ĐỜI SỐNG NỘI TÂM
(THE INNER LIFE)
C. W. LEADBEATER
ĐỜI SỐNG NỘI TÂM
(THE INNER LIFE)
QUYỂN II
Dịch Giả
TÂM THANH
CHI BỘ PHỤNG SỰ CHÂN LÝ
HỘI THÔNG THIÊN HỌC HOA KỲ
2023
MỤC LỤC
LỜI TRI ÂN 7
LỜI MỞ ĐẦU CHO PHIÊN BẢN MỸ 9
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ 11
CHƯƠNG I
ĐỜI SỐNG SAU CỬA TỬ
Nhà Thông Thiên Học Sau Khi Chết 13
Sự Liên Hệ Giữa Người Chết Và Trái Đất 15
Hoàn Cảnh Sau Khi Chết 30
Ám Ảnh (nhập xác) Loài Thú 35
Những Con Thú Đã Cá Nhân Hóa 49
Khu Vực Của Những Trạng Thái Cảm Xúc 50
Hoàn Cảnh Của Đời Sống ở Cõi Trời Chân Phúc 58
Nhân Quả Trong Đời Sống ở Cõi Trời Chân Phúc 67
CHƯƠNG II
CÔNG VIỆC Ở CÕI TRUNG GIỚI
Những Người Cứu Trợ Vô Hình 81
Hồi Ức Về Kinh Nghiệm ở Cõi Trung Giới 100
Những Chiều Đo Cao Hơn 111
CHƯƠNG III
THỂ TRÍ
VÀ QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG
Thể Trí 117
Một Quyền Năng Bị Bỏ Quên 130
Trực Giác Và Hứng Khởi 140
Các Trung Tâm Tư Tưởng 143
Tư Tưởng Và Loài Tinh Hoa Chất 151
CHƯƠNG IV
NHỮNG QUYỀN NĂNG TÂM LINH
Quyền Năng Tâm Linh 154
Thông Nhãn 167
Hợp Âm Huyền Bí (Mystic Cord) 183
Phương Pháp Soi Tiền Kiếp 192
Tiên Tri 210
CHƯƠNG V
ĐẠI THIÊN THẦN
VÀ TINH LINH THIÊN NHIÊN
Hào Quang Của Đại Thiên Thần 217
Thần Cây 226
Lời Tri Ân
![]()
Tâm Thanh xin thành tâm cảm ơn Thầy Tô-Văn-Hiệp và các anh chị em trong ban dịch thuật của chi bộ Phụng Sự Chân Lý đã hết lòng giúp đỡ trong công việc chuyển ngữ cũng như ấn tống quyển sách này. Nguyên bản của Tập 2 có 9 Chương, đã được tách ra làm hai quyển vì 9 Chương quá dầy cho một cuốn sách. Tập 2 có 5 Chương đã được ấn hành, và Tập 3 có 4 Chương còn lại sẽ được ấn hành nay mai.
Mong rằng các cuốn sách này sẽ giúp độc giả giải nghi một số vấn đề về con người và vũ trụ và sớm tiến đến đền Minh Triết Thiêng Liêng.
Ngày 10 tháng 5, 2023
LỜI MỞ ĐẦU
CHO PHIÊN BẢN MỸ
Lời hứa hẹn xuất bản quyển hai của các bài thuyết trình tại Adyar đã được hoàn tất sau nhiều sự trì hoãn không thể tránh khỏi. Sau nhiều đắn đo cân nhắc, chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất nên bỏ tựa đề Sự Sống Ẩn Tàng và ấn tống bộ này dưới tên Đời Sống Nội Tâm, Quyển II. Một số các buổi đàm luận thân mật trong các lớp học ở Adyar đã xuất hiện trên báo Nhà Thông Thiên Học, nhưng nhiều chương trong cuốn sách này có chứa những sự kiện mà trước đây chưa từng được ấn tống, như “Hỏa Tinh và các Cư dân của nó.”
Bản thảo của Những Điều Bí Ẩn, hứa hẹn là một cuốn sách lên đến bảy trăm trang, đã sẵn sàng cho nhà in, và chúng tôi chỉ chờ đợi một thời điểm thích hợp để xuất bản nó.
C.W. LEADBEATER
Adyar, 29 tháng 6, 1911.
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
Khi Bà Hội Trưởng vắng mặt ở Adyar vì chuyến du hành qua Anh quốc và Mỹ quốc vào năm ngoái, tôi phải chịu trách nhiệm cho các lớp họp mặt của học sinh ở đây. Trong khoảng thời gian này, tôi đã thuyết trình nhiều bài giảng ngắn trong vòng thân mật và trả lời hàng trăm câu hỏi. Những gì tôi nói đã được ghi lại bằng tốc ký và cuốn sách này là kết quả của những bài ghi chép đó. Trong một số trường hợp, những gì được bàn luận trong các buổi họp trên sân thượng đã được mở rộng thành một bài viết ngắn cho tờ báo Nhà Thông Thiên Học hoặc Thông Tin Adyar; trong tất cả các trường hợp đó, tôi đã in lại bài viết thay vì bản tốc ký vì lợi điểm là một số đã được sửa chữa và bổ sung thêm chi tiết. Đương nhiên, một cuốn sách như vậy có tính cách hơi rời rạc và cũng sẽ có những chỗ bị lập đi lập lại; tuy nhiên, khuyết điểm sau đã được cắt bớt khi có thể. Có nhiều chủ đề đã được nhắc đến trong những cuốn sách trước kia của tôi, nhưng những gì được viết trong đây đều đại diện cho kết quả của những khám phá mới nhất liên quan đến các chủ đề đó. Các chủ đề đều được phân loại kỹ lưỡng đến
mức có thể, và bộ sách này là Tập Hai với 9 phần còn lại.
C. W. LEADBEATER
Adyar, tháng 7, 1911.
CHƯƠNG I
ĐỜI SỐNG SAU CỬA TỬ
NHÀ THÔNG THIÊN HỌC
SAU KHI CHẾT
Khi một thành viên của Hội Thông Thiên Học tỉnh lại ở cõi trung giới sau khi đã vĩnh viễn bỏ lại thể xác ở cõi trần, tốt nhất là y nên bắt đầu tự kiểm điểm lại, như nhận định mình đang ở đâu, cuộc sống đối diện trước mặt y sẽ là như thế nào, và làm thế nào y có thể tiếp tục sống cho thật tốt. Cách khôn khéo nhất chính là y nên hỏi ý kiến của một vài người bạn có kinh nghiệm nhiều hơn y về vấn đề này, và thực tế đây là những gì mà các thành viên đã chết thường hay làm. Hãy nhớ rằng khi một thành viên đi vào cõi trung giới sau khi chết, y không phải chỉ xuất hiện ở đây lần đầu tiên. Thông thường, y đã làm rất nhiều công việc ở nơi đây trong lúc ngủ, và do đó y đang ở tại một môi trường rất quen thuộc với mình. Nói chung, phản ứng đầu tiên của y là nên đi thẳng đến vị Hội Trưởng thân mến của chúng ta, và đây là một điều tốt nhất mà y có thể làm, vì không ai có đủ khả năng hơn để cho y một lời khuyên hữu ích. Có quá nhiều khả năng làm việc ở cõi trung giới nên không ai có thể đặt ra một quy tắc nào nói chung, mặc dù một người không thể nào làm sai quá mức khi y chỉ muốn giúp đỡ đồng loại. Có rất nhiều cơ hội để học hỏi cũng như làm việc ở nơi đây, nên người mới đến sẽ phải quyết định nên chia thì giờ ra giữa các cơ hội này như thế nào.
Các thành viên của Hội Thông Thiên Học không thể nào thay đổi được cõi trung giới để khiến cho nó trở nên thuận tiện hơn cho họ hơn là ở cõi trần, và như vậy cũng giống như mọi người khác, họ đều phải đối diện với những gì xảy ra ở nơi đó. Nếu có một người say rượu đi trên đường, những người cùng đi trên con đường đó sẽ gặp y cho dù họ có là thành viên của Hội hay không, và cõi trung giới không có gì khác hơn với cõi trần về phương diện này. Những hội viên từng được hướng dẫn về các quy luật cai quản cõi trung giới lý ra phải biết nhiều hơn những người chưa được hướng dẫn về cách làm thế nào để đối phó với các thực thể khó ưa có thể đồng hành với họ; trên thực tế, họ đều có khả năng gặp gỡ chúng cũng như những người khác. Tuy nhiên, có thể họ đã gặp qua các thực thể này nhiều lần trong lúc hoạt động ở cõi trung giới khi còn sống, và không có lý do gì mà họ phải sợ chúng hơn trước đó; thật ra, gặp chúng ở chính cõi của chúng sẽ làm cho họ dễ thông cảm với chúng nhiều hơn và giúp đỡ chúng tốt hơn theo khả năng mà chúng có thể tiếp nhận được.
Không có sự khác biệt nào giữa hoàn cảnh của một người bình thường và một nhà ngoại cảm (psychic) sau khi chết, trừ việc là nhà ngoại cảm đã quen thuộc với hoàn cảnh ở cõi trung giới và do đó sẽ cảm thấy dễ chịu hơn khi ở môi trường mới của y. Là một nhà ngoại cảm có nghĩa là y có thể đưa một điều gì đó từ sự sống vĩ đại vào tâm thức hồng trần; do đó, trong trường hợp của thể xác, có một sự bất bình đẳng giữa nhà ngoại cảm và người bình thường, nhưng sự bất bình đẳng này sẽ biến mất sau khi họ cởi bỏ lớp áo của thể xác.
SỰ LIÊN HỆ
GIỮA NGƯỜI CHẾT
VÀ TRÁI ĐẤT
Một người chết thường biết rất rõ về cảm giác của thân nhân của mình, những người mà y đã rời bỏ. Nếu bạn thử nghĩ thật kỹ về cái gì có thể được biểu lộ qua thể vía, bạn có thể dễ dàng hiểu được khả năng hiểu biết của y. Y không nhất thiết phải theo dõi hết mọi chi tiết của những gì đang xảy ra ở cõi trần; y không nhất thiết phải biết các bạn của y đang ăn món gì hoặc cụ thể họ đang làm gì, nhưng y biết được họ đang vui hay buồn, và y cảm nhận ngay được những cảm xúc như yêu hay ghét, ghen tuông hay đố kỵ.
Khi một bợm rượu cứ lơ lửng trước một quán rượu, y chỉ có thể hít vào mùi rượu bằng cách hiện hình một phần nào (nghĩa là, bằng cách tạo ra một lớp áo bằng chất dĩ thái chung quanh y). Y không thể ngửi được nó theo cách thông thường của chúng ta, và đó là lý do tại sao y lúc nào cũng phải lo ép người khác vào trạng thái say mèm để y có thể nhập vào cơ thể của họ một phần nào để ám ảnh họ, và qua cơ thể đó y có thể trực tiếp kinh nghiệm một lần nữa vị giác và những cảm giác khác mà y khao khát đến điên cuồng.
Mắt, mũi, và miệng có đối phần chính xác của chúng trong thể vía, nhưng chúng ta không nên nghĩ rằng người ở cõi trung giới nhìn thấy bằng đôi mắt, nghe bằng đôi tai, hoặc ngửi và nếm bằng mũi và miệng. Toàn bộ chất liệu của thể vía không ngừng di chuyển nhanh chóng từ bộ phận này sang bộ phận khác, nên bất cứ một hạt phần tử (particle) nào của thể vía đều không thể chuyên biệt hoá như các đầu mút dây thần kinh đã được chuyên biệt hoá trong thể xác. Các giác quan của thể vía làm việc không phải qua các cơ quan đặc biệt mà qua từng hạt phần tử của thể vía, nên với thị giác trung giới, một người có thể nhìn thấy bằng bất cứ bộ phận nào trong cơ thể của y và chung quanh người của y cùng một lúc, thay vì chỉ thấy được ở trước mặt của y. Ở cõi trung giới, y có thể nắm lấy đối phần bàn tay của một người đang sống, nhưng vì hai bàn tay sẽ xuyên qua nhau mà không có một cảm giác va chạm nào, y sẽ không có lý do gì để làm như vậy. Tuy nhiên, y vẫn có thể tự hiện ra một bàn tay dù người khác không nhìn thấy được, nhưng họ có thể cảm nhận được một cảm giác giống như một bàn tay bình thường của thể xác chạm qua họ, một hiện tượng thường được quan sát ở các buổi cầu hồn.
Có ba cảnh ở cõi trung giới mà từ đó những vong linh có thể (nhưng không nên) nhìn thấy và theo dõi những sự kiện đang xảy ra ở cõi trần. Ở cảnh thấp nhất, họ thường hay bận rộn với các việc khác và không quan tâm nhiều đến những gì đang xảy ra ở cõi trần, trừ phi, như đã được giải thích trong văn học của chúng ta, họ đam mê những chốn ăn chơi thấp hèn; tuy nhiên ở cảnh tiếp theo, họ sẽ rất gần gũi với cõi trần và có thể ý thức được rất nhiều việc liên quan đến nó, mặc dù cái mà họ nhìn thấy không bao giờ thật sự là chất liệu hồng trần mà luôn là bản sao của nó ở cõi trung giới. Ý thức này, ở mức độ giảm thiểu rất nhanh chóng, vẫn có thể tồn tại khi họ đi lên hai cảnh kế tiếp; nhưng ở cảnh cao hơn nữa, họ chỉ có thể liên lạc với cõi trần bằng một nỗ lực đặc biệt thông qua một người trung gian, và ở cảnh cao nhất, ngay cả phương pháp này cũng sẽ rất khó được thực hiện.
Mức độ một người có thể nhìn thấy và theo dõi các sự kiện ở cõi trần từ cõi trung giới lệ thuộc vào nhân phẩm và tính tình của y, cũng như tùy vào giai đoạn tiến hoá của y. Hầu hết những người mà chúng ta thường gọi là người tốt, sau khi họ đã sống hết kiếp sống của họ ở cõi trần, đều phải lướt qua tất cả các cảnh thấp hơn của cõi trung giới trước khi tỉnh lại ở các cảnh cao hơn, và do đó họ sẽ không ý thức được bất cứ điều gì xảy ra ở cõi trần. Tuy nhiên, một phần ít trong số người này có thể bị kéo lại để liên lạc với cõi trần vì họ còn quá lo lắng cho một người nào đó còn sống ở cõi trần.
Trong bản chất của những người kém tiến hoá hơn có chất liệu của các cảnh thấp hơn nên họ có thể dễ dàng theo dõi những gì đang xảy ra ở cõi trần ở một mức nào đó. Phần đông thuộc trường hợp này nếu họ là những người mà tất cả suy nghĩ của họ đều có dính mắc đến thế giới này - những người có rất ít hoặc thậm chí không có hoài bão tinh thần hoặc trí tuệ cao siêu. Xu hướng quay về cõi trần gia tăng với hành động và sự quan tâm của một người, nên thoạt đầu y có thể vui vẻ không biết gì về các sự việc đang xảy ra ở cõi dưới, nhưng y có thể không may mắn bị nó thu hút lại, thường là do sự đau buồn ích kỷ của người còn sống. Sau đó, y phải cố gắng giữ cho bản thân mình không bị mất liên lạc với đời sống mà y vốn đã không còn thuộc về nữa; trong trường hợp này, khả năng nhìn thấy được những sự vật trên trái đất sẽ gia tăng trong một khoảng thời gian, nhưng sau đó tâm tư của y sẽ đau khổ khi nhận thấy rằng khả năng đó đang vuột khỏi tầm tay của y. Sự đau khổ như vậy đều do một sự bất bình thường được giới thiệu vào đời sống trung giới do chính hành động của y, bởi vì nó hoàn toàn không có một chỗ đứng trong quá trình tiến hoá bình thường và trật tự sau cái chết.
Nếu có người phàn nàn rằng theo cách này, người chết không nhìn thấy được cõi trần y như là thật, chúng tôi phải trả lời ngay rằng cả người chết và chúng ta ở cõi này cũng không bao giờ thấy được cõi trần y như là thật, bởi vì chúng ta (hoặc hầu hết mọi người) chỉ nhìn thấy được phần đặc và chất lỏng của nó và hoàn toàn khiếm thị đối với những phần thuộc chất hơi và chất dĩ thái bao la hơn; cũng như vậy, người chết hoàn toàn không nhìn thấy được vật chất ở cõi trần hoặc thậm chí toàn bộ bản sao của nó ở cõi trung giới, mà chỉ nhìn thấy được một phần của đối phần thuộc về cảnh đặc biệt mà y đang cư ngụ tại thời điểm đó. Người duy nhất có được một cái nhìn gần như toàn diện về mọi thứ là người đã phát triển khả năng nhãn thông về cảnh dĩ thái và cõi trung giới trong lúc y vẫn còn đang sống ở cõi trần.
Một khó khăn khác của người đã mất đi thể xác là không phải lúc nào y cũng chắc chắn nhận ra được đối phần trung giới của thể xác ngay cả khi y đang nhìn thấy nó. Y thường cần có khá nhiều kinh nghiệm trước khi chết để nhận thức được các đồ vật một cách rõ ràng, và bất kỳ nỗ lực nào y đưa ra để nhận diện chúng sau khi chết đều mơ hồ và không chính xác, như thường được thấy trong những ngôi nhà bị ma ám, nơi việc ném đá, đi ầm ầm, hoặc những chuyển động mơ hồ của các đồ vật hồng trần xảy ra. Do đó, khả năng nhận diện các đồ vật phần lớn là một câu hỏi về kinh nghiệm và kiến thức, nhưng nó ít khi nào hoàn hảo trừ phi y đã biết một điều gì đó về những vấn đề này trước khi chết.
Một người bạn viết thư cho tôi hỏi rằng liệu người chết ở cõi trung giới có thể thưởng thức đối phần trung giới của một vở kịch ở nhà hát hay không, và liệu y có kiếm được chỗ ngồi ở đó hay không nếu tòa nhà đã đầy người.
Dĩ nhiên, một rạp hát đầy người có đối phần của nó ở cõi trung giới mà người chết có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, vở kịch đó có thể không đem lại cho họ một sự thích thú nào, vì họ không nhìn thấy được trang phục cũng như sự diễn xuất của các diễn viên như chúng ta nhìn thấy, và cảm xúc của những diễn viên này, vì là giả chứ không phải thực, không để lại một ấn tượng gì ở cõi trung giới. Các thể vía có thể và thường xuyên xen kẽ lẫn nhau mà không gây hại gì cho nhau. Nếu bạn thử suy nghĩ một chút thì bạn sẽ thấy ngay tại sao nó là như vậy. Khi bạn ngồi cạnh bất cứ người nào trong toa xe lửa hoặc xe điện, thể vía của bạn và của y phần lớn phải thâm nhập lẫn nhau. Sự thâm nhập này không có gì khó khăn vì các
hạt phần tử trung giới, theo tỷ lệ kích thước của chúng, đều ở một khoảng cách xa hơn với nhau so với các phần tử hồng trần. Đồng thời, tốc độ rung động của chúng cũng có ảnh hưởng nghiêm trọng với nhau, nên ngồi gần một người có tư tưởng không được thanh khiết, ganh tị, hoặc tức giận là một điều không tốt. Do đó, một người chết có thể dễ dàng đi vào trong một rạp hát chật kín người - nhất là khi mọi người đều ngồi trên mặt đất hoặc trên các bậc thềm - trong khi một thực thể trung giới có thể lơ lửng trên không trung.
Người tự tử là một người bỏ học trước khi y hoàn tất cả các bài vở đã được chỉ định; y đã phạm phải một lỗi lầm lớn vì đã tự mình quyết định một việc nghịch lại với Thiên Ý. Hậu quả của việc phán kháng lớn như vậy luôn là một điều nghiêm trọng. Chắc chắn nó sẽ ảnh hưởng đến kiếp sau của y và có thể rất nhiều kiếp sau nữa. Chi tiết xảy ra ngay sau khi một người tự tử chết cũng giống như trường hợp của một nạn nhân của một vụ tai nạn, vì cả hai đều bị cùng đẩy vào cõi trung giới bất thình lình như nhau. Tuy nhiên, có một sự khác biệt lớn giữa nhau là một người chết vì tai nạn chưa có chuẩn bị tâm lý để đón cái chết nên họ sẽ bị bất tỉnh và thường lướt qua cảnh thấp nhất của cõi trung giới mà không ý thức được gì về những sự ghê tởm đáng sợ của nó. Trái lại, một người tự tử đã hành động một cách có ý thức và thường ý thức được mọi đau khổ về hầu hết các điều rùng rợn và gớm ghiếc. Y không thể được miễn khỏi những cảnh tượng và cảm xúc đau khổ mà y đã tự chuốc lấy; tuy nhiên, y có thể thường được một vài người bạn tử tế với lòng tốt bụng giúp đỡ đặng hiểu được về chúng và được cổ võ để y có được sự nhẫn nại, kiên trì, và niềm hy vọng.
Mặc dù việc tự tử được tuyệt đối công nhận là một lỗi lầm, và một lỗi lầm rất trầm trọng, không ai kêu gọi chúng ta lên án người bạn của chúng ta khi họ phạm phải sai lầm đó. Mỗi trường hợp đều khác nhau và chúng ta không thể nào hiểu nỗi ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau trong mỗi một trường hợp, mặc dù nó sẽ được cứu xét rất kỹ trong việc thi hành pháp luật của công lý vĩnh hằng.
Để đoán được hoàn cảnh của một người sau khi chết ở cõi trung giới, có hai yếu tố chính cần được cứu xét: (1) khoảng thời gian mà y phải sống ở một cảnh cụ thể nào ở cõi trung giới, và (2) mức độ ý thức của y tại cảnh đó. Như đã được nhắc đến, thời gian cư ngụ của một người ở tại bất kỳ cảnh nào ở cõi trung giới đều lệ thuộc vào số lượng vật chất thuộc cảnh đó mà chính y đã bỏ công ra xây cất trong khi còn tại thế.
Tuy nhiên, tầm mức ý thức của một người ở một cảnh cụ thể nào đó không nhất thiết phải tuân theo chính xác một quy luật như thế. Chúng ta hãy xem thử một thí dụ cực đoan của một vài biến đổi có thể xảy ra để hiểu được cách làm việc của nó. Giả sử một người mang từ kiếp trước của y một số tật xấu cần phải được biểu lộ qua một số lượng lớn các vật liệu thuộc cảnh thấp nhất, và trong kiếp hiện tại, y có đủ may mắn để học được từ những năm đầu đời khả năng và việc cần thiết phải kiểm soát những tật xấu đó. Có thể những nỗ lực kiểm soát của y không đều đặn và hoàn toàn thành công, nhưng nếu có, sự thay thế các phần tử thô kệch bằng những phần tử thanh nhẹ hơn sẽ diễn ra một cách vững vàng mặc dù chậm chạp.
Quá trình này dù tốt gấp mấy vẫn là một sự tiến bộ từ tốn, và do đó chuyện có thể xảy ra là người đó có thể chết đi trước khi quá trình này được hoàn tất phân nữa. Trong trường hợp như vậy, chắc chắn thể vía của y sẽ còn giữ lại một số chất liệu thuộc cảnh thấp nhất đủ để buộc y phải cư ngụ ở đó trong một khoảng thời gian đáng kể, nhưng nó sẽ là vật liệu mà tâm thức của y chưa bao giờ sử dụng trong kiếp này, và vì y không thể nào đột nhiên có một thói quen mới, kết quả là y sẽ ngủ yên lành ở cảnh đó cho đến khi phần chất liệu đó tan rã, trong lúc y vẫn còn trong một trạng thái vô ý thức - có nghĩa là, y sẽ thực sự ngủ say trong suốt thời gian đó, do đó hoàn toàn không bị ảnh hưởng gì bởi những thứ khó chịu của nó.
Người ta sẽ thấy rằng cả hai yếu tố này trong đời sống sau cửa tử - cảnh mà con người được đưa đến và tầm mức ý thức của y ở đó – hoàn toàn không lệ thuộc vào cách chết của y mà ở cách sống của y, nên bất kỳ một tai nạn nào, dù đột ngột hay khủng khiếp, hiếm khi có thể ảnh hưởng được nó. Tuy nhiên, có một lý do đằng sau lời cầu nguyện quen thuộc cũ xưa của Giáo Hội: “Lạy Chúa nhân lành, xin cứu vớt chúng con khỏi cái chết bất đắc kỳ tử,” vì mặc dù một cái chết đột ngột không nhất thiết ảnh hưởng đến vị trí của một người ở cõi trung giới tệ hơn, nhưng ít nhất nó cũng không thể làm cho nó được tốt hơn; trong khi đó, sự hao mòn chậm chạp của tuổi già nua hoặc sự dày vò của bất cứ bệnh kinh niên nào hầu hết đều kèm theo sự tan rã và nới lỏng đáng kể của các phần tử thể vía, nên khi một người hồi phục ý thức ở cõi trung giới, y sẽ khám phá rằng một phần nào công việc của mình ở cõi đó đã được hoàn tất.
Đôi khi, nỗi kinh hoàng và xáo trộn lớn về mặt tâm lý sau một cái chết do tai nạn thật là một bất lợi lớn cho việc chuẩn bị tâm lý cho đời sống ở cõi trung giới; thật vậy, người ta biết có những trường hợp mà sự kích động và khủng hoảng như vậy vẫn kéo dài sau cái chết, mặc dù may mắn thay điều đó rất là hiếm. Tuy nhiên, thông thường lòng ao ước có một khoảng thời gian để chuẩn bị tâm lý cho cái chết không phải chỉ là một sự mê tín đơn thuần mà nó có một số lý do chính đáng ở đằng sau. Đương nhiên, đối với ai theo đuổi cách sống của một nhà Thông Thiên Học, việc di chuyển tiếp tục qua cõi trung giới từ cõi trần chậm hay nhanh vốn không quan trọng, vì y luôn cố gắng tiến hóa hết sức mình, và mục tiêu trước mắt của y vẫn giống nhau trong cả hai trường hợp.
Tóm lại, rõ ràng dường như cái chết vì tai nạn không nhất thiết phải kéo dài thời gian ở cảnh thấp nhất của cõi trung giới, mặc dù theo một cái nhìn khác, nó có thể được coi là bị kéo dài một chút thời gian ở nơi đó vì nó tước đi cơ hội mà nạn nhân cần có để thiêu rụi các phần tử thuộc cảnh thấp đó trong lúc họ phải chịu đựng một chứng bệnh mãn tính. Trong trường hợp của các đứa trẻ, rất có thể là chúng khó phát triển được nhiều cá tính có liên quan với các cảnh thấp nhất của cõi trung giới trong cuộc sống ngắn ngủi và tương đối ngây thơ của chúng; quả thật, theo kinh nghiệm thực tế thì chúng hầu như không bao giờ được tìm thấy ở cảnh đó. Trong bất kỳ trường hợp nào, cho dù chúng bị chết vì tai nạn hoặc bệnh tật, đời sống của chúng ở cõi trung giới tương đối là ngắn ngủi; đời sống ở cõi trời chân phúc1, mặc dù có lâu hơn, vẫn có tỷ lệ hợp lý của nó, và chúng sẽ nhanh chóng tái sinh ngay sau khi các lực mà chúng đã phát huy trong kiếp sống ngắn ngủi ở cõi trần đã được đồng hoá, giống như trường hợp của những người lớn mà chúng tôi đã quan sát do ảnh hưởng của cùng một đại luật.
Bình thường, những gì tác động lên cái xác không nhất thiết phải ảnh hưởng đến người đang sống bên kia ở cõi trung giới. Tôi cần phải đưa ra hai trường hợp ngoại lệ: trường hợp thứ nhất, bên lề đời sống bình thường có những nghi thức ma thuật ghê rợn tạo ra một ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tình trạng của người ở cõi bên kia; trong trường hợp thứ hai, mặc dù tình trạng của xác chết không làm thay đổi con người thật bên trong, tuy nhiên đôi khi nó vẫn có, nguyên nhân là do sự thiếu hiểu biết hoặc dại dột của y. Tôi sẽ cố gắng giải thích thêm.
Sau khi chết, một người sẽ sống ở cõi trung giới bao lâu lệ thuộc vào hai yếu tố chính: (1) bản chất của đời sống của y khi còn ở cõi trần, và (2) thái độ tâm trí của y sau khi chết. Khi còn sống ở cõi trần, y luôn ảnh hưởng đến việc xây cất các chất liệu trong thể vía của mình. Y trực tiếp ảnh hưởng đến nó qua những đam mê, cảm xúc và dục vọng lay động đến y; y gián tiếp ảnh hưởng nó qua tác động của những tư tưởng của y từ bên trên (thể trí) đưa xuống, và từ mọi chi tiết trong đời sống vật chất của y (sự điều tiết hoặc buông thả, sự thanh khiết hoặc nhơ bẩn, thức ăn và thức uống) từ bên dưới đưa lên. Nếu y cứ ngoan cố kiên trì làm điều ác theo bất cứ đường lối nào trên đây, y sẽ dại dột tự xây dựng cho mình một thể vía thô kệch và ghê tởm, chỉ quen đáp ứng với những rung động thấp hèn của các cảnh thấp, và y sẽ thấy mình bị trói buộc vào cảnh đó sau khi chết trong một khoảng thời gian dài và chậm chạp trong khi thể vía đó từ từ tan rã. Mặt khác, nếu y có một đời sống đứng đắn và chừng mực, y sẽ tự tạo cho mình một dẫn thể được xây dựng phần lớn bằng các vật chất thanh nhẹ hơn, và y sẽ gặp ít phiền não và khó chịu hơn trong kiếp sống sau khi chết; do đó, sự tiến hoá của y sẽ tiến triển một cách nhanh chóng và thuận lợi hơn.
Nói chung, điều này thường dễ được chấp nhận, nhưng yếu tố quan trọng thứ hai - thái độ tâm trí sau khi chết - thường bị lãng quên. Điều tốt nhất là y nên nhận thức được vị trí của mình trong vòng bán cung tiến hoá nhỏ nhoi này - để hiểu được rằng mình đang ở trong giai đoạn rút lui dần dần vào bên trong hướng về cõi của chân ngã, và do đó việc làm của y là phải tách rời tư tưởng của mình càng ngày càng xa khỏi các vấn đề trần tục và tập trung tâm trí càng nhiều càng tốt vào những vấn đề tinh thần, vì chúng sẽ chiếm giữ tâm tư của y trong suốt đời sống ở cõi trời chân phúc. Bằng cách này, y sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự tan rã tự nhiên của thể vía và sẽ tránh được lỗi lầm đáng buồn thường xuyên là không cần thiết phải trì hoãn bản thân ở lại những cảnh thấp hơn mà lẽ ra chỉ là một chỗ cư trú tạm thời.
Tuy nhiên, thông thường nhiều người không chịu nâng cao tư tưởng của mình mà lại dành hết thời gian cố giữ liên lạc với cõi vật chất mà họ đã rời bỏ, do đó gây rắc rối lớn cho bất cứ một ai cố gắng giúp đỡ họ. Thứ duy nhất mà họ quan tâm khi còn sống là các vấn đề thế tục, và họ cứ ngoan cố bám vào chúng và không chịu buông bỏ ngay cả sau khi chết. Đương nhiên theo thời gian, họ càng ngày càng cảm thấy khó khăn trong việc cố gắng giữ liên lạc với mọi thứ ở dưới đây, nhưng thay vì can đảm đón nhận tiến trình thanh lọc từ từ và hướng về phía tinh thần, họ lại cực lực chống trả nó bằng mọi cách trong khả năng có thể của họ. Mãnh lực tiến hoá cuối cùng rồi cũng trở nên quá mạnh đối với họ, và họ bị cuốn theo dòng thủy triều bổ ích của nó, nhưng họ vẫn cố gắng chống trả từng bước một trên con đường này, do đó không chỉ tự gây ra vô số khổ đau và phiền phức không cần thiết cho mình mà còn trì hoãn sự tiến bộ lên trên của họ một cách nghiêm trọng.
Giờ đây, trong sự chống đối vô minh và tai hại với ý chí của vũ trụ, con người có một trợ lực rất đáng sợ là xác chết của y như là một điểm tựa ở cõi này. Y tự nhiên có mối quan hệ mật thiết với nó, và nếu y dại dột muốn làm như thế, y có thể dùng nó như một cái neo để giữ mình cắm mãi trong bùn cho đến khi cái xác đã thối rữa đáng kể. Hỏa táng có thể cứu con người khỏi bản thân họ trong việc này, vì khi thể xác đã được giải quyết đúng cách, tất cả các tàu bè đã bị đốt sạch đằng sau lưng (đúng theo nghĩa đen của nó), sức thu hút nắm giữ y lại may thay sẽ bị giảm đi rất nhiều.
Do đó, chúng ta có thể thấy rằng, cho dù việc chôn cất hoặc ướp xác bằng cách nào đi nữa cũng không thể ép buộc một linh hồn thuộc về nó phải kéo dài thời gian ở lại cõi trung giới nghịch với ý của họ, nhưng một trong hai hình thức này vẫn là một sự cám dỗ đặc biệt để trì hoãn họ lại, và nó sẽ là một trợ thủ đắc lực hơn nếu họ không may lại muốn làm như vậy. Không có linh hồn tiến hoá nào lại muốn bị giữ lại ở cõi trung giới, thậm chí bằng một hình thức hết sức ngu xuẩn như việc ướp xác. Cho dù thể xác có được hoả táng hoặc bị để mặc cho nó tự thối rữa từ từ theo cách ghê tởm bình thường, hoặc nó được bảo quản vô thời hạn như việc ướp xác theo kiểu Ai Cập, thể vía của người chết vẫn theo đuổi con đường tan rã nhanh chóng của riêng nó mà không hề bị ảnh hưởng bởi những điều này.
Trong nhiều lợi điểm của việc hỏa táng, điểm chủ yếu là nó ngăn ngừa triệt để bất cứ nỗ lực nào nhằm tạm thời tái hợp một nguyên lý với các nguyên lý khác2 một cách phản tự nhiên, hoặc bất cứ nỗ lực nào để sử dụng thi thể cho những mục đích tà thuật thấp hèn - chưa nói gì đến các mối đe dọa nguy hiểm (bệnh dịch) cho người sống mà có thể được ngăn chặn bằng phương pháp hỏa táng.
HOÀN CẢNH
SAU KHI CHẾT
Các môn đồ thường hỏi rằng, đối với một người bình thường, một đời sống chìm trong tiềm thức hoặc năng động là tốt hơn ở cõi trung giới. Điều này tùy vào bản chất của đời sống sinh hoạt và giai đoạn tiến hoá của đương sự. Sau khi chết, người bình thường vẫn còn có một số tham vọng chưa cạn kiệt còn đọng lại trong thể chất của y, và lực khao khát này cần phải được giải quyết trước khi y có thể chìm vào trong trạng thái tiềm thức. Nếu sinh hoạt duy nhất của y chỉ là những ham muốn thấp hèn, đương nhiên tốt hơn hết là y không nên bị bất cứ một điều gì can thiệp vào sự chìm đắm trong trạng thái tiềm thức càng sớm càng tốt, bởi vì bất cứ một nghiệp mới nào mà y tạo ra có rất ít khả năng là một thứ gì có lợi ích cho y.
Mặt khác, nếu y đã đủ tiến hoá để có thể giúp đỡ người khác ở cõi trung giới, và nhất là nếu y đã có thói quen làm việc ở nơi đó khi ngủ, không có lý do gì mà y không nên dùng thời gian buộc phải lưu trú ở nơi đó một cách hữu ích, mặc dù y không nên tạo ra những lực mới để có thể kéo dài thời gian lưu trú của y tại đó. Những ai đang làm việc dưới sự chỉ dẫn của các vị đệ tử của Chân Sư sẽ tự nhiên đến tư vấn với họ vì họ có nhiều kinh nghiệm hơn về lĩnh vực này, và đến lượt họ, họ cũng có thể tham khảo ý kiến với những Vị cao cả khác có kiến thức rộng rãi hơn.
Đời sống ở cõi trung giới cũng như ở cõi trần có thể được chỉ đạo bằng ý chí, nhưng nó luôn nằm trong giới hạn bị cai quản bởi nghiệp lực của mỗi cá nhân - hay nói một cách khác, bởi hành động quá khứ của họ. Một người bình thường ít khi có chủ kiến hoặc ý chí mạnh mẽ và do đó y thường là “sản phẩm” của môi trường do chính y tự chiêu cảm ở cõi trung giới cũng như ở cõi trần; tuy nhiên, một người có ý chí kiên cường lúc nào cũng có thể tận dụng những điều kiện tốt nhất từ môi trường và sống theo ý của mình bất chấp hoàn cảnh chung quanh. Rốt cuộc, những gì do ý chí của y đã gây ra có thể được dần dần điều chỉnh bởi chính ý chí của y nếu thời gian cho phép.
Ở cõi trung giới, một người không thể nào cởi bỏ được nhiều thói hư, tật xấu hơn khi còn ở cõi trần, trừ phi y thật sự dồn hết tâm trí vào việc đó. Có rất nhiều ham muốn mãnh liệt và dai dẳng trong y và chúng cần có một thể xác để được thỏa mãn, nhưng vì y không còn có nó nữa nên chúng sẽ dày vò y thật nhiều trong một khoảng thời gian khá lâu; tuy nhiên theo thời gian, chúng sẽ tự hao mòn, tàn lụi và biến mất vì y không có cách nào để thoả mãn chúng như ý. Theo cách tương tự, khi tâm thức dần dần rút lui khỏi thể vía bởi nỗ lực nửa tỉnh thức của linh hồn, chất liệu của thể vía cũng từ từ hao mòn và tan rã, và do đó con người sẽ dần dần loại bỏ được những gì đã cầm chân y lại, cản trở y không vào được cõi trời chân phúc.
Tuy nhiên, điều rắc rối nhất là con người thường không nhận thức được sự cần thiết của việc loại bỏ các điều ác đang giam giữ y. Rõ ràng là nếu y nhận thức được sự thật về vấn đề này và đặt hết tâm tư vào công việc, y có thể đẩy mạnh hai quá trình thanh lọc đã được đề cập ở trên rất nhanh. Nếu y biết rằng công việc của y là đốt hết những ham muốn trần tục và rút lui vào bên trong tâm thức của mình càng nhanh càng tốt, y sẽ sốt sắng làm những điều này; nhưng ngược lại, vì vô minh nên y lại thường nghiền ngẫm về những ham muốn và vô tình kéo dài sự sống của chúng, rồi tuyệt vọng bám vào những phần tử thô kệch nhất của chất liệu thể vía cho đến khi y kiệt sức chỉ vì cảm giác kết nối với chúng làm cho y dường như cảm thấy gần gũi hơn với đời sống vật chất mà y cực kỳ khao khát. Vì vậy, chúng ta có thể thấy tại sao một trong những công việc quan trọng nhất của những người cứu trợ vô hình là giải thích sự thật cho người chết biết, và đó cũng là lý do tại sao một kiến thức minh triết đơn thuần về giáo lý của Thông Thiên Học là vô giá đối với một người bình thường.
Ban đầu, người chết đến cõi trung giới còn chưa nhận ra được mình đã chết, và ngay khi cả sự thật đó đến với y, nó không có nghĩa là y lập tức hiểu được cõi trung giới khác với cõi trần như thế nào. Ở cõi trần, con người là nô lệ của một số nhu cầu cần thiết:
y phải có thức ăn, áo mặc và chỗ ở; để mua những thứ này, y phải có tiền và hầu hết trong mọi trường hợp, để có tiền y phải làm một công việc gì đó. Ở dưới đây, tất cả các điều này đều là việc hiển nhiên đối với chúng ta đến nỗi khi một người đã được phóng thích khỏi gông cùm này, y phải mất một thời gian rất lâu để có thể tin rằng y thật sự đã được tự do, và trong nhiều trường hợp, y vẫn tiếp tục tự áp đặt lên mình những gông cùm không cần thiết mà trên thực tế đã được gạt bỏ qua một bên.
Do đó, đôi khi chúng tôi thấy người mới chết đang cố gắng ăn - ngồi xuống và chuẩn bị cho mình các bữa ăn hoàn toàn do trí tưởng tượng, hoặc tự xây nhà cho bản thân mình. Tôi từng thấy một người ở vùng đất “trường-hạ” tự xây nhà cho mình bằng cách đặt lên từng miếng gạch, và mặc dù y đã làm ra từng miếng gạch bằng tư tưởng của mình, y vẫn chưa nắm được sự thật rằng y có thể dùng một nỗ lực như vậy để đồng thời tạo ra luôn một căn nhà cho chính mình. Y được dần dần dẫn dắt để nhận ra rằng, bởi vì những viên gạch đó vốn không có trọng lượng như ở cõi trần, hoàn cảnh hiện giờ của y đã khác với khi xưa, và vì vậy nó đã khiến y đi tìm hiểu thêm về hiện tượng mới lạ này.
Ở cảnh trường hạ, con người sống trong một môi trường với các khung cảnh do chính họ tự tạo ra, mặc dù có một vài người chọn tránh khỏi rắc rối này bằng cách chấp nhận những khung cảnh đã được dựng sẵn lên bởi người khác. Những người sống ở cảnh thứ sáu trên bề mặt của trái đất sẽ thấy rằng họ được bao quanh bởi đối phần trung giới của những ngọn đồi, cây cối, và sông hồ đang hiện diện ở cõi trần, và do đó họ không cần thiết phải tạo ra những khung cảnh cho bản thân họ; nhưng những người ở các cảnh cao hơn, lơ lửng trên bề mặt của trái đất ở một khoảng cách cụ thể, thường tự dựng lên cho mình bất kỳ khung cảnh nào mà họ muốn theo phương pháp mà tôi đã mô tả.
Thí dụ phổ biến nhất là họ tự tạo cho mình những khung cảnh kỳ lạ được mô tả trong nhiều kinh sách khác nhau, do đó ở những vùng này, chúng tôi luôn thấy mình bị bao vây bởi những nỗ lực vụng về và thiếu óc sáng tạo để dựng lên những hình ảnh về các ý tưởng như châu báu mọc trên cây, biển thủy tinh được hòa lẫn với lửa, các sinh vật có nhiều con mắt ở bên trong, và các vị thần linh với một trăm cái đầu và một trăm cánh tay. Do hậu quả của sự thiếu hiểu biết và định kiến trong đời sống thế tục của họ, nhiều người đã bỏ ra rất nhiều thì giờ theo cách này vào những việc làm vô ích, trong khi họ có thể dành thời giờ đó để giúp đỡ cho đồng loại.
Đối với người đã nghiên cứu Thông Thiên Học và do đó có kiến thức về các cõi cao hơn, một trong những đặc điểm đáng mến nhất của họ là sự bình thản, an nhiên và tự tại đến từ việc hiểu rằng tất cả các nhu cầu vật lý khiến cho đời sống thế tục của họ nhọc nhằn đã không còn hiện hữu. Chỉ có người chết mới được hoàn toàn tự do - tự do để làm bất cứ điều gì mà họ muốn và sử dụng thời gian theo ý của họ. Vì vậy, họ có tự do cống hiến hết sức mình vào việc giúp đỡ cho đồng loại.
ÁM ẢNH (NHẬP XÁC)
LOÀI THÚ
Chúng ta đều quen với ý nghĩ rằng, trên đường đi xuống đầu thai, một linh hồn đôi khi có thể bị lôi khỏi lộ trình tự nhiên của y và bị trì hoãn vô thời hạn ở cõi trung giới vì sự thu hút giữa y và hồn khóm của một loài thú nào đó có đặc tánh giống như y. Chúng ta biết rằng sự thu hút này đôi khi chiếm hữu linh hồn đó ở cõi trung giới sau khi chết và giam giữ y trong mối liên hệ mật thiết với hình thể con thú do nghiệp lực, và y phải chịu đau khổ khủng khiếp với nó vì hậu quả của sự độc ác, tàn bạo của y. Tất cả các điều này đã được Bà Besant giải thích trong một lá thư được Bà gửi đến một tòa soạn tại Ấn độ, đã được tái bản trong quyển Người Góp Nhặt Minh Triết Thiêng Liêng (The Theosophic Gleaner), tập xv, trang 231, như sau:
“Linh hồn con người không thể nào luân hồi vào con thú, vì luân hồi có nghĩa là sinh vào một thể xác sau đó thuộc quyền sở hữu và điều khiển bởi linh hồn. Mối quan hệ hình phạt giữa một linh hồn và con thú không phải là luân hồi, vì linh hồn của con thú, người chủ hợp pháp của hình thể đó, không hề bị đuổi ra, và linh hồn của con người cũng không thể kiểm soát được cơ thể mà y tạm thời bị kết nối. Cũng không phải linh hồn của con người trở thành con thú hay mất đi bản chất của con người khi y phải thọ lãnh hình phạt đó. Y không phải quay lại những nấc thang tiến hóa thấp hơn của loài người, mà sau khi y được thả tự do, lập tức lấy lại hình thể con người ở trình độ tiến hóa trước đó của y. (Xin coi lại trường hợp của Java Bharata và vợ của Rishi đã được thả tự do sau khi chạm vào chân của Rama - những trường hợp cho thấy quan niệm thông thường rằng con người có thể trở thành một viên đá hoặc một con thú là sai.)
“Sự thật là như vầy: khi Ngã thức, một linh hồn con người, vì lòng ham muốn xấu xa hoặc bằng một cách nào khác, tạo ra một mối liên hệ chặt chẽ với một con thú, thể vía của y sẽ biểu hiện những thú tánh tương tự như vậy, và ở cõi trung giới - nơi mà những đam mê và tư tưởng tạo ra hình tướng - y có thể lấy hình dạng của một con thú. Vì vậy, sau khi chết ở Pretaloka,3 linh hồn sẽ hiện thân trong lớp áo thể vía giống hay gần giống như một con thú mà các thú tánh như vậy đã được khuyến khích phát triển trong đời sống ở cõi trần. Hoặc ở giai đoạn này,4 hoặc ở giai đoạn khi linh hồn quay lại tái sinh và một lần nữa lại ở cõi trung giới, y có thể bị kết nối trong những trường hợp cực đoan bởi ái lực từ điện với thể vía của một con thú có đặc tánh tương tự và do đó, thông qua thể vía của con thú, bị trói buộc như là một tù nhân trong thể xác của nó. Bị xiềng xích như vậy, y không thể nào tiến tới Svarga5 nếu sự kết nối như vậy xảy ra trong khi y còn là một Preta,6 hoặc y không thể đầu thai làm người nếu y đang trên đường đi xuống cõi trần. Y thật sự phải chịu một hình phạt bị xiềng xích vào một con thú; y vẫn có ý thức ở cõi trung giới, vẫn giữ được các khả năng thuộc về con người, nhưng không thể điều khiển được cơ thể cầm thú mà qua đó y bị kết nối, hoặc biểu hiện được bản tánh của mình qua cơ thể đó ở tại cõi trần. Cấu tạo của con thú không có cơ chế thích hợp để linh hồn con người có thể biểu lộ; nó có thể đóng vai trò của một người cai ngục, nhưng nó không giống như một dẫn thể. Hơn nữa, linh hồn của con thú không bị đuổi đi mà vẫn sở hữu hợp pháp và kiểm soát được chính cơ thể của nó. Shri Shankaracharya7 có ám chỉ rất rõ ràng về sự khác biệt giữa hình phạt tù túng này và việc trở thành một viên đá, một cây cỏ, hoặc một con thú. Sự cầm tù như vậy không phải là luân hồi, và nếu chúng ta gọi nó bằng danh từ này là không chính xác; vì vậy, khi hiểu được hết các sự kiện ở trên, tôi phải luôn nói rằng linh hồn con người không thể luân hồi thành loài thú, không thể trở thành một con thú. Đó không phải là một trải nghiệm duy nhất mà một linh hồn đồi trụy có thể trải qua trong thế giới vô hình, mà có nhiều ám chỉ khác được tìm thấy trong các Kinh sách Ấn độ, nhưng… những tuyên bố đó chỉ được ghi lại có một phần và thật sự không đầy đủ.
“Trong những trường hợp mà linh hồn chưa đến nỗi trụy lạc để bị giam cầm triệt để nhưng thể vía lại bị thú tánh hoá mạnh mẽ, y có thể đầu thai làm người với các thú tánh sẽ được lộ ra rất rõ ràng trong thể xác - nhân chứng là những con người “quái vật,” thực tế vốn là những con thú thật đáng ghê sợ, mặt heo, mặt chó, v.v… Những người vì buông thả theo các thói hư, tật xấu thậm tệ nhất phải đón nhận những hình phạt khủng khiếp hơn họ có thể ý thức được, vì thiên luật không ngừng hoạt động để đem lại cho mọi người gặt quả của hạt giống mà họ đã từng gieo xuống. Sự đau khổ hằn sâu trong tâm thức của một người khi bị cắt rời khỏi cơ tiến hoá và không thể biểu lộ bản thân mình trong một khoảng thời gian là một điều rất khủng khiếp, và tác động của nó tất nhiên là mang tính cách cải tạo; nó hơi giống hình phạt mà các linh hồn khác phải chịu đựng khi bị kết nối vào hình thể của một người không có một bộ óc lành mạnh - những người mà chúng ta gọi là kẻ khờ khạo, người điên, v.v… Sự khờ khạo và mất trí là hậu quả của các tật xấu khác đồng loại với những thứ dẫn đến hình phạt bị cầm tù trong con thú như đã được giải thích ở trên, nhưng trong trường hợp này, linh hồn cũng bị gắn vào một hình thể mà y không thể biểu lộ được bản thân mình một cách trọn vẹn.”
Những thí dụ này là lời giải thích (hay ít nhất một phần của lời giải thích) cho niềm tin được phổ biến rộng rãi rằng con người có thể, trong một số trường hợp đặc biệt, bị tái sinh trong cơ thể của con thú. Trong những cuốn sách phương đông, cái mà chúng ta phải gọi là ba giai đoạn của một kiếp sống thường được nhắc đến như là những kiếp sống riêng biệt. Người ta nói rằng khi một người chết ở cõi trần, y liền được tái sinh ngay lập tức ở cõi trung giới - đơn giản có nghĩa là sau đó, y bắt đầu toàn bộ đời sống đặc biệt ở cõi trung giới; cũng như vậy, cái mà chúng ta nên mô tả là sự di chuyển tiếp tục vào đời sống ở cõi trời chân phúc lại được gọi là cái chết ở cõi trung giới và sự tái sinh ở tầng cao hơn. Vì vậy, thật dễ hiểu rằng trong một những trường hợp bất thường được đề cập ở trên có thể được diễn tả thành “đầu thai thành con thú,” mặc dù đó không phải là ý nghĩa thực sự của ngôn từ này nếu chúng ta dùng nó trong văn chương Thông Thiên Học.
Trong các cuộc điều tra gần đây, chúng tôi có chú ý đến một trường hợp hơi khác với một trong hai trường hợp ở trên - ở chỗ là mối liên hệ với con thú là do con người cố ý tạo ra để thoát khỏi một điều mà y cảm thấy là còn tồi tệ hơn. Chắc chắn loại này cũng được người xưa biết đến và là một trong những loại được nhắc đến trong truyền thuyết “đầu thai thành con thú.” Tôi sẽ cố gắng giải thích về trường hợp này.
Khi một người chết đi, phần dĩ thái sẽ bị rút khỏi phần đậm đặc hơn của thể xác và sau đó không lâu (thường là trong vòng một vài tiếng), thể vía sẽ tách rời khỏi thể phách, và đời sống của y sẽ bắt đầu ở cõi trung giới. Thông thường, con người sẽ bất tỉnh cho đến khi y tự tách rời ra khỏi thể phách, và như vậy, khi y thức dậy, y sẽ có một cuộc sống mới thuộc về cõi trung giới. Tuy nhiên, có một số người tuyệt vọng cố bám lấy đời sống thế gian cho đến nỗi thể vía của họ không thể nào tách rời khỏi thể phách, và khi thức dậy, họ vẫn còn bị bao bọc trong chất liệu của thể phách.
Thể phách chỉ là một phần của thể xác, bản thân nó vốn không phải là một dẫn thể của tâm thức – nó không phải là một dẫn thể để cho con người có thể sống và hoạt động.Vì vậy, những người tội nghiệp này bị sống trong một hoàn cảnh rất khó chịu, họ giống như bị treo lơ lửng giữa hai cõi. Họ bị chặn khỏi cõi trung giới vì lớp vỏ của chất dĩ thái vẫn còn bao bọc họ, đồng thời, họ đã đánh mất đi các cơ quan cảm giác của thể xác mà chỉ qua đó, họ mới có thể tiếp xúc được với thế giới bên ngoài để có một đời sống bình thường trên mặt đất.
Kết quả là họ trôi dạt đây đó trong sự cô lập, bị câm và sợ hãi trong một màn sương mù dày đặc và u ám, không thể giao tiếp được với các cư dân thuộc về một trong hai cõi; đôi khi, họ thoáng thấy những linh hồn khác cũng đang bị trôi dạt ở trong trạng thái bất hạnh như họ, nhưng họ bất lực không thể nào giao tiếp ngay cả với các người đó, không có khả năng nhập bọn với họ hoặc chấm dứt sự lang thang không có mục đích khi họ bị cuốn vào và bao bọc bởi một màn đêm dày đặc không hề có một chút tia sáng. Lâu lâu, bức màn dĩ thái có thể hé mở đôi chút để cho họ có một cái nhìn thoáng qua về các cảnh thấp hơn ở cõi trung giới, nhưng đây ít khi là một điều khích lệ tinh thần vì quả thật nó thường bị nhầm lẫn với một cái nhìn thoáng qua của địa ngục; đôi khi trong giây lát, họ có thể nửa nhìn thấy được một số vật quen thuộc ở cõi trần - thường là do tiếp xúc với một hình tư tưởng mạnh mẽ, nhưng sự vén màn hiếm hoi và trêu ngươi của màn sương mù này chỉ làm cho bóng tối của nó càng thêm rùng rợn và vô vọng khi nó khép lại một lần nữa.
Trong khi đó, linh hồn tội nghiệp không thể nhận ra rằng chỉ cần y buông bỏ sự bám víu điên cuồng vào vật chất, y sẽ tức khắc (qua vài phút bất tỉnh) trượt vào đời sống bình thường của cõi trung giới.
Tuy nhiên, đó chính là cái cảm giác mà y không thể nào chấp nhận nỗi - cảm giác bị mất đi thậm chí một nửa ý thức đau khổ mà y đang có; đúng vậy, y thà bám vào sự rùn rợn của thế giới xám đầy sương mù bao phủ còn hơn là để bản thân mình rơi vào chốn mà đối với y dường như là biển cả của hư vô và hủy diệt. Đôi khi, vì kết quả của sự dạy dỗ ác ôn và báng bổ ở cõi trần, y lo sợ không dám thả lỏng hầu có thể tránh khỏi nạn bị đọa vào địa ngục. Trong cả hai trường hợp, cảm giác đau khổ, tuyệt vọng và thê lương của y đều tăng lên cùng cực.
Có vài cách để thoát khỏi tình trạng khó chịu nhưng tự chuốc này. Nhiều thành viên trong nhóm người cứu trợ vô hình của chúng tôi đã hết sức đi tìm các linh hồn đang ở trong tình trạng đau khổ này và cố gắng thuyết phục họ buông bỏ nó; cũng có nhiều người tốt bụng trong số những người đã chết nhận lấy việc này như một thứ công tác thiện nguyện ở khu ổ chuột của cõi trung giới. Đôi khi, những nỗ lực như vậy có thành công, nhưng nói chung, ít nạn nhân nào có đủ niềm tin và dũng khí để buông xuống cái mà đối với họ là đường dây cứu mạng, cho dù đó là một cách biện hộ đáng buồn. Theo thời gian, lớp vỏ dĩ thái cũng bị hao mòn và tiến trình tự nhiên của tạo hoá cũng được tái lập, bất chấp các nỗ lực phản kháng của họ; đôi khi trong cơn tuyệt vọng, họ cũng dự đoán được kết quả này nên đã hạ quyết tâm thà kết thúc trước cho dễ chịu hơn là tiếp tục sống một cuộc đời như vậy, và do đó họ tự buông bỏ nó một cách liều lĩnh - rốt cuộc, họ nhận được một kết quả bất ngờ choáng ngợp nhưng thích thú đối với họ.
Tuy nhiên, trong lúc đầu cố gắng vùng vẫy, một vài người xui xẻo đến nỗi khám phá ra được các phương pháp phản tự nhiên để phục hồi ở một mức độ nào đó khả năng tiếp xúc với cõi trần thay vì bị chìm đắm trong cõi trung giới. Họ có thể dễ làm như vậy thông qua một người đồng cốt, nhưng “người hướng dẫn tinh thần” (“spirit-guide”) của người đồng cốt thường sẽ nghiêm khắc cấm họ nhập vào. Người hướng dẫn làm như vậy là rất đúng, vì trong sự kinh hoàng và yêu cầu ham muốn quá lớn, họ thường là những kẻ hoàn toàn mất lương tri; họ sẽ ám ảnh và thậm chí làm cho người đồng cốt bị loạn trí, tranh giành thể xác đó như một kẻ chết đuối đang cố vùng vẫy để sống; tuy nhiên, tất cả đều hoàn toàn vô ích vì kết quả cuối cùng chỉ có thể kéo dài thêm sự đau khổ của họ bằng cách củng cố thành phần vật chất mà tốt hơn hết là nên bị loại bỏ.
Đôi khi, họ tìm cách chiếm lấy một người không biết mình có bản chất đồng cốt - thông thường là một cô gái trẻ nhạy cảm nào đó, nhưng họ chỉ có thể thành công trong nỗ lực này khi linh hồn của cô gái trẻ yếu đuối không nắm chắc được các dẫn thể của mình nên mới cho phép những tư tưởng hoặc đam mê xấu xa thao túng. Khi quan hệ giữa linh hồn và các dẫn thể là lành mạnh và bình thường, người đó không thể nào bị trục xuất bởi các nỗ lực điên cuồng của những linh hồn tội nghiệp mà chúng tôi vừa mô tả.
Tuy nhiên, con thú không có linh hồn nào đằng sau nó, mặc dù nó có một mảnh của hồn-khóm có thể được cho là đại diện thay cho một linh hồn. Việc nắm giữ các dẫn thể của nó bởi mảnh nhỏ này chắc chắn không thể nào giống được như một linh hồn của con người, và do đó, chúng ta có thể nói rằng “linh hồn” của con thú dễ bị trục xuất hơn là linh hồn của con người. Đôi khi, như tôi đã nói, linh hồn của một người lang thang trong thế giới xám có thể bất hạnh đến nỗi y khám phá ra được điều này, và vì vậy trong cơn điên cuồng, y có thể ám ảnh cơ thể của một con thú, hay nếu y không thể hoàn toàn xua đuổi linh hồn của con thú, y sẽ tìm cách để giành lấy một phần kiểm soát để chia sẻ quyền sở hữu với người chủ hợp pháp ở một mức độ nào đó. Trong trường hợp như vậy, một lần nữa y có thể tiếp xúc với cõi trần xuyên qua con thú; y có thể nhìn thấy qua con mắt của con thú (thường khi là một trải nghiệm rất ly kỳ), và y sẽ cảm nhận được bất cứ một sự đau đớn nào xảy ra trên xác thân của con thú; trên thực tế, trong tâm thức của y, y chính là con thú trong thời điểm đó.
Một thành viên lớn tuổi và khả của một trong các chi nhánh Anh quốc của chúng tôi đã thuật lại là ông ta từng tiếp xúc với một người đàn ông đến thăm ông để xin một lời khuyên về một trường hợp rất đặc biệt. Người khách này là một người đàn ông dường như đã từng trải qua những ngày tháng tốt đẹp hơn nhưng lại bị rơi vào hoàn cảnh nghèo khó đến nỗi ông ta buộc phải làm bất cứ một công việc gì mà ông kiếm được, và do đó ông ta đã trở thành một đồ tể tại một lò mổ lớn. Ông tuyên bố rằng ông hoàn toàn không thể nào thi hành được nhiệm vụ ghê tởm của mình, bởi vì khi ông chuẩn bị hành hình con thú thì ông luôn bị chặn lại bởi những tiếng kêu ai oán xé lòng với những câu nói như sau: “Hãy tha cho chúng tôi! Đừng đập, vì chúng tôi là những người bị kẹt vào các con thú này, và chúng tôi cũng phải chịu nỗi đau của chúng.” Vì vậy, khi ông nghe rằng Hội Thông Thiên Học có nghiên cứu về những vấn đề lạ lùng và huyền bí, ông đã đến để xin một lời khuyên. Rất có thể, ông ta có một phần nào khả năng nhĩ thông, hoặc có lẽ ông ta đủ nhạy cảm để bắt được các hình tư tưởng của những kẻ tội nghiệp đã tự nối kết mình với con thú, và những tư tưởng này biểu hiện như là những tiếng kêu la, cầu cứu xin thương xót. Thật không có gì đáng ngạc nhiên khi ông ta không thể nào tiếp tục hành nghề của mình.
Điều này có thể làm cho một người ăn thịt, một người coi săn thú vật là một “trò thể thao,” và nhất là một người mổ xẻ sinh vật, tạm thời dừng lại, vì một người giết hoặc hành hạ một con thú có thể đang gây ra đau đớn khôn lường cho một linh hồn của một người.
Tôi không nghi ngờ rằng, đối với một người có đầu óc linh hoạt, tội lỗi kỳ lạ này ít nhất có thể là lý do mà một số bộ tộc tin rằng không bao giờ nên sát hại một số thú vật “hầu tránh việc vô tình trục xuất linh hồn của tổ tiên mình.” Khi một người tự nhốt mình vào một con thú, họ không thể tự ý rời khỏi cơ thể của con thú đó, ngay cả khi họ đã biết đủ để muốn rút lui; họ chỉ có thể làm điều này từ từ và với một nỗ lực đáng kể có lẽ sẽ kéo dài nhiều ngày. Thông thường, sau khi con thú chết thì họ mới được thả tự do, và thậm chí lúc đó, họ vẫn còn bị kết nối với phần thể vía cần phải được giũ bỏ. Sau cái chết của con thú, một linh hồn như vậy đôi khi cố ám ảnh một con thú khác cùng bầy, hay thật ra bất cứ một con thú nào khác mà họ có thể bám lấy trong cơn tuyệt vọng.
Tôi từng để ý là các con thú bị ám ảnh bởi con người một phần hay toàn phần thường hay bị đàn thú xa lánh hoặc sợ hãi, và bản thân chúng cũng thật sự thường bị điên lên vì tức giận và sợ hãi trước việc kỳ quái và trước sự bất lực của chính chúng. Những con thú thường bị ám ảnh có vẻ là những con thú kém phát triển hơn - như con bò, cừu, và lợn. Những con vật thông minh hơn, như chó, mèo, và ngựa, dường như không thể bị trục xuất dễ dàng - mặc dù tôi đã từng bị lôi cuốn bởi một trường hợp đặc biệt rùng rợn của một tu sĩ đạo Chúa đã tự trói buộc mình vào một con mèo theo kiểu như vậy. Rồi cũng có một trường hợp nổi tiếng của con khỉ ở Pandharpur sở hữu một kiến thức lạ lùng về nghi lễ của Brahmana. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, linh hồn xâm chiếm phải hài lòng với những gì y có thể đoạt được, vì nỗ lực chế ngự thậm chí những con thú ngu ngốc hơn y cũng thường đòi hỏi một nỗ lực tối đa của y.
Việc ám ảnh loài thú dường như là một hình thức biến đổi hiện nay thay cho đời sống ghê gớm của ma cà-rồng. Trong thời đại của giống dân thứ tư, những người bám víu điên cuồng vào đời sống thế tục đôi khi tìm cách duy trì một hình thức sống thấp hèn và rùng rợn không thể tả trong chính thể xác của họ bằng cách hút máu tươi của người khác. May mắn thay, trong giống dân thứ năm, điều này không còn có thể xảy ra được nữa, nhưng loại người như vậy đôi khi lại rơi vào cạm bẩy của việc ám ảnh loài thú - tất nhiên là cũng đủ tệ, nhưng dù sao vẫn không đến nổi ghê gớm và đáng kinh hoàng như ma-cà-rồng. Do đó, thậm chí ngay ở phương diện xấu nhất và tệ hại nhất của nó, thế giới vẫn đang tiến bộ!
Tôi có biết hai trường hợp ảm ảnh loài thú theo hai kiểu khác nhau: một là câu chuyện của một kẻ độc ác đã chết thường có thói quen tạm thời chiếm giữ cơ thể của một con thú nào đó cho mục đích đen tối đặc biệt của y, và trường hợp thứ hai là chuyện của một tên phù thủy phương Đông, vì trả thù cho việc bị sỉ nhục về niềm tin tôn giáo của y, đã dùng thuật thôi miên để gắn kết linh hồn của nạn nhân bất hạnh của y vào hình thể của một con thú. Điều này chỉ có thể được thực hiện nếu nạn nhân đã sẵn có một vài khuyết điểm nào đó khiến người phù thủy có thể lợi dụng được, ví dụ như họ đã cố tình phạm một lỗi gì đó khiến hắn có thể dùng luật nhân quả để tạm thời giam giữ họ lại. Bình thường, cả hai trường hợp này đều khó có thể xảy ra.
Tất cả những việc ám ảnh, dù là trên cơ thể của con người hay con thú, đều là xấu và cản trở sự tiến hóa của người thực hiện việc ám ảnh vì chúng tạm thời củng cố sự bám víu vào vật chất của y và do đó làm trì hoãn tiến trình chuyển vào đời sống ở cõi trung giới tự nhiên của y, đồng thời còn gây ra đủ mối liên hệ nhân quả không tốt. Đời sống màu xám này, giống như hầu hết tất cả các nguyên nhân khó chịu khác liên hệ đến đời sống sau cửa tử, chỉ có thể xảy ra do sự thiếu hiểu biết về các hoàn cảnh thật sự của cuộc sống đó. Càng tìm hiểu nhiều hơn về sự sống và cái chết, chúng ta càng nhìn thấy rõ ràng hơn trách nhiệm của chúng ta là phải cố gắng trong nỗ lực thi hành việc truyền bá giáo lý Thông Thiên Học, vì rõ ràng nó đem lại sự sống, an vui, và tiến hoá cho mọi người.
NHỮNG CON THÚ
ĐÃ CÁ NHÂN HOÁ
Khi một con thú đã cá nhân hóa chết đi, nó sống hạnh phúc ở cõi trung giới khá lâu; trong thời gian đó, nó thường ở ngay khu vực căn nhà cũ của nó ở cõi trần và giữ liên hệ mật thiết với người bạn và người chủ yêu mến nhất của nó - nó có thể nhìn thấy và hưởng thụ được những giây phút bên cạnh họ, mặc dù nó vô hình đối với họ, nhưng tất nhiên ký ức của nó về quá khứ vẫn hoàn hảo như khi còn ở cõi trần. Sau đó, nó sẽ có một thời gian hạnh phúc hơn nữa, đôi khi được gọi là một tâm thức mộng mị mơ màng, sẽ kéo dài cho đến khi nó lấy được hình thể của loài người ở một thế giới tương lai nào đó. Trong suốt thời gian này, nó ở trong một trạng thái tương tự như một người đang ở cõi trời chân phúc, mặc dù ở một cảnh thấp hơn một chút. Nó tự tạo ra môi trường chung quanh riêng cho nó, mặc dù nó chỉ có thể ý thức được điều này một cách lờ mờ và đương nhiên sẽ bao gồm luôn sự hiện diện của người chủ của nó ở cõi trần, trong tâm trạng tốt nhất và đồng cảm nhất của y. Đối với mỗi linh hồn có liên quan đến cảnh đó, cho dù là họ chỉ vừa mới bước vào quá trình tiến hoá của loài người hoặc đang chuẩn bị vượt qua nó, cõi trời chân phúc là cõi mang lại hạnh phúc tuyệt vời nhất mà thực thể ở trình độ đó có thể đạt được.
KHU VỰC CỦA NHỮNG
TRẠNG THÁI CẢM XÚC
Những cảnh ở cõi trung giới có thể được coi như là những khu vực khác nhau, nhưng chỉ ở một mức độ giới hạn. Chất liệu cho mọi trạng thái cảm xúc khác nhau chắc chắn đang bao quanh chúng ta ở nơi đây trên bề mặt của trái đất, và một người còn sống, khi sử dụng thể vía của mình trong lúc thể xác đi ngủ, sẽ tiếp xúc với các chất liệu này cùng một lúc và có thể nhận được ấn tượng từ mọi loại chất liệu. Điều này có nghĩa là, nếu tôi sử dụng thể vía của mình trong khi ngủ để nhìn vào thể vía của một người khác đang còn sống, tôi sẽ thấy toàn bộ chất liệu của nó, bao gồm dĩ nhiên tất cả các chất liệu của từng cảnh của cõi trung giới. Tuy nhiên, trong trường hợp của một người bình thường đã chết, chất liệu thể vía của y sẽ bị sắp xếp lại do tiến trình của một thứ được gọi là loài tinh hoa chất cảm dục, và nói chung, chỉ có một loại chất liệu ở cõi trung giới có thể tiếp nhận được các ấn tượng từ cảm xúc nơi đó.
Cái mà chúng ta thường hay gọi là “nhìn thấy” ở cõi trung giới thật sự không phải là nhìn thấy, vì từ ngữ này ám chỉ việc sử dụng một cơ quan chuyên biệt hóa để tiếp nhận một vài rung động nhất định. Nhận thức ở cõi trung giới được sắp xếp theo một cơ chế hoàn toàn khác biệt. Người ta thường nói rằng con người có thể “nhìn thấy” bằng bất cứ nơi nào trên thể vía của họ - nghĩa là, mỗi phần tử (particle) của thể vía đều có khả năng tiếp nhận được ấn tượng cảm xúc từ bên ngoài đưa vào đến tâm thức bên trong - nhưng thật ra mỗi phần tử vốn không có khả năng tiếp nhận tất cả mọi ấn tượng.
Thí dụ, tôi nhận thức được cảm xúc thấp hèn nhất của cõi trung giới do chất liệu thuộc loại cảm xúc đó tồn tại trong thể vía của tôi, và tôi nhận được rung động của nó xuyên qua các phần tử thuộc về loại chất liệu thấp nhất đó đang hiện diện trên bề mặt của thể vía của tôi vào lúc đó. Trong suốt cuộc sống hồng trần, vì tất cả các phần tử của thể vía luôn di động xen kẽ giữa nhau giống như những hạt phần tử của nước sôi, nên đương nhiên các phần tử của mọi hạng chất liệu đều hiện diện trên bề mặt của thể vía, và đó là nguyên nhân tại sao tôi có thể nhìn thấy được toàn bộ các tầng lớp vật liệu khác nhau cùng một lúc. Người bình thường sau khi chết, vì một lý do rất thực tế, chỉ có một loại chất liệu cảm xúc nằm bên trên bề mặt của thể vía do sự sắp xếp của các lớp vỏ đồng tâm; do đó, sự “nhìn thấy” của y về thế giới cảm dục chung quanh y vốn thật sự không phải là hoàn hảo.
Nếu y bị nhốt vào trong lớp vỏ của chất liệu thuộc loại tệ nhất, khi y nhìn vào thể vía của một người khác đang sống, y chỉ có thể thấy được phần chất liệu thuộc loại tệ nhất; tuy nhiên, vì y không có cách nào nhận ra được giới hạn của mình nên chắc chắn y sẽ cho rằng mình đã nhìn thấy được toàn bộ thể vía của người khác, do đó người mà y nhìn thấy sẽ là một người không có một đức hạnh gì khác ngoài trừ những cá tính khó ưa đang biểu hiện qua chất liệu thuộc về cảnh giới đặc thù đó.
Thật ra, y đang sống giữa các ảnh hưởng cao cả và các hình tư tưởng tốt đẹp, nhưng hầu như y không ý thức được sự tồn tại của chúng bởi vì các phần tử thể vía của y có thể đáp ứng lại với những rung động đó đều bị đóng kín lại ở nơi mà chúng không thể chạm tới. Loại chất liệu trung giới thấp nhất tương sẽ ứng với loại chất liệu đậm đặc nhất của cõi trần, và đối phần trung giới của bất cứ vật thể đặc nào ở cõi trần đều được làm bằng chất liệu thuộc về cảnh thấp nhất của cõi trung giới - loại thứ bảy của chất liệu trung giới, nếu chúng ta đếm các cảnh từ trên đi xuống. Đối phần trung giới của sàn nhà, bức tường, và đồ đạc trong phòng đều thuộc về hạng thấp nhất của chất liệu trung giới, và do đó, người mới chết thường thấy các đối phần này một cách sống động và gần như vô ý thức đối với cả bể đại dương của các hình tư tưởng đang vây quanh y, bởi vì hầu hết những hình tư tưởng đó được cấu tạo từ sự kết hợp của các chất liệu trung giới thuộc loại mịn màng hơn.
Theo dòng thời gian, khi tâm thức từ từ rút vào bên trong thì lớp vỏ của chất liệu thô kệch nhất sẽ teo lại và bắt đầu tan rã, và chất liệu của loại tương đối tốt hơn sẽ được lộ ra trên bề mặt mà qua đó các ấn tượng cảm xúc có thể được tiếp nhận. Vì điều này từ từ diễn ra, nó có nghĩa là một người sẽ nhận thấy đối phần của các đồ đạc vật chất ngày càng mờ hơn, trong khi các hình tư tưởng ngày càng rõ ràng hơn, cho nên dù họ không cần thiết phải bay trong không gian, họ cũng khám phá ra được mình đang sống ở một thế giới hoàn toàn khác hẳn. Nếu trong lúc quá trình này đang xảy ra mà y gặp lại bạn ở thời điểm đó, y có thể cảm nhận được một điều mà đối với y là một sự cải thiện lớn trong tính tình của bạn - không nhất thiết là bạn đã thay đổi, mà chính là y đã có khả năng cảm nhận được những rung động cao hơn của tính tình đó và đã mất đi khả năng tiếp nhận những rung động thấp kém hơn. Tính tình của bạn vẫn có thể y như cũ, tuy nhiên, đối với người đã chết, từ việc chỉ nhìn thấy được những điểm xấu của bạn, y sẽ từ từ trải qua những giai đoạn cảm nhận khác nhau cho đến khi y tiến đến một giai đoạn mà chỉ có phần tốt nhất và cao thượng nhất của bạn được nhận thấy trong tâm thức của y.
Đây chính là ý nghĩa của việc di chuyển từ một cảnh này sang cảnh khác - một người sẽ đánh mất đi một phần của sự phức tạp kỳ diệu của thế giới cảm xúc và một phần khác của nó sẽ hiện ra trong cái nhìn của y. Rốt cuộc, nó cũng chỉ là sự lập lại ở một quy mô nhỏ hơn những gì đã xảy ra đối với mỗi người chúng ta khi chúng ta chuyển từ cõi này sang cõi khác. Toàn thể cõi cảm dục và cõi trí đều hiện diện xung quanh chúng ta hiện giờ và ở nơi đây, nhưng khi nào tâm thức của chúng ta còn tập trung vào bộ não vật lý thì chúng ta đều vô ý thức đối với chúng. Khi chết, tâm thức được chuyển sang thể vía, và lập tức chúng ta sẽ nhìn thấy được phần cảm xúc của thế giới chúng ta và đánh mất đi cái nhìn ở cõi trần. Lại nữa, sau khi chúng ta lần lượt mất đi thể vía và sống trong thể trí, chúng ta sẽ ý thức được (dù chỉ một phần) cõi trí của thế giới chúng ta và hoàn toàn mất đi cái nhìn ở cõi trung giới và cõi trần vào lúc này. Cũng như một người đang sống ở cõi trung giới có thể, bằng cách chống lại loài tinh hoa chất cảm dục, giữ cho các phần tử thể vía của y di chuyển liên tục như chúng đã là như vậy trong suốt đời sống ở cõi trần, một người sống ở cõi trần thực tế cũng có thể tự rèn luyện để đồng thời chỉ huy được tâm thức của thể xác, thể vía, và thể trí. Tuy nhiên, điều này hàm ý một sự tiến hóa khá cao.
Vậy để tóm tắt lại những điều đã được nhắc đến ở trên đây: “đi lên cao hơn” theo ý nghĩa của tâm linh chỉ là việc nâng cao tâm thức từ một giai đoạn cảm xúc này đến một giai đoạn cảm xúc khác ở cõi trung giới khi chất liệu của thể vía đã bị sắp xếp lại bởi loài tinh hoa chất cảm dục sau khi chết. Trong trường hợp như vậy, tâm thức chỉ có thể hoạt động thông qua chất liệu của lớp vỏ nằm ở ngoài cùng, và vì vậy, lúc đầu người chết sẽ bị giới hạn trong tầm nhìn hạn hẹp của cảnh thấp nhất và do đó chỉ có thể ý thức được cảnh cao hơn khi hầu hết lớp vỏ của chất liệu thô kệch bên ngoài đã bị hao mòn. Vì vậy, một người như thế trong phần đầu của đời sống sau cửa tử sẽ bị biệt lập khỏi những phần tốt đẹp và dễ chịu nhất của đời sống trung giới, và sau khi y thoát khỏi tình trạng đó, theo một nghĩa nào đó, y có thể được nói là đi “lên cao hơn.”
Một nhà Thông Thiên Học, một người biết rõ về các hoàn cảnh ở cõi trung giới, sẽ tuyệt đối từ chối không cho phép loài tinh hoa chất sắp đặt lại thể vía của mình ngay từ đầu; nếu điều đó xảy ra đối với y trong giây phút y bất tỉnh ngay sau cái chết, những người của chúng tôi sẽ giúp đỡ y lập tức phá vỡ sự sắp xếp của loài tinh hoa chất và khôi phục lại thể vía của y về trạng thái nguyên vẹn của nó như khi còn sống, với tất cả các loại chất liệu của nó hoà lẫn với nhau theo một cách tự nhiên để người chết có thể nhận thức được toàn bộ cõi trung giới thay vì chỉ một phần tâm cảnh của nó. Bằng cách này, đời sống trung giới của y sẽ là hoàn hảo ngay từ lúc đầu, và y có thể hoạt động hữu ích hơn nhiều so với khi tâm thức của y bị giới hạn vào một cảnh cố định nào đó.
Tuy nhiên, như tôi đã giải thích trong Đời Sống Nội Tâm Tập I trong chương về các bầu, thật ra có một sự thật đằng sau ý tưởng về một khu vực riêng biệt liên quan đến các cảnh. Ở đây trên bề mặt của trái đất, chúng ta đang sống trong chất liệu thuộc loại chất đặc, chất lỏng, chất hơi, và chất dĩ thái. Nhưng người ta cũng đúng khi nói một cách tổng quát rằng chất đặc tạo ra nền tảng cho chất lỏng bên trên nó, và chất hơi nằm ở bên trên hai loại chất liệu thấp hơn này. Có một số lượng nhỏ nhất định của chất đặc và một số lượng rất lớn của chất lỏng lơ lửng trong bầu không khí bên trên chúng ta, nhưng nói chung, đúng là khu vực của chất đặc được vạch ra từ bề mặt diện tích của trái đất, và bề mặt bên trên các đám mây vạch ra khu vực của chất lỏng, trong khi khu vực của chất hơi trải dài ra nhiều dặm bên trên đám mây đó, và khu vực của chất liệu dĩ thái còn dang rộng ra xa hơn đó rất nhiều. Vì vậy, mặc dù tất cả các loại chất liệu đều hiện hữu xung quanh chúng ta ở nơi đây, chúng ta vẫn có thể nói rằng, theo một nghĩa nào đó, mỗi loại chất liệu đều có một khu vực riêng của nó, và trong trường hợp của mỗi loại, khu vực của loại chất liệu mịn hơn sẽ dang rộng ra xa hơn một chút từ trung tâm của trái đất so với khu vực thấp hơn ở dưới của loại chất liệu đậm đặc hơn.
Tình trạng tương tự như thế cũng được áp dụng cho chất liệu của cõi trung giới. Tất cả các loại chất liệu của nó đều tồn tại ở đây gần với chúng ta, và phần lớn cư dân ở cõi trung giới dành gần hết cuộc sống của họ ở khá gần bề mặt của trái đất, nhưng khi họ rút vào bên trong và tâm thức của họ chạm vào những hạng chất liệu cao hơn, họ khám phá ra rằng họ có thể bay lên từ bề mặt đó một cách dễ dàng và tự nhiên hơn so với trước đây, và họ có thể đến những vùng có ít những dòng rung động xáo trộn khó chịu hơn. Có lần, sau một loạt các buổi cầu hồn, tôi được tiếp xúc với một người đàn ông đã chết báo với người bạn của tôi rằng, y thường thấy mình ở độ cao khoảng năm trăm dặm trên bề mặt của trái đất. Trong trường hợp này, người đặt ra câu hỏi là một người hiểu biết về Huyền bí học và do đó biết rõ cách đặt các câu hỏi và hiểu được những thí nghiệm của người bạn của y ở phía bên kia một cách rành rẽ và khoa học, nên lời tuyên bố của người bạn anh ấy có thể khá chính xác.
Những chất liệu mịn hơn của cõi trung giới gần như vươn dài đến tận quỹ đạo của mặt trăng, do đó nó có cái tên gọi mà người Hy Lạp đã gán cho nó: cõi mặt trăng (the astral plane). Thật vậy, vì ranh giới của cõi trung giới gần như trùng khớp với quỹ đạo của mặt trăng, nên lớp vỏ trung giới của mặt trăng và của trái đất thường tiếp cận nhau ở điểm cận địa (perigee),nhưng không phải ở điểm viễn địa (apogee). Vì vậy, tôi biết có một trường hợp của một người đã chết sau khi lên được mặt trăng nhưng không thể quay trở lại địa cầu được. Đó là vì dòng chảy liên tục của chất liệu trung giới đã làm cho y bị rớt lại ở trên mặt trăng - thuỷ triều không gian đã chảy vào giữa lúc đó, và y phải đợi cho đến khi sự liên hệ được tái lập bởi sự tiếp cận của vệ tinh (mặt trăng) và trái đất.
HOÀN CẢNH CỦA ĐỜI SỐNG
Ở CÕI TRỜI CHÂN PHÚC
Điểm khó khăn chính yếu trong việc hiểu rõ về các hoàn cảnh ở cõi trời chân phúc xuất phát từ thói quen lâu ngày của chúng ta là suy nghĩ về phàm ngã giống như là một con người thật. Nếu hai người bạn bị ràng buộc bởi mối quan hệ tình cảm, chúng ta phải nhớ rằng sự ràng buộc là giữa linh hồn chứ không phải hình thể - rằng họ là bạn với nhau bây giờ trên trái đất này bởi vì họ đã từng biết và thương yêu nhau trong hai hình thể khác nhau có lẽ từ cả mấy ngàn năm về trước. Sự kiện đó thu hút thể xác của họ đến với nhau trên cõi trần này, nhưng nó không giúp cho họ hiểu về nhau nhiều hơn ngoài khả năng cho phép của cơ thể vật lý của họ, và hơn nữa, mỗi người đều có ba lớp màn che dày đặc trong hình dạng của thể trí, thể vía, và thể xác để che giấu con người thật sự của mình đối với người kia.
Khi một trong hai người họ chết đi, y sẽ chuyển đến cõi trung giới, và nơi đó y sẽ giáp mặt với người bạn còn sống của y trong giấc ngủ của họ. Ngay cả lúc đó, y có thể nhìn thấy rõ ràng hơn một chút về người bạn của y so với trước kia, bởi vì đối với mỗi người khi ngủ, lớp màn che dày đặc nhất trong 3 lớp đã được rút khỏi họ. Người chết vẫn chỉ giao tiếp với phàm ngã của người bạn của y, và do đó, nếu có một sự đau buồn lớn nào đó xảy ra trong đời sống còn tỉnh của người bạn đó, nó nhất định sẽ được phản ảnh trong tình cảm của y và người chết có thể nhận thức được nó. Vì đời sống khi tỉnh và khi ngủ của chúng ta trên thực tế chỉ là một, nên trong giấc ngủ, chúng ta vẫn có thể nhận thức được điều này và có một ký ức liên tục về cả hai đời sống. Vì vậy, bạn sẽ thấy rằng thể vía của người bạn còn sống (mà người chết đang giao tiếp) là thể vía của phàm ngã, và do đó y sẽ hoàn toàn ý thức được chuyện gì đang xảy ra với phàm ngã đó.
Khi y đến cõi trời chân phúc thì tất cả điều này đều bị thay đổi. Người chết lúc ấy đang làm việc với thể trí của mình - vẫn là cái thể trí mà y đã từng dùng trong kiếp sống hồng trần vừa qua; nhưng ở đây, y sẽ không gặp được thể trí mà người bạn của y đang sử dụng ở cõi trần. Ngược lại, người chết bằng chính tư tưởng của mình sẽ tạo cho người bạn của mình một thể trí hoàn toàn khác biệt, và chính linh hồn của người bạn sẽ dùng nó để biểu lộ sự sống của họ từ chính cõi của linh hồn và từ nhân thể. Đây là một cơ hội bổ sung vào đời sống trí tuệ của người bạn, và nó hoàn toàn khác hẳn với đời sống trần tục của phàm ngã (của người bạn) về mọi mặt.
Một người không thể nào sử dụng hơn một thể xác, nhưng y có thể làm linh hoạt cùng một lúc bất cứ hình tư tưởng nào mà người khác tạo ra cho y ở cõi trí trong khoảng thời gian họ sống ở cõi trời chân phúc. Tôi nghĩ rằng việc hiểu lầm về sự kiện này đã khiến một vài người nghĩ rằng có nhiều thể xác (do linh hồn có nhiều thể trí để biểu lộ) có thể là hiện thân của một người.
Vì vậy, bạn sẽ thấy rằng bất kỳ nỗi buồn hoặc phiền não nào xảy ra cho phàm ngã của một người đang sống và có thể ảnh hưởng đến thể trí của y sẽ không ảnh hưởng một chút nào đến hình tư tưởng của thể trí mà linh hồn của y đang sử dụng như là một thể trí thứ hai. Nếu trong biểu hiện đó, y biết được tất cả những nỗi buồn hoặc lo âu này, y sẽ coi chúng từ quan niệm của nhân thể - nghĩa là, chúng không phải là một sự phiền muộn hoặc lo âu đối với y, mà chỉ là một bài học hay một sự tác động của một nghiệp quả nào đó. Y hoàn toàn không có một ảo tưởng gì từ tầm nhìn này, bởi vì y nhìn thấy vấn đề đó như nó thật sự là từ quan điểm của linh hồn ở ngay tại cõi của nó. Ảo tưởng là do từ quan niệm của phàm ngã, bởi vì chúng ta chỉ thấy sự phiền muộn hoặc khó khăn mà trên thực tế chỉ là những nấc thang trên con đường tiến hoá của chúng ta.
Hai người bạn có thể hiểu biết nhau nhiều hơn ở cõi này vì mỗi người chỉ còn có một tấm màn che duy nhất - đó là thể trí phủ lên chân ngã của y, nhưng dù sao nó vẫn là một bức màn che. Nếu người chết chỉ biết về một phương diện của người bạn của mình khi còn sống thì chỉ qua phương diện đó mà người bạn mới có thể biểu lộ ở cõi trời chân phúc. Họ có thể biểu hiện nhiều hơn về khía cạnh đó một cách đầy đủ và thoải mái hơn khi trước, nhưng phần lớn họ vẫn bị giới hạn chỉ được biểu lộ trong phương diện đó. Tuy nhiên, nó vẫn là một biểu hiện đầy đủ hơn so với cái mà người chết có thể thấy được ở những cõi thấp hơn. Y không phải quên đi thứ gọi là đau khổ vì y nhớ rất rõ kiếp sống vừa rồi của y, nhưng giờ đây, y đã hiểu được thêm nhiều thứ vốn không rõ ràng đối với y khi còn ở cõi trần, và niềm vui hiện tại dành cho y quá lớn đến nỗi sự phiền muộn dường như chỉ là một giấc mộng đối với y mà thôi.
Có người hỏi rằng bằng cách nào chúng ta khi còn ở cõi trần có thể tiếp chuyện được với những bạn của chúng ta ở cõi trời chân phúc; nếu ý bạn ám chỉ phàm ngã của chúng ta, nó không thể nói chuyện được với các người bạn của chúng ta ở cõi trời chân phúc. Linh hồn thật ra có thể làm được việc đó, như chúng tôi đã nói, nhưng chúng ta đều không biết gì về điều này khi còn sống trong các bức màn che phủ của phàm ngã.
Thí dụ, có một người mẹ là con chiên ngoan đạo đã chết đi, bà rất thương yêu đứa con gái của mình, và sau khi người mẹ đã đến cõi trời chân phúc, người con gái lại hết lòng hướng về Thông Thiên Học. Người mẹ vẫn tiếp tục tưởng rằng con gái của mình là một con chiên ngoan đạo (Công giáo) thuần tuý; không phải như vậy là bà ta đang sống trong một ảo tưởng hay sao? Đúng thế, bởi vì đây là một trong những giới hạn có thể xảy ra mà tôi đã nhắc đến trước đây. Nếu người mẹ có thể nhìn thấy được các tư tưởng của cô con gái như có thể được diễn đạt bằng lối thông thường, dĩ nhiên sẽ có những điểm trong những điều tiết lộ mới lạ đến với cô con gái mà người mẹ sẽ khó lòng nắm được. Nhưng đối với những gì mà linh hồn của cô con gái có thể học được từ phàm ngã của cô ta, cô sẽ có khuynh hướng từ từ khai mở và cải thiện quan niệm của người mẹ, nhưng lúc nào cũng theo đường lối mà người mẹ đã quen. Họ sẽ không có một sự bất đồng ý kiến nào và không có sự tránh né bàn luận về các chủ đề tôn giáo.
Bạn nên hiểu rằng tôi đang nói về trường hợp của một người bình thường; trong trường hợp của một người tiến hóa hơn, một người đã hoàn toàn thức tỉnh trong nhân thể, y sẽ đặt mình một cách có ý thức vào hình tư tưởng được cung cấp cho y bởi người bạn ở cõi trời chân phúc như đi vào thêm một thể trí khác và làm việc trong đó với một mục đích rõ rệt. Cho nên, nếu một người như vậy có biết thêm kiến thức, y có thể chuyển đạt nó một cách trực tiếp và cố ý đến với người bạn của mình. Theo đường lối này, các vị Chân Sư đang làm việc với các vị đệ tử của họ nếu họ chọn sống ở cõi trời chân phúc và cải thiện cá tính của họ một cách đáng kể.
Hoàn cảnh của một người ở cõi trời chân phúc lệ thuộc vào sức mạnh tinh thần của bản thân họ. Giữa hai người cùng một trình độ hay một loại với nhau, người có đời sống tinh thần cao hơn đương nhiên sẽ ở lại lâu hơn; tuy nhiên, phải lưu ý rằng sức mạnh đó có thể được sử dụng nhanh hơn hoặc chậm hơn tuỳ theo mục đích tiến hoá của mỗi người. Những người đã chọn làm việc tận tụy cho các Đấng Cao Cả và do đó cho nhân loại (thông qua Họ) sẽ có khả năng có những trải nghiệm khác đi đôi chút so với người bình thường. Rõ ràng là từ nhiều thiên niên kỷ trước, các Chân Sư của chúng ta đã thành lập một nhóm người phụng sự và trợ tá đặc biệt từ những người tình nguyện cống hiến đời mình cho những công việc như vậy, và Họ dùng tập thể này như là một đoàn quân tiên phong được gửi đi đến bất cứ nơi nào có nhu cầu cần thiết cho các công việc đặc biệt thuộc loại này.
Những người từng đọc về các kiếp sống của Alcyone8 được ấn hành trong Nhà Thông Thiên Học sẽ nhận ra rằng người hùng trong câu chuyện tuyệt vời đó là một thành viên của đoàn thể này - hay nói đúng hơn là một trong các đoàn thể như vậy; vì nguyên nhân này nên chúng ta thấy cùng một đoàn người như vậy sẽ liên tục xuất hiện cùng với nhau khắp mọi nơi hết lần này qua lần khác trong các kiếp đầu thai liên tiếp của họ. Rõ ràng trong một tập thể lên đến cả trăm người, họ phải có những lối rẽ khác nhau; sẽ có một số trong nhóm họ có khả năng tạo ra các lực lượng tinh thần mạnh hơn người khác, và nghiệp quả của họ đương nhiên cũng sẽ đưa họ vào các môi trường khác nhau, nhưng một sự thật tuyệt vời là lòng phụng sự tận tụy của họ sẽ lấn át hết mọi yếu tố khác và đưa họ đến với nhau để họ có thể được sử dụng như là một tập thể.
Bạn hãy tin rằng không có một sự bất công nào trong việc này và không có một người nào trong số họ, vì lý do này hoặc lý do kia, có thể trốn tránh được bất cứ một nghiệp quả nào thuộc về họ một cách hợp lý. Thật ra, những người hiến mình để phụng sự thường phải chịu đau khổ khá nhiều trong quá trình phụng sự - đôi khi là vì sự đòi hỏi họ cần phải thanh toán nhanh chóng các nghiệp quả từ quá khứ hầu họ có thể tự do làm các công việc cao cả mà không bị cản trở bởi chúng; hoặc trong các trường hợp khác, có thể vì công việc mà họ phải làm từ kiếp này đến kiếp khác khiến họ không thể nào trả được các nghiệp quả lý ra phải đến với họ, và như thế một số nghiệp quả đáng kể được tích trữ có thể sẽ rớt trên người họ cùng một lúc trong một cơn đại nạn thảm khốc.
Những ví dụ của hai phương pháp trả quả này có thể được tìm thấy trong các kiếp sống của Alcyone.
Trong trường hợp của hầu hết nhân loại, không có một sự can thiệp nào đến từ bên ngoài, và đời sống ở cõi trời chân phúc sẽ diễn ra tự nhiên theo bất kỳ tốc độ nào được cho là bình thường đối với họ. Dĩ nhiên, diễn tiến của khoảng thời gian này có khác nhau dựa trên sự khác nhau giữa cường độ ánh sáng của thể trí - nó toả ra sáng hơn hay mờ hơn. Người tiến hoá hơn, nhất là nếu y ôm hoài bão phụng sự trước mắt, thường tạo ra nhân quả ngay trong đời sống ở cõi trời chân phúc và do đó, y có thể điều chỉnh thời gian của nó ngay trong lúc nó đang diễn ra.
Đúng là Bà Blavatsky có tuyên bố trong Bí Quyết của Thông Thiên Học (Key to Theosophy) là một người theo chủ nghĩa duy vật không thể nào có được một đời sống ở cõi trời chân phúc, vì khi ở cõi trần, y không hề tin vào bất cứ một điều gì như thế; nhưng có thể là bà đã dùng danh từ duy vật theo một ý nghĩa khắt khe hơn nó thường được dùng, vì trong cùng bộ sách đó, bà cũng khẳng định rằng họ không thể có một đời sống ý thức sau khi chết, trong khi những người làm việc ở cõi trung giới vào buổi tối đều biết rằng, có nhiều người mà chúng ta thường gọi là những người theo chủ nghĩa duy vật thường có mặt ở đó, và chắc chắn là họ không bất tỉnh.
Chẳng hạn, một nhà theo chủ nghĩa duy vật nổi tiếng quen thân với một trong các hội viên của chúng tôi không lâu trước đây đã được bạn y nhìn thấy y ở cảnh cao nhất của cõi trung giới, nơi mà y ôm một đống sách và tiếp tục nghiên cứu như y vẫn thường hay làm ở cõi trần. Khi bị chất vấn bởi người bạn, y thành thật công nhận rằng những lý thuyết mà y tin chắc bấy lâu ở cõi trần đã bị phản bác bởi các sự thật không thể chối cãi được, nhưng xu hướng chủ nghĩa duy vật của y vẫn còn đủ mạnh để làm cho y không thể chấp nhận được những gì người bạn của y nói về sự hiện hữu của một trạng thái tinh thần cao hơn ở cõi trời chân phúc. Tuy nhiên, chắc chắn rằng có nhiều điểm trong nhân cách của người đàn ông này có đủ để đem lại một kết quả hiện hữu ở cõi trời chân phúc, vì sự hoài nghi của y đối với đời sống sau khi chết vẫn không cản trở được sự trải nghiệm của y ở cõi trung giới, nên không có lý do gì để chúng ta cho rằng nó có thể cản trở được sự biểu lộ của các sức mạnh cao hơn ở trong y ở cõi trí.
Chúng tôi liên tục khám phá ra rằng ở dưới đây tạo hóa không hề tha thứ cho sự vô minh của chúng ta về các định luật thiên nhiên; nếu một người nghĩ rằng lửa không thể đốt cháy, y đưa tay của mình vào ngọn lửa và sẽ nhanh chóng bị thuyết phục là y đã sai. Theo cách tương tự, một người không tin ở luân hồi không thể ảnh hưởng đến sự thật của tạo hoá, và ít nhất trong vài trường hợp, y sẽ đơn giản khám phá rằng y đã sai sau khi chết. Loại chủ nghĩa duy vật mà Bà Blavatsky đề cập đến có lẽ là một thứ gì đó thô thiển và thậm tệ hơn thuyết vô thần bình thường - một thứ gì đó khiến người khư khư ôm chặt nó khó có thể sở hữu bất cứ một phẩm tính nào đòi hỏi một đời sống ở cõi trời chân phúc để giải quyết nó; tuy nhiên, chúng tôi chưa từng quan sát được một trường hợp nào như vậy.
NHÂN QUẢ TRONG ĐỜI SỐNG
Ở CÕI TRỜI CHÂN PHÚC
Trong những ngày đầu học Thông Thiên Học, chúng tôi được hướng dẫn để coi mọi cõi trừ cõi trần là sân khấu của hậu quả chứ không phải của nguyên nhân. Người ta cho rằng con người sẽ dành phần lớn kiếp sống của y ở cõi trần để tạo nghiệp, rồi phần còn lại của đời sống của y ở cõi trung giới và cõi trí để giải quyết nó, và một ý kiến đề nghị rằng con người còn có cách khác để tạo thêm nghiệp, thậm chí ở cõi trung giới, được coi gần như là dị thuyết.
Sau nhiều năm trôi qua và sau khi một số người trong chúng tôi có thể tận mắt quan sát các hoàn cảnh ở cõi trung giới, chúng tôi thấy rõ rằng ý tưởng này là sai lầm, vì rõ ràng chúng tôi có thể hoạt động ở cõi đó để thực hiện các công việc khác nhau và tạo ra những kết quả có tầm ảnh hưởng lớn lao. Chúng tôi cũng sớm nhận thấy rằng, không phải chỉ người còn giữ liên hệ với thể xác mới có thể tạo ra những thành tích này, mà bất cứ người nào đã vứt bỏ thể xác cũng có khả năng đó. Chúng tôi thấy rằng người tiến hoá nào cũng đều hoạt động tích cực về mọi mặt trong khi sống, cho dù đó là ở cõi trung giới sau khi chết hay ở cõi trần trước đó, và họ chắc chắn có thể giúp đỡ hoặc cản trở không chỉ sự tiến hóa của họ mà còn của người khác sau khi chết cũng như trước đó, và vì vậy, họ luôn tạo ra nghiệp quả có tầm ảnh hưởng rất lớn.
Cái nhìn thay đổi này về các hoàn cảnh sau khi chết dần dần cũng được đưa vào văn chương của chúng ta, và hiện giờ nó có thể được coi là đã được chấp nhận bởi toàn thể các nhà Thông Thiên Học. Nhưng nhiều năm sau khi chúng tôi đã thay đổi những quan niệm sai lầm của mình về quan điểm quan trọng này, chúng tôi vẫn còn giữ ý nghĩ rằng, ít nhất tại cõi trời chân phúc, con người không thể làm gì khác hơn ngoài việc tận hưởng những gì y đã tạo ra cho chính mình trong các giai đoạn của kiếp sống vừa qua của y. Nói chung, điều này là đúng đối với một người bình thường, mặc dù chúng ta không phải lúc nào cũng nhận ra rằng ngay cả trong quá trình tận hưởng đó, cư dân ở cõi trời chân phúc vẫn đang ảnh hưởng đến nhau và do đó vẫn tạo ra nghiệp quả.
Một người đã thành công nâng cao tâm thức của mình lên đến cấp độ của nhân thể đã thống nhất hai ngã thức cao hơn và thấp hơn (để dùng danh từ cũ), và đối với y, những tuyên bố được đưa ra đối với một người bình thường dĩ nhiên sẽ không được áp dụng. Một người như vậy ý thức được linh hồn của mình trong suốt cuộc sống hồng trần của y, và nó hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi cái chết của thể xác hoặc thậm chí bởi cái chết thứ nhì hoặc thứ ba khi thể vía và thể trí sẽ bị loại bỏ theo thứ tự. Đối với y, cả một chuỗi biến thể đó chỉ là một đời sống rất dài, và điều mà chúng ta gọi là biến thể đối với y chỉ là một ngày trong cuộc sống đó. Trong suốt quá trình phát triển, tâm thức của y hoàn toàn tỉnh thức, và đương nhiên nó có nghĩa là y đang tạo nghiệp ở giai đoạn này cũng như ở các giai đoạn khác, và trong khi tình huống của y ở bất cứ giây phút nào cũng là kết quả của những nguyên nhân mà y đã gieo ra trong quá khứ, không có một khoảnh khắc nào mà y không đang sửa đổi hoàn cảnh của mình bằng cách rèn luyện tư tưởng và ý chí cho thật vững.
Hiện nay, những người đạt được trình độ này rất là hiếm, nhưng có những người khác sở hữu khả năng này ở trình độ kém hơn. Mỗi người, sau khi đã trải qua đời sống ở cõi trung giới và cõi hạ trí, sẽ có một phút hồi quang phản chiếu của linh hồn, và lúc đó y sẽ nhìn thấy được toàn bộ cuộc sống vừa qua của mình và rút tỉa được một ấn tượng về sự thành công hoặc thất bại của mình trong kế hoạch mà linh hồn đã quyết định thực hiện; đồng thời, y cũng có một dự báo về kiếp sống tương lai của mình với một ý thức bao quát về bài học mà nó sẽ dạy cho y hoặc về một tiến bộ nhất định nào mà linh hồn muốn đạt được trong kiếp đó. Linh hồn chỉ có thể bắt đầu ý thức được giá trị của những cái nhìn thoáng qua này một cách rất chậm chạp, nhưng khi y hiểu được chúng thì y tự nhiên sẽ bắt đầu sử dụng chúng.
Cứ như vậy, bằng những bước tiến bộ nhỏ bé đến nỗi khó có thể nhận ra được, y sẽ đạt đến một giai đoạn tiến hoá mà cái nhìn thoáng qua này sẽ không còn là tạm thời nữa - khi đó y có thể cân nhắc việc này một cách trọn vẹn hơn và đầu tư thời gian vào các kế hoạch cho đời sống đang trải dài ra trước mắt. Tâm thức của y sẽ từ từ gia tăng và y sẽ có một đời sống giá trị hơn ở các cảnh cao hơn của cõi trí mỗi lần y chạm đến chúng. Khi y đạt được đến giai đoạn này, y sẽ nhanh chóng khám phá ra rằng y là một trong vô số các linh hồn khác, và y có thể làm một điều gì đó với cuộc sống của mình khi ở chung với họ, ngoài việc vạch ra kế hoạch tương lai cho chính mình. Y có thể và thật sự sống một cuộc đời tỉnh thức với những người ngang vai vế với y, và trong quá trình đó, y sẽ ảnh hưởng đến họ bằng nhiều cách và cũng bị họ ảnh hưởng lại đến lượt y. Do đó, đây là một khả năng tạo nghiệp lực - và tạo ra nó ở một quy mô ngoài tầm với của y ở các cõi thấp hơn, vì mọi tư tưởng ở các cảnh cao hơn của cõi trí có một sức mạnh thực tế vượt rất xa sức mạnh của tư tưởng hạn hẹp của chúng ta ở cõi trần.
Cái mà tôi đang nói ở đây hoàn toàn khác với một tâm thức đã đạt được sự hợp nhất giữa hai ngã thức cao hơn và thấp hơn. Khi kỳ tích đó được sở đắc, tâm thức của con người luôn cư ngụ trong chân ngã, và từ chân ngã, nó có thể hoạt động qua bất cứ dẫn thể nào mà người ấy đang sử dụng trong lúc đó. Tuy nhiên, trong trường hợp của một người chưa đạt đến sự hợp nhất này, tâm thức của linh hồn chỉ có thể hoạt động ở cõi của nó khi y không còn bị cản trở bởi bất cứ dẫn thể nào thấp hơn, và nó chỉ tồn tại cho đến khi y tự đưa mình xuống một lần nữa để tái sinh, vì ngay sau khi y nhận lấy một dẫn thể thấp hơn thì tâm thức của y trong thời gian đó chỉ có thể biểu hiện qua đúng dẫn thể đó.
Ngoài tâm thức hoàn hảo của linh hồn, có các giai đoạn phát triển khác nhau cần nên được lưu ý. Một người bình thường ở ngoài đường thường không có một tâm thức rõ ràng và đáng tin tưởng ở các cõi khác ngoại trừ cõi hồng trần. Thể vía của y có thể đã phát triển đầy đủ và thật sự có thể được dùng như một dẫn thể độc lập theo mọi cách và bất cứ cách nào; tuy nhiên, có lẽ y không quen sử dụng nó và vì vậy, những trải nghiệm của y ở cõi trung giới thường mang một tính chất mơ hồ và không rõ ràng. Đôi khi, y có thể nhớ lại rất rõ về một trong các số trải nghiệm đó, nhưng nói chung, thời gian đi ngủ của thể xác là một khoảng trống đối với y.
Giai đoạn tiếp theo giai đoạn này là sự phát triển từ từ của thói quen sử dụng thể vía, theo thời gian sẽ được kết liền với một số hồi ức về những gì y đã làm trong khi y hoạt động trong nó. Phần kết của giai đoạn này là sự khai mở tâm thức của thể vía, mặc dù điều này thường chỉ xảy do kết quả của các nỗ lực cụ thể của việc hành thiền. Khi đạt được sự khai mở này, tâm thức con người sẽ là liên tục suốt ngày và đêm cho đến cuối cuộc sống ở cõi trung giới, và nhờ vậy, y tránh được sự gián đoạn tạm thời của tâm thức sau khi bỏ lại thể xác.
Giai đoạn tiếp theo sau - thường là một giai đoạn khá lâu - là sự phát triển tâm thức của thể trí, và khi điều này được thực hiện, mỗi phàm ngã sẽ có ý thức liên tục từ khi chào đời cho đến cuối đời sống của nó ở cõi trời chân phúc. Nhưng ngay cả lúc đó, nó chỉ là tâm thức của phàm ngã chứ không phải là của chân ngã, vì còn một bước nữa cần phải được thực hiện trước khi sự hợp nhất có thể xảy ra.
Rõ ràng những người đã đạt được đến bất cứ giai đoạn tiến hoá nào của tâm thức trên đây đều đang tạo nghiệp cùng với sự mở rộng tâm thức của họ; tuy nhiên, chuyện gì đang xảy với một người bình thường, một người chưa thành công ngay cả đến việc kết nối tâm thức giữa cõi trung giới với cõi trần? Ngay cả trong lúc y đang làm bất cứ việc gì ở cõi trung giới khi đi ngủ, y nhất định đang tạo nghiệp. Thậm chí, nếu y có một tình thương hoặc một tình yêu mù quáng với vài người đặc biệt nào đó và đến với họ trong giấc ngủ với những ý niệm thân thiện mơ hồ, y chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến họ ở một mức độ nào đó, và ảnh hưởng này sẽ là một điều tốt. Do đó, y cũng không thể tránh khỏi sự phản hồi ngược lại trên bản thân mình, đó cũng là một điều tốt. Việc này cũng xảy ra nếu cảm xúc đó không may là một ác cảm hay một sự căm thù, và kết quả đối với y trong trường hợp đó không khác gì hơn là một sự đau khổ.
Sau khi chết, khi y chỉ sống hoàn toàn trong thế giới cảm dục, tâm thức của y thường rõ hơn so với trước kia trong lúc đi ngủ, nên y tương đối có thể suy nghĩ và làm việc với mục đích rõ ràng hơn đối với người khác và do đó có nhiều cơ hội hơn để tạo ra thiện nghiệp hoặc ác nghiệp. Tuy nhiên, khi một người như vậy kết thúc đời sống ở cõi cảm dục và chuyển qua cõi trời chân phúc, y đi đến một trạng thái mà hành động không còn là một khả năng nữa đối với y. Khi còn sống, y đã khuyến khích thể trí hoạt động theo vài đường lối nhất định, nên hiện giờ khi y sống hoàn toàn trong thể trí, y sẽ thấy như mình bị nhốt lại ở trong một tòa tháp cao cách ly với thế giới xung quanh và chỉ có thể nhìn từ đó ra ngoài qua những ô cửa sổ đã được mở ra nhờ những hoạt động trí thức trước đây của y.
Qua các cửa sổ đó, các lực mạnh mẽ của cõi đó tác động lên y; y đáp lại chúng và hưởng thụ một đời sống thật vui tươi nhưng vẫn bị hạn chế theo các lối đó. Tuy nhiên, mặc dù y không thể hưởng thụ trọn vẹn các khả năng của thế giới cõi trí, nhưng chúng ta cũng không nên cho rằng y ý thức được một chút gì về sự hạn chế của các hoạt động hoặc cảm xúc của y. Trái lại, y có đầy niềm hạnh phúc đến mức tối đa mà y có thể tiếp nhận được, và y không thể nào tưởng tượng được còn có một niềm vui nào lớn hơn hạnh phúc mà y đang trải nghiệm. Đúng, y đã tự giam mình trong các giới hạn nhất định, nhưng y lại hoàn toàn vô ý thức đối với chúng; y có tất cả những gì y mong mỏi hoặc suy nghĩ trong các giới hạn này. Y tự bảo bọc mình với hình ảnh của tất cả người bạn của y để thông qua các hình ảnh đó, y thực sự có được mối liên hệ mật thiết với họ hơn bao giờ hết so với bất cứ ở cõi nào khác.
Như vậy, chúng ta hãy xem khả năng tạo nghiệp của y trong đời sống có giới hạn kỳ lạ này là gì - giới hạn, chúng ta phải nhớ, chỉ từ quan điểm của cõi trí, vì theo cách đặc biệt của nó, khả năng của nó thật sự là mạnh mẽ hơn cõi trần rất nhiều. Một người dưới các điều kiện này không thể nào bắt đầu một đường lối mới về tình thương hoặc lý tưởng phụng sự, tuy tình thương hoặc lòng phụng sự theo các đường lối cũ mà y đã quyết định chắc chắn sẽ mạnh mẽ hơn nhiều so với những gì chúng có thể là khi y phải làm việc dưới các giới hạn nặng nề của thể xác.
Một người bình thường như chúng tôi đã mô tả, hoàn toàn vô ý thức đối với hạn chế của bản thân mình và vô tình đang tạo ra ba nghiệp quả riêng biệt trong suốt đời sống của y ở cõi trời chân phúc. Chúng ta hãy lấy ví dụ về cảm xúc của tình thương. Y thương yêu một số bạn bè, và có thể rằng ngay sau khi y chết, số bạn hữu đó vẫn còn thương nhớ đến y với lòng trìu mến, và vì vậy hồi tưởng của y sẽ tạo ra ảnh hưởng ngay trên phàm ngã của các người bạn. Tuy nhiên, hoàn toàn không liên quan đến điều này là ảnh hưởng mà tôi đã đề cập ở trên – là y tạo ra một hình tư tưởng cho mỗi người bạn, và bằng cách này thu hút một phản ứng mạnh mẽ từ linh hồn của người bạn đó. Tình thương mà y tuôn tràn vào linh hồn đó (biểu lộ qua hình tư tưởng mà y tạo ra cho họ) là một thiện lực to tát, nó đóng một vai trò không nhỏ trong sự tiến hoá của linh hồn đó. Nó gợi lên trong họ một lực tình thương mà nếu không, có lẽ sẽ không bao giờ được kích thích trong người đó, và sự tăng trưởng đều đặn của phẩm chất tuyệt vời đó qua đời sống thiên đàng khoảng mấy trăm năm sẽ nâng người bạn đó lên một bước đáng kể trên nấc thang tiến hoá. Để làm được điều này cho một linh hồn khác chắc chắn là một hành động tạo ra nghiệp lực, mặc dù người huy động bộ máy này đã làm việc một cách vô ý thức.
Đôi khi, tác động của một lực như vậy trên linh hồn của người bạn còn sống có thể biểu lộ bản chất của nó ngay cả trên phàm ngã của người bạn đó ở cõi trần. Tác động như vậy trên linh hồn được hình thành qua một hình tư tưởng đặc biệt, nhưng vì phàm ngã của người bạn vẫn còn đang sống trên thế giới này là biểu hiện của linh hồn đó, nên nếu linh hồn đó được cải thiện một cách đáng kể thì ít nhất sự sửa đổi đó có thể biểu lộ trong vật chất ở cõi thấp hơn ở dưới đây. Người ta có thể hỏi tại sao một tư tưởng của một người ở cõi trời chân phúc không thể tác động lên bạn mình giống như hình tư tưởng của một người còn đang sống - tại sao những rung động gởi đi từ thể trí của y không thể tác động thẳng lên thể trí của người bạn, và tại sao nó không thể tạo ra một hình tư tưởng đi xuyên qua không gian và bám vào người bạn của mình theo cách bình thường. Nếu y đang di chuyển tự do và có ý thức ở cõi trí thì điều này sẽ xảy ra đúng như vậy, nhưng lý do mà nó không làm được như vậy là vì hoàn cảnh đặc biệt của người ở cõi trời chân phúc.
Một người ở cõi trời chân phúc thường hoàn toàn khép kín bản thân mình với phần còn lại của thế giới - ở cõi trí cũng như ở những cõi thấp hơn, và như vậy y đang sống trong một lớp vỏ tư tưởng của chính mình. Nếu tư tưởng của y có thể đến với chúng ta theo cách thông thường thì tư tưởng của chúng ta cũng đến với y theo cách tương tự, nhưng chúng ta biết rằng nó không phải là như vậy. Hình tư tưởng mà y tạo ra về bạn mình nằm trong cái vỏ đó, do đó y có thể tác động lên nó; và vì linh hồn người bạn đã tuôn xuống sự sống cho hình tư tưởng đó nên sức mạnh đến với linh hồn người bạn cũng phải qua cách đó, và như chúng tôi đã nói, từ linh hồn người bạn, nó có thể tự biểu lộ ở một mức nào đó ngay cả lên phàm ngã của người bạn ở cõi dưới đây. Lớp vỏ của chất liệu cõi trí cũng giống như vỏ trứng ở cõi trần. Cách duy nhất để đưa bất kỳ thứ gì vào bên trong vỏ trứng đó mà không làm vỡ nó là đổ vào nó từ chiều đo thứ tư, hay tìm ra một lực mà rung động của nó phải đủ thanh nhẹ để thấm qua giữa các phần tử của cái vỏ mà không ảnh hưởng đến chúng. Điều này cũng được áp dụng vào lớp vỏ tư tưởng, nó không thể bị thâm nhập bởi bất kỳ rung động của chất liệu nào cùng cấp độ với nó, nhưng những rung động thanh nhẹ hơn thuộc về linh hồn có thể đi xuyên qua nó mà ít nhất không làm hại đến nó, để nó có thể được tác động từ bên trên đi xuống một cách tự do nhưng không thể nào từ bên dưới đi lên.
Hình tư tưởng được tạo ra bởi người chết có thể được coi như là một thể trí nhân tạo thứ hai, được tạo ra với tình thương tuôn vào trong đó và đưa đến người bạn. Phàm ngã của người bạn ở dưới đây không biết gì về điều này, nhưng linh hồn của người bạn đó hoàn toàn ý thức được điều này và y lao mình vào trong đó một cách sẵn sàng và thích thú, nhận biết rằng đây tình cờ là một cơ hội cho y biểu hiện thêm và do đó phát triển. Từ điều này, nó có nghĩa là một người biết làm cho mình trở nên dễ mến - một người thực sự có nhiều bạn bè - sẽ tiến hoá nhanh hơn nhiều so với một người bình thường, và một lần nữa, điều này rõ ràng là nhân quả của sự phát triển các phẩm chất bên trong một người để làm cho y thật đáng mến.
Và đó là kết quả trực tiếp của hành động của y trên những cá nhân khác; tuy nhiên, còn có hai khía cạnh khác của tác động này không nên được bỏ qua. Khi một người tuôn xuống một cơn lũ tình thương như vậy và kêu gọi những cơn lũ khác từ sự hưởng ứng của bạn bè, rõ ràng là y đang cải thiện môi trường thể trí chung quanh mình. Đó là một điều tốt cho thế giới và nhân loại đang cùng nhau phát triển trong một bầu không khí trong lành như vậy, vì các tư tưởng tốt lành sẽ ảnh hưởng lên tất cả các cư dân ở đó - thiên thần, con người, động vật, cây cối - và việc này lúc nào cũng là một điều tốt trên mỗi một hình thể khác nhau của sự sống mà chúng đang ảnh hưởng.
Kết quả thứ nhì và quan trọng hơn (trong số các kết quả được tạo ra cho thế giới) sẽ dễ hiểu hơn đối với những người đã từng nghiên cứu cuốn sách Hình Tư tưởng, vì trong đó tác giả có cố giải thích về cơn thác lũ tuôn tràn từ Thượng Đế để hồi đáp lại một tư tưởng sùng kính vị tha. Người ta thường giải thích rằng một sự đáp ứng như vậy không phải chỉ đến với cá nhân người khởi xướng ra tư tưởng đó, mà nó còn giúp lấp đầy kho chứa năng lượng tinh thần được trông coi bởi Vị Ứng Thân cho các Chân Sư và các vị đệ tử của họ để sử dụng trong công việc giúp đỡ nhân loại. Điều gì xảy ra với lòng phụng sự cũng xảy ra với tình thương vị tha, và nếu một sự bộc phát của tình thương hoặc lòng phụng sự trong đời sống tương đối hạn hẹp ở cõi trần có thể tạo ra một kết quả tuyệt vời như vậy, người ta sẽ dễ dàng thấy rằng một sự bộc phát mạnh mẽ hơn ở cõi trí, được duy trì trong khoảng thời gian có lẽ một nghìn năm, sẽ thật sự đóng góp đáng kể vào kho chứa năng lượng đó, và điều này sẽ mang lại cho thế giới một lợi ích không thể ước lượng được theo bất kỳ cách nào mà chúng ta có thể tính toán được ở cõi trần.
Do đó, rõ ràng trong khi khả năng tạo phước của một người sẽ gia tăng khi tâm thức của y phát triển ở các cõi cao hơn, một người rất bình thường chưa có một phát triển đặc biệt gì về tâm thức thậm chí cũng có khả năng làm được nhiều điều tốt trong thời gian y lưu lại ở các cõi cao hơn. Trong thời gian dài ở cõi trời chân phúc, y thật sự có thể giúp đỡ đồng loại của mình và tạo ra nhiều nhân quả tốt đẹp cho bản thân. Tuy nhiên, để làm được như vậy, y phải là một người không có tình yêu ích kỷ và biết phụng sự vô điều kiện. Chính phẩm chất vị tha - biết quên mình - đã đặt quyền năng vào trong tay của y, và do đó nó là một đức hạnh mà mỗi người cần phải trau dồi ngay bây giờ trong một tâm thức đầy đủ để sau khi chết, họ có thể phát triển tối đa lợi điểm của nó trong các khoảng thời gian dài lâu hơn này với các điều kiện mà hiện giờ họ không thể nào thực hiện được.
CHƯƠNG II
CÔNG VIỆC Ở CÕI TRUNG GIỚI
NHỮNG NGƯỜI CỨU TRỢ VÔ HÌNH
Nhiều người viết thư cho chúng tôi, nộp đơn xin được gia nhập vào đoàn người cứu trợ vô hình và hỏi rằng họ phải chuẩn bị như thế nào. Những người muốn đảm nhận công việc này nên đọc kỹ cuốn sách được viết ra dưới tựa đề này và nên đặc biệt cố gắng phát triển những phẩm hạnh cần thiết đã được mô tả trong đó. Tôi không có gì để bổ sung thêm vào những điều gì tôi đã viết trong đó, ngoài việc nhắc nhở bất cứ ai muốn làm việc này ở cõi trung giới trước tiên hãy nên tìm hiểu thêm về các hoàn cảnh của đời sống ở nơi đó càng nhiều càng tốt.
Khi bước vào cõi trung giới, chúng ta vẫn là con người giống y như ở dưới đây nhưng với các giới hạn cụ thể đã được tháo bỏ. Sở thích và hoạt động của chúng ta ở cõi đó vẫn giống y như ở cõi trần: một sinh viên vẫn siêng học, một kẻ lười biếng vẫn biếng nhác,
một người chuyên giúp đỡ ở cõi trần vẫn thường hay giúp đỡ ở cõi trung giới. Một vài người vẫn tiếp tục gièm pha ác ôn như thuở nào, và như vậy họ vẫn tiếp tục tạo ra khẩu nghiệp. Nhiều người chết vẫn ám ảnh các chỗ quen thuộc của họ ở cõi trần rất lâu. Nhiều người hay bay lơ lửng chung quanh căn nhà tổ tiên của họ và hàng ngày vẫn tiếp tục đi thăm đối phần trung giới của ngôi chùa cũ mà họ thường ủng hộ. Những người khác trôi dạt đây đó để thực hiện những cuộc hành hương mà không phải bị gặp khó khăn hay tốn kém, thăm viếng tất cả các đền thờ lớn mà họ ao ước muốn đến thăm nhưng không thể thực hiện được trong suốt đời sống của họ ở cõi trần.
Đời sống ở cõi trung giới hoàn toàn không bị gián đoạn bởi ngày và đêm. Theo nhiều quan điểm, đời sống ở đó thật hơn so với ở cõi trần, hay ít nhất nó gần hơn với sự thật nhiều hơn, và đời sống ở cõi trần chỉ là một chuỗi gián đoạn của tâm thức mà ở đó hoạt động của chúng ta bị nhiều giới hạn khi tâm thức của chúng ta chỉ hoạt động có một phần. Ở dưới đây, ban đêm dường như là một khoảng trống không đối với hầu hết mọi người chúng ta, và đến buổi sáng chúng ta không còn nhớ gì về những việc chúng ta đã làm. Tuy nhiên, chúng ta không nên cho rằng vì vậy chúng ta cũng u mê như thế ở cõi trung giới. Tâm thức ở đó được mở rộng ra hơn và bao gồm luôn cả tâm thức hồng trần, nên mỗi tối, chúng ta không chỉ nhớ rất rõ về những gì chúng ta đã làm trong các đêm trước đó mà còn những gì chúng ta đã làm trong ban ngày. Chỉ có bộ óc xác thịt là đần độn và bị bế tắc, nên khi chúng ta quay lại nó, đó là chính khi chúng ta mất đi tất cả các ký ức (ở trung giới), ngoại trừ những gì mà nó trực tiếp có dự phần. Đời sống ở cõi trung giới sống động hơn nhiều và cảm xúc của nó mạnh hơn bất kỳ những gì chúng ta biết được ở dưới đây. Cái mà chúng ta thường gọi là cảm xúc chỉ là một mảnh tương đối nhỏ của phần còn lại sau khi phần lớn đã bị tổn thất vào việc di chuyển các chất liệu phân tử hồng trần nặng nề, nên nó thật không khó hiểu là đời sống bên kia phải mãnh liệt và thật đến cỡ nào.
Tuy nhiên, mặc dù điều này là đúng và cũng đúng cho tất cả mọi người, những người bình thường ít khi làm được một việc gì hữu ích ở cõi trung giới. Họ không biết là trên thực tế họ có thể làm việc, và ngay cả nếu họ có biết, có lẽ họ cũng không thấy có lý do gì đặc biệt để cho họ phải làm việc. Một người có thể hưởng thụ một khoảng thời gian rất thú vị ở cõi trung giới, họ chỉ cần bay lượn đây đó và trải nghiệm những cảm xúc vui vẻ khác nhau. Đây có lẽ là điều duy nhất mà hầu hết mọi người đều làm, và họ cần phải có một động cơ mạnh mẽ để tự phản tỉnh và cố gắng cống hiến thì giờ vào việc giúp đỡ những kẻ khác. Chúng tôi phải công nhận rằng đối với một người bình thường, động cơ này không hiện hữu, nhưng khi chúng ta bắt đầu nghiên cứu Thông Thiên Học và qua đó học được cơ tiến hoá và mục đích của vạn vật, chúng ta sẽ nảy sinh một lòng ao ước thiết tha muốn góp một bàn tay vào nỗ lực để đẩy mạnh cơ tiến hoá, hoàn thành mục đích đó và dẫn dắt đồng loại của chúng ta vào con đường hiểu biết về nó, hầu nhờ đó mà những phiền não của họ sẽ được giải toả và sự tiến bộ của họ sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Bây giờ, khi một người đã thức tỉnh với trách nhiệm của mình, y phải làm thế nào để thực hiện được nó? Mọi người chúng ta đều có khả năng làm việc này ở mức độ lớn hay nhỏ, mặc dù có lẽ chúng ta chưa quen làm việc đó. Tất cả những người văn minh và phát triển bình thường đều có một thể vía tốt để làm việc, giống như những người khoẻ mạnh đều có sẵn những cơ bắp và sức mạnh cần thiết để bơi lội; tuy nhiên, nếu họ chưa học được cách sử dụng chúng thì họ sẽ cần một vài chỉ dẫn cụ thể trước khi họ có thể xuống nước bơi lội được tốt hoặc thậm chí an toàn. Điều khó khăn đối với một người bình thường không phải là thể vía của họ không thể hoạt động, mà là trải qua hàng nghìn năm, dẫn thể đó chỉ có thói quen hoạt động khi nhận được các ấn tượng từ bên dưới đưa lên bởi thể xác, cho nên con người không biết rằng thể vía có thể tự hoạt động độc lập ở chính cõi của nó, và ý chí có thể trực tiếp ảnh hưởng đến nó. Nhiều người vẫn còn “trong cơn mê” ở cõi trung giới bởi vì họ có thói quen chờ đợi những rung động quen thuộc từ thể xác đưa lên để kích thích thể vía hoạt động.
Có nhiều cách mà một người có thể bắt đầu học giúp đỡ. Hãy giả sử một người thân hoặc một bằng hữu của y đã chết đi. Để liên lạc và giúp đỡ người đã chết trong lúc ngủ, chỉ cần y nghĩ về họ trước khi đi ngủ là đủ rồi, và y phải quyết tâm giúp đỡ họ về những điều gì mà họ cần nhất. Y không cần bất cứ sự giúp đỡ nào trong việc tìm kiếm hoặc tiếp xúc với họ. Chúng ta phải cố nhớ rằng, ngay khi rời bỏ thể xác vào ban đêm, chúng ta đã đứng ngay trước mặt người bạn đã ra đi giống như chúng ta đã từng làm như vậy khi y còn tại thế với chúng ta. Một điều quan trọng cần phải ghi nhớ là nên kiềm chế mọi nỗi đau buồn đối với người đã chết vì nó sẽ ảnh hưởng đến y.
Nếu một người để mình sa vào hố sâu tuyệt vọng vì người chết, cảm xúc đó sẽ ảnh hưởng đến y một cách mạnh mẽ vì mọi loại cảm xúc đều tác động lên thể vía của y, do đó những người đang sống trong thể vía sẽ dễ dàng bị chúng ảnh hưởng một cách sâu sắc hơn với những người còn có thể xác để làm giảm nhẹ đi phần nào cảm nhận của họ. Người chết có thể nhìn thấy chúng ta, nhưng đó là thể vía của chúng ta mà y đang nhìn thấy; vì vậy, y ý thức ngay được những cảm xúc của chúng ta nhưng không nhất thiết phải biết gì về chi tiết về tình trạng thể xác của chúng ta. Chẳng hạn, họ biết được chúng ta đang vui hay buồn, nhưng họ không biết được chúng ta đang đọc cuốn sách gì. Cảm xúc rất rõ ràng đối với họ nhưng không nhất thiết tư tưởng tạo ra nó. Người chết mang theo tình thương và thù hận ở bên mình; y vẫn nhận ra được những người bạn cũ khi y gặp họ và y cũng có thể kết bạn với những người mới mà y gặp gỡ lần đầu tại cõi trung giới.
Không những chúng ta phải tránh buồn bã mà phải tránh luôn bất kỳ một sự kích động nào. Trên hết, người cứu trợ vô hình phải giữ một thái độ bình tĩnh tuyệt đối. Tôi từng biết một phụ nữ đáng quý với lòng nhiệt thành luôn muốn giúp đỡ người khác, và trong lúc quá hăng hái, cô đã để mình rơi vào một trạng thái phấn khích cực độ. Sự kích động sẽ tự biểu lộ bằng cách làm thể vía nở ra thật lớn với những rung động mãnh liệt và các màu sắc rực rỡ nóng bỏng. Vì vậy, một người mới chết còn chưa quen với môi trường mới ở cõi trung giới nên do đó vẫn còn ở trong tình trạng rụt rè và sợ hãi, đã thất kinh khi thấy một quả cầu rực lửa thật lớn lao đến y với một ý định rõ rệt. Đương nhiên, y cho rằng đây là một con ác quỷ hiện hình như trong kinh sách đã nói đến và đã rú lên bỏ chạy trối chết trong một khoảng thời gian khá lâu, sự kinh hãi của y càng gia tăng thêm vì nó cứ mãi bám theo y.
Một trường hợp mà ngay cả những người mới tập sự cũng có thể làm cho mình trở nên hữu dụng là lúc họ biết được một người bạn hoặc một người hàng xóm nào sắp sửa chết. Nếu họ có thể tiếp cận trực tiếp với người đó, và nếu căn bệnh của y cho phép họ đàm thoại với y về diễn tiến của cái chết và các trạng thái sau khi chết, một chút giải thích hợp lý về các điều này sẽ giúp cho tâm trí của y nhẹ nhõm và giải tỏa được nỗi lo âu. Thật vậy, chỉ việc gặp được một người biết nói chuyện với mình một cách tự tin và vui vẻ về cuộc sống bên kia nấm mồ thường là niềm an ủi lớn nhất đối với những ai cảm thấy mình đang tiến gần đến nó.
Tuy nhiên, nếu vì bất cứ lý do gì cuộc thảo luận trực tiếp này giữa hai người không thể xảy ra, việc này có thể được thực hiện trong giấc ngủ bằng cách ảnh hưởng lên người sắp chết từ cõi trung giới. Một người chưa được huấn luyện muốn tìm cách giúp đỡ như vậy nên tuân theo những quy tắc đã được ghi lại trong các cuốn sách của chúng tôi; y nên ghi khắc ý định giúp đỡ người nào đó vào tâm trí của mình trước khi đi ngủ, và y cũng nên chuẩn bị kỹ càng những lời lẽ nên được trình bày và ngay cả những ngôn từ nên được sử dụng, vì khi y đã hạ quyết tâm một cách rõ rệt và chính xác khi còn thức thì y chắc chắn sẽ thi hành được nó một cách trung thực và chính chắn hơn khi y đi ngủ và hoạt động trong thể vía.
Lời giải thích cho người bệnh nhất thiết phải giống nhau trong cả hai trường hợp. Mục tiêu chính của người cứu trợ là trấn an và động viên người đau khổ để họ nhận ra rằng cái chết là một quá trình hoàn toàn tự nhiên và nhẹ nhàng, chứ không phải trường hợp nào cũng là một sự gieo mình thảm khốc hoặc khủng khiếp xuống một vực sâu thăm thẳm. Đặc tánh của cõi trung giới, cách làm thế nào để sắp xếp cuộc sống của họ ở cõi đó cho thật tốt, và sự chuẩn bị cần thiết để tiến đến cõi trời chân phúc ở phía bên kia - tất cả những điều này nên được người cứu trợ giải thích từ từ cho người sắp chết. Người cứu trợ phải luôn nhớ rằng thái độ và tâm trạng của mình thậm chí có nhiều hiệu lực hơn là lời lý luận hoặc khuyên giải, và do đó y phải cực kỳ thận trọng trong việc thi hành nhiệm vụ của mình với một thái độ bình tĩnh và tự tin tuyệt đối. Nếu bản thân người cứu trợ đang ở trong tình trạng phấn khích thì y sẽ có khả năng gây hại nhiều hơn là giúp đỡ, cũng như người phụ nữ tội nghiệp mà tôi vừa đề cập đến ở trên.
Việc giúp đỡ người sắp chết nên được tiếp tục thực hiện sau khi họ đã chết. Một khoảng thời gian vô ý thức sẽ xảy ra sau đó, nhưng có thể chỉ kéo dài một phút hoặc thông thường một vài phút hoặc vài tiếng, thậm chí đôi khi cả vài ngày hoặc vài tuần. Một môn sinh được huấn luyện dĩ nhiên sẽ quan sát tình trạng tâm lý của người chết rồi sau đó điều chỉnh cách giúp đỡ của y cho thích hợp với nó; một người chưa được huấn luyện cũng sẽ làm tốt thôi nếu y chọn giúp đỡ người chết ngay từ đầu và lúc nào cũng sẵn sàng hỗ trợ họ vào những đêm kế tiếp khi cần thiết. Nhiều trường hợp khác nhau có thể ảnh hưởng đến thời gian vô ý thức này nên thật khó đưa ra một quy tắc nào nói chung về nó.
Chúng ta nên quyết định tối thiểu mỗi đêm phải giúp đỡ ai đó đang bị đau khổ, và nếu chúng ta biết được nguyên nhân của sự việc đó, chúng ta nên cố gắng điều chỉnh các biện pháp giúp đỡ của mình cho phù hợp với nhu cầu của trường hợp đó. Nếu đương sự (còn sống) chỉ là bị mệt hay kiệt sức, người cứu trợ nên dùng ý chí của mình để tuôn sinh lực vào người đó. Ngược lại, nếu nguyên nhân của sự đau khổ là họ bị quá kích động hoặc rối loạn, người cứu trợ nên cố gắng dùng một luồng hào quang đặc biệt từ lòng bình thản và dịu dàng để bao bọc họ lại; thật ra, y đang bọc họ lại trong một hình tư tưởng của sự yên bình và hài hoà giống như chúng ta đang quấn một người vào trong một cái mền.
Người cứu trợ thường khó tin rằng y có thể đã thành công khi thức dậy vào buổi sáng và không nhớ gì về những chuyện đã xảy ra. Trên thực tế, khả năng thành công một chút là điều chắc chắn, và khi người cứu trợ tiếp tục làm công việc của mình, y sẽ thường nhận ra các dấu hiệu khích lệ nhỏ là y đang tạo ra một hiệu quả nhất định bất chấp sự mất trí nhớ của y.
Đã có rất nhiều hội viên tự đứng lên làm thử công việc cứu trợ này, và trong một thời gian dài họ không biết gì về kết quả cho đến một ngày kia, họ vô tình gặp lại được người mà họ đã từng cố gắng giúp đỡ và cảm thấy rất an ủi khi nhận ra rằng người đó đã khá hơn. Đôi khi, chuyện xảy ra là người bạn đó đánh dấu ngày bắt đầu hồi phục của anh ta từ một đêm đặc biệt mà anh ấy đã có được một giấc mơ êm đềm hoặc đáng nhớ, và người cứu trợ giật mình khi y nhớ lại rằng đó chính là đêm mà y đã đưa ra một nỗ lực đặc biệt để giúp đỡ người đó. Lần đầu khi điều này xảy ra, người cứu trợ có thể tự thuyết phục mình rằng đó chỉ là một sự tình cờ, nhưng khi các trường hợp “tình cờ” này đã tích lũy khá nhiều thì y sẽ bắt đầu nhận ra rằng trong đó hẳn có một điều gì hơn thế nữa. Do đó, người mới tập sự nên hết lòng làm việc và hãy yên lòng chờ đợi kết quả.
Có một thí nghiệm đơn giản khác đã giúp đỡ khá nhiều cho những người mới bắt đầu có thêm lòng tự tin. Hãy để một người ra quyết định đến thăm một căn phòng nào đó ở cõi trung giới rất quen thuộc với y ở cõi trần – giả dụ, một căn phòng ở trong nhà của một người bạn, và hãy để y chú ý thật tỉ mỉ về cách sắp xếp đồ đạc và sách vở trong căn phòng đó. Hoặc là, dù y không có ý định gì trước đó, người khảo nghiệm tự nhiên thấy mình trong giấc ngủ ở tại một địa điểm nào đó mà y rất quen thuộc (nói theo cách thường tình là y nằm mơ thấy mình ở một chỗ nào đó), y nên đi quan sát nó thật tỉ mỉ. Khi y nhớ lại nó vào buổi sáng, nếu dường như tất cả mọi thứ trong căn phòng đó đều giống như khi y tận mắt nhìn thấy nó lần cuối cùng thì không có gì để chứng minh rằng nó không phải là một giấc mơ mà chỉ là một ký ức; nhưng nếu y nhớ lại một số thay đổi rõ rệt đó trong cách sắp sếp, hoặc có một thứ gì đó mới lạ và bất ngờ trong căn phòng đó, thật đáng cho y đi tận đến đó vào buổi sáng để thử nhìn xem cái nhìn ban đêm của y có đúng hay không.
Những ai trong chúng tôi đã nhất quyết tham gia vào công việc ở cõi trung giới đều phải đảm nhận một số trường hợp cần được giúp đỡ vào lúc này hoặc vào lúc khác. Những công việc giúp đỡ như vậy đôi khi mang tính chất của một ca phẫu thuật - một việc chỉ cần làm một lần là xong và sau đó có thể được đặt qua một bên; tuy nhiên, nhu cầu thông thường là một sự an ủi, trấn an và khích lệ cần phải được lập đi, lập lại nhiều ngày để nó có thể từ từ thấm vào bản chất của một vết thương nào đó và chuyển hoá nó thành một thứ gì can đảm và cao thượng hơn. Đôi khi, nó là một kiến thức cần phải được vun bồi từng chút một để một tâm trí được mở mang và có thể tiếp nhận nó. Do đó, mỗi người cứu trợ đều có một số ca bệnh mãn tính, các thân chủ, các bệnh nhân – muốn gọi họ như thế nào cũng được - mà y phải thăm viếng mỗi tối, giống như một người bác sĩ phải đi khám thường trực các bệnh nhân của y ở cõi trần.
Chuyện thường xảy ra là những người đã được giúp đỡ mang lòng biết ơn sâu sắc đối với người cứu trợ, và do đó họ gắn bó với y để phụ giúp trong công việc của y để mang lại cho người khác những lợi ích mà họ đã tiếp nhận. Vì vậy, chuyện xảy ra là mỗi người cứu trợ thường là điểm trung tâm của một nhóm người nhỏ, một thủ lĩnh của một đoàn người cứu trợ mà lúc nào cũng có công việc để y giao phó cho họ. Ví dụ, phần đông những người đã chết cũng giống như những đứa bé sợ bóng tối. Một người có thể lý luận với chúng, tranh cãi với chúng, và thuyết phục chúng một cách nhẫn nại rằng không có gì đáng sợ, nhưng bàn tay của đứa bé có thể nắm được bao nhiêu trên thực tế vẫn là hiệu quả hơn một chương dài lý luận đối với nó.
Một người cứu trợ ở cõi trung giới với một loạt các trường hợp cần phải giải quyết ngay lập tức không thể nào dành hết cả đêm để ở bên cạnh và an ủi một người bệnh sợ sệt với nhiều nghi vấn; tuy nhiên, y có thể xử lý việc này bằng cách giao nó cho một trong các người phụ tá sốt sắng của y, một người không quá bận rộn và do đó có thể bỏ hết tâm tư vào việc thiện nguyện đó. Để an ủi một đứa bé sợ bóng tối không cần đòi hỏi một kiến thức cao siêu về khoa học - điều mà nó cần là một bàn tay tử tế và một tình bằng hữu. Vì vậy, cõi trung giới có đủ việc làm cho bất kỳ con số thiện nguyện viên nào và bất cứ người nào muốn làm nó - đàn ông, đàn bà, trẻ con đều có thể trở thành một trong số những người đó. Đối với các việc làm có tính cách đa dạng và phong phú hơn, việc thực hành công việc đó dĩ nhiên phải đòi hỏi nhiều kiến thức hơn, nhưng một trái tim đầy tình thương và lòng thiết tha muốn giúp đỡ là hành trang toàn vẹn nhất để bất cứ ai trở thành một trong những người an ủi phụ, và ngay cả nỗ lực khiêm tốn đó cũng chiêu cảm một ân điển vượt xa mọi tính toán.
Khi một người cứu trợ cuối cùng giũ bỏ thể xác của mình trong kiếp này, y sẽ thấy mình đứng giữa một đoàn bằng hữu rất thân thiện, họ reo mừng khôn xiết vì giờ đây y đã có thể dành trọn cuộc sống của y thay vì chỉ một phần ba với bọn họ. Một người cứu trợ như vậy sẽ không có một cảm giác lạ lùng hoặc mới mẻ gì đối với hoàn cảnh của đời sống sau cửa tử. Sự thay đổi mới đối với y chỉ có nghĩa là y sẽ có thể hiến dâng toàn bộ thời gian của mình vào công việc mà mãi đến giờ vẫn là điều hạnh phúc và bổ ích nhất trong việc làm của y - một công việc mà mỗi đêm y đều nhận lãnh với lòng hoan hỷ và đặt qua một bên mỗi sáng với lòng tiếc nuối - một đời sống thật mà trong đó những chuỗi ngày của đời sống hồng trần chỉ là những thời gian gián đoạn buồn tẻ và vô vị.
Có một hoặc hai điểm khác liên quan đến đời sống trung giới mà người cứu trợ cần nên cố am hiểu. Một trong hai điểm này là phương thức mà tôi cho rằng chúng ta phải gọi là cách giao tiếp - sự truyền đạt tư tưởng ở cõi trung giới.
Không phải chúng ta ở dưới đây lúc nào cũng dễ dàng hiểu được cách thay thế cho ngôn ngữ được sử dụng ở cõi trung giới. Âm thanh theo ý nghĩa thông thường của nó không thể xảy ra ở nơi đó - nó thật sự không thể hiện hữu ngay cả ở các cảnh cao hơn của cõi trần. Ngay khi con người vừa vượt lên khỏi bầu khí quyển vào vùng dĩ thái, âm thanh đã không còn tồn tại theo ý nghĩa như chúng ta thường hiểu. Tuy nhiên, biểu tượng cho âm thanh cũng được sử dụng ở các cõi rất cao vì chúng ta luôn tìm thấy nhiều ám thị về một CHỮ mà Thượng đế sử dụng để gọi các thế giới đi vào trạng thái biểu lộ.
Nếu như vào buổi sáng chúng ta nhớ lại việc làm của đêm hôm trước, chẳng hạn như việc gặp một người bạn hay dự thính một bài thuyết giảng, dường như là chúng ta luôn nghe được tiếng nói theo cách thông thường ở cõi trần, và bản thân chúng ta cũng đáp lại nó bằng âm thanh. Trên thực tế, nó vốn không phải là như vậy; đó chỉ là vì khi chúng ta đưa hồi ức đến bộ óc xác thịt thì chúng ta tự nhiên diễn tả nó theo cách của các giác quan bình thường. Tuy nhiên, nó cũng không đúng khi chúng ta nói rằng ngôn ngữ ở cõi trung giới là sự di chuyển của tư tưởng; nhiều nhất, chúng ta chỉ có thể nói rằng đó là một sự di chuyển tư tưởng được thực hiện theo một cách rất đặc biệt.
Ở cõi trí một người tạo ra một tư tưởng và nó được truyền ngay đến thể trí của người khác mà không cần sự diễn đạt qua hình thức ngôn ngữ. Vì vậy, ngôn ngữ vốn không phải là quan trọng ở cõi đó; tuy nhiên, những người cứu trợ ở cõi trung giới, những người chưa có khả năng dùng thể trí, phải dựa vào các phương tiện được cung cấp bởi chính cõi trung giới để giao tiếp. Những phương tiện này nằm ở giữa quá trình của sự di chuyển tư tưởng ở cõi trí và lời nói cụ thể ở cõi trần, nhưng nó vẫn cần một công thức biến tư tưởng thành lời nói. Giống như một người phải đưa cho người khác xem một công thức để thực hiện một cuộc đối thoại, y phải trả lời (gần như ngay lập tức, nhưng không hẳn là như vậy) bằng cách cho người kia coi lại công thức tạo ra câu trả lời của y. Để có sự trao đổi này, hai bên cần phải có một ngôn ngữ giống nhau; vì vậy, người cứu trợ biết càng nhiều ngôn ngữ thì y càng trở nên hữu dụng.
Tuy nhiên, các đệ tử của Chân Sư đã được chỉ dẫn cách tạo ra một dẫn thể đặc biệt tạm thời để đối phó với những khó khăn này. Họ thường bỏ lại thể vía của mình cùng với thể xác; họ di chuyển trong thể trí của họ và tạm thời tạo ra một lớp áo thể vía từ chất liệu của môi trường chung quanh khi họ cần đến nó để làm việc ở đó. Những người được chỉ dạy làm theo cách này có lợi thế là họ có thể hiểu được tư tưởng của người khác qua phương pháp di chuyển tư tưởng ở cõi trí, nhưng khả năng di chuyển tư tưởng của họ theo cách này lại bị giới hạn bởi trình độ tiến hoá của thể vía của người khác.
Ngoài các vị đệ tử đã được huấn luyện rõ ràng, rất ít người có khả năng làm việc có ý thức trong thể trí của họ, vì làm được điều này có nghĩa là họ đã hành thiền nhiều năm với một nỗ lực đặc biệt. Chúng ta biết rằng ở cõi trời chân phúc, con người tự nhốt mình vào trong lớp vỏ tư tưởng của họ, rồi các tư tưởng này tạo ra những con kênh mà qua đó đời sống ở cõi trí có thể ảnh hưởng đến họ. Tuy nhiên, chúng ta không thể gọi điều này là một sự hoạt động ở cõi trí, vì điều đó đòi hỏi khả năng di chuyển qua lại tự do và quan sát những điều gì đang xảy ra ở nơi đó.
May mắn thay, tinh linh thể trí không thể tự sắp xếp lại sau khi chết nên chúng ta không hề bị phiền toái với nó như thể đối với tinh linh cảm dục của cõi trung giới. Quả thật, loài tinh hoa chất cõi trí có khác với loài tinh hoa chất cõi trung giới rất nhiều. Nó kém hơn loài kia cả một dãy tiến hoá và vì vậy nó không thể nào có sức mạnh như nhau. Nó cố gắng làm việc vì nó có trách nhiệm phải tạo ra hình tướng cho hầu hết các suy nghĩ vớ vẩn của chúng ta, nó luôn nhảy liên tiếp từ chủ đề này qua chủ đề kia, nhưng ít nhất nó không tạo ra bất cứ một lớp vỏ đồng tâm nào, mặc dù có vài phần cụ thể của thể trí có thể trở nên cứng ngắt, như tôi đã giải thích khi thảo luận về vấn đề này.
Khi một người hoạt động trong thể trí, y bỏ lại thể vía trong tình trạng bị đình chỉ không thể sinh hoạt cùng với thể xác. Nếu cần, y có thể dễ dàng bao bọc thể vía đang bị trì độn vào trong một lớp vỏ bọc, hoặc y có thể tạo ra những rung động khiến nó không thể bị xâm nhập bởi các ảnh hưởng xấu xa. Chắc chắn là qua dòng thời gian, bất cứ người nào, bằng cách thiền về Thượng Đế hoặc Đức Thầy, đều có thể nâng cao bản thân mình trước tiên lên cõi trung giới rồi sau đó lên cõi trí, nhưng không ai có thể nói được họ phải tốn bao nhiêu thời gian, vì điều đó hoàn toàn lệ thuộc vào quá khứ của người học đồ.
Sau khi chết, một người ở cõi trung giới vẫn có thể bắt đầu học thêm và có thêm những tư tưởng mới. Tôi biết rất nhiều người học Thông Thiên Học lần đầu tiên tại cõi trung giới. Tôi còn nghe được trường hợp của một người đàn bà mới học âm nhạc ở nơi đây, nhưng việc này là một điều hiếm có. Có lẽ một người chết nào đó đã dạy bà, hoặc có lẽ người thầy đó còn đang sống ở cõi trần và tình cờ ở cùng một lúc với bà ở cõi trung giới. Nhiều người ở cõi trung giới thường nghĩ rằng họ đang chơi trên các nhạc cụ của cõi trung giới, nhưng thực tế họ chỉ tạo ra những rung động bởi tư tưởng của họ để tạo ra kết quả của các âm thanh. Có một nhóm thiên thần đặc biệt chuyên môn phản ứng và biểu hiện qua âm nhạc, và đôi khi chúng sẽ chấp nhận dạy cho những ai mà âm nhạc là đam mê số một trong đời họ.
Hầu hết những người đã chết thường tự khép mình lại với nhiều khả năng học hỏi ở cõi này bằng cách chấp nhận sự tái sắp xếp của thể vía sau khi chết khiến họ bị cản trở không nhìn thấy được những gì thuộc về các cảnh cao hơn. Một nhà Thông Thiên Học sẽ không cho phép việc tái sắp xếp này được diễn ra bởi vì y đã quyết định làm việc và do đó y phải có khả năng di chuyển tự do giữa mọi cảnh. Chúng ta không thể xua đuổi hết các loài tinh hoa chất, nhưng chúng ta có thể kiềm chế tinh linh thể vía, thu hút những chất liệu mịn màng hơn và làm cho linh hồn có đủ sức mạnh để chiếm thế thượng phong. Loài tinh hoa chất thích cảm xúc thô bạo để chúng có thể tiến hóa hướng hạ – vì vậy, hãy nhớ đây là quá trình tiến hoá chính chắn và hợp lý đối với chúng. Nếu chúng biết được sự tồn tại của chúng ta, chúng hẳn sẽ cho rằng chúng ta là những thực thể hiểm ác và những kẻ dụ dỗ xấu xa đối với chúng, cố gắng cản trở sự tiến hoá mà chúng biết là đúng đối với chúng. Nếu chúng ta kiên quyết không cho phép thể vía của mình rung động theo tốc độ thô kệch, chất liệu thô kệch đó sẽ từ từ bị loại bỏ khỏi thể vía của chúng ta, cơ cấu của nó sẽ trở nên mịn màng hơn, và tinh linh thể vía sẽ thuộc về loại ít hoạt động hơn.
Sau khi chết, sự tái sắp xếp của thể vía do tinh linh cảm dục tạo ra là trên bề mặt của thể vía chứ không phải trên bề mặt của hình bầu dục bao bọc lấy nó. Tinh linh thể vía đang cố gắng gây ra một cảm giác kinh hoàng đối với người đang định xuôi đuổi nó ra khỏi sự tái sắp xếp này để y đừng làm như vậy. Đây là một lý do tại sao kiến thức về các vấn đề này rất hữu ích trước khi chết.
Không có việc đi ngủ tại cõi trung giới. Nhu cầu đi ngủ ở cõi trần là để làm dịu lại những trung tâm lực của thể xác và cho chúng thời gian để tự bồi bổ lại về mặt hoá học, hầu thể vía có thể làm việc thoải mái hơn qua một dụng cụ tốt hơn; tuy nhiên, không có sự mệt mỏi ở cõi trung giới, trừ phi chúng ta dùng từ ngữ đó để gọi sự suy giảm dần dần của mọi năng lượng khi đời sống ở cõi trung giới đang tiến gần đến hồi kết thúc.
Ở cõi trung giới, chúng ta cũng có thể mất trí nhớ như ở cõi trần. Trong trường hợp này, ý của tôi không phải là sự mất trí nhớ thông thường giữa hai cõi, mà là khả năng không thể nhớ lại được một vài chi tiết tối hôm nay mà chúng ta đã từng làm tối hôm qua hoặc một năm về trước. Quả thật, người ta có thể dễ quên ở cõi trung giới nhiều hơn là ở cõi trần bởi vì thế giới ở đó quá náo nhiệt và đông đúc.
Quen một người ở cõi trung giới không có nghĩa là chúng ta biết người đó nhìn ra sao khi họ còn sống ở cõi trần. Ví dụ, nhiều người trong chúng tôi biết rất rõ Bà Blavatsky nhìn như thế nào trong hình thể mới của Bà ở cõi trung giới, mặc dù chưa ai trong chúng tôi từng nhìn thấy Bà trong hình dáng đó ở cõi trần. Bà thường dùng một hình dáng cũ của Bà, mặc dù nói chung nó là một thể vía mới hiện nay.
HỒI ỨC VỀ KINH NGHIỆM
Ở CÕI TRUNG GIỚI
Khi bạn rời khỏi thể xác của bạn đêm nay, bạn sẽ nhớ lại tất cả những gì bạn đã làm trong đêm qua và trong ban ngày - thật ra, bạn sẽ có nguyên cả một ký ức khi bạn đang tỉnh thức, cộng thêm ký ức của đời sống ban đêm ở cõi trung giới. Ký ức ở cõi trung giới bao gồm luôn cả cõi trần, nhưng bộ óc xác thịt của bạn không nhớ được trải nghiệm đó ở cõi trung giới, đơn giản vì nó không có dự phần gì trong đó.
Một sự kết nối đặc biệt cần phải được thực hiện, hay nói đúng hơn, một sự cản trở cần phải được loại bỏ, hầu ký ức đó có thể được đưa vào bộ não xác thịt. Trong quá trình tiến hoá chậm chạp, mọi người rồi sẽ có khả năng của một trí nhớ hoàn hảo để họ không còn có bất cứ bức màn che nào nữa giữa hai cõi. Ngoài sự phát triển toàn vẹn này ra, đôi khi cũng có một điều gì đó xảy ra khiến một người cảm thấy cần phải nhớ lại nó ở cõi trần, và như vậy y sẽ cố gắng gây nên một ấn tượng trên não bộ xác thịt để y có thể nhớ lại nó vào buổi sáng. Ngoài ra, cũng có vài sự kiện tạo ra một ấn tượng quá sâu sắc trên thể vía đến nỗi chúng tạo ra ngay một ấn tượng trên não bộ xác thịt qua một hiện tượng làm nó (ký ức đó) vang đi, dội lại liên tục (repercussion) trên bộ não.
Tuy nhiên, một ấn tượng như vậy hiếm khi là hoàn hảo và có nhiều phần không được rõ ràng. Đây là nguồn gốc của thứ mà chúng ta gọi là giấc mộng, và chúng ta biết rằng chúng thường hay hỗn loạn, rời rạc, và thậm chí nực cười đến cỡ nào. Trong trường hợp của một người cứu trợ còn non nớt, sự thật có thể bị bóp méo đến nỗi y thường lầm lẫn chính bản thân mình với người mà y đã từng giúp đỡ.
Tôi nhớ có trường hợp của một thành viên trong đoàn thể chúng tôi được cử đi để giúp đỡ một nạn nhân của một vụ nổ. Y đã được cảnh báo trước đó một vài phút và có đủ thời gian để cố gắng trấn an và làm ổn định lại tâm trí của nạn nhân đó, và ngay sau khi vụ nổ xảy ra, y vẫn ở lại đó để tiếp tục làm việc; tuy nhiên, đến buổi sáng khi y kể lại câu chuyện đó với tôi, y trình bày rằng nó có vẻ giống như là bản thân y từng là nạn nhân của một vụ nổ. Chúng tôi đoán là y đã đồng cảm quá mức với nạn nhân đến nỗi y cảm thấy được cú sốc và cảm giác bay lên không trung giống y như nạn nhân vậy. Trong một trường hợp khác, cũng là thành viên đó được kêu gọi để giúp đỡ một người lính đang lái một cỗ xe chất đạn xuống một đường núi rất nguy hiểm, và anh ta bị ném ra khỏi xe và tử thương do bánh xe cán qua cơ thể của anh ta. Trong trường hợp này, người thành cũng hoàn toàn đồng cảm với người lính, và hồi ức của y về sự kiện đó là y nằm mộng thấy mình lái một cỗ xe như thế và bị ném ra khỏi nó, rồi bị giết chết giống như nạn nhân thật vậy.
Trong các trường hợp khác, những gì được nhớ lại không phải là những gì thực sự đã xảy ra mà là một sự trình bày có tính cách biểu tượng về nó, đôi khi rất là rườm rà và thơ mộng. Điều này xuất phát từ đặc tính phát hoạ của linh hồn - khả năng kịch tính hóa tức thời - nên đôi khi nó xảy ra là một ký hiệu được nhớ lại mà bị thiếu chìa khoá chú giải; nó được đưa qua não bộ mà không được thông dịch, nên trừ phi người cứu trợ có một người bạn nhiều kinh nghiệm hơn ngay lúc đó để giải thích vấn đề, y chỉ có một ý thức mơ hồ về điều mà y thực sự đã làm. Một thí dụ rất hay như thế đã thu hút được sự chú ý của tôi về nhiều năm trước – nó có nhiều chi tiết đến nỗi, vì tôi không ghi chép nó lại ngay trong lúc đó, nên tôi không nắm rõ được một hoặc hai chi tiết của nó và do đó phải buộc lòng phải bỏ sót một vài điểm làm nó kém thú vị hơn nó thật sự là, theo thiển ý của tôi.
Người cứu trợ đó đến thăm tôi vào một buổi sáng để thuật lại một giấc mơ vô cùng sống động đến nỗi y cho rằng nó chắc chắn phải là một điều gì thật sự hơn là một giấc mộng. Y nhớ nhìn thấy một cô gái trẻ tuổi đang bị chết đuối trên biển. Tôi nghĩ rằng y có ấn tượng là cô đã bị ai cố ý đẩy xuống, mặc dù tôi không nghĩ rằng y nhìn thấy được hình dáng của người đã làm việc đó. Bản thân y không thể cứu cô ta trực tiếp, bởi vì y chỉ hiện diện ở trong thể vía của mình vào lúc đó và không biết làm sao để tự hiện hình; nhưng cảm giác nhạy bén của y về hiểm hoạ này đã cho y một sức mạnh để gây nên một ấn tượng về một sự nguy hiểm trong tâm trí của người yêu của cô gái đó và đưa anh ta đến hiện trường; lúc đó, anh ta lập tức nhảy xuống biển và cứu cô gái vào bờ, rồi giao cô lại trong vòng tay người cha của cô. Người cứu trợ nhớ được khuôn mặt của cả ba nhân vật rất rõ và do đó có thể mô tả hình dáng của họ để dễ nhận diện được họ sau này. Người cứu trợ cầu xin tôi hãy điều tra trường hợp này để y có thể biết được hồi ức của y đáng tin cậy đến cỡ nào.
Khi làm việc này, tôi ngạc nhiên khám phá ra rằng nguyên cả một câu chuyện chỉ là một biểu tượng, và việc thực sự xảy ra có tính chất hoàn toàn khác hẳn. Cô gái đó mồ côi mẹ và chỉ sống đơn độc với người cha. Hình như cô ta vừa giàu, vừa đẹp và chắc có nhiều người theo đuổi cô ta. Tuy nhiên, câu chuyện của chúng tôi chỉ có hai việc liên hệ đến các sự kiện này: một là có một chàng trai láng giềng trẻ trung đáng mến nhưng rụt rè, đã âm thầm thương cô từ lúc bé, cùng lớn lên với cô trong tình bạn thân thiết, và trên thực tế đã có một hôn ước được nửa hiểu ngầm, nửa ám chỉ; hai là một người đàn ông khác thuộc loại sở khanh, bề ngoài tuy đẹp trai, bảnh bao và quyến rũ, nhưng thực sự là một kẻ dối trá, hám lợi và bất nghĩa. Cô gái bị loé mắt vì bề ngoài hào hoa phong nhã của y, và cô đã dễ thuyết phục mình là sự hấp dẫn của y đối với cô ấy mới là tình yêu thực sự, và những cảm tình trước đó mà cô dành cho người bạn thanh mai, trúc mã kia không là gì cả.
Tuy nhiên, người cha của cô vẫn sáng suốt hơn cô, và khi kẻ sở khanh đó đến ngỏ lời, dường như ông ta đã cố ý tiếp đãi anh chàng này với một thái độ lạnh nhạt và lịch sự kiên quyết từ chối không chấp thuận cuộc hôn nhân giữa con gái mình với một người đàn ông mà ông không hề quen biết. Việc này là một đả kích lớn đối với cô gái, và khi kẻ sở khanh đó lén lút gặp cô, y dễ dàng thuyết phục cô rằng cô đã bị cha cô bạc đãi và hoàn toàn không thông cảm với cô, rằng ông là một người độc đoán và cổ hủ quá mức, nên việc duy nhất mà một cô gái có chí khí nên làm để bày tỏ lòng mình là trốn đi với y (kẻ sở khanh đã được nhắc đến ở trên), và sau đó tất nhiên người cha đành phải có một thái độ hợp lý hơn và tương lai họ sẽ trở nên sáng sủa hơn.
Người con gái khờ dại kia tin y, và y từ từ thao túng tình cảm của cô cho đến khi cô đồng ý bỏ trốn với y. Người bạn cứu trợ của chúng ta đã đi đến hiện trường vào tối hôm đó, chính là đêm đã được giao hẹn để đào tẩu. Theo một kiểu khá kịch tính, kẻ sở khanh đang ngồi đợi trong một cỗ xe ngựa ở góc đường, còn người con gái thì đang ở trong phòng vội vàng chuẩn bị để trốn ra ngoài theo y.
Dĩ nhiên, khi đã đến thời điểm đó thì tâm trí của cô bấn loạn, và cô ta cảm thấy thật quá khó để thực hiện bước cuối cùng. Chính là sự sợ hãi trong tâm trí và lòng cầu mong thiết tha được giúp đỡ về quyết định này của cô đã thu hút được sự chú ý của người cứu trợ khi y tình cờ trôi dạt qua đó. Khi đọc được tư tưởng ấy của cô, y nhanh chóng nắm được tình hình và lập tức bắt đầu cố gắng tạo ra một ảnh hưởng để ngăn chặn bước đi hấp tấp của cô. Tuy nhiên, tâm trí của cô lại ở trong một tình trạng mà y không thể nào tạo ra được một ấn tượng như ý, và y khẩn thiết nhìn chung quanh để tìm một người khác dễ uốn nắn tư tưởng hơn. Y cố bắt lấy người cha, nhưng ông lại bận trong thư phòng nghiên cứu một số tác phẩm văn học một cách say sưa đến nỗi y không thể nào thu hút được sự chú ý của ông.
Tuy nhiên, may mắn thay, người tình cũ thời thơ ấu nửa bị lãng quên của cô ấy đang ở gần trong lúc đó, anh ta đang lang thang dưới ánh sao đêm và nhìn lên cửa sổ của cô theo kiểu thịnh hành được yêu chuộng bởi các cặp tình nhân trẻ trên toàn cầu. Người cứu trợ liền chụp lấy anh ấy, biết được tâm sự của anh ấy, và vui mừng khôn xiết sau khi khám phá ra rằng anh ấy rất dễ thụ cảm. Tình yêu sâu sắc của anh ấy đã khiến anh ta dễ lo lắng, và thật dễ để y huyết phục anh ấy đi đủ xa để nhìn thấy cỗ xe ngựa và kẻ sở khanh đang ngồi đợi tại góc đường. Tình yêu đã làm tâm tư của anh ấy nhạy bén hơn, anh ta nắm ngay được tình hình lúc đó và trở nên hoảng hốt và thất kinh. Thật nói cho công bình, ngay trong thời điểm tối hậu đó, anh ta không nghĩ gì về bản thân mình, không nghĩ rằng anh ấy sắp sửa mất đi cô ta, mà chỉ nghĩ rằng cô ấy đang tự hủy hoại bản thân mình và tương lai trong giây phút đó. Vì quá kích động, anh ấy đã quên mất lễ nghi và xông vào nhà (vì anh ấy đã biết nơi này từ nhỏ), chạy lên lầu và gặp cô ta ngay tại cửa phòng của cô ấy.
Những câu mà anh ấy đã nói với cô ta cả hai hiện giờ đều không còn nhớ rõ, nhưng trong sự cầu khẩn nhiệt tình và thiết tha của anh ấy, anh đã van xin cô ta hãy suy nghĩ lại trước khi làm điều đáng sợ này và nhận rõ được vực thẳm mà cô ta đang tự gieo mình xuống, rằng cô ta nên suy nghĩ lại cho thật kỹ trước khi tự đưa mình vào con đường thân bại danh liệt, và trước khi làm việc gì, ít nhất hãy bàn bạc cởi mở với người cha đáng kính của cô mà cô đang đền đáp lại sự quan tâm vô bờ bến của ông đối với cô một cách thậm tệ.
Cú sốc về sự xuất hiện đột ngột của anh ta và sự phản đối nhiệt tình của anh ấy đã đánh thức cô ta khỏi cơn mê, và cô hầu như không có một phản kháng nào khi anh ta kéo cô xuống lầu ngay lúc đó để gặp cha của cô khi ông ấy đang ngồi làm việc ở thư phòng. Chúng ta có thể hình dung được sự kinh ngạc của người cha khi câu chuyện này được phơi bày ra trước mắt. Ông ta không hề có một khái niệm gì về thái độ của con gái mình, và bản thân cô ta, giờ đây khi đã thức tỉnh khỏi cơn mê, cũng không thể nào tưởng tượng được chính mình có thể thực sự suy tính một bước đi như vậy. Cô và cha cô đều thật lòng biết ơn người tình nhân trai trẻ trung thành này, và trước khi anh ta rời khỏi cô đêm đó, cô ấy đã chấp nhận lời hứa hôn thuở còn bé và hứa sẽ trở thành vợ anh ấy trong một khoảng thời gian cách đó không xa lắm.
Đây là những gì thực sự đã xảy ra, và chúng ta có thể thấy rằng những biểu tượng được chọn bởi linh hồn người cứu trợ không phải là hoàn toàn không hợp lý, tuy nó có thể gây ra sự hiểu lầm về các dữ kiện thực sự đã xảy ra.
Đôi khi, không có một cái gì đi qua não bộ có thể được gọi là một hồi ức thực sự, mà chỉ là ảnh hưởng của một điều gì đó đã được nhìn thấy hoặc xảy ra. Một người có thể thức dậy vào buổi sáng với một cảm giác thật phấn khởi và thành đạt nhưng không thể nào nhớ được y đã thành công làm điều gì. Điều này thường ám chỉ một số công việc đã được thực hiện thật tốt, nhưng y thường khó nhớ lại hết tất cả các chi tiết. Vào những lúc khác, y có thể mang về một cảm giác sùng kính, một cái gì đó rất thiêng liêng. Điều này có nghĩa là y đã ở gần một người nào đó thánh thiện hơn hoặc đã chứng kiến một chứng cớ gì đó về một quyền năng cao cả hơn. Trái lại, đôi khi một người có thể thức dậy với một cảm giác kinh hoàng. Đôi khi, đó là do sự báo động của thể xác vì một số cảm giác không quen thuộc, nhưng đôi khi, nó là do tiếp xúc với một điều gì kinh hãi ở cõi trung giới.
Hoặc một lần nữa, nó có thể phát sinh từ sự đồng cảm với một thực thể trung giới nào đó đang ở trong một tình trạng khủng hoảng, vì việc bị ảnh hưởng bởi sự đồng cảm với tâm trạng của người khác là thông thường ở cõi trung giới.
Tuy nhiên, ít người quan tâm đến việc bộ óc xác thịt có nhớ lại được hay không khi họ còn ở trong thể vía, và chín phần mười thường không thích quay lại thể xác. Nhưng nếu bạn thật sự muốn có một thói quen hồi phục ký ức, phương pháp mà tôi đề nghị là như sau:
Để tạo ra sự liên kết, trước nhất hãy nhớ rằng khi bạn rời khỏi thể xác là bạn phải muốn làm như vậy. Sau đó, bạn phải cố gắng quay lại thể xác chầm chậm thay vì vội vã với một cái giật mình như thường lệ. Chính cái giật mình này ngăn cản hồi ức. Ngay trước khi bạn thức dậy, hãy dừng lại và nói với chính mình rằng: “Đó là thể xác của tôi, tôi đang chuẩn bị nhập vô nó. Ngay lúc tôi vừa nhập vào nó thì tôi sẽ bắt nó ngồi dậy ngay và viết xuống tất cả những gì nó có thể nhớ được.” Sau đó, hãy từ tốn nhập vào nó và ngồi dậy ngay tức khắc để viết xuống hết những gì bạn có thể nhớ ngay lúc đó. Nếu bạn đợi thêm vài phút nữa, tất cả thường sẽ tan biến mất. Tuy nhiên, mỗi sự kiện mà bạn có thể đem qua được sẽ làm cầu nối cho những ký ức khác. Các ghi chép có thể dường như hơi rời rạc khi bạn đọc lại chúng sau đó, nhưng bạn đừng nên bận tâm về điều này, vì đó là bạn đang dùng từ ngữ ở cõi trần để diễn tả một trải nghiệm ở cõi khác. Qua cách này, bạn sẽ dần dần phục hồi ký ức tuy nó phải tốn rất nhiều thời gian, nhưng trên hết bạn phải có một sự nhẫn nại rất lớn.
Bạn nên cố nhớ rằng khi bạn rời khỏi thể xác là bạn đang vào cõi trung giới, và nó sẽ an ủi tâm thức hồng trần nếu bạn có thể mang về được một số ký ức. Hãy có một kế hoạch rõ ràng trong nỗ lực của bạn. Mỗi lần bạn thành công mang về được một điều gì đó, bạn sẽ dễ nhớ lại nhiều thứ hơn trong lần kế tiếp và sẽ tiến gần hơn đến giai đoạn mà bạn sẽ có một thói quen tự động nhớ lại. Hiện giờ, có một khoảnh khắc vô ý thức giữa lúc ngủ và thức dậy, nó đóng vai trò của một bức màn che. Điều này xảy ra vì mọi rung động đều phải lướt qua một mạng lưới nguyên tử được đan kết rất là chặt chẽ.
Việc quay lại thể xác từ cõi trung giới là một cảm giác gò bó rất khó chịu, giống như một người phải khoác lên mình một chiếc áo choàng dày và nặng. Niềm vui của đời sống ở trung giới lớn đến nỗi niềm vui của đời sống ở cõi trần không là gì cả so với nó. Nhiều người khi có thể hoạt động ở cõi trung giới trong lúc ngủ coi việc quay lại cõi trần như việc quay lại sở làm mỗi ngày. Không phải họ thật sự chán ghét nó, nhưng họ sẽ không làm như vậy trừ phi bị bắt buộc.
Khi con người có thể sống tự do ở cõi trí, đời sống ở cõi trung giới lại có vẻ như là một nhà tù, và nó cứ như thế cho đến khi chúng ta đến cõi bồ đề, nơi mà bản chất của nó là niềm phúc lạc. Sau khi đạt đến trình độ này, cho dù con người vẫn còn bị gò bó và không thể biểu lộ được trạng thái phúc lạc ở cõi trần, y vẫn có nó liên tục và biết rằng những người khác, tuy họ chưa có khả năng cảm nhận được nó hiện giờ, sẽ cảm giác và biết được nó ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Ngay cả nếu bạn có thể cảm nhận được thực chất của các cõi cao hơn dù chỉ trong một khắc, đời sống của bạn sẽ không bao giờ còn giống được như xưa.
Những thú vui ở cõi trung giới quả thật là lớn hơn nhiều so với cõi trần, và nó là một nguy cơ dụ dỗ con người lạc ra khỏi con đường tiến hóa. Con người không thể nào nhận thức được sức hấp dẫn tuyệt vời của các thú vui này khi y còn bị giới hạn trong thể xác. Tuy nhiên, ngay cả những lạc thú của đời sống trung giới cũng không thể gây ra nguy hiểm gì cho bất cứ một ai đã biết chút gì về những điều cao thượng hơn. Sau khi chết, một người nên cố gắng lướt qua các tầng lớp của cõi trung giới càng nhanh càng tốt, luôn phụng sự một cách hữu ích và không nên buông thả theo những lạc thú êm ái của nó hơn là khi họ ở cõi trần. Một người không phải chỉ dùng kiến thức về đời sống ở cõi trung giới và cõi trời chân phúc để khắc phục những đam mê nhục dục mà còn phải vượt qua chúng để đi xa hơn nữa, và điều này không phải chỉ vì niềm vui của đời sống tinh thần mà còn để hoán đổi sự vô thường cho cái vĩnh cửu.
NHỮNG CHIỀU ĐO CAO HƠN
Nếu quả thật chúng ta có bảy chiều đo thì bảy chiều đo lúc nào cũng phải hiện diện ở khắp nơi, và nguyên tắc cơ bản này của tạo hóa sẽ không thay đổi cho dù tâm thức của con người đang hoạt động trong thể xác, thể vía, hoặc thể niết bàn. Trong trường hợp cuối cùng, y sẽ có khả năng nhìn thấy và hiểu biết được toàn bộ sự việc, nhưng trong các trường hợp khác thì khả năng của y sẽ bị hạn chế. Vì vậy, thực sự không có một vật thể hoặc bản thể gì là ba chiều đo hoặc bốn chiều đo. Nếu không gian có bảy chiều đo thì vạn vật đều tồn tại như thế trong không gian đó, và chúng ta chỉ khác nhau ở khả năng nhận xét của chúng ta mà thôi.
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy ba chiều đo ở cõi trần, và do đó chúng ta chỉ nhìn thấy một phần rất nhỏ của vạn vật. Một người có khả năng nhìn thấy bốn chiều đo vẫn chỉ nhìn thấy được một phần của vạn vật, mặc dù y có khả năng nhìn thấy chúng khá hơn người khác. Chúng ta đang sống ở trong một vũ trụ bao la được cấu tạo bởi chất liệu thuộc nhiều mật độ khác nhau, và nó tồn tại trong không gian (hãy giả sử) của bảy chiều đo. Tuy nhiên, chúng ta khám phá ra rằng bản thân mình sở hữu một tâm thức chỉ có khả năng nhận thức được ba chiều đo và các chất liệu ở một mật độ nhất định. Tất cả các chất liệu ở mật độ khác hoặc thanh nhẹ hơn dường như không hiện hữu đối với chúng ta. Các chiều trên ba chiều đo cũng dường như không tồn tại đối với chúng ta.
Tuy nhiên, việc chúng ta thiếu khả năng nhận thức không hề gây ra bất cứ ảnh hưởng gì đến bản chất của các vật liệu. Một người nhặt lên một viên sỏi. Y chỉ có thể nhìn thấy các phần tử thuộc cõi trần của viên sỏi đó, nhưng nó không ảnh hưởng đến sự thực là chắc chắn viên sỏi đó đồng thời cũng có bên trong nó những phần tử của cõi trung giới, cõi trí, và các cõi cao hơn. Cũng vậy, trên lý thuyết, viên sỏi đó cũng phải có một phần, dù nhỏ đến cỡ nào đi nữa, nới rộng đến bảy chiều đo, nhưng sự thật này vẫn không ảnh hưởng gì đến một sự thật khác là tâm thức của con người chỉ có thể đánh giá được ba trong số các chiều đo.
Để kiểm tra một vật thể, người ta phải sử dụng một cơ quan vật lý (con mắt) với khả năng chỉ tiếp nhận được một số làn sóng được phát xạ bởi các loại chất liệu cụ thể. Nếu y có thể phát triển cái mà chúng ta gọi là tâm thức thể vía, lúc đó y sẽ dùng một cơ quan chỉ có khả năng đáp ứng với những rung động được phát ra bởi các phần tử khác thanh nhẹ hơn của viên sỏi đó. Nếu như trong lúc phát triển tâm thức thể vía mà y lại mất đi thể xác - có nghĩa là, nếu y đã bỏ lại thể xác - y chỉ có thể nhìn thấy thành phần thuộc về cõi trung giới chứ không thể nhìn thấy được thành phần thuộc về cõi trần. Tuy nhiên, thực chất của vật thể đó dĩ nhiên sẽ không bị ảnh hưởng gì cả, và phần tử hồng trần của nó sẽ không ngừng tồn tại chỉ vì con người trong thời điểm đó đã mất đi khả năng thấy được nó. Nếu y đã phát triển tâm thức thể vía để có thể sử dụng nó đồng thời với thể xác, lúc đó y có thể đồng thời nhìn thấy cả hai hình dáng của đồ vật thuộc về cõi trung giới và cõi trần, mặc dù cả hai sẽ không cùng hiện ra rõ ràng như nhau đồng thời.
Bây giờ, cũng như mọi hình thức cao hơn của vật chất đều hiện hữu trong vạn vật mặc dù con người chưa được huấn luyện để nhìn thấy chúng, cũng như vậy, tất cả chiều đo trong không gian đều hiện diện trong vạn vật mặc dù con số của các chiều đo mà chúng ta có thể quan sát được lệ thuộc vào trạng thái tâm thức của chúng ta. Ở cõi trần, thông thường chúng ta chỉ nhận thức được ba chiều đo, mặc dù bằng cách huấn luyện đặc biệt, bộ não xác thịt có thể học được cách nhận thức một vài hình thức đơn giản của bốn chiều đo. Tâm thức ở cõi vía có khả năng nhận thức được bốn chiều trong bảy chiều đo, nhưng nó không có nghĩa là một người đã mở tâm thức thể vía có thể lập tức nhận thức được sự vươn ra của mọi vật theo bốn chiều đo; ngược lại, chắc chắn rằng một người bình thường không nắm bắt được điều này khi y đi vào cõi trung giới. Y chỉ nhận ra rằng có một độ mờ ảo nào đó - một sự khác biệt không thể hiểu được trong những vật mà y thường thấy, và phần đông những người trải qua đời sống ở cõi trung giới đều không hề phát hiện được điều gì thêm về những phẩm chất đặc biệt của các chất liệu bao quanh họ.
Vì vậy, chúng ta nên nói rằng, không phải vì có được thị giác trung giới mà con người có thể lập tức thưởng thức được chiều đo thứ tư, mà đúng hơn là nó cho y khả năng để phát triển quyền năng đó qua một sự huấn luyện lâu dài, cẩn thận và nhẫn nại, nếu y biết được một điều gì về vấn đề này và chịu khó học hỏi. Các thực thể thuộc về cõi trung giới, (như các tinh linh thiên nhiên, chẳng hạn), có lẽ không hiểu gì về các thực thể khác nhưng lại có khả năng tự nhiên thấy được khía cạnh của chiều đo thứ tư trong vạn vật. Tuy nhiên, chúng ta không nên cho rằng vì vậy chúng có thể nhìn thấy được mọi vật được một cách hoàn hảo, vì chúng chỉ có thể nhìn thấy được chất liệu trung giới trong vạn vật nhưng không thể nhìn thấy được chất liệu hồng trần, cũng như chúng ta ở một giới hạn khác chỉ có thể nhìn thấy được chất liệu hồng trần nhưng lại không thể nhìn thấy được chất liệu trung giới.
Theo như tôi được biết, chưa có ai dạy rằng các thực thể trung giới có thể ý thức được chúng ta ở cõi trần. Rõ ràng là chúng hoàn toàn không ý thức được bất cứ thứ gì thuộc về cõi trần, nhưng chúng có ý thức được đối phần trung giới của chất liệu hồng trần mà trên thực tế là gần như một thứ, mặc dù nó không hẳn là như vậy.
Tôi không nghĩ rằng các chiều đo cao hơn có thể được coi như là sự biểu lộ của phẩm chất của vật chất đối với tâm thức của chúng ta, mặc dù người ta có thể suy diễn rằng một số có thể biểu lộ như vậy trong vài trường hợp đặc biệt. Chẳng hạn, mật độ của chất hơi có thể là được nói là một cách nới rộng của nó vào chiều đo thứ tư.
Nếu một vật có thể đi xuyên qua một bức tường, câu hỏi về chiều đo thứ tư sẽ không được đặt ra, cũng như các đặc tính liên quan đến nó cũng không được vấn chất. Nhưng để một vật có thể đi xuyên qua bức tường thì chính nó hoặc một phần của bức tường có kích thước tương xứng với nó phải bị phân tán – có nghĩa là, nó phải bị giảm xuống trạng thái nguyên tử hoặc một trong các trạng thái dĩ thái để các phần tử có thể đi xuyên qua nhau một cách tự do mà không bị cản trở. Đây hoàn toàn là cách suy nghĩ của ba chiều đo. Một cách khác và hoàn toàn khác biệt hẳn là không làm tan rã vật đó hay bức tường đó mà là đưa toàn bộ vật thể đi qua từ một hướng khác, nơi không có bức tường. Nhưng tâm thức hồng trần của chúng ta không biết gì về hướng đó.
Nếu một người có một cái tách làm bằng đất xốp, chắc chắn người đó có thể đong đầy cốc nước bằng cách biến nước thành hơi và ép nó thấm qua bên thành cốc; điều này giống như quá trình thông thường của việc phân tán và tái lập nước, phân tán nó thành trạng thái thanh nhẹ hơn để nó có thể được ép qua các lỗ hơi của cái cốc, rồi phục hồi lại trạng thái tự nhiên của nó sau khi nó đã thấm qua. Tuy nhiên, người ta cũng có thể đong đầy tách nước bằng cách đơn giản hơn là mở nắp và đổ nước từ trên cao xuống, và trong trường hợp này, nước không cần phải thay đổi trạng thái của nó vì nó được đưa vào trong tách từ một hướng mà không có bức tường để xuyên qua. Đây chỉ là hai cách để tạo ra cùng một kết quả, và chúng không nhất thiết phải loại trừ lẫn nhau.
CHƯƠNG III
THỂ TRÍ
VÀ QUYỀN NĂNG TƯ TƯỞNG
THỂ TRÍ
Sau khi đọc xong cuốn Con Người Hữu Hình và Vô Hình, có nhiều môn đồ nhận xét rằng danh sách của các đức hạnh được liệt kê dường như chưa được đầy đủ, và có những đức hạnh tuy không được nhắc đến nhưng ít nhất cũng rất phổ thông - chẳng hạn như lòng can đảm, tự trọng, vui vẻ, thành thực, và trung thành. Lý do mà các đức hạnh này không được liệt kê vào danh sách đầu tiên là bởi vì chúng không có các màu sắc dễ được phân biệt với nhau như những đức hạnh khác, mặc dù chúng ta không nên cho rằng vì vậy mà người có nhãn thông sẽ không phân biệt được sự hiện diện hoặc vắng bóng của chúng. Những phẩm hạnh như vậy thường được nhận ra bởi sự khác biệt về sự cấu trúc của thể trí hoặc bởi những thay đổi trên bề mặt của nó, nhưng chúng ta có thể nói một cách tổng quát rằng chúng thường biểu hiện qua hình dạng hơn là qua màu sắc.
Trong các hình vẽ về thể trí trong cuốn sách được đề cập ở trên, chúng ta phải nhớ rằng màu sắc thể hiện cho một số phẩm hạnh chính yếu và nói lên một điều gì đó về cách sắp xếp chung của dẫn thể đó. Nói chung, tất cả những màu sắc đại diện cho các đức tính tốt sẽ được tìm thấy ở nửa phần trên của thể trí, và những màu sắc của các tính xấu sẽ nằm hầu hết ở nửa phần dưới. Màu tím của lý tưởng cao vời, màu xanh của lòng sùng tín, màu hồng của tình thương, màu vàng của trí khôn, và ngay cả màu cam của lòng tự hào hoặc tham vọng - tất cả các màu này đều nằm ở phần trên, trong khi một ý nghĩ bị thúc đẩy bởi lòng ích kỷ, ganh tị hoặc tức tối thường rơi xuống đáy của hình bầu dục. Dù rằng các hình vẽ này cho thấy khá rõ ràng về hình dạng của thể trí nếu nó thực sự nằm trong trạng thái nghỉ ngơi, có một sự thay đổi khá lớn về các hình dạng này khi một người đang suy nghĩ thật sâu hoặc tỉ mỉ về một vấn đề gì đó.
Đơn vị hạ trí có thể được coi là trái tim và trung tâm của thể trí, và hình dạng của thể trí nói chung là được dựa trên quan hệ hoạt động giữa các bộ phận khác nhau của đơn vị này. Những hoạt động trí tuệ khác nhau đương nhiên sẽ được sắp xếp tùy theo các loại hoặc bộ môn nhất định, và các bộ môn này sẽ biểu thị qua các phần khác nhau của đơn vị thể trí.
Các đơn vị hạ trí không nhất thiết phải giống nhau. Chúng khác nhau khá nhiều tùy theo Cung và sự tiến hoá của chủ nhân chúng. Nếu một đơn vị hạ trí nằm yên, năng lực mà nó tỏa ra sẽ tạo ra một số cái phễu trong thể trí, giống như ánh sáng chiếu qua miếng kính của lồng đèn huyền thuật (máy chiếu phim) tạo ra một cái phễu ánh sáng tỏa rộng trong không gian giữa lồng đèn và tờ giấy (màn hình).
Trong trường hợp này, bề mặt thể trí có thể được ví như là tờ giấy (màn hình), bởi vì ảnh hưởng trên bề mặt của nó chỉ có thể được nhìn thấy bởi một người đang nhìn vào thể trí từ bên ngoài; do đó, nếu đơn vị hạ trí đang nằm trong trạng thái nghỉ ngơi, chúng ta sẽ thấy bề mặt của thể trí biểu hiện một số hình ảnh có màu sắc đại diện cho các kiểu suy nghĩ khác nhau với các khoảng trống màu đen giữa chúng. Nhưng đơn vị hạ trí, giống như các tổ chức hóa học khác, đang xoay nhanh trên trục của nó, và tác động này tạo ra một loạt các dải nằm ngang trên bề mặt thể trí, không phải lúc nào cũng được xác định rõ ràng hay có cùng một bề rộng như nhau, nhưng các dải màu sắc vẫn có thể dễ được phân biệt và thường ở cùng một vị trí tương đối với nhau.
Khi tư tưởng của một hoài bão xuất hiện, nó luôn tự biểu thị bằng một vòng tròn màu tím nhỏ xinh xắn trên đỉnh đầu của quả trứng thể trí. Khi người cầu đạo tiến gần đến ngưỡng cửa Đạo, kích thước và hào quang của vòng tròn này tăng trưởng, và trong một Điểm Đạo Đồ, nó là một chiếc mũ dạ quang lộng lẫy với các màu sắc đáng yêu nhất có thể tưởng tượng được. Bên dưới nó thường xuất hiện một vòng màu xanh của ý nghĩ sùng kính, thường là một vòng hẹp, ngoại trừ trong trường hợp của một số ít người có lòng tin vào tôn giáo thật sự sâu sắc và chân chính. Bên cạnh đó, chúng ta có thể có một phạm vi rộng lớn hơn nhiều của những tư tưởng yêu thương, có thể mang màu đỏ thẫm hoặc màu hồng phấn, tùy theo loại tình cảm mà nó biểu thị. Ở gần khu vực tình cảm và thường được liên kết chặt chẽ với nó, chúng ta có một dải màu cam thể hiện lòng tự hào và tham vọng, và một lần nữa, trong mối liên hệ mật thiết với lòng tự hào lại xuất hiện vành đai màu vàng của trí tuệ thường được chia thành hai dải, biểu thị theo thứ tự các tư tưởng thuộc về triết học và khoa học. Vùng màu vàng này thường thay đổi rất nhiều trong những người khác nhau, đôi khi nó lấp đầy toàn bộ phần trên của quả trứng, vượt lên trên lòng sùng kính và tình thương, và trong trường hợp này, lòng tự hào thường là thái quá.
Bên dưới các nhóm màu sắc đã được mô tả, chiếm phần giữa của quả trứng là một vành đai rộng dành cho các hình tướng cụ thể - phần của thể trí mà từ đó phát sinh ra tất cả các loại hình tư tưởng thông thường. Các màu chính ở đây là màu xanh lá cây, thường được tô điểm thêm bởi màu nâu hoặc màu vàng, tùy theo tánh tình của con người.
Không có phần nào của thể trí đa dạng hơn là phần này. Một số người có thể trí đầy ắp các hình tư tưởng cụ thể, trong khi một số khác chỉ có một vài hình tư tưởng cụ thể. Chúng biểu hiện rõ ràng và có đường nét xác định trong một số người; trong một số khác, chúng mơ hồ và hoàn toàn không rõ rệt. Chúng được phân loại, ghi chú và sắp xếp theo thứ tự một cách tỉ mỉ trong một số người; và trong một số khác, chúng không được sắp xếp rõ ràng mà bị bỏ mặc trong một tình trạng hỗn loạn vô cùng vô vọng.
Ở phần dưới của quả trứng là vòng đai biểu lộ tất cả các loại tư tưởng xấu xa. Một sự kết tụ của loại bùn ích kỷ thường lấp đầy một phần ba hoặc thậm chí một phân nửa của thể trí, và bên trên đó đôi khi hiện ra một vòng tròn biểu thị sự thù hận, gian xảo, hoặc sợ hãi. Dĩ nhiên, khi con người tiến hoá, phần dưới này sẽ biến mất và phần trên sẽ từ từ nở rộng ra cho đến khi nó lấp đầy cả thể trí, như được trình bày trong các hình vẽ trong cuốn sách Con Người Hữu Hình và Vô Hình.
Nồng độ cảm xúc gợi lên tư tưởng được biểu thị bằng sự rực rỡ của màu sắc. Chẳng hạn, trong cảm giác sùng kính, chúng ta có thể có ba giai đoạn là lòng tôn trọng, sùng kính, và tôn thờ; trong tình thương, chúng ta có thể có các giai đoạn là lòng tốt bụng, tình bạn, và tình yêu. Tư tưởng càng mạnh thì rung động lại càng mạnh, tư tưởng càng vị tha và hướng về tinh thần càng nhiều thì tần số rung động càng cao. Loại trước (tư tưởng mạnh) tạo ra sự rực rỡ của màu sắc, loại thứ nhì (tư tưởng vị tha) tạo ra sự tinh xảo về màu sắc.
Trong các vòng đai hoặc khu vực khác nhau này, chúng ta thường thấy ít nhiều các đường vân rõ rệt và có thể đánh giá được phẩm chất của con người bằng cách kiểm tra các đường vân này. Ví dụ, một người có một ý chí mạnh mẽ sẽ làm cho toàn bộ thể trí có đường nét rõ rệt hơn. Tất cả các đường vân và bức xạ (radiation) đều ổn định, vững chãi, và có thể được phân biệt rõ ràng; ngược lại, trong trường hợp của một người bình thường hay do dự và yếu đuối về mặt ý chí, các đường nét mạnh mẽ và cứng cáp này sẽ vắng mặt, các đường nét phân chia ranh giới giữa các cá tính khác nhau sẽ lờ mờ, và các đường vân và bức xạ sẽ nhỏ, yếu, và cong vẹo. Lòng can đảm được thể hiện bằng các đường nét cứng rắn và mạnh mẽ, nhất là trong dải màu cam có liên hệ đến lòng tự hào. Lòng tự trọng cũng biểu hiện ở khu vực đó của thể trí, nhưng bằng sự điềm tĩnh và lòng tự tin với đường nét khác hẳn với lòng can đảm.
Tính thật thà và sự tỉ mỉ biểu hiện rất rõ trong các đường vân đều đặn ở phần thể trí dành riêng cho các hình tư tưởng cụ thể và bằng sự trong sáng và đúng đắn của các hình tư tưởng xuất hiện ở nơi đó. Lòng trung thành thể hiện bằng cách tăng cường tình thương và lòng sùng tín, và bằng cách liên tục tạo ra trong phần đó của hình bầu dục của thể trí một hình
ảnh của đối tượng của lòng trung thành. Trong phần lớn trường hợp của lòng trung thành, tình thương, và lòng tôn thờ, một hình ảnh mạnh mẽ bền bỉ được tạo ra cho đối tượng của các cảm xúc này và nó luôn trôi nổi trong hào quang của người suy nghĩ, để khi tư tưởng của y hướng về người đó, lực mà y tuôn ra sẽ củng cố hình tư tưởng đã có sẵn thay vì tạo ra một hình tư tưởng mới như thường lệ.
Niềm hân hoan (joy) sẽ khiến thể trí và thể vía rực lên và bừng sáng, và tạo ra một gợn sóng đặc biệt trên bề mặt của các thể. Sự vui vẻ (cheerfulness) nói chung tự thể hiện dưới dạng sủi bọt được biến đổi từ hình dạng trên và trong một hình dạng đều đặn, thanh thản dễ nhìn. Trái lại, sự ngạc nhiên (surprise) biểu hiện bằng một sự co thắt mạnh của thể trí, kèm theo với sự rực sáng của các vòng đai tình thương nếu sự ngạc nhiên là một điều dễ chịu, và bằng một sự biến đổi về màu sắc thường bao gồm khá nhiều màu nâu và xám ở phần dưới của hình bầu dục nếu sự ngạc nhiên là một điều khó chịu. Sự co thắt này thường được truyền đến thể vía và ngay cả thể xác, và nó hay gây ra một cảm giác đặc biệt khó chịu, đôi khi ảnh hưởng đến luân xa đan điền (khiến đương sự cảm thấy bị hụt hẫng hoặc sanh bệnh), và đôi khi đến luân xa trái tim, trong trường hợp này nó gây ra sự hồi hộp hoặc thậm chí tử vong, nên một sự bất ngờ đột ngột có thể giết chết một người bị yếu tim. Sự kinh ngạc (awe) cũng giống như sự ngạc nhiên (wonder), nhưng khác là nó kèm theo một sự thay đổi đáng kể trong phần tôn sùng của thể trí, thường phình ra dưới ảnh hưởng này và có những đường vân nổi lên rõ ràng hơn.
Khi dòng tư tưởng của một người hướng về một trong các con kênh này một cách mãnh liệt, phần thể trí đáp ứng với tư tưởng đó thường phình ra, kèm theo với sự sáng sủa hơn về màu sắc và do đó thay đổi hình dạng cân xứng của hình quả trứng (của thể trí) trong một khoảng thời gian. Ở nhiều người, sự phình ra như vậy là tạm thời, và điều này có nghĩa là số lượng tư tưởng về môn đó đang tăng trưởng đều đặn. Thí dụ, nếu một người đang tham gia vào một nghiên cứu khoa học nào đó và vì vậy đột nhiên phải đổ nhiều tư tưởng của mình theo đường lối đó nhiều hơn khi trước, kết quả đầu tiên là một sự phình ra như tôi đã mô tả; nhưng nếu y giữ số lượng tư tưởng của mình về các đề tài khoa học đều đặn như ở mức độ mà y đang làm hiện nay, phần phình ra sẽ từ từ xẹp lại vào đường viền chung của quả trứng, nhưng dải màu sắc của nó sẽ trở nên rộng hơn khi trước.
Tuy nhiên, nếu sự thích thú của người đó đối với các chủ đề khoa học tăng trưởng một cách đều đặn, phần phình ra vẫn hiện diện mặc dù vành đai đã nở rộng. Tác động của điều này nói chúng là trong người chưa tiến hóa, phần dưới của hình bầu dục thường có xu hướng lớn hơn phần trên, nên thể trí và thể vía có hình dạng của một quả trứng với đầu nhỏ nằm bên trên; trong khi đó, ở người tiến hoá hơn, những đức tính biểu hiện ở phần trên lúc nào cũng có xu hướng tăng trưởng, và do đó trong một khoảng thời gian, chúng ta có kết quả của một hình quả trứng với đầu nhỏ nằm ở phía dưới. Nhưng xu hướng tự nhiên là hình bầu dục lúc nào cũng sẽ tự điều chỉnh lại cho nó được cân xứng, nên sự xuất hiện như vậy chỉ là tạm thời.
Người ta thường nói rằng các vật liệu trong thể trí và thể vía đều di chuyển không ngừng. Chẳng hạn, khi thể vía bị xáo trộn do bất kỳ một cảm xúc đột ngột nào, tất cả các vật liệu của nó dường như bị cuốn xoáy theo một cơn bão tố, nên trong thời gian đó, tất cả các màu sắc đều trở nên hỗn loạn. Tuy nhiên sau đó, vì trọng lượng đặc biệt của các vật liệu khác nhau sẽ phản ảnh hoặc chiếu ra các màu sắc khác nhau nên toàn bộ thể vía sẽ được tái sắp xếp một lần nữa vào các khu vực thường lệ của nó. Ngay cả khi đó, các vật liệu cũng không phải là yên nghĩ hoàn toàn, vì các hạt phân tử (particles) lúc nào cũng đều lao đi loanh quanh trong các khu vực này, tuy chúng ít khi rời khỏi vành đai của mình để xâm lấn chỗ khác. Tuy nhiên, sự di động trong khu vực của chúng là một điều lành mạnh, vì một người thiếu sự di động như vậy sẽ là một loài giáp xác về tư tưởng, không có khả năng phát triển cho đến khi y phá vỡ được cái vỏ đó. Sự linh động của vật liệu trong bất kỳ khu vực cụ thể nào sẽ gia tăng phù hợp với số lượng tư tưởng dành cho chủ đề mà nó được dùng để biểu lộ.
Nếu một người để cho suy nghĩ của mình bị cứng ngắt về một chủ đề nào đó, sự ứ động đó sẽ được phản ảnh chính xác như vậy trong vật liệu dành riêng cho chủ đề đó. Nếu một người phát sinh thành kiến, suy nghĩ về chủ đề đó sẽ hoàn toàn ngừng lại, và một vòng xoáy nhỏ được thành lập mà chất liệu thể trí cứ chạy vòng vo trong đó cho đến khi nó đông đặc lại và trở thành một loại mụn cóc. Trừ phi và đến khi mụn cóc này bị hao mòn hoặc được nhổ tận gốc, con người không thể sử dụng được phần thể trí đặc biệt đó của y, và y không thể suy nghĩ về chủ đề đó một cách hợp lý. Cái khối hôi thối đông đặc này sẽ ngăn cản hết mọi hoạt động tự do cho dù nó hướng ngoại hoặc hướng nội; một mặt, nó ngăn cản không cho y nhìn thấy vấn đề một cách rõ ràng, hoặc ngăn cản không cho y tiếp nhận những cái nhìn mới đáng tin về vấn đề đó; mặt khác, nó còn ngăn cản y đưa ra bất cứ một ý kiến sáng suốt nào về vấn đề đó.
Những tì vết như vậy trong thể trí không may cũng là trung tâm của sự truyền nhiễm, khuyết điểm không nhìn thấy rõ được sự thật tăng dần và lan rộng. Nếu một phần của thể trí con người bị ứ động, những phần khác cũng dễ bị ảnh hưởng theo; nếu một người cho phép mình có thành kiến về một vấn đề gì, y sẽ nhanh chóng phát sinh thành kiến với nhiều vấn đề khác, bởi vì dòng chảy lành mạnh của chất liệu thể trí đã bị trói buộc và một thói quen nhìn sai sự thật đã được thành hình. Thành kiến về tôn giáo là phổ biến và nghiêm trọng nhất, và nó hoàn toàn ngăn cản bất cứ suy nghĩ hợp lý nào liên quan đến vấn đề đó. Thật không may là phần lớn nhân loại đều có nguyên phần này của thể trí, lẽ ra phải được lấp đầy với các chất liệu tôn giáo linh hoạt, lại bị thụ động, đóng vôi, và nảy đầy mụn cóc, đến nỗi ngay cả một quan niệm sơ đẳng nhất về sự thật của tôn giáo vẫn là một điều không thể chấp nhận được đối với họ, cho đến khi một biến cố lớn xảy ra.
Bạn có thể nhớ rằng trong cuốn Con Người Hữu Hình và Vô Hình, các hình vẽ có trình bày thể vía của các kiểu người thuộc về loại sùng tín và khoa học. Một vài kiểu biến thể của hai loại người này mà chúng ta thường gặp là người có trực giác và người có thái độ thực tế. Loại người sau nói chung thường có nhiều màu vàng hơn trong thể trí của họ, và các dải màu sắc thường là đều đặn và có trật tự. Họ có ít tình cảm và trí tưởng tượng hơn người có trực giác, và do đó ở nhiều mặt, họ thường có ít sức mạnh và lòng hăng hái hơn, nhưng mặt khác, họ ít khi làm sai, và nói chung việc gì họ làm thường được thi hành rất tốt và cẩn thận. Trong dẫn thể của người có trực giác, chúng ta thấy có nhiều màu xanh hơn, nhưng các màu sắc nói chung là mơ hồ và nguyên cả dẫn thể ít có trật tự. Y thường hay bị đau khổ nhiều hơn so với loại người có tính trầm tĩnh hơn, nhưng đôi khi chính vì sự đau khổ này mà y lại tiến bộ nhanh hơn. Dĩ nhiên, cả hai đặc tính sốt sắng và nhiệt tình, trầm tỉnh và trật tự, đều có một vị trí trong con người hoàn hảo, nó chỉ là vấn đề đức tính nào sẽ được thành tựu sớm hơn.
Các dòng tư tưởng huyền bí và sự hiện diện của khả năng tâm linh được biểu thị bằng những màu sắc không có hiện hữu ở cõi trần. Khi một người bắt đầu phát triển theo đường lối huyền bí, toàn bộ thể trí của y phải được nhanh chóng thanh lọc và đưa vào trạng thái hoạt động toàn diện, vì mọi phần của nó đều là cần thiết và mọi bộ phận phải tuyệt đối nằm trong trạng thái tốt nhất nếu y muốn có bất kỳ một sự tiến bộ nào thật sự. Điều cần thiết nhất là y phải có khả năng tạo ra những hình tư tưởng mạnh mẽ và rõ ràng, và thêm vào đó, nếu y có thể hình dung được chúng một cách rõ ràng thì điều đó sẽ là hữu ích và một niềm khích lệ lớn cho y. Hai hoạt động trên không nên bị nhầm lẫn với nhau; một người có thể làm ra một hình tư tưởng mạnh và rõ hơn một người khác, nhưng lại không thể hình dung nó được rõ ràng. Sự cấu tạo tư tưởng là một hoạt động trực tiếp của ý chí được thực hiện qua thể trí, còn việc hình dung chỉ là khả năng nhìn thấy bằng nhãn thông hình tư tưởng mà y đã tạo ra. Hãy để y suy nghĩ thật sâu về một vật nào đó, và hình ảnh của nó sẽ hiện ra trong thể trí – nó vẫn ở đó cho dù y có hình dung được nó hay không.
Chúng ta cần phải nhớ rằng mọi suy nghĩ ở cõi trần đều phải được thực hiện qua bộ não xác thịt, vì vậy để thành công, điều cần thiết không phải là chúng ta chỉ phát triển thể trí mà còn phải đưa cả bộ óc xác thịt vào nề nếp để cho thể trí có thể dễ làm việc qua nó. Ai cũng biết bộ não có một số khu vực nhất định có liên quan đến các phẩm tính và khả năng suy nghĩ theo các đường lối đặc biệt của con người, và tất cả mọi thứ này đều phải được sắp xếp cho trật tự để tương ứng chính xác với các khu vực trong thể trí.
Một điểm khác, có lẽ quan trọng nhất, là còn có một mối quan hệ khác cần phải được tạo ra và duy trì tích cực – mối quan hệ giữa linh hồn và thể trí - vì linh hồn mới chính là lực lượng đứng đằng sau sử dụng tất cả những phẩm tính và sức mạnh này. Để chúng ta có thể suy nghĩ được về bất cứ điều gì, trước tiên chúng ta phải nhớ nó; để cho chúng ta nhớ nó, chúng ta phải chú ý đến nó; chú ý là sự hướng hạ của linh hồn xuống các dẫn thể của mình để có thể nhìn ra ngoài thông qua chúng. Rất nhiều người có một thể trí tốt và một bộ não tốt, nhưng họ hiếm khi biết dùng đến chúng bởi vì họ ít chú ý đến sự sống bên trong - có nghĩa là, bởi vì linh hồn chỉ đặt một phần nhỏ của y xuống những cõi thấp hơn nên các dẫn thể được thả tự do chạy tán loạn như ý. Tôi đã từng viết về cách chữa trị cho tình trạng này ở một chỗ khác. Tôi có thể nói ngắn gọn là như vầy: Hãy tạo cho linh hồn những điều kiện mà y mong muốn, và y sẽ lập tức đưa bản thân mình xuống nhiều hơn để tận dụng các lợi thế của các cơ hội như thế. Nếu linh hồn muốn phát triển tình thương, hãy cho y cơ hội bằng cách vun đắp tình thương một cách tối đa ở các cõi thấp hơn, và linh hồn sẽ lập tức đáp lại. Nếu điều y muốn chính là trí tuệ, hãy cố gắng học hỏi để bạn có thể trở thành khôn ngoan hơn ở cõi trần, và một lần nữa, linh hồn sẽ quý nỗ lực của bạn và vui vẻ hợp tác. Hãy tìm hiểu những thứ gì mà linh hồn muốn và thành toàn cho y, và bạn sẽ không có lý do gì để than phiền về phản ứng của linh hồn.
MỘT QUYỀN NĂNG
BỊ BỎ QUÊN
Nhiều người chưa nghiên cứu sâu xa về vật chất (material) sẽ không bao giờ hiểu được rằng tư tưởng lại có một sức mạnh phi thường. Hơi lực (sức mạnh của hơi nước), thuỷ lực, những thứ này là một sự thực đối với họ vì họ có thể nhìn thấy được tác động của chúng, nhưng quyền năng tư tưởng là một cái gì mơ hồ, mờ ảo và vô hình đối với họ. Tuy nhiên, những người đã chịu bỏ công phu nghiên cứu về vấn đề này sẽ hiểu rõ rằng điều này cũng là một sự thực như những thứ khác.
Điều này là sự thật trên hai mặt - trực tiếp và gián tiếp. Mỗi người đều nhận ra được tác động gián tiếp của tư tưởng trên người họ, vì hiển nhiên họ phải suy nghĩ trước khi có thể làm bất cứ điều gì, và tư tưởng là động lực của hành động cũng như nước là động lực của nhà máy thủy lực. Tuy nhiên, nhiều người thường không biết rằng tư tưởng cũng có một tác động trực tiếp lên vật chất, nên mặc dù người đó có biến tư tưởng của mình thành hành động hay không thì chính tư tưởng đó cũng đã tạo ra một kết quả riêng của nó.
Độc giả của chúng ta biết rằng có nhiều loại chất liệu mịn màng hơn loại hữu hình đối với thị giác hồng trần, và sức mạnh tư tưởng của con người tác động trực tiếp lên số chất liệu này và khiến cho chúng di chuyển. Một tư tưởng biểu lộ như là một rung động trong thể trí của con người; nó được truyền ra bên ngoài và tạo ra một kết quả trên chất liệu của môi trường. Do đó, tư tưởng tự nó là một lực thật sự, và điểm đáng chú ý về điều này là mỗi người chúng ta đều sở hữu sức mạnh này. Một số ít người giàu có đã nắm trong tay họ quyền quản lý hơi lực và điện lực của toàn cầu; ai cũng cần có tiền để mua được quyền sử dụng nó, và do đó đối với nhiều người, đây là một việc họ không thể thực hiện được. Nhưng ở đây có một quyền năng nằm sẵn trong tay mọi người - nghèo cũng như giàu, trẻ cũng như già - điều mà chúng ta chỉ cần làm là học sử dụng nó. Đúng vậy, hiện giờ, bất người nào trong chúng ta cũng đang sử dụng nó ở một mức độ nào đó, nhưng vì chúng ta không hiểu nó nên chúng ta thường vô tình dùng nó để gây hại hơn là làm lợi cho chính bản thân mình và những người khác.
Những ai đã từng đọc qua cuốn sách Các Hình Tư Tưởng sẽ nhớ rằng trong đó có giải thích rằng một tư tưởng tạo ra hai kết quả chính yếu ở bên ngoài - một rung động phát xạ và một hình trôi nổi. Chúng ta hãy xem chúng ảnh hưởng thế nào đến bản thân người tạo ra tư tưởng và người khác ra sao.
Điều đầu tiên cần phải nhớ là sức mạnh của thói quen. Nếu chúng ta tập cho thể trí của chúng ta làm quen với một loại rung động đặc biệt nào đó, nó sẽ học tạo lại rung động đó dễ dàng hơn. Nếu chúng ta suy nghĩ về một loại tư tưởng nào đó ngày hôm nay, nó sẽ làm cho chúng ta suy nghĩ về tư tưởng đó dễ hơn ngày mai. Nếu một người để cho bản thân mình bắt đầu nghĩ xấu về người khác, nó sẽ nhanh chóng làm cho y dễ nghĩ xấu về họ hơn và khó nghĩ ra điều gì tốt về họ. Do đó, nó tạo ra một thành kiến vô cùng phi lý khiến cho một người hoàn toàn bị mù quáng với ưu điểm của người hàng xóm và chỉ thổi phồng lên khuyết điểm của họ một cách khủng khiếp.
Sau đó, tư tưởng của y bắt đầu lôi kéo tình cảm của y, bởi vì y chỉ nhìn thấy cái xấu ở người khác nên y bắt đầu ghét họ. Những rung động thô kệch trong chất liệu thể trí sẽ kích thích các chất liệu đậm đặc hơn ở cõi trung giới, cũng như gió khuấy động trên mặt biển. Chúng ta cũng biết rằng bằng cách ngẫm nghĩ lại về những gì mà ta cho là bất công đối với ta, ta sẽ dễ làm cho mình nổi giận, mặc dù chúng ta thường quên đi một lý lẽ khác rất hợp tình, hợp lý là bằng cách suy nghĩ một cách bình tĩnh và hợp lý, một người cũng có thể ngăn cản hoặc gạt bỏ cơn tức tối.
Hình tư tưởng còn có một tác động khác phản hồi lại người tạo ra nó. Nếu nó nhắm vào một người khác, tư tưởng đó sẽ lao đến họ như là một hoả tiễn, nhưng nếu tư tưởng đó (thông thường là như vậy) có liên quan chính đến chính bản thân tác giả thì hình tư tưởng đó cũng sẽ lơ lửng chung quanh y, sẵn sàng tác động lên y và tự tái tạo lại chính nó - có nghĩa là, khơi dậy tư tưởng đó thêm một lần nữa trong tâm trí của y. Người đó sẽ cảm thấy như thể nó được đặt vào tâm trí của mình từ bên ngoài, và nếu đó là một tư tưởng xấu thì y cho rằng ma quỷ đang dụ dỗ y, trong khi kinh nghiệm đó không có gì khác hơn là một kết quả phản hồi tự nhiên của tư tưởng trước đó của chính y.
Bây giờ, hãy thử xem phần kiến thức này có thể được sử dụng như thế nào. Rõ ràng là mọi tư tưởng và cảm xúc đều tạo ra một kết quả bền bỉ, bởi vì nó có thể làm mạnh hoặc yếu đi một xu hướng, và hơn nữa, nó còn luôn tác động lên tác giả. Do đó, rõ ràng là chúng ta phải cẩn thận tối đa với bất kỳ tư tưởng hoặc cảm xúc nào mà chúng ta cho phép nảy sinh trong chúng ta. Chúng ta không nên bào chữa, như nhiều người đã từng làm, rằng những cảm xúc xấu xa là chuyện đương nhiên trong những hoàn cảnh đặc biệt, mà chúng ta phải xác định lại đặc quyền thống trị vương quốc tư tưởng và tình cảm của mình. Nếu chúng ta có thể nhiễm thói quen suy nghĩ xấu thì cũng chúng ta cũng phải có khả năng nhiễm thói quen suy nghĩ tốt. Chúng ta có thể tập làm quen tìm ra những phẩm tính tốt thay vì xấu trong những người mà chúng ta tiếp xúc, và chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nhận ra rằng các phẩm tính tốt lành này là nhiều và quan trọng đến cỡ nào. Vì vậy, chúng ta sẽ trở nên thân thiện với mọi người hơn thay vì ghét bỏ họ, và ít nhất có khả năng đánh giá họ một cách công bình hơn.
Chúng ta nhất định có thể đặt cho mình một thói quen hữu ích là tập suy nghĩ những tư tưởng tốt lành và tử tế, vì nếu chúng ta làm được như vậy, chúng ta sẽ bắt đầu nhanh chóng cảm thấy được hiệu quả của sự tập luyện này. Tâm trí của chúng ta sẽ bắt đầu làm việc dễ dàng hơn theo các con kênh của sự ngưỡng mộ và tán thưởng, thay vì theo các con kênh của sự nghi ngờ và chê bai; khi nào bộ não của chúng ta trống không, những tư tưởng tốt thay vì xấu sẽ xuất hiện, bởi vì chúng sẽ là tác động của những hình ảnh ôn hòa mà chúng ta đã dày công tu luyện để bao bọc chúng ta. “Tướng tự tâm sanh” - rõ ràng việc sử dụng quyền năng tư tưởng theo một hệ thống có quy tắc sẽ làm cho đời sống của chúng ta trở nên dễ chịu và thoải mái hơn.
Bây giờ, chúng ta hãy xem tư tưởng của chúng ta ảnh hưởng đến người khác như thế nào. Các gợn sóng bức xạ, cũng như nhiều các rung động khác trong thiên nhiên, có xu hướng tái lập. Đặt một đồ vật trước ngọn lửa, một chốc sau đồ vật đó sẽ trở nên nóng bỏng, tại sao? Bởi vì bức xạ của các rung động nhanh nhẹn từ chất liệu nóng bức trong lò lửa đã khuấy động các phần tử của đồ vật đó đi vào trạng thái dao động nhanh hơn. Cũng vậy, nếu chúng ta kiên trì trút làn sóng suy nghĩ tử tế lên người khác, sớm muộn gì nó cũng sẽ đánh thức những rung động tương tự trong y. Những hình tư tưởng nhắm vào y sẽ lơ lửng chung quanh y và tác động lên y một cách tốt lành khi có cơ hội. Cũng như một tư tưởng xấu có thể là một con quỷ cám dỗ đối với người suy nghĩ hay một kẻ khác, một tư tưởng tốt lành cũng có thể thật sự là một vị thần hộ mạng, cổ võ đạo đức và xua đuổi tật xấu.
Rất đáng tiếc là thái độ càu nhàu và hay soi mói lỗi của người khác là một thói quen rất thịnh hành hiện nay, và những người có thái độ này dường như không bao giờ nhận ra được điều tai hại mà họ đang làm. Nếu chúng ta nghiên cứu hậu quả của nó một cách khoa học, chúng ta sẽ thấy rằng thói quen bêu xấu người khác không có gì khác hơn là một hành động độc ác. Nó không quan trọng là lời đồn này có nền tảng thật sự hay không, vì trong cả hai trường hợp, nó không thể nào mà không gây ra tai hại. Ở đây, chúng ta có một số người cứ tập trung tâm trí của họ vào một cá tính xấu giả định nào đó của một người khác, rồi họ cố ý lôi kéo sự chú ý của hàng tá người khác đến nó, những người mà lẽ ra không bao giờ nảy sinh ra một ý nghĩ như vậy.
Giả sử họ buộc tội nạn nhân của họ có tính ganh tị. Lập tức, hàng trăm người bắt đầu đổ xuống đầu kẻ đau khổ bất hạnh này những luồng tư tưởng gợi ý ganh ghét. Hiển nhiên, nếu người đàn ông tội nghiệp đó có bất kỳ xu hướng nào về tính xấu đó, không phải nó sẽ bị tăng cường bởi một cơn nước lũ như thế? Và nếu lời đồn ác ý này không có nền tảng gì như nó thường xảy ra, những kẻ háo hức lan truyền nó bằng mọi giá sẽ cố hết sức tạo ra tật xấu này trong người đàn ông đó, một tật xấu mà sự hiện hữu hư cấu của nó làm cho họ cảm thấy hả dạ một cách ác ôn.
Hãy tiếp tục nghĩ về bạn bè của bạn, nhưng hãy nghĩ về ưu điểm của họ, không phải chỉ vì đó là một điều lành mạnh hơn cho bạn, mà bởi vì khi làm như vậy, bạn sẽ củng cố chúng. Khi bạn bị bắt buộc phải miễn cưỡng nhận ra một cá tính xấu nào đó trong một người bạn, hãy đặc biệt lưu ý không nghĩ về nó, mà ngược lại hãy nghĩ về một đức hạnh đối nghịch với nó mà bạn hy vọng y sẽ phát triển. Nếu y có tính keo kiệt hoặc thiếu lòng từ bi, hãy cẩn thận tránh đồn đại về khuyết điểm này hoặc thậm chí nghĩ về nó, bởi vì nếu bạn làm như vậy, rung động mà bạn gửi đến cho y chỉ khiến nó trở nên tồi tệ hơn. Thay vì vậy, hãy cố gắng hết sức suy nghĩ về đức tính mà y cần có, tràn ngập y với các gợn sóng của tính hào phóng và tình thương, vì như vậy bạn sẽ thật sự giúp đỡ cho người anh em của bạn.
Hãy sử dụng quyền năng tư tưởng theo các đường lối này và bạn sẽ trở thành một trung tâm ban phước lành thật sự ở chân trời bé nhỏ của bạn. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng bạn chỉ có một số năng lượng giới hạn để sử dụng, và nếu bạn muốn có đủ năng lượng để trở nên hữu dụng thì bạn không nên lãng phí nó.
Người bình thường chỉ là một trung tâm của các rung động bấn loạn; y luôn ở trong một trạng thái lo âu phiền não về một điều gì đó hay ở trong một trạng thái trầm cảm nặng nề, còn không thì y lại bị kích động quá độ trong nỗ lực muốn đạt được một điều gì đó. Vì lý do này hoặc lý do kia, y lúc nào cũng ở trong một trạng thái khích động không cần thiết, thường chỉ là vì những chuyện vặt vãnh. Điều này có nghĩa là y lúc nào cũng đang lãng phí năng lượng, phung phí nó một cách vô ích thay vì lẽ ra nên dùng nó vào trong các công việc hữu ích mà y nên gánh vác – một hành động có lẽ sẽ khiến y cảm thấy khoẻ mạnh và hạnh phúc hơn.
Một cách khác mà y có thể lãng phí nhiều năng lượng là vào những cuộc tranh luận không cần thiết, vì lúc nào y cũng cố gắng thuyết phục người khác đồng ý với quan điểm của mình. Y quên rằng bất cứ vấn đề nào cũng có nhiều mặt, cho dù đó là tôn giáo, chính trị, hoặc những vấn đề thực tế khác trong đời sống; rằng người khác hoàn toàn có quyền tự do về quan điểm của họ, và dù sao đi nữa thì nó cũng không quan trọng, bởi vì sự thật của vấn đề đó vẫn là như vậy cho dù họ có suy nghĩ ra sao. Phần lớn các vấn đề mà con người tranh cãi thực sự không đáng để bàn đến, và những người to tiếng nhất và tự tin nhất thường chính là những người thiếu hiểu biết nhất.
Một người muốn làm việc có lợi cho mình hoặc cho người khác qua quyền năng tư tưởng phải biết tiết kiệm năng lượng của mình; y phải điềm tĩnh và thực tế, phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi nói hay hành động. Tuy nhiên, không nên nghi ngờ sức mạnh phi thường của tư tưởng, vì bất cứ người nào chịu khó bỏ công ra học hỏi đều có thể sử dụng được nó, và qua phương tiện đó, mỗi người chúng ta đều có thể tiến bộ rất nhanh và làm nhiều việc hữu ích cho đời.
Bạn nên học hỏi về quyền năng tư tưởng và cố gắng kiểm soát các tư tưởng xấu xa, độc ác, hay ích kỷ. Các tư tưởng đều tạo ra kết quả của chúng cho dù chúng ta có muốn chúng hay không. Mỗi lần bạn kiểm soát được chúng thì bạn sẽ có khả năng điều khiển chúng dễ dàng hơn lần sau. Gởi tư tưởng đến cho một người khác trên thực tế cũng giống như việc tặng tiền, đó là một hành động từ thiện mà thậm chí người nghèo nhất cũng có thể làm được. Một người khôn khéo có thể tạo ra kết quả mà y muốn một cách có ý thức. Lan truyền sự trầm cảm là một điều tội lỗi vì nó cản trở những tư tưởng cao cả hơn xuất hiện.
Nó gây ra nhiều đau khổ cho những người nhạy cảm và là nguyên nhân gây ra sự sợ hãi cho trẻ em vào ban đêm. Thật không là đúng khi chúng ta ô nhiễm một sự sống còn non dại như nhiều người đã làm bằng cách để cho những tư tưởng xấu xa và khốn khổ rơi lên nó. Hãy quên đi nỗi buồn của bạn và thay vào đó, hãy gửi đi những tư tưởng tốt lành đến những người đang mang bệnh.
Tư tưởng của bạn không phải (như bạn có thể cho rằng) chỉ là chuyện riêng của bạn, bởi vì rung động của nó có ảnh hưởng đến người khác. Các tư tưởng xấu có tầm với còn xa hơn những lời nói độc ác, nhưng chúng không thể ảnh hưởng một người hoàn toàn miễn nhiễm với bản chất mà chúng chuyên chở. Chẳng hạn, tư tưởng thèm rượu không thể xâm nhập cơ thể của một người đã hoàn toàn biết tiết chế. Nó có thể tấn công vào thể vía của y, nhưng vì nó không thể xâm nhập y nên nó sẽ quay ngược lại người đã gởi ra nó.
Ý chí có thể được rèn luyện để tác động trực tiếp lên vật chất hồng trần. Một thí dụ có thể nằm trong kinh nghiệm của bạn là một bức hình thường được sử dụng cho các mục đích tham thiền; nó được quan sát là nét biểu lộ của nó có vẻ thay đổi vì sức mạnh của một hình tư tưởng mạnh mẽ và bền bỉ chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến các phần tử vật lý ở cõi trần. Bà Blavatsky thường bắt học trò của Bà rèn luyện ý chí bằng cách yêu cầu họ treo một cây kim bằng một sợi chỉ và sau đó tập di chuyển nó bằng sức mạnh của ý chí. Một nhà điêu khắc cũng sử dụng quyền năng tư tưởng này theo một đường lối hoàn toàn khác hẳn. Khi y nhìn thấy một khối đá cẩm thạch, y tạo ra một hình tư tưởng mạnh mẽ về bức tượng mà y có thể điêu khắc từ nó. Sau đó, y đặt hình tư tưởng này vào bên trong phiến đá và bắt đầu đục đẽo từng chút các phần nằm ngoài hình tư tưởng cho đến khi chỉ còn lại phần của phiến đá đã được thấm nhuần bởi hình tư tưởng.
Hãy tập bỏ ra một chút thì giờ hàng ngày dành cho việc tạo ra các tư tưởng tốt lành về người khác và gửi chúng đến họ. Đây là một bài tập rất tốt cho bạn và chắc chắn cũng sẽ tốt cho các bệnh nhân của bạn.
TRỰC GIÁC VÀ HỨNG KHỞI (INTUITION AND IMPULSE)
Bạn hỏi làm cách nào bạn có thể phân biệt được giữa hứng khởi (hứng thú) và trực giác. Tôi hoàn toàn hiểu được nan đề của bạn. Lúc đầu, một môn sinh sẽ khó thực hiện được điều này, nhưng hãy yên tâm vì điều khó khăn này chỉ là một vấn đề tạm thời. Khi bạn đã tiến bộ thì bạn sẽ đến một giai đoạn mà bạn sẽ khẳng định được trực giác một cách chắc chắn, vì sự khác biệt giữa nó và hứng khởi sẽ rõ ràng đến nỗi nó không thể nào bị lầm lẫn.
Thoạt đầu, chúng có vẻ giống nhau vì cả hai đều đến từ bên trong bộ óc nên chúng ta phải hết sức cẩn thận, và quả thật chúng ta khó đưa ra một khẳng định nào chính xác. Tuy nhiên, một hoặc hai điều cân nhắc sau đây có thể giúp bạn. Tôi đã từng nghe Bà Besant nói rằng tốt nhất lúc nào cũng nên đợi một chút nếu hoàn cảnh cho phép, vì nếu chúng ta đợi một chút thì sự hứng khởi thường giảm đi, trong khi trực giác thì không hề bị ảnh hưởng bởi thời gian. Hơn nữa, sự hứng khởi gần như hay đi đôi với sự phấn khích; lúc nào nó cũng mang một tính cách cá nhân, nên nếu nó không được thoả mãn ngay lập tức, hoặc nếu có bất cứ điều gì nghịch với ý nó, nó sẽ nảy sinh một cảm giác bực bội; trong khi một trực giác chân chính, mặc dù cũng có một cá tính quả quyết, nhưng lại được bao phủ bởi một lực trầm tĩnh. Hứng khởi là một sự trào dâng của thể vía, còn trực giác là một mảnh vụn của trí tuệ từ linh hồn gây nên một ấn tượng trên phàm ngã.
Đôi khi, một ấn tượng đột ngột không hẳn là từ bên trong mà là từ bên ngoài, một thông điệp hoặc một gợi ý từ một người nào đó ở cõi cao hơn - thông thường là một người nào đã chết đi ngang qua, hoặc có thể là một người thân đã ra đi. Tốt nhất là hãy coi lời khuyên này giống như nó được đưa ra ở cõi trần - hãy nghe theo nó nếu nó hợp lý và gạt bỏ nó nếu nó
phi lý đối với chúng ta, bởi vì một người không nhất định sẽ khôn ngoan hơn chúng ta chỉ vì y đã chết. Trong vấn đề này cũng như các vấn đề khác, chúng ta phải kiểm soát hành động của mình bằng một thái độ thực tế vững vàng và không nên lao theo các ảo tưởng hoặc giấc mộng một cách điên rồ.
Ở giai đoạn này, tôi khuyên bạn lúc nào cũng nên tuân theo lý trí nếu bạn nắm chắc được những tiền đề mà từ đó bạn suy luận ra. Theo thời gian và dựa trên kinh nghiệm, bạn sẽ biết là trực giác của bạn có đáng tin cậy hay không. Sự hứng khởi xuất phát đơn thuần từ thể vía, nhưng trực giác chính thống đến trực tiếp từ cõi thượng trí và thậm chí đôi khi từ cõi Bồ Đề. Dĩ nhiên, nếu bạn chắc chắn rằng nó đến từ cõi sau thì bạn có thể tuân theo nó một cách không do dự, nhưng trong thời gian bạn đang chuyển qua giai đoạn kế tiếp, bạn bắt buộc phải chịu chấp nhận một số rủi ro nhất định - hoặc là đôi khi ta đánh mất tia sáng của chân lý cao hơn vì ta bám quá chặt vào lý trí, hoặc là đôi khi ta bị đánh lạc hướng do ta lầm lẫn sự hứng khởi với trực giác. Chính bản thân tôi cũng sợ khả năng thứ hai này nên nhiều lần tôi thường tuân theo lý trí hơn là trực giác, và chỉ sau khi liên tiếp khám phá ra rằng có một loại trực giác đặc biệt lúc nào cũng đúng, tôi mới cho phép mình hoàn toàn tin cậy vào nó. Chắc chắn bạn cũng sẽ trải qua các giai đoạn kế tiếp này, nhưng bạn không cần phải lo lắng quá nhiều về nó.
CÁC TRUNG TÂM TƯ TƯỞNG
Ở các cảnh cao hơn của cõi trí, tư tưởng của chúng ta hoạt động mạnh hơn bởi vì chúng ta dường như có cả một bầu trời dành riêng cho mình. Chúng ta không có nhiều tư tưởng khác để cạnh tranh với chúng ta trong khu vực đó. Mọi người khi cùng suy nghĩ về một vấn đề sẽ có khuynh hướng đồng tình với nhau ở một mức độ nào đó. Bất kỳ một tư tưởng mạnh nào trong thế giới này đều có thể bị thu hút đến bạn, và bạn cũng có thể bị ảnh hưởng bởi người nghĩ ra nó. Tư tưởng mạnh thường hoạt động liên tục và nó dễ biến thành hành động liên quan đến các vấn đề mà ít người nghĩ đến, bởi vì trong các trường hợp này, các rung động có cá tính riêng biệt và làm việc tự do hơn. Bất kỳ một ý tưởng hoặc hình ảnh đột ngột nào đến với bạn có thể chỉ đơn giản là hình tư tưởng của một người nào đó rất quan tâm đến vấn đề này. Người đó có thể ở bất cứ một khoảng cách xa nào đó với bạn, mặc dù sự gần gũi về cơ thể đúng là có làm cho sự truyền đạt này dễ xảy ra hơn.
Có một loại giống như là sự trắc nghiệm tinh thần (psychometrisation) của một hình tư tưởng. Các khối tư tưởng về một chủ đề nhất định là những thực thể thật sự và chúng chiếm một vị trí trong không gian. Các tư tưởng về cùng một chủ đề và cùng một đặc tính có xu hướng tụ tập lại với nhau. Phần đông các chủ đề đều có một trung tâm tư tưởng, một khoảng không gian nhất định trong bầu khí quyển, và các suy nghĩ về một trong các chủ đề này thường bị thu hút về trung tâm của nó, nơi có thể hấp thụ bất cứ một số lượng ý tưởng nào, mạch lạc hay rời rạc, đúng hay sai. Ở trung tâm đặc biệt này, bạn sẽ thấy rằng mọi ý nghĩ về một chủ đề nào đó được hút vào một trọng điểm, và từ đó bạn có thể trắc nghiệm tinh thần các hình tư tưởng khác nhau, theo dõi chúng đến người suy nghĩ ra chúng và lấy thêm nhiều kiến thức khác từ họ.
Chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng khi một người đang suy nghĩ về một vấn đề gì hơi khó có thể thu hút được tư duy của một người khác đã từng nghiên cứu về nó và thậm chí luôn cả chính người đó nếu y đang ở cõi trung giới. Trong trường hợp sau, người đó có thể đang thức tỉnh hoặc đang ngủ. Có rất nhiều người, dù chết hoặc đang ngủ, cũng cố gắng giúp đỡ người khác theo kiểu đặc biệt của họ. Một người như vậy khi nhìn thấy một người khác đang vật lộn với một lý thuyết nào đó có thể đến và gợi ý cho y về một phương pháp khác mà họ nghĩ rằng y nên thử. Dĩ nhiên, nó không có nghĩa là các ý kiến của họ đều là đúng.
Nếu bạn suy nghĩ lại, bạn sẽ thấy rằng điều này hoàn toàn là tự nhiên. Bạn có thể giúp đỡ mọi người ở cõi trần đơn giản chỉ vì lòng tốt bụng, nên bạn cũng sẽ là như vậy sau khi chết. Bạn vẫn thông cảm với người khác sau khi bỏ lại thể xác, và cho dù ý kiến của bạn có thể sai hoặc đúng, bạn vẫn đưa ra nó. Tôi không biết bất cứ cách nào để giúp một học sinh bình thường xác định được nguồn gốc của một tư tưởng đến với y. Một người phải mở thị giác ở cõi trung giới và cõi trí để nhìn thấy được hình tư tưởng, rồi từ đó truy ra nguồn gốc của nó. Nó được liên kết với người tạo ra nó qua tần số rung động.
Đôi khi, một ý kiến như vậy có thể được gởi đến qua một hình thức biểu tượng; ví dụ, con rắn hay con voi thường được dùng để tượng trưng cho minh triết. Có rất nhiều hệ thống biểu tượng khác nhau. Mỗi linh hồn có một hệ thống riêng của mình, mặc dù có một số hình thức có vẻ thường được dùng trong các giấc mộng. Người ta nói rằng giấc mộng về nước là điềm báo sẽ có một sự rắc rối gì đó, mặc dù tôi không nhận ra được bất cứ một mối liên hệ gì giữa chúng. Dù không có một mối liên hệ nào thực sự, một linh hồn (hay trong vấn đề này là một thực thể nào đó muốn liên lạc) có thể sử dụng một hình thức biểu tượng mà y biết rằng phàm ngã đó sẽ hiểu. Nước không nhất thiết có liên hệ gì với rắc rối, nhưng khi một linh hồn không thể truyền đạt được một thông điệp rõ ràng cho phàm ngã và biết rằng phàm ngã đó có một lòng tin đặc biệt về nước, y có thể sẽ cố gắng tạo ra một ấn tượng về giấc mộng như vậy lên bộ não xác thịt khi y muốn cảnh báo phàm ngã về một biến cố sắp sửa xảy ra. Khi một tư tưởng lướt qua tâm trí, nó thường được tạo ra từ một gợi ý nào đó. Quyền năng tư tưởng và sự đa dạng của các hình tư tưởng là vô cùng phong phú, nhưng con người lại ít hiểu biết về chúng để cân nhắc chúng.
Khi một ý nghĩ nào đó dễ dàng xuất hiện trong tâm trí của ta, nó có thể xảy ra vì một trong nửa tá nguyên nhân. Đây chỉ là cách suy đoán để đưa ra một số giả định khi chúng ta không biết được chuyện gì thực sự đã xảy ra trong một trường hợp cụ thể. Một người có thể dễ bị ảnh hưởng bởi hình tư tưởng của chính mình. Bạn có thể tạo ra các hình tư tưởng về một chủ đề, chúng sẽ bay lơ lửng chung quanh bạn và tiếp tục tồn tại dựa trên năng lượng mà bạn ban cho chúng, rồi chúng sẽ tác động lên bạn như thể chúng là các ý kiến mới từ bên ngoài đi vào. Ở một nơi như Adyar, bất kỳ người nào mới đến đây cũng sẽ tìm thấy hàng loạt hình tư tưởng đang bay lơ lửng sẵn ở đây, và có lẽ y sẽ chọn nhận lấy một số hình tư tưởng đã được tạo sẵn thay vì bắt tay vào sản xuất các hình tư tưởng mới riêng cho mình. Bất cứ ai cũng nên thận trọng với các hình tư tưởng. Tôi đã từng thấy một người đàn ông tiếp nhận lấy các hình tư tưởng rồi bị chúng chuyển hóa mặc dù chúng hoàn toàn là sai, và bản thân ông ta trước đây hoàn toàn là đúng khi đưa ra các ý kiến riêng của mình. Tuy nhiên, khi chúng ta bắt đầu học hỏi thì đôi khi việc tiếp cận một hình tư tưởng là một lợi thế.
Ở cõi trung giới, vô số hình tư tưởng có tính chất tương đối lâu bền, thường là kết quả của một việc làm được đóng góp từ nhiều thế hệ. Phần đông các hình tư tưởng như vậy có liên quan đến lịch sử giả định của một tôn giáo, và khi chúng được nhìn thấy bởi những người nhạy cảm, nó là nguyên nhân dẫn đến hàng loạt các lời tường thuật rất chân thành bởi các nhà tiên tri chưa được huấn luyện - chẳng hạn như trong trường hợp của Bà Anne Catherine Emmerich.9 Bà có những linh ảnh (visions) rõ ràng về từng chi tiết một của các sự kiện trong cuộc khổ nạn của Đức Chúa Giê-su giống y như lời tường thuật trong Kinh Phúc Âm, bao gồm nhiều sự kiện mà chúng tôi biết rằng không bao giờ có thực. Tuy nhiên, tôi không hoài nghi rằng lời tuyên bố của nhà ngoại cảm này là thành thực, bà ấy không phải bị mê sảng trong ảo giác mà chỉ là nhầm lẫn về bản chất của những gì bà đã thấy.
Để đọc được tiên thiên ký ảnh một cách rõ ràng và chính xác, một người cần phải có sự huấn luyện đặc biệt, nó không phải là vấn đề của niềm tin hoặc đức hạnh, mà là một loại kiến thức đặc biệt. Không có dữ kiện gì cho thấy con người thánh thiện đó có loại kiến thức đặc biệt này; trái lại, Bà ấy có lẽ chưa bao giờ biết đến những loại ký ảnh như vậy. Do đó,
Bà sẽ không có khả năng đọc được tiên thiên ký ảnh rõ ràng, và cũng chắc chắn rằng nếu bà ấy có nhìn thấy nó, bà cũng không thể nào phân biệt được nó với bất kỳ “cái nhìn tâm linh” nào khác.
Rất có thể là những gì bà ấy thấy là một tập hợp các hình tư tưởng mà chúng tôi đã mô tả. Tất cả các nhà nghiên cứu đều biết rằng bất kỳ một sự kiện lịch sử hệ trọng nào được cho là đã xảy ra lệ thuộc vào các suy nghĩ liên tục và tạo hình sống động bởi những người thuộc về các thế hệ tiếp theo. Đối với người Anh, các bối cảnh lịch sử như vậy có lẽ là việc ký kết bản Magna Charta bởi Vua John, còn đối với người Mỹ, đó là việc ký bản hiến chương Tuyên Ngôn Độc Lập.
Sự thật là các hình ảnh sống động này đã được tạo ra bởi nhiều người khác nhau và chúng có thể được nhìn thấy bởi bất cứ ai có một chút quyền năng tâm linh. Chúng là những hình tư tưởng rõ ràng, xuất hiện đầu tiên ở cõi trí, và khi có bất kỳ một cảm xúc mạnh mẽ nào được gắn liền với chúng thì chúng lập tức được đưa xuống cõi trung giới và hiện hình ở đó trong chất liệu trung giới. Chúng cũng được liên tục củng cố bởi các tư tưởng mới mà lúc nào cũng hướng về chúng. Đương nhiên, mỗi người sẽ tưởng tượng các cảnh này khác nhau và kết quả cuối cùng thường là một hình ảnh tổng hợp; tuy nhiên, hình dạng được đúc kết ban đầu do một ý tưởng tượng như vậy có ảnh hưởng khá lớn đến sự suy nghĩ của tất cả những người nhạy cảm về chủ đề đó sau này, và nó thường khiến cho họ hình dung nó như những người trước đã từng suy nghĩ.
Sản phẩm của hình tư tưởng này (thông thường được coi là loại tư tưởng thiếu hiểu biết) dễ được nhìn thấy hơn là tiên thiên ký ảnh, vì như chúng tôi đã nói, khả năng nhìn thấy được tiên thiên ký ảnh đòi hỏi một sự rèn luyện, trong khi khả năng nhìn thấy hình tư tưởng không cần gì ngoại trừ một cái nhìn thoáng qua ở cõi trí, như nó thường hay xảy ra đối với những người xuất thần có tâm hồn trong sáng và cao cả. Thậm chí trong nhiều trường hợp, nó cũng không cần đến yếu tố này, bởi vì các hình tư tưởng cũng hiện diện ở cõi trung giới.
Một điểm khác cần được lưu ý là việc tạo ra một hình tư tưởng ít nhất không đòi hỏi các bối cảnh nhất thiết phải thật sự xảy ra. Có một vài bối cảnh trong lịch sử đã được quần chúng yêu thích đến nỗi chúng đã được miêu tả thật sống động và thậm chí còn chứa thêm một vài tình tiết hư cấu như từ các vở kịch của Shakespeare, từ Quá Trình Hành Hương của Bunyan, và từ một số các câu chuyện cổ tích khác như Cô Bé Lọ Lem hoặc Cây Đèn Thần của Aladdin. Một nhà nhãn thông thoáng nhìn thấy được một trong các hình tư tưởng tổng hợp này có thể dễ dàng cho rằng y đã nhìn thấy nền tảng thật sự của câu chuyện, nhưng vì y biết rằng các mẫu chuyện này là hư cấu nên có lẽ y sẽ nghĩ rằng y chỉ nằm mộng thấy chúng.
Bây giờ, kể từ khi đạo Cơ Đốc Giáo cụ thể hóa các giáo lý tuyệt vời được ban cho họ gìn giữ và cố gắng miêu tả chúng như là một chuỗi các sự kiện đã xảy ra thực sự trong đời sống thế nhân, các linh hồn mộ đạo ở mọi nơi dưới ảnh hưởng này đã cực lực cố gắng, như là một hình thức trau giồi lòng sùng tín, hình dung các sự kiện hư cấu này càng sống động hơn càng tốt. Vì vậy, ở đây chúng ta được cung cấp với một lô các hình tư tưởng với một sức mạnh phi thường không thể tả - một lô hình tư tưởng mà không thể nào mà không thu hút được sự chú ý của bất kỳ người sùng đạo nào đang hướng về chúng. Chắc chắn chúng đã được thấy bởi Anne Catherine Emmerich và bởi nhiều người khác. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hóa của các nhà nhãn thông như vậy, cũng như các người khác có vinh dự được dẫn dắt bởi các Chân Sư Minh Triết, họ sẽ được chỉ dạy (khi họ phải làm việc với các thực tế trong đời sống) làm thế nào để phân biệt được giữa kết quả của một hình tư tưởng sùng tín nhưng vô minh với tiên thiên ký ảnh, vốn là ký ức vĩnh hằng thật sự của thiên nhiên; lúc đó, họ sẽ khám phá ra rằng những bối cảnh mà họ đã bỏ ra nhiều tâm tư vào đó chỉ là những biểu tượng của các chân lý cao hơn, bao la và vĩ đại hơn những gì mà họ có thể tưởng tượng được, thậm chí trong những lần thăng lên cao nhất mà họ có thể đạt được do tấm lòng thuần khiết và sùng kính tuyệt vời của họ.
TƯ TƯỞNG
VÀ LOÀI TINH HOA CHẤT
Loài tinh hoa chất sẽ chọn một màu sắc đặc biệt khi nó được uốn nắn bởi một hình tư tưởng- một màu sắc biểu thị cho bản chất của tư tưởng đó hoặc một cảm xúc. Dĩ nhiên, tất cả các điều này có nghĩa là trong thời gian loài tinh hoa chất tạo ra một hình tư tưởng thì nó bị bắt buộc phải rung động theo một tần số nhất định của tư tưởng làm sinh động nó. Loài tinh hoa chất tiến hóa bằng cách học đáp ứng với mọi tần số rung động có thể, nên khi một tư tưởng giữ nó rung động ở một tần số nào đó trong một khoảng thời gian, nó sẽ giúp loài tinh hoa chất tiến hóa đến cấp độ của tần số đó hầu nó có thể làm quen với tần số dao động đặc biệt đó để sau này, khi nó đến gần một rung động tương tự như vậy, nó sẽ đáp ứng nhanh nhẹn hơn so với khi trước.
Các hạt nguyên tử của loài tinh hoa chất, ngay sau khi chúng quay lại khối tinh hoa chất chung, sẽ bị một tư tưởng khác nắm bắt lấy và sau đó phải lắc lư ở một tần số hoàn toàn khác hẳn, do đó sẽ tiến hoá thêm một chút nữa bằng cách lấy thêm được một khả năng đáp ứng khác với tần số rung động thứ hai. Rồi dần dần, các tư tưởng không chỉ của loài người mà của các loài tinh linh thiên nhiên và thiên thần, thậm chí của loài thú (ở mức độ mà chúng có thể suy nghĩ được), cũng trợ giúp cho loài tinh hoa chất chung quanh chúng phát triển - dạy dỗ từ từ cho một ít hạt nguyên tử ở nơi đây, một vài hạt nguyên tử ở nơi kia, cách đáp ứng với tần số dao động này hoặc dao động khác, cho đến giai đoạn cuối cùng mà tất cả các phần tử của loài tinh hoa chất sẽ sẵn sàng đáp ứng với bất kỳ tần số rung động nào ở bất cứ thời điểm nào, và như thế là quá trình tiến hóa của chúng sẽ được hoàn tất.
Chính vì lý do này mà nhà huyền bí học tránh phá hủy một tinh linh nhân tạo nếu hoàn cảnh cho phép, ngay cả khi nó mang một bản tính xấu xa, và họ thích chọn tự bảo vệ mình hoặc người khác chống trả lại nó bằng cách dùng một cái vỏ bảo vệ. Chúng ta có thể làm tiêu tan một tinh linh nhân tạo tức thì bằng cách dùng ý chí, giống như ở cõi trần người ta có thể giết chết một con rắn độc để ngăn nó không gây hại được nữa, nhưng cả hai hành động này đều không được chấp nhận bởi nhà huyền bí học, ngoại trừ trong các trường hợp rất đặc biệt.
Cho dù tư tưởng làm linh động nó là xấu hay tốt cũng không có ý nghĩa gì đối với loài tinh hoa chất, sự phát triển của chúng chỉ đòi hỏi là chúng được sử dụng bởi một loại tư tưởng nào đó. Sự khác biệt giữa thiện và ác sẽ được biểu thị bởi phẩm chất của loài tinh hoa chất mà nó huy động; một tư tưởng ác độc hay dục vọng cần biểu lộ bằng loại chất liệu thô kệch hay đậm đặc hơn, trong khi một tư tưởng cao thượng cần một loại chất liệu tương đối mịn màng và rung động nhanh hơn để bao bọc nó. Lúc nào cũng có rất nhiều người chưa tiến hoá luôn suy nghĩ theo kiểu thấp hèn, và chính sự ngu dốt và thô bạo của họ được dùng bởi Định Luật Cao Cả như là những năng lượng tiến hoá để phụ giúp vào một giai đoạn cụ thể nào đó trong một công trình cần được thực hiện. Đối với chúng ta, những người đã hiểu biết nhiều hơn họ một chút, chúng ta phải cố gắng không ngừng phát ra những tư tưởng cao cả và thánh thiện để giúp loài tinh hoa chất thuộc loại mịn màng hơn phát triển và để hổ trợ trong một lĩnh vực mà hiện tại thật có quá ít người hoạt động.
CHƯƠNG IV
NHỮNG QUYỀN NĂNG TÂM LINH
QUYỀN NĂNG TÂM LINH
Cũng như việc sở hữu một sức mạnh thể lực phi thường, việc sở hữu các quyền năng tâm linh không nhất thiết phải đòi hỏi đạo đức. Đúng là một người bước chân lên đường Đạo sẽ nhanh chóng phát hiện các quyền năng này phát triển trong y, nhưng có nhiều quyền năng có thể đạt được mà không cầ