Kỷ Nguyên Mới.

Cơn khủng hoảng này đến với chúng ta hầu như quá sớm, do sự tiến bộ một cách quá nhanh chóng của nhân loại kể từ năm 1850. Do động cơ thúc đẩy của chính loài người, một cơi giới mới và một chiều đo mới đă được tiếp xúc. Nhân loại đă giải tỏa những năng lực chưa từng có từ trước đến nay và gây nên những hậu quả có tính cách lưỡng nguyên, tốt cũng như xấu.

Điều thứ ba: Những đệ tử hiện nay phải tự tổ chức để thực hiện một cố gắng nhất trí và bền bỉ. Điều này phải xuất hiện dưới h́nh thức một sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa tất cả các nhóm và một sự đoàn kết trong một mối tương quan mật thiết hơn, như thế để tăng cường củng cố lẫn cho nhau, và nếu có thể cùng chung lưng đóng góp tài nguyên với nhau. Nó cũng phải gây nên một cuộc đồng tiến nhất trí của tất cả những cơ quan tinh thần và tâm linh và phổ biến chân lư bằng tất cả mọi đường lối vào quảng đại quần chúng.

Cũng như trong thời kỳ văn minh châu Atlantide, những sức mạnh tâm linh bị lệ thuộc những dục vọng ích kỷ của con người, th́ ngày nay chúng bị lệ thuộc trí khôn và ḷng tham vọng của thế nhân, đưa đến những hậu quả vô cùng tai hại. T́nh h́nh thế giới ngày nay chứng minh điều đó. Đó là v́ tuy có vài xứ thực hiện được sự hùng cường và thịnh vượng vật chất do vài cuộc thí nghiệm lớn lao, điều đó chỉ biểu dương sự thắng lợi về thể chất bạo lực và rốt cuộc cũng sẽ trở thành con số không.

Cũng như mỗi người tranh đấu tích cực trong một kiếp sống để đạt được những thành quả cá nhân, th́ các quốc gia cũng vậy. Tuy nhiên ở trung tâm của mỗi quốc gia có tiềm ẩn một linh hồn thiêng liêng bí nhiệm và sau bao cơn chiến đấu gay go đau khổ, rốt cuộc mọi sự đều được giải quyết an toàn. Những khuynh hướng duy vật và tăng cường bản ngă, dưới một kế hoạch to tát hơn và ư chí hành thiện phải được xóa bỏ bởi một tác động phản ngược của đời sống tâm linh và đó phải là mục tiêu hành động của tất cả những đệ tử tích cực phụng sự.

Bởi vậy, những đệ tử hoạt động hăy làm thế nào cho t́nh thương của họ đối với chúng sinh được sâu rộng hơn và sự phát triển t́nh thương đến với họ bằng cách rút trong t́nh thương tập thể của toàn nhóm, nó vốn nằm ở đằng sau mọi diễn biến trên thế gian. Hỡi chư môn đệ, bao giờ mời đến lúc mà thế gian sẽ nhận thức được rằng khía cạnh “t́nh thương” của Thượng Đế, khi nó ảnh hưởng đến nhân loại, được ban rải xuống thế gian xuyên qua nhóm đệ tử nội môn phụng sự. T́nh thương đó hiện nay đang ở trong giai đoạn trụ vào cơi hạ giới hồng trần xuyên qua những nhóm đệ tử mới (như nhóm của chúng ta đây) đang được h́nh thành ở khắp nơi trên thế giới. Những nhóm mới này phải là những trung tâm của t́nh bác ái thiêng liêng, có năng lực từ điển đầy tính cách xây dựng và thuần khiết. Bởi vậy, hăy làm sao để thích ứng với nhu cầu trong khả năng sức khỏe thể chất của ḿnh và hăy nhớ rằng Chư môn đệ có đủ sức để làm những cố gắng nhiều hơn và lớn lao hơn bao giờ kể từ trước đến nay.

Cuộc thí nghiệm này mà tôi chủ trương và chư môn đệ đă tự nguyện và sẵn ḷng tham gia là một công tŕnh được thực hiện v́ những mục đích của toàn nhóm. Đại Đoàn Chưởng Giáo muốn biết xem các nhóm nói chung được nhạy cảm đến mức nào đối với sự hướng dẫn của Thiêng Liêng và những đường lối giao cảm được thông suốt đến độ nào giữa các đệ tử trong nhóm với Chân Sư, và giữa các nhóm khác nhau trong Đạo viên của một Chân Sư.

Nhóm đệ tử của một Chân Sư trên khía cạnh ẩn vị nội tàng của cuộc đời, là một cơ quan kết hợp chặt chẽ với những đặc tính sinh hoạt, t́nh thương và liên giao với nhau. Những mối tương quan liên hệ trong một nhóm như vậy hoàn toàn là ở trên mức độ Thượng Giới và Trung Giới và bởi đó có những khiếm, khuyết giới hạn của thể dĩ thái và khối óc vật chất không nhận thấy được.

Tưởng không cần nói rằng, mối liên hệ căn bản là ở trên tầm mức của linh hồn. Sự kiển thể dĩ thái và khối óc vật chất nằm bên ngoài những mối tương quan căn bản ở đó trong một Đạo Viện, đưa đến một sự cảm thông dễ dàng hơn và một sự liên giao mật thiết hơn. Tuy nhiên phải nên nhớ rằng tiềm lực cơi trung giới có tác dụng mạnh mẽ trên cơi hồng trần hơn bất cứ ở đâu, và bởi đó trong tất cả những sách vở huyền môn nói về sự chuẩn bị bước vào cửa đạo đều có nhấn mạnh về sự kiểm soát cảm xúc về dục vọng. Người sơ cơ trên đường đạo không không dễ ǵ hiểu nổiđiều ấy hay thấy rơ sự cần thiết của những quy luật và chỉ thị đưa ra. Đối với vài người tuần theo luật lệ và giữ ǵn kỷ luật không phải là một điều khôn ngoan mà tuân theo những lời gợi ư đó trong khi chư môn đệ đă tự nguyện đặt ḿnh dưới sự chỉ dẫn của tôi. Việc này hoàn toàn do ư muốn và sự tự do chọn lựa của chư môn đệ. Chư môn đệ không bị lệ thuộc dưới một áp lực nào cả. Những hạng đệ tử khác tỏ ra sẵn ḷng tuân theo chỉ thị, nhưng sự khó khăn của họ là điều chỉnh đời sống cách nào cho ḥa hợp với những nhịp điệu mong muốn. Con đường nhỏ hẹp và tất cả các đệ tử phải đi qua, bắt buộc phải tuân theo những giới luật cổ dành cho các đệ tử huyền môn. Họ sẵn ḷng tuân hành giới luật một cách sáng suốt tỉnh táo, tuy rằng không hề có sự bắt buộc áp dụng những giới luật ấy một cách chặt chẽ, máy móc. Người đệ tử tiến bộ bằng cách thích ứng cuộc đời ḿnh một cách th6ng minh với những giới luật đó trong phạm vi hợp lư và có thể được, chứ không phải áp đặt những dụng giới luật đó vào cuộc đời ḿnh. Sự linh động co giăn trong một giới hạn nào đó vẫn là cần thiết nhưng không nên để cho sự lười biếng của phàm ngă hay sự cật vấn của lư trí làm cái động lực của sự co giăn ấy.

Ngày nay đă có một sự thay đổi trong mối tương quan giữa các đệ tử. Một cố gắng đang được dự tính để xem có thể nào thành lập trên cơi thế gian một sinh hoạt và liên giao tập thể, việc này đương nhiên sẽ sử dụng thể dĩ thái và khối óc. Bởi vậy chư môn đệ sẽ phải đương đầu với những khó khăn lớn, và tôi mong rằng chư môn đệ hăy nên nhận thức rằng bất cứ một sự bất đồng ư kiến nào có thể xảy ra trong nhóm đệ tử này là do những phản ứng của bộ óc xúc cảm, và bởi vậy không nên coi là quan trọng chút nào. Chúng phải được loại trừ ngay tức khắc ra khỏi trí năo và kư ức và phải được hoàn toàn coi như những yếu kém của phàm ngă không xứng đáng làm trở ngại cho sự đoàn kết của nhóm.

Cuộc thí nghiệm này do một nhóm đệ tử trong Đạo Viện của tôi thực hiện, là một sự thí nghiệm của sự giao cảm trí năo và tiếp xúc với linh hồn. Những phản ứng của bộ óc vật chất và xúc cảm phải được coi như những ảo giác vốn không có thật và phải được loại ra ngoài ṿng của tâm thức tập thể để cho nó tự tiêu ṃn v́ sự thiếu chú ư. Loại công tác tập thể này là một cuộc phiêu lưu mới, và nếu cuộc thí nghiệm này không đem lại kết quả dưới h́nh thức một cái ǵ hoàn toàn mới mẽ tân kỳ th́ giờ và công lao sẽ bị lăng phí vô ích. Chư môn đệ đừng nên nghĩ rằng, ngành hoạt động đặc biệt mà ḿnh theo đuổi là yếu tố đáng kể nhất. Không phải việc khai mở trực giác, hay quyền năng chữa bệnh, hay thần giao cách cảm là điều quan trọng. Điều đáng kể với Thiêng liêng khi Đạo Viện hoạt động là việc thiết lập một nhóm liên giao và tương quan tập thể mạnh mẽ đến mức có thể được coi như mầm mống xuất hiện của một sự hợp nhất đại đồng trên thế gian.

Một quyền năng tác động thần giao cách cảm tập thể hay khả năng trực giác tập thể để t́m ra chân lư đều có giá trị tương đối mới. Sự hoạt động của những nhóm có khả năng làm việc trong sự hợp nhất, với một lư tưởng duy nhất, mà những phàm ngă cá nhân đều ḥa hợp làm một động lực chung để tiến bộ, mà tiết điệu chỉ có một và sự hợp nhất đó được củng cố chắc chắn vững vàng đến mức không ǵ có thể gây nên trong nhóm những tính chất nhân bản của sự chia rẽ, cô lập và dục vọng ích kỷ cá nhân, chính điều đó mới thật là mới. Những người vị tha vô kỷ không phải là hiếm có. Những nhóm vị tha vô kỷ mới thật là hiếm. Ḷng thành tín vô tư thuần khiết trong một người không phải hiếm nhưng nó rất khó t́m thấy trong một nhóm. Việc đặt quyền lợi cá nhân lệ thuộc và hạnh phúc chung của gia đ́nh hay của một tha nhân là điều thường thấy, v́ cái đẹp của ḷng người vẫn từng biểu lộ trải qua thời gian. T́m thấy cái thái độ đó trong một nhóm người và thấy một quan điểm như thế được duy tŕ ǵn giữ với những tiết điệu thường xuyên không gián đoạn và bộc lộ tự nhiên, đó sẽ là cái thành quả huy hoàng của KỶ NGUYÊN MỚI.

Nh́n thấy sự liên kết của t́nh thương và tương quan giữa linh hồn được thực hiện và sử dụng trong công tác và sinh hoạt tập thể, đó thật là một điều mới mẽ và đạt được điều đó là cái lư tưởng mà tôi nêu ra cho nhóm đệ tử này. Nếu nhóm này đạt tới cái viễn ảnh như tôi đă phác họa trong trí, th́ chừng đó sẽ được thiết lập ở cơi trần những trung tâm thần lực đặc biệt, xuyên qua đó Đại Đoàn Chưởng Giáo có thể tác động một cách chắn chắn hơn bao giờ hết. Xuyên qua nhóm này và những nhóm tương tự, sẽ được chuyển vận trên địa cầu một màng lưới năng lực tâm linh để trợ lực cho công việc phục hưng và cải tạo thế giới. Ảnh hưởng của những nhóm này khi đă được thiết lập vĩnh viễn và hoạt động hữu hiệu, sẽ có một mục tiêu rộng răi bao quát hơn là chỉ có việc nâng cao tŕnh độ của nhân loại mà thôi.

Cái nhịp điệu sinh khí mănh liệt của Đại Đoàn Chưởng Giáo sẽ biểu lộ khắp nơi trên địa cầu, và những nhóm này, nếu thành công, có thể coi như bước đầu tiên đưa đến việc xuất hiện của Huyền Môn Chánh Đạo trên thế gian. Nhưng nên nhớ rằng yếu điểm then chốt của Huyền môn không phải là thành quả hay đẳng cấp. Nó là mối tương quan thống nhất tư tưởng với sự phức tạp đa diện của phương pháp hành động và tính chất của nó là t́nh thân hữu trong ư nghĩa thuần khiết nhất. Đại Đoàn Chưởng Giáo là một tập thể những linh hồn cùng chung một nguyện vọng phụng sự, do sự thúc đẩy của động lực t́nh thương, chói rạng bởi một ánh sáng đơn thuần kết hợp thành từng nhóm những trí năng phụng sự và sinh hoạt bởi một sự sống duy nhất. Những Đấng thành viên của Tập Đoàn được tổ chức để thực hiện Thiên Cơ mà các Ngài tiếp xúc một cách ư thức và tích cực hợp tác.

Bởi vậy, chư môn đệ sẽ thấy rơ ràng mục đích của những nhóm này là khai mở kịp thời ba loại quyền năng chính của tất cả những Đấng Trí Lực Thông Tuệ.

Thứ nhất: Quyền năng hoạt động với mọi chất liệu tư tưởng Tập Đoàn những trí lực Thông Tuệ là một nhóm gồm các Đấng có quyền năng thần giao cách cảm giúp cho các Ngài được bén nhạy với những trào lưu tư tưởng, và ghi nhận những tư tưởng của các Đấng Thể hiện Trí lực của Thượng Đế, tức Đại Trí Tuệ của Vũ Trụ. Các Ngài cũng ghi nhận những h́nh tư tưởng của những Đấng c̣n cao hơn rất xa đối với Tập Đoàn các Đấng Chân Sư, cũng như những Chân Sư c̣n cao hơn rất xa đối với các vị đệ tử của thế gian.

Những Đấng Cao cả thi hành ư niệm của Trí Lực thiêng liêng vẫn hằng có trên những cấp đẳng khác nhau. Chúng ta không cần phải đi sâu vào chi tiết về cơ cấu tổ chức của các Ngài, trừ ra một việc này là Đại Đoàn Chưởng Giáo trên địa cầu luôn luôn vẫn giao tiếp bằng thần giao cách cảm với các Đấng có trách nhiệm về trạng thái của các hành tinh trong Thái Dương hệ, mà Đại Hội Đồng đặt tại SHAMBALLA. Các Ngài cũng luôn luôn giao tiếp bằng thần giao cách cảm với nhau. Những tác dụng vô tuyến truyền thanh và truyền h́nh chẳng qua chỉ là sự phản ảnh trên cơi vật chất của những quyền năng thần giao cách cảm đă được rèn luyện đến mức kiện toàn của các Chân Sư Minh Triết. Đừng quên rằng những quyền năng đó vẫn tiềm tàng nơi tất cả mọi người.

Nhóm Chân Sư nội môn mà tôi có liên hệ mật thiết cũng làm việc bằng thần giao cách cảm với các đệ tử của các Ngài, và các đệ tử cũng giao tiếp với nhau bằng cách đó ở mức độ thấp hơn. Các quyền năng “nh́n” thấy một vị Chân Sư, một phản ứng lầm lạc của người học đạo thay v́ mong ước một sự giao tiếp với linh hồn, chỉ là sự ứng đáp của họ đối với tác dụng “truyền h́nh” của những ĐẤNG CAO CẢ muốn t́m cách d́u dắt họ đi vào ánh sáng linh hồn của chính họ. Họ chỉ có phản ứng đối với một trong những quyền năng thiêng liêng của Chân Sư, chớ không ứng đáp với tác động của Chân Ngă.

Sự đáp ứng của Chư Môn Đệ đối với mọi sự khích lệ của tôi đưa ra và sự cố gắng ban rải t́nh thương một cách vô tư sẽ lần lần hoàn thiện nơi Chư môn đệ một mối liên quan tương tự đối với những người phụng sự khác. Điều này sẽ được thực hiện theo ba hướng sau đây:

1) Khả năng tiếp xúc bằng Thần giao cách cảm với tôi và với những Đấng Cao Cả mà tôi có liên hệ mật thiết.

2) Khả năng giao tiếp bằng Thần giao cách cảm giữa chư môn đệ với nhau vào bất cứ lúc nào.

3) Nhạy cảm đối với những trào lưu tư tưởng của nhân loại nói chung.

Bởi vậy chư môn đệ thấy chặng bằng cách nào một mô h́nh thu nhỏ của Đại Đoàn Chưởng Giáo có được thiết lập trên địa cầu, và bằng cách nào trong những thập niên tới đây, những đệ tử phụng sự ngoài đời, những vị đạo đồ lẻ tẻ trong nhiều tổ chức của thế giới và những nhân viên trong nhóm Người Phụng Sự thế gian sẽ đương nhiên đáp ứng với sự thụ cảm nhạy bén bằng cách T.G.C.C của những nhóm hoạt động trong nhiều Đạo Viện của các Chân Sư. Kết quả của sự thành công này sẽ không phải là việc thừa nhận một nhóm đặc biệt nào, nhưng nó sẽ đem đến việc thừa nhận một quyền năng bao quát đại đồng và tâm trạng của những đệ tử thuộc mọi tŕnh độ, đẳng cấp. Điều này sẽ củng cố sự hợp nhất của tất cả chúng sinh một cách kịp thời và không c̣n nghị luận.

Việc biểu lộ sự hợp nhất quyền năng tư tương là sự kết thúc huy hoàng công việc của Đại Đoàn Chưởng Giáo, và điều này chư môn đệ cũng như tất cả những đệ tử sẽ ứng đáp vào những lúc tinh thần sảng khoái nhất. Trên một phương diện nhỏ bé hơn và tùy theo mức độ hiến dâng của ḿnh, nó có thể là sự huy hoàng và cũng là mục đích của ḿnh nếu như chư môn đệ giữ luôn luôn trong trí cái tư tưởng hợp nhất phụng sự và trên hết mọi sự, t́nh thương.

Thứ hai: Quyền năng trực giác, vốn là mục đích của phần nhiều công việc mà người đệ tử phải làm, cần đến sự khai mở của một khả năng khác trong con người. Trực giác cũng là một chức năng của trí tuệ, và nó được sử dụng đúng đắn, nó giúp cho ta hiểu được chân lư một cách rơ ràng và nh́n thấy sự thật không bị che lấp bởi ảo ảnh và ảo giác của tam giới. Khi trực giác hoạt động trong một người, người ấy có thể hành động trực tiếp và đúng đắn v́ y được tiếp xúc với Thiên Cơ, và những việc thuần khiết không bị ô nhiễm, ư tưởng không bị méo mó xiêu vẹo bởi ảo giác và đến trực tiếp với y từ Trí Tuệ Thiêng Liêng hay Đại Trí Tuệ của Vũ Trụ. Sự khai mở khả năng này sẽ đưa đến việc thế gian thừa nhận Thiên Cơ, và đó sẽ là thành quả lớn nhất của trực giác trong chu kỳ thế giới hiện tại. Khi người ta nhận thức được Thiên Cơ, sẽ đến lúc họ nhận thức được sự hợp nhất của vạn vật, sự tổng hợp của cơ tiến hóa trên thế giới và sự đồng nhất của mục đích Thiêng liêng. Chừng đó mọi sự sống và mọi h́nh thể đều được nh́n thấy trong cái tướng của chúng, và người ta sẽ có được một ư niệm đúng đắn về giá trị của sự vật và về thời gian. Khi người ta đă thật sự do trực giác mà biết được Thiên Cơ, qua sự trực tiếp linh cảm ngay từ lúc đầu, họ sẽ không khỏi có những cố gắng xây dựng và không có sự cố gắng nào là mất đi.

Sự hiểu biết thiếu sót, nông cạn bởi kẻ ngu dốt, họ diễn đạt Thiên cơ qua những câu chuyện của người khác nói lại ở đợt nh́ hay đợt ba, là nguyên nhân của sự lăng phí công lao vô ích và của những hành động dại dột, vốn là đặc điểm của vài tổ chức Huyền môn trên thế giới hiện nay.

Những nhóm đệ tử trong một đạo viện của Chân Sư có thể thi hành vài loại công việc và làm môi trường thí nghiệm cho những công tác đặc biệt. Vài nhóm có thể cung ứng môi trường thí nghiệm cho những đệ tử được huấn luyện thi hành công tác quan sát ở ngoài đời và có thể ứng phó với ảo ảnh và ảo giác của cuộc đời thế gian. Những nhóm khác có thể tập trung vào việc phát triển năng khiếu TGCC và trở nên những nhà giao cảm chuyên môn. Mục tiêu chính yếu của Đại Đoàn Chưởng Giáo (Đ.Đ.C.G) trong thời kỳ này là bẻ găy và phá tan những ảo ảnh, ảo giác của cuộc đời thế tục. Điều này phải được thực hiện trên quy mô của thế giới, cũng như nó được thực hiện trong đời sống của đệ tử. Cũng như một người khi đi trên đường đạo, di chuyển điểm tập trung tâm thức lên cơi thượng giới (trí tuệ) và tập phá tan ảo giác nó vẫn giữ ri61t y lại ở cơi trung giới (dục vọng) th́ ngày nay vấn đề được đặt trước Đ.Đ.C.G là đem lại một tác động tương tự trong đời của toàn thể nhân loại nói chung, bởi v́ nhân loại nay đang tiến đến ngă ba đường và tâm thức của nó đang trụ cột một cách mau chóng trên cơi trí tuệ. Ảo giác và ảo ảnh của thế gian phải được hủy diệt v́ nó làm cho con người bị điêu đứng khổ sở.

Bằng cách tập phá tan ảo giác, ảo ảnh trong đời ḿnh và tập sống trong ánh sáng của trực giác, người đệ tử co thể tăng cường bàn tay của những Đấng Cao Cả có nhiệm vụ làm thức tỉnh trực giác của nhân loại. Có nhiều loại ảo ảnh, ảo giác khác nhau và những đệ tử thường hay ngạc nhiên khi họ được biết những ǵ các Chân Sư coi như là ảo giác và ảo ảnh. Tôi xin kể ra vài loại ảo giác thông thường để cho chư môn đệ tự ḿnh thi hành mọi áp dụng cần thiết và nới rộng ư niệm ấy từ cá nhân đến toàn thể nhân loại. Đây là vài loại nói trên.

1) Ảo ảnh về định mệnh: Ảo ảnh này làm cho hành giả nghĩ rằng y có một sứ mạng quan trọng phải làm, rồi y tưởng nghĩ, nói năng và hành động y như định mệnh đă sắp đặt. Điều này nuôi dưỡng tính kiêu căng, nó thật ra vốn vô căn cứ.

2) Ảo giác về chí nguyện: Người bị ảo giác này hoàn toàn tỏa măn, bận bịu với những hoài băo trên đường tầm đạo của ḿnh và tự măn với sự kiện rằng họ là những người chí nguyện. Những người cần phải tiến bước trên đường đệ tử Đệ tử Huyền Môn và chấm dứt những bận bịu, thỏa măn tham vọng tâm linh của ḿnh.

3) Ảo giác về tự tín: Với ảo giác này, người đệ tử luôn luôn cho rằng quan điểm của ḿnh là hoàn toàn đúng. Điều này cũng nuôi dưỡng thói kiêu căng và làm cho người đệ tử tự tin rằng ḿnh là một quyền bất khả xâm phạm. Đó là cái tật cố hữu của nhà Thần học.

4) Ảo ảnh về bổn phận: Ảo ảnh này làm cho người đệ tử đặt ư thức trách nhiệm lên một tầm mức quá cao, gây nên những hành động vô ích chú trọng quá đáng đến điều không cần thiết.

5) Ảo giác về hoàn cảnh: Thường đưa đến một ư niệm bất măn, hoặc ư thức về sự vô vọng hay về tầm mức quan trọng của ḿnh.

6) Ảo ảnh về trí năng: Làm cho người đệ tử tưởng rằng trí khôn của ḿnh có hiệu năng, và có thể ứng phó với tất cả mọi vấn đề. Điều này tất nhiên đưa đến sự cô lập và cô đơn.

7) Ảo ảnh về sùng tín: Gây nên một sự khích động quá mức của thể t́nh cảm. Người bị ảo ảnh này chỉ nh́n thấy có một ư niệm, một cá nhân, một uy quyền và một khía cạnh của chân lư. Nó nuôi dưỡng ḷng cuồng tín và sự ngă mạn tâm linh.

8) Ảo giác về dục vọng: Với tác động phản xạ của nó trên thể xác. Điều này đưa đến một trạng thái tranh chấp và loạn động thường xuyên. Nó làm mất sự b́nh an và khả năng làm việc hữu hiệu. Ảo giác này có ngày phải được chấm dứt.

9) Ảo giác về tham vọng cá nhân: Có nhiều loại ảo giác và ảo ảnh khác nữa, vừa ở mức độ cá nhân, vừa ở trên mức độ của thế gian, nhưng bấy nhiêu cũng đủ tiêu biểu cho khuynh hướng chung.

Những đệ tử đang chuẩn bị điểm đạo phải tập tác động có ư thức với ảo ảnh. Họ phải hành động hữu hiệu với chân lư được tŕnh bày, quên hẳn đi mọi điều đau khổ hay thắc mắc của lư trí, nó thường đi kèm với sự phản loạn và giới hạn của phàm ngă. Họ phải vun trồng “Đức thản nhiên siêu phàm” đối với những vấn đề cá nhân, nó là dấu hiệu nổi bật của người đạo đồ chân chính.

Tôi sẽ không nói thêm nhiều về vấn đề ảo ảnh, ảo giác liên quan đến nhóm đệ tử đặc biệt này trong Đạo Viện của tôi.

Thời giờ đang cấp bách và nhu cầu của nhân loại khẩn trương đến nổi chúng ta không cần lập lại những điều đă biết, hoặc nhắc nhở lại lần nữa những ǵ cần phải làm. Chư môn đệ nên biết rằng, không có sự gấp rút vội vàng trong công việc của Chân Sư đối với các đệ tử. Không có sự hối hả trong công việc mà tôi muốn chúng ta cùng làm chung với nhau, nhưng đồng thời cũng không nên có sự lăng phí thời giờ hoặc công lao một cách vô ích. Chư môn đệ sẽ thấy rơ ràng nhiều việc mà tôi muốn thực hiện có kế hoạch đến việc kiểm soát tư tưởng và sự hoạt động của óc tưởng tượng sáng tạo Đ.Đ.C.G tạo ảnh hưởng của ḿnh trên cơi giới sắc tương quan mănh lực của tư tưởng hợp nhất và có ư thức.

Việc tạo nên một trạng thái tư tưởng hợp nhất như thế trong nhóm người phụng sự thế gian là một phần hoạt động chánh của tôi trong thời đại này. Chúng ta sẽ không làm được ǵ nhiều trước khi điều đó được thực hiện.

Như thế, tôi kêu gọi chư môn đệ hăy bước vào một giai đoạn mới với một sự sinh hoạt tâm linh ráo riết và tư tưởng tích cực, nhưng lần này với một mục đích tập thể, mục đích đoàn kết hỗn hợp trong nhóm, tư tưởng hợp nhất trong nhóm và liên hệ giao dịch trong nhóm … Chính đời sống suy tư nội tại, sự thừa nhận linh hồn và sự điều chỉnh linh hồn với phàm ngă là những điều quyết định sự thành công của công việc này.

Thứ ba: Có một quyền năng lớn khác nữa của trí tuệ cần được khai mở. Tất cả những linh hồn giải thoát bất luận họ thuộc về cung nào, đều có quyền năng này, đó là quyền năng chữa bệnh. Công việc này hăy c̣n phôi thai và tâm thức cũ của nhóm hăy c̣n quá trẻ nên tôi không cần phải nói nhiều hơn về những triển vọng tương lai. Khi nào con người có thể được huấn luyện để trở nên từ điển xạ (magnetic) và vô tuyến xạ (radio active) một cách vô kỷ và thiêng liêng, chừng đó sẽ được tuôn tràn xuống thế gian những nguồn thần lực sinh động và hàn gắn, nó sẽ loại trừ điều ác và chữa lành bệnh tật. Từ trước đến nay những cố gắng trên địa hạt y khoa, chữa bệnh và những h́nh thức cứu chữa khác đều là kết quả của những mưu toan ứng đáp với những nguồn thần lực nói trên, nhưng chỉ mới có thế thôi.

Đó là ba thứ quyền năng lớn mà hành giả có thể khai mở. Những khả năng khác chỉ là sự khai diễn thêm của 3 loại quyền năng này: Chuyển di tư tưởng, trong cả hai chiều thu nhận và truyền đi. Nhận ra chân lư bằng trực giác và công thức hóa nó thành những quan điểm, cùng với phương thức thể hiện những ǵ đă cảm nhận được bằng trực giác, một định thức cao nhất của công việc sáng tạo. Chữa bệnh, với sự hiểu biết về những năng lực và sức mạnh về sau này sẽ đưa đến sự phục sinh của nhân loại.

Lần lần, viễn ảnh về những triển vọng, khả năng và về Thiên Cơ sẽ hiện rơ khi cái trí lực của Chư môn đệ được nhạy bén hơn và khối óc trở nên dễ đáp ứng hơn đối với những động lực tư tưởng. Lần lần, những đệ tử ngoài thế gian sẽ cố gắng thể hiện trên cơi giới hồng trần những ǵ đang có trong trạng thái vô vi, tiềm ẩn. Lần lần sẽ xuất hiện khắp nơi trên thế giới và những nhóm linh cảm giác ngộ có thể hợp tác với các Chân Sư trong sự hoàn toàn tự do tiếp xúc, bởi v́ khả năng đáp ứng của họ được huấn luyện và phát triển một cách khoa học. Quyền năng hoạt động đồng nhịp hay điều ḥa tiết điệu với Đ.Đ.C.G, khả năng họ hợp tác với sinh hoạt tập thể của nhiều nhóm đệ tử khác, truyền đạt ánh sáng tâm lư và giác ngộ cho thế gian, sau này sẽ là những việc được thực hiện cụ thể và hiện nay đă hoạt động mạnh mẽ, tích cực hơn chúng tưởng. Một ít viễn tượng làm cho bước đường của người đệ tử được dễ dàng hơn và do đó tôi khai triển ít nhiều về những triển vọng tương lai, mà với sự tiên liệu trước, chúng ta coi như những sự việc đă biểu lộ. Không ǵ có thể ngăn chận sự thành tựu của Thiên cơ, đó chỉ là một vấn đề thời gian.

Một trong những giai đoạn huấn luyện sắp tới đây là việc tạo nên một sự tiếp xúc, chặt chẽ hơn với tôi, Đạo Sư Tây Tạng của chư môn đệ. Điều này chư môn đệ phải làm mà không dự tính trước kết quả sẽ ra sao, nếu kết quả ấy phải được thực hiện một cách khách quan. Về phía tôi, những kết quả có thể cảm nhận được bởi một ḿnh tôi mà thôi.

C̣n về phía chư môn đệ, chúng có thể đến dưới vài h́nh thức rơ rệt hay hiện tượng nhiệm màu. Tôi không nói ra những kết quả của một hoạt động như thế, v́ khả năng ám thị và óc tưởng tượng sáng tạo là một nguồn gốc phong phú của mọi ảo ảnh. Bởi vậy, tôi yêu cầu tất cả chư môn đệ hăy cố gắng tiếp xúc vào ngày trăng tṛn mỗi tháng. Hăy chịu khó hy sinh để thiết lập sự giao tiếp định kỳ hàng tháng, trong khi ấy, tôi cũng tự điều chỉnh để tiếp xúc với chư môn đệ. Tôi muốn nhấn mạnh rằng cần giữ ư niệm về sự tiếp xúc ấy trong ba ngày liền trước ngày trăng tṛn với nguyện vọng và tin tưởng, và trong ba ngày sau đó với niềm hy vọng và cậy trông. Điều quan trọng nhất là hăy coi việc đó như một sinh hoạt tập thể chứ không phải là sự tiếp xúc cá nhân. Hăy bắt tay vào việc với sự nhận thức rơ mối liên hệ tập thể với các bạn đồng môn và với tôi, v́ chỉ khi nào mỗi người t́m cách tiếp xúc với tôi trong tư thế của một đệ tử trong một nhóm tập thể, th́ mức độ thành công mới đáng kể.

Sự tiếp xúc này không giống như sự tiếp xúc cá nhân trực tiếp giữa một đệ tử với Chân Sư. Nhiều người trong chư môn đệ có sự liên lạc mật thiết với Chân Sư tuy họ chỉ hoạt động tạm thời trong Đạo Viện của tôi. Sự tiếp xúc của chư môn đệ với tôi sẽ là một cuộc tiếp xúc tập thể và trong cương vị của một nhóm chư môn đệ sẽ t́m cách tăng cường mối liên hệ giữa chúng ta. Bởi đó, đây là một hành động phụng sự tập thể cần làm một cách vô kỷ lợi tha, và không mong ước trông đợi điều ǵ riêng cho cá nhân ḿnh cả.

V́ thời giờ cấp bách và nhu cầu khẩn trương của công việc phụng sự, tôi là một trong những vị Đạo Sư đă tu luyện, trong những năm tới đây dành 12 giờ trước khi trăng tṛn mỗi tháng để tiếp xúc với các đệ tử, để cho bất cứ lúc nào trong 12 giờ đó, những đệ tử và những người phụng sự thế gian có thể cố gắng để giao tiếp với chúng tôi. Việc ấy làm cho việc giao tiếp được dễ dàng hơn v́ chư môn đệ không cần giữ đúng giờ trăng tṛn trừ phi điều này có thể được dễ dàng. Vấn đề phụng sự trong thời buổi này có sự chú ư và theo đuổi trường kỳ v́ công việc rất nhọc nhằn lao khó. Không phải lúc nào Chư môn đệ cũng có thể cố gắng giao tiếp đúng giờ trăng tṛn, tuy rằng vào giờ đó, chư môn đệ luôn luôn có thể trong im lặng và âm thầm, nâng cao tâm hồn để hướng về ĐẤNG VÔ CÙNG. Nhưng bất cứ lúc nào trong 12 giờ chư môn đệ cũng có thể t́m cách ḍ đường mở cuộc giao tiếp. Khi việc ấy được làm đúng cách, chư môn đệ sẽ gặp tôi đang đợi chờ. Hăy bắt tay vào việc đó với một tầm nhởn quang sáng suốt, một tấm ḷng ưu ái và một t́nh thương thông cảm. Chừng đó nhiều kết quả sẽ được thực hiện.

 

PHẦN IV

Khi những nhóm đệ tử này đă hoạt động phụng sự ngoài thế gian và sau khi đă thực hiện một cách chắc chắn, vững vàng sự hợp nhất tâm linh và tương quan tập thể, chừng đó chúng ta sẽ có cái mầm mống của những đặc tính làm rạng rỡ những nhóm của KỶ NGUYÊN MỚI.

Tôi yêu cầu tất cả đừng bao giờ quên rằng công tác tập thể mà chư môn đệ sắp làm, thật ra là một công tác hướng đạo, dọn đường và bởi vậy nó có tất cả những khó khăn mà mọi công tŕnh tiên phong khai sáng đương nhiên phải có không sao tránh khỏi. Nhờ vậy chư môn đệ sẽ được cái sức mạnh để tăng trưởng tiến bộ.

Khi những nhóm này càng tăng thêm nhiều và vô số nhân viên được tăng thêm lần lần, th́ cái sườn của một cơ cấu tương lai sẽ từ từ xuất hiện. Cái cơ cấu này sẽ hiện ra như thế nào khi nó được hoàn thành, chỉ có cái nhăn quang đầy cảm hứng tâm linh của những nhà kiến trúc mới biết được. Nhưng nền tảng của nó phải được thiết lập một cách chắc chắn và bền vững, cái sườn phải được dựng lên một cách ngay ngắn. Hai nhu cầu là tất cả những ǵ mà người đệ tử nào cũng sẽ thấy thực hiện trong giai đoạn hiện tại.

Tuy nhiên chư môn đệ có nhận thức được rằng ḿnh đă được phép nh́n thấy những tiến bộ huyền linh nào trên thế gian trong kiếp hiện tại chăng. Chư môn đệ có thoáng thấy chăng cái động lực thúc đẩy vĩ đại mà các Chân Sư đang tạo ra trong lúc này, và nh́n thấy chăng những kế hoạch của Chân Sư đang tượng h́nh ngay trước mắt ḿnh. Chư môn đệ có thấu hiểu chăng những yếu điểm cần thiết của công việc mà các đệ tử và Đạo sinh ở khắp nơi đă được phép cùng nhau tham dự. Tôi muốn nói thêm vắn tắt về điều này bằng vách nào đó để mọi người được nh́n thấy rơ hơn, để chư môn đệ có thể hợp tác một cách thông minh hơn, v́ trên hết mọi sự, đây là một công tác tập thể.

Tôi đă quy tập một cách tuần tự chậm răi một nhóm đệ tử ở ngoài đời. Khi cái h́nh tư tưởng về một nhóm đă được củng cố chặt chẽ, và những đệ tử ứng đáp lại lời kêu gọi của tôi, rồi t́m thấy nhau và bắt đầu công tác chung với nhau, th́ tôi mới có thể xúc tiến công việc của tôi đă chọn lựa và tiến hành những kế hoạch mà tôi đă tự đặt ra khi tôi thủ đắc quả vị điểm đạo nào đó.

Trước hết, những quyển sách của tôi được công bố và phổ biến tuần tự để tŕnh bày những giáo lư sẽ ứng đáp những nhu cầu của thế hệ sắp tới đây. Các đệ tử của tôi có nhiệm vụ bảo tồn sự tŕnh bày của chân lư nga trong thế kỷ hiện tại và lo liệu cách nào cho những quyển sách ấy được xuất bản đều đặn thường xuyên trong khi họ thi hành sứ mạng, cho đến khi các sách ấy được thay thế bởi những giáo lư mới mẽ hơn và đầy đủ hơn nữa trong thế kỷ tới.

Kế đó, xuất hiện một việc có một tầm quan trọng rất lớn, mà có lẽ chư môn đệ cũng không thể nhận định rơ tầm quan trọng của nó. Một tập sách nhỏ nhan đề “BA NĂM TỚI ĐÂY” được phổ biến sâu rộng, trong đó có ban hành một huấn thị về nhóm người phụng sự thế gian trên cơi hồng trần hạ giới. Nhóm người ấy hiện đang có mặt và tích cực hoạt động. Nhóm ấy đang tuần tự củng cố hàng ngũ và từ từ gây ảnh hưởng trong công việc đầu tiên là giáo dục dư luận quần chúng. Đó là phương tiện hoạt động duy nhất có ảnh hưởng mạnh mẽ và giá trị sâu xa nhiều hơn là sử dụng quyền pháp.

Từ việc củng cố nhóm người mới này, mới có việc thành lập trên thế gian một cầu nối liên lạc các linh hồn tàng ẩn và nội tại với cơi thế gian bên ngoài. Điều này là một sự hỗn hợp hay đồng hóa thật sự và sẽ đánh dấu việc khai hóa toàn thể gia đ́nh nhân loại xuyên qua thành quả thực hiện của những phần tử hướng đạo tiên phong dũng mănh tinh tiến nhất. Đó là ư nghĩa thật sự của “Hôn lễ trên Thiên Cung” của Thiên Chúa Giáo, hậu quả của việc hỗn hợp này sẽ là sự biểu lộ của cơi giới thứ năm trong thiên nhiên, tức cơi giới của Thượng Đế. Trong lịch tŕnh của ṇi giống nhân loại, một diễn biến lớn lao đă xảy ra trong quá khứ đưa đến việc biểu lộ loại thứ tư trong thiên nhiên tức là loài người. Hiện nay chúng ta đang đứng trước một diễn biến tương tự, nhưng c̣n độc đáo hơn nữa, tức việc xuất hiện loài thứ năm, do hậu quả những hoạt động có kế hoạch của nhóm người phụng sự thế gian hợp tác chặt chẽ với tập đoàn các linh hồn toàn thiện và dưới sự d́u dắt của Đức Chưởng Giáo (CHRIST). Diễn biến này sẽ mở màn cho KỶ NGUYÊN MỚI, trong khi đó 5 loài trong thiên nhiên sẽ được thừa nhân như cùng sinh hoạt sát cánh với nhau trên địa cầu.

Bởi đó, chư môn đệ được phép tham dự và quan sát công việc của Đ.Đ.C.G đến mức độ tiếp xúc tâm linh cá nhân và đă thấy xảy ra những diễn biến tâm linh sau đây:

1) Việc truyền bá giáo lư cho KỶ NGUYÊN MỚI. Giáo lư này giảng về môn tâm lư mới, phép chế ngự phàm ngă và những bí nhiệm của cơi giới Thượng Đế.

2) Việc thành lập những trường nội giáo phôi thai, sẽ truyền giảng giáo lư về Con đường Đệ tử trong thời đại mới và áp dụng giáo lư ấy trong thực tế.

Hiện nay có nhiều trường về loại này và trường Nội Môn Bí Giáo là một trong những trường đầu tiên để dọn đường cho việc xây đắp những nền tảng lớn lao hơn, đă phác họa trong quyển sách của tôi nhan đề “Thư tín về thiền định”.

3) Việc thừa nhân nhóm NGƯỜI PHỤNG SỰ THẾ GIAN và công việc làm của họ trên một quy mô khá lớn.

4) Việc xuất hiện tuy mới chỉ là một dấu hiệu tương trưng, của cơi thứ 5 hay cơi giới tâm linh.

Việc thành lập cơ cấu những nhóm đệ tử mới, tức sự thể hiện phôi thai của những Đạo viện ẩn vi nội tàng, ra bên ngoài thế gian trong KỶ NGUYÊN MỚI. Những nhóm này sẽ sinh sôi nẩy nở và xúc tiến công việc củng cố chặt chẽ những nhóm bên trong với nhóm bên ngoài và phát huy sự tăng trưởng của cơi giới Thượng Đế trên địa cầu. Điều này sẽ làm cho công chứng chú ư đến việc ph5uc hưng những bí nhiệm của các cuộc Điểm Đạo Huyền Môn.

Việc tạo nên cái h́nh thức ở ngoài thế gian qua sự trung gian của sách vở, các trường Nội Giáo và việc giáo dục dư luận quần chúng đă được giao phó cho một nhóm chúng tôi gồm các Đạo Đồ và Đệ tử Huyền Môn, một thành phần của Tổ chức Huyền Linh cai quản sự sống tâm linh trên địa cầu. Trong nhóm này gồm có hai vị Đạo Đồ Đông Phương, mà tôi là một, và năm vị Đạo Đồ Tây Phương.

Đến đây chúng ta hăy tạm gác lại việc tŕnh bày những nét đại cương, và trở loại vấn đề công tác nhất định mà nhóm Đệ tử đặc biệt này của tôi có thể làm.

Chư môn đệ không nên có ư nghĩ rằng ḿnh đang làm việc một cách độc đáo và riêng rẽ. Không phải vậy, ngày nay có nhiều người đang hoạt động một cách thông minh với những kế hoạch của chúng ta, họ thường là cô lập và lẻ loi. Nhu cầu chính trong công tác tập thể mà tôi muốn nhấn mạnh trong lúc này là một nhu cầu khó khăn nhất. Đó là tinh thần vô tư.

Những đệ tử thời xưa vẫn luôn luôn chú trọng đến hai điểm. Họ cảm thấy cần phải dè dặt mỗi khi có một kinh nghiệm tâm linh nào, và nghĩ rằng việc tường thuật hay bàn luận về những diễn biến tâm linh hay kinh nghiệm diệu huyền xảy ra trong đời họ, gây cho họ một ư thức tổn thương, mất mát và vi phạm luật Huyền Môn. Mặt khác, họ cũng cầu người khác hăy dè dặt về đời sống cá nhân của họ, về những khuyết điểm lỗi lầm của họ và yêu cầu điều ấy lớn tiếng hơn là muốn được phép giữ yên lặng về đời sống tâm linh của ḿnh. Sự yêu cầu ấy là do việc nhận định rằng thảo luận về một diễn biến tâm linh với những không hiểu biết sẽ rất nguy hiểm v́ nó có thể gây nên sự hiểu lầm, tạo nên ảo ảnh và ảo giác. Sự yêu cầu dè dặt về đời sống cá nhân thường là do thói kiêu căng, sợ bị chỉ trích, sợ bị chế riễu, sợ bị hiểu lầm, và bị xét đoán. Tất cả những điều này đều là những động lực không xứng đáng.

Trong những nhóm đời sống cá nhân của Kỷ Nguyên Mới và Đạo Viện của Chân Sư, không hề có vấn đề sè dặt như trên. Chư môn đệ là những bạn đồng môn và bạn cộng tác với nhau. Nếu có người trong quá khứ hoặc trong tương lai đă hoặc sẽ trở nên những bậc Đạo Đồ, điều ấy sẽ không ảnh hưởng ǵ đến mối liên hệ giữa y với những bạn đồng môn trong những nhóm này. Những kiến thức của sư Điểm Đạo không thể truyền khẩu trong hàng ngũ những bậc Đạo đồ, v́ những điều đó không thể truyền cho nhau bằng ngôn ngữ hay văn tự. Chỉ những người có những giác quan siêu linh nào đó mới có thể được Điểm Đạo, và nếu họ thử tiết lộ những điều bí mật và huyền nhiệm của Cuộc Điểm Đạo bằng những dấu hiệu hay biểu tượng, người ngoài sẽ không th6ể hiểu được ư nghĩa của những điều ấy.

Như vậy trong nhóm đệ tử này, hăy nên có sự hợp nhất tư tưởng. Những kinh nghiệm, tư tưởng khó khăn và thắc mắc có thể chia sẻ với nhau. Chư môn đệ có th63 phát triển ḷng ưu ái, thông cảm và tương trợ trong đời sống tinh thần. Đệ tử là những người đă già dặn về phương diện linh hồn, bởi vậy, những việc nhỏ mọn của những sự va chạm, khó khăn nhỏ nhặt của đời sống hàng ngày không nên đem ra thổ lộ với nhau. Không nên mất th́ giờ của nhau bằng những câu chuyện vô vị. Hăy dành th́ giờ, công lao vào những cuộc giao tiếp với nhau để bàn luận về việc phác họa kế hoạch cho công việc phụng sự thế gian.

Những nhóm đệ tử được dự định thành lập sẽ thuộc nhiều loại khác nhau và công việc của họ cũng sẽ đa diện và khác nhau. Có lúc tôi muốn viết đầy đủ hơn một chút nữa về những nhóm đệ tử hiện nay đang được h́nh thành trên thế gian, dưới sự chỉ đạo của các Chân Sư. Họ sẽ lần lần xuất hiện trên thế gian để thi hành sứ mạng đă được chỉ định cho họ. Có bốn nhóm đă hoặc đang được thành lập và những nhóm khác cũng sẽ được tạo nên lần lần để đáp ứng mọi nhu cầu.

Những thành viên của các nhóm ấy có một viễn ảnh bao la rộng răi hơn hiện nay. Sự tham gia của họ trong bất cứ nhóm nào là một hành động phụng sự đóng góp vào công cuộc mà tôi và những vị trong Đ.Đ.C.G đang xúc tiến theo kế hoạch của Thiên Cơ.

Người đệ tử không nên coi việc phụng sự như một cơ hội tốt cho sự tiến bộ của tâm linh của cá nhân ḿnh. Tất cả những đệ tử chân chính đều có ư tưởng giống như nhau là quyết định làm sao cho các nhóm được thành công và tất cả đều mong ước rằng công tác tập thể sẽ đem lại năng suất tối đa. Tất cả đều có nhiệt tâm phụng sự, nhưng cũng có sự thỏa măn nói chung về những thích thú và cơ hội mà công tác tập thể đưa đến cho họ. Những phản ứng này cũng là chính đáng và b́nh thường, nhưng có khi họ cũng c̣n mù tịt không biết ǵ về ư nghĩa thật sự của công việc, c̣n ưa thích những khoái lạc ích kỷ và c̣n ít nhiều tham vọng. Điều ấy cũng là tự nhiên v́ người đệ tử chưa phải là hoàn toàn. Nếu họ hoàn toàn th́ họ làm việc trong một mối liên hệ khác đối với Đ.Đ.C.G.

Để làm sáng tỏ công tác tập thể này do Đ.Đ.C.G dự định và để cho chư môn đệ hiểu rơ ư nghĩa của nó, tôi sẽ nói vài điều về mục đích của các nhóm đệ tử và cái kế hoạch toàn diện, trong đó những nhóm ấy có vị trí nhất định.

Trong những đoạn đầu của mọi cuộc thí nghiệm, luôn luôn có nhiều sự khó khăn. Mọi tư tưởng mới, nhất là nếu nó bao gồm một mục đích chỉ có thể thực hiện trong tương lai khi kế hoạch chỉnh đốn hoàn bị hơn, tự nhiên là không được hoàn toàn hiểu biết trong những giai đoạn đầu. Tôi đă nói rằng những nhóm này là một cuộc thí nghiệm. Cuộc thí nghiệm có tính chất phức tạp, gồm 4 phương diện chính, có thể diễn tả tóm tắt như sau:

I. Những nhóm đệ tử là một thí nghiệm về việc thành lập hay khởi đầu những điểm tập trung thần lực trên thế gian, xuyên qua đó thần lực thiêng liêng có thể tuôn tràn xuống để ban rải cho toàn thể nhân loại.

II. Những nhóm ấy là một thí nghiệm về việc khai trương và kỹ thuật mới trong công việc và trong những phương pháp giao thông. Tôi muốn nhấn mạnh rằng 4 chữ sau cùng này bao gồm tất cả ư nghĩa của toàn thể sự việc. Những nhóm ấy có nhiệm vụ làm cho sự liên lạc hay giao tiếp bằng tư tưởng được dễ dàng như sau:

1) Có một nhóm gọi là giao thông viên Thần giao cách cảm. Những người này thụ cảm đối với ấn tượng của Chân Sư và thụ cảm tâm linh giữa họ với nhau. Họ là những người nắm giữ mục đích của nhóm, và bởi vậy họ có liên lạc chặt chẽ với tất cả những nhóm thuộc những loại khác. Công việc của họ phần nhiều là trên cơi trí tuệ. Họ hoạt động với chất liệu tư tưởng. Họ cũng giúp cho sự giao tiếp tư tưởng được dễ dàng giữa cá nhân để phổ biến những phương thức và quy luật vượt lên trên ngôn ngữ và đưa đến một phương pháp giao tiếp mới. Sự giao tiếp sau này sẽ là:

a) Giữa linh hồn với linh hồn trên những cảnh giới cao của cơi thượng giới . điều này cần có sự điều chỉnh hoàn toàn, để cho có sự hoàn toàn hợp nhất giữa hồn, trí và óc.

b) Giữa trí và trí trên những cảnh giới thấp của cơi Thượng giới. Điều này cần có sự hoàn toàn phối hợp và củng cố của Phàm Ngă để hợp nhất trí và óc lại làm một.

Những đệ tử phải nhớ hai loại giao tiếp khác nhau đó và nên biết rằng sự giao tiếp lớn hơn không nhất thiết phải gồm luôn cả cái nhỏ hơn.

Sự giao tiếp bằng TGCC giữa những khía cạnh khác nhau của con người, hoàn toàn có thể thực hiện được ở những giai đoạn phát triển khác nhau.

2) Có một nhóm khác là nhóm quan sát viên thành thực. Mục tiêu của họ là nh́n thấy thông suốt cả không gian lẫn thời gian bằng việc tập luyện sử dụng trực giác. Họ hoạt động rất nhiều trên cơi Trung giới, để phá tan ảo ảnh, ảo giác để đem đến sự giác ngộ cho nhân loại.

Như thế, một loại năng lực khác đă được thực động, tạo nên một loại liên lạc và giao tiếp khác nữa. Đó là sự giao tiếp giữa cơi Bồ đề (là cơi Minh Triết và Lư trí đơn thuần) với cơi Trung giới (là ảo ảnh và ảo giác). Những quan sát viên thành thực được nhắc nhở rằng nhiệm vụ to lớn của họ là phải giải tán ảo ảnh của thế gian bằng cách chiếu rọi ánh sáng. Khi nào có một số đầy đủ những nhóm đệ tử hoạt động theo những đường lối trên, th́ trên cơi thế gian người ta sẽ thấy có những đường dây giao thông, tác động như những người trung gian giữa cơi giới ánh sáng và cơi ảo giác. Họ sẽ là những trạm chuyển đi thứ năng lực đặc biệt có tác dụng phá tan những ảo ảnh, ảo giác hiện hữu và như vậy, sẽ giải tán những tư tưởng cũ có tính cách gạt gẫm, phỉnh lừa. Họ sẽ giao rắc ánh sáng và sự b́nh an, nó sẽ soi sáng trung giới và dẹp tan tính chất hư ảo của đời sống trên cơi này.

3) Nhóm thứ ba là nhóm chữa bệnh bằng từ điển. Những người này không có liên hệ ǵ đến công việc của Nhà chữa bệnh bằng nhân điện ở ngoài đời hiện nay. Họ sử dụng một cách thông minh những nguồn sinh lực của thể dĩ thái. Phần lớn công việc của họ được diễn tả trong quyển thứ tư của bộ sách “Luận về bẩy Cung” (ánh sáng treatise on the seven Rays). Nhóm nhà chữa bệnh này phải thực hiện sự chữa trị đúng đắn những cá tính của con người trong mọi khía cạnh thuộc về tính chất của họ. Công việc của họ là chuyển di năng lực một cách sáng suốt đến những phần khác nhau trong con người (trí tuệ, t́nh cảm và thể xác) qua việc phân phối và lưu thông khí lực một cách đúng phép. Những nhà chữa bệnh thời nay nên cố gắng thoát ly khỏi những ư niệm tân thời và truyền thống về vấn đề chữa bệnh. Họ phải nh́n nhận sự kiện quan trọng là việc chữa bệnh phải được xúc tiến bởi những nhóm người hành động như những kẻ trung gian giữa cơi giới năng lực tâm linh (năng lực của linh hồn, của trực giác hay lư trí) và người bệnh hay một nhóm bệnh nhân. Hăy ghi nhận việc sau cùng này. Người học Đạo khi làm công việc này phải luôn luôn nhớ cái ư niệm tập thể. Họ không nên hành động như những cá nhân riêng rẽ, mà như những đơn vị trong một toàn thể hợp nhất. Điều này là đặc tính của các phương pháp trong Kỷ Nguyên Mới, khác hẳn với của thời quá khứ, v́ công việc sẽ là công tác tập thể và thường là làm cho một nhóm người. Những nhà chữa bệnh bằng từ điển phải tập hành động như những linh hồn chứ không như những cá nhân thường. Họ phải tập di chuyển để truyền sang cho người bệnh hay một nhóm người bệnh.

4) Kế đó là những giáo dục của Kỷ Nguyên Mới, họ phụng sự theo ngành văn hóa và sẽ cố gắng khai sinh một nền giáo dục mới. Họ chú trọng đến việc tạo đường giao thông (Antahkarana) (đường giao thông giữa phàm ngă với chân ngă, giữa thượng trí và hạ trí) và sử dụng trí năng trong cơn Thiên định. Họ sẽ tác động như những người truyền đạt 2 khía cạnh của năng lực thiêng liêng là Kiến Thức và Minh Triết. Hai khía cạnh này phải được quan niệm như những năng lực. Nhóm thứ tư này mà công việc có liên quan đến việc giáo dục quần chúng là một sự trung gian trực tiếp giữa Thượng Trí và Hạ Trí. Họ có liên hệ đến việc xây cái cầu thông thương (Antahkarana) và nhiệm vụ của họ là nối liền 3 điểm của việc tập trung tư tưởng, tức Thượng Đế, linh hồn và Hạ Trí, để có thể thiết lập một chiếc cầu thông thương tập thể giữa cơi giới linh hồn và thế giới loài người.

5) Nhóm thứ 5 sẽ gồm những nhà tổ chức chính trị, có liên quan đến những yếu tố chính trị trong mỗi quốc gia. Họ sẽ hoạt động trên lĩnh vực chánh thể của nhân loại, lo về các vấn đề văn minh thế giới và những mối tương quan hiện hữu giữa các quốc gia. Mục đích chánh của họ là gây sự thông cảm, hiểu biết trên địa hạt quốc tế.

Nhóm này biểu lộ tính chất cương nghị và uy quyền là những đặc tính hăy c̣n thiếu sót ở những ngành khác của sự hoạt động tập thể. Công việc này phần lớn thuộc về Cung I. Nó sẽ bao gồm phương pháp cho ư chí thiêng liêng biểu lộ trong tâm thức của các chủng tộc và các quốc gia. Những thành viên của nhóm này sẽ có nhiều năng lực của Cung I trong người họ. Họ tác động như những đường giao thông giữa công việc của Đức Bàn Cổ (Manu) và chủng tộc loài người. Làm đường vận hà cho ư chí của Thượng Đế là một nhiệm vụ rất cao quư.

6) Nhóm thứ 6 gồm có những nhà hoạt động tôn giáo. Công việc của họ là đặt nền tảng cho một tôn giáo mới, chung cho cả thế giới. Nó là một công việc tổng hợp trong t́nh thương, đặt trọng tâm vào sự hợp nhất và ḥa hợp tinh thần. Theo một ư nghĩa rơ rệt, nhóm này là một vận hà cho sự hoạt động của Cung 2, tức cung Minh Triết và Bác Ái, là cung của Đức Chưởng Giáo thế gian, một chức vụ thiêng liêng hiện nay do đức Christ giữ. Nền tảng tôn giáo mới của thế gian sẽ được xây dựng bởi nhiều nhóm làm việc dưới sự d́u dắt của Đức Chưởng Giáo và chịu ảnh hưởng của Cung 2. Toàn thể các nhóm này nói chung sẽ họp thành Nhóm 6 nói trên.

7) Nhóm thứ 7 gồm những người phụng sự khoa học. Những người này sẽ vạch tính chất tâm linh căn bản của mọi công tŕnh khoa học do động cơ thúc đẩy của t́nh thương và v́ hạnh phúc của nhân loại. Công việc này nối liền khoa học và tôn giáo để làm sáng tỏ sự huy hoàng của Thượng Đế qua sự trung gian của Thế giới hữu h́nh và những công tŕnh sáng tạo của Ngài. Họ có một nhiệm vụ vô cùng lư thú, nhưng nó sẽ không biểu hiện rơ rệt trong 1 thời gian lâu dài, trước khi những sức mạnh cấu tạo vũ trụ được hiểu rơ hơn. Điều này sẽ đến cùng lúc với sự phát triển những Linh Thị của thể dĩ thái. Nhóm này sẽ tác động như một vận hà, hay trung gian giữa những năng lực cấu tạo mọi h́nh thể làm lớp vỏ biểu lộ ngoại tại của Thượng Đế và tinh thần con người. Bởi vậy, hăy ghi nhận điều này là có thể công việc chính và đầu tiên của nhóm này là liên hệ đến vấn đề luân hồi. Đó là vấn đề khoác lấy một h́nh thể mới làm lớp vỏ học ngoài cho linh hồn theo định luật luân hồi tái sinh.

8) Nhóm thứ 8 gồm những nhà tâm lư học. Nhóm này sẽ tiết lộ những sự việc liên quan đến linh hồn, họ sẽ hoạt động với một khoa tâm lư mới căn cứ trên 7 loại người tùy theo 7 cung và với khoa Chiêm Tinh Bí Truyền. Bằng những kỹ thuật đă được chấp thuận, nhiệm vụ chính của họ sẽ là nối dây liên lạc giữa linh hồn với phàm ngă, đưa đến sự biểu lộ tính chất thiêng liêng của Thượng Đế qua sự trung gian của nhân loại. Họ cũng sẽ tác động như những trạm tư tưởng tập thể. Họ chuyển di năng lực từ 1 trung tâm tư tưởng đến 1 trung tâm khác và trên hết mọi sự, họ chuyển đạt năng lực của những ư niệm. Thế giới ư niệm là một thế giới của những trung tâm năng lực rất mạnh. Đừng quên điều này. Những ư niệm này phải được tiếp xúc và ghi nhận năng lực của chúng, phải được hấp thụ và chuyển đạt.

Nhóm thứ 9 sẽ gồm những nhà kinh tế và tài chính. Họ sẽ hoạt động với những năng lực và sức mạnh biểu lộ qua những giá trị của nền kinh doanh thương mại. Họ sẽ xử sự với định luật cung cầu với nguyên tắc chia sẻ nó luôn luôn cai quản mục đích thiêng liêng. Họ sẽ là những người phụng sự có cảm quan nhạy bén, v́ một người có linh cảm là người mà linh hồn của y rất nhạy cảm đối với linh hồn kẻ khác và của tất cả mọi h́nh thức sinh hoạt. Nguyên tắc chia sẻ nó phải cai quản những mối liên hệ kinh tế trong tương lai, là một đức tính hay năng lực của linh hồn, và bởi đó họ mới làm công việc giao tiếp giữa linh hồn với linh hồn. Họ cũng nhắc nhở linh hồn của quá khứ, nối liền với hiện tại và nh́n thấy nó những triệu chứng của tương lai.

10) Nhóm thứ 10 là nhóm những người hoạt động sáng tạo. Họ là trục giao thông giữa Ngôi BA THƯỢNG ĐẾ, tức là Ngôi Sáng Tạo (biểu lộ qua những công tŕnh sáng tạo và ứng đáp với cơi tư tưởng) và Ngôi Thứ Nhất, tức sự sống. Họ nối liền và đồng hóa sự sống với h́nh thể một cách sáng tạo. Họ có liên lạc chặt chẽ với nhóm thứ 9, bởi v́ ngày nay trong sự vô thức, và không có sự hiểu biết chân chính, họ đang thực hiện việc cụ thể hóa năng lực của dục vọng, do đó mới có sự sáng tạo nên mọi vật. Bởi vậy, vô t́nh mà họ cũng liên hệ đến việc cụ thể hóa tiền tài, công việc của họ một phần lớn cũng thuộc về triết học và liên hệ đến việc kết hợp tất cả chín nhóm kia một cách thực sự và khoa học để có thêm hoạt động sáng tạo trên cơi hồng trần và để cho Thiên Cơ có thể biểu hiện rơ ràng do kết quả của sự tập hợp ấy.

III. Những nhóm này cũng là sự biểu hiện ngoại tại của một trạng thái nội tại đă có sẵn. Chúng là một hậu quả chứ không phải là nguyên nhân. Lẽ tất nhiên những nhóm ấy có thể gây nên một hậu quả xuất khởi khi chúng hành động biểu lộ trên cơi thế gian, nhưng tự chúng vốn là sản phẩm của một hoạt động nội tại và của một sự kết hợp sức mạnh nội tại có tiềm năng biểu lộ ngoại tại. Công việc của những đệ tử có chân trong những nhóm này là liên lạc chặt chẽ với nhóm nội tàng hợp thành một nhóm lớn hoạt động tích cực. Sức mạnh tập thể này chứng tỏ sẽ thấm nhuần tất cả các nhóm khi những đệ tử trong các nhóm ấy thực hiện những việc sau đây trên cương vị của một tập thể cộng đồng:

1) Giữ sự liên lạc với nguồn thần lực nội tại;

2) Không bao giờ quên mất mục tiêu tập thể;

3) Vun trồng khả năng song đôi áp dụng những định luật của linh hồn vào đời sống cá nhân và những định luật của nhóm vào đời sống tập thể.

Sử dụng tất cả những mănh lực có thể tuôn tràn xuống nhóm người Phụng sự. Bởi vậy, họ phải tập tiếp nhận những mănh lực đó và sử dụng chúng một cách đúng phép. Các đệ tử phải nghiên cứu học hỏi những điểm gợi ư dưới đây về những trung tâm năng lực mà 10 nhóm kể trên sẽ sử dụng. Những trung tâm này chỉ được sử dụng đúng đắn khi nào một sự hợp nhất tập thể lớn lao hơn được thiết lập giữa những thành viên của các nhóm riêng rẽ và giữa các nhóm với nhau nói chung. Chư môn đệ có thể hỏi tại sao vậy? Bởi v́ thần lực tuôn xuống có thể quá mạnh và người đệ tử cá biệt không đủ sức tiếp nhận lấy một ḿnh, nhưng thần lực ấy sẽ được chia sẻ trong một nhóm nếu có sự hoàn toàn hợp nhất tập thể. Bằng cách đó mỗi đệ tử có thể phụng sự cả nhóm và mục tiêu của y, cứu cánh sẽ là:

Hợp nhất với các bạn đồng môn trong nhóm.

Điều chỉnh cho hợp với linh hồn ḿnh và với nhóm vô vi nội tại nó là cái nguyên nhân ẩn tàng của những nhóm hiển hiện bên ngoài.

Biểu lộ cái kỹ thuật đặc biệt mà nhóm của y cứu cánh phải thực hiện.

Những nhóm đệ tử sẽ sử dụng những trung tâm bí huyệt sau đây trong công việc của họ:

Nhóm một: Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và cuống họng

Nhóm hai: Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và bí huyệt nơi rún

Nhóm ba: Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và giữa hai lông mày

Nhóm bốn: Trung tâm ở đỉnh đầu, giữa hai lông mày và cuống họng

Nhóm năm: Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và đốt cuối xương sống

Nhóm sáu: Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và bí huyệt nơi rún (trong nhóm hai)

Nhóm bảy: Trung tâm ở đỉnh đầu, cuống họng và bộ phận sinh dục

Nhóm tám: Trung tâm ở đỉnh đầu, tim và bí huyệt nơi rún và cuống họng

Nhóm đệ tử này sẽ là nhóm đầu tiên sử dụng bốn trung tâm trong công việc của họ v́, theo một ư nghĩa lạ lùng, họ là những trung gian ḥa giải tư tưởng giữa nhóm khác. Họ là một nhóm liên lạc giữa các nhóm

Nhóm chín: Trung tâm ở đỉnh đầu, tim cuống họng và ở bộ phận sinh dục

Nhóm mười: Trung tâm ở đỉnh đầu, tim, bộ phận sinh dục và ở đốt cuối cùng xương sống.

Tôi tự hỏi rằng không biết những câu tŕnh bày theo thứ tự sau đây có gợi một ư nghĩa ǵ chăng trong trí của chư môn đệ. Đó là lời tuyên bố những sự việc thực tế chứ không có ư nghĩa ẩn dụ bóng bẩy, trừ phi cho rằng những lời lẽ văn tự là những biểu tượng rất thiếu sót, không đủ diễn tả những chân lư vô vi trừu tượng.

1) Mỗi nhóm đều có một đối tượng ẩn vi nội tại.

2) Cái đối tượng ẩn vi nội tại này là một toàn thể đầy đủ viên măn. Những kết quả bên ngoài chỉ là mới biểu lộ có một phần.

3) Mười nhóm ẩn vi nội tại này họp lại thành 1 nhóm, đều có liên hệ đến những Đạo Viện của các Chân Sư và mỗi nhóm đều được cai quản bởi 10 định luật bao hàm những yếu tố kiểm soát trong công tác tập thể. Một định luật là sự biểu lộ sức mạnh do mỗi người hay một tư tưởng gia thực hiện bằng quyền năng của tư tưởng.

4) Mười nhóm ẩn vi nội tại này thể hiện 10 loại năng lực và hoạt động tổng hợp để diễn đạt 10 định luật trên, là một cố gắng để tạo nên những hoàn cảnh mới và những trạng thái dị biệt, và do đó tạo dựng một nền văn minh mới và tot đẹp hơn. Thế hệ bảo b́nh (Aquarian Age) sẽ là thời kỳ thực hiện mục đích ấy.

5) Những nhóm đệ tử bên ngoài là một số cố gắng thực nghiệm và thử thách để xem nhân loại đă sẵn sàng để tiếp nhận đến mức độ nào đối với một công tŕnh như thế.

III. Những nhóm này cũng là một thí nghiệm tiêu biểu một vài loại năng lực, khi hoạt động hữu hiệu chúng sẽ tạo nên sự đoàn kết hay hợp nhất thế gian. T́nh trạng khủng hoảng hiện nay trên thế giới, với hoạn họa trên quy mô thế giới, sự bất măn về tôn giáo, những xáo trộn về kinh tế và xă hội và những hậu quả tàn khốc của chiến tranh, tất cả đều là hậu quả sự tác động của những năng lực mạnh mẽ đến nổi chúng chỉ có thể kéo trở lại nhịp điệu điều hóa, bằng cách sử dụng những năng lực mạnh mẽ hơn và được điều khiển một cách ư thức hơn.

Theo dự tính, những nhóm đệ tử sẽ làm việc chung với nhau giống như những cục bộ khác nhau của một tổ chức đại quy mô cùng hoạt động ăn khớp nhau như một đơn vị duy nhất. Họ phải hoạt động một cách nhẹ nhàng êm ái và thông minh trong phạm vi cá nhân, cũng như sự tương quan liên hệ giữa họ với nhau. Điều này sẽ có thể thực hiện được khi nào những thành viên lẻ loi trong các nhóm và các nhóm đệ tử nói chung quên đi cá tính biệt lập của ḿnh để cố gắng làm cho công tŕnh này của Đại Đoàn Chưởng Giáo được thành tựu mỹ măn. Trong loại công tác tập thể này, những cảm xúc, phản ứng và thành công của cá nhân đều tuyệt đối không đáng kể. Chỉ có những ǵ trợ giúp cho cố gắng chung của toàn thể và tâm thức tập thể của nhóm được tăng cường mới là điều quan trọng.

 

PHẦN V

Đại Đoàn Chưởng Giáo chuẩn y việc phát động những nhóm đệ tử này vào năm 1931. Kể từ khi đó, những thành viên của nhóm đă được chọn lựa lần hồi và từ khi họ được chỉ định vào làm công tác của Đạo Viện, họ vẫn cố gắng làm việc chung trong sự hoàn toàn hợp nhất về mục đích cũng như về t́nh giao hảo. Chư môn đệ có thể thích thú mà biết ít nhiều về việc chúng tôi đề cấp đến vấn đề bằng cách nào.

Như tất cả chư môn đệ đă biết, tôi là một Đạo Đồ thuộc về CUNG 2, ở một đẳng cấp nào đó, cấp đẳng này không có liên quan ǵ đến chư môn đệ cả, tuy rằng nhiều đệ tử đă tự trong thâm tâm và do sự tiếp xúc cá nhân mà biết tôi là ai. Nếu giáo lư mà tôi đă đưa ra cho chư môn đệ và những quyển sách mà tôi đă công bố cho thế gian không đủ làm cho chư môn đệ tin tưởng và chú ư, th́ dù có biết rằng tôi ở đẳng cấp nào, dù quả vị Chân Sư hay Bồ tát, hay ở Quả Vị Phật tiếp cận với Ngôi Tối Cao Thiêng liêng, cũng không có ích lợi ǵ cả mà chỉ làm ngăn trở sự tiến bộ của chư môn đệ.

Trong nhiều kiếp mà tôi có liên hệ mật thiết với Chân Sư K.H. trong khi thảo luận với NGÀI, chúng tôi thường tự hỏi bằng cách nào chúng tôi có thể trợ giúp vào việc khai sáng trên thế gian những loại công tác mới mẽ có thể tiêu biểu cho KỶ NGUYÊN MỚI nhưng đồng thời cũng khá gần gũi với sự hiểu biết của những Đạo Sinh tiến bộ và của những đệ tử ở ngoài thế gian, để có thể sở cậy đến sự hợp tác và sự trợ giúp sáng suốt thông minh của họ. Chúng tôi tự hỏi nên đặt ra những nhu cầu như thế nào và nên áp dụng những kỹ thuật nào trong KỶ NGUYÊN MỚI để nâng cao tâm thức của nhân loại? Chúng tôi đă nhận định rằng trên hết mọi sự, mọi công tác tập thể phải hội đủ 4 đặc tính mà người đệ tử cần phải có nếu muốn được chọn lựa để chịu huấn luyện nhạy cảm, vô tư, khả năng thông linh định trí.

Tôi không nêu ra đức tính hoài băo, vô kỷ hay ḷng mong muốn phụng sự. Đó là những đức tính căn bản cần thiết là nếu hành giả chưa sở đắc được th́ không ích ǵ mà đi t́m sự trợ giúp của chúng tôi trong lúc này.

Chư môn đệ sẽ ghi nhận rằng nh́n về lịch sử tâm linh của nhân loại trong khoảng 2000 năm qua (một dĩ văng khá đủ cho mục đích khảo cứu của chúng ta), những phương pháp sau đây đă được sử dụng liên tục để nâng cao tŕnh độ tâm linh của con người.

1) Phương pháp nâng cao tâm thức của một người để làm cho y trở nên một thức giả. Sự cứu rỗi cá nhân và việc xuất hiện của những nhân vật xuất chúng có những giác quan và nhăn quang tâm linh và đạt những thành quả tâm linh độc đáo, đă từng là những đặc điểm của lịch sử tâm linh nhân loại trong quá khứ. Vài người trong số đó xuất hiện theo con đường của quả tim, hay tu tâm, tức con đường thần bí (Mystic way) như SRI KRISHANA của Tây Tạng, Lăo Tử của Trung Hoa và nhiều vị Thánh Gia Tô của Phương Tây. Quyển BHAGAVAD GITA là quyển Thánh Kinh tŕnh bày tuyệt đối con đường này.

Những người khác xuất hiện trên con đường mở trí hay tu Huệ, đó là những thúc gia trí tuệ quảng bác. Họ theo con đường Huyền môn (OCCULT WAY) một cách nhất định và đó cũng là con đường mà những Đạo Sinh của thời buổi này theo càng ngày càng nhiều. Lư do là v́ nhân loại đang theo cái đà mở trí và hướng về cơi trí tuệ một cách rơ rệt. Vài người đi theo con đường mở trí, tu HUỆ này là SANKARA, Thánh PAUL, MEISTER ECKHARD. Ngày nay nhiều người đă xuất hiện trên con đường này dưới danh nghĩa của khoa học. Cũng có những Đấng Giáo Chủ như Đấng Christ và Đức PHẬT đă hỗn hợp đă hai con đường một cách hoàn hảo, làm cho các Ngài tiến lên tột đỉnh và vượt lên trên nhân loại chúng ta rất xa. Các NGÀI gieo rắc ảnh hưởng khắp cả các Bán Cầu và qua nhiều thế kỷ, c̣n các vị thấp hơn cũng có ảnh hưởng trên các quốc gia, đối với những thành phần nhất định và trong những thời kỳ ngắn hạn hơn.

2) Phương pháp thứ hai để nâng cao tâm thức của nhân loại là phương pháp tập thể với từng nhóm người quy tụ chung quanh một vị Đạo Sư, Vị này dù thuộc hạng cao hay thấp, là một điểm trọng tâm năng lực bởi:

a) Quyền năng thúc động Chân Ngă (tiếp xúc với linh hồn của chính ḿnh) hay là

b) Do sự tiếp xúc với Chân Ngă, và cũng do bởi Vị ấy là một đường vận hà xuyên qua đó một vị trong Đ.Đ.C.G có thể hành động.

Do nơi gương lành của vị Đạo Sư, cho Giáo lư được truyền dạy được rất nhiều, âm ba rung động của nó có thể được nâng cao, tâm thức được nới rộng và nhóm đệ tử có thể trở nên một trung tâm từ điển đầy năng lực và ánh sáng tâm linh. Cường độ ảnh hưởng của trung tâm ấy tùy nơi mục đích thuần khiết và đời sống vị tha vô kỷ của những Môn sinh trong nhóm. Tầm mức trí năng của nhóm cũng gây ảnh hưởng v́ âm ba rung động trung b́nh và sự định trí sẽ tạo nên cái đặc tính tập thể của toàn nhóm nói chung.

Hiện nay đang có sự thí nghiệm để rời trọng tâm của các nhóm vào bên trong và đồng thời cũng lại tăng gia cường độ của họ bằng cách không để cho một lănh tụ cá nhân nào được ở tại trung tâm của nhóm trên cơi giới bên ngoài. Tất cả thành viên trong nhóm phải tụ họp chung quanh như những linh hồn tự do. Họ sẽ học hỏi chung nhau một cách vô tư lợi, họ sẽ cùng nhau phụng sự thế gian. Tuy nhiên người nào cho rằng công việc mà họ phải làm chỉ có diễn ra trên cơi giới siêu linh nội tại và y chỉ hoạt động trên những mức độ trí tuệ tâm linh thôi th́ người ấy có quan niệm không đúng. Công việc tâm linh nội tại mà không thể hiện ra dưới h́nh thức sinh hoạt khách thể, ngoại tại ở thế gian là do một cảm hứng sai lạc và đi sai đường.

Những nhóm đệ tử mới này sẽ làm việc chung nhau dưới sự d́u dắt hướng dẫn và gợi ư của một Vị Chân Sư trong Đ.Đ.C.G. Chư môn đệ hay ghi nhận danh từ gợi ư. Nếu những nhóm ấy bị áp đặt dưới uy quyền của vị Chân Sư nói trên, th́ mục đích của công việc dự tính sẽ không thực hiện được, v́ điều ấy vi phạm một định luật Huyền Môn.

Ngày nay sự trợ giúp một cách tự do, sáng suốt và thông minh là điều mà chúng tôi đ̣i hỏi ở tất cả các đệ tử và chúng tôi để cho họ được tự do hợp tác hay không tùy ư muốn và bằng cách nào mà họ cho là tiện nhất. Tôi là Thầy của chư môn đệ, tôi gợi ư và đưa lời huấn giáo. Tôi chỉ con đường đưa đến mục đích và đưa đến nơi phụng sự. Tôi chỉ cho môn đệ thấy những ǵ các Chân Sư muốn thực hiện. Tạm thời là do ư chí tự do của ḿnh, chư môn đệ đă tỏ ra sẵn ḷng phụng sự và hợp tác với những kế hoạch của tôi đưa ra. Tôi sẽ không làm ǵ khác hơn là chỉ đường và chỉ rơ công việc phụng sự. Chư môn đệ hăy cố gắng trong sự thông cảm và hợp tác chặt chẽ để tự ḿnh t́m ra phương pháp sử dụng những sự gợi ư của tôi. Tôi can thiệp vào việc đó.

Trước hết tôi kêu gọi một t́nh thương thắm thiết hơn và một sự thông cảm sâu xa hơn giữa những thành viên trong nhóm. Điều này cần thiết để có cơ cấu nội bộ nhóm được củng cố vững vàng và chặt chẽ hơn.

Kế đó, chư môn đệ phải hoạt động trên địa hạt thiền định công phu với một sự sáng suốt và quyền năng lớn lao hơn. Công phu thiền định của chư môn đệ hăy c̣n nhiều tính chất ích kỷ, Chư môn đệ có nhận thấy điều ấy chăng? Phải chăng chư môn đệ vẫn thường bày tỏ thái độ của ḿnh bằng những lời lẽ đại khái như: Khi tôi ngồi thiền lần này Chân Sư Tây Tạng bạn cho tôi những ǵ? Ngài sẽ cho tôi điều ǵ để tôi trở thành một đệ tử tốt hơn? Pháp môn thiền định mà Ngài dạy cho tôi có làm cho tôi thích hơn điều mà tôi đang làm chăng? Việc đổi qua Pháp môn khác sẽ đem đến cho tôi kết quả tốt hơn chăng? (có lẽ thuộc loại Thần Thông Bí Nhiệm) hoặc đem đến một sự mặc khải hay giác ngộ mới, có thể giúp cho tôi đạt mục đích.

Trong nhóm đệ tử ở Đạo Viện của tôi, ít có người đă thực sự công phu thiền định trên mức độ sáng tạo. Tôi phải nói rằng trừ phi chư môn đệ bắt đầu làm việc như thế th́ công việc mà tôi muốn thực hiện qua sự hợp tác của chư môn đệ vẫn c̣n bị bế tắc. Mục đích của công phu thiền định mà tôi chỉ dẫn cho mỗi đệ tử là giúp cho mọi người có cái khả năng tham thiền để cho họ không c̣n bận rộn nghĩ đến ḿnh và những bài toán khó khăn riêng của ḿnh mà họ sẽ trở nên hợp nhất với cả nhóm để làm công tác tập thể và cứu cánh để thực hiện những mục đích cộng đồng c̣n rộng lớn hơn nữa, đó là những mục đích của tôi, với tư cách là thầy của chư môn đệ và như một người phụng sự thế gian.

Bởi vậy, bây giờ tôi có thể làm việc với loại khí cụ nào? Mỗi vị Đạo sư chân chính đều tự hỏi như thế khi xem xét nhóm linh hồn mà họ đă kết nạp và t́m cách hướng dẫn, trợ giúp. Khi đă có sự hợp nhất chặt chẽ th́ những khuynh hướng căn bản cùng những tính chất tập thể của nhóm mới xuất hiện và có thể xem xét. Chừng đó những yếu kém có thể được sửa đổi và những ưu điểm được tăng cường.

Trước đây, tôi có nói rằng những đức tính căn bản mà chúng tôi t́m kiếm là nhạy cảm, vô tư, khả năng thông linh và định trí. Tôi xin nói thêm vắn tắt về những điểm này và sẽ đưa ra những kế hoạch sinh hoạt tập thể trong tương lai để chư môn đệ lưu ư và có thể hợp tác. Những kế hoạch này có thể thực hiện nếu chư môn đệ làm những cố gắng cần thiết, tự khép ḿnh vào kỷ luật và chịu sự huấn luyện để có thể trở nên hữu dụng sau này.

Tôi đă nói rằng đặc tính cần thiết đầu tiên là nhạy cảm. Điều này có nghĩa là ǵ? Trước hết nó không có nghĩa là linh hồn nhạy cảm với những ư tưởng thông thường rằng đó là một người nhiều tự ái, hướng nội và luôn luôn giữ thế thủ. Tôi muốn nói đến cái khả năng giúp cho người đệ tử phát triển tâm thức để cho y có thể tiếp nhận được những loạt cảm xúc mỗi lúc càng rộng răi hơn, bao quát hơn. Tôi muốn nói đến cái khả năng sống động, lanh lợi, nhận định t́nh thế nhanh chóng, phản ứng mau lẹ đối với nhu cầu, chăm chú đến đời sống trên mọi mặt lư trí, xúc cảm và thể chất, và phát triển mau lẹ cái khả năng quan sát đồng loạt trên 3 cơi giới. Tôi không chú trọng đến liên hệ cá nhân của người nào khi mà nó thuộc về những cảm xúc của Phàm Ngă như xuống tinh thần, buồn tủi, tức bực nhạy cảm đối với sự khinh bạc, hiểu lầm, bất măn đối với hoàn cảnh ḷng tự ái bị va chạm và tất cả những ǵ cùng loại. Tất cả những điều này gây cho người đệ tử sự ngơ ngác băn khoăn và làm cho y tủi thân, tự thương cảm cho phận ḿnh. Nhưng chư môn đệ không cần có tôi mới giải quyết được điều ấy. Chư môn đệ biết rơ nó lắm, có thể sửa trị chúng nếu muốn. Những khuyết điểm đó chỉ đáng kể là khi nào chúng ảnh hưởng đến sự sinh hoạt tập thể của nhóm. Chúng phải được giải quyết một cách thận trọng và sáng suốt với đôi mắt mở lớn để có thể nh́n thấy nguy cơ từ đàng xa và tránh nó kịp thời. Sự nhạy cảm mà tôi thấy cần phát triển là cảm thông mau lẹ trên phương diện linh hồn, thụ cảm bén nhạy đối với tiếng nói của Chân Sư thức tỉnh linh hoạt đối với ư tưởng mới và sự ứng đáp tế nhị của trực giác. Những điều này luôn luôn vẫn là những dấu hiệu của người đệ tử chân chính. Sự nhạy cảm của tâm linh nên được vun trồng. Điều này chỉ thực hiện được khi môn đệ tập sử dụng những bí huyệt thuộc phần trên của hoành cách mô và chuyển hướng sự hoạt động của bí huyệt nơi rún (nó vẫn là sự hoạt động của bí huyệt ở quả tim và hướng về việc phụng sự nhân loại.

Đức tính vô tư (Impersionality) nhất là đối với những người tiến bộ ở những đẳng cấp cao, là một đức tính rất khó đạt được có một sự liên hệ mật thiết giữa vô tư và vô dục (detachment). Hăy nghiên cứu điều này. Nhiều ư tưởng ôm ấp trong ḷng, nhiều đức tính đạt được một cách khó khăn, nhiều điều ngay chính được hàm dưỡng cẩn thận và nhiều sự tin tưởng được thốt ra một cách mạnh mẽ, đều có tác động ngược lại với sự vô tư. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ huấn luyện, người đệ tử nhận thấy rất khó mà giữ vững được. Lư tưởng riêng tư của ḿnh và xúc tiến sự hợp nhất tâm linh, nhưng đồng thời vẫn hướng về người khác với một tấm ḷng vô tư vô kỷ. Y muốn cho những tranh đấu và những thành công của ḿnh được thừa nhận. Y muốn được người khác biết rằng y là một đệ tử. Y mong mỏi thi thố quyền năng và biểu lộ t́nh thương đă mở rộng của ḿnh để tán thưởng, ngợi khen, hay ít nhất để gây sự thách thức nơi kẻ khác. Nhưng rồi vẫn không có ǵ xảy ra. Y được coi như không hơn ǵ những người khác. Bởi đó, đời sống là một điều bất măn.

Những sự thật này ít khi được chư môn đệ nh́n nhận hay nêu ra để tự kiểm thảo lấy ḿnh. Bởi vậy nên trong tinh thần giúp đỡ, tôi xin nêu chúng ra cho chư môn đệ xử trí. Những người thông minh, dù nam hay nữ không thể nào chịu được khi thấy những người liên hệ với ḿnh xử sự theo một quan điểm hoàn toàn khác hẳn.

Theo quan điểm của người đệ tử, cách xử sự đó có vẻ thiếu sót hay ngu xuẩn và dường như có những lỗi lầm nặng nề về óc xét đoán hay về kỹ thuật. Tuy nhiên, hỏi đệ tử, tại sao đệ tử dám chắc rằng ḿnh nghĩ đúng và quan điểm của ḿnh nhất thiết phải chính xác. Có thể rằng quan niệm sống và cách nhận định t́nh thế của một đệ tử cần được điều chỉnh lại, và những động lực nội tâm cùng những thái độ của đệ tử có thể là cao thượng nhất và tốt lành nhất mà đệ tử có thể thực hiện được bất cứ lúc nào, đệ tử hăy đi con đường của ḿnh và để cho người bạn kia đi theo con đường của họ. Kinh BHAGAVAD GITA há chẳng nói lên sự thật này để dạy người đệ tử hăy lo việc ḿnh: “Thà làm đúng thiên trách ḿnh hơn là làm thiên trách người khác”.

Thái độ không xen vào việc người và không chỉ trích người vẫn không ngăn trở việc giúp đỡ lẫn nhau hay những mối liên quan tập thể có tính cách xây dựng. Thái độ ấy không làm mất sự biểu lộ t́nh thương hay sự hợp tác tập thể trong niềm ḥa ái. Luôn luôn có nhiều cơ hội để thực hành đức tính vô tư trong tất cả mọi giao dịch liên hệ tập thể. Trong một nhóm thường có một người gây chướng ngại khó khăn cho ḿnh và cho những thành viên khác trong nhóm. Có lẽ chính đệ tử cũng là người như thế mà không biết. Có lẽ đệ tử biết rằng trong số những người cộng tác với ḿnh để phụng sự, ai là người gây chướng ngại thử thách cho những người khác. Có lẽ đệ tử thấy rơ điểm nào là điểm kém yếu của nhóm và ai là người gây khó khăn tŕ hoăn cho sự sinh hoạt tốt lành của nhóm. Như thế cũng không sao miễn là đệ tử vẫn tiếp tục thương yêu, phụng sự và tránh mọi chỉ trích.

Không phải là một điều hay mà lúc nào cũng t́m cách sửa đổi người bạn ḿnh hoặc t́m cách áp đặt ư muốn hay quan điểm của ḿnh một cách độc đoán tuy rằng người ta vẫn có tểh bày tỏ ư kiến và đưa ra những điểm gợi ư. Những nhóm đệ tử là những nhóm linh hồn tự do và độc lập, đặt quyền lợi cá nhân vào việc công ích và cố gắng thực hiện sự đoàn kết bên trong, làm cho nhóm trở thành một khí cụ hữu hiệu để phụng sự nhân loại và phụng sự Thiên Cơ. Hăy tiếp tục trau dồi tu luyện bản thân và hăy để yên cho những bạn đồng môn trau dồi bản thân của họ.

Vấn đề quan niệm thông linh (hay thần thông) không phải để giải thích. Tôi không đề cập đến những quyền năng hạng thấp, có thể khai mở hay không với thời gian qua và khi chúng được dùng đến. Tôi chỉ đề cập đến những khả năng sau đây vốn ẩn tàng nơi linh hồn và pphải được phát triển nơi tất cả những đệ tử, nếu chư môn đệ muốn đóng góp công quả để đáp ứng với những nhu cầu của thế gian và hợp tác với Thiên Cơ trên địa hạt phụng sự nhân loại, những khả năng đó là:

1) Đáp ứng bằng trực giác với mọi ư niệm.

2) Nhạy cảm đối với những ấn tượng mà ân trên có thể gieo vào trí óc của người đệ tử. Chính v́ lư do này mà tôi đang muốn luyện chư môn đệ tiếp xúc với tôi trong những đêm trăng tṛn.

3) Đáp ứng mau lẹ đối với những nhu cầu cấp bách. Có lẽ chư môn đệ không cho rằng đây là một quyền năng thông linh phải chăng? Tôi không đề cập đến một phản ứng nơi rún, mà nói về động tác của quả tim. Hăy suy ngẫm về sự dị biệt này.

4) Quan sát đúng đắn sự việc trên cơi giới linh hồn. Điều này đưa đến sự nhận thức đúng đắn bằng trí tuệ, vượt khỏi mọi ảo ảnh và ảo giác và sự sáng suốt của trí năo.

Sử dụng năng lực một cách đúng phép. Điều này đương nhiên cần có sự hiểu biết các thể loại và tính chất của năng lực, cùng tác dụng phụng sự của nọ trong việc phụng sự thế gian.

5) Sự hiểu biết chân chính về yếu tố thời gian với những chu kỳ biến đổi thăng trầm của nó và những thời kỳ thuận lợi cho sự hành động. Đây là một quyền năng khó sở đắc nhất, nhưng nó có thể đạt được bằng sự kiên nhẫn chờ đợi và đừng hối hả vội vàng.

Tất cả những quyền năng này, người đệ tử phải tập khai mở trọn vẹn. Nhưng việc ấy đương nhiên là phải tuần tự, chậm chạp.

Kế đó là sự định trí quyền năng hay đức tính này có nghĩa là ǵ đối với chư môn đệ, trong giai đoạn này nó phải biểu lộ bằng hai cách:

a) Do công phu thiền định liên tục.

b) Do sự kiểm soát thể t́nh cảm.

Đời sống tinh thần của chư môn đệ càng phài càng phải được tập trung trên cơi trí tuệ. Thái độ công phu ấy phải được duy tŕ thường xuyên và không gián đoạn, không phải chỉ trong vài phút mỗi buổi sáng hay những lúc nhất định nào đó trong ngày mà phải thường xuyên và suốt ngày.

Thái độ ấy ngụ ư một sự định hướng rơ rệt cuộc đời ḿnh vào mục đích tâm linh và xử thế theo quan điểm của linh hồn. Điều này không có nghĩa là từ bỏ cuộc đời thế gian như người ta thường nói. Người đệ tử vẫn nhập thế, nhưng y xử thế trên mức độ của linh hồn và nh́n vào thế sự với tầm nhăn quang sáng suốt: “Y sống trên thế gian nhưng không bị thế gian lôi cuốn”. Đó là thái độ đúng đắn như đấng SHRISA đă dạy. Càng ngày, mọi sinh hoạt mănh liệt thông thường của mọi xúc cảm, dục vọng và ảo giác càng phải được kiểm soát, chế ngự và làm cho lắng dịu bằng sự sinh hoạt tâm linh xuyên qua sự tác động của trí năo. Những sự xúc cảm của cá nhân vị kỷ phải được biến chuyển thành sự thực hiện đức tính vô ngă và đại đồng. Thể t́nh cảm phải trở nên một cơ quan chuyển vận đức từ bi, bác ái của linh hồn. Dục vọng phải nhường chỗ cho hoài băo tâm linh, và đến lượt nó, hoài băo hay nguyện vọng này phải được đồng hóa với sinh hoạt tập thể mà lợi lộc tập thể. Ảo ảnh, ảo giác phải nhường chỗ cho sự thật và ánh sáng thuần khiết của trí tuệ phải chiếu soi cao tất cả những chỗ tối tăm, u ám của phàm ngă thấp hèn. Đó là những kết quả của sự định trí, do công phu thiền định và sự theo đuổi một tâm trạng, một thái độ thiền định thường xuyên, liên tục. Điều này không phải mới lá được chư môn đệ, nhưng nó là một cái ǵ vẫn chưa được biểu lộ trên thực tế. Nếu chư môn đệ tự hỏi lấy ḿnh những câu hỏi sau đây và can đảm thành thật trả lời trước sự phán đoán của linh hồn ḿnh th́ chư môn đệ sẽ học hỏi rất nhiều và sẽ tiến bộ rất mau:

Bạn hiểu thế nào là sự nhạy cảm tâm linh?

Có bao giờ bạn thật sự nhận được sự rung động của tôi chăng?

Bạn có phản ứng đối với những lỗi lầm người khác một cách mau lẹ hơn là đối với những đức tính thiêng liêng của y chăng?

Sự chỉ trích có ảnh hưởng như thế nào đối với nhạy cảm tâm linh?

Điều ǵ bạn cho rằng ngăn trở sự phát triển đức tính đó của ḿnh?

Hăy định nghĩa đức tính vô tư:

Bạn có biết chăng sự dị biệt giữa vô tư của người thuộc Cung I và sự vô tư thật sự?

Khi có người nào bất đồng ư kiến với bạn hay khi bạn không ưa những cử chỉ, thái độ của một người, bạn làm ǵ trước hết? Ban thương yêu y chăng? Bạn giữ im lặng chăng? Bạn phê b́nh y với người khác chăng? Bạn sửa đổi y bằng cách nào?

Nếu bạn vô tư, ấy là do sự tập luyện hay do bản tính tự nhiên? Phải chăng đó chỉ là một cách tự vệ? Hay đó là phương pháp dễ nhất để đạt được sự b́nh an? Hay đó là một thành quả tâm linh?

Tôi đă định nghĩa cho bạn những quyền năng thông linh. Tôi có nêu ra 6 loại quyền năng. Hăy nghiên cứu những loại đó rồi nêu ra một cách vắn tắt rơ ràng khả năng bạn:

Để chứng minh quyền năng đó.

Để phát triển những quyền năng đó và phác họa sơ lược phương pháp làm thế nào?

Bạn cảm thấy bằng cách nào ḿnh đă thành công trong việc xử thế thuần bằng lư trí?

Trong một cơn xúc động t́nh cảm, bạn có chuyển hướng t́nh trạng khó khăn ấy qua t́nh thương chăng?

Bạn có dấu diếm che đậy những cảm xúc của ḿnh chăng? Tại sao?

Bạn có vận dụng lư trí và xử sự trên b́nh diện lư trí chăng?

Bạn có biết ảo ảnh ảo giác là ǵ chăng, và bạn có nhận biết chăng khi nó đến với bạn?

Những câu hỏi này có một mục đích song đôi. Nếu chư môn đệ trả lời những câu hỏi ấy một cách thành thật và rơ ràng, chúng sẽ làm cho chư môn đệ xử sự với ḿnh như một thành viên của nhóm và như vậy sẽ quy định tầm mức đóng góp của ḿnh cho nhu cầu tập thể và cho nhu cầu phụng sự việc của chúng tôi. Nếu chư môn đệ viết ra những câu trả lời cho những câu hỏi ấy và cùng chia sẻ với các bạn đồng môn, việc ấy sẽ giúp cho họ có cơ hội hiểu biết nhau nhiều hơn.

Có một động tác bí nhiệm nó đạt tới mức tột đỉnh trong một cuộc điểm đạo lớn thuộc cấp đẳng nào th́ chư môn đệ chưa cần biết bây giờ, đó gọi là “đưa ra ánh sáng”. Một đệ tử được thâu nhận là người đang được chuẩn bị điểm đạo, và đó là một trong những nhiệm vụ của tôi trong lúc này. Bởi vậy tôi phải bắt đầu đặt nền tảng cho việc đưa ra ánh sáng nói trên, có nghĩa là tiết lộ những điều ẩn dấu. V́ thế trong giai đoạn huấn luyện này, qua những câu hỏi trên, tôi đưa đến cho chư môn đệ cái cơ hội thực tập sớm việc “tiết lộ đáng sợ đó”. Nó sẽ diễn ra về sau này trong một trạng thái tâm thức cao hơn.

Tôi và những ĐẤNG CAO CẢ hoạt động trên cơi giới siêu linh muốn làm ǵ với những nhóm này? Với một mục tiêu rộng lớn như thế nào. Những nhóm đệ tử này không phải được thành lập như những “Nhóm Giông” để thực hiện một mục đích nhất định và rơ rệt. Chúng được tổ chức như những vận hà để phân đôi vài loại thần lực đặc biệt cho thế gian. Những thần lực này sẽ biểu lộ bằng những đường lối rơ rệt Đ.Đ.C.G.

Đ.Đ.C.G vẫn luôn luôn sử dụng và phân phối thần lực cho thế giới loài người. Tôi đề cập đến những thần lực được dùng đến để thức tỉnh tâm thức con người, và việc kết hợp chặt chẽ thế giới huyền linh với cơi giới loài người. Tôi đề cập đến những hoạt động do đó cơi giới loài người có thể trở thành một trạm ánh sáng lớn và một kho sức mạnh tâm linh để phân phối nguồn mănh lực này cho những ḷa khác trong thiên nhiên. Lời giải thích trên có một tầm quan trọng thiết yếu. Nó bày tỏ những mục tiêu tiếp cận của chúng tôi và tính chất của địa hạt phụng sự, trong đó chư môn đệ có thể hoạt động như một nhóm tập thể chứ không như những cá nhân biệt lập. Chúng tôi đă từng sử dụng những nguồn thần lực này từ nhiều thế kỷ, nhưng loài người chỉ tiếp nhận được ảnh hưởng của nó một cách vô ư thức. Chúng tôi đă phân phối thần lực một cách rộng răi dồi dào nhưng thỉnh thoảng mới có một vài cá nhân lẻ tẻ, rải rác đó đây ứng đáp một cách tích cực và có ư thức. Những người ấy trở nên những điểm tựa nhỏ bé để tập trung ánh sáng và sức mạnh tâm linh. Ngày nay chúng tôi thấy đă có thể tập trung ánh sáng và kiến thức một cách nhất định và rơ rệt hơn nhiều, và thành lập những nhóm trên địa cầu (gồm có những cá nhân lẻ loi và biệt lập nhưng biết ứng đáp) để có thể ban phát nhiều ánh sáng và kiến thức hơn. Điều này chúng tôi đă quyết định thực hiện bằng hai phương pháp:

1) Với sự hợp tác của tất cả các Chân Sư trong Đ.Đ.C.G, hoạt động xuyên qua các đệ tử của các Ngài.

2) Với sự hoạt động tập trung đặc biệt của các Chân Sư MORYA, KOOT HOOMI và tôi, người phụng sự và đệ tử của các Ngài.

Bằng phương pháp thứ nhất, Nhóm người phụng sự thế gian được h́nh thành và những đệ tử Đạo Sinh trên thế gian, hoạt động trên tất cả các Cung và dưới sự d́u dắt (dù nhận biệt được một cách ư thức hay vô thức) của các Chân Sư đă có lời thệ nguyện trợ giúp nhân loại. Như vậy một kho năng lực vĩ đại và trạm ánh sáng vĩ đại đă được thành lập. Ánh sáng ngày được ban rải cùng khắp mọi nơi và những vận hà của nó sẽ có khắp nơi trên thế giới, trong mọi xứ và mọi thành phố lớn. Điều này, chư môn đệ đă biết và với ngành này của công việc phụng sự (mà tôi đă cam kết thực hiện) Chư môn đệ cũng tích cực hợp tác.

Nhưng cũng có thể tập trung ánh sáng một cách dồi dào hơn nữa vào những đệ tử nhỏ hơn và chọn lựa một cách kỹ càng hơn. Qua những nhóm nhỏ hơn này, sự xuất hiện của vài loại thần lực có thể biểu lộ, vài loại quyền năng có thể khai mở và có thể thực hiện một cuộc thí nghiệm có thể được xem xét và nghiên cứu, việc tăng gia cường độ ánh sáng và năng lực có thể được chứng minh rơ ràng đến mức làm cho con người nhận biết được ảnh hưởng của những hiện tượng siêu nhiên là di sản của các thế hệ tương lai.

Tôi đă tự nguyện hiến ḿnh cho ngành công tác đặc biệt này do Thiên Cơ chỉ định. Nó sẽ là cái trọng tâm của nền văn minh tương lai và bởi đó những đặc tính mới và những nếp sinh hoạt tân kỳ có thể khai triển dưới những ảnh hưởng lớn lao của thời đại mới. Những điều này vẫn luôn luôn làm cho tôi thích thú và đặc biệt chú trọng.

Lẽ tự nhiên tôi đă t́m kiếm trong số những người mà tôi đă từng theo dơi cuộc đời, có khi trong nhiều kiếp. Trong số đó có những người trong hàng ngũ chư môn đệ hiện nay đang cộng tác với tôi. Những nhóm đệ tử này là cái Mầm mống của cuộc thí nghiệm lớn. Nếu thành công th́ trong chu kỳ thời gian 275 năm tới đây họ sẽ đạt được những kết quả sau:

1)     Rút xuống địa cầu vài loại thần lực thiêng liêng mà nhân loại cần dùng nhưng hiện nay vẫn chưa tác động.

2)     Phát triển hết 6 loại quyền năng thần thông mà tôi đă diễn tả trên đây.

3)     Huấn luyện các thành viên trong nhóm về tính chất liên quan tổng hợp tập thể, nó vốn là đặc tính của Đ.Đ.C.G, và như thế chuẩn bị cho họ bước vào cửa điểm đạo. Trong số những nhóm này, sẽ chọn được những đệ tử có thể được đặc biệt chuẩn bị cho việc khai triển tâm thức và có thể giao phó nhiệm vụ tiếp xúc với những khía cạnh của Thiên Cơ mà từ trước đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Khi chư môn đệ càng xúc tiến công việc này và t́m hiểu ư nghĩa công tác tập thể, th́ mỗi lúc lại càng thấy rơ ràng hơn thật sự Thiên Cơ là ǵ.

Tôi thấy khó giải thích cho chư môn đệ hiểu rơ mục đích rốt ráo của công tác tập thể này, cũng như khó giải thích bài toán rắc rối cho một đứa trẻ, dù rằng nó thông minh bực nào. Nhưng nếu chư môn đệ có đủ kiên nhẫn cần thiết, sẵn ḷng làm việc một cách vô tư và với t́nh thương, nếu chư môn đệ đặt phàm ngă cá nhân lệ thuộc vào đời sống tập thể th́ chừng đó sự hiểu biết, sự nhận thức và ánh sáng sẽ tuôn tràn đến và khả năng làm việc cũng sẽ lở rộng. Chừng đó chúng tôi sẽ có những điểm tập trung hay những người cầm đuốc soi đường và những vận hà để có thể phân phối thần lực. Đó là một điều chưa từng có trên một quy mô mà hiện nay chúng tôi đang dự tính.

PHẦN VI

Tôi không muốn lập lại nhiều lần những huấn thị về con đường đạo của người đệ tử. Chư môn đệ là những người nam và nữ đă trưởng thành và biết rơ đường đi. Việc áp dụng trên thực tế những quy luật cổ là trách nhiệm cá nhân của mỗi người. Mỗi người đều có tự do hành động tùy ư muốn. Chư môn đệ đă đạt tới mức độ già dặn của tâm hồn và phải sẵn sàng bước thêm 1 bước nữa. Đó là khi chư môn đệ đă chuyển biến những kiến thức và lư thuyết trở thành Minh Triết và thực hành.

Người đệ tử chỉ làm được những việc hữu hiệu nhất trong tinh thần vô dục thật sự. Y nhận định rằng do bởi tinh thần vô dục đó, suốt đời y chỉ là một người phụng sự (một phần tử trong hàng ngũ hùng hậu của đoàn người phụng sự Thiên Cơ). Tuyệt nhiên không có khuynh hướng, mục tiêu hay ước vọng riêng tư thuộc về phàm ngă cá biệt. Đối với y không có ǵ khác hơn là làm công quả thường xuyên và kết hợp thường xuyên với những người khác. Y có thể là một người bẩm chất cô độc thích sống một nếp sống cô đơn, nhưng điều ấy không quan hệ ǵ. Ấy là cái giá mà y phải trả cho cái cơ hội đáp ứng với nhu cầu của thời đại. Cái động cơ thúc đẩy sự tiến hóa này đang vận chuyển mạnh và mục tiêu của nó là ngăn chận cái khuynh hướng phân ly cách biệt là cái nhược điểm của các dân tộc và quốc gia trong thời buổi hiện tại. Bởi đó mới có những nhóm đệ tử hoạt động này, tiêu biểu cho việc làm công tác tập thể, đoàn kết tập thể và không c̣n phân rẽ, chia ly.

Một số ít (tương đối rất ít) đệ tử và người có trực giác trên thế gian ngày nay đang sát cánh với nhau trong 1 hoạt động song phương: một mặt cảm nhận và giao tiếp một cách đúng đắn hơn với Thiên Cơ huyền diệu, mặt khác, thuyết giảng một cách rơ ràng hơn và chọn lọc một cách đúng đắn và khôn khéo hơn những danh từ chính xác (nói và viết) để phô diễn chân lư. Sự tŕnh bày những chân lư đă cảm nhận được, chứng đó sẽ làm cho những người biết suy nghĩ ngăn chận khuynh hướng tư tưởng hiện tại của họ và hợp tác một cách đầy đủ hơn và dễ hơn trong việc soi đường giác ngộ cho thế gian. Tôi dùng chữ giác ngộ trên nghĩa Huyền Môn. Tầm mức đầy đủ trọn vẹn của việc làm của người đệ tử tùy nơi khả năng tâm linh của y biết sống mỗi ngày trên mức độ Chân Ngă hay linh hồn tức là với thái độ vô úy (ḷng không sợ sệt), vô ngă (không chấp nhân có cái Ta ích kỷ, cách biết với người) và vô dụng tức là không bị vọng động bởi những cảm xúc của thể t́nh cảm là thể của dục vọng. Đối với người đệ tử, muốn cho công việc phụng sự được hữu hiệu, th́ điều kiện là phải làm sao cho thể t́nh cảm được yên tĩnh, vắng lặng, nhạy cảm đối với những ấn tượng của Chân Ngă và của Chân Sư, phản ảnh những nhăn quang tâm linh một cách rơ ràng đến mức tối đa. Nên nhớ rằng khi người đệ tử hoàn toàn bận rộn với một đời sống phụng sự trên tất cả 3 cơi (Tam Giới) th́ không có ǵ phải nhắc nhở y về điểm này. Nhưng điều này cũng sẽ hữu ích.

Trong cuộc sống nhọc nhằn bận rộn hằng ngày, người đệ tử giữ ǵn sự toàn vẹn cá tính và sự kết hợp chặt chẽ của tất cả những phần trong cơ cấu của ḿnh. Trong sự hoạt động ráo riết của một thể này hay thể khác và trên một cơi giới này hay cơi giới khác, tạm thời cái trọng tâm có thể đặt quá nặng trên chiều hướng nào đó đến nổi y có thể quên mất đi trong một lúc cái quan niệm tổng hợp của nhóm và của Thiên Cơ. Trên phương diện thể chất, y làm việc dưới một áp lực quá lớn. Trên phương diện cảm xúc y có thể đang học bài khó khăn của đức tính vô dục, và bởi đó, tạm thời có sự xung đột và phản ứng tâm lư. Nhưng trên phương diện trí tuệ, y ư thức được một ư thức sáng suốt và một khả năng suy luận nó làm cho y luôn luôn hoạt động một cách xây dựng. Bởi đó, người đệ tử thường hay gặp phải t́nh trạng này: thể xác mệt mỏi quá độ, cảm xúc bị phản ứng tán loạn và trí óc minh mẩn, sáng suốt. Y sẽ xử sự bằng cách nào? Sự mệt mỏi thể chất không nhất thiết phải làm giảm bớt khả năng hoạt động của y. đối với nhiều người t́nh trạng thể chất làm ngăn trở công việc bởi v́ tập trung sự chú ư vào trạng thái đau đớn hay mệt mỏi của thể xác. Trái lại, người đệ tử thường có một khả năng lạ lùng là có thể tiếp tục công việc, bất luận viêc ǵ xảy đến cho thể xác. Bộ óc vật chất có thể phản ảnh đời sống tinh thần đến mức làm cho y không bị lệ thuộc vào ngoại cảnh. Người đệ tử tập sống với những khuyết điểm về thể chất dưới những hoàn cảnh trái nghịch, mà công việc của y vẫn được duy tŕ ở một mức độ cao như thường lệ.

Vấn đề xúc cảm có thể là khó khăn, nhưng chỉ có người đệ tử mới tự ḿnh giải quyết được mối thương cảm riêng tư và chấm dứt cơn băo tố trong nội tâm của ḿnh. Y phải nh́n nhận rằng sự kết hợp tâm linh c̣n yếu v́ y làm việc trong hai giai đoạn:

Thể chất              và                    xúc cảm

Trí tuệ                 và                    linh hồn        

Khi th́ y ở trong giai đoạn này, khi ở giai đoạn kia và thường rất hay nghiêng hẳn về một bên dù ở giai đoạn nào. Tính chất lưỡng nguyên đó phải được kết hợp lại chặt chẽ và đó là điều mà y phải chú trọng trong khi y cố gắng, thiết lập, giữ ǵn sự tổng hợp cần thiết và sự hợp nhất Phàm Ngă với Linh hồn.

Các đệ tử nên biết rằng thái độ gây nên một phản ứng bất cần và một h́nh thức thản nhiên, là một trong những phương pháp mau chóng nhất để giải tỏa Chân Ngă ra khỏi ảnh hưởng của Phàm Ngă. Đây không phải là cái thái độ bất cần nó ảnh hưởng đến cách xử sự của người đệ tử đối với kẻ khác. Đó là thái độ suy tư của người đệ tử đối với thể t́nh cảm của y. Nó làm cho y nghĩ rằng không một điều ǵ gây một phản ứng đau đớn khốn khổ nào trong thể t́nh cảm là đáng kể. Những phản ứng đó chỉ là những ǵ mà người ta nhận biết, kinh nghiệm và chịu đựng, chứ không phải v́ chúng mà giao động tinh thần. Chư môn đệ hăy suy nghĩ về những ǵ tôi vừa nói. Toàn thể vấn đề này căn cứ trên một sự tin tưởng vững chắc nơi một thực tại trường tồn, bất diệt ở bên trong những h́nh thức của linh hồn Phàm Ngă.

Sự nhận thức tâm linh nội tại này càng tăng dần với sự phát triển quyền năng do công phu thiền định, dù thực hiện lẻ loi hay tập thể.

Thiền định là điều cần thiết để tạo nên một sự tác động tâm linh tự do phóng khoáng hơn, dù là như một linh hồn đối với Phàm Ngă hay như một nhóm đệ tử đối với Chân Sư, hay trong sự liên hệ giữa các đệ tử với nhau. Chư môn đệ có thể hỏi: Tại sao sự tác động tâm linh bén nhạy giữa các đệ tử trong một nhóm của Chân Sư được coi như cần thiết. Cuộc đời há không đủ phiền phức hay chăng? Chưa nói đến việc biết quá rơ về những hoàn cảnh, cá tính và giao cảm tâm linh với những người bạn đồng môn của ḿnh.

Tôi muốn nhắc lại rằng trên cương vị đệ tử, chư môn đệ đang chuẩn bị Điểm Đạo và trạng thái tâm thức này cần có 3 điều sau đây:

1) Tăng gia khả năng nhận thức và nhạy cảm đối với mọi kinh nghiệm và mọi h́nh thức sinh hoạt.

2) Khả năng làm cho kẻ khác những ǵ tôi đă làm cho chư môn đệ, trên một quy mô nhỏ hơn trong hiện tại và về sau trong những kiếp khác nữa như tôi đang làm hiện nay.

3) Can đảm và sức mạnh để biết tất cả, nhận định tất cả và thương yêu với một sự sáng suốt khôn ngoan và thành thật không dời đổi.

Điều này chắc chắn chư môn đệ phải thấy rơ. Trong công tác tập thể mà hiện nay các đệ tử được kêu gọi tham gia, mỗi người đều có cơ hội phát triển tất cả những đức tính cần thiết để được điểm đạo trong một thời gian không xa lắm, theo ư niệm thời gian của chúng tôi trên khía cạnh ẩn vi nội tại.

Giáo Lư Huyền Môn vẫn luôn luôn dạy rằng người đệ tử hay đạo đồ phải ḥa ḿnh với hoàn cảnh cà rút những bài học tâm linh do những điều kiện thân thế và hoàn cảnh bên ngoài mà cuộc đời trần gian đặt để y vào trong kiếp hiện tại. Đó là một trong những điều sơ đẳng trên đường đạo. Tuy nhiên đối với người đệ tử và đạo sinh sơ cơ nó là một quan niệm có khi cũng mới như giáo lư mà tôi đưa ra cho nhóm đệ tử này, và như cái cơ hội đặc biệt này mà tôi muốn cho chư môn đệ nắm lấy. Sự huấn luyện từ trước đến nay vẫn được xúc tiến trên các cơi giới siêu linh mà người đệ tử thường không hay biết ǵ cả trong trạng thái thức tỉnh, bây giờ phải nắm vững, sử dụng và làm chủ một cách ư thức trong lúc thức tỉnh và bằng khối óc vật chất.

Trong quá khứ, người đệ tử t́m cách thiết lập chung những quan hệ điều ḥa với hoàn cảnh bên ngoài. Sự điều ḥa vốn là một trong những mănh lực giải thoát phải được đi trước việc giải tỏa năng lực để sử dụng sau khi Điểm Đạo. Người ấy thực hành đức kiên nhẫn, khoan dung năng cứu giúp, phụng sự, do bởi một phép xử thế đối ngoại chân chính căn cứ trên sự chuyển hướng bên trong và một thái độ tâm linh ngay chính. Nhưng với trào lưu tiến bộ của nhân loại hiện nay, cần có một quan niệm nói, theo đó phép xử thế đối ngoại ngay chính nói trên trong KỶ NGUYÊN MỚI phải đi song đôi với những tương quan nội tại chân chính, được tạo nên một cách ư thức, giữ ǵn một cách ư thức bởi khối óc và lư trí của người đệ tử. Bởi vậy, điều này cần có sự hiểu biết chân chính về mối tương quan tập thể tâm linh nội tại của người đệ tử, sự thâm nhập linh hồn vào đời sống bên trong của một bạn đồng môn và sự hỗn hợp đồng loạt của tất cả những liên thức trên các cơi giới nội tại và ngoại tại trong toàn hệ thống tâm, trí và năo bộ của người đệ tử. Điều này cho đến nay vẫn chưa được thực hiện. Đó là một trong những lư do chính của sự thành lập nhóm này, có liên quan đến mỗi trường hợp riêng rẽ của mỗi thành viên trong nhóm. Việc ấy sẽ được thực hiện một cách tuần tự và an toàn bằng công phu thiền định tập thể hằng ngày do tôi chỉ định, bằng sự thích thú về vấn đề công tác TGCC và bằng một t́nh thương mật thiết hơn, sâu đậm hơn do tất cả chư môn đệ đều vun bón bảo dưỡng.

Có ba điều quan trọng mà mỗi đệ tử nên coi như trách nhiệm cá nhân của ḿnh:

1) Quan hệ dễ dàng: Với tư cách là một thành viên trong nhóm, mỗi đệ tử cần trau dồi hai khía cạnh của “Nghệ thuật tương quan” vốn căn cứ trên sự hấp dẫn bằng t́nh thương.

a) Quan hệ hay giao tiếp với Chân Ngă bằng sự điều chỉnh tâm linh và sự thiền định đúng phép.

b) Quan hệ giao tiếp với các bạn đồng môn trong nhóm. Điều này đặt nền tảng cho công tác xây dựng và ḥa hợp.

2) Vô tư: Tôi có thể nói ǵ hơn về vấn đề này? Chư môn đệ phải tập chấp nhận những ư tưởng hay đề nghị của một bạn đồng môn với một thái độ “Thản nhiên siêu thoát” hoàn toàn và có tập luyện kỹ. Hăy ghi nhận danh từ siêu thoát v́ nó là bí quyết của thái độ cần có.

Nó là một cái ǵ khác hẳn với sự thản nhiên bất cần đời, hay thản nhiên do một thái độ lẩn trốn những ǵ xấu xa, không vui thích, nó cũng không phải là sự thản nhiên do mặc cảm tự tôn. Đó là sự thản nhiên chấp nhận mọi sự xảy đến, thản nhiên dùng những ǵ có thể dùng được, học hỏi những ǵ có thể học hỏi được, nhưng không bị dội ngược bởi những phản ứng của Phàm Ngă. Đó là thái độ b́nh thường của linh hồn đối với ngoại vật, của Chân Ngă đối với Chân Ngă. Đó là sự thoát ly ra khỏi mọi thành kiến chật hẹp, mọi truyền thông của bản ngă, mọi ảnh hưởng hay danh vị. Đó là cái phương thức thoát khỏi “Thế gian xác thịt và ác quỷ”, có đề cập đến trong quyển TÂN ƯỚC.

3) T́nh thương là sự thông cảm bao gồm không chỉ trích, có sức hấp dẫn từ điển và là cái thái độ nó giữ ǵn: sự ḥa hợp của nhóm trong công tác tập thể, phát huy, ḥa điệu tập thể và không để cho những thái độ tách biệt, phân chia của Phàm Ngă xen vào làm trở ngại cho công việc chung của toàn nhóm.

Quan hệ tương giao, vô tư và t́nh thương, Đó là ba mục tiêu cá nhân mà tôi đặt ra cho mỗi người và cho tất cả chư môn đệ. Những yêu cầu tập thể mà mỗi nhóm đệ tử phải đạt được và giữ ǵn với tư cách một nhóm cộng đồng, gồm có như sau:

a) Thành tín: Điều này có được là do một sự kết hợp đúng đắn và đề cập tới sự quân b́nh tế nhị cần được duy tŕ giữa những thành viên trong nhóm. Cứu cánh sẽ xuất hiện một sự hợp nhất vững vàng kiên cố, không bị rời rạc, lỏng lẻo làm gián đoạn và tương quan tập thể. Điều này sẽ đến nếu mỗi thành viên trong nhóm chỉ cần lo việc của ḿnh và để cho các bạn đồng môn lo việc của họ. Nó sẽ đến nếu mọi người ǵn giữ sao cho những sự việc cá nhân, những mối lo nghĩ và những chuyện rắc rối riêng tư của ḿnh được đặt ở ngoài ṿng sinh hoạt tập thể. Nó sẽ đến nếu chư môn đệ giữ đừng nói chuyện cùng nhau và đừng đem ra mổ xẻ những việc riêng và những cử chỉ thái độ của ḿnh. Điều này rất quan trọng trong giai đoạn này của công tác tập thể. Điều ấy có nghĩa là nếu có thể giữ ǵn được như trên, chư môn đệ sẽ có thể giữ cho tâm hồn ḿnh không bị vướng bận bởi những sự nhỏ nhặt thuộc về sự sống của Phàm Ngă. Đó có nghĩa là tâm trí sẽ được tự do để phụng sự trong công tác tập thể.

b) Đó là khả năng của nhóm để hoạt động như đơn vị. Điều này tùy nơi sự có được một thái độ cá nhân đúng đắn, và trong khi làm việc, đạt tới cái khả năng quên hết mọi sự trừ ra công việc phải làm và một t́nh thương sâu xa đối với bạn đồng môn.

c) Thông cảm: Tôi dùng chữ này để chỉ sự hiểu biết của Chư môn đệ về công việc phải làm, chứ không phải để nói cái thái độ thông cảm đối với chính ḿnh hay đối với các bạn đồng môn. Điều này có nghĩa là mọi nhóm thi hành công tác đă được chỉ định cho ḿnh một cách khôn ngoan và với tinh thần thông cảm, v́ biết rằng công việc ấy góp phần vào cái toàn thể đă có sẵn trong trí của Chân Sư.

Thành tín, ḥa hợp, thông cảm, đó là trật tự của công phu tu tập để phát triển tiến bộ. Tất cả các nhóm hoạt động ngoài thế gian trong sự tương quan liên hệ tới những Đạo Viện của các Chân Sư, sẽ theo vài giai đoạn sơ khởi và cuối cùng trong công việc của họ. Những giai đoạn này sẽ đồng nhất cho tất cả các nhóm, bất luận họ làm những công tác nhất định nào cũng vậy. Như thế sẽ có một sự liên hệ tương quan giữa các nhóm và do đó sẽ có sự củng cố tăng cường cho các nhóm riêng biệt. Giai đoạn thứ ba của công việc phải làm là sẽ đặc biệt khác hẳn nhau ở mỗi nhóm và phải được mỗi nhóm noi theo một cách rành rọt tỉ mỉ. Tôi yêu cầu tất cả các nhóm làm việc dưới sự điều khiển của tôi hăy lo công việc riêng trong nhóm của họ và đừng phê phán nghị luận ǵ về tính chất của công việc mà các nhóm khác đang làm.

Đây là những giai đoạn phải noi theo:

- Giai đoạn một: Điều chỉnh, thức động chân ngă, tự tại tâm linh. Tự tại là sự giữ ǵn cho chân ngă, sau khi đă được thức động, ở vào trạng thái vững vàng, không lay chuyển dời đổi.

Kế đó là gạt bỏ mọi phản ứng phàm ngă một cách ư thức.

Tiếp theo là sự nh́n nhận sự kiện t́nh thương như một biểu lộ của sự thúc động chân ngă (biểu lộ qua sự trung gian của phàm ngă).

Sau cùng là sự ḥa hợp cung thuộc về linh hồn và cung của phàm ngă. Đó là giai đoạn theo hệ thống dọc.

- Giai đoạn hai: Giai đoạn trên đây sẽ được tiếp nối bằng sự kết hợp, ḥa hợp tập thể, được thực hiện một cách ư thức.

Bằng cách đem mỗi thành viên trong nhóm vào một sự tương quan ư thức, do sự gọi tên và do t́nh thương.

Bằng cách thấy tất cả những thành viên trong nhóm như một ṿng tṛn những điểm ánh sáng, với chính ḿnh cũng ở trong chu vi ṿng tṛn nhưng không ở tại trung tâm.

Bằng cách tương tượng tất cả những điểm ánh sáng đó như ḥa hợp lẫn nhau để tạo thành một ngôi mặt trời chói rạng với những tia sáng phóng ra đến tận bốn phương trời.

Đó là giai đoạn theo hệ thống ngang.

- Giai đoạn ba: Kế đó là sự xem xét tỉ mỉ mục đích và kỹ thuật của nhóm. Kỹ thuật này sẽ khác nhau ở mỗi nhóm. Việc áp dụng tích cực và thường xuyên kỹ thuật đặc biệt được chỉ định cho mỗi nhóm sẽ đưa đến những kết quả mong muốn. Kỹ thuật này không được thay đổi bởi bất cứ một người nào ngoài ra tôi.

Những giai đoạn I và II sẽ hiệu quả mau chóng và hầu như cấp thời sau 3 tháng công phu tập luyện. Hăy để tâm chú ư và cẩn thận vào những giai đoạn này để phát triển được những thói quen vững chăi và tránh mọi khó khăn trắc trở về sau. Những giai đoạn sơ khởi trong công việc thuộc loại này có một tầm quan trọng rất lớn.

- Giai đoạn bốn: Sau khi kết thúc công tác tập thể đặc biệt trong giai đoạn III, những thành viên trong nhóm sẽ cố gắng giao cảm với những nhóm khác cũng giống như họ đă giao cảm với những người cùng trong một nhóm với ḿnh. Tuy nhiên, trong trường hợp này, các đệ tử sẽ không liên hệ ǵ với những nhân viên của bất cứ một nhóm nào, mà với tư cách là một nhóm tập thể, họ chỉ nối liền nhóm của họ với những nhóm khác. Như vậy những ư niệm về ảo giác và chia rẽ và việc thực hiện sự ḥa hợp sẽ hiện rơ dưới tầm mức đúng đắn của chúng trong trí của chư môn đệ.

a) Kế đó trong tư cách tập thể của nhóm, hăy thốt lên 3 lần lời cầu nguyện này:

“Cầu xin những lực lượng của ánh sáng đem sự giác ngộ đến cho nhân loại.”

“Cầu xin tinh thần của sự b́nh an được ban rải khắp nơi.”

“Ước mong những người có thiện chí ở khắp nơi sẽ gặp nhau trong tinh thần hợp tác.”

“Cầu xin Quyền Năng bổ trợ cho những cố gắng của Những Đấng Cao Cả.”

b) Kế đó đọc Thánh Ngữ AUM ba lần.

c) Chấm dứt với lời cầu nguyện của phàm ngă đối với linh hồn:

“Cầu xin những lời do miệng tôi thốt ra và sự suy gẫm trong tâm của tôi sẽ luôn luôn chấp nhận được đối với nhăn quang của Ngài, hỡi Chân Ngă, Thượng Đế ngự trong ḷng tôi và Đấng cứu rổi của tôi.”

 

PHẦN VII

Mỗi nhóm đệ tử cần có một khả năng TGCC bén nhạy. Điều này căn cứ trên ba việc cần thiết sau đây mà tôi muốn cho Chư môn đệ hiểu biết được rơ ràng hơn:

Sự thiết lập một mối tương quan liên hệ trong nhóm có tính chất TGCC trên cơi trí tuệ là một điều cần thiết. Điều này vẫn luôn là một sự việc cố định trong trường hợp của Chân Sư và đệ tử, và giữa các cao đồ trong mỗi nhóm đệ tử chính thức.

Nay đă đến lúc mà v́ nhu cầu của thế hệ, cái tính chất đó phải được phát triển bởi những đệ tử ở các cấp dưới trong nhóm.

Sự phát triển khả năng TGCC này sẽ đưa đến một khả năng nhạy cảm lớn lao hơn đối với kẻ khác. Đó là cái bí quyết trong công việc của Chân Sư, nó là cái yếu tố giúp NGÀI hành động xuyên qua các đệ tử, và dùng họ như những tiền đồn cho tâm thức của NGÀI. Để làm được điều này một cách đúng đắn, NGÀI phải biết rơ t́nh trạng tâm linh, trí tuệ và thể chất của họ lúc nào NGÀI muốn. Bằng cách đó, NGÀI có thể biết rơ họ có thể sẵn sàng được sử dụng hay không trong một công tác nhất định nào đó, hoặc họ có thể được sử dụng cách an toàn hay không, sự nhạy cảm của họ có đủ sức bén nhạy và chính xác chăng để đáp ứng nhu cầu một cách thông minh sáng suốt. Phải chăng tôi đă từng có lúc xem xét tất cả chư môn đệ trên phương diện này? Hăy suy gẫm về điều này và tất cả những khía cạnh liên hệ.

Khả năng TGCC bén nhạy này cũng sẽ đưa đến sự phát triển một ngành khoa học mới về phương pháp viễn thông sẽ được thông dụng và hiểu biết trong KỶ NGUYÊN MỚI. Máy vô tuyến truyền thanh là một biểu tượng ngoại tại trên cơi vật chất của khả năng mới này.

Vài câu hỏi có thể được nêu ra về vấn đề này. Một câu hỏi là người ta có quyền tác động bằng TGCC trên trí năo người khác không? Câu trả lời là chúng ta vẫn làm điều ấy bất cứ lúc nào, hoặc hữu thức hay vô thức và không nghệ thuật (?) hay không mục đích, hay là nếu có mục đích th́ nó thường là một đích ích kỷ. Chính do TGCC mà những ư niệm được phổ biến trên thế gian bằng phương thức gây ấn tượng trên trí năo của một đệ tử hay của một người nhạy cảm. Kế đó, những người này mới t́m ra và điều khiển trí năo và hoạt động của những người có nhiệm vụ, không những là đáp ứng với những ấn tượng đó, mà c̣n chuyển đạt nó vào tâm thức của những tư tưởng gia trên thế giới.

Chư môn đệ có khi nào tự hỏi rằng những khía cạnh nào của công việc liên quan tới TGCC nêu ra những câu hỏi trong trí của ḿnh? Phải chăng đó là sự ngờ vực một ư đồ hay quan điểm của Phàm Ngă, và phải chăng đó cũng là sự tự vấn lương tâm về sự thành thật hay hậu ư của chính ḿnh? Không thể nào có sự an toàn trong công việc này trừ phi nó được thi hành một cách vô kỷ và hoàn toàn không có thành kiến hay dục vọng cá nhân dù trên địa hạt chính trị hay tôn giáo. V́ thế nên tôi phải nhấn mạnh rằng, chư môn đệ cần làm công tác này ở điểm cao nhất trong cơn Thiền định và với sự tuyệt đối tuân theo những quyết định của tôi trong vấn đề này.

Một câu hỏi khác có thể là: công việc mà tôi gợi ư cho chư môn đệ và công việc của các vị SẮC GIỚI THIÊN THẦN khác nhau như thế nào? Không khác ǵ cả, trừ ra động lực hành động và cái khởi điểm từ đó chư môn đệ phải cố gắng hoạt động. Các vị SẮC GIỚI THIÊN THẦN hoạt động hoàn toàn trên những cảnh giới thấp của cơi THƯỢNG GIỚI và với năng lực của sự hiểu biết. Khía cạnh Bác Ái của linh hồn lại bất động và bởi đó, xét theo quan điểm của THIÊN CƠ, họ có những động cơ hành động trái đạo và những mục tiêu ích kỷ. Điều này đúng với cá nhân cũng như đúng với các tập thể. Đừng quên rằng những vị SẮC GIỚI THIÊN THẦN này là những linh hồn có tuổi tác rất cao và rất mù quáng. Nhưng về sau, trong một chu kỳ xa xôi trong tương lai, khi họ đă trả dứt tất cả những nghiệp quả xấu, họ cũng sẽ bắt đầu phát triển khía cạnh Bác Ái và chuyển hướng những mục tiêu hành động của họ. Chư môn đệ cũng phải hoạt động từ những mức độ trí tuệ, nhưng kiến thức và t́nh thương phải cùng biểu lộ song song, để tạo nên những kết quả phù hợp một cách điều ḥa và thông minh với kế hoạch của THIÊN CƠ. Nhưng đệ tử không được phép chuyển vận và tác động đến khía cạnh Ư CHÍ của linh hồn, trừ phi họ là những bậc Đạo Đồ đă có từ 3 lần ĐIỂM ĐẠO. Trước giai đoạn đó ít khi họ nhận định sự khác nhau giữa việc áp đặt ư chí và việc gieo ư niệm một cách ư thức, có điều kiện. Họ hăy c̣n quá nhiều dục vọng (vốn là ư chí c̣n ở trong trạng thái phôi thai) để có được tin cậy với cái khía cạnh cao siêu này của sự hoạt động trí năo. Trong công tác giao tiếp bằng TGCC mà những nhóm đệ tử dưới sự hướng dẫn của tôi phải làm, hăy nên biết rằng chính giao ư niệm mới là cái lư tưởng tập thể của nhóm chứ không phải là sự áp đặt ư chí của ḿnh để chỉ huy kẻ khác. Đó là hai điều rất khác nhau.

Chư môn đệ cũng có thể nêu ra câu hỏi: Làm sao việc giao ư niệm tập thể đó có thể tiếp tục mà vẫn để cho người ta được tự do? Đó là v́ nó sẽ không dính dáng ǵ đến sự vận dụng mănh lực của Ư Chí. Những phụng sự viên và đệ tử trong nhóm của tôi chỉ cố gắng làm được điều này là gieo ấn tượng vào trí năo một số người về những ư niệm đại cương hay những điểm gợi ư liên hệ đến THIÊN CƠ. Những ư niệm này sẽ đặc biệt đề cập tới cái quan niệm rằng sự chia rẽ, phân cách là một điều của quá khứ nay đă lỗi thời và sự hợp nhất là mục tiêu của tương lai tiếp cận, rằng sự thù hận, ganh ghét là một điều lạc hậu và bất hảo, c̣n sự thiện chí mới là bí quyết để chuyển hướng và thay đổi thế giới. Trong công việc này, làm sao giữ cho trí óc được tự do, không bị ảnh hưởng bởi những dục vọng và thiên kiến riêng tư của ḿnh? Bằng cách thực hiện sự yên lặng ung dung nơi hai khía cạnh thấp thỏi của Phàm Ngă là thể t́nh cảm và bộ óc thể chất cũng như cái phách của bộ óc. Những bộ phận này quy định những phản ứng của những bí huyệt ở dưới, nhất là bí huyệt nơi rún. Chừng đó cái trí sẽ được tự do để thi hành chức vụ sau đây:

1) Thức động chân ngă: Điều này sẽ đưa đến sự thông tuệ, sáng suốt để hiểu biết những khía cạnh tiếp cận của THIÊN CƠ.

2) Phát động tư tưởng và tạo h́nh tư tưởng. Khi đó một h́nh tư tưởng rơ ràng có thể được tạo nên và có thể được điều khiển một cách tích cực.

3) Hoạt động trên tầm mức trí tuệ với các bạn đồng môn để hỗn hợp các h́nh tư tưởng của ḿnh với họ. Chừng đó chư môn đệ sẽ cùng tạo nên một h́nh tư tưởng sống động, hưu thể để có thể tùy nghi điều khiển theo sự chỉ định của tôi.

Một câu hỏi khác có thể được nêu ra cần phải tuân theo những luật nhất định nào không? Vài quy luật sau đây có thể được tuân theo nhưng hăy nhớ rằng trong công việc này, cái tâm niệm của ḿnh mới là điều đáng kể hơn bất cứ điều nào khác. Yếu tố hàng đầu là sự vô hại không sát phạt trong tư tưởng và lời nói. Điều này nên được thực hành với một sự quan sát đúng đắn, sẽ giúp đỡ rất nhiều cho tất cả. Kế đó là không nghĩ quấy, hay phê b́nh chỉ trích, nhất là đối với những người mà ḿnh muốn giao cảm bằng cách gieo ư niệm trong trí họ. Sự im lặng hoàn toàn và liên tục, về việc mà ḿnh đang làm, cũng là một yếu tố cần thiết. Thật ra những lời nói có liên hệ đến công việc có tính cách vô cùng tế nhị và riêng tư này hay thậm chí bàn luận về việc làm này với một bạn đồng môn, có thể phá tan cái h́nh tư tưởng tế vi mà ḿnh đang muốn xây dựng. Nó có thể làm hỏng mất một công tŕnh đă được xây đắp công phu trong nhiều tuền lễ, kế đó cũng cần phải vun trồng, bồi dưỡng một thái độ quân b́nh, không thiên lệch đối với những nhân vật cầm quyền ở khắp nơi trên thế giới. Họ cần có trên hết mọi sự, nguồn cảm hứng thiêng liêng mà TGCC có thể đem đến cho họ từ cơi trên.

Bởi vậy, tôi yêu cầu chư môn đệ hăy thanh lọc tâm chí ḿnh và tẩy trừ mọi tư tưởng chỉ trích, bất hảo để có thể đạt đến một thái độ thản nhiên siêu thoát đối với những phàm nhân biến đổi vô thường những cảnh hỗn độn, cuồng loạn ở bất cứ nơi đâu mà ḿnh nh́n thấy và cố gắng điều chỉnh theo cùng nhịp độ của TIÊN THÁNH. Điều này đặt nặng trọng tâm trên khía cạnh tâm thức và gồm có việc quan sát tỉ mỉ tất cả những ǵ diễn ra trong sự kín đáo âm thầm, trong khi đó, cố gắng thức tỉnh và kích động đám quần chúng từ trước vẫn vô ư thức cho họ có một hoạt động trí năo mạnh mẽ. Nhân loại vẫn luôn luôn sống động và thức tỉnh đối với những giá trị tâm linh ẩn tàng. Đ.Đ.C.G vẫn luôn luôn sẵn sàng ứng đáp với nhu cầu của nhân loại cần có sự d́u dắt hướng dẫn. Sự nhạy cảm của nhân loại do hậu quả của chiến tranh kinh tế bấp bênh, lo âu sợt sệt và đau khổ gây nên, đă trở nên bén nhạy đến nỗi chúng tôi là những người hoạt động trên khía cạnh ẩn vi nội tàng của cuộc đời, phải gấp rút gieo tâm trí của những người nhạy cảm và thức tỉnh tâm linh những ấn tượng và ư niệm đúng đắn. Do đó mới có sự cố gắng thành lập những nhóm này và sử dụng chư môn đệ là những người vô hại (trên lư thuyết), nhưng thật sự c̣n đầy thành kiến và xét đoán vội vàng. Chúng tôi phải sử dụng những ǵ có sẵn trong tầm tay và luôn luôn bị vấp phải những chướng ngại rất lớn.

Sau khi đă cố gắng thanh lọc tâm trí ḿnh và loại bỏ thành kiến cùng những xét đoán và quyết định cẩu thả vội vàng (căn cứ trên thân thể truyền thống, chủng tộc và địa vị xă hội) chừng đó chư môn đệ sẽ suy gẫm về phương thức tạo h́nh tư tưởng. Hăy nhớ rằng v́ những mục tiêu tập thể của nhóm và để cho được giản dị, cần ghi nhận 3 giai đoạn sau:

1) Suy gẫm về những ư niệm mà ḿnh định gieo vào trí năo của một người nào đó. Sự suy gẫm và tư tưởng được điều khiển cẩn thận tạo nên việc xây dựng, đó là một hoạt động sáng tạo và là giai đoạn đầu trong công việc của chúng ta. Tôi không muốn chư môn đệ tạo nên h́nh tư tưởng. Tôi chỉ muốn rằng chư môn suy gẫm rơ ràng theo những đường lối của tôi đưa ra. Chừng đó những h́nh tư tưởng mong muốn sẽ đương nhiên thành h́nh và tất cả chư môn đệ đều sẽ đóng góp phần nào công lao trong đó.

2) Khi h́nh tư tưởng được xây dựng bằng cách đó trong trí của chư môn đệ, sẽ đến một thời kỳ mà nó trở nên sống động. Nó lần lần trở nên sự thể hiện sống động của ư tưởng mong muốn với sự rung động đầy sức sống và sẵn sàng được sử dụng.

3) Khi đă đạt tới giai đoạn này, chừng đó chư môn đệ sẽ hoạt động tập thể như một nhóm để bắt đầu công việc điều khiển. Khi đă nhắm cẩn thận trong trí cái đối tượng mà ḿnh định gieo ảnh hưởng và phân định rơ sự kiện rằng nhóm của ḿnh là động lực gieo ư niệm (như thế để tạo nên lưỡng cực đối tượng cho sự tác động mong manh( chư môn đệ sẽ nh́n cái ư tưởng thể hiện đang sinh hoạt và động tác văng lai giữa đối tượng ấy. Chư môn đệ sẽ phóng nó ra trên những luồng sóng của t́nh thương do sự thúc đẩy của ư muốn phụng sự và tuân theo chỉ thị của tôi. Thỉnh thoảng nó có thể quay về với chư môn đệ để tiếp thêm sinh khí và bồi dưỡng sinh lực trước khi công việc của nó được thành tựu mỹ măn.

Tất cả những nhóm đệ tử này đều được coi như những biểu lộ của một loại tương quan tập thể nó sẽ được biết và hiểu rơ hơn khi thế giới bước vào thế hệ ḥa b́nh tới đây. Như chư môn đệ đă biết, trong tương lai, vài loại thần lực sẽ được các nhóm sử dụng vào những mục đích tập thể nhất định và vào việc phụng sự thế gian. Chư môn đệ không nên quên các động lực thúc đẩy tất cả những công việc phụng sự đó, trong khi học hỏi và hoạt động trong một nhóm đệ tử của Chân Sư. Mục đích không phải là đem sự trợ giúp và tiến bộ cá nhân cho mỗi người mà là sự huấn luyện trong vài việc điều chỉnh và sinh hoạt tập thể để giúp cho những nhóm đệ tử này hoạt động theo một phương pháp nhất định. Tuy nhiên, sự kiện cho rằng một nhóm sẽ làm việc với một loại năng lực và một nhóm đệ tử khác sẽ sử dụng một loại năng lực khác nữa, không nên coi như dấu hiệu của sự hoạt động cách biệt hay chia rẽ. Tất cả đều sẽ nhằm một mục đích chung và sẽ làm việc với một năng lực thiên nhiên duy nhất. Năng lực này chỉ phân hóa thành nhiều sức mạnh khác nhau v́ mục đích phụng sự trong một ngành này hay ngành khác của cuộc sống nhân sinh. Hăy suy gẫm sâu xa về những khía cạnh khác nhau của kế hoạch làm công tác tập thể mà tôi đă phác họa những nét đại cương, v́ nó là một cố gắng thể hiện vài giai đoạn sinh hoạt của THIÊN CƠ trên địa cầu.

Cái năng lực được sử dụng trong công tác TGCC, người Ấn Độ gọi là Chitta, tức là cái trí lực, vốn là cái chất liệu căn bản của sự biểu lộ vũ trụ. Tuy nhiên THƯỢNG ĐẾ tác động với một chất liệu c̣n tế vi hơn trí lực này trên một tầm mức cao hơn nữa, và những măng trên cơi trí tuệ là sự phản ảnh hay đúng hơn là sự kết tinh đông đặc của cái chất liệu tế vi đó. Những sức mạnh đó, cái trí lực vẫn luôn luôn chuyên động không ngừng. Điều này gây nên cái tác động cá nhân hay tập thể. Trong mọi công tác TGCC thật sự (thi hành một cách chính xác không lầm lẫn và xuất phát từ một khởi điểm b́nh tĩnh yên lặng). Những gịng trào lưu của trí lực này được vận chuyển giữa những điểm đó bởi ư chí và bởi cái ư niệm rơ ràng trong trí của người chủ động. Một phần trí lực đó (đă chuyển động) được tạo thành trong sự giao cảm này, thí dụ như tôi chẳng hạn, trước hết thiết lập một trào lưu quan hệ giữa tôi với một đệ tử. Dọc theo trào lưu đó, tôi gieo cái ấn tượng hay h́nh tư tưởng mà tôi cố gắng làm cho nó gắn chặt trong trí người đệ tử, và sau đó ghi sâu vào bộ óc của ư thức nếu người này có thể tự điều chỉnh để tiếp nhận. Phương thức này có thể mau hoặc chậm. Nếu sự điều chỉnh được đúng đắn, người đệ tử có thể ngay tức khắc đáp lại tư tưởng của tôi. Nếu không th́ chỉ sau nhiều ngày hay nhiều tuần, y mới nhận được ấn tượng ấy trong trí óc của ḿnh.

Ngoài ra c̣n những nhóm đệ tử khác hoạt động với một loại năng lực có thể dẹp tan ảo ảnh và ảo giác. Đó là thứ năng lực trên cảnh giới cao nhất của cơi trung giới. Cảnh giới này có thể đáp ứng với loại năng lực gọi là năng lực trực giác hay năng lực của Minh Triết (Buddhi). Loại năng lực của minh triết này gọi là loại năng lực duy nhất có thể giải tán mọi thứ mù hỏa sa mưa của thế giới ảo ảnh. Những đệ tử hoạt động trong những nhóm ấy cần phải tập sử dụng loại năng lực này để làm việc một cách khôn ngoan, suy tư một cách sáng suốt và nhận thức rằng Minh Triết là một sức mạnh. Chính sự nhận thức này làm cho người ta đi t́m một người khác có Minh Triết hơn, khi mà y gặp sự rắc rối khó khăn và mong muốn nh́n thấy rơ ràng con đường mà ḿnh phải noi theo. Chính sự nhận thức đó thúc đẩy nhân loại đi t́m các Chân Sư Minh Triết.

Hỡi thời đại của Châu Atlantide, nhiệm vụ chính của Chân Sư Minh Triết là giải quyết vấn đề đại ảo ảnh hay ảo giác của thế gian. Hồi đó các Ngài hành động nhiều nhất là trên cơi Trung giới, và nếu không có việc ấy th́ đời sống và điều kiện sinh hoạt của nhân loại đă không được tốt lành như bây giờ.

Ngày nay, cái Ngài đặt trọng tâm hoạt động trên cơi Thượng Giới, hành động với tư tưởng ư niệm và gieo ấn tượng về những tư tưởng ấy vào trí năo các đệ tử và của những phần tử tiến bộ trong nhân loại. Vấn đề khó khăn của toàn thể nhân loại nói chung là hoạt động trong ảo ảnh của thế gian. Những đệ tử ở ngoài đời có trách nhiệm d́u dắt nhân loại mê đồ của ảo giác. Người đời phải tập hiểu biết vấn đề này và với sự trợ giúp của những cao đồ sống ngoài thế gian, cứu cánh họ có thể biến đổi và giải tán mọi ảo ảnh và ảo giác.

Bởi vậy chư môn đệ hăy nhớ rằng, nhiệm vụ của người đệ tử hiện nay là gieo vào thời đại mới cái ư niệm phơi bày đại ảo ảnh và ảo giác ra trước ánh sáng. Trong ánh sáng những điều hư ảo sẽ biến mất. Trong thời đại này, con người đă chế ngự được những sức mạnh thiên nhiên và đem lại cho chúng ta sự thụ hưởng một cách sung măn những tài nguyên vật chất của cơi hồng trần. Chúng ta đă chinh phục và sử dụng những sức mạnh đó để thực hiện ư muốn và thỏa măn mọi nhu cầu, thường là một cách kỹ, nhưng cũng có khi với một ư niệm trong sạch, tốt lành. Trong Kỷ Nguyên Mới, con người sẽ chế ngự được những mănh lực ảo ảnh ảo giác và làm chủ được những hiện tượng của thế giới siêu linh. Trong hiện tại chúng ta t́m cách chế ngự những sức mạnh đó bằng trí lực và trên lư thuyết. Nhưng chỉ có năng lực của Minh Triết mới đủ sức dẹp tan những mănh lực của ảo ảnh ảo giác trên thế gian.

Hăy thực hành Minh Triết để trợ giúp nhân loại và rút ngắn sự tranh đấu của họ chống mọi điều hư ảo.

Những nhóm khác có nhiệm vụ hoạt động với năng lực sinh khí (Prana). Việc sử dụng đúng phép những năng lực sinh khí (có 7 loại tất cả) sẽ chữa trị được nhiều bệnh tật đau khổ thể xác. Về việc chữa bệnh này, cần có nhiều căn bản, nhưng hai điều ấy lại ít khi đi chung với nhau.

1) Năng lực của linh hồn, cũng như trí năng của vũ trụ và năng lực của trực giác phải được vận chuyển trên cơi phàm trần bởi người bệnh và người chữa bệnh. Cả hai đều phải hợp tác với nhau.

2) Cần phải biết rơ bệnh lư và nguyên nhân của chứng bệnh, cùng với nghiệp quả của người bệnh, trạng thái của những trung tâm bí huyệt về mức độ tiến hóa của y. Cho đến nay, chúng ta chỉ biết những điều sơ đẳng về những khoa học mới mẽ này, và phần lớn công việc của chúng ta đầu tiên phải có tính chất khai quang, dọn đường, bởi v́ hiện nay những vấn đề này đă bị hiểu một cách lệch lạc và đă có nhiều sự lạm dụng các quyền năng kể trên.

Những nhóm khác nữa có liên quan lạ kỳ với con số 4. Họ làm công việc bắc cầu thông thương giữa Phàm ngă và Chơn thần, tức là nối liền tam thế hạ của Phàm nhân với Nhất Nguyên gồm Tam Thế Thượng hay Chơn nhiên, tức loài người, là một loài trung gian nối liền 3 cấp đẳng siêu nhân loại và 3 loài thấp hơn (thú cầm, thảo mộc và khoáng thạch). Mặt khác nữa, cơi giới thứ tư là cái khoan nối liền 3 cơi giới tâm linh tối cao với ba cơi hạ giới (tam giới), là cái trường sở kinh nghiệm và tiến hóa của con người. Năng lực mà nhóm đệ tử này sử dụng trong công việc của họ là ánh sáng của linh hồn và nên nhớ rằng ánh sáng cũng là một chất liệu. Trên cương vị cá nhân cũng như tập thể, họ cố gắng tạo nên một đường ánh sáng giao thông giữa Phàm ngă và Tam Thế Thượng (ư chí, trực giác, trí tuệ) (Atma, Budhi, Manas).

Tôi không có bàn đến vài hoạt động của những nhóm đệ tử kể trên trong KỶ NGUYÊN MỚI, hay nêu ra những loại năng lực mà họ phải sử dụng để nhấn mạnh lại một lần nữa với chư môn đệ những kế hoạch phác họa cho những nhóm đệ tử riêng của tôi. Những nhóm này mà tôi có nhiệm vụ hướng dẫn như một phần sinh hoạt trong Đạo Viện của tôi, vốn là những nhóm Giống. Họ được dự liệu làm những tiền đồn tâm thức của Đ.Đ.C.G trong khi cái tâm thức ấy tập trung xuyên qua tôi, cũng như một đệ tử mới nhập môn là một tiền đồn tâm thức của Chân Sư y trên thế gian. Đó là mối tương quan mà tôi muốn nhấn mạnh, tức là sự thể hiện công việc bí nhiệm của Đ.Đ.C.G lần đầu tiên trong lịch sử và sự phát huy của một trạng thái ẩn vi nội tại. KỶ NGUYÊN MỚI đă đến với chúng ta và sự ḥa hợp của nhân loại trong ba cơi cần có những sự thay đổi rơ rệt về kỹ thuật, tuy rằng không cần thay đổi về những đường lối căn bản.

Tuy nhiên, đây là một cuộc thí nghiệm mà tôi và nhiều vị Đạo Đồ khác đang thực thi với tư cách là những thành viên của một tổ chức tâm linh lớn. Nếu có thành công và nếu sự hưởng tâm linh của tất cả chư môn đệ khá đủ để theo kịp với sự cố gắng được thực hiện, và nếu chư môn đệ có thể tiếp tục một cách kiên tâm bền chí, th́ giai đoạn thí nghiệm có thể đi đến chỗ kết thúc. Chừng đó H.Đ.T.T có thể nh́n nhận vài điểm tập trung năng lực đă được thiết lập một cách hữu hiệu trên địa cầu. Những điểm này có thể dùng làm các trung tâm từ điển hay những điểm tập hợp cho nền giáo lư mới, ư thức khoa mới, giáo dục mới và chính trị mới. Những tiềm lực lớn đang chờ chúng ta. Những nổi khó khăn không phải là không thể vượt qua, v́ nếu không như vậy th́ tôi đă không được phép làm cuộc thí nghiệm lớn lao này. Chúng tôi không bao giờ làm việc ǵ mà ḿnh biết trước sẽ đưa đến sự thật bại hiển nhiên. Nhiều cuộc thí nghiệm ngày nay đang thực hiện trên thế gian bởi những ĐẤNG CAO CẢ ở những đẳng cấp khác nhau trong H.Đ.T.T, cùng với những nhóm đặc biệt của các NGÀI. Điều này chỉ thành công khi nào những đệ tử ngoài thế gian mong muốn có việc ấy, sẵn ḷng làm những hy sinh cần thiết và nhận định rơ những mục tiêu phải đạt được.

Tôi phải nói rơ điều ấy trong lúc này, bởi v́ dưới áp lực nặng quá của thế sự, trong sự vất vả tranh đấu cho đời sống cá nhân, trong sự mệt mỏi của việc làm hàng ngày, với những hậu quả ốm đau, bệnh tật hoặc suy nhược thể chất, không khỏi có lúc người đệ tử cảm thấy sự nhiệt thành hăng hái lúc đầu đă nguội bớt và đâm ra nhàm chán những cố gắng thường xuyên liên tục mà công việc phụng sự đ̣i hỏi không ngừng.

Người đệ tử phải tập đừng để ư những biến đổi vô thường đó trong đời sống hàng ngày v́ y biết rơ lư lẽ nhị nguyên tương đối của sự vật và sự tác động của định luật chu kỳ. Tuy nhiên tôi muốn vạch rơ mối nguy hiểm đó v́ nó là một nguy cơ thật sự và yêu cầu chư môn đệ hăy tiếp tục công việc dường như nó vẫn mới mẽ và đầy hứng thú.

Trong những nhóm đệ tử này được dự trù sẽ trở nên những nhóm giống của KỶ NGUYÊN MỚI, chư môn đệ cũng cần phải nhớ hai yếu tố liên hệ như sau:

1) Đây là một cuộc thí nghiệm độc đáo v́ chúng ta biết những tiềm lực, khả năng của những ǵ có thể xảy đến trong tương lai và hiểu biết ít nhiều về những năng lực đang từ từ xuất hiện trong môt thế giới thích ứng mau chóng với những tiết điệu sinh hoạt mới. Tuy nhiên có là một cuộc thí nghiệm trước hết do tôi chủ trương với sự hợp tác của vài v́ Đạo Đồ khác. Như tôi đă nói trước đây, tôi không là người duy nhất phụng sự theo đường lối này, và những nhóm Giống này không phải là những đơn vị duy nhất hiện nay trên thế gian. Thí dụ có nhiều nhóm giống khác đang thành h́nh trong khuôn khổ giáo hội Gia Tô, dưới sự hướng dẫn tâm linh của Chân Sư Jésus. Tuy nhiên, những nhóm này có tính chất chủ thể hơn là những nhóm mà tôi đặc biệt chú trọng, và họ xuất hiện chậm hơn nhưng tựu trung họ vẫn có. Ngoài ra họ cũng có hai Nhóm Giống tương tự ở Trung Hoa, và bốn nhóm ở Ấn Độ. Tôi nói thế để chư môn đệ đừng tưởng rằng nhóm của ḿnh là độc đáo trên thế gian, rồi từ đó sinh ra cái mầm mống tế nhị của đại ảo giác phân chia.

2) Tất cả những nhóm đệ tử này đều đang trải qua giai đoạn h́nh thành và c̣n phải qua nhiều sự thay đổi và điều chỉnh. Cơ cấu hiện tượng của họ hăy c̣n co giăn, chưa cố định bởi v́ có quá nhiều đệ tử chỉ biết tiếp nhận lời, lẽ ngôn từ của Chân Sư mà ít thụ cảm hơn đối với những ư niệm căn bản làm ṇng cốt cho công việc của các NGÀI. Chư môn đệ hăy chú ư đến điểm này. Về sau khi đă có những sự điều chỉnh cần thiết và những nhóm đệ tử có thể làm việc chung với nhau mà không có sự chỉ trích hay hiểu lầm, th́ chừng đó họ sẽ bước qua giai đoạn công tác tập thể có tổ chức. Điều này đương nhiên tùy thuộc vào mức độ chung của sự cố gắng tập thể, hoài băo, nguyện vọng và kiên tâm bền chí của họ.

Thiện chí muốn hoạt động qua sự trung gian của những nhóm này vốn có sẵn về phía chúng tôi trên b́nh diện ẩn vi nội tàng. C̣n việc cung ứng một khí cụ hữu hiệu, nhờ đó chúng tôi có thể thực hiện mục đích, phải đến từ phía của chư môn đệ.

Tuy nhiên, sẽ đến lúc mà công việc của mỗi nhóm đệ tử phải được củng cố một cách nhất định và thay đổi từ khía cạnh lư thuyết và thực nghiệm qua khía cạnh cụ thể và thực tế. Chừng đó thời kỳ lợi ích tập thể sẽ lớn. Điều này tự nhiên sẽ tùy thuộc nơi hai việc sau đây:

1) Khi nhóm đệ tử đă đạt tới một giai đoạn tổng hợp nhất định nào đó, nhóm ấy sẽ có thể hoạt động như một tập thể có quyền năng.

2) Nếu những nhóm đệ tử không thể ḥa hợp và không biết lợi dụng cơ hội sinh hoạt tập thể để đáp ứng với lư tưởng phụng sự đặc biệt này, th́ lúc ấy sẽ cần phải sắp đặt lại vấn đề nhân sự. Chừng đó vài đệ tử sẽ có thể bị loại, và người nào không hội đủ những điều kiện bắt buộc mà linh hồn họ đă đạt ra cho họ và không đạt tới tŕnh độ mong muốn sẽ được sáp nhập vào những nhóm khác, hoặc làm trụ cột cho việc tổ chức lại một đơn vị khác.

Tất cả mọi giáo lư nói về những nhóm đệ tử hoạt động trong KỶ NGUYÊN MỚI, đều được truyền thụ cho tất cả các nhóm và cũng để về sau sẽ được phổ biến sâu rộng. Giáo lư về công tác tập thể nhất định được đưa ra đến một mức độ mà nó có thể sử dụng một cách ư thức và trong trường hợp mà những kiến thức được tŕnh bày có thể được dùng vào những mục đích thực tế trong việc phụng sự thế gian. Công việc phụng sự thế gian chính là công việc cần thiết trong thời buổi này.

 

PHẦN VIII

ĐẠI ĐOÀN CHƯỞNG GIÁO rất chú trọng đến những biến cố xảy ra trên thế gian. Khi chiến tranh (Thứ hai) chấm dứt công việc của chúng ta phải tiến hành với bất cứ giá nào và dù phải đương đầu với tất cả mọi chướng ngại. Nhóm người Phụng sự Thế gian phải duy tŕ sự hợp nhất của ḿnh và kiên tâm hoạt động mà ḷng không nao núng. Với sự trung kiên bền chí, những người biết rơ THIÊN CƠ sẽ giúp đỡ nhân loại và bổ trợ cho những cố gắng của H.Đ.T.T. Họ không thù hận và họ làm việc cho sự hợp nhất, bên trong lẫn bên ngoài.

Hăy nên biết rằng nhân loại được tự do hành động. Chí đến H.Đ.T.T cũng không biết được lực lượng nào, chánh hay tà, rốt cuộc sẽ thắng, ví dù cho những lực lượng minh chánh thắng cuộc trong thời chiến, họ có chắc ǵ thắng lợi trong thời b́nh? Điều thiện rốt cuộc phải thắng, nhưng Đ.Đ.C.G không biết chắc việc ǵ sẽ xảy đến cho nhân loại trong một tương lai gần đây, bởi v́ con người tự quyết định lấy vận mạng của ḿnh. Luật nhân quả không thể bị đảo lộn, nó đă cần đến những sự can thiệp của những sức mạnh lớn hơn những luồng sinh lực có sẵn trong lúc này trên địa cầu chúng ta. Những sức mạnh lớn đó có thể can thiệp nếu các đệ tử và Đạo sinh của thế gian làm cho tiếng gọi của họ đủ sức lay chuyển …

Trong kỳ nhiễu nhương này, tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ rằng không nên có ư tưởng tầm thường nhỏ nhen. Những nhóm đệ tử mới là những nhóm Giống đang ở vào giai đoạn tăng trưởng và đang bành trướng trong sự âm thầm lặng lẽ. Giai đoạn này rất quan trọng, v́ tùy theo tính chất lành của hột giống có khả năng phóng rễ ăn sâu vào ḷng đất và từ từ kiên nhẫn hướng lên Ấn Độ mà những nhóm ấy có thể đóng góp một phần công quả xứng đáng cho KỶ NGUYÊN MỚI. Tôi muốn nhấn mạnh sự kiện này với chư môn đệ. KỶ NGUYÊN MỚI đă đến với chúng ta và chúng ta đang nh́n thấy trước mắt những mầm móng của một nền văn hóa mới và một nền văn minh mới. Những ǵ cũ rích bất hảo và lỗi thời bị đào thải, và trong những điều bất hảo này, ḷng thù ghét và óc phân ly chia rẽ phải bị loại trừ từ trước nhất.

Mục tiêu chính trong công việc chung của chúng ta vẫn là sự ḥa hợp tập thể và sự thiết lập mối liên giao giữa các thành viên trong nhóm, kết quả là sẽ đưa đến việc giao tiếp bằng TGCC cần thiết giữa họ với nhau. Điều này rốt cuộc sẽ thiết lập một màng lưới ánh sáng, có tác dụng tạo nên một điểm tập trung mạnh mẽ, làm cái khí cụ tiếp nhận ân huệ thiêng liêng và phục hồi sinh khí tâm linh cho toàn thể nhân loại. Đó là một lời tuyên bố căn bản và quan trọng. Điểm tập trung này cũng sẽ trợ giúp vào việc phục hồi sinh khí cho cái phách của địa cầu với một kho năng lực mới và một động cơ sinh hoạt mới.

Trong nhiều năm, tôi đă thử làm thầy, làm Chân Sư và có thể nói là làm một bạn hữu của chư môn đệ. Giữa chúng ta đă có một sợi dây liên lạc rất mạnh mẽ và vững chắc, kết bằng t́nh thương và thông cảm về phía tôi, và bằng sự thành thật với ḷng mong muốn hợp tác về phía chư môn đệ. Thái độ của tôi đối với chư môn đệ ra sao?

Trên cương vị cá nhân, chư môn đệ có thể là không quan trọng lắm, nhưng với tư cách là những đơn vị trong nhóm mà tôi đang chuẩn bị và huấn luyện để phụng sự trong những kiếp tương lai, thậm chí c̣n nhiều hơn trong kiếp này, th́ chư môn đệ có đủ tầm mức quan trọng để cho tôi phải chú ư. Một nhóm không mạnh mẽ hơn một thành viên yếu kém nhất của nó. Về phương diện huyền môn, toàn thể một nhóm sẽ bị tổn thương và quyền năng của nó bị giảm sút một cách nhất định, khi một thành viên tỏ ra cái lư tưởng cao cả để bỏ qua cơ hội và thụt lùi trở lại những ảo giác của phàm ngă. Điều này chư môn đệ đă thấy xảy ra. Tôi chỉ trợ giúp các đệ tử trên phương diện cá nhân với triển vọng để họ họ sống ḥa hợp tập thể, gây ảnh hưởng thông cảm tập thể và t́nh thương tập thể cùng với sức mạnh mà mỗi người có thể đóng góp vào khối tập thể cộng đồng.

Bởi vậy tôi kêu gọi chư môn đệ, vơi tư cách là môt nhóm, hăy tăng cường t́nh thương, mục đích là phụng sự tập thể để cho sự ḥa hợp chủ thể bên trong thuộc khía cạnh ẩn vi nội tàng, có thể đồng loạt khai triển và tiến bộ. Tôi có ba điều muốn nói với chư môn đệ trên cương vị của một nhóm. Trước hết ưu điểm và khuyết điểm của nhóm đệ tử này là do bởi sự kiện rằng những thành viên của nhóm không phải chỉ liên kết với nhau trên phương diện linh hồn, mà c̣n có sự liên lạc mật thiết trên khía cạnh phàm ngă (với tất cả mọi sự yếu kém của nó) và một ḷng yêu mến sâu đậm giữa họ với nhau, dù rằng họ chưa gặp mặt nhau lần nào. Nói về ưu điểm th́ t́nh thân hữu tự nhiên vô thức đó vốn là kết quả của nhiều kiếp trong đó họ đă từng có sự liên lạc mật thiết với nhau trong công việc phụng sự cũng như trong sự giao du bằng hữu và liên hệ gia đ́nh. C̣n về ở khuyết điểm th́ t́nh trạng này có thể làm cho nhóm đệ tử có những phản ứng thiên lệch, vị kỷ. Nhóm đệ tử này vốn là một thực thể trên tất cả ba phương diện trong tam giới (thể chất, t́nh cảm và trí tuệ) với một sự liên kết về phương diện linh hồn.

Điều thứ hai: Có thể áp dụng cho những khó khăn của thời buổi hiện tại trong sự vất vả khó nhọc của công tác tập thể mỗi người nên có sự vui vẻ khích lệ, hăng hái mà ghi nhớ rằng ḿnh có chân trong nhóm đệ tử đặc biệt này để chuẩn bị được điểm đạo tập thể, và đây là một công tác mới là mà HỘI ĐỒNG TIÊN THÁNH sẽ thực hiện, tuy rằng nó vẫn phù hợp với cơ tiến hóa. Trong những thế hệ tương lai, các đệ tử, nam và nữ sẽ cùng nhau bước qua cửa Điểm Đạo tập thể thay v́ đơn độc là lẻ loi từ trước đến nay.

Bởi vậy về vấn đề này, sự tiến bộ chung của nhóm có thể được xúc tiến hay tŕ hoăn bởi sự cố gắng của mỗi thành viên. Những sự khó khăn của một thành viên có thể làm cho trầm trọng thêm bởi sự khích lệ của toàn nhóm, sức mạnh và hiệu năng của y có thể được tăng cường bởi sức mạnh quyền năng và sự cảm thông của toàn nhóm. Bởi đó chư môn đệ có một trách nhiệm chung rất lớn với một cơ hội tiến bộ mau chóng, thật sự và phi thường. Khi chư môn đệ cùng nhau bước qua cửa Điểm Đạo do tôi giới thiệu với những Đấng Cao Cả có nhiệm vụ dẫn dắt chư môn đệ tiến lên quả vị cao hơn, chư môn đệ sẽ thấy những khả năng thương yêu, linh cảm và phụng sự của ḿnh được tăng cường đến mức làm cho chư môn đệ sẽ nắm vững một cách chắc chắn những ǵ mà bây giờ ḿnh chỉ cảm thấy một cách mơ hồ và nhận thức được sự huy hoàng của t́nh thương tập thể, công tác tập thể và phụng sự tập thể. Bằng cách đó, chư môn đệ sẽ cùng có một sự giác ngộ tập thể, một sự đáp ứng chung và một sự cố gắng chung. Khi ấy chư môn đệ sẽ hiểu rằng có thể có một đường phân chia tâm linh. Chỉ những người nào có thể vượt qua giai đoạn chuẩn bị điểm đạo tập thể và những người nào phải tự chuẩn bị Điểm Đạo lấy một ḿnh. Những người trong hạng sau này, phần lớn thuộc về thế hệ Song Ngư (Piscean Age). Họ bước qua cửa Điểm Đạo như những đơn vị biệt lập, c̣n chư môn đệ có thể được Điểm Đạo từng nhóm.

Trong công việc chuẩn bị điểm đạo, không ai có thể định trước về vấn đề thời gian, vấn đề này do mỗi thí sinh quyết định làm lấy. Tuy nhiên, mỗi đệ tử hăy ǵn giữ sao cho cả nhóm không bị tŕ hoăn và bởi những khó khăn chướng ngại riêng của ḿnh, chẳng hạn như vô minh, thiếu cái nh́n sáng suốt, ảo ảnh ảo giác, những thắc mắc riêng tư hoặc phản ứng chậm đối với chân lư.

Điều thứ ba: Mà tôi muốn nói là bất luận chư môn đệ đă đạt tới vị thế nào trên đường Đạo trong lúc này, tôi cũng sẽ trợ giúp chư môn đệ như trong quá khứ. Tôi sẽ nói sự thật như tôi nh́n thấy cái quan điểm riêng của tôi. Nếu chư môn đệ bị u tối trên địa hạt nào, tôi sẽ cố gắng rọi ánh sáng. Tôi sẽ vạch rơ những khuyết điểm, nếu chư môn đệ chịu thành thật lưu ư để nghe tôi. Những khuyết điểm đó có chư môn đệ chưa phải là bậc Đạo Đồ, tất nhiên hăy c̣n có những lỗi lầm, yếu kém, vô minh, hôn trầm và tự măn. Vài người có khuynh hướng tự bào chữa rất mạnh, không bao giờ nh́n nhận lỗi lầm, hay thậm chí chấp nhận trên lư thuyết rằng ḿnh có thể lỗi lầm. Những người khác có khuynh hướng tự kiểm quá đáng, đặt trọng tâm quá nặng trên phàm ngă, luôn luôn chú trọng khi nghĩ đến phàm ngă là một điều rất tai hại cho sự tiến bộ tâm linh. Những khuynh hướng đó tuy rất thông thường, có chứa đựng một mối nguy cơ thật sự cho người đệ tử. Chư môn đệ hăy để ư coi chừng những dấu hiệu của khuynh hướng đó khi chúng vừa xuất hiện. Hăy có thái độ sẵn sàng làm những khám phá bất ngờ về chính ḿnh. Một trong những bài học đầu tiên mà người đệ tử cần phải học là điều nào mà y cho rằng y sở trường nhất và đắc ư nhất lại thường là điều nguy hiểm nhất và khuyết điểm nhất. Những sự việc ở cơi trung giới thường được nh́n thấy đảo ngược, do đó người đệ tử thường mắc phải ảo ảnh và ảo giác.

Về vấn đề này tôi sẽ kể một chuyện riêng, thường xảy ra trong đời người của người đệ tử, nó có thể hữu ích như một bài học và một sự cảnh giác. Nhiều kiếp trước đây sư phụ tôi nhận thấy nơi tôi một khuyết điểm. Đó là một khuyết điểm mà tôi hoàn toàn không hay biết, thật ra nó là một đức tính mà tôi coi như một ưu điểm và lấy làm hănh diện. Hồi đó tôi là một thanh niên, nhiệt t́nh, nhiệt tâm phụng sự Chân Sư và nhân loại, nhưng xét cho kỹ, tôi lấy làm tự hào là một Đạo Đinh chí nguyện, tôi rất tự bằng ḷng, tự măn với chính ḿnh và che dấu sự măn nguyện đó dưới một lớp vỏ bề ngoài nhỏ nhoi, khiêm tốn. Chân Sư bàn t́m cách thức tỉnh tôi bằng ảnh hưởng thần diệu của Ngài, đến nổi điều mà tôi tưởng là một đức hạnh tốt và không hề nghĩ rằng đó là một thói xấu đă làm cho tôi vấp ngă nặng nề. Chư môn đệ có thể hỏi thói xấu ấy là ǵ? Chính t́nh thương của tôi đối với sư phụ đă làm cho tôi bị vấp ngă. Sau đó, sư phụ chỉ cho tôi thấy rằng t́nh thương của tôi đối với Ngài thật ra căn cứ trên ḷng kiêu căng, tự măn đối với các ư nghĩ rằng ḿnh là người đệ tử chí nguyện. Tôi cực lực đính chính điều ấy và rất buồn thảm v́ Ngài hiểu lầm tôi như vậy. Sau cùng tôi nhận thấy Ngài nói đúng sau khi đă bị vấp ngă một cách đau thương do bởi sự tự măn, tự tôn nặng nề của chính ḿnh. Tôi học được bài học hay do sự thất bại đó, nhưng đă phí mất nhiều th́ giờ đáng lẽ dùng vào việc phụng sự hữu hiệu. Tôi nhận thấy rằng thật ra tôi chỉ phụng sự chính ḿnh chưa không phụng sự nhân loại.

Kể chuyện này tôi muốn tránh cho chư môn đệ khỏi vấp ngă những lầm lạc tương tự để khỏi mất th́ giờ, v́ th́ giờ là một yếu tố quan trọng trong việc phụng sự. Đối với đa số người trên thế gian, thời giờ không đáng kể bao nhiêu, nhưng đối với người phụng sự nó quan trọng vô cùng. Bởi vậy đừng để mất th́ giờ v́ tự kiểm, tự phê hay tự bào chữa một cách quá đáng, không cần thiết. Về phương diện phát triển cá nhân, hăy tiến hành trong sự phân biện. Về phương diện tập thể, hăy xử sự trong t́nh thương và thông cảm. C̣n đối với tôi, chư môn đệ hăy dành cho những lời nói của tôi một sự chú ư cần thiết và hăy cố gắng hợp tác với tôi. Chừng đó có ngày tôi sẽ vui mừng đón tiếp chư môn đệ tại “nơi bí nhiệm” là nơi gặp gỡ và hợp nhất sau cùng của tất cả những người Đạo Đồ và những người phụng sự chân chính.

Tôi đă cho chư môn đệ biết tên thật của tôi. Có những lư do khiến cho tôi phải từ bỏ thái độ ẩn danh. Một là để khỏi phải làm cái đầu đề tranh luận phỏng đoán của một vài đệ tử về tung tích của tôi. Hai là để khuyến khích vài đệ tử khác tích cực cố gắng tăng gia công phu trên đường đạo. Một lư do khác là tôi muốn chư môn đệ biết rằng ḿnh là những đệ tử được thâu nhận chính thức với tất cả những ǵ mà địa vị đó đương nhiên đem đến kể về trách nhiệm cũng như về cơ hội phụng sự. C̣n một yếu tố quyết định khác nữa đối với tôi, là thử thách khả năng kín miệng của chư môn đệ cho đến khi nào không c̣n cần thiết. Sự im lặng, kín đáo là một trong những điều kiện tiên quyết cho sự Điểm Đạo, mà mỗi đệ tử nhất định bắt buộc phải có. Bởi vậy nên mới đặt ra sự thử thách. Nhiều người trong chư môn đệ đă tự thâm tâm biết chắc tôi là ai. Chư môn đệ đă không có sư thổ lộ sự tin tưởng của ḿnh cho ai về việc này trừ phi A.A.B (Alice A. Bailey) mà bà ấy cũng không có đáp ứng lại bằng sự xác nhận hay b́nh phẩm ǵ cả. Nếu chư môn đệ không thể tin cậy về sự kín miệng và biết giữ ǵn một thái độ tách rời, hồn nhiên, vô tư, th́ chư môn đệ chưa sẵn sàng tiếp nhận giáo lư mà tôi đưa ra, và chúng ta phải oi điều này càng sớm càng hay. Nếu chư môn đệ không giữ kín miệng, dù giữa bạn đồng môn với nhau, th́ tức là chư môn đệ không thể tin cậy được và tôi không muốn thấy việc ấy xảy ra. Khi tôi đă tiết lộ tung tích cho biết tôi là ai, nếu chư môn đệ nghi ngờ sự khôn ngoan của quyết định này cho rằng có lẽ tôi nên giữ kín tên tuổi, th́ điều đó cũng là một sự hay và sẽ giúp tôi có một thái độ thích nghi trong tất cả mọi cuộc tiếp xúc về sau với các đệ tử. Nếu việc biết tôi là ai đưa chư môn đệ vào con đường nguy hiểm của kẻ sùng tín, th́ chư môn đệ hăy nên khám phá cái khuynh hướng đó ở tự nơi ḿnh. Nếu từ nay trở đi, chư môn đệ gán cho những lời dạy của tôi một tầm mức quan trọng quá đáng, và rơi vào cái thói quen nguy hiểm là nhắm mắt tuân lệnh và chấp nhập quyền pháp, th́ sự yếu kém đó sẽ hiện rơ trước mắt, trước chư môn đệ và trước các bạn đồng môn. Điều này sẽ hữu ích cho tất cả chúng ta. Chư môn đệ sẽ khám phá ra một điểm yếu kém ẩn tàng của chính ḿnh, do sự phát hiện tung tích của tôi đưa đến. Nếu sự phát hiện này đưa đến một gánh nặng th́ chư môn đệ phải mang lấy cái gánh nặng đó trên vai, nếu không th́ chư môn đệ sẽ trở thành vô dụng và không thể làm một người phụng sự thế gian.

Sự kiện tôi là một Chân Sư không có thay đổi ǵ đối với tôi. Tôi vẫn là người Đạo Sư Tây Tạng đă từng dạy bảo cho chư môn đệ trong nhiều năm. Tôi vẫn là người ấy chứ không có ǵ khác cả.

Mọi phản ứng về phía chư môn đệ sẽ là một phản ứng của phàm ngă và bởi đó phải đưa ra phân tích và chế ngự.

Hởi chư môn đệ, chúng ta hăy cùng nhau tiến bước trên đường phụng sự. Chúng ta hăy cùng nhau bước vào ánh sáng, đi trên con đường đưa đến ḥa b́nh thế giới, chứ không phải đưa đến giác ngộ cho riêng ḿnh. Sự giác ngộ là điều tất nhiên nhưng là điều phụ thuộc,

C̣n nói về tất cả chư môn đệ, th́ tôi phải xử sự với những ai đây? một nhóm chưa được thử thách, một nhóm bất động, một nhóm hay chỉ trích và một nhóm bị ảo ảnh ảo giác rất trầm trọng. Đó là cái chất liệu mà tôi phải dùng để xúc tiến công tác. Tôi có thể làm ǵ với một t́nh trạng như thế? Tôi có thể tin cậy ở sự thiết tha của chư môn đệ đối với nhân loại, sự sẵn ḷng học hỏi và quyết tâm của chư môn đệ để đi trên con đường phụng sự với bất cứ giá nào. Chắc chắn là tôi sẽ tin như vậy.

Trước hết, tôi muốn thực hiện những mục đích mà tôi quan niệm cho tất cả chư môn đệ:

1) Mục tiêu chính hiện tại: Tôi cố gắng thực hiện sự ḥa hợp tập thể rất cần thiết cho sinh hoạt của nhóm. Sự điều chỉnh nhóm này như một đơn vị hợp nhất trên cơi trí tuệ vẫn chưa được hoàn thành. Điều này rất cần thiết trước khi ḥa hợp được thực hiện, th́ sự giao cảm hỗ tương hay công tác tập thể mong muốn trong nhóm sẽ không có thể có. Nhiều đệ tử cần suy nghĩ chín chắn và kết hợp bằng t́nh thương với các bạn đồng môn, loại trừ sự chỉ trích và tự măn trong sự xét đoán riêng của ḿnh.

2) Mục tiêu tương lại của những nhóm đệ tử này: Có điều cần thiết căn bản là những nhóm đệ tử mới đang khai trương trong một Kỷ Nguyên Mới trên đường hành ĐẠO, cứu cánh là phải thiết lập một sự liên quan hỗ tương bằng TGCC giữa họ với nhau. Về sau, khi đă có một sự liên giao chặt chẽ giữa các đệ tử trên phương diện cá nhân, tôi sẽ có thể đưa ra những pháp môn nhất định để thực hiện điều này từng bước một, nhưng tạm thời th́ sự gợi ư cũng đủ. Nó vốn là một điều căn bản trong thiên nhiên, phải được chấp nhận và hiểu biết phần nào trước khi hoạt động có kết quả hữu hiệu trong tất cả các nhóm tiên phong này. Chư môn đệ hăy nghĩ đến nhau trong t́nh thương. Chỉ có vậy thôi, hỡi các đệ tử, và không cần làm ǵ hơn nữa trong lúc này. chư môn đệ có thể chấp nhận chăn một quy luật giản dị như thế.

Bằng cách đó, thể dĩ thái của nhóm đệ tử sẽ được sinh động bởi năng lực và ánh sáng của t́nh thương, và như thế, một màng lưới ánh sáng sẽ được thiết lập để làm thành một trung tâm năng lực trong chính thể dĩ thái của nhân loại nói chung và cứu cánh trong cả cái thể dĩ thái của bầu hành tinh chúng ta đang ở đây.

3) Mục tiêu tập thể của nhóm: Đây là việc chuyển di tâm linh của tất cả những người đă kết hợp mỗi lúc càng đông đảo lên, đến mức độ dĩ thái của tâm thức và sinh hoạt. Điều này gồm có việc làm ư thức trên những cảnh giới đó với tư cách là những đơn vị năng lực, mỗi đơn vị đóng góp phần công lao cá nhân và phần năng lực đặc biệt của ḿnh vào tổng số năng lực dĩ thái hiện hữu và làm việc đó một cách vừa ư thức vừa khôn ngoan.

Khi điều này đă được thực hiện, chừng đó người hành giả sẵn sàng bước qua cuộc Điểm Đạo thứ nhất và là một nhà huyền học chân chính, biết sử dụng năng lực trong công việc phụng sự dưới sự hướng dẫn của ĐẠI ĐOÀN CHƯỞNG GIÁO.

4) Mục tiêu cá nhân: Điều này cần có sự chuẩn bị đời sống và tâm thức cho việc Điểm Đạo tập thể. Việc Điểm Đạo tập thể này vốn có một tầm quan trọng thật sự. Nó tùy nơi sự cố gắng của đơn vị trong nhóm để chuẩn bị điểm đạo và đồng thời tập đặt những ước vọng và tham vọng tâm linh của ḿnh vào cái tiết diệu chung của toàn nhóm và vào sự quy định thời giờ chính xác liên hệ đến những bạn đồng môn của y. Bởi vậy, việc này đ̣i hỏi một thái độ song hành đối với các phương thức Điểm Đạo một là sự ḥa ḿnh với sự kết hợp cần thiết, và hai là sự đáp ứng tâm linh đối với những ấn tượng đến từ những mức độ của linh hồn ĐẠI ĐOÀN CHƯỞNG GIÁO. Nó cũng đ̣i hỏi óc xét đoán và khôn ngoan trong việc thiết lập một mối tương quan đúng đắn với nhóm đệ tử, để cho cả nhóm có thể cùng tiến bước chung một lượt. Điều này cần có những điều kiện chung cho cả nhóm, giống như các điều kiện thông thường cho cá nhân, đó là sự kết hợp đúng đắn trên Ba mức độ của phàm ngă và trên mức độ của linh hồn, cùng với ấn tượng hay sự đáp ứng đúng đắn của nhóm đối với những làn sóng từ điển tâm linh thượng đẳng.

Điều này sẽ phải mất nhiều năm và công việc thực hiện những thái độ chung tập thể và tương quan tập thể xuyên qua sự thông cảm cá nhân và tinh thần vô tư chân chính, có thể tiến hành trên cơi thế gian trong kiếp đầu thai hiện tại, hoặc có thể tiếp tục ở cơi giới bên kia với một sự dễ dàng tương tự. Hăy luôn luôn nhớ rằng tâm thức vẫn không thay đổi dù trong kiếp sống trần gian hay ở cơi giới bên kia, và sự phát triển tâm thức có thể tiến hành ở bên kia c̣n dễ dàng gấp bội hơn là trong khi nó bị giới hạn và g̣ bó bởi bộ óc vật chất.

Sự đạt được những mục tiêu này sẽ đưa đến một tầm nhăn quang sáng suốt và một sự hiểu biết thâm sâu. Nó cần có sự tăng cường t́nh thương tập thể và liên giao tập thể một cách thường xuyên và ư thức. Nó sẽ d́u dắt tất cả các đệ tử sống một cuộc đầy các mục tiêu khôn ngoan, minh triết và phát triển tâm linh.

Đến đây, chư môn đệ có thể hỏi rằng: có một phương pháp duy nhất nào giúp cho người đệ tử có thể tiến gần cái mục tiêu dường như không thể thực hiện đó không? Tôi sẽ trả lời bằng cách thực hành thường xuyên đức tính vô tư, một thái độ thản nhiên đối với dục vọng cá nhân tiếp xúc cá nhân và những mục đích ích kỷ. Sự vô tư đó thường không được hiểu rơ, và thậm chí khi nó được vun trồng, tập luyện bởi những đạo sinh đầy thiện chí, nó vẫn có một căn bản ích kỷ. Hăy suy gẫm về điều này và cố gắng thực hiện đức vô tư qua sự quân b́nh và dời đổi trọng điểm của tâm thức phàm ngă (là trọng tâm thông thường của nó) cho nó chuyển qua Chân Ngă sống động và đầy t́nh thương.

Có bốn điều thường gây chướng ngại cho một nhóm đệ tử trong sự thực hiện công tác và hoạt động hữu hiệu:

Thiếu nhăn quan tâm linh, do bởi thiếu một trí năng sáng suốt.

Ảo ảnh, ảo giác cá nhân, do ảnh hưởng sự vật cơi trung giới.

Những vấn đề khó khăn cá nhân, gồm có sự quá ư bận rộn về những sự việc phàm trần với những nghịch cảnh, chướng ngại, khó khăn của cơi trần ai khổ lụy này.

Hồn trầm bất động hay chậm phản ứng đối với giáo lư truyền dạy và cơ hội tốt được đưa ra.

Nhiều đệ tử và đạo sinh trên thế gian ngày nay, nhất là những người không theo sát t́nh h́nh thế giới, mà chỉ nh́n vào thế cuộc từ đàng xa, cần có sự suy gẫm sâu xa của tính cách của thời đại và nhận thức cái số phận khổ đau của nhân loại. Thật là một điều giản dị mà bày rơ ḷng ưu ái, nhưng đồng thời cũng nên tránh việc phung phí quá nhiều sinh lực trong việc phụng sự và phải làm một cố gắng quá nhọc nhằn để trợ giúp kẻ khác.

Dấu hiệu của người đệ tử có thể nguyện hiến dâng, một đức tính, càng ngày càng phải nổi bật và chi phối cuộc đời của y là cái khả năng đồng hóa một phần hay với toàn thể tùy nhu cầu ở vào một lúc nhất định nào đó. Thái độ đó đương nhiên gồm có t́nh thương bao la để phụng sự cho một số lượng tối đa và cho những kẻ thiếu thốn nhất.

Điều lỗi lầm lớn nhất của phần nhiều các nhóm đệ tử trong thời kỳ này là biểu lộ một sự thản nhiên sai lạc không đúng chỗ, làm cho họ bận rộn với những ư tưởng cá nhân và những việc làm ích kỷ. Điều này có hại đến sự ḥa hợp tập thể và hay làm bế tắc công việc.

Một trong những điều cần thiết nhất cho mỗi đệ tử là áp dụng giáo lư truyền dạy vào ư niệm phát động và tăng gia công tác phụng sự thế gian. Được như thế, những kiến thức và cảm hứng là họ tiếp nhận được sẽ trở nên áp dụng thực tế và hữu hiệu trong đời sống hàng ngày để phụng sự kẻ khác. Đây là một điểm gợi ư chư môn đệ nên thật sự lưu tâm.

Đến đây, tôi cũng muốn chư môn đệ lưu ư về điểm này, là một đệ tử chính thức thật ra không phải là người được chân sư thâu nhận để huấn luyện. Đây là sự méo mó lệch lạc của một ư niệm chân chính. V́ trong sự diễn tiến của nó từ cơi Thượng giới đến cơi phàm trần, nó đă bị hoàn toàn đảo ngược hay xiêu vẹo. Đệ tử chính thức là một người:

1)     Đă chấp nhận sự kiện về tổ chức của H.Đ.T.T với một ḷng trung thành hợp tác với Thiên Cơ. 

2)     Đă chấp nhận sự kiện rằng tất cả những linh hồn đều hợp nhất làm một và bởi vậy, y tự nguyện biểu lộ như một linh hồn. Việc phụng sự phải làm là sự thức tỉnh và khích động tất cả linh hồn mà y tiếp xúc.

3)     Đă chấp nhận kỷ luật phụng sự của Huyền Môn. Lư tưởng phụng sự nhân loại quyết định tất cả mọi hoạt động của y và đạt phàm ngă y lệ thuộc và nhu cầu của thế hệ. Hăy ghi nhận câu sau này: Hăy vun trồng trực giác và ứng đáp uyển chuyển với nhiệm vụ cấp bách, chứ không phải phản ứng thụ cảm với một mục đích c̣n xa xôi.

4)     Đă chấp nhận Thiên Cơ như các bậc Giáo chủ của nhân loại đă chỉ dạy. Y t́m hiểu các tính chất của Thiên Cơ và giúp vào công việc thực hiện Thiên Cơ.

Những điểm khác (thuộc tính cá nhân) cũng có thể được nêu ra, nhưng tôi muốn cho chư môn đệ đặt trọng tâm nơi những điều chấp nhận trên đây là những động cơ cho những thái độ của ḿnh, chứ đừng đặt quá nặng trong tư tưởng cái ư nghĩ rằng ḿnh đă được một vị chân sư thâu nhận. Cái tư tưởng này mà nhiều tổ chức Huyền Môn đă phổ biến, đă đem lại nhiều hiểu lầm, đau khổ và thất vọng.

Một đệ tử là người được huấn luyện về một vài vấn đề quan trọng nào đó chứ không phải trong mối liên hệ giữa y với một Chân Sư. Những vấn đề đó là:

1) Vấn đề nhân loại: Tŕnh độ hiện tại, những khó khăn hiện nay và cơ hội đưa đến trong lúc này. một đệ tử là người lúc nào cũng t́m cách trợ giúp và thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại, cùng phát triển t́nh thương sâu xa đối với nhân loại. Đó là cái dấu hiệu đặc biệt của vị Đạo Đồ và của Chân Sư.

2) Vấn đề Điểm Đạo: Sự khảo cứu về vấn đề này sẽ đưa đến một sự xem xét mục tiêu căn bản của nó là sự tuần tự đồng hóa, hỗn hợp với linh hồn của người đệ tử với linh hồn của toàn nhóm, với linh hồn của toàn thể nhân loại nói chung và với linh hồn của tất cả vạn vật.

3) Vấn đề phụng sự: Đây không phải là phụng sự theo cái ư nghĩa thông thường. Các sử dụng thông thường của danh từ này đă làm mất phần lớn cái ư nghĩa của nó do sự hiểu sai. Vị Đạo Đồ coi vấn đề phụng sự như việc biểu lộ tự nhiên, dễ dàng của sự thức động chân ngă, được thực hiện ở cơi phàm trần và đem cảm hứng tâm linh đến cho người đệ tử trong khi hoạt động ở thế gian. Phần nhiều các đệ tử chỉ bận lo nghĩ một cách mơ hồ làm sao đạt tới nguồn cảm hứng tâm linh, nhưng không biết ǵ về những giai đoạn trước đó, là một nhăn quang nội tại giúp cho họ đáp ứng một cách khôn ngoan và thực tế những nhu cầu của nhân loại trong đời sống hàng ngày.

Một trong những cố gắng quan trọng của người đệ tử chính thức là biến đổi từ một người có lư tưởng và thiện chí thành một người hành động tích cực để phụng sự nhân loại.

Khi một nhóm đệ tử có thể đồng loạt suy gẫm về các vấn đề này và làm việc theo những đường lối kể trên, th́ họ đă làm một bước đầu tiên đưa đến việc Điểm Đạo tập thể. Điều này là mục đích của người đệ tử trong KỶ NGUYÊN MỚI. Sự Điểm Đạo tập thể gồm có:

1) Việc đạt tới một tầm nhăn quang hợp nhất, một cái nh́n tập thể của toàn nhóm mà người đệ tử chịu lệ thuộc vào đó.

2) Sự đồng loạt tương quan giữa các đệ tử trong nhóm với linh hồn của cả nhóm trên b́nh diện riêng của nó (tức là cái hồn của nhóm chung gồm các linh hồn của mỗi thành viên riêng rẽ họp chung lại). Điều này đưa đến sự hợp nhất tập thể trên mức độ tâm linh.

3) Sự tiếp xúc giữa các cá nhân trong nhóm trên 3 trạng thái biểu lộ của phàm ngă, tức ba b́nh diện của tâm thức: Trí tuệ, dĩ thái hồng trần và t́nh cảm. Vài đệ tử trong nhóm tiếp xúc với nhau trên một b́nh diện và vài người khác trên một b́nh diện khác, nhưng mục đích phải là một sự tiếp xúc chặt chẽ trên tất cả ba b́nh diện hay trạng thái tùy ư muốn và tất cả cùng chung nhau khi cả nhóm yêu cầu. Điều này rất khó nói, nhưng về sau sẽ đến lúc người ta được hiểu rơ ràng hơn về ư nghĩa của nó và kết quả đem đến sẽ như thế nào.

Khả năng hợp nhất của nhóm không để cho một bước rào chướng ngại nào ngăn cách những thành viên trong nhóm. Điều này đương nhiên bắt buộc phải hy sinh mọi phản ứng, ước vọng và kế hoạch của Phàm ngă. Hiện thời, những ước vọng, thái độ và quan niệm khác nhau là những mối chia rẽ giữa các đệ tử. Những điều này phải được loại trừ.

Lẻ tất nhiên c̣n có những điều kiện bắt buộc khác nữa, nhưng nếu chư môn đệ có thể hiểu những điều trên đây và cố gắng đáp ứng đến mức tối đa, th́ đó là tất cả những ǵ tôi mong ước trong lúc hiện tại. Một trong những điều cần thiết nhất là hăy thản nhiên rứt bỏ những lư thuyết sai lầm về đời sống, về con đường đệ tử và Thiên Cơ. Cần giữ một tâm hồn cởi mở luôn sẵn sàng chờ đón sự bất ngờ và nhăn quang tâm linh đủ sáng suốt, có thể đảo lộn mau chóng tất cả những thành kiến đă có. Điều này cũng bắt buộc phải có một thái độ cậy trông, đợi chờ một tầm nhăn quang tâm linh mới sẽ xuất hiện, những chân lư mới được làm sáng tỏ và những tiềm năng mới càng lúc càng tác động hữu hiệu. Những thái độ này rất khó tập đối với những đệ tử thuộc về Cung 6 là cung sùng tín và lư tưởng, v́ những lư tưởng của một đệ tử thuộc cung 6 cô động và kết tinh rất mau chóng và do đó cũng v́ méo mó, xiêu vẹo rất mau. Lư tưởng tạm thời (để hướng dẫn người sơ cơ) có thể trở nên một chướng ngại, ngăn cách với chân lư và ngăn trở sự thực hiện một tầm nhăn quang sáng suốt hơn.

Bởi vậy tôi yêu cầu chư môn đệ hăy nhắm mục đích thực hiện một sự đơn giản khoáng đạt, mở rộng cơi ḷng để chờ đón một cái ǵ mới mà ngày nay đă sẵn sàng xuất hiện, nhưng điều này lại bị ngăn trở bởi những lư tưởng của thế giới hơn là bởi những người thường. Những người này có phản ứng giản dị hơn, và sẵn sàng nhận định t́nh thế để thoát ra khỏi cơn bế tắc hơn là nhà thần bị hay là nhà thần học, bởi v́ họ suy tưởng theo nhân loại. Những đệ tử của thế gian, với những lư tưởng hào nhoáng rất đẹp, thường bị mê hoặc bởi những ảo giác của một sự mỹ lệ huy hoàng tương lai bởi v́ họ quên lăng cái cơ hội hiện tại. Nhiều người về sau đó sẽ nhận thấy rằng họ đă bị chậm trễ trong việc tiếp nhận chân lư mới. Đấng Christ đă đề cập đến việc ấy khi Ngài nói rằng không thể để rượu mới trong b́nh cũ, v́ những ǵ cũ kỹ lỗi thời sẽ bị tiêu diệt đào thải bởi sức sống mới đang phát triển.

Bởi đó, người Đạo Đồ túc trực sẵn sàng để làm ǵ? Để mặc nhiên nhận thức cái ǵ mới, thấu triệt nó ngay tức khắc và bước một bước mới trong việc khai mở tâm thức tiền phong dọn đường để phô diễn những quan niệm mới. Những quan niệm này có một khả năng sống động mănh liệt và ứng đáp thỏa đáng nhu cầu của nhân loại trong chu kỳ sắp tới. Người Ấn Độ sẵn sàng từ bỏ ngay tức khắc tất cả những ǵ tầm thường nhỏ nhen, không cần thiết và không đủ đáp ứng nhu cầu của thời đại. Người ấy sẵn sàng tiếp nhận quyền năng thiêng liêng từ cơi trên để tiêu diệt những ǵ đă trở nên cũ kỹ lỗi thời và trở nên vô dụng. Y sẵn sàng hoạt động như một nhà huyền học thực tế (chứ không phải là một lư tưởng gia huyền bí) trên mức độ tâm linh cũng như trên các vấn đề thực tế của thế sự.

Tôi muốn gợi ư rằng pháp môn thiền định của chư môn đệ chia làm hai phần, một đằng là công phu thiền định cá nhân và tập thể có kế hoạch nhất định, và một đằng là chăm sóc có phương pháp một nếp sống phản ảnh tâm linh. Sự phản ảnh tâm linh này sẽ phát huy một đời sống song đôi, chủ thể và khách thể của người đệ tử, c̣n công phu thiền định sẽ trợ giúp va trụ ánh sáng chân ngă vào bộ óc để đặt nền tảng cho việc phụng sự một cách linh động và sáng suốt.

Việc phụng sự chỉ là việc biểu lộ những thái độ và hoạt động của chân ngă trên cơi hạ giới, trong khi linh hồn chứng tỏ được thái độ đó trên cơi tâm thức riêng của nó. Một giai đoạn của đời sống song đôi kể trên tức giai đoạn phản ảnh tâm linh, gồm có việc nhận thức và biểu lộ một đời sống có ư thức, có mục đích. Nó đưa đến một nếp sống có phương pháp, có kế hoạch rập theo kế hoạch của Thiên cơ và những động lực sinh hoạt của H.Đ.T.T. Giai đoạn thứ nh́ thể hiện trong công phu thiền định đúng phép và đều đặn thường xuyên, cứu cánh nó sẽ là đưa đến sự giao tiếp bằng TGCC rất hữu hiệu giữa các đệ tử trong một nhóm, và giữa đệ tử với Chân Sư và toàn thể Đạo Viện. Nó cũng sẽ làm cho người đệ tử được nhạy cảm đối với những “luồng sóng tâm linh và ân huệ thiêng liêng từ cơi trên. Bởi vậy toàn thể công phu thiền định gồm cả hai phần” này gồm có sự kết hợp nối liền giữa tim và óc, sự ḥa hợp cả hai đường lối thần bí và huyền môn, phối hợp t́nh cảm và kiến thức.

Thật ra những luồng năng lực có tác dụng kết hợp, nối liền chỉ có thể tuôn từ bí huyệt ở quả tim. Chính v́ lư do đó mà tôi đă chỉ dạy vài phép công phu có tác dụng kích động quả tim, nối liền bí huyệt của quả tim (giữa hai xương chả vai với nô hườn cung luân xa h́nh hoa sen ngàn cánh ở trên đỉnh đầu). Bí huyệt ở quả tim khi được thức động đúng mức, sẽ nối liền các đệ tử giữa họ với nhau và với cả thế gian. Nó cũng sẽ tạo nên sự tác động TGCC mong muốn và hữu ích một cách xây dựng đối với H.Đ.T.T, miễn là tác động này được thiết lập trong một nhóm đệ tử hữu thệ, tự nguyện hiến dâng trong công việc phụng sự nhân loại. Chừng đó, họ có thể được hoàn toàn tín nhiệm.

Một trong những công việc của tất cả những đệ tử là sự kêu gọi đến khía cạnh Ư CHÍ của linh hồn. Những khía cạnh cao siêu của Ư CHÍ vốn thường im lặng trước khi con người bước vào đường ĐẠO của người đệ tử.

Trong KỶ NGUYÊN MỚI như tôi đă nói trước đây, cái điểm then chốt trong sự tiến bộ của người đệ tử sẽ là t́nh thương nhân loại. Điều này là do nơi sự thức động bí huyệt nơi quả tim. Trong quá khứ và cho đến thời gian gần đây, điểm then chốt đó vẫn là phụng sự, bởi v́ làm việc phụng sự một cách vị tha vô kỷ là một kỹ thuật đương nhiên làm thức động bí huyệt nơi quả tim. T́nh thương nhân loại là điều thiếu sót lớn lao nhất trong tâm linh của nhiều đệ tử trong thời buổi này. họ thương yêu những người mà họ có t́nh kết thân giao hảo, hay họ thương yêu công việc có liên quan đến sự cố gắp tập thể, hoặc họ thương yêu Tổ quốc của họ. Họ cũng có thể thương yêu một lư tưởng hay một lư thuyết nhưng họ không có thật sự thương yêu toàn thể nhân loại nói chung. Khả năng thương yêu của họ có giới hạn và việc vượt qua những giới hạn là điều khó khăn chính của họ trong lúc này. họ phải biết rằng nhân loại cần đến sự chăm sóc, thương yêu và tinh thần phụng sự của họ. Hăy suy gẫm về những lời nói này. Và trong đó cũng có hàm xúc công việc tương lai khi chư môn đệ chuẩn bị bước vào cuộc Điểm Đạo thứ nhất hay thứ hai. Tôi cũng muốn nhắc nhở chư môn đệ rằng cuộc đời của người đệ tử luôn luôn là một cuộc đời đầy gian lao và nguy hiểm, mà người ấy sẵn ḷng và quyết tâm bước vào v́ lư tưởng phát triển tâm linh và phụng sự nhân loại. Nhưng tôi yêu cầu mỗi đệ tử hăy ḍ xét những phản ứng và đời sống t́nh cảm của ḿnh một cách vô cùng thận trọng và nhất là những tác động của ảo ảnh ảo giác. Hăy lưu ư rằng sự xuất hiện của những thái xúc cảm hay ảo giác trong nếp sinh hoạt b́nh thường, không nhất thiết có nghĩa là thất bại. Chỉ có sự thất bại là khi nào người đệ tử đồng hóa với những trạng thái đó và để cho những nề nếp của nó thắng đoạt được ḿnh. Sự xuất hiện của những trạng thái bất hảo đó có thể là dấu hiệu thành công trong công phu thiền định liên tục. Khi đó phải b́nh tĩnh nhận định tính chất của chúng, với một sự “thản nhiên siêu thoát” để cho xúc cảm hay ảo giác đó tự nó tiêu tan dần v́ thiếu sự chú ư. Đó là toàn bộ bí quyết để chế ngự mọi sự xúc cảm thấp hèn. Phương pháp thực hiện sự kềm chế đó là một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong đời người đệ tử, và là một trong những thời kỳ lâu dài nhất, nói về khía cạnh thời gian. Chư môn đệ phải chuẩn bị ứng phó với điều đó. Thời kỳ này là giai đoạn đặc biệt khó khăn nhất để chế ngự xúc cảm bởi v́ đoàn thể gia đ́nh nhân loại nói chung đang chịu lệ thuộc trạng thái xúc cảm dồn dập và t́nh trạng kinh khiếp sợ hăi do tác động của bên hắc phái tả đạo gây ra. Điều này làm cho những nổi khó khăn của chư môn đệ, cũng như của tất cả những đệ tử càng trầm trọng phức tạp hơn: Nó có khuynh hướng tạo nên một thứ ảo ảnh, ảo giác mănh liệt nhất. Bởi vậy chư môn đệ hăy tiến tới trong sự can đảm, vui vẻ, thông cảm, cực kỳ thận trọng và đồng thời với tốc lực mau chóng. Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng tất cả các đệ tử chân chính đều muốn sát cánh với những bạn đồng môn trong nhóm họ trong t́nh thương và hiểu biết. Chư môn đệ có thể tin tưởng ở điều này. Tôi cũng bảo đảm rằng t́nh thương che chở của Chân Sư luôn luôn bao phủ chư môn đệ, và tôi sẽ không bao giờ bỏ rơi một người nào.

 

PHẦN IX

Mục đích của việc Điểm Đạo được các Chân Sư đưa ra các đệ tử và các Ngài sẵn sàng truyền dạy những điều cần thiết cho việc Điểm Đạo trong giai đoạn sơ khai này, tôi muốn nhắc nhở lại rằng chỉ có những ǵ chư môn đệ tự ḿnh hiểu biết và kinh nghiệm bản thân mới là điều quan trọng và là chân lư đối với ḿnh. Những ǵ cho kẻ khác hay do cả chính tôi nói lại với chư môn đệ đều không ích lợi thiết thực, trừ phi để làm nổi bật hay xác nhận một chân lư đă biết.

Điểm Đạo có thể được định nghĩa như trong cơn khủng hoảng mà tâm thức lướt trên đường ranh giới của sự tiết lộ huyền diệu. Những nhu cầu của linh hồn và những sự gợi ư của Sư Phụ có thể được coi như mâu thuẫn xung đột với những nhu cầu của không gian và thời gian, thể hiện nơi phàm ngă của con người. Bởi đó, trong t́nh trạng này, con người bị lôi kéo mănh liệt giữa những cặp đối tượng lưỡng nguyên và sự xung đột, căng thẳng này vốn diễn ra trong tâm hồn của người đệ tử đang “đứng ở điểm ngă ba đường”. Y sẽ ứng đáp một cách ư thức với tiếng gọi thiêng liêng chăng và bước vào những kinh nghiệm tâm linh mới mẽ và cao cả hơn? Hay là y sẽ thụt lùi trở lại để rơi vào ảo ảnh, ảo giác của thời gian, không gian và chốn mê đồ dục vọng của cuộc đời trần thế? Y sẽ đứng vững được chăng trong một trạng thái yên lặng, tịch mịch mà không bị giao động bởi ảnh hưởng của những dẫn lực lôi cuốn y từ trên hay dưới? Một trong 3 trạng thái kể trên sẽ định đoạt số phận của y và sẽ chấm dứt t́nh trạng do dự trước đây, trong khi người đệ tử c̣n đang phân vân chưa quyết định hẳn bề nào giữa hai con đường thanh cao hay thấp hèn. Trong t́nh trạng đó, Chân Sư vẫn để ư xem xét. Ngài không thể làm ǵ được v́ đó là vấn đề riêng tư của người đệ tử. Ngài chỉ có thể cố gắng tăng cường ước vọng của chân ngă bằng quyền năng của tư tưởng của Ngài. Phàm ngă cũng không thể làm ǵ được, v́ đến điểm đó cả hai thể xác và thể t́nh cảm chỉ c̣n là những thể vô thức và vô tri, chờ đợi ứng đáp quyết định của người đệ tử lúc ấy đang hoạt động trong thể trí. Chỉ có người đệ tử mới có thể hành động trên mức độ trí tuệ của tâm thức ở điểm cố gắng công phu này. Một khi y hành động như thế, th́ số phận y đă quyết định. Hoặc là y tiến trên cửa Đạo diệu huyền, nơi đây Chân Sư đang chờ đón y và đấng Hiện Diện Thiên Thần cũng tác động một cách mà tôi không thể nói ngay đây cho chư môn đệ biết được. Hoặc là y tạm thời y rơi rớt trở lại trạng thái sinh hoạt thấp thỏi của thế gian, ảo ảnh và ảo giác lại chế ngự được y và “kẻ giữ cửa” lại chen ḿnh vào giữa người đệ tử và ánh Đạo diệu huyền do cánh cửa mở ngỏ và tái hoạt động như trước. Trong hai lẽ đó, hoặc là người đệ tử đột nhiên thức tỉnh để thấu triệt chân lư và hiểu biết thiên cơ, một cách thâm sâu hơn, cùng vai tṛ của y trong Thiên Cơ mầu nhiệm, hoặc là bức màn vô minh lại bao phủ lấy y, làm cho nhăn quang tâm linh của y bị lu mờ, và y lại quay về với cuộc sống tầm thường của một người phàm tục, có lẽ suốt trọn kiếp sống mà cơ hội tốt lành đă đưa đến cho y. Tuy nhiên, nếu y tiến bước qua cái cửa đó th́ tùy theo tŕnh độ Điểm Đạo mà những Bí Nhiệm của Thiên cơ sẽ được tiết lộ cho y cùng với những hậu quả tốt lành liên hệ. Sự mặc khải đó sẽ không phải là chỉ tiết lộ cho những khả năng hay sự việc có thể xảy ra. Đó là một kinh nghiệm của bản thân thật sự, đưa đến cho y những quyền năng mới, cùng những cơ hội và những lănh vực phụng sự mới. Do những quá tŕnh tiến triển công phu trên đường đạo mà y mới sở đắc được những quyền năng này, cùng với một sự tự do hành động “trong phạm vi hoạt động của HỘI ĐỒNG TIÊN THÁNH” điều này vốn cao cả thiêng liêng hơn bất cứ những ǵ mà y có thể ước mong từ trước đến giờ.

Những cuộc tiếp xúc mới với H.Đ.T.T, nay đă ở trong tầm tay y, y được giao phó những trách nhiệm mới và có quyền tự do sử dụng những kho thần lực mới trong công việc phụng sự thế gian.

Có một điều mà tất cả chư môn đệ vốn biết trước khi tham gia công tác với tôi. Đó là trong một nhóm đệ tử như trong nhóm này, phần nhiều đă bước qua cửa Điểm Đạo thứ I và đang bước vào những cuộc Điểm Đạo cao hơn. Lời nói đó không có ǵ phải làm cho ai ngạc nhiên, hoặc sung sướng hay khoan khoái. Có rất nhiều Đạo sinh do sự thức tỉnh đối với vấn đề tâm linh, do nguyện vọng, hoài băo nhiệt thành, do sự chiến đấu không ngừng để trở nên tốt lành, và hiến dâng đời ḿnh cho lư tưởng phụng sự, đă chứng tỏ rằng TÂM BỒ ĐỀ hay đấng Christ ẩn vi nội tại đang tác động và hiện diện trong tâm hồn họ. Hàng ngàn người đă trải qua cuộc Điểm Đạo thứ I đang thành thật và nhất quyết tiến lên những cấp bậc cao hơn trên đường đạo. Tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ nhớ rằng rất nhiều luân hồi sinh tử c̣n phải trải qua giữa cuộc Điểm Đạo thứ I và cuộc Điểm Đạo thứ nh́, trong khi đó có những giai đoạn tiến hóa trong lặng lẽ, âm thầm và hầu như không hiển hiện. Chư môn đệ không phải là độc đáo hay tiến hóa vượt bực hơn những đạo sinh thâm niên của thế gian. Điều này có tính cách khích lệ và gây nên sự khiêm tốn. Tuy nhiên tôi không có ư muốn nói ai là người đang được chuẩn bị cho một cuộc Điểm Đạo nào. Đó là một vấn đề mà mỗi đệ tử phải tự khám phá lấy. Đó là một vấn đề định hướng của nội tâm, chớ không phải là một vấn đề t́m hiểu bên ngoài.

Đến đây tôi muốn đề cập đến một điểm liên quan đến 3 cuộc Điểm Đạo đầu tiên, 3 cuộc Điểm Đạo này luôn luôn được thực hiện trong khi người đệ tử c̣n trong xác thân và ở trên cơi hồng trần. Việc ấy chứng minh tâm thức Điểm Đạo xuyên qua hai phần trí và óc. Đó là một điểm thường không được nêu ra và đôi khi bị hiểu sai lạc.

Tôi cũng muốn nhấn mạnh với tất cả sự rơ ràng và khả năng của tôi, về đức khiêm tốn là một điều tối cần thiết của người học đạo. Tôi không nói đến tự ti mặc cảm mà nói đến cái ư thức đúng đắn về tỷ lệ đối với sự vật, nó khiến cho người đệ tử có được một quan niệm hợp lư, quân b́nh đối với bản thân, trách nhiệm và công phu hành đạo của y. Khi y có được đức tính đó y sẽ có một nhận xét hồn nhiên, vô tư đối với chính ḿnh và đối với những cơ hội đưa đến. Tất cả chư môn đệ chắc hẳn đă có lúc phỏng đoán về quả vị, tư thế của ḿnh trên đường đạo và quả vị của những bạn đồng môn. Dầu sao điều đó cũng là tự nhiên và cận nhân t́nh. Vài đệ tử lại quá nhỏ nhoi theo ư nghĩa cá nhân, chứ không phải theo ư nghĩa của đức khiêm tốn thật sự. Tôi muốn nói rằng chư môn đệ quá sợ mắc phải thói kiêu căng, ngă mạn và tập đánh giá khả năng ḿnh quá cao đến nổi không chịu nh́n thẳng vào sự thật mà lại hạ thấp quá mức những khả năng và giá trị của ḿnh.

Đức khiêm tốn thật sự vốn căn cứ trên sự việc, tầm nhận xét và áp lực thời gian. Ở đây tôi đưa ra một điểm gợi ư để chư môn đệ suy gẫm sâu xa về 3 nền tảng kể trên của thái độ khiêm tốn là một thái độ của Phàm ngă cần phải giữ ǵn và chứng tỏ trước mỗi cuộc Điểm Đạo. Tôi muốn nhắc nhở rằng luôn luôn phải co đức khiêm tốn trước một viễn ảnh tâm linh chân chính.

Cuộc thí nghiệm mà tôi thực hiện có các nguy cơ của nó. Những đệ tử trong một Đạo Viện của Chân Sư trên cơi giới siêu h́nh, biết rơ ít nhiều về quả vị của những bạn đồng môn, nhưng họ không phải luôn luôn nhớ lại những sự việc đó qua tâm thức của bộ óc vật chất.

Điều này là một yếu tố bảo vệ, ngăn ngừa, bởi v́ họ không thể được tin cậy rằng họ sẽ sử dụng sự hiểu biết đó một cách đúng đắn trên cơi phàm trần. Họ có thể chỉ trích một bạn đồng môn tạm thời không sống xứng đáng với mục đích Điểm Đạo của y. Họ có thể ganh tỵ một cách kín đáo tế nhị, hoặc tự kiểm tự phê một cách quá đáng. Họ có thể coi một bạn đồng môn tiến vượt bực hơn y trên đường Đạo như một nhân vật đặc biệt cao quư, rồi tách rời một nơi và gây phiền toái phức tạp thêm cho những khó khăn và những cố gắng của y. Họ có thể mất ư thức tỷ lệ đối với chính cuộc Điểm Đạo cùng những phương thức và trạng thái của nó, qua sự tiếp xúc quá gần gũi thân mật hay do sự hiểu lầm một bạn đồng môn cũng đang cố gắng trên đường chuẩn bị. Hăy coi chừng có rất nhiều hố sâu vực thẳm. Hăy lo cuộc đời của ḿnh và lo việc riêng của chính ḿnh. Đừng suy luận phỏng đoán ǵ về quả vị của những đệ tử khác trong nhóm. Họ là những cộng tác viên mật thiết của chư môn đệ và những người khác cùng chia sẻ công tác trong cuộc thí nghiệm của tôi. Hăy vun trồng đức khiêm tốn căn cứ trên sự hiểu biết và nhăn quang tâm linh, để phụng sự thế gian, phụng sự đắc lực các bạn đồng môn và phụng sự tôi nữa.

Tôi vẫn thường nói rằng dấu hiệu để nhận ra một người đệ tử là ảnh hưởng của y đối với hoàn cảnh bên ngoài và những người chung quanh và dấu hiệu của người Đạo Đồ là tầm mức rộng lớn của công việc phụng sự thế gian. Như vậy tại sao có vài đệ tử (không phải tất cả) không tỏ ra nổi bật tron việc phụng sự đó và tương đối kém cỏi trong các việc thế sự? Có nhiều lư do để giải thích điều này. Trước hết, một đệ tử có lẽ cần phải thanh toán một vài nghiệp quả, để trả dứt những duyên nghiệp, nợ nần từ lâu đời và dọn đường cho việc phụng sự nhân loại một cách hoàn hảo và liên tục trong tương lai. Điều này thường xảy ra giữa hai cuộc Điểm Đạo thứ nhất và thứ hai. Đôi khi một đệ tử có thể làm việc phụng sự hữu hiệu trên các cơi giới siêu linh, trên một quy mô rộng nhưng điều này không phản ảnh qua một bằng chứng ǵ rơ rệt trên cơi giới hồng trần, trừ ra một đời sống thanh cao tốt đẹp. Những người khác có thể học hỏi một vài kỹ thuật nào đó về liên hệ tâm lư và phân phối năng lực và có thể dành trọn một kiếp sống nhất định cho việc sơ đắc những khoa thí nghiệm này. Một kiếp sống chỉ là một giai đoạn ngắn ngủi trong chu kỳ sinh hoạt dài vô tận của linh hồn. Người đệ tử chân chính sẽ không bao giờ thụt lùi trở lại những lư do trên đây như những bằng cớ để bào chữa cho sự thiếu cố gắng. Hăy nhớ rằng ảnh hưởng thế lực trong cuộc đời trần gian không phải luôn luôn là dấu hiệu của người đệ tử. Có nhiều nhóm tiếng tăm và ảnh hưởng lớn dưới sự lănh đạo của những vị lănh tụ tài ba, nhưng những người này không nhất thiết là các đệ tử huyền môn. Nói về nhóm đệ tử này và cuộc thí nghiệm mà tôi đang thi hành, chư môn đệ cần đạt tới một giai đoạn kinh nghiệm tập thể, trong khi đó chư môn đệ sẽ không c̣n bận tâm nhiều đến sự tiến bộ cá nhân, quả vị và công lao phụng sự của ḿnh. Chư môn đệ cần phải tập hướng mọi tâm tư ra bên ngoài để cho công việc phụng sự chung trở nên yếu tố quan trọng hàng đầu. Được như thế th́ chừng đó những mối lo toan ích kỷ, những sự yếu nhược trong tâm tính, những mục tiêu cá nhân v.v… đều sẽ không c̣n. Chư môn đệ sẽ nhận thấy rằng sự vun trồng đức tính “thản nhiên siêu thoát” như tôi đă nói trước đây sẽ rất hữu ích và sẽ trợ giúp rất nhiều vào việc loại trừ phàm ngă. Cái Tiểu ngă đây, do thói quen thường bành trướng lớn lao đến nổi nó che khuất mất chân ngă, đó là bức rào chướng ngại giữa người đệ tử và Chân Sư, nó ngăn chận mọi sự giao cảm, tiếp xúc với các bạn đồng môn và làm vô hiệu hóa mọi công việc phụng sự.

C̣n một điểm nữa mà tôi muốn nêu ra cho chư môn đệ hiểu rơ. Có những thời kỳ trong đời người đệ tử mà y thấy dường như y không c̣n tiếp xúc được với Chân Sư và tất cả mọi liên lạc với Ngài có vẻ như gián đoạn. Đối với những đệ tử chính thức tôi muốn nhấn mạnh rằng sự liên hệ đó có thể có trên khía cạnh huyền môn, việc ấy không thể nào có được. Chỉ có một điều có thể gây ra sự gián đoạn liên tục đó, ấy là khi nào mà người đệ tử cố ư và dụng tâm cố gắng một cách ư thức trong một thời gian rất lâu để gây ra t́nh trạng đó. Một vị Chân Sư không thâu nhận một người đệ tử nào vào trong nhóm của Ngài một cách hời hợt, cẩu thả, và một khi Ngài đă thâu nhận, th́ việc ấy trở thành cố định và không thể xóa bỏ. Mọi sự tiến bộ hay chậm trễ hay gián đoạn liên hệ vĩnh viễn với Ngài hoàn toàn do người đệ tử hết cả. Có thể xảy ra việc tạm thời ngưng mọi việc giao tiếp liên lạc và điều này có thể kéo dài suốt một đời. Tuy nhiên, việc ấy cũng không phải là xấu, xét về khía cạnh linh hồn, nó chỉ là một lúc ngắn ngủi với một ư nghĩ nhỏ bé trong diễn tŕnh tiến hóa của linh hồn. Nó có vẻ lớn lao quan trọng đối với sự sống của phàm ngă. Nhưng chỉ có ư nghĩa bỏ lỡ mất cơ hội đối với linh hồn, mà sự sống trường cửu lúc nào cũng là Trường cửu bất diệt.

Bởi vậy, tôi đă gần gũi và quan sát từng kỳ hạn sự sinh hoạt tâm linh của các đệ tử. Tôi đă ghi nhận sự tiến bộ và sự tŕ hoăn của từng người. Tôi đă chứng kiến sự thành công và thất bại của mỗi đệ tử. Tôi làm như vậy bằng cách cảm nhận sự thoi thóp và ánh sáng của chư môn đệ, chứ không phải ḍ xét từng chi tiết sự sinh hoạt hàng ngày của mỗi đệ tử. Điều này không thích hợp trong thời kỳ khủng hoảng cấp bách như ngày nay, và do đó tŕnh độ tiến hóa của các đệ tử nó cũng sẽ không bao giờ thích hợp nữa. Chư môn đệ vẫn c̣n ở trong hào quang của Đạo Viện của tôi. Vị trí của mỗi người trong đó đều do nơi họ tự quyết định chứ không phải do nơi tôi. Có những thời kỳ có một cái ǵ giống như một sự thoi thóp trong mối liên hệ giữa Chân Sư và đệ tử, một sự rút lui và tiến tới của người đệ tử dự bị, và một sự vững ḷng chờ đợi về phía Chân Sư. Khi những sự giằng co, do dự trong sự tiếp xúc ấy đă chấm dứt, khi người đệ tử đă ổn định tinh thần và trở nên “một điểm năng lực tiến đến một cách vững vàng” th́ chừng đó y trở nên vị đệ tử chính thức. Vài đệ tử trong nhóm của tôi đă ổn định, vài người khác đang suy thoái, một số ít đang tiến tới và tôi đang quan sát một cách chăm chú những đợt sóng tâm linh khi đầy khi vơi của họ giống như mực nước thủy triều.

Sự động viên tất cả mỗi đệ tử rất cần thiết trong lúc này. Và khi tôi nói đến “Trong lúc này” tôi muốn nói đến thời kỳ hiện tại và 50 chục năm tới đây. Sự động viên này gồm có việc huy động tập trung mọi năng lực, thời giờ và tài nguyên của người đệ tử để phục vụ nhân loại. Nó đ̣i hỏi một tinh thần hiến dâng mới cho việc phụng sự, một sự thánh hóa đời sống của ḿnh và bỏ quên phàm ngă, loại trừ tất cả mọi cảm xúc, dục vọng, oán hờn và tất cả mọi sự nhỏ nhen thường t́nh trong sự giao thiệp với mọi người xung quanh. Trên cơi hồng trần, điều đó có nghĩa là sắp đặt cuộc sinh hoạt hằng ngày cách nào đó để cho cuộc đời ḿnh trở nên một đời sống có định hướng và phụng sự tích cực. Hăy nghiên cứu kỹ những lời dạy trên đây để nhận thức rơ ḿnh c̣n thiếu sót về điểm nào và phải làm ǵ để bổ cứu lại.

Trong quá khứ, tôi đă đưa ra rất nhiều lời huấn giáo, giúp đỡ và khích lệ. Những điều ấy, mà chư môn đệ vẫn c̣n giữ sẽ rất hữu ích nếu mỗi người chịu nhớ lại. Nhưng bây giờ th́ hăy mở đầu một giai đoạn mới, không phải cho chư môn đệ mà trợ giúp cho thế giới đang cần sự trợ giúp rất khẩn thiết. Hăy tự quên ḿnh để làm công việc này.

Trong thời gian gần đây, tôi sẽ gánh trên vai rất nhiều việc và trách nhiệm nặng nề do bởi sự chuyển biến của t́nh h́nh thế giới, t́nh h́nh khủng hoảng trầm trọng đă khiến cho ĐẠI ĐOÀN CHƯỞNG GIÁO phải cố gắng rất nhiều để ngăn chận sự sụp đổ toàn diện cơ cấu của nền văn minh nhân loại hiện nay. Những nền tảng lành mạnh của một phần cơ cấu đó phải được bảo vệ, kỳ dư phải bị sa thải.

Có nhiều sự việc gây nên t́nh trạng bất động trậm trệ mà ngày nay dường như nhiều đệ tử ngoài thế gian đang mắc phải, thay v́ họ phải hoạt động tích cực để trợ giúp công việc phụng sự. Điều này cũng áp dụng cho chư môn đệ. Áp lực của t́nh trạng chiến tranh, sự lo nghĩ bận rộn về những việc tiêng tư, cùng những thái độ và phản ứng cá nhân đối với cuộc đời làm cho chư môn đệ lăng quên những lời giáo huấn của tôi. Một trong những bài học khó khăn đầu tiên của đệ tử là cái thái độ song đôi, nó chấp nhận những hoạt động chính đáng của phàm ngă và sự chú trọng lành mạnh đến những sự việc cá nhân, nhưng đồng thời lại không cho phép những sự việc cá nhân can thiệp vào đời sống tâm linh nội tại, vào công việc phụng sự và công phu tập để chuẩn bị Điểm Đạo.

Trên hết mọi sự, tôi muốn nói rằng, hăy t́m cách phục hồi lại sự nhiệt thành, hăng hái cùng nguyện vọng tâm linh của buổi ban đầu. Nếu chư môn đệ chưa bao giờ để mất nó (tuy rằng nhiều đệ tử đă mất) hăy t́m cách làm cho năng lực của hoài băo tâm linh đó tác động trong những việc làm cụ thể, hữu hiệu ở cơi hồng trần. Chư môn đệ có thể hỏi: Bằng cách nào? Bằng cách tăng gia cường độ ánh sáng tâm linh của chư môn đệ trên thế gian xuyên qua t́nh thương và công phu thiền định, để cho kẻ khác cá thể hướng về chư môn đệ như ngọn hải đăng chiếu rọi trong đêm tối của cuộc đời, nó dường như đang làm ch́m đắm nhân loại trong thế kỷ này. Hăy cố gắng thương yêu nhiều hơn là chư môn đệ tưởng rằng có thể để cho kẻ khác, trong ḷng đang tê tái, giá lạnh v́ những sự phủ phàng đắng cay của cuộc đời trên thế, có thể hướng về chư môn đệ để t́m sự an ủi và sưởi ấm tâm hồn. Những ǵ mà tôi và tất cả những vị có liên hệ đến H.Đ.T.T (cố gắng thực hiện trong thời buổi khủng hoảng tuyệt vọng ngày nay, là t́m kiếm những người có đầy đủ tư cách làm những khí cụ trung gian để ban rải t́nh thương, sức mạnh và ánh sáng mà thế gian đang cần và phải có, nếu muốn làm cho cơn giông tố này lắng dịu. Tôi yêu cầu chư môn đệ hăy làm công tác phụng sự này cho tôi và cho nhân loại. Tôi không đ̣i điều ǵ độc đáo. Tuy nhiên nó cần một cố gắng ráo riết của linh hồn, nếu chư môn đệ muốn đáp ứng đầy. Tôi không có đ̣i hỏi điều ǵ không thể làm được.

Tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ rằng sự hôn trầm của thể xác và bộ áo, sự khô khan bất động của cảm xúc và sự lười biếng của trí năo dường như là những chướng ngại ngăn trở chư môn đệ khi phải đương đầu với những vấn đề lớn.

Lại một lần nữa, tôi chỉ đường cho chư môn đệ và sẵn ḷng chờ đợi chư môn đệ sẽ phát triển đời sống nội tâm hay không, để đạt cái quyền năng nó giúp cho chư môn đệ vừa sống như một người tốt lành hữu hiệu và đồng thời lại vừa như một chân ngă sống động và đầy t́nh thương. Sự thực hiện liên tục lối sống song phương đó chính là điều thiết yếu của chư môn đệ trong lúc này, nó sẽ đưa đến việc ḥa hợp chân ngă và phàm ngă và một hiệu năng hoạt động mạnh mẽ to lớn gấp bội phần. Nhiều đệ tử không c̣n trẻ tuổi nữa và cái thói quen cố định về tư tưởng và cảm xúc không dễ ǵ phá bỏ. Tuy nhiên, những điều này phải được phá bỏ và chư môn đệ không lấy làm bực tức, mà phải biết loại trừ những nhịp điệu cũ của phàm ngă và tạo nên những tiết điệu mới của lối sống tốt đẹp.

Những người đang oằn oại trong đau khổ, lo âu và tuyệt vọng (những người này rất nhiều) nhưng vẫn cố gắng bền gan chịu đựng, hăy nên biết rằng, cái giả tưởng bên ngoài không phải luôn luôn là sự thật, những ǵ gây tổn thương, đau khổ cho phàm ngă lại thường là những phương tiện giải thoát, nếu biết nhận xét đúng mức. Những ǵ xuất hiện khi những lực lượng của ánh sáng xâm nhập bóng tối của thế gian sẽ chứng tỏ tính chất thiêng liêng của linh hồn bất diệt.

Tôi có thể nói với tất cả: t́nh thương của tôi bao phủ chư môn đệ và hào quang của Đạo Viện mà tôi là cái trung tâm vẫn đứng vững như bức tường thành vĩ đại che chở, bảo vệ chung quanh tất cả những người nào chiến đấu cho lẽ phải. Vậy chư môn đệ hăy chiến đấu. Chừng đó chư môn đệ sẽ có thể cảm nhận được sự che chở đầy t́nh thương này. Mỗi ngày nếu chư môn đệ muốn, giao cảm với Chân Sư của ḿnh. Chúng tôi không phải là mù quáng hay cẩu thả, bất cần. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng có những điều ác c̣n tệ hại hơn hơn là sự chết và đau khổ. Chúng tôi biết rằng đây là một thời kỳ mà cơ hội lớn lao ngàn năm một thuở đă đến với nhân loại, và nếu con người có thể vượt qua giai đoạn này trong sự thành công và bằng sức mạnh của linh hồn ḿnh, thắng đoạt được điều ác ở trong hiện tại, th́ chừng đó sự tiến hóa của nhân loại sẽ hối thúc mau chóng ngoài sức tưởng tượng. Việc này có ư nghĩa thâm sâu trong đời sống của nhân loại cũng như có ư nghĩa trong đời sống cá nhân của người đệ tử.

Khi chư môn đệ nghĩ đến chúng tôi ở những nơi gọi là trú ẩn an toàn trên non cao đông thẳm này, chư môn đệ không thể biết rằng cái khả năng đồng hóa với tất cả những ǵ liên hệ tới sự khốn khó của thế gian ngày nay và sự nhạy cảm của Đấng Cao Cả trong H.Đ.T.T đối với t́nh trạng khổ đau của nhân loại, làm cho các Ngài rất đau thương, dường như đứng trước một cơn hấp hối tâm linh vô cùng trầm trọng. Cái Ngài hiểu rơ sự phản ứng sâu xa của nhân loại bởi các Ngài là một với tất cả mọi người. Điều này đ̣i hỏi một sự hiểu biết thâm sâu hơn nhiều, nó vượt rất xa những ǵ mà chư môn đệ có thể hiểu, nó chỉ có thể được bày tỏ đầy đủ bằng danh từ đồng hóa. Các Ngài cần đến sự trợ giúp trung kiên, t́nh thương bền chặt, thái độ trung thành và sự đáp ứng mau chóng của tất cả những đệ tử đối với những nhu cầu của nhân loại, để giúp cho các Ngài cưu mang một cách dễ dàng hơn cái gánh nặng mà nghiệp quả đă đặt nặng trên vai các Ngài, mà các Ngài đă t́nh nguyện đảm trách.

Chư môn đệ có sẵn sàng cho ra những thứ đó chăng, chư môn đệ có muốn trợ giúp vào công cuộc của chúng tôi bằng mọi cách chăng? Vừa là với tư cách cá nhân hiến dâng cuộc đời cho công việc phụng sự vừa là như những linh hồn bước chân trên con đường Đạo, đường Đạo đầy ánh sáng. Nhu cầu t́nh thương và ánh sáng của nhân loại, nhu cầu của H.Đ.T.T cần đến những đường vận hà và những người phụng sự thế gian, có thể kêu gọi đến tất cả những ǵ mà chư môn đệ có thể ban phát.

Đó là phần thương thật sự duy nhất mà người đệ tử mong ước. Điều đó sẽ đến với chư môn đệ, nếu chư môn đệ hăy quên đi cái phàm ngă nhỏ bé của ḿnh.

Cầu mong sự hiểu biết của chư môn đệ có thể thăng hoa trở thành minh triết và nhăn quang tâm linh điều khiển tất cả mọi hành động và sinh hoạt của chư môn đệ. Đó là điều ước vọng sâu xa trong ḷng tôi đối với mỗi đệ tử cũng như đối với tất cả chư môn đệ.

Người Bạn và Người Thầy của chư môn đệ

CHÂN SƯ TÂY TẠNG

CHƯƠNG II: VÀI HUẤN THỊ CÁ NHÂN

Gửi: E.S.D.

Tháng 11/1931

Em thân mến,

Tôi muốn nói với em những lời này, đừng lăng phí thời giờ để nghĩ đến những công quả em đă làm trong những năm qua hoặc nôn nóng tiên liệu những năm tương lai mà em định dành cho sự cố gắng tu luyện dưới sự chỉ dẫn của tôi. Vấn đề cân nhắc thời gian có lẽ đă chiếm phần lớn trong tư tưởng của em và em phải tập quên nghĩ đến những tiến bộ tương lai bằng cách tập trung tinh thần vào công việc hiện tại. Em cũng phải quên phần h́nh thức trong cơn tham thiền, v́ em cần thức động trực giác. Làm việc thiết tha đến kết quả là một bài học đáng kể. Bởi vậy những huấn thị đặc biệt dưới đây có thể tạm thời gây cho em một sự ngạc nhiên nhưng sau này em sẽ biết lư do:

Điểm thứ nhất: Hăy gạt bỏ tất cả mọi h́nh thức ra ngoài công phu thiền định của em và hăy ngồi hoàn toàn im lặng, tập trung sự chú ư đến những thể hiện t́nh thương, tức là Chân Ngă. Hăy kiềm hăm tư tưởng cho vững vàng (đối với em việc này không khó) và kế đó hăy loại bỏ cái ư niệm gốc. Hăy lắng nghe và ngưỡng vọng. Kết thúc mỗi cơn thiền định bằng sự ban rải t́nh thương cho tất cả mọi loài. Sự ban phát tư tưởng này là một sự buông xả rất hữu hiệu và mỗi đệ tử trong nhóm cần buông xả, tách rời khỏi một cái ǵ. Đối với em, đó là sự tách rời ra khỏi trong mọi h́nh thức trong công việc phụng sự. Em đă biết tôi muốn nói ǵ.

Điểm thứ hai: Từ nay cho đến ngày rằm tháng năm hăy ngưng tất cả mọi sự tập luyện hơi thờ. Em đă theo dơi sự tập luyện này trong nhiều năm và nay cần phải nghỉ. Mọi sự trong thiên nhiên đều diễn tiến từng chu kỳ hoạt động và nghỉ ngơi, và trước khi tôi dắt em bước thêm một bước nữa, tôi muốn em hăy giải tỏa sự căng thẳng trí năo, và chú tâm đến sự nhiệt thành nó vẫn cai quản đời sống của em …

Bây giờ, em có thể tiếp tục công phu thiền định và luyện hơi thở mà tôi đă chỉ dẫn. Trong cơn thiền, hăy cố gắng hướng ngoại và mở tâm thay v́ là kẻ mở trí và hướng nội như em hiện nay. Con đường tách rời, buông xả trong trường hợp của em là con đường bác ái và t́nh thương phải là điểm trụ cột trong tất cả mọi công phu thiền định của em. Bởi vậy hăy cẩn thận tuân theo những chỉ thị, và nhớ rằng đối với em tôi vẫn tránh né không chú trọng đến phần h́nh thức. Chủ đề của mọi cơn thiền định của em có thể tóm lược như sau:

“Tôi nguyện noi theo con đường bác ái. Tôi tự nhắc nhở với linh hồn ḿnh rằng tôi sẽ hành động luôn luôn như một vận hà của ḷng từ ái và một khí cụ của t́nh thương. Tôi phụng sự với một ư đồ trong sạch. T́nh thương và ḷng nhiệt thành nơi tôi phải là cái nguồn sống để nuôi dưỡng những hoài băo tâm linh nơi những kẻ đồng loại của tôi. Tôi tự nguyện làm những điều này với một tinh thần hiểu biết và sáng suốt”.

Sự đóng góp của em cho nhóm đệ tử này là những hoài băo nồng nhiệt linh động và hăng say, nó vốn là tính chất tâm linh của cung 6 là cung của em.

 

Hỡi đệ tử chính thức,

Nay tôi đă có thể gọi em bằng danh hiệu đó, bởi v́ em đă đạt tới một điểm (ước muốn từ lâu trên đường Đạo) mà bây giờ em đă tự biết rằng ḿnh đă bước vào con đường của người đệ tử chính thức. Tôi không thể gọi em như thế sớm hơn, bởi v́ sự nh́n nhận trạng thái tâm linh nội tại đó phải đến từ bên trong tính chất cá biệt của người đệ tử. Chúng tôi là những Đạo Sư, chỉ được phép nh́n nhận sự kiện ấy sau khi đă xảy ra. Trong nhiều năm, em đă tích cực hoạt động trên cơi trí tuệ, kể về riêng em và cùng với nhiều người mà em được phép hướng dẫn trên con đường của người đệ tử dự bị. Tuy nhiên em vẫn luôn luôn mong mỏi, có một sự giao tiếp bén nhạy trên địa hạt t́nh cảm và mở rộng ḷng từ ái. Hiện nay em đă đạt được mục đích này sau hai năm công phu, cố gắng, và kết quả là em đă bắt đầu hợp nhất hoạt động của trí tuệ và t́nh thương. Khi điều này được thực hiện do tác động của ư chí, và khi nào biểu lộ trên thực tế trong công việc phụng sự, th́ chừng đó người đệ tử bước vào con đường nhập môn. Chừng đó y cũng có thể t́m thấy cơ hội gia nhập và nhóm đệ tử của một vị Chân Sư, miễn là có một chỗ trống. Việc này đă xảy ra trong trường hợp của em, em cũng tự ḿnh biết được điều ấy, và bởi đó, tôi có thể đón nhận em như một đệ tử chính thức.

Tôi muốn sửa đổi một vài điều trong phép luyện khí công và công phu thiền định của em. Về cả hai loại công phu nầy, em hăy giữ một quyển sổ tay, và sau một thời kỳ 6 tháng, hăy ghi nhận những kết quả thu nhận được, những ảnh hưởng huyền diệu cùng mọi sự khai triển tâm thức mà em cho rằng nhất định là do những công phu ấy mang đến. Trong trường hợp của em, hăy ghi nhận những kết quả ấy trong tâm thức thông linh. Chính trong địa hạt này trong bản chất của em, sự phát triển tâm linh có phần nào bị giới hạn. Sự căng thẳng trí năo trong 30 năm qua đă làm cho tác động tự nhiên của những sức mạnh thông linh bị ngăn trở ít nhiều.

Em đă có một trí lực kiên cố vững vàng để có thể tập luyện khai mở thông linh một cách an toàn và hữu ích dưới sự giám sát của tôi. Nhưng trên phương diện nầy, chúng ta phải đi từ từ. Trong ṿng 6 tháng tới đây chúng ta sẽ áp dụng phương pháp “tẩy uế thông linh” toàn diện bằng bảy hơi thở dẫn điện, tác động bằng ư chí. Những hơi thở dẫn điện này sẽ lưu thông khắp toàn thân thể em và tạo nên một sự kích thích chung, đưa em đến một sự thụ cảm bén nhạy hơn trước. Bởi vậy hăy ghi nhận sự ứng đáp của em đối với tâm thức nội tại đó, và trong ṿng nửa năm tới đây, em hăy giữ một cuốn nhật kư riêng để ghi nhận mọi diễn biến thông linh, mỗi khi có thể cảm thông bằng TGCC với nhu cầu hay với tư tưởng của những người chung quanh. Em hăy cố gắng ḥa nhịp một cách ư thức hơn với tâm thức của các bạn đồng môn trong nhóm. Cuốn nhật kư của em sẽ làm cho kẻ khác thích thú và sẽ là một bảo đảm cho sự tiến bộ cá nhân em …

Tháng 6/1935

Hôm nay tôi muốn phân tích tỉ mỉ t́nh trạng các bí huyệt thông linh của em, từ bí huyệt rún trở lên. Em đang trải qua một giai đoạn song đôi của sự tách rời và đồng thời sự phát triển thông linh. Em cần nhớ rằng những giai đoạn tách rời có nhiều thứ khác nhau. Có loại tách rời khỏi thế giới của giác quan hoặc như trong trường hợp của em, sự tách rời tạm thời và tương đối khỏi thế giới tiếp xúc của lư trí. Đó là sự tách rời căn cứ trên một thái độ nội tâm chứ không phải là một trạng thái thuộc về ngoại cảnh. Điều này được thực hiện chu toàn và phong phú hóa sự sinh hoạt cảm xúc và thông linh của em.

Sự sinh hoạt thông linh của một đệ tử là một phần nhất định của sự biểu lộ tâm linh của y. Chỉ khi nào nó không được kiềm chế, khi nó được chú trọng quá đáng và được gán cho một giá trị quá cao, th́ nó mới là bất hảo. Nó là một chướng ngại khi nó bị lạm dụng, hay khi nó được coi như một biện pháp có thể thay thế cho những h́nh thức khác của sự biểu lộ thiêng liêng. Chừng đó nó tạo nên những ảnh hưởng bất hảo và nhận ch́m người đệ tử trong thế giới của ảo ảnh và ảo giác. Những quyền năng thông linh là những trợ lực đáng kể cho công việc phụng sự khi chúng được phát triển đúng phép và được sử dụng một cách lành mạnh. Chúng có thể khai mở một cách an toàn bởi người nào đă mở mang trí tuệ và hướng cuộc đời ḿnh theo con đường phụng sự.

Chắc hẳn em lấy làm ngạc nhiên mà thấy tôi đă chọn em là người đầu tiên trong nhóm đệ tử này để chuẩn bị cho công tác thông linh. Lư do là v́ dưới một tác phong dè dặt và một trí lực được kiềm chế, em c̣n có một thể thông linh mạnh mẽ đă phát triển đến một tŕnh độ khá cao. Thể thông linh này, em chưa bao giờ sử dụng trong kiếp hiện tại, nhưng nó đă được phát triển đến mức độ này trong những kiếp trước. Những khuynh hướng thông linh của em đă mạnh mẽ đến nổi trong kiếp này linh hồn em muốn quân b́nh hóa và chu toàn phàm ngă của em bằng cách đặt trong tâm trên khía cạnh trí năo. Tuy nhiên chính những mối ràng buộc thông linh trong quá khứ đă đưa em bước vào cơ quan mà em đă trợ giúp công việc trong vài năm, một cơ quan mà phần lớn công việc được thực hiện trên mức độ thông linh và trung giới.

Sự phát triển thông linh, khi nó không bắt nguồn từ nơi bí huyệt rún, phải được thực hiện bằng việc kiểm soát đúng phép những bí huyệt linh nhỡn, cuốn họng, tim và rún bởi “con người tâm linh” tọa thủ ở trên đầu.

Trong trường hợp của em, bí huyệt linh nhỡn được khích động rất ít. Nó hăy c̣n yên lặng và xoay rất chậm. Bởi đó, hạch mũi hăy c̣n ở mức độ dưới b́nh thường. Bí huyệt rún đă khai mở, nhưng em không biết dùng nó làm phương tiện giao tiếp, và chỉ trong ṿng hai năm qua em mới bắt đầu đặt nó lệ thuộc vào bí huyệt đầu bằng cách vun trồng ḷng từ ái. Bí huyệt cuống họng vận chuyển lờ đờ, nhưng có thể làm khích động dễ dàng, c̣n bí huyệt tim đang thức động mau lẹ.

Bởi vậy t́nh trạng những bí huyệt của em có thể được diễn tả như sau:

Bí huyệt đầu                         : 40% thức động

Bí huyệt linh nhỡn              : 15% thức động

Bí huyệt cuống họng           : 60% thức động

Bí huyệt tim                         : 50% thức động

Bí huyệt rún                         : 75% thức động

Như thế bí huyệt linh nhỡn hiện thời của em phải được chú trọng nhất. Nó càng được thức động để vận chuyển hai khả năng quan trọng của nó. Trong trường hợp của em th́ đó là:

Khả năng phóng phát h́nh tư tưởng

Khả năng tác động như một cơ quan linh thị (thần nhăn)

Mỗi ngày em phải tập luyện phép khí công sau đây trước khi bước vào công phu thiền định … Em có thể tập hai lần mỗi ngày chứ đừng nhiều hơn v́ nó có cường lực rất mạnh. Không bao lâu nó sẽ thức động bí huyệt linh nhỡn và làm cho bí huyệt này hoạt động mạnh hơn. Nếu cảm thấy nhức đầu hay cảm thấy thần kinh căng thẳng, em hăy ngưng tập một hai ngày, rồi sẽ tiếp tục lại. Hăy giữ một thái độ bàng quang và đừng trông chờ kết quả. Kết quả vẫn có nhưng lúc đầu chỉ có tôi mới nhận thấy mà thôi …

Tháng 6/1936

 

Tôi muốn nói với em hai điều xuất phát tự nơi ḷng và hai việc thực tế mà tôi nghĩ tới trong trí . trước hết tôi muốn ban cho em mọi lời ban tặng, tuy tôi biết rằng em không mong muốn điều đó và em vẫn luôn hành động theo sự thúc đẩy và cảm hứng của Chân Ngă. Em làm việc để đáp ứng những nhu cầu của thế giới chứ không phải v́ ư muốn làm vui ḷng tôi, hay thậm chí để kết hợp chặt chẽ hơn với nhóm bạn đồng môn. Em làm việc chỉ v́ tinh thần trách nhiệm và ư thức hoạt động đúng đắn. Dù sao, tôi muốn khen tặng em v́ đức tính kiên cường mà em vẫn giữ, mặc dù có nhiều sự bất măn tâm linh và mặc dầu những cố gắng thường xuyên của em không đem lại bao nhiêu kết quả trên khía cạnh diệu huyền. Em đă gạt bỏ ra ngoài mọi sự chú ư vào bản thân ḿnh và chỉ làm những ǵ cần phải làm mà em tin tưởng rằng đó là con đường của ḿnh cũng như của tất cả những đệ tử chân chính.

Nhiều năm trước đây, em c̣n mong ước thâu lượm những kết quả tốt của những việc làm của ḿnh. Nay em vẫn tích cực hoạt động, nhưng em vẫn sẵn ḷng không nghĩ đến kết quả. Đó là một điều rất tốt. Tuy nhiên tôi muốn nói với em rằng kết quả vẫn có, và có lẽ những kết quả ấy đă bắt đầu xuất hiện rơ ràng hơn trong trí của em. Tôi có thể chỉ cho em thấy hai kết quả và tôi đă cố t́nh chọn lựa hai loại kết quả này và chúng có liên hệ đến tôi và đến việc làm của em với tôi, là thầy và bạn của em. Điều thứ nhất tôi đă thâu nhận em làm đệ tử chính thức và em đang có mặt trong nhóm đệ tử của tôi … Điều thứ hai, tôi đă cho em và các bạn đồng môn biết rằng tôi đang bắt tay cho em được Điểm Đạo. Em vừa kết thúc một chu kỳ hoạt động trong tháng vừa qua vào giờ trăng tṛn ngày rằm tháng 5. Nay em đang bước vào một chu kỳ khác. Em hăy nhớ rơ điều này trong trí và tiến bước đến việc phụng sự tự do hơn, thông cảm sâu xa hơn, với một nhăn quang sáng suốt hơn. Em đă đạt một nền tảng vững chắc.

Hai tư tưởng xuất phát tự nơi ḷng mà tôi muốn nói với em có thể tóm tắt dưới đây. Hăy ghi nhận rằng những tư tưởng này xuất phát nơi tâm tôi, c̣n những điểm gợi ư là do trí óc tôi. Đó là sự gợi ư về công việc làm của em trong tương lai đối với những người t́m đến sự giúp đỡ của em trong đời sống tâm linh của họ.

1) Nay em cần hoạt động dứt khoát hơn và tự tín hơn với tư cách một đệ tử chính thức. Điều này có nghĩa ǵ? Đó có nghĩa là em phải làm việc trong sự nhận định rằng, bởi v́ em đă nhập môn, nên em có sự liên lạc trực tiếp với H.Đ.T.T, và bởi đó, tính chất phụng sự của H.Đ.T.T cũng phải được biểu lộ nơi em và xuyên qua em. Tính chất đó như thế nào? Đó là sự minh triết tự biểu lộ một cách thông minh bằng t́nh thương em phải suy ngẫm về câu này. Em vẫn luôn luôn phụng sự một cách thông minh, v́ em có nhiều ư thức hiểu biết cho kết quả của những kinh nghiệm cũ, tư tưởng sâu xa và công phu tập luyện trong kiếp này. Tuy nhiên những kiến thức đó phải được diễn dịch thành minh triết xuyên qua khả năng linh động của t́nh thương. Tôi không nói ǵ thêm để diễn tả ư niệm này. Nó phải được dùng là đề tài suy luận dồi dào, phong phú của em.

20 Tư tưởng thứ hai xuất phát tự ḷng tôi là muốn cho em hăy nhớ rằng địa vị đệ tử đương nhiên bao gồm ư thức trách nhiệm, và ư thức trách nhiệm được phát triển bằng sự đau khổ. Điều này không khỏi đưa đến sự buông xả tách rời. Phương thức tách rời này sẽ diễn tiến đối với tất cả mọi người trong nhóm và hẳn là phải có sự khó khăn. Sự khó khăn này có thể gây nên một loạt những vấn đề rắc rối và phiền lụy luôn luôn đến với em trong cuộc đời phụng sự, trong đời sống gia đ́nh và trong những dịp tiếp xúc ngoài thế gian. Điều này có lẽ cần có một đức tin và can đảm thuộc loại cao hơn. Nhưng tôi không e ngại cho em, hỡi người đệ tử trên đường Đạo. Em có một đức tin vững như sắt thép không sao lay chuyển …

Tháng 1/1937

Em thân mến,

Tôi rất mừng mà thấy em tỏ ra nhạy cảm đối với sự rung động từ điển của tôi. Nhưng em không phải luôn luôn nhạy cảm như em tưởng. Các Đạo sinh dễ lầm sự rung động của cung Hai, là cung của nhóm đệ tử này với sự rung động cá nhân của tôi. Các đệ tử cần phải tập luyện để có thể phân biệt những loại rung động sau đây:

Sự rung động cung hai, là cung Minh triết bác ái.

Sự rung động của Chân Sư M. hay Chân Sư K.H. khi các Ngài sử dụng sự rung động từ điển để khích lệ một nhóm đệ tử

Sự rung động của tôi, tự nhiên là có nhuộm màu sắc rất đậm của cung hai.

Sự rung động của một nhóm đệ tử thuộc cung hai, vốn là sự tổng hợp của tất cả những đặc tính và màu sắc của các đệ tử trong nhóm.

Sự rung động của những đệ tử cao cấp cung hai, đôi khi có thể làm lẫn lộn với những rung động của tôi

Sự rung động của những đệ tử thuộc cung sáu, ứng đáp với sự rung động của cung Hai. Công việc của họ phần lớn diễn ra trên cơi Trung giới và có thể được giao tiếp một cách dễ dàng.

Sự nhận xét này có thể giúp cho em thấy vài điều hay lạ. Có điểm lạ lùng nào em và các bạn đồng môn B.S.W. tiêu biểu cho 2 đối tượng cực đoan trong sự nhận xét này trên phương diện lư thuyết. Cả hai đều biết nhận ra đối tượng mỗi khi có sự giao cảm, nhưng B.S.W. lại nhạy cảm hơn em đối với sự rung động của tôi. Tuy nhiên, y bị mất nhiều nhạy cảm đó bởi một sự vô tư gượng ép c̣n em mất nhiều do bởi đôi khi em quá tự tín.

Về vấn đề cảm nhận sự rung động, nên nhớ rằng mọi sự cảm giác rung động vốn là một phản ứng xúc cảm. Khi xem xét nhóm đệ tử, tôi nhận thấy rằng có vài người, nhất là em, đă cố gắng gạt bỏ sự bén nhạy của cảm xúc. Vài đệ tử chấp nhận sự nhạy cảm này, nhưng coi nó như một điều bất hảo. Những người khác coi nó như một điều nên khỏa lấp, trừ tiệt và quên hẳn đi. Ít có người, nếu có, biết coi thể t́nh cảm như một sự biểu lộ linh diệu của sự thật, với những tác dụng rơ ràng và nhất định của nó.

Thể t́nh cảm, ở vào đúng thời gian và vị trí của nó, vốn có giá trị, mục đích và tác dụng thật sự cũng như thể trí. Nó có tác dụng nối liền ấn tượng thanh cao với ấn tượng thấp kém, và chính nhờ sự trung gian của nó mà em có thể ghi nhận sự rung động của tôi trong tâm thức của bộ óc vật chất. Em có thể nhận thức được sự rung động của tôi trên cơi giới của linh hồn, và tâm thức thể trí của em có thể ghi nhận được ấn tượng của nó (nghĩa là bất động tiêu cực đối với thế giới cảm giác và thụ cảm đối với ấn tượng trí năo) th́ ấn tượng này sẽ không thể ghi nhận được trong bộ óc hay trong khi thức tỉnh.

Những bản báo cáo viết tay của em về vấn đề này có nói về ảnh hưởng mà việc làm và đời sống của em gây ra đối với kẻ khác. Ảnh hưởng đó được thể hiện qua việc sử dụng những sức mạnh mà các đệ tử phải tập điều khiển để tạo nên những lợi ích thật sự cho kẻ khác. Trong khi đó, các đệ tử cũng khảo sát những người này để thăm ḍ nhận xét những phản ứng gây nên. Tuy nhiên cần ghi nhận những phản ứng gây ra trong những trường hợp dưới đây:

1) Khi em công tác với những người thấp kém hơn, những người thường hay những đệ tử dự bị lần đầu tiên mới bước chân vào Đường Đạo. Với những người này, em có nhiều việc phải làm. Ảnh hưởng họ gây ra cho em thuộc về loại tốt nhất không?

2) Trong sự giao tiếp với những người ngang hàng với em trên Đường Đạo, và những người mà sự rung động có tính chất hóa giải hoặc có một cường độ tương đương với sự rung động của em, và bởi đó không gây nơi em một sự phản ứng nào, trừ ra một cảm giác êm dịu hay thân hữu.

3) Khi em nhận ra những bậc Trưởng thượng trên đường Đạo, họ có thể khêu gợi nơi em một sự đáp ứng mạnh mẽ.

Em đă bắt đầu tiếp xúc với những vấn đề huyền môn tế nhị hơn trong công việc của chúng ta, và về việc này, em phải chuẩn bị sẵn sàng. Những bài vở, giấy tờ mà em soạn để trả lời những câu hỏi đă giải thích công việc làm của em đối với những kẻ thấp kém hơn trên Đường Đạo. Nhưng c̣n đối với những kẻ ngang hàng và những vị trên trước th́ sao? Hăy đọc lại những câu hỏi và câu trả lời để xem sự phản ứng của em như thế nào.

Vị Đạo Đồ cấp 5 của thời kỳ ATLANTIDE phải tỏ ra biết sử dụng xúc cảm đúng phép. Trong thời kỳ ARYAN, vị Đạo Đồ cấp 2 cũng phải chứng tỏ như vậy. C̣n em, hỡi đệ tử, em có thể nói là em đă sẵn sàng để chứng minh điều đó chăng?

Em được tham dự vào công việc tập thể này là do kết quả của sự hăng say tầm đạo, của những liên hệ nghiệp quả từ trước, của sự t́m ṭi học hỏi, nó khêu gợi sự đáp ứng của Chân Ngă và bởi đó em đă thụ hưởng được cái quyền của một phụng sự viên hữu thệ đă từng kiên tâm phụng sự một ḿnh trong nhiều năm. Em đă đóng góp vài sự hoạt động tập thể này ít nhiều sở trường đặc biệt và vài sở đoản cũng độc đáo không kém, cũng như tất cả những bạn đồng môn khác trong nhóm. Nhiệm vụ của tôi là sử dụng những những sở trường trong nhóm và chúc em loại trừ các sở đoản. Bởi vậy, tôi muốn em hăy suy gẫm về vấn đề này, với tư cách là một Chân Ngă đi trên con đường gay go và bén nhọn như lưỡi dao cạo giữa những cặp mâu thuẫn đối tượng, tức là những sở trường và sở đoản của em, và nh́n chung với một thái độ hoàn toàn khách quan vô tư.

Tháng 7/1937

Em thân mến,

Trong trường hợp của em, thể trí bị cai quản bởi năng lực của cung 5. Đó là một t́nh trạng rơ rệt và gây nhiều sự khó khăn trong đời em. Trong trường hợp của tất cả những Đạo sinh có thể trí ở vào t́nh trạng đó, đó là cái nguyên lư của thái độ “phản từ điển” của họ. Hiểu theo ư nghĩa tâm lư của danh từ này. Hăy nhớ rằng thái độ “phản từ điển” ở vào giai đoạn tiến hóa của em có nghĩa là em không thể phát huy sự sống chân ngă của em cho kẻ khác như ư em muốn. Bởi v́ dưới ảnh hưởng của Cung 5 (là cung của Khoa Học Thực Nghiệm, cụ thể như em đă biết). Thể t́nh cảm của em bị cô lập và có khuynh hướng phân biệt kỳ thị, nó đưa đến sự chia rẽ, cách biệt. Hậu quả ngược lại cũng vẫn đúng. Sự phóng xạ từ điển của kẻ khác cũng có thể bị ngăn chặn và do đó mà em không thể tiếp nhận được những ấn tượng thần giao cách cảm. Tuy nhiên, một thể trí thuộc Cung 5 cũng có một giá trị rất lớn, v́ nó là một thể trí sắc bén, hữu ích và là một cánh cửa mở ngỏ để đón nhận nguồn cảm hứng siêu linh (suy gẫm về điều này).

Thể t́nh cảm của em chịu ảnh hưởng của Cung 6, tức cung sùng tín hay lư tưởng, nhưng điều này có thể được chuyển Cung và thay đổi dễ dàng dưới ảnh hưởng của Cung 2 Minh Triết Bác Ái. Nhiệm vụ của em trong kiếp này là thực hiện điều đó để qua kiếp sau, em có một thể t́nh cảm thuộc Cung 2. Khả năng tiến tới bất chấp mọi chướng ngại để thực hiện lư tưởng là sở trường của em và cứu cánh sẽ đưa em đến mục đích. Trong lúc này sự khó khăn lớn nhất của em là Thể Trí thuộc Cung 5. Phải vậy chăng.

Em có một thể xác thuộc Cung 3 (tức la Cung hoạt động thích nghi) phần lớn bị kiềm chế từ bên trong Thể Trí thuộc Cung 5. Một lần nữa, em lại thấy ảnh hưởng của Cung này trong cơ cấu bản chất của em dưới đây:

Chân ngă thuộc Cung 3            : Hoạt động thích nghi

Phàm ngă thuộc Cung 6           : Sùng tín

Thể Trí thuộc Cung 5               : Khoa học thực nghiệm

Thể t́nh cảm thuộc Cung 6                 : Sùng tín

Thể Xác thuộc Cung 3              : Hoạt động thích nghi        

Sự phân tích này có thể soi sáng cho vấn đề của em và em sẽ nhận thấy sự nổi bật của Cung 3 và cung 6.

 

Tháng Giêng, 1938

Trước đây tôi có chỉ em biết quan điểm của tôi khi nhận xét khả năng và bước tiến của toàn nhóm, và trên khía cạnh đó, tôi lấy làm hài ḷng về sự tiến bộ của em. Trong vài năm qua, tôi đă nhiều khi nói với em một cách quang minh và cứng cỏi. Tôi đă cố gắng trui rèn cho em có một phản ứng lớn lao hơn đối với sự thúc đẩy của Chân Ngă và loại trừ hai yếu tố ngăn chận sự giao tiếp tự do giữa Chân Ngă và Phàm Ngă. Tôi vẫn luôn luôn gợi ư chứ không bao giờ ra lệnh v́ mục đích của tôi luôn luôn là khêu gợi sự hoạt động của Chân Ngă và do đó mới thật là một sự vâng lời chân chính. Những yếu tố đó là ǵ?

1) Sự hoạt động của em tuy có thể được quân b́nh, nhờ bởi công việc làm tập thể trong nhóm, nhưng có một ảnh hưởng, khép chặt và không khích động được những quyền năng tối thượng của Chân Ngă. Em đă cố gắng cứu văn t́nh trạng này và nâng nhịp điệu chung lên cao hơn, nhưng một đệ tử cô đơn rất khó mà đảo ngược sự rung động của cả một nhóm đă có sự kết hợp mạnh mẽ về phương diện cảm xúc. Em biết tôi muốn nói ǵ chăng?

2) Em có khuynh hướng hay bị thối chí ngă ḷng. Điều này em đă thắng được bằng cách giữ ḷng thanh tịnh và bằng một thái độ kiên tâm phụng sự. Tuy nhiên nó làm cho cuộc đời em thêm phức tạp và đồng thời nó cũng là một yếu tố giáo dục tâm linh quan trọng.

Kinh nghiệm sống của em đă đem lại cho em những kết quả tốt đẹp. Em sẽ bước vào chu kỳ tới đây với rất nhiều bào học quư giá khác nữa v́ em đă có cơ hội thanh toán nhiều mối duyên nghiệp trần gian trong kiếp sống hiện tại. Vậy kiếp nào đem lại cho em những lợi ích nào?

Trước hết là sự chuyển hướng trọng tâm cuộc đời từ viêc làm hữu vi ngoại tại đến nhận thức những Chân Lư Vô Vi Nội Tại. Để thực hiện điều đó, em đă đầu thai kiếp này vào trong những môi trường thu hẹp và có giới hạn để tránh cho em khỏi bị ảnh hưởng quyến rũ của sự vật ngoại cảnh, nhờ đó em có thể tập trung tinh thần vào những Chân Lư ẩn vi nội tàng. Em đă thu thập được nhiều lợi ích nhờ những kinh nghiệm này, và chuyển hướng cuộc đời em đă được củng cố vững vàng trên một nền tảng đúng đắn. Em chỉ c̣n phải làm một điều chỉnh quan trọng và một hy sinh lớn lao. Như em đă biết, vấn đề của em là thực hiện sự điều chỉnh đó.

Điều thứ hai, em đă chuyển thể t́nh cảm của em lên những sinh hoạt thanh cao hơn, và đă thành công đến mức làm cho sự xúc cảm bén nhạy của em đối với kẻ khác nay đă trở thành một lợi khí hữu hiệu trong công việc phụng sự. Tôi muốn em hăy phát sinh sự nhạy cảm này đến một mức độ hữu ích lớn lao hơn nữa bằng cách thức động bí huyệt tim và tăng gia sự chú ư đến những con đường mở tâm. V́ mục đích đó, em hăy suy gẫm sâu xa về lời huấn thị cá nhân này và hăy áp dụng chặt chẽ cho đến khi có lệnh mới.

Điều thứ ba, trong kiếp này em đă rời khỏi giai đoạn dự bị để bước vào con đường đệ tử chính thức và đă tiến bộ khả quan trên con đường này. Sự khẩn trương của thời đại và sự cố gắng công phu của em đă đưa em tiến xa trên con Đường Đạo và tôi nghĩ rằng em đă nhận thức được điều này mà đôi khi chính em cũng phải ngạc nhiên.

Sự nh́n nhận các sự kiện (những sự kiện tâm linh và chủ thể) là một phần trong công phu luyện tập cần thiết của tất cả những đệ tử. Sự nh́n nhận một điều kiện trên cơi vật chất cơi vật chất hồng trần không cần đến sự nhạy cảm đ̣i hỏi một công phu tập luyện như thế.

Năm vừa qua không được dễ dàng tốt đẹp đối với em. Em đă đau khổ nhiều trong câm lặng mà không ai biết ngoài tôi ra. Tôi đă đứng kề bên em và theo dơi tâm trạng em. Tôi đă ủng hộ tinh thần em khi có dịp thuận tiện và có 2 lần tôi đă đem tới cho em sự trợ giúp đáng kể. Em có nhận ra những dịp đó không? Các đệ tử như em nên tập luyện để ghi nhận những sự trợ giúp tâm linh thuộc loại đó. Bởi vậy tôi muốn vạch rơ cho em thấy những ǵ tôi định làm. Năm tới tôi muốn em hăy tập luyện phương pháp làm quen với sự rung động của tôi. Sự tập luyện đó đă làm tăng gia sức nhạy cảm của em. Đó là một sự lợi ích đáng kể và có lợi ích thật sự.

Tháng 1/1939

Trong những tháng vừa qua em đă bận rộn tâm trí với rất nhiều câu hỏi và bị khá nhiều xáo trộn tinh thần. Đồng thời em cũng đă giữ vững lập trường trên con đường mà em đă chọn lựa, và vẫn hợp tác trung kiên với các bạn đồng môn trong nhóm. Tuy nhiên em vẫn bị ảnh hưởng của một h́nh tư tưởng cũ và quên rằng một trong những nhiệm vụ của người đệ tử là tự giải thoát khỏi những h́nh tư tưởng đó. H́nh tư tưởng đó làm cho em mong chờ, đ̣i hỏi những kết quả huyền diệu. Nó thúc đẩy em đ̣i hỏi rằng những năm phụng sự trung thành cùng sự tinh tiến phàm ngă của em phải được tưởng thưởng bằng một sự nh́n nhận và tiếp xúc với một Đấng Cao Cả trong H.Đ.T.T. Em mong ước điều này không phải là để có cảm giác tự măn hay vuốt ve ḷng tự ái, mà là muốn được sự ân thưởng xứng đáng cho những năm khổ công tu luyện và chí thành học Đạo.

Tuy nhiên, hỡi người đệ tử, em đă có được tất cả những ǵ em đ̣i hỏi, nếu em có thể ra đó thôi. Em biết tôi là ai? Và bởi đó, sự nh́n nhận mà em mong ước đă được ban cho em, và em cũng đă được biết rơ những ǵ mà em đang được chuẩn bị để thực hiện, bởi Chân Ngă của em, bởi tôi và xuyên qua công tác tập thể đă chọn lựa. Tuy vậy, với tất cả những điều đó, em vẫn không vui và không t́m thấy sự an tịnh. Nếu em không nhận thấy sự thật trong lời nói của tôi, em hăy suy gẫm lại ít lâu và sự giác ngộ sẽ đến với em.

Công tác tập thể không phải là dễ làm đối với em. Đối với từng người Anh thật khó mà dứt bỏ những thành kiến quốc gia, cũng như đối với tất cả những quốc gia tân tiến. Tuy nhiên, trong công việc này, và ở vào giai đoạn ư thức tâm linh của em, sự hợp nhất phải thắng đoạt óc phân ly cách biệt. Em phải cố gắng đạt tới điều đó, v́ đặc điểm then chốt của em là sự tin chắc rằng tất cả mọi người đều là anh em. Đó là một điều dễ nói nhất và dễ nhớ nhất trên lư thuyết, nhưng khó biểu lộ nhất trong đời sống sống động của ḿnh.

Tôi đă mất nhiều th́ giờ để xem xét những cung cai quản những khía cạnh và khí thế khác nhau của mỗi đệ tử trong nhóm và tôi tin rằng sự phân tích tỉ mỉ những điều tôi nói đă giúp cho mỗi người tự biết ḿnh và hiểu biết những vấn đề khó khăn của chính ḿnh chính xác hơn và đầy đủ hơn.

Ghi chú: Vị đệ tử này không c̣n làm việc với Chân Sư Tây Tạng nữ, Chân Sư có những nhận xét như sau:

“Y đă đạt tới những cao điểm tâm linh trong kiếp hiện tại. Những huấn thị cá nhân mà y đă nhận được đă quá đủ cho y suy gẫm và noi theo, không cần ban thêm những huấn thị mới”

Gửi L.Đ.O

Tháng 11/1937

Em thân mến,

Sự thành tựu của nhiều người trong nhóm đệ tử như nhóm này là do nhiều nguyên nhân. Trước hết là do sự liên hệ nghiệp quả giữa những người cùng đồng nguyện vọng và khả năng tâm linh, khiến cho họ có thể làm việc chung vơ1i nhau dễ dàng trên cương vị một nhóm hay một đơn vị hợp nhất. Trong những trường hợp này, nhóm cần có một sự phát triển đặc biệt để cho mọi sinh hoạt tập thể được phong phú và sâu sắc. Trong những trường hợp khác, có một sự tương quan liên hệ nhất định với tôi, bắt nguồn từ những kinh nghiệm trong quá khứ, tuy rằng những kinh nghiệm này c̣n ẩn trong tiềm thức. Ngoài ra c̣n có việc tạo nên một cơ hội mới để huấn luyện cho những người đi trên con đường của người đệ tử. Tất cả những yếu tố này đều có ảnh hưởng quyết định, khiến cho tôi yêu cầu em, một đệ tử, hăy hợp tác với tôi và với nhóm đệ tử của tôi.

Những nguyên nhân quyết định là do ư muốn và thông cảm sâu xa, em có thể đóng góp một phần đáng kể cho nhóm này và kế đó là một mối liên hệ nghiệp quả rất xa xưa giữa em với tôi. Nguyên nhân sau cùng này, lẽ tất nhiên là tôi biết rơ hơn em.

Hiện giờ công việc của em là hợp tác với một nhóm đệ tử chuyên lo về việc giải tán, tiêu trừ ảo giác của thế gian. Tôi đă quyết định đưa em vào làm việc trong nhóm đó, bởi v́ em đă tương đối giải thoát khỏi ảo giác (tôi không nói là giải thoát khỏi những lỗi lầm hay khía cạnh lư trí của ảo giác mà ta gọi là ảo ảnh). Sự giải thoát này rất hữu ích cho công việc của nhóm. Em có thể suy tư một cách sáng suốt và thường biết rơ tại sao em hành động mà không suy tính trước, hay không đạt tới một lư do chính đáng và đầy đủ.

Em là một phụng sự viên có khả năng làm việc trên nhiều lănh vực sáng tạo. Em vừa là một họa sĩ, vừa là văn sĩ. Đó có nghĩa là linh hồn em có thể biểu lộ một cách hữu ích xuyên qua hai đường lối. Bởi vậy em có hai ưu điểm rơ ràng khả dĩ góp phần vào công việc phụng sự thế gian, các tác dụng như những vận hà, làm khí cụ trung gian để chuyển di ánh sáng, chiếu rọi vào những nơi tối tăm u ám. Tôi muốn nói rơ rằng những phụng sự viên sáng tạo trên mọi lănh vực, đều là những người có thể diệt trừ các loại ảo giác mà nhân loại thường bị lệ thuộc. Những ảo giác này vốn tiềm ẩn trong những lănh vực hoạt động hư ảo mà con người tạo ra. Em đáng thay chân một đệ tử vốn là một phụng sự viên sáng tạo đă bị vấp ngă (một cách thành thật và thiện chí) trước ảo giác của một “linh hồn tự do và khoáng đạt”. Đó là một ư niệm mâu thuẫn, nhưng nó chỉ cho thấy người ta quên mất sự kiện rằng khuynh hướng sống cách biệt, cô lập và không dính líu ǵ với ai, chính là một khía cạnh ảo giác của thế gian. Người đệ tử ấy v́ thế mà không thể hợp tác với mọi người. Y đặt giá trị của sự tự do cá nhân cao hơn mọi hoạt động tập thể và trong hai năm y đă làm cho nhóm phụng sự nay không đạt tới kết quả dự định. Bởi vậy em có chịu cố gắng hợp nhất với toàn nhóm chăng để cho công việc được thành tựu mau chóng như đă định.

Để giúp em thực hiện điều này, tôi sẽ không giao cho em làm nhiều việc có tính cách cá nhân. Tuy nhiên, tôi sẽ chỉ cho em thấy ba Cung cai quản ba loại năng lực gồm trong thành phần bản chất của em. Như em đă biết, Chân Ngă thuộc Cung 2 và Phàm Ngă thuộc về Cung 4. Sự nghiên cứu tất cả 5 cung này và những Cung của các bạn đồng môn sẽ chỉ cho em thấy đâu là những điểm tương quan, đâu là những chỗ tương sinh, tương khắc và làm cách nào để t́m thấy sự thông cảm mau chóng và hợp tác dễ dàng với các bạn Đạo.

Thể Trí của em thuộc Cung 4, là cung điều ḥa trong xung khắc (Dịch lư nói có khắc mới có Sinh, LDC) nó làm cho em có sự uyển chuyển ư thức tương quan và mau hiểu sự thật. Em luôn luôn dễ bị mắc kẹt trong ảo ảnh hơn là ảo giác. Cung điều ḥa trong xung khắc này là cái cầu giao thông, nó sẽ giúp cho em thực hiện ngày càng mau chóng hơn, sự giao tiếp giữa linh hồn với phàm ngă.

Thể t́nh cảm của em thuộc Cung 2, nó đem đến cho em những khó khăn và cơ hội tốt lành, cứu cánh sẽ giúp em phát triển tâm thức và có sự nhạy cảm đối với tâm linh của kẻ khác, điều này vốn là căn bản của phần nhiều những công tŕnh mỹ măn nhất của em.

Thể xác của em thuộc Cung 7, nó làm cho em có một ư thức tương quan giữa tinh thần và vật chất, giữa linh hồn và thể xác, và nếu em muốn nó sẽ giúp cho em trở thành một khí cụ hữu hiệu trong mọi công tác huyền thuật (magic). Bởi vậy bản chất em như sau:

Chân ngă thuộc Cung 2            : Minh Triết, Bác ái

Phàm ngă thuộc Cung 4           : Điều ḥa trong xung khắc

Thể Trí thuộc Cung 4               : Điều ḥa trong xung khắc

Thể t́nh cảm thuộc Cung 2                 : Minh Triết, Bác ái

Thể Xác thuộc Cung 7              : Nghi thức tế lễ hay huyền thuật

Em thấy rơ rằng trong bản chất của em, năng lực trội nhất là Cung 2 với năng lực biểu lộ phụ thuộc của nó là Cung 4. Đó là một ưu điểm rơ rệt và một cơ hội tốt lành, nhưng nó có thể đưa đến một vài khuyết điểm. Sự khuyết điểm này phải được hóa giải bằng việc tăng cường tất cả những khuynh hướng thuộc Cung I để có thể đem lại sự quân b́nh cần thiết. Đừng để cho ảo giác của thế gian thắng đoạt được em và hăy coi chừng đừng bị lôi cuốn vào cơn trốt sợ hăi và bi quan, nó bao trùm nhiều người trong thời buổi hiện tại.

Như tôi đă nói trước đây, em được tương đối thoát khỏi ảo giác nhưng các lực lượng ảo giác ngày nay mạnh mẽ đến nổi tất cả các đệ tử nhất định phải có biện pháp tự vệ. Đối với em sự tự vệ đó là dưới h́nh thức một công việc có tính cách sáng tạo. Điều này trở nên dễ dàng hơn đối với em, do bởi sự kiện Phàm ngă và thể trí của em cùng thuộc 1 cung giống nhau và cũng bởi v́ chân ngă của em tập trung nơi thể dĩ thái nên nó có thể huy động thể xác làm mọi hoạt động sáng tạo cần thiết tùy ư muốn.

Một trong những điều mà tất cả các đệ tử phải tập thực hành là sử dụng những năng lực và sức mạnh mà họ sở hữu do bẩm sinh thiên phú. Tuy nhiên, năng lực và sức mạnh đó ít khi được dùng đến một cách ư thức bởi một người trung b́nh, dù nam hay nữ. Họ thường là nạn nhân chứ không phải là người biết dùng những quyền năng đó. Ít người biết rằng những năng lực mà họ có thể sử dụng tùy ư muốn, vốn thật là vô cùng huyền diệu.

Ghi chú: Người đệ tử này vẫn c̣n hợp tác tích cực với Chân Sư Tây Tạng.

 

Gửi J.A.C

Tháng 12, 1937

Em thân mến,

Tiếp xúc với những linh hồn thuộc Cung I chẳng hạn như em, hay những linh hồn hoạt động xuyên qua những phàm ngă thuộc Cung I, tôi luôn gặp phải sự khó khăn trước nhất là tính chất độc lập cô đơn của họ. Đối với loại người đó, thật không dễ ǵ hợp tác ḥa ḿnh với sự gợi ư tập thể, nhịp điệu tập thể hay kỷ luật tập thể hay với sự hoạt động hợp nhất đồng loạt, vốn là mục đích chung của tất cả các nhóm đệ tử. Thái độ bên trong của họ thường ḥa hợp với mục đích và lư tưởng chung, nhưng c̣n sắc thái bên ngoài, tức con người thể chất của họ vẫn không thể dung ḥa và không muốn dung ḥa. Nếu em không có một phàm ngă thuộc Cung 2, em sẽ thấy khó làm việc trong Đạo Viện của tôi. Nhưng tính chất Cung 2 của em, một đặc tính rất trội và sản phẩm của một loạt nhiều kiếp đầu thai trong thể xác thuộc Cung 2, có thể làm cho em trở thành một trong những điểm tập trung cho công việc mà tôi dự định dành cho nhóm đệ tử này.

Phải mất đến nhiều năm để đem lại sự ḥa hợp giữa những đệ tử trong nhóm với nhau để có thể thực hiện những công tác hữu hiệu, tạo nên sự tổng hợp bên trong và đồng nhất cố gắng. Chừng đó, tôi sẽ đưa ra cho những đệ tử làm một vài việc nhất định, nó sẽ có thể ảnh hưởng đến những lực lượng lănh đạo thế giới một cách tế nhị và không ai có thể nhận ra được. Những công việc ấy chúng ta sẽ bàn rộng thêm về sau này, khi đă thực hiện được sự tổng hợp và thông cảm cần thiết. Em đừng vội t́m hiểu tôi muốn nói đó là công việc ǵ. Có nhiều điều cần phải làm, học hỏi và giải thích trước khi công việc ấy có thể đem lại kết quả. Có nhiều nhóm đệ tử làm việc dưới sự điều khiển của các Chân Sư, em đă từng chịu huấn luyện trong nhiều năm để chuẩn bị sẵn sàng thi hành nhiệm vụ. Những quan niệm mới và kỹ thuật mới về văn minh nhân loại và công tác tập thể phù hợp với KỶ NGUYÊN MỚI đang lần lần xuất hiện trong tâm thức của nhiều đệ tử trên thế gian.

Hỡi đệ tử, em đang bước vào một giai đoạn trong cuộc đời của người tu sĩ chân chánh, tức là người đă nhẹ gánh nợ trần để có thể sử dụng những kinh nghiệm kiến thức và minh triết đă thâu thập được trải qua bao nhiêu kiếp công phu tu luyện, vào việc tích cực phụng sự Thiên cơ và phụng sự Nhân loại. Bây giờ em đă có thể sống cho kẻ khác và t́m thấy trong công việc của chúng ta cái phần thương, sự thích thú và bù trừ xứng đáng cho tất cả những sự tranh đấu tâm linh vất vả, nhọc nhằn trong quá khứ. Mục đích cuộc đời em từ lâu nay vẫn là phụng sự, bởi v́ em đă thương yêu đồng loại và chiến đấu để giữ ǵn t́nh thương nhân loại trước bao nhiêu nỗi thất vọng chán chường v́ sự ích kỷ thông thường của thế gian. Em có khuynh hướng hay cảm thấy mọi sự đều vô nghĩa và mọi cố gắng chỉ là vô ích khi phải đương đầu với cơn hỗn loạn của thế giới hiện nay và trước sự bi quan thống khổ của nhân loại. Em c̣n phải cố gắng sửa chữa t́nh trạng này.

Một trong những chướng ngại che ám cuộc đời em và làm cho em không thể phụng sự thế gian một cách trọn vẹn đầy đủ hơn là sự tự tiếp xúc mặc cảm quá nặng. Khuynh hướng này tuy không làm hỏng những công tŕnh hoạt động của em, nhưng cũng đă ngăn chận bước tiến của linh hồn và làm mất niềm vui sống, là cái ấn chứng tốt lành cho người đệ tử. Em có sự nhạy cảm tốt và hiểu biết các vấn đề nhân gian thế sự một cách thâm sâu hơn một người trung b́nh, nhưng cái nhăn quang và kiến thức thâm sâu ấy lại làm cho em có khuynh hướng cảm thấy tính cách nhỏ bé và vô nghĩa của chính bản thân ḿnh.

Điều này lại đi đôi với ư thức cho rằng mọi sự đều vô nghĩa, như tôi đă nói ở trên, tôi phải đương đầu với hoàn cảnh trái nghịch ở xung quanh. Chính trên địa hạt này mà phải chiến đấu với phàm ngă. Bởi vậy tôi khuyên em hăy cố gắng thực hiện một sự giao tiếp chặt chẽ hơn với Chân Ngă để loại trừ mặc cảm tự tiếp xúc và hăy vun trồng một thái độ chung sống, yêu đời để có thể hiến dâng đầy đủ trọn vẹn hơn cho công việc phụng sự. Em khởi sự công phu trên hai điểm gợi ư này chăng và nọi theo lời khuyên của tôi trong nhiều năm để vừa trợ giúp cho công việc của nhóm, lại vừa tự giúp ḿnh.

Để giúp em trong vấn đề này, tôi chỉ cho em một phép công phu rất giản dị … Tôi đang chuẩn bị cho em sẵn sàng nhận lănh công tác trong tương lai.

Ghi chú: Người đệ tử này không thật sự đáp ứng lời kêu gọi hợp tác trong nhóm của Chân Sư. Tuy y tỏ ra thích thú nghiên cứu những bản huấn thị cá nhân, nhưng công tác thực hiện của y không có ǵ, ngoài việc học hỏi về lư thuyết.

 

Gửi F.C.D

Tháng 1/1933

Đối với em là một đệ tử thuộc Cung 2, th́ làm việc trong sự cô đơn là một điều rất cần thiết trong giai đoạn này đương nhiên là em c̣n có những nhược điểm của người thuộc Cung 2 c̣n quá thiết tha, dính líu với người chung quanh. Điều này có thể sửa chữa nếu em giữ vững tư thế như một linh hồn chứ không lấy tư thế phàm ngă trong việc xử sự với mọi người trong ṿng gia đ́nh hay trong công việc phụng sự ở thế gian. Em phải nhớ rằng cách xử sự đó là tương quan, liên hệ giữa những linh hồn, chứ không phải giữa những sắc thái hữu h́nh, hữu hoại. Bởi vậy em phải sống tách rời khỏi những phàm ngă của thiên hạ, vẫn phụng sự, giúp đỡ họ nhưng phải luôn luôn sống với tâm thức chân ngă. Sự thi hành bổn phận một cách trọn vẹn và dứt bỏ mọi trói buộc của phàm ngă sẽ giúp em được tự do để phụng sự một cách toàn vẹn hơn.

Em hăy dứt bỏ sự chú trọng quá đáng đến cuộc đời của những người thân yêu, có dính líu với em do các mối liên hệ nghiệp quả, hoặc những người mà em tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Em hăy đi con đường của ḿnh một cách dũng cảm và thầm lặng, và làm việc do sự thúc đẩy nhu cầu của linh hồn. Đừng để cho những tiếng gọi thấp thỏi hơn của những người thân yêu làm cho em tách rời khỏi con đường phụng sự. Bây giờ em đă thuộc về Thế gian chứ không thuộc quyền sở hữu của một vài người thân. Đó không phải là một bài học dễ dàng, nhưng tất cả các đệ tử có ngay phải học bài ấy và đó là một bài học đích đáng của em trong lúc này.

Tiếng gọi thiêng liêng đă được đưa ra cho những người phụng sự và tất cả những đệ tử đă cam kết hiến dâng phải là những người đầu tiên đáp ứng lời kêu gọi ấy. Điều này đ̣i hỏi một sự hy sinh. Nhưng chúng tôi tin tưởng em là người có thể làm được việc đó.

Tháng 1-1935

Em thân mến,

Trong một huấn thị trước đây, tôi có tiên liệu rằng công việc phụng sự của em đă phát triển lần lần, và nay em đă thấy rơ là điều ấy đă được thực hiện. Trong năm qua em đă có nhiều cuộc tiếp xúc và đă tăng gia ảnh hưởng của em một cách rộng lớn hơn trong xứ và khắp thế giới. Những điều em đă quyết định và kỷ luật mà em tự nguyện noi theo sẽ định đoạt tầm mức và quy mô của công việc mà em có thể làm trong tương lai. Mọi sự đều do nơi sự quyết đoán và khả năng điều chỉnh khôn khéo của em.

Hăy kiên tâm thực hành công phu thiền định mà em đang theo dơi. Hăy thiền định liên tục về ư chí, một ư chí phụng sự tích cực và đầy t́nh thương. Chính việc sử dụng ư chí là điều quan trọng đối với đệ tử v́ một ư chí được điều khiển đúng phép là một yếu tố kiềm chế năng lực, và người đệ tử là người hoạt động trong cơi giới năng lực. Công việc phụng sự của em là việc của người chỉ dẫn và gây niềm cảm hứng . người đệ tử thuần thục ở Cung 2 thường không phải là người lănh đạo tốt, trừ phi y có một cung phụ thuộc biểu lộ bản chất đó.

Công việc lănh đạo và tổ chức không phải là của em. Em phải tập làm việc cùng với kẻ khác, gây cho họ có ư thức trách nhiệm và thúc đẩy họ hoạt động. Do quyền năng phóng quang từ lực từ bên trong, em phải khích lệ và nâng cao tinh thần những người công tác.

Nhiệm vụ cấp thời của em là t́m ra những người phụng sự đúng đắn và giúp đỡ nguồn cảm hứng cho họ. Tôi sẽ không giúp đỡ em được bao nhiêu mà chỉ giới hạn em trong việc làm của tôi, nếu tôi nói với em rằng: người nọ hay người kia cần được tiếp xúc hoặc là: đây là người mà tôi tiên liệu rằng sẽ cộng tác đắc lực trong công việc xây dựng của KỶ NGUYÊN MỚI mà các Đấng Cao Cả hiện nay đang trù liệu kế hoạch. Em phải tập luyện đức phân biệt, thông cảm và chọn lựa đúng đắn qua sự thực hiện, thành công và thất bại. Tất cả mọi người đều là những linh hồn. Thật vậy, nhưng tất cả mọi người chưa phải đă sẵn sàng phụng sự một cách vị tha, vô kỷ. Đối với em, sự phán xét đúng đắn là một đức tính thuần khiết để chọn người. Trong sự chọn lọc này em không nên t́m những người nhu nhược hiền lành, mềm mỏng và dễ thương, bởi v́ những người rất tốt lành lại thường là người thiếu thông minh và lười biếng. Em hăy chọn những linh hồn dũng cảm, vừa ứng đáp với nhu cầu của nhân loại do bởi động lực của t́nh thương, lại vừa dũng mănh tinh tiến, dám hành động cương quyết táo bạo và không lăng phí thời giờ với những mộng mơ, không tư tưởng hảo huyền như một tu sĩ thần bí cảm nhận một lư tưởng, nhưng không biết sử dụng ư chí để dung ḥa các ư niệm tốt đẹp viễn vông với nhu cầu thực tế, khẩn cấp trong hiện tại. Em hăy chọn những người không giống em về tính chất của Cung 2, nhưng đặt trọn niềm tin vào t́nh thương nơi họ v́ họ nhận biết sự minh triết cùng sự liên hệ bên trong của em với H.Đ.T.T và nương tựa vào kinh nghiệm cùng sức mạnh tinh thần của em. Nói tóm lại, em hăy chọn những linh hồn cương nghị, dũng mạnh để tập làm việc chung với họ. Hăy t́m những linh hồn có thể cộng tác với Thiên cơ.

Tôi đă nói với em rất tỉ mỉ về vấn đề này v́ công việc hợp tác, xây dựng của em có thể bắt đầu ngay từ bây giờ. Nói cách tượng trưng: Hăy t́m những kẻ đă mở cả tâm lẫn trí, những người mà trên trán họ chói ḷa cái biểu tượng ngôi sao thần bí của nhà xây dựng.

Tôi ước mong sao em có thể hợp tác một cách toàn vẹn hơn trong công việc của H.Đ.T.T và bắt đầu một mối liên hệ tương quan mật thiết với những nhà kiến tạo KỶ NGUYÊN MỚI trong tương lai.

Tháng 12,1935

Em thân mến,

Trước đây, tôi có cho em biết rằng tính chất quá nhạy cảm của em gây nhiều khó khăn cho em trong những hoạt động TGCC và trên phương sức khỏe. Tôi biết rơ tất cả những nỗi khổ đau của em gần đây. Cuộc đời em trong 6 tháng qua thật là khó khăn cực nhọc v́ em đồng hóa rất dễ dàng với tất cả những ǵ xảy ra xung quanh.

Con đường của các Đấng Cứu Thế luôn luôn là con đường khó khăn, chướng ngại, đầy rẫy những đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần. Đó là con đường mà em đă chọn. Vậy em nên nhớ rơ điều đó để có thể bền gan chịu đựng. Em nên biết rằng trong đời người đệ tử có những kiếp sống nhằm vào việc chuẩn bị hành trang (thể chất lẫn tinh thần) làm mục đích chính. Kế đó, đến những kiếp khác, những hành trang đă được chuẩn bị sẵn mới đem ra sử dụng. Đối với em, kiếp sống hiện tại có mục đích phát triển cơ năng ứng đáp về giao cảm bén nhạy. Em đang phát triển mau chóng quyền năng ư thức và thông cảm với nỗi đau khổ của thế gian. Nhưng đó chỉ là một giai đoạn. Chỉ có những linh hồn dũng mănh mới biết được những nguồn gốc của sự khổ đau vốn tiềm ẩn sâu xa trong cơi thế gian. Nhưng đó chỉ là một giai đoạn. Chỉ có những linh hồn dũng mănh mới biết được những nguồn gốc của sự khổ đau vốn tiềm ẩn sâu xa trong cơi thế gian tương đối vô thường.

Đối với em tạm thời trong lúc này, hăy nên có một sự tách rời tự nhiên không gượng ép và cố gắng đừng để ư đến những sự vật ngoại cảnh có thể làm cho em động ḷng ưu ái và trắc ẩn. Hăy tập sự buông thả vô tư thiêng liêng này trong 6 tháng tới đây. Hăy lo đáp ứng những nhu cầu cấp bách của nhân loại, thực hiện những ǵ tôi đă gợi ư về công tác phụng sự tập thể, suy gẫm sâu xa về kế hoạch của Thiên cơ, và công việc của nhóm người mới phụng sự thế gian. Hăy kiên tâm tiến triển trên đường Đạo.

Ghi chú: Dưới những điều kiện rất khó khăn, người đệ tử này vẫn kiên tâm phụng sự dưới sự chỉ đạo của Chân Sư K.H. và hợp tác trong nhóm của Chân Sư Tây Tạng.

Gởi J.W.P.

Tháng 11, 1935

Em thân mến,

Em đang bước vào thời kỳ hoạt động ráo riết nhất trong đời em, và đến năm 40 tuổi công việc của em có đường hướng nhất định và rơ rệt đến mức làm cho em nh́n thấy Thiên Cơ một cách rơ ràng hơn nhiều.

Công việc của em trong những năm tới đây sẽ là hợp tác với Nhóm Người Mới Phụng sự thế gian, và tổ chức tài chánh để sử dụng trong công tác của họ. Công việc như đang thành tựu ở cơi trần hiện nay, trước hết phải nhắm vào mục đích nâng cao tâm linh của những kẻ trí thức trên thế giới, và sau đó là sự nâng cao tinh thần của quần chúng xuyên qua giới trí thức nói trên.

Công việc của em phần lớn sẽ là tuyển chọn và huấn luyện những người có triển vọng hợp tác. Những kẻ phụng sự sẽ lần lần được thu hút đến Anh Quốc và Âu Châu. Giáo lư xuất phát từ Châu Mỹ. Nhưng Âu Châu là cứ địa để giáo dục thế gian những ư niệm về sự thống nhất thế giới thật sự và để tŕnh bày Thiên Cơ một cách khôn khéo. Từ lục địa, nguồn cảm hứng có thể lan tràn sang Đông Phương và Mỹ Châu ở phương Tây.

Em hăy xúc tiến công việc này một cách can đảm và không hấp tấp. Hăy dung ḥa những phương pháp khôn khéo của những tổ chức hiện nay với triển vọng của những loại công tác mới. Đó là một công việc tâm linh mà em đang đảm nhận, nó có tính cách giáo dục với mục đích phổ biến những nguyên tắc cai quản sự sinh hoạt và thái độ của người thế gian trong Kỷ Nguyên Mới sắp đến.

Trong việc tŕnh bày công tác của Nhóm Người Phụng sự Thế gian, vài kế hoạch tiếp cận và rơ rệt có thể được nêu ra, chẳng hạn như việc giáo dục dư luận quần chúng những nguyên tắc bất phân ly. Nhưng muốn làm được điều đó, cần phải thiền định thâm sâu và có những tư tưởng rơ ràng.

Những phương pháp áp dụng để khêu gợi sự thích thú và sự ủng hộ cần thiết của quần chúng, sẽ do các đệ tử và phụng sự viên Âu Tây quyết định lấy chứ không phải tôi, là người Phương Đông. Tôi chỉ có thể khích động linh hồn em cho em cósự thụ cảm sáng suốt, khôn ngoan, thông cảm chân thật và thiết kế đúng đắn. Kỳ dư công việc và sự thực kế hoạch là do tự tay em và những người hưởng ứng với những ư niệm đưa ra. Về sự phát triển tâm linh và tu luyện cá nhân của em tôi chỉ có thể khuyên em hăy thực hành công phu thiền định mà tôi đă chỉ dạy trong một buổi huấn thị trước đây.

 

Tháng 1-1936

Em thân mến,

Mỗi cơ cấu toàn hảo phải hàm súc những yếu tố sinh khí và quyền năng thể hiện năng lực BA NGÔI của Thượng Đế. Nó cũng phải có những vận hà cho bốn loại năng lực thiêng liêng khác có thể tự biểu lộ. Cơ cấu này có thể được cung ứng bởi những đệ tử thuộc 7 Cung đă nêu ra trước đây, hoặc bởi những đệ tử ưu tú có đầy đủ những đức tính khiết bạch hiến dâng để tiếp nhận mọi năng lực mà H.Đ.T.T có thể ban rải cho một tổ chức hay cơ quan mà họ đảm trách. Nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN là một cơ cấu phát triển mau lẹ, nó phải được ǵn giữ cách nào để cho đừng bị khép chặt trong một tổ chức chắc nịch khô khan. Tuy nhiên nó phải tự biểu lộ xuyên qua tất cả 7 Cung trong THIÊN CƠ. V́ em đă lựa chọn con đường phụng sự và được cung ứng cơ hội tốt lành này, em và các bạn đồng sự có trọng trách đúng đắn đến phần h́nh thức ngoại tại của nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN. Sau khi hoàn thành giai đoạn chuẩn bị sơ khởi, những ǵ đă được thực hiện về cả hai mặt chủ thể và khách thể sẽ đem lại những kết quả nhất định để bảo đảm cho những đường lối, chính sách và sinh hoạt tương lai được tương đối vững chải và không thể dời đổi. Đó là trách nhiệm cần phải thi hành.

Tuy nhiên công việc cũng rất phức tạp bởi v́ nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN trong đó vài Đạo sinh và vài vị đệ tử mà em không hề biết được điều ǵ về tung tích của họ. Họ cũng đang tích cực hoạt động dưới sự thúc đẩy của những nguồn cảm hứng mới này thường không ư thức về vai tṛ của họ là những người hợp tác với một kế hoạch thiêng liêng.

Bởi vậy, em và những thành viên khác trong nhóm đệ tử phụng sự của tôi, cần phải cảnh giác đối với những yếu tố mới và những người cùng có một nhiệm vụ như các em, phát động những sinh hoạt tập thể mới áp dụng những kỹ thuật mới và có những thái độ tác phong mới. Do đó, cần có một thái độ cảnh tỉnh nội tâm và ấn tượng chung của toàn nhóm, mà cũng nhận thức được tiếng nói của những kẻ được thu hút vào mọi nhóm người phụng sự mà em thừa nhận do bởi cùng đồng chung mục đích, cùng có một thái độ và một phương pháp hành động giống nhau. Điều này thật ra không phải dễ. Hăy nên nhớ rằng đây là một trách nhiệm tập thể. Nhiệm vụ của em là đạt tới một sự phản ứng bén nhạy hơn đối với ấn tượng tâm linh và đối với những động cơ thúc đẩy tập thể của nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN. Khi em càng lần hồi xúc tiến công việc này, th́ chừng đó em sẽ thấy rơ phương pháp chân chính để tiếp xúc với những người cộng tác trong nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN, những cánh cửa cần thiết sẽ mở rộng và phương pháp đúng đắn để khêu gợi sự thích thú với công việc sẽ hiển hiện rơ ràng. Công việc trên, những cơi trên đă hoàn thành và chỉ c̣n phải làm cái việc thức tỉnh trí óc nhận xét khách quan của những người cộng tác nói trên.

C̣n một điểm khác mà tôi cần nói với em. Em có sự định hướng đúng đắn đối với công việc của Thiên Cơ, em cũng có Minh Triết và năng lực sung măn.

Tuy nhiên, hăy bảo toàn năng lực và nhớ rằng sự nghỉ ngơi vừa phải cũng góp phần vào việc phụng sự như sự sốt sắng hoạt động ráo riết không ngừng. Một đời sống phụng sự phải được có tính chất quân b́nh, mực thước giữa sự hoạt động và nghỉ ngơi dưỡng sức để rồi sẽ tiếp tục hoạt động trở lại thường xuyên.

Tháng 6,1936

Em thân mến,

Em đang sửa soạn bước vào một giai đoạn hoạt động mới cùng với nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN. Nên nhớ rằng mọi công tŕnh sáng tạo đều diễn tiến theo nhịp điệu tuần hoàn. Nhịp điệu của nhóm người MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN là một chu kỳ 3 năm và em cũng sẽ hoạt động theo cái nhịp điệu đó. Một chu kỳ khác mà chúng ta sẽ bước vào với những công tác dồn dập mỗi lúc càng nhiều sẽ đến vào tháng 5, năm 1939. Một chu kỳ thứ ba sẽ đến vào tháng 5, 1942. Em hăy nhớ rơ những năm tháng đó để đặt kế hoạch cho tương lai. Như vậy em sẽ làm việc theo định luật và thuận theo trào lưu.

Nhiều người trong những quốc gia khác ở rải rác khắp thế giới, có một công việc đặc nhiệm phải làm bởi v́ họ có liên hệ công tác tích cực với nhóm NMPSTG. Ho chưa tiếp xúc với em hay với người khác trong nhóm đệ tử riêng của tôi. Em và những người khác trong nhóm phải tập nhận diện ra họ. Bất cứ chỗ nào có sự thừa nhận nguyên tắc làm việc vô tư và thiện chí. Em hăy ban bố sự giúp đỡ và dùng thời giờ một cách rộng răi, tự do. Hăy đưa ra một bàn tay thân thiện. Nơi nào có sinh khí, đất lành và được giao cùng một loại hột giống th́ chừng đó một loại hoa đẹp giống nhau sẽ mọc lên khắp nơi ở tất cả mọi xứ trên thế giới …

Người đệ tử này vẫn c̣n đang tích cực hợp tác trong công việc của Chân Sư Tây Tạng.

Gửi: I.A.P.

Tháng 6, 1938

Em thân mến,

Những năm vừa qua đối với em là một thời kỳ hoạt động phụng sự ráo riết, một giai đoạn khắc kỷ, khó khăn và khổ nhọc đi kèm với nhiều sự xáo trộn cả về bên ngoài lẫn bên trong. Điều này em đă nhận thấy rơ. Em có thể được an ủi và khích lệ nếu em nhận thức rằng trên phương diện tâm linh nội tại, điều ấy cũng được biết đến và không có ǵ mất đi đâu, cũng như không hề có sự lăng phí thời giờ. Đối với em, đó là một giai đoạn buông xả và giải thoát, tuy rằng em không biết rơ sự kiện ấy.

Từ năm 1917, tôi đă theo dơi sự tiến bộ và làm việc của em. Điều này chỉ cho em thấy rằng, chúng tôi, những người t́m cách trợ giúp và hướng dẫn các đệ tử làm việc một cách tuần tự như thế nào. Tất cả các đệ tử đều phải tiến bộ bằng cách đứng vững một ḿnh, tự ṃ mẫm t́m đường lấy một ḿnh và tự khám phá lấy đường lối cá nhân đặc biệt của ḿnh trong việc hướng dẫn trung tâm ánh sáng. Họ cũng tiến bộ bằng cách đáp ứng thường xuyên với tiếng gọi của bổn phận và lư tưởng phụng sự. Tuy nhiên, nay đă đến lúc em có thể làm việc với một nhăn quang sáng suốt hơn, với sự hợp tác chặt chẽ hơn với trung tâm Nội tại, và với một tâm trạng ít cô đơn hơn trước.

Nay em đă thuộc về nhóm đệ tử của tôi, và những người đệ tử một nhóm phụng sự viên chọn lọc, sẽ đi sát cánh với em. Về phần tôi, tôi cũng sẽ nhất định t́m cách trợ giúp và giao tiếp với em một cách gần gũi mật thiết hơn. Trong công việc mà chúng ta dự định hợp tác chung với nhau, chúng ta sẽ làm một cách hoàn toàn thành thật và cởi mở, không che đậy dấu diếm lẫn nhau, bất cứ chuyện ǵ. Chúng ta sẽ phô bày tất cả mọi sự thành công, thất bại và khuyết điểm, chúng ta sẽ cùng nh́n vào những sự việc đó dưới ánh sáng tỏ rạng đến từ Trung tâm và với sự có mặt của tất cả mọi người trong nhóm. Đó là phương pháp làm việc của những nhóm đệ tử trong KỶ NGUYÊN MỚI. Mục đích của chúng ta là hoàn toàn vô tư, bởi v́ chỉ có một thái độ vô tư như thế mới đem cho ta sự tự do để phụng sự hữu hiệu.

Tôi tiếp xúc với em như một phụng sự viên thành thục đă chứng tỏ ḷng nhiệt thành, khả năng phụng sự và sẵn sàng hy sinh v́ kẻ đồng loại. Mục tiêu của chúng ta hoạt động tập thể trên cương vị một nhóm cam kết phụng sự trên tinh thần hợp nhất, trong đó, tất cả mọi phàm ngă đều chịu lệ thuộc vào mục đích chung, v́ chỉ có ánh sáng Chân Ngă chiếu rạng cái diệu quang đó sẽ làm sáng tỏ các vấn đề thắc mắc khó khăn của em, những vấn đề cá nhân cũng như tập thể, hoặc các vấn đề thắc mắc khó khăn, hoặc các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực thực sự do em đă chọn. Tuy nhiên tôi muốn em lưu ư về hai vấn đề sau đây:

Điều thứ nhất: Trong khi em làm việc phụng sự và cố gắng để tự luyện em phải tập hướng ngoại một cách cụ thể hơn đối với kẻ khác. Em hăy cung ứng cho họ những cơ hội phụng sự và giúp đỡ trong công việc mà em đang làm, bất luận họ kém cỏi hay lỗi lầm đến bực nào. Hăy suy gẫm về việc này và cố gắng làm việc theo đường lối của Chân Sư, v́ đó là cách thức làm việc của chúng tôi, là những người hướng dẫn nhân loại từ khía cạnh nội tàng, ẩn dấu của cuộc đời. Chúng tôi đă đem cơ hội đến cho em, vậy em cũng phải đem cơ hội đến cho kẻ khác.

Điều thứ hai: Đừng dễ bị chán nản, tuyệt vọng quá đáng v́ sự vô minh thấp kém trầm trọng của những đám quần chúng mà em nh́n thấy ở chung quanh ḿnh. Bầu không khí tâm linh của những xứ mà em đang hoạt động để trợ giúp thật rất khác lạ và vô cùng khó khăn đối với những đệ tử hoạt động hợp tác với chúng tôi, những đại diện của H.Đ.T.T. Công việc ấy dễ làm hơn đối với những đệ tử trong nhóm X … (một ngành hoạt động của Thiên Cơ). Tuy nhiên, những đệ tử đó không phải tác động trên thành phần trí thức thượng lưu trong xă hội hay trên những giới Đạo sinh có học thức, văn hóa. Họ làm việc với tính chất tâm linh của quần chúng, trong đám b́nh dân chất phác, chứ không tác động trên cá nhân biệt lập. Họ không làm trái với loại người thuộc thành phần đối tượng của em. Tôi nêu ra điều này bởi v́ tôi biết rơ em có thể bị thất vọng sâu xa khi phải đáp ứng với cái ấn tượng tâm linh quá ư thấp kém, trọng trược của đám quần chúng ô tạp. Em hăy gạt bỏ cảm xúc này và nên biết rằng H.Đ.T.T lo trợ giúp những Đạo sinh c̣n nhóm X có nhiệm vụ tác động trên đám quần chúng thất học và ngu dốt. Đó là một loại công tác nhưng phân nhiệm cho những nhóm khác nhau để làm việc trong sự hợp tác và tương quan chặt chẽ …

Tháng 1, 1940 

Em thân mến,

Tôi muốn em lưu ư rằng nguy cơ lớn nhất của em trong lúc này là một ảo giác đến với em do hâu quả của một đời sống tâm linh chặt chẽ, khắc kỷ và tự kiểm thảo quá đáng. Hàng ngày không có ai để tṛ chuyện và v́ ở cách xa các bạn đồng môn, nên em sống rất cô đơn. Trong tư thế của một người truyền giảng và ban phát, em tương đối bị cô lập và tách rời nói về khía cạnh phàm ngă. Điều này đưa đến hậu quả là em đă tạo nên một h́nh tư tưởng hoài băo và nguyện vọng tâm linh rất mạnh mẽ. Nhưng dù sao nó cũng vẫn là một h́nh tư tưởng, bất luận rằng nó có tính chất cao thượng đến đâu. Hậu quả là nó có thể đưa đến một ảo giác nặng nề dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác. Em nên ư thức điều đó để cảnh giác đề pḥng. Hăy nhận biết nó như một vật của tự tạo ra. Nó phải được em chế ngự và kiểm soát chứ không phải trái ngược lại. Em sẽ biết là tôi muốn nói ǵ.

Em hăy loại bỏ ảo giác đó, v́ mục đích của công việc phụng sự mà em đă làm một cách rất hữu hiệu cho chúng tôi. Hăy nhận định rằng thời giờ rất có hạn và chỉ có những việc hữu ích cho toàn thể mới là nên làm. Sự phát động những kế hoạch mới trong khi thời giờ rất có ảo giác có tính chất chướng ngại rất lớn.

Ghi chú: Người đệ tử này đang cố gắng dưới những hoàn cảnh rất cô đơn tại một xứ ở Châu Mỹ La Tinh để thi hành công việc của Chân Sư Tây Tạng và đă thành công mỹ măn.

Gửi: S.S.P

Tháng 5, 1934

Em thân mến,

Chúng ta sẽ làm việc chung với nhau trong một thời gian và tôi muốn trợ giúp em. Mục tiêu đầu tiên của em là thiết lập mối tương quan thông cảm với các bạn đồng môn và với tôi. Nói về những nhóm đệ tử của các Chân Sư, hay những tổ chức có dính líu đến các Đạo Viện của các Ngài, chẳng hạn những nhóm đang được dự định thành lập dưới động lực thúc đẩy mới từ cơi trên ban xuống, th́ không một nhóm hay tổ chức nào có thể hoạt động hữu hiệu trừ phi có sự thành tâm thiện chí hợp tác với nhau, giữa những đơn vị gồm thành phần của nhóm. Điều này không phải luôn luôn dễ t́m.

Em đă tự hỏi v́ lư do nào em đă được chọn lựa trong nhiều Đạo sinh để làm công tác đặc biệt này. Có một phần là v́ lư do nghiệp qua, 1 nghiệp qua có liên hệ với tôi trên nhiều điểm, một phần bởi v́ ánh sáng nội tàng của em đă được quạt bừng cháy thành ngọn lửa do bởi em đă thi hành bổn phận một cách trung kiên. Điều này bảo đảm rằng ngọn lửa thiêng đó sẽ c̣n được quạt cháy thêm bởi những vị trong chúng tôi đang t́m tăng cường khả năng phụng sự của em.

Em chưa lưu tâm đến bí thuật chữa bệnh, nhưng nếu muốn, em có thể chữa bệnh một cách rất hữu hiệu, những mối khổ đau về xúc cảm vốn in sâu trong thể t́nh cảm, Quyền năng này của em hăy c̣n tiềm tàng và em chưa biết rơ, nhưng nó có thể được phát triển để sử dụng một cách hữu ích. Vài người có quyền năng chữa khỏi vài chứng bệnh của thể xác. Vài người hoạt động trên địa hạt tâm lư và chữa được những bệnh tâm thần. Những người khác (trong đó có em) có thể trợ giúp đó làm cho những thể t́nh cảm bị bệnh được trở lại trạng thái quân b́nh. Tôi có thể dạy cho em bí thuật chữa bệnh này. Nhưng trước hết em c̣n phải chuẩn bị dọn ḿnh làm một vân hà sáng sủa tốt lành để tiếp nhận thần lực thiêng liêng từ cơi trên ban xuống.

Em phải tập trung tư tưởng vào bí huyệt tim trong ít lâu. V́ mục đích đó, em hăy thực hành công phu thiền định kèm theo huấn thị này trong thời gian 6 tháng …

Tháng 12, 1936

Em thân mến,

Một trong những bí nhiệm của đời sống chân chính đang bắt đầu xuất hiện trong tâm thức của em là bí nhiệm của sự thực tại. Nó phải thay thế cho sự hành động. Cuộc đời em đă được sắp đặt theo một thể cách dùng sự hoạt động làm phương pháp biểu lộ như là đường lối ít chướng ngại nhất. Áp lực của thời cuộc và nhu cầu của thế giới đă bắt buộc em phải hoạt động tích cực trong môi trường khá rộng lớn. Đó là cách mà linh hồn chúng ta sắp đặt những lối sống cho chúng ta. Nhưng em cũng cũng đă tuần tự nhận thức rằng trong tư thế “thực tại tâm linh” (hơn là bằng mọi đường lối hoạt động nhất định nào) em có thể biểu lộ những khuynh hướng sâu xa căn bản của đời ḿnh và biểu dương giá trị của ḿnh đối với thế giới bên ngoài. Điều này là bài học căn bản của đời em và em đang bắt đầu lănh hội bài học ấy.

Sự phong quang là đặc điểm của đời em. Đối với em, mục đích cuộc đời là trở nên một vận hà không hơn không kém. Đó là nhu cầu căn bản mà linh hồn em đ̣i hỏi nơi phàm ngă. Tôi tin rằng em đă biết điều đó. Sự t́m hiểu các cung của linh hồn phàm ngă của em sẽ giúp cho em hiểu rơ tại sao trong kiếp này em lại như vậy.

Cung của Trí Tuệ tức Cung 4 là Cung kiểm soát phàm ngă của em. Điều này có nghĩa là em có khả năng đáp ứng với sự soi sáng của chân ngă. Mục tiêu thiền định của em phải là ánh sáng. Tuy nhiên trong trường hợp của em đó là sự phản chiếu thầm lặng và kư ức nội tâm được giữ ǵn một cách lâu dài. Điều này giúp em trở thành một vận hà để tiếp nhận ánh sáng tuôn xuống phàm ngă nó sẽ ban rải khắp vùng chung quanh.

Bởi vậy, tôi sẽ không đưa cho em một phép thiền định nào về ánh sáng, nhưng muốn em nên lấy chủ đề ánh sáng làm đề tài tự kiểm hàng ngày. Mỗi ngày một lần vào bất cứ nơi nào, em hăy tự đặt 1, 2, câu hỏi sau đây trong giờ tự kiểm và suy gẫm sâu xa về các câu hỏi ấy trong 6 tháng sắp tới.

Tháng đầu: Ư nghĩa thiết thực của danh từ ánh sáng đối với tôi như thế nào?

Tháng thứ 2: Cuộc đời tôi có thể được soi sáng bằng cách nào?

Tháng thứ 3: Yếu tố tạo nên sự soi sáng là ǵ và yếu tố đó có hoạt động b́nh thường trong đời tôi hông?

Tháng thứ 4: Một trí óc soi sáng sẽ có ảnh hưởng ǵ trong đời sống hàng ngày của tôi?

Tháng thứ 5: Trên cương vị một kẻ cầm đuốc, đời sống tôi phải gây ảnh hưởng ǵ đối với người chung quanh?

Tháng thứ 6: Tôi có sự giao tiếp với những người cầm đuốc soi đời khác chăng và bằng cách nào?

Những lời giải đáp của em cho những câu hỏi này cần vắn tắt nhưng đầy đủ. Em cũng sẽ tiếp tục những buổi thiền định tập thể của nhóm và viết những bài tự kiểm vắn tắt và đầy đủ nói trên, không những để giúp sự giác ngộ riêng em mà cũng để soi sáng cho bạn đồng môn.

Nói về sáu cung cai quản phàm ngă của em, thể trí của em thuộc Cung 4 nó làm cho việc đáp ứng với ánh sáng chân ngă của em được dễ dàng. Nhờ đó, nó có thể phản ứng dễ dàng với chân ngă thuộc Cung 2, v́ 2 cung này cùng có 1 đường năng lực giống nhau. Đồng thời cũng nhờ đó, thể trí của em trở nên 1 điểm tập trung cho năng lực chân ngă trong cái phàm ngă thuộc Cung 5 là Cung Trí Tuệ.

Thể t́nh cảm của em thuộc Cung 6, cung này đem đến cho em một thái độ kiên tŕ chuyên nhất đối với cuộc đời và đối với sự vật của cơi giới tâm linh. Nó cũng giúp cho em giao tiếp với chân ngă một cách khá dễ dàng nếu em muốn. Như vậy các cung của em được liệt kê như sau:

Chân ngă            : thuộc Cung 2 ( Minh Triết/ Bác ái}

Phàm ngă            : thuộc Cung 4 (Trí năng suy luận, khoa học)

Thể Trí    : thuộc Cung 4 (Điều ḥa / Mỹ lệ)

Thể t́nh cảm      : thuộc Cung 6 (Lư tưởng/sùng tín)

Thể Xác : thuộc Cung 3 (Trí năng hoạt động)

Vậy th́ điều ǵ là điều khó khăn lớn nhất của em v́ chính em không hài ḷng với sự tiến bộ của ḿnh và quả thật đúng như vậy?

Lư do chính là cái phàm ngă thuộc Cung 5 của em vốn nặng về cái trí phê b́nh, phân tích. Điều này làm cho em soi bói, chỉ trích và biện luận với chính ḿnh và với hoàn cảnh. Một lư do khác là thể xác thuộc cung 3 làm tăng cường cái phàm ngă hay chỉ trích và biện luận với chính ḿnh và với hoàn cảnh. Một lư do khác là thể xác thuộc cung 3 làm tăng cường cái phàm ngă hay chỉ trích, phê b́nh. Tuy nhiên, em tự phê phán chỉ trích lấy ḿnh nhiều nhất, nhưng điều này cũng sái quấy và không cần thiết, như việc chỉ trích phê b́nh kẻ khác. Nếu em để cho chân ngă ảnh hưởng đến phàm ngă một cách rơ rệt hơn bằng cách hành động xuyên qua thể trí thuộc Cung 4 và thể t́nh cảm thuộc cung 6 bằng sự nghiên cứu và sử dụng những khí cụ thuận lợi này, chừng đó em sẽ tiến bộ mau chóng đến mục đích mà em đă đặt ra cho ḿnh trong kiếp này tức là sự kết hợp với phàm ngă.

Em chớ nên ngă ḷng hay thất vọng. Nếu em và tất cả các bạn đồng môn đều hoạt động trên những ư niệm về các cung và đối xử với nhau như những thành phần riêng rẽ tách biệt th́ không bao lâu em sẽ sẵn sàng tham gia công tác tập thể trong việc chữa bệnh. Tôi đang dự tính thực hiện kế hoạch này.

Ghi chú: Người đệ tử này vẫn c̣n có sự liên hệ lỏng lẻo với công việc của Chân Sư Tây Tạng và thỉnh thoảng vẫn tiếp xúc với Ngài. Chân Sư có lời b́nh phẩm về người đệ tử này rằng y được phép giữ mối liên hệ đó v́ y đă sống một cách đầy đủ với ánh sáng nội tại của y và sự thất bại của y là do bởi sự kiện rằng y chỉ mới bắt đầu bước vào con đường đệ tử.

Gửi I.F.U

Tháng 8, 1937

Em thân mến,

Tôi đă theo dơi em từ vài năm nay, tuy em không hề hay biết. Chính do sự dẫn dụ của tôi mà em đă t́m được gia nhập vào nhóm đệ tử này và đồng thời em đă t́m thấy địa hạt phụng sự của ḿnh do định mệnh sắp đặt. Tôi vui ḷng đón nhận em trong nhóm Đạo sinh này.

Trong đời mỗi Đạo sinh, có một kiếp nào đó y sẽ t́m thấy nhóm của y. tôi muốn nói về nhóm đệ tử nội môn và nhóm phụng sự viên nội môn mà y có thể hợp tác.

Khi cả hai yếu tố này cùng ăn khớp với nhau (điều không phải luôn luôn xảy ra) th́ đó là một cơ hội lớn làm cho y thâu ngắn rất nhiều th́ giờ. Đó là trường hợp của em và tôi chắc em đă bắt đầu nhận thấy điều đó.

Chân ngă của em thuộc cung I, phàm ngă thuộc cung 3. V́ thời gian cấp bách và v́ áp lực công việc phải làm trong chu kỳ tiếp cận này, các em đă nghe nói rằng tôi đang thay chân của vài Chân Sư để cho các ngài được rănh tay hầu có thể đảm nhiệm những trọng trách mới rộng lớn và cao cả hơn. Tôi đang đảm trách việc huấn luyện vài vị, đệ tử của các Ngài và chuẩn bị vài Đạo Sinh mà các Ngài từng theo dơi để cho họ bước vào giai đoạn đệ tử chính thức. Em hiện đang có mặt trong số những đạo sinh này. Em sẽ nhận thức rằng vấn đề phát triển t́nh thương cho được dồi dào sâu rộng hơn, sẽ là bước tiến sắp tới để chuẩn bị cho em bước vào con đường phụng sự. Sự phối hợp các cung của em cần có điều đó và ảnh hưởng cung 2 của tôi cũng sẽ trợ giúp em rất nhiều. Mỗi đạo sinh trên thế gian đều có thể tăng cường tính chất bác ái, thiêng liêng của họ, không nói đến tính chất thương yêu cảm xúc của thể t́nh cảm. Nhưng em luôn luôn cần phải hiểu rơ lư do của mọi sự phát triển, nên tôi phải giải thích.

Gần đây, em đă vượt qua mau chóng một giai đoạn dài trên đường đạo, và đă tăng cường một cách rơ rệt cả hai phương diện về cơ năng rung động từ điển và ảnh hưởng tâm linh. Em có thể bước vào thời kỳ phụng sự ráo riết trong vài năm và điều này cũng cần được giải thích. Đấng Cao Cả mà có ngày em sẽ biết là thầy của em, khi em được nhận vào nhóm đệ tử của Ngài (Đức MORYA) là vị đứng đầu tất cả các Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO trên thế gian lúc này. Do đó, em có thể thấy tại sao em đă t́m được bước vào nhóm đệ tử của tôi và tại sao cũng đang tích cực hoạt động hữu hiệu trên phương diện chấp hành và tổ chức của nhóm. Điều ấy, phù hợp với tính chất nội tại của em, tính chất này nếu được hiểu và sử dụng đúng đắn có thể làm cho em trở nên một điểm tập trung năng lực hữu hiệu của Chân Sư ở tại địa điểm mà em đang phụng sự. Bởi vậy, Em thân mến, minh triết phải tập phân biệt với thời gian qua làm tăng gia sự nhạy cảm của em giữa những loại ảnh hưởng

Ảnh hưởng rung động văng lai (đến và đi) của linh hồn.

Ảnh hưởng rung động văng lai của những nhóm đệ tử đặc biệt này.

Ảnh hưởng rung động văng lai của những trường NỘI MÔN BÍ GIÁO

Ảnh hưởng rung động văng lai của vị cầm đầu tất cả các nhóm Huyền môn là Chân Sư MORYA.

Trong một thời gian em vẫn chưa có thể làm được điều này, nhưng sự phát triển nhạy cảm này đối với em là một điều cần thiết và rốt cuộc sẽ được thực hiện nếu em can thiệp tuân theo những huấn thị của tôi, và để cho t́nh thương chân chính ngày càng thâm nhập phàm ngă. Sự thâm nhập này là một điều khả hữu, bởi v́ em cũng đă biết rơ tính chất của t́nh thương. Tuy nhiên, thương yêu là một việc c̣n làm vận hà của t́nh thương lại là một việc khác.

Tháng 11, 1938

Em thân mến,

Tôi muốn nói cho em biết rằng, trong năm vừa qua, em đă có nhiều tiến bộ thật sự hơn là bất cứ một thập niên nào trước đây. Sức mạnh linh hồn của em đă tự biểu lộ. Đó là một điều tốt. Nhưng tôi muốn chỉ cho em thấy một điều mà tất cả các Đạo sinh thường hay quên, đó là sự áp dụng sức mạnh của linh hồn vào sự sống của phàm ngă sẽ luôn gây nên một sự khích động quá đáng trong một thể này hay thể khác. Điều này phải nên coi chừng đừng để cho xảy ra.

Em có một sự phối hợp lạ lùng của các Cung để cho em giải quyết và t́m cách hợp tác. nhưng một sự hiểu biết đúng đắn và 5 thứ mănh lực chi phối em trong kiếp này, sẽ giúp cho em có một sự nhận định đúng đắn về công việc mà em sẽ phải làm trong kiếp sau. Kiếp sống hiện tại chỉ là thời kỳ chuẩn bị. Trong giai đoạn đầu của kiếp này, em đă hoạt động với những di sản mà em thừa hưởng từ 1 kiếp trước, theo những đường lối dễ dàng ít chướng ngại nhất. Điều này đưa đến cho em những kết quả dưới h́nh thức một vài công tŕnh sáng tạo nhưng đó chỉ là sự thi thố những khả năng thuộc về phàm ngă, chớ không phải là một hoạt động chân ngă. Tuy nhiên, đừng quên rằng công tŕnh của phàm ngă nếu thực hiện đúng vị trí hợp thời và hợp cảnh là một công tŕnh thiêng liêng. Em cần hiểu rằng giai đoạn hậu vận của đời em là để chuẩn bị cho một công tŕnh sáng tạo tập thể trong kiếp tới đây. Một trong những vấn đề khó khăn mà các Chân Sư luôn luôn gặp phải là làm sao cho các đệ tử nh́n nhận tính chất phù du giả tạm và tương đối không quan trọng của một kiếp người. Cho đến năm 43 tuổi em vẫn không có ư thức tập thể thật sự. Em đầu thai kiếp này với mục đích sở đắc được ư thức đó, và t́m đường tham gia sinh hoạt tập thể. Con đường này đôi khi đem đến cho em sự thoải mái linh hồn nhưng nhiều khi cũng đưa đến sự va chạm. Và em đă tiến bộ thật sự trong việc kêu gọi đến tâm thức tập thể. Đó là một điều khó đối với em, do bởi hai cung quan trọng cai quản cuộc đời em là Cung I (quyền lực/ ư chí) và Cung 3 (Trí tuệ). Cung này để làm cho người ta sinh ra thói kiêu căng v́ trí khôn mở rộng. Em đă kiểm soát và chế ngự được thói kiêu căng này. Nhưng trong kiếp hiện tại mỗi bước tiến trong việc kiểm soát chân ngă phải được thực hiện qua một vài cuộc thử thách, với tâm trí mở rộng để tránh khỏi những hố sâu của sự cô đơn và sự chia rẽ. Điều này chắc em đă biết.

Vấn đề khó khăn của em lại càng trầm trọng hơn và thể trí của em thuộc cung 3 là cung Trí năng hoạt động nó cũng là cung của phàm ngă. Sự kiện này giúp cho em được hai điều lợi, nó làm cho dễ kết hợp phàm ngă và nó cũng giúp cho em giao tiếp với chân ngă tương đối dễ dàng nếu em muốn. Tuy nhiên, nó cũng làm nổi bật tất cả những khả năng và đặc tính thuộc cung 3 trong phàm ngă của em. Đó là tính chất phê b́nh, chỉ trích, phân tích, chia cách, kiêu căng và ích kỷ. V́ em đang trải qua một giai đoạn kết hợp tâm linh mau chóng nên điều này sẽ đưa đến những trạng thái nội tâm cần được theo dơi chặt chẽ và chăm sóc rất cẩn thận.

Thể t́nh cảm của em thuộc cung 6 tức cung Sùng tín. Điều này đưa những va chạm về lư tưởng và là vấn đề khó khăn quan trọng nhất của đời em. Nó cũng giúp cho em có sự quân b́nh tốt đẹp giữa các cung của phàm ngă và trí năng.

V́ thể xác của em thuộc cung 6, nên bộ óc của em đáp ứng rất bén nhạy với những động lực cảm xúc nhất là về các vấn đề lư tưởng. Sự phối hợp của hai năng lực thuộc cung 6 trong bản chất của em là những điểm giao tiếp duy nhất của em (trong kiếp này) với những đường năng lực lớn thuộc cung 2. Em nên nhớ kỹ điều này và vun trồng lư tưởng tập thể một cách sốt sắng thường xuyên, v́ chỉ có nhờ lư tưởng này mà sự sinh hoạt biểu lộ phàm ngă của em mới có thể đi đến thế quân b́nh cần thiết.

Tháng 3, 1939

Em thân mến,

Những ảo giác của em không nhiều và kh6ông quá trầm trọng v́ em là một đệ tử thuộc về loại mở trí, nên em dễ bị ảo ảnh hơn là ảo giác. Câu hỏi mà em cần phải giải đáp là: việc dùng trí hơi nhiều trong mọi sinh hoạt hàng ngày của em, cả bên trong lẫn bên ngoài, có phải chăng là một ảo giác ngăn trở sự thức động trọn vẹn của bí huyệt tim? Em đă cố gắng nhiều trong năm qua để tăng gia sự nhạy cảm của quả tim. Tuy nhiên cái trí suy luận của em vẫn c̣n có thể ngăn trở sự thụ cảm của tim đối với cuộc đời, đối với hoàn cảnh và trên hết mọi sự đối với toàn thể nhân loại.

Em có đủ sức mạnh tâm linh chăng để chia sẻ gánh nặng khổ đau phiền năo của thế gian và tham gia vào công việc thức tỉnh nhân loại mà không gây ngăn trở chướng ngại? Quả tim của nhân loại này thức tỉnh và đó là một vấn đề khó khăn.

Sự phối hợp một trí năng được tinh luyện thuần thục và một quả tim thức tỉnh là mục đích của người đệ tử chuẩn bị điểm đạo như ở vào giai đoạn tiến bộ của em hiện nay, và mối tương quan giữa hai yếu tố đó thường bị quên lăng. Đó là một thứ ảo giác mà chưa ai biết, v́ sự thực hiện thế quân b́nh trí năo có thể tạm thời lật đổ thế quân b́nh chân thật hơn của toàn thể con người. Như tôi đă nói với em vài năm trước đây, một quả tim bừng cháy, sống động với t́nh thương (không phải t́nh cảm hay cảm xúc) là mục đích cuộc đời em. Nó phải được thực hiện không phải bằng cách dập tắt trí năng luận, mà bằng sự nhận thức ư nghĩa của một quả tim biết thương yêu, cùng với sự tích cực hiểu biết ư nghĩa sự khổ đau của nhân loại, cứu cánh sẽ đưa đến việc tham dự vào khổ đau đó. Mọi tương quan giữa một trí óc tinh luyện và một quả tim thức tỉnh chính là cứ địa hỏa thiêu (mọi nghiệp chướng phiền năo) và sự nghiên cứu t́nh trạng của nhân loại hiện nay sẽ chứng minh cho lời nói của tôi.

Ghi chú: Người đệ tử này vẫn c̣n làm việc với Chân Sư Tây Tạng.

 


 

Gửi I.B.S

Tháng 3, 1932

Em thân mến,

Em đă bước vào nhóm đệ tử của tôi để chịu một sự huấn luyện nhất định. Sự huấn luyện này không đ̣i hỏi một sự vâng lời tuyệt đối nhưng nó bắt buộc các đệ tử đặt phàm ngă lệ thuộc ư muốn của chân ngă chứ không phải lệ thuộc tính chất dục vọng thấp kém, dù cho những dục vọng ấy có tốt đẹp hay hướng thượng đến đâu cũng vậy. Tôi sẽ chỉ dẫn cho em những cách thức khai mở tâm linh và đưa ra những điểm gợi ư về việc đào luyện khả năng. Ngoài ra, tôi không có nhiệm vụ ǵ khác nữa.

Em đă làm việc và phụng sự trong nhiều năm. Chính công quả phụng sự và ư niệm đó đă đưa em tiến đến giai đoạn chuẩn bị điểm đạo. Bởi vậy, em đă được thâu nhận làm đệ tử chính thức, và tôi được giao phó việc bảo trợ cho em. Tôi nói “việc” một cách có dụng ư và em hăy suy gẫm về danh từ này. Em đă chuẩn bị mất bao lâu để đạt tới quả vị điểm đạo, điều ấy không quan trọng và em không cần bận tâm tới nó. Điều quan trọng là em hăy biết dùng cơ hội này để thu thập những điều lợi ích tối đa.

Chắc em cũng thừa hiểu là tôi không muốn phí th́ giờ của tôi và của em để nuôi dưỡng thói kiêu căng và những lời khen tặng hay vạch ra cho em cái triển vọng của một tương lai sáng sủa. Những sự thật của cơi hồng trần hiện rơ do sự phát triển tâm linh chân thật nội tại và nếu em thành thật (điều này tôi tin là em có) em sẽ hoan hỉ đón nhận sự nói thẳng, dù rằng tạm thời nó sẽ va chạm đến ḷng tự ái của em. Nếu cứu cánh tất cả sẽ lộ rơ chân tướng khi con người phát triển những quyền năng của chân ngă th́ nay đến lúc chúng ta phải tập nh́n thấy rơ sự thật phơi bày chân tướng của mỗi người và coi sự lột trần đó như một phương tiện để loại những điều khiếm khuyết của ḿnh.

Có hai chướng ngại lớn mà em phải vượt qua trước khi em có thể tiến tới sự tự do khoáng đạt hơn là bộ máy tiêu hóa bất ổn, nó thuộc về phần thể xác. C̣n điều chướng ngại thứ hai có vẻ quan trọng hơn đối với những người trợ giúp em trên khía cạnh tâm linh nội tại là một phàm ngă quá ư trầm trọng v́ em đặt trọng tâm quá nặng trên phàm ngă thay v́ tập trung sự chú ư đến chân ngă. Kết quả của khuynh hướng đó là một cường độ rung động quá mạnh nó tác hại đến cơ thể và làm giao động thần kinh. Phàm ngă của em thuộc cung 6 nó làm cho em bám chặt những lư tưởng của ḿnh và cố thủ chặt chẽ những ǵ mà em cho là chân lư. Điều này cũng tạo nên một sự chuyên tâm nhất trí đưa đến sự hội tụ năng lực lên trên đầu. Điều này cũng được tăng cường bởi sự kiện rằng nền văn minh Tây Phương của chúng ta c̣n đang đắm ch́m trong những h́nh tư tưởng của thế hệ SONG NGƯ tức thế hệ của Cung 6 mà chúng ta c̣n đang trải qua. Khi năng lực cung I của chân ngă thấm nhuần và ḥa hợp với năng lực của Cung 6, ảnh hưởng tác hại nói trên càng trầm trọng hơn và phàm ngă bị tràn ngập bởi một số năng lực quá lớn nhiều hơn sức chịu đựng của nó. Năng lực đó cũng không được phân phối đồng đều, một số lớn di chuyển qua bí huyệt cuống họng và bí huyệt rún gây nên sự xáo trộn và đảo lộn sự quân b́nh năng lực trong cơ thể. Điều này đến phiên nó lại gây xáo trộn trong bộ máy tiêu hóa và khi nó trở thành thói quen, căn bệnh này đưa đến một chướng ngại thật sự. Em tự hỏi như vậy phải làm sao bây giờ? Tôi sẽ đưa ra đây vài điểm gợi ư mà em có thể noi theo hay không tùy ư.

1) Hăy quên ḿnh để thương yêu người khác và đừng t́m cách thỏa măn phàm ngă bằng cách lúc nào cũng xen vào để điều khiển việc riêng của họ.

2) Em có khả năng thương yêu và thông cảm. Hăy sử dụng khả năng đó trên khía cạnh chân ngă chứ không phải trên phương diện phàm ngă.

3) Hăy tập làm việc theo thứ tự ưu tiên, làm trước những việc nào quan trọng hàng đầu chứ đừng chú ư đến những chi tiết lặt vặt, nhiêu khê do hoàn cảnh và người khác đưa đến. Những yếu tố này nuôi dưỡng sự thỏa măn phàm ngă khi em giải quyết chúng một cách hữu hiệu không ai chối căi. Hăy b́nh thản để cho khía cạnh tâm linh của đời sống hoạt động trong nội tâm em và trong kẻ khác. Những chướng ngại về bộ máy tiêu hóa sẽ được giải quyết và có thể tiêu tan khi em đă thiết lập mối tương quan xây dựng giữa chân ngă và phàm ngă, khi em có thể sống với t́nh thương chứ không sống với bí huyệt rún.

Tháng 3, 1934

Em thân mến,

Sự hăng say và chí nguyện nồng nhiệt của em đă làm cho em gặp khó khăn. Em là nạn nhân của những đức tính của ḿnh và sự thiếu kinh nghiệm trên Đường Đạo. Em há chẳng biết rằng người đệ tử luôn luôn giữ mức quân b́nh trong mọi cố gắng và không làm ǵ thái quá đến mức cực đoan? Việc làm của em đă thiếu sự quân b́nh trong những tháng vừa qua. Em bị giằng co bởi một h́nh tư tưởng xúc cảm, năng lực cơi trung giới đă làm tăng gia ḷng sùng tín trên khía cạnh cảm xúc và sự giao động thần kinh vẫn là một chướng ngại cố hữu của em.

Hôm nay tôi muốn nói với em vài điều vắn tắt v́ sự mệt mỏi của em trầm trọng hơn là em tưởng. Em cần nghỉ ngơi và tịnh dưỡng.

Điều thứ nhất: Em đừng ngă ḷng mà hăy nh́n nhận rằng trực giác của em đă thất bại. Tuy nhiên hăy thành thật với chính ḿnh và nếu em cảm thấy rằng sự thật không đúng hẳn như lời tôi nói th́ chừng đó em hăy giữ lấy quyết định của ḿnh và hăy thành thật với chân ngă. Đó là vấn đề quan trọng nhất. Quyết định đó có thể làm cho em tiếp tục tham gia trong nhóm đệ tử của tôi (sự hợp tác này đă bị gián đoạn trong những tháng vừa qua) hoặc nó có thể đưa em đến việc hợp tác với nhóm mà gần đây em đă chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ. Nhưng em hăy chấp nhận t́nh thế một cách ngay thật như em nhận thức trong lúc tham thiền không ai có thể làm ǵ khác hơn.

Tuy nhiên hăy nhớ rằng thể xác của em không đủ mạnh để chịu đựng áp lực của nhóm với âm ba rung động khác nhau, và trong khi chờ đợi quyết định của em, chúng tôi sẽ tạm đ́nh chỉ công việc của em đă làm với tôi. Em có trọn quyền quyết định, em được hoàn toàn tự do hành động tùy theo sự nhận xét của ḿnh, chúng tôi không chỉ trích quyết định của em.

Điều thứ hai: Nếu em muốn tiếp tục làm việc theo những huấn thị của tôi th́ em hăy ngưng hành động theo những chỉ thị của nhóm tập trung trên cơi trung giới. Chừng đó em hăy tiếp tục công việc mà tôi đă phác họa trước đây, mà gần đây em đă xao lăng và hăy noi theo chỉ thị của tôi một cách cẩn thận tỉ mỉ từng chi tiết.

Nói về công phu thiền định và sử dụng năng lực, hăy nhớ rằng nó sẽ không kích thích thần kinh hệ của em ngay bây giờ, nhưng nó có thể trở nên một ưu điểm cho cả nhóm. Hậu quả của công tác mà em đă làm với nhóm người hoạt động dưới ảnh hưởng của ảo ảnh và ảo giác, là nuôi dưỡng tính chất sùng tín của em, đặt trọng tâm vào sự phát triển cá nhân, tu luyện cá nhân, việc làm cá nhân, nhu cầu cá nhân và những ǵ những ta cảm nghĩ về em. Tất cả những thứ đó đều không có giá trị ǵ đối với nhóm đệ tử này mà em đă cam kết phát nguyện tham gia hay đối với những bạn đồng lao động công tác trong công việc phụng sự mà em đă có sự liên kết từ bao lâu nay, hay đối với những người có liên hệ ràng buộc với em trong đời sống hàng ngày. Thật ra sự kiện ấy đă tạo ra ảnh hưởng chia cách giữa em với nhóm bạn đồng môn và với môi trường chung quanh. Điều này em đă biết rơ và làm cho em bị dày ṿ ray rứt một cách sâu xa. Phải chăng việc bất tuân những quy luật trong Đạo Viện cũng đă làm cho em đi lạc đường?

Tất cả những sự việc mà chúng ta phải cùng làm với nhau trong nhóm đệ tử này đều có mục đích tăng cường mối tương quan tập thể, t́nh thương tập thể và kết hợp tập thể. V́ đây là một công tác tập thể do H.Đ.T.T chủ trương và trong nhóm này tôi không chú trọng đến việc huấn luyện cá nhân để đào tạo nên những đệ tử ưu tú cá biệt.

Tôi lặp lại rằng tôi sẽ không huấn luyện v́ mục tiêu cá nhân của riêng một đệ tử nào. Tôi huấn luyện một nhóm đệ tử để cho họ có thể hoạt động như một đơn vị tập thể cộng đồng. Em đă lăng quên sự hợp nhất trong khi đi lạc vào một ngỏ ngách của phàm ngă có phẩm chất cao quư, tốt đẹp nhưng sự thật thuộc về thế giới ảo ảnh chứ không phải thế giới ánh sáng và thế giới nhăn quang tâm linh.

Sự nhạy cảm của em làm cho điều đó dễ xảy ra. Tính háo quyền tiềm ẩn của em làm cho em dễ bị ảo ảnh. Sự bất tuân quy luật tập thể làm cho ảo giác càng mau đến. Nhưng sợi dây liên hệ bên trong của em khá mạnh và nguyện vọng của em vững chắc nếu em có cái nh́n ngay thật và hành động cương quyết.

Tôi lập lại: đừng thất vọng do những thất bại và phản ứng của chúng ta đối với ảo giác. Chúng ta vững đức tin tiến mạnh trên đường Đạo, bằng cách bị chỉ trích, chúng ta có thể đo lường tính chất của linh hồn ḿnh. Sự chỉ trích của những người cầm đầu nhóm đệ tử này hay những người cầm đầu nhóm trên cơi trung giới đă đưa em vào thế giới của ảo giác, đều không làm ǵ khác hơn là cho em thấy rằng những phản ứng của phàm ngă ngăn chặn bước tiến của linh hồn. Xét cho cùng, vấn đề khó khăn của em không phải là chọn lựa để chấp nhận con đường nào trong hai con đường nói trên, hay nhân vật nào là đại diện của tôi. Vấn đề là: Trực giác của em có thể phân biệt được chăng giữa sự rung động của chân ngă với sự rung động của một h́nh thể cao của cơi trung giới. Chân Sư Tây Tạng của em và những người khác đều không đáng kể. Nếu em coi họ là đáng kể th́ em đă lầm lạc. Chỉ có chân lư mới là đáng kể và sự kết hợp với chân lư là điểm cao nhất của em có thể đạt tới đó mới là điều em nên ước vọng.

Tôi nói như vậy là v́ tôi cảm thấy sự căng thẳng nơi tâm hồn của em và sự ngỡ ngàng, hoang mang trước t́nh trạng hiện tại, một t́nh trạng mà em không tiên liệu trước được, nó gây cho em sự thất vọng sâu xa. Hăy tỉnh dưỡng và t́m sự b́nh an. Đó là một quyết định đứng đắn. Trong ánh sáng trường cửu, những việc nhỏ nhen xảy đến cho em sẽ biến mất. Hăy tiến tới với một sự can đảm mới mẽ. Hăy học bài học của quá khứ, nhưng đừng bám bíu lấy dĩ văng. Đừng để cho lời nói hay ảnh hưởng của bất cứ người nào điều khiển cuộc đời ḿnh. Cầu mong ánh sáng chân ngă đem đến sức mạnh tinh thần cho em và một động lực thuần khiết sẽ tràn ngập đời em với t́nh thương.

Tháng 9, 1934

Em thân mến,

Hôm nay tôi muốn nói với em một điều rất giản dị thông thường theo lời Thánh PAUL: Hăy quên những việc đă qua và thẳng tiến tới trước. Ảo giác bao phủ chung quanh em nay đă biến mất. Nay th́ em đang khổ sở v́ cảm giác sợ sệt và nhục nhă, cả hai thứ này có tác dụng tàn phá và đều không cần thiết. Em đă bị lệ thuộc ảo ảnh và ảo giác nhưng cũng là điểm đối tượng của t́nh thương tập thể, t́nh thương này em đă trợ giúp nhiều để làm cho nó thức tỉnh. Hăy suy gẫm về điều này.

Em đă bước vào một trạng thái hoàn toàn thay đổi và cuộc đời Em thân mến, sẽ biến chuyển qua một ngành hoạt động khác hẳn trong tương lai. Em phải chuẩn bị để bước vào giai đoạn này. Tất cả mọi đường hướng hoạt động đều có mục đích phụng sự, việc phụng sự và giúp đỡ kẻ khác sẽ đưa em bước vào con đường giải thoát. Chân ngă sẽ là thần hộ mạng của em.

Tháng 8, 1935

Nay em có thể bắt đầu làm những công tác nhất định. Tuy nhiên em phải xúc tiến một cách thận trọng và trong vài tháng nữa tôi đề nghị rằng em không làm ǵ cả, trừ ra công việc mà tôi chỉ định sau đây: chỗ rạn nứt trong thể dĩ thái của em, nó làm cho em đau yếu nặng hồi năm ngoái nay đă được hàn gắn, nhưng nó có thể rạn nứt trở lại nếu em làm quá sức. Do chỗ rạn nứt đó mà ảo ảnh, ảo giác đột nhập mănh liệt và tạo nên một cơn tàn phá khốc liệt tạm thời trong đời em. Ảo ảnh có thể là một thí dụ điển h́nh làm đề tài học hỏi cho toàn đệ tử. Do đó mà sự lợi ích có thể được rút tỉa ra từ cái bề ngoài có vẻ dường như là một điều ác dở. Điều dở hay ác chỉ là ảo ảnh, chính việc sử dụng động lực hay cơ hội do bởi phàm ngă phân cách cả ích kỷ mới hây nên điều ác. Một ư niệm đúng đắn trong những hoàn cảnh tương tự sẽ là cái động cơ thúc đẩy con người làm điều lành. Nếu không thấy có kết quả nào khác, th́ kinh nghiệm đă qua đó sẽ có tác dụng làm cho em và các đồng môn giữ kín cẩn thận hơn trong tương lai và ít vội vàng hơn trong sự kết luận. Ảo ảnh, ảo giác khi nó thuộc loại đặc biệt đó rất khó nhận biết được và có vẽ dường như là sự thật. Đó là định nghĩa của danh từ ảo ảnh và chữ dường như chính là mấu chốt của vấn đề.

Tôi có nói rằng tôi muốn xử sự với mỗi đệ tử một cách thành thật hoàn toàn. Trên tư thế một nhóm đệ tử, nay chúng ta có thể bắt đầu công việc và coi những giai đoạn đă qua như chỉ có tính chất chuẩn bị. Những mục tiêu trước mắt mỗi người là tuân hành giới luật và khai triển tính chất tâm linh cách nào đó có thể đóng góp vào công việc của Đạo Viện. Mỗi người phải công phu tu luyện đến một mức khá cao để có thể làm cho sự đóng góp của ḿnh có giá trị khả quan. Chúng ta đang cố gắng thực hiện một hoạt động tập thể có tính chất trưởng thành và tổng hợp và có ngày chúng ta sẽ đạt tới mục tiêu đó. Nhưng trong nhóm đệ tử này, điều kiện để thực hiện việc đó vẫn chưa có đủ. Bởi vậy hăy cố gắng trau dồi tu luyện bản thân và loại trừ những yếu kém sai lầm của phàm ngă có thể làm trở ngại cho việc chung và lợi ích tập thể.

Từ lâu nay, trong tư tưởng em đă đặt ḿnh ở vị trí trung tâm của mọi môi trường sinh hoạt, em không ganh tỵ theo ư nghĩa thông thường của danh từ này, v́ ḷng tự kiêu không cho phép em có sự ganh tỵ thường t́nh như mọi người. Nhưng em luôn ư thức rằng ḿnh ở vị trí trung tâm của cái ṿng giao tế nhân sự. Và em có cảm giác bất măn, căm hận nếu em không được như thế. Đó là một trong những yếu tố chính đă gây nên sự ô nhục của em năm ngoái. Tôi khuyên em hăy dứt bỏ thái độ đó. Em phải cố gắng loại trừ ra khỏi tâm trí em ư nghĩ rằng ḿnh là nhân vật nọ hay nhân vật kia, mà phải vun trồng sự thông cảm nó sẽ làm cho em ư thức đối với kẻ khác hơn là đối với ḿnh. Đó là một điều khó làm, nó không dễ ǵ biểu lộ trong tư tưởng và trong đời sống. Xét cho cùng, vấn đề khó khăn của em là đặt phàm ngă thuộc cung 6 vào động lực của chân ngă thuộc cung I. sự nghiên cứu những đặc tính của cung 6 sẽ rất hữu ích, nhất là em nhớ rằng, ở địa vị một người đệ tử, chính sự rung động của cung 6 sẽ gây nhiều rối rắm nhất cho em và làm cho ảo ảnh, ảo giác xâm nhập dễ dàng. Thí dụ sự cuồng nhiệt và ḷng sùng tín của em cần được trui rèn nếu muốn cho quyền năng của cung 1 được biểu lộ. Ư chí cuồng nhiệt và sùng tín của em phải được thay thế bằng mục đích có trật tự và bền bỉ của chân ngă thuộc cung 1.

Câu này chứa đựng bí quyết cho sư tiến bộ tương lai của em … Ư chí dũng cảm tăng cường như thép của em, người Đạo sinh sùng tín, phải biến đổi thành cái mục đích bền bỉ, mănh liệt và yên lặng của chân ngă, nó biểu lộ xuyên qua người đệ tử. Linh hồn hay chân ngă vốn uyển chuyển co dăn để thích nghi với hoàn cảnh, nhưng mục đích của nó vốn nhất định và bất biến. Cũng y như thế, ḷng sùng tín cuồng nhiệt đối với một người hay một lư tưởng phải nhường chỗ cho t́nh thương bất biến của chân ngă, t́nh thương của linh hồn em đối với linh hồn kẻ khác. Đối với em, điều này hàm súc một điểm gợi ư và bị quyết của mọi sự thành công tương lai. Em sẽ nhận thức được những ǵ tôi muốn nói …

Tháng 11, 1935

Em thân mến,

Những cố gắng trong năm vừa qua đă chuẩn bị cho em tiếp nhận những thay đổi mới và tăng gia hiệu lực trong việc phụng sự. Đó là điều mà tôi và các bạn đồng môn của em đều biết rơ, nhưng nay đă đến lúc mà lănh vực phụng sự của em phải được nới rộng hơn trước. Điều ǵ làm cho em bị chướng ngại? Tại sao em không giúp đỡ kẻ khác một cách hữu hiệu hơn? Em muốn tôi nói cho em biết không? Lư do sự phối hợp khó khăn gây nên bởi 2 cung biểu lộ của em là cung 6 và cung 1. Khi phàm ngă thuộc cung 6 của em có thể hoạt động tự do không bị ảnh hưởng cung 1 của chân ngă và chuyên nhất nhắm vào một kế hoạch nhất định th́ không có chướng ngại trong việc biểu lộ của em ở cơi hồng trần.

Khi chân ngă thuộc cung 1 của em có thể hoạt động tương tự như thế th́ chứng đó em sẽ thực hiện được nhiều việc. Nhưng trong hiện tại sự biểu lộ của cung 1 phối hợp với phàm ngă thuộc cung 6 của em tạo nên những việc có tính chất phá hoại hơn là biểu lộ tính chất thiêng liêng của chân ngă. Thí dụ như trong những cố gắng của em để giúp đỡ kẻ khác, ḷng sùng tín thuộc cung 6 của em làm cho họ hoảng sợ tránh xa em, c̣n quyền năng cung 1 của em thường gây chấn động nơi thể ẩn vi nội tại vốn là điều yếm kém nhất của họ. Kết quả là em vẫn trơ trọi một ḿnh. Đó là đặc tính của người sơ cơ trong đời sống ư thức của một linh hồn thuộc cung 1. Phải chăng đó là trường hợp của em? Không phải là người ta không thương em, v́ họ quả có thương em không phải là em không thương họ, v́ em cũng thương họ. Đó là bởi v́ em quá đường đột, mạnh bạo trong việc tiếp xúc với họ, và mănh lực đi qua em có tác dụng tàn phá mau chóng và giải tán những ǵ em cố gắng quy tụ. Em đă để mất nhiều người, làm cho họ lọt ra ngoài ṿng ảnh hưởng của ḿnh, điều này em biết rơ và làm cho em hoang mang. Lỗi tự nơi em chứ không phải nơi họ. Em thấy không, tôi đang cố gắng huấn luyện cho em trở thành người phụng sự, do đó mà tôi chú trọng đến đặc tính cung 1 của chân ngă, nó có tác dụng làm sinh động tính chất cung 6 của em. Em phải sử dụng nó một cách khôn khéo nếu em muốn làm 1 người phụng sự hữu hiệu.

Trước đây tôi có nhắc em lưu ư về thái độ nguy hiểm là lúc nào cũng khoác lấy cái vị trí của nhân vật ở “Trung tâm mọi sự”. Thái độ đó cũng như điều mà tôi nói đến hôm nay, cũng là đặc tính của một linh hồn thuộc cung 1. Sự phối hợp của hai thái độ đó (thái độ của người ở trung tâm mọi sự và thái độ của người đứng biệt lập cô đơn) là dấu hiệu chỉ rằng chân ngă thuộc cung 1 đă bắt đầu kiểm soát phàm ngă phần nào. Phải chăng đó là điểm khích lệ thật sự? Nếu em có thể chấp nhận lời khuyên của tôi về khía cạnh tàn phá trong vấn đề giao tiếp nhân sự của em, em có thể tránh được nhiều nỗi khó khăn cho ḿnh và cho kẻ khác. Em có thể hỏi, làm thế nào để diệt trừ những khuynh hướng đó. Tôi chỉ có thể giải đáp bằng một chân lư giản dị thông thường, giản dị và thông thường đến nổi giá trị khoa học của nó bị lăng quên. Đó là hăy quên sự sống của phàm ngă và chú trọng đến việc phụng sự thế gian. Sự tách rời phàm ngă đó không nên thực hiện bằng sự tăng cường những đặc tính của cung 6. Chúng tôi không muốn có những kẻ cuồng tín trong hàng ngũ chúng tôi. Hăy đạt đến nó bằng cách phát triển t́nh thương một cách sâu xa để bao gồm kẻ khác và loại trừ tính chất phàm ngă thấp kém của ḿnh. Hăy làm việc với thái độ buông xả, tách rời với tinh thần vô dục vô cầu, chừng đó mọi sự tốt lành sẽ đến với em, chừng đó em sẽ không bị cô đơn mà sẽ hoạt động như một đơn vị có từ lực thu hút trong công tác tập thể. Bởi vậy, vấn đề tiếp cận của em là ở đó. Em phải tập quên bản ngă cá nhân và bước ra ngoài trung tâm môi trường sinh hoạt của em. Em phải tập sao cho có từ lực thu hút, tập xây dựng chớ đừng tàn phá. Hăy suy gẫm về những đề nghị này và tập giải quyết những vấn đề khó khăn của em một cách đơn giản, yên lặng và vui vẻ.

Em đang có những mối tiếp xúc mới lạ và bởi đó em có thể nới rộng lănh vực phụng sự nếu em muốn. Tuy nhiên đừng quên rằng mỗi sự phát triển tâm thức với kết quả của nó là việc tăng gia tầm mức và cơ hội phụng sự đều phải trả bằng một giá và em phải chuẩn bị tinh thần để đối phó với sự kiện này. Em là một linh hồn dũng mănh và kiên tŕ. Nhưng nếu em có thể giữ một thái độ quân b́nh hồn nhiên, tự tại và không tham vọng cá nhân th́ chừng đó em có thể thành công và đạt tới mục đích.

Hăy tôn trọng tự do của người khác và đừng t́m cách gieo ảnh hưởng hay áp đặt những ư niệm của ḿnh đối với họ. Cảm nghĩ của em về nhu cầu của họ, dù họ gần gũi thân mật với em đến đâu đi nữa vẫn không nhất thiết là đúng. Hăy để cho họ tự do trên mọi khía cạnh với sự tự do mà em đ̣i hỏi cho riêng ḿnh. Những ư niệm công thức, phương pháp và lối sống mà em cho là đúng đối với bản thân ḿnh có thể là hoàn toàn bất hảo đối với kẻ khác. Nếu em áp đặt những thứ đó cho kẻ khác, tác động của chân ngă sẽ làm cho họ thoát ly ra khỏi ảnh hưởng của em …

Điều này chỉ cho em thấy rơ tại sao những cố gắng nhiệt thành của em chỉ gây nên ảnh hưởng tàn phá thay v́ xây dựng. Do đó, em sẽ nhận thức được đường lối giải thoát thích nghi cho em và cho những người khác.

Từ nay em có hể tiếp tục đảm nhiệm trọn vẹn phần công tác chỉ định cho em và tôi đề nghị em thử tập phép khí công sau đây … Em hăy tiếp tục pháp môn thiền định như thường lệ. Mỗi buổi sáng, em hăy tập một phép luyện hơi thở giản dị kèm theo phép công phu nói trên.

Tháng hai, 1936

Trong một huấn thị trước đây, tôi có cho em biết rằng, em có nhiều sự thay đổi trong đời sống và hoàn cảnh. Em đă đi nhiều và thấy nhiều kể từ khi đó, cho đến nay, em đă thu thập được những ǵ? Em có cảm thấy đời sống nội tâm của em có phong phú hơn chăng? Em có cởi mở hơn và quên ḿnh hơn trước chăng? Em vẫn lươn luôn cố gắng giúp đỡ kẻ khác, nhưng không bao giờ quên vị trí của ḿnh là người giúp đỡ. Bởi vậy, luôn luôn sự lôi cuốn, hấp dẫn vô ư thức của người được giúp đỡ đến với em trên ư nghĩa cá nhân và sau đó họ thường bị dội ngược trở lại. Hay em có thể nào làm cho họ đừng nh́n thấy em để nh́n vào linh hồn của chính họ chăng? Đó là những câu hỏi mà chỉ có em mới có thể trả lời. Sự giải thoát đối với em có nghĩa đồng hóa, nhập thể với ban đồng môn, và như tôi đă nói trước đây, loại trừ óc cuồng tín thuộc cung 6. Về điểm sau cùng này, em đă có nhiều tiến bộ và đó là một điều đáng khen. Bây giờ th́ quyền năng ở cung 1 tức cung quyền lực, ư chí, phải mỗi lúc càng nổi bật hơn lên. Đối với em th́ sự vận dụng khía cạnh ư chí không phải là điều cần thiết, mà là sự hiểu biết Thiên Cơ và sự hợp tác một cách thông minh với Thiên Cơ. Đó là cái cơ tiến hóa chung của cả nhân loại chớ không phải là kế hoạch dự tính riêng của em với tư cách một thành viên và một người hợp tác với Thiên Cơ Vĩ đại. Sự học hỏi, nghiên cứu của em trong những tháng sắp tới đây em hăy sưu tầm tất cả những ǵ đă được viết về Thiên Cơ trong những sách của tôi. Em hăy ghi nhận những khía cạnh có tầm mức quan trọng cấp thời chớ không nói về cơ tiến hóa của giống dân sắp tới và trong tương lai xa xôi về sau. Kế đó, hăy kê khai vắn tắt những điểm nổi bật trong Thiên Cơ, đừng viết dài ḍng mà hăy tập thu gọn trong ít hàng, nhưng vẫn rơ ràng và đầy đủ ư nghĩa.

Về công phu thiền định của em, nay tôi muốn sửa đổi lại. Từ lâu em đă theo dơi pháp môn thiền định mà tôi chỉ dẫn trước đây. Nay tôi muốn đưa ra một phép công phu khác, cần tập luyện cẩn thận vừa thực hành, vừa theo dơi hậu quả. Phép thiền định này phải được thực hiện nơi bí huyệt tim và thể dĩ thái. Tuy nhiên sau khi tập trung tâm thức vào “thể dĩ thái, hăy tách rời tư tưởng ra khỏi bộ phận này. Đây là phép công phu nói trên:

Ḥa đồng với chân ngă một cách mau chóng tối đa cho đến khi việc ấy trở thành dễ dàng tùy ư muốn. Chừng đó hăy tự nhắc nhở rằng: Tôi là chân ngă, chân ngă ấy là tôi.

Kế đó tập trung tâm thức vào khía cạnh bác ái trong bản chất tâm linh của ḿnh để cho năng lực tuôn tràn xuyên qua bí huyệt tim và cố gắng giữ nó nguyên vẹn ở đó. Tuy nhiên hăy đừng quên nghĩ đến bí huyệt ở tim mà hăy tập trung tư tưởng vào khía cạnh bác ái của chân ngă. Chừng đó hăy thầm nhủ: tôi ban rải t́nh thương cho tất cả mọi người.

Kế đó, hăy suy gẫm về tính chất và ư nghĩa của t́nh thương trong 15 phút.

Sau khi đă suy gẫm về đề tài t́nh thương trong 3 tuần lễ đầu của mỗi tháng, trong tuần lễ thứ tư, em có thể ḍ xét cẩn thận những tư tưởng nào xuất hiện trong trí em về đề tài này. Em có thể làm như vậy từ nơi 3 góc cạnh sau đây:

Về hành động phải hay quấy trong khía cạnh biểu lộ t́nh thương.

Về động lực cao hay thấp trong sự biểu lộ t́nh thương.

Về hoạt động của chân ngă trong sự biểu lộ t́nh thương.

Sự biểu lộ t́nh thương của người cung 6 thường có một tính chất thuần lư tưởng và áp dụng một cách cuồng nhiệt. Thông thường người ấy thiếu t́nh thương chân thật mà chỉ áp đặt cho kẻ khác điều mà y cho là t́nh thương. Trong trường hợp Đấng Christ, năng lực cung 2 của t́nh thương chế ngự phàm ngă của cung 6 của Ngài. Sự chế ngự đó cũng phải bắt đầu có ở nơi em một cách tuần tự và chậm răi.

Tháng 8, 1936

Em thân mến,

Tôi muốn em nên nhận thấy rằng vào giờ Trăng Tṛn năm nay, một chu kỳ công phu hành Đạo đă kết thúc, một chu kỳ mới sẽ bắt đầu. Chu kỳ vừa qua có một đặc điểm là sự phát hiện:

Phát hiện những khuyết điểm do không phải là sự phát hiện tiêu cực mà bao gồm ư thức trách nhiệm.

Phát hiện những bạn đồng môn và những huynh đệ của ḿnh như những người đồng hành cùng đi hành hương trên Đường Đạo.

Phát hiện mục đích tối cao và tự nguyện đạt tới mục đích đó.

Phát hiện công việc phải làm và phát hiện Thiên Cơ.

Tất cả những sự phát hiện này đă đến với em và khai mở trong tâm thức em trong những năm vừa qua. Em đă học hỏi và biết nhiều. Bây giờ sẽ bắt đầu một chu kỳ mới và đặc điểm của nó là sự kết hợp: t́m hiểu tính chất căn bản nhu cầu trọng yếu của nó và công việc phải xúc tiến trong những năm sắp tới. Làm thế nào để thực hiện được sự kết hợp đó?

Khi tôi xem xét các đệ tử trong nhóm đặc biệt này của Đạo Viện tôi tự hỏi có thể nào họ sẽ ḥa đồng với nhau chăng trong cái tiết điệu cần thiết để có thể làm việc chung với nhau như một đơn vị. Tất cả chư môn đệ đều có cá nhân tính rất mạnh không những thế lại c̣n tự hào hănh diện với nó. Chư môn đệ lấy làm tự măn một cách sâu xa và kín đáo trong tiềm thức và thái độ chia rẽ cách biệt đó của ḿnh.

Cái tiết điệu tập thể, sự kết hợp tập thể đều ở hàng thứ yếu trong tâm thức của nhiều đệ tử và phụ thuộc vào sự tiến bộ cá nhân, thái độ cá nhân và quan điểm cá nhân.

Chỉ có 3 đệ tử trong nhóm này thoát ra khỏi sự yếu kém đó và chú trọng đặc biệt vào đời sống tập thể, hoàn toàn trái ngược với đời sống cá nhân. Kỳ dư đều vẫn c̣n giữ thái độ ích kỷ cá nhân, chớ không có ư thức sinh hoạt tập thể. Khi tôi nói thế, tôi muốn nêu ra vấn đề khó khăn của em. Tôi nhận định rằng em thương yêu các bạn đồng môn và có ḷng sùng tín nhiệt thành với tôi. Em thương yêu con đường đưa đến ánh sáng, nhưng em và các đệ tử khác vẫn c̣n là những trung tâm điểm của đời ḿnh là những diễn viên chủ động trên sân khấu cuộc đời. Trên đó, mỗi người đều t́m cách đóng vai chính. Ḥa ḿnh vào đời sống tập thể, một yếu tố cần thiết trong công việc phải làm vẫn chưa được chư môn đệ lưu ư đến. Lư do là v́ chư môn đệ vẫn c̣n sống trên cơi trung giới và trụ tâm thức của ḿnh trên cơi ấy. Đó là cảnh giới cao của cơi trung giới, nhưng trừ phi em có thể thoát lên những mức độ của cơi thượng giới và tập giữ cho thần trí yên lặng vững vàng trong ánh sáng th́ ư thức về tỷ lệ của em đương nhiên phải sai lầm và em sẽ không đặt cho mọi sự một tầm vóc vị trí đúng đắn thích nghi với giá trị thật của chúng.

Tôi cố gắng làm hai điều sau đây đối với mỗi đệ tử trong nhóm đặc biệt này:

Vạch rơ khuynh hướng sinh hoạt tập thể đă có sẵn trong mỗi người và chỉ cho em thấy nó do đâu mà có.

Chỉ cho em thấy trên địa hạt nào mỗi người có thể kết hợp chặt chẽ hơn với toàn nhóm để tăng cường sinh hoạt tập thể chứ không phải chi để tự bảo dưỡng lấy ḿnh bằng cái sinh khí của nhóm.

Khi tôi nói như thế, tôi tự hỏi tôi có thể thành thật đến độ nào và đến mức nào tôi có thể ban lời huấn thị của tôi cho các đệ tử. Tất cả chư môn đệ có thể chấp nhận quan điểm của tôi chăng v́ tôi không thể gọi đó là sự chỉ trích? Sự chỉ trích luôn luôn có tác dụng tàn phá, bất luận nó phát xuất từ đâu. C̣n sự chỉ dẫn cần thay đổi thái độ mà tôi đưa ra cho chư môn đệ trong t́nh thương do thiện chí sâu xa muốn thấy chư môn đệ được cải tiến để có thể phụng sự hữu hiệu, đương nhiên là một loại khác hẳn. Bởi vậy, phải chăng tôi có thể nói với tất cả chư môn đệ trong tinh thần tự do? Và chư môn đệ có sẵn ḷng chú ư đến lời nói của tôi chăng như của một người cao niên, ưu ái và tin cẩn? Tôi không đ̣i hỏi ǵ hơn bấy nhiêu đó. Tôi không muốn bắt buộc chư môn đệ, tôi chỉ muốn giúp đỡ, trợ giúp em trong một pháp môn giải thoát và nh́n thấy em vui mừng tiến đi trong ánh sáng.

Như thế thông điệp của tôi chứa đựng một lời nhắn nhủ đặc biệt nào cho em chăng? Em cần học hỏi điều ǵ trước nhất để làm mực thước cho thái độ của em đối với cả nhóm và điều ǵ đó giúp cho em kết hợp chặt chẽ hơn trong sinh hoạt tập thể của nhóm? Đó là em có thể phụng sự nhóm của tôi một cách hữu hiệu nhất và với kết quả tốt nhất cho em bằng cách thực hiện sự vô tư đối với phàm ngă của ḿnh. Khi em đă thoát khỏi ảo giác của phàm ngă, em sẽ kết hợp với nhóm của em một cách mới mẽ và hữu hiệu. Em sẽ có giá trị đối với nhóm của tôi và sẽ bồi dưỡng  cho sinh lực của nó bởi v́ em sẽ là một vận hà xuyên qua đó thần lực thiêng liêng có thể tuôn tràn chớ không phải chỉ là một người thụ hưởng cái thần lực đó như em hiện nay. Vấn đề khó khăn của em được tóm lược trong những câu trên đây. Chính cá nhân I.B.S đă tuân hành những huấn thị của Chân Sư đến mức độ nào. Tôi I.B.S đă sử dụng những huấn thị này vào mục đích ǵ? Tôi, I.B.S đă thâu được kết quả ǵ cho công phu thiền định. Tôi, I.B. S. đă ghi nhận được những hiện tượng thần thông nào trong giờ trăng tṛn. Lúc nào cũng tôi, lúc nào của I.B.S. Hỡi đệ tử, em hăy đọc lại tất cả những báo cáo mà em đă viết về công phu tu luyện của em trong 2 năm qua. Hăy góp nhặt lại đầy đủ và đọc mau lướt qua tất cả để nhận xét xem những lời tôi nói có đúng không? Cơn khủng hoảng trong tâm hồn em là ở chỗ đó. Vấn đề nêu ra là bây giờ em phải làm ǵ và làm cách nào để thoát ra khỏi mặc cảm của cái TA. Để cho vấn đề được sáng sủa rơ ràng, tôi nêu ra đây những giai đoạn mà em phải thực hành:

1) Đừng quan trọng hóa cá nhân ḿnh, hăy tiếp tục công việc làm hàng ngày, nhưng hăy quên cái bản ngă riêng tư mà chỉ chú trọng đến nhu cầu tập thể, nhu cầu của thế gian và nhu cầu trợ giúp của tôi trong công việc mà tôi dự định.

2) Tập làm như trên bằng cách suy gẫm về chân ngă, tăng cường sự tiếp xúc của linh hồn và thực hiện sự ḥa hợp bền vững. Hăy luôn tập suy gẫm trên tư thế của nhóm, chứ không phải trên tư thế cá nhân. Điều này đương nhiên cần nhiều thời giờ và một tiết điệu đă cố hữu trong một thời kỳ lâu dài trải qua nhiều năm, không dễ ǵ phá bỏ.

Hăy chú ư chặt chẽ hơn đến sự kiểm thảo nội tâm vào mỗi buổi tối thay v́ thay đổi mục tiêu cố gắng hiện tại bằng sự suy gẫm về đức vô tư …

Nếu em tiếp tục công phu này một cách kiên tâm bền trí, em sẽ tự thoát khỏi móng vuốt của phàm ngă và chừng đó em sẽ không có lư do để ngă ḷng v́ em đă có những tiến bộ thật sự. Trên tư thế một chân lư, em có thể cho rất nhiều. Một khi em đă khai quang vận hà và loại trừ những chướng ngại, em có thể đóng góp rất nhiều vào sự sinh hoạt tập thể và ban phát rất nhiều cho các bạn đồng môn. Bởi vậy em hăy tiến lên trong sự ḥa hợp vui để bước vào đời sống phụng sự dồi dào hơn với một sự quân b́nh chân thật hơn. Sự phá hủy ảnh hưởng của năng lực cung 6 biểu lộ trong đời sống phàm ngă của em, không phải dễ làm nhưng em có đủ sức làm được.

Tháng 2, 1937

Em thân mến,

Em đă trả lời rất thành thật những câu hỏi của tôi. Tuy nhiên em không nên tự kiểm thảo một cách quá đáng v́ lúc này trí suy luận của em tác động hữu hiệu và hăy coi chừng đừng để nó hoạt động quá mức cần thiết. Trong đời một giáo sĩ như em hiện nay, dù là giảng dạy những môn học phàm trần hay đạo lư bí truyền, vị giảng sư luôn luôn phải áp dụng nghệ thuật tách rời bản ngă. Sự thực hành thái độ tách rời này không phải là việc dễ làm, nhất là đối với người có tính chất như của em. Làm sao thực hiện được điều đó? Tôi nêu ra vắn tắt dưới đây những cách thức cần phải làm:

1) Tập trung sự chú ư vào trong đầu.

2) Điều chỉnh những thế thanh bằng cách hô hấp đúng phép và giữ tâm thanh hư. Hăy suy gẫm về hai điều này và cũng cần nghiên cứu những giáo lư của Đạo sư PATANJALI có dạy đầy đủ về những điều này.

3) Đồng hóa với kẻ khác và kế đó sẽ đi đến cứu cánh là quên mất phàm ngă. Tuy nhiên trong trường hợp này hăy giữ cho động cơ hành động được đúng đắn.

4) Chú trọng đặc biệt đến vấn đề khó khăn hiện tại, không cuồng tín và không thiển cận và nhận định rằng tất cả những khó khăn chướng ngại, nếu biết đối phó đúng cách đều có một giá trị tâm linh.

Em chỉ nên chú ư đến phàm ngă trong giờ tự kiểm mỗi buổi tối mà tôi khuyên em nên tiếp tục một cách cẩn thận. Nó sẽ đem đến lợi ích thật sự cho em … Cuộc đời dành cho em nhiều cơ hội phụng sự trong hiện tại. Hăy coi chừng đừng để bị cô đọng tâm linh. Khi trở về già, con người luôn luôn có khuynh hướng trở nên cô đọng trong tiết điệu và mục tiêu của cuộc sống, tập tục và thói quen cố hữu trở nên cứng nhắc. Hăy giữ sao cho lúc nào linh hồn cũng linh động, uyển chuyển, luôn luôn cầu học và cầu tiến. Em hăy giảng dạy bằng những kinh nghiệm sống mà em đă trải qua. Hăy suy gẫm về điều này. Chỉ bằng cách đó em mới gây ảnh hưởng và truyền cho kẻ khác ngọn lửa thiêng và làm bừng sáng cuộc đời họ. Đừng chọn lọc đối tượng cho việc phụng sự mà hăy phụng sự tất cả người nào t́m đến sự trợ giúp của ḿnh. Em cũng đừng tự ḿnh đi t́m họ. Tư tưởng cuối cùng này hàm súc nhiều nhiều điểm gợi ư cho sự hiểu biết tương lai của em. Tôi muốn nói với em một điều, nhưng chỉ có thể phát biểu tư tưởng bằng những lời nói che đậy. Tôi không có nhiệm vụ tiết lộ việc tương lai. Tuy nhiên tôi có thể nói: Hăy sống cuộc đời của một tu sĩ và không bám víu lấy những sự vật phàm trần. Nếu em vẫn cứ bám bíu thiết tha, th́ sự vật trần gian sẽ thoát khỏi tay em và chừng đó sự đau khổ sẽ làm ngăn trở bước tiến của em trên đường đạo. Hăy tiến bước một cách tự do. Đừng thiết tha bám bíu một người nào cũng đừng để cho một người nào bám bíu lấy ḿnh. Em có thể làm một tu sĩ xuất gia chăng? Và sống cuộc đời thoát ly mọi ràng buộc, chỉ có đồng môn là bằng hữu và bạn tác trong đời? Trong hai năm tới đây, em hăy luôn luôn nhắc nhở lại trong trí những lời nói này của tôi, nhờ đó em hăy xử sự với mọi người theo đường hướng tâm linh. Nếu em có thể nh́n việc đời với thái độ ung dung tự tại, ḷng không rúng động trước sự thua, c̣n mất, chừng đó lănh vực phụng sự của em sẽ được nới rộng. Em sẽ không c̣n chú ư đến những ǵ thuộc về phàm ngă bé nhỏ của ḿnh. Chừng đó nhiều phàm ngă bé nhỏ khác sẽ t́m đến sự trợ giúp của em.

Tháng 9, 1937

Em thân mến,

Hôm nay tôi muốn thảo luận về 5 cung cai quản sự sinh hoạt của em trong kiếp hiện tại. Cuộc đời em đă ngày càng hướng về mục đích phụng sự nhân loại. Có một điều tôi muốn nhắc nhở em về vấn đề này: đừng để cho việc phụng sự chiếm lấy vị trí của chân ngă trong khi thức tỉnh, cũng đừng để cho sự thỏa măn thay thế cho niềm ước vọng an lạc của linh hồn, nó tạo nên một mối liên hệ từ điển đối với cơi giới chân ngă. Hăy luôn luôn sống nơi chỗ bí nhiệm của chân ngă và luôn luôn giữ im lặng.

Trong nhiều năm em đă suy gẫm về mối liên quan giữa chân ngă cung 1 và phàm ngă cung 6 của em. Em đă nhận thức rằng trong kiếp hiện tại em phải sống trong t́nh thương và phụng sự, nếu muốn chấn chỉnh ḷng tham vọng và kiêu căng của cung 1 và ḷng cuồng tín của cung 6 với những ảo giác của nó, để thực hiện sự thăng bằng trong bản chất tâm linh của ḿnh. Mối tương quan đó là vấn đề thắc mắc lớn nhất của em. Vấn đề lại càng trở nên phức tạp hơn, nên phải kể luôn cả những tính chất các cung cai quản ba hạ thể. Tuy nhiên sự phức tạp này đă trở nên giản dị và nghiên cứu tỉ mỉ những khuynh hướng của phàm ngă sẽ vạch rơ cho em những nguồn năng lực và làm sáng tỏ vấn đề. Thể trí của em thuộc cung 4. Đó là một ưu điểm nếu năng lực của nó được sử dụng đúng đắn, bởi v́ nó cũng làm vận chuyển một đặc tính khác thuộc cung 2 và góp phần vào việc làm dịu bớt tính chất của em. V́ cung này cai quản thể trí của em, nên nó đặt em vào thể chiến đấu dù rằng chỉ trên phương diện lư tưởng hoặc đôi khi dưới ảnh hưởng của ảo ảnh, ảo giác.

Thể t́nh cảm của em cũng thuôc cung 6, là một vấn đề khó khăn thật sự v́ nó nhấn mạnh cung của phàm ngă. Nên nhớ rằng các cung đều có những đặc tính phụ thuộc như cung 6 (biểu lộ nơi phàm ngă của em) có thể đưa đến sự cuồng tín trong việc theo đuổi một lư tưởng, th́ cung 6 trong thể t́nh cảm cũng biểu lộ ḷng sùng tín. Trong trường hợp của em, ḷng sùng tín này la mầm giống của đức vô kỷ vị tha. Nó là một yếu tố hướng ngoại quan trọng, giúp cho em chuyển hướng mọi tâm tư ra bên ngoài và đưa em vào con đường phụng sự. Tuy nhiên khi 2 hạ thể và chân ngă cùng đồng 1 cung như nhau, th́ chừng đó xuất hiện vấn đề làm sao giữ mức thăng bằng đ̣n cân và quân b́nh lực lượng. Đó là trường hợp của em, phải vậy chăng?

Thể xác của em thuộc cung 3. Đó là yếu tố khiến em có óc thực tế, trồng vững 2 chân trên mặt đất, điều mà một người cung 6 rất cần, nhất là khi tiến hóa cao. Điều này giúp em tác động trên cơi hồng trần, nó làm 1 điểm tập trung cho sự biểu lộ của chân ngă, v́ đó là cung biểu lộ của chân ngă, biểu lộ Ngôi Ba của Thượng Đế.

Bản chất của em gồm các cung như sau:

Chân ngă thuộc Cung 1 ( Quyền lực / ư chí}

Phàm ngă thuộc Cung 6 (Sùng tín/lư tưởng)

Thể Trí thuộc Cung 4 (Mỹ lệ/ Điều ḥa)

Thể t́nh cảm thuộc Cung 6 (Sùng tín/lư tưởng)

Thể Xác thuộc Cung 3 (Trí năng /hoạt động)

Tháng 2, 1938

Em thân mến,

Trong năm tới em sẽ phải đương đầu với 2 quyết định căn bản. Tôi không thể nói đó là quyết định ǵ. Trải qua những cơn khủng hoảng lớn trong đời, người đệ tử có được sức mạnh tinh thần để đứng vững một ḿnh mà ḷng không bám víu sự vật trần gian. Do bởi khả năng đứng tách rời, không luyến tiếc, y sẽ được ơn trên ban bố quyền năng nếu y không chịu đồng hóa với hoàn cảnh bên ngoài. Một trong những điều sẽ xuất hiện trong thế kỷ tới đây là nhân loại hiểu biết rơ ràng hơn về định luật chu kỳ. Chừng đó nhân loại sẽ hiểu biết những tiết điệu sinh hóa, v́ khuynh hướng cuồng tín và bạo động của họ sẽ có thể được hóa giải bởi sự thích nghi với những tiết điệu sinh hoạt một cách khôn ngoan.

Em đă trải qua một thời gian phụng sự ráo riết, việc đó đă giúp em tiến bộ rất nhiều. Em đă du lịch nhiều nơi trong khoảng 6 năm vừa qua, nay em đă có một nếp sống vững vàng, cố định.

Hôm nay tôi muốn đề cập đến những khó khăn về trí tuệ của các đệ tử trong nhóm này. Trước đây tôi muốn nói rằng thể trí của em thuộc cung 4 tức cung mỹ lệ / điều ḥa. Cung này là một yếu tố đă giải quyết sự khó khăn gây nên bởi phàm ngă thuộc cung 6 của em đă củng cố tăng cường thêm lên. Phàm ngă luôn luôn liên kết hay tập trung và một trong ba khía cạnh của nó. Nay tôi chỉ cho em thấy những thể nào của em cũng biểu lộ đặc biệt cung của chân ngă.

Năng lực chân ngă biểu lộ qua thể dĩ thái

Năng lực phàm ngă tập trung vào thể t́nh cảm.

Một ít suy gẫm về hai sự kiện trên sẽ cho em thấy rơ vấn đề khó khăn của đời em như thế nào. Đó là vấn đề dung ḥa phàm ngă để cho năng lực chân ngă có thể kiểm soát từ những mức độ trí tuệ và sử dụng thể trí thuộc cung 4 của em cách nào để hóa giải sự khích động quá đáng của thể dĩ thái và thể t́nh cảm. Trong thời kỳ c̣n lại của đời em nếu cố gắng kiểm soát thể trí trên tư thế của chân ngă, th́ em sẽ đầu thai trở lại kiếp sau với vấn đề kiểm soát phàm ngă tập trung sẵn trong trí. Điều đó có nghĩa là một tâm thức rộng mở bao la và nhiều khả năng phụng sự lớn lao hơn, một quyền năng luôn luôn thích ứng với nhu cầu của nhân loại.

Đặc tính của một thể trí thuộc cung 4 như thế nào? Dưới đây là vài đặc tính nói trên để cho em tùy nghi áp dụng:

Đặc tính phá hoại:

Xung đột lư trí nội tại

Nhiều va chạm đối nghịch

Thành kiến

Củng cố phàm ngă

Bất ḥa

Thắc mắc

Áp đặt ư muốn cá nhân

Đặc tính xây dựng:

Giải đáp những cặp mâu thuẫn, đối tượng

Đường trung đạo, không bè phái

Thông cảm và khoan dung

Củng cố lợi ích tập thể

Điều ḥa

B́nh an

Biểu lộ ư muốn thương yêu

Lẽ tất nhiên c̣n có nhiều đặc tính và khuynh hướng khác nữa, nhưng tôi chỉ nêu ra những loại đặc tính hữu ích nhất đối với em. Tôi muốn nhắc nhở em rằng cung 4, khi nó gồm trong thành phần năng lực cai quản phàm ngă là sự biểu lộ ư muốn thương yêu (dù trên ư nghĩa vật chất hay tâm linh). Bởi vậy, nó liên kết với cung 1 qua khía cạnh  ư chí, do đó em có thể dời trọng điểm của chân ngă qua địa hạt trí năng và từ đó kiểm soát lấy thể xác thay v́ phải dùng nhiều công phu cố gắng để kiểm soát nó bằng chân ngă, từ những mức độ của linh hồn. Đó là một điểm gợi ư cho em về phương pháp giải tỏa các chướng ngại.

Tuy nhiên, hăy luôn luôn nhớ rằng, khi em cố gắng thực hiện điều đó, điểm cốt yếu của vấn đề phải là t́nh thương. Chính v́ mục đích đó mà tôi chỉ phép tham thiền công phu mới rồi cho em. Em hăy tập trung và cung 4 với đặc điểm của nó là t́nh thương biểu lộ trong sự điều ḥa giữa con tranh chấp xung đột. Trong kiếp tới đây em sẽ hoạt động qua một phàm ngă thuộc cung 2, nhưng điều này sẽ c̣n tùy nơi kết quả của sự cố gắng hiện tại và tùy nơi khả năng nắm vững đường lối phụng sự của em.

Bởi vậy, em phải chuyển hướng những đặc tính cuồng nhiệt sùng tín của cung 6 trở thành t́nh bác ái và sức mạnh tâm linh. Cho đến nay, sự chuyên tâm nhất trí của em vẫn căn cứ trên sự sùng tín của cung 6. Trong tương lai, nó phải căn cứ trên sự quyết đoán thông minh, sáng suốt. Đó là điều khác hẳn và thuộc về tính chất trí tuệ.

Đừng để cho việc thành tựu những mục đích phụng sự làm cho em bị ảo giác không nh́n thấy nhu cầu cần phải công phu luyện thêm. Người đệ tử thường đắm ch́m trong công việc phải làm, đến nổi y quên rằng đời sống phụng sự bên ngoài sẽ trở nên khó khăn và đầy dẫy phàm ngă, trừ phi nó đi đôi với sự nhạy cảm mỗi lúc càng được tăng đối với những động lực thúc đẩy của linh hồn. Linh hồn đó tức là t́nh thương và thông cảm. Hăy thường xuyên cố gắng thực hiện sự thụ cảm tâm linh mà chính em phải học trong kiếp này. Hăy sống với những giáo điều mà em giảng dạy cho kẻ khác và ǵn giữ những giá trị tâm linh của ḿnh lúc nào cũng rơ ràng, sáng tỏ. Em đă làm nhiều việc phụng sự tốt lành và đă giúp đỡ nhiều người. Bây giờ đến lượt em hăy nhận sự giúp đỡ cho chính ḿnh mà không bận tâm quá đáng đến nhu cầu đó trong tâm thức của em.

Ghi chú: Người đệ tử này không hề hoang mang, dời đổi và vẫn tích cực cố gắng làm việc với Chân Sư Tây Tạng trên đường Đạo của người đệ tử dưới sự chỉ dẫn của Ngài.

CHƯƠNG III: SÁU GIAI ĐOẠN TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO

1) Trong giai đoạn 1, người Đạo sinh được Chân Sư tiếp xúc xuyên qua một vị đệ tử cao cấp ở cơi hồng trần. Đó là giai đoạn tiểu đệ tử (sơ cơ hay dự bị)

2) Trong giai đoạn 2, vị đệ tử cao cấp điều khiển người Đạo sinh từ mức độ linh hồn hay chân ngă. Đó là giai đoạn gọi là Đạo sinh trong ánh sáng.

 

3) Trong giai đoạn 3, tùy theo nhu cầu cần thiết, Chân Sư tiếp xúc với Đạo sinh qua:

Một giấc mộng rơ rệt.

Một lời dạy bằng h́nh thức biểu tượng

Việc sử dụng một h́nh tư tưởng của Chân Sư

Một sự giao tiếp trong cơn thiền định

Một cuộc hội kiến tại Đạo Viện của Chân Sư (bằng thể t́nh cảm trong giấc ngủ) được nhớ lại rơ ràng sau khi thức tỉnh. Đó là giai đoạn của người đệ tử chính thức.

4) Trong giai đoạn 4 khi đă chứng tỏ sự minh triết trong công việc và sự hiểu biết vấn đề của Chân Sư, người đệ tử được chỉ dạy phương pháp hấp dẫn sự chú ư của Chân Sư (trong trường hợp khẩn cấp) để được Ngài ban cho thần lực, kiến thức và lời khuyên. Điều này là một việc xảy đến cấp thời và không làm mất th́ giờ của Chân Sư. Giai đoạn này được gọi bằng một cái tên lạ kỳ là “đệ tử trên đường dây” tức là Kim Quang Tuyến (Sutratma).

5) Trong giai đoạn 5, người đệ tử được cho biết phương pháp bí huyệt để tiếp xúc với Chân Sư. Phương pháp này chỉ được truyền dạy cho những đệ tử xứng đáng, được tin cậy là họ sẽ không lạm dụng việc ấy v́ bất cứ mục đích ǵ ngoài nhu cầu công việc. Người đệ tử sẽ không dùng đến phương pháp đó v́ những lư do riêng tư, dầu trong cơn khốn đốn, nghịch cản thuộc về đời sống cá nhân của y. Giai đoạn này được gọi là “người đệ tử trong hào quang” (của Chân Sư)

6) Trong giai đoạn 6, người đệ tử có thể tiếp xúc với Chân Sư bất cứ lúc nào. Y luôn luôn giao cảm mật thiết với Ngài. Đây là giai đoạn mà người đệ tử được chuẩn bị điểm Đạo hay là sau khi đă được điểm Đạo, y được giao phó công tác đặc biệt để thi hành trong sự hợp tác với Chân Sư. Giai đoạn này được gọi là “Người đệ tử trong ḷng của Chân Sư”. Về sau có một giai đoạn đồng hóa với Chân Sư một cách chặt chẽ, hơn nữa gọi là giai đoạn ḥa hợp ánh sáng, nhưng thật ra không có ngôn từ chính xác để diễn tả đúng mức giai đoạn này.

6 giai đoạn kể trên đă được diễn tà và đặt tên cho dễ hiểu đối với độc giả Tây phương, chớ không phải định ra những danh từ cổ.

PHẦN I

Thế giới ngày nay đang trải qua một thời kỳ chuẩn bị và điều chỉnh cho theo kịp với thời đại mới và trật tự mới sắp đến. Thế giới mới thật là một cuộc tân tạo. Các Chân Sư ngày nay đang tham gia vào những sinh hoạt của nó và luôn luôn hành động qua sự trung gian của các đệ tử.

Trong giai đoạn chuẩn bị, ngoài những việc khác, các Chân Sư c̣n phải bận rộn huấn luyện các đệ tử làm những công tác xây dựng để phụng sự và cứu cánh để thị pháp điểm Đạo. Bởi đó các Ngài phải lo thành lập những nhóm đệ tử mới, lần lần sẽ kết hợp thành những nhóm người phụng sự thế gian. Điều này được dự trù trên một quy mô rộng lớn v́ nhu cầu của thế gian và do bởi thiện chí của những Đạo sinh trên thế giới, sẵn sàng gánh chịu mọi thử thách trong việc chuẩn bị này.

Có vài quy luật rất giản dị mà tôi muốn nêu ra, vốn là nền tảng của những chân lư mà chư môn đệ đă chấp nhận như là cần thiết cho mọi tiến bộ tâm linh. Đó là những điều kiện đă được chấp nhận và hiện thời đă được nhận thấy nơi tất cả những đệ tử mà Chân Sư đang huấn luyện và kết hợp thành các nhóm người phụng sự. Những điều kiện đó là:

1) Người Đạo sinh cần ḥa ḿnh đến mức tối đa với những nhu cầu của thế giới khi chúng vừa lần lần xuất hiện. Hăy nhớ rằng những nhu cầu bắt buộc đối với những người đă góp công trong việc nên một thế giới mới sẽ có tính chất khác hẳn ngày xưa trên nhiều phương diện. Phải nhớ kỹ điều đó. Nhu cầu thế gian phải được đáp ứng trên phương diện của trí tuệ và tâm linh, chứ không trên khía cạnh xúc cảm. Có rất nhiều Đạo sinh và đệ tử lại nặng về phần cảm xúc. Họ không chịu nh́n thẳng vào thực tế mà làm việc với những thành kiến có sẵn về vấn đề phụng sự và với những lư tưởng riêng mà họ đặt ra.

2) Có một ư kiến tinh tế hơn về giá trị của sự vật trần gian. Nghỉ ngơi, tiêu khiển, nhàn rỗi, tranh luận và chỉ trích sẽ không có chỗ đứng trong đời người đệ tử trong vài năm tới đây. Cần có sự chăm sóc về thể chất với một sự thản nhiên siêu thoát đối với những phản ứng của xúc cảm và sức khỏe. Hoàn toàn dấn thân vào việc ứng đáp nhu cầu của nhân loại, hoàn toàn hiến dâng cho Thiên Cơ, hợp tác một cách thông minh với tất cả những vị mà ḿnh nh́n nhận như những bậc cao đồ, hành động đúng đắn và cẩn thận trong mọi việc để cho hiệu năng không bị giảm sút bảo toàn năng lực bằng sự im lặng và quên ḿnh: đó là những nhu cầu đ̣i hỏi nơi người đệ tử trên thế gian trong thời kỳ hiện tại, đó là những điều mà H.Đ.T.T sở cậy nơi chư môn đệ và cứu cánh sẽ đưa đến cửa điểm Đạo. Cánh cửa này phải được mở rộng hơn trong thời kỳ này bởi những đệ tử chính thức của thế gian, để cho ngày càng có nhiều người trong nhân loại có thể bước vào dễ dàng hơn trước. Tất cả sự ích kỷ cá nhân sẽ không mở được cánh cửa đó.

3) Phát triển sự uyển chuyển linh động của trí tuệ và thái độ tâm linh để nhận thức rằng tuy kế hoạch của Thiên Cơ vốn bất biến, những kỹ thuật, cách tŕnh bày lư tưởng và phương pháp cũ đương nhiên phải thay đổi. Đó không phải là một việc dễ làm. Như tôi đă phác họa cho chư môn đệ trong quá khứ, kế hoạch ấy chỉ là cái sườn và một nền tàng cơ cấu căn bản. Nó là cái giàn bằng thép dùng xây dựng thế giới mới, mà chư môn đệ có thể góp công trợ giúp để thực hiện một phần.

Một người trung b́nh không dễ ǵ uyển chuyển để thay đổi trong chi tiết và phương pháp, những ǵ đă được truyền dạy trong quá khứ và đă gieo cho y những ư niệm rơ rệt và chắc nịch.

Bởi vậy, chư môn đệ có sẵn sàng gạt bỏ những thứ ấy chăng và hoạt động theo đường lối khả dĩ ứng đáp nhu cầu của thế giới mới dưới những ảnh hưởng s81p đến?

Người đệ tử mà Chân Sư có thể tin cậy nhất là người nào mà trong những thời kỳ biến chuyển, biết giữ ǵn những ǵ tốt lành và căn bản, nhưng đồng thời cũng biết đoạn tuyệt với quá khứ và áp dụng những ǵ có lợi ích cấp thời trong hiện tại. Một thái độ tâm linh dung ḥa là đúng, cần thiết và khó t́m. Phần nhiều các sự việc thường gây tranh luận và xung đột ư kiến giữa các đệ tử đều có dính líu đến những điểm không quan trọng bằng sự hợp nhất tâm linh nội tại và khả năng biết nhường nhịn trong những trường hợp vô hại khi mà một bạn đồng môn không chịu nh́n thấy sự thật. Các đệ tử nên giữ ǵn đừng gây trở ngại bởi sự chuyên chế độc tài hay áp đặt những ư tưởng của ḿnh cho kẻ khác căn cứ trên những thủ tục đă qua. Hăy suy gẫm về điều này. Người đệ tử nào cho rằng điều ḿnh nghĩ là đúng không thể sai chạy và kẻ khác phải làm theo những điều mà y dự tính sẽ gây chướng ngại rất lớn cho việc phụng sự. Nhiệm vụ của người đệ tử cận đại là ư thức được nhu cầu rồi ứng đáp nhu cầu ấy.

Đời sống của một đệ tử là sự tiến bước từ từ và thường xuyên đến trung tâm ḥa hợp và những đệ tử chính thức là những thành phần cố hữu của H.Đ.T.T. Tổ chức H.Đ.T.T này là nơi ḥa hợp của tất cả những linh hồn trên cảnh giới cao của Thượng giới. Khi một người chịu đặt ḿnh dưới ấn tượng của Chân Ngă, kế đó chịu sự kiềm chế của chân ngă và sau cùng đồng hóa với chân ngă, th́ mỗi lúc y càng tiến gần đến trung tâm ḥa hợp. Khi t́nh thương nhân loại càng mở rộng và sự chú ư đến phàm ngă càng giảm bớt, người đệ tử càng tiến gần đến trung tâm ánh sáng và t́nh thương là cứ địa tâm linh của các Chân Sư.

Sau nầy chúng ta sẽ xét đến những giai đoạn khác nhau trên đường Đạo của người đệ tử, nhưng tạm thời chư môn đệ hăy lưu ư tới mối liên hệ giữa H.Đ.T.T với tất cả các đệ tử chính thức. V́ các đệ tử này hăy c̣n sơ cơ nên toàn thể vấn đề này khêu gợi nơi chư môn đệ một sự thích thú sâu xa. Người sơ cơ luôn luôn ṭ ṃ biết tất cả mọi vấn đề. Người đệ tử chính thức bận rộn đến vấn đề Thiên Cơ và đầy t́nh thương với đồng loại đến nổi người hoàn toàn hướng nội tâm tư đến việc phụng sự Thiên Cơ chớ không nghĩ đến sự tiến bộ cá nhân hay nghĩ đến Chân Sư. Người càng tiến gần đến trung tâm và gần Chân Sư, th́ Chân Sư càng ít chú trọng đến người hơn và người cũng ít bận tâm nghĩ đến Chân Sư hơn. Trong những giai đoạn sơ khai có lẽ người đương nhiên nghĩ đến mối liên hệ của ḿnh đối với H.Đ.T.T, với Chân Sư và với chân ngă của ḿnh. Trong giai đoạn trung gian, người bận lo thực hiện một ư thức về tỷ lệ và một sự điều chỉnh tâm linh đúng đắn cho nên người đứng trước hai con đường và ở mỗi con đường, người nh́n thấy một viễn tượng như nhau. Trong những giai đoạn sau cùng, khi người là một đạo đồ đă đạt tới quả vị Chân Sư, tâm thức của người có thể nhập với ư chí của Đấng Sáng Tạo. Thái độ của người là t́nh thương bao la không dời đổi và công việc của người là phát huy ảnh hưởng, một ảnh hưởng nó kêu gọi kẻ khác hành động, kêu gọi một sự đáp ứng nơi đồng loại và thúc đẩy Thiên Cơ tiến thêm một bước mới để đáp ứng nhu cầu cấp bách của nhân loại.

Trong công việc sáng tạo mà tôi đề cập ở trên và tất cả các đệ tử có thể dự phần đóng góp công quả, công việc và nhiệm vụ của các Chân Sư là gieo rắc vào thế gian những tư tưởng và ư kiến thiêng liêng, nó bao gồm sự thực hiện kế hoạch của Thiên Cơ cho nhân loại vào một thời kỳ nhất định. Bởi vậy Chân Sư luôn luôn t́m kiếm những người nhạy cảm đối với kế hoạch này. Ngài không đặc biệt chú trọng tới việc đi t́m những người gọi là “tốt”. Sự quên ḿnh và ḷng từ bi trực thẳng luôn luôn có nghĩa là đức ḥa ái, vô ngại, không sát phạt và đó là điều chí thiện chí mỹ. Ngài t́m kiếm những loại người có thể đồng loạt ứng đáp với khía cạnh của Thiên Cơ mà Chân Sư có trách nhiệm thực hiện và những người sẵn sàng chịu đặt phàm ngă lệ thuộc nhu cầu công việc đó. Những người này không có ích kỷ và không mong muốn điều ǵ ngoài sự muốn trợ giúp Chân Sư và những vị cao đồ phụng sự dưới sự giám sát của Ngài trên vài khía cạnh của Thiên Cơ. Như tôi đă nói ở trên, điều này đ̣i hỏi sự huấn luyện để cho họ quen thích ứng với hoàn cảnh, nhận định chân giá trị của sự vật, uyển chuyển linh động trong tư tưởng và phụng sự nhân loại với tinh thần vô kỷ vị tha.

Một nhóm của Chân Sư không phải là một nơi để dạy các đệ tử điều chỉnh phàm ngă và thức động chân ngă. Nó không phải là một nơi áp đặt kỷ luật cho việc trau giồi tâm tính và thiết lập những mối tương quan tốt đẹp giữa những thành viên của một nhóm đệ tử trẻ tuổi hay cao niên. Những quy luật để kiểm soát chân ngă vốn có từ xưa và được nhiều người biết rơ, phải được thực hành trong những thời kỳ lâu dài trước khi đạt tới giai đoạn đệ tử chính thức. Sự chiến đấu với phàm ngă và lập hạnh cần thiết cho người phụng sự thế gian là tiêu đề thông thường của đời sống và bởi vậy, nhân loại vẫn thường xuyên và liên tục trải qua sự công phu tu luyện đó.

Khả năng làm việc trong tinh thần hợp tác với kẻ khác để thực hiện một công tác chỉ định là một yếu tố không thể tránh khỏi sự tiến hóa tâm linh. Tôi muốn nói rơ với chư môn đệ rằng những sự thực hành phép tinh luyện và tập những thói quen tư tưởng chân chính vốn là phần công phu chính của một Đạo sinh sơ cơ, lại không phải là pháp môn chính của một đệ tử. Đó là những phép tu luyện căn bản để chế ngự phàm ngă, thuộc về phần việc của cá nhân và xúc tiến dưới sự điều khiển, giám sát của chân ngă, chớ không phải dưới sự giám sát của Chân Sư. Vậy th́ sự đóng góp và nhiệm vụ của người đệ tử là như thế nào?

Nhóm đệ tử của mỗi vị Chân Sư tỏ ra xuất sắc do bởi tính chất tư tưởng mà họ đóng góp để cho Chân Sư sử dụng trong việc phụng sự nhân loại. Bởi vậy, đời sống tư tưởng, trí năo của một đệ tử phải hội đủ 3 điều kiện sau:

1) Sức mạnh: Điều này tùy thuộc nơi bản năng tâm linh đúng đắn, hiểu biến đúng đắn, diễn đạt và phát biểu, ư niệm đúng đắn.

2) Tinh khiết: Điều này phát hiện tự nhiên từ một khả năng ban rải t́nh thương bao la không giới hạn, không cách biệt, một viễn ảnh sáng suốt và sự luân chuyển không chướng ngại của sức mạnh nội tâm.

3) Phóng rải đúng đắn: Sự phóng rải tư tưởng này là do bởi ư đồ được điều khiển một cách rơ ràng, hiểu rơ mục đích và lư do tồn tại của một nhóm đệ tử và tham gia một cách sáng suốt trong hoạt động sáng tạo của Chân Sư.

Nhóm đệ tử của một Chân Sư là điểm tập trung thần lực do Chân Sư xây dựng bằng ba phương pháp:

a) Bằng mănh lực đời sống tư tưởng của chính Ngài, do sự ứng đáp của Ngài đối với mục đích hợp nhất của H.Đ.T.T và khả năng ứng đáp mỗi lúc càng tăng đối với SHAMBALLA.

b) Bằng khả năng của Ngài để kết nạp trung tâm thần lực tức nhóm đệ tử mà Ngài chịu trách nhiệm xây dựng vào hoạt động tiếp cận của H.Đ.T.T.

c) Bằng sự minh triết của Ngài trong việc chọn lựa người cộng tác. Nhóm đệ tử của Ngài sẽ đắc lực trong việc phụng sự thế gian và hữu ích đối với các Đấng Trưởng Thượng của Ngài được bao nhiêu tùy theo Ngài dùng óc xét đoán để quy tụ những người, nam và nữ, trong việc chuẩn bị cho họ được Điểm Đạo.

Chư môn đệ nên biết rằng Điểm Đạo không phải là một cái ǵ mà họ phải vượt qua như là kết quả của sự huấn luyện mà họ đă thọ lănh của một vị Chân Sư, hay bởi v́ họ đă đạt tới một tŕnh độ tiến hóa tâm linh nào đó. Nó là một phương thức tiếp tục kết hợp với những trung tâm thần lực, tức là các nhóm đệ tử của Chân Sư, kết hợp một cách ư thức với toàn thể H.Đ.T.T nói chung và sau cùng kết hợp với tư cách những bậc Đạo Đồ đă đắc đạo, giải thoát, với SHAMBALLA. Bởi vậy, chư môn đệ thấy rằng một vị Chân Sư có thể bị trở ngại rất lớn, hay được trợ giúp đắc lực trong việc phụng sự nhân loại do bởi việc chọn lựa đệ tử. Các đệ tử hăy suy gẫm kỹ càng về điều này, v́ nhờ đó phương thức giải phóng bản ngă sẽ tiến hành mau chóng hơn, t́nh thương và tinh thần phụng sự đó cũng sẽ tăng gia một cách chắc chắn.

Chư môn đệ hăy hiểu rơ điều này để có ư niệm về sự đóng góp, kiểm soát tư tưởng một cách cẩn thận để tăng cường sức mạnh và sự tinh khiết cho lư tưởng của nhóm và tạo nên “kho dự trữ tư tưởng” có tính chất tốt lành để cho các đệ tử có thể giao cảm và sử dụng.

Nên nhớ rằng một nhóm đệ tử của Chân Sư là một trung tâm năng lực, người đệ tử được thấm nhuần trong đó và tiếp nhận ảnh hưởng khơi động và thanh lọc của nó đối với phàm ngă. Hai danh từ này bao trùm đời sống của mỗi đệ tử và diễn tả những ǵ xảy ra cho nhân loại trong khi vẫn tiến hành một cách từ từ chậm chạp việc xuất hiện của H.Đ.T.T “đă được báo trước từ lâu” và việc phục hưng những tổ chức huyền môn trên thế gian. H.Đ.T.T vốn là nhóm đệ tử của ĐỨC NGỌC ĐẾ và gồm thành Đạo Viện của Ngài. Lời tuyên bố này bao hàm một chân lư tương đối mới. Trước khi H.Đ.T.T hoạt động công khai hơn và được nhân loại nh́n nhận một cách rơ ràng đầy đủ hơn, th́ tất cả mọi sự hân thù và chia rẽ trên thế gian phải bị loại trừ và những hoạt động của tất cả các đệ tử phải đưa đến kết quả là khơi động thiện chí và những tương quan tốt đẹp của mọi người. Những tai hại của trận thế chiến này và các lỗi lầm trong chính sách của mọi quốc gia đă được nh́n nhận khắp nơi trên thế giới. Điều này cứu cánh sẽ có thể tạo nên một thái độ chung toàn diện để dọn đường cho những chấn chỉnh cần thiết. Cũng y như thế là diễn biến thức tỉnh và chiến đấu mà người đệ tử kinh nghiệm trong đời sống cá nhân của ḿnh và chuẩn bị cho họ bước vào giai đoạn đệ tử chính thức.

Trung tâm thần lực mà người đệ tử được kết nạp vào do bởi sự cố gắng bản thân và do quyết định của Chân Sư đưa đến cho y sự đào luyện cần thiết trong việc sử dụng những năng lực vốn là chất liệu căn bản của cơ sáng tạo. Như thế có cơ hội đóng góp vào việc sáng tạo thế giới mới. Luôn luôn có một thế giới mới đang ở trạng thái được h́nh thành.

Đặc điểm then chốt trong công việc của mỗi đệ tử có thể tóm tắt trong câu quen thuộc: “Hăy xem đây tôi làm cho tất cả đều đổi mới”.

PHẦN II

Có hai vấn đề được nêu ra luôn luôn khi thảo luận về giai đoạn bước vào con đường của người đệ tử, đó là vâng lời hay tuân theo chỉ thị của huyền môn và tính chất của viễn ảnh tâm linh. Tôi muốn giải thích những điều này ngay khi bắt đầu mọi sự trợ giúp mà tôi có thể đưa đến cho các đệ tử. Chân Sư có thể đ̣i hỏi nơi đệ tử sự vâng lời như thế nào? Ngày nay các Chân Sư gặp phải loại đệ tử mở trí rất cao, chủ trương sự tự do ư chí, tự do hành động, không chịu bị áp đặt dưới một quyền lực nào. Người trí thức không chấp nhận bị xâm phạm tự do về vấn đề này, họ có lư. Họ phản đối sự bắt buộc phải vâng lời. Ngày nay điều ấy đă thành một sáo ngữ. Từ vấn đề căn bản đó, xuất hiện những vấn đề khác có tầm mức thấp kém hơn. Người đệ tử có phải tuân theo mọi sự gợi ư dù là nhỏ nhất của Chân Sư chăng. Mọi yêu cầu và gợi ư của Sư phụ nói đều phải được chấp nhận hết cả không? Có phải tất cả những ǵ Sư phụ nói đều phải được chấp nhận là thật đúng, không thể bị sai lạc chăng? Người đệ tử có quấy chăng khi y không chấp nhận quan điểm và những lời nói của Sư Phụ? Quả vị của người đệ tử chính thức có giới hạn chăng? Sự tự do suy luận hay tự do chọn lựa, g̣ bó, sự xét đoán của y, làm cho y trở thành một vật tự động chỉ biết sao chép lại tư tưởng của Sư Phụ mà thôi? Đó là các vấn đề quan trọng.

Sự vâng lời bắt buộc đó tức là theo Thiên Cơ chớ không phải là vâng lời Sư Phụ như các Đạo phái huyền môn có thường nói. Sự vâng lời đ̣i hỏi nơi chư môn đệ, vốn căn cứ trên việc thừa nhận có một Thiên Cơ điều khiển sự tiến hóa của muôn loài, mà chư môn đệ cảm nhận được trong tâm thức do công phu thiền định và do việc phụng sự mà động cơ là t́nh thương nhân loại mỗi lúc càng phát triển. Sự vâng lời đó tức là sự phục tùng của phàm ngă đối với chân ngă. Trong khi đó, sự hiểu biết, sự sáng suốt và sự kiềm chế chân ngă ngày càng trở nên mănh liệt hơn trong trí người đệ tử. Toàn bộ vấn đề phục tùng này sẽ không được nêu ra nếu mối tương quan liên hệ giữa linh hồn và phàm ngă hay giữa Chân Sư và đệ tử được hoàn hảo và thiết lập trên căn bản lành mạnh. Đó là vấn đề hoàn toàn căn cứ trên sự mù quáng và vô minh của người đệ tử. Khi mối tương quan đó trở nên vững chắc hơn sẽ không có sự dị biệt nào xuất hiện. Những mục tiêu của linh hồn và của phàm ngă sẽ ḥa hợp lẫn nhau. Mục đích của sư phụ và đệ tử trở nên giống nhau và việc phụng sự của thầy lẫn tṛ đều được thực hiện trong môi trường sinh hoạt tập thể. Bởi vậy, chính những yếu kém của đệ tử mới đặt ra vấn đề nêu trên, do đó mới có sự thắc mắc về việc Chân Sư đ̣i hỏi nơi y quá nhiều. Chư môn đệ thử nghĩ xem có đúng như vậy chăng? Chính sự bám bíu lấy những ước vọng, ư niệm và quan điểm riêng của phàm ngă làm cho chư môn đệ bị dội ngược bởi danh từ “vâng lời”, và sợ phải tuân theo quá mau những điểm gợi ư do Chân Sư đưa ra. Hăy nhớ rằng Sư phụ không đưa cho đệ tử điều ǵ khác hơn là “gợi ư” tuy rằng Ngài có thể đưa ra những lời tuyên bố dứt khoát về các vấn đề thế sự. Những lời tuyên bố này có thể hoàn toàn chính xác. Tuy nhiên, người đệ tử sơ cơ thường quá mù quáng, hay có thành kiến riêng tư để có thể chấp nhận. Người đệ tử chỉ thật sự biết vâng lời khi y đă phát triển mở mang kiến thức và có tầm nhăn quang bao quát. Nếu không th́ thời gian sẽ điều chỉnh và bổ cứu những điều thiếu sót.

Điều này nêu ra vấn đề tầm nhăn quang hay triển vọng cùng tính chất và sự nới rộng của nó. Triển vọng này mà người đệ tử phải có trước khi xin gia nhập vào một nhóm đệ tử của Chân Sư, có phải là một sự diễn biến tuần tự xuất hiện, hay là sự nhớ lại một cách vô ư thức những ǵ đă cảm nhận và nh́n thấy từ trước? Đó là mấu chốt của vấn đề mà tôi sẽ giải thích. Triển vọng là một lối tượng để kinh nghiệm sự mặc khải. Sự tuần tự khai mở 5 giác quan hé mở thường xuyên cho ta nhận thức được thế giới của Thượng Đế và đưa đến cho ta một triển vọng luôn luôn nới rộng đến từ cái trí. Triển vọng ấy xuất hiện trong giai đoạn cao nhất dưới h́nh thức một sự nhận định t́nh h́nh thế giới và các vấn đề thế sự và thường biểu hiện trong các kế hoạch lớn lao của các nhà lănh đạo thế gian trên mọi lĩnh vực của đời sống con người. Nhưng c̣n triển vọng của người đệ tử là trở nên ư thức được những ǵ mà chân ngă biết và thấy, bằng cách sử dụng trực giác là ch́a khóa của nhăn quang tâm linh. Ch́a khóa này chỉ có thể sử dụng một cách thông minh khi mà tâm thức vượt lên cao hơn các vấn đề thấp kém của phàm ngă.

Triển vọng hiện tại của chư môn đệ tùy thuộc đến mức độ nào vào những ǵ kẻ khác đă thấy và chư môn đệ đă phát hiện được bao nhiêu bằng cách hăng say trèo lên ngọn đồi triển vọng, từ đỉnh đồi cao ấy nh́n ra tận chân trời đến một đỉnh khác, đánh dấu một công tŕnh mới nữa trong việc phụng sự nhân loại. Mỗi Đạo sinh trở nên một đệ tử chính thức khi y bắt đầu trèo lên đỉnh núi triển vọng. Y cũng có thể ghi nhận một cách ư thức những ǵ y nh́n thấy, rồi bắt đầu làm một hành động xây dựng để thực hiện điều đó. Điều này, nhiều Đạo sinh trên thế gian đang khởi sự thi hành. Một người đệ tử của thế gian khi triển vọng đối với y là một sự quan trọng và quyết định trong tâm thức và tất cả mọi cố gắng hằng ngày của y đều lệ thuộc vào đó. Y không cần ai tiết lộ Thiên Cơ cho y biết cả bởi v́ y biết.

Ư thức tỷ lệ của y được điều chỉnh với sự tiết lộ và cuộc đời y hoàn toàn hiến dâng cho việc thể hiện triển vọng ấy thành sự thực, trong sự hợp tác tập thể với nhóm của y.

Bởi vậy, đó là một phương thức tuần tự phát triển cho đến khi y đạt tới một giai đoạn nào đó. Sau khi đạt tới giai đoạn này rồi, th́ triển vọng không c̣n là một yếu tố chính đại nữa, mà đó là cái trường sở kinh nghiệm phụng sự và lâp công quả. Hăy suy gẫm về điều này có ngày chư môn đệ sẽ hiểu.

Trên đây tôi có đề cập đến sự hiện diện của những đệ tử của thế gian. Một đệ tử của thế gian là một người nam hay nữ đă có những tiến bộ thật sự trong việc điều chỉnh giữa tiểu tiết và đại cương, giữa cái riêng biệt và cái tổng quát, giữa hoàn cảnh cá nhân biệt lập của y với thế giới bên ngoài của nhân loại linh hồn đau khổ. Vấn đề lo nghĩ của những đệ tử đó không phải là sự điều chỉnh những mối tương quan giữa linh hồn hay chân ngă tâm linh nội tại với khí cụ của nó là phàm ngă thấp kém. Điểm chú trọng của họ là làm sao vừa làm tṛn những bổn phận tiếp cận đối với phàm ngă và đồng thời vừa tạo nên ảnh hưởng đối với thế gian do bởi động lực thúc đẩy bên trong mạnh mẽ khiến cho họ cảm thấy cần phải đảm đương trách nhiệm và chia sẻ cái gánh nặng của Chân Sư và nhóm đệ tử được chấp nhận hiểu theo ư nghĩa cổ điển của danh từ này. Họ có thể tự điều chỉnh để trở nên th5u cảm đối với ấn tượng tâm linh bất cứ lúc nào tùy theo ư muốn. Họ là những người đă kết hợp về khía cạnh phàm ngă và bất cứ lúc nào cũng có thể được tiếp xúc bằng linh hồn. Họ chưa được hoàn toàn bởi v́ họ chưa phải là Chân Sư. Quả vị Điểm Đạo thứ 4 vẫn c̣n ở trước mắt họ, nhưng những điểm thiếu sót, bất toàn của họ không phải là điều mà họ chú trọng nhất, mà nhu cầu của thế gian đang đ̣i hỏi sự trợ giúp tâm linh và tinh thần mới thật là chiếm hàng đầu trong tâm thức của họ. Họ có sự nhận xét sáng suốt đối với người đời nhưng họ không có thái độ chỉ trích. Họ đương nhiên nh́n thấy những điểm yếu kém bất toàn của thế gian, những điều ấy vẫn không làm mất đi ḷng ưu ái, thông cảm và sự sẵn sàng trợ giúp trên mọi phương diện ở bất cứ nơi nào mà nhu cầu tỏ ra cấp bách và quan trọng.

Những đệ tử ngoài thế gian, phát triển tinh thần hợp tác tập thể mỗi lúc càng tăng. Họ nh́n vào nhóm cộng tác viên cùng trong giới riêng của họ và nh́n vào địa hạt phụng sự riêng của họ với một tầm nhận xét đúng đắn, bởi v́ họ không tách rời ư niệm tập thể. Họ là những điểm tập trung tích cực cho những lực lượng của ánh sáng trên ba b́nh diện cố gắng hoạt động của con người và có thể t́m thấy trong mọi ngành và mọi hệ thống tư tưởng.

Tôi không có ư định nghĩa con đường đệ tử tích cực theo như sự hiểu biết thông thường. Mỗi Đạo sinh huyền môn đều biết rơ ư nghĩa cùng những mối liên hệ và trách nhiệm của con đường ấy. Tôi muốn khai triển nơi chư môn đệ cái ư thức về nhu cầu của thế gian và khả năng hữu dụng, nó sẽ làm cho mỗi người nào đọc và hiểu những lời của tôi, trở thành một đệ tử thật sự. Việc đầu tiên của các Chân Sư là khai triển nơi đệ tử một ư thức về thế giới, nó giúp cho họ nh́n thấy t́nh h́nh tiếp cận trên bối cảnh của quá khứ, được làm sáng tỏ bởi sự hiểu biết Thiên Cơ Mầu nhiệm luôn luôn có liên hệ đến tương lai. Những bản đồ của kế hoạch tiếp cận đó đang nằm trong tay những đệ tử ngoài thế gian. Sự thi hành kế hoạch đó dưới sự cảm hứng và trợ giúp của những đệ tử ngoài thế gian, vốn do bàn tay của tất cả những đệ tử chính thức ở khắp nơi thực hiện. Các đệ tử của thế gian và các đệ tử chính thức đều không phải là những nhà thần bí mơ tưởng viễn vông hay là những lư tưởng gia vu khoát mà là những người nam và nữ đang t́m cách thực nghiệm một cách thông minh và thực tế để làm cho kế hoạch lư tưởng ấy trở nên một thành quả thực tiễn và hữu hiệu trên mặt địa cầu. Đó là công việc mà tất cả chư môn đệ đều có cơ hội trợ giúp. Những khả năng của chư môn đệ để trở thành những đệ tử của thế gian rốt cuộc sẽ tùy nơi khả năng tách rời và quên mất phàm ngă của ḿnh. Sự quên lăng này không phải chỉ có liên hệ đến phàm ngă của riêng ḿnh, mà cũng liên hệ đến phàm ngă của các bạn đồng môn, của những kẻ cộng tác và tất cả những người chung quanh. Nó cũng sẽ có nghĩa là trong tương lai chư môn đệ sẽ có khả năng phụng sự rộng lớn hơn mà động cơ thúc đẩy sẽ là t́nh bác ái, nó bốc lên như ngọn lửa thiêng liêng trong ḷng chư môn đệ đối với kẻ đồng loại.

Có điều cần nêu ra ở đây là các đệ tử thường tự gây khó khăn cho ḿnh v́ họ chưa quên phàm ngă nên họ có một thái độ quá băn khoăn, lo lắng về những thất bại và các thiếu sót bất toàn của ḿnh. Họ quá chú trọng đến nhân sự của nhóm chứ không phải linh hồn của nhóm. Chư môn đệ quá chú trọng đến sự liên hệ giữa phàm ngă chứ không chú trọng đúng mức đến linh hồn của nhóm. Nếu chư môn đệ gạt bỏ sự chỉ trích, vun trồng niềm vui trong sự tương quan với nhau và luôn luôn t́m cách tham gia tập thể vào mọi sự ban rải ân huệ tâm linh từ cơi trên để giúp đỡ thế gian, nếu chư môn đệ t́m cách tiếp xúc với Chân Sư trong cương vị của một nhóm, biết rơ nhóm của ḿnh và đừng lo nghĩ đến sự thành công hay thất bại của việc làm cá nhân th́ chừng đó chư môn đệ sẽ trợ giúp rất nhiều trong công việc của Chân Sư. Sự ḥa hợp cần thiết luôn có thể thực hiện giữa các đệ tử khi họ gặp nhau trên b́nh diện của linh hồn và khi mà công việc phụng sự cần phải làm mới là yếu tố quyết định chứ không phải làm công việc đó bằng cách nào. Về điều này mỗi đệ tử đều chịu trách nhiệm riêng.

Chân Sư không huấn luyện một nhóm người nam hay nữ trở nên những đệ tử tốt và biết vâng lời để thi hành ư muốn và mục đích của Ngài. Ngài huấn luyện để cho họ được Điểm Đạo và trở nên những vị Chân Sư tương lai và Ngài không bao giờ quên mục đích này. Bởi vậy, trên cương vị là những đệ tử, chư môn đệ phải tập sử dụng và điều động năng lực vào lănh vực phụng sự và đó là một điểm mà chư môn đệ luôn luôn phải nhớ.

Những người được Chân Sư chọn làm đệ tử và mặc dù họ vẫn c̣n những điểm thiếu sót của phàm ngă nhưng họ có phần nào ứng đáp với triển vọng của H.Đ.T.T và với những phương pháp mà các Ngài sẽ dùng để thực hiện cái triển vọng đó, Chân Sư biết rơ những ai thừa nhận Thiên Cơ và đang cố gắng trợ giúp thực hiện Thiên Cơ với tất cả tấm ḷng hiến dâng. Khi đó, Ngài quy tụ họ thành một nhóm v́ họ cũng có đồng một triển vọng và tinh thần hiến dâng như nhau. Dưới sự cảm hứng và khích lệ của Ngài, họ có thể trở nên hữu hiệu hơn trên địa hạt phụng sự mà họ đă tự ư lựa chọn. Bởi vậy các chư môn đệ hăy suy gẫm kỹ càng về những điểm thừa nhận sau đây:

Thừa nhận triển vọng tâm linh.

Thừa nhận Thiên Cơ, v́ triển vọng và Thiên Cơ là 2 điểm khác nhau

Sự thừa nhận của Chân Sư đối với một nhóm Đạo sinh tự nguyện hiến dâng khi Ngài thâu nhận họ làm đệ tử.

Thừa nhận những ư niệm của Chân Sư như là các mục tiêu hành động tương lai.

Thừa nhận bạn đồng môn của ḿnh như những linh hồn và những người phụng sự.

Khi những điều thừa nhận trên đây được hiểu rơ, th́ H.Đ.T.T sẽ nh́n nhận một nhóm đệ tử có thể được sử dụng như một vận hà để chuyển di thần lực, ánh sáng và t́nh thương từ cơi trên cuống cho thế gian đang đau khổ và cần sự trợ giúp. Chừng đó nhóm đệ tử ấy sẽ có được cái khả năng phụng sự nhưng đó không phải là quyền năng do Chân Sư ban bố mà nó là một tiềm năng mà nhóm đệ tử tạo ra cho ḿnh. Quyền năng đó đến với người đệ tử là để ứng đáp lại một đời sống chân chính và t́nh thương ban ra một cách trọn vẹn. Có một định luật tâm linh có thể thu gọn trong câu này: “Kẻ nào cho tất cả sẽ được tất cả”. Điều này áp dụng cho từng cá nhân cũng như cho cả một nhóm đệ tử của Chân Sư. Phần nhiều các Đạo sinh ngày nay không biết hay không nhận thức được định luật đó. Họ không cho ra một cách rộng răi và trọn vẹn dù là đối với việc phụng sự Thiên Cơ hay đối với những kẻ cần sự trợ giúp. Bao giờ mà họ chưa làm được như thế th́ họ vẫn c̣n thu hẹp hiệu năng của họ và khép chặt nguồn ban phát ân huệ thiêng liêng, không những cho chính bản thân họ, mà c̣n cho cả nhóm nói chung. V́ đó mới có vấn đề trách nhiệm được đặt ra. Bí quyết của sự phát tâm hiến dâng tất cả mọi tài nguyên cá nhân cho việc phụng sự Thiên Cơ môt cách tự nhiên không dè dặt. Khi người đệ tử cố gắng một cách vô hại trong tư tưởng, lời nói và việc làm và khi y không giữ lại một vật ǵ cho riêng ḿnh mà cung hiến tất cả, sức khỏe thể chất, t́nh cảm, thời giờ, công lao và tất cả mọi tài vật một cách sung sướng, th́ chừng đó y sẽ có tất cả những ǵ cần thiết để thi hành công việc, và điều này cũng áp dụng cho tất cả những kẻ phụng sự. Định luật tâm linh là như thế. Người đệ tử chưa có thể đạt tới mức toàn thiện, điều đó khỏi phải nói, nhưng y có thể cố gắng nhiều hơn để cung hiến và phụng sự.

Bởi vậy, chắc chắn sẽ đến lúc mà chư môn đệ, với tư cách cá nhân cũng như tập thể sẽ đặt cuộc đời ḿnh tùy thuộc vào nhu cầu của nhân loại và ư muốn của Chân Sư. Chư môn đệ sẽ đạt tới điểm đó một cách tự nhiên không cần phải cố gắng khó nhọc. Chư môn đệ sẽ cung hiến mà không cần phải chiến thắng cái khuynh hướng ích kỷ. Chư môn đệ sẽ quên cái xác thân mà không c̣n chú trọng đến nó quá nhiều (với kết quả là nó sẽ có sức khỏe lành mạnh hơn). Chư môn đệ sẽ suy tư chứ không đắm ch́m vào thế giới xúc cảm, sẽ sống lành mạnh và khôn ngoan, đặt công việc của Chân Sư và tinh thần phụng sự lên hàng đầu. Đó là công việc ǵ? Cung ứng một nhóm người phụng sự khôn ngoan và tự nguyện để có thể xúc tiến những kế hoạch của Thiên Cơ, thiết lập trên thế gian một điểm tập trung thần lực cho H.Đ.T.T sử dụng để trợ giúp nhân loại, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng hiện nay. Những kế hoạch của H.Đ.T.T thể hiện ư chí của SHAMBALLA có thể hoặc là hữu thức hoặc là một sự đáp ứng vô thức tập thể đối với ấn tượng thiêng liêng. Trong giới đệ tử của thế gian, sự đáp ứng và hoạt động kế đó là những hoạt động hữu thức và đưa đến những việc làm thông minh, sáng suốt.

Nhiệm vụ của Chân Sư là không khêu gợi nơi các đệ tử một t́nh thương dâng hiến sâu xa và nhận thức cơ hội hiện tại đến một mức làm cho những khía cạnh phàm ngă của họ bị lu mờ biến tan trong tâm thức và khiến cho họ chỉ bận rộn với ư nghĩ “Tôi phải làm công việc phụng sự ǵ ngay bây giờ?” Ai là kẻ mà tôi phải giúp đỡ? Công việc của các Chân Sư có những khía cạnh nào mà tôi phải cố gắng trợ giúp nhiều nhất trong lúc này? Những dấu hỏi đó phải được giải đáp một cách b́nh tĩnh, sáng suốt và không cuồng tín.

PHẦN III

Nói về con đường của người đệ tử, có vài điểm mà tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ. Sau khi suy gẫm, chư môn đệ sẽ nhận thấy rằng quan niệm của ḿnh về vấn đề ấy có phần nào thay đổi nhưng đồng thời cũng được dồi dào hơn.

Điểm đầu tiên là những đệ tử chính thức đang được huấn luyện để chuẩn bị Điểm Đạo. Trên đường của người đệ tử, nếu họ không hiểu rơ điều này và không hoàn toàn hợp tác th́ họ sẽ làm tŕ hoăn thời giờ Điểm đạo của họ. Việc hiểu rơ sự kiện này được chứng tỏ bằng tinh thần hăng say trong việc phụng sự. Việc làm có kế hoạch là một trong những phương pháp huấn luyện. Trong những giai đoạn đầu, người đệ tử thường chỉ chú trọng đến bản thân ḿnh, những phản ứng và thái độ của ḿnh đối với Chân Sư. Sự kiện rằng họ làm việc trong một nhóm của Chân Sư đối với họ dường như là điều quan trọng bậc nhất.

Điểm thứ hai là có một sự dị biệt rất lớn giữa một nhóm của Chân Sư và Đạo Viện của Ngài. Điều này ít khi được nhận thức. Nhiều người có thể thuộc về một nhóm đệ tử của Chân Sư nhưng không có chân trong Đạo Viện được chọn lựa trong số các đệ tử của nhóm. Trong một nhóm, Chân Sư tiếp xúc và biết rơ người đệ tử và người này đă có trong quá khứ một sự kế hoạch nhất định với Ngài, nhưng đó là sự liên hệ thuộc về cả hai phương diện phàm ngă cũng như chân ngă. C̣n trong Đạo Viện, chỉ có những ǵ thuộc về chân ngă hay linh hồn mới được nhận thấy trong ṿng ảnh hưởng của nó. Không một điều ǵ thuộc về phàm ngă được phép lọt vào đây: phản ứng, xúc cảm, bệnh tật, thể xác, những thiếu sót bất toàn trong tư tưởng và tất cả những ǵ thuộc về vật chất và có dính líu đến tính chất thấp hèn của con người không bao giờ có trong Đạo Viện. Bởi vậy, ở những giai đoạn đầu trong công việc của người đệ tử, có thể rằng người này sẽ không đóng góp được ǵ vào sinh hoạt của Đạo Viện. Bởi đó, có một định luật nó bảo Đạo Viện đối với những giới hạn thiếu sót của chư môn đệ. Tôi đă dùng danh từ Đạo Viện một cách hữu ư để cho chư môn đệ biết phân biệt giữa một nhóm đệ tử và một Đạo Viện. Một Đạo Viện gồm những đệ tử ưu tú, đă do sự hiểu biết, sùng tín và công quả thật sự của ḿnh mà thoát ra khỏi hàng ngũ của một nhóm để bước vào một trung tâm nội môn là nơi mà năng lực, minh triết và cố gắng của Chân Sư được tiếp nhận một cách dễ dàng hơn. Muốn vượt ra khỏi nhóm để bước vào Đạo Viện, các đệ tử cần phải phân biệt một cách cẩn thận giữa những khuynh hướng phàm ngă bậc cao, những sự đáp ứng với chân lư, với lư tưởng và những phản ứng của chân ngă, minh triết tâm linh và cảm nhận trực giác của họ.

Điểm thứ ba là khi những đệ tử thuộc về thành phần của một Đạo Viện, họ tự đặt ḿnh dưới một áp lực tăng gia rất nhiều và có thể tham dự vào việc phân phối năng lực trên một quy mô lớn hơn trước gấp bội. Ngày nay, viễn ảnh Đức Chưởng Giáo lâm phàm đă đến gần hơn với nhân loại, và nguồn thần lực từ SHAMBALLA ban rải xuống trung tâm của H.Đ.T.T càng dồi dào hơn trước, nên tính chất thụ cảm của nhân loại cũng được điều chỉnh theo nhịp điệu đó và sự khích động tâm linh mănh liệt hơn cũng đang diễn ra với các ảnh hưởng khác nhau. Điều này cũng làm cho nhân loại có một hoài băo và nguyện vọng tâm linh mạnh mẽ, quyết liệt hơn. Chư môn đệ đă được biết rằng khi Đức Phật giáng trần nhiều môn sinh đă bước vào hàng ngũ đệ tử chính thức, và nhiều đệ tử đă được điểm đạo ở những quả vị khác nhau. Bởi vậy nên đă có một sự thuyên chuyển về nhân sự trong H.Đ.T.T một phong trào tiến bộ rộng lớn hướng về SHAMBALLA và đồng thời cũng hướng về nhân loại. Khi Đấng Christ xuất hiện trên thế gian, cũng có một cố gắng tương tự và c̣n lớn lao hơn nữa, cứu cánh đă đưa đến việc quy tụ các đệ tử vào các Đạo Viện Nội môn của Ngài. Cho đến nay, các Đạo Viện này đă được dành cho các đệ tử đă có một lần Điểm Đạo. Trước thời kỳ Đức Christ, chỉ có những đệ tử nào đă được Điểm Đạo lần một và trở nên các Đạo Đồ (initié) mới được là thành phần của một Đạo Viện. Tuy vậy, với mức độ thụ cảm tăng gia của nhân loại nên đă có quyết định rằng các đệ tử có thể được thu nhận vào Đạo Viện và có được giao tiếp trên b́nh diện trí tuệ và cảm xúc với nhóm Nội môn, và bắt đầu gồm thành phần thuộc ṿng ảnh hưởng trực tiếp của Chân Sư.

Đó là cái cơ hội được đưa ra trong thời kỳ này cho các Đạo Sinh và đệ tử dự bị. Cố gắng này có thể gọi là một sự bành trướng ngoại tại của Đạo Viện. Chư môn đệ đă được cho biết rằng H.Đ.T.T có ư định phục hưng các tổ chức huyền môn trên địa cầu. Đây là bước đầu hướng về mục tiêu đó. Nếu sự bành trướng ngoại tại phôi thai này thành công và nếu những người tham dự trong đó cố gắng làm việc với tinh thần hợp nhất, t́nh thương và hiểu biết, và nếu phong trào này được củng cố mạnh mẽ để có thể chống lại mọi lực lượng phá hoại, th́ chừng đó sau này sẽ có thể tăng gia dân số, quyền năng và quy mô của mọi Đạo Viện. Điều này hoàn toàn nằm trong tay của nhóm. Mỗi đệ tử được tiếp xúc với Đạo Viện chứ không phải của cá nhân. Điều này không dễ ǵ hiện rơ cho đến khi các đệ tử được nhập môn và trở thành những phần tử kết nạp của Đạo Viện. Những đệ tử đó đặt thành một vấn đề khó khăn nhất định.

Vấn đề nêu ra là bằng cách nào một Chân Sư thành lập và tổ chức Đạo Viện, hay nhóm đệ tử nội môn của Ngài mà thành phần nhân sự được tuyển chọn từ những Đạo Sinh của nhóm ngoại môn? Chắc hẳn chư môn đệ đă hiểu rằng một Chân Sư khi thành lập Đạo Viện của Ngài cũng tiến hành một cách tự động như Đấng Sáng Tạo. Ngài thiền định phác họa trong trí những ǵ Ngài tím cách sáng tạo và thể hiện theo đường lối của Thiên Cơ mới bắt đầu tượng h́nh. Bằng quyền năng tư tưởng do Ngài tập trung và điều khiển, Ngài thu hút lại gần Ngài người nào có tâm hồn ḥa đồng cùng một tiết điệu với Ngài do bởi cung liên hệ nghiệp quả, tŕnh độ tiến hóa và t́nh thương nhân loại. Những danh từ “tập trung” và điều khiển gồm thâu cái bí quyết của mọi kỹ thuật hay phương pháp đóng góp vào cái gọi là “Kho tàng tư tưởng” hay Đạo Viện. Đó là một sự tập trung kiên cường, đi đôi với một sự điều khiển mạnh mẽ làm cho cái kho tàng tư tưởng đó tác động góp phần vào việc phụng sự thế gian với một hiệu lực sáng tạo. Điều quan trọng mà người đệ tử chính thức phải hiểu là những ǵ Chân Sư muốn thực hiện qua sự trung gian của nhóm đệ tử. Điều này bắt buộc người đệ tử phải tự ḍ xét xem y có suy gẫm tập trung và hoạt động theo các đường lối như của Chân Sư chăng? Y tiến gần đến mức độ nào với những tư tưởng của Chân Sư? Do định luật huyền môn, Chân Sư không thể dùng áp lực hay quyền năng để bắt buộc tâm trí của người đệ tử phải hoạt động ḥa hợp với Ngài. Ngài không thể áp đặt ư chí của Ngài đối với người đệ tử. Những ước vọng, hoài băo và mong muốn của Ngài không nên dùng làm động cơ điều khiển để ảnh hưởng đến cuộc đời của những người mà Ngài tiếp xúc. Ngài có thể gieo ấn tượng vào trí năo họ với những ǵ Ngài cho là cần thiết trong những thời kỳ khủng hoảng của thế giới. Ngài có thể bày tỏ cho họ biết về những ǵ Ngài thấy cần phải làm. Nhưng người đệ tử phải có quyền tự do quyết định và chứng tỏ sự thành tâm thiện chí của ḿnh. Những đệ tử có chân trong một nhóm của Chân Sư do bởi sự tương đồng ư kiến, dẫu rằng họ cảm thấy và bày tỏ những ư kiến đó không rơ ràng được như Chân Sư và nh́n thấy viễn tượng một cách mơ hồ. Nhưng trên căn bản, họ cũng có những tin tưởng giống nhau và có nhiệm vụ khám phá những điểm ư hợp tâm đầu, hữu ích cho sự cố gắng tập thể, rồi kế đó sẽ hoàn toàn dấn thân và dâng hiến cuộc đời cho công cuộc phụng sự chung.

Ở nơi hậu trường của sự cố gắng đó, có sự bảo trợ của Chân Sư, là một trung tâm phát động và phân phối thần lực.

Mỗi Đạo Viện hay nhóm đệ tử nội môn vốn là một kho tàng tư tưởng vài cái nguồn tiếp liệu cho kho tàng đó, là những ư niệm, mơ ước, triển vọng và hoài băo của Chân Sư. Động cơ thúc đẩy là tiềm năng chơn thần của Ngài, chịu ảnh hưởng bởi Đấng Cao Cả là sư phụ của Ngài và được phát triển bảo dưỡng bởi kinh nghiệm của Ngài. Cái động cơ đó chuyển động khi Minh Triết của Ngài càng tăng và khả năng của Ngài để trợ giúp cho việc thực hiện Thiên Cơ đă được dâng hiến, sử dụng và tăng trưởng. Chừng đó, Đạo Viện sẽ trở nên một kho dự trữ tư tưởng rơ ràng, được tài bồi, bảo dưỡng từ cái nguồn sống, triển vọng tinh khiết và ước vọng hiến dâng của nhiều đệ tử.

Mỗi đệ tử có thệ nguyện được yêu cầu đóng góp vào kho tàng tư tưởng tinh khiết đó, nếu y làm được như vậy, th́ Đạo Viện sẽ có thể ứng đáp nhu cầu và trợ giúp mỗi đạo sinh vượt qua giai đoạn đệ tử dự bị để bước vào giai đoạn đệ tử chính thức. Mỗi trung tâm thần lực có một khu vực ảnh hưởng nhất định và một đạo sinh chân chính, hoạt động tích cực là một sức mạnh hữu hiệu trong cái trung tâm mà ta gọi là nhân loại.

Người đệ tử tự nhiên sẽ đặt câu hỏi bằng cách nào sức mạnh tư tưởng và bản năng tâm linh có liên hệ với nhau, làm cho chúng có thể tác động một cách xây dựng, và làm cho chúng tỏ sự liên hệ hỗ tương giữa chúng với nhau? Trước hết, hăy chú ư đến sự kiện này là chính cái bản năng thúc đẩy người đệ tử đáp ứng lời kêu gọi cùng sự rung động và nhóm của Chân Sư. Trong những giai đoạn sơ khai, bản năng là sự ứng đáp cơ cấu thể chất đối với ngoại giới gồm có 3 cơi là môi trường tiến hóa của nhân loại. Về sau, trên nấc thang tiến hóa, cái trí xuất hiện như một cơ quan diễn đạt nhờ đó tính chất của các cơ cấu và ngoại giới được hiểu biết lần lần. Các mối liên hệ trở nên sáng tỏ. Bản năng tâm linh là cái khả năng của linh hồn biết ghi nhận sự tiếp xúc với H.Đ.T.T, mà linh hồn là một phần tử, nội tại, cũng như trong một thể xác những sự ứng đáp do bản năng, những phản ứng và phản xạ tự nhiên của một người đều là những thành phần kết hợp trong một cơ cấu thể chất nhất định. Trong trường hợp bản năng tâm linh, chính trực giác diễn đạt và soi sáng cái trí. Sức mạnh tư tưởng như được sử dụng trong sinh hoạt của Đạo Viện, tùy nơi quyền năng của người đệ tử biết tập trung và nâng cao cái trí hữu thức để tiếp xúc với chân ngă và khêu gợi trực giác. Khi việc ấy được thực hiện tốt đẹp mới đến việc ḥa hợp ba yếu tố: sự soi sáng của thể trí động lực của chân ngă và linh cảm bằng trực giác. Sự hỗn hợp ba yếu tố này sẽ tạo nên loại tư tưởng hữu hiệu và xây dựng trong việc phụng sự Thiên Cơ, gây tinh thần vô kỷ vị tha, khai mở ḷng bác ái. Tùy theo khả năng của toàn nhóm nói chung có thể hoạt động dưới sự thúc đẩy của bản năng tâm linh mà Chân Sư mới thực hiện được tốt đẹp những kế hoạch của Ngài qua trung gian của nhóm. Trong định luật thiêng liêng, Ngài không làm việc một ḿnh, Ngài không thể hoạt động trong sự cô lập một ḿnh. Ngài có thể gieo cảm hứng dạy dỗ, yêu cầu hợp tác và giúp đỡ, d́u dắt trong công việc cần thiết. Ngài không làm ǵ khác hơn ngoài những việc đó. Trong chu kỳ thế giới hiện tại, công việc của H.Đ.T.T tùy một phần lớn nơi các đệ tử, bởi đó, họ có thể hiểu tại sao điều chướng ngại cuối cùng mà bị Chân Sư loại trừ là sự bực tức. Không một vị Đạo Đồ nào có thể thành lập một Đạo Viện thật sự cho đến khi nào mọi khả năng hiểu lầm, bực tức và chỉ trích đă biến mất. Sức mạnh tư tưởng của một Chân Sư, nếu bị lạm dụng có thể là một sức mạnh có tiềm năng tàn phá ghê gớm. Ngài phải có đầy đủ sự tự tín trước khi Đạo Viện của Ngài có thể hoạt động một cách đúng đắn và an toàn.

Công việc của người đệ tử hầu như hoàn toàn gồm những phương pháp sử dụng năng lực và sức mạnh. Sự học hỏi đạo lư huyền môn là sự khảo cứu về những năng lực, cùng nguồn gốc và ảnh hưởng của sức mạnh. Một Đạo Viện là nơi mà sự nghiên cứu các nguồn năng lực bước vào một giai đoạn thí nghiệm, người đệ tử hẳn là đă ư thức được sức mạnh và năng lực nào góp phần vào việc cấu tạo nên bản thân y. những năng lực đó xuất phát từ bên trong con người của y, gây nên các biến đổi và ảnh hưởng nhất định trong sinh hoạt của y trên thế giới. Khi nào y tự biết ḿnh là sự sống và những đời sống (như đă đề cập trong bộ Giáo lư Bí truyền) một tổng hợp các sức mạnh và một năng lực kiềm chế, th́ chừng đó y có thể là một đệ tử của thế gian và hoạt động hữu hiệu trong một Đạo Viện.

Bởi vậy khi một đệ tử gia nhập một Đạo Viện và làm việc trong mối liên hệ chặt chẽ với Chân Sư hơn trước, y bắt đầu cộng tác đến mức tối đa với các bạn đồng môn. Đó là sự tái diễn mối liên hệ giữa “sự sống” (trong trường hợp này là Chân Sư) và “những đời sống” (trong trường hợp này là các đệ tử) tức mối liên hệ giữa nguồn năng lực trung ương và những sức mạnh đáp ứng. Xét theo quan điểm của Chân Sư về vấn đề nhóm, có đối tượng lưỡng nguyên xuất hiện trong sự biểu lộ của nhóm. Chân Sư, trên vị thế là nguồn năng lực trung ương, phải biểu lộ xuyên qua các sức mạnh. Xét theo khía cạnh của người đệ tử, một sức mạnh (chính là y) được liên kết với những sức mạnh khác (đồng thời nó phải đáp ứng với một năng lực đó là năng lực của Chân Sư. Sự đáp ứng này là do việc thừa nhận có sự tương đồng về mục đích, về nguồn gốc và tính chất, nhưng không tương đồng trên địa hạt biểu lộ. Bởi vậy Đạo Viện thật ra là một trung tâm quy tụ các sức mạnh được chuyển vận bởi nhiều loại năng lực trong phạm vi khu vực ảnh hưởng của Đạo Viện. Những nguyên tắc căn bản của đối tượng nhị nguyên được nhận thấy khi năng lực tinh thần tác động trên sức mạnh của chân ngă và sức mạnh của phàm ngă. Nên nhớ rằng Chân Sư biểu lộ năng lực của chơn thần, c̣n các đệ tử trong nhóm của Ngài đang t́m cách biểu lộ năng lực của chân ngă và họ đang thực hiện điều ấy một phần nào bằng t́nh thương và phụng sự. Trong khi đó, họ cũng phát động sức mạnh của phàm ngă do bởi họ vẫn c̣n bị phàm ngă chi phối trong cuộc đời hàng ngày, dù rằng họ vẫn có sự ngưỡng vọng về chân ngă. Bởi đó, họ được hữu ích theo quan điểm của Chân Sư. Đồng thời đó cũng là lư do của mọi sự khó khăn và đôi khi của sự thất bại trên đường hành đạo của họ.

Bởi vậy, người đệ tử phải ḍ xét ảnh hưởng của ba loại năng lực, tất cả đều tác động vào bản thân của y kể ra như sau:

1) Những năng lực thuộc về tính chất cá biệt của y (thể chất, xúc cảm và trí năng) và những năng lực đến với y từ chân ngă (hay linh hồn)

2) Những năng lực đến với y từ những bạn đồng môn trong nhóm hay Đạo Viện. Ảnh hưởng này sẽ tùy nơi thái độ tách rời bản ngă của y và do y dễ đáp ứng với những ǵ đến với y từ những người bạn đạo. Theo định luật huyền môn, khi t́nh thương của ta càng sâu đậm, ta càng có thể đáp ứng và dung nạp dễ dàng những quan điểm, tính chất và năng lực của những người đồng loại. Điều này cũng đặc biệt áp dụng cho một nhóm đệ tử. Phần nhiều các đệ tử không có sự ứng đáp bén nhạy đối với kẻ khác, là v́ họ quá chú trọng đến bản thân và quá lo chăm sóc đến sự tiến bộ cá nhân của họ.

Những năng lực đă thăng hoa xuất phát từ Chân Sư hay là được Chân Sư dụng tâm chuyển đạt cho người đệ tử.

Mục đích của mọi công việc làm của người đệ tử dù là trong nhóm hay Đạo Viện là sự biểu lộ của hành động sáng tạo tập thể. Điều này được tóm tắt trong câu “Sự sống và những đời sống” đă nêu ra ở trên. Một ư niệm tương tự với những ảnh hưởng liên hệ được nhận thấy rơ trong việc Chân Sư (trong cương vị tinh thần hay chơn thần) tự phản ảnh hay giao nguồn cảm hứng cho người đệ tử (cương vị chân ngă hay linh hồn) và do đó người đệ tử có thể chứng minh sự hoạt động của chân ngă trên cơi hạ giới.

Chúng ta hăy xem xét tính chất của một nhóm đệ tử của Chân Sư đôi khi gọi là Đạo Viện, trong nhiều chi tiết hơn. Tôi muốn định nghĩa chữ Đạo Viện để chư môn đệ có một ư niệm rơ ràng về sự khác nhau giữa một nhóm đệ tử đặc biệt của Chân Sư và nhiều nhóm ngoại môn khác. Những nhóm này tuy cũng hoạt động dưới sự d́u dắt của Ngài và có mục đích phụng sự Thiên Cơ, nhưng không nhất định được gọi là Đạo Viện.

Một Đạo Viện là một sự hỗn hợp nội tại các chân ngă chớ không phải phàm ngă, hội họp chung nhau v́ mục đích phụng sự. Đó là sự ḥa hợp những hoạt động cá biệt vào thành một tập đoàn. Tập đoàn này được hợp nhất về phương diện mục đích và triển vọng, nhưng thường có những phương pháp và kỹ thuật khác nhau. Công việc của Đạo Viện là tŕnh bày cho thế gian những mục đích phụng sự được xúc tiến cách nào cho phù hợp tối đa với khả năng của người đệ tử, dưới “ấn tượng” của Chân Sư, và với sự hợp tác của toàn nhóm của Ngài. Một nhóm đệ tử không cam kết làm cùng một loại công việc giống nhau theo cùng một phương pháp và cùng đồng một lúc. Họ cam kết làm việc dưới cảm hứng của chân ngă, dưới sự điều khiển, chỉ đạo của linh hồn và được tăng cường bởi sự tiếp xúc với Chân Sư và tiếp xúc giữa họ với nhau. Họ có liên hệ với nhau bởi họ cùng đồng có chung một triển vọng, một tiết điệu rung động cộng với sự tương thân tương kính và nhất là sự hoàn toàn tự do.

Một Đạo Viện không phải là một nhóm người hoạt động dưới sự bảo trợ của một Chân Sư. Đây là một điều quan trọng cần nhớ. Như đă nói ở trên đó là một điểm từ điểm cao độ một sự hỗn hợp các năng lực, nhắm vào một trung tâm cộng đồng và bao gồm 2 yếu tố từ điển.

1) Một động lực thống nhất nhắm về sự hội họp tập thể trên cơi trí tuệ (thượng giới). Điều này tương hợp trên một b́nh diện cao hơn với bản năng quần tụ của loài thú và của loài người nhưng thuộc tính chất tâm linh và được thúc đẩy bởi một động cơ khác hẳn. Bản năng quần tụ thấp hơn của loài cầm thú phần lớn được thúc đẩy bởi động lực của bản năng tự vệ. Bản năng quần tụ cao hơn của loài người là do động cơ thừa nhân tính chất bất diệt của linh hồn, và bản năng phụng sự dù rằng phải hy sinh bản thân ḿnh. Định luật “chết để mà sống” cai quản mọi sự. Khi sức hấp dẫn từ điển của nhóm đủ mạnh th́ sự sống của phàm ngă tự hủy diệt. Bởi vậy khi mà nhóm đệ tử trong tất cả mọi thành phần, chưa biểu lộ được cái động lực hy sinh hướng ngoại nói trên th́ nó vẫn chưa phải là một Đạo Viện.

2) Sức hấp dẫn từ điển của điểm tích cực ở tại chính trung tâm của nhóm. Đó là sức hấp dẫn từ điển của Chân Sư. Như chư môn đệ đă biết, ít nhất trên lư thuyết ở trung tâm Đạo Viện luôn luôn có một Chân Sư hoặc một Đạo Đồ hoặc một đệ tử của thế gian. Vị ấy có nhiệm vụ ḥa hợp kết nạp những năng lực do các đệ tử trong nhóm cung hiến v́ lư tưởng phụng sự, và chỉ định cho họ những công tác phụng sự trên các địa hạt khác nhau. Phương thức hoạt động thuần bản năng tính ấy được gọi là sự vâng lời bậc trưởng thượng trong huyền môn, nó được tự nguyện cung ứng và đồng loạt tuân theo. Khi một nhóm (dưới sự điều khiển của một Chân Sư) được thúc đẩy bởi một động lực tâm linh và hoạt động xuyên qua một tổ chức cố định (giống như âm điện tử xoay chung quanh một nhân có điện dương trong một nguyên tử) th́ tiềm năng của nhóm sẽ trở nên hữu hiệu cấp thời chứ không phải trước đó.

Đến đây, tôi muốn chỉ cho chư môn đệ thấy rằng sự tương qua giữa một Đạo Viện nội môn với một nhóm đệ tử ngoại môn cũng giống như mối tương quan giữa chân ngă và triển vọng của nó đối với người đệ tử cá biệt hoạt động, với những hạ thế của phàm ngă. Đó là một nơi để sử dụng nội tâm. Bởi vậy các đệ tử có thể nắm vững sự tiến bộ của ḿnh khi hướng về sự kết hợp thành một Đạo Viện, bằng sự phát triển nhăn quang tâm linh để nhận thức tiềm năng nội tại của nhóm và phát triển khả năng tiếp xúc dễ dàng với Chân Sư, trong cương vị cá nhân cũng như tập thể.

Một trong những công việc mà Chân Sư phải làm là dạy các đệ tử nghiên cứu và ghi nhận trung thực điểm tập trung thường lệ của họ làm hằng ngày. Đó là công phu hồi quang phản chiếu thật sự, và nếu được tập luyện một cách khôn ngoan sẽ đưa đến sự nhận định tâm thức nội tại chân thật và trường cửu. Nó cũng thừa nhận nhu cầu thắng đoạt sự thiếu sót giới hạn (thường không phải những sự thiếu sót được ghi nhận) và nhu cầu phá tan những chướng ngại của phàm ngă. Toàn bộ phương thức này có thể tóm tắt trong những lời sau đây: Mục đích của Đạo Viện là sự hành đạo trong đó là giúp cho người đệ tử sống một đời sống chân thật trên mọi cơi giới mà y đă khai mở được cho hoạt động tâm thức của ḿnh. Nên nhớ rằng không một người nào được nhận vào một Đạo Viện trước khi ư đă vượt qua khỏi giới hạn tâm thức cá biệt, trước khi y đă nhạy cảm đối với cung và tính chất của Chân Sư và trước khi y có được cái ư thức về chân ngă.

Sự thực hiện những điều này đặt thành một vấn đề trách nhiệm lớn. Việc đảm đương trách nhiệm ấy đưa đến những dấu hiệu đầu tiên của điều gọi là “Tâm thức Đạo Viện”, một tâm thức hoàn toàn không vị ngă và luôn luôn chú trọng đến những điều căn bản của sự sinh hoạt tâm linh.

Những điều bận tâm của người đệ tử vào lúc bắt đầu công phu tu luyện có một tính chất rất phức tạp về đời sống trong Đạo Viện thường chỉ là một bối cảnh lư thú cho kinh nghiệm và sự sống hàng ngày, chứ không phải là cái yếu tố có tầm mức quan trọng như nó phải có. Những nhu cầu về sinh kế, những sự tiếp xúc với gia đ́nh, sự bất măn về cuộc đời và những va chạm phũ phàng của đời sống, sự không ưa bị chỉ trích và hiểu lầm, những áp lực của sự khai mở tâm linh và những việc nhỏ mọn của đời sống hàng ngày, thường là những điều bận trí quá lớn, đến nổi đời sống Đạo Viện chỉ là một nguồn cảm hứng thoáng qua một đôi khi thay v́ là một tập quán sinh hoạt cố định. Khả năng so sánh có tính chất bất lợi chân ngă kẻ khác (nhất là cho các bạn đồng môn hay cho hoàn cảnh riêng của ḿnh) sự sợ sệt phải hy sinh quá nhiều cho đời sống của Đạo Viện, sự băn khoăn lo ngại cho tương lai và bao nhiêu h́nh tư tưởng khác nữa, cộng với sự chú trọng quá đáng vào sự sinh hoạt chu kỳ của thể xác, đặt trước Chân Sư một h́nh ảnh với những khó khăn chướng ngại thật là khủng khiếp mà Ngài phải đương đầu. Yếu tố về thái độ của Chân Sư là điều mà các đệ tử rất dễ quên bởi v́ họ chỉ thường chú trọng đến bản thân ḿnh cùng những nỗi khó khăn và phản ứng riêng của họ thôi.

Có điều nên ghi nhận là những đệ tử trong một Đạo Viện rất đặc biệt bận rộn về các vấn đề thế sự. Trong cương vị tập thể của một nhóm, họ cam kết làm công việc thế gian, với tư cách cá nhân, họ học tập làm công việc đó. Những đệ tử tương lai cần phân biệt giữa ảnh hưởng từ điển của nhóm và sự cố gắng có ư thức mà nhóm có thể làm dưới sự ước muốn hợp nhất và sự điều khiển của Chân Sư, để thấu đạt tới trí óc những nhà lănh đạo thế gian đang nắm vận mệnh của thế giới. Những biến cố bên ngoài, trong một giới hạn nào đó có thể tiên liệu trước v́ chúng là hậu quả của những nguyên nhân ẩn tàng chôn sâu trong tiềm thức nhân loại. Các biến cố đó có thể được ghi nhận và trong một giới hạn nào đó có thể bị đảo lộn hay khích động bởi tiềm năng của nhóm đệ tử. Đó là một trong những công việc quan trọng của H.Đ.T.T. Các Chân Sư làm việc trong ánh sáng và trong cơi giới nguyên nhân. Các đệ tử đương nhiên c̣n lặn hụp trong cơi giới hậu quả, và do đó c̣n bị đắm ch́m trong ảo giác, ảo ảnh.

Sự tác động hữu hiệu của những điểm tập trung năng lực tâm linh ở cơi giới, đương nhiên phải hội đủ những yếu tố sau đây:

Một sâu xa, không lầm lẫn để “nh́n thấy” trong ánh sáng. T́nh thương vốn là động lực khai sáng thật sự.

Khả năng rút lui hoàn toàn trên cương vị cá nhân cũng như tập thể, ra khỏi thế giới của những phản ứng thể chất và những dao động xúc cảm và thuần hoạt động trên cơi trí tuệ. Ở mức độ đó, người đệ tử tập trung tâm thức nơi hạ trí, nhưng hướng một cách ư thức về chân ngă và lần lần càng trở nên nhạy cảm đối với trực giác, triển vọng và Thiên Cơ cũng như đối với linh hồn của nhóm và đối với Chân Sư, tất cả đều theo cái trật tự ứng đáp như vừa tŕnh bày.

Kế đó là cái khả năng trên cương vị một nhóm, phác họa cái ảnh hưởng mong muốn của tư tưởng bằng cách nào để cho nó thấu triệt đạt tới trí năo, tâm hồn của những người mà ḿnh muốn tiếp xúc. Đó là cái khả năng phóng phát h́nh tư tưởng được cấu tạo cách nào để cho nó thuộc về loại tư tưởng có tính chất cần thiết để khêu gợi sự đáp ứng và như vậy để có thể thỏa măn nhu cầu của những người mà ḿnh muốn giúp đỡ và nâng cao t́nh thương. H́nh tư tưởng phóng ra sẽ thể hiện ánh sáng và t́nh thương, cũng như thể hiện ư niệm của nhóm đúng như triển vọng mong ước.

Có bao nhiêu người có thể làm được việc này? Hiện nay thật sự chưa có bao nhiêu. Các đệ tử thường chú trọng đến sự mong ước giúp đỡ hơn là kỹ thuật giúp đỡ một cách khoa học. Họ phải coi sự mong ước đó như một việc đương nhiên, rồi quên nó đi không nghĩ đến nữa. Tất cả các đệ tử trong lúc này hăy cố gắng có một triển vọng sáng suốt để thừa nhận những người ở chức vụ lănh đạo có trách nhiệm d́u dắt hướng dẫn nhân loại thoát ra khỏi ṿng nô lệ để thực hiện tự do. Hăy trợ giúp họ với t́nh thương bởi v́ họ ở địa vị của họ hiện thời là do định mệnh cá nhân và do sự d́u dắt của chân ngă. Cuộc đời phải được nhận xét đúng đắn và sống một cách thực tế, không phải thực tế theo ư nghĩa thế tục mà thực tế theo quan điểm chân ngă hay linh hồn. Triển vọng của nó vốn trường kỳ và bao quát nên nó nh́n thấy rơ chân tường của cuộc đời.

Chấp nhận sự kiện là một trong những bổn phận đầu tiên của người đệ tử. Trong việc giúp đỡ nhân loại, với tư cách một thành viên của nhóm đệ tử hay Đạo Viện của Chân Sư, sự kiện rằng có những người nam và nữ nắm giữ những chức vụ quyền hành để thực hiện Thiên Cơ là một trong những sự kiện đầu tiên mà y gặp phải. Y phải chấp nhận điều đó với một tinh thần không chỉ trích, không nên lúc nào cũng nh́n thấy khuyết điểm mà hăy thông cảm những vấn đề khó khăn của họ, nhận thức tiếng gọi của chân ngă giữa họ với ḿnh và thường xuyên ban rải cho họ t́nh thương và hiểu biết. Họ là những đệ tử tiến bộ hơn chư môn đệ, tuy rằng điều ấy không ai biết rơ. Họ được đặt dưới ấn tượng của Chân Sư một cách hữu thức hay vô thức. Người đệ tử trung b́nh không thể làm được ǵ nhiều trong việc uốn nắn tư tưởng hay ảnh hưởng đến những quyết định của họ. Tự nhiên là tôi đề cập đến những nhà lănh đạo thuộc về những lực lượng của ánh sáng trên cơi hạ giới. Nhưng các Đạo sinh và đệ tử có thể bảo vệ họ với một bức tường rào ánh sáng và t́nh thương, đừng gây chướng ngại cho họ bằng những tư tưởng chỉ trích để khỏi tăng cường thêm làn sóng chỉ trích của thế gian. C̣n việc toan tính ảnh hưởng đến các nhà lănh đạo lực lượng của chủ nghĩa duy vật th́ tôi yêu cầu chư môn đệ dùng làm. Điều này có thể làm được dễ dàng hơn v́ phàm ngă của người đệ tử sẽ tạo nên một cánh cửa mở rộng cho việc tiếp xúc. Nhưng họ mạnh hơn người đệ tử trung b́nh rất nhiều, và bởi vậy, việc ấy vô cùng nguy hiểm.

Trong thế hệ Bảo B́nh sắp đến, sẽ có sự bành trướng ra ngoài Đạo Viện nội tại trên thế gian. Những đệ tử, Đạo Đồ và đệ tử thế gian sẽ gặp nhau lần đầu tiên trong lịch sử, sẽ nh́n ra lẫn nhau và nh́n ra Chân Sư của họ trong nhóm của họ. Đạo Viện nội tại là một nơi tập trung những chân ngă tự do và không giới hạn. C̣n Đạo Viện ngoại tại, dưới sự thí nghiệm tương lai của thế hệ Bảo B́nh, sẽ gồm có một sự tập trung các phàm ngă và chân ngă. Bởi vậy, sự giới hạn vẫn c̣n.

Đạo Viện thật sự, mà những Đạo Viện ngoại tại sắp đến chỉ là những phản ảnh không thể nghị luận phân tích bằng hạ trí. Nó là một điểm tập trung của sự thụ cảm. Nó bao gồm cố gắng thiết lập sự tương hợp xuyên qua sự đồng nhất thừa nhận lư tưởng, thừa nhận căn bản huyền nhiệm của đời sống và những định luật chi phối sự hành động. Tuy nhiên, nó không phải là một nơi thực hành những pháp môn thiền định lâu dài và thầm lặng, v́ nó là một điểm cao thế, tại đó những khía cạnh thâm sâu, bí nhiệm nhất của nền minh triết cổ truyền được đem ra luận bàn, tính chất mối tương quan của linh hồn được nh́n nhận và sự hỗn hợp các hào quang cùng sự ḥa hợp các tam giác, vẫn tiến hành một cách ư thức. Một Đạo Viện là cái tâm trạng của một nhóm tâm linh, một điểm tư tưởng hợp nhất, một trung tâm làm sáng tỏ triển vọng chứ không phải một trung tâm hoạt động theo những phương pháp của trần gian. Tuy những đệ tử tập kết hợp với nhau trong Đạo Viện của Chân Sư, họ nhận thấy rằng điều trước tiên mà họ phải làm là thiết lập sự điều ḥa căn bản giữa họ với các bạn đồng môn và tăng cường mối liên giao giữa linh hồn của họ với nhóm và với Chân Sư. Chừng đó, bằng sự thảo luận và thí nghiệm, họ sẽ t́m hiểu tính chất của những năng lực mới đang t́m cách biểu lộ ra ngoài thế gian và tính chất của những lực lượng phải được hóa giải, nếu những năng lực mới này cần phải tác động hữu hiệu để đem lại những biến đổi mong muốn theo kế hoạch của Thiên Cơ.

Họ cũng sẽ được biết rằng, với tư cách cá nhân biệt lập, không có một sở trường hay sở đoản nào trong tâm tính của họ thoát ra khỏi tầm mắt ḍ xét của toàn nhóm. Như vậy họ sẽ có cơ hội lột bỏ tất cả những lớp màn che dấu, ngăn cản sự chói rạng của ánh sáng chân ngă. Mục tiêu của việc làm trong Đạo Viện của Chân Sư là sự thật, khi các đệ tử làm việc bằng cách đó từ trung tâm ánh sáng, hiểu biết về chân lư, trong đó càng ngày họ càng kết hợp chặt chẽ hơn, th́ họ lại càng tăng gia hiệu năng phụng sự lên gấp bội. Trên cương vị của một nhóm tập thể, họ sẽ biết những ǵ cần phải làm và cứu cánh sẽ thành tựu như ư muốn.

Nhiệm vụ chính của Chân Sư trong những giai đoạn đầu của việc huấn luyện đệ tử là chấm dứt thời kỳ mà người đệ tử chỉ bận rộn những ư nghĩ cá nhân, với công việc làm, với phản ứng đối với Chân Sư, hay với sự hứa hẹn tiếp xúc với chân ngă trong tương lai, với những ư nghĩ riêng tư về con đường đệ tử và những sự diễn đạt chân lư theo quan niệm cá nhân của y. Chân Sư quy tụ một nhóm đệ tử có các thành kiến cố định mà họ hoàn toàn chắc là đúng, v́ đó là những ǵ tốt đẹp nhất và cao cả nhất mà họ quan niệm từ trước nay. Họ cả quyết chắc chắn rằng họ đă tới giai đoạn mà họ đă ghi nhận vài quan niệm và giá trị tâm linh nào đó, đă thấu hiểu chân lư đến một mức độ nào đó và sốt sắng mong mỏi, vượt lên bậc thang kế tiếp. Bởi vậy, việc làm đầu tiên của Chân Sư là phá vỡ các thành kiến đó, làm cho họ ư thức sâu xa về tính cách hư giả, bất ổn của những công thức và biểu tượng của hạ trí thấp kém và chuẩn bị cho họ tiếp nhận những đường lối mới hơn và cao hơn khả dĩ đưa đến chân lư. Điều này thường được thực hiện bằng cách bắt buộc họ duyệt xét lại tất cả những kết luận đă có trong quá khứ.

Tất cả chúng ta là những đệ tử và đạo đồ ở mọi tŕnh độ cấp đẳng đều phải bước vào nơi bí nhiệm của cuộc Điểm Đạo với một ư thức mù quáng (hay lạc mất đường lối) và với một cảm giác hoàn toàn cô đơn. Người đệ tử nên nhớ ằng y phải trở nên một điểm di động và từ đó thành một đường thẳng, y tiến lên hàng ngũ H.Đ.T.T và khoác lấy một thái độ tâm linh đúng đắn. Nhưng đồng thời y cũng giáng thấp xuống vực sâu của những nỗi khó khăn và tội lỗi của nhân loại nếu cần. Trong khi đó y vẫn ǵn giữ toàn vẹn thái độ tâm linh của ḿnh, nhưng sẽ học được ba bài học quan trọng sau đây:

1) Nh́n nhận rằng ḿnh cùng chia sẻ tất cả mọi khuynh hướng của con người. Tốt cũng hư xấu và do đó, y có thể phụng sự.

2) Nhận thức rằng điều mà y sợ hăi và ghê tởm nhất chính là điều đang ngự trị mạnh mẽ trong tâm hồn y, nhưng chưa bộc lộ ra ngoài. Y cũng thấy rằng y c̣n phải thám hiểm và t́m hiểu những khu vực sợ hăi và ghê tởm đó trong tâm thức của y để làm sao cho cứu cánh chúng sẽ trở nên một điều tốt lành, thay v́ là điều dở cần phải tránh. Y tập đức vô úy, ḷng không sợ sệt, y là tất cả mọi sự, y là một người nhưng cũng là một nhà thần bí, một nhà huyền học, một đạo gia và một đệ tử. Bởi v́ y đă khai mở tất cả những trạng thái tâm thức đó, nên cứu cánh y trở nên một Chân Sư.

3) Nhận thức sự vô lư của những thái độ xử kỷ tiếp vật và lối sống đă qua thường căn cứ trên truyền thống và hoàn cảnh, có tính chất ngăn cách chia rẽ y với người khác.

Khi người đệ tử thật sự học được ba điều ấy, y trở nên một vị cao đồ.

 

PHẦN IV

Trong khi học hỏi về những giai đoạn trên đường đạo mà tất cả mọi người phải đi qua, chúng ta sẽ nhận thấy một điều là đời sống hàng ngày của người đệ tử sẽ toát ra một ảnh hưởng tốt lành. Ảnh hưởng đó xuất phát từ “cơi giới ư nghĩa”, trong đó người đệ tử tập sống có ư thức và thường xuyên. Một trong những vấn đề của Chân Sư liên hệ đến đệ tử là dạy cho họ biết ư nghĩa sâu xa của những sự vật quen thuộc và tầm mức quan trọng của những chân lư tiềm tàng bên trong tất cả những sự việc tầm thường. Đó có lẽ là việc khó khăn nhất v́ sự phản ứng cố hữu của người đời đối với những sự vật quen thuộc và bởi v́ cần phải làm 2 điều: chứng tỏ rằng vật quen thuộc có ẩn dấu một sự thật quan trọng, và bằng cách đi sâu vào cơi giới ư nghĩa, người đệ tử thấy rằng y có thể bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ chuẩn bị đệ tử chính thức.

Giai đoạn đầu mà chúng ta phải nghiên cứu là giai đoạn “Tiểu đệ tử”. Bàn về giai đoạn này cũng như tất cả các giai đoạn khác, hăy nên nhớ rằng tôi muốn đề cập vấn đề trên khía cạnh việc làm của Chân Sư, chứ không phải trên khía cạnh việc làm của người đệ tử, đến nổi sự quá quen thuộc với đề tài làm cho người ta không có được sự thẩm định đúng mức. Sự cố gắng t́m hiểu đă được tập trung vào người đệ tử cùng những vấn đề tính hạnh và bản ngă của y. Tôi không thể giăi bày việc này trong từng chi tiết. Tôi chỉ có ư định tŕnh giăi đến mức tối đa bằng cách nào một Chân Sư chuẩn bị cho người đệ tử trên đường dự bị bước vào con đường nhập môn. Tôi sẽ nói về thời kỳ bao gồm luôn các giai đoạn trên con đường đệ tử từ giai đoạn đầu tiên đến giai đoạn siêu phàm. Ở giai đoạn thứ tư, người đệ tử thoát ra ngoài nhóm của Chân Sư và trở nên một khía cạnh cố định của H.Đ.T.T, theo danh từ huyền môn. Đó là một câu hoàn toàn vô nghĩa đối với chư môn đệ. Khi đó y bước vào ṿng ảnh hưởng của SHAMBALLA, và phương pháp chuẩn bị cho người đệ tử có sự kết hợp với trung tâm đầu tiên đó rất khác với việc chuẩn bị cho họ tham dự vào công việc của trung tâm mà chúng ta gọi là H.Đ.T.T. Một đằng th́ chủ trương phát triển t́nh thương và tâm thức tập thể, c̣n một đằng th́ chủ trương tăng cường ư chí và đạt tới giai đoạn mà Đạo PATANJALI gọi là “sự hợp nhất cô lập”. Đó cũng là một câu hoàn toàn vô nghĩa nữa đối với người nào c̣n ở dưới tŕnh độ được ba lần điểm đạo. Trong cuộc tham luận này, tôi sẽ không nói đến việc chuẩn bị cho những cuộc điểm đạo và những điểm khác nhau của chúng. Tôi sẽ nói về sự tăng trưởng của cái gọi là sự “thân mật tâm linh” trong Đạo Viện đề cập đến thái độ của người đệ tử đối với thế giới linh hồn và sự khai triền tâm thức của y trong mối tương quan một liên hệ với H.Đ.T.T. Tôi sẽ chú trọng đến việc phát triển khả năng sáng tạo của y, không phải sáng tạo h́nh thể mà là sự sáng tạo sự rung động, ảnh hưởng của nó đối với thế giới loài người và sự xuất hiện sau đó của những cơ phận đáp ứng khác hẳn với những h́nh thể sáng tạo. Chư môn đệ hăy suy gẫm về tư tưởng này.

Sự phát triển khả năng nhạy cảm là một điều khó hiểu. Các thành viên trong một nhóm hay Đạo Viện của Chân Sư phải ngày càng trở nên nhạy cảm, nhạy cảm đối với Chân Sư và đối với những cộng tác viên đă phát hiện của Ngài. Người ta không thể trở nên nhạy cảm bằng cách dùng những phương pháp nọ kia bằng công phu tập luyện. Mọi người đều nhạy cảm, nhưng họ không biết đó thôi, v́ họ quá bận rộn với những vấn đề thế tục, với sự sống thể chất và ngoại vật của trần gian. Tôi thử đặt lại câu nói ấy như sau: những ǵ chư môn đệ nói với chính ḿnh và với kẻ khác, bằng lời nói hay bằng cách sinh hoạt hàng ngày, thật là ồn ào đến nổi chư môn đệ không dễ ǵ mà hiện rơ chân tướng của ḿnh và được nh́n nhận như một thực thể tâm linh. Chân Sư được d́u dắt bởi những ǵ Ngài biết về người đệ tử trong những giờ phút ngưỡng vọng yên lặng, âm thầm bởi những khuynh hướng sinh hoạt cố hữu mà người đệ tử đă chứng tỏ trong nhiều năm và bởi cách phản ứng của y trong những cơn khủng hoảng hay biến động. Nhiệm vụ của Chân Sư là khích động người đệ tử để cho y giữ vững những khuynh hướng tốt lành cao cả nhất của y vào bất cứ lúc nào chứ không phải vào những lúc ngẫu hứng nhất thời mà thôi. Đó là v́ thế gian đang cần cấp bách những người phụng sự thông minh, ưu ái, vô ngă và tiến bộ, nhất là ở vào thời buổi này. Nhiều người đă đạt tới mức độ có thể trở nên nhạy cảm nếu họ biết dập tắt những ước vọng của phàm ngă và để cho áp dụng chân ngă được tự do chói rạng. Chừng đó họ có thể làm cho công việc của Chân Sư được dễ dàng bằng cách chuyên chú một cách hăng say vào đời sống tâm linh và không lưu ư đến phần cá nhân của ḿnh cũng như của Chân Sư. Khi đó sẽ có nhiều phương pháp được tiết lộ để trợ giúp cho sự tác động hỗ tương giữa sư phụ và đệ tử.

V́ tất cà các cung đều là cung phụ của cung thứ hai, chúng ta sẽ đặc biệt chú trọng tới những phương pháp tác động của cung 2 đối với các đệ tử. Những phương pháp đó là căn bản của tất cả những kỹ thuật khác. Những sự dị biệt đó nếu có, là do sự áp dụng những phương thức tùy theo từng loại cung và tùy nơi việc đặt trọng tâm trên những bí huyệt hay luân xa nhất định nào đó. Hăy suy gẫm về điều này bởi v́ nó chứa đựng nhiều ư nghĩa cho người nào có thể hiểu nó bằng ánh sáng của trực giác. Tôi sẽ nói về sự liên hệ của Chân Sư và nhóm đệ tử của Ngài đối với người đệ tử, chứ không nói nhiều về thái độ của người đệ tử.

Trên căn bản, thái độ của người đệ tử thật ra không quan trọng bao nhiêu, so với ảnh hưởng và những kỹ thuật tác động của H.Đ.T.T đối với y. Các kết quả sẽ đến một cách đương nhiên, bởi v́ chúng tùy nơi hai yếu tố:

1) Yếu tố thứ nhất là ấn tượng của H.Đ.T.T không được áp đặt cho người đệ tử cho đến đến khi nào y đă tự chuẩn bị đầy đủ bằng sự tŕ giới, khắc kỷ để đáp ứng với ấn tượng ấy, và do đó đă tiến gần đến mức cuối cùng của đường đạo.

2) Yếu tố thứ hai là sự đáp ứng tập thể của toàn nhóm. Điều này có nghĩa là đáp ứng theo 2 đường lối:

a) Đáp ứng với nhu cầu của nhân loại, hậu quả là đưa đến một đời sống hiến dâng cho việc phụng sự.

b) Đáp ứng với ấn tượng của chân ngă đưa đến sự nhạy cảm tâm linh.

Khi 2 yếu tố này đă được thiết lập (dù cho người đệ tử không hay biết trong khi thức tỉnh). Sự chế ngự của chân ngă đối với phàm ngă trở nên chắc chắn không thể suy chuyển. Khi đó và chỉ đến khi đó, Chân Sư mới có thể bắt đầu tác động và sự đáp ứng sẽ hữu hiệu, thật sự và bền vững. Bây giờ chúng ta sẽ nghiên cứu những giai đoạn trên Đường Đạo đă được tŕnh bày ở giai đoạn sơ giăi nơi trang đầu, chương hai.

Giai đoạn 1 – Người đệ tử sơ cơ

Nhiều người đă vượt qua khỏi giai đoạn sơ cơ này rất xa. Dấu hiệu đầu tiên chỉ rằng một người đă đạt tới giai đoạn này (nh́n từ khía cạnh Chân Sư) là khi tia sáng lóe ra trong một kiếp nào đó, làm cho sư phụ chú ư đến người ấy. Có thể nói rằng y phải qua 4 sự diễn biến cùng đồng loạt xuất hiện th́ y mới được Chân Sư chú ư.

1) Nguyện vọng tâm linh của người ấy trên cơi trần th́nh ĺnh giúp cho y thức động được chân ngă. Ngay khi việc ấy xảy ra, ánh sáng trong đầu y nhất thời bằng lóe lên.

2) Tác động của nghiệp qua trong đời y trở nên tăng gia rất nhiều, và ngoài nghiệp quả cá nhân của y, lần đầu tiên y tham dự và gánh vác một phần nghiệp quả của nhóm. Sự trả quả song phương này tạo nên một ṿng xoáy năng lực trong hào quang của nhóm và điều này hấp dẫn sự chú ư của H.Đ.T.T.

Điều kế đó không dễ giải thích hay dễ hiểu. Chư môn đệ đă nghe nói linh hồn vốn ch́m đắm trong cơn thiền định thâm sâu trong nhiều kiếp, chỉ khi nào phàm ngă được tinh luyện đến một mức độ khả quan, th́ linh hồn mới không c̣n chú ư đến những việc nội tại riêng tư của nó, mà bắt đầu chú ư đến phàm ngă. Khi việc ấy xảy ra, Chân Sư biết ngay sự diễn biến này mà huyền môn gọi là sự nh́n xuống của linh hồn. Trên đường đạo, chân ngă luôn luôn ư thức sự chiến đấu của phàm ngă và sẽ đến giai đoạn (ở khoảng cùng tột của con đường tiến hóa) mà linh hồn ôn lại những giai đoạn nhập thể và xuất thể của diễn tŕnh tiến hóa.

Năng lực của linh hồn giáng xuống và sức mạnh của phàm ngă đi lên, điều này diễn ra bằng một phương thức giáng và thăng một cách có ư thức. Đó là phương thức hành động của chân ngă dưới động lực thúc đẩy của Thiên Cơ, chứ không phải phương thức của phàm ngă kêu gọi đến linh hồn do bởi nhu cầu khẩn thiết mà sự tuần tự chế dục tạo nên trong tâm thức hạ đẳng của y.

Lần lần đường giao thông được thiết lập và do đó “ánh sáng lớn và ánh sáng nhỏ” được giao tiếp với nhau một cách có ư thức. Một đường áp dụng và năng lực được tạo ra giữa 2 khí cạnh thiêng liêng đó. Khi 4 sự việc trên đây cùng xuất hiện, th́ chừng đó điều gọi là: “Các thói quen tâm linh” bắt đầu h́nh thành và được tuần tự thiết lập. Ảnh hưởng của chúng rốt cuộc sẽ có tác động hấp dẫn sự chú ư của Chân Sư. Sự tiếp xúc hăy c̣n quá yếu ớt và ảnh hưởng của chân ngă đối với phàm ngă hăy c̣n quá kém để Chân Sư có thể trực tiếp giúp đỡ đạo sinh. Đó là giai đoạn của mục tập thể và khuynh hướng sinh hoạt tập thể. Người Đạo sinh không có ḷng mong muốn phụng sự thật t́nh và vô kỷ. Y chỉ có một ước vọng mơ màng muốn t́m sự giải thoát cá nhân, kiện toàn cá nhân và hạnh phúc trường cửu cho riêng ḿnh. Điều này phải được biến đổi thành sự giải thoát tập thể, kết hợp tập thể và niềm vui tập thể của toàn nhóm. Bởi vậy giai đoạn thứ nhất trong việc huấn luyện người Đạo sinh sơ cơ là giao phó cho một người đệ tử cao cấp để hướng dẫn y đem đến cho y sự trợ giúp cần thiết. Lư do là v́ người đệ tử cao cấp này gần gũi với người Đạo sinh sơ cơ hơn, y hăy c̣n chưa được toàn thiện và cũng c̣n đang tập p. giai đoạn này gồm có thời kỳ học hỏi, t́m ṭi về giáo lư huyền môn và thường kéo dài đến nhiều kiếp. Trong giai đoạn này, người Đạo sinh thường thay đổi thầy, y chạy từ vị Đạo sư này sang vị Đạo sư khác tùy khuynh hướng, cơ hội và nhu cầu. Y là hiện thân của sự bấp bênh vô định, nhưng y được ḍ xét cẩn thận, bởi người đệ tử cao cấp, người này đă vượt qua giai đoạn lao chao rồi đó. Nhiệm vụ của người đệ tử này là giúp cho người Đạo sinh sơ cơ thoát khỏi tâm trạng bất ổn nói trên, để lần lần bước qua giai đoạn công phu khảo sát nội tại.

Trong suốt thời kỳ này, Sư phụ không chú ư ǵ đến những người Đạo sinh. Phải qua một thời gian lâu dài trước khi người Đạo sinh được đưa đến trước mặt Ngài, v́ có một sự tiếp xúc riêng với sư phụ. Thỉnh thoảng người đệ tử giám sát giai đoạn sơ cơ này báo cáo với sư phụ từng kỳ hạn rất hiếm và thưa thớt. Chỉ khi nào người Đạo sinh đă đạt tới một điểm mà y có thể bước vào ánh sáng của thiên thần, th́ sư phụ mới bắt đầu đảm nhiệm việc huấn luyện của y. Chừng đó người Đạo sinh đă sẵn sàng một cách dứt khoát và không suy chuyển. Điều này diễn ra trong giai đoạn 3, tức giai đoạn đệ tử chính thức. Tất cả những giai đoạn này đều có liên quan đến một cấp đẳng này hay cấp đẳng khác của những cuộc điểm Đạo. Giai đoạn người đệ tử sơ cơ có liên quan đến cuộc điểm đạo thứ nhất. Cuộc điểm đạo này liên hệ đến cơi hồng trần, và cũng như tôi đă nói rơ nhiều lần, một số đông người đă qua khỏi từ lâu. Tất cả những đệ tử chân chính đều đă được một lần Điểm Đạo. Sự kiện này được chứng tỏ bởi sự chiến đấu ráo riết của họ để bước vào đời sống tâm linh, để theo con đường quyết định chuyển hướng về đời sống tinh thần. Tôi tin rằng nhiều người sẽ nh́n nhận quyết định đó như động lực căn bản của đời họ. Giai đoạn này là một sự tương hợp với phương thức thoát kiếp thú vào thời kỳ châu Lémuria và giai đoạn đệ tử sơ cơ đôi khi được gọi là giai đoạn của “Lémuria”, từ đó sẽ đưa người Đạo sinh trải qua giai đoạn đệ tử trong ánh sáng của thời kỳ Atlantide đến giai đoạn đệ tử chính thức của thời kỳ Arian ngày nay. Đến giai đoạn này, lần chuẩn bị thứ ba và thật sự cho cuộc Điểm Đạo được thực hiện một cách có ư thức, bởi v́ khi đó người đệ tử đă trưởng thành trong tâm thức và sẵn sàng đặt ḿnh trọn vẹn và không chút dè dặt dưới ảnh hưởng và đối tượng của H.Đ.T.T.

Tưởng không cần phải nói thêm nhiều về giai đoạn sơ khai này của con đường đệ tử, tuy nhọc nhằn, vất vả nhưng đầy cảm hứng khích lệ. Nhiều giáo lư đă được phổ biến trên thế gian về vấn đề này với rất nhiều chi tiết về sự tinh luyện, phụng sự và sùng tín.

Tôi muốn lập lại rằng đối với đa số đệ tử trên thế gian và những người đă tiến hóa cao th́ họ đă vượt khỏi rất xa giai đoạn thứ nhất này từ lâu. Nhiều đệ tử trong thời kỳ này là những đệ tử chính thức, tức là đă bước qua giai đoạn thứ ba, bởi đó họ đă trải qua ba loại kinh nghiệm sau đây:

1)     Giai đoạn “đệ tử sơ cơ” nhiều thử thách và lao chao bất định.

2)     Giai đoạn “đệ tử trong ánh sáng”

3)     Cuộc điểm đạo thứ nhất. Cuộc điểm đạo này luôn luôn có trước giai đoạn đệ tử chính thức. Không một Chân Sư nào thâu nhận vào Đạo Viện của Ngài một người đệ tử chưa thực hiện được tâm thức Bồ đề, hay tâm thức của Đức Christ.

Tôi muốn nhắc nhở chư môn đệ tuy rằng trong lúc này, tôi đang huấn luyện nhiều đệ tử khai mở tâm thức lên những tŕnh độ cao siêu hơn, nhưng tôi viết quyển sách này với mục đích là để cho những thế hệ tương lai và cho những đệ tử nào trong những năm tới đây sẽ đọc những ḍng chữ này để t́m thấy con đường đưa vào Đạo Viện của các Chân Sư. H.Đ.T.T xây dựng cho tương lai chớ không bận tâm với hiện tại. Tất cả những công tŕnh của H.Đ.T.T đều được thực hiện với ư định mở đường đưa vào một thế giới rộng răi bao la hơn. Nhân loại chỉ bận rộn với hiện tại c̣n H.Đ.T.T hoạt động và đặt kế hoạch cho tương lai, SHAMBALLA chỉ bận nghĩ đến hiện tại Vĩnh Cửu, đến đời sống nó đă tạo nên quá khứ, kiểm soát hiện tại (tức trung tâm ảo giác) và bận lo cho tương lai.

Giai đoạn II – Người đệ tử trong ánh sáng

Đây là giai đoạn mà tâm thức của người đệ tử dự bị bận lo chế ngự ảo ảnh, ảo giác và chữa trị nhăn quang thiển cận, xiêu vẹo của những người c̣n bị ch́m đắm trong cuộc đời vật chất, sắc tướng. Người ấy nay đang tập nh́n đời bằng một nhăn quang mới, chế ngự cảm xúc và hoạt động trong một hoàn cảnh mới, tức là cơi giới ánh sáng.

Chân Sư không hoạt động trên cơi trung giới như vài phái huyền môn thường nói. Đối với Ngài là những vị đă thắng đoạt ảo ảnh, ảo giác, cơi trung giới vốn không có. Nó chỉ là một ư niệm hư ảo của người Đạo sinh trung b́nh. Bởi vậy, trong giai đoạn này, người Đạo sinh đặt dưới sự d́u dắt, chăm nom của một đệ tử tuy vẫn c̣n chịu ảnh hưởng của ảo giác, nhưng đồng thời đă ư thức được tính chất phù du, hư giả của cơi trung giới.

Đây là giai đoạn của nhiều Đạo sinh trên thế gian ngày nay, cho nên, trước khi nói qua những vấn đề khác, tôi muốn nói về tính chất của các công việc mà các sư phụ đang muốn thực hiện với những nhóm đệ tử trong thời kỳ khủng hoảng của thế giới hiện tại. Đó là một vấn đề tối quan trọng cho thế giới theo quan điểm của các Chân Sư. Đừng bao giờ quên rằng trong tất cả sự thảo luận và t́m hiểu về Đạo lư giữa chúng ta, tôi vẫn cố gắng tối đa để tŕnh bày quan điểm của H.Đ.T.T một cách giản dị và vừa tầm hiểu biết của người Đạo sinh trung b́nh.

Đối với những Đạo sinh này, các Chân Sư luôn luôn cố gắng khơi động “ngọn lửa tâm linh” nơi họ để cho họ có thể tiếp dẫn ngọn lửa thiêng ấy cho thế giới. Trong thời kỳ hiện tại, thế gian đang ch́m đắm dưới những ngọn lửa thiêu đốt của nghiệp quả và trào lưu vật chất. Như mọi người đều biết, phải dùng lửa để trị lửa, và muốn dập tắt cái hỏa ngục cuồng loạn đang tàn phá thế giới ngày nay, th́ cái đối tượng phải là ngọn lửa tâm linh mà các đệ tử phải biết sử dụng và phân phối một cách hiệu quả. Nhiệm vụ của SHAMBALLA đối với H.Đ.T.T cũng có tính chất giống như thế, nhưng biểu lộ trên một b́nh diện cao cả hơn. Các Đấng Cao Cả ban rải ngọn lửa thiêng của ư chí. Xét cho cùng, ngọn lửa mà các đệ tử trên thế gian phải sử dụng là ngọn lửa của ư chí ban rải t́nh thương. Ngọn lửa này không phải như chư môn đệ tưởng nghĩ. Ư chí ban rải t́nh thương có nghĩa là một t́nh thương bao la toàn vẹn và khả năng ứng đáp nhu cầu v́ lợi ích tập thể theo đúng đường lối và sự khôn khéo trong hành động. Nó gồm có khả năng hành động quyết liệt khi cần, bởi v́ người đệ tử có một tầm nhăn quang rộng lớn và không bị lạc hướng bởi cái tâm trí thiển cận. Y hoạt động và chuẩn bị cho tương lai. Nói cách khác, đó là ư định đầy t́nh thương, muốn làm “nẩy lửa” khích động thế gian với cái ư niệm mới về tinh thần tương quan bắt đầu từ cá nhân người đệ tử, gia đ́nh và nhóm bạn đồng môn tiếp cận của y. Muốn thực hiện sự khích động nẩy lửa đó một cách hữu hiệu, người đệ tử phải áp dụng ngọn lửa đó ở tự bản thân và trong ánh sáng lửa đó y tự nhận xét thấy chân tướng của ḿnh. Ngọn lửa của khía cạnh vật chất (tức lửa của phàm ngă) hăy c̣n quá mạnh và ngự trị đời sống của người Đạo sinh. Nó làm cho cuộc đời họ bất hảo. Hăy nhớ rằng ngọn lửa của trí tuệ là phản ảnh lệch lạc của ngọn lửa tinh thần. Vài đệ tử chỉ dùng ngọn lửa trí tuệ. Trong những lúc ngẫu hứng tốt lành, cao thượng nhất, họ toan dùng ngọn lửa t́nh thương để chế ngự ngọn lửa của cái trí phê b́nh, phân tích, nhưng đó không phải là t́nh thương tuôn tràn một cách tự nhiên mà là một sự cố ư làm ra vẻ dịu dàng, ưu ái, một sự khắc kỷ, tự kềm chế một cách vất vả để tránh không thốt ra những lời nói chỉ trích bất hảo do cái trí phê b́nh làm chủ động, hoặc tránh không hành động theo tư dục hay ư riêng mà ngọn lửa trí tuệ đă tạo ra cho họ. Ngọn lửa này luôn luôn được nhắm vào một bạn đồng môn và sự cố tránh việc dùng ngọn lửa ấy đương nhiên tạo ra một hố sâu hay một bức rào ngăn cách. Trong phần nhiều Đạo sinh, không hề có sự biểu lộ t́nh thương chân thật, mà chỉ có nhiều cố gắng của phàm ngă để tránh sự chỉ tích. Họ chuyên tâm cố gắng không chỉ trích. Điều này vốn là một nhu cầu căn bản và được thừa nhận, bởi v́ đó là một thái độ đúng đắn và đáng được khen thưởng, khích lệ, nhưng sự chuyên tâm ấy không căn cứ trên những hậu quả gây ra cho kẻ khác khi ngọn lửa trí tuệ tác hại buông lung với những ảnh hưởng tàn phá, hủy diệt nó.

Bởi vậy, các Chân Sư mong muốn “thiêu đốt người đệ tử trong ngọn lửa ư chí” ban rải t́nh thương để cho y được tự do và để phá tan những bức rào ngăn cách sự lưu nhập của nguồn thần lực thiêng liêng. Tại sao vậy? Bởi v́ ngày nay chính các đệ tử của thế gian chớ không phải những đời làm ngăn trở sự giáng trần của Đấng Chưởng Giáo và làm vô hiệu hóa ư định của Ngài. Ngài không dám xuất hiện cho đến khi nào những đệ tử và Đạo sinh trên thế gian đă thực hiện nơi họ những sự thay đổi cần thiết v́ lư do “không có đủ ư chí ban rải t́nh thương”. Khi nào ư chí xuất hiện th́ có hai việc xảy ra:

1) Có thể có sự ban bố thần lực trong dịp  Đức Chưởng Giáo lâm phàm để trợ giúp sự tiến hóa tâm linh nhân loại.

2) Đức Chưởng Giáo và những Đấng Cao Cả phụ bậc dưới quyền pháp và ảnh hưởng của Ngài sẽ được cung ứng một nhóm đệ tử, họ có thể:

Ứng đáp một cách thông minh và tiếp nhận ảnh hưởng trên.

Phân phối thần lực thiêng liêng do Ngài ban xuống.

Giải thích cho nhân loại hiểu rơ những động lực mới, có tác dụng đem lại một nhăn quang mới, một trật tự thế giới mới và những lư tưởng của Kỷ Nguyên Mới.

Chừng đó, sẽ có rất nhiều “đệ tử trong ánh sáng” và các đệ tử ở các cấp bậc khác xuất hiện. Hiện nay, nhiều người đă có cái nhăn quang linh cảm được ảnh hưởng về công việc của Đức Chưởng Giáo trong tương lai. Đó là một triển vọng một cuộc Đại lâm phàm, có tác dụng chấm dứt mọi sự xung động, phiền năo, khai mở một Kỷ Nguyên Mới của ḥa b́nh và thiện chí, xoa dịu các tâm hồn đưa nhân loại vào một thế giới mỹ lệ và hạnh phúc. Ngài sẽ thể hiện ước mơ của nhân loại. Ngài sẽ thương yêu và trợ giúp một cách thầm lặng những người con ngoan của Ngài và sẽ quét sạch những kẻ bất hảo ra khỏi mặt đất để cho chúng khỏi làm xáo trộn trở lại nền ḥa b́nh thế giới. Ngài sẽ là người an ủi của nhân loại khổ đau.

Tuy nhiên đó không phải là cái viễn ảnh thật sự sẽ xảy ra. Nó căn cứ trên những tín điều thần học và những ích kỷ của loài người. Nó căn cứ trên sự lầm than của nhân loại và sự mù quáng tâm linh của các Đạo sinh và đệ tử làm cho họ không nhận thức được tính chất thật sự của t́nh thương và của Thiên Cơ huyền diệu.

Ngài sẽ đem lại ngọn lửa bác ái. Ngài rao truyền thông điệp của ngọn lửa tinh luyện. Ngài sẽ không rao giảng về “nước tẩy trần” như nó vẫn là cái biểu tượng được truyền dạy từ trước tới nay, mà sẽ truyền giảng ngọn lửa thiêu đốt và hủy diệt tất cả mọi chướng ngại trong tinh chất con người, mọi bức rào ngăn cách giữa người nọ với người kia, giữa các đoàn thể và giữa các quốc gia. Với tư cách là những cá nhân, những đệ tử và Đạo sinh, chư môn đệ có sẵn sàng đặt ḿnh dưới sự thiêu đốt của ngọn lửa ấy chăng?

Khi một người trở nên đệ tử “trong ánh sáng” sẽ xảy ra vài biến chuyển giúp y nh́n thấy cái triển vọng đó rơ ràng hơn và biết ḿnh phải làm ǵ, bởi v́ ánh sáng sẽ tiết lộ mọi sự. Những biến chuyển đó là:

1) Người Đạo sinh chuyển di tâm thức từ cơi trung giới lên cơi thượng giới và trong khi đó, người đệ tử đỡ đầu sẽ đem đến cho y sự trợ giúp và ảnh hưởng cần thiết.

2) Người Đạo sinh tập phân biệt rơ ràng những cặp mâu thuẫn, đối tượng nhị nguyên.

3) Người Đạo sinh ư thức được rằng cứu cánh là y phải tự giải thoát ra khỏi ảo ảnh, ảo giác và phải trợ giúp thế gian thoát khỏi móng vuốt của nó.

Ba loại biến chuyển này đă được đề cập đến trong một quyển Quy luật dành cho những đệ tử trên đường dự bị.

 Những bài học đầu tiên trong 3 cuộc diễn biến này được truyền thụ cho “người đệ tử trong ánh sáng” dưới sự hướng dẫn của một đệ tử cao cấp đă tiến hóa hơn nhiều, tuy chưa đắc quả vị nào. Trong khi đó người Đạo sinh vẫn không hay biết rằng Chân Sư đang chú ư đến y. Sư phụ vẫn nhận được những báo cáo thường xuyên của vị đệ tử cao cấp có nhiệm vụ chăm sóc giúp đỡ y. Chính do điều này mà nhiều mới liên hệ cấp đẳng được thiết lập, và sau đó, do việc làm công quả trong Đạo Viện của Chân Sư chứ không phải trên cơi thế tục mà những mối liên hệ đó được củng cố và là một trong các yếu tố tạo nên:

1- Sự kết hợp với H.Đ.T.T.

2- Mối tương quan chặt chẽ giữa nhân loại với H.Đ.T.T.

3- Trong hiện tại, số người đă có được mối liên hệ đó tăng gia rất nhiều và những đệ tử cao niên của các Chân Sư đang vô cùng bận rộn với việc huấn luyện Đạo sinh, cũng như với việc liên quan đến t́nh h́nh khủng hoảng của thế giới. Những Đạo sinh được huấn luyện trong khuôn khổ đó có một tầm quan trọng thật sự, v́ họ là mầm mống của những người phụng sự thế gian trong tương lai. Công việc của những đệ tử cao cấp và Đạo Đồ gồm có ba loại chính và trong khi bận rộn với những công việc này, họ cũng học được rất nhiều. Ba loại công việc đó là:

Thiết lập ảnh hưởng từ điển.

Tạo mối tương quan TGCM.

Thực hiện những cuộc điều chỉnh nghiệp quả căn bản.

Công việc thứ nhất mà các đệ tử phải làm là thấu hiểu tính chất của những Đạo sinh mà họ có trách nhiệm hướng dẫn và thiết lập một khu vực ảnh hưởng để có thể hoạt động hữu hiệu và giao tiếp với Đạo sinh. Trong quá khứ mối liên hệ này là giữa linh hồn với linh hồn và do đó cần có một thời gian thông cảm lâu dài để cho trí óc người Đạo sinh có đủ thời giờ nhận định đối tượng một cách đúng đắn. Ngày nay phương pháp đó c̣n áp dụng trong nhiều trường hợp, nhưng nhiều vị đệ tử đỡ đầu c̣n đang thí nghiệp “dưới sự điều khiển của Chân Sư” trong việc tác động trực tiếp với người Đạo sinh trên cơi hồng trần, tức là tạo nên mối liên hệ về phàm ngă cũng như chân ngă. Đó là mối liên hệ khó khăn hơn nhiều, nhưng nó nằm trong kế hoạch mới, nhằm phát huy cố gắng của H.Đ.T.T ra ngoài thế gian, mà tất cả những Đạo Viện ngoại tại đang tuần tự h́nh thành chỉ là một phần. Do phương thức này, người “đệ tử trong ánh sáng” tập nhận diện những vị thành viên của H.Đ.T.T bằng cách nhận ra trước hết những vị đệ tử tiến hóa hơn y và tập nghe lời chỉ dẫn và gợi ư của những vị này một cách cẩn thận. Bởi vậy, chư môn đệ thấy rằng cần phải làm một cố gắng lớn lao dường nào để tạo nên mối tương quan mật thiết hơn giữa hai thành phần nhân loại và H.Đ.T.T về cả hai phương diện chủ thể và khách thể.

Tất cả những người nào trong kiếp này từ giai đoạn “đệ tử trong ánh sáng” bước qua giai đoạn đệ tử chính thức, đều đă thực hiện được 2 điều:

1) Nhận diện được vị đệ tử cao niên mà họ đă phát hiện “trong ánh sáng”.

2) Nhận ra vị Chân Sư của ḿnh. Toàn bộ vấn đề nhận ra Chân Sư sẽ được giảng giải sau.

Phương thức phát triển động tác TGCC là một điều cần được nghiên cứu rất kỹ. Tất cả các nhóm đệ tử hoạt động trong hay ngoài một Đạo Viện, phải giao tiếp với nhau trong một sự tương quan TGCC mật thiết và như thế để tạo một môi trường huấn luyện cho sự khai mở loại năng khiếu này. Điều trước nhất cần phải có giữa một nhóm đệ tử là t́nh thương và sự tín nhiệm lẫn nhau, v́ nếu không th́ không thể nào có sự chuyển di tư tưởng thật sự. Nhóm nào không có được 2 điều kiện này th́ nhất định phải cố gắng tập cho được.

Quy luật thứ hai là tuyệt đối tránh mọi sự chỉ trích, phê b́nh nếu muốn có được một tiết điệu điều hóa cần thiết trong nhóm. Trong bất cứ nhóm đệ tử nào cũng có những kẻ không biết đặt vấn đề theo thứ tự ưu tiên. Họ đặt nhiều việc và nhiều người lên hàng đầu, trước những bổn phận và trách nhiệm tâm linh. Điều này đương nhiên tạo ra cho các bạn đồng môn các cơ hội chỉ trích. Có khi sự chỉ trích đó mặc nhiên là  việc nh́n nhận sự thật. Điều đó có nghĩa là người đệ tử chỉ trích đă đạt tới điểm mà sự xét đoán của y căn cứ trên t́nh thương đến nổi nó không gây nên ảnh hưởng va chạm thuộc về phàm ngă trong đời y hay trong đời của người bạn đồng môn. Đó chỉ là sự nh́n nhận một khuyết điểm do t́nh thương chủ động và nó chỉ trở nên một điều quấy khi nào những việc ấy được dùng để khêu gợi sự chỉ trích của những kẻ xấu hạnh và đặt thành những vấn đề tranh luận. Người đệ tử hay Đạo sinh có những lỗi lầm rơ rệt và không chịu sửa đổi, tạo nên một bức tường rào ngăn cách mà y phải cố gắng phá hủy bằng cách loại trừ mọi nguyên nhân khả dĩ tạo cơ hội chỉ trích. Bức rào chướng ngại này ngăn trở sự chỉ trích bằng TGCC.

Đến đây một câu hỏi lư thú có thể được nêu ra: những đệ tử hoạt động phải cố gắng vượt lên để theo kịp những đệ tử tiến hóa hơn trong nhóm, hay là họ phải tŕ hoăn sự tiến bộ của họ và hạ thấp xuống cho vừa tầm mức của những kẻ chậm tiến hơn? Câu hỏi đó là vấn đề căn bản trong những Đạo Viện và chỉ có các đệ tử mới có thể trả lời.

Về vấn đề điều chỉnh nghiệp quả, người đệ tử hướng dẫn phải biết vài điều cần yếu. Y phải biết chắc người Đạo đinh được y bảo trợ c̣n phải trả quả báo ǵ trong kiếp hiện tại. Khi đó y phải khuyến cáo người Đạo sinh chịu thêm vào cái định nghiệp đó, cái gọi là “Nghiệp quả giải phóng”. Đó là phương pháp cưỡng ép mà người đệ tử nào muốn chọn con đường điểm đạo khó khăn hơn phải tự nguyện gánh vác do bởi ư chí tự do của ḿnh. Người đệ tử trong ánh sáng cố gắng thực hiện những điều sau đây:

Y trả dứt cái định nghiệp của kiếp này một cách thông minh và ư thức đến mức tối đa.

Y chịu trả thêm vài loại quả báo mà đáng lẽ chỉ đến với y trong một kiếp tương lai.

Y bắt đầu gánh vác ít nhiều nghiệp quả chung của nhân loại và như thế tăng thêm nghiệp quả của ḿnh.

Y bắt đầu hợp tác và t́m hiểu về nghiệp quả của thế gian, tuy rằng y chưa gánh vác trách nhiệm ǵ về vấn đề này.

Sau 2 lần điểm đạo, y  mới hợp tác một cách ư thức và trên cương vị cá nhân, với trách nhiệm về nghiệp quả của Đấng Tinh Quân cai quản bầu thế giới hiện tại.

Tôi muốn nói rơ rằng tôi không muốn đề cập đến nghiệp quả tốt cũng như xấu. Nhiệm vụ của người đệ tử cao cấp là hướng dẫn người “Đệ tử trong ánh sáng” trong việc điều chỉnh nghiệp quả của y. Người đệ tử cao niên ấy làm công việc này bằng cách gieo ấn tượng bằng tư tưởng.

Tất cả mọi nghiệp quả khi đương đầu một cách ư thức, được khích động bằng quyền năng của tư tưởng. Đây là một bài học lớn mà người đệ tử cao niên phải dạy Đạo sinh. Bằng cách đó người Đạo sinh được trợ giúp nh́n thấy “Trong ánh sáng” những ǵ y c̣n phải gặp trên bước đường của ḿnh và người đệ tử cao niên chuẩn bị cho y bước vào giai đoạn đệ tử chính thức vẫn tiếp xúc thường xuyên chới Chân Sư. Như thế một mối liên hệ h́nh tam giác được thiết lập và có một giá trị huyền môn nhất định.

Nếu người đệ tử “Trong ánh sáng” thật sự có nhiệt tâm và cố gắng phát triển sự nhạy cảm tâm linh, th́ giai đoạn này có thể tương đối rút ngắn, đôi khi chỉ trong hai kiếp cũng đủ. Chừng đó người đệ tử bước vào giai đoạn thứ ba tức là giai đoạn đệ tử chính thức. Tất cả những giai đoạn này đều có liên hệ đến công việc trong Đạo Viện và sự sinh hoạt của nhóm bên trong. Như chư môn đệ đă biết, nhóm này gồm có các vị đệ tử và Đạo Đồ cao niên và nhiều kinh nghiệm, cùng những Đạo sinh sơ cơ và những đệ tử ở những cấp bực tiến bộ cao thấp khác nhau trên đường đạo. Chính những thành phần đệ tử khác nhau đó đưa đến sự liên hệ hỗ tương giữa các Đạo Viện nội tại và ngoại tại, giữa nhóm đệ tử hoạt động ngoài thế gian và nhóm bên trong gồm thành phần đông hơn nhiều. Điều này đưa đến một câu hỏi thường xuất hiện trong trí của những người trong nhóm ngoại tại và liên hệ một cách rời rạc lỏng lẻo với nhóm bên trong. Mức độ tâm thức của Đạo Viện ngoại tại được quyết định bởi những thành viên của nhóm ấy hay bởi sự liên hệ của nó với toàn thể Đạo Viện mà nó chỉ là vật tương đối nhỏ? Khi câu hỏi ấy được một thành viên của Đạo Viện nêu ra nó chỉ là một sự bận tâm rơ rệt với những thành viên của nhóm, chứ không phải với cả nhóm như một khía cạnh của Đạo Viện của Chân Sư. Các đệ tử cần nhớ rằng một Đạo Viện không phải chỉ giới hạn trong số một vài người quen biết và có thể gặp gỡ nhau như những thành viên của Đạo Viện. Mỗi Đạo Viện là một nhóm Quốc tế gồm có những linh hồn đang chuyển kiếp hay chưa đầu thai. Nó là một sự tổng hợp những vị Đạo Đồ trên nhiều cấp đẳng và những đệ tử chính thức. Các Chân Sư không coi những đệ tử đă được điểm đạo lần thứ nhất như là những vị Đạo Đồ. Đó là một điểm cần nhấn mạnh lại.

Những đệ tử đă được điểm đạo lần thứ hai được coi như “Đạo Đồ dự bị” và chỉ khi nào họ được điểm đạo lần thứ 3, họ mới thật sự là những vị Đạo Đồ theo quan điểm của H.Đ.T.T. Cuộc Điểm Đạo lần thứ nhất đôi khi được gọi là Điểm Đạo LEMURIA, cuộc Điểm Đạo thứ hai gọi là Điểm Đạo ATLANTIS, nhưng cuộc Điểm Đạo 3 “Giống dân ARYAN” lại được các Ngài coi như cuộc Điểm Đạo 1. Đây là khía cạnh mới mà chư môn đệ đă suy gẫm. Theo quan điểm trên, danh từ “Đệ tử chính thức” gồm luôn các giai đoạn Điểm Đạo thứ nhất và thứ hai. Khi người đệ tử được điểm đạo lần thứ ba, y không c̣n là đệ tử chính thức nữa dù rằng y vẫn c̣n ở trong một nhóm của Chân Sư cho đến khi y đă có được 4 lần Điểm Đạo. Tôi muốn nêu ra những chi tiết đó để chư môn đệ có một ư niệm dứt khoát và rơ ràng.

Bởi vậy, một Đạo Viện là nơi tiêu biểu cho tất cả mọi giai đoạn phát triển gồm từ những kẻ tiến hóa nhất cho đến những kẻ sơ cơ, như những người đang đọc những huấn từ này. Điều quan trọng cho mỗi đệ tử trong một Đạo Viện là y có thể khai mở tâm thức và ứng đáp với âm ba rung động của bầu không khí trong đó chẳng để đừng làm ngăn trở những hoạt động của Đạo Viện? Những vị Đạo Đồ và đệ tử tiến hóa cao có nên ngưng tiến, tŕ hoăn hay hạ thấp mức độ hoạt động của ḿnh chăng để chờ đợi những người thấp kém hơn, để cho những người này có th́ giờ và cơ hội tiến lên cho bằng họ? Câu hỏi đó tóm lại là những đệ tử cao cấp phải chờ đợi, hay là những đệ tử sơ cơ làm ngăn trở tiến tŕnh của Đạo Viện?

Tiêu chuẩn để đo lường, cân ngắc không phải là ở một mực chắc nịch, chết cứng một chỗ và những đệ tử sơ cơ nên biết rằng họ không thể làm chướng ngại cho nhóm đệ tử tiến hóa cao hơn trong Đạo Viện, nhưng họ có thể tự loại ḿnh ra khỏi ṿng hoạt động, tuy không ra khỏi nhóm. Chỉ có những người chưa sẵn sàng và đạo tâm chưa vững mới phải chở đợi mà thôi, chứ không phải những đệ tử có đạo tâm bền vững và thật sự hiến dâng.

Nhiệm vụ của Sư phụ là khích động tối đa cho các đệ tử trong nhóm của Ngài thường xuyên hoạt động trên mức độ tâm linh. Một số đệ tử trong Đạo Viện hăy c̣n phải cố gắng công phu trong những giai đoạn đầu để t́m hiểu những hỏa lực của cái trí. Những ngọn lửa trí năng này cần phải được hiểu rơ trước hết và dập tắt trước khi ngọn lửa của ư muốn thương yêu có thể thâm nhập vào người đệ tử.

Điểm cần phải hiểu rơ là công việc của Đạo Viện vẫn tiếp tục, các đạo đồ và đệ tử, với ngọn lửa thiêng bùng cháy trong tâm hồn, vẫn tiếp tục hoạt động không chướng ngại. Điều này cũng nói luôn về phản ứng cá nhân đối với các thành viên của Đạo Viện. Nhưng khi mà tất cả nhóm đều bốc lửa với t́nh thương và sống như những chân ngă, th́ chừng đó Đạo Viện trở nên một trung tâm năng lực vô cùng hữu hiệu. Các Chân Sư cố gắng thành lập những Đạo Viện là để thực hiện càng chóng càng hay sự hợp nhất giữa t́nh thương và ư chí. Chỉ có kẻ sơ cơ mới bận tâm với những động tác và ảnh hưởng cá nhân của y trong Đạo Viện. C̣n đệ tử được huấn luyện thành thục th́ chú trọng nhiều hơn đến công việc phải làm và nhiệm vụ phải được xúc tiến mỹ măn. Trên cương vị cá nhân, một đệ tử có thể đau ḷng mà thấy các bạn đồng môn trong nhóm không hiểu hay không kiềm chế nổi ngọn lửa loạn động của trí năo, nhưng y vẫn kiên tâm bền trí làm việc với tất cả hiệu năng của ḿnh mà ḷng không xao xuyến hay dời đổi. Y biết rằng với thời gian qua, có ngày họ cũng sẽ thoát khỏi sự vọng động của trí năo như đă nói ở trên. Trong khi chờ đợi, y cố gắng hóa giải ảnh hưởng của họ và cũng v́ đó mà việc làm của y trở nên vất vả khó khăn hơn, nhưng y biết rằng họ cũng đang tiến bước trên con đường hiểu biết, thông cảm. Y cũng biết rằng hiện thời họ không làm ǵ khác hơn là nh́n thấy nơi y và thậm chí nơi cả Chân Sư nữa, chính những tính chất đang ngự trị trong tâm hồn họ. Đó là bởi v́ chúng ta nh́n thấy nơi kẻ khác những ǵ đang ngự trị nơi ḷng chúng ta, dẫu rằng việc đó không hề có, hoặc có trên một mức độ giống nhau. Người đệ tử cần phải nhận định rơ sự dị biệt giữa khả năng phân tích bén nhạy và óc chỉ tích. Một Chân Sư không chỉ trích những thành viên trong Đạo Viện của Ngài. Ngài t́m cách phân tích dùm họ những điểm chướng ngại làm cho họ mất hiệu năng phụng sự trong công việc của Đạo Viện. Có một sự dị biệt lớn lao giữa sự trợ giúp một cách xây dựng đó và sự chỉ trích căn cứ trên cái ư thức tự tôn và ưa bươi móc lỗi lầm của kẻ khác.

Mỗi vị Chân Sư đă đạt tới tŕnh độ có một nhăn quang sáng suốt vốn là một ân sủng được ban ra cho những đạo đồ. Ngài tự đồn hóa với nhăn quang đó, tô điểm nó với màu sắc phong phú của Ngài và diễn đạt nó trong khuôn khổ sự đóng góp của của Ngài cho đoàn thể. Đó là bí quyết của cái nhăn quang vô chướng ngại, thể hiện qua các cố gặng hỗn hợp của H.Đ.T.T, mà một Chân Sư hay một nhóm Chân Sư thực hiện trong thời gian và không gian trên cùng một cung nhất định hay trên nhiều cung khác nhau. Trong những đầu tiên của chu kỳ cố gắng hiện tại của H.Đ.T.T (trong khoảng giữa năm 1825-1936), nhân loại chịu ảnh hưởng sự tác động của cung 1. Tác động của cung này đến tột điểm với sự tuyên chiến của Anh Quốc năm 1939, khi lực lượng tàn phá của cung ấy, do sự lạm dụng và điều khiển sai lạc, làm cho Đức Quốc xâm lăng Ba Lan. Năm 1932, ảnh hưởng của cung 2 bắt đầu xuất hiện và sẽ tiếp tục cho đến năm 1945 khi cung 7 từ từ chuyển vận để nhập cuộc. Lúc ấy có 3 cung đồng loạt tạo ảnh hưởng đối với nhân loại:

Cung 1 (quyền lực / ư chí) tác động mạnh.

Cung 2 (Minh triết / Bác ái) đạt tới trung điểm và tác động cho tới năm 1957.

Cung 7 (Trật tự / Nghi thức) tác động hỗn hợp với 2 cung trên tạo nên sự mỹ lệ từ cơn hỗn loạn hiện nay.

Bởi vậy những đệ tử của Chân Sư RAKOCZI đang bước vào thời kỳ hoạt động ráo riết. Vận mạng thế giới nằm trong tay ba nhóm đệ tử đă điểm đạo của các Ngài. Những đệ tử chính thức của ba nhóm ấy được yêu cầu hợp tác với các Ngài, và đó là cơ hội đưa đến cho nhiều đệ tử ở các nơi, v́ họ cố gắng để t́m hiểu Thiên Cơ, hợp tác với ba vị Chân Sư và những nhóm Đạo Đồ của các Ngài, nên cơ hội được đưa đến cho họ. Lực lượng tam giác này được các Đấng Trưởng Thượng ở SHAMBALLA giao phó trách nhiệm điều chỉnh các việc thế sự. Ngoài những việc trên đây, nhân loại không được cho biết thêm điều ǵ nữa v́ xét ra không cần thiết.

Đừng quên rằng Đạo Viện là một ḷng chảo sức mạnh và một trung tâm năng lực xuyên qua đó cả 2 loại thần lực thiêng liêng được hợp nhất và luân chuyển để thể hiện nguyện vọng tương lai. Sức mạnh và năng lực này được điều khiển bởi một vị Chân Sư, một nhóm ba vị Đạo Đồ cao cấp và một nhóm khác nữa gồm những vị Đạo Đồ ở cấp thấp hơn. Cách sắp đặt ấy tiêu biểu cho một tổ chức quản trị hành tinh tiểu quy mô ở cấp Đạo Viện, mục đích chuyển di thần lực xuống cho các đệ tử chính thức có thể sử dụng và phân phối một cách an toàn. Năng lực mà các Chân Sư sử dụng đến từ SHAMBALLA. C̣n những sức mạnh mà các Ngài dùng để hoạt động là do H.Đ.T.T cung cấp. Khi các đệ tử chính thức ứng đáp được với những sức mạnh hỗn hợp ấy, th́ nó mới có thể được sử dụng trong việc phụng sự. Nói cách khác, các vị Đạo Đồ trong một nhóm của Chân Sư tiếp thu những năng lực đến từ bên ngoài. C̣n các đệ tử chính thức, qua trung gian của linh hồn họ, tiếp thu và phân phối sức mạnh mà Chân Sư ban phát ra ngoài thế gian theo kế hoạch của H.Đ.T.T, dưới sự mặc khải đến với các Ngài từ SHAMBALLA.

Những vị Đạo Đồ (đệ tử đă được điểm đạo) không thích thú điều ǵ khác hơn là triển vọng tâm linh và sự thể hiện Thiên Cơ trên thế gian. Những t́nh thương nhập môn c̣n đang học hỏi những điều này và trong khi đó họ c̣n phải ứng đáp với triển vọng đó. Họ bận rộn với sự học hỏi Thiên Cơ và với việc phân phối các năng lực có tác dụng thể hiện Thiên Cơ.

Như thế, các hoạt động của Đạo Viện được hoàn toàn phối hợp chặt chẽ. Những đệ tử mới nhập môn c̣n đang học tập, hợp tác trong việc phụng sự cũng được sử dụng như những nhân viên thí nghiệm tùy theo phản ứng của họ đối với những chân lư được truyền dạy và đối với Thiên Cơ, tùy theo khả năng của họ ư thức được nhu cầu và ứng đáp với mọi nhu cầu và tùy theo khả năng hợp tác của họ với những đệ tử của thế gian (các vị này chịu trách nhiệm trực tiếp với Chân Sư về một khía cạnh nào đó của Thiên Cơ) mà họ sẽ thành công hay không trong cố gắng hoạt động của họ ngoài thế gian.

Như thế một lần nữa, quan niệm về cấp đẳng tương quan lại được nhắc nhở cho chư môn đệ phải chú ư. Trong thời kỳ nhiễu nhương này, chính việc điều hành những mối tương quan đúng đắn là bí quyết thể hiện khía cạnh tiếp cận của Thiên Cơ trên địa cầu chúng ta. Bởi vậy, Đạo Viện là một trung tâm thí nghiệm, thử thách các mối liên hệ tương quan đó.

Một câu hỏi giản dị được nêu ra: làm sao những mối tương quan đúng đắn có thể được thiết lập trên thế gian, nếu chính những đệ tử chính thức trong một nhóm của Chân Sư cũng không thể ứng đáp với ư niệm đó và duy tŕ giữa họ với nhau những mối tương quan đúng đắn một cách đồng loạt và không sai chạy. Trong hiện tại, vấn đề này gồm có 3 phương diện. Những mối tương quan đúng đắn đó phải được thực hiện.

Giữa những đệ tử chính thức, những vị Đạo Đồ và Chân Sư

Giữa những thành viên của một Đạo Viện với những Đạo Viện khác.

Giữa những Đạo Viện này với thế giới bên ngoài.

Vị Chân Sư của một Đạo Viện và những vị Đạo Đồ cao cấp trong nhóm  của Ngài chịu trách nhiệm về mối tương quan giữa SHAMBALLA và H.Đ.T.T. Những đệ tử chính thức và những Đạo Đồ cấp nhỏ hơn chịu trách nhiệm về mối tương quan liên hệ giữa mọi cấp đẳng được giữ ǵn chặt chẽ và bất khả xâm phạm.

Giai đoạn III - Con đường đệ tử chính thức

Trong những loạt huấn từ ngắn ngủi này, tôi không có ư định nói về giai đoạn đệ tử chính thức. Đă có nhiều sách vở được viết ra nói về giai đoạn này. Tôi đă tŕnh bày đủ mọi khía cạnh thực tiễn về vấn đề đó trong những sách của tôi và tưởng không cần lập lại nữa. Những sách nói về con đường đệ tử do Hội Thông Thiên Học xuất bản đă tŕnh bày đầy đủ về con đường dự bị. Tôi đă giảng giải về con đường đệ tử với nhiều chi tiết.

Những ẩn chứng xuất hiện trên con đường đệ tử chính thức đều được biết rơ nhưng không thể diễn tả với nhiều chi tiết. Chúng khác nhau tùy mỗi người và tùy nơi cung của y. Chư môn đệ hăy nhớ rằng những ấn tín đó có xảy ra với những mức độ rơ ràng khác nhau và ở những giai đoạn khác nhau trên đường Đạo. Như chư môn đệ đă biết đó là:

1 điềm báo mộng

1 lời dạy tượng trưng

H́nh tư tưởng của 1 Chân Sư

1 cuộc tiếp xúc với Chân Sư trong cơn thiền định

1 cuộc hội kiến trong Đạo Viện của Chân Sư.

Ba loại ấn chứng đầu tiên thường là kinh nghiệm của người đệ tử dự bị, c̣n 2 loại sau cùng là kinh nghiệm của đệ tử chính thức. Những ấn chứng đ1o có h́nh bóng trên cơi trung giới. Trong trường hợp này, chúng không phải là ảo ảnh hay ảo giác mà thật ra là mầm giống hay sự bảo đảm về những kinh nghiệm tương lai trên đường Đạo. Nhiều người đă thấy h́nh tư tưởng của các Chân Sư, v́ những h́nh tư tưởng đó có thật. Họ cũng nhận được những lời dạy tượng trưng trên cơi trung giới hay trên giấc mộng. Khi đó, những kẻ sơ cơ, thiếu kinh nghiệm thường hay có thái độ như sau: một là đánh giá quá cao kinh nghiệm của họ và tin rằng đó là ấn chứng của một tŕnh độ tâm linh cao. Họ bắt đầu dựa vào ấn chứng đó hoặc coi nó như loại kinh nghiệm thông linh thấp thỏi và bất hảo. Người đệ tử chính thức có nhiệm vụ giải thích ư nghĩa của loại kinh nghiệm đó cho người Đạo sinh sơ cơ. Những đệ tử hoạt động tâm linh nên nhớ rằng do hậu quả của chiến tranh, của sự khủng hoảng, căng thẳng thần kinh và nguyện vọng hướng về KỶ NGUYÊN MỚI, những giấc mộng hay linh thị, những lời dạy tượng trưng, những h́nh tư tưởng xuất hiện đó sẽ tăng gia một cách thường xuyên và là các ấn chứng của sự tăng trưởng và phát triển. Những kinh nghiệm đó là những bảo đảm cho sự mở rộng kiến thức trong tương lai và là những dấu hiệu của một thành tính tương đối khả quan của người đệ tử.

Các đệ tử phải luôn luôn nhớ rằng họ tiến bộ bằng cách giải đáp những câu hỏi của chính tự họ đặt ra. Nhiệm vụ của Chân Sư không phải là trả lời câu hỏi mà người đệ tử với ít th́ giờ chịu khó suy nghĩ, có thể tự giải đáp lấy. Các Ngài chỉ gợi ư hoặc gieo vào trí óc người đệ tử loại câu hỏi phù hợp với tư tưởng của y, và khích động thượng trí của y để cho y có thể t́m ra câu trả lời thỏa đáng.

Bởi vậy chư môn đệ có thể thấy tầm rơ mức quan trọng của toàn thể vấn đề đặt câu hỏi và trong một nhóm hay Đạo Viện của Chân Sư, việc giải đáp những câu hỏi do cá nhân người đệ tử hay toàn nhóm đưa ra, có ảnh hưởng như thế nào đối với tập thể của nhóm. Khi đó th́ công việc đặc biệt của Chân Sư chính là khích động cho Lạc Viện đạt những câu hỏi đó, nó sẽ đưa đến sự mặc khải chân lư. Một vị Chân Sư luôn luôn nhớ 2 điều này, một là trạng thái tâm linh của nhóm. Điều này phải tùy nơi mức độ rung động tập thể của tất cả những thành viên trong nhóm. Ngoài ra c̣n phải kể thêm sự ứng đáp toàn diện của toàn thể Đạo Viện. Một trong những sự khó khăn mà tất cả các Đạo Viện đều gặp phải là tiếp thu những đệ tử và các thành viên mới dù lẻ loi hay cùng nhóm. Một câu hỏi được nêu ra là: trong một Đạo Viện mà thành phần đệ tử tương đối mới và những người mới bắt đầu bước vào đường nhập môn, bằng cách nào một nhóm đó có thể dần dần trở nên nhạy cảm đối với sự rung động của toàn thể Đạo Viện và đối với Chân Sư.

Câu hỏi này thật ra nó có bao hàm một vấn đề lớn giữa phàm ngă và chân ngă, giữa Chân Sư và đệ tử và giữa nhân loại với H.Đ.T.T. Đó là vấn đề thể hiện sự hợp nhất căn bản và chấm dứt cách biệt, phân ly. Các đệ tử cần phải tập tránh sự phân biệt giữa những khía cạnh của Lạc Viện bên trong và bên ngoài, nội môn và ngoại môn, giữa một số ít thành viên mà họ được biết với đa số mà họ chưa biết. Một Đạo Viện là một nhóm đệ tử, cao đồ thuộc nhiều đẳng cấp khác nhau, những đệ tử ngoài thế gian và những Đạo sinh sơ cơ mới bước vào đường đạo. Họ không nên phân biệt Đạo Viện nọ với Đạo Viện kia mà chỉ nên nghĩ đến một Đạo Viện tổng hợp chung cho tất cả.

Bí quyết để thực hiện điều đó là cường độ tâm linh tức là hoạt động từ một điểm trụ này tập trung tinh thần, nó đưa đến sự mặc khải thiêng liêng. Chừng đó, người đệ tử có thể thu thập trong một ngày những ǵ mà lẽ ra y phải mất đến nhiều tháng hay nhiều năm mới học được. Điểm trụ này khi tập trung đúng cách, là một quyền năng giải tỏa năng lực rất lớn. Nhiều đệ tử tập trung sai lạc và giải tỏa năng lực sai đường lối. Một điểm trụ tinh thần đúng đắn trước hết được thực hiện bằng sự định hướng đúng đắn. Lần này cần có một ư thức chân xác về giá trị của sự vật trần gian và sự từ bỏ những điều bận rộn nhỏ nhặt làm phân tán tinh thần thay v́ gom vào một điểm trụ nhất định. Thí dụ: Nếu người đệ tử bận lo nghĩ về t́nh trạng sức khỏe thể chất của ḿnh, y sẽ không tập trung tinh thần vào một điểm trụ nó làm cho y trở nên một trung tâm từ điển để ban phát thần lực và t́nh thương. Nếu y bận nghĩ đến lỗi lầm của những kẻ khác hay dư luận của người khác nghĩ về ḿnh, y cũng sẽ không thể định tâm vào điểm trụ để giải tỏa năng lực hầu giúp đỡ kẻ khác. Các đệ tử phải cố gắng phát hiện những điểm phân tán, loạn động của ḿnh rồi gom tâm thức vào điểm trụ ở nội tâm và tự đó họ có thể điều khiển năng lực chân ngả một cách ư thức và hữu hiệu.

Đó là công phu tu luyện bí pháp chân chính. Phần nhiều đệ tử không có đến 60 phần trăm hiệu năng hoạt động, v́ tinh thần của họ bị phân tán loạn xạ, trên khía cạnh phàm ngă chứ không tập trung vào một điểm trụ nhất định. Mỗi đệ tử phải tự khám phá lấy cái điểm tru tâm linh riêng của ḿnh. Lư do v́ sao các đệ tử không nhạy cảm đối với Chân Sư, với sinh hoạt của ngoài chu vi của tâm thức chớ không ở tại trung tâm. Bởi đó, công việc phụng sự của họ chỉ hữu hiệu có một phần, tinh thần hiến dâng của họ rất kém, họ đắm ch́m trong sự bất động không nghĩ đến kẻ khác và bận rộn nhiều với khía cạnh h́nh hài vật chất của cuộc đời.

Một câu hỏi khác cũng có thể được nêu ra về một câu mà tôi đă cố t́nh dùng nhiều lần trong những huấn từ này: sự dị biệt giữa t́nh thương và ư muốn thương yêu như thế nào? Câu hỏi này luôn luôn được nêu ra trong những giai đoạn đầu của đường Đạo. Nó vốn căn cứ trên một ư thức nhu cầu cá nhân cũng như nhu cầu tập thể. Nó cũng chỉ ra một sự phân tích tỉ mỉ giúp cho người đặt câu hỏi biết sự khác nhau giữa lư thuyết cộng với sự cố gắng và sự phát biểu tự nhiên một tâm trạng tự hữu , không gượng ép.

Ư muốn thương yêu bao hàm ư nghĩa nh́n nhận sự hạn hẹp ước muốn, gượng ép một vấn đề và nguyện vọng mănh liệt muốn thương yêu thật sự. Nó không nói lên sự tuôn tràn năng lực của SHAMBALLA xuyên qua trung gian của chân ngă mà tính chất tư hữu của nó vốn là t́nh thương tự nhiên, không gượng ép. Khi nói đến quyết định thương yêu th́ đương nhiên xuất hiện một vài thái độ hoặc tự nhiên và thuộc về một phàm ngă tiến hóa, hoặc bị gượng ép qua sự cố gắng chú ư đến chân ngă. Người đệ tử biết rằng y thiếu t́nh thương, bởi v́ y luôn luôn tự thấy ḿnh sống tách rời, cô lập chứ không đồng hóa với những người khác. Y bị bực ḿnh, khó chịu với những người khác, y chỉ trích bạn đồng môn, y có mặc cảm tự tôn đối với họ hoặc có ư nghĩ họ sai quấy, c̣n ta phải, họ không hiểu điều này điều nọ, c̣n ta hiểu biết hơn họ chứ họ không biết được ta, ta phải kiên nhẫn đối với họ … Trong giai đoạn này thái độ của y nhất định là “ư muốn thương yêu” đồng thời y có sự nhận định sâu xa về những nhóm chướng ngại trong sự biểu lộ t́nh thương do bởi kẻ khác gây ra và cũng do bởi những thói quen cảm nghĩ riêng của ḿnh. Tất cả đều là một h́nh thức ích kỷ của bản ngă. Phương pháp chân chính đưa đến t́nh thương là sự suy gẫm, thiền định thâm sâu và thường xuyên về ư nghĩa, nguồn gốc và sự biểu lộ t́nh thương qua động tác của linh hồn cùng những tính chất và mục đích của t́nh thương. Phần lớn sự suy gẫm của người Đạo đinh vốn căn cứ trên sự nhận thức từ bên trong rằng thật ra y không thương yêu một cách tự nhiên, dễ dàng và không gượng ép. Bởi vậy, người đệ tử vẫn bám chặt lấy bản ngă của ḿnh và nghĩ rằng: “Bây giờ ta đang thương yêu đây. Lúc này ta không có t́nh thương. Nay ta phải thử mở rộng t́nh thương. Tuy thế, những thái độ đó không phải thật sự là t́nh thương bởi v́ người đệ tử đồng hóa với chính ḿnh và tập trung vào phàm ngă. T́nh thương không bao giờ có thể tạo ra nơi phàm ngă thấp hèn, nó là một sự tuôn tràn tự do, không chướng ngại từ chân ngă cao siêu.

T́nh thương đột khơi tự nhiên và luôn luôn hàm súc tinh thần tự do của Đấng Christ. Tôi cho rằng không có ǵ diễn tả tính chất t́nh thương đúng hơn lời diễn tà của Thánh PAUL. Hăy đọc lời định nghĩa t́nh thương của Ngài trong quyển Tân Ước. Hăy từ bỏ quan niệm “muốn thương yêu” và hăy nhấn mạnh trong tâm thức ḿnh những nhu cầu của kẻ khác đ̣i hỏi sự thông cảm, chú ư, trợ giúp và ḷng từ ái. Sự cô lập của các đệ tử thường đi kèm với sự kiện hướng nội của tất cả những người mà họ tiếp xúc và sự bận tâm mănh liệt của người Đạo sinh sơ cơ về sự tiến bộ của cá nhân của ḿnh. Người sơ cơ kêu gào “Hăy nói cho tôi nghe đi”. Người đệ tử nói: “Hăy trợ giúp trong việc phụng sự”. Hăy tự quên ḿnh. Thế gian đang cần đến anh”. Có rất nhiều đệ tử c̣n đang sống khép chặt, thu h́nh ẩn núp đằng sau bức rào bản ngă và không ban rải t́nh thương thật sự. Hiệu năng phụng sự của họ bị ngăn trở, cho đến khi nào họ vượt qua khỏi bức rào phàm ngă và thật sự biết thương yêu.

Chúng ta đă xem xét sơ qua những giai đoạn của đệ tử và sơ cơ và “trong ánh sáng”. Một số đông đệ tử hiện nay đă vượt qua khỏi giai đoạn này. Tuy nhiên cũng cần làm sống lại những kinh nghiệm đó và nhu cầu này c̣n để lại sau nhiều công việc mà các đệ tử và Đạo Đồ đang làm trong lúc này. Ngày nay, nhiều người khác đang trải qua giai đoạn đệ tử chính thức. Như mọi người đều biết điểm then chốt của giai đoạn này là thiết lập sự tiếp xúc với Chân Sư. Nhiệm vụ đầu tiên của Chân Sư là khêu gợi sự đáp ứng trực tiếp và phản ứng hữu thức của người đệ tử. Cùng với những phản ứng này, Chân Sư c̣n xem xét tinh thần vô tư của người đệ tử trong cách xử sự với Ngài và các bạn đồng môn v́ đức vô tư là bước đầu tiên trên con đường đưa đến t́nh thương và thông cảm. Những đệ tử chân thành nhất đều tập trung cố gắng vào sự thương yêu lẫn nhau, như vậy là họ đặt cái cày trước con trâu. Trên hết mọi sự, họ phải thực hiện sự vô tư trong phép xử thế trước đă v́ khi đó th́ mọi sự chỉ trích sẽ không c̣n và t́nh thương mới nảy nở.

Chân Sư cũng xem xét các đệ tử có cố gắng làm việc trên một quy mô rộng lớn hơn và bao quát hơn chăng trong công việc của Ngài trên thế gian. Ngài để cho họ tự do làm theo ư riêng, nhưng chắc chắn  là Ngài ḍ xét xem những cố gắng của họ có đi theo những đường lối hoạt động đúng như ư Ngài muốn hay không. Để thực hiện sự cố gắng quan trọng và mệt nhọc này, phải có khả năng tập trung vào công việc với những nhu cầu của nó và khả năng hợp tác với những người cũng làm công việc tương tự. Điều này cũng lại cần có đức vô tư và nhận định đúng mức. Chân Sư đang t́m kiếm những kẻ có tinh thần hiến dâng cho những nhu cầu của nhân loại trong cơn khủng hoảng, hấp hối của thời buổi hiện tại. Điều này cần có sự nhạy cảm với những nỗi đau khổ của thế gian, như những việc thế sự hằng ngày vẫn chứng minh rơ ràng. Nó cũng cần có sự “dửng dưng siêu thoát” đối với những biến cố bên ngoài trong sự sinh hoạt của phàm ngă và một ư thức về tỷ lệ để giúp cho người đệ tử nh́n thấy tầm mức nhỏ bé của những sự việc cá nhân (trên các phương diện thể chất, t́nh cảm và trí năo) so với đại cuộc toàn thể. Một lần nữa, chúng ta lại cần đến đức vô tư nhưng lần này là sự vô tư đối với những phản ứng riêng tư của ḿnh.

Bởi vậy, Chân Sư đương nhiên phải xét kỹ xem sự phí tốn th́ giờ và năng lực mà Ngài ban cho những thành viên trong nhóm hay Đạo Viện của Ngài có được sử dụng đúng chỗ hay không. Ngài cũng xét xem do hậu quả của sự trợ giúp của Ngài, nhóm đệ tử có tăng gia công tác phụng sự và đoàn kết chặt chẽ hơn chăng trong t́nh huynh đệ đồng môn để cho họ bớt đặng nặng vấn đề phàm ngă mà phải sống với Chân Ngă trên cương vị một nhóm tập thể đại đồng.

Đức cô tư cũng phải được phát triển trong mối liên hệ với Chân Sư. Ngài không có ư làm cho nhóm đệ tử được thỏa măn với chính ḿnh, hài ḷng với quả vị hay công tác phụng sự của ḿnh. Trong những việc tiếp xúc rất hiếm với các đệ tử, Ngài thường nhấn mạnh về những sự thất bại và thiếu sót của họ. Ngài không phải chỉ đem đến cho họ những giáo lư và cơ hội phụng sự. Công việc của Ngài trước hết là giúp đỡ họ tự tách rời khỏi khía cạnh thể chất h́nh hài của đời sống và tự chuẩn bị để thực hiện một vài công cuộc phát triển tâm thức. Ngài chấp nhận sự hiến dâng và ḷng mong ước phụng sự của họ như một việc đương nhiên và đă chứng minh điều đó bằng cách thu nhận họ vào nhóm đệ tử của Ngài. Khi Ngài làm như vậy, Ngài cũng đảm đương lấy trách nhiệm, chuẩn bị cho họ được điểm đạo. Bổn phận của Chân Sư không phải là vỗ về, khen ngợi các đệ tử về những công tác mà họ đă làm và sự tiến bộ mà họ đă thực hiện. Nhiệm vụ của Ngài là theo dơi chặt chẽ tính chất rung động của họ và chỉ cho họ thấy những ǵ cần phải thay đổi trong thái độ và ngôn ngữ, làm cách nào để phát triển sự sinh hoạt tâm linh và điều chỉnh phàm ngă để đạt tới sự tự do khoáng đạt hơn và hiệu năng phụng sự tốt đẹp hơn. Nếu phương thức áp dụng này gây nên sự bất măn và thất vọng nơi người đệ tử, th́ đó là dấu hiệu chỉ rằng họ vẫn c̣n mắc kẹt nặng trong những phản ứng của phàm ngă. Có điều mà các đệ tử thường hay quên là Chân Sư phải bảo vệ toàn thể Đạo Viện chống lại phản ứng của những người c̣n đang tập sự công tác trong những nhóm nhỏ hơn và đang hợp tác với những nhiều kinh nghiệm hơn. Đôi khi những đệ tử bị ngă ḷng thối chí do bản tính tự nhiên hay buồn chán, hướng nội, hôn trầm, cũng có khi do sự thiện chí và t́m cách rút lui ra khỏi nhóm hay Đạo Viện. Họ chỉ có thể rút lui về phương diện ngoại môn hay h́nh thức mà thôi, bởi v́ sợi dây liên lạc nội môn luôn luôn vẫn c̣n tồn tại, tuy rằng nó có thể tạm thời bị xóa bỏ v́ toàn nhóm tập thể cần phải tự bảo vệ chống lại phản ứng riêng rẻ của một đơn vị nào đó trong nhóm. Những thành viên của một Đạo Viện và những đệ tử chính thức luôn luôn làm công tác một cách hữu hiệu ngoài thế gian. Những kẻ sơ cơ và những người mới bắt đầu gia nhập c̣n phải được huấn luyện để tham gia vào công tác đó, và có nhiều cơ hội được đưa đến cho họ để làm công tác đó.

Sẽ đến lúc có những thời kỳ mà người đệ tử phải đương đầu với những câu hỏi rơ ràng nhất định. Trong việc giải đáp những câu hỏi đó, họ sẽ tự phát hiện lấy ḿnh và khám phá ra tầm mức, quy mô và hiệu năng của công tác phụng sự mà họ được yêu cầu đóng góp. Một vài câu hỏi đó có thể được đặt ra như sau:

- Công việc của tôi có hiệu quả ra sao trong mói tương quan với lănh vực hoạt động của tôi?

- Sự suy tư và đặt kế hoạch của tôi có hiệu quả ra sao trong sự tương quan với những ǵ có thể xảy ra trong tương lai tiếp cận? (một thí dụ hợp thời là những kế hoạch cho một thế giới hậu chiến và nhu cầu hoạt động xây dựng tâm linh một cách sáng suốt thông minh)

Tôi có thể nh́n nhận những thành tích nào như là kết quả những việc làm của tôi?

Tôi cảm thấy rằng công việc làm của tôi được tốt đẹp mỹ măn chăng, xét theo quan điểm chân ngă của tôi và theo quan điểm của Chân Sư?

Tôi có làm việc một cách vô tư chăng trong sự liên hệ tương quan với các bạn đồng môn và với những người đồng lao công tác, bất luận quả vị hay đẳng cấp?

Tôi có luôn luôn giữ ǵn được chăng tinh thần hợp tác trong t́nh thương cần thiết?

Tôi có thành thật nh́n nhận chăng những khuyết điểm của riêng tôi và của các bạn đồng môn và im lặng xúc tiến công việc với những người phụng sự chung với tôi mà không chỉ trích?

Tôi có nhận định đúng vị trí hiện tại của tôi chăng? Ai là người mà tôi có thể giúp đỡ? Ai là người mà tôi phải nh́n lên để noi gương, để t́m sự giúp đỡ và thông cảm?

Một trong những bài học đầu tiên mà người đệ tử phải học là nh́n nhận điều mà huyền môn gọi là “tiến tŕnh đẳng cấp”. Điều này giúp cho người đệ tử tự đặt ḿnh một cách ư thức vào điểm tiến hóa và phát triển tâm linh của ḿnh để nhận biết những ai là người mà y có thể giúp đỡ do kinh nghiệm bản thân và ai là người mà y phải hướng về để t́m sự giúp đỡ tương tự.

Đó là một bài học khó đầu tiên. Người sơ cơ luôn luôn tự dối ḿnh một cách ư thức hơn là người đệ tử già dặn và có kinh nghiệm. V́ cần hiểu rơ sự kiện về tiến tŕnh đẳng cấp này mà tôi mới chọn đề tài “Sáu giai đoạn trên đường Đạo” làm đề tài học hỏi. Làm một người đệ tử không có nghĩa là tất cả những thành viên trong một Đạo Viện gồm đủ mọi đẳng cấp. Từ đẳng cấp của người sơ cơ mới đi qua bước đầu tiên trên đường Đạo gay go hiểm trở, đến quả vị của một đệ tử đạt đến tŕnh độ một Chân Sư minh triết. Tiến tŕnh đẳng cấp là một điều cần được nghiên cứu kỹ. Hăy nhớ định luật tâm linh sau đây: “Chúng ta tiến hóa do những điều kiện nhận thức của ḿnh”.

Một điều nhận thức khi nó được coi như một khía cạnh hay một phần nhỏ của một toàn thể rộng lớn, là cái mầm giống của một sự phát triển tâm thức lớn lao. Một sự phát triển tâm thức cố định là dấu hiệu của sự Điểm Đạo. Đó là một giáo điều huyền môn rất quan trọng.

Các đệ tử cần trau dồi thái độ nhận thức tâm linh, nhờ đó họ sẽ thấy rằng đời sống của họ sẽ được phong phú hơn. Sự tiếp xúc với những đệ tử cao niên. đạo đồ và Chân Sư, luôn luôn khêu gợi nguồn cảm hứng tâm linh do thái độ ấy đưa đến. Cái quyền năng mà họ sử dụng một cách thông thường và vô ư thức có một ảnh hưởng song đôi. Nó khích động phần tốt lành nhất và cũng khêu gợi phần bất hảo nhất trong khi nó đặt người đệ tử vào những t́nh thế mà y phải giải quyết. Mỗi đệ tử là một điểm tập trung thần lực đến một mức độ nhất định. Người đệ tử càng tiến hóa cao, nguồn thần lực tỏa ra từ con người y càng lớn. Điều này đương nhiên đưa đến t́nh thế mà người đệ tử ở cấp thấp hơn phải đối phó. Người đệ tử chân chính không bao giờ làm điều ấy với sự dụng tâm. Có những môn phái cho rằng người trưởng tràng hay đệ tử cao siêu phải đặt người Đạo sinh sơ cơ vào một t́nh thế giả tạo nào đó để rèn luyện họ. Đó là một điều trái ngược với định luật huyền môn. Tuy nhiên, khi người đệ tử bước vào ṿng ảnh hưởng của vị Chân Sư hay một đệ tử cao niên, th́ có vài sự kiện đương nhiên xảy đến trong đời y. Ảnh hưởng rung động từ điển của các vị ấy sẽ hữu hiệu khi nó được tiếp nhận đúng cách và sử dụng một cách ư thức để đem lại những biến đổi cần thiết. Sau cùng, khi rung động từ điển của người đệ tử được điều ḥa và ứng đáp với những rung động thanh cao hơn, th́ chừng đó cả hai loại rung động có thể được ḥa hợp với nhau. Chính sự ḥa hợp đó là đặc điểm của tất cả mọi đẳng cấp dưới có thể được thu nhận vào cấp đẳng cao hơn. Sự ḥa hợp là ch́a khóa của sự Điểm Đạo.

Giai đoạn IV – Người đệ tử trên đường dây

Trong giai đoạn này, người đệ tử được truyền dạy phương pháp kêu gọi đến sự chú ư của Chân Sư trong những trường hợp khẩn cấp. Nó có cái tên kỳ lạ là “Người đệ tử trên đường dây”.

Giai đoạn này có liên quan đến toàn bộ vấn đề nhạy cảm thông linh loại cao. Những tác phẩm của tôi đă có nói rơ ràng và dứt khoát về tính cách bất hảo của những kinh nghiệm không linh hoạt thấp kém. Những Đạo sinh sơ cơ cần phải được cảnh giác nghiêm nhặt về vấn đề này. Vấn đề càng khó khăn hơn v́ những kẻ có năng khiếu thông linh hạng thấp lại không dễ ǵ liên lạc được để cảnh cáo họ và họ luôn luôn cho rằng những quyền năng thần nhăn và thần nhĩ của họ là dấu hiệu của sự tiến bộ tâm linh thượng đẳng. Tâm trí của họ khép chặt đối với mọi sự cảnh cáo và họ thường hành động đằng sau bức rào tự măn, tự tôn. Họ quên rằng tất cà những giống người bán khai và loài thú đều có năng khiếu thông linh và tiếp nhận các cảm giác mà những loại người mở trí không tiếp nhận được. Những giống người đó đều có năng khiếu giao tiếp với cơi trung giới trong những hoạt động, cách diễn đạt, các hiện tượng và thái độ của họ. Bởi vậy, cần phải tăng gia sự cảnh cáo và thức tỉnh những kẻ có năng khiếu thông linh trung b́nh về tính chất bất hảo của hiện tượng này. Tuy nhiên, người đệ tử không loại trừ khía cạnh biểu lộ thiêng liêng nào ra ngoài vùng kinh nghiệm của họ. Họ biết rằng năng khiếu thông linh trong những giai đoạn thấp kém nhất cũng là một khía cạnh biểu lộ thiêng liêng, vốn có tính chất cao hơn, thường là những cơ năng sinh hoạt thuần vật chất của thể xác. Không ai có thể nói rằng bởi v́ y đă là đệ tử, y sẽ không c̣n phải trải qua một loại kinh nghiệm này hay một loại kinh nghiệm khác. Y phải sẵn sàng trải qua mọi thứ kinh nghiệm và nhận định sự kiện rằng rốt cuộc tất cả các đệ tử đều phải trở nên thông linh, kể cả loại cao và loại thấp cũng như Đức Christ ngày xưa. Cái bí quyết an toàn duy nhất mà y cố gắng đạt tới là ngăn chận sự khai mở những huyền năng loại thấp cho đến khi nào những khả năng thông linh thượng đẳng đă thức động. Chừng đó th́ loại năng khiếu hạ đẳng được kiểm soát, chế ngự và được sử dụng do sự điều khiển từ mức độ tâm thức cao siêu. Theo sự hiểu biết của người đệ tử, chỉ có sự sống và h́nh thể, và y đang tập điều khiển những phương thức của sự sống qua trung gian của h́nh thể để tạo nên sự biểu lộ thiêng liêng.

Ngày nay, thế giới đang bước vào một giai đoạn cực kỳ nhạy cảm. Các đệ tử phải tự luyện ḿnh để chuẩn bị giúp đỡ. Sự biến chuyển tâm thức của thế nhân sẽ diễn ra trên mức độ ư thức ở cơi trung giới và bức màn ngăn cách giữa thế giới hữu h́nh với cơi vô h́nh sẽ biến mất một cách mau chóng. Làm sao các đệ tử có thể phụng sự, giúp đỡ trong thời kỳ khó khăn đó nếu họ không có kinh nghiệm diễn đạt những khía cạnh khác nhau của mọi hiện tượng thông linh? Làm sao họ có thể cứu giúp và bảo vệ những kẻ khác nếu họ e ngại không dám bước vào những cơi giới ngự trị bởi những hiện tượng thông linh thấp kém? Tôi không bảo chư môn đệ phải luyện tập các phép thần thông mà bảo chư môn đệ hăy giữ ḿnh trong tư thế s84n sàng để thấy và nghe trên tất cả mọi gia tầng phụng sự, hiểu biết những ǵ ḿnh nghe thấy và nghe để có sự diễn đạt đúng đắn, không bị mù quáng bởi thành kiến và sợ sệt. Đường Đạo của người đệ tử không phải dễ dàng êm ái, nhưng nó được bù trừ xứng đáng. Sự nhạy cảm thông linh là điều cần thiết để hiểu rơ giai đoạn này trên đường Đạo.

Giai đoạn thứ tư này chỉ có thể đến với người nào đă từng là đệ tử chính thức trên một kiếp và đă chứng tỏ khả năng phụng sự với tinh thần vô kỷ và trung kiên.

Những điều kiện được kể ra dưới đây:

1) Người đệ tử đă loại trừ phàm ngă và không c̣n bận rộn với tính chất cảm xúc của ḿnh. Sự chú trọng quá đáng đến cá nhân ḿnh vốn là điều thông thường nơi một số đông người, không c̣n chế ngự tư tưởng và nguyện vọng của y.

2) Người đệ tử đă có thể làm việc một cách vô tư bất luận rằng tính chất cá nhân của y có thể phản ứng cách nào. Điều này có nghĩa là những xúc cảm, tư tưởng, yêu ghét và dục vọng không c̣n là những yếu tố quyết định trong đời sống của y nữa, mà đó phải là những hoạt động hữu ích và ư tưởng tốt lành v́ lợi ích chung cho cả nhóm. Y sẽ không hy sinh một cá nhân nào v́ lợi ích tập thể cho đến khi nào y đă cố gắng trợ giúp người ấy hiểu biết vấn đề và chứng minh một mối tương quan đúng đắn, nhưng y sẽ không do dự mà hành động quyết liệt khi cần và khi có dịp.

3) Người đệ tử đă có một ư thức tỷ lệ về việc làm, về giá trị tương đối của sự đóng góp của y vào công việc của Sư phụ và đời sống của Đạo Viện. Y đắm say với công việc và cơ hội phụng sự chớ không bận tâm nghĩ đến cũng và vị thế cá nhân của y trong tư tưởng của Chân Sư. Phần nhiều đệ tử trong các giai đoạn đầu của thời kỳ sơ cơ không bao giờ quên rằng họ là những đệ tử. Đó là điều mà ĐỨC THẦY MORYA, gọi là sự “tự măn của cái trí bám bíu lấy phàm ngă”. Đó là một h́nh thức che đậy của thói kiêu căng mà những kẻ sơ cơ khó tránh khỏi. Họ không bao giờ quên, dù chỉ một phút, cái địa vị đệ tử của họ và sự kiện họ được gần Sư phụ, dù cho họ bận rộn bao nhiêu đến công việc. Tuy nhiên nếu họ thật sự hoạt động từ một trụ điểm tâm linh, họ sẽ quên đi thậm chí cả sự hiện diện của Ngài trong công việc cần phải làm để phụng sự nhân loại.

4) Người đệ tử đă đạt tới một điểm mà trạng thái tâm thức của chân ngă đă xuất hiện. Đó là trạng thái tâm thức mà phàm ngă của y chỉ là cái bóng và một phản ảnh méo mó, xiêu vẹo. Người đệ tử có ư thức đồng loạt về hai trạng thái hay hai điểm hoạt động tập trung.

a) Điểm trụ tâm linh, nơi mà y tập trung tinh thần và cố giữ cho được thường xuyên và bất khả xâm phạm.

b) Khu vực hoạt động tập trung trong 3 cơi giới xuyên qua đó y thực hiện việc phụng sự với tư cách đệ tử.

Hai điểm liên đới nầy thật ra không phải là hoạt động riêng biệt trừ phi chúng xuất hiện trong tâm thức của người đệ tử trên cơi hồng trần và biểu lộ đời sống khách thể và chủ thể của y. Sở dĩ có như vậy là v́ y phải hoạt động trong thời gian và không gian qua tác động của bộ óc thể chất. Điểm tập trung thứ nh́ thật ra phải là một sự xuất lộ ngoại tại của điểm trụ tâm linh nội tại. Đó là bí quyết của công phu tu luyện trên đường đạo của người đệ tử và của mối tương quan giữa nhân loại và H.Đ.T.T. Nó cũng liên hệ đến công việc của ĐỨC PHẬT và Christ v́ các Ngài là tiêu biểu cho những trụ của SHAMBALLA và H.Đ.T.T.

Đa số đệ tử không hoạt động từ một trụ điểm tâm linh, mà từ một điểm tập trung của phàm ngă, tuy đă là một bước tiến độ hơn của người thường, nhưng họ bám víu lấy nó quá lâu. Bao giờ người đệ tử c̣n tập trung vào phàm ngă th́ trụ điểm tâm linh sẽ c̣n cách biệt với y. Y sẽ bị thúc đẩy do động cơ của phàm ngă, chứ không phải do thần lực của Đạo Viện, điều này sẽ đưa đến mọi nỗi khó khăn, trắc trở cho y và cho cả nhóm. Trụ điểm tâm linh, kết quả của sự hiến dâng trọn vẹn của phàm ngă cho công việc phụng sự nhân loại, có tác dụng khích động và tăng cường quyền năng chớ không khêu gọi sự sống thấp kém của phàm ngă.

Đó là những nhu cầu bắt buộc mà người đệ tử phải ứng đáp trước khi y được truyền thụ bí quyết giao tiếp với Chân Sư tùy ư muốn trong những trường hợp khẩn cấp.

Đến đây, tôi muốn chư môn đệ lưu ư về thái độ của Sư phụ. Trong giai đoạn này, người đệ tử được phép kêu gọi đến sự chú ư của Sư Phụ, nhưng chỉ khi nào y được tin cậy rằng y sẽ sử dụng cái đặc ân này vào những mục đích phụng sự tập thể chứ không bao giờ dùng vào lợi ích cá nhân. Điều này có nghĩa là người đệ tử sẽ tự giải quyết lấy những khó khăn trong đời tư của ḿnh, chứ không để cho những sự việc cá nhân xen vào đời sống của Đạo Viện. Điều ấy cũng ngụ ư rằng người đệ tử đă có được sự thành tín và vô tư đến mức làm cho Đạo Viện xét thấy không cần phải tự bảo vệ chống lại những rung động từ điển của y. Sư phụ biết rằng nếu người đệ tử kêu gọi đến Ngài, Ngài sẽ không bị làm mất th́ giờ đế ứng đáp, bởi v́ sự kêu gọi đó luôn được phát ra v́ nhu cầu tập thể và v́ lợi ích của toàn nhóm.

Dầu Sư phụ đang bận việc ǵ, Ngài cũng phải ứng đáp lời kêu gọi đó v́ người đệ tử tin cẩn đă được ban cho cái quyền kêu gọi đến Ngài trong t́nh thương khẩn cấp. Sự liên hệ hỗ tương đó chỉ có thể đạt được sau một thời kỳ hoạt động lâu dài của người đệ tử chính thức ở bên ngoài và sau cùng là ở bên trong Đạo Viện. Nó không phải do kết quả của sự cố gắng nào để đạt tới cái địa vị uy quyền và thế lực trong việc phụng sự. Nó chỉ là cái kết quả im lặng và hầu như đạt được một cách vô ư thức của người đệ tử biết phụng sự trong âm thầm lặng lẽ, tự quên bản ngă của ḿnh chỏ lo thực hiện Thiên Cơ bằng cách tận dụng khả năng của ḿnh đến mức tối đa. Đó là phần thưởng của người đệ tử nào biết rằng ḿnh đầu thai kiếp này để làm ǵ và cố gắng làm việc đó với tinh thần hiến dâng trọn vẹn. Động cơ thúc đẩy của cuộc đời y la nhu cầu của nhân loại và sự nhận thức rằng y phải làm ǵ để thực hiện bước tiến bộ tâm linh tiếp cận trong tương lai.

Nhiệm vụ chính của một ĐỨC THẦY khi một đệ tử bước vào Đạo Viện của Ngài là giúp y suy gẫm thêm đường lối tách rời bản ngă. Điều này làm cho người đệ tử tập quên bản ngă cá nhân để trụ tâm thức vào việc phải làm và tập giải đáp những câu hỏi sau:

1) Đệ tử có thật biết rơ ḿnh phải làm việc ǵ trong kiếp sống hiện tại chăng?

2) Đệ tử có thử cố gắng thực hiện việc đó trong đời sống chăng?

3) Mục tiêu chính của người đệ tử phải chăng là lập hạnh và tinh luyện? Nếu vậy, đệ tử có nghĩ rằng ḿnh c̣n đang đi trên đường dự bị chăng thay v́ tự dối ḿnh với ư nghĩa rằng ḿnh đang theo con đường nhập môn?

4) Đệ tử có nghĩ đến nhu cầu của nhân loại chăng, hay là bận tâm lo nghĩ về địa vị của ḿnh về những vấn đề khó khăn tâm linh của ḿnh và về những chuyện rắc rối thuộc về đời sống cá nhân của ḿnh?

Bao giờ mà chư môn đệ c̣n cho rằng đời ḿnh là một cuộc đời đầy thích thú và cũng là một cuộc đời rất nhiều nỗi khó khăn, vất vả th́ chư môn đệ vẫn chưa dứt bỏ những thói quen tư tưởng cũ kỹ. Những câu hỏi này rốt cuộc phải được giải đáp trước khi người đệ tử có triển vọng tiến xa hơn.

Hăy nhớ rằng Đạo Viện chỉ được xuất lộ ra bên ngoài để làm một trụ điểm tâm linh. Từ Đạo Viện ấy, người đệ tử xuất phát để làm công việc ngoài thế gian. Nhóm đệ tử ngoại môn hoạt động nhập thế tức Đạo Viện ngoại tại, được xuất lộ bằng cách phản ứng diệu quang của Đạo Viện nội tại và thiết lập một từ trường của năng lực tâm linh. Điều này được thực hiện khi nào những đệ tử ngoại môn liên kết với Đạo Viện nội tại và phản ứng với cái diệu âm và đặc tính của nhóm đệ tử nội môn quy tụ quanh Sư phụ.

Một Đạo Viện không phải là một nhóm người đi t́m sự thể hiện tâm linh. Đó là một trung tâm hoạt động tập thể, có thần lực hỗ trợ để giúp cho nhóm đệ tử thi hành kế hoạch của Sư phụ và ứng đáp nhu cầu của nhân loại. Chư môn đệ có lẽ sẽ tự hỏi tại sao tôi cứ luôn luôn nhắc đi nhắc lại măi đến nhu cầu này. Đó là v́ nhu cầu ấy là nguyên tắc chính đại và khẩn cấp của sự thỉnh cầu ơn trên. Nó có thể kêu gọi đến sự ứng đáp của H.Đ.T.T và như thế sẽ làm cho hai trung tâm nhân loại và H.Đ.T.T liên đới nhau. Nó tương xứng trên quy mô tập thể với sự kêu gọi của phàm ngă đối với linh hồn. Bởi vậy một nhóm hay Đạo Viện của Chân Sư là một trung tâm thỉnh nguyện và khi người Đạo sinh trở thành một “Đệ tử trên đường dây”, th́ đó cũng như là phần thưởng cho những công quả phụng sự mà người đệ tử đă làm với một tinh thần vô tư và hy sinh tuyệt đối. Chừng đó th́ Đạo Viện mới có thể là một trung tâm tiềm lực độc nhất của thế gian.

Những “đệ tử trên đường dây” dùng một kỹ thuật lạ kỳ tùy theo cung của họ. Họ luôn luôn hoạt động xuyên qua Nê Hườn cung, tức bí huyệt trên đỉnh đầu. Do bí huyệt này, họ phát ra lời thỉnh nguyện (vô âm thinh đối với thính giác phàm trần) rung động dọc theo Kim Quang Tuyến (Sutratma) và đến với Đức Thầy. Tuy nhiên kỹ thuật này được truyền dạy trực tiếp cho người đệ tử khi sư phụ xét thấy y có quyền được ban đặc ân đó. Tôi không thể chỉ bí thuật đó cho chư môn đệ. Khi nào “đi trên đường dây” chư môn đệ sẽ được truyền thụ bí pháp đó.

Giai đoạn V: Người đệ tử trong hào quang

Như tôi đă nói trước đây, đó là giai đoạn mà người đệ tử được phép biết phương pháp kêu gọi để có được cuộc hội kiến với sư phụ. Ở giai đoạn này, người ấy được gọi là “người đệ tử trong hào quang”.

Đó là giai đoạn tiến hóa hơn nhiều so với tŕnh độ mà phần nhiều đệ tử đă đạt tới, bởi v́ nó đánh dấu sự hợp nhất gần như hoàn toàn giữa người đệ tử và nhóm của Chân Sư.

Trong giai đoạn trước đó, người đệ tử được ban cho ân huệ kêu gọi sự chú ư của Sư phụ trong những trường hợp khẩn cấp và chắc chắn được sự đáp ứng của Ngài. Từ vị thế của một người được truyền pháp để trở nên một đơn vị kết hợp và hữu dụng trong Đạo Viện, y đă tiến đến vị thế của một người được sự tin cậy của sư phụ. Sự định hướng của y đă vững vàng và tuy rằng y c̣n chịu nhiều sự khó khăn, thử thách, nhưng điều ấy ngày càng liên hệ đến đời sống tập thể chớ không liên hệ ǵ với y. Ở đây, tôi không nói đến những sự khó khăn của một nhóm nào trong Đạo Viện hay của một đoàn thể nào mà người đệ tử c̣n dính líu ở ngoài thế gian, mà chỉ đề cập đến sự ứng đáp của y đối với nhu cầu tập thể của nhân loại. Khi y có sự ứng đáp đó, việc ấy có nghĩa là cái toàn thể đối với y quan trọng hơn là một phần. Điều này không làm mất đi khả năng hợp tác của y với từng cá nhân riêng biệt, hay khả năng ban rải t́nh thương, sự thông cảm và ḷng từ ái cho những người cần đến t́nh thương trên đường đời của y. Y đă đạt tới một ư thức tỷ lệ và tổ chức đúng đắn những phương thức sinh hoạt, khuynh hướng và hoạt động của y trong thời gian và không gian. Chừng đó ư có thể được tin cậy để luôn luôn thay thế sự lợi ích tập thể vào lợi ích cá nhân, theo cái nh́n của phàm ngă.

ĐỨC THẦY biết rằng khi người đệ tử đạt tới giai đoạn này, th́ Ngài đă có một khí cụ tin cẩn, y không c̣n là chướng ngại cho sự sinh hoạt của toàn nhóm. Trước đây, tôi có nói về cách thức thâu nạp mọi đệ tử mới vào Đạo Viện thật là khó khăn dường nào. Y c̣n phải được chỉ dạy để tiến bước lần lần từ ṿng ngoài tâm thức tập thể của nhóm, đến chỗ trung tâm. Mỗi bước tiến đều cần có sự chăm sóc của Sư phụ để giữ cho mọi sinh hoạt của Đạo Viện được trôi chảy điều ḥa. Chỉ khi nào người đệ tử đă thực hiện được sự b́nh an nội tâm, y mới được phép thường trụ trong hào quang tập thể của nhóm. Điều này đến với y khi y trở nên ư thức được sự rung động đặc biệt tỏa ra từ hào quang của Sư phụ. Bởi đó chư môn đệ thấy rằng cần phải có sự b́nh an nội tâm trước đă. Tôi muốn nói rơ rằng b́nh an và b́nh tĩnh là 2 điều khác nhau. Sự b́nh tĩnh có tính cách nhất thời, thuộc về thế giới cảm xúc và những trạng thái dao động tinh thần. Sự b́nh tĩnh là cần thiết cho sự tiến bộ, mỗi bước tiến đều không khỏi được ghi dấu bởi những sự xáo trộn, khủng hoảng và dao động, và khi những điều đó được giải quyết ổn thỏa chúng mới được thay thế bởi những thời kỳ yên lặng hay b́nh tĩnh. Những sự b́nh tĩnh đó không phải là b́nh an và một đệ tử chỉ được phép thường trụ trong hào quang của Sư phụ, khi sự b́nh tĩnh đă được thay thế bởi sự b́nh an trong tâm hồn y. B́nh an có nghĩa là sự yên tĩnh thâm trầm, không bị xáo trộn bởi một cảm xúc nào của người đệ tử có tâm trí vững vàng, kiên cố. Xét theo khía cạnh thế tục đời sống bên ngoài của y có thể ở trong trạng thái dao động dữ dội. Tất cả những ǵ mà y ước mơ hoài vọng một cách quư báu nhất trong ba cơi giới, có thể siêu linh chung quanh y. Nhưng đâu đến như thế, y vẫn đứng vững, tâm hồn y vẫn b́nh thản an nhiên và những phần sâu thẳm của cuộc đời y vẫn không hề bị xáo trộn. Đó không phải là sự chai cứng vô cảm xúc, hay sự tự kỷ ám thị gượng ép, cũng không phải là một khả năng biểu lộ tâm thức ngoại đến mức không màng bận tâm đến những biến cố xảy đến cho ḿnh từ bên ngoài. Đó là sự cảm xúc mănh liệt được thăng hoa trở thành sự hiểu biết tập trung. Khi người đệ tử thực hiện được điều đó, y mới được phép sống trong ṿng hào quang của Chân Sư. Từ nay, y không c̣n làm cho sư phụ phải tạm quên trong giây lát những việc lớn lao của Ngài để làm việc không quan trọng là giúp đỡ một đệ tử.

Bởi vậy, một đệ tử chính thức tiến bộ qua sự trung gian của 3 điều nhận thức sau đây:

1) Y phản ứng với sự rung động hay đặc tính của một Đạo Viện tùy theo cung của y thuộc về loại nào. Y tiếp xúc với ṿng ngoài khu vực kiểm soát tập thể của sư phụ và trở nên đệ tử chính thức trong cơn tỉnh táo sáng suốt. Sư phụ ư thức được sự có mặt của y ở ngoài ṿng tâm thức của Ngài. Các bạn đồng môn của y cũng ư thức được một điểm ánh sáng khác bên trong đối với, phần lớn bởi v́ họ phải làm một cố gắng để hóa giải những phản ứng phàm ngă của người đệ tử mới đối với cuộc sinh hoạt mới, đối với những ảnh hưởng gây ra trong tâm thức của y khi y tiến sâu vào thế giới tâm linh do bởi sự đột khởi, ḷng sùng tín của y đối với sư phụ. Những đệ tử cao niên hơn có những nhiệm vụ che chở và bảo vệ sư phụ chống lại những phản ứng mănh liệt của người đệ tử mới. Một vị Đạo Đồ sẽ làm trung gian và đảm trách việc chăm sóc y. người đệ tử mới như tôi đă nói trước đây chỉ được tiếp xúc với sư phụ khi Ngài muốn và đó là điều tốt, hữu ích cho toàn nhóm.

2) Người đệ tử càng ngày càng nhận thức được tính chất và đặc điểm của Đạo Viện và tiến bước từ ṿng ngoài vào bên trong khu vực ảnh hưởng của sư phụ và nhóm của Ngài. Kế đó, y bắt đầu tham gia mỗi lúc càng nhiều vào đời sống tập thể và càng ngày càng ít chú ư đến ḿnh hơn. Bởi đó, y trở nên một lợi khí hữu hiệu hơn cho Đạo Viện và được giao phó những nhiệm vụ nhất định. Y chịu trách nhiệm về những công tác này đối với vị Đạo Đồ có phận sự chăm sóc y. Sư phụ bắt đầu tiếp xúc với y thường xuyên hơn, và bởi v́ y đă trở nên vô tư kỷ và ngày càng coi sự tiến bộ cá nhân của ḿnh ít quan trọng hơn việc phụng sự kẻ khác nên y được phép kêu gọi sự chú ư qua Sư phụ mỗi khi toàn nhóm cần đến sự giúp đỡ, và như thế y trở nên một đệ tử trên đường dây. Con đường thông thương “ANTAKARANA” được thiết lập mau chóng và tuôn tràn sinh khí từ tam thế thượng tâm linh càng gia tăng một cách tuần tự và đều đặn. Người đệ tử đă đạt tới một giai đoạn khả dĩ quy tụ chung quanh ḿnh một ṿng ảnh hưởng do hậu quả của sự phóng quang linh hồn xuyên qua phàm ngă. Có thể nói rằng không một người nào trở thành đệ tử trên đường dây trước khi tạo nên được một sự tương quan ảnh hưởng đối với một số đông người ở ngoài thế gian. Ở một giai tầng thấp kém hơn cũng như mối tương quan giữa sư phụ đối với y. Y cũng ra sức quy tụ một nhóm riêng của y, thường là một cách lệch lạc, méo mó và bất toàn, và ngày nay đó là trường hợp rất thông thường. Thế gian dẫy đầy những đệ tử đang cố gắng ráo riết để thành lập những tổ chức nọ kia và quy tụ chung quanh họ những người mà họ có thể giúp đỡ. Đó là một cơ hội để cho họ phát huy một đặc điểm và học tập những điều sơ yếu về công tác tập thể như H.Đ.T.T đang t́m cách thực hiện.

3) Người đệ tử ứng đáp mănh liệt và bất ngờ “theo quan điểm của y” với sự rung động của Sư Phụ khi Ngài hoạt động ngay tại chính trung tâm của hóm đệ tử. Khi đă biết rơ nhịp độ rung động từ lời kêu gọi của Sư Phụ. Y đă trở nên ư thức được tính chất của Đạo Viện mà Sư Phụ kêu gọi đến y. Bây giờ y được nhận vào chỗ bí nhiệm ở ngay Trung tâm Đạo Viện và trở nên một “đệ tử trong hào quang”.

Người đệ tử bắt đầu góp phần đáng kể vào sự sinh hoạt của Đạo Viện. Mỗi đệ tử thâm nhập hào quang của Sư Phụ qua sự tương đồng tính chất và nhịp độ rung động, làm tăng cường nhóm đệ tử mà y có liên hệ mật thiết.

Với thời gian qua, Đạo Viện của ĐỨC THẦY càng trở nên mạnh mẽ từ điển xạ và phóng quang. Trong ṿng hào quang, người đệ tử xúc tiến công việc ngay Trung tâm phóng quang của đời sống tập thể và từ đó thi hành việc phụng sự ra bên ngoài. Y luôn coi chừng, bảo vệ Trung tâm đó và giữ sao cho hào quang của y đừng phạm một điều ǵ có tính chất bất hảo không phù hợp với tính chất của Chân Sư. Y cũng giữ ǵn tư tưởng và dục vọng của y sao cho khỏi làm xáo trộn hào quang tập thể của toàn nhóm. Khi y được nhận vào giai đoạn này th́ đó là trách nhiệm của y và đặc ân đó không bao giờ được ban cho y trừ phi y có thể tự giữ ḿnh bằng cách đó và bảo vệ khu vực ảnh hưởng chung mà y có một phần tham dự.

Bởi vậy, chư môn đệ thấy rằng H.Đ.T.T cũng chỉ là một Đạo Viện lớn với một h́nh tam giác ở tại Trung tâm, gồm có Đức Chưởng Giáo Christ, Đức Văn Minh Đại Đế “MAHA CHOHAN” và Đức Bàn Cổ “MANOU”. Cái biểu tượng tam giác đó là một trung tâm phóng quang v́ sự phát quang của mỗi vị trong 3 Đấng Cao Cả ấy diễn ra theo một thể cách làm cho hào quang của các Đấng ấy ḥa lẫn và hợp nhất với nhau. Mỗi Đạo Viện tỏa ra một đặc tính tùy theo công việc của vị Chân Sư ở Trung tâm. Cũng y như thế H.Đ.T.T tỏa ra tính chất Ngôi Hai của Thượng Đế giống như SHAMBALLA tức Đạo Viện trên quy mô thượng đẳng bao hàm đặc tính trội nhất của Ngôi Một tức là sự sống vậy.

Hào quang của Sư Phụ cũng là hào quang của toàn thể Đạo Viện. Có 3 loại phát quang mà người đệ tử có thể ứng đáp:

1) Sự phát quang đến từ cảnh giới cao của cơi thượng giới hay từ khía cạnh thấp nhất của Tam Thế Thượng Tâm linh “MANAS”. Mănh lực của sự phát quang này và tầm mức khu vực ảnh hưởng sẽ được quyết định bởi mức độ tiếp xúc tâm linh của Sư Phụ với trí năng của Thượng Đế. Chính sự phát quang này khêu gợi một sự đáp ứng từ cái Trí trừu tượng phôi thai của người đệ tử khi đường thông thương “ANTA” được thiết lập. Đó là loại tiếp xúc đầu tiên mà người đệ tử sơ cơ đáp ứng trong những giai đoạn sau cùng của con đường dự bị,

2) Sự phát quang đến từ cơi bồ đề hay cơi trực giác tâm linh “BOUDHI” đó là sự biểu lộ tính chất bác ái của Sư Phụ, nó giúp cho Ngài tiếp xúc với t́nh thương của Thượng Đế. Ba loại phát quang này xuất phát từ Chân Sư và được tăng cường bởi những sự phát quang tương tự tuy kém mănh liệt hơn nhiều của những đệ tử nội môn trong Đạo Viện, là những yếu tố làm cho Sư Phụ và Đạo Viện tiếp xúc với điều mà huyền môn gọi là Ngôi Mặt Trời thể chất, qủa tim của Mặt trời và Mặt trời Tâm linh trung ương.

3) Sự phóng quang đến từ cơi Niết bàn hay khía cạnh ư chí của Tam Thế Thượng “ATMA”, để ghi nhận mục đích của Thượng Đế và hợp tác với Thiên Cơ. Thiên Cơ này tức là sự biểu lộ việc thực hiện ư chí thiêng liêng trong một chu kỳ nhất định.

Một sự kiện lư thú có thể được nêu ra ở đây. Khi người Đạo Đồ đă tăng cường sự rung động của ḿnh đến mức  đồng hóa với sự rung động của ĐỨC THẦY và có thể giữ vững nhịp độ rung động đó như là nhịp độ thông thường của ḿnh th́ khi đó người đă trở nên một vị Chân Sư. Trong mỗi Đạo Viện, vào một lúc nhất định nào đó, luôn luôn có một đệ tử được truyền pháp để thay thế Chân Sư để Ngài có thể đảm nhiệm những việc cao cả quan trọng hơn. Như chư môn đệ đă biết, tôi là người đệ tử trưởng tràng của ĐỨC THẦY K.H. và khi tôi đắc quả vị Chân Sư, tôi được thay chân Ngài để cho Ngài lănh nhiệm vụ khác cao cả hơn và một đệ tử khác thay tôi lên làm trưởng tràng trong nhóm đệ tử của Ngài. Phải cần đến hai vị đệ tử thay thế để cho một ĐỨC THẦY được hoàn toàn giải nhiệm đối với mọi công việc trong Đạo Viện, và tôi là người thứ nhất trong 2 người được chọn để làm việc này. Người kia vẫn chưa đắc quả vị. Khi phương thức đồng hóa này diễn ra, th́ tất cả thành viên trong Đạo Viện đều có thể tiến lên một bực, tuy rằng điều này ít khi xảy ra.

Chân Sư luôn luôn có 3 đệ tử thân tín nhất, hợp tác rất chặt chẽ với Ngài và trông nom những đệ tử khác trong nhóm tùy theo nhu cầu, tŕnh độ tiến hóa và cung của họ. Đức Christ khi xưa cũng có 3 vị mục đích thân cận với Ngài hơn 9 vị khác. Truyện tích về Đức Christ như được diễn tả trong Kinh Thánh cho thấy h́nh ảnh một Đạo Viện và h́nh ảnh của H.Đ.T.T. Ngài có ba vị đệ tử thân yêu và tin cẩn nhất, kế đó 9 vị khác hoàn thành Đạo Viện Nội môn. Kế đó nữa là 70 vị tượng trưng toàn thể Đạo Viện, sau cùng là 500 người tiêu biểu cho những đệ tử dự bị dưới sự trông nom của Ngài chứ không phải dưới sự chỉ dẫn của 3 vị, 9 vị và 70 vị kia cho đến khi họ được nhận vào nhóm đệ tử chính thức. Trong Đạo Viện Thượng đẳng “Đức SANAT KUMARA” cũng có một hệ thống tương tự trên một giai tầng cao hơn gồm những Đấng Cao Cả trong nhóm những cộng sự viên thân tín của Ngài. Tuy nhiên, hăy nhớ rằng những Đấng ấy là những nhân vật tượng trưng chứ không có thật. Số đệ tử trong một Đạo Viện vẫn thường xuyên thay đổi nhưng luôn luôn có 3 vị chịu trách nhiệm với Sư phụ để quản đốc mọi hoạt động của Đạo Viện. Họ là những vị cố vấn thân tín nhất và thực hiện những kế hoạch của Ngài.

Chúng ta đă thấy rằng người đệ tử phát nguyện đă đạt tới giai đoạn trở thành một đệ tử chính thức, tiến bước lần lần từng điểm trong ṿng chu vi khu vực ảnh hưởng của Chân Sư cho đến khi y đạt tới một thời kỳ mà y “biết” được hào quang của Chân Sư một cách ư thức. Câu này có vẻ thật vô nghĩa, nhưng trên khía cạnh huyền môn lại rất đúng như giải thích dưới đây:

1) Người đệ tử không những ư thức được Chân Sư mà c̣n biết rơ những ǵ ở trong trí của Ngài. Điều này có nghĩa là y giao tiếp thường xuyên với Chân Sư bằng TGCC.

2) Y đă vượt qua giai đoạn khảo sát nội tâm để t́m hiểu xem Chân Sư muốn y làm những việc ǵ. Y biết rơ cái vai tṛ mà y phải đóng góp trong đại cuộc.

3) Y đáp ứng bén nhạy với hào quang của Chân Sư không những trên cơi vô h́nh và trong Đạo Viện, mà cũng đáp ứng bằng khối óc vật chất của y. Y di chuyển, đi đứng trong ṿng hào quang ấy trong đời sống hàng ngày. Phương thức này đương nhiên gồm 5 giai đoạn.

a) Y giao tiếp bằng TGCC, trí óc của y đáp ứng với trí năng của Chân Sư.

b) Bởi vậy, y ư thức được tư tưởng của Chân Sư bằng cái trí của ḿnh. Điều này ảnh hưởng đến đời sống và công việc phụng sự của y. trí năng của y luôn luôn chuyển đạt những ấn tượng y nhận được bằng TGCC cho nó trở thành những công thức rơ ràng, trật ự để sử dụng vào những phương thức chỉ định.

c) Ở giai đoạn này v́ đă tương đối giải thoát khỏi ảo ảnh, ảo giác, nên y có thể đáp ứng từ khía cạnh nhạy cảm và cảm xúc, và bởi đó y có thể chuyển đạt những kế hoạch của Sư Phụ lên cơi trung giới.

d) Ở mức độ dĩ thái, y có thể bắt đầu hoạt động với năng lực của Đạo Viện mà Chân Sư có thể dành cho y sử dụng trên cơi phàm trần. Y trở nên một vị “phóng phát năng lực” và chừng đó y có thể tạo nên kết quả trên cơi hồng trần.

e) Khối óc của y trở nên ư thức được tính cách đồng loạt tác động của 4 phương thức trên đây và y bước vào giai đoạn mới của con đường đệ tử hữu thức. Qua sự tác động của chân ngă và ảnh hưởng của Chân Sư, y nhận thức được Thiên Cơ một cách rơ ràng như phô bày trước mắt y. Đây không phải chỉ là một giai đoạn tiến hóa cao trên Đường Đạo của người đệ tử, mà c̣n bao gồm kiến thức hiểu biết của vị Đạo Đồ. Người đệ tử sơ cơ biết rằng mục đích của nhà huyền học là sử dụng năng lực. Tuy nhiên y không biết rằng điều ấy không thể thực hiện một cách ư thức cho đến khi nào y đă hội đủ những điều kiện sau đây:

1) Y đă tác động như một vận hà trong một thời gian lâu dài. Hăy suy gẫm về điều này. Việc đạt tới khả năng làm vận hà thuần túy và phân phối năng lực một cách lưu thông, không bị chướng ngại là mục đích đầu tiên và đ̣i hỏi một thời gian lâu dài. Năng lực do một đệ tử phân phối, trước khi thiết lập một vận hà lưu thông và vững vàng thường là bị nhuộm mầu bởi cá tính riêng biệt của y “dẫu cho đó là một cá tính ưu tú tốt lành”. Trong tương lai sẽ đến một thời kỳ mà người đệ tử có thể phân phối năng lực thuần túy của Đạo Viện tùy ư muốn.

2) Bởi đó, người đệ tử phải phân phối năng lực chứ không phải mănh lực. Có một sự lầm lẫn rất lớn trong trí của nhiều đệ tử về vấn đề này. Trừ phi y là một Đạo Đồ cao cấp, người đệ tử ít khi phân phối năng lực. Y chỉ tác động với các mănh lực thuộc về ba cơi giới. Khoa huyền môn có nói rằng: “Khi người đệ tử có thể phân phối 4 loại mănh lực và phát âm được 7 âm điệu của chúng, mỗi âm điệu trong 7 thứ âm điệu này có một sự biểu lộ tứ diện, y không thể sử dụng năng lực. Khi y sử dụng năng lực, y tác động với 7 chứ không phải 28”. Hăy suy gẫm về câu này. Tôi nói thêm rằng 28 thuộc về số 7 và khi người đệ tử tác động với số 7, y đương nhiên giải tỏa số 28 và làm việc dưới ấn tượng đặc tính của 7 cung.

3) Y c̣n phải học áp dụng những sự phân biệt và tổng hợp. Đây là một điểm gợi ư có tác dụng đặc biệt cho những người phụng sự.

4) Y biết những mối nguy hiểm mà người Đạo sinh sơ cơ có thể gặp phải khi cố gắng phân phối mănh lực hay điều khiển năng lực theo một chiều hướng nhất định. Y nhận thức rằng mục đích của y là làm một vận hà trong một thời gian lâu dài do bởi một đời sống tinh khiết, định hướng đúng đắn và không chỉ trích. Sự định hướng đúng đắn này gồm có một điều mâu thuẫn mà tất cả các đệ tử phải giải quyết, đó là hướng về chân ngă và Đạo Viện nhưng đồng thời cũng hướng về nhân loại. Chỉ có những đệ tử thân cận trong tâm huyết với Chân Sư và do đó ư thức được hào quang của Ngài, mới có quyền điều khiển mănh lực theo những đường hướng nhất định. Khi họ chưa đạt tới địa vị đó th́ nhiệm vụ của họ là làm những vận hà để phân phối năng lực một cách tổng quát và đại đồng chớ không theo một đường lối nhất định.

Một ĐỨC THẦY hoặc trên một Cấp Đẳng cao hơn, Đấng Chưởng Giáo thường bị các đệ tử làm khổ nhiều hơn là v́ những người ở ngoài thế gian. Công việc của các Ngài bị làm trở ngại bởi những đệ tử đă biến hóa cao nhiều hơn là bởi những tư tưởng gia thông thái ở ngoài đời. Hăy nhớ rơ điều ấy trong lúc này. Không phải là sự độc ác của người đời đă gây nên những nỗi khổ đau cho Đấng Christ khi Ngài c̣n tại thế mà chính là những tông đồ của Ngài, cùng với khối nghiệp quả tích tụ của nhân loại trải qua thời gian, rải rác trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Những đệ tử họp thành từng nhóm hoạt động ngoài thế gian, nhiều người trong số đó làm công tác hữu hiệu hơn rất nhiều so với những đệ tử quy tụ trong những nhóm nội môn. Người đệ tử chính thức cao cấp luôn luôn có một nhóm riêng mà y quy tụ chung quanh ḿnh để thực hiện những việc có tính cách tích cực và sáng tạo. Hăy nhớ lấy điều này: Tiêu chuẩn để xét đoán khả năng của một đệ tử là ảnh hưởng của y đối với kẻ khác, đó là ảnh hưởng mà y tạo nên do bởi sự truyền bá đạo lư bằng ng̣i bút, bằng sự thuyết pháp và ảnh hưởng cá nhân xuyên qua gương mẫu của ḿnh.

Trong sự công phu tu luyện của người đệ tử, việc sử dụng các bí huyệt hay luân xa phần lớn tùy nơi y thuộc về cung nào. Chân Sư không bao giờ dùng những bí huyệt của người đệ tử làm khí cụ phân phối năng lực. Những bí huyệt khi hoạt động đúng cách là những kho dự trữ và phân phối năng lực t6o màu bởi tính chất đặc biệt của người đệ tử. Trong những giai đoạn sau cùng trên đường Đạo của người đệ tử, những luân xa ấy hoàn toàn đặt dưới sự kiểm soát của linh hồn xuyên qua nê hường cung. Nhưng phải nhớ rằng sau cuộc điểm đạo thứ tư và thể thượng trí tan ră, th́ không có một thể nào c̣n giam hăm người đệ tử trong cơi sắc tướng hay làm cho người bị giới hạn nữa. Sau cuộc điểm đạo thứ ba, những bí huyệt thấp hơn không c̣n kiểm soát những cơ phận đáp ứng thể chất. Theo quan điểm huyền môn Thượng Đẳng và khi người đệ tử đă ở bên trong Đạo Viện, những bí huyệt được coi là những trung tâm vận chuyển năng lực. Trước cuộc điểm đạo thứ ba, các bí huyệt có một tầm quan trọng tạm thời trong sự tu luyện, bởi v́ chính do đó mà người đệ tử học hỏi về tính chất của năng lực, sự dị biệt của nó với mănh lực và những phương pháp phân phối năng lực như thế nào.

Thành phần cấu tạo chân ngă hay linh hồn là yếu tố hàng đầu cho Sư phụ trong việc huấn luyện người đệ tử đảm nhiệm công việc củ H.Đ.T.T. Điều này đương nhiên sử dụng đến 3 bí huyệt ở trên, đó là những bí huyệt trên đỉnh đầu, tim và cuống họng. Sư phụ đặc biệt chú trọng đến cái gọi là “hoa sen chân ngă”, và đây là một điểm mà người đệ tử rất hay quên. Linh hồn chú trọng đến đời sống riêng của nó, c̣n những chi tiết về sự sống của phàm ngă không có ảnh hưởng ǵ đối với tâm thức của chân ngă. Trong khi sự sống của phàm ngă tăng trưởng mănh liệt, th́ chân ngă vốn đă tiếp nhận những ǵ cao cả tốt lành nhất mà phàm ngă cung ứng trong những nguyện vọng cầu tiến của nó và đă từ từ chú ư đến trí năng của phàm ngă cũng đă ư thức được một yếu tố chống đối biểu lộ của chân ngă trong cuộc sống bên ngoài. Khi đó th́ bắt đầu diễn ra một cuộc xung đột giữa những cặp đối tượng mâu thuẫn, một cuộc chiến đấu giữa chân ngă và phàm ngă diễn ra một cách ư thức từ cả hai phía. Cuộc xung đột này trước mỗi lần trong ba cuộc điểm đạo đầu tiên, cứu cánh là đưa đến sự chạm trán giữa hai địch thủ: kẻ giữ cửa “vong linh thách thức người đệ tử muốn vượt qua cửa điểm đạo” và Đấng Hiện diện Thiên Thần. Ở đây, chúng ta không nói về cuộc chiến đầu này, chúng ta chỉ nói về sự đáp ứng với năng lực của H.Đ.T.T hàm súc trong hào quang của Chân Sư và từ đó chuyển sang con người đệ tử, các đường chuyển vận năng lực đó có thể được nêu ra như sau:

1) H.Đ.T.T (ĐẠI ĐOÀN CHƯỞNG GIÁO): Chân Sư, Đạo Viện, Chân ngă của người đệ tử

2) Nhân loại: người đệ tử, đường giao thông ANTAHKARANA, ba bí huyệt ở phần trên.

Đó là phương thức đại cương và tổng quát đi từ cái đại thể (nói riêng về cá nhân người đệ tử) đến tiểu tiết tức là người đệ tử trong xác phàm.

Những chi tiết về sự ban rải năng lực, hay phương thức cảm hứng tâm linh (cả hai câu này đều diễn tả quan niệm ứng đáp với hào quang của Chân Sư) có thể được tŕnh bày như sau:

Hào quang của Chân Sư

Hoa sen của chân ngă hay thể của linh hồn

Sự lưu thông năng lực của Đạo Viện xuyên qua :

Những hoa sen hy sinh hay khía cạnh của ư chí.

Những cánh hoa t́nh thương hay khía cạnh minh triết / bác ái

Những cánh hoa kiến thức hay khía cạnh trí năng. Phương thức này sẽ chịu ảnh hưởng bởi loại cung của người đệ tử. 

Sự đáp ứng của người đệ tử trên cơi trần và sự thụ cảm của những bí huyệt của y với hoạt động của chân ngă, dưới ấn tượng của Chân Sư sẽ diễn ra như sau:

Những cánh hoa hy sinh sẽ chuyển di năng lực đến Nê Hườn cung, xuyên qua những cánh hoa hy sinh (có 3 cánh tất cả) Trong ṿng cánh hoa chung quanh “viên ngọc trong hoa sen”, từ đó đến cánh hoa hy sinh trong 3 cánh hoa t́nh thương, và trong 3 cánh hoa kiến thức. Thế là có tất cả 5 cánh chuyển đạt ư chí.

Những cánh hoa t́nh thương cũng chuyển vận năng lực t́nh thương giống y như trên đến bí huyệt ở tim xuyên qua những cánh hoa t́nh thương tất cả cũng có 5 cánh.

Những cánh hoa kiến thức chuyển vận năng lực của hoạt động trí tuệ đến bí huyệt nơi cuống họng cũng theo phương pháp giống như trên xuyên qua 5 cánh hoa kiến thức.

Phương thức này tiếp diễn trong thể chân ngă và do người đệ tử ghi nhận trên cơi hồng trần, rốt cuộc tạo nên cái gọi là một “Trung tâm thỉnh nguyện mạnh mẽ”. Trung tâm thỉnh nguyện này khêu gợi sự đáp ứng từ Tam Thế Thượng tâm linh được nêu ra như sau:

1) Tam Thế Thượng Tâm linh, kho ǵn giữ năng lực của chơn thần hột chủng tử ư chí (ATMA) – những cánh hoa hy sinh – Đường giao thông – ANTAHKARANA – hột chủng tử hồng trần trong hoa sen chân ngă – Bí huyệt trên đỉnh đầu.

2) Tam Thế Thượng Tâm linh – Hột chủng tử Minh triết (BUDDHI) – Những cánh hoa t́nh thương – Đường giao thông – ANTAHKARANA – Một chủng tử thể t́nh cảm trong hoa sen chân ngă – Bí huyệt nơi quả tim.

3) Tam Thế Thượng Tâm linh – Một chủng tử trí tuệ (MANAS) - những cánh hoa kiến thức – Đường giao thông – ANTAHKARANA – Đơn vị trí năng – Bí huyệt nơi cuống họng.

Những chi tiết trên đây thuộc về phần kỹ thuật của công phu tu luyện, vốn thuần lư thuyết và chỉ là những biểu tượng bằng ngôn từ của phương thức tiến hóa tất nhiên và bất khả kháng. Phương thức ấy diễn tả nguồn cảm hứng thiêng liêng mà tất cả mọi người đều phải trải qua như một phần sinh hoạt của Thượng Đế và được tiếp nhận một cách ư thức khi con người đạt tới những giai đoạn bước vào con đường của người đệ tử và giai đoạn điểm đạo. Phương thức này, nếu được hiểu rơ, chứng minh tính chất của khoa luyện khí công, hay luyện hơi thở. Hơi thở hay khí vận là tất cả bí quyết của sự tu luyện. Trong phương thức kêu gọi và thỉnh nguyện, vốn là trụ cột của toàn thể phương thức này, có sự gợi ư về cơ cấu và trái tim của MẶT TRỜI, cơ phận của THÁI DƯƠNG HỆ hiện tại và của toàn bộ hệ thống tiến hóa trong cơ sinh hoạt của vũ trụ.

Khảo sát về những giai đoạn trên đường Đạo thật rất khó mà giảng giải cho người sơ cơ biết rơ ràng về trạng thái tâm linh và những diễn biến nội tại. Điều này cũng do bởi sự kiện rằng tôi cố gắng diễn đạt vấn đề ư thức vốn không có trong tầm kinh nghiệm của chỉ đến người đệ tử đă tiến hóa cao. Khi tôi nói về ba giai đoạn sau cùng chúng ta đề cập đến điều gọi là tâm thức của người, Đạo Đồ ở vào trạng thái khai triển cao độ với một sự hiểu biết không thể nào diễn tả bằng ngôn ngữ hay danh từ.

Chư môn đệ có thấy chăng là người Đạo Đồ cao cấp sống trong một thế giới đặc biệt với những phản ứng và hiện tượng tế vi, hoàn toàn không thể tư tưởng được đối với người đệ tử trung b́nh? Bởi vậy, trong khi y hoạt động trên cơi hồng trần hay trong 3 cơi giới, y chỉ vận dụng khía cạnh tâm thức thấp thỏi nhất. Tôi đă chỉ dẫn cho chư môn đệ trong nhiều năm qua và chư môn đệ đă có một sự thích thú sâu xa. Chư môn đệ đă thấu triệt nhiều giáo lư huyền môn do tôi đưa ra và biết nhiều về mặt lư thuyết. Điều này được chứng minh bởi sự thích thú theo dơi và những câu hỏi mà chư môn đệ đă nêu ra. Những câu hỏi ấy nêu các thắc mắc về những hột chủng tử (hay hột nguyên tử trường tồn) về chức năng hoạt động và cách thức tiếp dẫn sinh khí của chúng.

Theo quan điểm của vị Đạo Đồ, những vấn đề ấy không quan hệ. Lưu ư thắc mắc về các hột chủng tử cũng chẳng khác lưu ư đến chất cường toan trong dạ dày, nó làm cho phương thức hoạt động trên cơi hồng trần luôn luôn tái tạo không ngừng. Sự tương đồng đó chắt chẽ hơn là chư môn đệ tưởng. Theo huyền môn, một sự chú ư quá đáng đến bộ máy tiêu hóa hay bất cứ một bộ phận nào trong cơ thể đều đưa đến sự khó khăn, bất măn. Những người bị bệnh kinh niên đều phạm vào lỗi lầm này (tuy không phải tất cả) do bởi sự chú trọng quá đáng của họ đến phần h́nh hài thể chất trên cơi hồng trần trong một thời gian rất lâu. Người ta có thể bị một bệnh tật nặng nề nhưng vẫn tràn đầy sinh lực và không màng chú ư đến thể xác đến mức làm cho bệnh nhân không thể kéo dài kinh niên. Đây không phải là vấn đề tinh thần thắng đoạt vật chất mà là vấn đề phân phát năng lực làm vô hiệu hóa ảnh hưởng tác hại của bệnh tật vào trong tâm thức. Hăy suy gẫm về câu sau này v́ nó nắm cái bí quyết của việc giữ ǵn sức khỏe trong tương lai.

Cũng y như thế, sự chú trọng liên tục đến các chủng tử và ṿng xoáy chân ốc sẽ đưa đến việc tăng cường sự sống h́nh thức và sự tác động thô bạo của mănh lực đi xuyên qua chúng. Mục đích của phần đông đệ tử không phải là giới hạn tâm thức của họ bằng cách tập trung vào các sự vật tế vi như hột chủng tử chẳng hạn và những chi tiết liên quan đến phần h́nh hài sắc tướng của một người. Mục đích của mỗi Đạo sinh là nới rộng tâm thức để bao gồm cả những ǵ ở bên ngoài con người của y, để đạt tới những trạng thái tâm thức cao siêu hơn trong đời sống của tập thể và của nhân loại, và tự kết hợp với H.Đ.T.T cứu cánh với SHAMBALLA, và trên phương diện mật nhiệm để “biết” Thượng Đế.

Sự nghiên cứu tỉ mỉ và chú trọng đến các nguyên từ và các ṿng xoáy trôn ốc có một sự thích thú về phương diện khoa học kỹ thuật, nhưng không đưa đến sự phát triển tâm linh mà chỉ đưa đến sự đặt nặng phàm ngă, và bởi vậy, nó đưa đến thêm nhiều sự khó khăn trên Đường Đạo. Người đệ tử càng tiến hóa cao, th́ sự đặt nặng và chú trọng quá đáng như thế lại càng nguy hiểm hơn nhiều. Trong khi đó, nhà bác học hay người Đạo sinh sơ cơ trên đường dự bị có thể khảo cứu các vấn đề đó một cách tương đối an toàn bởi v́ họ không vận dụng năng lực để có thể làm cho những “điểm mănh lực” đó trở nên có tác động nguy hiểm.

Giai đoạn VI: Người đệ tử trong ḷng của Sư phụ

Đây là giai đoạn cuối cùng trong 6 giai đoạn trên đường Đạo. Tôi đă diễn tả giai đoạn này ở phần mở đâu như sau:

Trong giai đoạn 6 người đệ tử luôn luôn giao cảm mật thiết với sư phụ. Y được chuẩn bị Điểm đạo hoặc sau khi được điểm đạo, y được giao phó công tác đặc biệt này. Ở giai đoạn này, y được gọi là “người đệ tử trong ḷng của Sư phụ”

Câu “trong ḷng của Sư phụ” không có nghĩa ám chỉ một sự liên hệ t́nh cảm giữa sư phụ và đệ tử. Ư nghĩa thông thường được gán cho câu ấy là sau cùng người đệ tử đă xứng đáng được thương yêu thật sự và bởi vậy được gần gũi mật thiết với sư phụ. Nhiều kiếp làm công quả phụng sự đă đưa đến cho y cái phần thưởng đó. Y đă được tự do tiếp xúc với Sư phụ trong một mối tương quan chặt chẽ đầy thông cảm và ưu ái. Nhưng giai đoạn này tuyệt đối không đề cập đến điều đó.

C̣n một điều nữa cần hiểu rơ là khi người đệ tử đạt tới giai đoạn này, y không c̣n là đệ tử chính thức nữa, y là Đạo Đồ cao cấp đă vượt ra ngoài sự giám sát và bảo vệ của Sư phụ để bước vào mối liên hệ trực tiếp với Đức Chưởng Giáo, là thầy của các Chân Sư và trụ điểm Trung ương của H.Đ.T.T, cũng như Sư phụ là trụ điểm của một Đạo Viện. Sư phụ là trung tâm của một nhóm đệ tử c̣n Đức Chưởng Giáo là trung tâm của H.Đ.T.T. Khi hành giả càng tiến gần đến đích thực hiện chân ngă th́ y càng nhận thức rơ ràng hơn rằng điểm trung tâm và ṿng chu kỳ là một.

Ư nghĩa của chữ “ḷng” chính là ư nghĩa của sự sống v́ nó vẫn thoi thóp một cách trường cửu ở trung tâm vũ trụ. Trong sự sống đó người Đạo Đồ hiện diện một cách ư thức và tự nhận thức rằng ḿnh không thọ lănh sự sống bằng ban phát các sự sống. Đó là một điều khác hẳn và nắm giữ các bí quyết của giai đoạn này trên Đường Đạo. “Ḷng của Sư phụ” là một danh từ kỹ thuật ám chỉ những nguồn sống và nhiều ư nghĩa tương tự. Ở giai đoạn này và sau cuộc điểm đạo lớn, có một đường năng lực hay sinh khí trực tiếp (được cảm nhận và sử dụng) giữa người đệ tử hữu thức và:

Bí huyệt nơi quả tim

Bí huyệt trên đỉnh đầu

Hoa sen chân ngă, sau cuộc điểm đạo thứ tư là bí huyệt tim của đời sống chơn thần.

Sư phụ ở trong nhóm qua Ngài

Đức Chưởng Giáo ở trung tâm của H.Đ.T.T.

Sự sống chơn thần bắt đầu biểu lộ cuộc điểm đạo thứ ba. Đức Ngọc Đế trung tâm của Bạch Ngọc Cung (SHAMBALLA).

Khi đó đường dây liên hệ này nới rộng từ những trung tâm hướng tới trước, lên trên và ra bên ngoài đến tận sự sống ở bầu Kim Thinh, Mộc Tinh rồi từ đó đến Đức Thái Dương Thượng Đế và đến một điểm trong Mặt Trời SIRIUS.

Như thế giai đoạn này khác rất xa với những ǵ ta có thể tư tưởng. Đó là giai đoạn ghi dấu cuộc khởi đầu mới và một điểm giao thời quan trọng. Đó là một giai đoạn mà người ta bước vào xuyên qua cánh cửa Niết Bàn mở ngỏ, nơi bắt đầu của con đường tiến hóa siêu nhân loại.

Trước đây tôi có nói về những đệ tử ngoài thế gian được gần gũi với quả tim củ sư phụ. Điều này không giống như là “ở trong ḷng của Sư phụ”. Câu trên đề cập đến Chân Sư thuộc cùng một cung với đệ tử, câu dưới đề cập đến Đức Chưởng Giáo, tức sự tổng hợp cả các cung trong phạm vi của H.Đ.T.T. Thế giới ngày nay có nhiều cơ hội để cho tất cả các đệ tử trở nên những đệ tử của thế gian, gần gũi với quả tim của Sư phụ và để cho họ vượt qua mau chóng những giai đoạn đầu trên Đường Đạo. Nó đưa đến cơ hội cho những đệ tử ngoài thế gian bắt đầu tiến bước gần đến Đức Chưởng Giá. Chư môn đệ phải chú ư đến cơ hội đầu tiên này, v́ khi chư môn đệ tiến đến gần hơn với nhóm của ḿnh th́ chư môn đệ có thể bắt đầu sự huấn luyện để được hữu dụng ngoài thế gian. Phần đông chư môn đệ có cho rằng ḿnh đă quá cao niên để thực hiện việc đó chăng? Điều đó chư môn đệ hăy tự giải đáp. Linh hồn vốn không có tuổi tác và có thể sử dụng cái thể xác của nó nếu thể xác ấy tự đào luyện thành một khí cụ thích nghi và sẵn sàng. Chư môn đệ có quá an phận và quá bận tâm với bản thân ḿnh để có thể thực hiện sự b́nh thản, tách rời, không lưu luyến, là đức tính cần thiết cho việc phụng sự thế gian chăng? Điều đó chư môn đệ phải tự khám phá lấy và chứng minh lấy đối với ḿnh. Nhóm đệ tử này đă được cung ứng nhiều cơ hội và được truyền dạy nhiều giáo lư. Đáng lẽ nó phải chứng minh ḷng sùng tín và làm công quả phụng sự đến một mức độ khác thường. Tôi tự hỏi không biết có được như vậy chăng? Chư môn đệ có bị xuống tinh thần quá đổi chăng (điều này cũng đồng nghĩa với ḷng ích kỷ) và quá nhạy cảm để có thể phụng sự nhân loại nhiều hơn từ trước đến nay? Điều đó có thể khắc phục được nếu chư môn đệ muốn. Điều mà chư môn đệ chú trọng riêng tư đến bản thân ḿnh, nó luôn ngăn cách chư môn đệ với đồng loại? Điều đó chư môn đệ cũng hăy tự khám phá lấy. Chư môn đệ có thật sự nhỏ nhoi, khiêm tốn và nhận thức được sự vĩ đại, huy hoàng của Thiên Cơ, hay là có sự tự tiếp xúc mặc cảm rồi coi như đó là dấu hiệu của sự khiêm tốn tâm linh? Chư môn đệ có cần xét lại ư nghĩa của đức khiêm tốn, cũng như tất cả những đức tính khác, theo quan niệm huyền môn và đặt lại vấn đề các giáo lư tâm linh.

Trước đây tôi có đề cập tới những đệ tử quy tụ trong chu kỳ hiện tại theo lời kêu gọi của H.Đ.T.T, câu này có liên quan, nhất định, trong thời kỳ này với những đầu đề “các giai đoạn trên đường Đạo”. Lời kêu gọi của H.Đ.T.T được phát ra cho toàn thể nhân loại, xuyên qua trung gian các nhóm đệ tử và Đạo Viện do các Đức Thầy điều khiển. Lời kêu gọi ấy được tiếp nhận bởi nhiều loại người khác nhau, và trong sự đáp ứng của họ. Lời kêu gọi ấy đă bị méo mó, lệch lạc nhiều, chỉ có những đệ tử cao cấp mới tiếp xúc đúng đắn hay đáp ứng một cách đầy đủ. Những người khác chỉ đáp ứng một vài khía cạnh của lời kêu gọi và sự hoạt động của họ rất kém, v́ căn cứ trên sự diễn đạt sai lầm bị nhuộm mầu bởi những kém khuyết của phàm ngă, trầm trệ bởi sự bất động và thường là do động cơ ích kỷ. Do sự đáp ứng của các đệ tử trong nhóm hay Đạo Viện Đức Thầy có thể nhận biết vị trí hay mức độ tiến hóa của người đệ tử, tuy rằng tất nhiên c̣n có nhiều bằng chứng khác làm tiêu chuẩn xét đoán việc ấy.

Chúng ta hăy xét qua vài loại người đáp ứng với lời kêu gọi ấy. Phần đông đáp ứng một cách vô ư thức, nhưng phản ứng thuận lợi, bởi v́ có một cái ǵ trong người họ ḥa hợp với lời kêu gọi, hay bởi v́ họ nhạy cảm với vài loại ảnh hưởng rung động nhất định nào đó. Đó là những loại người sau đây:

1) Những người thật sự yêu thương nhân loại, tuy họ có thể không biết ǵ về giáo lư huyền môn, nhưng có ḷng ưu ái để cố gắng trợ giúp đến mức tối đa. Ho có thể được H.Đ.T.T sử dụng một cách vô ư thức để làm điều lành và công tác từ thiện một cách hữu hiệu. Họ thường hành động có kết quả xây dựng hơn những đệ tử hữu thệ hay nhập môn. Bởi v́ họ không có ư thức về địa vị, cấp đẳng hay trách nhiệm trong Đạo Viện và tầm mức quan trọng cá nhân của ḿnh.

2) Những người có năng khiếu thông linh ở khắp nơi trên thế giới và thuộc đủ mọi loại. Họ giao cảm với những nhân vật trên cơi trung giới, tiếp thu được ấn tượng thanh cao hay tiếp nhận được bằng TGCC vài khía cạnh của ư niệm phóng phát ra. Trong những trường hợp đó luôn luôn có ảo ảnh, ảo giác, cảm nhận méo mó, xiêu vẹo và hiểu sai lầm. Điều này gây nên nhiều sự khó khăn, nhưng đó là một sức mạnh mà các nhà lănh đạo và giáo hóa nhân loại phải lưu ư. Nó ảnh hưởng đến những phần tử kém thông minh nhất trong quần chúng và đưa đến cho họ một ư niệm đại cương, tuy lệch lạc về Thiên Cơ, nhưng làm cho người trí thức phải bực ḿnh và làm cho công việc của người đệ tử càng thêm khó khăn, phức tạp.

3) Những đệ tử dự bị, họ tiếp nhận và đáp ứng với ấn tượng này mau lẹ và rơ ràng hơn hạng người nói trên. Họ thường tiếp nhận điều ấy qua nhăn quang và lời giáo huấn của một đệ tử cao cấp. Công việc phụng sự của họ đối với Thiên Cơ thường bị hỏng do sự vô minh, chấp ngă và hiểu sai lạc giáo lư. Họ quá thiên lệch trong sự học hỏi chân lư và trong sự giao tiếp với vị đạo sư của ḿnh.

4) Những đệ tử chính thức, họ tiếp nhận ư niệm và kế hoạch của Chân Sư một cách hoàn hảo hơn nhiều, nhưng thường không thực hiện được đầy đủ đúng theo tiêu chuẩn trong đời sống hàng ngày và trong công tác phụng sự thế gian bởi v́ họ quá bận tâm với những vấn đề riêng tư trên tư thế của người đệ tử, với công phu luyện tánh của ḿnh, với chức vị của họ trong Đạo Viện và vị thế của họ đối với Sư phụ. Nếu họ biết thương yêu đồng loại, chỉ nghĩ đến việc phụng sự một cách kiên tâm bền chí, th́ họ sẽ vượt qua mau chóng hơn những giai đoạn trên đường Đạo.

5) Những đệ tử mật thiết trong ḷng của Chân Sư, những đệ tử ngoài thế gian và những đệ tử trong hào quang của Chân Sư, biết rơ kế hoạch của Ngài, nó cũng  là kế hoạch của H.Đ.T.T, tuy có đặt trọng tâm vào một vài khía cạnh đặc biệt, họ thường thành công mỹ măn trong vài tṛ của ḿnh, sự thành công đó phần lớn do nơi ư thức tập thể, ḷng khiêm tốn sâu xa và lẽ tất nhiên do một trí năng phát triển đầy đủ và một thể t́nh cảm đă được kềm chế.

Tôi không có ǵ để nói nhiều hơn với chư môn đệ trong lúc này về công tác và tương quan tập thể. Có một sự trung kiên trong cơi Đạo, vốn khác hẳn sự trung kiên theo ư nghĩa thông thường của thế gian mà tôi muốn thấy được phát triển trong nhóm. Vài đệ tử, nhất là những người hay có khuynh hướng tự bào chữa, vẫn học tập đức trung kiên, thầm lặng, nó có tác dụng kết hợp cả nhóm làm một. Để tự vệ hay tự bào chữa thật rất dễ dàng hy sinh các bạn đồng môn hay người cộng tác với ḿnh, nhưng không dễ ǵ mà hàn găn1 sự rạn nứt đó.

Tư tưởng rơ ràng, sáng sủa là điều cần thiết trên nhiều lănh vực trong khi nhóm đệ tử này bắt đầu và làm việc chung với nhau. Sự phân biện sáng suốt cũng là điều cần thiết. Thời kỳ này là lúc những đường ranh giới giữa những lực lượng duy vật và những lực lượng của ánh sáng phải được phân định rơ ràng. Khi mà trên thế gian đă có sự phân định rơ rệt giữa một đàng là con đường t́nh thương, thiện chí và một đàng là con đường tàn bạo, thù ghét th́ các đệ tử phải có một thái độ rơ ràng, dứt khoát, không thành kiến hay thiên lệch. Nhiệm vụ khó khăn của nhóm đệ tử này là cương quyết chống lại những lực lượng phá hoại và thù nghịch, triệt để cố gắng hóa giải và loại trừ những lực lượng tàn phá đó, đồng thời vẫn giữ thái độ hoàn toàn từ ái, thông cảm và bất bạo hành. Đó là v́ trong thời kỳ hiện tại trên trần gian có những nguyên tắc và lư tưởng cần phải tranh đấu để bảo vệ, nhưng đồng thời cũng phải bảo tồn và tạo dựng nên cái nguồn năng lực sống động của t́nh thương, nó sẽ hàn gắn cái hố cách biệt giữa 2 lực lượng đối nghịch để có thể đưa đến sự ḥa hợp, thông cảm về sau này. Vài đệ tử không suy tư rơ ràng về những vấn đề liên hệ, v́ họ quá chú trọng đến h́nh thức bên ngoài của cuộc tranh đấu nên không có một nhăn quang thấy biết sâu xa. Một nếp sinh hoạt song đôi, vừa tích cực tham gia việc thế sự để chống lại những lực lượng bất hảo đang làm tŕ trệ sự tiến hóa và hủy diệt những lư tưởng cao siêu của nhân loại trong giai đoạn này đă đến lúc mà không một cá nhân hay một nhóm người nào có thể tự cô lập, tách rời khỏi các sinh hoạt tập thể và lợi ích chung. Một thái độ tiêu cực cũng không đủ để giải quyết cơn khủng hoảng trên thế giới hiện nay. Người nào không kề vai gánh bớt các nghiệp quả của thế gian và chia sẻ nổi khổ đau của nhân loại, sẽ làm tŕ hoăn sự tiến bộ của họ, v́ như thế là họ tự đặt ḿnh ra ngoài trào lưu tâm linh đang dâng lên cao với những nguồn năng lực phục sinh đang thấm nhuần khắp nơi trên thế giới hiện nay cũng giống như sự xung đột mănh liệt đang tiếp diễn trong tâm hồn và đời sống của tất cả những Đạo sinh và đệ tử trên thế gian và đó là dấu hiệu chắc chắn rằng họ đang bước lên đường đạo một cách ư thức. Chân ngă và phàm ngă đang đụng độ với nhau để đi đến quyết định mà chân ngă vẫn chờ đợi trên cơi riêng của nó. Đó là điều đang diễn ra trong nhân loại và thời kỳ này. Hăy suy gẫm cẩn thận về điều này. Những thành viên trong nhóm người Phụng sự Thế gian không thể tách rời khỏi t́nh trạng khó khăn đang xuất hiện trước mắt mọi người. Họ không thể và không nên lẩn trốn vào cái lớp vỏ che đậy sự an toàn của sự tu luyện bản thân và lợi ích cá nhân. Nếu đó là thái độ của chư môn đệ th́ tôi không thể giúp chư môn đệ được ǵ nhiều, v́ nó chỉ cho tôi thấy rằng chư môn đệ không có óc phân biệt để nhận định các giá trị tâm linh, chỉ muốn lẩn tránh những việc khó khăn, khổ nhọc, muốn trao gánh nặng lên vai kẻ khác và không đồng hóa với niềm hạnh phúc, khổ đau của nhân loại.

Lời kêu gọi cứu độ thế gian đă được phát ra, ngày nay các đệ tử đang quy tụ khắp nơi trên thế giới. Đó không phải là sự tụ họp trên cơi hồng trần mà là một diễn biến sâu xa có tính chất nội tại. Mỗi vị Chân Sư đều phát ra lời kêu gọi, nhiều đệ tử dự bị dẫu rằng đang ở điểm cách xa nhất trong ṿng ảnh hưởng của Chân Sư. Đều đang sốt sắng đáp ứng. Những hành động bên trong của họ thường là cả xấu lẫn tốt và sự đáp ứng của họ thường là do sự thúc đẩy của ước muốn tiến bộ cá nhân và khoa trương bản ngă. Ở vào giai đoạn này, họ có gây nhiều khó khăn, phức tạp cho lời kêu gọi phụng sự. Tuy nhiên, những hành động xiêu vẹo, lệch lạc của họ thể hiện lời tiên tri trong Tân Ước rằng vào lúc cuối cùng, sẽ có nhiều người làm sai lệch sự thật về sự phát triển tâm thức siêu linh và sự trở lại của Đấng Christ, tức là sự giáng lâm lần thứ nh́ của Đức Chưởng Giáo.

Như thế người đệ tử trải qua từng giai đoạn, thực hiện lần lần mọi giai tầng giác ngộ, từ thấp tới cao, từ chân ngă tới tinh thần, từ phàm ngă tới chân ngă, từ sắc tướng tới tâm linh, y đă thám hiểm tất cả mọi ngành kiến thức và hiểu biết, y đă xuống tận những hang sâu, vực thẳm của địa ngục, y đă trèo lên đỉnh cao cùng tột của sự Điểm Đạo, và từ đó vượt khỏi giới hạn của không gian và thời gian, y đă mất hết tất cả mọi ư thức về bản ngă và là một điểm trụ tư tưởng trong trí của Thượng Đế. Tôi có thể nói ǵ hơn nữa? Chắc là không. Vậy tôi chấm dứt nơi đây những lời huấn thị này và trách nhiệm của tôi cũng hết.

Bây giờ mới bắt đầu những trách nhiệm của chư môn đệ.

CHÂN SƯ TÂY TẠNG

CHƯƠNG IV: TÓM LƯỢC CÔNG TR̀NH CỦA CHÂN SƯ TÂY TẠNG

(1919-1943)

 

Tháng 11 năm 1919, tôi có tiếp xúc với Alice.A. Bailey để yêu cầu bà trợ giúp trong việc trước tác và xuất bản vài quyển sách để phổ biến tuần tự ít nhiều giáo lư huyền môn. Bà đă từ chối ngay v́ lư do là bà không có cảm t́nh với việc phát hành tràn ngập khắp nơi những loại sách mệnh danh là huyền môn do nhiều môn phái đă làm, bà chưa có kinh nghiệm viết sách cho công chúng đọc, và cũng bởi lư do là bà không thích làm bất cứ việc ǵ có tính cách đồng tử, hoặc viết bằng năng khiếu thông linh. Về sau, bà đổi ư khi tôi giải thích rằng sự giao tiếp bằng Thần giao cách cảm là một sự thật đă được chứng minh và có căn bản khoa học, rằng bà không phải là nhăn thông hay nhĩ thông và cũng sẽ không bao giờ có những năng khiếu này, và trên hết mọi sự, hăy thử thách sự thật để biết sự thật. Tôi yêu cầu bà hăy viết trong một tháng rời thử xem có quả thật chăng những ǵ bà viết ra là đúng chân lư, có thể khêu gợi sự hiểu biết bằng quan năng trực giác và có chứa đựng trong đó chăng những ǵ có giá trị trong kỷ nguyên tâm linh mới. Nghe tôi nói vậy, bà mới gạt bỏ thành kiến về loại công việc này và về những cách tŕnh bày giáo lư huyền môn đang thịnh hành vào thời bây giờ. Bà chỉ bày tỏ quan niệm rằng những giáo lư đưa ra không nên đặt dưới một chiêu bài hay dựa vào một quyền uy, thế lực nào, mà hăy để cho nó tự đứng vững hay không do chân giá trị của nó.

Quyển sách xuất bản đầu tiên là “ĐIỂM ĐẠO HUYỀN MÔN” (Initiation Human and Solar) kết quả của công tŕnh tiên khởi của bà để làm công việc này, ba đặt nền tảng cho tất cả những quyển kế tiếp. Kể từ khi đó, bà đă trợ giúp tôi suốt gần 25 năm. Những quyển sách này được phát hành với một mục đích sâu xa, tiềm ẩn và được sự thừa nhận của toàn thế giới.

Cuốn “Điểm Đạo Huyền Môn” có dụng ư đưa ra cho công chúng biết sự thật về Đại Đoàn Chưởng Giáo. Điều này, trước đây bà Bla, đă làm, nhưng không có mạch lạc, trật tự. Hội Thông thiên học để đưa ra các sự kiện về các Đức Thầy, tuy rằng bà Bla trong một thông tư gởi cho trường Bí Giáo, nói rằng bà rất hối tiếc v́ đă làm như thế. Những giáo lư về sau đă bị diễn đạt sai lầm bởi các nhà Thông Thiên Học hậu lai và những vị này đă làm vài điều lầm lỗi quan trọng. Họ diễn t Chân Sư như là những bậc đă toàn vẹn, không c̣n lầm lạc, đó là một điều không thể có, v́ chính các Chân Sư cũng c̣n đang tiến hóa. Giáo lư mà họ đưa ra hàm súc một sự chú trọng đặc biệt vào sư tu luyện bản thân và tập trung ráo riết mọi cố gắng vào sự tiến bộ và giải thoát cá nhân. Những người mà họ nêu ra như là những bậc Đạo Đồ và đệ tử cao cấp đều hoàn toàn thấp kém và không có ảnh hưởng ǵ ngoài Hội Thông Thiên Học. Họ cũng chủ trương một sự sùng tín hoàn toàn đối với các Chân Sư, sùng tín trên phương diện phàm ngă đối với các Ngài. Họ cũng tŕnh bày các Chân Sư như là can thiệp vào sự sinh hoạt tổ chức của những nhóm huyền môn nọ kia, những nhóm này tự cho là hoạt động dưới sự hướng dẫn của các Ngài. Các Chân Sư bị gán trách nhiệm về những lỗi lầm của các vị Trưởng Nhóm, họ ẩn núp dưới những chiêu bài như là: Chân Sư đă chỉ thị cho tôi nói điều nọ điều kia v.v… Chân Sư muốn việc này hay việc nó phải được thực hiện, hoặc Chân Sư muốn hội viên phải làm điều này, điều khác … Người nào vâng lời được coi như là Hội viên tốt, người nào bất tuân và chống đối bị coi như là kẻ phản bội. Sự tự do cá nhân luôn luôn bị xâm phạm, c̣n những khuyết điểm và những tham vọng của những nhà lănh đạo đều có những lư do để tự bào chữa. Biết rơ tất cả những sự việc ấy, bà Bailey đă từ chối không chịu dự phần vào t́nh trạng luôn luôn tái diễn đó, đó là t́nh trạng của tất cả những nhóm huyền môn công khai muốn hấp dẫn sự chú ư của người đời. Dẫu cho tôi muốn làm việc bằng cách đó (mà bất cứ vị nào có chân trong Đại Đoàn Chưởng Giáo đều không bao giờ làm) th́ tôi cũng không có được sự hợp tác của bà.

Kế đến quyển “THƯ TÍN VỀ PHÁP MÔN THIỀN ĐỊNH”. Đó là một quan niệm tương đối mới về sự thiền định, không căn cứ trên sự sùng tín đối với Chân Sư, mà trên sự thừa nhận linh hồn trong mỗi người. Sau quyển này là quyển “Luận Về Lửa Tiên Thiên”. Quyển này khai triển thêm giáo lư trong bộ “Giáo Lư Bí Nhiệm”, nói về 3 loại lửa: lửa điên, lửa Mặt Trời và Lửa do nhiệt lực cọ xát. Sách ấy cũng tŕnh bày cái ch́a khóa tâm lư để đọc bộ “Giáo Lư Bí Nhiệm” và có dụng ư dành cho sự học hỏi của các vị đệ tử và Đạo Đồ vào cuối thế kỷ này và vào lúc bắt đầu thế kỷ tới, cho đến năm 2025.

Về sau, Bà Bailey cảm thấy rằng thật là một điều tốt cho tôi và cho việc đạo nếu bà chứng tỏ rằng bà có thể viết những loại sách có ích cho những Đạo sinh ngoài việc ghi chép những tư tưởng và giáo lư của tôi đưa ra. Những người đồng tử trung b́nh thường không có tŕnh độ trí thức cao, nên v́ lợi ích của việc đạo trong tương lai, bà Bailey muốn chứng tỏ rằng người ta có thể làm – làm những việc thông linh của người đồng tử nhưng đồng thời cũng có một trí óc thông minh thật sự. Bởi vậy, bà Bailey đă xuất bản 4 cuốn sách sau đây, hoàn toàn là các tác phẩm của chính bà:

Tâm thức của Hội Nguyên Tử

Linh hồn và cơ cấu của nó

Từ trí tuệ đến trực giác

Từ Bathlehem đến Calvary.

Bà cũng có viết một quyển sách khác với sự hợp tác của tôi nhan đề: “Ánh sáng của Linh hồn”, trong đó tôi có đưa ra bản dịch những đoạn kinh Yoga Sutra chữ Phạn của Đạo sư Patanjali, c̣n bà viết phần b́nh luận và thỉnh thoảng có thỉnh cầu ư kiến của tôi về ư nghĩa của những danh từ Phạn ngữ.

Kế đó đến quyển “Luận về Chánh Đạo”. Quyển này được viết ra từ nhiều năm qua. Khi vừa viết xong mỗi chương, nó chỉ được đem ra đọc lần hồi từ chương một cho những Đạo sinh cao niên của Trường Nội Môn Bí Giáo. Đó là quyển đầu tiên được viết ra nói về sự tinh luyện và kiểm soát thể t́nh cảm. Nhiều sách huyền môn đă được viết ra về vấn đề tinh luyện thể xác và thể dĩ thái, phần nhiều là sưu tập từ những sách khác, cũ cũng như mới. C̣n quyển sách này của tôi có mục đích huấn luyện người Đạo sinh hiện đại kiểm soát thể t́nh cảm với sự trợ giúp của trí năng trong khi đến lượt cái trí năng này được soi sáng bởi chân ngă.

Bộ sách kế tiếp là bộ “luận về 7 cung”. Đó là một bộ sách dy chưa được hoàn thành, gồm 4 quyển mà 2 quyển đầu đă xuất bản, 1 quyển sẵn sàng xuất bản và quyển sau cùng c̣n đang viết dở. Các quyển 1 và 2 nói về 7 cung với 7 loại trạng thái tâm lư liên hệ, … làm nền tảng cho khoa tâm lư mới, mà khoa tâm lư học hiện đại, tuy là duy vật, có đặt một căn cứ lành  mạnh và vững chắc. Quyển ba dành trọn vẹn cho sự giảng giải vấn đề chiêm tinh bí truyền, có mục đích tŕnh bày khoa chiêm tinh mới, căn cứ trên linh hồn chớ không căn cứ trên phàm ngă. Khoa chiêm tinh chính thống dựng nên một lá số diễn tả định mệnh con người trên khía cạnh phàm ngă, nếu cái phàm ngă đó ít tiến hóa hoặc có tŕnh độ tiến hóa trung b́nh, th́ lá số thường được đoán rất trúng. Tuy nhiên trong trường hợp của những người tiến hóa cao, những Đạo sinh, đệ tử, Đạo Đồ đă bắt đầu kiểm soát các tinh tú của ḿnh, và bởi đó kiểm soát được hành động của ḿnh, th́ chừng đó, những sự việc và biến cố xảy ra trong đời họ không thể nào tiên liệu trước được. Khoa chiêm tinh mới này trong tương lai sẽ cố gắng đưa ra cái bí quyết đoán vận mạng của linh hồn, tùy theo cung của linh hồn chớ không phải cung của phàm ngă. Tôi đă tŕnh bày khá đủ dữ kiện để giúp các nhà chiêm tinh có khuynh hướng mới và thích thú với vấn đề này có thể đoán vận mạng tương lai theo đường lối mới này do tôi đưa ra. Khoa chiêm tinh là một khoa học căn bản va tối cần thiết. Bà Bailey không giỏi về khoa chiêm tinh. Bà không biết lấy một lá số và cũng không biết tên những tinh tú nào đóng vào cung nào. Bởi vậy, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những ǵ được viết ra trong quyển này và tất cả những sách khác của tôi, ngoại trừ quyển duy nhất như đă giải thích trước đây, nhan đề “Ánh sáng của linh hồn”

Quyển 4 nói về vấn đề chữa bệnh và vấn đề nối liền bằng đường giao thông Antahkarana, cái khoảng giữa chơn thần và phàm ngă, quyển ấy cũng đưa ra 14 quy luật cho những đệ tử đang chuẩn bị điểm đạo phải noi theo. Một lần nữa, tôi nhắc lại cho chư môn đệ nhớ rằng người đạo đồ chân chính không bao giờ tự xưng rằng ḿnh là một đạo đồ, dù trong câu chuyện riêng tư hay công khai trước mặt mọi người. Đó là một điều vi phạm định luật huyền môn, mà rất nhiều người không có đời sống tâm linh hay khả năng trí tuệ đặc biệt vẫn tự xưng như thế. Việc ấy gây nên hậu quả rất tai hại, làm hạ thấp giá trị của H.Đ.T.T và bôi nhọ tính chất của vị Tiên Thánh trước con mắt nhận xét của công chúng. Bởi vậy, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về 14 quy luật này. Bà Bailey không hề tự nhận là ǵ khác hơn là một đệ tử hoạt động, bận rộn với công việc thế gian (điều này không ai có thể chối căi). Bà đă lặp lại nhiều lần rằng tiếng “đệ tử” là một chữ hợp pháp và đúng đắn để áp dụng cho tất cả mọi đẳng cấp phụng sự viên trong H.Đ.T.T, từ người dự bị, mới có sự liên hệ lỏng lẻo với một vài đệ tử cao niên trong H.Đ.T.T, cho đến Đức Chưởng Giáo, bậc thầy của các Chân Sư cũng như của các Đấng Thiên Thần và của tất cả mọi người.

Với sự chấp thuận của tôi, bà đă cực lực chống đối sự ṭ ṃ bệnh hoạn của một số người về vấn đề quả vị và quyền chức. Đó là một cái ung nhọt xấu xa của nhiều chi phái, đưa đến sự tranh đua, ganh t, chỉ trích và khoa trương, khoác lác mà phần nhiều các nhóm huyền môn đều mắc phải. Tệ đoan đó làm cho bao nhiêu sách đạo lư của họ phát hành đều trở nên vô hiệu lực và làm cho công chúng không hấp thụ được giáo lư trong t́nh trạng thuần khiết và giản dị. Quả vị, quyền chức chỉ là con số không. Chỉ có giáo lư là đáng kể đối với những chân lư hàm chứa trong đó, nó khêu gợi đến linh cảm, trực giác của con người. Điều này chư môn đệ phải luôn luôn ghi nhớ. Các đệ tử chính thức của một Chân Sư nhận biết được Ngài tự trong nội tâm của họ. Sự nhận biết đó có thể được phối kiểm với các bạn đồng môn và được Chân Sư coi như một điều kiện thuận lợi. Họ biết Sư Phụ của họ là ai, chấp nhận lời dạy của Ngài và giữa họ với nhau, họ nói về Sư phụ với tư cách mật nhiệm trong sự liên hệ giữa Ngài với các đệ tử chứ không phải với thế giới bên ngoài. Những huấn thị đăng trong tập kỷ yếu “THE BEACON” (Ngọn Hải đăng) không được duyệt xét lại cẩn thận, đă nêu đích danh tôi với tư cách là một Chân Sư, đưa ra cho những đệ tử của một nhóm trong Đạo Viện của tôi. Nhóm này đă giữ kín tông tích của tôi trên 10 năm, đó là thái độ đúng đắn và bổn phận của họ phải làm như vậy.

Nhiều quyển sách đă được phát hành thường xuyên trong nhiều năm. Khi bộ sách “Luận về Bảy Cung” được hoàn thành, một quyển sách nhỏ nói về ảo ảnh và ảo giác đă sẵn sàng lên máy in và quyển này “ĐƯỜNG ĐẠO TRONG KỶ NGUYÊN MỚI”, đă ở trong tay độc giả. Chừng đó công tŕnh hợp tác của bà Bailey với tôi sẽ chấm dứt và bà có thể tiếp tục công việc tại Đạo Viện của Sư phụ bà.

Giai đoạn kế đó của Đạo Sư mà tôi muốn thực hiện nay đă tiến hành trong ṿng trật tự. Sự ước mong của tôi, cũng như của nhiều vị trong H.Đ.T.T là thiết lập một TRƯỜNG NỘI MÔN BÍ GIÁO mà các học viên được gia nhập một cách tự do không bị ràng buộc bởi một điều cam kết hay thệ nguyện nào. Ngoài việc hướng dẫn về thiền định, học hỏi và giảng dạy giáo lư huyền môn, trường sẽ để cho học viên tự điều chỉnh cách sinh hoạt riêng tư và từ điển đạt chân lư, tùy khả năng tiếp thu của họ.

Trường sẽ tŕnh bày cho họ nhiều quan điểm và đồng thời truyền thụ cho họ những chân lư thâm sâu bí truyền mà họ có thể thừa nhận nếu họ đủ thức tỉnh tâm linh để bước vào lĩnh vực huyền môn.

Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO do bà Bailey khai giảng vào năm 1923 với sự trợ giúp của ông F. Bailey và vài Đạo sinh có sự hiểu biết và nhăn quang tâm linh để bước vào lĩnh vực huyền môn. Bà đưa ra một điều kiện là tôi sẽ không can thiệp vào sinh hoạt của trường và không nắm quyền kiểm soát các đường lối chủ trương hay chương tŕnh sinh hoạt. Thậm chí sách vở của tôi cũng không được dùng như sách giáo khoa, và chỉ có trong ṿng 3 năm qua quyển “LUẬN VỀ CHÁNH ĐẠO” đă được đem ra học hỏi theo lời yêu cầu rất nồng nhiệt của nhiều Đạo sinh. Vài giáo lư nói về đường ANTAHKARANA (sẽ xuất hiện trong quyển 4 của bộ “LUẬN VỀ BẨY CUNG”) đă được đem ra học hỏi từ 2 năm nay trong một nhóm thuộc cấp thứ tư. Giáo lư về ảo giác cũng được đưa ra tham khảo trong một nhóm khác.

Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO không đ̣i hỏi Đạo sinh có sự vâng lời mù quáng và không chủ trương phải “vâng lệnh sư phụ”, bởi v́ không có sư phụ nào điều khiển trường này. Trường chỉ nêu lên một Chân Sư trong nội tâm, tức chân ngă, là thực thể tâm linh thật sự ở bên trong mỗi người. Trường không dạy một tín điều nào, người Đạo sinh không bị bắt buộc phải chấp nhận bất cứ một điều ǵ về sự diễn đạt hay cách thức tŕnh bày chân lư. Họ có thể chấp nhận hay bác bỏ sự kiện về các Sư phụ, về H.Đ.T.T, về thuyết luân hồi, hay về linh hồn và vẫn giữ tư cách là một Đạo sinh đúng đắn. Không ai mong đợi hay đ̣i hỏi nơi họ một sự trung thành nào dù đối với trường hay đối với A. Bailey. Các Đạo sinh có thể hoạt động trong mọi nhóm huyền môn hay tôn giáo khác mà vẫn là Đạo sinh của trường. Họ yêu cầu hăy coi những hoạt động đó như những môi trường phụng sự ở đó họ có thể đóng góp mọi sự trợ giúp tâm linh mà họ đă có thể thu nhập được do sự học hỏi nơi trường. Những người phụng sự cao niên và những nhà lănh đạo trong nhiều nhóm huyền môn đều tham gia vào các sinh hoạt của trường, nhưng họ vẫn có hoàn toàn tự do dành th́ giờ và công lao để phụng sự trong những nhóm riêng của họ.

Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO đă xuất hiện trên 20 năm và hiện nay đang bước vào chu kỳ phát triển mới, song hành với trào lưu tiến bộ của toàn thể nhân loại và đă được chuẩn bị kỹ để ứng đáp với thời đại này. Đặc tính của trường là phụng sự căn cứ trên t́nh thương nhân loại. Công phu thiền định cũng được thực hiện ở mức quân b́nh với sự học hỏi Đạo lư và cố gắng phụng sự.

Một giai đoạn khác trong việc làm của tôi bắt đầu cách đây độ 10 năm, khi tôi khởi sự viết những văn tập cho công chúng để kêu gọi họ chú ư đến t́nh h́nh thế giới và nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN. Bằng đường lối đó, tôi t́m cách thể hiện ngoại tại công việc của H.Đ.T.T trên địa cầu. Đó là một cố gắng quy tụ về mặt chủ thể và khách thể tất cả những người có mục đích tâm linh và t́nh thương sâu xa đối với nhân loại đang tích cực hoạt động trong nhiều xứ dù với tư cách cá nhân hay trong các tổ chức tập đoàn. Những người ấy có rất nhiều. Một số ít có quen thuộc với tôi, nhưng không quen thuộc với họ. Tất cả đều phụng sự dưới sự d́u dắt của H.Đ.T.T và đang thi hành bổn phận một cách hữu thức hay vô thức, với tư cách khí cụ của Chân Sư. Họ quy tụ tành một nhóm kết hợp chặt chẽ với nhau bằng t́nh thương và thiện chí tâm linh trên khía cạnh tiềm ẩn, nội tàng. Vài người trong số đó là những nhà huyền học, hoạt động trong những nhóm huyền môn khác nhau, một số khác là những nhà thần bí, hoạt động với triển vọng tâm linh và t́nh thương. Những người khác nữa thuộc các tôn giáo chính thống, có một vài người không thuộc một tổ chức tâm linh nào. Tuy nhiên, tất cả đều có ư thức trách nhiệm về hạnh phúc của nhân loại và từ bên trong tâm hồn, họ đă tự nguyện trợ giúp kẻ đồng loại. Nhóm người này tổng hợp thành Đấng Cứu Thế ở trong giai đoạn này để cứu độ thế gian và khai mở một Kỷ Nguyên Mới của thời hậu chiến. Những văn tập do tôi viết (tập đầu tiên nhan đề “Ba năm tới đây”) có nêu ra những mục đích và kế hoạch của họ và đưa ra những điểm gợi ư về phương thức hợp tác với nhóm NGƯỜI PHỤNG SỰ THẾ GIAN, họ đă xuất hiện và tích cực hoạt động trên nhiều lĩnh vực.

Những người mà nhóm Người Mới Phụng Sự Thế Gian ảnh hưởng để t́m cách hợp tác với họ và có thể hành động như những khí cụ trung gian của nhóm, chúng tôi gọi họ là những người có thiện chí kể cả nam lẫn nữ.

Tôi đă cố gắng tiếp xúc với những người ấy hồi năm 1936 khi thấy có một chút triển vọng mong manh rằng chỉ đến giờ phút cuối cùng đó, chiến tranh vẫn có thể tránh khỏi được. Nhiều người c̣n nhớ chiến dịch đó và sự tương đối thành công của nó. Hàng triệu người đă được tiếp xúc bằng ngôn ngữ, văn tự và vô tuyến truyền thanh, nhưng không có được bao nhiêu người thích thú trên phương diện tâm linh, chịu làm những biện pháp cần thiết để ngăn chận làn sóng hận thù, ác tâm và hành động xâm lược đang hăm dọa tràn ngập thế giới. Chiến tranh bùng nổ vào năm 1939 mặc dù tất cả những cố gắng của H.Đ.T.T và những cộng sự viên của các Ngài và công tác thiện chí đương nhiên đă thất bại. Phần công việc này đă được các Đạo sinh của Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO cố gắng thực hiện và kết quả là đă có 19 trung tâm phụng sự được thành lập trong 19 quốc gia. Nó đă phải bị gián đoạn trong một lúc, nhưng đó chỉ là tạm thời mà thôi, bởi v́ thiện chí là một sức mạnh cứu rỗi và là sự biểu lộ tinh thần hành thiện của Nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN.

Tôi muốn nhấn mạnh rằng việc quy tụ Nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN và việc tổ chức thi hành công tác thiện chí không có liên hệ ǵ đến Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO, trừ ra việc các Đạo sinh của trường được cung ứng cơ hội để trợ giúp trong phong trào. Họ được hoàn toàn tự do tham gia vào việc ấy hay không, tùy ư muốn, một số rất lớn không tham dự vào công tác này, điều đó chứng tỏ sự tự do quyết định của họ.

Khi chiến tranh bộc phát và toàn thể thế giới bị đắm ch́m trong thảm họa, nhiều người có khuynh hướng tâm linh, muốn tránh xa không can thiệp vào cuộc chiến. Họ không phải là đa số nhưng là thiểu số rất mạnh và rất ầm ỉ. Họ coi mọi thái độ can thiệp như là sự vi phạm t́nh huynh đệ đại đồng, và t́nh thương tất cả mọi người khiến cho họ có một thái độ vô vi bất động, không làm ǵ cũng như không quyết định ǵ cả. Khi tôi viết tập văn thư nhan đề “CUỘC KHỦNG HOẢNG THẾ GIỚI HIỆN NAY” và những tập kế tiếp về t́nh h́nh thế giới, tôi nói rằng H.Đ.T.T thừa nhận thái độ và mục đích của cơ quan LIÊN HIỆP QUỐC chiến đấu cho tự do của toàn thể nhân loại và cứu trợ cho các dân tộc bị đau khổ. Điều này đương nhiên đặt H.Đ.T.T vào tư thế không thừa nhận lập trường của TRỤC (Phát xít) về bất cứ phương diện nào. Nhiều người trong công tác thiện chí và vài Đạo sinh trong trường diễn đạt điều ấy như là có tính cách chính trị. Có lẽ họ tin rằng trong cuộc chiến tranh này những người có khuynh hướng tâm linh nên giữ thái độ trung lập, không nghiêng hẳn về phe nào, thiện cũng như ác. Những người ấy không suy gẫm sáng suốt và lầm lẫn thái độ trung lập với t́nh thương đồng loại, họ quên mất những lời Đấng Christ nói rằng “Kẻ nào không theo ta tức là chống lại ta”. Tôi lập lại những ǵ tôi thường nói trước đây. Đại Đoàn Chưởng Giáo và tất cả thành viên trong đó, gồm cả tôi đều thương yêu nhân loại, nhưng không chấp nhận những hành động hung ác, xâm lăng, tàn bạo khủng bố linh hồn con người. Các vị chủ trương tự do, mỗi người đều có cơ hội tiến bộ trên con đường ánh sáng, lợi ích nhân sinh, không kỳ thị hay thiên lệch và quyền Tự do Ngôn luận tư tưởng và hành động của mọi người. Lẽ đương nhiên các vị không thể chấp nhận những quốc gia hay dân tộc nào hành động chống lại tự do và hạnh phúc con người.

Trong t́nh thương và thông cảm, các Ngài biết rằng trong một hay nhiều kiếp tương lai, đa số những kẻ xâm phạm tự do của nhân loại hiện nay sẽ được giải phóng và bước lên đường đạo. Trong thời kỳ trung gian, H.Đ.T.T đặt toàn lực của các Ngài về phía những quốc gia đang chiến đấu để giải phóng nhân loại và trợ giúp dân tộc của quốc gia nào hành động theo đường lối đó. Nếu việc đứng về phía tốt lành và tự do bị coi như việc làm tổn hại đến khía cạnh tâm linh, th́ lúc đó H.Đ.T.T sẽ t́m cách làm cho người đời thay đổi thái độ và hiểu thế nào là vấn đề tâm linh.

Bởi vậy, tôi đă chú trọng đến 3 giai đoạn của công việc Đạo Sư là phát hành sách vở giáo lư huyền môn, xây Trường NỘI MÔN BÍ GIÁO và quy tụ nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN, ba loại công tác này đă gây một ảnh hưởng tốt đẹp và rơ rệt trên thế gian. Những kết quả gặt hái được một cách hữu ích thật sự mới là điều đáng kể, chứ không phải những sự chỉ trích và hiểu lầm của những người c̣n giữ những quan niệm cũ kỹ của thế hệ SONG NGƯ. Bởi vậy, họ không thể nh́n thấy sự xuất hiện của những trào lưu sinh hoạt mới và những phương pháp mới để đạt tới chân lư.

Trong công việc này, tôi vẫn luôn ẩn danh phía sau hậu trường. Các sách vở, văn tập là do trách nhiệm của tôi và mang uy tín của chân lư (nếu có chân lư ở đó) chứ không dựa vào uy tín của tên tôi hay bất cứ một quả vị nào do tôi tự xưng, hoặc do người khác gán cho tôi, nhất là những kẻ ṭ ṃ và đệ tử sùng tín. Tôi không áp đặt một chính sách, đường lối nào cho trường hay can thiệp vào chương tŕnh giảng dạy mà trách nhiệm hoàn toàn là của bà A. Bailey. Những sách vở văn tập của tôi được cung ứng cho những Đạo sinh của trường cũng như cho công chúng ở ngoài đời dùng học hỏi.

Tôi đă cố gắng trợ giúp trong công tác thiện chí (do ông F. Bailey đảm trách) bằng những sự gợi ư và chỉ dẫn việc ǵ N.N.M.P.S.T.G. nên làm chứ không nhân danh uy tín cá nhân tôi để yêu cầu bất cứ việc ǵ cả, trong hiện tại cũng như trong tương lai. Tựu trung, tất cả mọi hoạt động này đều có mang lại kết quả tốt. Những sự hiểu lầm ít khi xảy ra và những sự chỉ trích cũng lành mạnh và xây dựng.

Song song với những hoạt động quan trọng này, từ năm 1931 tôi đă huấn luyện một nhóm đệ tử nam và nữ, rải rác khắp nơi trên thế giới về những kỹ thuật của con người đệ tử chính thức. Chọn lọc trong một số nhiều Đạo sinh sơ cơ, tôi đă chỉ định một nhóm đệ tử 45 người, trong đó có vài người quen thuộc với A.Bailey va vài người hoàn toàn xa lạ. Họ đă tỏ ra ước muốn được huấn luyện và chịu thử thách có đủ tư cách tham gia vào công tác tập thể của con đường Đệ tử Mới. Những người này tiếp nhận những huấn thị cá nhân trực tiếp của tôi đưa ra vài huấn thị về phương thức mới để tiếp xúc với H.Đ.T.T và bước vào đời sống tâm linh, lẽ tất nhiên là căn cứ trên những quy luật xưa. Vài huấn thị trong số đó được cung hiến cho công chúng trong quyển sách này nhưng không đưa ra chi tiết về những người được huấn luyện, tên họ, ngày tháng và địa điểm đều đổi khác, tuy rằng các huấn thị vẫn giữ nguyên.

Những người ấy, qua sự tiếp xúc với tôi, đương nhiên là đă nhận ra tung tích của tôi. Trong nhiều năm qua, họ đă biết tôi là ai. Tuy nhiên, họ đă cẩn mật giữ kín tên tuổi của tôi trong những hoàn cảnh rất khó khăn, v́ sự kiện rằng có hàng trăm người trong hầu hết các xứ trên thế giới đă phiếm luận về tên tuổi của tôi và nhiều người đă đoán trúng. Bởi vậy, ngày nay, mặc dù tất cả những biện pháp bảo mật tối đa của A.Bailey và những đệ tử khác, dư luận chung đă cho rằng tôi là một Chân Sư và một danh hiệu đă được đặt cho tôi. Đối với nhóm Đạo sinh đặc biệt chọn lọc của tôi, tôi đă nh́n nhận danh tánh sau khi chính họ đă khám phá ra điều đó tự trong thâm tâm của họ. Thật là một điều sai lạc và dại khờ nếu tôi làm khác hơn. Khi giao tiếp với họ hoặc viết huấn thị về con đường đệ tử mới, đương nhiên là tôi nhân danh tên tuổi và quả vị thật của tôi, vài huấn thị trong số đó được tôi coi như hữu ích và thích nghi để phổ biến rộng răi hơn và đă xuất hiện trong một loạt bài vở nói về “NHỮNG GIAI ĐOẠN TRÊN ĐƯỜNG ĐẠO” đăng trong tạp chí BEACON dưới danh hiệu của tôi. Những bài vở này được duyệt xét lại cẩn thận trước khi in ra, trừ ra một bài mà v́ công việc quá bề bộn mà bà Bailey đă quên xóa bỏ một đoạn trong đó tôi viết với tư cách một Chân Sư. Kế đó, bà rất kinh ngạc mà thấy đoạn đó xuất hiện trên tạp chí BEACON số tháng 7/1943. Sau nhiều năm bảo mật rất kỹ về tên tuổi của tôi, sự sơ hở của bà đă công khai tiết lộ rằng tôi là Chân Sư.

Về vấn đề này có 3 điểm mà tôi muốn chư môn đệ lưu ư: Nhiều năm trước đây, trong quyển “LUẬN VỀ CHÁNH ĐẠO” tôi có nói rằng tôi là một Đạo Đồ ở cấp đẳng nào đó, nhưng cần phải ẩn danh. Nhưng bây giờ, v́ có sự sơ xuất nói trên, tôi có vẻ như mâu thuẫn hoặc nói ngược lại với chính ḿnh và như thế là tôi đă thay đổi lập trường. Thật sự không phải như vậy. Sự truyền bá giáo lư làm thay đổi hoàn cảnh và nhu cầu của nhân loại đôi khi đ̣i hỏi một sự thay đổi thái độ. Trong tiến tŕnh phổ biến chân lư, không có ǵ đứng yên một chỗ. Từ lâu tôi đă có ư định làm tất cả những ǵ cần thiết để đưa ra trước công chúng sự kiện về H.Đ.T.T và các Chân Sư một cách rơ ràng công khai hơn trước.

Trước đây, tôi có nói với A. Bailey (cũng như Sư phụ bà đă nói) rằng bổn phận chính của bà là phổ biến cho công chúng biết tính chất thật sự của các Chân Sư minh triết, để chỉnh đốn quan niệm sai lầm mà họ đă thu thập được. Điều này, Bà đă làm đến một mức độ nào đó, nhưng chưa được hoàn toàn đúng như mức đă dự định. Bà đă né tránh công việc này v́ đó là một vấn đề làm tổn thương danh dự do bởi những sự tŕnh bày sai lạc của những Đạo Sư và các nhóm huyền môn nọ kia, kể cả những lời tuyên bố lố bịch mà kẻ dốt nát đă nói về chúng tôi. Bậc tiền bối của bà là bà H.P.BLAVATSKY, trong những chỉ thị gởi cho trường BÍ GIÁO của HỘI THÔNG THIÊN HỌC có nói rằng bà rất hối hận mà đă nói về các Chân Sư cùng tên tuổi và chức vụ của các Ngài. A. Bailey cũng đồng một ư kiến như thế. Các Chân Sư như Hội TTH đă diễn tả, không đúng như sự thật. Việc chứng minh sự hiện diện của các Ngài đă đành là gây nhiều ảnh hưởng tốt nhưng có những chi tiết sai lạc cũng gây ảnh hưởng tai hại, các Ngài không phải như diễn tả, các Ngài không ra lệnh cho đệ tử phải làm việc này hay việc kia, phải thành lập tổ chức này hay cơ quan nọ. Các Ngài cũng không chỉ định người nào tối quan trọng và có quả vị hay đẳng cấp nọ kia. Các Ngài biết quá rơ ràng chỉ có việc làm công nghiệp và thành quả phụng sự mới chứng minh được những vị đệ tử, Đạo Đồ và Chân Sư, những vị này phải chứng minh quả vị của ḿnh bằng hành động mà thôi.

Sư Phụ làm việc xuyên qua các vị đệ tử trong nhiều tổ chức hay Cơ quan. Các Ngài không đ̣i hỏi, bắt buộc xuyên qua các đệ tử này một sự vâng lời tuyệt đối của những nhân viên trong tổ chức, hoặc loại ra ngoài lề giáo lư những người nào không chấp nhận đường lối của Cơ quan hay diễn đạt của các nhà lănh đạo. Các Ngài cũng không chia rẽ hay chống đối những nhóm làm việc dưới sự điều khiển của những vị đệ tử hay Chân Sư khác.

Biết rơ như thế và nh́n thấy hậu quả của giáo lư, thông thường nói về các sư phụ, bà Bailey đă tích cực hoạt động để cố gắng tŕnh bày cho đại chúng biết tính chất thật sự cùng những mục đích và thành phần của H.Đ.T.T. Bà đă cố gắng đặt nặng vấn đề nhân loại và phụng sự thế gian chứ không đặt trọng tâm vào một nhóm Chân Sư, v́ dầu rằng các Ngài đă vượt qua vấn đề phàm ngă thông thường và trải qua mọi kinh nghiệm trong tam giới, các Ngài cũng vẫn c̣n đang dọn ḿnh và chuẩn bị đi trên con đường tiến hóa Siêu đẳng.

Điều thứ hai là nếu một nhân vật bị nhận diện rằng ḿnh là một Chân Sư th́ có hại ǵ, miễn là vị ấy có thành tích chứng minh và có ảnh hưởng sâu rộng khắp thế giới? Nếu v́ sơ hở, bà A. Bailey đă tiết lộ rằng tôi là một sư phụ th́ có ǵ bất lợi không? Những sách đạo lư mà tôi viết ra và thể hiện ảnh hưởng của tôi đă lan tràn khắp thế giới để đem sự trợ giúp tâm linh cho mọi người. Công tác thiện chí do tôi đề nghị, mà ông F. Bailey đă t́nh nguyện đảm trách đă thấu đạt tới hàng triệu người bằng văn thư, máy truyền thanh và bằng các phương tiện tâm linh khác, cũng như bằng lời nói và gương mẫu của những người có thiện chí.

Điểm thứ ba là trong chu kỳ mới sẽ đến khi chiến tranh dứt, công chúng phải được biết sự thật về H.Đ.T.T và công việc của sư phụ xuyên qua đệ tử của các Ngài. Những đệ tử ở khắp nơi sẽ tuần tự tŕnh bày kế hoạch của Thiên Cơ về sự thực hiện t́nh huynh đệ đại đồng, sinh hoạt tâm linh và hợp nhất thế giới. Điều này sẽ được thực hiện không phải bằng sự khoa trương lố bịch của những kẻ mạo xưng là Chân Sư đă chọn tôi để làm việc này “hay là” Sư phụ ủng hộ sự cố gắng của tôi, hay “Tôi là đại diện của H.Đ.T.T” … mà bằng cuộc đời hiến dâng cho công việc phụng sự. Các đệ tử sẽ nói về sự có mặt của các ĐỨC THẦY hiện nay trên thế gian và có nhiều người đă biết các Ngài. Họ cũng sẽ chỉ cho giáo lư đời biết về nhiều vấn đề  tâm linh trọng yếu, chẳng hạn Thiên Cơ là một kế hoạch tiến hóa vĩ đại đưa đến mục đích tâm linh sáng suốt, nhân loại không cô lập mà được sự giúp đỡ của H.Đ.T.T và Đức Chưởng Giáo vẫn ở gần bên họ. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều đệ tử đang phụng sự âm thầm không ai biết. Nhóm NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN  đă xuất hiện và những người có thiện chí đă có mặt khắp nơi để giúp phong trào này, ĐỨC THẦY không chú trọng đến phàm ngă cá nhân, mà sẽ dùng những người cộng tác thuộc mọi thành phần tín ngưỡng, quốc gia, miễn là họ có vài  điều kiện tất yếu như t́nh thương, trí thông minh đă được tinh luyện, ảnh hưởng từ điển hấp dẫn quần chúng hướng thiện quay về chân lư chứ không hướng về sự tôn thờ cá nhân dù họ là Chân Sư hay đệ tử. Các Ngài không cần sự trung thành cá nhân, chỉ chuyên tâm đến việc cứu khổ và sự tiến hóa của nhân loại bằng cách hướng dẫn họ đến mục đích tâm linh. Các Ngài không cần sự biết ơn, khen tặng của người đời, chỉ lo dắt dẫn thế gian t́m đến  ánh sáng và phát triển tâm linh.

CHÂN SƯ TÂY TẠNG