Đời Đạo lư

Dịch giả : THƯỢNG CHI

TỰA



Sách « Đời Đạo lư » (La Vie sage) dịch đây là của ông Y sĩ PAUL CARTON, nhận một tập thơ cổ Hi lạp đề là « Kim Thi» (Les vers d'or) của phái PYTHAGORE dậy về đạo làm người, bàn rộng nghĩa ra để làm bài học xử thế cho người đời nay.

«đời đạo lư » là cái đời theo đạo đức nghĩa lư, trái với đời vật dục, là cái đời theo vật chất thị dục. Người ta đă là giống khôn ngoan hơn vạn vật, thời cách sinh tồn cư xử ở đời cũng phải có một cái ư nghĩa sâu xa, chứ nếu cứ quanh quần trong ṿng ẩm thực nam nữ, th́ có hơn ǵ con vật, mà sao cho đáng gọi là người! Bởi thế nên các bậc cổ triết Đông Tây sớm đă để tâm về đạo xử thế, thường suy xét nghĩ ngợi để đặt ra phép tắc có thể khiến cho người ta thoát ra ngoài ṿng vật dục mà tiến được lên cơi đạo lư.


PYTHAGORE (Tầu dịch là Tất đạt kha lap ti), là một bậc hiền triết cổ Hi lạp, sống vào khoảng năm sáu trăm năm trước Gia tô giáng sinh, gần đồng thời với Khổng phu tử nước Tầu. Ông có mở trường dậy học, đem những nghĩa lư sâu xa về nhân sinh, về vũ trụ, giảng cho học tṛ nghe, cốt gây lấy một hạng người thuần túy sáng suốt để làm khuôn làm mẫu cho loài người. Trường học ông có ảnh hưởng lắm, nửa là một học đường, nửa là một đạo viện, có cái tính cách thâm trầm về tôn giáo. Các sách có truyền rằng ông có trước tác nhiều, nhưng sách vở ông ngày nay không c̣n lại ǵ cả.

Duy có một tập thơ nhỏ đề là «Kim Thi» của đệ tử ông tên là Lysis soạn, để tóm tắt cái tinh túy của đạo ông. Tập thơ ấy c̣n truyền đến nay.

Y SĨ PAUL CARTON do nguyên văn Hi lạp dịch ra chữ Pháp, rồi đem mỗi đoạn mỗi câu ra b́nh luận chú thích, chung với các tư tưởng học thuyết đời nay, lấy cách ngôn của cổ nhân làm bài khuyến giáo cho người đời.

Giữa lúc quốc dân ta đương phân vân về đường xử thế, đạo luân lư cũ đă suy vi, cách cư xử mới chưa nhất định, những sách như sách này rất nên truyền bá ra, đề giúp tài liệu cho suy nghĩ của các nhà hữu tâm về thế đạo. Điều nghĩa lư, dù cổ kim Đông Tây đâu cũng là một, cho nên tuy là lời cổ triết Hi lạp mà so với lời cổ triết Trung Hoa thật không khác ǵ, tuy là lời nói tự hai ngh́n năm trăm năm về trước mà đem ra ứng dụng đời nay cũng không phải là không thích hợp vậy.


Sách này truyền bá ra c̣n điều ích lợi nữa, là khiến cho các độc giả biết cái cách người đời nay có thể giải thích về các nghĩa lư xưa thế nào, đem câu cổ văn xa xôi vắn tắt, có khi mờ tối mơ màng, mà nói rơ ra cho sáng sủa gẫy gọn, rộng ra cho gồm hết mọi lẽ, sâu ra cho thấu suốt đến nơi mà hội được cái tinh lư tinh nghĩa vậy. Nếu những sách cổ của các thánh hiền Đông phương ta mà cũng có người đem ra diễn dịch giải thích được thế, th́ nền cổ học của ta sẽ lại có sinh sắc biết bao nhiêu!

Y sĩ CARTON có cho phép chúng tôi dịch sách Đời Đạo Lư ra quốc ngữ. Y sĩ c̣n trước tác nhiều sách nữa, giảng về tự nhiên triết học, tự nhiên y học.
 
Chính y sĩ là người chủ trương một học phái gọi là " Tự nhiên phái " (Ecole naturiste), phái này về y học th́ dạy rằng phàm tật bệnh là bởi trái lẽ thiên nhiên mà sinh ra, muốn tránh khỏi th́ phải thuận theo phép dưỡng sinh tự nhiên của trời đất; về triết học th́ dạy rằng mọi sự hạnh phúc ở đời cũng là bởi thuận lẽ tự nhiên của trời đất cả, người ta muốn cho cư xử ở đời được phải đạo th́ không nên bao giờ làm trái lẽ thiên nhiên. Lẽ thiên nhiên đây tức cũng như thiên lư, thiên đạo trong Khổng giáo. Trong trời đất, nếu vạn vật, mà người cũng là một giống như muôn giống khác, biết thuận theo lẽ trời hết cả, th́ vũ trụ sẽ được yên ổn, thế giới sẽ được thái b́nh. Chỉ bởi có kẻ làm trái lẽ trời, cho nên mới sinh ra mọi sự quái gở chêch lệch, mọi sự tật bệnh khổ thống.

Muốn chữa sửa lại th́ phải làm cho sáng đạo trời, tức là lẽ thiên nhiên.

Xem như thế th́ tư tưởng của y sĩ cũng có chỗ thâm trầm xuất sắc. Nếu sách dịch này được độc giả hoan nghênh, th́ chúng tôi sẽ xin phép dịch dần các sách khác.

DỊCH GIẢ CẨN CHÍ


LỜI TỰ LUẬN


Phàm đă gọi là chân lư th́ bao giờ cũng chỉ có một, ngh́n năm không hề thay đổi, v́ là gồm cả muôn lẽ và thuộc về tuyệt đối. Chân lư in khắp trong vũ trụ, vạn sự vạn vật đều có dấu vết cả.

Nhưng mà cần phải t́m ṭi mới thấy được, v́ thường tiềm tàng mà không rơ ra, để cho người ta phải dụng công mới phát minh ra được, đến khi đă hiểu được th́ cái khoái lạc bấy giờ sẽ bù lại cái công phu lúc trước vậy.

Chân lư là đại đồng phổ biến, cao vượt cả ra ngoài các thời đại, các thế giới. Vậy thời đối với đời nào giống nào cũng là một, và thuộc về phạm vi nào trong cơi trí thức cũng đều giống nhau hết cả. Bởi thế nên các đường lối cho đạt tới chân lư không phải có một và thường vẫn khác nhau lắm.

V́ đó mà từ đời thượng cổ, các bậc hiền triết lỗi lạc, tuy không được những tài liệu khoa học phong phú như ngày nay, mà đă biết phát minh ra các phép tắc lớn trong vũ trụ, khám phá được nguyên nhân cùng cứu cánh của người ta, quan niệm được rơ các đặc tính của quỉ thần, định ra được các luật về nhân quả, về tiến hóa, về cứu cánh của vạn vật, và nhân đó suy diễn ra những lễ phép xử thế hợp với nhân đạo và hợp với lẽ thường.

Khoa học duy vật đời nay, thờ sức vật chất như một vị thần tối tăm mà mạnh bạo, lấy cái chủ nghĩa định mệnh của vật chất làm một cái luật nghiêm khắc vô cùng, và cho các sự xẩy ra trên trường thiên diễn là bởi sự ngẫu nhiên khiến nên cả, rồi có ngày sẽ thấy rằng đó toàn là những điều của cổ nhân biết đă lâu đời rồi, như luật vạn vật đồng thể, vạn vật tiến hóa, vạn vật tuần hoàn, toàn là những cái thuyết cổ của các triết học tôn giáo đời xưa lưu truyền lại, mà đời nay khoa học chẳng qua là đem ra mà chứng nghiệm lại về một phương diện thuần vật chất mà thôi, làm cho hẹp mất ư nghĩa đi vậy.

Thế nghĩa là các nguồn chân lư ở đời là do cái công phu t́m ṭi tin tưởng chung của cả loài người, và nếu người ta có con mắt sáng suốt thời dẫu trong những lời lẽ vụng về mộc mạc cũng có thể t́m được cái ánh sáng chân lư ở đó.

Tuy nhiên, xét lịch sử loài người thời thấy thời xưa có những bậc thiên tài siêu việt, có cái sức mạnh bao gồm được cả những điều sở đắc của đời trước, những lẽ trực giác mà biết được, cùng những sự kinh nghiệm chung của khoa học, lấy cái trí sáng suốt mà quán thông được cả, khiến cho gây dựng được những học thuyết thâm trầm cùng những phép xử thế rất khôn ngoan, thật là đáng cho người đời kính phục vậy.

Trong những bậc đại trí siêu việt đó, có một người sáng sủa hơn nhất, hoàn toàn hơn nhất là PYTHAGORE nước Hi lạp, lời dăn dạy chép trong tập «Kim Thi» (Vers d'or), đem những điều trí thức cùng điều tín ngưỡng, đem Khoa học với Tôn giáo là hai mối thường phản trái nhau mà điều ḥa dung hóa làm một.

PYTHAGORE thật là cái kiểu mẫu tuyệt luân để làm gương cho người đời, phàm ai có bụng ham muốn có " một cái hồn bằng vàng ở trong cái xác bằng sắt" (une âme d'or dans un corps de fer), phàm ai khao khát cho tới được cơi chân lư, khiến cho bản thân ḿnh được sáng suốt và được hoan hỉ, thời phải soi cái gương ấy mà noi theo vậy.

PYTHAGORE sinh ở đảo Samos, vào khoảng 580 năm trước Gia tô. Cha là MNÉSARCHUS cho được học hành đến nơi đến chốn, nhờ những tay danh sư dạy cho triết học, số học, thi ca, âm nhạc cùng thể thao. Nhân sự giáo dục rộng răi đó mà lại càng mở mang thêm cho ông cái khiếu tự nhiên ham cứu xét về lẽ trời đất, cái trí sáng suốt vừa biết phân tích, vừa biết tồng hợp các sự lư.

Đă có cái vốn học thức như thế, lại c̣n muốn học thêm cho thâm trầm quảng bác ra nữa, bèn đi du lịch các nơi để khảo sát chế độ của các dân các nước, t́m đến những nơi đền phủ có tiếng để học lấy cái đạo bí truyền. V́ đời xưa, sự học hoàn toàn là sở đắc ở các nơi tự viện, người nào muốn cầu cho được toàn trí toàn tài thời phải vào nơi kín đáo mà chịu lấy phép màu, nghĩa là tiếp thụ lấy những lẽ cao siêu về tôn giáo, về cách tri, về triết học, gồm lại có thể khiến cho người ta khám phá được mọi lẽ cùng cực trong vũ trụ, mà tiến thân lên những địa vị cao quí ở trên đời.

Trước đến đảo Crète, rồi đi du lịch qua các tỉnh lớn ở Hi lạp. Sau khi đă chịu lễ "Thụ nhạc" (Initiation Orphique), và đă hiểu rơ cái ư nghĩa thần diệu sâu xa của âm nhạc rồi, bấy giờ mới nghĩ ra muốn dựng lên một cái đạo mới gồm được cả các bộ phận trong cơi học của loài người mà lại có thể đem ứng dụng ra việc đời được vô cùng vậy. Bèn đi sang đất Ai cập. Truyền rằng ông đến các nơi đền phủ ở xứ ấy, chịu phép mầu trong hơn hai mươi năm. Ông chuyên chủ đệ nhất về khoa thần số (Mathématiques sacrées), là một khoa học bí truyền, ông định dùng làm trụ cốt cho cái đạo của ông lập ra. Ở đó mới học được cái bí quyết trong đạo thiên diễn, là cái phép mầu khiến cho cuộc tuần hoàn trong trời đất khi thăng khi giáng, thần trí giáng xuống mà sáp nhập vào vật chất, rồi lại thăng lên mà ḥa đồng với thái cực, là nhờ ở cái tinh lực của vạn vật dần dần có ư thức ra, lan rộng ra khắp các giống sinh vật ở trên mặt địa cầu này.

Ông ở Ai cập gặp giữa lúc nước ấy bị quân của tướng Cambyse nước Babylone đến đánh phá tàn hại, trong nước đảo điên hết cả. Ông bị bắt đem về Ba ti luân. Đến đấy gặp những giáo sĩ nước Chaldée, những thuật sĩ nước Ba tư (Perse), dạy cho biết các phép màu của những đạo cổ Ấn độ và Ba tư, nhất là biết cái thuật bí truyền dùng lời nói một cách huyền diệu khiến cho có cái sức mạnh thần thông vô cùng. Lại học được khoa thiên văn bí truyền, biết được chân lư về phép tinh tú chuyển vận. Plutarque có thuật rằng PYTHAGORE vẫn tin rằng địa cầu có chuyển động và không phải là đứng giữa trung tâm thế giới, mà thật là xoay trên ḿnh mà chạy ṿng quanh mặt trời, mới sinh ra có ngày có đêm thay đổi nhau.

Bấy giờ thời phàm người đời có thề biết được điều ǵ, ông đă biết hết cả, mới được tha mà trở về quê nhà ở Samos; kể cái thời kỳ đi vắng có tới hơn ba mươi năm trời vậy. Ở xứ sở được ít lâu, rồi định di cư sang một đất thực dân của Hi lạp ở Ư đại lợi. Chọn trong các nơi, rồi quyết đến ở thành Crotone. Đến đấy lập ra một trường học, liền nổi danh lừng lẫy, ảnh hưởng sâu xa. Ông sửa đổi phép chính trị ở đấy và truyền bá ra những phương pháp giáo hóa rất cao thượng.

Cái sức cảm hóa của ông sâu xa vô cùng. Xem những sách truyện kư cổ về ông, thấy nói ông là người cao lớn mà tầm thước, mặt mũi khôi ngô mà có vẻ trang nghiêm đáng phục, giọng nói hùng hồn cảm động, mặt nh́n vừa có cái oai kẻ cả mà lại vừa có cái vẻ dịu dàng. Xét cả dung nghi diện mạo ông như có một cái thần lực rất mạnh, khiến cho người ta phải kính mà phải sợ. Đă có cái uy nghi như thế, lại c̣n có cái tính nghiêm cẩn không nói những lời phù phiếm hay những giọng hài hước, khi nào cần phải nói thời lời lẽ dông dả mạnh mẽ như có cái sức mạnh lôi kéo người ta đi được, mà tư tưởng thời cao siêu hùng tráng vô cùng. Nói tóm lại, tự ông đă có cái sức thần mạnh, mà sở đắc những phép mầu của các bậc thánh triết truyền lại, cho nên chẳng bao lâu mà cải hóa được cả tự tâm tính cho đến sự hành vi của kẻ đồng bang. Truyền rằng ông thuyết pháp lần thứ nhất ở thành Crotone, hóa được hai ngh́n người theo đạo ông. Quan hữu tư bèn giao cho ông việc giáo hóa bọn thanh niên cùng việc sửa sang các chế độ trong thành. Lại nhiều thành khác ở Ư đại lợi, cũng nhờ ông sắp đặt pháp luật mới, ông chọn lấy những người khá giả hơn cả, nghĩa là có học thức và đức hạnh hơn cả, mà trao cho quyền cai trị.

Cái chính thể ông dùng đó tức là chính thể quí tộc mà biết khéo châm chước cho thích nghi vậy. Ở nơi nào xét ra không cần phải sửa đổi những chế độ hiện hành, thời ông chỉ định trật tự cho phân minh, đặt kỷ luật cho nghiêm nhặt, khiến cho thể thống được duy nhất, đó là những phép tắc cần cho một xă hội được vững vàng yên ổn, thịnh vượng thái b́nh.

Đi đến đâu, ông cũng dạy nhân nghĩa cho người đời, cố công chỉ bảo cho người ta cái cách giữ cho thân thể được mạnh khỏe, linh hồn được kiện toàn. Celse là bậc danh y La mă về đầu thế kỷ thứ nhất, vẫn thường suy tôn ông là nhà triết học sành về y lư hơn cả. Cái học của ông rất rộng, cái đạo của ông rất sáng, cái oai của ông rất lớn, khiến cho thiên hạ tôn ông như một bậc nhân thần vậy.

Ở trường học ông lập ra ở Crotone, ông muốn ra sức thực hành cho được cái lư tưởng đạo đức của ông. Điều cốt yếu trong sự nghiệp giáo hóa của ông, là cho rằng người ta cùng xă hội chẳng qua là cái h́nh ảnh thu nhỏ của vũ trụ, cho nên cũng theo phép tắc chung của vũ trụ mà khuynh hướng cả về một cái mục đích tấn tới vô cùng, hạnh phúc vô cùng. Bởi nhân loại cùng với vũ trụ là cùng nguyên nhân, cùng thể cách, cùng tiến hóa, cùng mục đích như nhau, cho nên ông muốn cho trong mọi cách sinh hoạt của người ta, trong phép tu thân cũng như trong phép trị quốc, đều nên theo cái trật tự, cái thể thống chung của trời đất vậy. Phàm mọi sự mọi vật ông đều muốn cho thể được ư của Tạo vật, về tâm lư thời theo được đúng những phép tắc công b́nh chính trực, đạo nghĩa trung thành, về vật lư thời theo được đúng những cách thức sinh hoạt tự nhiên, cư xử giản dị của thiên nhiên.

Cách giáo hóa của ông là chủ lấy điều ḥa kiêm bị cả, và bao gồm cả các phạm vi hành động của người ta. Ông muốn làm thế nào cho trong một người vừa kiêm được cả cái thể lực rất mạnh mẽ, cái khí lực rất sung thiệm, cái trí lực rất cương cường, mà hết thẩy các năng lực đều được hoàn toàn ḥa hợp với nhau cả.

Muốn cho thỏa hợp được cả các khuynh hướng trong người ta, ông khéo lợi dụng cả khoa học, triết học cùng tôn giáo. Ông dùng tôn giáo làm khoa học, dùng khoa học làm tôn giáo. Lấy cái lư tưởng Thượng đế tuyệt đối làm phương châm, làm cứu cánh cho cả sự nghiệp.

Ông tưởng tượng rằng đến ngày nhân loại tỏ tường được căn nguyên cùng số mệnh của ḿnh, hiểu biết được cái trách nhiệm của ḿnh phải sống ở đời cho được khang toàn và được ḥa thuận, phải thành thực mà tuân theo cái luật sinh hoạt tự nhiên, thời bấy giờ sẽ tự nhiên bước chân vào con đường tiến hóa, không phải chịu lắm sự trắc trở khốn nạn, không phải gặp lắm nỗi tai vạ bất thường, đến khi ấy th́ trên mặt đất này sẽ mở ra một đời hoàng kim thời đại vậy.

Ông biết rằng những cái lư tưởng cao siêu như thế, người ta không phải là ai ai cũng có thể thấu hiểu được, nên trong phép dạy của ông cũng theo như ở các nơi đạo viện, chia người ta ra hai hạng. Hạng đa số là những người tŕnh độ c̣n kém, thời chỉ cho biết những điều ǵ có thể hiểu được, có thể làm được mà thôi. Về phần đạo lư, cũng dạy cho những lẽ thiển cận mà thôi, Bởi thế nên thường thường vẫn cho giữ các đạo cũ tục xưa cùng những truyện thần thoại ly kỳ. Lại bắt theo những lễ phép cùng kỷ luật riêng, có lẽ đối với bậc trí giả th́ cho là sai lầm quá lạm, nhưng đối với kẻ tầm thường chất phác th́ cần phải có để giữ cho khỏi sai đường chính vậy.

C̣n hạng tŕnh độ trí thức đạo đức đă cao, thời mới dạy cho cả toàn thể đạo lư cùng những phép bí truyền màu nhiệm. Hạng này mới cho vào trường học đạo. Bắt đầu phải thi vào bậc "học đồ" (novices), rồi phải qua một thời kỳ tập luyện thí nghiệm từ hai năm đến năm năm, trong khi ấy phải tập cách ăn uống cho thanh đạm và trong sạch, lập cách cư xử cho ngay thẳng và đứng đắn, tập lấy tính khắc kỷ, lấy thói yên tĩnh, lấy bụng chế dục, lấy trí phán đoán, và lấy cho thân thể quen nhẫn nại.

Bấy giờ mới xét người nào có tư cách xứng đáng, cho được đến gần thày, tự miệng thầy dạy cho các phép màu bí mật. Được lần lượt học về Thượng đế, về vũ trụ, về vạn vật, cho biết cái lẽ muôn loài cùng một bản thể; lại học về y pháp tự nhiên và y pháp thần bí, về phép thần số bí truyền, về cái ư nghĩa sâu xa của các tự hoạch, các dấu hiệu cùng các lễ thức ly kỳ; lại học về phép vạn vật luân hồi, thiên h́nh chuyển biến. Dần dần rồi tự mở mang được cái trí giác ngộ, bấy giờ là tiến lên cơi đạo đức vậy.

Ở đạo viện, cách sinh hoạt của kẻ đệ tử đă qui định kỹ càng lắm. Sáng dạy bắt đầu cầu nguyện, rồi đi bách bộ ở nơi vắng vẻ, tĩnh tâm mà tự tỉnh, để dự bị công việc trong một ngày. Rồi vào tập âm nhạc một lúc, có xướng ca, có khiêu vũ, lại có thể thao nữa. Trong khi thể thao có kích động đến thân thể, vậy muốn cho cơ thể lại điều ḥa, thời ra tắm gội, chủ ư cho trong người được trong sạch và thân thể được khang cường. Đoạn rồi vào học, cho đến giờ ăn, bữa ăn là công đồng cả. Đồ ăn th́ phàm thức ǵ thuộc về giống đă ăn thịt giống khác mà sống, là tịnh không dùng đến, chủ ư giữ cho cái tinh lực người ta được thuần khiết. Ăn uống phải cho tiết độ, lại có định những thời kỳ thụ trai đoạn thực, để cho tăng thêm cái nghị lực của các đệ tử. Rồi đến b́nh sách đọc văn, đọc to lên để cho các đệ tử vào tay thông minh lỗi lạc được bàn bạc giảng giải. Chiều đến lại đi tản bộ một lần nữa, nhưng lần này là đi cùng cả với nhau. Các đệ tử, bất luận việc ǵ, phải nhất thiết phục ṭng mệnh lệnh người trên, là những người tài trí đức hạnh hơn ḿnh, chủ ư để lấy trật tự tôn ti và nuôi ḷng cung kính lễ nhượng.

Phép giáo dục của ông bành trướng ra mau lắm và kết quả được rực rỡ. Học phái của ông rồi lập ra nhiều chi nhiều nhánh ở các tỉnh thành Ư đại lợi và Hi lạp. Đâu đâu thiên hạ cũng phục cái chủ nghĩa của ông, cho là chân lư đích đáng, ảnh hưởng trong nhân tâm, trong chế độ rất là sâu xa.

Phong tục tư tưởng v́ đó mà biến cải mau quá, Duy tŕnh độ dân trí đời bấy giờ hăy c̣n thấp kém, chưa thể hiểu được những lư tưởng cao xa về cá nhân, về xă hội như thế. Bởi thế nên các thầy trong học phái PYTHAGORE đi đến đâu cũng dạy được cho người ta biết ăn ở theo đạo công bằng, hợp lẽ tự nhiên, nên dần dần những kẻ phàm phu tục tử là phần đông người muốn nổi lên để kháng cự mà khuynh đảo đi. Cũng có lẽ trong việc cải cách này có điều cấp tốc, không được thong thả tuần tự chăng? Nhân đó thành ra có xung đột. V́ một việc dân thành Sybaris bị đuổi, chạy trốn sang thành Crotone gần đấy, dân Crotone vui ḷng cho ở, thế mà thành ra hai bên gây cuộc binh đao. Đánh nhau rất dữ, bên Sybaris tuy nhiều người hơn mà bị thua bên Crotone, là nhờ bên này được tay lực sĩ trứ danh trong phái Pythagore tên là MILON đứng cầm quân. Cách người Crotone đối đăi với quân hàng tàn nhẫn quá, thành Sybaris bị triệt hạ hẳn. Phàm sự phá hoại vô chừng vô độ, thường sinh ra cái ḷng tàn nhẫn ở người phá hoại, và hay gây ra cái họa ác báo tương đương. V́ dân Crotone làm quá, mà phái PYTHAGORE đến phải gián tiếp chịu ác quả.

Nhân có những kẻ ác tâm v́ bất tài mà đem ḷng oán giận, trong bọn đó có một tên Cylon, xưa bị PYTHAGORE băi ra không cho được liệt vào hạng đệ tử thượng tọa, v́ tính hắn hung bạo, không biết theo kỷ luật, tự đó đem ḷng thù hằn, gây ra cuộc phản đối, mỗi ngày một to. Chúng trách phái PYTHAGORE là muốn đoạt quyền chính trị, phạm đến dân quyền, bèn nổi lên cuộc cách mệnh, phá hoại nhà đạo viện ở Crotone. Trong đồ đệ, người nào tránh được khỏi tay hung tàn th́ bị ly tán đi mọi nơi. Có nhà làm sách quyết rằng chính PYTHAGORE chạy trốn vào nhà Milon bị chết cháy. Nhưng cứ cái thuyết thông thường nhiều người cho là phải, th́ ông chạy được về Hi lạp, đến ở Métaponte, c̣n dạy học nữa, măi đến năm 90 tuổi mới mất.

Ảnh hưởng của Pythagore thật là to tát vô cùng. Nhờ ảnh hưởng ấy mà đă tạo thành được hai bậc thiên tài của Hi lạp là Socrate và PLATON. Có thể nói rằng ảnh hưởng ấy ngày nay cũng vẫn c̣n, tuy không lộ ra, nhưng quyết có hẳn. Những điều chân lư ông truyền dạy ra, ngày nay c̣n có thể phục hưng được, là nhờ được cái khoa học đời nay chứng thực thêm vào, lại nhờ được đạo hỉ xả bác ái của đức Gia tô đă đem truyền bá cho người đời. Tổng hợp cả các đạo lư ấy lại thời sẽ thành một nền đạo đức rất sáng sủa, rất cao siêu, đủ khiến cho trí người được sáng suốt và các điều chân lư, công nghĩa, ḥa b́nh sẽ được thực hiện trong loài người vậy.

Nói về tập «Kim Thi» của phái Pythagore

Truyền rằng PYTHAGORE Có làm nhiều sách (có nơi kê ra đến mười lăm quyển). Hai quyển chính là sách "Luận về Vũ trụ" (De l'Univers) và sách "Luận về Thần ngữ" (La parole sacrée), hai quyển ấy có lẽ là viết bằng thứ chữ hiệu riêng, v́ chỉ truyền dạy cho ít kẻ học đạo đă thành công mà thôi. Hai quyển ấy, không có quyển nào là truyền được đến ta. Thành ra đạo PYTHAGORE đời này chỉ được biết đại khái, nhờ sách vở của các đệ tử ông mà thôi.

Tập thơ nhỏ đề là "Kim Thi", truyền là của người đệ tử tên Lysis soạn ra để làm như một quyển kinh nhật tụng tóm tắt những điều đại cương dạy trong các trường của phái PYTHAGORE, chủ ư là giữ lại cho đúng cái đạo của thầy ḿnh và truyền ra cho rộng vậy.

Cứ như lời HIEROCLÈS là người đă truyền lại và chú thích tập thơ này, th́ tập Kim Thi chính là gồm được tinh túy của đạo PYTHAGORE, v́ có luật bắt các đệ tử sớm chiều phải đem ra tụng đọc và ngẫm nghĩ.

Mới xem ra th́ những lời răn dạy trong tập thơ này, h́nh như lộn xộn, không có thứ tự ǵ. Nhưng mà xét kỹ ra mới biết rằng cách sắp đặt thật là khôn khéo lắm, cứ tuần tự mà phát siển ra, nghĩa lư sáng sủa vô cùng. Trong bản dịch của chúng tôi đây, chúng tôi muốn tiêu biểu cho rơ cách sắp đặt của tác giả đó, nên có đặt ra cương mục để lần lượt theo đó mà chú thích.

Phần thứ nhất là "Thời kỳ chuẩn bị » (la Préparation), dạy về phép thờ Thượng đế cùng các Thần minh, là những đấng cao xa hơn loài người, để làm cái gốc cho mọi sự hành vi của người ta cùng của xă hội. Phần thứ nh́ là « Thời kỳ tinh luyện (La Purification), dạy về cách thờ nhân loại ở gia đ́nh, ở xă hội, ở bản thân ḿnh, bằng ḷng bác ái, t́nh thân thiện. Nghĩa vụ người ta đối với bản thân ḿnh thời chia ra phần linh tính và phần nhục thể, nghĩa là cách chăm chút cho tinh thần và chăm chút cho thân thể. Lần lượt dạy về tính khắc kỷ, ḷng thành thực, chính trực, cẩn thận, khoan dung, trí suy nghĩ, biện biệt, viễn lự, tiên kiến, tính cần lao, thói lễ nhượng. Rồi dạy đến cách chăm chút cho thân thể, nhất là sự ăn uống phải cho trong sạch và điều độ và chú trọng về phép thể thao.

Người đệ tử đă qua được hai thời kỳ chuẩn bị và tinh luyện rồi thời phải có cho tinh tiến măi lên mà nói được tới các phép màu huyền diệu. V́ trước phải thuộc các nhân sự đă, rồi mới tới cơi thần bí được. Phần thứ ba đó là "Thời kỳ thành đạo" (la Perfection); người đệ tử đă thuộc các phép tự kiểm, phép tư niệm, đă có ḷng tín ngưỡng, ḷng đạo đức rồi, thời bấy giờ dùng phép cầu nguyện để cho trực giác các manh mối trong vũ trụ và tới được cơi trí đạo huyền bí. Đến được đấy thời có phép thần thông trác kiến, thấu hiểu được các lẽ u ẩn trong nhân sự và trong thiên diễn.

Cơi trí tuệ bấy giờ như mở rộng cửa ra. Kẻ học đạo đă thấu được lẽ huyền vi; trong người thấy hoan hỉ vô cùng, đời hiện kim sẽ được thảnh thơi b́nh tĩnh, mà cuộc lai sinh sẽ được vĩnh viễn cực lạc.

Phép giáo dục loài người mà đến thế là hoàn toàn tuyệt diệu vậy. Phàm trí thức phải lấy đấy làm gốc, phàm tổ chức phải lấy đấy làm nền. Phép ấy là cái yếu tố cho sự tiến bộ, sự ḥa b́nh của cá nhân cùng của xă hội. Phép này phân tích đă tinh vi mà tổng hợp lại chu đáo. Nhất diện thời trong phép tu luyện cá nhân, không có một điều tiểu tiết nào là không nói đến. Nhất diện thời ngoài những bài học vụn vặt, những lời dạy nhỏ nhặt, không khỏi phiền tạp tế toái, lại đặt ra hẳn một khoa học đạo hoàn toàn, theo đúng như kỷ cương mục đích của tạo vật.

Trong khoa học này th́ người ta không phải là độc lập đối với Thượng đế, đối với vạn vật ở ngoài. Nhờ khoa học này mà người ta biết rằng cái nguồn sinh hoạt của ḿnh, cái sức hành động của ḿnh, cái phương tiện tiến hóa của ḿnh cùng cái cứu cánh hạnh phúc của ḿnh, là trước nhất ở nơi Thượng đế, là đấng sinh thành tạo hóa ra ḿnh; rồi là ở cái công phu công cộng của cả vạn vật cùng nhân loại, không có vạn vật cùng nhân loại th́ người ta không thể sao sống c̣n được; sau hết là ở chính bản thân ḿnh, v́ bản thân ḿnh chính là phát sinh tự Thượng đế mà ra và là chung đúc cả cái sức sinh hoạt của tạo vật.

Cái tôn giáo đại đồng đó vừa bao gồm cả Thượng đế, cả vạn vật, cả nhân loại, cả bản thân người ta, khiến cho mỗi người có cái nghĩa vụ phải thờ Thượng đế, phải thương yêu các giống các vật, phải quí trọng kẻ khác và cả ḿnh nữa, và lại khiến cho mỗi người có đủ các lẽ chánh đáng để tu luyện lấy ḿnh về đường trí dục đức dục vậy.

Vậy thời về phương diện tự kỷ giáo dục, đạo PYTHAGORE muốn cho mỗi cá nhân vừa gồm được cái tinh thần rất sáng sủa cùng với cái tinh lực rất thuần túy và cái thân thể rất kiện toàn, thật là một phép tu dưỡng nhân cách rất điều ḥa và rất chỉnh bị vậy. Trong phép này, tinh thần thật là chủ trương cho vật chất, các tinh lực vận động các cơ quan một cách êm đềm nhặm lẹ, c̣n thân thể thời giữ hết bổn phận làm cái khí cụ tiện lợi để giúp cho tinh thần tấn tới. Như thế th́ cuộc sinh hoạt tất là phải được điều ḥa, tất là sẽ được khoái lạc vậy.

Có một điều quan hệ hơn nhất cả, là cái kinh phúc âm mới của đạo xử thế đó, bày tỏ cho chúng ta biết rằng ḷng khuynh hướng về Thượng đế là cái luật sống của vạn vật chúng sinh, sự nỗ lực tự do của cá nhân là cái phương tiện cho đạt tới, ḷng nghĩa vụ là cái phép tắc cho tới được, và ngoài cơi đời hiện tại c̣n có vô số những cuộc đời lai sinh; tùy cái nghiệp ta ở đời này tốt hay xấu mà đời sau sẽ báo ứng tốt hay xấu vậy.

Đó là những điều chân lư cốt yếu, các bậc đại triết đại giác đời xưa đă phát minh tuyên bố ra, để làm kim khoa ngọc luật cho muôn đời, đời nọ sang đời kia phải lấy đó để làm gương vậy. Cái lư tưởng bao hàm ở trong các điều đó, có lẽ diễn ra theo những danh từ biểu hiệu khác nhau, theo những cách thức tư tưởng mới lạ, những cái phép tắc cốt yếu th́ cổ kim vẫn là một, đại đồng mà tiểu dị, thật là lẽ phải muôn đời, đời đời mới mẻ vậy.

Tại Brévannes ngày tháng 12 năm 1915.
 


Dịch tập « Kim Thi » của phái

Pythagore

THỜI KỲ CHUẨN BỊ


Thờ Thượng đế. Người ta phải có tôn giáo. Trước hết phải nên thờ phụng Thần minh, theo như pháp luật đă định. Đă đem ḷng thề nguyền tín ngưỡng, th́ phải giữ cho có thủy có chung. Rồi th́ nên tùy theo phép thường, sùng phụng những bậc Hào kiệt Anh hùng, những bậc Thần nhân Thánh triết.
 

THỜI KỲ TINH LUYỆN


Thờ gia đ́nh.


Người ta phải yêu mến cha mẹ. 
Phải biết thờ gia đ́nh; phải làm trọn nghĩa vụ đối với cha, với mẹ, với cả các bà con họ hàng.

Thờ bè bạn.
Người ta phải yêu mến kẻ đồng loại của ḿnh.   Bè bạn phải chọn lấy người nào là thuần lương đức hạnh hơn cả. Bạn khuyên nhủ, phải nghe lời, bạn chỉ bảo, phải theo gương. Đừng nên v́ điều lỗi nhỏ mà xa mất bạn, nếu biết cố gắng hết sức cũng có thể giữ được, v́ chủ trương sự đời vừa thuộc vận mệnh mà cũng vừa thuộc ư chí nữa.
 
Tu luyện ḿnh. A). Tu luyện về tâm trí.
Phải biết khắc kỷ. – Rồi lại phải biết sửa ḿnh cho thắng được t́nh dục, cho biết tiết độ, biết cần cù, biết thanh tĩnh. Đừng nên giận dữ bao giờ.

Phải biết thật thà ngay thẳng công bằng. 
  Đối với kẻ khác cũng như đối với riêng ḿnh, phải nên thế nào cho không có điều ǵ tự trách được. Mà trước hết phải biết tự trọng ḿnh. Nhất thiết một đời, phàm mỗi câu nói, phải theo cho đúng lẽ công bằng.

Phải biết suy nghĩ.
– Đừng có tập cái thói quen ù ĺ gập sao hay vậy, nhưng phải biết nghĩ rằng cái số phận chung của người đời là cái chết, và phàm tài sản vật chất, có rồi mất đi, cũng dễ dàng như không vậy.

Phải biết vững ḷng mà làm việc.
C̣n như cái thân phận tự lẽ trời bày định, th́ dù khó nhọc thế nào mặc ḷng, cũng đừng nên oán trách, cứ b́nh tâm mà chịu lấy, và cố gắng chỉnh đốn cho được hơn lên. V́ kẻ đạt nhân quân tử vẫn được thần minh phù hộ cho khỏi phải chịu những cái tai to nạn lớn.

Phải nên khoan dung và kiên nhẫn.
Trong ư kiến người ta thường là lẫn lộn cả điều phải điều trái. Vậy chớ có nên theo theo hẳn hay bỏ bỏ cả, mà nên lấy sự điều ḥa của ḿnh. Nếu điều trái được tạm thời thắng lợi, th́ nên lánh xa mà đợi thời.

Phải có cái trí phán đoán cho ngay thẳng và cho vững vàng.
– Điều ta nói đây, phải nên để ư luôn mà theo cho đúng. Lời nói việc làm của kẻ khác, chớ nên a dua mà không suy nghĩ. Khi nào đă lấy lẽ phải mà suy xét biết theo đường nào là hơn, th́ bấy giờ hăng nên nói, nên làm. Trước khi hành động phải nên suy tính, như thế th́ khỏi làm những điều vô lư. Người ta thường bị khổ sở, chính là bởi làm và nói không có điều độ, không có phép tắc vậy.

Phải nên biết pḥng xa. 
Phàm quyết định một điều ǵ, phải nên biết dự tính cái kết quả xa xôi về sau này thế nào, để cho không bao giờ phải hối hận.

Phải biết khiêm tốn.
Cái ǵ thực ḿnh không biết, đừng nên tự phụ muốn làm. Nhưng phải biết thừa dịp mà học cho biết thêm. Như thế thời đời ḿnh sẽ có hứng thú vô cùng.

B) Tu luyện về thân thể.
Phải ăn ở cho thanh sạch và hợp với sinh lư. Phải tập thể thao. Lại phải chăm chút cho thân thể được mạnh khoẻ. Đồ ăn, đồ uống, cách tập luyện cần dùng, phải nên cho có điều độ. Hễ biết giữ cho điều độ thích nghi, th́ không bao giờ đến nhu nhược ủy mị. Cho nên phải tập cho quen cách ăn ở cho thuần khiết và cho nghiêm nhặt.

Phải nên cẩn thận.
Theo cách ăn ở như thế, không nên khoa trương, để khỏi dục ḷng ghen ghét của kẻ vô tri vô thức.

Phải nên điều độ.
Đừng có bắt chước những kẻ không biết suy xét, hoặc là ăn tiêu quá sự cần dùng, hoặc là tần tiện quá đến bủn sỉn, nhưng nhất thiết phải giữ lấy đạo trung b́nh là hơn cả. Vậy đừng nên làm ǵ có thể hại được đến ḿnh và muốn được như thế th́ trước khi hành động phải nên suy nghĩ.
 

THỜI KỲ THÀNH ĐẠO


Các phương tiện tinh tiến.


Phải nên tự kiểm sát ḿnh.
  Khi mới ngủ dậy, trong người đương b́nh tĩnh, phải thừa lúc bấy giờ mà nâng cao thần trí lên, nghĩ ngợi về các công việc hay ḿnh phải làm.

Chiều, trước khi đi ngủ, phải nên kiểm sát tâm tư, ôn lại trong trí những công việc lúc ban ngày, và tự hỏi rằng: Ta đă làm được những ǵ? Ta có làm được trọn nghĩa vụ ta trong mọi việc không? Nên đem lần lượt từng việc ra mà sát hạch như thế. Nếu thấy ḿnh đă làm sai, th́ phải tự ḿnh nghiêm trách; nếu không có làm lỗi ǵ th́ nên hoan hỉ trong ḷng.

Tư niệm. Tín ngưỡng. Đạo đức. Quan niệm về Vũ trụ.
Nên ngẫm nghĩ những lời khuyên đây. Nên đem hết ḷng trân trọng mà gắng hết sức thực hành; sẽ tới được cơi chí đức chí thiện. Ta nói đây là lời nói thật, xin thề trước đấng mầu nhiệm đă vạch ra trong trí ta cái h́nh Tứ tượng (la Tetrade), là biểu hiệu và là nguồn gốc của vạn vật vô cùng.

Cầu nguyện.
  Nhưng khi khởi công tu luyện, phải nên cầu nguyện Thần minh luôn, để người giúp cho làm được trọn vẹn.

Giác ngộ.
Khi đă hiểu rơ được các điều răn dạy đây thời sẽ quan niệm được cả bản thể của thần nhân cùng của vạn vật, và sẽ thấu được cái lẽ duy nhất nó chủ trương trong cuộc thiên diễn vậy. Bấy giờ mới biết cái luật lớn trong vũ trụ, là khắp trong thế gian đâu đâu cũng vậy, vật chất với tinh thần là đồng thể với nhau cả.

Trí tuệ.
Bấy giờ thời trí tuệ đă sáng suốt, trong ḷng sẽ không phải băn khoăn về những điều vọng tưởng nữa. Sẽ biết rằng người ta mà phải khổ sở là tự ḿnh tác nghiệt cho ḿnh. Khốn nạn cho những kẻ ấy! Họ không biết rằng cái của báu của họ là ở trong tay họ, ở trong người họ đó. Những người biết cái cách giải thoát cho khỏi sự khổ năo, thật là ít lắm thay. Sự mê muội của người đời thật là quá lắm thay, làm cho trí tuệ phải mờ ám! Khác nào như cái ống lăn, cứ lăn liều, không bao giờ khỏi được những nỗi khổ thống vô cùng. V́ cái tật mê muội bất minh đó, đi đâu nó cũng ám ảnh hoài, thành ra không biết phân biệt điều ǵ là điều phải nên thuận nhận, điều ǵ là điều trái nên tránh xa mà đừng tức giận.

Thần bí. 
Ôi Thượng đế, là cha sinh ra chúng ta! Xin cầu nguyện Thượng đế tế độ cho loài người khỏi phiền năo, chỉ thị cho họ biết tự ḿnh có cái sức thần thông là dường nào! Nhưng mà không: chúng ta chẳng nên rầu ḷng lo lắng, v́ loài người là giống thần minh, tự ḿnh có thể phát minh được những lẽ màu nhiệm của tạo vật bày ra cho mà t́m ṭi.

Kết quả.


Cơi chí đạo. Cơi vĩnh viễn cực lạc.  Các lẽ mầu nhiệm đó đă thấu được rồi, thời những lời ta khuyên dạy đây, sẽ làm được dễ dàng, và đáng được giải thoát cả mọi sự phiền năo. Nhưng mà phải nên kiêng kỵ những thức ăn ta đă cấm trong khi tu luyện trai giới, và cứ nên theo đuổi cái công phu giải thoát cho linh hồn được thảnh thơi. Phàm sự vật phải biết kén chọn cho đích đáng và cho thích nghi, để cho cái phần tinh túy trong người là phần tinh thần bao giờ cũng được thắng vậy. Được như thế thời đến khi dời bỏ cái khu xác này sẽ bay bổng lên cơi thanh thiên, và bấy giờ không phải theo luật sinh tử nữa, sẽ biến hóa mà thành một vị thần tiên bất diệt vậy.
 

CHÚ GIẢI VỀ TẬP «Kim Thi» CỦA PHÁI PYTHAGORE

Nói về Thời kỳ chuẩn bị

THỜ THƯỢNG ĐỂ


Người ta phải có tôn giáo


Trước hết phải thờ phụng Thần minh theo như pháp luật đă định (1). Trước hết phải kính Thượng đế. Đó là điều tối cần, PYTHAGORE đặt đầu hết cả các lời răn dạy của ông. V́ tôn giáo là cái bổn phận thứ nhất của người ta, phàm các nghĩa vụ khác là căn cứ cả ở đó, nhờ đó mới có lẽ phải, có cái cớ chánh đáng cho người ta phải thuận nhận. Nếu trước hết chưa định được rơ nguyên nhân cứu cánh của loài người, nghĩa là chưa suy nguyên mà tưởng tượng đến cái nguyên nhân cùng cực tối cao, đến cái nguyên lực sáng tạo ra vạn vật, đến cái chí đạo hoàn toàn tuyệt đích, nói tóm lại là nếu không biết tưởng tượng đến Thượng đế và nếu không biết kính thờ Thượng đế để làm phương châm mục đích cho mọi công việc ở đời, thời không có việc ǵ là có thể quan niệm, có thể giải thích, có thể hành động cho hợp lẽ công bằng, cho thập phần chắc chắn được.

(1) Đây là trích từng câu trong tập Kim Thi, mà chú giải, những câu đầu đoạn, in chữ to, là lời thơ.

Muốn biết sự vô tôn giáo hại là đường nào, thời cứ xét qua ngay những cái thuyết của phái vô thần trái ngược với tâm trí của người ta là dường nào, và trở ngại cho đạo đức cùng hạnh phúc của loài người là thể nào, thời đủ rơ vậy.

Theo phái duy vật, thời tạo vật là một cái sức mạnh vô tri, cấu tạo ra vạn vật rồi lại phá hoại đi, không có mục đích ǵ cả. Trường sinh hoạt là một cuộc ngẫu nhiên. Người ta sở dĩ sinh ra là bởi những cơ hội thảng lai, cùng những ảnh hưởng của cái hoàn cảnh bên ngoài cả. Chỉ có cái đời hiện tại, cái đời có h́nh thể rơ ràng ra đó là có thực mà thôi. Đời ấy rút lại chỉ là một khoảng ư thức ngắn ngủi ở giữa hai cái thiên co hu vô mà thôi. Cá nhân tự chốn hư vô mà sinh ra, rồi lại diệt đi vào cơi hư vô; kẻ hiền, người bất tiểu, cũng là ch́m đắm vào trong cái vực ṿ đề ấy cả. Phàm sự nghiệp của người ta là do tiền định về vật chất cả, c̣n như thân thể người th́ ví như một cái máy tự nhiên phản động, tưởng rằng có tự do mà thực là không, cái máy tư tưởng, cái máy âm thực sinh sản, cái máy tác dụng một cách thế nào cho được khó nhọc ít mà khoái lạc nhiều, chứ không có cái mục đích ǵ nữa.

Cách hành động hèn hạ như thế, th́ tất là tạo ra một cái luân lư cũng đê tiện mà thôi. Trước hết, đă gọi là luân lư mà không có đăng chủ trương tuyệt đối, không có quyền thưởng phạt sau này, th́ phỏng c̣n có oai lực chi nữa? Mà những người trong tâm trong trí chỉ nuôi những cái tư tưởng tiêu cực như thế, khốn nạn như thế, th́ ra đời thế nào mà hành động cho mạnh bạo được, thế nào mà có đủ sức tự tín để ăn chịu với đời, có đủ ḷng nhiệt thành để tự hi sinh ḿnh đi, để làm những việc nhân từ, bác ái, vô kỷ, vị tha, để biết thuận theo những điều luật pháp bắt buộc? Cứ khuyên người ta phải nên làm nghĩa vụ nhưng nếu cái quan niệm cốt yếu về nghĩa vụ đó không thống thuộc vào một cái nguyên lư cao thượng nào, vào một cái chủ ư đủ cai quát và đủ có sức mạnh làm mệnh lệnh cho người ta được, th́ rút lại vẫn là để cho cái chủ nghĩa cá nhân và cái chủ nghĩa duy kỷ nó được tự do tùng sinh vậy. Cuộc đời bấy giờ là một cuộc đời thụ động, không có mục đích ǵ cao thượng cả, phó mặc cho ch́m đắm vào trong cơi hoài nghi hay trong đường tập tục. Bấy giờ chỉ cầu lấy cho thỏa cái dục t́nh hèn hạ, cho sướng cái nhục thể bề ngoài, muốn được thỏa được sướng ngay, dù phải dùng những cách không chánh đáng cũng mặc ḷng. Trong tâm trí lúc nào cũng như chưa được măn nguyện mà chỉ chực phàn nàn phản kháng. Cá nhân đă không biết đến cái nghĩa liên lạc với tạo vật, với vũ trụ cùng kẻ đồng loại ḿnh, th́ đến đối với gia tộc ḿnh, đối với ṇi giống ḿnh, đối với cả nhân loại vạn vật cũng không biết c̣n có liên lạc ǵ nữa. Cùng cực đến đặt ḿnh vào nơi khốn nạn, v́ mơ hồ không hiểu cái lẽ sinh tồn làm sao, cái cơ tinh tiến thế nào.
Luân lư của cá nhân đă khiếm khuyết như thế, th́ luân lư của công chúng gồm cái sức tinh tiến của cá nhân cũng thấy khuyết điểm như thế mà lại h́nh như nhân cho to rộng thêm ra vậy. Kẻ có con mắt sáng biết quan sát sự đời, th́ điều thứ nhất nghiệm thấy là những cái quan niệm cốt yếu về trật tự, về đẳng cấp, về nghĩa vụ, bây giờ mất cả. Trí thức, đạo đức, thiên hạ cũng không lấy làm trọng mà dường như cho là khinh. Những kẻ vô trí thức, vô đạo đức ngày nay xướng lên rằng người ta là tuyệt đối b́nh đẳng cả, ai ai cũng được quyền hưởng sự lợi lộc ở đời, không quản ǵ tài năng hơn kém, trí đức cao thấp cả. Cái số nhiều ngày nay át cả cái tinh túy. Kẻ nào có thị dục của kẻ ấy, thành ra loạn xạ cả, không có chủ trương thống nhất ǵ nữa. Mệnh lệnh là ở dưới lên, chứ không phải trên xuống nữa. Cứ theo cái cách như thế ít lâu, th́ không c̣n ai biết cai quản, không c̣n ai biết phục ṭng nữa, v́ kẻ tài năng th́ bị yểm tế đi, không thể xuất đầu ra được, c̣n những kẻ bất tài th́ tự do túng sinh, chẳng biết có trời, có thầy, có ḷng tin, có lễ phép ǵ nữa.

Bây th́ giờ nghiệp ác chất đă đầy, tất xẩy ra những cuộc đại biến, như cái dịch của xă hội để rửa tội cho loài người. Hoặc là xẩy ra cuộc chiến tranh hay cuộc cách mệnh, nhất thời lấy cái vơ lực tàn hại mà thay vào cái chính nghĩa công bằng, cho đến lúc xă hội chịu khổ đă quá rồi, mới thấy trong lương tâm bật lên cái tia sáng cho tỏ đường chính lẽ phải mà theo. Khổ cực rồi bất đắc dĩ mới phải quay đầu về những cái lư tưởng cũ, là lư tưởng duy nhất, lư tưởng liên lạc, lư tưởng trật tự, lư tưởng nghĩa vụ bấy lâu đă quên bỏ hẳn đi không thèm nh́n đến nữa, bây giờ phải nhọc nhằn gắng sức mà học lại. Dần dần mới tỉnh được cái giấc mơ cuồng, và nhờ sự khổ năo mà biết rằng loài người nếu không có một cái gốc tôn giáo, nếu không tin ở một đấng tuyệt đối, th́ không sao có luân lư, không sao có sự nghiệp ǵ được.

Những sự tai biến đau đớn đó bắt người ta phải suy nghĩ mà t́m về con đường đạo lư; tuy nhiên cách học đạo không phải chỉ có những cách bạo động như thế đâu, c̣n có cách b́nh thường giản dị khác. Nếu có ḷng tin mà biết quan sát, th́ không đâu đến nỗi gặp sự tai nạn như thế, v́ sẽ hiểu rơ ngay cái trật tự mầu nhiệm trong vũ trụ, biết ngay những phép tắc chủ trương trong cuộc thiên diễn và nhân đó hiểu được cái lẽ nó bắt buộc ḿnh phải sống làm người thế nào cho hợp với cái trật tự thiên nhiên của tạo hóa..

V́ vũ trụ có pháp luật, điều đó đă rơ hẳn rồi. Tinh tú xoay vần, năm tháng thay đổi, cách sinh hoạt của các giống khoáng vật, thực vật, động vật và cả loài người, là cái chứng rơ ràng vậy. Nay vũ trụ có pháp luật, mà trên vũ trụ lại không có một cái quyền tuyệt đối đặt ra pháp luật ấy, chủ trương cho vạn vật được điều ḥa, đưa dắt cho đi đến mục đích, như thế th́ vô lư quá.

Như thế th́ trong vũ trụ tất có một cái sức mạnh chủ trương điều ḥa hết thảy. Sức mạnh ấy là cái tinh thần chủ động vạn vật. Phát hiện ra bằng sự sống và bằng vật chất, sự sống là cái khí thiêng hoạt động, vật chất là cái trường sở thiên diễn. Sức mạnh ấy vừa là nguyên nhân, vừa là cứu cánh của vạn vật.

Và khoa học ngày nay cũng đă chứng rơ cái lẽ vạn vật duy nhất đó rồi, duy chỉ ở trong phạm vi vật chất mà thôi, v́ khoa học cho rằng vạn vật đều là qui về một cái sức mạnh gọi là « tinh lực » (énergie), sức mạnh ấy bàng bạc trong vũ trụ, nhưng khinh thanh mầu nhiệm, người ta không cảm giác được, mà thực là tiềm tàng ở trong các hiện tượng, phàm các sự vật cảm xúc đến giác quan của ta đều phát nguyên tự đấy, diễn xuất bởi đấy và qui nạp về đấy cả. Khoa học phát minh được cái tinh lực vĩnh viễn bất diệt đó, tiềm tàng ở trong vạn vật, tiến hóa tự khoáng vật cho đến loài người, tự cơi vô tri cho đến cơi ư thức, khoa học phát minh được điều đó thật là chứng cho cái thuyết trong vũ trụ có một sức mạnh thiêng liêng chủ trương duy tŕ cho vạn vật.

Nay xét cơ thể người ta cũng thấy có sức chủ trương như thế, tức là thần trí chi phối cả thân thể cùng khí lực. Bởi thế cho nên người ta cũng ví như là một bức tranh nhỏ của vũ trụ, tức là một cái thế giới nhỏ, v́ cũng bao gồm cả các nguyên chất như trong vũ trụ vậy.

Trong cơi tư tưởng cũng quan niệm ra một mối tuyệt đích gồm cả các tư tưởng vô cùng, bác ái, tuyệt phẩm, v́ tất phải có một cái kiểu mẫu tuyệt đối thời mới có thể theo đó mà tưởng tượng ra mọi cái hay ở đời,

Đă suy nghĩ cho kỹ những lẽ tự nhiên đó rồi, thời trong tâm trí tự khởi ra cái quan niệm về Thượng đế rơ ràng, đích xác, không c̣n nghi ngờ được nữa. Đến bấy giờ thời khoát nhiên hiểu rơ cả nguyên nhân cùng cứu cánh của đời người, và thấy rằng trong ḿnh cũng có một phần của cái sức sáng tạo vạn vật, biết rằng đời người là ở sự tiến hóa tự do, qua nhiều tŕnh độ mà tự nhiên khuynh hướng về Thượng đế.

Bấy giờ cơ sở đă vững vàng, trí tuệ, ư chí, tâm t́nh đều được thỏa măn cả, mới có thể thực lực gây dựng ra đạo xử thế cùng phép luân lư vậy. Đời đạo lư sẽ gồm cả ở một cái công phu như sau này: là làm thế nào noi theo được Thượng đế, mà tuân hành các phép tắc tự nhiên cùng siêu nhiên của Thượng đế, khiến cho dần dần tập được những đức tính của Thượng đế, tức là lần lần đạt được tới cơi hạnh phúc.

Trong tâm trí đă có một mối tín ngưỡng thâm trầm như thế, thời phàm các mối cảm t́nh, các sự hành vi, đều như đằm thắm một ḷng tín ngưỡng ấy cả. Bấy giờ thời biết rằng thiên lực đă ở trong ḿnh, dốc ḷng tin ở thiên lực phù trợ cho ḿnh. Đă có ḷng tín ngưỡng th́ những sự trở ngại ở đời cũng coi như là những phương tiện để giúp cho cái công tinh tiến của ḿnh. Ḷng tín ngưỡng ấy dạy cho ta biết rằng hết thảy người ta, hết thảy vạn vật cùng là con một nhà cả, cùng là con Thượng đế cả, và đối với mọi người mọi vật, trong ḷng ta chỉ nên đầy một mối thương yêu mà thôi. Sau nữa, lại nhờ ḷng tín ngưỡng ấy mà biết được cái mục đích chân chính của đời người là hàng ngày phải trau dồi cho thân thể cùng thần trí được kiện toàn, và lại có thể giúp cho kẻ khác được hay hơn lên.

Tôn giáo hiểu theo nghĩa đó thời có một cái sức cảm hóa vô cùng, v́ giải rơ được cái lẽ sở dĩ làm sao phải tránh điều ác, làm điều thiện, tức là v́ cớ ǵ mà phải làm hết nghĩa vụ ở đời. Bởi thế nên tôn giáo là cần cho xă hội để lập ra trật tự, dựng thành kỷ luật, khiến cho mọi người phải thuận theo phép tắc. Những cái quan niệm cốt yếu về gia tộc, về tổ quốc, thực là uyên nguyên tự tôn giáo mà ra, v́ có tôn giáo th́ đứng trong mỗi đoàn thể ấy mới hiểu rằng công phu của người ta cần phải cho điều ḥa thích hợp để đạt được cái mục đích duy nhất là bản thể của vạn vật.

Và cả cái sự nghiệp giáo hóa về cá nhân, về quần chúng của PYTHAGORE, là căn cứ ở cái quan niệm về tôn giáo đó. Điều cốt yếu của ông dạy là thế này: phải làm thế nào cho noi theo được Thượng đế; và cái mục đích xa xôi của ông là muốn cho trong xă hội cũng có một cái trật tự thiêng liêng, để cho cuộc đời được điều ḥa êm ái.

Đă đem ḷng thề nguyền tín ngưỡng th́ phải giữ cho có thủy có chung.
  Lời dạy này có hai nghĩa. Trước hết là dạy rằng phàm lời ước hẹn phải cho trung thành. Một lời ước trịnh trọng dù viết ra giấy hay nói ở miệng, phải coi là một cái ước thiêng liêng, một lời nguyền danh dự, lấy cái thiên lực ở trong người ta làm chứng cho ḷng thành thực của ta. Lời ước hẹn c̣n như thế, huống là lời thề nguyền, thật là có cái sức bắt buộc phải nói sự thực.

Những kẻ bội ước bất trung, nói rồi mà chối lời ḿnh, hay là điên đảo mà làm chứng giả, thực là những kẻ phạm tội xúc phạm thần minh. Những kẻ ấy thế nào cũng phải chịu tội, là mất ḷng tin của người ta, lại mất cả ḷng tự tin ở ḿnh nữa, thành ra một vật khả ố, hăm ḿnh vào nơi khốn nạn, bị Ma vương hành hạ, chịu Thiên đ́nh giáng tai.

Vả lại, cầu thần linh làm chứng cho ḿnh là một việc hệ trọng vô cùng, không nên bạ việc ǵ cũng thề nguyền Thượng đế. Như gặp cơn nóng nảy giận dữ cũng gọi đến tên người, thế là không hay, v́ phàm sức mạnh ǵ mà dùng không phải đường th́ lại phản động hại cho kẻ dùng xằng vậy.

Sau nữa cái mệnh lệnh phải giữ lời ước nguyện là thuộc về đạo thần bí của phái PYTHAGORE. Phàm các tôn giáo về cổ đại, trong đạo vẫn có hai phần. Có một phần lễ bái bề ngoài để đối với công chúng, thời tiêu biểu cái lẽ Duy nhất tuyệt đối ra nhiều h́nh thê khác nhau, và nhất là tiêu biểu ra h́nh người. Thành ra cái gốc đạo lư thường vẫn khiếm khuyết, không được thỏa đáng, nhưng v́ cần phải theo tŕnh độ của công chúng cho dễ hiểu, nên phải mượn cái h́nh thức lễ bái để làm biểu hiệu bề ngoài. Ngoại giả lại c̣n có một cái đạo thần bí nữa, chỉ mật truyền cho một số ít người, trong các kẻ đồ đệ ở nơi đạo viện, chọn lấy kẻ nào là xứng đáng mới cho học mà thôi. Đạo này là lấy khoa học triết học mà chứng giải cái lẽ Duy nhất tuyệt đối, giải cái bản thể của vũ trụ cùng người ta, và lẽ sinh hoạt tiến hóa trong vạn vật, qua các h́nh trạng khác nhau.

PYTHAGORE khuyên các đệ tử trước hết phải thờ phụng thần minh theo như pháp luật, là có ư dạy rằng cần phải theo các cách lễ bái như tục lệ đời bấy giờ đă định.

Cái thái độ về tôn giáo như thế là một cái thái độ đại khoan dung, các đồ đệ phái PYTHAGORE sở dĩ theo được là v́ đă hiểu biết rằng tôn giáo đời bấy giờ tuy là đạo đa thần, nhưng các vị thần đó chẳng qua là những biểu hiệu khác nhau của Thượng đế độc nhất mà thôi, tùy đối với công chúng muốn khuyên dạy những điều ǵ th́ mỗi hạng tiêu biểu ra một vị thần khác. Lại biết rằng tôn giáo nào cũng vậy, đều có một cái gốc thần bí chung, đều gồm bấy nhiêu cái chân lư như nhau, và tuy đặt ra danh hiệu khác, chứ thực là cùng thờ một đấng tạo hóa ra muôn loài cả, bởi thế nên cho rằng người ta đă biết theo phép thần minh, theo luật thiên diễn, thời dù thờ thần nào, danh hiệu nào, cũng là đáng được phúc lành thỏa nguyện vậy. V́ có cái trí sáng suốt như thế, cho nên đối với đạo nào cũng có ḷng khoan dung cả, và vào nơi đền miếu nào cũng có thể cầu nguyện thành thực. Như vậy thời đi đến đâu cũng bày cho người đời cái gương tốt về ḷng tín ngưỡng và ḷng đạo đức.

Vậy thời tuy bề ngoài như thế mà thực ra đạo PYTHAGORE không có ǵ giống với cái đạo đa thần (polytheisme) đời bấy giờ. Lại cũng không giống với cái đạo phiếm thần (panthéisme) nữa, đạo này cho vật chất, sinh hoạt, vạn vật, nói tóm lại là cả cái thế giới hữu h́nh là Thượng đế cả, và linh tính của người ta cứu cánh cũng đến tiêu nhập vào đó, nghĩa là tuyệt diệt hết. Đạo PYTHAGORE chính là một đạo độc thần, cai quát cả các tôn giáo mà qui nạp về cơi Duy nhất.

PYTHAGORE dạy rằng đă thề nguyền tín ngưỡng th́ phải giữ cho có thủy có chung, chính là dạy phải biết và phải thờ cái lẽ Duy nhất tuyệt đối tiềm tàng ở trong các tôn giáo vậy. Nhưng cái đạo đó phải giữ bí truyền, v́ những lẽ ta sẽ giải rơ về sau. Bởi thế nên ông khuyên các đồ đệ đă được mật truyền đạo ấy nên giữ lời thề, kẻo phải tội vạ.

Nhân các lời dạy rất khôn ngoan về cách đối với tôn giáo đó, có thể suy diễn ra bài học như sau này. Người nào đă sinh trưởng trong một đạo giáo nào mà lấy làm bằng ḷng măn nguyện, dốc chí tin theo, thời cứ nên trân trọng mà giữ lấy, trung thành mà phụng thờ. C̣n người nào đă mất ḷng tín ngưỡng, v́ nghiệm thấy trong đạo giáo của ḿnh có điều khuyết điểm về h́nh thức hay về giáo lư, thời ta nên khuyên họ vượt lên cho tới cái quan niệm cao siêu về tôn giáo của PYTHAGORE. Không theo những lời huấn hỗ tối tăm chật hẹp của bọn giáo sĩ các đạo ngày nay, họ không biết cái lẽ thần bí màu nhiệm của đời trước nữa, lại không theo những cái thuyết duy vật của khoa học, chỉ nên t́m trong tôn giáo và khoa học những lẽ đại đồng có thể điều ḥa được cả hai bên vậy. Càng nghiên cứu, càng nghĩ ngợi cho cùng thời sẽ hiểu rằng những cái thuyết vạn vật đồng thể, tinh thần duy nhất, sinh hoạt phổ biến, tiến hóa vô cùng, toàn là những điều chân lư vừa thuộc về tôn giáo, vừa thuộc về khoa học nữa. Gồm cả các điều chân lư ấy lại, làm thành một cái cơ sở vững vàng, rồi có thể nhân đó tự gây lấy một cái ḷng tín ngưỡng riêng, hợp nhất cai quát cả, khiến cho tùy ư muốn theo đạo nào cũng được, cũng có thể hiểu được cái h́nh thức biểu hiệu của đạo ấy.

Thí dụ như đạo Thiên chúa; nếu đă biết phân biệt những cái lẽ thần bí là phần tinh thần trong kinh Phúc âm thời sẽ hiểu rơ phàm các h́nh thức lễ bái ngày nay là có nguyên do mầu nhiệm, người thường không hiểu mà chính nhà thần học cũng nhiều khi không giải được. Bấy giờ thời có cái khoái lạc nhập diệu được đến chỗ căn đề của cái h́nh thức rực rỡ của đạo Gia tô. Bấy giờ mới có thể lấy ư thức mà cảm biết được cái sức mạnh thần thông của đấng Cứu thế, đă truyền qua bao nhiêu đời mà vẫn c̣n thiêng liêng mầu nhiệm vậy.

Rồi th́ nên tùy theo phép thường sùng phụng những bậc hào kiệt anh hùng, những bậc thần nhân thánh triết.
Tŕnh độ các giống, từ giống rất nhỏ hèn mà qua các bậc cho lên đến Thượng đế, không phải là đến người ta đă là cùng. Trên loài người c̣n có những giống khinh thanh hơn nữa. Ta đối với những giống ấy mà tưởng tượng thời cũng ví như giống ở dưới nước mà tưởng tượng giống ở không khí vậy. Những giống ấy cao hơn ta trên tŕnh độ vạn vật, tức cũng là người mà có tài năng trí đức ngang bằng bậc thần minh vậy. Những hạng ấy có thể ảnh hưởng đến ta, chủ trương cho cuộc tiến hóa của ta, giúp đỡ cho công tu luyện của ta, cũng như ta đối với các giống thuộc về khoáng vật, thực vật, động vật, ở dưới ta vậy.

Các hạng ấy tức là kẻ môi giới người ta với thần minh; gọi tên là thần tiên, thánh triết, hào kiệt, anh hùng, trí sĩ, nhân nhân, hiền nhân, quân tử, vân vân... Tức là kẻ làm gương, làm mẫu, người bạn siêu tuyệt, để cho ta hỏi han đường lối, mà biết cách tu luyện tinh tiến. Ta có thể cầu nguyện mà được thần giao cách cảm với cả các bậc đại trí của khắp các đời khắp các giống, nhờ đó mà cái tinh thần của các tiền triết c̣n truyền được đến đời nay. Và như thế thời sự dựng đền kỷ niệm để thờ các danh nhân thật là chánh đáng lắm. V́ có một cách học đạo đức, tập trí tuệ rất hay, là nên thời thường đặt ḿnh vào trong cái không khí thiêng liêng của các bậc anh tài xuất chúng, các bậc hiền triết muôn đời, Đem tim óc mà nhiễm lấy những cái tư tưởng tuyệt mỹ, tuyệt xảo, chí đạo, chí đức của các bậc ấy đă diễn ra trong các công tŕnh tạo tác (như về âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc), hoặc là đọc những thánh kinh hiền truyện, thời tâm trí như rộng răi ra, và thấy có cái sức mạnh nó nâng cao bay bổng lên vậy. Đó là cái luồng sóng những điều chân lư thiên cổ nó đưa đẩy cho ta. Cái ánh sáng tín ngưỡng chói dọi vào ta. Đă chắc rằng ḿnh đi đường chính đạo, làm việc hữu ích, thời vừa được hưng khởi, vừa được khoan khoái, dường như có bề trên giúp sức cho vậy. Nhưng muốn được thiên trợ th́ phải tự ḿnh ăn ở thế nào cho có đạo đức, cho được xứng đáng. Đó là phần PYTHAGORE dạy trong những câu thơ sau này.
 

Nói về Thời kỳ Tinh luyện


THỜ GIA Đ̀NH

Người ta phải yêu mến cha mẹ  phải biết thờ gia đ́nh, phải làm trọn nghĩa vụ đối với cha, với mẹ, với cả các bà con họ hàng. – Trong học viện Pythagore, cho nghĩa gia đ́nh đứng trên t́nh bè bạn, không phải là không có lẽ. V́ người bạn tốt đến đâu cũng không có thể buộc ḿnh phải thời thường yêu giấu luôn, sẵn ḷng hi sinh luôn như cha mẹ đối với con cái vậy. Có từng trải sự đời th́ biết vậy: người bạn mất đi có thể thay được, chứ cái ḷng thương của người mẹ th́ đă mất đi không bao giờ lại có được nữa. Lại khi nguy hiểm hoạn nạn, không ai sẵn ḷng yên ủi giúp đỡ cho ḿnh bằng một người bà con thân, bởi thế nên cái nghĩa gia tộc duy nhất, cần phải hết sức để tạo, hết sức tài bồi, tức là phải dạy cho kẻ làm mẹ cái trách nhiệm thiên nhiên phải tự ḿnh nuôi nấng bú mớm lấy con cái ḿnh, phải làm thế nào cho người mẹ được ở luôn chốn gia đ́nh để làm hết bổn phận trong cửa nhà, phải giàng buộc lấy cái t́nh vợ chồng cho thuận hoà khăng khít, lại phải dạy sao cho con trẻ biết báo đáp lại cha mẹ già cái công thương yêu nuôi nấng bấy lâu.

Nghĩa gia tộc là phải thờ phụng tổ tiên, phải lập gia thất, phải sinh con đẻ cái ; gia đ́nh như thế tức là một cái động lực cốt yếu của sự tiến hóa chung của loài người, v́ cá nhân có tự ḿnh tạo tác ra, nghĩa là gây dựng ra gia đ́nh th́ mới có thể thực hiện được hết cái nhân cách của ḿnh.

V́ sự vợ chồng lấy nhau tức là tập hợp cái sức tạo tác lại, cũng giống như sức của tạo vật, để mà gây dựng ra một cái bản vị mới, cao hơn cá nhân: bản vị ấy là gia đ́nh. Người đàn ông th́ có cái tinh lực sáng tạo, người đàn bà có cái sức mạnh tài bồi, đứa con đẻ ra, ấy là cái công tŕnh hiển hiện. Ba cái nguyên tố đó đấu hợp lại gây ra một cái mối chung, là hồn gia tộc. Sự vợ chồng lấy nhau là một cuộc hợp tác về vật chất, mà trong thật là có một cái mối ḥa đồng về tinh thần, về sinh hoạt, tạo thành ra một cái thế giới nhỏ, theo như cái kiểu mẫu chung của vũ trụ, ta sẽ giải rơ sau này.

Như vậy th́ gia đ́nh là một cái toàn thể, cảnh ḥa lạc, sự hạnh phúc là tùy thuộc ở cái bụng tốt của mỗi người làm phần tử cho toàn thể đó. Như vậy th́ bao nhiêu người trong một nhà đều phải có một cái mục đích chung: là bao nhiêu tư tưởng, dục vọng, công phu, phải đem hỗn hợp cả lại mà cùng nhau tiến lên cơi tuyệt phẩm hạnh phúc, là con đường đưa lên tới Thượng đế vậy. Mục đích đó, không thể đơn độc mỗi người mà đạt tới được, v́ hết thảy đều có liên đới mật thiết với nhau, vậy th́ không những nghĩa vụ của ḿnh mà chính sự lợi ích của ḿnh bắt buộc vừa mưu cho ḿnh được tấn tới lại cũng vừa mưu cho kẻ thân thích ḿnh được tấn tới nữa. Gia đ́nh là cái đoàn thể thứ nhất của loài người, trong đoàn thể mỗi người cần phải giúp nhau th́ tự ḿnh mới mong được sung sướng; xét rộng ra đến các đoàn thể to hơn nữa, như họp nhà thành nước, họp nước thành chủng tộc, họp chủng tộc thành nhân loại, sự tương trợ đâu đâu cũng phải cần. V́ cái luật thiên nhiên trong cả tạo vật như thế: sự hạnh phúc của mỗi giống sinh vật là do cả các giống khác giúp đỡ vào mới thành được, và về phần riêng mỗi giống muốn mưu sự hạnh phúc cho ḿnh th́ đồng thời phải mưu cả sự hạnh phúc cho kẻ khác nữa. Đó tức là cái ḷng từ thiện, dem thi hành ra khắp các đẳng cấp trong thế giới thiên nhiên, cứ lấy bề ngoài mà xét, thực đă có lợi ích như vậy.

Đạo vợ chồng mà hiểu như thế, th́ sự sinh sản không phải là chỉ đẻ ra một đứa con mà thôi. Lại là tái tạo ra một cái tinh thần đương tiến hóa vậy. Bởi thế nên lúc có thai, phải chỉ nghĩ ngợi đến những cái hay cái tốt, và vợ chồng ăn ở với nhau phải rất mực ḥa b́nh, để gây lấy những cái ảnh hưởng tinh thần cao thượng, những cái sinh khí hoạt bát kiện toàn cho đứa con sắp sinh ra sau này.

Người đàn ông là cái khí dương chủ trương điều ḥa ở trong gia đ́nh, phải coi ḿnh như bậc sứ thần của Thượng đế. Cho nên bao giờ đối với vợ con ḿnh cũng phải tỏ ra như một cái gương chiếu các đức sáng thiên nhiên, phải tỏ ra khôn ngoan, nhân từ, công bằng, đứng đắn, để cho vợ con theo. Có ăn ở như thế th́ mới truyền dạy được cho các con điều lương thiện, việc nghĩa vụ, ḷng kính hiếu. Ảnh hưởng người cha trong chốn gia đ́nh là hệ trọng lắm. Nếu người cha vừa cứng mạnh và êm ái, vừa có đức lại vừa có oai, th́ kẻ thân thích trong nhà có điều ǵ khuyết điểm cũng có thể sửa đổi được, lấy cái oai quyền người gia trưởng mà thống nhiếp được hết thảy, khiến cho phải khuynh hướng cả về đường tấn tới. Trong học viện Pythagore, người đàn bà có một cách huấn luyện riêng. Dạy cho biết cái chức vụ thánh thần của ḿnh ở cơi đời. Dạy cho biết chỉ châu tuần ở trong cơi gia đ́nh, tự coi ḿnh như một bà giáo chủ chốn đ́nh vi, như cái nguồn sống của con cái, như một cái kho nhân từ bác ái cho người nhà, như vị thần hộ mệnh để yên ủi nỗi ḷng nỗi chí cho chồng.

Đứa con ở gần cha mẹ đă tiếp thụ được những cái tư tưởng cao, những cái gương sáng láng như thế, th́ tự nhiên là sẵn ḷng hiếu kính với cha mẹ. Tự nhiên coi cha mẹ như tiêu biểu cho thần trí của Thượng đế, hết ḷng kính yêu và hết sức báo đáp lại cái công thương yêu nuôi nấng từ thuở nhỏ. Nhưng đạo Pythagore lại dạy rằng dù cha mẹ có điều khuyết điểm mà để cho con phải chịu đựng, th́ những điều khuyết điểm ấy không nên coi là sự bất công của số phận, mà nên coi là cái kết quả trong lẽ tiền định của mỗi người, vẫn là đích đáng lắm. Theo lẽ này th́ đứa con sinh ra không phải là ngẫu nhiên mà sinh ra đâu, chính là cái tiền nghiệp đă định đáng phải sinh vào nơi nào th́ sinh vào nơi đó vậy. Bởi thế nên ở trong gia đ́nh, hoặc có khi xẩy ra sự xung khắc, hoặc có khi sinh ra nỗi bất b́nh, th́ không nên nổi lên kháng cự với kẻ thân thích của ḿnh, mà phải gia công gắng sức khuyên nói làm sao cho người ta tỏ tường, những điều chếch lệch th́ sửa lại cho bằng yên, mà cái thân phận của người cũng mưu tính cho được trọn vẹn.

Được như thế th́ cảnh gia đ́nh ḥa thuận vui vẻ biết dường nào. Người cha dạy dỗ gây dựng các con thấy như cái tinh lực, cái uy đức của ḿnh càng tăng giá phấn phát thêm lên, v́ mỗi đứa con sinh ra là đem một cái khối sinh lực phụ thêm vào cái kho chung cả gia đ́nh được hưởng vậy. C̣n người mẹ th́ không nên coi sự sinh dục là một nỗi lo lắng khó nhọc cho ḿnh, mà phải biết rằng trong khi mang thai, trong khi bú mớm cho con là cái sinh lực nó nẩy nở ra trong ḿnh, vừa nẩy nở về đường vật chất, vừa nẩy nở về đường tinh thần, h́nh như cái khí thiêng sinh hoạt, cái sức mạnh ái t́nh chịu được của tạo vật, của Thượng đế chung đúc cả ở ḿnh mà truyền lại cho con ḿnh vậy.

Sau nữa cái nguồn tiến hóa phát ra ở chốn gia đ́nh rồi mới tràn khắp đến cả dân tộc. V́ gia đ́nh không có con cái th́ ṇi giống tất phải suy đồi. *Gia đ́nh không có tôn giáo th́ trong nhà bất kính bất ḥa, thương luân bại lư, tạo thành ra những lớp người sẽ phải bại hoại khốn cùng. Nhưng trái lại, nếu các gia đ́nh vừa có đông con, vừa có tôn giáo như về đời văn minh toàn thịnh, th́ tạo thành ra những dân tộc có sinh lực sung măn, và có nghị lực cương cường.

THỜ BÈ BẠN

Người ta phải yêu mến kẻ đồng loại với ḿnh – Bè bạn phải chọn lấy người thuần lương đức hạnh hơn cả.
Dưới các nghĩa vụ đối với gia đ́nh gia tộc, th́ cần cấp nhất là các nghĩa vụ đối với người ngoài, trước nhất là những người xứng đáng hơn cả, đức hạnh hơn cả. Cái t́nh nghĩa đối với hạng người như thế gọi là t́nh bè bạn.

Như trên đă nói, thuộc về t́nh nghĩa gia tộc, th́ người ta phải theo lẽ tất nhiên, phải thừa nhận gia đ́nh là do tiền định xếp đặt cho ḿnh, là cái hoàn cảnh tốt đẹp nhất cho ḿnh. T́nh nghĩa bạn bè th́ không thế, chính là ở cái ư chí ḿnh quyết định. Đây là không phải thuận theo lẽ tiền định, mà như lời Pythagore dạy, phải kén chọn, nghĩa là phải phân biệt kẻ hay người dở rồi phải giốc ḷng thủy chung với bạn.

Vậy th́ cái tên bạn đó không nên ban phát cho mọi người. Không nên tặng cho những kẻ không có phẩm giá, không có đức hạnh. Nếu chỉ v́ sự lợi lộc nhất thời về đường vật chất mà cũng đem cái tên ấy ra mà mua chuộc, th́ thật là phạm tội hủy hoại một cái vật đáng tôn trọng vậy. Nay người thực có đức hạnh, đủ làm gương cho đời, vẫn là ít có lắm, cho nên t́nh bạn bè chân chính cũng là một cái của hiếm hoi và quí báu vô cùng. Tuy nhiên, trong các đẳng cấp trong xă hội, vẫn có người đáng t́nh bè bạn. Lắm khi người chất phác chính trực lại có tư cách làm bạn hơn là kẻ vu khúc hiểm trở.

Người ta phải chọn bạn trong những kẻ hay kẻ khá hơn cả, cũng là theo cái lẽ trật tự thiên nhiên của vũ trụ. V́ rằng kẻ kém bao giờ cũng phải phục ṭng kẻ hơn. Theo trật tự thiên nhiên th́ chỉ người có tài đức mới có oai quyền.

Chọn bạn lại phải chọn người xứng đáng nữa, v́ ảnh hưởng của thần trí vẫn truyền nhiễm được, cái hay truyền được th́ cái dở cũng truyền được. Nói thế nghĩa là không nên thân gần những kẻ thần trí bại hoại, đức hạnh khiếm khuyết, hay ghen hờn giận giữ, hay là chỉ có cái tính tiêu cực vô bổ, là những người động nói chỉ tỏ ḷng ghen ghét, tỏ ư bi quan, tỏ lời khích bác vậy. Lại chơi với những kẻ oán phẫn, th́ tâm thần ḿnh tối tăm đi, trí tuệ ḿnh eo hẹp lại, cảm t́nh ḿnh khô cạn đi, và tính nết ḿnh chua cay ra vậy.

Trái lại, chơi với người hiền nhân quân tử, th́ trông gương người ta, nghe lời người ta, làm cho nâng cao tâm chí ḿnh lên, khiến cho ḿnh có con mắt lạc quan, và tấm ḷng cương quyết vậy.

Bạn khuyên nhủ phải nghe lời, bạn chỉ bảo phải theo gương.
Vậy th́ người ḿnh đă chọn làm bạn phải là người có thể kính như thần minh, có thể soi như gương sáng, đủ đạo đức, chính trực, nhân từ, có thể làm thầy hướng đạo cho đời ḿnh, làm quan thẩm phán cho việc ḿnh vậy. V́ muốn học tập cho hay hơn, muốn hiểu biết nghĩa vụ ḿnh, th́ phải học hỏi ở người nào tự ḿnh đă có một cái chương tŕnh xử thế cao thượng và có đủ tư cách thực hành được chương tŕnh ấy. PYTHAGORE lại có chỗ nói rằng : « Bạn ḿnh là một ḿnh nữa ở ngoài ḿnh. Phải tôn trọng bạn như thần minh. T́nh bè bạn là nghĩa b́nh đẳng điều ḥa. »

Nhưng muốn được ḷng tin một người bạn như thế, muốn xứng đáng cái ḷng tin ấy, th́ phải quyết chí vâng lời bạn, theo gương bạn, nghĩa là nhiệt thành kiên nhẫn mà tu thân tinh tiến vậy. Vậy th́ chính tự ḿnh phải ăn ở làm sao cho thành thật, ngay thẳng, tự nhiên, th́ mới có thể t́m được người bạn đích đáng. Kẻ nào đem tiền của, đem ơn huệ, đem cách chơi bời khoái lạc mà mua chuộc lấy bạn bè, th́ chẳng qua chỉ mua chuộc lấy một lũ siểm du bạng thực mà thôi. Gặp khi hoạn nạn sa sút, th́ bạn liền biến mất. Mà chính lúc hoạn nạn mới là lúc t́nh bè bạn có thể tỏ ra rơ rệt vậy.

Người bạn chân chính th́ biết rằng trong t́nh bè bạn vẫn có nhiều nghĩa vụ hơn quyền lợi. Cho nên vẫn sẵn ḷng trao ra mười phần để thu lấy một phần. Đă quen nhất thiết trông cậy ở ḿnh, th́ chỉ khi nào hết phương kế chủ trương rồi, mới nhờ đến bạn giúp đỡ. V́ không ǵ hại cho t́nh bè bạn bằng những sự phiền nhiễu nhau luôn vô ích. Người bạn chân chính, th́ mỗi khi tiếp chuyện nhau, tức là làm cho nhau vui vẻ thêm, tin yêu thêm lên vậy. Người nọ tấn tới là bài học cho người kia, thời thường tưởng lệ khuyến miễn cho nhau để càng thêm phấn phát mà tiến lên, thực là cùng nhau cùng sinh hoạt một cách đầy đủ, cùng nhau cùng hỗn hợp vào trong cái cảnh điều ḥa của Thượng đế vậy.

Đừng nên v́ điều lỗi nhỏ mà xa mất bạn, nếu biết cố gắng hết sức cũng có thể giữ được.
T́nh bè bạn là một cái ước thánh thần, không nên để cho có chút mây mờ che ám, dù thế nào mặc ḷng, nên cố gắng cho không đến nỗi quyết liệt với bạn. Nếu chỉ v́ những sự khuyết điểm không quan hệ ǵ th́ nên khoan dung mà giữ lấy ḥa thuận. Nhưng khi nào quan hệ đến việc đại nghĩa, th́ không nên chuyển ḷng, không bao giờ chịu phạm đến công nghĩa, đến công lư, dù có phương hại đến t́nh bè bạn mặc ḷng. Như có người bạn mê muội đến nhờ cậy ta một việc lỗi với đạo lư, trái với lương tâm, hay có thể phương hại đến xă hội, th́ nghĩa vụ của ta là trước hết phải giảng dụ cho nghe đă, nếu cứ không nghe th́ ta ung dung mà cả quyết dời xa ra, cho đến bao giờ tỉnh ngộ sẽ hay.

PYTHAGORE lại nói rằng: Trong cuộc xă giao, nên giữ đừng để cho bè bạn thành ra thù hằn, mà lại phải cố làm sao cho kẻ thù thành ra người bạn. Nên yêu mến người quân tử mà đừng ghen ghét kẻ tiểu nhân ». Mấy lời đó do đồ đệ ông sưu tập lại, là nói rơ cái tư tưởng của ông về nghĩa vụ người ta đối với kẻ khác. Xem đó th́ biết tuy ông dạy rằng chỉ nên kết bạn với kẻ thuần lương mà thôi, nhưng ông lại khuyên răn nên thành thực khoan nhân đối với hết thẩy mọi người, dù kẻ ác liệt nữa mặc ḷng: v́ kẻ ác nghiệt, ngu muội tối tăm, nếu biết giảng dụ cho tỏ rạng ra th́ nhiều khi có thể trở thành một tên kiện tốt cho chân lư vậy.

Tuy nhiên cũng phải nên biết rằng cái ḷng khoan nhân bác ái mà đem đến cực điểm hi sinh, th́ mới bắt đầu truyền dạy cho loài người tự đức Gia tô Cơ đốc mà thôi.

V́ cái ḷng khoan nhân của phái PYTHAGORE đối với hết thảy người ta chẳng qua cũng là do cái ḷng khoan nhân đối với cả thế gian vạn vật mà thôi. Lại sở dĩ khoan dung nhân từ như thế, v́ biết rằng nhân loại là một cái thể lớn, mỗi cá nhân là một phần tử, mỗi phần tử tu tiến thế nào là có quan hệ đến cả các phần tử khác, v́ sự tăng tiến của cá nhân không phải là đặc biệt mà thành, tất có liên lạc mật thiết với cả cuộc tiến hóa chung của nhân loại.

Thần trí và sinh lực của loài người là hai cái thể lớn công cộng, chúng ta sinh trưởng ở trong đó, nhờ đó mà có sức sinh hoạt, có sức tiến hóa, và cái công tạo nghiệp riêng của ta, dù xấu dù tốt, cũng là đổ lộn vào đấy cả, tốt th́ cả toàn thể cùng ta hưởng, xấu th́ cả toàn thể cùng ta chịu. Vậy cái ǵ phạm đến phẩm giá của người ta là phạm đến cả toàn thể, cũng như mỗi sự nghiệp tốt của cá nhân là có ảnh hưởng hay đến công chúng vậy. V́ không nhờ được công nghiệp người trước, th́ không sao ta tới được tŕnh độ ngày nay, vậy th́ muốn tăng cao giá trị của ta về sau này, không ǵ bằng giúp công cho cuộc tiến hóa chung của kẻ khác. Như thế th́ ḷng ghen ghét, thói duy kỷ là không nên cả. Mà cái nghĩa phải thương yêu kẻ đồng loại không phải là chỉ căn cứ ở cái ḷng sợ hăi phải trừng phạt sau này, mà là căn cứ ở một lẽ thiên nhiên, tức là cái lẽ mọi người đều tham dự vào một cuộc sinh hoạt, một cuộc hạnh phúc chung vậy.

Vậy th́ cái công phu riêng của mỗi người là phải tạo ra để truyền đi, sản ra để phát đi, làm ra để vị người vậy. Và cái ḷng nguyện vọng của ta cho được tấn tới, cho được hạnh phúc, muốn cho hoàn toàn thành tựu được, th́ duy chỉ thành thực thờ nhà, thờ nước, thờ nhân loại là mới mong cho đạt được mà thôi,

Sau nữa, lại phải biết rằng phàm ta phát hành ra cái ǵ, cái tốt cũng như cái xấu, tất thế nào rồi nó cũng phản hồi lại ta, v́ trên thế giới hết thảy như xoay trong cái ṿng tṛn cả. Bởi thế nên kẻ làm ác th́ phải chịu tội, kẻ làm lành th́ được thưởng công, đó là lẽ tự nhiên. Vậy phải nên xem xét từng sự cử động của ta, và nhất là từng mối tư tưởng của ta, phải bài trừ trong tâm trí ta những cái thị dục có hại, hay là không có lợi nữa, và chỉ dung nạp những cái tư tưởng chân thành bác ái mà thôi, đó cũng là thuộc về cái lẽ tuần hoán lớn trong vũ trụ.

Sau hết, ḷng bác ái của PYTHAGORE với ḷng từ thiện của đạo Cơ đốc phải đem cho đến bậc hi sinh cả mọi sự lợi lộc và cho đến sinh mệnh nữa, v́ người ta phải theo gương Thượng đế mà ăn ở và phải hỉ xả cho kẻ khác cũng như Thượng đế đă hỉ xả cho loài người vậy. V́ sự hóa sinh chính là một sự hỉ xả của Thần linh, đă chịu đem hóa thân mà chuyển nhập vào trong vật chất, cho đến những giống sinh vật rất ti tiện, và sự sinh tồn hàng ngày trong vạn vật cùng trong nhân loại cũng là một sự truyền thụ, nghĩa là chính hóa thân của Thượng đế đem bản thể của ḿnh mà bố thí cho. Muốn được lên cơi cực lạc mà hưởng cái thú thiêng liêng th́ người ta trong cái thời kỳ hóa sinh của ḿnh phải làm nên những việc vong thân hỉ xả cũng giống như Thượng đế đă làm cho ḿnh. Vậy thời người nào tự nguyện đem cống hiến cả sự nghiệp của ḿnh, hay một ngày quyết đổ máu để biểu dương cho tôn giáo hay làm trọn một nghĩa vụ, thời người ấy chắc sẽ được cái ơn thưởng tối cao, v́ hi sinh ḿnh đi như thế tức là tự đặt ḿnh vào cơi thần linh vậy.

Cái quan niệm cốt yếu về hai mối hi sinh đó, một là đấng Tạo vật hi sinh cho vạn vật, hai là người ta theo gương Thượng đế mà hi sinh lẫn cho nhau, là một cái quan niệm thuần thuộc về tôn giáo. Trong lễ Thánh thể (lễ « misa », messe) của đạo Gia tô, cũng có ngụ cái ư đó.

V́ chủ trương sự đời vừa thuộc vận mệnh mà cũng vừa thuộc ư chí nữa.
Có hai cái sức mạnh chủ trương qui định cho cuộc tiến hóa của loài người.

Một là Vận mệnh, hai là Ư chí. Vận mệnh th́ định trước ư chí tự do.

Vận mệnh, tức là lẽ tất nhiên, tựu trung cũng có hai phần. Trước hết là cái luật thiên diễn, phàm vật ǵ phát sinh ở Thượng đế ra, đi quanh một cuộc tuần hoàn, rồi lại trở về Thượng đế, v́ đấng tạo vật có cái sức bác ái rất mạnh, tự nhiên hấp dẫn cả các sinh vật về ḿnh. Luật này ở mỗi giống có cái sức mạnh ngầm khiến cho phải sinh ra, phải lớn lên, phải sống, phải truyền giống ra, rồi phải chết, dù không muốn cũng không được. Đó là cái ḍng nước chảy của sự sống, không bao giờ dứt. Chính bởi luật đó mà mỗi cá nhân, dù sai lầm miễn cưỡng mặc ḷng, cũng bị bắt buộc phải cạnh tranh để mà sống, phải đoạt sự ngu tối mà khám phá lẽ phải, để tăng tiến cái thân phận của ḿnh, rồi cam tâm chết đi để lại biến hóa lần nữa. Luật đó là tiêu biểu cho sự tiến bộ của Vũ trụ cùng nhân loại, khiến cho các giống các loài càng ngày càng tấn tới lên cơi trí thức, cơi hạnh phúc tuyệt đối, theo lẽ tất nhiên nhất định. Mà thực xét ra cả vạn vật đều bước lên bước tới hoài ở trên con đường sinh hóa, qua thực vật, động vật, đến người ta, rồi đến các giống siêu nhân loại. Cái ác nhân chỉ là nhất thời mà thôi; nó không có địa vị ở trong cơi tuyệt đối. Nó chỉ dùng để dạy cho người ta biết sáng ra mà thôi, rồi bao giờ cứu cánh cũng đến tiêu diệt đi hết. Cái thiện nhân thời sớm trưa thế nào cũng được thắng. Luật tuần hoàn đó cổ nhân đă tiêu biểu ra bằng một cái h́nh vẽ con rắn nằm cuốn tṛn lại mà lấy miệng cắn đuôi. Luật đó là một điều chân lư mà kẻ b́nh thường ngu muội không thể hiểu được, nên xưa chỉ dạy về khoa bí truyền mà thôi. Nói ra ngoài th́ chỉ dùng cách bóng bẩy xa xôi, như câu trong « Kim Thi » nói rằng: « Lẽ tất nhiên ở đâu, là quyền lực mạnh ở đó. »

Lẽ tất nhiên là cái người ta hiện nay phải chịu mà tự ư không muốn, nhưng như trên kia đă nói, tựu trưng c̣n có một phần thứ hai nữa, là cái của riêng của cá nhân, tức như người Ấn độ gọi là cái « nghiệp » (karma), nghĩa là gồm những cái hay cái dở tích lũy từ kiếp trước đến giờ, hay th́ được hưởng, dở th́ phải chịu. Tức là thiên đường hay là địa ngục của ḿnh ở đấy, tùy cái cách ḿnh đă ăn ở từ trước đến giờ thế nào. Chính là gồm những cái công cái tội của ḿnh đến thời kỳ thu hoạch vậy. V́ ở đời này, hay là ở cơi khác, hết thảy đều có nghiệp báo cả. Phàm quyết định một điều ǵ, rồi nó lan man kết quả ra măi, dù h́nh hài đă tan, thân thể đă chết, cái nghiệp báo ấy cũng không bao giờ rứt được. Công hay tội dù ở kiếp nay chưa đă liễu kết được, rồi cũng ảnh hưởng đến kiếp sau.

Đến như Ư chí, th́ là cái quyền của người ta được tự do hành động. Nó là cái sức cạnh tranh để tiến bộ. Nó là cái động cơ của mỗi người để tự ư qui hồi về Thượng đế.

Nó là cái sức sáng tạo tuyệt đối. Trong người ta, nó là bao quát hết thảy, v́ nó gồm cái sức mạnh của người ta để chống lại với cái ác và khuynh hướng về điều thiện. Vậy th́ người ta không phải chỉ là kết quả những sức mạnh ở ngoài, những cái động lực vật chất ở trong hoàn cảnh ḿnh sinh trưởng mà thôi, lại cốt nhất là kết quả của cái sức Ư chí ở trong ḿnh, khi mới sinh thành ra đă có rồi, và khiến cho ḿnh tự thành lập lấy ḿnh, tự phát đạt tự do vậy.

V́ nếu người ta hồi hướng về Thượng đế chỉ bằng cái sức dun dủi của vận mệnh mà thôi, không phải công phu khó nhọc ǵ, không phải biện biệt tự quyết ǵ, th́ cố nhiên là không có công ǵ, và không thể mong được thưởng cái hạnh phúc tuyệt đối. Như vậy th́ trong cuộc thiên diễn, cái ác để làm cảnh cáo, cái thiện để làm tưởng lệ và chỉ phương châm cho người ta, không c̣n nghĩa lư ǵ nữa.

Trên cái thang tiến hóa của vạn vật, từ khoáng vật cho đến người ta, cái ư chí hăy c̣n tiềm tàng. Rồi dần dần mới thấy xuất hiện ra ở các giống động vật, sau hết đến người ta là nảy nở ra hẳn. Tự bậc dưới cho đến bậc đó, cuộc tiến hóa thuần do cái sinh khí bồng bột (élan vital), nhờ cái sức hấp dẫn tự nhiên của trời đất, tức là cái «bản năng» (instinct) của các giống. Về sau sự tiến hóa mới được ḥan toàn và mau chóng hơn, là nhờ được cái sức mạnh mới, là trí tuệ, khiến cho người ta biết tri giác và có ư thức.

Khi c̣n ở các bậc dưới trên tŕnh độ tiến hóa, th́ người ta thuần thuộc bản năng chi phối, rồi dần dần mới luyện cho ư chí ḿnh đoạt được vật dục, sức bản năng bấy giờ không được đủ mạnh nữa, trí tuệ lần lần tràn khắp cả, người ta bấy giờ chỉ tiến theo về con đường lư trí sáng sủa mà thôi. Xem như thế th́ biết rằng người ta lúc mới đầu c̣n do tạo vật xử linh hết thẩy, sau rồi cái trí sáng suốt, cái sức tự chủ càng ngày càng tăng tiến lên, tức là được tạo vật, được Thượng đế phú dữ cho cái quyền tự do, cái sức sáng tạo, càng ngày càng thêm lên, rồi thoát được hẳn những ảnh hưởng vật chất mà tiến lên cơi khoái lạc tinh thần.

Vậy th́ vận mệnh là gồm cả phần quá khứ, mà cái mầm mống tương lai cũng ngấm ngầm ở đó. Bao nhiêu những cái ta sở đắc từ trước, những cái khuynh hướng của ta về thiện hay về ác, những sự khổ lạc của ta từ trước đến giờ là đều bao hàm cả ở đó. Tâm t́nh tính chất của ta, những cái hay cái dở, cho đến cái di truyền cùng những thói nết của ta, cùng là ở đó cả.

Cái hiện tại là chỗ vận mệnh với ư chi gặp nhau. Là cái trường sở hành động của cá nhân, chữa sửa lại những cái khuyết điểm của ḿnh và tăng tiến thêm những cái tính tốt của ḿnh, nghĩa là dự bị bước lên cái tiền đồ về sau này.

C̣n tương lai là kết quả của sự gặp gỡ vận mệnh với ư chí ở hiện tại, trừ lâm thời có thể nhân sự hành động tự do mà thay đổi ít nhiều không kể. V́ ư chí người ta không những làm ra điều thiện mà lại cải lại điều ác nữa, nghĩa là chữa lại được vận mệnh, khiến cho người ta phải vâng theo luật thiên nhiên cùng luật Thượng đế, mà tự trau giồi những cái đức tính nhẫn nhục, thanh tịnh, khiêm tốn. Bấy giờ th́ nhờ hóa thân của Thượng đế, những tội lỗi trước có thể chuộc chữa lại dễ lắm.

Nếu ở đời mà cứ phó mặc cho vận mệnh sử linh, cho tạo vật chi phối, không có tự ḿnh xuất công phu ra để cho am hiểu hay để cho tinh tiến, th́ ta sống một cách tiêu cực, hầu như vô ư thức, kết quả hay th́ ít, mà kết quả dở có lẽ nhiều.

Nhưng nếu nhất thiết chỉ bằng ở ư chí ḿnh, không biết lấy luật thiên nhiên, luật Thượng đế làm hướng đạo, th́ chỉ thấy trái ngược luôn, mà sớm trưa tất mắc phải những sự bất tường, như các bệnh tật về thân thể cùng về tinh thần vậy. Bấy giờ tự cao là độc lập mà kỳ thực là nguy hiểm, v́ không biết cái lẽ tất nhiên, nghĩa là không biết thờ Thượng đế và không biết thờ tạo vật vậy.

Nay nếu đă hiểu rơ những luật thiên nhiên chi phối cho đời người ta, khiến cho biết hồi hướng về Thượng đế, lại gia công gắng sức cứ theo đuổi về một cái mục đích thiết yếu đó không có cưỡng lại với lẽ tất nhiên, nghĩa là những sự khuyết điểm, sự trở ngại cần phải bổ cứu hay cần phải thắng đoạt, lại nếu đồng thời biết khiêm tốn mà cầu Thượng đế phù trợ cho, th́ bấy giờ sống ở đời sẽ được điều ḥa yên ổn, nghĩa là ḥa hợp với Thượng đế, ḥa hợp với vạn vật. Bấy giờ tự ḿnh cũng có một cái sức sáng tạo, như sức sáng tạo của thần minh vậy. Có thể làm nên những việc lạ lùng, không th́ cũng tự chủ được cái hoàn cảnh cùng cái nhân cách của ḿnh, và sẽ được sức thiên trợ, tấn tới lên những tŕnh độ cao.

TU LUYỆN M̀NH

A) Tu luyện về tâm trí.

Phải biết khắc kỷ. Rồi lại biết sửa ḿnh cho thắng được t́nh dục, cho biết tiết độ, biết cần cù, biết thanh tịnh. Đừng nên giận giữ bao giờ
  Bổn phận thứ nhất đối với ḿnh, là phải tập cho tự ḿnh biết ḿnh, cho tự chủ được ḿnh. Bởi thế nên PYTHAGORE thiết tha cho người ta nên chú ư về cái trách nhiệm cốt yếu đó: «Phải biết sửa ḿnh cho thắng được t́nh dục ».

Việc tu luyện cho ḿnh là điều cốt yếu cho sự tiến bộ. Duy có tu luyện th́ mới biết tự khắc kỷ và mới có thể ảnh hưởng đến kẻ khác được. V́ không ai có thể thay ta mà chỉnh đốn trong tâm trí ta được, làm cho ư chí ta được mạnh mẽ, củ tập được nghị lực, thắng đoạt được t́nh dục của ta, v́ phàm công phu tiến hóa phải là sự nghiệp riêng của cá nhân cả. Vả lại, muốn chủ trương được người, th́ tự ḿnh phải biết chủ trương được, v́ ḿnh có biết đem sự sáng suốt, sự kiên gan mà làm gương cho người, th́ mới đủ có oai cho người phải phục ḿnh.

Một người biết tự chủ, biết kiểm điểm sự khuynh hướng của ḿnh, biết chủ trương bộ thần kinh của ḿnh, biết hạn chế cái tính đa cảm của ḿnh, giữ lúc nào cũng điềm tĩnh như thường, th́ người ấy không sợ cái cơ hội hay sự cám dỗ ở ngoài nó làm cho xiêu ḿnh được. Như thế th́ tránh khỏi lắm sự phiền muộn thất bại, v́ cái tư tưởng của ḿnh sáng suốt, sự phán đoán của ḿnh ngay thẳng và cái ư chí của ḿnh mạnh mẽ hơn. Biết rằng trật tự là cần, kỷ luật là hay. Rồi mỗi ngày thấy ḿnh mạnh khỏe hơn lên, vững vàng hơn lên, chủ trương được cái sức mạnh ư chí của ḿnh, khiến cho tinh thần thắng được vật chất, và ở quanh ḿnh cái sức mạnh vô h́nh đoạt được cái sức mạnh hữu h́nh.

Phải biết tiết độ.


Trong các cái hại cho người ta, đệ nhất là cái hại vô tôn giáo, rồi đến cái hại không tiết độ. Bởi thế nên PYTHAGORE cho bổn phận thứ nhất của người ta đối với bản thân ḿnh là phải tiết độ sự ăn uống.

Không có ǵ hại cho sự đào tạo đức tính, cho sự phát đạt tâm t́nh, bằng những cách ăn uống thái quá, rượu chè liên miên. Phàm đồ ăn nhiều quá, ngon quá, phải dụng đến nhiều tinh lực mới tiêu hóa được. Gân thịt thành ra lười biếng. Ư chí suy nhược, mà trí tuệ đần độn đi. Như bệnh rượu là một cái tật xấu lớn của các xă hội hiện thời, làm cho người ta hạ xuống bằng hàng với con vật. Kẻ nghiện rượu th́ thần trí mờ ám, bao nhiêu những cái dục t́nh đê tiện ở trong người như khêu gợi cả lên, rồi đến trụy lạc hẳn, kḥng thể văn hồi được nữa. Người nghiện rượu th́ dần dần mất cả cái quan niệm về nghĩa vụ, về nhân từ, về phẩm giá của loài người. Cứu cánh đến thành ra một giống tai hại, đeo đẳng cái thân tật bệnh suy đồi, rồi đến điên cuồng rồ dại.

Trái lại, thói tiết độ làm cho người ta tự chủ được ḿnh; thật là một cách rất có công hiệu để đạt tới cái mục đích tự ḿnh chi phối được bản thân ḿnh, mà tấn tới lên cơi đạo đức, bởi thế nên các tôn giáo cổ kim hết thảy đều dạy cho người ta nên tiết chế sự ẩm thực cả.

V́ rằng người ta mà biết tự hạn chế sự ăn uống, ngoài hai ba bữa ăn thường hằng ngày, nhất định không dùng những thứ đồ ăn tạp quá, hoặc chua cay nồng mặn quá, hoặc là chế nấu cầu kỳ quá, nhất định không dùng những chất ǵ làm cho rung động thần kinh, lay chuyển trí năo, nếu giữ được như thế th́ chắc là thần trí thắng được thân thể và ư chí đoạt được t́nh dục vậy.

Nhờ sự tiết độ mà dẹp yên được những cái thị dục về tinh thần, thu hoạch được một cái nghị lực phi thường, tăng gia được cái sức thần trí lên gấp mười mà đạt tới được một cái tŕnh độ tinh tiến rất cao.

Vậy th́ phải biết tiết độ, không những là để giữ lấy sức khỏe mà thôi, mà cốt nhất là để tu luyện lấy tâm tính, trau giồi cho thần hồn vậy.

Phải biết cần cù.  
Khêu gợi lấy những cái khuynh hướng tốt ở trong ḿnh cũng chưa đủ, lại c̣n phải biết khiến cho nó hoạt động nữa. Không có hoạt động th́ những tư chất thiên nhiên rất tốt, những cái mầm tốt của giáo dục đă gây ra, cũng đến mai một hết.

Vả lại không có hoạt động, th́ không khác ǵ như không có sinh hoạt nữa, không làm trọn được cái thiên chức của loài người, là phải kiến thiết ở quanh ḿnh, mà tự kết cấu cho ḿnh nữa. Vô vi lại là trái với luật thiên nhiên bắt buộc các giống sinh vật phải thường gia công tiến hóa luôn luôn, cho đều đặn, cho kiên nhẫn, lại phải thường chiến đấu luôn cho càng ngày càng tấn tới.

Vậy th́ không ai có quyền được ngồi không vô ích, hay là ẩn náu để yên lấy một thân ḿnh. Nhàn cư vi bất thiện, cổ ngữ Đông Tây đă có câu thế. Ngồi không thành ra lười biếng, như sợ hăi nhút nhát, và dễ sinh ra các tật xấu. Những kẻ ăn không ngồi rồi th́ chẳng bao lâu thành ra thần trí nhọc mệt, tính khí thất thường tinh thần suy nhược. Rồi th́ hoặc hao ṃn đi, hoặc yếm ứ quá mà đến chết, không kể có khi chán đời mà đến tự sát nữa.

Người lười biếng, tự hạ cái thân ḿnh vào cái địa vị thụ động của vật chất, hạn chế cái đời ḿnh ở trong ṿng những công việc tiêu cực về vật chất, th́ là làm cho trí tuệ giảm sút đi, mà tâm tính khô héo đi vậy. Tức là tự ḿnh tạo cho ḿnh một cuộc đời tối tăm, một thân phận đau đớn, v́ tự ḿnh ngăn trở cái sức tiến hóa ở trong ḿnh.

Vậy th́ đời người phải coi như một cuộc tạo hóa luôn luôn. Người ta phải ăn ở theo h́nh ảnh cái thiên lư ở trong ḿnh, nghĩa là phải tự ḿnh khơi đào lấy cái nguồn sinh hoạt ở trong ḿnh, tự ḿnh chế tạo lấy cái khí cụ để tiến bộ, tự ḿnh gây dựng lấy cuộc hạnh phúc của ḿnh, nói tóm lại là tự ḿnh chung đúc lấy cái thân phận cùng cái nhân cách của ḿnh, việc đó là việc cần cấp, không thể trông mong ở kẻ khác giúp hay ở cơ hội ngoài được.

Sự làm việc là một thứ đồ ăn bổ dưỡng cho thân thể cùng cho tinh thần, v́ khiến cho bao nhiêu những cái tinh lực cao thượng ở trong người ví như ngọn trào dâng lên tràn ngập cả, khiến cho người ta được mạnh mẽ, được phát đạt thêm lên. V́ rằng gân thịt cũng như trí năo, hễ không dùng đến th́ cằn cọc héo hắt đi. Người ta có làm việc th́ sống mới được đầy đủ, tùy theo sức lực của ḿnh cho đến ngày già cỗi. Phàm hoạt động là hay cả, là có ích lợi cả, miễn là phải chuyên chú về việc hay, việc chánh đáng, hay là việc lợi ích. Dù là việc làm bằng trí năo hay là việc bằng chân tay, hễ dụng lực mà cẩn thận th́ bao giờ cũng thành công và có tấn tới cho đường tu luyện riêng của ḿnh. Lại thay đổi gián tiếp công việc làm đi cũng là hay lắm. Thí dụ như người làm việc bằng óc mà chi khư khư trong một việc ấy, không thời thường dụng công chuyên chủ về việc khác, th́ không ǵ hại bằng, v́ làm như thế làm cho tiêu ṃn mất cái năng lực khái quát của ḿnh đi, làm cho trí mờ tối đi, và nhân cách cũng hẹp ḥi lại. Nay thay đổi công việc, lần lượt hết việc này đến việc khác, th́ làm việc nọ là tức nghỉ việc kia, tự đặt ḿnh lên trên cái khoa học vụn vặt mà tới cái tŕnh độ thu gồm được cả cảnh hồn nhiên của tạo vật vậy. Thần trí người ta cũng như thứ nước nọ, đă đầy một thứ muối nào th́ không thể dung nạp được thêm nữa, vậy mà đổi đi cho thứ muối khác vào lại ḥa tan được ngay. Công việc khéo thay đổi như thế, th́ kết quả ắt được tốt đẹp nhiều, cũng ví như cái ruộng đất kia, trồng trọt khéo gián tiếp thứ nọ với thứ kia, th́ thứ nào cũng mọc được tươi tốt cả.

Sau nữa cách làm việc phải cho yên tĩnh và phải cho đều đặn. V́ cần phải biết rằng ở trên mặt đất này, hết thảy là có điều độ hằng ngày cả: cái ǵ cần phải học, cái ǵ cần phải làm, cái ǵ cần phải trao đi, cái ǵ cần phải nhận lấy, là đă chia đều cả. Thí dụ như các công việc ta phải làm trong một năm, không có bắt ta phải làm ngay một lúc, mà chia đều ra mỗi ngày mỗi tháng là bao nhiêu. Bởi thế nên việc phải làm ngay lập tức không nên để lại đến mai, c̣n việc những ngày sau th́ ngày nay không cần phải vội vàng lo lắng hay nóng nảy hấp tấp làm ǵ.

Vậy th́ điều cốt yếu là phải t́m cách học tập thể nào cho chăm chỉ đều đặn, cho khỏi gián đoạn mất cái luồng quang minh sinh hoạt của Bề trên đă phú dữ cho ta, tùy tài lực của ta, và khiến cho ta ngày ngày đều có dịp để cho ta tu luyện lấy bản thân ta, dịp này nhiều khi là độc nhất vô nhị, qua rồi không bao giờ trở lại nữa. Nếu làm được như thế th́ sẽ tránh khỏi những sự khuyết điểm về trí tuệ, về đạo đức và tâm thần sẽ được hoàn toàn phát đạt.

Đă biết v́ sao mà ḿnh làm việc, làm việc phải nên thế nào, th́ cái công phu nỗ lực tức là một sự khoái lạc cho ḿnh, sự nhọc nhằn gắng sức là một cách yên ủi cho ḿnh, và sự sống ở đời sẽ là một cuộc hạnh phúc vậy. Bấy giờ cuộc chiến đấu sẽ kết quả thành chiến thắng, và tự ḿnh thấy trong ḿnh mạnh mẽ không ǵ thắng đoạt được.

Phải biết thanh tĩnh.
– Sự dâm dục là một cái trở lực rất mạnh cho thần trí không tăng tiến lên được, v́ nó khiến cho cái t́nh dục thuộc về nhục thể thắng đoạt được ḿnh. Nó lại làm tổn hại đến tinh lực nữa, v́ kết quả đến tinh thần cùng thể lực đều lao quyện.

Muốn cho năo lực cùng cân lực được kiện toàn, th́ cách ăn ở phải cho thanh tĩnh. V́ duy có cách chế dục, hoặc tạm thời, hoặc vĩnh viễn, là mới khiến cho người ta như có cái thần lực mạnh. Vậy th́ những sự dâm dục phải nên giữ cho kỹ và không nên ra ngoài cái giới hạn vợ chồng để cho nó có cái ư nghĩa về gia tộc, về tinh thần. Kẻo không th́ không c̣n có cái tính cách ǵ về nhân loại nữa. Nếu bao giờ trong trí cũng nhớ luôn đến câu cách ngon của phái PYTHAGORE dạy rằng: «Bao giờ có muốn tự hạ ḿnh xuống th́ hăy nếm cái khoái lạc về nhục thể », nếu thường nhớ đến câu đó, th́ giữ ḿnh cũng dễ.

Không những nên thanh tĩnh về thực sự, mà lại thanh tĩnh ở tư tưởng, ở lời nói nữa. Phàm cuộc chuyện tṛ mà giở ra những chuyện dâm bôn, th́ nên lảng ngay, và những tṛ chơi, những sách đọc trái với luân lư đạo đức, đầu độc cho thần trí, ô uế cho tư tưởng, th́ nên tránh xa như tránh bệnh dịch vậy. Nói tóm lại bao giờ cũng phải giữ lấy phẩm giá nhân cách của ḿnh, và giữ cho cái thần lực ở trong người được trong sạch luôn luôn.

Đừng nên giận dữ bao giờ.
– Sự giận dữ là một cái nhược điểm của người ta. Nó là cái đặc tính của những người tâm thần suy nhược; cho nên thường nghiệm thấy ở trẻ con, ở người già, người ốm, người thần kinh bất định. Giận dữ là tự ḿnh bỏ cái quyền tự chủ của ḿnh, để tha hồ cho vật dục nó xúc động. Người nào để ḿnh giận dữ là tựa hồ như phá hoại mất cái nhân cách của ḿnh. Tựa hồ như đem thần trí ra ngoài thân thể, mà để cho cái vật dục phồn tạp nó sai khiến. Tự làm cho lẽ phải hôn mê, ư chí tiêu tán. Khi đó th́ dễ bị cám dỗ mà phạm những điều đáng chê trách, rồi sau thần trí tỉnh ra, ăn năn hối lại không kịp nữa.

Sự giận dữ lại c̣n một điều không hay nữa, là khiến cho người ta căm hờn mà thành ra oán phẫn. Người ta đă oán phẫn th́ chỉ mua chuốc lấy những cái khổ vào ḿnh. Tức cũng như người có bệnh, nếu không biết nhẫn nhục, bệnh phát ra liền, hăng hái chống lại, như hằm hằm tức giận cái đau đớn đến ḿnh, th́ người ấy không mấy khi là khỏi bệnh được. Nếu đă biết rằng phàm việc ǵ xẩy đến là cũng do cái nghiệp trước đă định cả, trong sự đau đớn là có một cái bài học cho ta, là đem cho ta sự sáng sủa lại, nếu biết như thế th́ không có oán trách nữa và sẽ hiểu rằng phàm phẫn nộ là vô ích mà lại có nguy hiểm nữa.

Vả lại cứ xem những kẻ hằm hằm giận dữ, cái đời họ đáng buồn là dường nào. Họ như lúc nào cũng bất b́nh, lúc nào cũng khốn nạn, khiến cho quanh ḿnh ai cũng khiếp sợ, ai cũng chán nản. Họ có thể bắt kẻ khác vâng theo một cách tiêu cực, nhưng không khi nào khiến được người ta kính trọng và tin yêu vậy. Họ không có bạn thật, v́ phàm người cao thượng đều lánh xa cả.

Trái lại, sự ôn ḥa th́ lại có một cái sức mạnh vô địch, khiến cho biết b́nh tĩnh mà quan sát các việc. Lại khiến cho biết sáng suốt mà phán đoán mọi sự, biết trầm nghị mà quyết định việc làm. Người ôn ḥa gặp cơ hội nào cũng có đủ sức trí tuệ, sức kiểm điểm và sức hành động của ḿnh. Tự ḿnh được ung dung khoan khoái, v́ biết dẹp được yên những sự bận bịu nhỏ mọn ở đời và ra đối phó với các việc lớn không phải lo lắng sợ hăi ǵ.

Người ta vốn có cái tâm địa tốt th́ mới thật là người ôn ḥa được; và muốn được như thế th́ phải giữ ḿnh cho không hề thốt ra một lời chửi rủa dọa nạt; phải trừ khử cho bụng ḿnh không có một chút ghen ghét thù hằn ǵ ai. Pythagore lại muốn cho cái ḷng khoan nhân của ta rộng ra đến cả các giống sinh vật nữa. Ông nói rằng: «Con vật vô hại, không nên đánh đập, cái cây ḿnh trồng, không nên bẻ gẫy. »

Tuy nhiên, ôn ḥa không phải là không cương quyết. Người ta có thể quả quyết, hăng hái, hành động một cách nghiêm nghị mẫn tiệp, mà vẫn giữ được cái thái độ b́nh tĩnh ôn ḥa. Như khi quở mắng người nào, mà nổi giận đùng đùng, th́ người bị quở sinh ḷng oán giận bất phục, c̣n như quở mắng một cách nhẹ nhàng mà nghiêm khắc, th́ người ta vừa phục mà vừa trọng ḿnh.

Phải biết thật thà, ngay thẳng, công bằng. – Đối với kẻ khác cũng như đối với riêng ḿnh, phải nên thế nào cho không có điều ǵ tự trách được. Mà trước hết phải biết tự trọng ḿnh. Nhất thiết một đời, phàm mỗi câu nói phải theo cho đúng lẽ công bằng.
– Có hai cái đủ làm hướng đạo chắc chắn cho sự tư tưởng cùng sự hành vi của người ta, là ḷng ham chân lư và ham công nghĩa. Người ta đă quyết chí dù gặp cơ hội nào cũng cố giữ lấy chân thực, giữ lấy công bằng, bao giờ cũng biết khiến cho việc làm của ḿnh thích hợp với tư tưởng của ḿnh, thời bấy giờ có thể ngắm cái tiền đồ không phải lo ngại ǵ. Pythagore thường nhắc đi nhắc lại rằng : « Người ta có biết chân thực, có bụng nhân từ, thời chắc có thể đạt tới cơi đạo đức rất cao. »

Vậy thời những điều cần phải tránh đệ nhất là sự nói dối, sự trộm cắp, sự bất công và sự trá ngụy.

Tự ḿnh phải bắt buộc ḿnh lúc nào cũng phải nói thực, và về khoản đó không thể lấy lẽ ǵ mà châm chước với cái lương tâm ḿnh được. Phàm việc ǵ cũng phải dốc ḷng dốc trí mà t́m cho ra cái chân lư, đó phải coi là một điều cốt yếu ở đời.

Lại bao giờ cũng phải rất mực thực thà, giữ ǵn cho không khi nào xâm phạm đến một cái mảy may ǵ là của người, và không khi nào mưu kiếm một cái lợi ǵ là không chánh đáng.

Không những không bao giờ nên ăn ở xằng, mà lại cần là không bao giờ nên tư tưởng bậy hay là nói năng càn. V́ tư tưởng cùng ngữ ngôn vốn vẫn có một cái sức sáng tạo rất mạnh. Những tư tưởng c̣n tiềm tàng hay đă xuất lộ ra, thực là những sức mạnh, nó chung đúc lại thành những nơi trung tâm điểm để thu thập lấy những cái ảnh hưởng đồng loại, rồi sau đến xuất hiện ra thực tế, tùy cái ư chí cùng cái thị dục của người chủ động vậy.

Bởi thế nên cần phải xem xét cái đường lối của tư tưởng ḿnh, cùng cái tính chất của lời nói ḿnh, để cho bao nhiêu những tư tưởng bất lương, những lời nói độc ác, những câu truyện vô vị, những tiếng nói tục tằn là trừ bỏ đi được cả, và tự gây lấy cho ḿnh một cái tâm tính quả quyết ngay thẳng. Các người về phái PYTHAGORE ngày xưa đă hiểu rơ cả các lẽ đó, v́ cứ như lời Ciceron thuật lại, th́ họ kiêng không dám nói những lời bất tường, những tiếng ô uế, sợ chiêu tập lấy những cái ảnh hưởng không hay cho ḿnh.

Lại cần phải trung chính đối với ḿnh nữa, nghĩa là phải biết tự trọng ḿnh. Muốn cho được như vậy th́ phải chăm chỉ giữ ǵn cho không bao giờ trong ḷng ḿnh có một cái ư tứ u ẩn ǵ mà lộ cho công chúng biết, sợ có hổ thẹn cho ḿnh. Thế đă không nên, thời tự riêng ḿnh đối với ḿnh làm một việc ǵ xấu xa nhơ bẩn, giá đem ra chỗ thanh thiên bạch nhật phải ngần ngại không dám làm, th́ lại càng không nên làm nữa. Cái tâm thuật ở trong với cách biểu lộ ra bề ngoài, hai bên phải không được phản trái nhau, dù dụng tâm hay vô ư mặc ḷng. Người ta mà có hai lá mặt, trang tác lấy một cái bề ngoài không thích hợp với bề trong, giữ hai cái thái độ khác nhau, một cái đối với ḿnh, một cái đối với ngoài, h́nh như đeo lấy một cái mặt nạ để che đậy cái mặt thực, lắm khi khả ố, như thế th́ không ǵ tai hại bằng.

Thường những kẻ rỗng tuếch, lại là những kẻ làm ra mặt hơn người, phô trương cho quá cái giá trị của ḿnh. Trong bụng ḿnh cong queo mà ngoài miệng dám xưng là người ngay thẳng, th́ c̣n ǵ ghê gớm bằng! Lại tự ḿnh vốn có cái tính kiêu căng không thể chừa được, mà ngoài mặt làm ra kẻ nhũn nhặn, cũng là tự ḿnh dối với ḿnh nữa.

Vậy thời đối với ḿnh cũng như đối với người ngoài, phải cho thập phần sáng sủa, thập phần chân thực. Cái bản sắc ḿnh thế nào, phải lộ ra ngoài như thế, không nên ngần ngại ǵ.

Đời người mà hiểu biết như thế th́ thật là một khoa học. Là khoa học nghĩa vụ, dạy người, ta phải v́ điều thiện mà làm lành, v́ chân lư mà nói thực, không có nghĩ đến lành hay nói thực như thế thời có lợi hay có hại ǵ ngay cho ḿnh. Đời người như thế thời cái tiếng của lương tâm thúc giục cho người ta làm việc nghĩa vụ, sẽ át được cái ḷng tư lợi nó cám dỗ người ta về đường vật chất. Đời người như thế th́ dù biết rằng ḿnh v́ chân lư, v́ công nghĩa mà phải chịu đau đớn thiệt tḥi ngay đấy, cũng không ngại, chắc rằng sẽ có một cái thưởng cao thượng nó đợi ḿnh về sau, càng chậm bao nhiêu thời lại càng sẽ được rực rỡ bấy nhiêu. V́ rằng điều thiện cũng như điều ác, cũng cứ tích lũy dần dần, rồi sau đến kỳ hạn thành một cái số to vậy.

Cái khoa học nghĩa vụ đó nếu biết rằng gốc nó là ở tự nơi Thượng đế và sự nghiệp ở đời là phải noi theo Thượng đế, mà Thượng đế là chân lư, là công nghĩa tuyệt đối, mỗi người ta trong ḿnh đều có một phần tử cái tinh thần của Thượng đế, đáng cho ta phải tôn trọng và phải làm thế nào cho nó thắng được hết thảy, khiến cho ta cũng đồng một tính cách với Thượng đế, nếu hiểu biết như thế th́ cái khoa học nghĩa vụ cũng là dễ theo vậy.

Khi đă biết rằng đời người có một cái mục đích thiêng liêng như thế, đă khám phá được những phép tắc mầu nhiệm ở đời, đă quả quyết chỉ làm nô lệ cho chân lư, cho công nghĩa mà thôi, và đối với hết thảy mọi người cũng như đối với hết thảy vạn vật chỉ một ḷng khoan nhân mà thôi, như thế thời cuộc nhân sinh sẽ là một cuộc tốt đẹp dễ dàng biết dường nào.

Bấy giờ th́ người ta sẽ là con người hảo tâm hảo ư, theo cái nghĩa cao như trong sách thánh đă dạy, và nhờ đó sẽ có đủ tư cách chịu được cái ánh sáng của Bề Trên. Bấy giờ trong lương tâm như có một cái tiếng âm thầm, nó chỉ rơ cho biết điều thiện điều ác thế nào, và chỉ cho biết cái oai quyền của Thượng đế can thiệp vào việc đời thế nào, tức là biết rằng đời người có một cái nghĩa thần bí vậy. Rồi th́ dần dần tự ḿnh cũng tập được cái phép thần thông. Thấy như có cái thần lực ǵ nó run rủi ḿnh về đường thiện, mà tránh xa cho khỏi lối ác. Trong cái phạm vi của ḿnh, dường như có thể sai khiên được cả những việc xẩy ra. Dù gặp cơ hội nào cũng cứ vững vàng yên ổn mà hành động, v́ biết rằng có thần lực chủ trương pḥ trợ ở trong. Sau nữa lại được hai cái của báu nhất ở đời: là ḷng tin ở nhân sinh và sự khoái lạc biết rằng ḿnh hành động hợp với thiên ư vậy.

Phải biết suy nghĩ.
– Đừng có tập cái thói quen ù ĺ gặp sao hay vậy. – Biết bao nhiêu người hễ được ăn no, uống say, ngủ kỹ th́ đă lấy làm măn nguyện rồi! Biết bao nhiêu người đi qua cơi đời như kẻ đui mù, không biết chống lại cái luồng sóng sinh hoạt phù phiếm, trái lẽ thiên nhiên, ở các nơi tỉnh thành lớn, không biết thoát ḿnh ra ngoài những sự vật dục về thân thể, không biết tránh xa sự xung đột của mối dục t́nh cùng ḷng danh lợi! Biết bao nhiều người khổ v́ không biết suy nghĩ, chỉ theo thói thường, không có một cái mục đích cao thượng!

Trí tuệ người ta c̣n có một cái trường sở hành động rộng hơn, một cái mục đích theo đuổi cao hơn là sự tăng tiến lấy cái khoái lạc về nhục thể mà thôi. Ta thử vùng con mắt mà nh́n lên khoảng vũ trụ bao la, nh́n lên bầu trời kia biết muôn vàn vạn mớ nào là những thế giới đương luân chuyển trong khoảng không, lại nh́n đến cái cảnh vạn vật sâm nghiêm trên mặt đất này, rồi nghĩ đến cái thân phận người ta ở đời thế nào, bấy giờ trong ḷng man mác, biết bao nhiêu những tư tưởng băn khoăn ! Sống là ǵ? chết là ǵ ? Cái luồng sóng sinh hoạt nó chuyển động các tinh cầu kia, là ở đâu mà ra? Trước cái đời hiện tại này th́ chúng ta ở đâu? Sau cái đời hiện tại này th́ chúng ta đi đâu? Biết bao nhiêu điều khiến cho ta phải ngẫm nghĩ trong ḿnh mà xem xét ở ngoài! Biết bao nhiêu những điều nhỏ nhặt ta phải ghi chép lấy, rồi mới sưu tập thành loại, ngơ hầu mới có thể khám phá ra được những luật phép của Vũ trụ, rơ tỏ được cái qui mô của Tạo hóa, cùng những mối liên lạc nó ràng buộc các sinh vật cùng các sự vật với nhau! Phải nghiên cứu biết bao nhiêu mới đạt tới cái Lư tưởng độc nhất nó bao gồm được cả thiên h́nh vạn trạng trong thế gian! Biết bao nhiêu sự bí mật của Tạo vật có thể khám phá ra được! Nhưng đến khi đă t́m được cái then máy của cuộc đời rồi, đă hiểu được cái lẽ cứu cánh của Thiên diễn rồi, th́ bấy giờ khoái lạc biết dường nào!

Có ngẫm nghĩ những vấn đề ấy thời mới thoát được ra ngoài cái cơi sống bần tiện này, mới biết phá được những cái hiện tượng huyền hoặc mà t́m được cái chân lư rơ ràng. Bấy giờ mới hiểu rằng người ta không phải một ḿnh mà sống được, nhưng là bởi cái sức mạnh thiêng liêng của Vũ trụ sáng tạo ra, sức mạnh này là bao gồm hết thẩy, chi phối hết thẩy, theo những phép tắc rơ ràng. Lại biết rằng người ta không phải là ngẫu nhiên mà bị ném vào trong cái luồng sóng sinh hoạt đâu, phải đă có can thiệp đến từ trước rồi, v́ cái bản thân ḿnh bây giờ là gồm biết bao nhiêu những tiền duyên túc nghiệp từ xưa. Đă biết thế, lại dự tưởng được cái cuộc tương lai tiến hóa thế nào, cuộc tương lai này theo phép chung của Vũ trụ chính là bởi tiền định cùng bởi ư chí ta tạo thành cho ta vậy.

Khi đă hiểu rằng đời người là uyên nguyên tự cái công tác  dụng chung của tạo vật và cũng nhờ đó mới đủ phương tiện mà phát siển ra, thời mới rơ cái khoa học giả dối ngày nay là sai lầm vậy, v́ khoa học ấy cho rằng người ta không có tiền duyên hậu quả ǵ, chỉ độc có một cái khoảng hiện tại này mà thôi, mà trong khoảng hiện tại ấy cũng không có dính dáng ǵ đến cái hoàn cảnh thiên nhiên cùng cái hoàn cảnh sinh lư ở chung quanh ḿnh. Sau nữa, nếu đă hiểu đời người như thế thời có thể tự tổ chức cái cuộc đời ḿnh một cách đích đáng hơn, v́ đă hiểu cái lẽ thiêng liêng ở đời, đă quyết chí hành động để tinh tiến cho ḿnh chứ không phải để tích lũy của đời, lại quyết chí sinh hoạt cho thập phần thành thực, thập phần điều ḥa, chắc có thể đạt tới được cái mục đích của nhân sinh.

Nhưng phải biết nghĩ rằng cái số phận chung của người đời là cái chết.
Đứng trước cái chết, th́ bao nhiêu cái trật tự tôn ti ở đời là mất hết cả. Cái chết là cái liềm nó phát bằng đi cả mọi sự phong lưu phú quí ở đời. Nó làm cho người cực giàu với kẻ cực nghèo b́nh đẳng nhau cả. Người nào cả đời chỉ biết chăm chút đến cái thân ḿnh một cách duy kỷ, chỉ biết tích lũy lấy vàng bạc của cải ở đời, thời người ấy chết là mất cả. Chứ người nào biết tu luyện lấy thân ḿnh, biết phù trợ cho kẻ khác, biết phát siển cái sức tinh thần của ḿnh, biết tiến hóa lên cơi chí thiện, thời người ấy khi đi là đem được cả cái của cải vô h́nh ấy đi theo, chỉ c̣n trút lại ở đời cái quần nâu, áo vải, cái khu xác hữu h́nh, cùng những đồ dùng làm việc, những của cải vật chất mà thôi.

Vậy thời sự chết là một cái kỳ hạn đáng ghê, và sự chết có thể th́nh ĺnh đến lúc nào cũng được, cho nên ta lúc nào cũng phải sẵn sàng để mà đón tiếp nó một cách điềm nhiên, b́nh tĩnh, như người thợ thủy chung vẫn làm việc chăm chỉ, dù lúc nào có người đến khám cũng là vững dạ mà không sợ hăi ǵ.

Đến lúc chết th́ h́nh như cái b́nh phong nó đổ ụp xuống, cái xấu, cái tốt ǵ ở trong cũng là lộ ra cả. Bấy giờ sẽ xuất hiện ra một cái trật tự mới, định cao thấp theo cái giá trị thật chứ không phải theo giá trị giả nữa. Bấy giờ thời người giầu, nếu dùng bậy cái thế lực của ḿnh, thời sẽ bị giáng trật xuống dưới người nghèo, v́ trên cái trật tự này địa vị cao chỉ dành cho những kẻ có tâm địa tốt, có sự nghiệp hay mà thôi.

Và phàm tài sản vật chất, có rồi mất đi cũng dễ dàng như không vậy.
– Mưu cầu lấy của cải vật chất, chỉ nên coi là một cái phương tiện, không nên coi là một cái mục đích. V́ người ta cũng nên có chút phong lưu để ăn ở cho được xứng đáng và làm việc khỏi phải lo nghĩ. Nhưng nên giữ kỹ đừng tập lấy những thói xa xỉ khoa trương. Xét sự vật, xét công việc, không nên chỉ xét về cái kết quả thực lợi, hay về cái giá trị giao dịch mà thôi. Đă tập quen cái cách sinh hoạt thanh bạch b́nh thường, th́ chẳng việc ǵ phải lo đến cái tiền đồ vật chất sau này, v́ người biết làm việc cần cù, biết tư tưởng chánh đáng, biết hành động ngay thẳng, th́ không khi nào đến nỗi thiếu thốn những cái cần dùng. Vả lại cứ nghĩ ngay thế này th́ đủ yên tâm : là người nào ngoài sự cần dùng cho cái đời thường của ḿnh, c̣n có được món tiền dư dật, th́ người ấy đă có thể cho là người giầu được.

Khi đă biết quen gặp sao hay vậy, miễn là được đủ sự thiết yếu th́ thôi, thời sẽ thấy ngay rằng một cái đời giản dị, theo phép thiên nhiên, tức là một cái của lớn đó, v́ khiến cho ta được vui vẻ mạnh khỏe. Bấy giờ mới rơ rằng cái nó làm cho người ta tổn hại, đến đau đớn khổ sở, chính là sự mưu cầu những cái thừa, tích lũy những cái sướng quá. V́ không ǵ hại cho người bằng sự giầu có quá. Không ǵ làm cho người ta xa cách với cái chân lư, với bụng hiếu thảo, ḷng bác ái, bằng những cách sinh hoạt dễ dàng. Không ǵ phương hại cho sức khỏe bằng sự nhiều tiền quá, v́ nhiều tiền thời hay ăn những thứ cầu kỳ, mà không thường tập đến gân cốt, khiến cho sức khỏe giảm đi. Người ta c̣n có cái chức vụ cao thượng hơn là chỉ biết tŕ trục ở trong ṿng nhục dục mà thôi, điều đó đă rơ ràng lắm vậy.

Khi đă biết rơ những của cải về vật chất là không có cái giá trị chắc bằng rồi. thời bấy giờ phải có thể tự nói rằng: nếu ngày mai gặp cái tai nạn ǵ, mà bao nhiêu của cải của ta bị phá sạch cả, thời thực ra ta vẫn giầu có như xưa, v́ ta vẫn giữ được y nguyên trong người ta những cái của báu về học hành, về tiến hóa, những cái cớ sinh hoạt nhiệt thành tín ngưỡng đă tích lũy được từ trước đến nay. Mà những cái của ấy thời không ai cướp được của ta, ta đối với tương lai vẫn cứ vững vàng như không gặp sự ǵ trắc trở cả.

Nói tóm lại người quân tử đối với các của cải ở đời, được hay mất, cũng cứ điềm nhiên như không vậy. Được không có huyễn diệu ǵ cả; mất không có phiền năo ǵ cả. V́ tự ḿnh biết rằng những của ấy là của phù vân cả, th́ bao giờ lại có làm nô lệ cho nó được.

Phải biết vững ḷng mà làm việc. – C̣n như cái thân phận tự lẽ trời bày định, th́ dù khó nhọc thế nào mặc ḷng, cũng đừng nên oán trách, cứ b́nh tâm mà chịu lấy, và cố gắng chỉnh đốn cho được hơn lên.


Trên kia đă giải rơ, cái số phận của ta là phải tiến lên trong con đường tiến bộ, hạnh phúc. Hoặc giữa đường có gặp sự không hay, thời không phải là tự trong vật lư thế, mà chính là tự cái trí tuệ, tự cái ư chí ta c̣n khuyết điểm, dần dần theo cuộc tiến hóa chung mà luyện cho sắc mạnh thêm lên.


Vậy thời phàm cái ǵ xẩy đến cũng là có lẽ cả, không cái ǵ là sự ngẫu nhiên, không cái ǵ là không công bằng. Muôn việc xẩy đến đều là chánh đáng cả, v́ đều có duyên cớ hẳn hoi và có cái đức răn dạy cho ta cả. Cái ǵ xẩy đến không may cho ta, chẳng qua là một cách răn dạy ta đó, hay là cái kết quả xa gần của những sự khuyết điểm của ta vậy. Thực ra thời phàm cái ǵ xẩy đến cho ta là ta cũng có trách nhiệm ở đó cả. Sự đắc thăng, sự thất bại của ta, cái nguồn nó là ở ta cả. Cho nên mỗi khi gặp sự ǵ phiền ḷng, chi nên trách cứ ở ḿnh, v́ những sự bực ḿnh cho ta đó chính là kết cấu bằng sự ngu si hay ḷng ác cảm của ta cả. Ta phải biết rằng chính bởi những cái tội lỗi xưa của ta, nghĩa là những sự ăn ở không công, những sự nói năng lừa dối, những sự cay nghiệt khắt khe, những sự gièm pha xàm báng, những sự lừa lọc điên đảo, những sự báng bổ xúc phạm của ta, chính những cái đó nó làm cho số phận ta ngày nay đến phải long đong.

Vậy thời đem ḷng oán giận những sự ḿnh cho là trái lẽ thiên nhiên, căm tức những điều ḿnh cho là số phận khắt khe, là vô lư cả, oán thế tức là oán ḿnh đó, v́ tự ḿnh là tay tạo nghiệt cho ḿnh vậy. Không những thế, mà lại là cái tội khinh mạn Thần minh nữa, v́ đổ lỗi cho Thần minh là không công bằng, thật là trái với cái bản thể của Thần minh. Xem như thế thời biết rằng người nào đem ḷng oán giận, chỉ tăng thêm cái nỗi khổ của ḿnh lên, mà rút cục lại tự ḿnh hủy hoại ḿnh, v́ không những phải trả lại cái lỗi cũ, mà lại phản đối với Tạo vật, thời tất phải chịu cái sức phản động lại ngay.

Không có lấy cái cớ ǵ mà cho rằng ḿnh không được cái địa vị xứng đáng, hay ḿnh phải chịu những nông nỗi thiệt tḥi ở trong cái hoàn cảnh ḿnh sinh trưởng, v́ thực ra cái địa vị của người nào là đáng của người ấy cả. Biết bao nhiêu kẻ không lượng tài lượng sức ḿnh mà chỉ ngồi ghen những người hơn ḿnh ! Nếu những kẻ bất đắc chí đó, được tùy ḷng sở nguyện, thay vị đổi ngôi, thời sẽ lấy làm phiền ngay, và chẳng bao lâu lại tiếc cái thân phận cũ của ḿnh.

Vậy thời dù bề ngoài ngang trái thế nào mặc ḷng, dù đời ta có khó khăn trắc trở mặc ḷng, ta cũng phải biết rằng chính lẽ thiên nhiên, nghĩa là sự lợi riêng của ta với sự lợi chung của vạn vật, bắt buộc phải như thế. Ta lại nên phàn nàn những kẻ bất hạnh kia, không từng phải chịu khổ sở ǵ, được sống một cách dễ dàng chót lọt, v́ những người ấy không có dịp thử cái nghị lực cùng luyện cái ư chí của ḿnh. Đến khi phải đem sức ra đối chọi với đời, đem công ra học tập đạo lư, thời bấy giờ sẽ gặp những sự thất vọng đau đớn vậy.

Đối với cái cảnh nghịch ở đời, dù ḿnh cho là không đáng, cũng phải có nhẫn nhục kiên gan. Gặp sự trắc trở mà biết can đảm chịu thời nó tăng cái nhân cách của ḿnh lên; c̣n kẻ nào làm sự bất công thời ắt phải chịu báo lại.

Đối với sự đau đớn cũng phải có gan mà chịu, v́ phàm cái đau đớn mà ḿnh c̣n biết được là c̣n ở trong phạm vi những sự có thể chịu đựng được, cái không chịu được thời nó làm cho ḿnh mất ư thức đi, mà quá lắm đến chết, ấy cũng là may vậy.

Nhung tuy vẫn điềm nhiên mà chịu, mà cũng không nên đem một cái thái độ thụ động cứng cỏi mà đối lại, lại phải vững ḷng gắng sức t́m cho ra cái duyên cớ khổ sở v́ đâu, để mà thay đổi cho cái số phận ḿnh được khá lên.

V́ phàm sự đau khổ là một cách của Thần minh báo cáo cho ta biết rằng trong cách cư xử của ta về đường vật chất, về đường tinh thần, đă có điều sai lầm khuyết điểm. Mà cứ thực ra, nếu là không phải gặp sự đau đớn ǵ, không phải chịu sự tổn hại ǵ, thời ta c̣n học biết được điều ǵ nữa?

Vậy thời khi đau ốm khổ sở, không nên kêu ca than văn làm ǵ, chỉ nên cố t́m lấy cái duyên cớ sâu xa v́ đó mà ḿnh phải đau khổ, để sửa ḿnh về đường vật chất tinh thần thế nào cho khỏi nỗi đau khổ đó.

Nói tóm lại thời không có cái trở lực ǵ ngăn được người trí giả trong cuộc tinh tiến lên cơi Thượng đế, v́ người ta biết rằng bài học càng khó thời học càng được nhiều, đường giốc càng khó thời lên càng được cao, và công phu càng nhiều thời phần thưởng càng hậu vậy.

V́ kẻ đại nhân quân tử vẫn được thần minh phù hộ cho khỏi phải chịu những cái tai to nạn lớn.
Trước hết người nào khinh thường cái bài học thiên nhiên của sự đau đớn cùng ḷng vật dục, mà cứ mài miệt theo về con đường tà, thời chắc là phải những sự khốn nạn to hơn là người biết cẩn thận gắng sức mà sửa ḿnh, điều đó đă cố nhiên rồi. Người tính t́nh u uất, đặt ḿnh vào cơi tiêu cực, thời đă lầm lẫn cứ lầm lẫn măi, cho đến sinh ḷng chán ngán; c̣n người có hảo tâm hảo ư thời không để cho những nỗi lo phiền ngờ vực nó vào trong ḷng ḿnh được, và cứ vững vàng mà đem con mắt lạc quan đối với sự đời, tự khám phá ra lẽ phải dễ dàng lắm.

Vậy thời người đạt nhân, hết sức ăn ở cho phải đường, gặp sự không may, coi như là sự cảnh cáo cho ḿnh, không đem ḷng oán giận, thời không phải chịu những cái đau đớn lạ thường. Nếu chịu khó một chút, thời sẽ thắng được cái trở lực đó, v́ trong ḷng ḿnh đă h́nh như có người hướng đạo, phù trợ rất mạnh, liền có đủ sức mà đối phó với sự khó khăn, đem hết trí khôn cùng chỉ muốn mà khuynh hướng về một đường đó, chẳng bao lâu sẽ t́m được điều lỗi ở đâu và chữa sửa lại được.

Vả lại cái đời đạo lư nó thường cho người ta có sức mạnh lạ thường biết trông xa sáng suốt và biết tránh được sự chẳng lành. V́ cái đời người quân tử là cái đời khác khổ ẩn độn như kẻ tu hành, khiến cho thông tỏ cả các lẽ vật lẽ trời, biết những điều xa xôi mà công chúng không biết, lại có những phương điều trị mà kẻ phàm tục cho là kỳ dị, không thể thi hành được.

Phải nên khoan dung và kiên nhẫn. – Trong ư tưởng người ta thường là lẫn lộn cả điều phải điều trái.
Công việc người ta, không có cái ǵ là toàn tốt, mà cũng không có cái ǵ là toàn xấu. Ư tưởng người ta cũng không có cái nào là toàn phải, không có cái nào là toàn trái.

Cái chủ nghĩa dẫu chánh đáng, tựu trung tất có những điều chi tiết không được đúng. Và những cái lư thuyết rất sai lầm, tựu trung vẫn có một phần sự thực. Vậy thời phàm công phu của người ta, không có cái ǵ là đáng khen cả, mà cũng không có cái ǵ là đáng chê hết.

V́ chỉ có Thượng đế mới được chí thành, chí thiện, chí đức mà thôi. C̣n cả vạn vật trong thế gian là gồm từng giống đặc biệt, mỗi giống đều cố gắng cho tới được cơi chân lư tuyệt đối, và mỗi ngày cũng tiến lên được một bước vậy.

Đời người là một cuộc tấn tới trên đường chân lư. Bởi thế nên các đạo giáo, các học thuyết về cách trí hay về triết lư, chẳng qua là các phương tiện khác nhau cho người ta học tập sự đời, và đạo nào, thuyết nào cũng vậy, đều có lẫn lộn điều phải điều trái, nhiều ít hơn kém khác nhau hẳn.

Vậy thời phàm cái ǵ do tay người ta cầu tạo ra là cũng không thể tránh khỏi được cái luật tiến hóa, nghĩa là hiện nay tất phải khuyết điểm, rồi sau này mới cải lương dần. Đến các lễ giáo, cũng có biến thiên duyên cách, v́ dân trí càng mở mang, lẽ phải càng tấn tới, thời những điều chân lư mầu nhiệm cũng dần dần chuyển nhập vào các h́nh thức lễ bái bề ngoài. Bởi thế nên lễ giáo càng cổ thời càng nhiều những chất tà ở ngoài, nhiều những lề lối không được thuần túy.

Vậy thời không có cách lễ bái nào về tôn giáo mà tự phụ là bất di bất dịch được, v́ sự truyền dậy các điều chân lư cốt yếu về tôn giáo, cùng sự thi hành các lề lối lễ bái ở bề ngoài, tất phải cùng với tư tưởng người ta mà tấn tới vậy.

V́ hết thảy các tôn giáo từ đời thượng cổ đến giờ, là đều sống bằng một cái gốc bấy nhiêu điều chân lư cốt yếu, càng truyền đi thời càng mới ra, càng mới ra thời càng hay hơn vậy. Ngay như đạo Cơ đốc, mà không có đạo Moise, không có đạo Cựu ước (Ancien Testament) làm gốc, thời ngày nay sẽ ra thế nào?

V́ phàm các chế độ của tôn giáo đời ấy sang đời khác kế tiếp nhau, cũng như các sự nghiên cứu của khoa học, t́m ṭi cho đến cùng, kết quả chẳng qua cũng là phát minh và truyền bá ra bấy nhiêu cái chân lư đại đồng. Thí dụ như khoa học duy vật nào tuyên bố lên rằng cái khí trong trời đất là nhất trí cả, và các giống sinh vật là tiềm tiệm biến hóa cả, thời chẳng qua cũng là khôi phục lại những cái luật tôn giáo bí truyền của Ai cập ngày xưa, cùng những lời dậy mầu nhiệm của các đạo Ấn độ c̣n cổ hơn nữa.

Người trí giả đă quan niệm được cao xa như thế, đă dung ḥa được cả các khoa học, các tôn giáo như thế, thời tức là thu quát được cả các học thuyết, các tôn giáo, các ư tưởng, thu quát lấy cái phần đích xác, mà băi bỏ ra những điều khuyết điểm. Người trí giả nghe ai nói ǵ, ai bàn ǵ, ai căi ǵ, cũng không giận dữ, không nóng nảy, không ghen ghét, v́ sẵn ḷng điều ḥa cả các khuynh hướng tốt của mọi người, cho rằng mỗi người đi một đường khác nhau, nhưng đều là chủ t́m lấy cái lẽ tuyệt đối, t́m lấy sự hạnh phúc vậy.

Vậy chớ có nên theo theo hẳn, bỏ bỏ cả, mà nên giữ lấy sự điều ḥa của ḿnh.
– Vậy th́ phải nên cố giữ ǵn cho khỏi mắc phải cái tính khăng khăng cố chấp, khiến cho nhiệt thành những cái không đáng mà bài bác cũng hay kịch liệt, cái tính thiên lệch bất công, hễ thấy trong một cái lư thuyết về khoa học hay triết học có một điều kiện nào là không đúng th́ nhất khái cho cả lư thuyết đó là không có giá trị ǵ, cái tính ngoan mê thiên chấp hễ thấy trong một đạo nào có một giáo điều không thể dung nạp được th́ cho đạo ấy là không giá trị ǵ, cái tính môn phái biển hiệp cho rằng duy có môn ḿnh phái ḿnh là biết được cái chân lư hoàn toàn, và ḿnh có quyền bắt mọi người phải theo ḿnh hết thảy, lại cái tính tự phụ của cá nhân, thật là cái trở lực cho sự tinh tiến của mỗi người. Những cái đó là không nên cả. Duy chỉ cái ǵ công nhiên trái với luật đạo đức, trái với luật thiên nhiên, là nên phân minh ruồng bỏ và bài trừ đi vậy.

Người nào không nghĩ ngợi cho kỹ, trong sự khen chê không biết giữ cho điều độ, khuynh hướng về bên nào th́ xô miệt hẳn về bên ấy, kẻ ấy tất là phải mất sự điều ḥa của ḿnh, v́ sinh ra cái bụng bất công và cái ḷng ghen ghét vậy. Thế nghĩa là người ta nên giúp cho cái chân lư nó phát biểu ra, giúp cho nhân loại được tấn tới, mà đối với kẻ ngu th́ soi tỏ cho sáng suốt mà không nóng nảy, đối với kẻ lầm th́ chỉ bảo cho biết lỗi mà không giận dữ, đối với kẻ ác th́ chữa sửa cho ngay thẳng mà không ghét bỏ.

Những lời hay lẽ phải nói ra một cách thành thực, b́nh tĩnh, th́ không bao giờ bỏ đi cả. Tức như cái hạt giống gieo ra th́ sớm trưa thế nào rồi nó cũng nẩy mầm và mọc lên vậy.

Nhưng v́ đất có nơi tốt nơi xấu, nên thường phải kiên nhẫn mới được. Trước hết không nên nói những lời lẽ cao kỳ mà bắt những người trí khôn thấp kém phải hiểu ngay cho được. Những hạt giống cây quí lại thường càng khó mọc; phải có đất tốt mà làm lụng kỹ mới được. Đối với mỗi người, phải nói lời lẽ cho người ta hiểu được, phải truyền thụ cho cái phần chân lư người ta có thể dung nạp được. Lại nếu thấy những điều truyền dạy đó mà chưa có hiệu quả ngay, th́ cũng không nên nóng nẩy. Đời người là một cuộc tiến hóa, mau hay chậm là ở cái tŕnh độ phát đạt của năng lực mỗi người, nghĩa là ở những cái sở đắc từ trước. Nếu cái sở đắc xấu, th́ phải có th́ giờ để mà trừ khử nó đi đă, rồi mới có thể trồng cái giống tốt hơn được. Bởi thế nên thường thường điều chân lư mà muốn phát biểu ra một cách mới mẻ hoàn toàn, th́ chưa thể khiến cho người ta hiểu ngay được, phải dọn đường sẵn trước đă. Điều mới lạ th́ kẻ chậm chạp không hiểu lấy làm trái tai, phải đợi cho tự họ dần dần quen tai mới nghe được.

Xem như thế th́ hiểu rơ cái ư của PYTHAGORE vẫn khuyên người ta theo những điều đạo đức cao thượng, vẫn hết sức mà công kích những điều xấu xa bậy bạ, vậy mà vẫn không dung những lời xúi giục bạo động. Những việc mưu mô phản đối các luật pháp hiện thời, cho đến cả những tư tưởng căm hờn oán giận, cho là trái với cái phương châm thiên diễn cùng cái tinh thần đạo lư vậy. Ông nói rằng : « Ai nấy phải hiểu rằng không có cái ǵ tai hại bằng sự hỗn loạn.

V́ rằng phàm việc cải cách không nên cho là một việc phá hoại, nhưng phải cho là cái công phu dần dần gây dựng ra một cái tinh thần mới, một cái thể chế mới. Nhất đán đem phá đổ cả cái cũ đi để gây ra một cái t́nh trạng nhiễu loạn, th́ thà rằng cứ nên giữ lấy những cái chế độ cũ, để đợi cho cái tư tưởng duy tân nó nẩy nở ra, cùng những nhân vật mới kịp mà đào tạo ra vậy. Như vậy th́ lấy cái cổ điển làm gốc, mà những cái thuyết mới hay hơn đẹp hơn cứ đấy mà tự nhiên gây dựng nên, không đến xung đột ǵ. Sau nữa trong cái sự nghiệp tái tạo đó, kẻ đạt nhân vẫn biết giữ kiên nhẫn, v́ biết rằng một cái cơ thể nào đă kinh qua bao lâu mới đến nỗi tồi tàn đi, th́ ít ra cũng phải bấy lâu nữa mới có thể khôi phục lại được.

Nếu điều trái được tạm thời thắng lợi th́ nên lánh xa mà đợi thời.
  Ở đời điều thiện mà thắng được không phải là không cạnh tranh mà được, lắm khi lại gây ra những cuộc phản động kịch liệt, người trí giả nên lánh cho xa. V́ kẻ tôn sùng đạo lư không thể dẫn ḿnh vào nơi đua tranh ghen ghét, dùng những cách bạo động cưỡng bách, hay là ra ganh đua trong đám dục t́nh túng sinh. Sự nhiệt thành mà đến mănh liệt quá th́ dễ thành ra bách hại đến người ta. Để ḿnh vào nơi cạnh tranh vô độ là trái với cái đời đạo lư. Vậy th́ không nên v́ một duyên cớ ǵ mà a dua với người để bài bác ai, để công kích ai hay để phản đối ai.

Khi nào thấy cái ác nó sắp phát sinh ra, th́ việc của người thức giả là phải báo trước cho biết cái hiểm tượng và chỉ cái phương thuốc có thể cứu văn được. Nhưng nếu ḿnh nói mà không có người hưởng ứng, th́ chỉ nên lánh ḿnh ra ngoài, không giận dữ, không hối hận ǵ, nhẫn nhục đợi cho đến khi cái ác tự nó phải tiêu đi, và điều thiện cứu cánh sẽ đắc thắng cũng là nhờ ở sự rầu ḷng nhẫn nhục đó. Sự chấn chỉnh nên làm mà người đời đă không biết thuận t́nh làm, th́ bấy giờ do cái sức của vận mệnh bắt buộc phải làm, mà làm một cách tai hại, khi ấy th́ người thức giả chỉ nên đem ḷng thương, sẵn ḷng giúp cho người đời, đợi cho sự báo ứng tất nhiên, cho cái kỳ hạn phải tới nó xong xuôi đi, cho cái bệnh nó tuần tự phát ra, và điều nghĩa vụ đă nhăng bỏ không làm được trọn bấy giờ phải khôi phục lại hoàn toàn.

Phải tập lấy cái trí phán đoán cho ngay thẳng và cho vững vàng.  Điều ta nói đây, phải nên chăm theo cho đúng. Lời nói việc làm của kẻ khác, chớ nên a dua mà không suy nghĩ.
Có cái trí phán đoán cho ngay thẳng và biết tự chủ ḿnh cho vững vàng, đó là điều tối quan hệ ở đời, cho nên trước khi giải cái lẽ cần thế nào cùng sự kết quả làm sao, PYTHAGORE hẵng bắt đầu khuyên người ta nên đặc biệt chú ư, mà nói rằng: Điều ta nói đây, phải nên chăm mà theo cho đúng.

Điều cốt yếu cho được tự chủ ḿnh là không nên a ṭng những sự khuyến dụ ở ngoài, nên biết tự ḿnh suy nghĩ, tự ḿnh kiểm điểm, rồi hăy nói một điều ǵ hay làm một việc ǵ.

V́ mỗi người như có cái hào quang ở quanh ḿnh, việc ḿnh làm, lời ḿnh nói, người ḿnh đứng ở đây, đều có phát hiện ra một cái sức thần thông đặc biệt. Như vậy không những định được cái số phận riêng của ḿnh, mà lại nếu cái sức tinh thần ấy mạnh, định được cả một phần cái số phận người quanh ḿnh. Phàm sức thần thông mà phát ra đều đặn mạnh bạo, dù tốt dù xấu mặc ḷng, tất có cảm vào những người ít sức đề kháng lại, mà số người này nhiều. Sự ảnh hưởng đó gọi là cái sức cảm đụ. Tỉ như người có tính khoan nhân âu yếm th́ quanh ḿnh như có cái không khi ôn ḥa vui vẻ mà sống, c̣n như những người căm giận u uất th́ quanh ḿnh như có cái không khí tật bệnh chiến đấu vậy.

Vậy th́ trong cái đời thường của người ta, những sự cảm dụ tốt hay xấu thật là có một cái ảnh hưởng rất to vậy. Con đường tu tiến mà sở đă đến khó khăn, cái công đạo đức mà sở dĩ có giá trị, là bởi phải chống lại với vô số những cái sức cám dỗ xấu, những cảnh diễn ra, những sách đọc được, những cái gương ô uế bày ra trước mắt, nhông lời khuyên xằng của vô số kẻ kia, nó không biết tôn trọng điều ǵ, nó không biết suy nghĩ sâu xa, chỉ biết phán đoán mọi sự ở cái kết quả nhăn tiền mà thôi, thật là sống ở đời không có con mắt sáng, không có cái phẩm cao vậy.

Xem như thế th́ biết cần phải kén chọn chỗ ḿnh giao tiếp, lánh xa những kẻ vô đạo đức, những kẻ có ác tâm, những kẻ ngoan mê cương ngạnh, những kẻ tiêu cực phỉ báng, có cái thói xấu hay chê bai, hay ngạnh trở, mà nên gần gụi với những người có đức hạnh, có nghĩa phương, những người có tinh thần tích cực và có tính cách cổ vơ. Khi nào đă kén chọn một số người đạo đức để làm chỗ giao du rồi, th́ cũng không nên t́m cho quen biết rộng ra ngoài. Lại khi nào cái thế không thể tránh được những kẻ ngang trái, th́ phải tự ḿnh biệt lập cho ḿnh, giữ cái thái độ điềm nhiên bất động, đem những cái tư tưởng khoan nhân trung hậu mà làm như một cái thiết giáp để ẩn ḿnh vào đấy.

Mấy điều đó đă hiểu rơ và đă biết dùng rồi, th́ bấy giờ phải tập tự ḿnh tư tưởng. Muốn như thế th́ cần nhất phải biết rằng nhiều cái ư kiến thiên hạ thường công nhận lại là ư kiến sai lầm, và cái thói quen của nhiều người không thể cho là tiêu biểu cho sự thực được, không lấy cái cớ rằng nhiều người theo mà ḿnh cho là phải được. V́ phần nhiều người tư tưởng một cách sai lầm, nuôi ḿnh bằng những chất không tốt. Vậy th́ không nên phó mặc mà tuân theo lưu tục, đối với những cái thiên kiến cùng những cái cố tập không nên không suy xét mà theo liều, không nên bị kẻ nịnh hót nó đánh lừa hay kẻ cường bạo nó dọa nạt.

Lại cũng nên sửa cái tính bắt chước vô ư thức, thấy người ta cười, ḿnh cũng cười, người ta khóc, ḿnh cũng khóc, làm đại nghĩa đến nhượng bộ, v́ nhu nhược chỉ biết phó mặc tự nhiên hay đua theo công chúng. Nói tóm lại th́ chớ nên làm nô lệ người nào, cũng đừng nên để một cái ảnh hưởng nào nó lung lạc được ḿnh.

Cho đạt tới cái mục đích đó th́ cái diệu kế hơn cả là phải tập luyện cho có một cái trí năo cao thượng và tích cực, phải gây dựng cho có một cái kho tích lũy những tư tưởng chung, phải trau giồi cho biết phán đoán một cách sáng suốt và cho có cái tính vững vàng tự quyết. Biết t́m ṭi mà sưu tập những điều có bổ ích cho chân lư cùng cho sự tiến bộ, biết đem những việc xẩy ra hằng ngày mà trích lấy thành bài học cho ḿnh, biết lấy những câu cách ngôn của các bậc hiền triết mà nghiền ngẫm suy xét, th́ tự ḿnh gây lấy được cái năng lực phán đoán vừa ngay thẳng vừa mạnh mẽ, có thể gặp cơ hội nào cũng suy cho thấu đến chỗ đại cương, biết phân biệt điều phải điều trái, chống lại với cái ác, hành động một cách mau chóng và phải đường, cứ con đường vương đạo là đường chính lư nhân từ mà theo, dù đặt ḿnh ở giữa cái cảnh người ta tương tưởng tương hại nhau mặc ḷng, nói tóm lại là làm thế nào giữ được cái tính ḥa b́nh chính trực của ḿnh ở ngay cạnh nơi bất ḥa bất chính vậy.

Muốn cho biết phán đoán sự vật cho phải đường, muốn cho biết tu luyện cho ḿnh cùng dạy dỗ kẻ khác cho phải đường, th́ tất phải biết rơ cái luật chung của đời người cùng cái mục đích ở đời là thế nào. Phàm phép xử thế muốn cho được chắc bằng nhất định th́ tất phải đủ cao thượng cho hiểu thấu được cái thể thống chung của vũ trụ. Người nào chỉ biết theo những cái phép tắc nhỏ, không biết dựng nên một cái nền cái gốc chung để chung đúc cả những phép tắc ấy cho có cơ sở vững vàng, th́ chẳng qua chỉ làm hi sinh cho những điều sự thực nhỏ mọn, nó chỉ thích hợp cho một thời một nơi mà thôi, không thể đem ra mà thi hành được cho khắp các trường hợp.

Trong cuộc đời thường, muốn chống lại với cái sức cảm dụ ở ngoài, không để cho những cái sự lư cùng những cái ư kiến nhỏ nhặt nó lung lạc ḿnh được, th́ phải tự ḿnh định lấy một cái phạm vi của ḿnh, đặt lấy một cái tôn chỉ vững vàng như sắt đá, để nương tựa vào đấy, căn cứ vào đấy, không bao giờ sai được. Mỗi khi trong một cuộc thảo luận hay đối với một cái sức cám dỗ ở ngoài mà thấy ḿnh núng thế, th́ bao giờ cũng phải nhớ đến cái tôn chỉ của ḿnh, để giữ lấy quyền tự chủ hoặc chủ trương kẻ khác và để cho cái sức mạnh tinh thần của ḿnh thắng được người vậy.

Lại cũng không nên thảo luận với những kẻ có tà tâm, v́ căi lẽ với họ chỉ đủ giục thêm cái bụng xấu của họ mà thôi, hay là với những kẻ vô giáo dục, v́ phận sự của bọn này là phải học cho biết, chứ không thể đem cái ngu dốt hay sự mơ tưởng của ḿnh mà bắt cho người theo được. PYTHAGORE nói rằng: «Đừng có đem thanh kiếm mà gợi cho lửa nồng thêm. » Nghĩa là chỉ những người nào biết rầu ḷng học hỏi, biết chăm chỉ suy nghĩ; biết tự ḿnh phán đoán, khiến cho có cái trí sáng sủa và có cái ḷng thành kính, th́ người ấy mới có tư cách học đạo được mà thôi. V́ cái chân lư không thể cứ sẵn sàng mà truyền ở ngoài vào được, bằng oai quyền hay bằng lư luận. Mỗi người phải tự ḿnh đào tạo lấy bằng sức suy nghĩ, bằng sự kinh lịch riêng vậy.

Khi nào đă lấy lẽ phải mà suy xét biết theo đường nào là hơn th́ bấy giờ hăy nên nói nên làm. Trước khi hành động phải nên suy tính, như thế th́ khỏi làm những điều vô ư thức. Người ta thường bị khô sở chính là bởi làm và nói không có điều độ, không có phép tắc vậy.
Chân lư chỉ có một mà thời, mà là thuộc về thể dại đồng, nghĩa là có tính cách thiên nhiên siêu việt. Chân lư là ở sự biết các luật sáng tạo, thành lập, tiến hóa của vạn vật, lại ở cả sự biết các luật tự nhiên và siêu nhiên chi phối cho cuộc sinh hoạt ở trên mặt địa cầu cùng các công việc của người ta. Chân lư là gồm các cái tôn chỉ lớn chủ trương cho đời người, là Công nghĩa, Chính lư, Nhân từ, Trật tự, Cai quản và Phục ṭng. Vậy th́ mỗi cái tư tưởng ḿnh nhận được hay ḿnh phát ra phải liền đem đối chiếu với mấy cái tôn chỉ lớn đó; mỗi lần hăy tự hỏi như thế này: cái tư tưởng đó có phải không, có đúng không, đối với cái trật tự siêu nhiên có phải là xứng đáng không? Lại đối với cái trật tự thiên nhiên của sự vật có thích hợp không, trật tự này ta sở biết hoặc là bởi phân tích những cái lư do chân chính, hoặc ẩn hoặc hiện của các hiện tượng cùng những mối quan hệ thế nào, hoặc là suy loại mà xét ra, v́ trong vũ trụ hết thảy là kết cấu theo một cái qui mô nhất định.

Nói tóm lại, tư tưởng và hành động theo Thượng" đế và theo Thiên nhiên, đó là cái luật phán đoán nhất định và là cái đích duy nhất của đời người.

Đến khi đă biết con đường nghĩa vụ cùng cái đạo sinh hoạt an toàn th́ bấy giờ mới thật là được yên ổn điều ḥa. Cứ việc vững vàng mà đi thẳng, v́ chắc là không sai trật tự và đă có phương châm vậy. V́ khi đă biết cân nhắc hết thảy, đă biết qui nạp hết thảy cho hợp với lẽ chính lư, cho thuận với luật thiên nhiên, th́ chỉ nên giữ ǵn cho khỏi vội vàng hấp tấp, nghĩa là nghĩ kỹ trước khi nói và trước khi làm, để cho tránh khỏi những sự cám dỗ bất lương, những lời biện thuyết vô ích; những cách ăn ở sai lầm, những điều thống khổ thiết tha. Bấy giờ mới thực là tự chủ được ḿnh. Có thể tự ḿnh phán đoán ḿnh cũng được, không hại ǵ. Đă biết cái chân lư ở đâu, đă quyết đối với ḿnh lại nghiêm khắc hơn là đối với kẻ khác, phạm điều lầm lỗi quyết không dung thứ, th́ bấy giờ là tùy thuộc ở cái lương tâm của ḿnh hơn là tùy thuộc ở sự phán đoán của kẻ khác. Bấy giờ không c̣n quan tâm đến cái dư luận những kẻ bàng quan ở ngoài nữa, ḿnh đă biết rằng tự họ họ cũng không biết ḿnh họ, họ không tự chủ được họ vậy. Như lời thoá mạ của một kẻ rượu chè bê tha, lời phỉ báng của một kẻ dâm đăng trộm cắp, lời bài bác của một kẻ thuyết lư bông lông, thời nó thoảng qua bên ḿnh ta mà không lọt vào tai ta được. Ta chỉ nên chú ư đến lời b́nh phẩm của kẻ mô phạm, v́ có thể dùng đó làm một cách kiểm điểm cho ta được. Nói tóm lại th́ đến khi ấy đă hiểu rơ rằng người ta sở dĩ phải khổ sở là bởi không biết cái tôn chỉ chân chính ở đời, không biết đường phải lẽ trái, không biết suy nghĩ xa xôi, lại hay đa ngôn quá độ vậy.

Phải nên biết pḥng xa. – Phàm quyết định một điều ǵ phải nên biết dự tính cái kết quả xa xôi về sau này thế nào, để cho không bao giờ phải hối hận.
– Người ta sở dĩ phải khổ sở, lại cũng bởi con mắt không biết trông xa, khác nào như cái óc nó « cận thị » phàm công việc làm chỉ biết xét đến cái kết quả trực tiếp ngay, rơ ràng trông thấy ngay đấy mà thực là hăo huyền không có giá trị vậy. Những người ấy đi trên đời như có tấm da che mắt, chỉ biết bước tới những cái đích cận tiếp ngay, tưởng là dễ dàng mà thực là hư không, không ngờ rằng c̣n có những cái trở ngại xa xôi, có thể làm cho ḿnh phải khuynh đảo vậy.

Những người ấy là những người nửa đui nửa điếc, hễ thấy cái ǵ không có lợi ngay tức khắc là cho không có hiệu quả ǵ. Cái hiệu quả nó chạm đến th́ tiện thị coi như không cả. Rồi khi kỳ hạn tới, càng xa lại càng nặng, v́ sự lầm lỗi càng tích lũy nhiều, th́ bấy giờ cho là sự ngẫu nhiên, do những cơ hội bề ngoài nó khiến nên như thế, chứ không phải là tự cách ăn ở từ trước của ḿnh. Bởi thế nên nhiều việc xẩy ra ở đời tựa hồ như không thể giải được mà cho là oan không đáng cả. Những sự sai lầm trong cách ăn ở hằng ngày, thành ra bệnh tật đến thân thể, thống khổ đến tinh thần, chính là bởi người ta chỉ biết để ư đến cái kết quả cận tiếp ngay mà không biết suy xét đến cái kết quả xa xôi vậy. Tỉ như có một món lời to có thể thu hoạch được ngay, nhiều người không xét đến cái phương cách ḿnh dùng để thu lấy món ấy là chánh đáng hay là không chánh đáng, và cam tâm làm trái cả luật công bằng để cố cho lấy được, v́ cách làm liều đó th́ cái kết quả nó c̣n măi về sau này mới xuất hiện ra, chứ cái món tiền th́ nó ở ngay trước mắt kia, nó cám dỗ cho phải xiêu ḷng.

Lại những kẻ nghiện rượu, nuốt những chất độc vào trong ḿnh để cho kích thích thân thể cùng tinh thần, v́ tức khắc thấy nó chuyển động ngay, như trong người phấn chấn lên, c̣n cái hại ngấm ngầm của chất độc nó làm cho tiêu ṃn khí lực đi, gây ra cái mầm tật bệnh sau này, th́ mấy năm mấy tháng về sau mới thấy nó xuất hiện ra. Bấy giờ cái hạn xa xôi đă tới kỳ rồi, cái nghiệp nặng nề nó đă đem đến, cái mầm ác tự ḿnh gieo ra nó đă đến ngày kết quả, cái tật bệnh ḿnh tự gây lấy nó đă xuất hiện ra rồi, th́ không tự ḿnh trách ḿnh, lại cứ trách cái số phận chẳng may, cái khí trời độc hại, cái gió lạnh thổi qua, hay con trùng độc nhiễm phải !

Nay người biết lo xa th́ cái cách quyết định nó khác. Đă biết cái mục đích chân chính của đời người cùng những phép tắc chi phối cho việc đời, th́ hiểu rằng mỗi việc của ta làm, dù nhỏ mọn đến đâu mặc ḷng, ngoài cái kết quả cận tiếp ngay, nó c̣n cái kết quả sâu xa vô cùng về sau này nữa. V́ mỗi người là tự tạo lấy cái thân phận ḿnh, cái hạt giống tay ḿnh rắc ra rồi lại chính tay ḿnh thu hoạch, bởi hiện tại chính là mầm của tương lai vậy. Không có cái ǵ là cái ngẫu nhiên cả; không có cái ǵ xẩy đến mà không có duyên cớ; không có cái ǵ phát ra mà là không đáng cả. Điều đó phải thường nhắc lại luôn cho nhớ. Mỗi việc phi nghĩa hay thất đức là có báo ứng về sau cả ; mỗi lời chân thành trung hậu là có ghi lấy cả và sẽ trả lại một trăm lần. Làm ác mà không thấy báo ngay, tưởng rằng tránh được lưới thiên nhiên là tưởng lầm. Cái sổ kế toán không phải đến lúc thân thể chết đi mà là liễu kết đâu, v́ hết đời ấy lại đến đời khác. Ta sinh ra đời này là tiếp tục một đời trước; cái đời hiện tại của ta là dự bị một cái đời về sau; sự chết chẳng qua là một sự hóa. Vậy th́ ta có thể chắc rằng con đường ta vạch ra ngày nay, chân ta c̣n phải bước măi sau này.

Biết pḥng xa là biết cư xử một cách sáng suốt khôn ngoan, hầu như biết dự đoán việc tương lai vậy. Nói về đường thực hành th́ phải theo cho đúng những lời dạy của phái PYTHAGORE, phải biết suy xét kỹ mọi sự kết quả của công việc ḿnh, phải biết nhất thiết cư xử không sai với cái mục đích ngầm của đời người, là tiến hóa về đường đạo đức, đem một tấm thân trong sạch, dụng hết tinh lực b́nh sinh, để tạo lấy một cái thân phận càng ngày càng thanh cao sáng sủa.

Phải biết khiêm tốn. – Cái ǵ thực ḿnh không biết đừng nên tự phụ muốn làm.
Khiêm tốn là một cái yếu tố của đạo đức, là một sự rất cần cho đường tinh tiến; v́ khiêm tốn tất là phải tự ḿnh biết ḿnh, biết cái giới hạn những điều ḿnh biết sánh với những điều ḿnh chưa biết c̣n chưa thấm vào đâu.

Tính kiêu căng là một cái tính xấu rất hại cho sự phán đoán, và cho đường tu luyện. V́ tự phụ rằng ḿnh biết hết thảy, ḿnh hơn hết thảy, chính là một sự kém người to. Biết bao nhiêu người tập một nghề ǵ, v́ tự phụ rằng ḿnh hơn cả người dạy ḿnh, không chịu khó làm măi một việc cho kỳ được sành, thành ra cái công phu tập luyện không có kết quả ǵ, mà dốt vẫn hoàn dốt. Lại biết bao nhiêu kẻ khác, tự cao tự đại quá, không biết lượng tài lượng sức ḿnh, chờm hớp những công việc to tát quá rồi đến điên đảo thất bại. Bởi không biết tự lượng ḿnh, không biết am hiểu những sự vật cao xa, nên mới sinh ra lắm những kẻ tự cao tự phụ, coi cái thái độ nó nghênh ngang, lời ăn nói, cách cử động nó khuếnh khoáng, cái thói nó lấn láp, cái tính nó phô phang, mới trông qua cũng biết vậy.

Chỉ người quân tử mới biết có cái dung nghi tĩnh túc, biết nói ít, biết đứng yên, biết ôn ḥa mà nghe kẻ khác, hoặc tán thành hay hoặc b́nh phẩm ai cũng là có điều độ, v́ đă biết nhiều nghĩ lắm, lượng cái thân ḿnh đối với sự vật mang nhiên thật là nhỏ hẹp chẳng thấm vào đâu, và đối với Thượng đế tối linh, thật là yếu hèn không sá kể ǵ.

Cái tính bất khiêm bất tốn lại hay xui giục ta làm xằng, v́ khiến cho ta hay phỉ báng kẻ khác và muốn đem ư riêng ép người phải theo. Làm sự cưỡng ép như thế là hại lắm, nếu không có đủ tài đức để bắt cho người ta phải theo hay không có đủ oai quyền để lâm thời đàn áp, thời chỉ là chuyện hư sức hăo huyền.

 Người khiêm thời biết thủ phận, làm trọn cái nghĩa vụ thuộc về phận sự, về địa vị ḿnh, tương đương với cái gia thế cùng tài lực của ḿnh, không muốn chờm hớp những công việc ở ngoài sức hoặc ngoài phận ḿnh.

C̣n như người quân tử thời biết rằng đă đạt tới cơi chân lư cao thượng lại càng phải kính cẩn khiêm nhượng lắm, v́ phàm quyền lực đă phô trương ra thời tiêu ṃn mất, phàm chân lư đă phổ cập ra thời phai nhạt đi, phàm sức khoẻ đă khoe khoang lắm thời giảm sút hẳn, phàm hạnh phúc đă bộc lộ quá thời không thú nữa.

Sau nữa khiêm tốn lại là điều cốt yếu cho sự tinh tiến của cá nhân, cùng sự hạnh phúc về cực lạc, v́ người nào không biết tự khiêm ḿnh như con trẻ, đối với cái công phu học vấn cầu đạo không có những tư cách thanh tân thành thực, tín ngưỡng cổ vơ, tức như sách gọi là cái «xích tử chi tâm », thời không sao đạt cho tới chân lư được. Bởi thế nên Đức Gia tô đă có câu rằng: Nếu không trở lại thành con trẻ, thời không mong lên cơi Thiên đường ».

Nhưng phải nên thừa dịp mà học cho biết thêm, như thế thời đời ḿnh sẽ có hứng thú vô cùng.
Đời người là một cuộc tiến hoá vô cùng, là cái ḷng ham biết không nguôi, là cái chí gắng gỏi không dời. Người ta sinh ra trên đời để mà học cho măi đến giờ cùng tận. Dù sở đắc về vật chất tinh thần thế nào, cũng không hạn được cái sức hoạt động của ḿnh, mà lấy cớ nghỉ ngơi nhàn hạ được. Người nào thiếu thốn mà cầu an, hay nhàn cư mà bất động, thời ṃn mỏi mà tiêu diệt đi mau lắm, v́ không c̣n có cái cớ ǵ sống ở đời nữa. Người ta muốn sống cho đầy đủ, muốn tiến cho mau lên, muốn được sung sướng hẳn, thời phải động tác luôn, phải theo như lời PYTHAGORE dạy mà t́m kiếm đủ mọi dịp để học hỏi cho biết thêm lên.

Vậy thời hết thảy mọi việc xẩy ra ở đời đều là cái dịp cho ta học thêm được một điều ǵ chưa biết, và là cái phương cho ta trau dồi trí thức cùng đức hạnh. Mỗi một việc làm, mỗi một điều vui, mỗi một cái khổ, mỗi một dịp gặp nhau, mỗi một buổi họp mặt, đều có thể giúp cho ta khám phá được cái mục đích thâm trầm của đời người, nó thường ẩn ở trong những cái h́nh thức bề ngoài. Hễ biết nhân việc ǵ cũng t́m lấy bài học cho ḿnh, nhân chuyện ǵ cũng làm cách giáo dục cho ḿnh, thời thấy như đặt ḿnh vào trong một cái luồng sóng sinh hoạt to, thấy như cái sức mạnh tinh thần trong người nó nâng bổng ḿnh lên vậy. Bấy giờ thời sẽ được hưởng cái đời thanh cao phong thú của kẻ đạt nhân, như Pythagore đă phác hoạ ra, v́ càng cóp nhặt được nhiều việc, càng tích lũy sự kinh lịch thời cứu cánh sẽ gây thành thống hệ, cai quát đại đồng, thấu hiểu được cái lư do mầu nhiệm của muôn việc xẩy ra cùng muôn sự xung đột, và tỏ rơ cái hấp lực nó đưa nó dắt ta vào con đường tinh tiến đến, cơi Thượng đế.

B) Tu luyện về thân thể.

Phải ăn ở cho thanh khiết và hợp với sinh lư. Phải tập thể thao. Lại phải chăm chút cho thân thể được mạnh khỏe.
– Một điều cốt yếu trong tư tưởng của PYTHAGORE là chăm chút cho con người ta phát triển được hoàn toàn. Ông rất là am hiểu cái cơ thể của người ta có ba phần: một là thần trí, hai là sinh lực, ba là thể chất; nên ông biết rằng muốn cho cá nhân được thực lực tinh tiến, th́ cả ba phần trong nhân cách đó đều phải đồng thời phát đạt.

Xem tự trên kia th́ biết rằng muốn cho thần trí được kiện toàn, phải biết tuân theo các luật phép về tinh thần chi phối cho sự tăng tiến của tư tưởng, cho sự đào tạo ra trí tue, cho sự huấn luyện về ư chí.

Muốn cho thân thể được kiện toàn th́ khí huyết phải trong sạch và điều ḥa, ăn uống phải sạch sẽ và tiết độ, vận động phải đều đặn và thích nghi, vệ sinh phải cho hợp với lẽ thiên nhiên.

Cái sức mạnh sinh hoạt của cơ thể là ở sự hấp thụ lấy những cái sinh lực tinh túy ở trong các chất ăn uống mà ra, cùng là ở ngoại cảnh đem vào, do cách sinh hoạt ở nơi thông khoáng, khiến cho thân thể được hoàn toàn hưởng thụ cái khí sống bàng bạc trong trời đất, trong cỏ cây sông núi.

Sự tinh tiến, sự hạnh phúc, tất nhiên là ở cách khéo điều ḥa chi phối những sức mạnh về tinh thần, về sinh hoạt cùng về vật chất. V́ người ta mà được đặc biệt hơn người, chỉ là bởi ba cái nguyên tố làm thành ra cơ thể được tịnh mật hơn người, và kẻ có tư cách lỗi lạc là kẻ không những cơ thể phát đạt nhiều, mà lại được điều ḥa thích hợp.

Phép giáo dục mà bỏ không chăm chút hoặc về thân thể, hoặc về thần trí, hoặc về sinh lực, thời kết quả thành ra chênh lệch, phát đạt không được đều đặn, tất đến rối loạn trong thần trí, trong sinh hoạt, hoặc trong thân thể. Tỉ như có người năng lực về tinh thần rất mạnh mẽ mà rồi đến yểu vong trụy lạc, v́ không chăm chút đến thân thể, thành ra không thể phát triển được hết năng lực của ḿnh. Lại thiên trọng về thể dục quá thời trí dục đến khiếm khuyết, cũng thành ra trụy lạc sớm, ngăn trở cho sự tiến hóa của cá nhân, làm hư hại thân thể ḿnh thời tư tưởng không sao cho ngay thẳng được, mà tư tưởng sai lầm thời cũng không sao sinh hoạt cho cương kiện được.

Cải đạo tuyệt đối là phải sao dung hợp được cả những phép tắc cốt yếu của Khoa học cùng của Tôn giáo. Nhà đạo lư chân chính phải vừa là ông giáo sĩ cho tinh thần, vừa là ông y sĩ cho thân thể. Bởi thế nên trong học viện PYTHAGORE vừa dạy cả nghề làm thuốc, vừa dậy cả phép tập luyện tinh thần. V́ đó mà PYTHAGORE cùng các đệ tử vừa trứ danh là nhà giáo dục, vừa trứ danh là nhà y sĩ nữa.

Y học thật đă nhờ PYTHAGORE mà tấn tới được hai bước lớn. Trước ông nghề thuốc chỉ bí truyền trong các đạo viện, tự ông mới thành một cái nghệ thuật cộng đồng. Lại chính ông đă phát minh và truyền bá cái thuyết số mục có quan hệ đến tŕnh độ tiến thoái của các bệnh (như bệnh tiến theo tuần bảy ngày, cũng bệnh kịch cũng tùy số ngày). Ông chính là người đă mở lối cho nhà y học đại tài Hippocrate về sau.

Đồ ăn, đồ uống, cách tập luyện cần dùng phải nên cho có điều độ:
 Người ta phải bằng cứ ở cái bản năng chân chính và phải lấy trí sáng suốt mà suy xét, để cung cấp cho thân thể những đồ ăn đồ uống cần dùng. Trong cái vấn đề bổ dưỡng cho thân thể có hai điều nên chú ư. PYTHAGORE đă lần lượt kể ra như sau: một là tiết độ, hai là tinh khiết. Ông khuyên dạy rằng cái lượng th́ phải cho tiết, mà cái phẩm th́ phải cho tinh.

Ăn uống có tiết độ là biết hạn chế sự ăn uống cho điều độ. Đó là một cái bổn phận của người ta, v́ thuộc về cái luật chung của loài người phải biết khắc kỷ và phải biết thiện hành. Trong phép vệ sinh về ăn uống cũng như trong phép vệ sinh về tinh thần, lại cũng cần không nên để cho cái vật dục nó lấn ḿnh, cũng không nên yêu hănh những sự quá sức ḿnh. Tham vọng quá hay tham ăn quá cũng là hại cả, v́ hễ quá cái sức tiêu hóa của trí tuệ hay của thân thể, thời việc làm không được chu tất nữa rồi, kết quả chỉ đến kiệt lực và hư tổn, cả thân thể cùng tinh thần.

Ăn uống quá độ, chính là một cái tai hại cho loài người. Ăn không đủ vẫn là có hại đă đành. Thiếu ăn có thể sinh biến trong thân thể, mà gây ra tật bệnh. Nhưng ăn nhiều quá, uống nhiều quá lại là cái tật phổ thông của nhiều người, mà lại c̣n hại hơn, v́ là bởi cái tính tham lam và cái tính tự phụ mà ra. Bởi người ta quá chiều cái nhục thể ḿnh, cầu cho h́nh dáng được đẹp đẽ, mạnh mẽ, tinh thần được khoái hoạt linh lợi, nên thành ra ăn quá, muốn lấy no nê, hăng hái, mạnh khoẻ. V́ ăn nhiều thời thân thể thần trí cũng hoạt động khác thường. Nhất thời như có cái sức sinh hoạt dồi dào, thấy trong ḿnh khí huyết sung măn, sức khoẻ bội thường. Đương khi mơ tưởng là cương cường tráng kiện, thời tinh lực đă thấy tiêu hao từ đấy, cho đến ngày thân thể đă bị kích thích quá, không thể ăn uống sô bồ được nữa, v́ các cơ thể tiêu hóa đă hư hỏng cả và cái kho sinh khí cũng hao ṃn hết. Sức mạnh của cơ thể muốn dùng cách cấp tốc như vậy cho được tăng tiến, thật không phải là ở những đồ ăn, đồ uống, chất độc nuốt vào ḿnh mà thành ra đâu, người ta thô thiển thường tưởng lầm như vậy, nhưng thực là ở cái kho tinh lực tiên thiên của ḿnh, bởi thân thể bị kích thích mà phản động lại vậy. Bởi thế nên tinh lực của mỗi người mà phát hành ra nhiều quá tất kết quả đến hao ṃn đi rất mau, và muốn trác táng tinh lực không ǵ bằng kích động lên quá đáng.

Rút lại thời ăn càng nhiều, uống càng nhiều, càng hao tổn mất khí lực, không tích trữ được nhiều. Vả lại, mỗi chuyến kích thích cái sức sinh hoạt lên mạnh, thời xong rồi lại cứ phải kích thích thế măi, mới giữ được cái nhịp cho đều, thành ra phủ tạng hư, sức đề kháng của cơ thể kém, cứu cánh đến sinh ra các bệnh nội hư cùng các bệnh truyền nhiễm.

Thiên hạ hay thèm muốn được béo tốt phương phi, nhưng giá biết nhiều khi sinh ra tật khổ thế nào, th́ tất không thèm làm ǵ nữa. Ngồi ăn cho khoái miệng một lúc, rồi sau gây ra biết bao nhiêu sự đau đớn cho thân thể, biết bao nhiêu sự phiền năo cho tinh thần. Một người cả đời chỉ ăn nhiều, ăn luôn, mà c̣n phàn nàn rằng không biết đói, phàn nàn rằng thân thể tinh thần không được khoan khoái, th́ phỏng đă cực khổ chưa! Vậy thời những kẻ lấy sự ăn uống vô độ làm một cái khoái lạc ở đời, là đáng thương chứ không đáng thèm làm ǵ.

Nhất là rượu chè mà quá độ th́ tệ hại vô cùng. Cái tật rượu chè là cái tật đời nào cũng có. Từ khi người ta biết chế các thứ uống có men, là có kẻ uống càn từ đấy. Rồi văn minh càng tiến bộ thời cái tật xấu ấy lại càng tăng gia lên. Tự đời PYTHAGORE đă cho rượu chè say sưa là tai hại cho sức khỏe, lưu độc cho tinh thần và gây thành cái thói quen ác liệt. Ngày nay công nghệ phát minh ra nhiều cách chế rượu mạnh, các thứ rượu phát hành mỗi ngày một nhiều, khiến cho thiên hạ lắm kẻ đam mê vô độ, cứ xem trong dân gian mắc phải lắm tật bệnh suy đồi th́ đủ biết tai hại là dường nào, như bệnh lao, bệnh ung, bệnh điên cuồng rồ dại. Thứ nhất là cái bệnh vô thần (irréligion), thứ nh́ là cái bệnh nghiện rượu, đó là hai cái tật lớn của thế giới đời nay.

Trong các cái ác tật, bệnh rượu là xấu xa hơn cả, v́ nó làm cho người ta mất tự chủ về tâm hồn, thần trí cùng thân thể. Nó khiến cho người ta ngu ngốc đi, hạ xuống thấp hơn con vật, v́ không những không biết dùng cái lư tính của ḿnh nữa mà cũng không biết khiến được cái bản năng của ḿnh nữa. Một người say sưa chè rượu, th́ đến cái thân thể của ḿnh cũng không chủ trương được nữa, và có thể ra tay giết hại vợ con cũng như tự sát thân ḿnh mà không biết. Nghiện rượu thật là tai hại vô cùng cho cá nhân cùng cho đoàn thể, hại sức khoẻ, hại tinh thần, hại trí năo, đến điên đảo cả cuộc sinh hoạt trong xă hội, điều đó nên nói đi nhắc lại bao nhiêu cũng không vừa. Nếu không t́m cho đến bệnh căn thâm trầm mà trị, th́ cổ động thế nào để cho tiệt cái thói ác tệ là thói nghiện rượu, cùng những sự tai hại bởi đó mà ra, thứ nhất là bệnh lao, cũng chẳng ăn thua ǵ. V́ những con người vô tín ngưỡng, vô kỵ đạn, không phẩm giá, không liêm sỉ, nếu không có cái cớ ǵ cao thượng thúc giục cho phải làm, th́ không khi nào chịu chế áp những cái t́nh dục xấu xa đi được.

Thế nghĩa là phàm sự cải cách chung trong xă hội phải gốc ở sự cải cách riêng về cá nhân, cá nhân có tu luyện th́ mọi sự cải lương chỉnh đốn mới thành được. Ngày nào người ta biết khôi phục cái ḷng tín ngưỡng của ḿnh, hiểu biết được cái mục đích đời người, là phải gia công khuynh  hướng về Thượng đế, th́ ngày ấy cái nhân phẩm sẽ được hoàn  toàn và đường tinh  tiến sẽ được thuận  tiện Bấy giờ th́ không có sống làm người một cách bất lương bất chính nữa, không có tự đặt ḿnh ra ngoài luật phép vũ trụ nữa. Cái vấn đề đó có giải quyết được, th́ những sự tật khổ, đau đớn như phong  tục điên  đảo, thân thể suy đời, bệnh rượu bệnh lao, vân vân, bấy nhiêu cái sẽ trừ được cả. Cái vấn đề lớn là vấn đề chủ trương cho đời người được điều ḥa thanh thản, nếu mà am hiểu cho rơ, giải quyết cho xuôi và thực hành cho đúng, th́ các vấn đề nhỏ gồm cả ở đó cũng sẽ giải quyết được hết. V́ rằng cũng một công phu mà để tản mạn ra nhiều việc nhỏ nhặt th́ khó được thành công, c̣n chung đúc lại, kết hợp lại, khuynh hướng về một đường th́ thấy sáng sủa chót lọt ngay, nghĩa là kết quả có tiến bộ, có hạnh phúc.

Trông thấy cái tai hại về sự ăn uống vô độ, mới hiểu rằng v́ sao mà các đạo đời xưa đời nay đều khuyên dạy người ta sự tiết độ cùng sự trai giới. Biết sinh hoạt một cách kiệm ước, biết trừ bỏ những sự sa phí, thật không ǵ lợi cho thân thể, ích cho tinh thần hơn.

Người ta có biết ăn uống cho vừa độ th́ mới có thể tới được một cái tŕnh độ đạo đức trí thức cao và thân thể mới có đủ sức nhẫn nại. Tiết thực ấy là một cái bí quyết của sự mạnh khỏe sống lâu đó. Không thuốc ǵ hay bằng thuốc đó. Bệnh tật mà chữa khỏi, phần nhiều là bởi thầy thuốc bắt giữ ǵn cho sự ăn uống cho điều độ tự nhiên.

Người ta ăn uống quá độ, đă hư thân mất nết đi rồi, nên ngày nay muốn cho tiết độ, phải giữ ǵn học tập, theo cho đúng phép tắc mới được. Muốn sự ăn uống cho tiết độ, th́ phải đặt lệ nhứt định chỉ dùng những đồ ăn giản dị, tự nhiên, không có nấu nướng ǵ phiền phức cả. Ăn những đồ dă vị mà ăn cho có điều độ, th́ không cần phải uống cho lắm; lại uống nước tinh khiết tự nhiên th́ không có kích thích t́ vị cho muốn ăn nhiều.

Cái mục đích b́nh thường của sự ăn uống là để vừa đủ bổ dưỡng cho thân thể mà thôi. Thần tri phải chăm nom cho thân thể khỏi lạm dụng quá lẽ tự nhiên. Muốn như thế th́ phải nên đừng bao giờ ăn những khi trong bụng không đói, đừng bao giờ ăn ngoài giờ bữa thường, đừng bao giờ ăn quá hai ba bữa một ngày, đừng bao giờ ăn cho đến no nê quá. Lại ăn chớ có nên vội vàng, để cho nhai được kỹ mà hóa được hết các chất bổ dưỡng của đồ ăn.

Muốn cho việc tiêu hóa được hoàn toàn, thi Pythagore khuyên nên phải vận động thân thể cho có điều độ, nghĩa là vừa phải đều đặn, không thái quá, không bất cập. Cách vận động thể thao tự nhiên hơn cả là cách đi bộ. Buổi sớm buổi chiều cần phải đi bộ, v́ vận động là cần cho tiêu hóa, bởi giúp cho cơ quan cân cốt được mềm mại điều ḥa, cho sự tiêu hóa sự bài tiết được đều đặn lưu thông. Mà cách thể thao đó không phải là tập, như tập một cái thói quen, nhưng phải có cái chủ đích tập để cho thân thể được khỏe mạnh. Ngoài cách đi bộ, c̣n nhiều phép thể thao khác nữa cũng cần để giữ cho các bộ phận trong thân thể được điều ḥa, để tập cho thần kinh cân cốt được mềm mại, khiến cho tự chủ được cách cử động của ḿnh. Phép thể dục như thế, th́ rất là lợi cho sức sinh hoạt, thứ nhất là tập bằng cách vận động du hí tự nhiên, ở giữa nơi không khoáng, ở giữa chốn điền viên, có mặt trời, có ánh sáng, có nước mưa, nước suối, có sông chảy, sương gieo, để tẩm thấm cho thân thể th́ lại càng hay nữa. Trong học viện của Pythagore, chính thường khuyên dạy như thế.

Người ta ngồi không thường sinh ra tật bệnh, sinh ra nhu nhược hèn nhát; nếu khéo tập luyện thân thể th́ vừa được mạnh khỏe mà lại vừa gây ra cái tính cách dũng cảm cùng cái thái độ lạc quan. Sự vận động vừa làm cho thân thể được cường tráng, vừa làm cho thần trí được tỉnh táo, lại vừa làm cho tính cách được kiên nhẫn. Người nào da dẻ đă dạn với nắng mưa, ư chí đă luyện cho cứng mạnh, th́ gặp sự ǵ cũng có thể chịu được cả.

Vậy th́ phải có thể lực mạnh để cho tinh thần khỏe, chứ không phải cầu lấy mạnh để đem cái vơ lực mà ức chế người ta. Phải nên mạnh khỏe, nhưng không bao giờ quên giữ lấy nhân từ. Sức mạnh về thân thể phải dùng để hộ vệ cho những tư tưởng chính đại quang minh, giúp đỡ cho cách sinh hoạt điều ḥa chính đáng, là những điều phàm người thông hiểu phải nên chủ trương cả; nếu sức mạnh dùng được những việc đó th́ mới nên dùng.

Hễ biết giữ cho điều độ thích nghi th́ không bao giờ đến nhu nhược ủy mị.
Trong cách tập luyện thân thể cùng trong cách bổ dưỡng ăn uống, phải cho thích nghi, phải giữ trung độ, để cho khỏi thái quá mà thành ra nhu nhược, khỏi bất cập mà thành ra yếu đuối.

Trước nhất phải tùy sự vận động của ḿnh mà ăn uống cho vừa phải, lại phải tùy sự ăn uống của ḿnh mà vận động cho thích nghi, để cho sức tiêu dùng của cân cốt được ngang với sức tiêu hóa của t́ vị. Sự thích nghi lại là đối với thân thể nên cấp dưỡng cho vừa đủ, nhưng chỉ là vừa đủ mà thôi, chứ quá th́ ḿnh thành ra nô lệ cho thân thể, như người chăm chút vệ sinh quá th́ là người lẩn thẩn mà cũng là người nhu nhược. Vệ sinh có những phép cốt yếu cần phải am hiểu mà thực hành, nhưng phải giữ cho đừng dật lạc quá và đừng lười biếng quá. Phải tập sinh hoạt một cách giản dị mà khắc khổ một chút, v́ nếu tập quen những thói dễ dàng sung sướng quá, th́ lúc ra tranh đua với đời tất là bị thua trước. Vậy th́ người nào muốn cho khoái hoạt mạnh khỏe mà tấn tới ở đời th́ bao giờ cũng phải coi ḿnh như một kẻ chiến sĩ vậy.

Cho nên phải tập cho quen cách ăn ở cho thanh khiết và cho nghiêm nhặt.
Những lời PYTHAGORE khuyên dạy về cách ăn uống, không phải chỉ bảo ăn uống cho điều độ mà tḥi, v́ tuy ăn uống thái quá hay bất cập là sự không nên, rất cần phải giữ ǵn, nhưng ăn uống điều độ không, cũng chưa đủ giữ cho sức khỏe và giúp được tinh tiến; đó mới là về phần lượng, c̣n về phần phẩm cũng quan hệ lắm, đồ ăn đồ uống phải cho tinh khiết, điều đó rất cần để giữ cho thân thể cùng tinh thần được kiện toàn.

Cách ăn uống của Pythagore là kiêng ky cả các đồ ăn thuộc về động vật, nghĩa là các thứ thịt, cá, cua, ốc. Chỉ dùng thuần những rau quả, ngũ cốc, cùng mấy thứ sản ở động vật ra, như trứng, sữa, mật. Tức như lối ăn chay ngày nay, gọi là cấm nhục chủ nghĩa » hay là « thái thực dưỡng sinh » (régime végétarien).

Trong cách ăn uống ấy, Pythagore c̣n dặn nhiều điều đặc biệt nữa, chắc là ông suy ở lẽ y học mà ra, v́ ngày nay nhiều nhà vệ sinh sáng suốt cũng thấy chủ trương như thế. Thí dụ như các thứ đậu, không nên thường ăn luôn, và thịt những giống vật già cùng những giống ăn thịt các giống khác, ăn rất hại (1). PYTHAGORE khuyên nên kiêng như vậy, là bởi nhiều lẽ thuộc về tâm lư, thuộc về y lư, thuộc về đạo đức, các lẽ đó ông tường cả, điều ấy không lấy ǵ làm lạ, v́ sự tri thức của ông thật là phổ cập hết thảy.

Đối với công chúng chưa đủ trí hiểu, muốn lấy một cơ cao thượng để bắt buộc cho phải kiêng kỵ những đồ ăn không bổ đó, ông bèn dùng cái thuyết luân hồi là một cái thuyết căn bản trong đạo ông. Ông khiến cho chúng tin rằng linh hồn của người ta, linh hồn những kẻ thân thuộc của ta, theo lẽ báo ứng về những tội lỗi kiếp trước, đến kiếp sau có thể thác sinh làm các giống vật, như vậy th́ giết hại súc sinh, có khi là giết hại kẻ thân thuộc ḿnh.

Cách giải cái thuyết luân hồi như thế không phải là cách chính truyền của ông, xem như lời đệ tử ông là Timée nói th́ đủ biết. Cách giải nghĩa đó chỉ có phảng phất ám hợp với cái thuyết "thoái bộ luân hồi" (transmigration rétrograde) của ông mà thôi, thuyết này là phàm trong các giống, giống nào cũng có thể thoái bộ được, nhưng chỉ trong giống ḿnh mà thôi, chứ không đă làm người rồi lại trở về làm vật nữa; song người ta mà phạm tội lỗi th́ kiếp sau dẫu cứ làm người mà phải chịu nhiều cách báo ứng cũng cực khổ lắm để chuộc lại cái nghiệp cũ mà tạo lấy cái nghiệp mới cho hay hơn. PYTHAGORE khuyên người ta không nên sát sinh là có một cái thâm ư như sau này, không thể cắt nghĩa cho kẻ dung phàm hiểu được, là: phàm các giống động vật là những giống có trí tuệ, có cảm t́nh cả, đương tiến hóa cho tới cơi Thượng đế; những giống ấy là những trạng thái khác nhau trên đường sinh hoạt, chúng ta xưa kia đă từng trải qua cả rồi mới tới cái tŕnh độ làm người, cho nên đối với giống nào ta cũng phải có ḷng nhân từ bác ái cả.
————
(1) Ngày nay khoa học xét nghiệm ra những điều kiêng kỵ đó là phải lắm, v́ các thứ đậu có nhiều chất purine không lợi cho sự bổ dưỡng; lại nghiệm ra các thịt sắc trắng không độc như các thịt sắc đỏ và sắc đen; c̣n như thịt các giống ăn thịt giống khác, th́ chất bổ lại kém nữa, v́ cái nguyên tố các chất bổ là ở khí nóng thái dương mà ra, mà khí nóng ấy là kết tinh lại ở các giống thực vật trước, rối mới truyền cho các giống động vật sau; nay những giống vật không ăn cỏ cây mà ăn thịt giống khác th́ không được trực tiếp cái khí thái dương ấy. Người lại ăn thịt lại các giống ấy th́ c̣n bổ ǵ nữa?. (Lời chú của tác ǵả).


Cái cách sinh hoạt của PYTHAGORE đó, đối với những kẻ mê muội, th́ cố nhiên là không thể thi hành được rồi. Cách sinh hoạt ấy, các dân tộc văn minh ngày nay cho làm lạ lùng, vậy mà hiện nay trong thế giới vẫn có hàng triệu con người sống theo cách đó, hoặc v́ lẽ tự nhiên bắt buộc, hoặc v́ ḷng tôn giáo tín ngưỡng (như hạng dân quê ở các nước, như những người theo về đạo Phật, những người tin đạo «thông thiên học" (theosophes), các nhà khổ hạnh tu kín (trappistes), vân vân.) Những hạng người đó thường được thân thể tinh thần tráng kiện hơn là những kẻ ở nơi thành thị hay ăn thịt cá nhiều. Lối "thái thực dưỡng sinh" lại là lối dưỡng sinh của các dân tộc chuyên về nghề nông đời xưa, là những dân tộc đă sáng tạo ra các văn minh lớn. Như người dân quê nước Pháp đời xưa, mạnh mẽ biết bao nhiêu, cũng chỉ thỉnh thoảng mới ăn thịt mà thôi. Người đời nay ốm yếu, là bởi ăn thịt uống rượu nhiều, và đă quên mất cả những phép dưỡng sinh đó.

Vẫn biết rằng ngày nay số người ăn thịt nhiều, nhưng lẽ phải không phải tất nhiên là ở số nhiều. Những kẻ vô đạo đức, vô liêm sỉ, ngày nay cũng nhiều lắm; không v́ số nhiều đó mà lấy cách ăn ở của họ làm mẫu mực được, tức cũng như không lấy cớ rằng có nhiều kẻ ăn uống không lành mà cho cách ăn uống đó là hợp với lẽ tự nhiên.

Vả lại cứ sự kinh nghiệm của khoa học đời nay th́ chứng rơ rằng phép dưỡng sinh của phái PYTHAGORE là phải. Khoa giải phẫu học (anatomie) so sánh các giống sinh vật, đă đặt giống người vào hạng những giống ăn quả (fructivores), về vật lư, về sinh lư, về bản năng của giống người, đều có tính cách là giống ăn quả cả. Lại khoa y học cũng chứng nghiệm rằng ăn thịt có hại nhiều lắm. Thịt kích thích thân thể, truyền độc cho thân thể hơn là bổ dưỡng cho thân thể. Ăn thịt thường sinh ra các bệnh đau ruột, là những bệnh ngày nay phổ thông lắm. Ăn thịt làm cho các phủ tạng hư đi, làm cho cái sức đề kháng tự nhiên của người ta tiêu ṃn đi, mà sinh ra các bệnh truyền nhiễm, hoặc tiềm tàng, hoặc kịch phát. Nhiều khi bệnh phát ra rồi, hễ cấm ăn thịt th́ thấy bệnh lui ngay. Thịt kích thích sự tiêu hóa mạnh quá, làm cho người ta ăn uống quá độ. Lại kích thích bộ thần kinh mạnh quả, chuyển động cả phần nhục dục trong người và dễ nhóm cái dục t́nh lên mạnh; làm cho con trẻ thành nết hư cùng tính ác; làm cho người lớn thành nô lệ cho những cái vật dục hèn hạ thô bỉ.

Thân thể đă ô uế th́ tinh thần khó mà kiện toàn được. Thịt là một thứ đồ ăn ô uế cho thân thể, hư hại cho tinh thần. Bởi thế nên những bậc hiền nhân thánh triết cùng những nhà sáng lập ra các tôn giáo đều cấm ăn thịt.

Cứ trông một miếng thịt, tưởng tượng bao nhiêu sự xấu xa chung đúc vào đấy, th́ mới hiểu rơ cái thâm ư của các nhà cấm thịt là thế nào. V́ phàm một khối vật chất, chẳng qua là cái hiện thể của sức mạnh đă tạo thành ra nó, của tinh thần đă chi phối cho nó, và cả cái sức ngầm chỉ chực sẵn hễ nó thoát ra ngoài sự chủ trương đó là can thiệp vào mà phá hoại. Vậy th́ trong một miếng thịt h́nh như in cái khổ thống của con vật trước khi bị giết đă phải đau đớn, khổ sở, chịu đói chịu khát là dường nào; rồi đến khi đem vào ḷ sát sinh, trông thấy tên đồ tể hung hăng, trông thấy cái lưỡi dao đầy máu, trông thấy những con vật khác đă phanh thây nằm đó, mùi máu tanh, mùi phân thối, thảm biết dường nào! Đến khi đă giết rồi, thịt xương tể tác ra, tay bẩn mó máy vào, bàn thịt nhơ nhớp, đầy những đầu dao cạnh thớt hôi tanh. Thịt tể tác ra lại chửa ăn ngay, để ít lâu cho nó bắt đầu hư lạn ra đă, lại càng độc nữa. Vậy th́ người ta mà dùng một cái chất hủ bại như thế để dưỡng sinh, th́ thật là khốn nạn thay, có khác ǵ như đem những cái ảnh hưởng xấu xa ô uế đó mà tiêu mà nuốt vào trong ḿnh không?

Trời đất sinh ra th́ giống động vật không phải là đồ ăn cho người. Không những xét cơ thể người ta mà biết, cứ xét cái thiên tính tự nhiên cũng đủ rơ rồi. Người ta không khi nào trông thấy một con vật sống mà muốn ăn thịt nó bao giờ. Lại không khi nào trông thấy một cái xác con vật chưa tể tác ra mà muốn ăn bao giờ. Trông thấy một con vật thịt c̣n máu me nhễ nhại, hay một tấm thịt đă tể tác ra rồi mà chưa nấu nướng ǵ, không ai muốn để vào miệng mà cắn bao giờ. Nhưng những chất như rau quả, ngũ cốc, trứng, sữa, th́ để lên miệng mà nhai mà nuốt lấy làm khoái ngay. Xem như con trẻ nó không lầm bao giờ. Nó cứ theo cái bản tính tự nhiên của nó mà lúc nghịch lấy trộm đồ ăn, th́ vào trong vườn cây ngắt trộm quả, chứ không bao giờ lên đến sau phản thịt. Xét cái bản tính tự nhiên đó th́ thấy không những nó không hứng mà nó lại lấy làm nhờm nữa. Cái ǵ là cái xác chết của giống vật th́ làm cho giác quan ta đều phải hăi hùng: thị giác, khứu giác, xúc giác, vị giác, đều lấy làm ghê sợ cả. Đó là cái luật thiên nhiên ghi ở trong ư thức người ta.

Hồi cổ sơ, người ta bắt đầu ăn thịt là phải nhân v́ những cơ hội đặc biệt, như gặp lúc cơ cận và sau khi mới t́m ra lửa. Như gặp phải lúc tuyệt lương thực th́ bạ cái ǵ là chẳng ăn. Khi ấy th́ người ta cùng đến ăn thịt lẫn nhau cũng có. Cái tục ăn thịt người của nhiều dân rợ mọi, cũng là phát nguyên từ đó. Nhưng nhân trí càng khai thông th́ cái tục dă man ấy càng mất dần đi, vậy th́ cái thói ăn thịt súc sinh hễ tŕnh độ đạo đức càng tấn tới th́ cũng phải bớt dần đi.

Trong cách dưỡng sinh bằng thịt giống vật, PYTHAGORE lấy điều sau này là tệ hơn cả, là phạm vào tội sát sinh, là một điều nghiem cấm trong luật đạo đức, luật này bắt buộc người ta ngoài giống ác vật, không nên làm khổ, không nên giết hại một giống sinh vật nào. Những giống độc trùng ác thú, mang những tính cách tiêu cực, làm trở ngại cho cuộc hóa sinh của trời đất, th́ phải nên tuyệt diệt đi, nhưng phàm giống sinh vật thuận theo lẽ sinh hoạt b́nh thường, th́ phải nên tôn trọng cả. Bởi thế nên PYTHAGORE lại có lệnh cấm không được đánh đập, không được làm đau đớn một con vật nào, cho đến một cái cây trồng trọt trong vườn tược cũng vậy.

Luật bác ái đó, thật có in trong tâm lư người ta. Người ta lại c̣n một cái bản năng nữa nó tỏ cho biết rằng vốn tính không phải là một giống phá hoại, một giống ăn hại giống khác. Một người b́nh thường trông thấy giết một con vật ở cạnh ḿnh, không thể không cau mày nhăn mặt, thấy rùng ḿnh, thấy chuyển động trong tâm trí như sởn rợn cả tinh thần vậy. Nếu phải giết lấy mà ăn thịt th́ biết bao nhiêu kẻ đành chịu thôi không ăn nữa ! C̣n những kẻ giết tróc giống vật mà trong ḷng không cảm động, không hối hận ǵ, th́ là những quái vật trong loài người, Kẻ ấy có thể giết người cũng dửng dưng như vậy.

Vậy th́ cái chức vụ người ta đứng đầu trong vạn vật, không nên ăn ở như ngày nay, nghĩa là làm một giống tối độc ác trên mặt đất, tàn nhân hại vật không giống nào bằng. Trên mặt đất vẫn có các giống ăn thịt các giống khác, nhưng người ta không thể lấy cớ đó mà tự hạ ḿnh xuống bậc những giống ấy, đến bắt chước lấy cái tính hung bạo tàn ác của những giống ấy được.

Người ta hơn các giống khác không phải chỉ có quyền lợi mà tḥi. Lại có nhiều cái nghĩa vụ cần cấp nữa, mà điều quan trọng nhất là phải có bụng hiếu sinh, phải mở ḷng nhân từ, phải đem ḷng đó mà thi ra đối với cả các giống ở quanh ḿnh. Thượng đế cho người ta được sáng suốt khôn ngoan hơn cả vạn vật, tức là ủy cho cái chức trách làm thần hộ mệnh cho cả các giống sinh linh vậy. Thượng đế đă cho cái trí suy xét, cho cái sức khảo nghiệm mà hiểu rằng trên cơi hóa sinh của tạo vật, các giống động vật không phải là một loại riêng, bản thể bản chất không khác ǵ loài người, chỉ khác ở cái tŕnh độ tiến hóa mà thôi.

Giống vật không phải là thuần vật chất, chỉ biết phản động mà thôi. Chính là những giống cũng có cảm giác, cũng có hiểu biết, cũng nhớ việc cũ, cũng biết yêu mến, cũng biết đau khổ, nói tóm lại là cũng biết học tập cho hay hơn lên. Chúng cũng biết vui là ǵ, khổ là ǵ, cầu nguyện là ǵ, thưởng phạt là ǵ. Chính khoa học duy vật cũng phải công nhận rằng trên cái trật tự các h́nh thể sinh hoạt, th́ các giống vật là đứng vào những tŕnh độ dưới, chính người ta xưa kia đă phải từng qua rồi mới tới bậc làm người. Vật tức là người đương ở thời kỳ dự bị. Vậy th́ làm hại giống vật, tức là hại những giống đồng thể với ḿnh ngày xưa và cũng tương tự với ḿnh bây giờ vậy. Giết hại những giống ấy, không phải là chỉ giết hại những cái cơ thể vô ư thức, như người ta tưởng thế đâu, chính là phạm tội với cái lương tâm của vũ trụ, phạm tội với cái phần tử Thiên lư đương bắt đầu manh nha ra ở giống vật. Nói tóm lại là tự ḿnh gián tiếp hại ḿnh, tất phải chịu báo ứng đau đớn đến ḿnh, v́ phàm ăn ở sai với luật nhân từ chính nghĩa của Thượng đế đều có h́nh phạt đến ḿnh cả. Lại là làm mờ ám mất cái trí sáng suốt của ḿnh, làm cứng rắn mất cái ḷng từ ái của ḿnh, rồi dần tập lấy cái thói giết hại đến loài người, giết hại về cá nhân là tội sát nhân, giết hại về công chúng là vạ tranh chiến vậy.

V́ cái thói sát lục là nuôi những cái tính xấu xa độc ác của loài người. C̣n sự ăn thịt các giống vật cũng làm cho tính nóng nẩy hung tợn ra. Nghiệm ở giống vật cũng thế, mà xét ở người ta cũng vậy.

Người ta đối với các giống vật về tŕnh độ kém ḿnh, c̣n cứ thi hành những cách phá hoại tàn ác như thế, th́ không bao giờ được sức khỏe, không bao giờ được b́nh yên. Hễ người ta c̣n giết hại giống vật th́ c̣n giết hại lẫn nhau măi. Kẻ nào tự gieo ra sự sát lục, sự khổ thống, th́ không thể thu hoạch lấy hạnh phúc cùng ái t́nh được. Thói sát sinh cùng sự ăn thịt là trái với cái hi vọng thế giới ḥa b́nh cùng nhân sinh hạnh phúc.

Trái lại th́ phép dưỡng sinh của phái PYTHAGORE thật là một cái động lực mạnh để giúp cho sự tiến hóa của loài người, v́ khiến cho các sức tinh thần, sinh hoạt cùng vật chất được điều ḥa phát đạt. Đối với tinh thần th́ khiến cho được thuần túy, thoát ra khỏi ṿng vật chất và tránh được những sự kích thích thô bỉ. Trí tuệ có thể phát đạt ra mạnh hơn, v́ cách dưỡng sinh đó quyết là giúp cho trí năo hành động được điều ḥa. Những người bỏ không ăn thịt th́ lấy làm lạ thấy trí ḿnh sáng suốt hơn, tỏ tường hơn và cái mục đích ḿnh theo đuổi cũng cao thượng hơn. Lại tính nết cũng thay đổi dần dần, thấy ôn ḥa, vui vẻ, biết hưởng cái khoái lạc nhân sinh, biết đem con mắt lạc quan mà đối với mọi sự, lại biết đem tấm ḷng quả cảm mà hành sự. Thấy người ḿnh như nâng cao lên một cái thế giới khác, v́ trí năo đă thóat được ra ngoài những cái ảnh hưởng xấu, tâm địa được vững vàng, tư tưởng được rộng răi, chí nguyện đă tập luyện, mà giá trị cũng tăng cao vậy.

C̣n cái sức sinh hoạt th́ thấy thay đổi đi hẳn. Được mạnh mẽ hơn, v́ được thuần túy hơn và khoái hoạt hơn. V́ trong thần kinh không có lưu thông những chất sinh hoạt đă hủ bại ô uế rồi, mà toàn là những chất tinh tấn hấp thụ được ở trong khí thái dương ra cả, thành ra cái tinh lực của người ta được dồi dào, và nghị lực ở trong cùng cái sức ảnh hưởng ra ngoài cũng đều tăng tiến cả. Các luồng điện thần kinh lên đến tŕnh độ rất cao rất mạnh, có thể chung đúc cái sức thần kinh lại mà lợi dụng một cách mạnh mẽ vô cùng.

Lối thái thực dưỡng sinh lại giữ cho cơ thể được điều ḥa, khí huyết được lưu thông. Khiến cho cân cốt được nhẫn nại, có sức linh hoạt uyển chuyển rất mạnh. Sau nữa khiến cho sức khoẻ được đều đặn.

Nói tóm lại cách dưỡng sinh đó là rất hợp với đạo lư, khiến cho người ta được mạnh mẽ mà tiến hóa, được hưởng toàn cái sức vật chất, sức sinh hoạt cùng sức tinh thần của ḿnh. Bấy giờ th́ tránh được những sự khổ thống lớn về tinh thần cùng những sự đau đớn to về thân thể. Chắc được sống lâu, cho đến ngày hết cái sức mạnh riêng của ḿnh, đến tuổi già cũng vẫn được xanh tươi sáng suốt, và lúc lâm chung được b́nh thường êm ái, không khổ năo, không đắng cay, v́ đă làm hết cái phận sự cốt yếu ở đời th́ khi từ giă cuộc đời cũng dung dị như cái quả chín trên cây rơi xuống, lại trở về cái đất đă sinh sản ra ḿnh.

Nhưng cứ thực th́ cái chương tŕnh sinh hoạt về vật chất tinh thần tốt đẹp như vậy, không thể tức khắc thi hành một cách dễ dàng như thế được. Đối với những người có tính cổ vơ nhiệt thành, lại nên khuyên phải cẩn thận khoan dung trong cách thi hành nữa.

V́ đường đạo lư là một con đường lâu dài khó khăn, lại là con đường cao có từng đợt, phải lần lượt mà bước lên mới được. Như muốn tới cơi chân lư tối cao, hưởng sự hạnh phúc tuyệt phẩm, th́ phải nhập diệu dần dần, phải nghiền ngẫm cho lâu, phải từng trải khó nhọc mới đến được, vậy th́ về đường vật chất cũng vậy, phải tập luyện lâu mới khiến cho thân thể bỏ những thói quen cũ mà tập lấy cách dưỡng sinh mới vậy.

Vả lại người ta không phải là hết thảy cùng đứng một tŕnh độ như nhau, v́ trên đường tiến hóa có kẻ mau người chậm. Người nào hăng hái mà mở mang trí tuệ th́ người ấy bước được mau hơn, người nào lười biếng hoặc ít tư cách lĩnh lược lấy chân lư th́ chậm chạp ở đàng sau. Bởi thế nên con đường tinh tiến tới cơi chân lư, không phải là dung dị cho mọi người, có người th́ phép tập luyện khó khăn thể nào cũng có thể làm được mà hưởng lợi ngay, cũng có người th́ phải đi lần từng bước mà tới dần mới được.

Có một đoạn sách của Archytas là đệ tử PYTHAGORE đă giải rơ cái nghĩa đó như sau : « Có nhiều kẻ không đủ tư cách lĩnh lược điều cốt yếu là điều chí thiện, chỉ có thể thi hành được cái điều thiện tương đương với sức ḿnh mà thôi; ấy kẻ đau ốm phải điều trị như vậy ». Vậy th́ trước khi bước lên con đường giốc khó khăn đưa tới cơi đạo lư, phải cân lượng sức ḿnh, sức quả quyết, sức kiên nhẫn, sức tinh luyện, sức thích hợp, cân nhắc thế nào cho tiến hành được thỏa đáng. Như vậy th́ khỏi khi bắt đầu đă thử ngay cách tập luyện khó khăn quá làm cho kẻ không đủ sức kiên gan hay kẻ chưa tới tŕnh độ, tự phụ sức ḿnh quá, đến phải ngă ḷng nản chí.

Những người gặp lắm sự khó khăn trong đường tinh tiến là những người lúc trước đă ăn ở sai lẽ thiên nhiên cả. Những người ấy là những người đau ốm về thân thể và tinh thần, như lời Archytas đă thuật trên đó. V́ phàm kẻ nào đă nặng cái nghiệp xấu, th́ phải đeo đẳng cái nghiệp ấy măi, để cho trong ḷng chán ngán điều ác mà khao khát lẽ thực. Đi xuống giốc càng xa, th́ đến lúc trèo lên càng lâu. Tập thói xấu đă nhiều th́ làm nô lệ cho thói xấu, và trở về đường thiện lại càng thêm khó khăn.

Đó là những điều thuộc về lẽ thông thường; nay đối với cách vệ sinh cũng vậy. Những người đă tập thói quen, ăn những chất không lành, như ăn thịt cá nhiều cùng những đồ ăn chế tạo theo phép công nghệ, th́ mất hẳn cái tư cách dưỡng sinh tự nhiên, khiến cho nếu nhất đán mà trở lại theo phép đó hẳn th́ không khỏi có dao động đến sức khỏe.

Các nhà vệ sinh học có trí sáng suốt, đời nào cũng kinh nghiệm như thế, nên đối với những thói ăn uống không lành, chỉ khuyên nên từ từ mà bỏ, v́ thói quen là cái thiên tính thứ nh́, và phép dưỡng sinh không tốt, có khi không hại bằng phép dưỡng sinh tốt mà theo dùng một cách mạnh bạo cấp tốc quá. V́ đời người là một cuộc tiệm tiến, chứ không phải là một cuộc sậu biến. Cho nên cứ b́nh thường, nếu không cần phải đổi cách ăn uống ngay, th́ nên dần dần bớt những thứ đồ ăn không lành đi, theo một cách dưỡng sinh nửa rau nửa thịt, rồi điều ḥa mà tiến lên, chứ đừng vội vàng mà thi hành cái phép của PYTHAGORE ngay. Nếu biết cẩn thận như thế, hàng tuần hàng tháng, tùy cái tạng của mỗi người, th́ có thể dần dần theo lối thái thực dưỡng sinh được, không vội vàng mà có ích lợi, dù người nhu nhược không quả quyết cũng có thể theo được.

Và lại chính PYTHAGORE lúc bắt đầu theo cái lối dưỡng sinh thuần túy và nghiêm ngặt đó, cũng theo một cách quảng đại khoan dung như vậy. Ông cứ lần lần mà tiến lên, lúc đầu vẫn để cho dùng những thứ thịt không độc mấy, cũng như thứ rượu thường thường, mà dùng có điều độ. Đó là cái kế hoạch tạm thời để cho tập dần lấy cách dưỡng sinh hoàn toàn là cách dưỡng sinh của những kẻ muốn theo về đường đạo lư chân chính cao thượng.

Vậy th́ lối thái thực dưỡng sinh, không những nên chủ trương cho tuần tự, mà lại nên thầm xét cho kỹ càng, v́ có nhiều điều phải lẽ chính, dù về phương diện vật chất cũng vậy, không nên truyền thụ cho những kẻ chưa hiểu được cái lư do thâm trầm ra thế nào, cũng chưa đủ tư cách thi hành được những công đức bao hàm ở đó. Bởi vậy nên nói tóm lại, về lối thái thực dưỡng sinh, muốn theo một cách hoàn toàn tuyệt đối, th́ ở các xă hội văn minh ngày nay cũng khó ḷng được, v́ cách sinh hoạt ở nhà trường, ở trại lính, ở hàng cơm, ở các nơi khoản tân yến tiệc, ở các chỗ tửu quán trà lầu, v. v., toàn là những dịp bắt buộc người ta phải ăn uống theo một cách dưỡng sinh sai lầm vô lư.

Cho nên lối dưỡng sinh theo phép PYTHAGORE đó nên coi là một lối dưỡng sinh cao thượng của một số ít người đạt nhân quân tử, cùng đại để những người đau ốm mà có cái chí tu tỉnh, biết tự t́m ṭi quan sát để cho hiểu rơ các lẽ mà đặt tâm trí ḿnh lên trên cơi vật chất. V́ đối với kẻ đạt nhân quân tử muốn sống một cách yên lành trong sạch, đủ làm gương cho đời, cùng đối với những kẻ ốm yếu, muốn cho khỏi tật bệnh, th́ cần phải kiêng thịt.

C̣n như số nhiều những kẻ b́nh thường th́ nếu khuyên cho được đừng uống rượu, ít ăn thịt, cho gần được cách dưỡng sinh hoàn toàn đó, cũng là hay lắm rồi. Công chúng mà biết sinh hoạt một cách giản dị, theo phép vệ sinh tự nhiên, ăn những đồ ăn quê mùa th́ những cái dục t́nh xấu cũng dẹp đi được mà lại vừa được tăng thêm sức khỏe, cùng mở rộng ḷng nhân ra nữa.

Phải nên cẩn thận. Theo cách ăn ở như thế, không nên khoa trương, để khỏi giục ḷng ghen ghét của kẻ vô tri vô thức.

Phàm lẽ phải nên bày tỏ ra một cách kín đáo, đă làm gương cho người, không nên tuyên bố ra bằng lời nói khoa đại. Duy có cách đó là cách diệu hơn cả cho người ta phải công nhận. Cái đặc sắc của người trí giả là có tư cách hiểu biết, quả quyết, mà tùy thời biết giữ cái đức cẩn ngôn.

Nói thế nghĩa là phép dưỡng sinh tốt lành trong sạch như vừa nói ở trên, cần phải thi hành một cách kín đáo, không nên cổ động khoa trương ǵ. Phải giữ ǵn đừng nên khoe khoang ḿnh có phép hay, ḿnh có công tốt, không nên lúc nào cũng phô rằng phép dưỡng sinh của ḿnh là tối hảo, là tuyệt diệu. Lúc nào cũng đem sự đạo đức mà phô bày ra, bạ lúc nào, gặp người nào, cũng như hăng hăng muốn chiến đấu để mong truyền bá điều đạo đức cho người, thời thế là vụng suy không biết tính.

Tuy nhiên ḿnh đă theo về đường nào, nên phải có can đảm, nhất thiết hành động một cách công nhiên, duy không nên sai một cái thái độ cẩn nghiêm thận trọng vậy. Người ta hễ biết nghe kẻ khác nói, tự ḿnh nói ít, không cười cợt trớt nhả, hành động một cách phương chính, mỗi khi nghị luận điều ǵ, để cho người ta nói, rồi đến lúc kết luận ḿnh bày tỏ ư kiến, như vậy th́ ảnh hưởng đến người chung quanh ḿnh nhiều lắm, v́ tập quen cho họ biết rằng lời nói việc làm của ḿnh tuy không có phô trương mà đúng với lẽ phải.

PYTHAGORE đă nói rằng: Phải làm nên công việc to tát mà đừng có tuyên truyền, đừng có hứa trước. Thà ném một ḥn đá bâng quơ c̣n hơn là nói một lời nói vô vị.

Vả lại phận sự của người quân tử là phải khiêm nhường ẩn độn. Phải giữ kín cái đời tâm lư của ḿnh, không nên lộ những cớ khoái lạc thuần túy của ḿnh, sợ kẻ phàm tục không hiểu làm đảo điên ô uế mất cái thú của ḿnh. Vậy th́ muốn bước vào con đường đạo lư, không thể lại vừa cầu lấy danh với công chúng được, v́ muốn mua chuộc với kẻ phàm phu tất phải hoài băo những tư tưởng phàm phu, nói năng những lời nói phàm phu, xiêm mị cái ḷng thiên lệch, bụng gian tà của kẻ phàm phu. Vậy th́ muốn giữ phẩm giá cho ḿnh, không nên cầu lấy tiếng khen của công chúng.

Về phần trong th́ người đạt nhân quân tử khác hẳn với kẻ phàm phu chưa hiểu biết, hăy c̣n đương t́m đường. Nhưng về bề ngoài th́ phải nên cho khiêm tốn, phàm cử chỉ ngôn ngữ, không nên có chút ǵ quá đáng, khiến cho người ngoài cho là con người ngông cuồng hay lập dị. Trong cuộc đời, cách ăn mặc đứng ngồi, bề ngoài nên giống như mọi người, c̣n cái dung nghi, cái thái độ; cách nói năng ôn ḥa, cách hành động khoan chính cũng đủ tỏ ra rằng bề ngoài tuy giống người, mà tư tưởng, sinh hoạt, hành vi, khác hẳn phần nhiều người thường.

Những kẻ mơ hồ có lẽ không biết, nhưng ư kiến họ có hề chi. C̣n người suy nghĩ th́ không có lầm, sẽ nhận biết ngay người có giá trị và muốn đến thân gần. Bấy giờ th́ có một sự tuyển trạch tự nhiên, bởi lẽ thường thanh khí, chỉ những người nào có đủ tư cách hiểu được đạo lư mới thân gần với nhau mà thôi.

Người nào muốn truyền bá đạo lư bằng những cách cổ động mạnh bạo ồn ào, muốn đem ra thi hành một cách cấp tốc hoặc quá đáng, th́ chỉ dụ được những kẻ nhiệt cuồng làm cho cái đạo rất hay đến phải hư hỏng, hay chỉ giục ḷng những kẻ thóa mạ đem cái chí phê b́nh tiêu cực mà nhạo báng những ư tưởng cao thượng, ngăn trở cho không tiến hành. Lại tệ nữa là hăng hái ra thảo luận kịch liệt với những kẻ có ư phản đối ḿnh, để mong dụ được họ về với ḿnh. Đem cái hạt giống tốt mà gieo vào nơi đó th́ tất phải khô héo đi không sao mọc được. PYTHAGORE thường nói rằng: « Đừng có ném thức ăn vào chiếc thuyền ô uế ». Đem gieo hạt giống vào cái đất sành sỏi, th́ không có lợi ǵ, mà lại thiệt hại ḿnh, v́ đă mất công vô ích lại chỉ thu hoạch lấy cái oán cái giận, ḷng ghen ghét, sự trở ngạnh mà thời.

Đến như người quân tử có đạo vị thâm trầm, thơm nức chốn thảo lư, th́ không thế, trông thấy tinh thần tươi tỉnh, thân thể kiện toàn, người ngoài cũng phải đủ cảm hóa. Bấy giờ phàm người có trí tự nhiên khuynh hướng với ḿnh, đến mà uống ở cái suối mát của ḿnh. Bấy giờ tự khắc có kẻ đồ đệ nhiệt thành trung tín, cái đất đă tốt, gieo hạt nào tất sinh hoa kết quả nhiều.

Người trí giả nếu biết giảng đạo lư một cách khôn khéo, để cái cá nhân của ḿnh ra ngoài, đừng nói đến ḿnh, đừng lúc nào cũng đem ḿnh làm gương cho người, nhưng biết nói một cách vô ngă, siêu việt lên bậc những nghĩa lư cao xa, th́ cái sức ảnh hưởng có thể giữ được hoàn toàn. Nếu làm ra dáng phô trương về ḿnh th́ mất thế lực ngay. Nếu biết chỉ coi ḿnh như một tay môi giới, một người thông ngôn để truyền đạo lư, th́ cái sức cảm hóa sẽ gấp mạnh lên.

Vậy th́ điều cốt yếu cho đời đạo lư là cái đức vong kỷ vậy. Khi đă hiểu rằng sự hành động ngầm c̣n mạnh hơn là sự bạo động ngoài, và sức tinh thần can thiệp vào việc đời c̣n có hiệu lực hơn là sức vật chất, th́ bấy giờ sẽ vui ḷng mà sống một cách ẩn độn. Chân hạnh phúc là cái hạnh phúc kín đáo. Chân đạo lư là cái đạo lư không phô trương ra ngoài.

Người quân tử cần phải ẩn độn một ḿnh, v́ người quân tử khác nào như một kẻ đến sớm quá, cách xa với cái tŕnh độ hiện thời của nhân loại. Bởi thế nên không thể hoà đồng với những cách sinh hoạt ̣ uế đời nay, không thể tham dự vào những đoàn thể hiện thời, không thể can thiệp với những kẻ thượng lưu ngày nay. Phải một ḿnh chiến đấu cho đạo lư. Đem cái năo đa cảm đem cái sức kiên gan, đem cái bụng nhiệt thành, đem cái ḷng từ bi vô hạn, mà phải ra gánh vác cái thiên chức nặng nề, chịu đựng những sự đau đớn về thân thể về tinh thần, để cố t́m ra cái cách sinh hoạt ở đời cho được tốt lành sung sướng vậy. Khi đă thắng được cái ác mà t́m thấy chân lư rồi th́ bấy giờ trong ḷng chỉ những khao khát muốn tránh cho kẻ khác khỏi sự đau đớn ḿnh đă từng trải. Đối với công chúng th́ tùy sức thu nạp được mà đem ra một phần ánh sáng để truyền thụ cho. Đối với kẻ đồ đệ nhiệt thành là phần số ít th́ đem cả đạo lư thâm trầm mà bày tỏ ra, để cho sau khi chết đi sự nghiệp ḿnh c̣n bành trướng ra măi và bước đường của nhân loại sẽ được tấn tới thêm lên.

Phải nên điều độ. Đừng có bắt chước những kẻ không biết suy xét, hoặc là ăn tiêu quá sự cần dùng, hoặc là tần tiện quá đến bùn sin.  Biết suy xét đích đáng, không những là biết phân biệt lẽ phải lẽ trái điều ích điều không, mà trong những điều hay lại cũng phải biết điều độ cho thích nghi nữa. V́ rằng biết cái hay cái tốt chưa đủ, lại phải biết dùng cho phải đường nữa. Nếu dùng thái quá hay bất cập, th́ cái rất hay có thể thành ra hại được. Biết bao nhiêu thức ăn lành mà ăn quá thành ra độc.

Nhưng nhất là trong cách dùng tài hóa lại cần phải biết phân biệt cho thích trung. Có của không phải là chỉ có lợi mà thôi, lại là một cách rất nguy hiểm để thử cái tư cách của người ta, v́ người giầu có chẳng qua là kẻ giữ tiền cho xă hội mà thôi. Bởi thế nên nếu dùng của một cách duy kỷ, hay lạm dụng cái thế lực của đồng tiền, th́ hại cho ḿnh nhiều lắm. V́ cái chức phận của nhà giầu là sau khi đă đủ sự cần dùng của ḿnh rồi phải đem cái của thừa ra mà làm những việc công ích cùng cấp cho kẻ xứng đáng, người giầu có biết dùng tiền như vậy th́ mới mong được yêu ổn hạnh phúc cho ḿnh.

V́ cái luật ngầm của đạo từ thiện là sự hạnh phúc của cá nhân bao giờ cũng quân b́nh với sự hạnh phúc mà cá nhân đă làm được cho công chúng. Ḿnh làm điều thiện cho ai, th́ sớm hay trưa, trực tiếp hay gián tiếp, rồi nó cũng lại trở về cho ḿnh. Vậy th́ đạo từ thiện là phải chịu thiệt cho ḿnh về đường vật chất, để mong được hưởng lợi về đường tinh thần. Bởi thế nên sự hạnh phúc không thể tính chi ly mà được, v́ chỉ dành cho những kẻ biết chịu khó hi sinh phần ḿnh, không nên tiêu dùng quá sự cần dùng như PYTHAGORE đă dậy vậy.

Vậy th́ những kẻ tự cao rằng ḿnh có của phô trương sự dư dật của ḿnh là kẻ không biết suy xét và sẽ gặp sự không hay sau này. Kẻ hầu người hạ, xuống ngựa lên xe, nhà cửa rực rỡ, bày biện trang hoàng, vàng bạc châu báu, vóc nhiễu sa hoa, lăng phí của cải để cho thỏa cái thói hư vinh, thỏa cái bụng dật lạc, cách ăn ở như thế, tất làm cho hư hại cái đời tâm lư của ḿnh. Chăm chút quá về phần vật chất hăo huyền, tất phải những bỏ đến phần nghĩa vụ tinh thần. Sự xa xỉ làm cho quên cái mục đích chân chính của đời người, quên mất những cách ăn ở giản dị tự nhiên. Làm cho hôn quyện tinh thần, nhu nhược thân thể, gây nên tật bệnh suy đốn.

Đến như kẻ chắt bóp vô độ, cũng là không biết dùng của cải. Vừa hại cho ḿnh, vừa hại cho kẻ khác. Ăn ở so dụi quá làm cho sinh cơ không hoạt động ra được, thần trí bi eo hẹp bần cùn, không phát đạt nảy nở ra được. Tính keo kiệt là cái ḷng duy kỷ đem đến cực điểm. Người keo lận là kẻ tự trừ ḿnh ra ngoài xă hội. Bởi vậy nên đến khi cần đến kẻ khác cứu giúp cho, th́ ḷng từ thiện của xă hội không có ba cập tới ḿnh, v́ tự ḿnh có bao giờ ăn ở rộng răi với kẻ đồng loại đâu.

Nhất thiết phải giữ lấy đạo trung b́nh là hơn cả.
 Kẻ nào biết điều độ hưởng sự tốt lành, vừa đủ cần dùng cho tấm thân ḿnh được hoàn toàn phát đạt, th́ chắc được hạnh phúc luôn. Vậy th́ điều cốt yếu ở đời là phải tự cung cho ḿnh lấy sự cần dùng, mà thứ nhất là không nên cầu lấy quá đáng. Thế nghĩa là người ta nên phải được sung túc về đường vật chất, khéo cung dụng cho đầy đủ để giữ lấy cái phẩm giá của ḿnh, và giúp cho sự tinh tiến của ḿnh cùng kẻ thân thích ḿnh. Cách ăn ở mà phải cùng túng th́ cũng ngăn trở cho người ta chẳng kém ǵ cách ăn ở phóng túng quá.

Tuy nhiên, cũng đừng nên theo lời cách ngôn thông tục nói rằng: Cái ǵ cũng nên nếm cho biết mùi, đừng cái ǵ lạm dụng quá đáng. Đó là lời nói của những kẻ thô thiển, không hiểu rơ cái cách sinh hoạt chân chính, muốn rằng cái độc cũng như cái lành nên nếm cho biết mùi cả. Tự ḿnh không có định kiến, chỉ biết theo lưu tục, thức ǵ cũng muốn dùng lấy điều độ không kiêng kỵ ǵ, thành ra cứ chút đỉnh mà đều đặn măi cũng đến phải trúng độc. Vẫn biết rằng không lạm dụng th́ không mắc phải cái hại to. Nhưng làm như thế cũng là không mong được hưởng cái phúc lớn vậy.

Vậy đừng nên làm ǵ có thể hại đến ḿnh, và muốn được như thế th́ trước khi hành động phải nên suy nghĩ.  Trước hết phải hiểu rơ rằng phàm cái ǵ thái quá hay bất cập đều có thể di hại vậy. Như ăn nhiều quá hay ăn ít quá cũng thành bệnh và thành một bệnh giống nhau được. V́ rằng thân thể hoặc sung thiệm quá hoặc thiểu lực quá, cũng tổn hại đến cái sức đề kháng trong người, suy nhược mất cái sức pḥng bị của các cơ quan, để cho các trùng bệnh độc truyền nhiễm vào. Cách ăn ở hoặc sung túc quá hay hoặc bủn xỉn quá đều có hại cho sức khỏe của thân thể cùng tinh thần cả.

Lại không biết điều độ mà theo những cái khuynh hướng cực đoan, muốn kiếm cho nhiều tiền quá sự cần dùng, chịu hạ cái phẩm giá ḿnh hay hại đến thân thể ḿnh, để giữ lấy cái địa vị cho sung sướng, chịu thay đổi cách sinh hoạt đến điên đảo cả thói thường của ḿnh, đó cũng là gây ra những sự chẳng hay cả. Phàm mọi sự khắc khổ quá độ là không nên cả. Vậy th́ đă quyết định làm người có đạo lư, phải nên giữ đừng hăng hái quá, đương sinh hoạt trong một cái đời luộm thuộm cẩu thả, muốn nhất đán đổi ngay sang cái đời khắc khổ nghiêm trang quá. Cổ ngữ có câu : « Tạo hóa không có bước nhảy bao giờ ». Trong trời đất cái ǵ cũng là tuần tự mà tiến hóa, điều độ mà thành công. Hành động không điều độ th́ vừa hư hại mất sức khỏe, vừa giao động cả tinh thần. Theo cái đạo rất hay mà muốn nhất đán tới nơi tuyệt đối ngay th́ cũng là tai hại vậy. Sức khỏe cũng như đạo đức, chỉ người nào nhiệt thành, yên ổn, nhẫn nại, cần cù mà cầu lấy th́ mới được.

Thời kỳ thành đạo

CÁC PHƯƠNG TIỆN TINH TIẾN


Phải nên tự kiểm sát ḿnh. Khi mới ngủ dậy trong người đương b́nh tĩnh, phải thừa lúc bấy giờ mà nâng cao thần trí lên, nghĩ ngợi về các công việc hay ḿnh phải làm. Chương tŕnh giáo dục của phái PYTHAGORE thật là có trật tự chỉnh nghiêm. Trước hết hăy định cái tôn chỉ của đời ḿnh theo luật pháp của Thượng đế cùng lẽ liên lạc của loài người và vạn vật, rồi định những phương pháp khắc kỷ, luyện trí cùng dưỡng sinh, bấy giờ mới dạy đến các phương tiện tinh tiến.

V́ kẻ đồ đệ học đạo phải hiểu các điều sơ lược ấy trước đă, rồi mới có thể tiến lên mà cầu đạo lư, v́ bấy giờ trong tay đă có cái khí cụ cần dùng cùng những phương pháp kiểm điểm rồi.

Việc thứ nhất phải làm là mỗi ngày hai lần, buổi sáng và buổi chiều phải tự ḿnh kiểm sát ḿnh. V́ người ta bước chân vào con đường khó khăn, nên th́nh thoảng dừng bước lại để ḍ xét tiền đồ cùng kiểm điểm phương hướng. Nghĩa là phải thường chịu khó ước lượng cái công tấn tới của ḿnh, ḍ xét chỗ khuyết điểm của ḿnh, đính định cai khuynh hướng của ḿnh, mới có thể vững theo đường chính được.

V́ cái mục đích đó nên thời thường phải kiểm sát tâm hồn luôn.

Trước hết buổi sáng, lúc trí năo đương b́nh tĩnh, giác quan đương tinh nhuệ, bấy giờ tỉnh táo sáng suốt, xét đoán quyết định điều ǵ cũng được tỏ tường mạnh bạo. Buổi đầu trong một ngày là lúc trong ḷng được yên ổn mà cảnh vật cũng b́nh tĩnh. Trí sáng sủa có thể suy nghĩ chỉnh đốn lại cái công việc vô ư thức lúc ban đêm, đă tác dụng trong thần trí theo cái chương tŕnh phác họa từ buổi tối lúc đi ngủ. Bấy giờ là cái thời khắc tốt để sáng tạo cùng để tổ chức.

Trong một ngày mới bắt đầu vào, không nên để một việc ǵ là không dự định trước. Cái chương tŕnh cả ngày phải định cho tinh tường để theo cho được đúng. Và thứ nhất cái chủ đích là phải sửa ḿnh cho hay hơn, khuynh hướng về Thượng đế, nghĩa là mỗi ngày phải khiến cho đời ḿnh được thêm sáng sủa ra, có phương pháp hơn, thêm cái tinh thần nghĩa vụ, thêm cái hoài băo đạo lư. Sự hạnh phúc cùng công tinh tiến là mật thiết quan hệ với việc xét ḿnh buổi sáng đó, xét ḿnh một cách siêng năng suy nghĩ.

Chiều, trước khi đi ngủ lại phải nên kiểm sát tâm tư, ôn lại trong trí những công việc lúc ban ngày, và tự hỏi rằng: Ta đă làm được những ǵ ? Ta có làm được trọn nghĩa vụ ta trong mọi việc không?
Nên đem lần lượt từng việc ra mà sát hạch như thế. Nếu thấy ḿnh đă làm sai th́ phải tự ḿnh nghiêm trách, nếu không có làm lỗi ǵ th́ nên hoan hỉ trong ḷng.
– Mỗi buổi chiều phải đem ḿnh ra trước ṭa án lương tâm, và xét xem ḿnh có làm sai điều ǵ v́ làm lỗi hay v́ ngu tối chăng.

Người ta đă hiểu biết và đă có chí quyết đối với ḿnh nghiêm khắc hơn là đối với kẻ khác, thời không ai phán đoán cách ăn ở của ḿnh cho tỏ tường bằng chính tự ḿnh, v́ chỉ có ḿnh cùng với Thượng đế là biết những cớ u ẩn của mọi sự hành vi của ḿnh, những chỗ khuyết điểm thâm trầm trong tâm tính ḿnh, cùng những sự nhu yếu của linh hồn ḿnh.

Có hai cách kiểm sát sự hành vi cư xử của ḿnh. Một cách thuộc về trí tuệ, khiến cho đối với mỗi việc làm, mỗi tư tưởng, lại suy nguyên đến những cái tôn chỉ lớn ở đời, là chân lư, bác ái, công nghĩa, trật tự, điều ḥa. Một cách là thuộc về cái tiếng của lương tâm nó bảo cho ta biết rằng nó bằng ḷng hay không bằng ḷng. Hễ đă có cái chi theo về đạo đức mà biết thức động đến lương tâm, thời cái tiếng của lương tâm đó nó mạnh lắm. Nó vang lừng cả trong cơi tâm giới, và nó chủ trương một cách tuyệt đối. Mỗi khi phạm điều lầm lỗi, thời nó rót vào tai cho ta biết rằng nó không bằng ḷng ta và làm cho thần trí ta phải băn khoăn. Bấy giờ nó khuyên ta phải nâng cao tư tưởng lên Thượng đế, cần người phù hộ cho, tha thứ cho, và nguyện xin quả quyết về sau phải ăn ở cho tốt hơn, để đáng Thượng đế giáng phúc. Mỗi khi làm điều lành thời nó tỏ ư bằng ḷng, làm cho ta được khoan khoái, thần trí thảnh thơi và thân thể b́nh tĩnh. Khi nào v́ chân lư mà ta phải chịu khó, thời nó cho ta được sướng về tinh thần, nghĩa là được yên vui vô cùng, v́ đă làm trọn nghĩa vụ, cầu lấy điều thiện v́ Thượng đế vậy.

Tư niệm. Nên ngẫm nghĩ những lời khuyên đây.
  Khám phá cho biết lẽ phải, kinh nghiệm mà hiểu điều hay, cũng chưa đủ đem ra mà tín dụng ngay được. Phàm cái ǵ không nghiền ngẫm cho kỹ, không phản phúc nhiều lần, như mất đi rồi mà lại t́m thấy được, th́ không thể in sâu vào trong trí nhớ, khiến cho bao giờ cũng nghĩ đến luôn được. Phàm lẽ phải, phải có tiêm nhiễm sâu th́ mới thành phép tắc cho sự hành vi tư tưởng được. Mà muốn cho tiêm nhiễm sâu th́ chỉ có một cách, là hàng ngày tư niệm đến, để cho sáp nhập hẳn vào trong tâm trí. Phàm lư tưởng cùng sự nghiệp, phải do trí ḿnh tư tưởng lại, cấu tạo lại, th́ mới thật là thành của ḿnh. Phép đạo lư cũng vậy, phải tư tưởng đến luôn, nghiền ngẫm đến luôn, th́ mới thật là hiểu được hết ư nghĩa huyền mặc.

Vậy th́ duy có cách thường thường tư niệm mới có thể thấu triệt được lẽ phải và tài bồi được đạo lư.

Cho nên phép tư niệm có thể cho là động cơ rất mạnh cho sự tiến bộ về đường tinh thần, trí thức cùng đạo đức. Bởi thế nên tự cổ các bậc hiền triết, các nhà tôn giáo trứ danh đều chủ trương cách đó. Phàm muốn thấu hiểu sự đời, muốn cảm hứng cao thượng, hoài băo những tư tưởng siêu việt, đạo đức thâm trầm, nói tóm lại là cái ǵ có ư nghĩa cao ở đời, phải có suy nghĩ luôn một cách chăm chỉ, mới có thể thu hoạch được. Phàm bí quyết của trời đất, hễ nghiền ngẫm măi rồi cũng có thể giải quyết được. Những sự phát minh to tát về đường vật chất tinh thần, cổ lai vẫn do những người hay nghĩ, lánh ḿnh xa cơi thế tục, đem một phần đời người mà cặm cụi t́m ṭi mới làm nên.

V́ muốn tư niệm cho có ích lợi th́ phải để cho tinh thần chủ trương đốc suất, để cho cái tia sáng thần minh đă vốn có sẵn trong người ta, đưa ta lên cơi siêu việt. Người ta không thể vừa theo đường lẽ phải, vừa theo sự sai lầm được. Những tiếng ồn ào ở bên ngoài, những sự xuẩn động của công chúng, những cái sóng dục t́nh nó khi lên khi xuống, những sự lo nghĩ thiển lậu nó lẩn quất trong tâm trí, những lời nói năng cùng cách cử động vô vị, đều làm lấp cả cái tiếng của đạo lư khiến cho không nghe thấy nữa. Phàm những sức mạnh cao siêu, phải có b́nh tĩnh mà quan niệm th́ mới xuất hiện ra được.

Trong một ngày, những lúc lợi cho việc tâm niệm, là buổi sáng và buổi chiều, bấy giờ cái đời vật chất hoặc nó chưa chiếm mất tinh thần ta, hoặc nó đă để cho ta được thư thả.

Song trong một ngày lúc nào cũng có thể tâm niệm được, hoặc là lánh ḿnh ở một nơi xa vắng, hoặc là dạo bước ở chốn lâm tẩu điền viên, hoặc là ở ngay nhà ḿnh mà ngồi nơi yên ổn tĩnh mịch, để cho thân thể được thư thái, cũng có thể trầm tư mặc tưởng được. Bấy giờ thời h́nh như một ḿnh ḿnh đối diện với một điều đạo lư nên suy nghĩ, dem cả tâm tư ư chí chuyên chú vào đó. Bởi thế nên mỗi ngày các đồ đệ của PYTHAGORE phải đem những lời cách ngôn trong tập «Kim thi ra mà đọc, và nghiền ngẫm về các nghĩa vụ buộc cho thần trí phải theo, suy xét những điều có thể đem ra ứng dụng cho cuộc đời hằng ngày.

Khi đă tập cái thói quen tu niệm, th́ mới biết sự tu niệm là cơm bữa của đời tinh thần. Bấy giờ thành sự cần dùng, sự bắt buộc, không có không được. Bấy giờ th́ hễ không để trí về những sự tư tưởng cao xa, không cư xử theo những phép tắc điều ḥa, hay là không ôn đọc những sách vở về đạo lư, th́ có cái cảm giác như sự đời không thuộc ḿnh nữa. Bấy giờ cái sức bồng bột tinh tiến thấy biến mất đi, mà tự ḿnh như ở trên cao rơi xuống dưới đất vậy. Những sự lo nghĩ đâu đâu lại đổ dồn lại, trong người thấy không được b́nh tĩnh nữa, không được vui vẻ vững vàng nữa.

Vậy th́ muốn cho đứng vững được ở trên con đường trung chính đạo lư th́ bao giờ cũng phải tâm niệm đến cái mục đích ở đời cùng những phương pháp cao thượng cho đạt tới mục đích đó. Nói tóm lại th́ đời người có thường liên lạc với Thượng đế, với Thiên lư, thường suy nghĩ mà nỗ lực cho đạt tới, th́ mới là cái đời tốt đẹp đáng sống vậy.

Tín ngưỡng. – Nên đem hết ḷng mà yêu chuộng những lời đó.
– Muốn đem ḷng hăng hái mà yêu chuộng những phép mầu nhiệm cùng đem ra thực hành th́ phải hết sức tín ngưỡng, duy có ḷng tin thời mới không ǵ trở ngại được.

Ḷng tin ở Thượng đế, ở công đức mầu nhiệm của Thượng đế, sự sinh hoạt của vạn vật cùng của loài người, không phải tự nhiên mà tiếp nhận ở ngoài được. Phải tự ḿnh tạo tác lấy. Phải từng trải sự đời, phải tự ḿnh nghiền  ngẫm mới gây nên được. Lời khuyên của người ngoài có thể giúp cho tỏ rạng được ít nhiều: duy tự ḿnh t́m xét mới mong được xác tín.

Ḷng tin là ḷng chắc bằng về lẽ phải mầu nhiệm. Không có cách lư luận nào làm cho lay  chuyển được, v́ có nhiều chứng cớ cao thượng, có nhiều sự thực hiển nhiên, có nhiều cách chứng giải tự trong tâm, nó buộc ta phải tin ở chân  lư. Dù con đường đưa đến cơi tín ngưỡng thế nào mặc ḷng, dù là đường vật chất hay là đường tinh thần, khi đă thực có ḷng tín ngưỡng rồi, thời trong dạ vững vàng, dốc mến Thượng đế, ham đạo lư, muốn sống ở đời một cách tốt lành êm ái. Bấy giờ thời nhờ ḷng tin đó mà có đủ sức nhẫn nhục, đủ sức phấn phát, đủ sức hành động. Thấy đời người bao giờ cũng tốt đẹp cả, mà lại sẵn sàng bao giờ phải dời bỏ cuộc đời cũng có thể điềm nhiên như không vậy.

Quyết chí dù phải chịu khổ thế nào cũng được, dẫu đến hi sinh ḿnh đi c̣n hơn là bỏ mất cái mục đích cùng ḷng tín ngưỡng của ḿnh, v́ đă đem ḿnh phó thác vào tay Thượng đế, chắc rằng nếu cứ biết làm trọn được nghĩa vụ của ḿnh, không cần phải biết Thượng để dắt ḿnh theo đường nào, thời sẽ được hưởng phúc lành dành cho những bậc hiền nhân thánh triết vậy.

Đời đạo đức.  Nên gắng sức thực hành, sẽ tới được cơi chí đức chí thiện.
– Những kẻ sống ở đời không có chủ nghĩa, không có tín ngưỡng, cũng không có pháp luật, không có lư tưởng, không có hạn chế, th́ chỉ lấy những cớ bần tiện mà sinh tồn, v́ chỉ biết khu khu thỏa cái vật dục cùng t́nh dục của ḿnh mà thôi. Óc loạn thần suy, tâm hồn nhu nhược, gặp sự ngăn trở, không có sức mà đối phó lại. Sẽ dễ gặp tai nạn mà sa vào chốn hiểm nghèo.

Trái lại, những kẻ cặm cụi mà t́m đường tinh tiến, mà truyền bá sự thực, mà yêu mến đạo đức, th́ bao giờ cũng có ḷng tín ngưỡng thâm trầm, có một cái lư tưởng nó cảm dụ ḿnh, nó phù tŕ ḿnh, và nó ban cho ḿnh một cái sức mạnh vô địch. Những người ấy rồi cứu cánh cũng hiểu rằng mục đích đời người là phải in theo cho được giống với Thượng đế, mỗi ngày như mời Thượng đế vào chủ tọa trong tâm hồn ḿnh, để cho tự ḿnh rồi cũng hóa được theo Thượng đế.

Thân phận người ta c̣n kém hèn như bây giờ, là chưa biết suy nghĩ về cái lẽ ở đời, chưa biết yêu mến những sự hiện tượng của tạo vật và noi theo những điều giáo huấn của đạo lư.

Duy có cái đời tôn giáo, thực hợp với lẽ thiên nhiên, là có thể giúp cho nhân loại được tuần tự tiến hóa và được hưởng thụ hạnh phúc vậy.

Học về vũ trụ. – Ta nói hăy là lối nói thật, xin thề trước đấng mầu nhiệm đă vạch ra trong trí ta cái h́nh  Tứ tượng. (Tétrade) thiêng liêng, là nguồn gốc và là biểu hiệu của vạn vật vô cùng
(1).  PYTHAGORE đă khuyên nên dùng những phương pháp như sau này làm cách tu luyện, như phép tỉnh thân, phép tư niệm, ḷng tín ngưỡng, chí hành đạo, bèn yết lên một cái h́nh thể làm biểu hiệu, gọi là h́nh  "Tứ tượng", để chứng cho lời khuyên lời hứa của ḿnh là đích thực.



H́nh « Tứ tượng là một cái thể chữ Kim » 金 có ba góc và có bốn mặt (La Tétrade ou pyramide triangulaire composée de quatre faces): ba mặt bên và một mặt đáy, chính là biểu hiệu của học phái PYTHAGORE, v́ là h́nh dung cái bản thể của vạn vật có bốn nguyên chất lập thành ra. H́nh này trong học phái đó cho như cái th́a khóa để khám phá những sự bí mật trong vũ trụ, giải rơ về căn nguyên, sự thành lập, sự tiến hóa cùng mục đích của vạn sự vạn vật.

Trước khi giải thích tường tận về cái h́nh tam giác tứ diện đó, hăng nên nói về khoa số học là một khoa PYTHAGORE rất sở trường. Số học cũng như các khoa học khác, có chia ra hai ngành: một ngành thông tục, là xét về các số mục thường, điều ḥa thêm bớt với nhau, một ngành bí truyền là xét các cái ảnh tượng hàm ở trong số mục. Ngành thứ nhất tức là khoa số học thường dạy ngày nay. Cách học như thể là cách  "tử học" (science morte), chỉ học cái bề ngoài, chỉ coi các số mục là tiêu biểu cho sức mạnh về vật chất, và chỉ xét cái cách các số mục điều ḥa với nhau như thế nào mà thôi. Học như thế th́ chỉ biết được mấy điều nghĩa lư về thực tế mà thôi.

Chứ đến như khoa bí truyền về số học, th́ là thuộc về triết học, thuộc về tôn giáo. Ngày nay hầu như không ai biết đến nữa, v́ cái học này là học để biết ư nghĩa u ẩn của các số mục, biết ở trong các phép tính, như cộng, trừ, nhân, chia, có bao hàm cái qui mô cùng các luật pháp sinh thành tiến hóa của vạn vật trong vũ trụ. Trái với khoa số học thông thường, chỉ châu tuần trong cơi thực tế, khoa số học bí truyền khám phá được những điều nghĩa lư rất cao thâm về cơi tinh thần.

(1) Cả thiên này là giảng về cái triết lư huyền bí của PYTHAGORE, lấy số 1, số 2, số 3, số 4 mà giải nghĩa cả nhân sinh cùng vũ trụ. Lời lẽ trúc trắc khó hiểu, độc giả lượng cho, v́ là những huyền lư như trong kinh Dịch cả.

Điều cốt yếu trong học thuyết của PYTHAGORE là hết thảy trong vũ trụ đều theo một cái luật điều ḥa, mà tiêu biểu cho cái luật ấy tức là số (le nombre). Vật ǵ cũng là do một số mà ra cả. Số nguyên thủy là số Một (Un), tức là nguồn gốc, lức là cha sinh của cả vạn vật. Số Một hay là số Độc nhất (Unique), là tiêu biểu cho Thượng đế, vừa sáng tạo, vừa duy tŕ cho vạn vật trường tồn, bao hàm hết thảy, lấy động từ (Verbe) mà cảm hóa vạn vật, và chính là cứu cánh của vạn vật. Luật về số mục với luật của tạo vật đối chiếu nhau như một, trong thế gian hết thảy đều do số mà thành, đều có thể cân lượng đo lường được cả, đều là nguyên thủy thuần túy như nhau, xuất ra phiền tạp, rồi chung qui lại như nhau hết. Giống nào cũng có tiến hóa, thêm cái sức mạnh về vật chất, thêm cái trí hiểu về tinh thần, phát siển cái cốt cách của ḿnh, tấn tới hoài, hết đời ấy sang đời khác, mỗi lần lại thay h́nh đổi dạng và chuyển dịch sức mạnh đi cả. Rồi kết cục lại thu về cơi Vô cùng là nơi Thượng đế, tức là ngôi Duy nhất, là số Một, là nơi chung qui của vạn vật sau khi đă luân chuyển biến hóa trăm đời ngh́n kiếp, mỗi đời mỗi kiếp, nghiệp báo nặng nhẹ khác nhau, nhưng cứu cánh rồi cũng qui về số Một cả. Vậy th́ cái thang số mục, tức là cái thang vạn vật sinh sinh hóa hóa vô cùng, phân ra đẳng cấp vô cùng, tức là bức tranh sinh hoạt càng ngày càng mới, càng ngày càng rộng măi ra, tức là thế gian vạn vật, gồm nhiều phần tử mà thành ra, phần nào cũng cùng một căn nguyên, cùng một thể chất, cùng một mục đích như nhau, duy con đường tinh tiến riêng th́ trăm ngả ngh́n lối, mỗi giống mỗi loài tự chọn lấy mà đi vậy.

PYTHAGORE Có tóm tắt cái khoa bí truyền về số học đó vào một bộ sách tôn trọng như một bộ thánh kinh, chỉ để cho những người đệ tử đă nhập diệu rồi mới học đến được. Chẳng may sách đó thất truyền. Sau này chỉ cóp nhặt được một vài đoạn trong sách vở của các đệ tử mà thôi. Như đoạn sau này do đệ tử Philolaus biên chép được, cũng đủ tiêu biểu được cho cái học thuyết ấy: « Số là cái sức chúa tể chủ động để duy tŕ các sức mạnh trong vũ trụ được trường tồn... Nếu không có số, không có cái tinh túy của số, th́ không ai có thể quan niệm được phân minh về bản thể cùng mọi mối quan hệ của sự vật... Cái sức mạnh của số không những xuất hiện ra trong những sự vật của quỉ thần mà thôi, mà lại biểu lộ ra trong tất cả các sự nghiệp cùng tất cả các tư tưởng của người ta, nghĩa là đâu đâu cũng có, cho đến các công tŕnh về mỹ thuật, về âm nhạc cũng vậy.

Thật thế, trong thế gian đâu đâu cái chân lư cũng là xuất ra thành biểu tượng (symbole) cả. Phàm các mỹ thuật, các khoa học, cũng giống như số học, đều có một phần bí truyền, người đă nhập diệu (initié) rồi th́ coi đó sẽ biết được cái dấu vết của ngôi Duy nhất (Unité), cái qui mô màu nhiệm của Thượng đế cái mục đích hạnh phúc tinh tiến mà Thượng đế đă chỉ định cho mọi giống sinh vật. Các khoa học duy vật, nhất là khoa y học, nếu biết vừa nghiên cứu về, vật lư, lại vừa nghiên cứu về huyền lư nữa, th́ không đến nỗi làm cho người ta thất vọng, và bày ra lắm cách độc hại.

Cái nghĩa thần bí của mấy số đầu, thâm trầm lắm, ta nên hiểu biết. Số Duy nhất, số Nhất nguyên là số tuyệt đối, là cái thực thể (être) tự hoàn toàn, là nguyên nhân, là bản chất của tất cả các số khác, nghĩa là cái nguồn bởi đó mà sinh ra các số phức tạp khác. Vậy th́ số Duy nhất là tự ḿnh gồm cả nguyên nhân cứu cánh ở ḿnh, nghĩa là tự ḿnh tự có, không thuộc ǵ các nguyên nhân ở ngoài cả. Lấy phù hiệu của số học mà tiêu bièu ra th́: 1 = 1.

Vậy th́ số Một là tuyệt đối, là vô cùng, là hoàn toàn, là cai quát. Số Một tức là Thượng đế, nghĩa là đấng thiêng liêng vô cùng, không ai sáng tạo ra ḿnh, mà toàn trí, toàn năng, phổ biến, hành động khắp các thế giới, đem điệu Thiên lại mà phổ cập cả các giống các loài, truyền cho một cái tinh thần chung, khiến cho mỗi giống vẫn có tâm tính riêng mà hết thảy đều phối hợp lại ở số Một, thành ra điều ḥa hết thảy.

Vậy th́ Thượng đế hay là đấng Độc nhất là nguồn gốc và là cứu cánh của hết thảy các giống sinh sinh hóa hóa trong trời đất, giống nào sinh ra hóa đi cũng là để tuần tự phát siển hết những cái hay cái tốt của ḿnh, rồi đến lúc trí tuệ viên măn rồi, lại quay về chốn Thượng đế là nơi độc nhất, là cái thưởng tuyệt luân cho những giống đă được trọn kiếp lành vậy. Triết học gọi số Một đó là Nguyên tử (Monade), là tiêu biểu cho cái bản thể vô cùng bất diệt của vũ trụ, cho cái mối thiêng liêng tự tại, thường vẫn đứng trong người ta mà làm chúa tể cho ta vậy.

Trong vũ trụ vật chất, số Một đó tức là cái nguyên khí, cái khí khinh thanh trong trời đất, sáng tạo, điều ḥa, chỉnh đốn cho vạn vật, vật nào cũng là do những phần tử vật chất kết hợp lại mà thành ra, rồi cứu cánh lại giải tán ra mà qui nhập vào cái nguyên khí khinh thanh cả. Trong cơi địa cầu này, cái nguyên khí đó là làm chủ động cho cả cuộc sinh hoạt, tức là người dàn ông là chủ động trong nhân loại, c̣n đàn bà là phần thụ động, để giữ lấy cái linh khí của trời đất mà lưu truyền cùng sinh sản ra.

Đến số Hai th́ là cái sức sinh hoạt của vũ trụ, làm cho vạn vật sống được, lại phát đạt nảy nở mà càng ngày càng phiền phức măi ra. Chính cái sức sinh hoạt này là nguồn gốc của cái hấp lực nó làm cho các thế giới lưu chuyển luôn luôn, của cái sức hóa hợp nó chi phối trong cơi khoáng vật, của cái sức ái t́nh nó làm cho các giống sinh vật phối hợp với nhau, của cái sức phôi thai nó tích lũy cho mỗi giống mới sinh ra được có đủ sinh khí để mà tiêu dùng trong một đời ḿnh. Trong vũ trụ th́ cái sinh khí đó là linh hồn của các thế giới cùng các tinh cầu luân chuyển trên bầu trời. Lại là cái sức hành động của tạo vật, thuộc về khí âm, do tự Thượng đế phát sinh ra, mà không phải chính là Thượng đế. Trên địa cầu th́ sinh khí đó là cái chất vô h́nh, bàng bạc trong thế gian, làm môi giới cho tinh thần với vật chất, uất tích trong ṿng không khí, các giống sinh vật thường thụ dụng lấy trong khi hô hấp. Sức ấy lại phát biểu ra bằng điện khí nữa; nó làm cho các cơ thể được phát đạt ra mà sinh ra cái từ khí (force magnétique) chung đúc ở các thần kinh hệ. Trong loài người ta th́ sức ấy là tiêu biểu ở người đàn bà, truyền đi mới sinh ra con cái.

Lưỡng nguyên (dyade) là họp số Một với số Hai, nghĩa là họp hai khí âm dương lại làm một, thành một thể điều ḥa, muốn qui nạp về Nguyên sơ, Lưỡng nguyên là tiêu biểu cho hai cái phương diện vật chất của vô số các bản thể về tinh thần.

Số Ba th́ là vật chất, bản thể nó bao giờ cũng như bao giờ, và nó dùng để cấu tạo ra các thế giới cùng các sinh vật. Nó là cái cơi h́nh sắc ở bên ngoài, sắc mà không, không mà sắc, để làm chỗ nương tựa cho cái sức sinh hoạt, để làm cái đường lối cho các giống xuất hiện ra và tu luyện lấy ḿnh, cũng lại làm cả cái trở lực bề ngoài để cho cái sức thần bí nó hành động ở bên trong. Vật chất đó th́ thay đổi luôn, sinh ra diệt đi luôn, sự sinh tồn của nó không lấy ǵ làm nhất định.

Nói tóm lại th́ duy có cái tinh thần là tự tại và bất diệt mà thôi. Sinh khí th́ thay đổi luôn, tích lũy lại rồi lại tiêu tán đi. C̣n Vật chất th́ sinh sinh diệt diệt vô cùng. Vật chất chẳng qua là tinh lực chung đúc lại, tinh lực chẳng qua là trí tuệ phản chiếu ra, trí tuệ chẳng qua là tinh thần chuyển dịch đi.

Tam nguyên (triade) là họp số Một số Hai và số Ba, tiêu biểu cho sự kết cấu của vạn vật. Đó là cái luật cấu tạo ra cả thế gian. Khắp trong cơi học, về ngành nào cũng nghiệm thấy cái luật đó, trí người phân tích được tới đâu cũng thấy có cả.

Bởi thế nên trong các đạo giáo rất hoàn toàn của loài người, đều có cái quan niệm về "Ba ngôi"  (Trinité), để tiêu biểu cho sự tưởng tượng cùng sự sùng bái thần minh. Bởi v́ cái quan niệm đó mầu nhiệm quá, kẻ phàm phu không thể hiểu được, cho nên phải đặt ra những tên nọ tên kia, diễn ra h́nh tượng, đặt ra truyện tích để cho người ta dễ hiểu.

Các đạo giáo về đời thượng cổ, bề ngoài vẫn là những đạo đa thần mà bề trong chính là độc thần, v́ cái nghĩa mầu nhiệm của nó chính là qui về Nhất nguyên vậy.

Các cổ giáo của Ai cập, của Hi lạp, cho đến đạo Cơ đốc, đạo Phệ đà, đạo Phật đà, cũng đều hàm có cái ư nghĩa đó cả, là nghĩa ba ngôi gồm lại làm một, một ngôi chia ra làm ba.

Số Bốn là tiêu biểu cho cá nhân (individu), gồm cả ba phần trong thể tam nguyên, nghĩa là thu cả sức Tinh thần, sức Sinh hoạt cùng sức Vật chất, biệt lập thành mối riêng để tự do hành động.

Số Bốn tức là h́nh tam giác tứ diện (tétrade), hay là thể tứ nguyên (quaternaire), là gồm cả những nguyên chất cần để lập thành cá nhân. Tứ nguyên là cá nhân thực hiện ra hoàn toàn, cũng như cái h́nh kim tháp là h́nh đệ nhất của kỷ hà học. Bởi vậy nên PYTHAGORE lấy h́nh đó làm biểu tượng cho tạo vật, ngọn tháp là cơi Duy nhất của Thượng đế, ba mặt là Tinh thần (Esprit), Sinh khí (Force vitale), cùng Vật chất (Matière), lại họp lại mà thành một mặt thứ tư nữa ở dưới chân, tức là cái bản thể Duy nhất của cá nhân (Unité individuelle).

Cổ nhân vẽ ra cái h́nh đó là để cho tưởng tượng mà biết rơ bốn cái nguyên thể làm thành ra các giống liên can quan hệ với nhau thế nào. Mặt Tinh thần th́ cai quản cả hai mặt Sinh hoạt cùng Vật chất. Mặt Sinh hoạt th́ đứng giữa một bên Tinh thần chủ động, một bên Vật chất thụ động. Vật chất nhờ có Tinh thần đốc suất, nhờ có Sinh khí chuyển động mới thành ra có cơ thể hoạt động. C̣n mặt thứ tư là mặt Cá nhân làm nền tảng, th́ dung ḥa cả ba phương diện, tức là ba sức mạnh Tinh thần, Sinh hoạt cùng Vật chất, lấy ư thức mà tổng hợp cùng cai quát hết thảy. Như vậy th́ toàn thể là một mà là ba, là ba mà là một, ba là Tinh thần, Sinh khí cùng Vật chất, một là Cá nhân gồm cả ba sức mạnh đó để sử linh vận dụng. Cái bí thuyết về Thượng đế của các đạo giáo đời xưa, cũng cho một đấng chia ra ba ngôi, ba ngôi họp lại một đấng, lấy làm cao thâm mầu nhiệm vô cùng, không dám đọc đến tên mà chỉ vẽ ra h́nh mà thôi. Nhưng đă hiểu cái ngụ ỷ xa xôi như vậy, th́ cũng hiểu cái nghĩa ba ngôi của đạo giáo, mà lại thấu cả các lẽ huyền bí về cách thành lập của thế giới cùng của loài người, cùng sở dĩ làm sao mà trí tuệ người ta hiểu về các lẽ huyền bí đó không được giống nhau.

Người ta cũng như vạn vật là kết cấu theo thể tứ nguyên. Tức là một thể do bản thể Duy nhất phát sinh ra, rồi tự nhận chân ba cái nguyên chất thành lập ra ḿnh mà chủ trương chi phối hết thảy.

Trong người ta th́ số Một là phần Tinh thần, do tự Tạo vật phó dữ cho. Nhờ có phần tinh thần đó mà Thượng  đế h́nh như vẫn ngụ ở mỗi người, tùy phần tinh thần nhiều hay ít mà cái dấu vết của Thượng đế cũng biểu lộ ra nhiều hay ít, sẵn ḷng giúp cho người ta tinh tiến, tùy sự nỗ lực của mỗi người. Tinh thần ở trong người ta là cái chí quyết định, điều ḥa cho công việc riêng của mỗi người, cho đến lúc thần trí chi phối hết thảy, thoát được khỏi sự kinh nghiệm về vật chất.

Số Hai là cái sức sinh hoạt hay sức từ khí (force magnétique) nó ngụ ở trong cơ thể. PYTHAGORE cho cái nguyên lực đó như một cái linh hồn biệt lập, chất nó lỏng, có thể tự kết cấu thành một thể chất khinh thanh làm khuôn mẫu cho các phần vật chất trong thân thể. Cái hồn lưu động đó, khi thân thể chết rồi nó vẫn c̣n, dùng làm cái xe chở cho tinh thần trong khi chuyển biến từ kiếp nọ sang kiếp kia. Nó là cái sức mạnh vô h́nh để làm môi giới tất yếu cho vật chất với tinh thần, cho h́nh thể với trí tuệ. Nó là nơi chiến trường của tinh thần với vật chất xung đột nhau, tinh thần th́ muốn tiến lên cho tới cơi Thượng đế, vật chất th́ lại muốn giữ lại cho không bồng bột lên được, đợi cho cái công tinh tiến được hoàn toàn. Chính cái sức mạnh đó làm chủ động cho cơ thể, và phép y học thường dùng để điều trị bệnh tật, bảo tồn sức khỏe. Chính nó là bảo thủ cho cái qui mô chi phối cho thân thể cùng các bản năng trong thân thể. Nó củ tập các tinh lực trong người, điều ḥa các chức vụ trong thân thể, để giữ lấy sức khỏe, chống với bệnh tật, khi bệnh phát ra, có thể tự nhiên điều trị cho khỏi được. Phép y học cũ theo thuyết tự nhiên, vẫn biết lợi dụng cái sức mạnh đó, mỗi lần tật bệnh nhóm lên, th́ tất thấy nó gắng gỏi pḥng bị, bấy giờ không nên ngăn trở, cứ để cho tự nhiên hành động, không cách trị bệnh nào thần diệu bằng.

Những sức mạnh nó dùng để chống với tật bệnh đó, tức là cái sức trừ bị tự tiên thiên, như cái vốn sinh hoạt của người ta đă tiếp thụ được từ ông cha, từ ṇi giống. Cái vốn đó trong một đời tiêu dùng đi hoặc nhiều hoặc ít, mỗi lần tái sinh th́ lại thay đổi hẳn. Lại hằng ngày hấp thụ trong không khí, trong ánh sáng mặt trời, trong nước cùng các đồ ăn thiên nhiên, cũng tiếp bổ luôn cho cái sức sinh hoạt đó.

Số Ba th́ là phần vật chất trong thân thể. Phần này không phải của tự người ta, v́ là thay đổi luôn bằng cách bổ dưỡng, bằng sự hấp thụ cùng bài tiết các chất. Những chất trong cơ thể người ta cách mấy tháng th́ đổi mới hết không c̣n ǵ nữa. Người đời chỉ biết có thân thể ḿnh, tưởng thân thể là cái chân tướng độc nhất vô nhị, không biết rằng chẳng qua là cái biểu tượng bề ngoài đó mà thôi, bên trong mới thật là có cái sức sinh hoạt cùng cái sức tinh thần của người ta hành động.

Nay đến số Bốn là cá nhân lấy ư thức mà nhận chân cái bản thể của ḿnh, cai quát tổng hợp cả các sức mạnh tinh thần, sinh hoạt cùng vật chất, mà điều ḥa hết thảy trong cơi ư thức (conscience). Cá nhân được tự do khuynh hướng, tự do thí nghiệm mà tự ḿnh gây dựng ra nhân cách của ḿnh, thành ra tinh chất mỗi người khác nhau, tính t́nh khác, trí tuệ khác, tâm tư khác. Nói tóm lại, người ta khác nhau là bởi cái ư thức của cá nhân tự do phát đạt cả. Bởi đó nên người ta cùng một cỗi rễ mà ra, cùng kết cấu theo một kiểu mẫu, cùng khuynh hướng về một mục đích, mà mỗi người một khác, không ai giống ai cả.

Lại những nguyên chất làm thành ra tâm lư người ta cũng có thể hành động với nhau mà tạo thành ra những trạng thái khác nhau. Tỉ như phần tinh thần mà phát đạt, th́ người ta sáng suốt khôn ngoan, biết trực giác mà hiểu các lẽ, biết trác kiến mà trông xa xôi, có khi siêu việt mà đoán được những lẽ mầu nhiệm. Nếu là cái sức sinh hoạt thịnh mà lấn đoạt cả, th́ cách cử động của người ta toàn là sự phản động của bản năng cả, công việc làm là ở chỗ vô ư thức mà ra, khác nào như có cái sức mạnh nó thúc giục phải làm mà ḿnh không tự chủ được. Có khi sự biệt lập đó mạnh cho đến nỗi trong nhân cách h́nh như phân đôi ra, một phần hành động mà một phần như đứng bàng quan.

Người ta là một thể Tam nguyên (Triade), bao hàm trong một thể Nhất nguyên (Unité), thành ra một thể Tứ nguyên (Tetrade), điều đó cứ nghiệm ngay trong thân thể người cũng đủ biết.

Thân thể người có ba phần đặc biệt: đầu, ngực và bụng. Đầu là nơi ở của thần trí, là chỗ sinh hoạt bằng trí tuệ, bằng ư chí, để làm chủ động cho cả người. Ngực là nơi trung tâm của sức sinh hoạt, do quả tim truyền máu trong thân thể, do buồng phổi hô hấp khí trời để truyền vào máu, do hai tay để khuếch trương cho sự vận động của quả tim cùng buồng phổi. Bụng là phần vật chất tiếp nhận lấy đồ ăn, tiêu hóa nó để bồi bổ cho h́nh thể người, lại có hai chân vận động để giúp cho sự tiêu hóa.

Ba phần đó là tiêu biểu cho ba cái sức mạnh cốt yếu của người ta, gồm lại thành một cơ thể hoàn toàn, tức là phần thứ tư chi phối cả các cơ quan trong người, điều ḥa hết thảy, để khuynh hướng theo về một mục đích chung.

Lại trong một cái mặt người cũng theo một cái qui mô ba phần đó: Tầng trên là tầng trí năo, gồm cái trán và hai con mắt, tàng giữa là sinh hoạt hô hấp, gồm hai g̣ má và cái mũi, tầng dưới là vật chất thụ động, gồm hai hàm răng và cái miệng.

Cho chí đến tứ chi người ta cũng theo một qui mô đó : phần thứ nhất là đùi hay cánh tay trên, là phần chủ động; phần thứ nh́ là ống chân hay cánh tay dưới, là phần truyền động; phần thứ ba là bàn chân hay bàn tay, là phần thụ động.

Nói tóm lại th́ xét về phương diện thai sinh, về phương diện giải phẫu, hay là phương diện sinh lư, đều thấy một cái qui mô tổ chúc như thế cả.

Vậy th́ cái thuyết Tứ nguyên chứng rơ rằng người ta phân tích ra th́ có ba phần mà tồng hợp lại chỉ là một, có thể cho là một cái thuyết cốt yếu cho khoa học cách trí. Không có cái thuyết này làm chủ th́ phàm nghiên cứu về cỗi rễ, về các luật pháp sinh hoạt cùng đạo đức, về mục đích cứu cánh của loài người, không thể không sai lầm được. Về đời thượng cổ, những người đă nhập diệu được các phép bí truyền, đều hiểu rằng bản chất của người ta là có ba phần. Hồi đạo Cơ đốc mới thành lập, cái quan niệm về Tam nguyên đó cũng chưa mất hẳn, xem như Thánh Bảo lộc (Saint Paul) phân biệt ra trong người ta có ba phần: hồn, phách và thể (spiritus, anima, corpus), th́ đủ biết.

Ngày nay cái thuyết duy vật thịnh hành, cho rằng chỉ có h́nh thể là thực có mà thôi, chỉ nên chăm chút đến cái thể chất của người ta, đến cách sinh hoạt về phần vật chất mà thôi, không biết rằng trong người c̣n có một cái sinh khí nó chủ trương, c̣n có một cái tinh thần nó chi phối nữa, như thế th́ sai lầm biết dường nào.

Lại cái thuyết duy tâm cho rằng chỉ có phần tinh thần là trọng, không biết rằng c̣n phải có cái sinh khí để làm môi giới vô h́nh cho vật chất với tinh thần, th́ không biết làm thế nào mà giải được cái lư do nó khiến cho tinh thần ảnh hưởng đến vật chất vậy.

Các thuyết đó đều có khuyết điểm cả, v́ cái thói quen của người ta phàm quan sát về ḿnh cùng về thế giới bên ngoài, đều có ư thiên mà độc đoán về một phương diện. Thành ra ư kiến thiên lệch, chỉ biết khuynh hướng về một đường. Không phải là sai lầm hẳn, chỉ là không được hoàn toàn mà thôi. Lấy cái h́nh kim tháp làm biểu tượng, th́ ba mặt cũng ví như ba cái cửa để cho cái bản ngă của người la đứng giữa nh́n được ra cơi thế giới bên ngoài và thu lấy cái ánh sáng của ngoại giới để tự quan sát lấy ḿnh. Vậy th́ nếu chỉ nh́n bằng cái cửa Vật chất mà thôi, th́ chỉ trông thấy cơi vật chất và đem một cái thuyết duy vật thô bỉ để giải thích về thế giới cùng bản thân ḿnh. Nếu lại chỉ quay về cái cửa Thần trí mà thôi, th́ cho vật chất là hư không, không biết rằng cái bản năng của người ta là do ở vật chất mà ra, và tiện thị cho ngoại giới là mộng ảo cả. Nay nếu lại chỉ trông qua cái cửa Sinh hoạt mà thôi, th́ bấy giờ phó mặc cho cái sinh khí nó sai khiến, để cho cái vật dục nó chủ trương ḿnh, và chỉ biết sống theo cái đời con động vật mà thôi.

Ấy là thí dụ như vậy, chứ ít khi người ta chỉ nh́n bằng một cái cửa mà thôi, hai cái cửa kia thế nào nó cũng lọt qua ánh sáng vào ít nhiều; tuy nhiên những người thật là sáng suốt, hiểu biết rằng bản chất của ḿnh có ba phần, mà biết tổng hợp điều ḥa được hết thảy, lấy cái bản ngă của ḿnh mà chủ trương thống nhiếp, th́ thật là ít lắm.

Song dù người ta chỉ thiên mà theo miết về một đường, rồi sớm trưa cũng tỉnh ngộ ra mà biết được trong vũ trụ có một cái sức chi phối độc nhất; nếu thuộc về phái Duy sinh (Vitalistes) th́ gọi cái sức đó là Tạo vật (Nature), thuộc về phải Duy vật (Matérialistes) th́ gọi là Tinh lực (Energie) hay là Ngẫu nhiên (Hasard), nếu mà thuộc về phái Duy tâm (Spiritualistes) th́ gọi là Thượng đế (Dieu) hay là tên ǵ khác đó. V́ rằng dù theo đường lối nào, chung qui cũng là tới một chỗ tuyệt đỉnh là cái thể Duy nhất (Unité) sáng tạo ra hết thảy. Lạ thay là trông thấy các phái triết học, khoa học, tôn giáo, thảo luận nhau hoài, tranh dành nhau một cách kịch liệt, có khi đến lưu huyết, để cho cái danh hiệu riêng của ḿnh được thắng, không biết rằng dù phái nào cũng vậy, ở ngay trong phạm vi của ḿnh đă đạt tới cái tôn chỉ độc nhất rồi, duy chỉ nên cai quát cả mà h́nh dung cho trọn vẹn mà thôi.

Nhất là về y học, lại càng cần phải cai quát thống nhất như vậy. Các thuyết Duy sinh, Duy tâm, Duy vật, thuyết nọ cách biệt với thuyết kia, thuyết nào khư khư trong phạm vi thuyết nấy. Thế là mới làm trọn cái công phu phân tích mà thôi. Nay chỉ phải hiệp lực nhau lại là cai quát được cả toàn thể người ta mà tổ chức được khoa y học tôn giáo (médecine religieuse) về sau này. Phép điều trị bây giờ, không phải là chỉ cần lấy cái hiệu lực về vật chất để phương hại đến các công việc của thần trí cùng của sinh khí, nhưng biết giữ cho thần trí cùng sinh lực được điều ḥa, tùy cái tạng của mỗi người mà điều trị; trong bốn phần cốt yếu cho việc sinh hoạt, là tư tưởng, hô hấp, bổ dưỡng và vận động, có người thiên về đường nọ, có người thiên về đường kia, thành ra tạng người khác nhau, cách trị bệnh cũng phải tùy theo mà châm chước.

Nói tóm lại th́ cái thể tứ nguyên (quaternaire), tức diễn ra h́nh tam giác tứ diện (tétrade), không những là cái th́a khóa để mở cho ta biết cái kho bí tàng của loài người, mà lại giải rơ cho ta hiểu rằng người ta cũng tổ chức theo một khuôn mẫu như vũ trụ, như Thượng đế, người ta chính là một cái tiểu vũ trụ (microcosme), v́ cũng là gồm ba ngôi lại làm một thể vậy. Có hiểu như thế th́ mới biết lời cách ngôn của cổ nhân là thâm trầm; cổ nhân dạy rằng :  Nên biết ḿnh trước, rồi sẽ biết vũ trụ cùng thần minh.

Cầu nguyện. Nhưng khi khởi công tu luyện, phải nên cầu nguyện thần minh luôn, để người giúp cho làm được trọn vẹn. Để mặc cho một ḿnh th́ người ta dù có chí nữa cũng khó ḷng mà tiến lên được. Cần phải có ai khuyên bảo và làm mẫu mực cho bắt chước. Nếu không cầu đến nơi nguồn gốc của đời ḿnh, nếu quên cái mục đích đă ấn định cho ḿnh rồi, th́ chỉ có thể sống một các bần tiện mà thôi. Nhưng nếu biết khéo dùng cái dây liên lạc của ḿnh với đấng tạo hóa cùng các cơi đời cao thượng hơn, để lấy sức mạnh, để chịu cảm ứng cho được tấn tới, th́ thấy nhân cách ḿnh tốt đẹp nẩy nở ra mau lắm.

Sự cầu nguyện chính là cái đường cảm thông với thần minh, để cho cái chí tinh tiến của ta đạt tới Thượng đế và sự cảm dụ của Thượng đế suốt được đến ta. Bởi thế nên sự cầu nguyện chính là một cách tu luyện phổ thông trong cả các đạo giáo.

Tuy nhiên, sự cảm ứng của thần minh đó không có ngăn trở luật thiên nhiên của vũ trụ, cũng không trở ngại ǵ đến sự tự do cùng cái công nghiệp riêng của mọi người. Thần minh chỉ tiếp xúc cho người, chỉ đường cho đi mà thôi; c̣n sự quyết định, c̣n cái công phu phải làm, c̣n cái kết quả tinh tiến, th́ vẫn thuộc về người ta. Vậy th́ cái công tu luyện riêng vẫn là hoàn toàn. V́ rằng nếu đời ḿnh không được trong sạch, nếu thân thể cùng tinh thần không đủ sức cảm động, không đủ sức hấp thụ về đường đạo lư, th́ sự cầu nguyện cũng là vô ích. Nếu ḷng ḿnh không quả quyết sống theo Thiên lư, th́ chẳng nên cầu nguyện làm ǵ. Người cầu nguyện là người không xứng đáng, th́ lời cầu nguyện tất không có hưởng ứng. Cầu nguyện như vậy chẳng qua là kêu trong quăng không hay là làm một sự mê tín mà thôi.

Như vậy th́ cầu nguyện là phải đem cả tâm hồn ḿnh để vào trong lời cầu nguyện, phải biết rơ cái thân phận ḿnh là hèn mọn nhỏ nhen đối với oai quyền của Thượng đế, đem ḷng cảm ơn vô cùng, không những cảm ơn những sự tốt lành đă được hưởng mà nhiều khi không biết ơn, lại cảm ơn cả sự đau đớn phải chịu nữa, v́ sự tốt lành là cái phần thưởng cho ḿnh, mà sự đau đớn cũng là cách cảnh cáo cùng cái phương tiện để tu tiến cho ḿnh và hai đàng cùng là cái biểu tượng của sự trật tự cùng ḷng thương yêu của Thượng đế vậy.

Cầu nguyện lại phải đem hết lương tâm vào đấy nữa, xin Thượng đế gia ơn cho là cốt để chia đều cho kẻ đồng loại ḿnh, trong ḷng bỏ cả mọi sự ghen ghét oán phẫn với kẻ khác. V́ tiếp nhận được ơn trên, không phải là để chứa chất vào đấy mà không hành động ǵ đâu, phải phấn khởi mănh tiến, truyền cho kẻ tốt, dậy cho kẻ xấu mới được.

Sự cầu nguyện phải có thiết tha thâm trầm th́ mới có hiệu lực mạnh. Chỉ cầu nguyện trong hai phút mà để cả tinh thần nghị lực vào ư nghĩa từng câu từng chữ, c̣n hơn là đọc những bài dài lẩm bẩm trong hàng giờ, mà thần trí mơ màng những đâu đâu.

Vậy giá trị của sự cầu nguyện là cốt ở cái tư tưởng mạnh mẽ của người khởi tâm cầu nguyện, cho nên những câu cầu nguyện mà cứ đọc như câu thường th́ không có công hiệu ǵ nữa. Vả lại những câu làm sẵn (trừ bài Pater, bài Ave Maria, cùng mấy câu kinh kệ cổ không kể), chỉ dùng cho kẻ công chúng chưa hiểu đạo lư mà thôi. Người đạt nhân đă biết mùi đạo lư, th́ lời cầu nguyện phải tự ḿnh nghĩ ra, tức tịch ứng ra, v́ sự nguyện vọng của ḿnh cao hơn kẻ b́nh thường.

Vả lại sự cầu nguyện có thường thường luôn luôn th́ mới có công hiệu. Thượng đế đă rắp định thế nào th́ phải thành như vậy. Duy có Người là biết lời cầu nguyện của ta có đáng chuẩn y hay không, và lúc nào là đáng chuẩn y, để cho có thể hưởng được ơn huệ của Người. Trong thế gian, phàm sự tiến bộ chân chính vững vàng, bao giờ cũng là cái công của ngày giờ cùng ḷng kiên nhẫn cả. Cái ǵ được mau quá là hăo huyền và dễ hủy hoại hết.

Sự cầu nguyện cho được hoàn toàn kết quả th́ tất phải thong thả trong ḷng mà phó thác hẳn cho Thượng đế, đem ḷng tín ngưỡng tuyệt đối, tin rằng người ta dù sai lầm tội lỗi cũng không bị Thượng đế ruồng bỏ bao giờ, miễn là phải quyết chí rằng từ nay tu tỉnh lại và thuận theo phép tắc của Thượng đế cùng của thiên nhiên. Phàm cầu nguyện là phải chắc rằng hễ cái ǵ cầu nguyện hợp với lẽ tiến hóa của ta là thế nào cũng được.

Nhưng muốn vậy thời cầu nguyện phải cho sáng suốt, đừng cầu cái không thể được, cái không thể có hay cái tức khắc mà được ngay. Như cầu làm việc ǵ cũng được, mưu lợi ǵ cũng thành, không phải đau khổ chi hết, th́ trẻ con quá. Kiếp trước là thế nào, nợ nần ta bao nhiêu, sức tinh tiến của ta được nhường nào, là c̣n mơ hồ chưa biết, th́ làm sao mà có thể tự phụ định được con đường tiến hóa mau hay chóng cùng cái phương tiện tiến hóa những thế nào. Phải để cho Thượng đế chủ trương cái vận mệnh ta, và phải biết rằng có khi sự đau đớn trắc trở lại ích lợi cho đường tinh tiến hơn là sự yên tĩnh ḥa vui. Người ta có biết khắc kỷ mới là người mạnh. Người ta có gặp trắc trở mới có thể tấn tới. Nhiều khi tưởng cầu lấy cái đại phúc mà lại gặp phải cái đại họa.

Chính PYTHAGORE nói trong câu cách ngôn rằng: « Trong lời cầu nguyện, đừng có xin ǵ, v́ tự ḿnh không biết cái ǵ là hay cho ḿnh, chỉ có Thần minh mới biết được thôi ». Như vậy th́ không ǵ bằng chỉ tỏ ḷng kính ái, hướng nguyện về Thượng đế, tỏ ư muốn tu luyện, muốn xin chỉ dẫn cho con đường phương tiện, không quản rằng con đường ấy sẽ bị trắc trở hay sẽ được hanh thông. Vậy thời sự cầu nguyện chân chính là nhất thiết phải làm bổn phận ḿnh, chỉ cầu Trời phù trợ, và dù gập sao cũng tin vui mà nhận cả.

Những buổi cầu nguyện tốt nhất là buổi sớm và buổi chiều. Ngay lúc ngủ dậy, phải định ư chí, nghĩ đến cái mục đích tối cao của đời người, nó thường phảng phất ở trong những công việc tần phiền trong một ngày. Trước khi đi ngủ thời lại nên cảm ơn Thượng đế đă giúp cho ta chống được những sự cám dỗ không hay của ngoại cảnh và cầu Người phù trợ cho ta để tu tỉnh về sau này. Cầu nguyện phải trong khi một ḿnh yên tĩnh, tịch mịch êm đềm. Phải thân thể thư nhàn, thái độ thích hợp, và phải cố gây lấy trong ḿnh một mối cảm động mạnh mẽ, để cho thần khí ứng nhập vào ḿnh.

Mấy người cùng nhau đồng tâm đồng chí mà cầu nguyện th́ lại càng hay lắm, v́ như lời Đức Gia tô đă nói : « Chỗ nào có hai ba kẻ v́ danh ta mà họp lại, thời tất có ta trong bọn đó »

Muốn cầu nguyện chỗ nào cũng được, v́ Thượng đế vừa ở trong người ta, vừa ở cả khắp chung quanh ta, nhưng nếu được một nơi thánh thất yên tĩnh th́ sự cầu nguyện lại càng được khẩn thiết và càng có hiệu lực hơn. Vả lại cầu Thượng đế không phải cầu bằng thần trí mà thôi, lại phải đọc lên thành câu nữa. Rung động lên tiếng thời tựa hồ như biến hóa tư tưởng thành sự thực vậy. Làm cho cái sức phát hành, cái sức thực hiện của tư tưởng mạnh thêm lên.

Sau nữa, không những nên cầu nguyện buổi sớm buổi chiều mà thôi, lại mỗi khi khởi hành một việc ǵ quan trọng cũng cần phải nâng cao tư tưởng lên Thượng đế, để khỏi tạo thành sự nghiệp hư không, hăo huyền, hay sai suyễn. Phàm muốn làm nên công nghiệp ích lợi, chân chính, có hiệu quả lương thiện, thời bao giờ trong trí cũng phải có cái tư tưởng cầu lấy hoàn toàn, lấy tinh tiến, cùng làm trọn nghĩa vụ, và cái công phu của ḿnh xuất ra phải tiếp với cái nguồn thiêng liêng là nơi Thượng đế. Bấy giờ thời nhất thiết là lời cầu nguyện cả, v́ là cái dịp để ám nhiên cầu nguyện cả. Phàm các công việc làm bằng chân tay, việc ăn uống, việc cử động, việc thần trí, việc tạo tác về mĩ thuật, đều là thiết tha mà làm và làm được hoàn toàn cả, và cuộc đời sẽ là một cuộc hưng khởi luôn luôn. Phàm sự nghiệp người ta mà khởi hành không có cầu nguyện cùng tư tưởng đến Thượng đế là khuyết điểm sai lầm hết cà, và không chống lại được cái sức của thời giờ. Duy có những công nghiệp có cái dấu vết ḷng tín ngưỡng Thượng đế và có cái sức mầu nhiệm tán trợ cho, thời mới có thể trở nên công tŕnh to tát, có ích lợi cho người đời và có tính cách bất hủ được.

Giác ngộ.  Khi đă hiểu rơ được các điều răn dạy đây.
 Cái học bí truyền của phái PYTHAGORE là chi dạy cho những kẻ đă hiểu biết và đă thực hành được những phép sinh hoạt kiện toàn, vừa về thể chất, vừa về tinh thần. Và lại ở các nơi đạo viện đời cổ, cái chân lư hoàn toàn chỉ mật truyền cho một số ít người lỗi lạc mà thôi. Trước hết, trong mấy mươi năm phải học cho thật rộng đă, thiệp liệp các khoa vật lư, kỷ hà, bác vật, thiên văn, y học, vạn vật hồi sinh (palingénésie universelle). Rồi cái công tinh tiến phải là sự nghiệp riêng của mỗi người, phải tự ḿnh dần dần khải phát cái thần trí thiêng liêng ở trong người, bấy giờ muốn cho được giác ngộ thời phải trầm tư mặc tưởng một ḿnh, phải nghiên tinh đàn tứ, suy xét về cái nghĩa bí mật của các thần minh cùng các số mục, nghĩa này nó khác với cái nghĩa ngoại truyền đặt ra dễ dàng để cho công chúng hiểu được. Các điều đó đă nghiền ngẫm rồi, lại phải xét xem đă thật dung hóa được chưa và đă hẳn có kết quả chưa. Bấy giờ mới bày ra các phép thử rất khó khăn nguy hiểm, thử về thân thể, thử về tinh thần, ở trong các đạo viện dùng đủ các cách làm cho người ta ghê sợ, nhọc nhằn, cám dỗ. Nếu qua được các phép thử đó rồi mà được an toàn thắng đoạt cả, nghĩa là đă tỏ ra có tài trí cao thâm, có chí nguyện cương quyết, thời mới dần dần truyền cho các lẽ mầu nhiệm về nguyên thể vũ trụ, về các điều bí quyết cùng về phép tuần hoàn của vạn vật quanh đi một ṿng rồi lại trở về Bản nguyên.

Nhưng trước c̣n phải thề nguyên trịnh trọng để giữ lấy trung thành và cẩn mật đă. Phải dạy cho biết rằng nếu bất cẩn mà tiết lộ ra sự ǵ thời bao nhiêu phép màu sẽ tiêu tán mất cả và tự ḿnh phải chịu những sự tai ương. V́ rằng cái chân lư hoàn toàn, mà kẻ đem bày tỏ không cẩn thận, người muốn thi hành không tư cách, tất thành ra sai lạc đi, không ai hiểu nữa, mà đến nguy hiểm cũng có. Cái sức mạnh của thần trí mà tuyên tiết ra thời sẽ sụt kém đi liền, cũng như sức khỏe mà phô ra thời yếu đi, hạnh phúc mà khoe khoang thời nhụt đi, sự khôn ngoan mà khoa đại thời không phải là chân chính, v́ phàm những của quí đó là của tin cả, hễ đă phô trương thời không xứng đáng nữa, có khiêm nhượng, kín đáo, ẩn độn, yên tĩnh thời mới giữ được những của báu đó.

Ngày nay những nơi đạo viện để tu luyện cho người ta được giác ngộ không có nữa, thời kẻ triết nhân là tự ḿnh giác ngộ lấy. Trước nhất bị tiếp xúc với những sự xấu xa ô uế ở đời này mà phải tự t́m lấy cách ăn ở cho an toàn trong sạch, nhân đó mà cái thức lượng, cái trác kiến của ḿnh cũng bắt đầu này nở ra. Rồi đến khi tâm trí đă luyện rồi, thế nào cũng gặp được một người cảnh tỉnh cho, hoặc là nghe người ta nói, hoặc là đọc sách người ta, mà sẽ hiểu được những lẽ màu nhiệm về đạo bí truyền. Bấy giờ thời chỉ đem đối chiếu các giáo lư đại đồng đó với những vật lư của khoa học đời nay về vũ trụ duy nhất, về thiên diễn biến hóa, về nhân tính phức tạp (như những thuyết thôi miên, thuyết từ khí). Cái ánh sáng đạo lư sẽ chiếu diệu vào ḿnh. Tôn giáo với khoa học bấy giờ sẽ nhất khái tổng hợp cả, mà tự nhiên đưa đến cơi Đạo lư hoàn toàn. Ấy cái thủ tục của con đường giác ngộ đời nay nó thường thường như vậy. Cũng cần phải tâm địa vững vàng lắm mới được, v́ đường dài mà cũng nguy hiểm. Chỉ những kẻ trác lạc mới có thể trèo lên đỉnh núi sáng sủa được.

Thời sẽ quan niệm được cả bản thể của thần nhân cùng của vạn vật.
 Ở đạo viện PYTHAGORE, khi các cách thử đă qua được thanh thỏa cả, thời bấy giờ mới dạy cho biết, giảng cho nghe về cái thể tứ diện trong vũ trụ (plan tétradique universel), lấy đó làm căn cứ cho cả khoa học Bí truyền. Thượng đế, vũ trụ, người ta, các sinh thể cùng cả vạn vật, thẩy thẩy đều đem ra phân tích, mà đâu đâu cũng thấy bấy nhiêu nguyên tố về vật chất, về sinh khí, về tinh thần kết hợp lại mà thành ra, duy chỉ có cái tŕnh độ phát đạt là hơn kém nhau mà thôi. Trí tuệ mà tới được cái bậc cai quát cao ха rộng răi như vậy, thời tất là đă phải luyện tập lâu dài, và phải hoàn toàn tự chủ mới được.

Vậy thời mục đích của PYTHAGORE là dạy cho người ta biết cái nghĩa học tổng quát, khiến cho cái chân lư nó thấu vào ở từng chỗ phân tích vụn vặt vậy. V́ rằng phàm khoa học nào chỉ nghiên cứu về một phương diện sự vật, hay xét về một thể một vật mà không xét đến căn nguyên, đến bản chất, đến các mối quan hệ hiện tại, đến cái mục đích cứu cánh, thời tất là rời rạc, sai lầm. Nghiên cứu như vậy, không có ư tưởng chung, thời chỉ là tích lũy những việc rời rạc, không có ư nghĩa, không có liên lạc, và suy ra sự thực đến sai lầm và nguy hiểm. Chính Platon là học tṛ của PYTHAGORE đă tóm tắt lẽ đó bằng một câu rằng: Chỉ có lẽ chung mới thành khoa học.

Vậy thời không có cái phép tắc nhỏ nào là không qui nạp vào trong một phép tấc lớn được, không có một việc nhỏ nào là không sáp nhập vào trong cái trật tự chung, v́ hết thảy trong vũ trụ là kết cấu theo một qui mô cả, cùng ở một Tư tưởng mà ra, cùng về một nơi tồng hợp hết.

Số mục, tiến bộ, trật tự, điều ḥa, đó là phép tắc của vũ trụ; tiến hóa, ấy là phép tắc của sự sống, và duy nhất ấy là phép tắc của Thượng đế.

Rồi sẽ thấu được cái lẽ duy nhất nó chủ trương trong cuộc thiên diễn. Bấy giờ mới biết cái luật lớn trong vũ trụ, là khắp trong thế gian đâu đâu cũng vậy, vật chất với tinh thần là đồng thể với nhau cả.


Đến lúc ấy th́ cái học của phái PYTHAGORE là đến cực điểm, đến mục đích: là quan niệm được, thấu hiểu được và biết thờ lẽ Duy nhất.

Duy nhất là cái duy có một ḿnh, là cái Tư tưởng thiêng liêng, là người cha chung hay cái Tinh thần lớn phát sinh ra hết thảy, phát biểu cho hết thảy, làm cho hết thảy được sinh hoạt tiến hóa, và là nơi cứu cánh cho hết thảy qui nạp vào đó. Tức là cái Bản thể tuyệt đối, đại đồng, độc nhất, không sinh xuất ra h́nh thể mà bao hàm tất cả vũ trụ, làm nguyên nhân, làm động cơ, làm khí cụ, làm mục đích cho hết thảy. Nói tóm lại tức là Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ, vũ trụ này không phải là Thượng đế, chỉ là cái h́nh ảnh của Ngài phát biểu ra, để xuất hiện cho người ta biết, ở trong không gian và trong thời gian.

Nhân cái quan niệm về Thượng đế duy nhất đó, dùng cái sức thần thông mà bao quát cả toàn thể vũ trụ vô cùng, thời cũng dễ hiểu được cái lẽ vạn vật duy nhất, căn nguyên, qui củ, sinh hoạt, tiến hóa cùng mục đích đều duy nhất cả. Từ cái phần tử rất bé nhỏ, cho đến các tinh tú trên bầu trời, cả cái qui mô vật chất trong vũ trụ là chỉ nhờ một cái tinh thần làm chủ trương mà sinh tồn được, chỉ nhờ một cái sinh khí duy nhất mà hoạt động được, sinh khí này tuy tŕnh độ có khác nhau mà bản chất cũng là một, chỉ nhờ có một cái sức phấn khởi lúc đầu mà tiến hóa được, chỉ nhờ có cái sức thống nhất của Bản nguyên sáng tạo mà được có tính cách duy nhất.

Khởi tự cái bản nguyên duy nhất, rồi tinh thần mới biến hóa ra sinh hoạt, ra vật chất, phát đạt ra các h́nh, các thể, thay h́nh đổi dạng luôn, càng tiến lên sức mạnh càng rộng ra, thể cách càng tự do và càng phiền phức, gồm cả những nguyên chất đă trải qua và tổng hợp hết thẩy, cho đến lúc thi hành được hết cả các cách huấn luyện, tích lũy được hết cả các sự kinh nghiệm, thu hoạch được hết cả các sự kết quả, rồi cứu cánh thời nghiễm nhiên đủ tính cách hợp nhất được với Bản nguyên.

Đến cùng tận rồi, thời thực thể (l'être) bây giờ cũng giống như một con số trọn vẹn, như số Mười (Décade), là bao gồm hết cả các số ở dưới.

Cái sức chủ trương độc nhất, cái sức sinh hoạt có một, cùng cái vật chất duy nhất đó, vẫn có trong vạn vật ở địa cầu này, làm cho vạn vật đều có nguyên nhân, có qui củ, có khuynh hướng, có mục đích duy nhất cũng như toàn thể vũ trụ vậy. Vậy thời các biểu tượng về khoáng vật, về thực vật, về động vật, về nhân loại ở địa cầu này chẳng qua là h́nh tượng riêng về một bộ phận của cái bản nguyên đại đồng duy nhất, nó tŕnh bày ra trên cái thang vạn vật, càng ngày càng tiến lên cơi ư thức, càng rộng thêm ra, rồi cùng tột là đến cái ư thức hoàn toàn độc nhất.

Nói tóm lại thời sinh hoạt là một cuộc tiến hóa, có tŕnh độ cao thấp, v́ các giống, các loài, các vật, không phải là đồng thời cùng tấn tới như nhau. Mà cái động cơ làm cho thay đổi, cho tấn tới, chính là những cái sức tinh thần ở bên trong, nó tiếp xúc với những sự vật cùng ảnh hưởng bên ngoài mà thuần thục cùng tỏ rạng ra. Cái hoàn cảnh ở bên trong, cái sức mạnh của mỗi vật, không phải là thuần thụ động hay thuần phản động mà thôi, chính là hoạt động và tự động vậy. Nghĩa là sự tiến bộ không phải là công của cái ngẫu nhiên, hay là những cơ hội của hoàn cảnh bên ngoài, nhưng chính là công của cái sức tinh thần, sức sinh hoạt, sức vật chất, tổng hợp lại ở trong cái tiểu bản nguyên của mỗi vật.

Và cái luật lớn về lẽ duy nhất sáng tạo, là lẽ tự nhiên, thuộc về bản lai cùng thuộc về cứu cánh, ngay trong cơi thuần vật chất cũng thấy hiển nhiên như vậy. Khoa học đời này đă phát minh ra rằng trong cái thế giới những nguyên tử (atomes) rất nhỏ, các phần tử ấy cũng quay tít chung quanh những phần tử khác như địa cầu quay chung quanh mặt trời vậy. Khoa học lại chứng rơ rằng vật chất là có một, và trong vật chất có cái sức ngầm rất mạnh, thu vào trong những dung tích rất nhỏ. Trong vật chất, không ǵ là mất đi, hết thảy là biến hóa cả và rút lại thu về một cái sức mạnh độc nhất, là cái nguyên lực ở trong nguyên tử (énergie intra atomique), là cái nguyên khí, cái "thái hư" (ether), là nơi cùng tận mà khí lực tiêu ma đi, vật chất giải tán đi rồi qui nạp về đó cả. Qua các h́nh tượng khoáng vật, thực vật, động vật, nhân loại, hết thảy đều chuyển động, sinh hoạt, tiến hóa cả.

Người ta là gồm cả các nguyên tính sinh hoạt của khoáng vật, thực vật cùng động vật. Người ta đă qua cả các tŕnh độ của các giống động vật, cứ xem như cái thai của người từ lúc mới sinh cho đến lúc thành h́nh là trải qua cả các h́nh dạng động vật từ xưa đến bây giờ, lại cũng có khi sinh ra quái h́nh mà trở lại đời trước, th́ đủ rơ lắm. Lại như khoa lịch sử về thời đại khuyết sử chứng nghiệm từ người thượng cổ cái sọ như sọ giống vật, cho đến người đời nay thân thể điều ḥa, th́ cũng đủ biết sự tiến hóa của loài người là rō ràng lắm.

Vậy thời khoa học đời nay thực chỉ là làm cho vững thêm những cái quan niệm về vũ trụ, về tôn giáo của các bậc tiền  triết đời cổ. Cái sự nghiệp tổng hợp để điều ḥa cả các công phu, các học thuyết, các tôn giáo cổ kim có thể làm được từ ngày nay vậy.

Lẽ vạn vật duy nhất về bản thể, về tiến hóa, về mục đích, lại tạo thành ra hai cái phép tắc như sau: một là phép vạn vật tương quan, hai là phép vạn vật đồng thể.

Vạn vật tương quan tức là tương thân, gồm cả muôn vật theo cùng một cái tư tưởng bản lai, cùng một cái khuynh hướng vô cùng, cứ nghiệm xem ngay các vật cùng thuộc một chủng một loại với nhau, có mật thiết quan hệ với nhau th́ đủ biết. Tỉ như loài người, nếu không có sức nóng của mặt trời, nếu không có các loài khoáng vật, các giống vi khuẩn, các thực vật cùng động vật biến hóa cái sức mạnh của mặt trời cùng của địa cầu, thời loài người không thể nào sống được. Chất ăn mà không có sinh khí, không có biến hóa, không khí, đất cùng nước mà không có lọc cho trong sạch, thời không thể nào giúp cho sự sinh hoạt được.

Trong vạn vật, từ giống rất nhỏ cho đến giống rất lớn, hết thẩy đều có liên lạc với nhau, và mỗi phần tử trong đoàn thể làm việc cho ḿnh tức là làm việc cho cả toàn thể vậy. Trong vũ trụ mỗi cái tinh cầu có biến động ǵ thời lan sang cả các tinh cầu khác. Trong nhân loại cũng không có người nào, không có nước nào là không cần đến các người các nước khác. Mỗi người làm một việc ǵ là có ảnh hưởng đến cả nhà ḿnh, cả giống ḿnh, cả loài ḿnh nữa. Một người làm nên công ơn ǵ thời ích lợi cho cả đoàn thể. Mỗi người làm nên tội lỗi ǵ thời di hại cho cả toàn thể. Ngay trong thân thể người ta, cái lẽ hiệp đồng tác dụng đó (synergie) cũng thường nghiệm thấy. Mỗi cái phủ tạng nào hành động không đều thời tất có khiên động đến cả cơ thể, làm cho nặng thêm sự bất ḥa ở một bộ phận, v́ kém cái sức mạnh của cả toàn thể mà phủ tạng ấy có mật thiết quan hệ vậy. Trái lại thời nhiều khi một cơ quan nọ phải làm việc nặng thêm để giúp đỡ cho các cơ quan đồng loại khác đă mệt nhọc. Khi ấy thời bộ phận nào phải làm việc thêm đó không có thiệt ǵ mà lại được lợi cho ḿnh, v́ giữ được cái thế quân b́nh, thêm được cái sức sinh hoạt trong thân thể, nếu không th́ một ḿnh cũng không thể sinh tồn được.

Hại người tức là hại cho ḿnh; giúp người tức là giúp cho ḿnh. Ấy cái luật của vũ trụ như vậy.

Sau nữa cũng v́ cái lẽ vũ trụ duy nhất, nên dù nghiên cứu một sự vật rất nhỏ mọn, cũng đều thấy trong sự vật ấy cùng một bản chất, cùng một căn nguyên, cùng một qui mô, mục đích như trong toàn thể vũ trụ cả. Vậy thời hết thảy các sự vật, hết thảy, các đường lối là qui về cơi Duy nhất cả. Bởi thế nên trong nhiều cách quan sát về công nghiệp thiên nhiên để qui y về nơi Thượng đế, cố nhiên chú trọng nhất là cách quan sát về chính cơ thể người ta, là gồm cả các sức mạnh của tạo vật, tự ḿnh có cái tia sáng cùng ḷng hoài vọng của thần minh. Cổ nhân dạy: Phải tự ḿnh biết ḿnh, rồi sẽ biết vũ trụ cùng thần minh ». Mà cái mục đích tinh thần của loài người chính là ở đó, là cố gắng cho được hoàn toàn thích hợp, để có ngày hiểu được cái lẽ Duy nhất và sẽ được vui vẻ khoái trá ở trong đó.

Cái lẽ vạn vật đại đồng đó, cổ nhân tóm lại một lời màu nhiệm như sau: «Cái ở trên cũng giống như cái ở dưới ». Nghĩa là nếu đă t́m được một cái th́a khóa mở về một bộ phận nào thời cũng có thể mở được nhiều các bộ phận khác ở trong trường thiên diễn, và nếu có cái trác kiến về một phương diện nào thời suy ra mà trông được tỏ rơ cả các phương diện khác.

Trí tuệ. – Bấy giờ thời trí tuệ đă sáng suốt, trong ḷng sẽ không phải băn khoăn về những điều vọng tưởng nữa.  Sau khi đă đủ các cách giáo dục chung và giáo dục riêng rồi, cùng đă trọn các cách thử cho nhập đạo rồi, thời người đệ tử thành người giáo đồ. Bấy giờ thời có thể khải phát được cái trí tuệ của ḿnh, nghĩa là có cái trí sáng suốt thấu hiểu được những lư do chân chính của các việc xẩy ra trong đời người ta cùng các dân tộc. Đâu đâu cũng thấy cái sức ngầm của các lẽ màu nhiệm, và bấy giờ tự ḿnh thực hiện được đạo lư ở ḿnh cùng ở các sự nghiệp ḿnh. Không phải nhọc ḿnh v́ những sự băn khoăn, tham vọng, những sự tự phụ cùng sự yếu cần hăo huyền nữa. Đă hiểu rơ cái chân tính của điều thiện điều ác rồi, cùng biết rơ cái giới hạn của ḷng hoài vọng cùng sự tài năng của ḿnh rồi, bấy giờ có thể cảm thông với thiên lư và sống một cách thuận ḥa cùng b́nh tĩnh.

Sẽ biết rằng người ta mà phải khổ sở là tự ḿnh tác nghiệt cho ḿnh.
– Người ta là một kẻ bỡ ngỡ đi t́m đường, do Thượng đế đặt ở ngay đầu con đường Thiên diễn. Bước đầu vẫn khó khăn và chậm chạp. Càng bước lên, càng thấy được thảnh thơi, càng thấy thêm quyền lực, càng được dùng đến cái trí biện biệt của ḿnh. Nay sức biện biệt là căn cứ ở hai cái cảm giác khổ và lạc, khổ th́ sinh ra đau đớn, lạc th́ sinh ra vui sướng. Nếu người ta tức th́ đă có cái lư trí và cái tuệ nhăn hoàn toàn ngay, thời tiến lên không có công ǵ, và cứu cánh được toại chí cũng không có công ǵ. Vậy thời phải tự ḿnh đào tạo cho ḿnh, tự ḿnh t́m lấy đường lối của ḿnh, tự công phu riêng ḿnh mà đạt tới cơi cực lạc của ḿnh. Trong khi đi t́m cái hay cái tốt, người ta tất phải ḍ đường bỡ ngỡ, v́ có quyền tự do kén chọn, muốn đi về ngả nào cũng được. Nhưng nếu đi lầm đường th́ sẽ có cảnh cáo cho biết ngay. Thấy có sự khó chịu, sự đau đớn, sự khổ sở, khiến cho phải dừng lại, phải nghĩ ngợi, phải t́m ṭi, rồi sau mới khám phá ra v́ đâu mà ḿnh phải đau khổ, t́m phương bổ cứu mà tự đặt ḿnh vào con đường hay hơn. Nếu không có cái không hay nó ở đó để cảnh cáo cho và bắt phải tu tỉnh lại, thời cứ đi sai đường măi, tất ngă xuống vực sâu. Tỉ như lửa vậy, nếu đụng vào lửa không thấy bỏng thấy đau, thời người ta không biết lửa là ǵ, không biết giữ cho thân thể ḿnh khỏi phải lửa cháy, và không biết lợi dụng lửa cho sự tiến bộ của ḿnh.

Trái lại, hễ người ta cứ theo con đường chính, tự ḿnh biết thuận phép thần minh cùng phép thiên diễn, th́ thấy người khoan khoái mà ḷng vui vẻ.

Vậy thời sướng với khổ ấy là cái kết quả tốt hay xấu của mọi sự quyết định của ta. Nó là cách thưởng phạt cho sự tự do hành động của ta, và là những điều kiện tất yếu của sự bảo thủ cùng sự tiến bộ của ta. Nhờ có cái sướng cái khổ nó đắp đổi nhau mà cái hồn phất phơ của con người thô lỗ đời cổ sơ đă trở nên mạnh mẽ và rực rỡ như vậy. Nếu không được tự do làm trái điều thiện và không phải chịu sự ác, thời không bao giờ hiểu được thiện là ǵ. Có phải qua bước tân khổ mới biết cái giá trị cao quí của điều thiện. Phải ốm đau rồi mới biết sức khỏe là quí.

Duy có điều thiện là vốn ở nơi Thượng đế và rốt cùng vẫn được thắng trong trường thiên nhiên. Điều ác là cái nghiệp của chúng sinh phải tập học hành và tập làm nên.

Các ác nó chỉ có nhất thời, v́ nó chỉ là một phương tiện giáo dục mà thôi. Nó đến quá độ rồi tất nó tự hoại. Hễ gặp sự đau đớn quá thời tức th́ nóng nẩy đi t́m ngay bởi duyên cớ ǵ mà sinh ra như vậy. Phàm giống độc ác tất phải chết hại mau. Cái ác vẫn mau quên lắm, có khi mau quá, v́ không bao giờ cảnh cáo một vài lần mà người ta hiểu ngay, biết đổi theo con đường chính, thường phải thiên ma bách chiết, măi đến chán chê ra rồi mới tỉnh ngộ.

Duy có điều thiện là mới bền. Duy có diều thiện là mới tích lũy được lâu dài, v́ là cái mục đích tuyệt đối. Lúc tiến lên vui vẻ, qua được chót lọt, th́ bao nhiêu sự đau khổ từ trước tiêu ma đi cả. Người ta lâu dần chỉ tích lũy những cái hay mà thôi. Cứ xem các giống tấn tới th́ biết cuộc thiên diễn là cuộc tiến hóa. Dù thấy một đôi khi có thoái bộ, cũng không sai được cái công lệ đó v́ sự thoái bộ đó là cách trừng phạt nhất thời, để bắt phải cho tấn tới thêm nữa. Nghiệm trong nhân loại th́ đủ biết: dù lầm lỗi, dù tật bệnh, dù tại ương, mà về đường trí tuệ, về ḷng từ thiện vẫn thấy có tấn tới.

Phàm cái ǵ xảy ra trong đời người, cái hay cũng như cái dở, là cách thiên nhiên ma luyện cho người ta cả, là cái nghiệp báo xa gần của cuộc đời trước của người ta. Cái hay là cách thưởng lệ cho cứ thế mà làm, cái dở th́ vừa là một cách cảnh cáo, vừa là một cách chuộc lại. Cái hay là bảo cho ḿnh biết rằng đă thuận ư phục ṭng, dở là lấy cái sức của vận mệnh bắt cho phải phục ṭng đó.

Nhân đó PYTHAGORE dạy rằng bệnh tật là có cái nghĩa thần bí cả. Ông cho bệnh tật là những khi người ta thất ḥa với luật thiên nhiên, cũng như cái triệu trứng nó phát ra để báo cho ḿnh biết mà pḥng bị lấy thân thể. Ông lại chứng giải rằng tuy bệnh tật hiển nhiên là sự không hay, nhưng thực là cách pḥng bị cho thân thể, tấn tới cho thần trí, v́ nếu không có bệnh tật th́ người ta không biết cái ǵ là hay là dở cho ḿnh, không biết tập cái trí biện biệt của ḿnh, gây nên cái tư cách điều ḥa tự chủ là con đường tiến lên cơi đạo lư.

V́ bệnh tật không phải bởi sự ngẫu nhiên hay bởi sự ngoại cảm (nóng, lạnh, ẩm thấp, vi trùng, v.v.). Chính là không biết hay khinh thường những phép tắc sinh hoạt b́nh thường, không biết định việc ăn uống chất lượng phải thế nào, thân thể cơ quan tác dụng phải thế nào, sinh lực cùng thần trí phát đạt phải thế nào. Nếu cư xử sai về tất cả hay một điều trong mấy điều đó, thời thành ra người ta mâu thuẫn với luật thiên nhiên. Kết quả đến cơ thể bất ḥa, khi huyết bất thông, sức đề kháng của thân thể yếu đi, sinh ra những bệnh nội hư cùng ngoại cảm. V́ cái độc ở ngoài không tất nhiên là nó cảm nhiễm vào ḿnh ngay. Cơ thể mạnh th́ chống được cả với vi trùng. Vậy thời trước khi bệnh phát ra vẫn có một thời kỳ thân thể sẵn sàng để tiếp lấy bệnh, v́ trong cách vệ sinh, ẩm thực, cư xử sai lầm hay là không biết mà sinh ra. Những bệnh nó mệnh danh rơ ràng ra đó thực là uyên nguyên đă lâu mà kết quả đến thế, lúc biết mà gọi ra được là bệnh đă tàn vậy. Những bệnh riêng của từng bộ phận cũng là bởi toàn thể bất ḥa mà ra, cứ đích thực ra th́ không có bệnh nào là riêng một bộ phận, chỉ cơ bệnh chung cả thân thể, hoặc lan khắp các bộ phận, hoặc nhiều khi thu vào một phần. Nhưng dù thế nào mặc ḷng, lúc đầu là cả toàn thể bị bệnh, v́ phàm bệnh phát ra chẳng qua là từ trước kia người ta không biết mà làm trác táng thân thể ḿnh đi, khác nào như dọn đường sẵn cho bệnh đến vậy.

Vậy thời người ta khỏe mạnh hay bệnh tật là chính tự ḿnh làm ra. Đời người là một cuộc học khôn. Hễ biết t́m lấy đường khôn, hễ biết tuân theo phép sinh hoạt b́nh thường, thời được hưởng sức khỏe. Nếu trong cách cư xử về thân thể, về tinh thần mà sai lầm thời phải chịu bệnh tật.

Và lại phàm cái hay cái dở xẩy ra là trách nhiệm toàn ở ḿnh. Mỗi khi gặp sự phiền muộn đau đớn, chỉ nên trách ở ḿnh thôi, v́ nếu tự ḿnh biết, tự ḿnh hiểu, tự ḿnh nói lời thẳng, làm việc phải, thời không có cái ǵ ngang trái xẩy ra được. Trước đă không biết, nay c̣n oán ǵ. Chỉ là một cái dịp để học khôn mà thôi.

Không nên trách trời, trách người, trách sự vật, chỉ nên tự xét lại ḿnh, mà t́m xem có phải là không biết, là trễ nải, là vội vàng, là tức giận mà sinh ra cái sự phiền muộn ḿnh phàn nàn đó không. Hễ t́m thấy cái duyên cớ nó rồi, thời nên suy đó mà làm gương, rồi cố cư xử sau này cho hay hơn.

Khi nào có sự tai ương ǵ xẩy ra trong một đoàn thể, thời là đoàn thể ấy đă cư xử không chính đáng về đường vật chất cùng về đường tinh thần. Không biết chọn những thức ăn sạch lành, không biết tập luyện thân thể, ở xa chỗ khí tốt, chỗ ánh sáng, không biết qui trọng tôn giáo, ăn ở ích kỷ hại nhân, phóng túng về vật dục, không chịu theo kỷ luật, đó là những cách phạm luật sinh hoạt, tích lũy lại thời đến làm cho cái sức đề kháng chung suy sút đi, mà nhân đó gây ra những dịch tễ, chiến tranh cùng cách mạng. Khi những cái tai nạn gớm ghê đó xảy ra, thời thiên hạ cũng mơ hồ không biết cái nguyên nhân chân chính của nó ở đâu, nó đă ngấm ngầm từ bao lâu mới phát ra như vậy, chẳng khác ǵ như cá nhân cũng mơ hồ về nguyên nhân những sự tai hại riêng của ḿnh. Bấy giờ mới viện những cớ mới xẩy ra ở ngoài, những cớ hăo huyền ở đâu, không biết rằng trách nhiệm là trách nhiệm chung cả mọi người, mỗi người phải chịu một phần v́ nhiều cớ khác nhau, bởi hết thảy mọi người từ đă lâu năm vẫn sinh hoạt một cách trái lẽ thiên nhiên, tư tưởng một cách không chính đáng, không làm hết bổn phận với Thượng đế, với thiên nhiên cùng với kẻ khác. Những khi ấy bên xảy ra sự tai ương chung để bắt cho phải làm những sự cải cách mà tự ḿnh đă không làm, nghĩa là phải sửa lại cách ăn uống cho hợp lẽ tự nhiên, cách sinh hoạt cho mạnh mẽ, tư tưởng cho quảng đại và tín ngưỡng cho cao ха.

Khốn nạn cho những kẻ ấy. Họ không biết rằng cái của báu của họ là ở trong tay họ, ở trong người họ đó
. – Cái nó làm hại cho sự hạnh phúc của người ta hơn cả, là cái quan niệm vô lư của người đời về hạnh phúc, cùng những phương pháp trái lẽ người ta dùng để thu hoạch lấy những cái của báu hăo huyền. Thật thế, phần nhiều người lấy mục đích ở đời là tích lüy lấy của cải, để cho được vinh hiển, ăn uống chứa chan, và thong dong không phải làm việc ǵ nữa. C̣n những kẻ muốn cầu cho được cái thân phận hay hơn, th́ tưởng cứ trông cậy ở người ngoài giúp đỡ, ở xă hội tư cấp cho là được, chứ không phải ở cái công phu riêng của ḿnh. Lại như khi tật bệnh th́ kẻ không có tri giác chỉ tin ở thuốc thang của đời, tưởng cứ dùng những vị thuốc chế ra rất cầu kỳ là có thể b́nh phục được sức khỏe.

Khốn thay cho những kẻ đó, đem hi vọng của ḿnh mà để ở cái hăo huyền bên ngoài, không biết rằng cái nguồn của những sự vui vẻ, mạnh khỏe, lấn tới, là chính ở tự ḿnh vậy. Sự giàu có cùng những cái lợi lộc vật chất của sự giàu có làm ra, có lẽ nó lại ngăn trở cho hạnh phúc cùng sức khoẻ, v́ những cái ấy khó ḷng mà xử dụng cho công bằng, cho điều độ được. Những cách chạy chữa bề ngoài chỉ khỏi được nhất thời, rồi lại sinh ra bệnh khác càng ngày càng nặng.

Trái lại th́ người nào đă phát minh được ở trong người ḿnh cái nguồn sinh hoạt, cái sức ư chí, những sức mạnh cùng phương kế để chống giữ và để chữa khỏi, người nào đă phát triển được năng lực về lư trí cùng về trác kiến, những cái đức tốt nhân từ trí tuệ nó vẫn tiềm tàng ở trong người ḿnh, chỉ đợi có tài bồi là nảy nở ra, th́ người ấy là tích lũy của cải ở ngay trong bản thân ḿnh, sẽ được b́nh yên mà hưởng cái của báu nội tâm đó, mà dùng cái sức mạnh tự kỷ đó.

Muốn hiểu biết rằng sự hạnh phúc chân chính là ở trong người ta, th́ chỉ nên suy nghĩ đến cái t́nh cảnh khốn nạn của những kẻ chỉ ham những của phù vân bên ngoài, đam mê tửu sắc, thiên về cái chủ nghĩa duy kỷ cuồng dại. Chỉ nhờ ngoài, v́ ngoài mà sống, chẳng bao lâu sẽ hao ṃn đi, đeo lấy những sự đau khổ cho thân thể, cho tinh thần, rồi đến ngày chết là hết cả, v́ không có để được cái ǵ ở trong ḿnh cả. Đến như cái thân phận người trí giả th́ không thế; người trí giả có những của báu không trông thấy, do ở cái trác kiến mà ra, biết an phận chỉ dùng những cái giản dị, tự nhiên, điều độ, và chỉ chủ một mục đích, là học măi cho biết, sửa măi cho hay mà thôi. Của báu trong thần trí th́ không ai cướp lấy được, v́ nó là cái của tích lũy không tiêu diệt được, dẫu chết đi cũng không mất.

Xem một điều này th́ đă biết cái của báu nên cầu là nó ở ngay trong ḿnh ta, là xem như một tên ăn cướp hung tợn có thể cướp lấy của cải, chiếm lấy vẻ vang ở đời, chứ cái đức người quân tử th́ có bao giờ thấy ở trong bụng kẻ tiểu nhân đâu.

Người nào đă phát minh được cái thiên lư ở trong ḿnh, biết giữ ǵn cho lương tâm ḿnh được chỉnh đốn trong sạch, biết khiến cho trong ḷng ḿnh cùng cả chung quanh ḿnh được yên tĩnh, th́ người ấy là đă tới cơi cực lạc rồi đó.

Những người biết cái cách giải thoát cho khỏi sự khổ năo thật là ít lắm thay.
  Phần nhiều người chỉ thiết tha cái bề ngoài, cái trực tiếp ngay. Khi phải t́m ra cái nguồn những sự đau khổ của ḿnh, th́ không biết suy ngược đến những nguyên nhân xa xôi to tát. Như khi tật bệnh th́ chỉ biết trị cái kết quả sự sai lầm của ḿnh, cái ngoại trưng của bệnh, sự bất ḥa của một bộ phận, sự tác ác của giống vi trùng, vân vân, chứ không biết phục hồi lại sự điều ḥa trong thân thể, sức đề kháng của cơ quan, mà đừng ăn ở trái với luật thiên nhiên nữa. Bởi không có con mắt sáng suốt biết cái nguồn gốc chân chính của sự đau khổ của ḿnh, cho nên dùng những cách liệu trị thậm là vô lư. Thậm chí đến tin rằng dùng thuốc thang có thể miễn cho khỏi được theo luật sinh hoạt tự nhiên, khỏi được bệnh tật và cứ ăn ở một cách sai lầm phóng túng cũng giữ được thân thể khỏe mạnh, chẳng phải đau yếu ǵ.

Những người hiểu rằng cái nguồn những sự đau khổ của ḿnh chỉ là tại ḿnh không biết phục ṭng các luật pháp siêu nhiên cùng thiên nhiên, và chỉ có một cách khôi phục lại sự điều ḥa trong người được là khi đau đớn th́ t́m lấy cái lỗi ḿnh đă phạm và lại quay về con đường chính, những người hiểu như thế thật là ít lắm thay. Nhưng người biết cái khoa y học chân chính về thân thể cùng về tinh thần, thật là cũng ít lắm thay!

Sự mê muội của người đời thật là quá lắm thay, làm cho trí tuệ phải mờ ám, khác nào như cái ống lăn, cứ lăn liều, không bao giờ khỏi được những nỗi khổ thống vô cùng
.  Sự ngu muội của người ta quá đến nỗi nhiều khi cái hăo huyền, cái độc hại lại thiết tha mà cầu lấy như sự tốt lành, sự lợi ích. Bởi thế nên biết bao nhiêu người chỉ ước ao được sống một cách dật lạc phóng túng như những kẻ hoang toàng kia, chỉ cầu lấy cho được nhiều của nhiều tiền, để chuốc lấy cái bề ngoài phong phú. Bấy giờ th́ h́nh thể to trệ, mặt mũi đỏ bừng, lại cho là cái dấu mạnh khỏe đó. Mà trái lại cách sinh hoạt cần lao giản dị, cách ăn uống tự nhiên b́nh thường, thể người khô khảnh mà cứng cáp, thế lại cho là không hay mà lấy làm kiêng kỵ vậy.

Những sự sai lầm của cái khoa học giả dối, những sự quá đáng của cái công nghệ tần phiền, đă làm cho sai mất sự phán đoán cùng loạn mất cả trí tuệ của người ta. Thành ra tập quen những cái thói dật lạc, những cách cẩn thận hăo huyền, làm cho cái mănh lực sinh hoạt cũng bị cản trở đi vậy.

Sở dĩ đời người ngày nay đến nỗi khó khăn đau đớn như vậy, là v́ người đời chán những cách giản dị, xa lối sinh hoạt mộc mạc như xưa và khinh những sự tự nhiên. Bởi thế nên trông thấy sự thành thực bày ra th́ không chịu phục, v́ sự thực bao giờ nó cũng trái với những thói quen phiền phức, cho là dễ dàng quá ai cũng có thể làm được.

Sống không có chủ nghĩa, không có sức mạnh trong tâm hồn, không có nhẫn nại về thân thể, người đời khốn nạn chỉ phất phơ không biết tín ngưỡng vào đâu. Tùy cái cơ hội ngẫu nhiên mà bềnh bồng trôi giạt, để cho việc thảng lai nó sai khiến, và dem thân làm hi sinh cho sự nông nổi của ḿnh, phó mặc cho vận mệnh, hết nạn này đến nạn khác lớn hơn, tạo ra cái nhân quả ác nghiệp mà giữa lúc bấy giờ không hiểu được cái lư do chân chính của nó thế nào.

V́ cái tật mê muội bất minh đó, đi đâu nó cũng ám ảnh hoài, thành ra không biết phân biệt điều ǵ là điều phải nên thuận nhận, điều ǵ là điều trái nên tránh xa mà đừng tức giận.
Cái thân phận khốn nạn của những kẻ không biết rằng nguồn gốc chân chính của sự đau khổ của ḿnh là ở tự ḿnh, và kẻ cừu địch tối ác của ḿnh chính là nó nấp ở trong ḿnh, th́ cứ xem ngay cái cách họ chữa bệnh của họ là biết. Không biết cái mục đích của đời người, không biết những phép tắc cư xử của cá nhân, đáng phải tự sửa lấy ḿnh lại không nghĩ đến sửa ḿnh, chỉ mong chữa sửa lại người, trách rằng tạo vật không điều ḥa mà số phận có chênh lệch vậy. Nếu sinh ra chán ngán hay mắc phải bệnh tật, th́ đổi xứ này sang xứ khác, thay khí hậu cho khác đi, bày ra mọi cách tiêu khiển, rồi đi hỏi khắp thiên hạ cho biết cái tên bệnh ḿnh là bệnh ǵ và phải chữa cách nào cho được khỏi. Nếu có người bảo cho được biết rằng dù đi đến đâu cũng không khỏi sự phiền muộn được, v́ đi đâu cũng là ôm cái phiền muộn đi theo cả, và muốn cho chữa khỏi th́ chữa ở đâu cũng được, miễn là biết tự soi xét ḿnh và tự chữa sửa ḿnh là đủ, nếu có người bảo cho họ thế, th́ họ lấy làm lạ lắm.

Vậy thời cái công tự kỷ tu luyện, ấy là cái bí quyết lớn cho được ở đời yên vui sung sướng, điều đó tưởng nhắc đi nhắc lại bao nhiêu cũng là đáng. Duy có sự kinh lịch riêng, thành thực và kiên nhẫn là có thể phân biệt được điều phải lẽ trái, biết thuận nhận những cái kỷ luật yếu cần, biết lánh xa những cái ǵ sai lầm hư hại mà không căm tức giận dữ, biết cứ yên ổn mà tuân theo trật tự. Duy có sự kinh lịch riêng mới khiến cho được rơ và biết rằng phàm sự đau đớn là thuộc về cái phạm vi bảo thủ tự nhiên cả, chính là ở sự sai lầm lỗi lạc của ta mà sinh ra, và cốt là để cảnh tỉnh cho ta biết lại trở về con đường tinh tiến, nghĩa là rút lại cái ǵ xẩy ra cũng là do sự tác dụng mầu nhiệm của luật thiên nhiên, không thể cưỡng lại được.

Lẽ thần bí.  Ôi Thượng đế là cha sinh ra chúng ta! xin cầu nguyện Thượng đế tế độ cho loài người khỏi phiền, chỉ thị cho họ biết tự ḿnh có cái sức thần thông là dường nào.
Trông thấy cái cảnh tượng những sự sai lầm đau đớn của loài người, kẻ có cái trí sáng suốt trước hết lấy làm băn khoăn thương xót. Sẵn ḷng muốn xin ân xá cho hết thẩy những kẻ lạc đường, cầu nguyện trời cao tuyệt đối can thiệp vào để trừ những nỗi khổ cho người ta, ban cho cái trực giác để biết con đường lành mà đi. Lại muốn cưỡng ép cho họ được sáng mắt ngay ra lập tức; đem cái chân lư mà phô bày ra trước mắt cho được tỏ tường. Không nhiệt thành ước ao ǵ bằng là làm thế nào cho họ hiểu rằng các phương pháp tế độ cho họ chính là ở trong người họ đó, và cái bí quyết cho được b́nh phục, cho được khỏi bệnh, cho được tương lai sung sướng là ở cái chí nguyện của ḿnh và ở ḷng phục ṭng thiên lư.

Và kẻ đệ tử mới học đạo phải qua một hồi thất vọng như vậy, không phải là thất vọng v́ trông thấy những điều sai lầm của người ta, thất vọng v́ muốn mở mắt cho những kẻ khốn nạn đó mà thấy hiển nhiên họ không nghe không hiểu. Đem lời đạo lư thâm trầm mà nói với những kẻ hăy c̣n tối tăm ở trong ṿng sinh hoạt mơ hồ, c̣n bị những cái thiên kiến nó mờ ám, th́ thành ra lời nói không nghĩa lư, không ảnh hưởng. V́ rằng muốn cho thu hoạch được những điều sơ lược về đạo lư, th́ phải tự ḿnh đă có tập luyện ít nhiều đă. Và phàm sự tấn tới là phải do cái công phu riêng của cá nhân, vậy th́ kẻ đạo đồ chỉ có thể trỏ đường lối cho người ta mà thôi. Cứ nên gia công gieo hạt, dù nó chậm mọc mầm cũng không nóng ruột, và cái kết quả về sau thế nào không phải lo ngại ǵ.

Nhưng mà không : chúng ta chẳng nên rầu ḷng lo lắng, v́ loài người là giống thần minh, tự ḿnh có thể phát minh được những lẽ mầu nhiệm của tạo vật bày ra cho mà t́m ṭi.
Người trí giả thử suy nghĩ, sẽ thấy trong trí ḿnh lại b́nh tĩnh, v́ nhớ rằng người ta phải tự đào tạo lấy ḿnh, vậy thời phải nỗ lực mới thành công, phải chịu khó mới sửa được khi đă lầm lỗi sai đường, và phải tuần tự tiến hóa mới thu hoạch được sự hạnh phúc. Bấy giờ, th́ người trí giả lại phục hồi được sự điềm tĩnh của ḿnh, nhớ lại mà biết rằng sự đau đớn là cái tạm thời, cốt để chuộc cái lỗi cũ và răn dạy về sau, chứ cái ḷng hi vọng sáng sủa, cầu lấy sự hạnh phúc tối cao, th́ người ta ai cũng được có vậy.

Cho đến cái chết cũng không phải là một sự liễu kết thật. Người ta v́ vô minh hay v́ phẫn uất mà chết đi, th́ chưa phải đă thoát đâu, rồi sẽ tái sinh ra một h́nh thể khác tiện cho cái nghiệp tu luyện của ḿnh. Người nào v́ ḷng bác ái mà phấn khởi hi sinh th́ tức là được tăng tiến mau lên và kiếp tái sinh sẽ được sáng sủa.

Dù thế nào mặc ḷng, kẻ học đạo trong phái PYTHAGORE muốn giữ lấy lạc quan th́ cũng dễ, v́ đă biết cái bí quyết của sự sinh hoạt trong vũ trụ, của sự tiến hóa trong loài người, và biết rằng người ta là thuộc giống thần minh, nghĩa là người như thần, là vĩnh viễn bất diệt, và phải làm cho trong người ḿnh dần dần phát siễn được hết những cái đức tính thiêng liêng.

Trong đạo PYTHAGORE, có cái thuyết luân hồi tiệm tiến đó, là cái thuyết dạy rằng người ta phải qua nhiều kiếp rồi mới dần dần tiến lên, kết cục phải sáp nhập với Thượng đế là chốn hạnh phúc vô cùng, thuyết đó là một cái bí quyết, đem lộ ra th́ nguy hiểm quá, cho nên vẫn giữ kín lắm.

Vả lại tất cả các đạo giáo về cổ đại, các nhà đại bí truyền đời xưa đều dạy về cái thuyết tái sinh và quí nhất đó, nhưng bao giờ cũng chỉ truyền cho kẻ đạo đồ mà thôi, c̣n nói với công chúng th́ nói bằng cách tỉ dụ xa xôi, v́ như sau này ta sẽ nói, điều đó mà truyền ra cho những người chưa có tư cách hiểu được th́ có cái nguy hiểm lạm dụng quá đáng.

Cổ nhân tượng cái thuyết luân hồi đó bằng một cái ṿng tṛn, hay bằng một cái h́nh một con rắn khoanh tṛn lại mà lấy đầu cắn đuôi vậy. Cách h́nh tượng giản dị đó là tiêu biểu cho tinh thần với sinh hoạt, do tự nơi Thượng đế phát ra, truyền vào trong vật chất và trong thiên nhiên, biến ra h́nh những nguyên tử tinh thần đặc biệt, rồi cứ tuần tự tiến hóa lên, mở mang sáng suốt ra, dần dần phát siển được hết những cái năng lực thiêng liêng tiềm tàng ở trong ḿnh, rồi hết kiếp ấy sang kiếp khác, cứu cánh sẽ tới bậc ngang bằng với Thượng đế và khoát nhiên hỗn hợp với Thượng đế.

Vậy th́ cái đời hiện tại của một người là gồm cả cái nghiệp tốt xấu của kư văng, lại vừa gồm cả cái tương lai bao hàm những mầm mống của nghiệp tốt nghiệp xấu sau này.

Kẻ sơ sinh mới lọt ḷng đă có một cái kho kinh nghiệm về sự sống rồi; biết kêu, biết bú, biết cử động, v́ đă từng sống nhiều kiếp trước rồi. Cái đời hiện tại của nó sẽ là do ở công phu nó, do sự kư ức của nó, do ở cái nghiệp trước của nó tốt hay xấu mà gây dựng ra. Đời của nó sẽ vừa là kết quả của đời trước, vừa là tạo nhân cho sau này. Cái đời trước của cá nhân thế nào, th́ nó tóm tắt lại ở sự tấn tới hằng ngày của đứa con trẻ, trước tiên cái năo nó c̣n chưa biết tư tưởng, con mắt nó c̣n chưa biết trông coi, cái lưỡi nó, cái tay nó c̣n ngọng nghịu, nó tuyệt nhiên chưa có ư thức ǵ, vậy mà rồi dần dần trí khôn nó mở mang ra, giác quan nó luyện tập dần, ư chí nó tăng tiến lên, rồi nó càng kinh nghiệm, càng khám phá, lắm khi cũng nhọc ḷng đau đớn lắm, th́ cái tâm trạng nó càng khoát đạt ra, nghĩa là trong cái thời kỳ thơ ấu đó th́ h́nh như ôn lại cái bài học từ kiếp trước vậy.

Khi đă đến tuổi khôn lớn rồi, th́ đứa trẻ ấy tự lập, và bắt đầu cấu tạo lấy cái vận mệnh của ḿnh, không những là dự bị cuộc tương lai của ḿnh trên cơi đời này mà thôi, lại tạo ra thể cách cùng cảnh ngộ cho cái đời lai sinh nữa. Những sự ham muốn, những sự mong mỏi, những sự lưu luyến, những sự cảm dụ nó phảng phất trong đời, tức là những tiêu biểu cho cái khuynh hương quí nhất, chung cho cả muôn vật trong thế gian. Tùy cái cách ḿnh ăn ở có tâm có nghĩa hay là không, th́ sự tấn tới sẽ mau hay là chậm. Và trong đời hiện tại này, nếu công chưa được thưởng, tội chưa phải chịu hết, th́ không mất đi đâu, vẫn như có ghi vào sổ để báo đáp về kiếp sau.

Người ta không phải là lúc đẻ ra mới thành người và khi chết đi là hết cả đâu. Trước kia đă từng có sống rồi, sau này cũng lại c̣n sống nữa, v́ là có cái tinh thần bất diệt. Sự chết chỉ là sự biến hóa, để lại tái hồi bồng bột nữa. Nó là sự băi bỏ một cái h́nh thể vật chất đă cỗi; nó là một cách đổi các đồ dùng để tu luyện. Khi rời bỏ xác thịt chỉ mất cái hư vô hăo huyền hay cái vật chất trước mắt mà thôi, chứ cái nghiệp thực, nghĩa là những cái hay đă thu hoạch được mà phải tích lũy lấy, cùng những cái dở phải chữa sửa lại và phải bài trừ đi, thời vẫn mang theo đi măi. Thân thể chết đi là thần trí được thoát ra mà lại bay bổng trong cơi khinh thanh, cũng như thân thể sinh ra là thần trí tiêu đi, rời bỏ cơi thanh thiên mà sáp nhập vào vật chất vậy.

Vậy th́ sự sinh là một sự tiếp tục chứ không phải hẳn là bắt đầu. Những cái tư tưởng chủ trương lúc sơ sinh, chẳng qua là những sự phảng phất nhớ cũ cả. Về sau th́ cái ḷng ước ao hạnh phúc cũng chỉ là những cách mơ màng dự tưởng. Người ta là một giống nhớ cũ tưởng sau. Nay sự kư ức những cái nghiệp trước thuộc về bản năng hay thuộc về trí tuệ, hầu như không có ư thức ǵ cả, tức là để cho người ta đừng tỏ tường cái nghiệp trước của ḿnh quá, thấy nó nặng nề khó nhọc mà thành ra chán nản, không muốn gắng gỏi cho bước lên, thậm chí đến thất vọng mà tự diệt ḿnh đi cũng có.

Sự sống sự chết thực là cái ǵ th́ cứ nghiệm ngay lúc thức lúc ngủ là thu được cái h́nh ảnh đúng lắm. Thức là hoạt động có ư thức, ngủ là nghỉ ngơi vô ư thức, thức ngủ kế tiếp nhau, coi là sự thường, vậy mà thực là cái hiện tượng phân đôi rất mầu nhiệm, đối với con mắt kẻ phàm phu không có ư nghĩa ǵ, nhưng kẻ trí giả biết xem biết hiểu, th́ nghiệm đó mà tỏ rạng ra nhiều. Lối ngủ bệnh của thuật thôi miên hay lối ngủ tạo bằng cách cám dỗ, để cho cái vô ư thức nó chủ trương cơ thể, cũng thuộc về cái hiện tượng phân đôi nhân cách đó.

Mỗi buổi chiều, h́nh như bỏ cái khu xác ḿnh đó không lo ngại ǵ, đến khi thức dậy mới lại ra tay cai quản. Nay đời lúc cùng tận cũng vậy, bỏ cái khu xác hiện tại của ḿnh để lúc tái sinh lại chủ trương một cái khu xác khác.

Lúc buồn ngủ th́ thấy thân thể mệt nhọc, nghĩa là những cái sinh lực lưu thông trong người nó tạm thời khô cạn. Ngủ là để lại tích lũy những sức mới vừa thu hoạch được trong không khí bằng sự hô hấp, lại vừa lấy ra ở trong cái kho sinh hoạt tiên thiên ở trong người bằng sự kích thích của các cơ quan. Đến khi cái tiềm lực đă đầy đủ rồi, có thể tiếp tục hoạt động được, th́ bấy giờ tỉnh thức dậy. Sự chết cũng vậy, hoặc là bởi cái sinh lực của một người đă tuần tự mà hết đi, hay là chưa đến kỳ mà đă sớm tiêu tiết đi mất, hay là gặp sự bất kỳ mà bị phá hoại mất, chết đi rồi th́ có một khoảng giữa để nghỉ ngơi, tức là để tích lũy lại những cái sức mạnh tiên thiên mà đem ra dùng trong cuộc đời sau này, khiến cho có thể phản động lại những sự kích thích bên ngoài vậy.

Ngày hôm trước ḿnh ăn ở thế nào, tức là qui định cho sự tác dụng của cơ thể ḿnh về đêm hôm ấy và ngày hôm sau. Nếu đă biết theo đúng luật thiên nhiên về vật giới, về sinh hoạt, về tinh thần, th́ giác quan được yên ổn, thần trí được b́nh tĩnh, đêm ngủ yên giấc, và ngày hôm sau sẽ được sáng sủa tỉnh táo. Trái lại, nếu làm sai luật sinh hoạt, hoặc là ăn uống quá độ, hoặc là tập luyện sai cách, hoặc là tư tưởng hay hành vi những sự không tốt, th́ đêm đầy những chiêm bao mộng mị, mơ màng những chuyện gớm ghê độc ác, mà ngày hôm sau th́ thân thể nặng nề, tinh thần khốn khó. Đời người mà sống không ra ǵ, trái với luật thiên nhiên, trái với phép thần thánh, thời cũng sinh ra như thế, gặp những khoảng trung gian dau đớn hăi hùng, rồi đến kiếp tái sinh th́ khổ sở phiền năo, như là qua cái cầu giải oan hay cái cảnh địa ngục vậy. C̣n như sống một cách có tâm có nghĩa th́ khi nghỉ ngơi ắt được b́nh tĩnh và lúc tái sinh cũng được cái đời thảnh thơi sáng sủa.

Vậy th́ thiên đường hay địa ngục là tự tay ḿnh tạo ra cả, tay dă gieo giống ǵ, th́ sẽ lại gặp giống ấy, chẳng sớm th́ chày, v́ nếu việc ǵ cũng có thưởng phạt ngay lập tức, th́ cái trí sáng suốt, cái công tu luyện, c̣n phải cần chi nữa. Lại nếu công việc làm đă không có kết quả trực tiếp, lại cũng không có thưởng phạt xa xôi, thời cái lẽ công bằng là điều cốt yếu của tạo vật, không thể nào phát sinh ra trong tâm trí người ta được. Vậy th́ nếu làm trái điều thiện mà phải trừng phạt, không phải là bề trên trả thù ǵ ḿnh đâu, chính là ḿnh có lỗi th́ lẽ công bằng là phải chịu tội. Cho nên sự trừng phạt đó chỉ nên nhất thời cho đủ chuộc lấy lỗi, lập lấy công, gắng gỏi thế nào cho đền bù được cái tội đă phạm.

Cái luân lư của đạo PYTHAGORE đó vừa thỏa thích cho trí tuệ, cho lư tính, cho cái ḷng ham muốn tự nhiên càng ngày càng được thêm công bằng, thêm cao thượng, thêm hạnh phúc. Luân lư đó trước hết phá được cái ức thuyết cho đời người là một con đường độc nhất, sướng th́ sướng vô cùng, khổ th́ khổ vô hạn, thuyết đó thật là chán ngán thay. Lại giải nghĩa được những sự bất b́nh đẳng tiên thiên ở trong người ta, về thân thể, về trí tuệ, về đạo đức. Sau hết lại thích hợp với cái ḷng nhân từ vô hạn của Thượng dế, ngài đă tiên tri mà hiểu biết hết thảy, không muốn cho phần nhiều các sinh linh của ngài đến phải vĩnh viễn trụy lạc.

Cách giải nghĩa về sự bất b́nh đẳng hiện tại của loài người bằng cái phép ngầm tiến hóa của từng người, tiến hóa một cách tự do mà mau chậm có khác nhau, v́ công đức không giống nhau, cách giải nghĩa đó thật là cái cơ sở vững vàng cho những quan niệm về trật tự, về kỷ luật, là cái lư do phú cường hạnh phúc cho các đoàn thể. Nó lấy khoa học cùng tôn giáo làm căn cứ mà chứng rằng ở đời cần phải công nhận cái trật tự về trí tuệ và đạo đức và phải phục ṭng những người thủ lĩnh kén chọn trong những kẻ tài giỏi mà ra. Cho lẽ công bằng không phải là căn cứ ở sự b́nh đẳng mơ hồ, mà ở sự yếu cần cho vạn vật phải giúp đỡ lẫn nhau, sự giúp đỡ này lại càng dễ hơn nữa, v́ kẻ ngu tự nhiên phải phục ṭng người hiền, và quyền lợi cùng nghĩa vụ người ta vốn không chia đều mà thật là xứng đáng vậy. Theo lẽ đó th́ những người được tấn tới hơn, có phần hơn người khác về oai quyền, về phương tiện, nhưng cái hơn ấy vẫn phải có bảo thủ lấy, là nhờ được có tinh thần siêu việt hơn kẻ khác, phải làm cái gương đạo nghĩa cho người ta, nghĩa là làm con người có nhân từ, có hiếu nghĩa vậy. V́ rằng muốn có cái oai quyền riêng th́ bao giờ cũng phải tỏ ra hơn người, tự khắc kẻ dưới phải kính trọng phục ṭng và theo đó tấn tới lên.

Người nào đă thấu hiểu những lẽ cao thượng đó th́ sống ở đời có ḷng tín ngưỡng hăng hái. Biết gắng sức bổ cứu lại những sự khuyết điểm của ḿnh, gia công dự bị cái khuynh hướng cho cuộc đời về sau của ḿnh, chỉ chăm chăm có một cái mục đích là: sửa sang tấn tới cho bản thân ḿnh và cho kẻ khác nữa. Đă hiểu rơ rằng sự tinh tiến của ḿnh là có liên lạc với người ngoài, và giúp cho người ngoài được tiến bộ tức là một cách chắc chắn để mưu sự tiến bộ cho ḿnh. Đem ḷng thương xót phù tŕ cho những kẻ lạc đường khốn nạn, đối với mỗi người tùy cái tài trí người ta có thể dung nạp được phần nào th́ đem cái chân lư mà truyền thụ cho phần ấy. Phàm mọi sự hành vi của ḿnh đều tỏ ra khoan dung b́nh tĩnh cả. Không có phiền ḷng về sự ǵ nữa, và chỉ nghĩ cách tỏ rạng cho người ta, chứ không oán trách ǵ ai nữa. Bấy giờ th́ sự đau khổ cho là một cách cảnh cáo hay cho ḿnh, và sự khoái lạc th́ coi như một cách dự tưởng về thần minh. Cho đến cái chết cũng không lấy làm ghê sợ nữa, v́ coi như là sự khai mạc cho một cơi đời sáng của hơn.

Nhưng mà những cái quan niệm cao siêu đó cố nhiên là phải có thấu hiểu thâm trầm thời mới thành ra kết quả tốt đẹp được. Cái tính cách cao thượng của nó chính là một sự trở ngại cho những kẻ tầm thường. Muốn đem ngay những điều đó mà truyền thụ cho họ, th́ có cái nguy hiểm là họ không sao hiểu được, và có khi đến khiến cho cái bụng dục bạo phát ra mà không ngăn ngừa được. V́ đối với kẻ ác rất không nên dạy cho họ rằng Thượng đế vẫn sẵn ḷng khoan dung, tội ǵ rồi cũng được tha thứ hết. E rằng nói như vậy chỉ đủ khiến cho họ thừa cơ mà lại càng làm bậy. Chắc rằng tội ǵ rồi cũng có thể chuộc được, dù sao rồi cũng có ngày tới cơi hạnh phúc, bấy giờ thời chỉ muốn cho thỏa t́nh túng dục ngay lập tức, rồi có phải chuộc tội cũng cam tâm. Tri thức họ c̣n hẹp, kinh lịch họ chưa đủ, không trông được rơ cái khổ hải mênh mông về sau này.

Phàm chân lư càng cao th́ đem bộc lộ ra lại càng nguy hiểm. Vả lại cái lẽ tự nhiên phải như vậy, v́ phàm cái quan niệm ǵ càng siêu việt th́ càng khó diễn giải ra được. Thượng đế hay là cái Chân lư tuyệt đối, th́ thật là vô khả tư nghị.

Vậy th́ có những điều chân lư không nên nói rơ ra. Vả lại ngay trong cơi vật chất, cứ xét khoa học ngày nay phát minh ra được bao nhiêu những cái sức mạnh về lư hóa mà loài người ngày nay lạm dụng một cách ác hại như thế nào, th́ mới hiểu rằng các nhà đạo học ngày xưa hay hết sức cẩn thận cũng không lấy chi làm lạ; các nhà ấy không có gặp ai cũng truyền dạy cho những lẽ bí mật về đạo, những sức màu nhiệm của tư tưởng, cùng cái vận mệnh rực rỡ của loài người, là những điều tối thâm trầm và tối nguy hiểm vậy.

Thí dụ như xă hội ta ngày nay là một cái xă hội rất mê cuồng về nghĩa b́nh đẳng, nếu mà đem ra tuyên bố truyền dạy rằng mọi sự bất b́nh đẳng về thể chất, về trí tuệ, về tinh thần là sự chính đáng, v́ là sự hiển nhiên, rồi nhân đó suy ra mà nói rằng phàm quyền lợi, nghĩa vụ, thưởng phạt vốn là bất b́nh đẳng và ở đời cần phải có trật tự trên dưới, kẻ kém người hơn, nếu mà đem giảng những điều đó, thiên hạ tất là cực lực phản kháng lại. Những kẻ chưa tiến hóa đến nơi sẽ kêu to lên là không công bằng, v́ không đủ tư cách hiểu những cái lẽ màu nhiệm của mọi sự bất b́nh đẳng về trí tuệ, về uy quyền thường nghiệm trong các thời kỳ tiến hóa của loài người.

Vậy thời xem đó lại càng thêm rơ cái cớ sở dĩ làm sao mà các bậc hiền triết về cổ đạo lại chia đạo học ra làm hai bậc, để cho điều ḥa được những sự yếu cần về trí tuệ ở mỗi người một khác, v́ cái tŕnh độ tiến hóa không giống nhau. Lại cũng nghiệm đó th́ hiểu rằng sở dĩ làm sao mà ngoài cái luật pháp cùng tôn giáo bí truyền, chỉ để dạy cho những kẻ thượng lưu mà thôi, các nhà ấy lại đặt ra những luật pháp cùng tôn giáo phổ thông, lấy cách tỉ dụ mà truyền dạy lễ đạo, bắt buộc người ta phải làm điều thiện, v́ sợ phải chịu những tội ác ghê thảm đến thân thể về sau này.

Ở thời đại ta này, sự học của cá nhân mỗi ngày một ban bố ra, một tấn tới lên, những người có đủ trí tuệ hiểu được những lẽ cao xa về vũ trụ, càng ngày cũng càng nhiều thêm lên. Và chính v́ lẽ đó nên những cái h́nh thức phổ thông của đạo giáo đời xưa, xem ra không đủ để mà hướng đạo cho các dân tộc nữa, bởi đó nên có thể đem lẽ huyền bí mà truyền dạy ra, khiến cho những kẻ thượng lưu trí thức biết quay về con đường Chân lư hoàn toàn, kiêm cả khoa học cùng tôn giáo.

Thật thế, nếu những bậc giáo sĩ của các đạo, hiểu rơ các lẽ thần bí, lại thêm có tài cai quát, biết lợi dụng để mà cắt nghĩa những biểu tượng về tôn giáo khiến cho cái tử văn thành ra có sinh hoạt, khiến cho lời diễn giải được mới mẻ và dễ hiểu hơn, th́ sẽ trừ được một cái duyên cớ cốt yếu làm cho ḷng người xa cách với đạo giáo. Trí người đời nay rộng răi hơn, phàm cái ǵ có phô diễn ra rơ ràng, thuyết minh ra hợp lẽ th́ mới chịu phục chịu tin.

Vậy th́ muốn cho một cái đạo phổ thông giữ được sức mạnh cảm dụ và truyền bá, th́ những người có chức trách truyền đạo, cần phải là những người đă chân chính đắc đạo, nghĩa là phải gồm cả tư cách nhà bác học, nhà hiền triết, nhà tu hành, th́ mới dung ḥa được khoa học và tôn giáo cho thành kết quả. V́ rằng muốn truyền dạy cho kẻ khác cái chương tŕnh của Thượng đế, th́ trước hết phải tự ḿnh đă trông thấy cái chương tŕnh đó thi hành ra hoàn toàn vừa ở bản thân ḿnh, vừa ở trong vũ trụ.
 

Thời kỳ kết quả


Cơi trí đạo. Các lẽ mầu nhiệm đó đă thấu được rồi, th́ những lời ta khuyên dạy đây, sẽ làm được dễ dàng, và đáng được giải thoát cả mọi sự phiền năo. – Khi đă có công gắng sức t́m được Thượng đế ở trong bản thân ḿnh cùng trong cơi thiên nhiên, hiểu cái cách tác dụng của luật pháp ngài trong mọi sự hiện tại cùng mọi sự xảy ra, thời bấy giờ sự chiến đấu để cho tự kỷ tinh tiến lại càng dễ dàng lắm. Những phép tắc cao thượng về đạo tu luyện cũng tuân theo được dễ, và kết cục sẽ đưa tới cơi trí đạo. Bấy giờ th́ cái cơ hội cùng những sự xẩy ra bên ngoài không có ảnh hưởng ǵ đến người trí giả cả, trong ḷng tín ngưỡng hăng hái vô cùng, dẫu đối với cái chết hiển nhiên, cũng vẫn b́nh tĩnh như thường, v́ thấy người ḿnh càng ngày càng thoát được khỏi những cái chướng ngại về vật chất và khuynh hướng về cơi thần minh.

Nhưng mà phải nên kiêng kỵ những thức ăn ta đă cấm trong khi tu luyện trai giới, và cứ nên theo đuổi cái công phu giải thoát cho linh hồn được thảnh thơi, phàm sự vật, phải biết kén chọn cho đích đáng và cho thích nghi, để cho cái phần tinh túy trong người là Thần trí bao giờ cũng được thắng vậy.
Tuy nhiên đă hiểu biết những lẽ phải thiêng liêng mà được hưởng những lợi ích cao thượng, thời phải có công phu kiên nhẫn mới giữ được lâu bền.

Muốn cho khỏi ngưng trệ một chỗ, hay là tệ hơn nữa là bị cái sóng vật chất nó lại tràn ngập mất, th́ phải gắng gỏi luôn không được ngừng, phải thường ôn đọc lại những điều răn dạy về cách sinh hoạt cao thượng, phải càng ngày càng tiêm nhiễm cho sâu, để cho nó chế ngự được cả mọi sự tư tưởng hành vi của ḿnh. Và cốt nhất cả, muốn cho những cái quyền lực cao thượng đó giữ được lâu bền, th́ phải thường thường theo cách ăn uống cho cẩn thận và trong sạch, thường thường xem xét bản thân ḿnh, trước khi nói năng quyết định việc ǵ, phải suy nghĩ cho kỹ càng đích đáng, rồi sau cứ dốc một ḷng mà theo đuổi cái mục đích đă định, là dù xử vào cơ hội nào mặc ḷng cũng hết sức làm cho đạo đức cùng chân lư được thắng ở trong bản thân ḿnh cùng cả chung quanh ḿnh, khiến cho phát siển được cái năng lực tuyệt đối của thần trí và thoát được cái cuộc đời lao khổ trên trần thế này.

Cơi vĩnh viễn cực lạc. – Được như thế th́ đến khi dời bỏ cái khu xác này sẽ bay bổng lên cơi thanh thiên, và bấy giờ không phải theo luật sinh tử nữa, sẽ biến hóa mà thành một vị thần tiên bất diệt vậy.
  Kẻ học đạo có công th́ cái phần thưởng ở trên cơi trần thế này là được khoan khoái v́ mùi đạo lư; sau khi chết rồi th́ sẽ được vào một cơi đời vĩnh viễn cực lạc.

Lúc chết thời cái phần trọng trọc ở trong người sẽ trở về đất mà cái phần khinh thanh th́ bay bổng lên trời. Trong khi sống, cái ǵ là cái lấy ở đất ra, thân thể cùng những của cải vật chất th́ bỏ lại mà trả về cả, v́ những cái của đó có phải là của riêng của ta đâu. Thuộc về bản thân người ta duy có những sự thu hoạch của tư tưởng, hoặc tốt hoặc xấu, những cái công cái tội ở đời mà thôi. Nếu c̣n phải kinh nghiệm nữa, c̣n có nghiệp phải báo, th́ c̣n phải tái sinh lần nữa trong cơi vật chất. Nếu trái lại, thần trí đă t́m được một con đường nào mà đạt tới được những luật pháp thiêng lièng, biết ăn ở một cách đạo đức, th́ bấy giờ chỉ có công được thưởng chứ không có tội ǵ nữa, không phải quay về cơi vật chất nữa, có thể sống theo một cái đời cao thượng bằng một cái thể vô h́nh, gồm những khí lực tinh anh bất diệt vậy.

Cái thang vật loại tiến hóa cho tới cơi Thượng đế, không phải đến người ta là cùng. Trên cái lớp những loài ở trên mặt đất, khoáng vật, thực vật, động vật, mà người ta là bao gồm hết thảy, là đầu chốt hơn cả, th́ lại c̣n có một lớp nữa là lớp siêu nhân loại, ở đó th́ tiến hóa lại càng cao, suy cùng măi đến Thượng đế. Vậy thời ngoài cái trật tự những giống có cơ thể ở trên mặt đất này, mà đến giống người ta là cùng cực, c̣n có thể tưởng tượng một cái trật tự sinh hoạt cao thượng hơn, phát siển ra ở trong cơi mặt trời lồng lộng, vũ trụ mênh mông mà biến hóa bằng những cái cơ quan nhẹ nhàng, không bị bó buộc trong ṿng vật chất.

Cái đời nhẹ nhàng trong sạch đó đối với cái đời ta sống ở trong ṿng không khí này, cũng có thể sánh với cái đời không khí của ta đối với cái đời những giống sinh trưởng dưới nước vậy. Cứ so sánh cái sự sống tầm thường của con cá, với sự sống tự do hoạt động của loài người th́ có thể suy loại mà biết cái quyền lực của ta ngày nay rất nhỏ nhen đối với cái quyền lực của ta sau này sẽ to tát là dường nào.

Các đạo giáo, muốn cho công chúng dễ hiểu được, thường tả cơi cực lạc là nơi người ta được hết sức sung sướng về vật chất, vậy th́ cơi cực lạc đó tức là nơi người ta chuyển tự cái cơi đời trần thế này lên một cơi đời thanh cao hơn. Tới đó th́ h́nh thể càng khinh thanh, tâm trạng căng khoát đạt, ư chí càng mạnh mẽ, chuyển dịch càng dễ dàng, cảm thông càng mau chóng, và khoái lạc thật vô ngần vậy. Những cái h́nh thể mới đó là gồm cả các h́nh thể có thể tưởng tượng được. Ư thức bấy giờ thấu triệt cả những cái kư ức tốt các thời kỳ trước. Cả cái công của tạo hóa dần dần chung đúc về cá nhân. Rồi lần lần cá nhân đó thành một bản vị hoàn toàn, tự cảm giác được cả các vật các loài, biết tư tưởng ra ngoài cả thời gian cùng không gian, rồi cứu cánh được tham dự vào cuộc tư tưởng của thần minh, sinh trưởng trong một cái không khí thiêng liêng, gồm đủ các tài năng phẩm cách của thần minh, và theo như lời PYTHAGORE đă hứa sẽ trở nên một vị thần tiên ở trong cơi Thượng đế vậy.

 


Treasure of Books Under One Roof

Demand Any Rare Book at

www.facsimilepublishers.com